R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
Join Date: Jan 2008
Posts: 147,347
Thanks: 11
Thanked 13,957 Times in 11,137 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 1 Thread(s)
Quoted: 44 Post(s)
Rep Power: 183
|
“Thế lực thù địch” là ai?
Trước hết là Mỹ: Đối với Mỹ, mặc dù giữa hai quốc gia có một mối quan hệ kinh tế phụ thuộc vào nhau một cách phức tạp và sâu xa, Trung Quốc, về đối nội, luôn vẽ một h́nh ảnh Mỹ đầy đe dọa trong nhận thức của nhân dân Trung Hoa. Mỹ là thị trường lớn nhất cho hàng hóa Trung Quốc, tuy nhiên trong thống kê do BBC thực hiện vào 2009, 58% dân Trung Quốc có cái nh́n tiêu cực về Mỹ. Trong Sách Trắng Quốc Pḥng Trung Quốc 2002 (China Defense White Paper 2002), Trung Quốc cho rằng việc tăng cường đồng minh giữa Mỹ với các nước đồng minh Á Châu là “yếu tố của bất ổn” trong khu vực này.
Ngày 8 tháng Năm, 1999, một máy bay Mỹ ném bom lầm vào ṭa đại sứ Trung Quốc tại Belgrade làm thiệt mạng 3 nhân viên ṭa đại sứ và bị thương một số người khác. Biểu t́nh bùng nổ khắp Trung Quốc để tố cáo Mỹ “xâm phạm thô bạo chủ quyền Trung Quốc”. Trên internet, các hacker tấn công trang web của ṭa đại sứ Mỹ tại Bắc Kinh và dán ngay trong trang đầu hàng chữ “Đả đảo bọn người dă man”. Tức khắc sau tai nạn, chính phủ Mỹ làm tất cả những ǵ họ nghĩ ra để chứng tỏ sự hối tiếc kể cả việc hạ cờ thấp nửa cột tại ṭa đại sứ Mỹ ở Belgrade. Trung Quốc cũng từ chối cho phép Đại Sứ Mỹ Sasser tham dự lễ tiễn đưa cũng như không cho phép một phái đoàn cao cấp của chính phủ Mỹ đến tận Bắc Kinh để xin lỗi.
Giới lănh đạo Trung Quốc cố t́nh tŕ hoăn việc công bố lá thư xin lỗi của Tổng Thống Clinton để nhân dân Trung Quốc có dịp trút căm thù lên “thế lực thù địch” đế quốc Mỹ. Các trường đại học cung cấp xe bus để chở sinh viên đến bao vây ṭa đại sứ Mỹ. Tất cả mười ngàn tờ báo tại lục địa Trung Hoa đăng những bài b́nh luận có tính khiêu khích ḷng tự ái dân tộc và kết luận tai nạn làm chết ba người Hoa tại Belgrade là “hành động cố ư”. Ba người chết trong tai nạn thâm chí c̣n được là ba “thánh tử đạo”. Các báo đảng được tự do kết tội Mỹ. Vài tờ báo so sánh hành động máy bay Mỹ ném bom lầm tàn ác không thua ǵ tội ác chiến tranh do Đức Quốc Xă gây ra. Trang đầu của Nhân Dân Nhật Báo, cơ quan ngôn luận chính thức của nhà nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa, phân tích các điểm giống nhau giữa việc Mỹ ném bom với cuộc tấn công của các đế quốc sau Loạn Quyền Phỉ (Boxer Rebellion). Nhưng quá khích nhất là tờ Tuổi Trẻ Bắc Kinh với những bài b́nh luận với nội dung khích động bầu máu nóng của thanh niên. Ban Tuyên Huấn Trung Ương Đảng sau đó đă trao giải thưởng đặc biệt cho tờ báo này. Các phản ứng mang tích kích động hận thù Mỹ cũng được thể hiện qua nhiều biến cố khác như trường hợp máy bay thám thính U.S. EP-3 có thể bay lạc vào không phận Trung Quốc vào tháng Tư 2001 chẳng hạn.
Thái độ quá khích của giới lănh đạo CS Trung Quốc phát xuất từ một lư do khác: nỗi sợ bị bao vây. Từ thập niên 1990 đến nay, Trung Quốc luôn chống đối mọi sự liên minh theo dạng “khối quân sự” ám chỉ sự liên kết giữa Mỹ và các nước Đông Á cũng như sự có mặt của quân đội Mỹ tại Nhật Bản, Nam Hàn và mới đây tại Trung Á. Hiện nay, các quốc gia Đông Á vẫn là đồng minh với Mỹ về mọi mặt, từ kinh tế chính trị và cả quân sự. Do đó, mối lo lớn nhất của Trung Quốc là bị bao vây và thật sự nước Cộng Sản này đang bị bao vây. Để đối phó lại các liên minh quân sự khối, Trung Quốc cố gắng phát triển mối quan hệ đa phương với Nga và các quốc gia nhỏ khác vùng Trung Á như Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Uzbekistan qua Tổ Chức Hợp Tác Thượng Hải (SCO), tuy nhiên tổ chức này chưa phải là đối lực của các khối thân Mỹ. Tuy mặt ngoài thân thiện, các cơ quan truyền thông của đảng CS Trung Quốc cho rằng Mỹ và các nước Tây Phương âm mưu làm cản trở đà tiến của Trung Quốc. Một số lănh đạo Trung Quốc c̣n tố cáo rằng Mỹ đang lừa Trung Quốc vào cuộc Chiến Tranh Lạnh như Mỹ đă từng áp dụng với Liên Xô để cuối cùng dẫn đến cả hệ thống Liên Xô tan ră.
“Thế lực thù địch” thứ hai là Nhật: Không thể và cũng không ai phủ nhận chính sách hà khắc của các chế độ quân phiệt Nhật với Trung Quốc và Triều Tiên. Những biến cố như vụ Tàn Sát Nam Kinh (Nanking Massacre) hay c̣n gọi Hiếp Dâm Nam Kinh (Rape of Nanking) sau khi thành phố này rời tay Nhật trong chiến tranh Hoa Nhật lần thứ hai (1937 – 1945) đă được thế giới biết qua nhiều sách vở, phim ảnh. Từ 1950 đến 2010, lănh đạo các chính phủ Nhật đă 52 lần xin lỗi về các tội ác do quân đội Nhật gây ra.
Thái độ chống đối hay ngay cả thù ghét, căm hận Nhật trong t́nh cảm của nhân dân các nước bị xâm lăng trước đây là một phản ứng t́nh cảm tự nhiên. Theo thống kê 2010, 24 phần trăm người dân Nam Hàn nghĩ rằng Nhật chưa bao giờ xin lỗi và 58 phần trăm tin rằng Nhật không xin lỗi một cách thành thật. Tuy nhiên, chánh phủ Nam Hàn không trộn lẫn các t́nh cảm chống Nhật vào các chính sách kinh tế, chính trị và bang giao quốc tế. Tại Trung Quốc thái độ chống Nhật là một loại vũ khí tuyên truyền của đảng CS.
Giới lănh đạo CS Trung Quốc kiểm soát tuyệt đối không chỉ đời sống vật chất mà cả đời sống t́nh cảm, tinh thần thương ghét của người dân. Quá nhiều phim ảnh, sách báo tập trung vào một cuộc chiến đă chấm dứt 60 năm trước. Một đứa bé Trung Quốc khi mới bắt đầu tập đọc sách đă được dạy căm thù Nhật Bản. Việc đi thăm viếng và học hỏi tư liệu từ các viện bảo tàng tội ác Nhật là một phần trong chương tŕnh học của học sinh trung học. Phóng viên tạp chí Time đă phỏng vấn một nữ sinh 15 tuổi sau khi em vừa viếng thăm Viện Bảo Tàng Chiến Tranh Chống Nhật và em đă trả lời “Xem xong, em thù Nhật hơn bao giờ hết”.
Năm 2005, khi Nhật Bản vận động để trở thành hội viên thường trực của Hội Đồng An Ninh Liên Hiệp Quốc, lănh đạo CS Trung Quốc lại lần nữa xúi giục hàng vạn sinh viên Trung Quốc xuống đường phản đối. Các thành phố lớn, sinh viên tấn công các ṭa lănh sự, các cơ sở thương mại, siêu thị, nhà hàng Nhật kể các công ty hàng hóa Nhật do người Hoa làm chủ. Giới lănh đạo CS biết, tội ác của Nhật càng nặng bao nhiêu th́ vai tṛ cứu rỗi dân tộc của đảng CS Trung Quốc càng to lớn bấy nhiêu. Hầu hết các nhà phân tích chính trị thế giới đều đồng ư việc tuyên truyền công lao của đảng CS trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chỉ nhằm biện hộ cho vai tṛ lănh đạo lâu dài của đảng.
Chủ nghĩa dân tộc cực đoan đe dọa sự sống c̣n của đảng CS
Chủ nghĩa Đại Hán là con dao hai lưỡi: Giáo sư Susan L. Shirk, nguyên Phụ tá Bộ Trưởng Ngoại Giao đặc trách Trung Quốc nhận xét, trong lúc ảnh hưởng của Trung Quốc ngày càng mạnh trên trường quốc tế, quốc gia này lại rất mong manh trong nội bộ. Sau biến cố Thiên An Môn, để mua chuộc giới trung lưu có quyền lợi mâu thuẫn với đảng, giới lănh đạo đảng CS đă gia tăng tiền lương, nâng cao mức sống của giới này, cung cấp công ăn việc làm trong hệ thống nhà nước, thu hút họ gia nhập đảng CS. Mức lợi tức b́nh quân đầu người tại Thượng Hải vào khoảng 9000 đô la, cách quá xa so với các khu vực ngoại ô nghèo nàn. Sự khác biệt giàu và nghèo, thành phố và thôn quê đang báo hiệu một tai họa. Ngoài ra, như lịch sử đă chứng minh sự phát triển của giai cấp trung lưu là nguồn thúc đẩy của cách mạnh dân chủ v́ đó là giai cấp có học thức, có phương tiện và có nhiều nhu cầu vật chất cũng như tinh thần cần được thỏa măn. Tại Trung Quốc, giới lănh đạo đảng CS đến nay đang thành công trong việc cầm chân giới trung lưu nhưng không thể nào giữ được lâu dài.
Đối với các dân tộc thiểu số, chỉ riêng ba tháng đầu năm 2009, Trung Quốc đă có 50 ngàn vụ xung đột có tính bạo động lớn nhỏ giữa dân thiểu số và lănh đạo CS tại địa phương. Các cuộc nổi dậy chống chính sách Hán hóa tại 5 khu vực tự trị Tân Cương (Xinjiang), Ninh Hạ (Ningxia), Nội Mông Cổ, Tây Tạng và Yining (thủ phủ khu tự trị dân tộc Kazakh Ili) cũng như với 50 nhóm thiểu số khác khắp Trung Quốc ngày càng gia tăng. Lợi thế của các dân tộc thiểu số tuy ít về dân số nhưng sở hữu những vùng đất rộng mênh mông rất dễ gây khó khăn cho chính quyền trung ương.
Cũng trong tác phẩm Trung Quốc, siêu cường dễ vở (China Fragil Superpower), Giáo sưSusan L. Shirk nhận xét giới lănh đạo CS Trung Quốc luôn sống trong t́nh trạng bất an khi nghĩ về ngày vĩnh biệt không thể tránh khỏi của chế độ CS tại lục địa Trung Hoa. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan phát triển đến một giai đoạn không c̣n kiểm soát được đang trở thành mối đe dọa cho sự tồn tại của đảng CS và bộ máy độc tài.
Chủ nghĩa Đại Hán làm gia tăng bất ḥa, thù địch với các nước láng giềng và sẽ đẩy các nước nhỏ không có chọn lựa nào khác hơn là liên minh quân sự: Từ thập niên 1990 đến nay, Trung Quốc luôn chống đối mọi sự liên minh theo dạng “khối quân sự” ám chỉ sự liên kết giữa Mỹ và các nước Đông Á cũng như sự có mặt của quân đội Mỹ tại Nhật Bản, Nam Hàn và mới đây tại Trung Á. Phần lớn các quốc gia vùng Đông Á vẫn là đồng minh với Mỹ về mọi mặt, từ kinh tế chính trị và cả quân sự. Mối lo lớn nhất của Trung Quốc là bị bao vây và thật sự nước Cộng Sản này đang bị bao vây. Để đối phó lại các liên minh quân sự khối, Trung Quốc cố gắng phát triển mối quan hệ đa phương với Nga và các quốc gia nhỏ khác vùng Trung Á như Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Uzbekistan qua Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), tuy nhiên tổ chức này chưa phải là đối lực của các khối thân Mỹ. Tuy mặt ngoài thân thiện, các cơ quan truyền thông của đảng CS Trung Quốc được chỉ thị phải liên tục tố cáo Mỹ và các nước Tây Phương âm mưu làm cản trở đà tiến của Trung Quốc. Một số lănh đạo Trung Quốc c̣n nghĩ rằng Mỹ đang dẫn dắt Trung Quốc vào cuộc Chiến Tranh Lạnh như Mỹ đă làm với Liên Xô để cuối cùng dẫn đến cả hệ thống Liên Xô tan ră.
Chiếc mặt nạ chủ nghĩa dân tộc sớm muộn sẽ rớt xuống: Trung Quốc mặt ngoài rất hung hăng, cứng rắn, ăn hiếp láng giềng qua các đụng độ quân sự nhỏ nhưng rất sợ chiến tranh quốc tế hay khu vực bởi v́ như nhà ngoại giao kỳ cựu Ngô Kiến Dân cảnh cáo “Rất nhiều người cho rằng cứ tiến hành chiến tranh để giành chiến thắng là ổn. Thực ra không phải vậy, mà ngược lại, sẽ chỉ làm t́nh h́nh xung quanh Trung Quốc rơi vào hỗn loạn.” Nhà ngoại giao Ngô Kiến Dân cũng so sánh giữa chủ nghĩa dân túy của Hiter và chủ nghĩa dân tộc cực đoạn tại Trung Quốc hiện nay “Hitler có yêu nước Đức không? Dĩ nhiên có, nhưng hắn theo chủ nghĩa dân túy. Thanh niên ngày nay cần có tầm nh́n rộng mở, phải có trái tim bao dung thiên hạ. Thứ chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa yêu nước hẹp ḥi là không thể được. Một quốc gia chỉ biết cái lợi riêng ḿnh th́ sẽ mất hết bạn bè, sẽ bị cô lập. Thời nay, cô lập là tai họa….Trong thời đại toàn cầu hóa, tin học hóa khiến lợi ích các nước gắn kết chặt chẽ với nhau như hiện nay, đă đến lúc chúng ta không thể đóng cửa lại để tuyên truyền thứ chủ nghĩa yêu nước hẹp ḥi.”
Giới lănh đạo CS Trung Quốc không phải không ư thức hiểm họa đó, tuy nhiên, để kéo dài sự sống, giới lănh đạo CS Trung Quốc không có chọn lựa nào khác hơn là tiếp tục giương cao ngọn cờ chủ nghĩa dân tộc và xoay xở bằng mọi cách để phát triển kinh tế. Cả hai điều kiện đầu bất khả thi. Không một nền kinh tế nào có thể duy tŕ được mức phát triển cao một cách liên tục và không sự thật nào được che giấu măi măi. Sự phẫn nộ của dân chúng trước các suy thoái kinh tế xă hội sẽ trút lên đầu đảng CS. Sắc dân Hán tuy đông nhưng sẽ không cứu được đảng CS. Lịch sử đă chứng minh, không phải ngày nay sắc dân Hán mới chiếm đa số mà đă là đa số trong nhiều ngàn năm trước nhưng vẫn bị các sắc dân nhỏ uy hiếp, tấn công và ngay cả cai trị. Sự suy yếu bên trong và áp lực bên ngoài là những mối đe dọa thường trực và trực tiếp cho quyền cai trị của đảng CS.
Bài học Tiệp Khắc trước chủ nghĩa dân tộc cực đoan Đại Hán ngày nay
Chủ trương bành trướng về phía Đông Âu của Hitler để làm bàn đạp chinh phục Âu châu cũng không khác ǵ nhiều so với chủ trương bành trướng Đông Nam Á làm bàn đạp chinh phục Á châu của giới lănh đạo CS Trung Quốc hiện nay.
Sau khi sáp nhập Áo không có một phản ứng mạnh nào từ phía các cường quốc Âu Châu, Hitler đ̣i vùng Sudelenland trù phú với đa số dân nói tiếng Đức từ Tiệp Khắc. Anh Pháp nhượng bộ. Hiệp ước Munich được kư kết bất chấp sự chống đối của chính phủ Tiệp. Không lâu sau đó, Hitler chiếm luôn Tiệp Khắc. Tháng Chín 1939, Đức tấn công Ba Lan. Anh và Pháp cam kết ủng hộ Ba Lan và tuyên chuyến với Đức. Thế chiến thứ hai thật sự bùng nổ. Hậu quả, khoảng 60 triệu người trên thế giới đă chết trong sáu năm kinh hoàng nhất trong lịch sử nhân loại.
Trường hợp Tiệp Khắc là bài học lớn cho dân tộc Việt Nam và sẽ được phân tích trong bài viết đầy đủ hơn sau này. Tuy nhiên một cách vắn tắt, lư do chính làm Tiệp Khắc bị xóa tên trên bản đồ thế giới ngay cả trước khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, chưa hẳn v́ Anh và Pháp đă bán đứng cho Hitler tại hội nghị Munich như nhiều sử gia đồng ư. Chính sách nhân nhượng (appeasement policy) của các lănh đạo chủ ḥa châu Âu đứng đầu là Thủ tướng Anh Neville Chamberlain chỉ là nguyên nhân khách quan, nằm ngoài ṿng kiểm soát chủ động của chính phủ và nhân dân Tiệp. Tiệp Khắc rơi vào tay Hitler nhanh chóng chỉ v́ Tiệp Khắc là một quốc gia ô hợp, phân hóa, suy yếu, có nhiều chính khách làm tôi mọi ngoại bang và không có quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước. Hitler nhắm vào Tiệp Khắc v́ y biết Tiệp Khắc là một quốc gia nhưng không có nội lực của một dân tộc thống nhất. Như người xưa nhắn nhủ muốn thắng kẻ thù trước hết phải chiến thắng chính ḿnh. Trong phạm vi dân tộc cũng thế, trước khi thắng được ngoại xâm một dân tộc phải biết vượt qua mọi bất đồng, biết hy sinh, biết đoàn kết thành một mối, và nếu cần phải biết chết cho các thế hệ tương lai của dân tộc được sống c̣n.
|