Nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn c̣n mơ hồ về việc ghi nhăn hàng Việt. Cụ thể như ḅ nuôi ở Lào, Campuchia đem về Việt Nam vắt sữa và nguyên liệu nhập Úc, Mỹ mà doanh nghiệp dán là sữa Mỹ, sữa New Zealand.
Tại hội thảo cho ư kiến về dự thảo thông tư cách xác định hàng hoá của Việt Nam lưu thông trên thị trường nội địa được Bộ Công thương tổ chức hôm nay (25.9), hàng loạt ví dụ đă được nêu ra cho thấy việc việc ghi nhăn thế nào là hàng Việt vẫn khiến nhiều doanh nghiệp mơ hồ, băn khoăn.
Ông Trần Quang Trung, Chủ tịch Hiệp hội Sữa Việt Nam, dẫn quy định tại dự thảo về hàm lượng giá trị gia tăng trên 30% th́ được dán nhăn sản xuất tại Việt Nam để thắc mắc: "Vậy như sữa bột cho trẻ em, nguyên liệu bột nhập khẩu về nhưng công thức để tạo ra ḍng sản phẩm dinh dưỡng phù hợp với trẻ em Việt th́ phải thuê nhà nghiên cứu với hàm lượng chất xám rất cao nhưng hàm lượng nguyên liệu đầu vào th́ có lẽ không đạt trên 30%, lúc đó chúng tôi có được dán nhăn hàng sản xuất tại Việt Nam?"
Ông Trung tiếp tục lấy ví dụ nêu lên sự băn khoăn của ḿnh: “Doanh nghiệp có ḅ nuôi ở Lào, Campuchia rồi chở về Việt Nam vắt sữa, quy tŕnh quản lư tất cả là của Việt Nam th́ nhăn dán thế nào. Hay nguyên liệu nhập Úc, Mỹ mà doanh nghiệp lợi dụng để ghi là sữa Mỹ, sữa New Zealand th́ người tiêu dùng Việt Nam rất thích”.
Tương tự, bà Bùi Thị Thuỳ Dương, chuyên viên nhăn hàng hoá đến từ Bộ Khoa học - Công nghệ, cũng dẫn quy định “hàng hoá gia công đơn giản th́ không được coi là hàng Việt Nam” tại dự thảo và đặt vấn đề: "Thế nào là quá tŕnh gia công đơn giản, bởi nếu doanh nghiệp nhập khẩu hàng từ Mỹ về phối trộn, cho phụ gia vào và trên thực tế việc này làm thay đổi bản chất hàng hoá, chất lượng hàng hoá th́ không thể gọi là đơn giản nữa. Do đó, nếu không được dán nhăn hàng Việt Nam th́ doanh nghiệp có thể ghi là xuất xứ Mỹ. Mà người tiêu dùng Việt hay sính ngoại, nên dán nhăn hàng Mỹ th́ doanh nghiệp lợi quá, mặc dù quá tŕnh phối trộn này làm cho chất lượng sản phẩm không c̣n như hàng phối trộn ở Mỹ”, bà Dương dẫn chứng và cho rằng, ở điểm này nên tḥng thêm cụm từ “gia công chế biến nhưng không làm thay đổi cơ bản bản chất, chất lượng của hàng hoá”.
Trong khi đó, có ư kiến cho rằng, nếu doanh nghiệp nội nhập cá coi Nhật về, sau đó cá coi này sinh ra cá coi con th́ xác định cá coi con là “cá Việt Nam” hay “cá coi Nhật Bản”?
Thứ trưởng Bộ Công thương Trần Quốc Khánh cho rằng, chỉ khi nào sữa tươi đó thu được trên lănh thổ Việt Nam, sản phẩm sữa đó mới được coi là sữa Việt Nam. Nếu nhập khẩu nguyên liệu về, giá trị gia tăng tạo ra ở trong nước dưới 30% th́ doanh nghiệp nên ghi xuất xứ theo hiểu biết tốt nhất của ḿnh (mà Nghị định 43 đă quy định).
Nói về giá trị chất xám để tính hàm lượng giá trị gia tăng, ông Khánh thừa nhận rằng rất khó đánh giá, định lượng. “Những sản phẩm có chất xám mà có giá trị, th́ thông thường sẽ làm đăng kư bản quyền cho sản phẩm chứa chất xám đó. Sau khi có bản quyền và quyền sở hữu với bằng phát minh sáng chế đó, chúng ta mới tính giá trị của chất xám đó. C̣n nếu nói chất xám chung chung rất khó, anh có thể nói công thức phát minh ra loại sữa này rất tốn tiền nhưng điều ǵ chứng minh”, ông Khánh đặt ngược vấn đề.