VietBF - View Single Post - CHUYỆN LINH TINH BUỒN VUI TRONG ĐỜI
View Single Post
Old 10-05-2019   #135
tbbt
R6 Đệ Nhất Cao Thủ
 
tbbt's Avatar
 
Join Date: Dec 2009
Posts: 2,162
Thanks: 2,543
Thanked 5,655 Times in 1,726 Posts
Mentioned: 77 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 1120 Post(s)
Rep Power: 22
tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9
tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9
Default

Sài G̣n Xưa: Chuyện Thành Ngữ “Bỏ Qua Đi Tám!”

Người Sài G̣n xưa có cách xưng hô thứ bậc thú vị: công chức, người có học là thầy Hai, người Hoa buôn bán là chú Ba, đại ca giang hồ là anh Tư, lưu manh là anh Năm… người lao động nghèo xếp thứ Tám. Sao lại xưng hô vậy?

Chiều muộn hôm qua có cậu bạn đi công việc ghé ngang nhà rủ làm ly cà phê tán dóc. Nói chuyện lan man một hồi, tự nhiên anh chàng kể công ty em có ông già gác cửa rất hay nói câu “bỏ qua đi Tám”…

“Em không hiểu, có lần hỏi th́ ổng nói đại khái là dùng khi can ngăn ai bỏ qua chuyện ǵ đó, nhưng sao không phải là Sáu hay Chín mà lại là Tám th́ ổng cũng không biết”, cậu bạn thắc mắc.

Dựa vào những câu chuyện xưa cũ, những giai thoại, nên kể ra đây chút nguyên cớ của câu thành ngữ có lẽ sắp “thất truyền” này…

Trước hết, phải biết là câu này phát sinh ở khu vực Sài G̣n – Chợ Lớn từ thời Pháp thuộc, khoảng đầu thế kỷ 20. Thời đó, cách xưng hô thứ bậc trong xă hội rất phổ biến và phần nào phản ánh vị trí xă hội, giai cấp… một cách khá suồng să và dễ chấp nhận.

Thứ Nhất: Đứng trên hết là các “Quan Lớn” người Pháp hoặc các quan triều nhà Nguyễn, thành phần này th́ không “được” xếp thứ bậc v́ giới b́nh dân hầu như không có cơ hội tiếp xúc đặng xưng hô hay bàn luận thường xuyên.

Thứ Hai: Kế đến là các công chức làm việc cho chính quyền, họ ít nhiều là dân có học và dân thường hay có dịp tiếp xúc ngoài đời, là cầu nối giữa họ với các thủ tục với chính quyền, hoặc đó là thành phần trí thức, đó là các “thầy Hai thông ngôn”, hay “thầy Hai thơ kư”…

Thứ Ba: Là các thương gia Hoa Kiều, với tiềm lực tài chính hùng hậu và truyền thống “bang hội” tương trợ, liên kết chặt chẽ trong kinh doanh, các “chú Ba Tàu” nghiễm nhiên là thế lực đáng vị nể trong mắt xă hội b́nh dân Sài G̣n – Chợ Lớn thời đó.

Thứ Tư: Là các “đại ca” giang hồ, những tay chuyên sống bằng nghề đâm chém và hành xử theo luật riêng, tuy tàn khốc và “vô thiên vô pháp” nhưng khá “tôn ti trật tự (riêng)” và “có đạo nghĩa” chứ không tạp nhạp và thiếu nghĩa khí như các băng nhóm “trẻ trâu” hiện đại. Các “anh Tư dao búa” vừa là hung thần, vừa ít nhiều lấy được sự ngưỡng mộ của giới b́nh dân (và cũng không ít tiểu thư khuê các) thời đó.

Thứ Năm: Là vị trí của giới lưu manh hạ cấp hơn: các anh Năm đá cá lăn dưa, móc túi giật giỏ, hay làm c̣ mồi mại dâm…

Thứ Sáu: Bị giới b́nh dân ghét hơn đám lưu manh côn đồ là các “thầy Sáu phú-lít (police)”, “thầy Sáu mă tà”, “thầy Sáu lèo”. Chức trách là giữ an ninh trật tự, chuyên thổi c̣i đánh đuổi giới buôn gánh bán bưng b́nh dân, nhưng các “thầy Sáu” này cũng không từ cơ hội vơ vét ít tiền mọn “hối lộ” của họ để “nhẩm xà” (uống trà).

Thứ Bảy: Và trong giới buôn bán th́ không thể thiếu chuyện vay vốn làm ăn, mặc dù Tàu hay Việt cũng đều có tổ chức cho vay. Nhưng phổ biến và “quy củ” nhất ở cấp độ trung – cao khu vực Sài G̣n – Chợ Lớn thời đó là các “anh Bảy Chà và”, các anh này là các nhà tài phiệt người Ấn, vừa giàu vừa ít bị “ghét”, vừa ít nhiều có quan hệ qua lại với giới chức người Pháp, lại làm ăn đúng luật lệ, ít thừa cơ bắt chẹt lăi suất nên khá được giới kinh doanh tín nhiệm.

Thứ Tám: Xếp thứ Tám chính là lực lượng đông đảo nhất xă hội b́nh dân bấy giờ: họ là giới lao động nghèo chỉ có sức lực làm vốn nuôi miệng, từ bốc vác, gánh nước bồng em, đến “sang” hơn chút xíu là phu xe kéo…

Tuy đông nhưng lại yếu thế nhất v́ thất học, không có tiền như thầy Hai, anh Ba, cũng hiền lành chứ không bặm trợn phản kháng bạt mạng như các anh Tư anh Năm nên họ thường xuyên chịu sự áp bức, bắt nạt từ mọi phía. Cách để yên thân khả dĩ nhất với họ là khuyên nhau cắn răng nhẫn nhịn, quên đi để sống: “Bỏ qua đi Tám”, bây giờ chắc là đă dễ hiểu rồi.

Thứ Chín: Không c̣n liên quan nữa, nhưng nhân tiện sẵn nói luôn về thứ bậc chót cùng trong xă hội thời đó: các cô, các chị Chín xóm B́nh Khang chuyên “kinh doanh” bằng “vốn tự có”.

Dài ḍng tí để tŕnh bày chút kiến giải về một câu thành ngữ đang dần bị quên lăng dùng để bày tỏ thái độ khuyên người hoặc tự an ủi ḿnh hăy đừng để ư những chuyện không vui, hay bị ai đó “chơi không đẹp”. Nếu lỡ đọc thấy không có ǵ thú vị th́ thôi, “bỏ qua đi Tám”.


&

“Anh Hai Sài G̣n” th́ là cách gọi vui, thân mật, nhưng cũng thể hiện tính cách phóng khoáng, dám làm dám chịu của dân Sài G̣n nói riêng và miền Nam nói chung. V́ sao lại là “Anh Hai” chứ không là “Anh Cả”?

Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, bắt đầu gây dựng chính quyền Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Đây là cái mốc quan trọng của quá tŕnh “Nam tiến” trong lịch sử Việt Nam, cũng là quá tŕnh h́nh thành văn hóa vùng đất phía Nam trong xu thế mang theo và ǵn giữ văn hóa cội nguồn, đồng thời tiếp nhận những yếu tố văn hóa của cư dân vùng đất mới.

Đến năm 1698, Phủ Gia Định được thành lập, Sài G̣n – Gia Định h́nh thành từ đó. Chỉ hơn 300 năm nhưng người Sài G̣n đă kịp định h́nh một bản sắc riêng dễ nhận biết giữa những người của vùng miền khác. Điều này h́nh thành từ nguồn gốc lưu dân và hoàn cảnh lịch sử xă hội của miền Nam /Sài G̣n.

Lưu dân người Việt vào Nam trước hết và đông nhất là những người “Tha phương cầu thực” v́ không có đất đai, không có phương kế sinh sống ở quê hương. Thành phần thứ hai là những người chống đối triều đ́nh, quan lại địa phương bị truy bức nên phải t́m đường trốn tránh. Thứ ba là những tội đồ bị buộc phải ly hương (một h́nh phạt nặng của thời phong kiến). Ngoài ra, c̣n có số ít người tương đối giàu có, muốn mở rộng và phát triển việc làm ăn trên vùng đất mới nên nhập vào hàng ngũ lưu dân tới miền Nam…

Khi Sài G̣n được h́nh thành như một trung tâm của vùng đất phía Nam thời chúa Nguyễn, một đô thị lớn thời thuộc Pháp th́ nơi đây cũng là nơi dân tứ xứ tiếp tục đổ về. Người nhập cư là thành phần hữu cơ của bất cứ đô thị nào, Sài G̣n vốn h́nh thành từ những lớp “người nhập cư” rồi trở thành “người Sài G̣n”, rồi lại tiếp tục thu nhận và chia sẻ cho những lớp người nhập cư mới.

Sống trong những điều kiện lịch sử luôn biến động, người dân miền Nam /Sài G̣n đă tạo dựng một nếp sống tinh thần ấm áp, b́nh đẳng, lấy t́nh nghĩa, nghĩa khí làm trọng…

Người Sài G̣n không phân biệt “quê”, “tỉnh”, “đồng hương” hay không…

Có thể nói, tính cách người Sài G̣n bắt nguồn từ yếu tố, điều kiện thực tế nhất ở Sài G̣n là “Làm”: “Làm ăn”, “Làm chơi ăn thiệt”, “Làm đại”, “Dám làm dám chịu”… được thể hiện một cách giản dị, thiết thực, “liều lĩnh” nhưng cũng đầy trách nhiệm

Ở Sài G̣n, “dư luận xã hội” không nặng nề khe khắt với những cái khác, cái mới. Người Nam khá dân chủ trong các mối quan hệ xã hội và cả trong gia đình, từ cách xưng hô (người Nam thường xưng “tui”) đến việc cá nhân ít lệ thuộc, phụ thuộc vào cộng đồng.

Chỉ vậy thôi, bất kể người tỉnh nào vùng miền nào, miễn là sống ở Sài G̣n, rồi có tính cách như vậy, th́ đó là Người Sài G̣n… Có lẽ v́ vậy mà người ta thường gọi người Sài G̣n một cách tŕu mến là “Anh Hai Sài G̣n”.

Ở miền Bắc con trai trưởng trong nhà gọi là Anh Cả nhưng miền Nam lại gọi Anh Hai. V́ sao là Anh Hai mà không phải là Anh Cả? Có thể từ vài giả thuyết sau: Chúa Nguyễn Hoàng là người con trai thứ hai của Nguyễn Kim, mở đường vào Nam khai phá nên để tôn trọng ông, người dân gọi người con lớn của ḿnh, trai hay gái, cũng chỉ là (thứ) Hai.

Hoặc, có ư kiến cho rằng, khi có phong trào lưu dân vào Nam khai khẩn, trong gia đ́nh thường để con trai thứ ra đi v́ người con trai trưởng có vai tṛ ở lại quê nhà phụng dưỡng cha mẹ và thờ cúng tổ tiên. Cũng có người cho rằng, trong làng quê miền Nam xưa có ông Cả (Hương Cả) là người đứng đầu, v́ vậy trong các gia đ́nh chỉ có người thứ Hai…

Tuy khác nhau về nguồn gốc “thứ Hai” của “anh Hai Sài G̣n” hay “anh Hai Nam Kỳ” nhưng có thể nhận thấy có chung một điểm: Đó là người con thứ không bị ràng buộc trách nhiệm nặng nề “giữ hương hỏa, nền nếp” như người con trưởng nên có thể “rộng chân” ra đi, tự do hơn khi tiếp nhận cái mới, thay đổi cái cũ lạc hậu, dễ thích nghi, có khi thử, liều. Nhưng v́ không có gia đ́nh họ hàng bên cạnh để mà dựa dẫm “tại, v́, bởi…” nên phải có trách nhiệm “dám chịu” nếu lỡ sai lầm.




Nguyễn Thị Hậu
Đăng lại từ bài viết “Chuyện thầy Hai con Tám Sài G̣n xưa”
tbbt_is_offline   Reply With Quote
The Following 5 Users Say Thank You to tbbt For This Useful Post:
hoanglan22 (10-05-2019), longhue (10-12-2019), luyenchuong3000 (08-18-2020), phokhuya (10-12-2019), trungthu (08-28-2020)
 
Page generated in 0.06616 seconds with 10 queries