VietBF - View Single Post - Your's Health
Thread: Your's Health
View Single Post
Old 05-25-2019   #1082
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,622
Thanks: 7,323
Thanked 46,151 Times in 12,818 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

THÔNG TIN Y HỌC VỀ ĐIỂM SỐ APGAR

Lynn Ly tổng hợp Thông Tin Về Điểm Số APGAR
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh


THỜI SỰ Y HỌC SỐ - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 03/11/2007 )

9/ THỦ THUẬT CHỌC MÀNG ỐI ĐỂ KÍCH THÍCH CHUYỂN DẠ BỊ XÉT LẠI

Một duyệt xét quy mô các công tŕnh nghiên cứu gợi ư rằng một thủ thuật thường được áp dụng trong lúc chuyển dạ, chọc màng ối (amniotomy) nhân tạo, là không có hiệu quả trong việc làm giảm thời gian chuyển dạ hoặc đảm bảo sức khỏe của trẻ sơ sinh.

Thủ thuật chọc màng ối (amniotomy) nhằm làm vỡ bọc ối (poche des eaux) để xúc tiến các co bóp của tử cung. Thủ thuật này đă được sử dụng từ 250 năm nay mặc dầu tính phổ biến đă biến thiên thay đổi

Các nhà nghiên cứu đă xem lại 14 thử nghiệm có kiểm tra nơi khoảng 5000 phụ nữ và nhận thấy ít có bằng chứng về một lợi ích nào đó của thủ thuật này.

Thủ thuật chọc màng ối đă không thu ngắn thời gian chuyển dạ, không làm giảm nhu cầu dùng thuốc kích thích chuyển dạ oxytocin, không làm giảm cơn đau , không làm giảm số lần sinh với dụng cụ hỗ trợ hoặc dẫn đến tử vong hoặc các thương tổn nghiêm trọng nơi sản phụ.

Báo cáo được công bố ngày 17 tháng 10 trong Cochrane Reviews, đă nhận thấy rằng thủ thuật này có thể liên kết với một sự gia tăng số lần phẫu thuật césarienne và một giảm nguy cơ trẻ sơ sinh có trị số thấp trên thang Apgar (thang Apgar dùng để đánh giá và cho điểm số t́nh trạng của thai nhi lúc sinh). Nhưng cả hai điều t́m thấy này không có ư nghĩa về mặt thống kê.

« Chúng tôi khuyên các phụ nữ với chuyển dạ tiến triển b́nh thường hăy yêu cầu đừng chọc màng ối để kích thích chuyển dạ », tác giả lănh đạo công tŕnh, BS Rebecca Smyth, một cộng tác viên nghiên cứu của Đaị Học Liverpool đă nói như vậy. « Không có bằng cớ cho rằng để màng ối nguyên vẹn sẽ gây nên vấn đề và cũng không có đủ chứng cớ để gợi ư một lợi ích nào đó cho chính bản thân các sản phụ hoặc trẻ sơ sinh do việc chọc màng ối để kích thích chuyển dạ ».
(INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE 1/11/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 67 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 7/3/2008 )

3/ TUỔI LÀM CHA

Hầu hết các công tŕnh nghiên cứu về tuổi làm cha (l’âge paternel) đều quan tâm dến mối liên hệ giữa tuổi lúc có con và các bất thường bẩm sinh. Các nhà nghiên cứu người Canada đă phân tích mối liên hệ này với nguy cơ xảy ra vào thời kỳ sơ sinh. Xi-Kuan Chen và các cộng sự viên vừa công bố trong tờ báo chính nói về khả năng sinh sản (fertilité), Human Reproduction, những kết quả của công tŕnh nghiên cứu rộng lớn nhất về chủ đề này. Các nhà nghiên cứu đă sử dụng các dữ kiện của Trung tâm quốc gia về thống kê y tế, đưa vào công tŕnh nghiên cứu hầu như tất cả những lần sinh (99%) ở Hoa Kỳ từ năm 1995 đến 2000, hoặc một nhóm 23,6 triệu trẻ em. Trong số những trẻ em này, các nhà nghiên cứu chỉ giữ lại 2.614.966 em bé c̣n sống lúc được sinh ra bởi một phụ nữ có chồng, tuổi từ 20 đến 29 và đối các phụ nữ này các nhà nghiên cứu có những thông tin cần thiết.

Các tác giả cũng lấy những người cha tuổi từ 20 đến 29 như là nhóm quy chiếu để so sánh với hai loại tuổi khác. Các kết quả cho thấy rằng so với nhóm các người cha tuổi từ 20 đến 29, những trẻ được sinh ra từ các người cha tuổi thiếu niên (dưới 20 tuổi) có một nguy cơ gia tăng bị sinh non (+15% nguy cơ), có trọng lượng nhỏ lúc sinh (+13%), có tầm vóc thấp so với tuổi thai nghén (+17%), có điểm số Apgar thấp (+13%), gia tăng tử vong trong thời kỳ sơ sinh (+22% nguy cơ chết trong 4 tuần đầu sau khi sinh) và sau thời kỳ sơ sinh (từ 4 tuần đến 1 năm) (+41%). Trái lại, nhóm các người cha lớn tuổi (hơn 40 tuổi) không liên kết với sự gia tăng các mối nguy cơ này. Các kết quả này độc lập với tuổi của của người mẹ hay những yếu tố khác của người mẹ khả dĩ ảnh hưởng lên sự sinh đẻ . Điều chứng nhận này đang được nghiên cứu sâu hơn nữa.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 26/2/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 84 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 09/07/2008 )

1/ VIRGINIA APGAR (1909-1974)

Trên toàn thế giới, trong các hồ sơ của các trẻ sơ sinh được sinh trong môi trường bệnh viện đều có những kết quả của số điểm Apgar (score d’Apgar) nhằm đánh giá t́nh trạng sức khỏe của chúng ngay sau khi sinh. Căn cứ trên các tham số lâm sàng dễ quan sát : tần số tim, hơi thở, trương lực, mức độ phản ứng đối với kích thích và màu sắc, điểm số này cho phép tiên đoán khả năng sống sót của trẻ sơ sinh và sự phát triển thần kinh của nó.

Tên của số điểm này là tên của một phụ nữ : Thật vậy, B.S Virginia Apgar là người đă hiệu chính phương pháp đánh giá này, nhờ thế tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh trong môi trường bệnh viện đă giảm xuống.
florida80_is_offline  
 
Page generated in 0.06332 seconds with 9 queries