VietBF - View Single Post - Lịch sử Việt Nam nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống th́ đă có hàng vạn năm trước Công nguyên
View Single Post
Old 05-01-2019   #16
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,347
Thanks: 7,298
Thanked 45,932 Times in 12,774 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Các quốc hiệu chính thức

Dưới đây là danh sách các quốc hiệu chính thức của Việt Nam theo ḍng lịch sử. Các quốc hiệu này đều được ghi chép trong các sách sử Việt Nam, hoặc được chính thức sử dụng trong nghi thức ngoại giao quốc tế.

Văn Lang

Văn Lang (chữ Hán: 文郎) được coi là quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam. Quốc gia này có kinh đô đặt ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Phú Thọ. Lănh thổ bao gồm khu vực đồng bằng sông Hồng và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Quốc gia này tồn tại cho đến năm 258 TCN.

Âu Lạc

Năm 257 TCN, nước Âu Lạc (甌雒, 甌駱[1], 甌貉) được dựng lên, từ việc liên kết các bộ lạc Lạc Việt (Văn Lang) và Âu Việt, dưới uy thế của Thục Phán – An Dương Vương. Âu Lạc có lănh thổ bao gồm phần đất của Văn Lang trước đây cộng thêm vùng núi Đông Bắc Việt Nam và một phần tây nam Quảng Tây (Trung Quốc).

Khoảng cuối thế kỷ III TCN, đầu thế kỷ II TCN (năm 208 TCN hoặc 179 TCN[2]), Triệu Đà (Quận úy Nam Hải – nhà Tần) tung quân đánh chiếm Âu Lạc. Cuộc kháng cự của An Dương Vương thất bại, nhà nước Âu Lạc bị xóa sổ.

Lĩnh Nam

Năm 40, Hai Bà Trưng đă khởi nghĩa chống lại sự cai trị của nhà Hán. Sử cũ ghi chép hai bà đă lấy được 65 thành tŕ của nhà Hán tại các quận Nhật Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ, Hợp Phố, Nam Hải,... Hai bà xưng vương, với câu hịch nối lại nghiệp xưa vua Hùng, lập tên nước là Lĩnh Nam, đóng đô tại Mê Linh, ngày nay thuộc huyện Mê Linh, Hà Nội. Trưng Trắc được bầu làm vua (Đế) của Lĩnh Nam, Trưng Nhị được bầu làm vương của Giao Chỉ, 6 quận của Lĩnh Nam là: Nhật Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ, Tượng Quận, Nam Hải và Quế Lâm mỗi quận có một vương gia. Năm 43, khởi nghĩa Hai Bà Trưng bị đàn áp, bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc lần II.

Vạn Xuân

Vạn Xuân (萬春) là quốc hiệu của Việt Nam trong một thời kỳ độc lập ngắn ngủi khỏi triều đ́nh trung ương Trung Hoa của nhà Tiền Lư dưới sự lănh đạo của Lư Nam Đế. Quốc hiệu này tồn tại từ năm 544 đến năm 602 th́ bị nhà Tùy tiêu diệt.

Đại Cồ Việt

Đại Cồ Việt (大瞿越) là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Đinh đến đầu thời nhà Lư, do Đinh Tiên Hoàng thiết đặt năm 968. Quốc hiệu này tồn tại 87 năm cho đến năm 1054, đời vua Lư Thánh Tông th́ đổi sang quốc hiệu khác.

Đại Việt

Đại Việt (大越) là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Lư, bắt đầu từ năm 1054, khi vua Lư Thánh Tông lên ngôi. Quốc hiệu này tồn tại lâu dài nhất, dù bị gián đoạn 7 năm thời nhà Hồ và 20 năm thời thuộc Minh, kéo dài đến năm 1804, trải qua các vương triều Lư, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn, khoảng 724 năm.

Đại Ngu

Đại Ngu (大虞) là quốc hiệu của Việt Nam thời nhà Hồ. Quốc hiệu Đại Việt được đổi thành Đại Ngu năm 1400 khi Hồ Quư Ly lên nắm quyền. Sau khi nhà Hồ bị thất bại trước nhà Minh, và nhà Hậu Lê giành lại độc lập cho Việt Nam, quốc hiệu của Việt Nam đổi lại thành Đại Việt.

Về quốc hiệu này, theo truyền thuyết, họ Hồ là con cháu vua Ngu Thuấn (là một trong Ngũ Đế nổi tiếng ở Trung Hoa thời thượng cổ); sau này con Ngu Yên là Vĩ Măn được Chu Vũ Vương của nhà Chu phong cho ở đất Trần gọi là Hồ Công, sau dùng chữ Hồ làm tên họ. Hồ Quư Ly nhận ḿnh là ḍng dơi họ Hồ, con cháu Ngu Thuấn, nên đặt quốc hiệu là Đại Ngu. Chữ Ngu (虞) ở đây có nghĩa là "sự yên vui, ḥa b́nh", chứ không phải là từ "ngu" trong từ "ngu si" (愚癡).

Việt Nam

Tiến tŕnh Nam tiến của dân tộc Việt

Quốc hiệu Việt Nam (越南) chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn. Vua Gia Long đă đề nghị nhà Thanh công nhận quốc hiệu Nam Việt, với lư lẽ rằng "Nam" có ư nghĩa "An Nam" c̣n "Việt" có ư nghĩa "Việt Thường". Tuy nhiên, tên Nam Việt trùng với quốc hiệu của quốc gia cổ Nam Việt thời nhà Triệu, gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Hoa lúc bấy giờ. Nhà Thanh yêu cầu nhà Nguyễn đổi ngược lại thành Việt Nam để tránh nhầm lẫn, và chính thức tuyên phong tên này năm 1804.

Tuy nhiên, tên gọi Việt Nam có thể đă xuất hiện sớm hơn. Ngay từ cuối thế kỷ XIV, đă có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí (nay không c̣n) do Hàn lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí viết đầu thế kỷ XV của Nguyễn Trăi (1380–1442) nhiều lần nhắc đến hai chữ "Việt Nam". Điều này c̣n được đề cập rő ràng trong những tác phẩm của trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585), ngay trang mở đầu tập Tŕnh tiên sinh quốc ngữ đă có câu: "Việt Nam khởi tổ xây nền". Người ta cũng t́m thấy hai chữ "Việt Nam" trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ XVI-XVII như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh... Đặc biệt bia Thủy Môn Đ́nh (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: "Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan" (đây là cửa ngő yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Về ư nghĩa, phần lớn các giả thuyết đều cho rằng từ "Việt Nam" kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lư (người Việt ở phương Nam).

Đại Nam

Năm 1820, vua Minh Mạng lên ngôi xin nhà Thanh cho phép đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam (大南), ngụ ư một nước Nam rộng lớn. Tuy nhiên, nhà Thanh đă không chính thức chấp thuận. Khi nhà Thanh bắt đầu suy yếu, vua Minh Mạng chính thức đơn phương công bố quốc hiệu mới Đại Nam vào ngày 15 tháng 2 năm 1839. Quốc hiệu này tồn tại đến năm 1945.

Đế quốc Việt Nam

Sau khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9 tháng 3 năm 1945, hoàng đế Bảo Đại tuyên bố xóa bỏ các hiệp ước với Pháp và thành lập chính phủ vào ngày 17 tháng 4 năm 1945, đứng đầu là nhà học giả Trần Trọng Kim, với quốc hiệu Đế quốc Việt Nam. Trong thực tế, Đế quốc Nhật Bản vẫn cai trị Việt Nam. Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, Nam Kỳ mới được trao trả ngày 14 tháng 8 năm 1945, nhưng 10 ngày sau đó Hoàng đế Bảo Đại thoái vị. Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố trao lại chủ quyền Việt Nam cho Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.

Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa

Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa là tên gọi của cả nước Việt Nam 1945 đến 1954 và miền Bắc Việt Nam từ 1954 đến 1976. Nhà nước này được thành lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 (Ngày Quốc khánh của Việt Nam ngày nay). Năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa tổ chức Tổng tuyển cử trên phạm vi cả nước để chính thức thành lập Quốc hội và Chính phủ khóa I.

Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa phải đối đầu với thực dân Pháp và Quốc gia Việt Nam được lập ra dưới cái ô của Pháp năm 1949. Trong thời kỳ 1954–1975, chính thể này tiếp tục phải đối đầu với Việt Nam Cộng ḥa được Hoa Kỳ thành lập tại miền Nam Việt Nam. Tới năm 1976, chính thể này cùng với chính thể Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam tổ chức Tổng tuyển cử để thống nhất thành Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quốc gia Việt Nam

Quốc gia Việt Nam là danh xưng của một phần vùng lănh thổ Việt Nam thuộc quyền kiểm soát của quân Pháp (mặc dù tuyên bố đại diện cho cả nước), ra đời chính thức từ Hiệp ước Elysée kư ngày 8 tháng 3 năm 1949, giữa Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại. Thực tế, chính quyền Quốc gia Việt Nam vẫn thuộc khối Liên hiệp Pháp, đối kháng và tồn tại trên cùng lănh thổ với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa. Trong suốt thời gian tồn tại, Quốc gia Việt Nam chưa từng tổ chức được Tổng tuyển cử trên phạm vi cả nước như Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa đă làm năm 1946. Nó bị coi là một chính phủ bù nh́n của thực dân Pháp.

Danh xưng Quốc gia Việt Nam tồn tại trong 6 năm (1949-1955). Năm 1955, Ngô Đ́nh Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, giải tán Quốc gia Việt Nam, thành lập chính phủ Việt Nam Cộng ḥa.

Việt Nam Cộng ḥa

Việt Nam Cộng ḥa là tên gọi của một chính thể được Hoa Kỳ hỗ trợ thành lập tại miền Nam Việt Nam, kế thừa Quốc gia Việt Nam (1949–1955). Trong trưng cầu dân ư gian lận năm 1955 do Hoa Kỳ hậu thuẫn, thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm đă phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, thành lập chính quyền Việt Nam Cộng ḥa. Ở miền Nam Việt Nam, chính thể này tồn tại song song với chính thể Cộng ḥa miền Nam Việt Nam. Chính quyền này sụp đổ vào năm 1975 sau khi đầu hàng Cộng ḥa miền Nam Việt Nam. Sau đó, Cộng ḥa miền Nam Việt Nam có tuyên bố kế thừa các nghĩa vụ, tài sản, quyền và các lợi ích của Việt Nam Cộng ḥa.

Cộng ḥa miền Nam Việt Nam

Cộng ḥa miền Nam Việt Nam là một chính thể cũng ở miền Nam Việt Nam, tồn tại từ năm 1969 tới 1976, tên đầy đủ là "Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng ḥa miền Nam Việt Nam". Chính thể này được thành lập dựa trên cơ sở là những cán bộ Việt Minh được giữ lại miền Nam để chuẩn bị cho Tổng tuyển cử thống đất nước dự kiến được tổ chức năm 1957 (theo Hiệp định Geneve 1954 th́ chỉ tập kết quân sự, các thành phần chính trị ở nguyên tại chỗ để chuẩn bị tổng tuyển cử thành lập chính phủ ḥa hợp dân tộc). Cộng ḥa miền Nam Việt Nam có mục tiêu chống Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng ḥa đế thống nhất đất nước. Sau cuộc Tổng tuyển cử năm 1976, Cộng ḥa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa hợp nhất thành Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam.[3]

Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam

Sau khi cuộc Tổng tuyển cử năm 1976 do Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và Cộng ḥa miền Nam Việt Nam tổ chức để thống nhất đất nước về mặt chính trị, ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội khóa VI quyêt định thống nhất Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Cộng ḥa miền Nam Việt Nam với tên gọi Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hiệu này được sử dụng từ đó đến nay.

Các danh xưng gây tranh căi

Dưới đây là những danh xưng từng được dùng không chính thức để chỉ vùng lănh thổ quốc gia Việt Nam. Những danh xưng không chính thức này được ghi nhận lại từ cổ sử, truyền thuyết hoặc từ các tài liệu nước ngoài từ trước năm 1945.

Xích Quỷ

Xích Quỷ (赤鬼), c̣n gọi là Thích Quỷ, theo Việt Nam sử lược là có nguồn gốc từ truyền thuyết về thủy tổ của dân Việt là Kinh Dương Vương.

Sách chép:
Cứ theo tục truyền th́ vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau, đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.Bờ cơi nước Xích Quỷ bấy giờ phía bắc giáp Động Đ́nh Hồ (Hồ Nam), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía đông giáp bể Nam Hải.Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quăng năm nhâm tuất (2879 trước Tây Lịch?) và lấy con gái Động Đ́nh Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lăm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.
Nam Việt
Xem Vấn đề chính thống của nhà Triệu.
Nam Việt (南越) là quốc hiệu thời nhà Triệu (204 TCN–111 TCN). Nói chính xác th́ đối tượng tranh căi ở đây không phải là bản thân tên gọi Nam Việt, mà vấn đề là quốc hiệu này có đại diện cho nước Việt Nam ngày nay hay không. Thời phong kiến xem Nam Việt chính là quốc hiệu cũ của nước Việt[4], nhưng từ thời Hậu Lê trở về sau, cũng như quan điểm chính thống hiện nay cho rằng quốc gia Nam Việt khi đó là của người Trung Hoa. Lư do không thể coi Nam Việt là của người Việt Nam v́: Triệu Đà là người Hán, quê ở huyện Chân Định, tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc), nhân lúc nhà Tần suy loạn đă nổi lên lập ra nhà Triệu, lấy quốc hiệu là Nam Việt.

Các ư kiến cho rằng quốc hiệu này là của nước Việt có các nhận định của các học giả như Lê Văn Hưu hay Ngô Sĩ Liên. Lê Văn Hưu nói: "Đất Liêu Đông không có Cơ Tử th́ không thành phong tục mặc áo đội mũ (như Trung Hoa), đất Ngô Cối không có Thái Bá th́ không thể lên cái mạnh của bá vương. Đại Thuấn là người Đông Di nhưng là bậc vua giỏi trong Ngũ Đế. Văn Vương là người Tây Di mà là bậc vua hiền trong Tam Đại. Thế mới biết người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đức mà thôi. Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là "lăo phu", mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy. Người làm vua nước Việt sau này nếu biết bắt chước Vũ Đế mà giữ vững bờ cơi, thiết lập việc quân quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngôi bằng nhân, th́ ǵn giữ bờ cơi được lâu dài, người phương Bắc không thể lại ngấp nghé được".

Ngô Sĩ Liên nói: "Truyện Trung Dung có câu: "Người có đức lớn th́ ắt có ngôi, ắt có danh, ắt được sống lâu". Vũ Đế làm ǵ mà được như thế? Cũng chỉ v́ có đức mà thôi. Xem câu trả lời Lục Giả th́ oai anh vũ kém ǵ Hán Cao. Đến khi nghe tin Văn Đế đặt thủ ấp trông coi phần mộ tổ tiên, tuế thời cúng tế, lại ban thưởng ưu hậu cho anh em, th́ bấy giờ vua lại khuất phục nhà Hán, do đó tông miếu được cúng tế, con cháu được bảo tồn, thế chẳng phải là nhờ đức ư? Kinh Dịch nói: "Biết khiêm nhường th́ ngôi tôn mà đức sáng, ngôi thấp mà không ai dám vượt qua". Vua chính hợp câu ấy".

Hoặc vua Quang Trung sau khi đánh bại đội quân nhà Thanh năm 1789 đă có ư định đ̣i lại đất hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây với lư do đây là đất cũ của Nam Việt thời nhà Triệu.

An Nam

An Nam (安南) là danh xưng của người nước ngoài chỉ lănh thổ Việt Nam trong một số thời kỳ.

Nguồn gốc danh xưng này từ thời Bắc thuộc (Việt Nam bị Trung Quốc đô hộ), nhà Đường ở Trung Quốc đă đặt tên cho khu vực lănh thổ tương ứng với khu vực miền Bắc Việt Nam ngày nay là An Nam đô hộ phủ (673–757 và 768–866).

Sau khi giành được độc lập, các triều vua Việt Nam thường phải nhận thụ phong của Trung Quốc, danh hiệu là "An Nam quốc vương" (kể từ năm 1164).

Từ đó người Trung Quốc thường gọi nước Việt Nam là An Nam, bất kể quốc hiệu là ǵ. Cách gọi này đă ảnh hưởng đến cách gọi của người châu Âu trước năm 1945.

Thời kỳ thuộc Pháp, Annam (gọi theo tiếng Pháp) là tên gọi chỉ vùng lănh thổ Trung Kỳ do nhà Nguyễn cai trị dưới sự bảo hộ của Pháp. Tuy vậy, người Pháp vẫn dùng danh xưng Annam để chỉ người Việt nói chung ở cả ba vùng Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam) và Nam Kỳ (Cochinchine).

Các danh xưng thời Bắc thuộc và Pháp thuộc

Các danh xưng này không được xem là quốc hiệu của Việt Nam v́ các giai đoạn này Việt Nam bị nước ngoài đô hộ. Đây là tên gọi mà Trung Quốc và Pháp sử dụng để chỉ vùng lănh thổ Việt Nam mà họ chiếm đóng.

Giao Chỉ

Là tên gọi của Việt Nam thời Bắc thuộc lần I từ 111 TCN–39 SCN; thời Bắc thuộc lần 2 từ 43–203, và thời Bắc thuộc lần 4 từ 1407–1427. Tổng cộng khoảng 262 năm.

Giao Châu

Là tên gọi của Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2 từ 203–544 và thời Bắc thuộc lần 3 từ 602–679. Tổng cộng khoảng 420 năm.

An Nam

Là tên gọi của Việt Nam thời Bắc thuộc lần 3 từ 679–757 và 766–866. Tổng cộng khoảng 180 năm.

Trấn Nam

Là tên gọi của Việt Nam thời Bắc thuộc lần 3 từ 757–766. Tổng cộng khoảng 10 năm.

Tĩnh Hải quân

Là tên gọi của Việt Nam cuối thời Bắc thuộc lần 3, thời kỳ tự chủ của Họ Khúc và thời kỳ độc lập của Nhà Ngô, từ 866–967. Tổng cộng khoảng 102 năm.

Liên bang Đông Dương

Là tên gọi của Việt Nam, Campuchia và Lào (lúc bấy giờ bị chia thành Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ) thời Pháp thuộc, từ 1887–1954. Tổng cộng khoảng 68 năm.
florida80_is_offline   Reply With Quote
 
Page generated in 0.10558 seconds with 10 queries