Chuyện tháng 4. Giải phóng miền Nam hay quốc hận, cũng như 30 tháng 4 đen. Gọi sao cũng phải hiểu rằng đã có cuộc đẫm máu trên đất nước này. Ai đúng ai sai thì nói sao bây giờ, người có tiền đã làm mù mắt những người thù hận cộng sản. Cùng vietbf.com đọc bài sau để chìm mình vào hành trình năm ấy.
30 THÁNG 4 TƯ , CHUYỆN CÒN NHỚ ? HÀNH TRÌNH TÌM TỰ DO
Nguyên Trần
Kể từ 1 giờ khuya ngày 5 tháng 6 năm 1980 khi chiếc thuyền mong manh bé nhỏ rời vàm Bãi San (Vĩnh Bình), chúng tôi tất cả 74 người vừa người lớn vừa trẻ em đã thực sự là “on our own risk” trên chiếc ghe mang số CLA 1273 nhắm mắt đánh liều cùng số mạng để đánh đổi hai chữ TỰ DO.
Vì đã quá trễ nên chú Trình tài công (định cư tại Toronto) cho ghe phóng hết ga. Mặc dù màn đêm dày đặc nhưng qua ánh sao le lói, tôi vẫn nhận ra ghe lướt nhanh ngang qua Vàm Trà Vinh, Bãi Vàng rồi Bến Đáy với những hàng đáy rộng thênh thang chắn ngay cửa biển trông thật rợn người. Bấy giờ cũng đã 4 giờ sáng. Mãi lo tránh né hàng đáy mà ghe lọt vào vùng cồn cạn nằm giữa cửa biển. Trên một vùng biển rộng bao la mà trông thấy cái cồn cát nổi lúp xúp trên mặt nước rồi sực nhớ có nhiều ghe vượt biên chạy ra tới cửa biển bị vướng cồn để bị hốt thì tôi đã thấy rởn tóc gáy rồi.
Rất may nhờ Trình là dân đánh cá địa phương quen hết địa hình địa vật ở đây nên ra lệnh cho một số thanh niên nhảy xuống biển… cạn rồi cầm những cây sào chèo chống hai bên mạn thuyền cho tới khi ra khỏi vùng chết người này. Tới bây giờ tụi Công An từ đồn Bến Đáy mới phát giác ra chúng tôi liền bắn súng truy kích và dùng ghe máy đuổi theo nhưng ghe quốc doanh của chúng làm sao mà chạy kịp máy 3 bloc đầu bạc của ghe vượt biên nên sau một lúc chúng quay về.
Khi chúng tôi ra tới biển thì trời đã rạng sáng và Trình vẫn tiếp tục xả hết tốc lực cho chóng qua khỏi nơi nguy hiểm. Nhìn vào đất liền thoáng hiện xa xa, lòng tôi thấy buồn rưng rưng “Thôi nhé! Vĩnh biệt mẹ Việt Nam! Vĩnh biệt quê hương nơi đã sinh tôi ra và cưu mang tôi trong suốt 38 năm trời và là nơi tôi bỏ lại một bà mẹ yêu thương nghèo khổ gieo neo tảo tần để nuôi tôi lớn khôn và đứa em gái còn ngây thơ khờ dại. Lần đi nầy chắc là ngàn đời vĩnh biệt”.
Trên hải trình, thỉnh thoảng chúng tôi trông thấy những thương thuyền hay tàu chở hàng lớn của Nga và các nước Đông Âu. Họ nhìn ghe chúng tôi một cách lạnh lùng. Tới 6:00 giờ chiều đảo Côn Sơn hiện xa xa trước mắt. Tài công Trình chuyển hướng cho ghe lệch về hướng Bắc để tránh sự quan sát của Việt Cộng. Nhưng sau đó thì chúng cũng nhìn thấy và đuổi theo, Trình tăng hết tốc lực cho ghe chạy thẳng ra hải phận quốc tế bỏ lại đằng sau chiếc ghe Công An Côn Sơn lẹt đẹt và bỏ cuộc.
Cố chạy quá xa ra hải phận quốc tế cho chắc ăn nên sáng hôm sau, thứ ba, 3 tháng 6 năm 1980, ghe phải quay về hướng Tây chạy suốt ngày thứ hai của chuyến hải trình cho đến ngày thứ ba mà vẫn không thấy bờ bến gì cả, biển ở độ sâu thăm thẳm nên nước đen ngòm trông thật ghê rợn.
Lúc bấy giờ, tôi mới hơi hoàn hồn một chút để nhìn các bạn đồng hành. Trên ghe, ngoài gia đình chúng tôi, mẹ con chị Hoa (Hartford), mẹ con chị Nghiêm (Nork York), bốn đứa em và cháu chị Phò (Toronto và Edmonton), còn có Sương (Edmonton), gia đình anh Sển chủ tiệm bazaar Hoa Nam (Sydney)… Tất cả là 74 người.
Sau 3 ngày lênh đênh trên biển cả, Trình cho biết ghe đang ở trên hải phận Mã Lai. Lâu lâu chúng tôi thấy có hàng lưới của ngư phủ giăng giữa vùng biển rộng. Ghe tiếp tục băng mình giữa vùng trời nước bao la mịt mùng. Không một tàu ghe nào qua lại, chỉ có độc nhất chiếc ghe vượt biên mong manh nhỏ bé đưa 74 người Việt Nam khốn khổ đến phương trời vô định. Tới 6 giờ chiều ngày thứ tư, 4 tháng 6, chúng tôi thấy từ đàng xa ánh đèn sáng rực cả một vùng biển, tôi đoán chừng đó là giàn khoan dầu (oil rig platform) nên bảo Trình chạy thẳng tới đó cầu cứu. Nhưng Thọ là chú của chủ tàu liền phản đối :
– Không được Trình. Chạy tránh xa đi, đó là tàu hải tặc đó, nó bắt được mình thì chết.
Lẽ dĩ nhiên, Trình phải nghe lời Thọ. Tôi không biết dựa vào suy luận quái đản nào đã khiến Thọ cho rằng vùng ánh sáng chói lòa kia là tàu hải tặc. Thứ nhất là tàu hải tặc cũng chỉ là chiếc tàu hay ghe đánh cá, cho dù nó lớn gấp 3, 4 lần ghe vượt biên thì nó cũng không thể tỏa ánh sáng chói lọi cả một góc trời, vả lại càng hải tặc thì nó càng che bớt ánh sáng để rình bắt con mồi chứ!
Ghe chuyển hướng xa vùng ánh đèn trong nỗi bực mình khó chịu của tôi.
Lúc bấy giờ, bầu trời chiều giăng đầy những đám mây xám xịt, loại mây mà người ta gọi là mây khói đèn báo hiệu cho cơn giông bão dữ dội sắp đến.
Mặt biển lúc đó tuy còn êm nhưng mọi người đều nghe tiếng gầm gừ ục ục từ dưới lòng đại dương để chuẩn bị cơn cuồng nộ. Sau nửa đêm, biển bắt đầu động mạnh và những đợt sóng lớn dần lớn dần cho tới sáng ngày thứ năm, 5 tháng 6, chiếc ghe mong manh của chúng tôi thực sự lọt ngay trung tâm bão cấp 5 với những con sóng cao gần bằng nóc nhà. Mọi người đều phải xuống khoang đậy nắp lại, chỉ trừ những thanh niên đứng ở khoang thứ nhất thay phiên nhau tát nước biển đang tràn vào.
Riêng tôi lên buồng lái để company và vận động tinh thần tài công Trình. Chiếc ghe nhỏ bé nghiêng ngả tròng trành như cái trứng vịt dưới sự phẫn nộ của đại dương. Biển gào thét, biển hung hăng, biển điên cuồng, biển tàn nhẫn trút từng cột nước khổng lồ như muốn nuốt trửng lấy con thuyền tội nghiệp của chúng tôi. Lúc đó thì mọi người trên ghe ai cầu kinh nấy, niệm Phật, cầu Chúa, vái ông bà vang dội khắp nơi. Tôi cũng luôn miệng đọc kinh Quán Thế Âm Bồ Tát mà quên đi nỗi tức giận Thọ đã quyết định ngu xuẩn trong đêm hôm trước để đưa cả ghe đến chỗ chết hôm nay.
Biển cả thực sự chứng tỏ quyền lực vô biên chứ không hiền hòa êm dịu như mấy ngày đầu. Từng đợt sóng thần hung dữ phủ đầu chiếc ghe vượt biên cuốn xô tất cả áo quần nồi niêu xoong chảo và tệ hại hơn hết là lương thực trôi lềnh bềnh trên biển. Ở đời ai cũng có những phút giây quan trọng mà quyết định ảnh hưởng tới nhiều người, tôi đã trải qua những phút giây đó và tôi đã quyết định sai khi đưa vợ con ra thử thách cùng biển cả. Trong nỗi tuyệt vọng tận cùng, tôi bỗng ao ước giá mà bọn Việt Cộng bắt tất cả chúng tôi lúc này thì hạnh phúc biết bao nhiêu.
Lúc nguy nan như thế nầy, tôi mới thấy khả năng lái ghe phải nói là siêu việt của tài công Trình. Gần như không nháy mắt, anh cố nhìn sóng biển khổng lồ đang bủa giăng tứ phía. Khi anh thấy nó sắp phủ chụp trước mũi ghe, anh bớt tốc độ lại để con sóng qua trước mắt, ngược lại nếu anh thấy sóng sắp xô tới phía sau ghe thì anh tăng tốc độ để ghe vượt qua khỏi. Có thể nói đây cuộc đấu tranh sinh tử giữa con người và thiên nhiên. Tôi ngồi kế bên thỉnh thoảng đưa vào miệng Trình thỏi sâm Cao Ly để trợ lực anh.
Giữa lúc đó, trên bầu trời xám xịt, một chiếc C47 bay thật thấp trên đầu chiếc ghe tới độ tôi còn thấy chữ US Army. Mấy người ở trên deck trông thấy mừmg rỡ la lên:
– Máy bay Mỹ! Máy bay Mỹ tới cứu chúng ta rồi bà con ơi!
Mọi người trên ghe vùng dậy như được hồi sinh. Đúng là có tin vui giữa giờ tuyệt vọng (tựa bản nhạc của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng).