Trang của lính - Page 20 - VietBF
 
 
 
News Library Technology Giải Trí Portals Tin Sốt Home

HOME

NEWS 24h

ZONE 1

ZONE 2

Phim Bộ

Phim Lẻ

Ca Nhạc

Breaking

Go Back   VietBF > Other News|Tin Khác > Member News | Tin thành viên


Reply
 
Thread Tools
Old 02-19-2019   #381
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,410 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default

Quote:
Originally Posted by Đôla Trăm View Post
Nếu bác không hỏi,th́ ḿnh cũng không t́m ra cách làm ,v́ hồi đó đến giờ ḿnh chưa làm chuyện này bao giờ . Ḿnh chỉ nghĩ nếu có mục lục th́ sẽ đỡ mắc công ,sẽ không có những post trùng . V́ như bác chẳng hạn ,post nhiều quá ,làm sao nhớ ḿnh đă post rồi hay chưa .
Có 1 chút xíu mất công ở đây là mục lục sẽ nằm ở đâu ?Nếu bây giờ ḿnh cho nó vào trang đầu ,th́ các bài post có thể sẽ không c̣n nằm ở vị trí như lúc đầu nữa .Cho nên sau khi để mục lục vô ,ḿnh phải coi lại đường link của bài post ,để sửa lại cho nó đúng .

Ḿnh mới làm 1 phần bác coi thử (trong đó có 2 bài bác post bị

[/LIST]
Cám ơn Bác rất nhiều , để cuối tuần ḿnh ṃ theo cái của bác và bỏ vào thêm . Ḿnh bỏ vào cái doccument trước sau đó copy và đưa vào trang đầu .

hôm qua ḿnh làm thử nó không work khi copy từ document qua . C̣n nếu gơ trực tiếp vào theo như bác làm vietbf nó work . Nhưng kẹt một cái ḿnh ṃ tới 10 phút để gơ t́m kiếm bài th́ nó lại đá ḿnh ra ngoài ... login trở lại mất hết

Cho nên ḿnh nghĩ cách này lẹ nhưng không hay như bác làm .

Thí dụ

Xuân đoàn tụ ...http://vietbf.com/forum/showthread.p...202507&page=35



PS : ḿnh delete bài trùng rồi
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI

Last edited by hoanglan22; 02-19-2019 at 04:24.
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
cha12 ba (02-21-2019), nangsom (02-23-2019)
Old 02-21-2019   #382
wonderful
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,285
Thanks: 17,998
Thanked 64,837 Times in 16,417 Posts
Mentioned: 125 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 57
wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11
wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11wonderful Reputation Uy Tín Level 11
Default

Chuyến xe buưt và khúc hát người lính mù

Sài g̣n, năm 1980. Lúc đó, cuộc “cách“ cái ”mạng” ngày 30 tháng tư đă năm năm. Nhưng xem ra không khí chiến tranh vẫn c̣n bao phủ. Đời sống càng ngày càng đi vào bế tắc. Hè đường đầy những người đi kinh tề mới trở về hoặc vượt biên mất nhà sinh sống.

Họ trở thành những người không nhà không hộ khẩu sống lây lất trong một thành phố đầy đe dọa. Những trại giam đầy áp người tù, tù chính trị và tù h́nh sự. Đêm đêm là thời gian của kiểm tra hộ khẩu, của bắt người, của đe dọa chập chờn ngoài cánh cửa. Với người dân thường c̣n như vậy. Huống chi những người tù bị gọi là “cải tạo” trở về. Đời sống lại càng bị đe dọa hơn biết bao nhiều. Tôi cũng bị ảnh hưởng trong thời thế ấy. Sống bất hợp pháp trong nhà của ḿnh và trong đầu óc lúc nào cũng chờ đợi một chuyến vượt biển ra đi. Cột đèn mà cũng muốn xuất ngoại, huống chi…

Lúc ấy, phương tiện giao thông đi lại hầu như chỉ có xe buưt ở trong thành phố và xe đ̣ đi xa ngoài thành phố. Ở bến xe, sinh hoạt thật nhộn nhịp. Như ở Xa Cảng Miền Tây lúc nào cũng đầy người mà số đông là những người chờ đợi một chuyến xe. Có người phải ngủ đêm chầu chực nhiều ngày. Nhưng nếu có tiền mua vé chợ đen, th́ được đi ngay. Bao nhiêu con buôn đi hàng ngày mà c̣n chở theo hàng hóa cồng kềnh mà đâu có chờ đợi ǵ đâu. C̣n xe buưt, th́ là chỗ hỗn tạp. Đi xe luôn phải coi chừng, ăn cắp móc túi như ranh. Chỉ một loáng thôi, dù đă giữ ǵn nhưng bị mất mát ngay một cách nhăn tiền. Thời mạt pháp, ai có thân th́ giữ…

Trên một chuyến xe, có hai người lính cũ, một mù một què, dắt díu nhau đi hát để kiếm miếng ăn độ nhật. Người què th́ dẫn đường cho người mù không có mắt để đi lần theo từng hàng ghế. Họ mặc bộ quần áo trận đă rách te tua bạc phếch nhưng vẫn c̣n phảng phất đâu đó h́nh ảnh của người lính thời xưa. Trên tay người lính mù là chiếc dàn mandoline cũ kỹ và anh hát những bản nhạc lính của cuộc chiến ngày cũ đă tàn nhưng c̣n nhiều hậu quả nhức nhối. Những bản nhạc đă vinh danh những anh hùng như “Huyền Sử Ca Một Người Mang Tên Quốc“ hoặc ”Người Ở Lại Charlie”. Khi hát tôi thấy dường như trong đôi mắt đen đục của người lính mù có chút nước mắt. Đi lần qua những hàng ghế, cũng có những người cho tiền, mặc dù họ không phải là những người khá giả trong xă hội này. Và nếu có một vài chú bộ đội phê b́nh nào là nhạc phản động, nào là nhạc vàng bị cấm th́ họ lại bào chữa bảo vệ ”Người ta tàn tật đi kiếm ăn mà c̣n làm khó!”…

Trong không khí đe dọa, họ vẫn cất tiếng hát. H́nh như, họ đang chiến đấu với tiếng hát của ḿnh. Cờ bay, cờ bay trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu…Hay : Anh không chết đâu anh người anh hùng mũ đỏ tên Đương… Hay Anh Quốc ơi từ nay trong gió ra khơi từ nay trên cánh mây trôi có hồn anh trong cơi ḷng tôi. Ơi những tiếng hát nhắc lại một thời binh lửa mà những người bây giờ đang hát đă hiến dâng cho đất nước những phần thân thể của ḿnh. Tự nhiên, tôi cảm thấy ḿnh xúc động quá. Những người lính thời trước chịu bao nhiêu điều thua thiệt mà bây giờ vẫn c̣n cất tiếng hát bất chấp đe dọa bất chấp công an để vẳng lên tâm sự của ḿnh. Và qua từng chuyến xe này qua chuyến xe khác, họ vẫn hát dù có khi bị ḅ vàng bắt hoặc đánh chửi. Những lời hát vẫn cất lên, mặc kệ bạo lực mặc kệ ngục tù.

Có một bài thơ, đă được viết từ cảm xúc đó. Bài thơ ”Chuyến xe bus và khúc hát người lính mù”

Trang lịch sử đă dầy thêm lớp bụi
Ngăn kéo đời vùi kín mộ phần riêng
Và lănh đạm chẳng c̣n người nhắc đến
Người trở về từ cuộc chiến lăng quên
Đôi mắt đục nh́n mỏi ṃn kiếp khác
Đắt d́u nhau khập khiễng chuyến xe đời
Người thua trận phần thịt xương bỏ lại
Trên ruộng đồng sầu quê mẹ ră rời
Chuyến xe vang lời ca nào năm cũ
Nhắc chặng đường binh lửa lúc xa xưa
Khói mịt mù đường chiến tranh bụi phủ
Nghe bàng hoàng giọt nắng hắt giữa trưa
Tiếng thê thiết gọi địa danh quen thuộc
Thưở dọc ngang mê mải ngọn cờ bay
Cuộc thánh chiến gió muộn phiền thổi ngược
Dấu giầy buồn c̣n vết giữa śnh lầy
Ôi tiếng hát nhớ những người gục ngă
Ngồi chuyến xe sao vang vọng nỗi niềm
Âm thanh cao xoáy tṛn tim gỗ đá
Thúc hồn người theo nhịp thở chưa quên
Ôi tiếng hát vinh danh đời lính chiến
Cho máu xương không uổng phí ngày mai
Có sương khói trong mắt đời cầu nguyện
Để lỡ làng không chĩu nặng bờ vai
Người thản nhiên những tia nh́n cú vọ
Đây tàn hơi c̣n sót lại một đời
Đây ngôn ngữ của Việt Nam đổ vỡ
Vẳng không gian chợt héo một nụ cười
Ta nghe rực cuối hồn trăm bó đuốc
Một đời hoài t́m kiếm ánh đèn soi…”

Bài thơ đó tôi viết ở Sài G̣n năm 1980. Bây giờ năm 2010, như vậy đă ba chục năm. Tôi đă rời thành phố thân yêu và cũng đă định cư ở Hoa Kỳ 30 năm. Hôm nay ngồi đọc tin về Đại Nhạc Hội tổ chức ở ngoài trời “Cám Ơn Anh” để gây quỹ cứu giúp thương phế binh của QLVNCH c̣n kẹt lại ở quê nhà bỗng dưngsinh ra nhiều hồi tưởng. Bài thơ dắt tôi trở về những ngày tháng năm năm 1975, khi Cộng sản đă chiếm được đất nước đă thẳng tay dă man đuổi tất cả thương bệnh binh trong quân y viện ra ngoài bất kể t́nh trạng nguy hiểm hay không. Nạn nhân nặng nề nhất ngay lập tức chịu ảnh hưởng thua trận chính là những người thương binh. Biết bao nhiêu là thảm cảnh xảy ra. Không hiểu họ đă xoay sở thế nào để sống c̣n trong hoàn cảnh cực kỳ bi đát ấy.

Chính Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn 4, trước khi quyết định tự sát đă đến thăm thương binh ở quân y viện Cần Thơ lần cuối v́ ông biết số phận đáng thương của những người lính này. Trước khi tử tiết, ông đă đến từng giường bệnh để an ủi những người lính đang điều trị tại đây. Ông đă năo ḷng khi trả lời một câu nói của người lính đang nằm viện : ”Thiếu Tướng đừng bỏ chúng em !”. “Không, Thiếu Tướng không bỏ đâu”. Phải, mặc dù đă đến lúc cờ tàn, ông không c̣n giúp đỡ ǵ được những anh hùng nhưng là nạn nhân của cuộc chiến nhưng tấm ḷng nhân hậu của ông đă là gương sáng cho đời sau.

Gần đây tôi có đọc một lá thư của một người lính bị tàn phế gửi cho một người bạn từ Việt Nam. Bức thư có nhiều đoạn làm tôi suy nghĩ:

“… Các anh ạ! Bây giờ th́ buồn quá! Các anh – những sĩ quan QLVNCH, những người anh của chúng tôi, những Đại Bàng, những Bắc Đẩu, Hắc Báo của ngày nào một thời tung hoành ngang dọc khắp các chiến trường… các anh đă có một thời quang vinh và một thời nhục nhă, giờ đây sau 30 năm vẫn lặng lẽ, các anh cũng nḥa đi h́nh ảnh của ngày xưa?

Các anh đă quên rồi sao? Quên rồi những chiến sĩ thuộc quyền của các anh đă nằm xuống vĩnh viễn trên đất mẹ thiêng liêng quên những đồng đội c̣n sống sót trong một tấm thân tật nguyền đau khổ, sống lây lất ở đầu đường xó chợ. Xin cảm ơn các anh về những đồng đô la mà các anh gửi về cho chúng tôi trong chương tŕnh giúp đỡ thương phế binh QLVNCH. Những đồng tiền đó dù có giúp cho chúng tôi trong một thời gian ngắn, dù có an ủi cho những đớn đau vật chất được đôi phần nhưng cũng không làm sao giúp chúng tôi quên nỗi nhục nhă mất nước! Chúng tôi cần ở các anh những chuyện khác, các anh có thấu hiểu cho chúng tôi hay không? Tôi đă hiểu v́ sao thằng khuân vác ở xóm trên, thằng vá xe đạp ở đầu đường, thằng chống nạng đi bán vé số ở cạnh nhà lại ghét cay ghét đắng đám Việt kiều. Họ là những người lính năm xưa, họ đă từng tuân lệnh những Đại Bàng, Thần Hổ xông pha nơi trận mạc. Họ đă từng chắt chiu từng đồng bạc nghĩa t́nh chung thủy gửi vào tận chốn tù đày thăm các anh. Họ đă từng uống với các anh chung rượu ân t́nh ngày đưa các anh lên phi cơ về vùng đất mới. Họ từng nuôi nấng một hoài vọng, một kỳ vọng ngày về vinh quang của QLVNCH.

Nhưng chính các anh đă làm họ oán ghét đến độ khinh bỉ khi các anh áo gấm về làng, chễnh chệ ngồi giữa nhà hàng khách sạn năm sao tung tiền ra để tỏ rơ một Việt Kiều yêu nước. Các anh có biết không? Từ trong sâu thẳm của cuộc đời, những người lính VNCH đang lê lết ở ngoài cửa nhà hàng mà các anh đang ăn uống vui chơi, đang nh́n các anh với ánh mắt hận thù. Hận thù lớn nhất của người lính là sự bội bạc, là sự phản bội! Không biết khi tôi kết tội các anh là phản bội có quá đáng hay không, nhưng các anh hăy tự suy nghĩ một chút sẽ thấy rơ hơn chúng tôi. Tôi không tin là tất cả các anh đă biến thái thành những tên Việt gian nhưng sự trở về như các anh trong hiện tại là đồng nghĩa với sự phản bội. Các Anh đă phản bội lại Tổ Quốc và rơ ràng nhất các anh đă phản bội lại chúng tôi…”

Đọc lá thư ấy, ḷng tôi như chùng xuống. Mỗi một người đếu có hoàn cảnh cũng như cách chọn lựa riêng nhưng tôi không ngờ rằng trong sâu thẳm của những người lính cũ c̣n có những nỗi niềm như thế. Sự phân cách quá sâu đậm, những con sông chia cách vẫn chưa thể lấp bằng được. Ngẫm suy lại, từ một khía cạnh nh́n ngắm khác nhau, đă có những khác biệt cho từng hành động…

Tới bây giờ, với những người ở hải ngoại đă không quên các anh, những thương phế binh VNCH. Dù có một số ít vô ư thức trở về nước vui chơi trên nỗi nhọc nhằn của dân tộc nhưng phần đông đều hiểu và tri ân những người lính đă mang xương máu và thân thễ hiến dâng cho đất nước. Ở đại nhạc hôi “Cám Ơn Anh”, hàng chục ngàn khán gỉa đi xem không phải chỉ là đơn thuần mua vui mà là biểu lộ tinh thần biết ơn đối với người lính VNCH. Dù số tiền thu được lên tới cả triệu đô-la nhưng cũng không đủ cho nhu cầu của hàng chục ngàn người lính tàn phế cần giúp đỡ. Nhưng của ít t́nh nhiều, điều đó mới là đáng quư. Cũng như, với sự tham dự của cả hơn một trăm ca nhạc nghệ sỹ, cùng với cả trăm người thiện nguyện bỏ công sức và cả tiền của cá nhân, th́ đó phải hiểu là một thành quả to lớn ở hải ngoại của những người dân luôn luôn tương trợ giúp đỡ nhau. Cám ơn anh! Những thương phế binh đă hiến dâng đời ḿnh cho đất nước…

Nguyễn Mạnh Trinh

Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	(((((((Ngui.jpg
Views:	0
Size:	77.3 KB
ID:	1346246   Click image for larger version

Name:	((((((((((ed.jpg
Views:	0
Size:	62.1 KB
ID:	1346482  

Last edited by hoanglan22; 02-25-2019 at 15:13.
wonderful_is_offline   Reply With Quote
The Following 3 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
cha12 ba (02-21-2019), hoanglan22 (02-21-2019), nangsom (02-23-2019)
Old 02-23-2019   #383
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,410 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default

Đă gỡ bỏ bài trùng hợp

PS : bài nào có trùng hơp đă post rồi xin báo dùm cho HL hay Thày ba để gỡ bỏ
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI

Last edited by cha12 ba; 02-24-2019 at 04:36.
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Old 02-25-2019   #384
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,410 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default

H́nh ảnh bài này h́nh số 2 Chuyến xe buưt và khúc hát người lính mù bác thiếu up load thump . Ḿnh bỏ vào lại cho bác

Mến
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
cha12 ba (02-25-2019), wonderful (02-25-2019)
Old 02-25-2019   #385
cha12 ba
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
cha12 ba's Avatar
 
Join Date: Jan 2013
Posts: 37,973
Thanks: 81,074
Thanked 56,785 Times in 24,152 Posts
Mentioned: 430 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 10758 Post(s)
Rep Power: 75
cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11
cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11cha12 ba Reputation Uy Tín Level 11
Default

Để trả lời một câu hỏi
Thơ Linh Phương

Em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời mai mốt anh về
Không bằng chiến trận Plei Me
Hay Đức Cơ – Đồng Xoài – B́nh Giă
Anh trở về hàng cây nghiêng ngả
Anh trở về ḥm gỗ cài hoa
Anh trở về bằng chiếc băng ca
Trên trực thăng sơn màu tang trắng
Mai trở về chiều hoang trốn nắng
Poncho buồn liệm kín hồn anh
Mai trở về bờ tóc em xanh
Vội vă chít khăn sô vĩnh biệt
Mai anh về em sầu thê thiết
Kỷ vật đây viên đạn màu đồng
Cho em làm kỷ niệm sang sông
Đời con gái một lần dang dở
Mai anh về trên đôi nạng gỗ
Bại tướng về làm gă cụt chân
Em ngại ngùng dạo phố mùa xuân
Bên người yêu tật nguyền chai đá
Th́ thôi hăy nh́n nhau xa lạ
Em nh́n anh – ánh mắt chưa quen
Anh nh́n em – anh sẽ cố quên
T́nh nghĩa cũ một lần trăng trối.


Bài thơ này đă được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát Kỷ vật cho em (năm 1970).
Nhà thơ Linh Phương sinh ra và lớn lên tại Sài G̣n, cha người Phong Điền, Thừa Thiên - Huế, mẹ người Cần Thơ. Ông làm thư kư toà soạn tuần san Tinh hoa nữ sinh năm 1967
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	iz-RKcGjcg30LTPpOULllA.1446952301.jpg
Views:	0
Size:	55.9 KB
ID:	1346488  
cha12 ba_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to cha12 ba For This Useful Post:
wonderful (02-25-2019)
Old 03-11-2019   #386
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,410 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Âm Thoại Viên Theo Chân Các Đại Bàng

Đầu Tháng 11 năm 1969, tôi Tr/Sĩ Nguyễn Thế Thụy và Tr/Sĩ Nguyễn Xuân Hương, nhận lệnh biệt phái mang máy PRC25 làm Âm thoại viên (ATV) cho Đại Bàng Sài G̣n, Đại Tá Tôn Thất Soạn, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 258/TQLC.

Nhận được lệnh hành quân, Hương và tôi mừng vui v́ sẽ thoát khỏi bốn bức tường cao, kín cổng của trại Lê Thánh Tôn, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (BTL/SĐTQLC) sau hơn 2 tháng hết trực ban thường vụ Đại Đội (TVĐĐ), rồi đến trực máy tại Trung Tâm Hành Quân/BTL, hạnh phúc và tuyệt vời hơn tất cả là được mang máy theo chân hành quân của Đại bàng Sài G̣n. Với chúng tôi phục vụ cho Quân Đội th́ việc mang máy làm ATV cho bất cứ ĐB, TQ, Sao Mai, hay gần gũi nhứt là các “Ông thầy Trung đội trưởng” th́ dù ông nào đi chăng nữa vẫn là nhiệm vụ của người lính ATV, tuy nhiên với ĐB Sài G̣n th́ có hơi mừng hơn một chút v́ ông là vị Chỉ huy khả kính, đức độ luôn luôn nhẹ nhàng từng lời nói, hành động, và Chỉ huy mà tất cả anh em chúng tôi ATV rất mong được biệt phái theo ông.

5 giờ sáng ngày N...đoàn xe của Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 258/TQLC xuất phát từ trại Lê Thánh Tôn để đến điểm tập trung là Phú Lâm, cửa ngơ vào Thành phố Saig̣n từ hướng Tây để cùng Tiểu Đoàn 4/TQLC và Tiểu Đoàn 6/TQLC lên đường hành quân.

Một đoàn xe GMC, Doge, Jeep dài ngút ngàn không nh́n thấy được chiếc cuối cùng, chở đầy những người lính Cọp Biển mà một lát nữa đây họ sẽ là những chàng trai xem cái chết nhẹ tựa như lông hồng, xông pha vào nơi hiểm nguy để giữ ǵn bờ cơi cho miền Nam được yên lành, tự do.

Tiếng nói, tiếng cười của những người lính vô tư xen lẫn với âm thanh nổ ầm ́ của đoàn quân xa vang dội trải dài trên Quốc lộ 1 như nóng ḷng mong sớm lăn bánh xông vào vùng chiến trận. Sáng sớm sương đêm vẫn c̣n bao phủ những cánh đồng lúa trải dài mênh mông khiến chúng tôi không biết đâu là chân trời, là bến bờ sẽ phải đến. Những ngừơi dân quê hiền lành sống trong những túp lều tranh bên đồng lúa đă thức dậy từ lúc nào, ông già bà cả cùng các em thiếu nhi th́ ra đứng sát bên vệ đường, c̣n các cô thôn nữ th́ e ấp sau cánh cửa, nhưng tất cả cùng mỉm cười đưa tay vẫy chào đoàn quân ra đi với hy vọng “Ḷng súng nhân đạo cứu người lầm than”, hẳn trong ḷng có cô ước mong được gặp lại ngừơi hùng, nhưng đâu có ai nghĩ rằng trong những chàng “Kinh Kha” của thời đại APOLO lên cung trăng kia, sẽ có người không hẹn ngày về.

Ngồi trên xe Jeep cùng với Sài G̣n ở ghế sau th́ có Đại Úy Nguyễn Đăng Ḥa (Sông Hương) Trưởng Ban 3/LĐ258, Tr/Sĩ 1 Tất cận vệ, và tôi ngồi bên phải sau lưng Sài G̣n trên máng che bánh xe “Wheel cover”. Tôi mang máy hệ thống nội bộ LĐ, c̣n Tr/Sĩ Hương ngồi bên trái mang máy hệ thống đơn vị bạn, chiếc xe Jeep của Sài G̣n chạy ngược, xuôi dọc theo đoàn xe đang đậu để kiểm soát chặt chẻ trước khi xuất phát sau khi có buổi họp ngắn gọn với các TĐT/TĐ4 và TĐ6 là Thiếu Tá Vơ Kỉnh và Thiếu Tá Đỗ Hũu Tùng.

Tại sao tôi lại kể rơ từng chi tiết như thế này ? Là v́ tôi muốn nhắc cho con cháu tôi sau này ít nhiều cũng hiểu thêm được nhiệm vụ của thế hệ đi trước, theo dơi được những bước hành quân năm xưa của của ông, cha... họ đă đi qua. Hơn nữa, những h́nh ảnh hành quân của “Đoàn Cọp Biển Oai Hùng” từ mũi Cà Mau ra tận địa đầu giới tuyến Gio Linh - Quảng Trị, Cao Nguyên xuống đồng bằng và trên mọi miền đất nước luôn luôn in sâu trong kư ức của tôi, nó như hơi thở, như thêm sức mạnh cho tôi vựơt qua những lúc khó khăn, những khi nản chí trên bước đường tỵ nạn. Đồng đội cũ chiến trừơng năm tháng xưa nay c̣n đâu, dù rằng đó là những tháng năm khổ cực, gian truân, hiểm nguy chết chóc của những người trai xả thân đi bảo vệ miền nam Tự Do cần được nhắc lại cho chính bản thân tôi đừng quên dĩ văng, đừng quên đồng đội c̣n nằm lại đâu đó trên rừng sâu núi thẳm và cũng để ước mong những ai từng được hưởng thanh b́nh năm xưa và nay ung dung nơi hải ngoại nên quan tâm đến những bộ xương khô, xương khô dưới các g̣ mối, xương khô phơi trên băi cát Thuận An, Non Nước và “xương khô” đang lê lết trên khắp mọi nẻo đường. Trên không, chiếc đầm già L19 đang bay lượn trên bầu trời xanh biếc để bao vùng, quan sát theo dơi an ninh cho đoàn quân quốc lộ dẫn đến bến phà Mỹ Thuận.

- Bắc B́nh Dương (LĐ 258) đây Thần Điểu 55 ( L19) gọi.

- Bắc B́nh Dương tôi nghe anh Thần Điểu 55

- Thần Điểu 55 đường lên động Thiên Thai tuyệt đẹp chào đón anh (Lộ tŕnh b́nh yên vô sự)

- Bắc B́nh Dương tôi nhận anh 5/5 .

Sau hơn 3 giờ đoàn quân xa chúng tôi đến bến phà Mỹ Thuận, phải hơn 3 giờ chiếc xe cuối cùng mới sang đến bờ sông bên kia, rồi thêm 2 giờ nửa để đến bến phà Cần Thơ. Trưa hôm đó, khoảng 3 giờ chiều, đoàn quân xa chở LĐ 258/TQLC mới hoàn toàn lăn bánh trên đừơng thành phố Cần Thơ. ĐB.Sài G̣n bảo tôi gọi các đơn vị dậm chân tại chỗ một thời gian trong lúc ĐB Sài G̣n đến BTL/QĐ4 họp và nhận chỉ thị .

Cần Thơ của tôi đây, Cần Thơ đi dể khó về, trai đi có vợ, gái thời có con, nơi chôn nhau cắt rốn của tôi từ khi lọt ḷng Mẹ, Mẹ tôi từng gian lao cực khổ nuôi thằng con trai từ lúc đỏ hỏn đề ấp ủ khi lớn lên con sẽ thành người con có hiếu, ngoan ngoăn vâng lời cha mẹ. Nhưng rồi v́ bản tính thích sôi nổi lại thêm một chút giận hờn, tôi đă giă từ mái ấm t́nh thương phụ mẫu để t́nh nguyện đầu quân vào Binh Chủng TQLC, và giờ đây tôi trở lại chốn xưa, chưa phải là về thăm song thân mà là “Hành quân qua thôn xóm”, phố cũ đường xưa.

Ngồi trên xe Jeep của ĐB Sài G̣n đi từ bến phà xe chạy thẳng đến bến xe Cần Thơ rồi quẹo trái nối tiếp trên con đường Nguyển Trăi, con đường đông người nhứt thời bấy giờ, bao nhiêu kỷ niệm của cái thời cắp sách đến trường như sống lại trong tôi. Trong quá khứ, một ngày 4 lần tôi đă đi và về trên con đường này, gần như quen từng gốc cây, sỏi đá, mặt lộ chỗ thấp, chỗ cao. Con đường này nếu đi ngược trở lại từ bến xe 500m quẹo trái vào con lộ có cái tên là Lộ 19, khoảng 300m là có ngôi nhà vách ván lộp ngói, có bà mẹ già mong mơi tin của thằng con không biết vâng lời.

Trong tôi bùng lên một ư nghĩ mà cũng là một ước muốn rất t́nh người là được Sài G̣n cho tôi 5 phút chạy nhanh về thăm mẹ. Nhưng rồi ngại ngùng chưa dám hỏi th́ đoàn xe tiếp tục lăn bánh, quanh tôi, những người lính Mũ Xanh cũng đang cách xa gia đ́nh, có khi c̣n xa c̣n thăm thẳm ngh́n trung hơn tôi nhiều, như có một thứ t́nh cảm đồng cam cộng khổ nào đó khiến tôi dứt khoát không mở lời xin với Saigon, “Con không khóc th́ sao mẹ biết mà cho bú”. Tuy không đựơc nắm tay mẹ mà khoe bộ quân phục rằn ri nhưng cũng đă nhủ thầm :

- “Mẹ nh́n nè, con đă là lính Cọp Biển, con về đây, con về đây với xóm làng của mẹ, phố phường của mẹ yên b́nh là có công của con đó nhé”

Khoảng 4 giờ chiều đoàn quân xa lăn bánh trực chỉ Quận lỵ Cái Răng, từ dốc cầu Cái Răng rẽ phải là hương lộ dẫn đến Quận Phong Điền, chiếc xe đầu vừa đặt bánh trên hương lộ th́ cơn mưa nặng hạt trút xuống, mưa dai, mưa kéo dài từ cầu Cái Răng đến tận cái cầu bắc ngang con sông Trẹm để vào thị trấn Phong Điền, đường dài khoảng chừng hơn 20 cây số, tất cả chúng tôi từ thầy đến tṛ đều ướt sũng, hay nói đúng hơn là cả LĐ từ đầu đến chân đều ướt .

Gần 6 giờ tối, lệnh xuống xe đóng quân đêm dọc theo xóm làng bên ḍng sông Trẹm, bên này sông nh́n sang bên kia sông là thành phố Phong Điền, tuy gần mà xa v́ có ông Quân cảnh 202 đứng tựa đầu cầu nên chẳng có một anh lính áo trận rằn ŕ nào sang được bên kia sông bằng lối đi qua cầu. Cách xa cái đầu cầu chỗ ông QC 202 đứng, không biết có chàng nào gọi đ̣ để sang sông th́ tôi không biết chứ tôi và Hương th́ đành chịu, mang máy cho ĐB. th́ an toàn hơn những anh lính tác chiến, nhưng đă là lính ATV mà đ̣i ham vui chắc là không có chúng tôi, làm ATV cho thầy, chức vụ của thầy càng cao th́ cái sự ham vui càng khó thực hiện.

Bộ chỉ huy LĐ 258/TQLC tạm đóng quân qua đêm tại một căn nhà có cái sân trước rộng thênh thang, trồng nhiều cây cao, cũng nhờ những cây cao đó anh em chúng tôi mắc vỏng làm giường. Vùng đất Phong Điền mà khắp cùng nơi nơi là đất sét, đất nhăo nhẹt khi mưa dầm, mưa dai làm ướt đất, rồi đất trở thành śnh bùn trơn trợt, mỗi khi chúng tôi bước chân đi là đất sét bám chặt vào đôi giày “Saut”, càng đi nhiều th́ càng mang theo nhiều đất sét lên cao hơn mắt cá, càng dẩm lên, khối bùn bám nhiều thêm tưởng chừng không thể nhấc chân lên được. Một điều mà tôi nhớ hoài, nhớ măi không quên là khi đi ngủ, trèo lên được chiếc vơng rồi sau khi an vị với đôi chân c̣n đông đưa mang theo đôi giày dính đất sét, nặng hơn 2 kư lô và khi tháo được đôi giày ra, bỏ nó xuống là cả một công tŕnh đáng được ghi nhớ chuyện lính “tháo giày” thời chiến so với chuyện thầy giáo tháo giầy, “mất dạy” thời XHCN.

Giấc ngủ đến thật nhanh, giấc ngủ thật ngon lành, giấc ngủ quên trời, quên đất sau một ngày di chuyển từ Sài G̣n, chịu nằng, dầm mưa xuống tận nơi đây vùng đất “Miệt Thứ” để tờ mờ sáng ngày hôm sau lệnh di chuyển bằng tàu Hải Quân vùng 4 sông ng̣i, di chuyển đến xă Đông Hưng thuộc U Minh Thượng.

Ngày 6 tháng 11 năm 1969, LĐ 258/TQLC gồm có TĐ 4 và TĐ6/TQLC, pháo đội 105 ly/TQLC, phối hợp cùng lực lượng đặc nhiệm thủy bộ 211 và không quân vùng 4 đă có 1 trận “kịch chiến” với tiểu đoàn Tây Đô Việt Cộng. Sau 2 ngày đêm chiến trận tiểu đoàn Tây Đô đă bị lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ xóa tên .

Sau 2 tháng hành quân vùng U Minh Thượng LĐ258/TQLC rời vùng, chia tay “miệt thứ” để xuất ngoại sang Campuchia, c̣n tôi th́ được đơn vị chọn và gửi đi học khóa xử dụng máy GRC106 quân đội Hoa Kỳ vừa cung cấp tại căn cứ Long B́nh.


***

Khoảng gần cuối năm 1972, tôi đang phục vụ cho BCH/LĐ.147/TQLC đóng quân tại cầu Mỹ Chánh, Quảng Trị, một buổi trưa trong căn lều cá nhân, khi tôi và thằng bạn thân Tr/sĩ 1 Anh tán gẩu chuyện trời trăng, mây nước, chuyện cá nhân, chuyện thiên hạ sự th́ có tiếng gọi ơi ới của anh chàng âm thoại viên Hải trên Trung tâm hành quân (TOC/LĐ.147) đi xuống t́m tôi :

- Anh Tiểu Cần ơi, có Tr/úy Hạnh từ BTL/SĐ/HQ t́m anh.

- Ổng ấy đâu ?

- Ổng đang ngồi trên trung tâm hành quân.

Tôi vội vàng đi theo Hải mà trong ḷng không khỏi hoang mang, ai vậy nè ? Bên Truyền Tin chắc chắn không có Tr/Úy Hạnh, c̣n ở BTL dĩ nhiên tôi không biết ai, càng thắc mắc càng không có câu trả lời. Vào đến TOC th́ gặp ngay ông Tr/Úy Hạnh, sau khi tôi dơ tay chào kính theo quân cách, ông đưa tay bắt và tự giới thiệu sau đó ông vừa nói cũng như vừa ra lệnh :

- Chú có 15 phút thu dọn quân dụng rồi ra băi đáp trực thăng gặp tôi ở đó.

- Dạ, tôi sẽ gặp Tr/U ngoài băi đáp.

Tôi vội vả chạy nhanh về lều cá nhân thu gom gia tài của lính, chỉ đủ thời gian nói lời chia tay với Tr/si 1 Anh rồi chạy ra chỗ hẹn. Ngồi trên trực thăng bay dọc theo quốc lộ trực chỉ Hương Điền mà ḷng tôi nửa lo, nửa thắc mắc, cuộc đời quân ngũ tất cả mọi thứ đều đến và đi không được quyền biết trước “Thi hành trước khiếu nại sau”, hơn nữa là lính Mũ Xanh phải nhanh, gọn, luôn luôn sẳn sàng trong mọi t́nh huống, chấp nhận thương đau mới xứng danh người lính Cọp Biển, đó là bài học đầu đời khi mới bước vào ngưởng cửa Trung tâm huấn luyện Yết Kiều Thủ Đức. Nghĩ vậy nên tôi t́m đựơc b́nh tĩnh, đi đâu, đến đâu rồi lính vẩn là lính, miễn sao là lính Mũ Xanh mà tôi yêu thích từ khi mới tập tểnh vào đời.

Tháng 4 năm 1975, thời gian qua nhanh, mới đó hơn 2 năm từ ngày rời khỏi LĐ147, chia tay Tr/sĩ 1 Anh tôi đă là một ATV cho Tư Lệnh SĐ/TQLC hơn 2 năm. Chiến trận càng ngày càng khốc liệt, vị Tư Lệnh hiện diện ngay tại địa đầu giới tuyến, “Văn pḥng BTL” cũng là “tư dinh”, là một căn hầm bao cát nhiều lớp, dù cho tiện nghi có khác bao nhiêu với hầm bao cát của lính nhưng nó vẫn là căn hầm ngoài tiền tuyến, không phải là “Dinh tư lệnh” ở hậu phương như các vị khác nên ông đến “thăm” các đơn vị trực thuộc mỗi ngày. Bất cứ nơi nào có dấu chân TL đến và đi thăm các đơn vị là có tôi.

Ngồi viết lại kư ức này tôi luôn luôn hănh diện là một người lính mẫu mực trong Quân Đội nói chung, một Cọp Biển Mũ Xanh nói riêng, đem tất cả tâm huyết cùng sự hiểu biết và kinh nghiệm để làm tṛn nhiệm vụ một ATV cho Tư Lệnh. Tôi đă hoàn thành nhiệm vụ giao phó bằng nghiệp vụ mà Quân Đội đă tốn không biết bao nhiêu cơm gạo đào tạo cho tôi.

Sáng 30 tháng 4 năm 1975, tất cả đă đi hết rồi, những người lính cận kề bên TL, người lo cơm nước, người phục vụ cá nhân, người cận vệ, chính tôi là người mang máy PRC25 theo trực thăng đưa họ về căn cứ Sóng Thần vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, bởi bên cạnh cấp Chỉ huy và đồng đội, những người Quân nhân ấy c̣n có gia đ́nh, c̣n vợ con nên các anh ấy đă được Tư Lệnh cho quyền tự quyết định. Ngoài Đại úy Nguyễn quang Đan, chánh văn pḥng TL, Trung úy Tạ Hạnh tùy viên, là 2 Sĩ quan luôn luôn sát cánh bên Ông th́ c̣n có tôi, người lính ATV độc thân nên quyết định chọn lựa đi theo Tư Lệnh dù không biết sẽ đi đâu ?

Sáng sớm hôm đó, tôi c̣n nhớ như in, Đại Dương, Đại Úy Nguyễn Quang Đan, chánh văn pḥng Tư Lệnh đưa cho tôi một số tiền và bảo :

- Tiểu Cần, chú đi chợ mua vài thức ăn để lo cơm cho TL hôm nay .

- Trời ....

Tôi kêu thầm nhưng vẫn đưa tay nhận số tiền và lên xe đi thẳng ra chợ Vũng Tàu. Trên đường đi tôi miên man thầm nghĩ và lo lắng, tôi chỉ là một ATV không hơn không kém, c̣n chuyện nấu nướng này có vẽ lạc tông xa tít rồi, đành rằng tôi cũng có nấu nướng nhưng tôi nấu cho tôi ăn, ngon hay dở cũng ḿnh tôi mà thôi, đàng này hôm nay tôi sẽ nấu cho TL ăn ! Chuyện khó tin nhưng có thật, một vị TL nghiêm nghị ít nói, hiếm cười, mà cả thời gian hơn 2 năm làm việc cận kề bên ông không được thân thiện lắm th́ thử hỏi làm sao tránh khỏi sự lo lắng trong đầu. Thôi th́ một liều hai củng phải liều “Lính mũ xanh trở ngại nào cũng vượt qua”, tất cả bằng một tấm ḷng. Tôi chọn mua một con gà cở trung, một củ gừng “Gà kho gừng” th́ tuyệt lắm đây, chỉ là ư nghĩ thôi, c̣n nấu có tuyệt hay không th́ hảy chờ xem. Tôi mua thêm vài trái dưa leo và một bó rau muống “Người Bắc thích rau muống” tôi nghĩ vậy.

10h 55 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, trong lúc đang trông nồi thịt gà kho gừng sắp sửa xong th́ Đại Dương từ văn pḥng TL chạy xuống gọi tôi :

- Tiểu Cần mang máy ra trực thăng ngay, Tổng Thống ban lệnh đầu hàng rồi.

- Nhận Đại Dương 5/5, tôi sẽ ra ngay.

Mang chiếc máy PRC25 lên lưng, khẩu tiểu liên Tiệp Khắc vào hông, tôi c̣n đang phân vân không biết mang cái ǵ giữa nồi thịt gà kho gừng hay chiếc ba lô cá nhân ? Trong lúc thời gian khẩn cấp, “Bên trọng, bên khinh” làm sao đây ?

- Quyết định ngay đi Tiểu Cần ơi, mi không có thời gian nữa...

Quư đọc giả có đóan được là tôi chọn món nào không ?

Thưa nồi thịt gà kho gừng, c̣n gia tài của một người lính tôi bỏ lại.

Thật t́nh mà nói, sau 37 năm ngồi đây ghi lại nhưng kư ức này tôi cũng không hiểu tại sao tôi chọn nồi thịt gà kho gừng, nếu bảo rằng tôi cố t́nh khoe cái tài nấu nướng của ḿnh th́ hoàn toàn sai v́ đó không phải là cái nghề chính, cuộc đời người lính chiếc ba lô là cả một gia tài. Trong lúc tranh sáng, tranh tối chỉ phản ứng theo sự nhạy cảm, có thể trong cái nhạy cảm đó bắt nguồn từ sáng sớm chuyện nấu cơm cho TL mà đây là lần đầu cũng là lần cuối nên tôi đả bỏ quên cái gia tài của tôi.

Khoảng 2 giờ trưa, tàu đang lênh đênh ngoài cửa biển Vũng Tàu, thấy TL ngồi bó gối vẻ mặt buồn hắt hiu hướng nh́n vào đất liền, tôi đến gần khẽ hỏi :

- Thưa Tư Lệnh có đói không ?

Tư Lệnh vẫn nh́n ra biển khơi, không thèm quay lại nh́n tôi mà vẫn im lặng, chúng tôi cùng buồn, tuy nỗi buồn của mội ngừơi có khác nhau. Tôi đứng lặng yên bên cạnh ông, không dám hé môi, ngước mắt lên trời xanh, những con chim hải âu đang đảo lên đảo xuống, tôi ước ǵ đó là những cánh chim sắt dội bom lên đầu địch... tôi nhận lệnh và truyền lệnh của Tư Lệnh đến các đơn vị... Tôi đang thả hồn về quá khứ.. chợt giật ḿnh dù tiếng hỏi như nghẹn trong cổ họng :

- Thế chú có ǵ ăn không ?

- Dạ, tôi có nồi thịt gà kho gừng, để tôi đi xin Hải Quân một ít cơm..


***

Đời tỵ nạn.

Trong căn lều dă chiến của trại tỵ nạn PENDLETON California, chỉ có Ông và tôi, hai người lính thất trận trong nghiệt ngă, phải làm kiếp lưu vong, một trung niên 43 tuổi, một thanh niên 25 tuổi nằm trên chiếc ghế bố, cách nhau chừng 3 Feet tuy gần mà xa, v́ kỷ luật của Quân Đội hăy c̣n trong máu, trong tim của tôi đâu dể ǵ một ngày, một buổi xóa tan tuy rằng hiện tại ông không c̣n là Tướng, là TL nữa, nhưng đối với tôi, nét hào quang một vị TL của một Binh chủng hào hùng bách chiến bách thắng mà không biết bao nhiêu xương máu của những Cọp Biển anh hùng dựng nên cái hào quang đó, cho nên dù ở đâu, thời gian nào tôi luôn luôn kính trọng như đang kính trọng các Anh, những chiến sĩ “Vị Quốc vong thân”. Ngày ngày thầy tṛ chúng tôi trao đổi với nhau không quá mười lời, Ông theo đuổi ư nghĩ có trong Ông, c̣n tôi theo đuổi ư nghĩ riêng tư của tôi. Với tôi, niềm thương nỗi nhớ quê hương, cha mẹ, người em trai, và thấm thía hơn nữa đồng đội, là chiến hữu của tôi ! Mới ngày nào c̣n chung bước quân hành nay kẻ một nơi người một ngả, nước mất nhà tan, đau ḷng hồn thiêng sông núi...

Trung tuần tháng 6 năm 1975, Tư Lệnh được xuất trại tỵ nạn v́ có người bảo lănh, Ông gọi tôi lại ngồi gần ông và ông nh́n thẳng vào mắt tôi :

- Chú có biết tại sao tôi luôn luôn nghiêm nghị và ít nói không ?

- Dạ thưa Tư Lệnh không.

- Sư Đoàn của chúng ta trên 15,000 quân nhân, với cương vị chỉ huy tôi phải làm như vậy mà thôi.

Ngưng đôi phút rồi Ông tiếp :

- Chứ thật ḷng tôi là con người có nhiều t́nh cảm sâu thẳm trong tim ít ai biết được.

- Cám ơn Tư Lệnh đă bộc lộ tâm t́nh với tôi dù thật ngắn gọn nhưng tôi đă hiểu t́nh cảm của “Ông thầy” từ lâu và sẽ hiểu nhiều thêm nữa măi măi về sau.

Ông đặt tay lên vai tôi bóp nhè nhè, đây là lần đầu tiên trong đời ATV bị Tư Lệnh chạm vào người, nhưng không phải trừng phạt mà là có ư truyền thêm can đảm cho tôi. Ngần ngừ giây lâu như có điều khó nói và cuối cùng Ông nhỏ nhẹ :

- Chút nữa đây, tôi sẻ rời khỏi nơi này, trước sau ǵ chúng ta cũng đều phải như thế, chú ở lại, anh sẽ cố gắng t́m người bảo trợ cho chú hay chính chú có người nhận bảo trợ th́ nhận ngay để ra khỏi những căn lều tù túng này càng sớm càng tốt và sau này sẽ t́m cách liên lạc với nhau.

- Thưa TL tôi sẽ cố gắng t́m cách liên lạc khi ổn định ngoài kia.

- Chú giữ chiếc đồng hồ này (TL cởi ra từ trên tay) tôi tặng chú để làm kỷ niệm t́nh thầy tṛ và 100 Dollars pḥng khi hữu sự.

- Cám ơn TL, kính chúc Thầy đi b́nh yên và đoàn tụ với gia đ́nh.

Trưa hôm đó TL đi rồi chỉ c̣n lại một ḿnh tôi trong căn liều dă chiến, cái cô đơn lạc lơng tưởng chừng như trên hành tinh này chỉ có một ḿnh tôi trơ trọi. Ngồi thừ trên chiếc ghế bố, hai tay áp lên thái dương, mắt mở lớn mà tôi chẳng trông thấy ǵ ngoài màn sương nước mắt và vải lều màu xám xịt. Trong lúc này tôi thấy nhớ đến các anh, những Đồng đội, Chiến hữu của tôi, v́ tôi đang lẻ loi một ḿnh.



Tiểu Cần Nguyển Thế Thụy
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
cha12 ba (03-12-2019)
Old 03-11-2019   #387
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,410 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Chuyện những con tàu : Trợ chiến hạm



Trong số những chiến hạm của Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa, Trợ chiến hạm có lẽ là loại chiến hạm có mặt từ ngày thành lập HQVNCH và tiếp tục hoạt động cho đến ngày VNCH kh6ng c̣n là một quốc gia..Trợ chiến hạm là tên Việt cho các tàu đổ bộ loại LSSL (Landing Ship Support Large) của HQ Hoa Kỳ...

Trong thời kỳ Thế chiến thứ 2, HQ Hoa Kỳ đă sử dụng nhiều loại chiến hạm đổ bộ gọi chung là Landing Ship như LST (Landing Ship Tank), LCT (Landing Craft Tank), LSD (Landing Ship Dock)..sau đó phát triển thêm những loại LCI (L) =Landing Craft Infantry (Large)..Những LCI này được gắn nhiều loại súng khác nhau từ phóng rocket, súng cối, đại liên, đại bác..Và sau cùng được bổ sung và phát triển hơn nữa thành một loại chiến hạm có cấu trúc lớn hơn, trang bị hỏa lực mạnh hơn để trở thành..đúng nghĩa là một chiến hạm LCS (L) với tên phụ là Mighty Midget

Khi Thế chiến 2 chấm dứt 123 chiếc LCS(L) ở trong t́nh trạng c̣n hoạt động được , sau đó do nhu cầu của cuộc Chiến tranh 'lạnh' giữa 2 khối Tự do và Cộng sản.., các LCS(L) được đưa ra tái sử dụng dưới kư danh mới LSSL và Hoa Kỳ đă viện trợ những chiến hạm này cho các quốc gia đồng minh như Pháp, Ư, Nhật, Đài Loan.. qua các Chương tŕnh quân viện như Mutual Defence Assistance, SecurityAssistance..


Trợ chiến hạm trong Hải Quân Pháp tại Việt Nam

Trong chiến tranh VN, Pháp đă nhận được quân viện từ Hoa Kỳ và Hải Quân Pháp cũng nhận một số chiên hạm để sử dụng tại chiến trường Đông dương.

Ngày 25 tháng7 năm 1950, 6 chiếc LSSL được bàn giao cho Pháp tại Puget Sound : đó là những chiếc LSSLs 2, 4, 9, 10, 28 và 80. Sau chuyến hải hành vượt Thái b́nh dương, các chiến hạm này cặp bến SàiG̣n vào ngày 17 tháng 9. Lúc đầu HQ Pháp đánh số các chiến hạm này từ 1 đến 6, nhưng sau đó (cuối 1951) đổi thành các số 9021 đến 9026 và đến 1953 dùng tên các vơ khi thời Trung cổ để đặt cho các chiến hạm này.(Trươc đó HQ Pháp đă có 3 chiếc LSSL, với 6 chiếc mới nhận HQ Pháp có được 9 LSSL để sử dụng trên chiến trường Đông dương)

Các chiến hạm của HQ Pháp mang những tên : Arbalete (9021), Arquebuse (9022), Hallebarde (9023), Javeline (9024), Pertuisane (9025), Rapière (9026) và vào 1953 thêm 3 chiếc được Hoa Kỳ chuyển cho Pháp là những chiếc Etendard, Oriflamme và Framée

Các LSSL được dùng để yểm trợ cho các Dinassault (Hải đoàn xung phong) trong các trận đánh chống lại Lực lượng Việt Minh tại những vùng sông rạch Bắc VN như các khu vực Sông Đáy, Sông Hồng. đồg thời hoạt động tuần pḥng ven biển từ Trung ra Bắc và trên sông Cửu Long tại miền Nam..

Trong thời gian từ 1952-1954, các chiến hạm này đă yểm trợ nhiều cuộc hành quân của Lực lượng Liên Hiệp Pháp

Sau khi Hiệp định Geneve được kư kết, phân chia VN thành 2 miền, Chiến hạm Pertuisane đă được dùng để chuyên chở người di cư từ Bắc vào Nam..

Trợ chiến hạm của Hải Quân VNCH :

- Các Trợ chiến hạm do Pháp chuyển giao :

Và khi vai tṛ của Pháp chấm dứt, họ đă chuyển một số chiến hạm trong đó có các LSSL cho Việt Nam.

Chiếc Arbalète là Trợ chiến hạm đầu tiên được chuyển giao cho HQVN vào ngày 12 tháng 10 năm 1954 tại Sài G̣n. HQVN đổi tên chiến hạm này thành Nỏ thần HQ 225. Với giai đoạn đầu của tổ chức HQVN chưa đủ nhân lực và c̣n thiếu kinh nghiệm để điều hành nên tuy được chinh thức xem là một chiến hạm của VN nhưng vẫn do Sỉ quan và thủy thủ đoàn (25 người) Pháp kiểm soát và điều hành, thêm vào đó là 30 nhân viên HQVN ..xem như 'học nghề'. Đến khoảng cuối năm 1955 Chiến hạm trở thành 'không thể hải hành' nên được..giải ngũ, chuyển cho Đài loan để phế thải, lấy những cơ phận c̣n dùng được..

Chiếc Arquebuse được chuyển giao vào 1955 và trở thành Linh Kiếm HQ 226.

Chiếc thứ ba được Pháp chuyển lại là chiếc Framée , chuyển vào tháng 3 năm 1956, và thay thế cho chiếc Arbalete phế thải, HQVN vẫn dùng tên Nỏ Thần HQ 225 đặt cho chiếc này.

Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh chống Cộng, các chiến hạm này theo Đ/Tá Đỗ Cẩm ghi lại : 'LSSL là những chiến hạm thật sự..chiến đấu đầu tiên mả HQVN tiếp nhận và là niềm hănh diện cho HQVN. Hỏa lực của chiến hạm thật ghê gơm nhất là khi yểm trợ tiếp cận mục tiêu. Chiến hạm gây kinh hoàng cho VC trong những năm 50-60, và giúp rất nhiều cho các cuộc hành quân tại các vùng sông ng̣i khi khả năng của KQVN và Pháo binh c̣n giới hạn..'

Các Trợ chiến hạm do Mỹ chuyển giao :

Ngoài 3 Trợ chiến hạm kể trên, Hoa Kỳ cũng chuyển giao cho HQVNCH 4 chiếc nữa để tổng số Trợ chiến hạm lên đến 7 chiếc. Từ 1957, HQVNCH đă dùng tên các chiến sĩ HQ hy sinh để đặt cho các Trợ chiến hạm :

HQ 225 Nguyễn văn Trụ

HQ 226 Lê trọng Đàm

HQ 227 Lê văn B́nh

HQ 228 Đoàn ngoc Tảng

HQ 229 Lưu Phú Thọ

HQ 230 Nguyễn ngọc Long

HQ 231 Nguyễn đức Bổng


Đặc tính chung của các Trợ chiến hạm :

Trọng tải trung b́nh 250 tân, tối đa 384 tấn

Kích thước : dài 158 ft, rộng 23.7 ft

Vận chuyển : 2 máy diesel, mỗi máy 1600 mă lực

Vận tốc trung b́nh 14 hải lư/giờ, tối đa 16.5 hải lư/giờ

Hỏa lực : 1 đại bác 76.2 mm, 4 khẩu 40 mm, 4 khẩu 20 mm và nhiều đại liên.

Thủy thủ đoàn : 60-70 người

Vai tṛ và Nhiệm vụ cũa Trợ chiến hạm :

Trong những năm 1950, các Trợ chiến hạm thuộc HQ Pháp hoạt động trên chiến trường Đông dương thường được giao những nhiệm vụ như tuần pḥng ven biển, và do hỏa lực trang bị trên tàu khá mạnh nên được dùng vào việc yễm trợ cho các cuộc hành quân thủy bộ. Những dinassaut của Pháp gồm một số chiến đỉnh nhỏ như LCT, LCM và LCVP gắn thêm nhiều đại liên, súng cối để tăng hỏa lực..Khi hành quân thường có thêm một LSIL để dùng làm nơi đặt Bộ Chỉ huy, và khi có mặt của Trợ chiến hạm th́ chiếc này sẽ giữ nhiệm vụ đó. Đài chỉ huy của Trợ chiến hạm khá cao, giúp tăng được tầm quan sát nhưng lại trở thành mục tiêu bị địch quân nhắm bắn..Các nhân viên quan sát trên pháo tháp dễ bị 'băn sẻ' Các Trợ chiến hạm rất hữu hiệu trong công tác bảo vệ các đoàn tàu thuyền cần di chuyển trên những ḍng sông bị CQ phục kích.. Lực lượng Việt Minh trong thời gian này chưa có nhựng vũ khí nặng để gây tổn hại cho các đoàn công-voa trên sông..Nguy hiểm nhất chỉ là ḿn..thả trôi hoặc đặt vào tàu để phá hoại..Một số cuộc đụng độ giữa Lực lượng VM và Pháp trên những vùng sông ng̣i dều đưa đến những tổn thất nặng cho VM như các trận phục kinh trên Sông Đáy (11-1952), trận giải vây Mao Khê (23-3-1951), chiến dịch Phủ Lư-Ninh B́nh (29-5-1951)

giữa các SĐ 308 và 304 VM và Dinassaut 3 của Pháp...

Trong những năm 1953-54, các Trợ chiến hạm Pháp đă đụng độ rất nhiều trận với VM..tại những khu vực Phát Diệm, Bùi chu, Thanh Hóa, Hưng Yên và những tiền đồn dọc Sông Hồng..

Sau Hiệp định Geneve, HQ VN tiếp nhận 2 Trợ chiến hạm từ người Pháp và tiếp tục sử dụng các tàu này..theo kiễu HQ Pháp, nghĩa là tuần ven biển, sông rạch và yễm trợ hành quân thủy bộ..

Từ 5-19 tháng 6, 1955, các giang đoàn xung phong 22, 23 và 25 được sử dụng trong các cuộc hành quân dẹp các lực lượng quân đội Giáo phái Ḥa Hảo trong khu vực Cần Thơ, Long Xuyên. Bộ Chỉ huy chiến dịch được đặt trên Chiến hạm Nỏ Thần..

Về nhiệm vụ tuần duyên, từ tháng 12-55, Nỏ Thần được giao nhiệm vụ tuần tra ven biển từ Vũng Tàu đến Mũi Băi Bùng..

Vai tṛ yểm trợ hỏa lực và tiếp vận cho các tiền đồn xa xôi nơi vùng sông rạch giảm dần khi Không Quân VNCH lớn mạnh, các phi vụ Skyraider và trực thăng vơ trang được sử dụng nhiều hơn..

Trong những tháng đầu năm 1970, các Trợ chiến hạm trỡ thành lực lượng chính bảo vệ các đoàn tàu tiếp tế cho Kampuchea trên thủy lộ Pnnompenh-NeakLuong. Chuyến tiếp vận sau cùng được thực hiện vào ngày 30 tháng Giêng 1975

'Dự án Hải sử' (Vũ hữu San) đă viết về Sự hữu hiệu của Trợ chiến hạm và Giang pháo hạm như sau :

' Trong ṿng 25 năm chiến tranh, loại Trợ chiến hạm LSSL là loại chiến hạm có hỏa lực mạnh nhất trong sông ng̣i VN, kế đó là các Giang phao hạm. Khi hành quân phối hợp với lực lượng bạn, hai loại tàu này thường được dùng như soái hạm lưu động cho CHT hành quân. Với hỏa lực hùng hậu, chiến hạm yểm trợ hải pháo rất đắc lực khi tiến quân..

Tuy vậy đôi khi tại vùng đồng bằng sông Cữu Long, các tàu này đă được sử dụng vào các công tác tuần tiễu sông ng̣i.Lâu lâu cấp chỉ huy c̣n dùng hai loại tàu này thường trực để yểm trợ cho lực lượng diện địa ven sông. Trong công tác này chiến hạm thường đơn độc nên dễ dàng bị địch phục kích khi giang hành và cả khi neo lại nghỉ ngơi..'

Hạm đội HQVNCH được tổ chức thành 3 Hải đội (Tuần duyên, Chuyển vận và Tuần dương). Giang pháo hạm thuộc Hải đội 1, tuần duyên (gồm cả các PGM=Tuần duyên hạm và LSIL=Giang pháo hạm)

Victor Croizant (Đại tá TQLC Hoa Kỳ) trong 'The Brown Water Navy' đă viết một bài'tiêu biểu' về hoạt động của Giang đoản Xung phong 23 trong trận Hàm Luông 4 tháng 10 1965 như sau : 'Chiến hạm HQ 226 được giao nhiệm vụ tuần giang trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong các tháng 9 và 10, 1965. Các báo cáo từ Cố vấn Mỹ ghi nhận chiến hạm đă yểm trợ cho 3 công tác trục vớt các tiểu đỉnh bị ch́m, yểm trợ hải pháo cho 9 cuộc hành quân, cho 2 chuyến tiếp liệu và tuần tra đơn độc 9 chuyến.Hoạt động đặc biệt hữu hiệu nhất của HQ 226 là yẩm trợ cuộc hành quân của Giang đoàn 23 trong cuộc đổ quân cho TĐ 41 BĐQ tại Hàm Luông, Kiến Ḥa ngày 4 và 5 tháng 10. Trong trận này 21 chiến sĩ BĐQ và HQ hy sinh cùng 57 bị thương.. Cuộc hành quân bắt đầu từ 7 giờ sáng, xuất phát tại Bến Tre. BĐQ dùng tàu xuôi ḍng để đổ bộ vào khu vực t́m và diệt một lực lượng VC đă bao vây tấn công một tiền đồn và xă ấp đêm hôm trước. Thời tiết không cho phép dùng trực thăng để đổ quân như dự trù.Lực lượng giang đoàn tiên công lúc 11 giờ sáng, hộ tống bởi một phi cơ quan sát của LQ HK. Phi cơ không ghi nhận được hoạt động của CQ. Lúc 12 giờ , HQ 226 dẫn đầu khởi pháo vào một mục tiêu nghi ngờ, lập tức VC nổ súng dự dội vào đoàn tàu từ bờ bên phải và vào HQ 226 từ bờ trái.Hai LCM chở quân trúng đạn, một ở t́nh trạng gần ch́m phải kéo : cả 2 ủi băi vào bờ trái, BĐQ đổ bộ và tạo một ṿng đai pḥng thủ, các tiểu đỉnh tạm rút chỉ HQ 226 trụ lại để yẩm trợ cho toán BĐQ và phi cơ được gọi đến để oanh kích..Các LCM trở lại đổ thêm quân tiếp viện. HQ 226 ở lại chiến trường suốt đêm..Sáng 5/10, lực lượng VNCH thanh toán chiến trường..'



Lược sử và hoạt dộng của các Trợ chiến hạm



HQ 225 Nguyễn văn Trụ

Chiến hạm được khởi đóng ngày 27 tháng Giêng 1945 tại Cơ xưởng Commercial Iron Works, Portland (Oregon)

Hạ thủy ngày 7 tháng 2, 1945

Nhập HQHK ngày 5 tháng 3, 1945 và nhận kư hiệu USS LCS(L)(3)-105 sử dụng cho Lực lượng trừ bị.

Danh hiệu đổi thành Landing Ship Support Large USS LSSL-105 vào ngày 28 tháng 2, 1949.

Chuyển cho Lực lượng Tuần duyên Ryukyu ngày 12-03-1952

Chuyển cho HQ Pháp ngày 28 tháng 12, 1953 , được đặt tên là RFS Framée.

Chuyển cho HQ VNCH năm 1957, cũng đặt tên là Nỏ Thần (HQ 225) , sau đó năm 1970 đổi tên thành Nguyễn văn Trụ.

(HQ Trung úy Nguyễn văn Trụ, Khóa 2 HQ/VN hy sinh trong một trận đánh thuộc Chiến dịch Nguyễn Huệ tăi Long xuyên vào tháng 12/1955)

Bị đặc công CS đánh ch́m ngày 30 tháng 7 năm 1970

Vài hoạt động của HQ 225 :

(Danh số HQ 225 đă được dùng cho 2 LSSL,chiếc thứ nhất tiền thân là Arbalète..Hoạt động của Nỏ thần (LSSL-2) được tóm lược trong phần trên)

Từ 1956-57, HQ 225 thứ nh́ thay cho chiếc thứ nhất phế thài, vẫn được đặt tên là Nỏ thần, nhận những nhiệm vụ như tuần tra trên sông Cửu Long và dọc duyên hải Nam VN từ Vũng Tàu đến Hà Tiên, bảo vệ các thuyền đánh cá VN trong khu vực Vịnh Thái lan chống các vi phạm của Cambodia.

16 tháng 2-1969 HQ 225 dùng hải pháo giúp đẩy lui cuộc tấn công của VC tại Vĩnh Long và 28 tháng 11 cũng đảy lui cuộc phục kích của VC tại Tam Giang, Đầm dơi.

Từ 1970, HQ 225 được đặt dưới sự chỉ huy của Hải đội tại Căn cứ Năm Căn..

Rạng sáng ngày 30 tháng 7 năm 1970, HQ 225 thả neo, cột giây tại Căn cứ Năm Căn, nơi cửa sông Bồ Đề, và bị đặt ḿn phá hoại, phát nổ lúc 2 giờ sáng. Tàu ch́m nhanh xuống đáy nươc..Hạm trưỡng Nguyễn Ngọc Quyền kể lại : ' Tôi cho lệnh đào thoát, bỏ tàu khi nước ngập 1/3 tàu trong vài phút; một số thủy thủ không thoát kịp v́ lo thu nhặt vật dụng cá nhân' Công cuộc tiếp cứu tuy diễn ra nhanh chóng, tuy nhiên 17 nhân viên thũy thủ đoàn bị mất tích và được xem là hy sinh theo tàu..Do nươc chảy xiết và khu vực kém an toàn nên việc trục vớt chiến hạm không được thực hiện..Điều tra sau đó t́m thấy những sợi dây nylông dài cột theo dây neo và tàu bị ch́m do đặc công 'thủy' VC gài ḿn..

Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng trong 'Năm Căn, vùng xôi đậu' đă kể lại vụ ch́m tàu như sau : 'Đêm thứ hai của một chuyến nghỉ bến sau đó, giữa lúc Hải và Trung sĩ Hoan đang đội mưa đi từ Câu lạc bộ về pḥng, th́ bỗng giật ḿnh v́ hai tiếng nổ liên tiếp kinh hồn xen lẫn với những tiếng sấm chớp ầm ầm của cơn mưa miền nhiệt đới, cả hai chạy vội ra cầu tầu. .Cảnh náo loạn hăi hùng đang diễn ra trước măt mọi người : chiếc LSSL, nằm giữa gịng sông, nghiêng hẵn phía tả hạm; trên boong chinh nhân viên nhôn nháo..cố kiếm cách nhảy xuống..Chiếc PCF trực ứng chiến rà đến. Hải và Hoan cũng vội vă nhảy xuông PCF của ḿnh, gỡ dây, nổ máy phóng ra chiến hạm, chỉ đủ th́ giờ cùng chiếc PCF trực, đón được một số nhân viên và vị hạm trưởng..vẫn c̣n ngơ ngác chưa hoàn hồn v́ chấn động của tiếng nổ..'

HQ 226 Lê trọng Đàm

Khởi đóng ngày 5 tháng 7, 1944 tại George Lawley&Sons Corp. Neponset, MA.

Hạ thủy : 15 tháng 7, 1944

Nhập HQHK ngày 11 tháng 8 1944 , nhận kư hiệu USS LCS(L)(3)-4

Hoạt động trong khu vực Thái b́nh dương trong Thế chiến 2

Đ́nh động sau thế chiến, lưu giữ tại LL Trừ bị (Columbia Reserve Group, Astoria OR

Nhận kư hiệu mới USS LSSL-4 ngày 28 tháng 2, 1949.

Chuyển cho HQ Pháp ngày 15-8-1950 đổi thành RFS LSSL-2 và sau đó thành RFS Arquebuse (L-9022)

Chuyển cho HQVN năm 1955, đổi tên là RVNS Linh Kiếm (HQ-226) và sau đó đổi thành Lê trọng Đàm

Bị đánh ch́m ngày 3 tháng 10, 1970

Vài hoạt động :

HQ 226 Linh Kiếm được giao nhiệm vụ thuộc Hải lực HQVN. Một trong những nhiệm vụ của Lực lượng này là tuần pḥng trên sông và yểm trợ cho các Giang đoàn xung phong trong các cuộc hành quân..

Vai tṛ yểm trợ của Trợ chiến hạm được chứng minh cụ thể trong trận Hàm Luông (4-5 tháng 10, 1965) : Trong trận này Giang đoàn Xung phong 23 được giao nhiệm vụ đổ bộ TĐ 41 BĐQ gần khu vực Bến Tre nơi Sông Hàm Luông (Kiến Ḥa) để t́m và diệt một TĐ Công quân hoạt động tại đây. Chiến hạm Linh Kiếm đă được sử dụng làm hỏa lực yểm trợ, giúp đẩy lui lực lượng Cộng quân đang phục kích đoàn tàu từ cả hai ven bờ..

HQ 226 cũng nhận nhiệm vụ tuần tra trên sông Sài g̣n bảo vệ tàu thuyền di chuyển qua khu vực Rừng sát..

Trong năm 1968, HQ 226 Linh Kiếm luôn luôn 'bận rộn' .Hạm trưởng Lê văn Rạng điều khiển chiến hạm tham dự nhiều cuộc hành quân trong khu vực sông Cửu Long, kể cả yểm trợ bảo vệ các tỉnh, thị xă trong Tết Mậu Thân. Từ 3 đến 5 tháng 2, HQ 226 ngăn chặn các cuộc tấn công của VC vào Vĩnh Long từ ngă sông Cổ Chiên. Riêng trong thời gian từ cuối tháng Giêng đến đầu tháng 3/68 Chiến hạm đă yểm trợ hỏa lực trong 36 vụ đụng độ với CQ.. do những chiến công này Đ/úy Rạng đă được ân thưỡng huy chương Bronze Star with Combat V của TT HK.

Ngày 6 tháng 5, 1968, HQ 226 bị VC phục kích trên sông Cổ Chiên từ cả 2 bên bờ..Chiến hạm phản kích diệt nhiều VC để chỉ bị tổn thất nhẹ với 5 chiến sĩ bị thương.

Ngày 3 tháng 10 năm 1970, HQ 226 trong khi đang thả neo trên sông Cổ chiên, đă bị đặc công thủy VC bơi lặn, thả trôi xuôi gịng từ Cồn Giai, đặt ḿn vào giây neo. Vụ nổ gây một lổ hỏng lơn nơi mủi tàu, gây tử thương cho 2 thủy thủ và làm tảu ch́m sâu dưới 8m..Chiến hạm bị hủy bỏ và không được trục vớt..



HQ 227 Lê văn B́nh

Khởi đóng ngày 10 tháng 8, 1944 tại George Lawley & Sons Corp, Neponset, MA

Hạ thủy : 19 tháng 8, 1944

Nhập HQ HK ngày 10 -9- 1944, kư hiệu USS LCS(L)(3)-10 sau đó đưa vào đ́nh động trong Lực lượng HQ Trừ bị thuộc Hạm đội Thái b́nh dương. Kư hiệu được đổi thành USS LSSL-10 ngày 28 tháng 2, 1949.

Đưa ra tái hoạt động và chuyển (cho mượn) cho HQ Pháp ngày 15 tháng 8 năm 1950, đặt tên là RFS Javeline (L-9024)

Pháp trả lại HK vào năm 1955

HK chuyển cho Nhật ngày 7 tháng 5, 1956, đặt tên là JSDFS Hinageshi.

Nhật trả lại HK và HK chuyển cho HQVN ngày 15 tháng 9,1956 và trở thành HQ-227 Lê văn B́nh.

HQ Trung úy Lê văn B́nh, Khóa 10 HQ/Nha trang thuộc GĐ 28 XP, tử trận tại Cà Mau năm 1965 khi chiếc LCM 6 chỡ Pháo binh đi hành quân bị trúng ḿn.

Bị ch́m ngày 2 tháng 10, 1966

Vài hoạt động :

Vào lúc 2 giờ 31 sáng ngày 2 tháng 10, 1966 : HQ 227 thả neo ở khoảng 800 m trên sông, phia Tây Căn cứ Giang đoàn27 ở Mỹ Tho. Chiến hạm đă bị đặc công VC (giả dạng binh sĩ Điạ phương quân đi trên tàu) đặt ḿn phá hoại. 2 quả ḿn phát nổ gây tàu ch́m, nhưng v́ mực nước không sâu nên phần boong c̣n trên mặt nước. Nhân viên cơ khí đă dùng bơm để tháo nước, vá tạm lỗ thủng để đưa tàu lên mặt nước. HQ Trung tá Trần văn Triết, Tư lệnh GĐ 27 đă trực tiếp chỉ huy cuộc trục vớt, sau đó HQ 227 được LCM 8 kéo về Sai Gon để sửa chữa, nhưng v́ tổn thất quá nặng nên đành bị phế thải..


HQ 228 Đoàn Ngọc Tảng

Khởi đóng 7-7-1944 tại George Lawley & Sons corp

Hạ thủy : 17-8-1944

Gia nhập HQ HK 6 tháng 9, 1944. Kư hiệu USS LCS(L)(3)-9

Tham dự các cuộc hành quân trong vùng biển Thái b́nh Dương, sau đó được đ́nh động và tồn trữ trong LL Trừ bị.

Kư hiệu đổi thành USS LSSL-9 ngày 28-9-1949

Chuyẻn cho HQ Pháp ngày 15-8-1950, thành RFS Hallebarde (L-9023)

Trả lại HK năm 1955

HK chuyển cho Nhật (7-5-56) đổi tên thành JFDSF Asagao

Nhật trả lại HK để HK chuyển cho HQVN (15-9-56) để trở thành HQ 228 Đoàn ngọc Tảng

Di tản đến Philippines (4-1975), HQ Phi đổi tên thành RPS La-Union (LF-50), dùng lấy cơ phận và phế thải vào năm 1980.

Vài hoạt động :

- 4 tháng 6-1967 , HQ 228 giúp đẩy lui cuộc tấn công của một đại đội VC vào đồn Đức Mỷ, khoảng 26 km phia Nam Vĩnh Long, và ngày 17 tháng 6 , HQ 228 cùng 2 PBR giúp giữ vững tiền đồn Lo Xe bị 2 ĐĐ VC bao vây..

- 25 tháng 2-1970



HQ 229 Lưu Phú Thọ

Khởi đóng ngày 6 tháng Giêng,1945 tại Commercial Iron Works, Portland Oregon

Hạ thủy 27-1-45

Nhập HQ HK 13-2-45, kư hiệu USS LCS(L)(3)-101

Đ́nh động và tồn trữ trong LL Trừ bị Astoria OR

Đổi kư hiệu (28-2-49) : USS LSSL-101

Chuyển cho HQ Nhật (30-4-53) thành JDS Tsutsuji

Nhật trả lại HK để chuyển cho HQ VN (28-4-56) trở thành HQ 229 Lưu Phú Thọ (Khóa 10 HQ/NT)

Di tản sang Philippines (4-75), phế thải để lấy cơ phận rời.

Vài hoạt động :

HQ 229 ngoài những nhiệm vụ yểm trợ hành quân, lịch sử chiến hạm c̣n có thêm một 'sự kiện' đặc biệt : Tháng 12, 1966 Hạm trưởng HQ 229..nhận được yêu cầu của một Quận trưỏng (băn thân của Hạm trưởng) chở tiếp liệu đến cho một tiền đồn trong vùng xa xôi nơi VC bao vây cắt cả đường bộ lẫn đường sông. Đây không phải là nhiệm vụ của chiến hạm..Trong chuyến tiếp tế này tàu c̣n chở thêm 1 ḅ đực và 4 ḅ cái để binh sĩ tiền đồn nuôi thêm, làm thực phẩm dự trữ. Chuyến đi gặp trở ngại do sóng gió nên 2 con ḅ sút giây, chạy loạn trong tầu và bị..gẫy chân ; tuy cả 5 con đều đến được tiền đồn nhưng tin bị lộ nên Hạm trưỡng bị truy tố ra Ṭa QS về tội danh 'chở súc vật trái phép'. Hạm trưỡng sau đó được miễn tố nhưng vẫn bị..phạt..
HQ 230 Nguyễn ngọc Long

Khởi đóng 18-12-44 tại Commercial Iron Works

Hạ thủy 6-1- 45

Nhập HQ HK 24-1-45 kư hiệu USS LCS(L)(3)-96

Hoạt động tại vùng Thài b́nh dương

Đ́nh đông và đổi kư hiệu (28-2-49) thành USS LSSL-96

Chuyển cho Nhật (30-6-53) thành JDS Shobu

Trả lại HK để chuyển cho VN ngày 28-4-65 trở thành HQ 230 Nguyễn ngọc Long

Di tản đến Philippines (4-75) HQ Phi đổi thành RPS Sulu (LF-49)

HQ 231 Nguyễn đức Bổng

Khởi đóng 5-12-44 tại George Lawley & Sons Corp.

Hạ thủy 13-12-44

Nhập HQ HK 31-12-44 kư hiệu USS LCS(L)(3)-129

Hoạt động trong khu vực Viễn Đông Thái b́nh dương cho đến đầu năm 1946 để đ́nh động và xếp vào LL Trừ bị

Đổi kư hiệu thành USS LSSL-129 (28-2-49)

Chuyển cho Nhật (30-6-53) thành JDS Botan

Trả lại HK 28-4-65 và HK chuyển cho HQVN ngày 19-6-66 để trở thành HQ 231 Nguyễn đức Bổng

(HQ Trung úy Nguyễn Đức Bổng , Khóa 10 HQ/NT hy sinh năm 1965 tại Băi Ngao, Kiến Ḥa)

Di tản sang Phi (4-75) trở thành BRF Camarines Sur (LF-48)



Chuyến hải hành sau cùng của các Trợ chiến hạm :

Trong tổng số 7 Trợ chiến hạm của HQVNCH, ngoài 3 chiếc bị ch́m do đặc công VC đặt ḿn, 4 chiếc c̣n lại đều di tản được sang Philippines.

HQ 228 :

Thàng 4-1975 : HQ 228 Đoàn Ngọc Tảng do HQ Thiếu tá Nguyễn hoàng Be làm hạm trưởng được điều động về công tác tại Vùng 4 Sông ng̣i với nhiệm vụ chính yếu là yểm trợ Hạm đội 21. Chiến hạm thường xuyên hoạt động tại Căn cứ HQ Cần Thơ.

HQ 228 tách bến Cần Thơ lúc 00 giờ 20 ngày 30 tháng 4-75 mang theo Phó Đề đốc Đặng cao Thăng, Tư lệnh Hạm đội 21 cùng Bộ Tham mưu, trên chiến hạm c̣n có Chuẩn tướng Chương Dzềnh Quay, Tham mưu trưởng Quân đoàn 4. Chiến hạm trên đường ra biển dù 'trên máy PRC-46 của tàu vẫn phát lời kêu gọi cũa Tướng Nguyễn Khoa Nam..các quân nhân không được tự ư rời nhiệm sở..' Chiến hạm..giữ im lặng vô tuyến trên suốt thủy lộ đường ra biển. HQ 228 đến điểm tập trung ngoài khơi Côn Sơn và theo đoàn chiến hạm HQVN hải hành đến Subic Bay.

HQ 228 đến Phi mang theo 149 người trong đó có 37 nhân viên thủy thủ đoàn..

HQ 229 :

HQ 229 Lưu Phú Thọ do HQ Th/tá Vương thế Tuấn lảm Hạm trưởng rởi VN theo Cửa Tiểu đến Subic Bay ..với 37 người gồm 34 thủy thủ và..3 tỵ nạn (?)

HQ 230 :

Trong những ngày cuối cùng của VNCH, HQ 230 được Bộ tư lệnh Hạm đội biệt phái cho Bộ Tư lệnh Vùng 4 Duyên Hải.cùng 3 chiến hạm khác là các Giang pháo hạm HQ 330 và 331, Tuần duyên hạm HQ 602.

Tư lệnh V4ZH là Đại Tá Nguyễn văn Thiện

Hạm trưởng HQ 230 là Thiếu tá Nguyễn Nguyên

Cuộc di tản ngày 30 tháng 4 của Vùng 4ZH đă được ghi nhận với nhiều điểm trái ngược của những người trong cuộc..

- Đại Tá Thiện trong bài hồi kư '4 Chiến hạm di tản từ đảo Phú Quôc ' (Trang Lưu niệm Khóa 7 Đệ Nhất Thiên Xứng) ghi lại :

Ông đă họp với các Hạm trưởng của 4 Chiến hạm để định điểm hẹn là ngoải khơi cách Ḥn Thơm chừng một hải lư về phía Tây. Ông đă dùng LCM 8 để cùng gia đ́nh rời Bộ Tư lệnh sau khi họp tuyên bố giải tán Vùng 4ZH, đến HQ 230 và di chuyển ngay về Poulo Panjiang. Ông cho biết là 8 giờ sáng ngày 1 tháng 5, một số gần 40 PCF từ Hải đội 5 Duyên Pḥng (Năm Căn) và HĐ 4 DP do ḍ t́m tần số trên máy PRC-25 nghe được sự liên lạc giựa 4 chiến hạm nên đến với đoàn tàu ? và được vớt lên các chiến hạm di tản..Đoàn tảu 4 chiếc do HQ 230 dẫn đầu, theo sau là HQ 330 gịng theo HQ 331 (dùng làm chiến hạm dự trữ) và sau cùng là HQ 602.. hải hành về hướng Singapore..

- Trong bài 'Trong cảnh sông c̣n' phổ biến trên nhiều website hải ngoại và trong tập sách 'Một thuở làm trùm' tác giả Nguyễn Tấn Hưng, Trưởng Pḥng 2 Bộ Tư lệnh V4DZ đă ghi lại nhiều điều khác biệt hơn :

..' Trợ chiến hạm HQ 230 vừa kéo neo, chúng tôi chạy ra vừa kịp lúc. Cho ghe rà lại bên hông định cặp..nhưng bị bắn đuổi..Tôi nh́n lên đài chỉ huy thấy ông hạm trưởng Nguyễn Nguyên..(mơi vài ngày qua dă đich thân lên xin tôi bản đồ vùng TBD)..Tôi tin tưởng ở ḿnh, đưa tay vẫy rồi kêu to : Commandant..cho tụi tôi lên vơi..nhưng bị bắn đuổi..'

-Tác giả Nguyễn Hữu Duyệt trên HQ 330 ghi lại trong' Vùng 4 DH những ngày cuối' (Lướt sóng 40) : 'Sau khi tách bến HQ 330 chạy ṿng quanh phia Nam Phú Quốc để phối trí và đến điểm hẹn là Ḥn Khoai, vớt được khoảng 400 người..HQ 331 bị cháy cả 2 máy, bất khiển dụng , trên tàu có khoăng 300 người nên được HQ 330 kéo theo, dự trù sẽ chuyển số người này khi gặp được một Dương vận hạm...HQ 330 dẩn đầu toán. Kéo theo HQ 331, sau đó là HQ 230 và HQ 602 đi về Singapore.. Sau khi bị Singapore từ chối không cho tỵ nạn..Đoàn tầu quyết định đi về Úc'..Ông viết tiếp : ' Tôi nghĩ chiếc HQ 230 phải là chiếc dẫn đầu v́ có vị TL V4ZH trên đó và ông đă hứa là sẽ dẫn đoàn tàu đến nơi đến chôn với kinh nghiệm của ông..nhưng HQ 330 vẫn được chỉ định dẫn đầu chạy với một chân vịt nhưng lại kéo thêm HQ 331, kế đó là HQ 230 và sau cùng là HQ 602..

- Theo Đ/Tá Thiện : 'Đoàn tảu chúng tôi rời An Thơi với 4 chiến hạm và gần 3000 người, đến Subic bay với 3 tàu và khoản 2500 người tỵ nạn..' Tuy nhiên, trong List of RVNN ships evacuated to the Philippines on April 30, 75 (Hoangsaparacels.blogspot.com) th́ các con số do HK ghi nhận như sau:

HQ 230 : mang theo 145 người gồm 40 thủy thủ đoàn và 105 người tỵ nạn.

HQ 330/ 331.. không rơ số người nhưng chắc chằn ..không thể có 2500 người trên 2 tàu này..

Con số của Đ/Tá Thiện có lẽ bao gồm cả số người trên Tàu Trường Thành (trên tàu có Tướng Lân TQLC cùng bộ TM) cũng ghé Singapore xin tỵ nạn nhưng sau đó tự t́m đường đi Philippines ?


HQ 231 :

Chiến hạm HQ 231 Nguyễn đức Bổng , do HQ Đ/u Nguyễn văn Phước làm Hạm trưởng, trong thời gian tháng 4 năm 1975 được tăng phái cho vùng 2 Duyên hải, giữ nhiệm vụ hộ tống và bảo vệ các Dương vận hạm trong khi làm công tác chuyẻn vận và di tản thường dân và các đơn vị quân đội thoát khỏi các vùng CQ sắp chiếm. Cuối tháng 4, HQ 231 di chuyển về Căn cứ Đồng Tâm và sau đó được giao nhiệm vụ ngược ḍng Mekong về Cù lao An Long (Long Xuyên), biệt phái cho Bộ Chỉ huy Liên giang đoàn án ngữ tại Tân châu. Tối 29-4 , chiến hạm được lệnh về Đồng Tâm, Mỹ Tho..Sáu giờ sáng 30, khi đến Đồng Tâm, căn cứ đă bị CQ nằm vùng khống chế, HQ 231 chạy quanh Mỹ Tho-Đồng Tâm và khi có lệnh 'buông súng' của DVM..chiến hạm chạy ra biển theo đường Cửa Tiễu, rồi đến Côn sơn và sau cùng đi Subic bay. HQ 231 đến Phi với 126 người gồm 58 thủy thủ và 64 người tỵ nạn..

Trần Lư
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	2.jpg
Views:	0
Size:	166.4 KB
ID:	1348146   Click image for larger version

Name:	3.jpg
Views:	0
Size:	74.5 KB
ID:	1348147   Click image for larger version

Name:	4.jpg
Views:	0
Size:	36.7 KB
ID:	1348148   Click image for larger version

Name:	5.jpg
Views:	0
Size:	43.2 KB
ID:	1348149  

Click image for larger version

Name:	6.jpg
Views:	0
Size:	51.2 KB
ID:	1348150   Click image for larger version

Name:	7.jpg
Views:	0
Size:	83.1 KB
ID:	1348151   Click image for larger version

Name:	8.jpg
Views:	0
Size:	67.0 KB
ID:	1348152   Click image for larger version

Name:	9.jpg
Views:	0
Size:	54.1 KB
ID:	1348153  

Click image for larger version

Name:	10.jpg
Views:	0
Size:	38.5 KB
ID:	1348154  
Attached Images
 
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI

Last edited by hoanglan22; 03-11-2019 at 13:54.
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
cha12 ba (03-12-2019), wonderful (03-11-2019), Xuantrang (03-11-2019)
Old 03-14-2019   #388
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,410 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Bức Chân Dung và Ngôi Mộ Buồn



Kính dâng hương hồn những người lính cuả QLVNCH, những người đă một thời áo trận, giầy sault chiến đấu dũng cảm cho một miền Nam Tự Do

Trong cuộc chiến bảo vệ miền nam tự do, quân lực Việt Nam Cộng Hoà đă mất đi một số tướng lănh tài ba. Một tướng Đỗ cao Trí tư lệnh quân đoàn 3 tử nạn khi chiếc trực thăng cuả ông nổ trên vùng trời Tây Ninh khi ông đang chỉ huy để đánh vào trung ương cục R cuả cái đám được gọi là mặt trận giải phóng miền nam nhưng thực chất là con đẻ cuả cộng sản Bắc Việt, tướng Nguyễn viết Thanh tư lệnh quân đoàn 4 tử nạn khi hai chiếc trực thăng đụng nhau trên lănh thổ quân khu 4 trong lúc ông đang thị sát mặt trận, tướng Trương quang Ân tư lệnh sư đoàn 23 Bộ Binh cùng với chiếc trực thăng nổ tung trên trời khi vừa cất cánh, tướng Pháo Binh Phan đ́nh Soạn cùng chiếc trực thăng rơi xuống biển v́ đụng phải một dàn antena trên một chiến hạm cuả Mỹ thuộc Đệ Thất Hạm Đội khi ông cùng bộ tham mưu đi nghiên cứu để thành lập một đơn vị pháo binh pḥng không cho quân khu1 và c̣n một số các vị tướng lănh khác cũng bị tử nạn v́ máy bay. Nói chung th́ đa số đă tử nạn v́ tai nạn máy bay nhưng không thể phủ nhận những công lao to lớn mà các vị tướng đó đă phục vụ cho tổ quốc và đất nước, do đó mọi người đều thương tiếc, truy điệu và tưởng nhớ đó cũng là một cách tri ân những anh hùng đă vị quốc vong thân.

Tại trung tâm cuả Sài G̣n có một số h́nh ành cuả vài vị tướng đă hy sinh được dựng lên trong các công viên cuả thành phố, như bức chân dung cuả cố Đại Tá Nhẩy Dù Nguyễn đ́nh Bảo được nổi bật hơn hết với trận đánh trên một ngọn đồi Charlie và được gọi là ngựi ở lại một ḿnh, nhưng thực ra ông không ở lại đó một ḿnh mà đă có nhiều người lính mũ đỏ khác cũng vĩnh viễn nằm lại ở đó cùng ông. Phải công nhận rằng ông là một người sĩ quan chỉ huy cuả binh chủng Nhẩy Dù đă tạo nhiều chiến công hiển hách, điển h́nh là trận đánh Damber nhưng với xương máu cuả những người lính mũ đỏ đă tạo nên chiến công vang lừng đó, cho nên thiết nghĩ phải vinh danh tất cả những anh hùng đó.

Xương Máu Tạo Anh Hùng.

Đă có biết bao nhiêu thân xác người lính nằm trong mộ buồn cuả một nghiă trang có tượng đá người chiến binh ngồi gác súng,mắt ngước xa xôi dưới vành nón sắt cuả một buổi chiều hoàng hôn giăng tím làm nổi bật những hàng mộ bia trắng xoá cả một vùng trời với hai hàng liễu buồn ủ rũ chạy dài trong nghiă trang, thinh không vắng lặng, u buồn với tiếng nỉ non cuả những con dế mèn khi màn đêm vừa xuống. Những người lính đă một thời cầm súng giữ ǵn quê hương, đă một thời giầy sault in dấu, áo trận bạc mầu rong ruổi trên khắp nẻo đường quê hương, máu cuả họ đă đổ xuống để cho một phần đất tự do c̣n lại được yên lành, ấm no.

Trong khi đó trong trung tâm thành phố khi màn đêm phủ xuống, thành phố tràn ngập ánh đèn muôn mầu sáng toả lung linh cùng với điệu nhạc quay cuồng từ các vũ trường,pḥng trà đă làm cho những bức chân dung trong công viên trở thành thời thượng, bức chân dung như muốn nhảy nhót theo điệu nhạc, như muốn nhộn nhịp cùng công viên thay v́ những bức chân dung này được đặt trong nghiă trang nơi có hàng ngàn, hàng ngàn ngôi mộ cuả những người lính đă một thời xả thân giữ nước, ôi! cao cả biết bao!

Một chiếc máy bay lâm nạn, không phải chỉ có một ḿnh vị tướng hy sinh mà là có cả một phi hành đoàn, người phi công lái chiếc trực thăng cùng với phi hành đoàn cũng hy sinh, nhưng vị tướng th́ được truy thăng, truy điệu một cách long trọng c̣n những người xấu số không hề được nhắc nhớ và hầu như bị lăng quên,phải chăng đó là sự bất công và bất hạnh cuả kiếp làm Lính, chữ LÍNH được viết đậm nét đúng với ư nghiă cuả nó. Một kiếp lính sống trong nỗi cùng cực cuả chiến tranh đă kéo dài, kéo dài một cách thê thảm cùng với thân phận cuả người lính, một tích tắc có thể người lính ngă xuống trong ngỡ ngàng và bi thảm.

Gian khổ và hiểm nguy hầu như lúc nào cũng vây quanh người lính, trong sự sống và cái chết chỉ là một đường tơ, kẽ tóc. Một cuộc hành quân khai diễn, một bàn tay được xoè ra cuả người tư lệnh trên phóng đồ hành quân, vài ô vuông trên bản đồ nhưng ngoài thực tế người lính đă phải c̣ng lưng với chiếc ba lô,súng đạn trèo đèo vượt suối băng ḿnh trong lửa đạn để tiến đôi khi gục ngă nửa đường, những ngưởi lính c̣n lại có khi phải dẫm qua những vũng máu cuả đồng đội ḿnh để đi đến mục tiêu. Một ngọn đồi chiến lược chiếm được, người sĩ quan chỉ huy cùng với đám đàn em lính sống sót cuả ḿnh ngồi nốc vội bi đông nước c̣n nồng nặc mùi śnh, một bịch gạo xấy lạnh tanh ăn vội vă cho qua cơn đói, chung quanh một hàng dăy poncho quấn tṛn những thân xác bất động, xác cuả những người lính đă gục ngă trong lúc giao tranh.Trong khi đó người đă x̣e năm ngón tay trên tấm bản đồ mở chai sâm banh vang nổ ăn mừng khi được thêm một v́ sao lấp lánh trên aó, công lao đó chính là xương máu cuả những người lính thuộc quyền tạo nên. Thêm một cái huy chương đỏ thẫm trên ngực aó, đỏ như máu cuả người lính, mộ người lính xanh cỏ, đỏ ngực người tư lệnh. Chiến tranh quả thực tàn nhẫn và đau xót.

Người lính ôm súng, mặt cúi xuống xác người đồng đội được quấn trong chiếc poncho, người lính lầm bầm nói:

- Đù mè! tao đă nói rồi, hôm nay đến lượt mày đi khinh binh th́ ráng mà cẩn thận, cây thượng liên cuả địch bắn như mưa mà mày chạy thẳng người trong thế xung phong, ham chi ba cái huy chương lẻ tẻ đó, có lần mày đă nói với tao là cố t́m một cái để về le lói với bạn bè. Đù má, bây giờ mầy toại nguyện rồi đó, cái huy chương th́ không được đeo,cấp bậc th́ không được mang mà để trên bàn thờ cúng giỗ,chung qui chỉ có gia đ́nh mày chịu thiệt tḥi mà thôi! Người lính chết trận chiều qua, ngày mai người đời quên lăng. Thôi! mày hăy yên nghỉ, hăy quên đi chiến tranh hận thù! hăy để hồn thanh thản nơi miền miên viễn đó.

Nước mắt người lính nhỏ lên xác bạn cuả một ngày nắng chói chang trên đỉnh đồi đẫm máu khi bom đạn vẫn nổ chung quanh.

Bóng chiều nghiêng nghiêng đổ nơi nghiă trang, đài tử sĩ với những bậc thang cao vút,bóng người goá phụ với vành khăn tang quấn trên mái tóc đen huyền, cô đơn lạc lơng với những hàng mộ bia trắng, tiếng gió vi vu như réo gọi hồn ai!

Nàng ngồi bên cạnh mộ chồng, lần từng ngón tay trên mộ bia khung h́nh bầu dục như muốn t́m lại một chút da thịt người chồng cuả một thuở mặn nồng.

Lá thư được viết từ chiến trường:

"Đỉnh đồi căn cứ Sarge,ngày...tháng3 năm 1972.
Em yêu dấu,
Ngày hôm nay địch pháo dữ dội quá! những trái đạn 130 rít trên bầu trời nghe đến rợn người như muốn xé nát không gian, những trái đạn pháo nổ lóe sáng trong đêm tối, những mảnh đạn rơi lộp bộp trên nắp hầm trú ẩn, anh thấy cuộc sống mong manh quá! Chiến tranh đă làm mất đi bao nhiêu bạn bè, anh chỉ muốn chiến tranh chấm dứt, để anh trở về với em, với nhưng người thân thương, bạn bè cuả anh để sống lại cuả thuở yêu đương mặn nồng..."

Chiến tranh chưa kết thúc, nhưng lá thư đang viết dở dang, dang dở như số phận người lính với cái chết đến thật bất ngờ và ngỡ ngàng.

Người góa phụ cầm chặt lá thư trong tay bước lần ra cổng nghiă trang giữa hai hàng liễu đong đưa trong tiếng gió u buồn, sau lưng những dăy mộ trắng chạy dài thẳng tắp tận cuối chân trời khi những tia nắng nhạt cuối cùng đang ch́m dần vào tối và xa xa nơi thành phố, những ánh đèn sáng toả muôn mầu. Nơi ấy, có những bức chân dung sáng toả trong công viên.


TQLC Phạm Thành Nhân.
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	tuong.jpg
Views:	0
Size:	57.8 KB
ID:	1349942  
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
laongoandong (03-14-2019), wonderful (03-14-2019)
Old 03-15-2019   #389
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,410 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Dưới cờ phi luật tân,các chiến hạm vnch..

Trước năm 1975, Hoa Kỳ đă viện trợ cho quân đội VNCH hàng trăm tàu chiến lớn nhỏ. Sau này, qua các tài liệu cả chính thức và không chính thức, ít nhất có 30 chiếc tàu của HQ VNCH đă thoát sang Philippines và được Hoa Kỳ bàn giao cho hải quân nước này. Trong đó, khu trục hạm HQ 01 Trần Hưng Đạo là soái hạm của HQ Philippines.

Trong số hàng trăm tàu chiến HK viện trợ cho Hải quân VNCH , đa số đều là các tàu cỡ nhỏ, số tàu tải trọng lớn c̣n lại, phần lớn là loại tàu tuần của lực lượng bảo vệ bờ biển HK (US COAST GUARD).

Có thể thống kê sơ khởi không dưới 30 tàu chiến các loại mà HQ VNCH đă rời khỏi Việt Nam năm 1975 và Philippines đă trưng dụng cho lực lượng Hải quân của ḿnh, gồm:


BRP Rajah Lankandula-PS-4, nguyên là khu trục hạm Trần Hưng Đạo HQ 1

- 1 khu trục hạm Trần Hưng Đạo HQ 1 (chuyển thành soái hạm BRP Rajah Lankandula-PS-4);

- 5 tuần dương hạm (WHEC ) : Trần Quang Khải HQ 2 (thành BRP Diego Silang PS-9); Trần Nhật Duật HQ 3 (tuy được chuyển giao cho HQ Phi nhưng bị phế thải để lấy các cơ phận thay thế dùng sữa chữa cho các chiến hạm khác cùng chủng loại của HQ Phi ); Trần B́nh Trọng HQ 5 (thành BRP Francisco Dagohoy PF-10); Trần Quốc Toản HQ 6 (cùng số phận như HQ 3); Lư Thường Kiệt HQ 16 (thành BRP Andres Bonifacio, PF-7); Ngô Quyền HQ 17 (thành BRP Gregorio del Pilar PF-8);


BRP Andres Bonifacio, PF-7, nguyên là Lư Thường Kiệt HQ 16

- 5 Hộ tống hạm (PCE): Đống Đa II HQ 07 (thành BRP Sultan Kudarat PS-22); Chi Lăng II HQ 08 (thành BRP Magat Salamat PS-20); Chí Linh HQ 11 (thành BRP Datu Tupas PS-18); Ngọc Hồi HQ 12 (thành BRP Miguel Malvar PS-19); Vạn Kiếp HQ 14 (thành BRP Datu Marikudo PS-23).

- 5 Dương vận hạm (LST): Cam Ranh HQ 500 (thành BRP Zamboanga Del Sur LT-86); Thị Nại HQ 502 (thành BRP Cotabato Del Sur LT-87); Nha Trang HQ 505 (thành BRP Agusan Del Sur LT-54); Mỹ Tho HQ 800 ( thành BRP Sierra Madre LT-57); Cần Thơ HQ 801 (thành BRP Kalinga Apayao LT-516)

- 1 Cơ Xưởng hạm (ARL): Vĩnh Long HQ 802 (thành BRP Yakal AR-617)

- 3 Hải vận hạm (LSM): Hát giang HQ 400 (thành BRP Western Samar LP-66); Hàn giang HQ 401 (dùng lấy cơ phận); Hương giang HQ 404 (thành BRP Batanes LP-65)

- 3 Trợ chiến hạm (LSSL): Đoàn Ngọc Tảng HQ 228 (thành BRP La Union LF-50); Lưu Phú Thọ HQ 229 (HQ Phi dùng để lấy cơ phận thay thế sử dụng cho các chiến hạm khác); Nguyễn Đức Bổng HQ 231 (thành BRP Camarines Sur LF-48)

- 3 Giang pháo hạm (LSIL): Thiên kích HQ 329; Lưu công HQ 330; Tầm sét HQ 331.

- 2 Hỏa vận hạm (YOG), tức sà lan tự hành để chở dầu: HQ 470 và HQ 471

- 1 Tuần duyên hạm (PGM): Ḥn trọc HQ 618 (thành BRP Basilan PG-60)

Ngoài ra, c̣n một số tàu khác như trợ chiến hạm Nguyễn Ngọc Long HQ 230 BRP Sulu LF-49, HQ 474…

Trong số các tàu chiến lớn có hai tàu khu trục hộ tống lớp lớp Edsall là HQ-1 Trần Hưng Đạo và HQ-4 Trần Khánh Dư. Tàu lớp Edsall có lượng giăn nước 1.590 tấn, dài 93,3m. Tàu trang bị 3 pháo hạm 76mm, 2 pháo pḥng không 40mm, 8 pháo pḥng không 20mm, 3 máy phóng ngư lôi 533mm, và vũ khí chống tiềm thủy đĩnh.

Chiếc HQ-1 được Philippines sửa chữa (bỏ súng 76mm và thay bằng 2 trọng pháo 127mm) và chính thức đưa vào trang bị tháng 7/1976 với cái tên mới BRP Rajah Lakandula (PF-4).

Từ năm 1981-1988, BRP Rajah Lakandula trở thành soái hạm Hải quân Philippines. Con tàu chủ yếu tham gia nhiệm vụ tuần tiễu bảo vệ biển, thực hiện công tác t́m kiếm cứu nạn trên biển.Năm 1988, con tàu bị loại ra khỏi hải quân và được sử dụng như doanh trại nổi tại vịnh Subic cho tới năm 1999 th́ bị phá hủy.

Trong qui chế Hải quân VNCH c̣n có 7 tàu chiến lớp Casco được coi là những tàu lớn nhất. HQ VNCH c̣n gọi nó là “tuần dương hạm”, dù lượng giăn nước chỉ tương đương khinh hạm. Thực tế, trước khi chuyển cho VNCH, 7 tàu Casco từng được dùng cho lực lượng tuần duyên bảo vệ bờ biển Mỹ.

Tàu lớp Casco có lượng giăn nước 2.800 tấn, dài hơn 94m, thủy thủ đoàn gần 200 người. Hệ thống vũ khí hạng nhẹ: pháo 127mm, súng cối 81mm và súng máy. Trong 6 chiếc lớp Casco, Philippines chỉ dùng 4 chiếc c̣n lại 2 chiếc được tháo lấy phụ tùng. Khinh hạm BRP Andres Bonifacio (PF-7) thuộc lớp Casco, tên cũ trong Hải quân VNCH là HQ-16 Lư Thường Kiệt.

Năm 1979, chính quyền Philippines quyết định hiện đại hóa toàn diện hệ thống vũ khí và điện tử và điện tử trên 4 tàu. Tàu lắp thêm súng 20-40mm, thiết kế thêm sân đáp trực thăng ở đuôi tàu.Tới cuối những năm 1980, Hải quân Philippines dự định trang bị thêm hoả tiễn RGM-84 Harpoon nhưng do khủng hoảng kinh tế nên không thực hiện được.

Giai đoạn 1991-1993 và năm 2003, cả bốn tàu này lần lượt bị phá hủy.

Hầu hết các tàu chiến cỡ lớn của VNCH trong Hải quân Philippines đều bị loại bỏ vào những năm 1990 nhưng vẫn có một số ít vẫn c̣n hoạt động tới tận ngày nay. Tính đến năm 2012, chỉ c̣n 7 chiếc trong số này c̣n hoạt động trong hải quân Philippines, gồm:

Dương Vận Hạm LST:

Zamboanga Del Sur LT-86, nguyên là LST Cam Ranh HQ 500.

BRP Cotabato Del Sur LT-87, nguyên là LST Thị Nại HQ502.



BRP Kalinga Apayao LT-516, nguyên là LST Cần Thơ HQ 801.


BRP Yakal AR-617, nguyên là Cơ xưởng hạm Vĩnh Long HQ802.

BRP LT-57 Sierra Madre nguyên là Dương Vận Hạm LST Mỹ Tho HQ-800


BRP Magat Salamat PS-20, nguyên là PCE Chi Lăng II HQ 08.


BRP Miguel Malvar PS-19, nguyên là PCE Ngọc Hồi HQ 12.
Ba con ḱnh ngư một thời anh dũng của Hải quân VNCH tuy nay tuổi đă ngoài 70 nhưng vẫn nêu cao tinh thần bất khuất của những người chủ cũ - những chiến sĩ HQVNCH oai dũng - tiếp tục chiến đấu kiên tŕ cho lư tưởng tự do.


(Tài liệu sưu tầm)
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	1.jpg
Views:	0
Size:	33.2 KB
ID:	1350298   Click image for larger version

Name:	2.jpg
Views:	0
Size:	38.4 KB
ID:	1350299   Click image for larger version

Name:	3.png
Views:	0
Size:	273.1 KB
ID:	1350300   Click image for larger version

Name:	4.png
Views:	0
Size:	357.1 KB
ID:	1350301  

Click image for larger version

Name:	5.jpg
Views:	0
Size:	47.7 KB
ID:	1350302   Click image for larger version

Name:	6.jpg
Views:	0
Size:	47.6 KB
ID:	1350303   Click image for larger version

Name:	7.jpg
Views:	0
Size:	59.4 KB
ID:	1350308   Click image for larger version

Name:	8.png
Views:	0
Size:	221.0 KB
ID:	1350309  

Click image for larger version

Name:	9.jpg
Views:	0
Size:	25.1 KB
ID:	1350310  
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Old 03-15-2019   #390
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,410 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Tháng ba định mệnh

Với những ḍng này, mong đóng góp chút ít tư liệu về cuộc chiến, và những gương hy sinh của các Sĩ Quan QLVNCH, những anh hùng không tên tuổi đă nằm xuống trong cuộc chiến, để giữ ǵn miền Nam êm ấm thanh b́nh gần 3 thập niên từ sau 1945-1975 ...


…Những ngày cuối tháng 3, trời mưa như trút nước, cả ngày lẫn đêm, như xót thương cho số phận non sông B́nh Định đă rơi vào tay của lũ vô thần. Qua hơn 2 ngày đêm, chúng tôi không có ǵ để ăn, ruột đói cồn cào, quần áo ướt sũng, thật đói và lạnh. Chúng tôi đi ngang qua những đám g̣ trồng đậu phụng, nhổ lên hy vọng kiếm củ ăn cho đỡ đói ḷng, nhưng vào mùa đó cuối tháng 2 Âm Lịch, củ c̣n rất non. Chúng tôi rửa bằng nước mưa, nhai lấy nước mà thôi. Chúng tôi qua những cánh đồng bắp cũng thế , chỉ ngậm lấy nước. Qua ngày thứ 3, cả ba chúng tôi đều bị tiêu chảy, kiệt sức không c̣n đi nổi. Tôi thấy t́nh h́nh như vậy, chắc là số phận tôi không xong rồi, nên nói với hai anh bạn đồng hành:“Tôi không đi nổi nữa rồi, hai anh c̣n sức cứ đi theo hướng Đông ra biển may ra c̣n tàu của hải quân của quốc gia bốc các anh về Sài G̣n.”Thật là cảm động, tuy không cùng đơn vị nhưng hai anh lính nói:
“Đại Uư đi th́ chúng tôi đi, ông ở lại chúng tôi ở lại. Chúng tôi không nỡ bỏ ông ở đây!”

Không c̣n cách nào khác, chúng tôi đành vào làng, may ra xin được thức ăn và dưỡng bệnh sau đó tiếp tục cuộc hành tŕnh. Sau đêm thứ 3, chúng tôi đến một ngôi làng, trước vài thửa ruộng của ngôi làng có một cái cḥi, chúng tôi vào cḥi khoảng 2, 3 giờ sáng. Chúng tôi vắt cho khô quần áo, nằm ngủ đợi trời sáng. Sau những ngày đói lạnh, bệnh tật, chúng tôi nằm thiếp đi cho đến khi mặt trời mọc. Sáng hôm đó chúng tôi vào một nhà dân gần đó, để nhờ họ cho cơm ăn và dưỡng bệnh, để có sức mà đi. Chủ nhà là một người đàn bà nhà quê trông cũng b́nh thường như những bà nông dân khác,không có ǵ phải nghi kỵ. Sau khi nấu cơm cho chúng tôi ăn xong, chủ nhà chỉ cho chúng tôi bộ ván để lên nằm nghĩ lưng. Ôi thật là một bữa cơm ngon nhất trong đời, dầu chỉ có cơm trắng với bầu luộc và mắm ruốc. Nửa giờ sau, du kích đă vào nhà, súng AK chỉa đầu, bắt chúng tôi trói ké dẫn đi. Tâm trạng tôi lúc này chỉ c̣n biết tới đâu hay tới đó mà thôi. Sự sống c̣n phó mặc cho số mệnh. Chúng tôi bị dẫn đi nhiều nơi, đôi khi là trụ sở của làng, đôi khi là trường học, có khi là ngôi đ́nh làng. Dần dần số người bị bắt cứ tăng lên. Nhiều khi một ngôi trường Tiểu học nhỏ, mà nhốt số người lên đến hàng trăm. Đêm đến không có chỗ nằm, chỉ ngồi mà thôi. Ôi thật là những ngày ghê gớm nhất của cuộc đời, không biết c̣n có cảnh khổ nào hơn không?

Chúng tôi không được cho ăn uống chi cả. Tự ai có ǵ nấy ăn mà thôi. Ngày hôm sau, chúng tôi bị dẫn về hướng Tây, không gian vô định, ai biết ḿnh sẽ bị đưa về đâu, và sống c̣n đến ngày nào. Khoảng thời gian này, không có một quy ước hay chính sách ǵ cả, hễ ai bất tuân bọn chúng, th́ coi như bị bắn bỏ. Trong đoàn chúng tôi đi, có một binh sĩ c̣n trẻ, không dè dặt với chúng, đôi khi anh ta đi ngoài hàng một chút th́ bị bọn chúng lôi ra bắn ngay. Thật là dă man! Chúng muốn bắn để khủng bố tinh thần của mọi người. Ôi sinh mạng con người nhỏ hơn là con ong, cái kiến. Dọc đường quốc lộ 19, từ B́nh Khê lên đến chân đèo An Khê, trước kia có lực lượng của SĐ 22 Bộ Binh trấn đóng. Tôi không nhớ rơ là Tiểu Đoàn nào, nhưng thuộc Trung Đoàn 41. Trước đây có một trận đánh thật là ác liệt, hai bên vệ đường tử thi của các chiến sĩ VNCH nằm la liệt, có lẽ đă xẩy ra gần nửa tháng rồi, cơ thể bắt đầu śnh thúi chỉ thấy quân phục và sọ người trắng hếu. Một số tử thi khác th́ c̣n loang lổ một ít tóc trên phần sọ đă rữa. Mùi tử khí xông lên nồng nặc khắp trời. Ôi chiến tranh và thân phận con người, tôi lại nhớ đến mấy câu thơ của bà Đoàn Thị Điểm:

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dơi dơi soi,
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn…..

Vào thời gian này, tôi không c̣n nhớ rơ là ḿnh đă nghĩ ǵ, chỉ có một con đường, chúng muốn đưa ḿnh đi đâu th́ ḿnh theo đó thôi, mặc cho số phận đẩy đưa, cuối cùng cùng là giải thoát kiếp người. Chúng tôi đi đến ngày thứ 3 th́ đến một trại trước kia là mật khu của chúng. Trại này nằm trong rừng sâu, cách đèo An Khê khoảng 50 km từ hướng Bắc. Cả mấy ngày đi, chỉ ăn được một lần, chúng tôi đi ngang 1 địa phương th́ được đồng bào nấu cơm gói sẵn bằng lá chuối phát cho chúng tôi mỗi người một gói không biết là lệnh của họ hay ḷng tự nguyện của đồng bào. Đến gần phạm vi của trại, chúng dừng lại để nghĩ và chuẩn bị cho chúng tôi nhập trại, trong lúc này tôi gặp lại một số anh em binh sĩ trong Pháo Đội, thật mừng và thật tủi cho thân phận những kẻ chiến bại. Thời điểm này chúng bắt giao nộp hết tư trang như đồng hồ, bút máy, nhẫn….Tôi thấy chúng dùng nón để thu, không ghi sở hữu của ai cả. Tôi biết bọn này muốn lấy không rồi, tôi làm dấu cho anh thường vụ Pháo Đội giấu chiếc đồng hồ Boulevard Sport của anh, khi đi đến bờ sông có 1 số người Thượng đứng bán chuối hoặc cơm. Chúng tôi đổi chiếc đồng hồ lấy 1 nắm cơm muối mè gói lá chuối, hai thầy tṛ chia nhau ăn cho qua cơn đói ḷng. Thật là: “Đoạn đường ai có qua cầu mới hay”, vật chất chỉ có giá trị khi thời gian thích hợp. C̣n với thời gian này, vật chất dù cao quáy thế nào cũng không qua nổi một gói muối mè.

Thế là chúng tôi lần lượt vào trại. Sĩ Quan đều bị đem đi cùm, từ Thiếu Úy trở lên là bị cùm. Số lượng SQ bị bắt mỗi ngày một đông, chúng thả cấp nhỏ, cùm cấp lớn. Bắt được Đại Uư cùm Đại Uư thả Thiếu Uư. Cứ như là cấp số cộng. Phải nói bạn nào có thời gian ở trại Vĩnh Thạnh khi đọc ḍng hồi kư này, không thể nào quên được một nơi gọi là ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN đúng nghĩa của nó, không nơi nào ghê sợ hơn. V́ trại nằm trong rừng sâu, lam sơn chướng khí. Tổng số binh sĩ bị bắt vào thời điểm cao nhất ở đây có thể lên đến cả ngàn người, nhưng sau hơn 4 tháng, số tử vong lên đến cả trăm. Sốt rét chết, đói mà chết, bị đánh mà chết. Các đơn vị bộ đội cộng sản ở đây đa số đều là những cán binh CS trở về từ Côn Đảo, ḷng nung nấu thù hận. Họ muốn trả những trận đ̣n thù trên các người lính Cộng Ḥa c̣n chút sĩ khí đă ở lại chiến đấu để bảo vệ quê hương. Có 1 anh Trung Úy người miền Nam trước kia nguyên là giáo sư bị bắt vào trại cùng thời gian với chúng tôi, v́ quá căm phẫn trước sự hành hạ của bọn chúng, nên chạy ra vọng gác giựt súng AK của tên bộ đội đang gác cổng nhưng không thành công v́ cơ thể suy nhược, ăn uống thiếu thốn làm sao khoẻ bằng chúng. Sau khi giựt súng không được, anh ta bị rược chạy ṿng ṿng trong trại. V́ trại quá đông người nên chúng không bắn được. V́ không c̣n đường thoát, anh ta chạy đến bên những chảo nước đang nấu để cho tù uống và nhảy vào chảo! Thật là rùng rợn và thương tâm! Chúng dập tắt lửa, mang anh ta ra ngoài, nhưng anh ta vẫn c̣n sống. Anh ta chửi rủa bọn CS luôn mồn:

“Đả đảo Cộng sản. Quân dă man khát máu”.

Chúng cho khiêng anh vào trạm xá. Thật ra chỉ là một cái nhà nhỏ, vài lọ thuốc, vài lọ cồn mà thôi. Anh ta vẫn chửi liên hồi. Chúng lấy đất sét cho vào miệng, lấy cây dộng cho đến khi hết thở. Ôi! các bạn có h́nh dung được con người hay là ác quỷ nhỉ. Tôi có người bạn ở cùng quê tên Phan Duy Liêm, cấp Tr/Uư ĐĐT/ĐPQ cũg bị bắt vào trại này, tôi không nhớ anh đă làm ǵ phật ư chúng mà buổi chiều hôm đó, tôi chứng kiến tận mắt, 3 tên bộ đội đứng 3 góc đánh anh từ góc này văng sang góc kia, như là người ta chuyền bóng. Là thân phận tù sao dám chống trả chúng. Sau khi anh được thả ra, lục phủ đă bị dập nát, đă bị tổn thương. Mặc dù thời gian sau được gia đ́nh tiếp tế thuốc men chữa chạy, sau hai năm hao tổn, anh đă ĺa đời, bỏ lại một vợ và một con thơ, là bà con họ hàng với gia đ́nh tôi.

Ở đây khí hậu chưa có một nơi nào dễ sợ hơn. Danh từ sơn lam chướng khí thật là đúng nghĩa của nó. Các nhà giam (lán) được cất dưới những tàng cây cổ thụ, suốt ngày ít khi thấy ánh sáng mặt trời, sương buổi sáng rất nặng và dày đặc, 9 hay 10 giờ mới thấy mặt trời, máy bay thám thính cũng chỉ thấy toàn màu xanh của rừng. Khoảng hơn tháng đầu chúng chưa cho đi làm, mỗi ngày chỉ phát hai nắm cơm bằng một bát trung b́nh, vơi chứ không đầy, ḿ khô hết 80%, vài hột gạo có thể đếm được, tất cả chúng tôi đều đói và sốt rét.

Ở đây trung b́nh một tuần sốt rét 3 lần. Sốt th́ nằm, dậy được th́ đi lao động, xuống trạm xá khai bệnh, cặp nhiệt độ 40 độ C, cho vài viên Nivaquine, 39 độ trở lui, th́ chúng cho uống một thứ rễ cây tên là “mật nhân”. Trên đời nà y chưa có thứ nào đắng như thứ này, uống xong quay đi là nôn thốc, nôn tháo, nôn đến mật xanh, mật vàng, lần sau sốt hoặc nằm liệt không dám khai bệnh nữa, hết sốt th́ dậy đi làm. Con người thiếu ăn, thiếu dinh dưỡng, sốt rét triền miên, nên chúng tôi trong như những thây ma c̣n sống. Da mặt th́ vàng bệt, xám ngoét, mắt trũng sâu, chân đi siêu vẹo, quần áo tả tơi. Ôi! chúng tôi thật là tới tận cùng của địa ngục. Chúng tôi nào có tội t́nh ǵ, chỉ biết cầm súng bảo vệ quê hương không có một ư đồ bất chính, không có một tham vọng nào làm tổn thương đến giá trị vật chất hay tinh thần của con người, tại sao chúng tôi lại phải bị trừng phạt một cách khủng khiếp như thế? Có những lúc tuyệt vọng, anh em nói đùa:

“Chúa hay Phật ǵ cũng bỏ chạy hết rồi c̣n đâu mà cầu nguyện.”

Sau hơn 3 tháng tôi bị bắt, gia đ́nh tôi mới được tin tức. Vợ tôi từ Phan Thiết ra B́nh Định đến trại 3 Vĩnh Thạnh để thăm, thật là một chặng đường vất vả. V́ xe cộ không có, vợ tôi phải đi bộ khoảng 50km đường rừng, phải ngủ lại ở trại 2 rồi mới lên trại 3 được. Biết bao nhiêu gian nan và sợ hăi, khi được gặp mặt, vợ chồng tôi nh́n nhau nước mắt lưng tṛng, hỏi thăm vài câu sức khoẻ, đâu c̣n lời nào để nói. Và biết nói ǵ hơn khi mỗi bàn có hai bộ đội ngồi bên cạnh, súng AK lăm lăm, nói được ǵ đây. Về nhà, vợ tôi bị sốt rét chữa trị gần 2 năm mới b́nh phục. Thời gian ấy, vợ tôi phải chuyền sẻrum liên tục, thế mới biết rừng thiêng nước độc đến cỡ nào. Sau đó thân phụ tôi đi thăm một lần, về cũng bị sốt rét liên tục. Từ đó về sau, chỉ có em trai tôi c̣n khoẻ mạnh đi thăm mà thôi.

Có những lúc đói quá, mắt đổ đom đóm vàng khi nh́ thấy các anh em khác có người tiếp tế, có đồ ăn. Muốn quên đi, tôi chỉ c̣n biết ra gốc cây ngồi luyện Yoga cho quên đi nỗi đói khát, bệnh tật. Ai có biết sách lược triệt hạ kẻ thù, không sợ chúng phản kháng là làm cho chúng đói triền miên, không bao giờ cho chúng ăn đủ no. Suốt ngày tư tưởng lẩn quẩn, mong có cái ǵ bỏ vào miệng, vào bụng mà thôi, không c̣n nghĩ được thứ ǵ khác trên đời. Ôi con người có những lúc phải như thế này ư? Tôi có đọc cuốn Tiểu Đoàn Trừng Giới của Erich Maria Remark, nhà văn Đức, tù binh Đức, cũng bỏ vào các trại tập trung cũng đói như chúng tôi, nhưng thời gian ngắn hạn và không bệnh tật. C̣n chúng tôi đói dài hạn và bệnh tật triền miên. Tôi c̣n nhớ vào thời gian c̣ ở quân ngũ, tướng độc nhăn Mó Dayan của Do Thái có qua thăm trường Vơ Bị Đà Lạt, đă nói:

“Muốn chiến thắng Cộng Sản, phải sống với Cộng Sản”.

Xin những ai, có làm chính khách, chưa bao giờ biết ngục tù Cộng Sản, th́ xin nghĩ đến bao nhiêu anh hùng đă hy sinh, bao nhiêu triệu đồng bào c̣n đang sống vất vưởng nơi quê nhà, vật lộn với miếng cơm manh áo hàng ngày v́ phương châm “làm cho tập thể, hưởng theo nhu cầu” của chúng. Và cả một thế hệ chúng tôi tù đày oan khiên, khổ nhọc, th́ chớ nên phụ quá khứ một thời tự do, dân chủ, thanh b́nh của miền Nam Việt Nam.

Ở trại này có những cách giết người rất dă man. Các bạn có biết, một cái nhà cùm kín mít, bên trong là một dăy khóa lại, tất cả việc ăn uống vệ sinh đều tại chỗ, đó là cùm thông thường. Nếu chúng muốn tra tấn ai, cho hai chân vào hai lỗ chéo nhau, chân phải lỗ bên trái, chân trái lỗ bên phải, dưới mông ngồi có một cây đà vuông thông ra ngoài, xuyên qua một cây trụ thẳng đứng khoét một lỗ h́nh chữ nhật, để cây đà vuông có thể di chuyển được từ thấp lên cao, chúng gọi là cùm yên ngựa. Mỗi lần nâng cây đà lên là ống quyển bị ép vào lỗ cùm. Bên ngoài chúng dùng một miếng nêm h́nh tam giác để đóng, mới đầu đóng là tù nhân la thất thanh sau đó im dần…im dần, tù nhân đă hết thở. Ôi địa ngục ở đâu, có lẽ c̣n ít sợ hăi hơn nơi này. Chúng tôi bị nhốt trong một cái lán gần bên nhà cùm. Đêm đêm nghe tiếng la thất thanh xé tâm can, rồi dần , im dần và tắt hẳn… Thế là một người đă ra đi không biết là tốt hay xấu với chúng tôi, biết đâu vài hôm đến lượt ḿnh.

Ở đây có những cái chết rất kỳ lạ, buổi sáng c̣n ngồi chơi nói chuyện, v́ là ngày Chủ Nhật, anh bạn ở cùng quê, Đ/Uư Dậu TĐT/CB, ngồi ngă ra, quay quay như gà mắc toi, đem xuống bệnh xá, chừng 1 giờ đồng hồ sau th́ chết. Khí hậu thật là rùng rợn, sinh mạng con người c̣n thua những loài côn trùng. So với tù binh của Đức Quốc Xă thời Đệ Nhị Thế Chiến đâu có khác ǵ nhau.

Sau một tháng nhốt một chỗ, chúng tôi được chia ra để đi lao động. Những công việc chính là nhổ ḿ, trồng ḿ, và làm cỏ ḿ. Buổi sáng tù tập trung do 1 hoặc 2 tên bộ đội dẫn đi tới những băi ḿ trong núi hoặc trên đồi cao. Chúng tôi dàn hàng ngang, mỗi người một cái cuốc, dùng để cuốc cỏ xung quanh cây ḿ. Cây ḿ mới mọc cao chừng 5cm hay một tấc, rất dễ lẫn lộn với cỏ. Chúng tôi đâu phải nhà nông chuyên nghiệp, từ nhỏ cha mẹ đă hy sinh gian khổ, nuôi con ăn học, mong con sau này thành đạt đâu nghĩ đến việc phải dùng cái cuốc,cái cày. Ôi công lao của cha mẹ lo lắng nuôi con trong thời điểm này h́nh như đă sai đường. Nếu chẳng may chúng tôi cuốc găy cây ḿ chúng thấy được, th́ báng súng AK vào đầu, vào cổ, mũi súng thọc vào sườn, vào bụng.



Anh bạn tôi là Đ/Uư Dậu có lẽ bị đ̣n thù trong trường hợp này, nên đă mất đi vài tuần sau đó, trong bữa sáng Chủ Nhật mà tôi vừa nói ở trên. Thật là thê thảm, những tù nhân chẳng may mà mất đi, chúng quấn bằng miếng vải ni lông, dùng để làm áo mưa, xung quanh kẹp 7 nẹp tre, quấn lại như một khúc dồi lớn. Hai người khiêng, hai người đào lỗ ngoài rừng rồi lấp đi. Xong chúng cắm một cái bảng nhỏ viết tên tù nhân bằng sơn. Với 2,3 tháng nắng mưa, th́ không c̣n biết ai là ai nằm đó nữa. V́ thế gia đ́nh anh Dậu đă cố gắng nhiều lần, nhưng vẫn không t́m thấy xác anh ở đâu để đem hài cốt của anh về mai táng nơi quê nhà.

Rất may là khoảng tháng thứ 5 chúng tôi chuyển trại, lúc này đại đa số là Quân, Cán, Chính VNCH đă bị bắt hoàn toàn, không c̣n 1 lực lượng nào trong nước có thể đối kháng và phá hoại chúng được. Chúng thành lập những Tổng Trại Tù Binh để quản lư. Một Tổng trại như thế do cấp Trung Đoàn chính quy quản lư do Thủ Tướng Cộng Sản Phạm Văn Đồng kư, mục đích là để trấn an dân chúng và để tŕnh làng với Quốc Tế. Giai đoạn cuối ở địa ngục này, tôi bị sốt rét hành hạ liên tục, có lẽ đă xâm nhập vào gan, lá lách hay thận. Người tôi vàng vọt, xám ngoét, mắt trũng sâu, bụng ỏng, chân th́ dần dần to ra như chân voi bước đi không nổi nữa. Chúng tôi được đưa xuống Tổng trại 4 An Trường. Ôi, thật là một cuộc di chuyển có khác nào như chở heo, chở gà ra chợ để bán! Một chiếc xe Motolova như vậy chở xấp xỉ cả trăm người, người sau phải bám người trước cho chặt, nếu không khi xe quẹo, quán tính của trọng lượng sẽ làm văng những người sau ra ngoài mà chết. Súc vật đem bán cần sống, cần khoẻ chứ chúng tôi th́ không….

Tôi được đưa xuống trại 1 của Tổng Trại 4, nhờ gia đ́nh tiếp tế, thuốc men đầy đủ, và ở trại này, chế độ ăn uống có phần dễ thở hơn, nên tôi đă dần dần hồi phục và giữ được cái mạng c̣m cho đến hôm nay. Phải nói rằng sáu năm tù đày, thời gian ở trại này là tương đối dễ chịu nhất so với các trại khác. Vào thời điểm này, đa số anh em đều tin rằng sau 3 năm rồi th́ thế nào cũng được thả về, nhưng thật sự là một sự lầm lẫn to lớn. Lời nói của chúng như những bó cỏ treo trước đầu con ngựa đang kéo xe, cỏ th́ nh́n thấy đó, nhưng con ngựa có bao giờ ăn được đâu?….Những ngày kêu thẩm vấn, tự khai, ôi thật là khổ sở. Nói thế nào chúng cũng không tin. Hỏi:
“Từ ngày anh tham gia nguỵ quân, ngụy quyền đến giờ giết bao nhiêu cách mạng?”

Tôi trả lời:
“Tôi là đơn vị Pháo Binh yểm trợ, họ yêu cầu tác xạ ở đâu, chúng tôi bắn ở đó. Kết quả do các đơn vị Bộ Binh tham gia họ ghi nhận và báo cáo, chúng tôi đâu có trực tiếp tham dự ”

Hỏi:
“Anh nói anh không giết cách mạng sao họ cho anh mang lon Đ/Uư sớm như vậy?”

Tôi trả lời:
“Theo chế độ đào tạo SQ tại miền Nam, có bằng cấp mới được chọn, 1 năm Chuẩn Uư, được thăng Thiếu Uư, 2 năm Thiếu Uư được thăng Trung Uư. Sau đó khoảng 3 năm đủ điểm th́ lên Đ/Uư.”

Nhưng dù có nói thế nào chúng cũng chẳng tin. Và cứ như thế hết ngày này đến ngày khác, tôi cứ bị kêu liên tục, hỏi hơn cả tháng, chúng cứ xoáy vào một điểm là giết hại bao nhiêu cách mạng. Cuối cùng tôi phải moi một trận yểm trợ nhớ mang máng theo kết quả của Bộ binh báo cáo, là địch quân tổn thất vài chục chúng mới hết hỏi. Ai có ngờ đâu đó là cái giá treo cổ mà ḿnh tự gánh vào, sau này chúng cho là thành phần ác ôn có nợ máu với nhân dân….

Thời gian ở Tổng trại này hơn 1 năm, sau đó có lẽ t́nh h́nh thanh lọc tù nhân giảm dần, chúng tôi chuyển từ tổng trại này sang tổng trại 5 thuộc các đơn vị tỉnh Phú Yên quản lư. Trại này cũng là một trại sắt máu, chúng tôi làm việc như lao động khổ sai, và cơm th́ không bao giờ được ăn no. Có một vài anh em bỏ mạng v́ đốn cây rừng cho chúng, cây đè mà chết hoặc thương tật suốt đời. Các bạn từng xem những phim La Mă thời Caesar, các nô lệ kéo gỗ hay kéo đá, chúng tôi cũng vậy. Một khúc gỗ súc dài 4 hoặc 5 mét, đường kính khoảng 7 tấc, xỏ 4 dây thừng, mỗi bên 4 người khiêng. Đường từ trên núi, leo dốc, xuống ghềnh hiểm trở, nếu rủi ro mà té ngă th́ coi như cái mạng đi đoong. Súng AK th́ lăm lăm, sẳn sàng nhả đạn nếu chúng tôi t́m đường chạy trốn. Ôi, nếu so sánh, chúng tôi và nô lệ thời Trung Cổ của La Mă có khác ǵ nhau đâu.

Tôi c̣n nhớ nằm cạnh tôi có ông bạn già là Tr/Tá ĐN Thanh trước 75 là CHT Quân Cảnh Quân Khu 2, và có thời gian Tr/Tá Thanh đă từng làm Trưởng trại giam tù phiến cộng ở Phú Quốc. Có một ngày họ phân công tôi và bác Thanh là 1 cặp trong toán chặt gỗ làm nhà, chỉ tiêu dài sáu mét, đường kính từ 1.5 đến 2 tấc, phải là gỗ tốt, lá nhỏ, vỏ mỏng. Tôi và bác Thanh phải lên núi cao t́m gỗ v́ dưới thấp không c̣n nữa. Sau khi chặt xong, tôi và bác Thanh khiêng về trại. V́ lúc đó tôi c̣n trẻ nên nghĩ rằng ḿnh khiêng phần gốc để bác Thanh phần ngọn nhẹ hơn. Từ trên triền núi cao, tôi lao xuống dốc v́ nặng quá, không kềm được, nên đă té ngă nhiều lần. Rốt cuộc để khỏi tai nạn, bác Thanh dành khiêng phần gốc v́ thật sự mà nói, bác rất khoẻ và rất đô con. Tối về sinh hoạt kiểm điểm xong, bác nằm và than sao đau lưng và khổ quá. Bên cạnh tôi có anh bạn Luật sư Lê Đ́nh Khang nói nhỏ:
“Bác khổ là v́ hồi đó bác hà tiện quá mà.”

Bác càu nhàu hỏi:
“Hà tiện ǵ?”

Anh bạn Khang nói:
“Nếu hồi đó bác sắm bao tải cho nhiều, cứ mỗi chuyến C130 chở tù phiến cộng từ Sài G̣n ra Côn Đảo, bỏ hết vào bao ném xuống biển, th́ đâu có ngày hôm nay.”

Bác và chúng tôi cùng cười, quên đi nỗi đau đớn nhọc nhằn.

Trong thời gian ở trại này, chúng tôi chứng kiến một cảnh thương tâm. Có một số anh em trốn trại nhưng không thoát được, tôi chỉ nhớ tên 2 người là T/Tá Giang và T/Tá Phước, 2 người c̣n lại tôi không nhớ được. Chúng cho làm mỗi người một cái lều, như lều cắm trại, sát mặt đất, có khung bằng ván để nằm, làm hệ thống cùm dưới chân bằng gỗ, khóa lại suốt ngày đêm, trông giống như những chiếc nhà mồ nằm ngay tại vọng gác trước mặt trại. Chúng tôi ngày nào lao động cũng phải đi ngang qua, trông thật đau xót và thương tâm, nhưng đâu biết làm sao khác hơn….



Vào một đêm, bỗng dưng lửa cháy các cḥi, cḥi của T/Tá Giang là nặng nhất. Họ được đưa đi bệnh viện Tuy Ḥa để cấp cứu. T/Tá Giang phải cưa hai chân đến đầu gối. Các bạn khác đều bị phỏng nhưng cũng được lành. Chúng tôi đều nhận định rằng chúng muốn đốt cho chết rồi cho là tai nạn, v́ các cḥi nằm giữa miếng đất trống th́ sao lại có hỏa hoạn.

Khoảng 5 tháng sau, họ thả anh Giang về. Gia đ́nh từ miền Nam phải lo phương tiện di chuyển anh, sau 75 gạo c̣n không đủ ăn, làm sao mà sắm xe lăn. Tôi nghe sau này h́nh như anh đă quyên sinh v́ nghịch cảnh gia đ́nh. Ôi thân phận con người, thân phận của những kẻ chiến bại, dưới nanh vuốt của một lũ bạo tàn nhất trong lịch sử của nhân loại.

Và cuộc đời chúng tôi cứ kéo dài như thế thôi, niềm tin được thả về c̣n xa lắm, chỉ khi nào sức cùng lực kiệt, chúng bảo ǵ nghe đó, sự đối kháng không c̣n nữa, may ra mới được về, lúc đó liệu c̣n sống sót bao nhiêu người đây. Phần cá nhân tôi, có một hôm, tôi bị sưng chân phải đi cà nhắc, xuống trạm xá được cho làm việc nhẹ . Buổi sang 1 tên bộ đội vào kêu chúng tôi đi làm, thấy tôi không chuẩn bị, hắn hỏi tại sao, tôi trả lời đau chân, trạm xá cho làm việc nhẹ. Hắn trừng mắt, giơ súng lên và bắt tôi đi làm với đội. Tôi phải cà nhắc theo đội để đi làm. Đứng cuốc đất suốt ngày bằng 1 chân, ngày hôm sau chân kia sưng phù lên. Thế là tôi phải nằm liệt mấy ngày. Ôi, bạn có h́nh dung được chúng tôi phải chịu đựng như thế không?

Sau hơn 3 năm chúng tôi được chuyển giao cho ngành Công an quản lư. Chúng tôi thuộc loại tù chuyên nghiệp, được chuyển đến trại A30 ở Tuy Ḥa. Trại này tập trung đủ các thành phần, h́nh sự, vượt biên, những người bị bắt năm 78,79 họ gọi là phản động, và chúng tôi từ các tổng trại 5, tổng trại 8, Trại Lam Sơn, Trại Thanh B́nh, v.v….Cảm nghĩ của tôi khi đến trại này là thôi, thế là cuộc đời gắn liền với chữ Tù. Giống như nhân vật Papillon của Henrie Chariere. Ở tù không biết tại sao ḿnh ở tù, ngoại cảnh đưa đến mà ḿnh không tài nào vùng vẫy được. Hay gần giống như nhân vật chính trong tác phảm “Giờ thứ 25″ của một nhà văn Nga tôi không nhớ rơ tên. Hết ở tù bởi quân Đức, rồi đến Nga, rồi đến Đồng Minh, khi ra đi th́ mới lấy vợ, khi về vợ đă 3 con rồi, mỗi quốc gia, một đứa.

Dưới tay Công An quản lư, thật là một sự xảo quyệt của con người, tinh vi đến mức không thể nào diễn tả được. Ở đây cũng thiếu thốn và đói như những trại khác, nhưng ở đây th́ gia đ́nh thăm nuôi, tiếp tế cho nhận thoải mái. Mục đích của chúng, cứ cho người nhà thăm nuôi ăn cho no, làm việc cho chúng vượt chỉ tiêu, th́ đâu có ǵ tốt bằng đâu nào. Các trại khác th́ thân nhân thăm nuôi chỉ cho đem quà, bánh, thức ăn không cho nhận gạo. Ở trại A 30 này, không tiếp tế gạo cho tù nhân là một thiếu sót lớn. Lần thăm ban đầu gia đ́nh tôi không biết, sau mới hiểu ra gạo là chính. Đến A 30, chúng tôi khai phá những cánh đồng ngút ngàn. Tất cả những cánh đầm lầy biến thành ruộng xanh ngút tầm mắt, và những cánh đồng mía chỉ thấy đường chân trời, tầm mắt không thể nh́n hết. Chúng lại lên lớp:

“Ta làm ta hưởng. Lao động là vinh quang.”

Ôi thật là bực lỗ tai. Sao có những con người, chỉ biết nói và không cần thái độ của người nghe. Chúng tôi làm cho họ hưởng, nếu gia đ́nh chúng tôi không nuôi th́ chúng tôi đă chết đói rồi.

Ở đây có một trường hợp, anh Đ/Úy Thức đơn vị Dù, tôi không biết Lữ Đoàn mấy v́ ở khác lán. Buổi chiều đi lao động về, anh gặp tên Tr/Tá Hạnh Công An Giám Thị trưởng Trại A 30 hỏi thăm và nói ǵ đó, sau lên lớp…V́ hắn quá trâng tráo và dối trá nên anh Thức dằn không nỗi nhảy vào đánh tên Giám Thị trại. Công an pḥng vệ đă nhào vô bắt và đán anh Thức, không thể nào diễn tả được. Chỉ biết sau khi đánh xong, chúng bỏ anh vào xe cút kít đẩy vào chỗ biệt giam th́ thấy anh như một đống thịt, máu me đầy ḿnh! Ôi con người đến thế th́ thôi! Tôi nghe sau đó họ đưa anh xuống bệnh viện Tuy Ḥa để điều trị và nghe đâu h́nh như có người bà con làm lớn ở Hà Nội lănh anh đem về nhà. Từ đó đến nay, không c̣n được nghe ǵ hơn nữa, không biết anh có c̣n sống, và nếu như có đọc những ḍng này của tôi, th́ xin anh nghĩ, lúc đó chúng tôi rất căm phẩn chúng nó, và xót thương anh nhưng chúng tôi đành bất lực……

Tôi cũng không biết nói sao, v́ mỗi con người có tŕnh độ nhận thức khác nhau, phải nói rằng nếu nghị lực không đầy đủ th́ sẳn sàng làm tay sai cho chúng. Có một ngày, chúng tôi đang cuốc cỏ th́ tên Công An quản giáo kêu tôi ra giữa đám ḿ, giở tṛ giáo đầu là tôi lao động lấy lệ, sinh hoạt không chịu phát biểu, ù ĺ, là thành phần chống đối ngấm ngầm, như vậy làm sao tiến bộ, cách mạng xét cho các anh về. Tôi muốn bật cười nhưng không dám, v́ nó đă nhàm với chúng tôi. Nghe bao nhiêu năm rồi. Tôi lặng thinh, hắn nói tiếp:

“Bây giờ anh muốn thể hiện cho chúng tôi thấy sự tiến bộ của anh th́ anh phải theo dơi báo cáo tư tưởng của anh nào chống đối cách mạng, ai phát biểu những ǵ bất lợi cho cách mạng. Báo cáo trực tiếp với tôi, hay bỏ vào ḥm thư trước trại.”

Tôi phải trả lời hắn theo sách vở:
“Thưa cán bộ, nhiệm vụ chúng tôi ngoài việc học tập lao động, tôi c̣n phải báo cáo ngay nếu phát hiện được những thành phần nào trốn trại.”

Hắn nói:
“Tôi yêu cầu anh báo cáo những anh nào phát biểu chống đối ḱa.”

Tôi vâng lấy lệ. Khoảng tháng sau, hắn kêu tôi ra lần nữa v́ không thấy báo cáo của tôi, hắn hỏi:
“Tôi không thấy báo cáo nào của anh hết, anh là thành phần ngoan cố, chống đối.”

Tôi nói:
“Tôi có để ư một hai bữa, thấy anh em ai cũng an tâm, đâu có nói ǵ, thành tôi không có ǵ để báo cáo.”

Hắn đơn cử một vài lời nói mỉa mai của vài anh em. Tôi nói:
“Anh em vui miệng nói đùa, tôi không để ư.”

Thế là hắn lôi tôi ra, dùng báng súng đập cho một trận. Tôi mang thương tích và nước mắt căm hờn về trại, cơm nuốt không vào. Không phải đau mà khóc nhưng uất hận làm cho nước mắt tuôn trào. Tối hôm đó một vài anh em mang thuốc giảm đau và dầu xoa bóp cho tôi, thật là an ủi. Dầu sao chúng tôi cũng c̣n có nhiều anh em nghĩa khí và có t́nh người.

Bọn hắn cũng có mắt chọn người lắm. Mỗi ngày chúng tôi đi cuốc đất, cả đội dàn hàng ngang, chỉ tiêu mỗi người 4 mét chiều rộng và 200 mét chiều dài, chúng chọn một tên kêu ra nói nhỏ:
“Anh ráng cuốc 250 mét, kỳ sau gia đ́nh anh lên thăm nuôi tôi sẽ can thiệp với trại để cho anh được gặp gia đ́nh ban đêm.”

Ôi, một sự hứa hẹn tuyệt vời. Tù nhân nào lại không muốn hàn huyên với gia đ́nh sau bao nhiêu năm dài ngăn cách, bao nhiêu biến cố vật đổi sao dời. Có người suy nghĩ chín chắn th́ thấy là chuyện đau khổ thêm cho vợ ḿnh, có người chuộng vật chất th́ cho đó là một đặc ân của Cộng Sản. Thật là một thủ đoạn quá tinh vi. Thế là hôm sau, tên được kêu cuốc vượt trội hơn anh em khác. Tối về họp kiểm điểm chúng nêu ra:
“Anh A cũng như các anh, cùng sức vóc, cùng tiêu chuẩn ăn uống như nhau. Người ta cuốc được 250 mét, các anh cuốc có 200 mét, lại kêu không đủ giờ, chứng tỏ các anh làm cầm chừng, lười lao động. Bao giờ các anh mới tiến bộ đây?”

Bắt đầu từ ngày đó, chỉ tiêu là 250 mét/ngày. Chúng tôi cuốc từ sáng sớm đến chiều tối, tay chân ră rời, tai như bốc khói. Trên đường đi về trại, thân thể ră rời ngất ngưỡng như người mộng du, v́ sức đă cạn rồi. Chúng tôi chửi thầm, ôi những thằng ngu, nào dám chửi thẳng vào mặt, nó mà báo cáo một phát là biệt giam, hai chân vào cùm, làm bạn với gián…..

Ở đây cũng có tổ chức những đêm văn nghệ, diễn viên là các em vượt biên bị bẳt. Các em c̣n rất trẻ, có em đă bị bắt vào đây đến 3 lần, thật đáng thương. Họ cho tập dượt, và cho tŕnh diễn những đêm thứ 7, chủ nhật hay các ngày lễ của chúng. Nội dung h́nh như chúng tôi gần như thuộc ḷng, v́ xem đi xem lại, tháng này qua tháng khác. Khi nào tổ chức văn nghệ là chúng lùa hết ra sân vận động, không được ở lại trong trại. Tôi và anh bạn Thắng đem áo mưa ra để nằm ngủ, chúng bắt gặp. Thế là hôm sau chúng họp kiểm điểm là chúng tôi không chịu tiếp thu văn hóa cách mạng, thành phần bướng bỉnh ù ĺ. Có những tṛ khác, bọn chúng mị dân, mà ngay cả một số gia đ́nh chúng tôi cũng nghĩ chúng là nhân đạo. Thí dụ sau khi cho vợ con thăm nuôi, tiếp tế, tối c̣n cho gặp. Ngày hôm sau, gia đ́nh về, chúng đưa sổ cho thân nhân viết cảm tưởng. Chúng đem tŕnh làng với đồng bào ở ngoài hay các phái đoàn quốc tế viếng thăm. Chúng đem khoe khoang cũng như phổ biến trong trại, thế th́ nhân đạo quá đi chứ, thử hỏi có thân nhân nào dám viết lời không tốt cho chúng đâu.

Ở trại này, trước khi chúng tôi chuyển đến, có nghe kể lại một chuyện thương tâm. Là có số anh em giựt súng tên Công An định bỏ chạy nhưng bị một tên Tr/Tá của ta ôm lại để cho Công An bắn chết 1 hay 2 đồng đội của ta. Cả trại rất căm phẫn và khinh bỉ tên này. Khi chúng tôi đến trại A 30 th́ tên này đă được bọn Cộng Sản cho định cư vùng kinh tế mới Mai Liên do trại quản lư và được đem gia đ́nh đến sinh sống v́ hắn có công với cách mạng. Tên này là Tr/Tá Lập trước kia làm Quận Trưởng quận Vạn Ninh, tôi biết v́ vợ của hắn có chút bà con xa với gia đ́nh tôi. Những năm sau khi được phóng thích về, có một lần tôi ghé thăm gia đ́nh cha mẹ vợ hắn, th́ mới hay việc đời có vay, có trả, thời gian sau vợ hắn đă bỏ hắn, sống với người khác rồi.

Những khổ h́nh ở trại làm sao mà nói cho hết, tôi chỉ ghi lại những điều ḿnh nghe, ḿnh chứng kiến để bạn đọc suy nghĩ thấy cái bạo tàn, quỷ quyệt của chế độ để đem một chút ánh sáng cho những ai v́ một chút quyền lợi riêng tư mà muốn cái gọi là ” hoà hợp ḥa giải với Cộng Sản”. Các bạn có biết, cảnh đời tù tội là đắng cay, khổ nhọc nhưng cũng có lắm chuyện cười ra nước mắt. Chúng tôi là những thành phần gồm sinh viên, giáo chức, cán sự, hay hành chính bị động viên. Dẫu sao, với xă hội miền Nam thời đó chúng tôi cũng là thành phần gọi là trí thức chút ít. Từ nhỏ cha mẹ sinh ra đă hy sinh cho con ăn học những mong cho con ḿnh đỗ đạt, cho cuộc sống vững vàng, chúng tôi nào có quen các cuốc, cái cày. Khi bị bắt vào đây chúng xem bọn tôi như một lũ ăn hại, vô tích sự.

Có một ngày đội chúng tôi đi cày lần đầu, các bạn có biết, trâu ḅ cũng quen với ngôn ngữ địa phương. Ở miền Trung từ B́nh Định trở vào, muốn ḅ quẹo trái th́ gọi Thá, muốn ḅ quẹo phải th́ gọi Dí, muốn chúng dừng lại th́ gọi Ḍ. C̣n ở vùng Quảng Trị muốn quẹo trái th́ gọi Tắc, muốn quẹo phải th́ dùng Rị, và muốn dừng lại th́ dùng Họ. Hôm đó mỗi người được phát một cặp ḅ và 1 cái cày, có một anh người Quảng Trị cầm cày và cầm roi điều khiển ḅ, cứ dùng hết Tắc rồi Rị, ḅ nó không biết đi đâu, nó quẹo lung tung. Ḅ đi măi gần đến bờ rào đụng nhà dân, anh la Họ….Họ….., ḅ vẫn đi, hoảng quá anh la : “Stop, stop, stop”. May có vài anh em ra chận ḅ lại, chúng tôi có dịp cười nghiêng ngửa. Khi anh chàng trở lại chúng tôi nói:

“Ḅ nó đâu có đến trường mà biết tiếng Anh, ông bạn.”

Những kỷ niệm đau khổ cũng như là hạnh phúc của con người đều có giá trị ngang nhau trong tiềm thức, người ta khó mà quên được. Có những ngày chúng tôi đi làm ruộng tại cánh đồng tên là Đầm Sen. Cánh đồng đầm lầy bạt ngàn, bỏ hoang lâu ngày từ thời Pháp thuộc, thật xa xôi và hẻo lánh, bèo lát, điên điển, cỏ dại mọc như rừng, mỗi lần nhảy xuống ruộng, có chỗ śnh ngập lên tới cổ. Và có những đám ruộng nước đĩa ơi là đĩa….lội như bánh canh. Từ nhỏ tôi cũng như nhiều anh em khác, nói chung môi trường sống là thành phố, nên thấy đĩa rất là sợ. Lần đầu tiên nhảy xuống ruộng, thấy nhột nhột nhảy lên, là một vài con bám chân bám đùi, máu chảy tùm lum…..Úi trời ơi, thật là hăi hùng, bắt chúng xong lại nhảy xuống, v́ nhảy lên bờ th́ AK chĩa vào đầu.

Ngày ấy làm ruộng về, mặc dù đói, nhưng cơm nuốt không nổi v́ tinh thần căng thẳng và hăi hùng quá mức. Mấy hôm sau, chúng tôi rút kinh nghiệm, chọn bộ quần áo nào mới nhất, không có chỗ rách, bỏ áo vào trong quần, cột hai ống chân cho chặt, cột quanh lưng, cột hai khuỷu tay, nhờ thế mà khi nhảy xuống ruộng, thấy đĩa bơi quanh người nhưng chúng không bám được, nhưng cũng có những trường hợp ngoại lệ, chúng vào tận chỗ kín để cắn, về nhà máu me tùm lum phát khiếp. Cũng có những chuyện vui đáng nhớ. Số là sau khi khai hoang xong, những đám ruộng bùn quậy lên rất nhiều cá nên anh em tha hồ bắt. Tôi th́ chạm cá rất nhiều, nhưng chẳng bao giờ bắt được cả. Bắt nó lên là nó vuột, bắt một tay cũng vuột, hai tay cũng không xong. Chiều về hỏi mấy anh bạn chuyên nghiệp chỉ giùm cho một chiêu làm sao để bắt mà nó không vuột. Anh bạn cười:
“Bắt cá cũng như đi cua gái vậy, khi đụng nó phải từ từ ṃ từ đuôi lên tới đầu, khi vị trí của đầu nằm trong ḷng bàn tay rồi, th́ dịu dàng nắm lại, thật chặt và thật êm th́ không bao giờ bị mất cả”.

Thế là hôm sau theo cách chỉ dẫn của anh bạn, tôi được mấy bữa bồi dưỡng ngon lành. Có những ngày làm cỏ ở những thửa ruộng cạn, chúng tôi không t́m được thứ ǵ để ăn. Vài ba người, mỗi người vài chú nhái, chiều về cải thiện, 1 vài con không đáng là bao, người nọ dồn cho người kia để ăn cho đủ. Các bạn biết sao không? Cho th́ tiếc, bèn oảnh tù t́ ai thắng th́ ăn hết, ai thua th́ nhịn. Ôi con người khi tới tận cùng đất đen rồi th́ mới nhận chân được giá trị của nó. Chuyện đă 28 năm rồi, nhiều khi tôi nghĩ ḿnh cũng nên quên đi để sống những ngày c̣n lại của cuộc đời. Nhưng thỉnh thoảng quá khứ lại hiện về, không sót một chi tiết nhỏ nào. Có những đêm ác mộng hăi hùng, bị đánh, bị tra tấn và những cơn trốn chạy dưới lằn đạn AK của chúng. Khi tỉnh dậy tinh thần bàng hoàng, đầu óc ngây ngô. Và không biết đến bao giờ tâm trí mới được b́nh yên đây. Đọc qua lịch sử biết bao sự hưng vong của chế độ Đinh, Lư, Trần,Lê….Biết bao nhiêu thi nhân đă tiếc thương một thời quá khứ êm ấm, thanh b́nh…..

Tạo hoá gây chi cuộc hư trường,
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Ngơ cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước c̣n cau mặt với tang thương,
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

Hay:

Nhớ nước đau ḷng con quốc quốc.
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia…
(Bà Huyện Thanh Quan)

Hoặc:

Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ây hồn Thục Đế thác bao giờ
Năm canh, máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc Xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ
Đêm đêm ṛng ră kêu ai đó
Dục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ
(Nguyễn Khuyến)

Vận nước đă đổi thay, quê nhà ch́m đắm trong cảnh bất công. Giới thống trị th́ vàng son rủng rỉnh, xe pháo dập d́u, người dân c̣n lại phải vật lộn với cuộc sống đầy gian nan mới đủ cơm ngày hai bữa, và c̣n phải lo thuốc thang khi đau yếu. Không hiểu tiền nhân có đau khổ như chúng ta không? Nếu có th́ chỉ có sự thay đổi thể chế xă hội và đau nỗi mất nước, không đến nỗi phải lưu vong như chúng ta, trên 15.000 dặm đường chim bay, xa hơn một nữa ṿng trái đất. Muốn t́m một chút t́nh cảm thân thương nơi cha, nơi mẹ, nơi anh em, nơi bạn bè hay người thân thật là khó vô vàn. Thật là:

Đau ḷng tử biệt sinh ly,
Muốn cho tái ngộ chỉ nhờ mộng trung….

Chúng ta đă may mắn thoát khỏi ách bạo tàn, dung thân ở xứ tự do. Tuy không dễ, nhưng chúng ta có đầy đủ quyền tự do của một con người được pháp luật bảo vệ. Quê nhà c̣n biết bao người thân đang trầm luân với cuộc sống đoạ đầy và bất công, chỉ hy vọng chút tin vui khi có con cái, hay anh em gửi về chút ít quà hay tiền để mạch máu đang chảy không bị cạn….bởi một lũ vô thần, tham lam, ích kỷ và tàn bạo…..

Với những ḍng này, mong đóng góp chút ít tư liệu về cuộc chiến, và những gương hy sinh của các Sĩ Quan QLVNCH, những anh hùng không tên tuổi đă nằm xuống trong cuộc chiến, để giữ ǵn miền Nam êm ấm thanh b́nh gần 3 thập niên từ sau 1945-1975. Và để cho thế hệ sau phân tích sự hy sinh gian khổ của cha ông. Và cũng mong quê hương dân tộc sớm khỏi ách bạo tàn của một lũ người vô thần thống trị,và măi măi thanh b́nh trong chiều hướng tự do dân chủ…..

Vơ Đức Nhuận
(Đây là những nhân vật có thật trong chặng đường chiến đấu cuối cùng, và những trại cải tạo đă đi qua)
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	1489232843-Tháng Ba 1.png
Views:	0
Size:	146.6 KB
ID:	1350539   Click image for larger version

Name:	1489232607-Tháng Ba.jpg
Views:	0
Size:	43.7 KB
ID:	1350540  
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Old 03-15-2019   #391
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,410 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Chuyến xe tang về quê chồng

Em là Trần Thị Lệ Hà, quê Cần Thơ, hiện cư ngụ tại San Jose, xin kể lại cho các bác niên trưởng trong quân đội câu chuyện năm 1975. Nếu miền Nam và Saigon gọi ngày 30 tháng Tư 75 là ngày tang của đất nước th́ ngày tang của Trần Thị Lệ Hà đến sớm hơn một ngày.


Đó là ngày 29 tháng 4 năm 1975. Đêm 28 tháng 4 cách đây 34 năm trung úy Quách Văn Sở, vơ bị Đà Lạt khóa 24, từ giă vợ con vào trại Hoàng Hoa Thám sinh hoạt với tân binh nhảy dù. Trung úy mũ đỏ Quách Văn Sở rất có tinh thần trách nhiệm, đă có giấy lên đại úy nhưng c̣n chờ lễ đeo lon. Quá nửa đêm 28 qua sáng 29 th́ Việt cộng pháo kích vào Tân Sơn Nhất và trại Hoàng Hoa Thám. Sáng sớm 29 tháng 4 lính dù chạy về báo tin anh Sở, chồng của Lệ Hà đă chết. Cùng một lúc khu trại gia binh nhảy dù phải di tản. Em lúc đó 25 tuổi, con trai đầu ḷng được 7 tháng. Chẳng có ai thân thuộc. Mẹ con ôm nhau chạy qua nhà ông cậu bên thành Lê Văn Duyệt. Chồng chết ra sao cũng không biết. Đường xá kẹt hết. Chuyện chiến tranh, trận mạc nhà binh từ khi lấy nhau tất cả đều do anh Sở quyết định. Nay bỗng nhiên trời xập, ôm đứa con dại, em ngồi khóc một ḿnh. Không biết xác chồng nằm ở nơi đâu. Chung quanh Sài G̣n náo loạn, ai mà lưu tâm đến người vợ trẻ mất chồng vào cuối tháng 4. Phải mà anh Sở chết sớm hơn một tháng th́ truyền thống lính dù đă đưa xác về tận nhà. Tang lễ uy nghi, có đơn vị trưởng chứng kiến lễ gấp cờ, như em đă thấy tại sân Hoàng Hoa Thám. Nhưng sao anh Sở lại chết vào cuối tháng tư, giờ thứ 25 của cuộc chiến.
Trải qua một đêm dài thảm kịch. Thằng bé Quách Vĩnh Hưng ôm mẹ nằm trên đất lạ. Cả mẹ con đều không thấy tương lai
.
Xác anh, giờ ở phương nào?
Sáng hôm sau, nhờ cậu em họ dẫn đường vào trại Hoàng Hoa Thám để t́m xác anh Quách Văn Sở. Doanh trại đă di tản. Ở một vài nơi quân ta c̣n kháng cự và quân địch chưa tiến vào. Khu bị pháo kích chỉ c̣n di tích đổ nát, thương binh tử sĩ nhảy dù chẳng c̣n thấy nữa. Nghe nói các chiến binh mũ đỏ đă tản thương anh em vào đêm 29 và đưa xác tử sĩ lên nghĩa trang Biên Ḥa.
Trên trời máy bay trực thăng ồn ào chở người di tản suốt ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Sáng 1 tháng 5 năm 1975, Saigon đổi chủ, em chẳng hề quan tâm. Nhờ người gởi con một nơi, lấy xe máy lên t́m chồng tại nghĩa trang Biên Ḥa. Đây là lần đầu tiên em t́m về nơi chôn cất tử sĩ miền Nam. Khu đơn vị chung sự Việt Nam Cộng Ḥa vẫn c̣n đầy xác chết và quan tài đủ loại. Có người phe ta c̣n làm việc nhưng mặc đồ dân sự. Lính cộng sản xuất hiện nhưng xem chừng c̣n ngại ngùng không kiểm soát. Phe ta mạnh ai nấy t́m xác người thân và than khóc. Tử sĩ miền Nam vẫn c̣n đầy đủ quân phục, danh tính cấp bậc. Trên quan tài vẫn c̣n đèn nến và vàng hương. Thân nhân ngồi khóc bên các tử sĩ từ các nơi chở về. Sau cùng em t́m được xác anh Quách Văn Sở, đă được tẩm liệm và cho vào quan tài. Một bác mặc đồ dân sự nói rằng chị yên tâm, tôi sẽ ghi dấu quan tài của ông Trung úy nhảy dù. Tôi cũng là lính Việt Nam Cộng Ḥa. Đă hơn 30 năm rồi, em vẫn c̣n nhớ h́nh dáng của người lính bên ta lo việc mai táng vào lúc mà toàn quân cùng với quốc gia không c̣n nữa. Sau khi thấy rơ tên tuổi di tích của anh Sở nằm đó, em trở về Saigon bắt đầu t́m xe thuê chở xác chồng về quê. Năm xưa, vợ chồng từ Hậu Giang lên Sài G̣n, bây giờ anh đă vĩnh viễn nằm xuống, em nhất định phải chở anh về với gia đ́nh, về nơi anh đă ra đời.
Quê em ở Cần Thơ, quê chồng ở Rạch Giá. Giờ này mẹ và các anh em họ hàng bên anh Sở vẫn chưa biết là anh đă hy sinh. Suốt mấy ngày đầu tháng 5, em t́m mọi cách để thuê xe chở quan tài. Trong những ngày giờ đó, chẳng quen biết ai, làm sao mà thuyết phục được chủ xe chở xác sĩ quan dù về tận Rạch Giá. Sau cùng khi t́m được lại phải cùng với chủ xe đi mua xăng. Tiền bạc không đủ, phải trả cả bằng nữ trang và nhẫn cưới đầy kỷ niệm.

Chuyến xe tang về quê chồng
Đưa xe tải về nhà, dọn những ǵ có thể đem đi được, từ giă cư xá gia binh, chấm dứt đời vợ lính. Mẹ ôm con lên xe trở lại nghĩa trang. Đó là ngày 3 tháng 5 năm 1975. Nghĩa trang đă thay đổi. Tất cả các xác chết đă bị Việt cộng bắt chôn tập thể. Nhưng may thay những quan tài có người nhận từ hôm trước vẫn c̣n. Vàng hương và tên tuổi cấp bậc th́ vứt đống dưới đất. Người lính chung sự Việt Nam Cộng Ḥa mặc đồ dân sự vẫn c̣n đó. Ông nói rằng quan tài này của trung úy dù tôi vẫn ghi dấu là đă có thân nhân đến nhận. Xin thưa với bác là em cũng chẳng biết tên ông lính đó là ai, nhưng ơn nghĩa tử sinh th́ em ghi nhớ suốt đời. Nếu không có ông này, chắc xác anh Sở cũng phải nằm chung trong mồ tập thể. Rồi nhờ mỗi người một tay, quan tài anh Quách Văn Sở được khiêng lên xe hàng. Mẹ con ôm nhau ngồi bên xác anh suốt quăng đường dài. Đó là chuyến xe tang về quê chồng tháng 5 năm 1975.
Bác hỏi em quang cảnh bên đường ra sao. Bác ơi, vợ lính 25 tuổi, ôm thằng bé chưa được một tuổi. Ḷng dạ nào mà nh́n thấy hai bên đường. Mắt em mở nhưng chỉ thấy toàn kỷ niệm quá khứ. Em là nữ sinh Đoàn Thị Điểm, Cần Thơ.
Anh Sở là sinh viên đại học Cần Thơ. Gặp nhau, hẹn ḥ, yêu đương. Từ đại học Cần Thơ anh vào vơ bị khóa 24 học suốt 4 năm. Em ra trường làm công chức, đổi từ Cần Thơ lên Saigon. Bốn năm Đà Lạt, Sài G̣n t́nh yêu thơ mộng biết chừng nào. Ra trường anh đi lính nhảy dù đóng tại trại mũ đỏ Hoàng Hoa Thám, em làm công chức tại văn pḥng phủ thủ tướng. Đâu có quen biết ông lớn nào đâu. Sở công vụ cho đi đâu th́ làm đó. Chiến tranh ở đâu th́ không biết nhưng Saigon, Cần Thơ và Rạch Giá là những miền đất đầy hạnh phúc của một gia đ́nh trẻ với đứa con trai.
Từ đầu tháng tư mẹ em ở Cần Thơ rất lo sợ cho con rể, con gái và cháu ngoại. Mẹ anh Sở ở Rạch Giá cũng đang cầu nguyện cho con trai, con dâu và cháu nội.
Chuyến xe đau thương của em ghé Cần Thơ. Mẹ thấy con gái về bèn ôm cháu ngoại hỏi rằng c̣n thằng Sở đâu. Con gái mẹ kêu khóc mà nói rằng: anh Sở chết rồi. Con đưa xác về đây. Mẹ đi với con qua Rạch Giá. Mẹ già tất tả vừa khóc vừa gói quần áo theo con gái lên xe. Cả xóm tuôn ra nh́n theo, chiếc xe tang về quê chồng lại lên đường. Xe tải chở theo bà xui Cần Thơ đi theo con gái. Nước mắt góa phụ trẻ bây giờ thêm nước mắt mẹ già. Thằng rể quí của bà đi lính nhảy dù mấy năm không chết mà đến ngày cuối cùng lại tử trận.

Người lính mũ đỏ đất Kiên Giang
Năm 1971 có anh sĩ quan nhảy dù xuất thân vơ bị làm đám cưới ở bến Ninh Kiều, Cần Thơ, tiệc bên nhà gái xong là rước dâu về Rạch Giá. Đoàn xe hoa cũng đi theo con đường này. Qua đến năm 1975, xe hàng chở quan tài người lính chiến về lại quê xưa, cũng có bà xui đại diện cho nhà gái trong chuyến đi cuối cùng. Xe về đến Rạch Giá, cả nhà họ Quách ra đón mừng, thấy quan tài con trai út bà mẹ té dài ngay trên bậc cửa.
Mẹ của anh lính dù có hai người con trai. Mấy năm trước người anh tên là Quách Hải đă tử trận. C̣n cậu út nhất định đi vơ bị rồi theo nhảy dù, bà tưởng rằng gởi gấm được ông tướng Dư Quốc Đống vốn là thân quyến th́ cũng đỡ nạn binh đao. Ai ngờ anh sỹ quan nhảy dù chết ngay tại trại Hoàng Hoa Thám vào giờ phút sau cùng của cuộc chiến.
Mặc dù lúc đó cộng sản 30 tháng 4 tại Kiên Giang đă làm khó dễ nhưng người góa phụ trẻ hoàn toàn không có kinh nghiệm trong cuộc sống đă một ḿnh đơn độc đem xác chồng về chôn tại quê nhà. Câu chuyện làm xúc động bà con lối xóm nên đám tang rất đông người dự để tiễn đưa người lính dù cuối cùng của đất Kiên Giang trở về quê mẹ.

Nước non ngàn dặm ra đi
Sau đó em trốn tránh quanh quẩn tại Hậu Giang v́ muốn giấu lư lịch vợ lính dù, lại làm công chức phủ thủ tướng. Qua năm 1979 trở về Cần Thơ vượt biên với má và thằng con trai. Nhờ anh Sở phù hộ, tàu qua Mă Lai bị kéo ra biển nhưng rồi cố lết qua được Indo. Ở bên Nam Dương một năm th́ vào Mỹ, đến ngay San Jose. Mấy năm sau, em gặp ông xă sau này, hai bên lập gia đ́nh và có thêm hai cháu.
Thưa với bác Lộc rơ, em có duyên số với Vơ bị và Rạch Giá. Ông xă hiên nay của em cũng là người quê Rạch Giá, cùng vượt biên năm 1979 trong một chuyến khác. Qua đây mới gặp nhau. Ông ấy ngày xưa cũng dạy trường vơ bị Đà Lạt. Con cái của gia đ́nh em, nói để các bác mừng cho, tất cả đều thành đạt và hạnh phúc. Các cháu cũng đă lập gia đ́nh và có thêm các cháu nội ngoại.
Ông xă em bây giờ hết sức tế nhị và thông cảm. Chính ông đă làm một bàn thờ tại gia để ghi nhớ h́nh ảnh của trung úy nhảy dù Quách Văn Sở ba của cháu Quách Vĩnh Hưng. Năm nay cháu 35 tuổi.

Chút di sản muộn màng, gửi tương lai vĩnh cửu
Đă 34 năm qua, em c̣n lưu giữ hồ sơ của anh Sở. Một tờ khai gia đ́nh của khu gia binh sư đoàn nhảy dù, căn cứ Hoàng Ḥa Thám. Có chữ kư của thượng sỹ Trần Văn Linh, trưởng trại gia binh. Kiến thị bởi trung tá Nguyễn Văn Tư chỉ huy trưởng căn cứ và chữ kư của gia trưởng trung úy Quách Văn Sở. Ngoài ra c̣n giấy chứng nhận bằng nhảy dù, thẻ căn cước dân sự, thẻ căn cước quân nhân, chứng chỉ tại ngũ. Trên các thẻ căn cước, chỗ nào cũng có tên mẹ của anh Sở là Dư Thị Kim Thoa, bà là vai cô của tướng Dư Quốc Đống. Trung úy Sở c̣n tờ giấy nghỉ phép 5 ngày từ 26 tháng 4 đến 30 tháng 4 năm 1975. Cầm giấy phép, nhưng anh Sở không đi phép. V́ lo tân binh Nhẩy dù mất tinh thần nên tối 28 tháng 4 năm 1975 anh vào trại. Trận pháo kích sau cùng đă làm thay đổi vận mệnh của cả gia đ́nh. Người thanh niên Kiên Giang, trải qua 4 năm sinh viên vơ bị Đà Lạt, 5 năm sỹ quan nhẩy dù, từ giă cuộc đời năm 30 tuổi. Anh để lại tấm thẻ bài hai mảnh. Gia đ́nh c̣n giữ suốt 34 năm qua. Nay đă đến lúc chia tay đôi ngả. Một tấm đi theo quân bạ vào viện bảo tàng. C̣n một mảnh xin giữ làm kỷ niệm cho con cháu họ Quách đời sau. Với đầy đủ tên họ, số quân và loại máu.

Tâm nguyện cho tương lai
Thưa bác, kể xong chuyện ma chay cho người chồng chiến binh 34 năm về trước, trao được các di vật cho viện bảo tàng Việt Nam tại San Jose, em rất yên tâm. Xin cảm ơn nhà em ngày nay, nguyên là giáo sư vơ bị ngày xưa đă thông cảm, sẽ thông cảm thêm. Con trai của anh Sở nay đă 35 tuổi, sẽ hiểu biết thêm chuyện gia đ́nh và chiến tranh. Những đứa con sau này ra đời tại San Jose bây giờ mới biết ngày xưa mẹ sống trong trại lính Dù có tên là Hoàng Hoa Thám. Anh em Đà Lạt khóa 24 biết thêm về người con gái miền Tây làm dâu vơ bị hai lần. Người Rạch Giá cũng biết thêm về cô gái Cần Thơ hai lần lấy chồng xứ Kiên Giang.
Và em tạ ơn trời đất c̣n có ngày nay. Trước sau em cũng chỉ là người vợ lính đă từng sống trong trại gia binh.
Em cám ơn các bác đă nghe hết câu chuyện 29 tháng 4 của em 34 năm về trước.
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Đôla Trăm (03-20-2019)
Old 03-15-2019   #392
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,410 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Ca sĩ rừng xanh và người Tù Binh

Chúng tôi bị đưa đến một cái lán nhỏ trong cánh rừng già vào lúc nửa đêm. Ngọn đèn dầu le lói soi những khuôn mặt lo sợ mệt mỏi nằm ngồi ngổn ngang bên những cái ba lô trên những chiếc chiếu trải vội vă trên mặt đất. Những đôi mắt hướng về chốn xa xăm đầy vẻ lo âu và có lẽ họ có cùng suy nghĩ. “Ngày mai cuộc đời ḿnh sẽ ra sao?”. “Bọn Cộng sản sẽ chôn sống ḿnh giống như chúng đă từng làm với dân Huế vào năm Mậu Thân”. “Bọn Cộng sản sẽ đày ải ḿnh suốt đời trong rừng sâu nước độc như bọn Cộng sản Liên Xô đă từng đày ải hàng chục triệu người ở Tây Bá Lợi Á”. Ngoài kia màn đêm đen như bức tranh sơn mài tiếng kêu của thú rừng hỗn loạn man dại.

Bỗng một tiếng kêu thật to “Trót…Bóp…” trên mái lán làm tất cả mọi người giật ḿnh, xa hơn tí nữa có tiếng kêu “Bóp … th́….Bóp” đáp lại. Vài anh nhốn nháo ngồi dậy hỏi “Con ǵ kêu vậy ?” ” Nó kêu Bóp th́ Bóp”. “Không phải. Nó kêu Trót…Bóp”. Tôi buột miệng nói giọng quả quyết ” Nó kêu Trót... Sót. Nó gọi những người c̣n sót lại không chạy thoát được” Không một ai cười theo lời nói đùa của tôi chỉ có những tiếng thở dài năo ruột. Đó là những giây phút u ám sau tháng 4 năm 1975 khi Quân đội Cộng sản Miền Bắc Việt Nam cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam và lùa hàng trăm ngàn Sĩ quan và Viên chức Việt Nam Cộng Ḥa giam vào rừng trên dăy núi Trường Sơn.

Phải đến một thời gian sau tôi mới biết tiếng kêu đêm đó là tiếng gọi nhau của loài chim Từ Qui đi ăn đêm với sự tích ngộ nghĩnh như sau: Hai chị em đang đùa giỡn, người em trai vô t́nh bóp trúng vú chị. Người chị e thẹn ngỡ ngàng run lên. Người em trai không hiểu chuyện ǵ xảy ra cho chị ḿnh lo sợ chạy trốn vào rừng. Người chị hàng đêm t́m em la vang động núi rừng Bóp th́ Bóp không can ǵ cả. Người em trai trả lời đă Trót Bóp nên không dám trở về.

Hôm sau giữa cánh rừng già mênh mông chúng tôi bắt đầu một cuộc đời mới đầy bi thảm. Một vài anh bạn lượm được vài mảnh sắt vụn của những quả bom. Một ḷ rèn thành h́nh để có vài dụng cụ chặt cây dựng trại đón thêm những người bất hạnh mới nhập cuộc. Rừng sâu xa xôi nên thiếu thốn đủ thứ. Anh em lạ nước đau ốm liên miên cũng chẳng có thuốc men. Có anh bị ruột thừa được đưa vào mùng tránh ruồi bu rồi mổ bụng đại ra như mổ bụng heo mặc cho anh ta la khóc. Đêm đến bọn Cán bộ Cộng sản họp từng nhà nói oang oang động viên cần phải khắc phục khó khăn này khắc phục khó khăn khác. Sáng ra tiếng kêu “La Fa La Độ” của một loài chim nào mà chính tôi hiện nay vẫn chưa biết mặt vang động cả núi rừng. Một hôm trong lúc ngồi nghỉ giải lao một anh bạn cho biết trong cuốn sách của bọn Cộng sản có viết về con chim này và gọi tên là “Bắt Cô Trói Cột”. Chúng tôi cho rằng cái tên này nghe quá tàn nhẫn và đổi lại tên cho nó là “Khó Khăn Khắc Phục”.

Tháng ngày dài dằng dặc trôi qua, chúng tôi vào rừng đốn mây chặt cây trồng sắn trồng khoai v.v… để trả món nợ đă lỡ Sanh Lầm Thế Kỷ. Điều khổ nhất trong những năm tháng tù đày là cái đói : Mỗi buổi tờ mờ sáng khi nhận được một ca Quân đội cơm độn sắn ngang miệng ca và chút nước muối tôi thường tính toán chỉ nên ăn một nửa ca và để dành nửa c̣n lại đến trưa ăn chung với phần ăn trưa để có được một bữa no. Tôi thường tự vỗ về ḿnh nên bắt chước người Pháp ăn lót ḷng buổi sáng thật ít cho nhẹ bụng. Nhưng than ôi khi ăn hết nửa ca cơm độn sắn th́ cái đói đă làm tư tưởng tôi thay đổi: Cứ ăn hết rồi trưa sẽ tính sau. Đến trưa khi với phần cơm độn sắn chưa được góc bụng th́ tôi hối hận thầm trách ḿnh ham ăn nên chẳng bao giờ có được một bữa no. Đến tối khi phần cơm chiều đă tiêu hết trong bụng từ lâu tôi lại thèm ăn và đành nếm một chút nước mắm để có được mùi vị ǵ trong miệng. Nhưng mặn miệng th́ phải uống nước nhiều đêm lại mất ngủ v́ phải đi tiểu nhiều và chập chờn thao thức với ước mơ được ngậm trong miệng cục đường nằm dưới bóng mát một gốc cây. Rồi lại kinh hoàng khi nghe tiếng kẻng báo hiệu một ngày lao động nặng nhọc đón chờ nhưng cũng lại rất mừng v́ sắp được ăn sáng.

Những lúc ngồi trước phần cơm đă được vét sạch sành sanh mà bụng c̣n đói meo và miệng vẫn thèm ăn vô hạn tôi mới hiểu được tại sao đại văn hào Constantin Vigil Gheorghiu khi lê lết qua các trại tù đă viết thỉnh nguyện thư để xin chút mỡ và tiếng “La Fa La Độ” của con chim rừng nhỏ bé lúc đó lại trở thành tiếng nói của ḷng tôi với người chung quanh “Cơm c̣n Cho Cục”. Lẫn lộn trong những tiếng chim rừng quanh trại giam tôi c̣n nghe con chim “Tây Về Chưa Hết” hỏi tôi với giọng đùa cay đắng “Cơm C̣n Canh Hết”. Tôi trả lời nho nhỏ trong miệng “Cơm Hết Canh Hết Bụng Đói Meo”. Rồi nh́n ra ngoài hàng rào trại giam nghe rừng cây lao xao những tiếng ŕ rào buồn nhất thế kỷ.

Điều tàn nhẫn nhất của bọn cộng sản là bắt những người bụng đói ấy làm việc quần quật ngày đêm. Trong những mùa thi đua chúng đẩy chúng tôi ra đồng lúc trăng chưa tàn và trở về lúc trăng đă mọc. Lâu lâu chúng lại lôi một anh em trong chúng tôi ra đánh bề hội đồng để dằn mặt những anh thiếu năng nổ và để tăng năng xuất hoặc chúng đem vào rừng bắn chết vài anh để tạo căng thẳng lo sợ cho đám tù (Trại Kỳ Sơn đă bắn chết các anh Thiếu Úy Hà Thúc Long, Trung Tá Vơ Vàng, Trung Tá …Hoàng ). Đêm đến là những cuộc họp từng nhà với những lời phê b́nh đấu tố gắt gao để t́m những sơ hở của anh em trong lời nói trong việc làm để hành hạ trả thù. Ai đă từng đi qua các trại tù Cộng sản chắc chắn sẽ được thấy từng đoàn người da bọc xương đi ra đồng làm việc. Sáu cân gạo cộng thêm chín cân màu và nước muối cùng rau là tiêu chuẩn ăn hàng tháng đă làm cho anh em không có thăm nuôi kiệt sức chết chôn đầy trong những hốc núi. Nhưng không ai biết rằng trong các lùm cây bên đường có tiếng của các Ca sĩ rừng xanh hỏi “Đi Mô Mà Tội Chơ Tề” “Đi Mô Mà Tội Chơ Tề” khi thấy chúng tôi gánh những người chết v́ đói v́ làm đến kiệt sức đi chôn như đang ngạc nhiên về hành động đối xử với nhau của thế giới loài người và như cảm thông với những người tù binh đang bị đày đọa trong rừng sâu thăm thẳm.

Âm nhạc không phải là môn tôi ưa thích. Những lúc nh́n ca sĩ Thái Thanh uốn éo đứng hát tôi thấy mệt trong người, ca sĩ Giao Linh rầu máu rên rỉ tôi đứng dậy đi lơ. Nhất là lúc mấy cậu lính của tôi chụm vào nhau nghe ca sĩ Elvis Phương gào lên thảm thiết “Anh! Anh! Hỡi anh ở lại Charlie” hoặc “Anh không chết đâu anh”. Tôi thường chửi đổng “Đ.m. thằng đó đang trù yểu bọn mày nghe nó hát làm ǵ”. Mà quả đúng như vậy, lúc các anh đang sống đang ngon lành th́ chúng than khóc về những cái chết, lúc các anh từ chết đến ngất ngư th́ chúng chạy đi đâu biệt tăm chỉ c̣n lại tiếng chim rừng đầy thông cảm.

Người ta nói sáo là nữ hoàng trong nhạc cụ bằng gỗ v́ nó phát ra âm thanh thánh thót xoáy vào tai đi thẳng vào tâm hồn. Kèn trumpet là vua trong nhạc cụ bằng đồng v́ nó kéo được cảm xúc con người dài theo tiếng nhạc. Nhưng dù cho nữ hoàng và vua có hợp lực nhau lại cũng không bằng một phần của tiếng chim kêu. Tất cả phát minh nói cho cùng là chỉ là những thứ được bắt chước từ thế giới tự nhiên mà con người dẫu thông minh tới đâu cũng không thể phát minh được những ǵ ngang hàng với phát minh của tạo hóa. Đó là món quà quí báu mà tạo hóa ban cho con người nếu biết thưởng thức. Đó là những nhạc công thực thà nói lên tiếng ḷng bằng những nhạc cụ sống.

Rừng Hiệp Đức, nơi tôi bị giam cầm, không xa Tây Nguyên lắm. Cây trăm năm cao âm u che kín những cuộc đời buồn. Thỉnh thoảng có những khoảng đất trống giữa rừng th́ hoa đủ màu nở bạt ngàn lan cả mọi lối đi, chim rừng tranh nhau ríu rít kiếm ăn trong không gian chật hẹp. Tôi không biết hoa rừng có bao nhiêu thứ, cánh hoa nào đẹp nhất rừng Tây Nguyên. Tôi cũng không biết chim rừng bao nhiêu loại. Trời hé sáng chim rừng ca rộn ràng náo loạn, t́m được miếng ăn chim rừng mừng rỡ hát vang. Lời của chim trong sáng thật thà mang vẻ hoang sơ như thuở thượng đế lập địa khai thiên tạo ra muôn vật. Đôi lúc rảo bước đi qua khu rừng vắng, im nghe nhạc rừng tâm hồn vui phơi phới, tôi cười một ḿnh rồi cất tiếng hát vang cây rừng họa tiếng theo lời ca miên man. Nhạc rừng ồn ào không nhịp không điệu, lúc mới nghe tưởng rằng man rợ chẳng có lớp lang nhưng nghe lâu mới bất chợt t́m ra nét chấm phá tuyệt vời của âm thanh ngoài tầng nhận thức. Nhạc rừng cũng như vũ điệu hùm bà lằng của giới trẻ trong các câu lạc bộ huyên náo qua tiếng nhạc Hip Hop lung tung mới nh́n thấy các vũ công huơ tay múa chân thật là man dại chẳng ra đầu đuôi, nhưng nh́n lâu mới ḷi ra những vũ công đặc sắc. Bên này con chim nho nhỏ hỏi “Sao Không Thấy Về Chi Hết?”, bên kia con Đa Đa nhắc lại kỷ niệm xưa “Giắt Bà Xă Đi Chơi Tà Tà”. Ḱa con chim Khứu nhảy quanh và đang hót trả lời từng tiếng huưt sáo của tôi. Có những chị em chỉ nói được hai tiếng Ô Kê mà đă lấy chồng ngoại quốc và sống với nhau đến răng long đầu bạc. Tôi huưt sáo, chim hót trả lời qua lại hằng giờ lẽ nào chẳng hiểu được nhau.

Năm ấy bọn cộng sản xây dựng đập Phú Ninh, cái đập mà các chuyên viên VNCH chẳng dám rớ tới v́ sợ có ngày nước tràn vỡ đập thổi bay Thành phố Tam Kỳ bên dưới. Chúng dùng sức tù của Trại 2 Kỳ Sơn để phát ḷng hồ. Chúng tôi ngày ngày đi đốn cây vào mùa trứng chim nở. Phần đông anh em đều có được một tổ chim con để trên đầu nằm nuôi cho qua ngày đen tháng bạc. Chiều chiều đi làm về đút mồi cho chim ăn cũng là một thú vị của những người tù, chim há miệng thật to ríu rít đập cánh đ̣i ăn, đút bao nhiêu ăn bấy nhiêu, ăn đầu miệng phọt ra đầu đít rồi vẫn đập cánh đ̣i ăn. Tôi chứng kiến tận mặt các ca sĩ rừng xanh từ lúc mới nở từ trong trứng ra đỏ ỏng cho đến ngày lông cánh xù ra đầy đủ. Mỗi ngày đi làm về anh em đều có một xâu châu chấu làm quà. Chim bay ra tận cổng đậu trên đầu trên vai đám tù binh để ríu rít chào đón giành ăn. Người và vật, một kẻ muốn tư do mà chẳng được, một kẻ có sẵn tự do mà chẳng muốn đi, ồn ào quấn quưt bên nhau trên một đỉnh đồi.

Ngày chúa nhật các anh có nuôi chim tụ họp với nhau vào một góc trại, anh nào cũng đem chim ḿnh… nuôi ra khoe. Con b́m bịp to bự chát nhưng lờ đờ hiền khô. Con chèo bẻo nhỏ xíu dữ dằn ĺ lợm. Có con chim màu xanh không biết tên ǵ chạy tới chạy lui làm con chim nào cũng sợ nhảy tạt ra xa. Một đám người một bầy chim nói cười kêu hót với nhau trong hàng rào trại giam. Mặt trời trôi nhẹ trên cao, thời gian đi ch́m trong tê tái.

Tôi có anh bạn là Trung Úy Hạ Quốc Huy, trước khi trốn thoát trại giam đă năn nỉ nhờ tôi nuôi giùm con chim b́m bịp. Khi đói đ̣i ăn nó nhảy đến bên chỗ nằm ngoạm lấy tóc giựt vài cái kêu tôi dậy. Nó nuốt một cái là xong một con cắc kè, nuốt hai cái là vào trong bụng một con rắn không ai đủ khả năng cung cấp thực phẩm. Thế nhưng khi bọn cộng sản họp chúng tôi lại để lên lớp, chúng phá nát cả đất nước nhưng miệng luôn ca ngợi một cách trơ trẽn những thành quả cách mạng láo khoét th́ con b́m bịp đứng bên thành cửa sổ ngưng rỉa cánh chơ miệng vào lớp học nói “Bịp! Bịp! Bịp!” làm tôi cười khoái trá.

Thế rồi một hôm có tiếng chim gọi đàn rộn ràng trong sớm. Bầy chim được nuôi trong trại tù lần lượt bay theo đàn người như những người t́nh người vợ bỏ người tù ra đi. Người xưa dạy rằng nước mất th́ nhà tan nên lâu lâu có anh được thăm nuôi xách gói quà vào mời anh em ăn một miếng rồi nói nho nhỏ “Vợ tao bỏ tao rồi!” cũng như “Con chim tao nuôi bay mất rồi!”. Thế nhưng cũng có nhiều người vợ chung thủy nuôi con chờ đợi chồng như con chim B́m Bịp to lớn dềnh dàng đi tới đi lui măi trong trại giam không hiểu v́ tính chung thủy không muốn rời xa các tù binh hay tính làm biếng đi kiếm ăn.

Năm ấy chúng tôi lại bị chuyển lên giam ở trại tù An Điềm. Tôi bị giam vào đội quản chế chung cùng các anh Bùi Đ́nh Khai, Hồ văn Ánh, Lê Xuân Nhuận. Những con người một thời hét ra lửa nhưng nay lại trở nên thật khù khờ. Sau này tôi mới biết ai cũng phải đóng vai khù khờ để đi qua ải v́ tên trưởng trại hằng đêm xuống pḥng sử dụng độc chiêu của chúng là phê b́nh và tự phê b́nh cố t́m cho ra sơ hở của người tù để cho vào pḥng kỷ luật.

Pḥng kỷ luật được xây từng ngăn như những cái nhà cầu, người bị giam nằm dài trên mặt nền tḥng hai chân cùm vào một thanh sắt để ngang trên mặt đất. Trung úy Đặng Như An chỉ v́ lấy nước uống đụng rớt thùng thơ chúng gán tội phá hoại bị cùm một năm. Lúc ra khỏi pḥng kỷ luật người nhỏ lại như một bộ xương người biết đi. Anh Trương Thanh Tân v́ nói chuyện đường từ trại qua Lào bao xa, chúng gán tội lập kế hoạch trốn trại bị cùm không có ngày ra, anh phải cắn lưỡi tự tử. Đại Úy Nguyễn Văn Phượng viết vào bản kiểm điểm lao động không vinh quang, chỉ có hưởng thành quả lao động mới là vinh quang bị chúng cùm tới ngày chết v.v… Phần đông người tù bị vào pḥng kỷ luật do những tội không đâu vào đâu, bị bọn cộng sản gán tội lập công hay bị chúng tạo ra tội để làm điển h́nh răn đe những tù nhân khác. Mười anh vào pḥng kỷ luật ra được vài anh, số c̣n lại ra nghĩa địa.

Vào một buổi chiều, anh Vơ Văn Lang, ủy viên Trung ương Quốc Dân Đảng, chửi thằng đội trưởng Nguyễn Đức Lộc, tục gọi là Lộc Hô một tên anten ngầm rất nguy hiểm. Y chạy lên báo cáo cùng bọn cán bộ là Vơ Văn Lang đă chửi nó và ngăn cản anh em lao động. Y ghép tôi đứng cạnh đó có nghe. Tôi nói không có nghe nên bị hai tên Công an đứa đứng trước đứa đứng sau đánh suốt một ngày. Chịu không nổi trận đ̣n thù tôi phải nhận có nghe để can tội bao che cho đồng phạm và bị đẩy vào pḥng kỷ luật. Vào một đêm trong pḥng kỷ luật tôi mê man và thiếp v́ trận đ̣n hằn và cơn đói hành hạ. Tôi nghe tiếng ai hỏi bên tai “Con có no không?” “Con có no không?” Tôi ngồi dậy chẳng thấy ai ngoài tiếng muỗi bay vo vo chung quanh. Câu nói như có luồng sinh khí bơm vào người làm tôi khỏe hẳn ra và được ra khỏi pḥng kỷ luật vài hôm sau. Kỳ lạ thay, tôi nhớ như in măi trong trí tôi âm thanh ngọt ngào dịu dàng đầy t́nh thương kia và tôi biết chắc rằng âm thanh đó không phải là tiếng nói của con người, tiếng nói của con người dù dịu ngọt đến đâu cũng ẩn chứa trong đó những âm thanh man trá tàn ác.

Nếu quả thật có câu chuyện Thiên Chúa sanh ra muôn loài và ông Adam v́ lời nghe con rắn mà ăn trái cấm để bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng th́ chúng ta cần phải cẩn thận khi nghe lời nói của con người, những hậu duệ của ông Adam, v́ trong đó có một phần của ác quỉ. Không phải trong ngẫu nhiên mà loài người hiện nay gọi người cộng sản là con ma cộng sản. Cách tốt nhất là đừng nên nghe những ǵ người Cộng sản nói, cái giá tin vào lời nói của bọn Cộng sản đôi lúc phải trả bằng cả sanh mạng ḿnh.

Hơn 12 năm bị giam trong rừng sâu của dăy núi Trường Sơn, tôi biết được một điều cần nói lại cùng với các em nhỏ: Con người là một sinh vật tàn ác nhất trên thế gian, sự tàn ác càng tăng khi đằng sau con người có những tổ chức và thế lực hậu thuẫn và tôi cũng biết thêm trong những cánh rừng kia có những loài chim đă rơi lệ khi nh́n chúng tôi bị đày đọa. Tôi biết tôi viết ra điều sau này sẽ có vài em nhỏ cho rằng tôi quá tưởng tượng nhưng làm sao em biết bia đá không đau, chim rừng không khóc?

Thế rồi cuộc hành quân Nhân Đạo (Human Operation) đă đưa tôi ra khỏi vùng đất dữ Việt Nam và cho tôi đậu và miền đất lành Hoa Kỳ đă được 21 năm qua. Ngày tháng khó khăn ở vùng đất mới rồi cũng qua đi, các bạn tôi nhờ có sự trợ giúp của con cái, đứa lớn d́u đứa nhỏ, cùng nhau hội nhập và thành công trên miền đất lạ. Quê hương Việt Nam đầy khốn nạn của tôi nằm bên kia trái đất xa vời vợi và mờ dần trong trí óc ngày mỗi già của tôi. Một buổi sáng ngồi đọc báo trên mạng điện toán theo dơi cuộc xử án và cách kết tội hèn hạ của bọn cộng sản đối với bốn thanh niên yêu nước đáng thương: luật sư Lê Công Định, thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung, anh Trần Huỳnh Duy Thức, anh Lê Thăng Long, những người này sẽ bị bọn cộng sản dẫn qua con đường mà tôi đă bị dẫn qua vào 35 năm trước. Tôi bỗng nhớ lại những năm tháng tù đày và viết lại trên bài viết này. Tôi nghĩ người cộng sản cần phải chấm dứt gây thêm những tội ác với Dân tộc Việt Nam. Yêu nước mà không yêu đảng cộng sản, không muốn thực hiện chủ nghĩa cộng sản là quyền của mọi người. Đừng nên dùng bạo lực bắt dân Việt tôn thờ một thứ mà cả thế giới đều đă cho vào thùng rác: chủ nghĩa cộng sản.



Nhất Hướng Nguyễn Kim Anh
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Đôla Trăm (03-20-2019)
Old 03-15-2019   #393
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,410 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Các Hung Thần Trại Giam

Trại Cải Tạo A-20, Xuân Phước

Đời có gian lao mới rạng danh hào kiệt,
Tù không đày đọa sao rơ mặt anh hùng.

Lê Đồng Vũ (Xú danh Lê Văn Nhừ)

Chuyện là như thế này. Tên phân trại trưởng là Lê Đồng Vũ, người miền núi Thanh Hoá có lẽ thuộc sắc dân Mường. Khuôn mặt y bèn bẹt vô tri vô giác, trên đó có đôi mắt lèm nhèm và cái miệng mỏng dính, thâm ś trông vô cùng nham hiểm. Chúng tôi đặt tên nó là Lê Văn Nhừ. Nó đúng thuộc con cháu ba đời của Chí Phèo, (cha đẻ của Chí Minh), tượng trưng cho loại người hạ đẳng của xă hội, mang đầy mặc cảm thân phận đớn hèn, nên khi có chút quyền thế là ra tay sinh sát thậm tệ với đồng bào đồng loại. Tên này ít nói, vô học đến nỗi đọc lại lời trong trang sách cũng sai bét sai be. Có lần nó đọc đoạn viết về phát triển nhà ở bên Liên sô. thay v́ : “năm nay, có 10,000 căn hộ đủ tiện nghi được đưa vào sử dụng,” nó đọc thành “có 10,000 cán bộ đầy đủ tiện nghi...” Cũng có lần, v́ không biết ngừng đúng nơi dấu chấm câu, nó đă đọc một đoạn văn như sau : “ Nhân dân ta, sau khi chiến thắng đế quốc Mỹ, đă trở thành biểu tượng anh hùng của nhân loại.” thành : “ nhân dân ta sau khi chiến thắng, đế quốc Mỹ đă trở thành biểu tượng anh hùng của nhân loại.”

Thấy không trị nổi đám tù quân đội bướng bỉnh, Lê Đồng Vũ dùng cái ăn để lung lạc. Ban đầu, nó bày ra Ban văn nghệ, hứa hẹn có cháo gà, có chè bồi dưỡng. Ngày đầu tiên, chúng gọi một số anh em có chút máu văn nghệ lên họp, nấu sẵn một nồi lỏng lỏng mấy cục bột khoai ḿ với đường mật gọi là chè. Ngoại trừ vài anh v́ thiếu quyết liệt đă tham gia để có được một tô chè đầy, c̣n đa số đều bỏ về, tẩy chay văn nghệ, trong đó có Ca sĩ Duy Trác và Tăng Ngọc Hiếu. Đội văn nghệ phải lấy chủ lực là đám tù h́nh sự và Việt Nam Thương tín.

Dương Đức Mai, tên Judas Phản Bội.

Khi anh em chúng tôi c̣n ở trong xà lim, phong trào chống đối lên rất cao. Lê văn Nhừ bèn đưa một con chiên ghẻ là cựu Trung tá Dương Đức Mai từ phân trại B ra làm trưởng ban Thi đua trật tự. Người này có một cuộc đời binh nghiệp đầy hào hùng, trên đầu từng đội ba màu nón : màu đỏ của Nhảy dù, màu xanh Lực lượng đặc biệt và màu nâu Biệt động quân. Người này từng làm Quận trưởng Ninh Ḥa, từng làm Liên đoàn trưởng BĐQ. Người này trên cánh tay phải c̣n vết xâm h́nh cánh dù và ḍng chữ SKY WARRIOR. Nhưng người này đă sớm bán linh hồn cho quỷ đỏ.

Hiểu rơ tâm lư và sinh hoạt của anh em, Dương Đức Mai thiết lập một hệ thống ḱm kẹp tinh vi, với những chủ đề thi đua, sắp xếp nội vụ. Mai tổ chức một mạng lưới ăng ten, tuyển lựa bọn người yếu kém tinh thần sẵn sàng v́ miếng ăn và chút ưu đăi mà phản bội anh em. Khi có người phàn nàn rằng bọn trật tự cư xử mất dạy, Dương Đức Mai không ngại ngùng tuyên bố : “đối với các anh, thế vẫn chưa đủ.”

Có thể nói Dương Đức Mai từng bước đă thành công trong việc đàn áp tù nhân. Anh em đành phải thu lại, chỉ âm thầm chịu đựng; v́ rơ ràng ngày tù th́ lê thê, không biết kéo dài bao nhiêu năm, không c̣n tia hy vọng ǵ ở sự hưng phục. C̣n giữ được tinh thần đấu tranh là v́ có chính nghĩa và ḷng căm hận, khinh bỉ đối với kẻ thù, chứ khó mong ngày lật ngược thế cờ. Cũng trong giai đoạn này, tin tức bùng nổ về việc Việt cộng bằng ḷng cho tù nhân cải tạo ra đi do Hoa kỳ tranh đấu và sẵn sàng đón nhận. Đó là niềm hy vọng độc nhất và cao nhất của chúng tôi. Nhưng đó cũng là điều làm cho nhiều anh v́ quá lạc quan mà gây ra những việc làm ngây thơ, để cho Việt cộng có dịp truy ra hết mầm mống chống đối.

Dương Đức Mai đă làm cho không khí trại tù ngột ngạt như tôi vừa nói ở đoạn trên. Anh em không c̣n dám ngồi gần nhau trên hai người. Chẳng ai dám ăn chung với ai, chẳng ai tâm sự với ai. Buổi tối, ở góc pḥng chỗ cửa vào nhà cầu, có một ngọn đèn dầu và bóng dáng một tên ăng ten ngồi ŕnh ṃ. Trong giờ sinh hoạt, có đứa nh́n tận mồm anh em xem thử có hát thiệt hay chỉ mấp máy đôi môi. Một người bị đội trưởng nêu ra là loại xấu, th́ không ai dám bào chữa dùm. Chế độ ăn uống cũng được Dương Đức Mai sáng kiến ra làm 5 thành phần : Loại tích cực 21 kí khoai, loại khá 18 kí, loại trung b́nh 15 kí, loại kém 12 kí, và tù biệt giam chỉ có 9 kí thôi.

Thực tế đă tính luôn vỏ khoai, đất cát mà lại không cân đong đủ như thế. Chiếc bánh bột khoai ḿ gồm cả vỏ, tim, đất cát... nhỏ bằng bao thuốc lá là phần ăn cho loại trung b́nh. Người tích cực được thêm nửa cái, khá được thêm một phần tư; loại kém th́ cái bánh bị cắt đi một góc mà chúng tôi gọi đùa là cây súng lục. Chế độ ăn như thế phần nào có hiệu quả trong việc đàn áp sự chống đối. Có ai ở tù, chịu đói mới thấy miếng ăn nó quan trọng ra sao. Nó hành hạ cơ thể và tâm lư con người đến mức nào. Nó đày con người xuống tận cùng của ḷng tự trọng.

Ngoài những anh có gia đ́nh thăm nuôi đều hoặc gửi bưu kiện hàng tháng, đa số đều ở trong t́nh trạng dân con bà phước, nghĩa là sống nhờ vào chút thực phẩm của trại và ḷng thuơng của anh em khác. V́ thế, nhiều người đă lợi dụng miếng ăn để sai khiến anh em ḿnh, và cũng có kẻ ngày xưa uy quyền nay đă phải hạ ḿnh làm một thứ đầy tớ để đổi lấy miếng đường, chút cơm khô.

T́nh trạng thiếu chất rau thật thậm tệ. Ngoài đồng, anh em trồng đủ loại rau; nào cải bẹ xanh, nào rau muống, củ cải... Nhưng trại chỉ cắt nấu khi rau đă già, cải đă lên ngồng, trổ hoa, chín hạt. Mỗi người đuợc phát ra vài cọng rau muống già. Ngày tết có chút củ cải dai như bao gạo chỉ xanh, nhai mỏi miệng rồi nhổ ra như các bà già ăn trầu nhả bă. Mỗi năm chúng tôi được ăn thịt ba lần, mỗi lần một chút xương có dính tí thịt, nước váng chút mỡ. Họ cắt da ḅ thành từng miếng như lát mứt dừa, nấu lên phát ra cho chúng tôi, ăn vào tưởng như đang nhai vỏ xe đạp. V́ thế, trong khi ra ngoài lao động, anh em phải t́m cách cải thiện. Bất cứ con vật ǵ nhúc nhích, dù nhỏ đến đâu cũng là tí chất tươi cho vào miệng sau khi nướng sơ qua trên than hồng. Có anh ăn cóc, nhái, ểnh ương; có anh ăn sâu đất, bọ. Thậm chí có anh lượm cả bộ ḷng chó mà bọn cán bộ vứt đi đă śnh thối về ăn. Hậu quả là ói tận mật xanh, tưởng đă đi luôn về bên kia thế giới.

Trại qui định mỗi ngày, mỗi đội chỉ được hai người khai bệnh. Trong trại có một trạm thuốc với Bác sĩ Lịch trông coi, nhưng chẳng có thuốc men ǵ ngoài một vườn cỏ cây mà họ gọi là thuốc dân tộc. Bọn cán bộ tịch thu thuốc tây do gia đ́nh gửi vào để xài cho chúng. Anh em ta bệnh ǵ cũng “Giảm thống, xuyên tâm liên”. Sáu năm ở A-20, chúng tôi đă chứng kiến cảnh ra đi đau ḷng của bao nhiêu bè bạn chỉ v́ những chứng bệnh thông thường mà không có sự chăm sóc thuốc men. Những vị từng nổi tiếng như cụ Vơ Văn Hải (nguyên Chánh văn pḥng của cố Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm), Cụ Lê Kiên, bí danh Bùi Lượng (nguyên Tổng thư kư Tổng công đoàn Tự do), cụ Bùi Ngọc Phương (Nhà tỉ phú từng ra tranh cử Tổng thống), Những vị này tuổi trên 70, đáng ra phải được ở nhà giữa sự săn sóc của con cháu trong những ngày cuối đời.

Việt cộng đă giam giữ họ và bắt phải lao động khổ sai mà không thuốc men khi đau ốm. Trước khi chết, con cháu bên ngoài chờ không được vào thăm, cụ Phương thèm một cục đường mà không ai dám cho, v́ cụ bị cách ly, theo dơi. Các cụ khi chết được bỏ vào trong một quan tài đóng bằng mấy miếng ván giường, sơ sài vài chiếc đinh, hở đầu hở chân, chở trên chiếc xe ba gác lọc cọc trên con đường gập ghềnh đến một nấm mồ không bia gỗ, không thân nhân, bạn bè đưa tiễn, không chút khói nhang cho ấm ḷng lúc ra đi về bên thế giới bên kia. Năm 1980, chúng đưa ra xử bắn hai anh sau khi đă biệt giam hàng năm trời. Hai anh như đă chết thật từ lâu, được bạn tù d́u đi như hai bộ xương khô.

Khi những viên đạn thù đâm vào cơ thể, dường như hai anh không có cảm giác ǵ; từ vết đạn chẳng ứa ra nổi một giọt máu. Thiếu Tá cảnh sát Quách Văn Trung cháu gọi chủ tịch nước Nguyễn Hữu Thọ bằng cậu ruột, dù thuộc thành phần ngoan ngoăn trong tù, chết v́ áp huyết cao. Gia đ́nh ra thăm sau đó hai ngày cũng chẳng được thông báo. Họ chỉ biết được nhờ sự linh cảm khi trên đường về đi qua nơi chôn cất, thấy ngôi mồ mới đắp và trong tâm linh rộn lên tiếng thôi thúc huyền bí nào đó. Phân trại B, nơi tôi được chuyển vào cuối năm 1982 cho đến ngày về 1985, có một số quư vị tu sĩ Công giáo, các chức sắc Cao đài, có Thiếu tướng Lê Văn Tất, có nhà báo Nguyễn Tú. Cụ Tú năm đó đă 72 tuổi, râu tóc bạc phơ, nhưng tinh thần vẫn c̣n minh mẫn. Dù không ai thăm nuôi trong cả chục năm tù, cụ vẫn giàu nghị lực chống chỏi cơn đói thèm và giữ ǵn tư cách cao quư. Cộng sản bắt cụ đi lao động khổ sai, nhưng cụ cứ khai bệnh nằm ĺ ở nhà. Sau cùng chúng đưa cụ ra trước toàn trại kiểm điểm. Cụ đă đứng lên nhận lỗi như sau : “Tôi thực có tội, đă già đến bảy mươi hai tuổi đầu mà không biết lao động là vinh quang, không chịu đi lao động khổ sai ...”

Không Nơi Ẩn Nấp.

Ở các trại khác c̣n nghe chuyện tù trốn thoát chứ tại Xuân Phước th́ con kiến cũng không ra lọt. Để pḥng ngừa tù trốn trại, bọn cán bộ cấm ngặt gia đ́nh tiếp tế các thực phẩm khô. Những đội tù gồm quân nhân chế độ cũ chỉ được lao động quanh quẩn gần trại; bao quanh là các đội h́nh sự. Khi xuất trại, dù mưa hay nắng, anh em phải đi chân đất. Mùa hè, cơn nắng miền trung nung cháy con đường đất, bước chân đi như dẵm lên than hồng. Mùa mưa, đường sá ngập bùn lầy lội, trong lúc bọn cán bộ ngồi trong căn nhà lô, ăn uống lu bù, th́ anh em tù vẫn phải làm việc. Bọn Việt cộng dùng sự tắm rửa như một ân huệ cho những ai làm đủ chỉ tiêu trong ngày; dù là tắm vội vàng trong một khúc suối đọng, nước quậy lên đen ngầu toàn rác rưởi pha với phân người. Trước khi ra khỏi trại, các đội phải ngồi chờ đến phiên, là lúc bọn thi đua đảo qua đảo lại kiểm soát xem có ai mang theo thứ ǵ không. Chúng tôi chỉ được mang theo một b́nh nhựa đựng nước uống mà thôi. Khi nhập trại lại một màn lục soát rất kỹ, xem tù có hái trộm rau trái hay mang vào những vật cấm. Việc xét pḥng xảy ra thường xuyên hàng tháng. Tuy vậy trong chúng tôi vẫn có người dấu được con dao, hộp quẹt, giấy mực...

Hóa ra chỗ lộ liễu nhất vẫn là chỗ kín nhất. Có lần tôi để chiếc ḷ than (Chúng cấm nấu nướng trong pḥng) ch́nh ́nh ngay giữa sân mà không tên nào phát hiện. Trốn, th́ cũng nhiều anh trốn, nhưng thoát th́ không. Đa số là bị bắt lại ngay quanh quẩn trong địa phương; V́ dân ở đây họ sẵn sàng báo cho công an để đổi lấy thực phẩm. Đi ra xa th́ không phương kế mưu sinh. Đâu cũng là núi, rừng. Nước th́ độc, trái cây không có, thú rừng cũng không. Rừng phía tây chạy ngút ngàn về hướng Phú bổn; rừng phía Nam dẫn vào trại tù A-30 chẳng kém phần dă man; ra Bắc th́ lọt vào khu căn cứ du kích cũ của chúng, chỉ thấy toàn những khuôn mặt thù nghịch. Năm 1980, có mười bốn anh em thoát khỏi trại, giết một tên chủ tịch xă người thượng, cướp súng đi về Phú bổn; nhưng sau đó bị du kích Thượng truy đuổi và bắn chết hết, chỉ c̣n Lê Thái Chân bị bắt về chịu án 18 năm. Có lần, một anh bên h́nh sự trốn về được gần sáu tháng, trốn lên miệt rừng làm rẫy, cũng bị bắt lại. Trại này có đủ cán bộ và th́ giờ cộng với sự kiên nhẫn, chúng ṃ về tận quê nhà người tù, phục kích hàng tháng trời cho đến khi bắt lại mới thôi.

Nhớ lại những ngày đầu tiên, ngay sau khi Việt cộng cưỡng chiếm miền Nam, chúng cho trưng bày những h́nh ảnh trong trại tù Côn sơn mà chúng gọi là “Tội ác Mỹ Ngụy”. H́nh ảnh người tù bị nhốt trong những chuồng cọp, bị tra tấn đánh đập... Chúng viết những lời lẽ rất khích động về việc ngược đăi tàn nhẫn do chế độ Việt Nam Cộng ḥa hành xử đối với tù phiến cộng. Nh́n kỹ mới thấy những tấm h́nh đó rất cũ, chụp từ thời c̣n mồ ma thực dân Pháp, với những người lính cai tù mặc chiếc quần sọt rộng thùng th́nh, trên đầu đội mũ vải rộng vành của lính viễn chinh. Tất cả những ǵ xấu xa mà chúng có, chúng đều gán cho ta; c̣n dành về phần chúng những ǵ cao quư nhất, tốt đẹp nhất. Thời chiến tranh, chúng ta đă tôn trọng Công ước Geneve về việc đối xử với tù binh. Chúng ta trả chi phí 3 Dollars mỗi ngày cho một người tù binh. Họ tổ chức lấy ban kiểm thực, được quyền từ chối những thực phẩm thiếu chất lượng. Mỗi tuần phải cho họ hai bữa ăn ngọt, hoặc chè, hoặc bánh. Đau ốm th́ có cả Container thuốc tây để điều trị. Tôi nhớ có lần chuyển tù từ Saigon ra Đà Nẵng, người tù Cộng sản được phát bữa trưa gồm bánh ḿ và cá hộp Sumaco hoặc một khoanh chả lụa. Những người này khi được trao trả về Bắc sau Hiệp định Paris có lẽ không dám nói ra sự thực. V́ trong chế độ Cộng sản, ai nói điều tốt cho kẻ địch là phản động. Đối với tù nhân là cán bộ, du kích miền Nam, tuy không được hưởng quy chế tù binh, có thể bị đánh đập ngay khi vừa bị bắt để tra vấn. Nhưng một khi đă chuyển vào nhà giam, nếu không có hành vi phá rối, cũng được đối xử rất nhân đạo.

Án Cải Tạo !

Đúng là ở Xuân Phước không thấy ngày về :

Đến đây th́ ở lại đây,
Đến khi bén rễ xanh cây, chửa về.

Vài vị Linh mục trong nhóm Vinh Sơn, ra Ṭa nhận án 5 năm. Thời gian trôi qua, hết hạn 5 năm, chờ hoài không thấy kêu lên làm thủ tục trả tự do, các vị mới hỏi và được trả lời : “tội các anh lớn lắm, đáng ra phải ra Ṭa nhận thêm án, nhưng cách mạng khoan hồng chuyển qua tập trung cải tạo, khi nào xét thấy tiến bộ sẽ cho về.”

Thế đấy, cái luật pháp Xă hội Chủ nghĩa là thế đấy. Trên một tờ báo Nhân Dân (năm 1983, không nhớ ngày), khi trả lời một câu hỏi về sự khác nhau giữa án tù và tập trung cải tạo, chúng đă giải thích rằng : “Án tập trung cải tạo dành cho những tội mà xét ra chưa đáng phải cho ra Ṭa,” (Có nghĩa là nhẹ lắm ?), chúng liệt kê một số tội như “Làm gián điệp, âm mưu chống đối, lũng đoạn kinh tế...” (Giải thích thế này th́ có trời mà hiểu !). Một thanh niên tên là Nguyễn Văn Phước, bị bắt tháng 5-1975 v́ tội ngủ qua đêm trong nhà người quen, khi Công an đến xét hộ khẩu không có tên, chú bị án tập trung cải tạo 3 năm, măi cho đến năm 1985 mới được tha về. Những thanh niên tù h́nh sự miền Bắc khi vào tù cải tạo đều gây thêm án giết người để được ra toà lănh án 5, 10 năm để c̣n hy vọng có ngày về hơn là chịu án tập trung cải tạo.

Xă hội Chủ nghĩa không có luật pháp. Cộng sản Trung hoa cướp lục địa năm 1949, măi đến năm 1972 mới có bộ h́nh luật. Cộng sản Việt Nam nắm quyền từ năm 1945, đến 1982 mới cho ra đời bản dự thảo h́nh luật. Khi chưa có luật, chúng lên tiếng chỉ trích rằng luật pháp là công cụ của bọn tư bản để áp chế nhân dân. Khi sắp có luật, cũng cái mồm nham nhỡ của chúng lên án quan thầy cũ là Trung cộng (Khi đó là kẻ thù không đội trời chung) đă xử oan ức cho hàng triệu người v́ không có luật trong hàng chục năm dài, trong đó hàng trăm ngàn người bị giết oan ! Lật lọng, lẽo mép vốn là bản chất của Cộng sản.

Trong những năm đầu thập niên 80, một số Cán bộ sau khi ở trong Nam lâu ngày, tiếp xúc được với dân Nam đă phần nào có cái nh́n khác đối với chúng tôi. Họ cảm phục chúng tôi về tŕnh độ, tư cách nên cư xử mềm mỏng hơn. Có cán bộ như anh Ngà, anh Hoà chẳng bao giờ để cho chúng tôi làm việc quá sức. Các anh hàng ngày chạy ngược chạy xuôi kiếm cho chúng tôi giỏ khoai lang, nồi rau muống. Họ muốn tṛ chuyện và học hỏi nơi chúng tôi. Cán bộ Lương, trong lúc nói chuyện quá trớn, tôi đề cập đến vấn đề giai cấp; anh đă chép miệng thở dài : “Giai cấp nghèo khổ vẫn muôn đời nghèo khổ, chỉ có giai cấp lănh đạo là sướng thôi.”

Một chuyện đáng nói về một người mà đa số anh em đă quá dè chừng và nghi ngờ. Cựu trung tá Việt cộng Huỳnh Cự, sau khi ra Hồi chánh với chế độ Cộng ḥa, đă được cử làm phụ tá bộ Chiêu hồi. Anh ở tù cùng trại, cùng nhà với tôi. Oái oăm thay, tên Thân như Yên, trưởng trại, trước đây là thuộc cấp của Cự. Một hôm nhân đứng gần, tôi nghe tên Yên nói với anh Cự : “Từ ngày anh ra theo giặc, bọn chúng tôi khốn đốn v́ anh...” Câu nói này như một bản án nặng nề đè lên cuộc sống tù vô vọng của Cự. Chúng nó cho anh làm đội trưởng, nhà trưởng v́ đoán rằng anh sẽ ra sức lập công - tội anh là tội chết mà. Anh chỉ tích cực trong lao động, và những mặt nổi, như sinh hoạt, học tập. C̣n báo cáo thầm kín th́ không có ai biết được. Lúc mới quen anh, tôi ưa nói chuyện và ít khi cảnh giác. Có lần tôi nói về Hồ chí Minh nhiều điều. Anh khẻ nói vào tai tôi : “ Cẩn thận cái miệng, cái mồm; nói ǵ khác th́ cũng c̣n đường sống, chứ đụng vào lănh tụ, chúng nó đập chết.” Tôi điếng người, mấy tuần lễ như ngồi trên lửa, chờ chúng gọi ra làm việc. Nhưng thời gian qua khá lâu không thấy ǵ xảy ra. Tôi biết anh Cự cũng thâm thù Cộng sản,và anh không khi nào hại người cùng chiến tuyến mà anh đă lựa chọn. Anh hiểu Cộng sản, nên biết chọn cho ḿnh cách cư xử đúng mực nhất để sống qua ngày.

Sáu năm ở trại tù Xuân Phước, thấy anh em lần lượt ra về. Đó là nhờ các phong trào đấu tranh của các hội đoàn, các chính phủ bên trời Tây. Tôi tập cho ḿnh quên đi ngày tháng, thờ ơ với việc đi, ở, hay về. Ba năm sau cùng tôi không tỏ ra mặt chống đối bên ngoài hung hăng như trước nữa, và cũng chẳng thấy nôn nóng mỗi khi sắp đến ngày có đợt tha tù. Qua thư nhà, tôi biết mẹ tôi nhờ chiếc tủ lạnh, hàng ngày bán nước đá cho bà con lối xóm; vợ tôi th́ bán gạo đong từng lít vớt vát qua ngày. Con cái th́ lớn dần trong sự ngược đăi. Có ưu tư về gia đ́nh cũng chẳng giúp giải quyết được ǵ. Bao nhiêu bà vợ, v́ vô vọng, v́ hoàn cảnh cần nơi nương tựa đă đành gạt lệ sang ngang. Tôi c̣n hạnh phúc biết có người vợ vẫn ngày đêm ngóng chồng, như mẹ tôi thủa xa xưa, một ḷng thờ chồng nuôi con khôn lớn. So với cảnh tù không án phạt, cái án tử h́nh e nhẹ nhàng thơ thới hơn nhiều; v́ chết một lần thôi là xong nợ đời. Tù cải tạo cứ dai dẳng nh́n gia đ́nh tan vỡ, nh́n thân xác tiêu hao, ư chí bị bào ṃn, đau đớn lắm.

Nói sao cho hết bao đau thương cùng cực mà Cộng sản đă đổ lên cuộc sống chúng ta. Bao gia đ́nh vĩnh viễn không c̣n thấy mặt người thân mà khi ra đi c̣n hẹn sẽ về sau 15 ngày cải tạo ! Thân phụ tôi bị Việt Minh (Tiền thân của Việt Cộng) bắt đi năm 1948 khi tôi vừa lên hai. Người bị đưa ra Thanh hóa, giam ở trại Lư Bá Sơ cho đến 1954 được thả ra theo quy định của Hiệp định Geneve. Nhưng người không về được đến nhà. Cộng sản đă tổ chức đón đường thủ tiêu ngay tại Vinh những người Quốc gia mà chúng e sợ về sau này. Sống trong trại tù của những năm cuối thế kỷ 20 đă khắc nghiệt như thế, thực ḷng tôi không thể h́nh dung nổi cái dă man và cùng cực mà các cụ phải trải qua trong trại Lư Bá Sơ, Đầm Đùn ba mươi năm trước đó. Nếu có một địa ngục như lời các tôn giáo thường răn đe, th́ chắc hẳn địa ngục đó cũng không sánh được với cái địa ngục mà Cộng sản đă dành cho người Quốc gia và những ai không theo chúng.

Ngày nay đây, hỡi các bạn từng chia sẻ niềm đau thương tủi nhục trong ṿng lao lư; hỡi những ai đang sống trong phồn hoa, sung măn, quư vị nhân danh nhân quyền, tự do, xin hăy hướng ḷng về những đồng chí, những đồng bào đang quằn quại trong các ngục tù Cộng sản v́ sự nghiệp đấu tranh cho dân chủ, dân sinh, xin hăy làm một điều ǵ đó, dù nhỏ nhặt đến đâu, ngơ hầu rút ngắn lại các chế độ phi nhân, giải phóng con người, trả lại cho họ quyền sống xứng đáng lúc cả nhân loại đang sửa soạn bước vào thế kỷ 21 tràn đầy hạnh phúc, thịnh vượng.



Đỗ Văn Phúc
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Old 03-15-2019   #394
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,410 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Dưới Mũi Súng Quân Thù



(Lời dẫn nhập : Thượng nghị sĩ John Mc Cain, cựu Đại Tá phi công Hải Quân Hoa Kỳ, đă từng là tù binh chiến tranh của CSVN, phát biểu khi được hỏi về cuộc chiến Việt Nam : "The bad guys won the war.".("Những tên gian ác đă thắng trận.") Câu nói đó có thể dùng làm tiền đề cho hàng ngàn thiên Hồi kư của các nạn nhân Cộng sản khi mô tả về sự ngu dốt và tàn ác mà CSVN đă và đang áp đặt lên trên hàng chục triệu dân quân cả hai miền Nam Bắc Việt Nam.

Trong bài viết nầy, người viết muốn ghi lại một vài dữ kiện trung thực, tự bản thân đă mắt thấy, tai nghe : những kư ức khắc sâu vào tâm năo tại trại tù "Cải tạo A-30," ngơ hầu góp thêm một phần nhỏ sự hiểu biết của ḿnh vào định nghĩa "Thiên đàng Cộng sản."

A-30, tên của một trại giam tù chính trị, đă được CSVN dùng làm thí điểm để xây dựng một Xă hội Chủ nghĩa cho những người "Mới được đi học tập cải tạo." A-30 nằm sát liên tỉnh lộ 7A, phía Nam sông Ba, giữa đập nước Đồng Cam và cầu Đồng Ḅ, thuộc thôn Liên Thạch, xă Thạch Thành, cách thị xă Tuy Ḥa, tỉnh Phú Yên, khoảng 22 cây số.

Nhằm mục đích ghi lại trung thực sự kiện, tất cả tên họ của các nhân vật đều giữ đúng như tại thời điểm xảy ra. Chữ "tôi" rất khó dùng, dễ gây ra ngộ nhận; nhưng "tôi" xin được phép sử dụng trong bài viết mà không hề có ư trau chuốt bóng bẩy dưới làn khói thuốc, hoặc qua hương vị đậm đà của tách cà phê đen trong một căn pḥng vắng, thay vào đó, nó được viết lên từ tấm ḷng của người viết - một kư ức đầy đau thương của một người trong cuộc. "Tôi" được dùng trong bài chính là người viết.)

Những chữ viết tắt :
VNCH : Việt Nam Cộng Ḥa
QLVNCH : Quân Lực VNCH
CSVN : Cộng Sản Việt Nam
VC : Việt Cộng.

Một buổi sáng ngày…tháng 9 năm 1978, hội trường mang tên "2 Tháng 9” nằm trong khuôn viên Trại Cải Tạo A-30, chật ních người ngồi kéo dài luôn ra cả ngoài sân trại. Chúng tôi đă được tập họp từ sáng sớm hôm đó để "được" tham dự một phiên ṭa án nhân dân, một phiên ṭa xử vụ cướp súng để trốn trại : vụ án Nguyễn Minh Trung.

Tên Trung Úy VC lên đứng trước chiếc mi-cro, mắt nh́n về phía chúng tôi và cất giọng :

- Ban Giám Thị yêu cầu tất cả các anh em cải tạo viên được mời tham dự phiên ṭa ngày hôm nay phải tuyệt đối nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, đi đâu phải báo cáo cán bộ, tuyệt đối giữ im lặng. Anh nào vi phạm sẽ bị nghiêm trị, các anh nghe rơ chưa ?

Cả hội trường đồng thanh : "Rơ !"

Tôi không c̣n ngạc nhiên về những lời giáo đầu nầy nữa. Cứ mỗi lần chúng tôi được gọi tập họp chung lại với số người quá đông như vậy, bọn chúng thường lên giọng hăm dọa của kẻ thắng thế để cảnh cáo trước hầu pḥng ngừa những bất trắc có thể xảy ra.

Không khí trở lại yên lặng, nặng nề hơn b́nh thường. Mọi người đâu ngồi đó, không ai nói ai, mắt chỉ dán nh́n lên sân khấu hội trường, trang trí toàn màu đỏ thẫm. Một tấm băng-đơ-rôn nền đỏ in bảy chữ màu vàng: "T̉A ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ KHÁNH" treo trên màn sân khấu. Dưới tấm băng-đơ-rôn đó, một lá cờ đỏ sao vàng mang bức ảnh Hồ Chí Minh trông đầy nét khắc nghiệt. Trước đó là ba cái bàn, một cái để ở giữa, hai cái để hai bên, được trải khăn đỏ phẳng phiu. Bàn giữa có một b́nh bông tươi màu đỏ. Trên mỗi bàn có một cái mi-cro cũ kỹ. Phía dưới sân khấu ngay phía bên phải là "Vành móng ngựa," thật ra đó chỉ là một cái bàn nhỏ, không trải khăn, một chiếc mi-cro khác được dựng kế bên.

Tôi cảm thấy trước mặt, trên sân khấu hội trường kia không phải là ṭa án, mà là một bàn hương án, lạnh lùng không nhang không khói. Một cảm giác rờn rợn chạy dài trên tủy sống. Giây phút chờ đợi đă đến.

Từ ngoài cổng trại, một chiếc xe Mi-cro-bus (Một loại xe VAN) sơn màu xanh đen từ hướng “cơ quan” (Bộ Chỉ Huy của VC) chạy vào. Xe ngừng lại ở cửa hông cạnh sân khấu hội trường.

- Tất cả chú ư: “Nghiêm !” Giọng quát lớn của một tên VC khác nổi lên. Một phút trôi qua.

- Tất cả : “Ngồi !”

Trên sân khấu, ba chiếc ghế trống được ba tên xử án điền vào. Tên thứ nhất ngồi phía bên trái nh́n từ phía dưới lên, lạnh lùng, đanh thép, từ từ đứng lên, tay sửa lại chiếc mi-cro cho vừa tầm, rồi nói :

- Kính thưa Đồng chí chánh án Ṭa Án Nhân Dân Tỉnh Phú Khánh; kính thưa đồng chí giám sát viên; thưa tất cả các đồng chí trong ban giám thị trại; thưa các đồng chí cùng tất cả anh chị em cải tạo viên. Hôm nay là phiên ṭa xử vụ án tên Nguyễn Minh Trung cùng đồng bọn cướp súng cán bộ để trốn trại, sau đây tôi xin giới thiệu ủy ban xử án :

- Thứ nhất, đồng chí… chánh án Ṭa Án Nhân Dân Tỉnh Phú Khánh.Tên ngồi giữa, mang cặp kính đen, dường như muốn che lấp cặp mắt bạo tàn của loài quỷ đỏ, đứng lên khẽ gật đầu tự đắc.

- Thứ hai, đồng chí… giám sát viên, Viện Giám Sát Tỉnh Phú Khánh.Tên bên phải đứng lên, gật đầu, bắn một cái nh́n không thân thiện về phía chúng tôi.

-Thứ ba, tôi …, Thư kư phiên ṭa. Sau đây, tôi xin nhường lời cho đồng chí chánh án.

Tên chánh án đứng lên, kéo chiếc mi-cro lại gần, gơ nhẹ vài cái, chúi đầu đưa sát miệng vào chiếc mi-cro, tằng hắng cất tiếng :

- Nhân danh Chủ Tịch Nhà Nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, tôi xin khai mạc phiên ṭa.

Tên thư kư tiếp lời : “Sau đây xin mời đồng chí giám sát viên đọc lại diễn tiến vụ án.” Tên giám sát viên bắt đầu :

- Vào ngày… tháng 6 năm 1977, tên Nguyễn Minh Trung, một Thiếu Úy Ngụy đă cầm đầu một tổ chức cướp súng cán bộ để trốn trại.

Tên chánh án tiếp lời :

- Mời Nguyễn Minh Trung ra trước ṭa.

Trung và An đă được dẫn vào ngay khi chiếc xe mi-cro-bus đến. Hai chân yếu ớt, Trung đứng dậy với dáng người nho nhỏ nay gầy kḥm đi, trông anh khắc khổ đau thương hơn, dù được chúng khoát lên một bộ đồ tươm tất, quần dài xanh sẫm, áo màu vàng nhạt, đầu được hớt cao, nét mặt anh lộ vẻ trầm tư mặc tưởng nhưng tôi vẫn có thể thấy rơ nét hận thù Cộng sản trong đôi mắt đầy can đảm và nghị lực ấy. Không c̣n dáng dấp nhanh nhẹ như những ngày đầu tôi biết anh ở trại, anh mệt mỏi kéo lê từng bước, chậm chạp tiến đến chiếc mi-cro. Nh́n h́nh ảnh nầy, tôi cảm thấy thương xót và đau ḷng cho người bạn đồng cảnh ngộ. Anh cất tiếng :

- Tôi tên Nguyễn Minh Trung, sinh năm 1948, cấp bậc Thiếu Úy Pháo Binh, Quân đội… (Anh ngập ngừng trong giây lát rồi tiếp) … Quân đội Sài G̣n.

Tôi đoán ngay là anh cố tránh chữ “Ngụy” mà bọn CSVN đă gán cho những người lính Cộng Ḥa chúng tôi. Trung tiếp lời : “Gia cảnh một vợ, một con 3 tuổi.”

Trung lê bước sang một bên, nhường chiếc mi-cro lại cho An theo lời ra lệnh của tên chánh án. An cũng gầy ốm xanh xao không khác ǵ Trung lắm. An là một học sinh tham gia phong trào học sinh, sinh viên phục quốc bị bắt vào cuối năm 1975, bước đến trước mi-cro, đầu hơi ngước lên nh́n tên chánh án, với giọng c̣n non choẹt, An nói :

- Tôi tên Hồ Ngọc An, sinh năm 1957, học sinh, gia cảnh độc thân.

Tên chánh án cao giọng ra lệnh cho hai anh về chỗ ngồi, sau đó tên Cộng sản nạn nhân trong vụ trốn trại được mời ra, hắn ta nhỏ thó người, mặt đanh thép của những thanh niên vừa mới lớn học vẻ hách dịch oai quyền của một người chỉ huy; trong bộ sắc phục công an màu vàng nghệ, hai cầu vai đeo hai bên cùng với uy hiệu trên cổ áo, vẫn không sao che lấp được cái ngu ngơ khờ khạo của hắn. Hắn nói :

- Tôi tên Nguyễn Văn Lẫn, sinh năm 1954, độc thân, đơn vị phục vụ : trại cải tạo A-30, chức vụ : Cán bộ quản giáo đội 13.”

(Đội 13 là đội luôn luôn bị nằm trong căn nhà kỷ luật số 6, mái được lợp cỏ tranh, vách và trần được làm bằng đất sét trộn với miểng ve chai, được vây quanh bởi ba hàng rào kẽm gai rất sắc bén, nằm gần cổng ra vào, dưới tháp canh của bộ đội VC).

Sau khi tên chánh án cám ơn và ra lệnh cho tên Lẫn về chỗ ngồi, tên đóng vai giám sát viên dơng dạc đọc lại diễn tiến vụ án.

Không khí hầu như cô đọng, nặng trĩu. Hàng ngàn cặp mắt tù binh chăm chú theo dơi, hồi hộp đợi chờ. Tôi chắc Trung không sao quên được giờ phút quan trọng nầy. Thảm kịch trốn trại cuồn cuộn sống lại trong đầu óc một số anh em và tôi, từng chi tiết một liên tiếp kéo đến, trong đó các nhân vật then chốt trong thảm kịch gồm có :

- Nguyễn Văn Đức, thường được gọi là Đức Nguyễn (Nhóm hoạt động chống CSVN của Thiếu Tá Đặng Hữu Thân),

- Ngô Bá Tùng và Nguyễn Văn Dũng - cả hai đều là Sĩ quan cấp Úy thuộc Bộ binh QLVNCH,

- Tên công an VC Lẫn, cấp bậc tương đương với cấp Thượng sĩ phía bên QLVNCH,

- Và ba tên khác là cựu Sĩ quan QLVNCH, làm nhân chứng cho VC : Đỗ Văn Đức c̣n gọi là Đức Đỗ (Thiếu Tá bộ binh biệt phái Cảnh sát Dă chiến), Trần Thái Bửu và Đoàn Văn Lập (Cả hai đều mang cấp Trung Tá bộ binh và đă từng nắm chức Quận trưởng.)

Khoảng 2 giờ 30 trưa hôm đó, Tùng rời vị trí lao động để đi uống nước, ngang qua chỗ các bạn anh đang đứng cuốc đất, anh đi chậm răi và nói nhỏ: “Tụi bây sẵn sàng chưa?” Dũng và Đức Nguyễn lần lượt trả lời "Rồi." Tùng vác cuốc đi đến thùng nước uống cách chỗ tên bộ đội VC Lẫn không bao xa, độ chừng bốn mét, anh dừng lại, tay cầm lon nước, tay chống cán cuốc, len lén đưa mắt quan sát một ṿng ngoại cảnh. Trong khi đó Dũng và Đức Nguyễn đang cuốc đất nhưng vẫn luôn theo dơi từng hành động của Tùng để chờ đợi mật hiệu của anh.

Vừa lúc tên VC Lẫn quay lưng, Tùng phóng nhanh tới với tư thế đă chuẩn bị, đập thật mạnh đai cuốc vào ót tên nầy. Tên Lẫn bị đập bất ngờ, mất tư thế, lảo đảo té quỵ xuống. Cách đó không xa, anh Đức Nguyễn đă sẵn sàng nhào tới giựt khẩu AK-47 của tên VC Lẫn, nhưng v́ khẩu AK được đeo choàng chéo qua vai hắn nên súng bị dằn co, không giựt hẳn ra được. Tên Đức Đỗ làm ăng-ten (Tiếng dùng ám chỉ bọn tù cải tạo đă trở cờ, theo VC) cho giặc, đă được VC chỉ định làm đội trưởng cho đội nầy, thấy vậy la lớn lên : “Anh em ơi ! Tụi nó giựt súng Cán bộ.”

Hắn nhào tới đỡ lấy và kềm phụ khẩu súng AK cho tên VC Lẫn. Được sự trợ giúp đắc lực của tên ăng-ten nầy và v́ đai cuốc của Tùng bổ vào chưa trúng nhược điểm nên tên VC lấy lại được b́nh tỉnh.Dũng thấy rơ nguy cơ đă đến cho bạn ḿnh khi có tên ăng-ten Đức Đỗ vào trợ giúp, anh liền chụp lấy cây rựa nhào tới chặt thật mạnh vào gáy tên Đức Đỗ; tuy nhiên, v́ vội vàng, lưỡi rựa chỉ tạt phớt qua màng tang tên Đức nên hắn ta không bị hề hấn ǵ. Bấy giờ, tên VC Lẫn đă ôm gh́ lại được khẩu AK, hắn bóp c̣ báo động, nhưng súng không nổ.Tên Đức Đỗ khôn ngoan và sáng suốt hơn thét to nhắc nhở :

- Mở khóa an toàn ! Mở khóa an toàn đi Cán bộ !

Tên VC Lẫn không c̣n tự chủ được nữa, hắn làm y theo lời thúc giục của tên ăng-ten Đức, mở khóa an toàn. Bóp c̣ ! Hai phát súng nổ báo động toàn trại.

Tùng, Dũng và Đức Nguyễn thấy sự việc không thành vụt chạy xuống bờ sông nơi đă định cách đó chừng 50 mét. Tên Đức Đỗ nhắc nhở và thúc giục tên VC :

- Quỳ xuống bắn chính xác hơn Cán bộ.

Lẫn riu ríu thi hành như một khóa sinh đang tập ở sân bắn Quân trường. Hắn ta quỳ xuống, nâng khẩu AK lên ngang tầm mắt,cẩn thận lấy đường nhắm. Bóp c̣ !

Đùng ! Phát súng nổ vang chát chúa, viên đạn đầu cũng là viên đạn cuối cùng xuyên qua màng sọ của anh Đức Nguyễn - giải thoát anh khỏi lao tù Cộng sản trong khoảnh khắc, nhưng chắc hẳn anh vẫn c̣n uất hận với mối thù giặc cộng chưa trả được. Anh Đức nằm bất động trên băi cát, không có được một cử động giẫy giụa của một người sắp chết - cách tên VC Lẫn không ngoài 20 mét.

Cán binh bộ đội VC được báo động vụt ù chạy lại tiếp cứu.

Lẫn la lớn lên : “C̣n hai thằng chạy xuống bờ sông !”

Tùng đă xuống sát bờ, c̣n Dũng đă đến gần được nửa sông. Ba phát đạn nữa tới tấp từ phía sau bắn tới hướng Tùng. Ba viên đạn của hận thù đă kết liễu đời anh. Tùng gục xuống, không quên quay nh́n lần chót những tên VC bạo tàn và bầy chó săn quái ác.

Dũng thấy không c̣n kịp nữa, cùng lúc có tiếng la : "Đứng lại ! Đứng lại ! Đưa tay lên !" từ sau vọng tới. Anh đứng vụt lại, hai tay đưa lên khỏi đầu, từ từ quay lại.

Đùng ! Viên đạn xuyên qua đùi anh. Dũng nghiến răng uất hận gào thét lên :

- Đả đảo cộng sản ! Đả đảo cộng sản !...

Đùng ! Đùng ! Thêm hai viên đạn nữa, một xuyên qua bụng và một viên làm bay mất nửa phần hàm dưới của Dũng, tiếng thét của anh đă bị viên đạn thứ ba làm lệch giọng.

-Đ..ả...đ..ả..o..c..ộ..n..g.. s..ả..n..!” Anh vẫn c̣n tỉnh, vẫn c̣n từ từ bước tới hàng rào cán binh VC cách đó khoảng chừng 30 mét, anh như là tấm bia cho bọn VC nă đạn vào.

Đùng ! Viên đạn thứ tư ghim sâu vào ngực Dũng. Máu lần nầy xối xả phun ra từ một trái tim chỉ biết tôn thờ một màu cờ, sắc áo. Anh không c̣n chịu đựng được nữa, thân anh co quặp lại, quỵ xuống trên gịng sông chảy xiết, máu anh ḥa với nước lờ đờ chảy như vẫy chào anh trở về với ḷng đất mẹ thân yêu. Tám viên đạn AK kết liễu ba mạng người một ḷng trung chính không chịu khuất phục sự bạo tàn.

Từ khi hai phát súng báo động nổ, An từ xa chạy đến thấy sự việc không thành, anh khựng lại rồi hối hả chạy đi như không hay biết sự việc.Ngay từ giây phút đầu tiên thảm kịch xảy ra cho đến bây giờ, Trung hoàn toàn không hay biết mưu định của bạn ḿnh. Anh bàng hoàng, ngỡ ngàng hối tiếc trước sự việc không thành của bạn. Quang cảnh lúc bấy giờ hỗn loạn, anh Trung cũng như mọi người chạy tứ tán t́m nơi trú ẩn an toàn, chỉ có những tên ăng-ten c̣n sáng suốt nắm lấy cơ hội để lập công.

Trong sinh hoạt thường ngày của trại, Trung, An và một số đông bạn bè khác bị bọn tay sai lấy điểm với bọn VC theo dơi v́ bộc lộ tư tưởng căm thù cộng sản. Sau khi thảm kịch xảy ra, Trung, An là mục tiêu để bọn chúng chộp lấy trước nhất. Bọn ăng-ten đă nhanh nhẹn đuổi bắt Trung, An và Tâm lại.

Ba anh Trung, An và Tâm bị trói ngay sau đó. Trước khi đưa về bộ chỉ huy, bọn chúng không quên trút hết những cơn hận thù vừa qua bằng hàng loạt báng súng AK vào thân xác gầy c̣m của các anh sau những năm tháng dài làm lao động Xă hội Chủ nghĩa.

Chiều hôm đó cảnh trại lạnh lùng tiêu điều như một Nghĩa trang. Người người đi lại nh́n nhau, không nói, không cười, mỗi người mang một nỗi buồn chua chát. Buồn v́ cái chết đau thương của những bạn ḿnh, buồn cho cuộc sống tù đày mà nhân mạng con người không c̣n nghĩa lư ǵ với loài quỷ đỏ, buồn cho số phận của những kẻ phải chịu cảnh sa cơ thất thế. Tư tưởng chống bạo quyền c̣n đó, căm thù c̣n đây, lại thêm hận thù chồng chất…Cho biết đến bao giờ !

Ba anh Trung, An và Tâm mỗi người được đưa vào một căn nhà khác nhau để cho việc điều tra dễ dàng hơn.

Về phía tên VC Lẫn, sau khi được y sĩ khám vết thương, hắn ta trở lại t́m gặp từng người đang bị cùm (Đó là biện pháp kỷ luật dành cho những tù nhân “ngoan cố”) để hỏi thêm chi tiết, với nét mặt không dấu được nỗi căm thù, hắn lớn tiếng hỏi Trung :

- Anh nghĩ sao mà làm vậy hả anh Trung ?

Trung phủ nhận : “Tôi đâu có dính líu tới vụ đó, Cán bộ !”

Tên VC Lẫn thét to : “Giờ nầy mà anh c̣n ngoan cố hả anh Trung ?”

Trung điềm nhiên trả lời : “Không đâu Cán bộ, tôi không biết ǵ về chuyện đó hết.”

Lẫn hậm hực hỏi tiếp : “Anh có biết tội anh như thế nào không ? Làm tay sai cho Mỹ Ngụy, anh biết chưa ? Án 20 năm của anh c̣n đó anh vẫn chưa sợ à ?”

Trung cắn răng, máu anh như bùng sôi v́ những lời đe dọa hách dịch của tên Lẫn, anh chồm dậy như muốn tung một cú đá thật mạnh vào mặt tên VC nầy. Nhưng than ôi ! C̣n đâu nữa, hai cổ chân nhỏ bé của anh không c̣n di chuyển được v́ một gông cùm nghiệt ngă. Uất hận, tức giận nhấc đầu lên, Trung gằn một tiếng :

- Chớ c̣n ông làm tay sai cho ai ? Khẩu AK do ai chế tạo ? Ông đă dùng súng AK do Nga Sô viện trợ bắn vào ai ? Vào Mỹ hay là vào người Việt Nam ?

Lẫn hậm hực, gằn từng tiếng một :

- Được ! Anh c̣n ngoan cố lắm. Rồi hắn ta bước ra khỏi pḥng.

Tên VC bước ra khỏi pḥng, trả lại không khí yên tỉnh về với Trung. Nhớ lại câu nói vừa rồi của của tên Lẫn : “Làm tay sai cho Mỹ Ngụy,…Án 20 năm của anh c̣n đó anh vẫn chưa sợ à ?” Trung thở dài, duỗi lưng nằm xuống, khẽ nhắm mắt lại. Bây giờ Trung mới nghĩ rằng anh bị bắt ngay khi thảm kịch trốn trại xảy ra chẳng qua v́ Tùng, Đức, Dũng và anh đều nằm trong Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc.

Sau vài ngày cô lập để điều tra, Trung và An được đưa vào xà lim biệt giam để chờ ngày ra ṭa; c̣n Tâm (Bị cùm nằm kế tôi) được trả về với lao động b́nh thường - có lẽ VC đă dựng thêm một cây ăng-ten mới để dùng trong kỹ thuật khổ nhục kế hầu rà thêm manh mối.

Máy đèn hoạt động suốt đêm hôm đó. Bộ đội Công an Vơ trang VC tràn ngập sân trại, và chúng tôi phải tham dự đêm thuyết tŕnh. Theo chỉ thị của bọn giám thị chỉ huy trại, mỗi tù nhân đều phải phát biểu ư kiến về thảm kịch trốn trại, mỗi đội phải lập một bản kiến nghị và mọi người kư tên vào để kết án những người vi phạm - dù sống hay chết.

Sáng hôm sau toàn trại được gọi tập họp tham gia cuộc mít-tinh để lên án những tên “Ngoan cố chống lại Cách mạng, chống lại Nhân dân.” Hơn một ngàn chữ kư đă bị bắt buộc kư vào trừ một số người đang bị cùm trong xà lim.

Đúng ra, từ ngày thảm kịch xảy ra cho đến nay hơn một năm, vụ án mới được đem ra xét xử. Trở lại phiên ṭa, sau khi tên giám sát viên đọc xong biên bản điều tra vụ án, tên chánh án VC tiếp tục :

- V́ đây là một phiên ṭa đặc biệt, không có luật sư biện hộ nên anh Trung được quyền tự biên hộ lấy và anh chỉ được nói khi nào ṭa cho phép. Anh có ǵ nói không anh Trung ?

- Thưa ṭa, không ! Trung đáp lại.

Tên chánh án nói tiếp :

- Anh có nhận thấy rằng biên bản mà giám sát viên vừa đọc là đúng không anh Trung ?

Trung thản nhiên nói :

- Tôi không có nhúng tay vào vụ giựt súng đó ...

Tên chánh án cắt ngang lời nói của Trung :

- Anh đừng chối, anh lợi dụng những tên kia đă chết nên bây giờ anh muốn nói ǵ th́ nói phải không !

Trung vẫn nhẹ nhàng đáp :

- Thưa ṭa, không. Tôi không có dính líu tới vụ đó.

Tên chánh án tiếp lời Trung :

- Anh c̣n nhớ những ǵ anh đă khai với cán bộ chấp pháp (Cán bộ thẩm vấn) ngày hôm đó không anh Trung ?

- Thưa ṭa, nhớ !

Rồi hắn ta cất giọng ra lệnh :

-Anh nói xem !

Trung trả lời rất gọn :

- Khi nghe súng nổ, phản ứng tự nhiên là tôi t́m chỗ núp, tôi không biết ǵ hết.

Tên chánh án tay phải nâng cặp mắt kiếng của hắn lên, chồm nhẹ về phía trước, hậm hực nói :

- Hừ ! Anh lại nói đến phản ứng tự nhiên mà anh chạy à ? Hắn ngừng một chút rồi quả quyết đưa Trung vào việc đă rồi :

- Thôi ! Anh đừng nói nữa, ṭa biết hết rồi, anh nghe rơ chưa anh Trung ?

Nghe đến đây tôi thương xót cho Trung nhiều, tôi biết anh không liên quan ǵ đến vụ giựt súng, nhưng chẳng qua v́ đă mang bản án 20 năm trong vụ tham gia hoạt động của Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc sau ngày 30-4-1975 nên bọn CSVN luôn t́m cách tiêu diệt những mầm mống như Trung từ lâu, và đây là một cơ hội tốt để lấy cớ trừ khử anh Trung. Tên chánh án vụt chuyển sang An, hắn hỏi như ra lệnh :

- Anh Trung vừa nói như vậy có đúng không anh An ?

An như một cái máy, nhanh nhẹn đáp :

- Dạ thưa ṭa, hoàn toàn không đúng.

- Anh tŕnh bày vụ việc đi.

Chúng tôi đă có thể đoán trước những ǵ An sắp nói. An chỉ là một học sinh Trung học đệ Nhị cấp, rải truyền đơn chống Cộng sản rồi bị bắt, chưa hề có bản án nào.Anh c̣n quá trẻ, thiếu kinh nghiệm về cộng sản. Sau nhiều ngày bị tra tấn và nhốt trong xà lim biệt giam, anh không c̣n giữ được ư chí và nghị lực, lại c̣n được Cộng sản chiêu hàng bằng những đ̣n phép “Mẹ ru con ngủ” khiến anh đă trở thành miếng mồi ngon cho Cộng sản sử dụng. An cất tiếng vu cáo :

- Thưa ṭa, lúc Tùng và Đức (Nguyễn) cùng nhau giựt súng, anh Trung và tôi chạy lại định tiếp tay nhưng việc không thành. Trung bỏ chạy và bị bắt lại. Những ǵ anh Trung vừa khai với quư ṭa hoàn toàn không đúng.

Tên chánh án ra lệnh cho An về chỗ ngồi, đoạn tiếp tục :

- Anh Trung ! Anh c̣n nhớ những ǵ anh đă bôi nhọ cách mạng không ? Anh đă sỉ nhục cán bộ quản giáo (Cán bộ phụ trách về “giáo dục”) của anh là dùng súng AK do Liên Sô chi viện bắn vào anh em của anh, có đúng vậy không anh Trung ?

Trung chưa kịp trả lời, tên chánh án quay nh́n Lẫn nói tiếp :

- Có đúng vậy không đồng chí Lẫn ?

- Thưa ṭa ! Đúng. Lẫn vừa ngồi tại chỗ, vừa trả lời. Tên chánh án nói tiếp :

- Mời đồng chí Lẫn ra trước ṭa tŕnh bày vụ việc vừa qua.

Lẫn tiếp tục tŕnh bày y như những ǵ tên giám sát viên vừa đọc. Rồi hắn ta kết luận :

- Bây giờ, mặc dù vết thương đă lành nhưng lúc trở trời th́ tôi thấy hơi khó chịu.

Ngồi xếp bằng dưới hội trường, chăm chú theo dơi cuộc xử án từ đầu đến giờ, tôi mường tượng đây như là một màn bi kịch mà nạn nhân là Trung và những người lính VNCH chúng tôi, chớ không phải là một phiên ṭa. Ngày xảy ra vụ xử án, tôi tin chắc có rất nhiều người thấy và hiểu rơ sự vụ, nhưng không một ai dám ra làm nhân chứng, ngoại trừ ba tên Đức, Bửu và Lập. Cả ba lần lượt được mời ra trước ṭa.

Sau một thời gian được “Nhà nước khoan hồng,” họ lần lượt ra đứng trước chiếc mi-cro và thẳng lời tố cáo, buộc tội Trung chính là người chủ mưu vụ cướp súng đó.

Tên chánh án quay sang xin đề nghị của giám sát viên. Sau một lúc lâu đọc về các điều luật - những điều tôi nghe không quen tai - trong hiến pháp của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa mà nay gọi là Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, tên giám sát viên kết thúc với lời đề nghị bản án :

- Thứ nhất, xét thấy tên Nguyễn Minh Trung là một Thiếu Úy Ngụy, làm tay sai cho đế quốc Mỹ, làm công cụ cho bè lũ bán nước của tên Nguyễn Văn Thiệu, mang trọng tội với Nhân Dân, với Đảng và Nhà Nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Xét thấy tên Nguyễn Minh Trung có một tiền án 20 năm về tội chống phá cách mạng, nay lại c̣n chủ mưu trong vụ cướp súng, mưu toan giết cán bộ là người đại diện cho nhân dân, cho luật pháp nhà nước.

Xét thấy tên Nguyễn Minh Trung c̣n ngoan cố không thể cải tạo được nữa nên Giám Sát đề nghị bản án từ chung thân khổ sai đến tử h́nh.

- Thứ hai là Hồ Ngọc An, biết ăn năn hối cải, c̣n trẻ tuổi, để cho anh c̣n nhiều thời giờ cải tạo để thành nhân dân tốt của nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Giám Sát đề nghị bản án từ 12 năm đến 15 năm cải tạo.

Tên chánh án tiếp lời sau khi cám ơn giám sát viên :

- Các anh Trung và An có nói lời nói cuối cùng ǵ trước khi ṭa nghị án không ?

Trung đứng lên điềm nhiên đáp :

- Thưa ṭa có !

Tên chánh án lên giọng, chồm tới phía trước, ra lệnh :

- Anh nói xem !

Trung vẫn điềm nhiên đáp :

- Thưa ṭa, tôi không phải là người tổ chức và dính líu tới vụ nầy.

Hắn ta kéo chiếc mi-cro kề hơi gần sát miệng, một âm thanh hơi chát v́ thiếu tiếng trầm :

- Anh không phải là người tổ chức nhưng anh có một tiền án 20 năm. Anh rơ chưa anh Trung.

Trung không nói, chua xót gật đầu buông xuôi; chắc anh không c̣n nghe thấy những ǵ chung quanh nữa. Mộng ước phá tan gông cùm cộng sản, diệt lũ bạo tàn để dành lại tự do cho quê hương Việt Nam đành dừng lại nơi đây. Anh c̣n quá trẻ, ư chí phấn đấu và nguồn yêu nước đang c̣n rào rạt dâng cao giờ đây đành phải sụp đổ nơi anh.

Hơn năm phút sau, bức màn đỏ được từ từ kéo ra, tên chánh án trịnh trọng bắt đầu :

- Thứ nhất : xét thấy tên Nguyễn Minh Trung, một Thiếu Úy Ngụy, có một tiền án 20 năm về tội chống phá lại Cách mạng, nay lại c̣n cầm đầu một tổ chức cướp súng Cán bộ là người đại diện cho nhà nước và nhân dân.

Xét thấy tên Nguyễn Minh Trung vẫn con ngoan cố, không c̣n cải tạo được nữa. Ṭa tuyên án Nguyễn Minh Trung : tử h́nh.

- Thứ hai : xét thấy anh Hồ Ngọc An c̣n trẻ tuổi, biết ăn năn hối cải, c̣n đủ thời giờ cải tạo được để trở thành nhân dân tốt. Ṭa tuyên án Hồ Ngọc An : 12 năm cải tạo.

Riêng Nguyễn Minh Trung được quyền chống án lên Chủ Tịch Nhà Nước trong thời gian là ba ngày, sau đó bản án sẽ được thi hành.

Nh́n Trung, tên chánh án tiếp lời với một cử chỉ làm như nhân đạo để cố che lấp sự bạo tàn của hắn :

- Anh có nhắn ǵ lại với vợ con anh không, anh Trung ?

Trung không muốn trả lời nữa, anh đáp gọn : “Không !”

Tên bộ đội công an VC đến sau lưng c̣ng tay Trung lại.Tôi thấy nét mặt anh vẫn điềm tỉnh nhưng có lẽ thâm tâm đang nghĩ đến gia đ́nh một lần cuối, đến vợ con mà đă từ lâu anh không được gặp mặt. Anh Trung đang nghĩ ǵ ? Tôi tin chắc rằng anh chỉ buồn v́ ḿnh chưa làm được ǵ cho Quê hương, cho Quốc gia Việt Nam đang sống oằn oại trong tăm tối.

Trung bước chậm ra cửa hội trường, không quên đứng nh́n lại lần cuối những người bạn cũ của ḿnh như muốn nhắn lại với chúng tôi, đêm tuy dài nhưng ngày mai trời phải sáng.

Tên công an VC thúc báng súng AK sau lưng, Trung nhẹ bước đi dưới mũi súng quân thù. Một hàng rào công an VC với những khẩu AK trong tư thế chiến đấu, bao ṿng quanh chiếc xe Van bít bùng, đang đợi.

Ba người Sĩ quan VNCH được VC ban bổng lộc nghĩ ǵ ? Họ đă ngủ gục trong những giây phút tuyên thệ linh thiêng tại buổi lễ măn khóa của các Quân trường đào tạo; và họ tỉnh giấc lại trong những căn lều lư tưởng tự xây, trên một cánh đồng cỏ tranh xanh bát ngát, ven cạnh rừng, nơi chúng tôi thường lui tới đốn củi. Họ là ai ?

Gia đ́nh Quân đội VNCH không may có những đứa con hoang đàng bất hiếu, nhưng bù lại cũng đă đào tạo được hàng ngàn người con hiền ngoan hiếu thảo, một ḷng một dạ trung thành với Quốc gia Việt Nam.

Anh Trung, mọi người mến anh v́ bản tính hiền ḥa vui vẻ nhưng tôi c̣n thấy nơi anh một sự khiêm nhường bất khuất. Dù cuộc chiến đă tàn, nhưng xin anh một lần cho tôi được làm nhân chứng để viết thêm tên anh vào trang sử sách, những người lính anh hùng của QLVNCH: …,Thiếu Úy Nguyễn Minh Trung.

Ngày tháng trôi qua …, kư ức vẫn không phai tàn.

Thiếu Tá Đặng Hữu Thân, Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân QLVNCH, người anh tôi mến phục. Được quen biết anh trong căn nhà kỷ luật. Cặp mắt và giọng nói đă cho tôi biết anh không phải là một cấp Chỉ huy tầm thường. Anh bị VC kết án tử h́nh v́ đă cầm đầu một tổ chức chống lại CSVN sau khi QLVNCH bị bỏ rơi. Anh thường bị nhốt trong pḥng biệt giam và đưa qua lại căn nhà kỷ luật tùy theo sức khỏe. Thường th́ VC nhốt những người “ngoan cố” trong pḥng biệt giam, chỉ vừa một người nằm, khi nào họ thấy muốn cho trở lại nhà kỷ luật th́ họ cho. Nhà kỷ luật tương đối “thoải mái” hơn, v́ c̣n đi đứng, qua lại được dễ dàng.

Anh cho chúng tôi biết, có bốn Cha Tuyên Úy Công Giáo và quản nhiệm các giáo phận đang nằm bên cạnh. Các vị linh mục luôn bị cô lập nơi các pḥng biệt giam theo chỉ thị của “Đảng,” trong khi các Thầy Tuyên Úy Phật Giáo th́ được “ưu đăi hơn” trong các căn nhà khác, nhưng tôi biết có vài Thầy vẫn ở chung trong nhà kỹ luật. “VC ghét Cha hơn ghét Thầy” chỉ là một đ̣n sơ đẳng trong kỹ thuật ly gián mà chúng áp dụng để chia rẽ tôn giáo. Ma quỷ lúc nào cũng sợ các Đấng Thánh.

Sự liên lạc qua lại giữa các tù nhân thường rất khó khăn, nhất là nhà kỷ luật và những căn pḥng biệt giam. Tất cả đều phải qua sự kiểm soát của cán bộ VC hoặc các anh tù “cải tạo tốt” được chọn làm trật tự. Sống trong cảnh tù đày, dưới cặp mắt “quản giáo” của VC, đôi lúc suy nghĩ và hành động của ḿnh phải trở nên linh động hơn - tùy theo hoàn cảnh mà ứng biến.

Một nơi mà bọn cán bộ VC và các anh trật tự ít dám lui tới trừ khi cần kíp lắm, đó là nhà cầu được xây gần những xà lim biệt giam. Đây là một sự cố ư để tăng thêm h́nh phạt cho các người “ngoan cố.” Mỗi ngày hai lần, sáng sớm và chiều tối, các tù nhân nằm pḥng biệt giam được ra làm vệ sinh cá nhân và vận động chân tay cho thoải mái, cũng như được lănh khẩu phần ăn tiêu chuẩn dưới sự “quản lư” của các anh trật tự.

“Đau bụng quá !” Vừa nói với anh trật tự, tôi vừa phóng nhanh lên cầu khi thấy anh Thân đang lên một cầu kế cận; vội quăng lẹ cho anh vài miếng thuốc rê và ít miếng giấy quấn, rồi ngồi xuống cầu bên cạnh như đang làm một việc khẩn cấp của cá nhân.Tim tôi đang tăng nhịp đập bỗng dưng dịu lại một cách b́nh thường dưới ánh mắt và một nụ cười tràn đầy yêu thương, tŕu mến : một Cha Tuyên Úy đang đứng đợi để lên cầu. Vừa làm xong một việc tự nguyện, tưởng chừng như một ḿnh tôi biết.

Thuốc hút luôn là kẻ thù của sức khỏe nhưng nó cũng là người bạn tri âm của những tâm hồn cô đơn trống vắng như anh Thân. Tôi không dám so sánh hai mươi tám ngày mà tôi đă trải qua với những ǵ anh Thân đang gánh chịu. Nhắc đến đây tôi cảm thấy bùi ngùi.

Buổi sáng, trong khí trời lành lạnh của núi rừng, những hạt sương mù rơi lất phất, vài đám mây đen đang là đà bay càng làm tăng thêm cái vẻ thê lương ảm đạm của cảnh vật chung quanh. Tôi c̣n nhớ rơ tiếng anh : “Tụi VC nó sắp bắn anh !”

Anh Thân ! Em biết Anh đă làm những ǵ mà tất cả mọi người cần phải làm cho quốc gia Việt Nam trong lúc lâm nguy và Anh đă làm tṛn trách nhiệm của người thuyền trưởng trong một chuyến hải hành trên con tàu định mệnh. Thêm một ngôi sao sáng của QLVNCH vừa phụt tắt : Hải Quân Thiếu Tá Đặng Hữu Thân.


_________

Trung Tá Đào (?) Xuân Bé, Sĩ quan Tiếp Vận Vùng 2 Chiến Thuật. Cái tên và dáng dấp của anh đă kết hợp với nhau khi vừa mới sinh để mang một trọng trách mà các cấp Chỉ huy khác không mang nổi. Anh vào pḥng biệt giam v́ đă khai sự thực.

“Nếu anh chịu khai thực tôi sẽ cho anh trở về ở nhà kỷ luật,” đó là câu nói mà tên cán bộ “quản giáo” VC Lẫn thường nói với anh. Mỉa mai thay, anh chấp nhận ở lại pḥng biệt giam v́ đă khai sự thực với tên Lẫn:

- Mấy ông bảo tôi khai sự thật th́ tôi đă khai hết sự thật trong tờ tự khai rồi, không c̣n ǵ để khai nữa.

Tờ tự khai của anh : “… Mỹ Rút, Việt Nam Cộng Ḥa Bị Bỏ Rơi.”


_________

Trung Tá Bùi Quốc Trụ, y sĩ trưởng Sư Đoàn 2 Không Quân QLVNCH, một vị Lương y như từ mẫu. Anh đă tận dụng mọi phương pháp y khoa để cứu chữa cho các bạn tù trong phạm vi quyền hạn của anh. Anh nh́n bệnh nhân đang hấp hối với lương tâm của một người Bác sĩ, biết việc ǵ cần phải làm, nhưng bao giờ cũng phải chờ quyết định của “Bác sĩ cơ quan,” một bác sĩ “Thật giỏi, tốt nghiệp chỉ sau hai năm học tại Liên Sô - sau khi được học xong lớp 10 tại Hà Nội.” Lương tâm và khả năng chuyên nghiệp của anh Trụ vẫn chưa được “Cải tạo và lănh đạo bởi Đảng CSVN.”


_________

Anh Thiếu Úy VC, gốc người Thượng, mà tôi không tiện nói tên ra, một thời gian làm “quản giáo” cho đội. Ngoài tiếng Việt, anh c̣n nói và viết rành tiếng Pháp v́ cha mẹ của anh đă làm quản lư một đồn điền cà-phê cho người Pháp ở Ban Mê Thuột. Anh thường lén dẫn anh em chúng tôi ra chợ làng Thạch Thành mua thịt, cá và rau tươi để “cải thiện” thêm đời sống. Anh là một cán bộ “quản giáo” mà anh em chúng tôi thích nhất trong các buổi học tập về chính trị với những lời anh thường kết luận : “Thôi ! Các anh nghỉ sớm để mai c̣n phải đi lao động nữa !” Phải đi lao động nữa ! Anh hiểu rất rành tiếng Việt.

Chủ thuyết cộng sản Mác-Lê mà Hồ Chí Minh đi học lóm của Nga Tàu chỉ dùng để giết chết thân xác, nhưng không tận diệt được lư trí và lương tâm con người.


___________

Nhớ lại lần cuối tôi bị kêu lên hỏi cung (thẩm vấn), tên Thượng Tá chính trị viên VC, Dư Bính, giọng nói người tỉnh Phú Yên, hỏi :

- Anh làm ǵ cho Mỹ Ngụy ?

- Tôi làm lính.

- Lính mà làm cái ǵ ?

- Làm những ǵ cấp Chỉ huy của tôi ra lệnh.

- Cấp Chỉ huy của anh có bị bắt ở đây không ?

- Tôi không thấy.

Trong căn pḥng chỉ có tôi và hắn, bỗng nghe một âm thanh chát chúa vang lên :

- Nói láo ! Rồi hắn ném một tập hồ sơ rất dầy lên bàn trước mặt tôi và ra lệnh :

- Mầy đọc tội của mầy đi !

Tập hồ sơ quá dầy, tôi không biết phải đọc chỗ nào. Bỗng thấy bàn tay của hắn bỏ ra khỏi báng súng K54, chụp lấy tập hồ sơ, lật ra phần mà hắn muốn tôi đọc :

- Đây nầy ! Đọc tội trạng và án lệnh của mầy thôi !

Tôi dán mắt vào chỗ hắn chỉ, hai hàng chữ viết bằng tay :

Tội trạng : “Quân đội Ngụy - Làm gián điệp cho Mỹ”

Án lệnh : “Tập trung cải tạo”

“Tập trung cải tạo,” một bản án có ư nghĩa rất mơ hồ đối với mọi người, nhưng đầy ư nghĩa đối với bọn CSVN : “Giết, nếu bọn chúng muốn; Tha, nếu cải tạo tốt.” Đang nh́n những hàng chữ “tội” của ḿnh, bỗng nghe tiếng hắn hỏi :

- Có đúng vậy không ?

- Không đúng ! Vừa lắc đầu, tôi vừa trả lời một cách b́nh thường. Một tiếng quát to hơn khi nảy, âm thanh vang cả bốn góc pḥng :

- Nói láo ! Rồi hắn ra lệnh hai tên bộ đội Công an Vơ trang dẫn tôi trở lại nhà giam.

…Một hôm, t́nh cờ tôi gặp lại một người bạn cùng cảnh ngộ đang đứng xếp hàng chờ lănh thực phẩm trong trại chuyển tiếp tại Kuala Lumpur, Mă Lai, để làm thủ tục đi định cư. Tôi được biết thêm, bản án “tập trung cải tạo” của tôi đă được ṭa án nhân dân tỉnh Phú Khánh “nâng cấp” lên “Tử h́nh nếu bắt lại được” và án lệnh đă được đọc lên cho khoảng gần hai ngàn trại viên nghe trong hội trường - nơi bọn chúng dùng để xử án. (Cuối năm 1978, khoảng hơn 800 lính thuộc Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù và các đơn vị khác của QLVNCH bị bỏ rơi tại chiến trường Khánh Dương được chuyển về giam tại đó.)

Ngước mặt nh́n lên, một bầu trời trong xanh thẳm, không một áng mây. Các sinh hoạt chung quanh dường như đang ngưng động, không khí im lặng phút chốc quay trở về căn pḥng biệt giam… Sao không c̣n ngửi thấy mùi xú uế nữa ? Tôi biết ! Tôi đang khóc ! Ơn Trên đă che chở tôi dưới mũi súng quân thù.

Chiều chiều ra đứng bờ ao,
Trông về quê Mẹ ruột đau chín chiều.

Hai câu ca dao tôi nhớ từ thuở c̣n mặc quần đùi cắp sách đến trường. Hơn 30 năm sống trên đất Mỹ, chưa một lần trở về Việt Nam, quê hương mến yêu chỉ c̣n trong kư ức; v́ tôi nghĩ rằng một bước chân vui chơi trên quê hương Việt Nam trong lúc dân tộc chúng ta đang đau khổ dưới gông cùm nghiệt ngă của cộng sản th́ chẳng khác ǵ chính ḿnh sẽ tự dẫm bước lên vong linh các anh hùng dân tộc đă vị quốc vong thân, và cũng chẳng khác ǵ chính ḿnh tự rút súng bắn vào chân ḿnh (You shoot yourself in the foot). Sống trong cộng đồng người Việt hải ngoại một thời gian lâu - qua phim ảnh, sách báo, những nơi tụ tập đông người hoặc ở các buổi tiệc tùng họp mặt - tôi được biết nhiều hơn nữa về người lính. Lần đầu tôi viết, viết những ǵ tôi biết thêm về - Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa Sau Khi Chiến Trường Im Tiếng Súng.



Lê Văn Kim

Viết cho ngày tang thương của đất nước Việt Nam 30 tháng 4, 1975.
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	cải tạo.png
Views:	0
Size:	193.9 KB
ID:	1350709  
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Đôla Trăm (03-20-2019), laongoandong (03-22-2019)
Old 03-17-2019   #395
nguoikhongten0224
R3 Hảo Kiếm Khách
 
Join Date: Feb 2018
Posts: 320
Thanks: 168
Thanked 162 Times in 92 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 106 Post(s)
Rep Power: 7
nguoikhongten0224 Reputation Uy Tín Level 3nguoikhongten0224 Reputation Uy Tín Level 3nguoikhongten0224 Reputation Uy Tín Level 3nguoikhongten0224 Reputation Uy Tín Level 3nguoikhongten0224 Reputation Uy Tín Level 3nguoikhongten0224 Reputation Uy Tín Level 3nguoikhongten0224 Reputation Uy Tín Level 3nguoikhongten0224 Reputation Uy Tín Level 3nguoikhongten0224 Reputation Uy Tín Level 3nguoikhongten0224 Reputation Uy Tín Level 3nguoikhongten0224 Reputation Uy Tín Level 3nguoikhongten0224 Reputation Uy Tín Level 3
Default

Quote:
Originally Posted by hoanglan22 View Post
Mỗi người đều có ư nghĩ riêng , Bác đồng ư ngay cả Bác cũng nhiều khi chống lại lệnh của ông này nhưng theo quân lệnh là phải làm theo thi hành trước khiếu nại sau

Cháu đừng lo bác không có cái tính tự ái trong ḷng . Xét ḿnh và xét nguồi
trang nay tui thich lam
nguoikhongten0224_is_offline   Reply With Quote
Old 03-19-2019   #396
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,410 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default

Quote:
Originally Posted by nguoikhongten0224 View Post
trang nay tui thich lam
Bạn ghé vào đọc cho đỡ buồn
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Old 03-19-2019   #397
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,410 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Mùa Xuân cho những người lính cũ: ‘Anh không chết đâu Anh’ ....

Để tri ân các chiến sĩ Việt Nam Cộng Ḥa về những hy
sinh cao cả và không bờ bến của họ trong sứ mạng bảo
vệ mầm sống cho một Việt Nam không Cộng Sản.

Khác với những nhà viết sử, những người phê b́nh lịch sử, khi đề cập tới giai đoạn hiện đại trong lịch sử Việt Nam, có thể sẽ phải đồng ư rằng ngày 30 Tháng Tư, 1975, đă đánh dấu cái chết của Miền Nam tự do nhưng đồng thời ngày đó cũng đă khởi đầu cho tiến tŕnh phục sinh đất nước Việt Nam.

Nói cách khác, trong cái chết của Miền Nam tự do đă có sự khởi đầu của mầm sống tương lai cho một đất nước Việt Nam thống nhất và không Cộng Sản.

Hay, quan trọng hơn, biến cố ngày 30 Tháng Tư năm 1975 phải được coi là một kinh nghiệm mang tính “mở mắt” cho toàn thể dân tộc Việt Nam từ Nam chí Bắc. Thật vậy, trong khi sự kiện Cộng Sản Bắc Việt độc tài, đảng trị đánh chiếm được Miền Nam Việt Nam tự do đă khiến cho dân chúng Miền Nam Việt Nam – từ người dân lao động khờ khạo cho tới giới trí thức mơ mộng hăo huyền – phải “sáng mắt ra” trước một chế độ Cộng Sản phi nhân bản và xa rời thực tế th́ sự kiện này cũng làm cho người Cộng Sản Việt Nam – từ giới lănh đạo chóp bu cáo già ở Trung Ương Đảng cho tới người dân quê ngu dốt – phải tỉnh ngộ khi nhận chân được rằng dân chúng Miền Nam Việt Nam, dù dưới chế độ tự do, dân chủ c̣n non trẻ của họ, thật sự đă được sống tự do hơn, no ấm hơn và hạnh phúc hơn rất nhiều so với những kẻ từng vượt đường Trường Sơn từ Miền Bắc xa xôi tới “giải phóng” cho họ, trái ngược hẳn với các tín điều căn bản mà những người Cộng Sản đă tôn sùng từ bao thập niên qua.

Bài viết sau đây có mục đích làm sáng tỏ nhận định rằng, trong khi biến cố ngày 30 Tháng Tư năm 1975 có tầm vóc lịch sử lớn lao, th́ biến cố này cũng c̣n ảnh hưởng sâu đậm tới vận mệnh của dân tộc, bởi v́ nó vừa đánh dấu cái chết của Miền Nam tự do mà cũng vừa đánh dấu khởi điểm của tiến tŕnh phục sinh đất nước Việt Nam. Và trong tiến tŕnh phục sinh đất nước này, người ta không thể không kể đến những hy sinh to lớn của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa qua hơn hai thập niên chiến tranh trong việc bảo vệ chiếc vườn ươm mầm tự do, dân chủ tại Miền Nam để dân tộc có thể lấy đó làm đà tiến lên trên con đường xây dựng một nước Việt Nam thật sự tự do và dân chủ.

Lịch sử coi ngày 30 Tháng Tư năm 1975 là ngày Miền Nam Việt Nam sụp đổ. Những bộ quân sử viết về ngày này coi đây là ngày tan ră của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.

Dù là sụp đổ hay là tan ră, những từ ngữ này đều nói tới sự chấm dứt của một cuộc sinh tồn, tức là cái chết của một thực thể đang hiện hữu.

Nhưng, đối với người Việt Nam trên cả hai miền đất nước từng lâm vào một cuộc chiến tranh -vẫn thường được mệnh danh là “cuộc chiến tranh ư thức hệ”- trong suốt ba thập niên kể từ năm 1945, những hệ lụy từ cái chết đó mới là điều quan trọng cho ḍng sinh mệnh của dân tộc Việt Nam. Nói cách khác, điều được coi như là chiến thắng của người Cộng Sản Việt Nam lẫn chủ nghĩa Cộng Sản quốc tế không quan trọng mấy so với những hệ lụy từ cái chết của Miền Nam Việt Nam, mà trên thực tế là cái chết của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, trong ngày 30 Tháng Tư năm 1975 định mệnh đó.

Thật vậy, ngày nay, sau ba thập niên hồi tưởng và suy nghiệm về biến cố ngày 30 Tháng Tư năm nào cùng những hậu quả của nó, những người Việt Nam b́nh thường – không bị mù quáng v́ các tư tưởng lệch lạc hay thành kiến bất công – có thể sẽ đi đến nhận định sau cùng rằng “chính những hy sinh lớn lao và cao cả của người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa tại Miền Nam Việt Nam hơn ba thập niên trước đây đă tạo dựng mầm sống cho dân tộc Việt Nam hôm nay.”

Vai tṛ ǵn giữ đất nước và bảo vệ tự do, dân chủ của người lính Cộng Ḥa

Các thành phần sĩ quan Quân Đội và Cảnh Sát của Việt Nam Cộng Ḥa, trong thời gian bị bắt đi “học tập cải tạo” sau ngày Miền Nam Việt Nam mất vào tay Cộng Sản, vẫn thường được các cán bộ chính trị Cộng Sản bảo cho biết rằng Quân Đội cùng các lực lượng Cảnh Sát Miền Nam Việt Nam chỉ là đội ngũ những “lính đánh thuê” cho “Đế Quốc Mỹ” và là những thành phần đă “lầm đường, lạc lối” trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam vừa qua. Thật ra, đó chỉ là lư của kẻ thắng chứ không phải là chân lư.

Điều đau xót là, giờ đây, dưới ánh sáng của lịch sử soi rọi, chính các thành phần trong Quân Đội Nhân Dân Việt Nam của Cộng Sản Bắc Việt trong cuộc “kháng chiến chống Mỹ, cứu nước” vừa rồi mới là những kẻ lầm đường, lạc lối, bởi v́ họ đă bị Đảng Cộng Sản Việt Nam lừa phỉnh, lợi dụng và ép buộc vào chỗ phải đổ máu xương và hy sinh gian khổ cho tham vọng đánh chiếm Miền Nam Việt Nam của họ.

Hậu quả sau cùng của đường lối hiếu chiến và thiển cận này là đưa đẩy Việt Nam – không phải là một nửa nước mà là toàn thể đất nước – tới t́nh trạng suy thoái kinh tế trầm trọng và bế tắc chính trị chưa từng có trước đây, để rồi hiện nay Cộng Sản Việt Nam lại bị buộc phải t́m cách đi vào con đường kinh tế tự do và dân chủ đa nguyên là con đường mà Quốc Gia Việt Nam hồi trước 1954 và Việt Nam Cộng Ḥa từ sau Hiệp Định Genève 1954 đă không ngừng theo đuổi nhưng cứ bị những người Cộng Sản ra sức phá hoại.

Những ǵ mà Cộng Sản đang làm hiện nay trên đất nước Việt Nam là bằng cớ không thể chối căi cho sự sai lầm tai hại của những người Cộng Sản trước đây trong cuộc chiến. Về mặt kinh tế, họ đang tranh thủ chạy theo chế độ kinh tế thị trường đầy lợi nhuận để có thể được tư bản ngoại quốc đổ vốn vào đầu tư, tất cả đều là từ những nước trong hệ thống kinh tế tư bản mà trước khi chiếm được Miền Nam Việt Nam hồi năm 1975 những người Cộng Sản Việt Nam đă không ngừng chê bai và mạt sát. Từ sau khi đổi mới, Cộng Sản Việt Nam đă lần lượt gia nhập hai tổ chức kinh tế tư bản quan trọng, đó là Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) và Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới (WTO), một tổ chức kinh tài quốc tế quan trọng mà Việt Nam chính thức trở nên thành viên thứ 150 vào đầu năm 2007.

Về mặt quân sự, sau khi đă thấm những bài học lịch sử với bậc thầy Trung Quốc qua những vụ như Hoàng Sa, Trường Sa, biên giới phía Bắc, và mới đây là vụ dâng đất, cắt lănh hải cho Trung Quốc, Cộng Sản Việt Nam đang ra sức tiến tới việc hợp tác quân sự với Hoa Kỳ là kẻ thù cũ trong cuộc chiến tranh vừa qua. (1) Về mặt chính trị, những người Cộng Sản Việt Nam đang bị áp lực hết sức nặng nề của những phần tử bất đồng chính kiến và chống đối tại Việt Nam, gồm toàn những nhân vật tên tuổi trong nước và có uy tín quốc tế, đ̣i phải cải tổ hệ thống chính trị độc đảng để đổi sang chế độ dân chủ đa nguyên, y hệt như thể chế chính trị của hầu hết các nước tự do, dân chủ trên thế giới ngày nay vậy. (2)


Lực lượng Hải Quân giữ yên lănh hải.
Dù những nhận định và t́nh cảm đối với tập thể quân đội của Miền Nam Việt Nam có khác biệt nhau, dân chúng ở cả hai miền Nam, Bắc có thể sẽ phải đồng ư với sự thật này: quân đội Miền Nam Việt Nam là thực thể chiến đấu cho sự sinh tồn của Miền Nam tự do cho dù thực thể này vẫn nằm trong tập thể gọi là “quân, dân, cán, chính” dưới quyền lănh đạo của chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa. Nói cách khác, quân đội Miền Nam c̣n th́ Miền Nam c̣n, quân đội Miền Nam mất th́ Miền Nam mất. Cộng Sản Bắc Việt hay Mặt Trận (Dân Tộc) Giải Phóng Miền Nam (Việt Nam), trong cuộc chiến tranh đánh chiếm Miền Nam Việt Nam vừa qua, đă không đối đầu với ai khác hơn là quân đội Miền Nam và đă không sợ ai khác hơn là các thành viên thuộc “đảng kaki” của Miền Nam, bởi v́ đó chính là tập thể duy nhất có tổ chức và kỷ luật khả dĩ đối đầu được với Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Vai tṛ của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa – mà trước đó lần lượt được gọi là Quân Đội Quốc Gia Việt Nam và Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa – trong cuộc chiến đấu chống Cộng tại Việt Nam là vai tṛ thực sự lớn lao trong một đất nước đang có chiến tranh. Từ thời Quốc Trưởng Bảo Đại cho đến thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm (của Đệ Nhất Cộng Ḥa) và rồi thời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (của Đệ Nhị Cộng Ḥa), dù mang danh xưng khác nhau, nhưng tập thể quân đội đó vẫn chỉ có chung một sứ mạng là bảo vệ Miền Nam Việt Nam chống lại cuộc xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt, đồng thời giúp xây dựng nền dân chủ cho đất nước, tóm lại là để bảo vệ tự do, dân chủ cho dân chúng Miền Nam Việt Nam.

Dưới thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, từ 1954 đến 1963, những người chiến sĩ của Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa đă là thành phần tiên phong trong sứ mạng đánh dẹp nội loạn và chống Cộng Sản xâm lấn. Dù muốn, dù không, Tổng Thống Diệm và bào đệ là Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu vẫn trông cậy vào những người lính Cộng Ḥa trong sứ mạng bảo quốc, an dân, nghĩa là chiến đấu chống các lực lượng Cộng Sản, dù từ ngoài Bắc xâm nhập vào (tức quân chính quy Cộng Sản Bắc Việt) hay là du kích tại miền Nam (tức quân Mặt Trận Giải Phóng), đang t́m mọi cách lật đổ chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa để áp đặt quyền thống trị của Cộng Sản Việt Nam lên đầu dân chúng Miền Nam Việt Nam.

Đến thời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (và sau đó là các Tổng Thống ngắn ngày Trần Văn Hương và Dương Văn Minh), từ 1966 đến 1975, những người lính Cộng Ḥa lại càng đảm đương thêm nhiều trọng trách hơn trong cuộc chiến đấu chống Cộng Sản mà vào thời điển này đă không hề che giấu ư đồ thôn tính Miền Nam qua một cuộc xâm lấn mà họ vẫn ưa gọi là “cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước” để “giải phóng” Miền Nam Việt Nam khỏi “ách kềm kẹp của Mỹ-Ngụy” nhằm dánh lừa dân chúng ở cả hai miền Nam, Bắc và cộng đồng quốc tế.

Phần này không có mục đích đề cao vai tṛ của quân đội Miền Nam, tức Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, qua các trận đánh lớn hay các chiến tích lịch sử đă tạo nên những thiên anh hùng ca bi tráng trong quân sử của quân đội đó qua Cuộc Chiến Tranh Việt Nam vừa rồi. Phần này cũng không có dụng ư bào chữa cho cuộc thất trận bất ngờ của quân đội Miền Nam trước các lực lượng Cộng Sản từ Miền Bắc tràn xuống để thực hiện cuộc hành quân sau cùng của họ trong chiến dịch được gọi là “Chiến Dịch Hồ Chí Minh lịch sử” vào những ngày đầu của năm 1975. Các đề tài đó nằm trong nhiệm vụ của những nhà phê b́nh, những kẻ viết hồi kư chiến tranh, những học giả và những sử gia.

Phần này chỉ có mục đích nói lên sứ mạng bảo vệ chiếc vườn ươm mầm dân chủ và tự do của quân đội đó trong suốt hơn hai thập niên chiến tranh khốc liệt tại Miền Nam Việt Nam, để rồi khi những người lính Cộng Ḥa kia phải buông súng th́ đó cũng chính là lúc cái mầm dân chủ và tự do tại Miền Nam Việt Nam – mà họ từng xả thân bảo vệ – đă đủ sức mạnh mà đâm chồi, nảy lộc, mọc cành, ra lá để gây muôn vàn khó khăn và, sau cùng, có thể dẫn tới việc giải thể chế độ dộc tài, đảng trị của Cộng Sản Việt Nam trên cả hai miền Nam và Bắc, trước kia từng là hai thực thể chính trị và kinh tế hết sức khác biệt nhau mà các lănh tụ Cộng Sản tại Hà Nội đă ra sức thống nhất làm một sau chiến thắng năm 1975 và gọi hai thực thể này dưới một cái tên chung là nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. (3)


Cộng Sản Việt Nam đổi thịt, thay da

Trong mấy năm gần đây, nếu những người Việt hải ngoại nào có dịp về thăm viếng quê hương Việt Nam th́, không nhiều th́ ít, sẽ phải lấy làm ngạc nhiên trước những đổi thay đáng kể của cảnh vật và sinh hoạt dân chúng so với mấy năm đầu sau khi Miền Nam Việt Nam sụp đổ. Nhà cửa, phố xá, đường lộ và cầu cống tại các thành thị đều được tân trang hoặc xây cất thêm. Những vùng quê cũng thay h́nh, đổi dạng nhờ các công tŕnh xây dựng mới, kể cả việc điện khí hóa nông thôn. Đời sống kinh tế của dân chúng cũng rơ ràng là được cải thiện hơn nhiều với sự phát triển mạnh mẽ của các dịch vụ kinh doanh, buôn bán tư nhân và với việc bành trướng các công-ty, xí nghiệp cũng như các ngành công, kỹ nghệ đa dạng do người Việt Nam làm chủ hay do tư bản ngoại quốc từ các nơi, kể cả Mỹ là kẻ thù cũ, kéo đến đổ vốn đầu tư vào làm ăn tại Việt Nam. Điều nổi bật hơn cả là sự phát triển cùng cực của ngành du lịch với hằng trăm, hằng ngh́n khách sạn và nhà hàng mới được xây dựng tại các thành thị tấp nập hay dọc theo các băi biển đông người. Những ngoại kiều mang quốc tịch Liên Xô, Hung-Ga-Ri, Tiệp Khắc… đều biến đi đâu mất cả mà thay vào đó là những du khách đến từ Mỹ, Anh, Pháp, Ư, Nhật, Nam Hàn, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Mă lai Á, Úc Đại Lợi… (4)

Đó là về mặt h́nh thức và vật chất. Về mặt tinh thần, những cán bộ Cộng Sản từ các cấp chính quyền, các nhân viên công lực từ công an phường tới cảnh sát giao thông đều bớt đi vẻ dữ dằn như từng thấy trước đây, và thậm chí nay c̣n có vẻ thân thiện hơn với du khách và dân chúng địa phương nữa. Sự theo dơi, kềm kẹp dân chúng như từng được thấy trong những ngày đầu Miền Nam mới được “giải phóng” th́ nay hoặc không được nh́n thấy công khai nữa hoặc đang phai nhạt dần. Đời sống tinh thần của dân chúng tại các thành thị và thôn làng xem ra có vẻ thoải mái hơn hai, ba thập niên về trước rất nhiều.

Mặc dù các tổ chức nhân quyền trên thế giới, trong đó có Human Rights Watch (Canh Giữ Nhân Quyền) và Amnesty International (Ân Xá Quốc Tế), vẫn c̣n nhiều điều phải ta thán về chính quyền Cộng Sản Việt Nam trong các vấn đề đàn áp tôn giáo (như bách hại và bỏ tù các tăng, ni, các Phật tử, các linh mục Công Giáo, các tín đồ Tin Lành, Cao Đài, Ḥa Hảo, hay các giáo dân người Thượng trên Cao Nguyên Trung Phần…), mức độ bách hại và đàn áp cũng không đến nỗi quyết liệt và tàn bạo như từng xảy ra đối với giáo dân xứ đạo Bùi Phát ở Phú Nhuận, Gia Định, hay các con chiên ở Nhà Thờ Vinh Sơn thuộc Quận 10, Sài G̣n, trong mấy năm đầu khi Cộng Sản mới chiếm được Miền Nam Việt Nam. Và mặc dù các nhân vật chống đối và những người bất đồng chính kiến, trên diễn đàn hay trên mạng lưới điện toán, vẫn c̣n bị bắt bớ hay giam giữ dài dài, mức độ tù đày và hành hạ các đối tượng này xem ra vẫn không thể nào đem so sánh với chuyện cả trăm ngh́n người thuộc đủ mọi thành phần trong xă hội Miền Nam Việt Nam – từ quân nhân, viên chức chế độ cũ cho tới các nhà tu hay thành viên các đảng phái chính trị – cùng một lúc bị bắt đưa vào giam giữ trong các trại tù khổ sai mệnh danh là “trại cải tạo” trên khắp nước qua hằng chục năm trời mà không hề được ṭa án xét xử.


Cộng Sản Việt Nam có ǵ khác với các nước Cộng Sản c̣n lại kia không?

Những người Quốc Gia lưu vong và những người Việt hải ngoại từng may mắn được hưởng những quyền tự do dân chủ và hấp thụ những kiến thức về văn hóa và khoa học từ báo chí truyền thông hay ngay tại các học đường Âu Mỹ hăy công bằng mà nhận định rằng, so với ba chế độ Cộng Sản khác c̣n lại của thế giới, là các chế độ tại Trung Quốc, Bắc Hàn và Cuba -hai đàn em nhỏ bé của Cộng Sản Việt Nam là Lào và Cambodia không đáng kể – th́ chế độ Cộng Sản tại Việt Nam tương đối “cởi mở” nhất.

Trong thời đại hiện nay, phải nói rằng Cộng Sản Bắc Hàn là một xă hội hết sức nghiệt ngă, bởi v́ quốc gia đó, dưới cả hai triều đại của cha con chủ tịch họ Kim, là một xă hội khép kín đầy những bí mật mà thế giới bên ngoài không hiểu hết được. Đây là một đất nước mà chính quyền sẵn sàng để cho dân chúng chết đói đặng tập trung tài nguyên cho nhà nước sản xuất vũ khí -kể cả phi đạn và vũ khí nguyên tử – nhằm dọa nạt dân chúng trong nước và để thỏa măn tham vọng diệu vơ, dương oai với các nước khác, đặc biệt là Nam Hàn và Nhật Bản là hai quốc gia láng giềng gần gũi nhất.

Bắc Hàn lại là một nước mà chế độ cha truyền, con nối trở nên cực kỳ lộ liễu, với việc Chủ Tịch Kim Nhật Thành chết đi để lại “ngôi báu” cho con là Kim Chánh Nhất. (Trong khi đó, Ông Hồ Chí Minh của Việt Nam muốn làm được như vậy th́ cũng phải cất công chờ đợi tới ba thập niên sau khi ḿnh qua đời, và người con lại phải mang họ khác, tức là họ Nông.) Với một đất nước như vậy, thật chẳng lạ lùng ǵ khi hằng chục ngh́n dân chúng Bắc Hàn hiện nay đang liều mạng sống, dùng đường bộ trốn sang Trung Quốc hay t́m thuyền vượt biển tới Nam Hàn.

Hơn một thập niên sau khi nước đàn anh khổng lồ Liên Xô – chiếc nôi của cuộc cách mạng vô sản thế giới, thành tŕ của chủ nghĩa Cộng Sản – bị xóa tên trên bản đồ thế giới và chủ nghĩa Cộng Sản bị chôn vùi dưới những tảng băng miền Tây Bá Lợi Á, Cộng Sản Cuba, một ḿnh một cơi tại Tây Bán Cầu, vẫn c̣n là một quốc gia độc tài về chính trị và lạc hậu về kinh tế chỉ v́ cái tự ái đặt không đúng chỗ của Chủ Tịch Fidel Castro, cha đẻ của Cộng Sản Cuba. Ngày nay, trong khi những kẻ bất đồng chính kiến tại đảo quốc Cộng Sản này liên tục bị bách hại và tù đày th́ dân chúng Cuba ngày càng nghèo nàn, lạc hậu đến nỗi ngay cả phố phường, nhà cửa tại nhiều nơi trong thủ đô Havana nom cũng loang lổ và tiều tụy, có lẽ v́ không được sơn phết hay sửa sang ǵ kể từ khi cuộc cách mạng vô sản thành công vào năm 1959. Hồi mùa Hè năm 2006, khi Fidel Castro lâm trọng bệnh và không thể cai trị được nữa, nhà độc tài lại trao cho em ruột là Raul Castro – quân hàm Đại Tướng, đang là Bộ Trưởng Quốc Pḥng – làm Quyền Chủ Tịch Cuba, cũng là một một h́nh thức “cha truyền con nối” khác mà chỉ ở các nước Cộng Sản độc tài, độc đảng mới có.

Thông Tấn Xă Reuters mới đây đưa tin rằng nhà nước Cuba, v́ thiếu tiền, đă giành lấy phần lớn số lợi nhuận có được qua dịch vụ du lịch trong nước khiến cho kỹ nghệ du lịch tại Cuba hiện nay không ngóc đầu lên nổi bởi v́ các công – ty du lịch tại đây đă phải đua nhau tăng giá để “bù lỗ” cho những khoản phải cống nạp cho nhà nứơc. Nửa thế kỷ sau khi được “giải phóng” khỏi tay nhà độc tài Batista, mỗi năm vẫn c̣n hằng ngh́n dân chúng Cuba tiếp tục t́m mọi cách bỏ nước ra đi – hầu hết là vượt biển tới Hoa Kỳ – để mong trốn chạy khỏi một chế độ độc tài khác: chế độ Cộng Sản Cuba của hai anh em nhà họ Castro: anh làm chủ tịch nước, em làm bộ trưởng quốc pḥng kiêm tư lệnh quân đội.

Trung Quốc, với chủ nghĩa Cộng Sản “cải lương” dưới quyền đạo diễn của các kép chánh từ Mao Trạch Đông đến Đặng Tiểu B́nh, phải nói là quốc gia đạt được nhiều tiến bộ về kinh tế và kỹ thuật nhất trong số các quốc gia Cộng Sản c̣n sót lại của thế giới ngày nay. Đất nước Trung Hoa bây giờ đă trở nên giàu có qua những “bước nhảy vọt” phi thường từng chuyển đổi Hoa lục từ một nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường. Chỉ mới vài ba thập niên “hiện đại hóa” mà thôi, Trung Quốc đă từ một quốc gia đói, nghèo biến thành một cường quốc có hạng của thế giới trên cả hai lănh vực nguyên tử và không gian. Những tiến bộ về kinh tế và kỹ thuật này của Trung Quốc có thể được giải thích là do ở đầu óc thương mại truyền thống của dân “Ba Tàu” cộng với những mầm mống tự do kinh doanh sẵn có bên trong nước này như Ma Cao, Hồng Kông và ngay sát nách của họ là Đài Loan, hoặc xa hơn nữa là Singapore.

Tuy nhiên, về đời sống chính trị, đất nước của các vị “con Trời” vẫn c̣n là một trong những quốc gia có chế độ đàn áp con người tệ hại nhất, mà hai nạn nhân danh tiếng của họ từ trước tới nay vẫn là phong trào đ̣i tự do, dân chủ của sinh viên, học sinh tại Thiên An Môn năm 1989 và các thành viên của môn phái Pháp Luân Công từng bị đàn áp liên tục từ hồi đầu thập niên 1990 cho tới nay. Các nạn nhân kế tiếp của chế độ này là những nhà báo và những kẻ bất đồng chính kiến mà việc bắt bớ, giam cầm họ đang là mộ sự phỉ nhổ lên các giá trị về dân chủ và nhân quyền của thế giới. (5) Theo báo cáo mới nhất của Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế, trong năm 2005, một ḿnh Trung Quốc không thôi mà đă xử tử đến 80 phần trăm số can phạm bị kêu án tử h́nh toàn cầu, dĩ nhiên một số không nhỏ các tử tội này là những thành phần chống đối nhà cầm quyền Bắc Kinh.

Một điểm tương đồng quan trọng giữa Cộng Sản Trung Quốc và Cộng Sản Việt Nam là cả hai đảng này, v́ lư do sinh tồn, đều đă khôn lanh tới mức dám phản bội ngay cả chủ nghĩa Cộng Sản (Mác-xít Lê-nin-nít) do các ông thầy của ḿnh là Các-Mác (Karl-Marx) và Lê-Nin (Lenin) truyền dạy qua hành động mạnh tay dứt bỏ gần hết các giáo điều chính của chủ nghĩa này và chỉ giữ lại một khoản duy nhất là tính độc đảng chuyên chế đặng có thể độc quyền cai trị đất nước trên căn bản lâu dài. (6) Nếu không làm chuyện bội phản như vậy, làm sao mà Cộng Sản Trung Quốc ngày nay lại trở nên một thành viên của Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới (WTO), một cơ chế kinh tài quốc tế sặc mùi tư bản mà Cộng Sản Việt Nam cũng đă lấy làm vô cùng vinh dự khi được gia nhập, dù là đi sau Trung Quốc tới mấy năm.

Một điều lạ lùng đến độ mỉa mai trong trường hợp của Việt Nam là sau 30 năm ra sức “đánh Tây, đuổi Mỹ,” gây ra không biết bao nhiêu là chết chóc và tàn phá cho dân tộc để triệt hạ cho bằng được cái mà họ vẫn thường gọi là “chủ nghĩa tư bản bóc lột” và thực hiện cho bằng được cái gọi là “xă hội chủ nghĩa giàu mạnh,” những người Cộng Sản Việt Nam ngày nay lại quay ra ôm chầm lấy cái chủ nghĩa tư bản đó, cầu thân và xin xỏ quyền lợi với chính những kẻ thù cũ mà mới cách đó chỉ chừng sáu, bảy năm thôi, họ từng tỏ ra khinh miệt, cay cú và căm thù hầu như đến tận xương tủy. (7)

Thế nghĩa là sao? Cái h́nh ảnh của đất nước Việt Nam ngày nay, từ thành thị đến thôn quê và từ Nam ra tới Bắc, trông thật chẳng khác nào cái h́nh ảnh của Miền Nam Việt Nam thời trước năm 1975, với cảnh tượng đường sá nhộn nhịp, buôn bán tấp nập, và nhà cửa cũng như cơ sở kinh doanh của tư nhân mọc lên khắp nơi giữa tiếng “nhạc vàng” (từng bị cấm tiệt) du dương, réo rắt và tiếng nhạc nhạc disco quằn quại, xập x́nh. Những ǵ mà một xă hội tư bản cỡ Mỹ, Nhật đang có – từ chiếc điện thoại di động cho tới cái thẻ tín dụng – th́ dân chúng Việt Nam ngày nay đều có, và những đồng đô-la Mỹ xanh xanh kia, một thời bị những người Cộng Sản mô tả là đồng tiền “tanh tưởi,” đồng tiền “bóc lột,” nay lại đang được sùng bái khắp nơi. Chưa hết, mới đây thôi, khi tỷ phú Mỹ Bill Gates, Chủ Tịch công ty điện toán Microsoft khổng lồ của thế giới, sang thăm Việt Nam, dù chỉ một ngày, ông đă được từ vị thủ tướng cho tới các sinh viên, học sinh Việt Nam hân hoan đón chào và được hoan nghênh nồng nhiệt từ Hà Nội cho tới Bắc Ninh.

Phải biết rằng, trên đất nước Việt Nam Cộng Sản, chỉ sáu, bảy năm sau khi sách, báo bằng tiếng Anh (và cả tiếng Pháp nữa) đều bị tịch thu và dân chúng hầu như bị cấm học tiếng Anh – thứ ngôn ngữ của bọn “thực dân mới” và bọn đế quốc bóc lột – dân chúng Việt Nam từ Nam chí Bắc, trong đó có đám cán bộ, đảng viên, lại đổ xô nhau đi học tiếng Anh, và các lớp học Anh ngữ tại những Hội Việt-Mỹ lúc nào cũng đông đúc học viên. (8) Rồi trước sức hấp dẫn không thể cưỡng lại được của đồng phật-lăng (franc) – và sau này là đồng euro – thơm tho, Cộng Sản Việt Nam đă hân hoan gia nhập vào khối những quốc gia nói tiếng Pháp (Francophone) do trùm “thực dân cũ” là Pháp cầm đầu, lâu lâu khối này lại chọn Hà Nội để làm nơi tổ chức hội họp, bàn thảo. Thêm vào đó, con cái các cán bộ, đảng viên của Cộng Sản Việt Nam ngày nay lại tấp nập đua nhau đi “tham quan” rồi đi du học tại Mỹ, tại Anh, tại Úc, tại Pháp… vốn là những nơi mà mới cách đó dăm bảy năm người Cộng Sản vẫn cho là những ḷ đào tạo các nền “văn hóa đồi trụy” để phục vụ cho những xă hội bị coi là đầy dẫy những cảnh “người bóc lột người” đáng ghê tởm. Như vậy là thế nào? Dĩ nhiên là chỉ c̣n một vài điều khác biệt là lúc đó – trước khi Cộng Sản chiếm được Miền Nam – Việt Nam đang có chiến tranh, và bây giờ th́ chiến tranh đă chấm dứt rồi nhưng dân chúng Việt Nam th́ vẫn chưa được hưởng những quyền tự do, dân chủ như dân chúng tại Miền Nam Việt Nam trước khi Sài G̣n sụp đổ, bởi v́ chế độ chính trị tại Việt Nam, cho tới giờ phút này, vẫn c̣n là một chế độ độc tài, độc đảng.


Tác nhân của những đổi thay tại Việt Nam ngày nay

Đến đây, một vài câu hỏi cần phải được nêu lên: Do đâu mà có những “đổi mới” và những tiến bộ trong các hoạt động kinh tế lẫn trong đời sống chính trị như vậy tại Cộng Sản Việt Nam ngày nay? Phải chăng chủ nghĩa xă hội tại Việt Nam dưới tay các lănh tụ như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Nông Đức Mạnh… tự nó biết chuyển ḿnh theo thời thế mà kịp thời thực hiện những bước thay đổi về kinh tế và chính trị để cho dân chúng được sung túc hơn, thoải mái hơn, tự do hơn? Câu trả lời sẽ là “không,” tuyệt đối “không,” nếu một tác nhân quan trọng là nếp sống dân chủ và nền kinh tế tự do của Miền Nam Việt Nam từ 1975 trở về trước không ảnh hưởng sâu đậm lên và tác động mạnh mẽ tới nếp suy nghĩ và hành động của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chính quyền của nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Vậy th́, cái tác nhân quan trọng kia trong tiến tŕnh thay da, đổi thịt của chủ nghĩa xă hội (Cộng Sản) tại Việt Nam ngày nay là ǵ? Xin thưa, đó chính là cái mầm mống tự do, dân chủ đă được ươm, cấy và trồng sẵn tại Miền Nam Việt Nam mà khi mới bước vào để “giải phóng” nơi đây th́ những người Cộng Sản Việt Nam – những đảng viên, những chính ủy, những cán bộ, những bộ đội, những dân công, những công an, những tay nằm vùng, vân vân- đă không thể nào tránh khỏi bị nhiễm phải. Cái mầm mống tự do, dân chủ ấy rất da dạng và được t́m thấy nhan nhản trên khắp mọi cơ sở, mọi tụ điểm, mọi nẻo đường, mọi hang cùng, ngơ hẻm của Miền Nam Việt Nam trong những ngày đầu Quốc – Cộng chính thức đối mặt nhau, đó là ngày 30 Tháng Tư năm 1975.

Mầm mống này có thể là nếp sống b́nh dị của người dân “Nam Bộ” tại Xóm Cái Tàu ở An Xuyên (Cà Mau), là cái lễ độ của các em học sinh trường Trung Học Phan Châu Trinh tại Đà Nẵng, là sự uyên bác và tính chuyên nghiệp cao của các quân y sĩ Việt Nam Cộng Ḥa đang bị đưa đi tập trung cải tạo tại Sông Bé (Phước Long), là nét vừa đa t́nh, lăng mạn vừa b́nh dị trong lời nhạc của bản “Duyên Kiếp” do nhạc sĩ Lam Phương sáng tác và được nữ ca sĩ Thanh Tuyền tŕnh bày, là thói quen tự ḿnh bỏ tiền ra mua sắm máy ḍ t́m cá biển để ra khơi đánh cá mà sinh sống của các ngư dân Phan Thiết, hay, cụ thể hơn một chút, là chuyện các vị dân cử tại Hạ Viện Việt Nam Cộng Ḥa, tuy mang tiếng là bọn đào kép diễn tuồng cho “Nhà Hát Tây” ở Sài G̣n nhưng trong số đó vẫn có không ít người từng chống (Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu), chửi (nước bạn đồng minh) Mỹ thẳng thừng mà không hề bị bắt giam hay bách hại…

Chẳng bao lâu sau khi những người Cộng Sản từ Miền Bắc Việt Nam tiến vào làm chủ các căn cứ quân sự, đồn bót, công sở, trường học, xí nghiệp và cơ sở xă hội từ Bến Hải tới Cà Mau, những người dân Miền Nam Việt Nam – từng khờ khạo nghe theo những lời tuyên truyền, dụ gạt đường mật của Cộng Sản mà biểu t́nh, chống đối chính quyền Miền Nam đặng làm suy yếu sức chiến đấu của quân, dân, cán, chính Việt Nam Cộng Ḥa để cho Cộng Sản dễ dàng và mau lẹ thôn tính Miền Nam – đă bắt đầu “sáng mắt ra” khi họ kinh hoàng nhận thấy bộ mặt thật của chủ nghĩa Cộng Sản ngày càng lộ rơ. Những biện pháp độc tài và vô nhân đạo như tập trung cải tạo hằng trăm ngh́n sĩ quan và viên chức cũ của Việt Nam Cộng Ḥa, xua đuổi hằng triệu dân chúng thất nghiệp và nghèo khó từ các thành thị đi khai khẩn đất hoang ở những vùng kinh tế mới khô cằn và đầy bệnh tật, tịch thu tài sản và tiền bạc làm ra từ mồ hôi và nước mắt của đám người bị gọi là bọn “tư sản mại bản” tại Miền Nam… đă được đem ra thi hành để trừ khử cho bằng được cái gọi là “tàn tích của Mỹ -Ngụy” c̣n sót lại tại Miền Nam Việt Nam. “Chủ nghĩa công thần” và phân biệt lư lịch được triệt để áp dụng để loại bỏ những tài năng của đất nước sinh ra từ các gia đ́nh “ngụy quân, ngụy quyền” và đưa lên hàng thượng đẳng một giai cấp thống trị mới trong xă hội là giai cấp cán bộ nhà nước, bộ đội và anh hùng, liệt sĩ cách mạng.

Nhưng điều bất ngờ hơn hết là những ảnh hưởng về xă hội, kinh tế và chính trị trong cuộc tiếp xúc chính thức đầu tiên giữa hai kẻ đối nghịch nhau về ư thức hệ này lại mang tính hỗ tương, nghĩa là nếp sống và văn hóa của người chinh phục cũng bị nếp sống và văn hóa của kẻ bị trị chi phối. Nói cách khác, cách sống dễ dăi, phóng khoáng và tự do, dân chủ của người dân Miền Nam Việt Nam hiền ḥa – hiện là gia cấp bị trị – cũng đă tạo ảnh hưởng mạnh mẽ lên nếp suy nghĩ và hành động đám người thuộc giai cấp cai trị từ Miền Bắc vào. V́ chủ nghĩa Cộng Sản vốn mang tính không tưởng, nghĩa là không thể nào đem ra áp dụng được, cho nên, theo thời gian, những nét đặc thù về kinh tế, văn hóa, xă hội và cả chính trị của Miền Nam Việt Nam bắt đầu tác động ảnh hưởng lên, trước hết là trên đám cán bộ thừa hành từ Bắc Bắc Phủ và sau nữa là trên các đảng viên Cộng Sản trung ương từ Hà Nội được bổ nhiệm vào cai trị trong Nam.


Miền Nam thắng ngược Miền Bắc


Skyraider xuất kích giữ không phận và yểm trợ quân bạn dưới đất.

Năm 1985, nhân kỷ niệm 10 năm ngày Cộng Sản chiến thắng tại Việt Nam, lần đầu tiên, các nhà báo Tây phương -trong đó có các phóng viên và kư giả thuộc các đài truyền h́nh và báo chí Mỹ- được mời sang Việt Nam để quan sát những ǵ mà Cộng Sản Việt Nam quảng cáo là những thay đổi và tiến bộ to lớn mà họ đă thực hiện được tại Việt Nam, nhất là tại Miền Nam Việt Nam là vùng đất mà họ đă có công “giải phóng” khỏi tay “thực dân mới” là Mỹ.

Kurt Andrsen, trong bài báo ngày 15 Tháng Tư, 1985, nhan đề “Một Xứ Sở Bị Kềm Kẹp và Bưng Bít”(A Pinched and Hermetic Land) trên tạp chí Time, tường thuật như sau về t́nh h́nh 10 năm sau ngày Cộng Sản chiếm được Miền Nam Việt Nam:

“Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất thế giới… Cuộc khủng hoảng (kinh tế và chính trị) đă buộc nhà cầm quyền phải đưa ra những biện pháp cải cách. Hiện tại, một hệ thống kinh tế tự do có giới hạn đang được áp dụng, cho phép nông dân và ngư dân được bán ra các sản phẩm thặng dư [vượt chỉ tiêu] để kiếm lời. V́ thế, có trường hợp một nhà trồng tỉa giàu óc kinh doanh tại Miền Bắc đă kiếm tiền nhiều gấp năm lần người con trai của bà đang làm công nhân viên nhà nước tại Hà Nội. Năm 1983, sau nhiều năm đói kém, lần đầu tiên Việt Nam có đủ lương thực nuôi sống chính dân ḿnh. Mặc dù tại Hà Nội chuyện nuôi lợn riêng là bất hợp pháp, nhiều cư dân tại thủ đô của Việt Nam vẫn t́m cách chăm sóc một đàn lợn con tại nhà; gia chủ chỉ cần bán ra một con lợn thịt không thôi cũng có thể thu vào lợi tức tương đương với lương cả một năm trời của một công nhân viên cấp cao…”


So sánh cuộc sống của dân chúng Việt Nam ở hai miền Nam, Bắc, Andersen viết:

“Hai miền của Việt Nam được chính thức thống nhất với nhau vào năm 1976, nhưng sự khác biệt vẫn rơ nét. Nh́n chung, cuộc sống tại Miền Bắc dường như bị kềm kẹp nhiều hơn, hàng hóa không có mấy… Đồng thời, thỉnh thoảng vẫn có t́nh cảm ganh tị với Miền Nam đang được sống thoải mái hơn. Tại Thành Phố Hồ Chí Minh (Sài G̣n), nhà cầm quyền đă triệt hạ hầu hết nếp sống say sưa và trụy lạc, nhưng đô thị này vẫn buôn bán cuồng nhiệt… ‘Một đất nước nhưng nằm dưới hai hệ thống cai trị,’ vẫn là lời giải thích đầy nuối tiếc và mang tính tuyên truyền cho những khác biệt Nam-Bắc đó. Ấy vậy mà một số nếp sống Tây phương vẫn xâm nhập được ra tới ngoài Bắc. Các băng nhạc pop của Mỹ được đem chơi khắp nơi. Và điều lạ lùng hơn hết là các du khách người Mỹ hiếm hoi, dù đến bất cứ nơi đâu, cũng đều được dân chúng đối đăi với ḷng kính phục và ngay cả với thiện cảm rơ rệt nữa.”

Một thập niên sau khi cuộc Chiến Tranh Việt Nam chấm dứt, cảm tưởng chung của các nhà báo Tây phương và các du khách sau những chuyến viếng thăm Việt Nam, ngoài những điều khác, là nhận định rằng miền Bắc Việt Nam đă thắng Miền Nam về quân sự, nhưng Miền Nam Việt Nam đă thắng ngược lại Miền Bắc về kinh tế, và không chừng sẽ c̣n thắng luôn về chính trị nữa – ư nói tới phong trào đổi mới tư duy và hành động đang chớm nở tại Cộng Sản Việt Nam vào thời điểm đó.

Trong lịch sử nhân loại, không thiếu ǵ trường hợp mà văn hóa và nếp sống của lớp người bị chinh phục đă làm thay đổi văn hóa và nếp sống của lớp người đến chinh phục. Chẳng cần nh́n đâu cho xa, trên đất nước Trung Hoa thời phong kiến, người Mông Cổ và người Măn Thanh đă bị Hán hóa gần như hoàn toàn khi họ đem binh mă sang chiếm đóng Trung Nguyên và lập ra các triều đại Nguyên và Thanh tại Trung Quốc. Ngày nay, từ Miền Nam Việt Nam ngược trở ra Miền Bắc, chủ nghĩa xă hội tại Việt Nam đă thay h́nh, đổi dạng. Đại Hội Đảng Cộng Sản Việt Nam Lần Thứ Sáu năm 1986 đánh dấu một khúc quanh lịch sử trong tiến tŕnh “đổi mới” của chế độ Cộng Sản tại Việt Nam, một mặt là để theo đuôi phong trào perestroika do Tổng Bí Thư Mikhail Gorbachev đề xướng tại Liên Xô, nhưng mặt khác cũng chính là v́ ảnh hưởng ngày một mạnh của nếp sống tự do, dân chủ mà nhân dân Miền Nam Việt Nam trước đây từng được hưởng. (9)

Hồi mới vào Nam, những người Cộng Sản tuy bề ngoài vẫn lộ vẻ coi thường những người Miền Nam chiến bại, nhưng bên trong họ vẫn thầm thán phục và kính nể nếp sống văn minh và phồn thịnh tại vùng đất mà họ vẫn cho là ḿnh có sứ mạng phải tiến vào “giải phóng” v́ cứ tưởng lầm rằng dân chúng tại đây thật sự đang bị kềm kẹp, bóc lột và khổ đau dữ lắm. (Nhạc sĩ Cộng Sản Huỳnh Minh Siêng, trong nhạc phẩm “Tiến Về Sài G̣n,” chẳng đă mô tả dân chúng tại thủ đô Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ là đang “rên xiết đêm ngày” đó sao?) Đây chính là hậu quả tai hại của hơn hai thập niên tuyên truyền, nhồi sọ và phỉnh gạt con người mà Cộng Sản Việt Nam đă dùng để lừa dối chính ḿnh và kẻ khác, cho nên phần lớn chiến thắng vừa rồi trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam của họ chẳng qua chỉ là do người Cộng Sản đă biết khéo léo tự lừa dối ḿnh và sau đó lừa dối được dân chúng Miền Nam Việt Nam và các đồng minh khờ khạo của Việt Nam Cộng Ḥa trên khắp thế giới.

Hai Ông Bùi Tín và Vũ Thư Hiên, những người Cộng Sản cũ của Việt Nam, có thể là những người biết rơ hơn ai hết cái tác động ghê gớm của những tṛ lừa dối này. Những tên tuổi của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cỡ Bác Sĩ Dương Quỳnh Hoa, Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ và Luật Sư Trương Như Tảng cũng biết rơ điều này. Các chính khách, trí thức và văn nghệ sĩ của Miền Nam Việt Nam trước đây có cảm t́nh với Cộng Sản và mong ước Việt Nam Cộng Ḥa chóng “tiêu diêu” cỡ Trịnh Công Sơn, Đoàn Văn Toại và Linh Mục Chân Tín cùng một số tăng, ni Phật Giáo chuyên chống chính phủ ắt hẳn phải thấm điều này. Ngay như ở bên Mỹ, Joan Baez, và về sau – trong một chừng mực nào đó – là cả Jane Fonda cùng một số cựu chiến binh phản chiến nữa, cũng đă thấy cái đó. Mà nếu không thấy cái đó th́ không thể giải thích được tại sao mà sau năm 1975 hằng triệu người Việt Nam đă phải liều chết ra đi trên những con thuyền gỗ mong manh và lậu nước để mong được tới những bến bờ tự do vừa xa xôi vừa bấp bênh như thế.


Những chiến sĩ Mũ Đỏ từ trên không đạp xuống đầu giặc

Ai đă mở mắt cho dân chúng Miền Nam Việt Nam? Ai đă mở mắt cho dân chúng Miền Bắc Việt Nam? Ai đă mở mắt cho dân chúng Mỹ, dân chúng Pháp, dân chúng Anh, dân chúng Thụy Điển…? Ai đă mở mắt cho Tổ Chức Khoa Học, Giáo Dục và Văn Hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO)? Và sau cùng, ai đă mở mắt cho Đảng Cộng Sản Việt Nam từ cấp cán bộ quèn cho tới cấp cán bộ Trung Ương Đảng? Xin thưa: kẻ đó chính là nền dân chủ và nếp sống tự do của Miền Nam tự do mà Quân, Dân, Cán, Chính của Việt Nam Cộng Ḥa đă hy sinh biết bao nhiêu xương máu trong suốt gần ba thập niên để ǵn giữ cho tới khi tài nguyên cạn kiệt mới chịu buông xuôi. Mà hễ đă nói đến máu xương, đă nói đến hy sinh này nọ th́ phải nói tới những công lao to lớn và hy sinh cao cả của những người lính Cộng Ḥa, kể cả những người đă để lại danh thơm trong quân sử cũng như những anh hùng không tên tuổi của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.


Một chút lịch sử: Bước thăng trầm của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa

Từ năm 1950 cho tới năm 1975, Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa và Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă có những thời điểm và giai đoạn lịch sử tưởng chừng như là nguy kịch đến nơi rồi, nhưng họ vẫn đứng vững cho tới năm 1975 để hà hơi, tiếp sức cho cái mầm dân chủ, tự do của đất nước mà giờ đây đang trở thành mầm sống và nguồn hy vọng của dân tộc Việt Nam thống nhất. Hồi năm 1954, sau khi quân đội Liên Hiệp Pháp (trong đó có Quân Đội Quốc Gia Việt Nam) bị bại trận tại Điện Biên Phủ, Quân Đội Quốc Gia Việt Nam đă có nguy cơ bị tan ră nếu Ông Ngô Đ́nh Diệm không kịp thời về chấp chánh, nắm giữ quyền Thủ Tướng chính phủ.


Thiếp Giáp Binh cùng tùng thiết lùng địch.

Sau Hiệp Định Geneva, trong hai năm 1954 và 1955, Quân Đội Quốc Gia Việt Nam cũng đă gặp phải nguy cơ bị chia năm, xẻ bảy nếu chính quyền Ngô Đ́nh Diệm không đánh dẹp được quân đội riêng của các lực lượng, phe nhóm bất hợp tác khác trong nước mà Thực Dân Pháp đă dung dưỡng nhằm thao túng chính trường Miền Nam sau khi họ phải rút về.

Kể từ cuộc khủng hoảng Phật Giáo vào mùa Hè năm 1962, Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa cũng đă gặp phải nguy cơ suy sụp -nhưng rồi vẫn đứng vững- v́ du kích quân thuộc cái gọi là Mật Trận Giải Phóng Miền Nam đă thừa lúc dân chúng tại các thành thị Miền Nam Việt Nam mải mê xuống đường đánh phá chính phủ Ngô Đ́nh Diệm mà tăng cường những vụ tấn công trực diện vào các tỉnh lỵ, quận lỵ tại Miền Nam, tràn ngập nhiều chi khu và chiếm đóng nhiều quận lỵ trên toàn quốc.

Sau khi Tổng Thống Diệm bị các tướng lănh trong quân đội Miền Nam – có sự giật dây của chính quyền Kennedy v́ Mỹ vẫn đổ lỗi cho chính phủ của Ông Diệm là đă gây ra cuộc khủng hoảng Phật Giáo làm suy yếu cuộc chiến đấu chống Cộng tại Miền Nam Việt Nam – đảo chánh rồi ám sát vào cuối năm 1963, Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa cũng đă thật sự phải đối diện với nguy cơ sụp đổ trước các cuộc tấn công gia tăng ác liệt của Cộng quân. Các bản tin chiến sự cho hay Cộng quân, lợi dụng t́nh trạng hỗn quan, hỗn quân tại Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ, đă gia tăng các cuộc tấn công lấn chiếm trên toàn quốc, khiến cho lănh thổ quốc gia tại Miền Nam Việt Nam ngày càng bị thu hẹp, với nhịp độ thất thủ có lúc lên đến chóng mặt là mỗi tuần mất đi một quân lỵ và mỗi tháng mất đi một tỉnh lỵ.

Nhưng, từ năm 1965 trở đi, sau khi mọi xáo trộn đă qua và kể từ lúc phe quân nhân thực sự nắm giữ quyền chính trị và quân sự tại Miền Nam Việt Nam – với danh xưng mới là Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa – th́ quân đội Miền Nam Việt Nam đă phục hồi lại phần lớn năng lực đă mất để có thể mở các chiến dịch hành quân tảo thanh Việt Cộng và b́nh định nông thôn trên bốn vùng chiến thuật. Cũng trong khoảng thời gian này, Hoa Kỳ đă trực tiếp can dự vào cuộc Chiến Tranh Việt Nam qua việc các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến, không vận, bộ binh, không quân và hải quân Mỹ cùng quân đội các nước đồng minh khác như Đại Hàn Dân Quốc, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan,… tham gia chiến đấu chống lại Cộng quân bên cạnh Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.

Biến cố Tết Mậu Thân đầu năm 1968 là một đ̣n nữa giáng vào quân đội Miền Nam Việt Nam khi hằng chục sư đoàn Cộng quân gồm quân chính quy Cộng Sản Bắc Việt và quân du kích của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đồng loạt mở cuộc “tổng tấn công, tổng nổi dậy” bất ngờ trong thời gian hưu chiến nhân dịp Tết, đánh vào nhiều tỉnh lỵ và thành phố tại Miền Nam Việt Nam, kể cả thủ đô Sài G̣n và cố đô Huế. Nhưng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă đứng vững và lần lượt tái chiếm hết những phần đất bị Cộng quân tạm chiếm, kể cả cố đô Huế, và xóa tên nhiều đại đơn vị của Cộng quân.


Chiến đấu từng khu phố để bảo quốc an dân.

Quân đội này lại c̣n hùng mạnh hơn lên khi đồng minh Hoa Kỳ quyết định tăng cường vơ trang các chiến cụ tối tân cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa để họ có thể tự ḿnh chiến đấu bảo vệ Miền Nam Việt Nam đặng quân Mỹ có thể yên ḷng và có thêm chính danh mà rút về nước trong một chiến lược mới được gọi là “kế hoạch Việt Nam Hóa chiến tranh” do Tổng Thống Richard Nixon và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia lúc bấy giờ là Tiến Sĩ Henry Kissinger đề xướng.

Rồi cuộc tổng tấn công Mùa Hè năm 1972 của Cộng quân lại diễn ra sau khi Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam tại Hà Nội quyết định rằng Cộng quân phải lấn cho bằng được càng nhiều đất càng tốt, giành cho bằng được càng nhiều dân càng hay để họ có thể chiếm lợi thế trên bàn hội nghị bốn bên lâm chiến đang diễn ra tại Paris, Pháp, nhằm “chấm dứt chiến tranh, lập lại ḥa b́nh” tại Miền Nam Việt Nam. Dù bị tấn công bất th́nh ĺnh và bước đầu bị mất đi thành phố Quảng Trị tại Vùng 1 Chiến Thuật và quận (chi khu) An Lộc tại Vùng 3 Chiến Thuật, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, một lần nữa, lại cả thắng trong “mùa Hè đỏ lửa” ấy, lấy lại hầu hết những đất đai và dân chúng đă mất vào tay Cộng quân trước đó.

Hội nghị ḥa b́nh tại Paris kết thúc với Hiệp Định Paris (Ba Lê) 1973, theo đó chính quyền Nixon, v́ quá nóng ḷng muốn lấy lại các tù binh đang bị Cộng Sản Bắc Việt giam giữ cũng như để thỏa măn đ̣i hỏi phải chấm dứt chiến tranh và rút quân đội về nước của các nhóm phản chiến đang lên cao tại Mỹ, đă ép buộc chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa phải nhân nhượng nhiều điều hết sức thất lợi cho sự sống c̣n của Miền Nam Việt Nam sau này qua bản văn chung cuộc của Hiệp Định Paris 1973.

Cái chết của Miền Nam Việt Nam và cái chết của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa là hậu quả tất yếu của một cuộc chiến tranh trong đó cả hai bên lâm chiến đều không ai có đủ điều kiện -quân sự và chính trị- một ḿnh đứng ra đảm đương cuộc chiến mà phải nhờ đến các thế lực bên ngoài. Rồi khi một trong hai bên nào đó th́nh ĺnh bị đồng minh bỏ rơi -như trường hợp của Việt Nam Cộng Ḥa- th́ kẻ bị bỏ rơi đương nhiên phải thua trận.

V́ bị Hoa Kỳ bỏ rơi nửa chừng sau khi dân chúng và chính phủ của nước đồng minh này không chịu đựng nổi những tổn thất kéo dài về nhân mạng và tiền bạc trong cuộc chiến, Việt Nam Cộng Ḥa – hay Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa – đành phải chết đi một cách tức tưởi. (Ở đây, người viết thấy cần phải nói lên cảm nghĩ rằng phần đông những người lính Cộng Ḥa cũ, sau nhiều năm suy nghĩ về sự bỏ rơi kia, đă thôi không c̣n oán hận ǵ người bạn chiến đấu Mỹ năm xưa. Đại đa số dân chúng Miền Nam Việt Nam bây giờ đều hiểu rằng một dân tộc giàu có và đáng sống như dân tộc Mỹ mà dám hy sinh cả trên 50,000 mạng người -hầu hết là những thành phần trẻ ưu tú- trong cuộc chiến tranh bảo vệ tự do, dân chủ cho Miền Nam Việt Nam th́ ngần ấy những hy sinh là đă quá đủ rồi. (10)

Lẽ ra, những thanh niên Mỹ kia phải được quyền vui hưởng cuộc đời đầy ắp tương lai xán lạn nơi quê nhà thay v́ phải rời bỏ mái ấm gia đ́nh để rồi bỏ thân trên những chiến trường đèo heo, hút gió trong một cuộc chiến bị phần lớn thế giới v́ lầm mê mà lên án như thế. Hơn nữa, như bức tượng tại đài kỷ niệm chiến binh Việt-Mỹ tại Little Sài G̣n ở Orange County, Miền Nam California, đă cho thấy, chính nhờ những hy sinh xương máu cao cả và sự yểm trợ đắc lực của hằng trăm ngh́n chiến binh Mỹ trong hơn một thập niên dài chiến đấu mà người lính Cộng Ḥa đă có thể giữ vững tay súng đặng bảo vệ cái mầm dân chủ, tự do kia cho được vẹn toàn). Nhưng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa – hay những người lính Cộng Ḥa – khi chết đi, đă để lại một di sản vô giá cho toàn thể dân tộc Việt Nam, đó là mầm mống dân chủ, tự do ngay trong ḷng người dân Việt và trên khắp các ruộng đồng, phố xá, vườn tược, đường sá, cầu cống, chợ búa, nhà thương, học đường, chùa chiền, thánh đường, nhà thờ… tại Miền Nam Việt Nam.

Chính cái nếp sống tự do, dân chủ của dân chúng Miền Nam Việt Nam đă làm cho người dân trong Nam, ngay từ những ngày đầu Sài G̣n sụp đổ, không ngần ngại bác bỏ chủ nghĩa Cộng Sản từ ngoài Bắc đem vào bằng cách hễ ăn gạo th́ nói ăn gạo, ăn bo-bo th́ nói ăn bo-bo, chứ không t́m cách dùng những mỹ từ để che đậy cái đói, cái khổ của ḿnh cho vừa ḷng quân thống trị. Chính cái nền kinh tế thị trường theo kiểu tư bản của Miền Nam Việt Nam đă đánh gục hầu hết những mô thức kinh tế theo kiểu công trường, hợp tác xă, xí nghiệp quốc doanh, bù lỗ, bao cấp… của Cộng Sản Việt Nam. (11) Và, trên một chừng mực nào đó, chính các sinh hoạt tự do, dân chủ đa đảng của Miền Nam Việt Nam từ trước năm 1975 đă dạy cho một số không nhỏ cán bộ, viên chức Cộng Sản Việt Nam dần dần biết thản nhiên từ bỏ Đảng tịch, từ bỏ chức vụ để đứng về phía dân chúng đối kháng chế độ Cộng Sản độc đảng, đ̣i tự do, dân chủ đa nguyên trên cả hai miền Nam, Bắc như hiện nay.

“Mây ngậm ngùi xuống thấp, Hồn kiêu hănh dâng cao.”
Các anh là những người chiến binh “bất tử.”


“Anh không chết đâu Anh” trong ḷng một Việt Nam tự do, dân chủ

Những ǵ sẽ xảy ra nếu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa và tiền thân của quân đội này không hiện hữu hay quân đội này phải bị tan ră ngay từ các thời điểm 1954, 1963, 1965, 1968, hoặc ngay cả vào năm 1972? Điều kỳ diệu là, ngay cả trong những giờ phút khó khăn nhất của Miền Nam Việt Nam khi cuộc chiến tranh xâm lược và phá hoại của Cộng Sản đang lên tới cao điểm với những cuộc tấn công liên tục ngoài chiến trường và những chiến dịch gây xáo trộn cùng bất ổn triền miên trong quần chúng ở hậu phương, dân chúng Miền Nam, dưới sự bảo vệ vững chắc và nhờ những hy sinh vô bờ bến của người lính Cộng Ḥa nơi tuyến đầu khói lửa cũng như trên khắp các mặt trận khác, vẫn có được cái xa xỉ là tiếp tục sinh hoạt b́nh thường, tiếp tục mua bán, kinh doanh làm giàu, và tiếp tục ăn học thành tài để trở thành những chuyên gia rường cột của đất nước mai sau.

Và điều may mắn lớn lao nhất cho dân tộc là sự thể quân đội này đă thoát hiểm và sống c̣n đến trên hai thập niên, cũng vừa đủ thời gian cho mầm tự do, dân chủ đâm chồi và bén rễ trên quê hương Việt Nam khiến cho Cộng Sản Việt Nam ngày nay chỉ c̣n là một cái vỏ trống không, và tất cả những giáo điều cùng lư luận của chủ nghĩa Cộng Sản đều lâm vào ngơ bí khi các vị “thánh tổ” của chủ nghĩa này từ bên trời Âu lần lượt lăn đùng ra chết. Dĩ nhiên là Cộng Sản Việt Nam vẫn c̣n giữ lại một điều duy nhất, đó là nguyên tắc độc đảng, mà nếu họ lại bỏ đi nữa th́ cái câu “trong bụng mỗi người dân An Nam đều có một ông quan” – vốn do một quan chức thực dân Pháp nham hiểm thốt lên từ hồi đầu thế kỷ trước – hóa ra chẳng có ư nghĩa ǵ hết hay sao? (12)

Dẫu sao, ba thập niên sau ngày Việt Nam Cộng Ḥa sụp đổ, khi nghĩ về Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa và cái chết tuy đầy uất ức nhưng cũng đầy hào hùng của quân đội này vào ngày 30 Tháng Tư năm 1975, người ta vẫn thấy rằng cái tinh thần mà quân đội đó mang theo vào mỗi trận đánh, mỗi chiến trường trên khắp các nẻo đường đất nước từ Nam chí Bắc – xin đừng quên những Phạm Phú Quốc, Trần Thế Vinh, Nguyễn Văn Đương, Nguyễn Đ́nh Bảo, Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Nguyễn Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn… – vẫn c̣n sống măi trong ḷng dân tộc và sẽ là mầm phục sinh cho một đất nước và một dân tộc đă trải qua gần hết mọi cuộc bể dâu trong đời. Hay, nói như Nhật Trường Trần Thiện Thanh, một người lính Cộng Ḥa và cũng là một ca, nhạc sĩ tài hoa của nền âm nhạc Việt Nam hiện đại qua nhạc phẩm “Anh Không Chết Đâu Anh”: “Không, anh không chết đâu anh. Chưa, anh chưa chết đâu anh…”



Ghi chú:

(1) Bản tin của thông tín viên Reuters, Paul Eckert, từ Á Châu gởi đi ngày 5 Tháng Sáu, 2006, viết rằng Bộ Trưởng Quốc Pḥng Mỹ Donald Rumsfeld cho hay quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đă đạt tới một “mức độ mới” và rằng hai kẻ thù cũ trên chiến trường sẽ gia tăng những cuộc trao đổi quân sự và huấn luyện.

Ông Rumsfeld và Bộ Trưởng Quốc Pḥng Việt Nam Phạm Văn Trà đă đồng ư gia tăng “những cuộc trao đổi trên mọi cấp bậc quân sự và sẽ tăng cường thêm mối quan hệ quân sự giữa đôi bên qua nhiều cách.” Hai bên cũng đă đồng ư khởi sự việc huấn luyện y tế qua một chương tŕnh quân y do Ngũ Giác Đài đài thọ, và tăng cường hợp tác trong vấn đế tháo gỡ bom ḿn.

Các mối quan hệ quân sự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, 31 năm sau khi cuộc Chiến Tranh Việt Nam chấm dứt và 11 năm sau khi khởi sự b́nh thường hóa quan hệ đôi bên, đă nồng ấm dần dần với những cuộc viếng thăm bến cảng Việt Nam của các chiến hạm Hải Quân Hoa Kỳ. Ông Rumsfeld là vị bộ trưởng quốc pḥng thứ nh́ đến thăm viếng Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản kể từ khi đồng minh Nam Việt Nam sụp đổ vào năm 1975, với lần thăm viếng gần đây nhất của ông là vào năm 1995 tại Hà Nội với tư cách cá nhân. Các cuộc đàm phán quân sự giữa đôi bên diễn ra chưa đầy một tuần sau khi hai nước kư một thỏa hiệp mậu dịch mới dọn đường cho Việt Nam gia nhập Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới (WTO) vào cuối năm 2006.

(2) Các nhân vật bất đồng chính kiến và chống đối Cộng Sản Việt Nam từ sau cuộc thống nhất Nam-Bắc vào năm 1975 bao gồm Viện Trưởng Viện Triết Học Hoàng Minh Chính, Thượng Tọa Thích Quảng Độ, Thượng Tọa Thích Huyền Quang, Linh Mục Chân Tín, Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế, Tướng hồi hưu Trần Độ, nhà văn Dương Thu Hương… Các chức sắc và nhân vật Công Sản Việt Nam bỏ sang hàng ngũ người Việt tự do gồm có cựu Đại Tá Bùi Tín, phó tổng biên tập Báo Nhân Dân của Cộng Sản Việt Nam, Ông Vũ Thư Hiên, con trai của Ông Vũ Đ́nh Huỳnh (từng là bí thư của Chủ Tịch Hồ Chí Minh) và là tác giả Đêm Giữa Ban Ngày, quyển sách tố cáo những sai lầm và bê bối của các nhà lănh đạo Cộng Sản Việt Nam, Luật Sư Trương Như Tảng, cựu bộ trưởng Tư Pháp của chính phủ Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam (Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam) và Ông Vơ Nhân Trí, một nhà kinh tế và xă hội hàng đầu của chế độ Cộng Sản Việt Nam… Thêm vào đó, một số các sĩ quan cao cấp và giới lănh đạo cũ của Cộng Sản, kể cả cựu Tướng Trần Độ và cựu Thủ Tướng Vơ Văn Kiệt cùng các sĩ quan quân đội đă về hưu, hiện đang quay sang chỉ trích các chính sách sai lầm và độc đoán của nhà nước Cộng Sản Việt Nam, hoặc đ̣i hỏi phải có thêm nhiều cải cách sâu rộng hơn nữa trong nước, nhất là về mặt chính trị.

(3) Một điều mà những người Cộng Sản Việt Nam đă không tiên liệu được khi đánh chiếm Miền Nam Việt Nam -và sau đó vội vă thống nhất hai miền Nam-Bắc với nhau bất chấp sự can ngăn của cộng đồng thế giới, nhất là từ phía các chuyên gia kinh tế- là sức phá hoại mạnh mẽ của hệ thống xă hội tư bản tự do ở Miền Nam chống lại hệ thống xă hội theo kiểu Cộng Sản của Miền Bắc. Nói cách khác, chính cái xă hội tự do, cởi mở của Miền Nam -vốn nặng về thực tế vật chất và nhẹ về lư tưởng hay ư thức hệ- đă làm ung thối xă hội Miền Bắc khép kín -vốn nặng về lư tưởng quốc tế viển vông mà nhẹ về thực tế no cơm, ấm áo cho dân tộc ḿnh-rồi sau đó làm ung thối luôn toàn thể cái gọi là “con người xă hội chủ nghĩa” mà Ông Hồ Chí Minh và những kẻ nối nghiệp đă cất công xây dựng và trịnh trọng mang từ Miền Bắc vào Miền Nam, với ư nghĩ là sẽ làm khuôn mẫu cho dân “Nam kỳ” mà bề nào nom cũng có vẻ hiền lành hơn dân “Bắc kỳ.”

Sự thực là Sài G̣n, tiêu biểu cho Miền Nam Việt Nam, là một thành phố “bất trị” trong ư nghĩa nghiêm chỉnh nhất về kinh tế và xă hội. Nhà báo Tim Larimer, trong một bài báo đăng trên Tạp chí Time nhan đề “Sài G̣n Bay Vút” (Saigon Soars), số ra ngày 2 Tháng Sáu năm 1997, viết như sau về sức quật khởi của thành phố mang tên Sài G̣n hơn hai thập niên sau ngày thành phố này bị kẻ chiến thắng đổi tên: “Sau bao nhiêu năm dài, ít nhất cũng có một điều rơ ràng: những kẻ đến đây để ‘thuần hóa’ thành phố mănh hổ này (Sài G̣n) đành kết thúc số phận là để bị nó thuần hóa ḿnh. Và giờ đây, thành phố mănh hổ này đang gầm rống dữ dội với ḷng tự tin, không c̣n kiệt sức và bại trận nơi chiến trường nữa nhưng đă phục hồi sinh lực, giơ cao các móng vuốt lên khỏi những suy thoái và thảm họa đổi đời.”

Để hiểu nếp sống tự do, dân chủ ở Miền Nam Việt Nam đă gây khó khăn như thế nào cho việc phát triển chủ nghĩa xă hội tại Miền Nam, xin hăy đọc Steven Erlanger qua bài báo nhan đề “Việt Nam, Cạn Kiệt v́ Giáo Điều Chủ Nghĩa, Đang Cố “Tổ Chức Lại” Hệ Thống Cai Trị của Ḿnh” (Vietnam, Drained by Dogmatism, Tries a ‘Restructuring’ of Its Own), được đăng tải trên nhật báo The New York Times, số ra ngày 24 Tháng Tư năm 1989:

“Vào lúc Đại Hội Đảng lần thứ 6, hồi cuối năm 1986, đă rơ ràng là các nỗ lực của giới lănh đạo Việt Nam nhằm chuyển đổi nền kinh tế tư bản dựa trên thị trường của Miền Nam sang nền kinh tế cộng sản cổ điển của Miền Bắc đă là một thất bại thê thảm. Cả hai mô thức quốc hữu hóa và tập thể hóa kinh doanh đều đă bị cưỡng chống mạnh mẽ… Và những vi phạm đạo đức của Đảng ngày càng gia tăng khi những cán bộ từ Miền Bắc vào đă bị Miền Nam dụ dỗ làm bậy.”

(4) Seth Mydans, trong một bài báo được đăng trên tờ The New York Times hồi Tháng Năm năm 2000, viết như sau về thành phố Sài G̣n trong lễ kỷ niệm gọi là “25 năm giải phóng miền Nam” lồng trong cảm nghĩ của vài nhân vật từng công khai ủng hộ cuộc chiến tranh được mệnh danh là “kháng chiến chống Mỹ, cứu nước” của Cộng Sản gần ba thập niên trước đây:

“Người ca sĩ đứng tuổi với mớ tóc dài và nhà họa sĩ để râu vừa lắc lắc mấy cục nước đá trong chiếc ly của ḿnh vừa suy gẫm về sự chuyển ḿnh của đất nước họ.

“Cũng như những chiến sĩ dạn dày tuổi lính và các cựu chiến binh từng diễn hành sáng nay với mề-đay trên ngực, hai nhân vật này -các anh hùng chống chiến tranh năm xưa-nói về ḥa b́nh, về những tiến bộ và về tinh thần quốc gia hôm nay vào dịp kỷ niệm năm thứ 25 ngày cuộc Chiến Tranh Việt Nam chấm dứt…

“Tiếng nhạc rốc vang động dội lại từ phía một đại lộ thời Pháp thuộc, trong khi hằng chục ngh́n dân chúng đi dạo chơi nhân ngày nghỉ lễ đă làm nghẽn kẹt các con đường ở trung tâm cái thành phố thay đổi nhanh chóng này, thành phố mà trước kia là Sài G̣n.

“Nhưng hai người bạn đồng chí này, cạnh chai rượu uưt–ki hầu như đă cạn, dường như không thể tách ḿnh ra khỏi một h́nh ảnh vẫn mải ám ảnh họ: h́nh ảnh một Mỹ kiều giàu có đi bộ trên đường phố, tay trong tay cùng với một phụ nữ Việt Nam xinh đẹp.

“Theo lời ca sĩ Trịnh Công Sơn th́, trong thời chiến trước đây, h́nh ảnh đó tiêu biểu cho cái nghèo nàn của đất nước và sự suy đồi trong đạo lư, mặc dù đó vẫn là một h́nh ảnh lăng mạn v́ ông cũng phải nh́n nhận là có thể có t́nh yêu trong đó.

“Nhưng bây giờ, theo lời Trịnh Cung, nhà họa sĩ, đây là ví dụ nổi bật nhất về tính thực tiễn và ham chuộng vật chất hiện đang cấu xé tâm hồn Việt Nam: ‘Lấy tiền, càng nhiều càng tốt, là điều dân chúng mong muốn. Họ muốn có một cuộc đời mới, một cuộc sống mới giàu sang, và thẳng thắn mà nói, họ không cần biết xă hội phê b́nh như thế nào về họ.’” (Seth Mydans. “An Ageless Saigon Basks in Peace” [Một Sài G̣n Chẳng Hề Già Tắm Ḿnh trong Ḥa B́nh]. The New York Times, 1 Tháng Năm, 2000.)

(5) Thông Tấn Xă Reuters, trong bản tin đánh đi ngày 1 Tháng Hai, 2006, cho hay các nhà lập pháp Hoa Kỳ đă nói tại phiên nhóm khởi đầu của khóa họp nhằm cứu xét các luật lệ khống chế bớt các công-ty Mỹ đang hoạt động tại các nước có chế độ đàn áp dân chúng rằng các công-ty đó đă giúp Trung Quốc kiểm duyệt mạng lưới Internet& Uy Hội Nhân Quyền Quốc Hội đă nghe các chuyên gia nói về cách thế những công-ty khổng lồ như Google Inc., Yahoo Inc., Microsoft Corp., và Cisco Systems Inc. đang làm cho công việc canh chừng mọi hoạt động quần chúng của 30,000 cảnh sát Internet tại Trung Quốc trở nên dễ dàng hơn.

Trong một bản tin khác vào ngày 15 Tháng Hai, Hăng Reuters cho biết thêm rằng “từ mấy tháng qua, Yahoo Inc. đă hai lần bị cáo buộc là cung cấp bằng cớ cho nhà cầm quyền (Trung Quốc) bắt bớ và buộc tội chính trị hai khách hàng người Trung Quốc của dịch vụ Internet do công ty Hoa Kỳ này cung cấp.

(6) Cộng Sản Việt Nam, cũng như Cộng Sản Trung Quốc, có thể là v́ tự ái – kiểu Fidel Castro – nên đă không công khai nh́n nhận sự phản bội ư thức hệ này, và dường như họ vẫn cứ muốn dân chúng trong nước tiếp tục tin rằng họ vẫn c̣n trung thành với chủ nghĩa Cộng Sản và thế giới cứ tiếp tục gọi họ là Cộng Sản, chứ không phải bằng một danh hiệu nào khác. Tính thực tiễn cao độ (và không c̣n lư tưởng ǵ nữa) của người Việt Nam và người Trung Hoa thời nay bảo cho họ biết rằng “mèo đen hay mèo trắng, nèo nào cũng vậy thôi, miễn là nó bắt được chuột.”

Một du khách Mỹ từng đến viếng thăm Việt Nam, xưng danh là Jack, viết về chế độ Cộng Sản tại Việt Nam như sau trong một lá thư được đăng trên tờ The Quaker Economist hồi năm 2002: “Chính phủ (Việt Nam) chỉ c̣n là một chính phủ xă hội chủ nghĩa có trên danh xưng -và họ chỉ c̣n giữ lại một điều duy nhất là ‘độc đảng’ mà thôi.” (Jack. “Listening to Vietnam” [Lắng Nghe Việt Nam]. The Quaker Economist, 11 Tháng Mười, 2002.)

(7) Theo các tài liệu lịch sử, Việt Nam nổi tiếng “mê” Mỹ không phải chỉ từ cuộc Chiến Tranh Việt Nam trở đi nhưng là kể từ thời Ông Hồ Chí Minh c̣n cộng tác với t́nh báo Mỹ (Office of Strategic Services, OSS) chống quân chiếm đóng Nhật Bản tại Bắc Việt hồi Thế Chiến Thứ 2, với việc Ông Hồ xin được Mỹ giúp lấy lại độc lập cho Việt Nam từ tay thực dân Pháp -nhưng, rủi thay, lúc đó Mỹ vẫn c̣n “mê” Pháp lắm nên đă làm ngơ- và việc Ông Hồ lấy ư và lời văn từ bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ để lồng vào bài diễn văn đọc trong ngày 2 Tháng Chín năm 1945 là ngày ông và phong trào Việt Minh tuyên bố nền độc lập của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa tại Hà Nội.

Năm 1999, nhân chuyến quân đội Mỹ đến Việt Nam để cứu trợ nạn nhân băo lụt lần đầu tiên kể từ cuộc Chiến Tranh Việt Nam, Đại Sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, là Lê Văn Bằng, có phát biểu như sau: “Hoa Kỳ là nước số một trên thế giới mà chúng tôi (Việt Nam) cần tới để trợ giúp chúng tôi trong các vấn đề an ninh, trong các vấn đề quân sự cũng như trong các vấn đề kinh tế… Nhưng dẫu sao th́ dư âm của cuộc chiến (vừa qua giữa đôi bên) vẫn chưa phai tàn.” (Elizabeth Becker trích dẫn trong “Vietnam Circles Slightly Closer to Military Ties to U.S.” [Việt Nam Nhích Gần Hơn Chút Nữa tới Quan Hệ Quân Sự với Mỹ]. The New York Times, 17 Tháng Tư, 2000.)

Hồi năm 1997, cũng trên tờ The New York Times, có một bài báo của Craig R. Whitney nói về ảnh hưởng áp đảo của nếp sống tư bản tại Miền Nam đối với Miền Bắc, đặc biệt là với Hà Nội:

“Sài G̣n, như hầu hết số 5 triệu dân sinh sống tại đây vẫn c̣n gọi nơi này bằng cái tên đó, theo lẽ th́ đă phải biến thành Hà Nội sau khi những người Cộng Sản Việt Nam thắng cuộc chiến tranh tại Việt Nam hồi năm 1975. Thay vào đó, Hà Nội nay đă trở thành Sài G̣n& Ngoại trừ chuyện không có bóng dáng các chàng GI (lính Mỹ), Hà Nội hiện nay sống và phô bày bộ mặt ḿnh trước toàn thể thế giới y hệt như Sài G̣n ngày xưa vậy -một đô thị cuồng nhiệt, đang biến h́nh và đang được những động lực

mạnh mẽ ngoài ṿng cương tỏa thúc đẩy.” (Craig R. Whitney. “Hanoi Now, Meet Saigon Then” [Hà Nội Bây Giờ Cũng Như Sài G̣n Năm Xưa]. The New York Times, 28 Tháng Mười Hai, 1997.)

(8) Seth Mydans viết trên tờ The New York Times: “Mặc dù những hệ lụy của cuộc chiến, Việt Nam coi bộ vẫn bị thu hút v́ Mỹ quốc. Có lúc, dường như toàn bộ đất nước này đang ra sức học tiếng Anh, thứ ngôn ngữ của giao thương. (Seth Mydans. “Vietnam Finds an Old Foe Has New Allure” [Việt Nam Thấy Kẻ Thù Cũ Có Hấp Lực Mới]. The New York Times, 13 Tháng Tư, 2000.)

(9) Xem lại Craig R. Whitney: “Sài G̣n, như hầu hết số 5 triệu dân sinh sống tại đó vẫn c̣n gọi nơi này bằng cái tên đó, theo lẽ th́ phải biến thành Hà Nội sau khi những người Cộng Sản Việt Nam thắng cuộc chiến tranh tại Việt Nam hồi năm 1975. Thay vào đó, Hà Nội nay đă trở thành Sài G̣n.” (Craig R. Whitney. “Hanoi Now, Meet Saigon Then” [Hà Nội Bây Giờ Cũng Như Sài G̣n Năm Xưa]. The New York Times, 28 Tháng Chạp, 1997. Tài liệu đă dẫn.)

(10) Những tài liệu mới nhất cho biết tổng số quân nhân Mỹ hy sinh trên các chiến trường tại Miền Nam Việt Nam, Miền Bắc Việt Nam, Lào và Cambodia trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam là 58,000. Một số ít các quân nhân khác vẫn c̣n bị coi là mất tích v́ chưa kiểm kê được.

(11) Cũng trong bài báo nhan đề “Việt Nam, Cạn Kiệt v́ Giáo Điều Chủ Nghĩa, Đang Cố ‘Tổ Chức Lại’ Hệ Thống Cai Trị của Ḿnh” (Vietnam, Drained by Dogmatism, Tries a ‘Restructuring’ of Its Own) trên nhật báo The New York Times, số ra ngày 24 Tháng Tư năm 1989, Steven Erlanger lại viết: “Chính sách nông nghiệp mới hiện nay là tái phân phối đất đai đă bị hợp tác hóa trước đây cho từng gia đ́nh riêng rẽ đặt căn bản trên các khế ước mới mang tính lâu dài, với nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước được ấn định sẵn. Chính phủ khuyến khích cá nhân đầu tư vào kinh doanh, và chính phủ cũng hứa hẹn rằng người dân cùng con cái họ có thể tiếp tục quyền sở hữu những ǵ họ đă làm ra.”

Trong một bài báo trên tờ The New York Times hồi năm 2000, Seth Mydans viết: “Dennis de Tray, đại diện cao cấp tại Việt Nam của Quỹ Tiền Tệ Thế Giới (IMF), nói rằng đất nước này (Việt Nam) có kiểu mẫu thành công riêng của họ để phô trương khi họ mở ngỏ nền kinh tế -đó là một quyết định được đưa ra cách nay một thập niên-chấm dứt hợp tác hóa nông nghiệp& Rồi Ông de Tray đưa ra nhận xét: ‘Họ đi từ t́nh trạng suưt chết đói tới vị trí của một nước xuất cảng gạo lớn hàng thứ nh́ trên thế giới hầu như chỉ qua một đêm thôi’.” (Seth Mydans. “Vietnam Finds an Old Foe Has New Allure” [Việt Nam Thấy Kẻ Thù Cũ Có Hấp Lực Mới]. The New York Times, 13 Tháng Tư, 2000. Tài liệu đă dẫn.)

(12) Kẻ được coi là đă đưa ra câu nói “trúng tim đen” của dân Việt Nam kia là Alexandre Varrène, Công Sứ Pháp tại Bắc Kỳ, một quan cai trị thực dân nổi tiếng lỗi lạc v́ thông hiểu cả tiếng Việt lẫn chữ Hán (Nho) và chữ Nôm. Trên cương vị đại diện hành chánh của mẫu quốc tại xứ Bắc Kỳ nằm dưới quyền trực trị của Pháp hồi thập niên 1920, Ông Varrène đă có rất nhiều cơ hội để tiếp xúc và t́m hiểu tâm tư cũng như t́nh cảm của người dân An Nam bị trị tại vùng đất vẫn luôn được coi là chiếc nôi của nền văn hóa Việt Nam. Dĩ nhiên là với cá tính thiên bẩm đó, một người Việt Nam lúc nào cũng tài giỏi tương đương với một người Nhật Bản -mà bây giờ cũng có thể là một người Trung Quốc hay một người Hàn Quốc-nhưng hai người Việt Nam trở lên th́ ta đành chịu thua thiên hạ, đơn giản chỉ là v́ ta thiếu tinh thần đoàn kết -nhất là vào những lúc đang có quyền lợi và không phải đối diện với nguy biến- và chỉ thích làm anh hùng cá nhân mà thôi.

Nguồn người viêt.com
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	CCB-MuaXuan-01.jpg
Views:	0
Size:	27.2 KB
ID:	1352390   Click image for larger version

Name:	CCB-MuaXuan-02.jpg
Views:	0
Size:	62.1 KB
ID:	1352391   Click image for larger version

Name:	CCB-MuaXuan-03.jpg
Views:	0
Size:	37.7 KB
ID:	1352392   Click image for larger version

Name:	CCB-MuaXuan-04.jpg
Views:	0
Size:	24.3 KB
ID:	1352393  

Click image for larger version

Name:	CCB-MuaXuan-05.jpg
Views:	0
Size:	39.9 KB
ID:	1352394  
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Old 03-19-2019   #398
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,410 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Nguyễn Văn Đông & Một Thoáng Xuân Phai

“Chiều nay có một loài hoa vỡ bên trời
Đợi mùa Xuân sang tô… màu nhớ”

Trong hai thập niên (1954-1975) nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông phục vụ trong QLVNCH đă nổi tiếng nhiều ca khúc trữ t́nh, đặc biệt với ảnh người lính giữa thời chinh chiến. Trải qua nhiều thập niên, những t́nh khúc của ông từ lúc sáng tác cho đến nay ở hải ngoại vẫn làm rung động trái tim khi thưởng thức.

Nguyễn Văn Đông là một nhạc sĩ thành danh của ḍng nhạc t́nh ở Sài G̣n trước 1975, tác giả của nhiều ca khúc nổi tiếng. Ông c̣n một vài bút danh khác như Phượng Linh, Phương Hà, Đông Phương Tử, V́ Dân, Hoàng Long Nguyên…

Trong bài viết của Trường Kỳ “Nguyễn Văn Đông: Giữa Binh Nghiệp & Âm Nhạc” đề cập đến cuộc đời binh nghiệp:
“Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông sinh ngày 15 tháng 3 năm 1932 tại quận Nhất, Sài G̣n. Nguyên quán ông bà, cha mẹ ông ở huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Thuở nhỏ ông theo học trường Huỳnh Khương Ninh ở Đa Kao. Khi đất nước gặp phải những biến động lớn lao vào năm 1945, gia đ́nh ông bị liệt vào thành phần địa chủ, cường hào nên lâm vào cảnh khuynh gia bại sản, gia đ́nh ly tán. Do đo, tuổi thơ của ông là người con duy nhất trong gia đ́nh cũng bị vùi dập để cuốn theo thời cuộc lúc bấy giờ.

Sau khi trường Trung Học Hùynh Khương Ninh đóng cửa, ông tự ư xin gia nhập trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Đó cũng là nơi đào tạo nhiều vị tướng lănh tài ba của Quân Đội VNCH. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đă trải qua 5 năm theo học ở ngôi trường này.. Và chính tại đó ông đă được học nhạc và văn hóa với những giáo sư người Pháp có thực tài. Đó là những giảng viên của Viện Âm Nhạc Quốc Gia Pháp được cử về trường Thiếu Sinh Quân giảng dạy. Trong thời gian ông theo học tại trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam, Nguyễn Văn Đông là một thành viên của Ban Quân Nhạc Thiếu Niên, khi mói lên 15 tuổi: “Trường Thiếu Sinh Quân có riêng một đoàn quân nhạc trên 40 người có tầm vóc của người lớn, nhưng lại do chính những em Thiếu Sinh Qưân chưa quá 16 tuổi đời cử hành nhạc và do một giáo sư nhạc trưởng người Pháp chỉ huy. Đoàn quân nhạc của chúng tôi có những nhạc sĩ tí hon có mặt trong những buổi lễ duyệt binh, diễu hành quan trọng một cách đường hoàng như các đoàn quân nhạc chuyên nghiệp người lớn”.

Với đoàn quân nhạc tí hon này, ông sử dụng nhiều nhạc khí như: trompette, clairon, trống, chập chả, vv… Nhưng một cách chuyên nghiệp hơn là ông sử dụng đàn madoline và guitare Hawaiienne trong ban nhạc nhẹ của trường.

Nhờ sống trong một môi trường âm nhạc sôi động như vậy trong trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam, Nguyễn Văn Đông đă có dịp học sáng tác từ những giáo sư người Pháp. Kết quả là ông đă viết được những ca khúc đầu tiên ở tuổi 16 như Thiếu Sinh Quân Hành Khúc, Tạm Biệt Mùa Hè…

Những nhạc phẩm này đă đuợc nhà trường chấp thưận cho phổ biến và được rất nhiều bạn bè ưa thích. Ông cho biết cho đến nay tuy đă gần 60 năm sau, nhưng khi ông gặp lại một số bạn bè, những người này vẫn c̣n thuộc nằm ḷng những ca khúc này và hát lại cho nhau nghe như những kỷ niệm khó quên của thời niên thiếu.

Trong suốt 5 năm theo học ở trường Thiếu Sinh Quân, ông luôn luôn đoạt giải giọng ca hay nhất toàn trường…” (TK).

Ghi chú thêm: Cuối năm 1951, sau khi ra trường Thiếu Sinh Quân, Nguyễn Văn Đông nhập ngũ vào Quân Đội Quốc Gia, mang số quân: 52/120.117, theo học khóa 4 trường Vơ Bị Địa Phương Nam Việt Vũng Tàu (c̣n gọi là Trường Vơ Bị Cap Saint Jacques). Tháng 10 năm 1952, măn khóa tốt nghiệp thủ khoa với cấp bậc Thiếu Úy. Qua năm 1953, được cử đi học khóa huấn luyện Đại Đội Trưởng tại trường Vơ Bị Đà Lạt. Cũng năm này, ông có chân trong ban giám khảo chấm thi khóa Vơ Bị Đà Lạt 1953 do Quốc Trưởng Bảo Đại chủ tọa lễ bế giảng khóa.

Năm 1954, ông được gửi ra Hà Nội theo học khóa Tiểu Đoàn Trưởng tại Trung Tâm Chiến Thuật Hà Nội. Ra trường, ông được giữ chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng TĐ Trọng pháo 553 và là Tiểu Đoàn Trưởng trẻ nhất của Quân Đội Quốc Gia khi mới 22 tuổi. Sau Hiệp định Genève 1954, di chuyển vào Nam, được thăng cấp Trung Úy, phục vụ tại Phân Khu Đồng Tháp Mười với chức vụ Trưởng Pḥng Hành Quân, dưới quyền Đại Tá Nguyễn Văn Là.

Đầu tháng 11 năm 1955, ông chuyển biên chế sang Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa, được cử chức vụ Trưởng Pḥng 3 của Phân Khu Đồng Tháp Mười. Năm 1956 ông tham gia Chiến Dịch Thoại Ngọc Hầu, h́nh ảnh ông được đăng trên b́a báo Chiến Sĩ Cộng Ḥa. Cuối năm 1957, ông được cử đi du học khóa Chỉ Huy Tham Mưu tại tiểu bang Hawaii, Hoa Kỳ. Ngày Quốc khánh Đệ Nhất Cộng Ḥa 26 tháng 10 năm 1959, ông được thăng cấp Đại Úy.

Sau ngày 1/11/1963, ông được thăng cấp Thiếu Tá và được chuyển về Bộ Tổng Tham Mưu phục vụ ở Khối Lănh Thổ. Ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm 1968, ông được thăng cấp Trung Tá phục vụ trong Khối Lănh Thổ. Ngày Quốc Khánh Đệ Nhị Cộng Ḥa 1 tháng 11 năm 1972, ông được thăng cấp Đại Tá làm Chánh Văn Pḥng cho Tổng Tham Mưu Phó. Ông đă ở chức vụ này cho đến cuối tháng 4 năm 1975. (Trung Tướng Nguyễn Văn Là, Tổng Tham Mưu Phó đặc trách B́nh Định & Phát Triển kiêm Tư Lệnh Địa Phương Quân & Nghĩa Quân. V́ vậy Đại Tá Nguyễn Văn Đông coi như người thân tín).

Ông từng được nhận huy chương cao quí nhất của Việt Nam Cộng Ḥa là Bảo Quốc Huân Chương vào giữa thập niên 60…
Trong sinh hoạt văn nghệ, từ năm 1958, Nguyễn Văn Đông là Trưởng ban ca nhạc Tiếng Thời Gian của Đài Phát Thanh Sài G̣n… Năm 1959, Nguyễn Văn Đông là Trưởng ban tổ chức đại hội thi đua Văn Nghệ Toàn Quốc, đă quy tụ trên 40 đoàn văn nghệ đại diện cho cả miền Nam cùng tranh giải suốt 15 ngày đêm tại Sài G̣n. Ông cũng từng nhận giải âm nhạc quốc gia vào cuối thập niên 50.

Tuy phục vụ trong quân ngũ, Nguyễn Văn Đông c̣n là Giám đốc hăng băng đĩa nhạc Continental và Sơn Ca nổi tiếng, cộng tác với những nhạc sĩ tên tuổi như Lê Văn Thiện, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi, Y Vân…. cho ra đời nhiều chương tŕnh ca nhạc, các vở tuồng, cải lương. Chính Nguyễn Văn Đông là người đă tiên phong thực hiện album riêng cho từng ca sĩ mà trước đó chưa từng ai làm. Ông đă thực hiện loạt băng nhạc Sơn Ca nổi tiếng…

Là sĩ quan cao cấp trong Quân Lực Việt Nam Công Ḥa với cấp bậc Đại Tá. Ông đă viết nhiều nhạc phẩm về người lính miền Nam khi đó như Chiều Mưa Biên Giới, Phiên Gác Đêm Xuân, Mấy Dặm Sơn Khê, Khúc T́nh Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Lá Thư Người Lính…

Theo lời tác giả “bản nhạc Chiều Mưa Biên Giới được viết vào năm 1956. Khi ấy tôi là Trung Úy Trưởng pḥng hành quân của chiến khu Đồng Tháp Mười là người có trách nhiệm đề ra những phương án tác chiến. Lần đó tôi dẫn đầu một nhóm biệt kích bí mật đi điều nghiên chiến trường dọc theo biên giới Miên-Việt và Đồng Tháp Mười. Trên đường về, anh em chúng tôi lâm vào cảnh trời chiều gió lộng, mưa gào như vuốt mặt. Giữa cánh đồng hoang vắng tiêu sơ, lối vào tiền đồn th́ xa xôi, thoáng ẩn hiện những nóc tháp canh mờ nhạt ở cuối chân trời. Và từng chập gió buốt kéo về như muới sát vào thịt da. Từ trong cảnh ấy, tận đáy ḷng ḿnh đă nghe nẩy lên những cung bậc rung cảm, những trường canh đầu tiên buồn bă cho bài Chiều Mưa Biên Giới anh đi về đâu…”

Chiều Mưa Biên Giới -Nguyễn Văn Đông -Hà Thanh



Sau tháng Tư năm 1975, Nguyễn Văn Đông trải qua 10 năm lao tù và được trả về ngày 01 tháng Giêng, 1985 với lư do: “Đương sự bị bệnh sắp chết, nên cho phép gia đ́nh đem về nhà chôn cất!”

Sau khi ra tù Nguyễn Văn Đông chia sẻ “Khi trở về nhà, tôi mang theo nhiều chứng bệnh trầm trọng, tinh thần và thể xác bị suy sụp…”. Và niềm an ủi khi lập gia đ́nh với người bạn đời - chị Thu trước năm 1975 nhân viên của hăng đĩa Continental do ông làm giám đốc - có một cửa hàng bán bánh ḿ, thịt nguội với nhiều lọai kẹo bánh dưới tên Nhiên Hương ở Phú Nhuận, nguồn thu nhập của hai vợ chồng người nhạc sĩ suốt mấy thập niên qua. Năm 1990, diện H.O cho cựu Tù Nhân Chính Trị định cư tại Hoa Kỳ, Nguyễn Văn Đông không đi với suy nghĩ của ông “Do những căn bệnh ngặt nghèo tưởng như ‘hết thuốc chữa’ và do tinh thần suy sụp đến tột cùng, có lúc tôi đă nghĩ rằng ḿnh không c̣n sống được bao lâu nữa nên chẳng c̣n thiết tha bất cứ chuyện ǵ, chỉ muốn từ bỏ tất cả để được thảnh thơi yên nghỉ ở cuối đời’’. Vẫn theo lời nhạc sĩ “Không hiểu do đâu, mà Trời Phật đă nh́n lại ông và, cho ông sống, dù là một đời sống ‘rất lê lết’ cho đến ngày hôm nay”.

*Ca Khúc Mùa Xuân
* Phiên Gác Đêm Xuân

Phiên Gác Đêm Xuân



Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông ghi lại hồi kư thời điểm sáng tác ca khúc nầy:
“Vào năm 1956, đơn vị tôi đóng quân ở Chiến khu Đồng Tháp Mười, được xem là mặt trận tiền tiêu nóng bỏng vào thời bấy giờ. Khi ấy, tôi mang cấp bực Trung Úy, mới 24 tuổi đời, c̣n bạch diện thư sinh. Tuy hồn vẫn c̣n xanh nhưng tâm t́nh đă nung trong lửa chín ở quân trường. Chính tại Đồng Tháp Mười, vùng đất địa linh nhân kiệt, đă gợi hứng cho tôi sáng tác những bản hùng ca như Súng Đàn, Vui Ra Đi, một thuở được hát vang trong chiến dịch Thoại Ngọc Hầu. Rồi tiếp sau đó là các bản nhạc Phiên Gác Đêm Xuân, Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ được ra đời cũng tại vùng đất thiêng này. Khi đi vào vùng hỏa tuyến, là chàng trai trẻ độc thân, với một mối t́nh nho nhỏ thời học sinh mang theo trong ba-lô, tôi bước nhẹ tênh vào cuộc chiến đầu đời.

Ngày đó Đồng Tháp Mười c̣n là đồng không mông quạnh, lau sậy ngút ngàn, dân cư thưa thớt, sống co cụm trên những g̣ đất cao giữa vùng đồng lầy nước nổi quanh năm. Người ở hậu phương lúc bấy giờ nh́n về Đồng Tháp Mười như là vùng đất bí hiểm với những huyền thoại Lúa Ma nuôi quân đánh giặc, về Tổng Đốc Binh Kiều, Thiên Hộ Vương thời chống Pháp qua những trận đánh lẫy lừng ở Găy Cờ Đen, G̣ Tháp mà chiến tích được tạc vào bia đá ở Tháp Mười Tầng c̣n lưu lại đến ngày nay.

Mùa Xuân năm đó, đơn vị tôi đóng trên G̣ Bắc Chiêng, có tên là Mộc Hoá, nằm sát biên giới Việt Nam – Campuchia, sau này là tỉnh lỵ Kiến Tường. Đơn vị của tôi đă có những cuộc giao tranh đẫm máu vào những ngày giáp tết trên những địa danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông B́nh, Cái Cái, Tân Thành. Dù vậy, mùa xuân vẫn có cánh én bay về trên trận địa và hoa sen Tháp Mười vẫn đua nở trong đầm dù bị quần thảo bởi những trận đánh ác liệt. Cứ mỗi độ Xuân về, sông Vàm Cỏ lại mang về từng đàn tôm cá từ Biển Hồ Tông Lê Sáp, vượt vũ môn theo đám lục b́nh trôi về vùng Tam Giác Sắt, như nhắc nhở Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Đồng Tháp Mười lập danh sách cho những người được về quê ăn Tết.

V́ c̣n độc thân nên tên tôi được ưu tiên ghi vào Sổ Nhật Kư Hành Quân và ở lại đơn vị trong những ngày Tết. Dù không ai nghĩ có đánh nhau ngày đầu năm nhưng quân lệnh phải được tuân hành nghiêm chỉnh. Trước ba ngày Tết, tôi được lệnh lên chốt tiền tiêu, tăng cường cho cứ điểm, mang theo chiếc ba-lô với chút hành trang lương khô, cùng tấm ảnh của người em gái hậu phương, cũng là cơ duyên sau đó để tôi viết nên bài t́nh ca Sắc Hoa Màu Nhớ.

Tiền đồn cuối năm, đêm 30 Tết, trời tối đen như mực, phút Giao Thừa lạnh lẽo hắt hiu, không bánh chưng xanh, không hương khói gia đ́nh. Tôi ngồi trên tháp canh quan sát qua đêm tối, chỉ thấy những bóng tháp canh mờ nhạt bao quanh khu yếu điểm như những mái nhà tranh, chập chờn dưới đóm sáng hỏa châu mà mơ màng về mái ấm gia đ́nh đoàn tụ lúc xuân sang. Thay cho lời chúc Tết là tiếng kẻng đánh cầm canh và tiếng hô mật khẩu lên phiên gác.

Vào đúng thời điểm giao thừa, ngọn đèn băo dưới chiến hào thắp sáng lên như đón chào năm mới th́ cũng là lúc những tràng súng liên thanh nổ rền từ chốt tiền tiêu. Khi ấy vào buổi tinh mơ của trời đất giao ḥa, vạn vật như ḥa quyện vào trong tôi, có hồn thiêng của sông núi, có khí phách của tiền nhân.

Tôi nghe tâm hồn nghệ sĩ của ḿnh rộn lên những xúc cảm lạ thường, làm nảy lên những cung bậc đầu tiên của bài Phiên Gác Đêm Xuân:

“Đón giao thừa một phiên gác đêm
Chào Xuân đến súng xa vang rền.
Xác hoa tàn rơi trên báng súng
Ngở rằng pháo tung bay
Ngờ đâu hoa lá rơi…”
Rồi mơ ước rất đời thường:
PK: “Ngồi ngắm mấy nóc cḥi canh
Mơ rằng đây mái nhà tranh
Mà ước chiếc bánh ngày xuân
Cùng hương khói vương niềm thương…

ĐK: Chốn biên thùy này xuân tới chi?
T́nh lính chiến khác chi bao người
Nếu Xuân về tang thương khắp lối
Thương này khó cho vơi, th́ đừng đến Xuân ơi!”

Lúc đó Bộ Thông Tin cấm phát hành v́ cho rằng lời ca mang tính tiêu cực như những ḍng thơ của Chế Lan Viên thời tiền chiến trong bài thơ Chiều Xuân:

“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi Xuân lại gợi thêm sầu?
Với tôi, tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!”

Bài Phiên Gác Đêm Xuân được ra đời trong hoàn cảnh như thế…, đánh dấu một chuỗi sáng tác của tôi về đời lính như Chiều Mưa Biên Giới, Mấy Dặm Sơn Khê, Sắc Hoa Màu Nhớ, Khúc T́nh Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Xin Đừng Trách Anh, Lá Thư Người Lính Chiến, Anh Trước Tôi Sau, Lời Giă Biệt…. Sau ngày 30 tháng Tư năm 75, các bản nhạc này cùng chung số phận tan tác như cuộc đời ch́m nổi của tôi…”.

******

Nhớ Một Chiều Xuân



Ca khúc Nhớ Một Chiều Xuân, sáng tác để kỷ niệm chuyện t́nh lăng mạn với một thiếu nữ bản xứ khi đi tu nghiệp Khóa Chỉ Huy & Tham Mưu ở Hawaii năm 1957.

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông viết ca khúc nầy để nhớ một người con gái mang quốc tịch Áo.. Họ đă gặp và yêu nhau tại quần đảo Hawaii. Ngày chia tay để trở về Việt Nam, ông đă thề ước là sẽ trở lại và không phụ t́nh cô gái. Nhưng rồi chiến tranh liên miên, ngày càng thêm ác liệt, ông đă không thể thực hiện lời thề hẹn của ḿnh. Cuộc t́nh ấy đă ly tan, với nỗi niềm:

“Chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ một người
Chạnh ḷng tôi khơi… bao niềm nhớ
Người nơi xa xăm phương trời ấy
Người c̣n buồn c̣n thương c̣n nhớ
Nắng phai rồi…. em ơi!
Chiều Xuân có một người ngơ ngác đi t́m
Một t́nh thương nơi… phương trời cũ
Chiều nay hoa Xuân bay nhiều quá
Chiều tàn dần phai trên ngàn lá
T́m đâu bóng… h́nh ai?
ĐK
Người vê c̣n nhớ… khúc hát
Người yêu dấu bên bờ thành Vienne
Ḷng này c̣n quyến… luyến măi
Đêm Xuân dài mà đâu có hay
Chiều nay có một loài hoa vỡ bên trời
Đợi mùa Xuân sang tô… màu nhớ
Dừng chân trông hoa Xuân hồng thắm
Buồn t́m về t́nh ai đằm thắm
Giờ vun vút trời mây!”

Trong ca khúc Mấy Dặm Sơn Khê mang h́nh ảnh nơi núi rừng Tây Nguyên với nỗi buồn:
“Bao ước mơ giữa khung trời phiêu lăng
Chờ mùa Xuân tươi sáng, nhưng mùa thắm chưa sang
Anh đến đây rồi anh như bóng mây
Chốn phương trời ấm lạnh, ḥa chung mái nhà tranh”

Cũng như ca khúc Chiều Mưa Biên Giới, Lá Thư Người Lính Chiến, ca khúc nầy mang h́nh ảnh nơi núi rừng Cao Nguyên với nỗi buồn nên một thời bị Bộ Thông Tin cấm v́ quá ủy mị, có vẻ “phản chiến” làm nhụt nhuệ khí của tinh thần chiến sĩ.

Nguyễn Văn Đông tâm sự: “Ông có những mùa Xuân buồn trong quăng đời thơ ấu, nhiều bất hạnh! Như gia đ́nh lâm cảnh tang thương. Người thân yêu ly tán trong chiến tranh, ông mất mùa Xuân tuổi thơ khi cha mẹ bị tù đày. Lớn lên đi lính, ông lại thường bị ứng trực vào mùa Xuân ở các đơn vị hẻo lánh….”. Hầu hết các ca khúc về Xuân với niềm vui nhưng dĩ văng đau buồn vẫn ám ảnh trong ḷng tác giả nên trang trải qua từng ca khúc.

Gia tộc Nguyễn Văn Đông là điền chủ ở huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Nơi đó có mối thân t́nh xóm giềng với gia đ́nh ông hương Cả. Năm 1945 “Cách Mạng Mùa Thu” bùng nổ, ông Hương Cả bị đưa ra trước ṭa án nhân dân; lănh bản án “cường hào ác bá” rồi bị xử bắn. Xác thả trôi sông. Thuở bé Nguyễn Văn Đông học trường Huỳnh Khương Ninh, phường Đakao, Tân Định, Sài G̣n. Năm 1945, 1946 loạn lạc, trường Huỳnh Khương Ninh đóng cửa. Cha mẹ nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông từ Sài G̣n tản cư về cố hương, bị liệt vào hàng “địa chủ ác ôn”. Ông bà bị bắt làm tù lao công khổ sai. Tịch biên tài sản, sung vào quỹ kháng chiến. Gia đ́nh ly tán. Cửa nhà tan nát. Ông Hương Cả có một cô con gái xinh đẹp. Hai bên gia đ́nh cùng giao ước kết thông gia khi hai trẻ lớn lên. Khi ấy Nguyễn Văn Đông và cô bé kia c̣n vị thành niên nên t́nh cảm trai gái của “thuở ban đầu” ngây thơ… Đôi trẻ trôi giạt, mỗi người một phương. Họ bặt tin nhau!… (Trong ca khúc Về Mái Nhà Xưa, Nguyễn Văn Đông nói lên niềm đau khi trở lại chốn xưa). Nhờ Trường Thiếu Sinh Quân được coi như mái nhà nuôi dưỡng “đứa con lạc loài” để tạo dựng cuộc đời trong quân ngũ và sinh hoạt văn nghệ.

Trong bài viết của Lê Hữu th́: “H́nh tượng người lính chiến, khắc họa qua ḍng nhạc Nguyễn Văn Đông, như được ‘nâng’ lên ở tầm mức cao hơn và đẹp hơn. Lư tưởng của những người trai anh dũng hiến thân v́ tổ quốc như được tô đậm hơn, chính nghĩa của cuộc chiến đấu gian khổ của quân dân miền Nam như được soi sáng hơn. Người đời, qua đó, thấy yêu mến và gần gũi hơn những người lính, thấy cảm kích và ngưỡng phục những hy sinh cao cả và thầm lặng của người chiến binh v́ nước quên ḿnh. Vậy th́ không thể nào không cám ơn ông, cám ơn người nhạc sĩ đă gieo vào ḷng người những mối cảm xúc sâu đậm, những ấn tượng đẹp và sắc nét về người lính và đời lính.

Chiến tranh đă đi qua, những bài nhạc lính như thế ngày nay ít c̣n được nghe hát, thế nhưng dư âm lời ca tiếng nhạc của một mùa chinh chiến ấy và h́nh tượng hào hùng của người lính chiến Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa vẫn c̣n đọng lại măi trong tâm tưởng biết bao người, như câu nói bất hủ của một danh Tướng Hoa Kỳ, Douglas MacArthur: "Những người lính già không bao giờ chết, họ chỉ nhạt mờ đi thôi" (Old soldiers never die, they just fade away).

Sau bao mùa tang thương dâu bể, sau bao nhiêu giông tố dập vùi, ‘người lính già Nguyễn Văn Đông’, vẫn một niềm tin sắt son vào hồn thiêng sông núi, vẫn chưa mất niềm tin vào vận mệnh đất nước, vẫn c̣n nguyên vẹn trái tim chàng lính trẻ Nguyễn Văn Đông nặng trĩu t́nh quê t́nh nước của những ngày đầu bước chân vào đời quân ngũ.

"Non nước ơi, hồn thiêng của núi sông
Kết trong ḷng thế hệ
Ngh́n sau nối ngh́n xưa…”

* Khúc Xuân Ca

Khác với các ca khúc đề cập ở trên, Khúc Xuân Ca như lời t́nh tự với người yêu. Là nhạc sĩ tài hoa, sĩ quan cao cấp trong QLVNCH, không thể nào thiếu bóng hồng “đi qua đời ông” nhưng Nguyễn Văn Đông rất kín tiếng chuyện t́nh yêu. Nhiều nhạc sĩ khi sáng tác ca khúc trữ t́nh thường nói lên h́nh bóng nào đó làm nguồn cảm hứng nhưng Nguyễn Văn Đông th́ ngược lại.

“PK: Em mùa Xuân hồng, gieo trên phím tơ đồng.
Cho đời mơ mộng, thả ư thơ chờ mong.
Em mùa trăng rằm, cho vương áng mây hồng.
Xin đừng thay ḷng, nhạt màu ái ân.

ĐK: Mùa xuân thay áo, hồng trên má hoa đào.
Vườn Xuân xôn xao, câu ái ân thầm trao.
Ḱa trong ánh xuân tươi, nhịp chân bước đôi mươi..
Nàng Xuân hé môi cười, nhạc ḷng nghe chơi vơi.
Em có hay chăng ḷng anh, trọn đời yêu em măi thôi.
PK: Em mùa Xuân hồng, cho anh vương tơ ḷng.
Xin bờ môi hồng, ư thắm chuyện trăm năm.
Xuân mùa tâm đồng, cho đôi lứa yêu thầm.
Tay cầm tay mừng, mùa Xuân ái ân…
Nào d́u nhau đi, mùa Xuân như ư”.

Khi nhạc sĩ “vương tơ ḷng” để “trọn đời yêu em măi măi” cho đến bây giờ vẫn là h́nh ảnh bí ẩn.

Ca khúc Dáng Xuân Xưa cũng mang niềm tâm sự mối t́nh dang dở như bóng dáng mùa Xuân đă đi qua cuộc dời tác giả:

“ĐK: Xuân sang lả lơi chợt thấy hoa cười
Nối duyên chạnh nhớ một người
Từ mùa Xuân trước tới bây giờ c̣n mơ
Xuân nào sánh vai cùng ngắm hoa đào
Ái ân nào chẳng lúc tàn
Vườn em thơm ngát chờ anh bước sang

PK: Xuân nay mang về kỷ niệm ngày xưa thênh thang
Bâng khuâng thấy hoa mỉm cười chạnh nhớ tới người
Đầu cành oanh ăn nói h́nh dáng Xuân xưa
ĐK: Em ơi ước mơ th́ cũng lỡ rồi
Trách nhau th́ cũng xa rồi
Ḷng ta lơ đăng mà Xuân vẫn sang…”

Tuy phục vụ trong quân đội, Nguyễn Văn Đông sáng tác một số ca khúc về người lính nhưng không mang màu sắc tuyên truyền như lối “phanh thây uống máu quân thù” mà chỉ tỏ bày niềm đau, nỗi buồn của người lính nơi tiền đồn, núi rừng… nhưng khi đổi đời “đứa con tinh thần” đó cũng bị hẩm hiu như cuộc đời tác giả. Nguyễn Văn Đông chia sẻ: “Rất tiếc một số bài hát tâm đắc không được nhà nước cho phép. Tôi hy vọng rồi đây theo thời gian mọi việc sẽ tốt đẹp hơn. Đặc biệt trong lănh vực văn hoá, văn nghệ, tôi nghiệm rằng những ǵ có giá trị nghệ thuật, dù bị vùi dập v́ sự ganh tỵ hay hiểu lầm, sẽ có ngày được mang trả lại vị trí đích thực của nó. Tôi chỉ tiếc đời người ngắn ngủi mà tôi đă phí phạm quăng thời gian dài 30 năm. Thật lấy làm tiếc!”.

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, qua các bút hiệu khác đă sáng tác khoảng một trăm ca khúc từ tân nhạc đến tân cổ giao duyên. Trong phạm vi bài nầy chỉ đề cập vài ca khúc của ông liên quan đến h́nh ảnh mùa Xuân đă đi vào ḷng người trải qua nhiều thập niên.

Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	1.jpg
Views:	0
Size:	54.8 KB
ID:	1352427  
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Đôla Trăm (03-20-2019), laongoandong (03-22-2019), wonderful (03-19-2019)
Old 03-22-2019   #399
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,410 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Ngày về

Năm 1981, khi tôi c̣n bị giam trong trại cải tạo Z30C Hàm Tân, Thuận- Hải, cứ vào buổi chiều, tôi cùng vài anh bạn tù lại ngồi quây quần bên nhau trên sạp xi măng, nhâm nhi từng ngụm cà phê chế bằng cơm cháy, ôn lại chuyện đời cho nhau nghe.

Hầu như bữa nào cũng vậy, dù trời tạnh ráo hay mưa băo dầm dề, thế nào chúng tôi cũng được nghe tiếng guitar thánh thót của một nhạc sĩ tay ngang Cựu Thiếu Tá Hồ Văn Hùng, gốc Cảnh-Sát Quốc-Gia và tiếng ca trầm buồn ảo năo của chàng ca sĩ ngang xương Cựu Thiếu Úy Nguyễn Văn Vinh gốc Biệt Cách Nhảy Dù.

Chúng tôi mất nước đă gần chục năm, xa nhà cũng đă gần chục năm, nên những lời buồn thảm, bi ai: “T́m đâu những ngày thơ ấu qua…”- “Những ngày xưa thân ái, xin trả lại cho ai…” vừa cất lên, th́ người đàn, người hát, người nghe cùng chạnh ḷng, nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ vợ, nhớ con, nhớ bạn bè, nhớ xóm giềng, và nhớ quê hương.
Anh nhạc sĩ Hồ Văn Hùng, xưa kia là Cảnh- Sát tỉnh Hậu-Nghĩa; nay bị giam cùng buồng, cùng đội lao động với tôi. Anh thuộc nhiều bài hát lắm. Tôi xin anh chép lại cho tôi trọn bộ lời Pháp của bài “Chanson d’Orphée”
Anh ta chỉ cần dạo nhạc cho tôi đôi lần, là tôi đă thuộc nhập tâm bài hát này ngay. Trong bài ca ấy, tôi thích nhất câu “Le ciel a choisi mon pays. Pour faire un nouveau paradis” (Thượng Đế đă chọn quê hương tôi để dựng lên một Tân Thiên Đường)
Ngày xưa Thượng Đế đă ban cho tôi một Thiên Đường, mà tôi lại vô t́nh không nhận ra, đó là đất nước Việt-Nam Cộng-Ḥa. Năm 1975 Thiên Đường của tôi đă không c̣n nữa.
Một năm sau ngày được thả, đầu Thu 1989 tôi gặp lại Hồ Văn Hùng trước một sạp báo cạnh nhà thương Sùng Chính, Chợ- Lớn. Khu này quy tụ khá nhiều dân gốc “Ngụy”: Một sạp báo do anh cựu nhân viên Phủ Đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo làm chủ, một thợ hớt tóc là cựu Hải quân Thiếu úy, kế đó là một ông già mài dao, mài kéo, xưa kia làm tới Phó Quận xuất thân từ trường Quốc-Gia Hành-Chánh.
Anh chủ sạp báo là bạn tù tôi quen trong thời gian bị giam giữ ở Z 30 D. V́ làm bạn với anh chủ sạp báo, nên dần dà tôi quen “lây” sang hai ông “Ngụy” kế bên. Lâu lâu tôi ghé chơi, thấy tóc tôi dài, ông Hải quân lại đè đầu tôi xuống hớt tóc giùm, không lấy đồng bạc nào.
Thấy yên sau xe đạp của Hùng chất đầy sách vở, tôi hỏi anh làm nghề quái quỷ ǵ mà nhiều sách thế th́ anh vênh mặt lên,
– Tớ đi dạy.
– Dạy nhạc hả?
– Nhạc ǵ?
– Th́ nhạc Việt, tân nhạc… hồi c̣n trong trại tù cậu và thằng Vinh Biệt Cách hay hát cho tớ nghe…
Hùng xua tay, lắc đầu quầy quậy,
– Tớ có biết nhạc với nhiếc con mẹ ǵ đâu? Guitar tớ học lóm, chẳng có thầy bà nào dạy cả! Nhạc lư, nhạc Pháp cũng làng nhàng. Hiện giờ tớ đi dạy Anh Văn!
Tôi nghi ngờ vặn lại,
– Anh Văn của cậu cỡ nào mà dám đi dạy?
Hùng cười h́ h́,
– Ối trời ơi! Sao cậu ngây thơ thế? Bộ suốt đời lính không lúc nào cậu bị ở vào cái thế lang bang, không chức vụ hả? Cứ lang bang không chức vụ là được gởi đi học. Tớ biết khối thằng có đầy bằng cấp chuyên môn chỉ v́ lư do không có chức vụ trong đơn vị nên cứ có lớp là bị tống đi học. Hồi xưa, lúc c̣n lang bang không chức vụ, tớ có dịp được đề cử theo học một khóa Anh Văn, rồi lại bị đưa đi học tu nghiệp ở Mă-Lai. Năm ngoái ra khỏi tù cải tạo, tớ kiếm hoài không ra việc, tưởng là phải chết đói. Ai ngờ gặp đúng lúc đổi đời, nhà nhà học Anh Văn, người người học Anh Văn. Tớ vội ôn lại văn phạm vài ngày là đi dạy kiếm cơm được rồi. Cả khu phố của tớ đều mù, tớ là thằng chột. Xứ mù, thằng chột làm vua! Tớ đếch cần làm vua, chỉ cần gạo thôi…
Tôi không phục cái ngai vàng trên nước mù và chột của người bạn thời đi tù cải tạo này, nhưng tôi thích tiếng đàn guitar của anh, thích giọng ca của Nguyễn Văn Vinh mà tôi đă được nghe trong những chiều buồn nơi lán trại của Z 30 C, Hàm-Tân năm nào.
Tôi kéo Hùng ngồi xuống bên bàn cờ tướng của ông thợ hớt tóc. Tôi giới thiệu Hùng với hai ông bạn “Ngụy” của tôi. Ông Hải quân mời Hùng uống trà; ông Đốc Sự cũng xúm vào góp chuyện. Hùng là người Huế, ông Đốc Sự cũng là dân Huế; chỉ vài phút sau hai ông đă ra chiều tương đắc.
Thấy trên tường có treo cây guitar của ông thợ hớt tóc, bên cạnh là cây đờn c̣ của ông mài dao kéo, giáo sư Hùng gật gù,
– Các cha ở đây có cả Tân, Cổ giao duyên vui quá há?
Nghe Hùng nói, tôi chợt nhớ chuyện xưa, nên cầm tay Hùng tôi khẩn khoản yêu cầu anh hát lại khúc “Những ngày thơ mộng” của Hoàng Thi Thơ cho tôi nghe.
Chiều ư tôi, ông giáo sư Anh Văn bỏ nón xuống bàn cờ tướng, ông uống cạn ly trà móc câu, ôm cây guitar kê lên đùi, so dây, lấy giọng, rồi bắt đầu: “T́m đâu những ngày thơ ấu qua? T́m đâu những ngày xanh như mộng?…
Khi Hùng vừa xuống giọng câu chót: “T́m đâu? Biết t́m đâu? đâu giờ…” th́ anh bắt ngay qua “Matin, fait lever le soleil…” (Buổi sáng, mặt trời lên…) của bài hát tiếng Tây “Chanson d’Orphée”
Hứng chí, ông thợ mài dao ôm cây đờn c̣ “í!a! í!a!…” phụ họa, c̣n ông thợ hớt tóc th́ hai tay thủ hai cái giũa sắt múa “cạch! cạch! cành! cành!…” trên thành cái chậu nhôm chứa nước như một tay trống điêu luyện, lành nghề.
Người qua đường dừng lại mua báo, khách của bác thợ mài dao, khách của bác thợ hớt tóc đứng ngây nghe các bạn tôi đàn hát. Tiếng hát năo nuột, tiếng guitar réo rắt, tiếng trống sắt rộn ràng, và tiếng đờn c̣ nức nở làm cho lá vàng rơi tới tấp trên đường Trần Hưng Đạo một chiều Thu năm 1989. Mấy bé con tan trường từ một lớp tiểu học gần đó x́ xào với nhau: “Nhạc vàng, nhạc ngoại, hay quá trời, lại nghe coi tụi bây ơi!”
Sau khi chấm dứt câu cuối, “Chante chante mon coeur. La chanson du matin. Dans la joie de la vie qui revient…”
(Hát lên, hát lên trái tim tôi. Bài hát của buổi mai. Trong niềm vui vừa trở lại…) th́ Hùng chợt hốt hoảng la toáng lên,
– Ủa chi rứa? Bà con làm chi rứa?
Th́ ra… bà con qua đường tưởng bốn thằng tôi là gánh hát dạo, họ bỏ tiền vào cái nón của giáo sư Hùng, cái nón nằm ngửa trên bàn!… cái nón đầy tiền loại 20 đồng màu tim tím…
Bốn anh cựu quân, cán, chính, Việt-Nam Cộng-Ḥa nh́n nhau, miệng mếu xệch.

Mười bốn năm sau khi Miền Nam sụp đổ, hàng trăm ngàn cựu tù cải tạo đă lẫn vào và như đă biến mất trong cái xă hội hỗn mang, hạ cám thượng vàng. Họ ch́m vào gịng đời dưới những bộ mă khác nhau: Ông Thiếu Úy Hải quân thành ông thợ hớt tóc; ông Thiếu Tá Cảnh Sát thành ông thầy dạy Anh Văn lưu động; ông Phó Quận Hành Chánh thành ông mài dao kéo; nhưng cái giá trị nhân bản tiềm ẩn trong con người họ vẫn c̣n đó. Trái tim họ vẫn không ngủ quên.
Cũng như trăm ngàn đồng ngũ Việt-Nam Cộng-Ḥa khác, ngày về của tôi cũng là ngày đầu một cuộc sống mới, đầy ngỡ ngàng. Sau đó, tôi cũng từ từ lẫn vào, và biến mất trong ḍng chảy của một xă hội hạ cám, thượng vàng. Tôi bắt đầu xây lại cuộc đời với một chiếc xe đạp thồ.
Cái xe đạp thồ của tôi quả là một con ngựa đa năng, đa dụng. Nó chẳng đ̣i ăn, đ̣i uống, nghỉ ngơi, giải trí, chuyện tṛ ǵ. Tôi chất bất cứ vật ǵ lên lưng nó, nó cũng im re, không than van nặng nhọc nửa lời. Nó giúp tôi buổi sớm tinh mơ chuyển hàng cho thân chủ từ Chợ-Lớn về Chợ Bến-Thành. Buổi tối, chở hàng từ Cầu Chữ Y sang đổ nơi bến xe Miền Đông. Trời nắng chang chang, nó chở tôi và một giỏ cá khô từ Sài-G̣n lên Thủ-Đức, len lỏi trong những con hẻm ngoằn ngoèo, để tôi rao bán lẻ từng kư cá khô, tôm khô.
Nó chở vợ chồng tôi từ Sài-G̣n đi Thủ -Đức tới nhà anh bạn Ngô Văn Niếu của tôi để họp mặt anh em cùng khóa 20 Vơ-Bị chào mừng mười cựu sĩ quan khóa 20 Vơ-Bị mới được tha, trong đó có tôi. Dịp này nơi băi cỏ đậu xe trước sân nhà anh Niếu, nó được đứng xếp hàng chung với những chiếc xe Dream, Honda, Vespa của các bạn tôi. Tôi thấy chiếc xe đạp thồ của ḿnh có vẻ “oai phong” không kém ǵ chúng bạn, v́ so chiều ngang, chiều dài, nó đâu có kém ai? Nh́n kỹ, tôi thấy nó c̣n có vẻ “phong trần bạt mạng” hơn mấy chiếc xe máy bóng loáng, kiêu sa, yểu điệu, của các ông bạn tôi nữa đó!
Tôi có anh bạn làm Trung Tá Cảnh Sát. Anh ấy và tôi được thả ra khỏi trại cải tạo cùng giờ, cùng ngày. Nhà anh bạn tôi ở gần Thảo Cầm Viên Sài-G̣n.
Mỗi lần tôi ghé thăm nhà anh, vừa thấy mặt tôi, bà mẹ anh đă đon đả gọi con,
– Bảo ơi! Có “Anh Long Xe Thồ” tới thăm con kia ḱa!
Trung Tá Cảnh Sát Phan Trần Bảo, Trưởng Ty Cảnh Sát tỉnh Phan-Thiết là bạn tôi; mấy chục năm sau anh ấy c̣n nhớ cái tên “Anh Long Xe Thồ” mà mẹ anh ta đă đặt cho tôi.
Trước ngày lên đường đi Mỹ định cư, nếu tôi ra khỏi nhà th́ thế nào con ngựa thồ của tôi cũng đi theo. Chỉ khi nào tôi lên rừng t́m vàng, đào thiếc, tôi mới chịu để nó ở nhà.
“Ngựa nào cũng là ngựa, xe nào cũng là xe!” vợ tôi thường an ủi tôi như thế, mỗi khi thấy tôi có vẻ áy náy mời nàng dời gót ngọc lên yên sau con ngựa thồ để tôi chở đi đây, đi đó. Nàng lúc nào cũng giản dị b́nh thường. Có tôi bên cạnh, vợ tôi hết lo âu, nh́n đời lúc nào cũng đẹp. Sau những chuyến đi dài ngày đào thiếc, t́m vàng trên Cao-Nguyên, tôi trở về Sài-G̣n; vợ chồng tôi lại chở nhau trên lưng con ngựa thồ, lang thang rong chơi quanh phố. Đường phố Sài-G̣n thời 1988-1990 thênh thang. Khu Nguyễn Cảnh Chân có nhiều giáo sư của Trường Trung Học Hưng Đạo, nơi đứa con gái thứ nh́ của tôi đang theo học. Qua những buổi họp phụ huynh học sinh, cô giáo hướng dẫn lớp con tôi đă quen mặt vợ tôi. Bà cũng biết rơ tôi là sĩ quan Việt-Nam Cộng-Ḥa đi tù cải tạo.
Chắc chắn h́nh ảnh chiếc xe đạp thồ của tôi bay lượn trong khu Cao Thắng, Nguyễn Cảnh Chân đă lọt vào những đôi mắt ṭ ṃ. Một hôm, con tôi về nhà sau buổi học, nó cười: “Sáng nay cô giáo hướng dẫn lớp con vừa hỏi con rằng ba của em đă về chưa? Con nói bố em mới về. Lúc đó cô giáo con mới nói cô có thấy một người đàn ông lạ chở má bằng xe đạp đi qua nhà cô.”
Đời sống riêng tư của những bà vợ trẻ của sĩ quan chế độ cũ luôn luôn là mục tiêu theo dơi ḍm ngó của xóm giềng. Những câu hỏi ḍ la, tọc mạch, chận đầu, bắt nọn như thế không thiếu trong xă hội này. Tôi chạnh nghĩ, qua mười mấy năm dài, xă hội đảo điên dưới chế độ mới, giá trị của nếp xưa Khổng Mạnh cũng c̣n là chút ǵ đáng giá cho người ta lưu tâm. Rồi tôi thấy thương vợ vô cùng. Chuyện xe đạp nổ lốp giữa phố đối với cặp uyên ương này là thường xuyên. Lốp xe nổ, th́ vợ chồng nắm tay nhau, dắt xe đi bộ, về nhà, vá lốp xe! Ngựa nào cũng là ngựa, xe nào cũng là xe. Ngày xưa ḿnh đi xe Jeep, ngày nay ḿnh đạp xe thồ; ngựa xe nào cũng dùng làm phương tiện di chuyển có ǵ mà phải kén chọn, quan tâm? Điều quan yếu là: Ngày xưa ḿnh có nhau, ngày nay ḿnh vẫn c̣n có nhau. Mười ba năm, vật đổi, sao dời, ḿnh c̣n nguyên vẹn như thế này là quư lắm rồi!
Một hôm có người mang đến cho cặp vỏ xe mới, mừng ơi là mừng! Anh bạn quư của tôi lúc này đang làm “gác-dan” cổng sau khách sạn Continental. Hắn chắt bóp măi mới được món tiền mua tặng tôi cặp lốp mới. Hắn tên là Lê Văn Chánh, người Huế. Chánh vốn là một cựu sinh viên Dược Khoa Sài G̣n thời 1960s. Hắn có máu đàn ca và đă có lúc viết nhạc bán cho một nhạc sĩ đă thành danh để có tiền đi pḥng trà Anh Vũ mỗi buổi tối. Học hành chật vật măi vẫn chưa thành Dược Sĩ, hắn bị gọi nhập ngũ khóa 15 Sĩ Quan Trừ- Bị Thủ- Đức để cứu nước. Rồi hắn trở thành sĩ quan An- Ninh Quân- Đội.
Tôi và Chánh gặp nhau và thân nhau ở Trại Nam-Hà A. Chúng tôi ăn chung mâm, ngủ cùng sạp một thời gian rồi cùng được thả ra cùng một ngày, sau mười ba năm bị giam giữ, tù đày.
Thời mới đi tù cải tạo về, tôi gặp hắn dễ lắm. Cứ đi ngang qua đường Lê Thánh Tôn, tới cổng sau Khách Sạn Continental là thấy chàng ta ngồi nơi góc.
Những lần về phố, tôi đều ghé thăm Chánh. Gặp nhau, bù khú một lúc, hai đứa lại rủ nhau ra tán dóc với anh thợ vá lốp, sửa xe bên đường Hai Bà Trưng. Anh vá lốp xe máy, sửa xe đạp này thời xưa làm Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Trung -Tâm Huấn- Luyện Chi- Lăng của Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa. Anh ta tên là Hoàng Trai xuất thân khóa 19 Vơ-Bị. Ba chàng ngồi bên nhau, chuyện nổ như pháo. Hai bạn tôi chỉ quanh quẩn ở Sài-G̣n, nên thích nghe tôi kể chuyện đường rừng, mạo hiểm, như chuyện đào vàng, đào thiếc, chuyện bẫy khỉ, giữ lô, chuyện khai thác gỗ quư, săn ngải, t́m trầm…
Chánh kể cho tôi nghe rằng, nó có đứa con gái lớn tên là Lê Lâm Quỳnh Như. Cháu Quỳnh Như lớn hơn đứa con gái đầu của tôi một tuổi. Một ngày từ rừng trở về thành phố, tôi nghe bạn Chánh khoe, con gái anh vừa đứng đầu cuộc thi tuyển lựa ca sĩ của Thành Phố Hồ Chí Minh. Phần thưởng mà con anh nhận được là cái dây chuyền 7 chỉ. Chánh nh́n tôi, cười, miệng xuưt xoa: “Thế là có tiền lo thủ tục hồ sơ đi H.O”
Sau đó khá lâu, gia đ́nh Lê Văn Chánh đi Mỹ theo danh sách H.O 16. Qua tới Mỹ th́ ca sĩ Quỳnh Như đổi tên là Như Quỳnh, danh tiếng nổi như cồn.
Thời gian đầu, khi Chánh c̣n cư ngụ ở Philadelphia th́ tôi và Chánh vẫn thường xuyên liên lạc điện thoại thăm nhau. Bây giờ th́ t́nh h́nh đă đổi thay nhiều. Chỉ có tôi và anh Trai là gặp nhau thường, v́ hai đứa tôi cùng là cư dân Tiểu Bang Washington. Chúng tôi rất khó tiếp xúc với anh bạn cựu tù Lê Văn Chánh ngày xưa. Nghe đâu, cách đây vài năm, Như Quỳnh mua cho bố Chánh một căn nhà ở Cali, khu cư xá giống như một Fortress City, có rào cản, có cameras, hệ thống alarms cao cấp, security tuyệt hảo, phone của Chánh lại chuyển số luôn luôn, nên tôi và anh vá lốp xe đạp không chuyện tṛ với anh được. Lâu ngày không nói chuyện với nhau, chắc anh Chánh quên tôi rồi?
Riêng tôi, không bao giờ tôi quên “Chánh Phăng Si Đa”, anh bạn tù sốt rét kinh niên cùng buồng 16 ở trại Nam-Hà A Phủ- Lư của tôi. Sở dĩ Chánh có biệt hiệu “Chánh Phăng Si Đa” chỉ v́ lúc nào trong túi anh cũng dự trữ sẵn một vỉ thuốc sốt rét cực mạnh mang nhăn hiệu Fansidar. Không rơ bạn tôi có hiểu rằng, trong mấy năm nay, anh chàng đào vàng trên rừng Nắp Bắc Đà-Lạt và anh chàng sửa xe đạp trên đường Hai Bà Trưng Sài- G̣n nhớ nhung anh gác-dan Khách Sạn Continental không nguôi?
Những sự mất mát nhẹ nhàng như thế, những h́nh bóng mờ dần v́ vô t́nh hay cố ư như thế, làm cho tôi thấy thương, thấy quư những giây phút bạn bè khăng khít bên nhau. Bây giờ, những sợi tơ thân thiết cột buộc chúng ta cứ mỏng dần, mỏng dần theo thời gian.
Ôi! Biết t́m đâu? Những ngày xưa thân ái! Biết t́m đâu xứ sở mà Thượng Đế đă chọn làm một Thiên Đường? Biết t́m đâu Việt-Nam Cộng-Ḥa của tôi?

Vương Mộng Long – K20
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Old 03-22-2019   #400
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,410 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default “Tại sao Bố không giữ lời hứa với Mẹ?”

BÀI VIẾT CỦA NGUYỄN BẢO TUẤN CON ÚT CỐ ĐẠI TÁ NGUYỄN Đ̀NH BẢO
.
Trên FB tôi thấy đại đa số thường chọn h́nh ḿnh hoặc h́nh con ḿnh để làm avatar, ít hơn một chút th́ lấy h́nh của người yêu, vợ hoặc chồng, hoặc một h́nh ǵ đó mà ḿnh yêu thích. Riêng tôi th́ tôi lại chọn một đối tượng khác mà h́nh như tôi thấy chưa một ai chọn giống như tôi: một người mà đă không giữ lời hứa với mẹ tôi. Tôi sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh đầy phong ba băo táp. Cả nhà 6 người mà chỉ có một chiếc xe đạp thay phiên nhau đi, gạo th́ chạy ăn từng bữa, anh trai tôi ngày ngày cứ 5h sáng phải chạy lên G̣ vấp để lấy bánh đậu xanh về đi bỏ cho các tiệm bánh rồi mới về đi học trong suốt 7 năm trời, từ năm học lớp 11 đến hết năm thứ 6 Y khoa.

.
Khó khăn là vậy nhưng tôi vẫn trưởng thành một cách đầy kiêu hănh. Đôi khi nh́n lại tôi tự hỏi là điều ǵ đă giúp tôi mạnh mẽ mỗi khi đương đầu với những khó khăn? Và câu trả lời là do trong huyết quản tôi vẫn đang mang một ḍng máu nóng trong ḿnh và tôi đă đă chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ người đă cho tôi ḍng máu ấy: một người mà đă không giữ lời hứa với mẹ tôi.
.
Tôi cũng không biết tại sao tôi và người đó chỉ gặp gỡ và tiếp xúc trong có vài chục ngày, chính xác là từ ngày 06/01/1972 đến ngày 25/03/1972, mà tôi lại luôn luôn thương mến, cảm phục, tự hào và luôn lấy người làm tấm gương soi để tôi có đủ nghị lực vượt qua mọi khó khăn. Có lẽ là do cuộc sống của người quá vĩ đại và tôi đă được thừa hưởng một phần của nó. Mặc dù khi ra đi người đă không thực hiện được một lời hứa với mẹ tôi mà cho tới bây giờ tôi vẫn hỏi: “Tại sao?”
.
Charlie, tên nghe quá lạ!
.
“Toàn thể những địa danh nơi hốc núi, đầu rừng, cuối khe suối, tận con đường, tất cả đều bốc cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ…Mùa Hè 1972, trên thôn xóm và thị trấn của ba miền đồng bốc cháy một thứ lửa nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt…
Kinh khiếp hơn Ất Dậu, tàn khốc hơn Mậu Thân, cao hơn băo tố, phá nát hơn hồng thủy. Mùa Hè năm 1972- Mùa Hè máu. Mùa Hè của sự chết và tan vỡ toàn diện.
.
Nếu không có trận chiến mùa Hè năm 1972, th́ cũng chẳng ai biết đến Charlie, v́ đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum.
Charlie, “Cải Cách,” hay “C,” đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Pô-Kơ và Đường 14, đông-bắc là Tân Cảnh với mười hai cây số đường chim bay, đông-nam là Kontum, thị trấn cực bắc vùng Tây Nguyên.”
(Trích trong “Mùa hè đỏ lửa” của Phan Nhật Nam)
.
Charlie bỗng trở thành một địa danh được nhắc nhớ từ sau 4000 quả đạn pháo tới trong một ngày, từ sau người mũ đỏ Nguyễn Đ́nh Bảo nằm lại với Charlie.
(Trích lời giới thiệu trong CD Chiến tranh và ḥa b́nh của Nhật Trường Trần Thiện Thanh)
.
Cho đến bây giờ cũng ít người biết rằng tôi chính là “đứa bé thơ” với “tấm khăn sô bơ vơ ” trong bài hát “Người ở lại Charlie” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Và tôi lớn lên cùng với kư ức về một người Cha hào hùng như vậy.
.
Tôi không thần tượng Cha tôi từ một bài hát viết về người, cũng không thần tượng từ một hai trận đánh trong cuộc đời binh nghiệp của người, mà tôi thần tượng Cha ḿnh từ chính cuộc đời của Người. Trải qua biết bao thăng trầm đời binh nghiệp và cuối cùng người đă được giao làm tiểu đoàn trưởng của tiểu đoàn “Song kiếm trấn ải” (biệt danh của tiểu đoàn 11 nhảy dù), một trong những tiểu đoàn được xem là thiện chiến nhất của quân lực Việt Nam Cộng Ḥa thời bấy giờ.
..
Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc Cha tôi là một người khát máu hung tàn, mà ngược lại hoàn toàn, mọi người đều nhớ về h́nh ảnh Cha tôi như là một vơ sĩ đạo đúng nghĩa : giỏi vơ, dũng cảm và cao thượng. Thời bấy giờ có mấy ai dám đánh một sĩ quan của Mỹ, vậy mà Cha tôi đă làm điều đó khi người sĩ quan đó dám làm nhục một người lính Việt Nam (chuyện này tôi được nghe bác ruột tôi kể lại). Có tiểu đoàn nào trong quân đội mà luôn gọi Tiểu đoàn trưởng bằng tên thân mật “Anh Năm”?, nhất là trong binh chủng Nhảy dù, việc phân chia cấp bậc luôn được tôn trọng và đặt lên hàng đầu. Vậy mà trong tiểu đoàn 11 Nhảy dù, tất cả mọi người từ lính đến sĩ quan chẳng ai gọi Cha tôi là Trung tá cả, mà luôn gọi là Anh Năm, và “Anh Năm” thường hay nói với mọi người trong tiểu đoàn rằng : “Tụi mày th́ chẳng biết mẹ ǵ, nhưng tất cả tụi mày tao đều coi là em tao hết”

.
“Anh Năm,
Ngoài đời Anh sống hào sảng, phóng khoáng và thật “giang hồ” với bằng hữu anh em, c̣n trong quân ngũ, Anh như một cây tùng ngạo nghễ giữa băo táp phong ba, Anh không nịnh cấp trên đè cấp dưới, Anh chia xẻ vinh quang buồn thảm với sĩ quan và binh sĩ thuộc cấp. Anh sống hùng và đẹp như thế mà sao lúc ra đi lại quá phũ phàng!?
.
Tôi về lại vườn Tao Đàn, vẫn những hoa nắng tṛn tṛn xuyên qua khe lá, lấp loáng trên bộ đồ hoa ngụy trang theo mỗi bước chân. Cây vẫn xanh, chim vẫn hót, ông lăo làm vườn vẫn lom khom cầm kéo tỉa những chùm hoa loa kèn, những cụm hoa móng rồng và những bụi hồng đầy mầu sắc. Bên gốc cây cạnh căn lều chỉ huy của Anh hồi tháng trước khi c̣n đóng quân ở đây, tôi thấy có bó hồng nhung đỏ điểm vài cánh hoa loa kèn trắng.
.
Chống đôi nạng gỗ xuống xe, tiếng gơ khô cứng của đôi nạng trên mặt đường khiến ông lăo ngẩng đầu và nhận ra tôi. Xiết chặt tay ông cụ, trong ánh mắt già nua chùng xuống nỗi tiếc thương, cḥm râu bạc lưa thưa phất phơ trước gió. Ông cụ đọc báo, nghe đài phát thanh nên biết Anh đă ra đi, nên sáng nào cũng để một bó hoa tưởng nhớ và tiễn đưa Anh. Cụ mời tôi điếu thuốc Quân Tiếp Vụ, rồi ngồi xuống cạnh gốc cây, tay vuốt nhẹ trên những cánh hồng, sợi khói mỏng manh của điếu thuốc nhà binh quện trong tiếng nói:
.
“- Thuốc lá Ông Quan Năm cho, tôi vẫn c̣n đủ dùng cho đến cuối năm. Mấy chục năm nay tôi mới gặp một ông quan nói chuyện thân mật và tốt bụng với những người dân như tôi. Người tốt mà sao Ông Trời bắt đi sớm như vậy!? “
(Trích trong “Máu lửa Charlie” của Đoàn Phương Hải)
.
Cha tôi đă sống như thế nào mà những người ít ỏi c̣n sống sót trở về sau trận chiến tại đồi Charlie đều nói là họ thật hối tiếc khi không được nằm xuống cùng Cha tôi ở đó.
“Tô Phạm Liệu cảm thấy lẻ loi ở cái đại hội y sĩ có nhiều những người “mặc quần mới áo đẹp” và “ăn to nói lớn”, thích “nhảy đầm” và “xếp hàng để lên hát”… Trong cơn say, anh nói là phải chi trước kia, mười mấy năm trước kia, anh được “ở lại Charlie” với Trung Tá Nguyễn Đ́nh Bảo, với các bạn nhảy dù th́ “sướng hơn nhiều.”
(Trích trong “Tô Phạm Liệu : người trở lại Charlie” của Phạm Anh Dũng)
.
Viên sĩ quan cố vấn Mỹ Duffy cho tới tận bây giờ vẫn c̣n luôn mang trong người những hoài niệm về Cha tôi và trận chiến tại Charlie. Mỗi lần tham gia các cuộc gặp gỡ của hội cựu chiến binh Việt Nam (trong đó có một số hiện đang là tướng lănh cao cấp trong quân đội Mỹ) ông ta đều hỏi mọi người “Tụi mày có từng tham gia trận Charlie không, tụi mày có ai từng chiến đấu cạnh Colonel Bao (Trung tá Bảo) chưa? Thế th́ tụi mày c̣n xoàng lắm. Và hàng năm cứ mỗi lần sinh nhật của ḿnh, ông ta đều đặt một ổ bánh kem làm h́nh một ngọn đồi và ghi chữ Charlie lên đó. (Chuyện này do Chú Đoàn Phương Hải khi về Việt Nam năm 2011 thuật lại cho tôi nghe)
Cha tôi đă sống như thế nào để một người Mỹ phải luôn khắc trong tâm khảm những hoài niệm như vậy?
Tôi chỉ có thể kết luận một câu : “Cuộc đời của Cha thật vĩ đại”
Ngày hôm nay khi viết về Cha, tôi không biết viết ǵ hơn, chỉ xin dâng về hương hồn Cha một vài câu thơ nói về khí phách của Người và nơi mà Cha đă gửi lại thân xác của Người vĩnh viễn cho núi rừng Charlie. Ở đây tôi xin dùng từ “Cởi áo trần gian” v́ tôi tin rằng Cha vẫn đang khoác một chiếc áo khác và vẫn đang nh́n tôi từ một nơi rất xa…
.
Lặng lẽ ngàn năm chẳng danh xưng
Bỗng chốc một hôm hóa lẫy lừng
Charlie gầm thét trong lửa đạn
Gọi măi tên người nước mắt rưng
Trai thời nỗi chết tựa trên lưng
Khí phách hiên ngang bước chẳng dừng
Charlie vẫy gọi người ở lại
Cởi áo trần gian tặng núi rừng
(Kính dâng tặng hương hồn Cha)
.
Sinh nhật mẹ tôi ngày 11/04. Trước khi hành quân vào Charlie ngày 25/03 Cha tôi đă đặt một chiếc bánh sinh nhật cho mẹ với lời hứa là sẽ về dự sinh nhật của mẹ. Đến ngày sinh nhật mẹ đă không tổ chức mà vẫn chờ Cha về, và cho đến tận bây giờ mẹ vẫn chờ…
.
Tuy nhiên Cha đă thất hứa với mẹ v́ ngày 12/04 Cha đă cởi áo trần gian và nằm lại vĩnh viễn với Charlie. C̣n tôi, tôi chỉ biết hỏi là tại sao Cha lại không giữ lời hứa với mẹ tôi? Tại sao và tại sao…?…

Nguyễn Bảo Tuấn
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Reply

User Tag List

Thread Tools

Facebook Comments


 
iPad Tablet Menu

HOME

Breaking News

Society News

VietOversea

World News

Business News

Other News

History

Car News

Computer News

Game News

USA News

Mobile News

Music News

Movies News

Sport News

ZONE 1

ZONE 2

Phim Bộ

Phim Lẻ

Ca Nhạc

Thơ Ca

Help Me

Sport Live

Stranger Stories

Comedy Stories

Cooking Chat

Nice Pictures

Fashion

School

Travelling

Funny Videos

NEWS 24h

HOT 3 Days

NEWS 3 Days

HOT 7 Days

NEWS 7 Days

HOT 30 Days

NEWS 30 Days

Member News

Tin Sôi Nổi Nhất 24h Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 3 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 7 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 14 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 30 Ngày Qua
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.


All times are GMT. The time now is 17:47.
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2006 - 2024
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2024 DragonByte Technologies Ltd.
Log Out Unregistered

Page generated in 1.06524 seconds with 15 queries