VietBF - View Single Post - Your's Health
Thread: Your's Health
View Single Post
Old 05-25-2019   #1086
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,511
Thanks: 7,308
Thanked 46,072 Times in 12,797 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Y HỌC VỀ UNG THƯ CỔ TỬ CUNG (CERVICAL CANCER)

Lynn Ly tổng hợp thông tin về Ung Cổ Tử Cung
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 10 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (23/1/2007)

7/ CANCER DU COL : PROTECTION A 5 ANS

Một hiệu quả cao và kéo dài sau 5 năm theo dơi tiêm chủng với Gardasil, vaccin đầu tiên đề pḥng ngừa ung thư cổ tử cung.

Không một trường hợp thương tổn tiền ung thư hoặc verrues génitales liên kết với papillomavirus humains type 6, 11, 16 hoặc 18, đă xuất hiện trong 5 năm sau khi tiêm chủng với Gardasil trên các phụ nữ.

Trong khi đó 6 trường hợp đă được quan sát trên các phụ nữ được chủng với placebo.

Các thương tổn tiền ung thư của cô từ cùng (néoplasies cervicales intraépithéliales de grade 2/3 hay CIN 2/3) là nhưng tiền thân tức thời của cancer invasif của cổ từ cung. Cac kết quả này vừa được công bố trong ấn ban cuối cùng on-line của British Journal of Cancer. Đó là nghiên cứu về thời gian dài nhất có hiệu quả của thuốc chủng, so với tất cả các công tŕnh nghiên cứu trước đây về vaccins papillomavirus humain.

" Các kết quả này rất là quan trọng. Người ta có thể đánh giá một cách hợp lư rằng một vaccin mà tinh hiệu qua trong 5 năm là 100%, sẽ có khả năng mang lại một bảo vệ lâu dài " BS Mike Watson, Giám đốc Nghiên Cứu Lâm sàng và Dịch Tễ Học Châu Âu, đă nói như vậy
(LE JOURNAL DU MEDECIN 19/1/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 71 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 4/4/2008 )

8/ UNG THƯ CỔ TỬ CUNG : KHI NÀO TIÊM CHỦNG?

Có nên đợi đến 14 tuổi thay v́ 11 tuổi để tiêm chủng các thiếu nữ chống lại các papilloma virus người (HPV), loại 16 và 18, căn nguyên của 70% các trường hợp ung thư cổ tử cung? Vấn đề này vừa được tranh luận bởi Viện Hàn Lâm Y Học Pháp. “ Vaccin này phải được chủng trước khi bắt đầu đời sống sinh dục, bởi v́ người ta biết rằng các HPV, rất độc lực, thường mắc nhiễm trong 3 năm đầu của đời sống t́nh dục”, giáo sư Bégué nhắc lại như thế. Căn cứ trên chỉ dẫn này, các chuyên viên Pháp, từ năm qua, đă đề nghị thực hiện tiêm chủng vào lúc 14 tuổi. Nhưng vào lứa tuổi này không một thăm khám nào được dự kiến cho các tiêm chủng nhắc lại. Do đó sự chủng ngừa có khả năng bị bỏ sót bởi các thiếu nữ . Tiêm chủng vào năm 11 tuổi có lợi điểm là tương ứng với các tiêm chủng nhắc lại. Nhưng vẫn c̣n một ẩn số: Thời hạn bảo vệ do việc tiêm chủng mang lại sẽ là bao lâu và có phải tiêm nhắc lại vào tuổi thiếu niên hay không, v́ như vậy lại sẽ có khả năng bị bỏ sót như trường hợp tiêm chủng vào lúc 14 tuổi ? Hiện nay thời gian nh́n lại chỉ mới 5 nam, tuy nhiên, sau khi tính toán thiệt hơn, Hội Hàn Lâm Y Học Pháp đă quyết định đề nghị tiêm chủng chống ung thư cổ tử cung vào năm 11 tuổi. Nguồn: SCIENCE ET VIE 4/2008

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 73 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (18/4/2008)

10/ CỔ TỬ CUNG DÀI VÀ NGUY CƠ BỊ MỔ CÉSARIENNE LÚC CHUYỂN DẠ

Các công tŕnh nghiên cứu gợi ư rằng việc sinh đủ tháng b́nh thường tùy thuộc vào sự chương tŕnh hóa của sự phát triển tử cung vào đầu thai kỳ. Người ta biết rằng một cổ tử cung ngắn vào giữa thai kỳ được liên kết với một gia tăng sinh non tự phát. Một công tŕnh nghiên cứu của Anh đă đưa ra giả thuyết rằng một cái cổ tử cung dài vào giữa thai kỳ có thể được liên kết với một nguy cơ gia tăng sinh đủ tháng bằng césarienne trong lúc chuyển dạ.

Đó là lư do tại sao, Gordon Smith và các cộng sự viên đă nghiên cứu 27.472 phụ nữ, con so, vào giữa thai kỳ ( khoảng 23 tuần) có chiều dài của cổ tử cung trên 16 mm và những phụ nữ này cuối cùng đă sinh đủ tháng. Các kết quả chứng tỏ rằng tỷ lệ mổ césarienne đủ tháng là thấp nhất (16%) nơi các phụ nữ có chiều dài cổ tử cung vào giữa thai kỳ từ 16 đến 30mm. Tỷ lệ này cao hơn đáng kể (18,4%) nơi các phụ nữ có chiều dài cổ tử cung từ 31 đến 35 mm. Đối với các phụ nữ có chiều dài cổ tử cung ở giữa thai kỳ từ 36 đến 39 mm, tỷ lệ này là 21,7%. Tỷ lệ này lên 25,7% khi chiều dài cổ tử cung từ 40 đến 67 mm.

Như vậy, theo các tác giả, nơi các phụ nữ con so sinh đủ tháng, chiều dài của cổ tử cung vào giữa thời kỳ thai nghén là một yếu tố tiên đoán độc lập của nguy cơ bị mổ césarienne.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 11/4/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 74 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (25/04/2008)

8/ PH̉NG NGỪA UNG THƯ CỔ TỬ CUNG : MỘT THÁCH THỨC ĐỐI VỚI Y TẾ CÔNG CỘNG

Trên thế giới, cứ mỗi 2 phút có một phụ nữ chết v́ hậu quả của một ung thư cổ tử cung. Từ nay, sự pḥng ngừa ung thư này là chuyện dễ dàng với sự ra đời của vaccin chống HPV (human papillomavirus). Trong khi ung thư vú lôi cuốn sự chú ư của các phụ nữ, của dư luận và của truyền thông, cũng như của những người hoạt động y tế, th́ ung thư cổ tử cung, đứng hàng thứ hai sau ung thư vú, xảy ra nơi các phụ nữ từ 15 đến 45 tuổi, th́ về mặt này, chỉ là một người bà con đáng thương .

Ung thư cổ tử cung có thể tấn công rất sớm, thường gây bệnh nơi các phụ nữ trẻ tuổi, đôi khi rất trẻ, trong lứa tuổi thanh xuân và đang có trách nhiệm với con cái đôi khi c̣n rất nhỏ tuổi. Mỗi năm có 500.000 trường hợp ung thư cổ tử cung mới trên thế giới (một con số theo dự kiến sẽ vượt quá 1 triệu từ nay đến 2050 nếu không có một tiến bộ quan trọng nào trong pḥng ngừa), trong khi 270.000 phụ nữ sẽ chết mỗi năm v́ ung thư này, hoặc cứ mỗi hai phút. Ngoài ra, phần lớn các phụ nữ không hay biết ǵ về tỷ lệ sống sót khá thấp này so với một loạt các bệnh ung thư khác. Vậy, ung thư cổ tử cung là một ung thư thường xảy ra và đồng thời rất hung hăn, gây nên bởi một nhiễm trùng papillomavirus humain (HPV), chủ yếu là các giống gốc 16 và 18. Virus này rất dễ lây truyền lúc giao hợp, đến độ người ta thừa nhận rằng một phụ nữ trẻ, sống qua những lần giao hợp đầu tiên, mắc phải virus này trung b́nh ngay sau 11 lần giao hợp. V́ vậy đại đa số các phụ nữ đều nhiễm phải HPV. V́ sự tiếp xúc da-niêm mạc cũng đủ cho sự lây truyền virus, nên túi dương vật cũng không có tác dụng pḥng ngừa là bao nhiêu.

Nơi đại đa số các phụ nữ, HPV cuối cùng được loại bỏ một cách ngẫu nhiên, nhưng không hẳn là thế cho tất cả các trường hợp và virus khi đó trở nên một trái bom nổ chậm, có thể phát khởi quá tŕnh dẫn đến sự biến đổi ác tính vào một ngày nào đó.

Phải biết rằng mặc dầu có thể khuyến cáo thăm khám nhằm phát hiện ung thư cổ tử cung, một động tác đơn giản nhưng rất hữu ích, nhưng việc thăm khám này vẫn có thể bỏ sót vài ung thư, đặc biệt là các adénocarcinome, nằm khá sâu.

KỶ NGUYÊN PH̉NG NGỪA ĐĂ ĐẾN

Phương tiện pḥng ngừa lư tưởng, đó là vaccin anti-HPV. Cervarix gồm 2 giống gốc 16 và 18, chịu trách nhiệm phần lớn các ung thư cổ tử cung. Lư tưởng là chủng ngừa vaccin này cho các thiếu nữ trước khi bắt đầu các giao hợp đầu tiên, nhưng sự việc đă giao hợp dĩ nhiên không khiến các bà mẹ và chính các đương sự tránh không phải tiêm chủng. Nói đúng ra không có lứa tuổi nào việc tiêm chủng là vô ích cả. Thật vậy chúng ta biết rằng một người càng già th́ hệ miễn dịch tự nhiên của người này càng trở nên suy yếu.

Sự hiện diện của các chất hổ trợ (adjuvant) trong các vaccin nói chung bảo đảm cho sự tồn tại kéo dài của các kháng thể, nhưng sự kéo dài này cũng tùy thuộc vào bản chất chính xác của các chất hổ trợ. AS04 (Adjuvant System 04) mà GSK đă sử dụng cho vaccin anti-HPV, Cervarix, khiến cho vaccin này là vaccin duy nhất đă chứng tỏ sự kích thích gây nên các nồng độ đặc biệt cao và kéo dài của các kháng thể khiến chúng có khả năng đến tận cổ tử cung, nghĩa là nơi mà sự bảo vệ này được đ̣i hỏi.

Từ nay, việc tiêm chủng chống lại HPV phải trở thành những ưu tiên y tế công cộng trong giới các thanh thiếu nữ.
(LA SEMAINE MEDICALE 10/4/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 93 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (19/9/2008)

8/ UNG THƯ CỔ TỬ CUNG: NGHĨ G̀ VỀ CÁC VACCINS?

Trong khi các vaccin chống ung thư cổ tử cung luôn luôn gây nên những cuộc tranh căi, và mặc dầu một ư kiến bất thuận lợi của Haute autorité de santé, Bảo hiểm bệnh tật vào tháng 7 năm 2008 đă quyết định bồi hoàn lại tiền mua thuốc đến 65% cho thuốc chủng Cervarix. Thuốc chủng cạnh tranh duy nhất của Cervarix là Gardasil cũng đă được cho quyền này cách nay một năm. Cả hai thuốc chủng Cervarix và Gardasil bảo vệ chống lại các HPV (papillomavirus humain) sérotype 16 và 18, các virus được lây nhiễm bằng đường sinh dục, gây ra hơn 70% trường hợp các ung thư của cổ tử cung. Chúng được tiêm chủng thành 3 liều và dành cho các thiếu nữ 14 tuổi, với một liều tiêm nhắc lại vào lúc 23 tuổi đối với những thanh nữ đă chưa có những quan hệ t́nh dục hoặc chậm lắm trong năm sau lần giao hợp đầu tiên. Ngoài ra Gardasil nhắm vào các HPV 6 và 11, chịu trách nhiệm các khối u sinh dục lành tính, các u lồi (condylome). Mặc dầu các chiến dịch thông tin mạnh mẽ, ở Pháp sự thành công trong việc tiêm chủng ít rơ rệt hơn.

CẦN LÀM FROTTIS

Giữa tháng 11/2006 và tháng 6/2008, 800.000 phụ nữ đă được tiêm chủng, theo Cơ quan an ninh y tế các sản phẩm y tế của Pháp (Afssaps), 400.000 người đă nhận một liều tiêm chủng, 200.000 người đă nhận hai liều, và chỉ 200.000 là đă nhận ba liều mà thôi. Hầu hết là những liều tiêm chủng “ đuổi ” (rattrapage) nơi các thanh thiếu nữ 15-23 tuổi, và một số ít (14%) nơi các thiếu nữ 14 tuổi. Thành tích nửa mùa này được giải thích một phần bởi giá thuốc cao (khoảng 135 Euro một liều đối với Gardasil, 112 Euro đối với Cervarix). Nhưng những vaccin này gây ra những mối dè dặt khác. Đầu năm 2008, hai thiếu nữ chết ở châu Âu sau khi được tiêm một liều Gardasil. Vaccin này cuối cùng không được quy cho trách nhiệm gây ra tử vong, và các dữ kiện mới nhất của pharmacovigilance của Afssaps có tính chất trấn an. Vấn đề c̣n lại là vấn đề hiệu quả. “ Chúng ta không biết rơ sau 5 năm vaccin có c̣n tác dụng bảo vệ không ? ”, Haute autorité de santé đă ghi nhận như vậy. Nhất là việc tiêm chủng không miễn trừ một sự theo dơi bằng frottis. “ Khoảng 30% các ung thư cổ tử cung được liên kết với các loại HPV sinh ung thư khác với những loại được bảo vệ bởi vaccin. Nếu những phụ nữ ít đi thăm khám để được phảt hiện bệnh hơn, một sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong của những ung thư này sẽ có thể xảy ra ”, Haute autorité de santé đă nhấn mạnh như vậy. Do đó việc tiêm chủng phổ biến có được biện minh hay không ? “ Tương lai, đó là tiêm chủng kèm theo frottis, Pierre Coursaget (nghiên cứu HPV từ 1992) đă đánh giá như vậy. Chỉ có chiến lược này mới có thể cải thiện được t́nh h́nh hiện nay, và làm giảm một nửa nguy cơ tử vong về lâu về dài”.
(SCIENCE ET VIE 9/2008)


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 96 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 10/10/2008 )

7/ UNG THƯ CỔ TỬ CUNG : VACCIN BỊ ĐẶT VẤN ĐỀ.

Để biết xem việc tiêm chủng có sẽ làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong hay không là quá sớm. Cũng vậy, chúng ta không biết được bao lâu vaccin sẽ che chở cuộc sống của các phụ nữ được tiêm chủng.

Từ vài năm nay, cộng đồng y khoa và nhiều giới hữu trách y tế quốc gia đă tán dương vaccin chống lại vài papillomavirus, nguồn gốc của các ung thư cổ tử cung. Tuy vậy nhiều tiếng nói lạc điệu đă được nghe ở hội nghị thế giới về ung thư tổ chức ở Genève. Trong New England Journal of Medicine (21/8/2008) nhiều bài báo và một bài xă luận đặt những câu hỏi mà những kỹ nghệ gia lẫn các cơ quan y tế đều không thể trả lời được. Hiện nay, hai vaccin Gardasil (Sanofi Pasteur Merck Sharp Dome) và Cervarix (GlaxoSmithKline) được cho phép và khuyến nghị ở Pháp cũng như ở Hoa Kỳ và trong 61 nước khác. Chúng bảo vệ chống lại sự nhiễm trùng bởi hai giống gốc papillomavirus người (HPV 16 và 18), được lây truyền bằng đường sinh dục. Gần 80% các phụ nữ trưởng thành bị nhiễm trùng (có hàng trăm giống gốc virus, nhưng HPV 16 và 18 chịu trách nhiệm 70% các ung thư ). Những virus này gây nên sự xuất hiện các thương tổn tiền ung thư, không gây triệu chứng trong thời gian lâu, và các mụn cóc sinh dục (verrues génitales), cuối cùng lót đường cho ung thư cổ tử cung. Một nửa triệu những trường hợp ung thư mới xảy ra mỗi năm, trong đó 80% trong các nước nghèo, điều này biện minh cho chiến dịch chủng ngừa. Nhưng từ khi được thương măi hóa tháng 6 năm 2006, nếu hàng chục triệu các thanh thiếu nữ và phụ nữ được chủng ngừa, và mặc dầu những mong đợi lớn và những kết quả thử nghiệm lâm sàng đầy hứa hẹn, nhưng nhiều câu hỏi vẫn không được trả lời .

Trước hết không ai biết được các thiếu nữ trẻ tuổi người Pháp (14 tuổi) được chủng ngừa, có sẽ tránh được một số lượng ung thư quan trọng hay không, cũng như không ai biết được tỷ lệ tử vong của ung thư này có sẽ được làm giảm bởi vaccin hay không ?

Câu hỏi khác: vaccin chống HPV có thể bảo vệ các phụ nữ trong bao lâu?

Câu hỏi khác : hai vaccin chỉ bảo vệ chống lại HPV 16 và 18, thế mà có nhiều papillomavirus khác, một vài thường ít gặp hơn. Thế th́, có thể có một nguy cơ tạo nên, do việc tiêm chủng, một áp lực chọn lọc làm xuất hiện những virus khác mà vaccin không có hiệu quả? Nguồn:
(LE FIGARO 29/8/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 97 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (16/10/2008)

1/ NGƯỜI ĐỨC HAUSEN, VỊ THẦY CỦA CÁC PAPILLOMAVIRUS

Nhà nghiên cứu và chuyên gia ung thư người Đức Harald zur Hausen đă được trao tặng giải thưởng Nobel Y học năm 2008 v́ đă có những nghiên cứu dẫn đến sự nhận diện các virus mới cũng như đă chứng tỏ vai tṛ gây bệnh của chúng đối với loài người. Những mối liên hệ giữa virus và ung thư đă là đối tượng của những cuộc tranh căi rất lâu dài trong cộng đồng khoa học, và giải thưởng Nobel xác nhận rằng một nhiễm trùng do virus có thể đúng là nguồn gốc của một quá tŕnh ung thư. Nhà nghiên cứu người Đức đă cống hiến một phần của sự nghiệp dài lâu của ông nhằm phát hiện những mối liên hệ khả dĩ giữa một nhiễm trùng măn tính bởi các papillomavirus người (HPV) và ung thư của cổ tử cung.

Vào tuổi 72, đó cũng là một “ngôi sao” của cuộc đấu tranh chống ung thư. Sinh năm 1936, ông là đứa con trẻ nhất của một gia đ́nh có 4 người con. Ngay vào lúc đầu khi c̣n theo học, vào cuối những năm 1950, ông bị lôi cuốn bởi những bệnh nhiễm trùng và môn vi trùng học. Năm 1961, ông nhận một nhiệm sở ở viện vi trùng học Dusseldorf, nơi đây trong 3 năm ông chú tâm đến ảnh hưởng của virus của bệnh ngưu đậu (vaccine) lên các nhiễm sắc thể của những tế bào chuột.

Và rồi, đó là một bước ngoặt quyết định. Nhờ may mắn, ông đă đi tu nghiệp ở Hoa Kỳ trong 3 năm, tại Trường y của Đại học Pennsylvanie. Ở Philadelphie, ông đă gặp những nhà chuyên môn virus học,Werner và Gertrude Henle. Nhờ họ ông đă lấp được những lỗ hổng kiến thức về nghiên cứu virus. Sau 3 năm ở Hoa Kỳ, Viện virus học Wurzburg đề nghị ông làm tại một pḥng thí nghiệm dành riêng cho ông. Như thế là Hausen trở về lại Đức và tiếp tục nghiên cứu về ảnh hưởng của virus và các bộ gène (génome) của chúng lên các nhiễm sắc thể tế bào. Chính ở đó mà ông bắt đầu quan tâm đến ung thư cổ tử cung, luôn luôn với cái ư nghĩ báo hiệu rằng (mà vào thời kỳ đó được cho là hơi “dị giáo”) một virus có thể đúng là có can dự trong sự phát sinh ung thư của cổ tử cung.

Vào năm 1972, ông được bổ nhiệm làm giáo sư virus học ở đại học Erlangen-Nuremberg ở Bavière. Chính ở đó đường đi của ông gặp phải đường đi của papillomavirus. Vào cuối những năm 1970, sự hiện diện của các virus này trong nhiều trường hợp ung thư cổ tử cung đă được chứng minh. Trách nhiệm của virus này trong sự phát sinh bệnh ung thư cổ tử cung đă được chứng tỏ ít lâu sau đó.

Vào năm 1983, Harald zur Hausen được bổ nhiệm làm giám đốc của trung tâm nghiên cứu về ung thư ở Heidelberg. Ông đă ra sức, khẩn khoản yêu cầu các công ty dược phẩm để hiệu chính một vaccin chống papillomavirus và như vậy chống lại ung thư cổ tử cung. “Các công ty dược phẩm mà tôi đă tiếp xúc không tin rằng điều đó có thể mang lại lợi lộc và đă trả lời với tôi rằng có những vấn để khẩn cấp hơn cần phải giải quyết, nhà nghiên cứu đă giải thích như vậy. Ung thư của cổ tử cung rất là phổ biến và nó giết chết các phụ nữ c̣n tương đối trẻ. Nếu ngay từ lúc đầu, niềm tin cho rằng ung thư này là do virus được nghe theo, th́ chúng ta đă có thể làm một vaccin pḥng bệnh sớm hơn”. Và ngày nay đó là điều đă được thực hiện. Người ta ước tính rằng khoảng 15% các ung thư nói chung là do các virus.
(LE FIGARO 7/10/2008) (LEMONDE 8/10/2008)

2/ HARALD ZUR HAUSEN, NGƯỜI ĐẦU TIÊN ĐĂ ĐẶT MỐI LIÊN HỆ GIỮA VIRUS VÀ UNG THƯ

Harald zur Hausen, 72 tuổi, làm việc ở Đại học Dusseldorf ở Đức, được giải thưởng Nobel y học. Thật ra ông đă không khám phá ra “ virus của papillome người ” (HPV : papillomavirus humain), v́ lẽ virus này đă được nhận diện và ngay cả đă được phát hiện nơi các xác ướp Ai Cập, nhưng chính ông là người đầu tiên đă xác nhận virus này là nguyên nhân của ung thư cổ tử cung, loại ung thư thứ hai phổ biến nhất ở các phụ nữ.

“Trái với những ư nghĩ thịnh hành trong những năm 70, Harald zur Hausen đă xác lập như định đề vai tṛ của papillomavirus trong ung thư cổ tử cung”, ủy ban Nobel đă nhấn mạnh như vậy. Chính ngay trong những năm 1960, Hausen đă hướng các nghiên cứu của ông về các nguồn gốc của ung thư cổ tử cung. Vào thời kỳ đó, một trong những giả thuyết thịnh hành là ung thư cổ tử cung là hậu quả của một viêm nhiễm măn tính do một virus thuộc loại herpes loại 2. Nhưng nhà nghiên cứu Hausen đă chứng tỏ rằng trong các tế bào ung thư không có herpès và phải t́m kiếm nguyên nhân ở nơi khác. Từ năm 1976, ông đưa ra giả thuyết rằng ung thư này là do một virus gần giống với virus gây nên các mụn cóc (verrues), được xếp loại trong nhóm HPV (human papillomavirus). Nhưng các đồng nghiệp của ông không muốn nghe nói đến giả thuyết này. Và vào đầu những năm 1980, ông đă thành công phân lập được hai dạng papillomavirus , những génotype 16 và 18, là nguồn gốc của 70% các ung thư cổ tử cung, như vậy mở đường cho việc chế tạo một vaccin. Bởi v́ có hơn 200 loại genotypes papillomavirus. Vài génotypes được truyền bằng đường sinh dục và làm nhiễm trùng các niêm mạc sinh dục, vài génotypes khác được truyền bằng những tiếp xúc ngoài da và làm nhiễm trùng da .

CON ĐƯỜNG TIẾN ĐẾN CÁC VACCIN

“Trong lúc phân lập các génotype nguy hiểm nhất, nhà khoa học đă cho phép chế tạo các vaccin, ngày nay có thể chống lại những trường hợp ung thư, chịu trách nhiệm hơn 5% những trường hợp ung thư trên thế giới. Chính ông đă cho phép các hăng dược phẩm hiệu chính một vaccin”, giáo sư Philippe Simon (Bệnh Viện Erasme, Bỉ) đă nhấn mạnh như thế. Từ 50 đến 80% dân chúng thế giới đă được tiếp xúc với một dạng của virus này. “Zur Hausen là một “ông bé nhỏ” (un petit monsieur) nhưng đă làm những chuyện lớn lao”.

Tuy vậy, thời hạn của tiến triển ung thư cổ tử cung làm sợ hăi : có thể thời gian giữa lúc nhiễm trùng bởi virus và lúc phát khởi một ung thư là 40 năm.

“ Chính sự tiến triển chậm này tạo cơ hội để thực hiện điều tra phát hiện và điều trị ung thư ở giai đoạn rất sớm. Với một điều tra phát hiện được thực hiện mỗi 3 năm, chúng ta có thể gần như bảo đảm cho các bệnh nhân của chúng ta rằng họ sẽ không bao giờ bị một ung thư cổ tử cung. Việc điều tra phát hiện vẫn là khám nghiệm cơ bản để chống lại ung thư này. Và ngoài ra chúng ta có thêm món quà chủng ngừa. Trong các nước đang phát triển, đôi khi đó là cơ hội tuyệt vời chống lại tỷ lệ mắc bệnh rất cao của loại ung thư này. ”

Ổ Bỉ, phí tổn vaccin (Gardasil hay Cervarix) được bồi hoàn đối với các thiếu nữ từ 12 đến 15 tuổi. Thật vậy vaccin này hiệu quả hơn nhiều khi được tiêm trước lần giao hợp đầu tiên. Ung thư này gây bệnh 700 phụ nữ mỗi năm ở Bỉ và giết chết khoảng 300 đến 350 người. Tỷ lệ sinh tồn vào 5 năm sau chẩn đoán là 65%. “Cuối cùng, khi chúng ta phải điều trị bằng ngoại khoa hay phóng xạ trị liệu, th́ phép trị liệu có thể nặng nề và làm biến dạng. Thường thường, điều trị này làm giảm hay thu giảm hoàn toàn khả năng có con, do việc cắt bỏ hoàn toàn hay một phần của cổ tử cung, hoặc của tử cung. Chính v́ vậy mà khám phá của Zur Hausen đă là chủ yếu”, giáo sư Simon đă nhấn mạnh như vậy.
(LE FIGARO 7/10/2008)
(LE SOIR 7/10/2008)
florida80_is_offline  
 
Page generated in 0.11610 seconds with 9 queries