Trang của lính - Page 30 - VietBF
 
 
 
News Library Technology Giải Trí Portals Tin Sốt Home

HOME

NEWS 24h

ZONE 1

ZONE 2

Phim Bộ

Phim Lẻ

Ca Nhạc

Breaking

Go Back   VietBF > Other News|Tin Khác > Member News | Tin thành viên


Reply
Page 30 of 35 « First 2026272829 30 31323334 Last »
 
Thread Tools
Old 09-12-2020   #581
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,411 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Là 1 trong những viên tướng VNCH đă không chịu đầu hàng và đă chiến đấu đến viên đạn cuối cùng ngày

Là 1 trong những viên tướng VNCH đă không chịu đầu hàng và đă chiến đấu đến viên đạn cuối cùng ngày 30/4/1975. Ông phục vụ dưới sự chỉ huy của Phó tư lệnh vùng 4 là LÊ VĂN HƯNG và tư lệnh vùng 4 NGUYỄN KHOA NAM. Là những người anh hùng thật sự trong cuộc nội chiến nam bắc tại Việt Nam
Hồ Ngọc Cẩn (1938 - 1975), nguyên là một sĩ quan Bộ binh cao cấp của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa, cấp bậc Đại tá. Ông xuất
thân từ trường Thiếu sinh quân và tốt nghiệp khóa Sĩ quan Hiện dịch Đặc biệt tại Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế, Nha Trang vào đầu thập niên 60, và là Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng một tỉnh thuộc Quân khu 4 vào giai đoạn cuối Chiến tranh Việt Nam.

__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (09-16-2020), huudangdo1 (09-12-2020)
Old 09-13-2020   #582
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,411 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Đành Bỏ Anh Em



Mỗi khi nói đến Trần Kim Quan, bạn bè thường gọi anh bằng cái biệt danh không lấy ǵ làm êm tai cho lắm "Quan Mập". Nói đến Quan mập th́ cả Không Đoàn không ai là không biết đến. Thế rồi theo thời gian, mọi người hầu như không c̣n ai nhớ tới họ và tên lót của anh nữa ngoại trừ người hạ sĩ quan văn thư phi đoàn. Đặc biệt hơn nữa là trong phi đoàn có hai Quan, người thứ nhất là Quan Mập, người thứ hai hơi cao, hơi gầy, họ Huỳnh th́ lại được gọi một cách rất đàng hoàng là "Quan Huỳnh" để phân biệt với Quan Mập.

Trong suốt thời gian ở chung đơn vị, tôi chỉ được vài lần thấy anh mặc đồ bay đúng kiểu KQ, c̣n ngoài ra hầu như lúc nào anh cũng mặc quân phục của phi công trực thăng Bộ Binh Hoa Kỳ, tức là áo quần riêng biệt và không bao giờ bỏ áo vô trong quần. Đă thế, anh lại c̣n không bao giờ mang cấp bậc, trên đầu lúc nào cũng có cái mũ lưỡi trai đen bạc màu cố hữu. Thành ra nh́n anh cứ y hệt như một người lính lang thang vô kỷ luật nào đó (họa hoằn lắm mới thấy anh đeo khẩu P.38 bên hông, hoặc trong những phi vụ vô cùng nguy hiểm, anh mới mang theo mảnh áo giáp để che trước ngực). Tôi nghĩ khi anh ra đường lỡ gặp Quân Cảnh th́ họ sẽ "hốt" ngay về Quân Vụ Thị Trấn với tội danh lè phè là cái chắc.

Thế nhưng mội người sẽ bị lầm lẫn ngay nếu đem tính t́nh và khả năng bay bổng của Quan ra để so sánh. Con người của anh không một chút ǵ giống với dáng dẻ bề ngoài: tính t́nh vui vẻ, luôn miệng nói cười, tôi chưa hề thấy anh nổi giận hoặc lớn tiếng với ai bao giờ, kể cả với những thuộc cấp không thi hành đúng lệnh của anh. Riêng về sự b́nh tĩnh, gan dạ, t́nh huynh đệ chi binh, ḷng thành với các chiến hữu có thể nói khó mà t́m được một người thứ hai như anh.

H́nh như Quan không hề biết sợ lưỡi hái của tử thần. Tôi c̣n nhớ, một lần trong lúc hành quân vào mật khu địch ở bên kia biên giới Campuchia. Trước đó hai ngày, một phi cơ trực thăng của phi đoàn do "Ngọc già" điều khiển đă bị bắn rơi bởi đạn pḥng không, những phi cơ bạn bay trong vùng cùng hợp đoàn với Ngọc đă nhiều lần cố gắng đáp xuống để t́m cứu phi hành đoàn nhưng đều bị thất bại v́ hỏa lực pḥng không quá mạnh của địch. Cuối cùng, phi đoàn trưởng của chúng tôi đành phải quyết định cho hợp đoàn quay mũi trở về: ông không muốn hy sinh thêm thuộc cấp của ḿnh.

Sau đó, không c̣n ai dám mạo hiểm bay vào hỏa lực pḥng không dày như đan lưới dù rất nóng ḷng muốn t́m cứu những đồng đội kém may mắn. Thế nhưng hôm ấy, sau khi hợp đoàn trở về Trảng Lớn ăn trưa (căn cứ Trảng Lớn, nơi đặt bộ chỉ huy tiền phương của SĐ25BB), Quan đă cùng phi hành đoàn âm thầm đi t́m chiếc phi cơ của Ngọc bị rớt. Một số người thấy Quan cất cánh đều cho rằng anh đi lấy thêm xăng và gắn thêm rocket để chuẩn bị cho phi vụ buổi chiều. Không một ai biết rằng anh và phi hành đoàn đă làm ǵ mà chỉ biết khoảng độ chừng hơn nửa giờ sau đó anh bay trở lại với thi thể của Ngọc trên tàu.

Một lần, tôi được dịp bay chung với Quan trong một phi vụ "cover" cho Chinook (trực thăng vận tải) tiếp tế cho căn cứ Tống Lê Chân của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân Biên Pḥng đang bị địch bao vây. Vừa cùng hợp đoàn Chinook cất cánh từ Lai Khê, khi phi cơ lên tới cao độ chừng 500 bộ (khoảng 150 mét), đang lơ đăng nh́n những hàng cao cu trùng điệp lướt nhanh dưới chân, đầu óc nghĩ tới những giây phút sắp đến, bỗng dưng tôi cảm thấy mũi phi cơ chúi xuống và lệnh hẳn hướng bay. Với phản ứng tự nhiên của một hoa tiêu, tôi chụp lấy cần lái điều chỉnh thăng bằng và lấy lại hướng bay. Nh́n sang ghế bên phải, tôi thấy tay chân Quan buông thơng, đầu rũ xuống, nghẹo sang một bên. Tôi bấm intercom thất thanh gọi lớn: "Quan, Quan anh làm sao vậy?" th́ bỗng anh bật dậy cười ha hả: "Tao thử xem mày phản ứng ra sao một khi lỡ tao bị bắn trên tàu". Tôi cự nự: "Giỡn cái ǵ mà ác vậy cha? lỡ chẳng may thật th́ vợ con để cho ai!". Quan đáp: "Th́ để cho thằng khác lo, sợ ǵ".

Sau đó tất cả chúng tôi trở lại với tâm trạng lo âu nhưng có phần đỡ căng thẳng hơn lúc trước, vừa bay, vừa trao đổi với nhau những câu chuyện vu vơ trên đường bay vào đơn vị bạn đang bị áp lực của địch đè nặng. Khi chúng tôi bắt đầu tới vùng trách nhiệm, hai chiếc Chinook cho biết họ sắp sửa vào đáp xuống căn cứ th́ mọi "thủ tục chào đón" của địch dành cho chúng tôi cũng bắt đầu, không thiếu một thứ ǵ - từ đốt pháo bông (súng pḥng không) tới bắn đại bác chào mừng (pháo kích vào băi đáp). Quan cùng chiếc số 2 cũng bắt đầu "đáp lễ" một cách vô cùng ngoạn mục, từng loạt rocket, từng tràng minigun của chúng tôi nhả xuống liên tục như mưa trên đầu đoàn quân "sanh Bắc tử Nam".

Những họng pḥng không, những ṇng đại bác câm tiếng, hợp đoàn hoàn thành nhiệm vụ một cách mỹ măn trước sự bất lực và ḷng căm tức của đám "bộ đội cụ Hồ".

Một lần khác, sau khi hoàn thành phi vụ từ An Lộc trở về, tôi bay chiếc gun số 2 (trực thăng vơ trang) bay bám theo sát chiếc số 1 do Quan lái. Vừa bay ngang suối Tàu Ô, Quan bấm máy liên lạc gọi tôi:

- "Ê gun 2, cover cho tao leo xuống kiếm thằng Quan Huỳnh".

Nghe Quan nói thế, tôi thầm lo trong ḷng, v́ nơi Quan Huỳnh bị rớt mất tích trước đó mấy tuần chỉ cách suối Tàu Ô có vài cây số, là nơi đă từng xảy ra những trận quần thảo kinh hồn giữa ta và địch, nay chắc địch vẫn c̣n đóng chốt đâu đây. Thế mà Quan bất chấp những ǵ đang chờ đợi ḿnh dưới đất. Anh "rà" xuống thật thấp và bay chậm với hy vọng may ra sẽ t́m ra được dấu vết nào đó của Quan Huỳnh ở phía dưới. Tôi từ trên cao độ 2000, rồi 1500 bộ, nh́n thấy Quan bay là là chung quanh chiếc phi cơ của Quan Huỳnh bị rớt, tim tôi như muốn nhảy khỏi lồng ngực. Tôi bấm máy gọi Quan:

- "Lên đi, không thấy ǵ nữa đâu, nửa tháng nay rồi c̣n ǵ mà t́m".

Quan đáp:
- "Ráng thêm chút nữa đi 2, may ra..."

Thấy Quan không chịu lên, tôi đành phải xuống thấp hơn nữa để cover cho gần hơn. Bỗng nhiên tôi nghe giọng Quan vang vang trong máy:
- "Mẹ, nó bắn, nó bắn lên!"

Tôi không kịp trả lời Quan. Hai khẩu minigun 6 ṇng của tôi nhả từng tràng đạn liên hồi với nhịp bắn tối đa (4000 viên/phút). Từ phía dưới, Quan vụt phóng lên cao và cao giọng:

- "Tao thấy chúng nó rồi, cover cho tao trả đũa!"

Rồi không cần biết tàu ḿnh lúc năy có bị trúng đạn hay không, Quan quay mũi về hướng mục tiêu và cắm xuống, từng cặp rocket xé gió phóng xuống, nổ tung. Xong đợt thứ nhất, Quan quẹo ra và nói với tôi:

- " Hai, mày vô đi, làm ăn chung quanh chỗ tao vừa làm, tụi nó đông lắm".

Tôi đă chuẩn bị sẵn, chỉ chờ có thế. Quan vừa ra là tôi bắt đầu cắm xuống. Và cứ như thế chúng tôi thay phiên nhau cho tới khi xả hết rocket mới chịu lấy hướng bay về. May mắn, hôm ấy không chiếc nào bị ăn đạn địch.

Nói về Quan, về thành tích trong chiến đấu cũng như trong t́nh chiến hữu, có lẽ phải viết một quyển sách dày máy ra mới tŕnh bày đủ những ǵ anh đă thể hiện trong đời binh nghiệp của ḿnh. Tiếc thay, tôi không có đủ khả năng để làm công việc đó. Tôi chỉ có thể tóm tắt như sau: Quan không bao giờ t́m cách từ chối bất cứ phi vụ nào dù nguy hiểm tới đâu; Quan không hề quay lưng khi bạn bè lâm nạn, chưa từng lùi bước khi đơn vị bạn dưới đất bị lâm nguy, không bao giờ chùn tay lái trước hỏa lực của quân thù.

Thế rồi vào một ngày gần cuối năm 1974. Hôm ấy thời tiết xấu, sương mù giăng phủ khắp vùng rừng núi chiến khu D, đồn điền Minh Thạnh. Ngay từ sáng sớm chúng tôi đă có mặt bên sân đáp của Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù chờ đợi thi hành những phi vụ "đứng tim", đổ các toán biệt kích vào ḷng chiến khu địch!.

Sau cả ba lần cất cánh, chiếc trực thăng chỉ huy chở theo những sĩ quan trách nhiệm của Liên Đoàn đều trở về trong chán nản. Thời tiết quá xấu, sương mù vẫn c̣n dày đặc khắp vùng hành quân. Măi đến gần 3 giờ chiều, chiếc trực thăng cất cánh thêm một lần nữa và lần này các cấp chỉ huy đă quyết định sẽ thả quân vào theo đúng như kế hoạch dự trù.

Sau khi hợp đoàn đang làm ṿng chờ ở phía quân lỵ Chơn Thành, hai chiếc vơ trang của chúng tôi cùng chiếc Charlie (trực thăng chỉ huy) bay sâu vào vị trí để xác định băi đáp một lần cuối cùng trước khi hợp đoàn vào hạ cánh. Quan sát xong, chúng tôi bay trở ra để hướng dẫn hợp đoàn vào, Thiếu Tá Tiên, vị sĩ quan chỉ huy hợp đoàn là người từng nổi tiếng với nhữung phi vụ gay go, căng thẳng đă đem lại những chiến công rực rỡ cho đơn vị ḿnh cũng như các đơn vị bạn.

Với một giọng rơ ràng, b́nh tĩnh, ông hướng dẫn hợp đoàn đến địa điểm đổ quân. Quan bay bên trái, tôi bên phải. Trước khi tới băi đáp, Quan dặn ḍ tôi:

- "Ráng coi chừng cho kỹ nghe gun hai. Có dấu hiệu tụi nó đông lắm đó!".

Tôi không trả lời, chỉ bấm máy hai lần ra hiệu nhận rơ. Rồi giờ phút nghiêm trọng bắt đầu khi tiếng của Charlie vang lên trong máy:

- "Số 1, số 2 lần lượt hạ cánh".

Hai chiếc slick cắt ga cho phi cơ từ trên cao rơi nhanh xuống. Quan kè theo chiếc số 1, tôi cặp theo chiếc số 2. Cùng lúc đó, từng loạt đạn của nhiều loại vũ khí khác nhau bắn xối xả lên hợp đoàn chúng tôi - mục tiêu tốt nhất của địch. Lập tức, bốn khấu minigun của những xạ thủ kinh nghiệm trả đũa, nhả đạn tới tấp. Bất chấp đạn địch bắn lên như đan lưới, hợp đoàn vẫn giữ hướng bay đi vào băi đáp theo lệnh của Charlie. Bỗng nhiên phi cơ của Quan quay đầu trở ra. Chưa hết ngạc nhiên th́ tôi đă nghe tiếng Th/tá Tiên gọi lớn:

- "Gun 1 đi dâu vậy? Quan đi đâu vậy? Sao không theo hợp đoàn?".

Không nghe trả lời, ông gọi tiếp:
- "Quan, Quan, mày đi đâu vậy?"

Vẫn kông có tiếng trả lời, ông gọi cho tôi:
- " Gun 2 tiếp tục theo hợp đoàn"

Tôi bấm máy:
- "Nghe rơ Charlie"

Vừa bay, vừa nhả đạn, tôi không c̣n thời giờ để nghĩ tới Quan nữa v́ hiện tại 2 chiếc "slick" chỉ c̣n một chiếc gun của tôi yểm trợ, tôi phải đặt hết tâm trí vào việc đối phó với quân thù.

Cuối cùng hợp đoàn đă thi hành xong nhiệm vụ. Khi cả ba chiếc lên đủ cao độ để bay về, tôi thở một hơi dài nhẹ nhơm. Bây giờ mọi người mới nhớ tới Quan, chiếc gun số 1, Gịong Th/tá Tiên vang lên trong máy:

- " Gun 1, gun 1, đây Charlie!"

Vẫn yên lặng, ông hét lớn hơn:
- "Gun 1 - Charlie, Gun 1 - Charlie"

Hoàn toàn không có tiếng nào đáp trả. Ông gọi cho tôi:
- "Gun 2 dùng tần số nội bộ gọi gun 1 xem sao"

Tôi đáp"
- " Đă gọi rồi Charlie, không nghe ǵ cả"

Sau một lúc im lặng, tôi đang suy nghĩ xem có cách ǵ để t́m được tàu của Quan hay không th́ bỗng nghe tiếng Th/tá Tiên la lên trong máy:
- " Có một chiếc trực thăng đang đậu dưới Chơn Thành, để tao xuống xem sao?"

Cả hợp đoàn hạ cao độ th́ thấy rơ ràng chiếc Gun 1 của Quan đang đậu dưới đó. Mọi người chưa hết ngạc nhiên và đang đặt một câu hỏi chuyện ǵ đă xảy ra cho Quan th́ được Charlie từ phía dưới báo lên một tin như sét đánh ngang tai:

"Quan mập" đă đền nợ nước!

Nghe tin này, tất cả chúng tôi như người đang nằm trong mộng, sững sờ không nói với nhau được một lời. Phải cả phút sau đó, chúng tôi mới hoàn hồn và bày tỏ ư định muốn đáp xuống nh́n xác Quan và chia sẻ mất mát với anh em phi hành đoàn gun 1, nhưng Th/tá Tiên không cho phép và ra lệnh cho chúng tôi bay về trước. Ông e rằng một khi chúng tôi đáp xuống, địch sẽ rót đại bác vào quận lỵ, gây thêm mất mát, tang tóc cho ḿnh một cách vô lư.

Vậy là sau bao lần thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc, cuối cùng Quan mập cũng đă vĩnh viễn ra đi. Sau đó chúng tôi được biết anh đă tử thương ngay từ những loạt đạn đầu tiên của địch. Một viên pḥng không 12 ly 8 của quân thù đă xuyên qua đầu anh và đâm thẳng lên trần cockpit phà hỏng hệ thống truyền tin của phi cơ, v́ thế mà Th/tá Tiên , tôi và tất cả anh em khác đều không ai liên lạc được với phi hành đoàn của gun 1 nữa. Sau khi Quan trúng đạn, Lâm Văn Có - hoa tiêu phụ của Quan hôm đó - vội vàng vừa điều khiển phi cơ, vừa cố liên lạc với các phi cơ khác nhưng vô hiệu. Không c̣n cách nào khác, Có đành quay mũi phi cơ bay thoát ra ngoài và đáp xuống Chơn Thành...

Quan ra di mà không một lời trối trăn từ biệt. Đành bỏ anh em bạn bè. Cánh chim nào ĺa đàn mà không làm cả bầy xao xác, nhưng riêng với Cố Đại Uư Trần Kim Quan, một chiến hữu mà tôi từng mến phục, từng nhiều lân vào sanh ra tử, sự ra đi của nh đă để lại trong ḷng tôi muôn vàn xót xa, thương tiếc.

Hơn 19 năm đă trôi qua nhưng h́nh ảnh quan tài của Quan với lá cờ vàng ba sọc đỏ của Tổ Quốc phủ kín, với tấm Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu lấp lánh bên hàng nến lung linh vẫn chưa phai nhạt trong tôi. Và tôi cũng tin rằng ở một nơi chốn b́nh yên nào đó, chắc chắn hồn anh cũng măi nhớ đến những cánh chim cùng bầy ngày nào, giờ đang tan tác khắp bốn phương trời cách biệt.

Mlebourne

Lôi Vân 71.
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	image.jpg
Views:	0
Size:	46.0 KB
ID:	1652849  
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (09-16-2020), huudangdo1 (09-13-2020), phokhuya (09-25-2020), trungthu (09-17-2020)
Old 09-16-2020   #583
hoathienly19
R4 Cao Thủ Vơ Lâm
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 842
Thanks: 1,657
Thanked 1,149 Times in 509 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 23 Post(s)
Rep Power: 5
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default

Bài viết thật cảm động . Cám ơn anh người lính VNCH đă hy sinh tuổi hoa xuân trong cuộc chiến ngăn chận làn sóng đỏ , các anh sống măi trong ḷng dân tộc VN.
hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following 3 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (09-16-2020), phokhuya (09-25-2020), trungthu (09-17-2020)
Old 09-16-2020   #584
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,411 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default

Quote:
Originally Posted by hoathienly19 View Post
Bài viết thật cảm động . Cám ơn anh người lính VNCH đă hy sinh tuổi hoa xuân trong cuộc chiến ngăn chận làn sóng đỏ , các anh sống măi trong ḷng dân tộc VN.
bạn ghé đến Trang lính > Mong bạn góp thêm bài về lính ở đây
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
phokhuya (09-20-2020), trungthu (09-17-2020)
Old 09-17-2020   #585
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,411 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Người hùng Xuân Lộc.



Hậu duệ chúng tôi xin được tri ân đến Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 43, Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Ông là người con đáng tự hào của xứ Huế.

Ông đă theo học khóa 13 Trường Bộ Binh Thủ Đức, ông nhập học và ra trường cùng năm 1962. Sau khi ra trường, ông về lại quê nhà và phục vụ trong Trung Đoàn 46 Biệt Lập. Từ đó, do nhu cầu quân vụ, trung đoàn này tiếp tục di chuyển từ từ vào Nam, qua các địa danh Đà Nẵng, quảng Nam, Quảng Ngăi, B́nh Định, Quy Nhơn… và sau cùng là Hậu Nghĩa. Trung Đoàn 46 đă sát nhập vào Sư Đoàn 25 Bộ Binh.

Năm 1966, tức là sau 4 năm, ông làm đơn xin giải ngũ và được chấp thuận…

Biến cố Mậu Thân 1968 đă xăy ra và mức độ leo thang chiến tranh ngày càng khốc liệt do phía cộng sản miền Bắc phát động theo lệnh quan thầy Liên xô, Trung Cộng. Ngoài việc nhuộm đỏ toàn vùng Đông Nam Á, mà Nhuộm đỏ Việt Nam là bước tiên khởi. Th́ cuộc chiến này không những làm cho Việt Nam bất ồn, suy yếu, mà ngày càng lệ thuộc vào cộng sản Nga, Tàu và qua đó chúng sẽ thực hiện tham vọng thôn tính Việt Nam từ từ như ngày nay ai cũng thấy rơ…

Sau Mậu Thân 1968, ông được gọi tái ngũ. Ông đă phục vụ trong Binh Chủng Biệt Động Quân 2 năm trước khi về Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 49 thuộc Sư Đoàn 25 Bộ Binh. Sau đó được thuyên chuyển qua Sư Đoàn 18 Bộ Binh dưới quyền vị tư lệnh tài đức song toàn là Thiếu Tướng Lê Minh Đảo.

Ông là một trong những vị tiểu đoàn trưởng được danh tướng Lê Minh Đảo ưu ái và đánh giá cao. Tại chiến Trường An Lộc vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, nhờ chiến công hiển hách ông đă được đặc cách tại mặt trận lên Thiếu tá.

Chiều 17/3/ 1975, tiểu đoàn của ông di chuyển vào đóng trên ngọn đồi ở phía tây bắc trên QL 20, để bảo vệ Chi Khu Định Quán. Sáng hôm sau, trước lối tấn công tiền pháo hậu xung bằng thí quân biển người của Trung Đoàn 141, Sư Đoàn 7 Bắc Việt, Chi Khu Định Quán đă thất thủ. Cũng vào ngày 17/3/1975, Đại Đội Biệt Lập 357 Địa Phương Quân cũng được Quân Đoàn III (chứ không phải là ĐĐ 377 như một số tài liệu, v́ tôi có người thân phục vụ trong ĐĐ 357 ĐPQ này và hiện nay vẫn c̣n sống), nhưng lực lượng pḥng thủ quá ít so với lực lượng tấn công. Sáng 19/3/ 1975, Bắc quân dồn toàn bộ lực lượng tấn công và tràn ngặp nơi Tiểu Đoàn 2 đóng quân, buộc ḷng tiểu đoàn của ông phải rút lui với tổn thất cao, toàn bộ Định Quán đă rơi vào tay quân Bắc Việt.

Bỏ Định Quán, TĐ 2 rút về Cầu La Ngà, rồi Túc Trưng và sau cùng là rút về đóng tại hậu cứ ở Núi Thị để được tái trang bị, bổ sung quân số và huấn luyện gấp rút. Núi Thị (H́nh như c̣n được gọi là Đồi 81) vừa là Căn Cứ Hỏa Lực gồm 12 khẩu đại bác 105mm và 155mm, vừa là trạm truyền tin liên lạc quan trọng của QĐ III. Đây là vị trí chiến lược quan trọng để bảo vệ mặt tây của Thị Xă Xuân Lộc, đồng thời tại cao điểm này, Pháo Binh có thể bắn yểm trợ cho quân bạn quanh Xuân Lộc và theo dơi sự chuyển quân của giặc. Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế đă cho một trung đội lên đóng ở Núi Ma ở phía bắc của Núi Thị và ở phía bên kia của QL 1, để kiểm soát t́nh h́nh tốt hơn.

Mặt trận Xuân Lộc bắt đầu từ sáng ngày 9/4/1975 và tại đây SĐ 18 BB đă đánh một trận để đời, với quyết tâm trên dưới một ḷng, họ đă đánh bại QĐ 4 Bắc Việt. QĐ 4 gồm SĐ 6, SĐ 7, SĐ 341 và SĐ 1 thuộc QĐ 7 bổ sung.

Do t́m hiểu cá nhân, tôi tin chắc rằng tại mặt trận này ngoài loại bom Địa Chấn BLU-82 Daisy Cutter được xử dụng, Không Quân VNCH c̣n thả thêm một trái bom Nhiệt Áp CBU-55. Phía Hoa Kỳ thời đó hoàn toàn im lặng khó hiểu v́ rất có thể họ không muốn khối cộng sản mà nhất là Liên Xô biết bom Nhiệt Áp CBU-55 đă được thả thử nghiệm tại đây !

Sau 12 ngày đêm bảo vệ Xuân Lộc, Bắc quân buộc phải rút lui về hướng tây để đi đường ṿng tiến về Thủ Đô Sài G̣n. SĐ 18 cũng được lệnh rút về Phước Tuy. 5 giờ sáng ngày 21/4/1975,TĐ 2 là đơn vị sau cùng triệt thoái khỏi Xuân Lộc bằng cách băng rừng về Long B́nh. Sau 5 ngày, Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế đă về được Long B́nh an toàn.

Khi tham chiến tại Xuân Lộc, TĐ 2 có quân số khoảng 600 Quân nhân, nhưng khi rút được về Long B́nh th́ chỉ c̣n lại một nữa! Những quân nhân của TĐ 2 hy sinh tại Núi Thị hay trên được rút lui đă bị bỏ lại, hoặc được đồng đội chôn tại chỗ. Nhân đây chúng tôi xin nhắn tin, nếu ai là thân nhân của người lính trẻ khoảng 19, 20 tuổi tên Nguyễn Ngói, quê ở Nha Trang, thuộc Trung Đội 2, Đại Đội 4. Anh Nguyễn Ngói hy sinh do bị miểng pháo vào ḷng ngực trong khi đang t́m cách nhảy vào hố cá nhân vào sáng ngày 9 /4/1975, anh được đồng đội chôn tại chỗ bằng cách đào rộng hố cá nhân của anh… Hiện nay nơi chôn không c̣n dấu vết nhưng một số người địa phương vẫn biết vị trí. Sau khi đọc được những gịng chữ này, xin người nhà liên lạc với chúng tôi để anh Nguyễn Ngói được về với gia đ́nh. Đối với chúng tôi đây là việc làm phát xuất từ món nợ ân t́nh chứ không vụ lợi.

Sau 30/4/1975, Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế cũng đă chịu cảnh tù đầy trong khoảng thời gian 5 năm. Hiện ông cùng gia đ́nh đang định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO. Hậu duệ chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hy sinh của ông và của toàn thể chiến hữu của ông trong công cuộc bảo vệ miền Nam tự do, dân chủ. Chúng tôi vẫn luôn ngưỡng mộ ông và cầu chúc ông cùng gia đ́nh luôn vui khỏe và b́nh an. Câu nói của ông luôn được chúng tôi suy ngẫm và làm theo :

“Nếu phải chết! Th́ phải chết sao cho xứng đáng!”.


Cuong Nguyen
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
huudangdo1 (09-17-2020), phokhuya (09-20-2020)
Old 09-17-2020   #586
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,411 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default NHỚ BẠN



Ḿnh mới biết bài hát này “Cúc Ơi !” hơn 5 năm nay thôi.Mổi lần ḿnh nghe lại nước mắt chăy
dài trên má,cổ họng như bị chặn lại nghẹt thở,cố gắng kiềm ḷng mà không được nhất là khi
nghe đến câu :"đất sâu bao nhiêu bọn anh không cần biết,chỉ sợ em đau nên cuốc chùng tay"...
H́nh ảnh chiến tranh ngày xưa lại sống lại trong ḿnh....
Lâu quá không nhớ lại thời gian hay địa danh...
Có lần trong phi đoàn ḿnh đi làm cho Sư Đoàn 9 BB.Được lệnh chở "chiến lợi phầm "tịch thu
được đem về căn cứ cho họ...
Sau buổi cơm trưa được tàu cơm mang đến từ Căn cứ Không quân.Đang nẳm nghỉ trưa th́
được lệnh quay máy và tiếp tục “cuộc hành tŕnh” trong ngày.
Ḿnh bên chiếc Trực thăng vơ trang số 1 (TTVT luôn luôn đi 2 chiếc danh hiệu Măng Xà Alpha và
Măng Xà Brovo)...Khi 5 chiếc slick đem hết chiến lợi phẩm lên xong.Chiếc số 1 (Lead) vừa cất
cánh và hợp đoàn cất cánh theo...
Hai TT vơ trang cất cánh cuối cùng theo sau,dưới cao độ thấp...
Khi chiếc số 1 chở CLP lấy cao độ chắc khoảng hơn 1000 bộ...ḿnh thấy nguyên một cụm lửa
bao tṛn chiếc số 1 (Lead: dẩn đầu) và sau đó nổ tung trên không như quả cầu lửa....Ḿnh chỉ
thấy những mảnh vụng nhỏ li ti bay tơi tả từ từ rơi xuống đất...Bị nổ v́ chiến lợi phẩm? (cho
đến bây gị cũng không biết lư do ;bị gài nổ,hay chiến lợi phầm nổ hay phi cơ nổ) nhưng chắc
chắn là không phải SA 7...Cả hợp đoàn bay tứ táng như đàn chim vỡ tổ,trên tầng số ồn ào như
vỡ chợ....Sau đó vài phút tất cả bay theo chiếc số 2 kết hợp đoàn lại...và tiếp tục phi vụ cho đến
căn cứ SĐ9BB .
Riêng 2 chiếc TT vơ trang được lệnh phải xuống thấp ,thật thấp để t́m xem có c̣n ai mai mắn
hay thấy xác,thấy được vật ǵ c̣n lại không...Ḿnh c̣n nhớ rất rỏ khi nghe trong helmet (nón
bay) lệnh của C&C (chỉ huy hợp đoàn) :"Măng xà Alpha và Brovo (danh hiệu 2 TT vơ trang) các
anh xuống thật thấp t́m kiếm và xem có thấy được ǵ không...Dù thế nào cũng phải t́m anh em
dù là một manh áo bay và bay rộng ra t́m cho bằng được.(gần giống như trong lời bài hát:"đất
sâu bao nhiêu bọn anh không cần biết....") Lệnh cấp chỉ huy đưa xuống là phải làm theo
thôi..."bọn này cũng con người mà và cũng biết chết vậy"...Nhưng lúc đó đâu có thời gian nghĩ
hay lo sợ ǵ?chỉ biết "nghe 5/5" và thi hành...
Chúng tôi bay quầng sát đọt cây,ngọn lúa,ngọn cỏ mái cḥi tranh…Người dân vẫn khom lưng
làm việc b́nh thường,có khi họ phải khom ḿnh xuống v́ sợ chúng tôi bay đụng họ,thỉnh thoăng
có người đưa tay vẫy chào chúng tôi hay tống biệt?Những chú trâu,chú ḅ vẫn cậm cụi kéo cày

kéo bừa như chúng tôi đang cậm cụi t́m xác bạn…Dù sao đi nữa cũng cảm ơn họ v́ chưa bắn
lên.Có lẽ họ không dám thôi.
Hai chiếc TT vơ trang cố gắng miệt mài theo ư Hoa tiêu và 16 con mắt mở to ra,Cơ phi,Xạ thủ 2
tay thủ súng sẵn sàng nhả đạn bất cứ lúc nào,đôi mắt như soi mói như muốn lật tung những
mái nhà,những lùm cây buội cỏ,bờ kinh con rạch...gần 2 tiếng đồng hồ ,tàu sắp hết xăng và
được lệnh bay về đổ xăng thêm và bay lên vùng lùng tiếp...Chiếc C& C cũng bay ṿng t́m kiếm
trên cao độ hơn chúng tôi.
Sau gần 4 tiếng đồng hồ t́m kiếm...Trời sắp tối mây mưa đen kéo đến như đe dọa...Chúng tôi
cũng phải chấp nhận tṛ chơi "đùa với tử thần"này....Nhưng chúng tôi không t́m thấy được ǵ
và được lệnh bay về căn cứ... Xong phi vụ.
Trên đường bay về lại căn cứ,4 người phi hành đoàn im lặng không ai dám nói ǵ, 4 cột khói
thuốc bay tỏa trong ḷng tàu nhưng h́nh như không ai c̣n biết mùi vị ra sao…và bay tỏa ra
ngoài quyện cùng gió như chia sẽ cùng những bạn bè đă ra đi hôm nay...Ai cũng theo đuổi ư
nghĩ riêng của ḿnh và có lẻ đang khóc trong ḷng...Nhưng cũng có thể cùng chung một ư nghĩ là
:"Bao giờ đến phiên ḿnh?"
Phi hành đoàn kém mai mắn gồm Tr/úy Hùng 4,Th/úy Trân,Cơ phi là Trung sĩ nhất Trường,Xạ
thủ là Hạ sĩ Minh (Nếu ḿnh nhớ không lầm)....H́nh như Trường và Minh là 2 người bà con gần
lắm hay là 2 anh em "cột chèo" lâu quá không nhớ rơ.???
Nguyện linh hồn các bạn được tiêu diêu nơi miền cực lạc cùng vui vẻ với bạn bè và thân nhân.
"Bọn mầy đă an phần rồi ...Tao c̣n vất vưỡng nơi đây nhớ đến bọn mầy".
Sáng Kennewick,June-30-2020.
Nhớ Bạn.

Tư “cùi” (Nguyễn Thện Tư K5/69)

Cựu Cơ Phi PĐ 211 và PĐ 255
TLT-NTT
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	1593559693-z.UH-1P Gunship USAF (1).jpg
Views:	0
Size:	261.3 KB
ID:	1655259  
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (09-18-2020), huudangdo1 (09-17-2020), phokhuya (09-20-2020)
Old 09-18-2020   #587
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,411 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Ăn Tết Tại Cổng Tây của Việt Nam - Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù



Huy Hiệu Đại Đội 80, 81, 82, 83, 84/TĐ8ND

Âm mưu muốn nuốt trửng Miền Nam Nước Việt, của những người cầm đầu miền Bắc trong Bắc Bộ Phủ, nên năm 1968 các đỉnh cao trí tuệ này nghĩ ra kế hoạch đánh lừa Quân Dân Miền Nam bằng cách: Nhân dịp Tết Mậu Thân tung ra kế hoạch xin ngưng chiến ba ngày Tết, để Quân Dân miền Nam không đề pḥng, để dịp này chúng tung quân Tổng Công Kích Tết Mậu Thân tức đánh úp toàn thể lănh thổ Miền Nam hầu nuốt trọn Miền Nam trong thế chính nghĩa (với chiêu bài lừa bịp toàn cầu, chúng tung tin dân miền Nam chán ghét chế độ “Việt Nam Cộng Ḥa” cho nên toàn dân miền Nam từ vĩ tuyến 17 cho đến Cà Mau đồng loạt Tổng Nổi Dậy đuổi quân xâm lược Mỹ. Nhưng sự thật miền Bắc đă xua quân xâm lấn, dưới sự chỉ huy “lănh đạo” của Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, do tên Hồ Chí Minh chỉ đạo và Vơ Nguyên Giáp tổng chỉ huy “vậy mà trên thế giới tới hôm nay vẫn c̣n có người tin là dân chúng miền Nam tổng nổi dậy, đau như thế đó”). Quân Dân Miền Nam v́ luôn luôn khao khát Ḥa b́nh, nhất là quá ngây thơ cho nên chấp nhận ngưng chiến và thi hành rất nghiêm chỉnh không tấn công địch trong ba ngày Tết

Để chuẩn bị cuộc lừa bịp này từ mùa hè năm 1967 Hồ Chí Minh và Vơ Nguyên Giáp cùng Bộ Chính Trị đă chuẩn bị kế hoạch Tổng Công Kích kỹ lưỡng và chúng tin chắc chắn rằng chúng sẽ chiến thắng, để Quân Dân Miền Nam không nghi ngờ, ngày 1 tháng 1 năm 1968 Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cư Trinh của chúng c̣n ngỏ ư xin ḥa đàm với Hoa Kỳ; lệnh khởi sự tấn công bằng bốn câu thơ chúc tết của Hồ Chí Minh trên đài phát thanh Hà Nội trong đêm Giao Thừa, giờ mà mọi gia đ́nh c̣n nguyên truyền thống Dân Tộc cho là linh thiêng nhất trong năm, lệnh này đă phổ biến đến các cấp chỉ huy của Cộng Quân ở miền Nam biết để thi hành từ tháng 9 năm 1967 bốn câu thơ này Hồ Chí Minh gân cổ đọc, sau khi đă mài răng và liếm môi trơn tru, con cáo già gân cổ đọc đúng vào giờ linh thiêng của TẾT Mậu Thân:

Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua.
Thắng trận tin vui khắp nước nhà.
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ.
Tiến lên! Toàn thắng ắc về ta.

Nhưng nhờ tinh thần kỷ luật cao các đơn vị thuộc sư đoàn Nhảy Dù Việt Nam sẵn sàng chấp nhận gian khổ, những lúc đồng bào vui mừng đón xuân là lúc các chiến sĩ Mũ Đỏ tay gh́m súng mắt trông chừng về phía rừng núi âm u nơi bọn thảo khấu rừng xanh con cháu của Cáo đang đưa cặp mắt Cáo láo liên ŕnh rập đồng bào vô tội, nên Mũ Đỏ lúc nào cũng sẵn sàng, để không phụ ḷng đồng bào tin tưởng nơi lực lượng Tổng Trừ Bị của QLVNCH, cho nên ngay từ giây phút sanh tử đầu tiên này, lập tức các đơn vị Mũ Đỏ phản công liền tay dù chỉ với lực lượng hạn hữu, nhưng quyết liệt giữ trọn lời thề với mẹ Việt Nam:

Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù đă giữ vững Quảng Trị, anh dũng cản bước tiến của một trung đoàn chính quy cùng các đơn vị địa phương, để Quảng Trị vẫn xứng danh là tỉnh địa đầu Giới Tuyến.



Lính Nhảy Dù trong trận Mậu Thân - SàiG̣n

Tiểu Đoàn 2 và Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù đă giữ vững Phong Điền và Quảng Điền rồi từ đó về cứu nguy Huế, nếu các đơn vị Nhảy Dù không vào Huế kịp thời, Tướng Ngô Quang Trưởng bị bắt hay tự sát, thử hỏi cuộc chiến Mậu Thân tại Huế sẽ ra sao?

Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đă giữ vững Đà Nẵng, trước sự tấn công của trung đoàn địch từ phương Bắc tràn đến.

Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù đă giữ vững Kon Tum, dù không có Phi Pháo yểm trợ nhưng KonTum vẫn đứng vững không mất một thước đất cho địch.

Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù đă giữ vững Bà Rịa (Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp) trước sức tấn công của một trung đoàn địch. Đến năm 2003 kỷ niệm 35 năm cho trên 200 Cộng quân nằm xuống v́ thi hành ư đồ thôn tính miền Nam, được chúng ta chôn tập thể tại đây. Trước nấm mồ chôn tập thể, ban tổ chức lễ kỷ niệm này đă than rằng: Trung đoàn này bị sư đoàn Nhảy Dù của địch tấn công, (điêu ngoa là nghề của chúng, sự thật rành rành lúc đó các tiểu đoàn Nhảy Dù đă có mặt các nơi như trong bài này tŕnh bày) nhưng thật sự chỉ có Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù thanh toán trung đoàn này khi chúng tấn công Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp, vào đêm ngày mồng 1 rạng ngày mồng hai, chúng tin tưởng là sẽ thắng Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù dễ dàng v́ Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù là tiểu đoàn tân lập, nếu chiến thắng chúng sẽ thôn tính Bà Rịa như trở bàn tay, chúng đă lầm v́ tiểu đoàn tân lập nhưng lại có nguyên tám trung đội từ Trung đội Trưởng đến anh khinh binh đều là những cán bộ kỳ cựu của tám tiểu đoàn cũ, được thuyên chuyển đến để làm khung cho tiểu đoàn này.

Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù hai đại đội đă đẩy lui địch quân khỏi phi trường Tân Sơn Nhất khi trung đoàn địch đă đưa được hai tiểu đoàn vào phi trường, tiền quân của chúng chỉ c̣n cách chỗ đậu phi cơ một trăm thước, chỉ cần chậm chân mươi phút máy bay của ta do các phi công của chúng bay lên không phận Sài G̣n, c̣n hàng trăm phi cơ làm mồi cho bê ta, thiệt hại và nhục nhă biết chừng nào?

Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù hai đại đội c̣n lại đẩy một tiểu đoàn chính quy đă lọt vào Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH ra khỏi ṿng rào, khi tiểu đoàn địch đă vượt qua trường Sinh Ngữ Quân Đội, tiến trong chỗ không người và chỉ c̣n cách cư xá các Tướng lănh không đầy 100 thước, thử hỏi nếu Mũ Đỏ đến chậm mươi phút thôi, chúng bắt đi dăm bẩy tướng lănh, cờ đỏ sao vàng lặng lẽ bay trên cột cờ Bộ Tổng Tham Mưu/Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa lúc đó chúng ta ê chề ra sao?

Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù đă đẩy một trung đoàn địch ra khỏi kho đạn G̣ Vấp, khu Hạnh Thông Tây, Xóm Mới, nếu kho xăng kho đạn G̣ Vấp phát hỏa đạn nổ vang rền, xăng cháy khói ngút trời xanh, chúng ta đón nhận đau đớn thế nào?

Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù giữ vững trung tâm thủ đô, đẩy các đơn vị đặc công ra khỏi Đài Truyền H́nh, đài Phát Thanh Sài G̣n, giữ vững khu Sở Thú và Dinh Độc Lập, không may cờ đỏ sao vàng bay phất phới trước dinh Độc Lập sẽ ra sao?

Các đơn vị yểm trợ, pḥng sở. v.v… của sư đoàn Nhảy Dù chiếm các cao ốc từ ngă ba Bà Quẹo đến ngă tư Bẩy Hiền chặn đường tiến công của các đơn vị đặc công dùng đường này xâm nhập vào khu Tân Sơn Nhất, ngă ba Ông Tạ; tóm lại không một đơn vị nhỏ nào thuộc sư đoàn Nhảy Dù/VNCH vắng bóng trên chiến trường ngay từ giây phút đầu tiên của cuộc chiến lừa lọc Tết Mậu Thân. Nếu chậm chân th́ chúng ta đă bị Cộng Sản miền Bắc thôn tính từ năm đó.

*****

Nhưng Tết năm 1969 các đơn vị Nhảy Dù lại được ăn Tết tưng bừng hơn, xum vầy bên nhau nhiều hơn, tại Cổng Tây của Miền Nam Việt Nam, các đơn vị khác th́ hành quân nhiều lần hơn các đơn vị thuộc sư đoàn Nhảy Dù Việt Nam, v́ hai năm chúng tôi chỉ hành quân có một lần, đó là lần chúng tôi hành quân tại Cổng Tây của Miền Nam Việt Nam, lần này chỉ ngắn ngủi khoảng chừng 729 ngày là nhiều, c̣n các ngày khác trong hai năm này (1969-1970) chúng tôi ăn ngủ thỏa thuê v́ hưu chiến theo thỏa ước với các nhà lănh đạo miền Bắc.

Ngày 9 tháng 2 năm 1969 tức ngày 23 tháng chạp năm Mậu Thân, ngày Chủ Nhật, ngày ông Táo lên trời, nên Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam, từ Sài G̣n xuất quân để lại Liên Đoàn 2 Nhảy Dù với ba tiểu đoàn tác chiến hành quân ṿng đai ven đô Sài G̣n-Chợ Lớn, Bộ Tư Lệnh/SĐND tiến về hướng Bắc-Tây Bắc Sài G̣n, tới đồn trú tại đồn điền Vên Vên – Tây Ninh, tung hai lữ đoàn với sáu tiểu đoàn tác chiến ra làm quen với Sư Đoàn Chính Quy Số 9 của miền Bắc (Công Trường 9), cùng các đơn vị pḥng không và các đơn vị địa phương lực lượng chính của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam , v́ có tin các đơn vị này sẽ được Công Trường 7 đang có mặt tại khu vực đồn điền Chup tăng cường nhằm đánh úp, chiếm Tây Ninh để làm thủ đô cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, sau khi chúng thất bại không chiếm được một Quận lỵ nào của chúng ta mà phải tổn thất gần 50 ngàn quân trong dịp tấn công hai lần tết Mậu Thân, Công Trường 9 của chúng đang đồn trú quân tại vùng sông Vàm Cỏ, ngay cả những làng mạc cách Quốc lộ số 1 khoảng chừng ba cây số, đối diện với đồn điền Vên Vên cũng là nơi tập trung các đơn vị địa phương của chúng, các đơn vị này sẽ là lực lượng phục kích cắt đường tiếp tế cho Tây Ninh, chặn viện binh cho Tây Ninh, ngay ngày đầu tiên vào vùng khúc quanh của sông Vàm Cỏ, các đơn vị Nhảy Dù Việt Nam cho chúng thấy sự lợi hại của các Thiên Thần Mũ Đỏ.

Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Thu Lương đă đụng độ vô cùng mạnh mẽ với đơn vị cấp Tiểu Đoàn của địch với công sự pḥng thủ vững vàng, nhưng các Chiến sĩ Mũ Đỏ đă tràn vào, cùng đường địch quân phải đánh xáp lá cà, địch tổn thất nặng nề phải rút lui, đây là trận địa chúng đă chuẩn bị sẵn, cho nên Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù đón những trận Pháo liên hồi. Phải nói đây là trận pháo mạnh mẽ nhất của chiến trường miền Nam lúc bấy giờ, nhưng chúng đă pháo vào chỗ không người v́ Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù sau khi thu dọn chiến trường, đă tiến chiếm sang mục tiêu khác, vị tướng tư lệnh Sư Đoàn 25 Bộ Binh Hoa Kỳ lúc đó đang bay thị sát chiến trường cho các đơn vị của ông, ông thấy chúng ta chạm địch nặng nên ông bay lại quan sát giúp chúng ta, từ trên không quan sát trận đánh ông liên lạc được với cố vấn Hoa Kỳ đi bên cạnh Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù (Team 162), ông đă quan sát được vị trí pháo của chúng, ông cho toán cố vấn biết pháo địch đang ở đâu, đồng thời lập tức ông sử dụng các đơn vị không pháo cơ hữu đánh tan các ổ pháo này, chính nhờ điều may mắn như vậy, nên các chiến sĩ Mũ Đỏ của Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù hăng hái tấn công các mục tiêu đă dự trù trong kế hoạch hành quân của quân đoàn, trước sự kinh hoàng của địch quân v́ bị tấn công bất ngờ, tại những mục tiêu phía tây bắc của thị xă Tây Ninh.

Một Tiểu Đoàn TQLC/Việt Nam tấn công vào khu làng đối diện với Vên-Vên cách quốc lộ chừng 3 cây số, chạm địch nặng đây cũng là đơn vị địa phương cấp trung đoàn, nhưng được trang bị súng và đạn dược như các đơn vị chính quy.

Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Trương vĩnh Phước tiến song song với TĐ1ND thanh toán những mục tiêu sắt máu chung quanh G̣ Nổi, gặp sức kháng cự của trung đoàn địa phương có trang bị đầy đủ súng cộng đồng như các đơn vị chính quy, nhất là B41 các đơn vị địa phương khác chưa có, đơn vị này đă được trang bị để thi hành nhiệm vụ mới, chắc chắn phải quan trọng hơn b́nh thường, khi bắt được tù binh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III khai thác mới biết nhiệm vụ của trung đoàn này là đánh chiếm Trảng Bàng.



Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Thế Nhă tiến chiếm khu vực phía Tây bắc của Vên Vên, có chiến xa yểm trợ gặp sức kháng cự bởi một Trung Đoàn của Công Trường 9, nhờ cuộc chạm địch này có bắt được tù binh khai thác mới xác nhận được tin t́nh báo, Cộng quân đă có quân chung quanh Tây Ninh, và việc đánh Tây Ninh vào dịp tết Kỷ Dậu là việc tất nhiên phải đúng, nếu không chúng không điều động một lực lượng đông đảo như vậy chung quanh và sát nách Tây Ninh, chỉ cần chúng ta điều quân sau Tết Kỷ Dậu là chúng chiếm Tây Ninh dễ dàng bằng hai công trường và các đơn vị địa phương vào dịp tết này.

Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn văn Thọ, lục soát dọc theo biên giới đụng độ với các đơn vị địa phương, nên không bị thiệt hại và cũng chỉ tịch thu được không đầy 10 cây súng, tiêu diệt được một lực lượng địch không đầy 20 tên, cùng lúc đó Trung Đoàn 4 TQLC Việt Nam đang đóng tại Phước Tân phía cực Tây của thành phố Tây Ninh bị một trung đoàn của Công Trường 7 của MTGPMN “chính quy miền Bắc” tấn công gây thiệt hại đáng kể, TĐ8ND liền được vào thay thế.



Tướng Đỗ Cao Trí

Đây là thời điểm đầu với chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III của Trung Tướng Đỗ Cao Trí, ông nhận chức tư lệnh với nhiệm vụ tiên khởi là ngăn chận địch quân tấn công Tây Ninh vào dịp tết này, “Tiên hạ thủ vi cường” Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III ngay khi có tư lệnh mới liền tung ngay các cuộc hành quân chung quanh Tây Ninh. Ngay khi TĐ 8ND vào Phước Tân tân tư lệnh Quân Đoàn III đáp trực thăng xuống tận nơi, ông nhấn mạnh với các cấp chỉ huy của Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù là phải cẩn trọng, ban ngày phải lục soát xa, tránh co cụm lại dễ bị ăn pháo gây tổn thất không cần thiết, nhận thêm chỉ thị của cấp trên sự thực là để ghi nhớ, v́ lúc nào cũng vậy các đơn vị Nhảy Dù cũng lưu tâm đến t́nh h́nh chiến thuật của từng trận đánh.

Phước Tân không cao như những vùng khác, ngay đầu một khu xóm làng dân cư thưa thớt, bên cạnh là một khu chợ mà dân vùng Tây Ninh thường gọi là chợ Gà, v́ ngôi chợ này chuyên bán gà từ Campuchia chở qua, một phía là cánh rừng thưa c̣n một phía là śnh lầy trồng thốt nốt, nếu lội xuống là nước và bùn lên tới đầu gối, nhưng Phước Tân chính nó lại là điểm chiến thuật quan trọng trong vùng, trước đó một đơn vị Dân Sự Chiến Đấu đă bị tràn ngập, sau đó TĐ4TQLC vào chiếm lại và bây giờ th́ TĐ8ND vào thay, ngay ngày đầu sau khi nhận các tuyến pḥng thủ, Trung Tá Nguyễn văn Thọ bị đau chân do thấp khớp hành do trời nóng lạnh bất thường và v́ lội bộ gần hai tuần lễ, căn bệnh quái ác hành ông đến tê tái người, nên ông không thể đi quan sát chung quanh vị trí đóng quân được, ông cho lệnh Thiếu Tá Trần Thanh Liêm Tiểu Đoàn Phó đi quan sát một ṿng vị trí, Trung Tá Thọ cũng như cấp trên tin chắc rằng chúng sẽ trở lại đánh Phước Tân như hai lần trước, v́ hai lần trước chúng đều thắng, cả hai lần chúng đều phối hợp Pháo, Đặc Công và bộ đội xung phong, vừa nắm vững địa thế ông cho phối trí quân nới rộng ṿng đai pḥng thủ mỗi chiều rộng ra gần 100 thước: Đại Úy Ngôn đại đội trưởng Đại Đội 82 trấn tại phía tây nh́n ra phía śnh lầy, ông căn dặn Đại úy Ngôn, nếu nó đánh đặc công nó sẽ đánh phía này; bên phải của Đại Úy Ngôn là Đại Úy Nguyễn Hữu Thành Đại đội Trưởng Đại Đội 83, với lời nhắn nhủ là đón nhận các dợt xung phong của chúng. Bên phải của Đại Úy Thành cũng là bên trái của Đại Úy Ngôn là Đại Úy Hoàn đại đội trưởng Đại Đội 84, với lời nhắn nhủ là có thể bị cả Đặc công lẫn tấn công v́ địa thế nửa nọ nửa kia, Đại Đội 81 của Đại Úy Thụy bảo vệ Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù, kiêm trừ bị.

Phước Tân ngoài tầm súng của Pháo Binh Nhảy Dù, nên được yểm trợ bằng pháo đội hỗn hợp 8 inches và 175 ly của SĐ25BB Hoa Kỳ, ban đêm các đại đội về vị trí đóng quân trong Phước Tân như đă nói ở trên, ban ngày hai đại đội đi lục soát chung quanh Phước Tân, đến ngày thứ ba lúc 23:45 giờ hai toán phục kích-báo động của ta ngoài vị trí đóng quân của TĐ8ND từ ba trăm đến năm trăm thước, báo về đại đội mỗi hướng chúng di chuyển khoảng 400 quân, đều đi về hướng Phước Tân, các toán này nhận được lệnh trước không khai hỏa và nằm im, 24:30 một trái ḿn chiếu sáng trước mặt Đại Đội 82 Nhảy Dù bật sáng, ta tiếp tục bắn soi sáng nhưng vẫn không quan sát được dấu vết có địch xuất hiện, Đại Úy Ngôn cho lệnh một xạ thủ đại liên bắn chung quanh trái ḿn chiếu sáng, nhưng vẫn không động tịnh ǵ, ngay lúc đó Bộ Tư Lệnh/SĐND xin máy bay soi sáng túc trực trên không gần vùng hành quân của Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù chỉ vào vùng thả soi sáng khi có yêu cầu, đồng thời các hỏa tập tiên liệu của Pháo Đội hỗn hợp được tác xạ, địch quân khởi sự pháo 82 ly va 61 ly vào vị trí của ta, một trái ḿn chiếu sáng nữa bật lên, lệnh tác xạ nghiêm mật một viên đạn là một quân thù, ĐĐ82ND bắt đầu khai hỏa thưa thớt v́ đă quan sát được địch quân rất gần tuyến pḥng thủ, có nơi chỉ c̣n cách ta dưới 20 thước, địch liều chết quang bê ta nhưng vô hiệu, v́ c̣n quá xa quăng không tới lối đánh cựa tử này giúp anh em Mũ Đỏ lên tinh thần, các ĐĐ83, ĐĐ84 cũng bắt đầu khai hỏa địch quân liều chết xung phong, máy bay chiếu sáng vào vùng thả chiếu sáng liên tục, nhờ vậy các Chiến sĩ Mũ Đỏ của TĐ8ND thi hành đứng đắn lệnh một viên đạn là một quân thù. Địch quân dùng biển người xung phong, cả một vùng trời lửa đạn đôi bên đan vào nhau, chưa một lần nào trong cuộc chiến Việt Nam đơn vị Mũ Đỏ đang đóng quân, địch quân chỉ dùng quân số gấp năm (5) lần tấn công mà chúng có thể thắng được đơn vị Mũ Đỏ, lần này chúng vụng tính chỉ dùng quân số gấp bốn lần th́ làm sao chúng có thể thắng cho nổi.

Cuộc chiến đang trong lúc cao điểm cực độ, chúng đă dùng quân cảm tử ba lần xung phong vào tuyến của ĐĐ83ND, nên giấc mê “Sanh Bắc Tử Nam” phải thành hiện thực, không những vậy lần đầu tiên trên chiến trường Việt Nam máy bay C130 của Không Quân Hoa Kỳ trang bị ba ổ đại liên mỗi ổ là sáu cây đại liên, một dàn hỏa tiễn 12 ống phóng và một súng 105 ly không giật, với tên Việt Nam là “Hỏa Long” vào vùng yểm trợ, lúc đó chính cố vấn Hoa Kỳ cũng không hiểu khả năng và hỏa lực của Hỏa Long mạnh như thế nào, máy bay này có Sensor t́m hơi nóng, có ống kính hồng ngoại tuyến để quan sát ban đêm trên màn ảnh, có khả năng tự soi sáng chiến trường, từ lúc Hỏa Long vào yểm trợ v́ hỏa lực quá mạnh và chính xác, nên địch quân t́m đường thoát thân, di động là mồi ngon của Hỏa Long, v́ vậy chúng bị thiệt hại trên sự mong đợi của các cấp chỉ huy chiến trường, một tiểu đoàn tăng cường cho trung đoàn này đi lạc nên không tham chiến được, nhưng lại bị thiệt hại nặng nề nhất bởi Hỏa Long.

Ngay sáng hôm sau ta tịch thu vừa súng cá nhân vừa súng cộng đồng trên một trăm súng, địch bỏ xác tại trận địa trên hai trăm mạng rất nhiều súng và xác địch bỏ lại ta không sao kiểm soát được, không t́m được v́ śnh lầy, trước mặt Đại Đội 82 Nhảy Dù địch quân bỏ lại xác trên 70 tên đặc công, v́ ta đang pḥng thủ địch lại không giám pháo bằng súng cối khi Hỏa Long xuất hiện, v́ mỗi lần pháo của chúng hoạt động liền bị Hỏa Long tiêu diệt ngay, mà tấn công th́ sau ba lần xung phong đều bị đánh bật ra, bây giờ lại có Hỏa Long can thiệp quá chính xác nên chúng đành im lặng rút lui, do đó ta thiệt hại không đáng kể, một ngày sau TĐ8ND được bốc ra khỏi vùng hành quân về Sài G̣n nhận khao thưởng, và được đặt dưới quyền điều động của LĐ2ND đang đóng tại hăng bột ngọt Vị Hương Tố (sau đó một tuần BTTM khai thác báo cáo của chúng trên hệ thống truyền tin, hệ thống giải đoán mật mă của bộ TTM/QLVNCH đă cho biết trung đoàn đánh Phước Tân xin bổ xung 600 quân nhân các cấp)

Hơn một năm sau chúng tôi các Chiến sĩ Nhảy Dù Việt Nam buộc ḷng phải bước qua Cam Bốt t́m sào huyệt của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, rồi quay về bao bọc chung quanh Tây Ninh cho đến tết năm Tân Hợi tạm giă từ Tây Ninh chúng tôi bước chân vào Hạ Lào, có lẽ c̣n duyên với Tây Ninh hay chúng tôi v́ thương em gái Tây Ninh, hay v́ nhớ món ăn đặc biệt của quán “Hắc Quẩy” Tây Ninh nên chúng tôi trở lại Tây Ninh cho đến mùa Hè Đỏ Lửa chúng tôi từ giă Tây Ninh và không trở lại Tây Ninh nữa, ngẩng cao đầu bước chân vào ba chiến trường. Một là An Lộc để An Lộc trở thành Anh Dũng; Hai là KonTum để KonTum trở thành Kiêu Hùng và Ba là Trị Thiên để Trị Thiên được Vùng Dậy.

Trong mùa Hè 1972 không có một sư đoàn nào của chúng ta dẫm chân trên cả ba chiến trường này, ngoại trừ các Chiến Sĩ Nhảy Dù Việt Nam, đến những ngày cuối cùng của cuộc chiến các Chiến Sĩ Nhảy Dù Việt Nam vẫn giữ tṛn câu tâm niệm “Phải Thân Dân, Bảo Vệ Dân và Giúp Đỡ Dân” đó chính là nhờ tinh thần kỷ luật cao độ của đơn vị, xin cho chúng tôi được quyền hănh diện là đă được phục vụ trong một đơn vị kỷ luật, một đơn vị mà niềm thương yêu gắn bó nhau như trong một nhà, tại chiến trường gian khổ cũng như tại hải ngoại mịt mờ, phương châm của Nhảy Dù, hiểm nghèo nào cũng Cố Gắng vượt lên.

Quê nhà Nhảy Dù Cố Gắng
Hải ngoại Mũ Đỏ Hợp Quần

"Mẹ Việt Nam ơi chúng con vẫn c̣n đây, chúng con luôn luôn quỳ dưới chân mẹ… Mẹ Việt Nam Ơi".

Mũ Đỏ Bùi Đức Lạc
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	1579922173-1at.jpg
Views:	0
Size:	72.8 KB
ID:	1655982   Click image for larger version

Name:	1579922185-2at.jpg
Views:	0
Size:	59.7 KB
ID:	1655983   Click image for larger version

Name:	1579922203-5at.jpg
Views:	0
Size:	49.6 KB
ID:	1655984   Click image for larger version

Name:	1579922194-4at.jpg
Views:	0
Size:	57.2 KB
ID:	1655985  

__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
huudangdo1 (09-19-2020), phokhuya (09-20-2020)
Old 09-18-2020   #588
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,411 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default

Tướng Đỗ cao Trí nếu không mất sớm sẽ có những trận đánh ngoạn mục bởi dân Dù thởi 75 . Ba lữ đoàn dù 1 ,2 , 3 thiện chiến chỉ v́ Tổng tư lệnh sợ đảo chánh nên muốn rút về sài g̣n , BTM và Tổng tư lệnh không hợp nhất với nhau trong cách điều quân .

Lẽ ra muốn lấy lại Phước long th́ điều quân giống như Trận An lộc . Chỉ cần thảy vào 2 lữ đoàn Dù cùng 2 liên đoàn Biệt động quân ,( pháo binh không quân yểm trợ mặc dù quân viện bị cắt giảm xuống bởi mỹ )+ thêm chiến đoàn BCD từ trong đánh ra .

Nếu thắng thêm trận Phước Long th́ MN chưa chắc ǵ đă mất . Tại v́ Ông Thiệu buông Phước long và tin tưởng Mỹ sẽ nhảy vào giúp . Một ván cờ sai lầm

Trong trận chiến Phước long chỉ thảy 2 biệt đội vào ( quân số khoảng 300 ) c̣n một biệt đội trừ bị . BCD hy sinh quá nhiều trong trận này . Khi được Bốc ra khỏi vùng BCD chưa đếm quá 100 chiến sĩ . Một số thất lạc vào rừng già , một số bị CS bắt . Buồn thay cho đơn vị BCD
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
huudangdo1 (09-18-2020), phokhuya (09-20-2020)
Old 09-18-2020   #589
hoathienly19
R4 Cao Thủ Vơ Lâm
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 842
Thanks: 1,657
Thanked 1,149 Times in 509 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 23 Post(s)
Rep Power: 5
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default

Tri ân người lính VNCH , các anh đă hy sinh tuổi hoa xuân , sinh mạng , xông pha nơi trận mạc , bảo vệ từng mảnh đất quê hương để người dân miền Nam VN được sống và hưởng một nền dân chủ , ấm no hạnh phúc . Măi măi tiếc thương anh , người lính VNCH .
hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following 3 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (09-18-2020), huudangdo1 (09-18-2020), phokhuya (09-20-2020)
Old 09-20-2020   #590
hoathienly19
R4 Cao Thủ Vơ Lâm
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 842
Thanks: 1,657
Thanked 1,149 Times in 509 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 23 Post(s)
Rep Power: 5
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default NGƯỜI CHẾT DƯỚI CHÂN CHÚA - Phan Nhật Nam

Sông Tiền Giang mênh mông như bể, chiếc phà lớn chuyên chất ba GMC, vài chiếc xe du lịch bềnh bồng mang chúng tôi qua sông lẫn với đám hành khách đầy mầu sắc. Họ dồn về một phía, nh́n lũ người gươm đao thật xa cách




Tôi ngồi trên mui tầu thả từng mẩu giấy vụn xuống gịng nước, trí năo lăng đăng như bọt sóng.

Bến phà Mỹ Thuận trước năm 1975.





Đoàn xe rời Quốc Lộ 4 rẽ về phía phải theo con đường đỏ hướng phi trường Trúc Giang qua ngôi trường tiểu học quận, một dẫy quan tài sắp lớp, mùi thây chết bốc lên ngây ngất.


Biệt Động Quân (BĐQ), Tiểu Đoàn 41, nghe nói h́nh như tiểu đoàn trưởng hay tiểu đoàn phó bị chết. Lính ở trên xe x́ xầm bàn tán với một vẻ thản nhiên. Họ không biết chiến trận đă đến hồi khốc liệt, nên chiến đoàn dù gồm có tiểu đoàn chúng tôi và một tiểu đoàn bạn đă có mặt tại vùng hành quân từ ngày trước.






Đến phi trường, nơi đặt bộ chỉ huy của khu chiến thuật Tiền Giang, trung tâm của cuộc hành quân, chúng tôi được lệnh ngủ tại đây để chờ ngày mai trực thăng vận vào vùng hành quân.


Tôi chưa được dự trận lớn, nên không có ư niệm về những gay go sắp đến trong ngày mai, b́nh thản ngủ một giấc yên lặng với kết luận:


Trực thăng vận đối với Nhảy Dù chỉ là tṛ đùa, không có ǵ mới lạ.


Ngày 22, lúc 8 giờ hai pháo đội đặt ở phi trường hướng súng về băi đáp nhả đạn liên hồi để dọn băi. Lấy cái chết của phe địch để làm an toàn cho phe ḿnh, nguyên lư của chiến tranh quả thật tàn khốc.


Tiếng súng dọn băi vừa dứt, ba mươi chiếc trực thăng đồng bốc lên một lượt mang hai đại đội 71 và 72 vào trận địa.


Báo cáo xuống băi tốt, b́nh yên.






Phần c̣n lại của tiểu đoàn được trực thăng vận tiếp theo. Toàn bộ tiểu đoàn đă xuống đủ, hai đại đội 71 và 73 dẫn đầu cho đơn vị, di chuyển được mười lăm phút. Súng nổ. Đụng rồi, đụng rồi…


Lính dáo dác, máy truyền tin chuyển lệnh nghe loạn xạ. Phía trước của tiểu đoàn súng nổ lẫn lộn, tiếng khô và cứng của ta, sắc nhọn của địch. Đại Đội 72 rút lên bố trí về phía phải của Đại Đội 73.


Lệnh cho đại đội chúng tôi lên thật nhanh. Ngang qua chỗ của thiếu tá tiểu đoàn trưởng, một tiếng nổ thật lớn nháng lửa ngay trước mặt, quả đạn 57 ly vừa nổ khi ra ngay khỏi ṇng, người phụ xạ thủ bắn tung ra đằng sau, một bàn tay bị đứt.


Ông tiểu đoàn trưởng hét lớn qua màu khói. Trung đội anh chạy ra cái nhà tranh…


Như vậy là đụng lớn, người bị thương nằm la liệt ở dưới các rănh dừa nước, Toàn đang đứng trong một giao thông hao chỉ trỏ quát tháo. Phía tay trái nơi xa có tiếng lựu đạn nổ và tiếng hô xung phong.


Trung đội tôi ép phải, hướng tiến bây giờ thẳng góc với các con kinh nhỏ, nên chúng tôi chỉ có thể nhảy từng bước thật dài trên bờ kinh, một cái nhảy hụt tôi rơi vào đường mương vùng với hai người khinh binh.


Bám cỏ ḅ lên, xác hai cán binh Việt Cộng nằm tênh hênh, một xác bị banh nát ngực, xác kia nằm xấp, không rơ. Người chết, lần đầu tiên tôi chạm phải một thây chết của đối phương.


- Lên đi tụi mày, thằng nào trốn đàng sau, tao bắn găy gị… Tôi quát tháo cũng ra ǵ, mấy tên lính đi chậm dớn dác t́m lối qua rạch họ không nhảy qua được v́ mang đồ quá nặng. Đ.m. có nhảy qua được không ?
Thường ngày sao liến xáo quá cỡ, hôm nay lại chậm như rùa.


Tôi chửi mắng om ṣm. Trung đội đến bờ làng dừng lại bố trí trông ra cánh đồng trống. Ngồi dựa vào một gốc dừa, tôi thấy mệt v́ phải quát tháo quá nhiều, nhớ lại lời chửi tục. Tôi đă thành một người lạ nào đấy.





Địch từ phía trái chạy vọt qua, bóng áo đen ẩn hiện đàng sau rặng dừa xanh bên kia cánh đồng. Bắn. Bắn. Trung đội tôi khai hỏa ṛn ră.


Một vài bóng áo đen ngă xuống. Hơi thuốc súng, hơi bùn lầy, máu người chết xông lên ngây ngấy.





Sáu giờ chiều, tiếng súng phía bên trái, hướng Đại Đội 71 hoàn toàn chấm dứt, trực thăng tải thương bắt đầu đến, khói mầu xanh làm dấu băi đáp bốc lên mờ mịt làm đặc không gian đang ngă vào đêm, rừng dừa xanh thẩm lại.


Tiếng súng vu vơ của địch bắn lên máy bay khi tháo lui. Tôi ngồi dựa gốc dừa, mệt mỏi đến tột độ, một tên lính ṃ lại bên cạnh.

- Thiếu úy ăn cháo gà.

- Cháo gà ?

- Dạ, gà em bắt được, nó c̣n ấp trứng…

- Thôi mầy cho tao quả trứng, tao ăn cháo không nổi.

Khi lính trong trung đội xịt xoạt ăn cháo, tôi đi lui về phía xác hai cán binh Việt Cộng.


Người nằm sấp bây giờ lật ngược lại, có lẽ đấy là cử động cuối cùng của anh ta trước khi chết. Tôi đặt tay lên một xác chết, da người chết lạnh tanh.


Đêm xuống, chúng tôi trải Poncho nằm trên bờ rạch, không cởi giày, địch có ư tấn công lại nên phải đề pḥng.






Tiểu đoàn tiếp tục truy kích, hôm nay đại đội tôi đi đầu, trung đội tôi dẫn đầu đại đội, chúng tôi đi dọc một con kinh lớn, rừng dừa xanh ngút tầm mắt, thôn xóm trù phú nhưng không một bóng người. Chúng tôi dè dặt từng bước đi.


- Hầm có dấu chân người. Tản rộng ra chung quanh, một người đến xem mà thôi. Tôi ra lệnh.

- Ai ở dưới, đi lên! Im lặng…

- Lên không tao ném lựu đạn xuống! Thiếu úy, cho em ném lựu đạn xuống. Người lính hỏi ư kiến.

- Không, mầy bắn xuống mà thôi.

Tên lính lanh lẹ bắn một tràng Thompson, có tiếng rên khe khẽ.

- Lên không bắn nữa. Đưa tay lên trước.


Tôi nín thở, một chiếc đầu bạc phơ từ từ nhô lên khỏi miệng hầm, ông lăo bế một bà lăo lên theo. Vừa ra khỏi hầm ông lăo chấp tay xá bốn hướng xụt xùi khóc lóc, bà lăo nằm vật xuống, ở đầu có một vết thương.


Đến buổi trưa, tôi hoàn toàn kiệt lực như một mũi tên rơi xuống khỏi cuối đường bay. H́nh ảnh hai mái tóc bạc nhô lên từ miệng hầm, nét mặt hốt hoảng của hai cán binh Việt Cộng chưa quá mười sáu tuổi lôi lên từ một đám bèo, một người c̣n đang ngậm một búng cơm.






Những h́nh ảnh đó bây giờ cộng thêm cảnh chết của hai vợ chồng và ba đứa con trước mắt tôi. Họ chết từ ngày hôm kia, khi địch đặt bộ chỉ huy ở khu nhà thờ, người chống là ông Từ giữ nhà thờ đă đem cả gia đ́nh vào trốn dưới cái bệ thờ Chúa.


Tượng Đức Chúa ngả nghiêng, tượng hai thiên thần rơi tung tóe, hai bàn tay trắng bằng đất nung lăn lóc trên sàn nhà. Khi tôi cúi xuống nhặt hai bàn tay nầy th́ khám phá ra năm xác chết trên.

Họ chết ngồi, hai vợ chồng ngồi sát nhau ôm ba người con trước ngực. Họ chết v́ bị sức ép nên thân thể vẫn c̣n nguyên vẹn, nét mặt in vẻ hốt hoảng. Tôi ra lệnh kéo xác họ ra sân.


Giáo đường bây giờ im vắng, tượng Chúa linh động trong vị thế nghiêng ngả, nắng ở ngoài không rọi vào, không khí nặng nề lạnh ngắt. Tôi ngồi xuống trên chiếc ghế, hỏi thầm:


Thượng đế, ngài có thật đấy chăng?

Tượng Chúa Ki To ở Bỉnh Long - An Lộc trước và sau mùa hè đỏ lửa 1972




Khi tôi bước ra đàng sau nhà thờ, qua khu nhà của những người chết, một chiếc áo tím chắc hẳn của cô con gái c̣n phơi phới bay trong gió.

Nh́n ra xa, xác cô gái nằm thẳng trên sàn gạch, nắng thật sáng, rọi lên rực rỡ. Người tôi ai cắm một lưỡi dao oan nghiệt vào tim, thật buồn.


Tôi loay hoay đốt một điếu thuốc. Cái chết quả là một bi thảm, nhưng h́nh ảnh của cô gái nằm chết trong khi chiếc áo c̣n bay trong gió vang vang trong trí náo tôi như một tiếng kêu thê thảm không biên giới.


Hai ông bà cụ già, người Việt Cộng trẻ, người cha và người mẹ, họ đă sống, đă chết dù sao cũng có chủ đích, có chọn lựa, cũng đă qua gần hết cảnh sống.


Cô gái chết bất ngờ không báo trước, yêu đời như màu tươi của chiếc áo. Tôi choáng váng ngộp thở, người lao đao trong một niềm giận dỗi và sầu muộn mênh mông.





Đụng lớn. Tiểu đoàn lấy được một lô súng đạn, thừa thắng xông lên truy kích địch để lùa họ về Quốc lộ Bốn.






Bên trái là sông Tiền Giang. Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù bên phải làm thành phần chận bít. Tiểu đoàn tôi lùa địch từ đông sang tây.


Việt cộng phân tán thành từng toán nhỏ để trốn. Ba đại đội tác chiến được xử dụng để lục soát không chừa một hốc nhỏ. Việt Cộng được moi lên từ các ao bèo, bờ lúa, đun rơm, cuộc truy kích vừa khôi hài vừa hào hứng như tṛ chơi.


Tôi lầm ĺ đi giữa hàng quân, trận đánh ngày hôm qua, một đêm mất ngủ, cái chết hàng loạt của Việt Cộng, những thây ma tênh hênh lăn lóc, tất cả đổ ào xuống một lượt trên linh hồn c̣n hồn nhiên.


Tôi ngất ngư như lần đầu tiên uống rượu như đây là cơn say đen. Xua quân đi vào một vườn dừa rộng, tiểu đội bên trái, tiểu đội bên phải, lục soát dọc theo hai con rạch nhỏ bao quanh khu vườn. Tôi đi vào ngôi nhà đang âm ỉ cháy, những chiếc cột lớn lỏng chỏng hỗn độn bốc khói xanh ngắt.





C̣n tiếp ,
hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following 3 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (09-20-2020), huudangdo1 (09-20-2020), phokhuya (09-20-2020)
Old 09-20-2020   #591
hoathienly19
R4 Cao Thủ Vơ Lâm
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 842
Thanks: 1,657
Thanked 1,149 Times in 509 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 23 Post(s)
Rep Power: 5
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default





Một người đàn bà áo trắng quần đen tay ôm chiếc lẳng mây trước ngực ngồi im trên nền gạch đôi mắt nh́n thẳng ngơ ngác. Thấy chúng tôi đi vào chị ta đứng dậy, đứng thẳng người như pho tượng, như thân cây chết với đôi mắt không phản ứng. Thằng bé theo tôi cùng tên Hiệu thính viên lẻn ngay vào bếp kiếm thức ăn. Tôi đi đến trước chị đàn bà.


- Làm ǵ chị ngồi đây, không biết đang đánh nhau sao?


Im lặng, đôi mắt ngơ ngác lóe lên tia nh́n sợ hăi. Bỗng nhiên chị ta đưa thẳng chiếc lẳng mây vào mặt tôi, động tác nhanh và gọn như một người tập thể dục.


Sau thoáng ngạc nhiên tôi đưa tay đón lấy. Hai bộ áo quần, chiếc khăn trùm đầu, gói giấy nhỏ buộc chặt bằng dây cao su. Mở gói, hai sợi dây chuyền vàng một đôi bông tai.

- Của chị đây hả? Vẫn im lặng, nỗi im lặng ngột ngạt lạnh lùng.

- Con mẹ này điên rồi thiếu úy, chắc sợ quá hóa điên.


Tên hiệu thính viên th́ thầm sau lưng tôi, mắt nó sáng lên khi nh́n vào những miếng vàng chói trên giấy.


Vàng, chắc cũng hơn một lượng, lấy đi thiếu úy. Ê ! Đi đi.


Tên lính xua tay đuổi người đàn bà đi chỗ khác. Lạnh lùng, chị ta xoay người bước đi như xác chết nhập tràng.


Chị kia quay lại đây tôi trả cái này. Tôi nói vọng theo. Người đàn bà xoay lại, cũng với những bước chân im lặng, trở về đứng trước mặt tôi nhưng đôi mắt bây giờ chứa đầy sợ hăi, một vẻ hốt hoảng thảm hại làm răn rúm khuôn mặt và run đôi môi.


Chị ta c̣n trẻ lắm, khoảng trên dưới 27, 28 tuổi, da trắng mát tự nhiên, một ít tóc xơa xuống trán làm nét mặt thêm thanh tú.






Tôi đưa trả chiếc lẳng mây, chị đàn bà đưa tay đón lấy, cánh tay run rẩy như tiếng khóc bị dồn xuống. Chiếc lẳng rơi xuống đất, hai cánh tay thả xuống mệt nhọc song song với thân thể. Ḍng nước mắt chảy dài trên má.


Tôi hươi mũi súng trước mặt chị ta. Ngồi đây. Tôi chỉ ṇng súng vào bực tam cấp. Khi nào tụi tui đi th́ chị đi theo.

Tại sao khóc, nhặt vàng lên chứ. Im lặng, chỉ có nỗi im lặng kỳ quái, thân thể người đàn bà cứ run lên bần bật, nước mắt ràn rụa.


Từ từ chị đưa bàn tay lên hàng nút áo trước ngực. Không! Không thể như thế được, tôi muốn nắm bàn tay kia để ngăn những ngón tay run rẩy đang mở dần những hàng nút bóp để phơi dưới nắng một phần ngực trắng hồng.


Không phải như thế chị ơi. Người đàn bà đă hiểu lầm v́ tôi không lấy vàng và bắt đứng lại, chị ta không hiểu được lời nói của tôi, một người Việt Nam ở cùng trên một mảnh đất.


Chị ta tưởng tôi thèm muốn thân xác và đ̣i hiếp dâm. Tội nghiệp cho tôi biết bao nhiêu, một tên sĩ quan 21 tuổi làm sao có thể biết đời sống đầy máu lửa và đớn đau tủi hờn đến ngần này.






Tôi đi lính đánh giặc chỉ v́ một ư nghĩ :


Đi cho cùng quê hương và chấm dứt chiến trang bằng cách góp mặt. Thê thảm biết bao nhiêu với ngộ nhận tủi hổ này.






Thê thảm cho tôi, cho những người lính chung quanh v́ lính chúng tôi có thể tàn bạo trong khoảnh khắc, tham lam trong lén lút nhưng chúng tôi đâu phải là một thứ lính tẩy trên quê hương.


Người ngoại cuộc của những tàn phá kinh tởm do chiến tranh này gây nên. Chúng tôi có ḷng nào hưởng cảm giác trên xác thân của một người đàn bà Việt Nam trong cơn vỡ nát kinh hoàng đau đớn.





Khổ lắm, người đàn bà của tỉnh Kiến Hoà đâu có biết rằng chúng tôi không bao giờ muốn huênh hoang, hung bạo trong vườn xanh bóng mát này, chúng tôi đâu có muốn tạo những ngọn lửa oan uổng thiêu đốt căn nhà b́nh yên như giấc mơ của chị. Và những mảnh vàng đó, thân thể chị đây ai có can đảm để giang tay cướp phá và xâm phạm !



Tôi muốn đưa tay lên gài những nút áo bật tung, muốn lau nước mắt trên mặt chị nhưng chân tay cứng ngắc hổ thẹn. Và chị nữa, người đàn bà quê thật tội nghiệp, đời sống nào đă đưa chị và cơn sợ hăi mê muội để dẫn dắt cho những ngón tay cởi tung hàng nút áo, sẵn sàng hiến thân cho một tên lính trẻ, tuổi chỉ bằng em út, trong khi nước mắt chan ḥa trên khuôn mặt đôn hậu đầy kinh hăi.


Quân rút ra khỏi làng, chị đàn bà đi theo chúng tôi, vẫn với những bước đi ngượn ngập cứng nhắc, vẫn đôi mắt nh́n vào khoảng trống không cảm giác. Người đàn bà Việt Nam bước đi trong ngỡ ngàng với hạnh phúc khốn nạn: hạnh phúc đến chót sau những đau khổ rời ră, hạnh phúc lạ lùng như chiêm bao thấy thân thể chưa bao giờ bị xúc phạm.






Quân rút ra gần đến Quốc lộ, con sông đầy thuyền, hỗn loạn bóng người chen chúc, dân của vùng hành quân trốn ra từ ngày trước. Tiếng người kêu la vang dội một khoảng sông. Họ hỏi thăm t́nh trạng nhà cửa, người thân thích người kẹt trong vùng hành quân. Có tiếng khóc vang lên:


“Trời ơi nhà ông Năm bị chết hết cả nhà rồi bà con cô bác ơi!”


Tiếng kêu thê thảm như một kẻ đắm đ̣.


“Lai! Mày đó Lai ơi!”


Bà già dưới sông mồm kêu tay ngoắc chị đàn bà theo chúng tôi. Chị ta dừng lại như để nhớ một dĩ văng, như nhớ một đời sống đă đi qua.


“Lai! Lai ơi, má đây con…” chị đàn bà đứng lại xoay người về phía ḍng sông…


“Má! Má!” Tôi thấy đôi môi run rẩy th́ thầm:


“Nhà cháy rồi, nhà cháy rồi.” Chị ta đi lần ra phía bờ sông, cũng với những bước chân của người mất hồn, bóng áo trắng nổi hẳn trên đám dừa xanh…






Tôi cúi đầu đi thẳng, mắng mấy thằng lính đứng tần ngần nh́n theo người đàn bà.


“Tiên sư, đi lẹ c̣n qua phà sớm.” Ḷng ngập một niềm ăn năn kỳ lạ…


Chiếc phà đưa tiểu đoàn chúng tôi về Mỹ Tho, dân chúng ta ra đứng nh́n cảm phục. Tôi đóng quân ở sân vận động. Tôi đi lên chiếc cầu hướng về phía G̣ Công ḍng nước đen thấp thoáng ánh đèn chảy siết dưới chân cầu đục ngầu như linh hồn tôi.






Đêm tỉnh lẻ đỏm dáng tội nghiệp, tôi đi lang thang, thật lạ ngay với chính ḿnh. Gặp Bang ở Biệt Động Quân, anh chàng nhỏ người nhưng ồn ào nhất trong số mười lăm anh Khóa 15 Thủ Đức về Biệt Động Quân.


Bang đăi tôi cơm, tôi chỉ uống đượi chai bia, xong chúng tôi đi coi ciné, phim The Sun Also Rises, phục Hemingway th́ có khi đọc sách, nhưng phim dửng dưng và nhạt nhẽo.


Tôi đi về trong đêm khuya, thành phố ngủ sớm, chiếc lá khô bay trước mặt như tà áo của cô con gái. Tội nghiệp thay cho một tuổi trẻ, tôi cũng đáng tội nghiệp nữa.


Ngày mai chúng tôi về Sài G̣n, ao ước được cởi áo nhà binh trong vài ngày, nhưng đó chỉ là ao ước v́ chúng tôi biết rằng Sài G̣n đang có biến động, Phật Giáo và Công Giáo xua tín đồ ra đường phố. Lần đầu tiên trong đời, tôi biết thế nào là thù hận khi về đến Sài G̣n, đóng cửa Tổng Nha Cảnh Sát, lănh một cái mặt nạ để sẵn sàng dẹp biểu t́nh.


Phan Nhật Nam

Kiến Ḥa, 8/1964
hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following 3 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (09-20-2020), huudangdo1 (09-20-2020), phokhuya (09-20-2020)
Old 09-20-2020   #592
hoathienly19
R4 Cao Thủ Vơ Lâm
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 842
Thanks: 1,657
Thanked 1,149 Times in 509 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 23 Post(s)
Rep Power: 5
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default Đ.M THỦY QUÂN LỤC CHIẾN CHỈ TIẾN KHÔNG LÙI




Xích chân vào xe tăng như thế nầy thử hỏi có ai không " chết vẫn chiến đấu " ? Tuyên truyền như thế nầy th́ không theo Bác và Đảng mới lạ .


7'43''

" Ḿnh chỉ hơn họ một cái là chết vẫn chiến đấu , chết vẫn đánh . "





Chú bộ đội nầy có những lúc nói thật .

7'56

Thủy quân lục chiến đánh là tới số luôn , ... đánh xong 20 quả mỏ vịt mới dùng đến AR15 . Cho nên đánh với Thủy Quân Lục chiến khó xơi lắm v́ nó đánh mỏ vịt nổ như ngô rang , xong cái là :

" Đ. M Thủy Quân Lục Chiến chỉ tiến không lùi " .

Cũng kinh nó lắm chứ không phải đùa với nó . Cũng có những lực lượng cũng là ghê lắm đấy .

Đó là những lực lương giải quyết chiến trường


BẢN HÙNG CA THỦY QUÂN LỤC CHIẾN - QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A


hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following 3 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (09-21-2020), huudangdo1 (09-22-2020), phokhuya (09-25-2020)
Old 09-22-2020   #593
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,411 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Con Ngựa Xích Thố của Giang Lực Hải Quân VNCH



Trong suốt hơn 20 năm hoạt động của HQVNCH, các chiến hạm cũng như các chiến đĩnh, dù do Pháp giao lại, hay sau này do Mỹ chuyển giao, đều do Mỹ sản xuất Chỉ riêng chiếc Scan/Fom, tiếng Việt gọi là Tuần Giang Đĩnh, là do Pháp đóng. Đây là một chiến đĩnh có nhiều đặc tính và tỏ ra rất công hiệu trong việc tuần tiễu trên sông rạch vùng Cửu Long Giang. Việt Cộng đă nhiều phen kinh hăi trước sự xuất hiện của loại chiến đĩnh này.Trong sinh hoạt của các giang đoàn, chiến đĩnh này được gọi tắt là Fom. Hỏi tại sao lại gọi như thế, nhiều người đă trả lời, v́ khi chạy máy tầu nổ rất ṛn kêu”fom, fom”. Nghe cũng có lư. Nhưng đúng tên của nó là do chữ Scan/Fom ( Service Technique des Constructions et Armes Navals Frances Outre-Mer ). Một loại tầu được đóng để Hải Quân Pháp hoạt động ngoài nước Pháp, đặc biệt cho Đông Dương. Chiến đĩnh này dài 36 bộ, rộng độ 7 bộ, mũi nhọn, đáy tầu cũng nhọn, chạy nhanh xé nước tạo thành một vùng trũng khiến cho toàn thân tầu gần như thấp hơn mặt nước, tránh được các loại súng lớn từ bờ muốn bắn vào phần thân tầu. Cũng v́ mũi nhọn, đáy nhọn, khi bị thủy lôi, sức công phá của thủy lôi tạt qua một bên, ( khác hẳn với các loại chiến đĩnh đáy bằng, khi bị thủy lôi là cầm chắc đáy tầu bị phá). Loại Fom này, được trang bị một đại liên 12ly 7 tại mũi, với dàn pháo tháp bằng thép bao quanh, đại liên này có tầm hoạt động mạnh, xa tới 5 cây số, và ṿng hoạt động 220 độ về phía trước và hai bên. Trên nóc tầu có 2 đại liên 30, và sau lái 1 đại liên 30 nữa, chưa kể các loại súng nhỏ như M16, M79. Thường mỗi chiếc chỉ có 4 nhân viên. Tầu bao giờ cũng đi hai chiếc, do một hạ sĩ quan làm thuyền trưởng trông nom cả cặp tầu. Sự lanh lẹ, gọn nhẹ của chiếc Fom được ví như “con ngựa Xích Thố của Giang Lực.”
Để có một cái nh́n sống động hơn về hoạt động của chiến đĩnh này, xin theo dơi bài bút kư viết về những kỷ niệm, những nguy nan của các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam một thời vùng vẫy trong khu chiến Tiền Giang, qua trận đánh tại Ba Rài.

Đường Đi Khu Chiến
Tôi bị ra Hội Đồng Kỷ Luật trong một trường hợp thật ngộ nghĩnh, và bị đưa đi đơn vị tác chiến: Giang Đoàn 21 Xung Phong, khu chiến Tiền Giang.

Mới tới đơn vị, tin tức các nơi liên hệ đến các cuộc đụng độ giữa các đơn vị Việt Cộng và các tầu tuần tiểu mỗi lúc một tăng. Sự thương vong mỗi lúc một lớn. Quả thật là tôi có “rét” thật . “Rét” nên tôi cố gắng t́m hiểu, học hỏi các kinh nghiệm của các bạn sĩ quan cùng khóa tại đơn vị, và nhất là các kinh nghiệm của các anh em đoàn viên đă lặn lội nhiều năm tại vùng sông nước nguy hiểm này. Lúc ấy, năm 1965, anh Nguyễn Đức Bổng, khóa 10, trên tôi một khóa, làm duyên Đoàn trưởng Duyên Đoàn 33 bị nội tuyến, địch giả dân đánh cá làm quen với đơn vị, rồi giữa trưa làm lễ cúng Hà Bá, mời cả Duyên Đoàn dự tiệc, rồi đùng một cái họ nổ súng, bắn chết khá đông. Anh Bổng ở trên ghe chủ lực, cũng bị bắn chết. Tràng đạn xuyên nát ngực. Khi chúng tôi đến lấy xác anh, trời đă chiều. Con rạch Sọ Dừa, cái tên oan trái, là nơi xác anh nằm vắt vẻo bên sàn ghe. Xác anh Bổng xám ngắt và tóp lại như một đứa trẻ, v́ máu ra quá nhiều. Xác anh nằm ở sàn tầu, phủ bằng một tấm chăn dạ lính. Máu từ thân thể anh vẫn tiếp tục chảy dài xuống sàn tầu và ḅ ngoằn ngoèo ra mé cửa sổ chiến đĩnh. Hỏa châu từ nơi nào đó bắn lên dọi sáng một vùng trời. Tôi lại nghe anh sắp sửa lấy vợ nữa. Tôi thương anh và càng thấy sợ. Tôi th́ vừa lấy vợ. Hai vợ chồng hai nơi, Sài G̣n và Mỹ Tho… Tôi thương vợ tôi lắm, nên nhủ ḷng:” Phải cẩn thận tối đa.”

Lúc rỗi, tôi lên Pḥng Hành Quân theo dơi bản đồ Trận Liệt, ghi các vùng nguy hiểm vào sổ tay. Nh́n cho kỹ địa thế. Đọc thật kỹ kư hiệu nơi có rừng cây, nơi có dừa nước. Các nơi đă từng đụng độ. Và tôi nhận ra rằng, đa số các nơi diễn ra cuộc đụng độ mà phần thiệt hại về ta, là các khúc sông hẹp, uốn khúc. Địch nấp trong hầm bắn ra. Ta hỏa lực hùng hậu, tầm đạn xa, lại có cả loại đạn công phá, nổ khi chạm vật cứng như sắt, thân cây lúc này trở nên ít hữu hiệu. Và thời điểm các cuộc đụng độ, đa số vào khoảng 4, 5 giờ chiều. Giờ mà theo thói quen, quân ta đă lo sửa soạn ra về, máy bay khi cần khó gọi, có đến cũng khó can thiệp. Giờ của địch, như thế kể như từ 4, 5 giờ chiều cho đến 4, 5 giờ sáng.

C̣n các cuộc bắn tầu, như kinh nghiệm các bạn kể lại, thường là vào ban đêm. Lúc ấy, nếu tinh ư, ta sẽ thấy “sao mà đất trời lạnh ngắt”. Lạnh ngắt v́ khi bờ sông có người phục kích, chim muông không dám xà xuống đậu. Có xà xuống thấy người lại chới với bay lên. V́ thế cảnh vật bỗng trở nên vắng lặng, rờn rợn. Lúc ấy, nếu thấy một ngọn đèn thắp lấp lánh bên bờ sông, ta có nhiều phần chắc đó là ngọn-đèn-nhắm. Việt Cộng thắp ngọn đèn bên kia sông, chúng nằm bên này sông, trời tối càng tốt. Khi tầu lướt trên mặt sông, án ngữ tầm nh́n của ngọn- đèn- nhắm là bên này sông, chúng đă hờm súng sẵn, cứ việc bấm c̣. Chắc như bắp. Chỉ trừ khi tên xạ thủ run tay, chậm trễ, đạn mới vượt qua sau lái.

Lúc như thế, ta mới thấy chiếc Fom hữu hiệu như thế nào. Fom, như trên đă viết, chạy nhanh, có bị bắn, đạn đi trên tầm nước, khó ch́m. Thấy đèn nhấp nháy khả nghi, Fom, loại tầu đi trước và đi sát mé sông, xả tốc độ, quay 90 độ, bỏ đèn nhắm của địch sau lái, lấy đại liên 12 ly 7 bắn như mưa vào bờ đối diện. Đâm thẳng vào. Đạn đan kín trời tràn ngập nơi địch trú ẩn. Tới gần, hai đại liên 30 trên nóc tầu xả đạn quanh điểm khả nghi. Đồng thời dùng M 79 bắn vào. Đạn nổ bùng. Việt Cộng bạo th́ nằm dí đó, ăn đạn nát thây. Vụt chạy th́ khó tránh được rừng đạn 12ly7 và đại liên 30 bắn đuổi theo như mưa bấc.

Đức Râu, kẻ tử thù của Việt Cộng
Người cho tôi kinh nghiệm về chiến thuật phản xạ này là Trung Sĩ I Lê Phước Đức, tục gọi là Đức Râu. Anh thâm niên quân vụ khá bộn, đâu như xuất thân từ khóa I, khóa 2 Đoàn Viên, ngành Thủy Chiến Binh (Fusilier), do Pháp huấn luyện. Bạn bè anh đă có người có đai vàng trên mũ. Anh vẫn chỉ có ba chữ V trên vai áo. Anh người Nam, to con, mặt hơi rỗ, râu hàm xanh ngắt. Lúc nhàn rỗi, anh ngồi lầm ĺ trên tầu, bên cạnh là một thùng bia Quân Tiếp Vụ, uống t́ t́, mặt đỏ râu dựng, không nói một câu. Ít ai biết về gia cảnh anh. Lúc nhàn rỗi đă thế, khi đụng trận, vừa ngồi trên nóc tầu, hai chân tḥng xuống bánh lái. Một tay bấm c̣ đại liên 30, một tay cầm ống liên hợp điều động chiếc Fom bạn, ủi đầu vào nơi địch vừa khai hỏa. Những lúc như thế, trời chiều đă gần tắt, mây đỏ đầy trời. Anh lẫm liệt lao vào lửa đạn, uy dũng lừng lững, như Quan Vân Trường với thanh Long Đao trên ḿnh con ngựa Xích Thố. Lúc ấy, đoàn tầu cứ việc nhẹ nhàng tiến, và lặng lẽ theo dơi cặp Fom của anh làm cỏ hai bên bờ.

Có lúc tôi đă hỏi anh:” Sao cứ ở đây hoài, đi tầu biển cho nó thay đổi cuộc sống chăng,” anh tợp một hơi bia và nói:” Ông thầy! Mấy thằng fusilier (chiến binh) đi tầu là loại lính-mỡ.” Tôi phân vân hỏi:” Lính mỡ là…?” Anh đáp:” Mang tiếng là chiến binh mà đi tầu biển chỉ có việc lấy mỡ xoa vào ṇng súng cho khỏi sét, chứ lính ǵ tụi nó..” Anh ví von đến là hay, tuy có phần hơi cường điệu… Trong đơn vị, anh là người có nhiều huy chương nhất, anh chỉ đeo có ngành dương liễu mà thôi. Các ngôi sao vàng, sao bạc, anh bảo “đồ ăn giỗ đó mà ông thầy..” Trong các cuộc hành quân tuần tiểu, có khi chỉ có một chiếc soái đĩnh, hai Quân Vận Đĩnh và hai chiếc Fom, biệt phái cho một vùng nào đó. Toán đi như thế, sĩ quan nào cũng muốn có cặp Fom của anh Đức. Bạn tôi, Trần Hữu Khánh, tay tŕ của Giang Đoàn nói:” Có Đức đi theo ḿnh yên trí lắm. Có đụng mới thấy ngựa hay..” Tôi ở Giang Đoàn có mấy tháng, đă thấy mấy lần đụng độ. Đức lúc nào cũng được nhắc đến, với các chiến lợi phẩm. Khi th́ mấy khẩu CKC, Bá Đỏ…, chiến công lặt vặt ấy, anh bảo:” Thôi để cho mấy đứa em. Dù nó có ở khẩu 30 sau lái, cũng là đụng trận chứ. Cho nó có chút xanh , chút đỏ cho vui. Tôi đeo đủ rồi.”

Vào giữa năm 1965, một buổi trưa, một đoàn tầu đi tuần trên kinh Chợ Gạo. Con kinh huyết mạch để đoàn ghe gạo, cá từ Vùng IV về Sài G̣n qua đó. Kinh Chợ Gạo, ṿng đai an toàn cho Mỹ Tho, B́nh Phục Nhất, nơi mà “ḿnh vừa đi qua, là tụi nó ló mặt ra liền”, chính nơi này, Đức Râu và cặp Fom của anh đă làm Việt Cộng điên đảo. V́ là tầu nhỏ, một tầu tiến vào lạch, kéo theo chiếc Fom khác quay mũi trở ra . Như thế lạch hẹp, tầu phải vừa đi vừa vén lau mà lủi, không thể xoay sở, chẳng thể quay đầu. V́ thế Việt Cộng tin là ” lạch hẹp, bố bảo tụi tầu cũng không dám vào đây”. Vậy mà Đức Râu bảo:” Ông thầy cứ nằm ngoài kinh. Để tôi vào.” Vào sâu nằm đó, khi ở ngoài kinh đoàn tầu đă đi. Trong lạch um tùm, hai chiếc Fom nằm im khe. Tụi Việt Cộng ló ra , chèo ghe đi lại. Cho thật chắc, để chúng xuất hiện đông, là Fom khai hỏa. Chúng chạy đâu cho thoát. Lúc ấy chiếc Fom buộc sau chiếc Fom đi đầu, mở máy chạy, kéo theo chiếc thứ nhất trở ra kinh lớn… Sự gan dạ và thông minh ấy của Đức, Đức Râu, đă làm địch khiếp vía. Bao nhiêu xác địch đă bị bỏ lại trên bờ kinh. Bao nhiêu gạo,muối, đồ tiếp liệu của địch đă tịch thu được, một phần không nhỏ là do Đức với cặp Fom đem về.



Tiểu Giáp Đỉnh FOM và Trung Vận Đỉnh LCM8 của một Giang Đoàn Xung Phong
Hải Quân VHCH

Rồi một hôm, giữa năm 1965 cũng chính từ chiếc Fom của Đức HQ 5001,HQ 5002 gọi về, giữa trưa:” Tôi bị bắn, lạ lắm. Lửa phát ra xanh lè. Đạn xuyên từ bên trái tầu, qua luôn thành bên phải, ghim vào bờ kinh nổ bùng. Chúng bắn xong lủi rất nhanh vào khúc quẹo..”. Cả Giang Đoàn bàn tán. Các chi tiết ấy đă được sĩ quan Ban 2 ghi lại, gửi về Bộ Tổng Tham Mưu. Sau này mới hay đó là loại súng mới rất lợi hại của địch: B40. Và cũng từ đó , thay v́ chỉ là súng ngựa trời, CKC, Bá Đỏ, Việt Cộng có loại AK 47 , nhẹ, bắn liên thanh. Cũng từ lúc ây, tin đồn Việt Cộng treo giải, ai giết được Đức râu sẽ được thưởng 200 ngàn đồng, số tiền tương đương với nhiều lạng vàng. Một gia sản lớn. Nghe thế, đọc các truyền đơn ấy, Đức râu chỉ cười. Ngồi thừ trên mũi Fom, uống rượu t́ t́.
Ở lâu quá một con tầu không nên, cần phải thuyên chuyển qua tầu khác để có kinh nghiệm mới , và cũng là dịp cho nhân viến khác lên thay, để có cơ hội học hỏi thêm. Đức râu được lên làm thuyền trưởng chiếc Tiền Phong Đĩnh (Monitor Combat), HQ 6001.

Tiền Phong Đĩnh c̣n gọi là Thiết Giáp Đĩnh, là loại chiến đĩnh được trang bị hùng hậu nhất trong các chiến đĩnh hoạt động trên sông, dài 60 bộ, rộng 17 bộ. Trước mũi là đại bác 40 ly, pháo tháp dày. Ở giữa chiến đĩnh có một súng cối 81 ly, hai đại liên 12 ly và hai đại liên 30, và nhiều súng nhỏ, kể cả súng phóng lựu M 79. Hai máy dầu cặn, hai chân vịt nên xoay sở dễ dàng, tốc độ 8 gút. Nhân viên cơ hữu độ mười người. Khi cuộc hành quân quy mô, thường có các sĩ quan trưởng toán hiện diện tại đây. Đức râu được biết “phải” rời cặp Fom cuả anh để lên làm thuyền trưởng chiếc Tiền Phong Đĩnh HQ 6001. Anh không muốn lên, v́ như nhiều người biết, ở đây gần mặt trời, lại là chiến đĩnh lớn, khó tung hoành. Nhưng anh không thể từ chối. V́ thâm niên công vụ, anh sẽ đeo lon Thượng Sĩ nay mai, không thể ở măi trên tầu nhỏ được.

Làm quen với chiến đĩnh này, cũng không khó đối với anh. Với tướng mạo hùng dũng ấy, các tay đàn em sợ một phép.

Trận Ba Rài 29/9/1965

Giang kể:
"Cuộc hành quân dựa theo tin t́nh báo cuả SĐ 7BB theo đó Trung Đoàn chính quy BV có trang bị vũ khí nặng đă có mặt trong vùng. SĐ 7 BB đă mở cuộc hành quân bao vây trước đó một ngày, lực lượng gồm nhiều Tiểu Đoàn TQLC và Bộ Binh SĐ 7. Lực lượng này đă bị cầm chân và không rút được, phi cơ cũng không can thiệp được v́ rừng cây dầy đặc. Phía ngoài, tại cửa sông lớn đi vào, địch đă để một thành phần súng lớn để diệt tầu Hải Quân (sau này, khi đụng độ mới biết, v́ chúng ngụy trang và bất động).

Do đó SĐ7/BB yêu cầu Hải Quân mở cuộc hành quân phối hợp thăm ḍ tiếp theo để có thể can thiệp cho kế hoạch: Rút quân và để phi cơ oanh tạc.

Giang Đoàn 21 Xung Phong và 27 Xung Phong do HQ Đại Úy Trần Văn Triết chỉ huy, mở cuộc hành quân thay cho HQ Thiếu Tá Huỳnh Huy Thiệp, đi họp ở Cần Thơ. Đoàn tầu đi tới vùng hành quân khoảng 2 giờ chiều. Tất cả nằm ngoài sông lớn. Riêng toán của tôi gồm Monitor Combat 6001 và hai Fom 5001-5002 được chỉ định đi vào kinh nhỏ bắt liên lạc với bộ binh. Toán của tôi chỉ huy gồm thuyền trưởng Nguyễn Văn Đức (Râu) và Trung Sĩ Sụn (Fom). Chúng tôi đă tiến sâu vào trong kinh và bắt liên lạc trực tiếp với lực lượng trên bờ tại xă Xuân Sơn. Tôi báo cáo ra ngoài cho Đại Úy Triết biết. Đại Úy Triết bèn cho một Monitor Comand với hai RPC hộ tống đi vào, và toán của tôi tiến ra yểm trợ. Tất cả đều yên lặng, không có cuộc chạm súng nào, nhưng không khí căng thẳng, v́ với kinh nghiệm cho biết, tôi đoán, địch sẽ đánh. Lúc trở ra. Thông thường, bất cứ cuộc hành quân vào sông rạch nào lúc vào không nguy hiểm bằng lúc trở ra; do đó thường tránh đi về cùng một đường. Nhưng trường hợp này không áp dụng được v́ độc đáo.

Khi quay trở ra, tiếp tay được với toán Đại Úy Triết, tôi nằm lại giữ an ninh thủy tŕnh, và Đại Úy Triết cho 3 giang đĩnh tiến sâu vào tiếp giáp với bộ binh trên bờ. Khi Hải Quân gặp Bộ Binh, địch không kềm chân Bộ Binh nữa v́ sợ Hải Quân phản công.

V́ thủy tŕnh quá dài, nên toán tôi giữ an ninh khúc giữa Đại Úy Triết cho monitor combat 6007 của Trung Úy Bảo vào giữ an ninh khúc ngoài.



Khoảng 4 giờ chiều, một phi cơ quan sát cho biết một tầu Hải Quân bị cháy phía ngoài đầu kinh. Đại Úy Triết liên lạc với Trung Úy Bảo không được và chỉ thị toán của tôi ra tiếp cứu. Khi gần tới tầu Trung Úy Bảo th́ tôi bị tấn công bằng đủ mọi loại súng nặng. Chiếc monitor combat HQ 6007 của Trung Úy Bảo là mục tiêu đầu tiên cho địch khai hỏa. Bảo bị thương nặng. Tầu bốc cháy và ch́m. Tôi cho lệnh 3 chiến đĩnh ủi thẳng vô bờ phản công. Địch đă xuất hiện với quân phục kaki vàng, nón cối rất đông. Chúng mở cuộc tấn công với mục đích cướp tầu, nhưng chúng không thể nào tiến tới gần tầu được.

Cuộc giao tranh rất khốc liệt. Toán giang đĩnh của Đại Úy Triết tiến trở ra bị ngay mấy du kích hai bên bờ bắn tỉa làm Thiếu Úy Hiền và Đại Úy David tử thương. Đại Úy Triết bèn ra lệnh cho tất cả rút ra ngoài sông lớn nhưng toán của tôi vẫn nằm ĺ ở lại , v́ đang đối đầu quyết liệt với địch. Chúng tôi đă tận dụng hỏa lực 40 ly, 20 ly, đại liên 50, 30, FM Bar. Địch quân không thể tiến lên được và chúng gục xuống sau những tiếng hô đồng nhất “xung phong”.

Khẩu đại liên 30 bên trái ngưng nhả đạn, tôi quay qua sờ thấy đầu Trung Sĩ Đức gục xuống, anh đă hy sinh. Tôi được lệnh Đại Úy Triết phải rút ra ngoài. Tôi báo cáo t́nh h́nh và cho biết tầu tôi bị trúng rất nhiều đạn súng lớn, trong đó có bị một lỗ lớn, nếu rút ra sẽ bị ch́m. Về nhân viên, có Trung Sĩ Đức hy sinh, Trung Sĩ Thức thuyền phó monitor bị thương nặng ở chân. Một phóng viên AP bị một viên đạn vô ngực, ông ta rất tỉnh, nhưng báo sự nguy hiểm sẽ đến với ông ta. Vài phút sau khi gặp th́ ông ta cũng ra đi. Số c̣n lại tất cả đều bị thương, nhưng vẫn c̣n chiến đấu hữu hiệu. Chúng tôi phải tận lực mới đẩy lui được những đợt tấn công cướp tầu của địch.

Khoảng 11 giờ đêm, tiếng súng thưa dần. Tôi yêu cầu Đại Úy Triết cho vô tiếp cứu, nhưng vô hiệu.

Nằm lại một ḿnh cho đến khi im tiếng súng , chúng tôi 9 thày tṛ đă chuẩn bị tất cả vũ khí cá nhân, lựu đạn để nếu tàu bị ch́m , không ở lại tàu được th́ sáng hôm sau sẽ t́m đường bộ về Cái Bè. Nhưng nhờ trước đó chúng tôi đă cho cột dây an toàn từ bít sau lái lên gốc cây trên bờ, nên tàu không bị vô nước, nhờ đó mới kèm kéo về an toàn…”

* * * * *

Con rạch Ba Rài bắt nguồn từ Quận Lỵ Cái Bè dài trên 10 cây số, chảy ra sông Cửa Tiểu theo hướng Bắc Nam. Ḷng rạch hẹp, nơi rộng nhất ở ngă ba Ba Rài- Cửa Tiểu, hai bên bờ rạch không quá 100 mét. Con rạch cắt một góc chéo 25 độ rồi uốn khúc, tạo thành một doi đất, bề ngang doi đất không quá 600 mét. V́ thế từ cửa rạch không thể nh́n thấy phía trong. Hai bên bờ cây rậm rạp, những hàng dừa đứng chen nhau như thành. Suốt cả chiều dài của bờ rạch như thế, nên cuộc đụng độ giữa một đơn vị chủ lực Việt Cộng với các đơn vị của sư đoàn 7 Bộ Binh, có cả Thủy Quân Lục Chiến từ mấy ngày qua. Hai bên cứ cầm chân nhau , không bên nào tiến lui được. Hai bên đều nh́n thấy nhau, chỉ cách mấy hàng dừa. Quá gần cho nên không thể gọi pháo binh tác xa. Quá rậm nên không có chỗ để trực thăng đổ quân tiếp viện. V́ thế, Sư Đoàn 7 Bộ Binh đă trông cậy vào Hải Quân: Giang Đoàn 21 và 27 Xung Phong. Giang Đoàn 21 là một đơn vị kỳ cựu, nhân viên và sông nước quen nhau, và cả địch lẫn ta quần nhau cũng lắm. Riêng Giang Đoàn 27 Xung Phong vừa mới thành lập, dưới quyền chỉ huy của Hải Quân Đại Úy Trần Văn Triết, một sĩ quan mới từ đơn vị biển đổi về sông. Sau mấy tháng huấn luyện, đây là lần đầu tiên Giang Đoàn 27 Xung Phong đem toàn lực ra quân, với tất cả các chiến đĩnh của Giang Đoàn 21 Xung Phong.

Nhiệm vụ của cuộc hành quân này là Hải Quân tiến vào rạch Ba Rài, hỗ trợ cho các đơn vị Bộ Binh rút từ Xă Xuân Sơn, phía Đông rạch Ba Rài sang bên kia rạch. Hải Quân, cả hai Giang Đoàn đă tiến vào. Dưới hỏa lực hùng hậu của các giang đĩnh, Việt Cộng đă án binh bất động. Đơn vị bạn đă rút an toàn, và dùng tầu Hải Quân băng qua bên kia bờ. Tất cả đă diễn ra êm ả, từ 2 giờ cho đến 4 giờ chiều. Đoàn tầu bắt đầu rút, nước đă xuống. Tàn cây che phủ ḷng sông,tối, lạnh. Việt Cộng đă phục sẵn tại doi đất gần cửa rạch và bắt đầu tấn công vào đoàn tầu của ta. Đây là một cuộc thử lửa khốc liệt giữa một đơn vị chủ lực của Việt Cộng và hai Giang Đoàn được coi là tinh nhuệ của ta.

Dù trận chiến đă diễn ra trên 30 năm, nhưng may mắn thay, các nhân sự ṇng cốt của cuộc thử lửa này, hiện ở Mỹ c̣n nhớ được, và đă thuật lại qua các câu trả lời trên giấy hoặc qua các cuộc điện đàm mới đây. Đó là anh Nguyễn Ngọc Giang lúc ấy là Trung Úy, lên lon tại mặt trận tŕnh bày ở phần trên; và anh Diệm, Đặng Diệm, người lăn lộn với Giang Đoàn 21 Xung Phong rất nhiều năm. Đặng Diệm kể:

“Như anh biết, tôi cũng chẳng gan dạ ǵ, nhưng việc tới tay th́ phải làm. Vùng sông nước này tôi hoạt động khá lâu nên khá rơ. Lúc đoàn tầu bị tấn công, tôi ở trên chiếc monitor command. Đại Úy Davis và Thiếu Úy Hoàng Hiền cũng ỏ trên tầu này. Hiền bị đạn, lăn lộn dữ lắm, mấy người ôm anh ấy để tránh rớt xuống sông. Lúc đă rút ra ngoài sông lớn, Đại Úy Triết đi Cái Bè họp với bên Bộ Binh. Trong Lúc ấy hệ thống truyền tin vẫn mở, tiếng Giang báo cáo, kêu cứu, tất cả các tầu đều nghe. Tôi kiểm chứng mật mă riêng với Giang. Giang trả lời rất nhanh. Tôi gọi 4, Giang đáplại ngay 9, để 9+ là 13. Con số 13 chỉ có hai đứa tôi biết mà thôi. Tôi tin là Giang không bị địch áp đảo. Giang tiếp tục kêu tiếp cứu gấp rút. Các thuyền trưởng họ cùng mở máy nghe, họ nóng ruột quá. Chỉ huy Trưởng th́ đă đi họp. Tôi bèn lấy quyết định một ḿnh vào cứu Giang, và yêu cầu ai t́nh nguyện th́ theo tôi. Phải nói là lúc đụng trận th́ ḿnh không sợ, ḿnh phản ứng tự nhiên. Giờ cuộc đụng độ đă tàn. Nhớ lại Lúc Đại Úy Davis ngă xuống và Hoàng Hiền lăn lộn đầy máu, tôi cũng cảm thấy hăi chứ. Mà chắc ǵ địch không phục ở cửa sông. Có thể là chỗ tầu Giang đă yên, yên thật, hay yên giả. Nhưng làm sao khác được, tôi lấy một chiếc command, 2 LCM và 2 chiếc fom trở lại rạch Ba Rài. Tôi nói với Giang: ” Khi nào nghe tiếng tầu tôi th́ lấy đèn pin làm hiệu…” Phải nói là liều chứ anh, run lắm, sĩ quan chỉ có ḿnh tôi. Con rạch tối om, lạnh ngắt. Khi nghe Giang báo cáo:” Tôi đă nghe tiếng tầu,” là lúc tôi thấy ánh đèn pin lập ḷe của Giang vẫy vẫy. Tôi cho hai chiếc fom khai hỏa phía bờ đối diện. Tầu tôi cặp vào tầu Giang. Đón được Giang và các nhân viên trên chiếc combat qua tầu tôi, tất cả chúng tôi đều bê bết náu. Tầu tôi lùi ra, để cho hai chiếc LCM cặp vào chiếc combat kéo về. Lúc trở ra. Trời đă khuya lắm, có lẽ đă quá nửa đêm. Vừa đi vừa bắn. Về đến cửa Mỹ Tho, như anh biết là 4 giờ sáng. May mà không có sự ǵ xẩy ra, nếu tụi nó phục sẵn, ḿnh làm sao mà không bị thiệt hại. Lúc ấy thật khó nói…”.




Các Chiến Đỉnh của một Giang Đoàn Xung Phong

Trong khi cả hai giang đoàn hầu như dốc toàn lực cho cuộc hành quân này, th́ riêng tôi được phân nhiệm đem một chiếc LCM và hai LCVP, chở theo một trung đội bộ binh, đổ bộ bên tả ngạn sông Tiền Giang, đối diện với vùng hành quân trên để nghi binh. Tôi c̣n được chỉ thị kỹ chỉ cần đổ quân gần bờ, bắn cho có tiếng súng, đừng vào sâu, và phải rút về lúc quá trưa, để c̣n liên lạc với bên Tiểu Khu lo việc làm lễ gắn huy chương cho vị cố vấn tiền nhiệm, và cũng là lễ giới thiệu Đại Úy Davis, tân cố vấn.Như đă dự trù, tôi đem mấy chiếc tầu về đến căn cứ lúc 2 giờ, nằm ngủ một lát để lát nữa qua Tiểu Khu mượn ban nhạc, th́ anh Trung Sĩ Vô Tuyến gơ cửa, tôi bảo ” vào đi”. Anh ta nói, mặt xám ngắt:
– Ông thầy xuống Pḥng Vô Tuyến đi. Tôi chạy xuống ngay, đóng cửa lại, và mở cả hai hệ thống truyền tin. Tiếng súng vọng lại từ mặt trận dội về xen lẫn các cuộc đối thoại giữa các chiến đĩnh trên hệ thống chỉ huy. Có Lúc tiếng nổ dội về, và hệ thống âm thoại tắt.. .Đúng là đụng to rồi. Tôi ra lệnh cho đóng cổng trại, cấm trại 100%, để sẵn sàng nhận lệnh từ mặt trận gọi về. Tất cả đă diễn tiến như anh Giang đă tả”.
Khi tiếng anh Diệm êm ả gọi, cho hay:” Tụi này sẽ về đến căn cứ độ 40 phút nữa. Sẵn sàng xe cứu thương và y tá…”

Tôi khoác áo ấm đeo súng Colt và đèn pin đứng đợi tại cầu tầu cùng với xe cứu thuơng và cáng. Đoàn tầu đă nh́n thấy lấp lánh tiến về từ từ cặp vào cầu tầu. Diệm bước lên đầu tiên, d́u Giang theo. Dưới ánh đèn vàng, chỉ thấy toàn người Giang đầy máu. Giang vẫn đi lại được. Tất cả nhân viên trên chiếc Tiền Phong Đĩnh cuả Giang lên ngồi kín chiếc xe Hồng Thập Tự. Sau đó, một xe khác chở cái băng ca, xác cuả Đức Râu vàng khè và toàn thân sũng máu.. Tất cả lặng lẽ di chuyển qua Bệnh Viện Dă Chiến. Các nhân viên c̣n lại, kể cả dưới tầu, trên căn cứ xúm lại lấy ống bơm xịt, rưả chiếc tầu vưà từ mặt trận về. Trời sáng dần, mặt sông đă óng ánh bóng nắng, và cũng là Lúc tôi nhận thấy nước từ trên chiến đĩnh chảy xuống vẫn đẫm đẫm máu đỏ.

Trời sáng hẳn, cả cầu tầu đă trở lại êm ả, sạch sẽ như thường lệ.

Tổng Kết Trận Ba Rài
Được chỉ huy bởi một vị sĩ quan vừa từ biển đổi về sông, kinh nghiệm chiến trận kể như c̣n “lỏng tay”, đây là một cuộc tranh hùng khốc liệt. Dù địch đă chuẩn bị sẵn chiến trường, có đủ yếu tố bất ngờ, và giờ giấc thuận tiện: Lúc 4 giờ chiều, giờ của họ, nước thấp, chúng ở trên cao bắn xuống. Nhưng ta đă “đáp ứng”ngon lành. Không ai có con số chính xác về tổn thất của địch, nhưng xác địch nổi trên mặt sông nhiều gấp 3,4 lần bên xác của ta, đó là chưa kể số thương vong trên bờ mà địch đă vội vă mang đi chắc cũng không dưới 100, v́ 57 súng đủ loại để lại là một chứng minh cụ thể. Bên ta tuy có một tầu ch́m, số thương vong chưa quá 20. Và vũ khí được bảo toàn.

Tại đơn vị, những phái đoàn lên xuống tấp nập . Đầu tiên là các cô nữ xă hội của Thiếu Úy Sa. Các cô đem dầu gió, vải trắng làm khăn tang.. Lần lượt là thân nhân của nhân viên đơn vị. Tất cả ngồi chật ních, rũ rượi ở Câu Lạc Bộ. Hải Quân Đại Tá Trần Văn Chơn, Tư Lện Hải Quân cũng có xuống. Ông xuống thăm chiếc monitor combat HQ 6001. Ông nh́n lỗ thủng do đạn địch bắn vào, ông x̣e bàn tay che chưa kín lỗ đạn, và nói với Giang:” Có bàn tay trời che chở cho anh…”.

Trong lúc ấy tại khúc sông con rạch Ba rài, Bộ Binh đóng đầy. Những đám khói hương cắm dọc theo mé sông, những vũng máu đen đặc, tanh nồng. Vũ khí địch bỏ lại tất cả là 57 khẩu đủ loại. Dưới nước, tầu của ḿnh ủi băi. Nước vẫn lên xuống điều ḥa. Lâu lâu từ dưới đáy sông lại trồi lên một xác. Tầu ḿnh ghé lại lật xác lên nhận diện. Bạn th́ vớt lên, lấy mền đắp lại. Địch th́ đẩy ra cho trôi theo gịng nước. Mấy ngày sau, xác Bảo mới nổi lên. Trước khi nổi có một đám bọt xủi, rồi một cánh tay nhô lên trước. Tay phải. Bàn tay c̣n cầm cái bút nguyên tử mầu vàng… Bây giờ sau hơn 30 năm đă qua, tôi chẳng c̣n nhớ được kỹ. Chỉ biết chắc là Trung Sĩ Thinh từ nhà xác về, đem theo các thẻ bài là tôi kư giấy khai tử cho các người chết, kèm theo các thủ tục xin quan tài kẽm và lệnh di chuyển cho các quân nhân tháp tùng.

* * * * *

Một buổi trưa ngày nghỉ, tôi trực nhật, ngồi từ trên lầu pḥng ngủ sĩ quan, nh́n qua bên kia Cù Lao Rồng. những mái nhà xen giưă mấy lùm cây. Trẻ con nô đuà dưới mé nước. Lấy ông nḥm nh́n kỹ vào phiá trong, có những ông già ngồi trước hiên nhà đang lặng lẽ uống rượu. Đàn vịt, đàn gà chạy loanh quanh. Mấy bà già và các cô gái đun nấu gần đó. Cảnh trí êm ả, thanh b́nh. Nhưng tôi nghĩ: ”Rất có thể các ông già kia là các mật báo viên cuả phiá bên kia. Địch lăn lộn, trà trộn với dân thật là xảo quyệt.

Tôi đảo ống nḥm về phiá cầu tầu. Một đoàn chiến đĩnh nằm như ngủ. Riêng chiếc Tiền Phong đĩnh HQ 6001, tầu cũ cuả Đức Râu, có mấy người lính đi lại. Tôi theo dơi, và tôi thấy họ xếp một điă đồ nhậu ra sàn tầu, một thùng bia Quân Tiếp Vụ. Tôi nghĩ: ” Lại nhậu cho đỡ buồn đây…” Nhưng không phải thế. Mấy nhân viên ăn mặc đàng hoàng, ngồi sau các thứ họ vưà bầy ra, rồi bật diêm, đốt nhang, cắm vào một ly gạo. họ đang làm lễ, và tôi chợt nhớ, hôm nay 49 ngày cuả Đức Râu rồi đây. Tôi muốn xuống với họ, xong tôi nghĩ:” Thôi để họ tự nhiên.”.

Cũng xung quanh thời gian ấy, một hôm cụ bà, thân mẫu của anh Hoàng Hiền t́m tới đơn vị để nhận lại các di vật của con. Cụ muốn lên căn pḥng cũ, nơi HQ Thiếu Úy Hoàng Hiền đă ở. ” Dạ, đây là giường nằm của anh ấy.” Cụ ngồi xuống mé giường, lặng lẽ. Cụ x̣e bàn tay gầy vuốt lên mặt nệm. Đôi Lúc bàn tay cụ dừng lại như lắng nghe, như t́m chút hơi ấm nào của con c̣n sót lại. Cụ ngồi khá lâu rồi đứng lên. Cụ nói:” Nhà tôi cũng bị chết v́ Việt Cộng, giờ lại đến nó…” Cụ nói êm ả điều ḥa như chuyện của ai. Mảnh sân đơn vị nắng bỏng. Cụ bước đi thong thả. Trên đầu cụ cuốn một mảnh khăn trắng dài, phủ xuống sau lưng. Bóng cụ đổ trên nền sân, cụ nắm chặt cây kiếm Hải Quân của cậu con trai trong ḷng bàn tay nhăn nheo của cụ.

Bây giờ, đă cuối năm 1998, đọc cuốn Vietnam, the Decisive Battles, ( Những Trận Chiến Quyết Định tại Việt Nam), Tác giả, ông John Pimlott, có nói đến trận Ba Rài. Tôi đọc kỹ, đây là một trận đánh khác, nhưng cũng xảy ra tại nơi trên, nhưng thời gian trận sau diễn ra vào ngày 15 tháng 9 năm 1967, trước hai tuần lễ đầy hai năm sau trận mà hai Giang Đoàn 21 và 27 Xung Phong đă chạm địch. Trong trận sau, các chiến đĩnh của Hoa Kỳ, loại mới, tối tân hơn (ATC), đă đụng với Tiểu Đoàn 263 D của Việt Cộng. Phải chăng đơn vị này của địch đă đụng với Hải Quân Việt Nam trước đó. Trận sau , dù địch có yếu tố t́nh cờ và địa thế đă chọn sẵn, địch cũng đă để lại 79 xác chết.



Một sự trùng hợp nữa rất lạ lùng, trận 29 tháng 9 năm 1965, Đại Úy Davis đă chết. Trận sau, cũng có một sĩ quan Mỹ tham dự trận đánh, tên ông cũng la Davis (Wilbert). Ông ta sống. Và nơi diễn ra trận đánh đă được Mỹ đặt cho một cái tên ngộ nghĩnh là Snoopy’s Nose. Với tôi, tôi đồng ư với Giang rằng, nếu trận năm 1965, vị chỉ huy Giang Đoàn 21 Xung Phong, HQ Thiếu Tá Huỳnh Duy Thiệp có mặt, t́nh thế chắc sẽ khác hẳn. Và, Đức Râu, vẫn dong duổi bén nhậy trên cặp Fom, con ngựa Xích Thố của Giang Lực, Việt Cộng khó có khả năng khai hỏa êm xuôi như vậy. Chính trận này, lần đầu tiên chúng dùng B 40 công phá đoàn tầu.

Đối Phương Đă Nói Ǵ Về Trận Ba Rài
Trong tập tài liệu lưu hành nội bộ nhan đề “Những Trận Đánh của Lực Lượng Vơ Trang Đồng Bằng Sông Cửu Long”, do nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, năm 1997, trận Ba Rài đă được viết lại tỉ mỉ, và chiếm một số lượng trang từ 104 đến 126, người viết đề tên Trung Tá Nguyễn Thanh Sơn. Đây là một bài viết công phu, từ những nhận định địa h́nh, thời tiết, t́nh h́nh lực lượng hai bên, t́nh h́nh dân chúng, những giả thuyết trận liệt, rồi diễn tiến trận đánh và cuối cùng là kết quả và ư nghĩa của trận này.

Từ đó ta biết rằng đơn vị đối đầu với ta tại Ba Rài ngày 29 rạng 30 tháng 9 năm 1965, là tiểu đoàn 261. Tiểu Đoàn này đă được trang bị vũ khí nặng. Riêng "Đại Đội Bộ Binh 1" của Việt cộng, có nhiệm vụ "chận đánh tầu địch trên sông Ba Rài", có 3 khẩu DKZ 57 ly, 2 khẩu 12ly 7, và ba khẩu B 40. Trận đánh đă diễn ra ác liệt, phù hợp với những ghi nhận của phía HQVN ta.

Có điểm kết quả trận đánh th́ chúng khoác lác rất lạ, Việt Cộng viết nơi trang 119 rằng:
"Sau một ngày chiến đấu, ta đă tiêu diệt 500 tên địch. Bắn cháy và ch́m tại chỗ 5 tầu chiến (có một tầu đầu hàng). Thu một cối 81 ly, 1 súng 12,7 ly, 2 đại liên, 8 cac bin, 1 máy vô tuyến điện và nhiều quân trang quân dụng khác. Phá hủy một DKZ 5 ly,1 súng 12,7 ly. Bắn rơi 5 máy bay.

Ta hy sinh 18 đồng chí (có 3 cán bộ trung đội). Bị thương 32 đồng chí. Bị phá hỏng 1 B 40 và 4 súng tiểu liên".
Thưa anh Nguyễn Thanh Sơn, không biết anh đă căn cứ vào đâu để có kết quả như trên. Nếu có th́ giờ, anh hăy lục lại loạt bài nhan đề ” Đoàn Tầu Đi Vào Cơi Chết Để T́m Ra Lối Sống”, đăng liên tục nhiều ngày khoảng đầu tháng mười năm 1965, trên nhật báo Tiền Tuyến, Sài G̣n, người viết đă ghi lại đầy đủ chi tiết về phía Quân Lực Việt Nam. Có đầy đủ các thiệt hại, và tên tuổi của người đă nằm xuống trong trận này. Đó là một trận đánh quả có gây xúc động tới các giới chức cao cấp của chúng tôi, v́ trận này sĩ quan Hải Quân chết nhiều nhất: Hai người là Trần Ngọc Bảo và Hoàng Hiền. Phía Mỹ, Đại Úy Davis, vị tân cố vấn vừa đáo nhậm, đây cũng là lần đầu tiên các anh đă xử dụng B 40 đánh phá đoàn tầu. Một loại vũ khí mới và rất công hiệu. Và chúng tôi rất tiếc, “Con Ngựa Xích Thố của Giang Lực”, Trung Sĩ I Lê Phước Đức, người mà phía các anh đă khiếp hăi, đă treo giải” ai giết được Đức Râu th́ sẽ được trọng thưởng...”. Đó là nỗi đau đớn, thiệt hại của chúng tôi. Quả các anh có bắn cháy và ch́m 1 chiếc tầu, trên có Bảo, bạn tôi chỉ huy. Tầu ch́m, rồi chúng tôi lại vớt lên, kéo về. Một chiếc khác bị thiệt hại nặng, trên đó có Giang điều động. Chiếc tầu đó có thủng, không chạy được, nhưng đă không ch́m. Phía các anh đă nhiều phen vừa hô “xung phong” vừa ào lên định cướp tầu. Mỗi lần như thế, lại một lần phía các anh gục xuống. Chỉ riêng với chiếc tầu này, khách quan mà nói, con số 20 người chết về phía các anh, có lẽ là con số quá nhỏ. Làm ǵ có chiếc tầu nào hàng các anh đâu? Trong khi đó, như bài viết ở trang 113, các anh đă phải đối đầu với " 7 tiểu đoàn bộ binh, 8 khẩu 105 và 155 ly trực tiếp chi viện. Trên sông có 12 chiếc tầu chiến. Ngoài ra c̣n có phi cơ các loại tập trung chi viện cho cuộc hành quân càn quét này".

Thưa anh Sơn, có thể các anh đă ước định sai số quân bên phía chúng tôi. Xin hăy giả thử chỉ một nửa quân số nói trên, họ lại là một loại binh chủng mà các anh kêu là “ác ôn, lính thủy đánh bộ,” họ đâu có phải là hàng chuối ở vườn, đứng im cho các anh tới hạ. Nếu quả các anh có một may mắn nào đó, tiêu diệt được độ một trăm người, tôi nghĩ cũng đă là oanh liệt lắm. Chiến công ấy do ai chỉ huy, ai là những ” xạ thủ ngoan cường” của các anh, sao không thấy các anh nhắc đến?

Những luận cứ vu vơ đó chỉ làm cho tập tài liệu của các anh trở thành một tṛ cười, không c̣n một chút khả tín nào nưă. Chỉ có “18 đồng chí hy sinh,” vậy th́ 57 khẩu súng đủ loại bỏ rải rác hai bên bờ sông Ba Rài là của ai. Các vũng náu đen đặc, và những xác chết nổi lên không đếm được trên sông Ba rài, các xác đều mắc quần áo Kaki Nam Định, là xác chết nào hở anh Sơn???

Thưa anh Sơn,
Khi cuộc chiến c̣n đang tiếp diễn, các anh cần thổi phồng chiến công để tuyên truyền, chúng tôi đọc đến nỗi phải ph́ cười nhưng vẫn c̣n thông cảm được. Nay cuộc chiến đă tàn. Cả khối Cộng Sản đă vỡ. Các anh đă phải mở cửa để long trọng đón kẻ thù cũ là ” Đế Quốc Mỹ” vào như một thượng khách. Sự thực về cuộc chiến đă được từ từ phơi bầy. Lẽ ra đây là lúc các anh phải thật khách quan, t́m hiểu, đối chiếu tường tận để trả sự thật cho sự thật. Đó mới là thái độ trí thức của người viết sử. Anh đă không làm thế. Các anh đă không làm thế. Riêng anh, anh Sơn, anh viết bừa băi, cẩu thả, đă đành. Trên anh c̣n có ông Phó Tiến Sĩ Phạm Gia Đức, người chịu trách nhiệm xuất bản. Ông Đức có lẽ đă không thèm nh́n lại bài viết của anh. Hoặc có đọc mà không có khả năng suy xét, nhận thức. Phải chăng ông ta là một ông tiến sĩ giấy ? Học vị càng cao chỉ càng làm cho tṛ cười thêm lớn. Tuy nhiên nói đi cũng phải nói lại, chính sự ngộ nghĩnh nghịch lư nói trên đă giúp phía chúng tôi ít phải mất th́ giờ so sánh, biện bạch. Và bên cạnh đó, anh Sơn c̣n dẫn một câu (mà không nêu rơ danh tánh) rằng:” Trận đánh này chỉ huy tiểu đoàn bộ binh 261 đă xác định lực lượng nguy hiểm trực tiếp trước mắt là đoàn tầu chiến trên sông Ba Rài” (trang 123). Thế là đủ.

Tôi xin dừng ở đây nghe anh Sơn. Trước khi bài này được in và chuyển ngữ, chúng tôi sẵn sàng đón nhận ư kiến từ mọi phía, kể cả tác giả bài viết của nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội.

Ôi Những Anh Linh Bên Gịng Sông Cũ
Bây giờ, tính từ năm 1967 đến nay, đă trên 30 năm. Cuộc chiến cũ đă nhạt nḥa. Người chiến binh Mỹ đă trở lại Việt Nam du lịch. Những con thuyền gỗ có mái che, chở các du khách lướt trên mặt nước đục ngầu Cửu Long Giang được in trên các báo Mỹ. Và tôi chắc, từ hải ngoại, có lẽ đă không thiếu bà con, bằng hữu chúng ta trở lại thăm thân nhân, chốn cũ. Có ai đă tới Mỹ Tho không? Trước khi đến Mỹ Tho, từ Sài G̣n đi xuống bằng Quốc Lộ 4, chúng ta gặp tỉnh lộ 29 xuôi Nam. Qua Mỹ Hạnh Trung, vào Tỉnh Lộ 20, tới Long Điền, rẽ trái vào Tỉnh Lộ 12 ta sẽ đi qua một vùng đau khổ cũ. Phía mặt là Cẩm Sơn, phía Nam là Hiệp Đức, Xuân Sơn, ta sẽ gặp con rạch Ba Rài ở giữa đoạn đường này, tính từ Long Điền đến An Phú. Nơi đây vườn cây xanh tốt. Mận ở vùng này nổi tiếng ḍn, đỏ au như xác pháo hồng mùa Xuân. Con rạch Ba Rài ấy có các con thuyền đi lại. Các cô thiếu nữ má hồng trong áo bà ba tươi mát, quần Mỹ A óng ả. Dưới sông trẻ nhỏ bơi tắm nô đùa. Các cô gái và trẻ em này được sinh ra và lớn lên sau cuộc chiến đă tàn. Họ có biết đâu rằng, dưới ḷng con rạch này,chắc c̣n có những nắm xương nằm từ bao năm cũ. Và hàng cây bên sông, cây già trăm tuổi, có c̣n nhớ một thời khói lửa đă bùng lên, và nếu ai tỉ mỉ, xem lại các thân cây, những vết đạn cũ, chắc có những đầu đạn sản xuất made in USA, và có cả những đầu đạn từ Nga Sô, Trung Cộng đem lại. Những người trai của cả hai bên trận tuyến, có khi là anh em một nhà, bạn bè một quận… đă phải ào ạt giết nhau. Những linh hồn oan khuất chắc c̣n lẩn khuất bên các gốc cây xưa.

Ôi những anh linh kẻ Nam Người Bắc
Chết là oan cho một cuộc tương tàn

Là quân nhân Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa, chúng ta đă làm tṛn xứ mạng được trao cho. Thời cuộc đă gọi, ta nhập cuộc. Chúng ta đă anh dũng hành động. Bạn bè ta đă anh dũng hy sinh. Các bạn đích thực là những kẻ anh hùng. Tôi ao ước có một ngày về thăm chốn cũ. Tôi sẽ ngồi bên bờ con rạch Ba Rài, dưới bóng mát của các cây ăn trái, tôi sẽ cầu nguyện, sẽ đọc một thời kinh Giải Oan cho những người năm xuống tại nơi này. Hỡi Nguyễn Ngọc Bảo, hỡi Hoàng Hiền, hỡi Lê Phước Đức, tức Đức Râu, và bao nhiêu người nữa. Tôi ngưỡng mộ các anh. Xin các anh hăy lắng ḷng nghe kinh mà siêu thoát. Tổ Quốc ghi công các bạn.

Phan Lạc Tiếp

* Bài viết này được cô đọng qua các cuộc phỏng vấn bằng thư, bằng điện thoại giữa người viết và anh Nguyễn Ngọc Giang, Đặng Diệm, trong phần có dấu ngoặc kép” ” là nguyên văn lời các anh ấy phát biểu.
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	1593416568-1cn.jpg
Views:	0
Size:	61.4 KB
ID:	1658060   Click image for larger version

Name:	1593416577-2cn.jpg
Views:	0
Size:	99.2 KB
ID:	1658061   Click image for larger version

Name:	1593416587-3cn.jpg
Views:	0
Size:	64.9 KB
ID:	1658062   Click image for larger version

Name:	1593416597-4cn.jpg
Views:	0
Size:	88.0 KB
ID:	1658063  

Click image for larger version

Name:	1593416605-5cn.jpg
Views:	0
Size:	61.9 KB
ID:	1658064  
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (09-22-2020), huudangdo1 (09-22-2020), phokhuya (09-25-2020), trungthu (09-23-2020)
Old 09-22-2020   #594
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,411 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default "Đánh Trận Là Một Nghệ Thuật" Cuộc Pḥng Thủ Xuân Lộc Của Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà 9 - 21 Tháng Tư

Lời Giới Thiệu của Dịch Giả
Bài viết “Đánh Trận Là Một Nghệ Thuật” đă được đăng trên “The Journal of Military History” số 68 vào năm 2004. Đây là một quyển báo rất có uy tín của quân đội Hoa Kỳ từ năm 1937, chuyên đăng những bài nghiên cứu có giá trị về lịch sử quân đội của mọi nơi trên thế giới.

Dù đă ra đời mười sáu năm, bài viết này có một giá trị lịch sử đặc biệt v́ người viết đă tham khảo rất công phu nhiều tài liệu của cả Việt Nam Cộng Ḥa, Hoa Kỳ và Bắc Việt.

Bài viết này đă được Cố Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Ḥa nhận định là chính xác đến 95%.

Tóm Lược Bài Viết
Từ đầu tháng cho đến giữa tháng Tư, 1975, Sư Đoàn 18 của Miền Nam Việt Nam đă pḥng thủ ngă đường chiến lược tại Xuân Lộc, Đông Bắc của Sài G̣n, giữ vững nơi này sau những cuộc tấn công ồ ạt của cả một quân đoàn của Cộng Sản Bắc Việt trong kế hoạch tấn công bất ngờ để tràn chiến Sài G̣n và nhanh chóng kết thúc cuộc chiến Việt Nam. Với những trận đánh khốc liệt, Sư Đoàn 18 đă chận được cuộc tấn công của Cộng quân trước khi được lệnh rút về pḥng thủ Sài G̣n. Mặc dù Cộng quân đă vấp phải lỗi quá tự tin, sự thành công của Sư Đoàn 18 phần lớn là kết quả của tài đánh trận có kế hoạch và sự chỉ huy dũng cảm của vị Tư Lệnh, Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo, người đă chứng tỏ rằng ngay trong những giờ phút đen tối nhất của Miền Nam Việt Nam, những người lính Việt Nam Cộng Hoà -- những người đă từng bị chỉ trích rất nhiều, sẽ chiến đấu nếu cấp chỉ huy của họ là những sĩ quan có khả năng.



Quả đạn pháo kích đầu tiên rót vào ngay nhà Tướng Lê Minh Đảo. Đó là một căn nhà hai tầng nhỏ, không có ǵ nổi bật, dù tường nhà sơn màu hồng. Căn nhà nằm đối diện với tư gia của ông Tỉnh Trưởng, gần nhà thờ Thiên Chúa Giáo ở giữa thị xă Xuân Lộc, thủ phủ của tỉnh Long Khánh. Ông Tướng, như phần lớn binh sĩ Việt Nam Cộng Hoà (VNCH), sống trong cái tỉnh nhỏ miền quê, yên lặng và đượm nét hoang tàn. Trái đạn pháo xuyên thẳng qua mái nhà và nổ tung ngay trong pḥng ngủ, chứng tỏ độ chính xác của pháo binh Bắc Việt. Tiếp theo ngay sau đó là hai ngàn quả đạn pháo vào tỉnh trong ṿng một tiếng đồng hồ. May thay, ông Tướng không ở nhà.

Những tiếng nổ liên tục của pháo địch đă đánh thức binh sĩ của Sư Đoàn 18 Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (QLVNCH) và Địa Phương Quân (ĐPQ) của tỉnh Long Khánh đang núp ở trong những vị trí đă được sửa soạn trước trên ṿng đai quanh tỉnh. Cộng quân liên tiếp pháo vào trung tâm tỉnh mà không hề biết rằng QLVNCH và ĐPQ đă dời ra vùng ngoại ô để tránh pháo kích. Mờ sáng, tiếng xích thép nghiến trên đường báo hiệu sự xuất hiện của chiến xa Bắc Việt, theo sau là lớp lớp Cộng quân đang hăm hở, tin chắc vào chiến thắng.

Lúc đó là 05:40 sáng ngày 9 tháng Tư, 1975. Trận đánh quyết định cho Sài G̣n bắt đầu.

Tuy trận Xuân Lộc có một vai tṛ quan trọng trong sự sụp đổ của Sài G̣n, các sử gia Tây Phương biết rất ít về trận đánh huyền thoại này, khi Sư Đoàn 18 QLVNCH và Địa Phương Quân Long Khánh đă đứng vững trước những loạt tấn công ồ ạt bằng bộ binh, thiết giáp và pháo binh của cả một Quân Đoàn Bắc Việt. Tuy những tài liệu đă được xuất bản thường không được chính xác và có nhiều sai lạc, một điều không thể chối căi là: dù QLVNCH có nhiều thất bại trầm trọng năm 1975, Sư Đoàn 18 đă làm nên một chiến công hiển hách, đó là giữ vững Xuân Lộc trong mười một ngày trong t́nh trạng tuyệt vọng của miền Nam Việt Nam trong khi hầu hết những đơn vị khác tan hàng hoặc rút chạy. Tại sao vậy? Có những khác biệt nào giữa Sư Đoàn 18 và các đơn vị khác? Sức mạnh nào đă giúp các binh sĩ của Sư Đoàn 18 không những giữ vững pḥng tuyến mà c̣n dũng cảm đánh trả lại địch quân? Bằng cách nào họ đă chịu đựng được mưa pháo và chống cự lại những cuộc tấn công bằng chiến xa của Cộng quân? Quan trọng hơn, những quyết định nào đă biến thị xă này thành chiến trường khốc liệt nhất sau trận An Lộc và Quảng Trị năm 1972?

Sau hơn hai mươi lăm năm, những câu trả lời không dễ t́m, nhưng điều khá dễ thấy là vị trí chiến lược của Xuân Lộc đă làm cho thị xă này trở thành điểm chính cho cuộc tấn công của quân đội Bắc Việt. Thị xă này nằm ở phía Đông Bắc Sài G̣n, thủ đô của Miền Nam Việt Nam, cách Sài G̣n sáu mươi cây số. Đây là nơi kiểm soát ngă ba Quốc Lộ 1 và Quốc Lộ 20, hai xa lộ lớn nối liền Miền Trung với Sài G̣n. Sau sự sụp đổ của hai Quân Khu I và II ở phía Bắc, Xuân Lộc biến thành giao điểm trọng yếu của đường dây pḥng thủ xung quanh Sài G̣n mà Miền Nam gấp rút dựng lên trong tuyệt vọng.

Phần lớn các quan sát viên đều nhận thấy rằng chút hy vọng của QLVNCH khi pḥng thủ Sài G̣n trước ṿng vây của Cộng quân tuỳ thuộc vào sự tồn tại của pḥng tuyến Xuân Lộc. Nếu VNCH giữ được nơi đó, họ sẽ c̣n cơ hội để ổn định t́nh thế, tập họp lại quân đội đang tản mác khắp nơi, và thoát được chiến bại.

Lănh đạo của Cộng Sản Bắc Việt nhất quyết “tiêu diệt tay sai từ trong ổ” bằng mọi giá, trước khi VNCH có cơ hội hồi phục. Từ những hỗn loạn làm cho Đà Nẵng thất thủ, Hà Nội mong t́m cơ hội kết thúc cuộc chiến nhanh chóng bằng cách tấn công thẳng vào Sài G̣n qua ngơ Xuân Lộc. Họ tin rằng một trận tập kích mạnh sẽ phá tan sức chống cự cuối cùng của QLVNCH, và sự thất thủ của thị xă Xuân Lộc sẽ mở đường cho họ tiến vào Sài G̣n, kết thúc cuộc chiến dài mấy thập niên bằng một trận tấn công quyết liệt. Để đạt được mục tiêu, Bắc Việt ném cả Quân Đoàn 4 gồm ba sư đoàn để phá tan Sư Đoàn 18 QLVNCH tại Xuân Lộc.

Tuy vậy, Sư Đoàn 18 đă không tan ră; và mộng tưởng về một chiến thắng dễ dàng đă tàn rụi theo lửa đạn trong một trận đánh mà một cấp chỉ huy Cộng quân, người đă từng tham gia các trận đánh chống Pháp và Mỹ, gọi là trận đánh khốc liệt nhất trong ba mưoi năm binh nghiệp của ông ta.

Sự thành công của Sư Đoàn 18 trong lúc tinh thần của QLVNCH xuống thấp tận cùng đă trả lời cho câu hỏi của rất nhiều người lúc đó: liệu QLVNCH có chống trả Cộng quân?

Dù cuối cùng Sư Đoàn 18 đă phải theo lệnh rút khỏi thị xă đổ nát, sự chống cự anh dũng của họ đă đem lại hy vọng ngắn ngủi là QLVNCH sẽ đứng vững trước những cuộc tấn công liên tiếp của Bắc Việt và cầm cự cho đến mùa mưa khi các cuộc công kích phải ngưng lại hay các nỗ lực ngoại giao đạt được thoả thuận ngưng bắn. Hơn nữa, hành động chống giữ quả cảm của Sư Đoàn 18 đă cứu văn phần nào cho sự tổn thương danh dự của QLVNCH khi Quân Đoàn I và Quân Đoàn II sụp đổ.

Các Lực Lượng Việt Nam Cộng Hoà Trong Trận Xuân Lộc

- Sư Đoàn 18 Bộ Binh



Huy hiệu của Sư Đoàn 18 QLVNCH. Màu xanh nhạt tượng trưng cho bầu trời. Màu xanh đậm tượng trưng cho đất. Vật trên huy hiệu là nỏ thần và mũi tên thần trong sử Việt Nam



Tư Lệnh SĐ 18 năm 1975 Cố Thiếu Tướng Lê Minh Đảo (chụp khi c̣n là Chuẩn Tướng)

Sư Đoàn 18 được thành lập ngày 16 tháng Năm, 1965. Tên đầu tiên là Sư Đoàn 10, nhưng theo tiếng lóng của người Việt, “số mười” là hạng chót, do đó, vào cuối năm 1966, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH đổi tên sư đoàn thành Sư Đoàn 18. Phần lớn Sư Đoàn 18 ở tại Long Khánh, một tỉnh nằm ở phía Đông của Quân Đoàn III.

Sư Đoàn 18 có ba trung đoàn cơ hữu: Trung Đoàn 43, 48, và 52. Mỗi trung đoàn có ba tiểu đoàn bộ binh và một đại đội trinh sát. Sư đoàn cũng có một thiết đoàn là Thiết Đoàn 5. Thiết Đội 1 có chiến xa M-41, Thiết Đội 2 và 3 có chiến xa M-113. Các Trung Đoàn Trưởng của Sư Đoàn 18 gồm có: Đại Tá Lê Xuân Hiếu chỉ huy Trung Đoàn 43, Trung tá Trần Minh Công chỉ huy Trung Đoàn 48, Đại tá Ngô Kỳ Dũng chỉ huy Trung Đoàn 52, Trung Tá Trần Văn Nô chỉ huy Thiết Đoàn 5, và Đại Tá Ngô Văn Hưng chỉ huy pháo binh. Theo ông Đảo, Trung Đoàn 43 là đơn vị thiện chiến nhất. Căn cứ chính của Sư Đoàn 18 đặt ở Long B́nh, nơi có trung tâm tiếp liệu lớn. Bộ Tư Lệnh Hành Quân của Tướng Lê Minh Đảo đặt tại Xuân Lộc.

Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo là Tư Lệnh Sư Đoàn. Ông ta là một trong những sĩ quan lỗi lạc của QLVNCH nhưng ít được biết đến ở ngoài quân đội.(1) Ông Đảo, một người lănh đạo đầy nhiệt huyết và nghị lực, đă sống với binh sĩ của Ông và thường xuyên thăm hỏi gia đ́nh họ. Khác với những sĩ quan cao cấp thường ở trong Bộ Chỉ Huy và ra lệnh qua máy truyền tin, Ông Đảo hay ở trong hàng ngũ thuộc cấp trong các trận chiến, và đi sát bên họ trong các cuộc hành quân. Ông tin rằng niềm tin của binh lính đến từ sự cố gắng của cấp chỉ huy, và Ông yêu cầu các sĩ quan trong Sư Đoàn phải quan tâm thăm hỏi và thấu hiểu các thuộc cấp ở “hai tầng phía dưới”. Đây là một cách chỉ huy mới mẻ so với lối chỉ huy đặt nặng về cấp bậc của một số sĩ quan VNCH. Sự chia cách về văn hoá và xă hội thường thấy giữa sĩ quan và binh sĩ đă khiến cho nỗ lực của Tướng Đảo tạo được sự gắn bó đặc biệt đáng chú ư giữa các cấp trong hàng ngũ của ông. Các thuộc cấp của Tướng Đảo đáp lại bằng sự kính phục và trung thành. Dưới sự chỉ huy của Tướng Đảo, Sư Đoàn 18 đă nhanh chóng trở thành “đơn vị hữu hiệu nhất của Quân Đoàn III” (2) ; hơn nữa, sự chỉ huy mạnh mẽ của ông là một trong những nguyên nhân cho khả năng chiến đấu dũng mănh của Sư Đoàn 18.

- Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân (BĐQ)
Tiểu Đoàn 82 BĐQ Biên Pḥng thuộc Liên Đoàn 24 BĐQ cùng với Tiểu Đoàn 63, 81. Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Vương Mộng Long, một trong những vị chỉ huy nổi tiếng của BĐQ. Đơn vị của ông đă đẩy lui phần lớn Sư Đoàn 320 CS trong trận đánh tại Pleime. Trong trận Ban Mê Thuột, Tiểu Đoàn 82 đang ở Kiến Đức, tỉnh Quảng Đức. Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, Liên Đoàn 24 được lệnh rút bằng đường bộ đến các tỉnh ven biển rồi t́m cách liên lạc với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II. Len lỏi qua vùng đất do Cộng quân kiểm soát, ăn trộm thực phẩm trong kho của Cộng quân, những BĐQ đă đi bộ hai mươi ngày cho tới khi họ đến được lănh thổ do quân bạn kiểm soát. (3)

Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân do Thiếu tá Vương Mộng Long chỉ huy vừa di chuyển từ trại Bến Hét (Quân Khu II VNCH) về tạm trú tại Xuân Lộc để chờ phương tiện chuyên chở tiếp về hậu cứ nhưng qua ngày hôm sau t́nh h́nh Xuân Lộc sôi động nên Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH tăng phái đơn vị trên cho SĐ18BB để tăng cường cho Trung Đoàn 43 pḥng thủ thị xă Xuân Lộc (Long Khánh). (101)

- Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù
Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù gồm ba Tiểu Đoàn 1, 8, 9 và Đại Đội Trinh Sát Dù được yểm trợ bằng Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù, Đại Đội 3 Công Binh Dù, và Đại Đội 1 Quân Y Dù. Tư lệnh của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù là Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh. (102)

- Sư Đoàn 3 Không Quân
Sư Đoàn 3 Không Quân Biên Ḥa yểm trợ chiến thuật theo yêu cầu của Tư Lệnh Mặt Trận qua các Chiến đoàn và Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù. (103)

- Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ
Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi là Tư Lệnh Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ. Lữ đoàn có những đơn vị trực thuộc được thành lập theo nhiệm vụ riêng biệt. Ông có ba Chiến đoàn: 315, 318, 322. Mỗi chiến đoàn có một tiểu đoàn BĐQ, một pháo đội Pháo Binh và một chi đội Thiết Giáp.

Vào ngày 11 tháng Tư, Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Khu III ra lệnh cho Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ, đơn vị trừ bị cuối cùng của ông, từ phía Tây Quân Khu III di chuyển về phía Xuân Lộc để mở lại Quốc Lộ 1 từ Ấp Hưng Nghĩa đến ngă ba Dầu Giây.

- Trung Đoàn 8 / Sư Đoàn 5
Trung Đoàn 8/Sư Đoàn 5 VNCH do Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng chỉ huy. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn ra lệnh cho Trung Đoàn 8/Sư Đoàn 5 đến giúp Lữ Đoàn 3 Thiết Giáp của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi với mục đích chọc thủng điểm chặn của Cộng quân trên Quốc Lộ 1 tại Dầu Giây.

- Các đơn vị Địa Phương Quân (ĐPQ) và Nghĩa Quân
Bốn tiểu đoàn ĐPQ: 340, 342, 353, 367 dưới sự chỉ huy của Đại Tá Tỉnh Trưởng/Tiểu Khu Trưởng Long Khánh Phạm Văn Phúc. Ông Phúc là một sĩ quan Biệt Động Quân, ông nhận nhiệm vụ chỉ huy tiểu khu Long Khánh vào ngày 1 tháng Tư, 1975.

Các Lực Lượng Quân Bắc Việt
Cộng Sản Bắc Việt chia toàn thể nước Việt Nam thành những quân khu. Trên lănh thổ của VNCH, Bắc Việt c̣n đặt ra những mặt trận. Mặt trận B-5 là Mặt Trận Trị Thiên Huế, đây là vùng phía Bắc của Quân đoàn I VNCH. Mặt trận B-3 cũng có tên là Mặt Trận Tây Nguyên bao gồm phần núi non ở miền Trung Việt Nam, đây là vùng dọc theo biên giới phía Tây của Quân Đoàn II VNCH. Khu 5 bao gồm các tỉnh đông dân cư dọc theo bờ biển ở miền Trung, đây là phần ven biển của Quân Đoàn II VNCH. Mặt Trận B-2 kiểm soát mọi hoạt động quân sự của Cộng quân trên một địa bàn rộng lớn, từ ranh giới phía Nam của vùng cao nguyên Miền Trung cho đến mũi Cà Mau, cực nam của nước Việt Nam. Mặt Trận B-2 là đối trọng của Quân Đoàn III và IV VNCH.

Trung Ương Cục Miền Nam là bộ chỉ huy tối cao của tất cả các lực lượng Cộng Sản tại Miền Nam Việt Nam, có bí hiệu là Cục “R”. Người Mỹ thường dùng chữ tắt để gọi bộ phận này là COSVN – Central Office for South Vietnam.

- Sư Đoàn 7/Quân Đoàn 4 Cộng quân
Quân Đoàn 4 Cộng quân được thành lập vào tháng 7, 1974 (4) gồm các sư đoàn 5, 7, 9 cùng với thành phần chỉ huy, thiết giáp, pháo binh, đặc công, và các đơn vị hậu cần. Quân Đoàn 4 trực thuộc Mặt Trận B-2.

Hoàng Cầm là Thiếu Tướng chỉ huy Quân Đoàn 4 từ khi quân đoàn này được thành lập.(5) Ông Cầm đă từng chỉ huy tiểu đoàn trong trận Điện Biên Phủ, 1954 và từng làm Tư Lệnh Sư Đoàn 312 của Cộng quân. Vào cuối tháng 12, 1964, Bộ Chỉ Huy quân đội Bắc Việt gởi ông ta vào Nam để gia nhập Mặt Trận B-2. Mùa Xuân năm 1965, Hoàng Cầm được cho làm người chỉ huy đầu tiên của Sư Đoàn 9 của Cộng quân, sư đoàn đầu tiên của B-2, thành lập ngày 2 tháng 9, 1965. Ngay sau khi được thành lập, Quân đoàn 4 đă đụng trận khi dẫn đầu trận đánh chiếm Phước Long vào đầu tháng Một, 1975.

- Sư Đoàn 341 Cộng quân
Sau khi chiếm được Phước Long, Cộng quân ngưng tấn công trong một thời gian ngắn để sửa soạn cho các trận đánh tới và để thăm ḍ phản ứng của Hoa Kỳ sau khi cả một tỉnh của VNCH bị thất thủ kể từ sau Hiệp Định Paris. Bắc Việt cũng dùng thời gian tạm ngưng này để đưa những sư đoàn mới vào củng cố cho chiến trường miền Nam. Một đơn vị được lệnh vào Nam trong thời gian này là Sư Đoàn 341, lúc đó đang đóng tại miền Bắc và là một phần của lực lượng tổng trừ bị của Cộng quân.(6)

Sư Đoàn 341 được thành lập cuối năm 1972 từ những đơn vị khác nhau từ Quân khu 4 của Cộng quân và được bổ túc bằng những lực lượng trừ bị của từ các tỉnh trong vùng. Sư Đoàn 341 có ba trung đoàn: 266, 270, và 273. Giống như những sư đoàn Cộng quân khác, mỗi trung đoàn có ba tiểu đoàn bộ binh. Sư đoàn cũng có trung đoàn pháo cơ hữu, tiểu đoàn pḥng không, các nhóm trinh sát, và các đơn vị hậu cần. Nhóm đầu tiên được tung vào chiến trường trong Nam là Trung Đoàn 273 và Tiểu Đoàn pháo 14 cùng với đơn vị chỉ huy và các nhóm tiếp vận. Trên năm trăm xe vận tải đă được dùng để chở lực lượng này vào Nam theo con đường ṃn Hồ Chí Minh.

Khi những toán quân của Sư Đoàn 341 CS đến miền Nam vào cuối tháng Hai, họ được chính thức giao cho Quân Đoàn 4 CS. Cục “R” lập tức giao cho sư đoàn này hai nhiệm vụ: thứ nhất, chuyển trung đoàn 273 từ Sư Đoàn 341 sang Sư Đoàn 9. Thứ hai, Sư Đoàn 341 phải “nghiên cứu Quốc Lộ 20 từ cầu La Ngà tới ngă ba Dầu Giây (nơi Quốc Lộ 1 và Quốc Lộ 20 cắt nhau) và thị xă Xuân Lộc. Chuẩn bị mọi điều cần thiết để tấn công tiêu diệt đối phương khi được lệnh.” (7)

- Sư Đoàn 6 Cộng quân
Sư Đoàn 6 được thành lập tháng 8, 1974 cho Khu 7 khi “Cục ‘R’ quyết định thành lập một sư đoàn nhẹ cho mỗi quân khu bằng cách kết hợp những trung đoàn độc lập, cung cấp cho họ lực lượng yểm trợ tác chiến, và thành lập bộ chỉ huy sư đoàn bằng cách cho tư lệnh phó của khu kiêm chức tư lệnh sư đoàn. Hai trung đoàn độc lập của Khu 7 là Trung Đoàn 33 và 4 và đă phối hợp thành Sư Đoàn 6 CS. Sau đó Trung Đoàn 4 được đổi tên thành Trung Đoàn 274. Tư Lệnh của Sư Đoàn 6 CS là Đặng Ngọc Sĩ. Ông Sĩ thuộc nhóm người miền Nam đầu tiên tập kết ra Bắc gọi là Nhóm B500. Sau đó, ông ta đă đi theo con đường ṃn Hồ Chí Minh xâm nhập vào miền Nam khi con đường này mới mở vào tháng Mười Hai, 1959. (8)



Những Trận Đánh ở Quân Đoàn II và III VNCH Trước Trận Xuân Lộc
Từ lâu, t́nh báo Hoa Kỳ đă nhận xét rằng sự di chuyển những đơn vị đóng ở miền Bắc vào Nam là một dấu hiệu rơ rệt rằng cuộc tổng tấn công sắp xảy ra.

Tháng Ba, 1975 một cuộc tấn công bắt đầu ở Ban Mê Thuột, vùng Cao Nguyên Trung Phần (Bắc Việt gọi vùng này là Tây Nguyên). Cùng lúc đó, Cục “R” cũng được lệnh tấn công vào phía Tây và phía Đông của Quân Đoàn III VNCH. Mục đích của hai mũi tấn công này là để hỗ trợ cho chiến trường Ban Mê Thuột bằng cách cầm chân các lực lượng quân sự của Quân Đoàn III VNCH và chiếm phần đất ở Khu 5 giữa hai Mặt Trận B-2 và B-5. Điều này sẽ cho Cộng quân một hậu cứ an toàn nơi họ sắp đặt một cuộc tổng tấn công vào Sài G̣n.

T́nh báo Mỹ đă nhanh chóng phát giác ra sự chuyển quân của Bắc Việt. Những tài liệu bắt được và một đào binh từ Sư Đoàn 7 CS tiết lộ rằng ngày 18 tháng 2, một đội trinh sát đông đảo đă đến vùng Túc Trưng - Định Quán trên Quốc Lộ 20. (10) Định Quán là một trong 4 quận của tỉnh Long Khánh, nằm trăi dài dọc theo Quốc Lộ 20, phía Tây Bắc của Xuân Lộc, Túc Trưng là một làng thuộc phía Nam của Định Quán nằm cạnh Quốc Lộ 20. Nhiệm vụ của đội trinh sát này chấm dứt vào đầu tháng Ba khi hai trung đoàn của Sư Đoàn 7 CS, Trung Đoàn 141 và 209, đă đến gần Định Quán. Cùng lúc đó, Sư Đoàn 6 CS đóng ở phía Đông tỉnh Long Khánh tiến đánh những đồn Địa Phương Quân (ĐPQ) của QLVNCH dọc Quốc Lộ 1 ở phía Đông của Xuân Lộc vào đến tỉnh B́nh Tuy. Các cuộc tấn công được phối hợp của hai sư đoàn Cộng quân này nhằm mục đích làm ṃn yếu sự kiểm soát của chính quyền VNCH ở Long Khánh, để phân tán thật mỏng Sư Đoàn 18 QLVNCH, và ngăn chận Sư Đoàn 18 tăng cường cho nơi khác trong Quân Đoàn III.

Ngày 5 tháng Ba, 1975 Sư Đoàn 7 CS được lệnh giải toả Quốc Lộ 20 phía Bắc Túc Trưng với “trận mở đầu là tràn ngập và chiếm đóng Văn Pḥng Chỉ Huy Quân Sự quận Định Quán” (11).

Nằm cách Xuân Lộc 20 cây số về phía Bắc, quận Định Quán nhỏ bé là một điểm pḥng thủ quan trọng của Quốc Lộ 20. Quận này nằm giữa hai làng Túc Trưng và Phương Lâm. Địa Phương Quân cố thủ ở trung tâm quận, và Tiểu Đoàn 2/43 của Sư Đoàn 18 VNCH do Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế chỉ huy giữ những căn cứ ở ngoại ô. Nhiệm vụ của Sư Đoàn 7 CS là tiêu diệt lực lượng quân VNCH ở Định Quán và chiếm lấy nơi này để ngăn quân Cộng Hoà từ các tỉnh miền Trung như Lâm Đồng và Đà Lạt rút về Long Khánh. Một khi Định Quán mất, Sư Đoàn 7 CS sẽ vừa tấn công về phía Tây Nam để chiếm cây cầu quan trọng trên sông La Ngà vừa cố gắng chiếm Phương Lâm ở phía Đông Bắc. Nếu thành công, Sư Đoàn 7 CS sẽ tiến ngược về phía Đông Bắc và làm chủ Quốc Lộ 20 lên tới Đà Lạt.

Ngày 17 tháng Ba, Trung Đoàn 141 của Sư Đoàn 7 CS tấn công Định Quán. Sau hai ngày giao tranh kịch liệt, Cộng quân với số lượng đông hơn rất nhiều đă đánh bại Tiểu đoàn 377 Địa Phương Quân VNCH và chiếm được vùng đất cao có thể nh́n suốt cả thị trấn. Được tăng phái chiến xa, Trung Đoàn 141 CS nhanh chóng tiến vào trung tâm thị trấn và tiến thẳng đến công sự pḥng thủ của Quận Trưởng. Mặc dù lực lượng pḥng thủ đă chống trả mănh liệt, Định Quán thất thủ ngày 18 tháng Ba. Phương Lâm cũng mất cùng ngày.

Ở bên ngoài Định Quán, Tiểu Đoàn 2/43 VNCH cố chận đường tiến của Cộng quân nhưng cuối cùng cũng phải rút lui. Tiểu Đoàn rút về Núi Trân và cố thủ trên vị trí cao nh́n xuống cầu sông La Ngà. Một đại đội Địa Phương Quân trấn giữ cái cầu quan trọng này. Theo kế hoạch đă định trước, Bắc quân tiếp tục tiến về hướng Tây Nam Quốc Lộ 20. Ngày 20 tháng Ba, hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 209 CS tấn công núi Trân. Cộng quân cố đánh bật Tiểu Đoàn 2/43 VNCH nhiều lần nhưng đều bị đẩy lui. Vào đợt tấn công thứ ba, Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế dùng hai khẩu đại bác 105 ly bắn thẳng hai quả đạn đại bác chống biển người vào địch, giết chết hàng loạt Cộng quân và chận đứng chúng. (12)

Tuy Cộng quân bị tốn thất nặng nề, đến buổi chiều ngày 20 tháng Ba, sự pḥng thủ núi Trân trở nên hết sức khó khăn. Khi Cộng quân tấn công lần nữa, ông Chế đă phải gọi xin Không Quân VNCH dùng phản lực cơ F-5E thả bom yểm trợ mặc dù Cộng quân và lực lượng của ông đang ở rất gần nhau. Những trái bom đầu tiên đă rơi chính xác xuống địch quân ở sườn Đông, nhưng không may, hai trái bom cuối đă rơi chệch vào một tuyến pḥng thủ của Tiểu Đoàn 2/43. Sau những đợt tấn công liên tiếp của địch và tai nạn thả bom lầm, Tiểu Đoàn 2/43 thiệt hại trên tám mươi người vừa chết vừa bị thương. Không thể tiếp viện cho Tiểu Đoàn, nửa đêm Tướng Lê Minh Đảo cho lệnh rút về Núi Thị, một vùng cao phía Tây Xuân Lộc. Cộng quân chiếm được Núi Trân và tràn xuống cầu sông La Ngà. Không thể chận được địch, vị chỉ huy Địa Phương Quân VNCH là Thiếu Tá Lầu Vĩnh Quay đă gọi pháo binh bắn thẳng vào vị trí chân cầu, ngay nơi ông đang đóng. Đạn pháo đă hạ được khoảng một tá Cộng quân, nhưng cây cầu cầu vẫn rơi vào tay quân Bắc Việt.

Phải đương đầu với sự tấn công liên tục của địch trong khi Trung Đoàn 48 đă đi đánh ở Tây Ninh và Trung Đoàn 52 bận pḥng thủ Xuân Lộc, đơn vị giỏi nhất của Tướng Đảo là Trung Đoàn 43 phải trải mỏng để giữ đất và bảo vệ các thị trấn và làng xă trước số địch quân đông hơn nhiều và có thể chủ động tấn công bất cứ lúc nào. Đến cuối tháng Ba, Tướng Đảo không c̣n lựa chọn nào khác hơn là đem hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 43 về giữ Xuân Lộc và để Bắc quân chiếm phần lớn phía Bắc tỉnh Long Khánh.

Cùng một lúc với Sư Đoàn 7 CS tấn công Định Quán, Sư Đoàn 6 CS bắt đầu đánh chiếm các vùng. Từ ngày 15 tới 18 tháng Ba, Sư Đoàn 6 chiếm một quăng dài trên Quốc Lộ 2, con đường đi từ Xuân Lộc xuống phía Nam về tới Bà Rịa. Sau đó, sư đoàn này tiến về phía Đông Bắc, và đến ngày 28 tháng Ba, họ đă kiểm soát một đoạn dài 50 cây số của Quốc Lộ 1 ở phía Đông Xuân Lộc đi về hướng B́nh Tuy. Sư Đoàn 6 CS đă cắt đứt con đường huyết mạch từ Sài G̣n ra miền Trung và chận quân đội VNCH ở phía Đông rút về Xuân Lộc.(13) Trong ṿng hai tuần, Sư Đoàn 6 và 7 CS đă thành công trong việc “nới rộng các tuyến đường của Cộng quân để họ có thể di chuyển số lượng lớn quân sĩ, quân trang, và quân cụ đến mặt trận quan trọng ở Đông Nam bộ.” (14)

Trước tuần lễ thứ ba của tháng Ba, những đơn vị c̣n lại của Sư Đoàn 341 CS đă vào tới Mặt Trận B-2. (15) Cuối tháng Ba, Quân Đoàn 4 CS ra lệnh cho hai trung đoàn mới đến, 266 và 270, giữ Định Quán thay cho Sư Đoàn 7 CS. Trung đoàn 270 giữ phần đất mới chiếm trong khi Trung Đoàn 266 sửa soạn đánh Túc Trưng, một căn cứ của QLVNCH chỉ cách Núi Trân vỏn vẹn 4 cây số. Sau đó, Trung Đoàn này sẽ tiếp tục đánh xuống phía Nam Quốc Lộ 20 và chiếm mục tiêu kế tiếp là quận Kiệm Tân.Cùng lúc đó, Trung Đoàn 273 được tách khỏi Sư Đoàn 9 CS và trở về tăng cường cho Sư Đoàn 341 CS. (16)

Dĩ nhiên, Tướng Đảo hiểu rơ sự cần thiết phải ngăn chận Cộng quân tiến thêm về phía Nam trên Quốc Lộ 20. Ngày 28 tháng Ba, Ông cho Tiểu Đoàn 2/52 và đội trinh sát của tiểu đoàn tiến về phía Bắc Quốc Lộ 20 để lấy lại con đường từ cầu La Ngà tới Phương Lâm. Được sự yểm trợ của không quân và pháo binh, Tiểu Đoàn 2/52 đă thành công một phần và chiếm lại Núi Trân (Định Quán). Trong khi Tiểu đoàn đă phải mất nhiều thời gian đánh dẹp hai bên Quốc Lộ 20, họ tiến thẳng vào căn cứ của những trung đoàn Cộng quân thuộc Sư Đoàn 341 CS đang đóng ở chân núi trên một quăng đường gọi là “Ṿng chữ C”. Trận chạm súng đầu tiên của Trung Đoàn 270 CS diễn ra dữ dội từ sáng 29 tháng Ba tới chiều hôm sau. Tuy Cộng quân giữ được vị trí, quân VNCH tiêu diệt 50 địch quân và bắt sống nhiều tù binh. Không thể tiến thêm, Tiểu Đoàn 2/52 lui về cố thủ ở Túc Trưng. (17)

Khi thẩm vấn các tù binh, Tướng Đảo ngạc nhiên khi thấy họ quá trẻ. Rơ ràng là nhà cầm quyền Bắc Việt đă vét tận đáy nguồn nhân lực của họ. Nhiều tù binh chỉ mới mười sáu tuổi, nhưng họ được trang bị những vũ khí tối tân nhất của Liên Sô. Khi họ tiết lộ rằng họ thuộc Sư Đoàn 341, Tướng Đảo biết rằng việc Cộng quân tấn công Xuân Lộc chỉ là vấn đề thời gian. Ngay từ tháng Hai, sự nghi ngờ của ông đă nhen nhúm khi Địa Phương Quân đóng tại núi Chứa Chan đă gây bất ngờ và tiêu diệt một nhóm ḍ đường của pháo binh Quân Đoàn 4 CS. Giờ đây, với xác nhận là có ba sư đoàn Cộng quân trong khu vực, ông biết chắc là Cộng quân sắp ồ ạt tràn vào Xuân Lộc. Ông lập tức lên kế hoạch pḥng thủ.

Lúc đó là cuối tháng Ba. Sau những cuộc tấn công của Cộng quân và những sai lầm về chiến lược và chiến thuật của các lănh đạo quân sự và dân sự, VNCH đă mất nửa phần đất ở phía Bắc (Quân Đoàn I và Quân Đoàn II) cùng với 40% binh lính và vũ khí. Người dân chạy loạn và đào binh VNCH đă biến Đà Nẵng, thành phố lớn thứ nh́ của miền Nam sau Sài G̣n, thành một vùng hỗn loạn, đầy cướp bóc và phá hoại như trong một cơn ác mộng. Với sự thất thủ của Huế ngày 25 tháng Ba và Đà Nẵng ngày 29 tháng Ba, trận đánh ở Núi Trân, Định Quán và cầu sông La Ngà không được ai chú ư, nhưng thật ra, chiến cuộc trên Quốc Lộ 20 ở phía Bắc và và Quốc Lộ 1 ở phía Đông Xuân Lộc thực sự mở màn cho chiến trường Sài G̣n.

Những Chuẩn Bị của Cộng Quân cho Trận Xuân Lộc
Với áp lực nặng nề và liên tục của Cộng quân tại phía Tây của Quân Đoàn III VNCH từ giữa tháng Ba, nhất là tại Tây Ninh, cửa ngơ đă bị dùng nhiều lần để xâm chiếm Sài G̣n, cả Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH và Toà Đại Sứ Mỹ đều bị ám ảnh về một cuộc tổng tấn công của Cộng quân từ phía đó và bớt chú ư đến đe doạ của một cuộc tấn công bằng chiến xa từ phía Đông. Tuy vậy, cả Tướng Đảo và thượng cấp của ông đều không biết những người chỉ huy Cộng quân đă có hai quyết định làm cho QLVNCH có thêm một chút cơ hội xoay sở.

Trong kế hoạch đầu tiên cho cuộc tấn công mùa khô Đông – Xuân 1975, Bắc Việt muốn chiếm một phần Cao Nguyên miền Trung (Tây Nguyên). Sau khi chiếm được Ban Mê Thuột vào ngày 11 tháng Ba, 1975, Bắc Việt đổi kế hoạch và chia cuộc tấn công làm ba phần: đầu tiên là Tây Nguyên, kế đến là Quân Đoàn I của VNCH, rồi đến Sài G̣n.

Trong trận Ban Mê Thuột, Mặt Trận B-2 được lệnh mở nhiều cuộc tấn công để cầm chân lực lượng của Quân Đoàn III VNCH, mở đường liên lạc với các vùng Nam Trung Phần, và chờ lực lượng của Mặt Trận B-3 từ Tây Nguyên tiến về. Khi t́nh thế thay đổi nhanh chóng và thuận lợi, ngày 19 tháng Ba, 1975, Tư Lệnh Quân Đoàn 4 CS Hoàng Cầm đă đánh điện khẩn về Trung Ương Cục đề nghị thay v́ cho Sư Đoàn 7 đổi hướng để tiến về phía Bắc tấn công Lâm Đồng, hăy để cho sư đoàn đó đi tiếp về phía Nam trên Quốc Lộ 20 và đánh thẳng vào ngă ba Dầu Giây gần thị xă Xuân Lộc và tiêu diệt Sư Đoàn 18 VNCH. (18)

Đó là một đề nghị táo bạo và có thể đă mang lại kết quả tốt cho Cộng quân. Sự xuất hiện của một sư đoàn Cộng quân ngay sát thủ đô Sài G̣n có thể đưa đến sự hoảng hốt và sụp đổ của VNCH. Tuy vậy, Cục “R” đă bác bỏ đề nghị của Hoàng Cầm và ra lệnh cho ông ta “tiếp tục bành trướng các thông lộ của chúng ta về phía Bắc để tại những bàn đạp cho cuộc tấn công vào Sài G̣n từ Quốc Lộ 1 và Quốc Lộ 20 phía Bắc và Đông Sài G̣n.” (19)

Quyết định từ chối này là điều lạ v́ trong thời gian đó Tướng CS Trần Văn Trà cũng cố xin Hà Nội cho ông ta hoạch định tương tự: tấn công Sài G̣n lập tức mà không chờ những lực lượng Cộng quân khác tăng cường. Mặc dù Bộ Chỉ Huy Tối Cao lúc đầu băi bỏ đề nghị của ông Trà, sau đó Hà Nội bắt đầu xét lại v́ sự kiên tŕ của ông Trà. Trưa 29 tháng Ba, Lê Duẩn, Tổng Bí Thư Đảng CSVN gởi một điện thư cho Phạm Hùng, Uỷ Viên Chính Trị đặc trách Cục “R” và bảo ông Hùng t́m cách lợi dụng t́nh thế hỗn loạn v́ sự xụp đổ của Quân Đoàn I và II của VNCH. Thư viết “Tôi hoàn toàn đồng ư với đồng chí là trong thời điểm này cần ra tay nhanh nhẹn, quyết đoán, và gan dạ… Tôi muốn nhấn mạnh một yêu cầu cấp thiết… lập tức thi hành công tác quan trọng là thi hành một cuộc cô lập và bao vây Sài G̣n” (20) .Thực ra, điều ông Duẩn nói là “chúng ta có thể coi là cuộc tiến chiếm Sài G̣n đă bắt đầu.” (21)

Ông Trà hết sức phấn khởi v́ ông ta có thể đánh Sài G̣n ngay mà không phải chờ các lực lượng bổ xung từ Bắc Việt: “Thư của anh Ba gởi cho Cục “R” xác định t́nh thế sẽ biến đổi nhanh chóng, và chúng ta cần tấn công mạnh hơn và tiến về gần Sài G̣n hơn.” (22) Trà được lệnh dùng những lực lượng có sẵn của B-2 để tấn công thẳng vào ṿng đai quanh Sài G̣n và không chờ lực lượng tăng cường từ Tây Nguyên.

Cục “R” và Chi Bộ Quân Sự của Đảng CSVN lập tức họp để đưa ra một chương tŕnh hành động. Họ quyết định rằng Mặt Trận B-2 sẽ tấn công thẳng vào ṿng đai quanh Sài G̣n vào đầu tháng Tư. Lực lượng từ vùng sông Cửu Long sẽ đánh lên từ phía Nam, trong khi đó Quân Đoàn 4 CS sẽ mở ngay cuộc tấn công vào Xuân Lộc, tiêu diệt Sư Đoàn 18 và Lữ Đoàn Thiết Giáp, lực lượng ṇng cốt của Quân Đoàn III VNCH, sau đó sẽ tiến sát vào Biên Hoà. (23) Cuộc tấn công từ phía Đông được coi là chính yếu.

Sau đó, ông Trà tóm tắt những quyết định của Chi Bộ Đảng và kế hoạch tấn công. Ông Cầm được lệnh mới – chiếm Xuân Lộc rồi tiến chiếm căn cứ không quân Biên Hoà ở ngoại ô Sài G̣n. Sư Đoàn 6 của Quân Khu 7 với hai trung đoàn được giao cho Quân Đoàn 4 của ông Hoàng Cầm. Tư lệnh và Chính Uỷ của Quân Khu 7 hợp lực với bộ chỉ huy quân đoàn để đặt ra kế hoạch. Ông Cầm xin ông Trà hoăn ngày tấn công đến 9 tháng Tư, 1975 để có th́ giờ chuẩn bị và ông Trà đồng ư. (24)

Cuối ngày 3 tháng Tư, ông Cầm và những người khác trở về bộ chỉ huy hỗn hợp lúc đó đóng ở phía Đông Nam cầu La Ngà. Ông Cầm lập tức ra lệnh cho Sư Đoàn 7 CS đang trên đường tiến về Đà Lạt quay trở lại để tiến về phía Nam. Trong khi ông Cầm nói rằng các thuộc cấp của ông nghiền ngẫm tất cả mọi kế hoạch tấn công Xuân Lộc, dưới áp lực có thể đến từ ông Trà về việc tiến quân nhanh chóng, và chỉ c̣n năm ngày trước khi tổng tấn công, ông Cầm và những người chỉ huy cấp dưới đă phải làm một quyết định chiến lược duy nhất có thể: đánh thẳng vào thủ phủ của thị xă. Ông Cầm thấy đó là cách duy nhất để chiếm lấy thị xă và ngă ba Dầu Giây quan trọng. Tuy vậy, ông ta lo ngại về t́nh trạng của Sư Đoàn 7 CS – đă mệt mỏi v́ đánh nhau liên tục, v́ đây chính là “đơn vị tấn công chính” của ông.(25)

Đảng uỷ Đảng CS tại địa phương Xuân Lộc được hỏi ư để “biết thêm về t́nh h́nh địch, t́nh h́nh bên ta, và kết hợp cuộc tấn công với sự nổi dậy trong dân chúng.” (26) Cầm viết thêm, “Đảng uỷ đă chuẩn bị cho chúng tôi, cho chúng tôi những nâng đỡ cần thiết và những địa điểm thiết yếu để quan sát mục tiêu trong lúc chúng tôi không có th́ giờ thực hiện một kế hoạch thám sát từng bước, đầy đủ, và có hệ thống.” (27)

Sư Đoàn 7 CS ở quá xa để thám sát vùng chiến trường. Tuy nhiên, Sư Đoàn 341 ở gần đó đă tận dụng sự “giúp đỡ cần thiết” của các lực lượng địa phương (28) để hoàn tất một cuộc nghiên cứu về vùng họ sắp tiến đánh. Tư Lệnh và Phó Tư Lệnh Sư Đoàn 341, các Trung Đoàn Trưởng và toàn thể bộ chỉ huy vượt qua sông La Ngà để cùng các đảng viên và các uỷ viên quân sự địa phương và thảo luận về địa h́nh và những diễn biến có thể xảy ra khi họ tấn công. Họ đồng ư là du kích địa phương sẽ dẫn đường cho các đơn vị tấn công và một đại đội du kích sẽ cố kích thích để dân chúng nổi dậy và chịu trách nhiệm giữ tù binh.

Sau khi quan sát đường tới Xuân Lộc từ hướng Tây Bắc và t́nh h́nh trong thị xă, ngày 6 tháng Tư bộ chỉ huy Sư Đoàn 341 họp và đề ra kế hoạch tấn công rồi gởi tới Quân Đoàn 4 CS xin được chấp thuận. Quân đoàn đồng ư và chia công tác như sau: Trung Đoàn 266 sẽ tấn công những điểm trong thị xă , Trung Đoàn 270 sẽ tấn công Gia Tân (một phần của quận Kiệm Tân) và Núi Thị, nơi có một tiểu đoàn pháo binh VNCH, một trung tâm truyền tin, và Tiểu Đoàn 2/43 VNCH. Trung Đoàn pháo 55 CS sẽ yểm trợ, và Tiểu Đoàn 12 AAA sẽ phụ trách pḥng không.

Sư Đoàn 6 CS với hai Trung Đoàn 33 và 274 sẽ đi ṿng phía Nam thị xă và tấn công ngă ba Dầu Giây và những điểm trọng yếu dọc theo Quốc Lộ 1 phía Tây Xuân Lộc giữa thị xă và thị trấn Hưng Nghĩa.

Với vai tṛ chính yếu trong cuộc tấn công, Sư Đoàn 7 CS tới địa điểm tập trung tối ngày 7 tháng Tư, 1975. Thoạt đầu họ được lệnh tiêu diệt Trung Đoàn 48 VNCH và chiếm ngă tư giữa Quốc Lộ 1 và Quốc Lộ 2 tại Tân Phong phía Nam Xuân Lộc. Trong lúc bộ tham mưu Sư Đoàn 7 CS đang lên kế hoạch th́ họ được lệnh thay đổi chiến lược. Sư Đoàn 7 CS được lệnh phải chiếm thị xă trước rồi mới tập trung vào chuyện tiêu diệt Sư Đoàn 18 VNCH. Với ít hơn một ngày để làm kế hoạch tấn công mới, Sư Đoàn 7 CS quyết định:

“Trung Đoàn 165 CS sẽ dẫn đầu mũi tấn công chính vào căn cứ hậu cần và bộ chỉ huy Sư Đoàn 18 ở Đông Bắc thị xă (và căn cứ của Trung đoàn 52). Tiểu Đoàn 5 CS, đơn vị tấn công chính, sẽ chọc thủng pḥng tuyến của địch ở phía Đông Nam; Tiểu Đoàn 6, đơn vị tấn công thứ nh́, sẽ đánh từ phía Nam – Đông Nam. Tiểu Đoàn 4 CS ở đằng sau Tiểu Đoàn 5 CS làm lực lượng trừ bị. Trung Đoàn 209 CS sẽ chiếm Quốc Lộ 1 từ Suối Cát (một làng nhỏ cách thị xă khoảng tám cây số về phía Đông) tới ngă tư Tân Phong, rồi tấn công vào thành phố từ phía Nam, và sẵn sàng tấn công các lực lượng tăng viện của địch.” (29)

Quân đoàn 4 CS chuyển bộ chỉ huy chính tới một địa điểm ở Đông Bắc Xuân Lộc. Quân Đoàn lo phối hợp pháo binh cho tất cả các đơn vị và thành lập đường tiếp vận cho ba đơn vị tấn công chính của quân đoàn. Ngày 7 tháng Tư, Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Bắc quân, Cục “R”, và Uỷ Ban Quân Sự họp và phê chuẩn kế hoạch cuối cùng về cuộc tấn công Sài G̣n.(30)

Theo kế hoạch của Cộng quân, cuộc tấn công sẽ được thi hành qua hai giai đoạn. Giai đoạn đầu “liên quan tới những tấn công để cắt đứt liên lạc, cô lập, và bao vây địch… Nếu quân ta có thể cắt đứt Quốc Lộ 4 và tiêu diệt Sư Đoàn 18… kế tiếp ta sẽ đánh thẳng vào Sài G̣n không cần chờ tiếp viện.” (31)

Giờ “H” được định vào 05:30 sáng ngày 9 tháng Tư. Nếu tấn công của Cộng quân vào Xuân Lộc đưa đến một cuộc rút lui vội vă của QLVNCH th́ sẽ không c̣n ǵ ở giữa Quân Đoàn 4 CS và Sài G̣n ngoài vài đơn vị Biệt Động Quân, cảnh sát địa phương, và hai Lữ Đoàn Nhảy Dù VNCH. Sẽ có những hỗn loạn trong Sài G̣n, hàng ngàn người Mỹ và đồng minh Việt Nam của họ, cùng với nhân viên và bạn hữu sẽ không di tản được nếu không dùng quân đội Mỹ và không lực của Mỹ.

Chuẩn Bị Của Sư Đoàn 18 Việt Nam Cộng Hoà
Trong khi Cộng quân chuẩn bị tấn công, Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo bận rộn tổ chức pḥng thủ. Trước hết, ông xem xét lại cho thật kỹ lưỡng địa h́nh chung quanh thị xă. Xuân Lộc nằm lọt ở giữa rất nhiều đồn điền trồng chuối và cao su, tại chân núi phía cực Nam của rặng núi Trường Sơn trải dài từ biên giới Trung Hoa đến biển, làm thành xương sống của bán đảo Đông Dương. Vùng đồi núi phía Tây thị xă đầy rừng rậm bao phủ và có nhiều sông suối nhỏ chạy ngang dọc, ở phía Đông đất mở rộng hơn mặc dù có núi Chứa Chan sừng sững.

Dù Tướng Đảo có hơn một tuần để chuẩn bị chống cuộc tấn công của Cộng quân, lực lượng Sư Đoàn 18 VNCH pḥng thủ Xuân Lộc phải trải mỏng. Hai trong ba trung đoàn đang ở ngoài thị xă: Trung Đoàn 52 phải canh giữ Quốc Lộ 20 ở Dầu Giây cách Xuân Lộc khoảng 10 cây số, trong khi Trung Đoàn 48 đang tham chiến ở Tây Ninh, gần 200 cây số về phía Tây. Đầu tháng Tư, 1975, Tướng Đảo chỉ có Trung Đoàn 43, lực lượng hậu cần, một chi đội thiết giáp và đại đội trinh sát của Sư Đoàn để pḥng thủ Xuân Lộc. Bốn đơn vị Địa Phương Quân dưới quyền Đại Tá Tỉnh Trưởng Phạm Văn Phúc giúp canh giữ phía Bắc Xuân Lộc và khu vực Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Tuy nhiên, phía sau lưng của Tướng Đảo, phía Nam của thị xă hoàn toàn bỏ ngỏ, đúng chỗ Sư Đoàn 7 CS dự định tấn công. Tướng Đảo biết rằng ông cần cả Sư Đoàn để chống trả những trận tấn công của Cộng quân. Cơ hội đến với ông vào ngày 3 tháng Tư khi Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III VNCH đến thăm ông. Trong lúc tường tŕnh về những chuẩn bị chống địch, Tướng Đảo xin Tướng Toàn cho Trung Đoàn 48 về lại với Sư Đoàn. Tướng Toàn lưỡng lự nhưng ông Đảo kiên tŕ nói với ông Toàn rằng nếu Sư Đoàn 18 VNCH được giao nhiệm vụ giữ Xuân Lộc, ông cần phải bảo vệ phía sau lưng Xuân Lộc. Để thuyết phục ông Toàn, ông Đảo nói rằng ông dự định dùng Trung Đoàn 48 để lấy lại Núi Chứa Chan lúc đó đang bị Cộng quân chiếm đóng. Cuối cùng, Tướng Toàn đồng ư cho Trung Đoàn 48 về, nhưng ông lại ra lệnh cho ông Đảo gởi Tiểu Đoàn 2/48 đến Hàm Tân, một thị xă ven biển để giữ an ninh cho những đoàn dân chạy loạn đang từ Quân Đoàn II VNCH đổ về.

Trung Đoàn 48 được trả về ngày 5 tháng Tư. Ngày 7 tháng Tư, Tướng Đảo cho Trung Đoàn đi dọn đường cho tới Suối Cát phía Đông Nam Xuân Lộc, trên đường đi Núi Chứa Chan nhưng không tiến thêm. Để Tiểu Đoàn 3/48 ở lại giữ Suối Cát, ông đem Tiểu Đoàn 1/48 về giữ ngă tư Tân Phong ngay phía Nam thị xă Xuân Lộc và dùng tiểu đoàn này làm quân trừ bị cùng với chi đội 1 và 2 của Thiết Đoàn 5, đơn vị thiết giáp của Sư Đoàn 18 VNCH.

Nhận thức được tai hoạ ở Quân Đoàn I và II VNCH khi nhiều đơn vị tan ră toàn bộ v́ binh sĩ đào ngũ để về nhà cứu vợ con, ông Đảo cho lực lượng tiếp vận, quân y, và tối đa số gia đ́nh binh sĩ và thường dân trong vùng di chuyển về Long B́nh, một căn cứ hậu cần rất lớn gần Biên Hoà. Những thường dân c̣n lại núp trong hầm trú ẩn gần Dinh Tỉnh Trưởng.

Quan trọng hơn, ông Đảo chuyển lính pḥng thủ thị xă ra ngoại ô với hy vọng là pháo của địch sẽ tập trung vào trung tâm thị xă. Ông cho đại đội trinh sát, chỉ huy bởi một Đại Uư rất gan dạ, trang bị đại liên 50 ly và đóng gần trường Trung Học Hoà B́nh, ven Tây Bắc của thị xă. Ông Đảo cũng thành lập ba bộ chỉ huy riêng rẽ: bộ đầu tiên đóng ở nhà riêng của ông, bộ thứ nh́ ở ngă tư Tân Phong phía Nam thị xă, và bộ thứ ba ở một vườn trái vải phía Đông của Tân Phong và phía Bắc của Quốc Lộ 1. Trong khi các binh sĩ xuống hầm, ông tiếp tục nghiên cứu địa h́nh, cố gắng đoán cho được kế hoạch tấn công của Cộng quân. Không lâu sau, ông nhận ra: không c̣n nghi ngờ rằng Cộng quân sẽ tiến quân theo con đường họ đă dùng để tấn công Xuân Lộc vào Tết Mậu Thân, 1968 với vài thay đổi dựa trên lực lượng hiện tại của họ. Lượng định của Tướng Đảo đă đúng.

Tướng Đảo quyết định giăng bẫy đợi địch. Ông gọi đó là cái “máy nghiền thịt”. Ông tạo ra một khu vực tử thần bằng cách đặt Pháo Binh của ông gồm 36 khẩu đại bác (24 khẩu 105 ly và 12 khẩu 155 ly) trong một tam giác phía Tây Xuân Lộc, mỗi đỉnh tam giác có 4 đại bác 155 ly và 8 đại bác 105 ly. Ở đỉnh thứ nhất của tam giác, Ông để 10 khẩu đại bác cùng với Tiểu Đoàn 2/43 trên Núi Thị, c̣n 2 khẩu 105 ly và phần c̣n lại của Trung Đoàn 43 th́ để ở bên ngoài thị xă. Ở đỉnh thứ hai của tam giác, ông Đảo đặt 12 khẩu đại bác tại Trung Đoàn 48 ngay phía Tây của Tân Phong. Ở đỉnh thứ ba có tiểu đoàn Pháo Binh trực thuộc Trung Đoàn 52 cùng với Trung Đoàn này tại Ấp Nguyễn Thái Học.

Lực lượng của Đại Tá Tỉnh Trưởng Phạm Văn Phúc có 2 đại bác 105 ly để pḥng thủ khu vực của họ trong thị xă. Thêm vào đó, nhiều ngày trước trận chiến, Quân Đoàn III có gởi cho ông Đảo hai khẩu đại pháo tự hành 175 ly, và ông giữ 2 đại pháo này tại bộ chỉ huy thứ hai tại Tân Phong. Quan trọng hơn cả, chỉ huy pháo binh của Tướng Đảo là Đại Tá Ngô văn Hưng đă giữ vai tṛ trọng yếu trong việc sắp xếp, chuẩn bị pháo binh. Ông Hưng ra lệnh cho xe ủi đất để đào những hố đặt súng đại bác và những hầm để kéo đại bác vào sau khi bắn. Ông Hưng cũng đích thân kiểm soát tất cả súng đại bác. Tướng Đảo cho mở rộng hệ thống hầm và giao thông hào có sẵn không những để chứa các khẩu pháo mà cho tất cả lực lượng binh sĩ bảo vệ thị xă. Mục đích của ông là vô hiệu hoá sự phản pháo của Cộng quân. Nỗ lực này đă đạt được kết quả mong muốn, như ông nói, “Pháo của họ (Cộng quân) không bao giờ t́m được chúng tôi.” Tuy vậy, sự chiết giảm tối đa các viện trợ quân sự cho Việt Nam của Quốc Hội Hoa Kỳ trong tài khoá 1974-75 đă làm cho dự trữ nhiên liệu, vơ khí, và đạn dược, nhất là đạn Pháo Binh xuống thấp thê thảm. V́ biết trước là Cộng quân sẽ đánh Xuân Lộc, trước đó ông Đảo đă thực hiện hai chương tŕnh.

- Thứ nhất, ông dự trữ đạn Pháo Binh. Từ tháng Hai, ông đă giảm bớt 20% số đạn sử dụng hàng ngày.

- Thứ hai, ông đă thành lập một trung đội trinh sát trong mỗi tiểu đoàn tác chiến để “t́m địch”. Dù Trung Đoàn 341 CS có nhiều hoạt động trinh sát, ông Đảo không thụ động khi quân địch tăng cường dọ thám. Ông dùng những trung đội trinh sát để càn quét những vùng quanh Xuân Lộc. Ngày 6 tháng Tư, trung đội trinh sát Tiểu Đoàn 2/43 phục kích và tiêu diệt một lực lượng thám thính của Cộng quân ở núi Ma, một điểm cao quan trọng ở Tây Bắc Xuân Lộc. Quân VNCH sau đó đóng ở những ngọn đồi khác để ngăn ngừa Cộng quân trở lại và dùng chúng làm những trạm quan sát.

Giữa trưa ngày 6 tháng Tư, Tướng Đảo được báo có một lực lượng Biệt Động Quân (BĐQ VNCH), Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân biên pḥng từ Quân Đoàn II, mới đến từ căn cứ bỏ lại ở tỉnh Quảng Đức, sau một cuộc chạy thoát khủng khiếp qua vùng Cộng quân kiểm soát. Dưới sự chỉ huy của Thiếu Tá Vương Mộng Long, Tiểu Đoàn 82 đă đi bộ qua rất nhiều cây số rừng rậm để đến được thành phố Bảo Lộc trong tỉnh Lâm Đồng. Ông Long đă giữ được mạng sống của phần lớn tiểu đoàn của ông và gần năm trăm đồng bào khi đi qua rừng rậm. Tướng Toàn vội gởi đại diện của bộ chỉ huy BĐQ để dàn xếp trực thăng đón những người sống sót mệt lả. Tiểu Đoàn 82 sau đó được đưa tới Xuân Lộc, Tướng Đảo cung cấp đạn dược và thực phẩm cho họ, để họ đóng ở phi trường và để họ tạm dưới quyền Trung Đoàn 43. Tướng Toàn nói với Tướng Đảo rằng sáng ngày 9 tháng Tư đưa Tiểu Đoàn 82 về Sài G̣n để bổ xung lực lượng. Những chiến sĩ không thể ngờ rằng họ bước từ một chảo dầu nóng vào một đám cháy.

Chiều ngày 8 tháng Tư, Tướng Đảo nhận được một tin khẩn từ Quân Đoàn III VNCH. Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, được t́m thấy đă chết trong văn pḥng của ông ta với một vết thương rơ ràng là tự bắn. Ông Đảo luôn coi ông Hiếu là một sĩ quan tham mưu lỗi lạc và người bạn thân thiết, do đó, ông vội đáp trực thăng về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III ở Biên Hoà. Ông cũng muốn nhân dịp này bay ṿng quanh Xuân Lộc nhiều lần để xem xét lại những vị trí pḥng thủ vừa dựng lên, đặc biệt là ở vùng đất trống trải phía Đông thị xă. Sau những buổi thảo luận tại trung tâm chỉ huy của quân đoàn, ông Đảo bay về Long B́nh để làm việc với Trưởng Pḥng Tiếp Vận của Quân Đoàn III. Ông quyết định nghỉ đêm tại Long B́nh.

Khi đêm xuống ngày 8 tháng Tư, binh lính ở Xuân Lộc được sắp đặt như sau:

Trung Đoàn 52 đă được rút về để bảo vệ ngă ba chiến lược ở Dầu Giây; Tiểu Đoàn 1/52 ở phía Nam, sát Dầu Giây; Tiểu Đoàn 2/52 cùng bộ chỉ huy trung đoàn, Pháo Binh, và các thiết vận xa M113 của chi đội thiết giáp 3/5 đóng gần giao lộ về phía Bắc. Đơn vị xa nhất ở phía Bắc của ông Đảo, Tiểu Đoàn 3/52 pḥng thủ vùng đất cao dọc Quốc Lộ 20 và có một đại đội đóng ở trên Đồi Móng Ngựa, một ngọn đồi nhỏ nằm cạnh Quốc Lộ 20 gần Núi Ma. (32)

Đi xa hơn về phía Đông, Tiểu Đoàn 2/43 giữ vùng Núi Thị, trong khi đại đội trinh sát đóng ở trường Trung Học trên lối vào thị xă ở phía Tây Bắc, và hai tiểu đoàn ĐPQ 340 và 342 đóng ở sườn bên phải. Tiểu Đoàn 1/43 và 3/43 giữ những lối vào Xuân Lộc ở hướng Đông. Cách bố trí trên để lại một lỗ hổng đáng lo ở giữa Trung Đoàn 52 và thị xă, chỗ mà Tướng Đảo chỉ có thể trám vào bằng đại bác.

Tiểu Đoàn 1/48 và hai chi đội của Thiết Đoàn 5 được giữ làm trừ bị, trong lúc Tiểu Đoàn 2/48 được gởi đi Hàm Tân. Tiểu Đoàn 3/48 đóng hai bên trên Quốc Lộ 1 phần đi từ thị xă về phía Đông.

Tiểu Đoàn 82 BĐQ pḥng thủ phi trường Xuân Lộc. Hai tiểu đoàn ĐPQ, 353 và 367, đóng ở các vị trí trong thị xă.

Diễn Tiến Trận Xuân Lộc


Buổi sáng 9 tháng Tư, 1975, Cộng quân vào vị trí.

Sư Đoàn 6 CS băng qua Quốc Lộ 2 phía Nam Xuân Lộc mà không bị phát hiện và di chuyển nhanh chóng xuyên qua những đồn điền cao su phía Bắc về phía Quốc Lộ 1. Sư Đoàn 7 và 341 CS tiến gần tới hàng rào pḥng thủ của quân VNCH. Lúc 05:00 giờ sáng, tất cả mọi đơn vị của Quân Đoàn 4 CS báo cáo rằng họ đă tới vị trí định sẵn. Pháo Binh Cộng quân cũng sửa soạn xong toạ độ súng và chờ lệnh khai hoả.

Trong khu vực Sư Đoàn 341, mười phút trước giờ ấn định khai hoả, quan sát viên thấy sương mù chưa hết hẳn nên họ xin chờ thêm mười phút. Quân Đoàn 4 CS chấp thuận. Đúng 05: 40 sáng 9 tháng Tư, 1975, Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn ra lệnh bắt đầu. Với những tiếng nổ long trời, pháo binh từ Quân Đoàn 4 CS và các sư đoàn trực thuộc đồng loạt tác xạ. (33)

Trong suốt một tiếng đồng hồ, pháo binh Cộng Sản rót vào Xuân Lộc đạn đại bác, súng cối và hoả tiễn. Từ hai đến ba ngàn quả đạn đă bắn vào thị xă nằm trơ trọi (34). Họ tàn phá trung tâm thị xă, biến nhiều công tŕnh kiến trúc thành gạch vụn. Tuy vậy, dù đă thám thính trước, Cộng quân không hề biết rằng Trung Đoàn 43 và ĐPQ VNCH đă chuyển ra ngoại ô. Phần lớn đạn pháo rớt vào nhà dân, các binh sĩ VNCH trong hầm và giao thông hào không bị thiệt hại ǵ. Đến 6 giờ 40, hai quả pháo hiệu loé sáng trong bầu trời b́nh minh. Đó là dấu hiệu cho xe tăng và bộ binh tùng thiết CS tiến vào. Cán bộ và binh lính của Sư Đoàn 7 và 341 CS tiến đến sát gần binh sĩ của Sư Đoàn 18 VNCH đang mai phục.

Ngay khi quả pháo đầu tiên bắn đi lúc 05:40 giờ, Tham Mưu Trưởng Hứa Yến Lến của Sư Đoàn 18 VNCH gọi điện cho Tướng Lê Minh Đảo ở Long B́nh. Ông ta báo cáo là nhân sự ở bộ chỉ huy đều vô sự nhưng tư gia của Tướng Đảo, địa điểm của Bộ Chỉ Huy 1 đă bị trúng đạn. Tướng Đảo ra lệnh đem Bộ Chỉ Huy 1 đến chung địa điểm của Bộ Chỉ Huy 2 tại Tân Phong rồi lên trực thăng bay ngay tới chiến trường. Trên đường đi, Tướng Đảo điện cho các Trung Đoàn Trưởng để hỏi về t́nh h́nh. Mọi người đều cho biết là họ không sao. Tướng Đảo nói chờ lệnh của ông khi ông về tới.




Trong khu vực phía Đông, Trung Đoàn 165 của Sư Đoàn 7 CS dẫn đầu cuộc tấn công. Tất cả tám chiếc xe tăng của Sư Đoàn 7 đều tham dự (35). Nghĩ là lính VNCH sẽ bỏ chạy ngay sau khi pháo kích ngưng, Cộng quân tự tin tiến lên. Họ phải đi lên dốc, băng qua những khu đất trống, vượt qua 8 hàng rào kẽm gai, nhiều băi ḿn, và leo lên một bờ đất trước khi đến giao thông hào của VNCH.

Trung Đoàn 165 CS đă nhanh chóng phải ngừng lại. Chiếc tăng T-54 dẫn đầu trúng ḿn chống chiến xa, đứt tung xích bên trái và trở thành vô dụng (36). Pháo binh của QLVNCH lập tức nhả đạn, và khi trời vừa sáng, chiến đấu cơ A-37 và F-5 của VNCH bắt đầu không kích vào đoàn Cộng quân bị lộ. Trong khi các chiến xa tiếp tục đi tới, Cộng quân cố tiến lên lần thứ hai. Nhưng, Trung Đoàn 43 VNCH đă cho họ một bất ngờ mới: phi đạn 2.75 inch gắn trên hai càng và bắn bằng điện từ những cục pin đơn giản (37). Oanh tạc của không quân và phi đạn của quân VNCH đă tiêu huỷ bốn xe tăng của Cộng quân và chận đứng Trung Đoàn 165 CS.

Trung Đoàn 209 CS với nhiệm vụ mở đường Quốc Lộ 1 từ hướng Đông đă đụng với Tiểu Đoàn 82 BĐQ VNCH tại phi trường Xuân Lộc. Tiểu Đoàn 82 VNCH chận đứng hai tiểu đoàn Cộng quân và gây tổn thất nặng cho địch (38).

Tiểu Đoàn 3/48 VNCH từ Suối Cát rút về để giúp pḥng vệ Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 18 VNCH ở Tân Phong.

Như thế là cuộc tấn công chính của Tướng CS Hoàng Cầm đă bị chận lại. Trong sách “Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân” đă ghi: “không cuộc tấn công nào của Sư Đoàn ta vào Bộ Chỉ Huy của Sư Đoàn 18 của ‘Ngụy.’ và phía sau Trung Đoàn 52 ‘Ngụỵ’ đạt được thành công. Quân ta giằng co với địch để giành từng giao thông hào, từng căn nhà, từng con đường.” (39)

Cuộc tấn công bị chận lại lập tức không phải chỉ v́ oanh tạc, pháo binh, và bộ binh VNCH nhưng cũng v́ Tướng Đảo giao cho mỗi người trong Sư Đoàn một vị trí pḥng thủ. Như ông giải thích, “Tất cả mọi người đều chiến đấu. Ngay cả sĩ quan tiếp vận và nhân viên làm việc ở căn cứ cũng đào hầm pḥng thủ. Thêm vào đó, những người mất sức sắp được giải ngũ hoặc đă bị thương đều được cấp phát súng đạn và giao vị trí pḥng thủ. Những người này đánh rất hiệu quả và tiêu diệt được nhiều quân địch.”

Sư Đoàn 341 CS lúc đầu khá hơn ở phía Tây thành phố. Với địa bàn hoạt động đỡ trống trải và đă có dịp quan sát kỹ càng những con đường vào thị xă, ba tiểu đoàn của Trung Đoàn 266 CS đă lọt qua năm lớp kẽm gai đầu tiên ở gần trường Trung Học thị xă và “Ṿng Cua Heo” nơi Quốc Lộ 1 đánh một ṿng lớn vào thị xă. Tư Lệnh Sư Đoàn 341 CS đi theo Trung Đoàn 266 trong lúc tấn công. Tuy thế, pháo binh VNCH mau chóng bắn vào Cộng quân và một phi cơ C-119 rải đạn xuống chỗ bị xâm nhập. Đại đội trinh sát ở trường Trung Học Hoà B́nh góc Tây Bắc thị xă bắn tung Cộng quân bằng đạn đại liên. Những người lính ít kinh nghiệm của Trung Đoàn 266 CS cố gắng mở một ngơ xâm nhập thứ hai về hướng Đông và đă đi thẳng vào nơi hai tiểu đoàn 340 và 342 ĐPQ VNCH đang cố thủ. Cuối cùng, sau khi bị tổn thất nặng, các nhóm quân của Tiểu Đoàn 5 và 7 thuộc Trung Đoàn 266 Bắc Việt cũng t́m được lối đi ṿng qua trường học và xâm nhập được khoảng 300 mét vào trong thị xă nơi họ chiếm đóng ở những nơi gần khu chợ, nhà thờ, bến xe đ̣, và bộ chỉ huy thị xă, tuy vậy lính VNCH vẫn giữ được phần lớn thành phố. (40)

Xa hơn về phía Tây, Trung Đoàn 270 của Sư Đoàn 341 CS tiến đánh Núi Thị và Gia Tân. Như những lực lượng khác của Sư Đoàn 18 CS, Tiểu Đoàn 2/43 đă chống cự mănh liệt tại Núi Thị. Trong một thời gian ngắn, Trung Đoàn 270 CS cũng phải rút lui, để lại hàng tá tử thi và thương binh.

Không phí thời gian, vào lúc 11:00 giờ, ông Đảo cho lực lượng trừ bị gồm Tiểu Đoàn 1/48 và Thiết Giáp, Liên đoàn 5 phản công ở phía ngoài thị xă. Tiểu Đoàn 1/48 VNCH nhanh chóng tiến lên nhưng Sư Đoàn 341 CS cho một tiểu đoàn của Trung Đoàn 270 CS đánh vào hông cánh quân 1/48. Trung Đoàn 270 CS cũng được đem tới để chận cuộc phản công của 1/48, do đó ṿng vây của VNCH không thể khép kín. Tuy vậy, pháo binh VNCH cùng với những cuộc oanh tạc hữu hiệu của không quân VNCH đă liên tiếp t́m ra những điểm tập trung của Cộng quân và trút xuống đó những loạt đạn pháo và bom. (41)



Bên trong thị xă Xuân Lộc, Tướng Đảo cho nhổ sạch những đơn vị Cộng quân đă lọt vào thị xă. Tiểu Đoàn 1/43 VNCH và hai tiểu đoàn ĐPQ của Đại Tá Phúc, được yểm trợ bằng không kích chính xác, giữ vững bộ chỉ huy tiểu khu và chiếm lại phần lớn những vị trí Cộng quân đă chiếm trước đó trong ngày. Dù một vài người lính của Trung Đoàn 266 CS cố bám được vài toà nhà, đến cuối ngày đầu, Sư Đoàn 341 CS đă bị thiệt hại nặng nề với gần 600 người chết và bị thương. (42)

Trong ba sư đoàn Cộng quân 7, 341, và 6, Sư Đoàn 6 CS thành công nhất v́ họ đương đầu với ít phản công nhất. Trung Đoàn 274 của Sư Đoàn 6 CS tấn công những vị trí của ĐPQ dọc Quốc Lộ 1 phía Tây Xuân Lộc, chiếm được Ấp Trần Hưng Đạo và đèo Mẹ Bồng Con., khoá Quốc Lộ 1 giữa Xuân Lộc và ngă ba Dầu Giây. Trung Đoàn 33 c̣n lại của Sư Đoàn 6 CS tấn công các ấp Hưng Nghĩa và Hưng Lộc ở phía Tây Dầu Giây. Họ chiếm được Hưng Lộc nhưng bị lực lượng tự vệ ở Hưng Nghĩa đẩy lùi và cuộc tấn công Dầu Giây cũng bị Tiểu Đoàn 1/52 đẩy lui. (43)

Đến buổi chiều Cộng quân thiệt hại gần 700 chết và bị thương, phía VNCH tổn thất dưới 50. Sư Đoàn 18 vẫn tiếp tục giữ vững vị trí. Lần đầu tiên trong ṿng năm tuần lễ, quân đội VNCH không bị đánh bật ra, thay vào đó lại chống cự mạnh mẽ làm ngay cả quan sát viên Tây Phương ngạc nhiên. Sự phản công dũng mănh làm chấn động quân đội miền Bắc, như họ viết, “Phi cơ địch cất cánh từ Biên Hoà… ném bom dồn dập xuống Xuân Lộc. Trận chiến trở thành một cuộc giành giật khó khăn và đẫm máu, những đơn vị của ta bị tổn thất nặng… Kho đạn pháo binh của ta đă cạn. Hơn nửa xe tăng của ta đă bị tiêu huỷ.” (44)

Quân VNCH bắt được ba mươi tù binh, và trực thăng chở họ về Sài G̣n thẩm vấn. Khi đêm buông xuống, Bắc Việt cố gắng tiếp tế cho lính của họ trong thành phố và ngoại ô. Quân Đoàn 4 CS tin là họ đă giữ được nửa thành phố và đă cắt Quốc Lộ 1 đoạn từ Dầu Giây đến đèo Mẹ Bồng Con nhưng cũng công nhận là họ không đạt được mục tiêu. Tuy vậy, họ quyết định giữ nguyên chiến thuật: đánh trực diện.

Hoàng Cầm chấp thuận bộ chỉ huy tiền phương của CS đưa thêm đơn vị trừ bị vào chiến trường. (45) Sư Đoàn 7 đưa Trung Đoàn 141 với một tiểu đoàn pḥng không vào vị trí đánh trực tiếp. Trung Đoàn 165, 209 và thêm các chiến xa lại sẵn sàng tấn công từ phía Đông. Sư Đoàn 341 CS đưa Trung Đoàn 270 vào thị xă để chống đỡ cho Trung Đoàn 266 đang cố giữ ŕa phía Tây thị xă.

Sáng sớm ngày thứ hai, pháo binh Cộng quân lại bắn một loạt pháo để yểm trợ cho pháo binh của họ. 05:27 sáng ngày 10 tháng Tư một ngàn quả đạn lại bắn vào thành phố c̣n đang nghi ngút khói. Sư Đoàn 7 CS tấn công liên tiếp vào công sự pḥng thủ kiên cố của quân VNCH ở phía Đông nhưng không thể tiến qua Tiểu Đoàn 82 BĐQ và các lực lượng VNCH.

Ở phía Tây, Trung Đoàn 270 CS tấn công năm lần vào lực lượng VNCH ở đó, chủ yếu là hai tiểu đoàn ĐPQ đóng ở trại Lê Lợi gần khu chợ trong thành phố. Mỗi lần Cộng quân tấn công là lại bị đánh bật ra. Có một lúc trận chiến trở thành xáp lá cà, “một trận chiến khủng khiếp bằng lưỡi lê và lựu đạn.” (46)

Pháo binh VNCH được không quân yểm trợ hữu hiệu, tiếp tục bắn vào Cộng quân gây thương vong nặng nề. Thêm năm chiếc xe tăng T-54 bị huỷ diệt.

Đến buổi trưa, Tướng Đảo phản công lần nữa. Thấy được hai trung đoàn của Sư Đoàn 341 CS bị giữ chân trong thị xă, ông Đảo đưa hai tiểu đoàn phản công hai mặt từ phía trong và ngoài thị xă. Lần phản công thứ hai này vượt quá sức chịu đựng của các binh lính c̣n quá trẻ của Sư Đoàn 341 CS. Trong lúc súng nổ liên tục và bị tổn thất nặng trong hai ngày, nhiều bộ đội CS sợ hăi, không c̣n muốn chiến đấu. Họ trốn trong hầm và những toà nhà đổ nát. Theo lời Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, Tướng Cao Văn Viên, “Họ không biết về vùng đất, sợ đánh nhau và đạn pháo. Sau khi xâm nhập vào thị xă, họ núp trong cống và không bắn một viên đạn nào trong băng đạn 70 viên cơ bản của họ.” (47)

Từng địa điểm một, quân VNCH giải toả những nơi mà Cộng quân đă chiếm hôm trước. Trong lúc đó các lực lượng ĐPQ và Tiểu Đoàn 1/43 VNCH đẩy Trung Đoàn 266 CS hoàn toàn ra khỏi thành phố. Vào tối ngày 10 tháng Tư, tất cả Xuân Lộc nằm trong tay quân VNCH nhưng phần phía Bắc của thị xă chỉ c̣n là một khu đổ nát nghi ngút khói. Kư giả Phillip Caputo của tờ Chicago Tribune viết:

Hầu như mọi kiến trúc đều bị thiệt hại, và trung tâm thị xă bị biến thành một khu đổ nát. Đường phố th́ đầy hố do những quả đạn 130 ly xé gió bay tới từ vùng đồi núi xanh bí hiểm ở phía Bắc. Những khu dân cư trước đây giờ là những đống gạch vụn và cột gỗ cháy thành than… Ngôi chợ chính, với những sạp gắn mái tôn quằn lại méo mó, trông giống như một băi đồ phế thải, và bến xe buưt, nơi trận giao tranh đầu tiên diễn ra, chỉ c̣n nhận ra được bởi vài khung xe buưt cháy đen thui. Ngay cả gác chuông nhà thờ cũng không thoát. Trông giống như phần c̣n lại của một tháp chuông thời cổ, nó đứng lặng lẽ nh́n những tan hoang, những đám cháy, những tử thi chương śnh và thối rữa dưới ánh nắng của những người lính Bắc Việt nằm rải rác trong những tư thế chết lạ lùng. “Cảnh vật giống như một thành phố sau Thế Chiến Thứ Hai”, một người lính miền Nam nói. (48)

Tối đến nhưng những người lính VNCH vẫn không được ngưng nghỉ v́ pháo Cộng bắn phá cả đêm. Cộng quân bắn thêm 2,000 quả vào thị xă buổi tối 10 tháng Tư. (49) Sư Đoàn 18 VNCH phản pháo hiệu quả, cố phá những điểm tập trung của địch. Sư Đoàn 341 CS ghi lại “Địch quân bắn phá các địa điểm pháo binh của ta trong vùng, cùng lúc đó bắn vào những con đường dẫn từ những căn cứ phía sau của ta vào thị xă. Vận tải cơ C-130 gắn đại bác 20 ly bắn rải hàng loạt xuống các vị trí của ta. Địch quân hy vọng phủ một bức màn lửa để chận nỗ lực tái tiếp viện đạn dược cho quân ta và công tác tải thương.” (50)

Mặc dù tổn thất nặng, các chỉ huy Bắc Việt vẫn không bỏ cuộc. Sáng ngày thứ ba, Cộng quân tiếp tục tấn công. Quân đoàn 4 CS ra lệnh cho Sư Đoàn 341 chuyển trục tấn công vào Trung Đoàn 43 VNCH và nối kết với Sư Đoàn 7 CS. Lúc 05:30 sáng ngày 11 tháng Tư, pháo Cộng rót vào địa điểm của Trung Đoàn 43 suốt ba mươi phút. Lúc 6 giờ sáng, pháo Cộng chuyển qua hai vùng Núi Thị và Tân Phong. Sư Đoàn 7 CS cũng được lệnh tái tấn công.

Kết quả cũng giống như cũ. Quân pḥng thủ VNCH kiên cường đẩy lui những cuộc tấn công của cả hai sư đoàn địch. Thêm nhiều xe tăng T-54 của Cộng quân bị phá huỷ. Quân VNCH phản công, chận đứng xâm nhập của Cộng quân và giành lại những phần đất đă mất. Một lần nữa, Cộng quân không lấy nổi thị xă dù với tổn thất cực kỳ cao và vẫn tiếp tục tăng. Ông Hoàng Cầm viết, “Đây là trận đánh ác liệt nhất mà tôi từng tham dự! Nhận xét cá nhân của tôi là, sau ba ngày chiến đấu, ngay cả sau khi quân trừ bị của ta đă vào trận, t́nh h́nh vẫn chẳng tiến triển và ta tổn thất khá nặng.” Trong một phần chú thích, ông Cầm đă ghi lại những con số giống như trong quyển Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân Việt Nam: “Trong ba ngày đầu của trận chiến, Sư Đoàn 7 tổn thất 300 người vừa chết vừa bị thương, và Sư Đoàn 341 tổn thất 1200 người vừa chết vừa bị thương… hầu như tất cả đại bác 85 ly và 57 ly đều bị phá huỷ.” (51)

Theo Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Bắc Việt, Tướng Văn Tiến Dũng, “Trận Xuân Lộc dữ dội và ác liệt từ những ngày đầu tiên… Những sư đoàn của ta đă tổ chức nhiều cuộc tấn công vào thị xă, tiến công và tái tiến công để phá tan từng mục tiêu, và phải đẩy lui nhiều cuộc phản công của địch.” (52)

Trên thực tế, quyết định của Tướng Đảo để có được kho đạn và pháo binh dự trữ, sự sửa soạn toạ độ cho pháo binh để bắn vào những “khu tử thần”, cùng với sự yểm trợ hữu hiệu của không quân, và sự chỉ huy cương quyết của ông đă là những yếu tố quan trọng nhất trong sự thành công của Sư Đoàn 18 VNCH với sự trợ giúp đắc lực của Tiểu Đoàn 82 BĐQ trong việc đẩy lui các cuộc tấn công của Cộng quân trong ba ngày đầu.

Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH nhận thức được tầm ảnh hưởng nghiêm trọng của t́nh h́nh tại Xuân Lộc. Pḥng thủ thành công thị xă này là điều trọng yếu để bảo vệ Sài G̣n và nâng cao tinh thần của cả miền Nam. Nếu quân VNCH có thể làm cho Cộng quân thảm bại tại Xuân Lộc, miền Nam sẽ có thể tránh khỏi cuộc khủng hoảng quân sự. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, người chỉ huy trực tiếp của tướng Đảo, định dùng khả năng chuyển quân để dồn lực lượng trừ bị vào những nơi bị tấn công và tiêu diệt các đội h́nh của địch. Thêm vào đó, Tổng Thống Thiệu nói với ông Toàn rằng nếu ông Toàn có thể cầm chân ba sư đoàn cộng sản tại Xuân Lộc, "B-52 sẽ trở lại." (53) Tuy vậy, ông Toàn lo là Sư Đoàn 18 VNCH sẽ bị Cộng quân tràn ngập, do đó ông đă có nhiều hành động. Vào ngày 11 tháng Tư, Tướng Toàn ra lệnh cho Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ, đơn vị trừ bị cuối cùng của ông, từ phía Tây Quân Đoàn III VNCH di chuyển về phía Xuân Lộc để mở lại Quốc Lộ 1 từ làng Hưng Nghĩa đến ngă ba Dầu Giây. (54) Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ đă bị tấn công dữ dội vào ngày 9 tháng Tư, đó là một phần trong kế hoạch tổng tấn công của cục “R” CS. Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, chỉ huy Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ, đă bị tấn công vào cả hai cánh hông, nhưng ông đẩy lui được địch. Tuy vậy, quyết định chuyển Lữ Đoàn 3 đi để lại Sư Đoàn 25 VNCH ở Tây Ninh trong t́nh trạng bấp bênh, không có lực lượng trừ bị nếu bị tấn công.

Lữ đoàn 3 Thiết Giáp tới Hưng Nghĩa vào 11 tháng 4 và lập tức chạm với Sư Đoàn 6 Cộng quân đang chận trên Quốc Lộ 1 về phía Đông gần Hưng Lộc. Tướng Khôi điều động quân của ông để Chiến đoàn 315 đánh dọc Quốc Lộ 1 làm mũi chính trong khi ông cho Chiến đoàn 318 tiến về phía Bắc vừa để canh chừng bên hông cho mũi chính, vừa cố đi ṿng qua chỗ cản của cộng quân trên
Quốc Lộ 1. Ông giữ Chiến đoàn 322 làm trừ bị. Lực lượng của Tướng Khôi không tiến lên được. Ông Khôi sững sờ khi xe tăng của ông bị chận đứng, ông nói, "Đây là lần đầu tiên chúng tôi không vuợt qua được." (55)

Vào lúc đó, tiểu đoàn 2/48 (đă gửi tới Hàm Tân để giữ an ninh cho đồng bào chạy loạn từ trước), được đưa vội về Xuân Lộc bằng trực thăng. Quan trọng hơn, sáng ngày 11 tháng Tư, Tướng Toàn cho di chuyển Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, một trong nhũng đơn vị cuối cùng của lực lượng tổng trừ bị VNCH, và, đối với ông Thiệu, là một phần của lực lượng bảo vệ Dinh Tổng Thống không chính thức, để tăng cường cho Sư Đoàn 18 VNCH. Tư Lệnh của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù là Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh. Lữ Đoàn gồm ba Tiểu Đoàn 1, 8 và 9, được yểm trợ bằng Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù. Trong ṿng hai ngày, ông Toàn sử dụng tất cả trực thăng c̣n lại để bốn Tiểu Đoàn của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù vào Xuân Lộc; họ đáp xuống gần Tân Phong. (56) Đó là cuộc trực thăng vận lớn cuối cùng trong cuộc chiến. Một nguồn tin VNCH cho biết "Mọi trực thăng của Sư Đoàn 3 và Sư Đoàn 4 Không Quân VNCH, tổng cộng một trăm chiếc UH -1B, chở hơn hai ngàn lính Nhảy Dù... tới trận chiến." Các trung đội Pháo Binh Nhảy Dù được vận chuyển bằng trực thăng Chinook tới Bộ Chỉ huy Hành quân Nhảy Dù đặt ở bên cạnh bộ chỉ huy sư đoàn 18. (57) Thương binh và thường dân được chở đi sau khi trực thăng đổ quân xuống.

Tướng Đảo cũng có một thay đổi nội bộ để bổ xung cho sự pḥng thủ Xuân Lộc. Mặc dù bị cắt đứt với các đơn vị bạn và bị pháo kích, Trung Đoàn 52 VNCH vẫn giữ được một khúc Quốc Lộ 20 bắt đầu từ Ấp Phan Bội Châu ở phía Nam Dầu Giây tới Ấp Nguyễn Thái Học, và đến vị trí xa nhất là Đồi Móng Ngựa. Ngoài Tiểu Đ̣an 1/52, không đơn vị nào khác của trung đoàn bị bộ binh CS tấn công. Tuy nhiên 1/52 bị áp lực thường xuyên từ Trung Đoàn 33 CS. Ấp Phan Bội Châu là mục tiêu khá dễ dàng cho pháo binh Cộng Sản. Từng đợt pháo dội lên đầu các chiến sĩ VNCH đang cố thủ, và khi pháo tạm ngưng là bộ binh địch lại tấn công. Tiểu đoàn 1/52 đẩy lui nhiều đợt nhung đă chịu tổn thất nặng để hoàn tất nhiệm vụ.

Mặc dù Tiểu Đoàn 1/52 phải chịu áp lực như trên, sáng mùng 10 tháng Tư, Tướng Đảo quyết định rút bớt Tiểu Đ̣an 2/52 từ Ấp Nguyễn Thái Học về tăng cường Xuân Lộc và ra lệnh cho Tiểu đoàn 3/52 gởi hai đại đội gần đó ra thay thế. (58) Tiểu đoàn 2/52 VNCH theo một đường ṃn trong rừng phía Bắc Quốc Lộ 1 để tránh Trung Đoàn 274 CS đang chận ở Đèo Mẹ Bồng Con. Họ cắm trại ngắn qua đêm ở một đồn điền gần Ấp Núi Tùng , ngay phía Tây Bắc Xuân Lộc . Sáng sớm 11 tháng Tư, Tiểu Đoàn 2/52 đụng độ toán Cộng quân giữ ấp. Một giao tranh ác liệt kéo dài măi đến 4 giờ chiều cùng ngày. 2/52 giết trên 20 địch quân và tịch thu một đại bác pḥng không 37 ly. Sau trận chiến, 2/52 đi tiếp tới Xuân Lộc và đóng gần Ṿng Cua "Con Heo" ban đêm. Sáng 12 tháng Tư, Tiểu Đoàn 2/52 đánh vào lưng Cộng quân, xuyên qua tuyến địch, và bắt tay được với Trung Đoàn 43 VNCH vào trưa 12 tháng Tư. Trong trận đánh này, họ tịch thu trên sáu mươi vũ khí và tiêu diệt sáu mươi quân địch. (59)

Ngày 12 tháng Tư, một tiểu đoàn nhảy dù đánh một trận chiến dữ dội với một tiểu đoàn của Sư Đoàn 7 CS. (60) Vào ngày 13 tháng Tư, Tướng Đảo đem hai tiểu đoàn Nhảy Dù khác từ phía Đông thị xă về tấn công Sư Đoàn 7 CS. Một tiểu đoàn dù tấn công và chọc thủng pḥng tuyến địch tại làng Bảo Định dọc Quốc Lộ 1, giúp tiểu đoàn kia tiến lên và bao vây Tiểu Đoàn 8 của Trung Đoàn 209 CS. (61)

Bị Sư Đoàn 18 chận đứng, và thấy quân VNCH được tung thêm vào Xuân Lộc, các chỉ huy Bắc Việt bắt đầu đánh giá lại t́nh h́nh và hoạch định chương tŕnh mới. Quân Đoàn 4 CS khó chịu các báo cáo bắt đầu đến Cục "R" là Quân Đoàn 4 CS bị buộc phải rút lui . Sau những hăng hái về những báo cáo tốt đẹp lúc đầu, lănh đạo Cộng Sản trở nên "rất lo lắng". Quân Đoàn 4 phàn nàn là “thiếu đạn dược đủ loại, và nhất là Sư Đoàn 341, 6 và 7 đều không đủ quân số bởi v́ họ đă chiến đấu không nghỉ từ lúc bắt đầu giao tranh trên Quốc Lộ 20.” (62)

Buổi trưa ngày 11 tháng Tư, sau cuộc bàn thảo giữa Trần Văn Trà, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, và một số người khác, ông Trà được gửi tới thẳng đến Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn 4 CS để lượng định t́nh h́nh, và nếu cần, nắm quyền chỉ huy. Thêm vào đó, ông Trà đem theo giấy chỉ đạo chiến thuật mới.

Sau khi ông Trà vừa đi, ông Văn Tiến Dũng điện cho Hoàng Cầm và cho Cầm biết sơ về những lệnh mới ông Trà mang tới. (63) Thấy VNCH đă tập trung phần lớn lực lượng trừ bị c̣n lại để pḥng thủ thành phố, ông Dũng và cục "R" thấy được t́nh trạng của Tướng Đảo có hai chỗ yếu: sự lệ thuộc của ông vào căn cứ Không Quân Biên Ḥa, nơi xuất phát của phần lớn sự trợ giúp của không quân, và sự cô lập của Trung Đoàn 52 VNCH đang giữ Ngă Ba Dầu Giây, nơi không nằm trong hệ thống pḥng thủ của ông Đảo. Ông Dũng ghi chú "một khi địch quân tập trung để… giữ Xuân Lộc, chúng ta không cần tụ lại để tấn công trực diện. Chúng ta cần di chuyển lực lượng để đánh vào đơn vị phản công địch ở ṿng ngoài... trước khi địch đến đó. Chúng ta nên dùng pháo binh tầm xa để phá hủy căn cứ không quân Biên Ḥa... để phi cơ địch không cất cánh được." (64) Cộng quân quyết định bỏ lối đánh trực diện và dùng lối khác để đạt được những ǵ mà đánh trực diện không đạt được. Ông Trà và các chỉ huy Bắc Việt chưa quên thất bại 1972 của họ tại An Lộc, lúc đó họ không chịu đi ṿng qua thành phố mà cứ đánh thẳng vào thị xă, một t́nh thế giống như Xuân Lộc. (65)

Sau cú điện thoại của ông Dũng, bộ tham mưu Quân Đoàn 4 mở một cuộc họp vào chiều 11 tháng Tư để duyệt xét t́nh h́nh. Theo lời chỉ đạo của ông Dũng, ông Cầm ra lệnh hai trung đoàn thuộc Sư Đoàn 7 CS vẫn tiếp tục giữ vị tri tạm của ḿnh và rút lui từ từ. Trung đoàn c̣n lại của Sư Đoàn 7 CS được lệnh đánh vào bên hông những đơn vị Dù. Sư Đoàn 341 CS vẫn giữ vị trí và từ từ rút để chuẩn bị một cuộc tấn công mới vào Núi Thị. Thêm vào đó, Cộng quân "làm những việc để phía địch tưởng là chúng ta sẽ tiếp tục tấn công để tràn ngập trong ṿng mấy ngày tới." (66)

"Kế hoạch nghi binh” của Cầm gồm thêm hai cuộc tấn công trực diện vào 12 tháng Tư. Cuôc tấn công bắt đầu tờ mờ sáng, đánh vào Tiểu Đoàn 1/43 tại phía Đông Bắc Xuân Lộc và kéo dài đến 9 giờ 30 sáng. Không Quân VNCH dùng máy bay vận tải C-130 làm máy bay dội bom, họ cột những chồng bom 750 cân Anh vào những bè gỗ và đẩy ra từ cửa lớn ở đằng sau máy bay. Pháo binh của VNCH cũng bắt đầu lại với sức tàn phá đầy hiệu quả. Khi quân Bắc Việt ngưng chiến, họ không chiếm được thêm đất, và quân VNCH đếm được 235 xác địch. T́nh báo Hoa Kỳ tin rằng "Thiệt hại của địch quân chắc cao hơn xác đếm được nhiều." (67)

Tới giữa trưa, Cộng quân mở cuộc tấn công lần thứ nh́, tung vào trận những đơn vị đă cạn lính của Sư Đoàn 341 để đánh Tiểu Đoàn 1/43 và các đơn vị tham mưu đang cố thủ. Khu trục cơ A-1 của Không Quân VNCH bay hai mươi phi tuần chống lại Cộng quân, phá vỡ hàng ngũ của binh lính Bắc Việt trước khi họ tới được vị trí của Tiểu Đoàn 1/43. Tướng Đảo quan sát rằng trong những cuộc tấn công cuối với những tổn thất rợn người, những chỉ huy địch phải dùng tay đẩy lính của họ ra khỏi những hố cá nhân. Thiệt hại của quân Bắc Việt lên đến hai ngàn người chết và bị thương, trong khi về phía QLVNCH chỉ tổn thất vài trăm người. Ông Đảo, Sư Đoàn 18, và các đơn vị trợ giúp đă biến Xuân Lộc thành một chiến trường đẫm máu cho Cộng quân.

Sau trận chiến ngày 12 tháng Tư, Quân Đoàn 4 CS được tăng cường với chiến xa, những khẩu pháo và binh lính mới. Ông Trà ghi là "Quân Đoàn đă được tăng cường [với]… một chi đội xe tăng, một số khẩu pháo, súng pḥng không và khẩn cấp đưa về binh lính tăng cường và đạn dược để chúng ta vẫn c̣n quân số chiến đấu tốt." (68) Chiều 12 tháng Tư, Quân Đoàn 4 CS ra lệnh cho Sư Đoàn 341 CS rút ra khỏi ngoại ô thành phố. Đến tối , Trung Đoàn 266 của Sư Đoàn 341 đă rút lui xong để được tái vơ trang; Trung Đoàn 270 của Sư Đoàn 341 th́ thay đổi vị trí để yểm trợ cuộc đánh chiếm Núi Thị của Cộng quân. (69) Sư Đoàn 6 CS vẫn ở vị trí cũ dọc Quốc Lộ 1 hai bên Dầu Giây, phía Tây Xuân Lộc. Trong lúc đó, các đơn vị của Sư Đoàn 7 CS cố chận tiến quân của Nhảy Dù VNCH.

Một điều đáng lo cho quân đội VNCH là Trung Đoàn 95B CS từ Tây Nguyên, một đơn vị của Quân Đoàn 2 Bắc Việt đă được xử dụng để tấn công Ban Mê Thuột tháng trước, đă bí mật đến Xuân Lộc vào 13 tháng Tư. Tướng Văn Tiến Dũng đă ra lệnh trung đoàn đó xuôi Nam ngay từ khi Quân Đoàn 4 CS gặp những trở ngại đầu tiên. Hành động này cho thấy ông Dũng hết sức lo lắng. Vào lúc đó, đơn vị lăo luyện 95B CS có thể nói là một trong những trung đoàn bộ binh nhẹ thuộc loại ưu việt của thế giới. Họ đă tham dự trận Ban Mê Thuột, và sau đó đi về phía Bắc để giúp Sư Đoàn 320 CS trong việc phá hoại đoàn xe di tản của Quân Đoàn II VNCH trên Quốc Lộ 7B từ Cao Nguyên miền Trung. Sau này, Trung Đoàn 95B CS được xác nhận là đơn vị Cộng quân duy nhất được giao cho cả bốn Quân Đoàn Bắc Việt vào những lúc khác nhau trong cuộc tổng tấn công 1975. Gởi trung đoàn này tấn công những đơn vị VNCH đă kiệt sức có thể thay đổi cục diện ở Xuân Lộc.

Tướng Trà đến bộ tư lệnh Quân Đoàn 4 CS vào ngày 13 tháng Tư và gặp bộ chỉ huy quân đoàn. Khi phân tích t́nh h́nh, Trà và các chỉ huy Bắc Việt đă đi đến một kết luận rơ ràng: “Xuân Lộc là một điểm tối quan trọng trên tuyến pḥng thủ của địch, do đó họ tập trung nhiều lực lượng để cố thủ... Chúng ta không c̣n yếu tố bất ngờ. Do đó, chúng ta không c̣n lợi thế để tiếp tục đánh Xuân Lộc." V́ vậy, "Nếu chúng ta chiếm và giữ ngă ba Dầu Giây... Xuân Lộc không c̣n là một điểm chính yếu nữa v́ nó nằm ngoài tuyến pḥng thủ... Do đó chúng ta sẽ làm hai công tác: một, tập trung để đánh vào Dầu Giây từ hai phía. Hai, chúng ta sẽ rút khỏi Xuân Lộc." (70) Ông Trà nhận ra rằng lúc nào Sư Đoàn 18 c̣n có không quân yểm trợ hữu hiệu, Cộng quân cực kỳ khó khăn để lấy được thị xă đổ nát đó. Ông ta dự tính sẽ bí mật đem đại bác 130 ly vào trong tầm bắn đến Căn Cứ Không Quân Biên Ḥa và bắt đầu pháo kích, t́m cách làm tê liệt phi trường hay là giảm bớt số phi vụ của Không Quân VNCH.

Trong lúc Bắc quân bắt đầu rút từ ngoại ô thành phố vào đêm 12 tháng Tư, Tướng Đảo tiến lên ngay, không phí thời gian. Thấy Cộng quân rút lui, Trung Đoàn 43 và 48 của Sư Đoàn 18 VNCH lập tức chiếm lại phía bên ngoài bị mất lúc trước. Sư đoàn cũng lo nhận tiếp tế. Vào trưa ngày 12 tháng Tư, Không Quân VNCH đưa vào chín mươi ba tấn đạn pháo bằng tám trực thăng Chinooks. (71) Chinooks cũng chở pháo binh nhảy dù vào, và ông Đảo đă xử dụng những chiếc Chinooks này để hoàn tất việc tái tiếp tế cho những tiểu đoàn pháo binh của ông. Ngày hôm sau, QLVNCH chở thêm một trăm tấn tiếp tế, bao gồm thực phẩm và đạn súng nhỏ; tuy vậy, ông Đảo không hề biết sự thay đổi chiến thuật của Bắc quân và việc trung đoàn 95-B đă tới từ Cao Nguyên miền Trung.

Chính phủ VNCH cố dùng sự giữ vững Xuân Lộc của Sư Đoàn 18 để làm tăng niềm tin cho dân chúng đang sợ hăi và quân đội đang mất tinh thần. Trước đó, có những kư giả đă lái xe tới Hưng Xuân, Lộc Nghĩa phía Dầu Giây để tường thuật chiến trường nhưng không tới được Xuân Lộc. Biết rằng, cần một biến cố ǵ để lấy lại tinh thần sau những cuộc rút lui bi thảm từ hai Quân Đoàn phía Bắc, chính phủ VNCH tổ chức một cuộc thăm viếng Xuân Lộc cho báo chí để biểu dương chiến thắng.

Vào ngày 13 tháng Tư, một buổi sáng chủ nhật trời nắng, những phóng viên đầu tiên bay vào thành phố bằng trực thăng Chinook. Họ đáp ở Tân Phong, nơi họ được nghe tường tŕnh từ ông Chuẩn Tướng bất khuất, Lê Minh Đảo, người đă thề sẽ "đập tan" bất cứ bao nhiêu sư đoàn địch gởi tới. (72)

Các phóng viên đi bộ vào thành phố trên Quốc Lộ 1 và xem xét những đổ nát phần phía Bắc thành phố sau năm ngày đánh không ngừng. Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Đại Tá Phạm Văn Phúc tường tŕnh cùng báo chí, và Đại Tá Lê Xuân Hiếu Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 đưa phóng viên đi bộ quan sát khu chợ, chỉ vào quân địch bị chết và triển lăm số lớn vũ khí tịch thu và vài tù binh. Thỉnh thoảng vẫn có những tiếng pháo của Cộng quân rớt xuống tạo ra những cụm khói bay lên. Phóng viên Nicolas Profitt của tờ Newsweek viết rằng, "Những đợt pháo và những trận đánh khốc liệt trên đường phố đă làm những khúc đường biến thành những đống tro trắng, gạch cháy đen và kim loại cong queo... khu chợ chính của Xuân Lộc từng nhộn nhịp bây giờ chỉ là đống gạch vụn cao hơn sáu tấc.” (73)

Không may, chuyến về của báo chí bằng trực thăng là một mất mặt của QLVNCH. Những người dân địa phương cố giành giật để được một chỗ trên những chiếc Chinook, chỉ để bị vài đào binh VNCH đang t́m mọi cách để thoát khỏi thành phố, đẩy xuống. (74) Những người lính đang tải thương, bị tràn ngập bởi đám đông dân chúng, bỏ cả những thương binh trên cáng xuống đất, trong lúc những phóng viên Hoa Kỳ xô đẩy, chen lấn để leo lên những chiếc trực thăng quá tải. (75) Với cuộc trở về đầy cam go này, những câu chuyện của các kư giả đă rộng lượng một cách đáng ngạc nhiên đối với những binh sĩ sư đoàn 18 VNCH.

Trong lúc chính phủ Nam Việt Nam tuyên cáo về thành công của họ, từ đêm 12 tháng Tư, Cộng quân đă điều động lực lượng của họ vào cuộc tấn công mới, một cuộc tập kích vào ngă Ba Dầu Giây. Ngày 13 tháng Tư, cuộc tấn công dữ dội bằng pháo binh và bộ binh của Cộng quân đẩy Tiểu Đoàn 1/52 VNCH, đă bị yếu đi qua các trận đánh, ra khỏi Ấp Phan Bội Châu đến tận b́a của ngă ba. Đêm đó, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 52 ra lệnh cho hai đại đội của Tiểu Đoàn 3/52 tới Dầu Giây bắt tay với 1/52 và lui về Ấp Nguyễn Thái Học. Di chuyển ban đêm qua những bụi rậm, quân VNCH cứu được Tiểu Đoàn 1/52 nhưng Dầu Giây bị bỏ ngỏ. Tiểu Đoàn 1/52 chỉ c̣n lại một phần ba quân số sau năm ngày bị Trung Đoàn 33 của Sư Đoàn 6 CS liên tục tấn công. Bị bao vây và không thể tải thương hoặc nhận tiếp tế, Trung Đoàn 52 rơi vào t́nh trạng bấp bênh. Sau khi Tiểu Đoàn 2/52 được đưa về tăng cường pḥng thủ Xuân Lộc, sức pḥng thủ của Trung Đoàn 52 yếu hẳn. Khi Tướng Đảo quyết định rút 2/52 về Xuân Lộc, chỉ có 1/52 là đụng trận nặng và Tướng Toàn đă hứa với ông Đảo là Lữ Đoàn 3 Thiết Giáp sẽ tiến qua Hưng Lộc đến Dầu Giây. Dù sao, quyết định chuyển Tiểu Đoàn 2/52 ra khỏi Dầu Giây, dù đă thắng bất ngờ Cộng quân ở Ấp Núi Tùng ngày 11 tháng Tư, vẫn là một sai lầm về chiến thuật của Tướng Đảo.

Giao tranh vẫn xảy ra ác liệt trong vùng của Lữ Đoàn 1 Dù VNCH trong khi Tiểu Đoàn 8 Cộng quân vẫn cố gắng thoát ṿng vây. Nhưng quan trọng hơn là những trận chiến ở phía Tây, trong lúc Lữ Đoàn 3 Thiết Giáp VNCH vẫn không thể vượt qua nút chận của Cộng Quân trên Quốc Lộ 1 để bắt tay với Trung Đoàn 52 VNCH . Tướng Khôi quyết định đi ṿng qua chỗ chận của Sư Đoàn 6 CS bằng cách gửi LLĐN 315 và 322 đi về phía Bắc của ấp Hưng Lộc để liên kết thẳng với Trung Đoàn 52.

LLĐN 315 được chia làm hai cánh, A và B. Cánh A tiếp tục dọc theo Quốc Lộ 1 chịu trách nhiệm phía Nam. Cánh B gồm có tiểu đoàn BĐQ 64 và Chi Đoàn 1/15 Thiết Giáp do Đại Úy Phạm Văn Ban chỉ huy và được trao nhiệm vụ chọc thủng tuyến pḥng thủ của địch và bắt tay với Trung Đoàn 52 tại Ấp Nguyễn Thái Học. Tới giữa ngày 14 tháng Tư, ông Ban đă thành công trong việc chiếm đồi 122, chỗ đất cao của Hưng Lộc, với những chống trả lẻ tẻ của Cộng quân. Tuy thế, nhiều gịng nước làm thiết giáp của ông không di chuyển thêm được, ông phải chờ công binh cố làm cầu đi qua. Cộng quân khám phá được sự di chuyển bất ngờ của Lữ Đoàn 3 và nhanh chóng phản công. Chẳng bao lâu lực lượng của ông Ban bị tấn công mạnh từ ba phía: Bắc, Đông, và Tây. Theo lời ông Ban, "địch quân tràn ra như kiến phóng ra tấn công biển người từ ba phía của ngọn đồi... trong t́nh h́nh nguy kịch tôi gọi bộ chỉ huy LLĐN cho pháo binh và không yểm. Không may chúng tôi chỉ nhận được vài trực thăng bắn phi đạn và rời đi ngay... Cộng quân tấn công càng lúc càng mạnh. Tôi tưởng là Việt Cộng sẽ tràn ngập đồi 122 hoặc là cô lập chúng tôi hoàn toàn... Bất ngờ Cộng quân rút lui và trận chiến lặng xuống... Chúng tôi có 20 người bị thương vong , BĐQ mất gần 40... Xác Việt cộng nằm rải rác trên ruộng lúa." (76) Cánh B của ông Ban đóng lại ban đêm trên đồi. Nỗ lực của Tướng Khôi để đi ṿng phía Bắc bị chận lại, làm cho Sư Đoàn 18 và Trung Đoàn 52 bị tách rời nhau.

Để phá ṿng vây, quân VNCH vẫn tiếp tục vội vă t́m bất cứ phương tiện ǵ để quân b́nh lại cán cân trước những lợi thế về pháo binh và bộ binh của Cộng quân. Cho tới lúc đó, Không Quân VNCH đă giúp vận chuyển và oanh tạc hữu hiệu, gây thiệt hại cho Cộng quân. Bây giờ, cần có những biện pháp liều lĩnh và quyết liệt hơn.

Một lợi điểm chiến thuật của Tướng Đảo là sự xử dụng hiệu quả của những làn sóng truyền radio của địch mà quân VNCH chận nghe được. Bộ tổng tham mưu QLVNCH đă xử dụng những nhóm hai mươi chuyên viên cho mỗi sư đoàn để theo dơi và chận bắt những truyền tin của địch. Ông Đảo nói, "Những đơn vị địch báo cáo vị trí và quân số tới bộ chỉ huy của họ. Mỗi ngày tôi định giá những tin tức nghe được và bắn pháo binh vào họ. Tôi cũng gởi những vị trí này lên Quân Đoàn III để sắp xếp oanh tạc vào những địa điểm đó." Không có B-52, không quân VNCH chọn thả những trái bom nặng mười lăm ngàn cân Anh được gọi là "Daisy Cutter" (77) vào những mục tiêu hàng đầu. Căn cứ vào những tin tức nghe được, ngày 14 tháng Tư , "Daisy Cutter" đầu tiên được thả vào địa điểm t́nh nghi là bộ chỉ huy Quân Đoàn 4 CS, mười hai cây số phía Đông Bắc của Xuân Lộc. Bảy mươi lăm phần trăm của Bộ Chỉ Huy này bị phá hủy. (78) Ngoài ra "Không Quân Việt Nam tự có sáng kiến là xử dụng tám vận tải cơ C-130 hàng ngày chở những thùng 55-galông đựng dầu và khí đốt để oanh tạc địch”, một chương tŕnh được gọi là “Chiến Tranh Lửa”. (79) Hiển nhiên là những cuộc bỏ bom bằng C-130 của Không Quân Việt Nam là một trở ngại lớn cho Cộng quân. Lịch sử của Cộng quân không nhắc đến cuộc bỏ bom vào bộ tư lệnh Quân Đoàn 4, mặc dù quân sử của đơn vị đó viết "Địch quân thả bom trung b́nh 80 phi vụ mỗi ngày, và ngày cao nhất lên đến 125 phi vụ. Họ c̣n thả một loại bom rất tác hại là CBU (bom bi), tạo những khó khăn lớn cho các đơn vị ta." (80)

Sáng sớm 15 tháng Tư , mở màn cho một chiến dịch mới của Cộng quân, pháo Bắc Việt bắn vào Biên Ḥa khi bốn đại bác 130 ly từ Tiểu Đoàn 26/Trung Đoàn Pháo 75 CS bắt đầu hoạt động. (81) Một toán đặc công lẻn vào căn cứ Biên Ḥa và cho nổ kho đạn. Tiếng nổ rung chuyển Sài G̣n. Những quả pháo kích tiếp theo, chính xác hơn, làm hư hại phi đạo và nhiều phi cơ. Huyết mạch của Tướng Đảo, phi trường Biên Ḥa, đóng cửa mất nửa ngày.

Mờ sáng 15 tháng Tư, Trung Đoàn 33 của Sư Đoàn 6 CS và Trung Đoàn 95B CS bắt đầu phối hợp bất ngờ tấn công Tiểu Đoàn 1/52 và 3/52 VNCH đang giữ đồi Móng Ngựa và Ấp Nguyễn Thái Học. Nhiều ngàn quả đạn dội xuống hai đơn vị đă tổn thất và yếu mệt sau nhũng trận đánh liên tiếp. (82) Sau khi chiếm được nhiều cửa ngơ quan trọng, Trung Đoàn 33 CS sửa soạn tràn vào Ấp Nguyễn Thái Học, nhưng họ đổi hướng để quay sang giúp chống lại cánh quân VNCH của Đại Úy Ban đang tiếp tục hành quân. Về phía Bắc, Trung Đoàn 95B CS bắt đầu tấn công đại đội VNCH duy nhất đang giữ đồi Móng Ngựa. Sau khi đánh bật ba đợt tấn công, chỉ huy Trung Đoàn 52 VNCH ra lệnh một đại đội khác từ Tiểu Đoàn 3/52 tới tăng cường cho đại đội ở trên đồi. Ngay lúc quân tăng viện mang tiếp tế và tải thương tới, 95B CS mở cuộc tấn công thẳng lên đồi. Từng đợt bộ binh Cộng Sản tràn qua những cánh đồng trống, nhưng bị đốn gục bời binh sĩ Cộng Ḥa. Một tiểu đoàn Cộng quân đi theo Quốc Lộ 20 để đánh vào hông quân VNCH trên đồi nhưng bị chận lại bằng hoả lực Pháo Binh.

Tiểu Đoàn Trưởng của 3/52 nói, “Đại Đội 1 và 4 trên đồi Móng Ngựa phải đánh bật đợt tấn công này sang đợt khác... lúc 4 giờ chiều ngày 15 tháng Tư một sĩ quan pḥng thủ đồi báo cáo ‘Không c̣n ǵ xung quanh chúng tôi... xác địch che đầy chân đồi và cây cối trong rừng hoàn toàn bị phá hủy, đến nỗi trông như sườn đồi cũng thay đổi.... Đỉnh đồi màu xanh đă thành trơ trọi, không c̣n cây cỏ. Những khu vườn biến thành đống rác lớn. Gốc cây và xác người chồng lên nhau từng hàng.' “ (83) Có lẽ giây phút “hănh diện nhất" cho Sư Đoàn 18 là trong một ngày đánh nhau khốc liệt, hai đại đội binh sĩ VNCH với sự yểm trợ của pháo binh đă gây tổn thất nặng cho một trong những trung đoàn thiện chiến nhất của Bắc Việt.

Không chiếm được ngọn đồi, Cộng quân dùng loa phóng thanh để kêu gọi lính Cộng Ḥa đầu hàng. Đến chiều cùng ngày, Cộng quân tấn công Ấp Nguyễn Thái Học, nơi hai đại đội c̣n lại của Tiểu Đoàn 3/52 , Chi Đoàn Thiết Giáp 3/5 và thành phần c̣n lại của Trung Đoàn 52 đang đóng. Lúc 18 giờ, sau một ngày chiến đấu và bị pháo liên tục, Đại Tá Ngô Kỳ Dũng Trung Đoàn Trưởng 52 ra lệnh rút lui ban đêm về pḥng tuyến quân bạn.Tới lúc đó, binh sĩ VNCH ở trên đồi Móng Ngựa cũng đă chiến đấu đến hết đạn, họ đành rút lui để tái nhập tiểu đoàn 3/52. (84) Quân VNCH chia làm hai đoàn vào lúc 18:30 giờ, với Đại Tá Dũng chỉ huy đoàn thứ nhất đi với thiết giáp ra khỏi đồn điền, và Tiểu Đoàn 3/52 là đoàn thứ nh́. Những khẩu pháo được phá hủy trước khi rút. Một sĩ quan VNCH viết, "Chúng tôi không thể làm ǵ hơn. Cộng quân bắn mấy ngàn quả đạn – mấy ngàn. Rồi họ tấn công bằng hai trung đoàn bộ binh sáng nay. Tổn thất của chúng tôi không phải là nhẹ, do đó chúng tôi băng rừng để thoát." (85) Cộng quân lại pháo hàng ngàn lần để ngăn Sư Đoàn 18 và Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù tiếp cứu Trung Đoàn 52. Dù Sư Đoàn 18 đă pḥng thủ rất anh dũng, Cộng quân, với khả năng hành quân nhanh chóng, đă chuyển lực lượng bộ binh nhẹ qua rừng rậm và bọc sườn quân Cộng Hoà. Tuyến pḥng ngự tại Ngă Ba Dầu Giây bị tan ră.

Những ǵ được xưng tụng là chiến thắng hai ngày trước bây giờ đă trở ngược. Thất bại của VNCH khi không mở được Quốc Lộ 1 từ ngă ba Dầu Giây đến Xuân Lôc sau ngày 9 tháng 4, và không pḥng thủ Dầu Giây với một lực lượng mạnh hơn đă gây một thiệt hại lớn cho Miền Nam Việt Nam.

Ngày hôm sau có thêm những tin xấu. Chiến xa và bộ binh Bắc Việt đă tràn ngập Phan Rang trên Quốc Lộ 1 ở Quân Đoàn II, pḥng tuyến lớn cuối cùng ở phía Bắc Xuân Lộc. Sớm hôm đó, các đơn vị của Sư Đoàn 341 CS tiến về phía Bắc Quốc Lộ 20, chiếm Kiệm Tân và Túc Trưng. Sự thất thủ Phan Rang, trận pháo kích Biên Ḥa, và mất đoạn Quốc Lộ 20 cuối cùng làm rúng động Sài G̣n và làm tiêu tan cơ hội cuối cùng của Nam Việt Nam để có thể chận đứng Cộng quân. Ngày 17 tháng Tư, Uỷ Ban Quốc Pḥng Thượng Viện Mỹ phản ảnh mong muốn của đại đa số quốc hội muốn chấm dứt chuyện Viêt Nam, bác bỏ yêu cầu viện trợ khẩn cấp 722 triệu cho miền Nam Việt Nam của chính phủ Ford.

Dù sao, nếu yêu cầu viện trợ này có được chấp thuận, cũng không ảnh hưởng ǵ đến kết quả trên chiến trường. Lúc đó đă quá trễ cho sự viện trợ. Chỉ có sự sử dụng Không Quân và Hải Quân Hoa Kỳ mới có thể chận được Cộng quân và cho miền Nam thời gian và không gian cần thiết để pḥng thủ những ǵ c̣n lại của VNCH.

Tướng Toàn không thể chờ sự xuất hiện của sức mạnh quân sự Hoa Kỳ. Ông lập tức ra lệnh cho Trung Đoàn 8/Sư Đoàn 5 VNCH do Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng chỉ huy đến giúp Lữ Đoàn 3 Thiết Giáp của Chuẩn Tướng Khôi chọc thủng điểm chặn của Cộng quân trên Quốc Lộ 1. Đơn vị của ông Hùng đang giữ Phú Giáo, một tỉnh phía Bắc của Lai Khê, căn cứ chính của Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 5 VNCH. Họ mất bốn tiếng để tới Hưng Nghĩa, cách Dầu Giây 2.5 cây số, nơi họ gặp lực lượng của ông Khôi. (86) Ông Khôi giao Chiến đoàn 322 cho ông Hùng và ra lệnh cho ông Hùng giải toả Quốc Lộ 1.

Mặc dù bị tấn công liên tục, Trung Đoàn 95B và Sư Đoàn 6 của Cộng quân ở Hưng Nghĩa và Hưng Lộc quyết tử thủ; và lực lượng VNCH đă không tiến lên được. Ông Hùng nói, "Cộng quân đă thiết lập khoảng mười công sự pḥng thủ, mỗi chỗ được một trung đội chống giữ, không thể chọc thủng được." Quân Sử Quân Đoàn 4 viết, "Trận đánh tại Hưng Nghĩa và đồi 122 rất khốc liệt." (87) Sau nhiều ngày đánh nhau, Sư Đoàn 341 CS tiến vào để thay thế Trung Đoàn 95B và Sư Đoàn 6 CS.

Trong lúc đó, bốn khẩu 130 ly của Cộng quân và một đại đội hỏa tiễn 122 ly vừa được tăng cường tiếp tục bắn phá không ngừng vào phi trường Biên Ḥa mặc dù quân VNCH cố gắng hết sức để t́m kiếm và tiêu diệt họ. Những cuộc pháo kích đă giới hạn khả năng không quân để trợ giúp Tướng Đảo và Tướng Khôi. Ba trăm hai mươi sáu quả đạn 130 ly bắn vào phi trường Biên Hoà từ 14 đến 26 tháng Tư đă giúp đánh hồi chuông báo tử cho Xuân Lộc. (88)

Những đoàn quân Cộng Sản dọc bờ biển tiếp tục tiến như chẻ tre về phía Nam. Vào 18 tháng Tư, Phan Thiết, chỉ cách Xuân Lộc bảy mươi cây số, rơi vào tay Cộng quân. Ngày 20 tháng Tư, Sư Đoàn 325 CS và những đơn vị tiền phương của Quân Đoàn 2 Bắc Việt tới Rừng Lá, một làng trên Quốc Lộ 1 chỉ cách Xuân Lộc 20 cây số về phía Tây. Với sự thất thủ ở ngă ba Dầu Giây, với Sư Đoàn 18 bị bao vây và đang đối diện với một cuộc tấn công biển người của những đơn vị Cộng quân dày dạn chiến trường, một tập trung lực lượng đông đảo nhất của Cộng Sản trong cả cuộc chiến Viêt Nam, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH không c̣n chọn lựa nào khác. Vào 09:00 giờ ngày 20 tháng Tư, Tướng Toàn bay vào Xuân Lôc gặp Tướng Đảo. Lệnh của ông Toàn khô khốc: rút lui ngay. Tướng Toàn cần lực lượng của Tướng Đảo để đánh những trận sắp tới cho Sài G̣n. Ông Đảo và ông Toàn quyết định là Sư Đoàn 18 sẽ rút theo đường số 2, một con đường đất đi về phía Nam đến tỉnh Phước Tuy, khi tới nơi họ sẽ được chở bằng xe nhà binh đến Long B́nh để tái trang bị và được tăng cường.

Trong khi Tướng Đảo đồng ư với quyết định của Tướng Toàn, ông vẫn lo về việc rút lui trên một con đường vừa bị Sư Đoàn 6 CS tấn công. Tai hoạ trên đường rút quân của Quân Đoàn I và II vẫn ám ảnh ông. Để đi thoát, Sư Đoàn 18 cần phải đi bộ bốn mươi cây số ban đêm trên một con đường đất từ Xuân Lộc đến nơi tập trung ở Đức Thạnh, một điều khó thực hiện trong đêm tối. Do đó, ông Đảo gởi một sĩ quan tham mưu trong bộ chỉ huy G-3 của ông đi thám thính con đường bằng trực thăng để xem t́nh trạng của con đường và xem có chốt chặn của cộng sản hay không. Sĩ quan đó báo cáo lại là con đường đi được và có vẻ không có Cộng quân. Mặc dù du kích CS địa phương vẫn quấy phá trên đường, Tướng Đảo tin là ông có thể dẹp họ một cách dễ dàng. Ông ta lo lắng hơn về việc lặng lẽ rút sao cho địch quân c̣n đang ở chung quanh thị xă không hay biết. Nếu Cộng quân biết được, quân của ông có thể bị tràn ngập dễ dàng.

Tướng Đảo lên kế hoạch lừa địch để họ mất tập trung. Ông ra lệnh cho Lữ Đoàn 1 Dù VNCH mở cuộc tấn công lớn vào Sư Đoàn 7 ở phía Đông thị xă. Ông cũng ra lệnh cho Tiểu Đoàn 2/43 và hai đại bác trên Núi Thị ở lại và làm một phần lực lượng bảo vệ phía sau. (89) Nhảy dù, được yểm trợ bằng "lượng pháo dữ dội" quần thảo cả ngày 20 tháng Tư với các lực lượng của Sư Đoàn 7 CS, chủ yếu là Trung Đoàn 141.

Với chỉ nửa ngày để sửa soạn chiến lược mang Sư Đoàn 18 ra, Tướng Đảo quyết định chương tŕnh như sau: Tướng Đảo sẽ đi với Trung Đoàn 43, trong khi Đại Tá Ngô Kỳ Dũng lái trực thăng chỉ huy của Tướng Đảo để ra lệnh và kiểm soát. Đơn vị đầu tiên rời Tân Phong lúc 20:00 giờ là Trung Đoàn 48, tiếp theo là Liên Đoàn 5 Thiết Kỵ, rồi đến những lực lượng pháo binh và các đơn vị điều động, công xa và công binh do Đại Tá Hứa Yến Lến chỉ huy. Khi pháo binh tới căn cứ cũ của Trung Đoàn Thiết Kỵ Hoa Kỳ ở Long Giao, họ sẽ thiết lập một căn cứ hỏa pháo, có đại đội trinh sát bảo vệ, để yểm trợ cuộc rút lui. Kế tiếp là các đơn vị ĐPQ và dân chúng. (204) Tiếp theo là hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 43, tiểu đoàn 2/52, tiểu đoàn 82 BĐQ là lực lượng chót trong đoàn. Đến khuya, Tiểu Đoàn 2/43 sẽ rời Núi Thị và gặp Lữ Đoàn 1 Dù tại Tân Phong. Hai đơn vị đó sẽ rời Xuân Lộc vào rạng ngày 21 tháng Tư.

Khi đoàn quân bắt đầu rút, Tham Mưu Trưởng Hứa Yến Lến nhớ lại:
Tướng Lê Minh Đảo đi chung với những đoàn lính để cho lệnh và hành động lập tức nếu gặp trở ngại trên đường rút. Một trực thăng chỉ huy bay trên đường rút suốt đêm để cung cấp phương hướng và để yểm trợ, nếu cần. Đường số 2 là đường chính để xe cộ và gia đ́nh binh lính đi từ Xuân Lộc đến điểm tập trung Đức Thạnh. Mặc dù lực lượng du kích Việt Cộng địa phương cố chiếm một số địa điểm dọc đường và thiết lập ổ phục kích trên những đồi dọc đường số 2 để làm chậm lại cuộc di tản và gây tổn thất cho ta, sự chiến đấu với tinh thần cao của tất cả binh sĩ mọi cấp của sư đoàn 18 bộ binh và các đơn vị trực thuộc đă gạt ra dễ dàng những điểm chặn và phục kích của địch . Kết quả là tất cả mọi lực lượng đă có thể tới được khu tập trung Đức Thạnh an toàn vào sớm ngày hôm sau 21 tháng Tư 1975. (90).

Mặc dù nhiều nguy hiểm, cuộc rút lui của Tướng Đảo và Sư Đoàn 18 là một sự dàn xếp bậc thầy. Tài chỉ huy của ông Đảo một lần nữa tạo được sự khác biệt. Đi bộ lên xuống trong đoàn suốt đêm. Tướng Đảo khuyến khích đoàn binh đă thấm mệt tiếp tục di chuyển và bảo vệ đồng bào cùng rút lui. Quân Bắc Việt sững sờ v́ cuộc triệt thoái bất th́nh ĺnh. Quân Đoàn 4 CS ra lệnh cho mọi đơn vị truy kích quân VNCH nhưng không bắt kịp bởi v́ "Chúng ta đă trễ trong chuyện phát hiện di chuyển của địch và đă không tổ chức được một cách thích hợp lực lượng chận địch." (91)

Tuy thế mọi chuyện không xảy ra êm thắm cho Lữ Đoàn 1 nhảy dù và tiểu đoàn 2/43, lực lượng đoạn hậu. Theo lời một cựu sĩ quan Sư Đoàn 18.

Trong cuộc triệt thoái, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đương đầu với nhiều nguy hiểm nhất và tổn thất nhiều nhất v́ họ là đơn vị cuối cùng và được trao cho trọng trách đoạn hậu… Hôm 20 tháng Tư, khi lệnh rút lui được ban hành, Lữ Đoàn c̣n đang giao tranh kịch liệt tại Bảo Định, và các binh sĩ chết và bị thuơng của Lữ Đoàn vẫn chưa đuợc di tản. Tất cả đă phải bị bỏ lại, như đă xảy ra trong cuộc hành quân Lam Sơn ở Hạ Lào [Lam Sơn 719 vào tháng Hai - tháng Ba 1971]. Chuyện này bắt buộc phải làm, bởi v́, đối với những người sống sót, đi qua con đường thoát hiểm dài hơn 40 cây số qua những rừng cao su đen kịt như là đi qua những cửa địa ngục. Đây là những bi kịch mà người lính VNCH phải đối đầu.

Đúng 9:00 giờ tối ngay khi những tiểu đoàn dù đến đường số 2 họ gặp phải một cảnh đáng nhớ và cảm động. Tất cả những gia đ́nh Công Giáo từ giáo phận Bảo Định, Bảo Toàn, và Bảo Ḥa tập trung dọc theo hai bên đường chờ để đi theo binh sĩ VNCH trong cuộc di tản... Việc đi qua nhiều cây số trên con đường rừng bỏ hoang, Liên Tỉnh Lộ 2 từ Tân Phong tới Đức Thạnh, quả thật không dễ cho một đoàn người dân chạy loạn lẫn lộn với lính ....chỉ có Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù, bảo vệ bởi một đại đội trinh sát dù, đi trên đường. Những tiểu đoàn Dù khác đều di chuyển qua những rừng cây cao su, bọc phía sau. Vào 4:00 giờ sáng ngày 21 tháng Tư, 1975, Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù và Đại Đội Trinh Sát Dù bị hai tiểu đoàn Việt cộng phục kích tại ấp Quí Cà gần ranh giới tỉnh Long Khánh - Phước Tuy. Hầu như tất cả trung đội pháo C và trung đội trinh sát nhảy dù đều bị chết hay bị thương trong cuộc tấn công biển người đó... Ngoại trừ những tổn thất vừa kể cuộc di tản trên đường 2 diễn tiến tốt." (92)

Có một sự hiểu lầm giữa Tướng Đảo và Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh, chỉ huy Lữ Đoàn 1 Dù. Ông Đảo cần Tiểu Đoàn 2/43 giữ Núi Thị để bảo vệ phía Bắc của cuộc triệt thoái. Tiểu đoàn này sẽ rút lui từ từ và gặp Nhảy Dù tại Tân Phong. Không may, ông Đỉnh rút và để lại 2/43. Khi tới Đức Thạnh, Đại Tá Hiếu, Trung Đoàn Trưởng 43, báo cáo là Nhảy Dù gặp trở ngại tại ranh giới Long Khánh - Phước Tuy. Tướng Đảo lập tức lên trực thăng và bay về phía vị trí của Nhảy Dù để giúp họ và chỉ đường cho không quân đánh. Dọc đường, ông Hiếu gọi ông Đảo bằng radio và cho ông Đảo biết 2/43 vẫn đang chờ ở Tân Phong. Ông Đảo đổi qua tần số của Tiểu Đoàn 2/43 và ra lệnh không dùng đường 2, mà phải đi xuyên rừng để tránh những vị trí của cộng sản. (105) Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế ra lệnh cho lính của ông phân tán thành những đơn vị nhỏ. Mất ba ngày để họ rút lui qua rừng, chiến đấu suốt dọc đường. Họ bị tổn thất nặng với hơn 50% tiểu đoàn bị thiệt hại.

Một tổn thất nặng thứ hai trên đường rút là Trung Tá Tiểu Khu Phó Long Khánh Lê Quang Định bị tử thương khi xe jeep của ông bị trúng đạn B-40 của Cộng quân, và Cộng quân bắt được Đại tá Tỉnh Trưởng/Tiểu Khu Trưởng Phạm Văn Phúc và một số sĩ quan của ông. (93) Ông Phúc và ông Định đă quyết định rút lui cùng với Nhảy Dù, trong khi phẩn lớn ĐPQ của tiểu khu đă rời thành phố với Sư Đoàn 18 trong đêm.

Ngày 22 tháng Tư, lực lượng Nhảy Dù được lệnh tách khỏi Sư Đoàn 18 và đến pḥng thủ Vũng Tàu. Lữ đoàn ở gần thành phố cảng nầy cho đến khi lệnh đầu hàng tới vào ngày 30 tháng Tư.

Dù quân VNCH đă rút khỏi Xuân Lộc, giao tranh vẫn không ngừng hẳn. Những toán đo độ sóng Truyền Tin của QLVNCH đă định được tọạ độ của bộ tư lệnh Sư đoàn 341 CS từ những rất nhiều thông tin qua lại trong khi đơn vị này cố sức t́m bắt cho được lực lượng VNCH rút lui.

Không Quân VNCH quyết định đánh bom bằng một vũ khí sát hại cao, CBU-55, một loại bom bi hơi ngạt với không khí - nhiên liệu, thiết kế với mục đích nguyên thuỷ là để dọn băi ḿn:

Với sự giúp đỡ của chuyên viên DAO Mỹ, phi công VNCH chế biến một giá đỡ bom cho quả bom… một thiết bị giết người khủng khiếp được biết dưới tên là CBU-55. Sự hiệu quả của vũ khí ghê gớm nầy đă được chứng minh không c̣n một chút nghi ngờ vào chiều thứ Ba [22 tháng Tư giờ Sài G̣n]. Một C-130 vận tải cơ với một CBU bay lên từ Tân Sơn Nhất, bay ṿng Xuân Lộc một lần về phía Đông, và thả bom CBU trên Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 341 ở ngay bên ngoài thị xă mới chiếm được. Tổn thất rất lớn, trên 250 Cộng quân bị thiêu hoặc chết v́ ngạt trong vùng chân không sau khi bom nổ, và trong một khoảnh khắc quân của Tướng Dũng bị lảo đảo khi đang bước." (94)

Ngay khi cộng sản t́m được nguyên nhân của lần tấn công đó, họ tố cáo dữ dội rằng Sài G̣n "coi thường tất cả những luân lư thông thường và luật lệ quốc tế" và lên án những viên chức ra lệnh xử dụng vũ khí đó là "tội phạm chiến tranh." (95).

Cuộc thả bom những CBU-55 là cú đánh cuối cùng trong trận chiến Xuân Lộc, mặc dù Lữ Đoàn 3 của Tướng Khôi và Trung Đoàn 8 của Trung Tá Hùng vẫn đánh ở Hưng Nghĩa. Vào 22 tháng Tư, Trung Đoàn 8 thực ra đă chiếm lại được thị trấn sau khi giao tranh nặng nề và tiến lên phía Dầu Giây, nhưng được lệnh ngưng khi Sư Đoàn 18 rút lui. (96) Ngày 25 tháng Tư, Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ được lệnh rút về Biên Ḥa để nghỉ ngơi và bảo tŕ chiến xa và xiết chặt ṿng đai pḥng thủ Sài G̣n.

Lực lượng của Tướng Đảo dưỡng quân ở Long B́nh được ba ngày. Họ đă phá hủy hơn ba mươi xe tăng địch, gây tử thương cho nhiều ngàn địch quân, và sấp sỉ số đó bị thương, trong lúc chính họ cũng bị tổn thất nặng.

Buổi sáng 30 tháng Tư, Sư Đoàn 18 của Tướng Đảo đang ở Nghĩa Trang Quân Đội Quốc Gia khi chính phủ VNCH đầu hàng. Ông Đảo liên lạc với gia đ́nh, rồi ông mặc thường phục và trốn về phía Cần Thơ với cố gắng kết hợp với bộ Tư lệnh Quân Đoàn IV VNCH, hy vọng Quân Đoàn IV và các lực lượng VNCH sẽ tiếp tục chiến đấu. Mặc dù chính phủ đă đầu hàng, ông muốn chiến đấu tiếp. Khi ông tới được Cần Thơ và biết được rằng Tư Lệnh và Phó Tư Lệnh Quân Đoàn IV đă tự sát, ông hiểu rằng mọi chuyện đă kết thúc.

Ngày 9 tháng Năm, Ông Đảo ra tŕnh diện nhà cầm quyền Cộng Sản. Trong mười bảy năm kế tiếp, ông Đảo bị giam trong một trại tù cải tạo. (97)

Nhận Xét của Tác Giả George Veith
Tuy rằng chương tŕnh cục "R" tấn công Sài G̣n từ phía Đông Bắc bị phá hỏng, nhưng cuối cùng các lực lượng Quân Đoàn III cũng không chống nổi cả một quân đội Bắc Việt.

Mặc dù bị mang tiếng tham nhũng và thiếu khả năng, QLVNCH, như đă thấy trong trận chiến Xuân Lộc, không phải là một đạo quân không làm được việc và hèn nhát như báo chí ở Mỹ thường nói. Khi những người bắt ông Đảo hỏi tại sao ông không chạy thoát như những tướng lănh khác của VNCH, ông Đảo nói với họ là ông không thể bỏ những binh sĩ đă chiến đấu cực khổ v́ ông. Tôi là Tướng của họ, ông nói với cai tù, và nếu các ông c̣n giữ một thuộc cấp nào của tôi, tôi muốn tôi là người cuối cùng của Sư Đoàn 18 VNCH được thả. "Nếu không, tôi không dám nh́n mặt họ," ông nói.

Nói về trận Xuân Lộc, ông Đảo b́nh thản tuyên bố, "Chiến đấu là môt nghệ thuật; bạn không thể chỉ sử dụng tay chân, mà phải dùng cả trí óc. Mặc dù chúng tôi biết là chúng tôi đă thua trong cuộc chiến, tôi vẫn chiến đấu. Tôi đă tràn đầy tuyệt vọng sau khi mất các Quân Đoàn phía Bắc, nhưng tôi vẫn chiến đấu." Ông đă trả lời tương tự cho một phóng viên trong chuyến thăm thị xă Xuân Lộc vào 13 tháng Tư , 1975 "Tại sao quân Cộng Hoà chiến đấu tại Xuân Lộc mà không ở phía Bắc?” “Làm sao tôi có thể trả lời cho họ,” Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 VNCH nói, “tôi chỉ trả lời cho tôi, và chúng tôi đă chiến đấu." (98)

Cựu Thiếu Tướng Lê Minh Đảo được thả khỏi tù vào 4 tháng Năm 1992 và tới Hoa Kỳ vào tháng Tư 1993. Ông hoạt động trong những cộng đồng người Việt lưu vong, dùng nhiều th́ giờ để đi thăm binh sĩ cũ của ông, phần lớn là sĩ quan, bởi v́ rất ít binh sĩ cấp dưới rời Việt Nam.

Ông yêu cầu người viết, "Xin đừng gọi tôi là anh hùng. Binh sĩ của tôi, những người đă chết ở Xuân Lộc và cả trăm trận đánh trước, mới thực sự là anh hùng".

Không cần gọi Tướng Lê Minh Đảo là anh hùng. Có những sự thật tự nó đă là bằng chứng.

Sơ Lược về Các Tác Giả
George J. Veith là cựu Đại Uư Thiết Giáp Quân Đội Hoa Kỳ và là tác giả quyển “Code Name Bright Light: The Untold Story of U.S. POW Rescue Efforts During the Viet Nam War (New York: Free Press, 1997). Ông sẽ cho xuất bản sắp tới “Leave No Man Behind: Bill Bell and the Search for America POW/MIA’s from the Vietnam War.”

Merle L. Pribbenow II về hưu từ the Central Intelligence Agency vào 1995 sau hai mươi bảy năm làm viêc với chức vụ điều hành viên về Ngôn Ngữ Việt Nam và Công Tác. Những bài viết của ông về lịch sử Chiến Tranh Việt Nam đă được phát hành trong “Vietnam , Parameters, and Military Review.” Bản dịch của ông về lịch sử cuôc chiến, chính thức của Bộ Quốc Pḥng “Victory in Vietnam”, đă được phát hành vào 2002 bởi “University Press of Kansas”.

*****

(1) Phỏng Vấn Cựu Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, East Hartfort, Connecticut, 7 tháng Tư, 2001. Ông giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 18 QLVNCH từ tháng 3, 1972. Tháng 11, 1972, ông được thăng cấp Chuẩn Tướng và tiếp tục chỉ huy Sư Đoàn 18 cho tới ngày miền Nam Việt Nam mất. Ngày 24 tháng Tư, 1975, Tổng Thống Trần Văn Hương ra nghị định thăng cấp cho ông lên Thiếu Tướng. Cuộc phỏng vấn với tác giả Veith là lần nói chuyện đầy đủ đầu tiên với vị Tướng của QLVNCH chỉ huy trong trận chiến Xuân Lộc sau khi ông được ra tù vào tháng Năm, 1992. Ông là một trong bốn vị tướng được thả sau cùng trong số những sĩ quan VNCH bị Cộng Sản giam giữ. Các tác giả xin cám ơn Thiếu Tướng Lê Minh Đảo về những nỗ lực của ông để giúp tác giả thấu hiểu về góc nh́n của QLVNCH trong trận Xuân Lộc. Tất cả những chuyện về Tướng Lê trong bài viết là từ cuộc phỏng vấn và những trao đổi sau đó.





George J. Veith and Merle L. Pribbenow II
Dịch giả - Khôi An và Trần Sơn
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	1589095631-xl1.jpg
Views:	0
Size:	69.1 KB
ID:	1658075   Click image for larger version

Name:	1589095580-dt3.png
Views:	0
Size:	232.2 KB
ID:	1658077   Click image for larger version

Name:	1589095641-xl2.jpg
Views:	0
Size:	94.2 KB
ID:	1658078   Click image for larger version

Name:	1589095652-xl3.png
Views:	0
Size:	134.9 KB
ID:	1658079  

Click image for larger version

Name:	1589095601-dt5.png
Views:	0
Size:	179.3 KB
ID:	1658080  
Attached Images
 
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (09-22-2020), huudangdo1 (09-22-2020), phokhuya (09-25-2020), trungthu (09-23-2020)
Old 09-22-2020   #595
hoathienly19
R4 Cao Thủ Vơ Lâm
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 842
Thanks: 1,657
Thanked 1,149 Times in 509 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 23 Post(s)
Rep Power: 5
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default Battle of Xuan Loc April 1975 - ARVN 18th DIvision

Battle of Xuan Loc April 1975 - ARVN 18th DIvision

hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following 3 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (09-23-2020), huudangdo1 (09-23-2020), phokhuya (09-25-2020)
Old 09-23-2020   #596
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,411 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default BIỆT KÍCH MIỀN NAM



“Tôi tên Hinh, được anh em ưu ái tặng cho biệt hiệu “Hinh Nổ” là v́ hai lư do:
Trước hết, tôi chuyên môn gài chất nố để phá hoại.
Sau nữa, tôi đă dám . . . Nổ vào mặt bọn cán bộ tuyên truyền của Việt Cộng. Bọn chúng tuyên truyền nói dóc với chúng tôi, chúng nổ những chuyện không ai tin nổi, làm cho tôi nổi cơn, tôi . . . nói dóc lại cho chúng nghe, nổ lại chúng bằng chính những câu nói dóc mà chúng nói với chúng tôi, làm anh em Biệt Kích cười nôn ruột, từ đó, họ đặt cho tôi cái tên . . . Hinh NỔ.”
(Biệt Kích Quân Nguyễn Văn Hinh, Melbourne)
Năm 1959, Miền Nam Việt Nam đang ở vào thời kỳ cực thịnh của nền Đệ Nhất Cộng Ḥa, nhân dân an cư lạc nghiệp, chiến tranh là một điều c̣n xa xôi lắm.

Lúc đó, tôi đang học lớp Đệ Nhị, sửa soạn thi kỳ thi “Tú Tài I”. Chưa thi, tôi đă vẽ ra cái vinh quang của người học sinh thi đậu bằng “Bắc Oong – Baccalauréat Première Partie”, oai phong lẫm liệt bước lên học lớp Đệ Nhất, năm sau thi “Tú Tài II – Baccalauréat Deuxième Partie. Có bằng “Bắc Đơ” rồi là cứ ung dung ghi tên vào thẳng Viện Đại Học Saig̣n, tự chọn phân khoa ḿnh ưa thích: Y, Nha, Dược, Kiến Trúc, Kỹ thuật, Luật, Văn Khoa . . . mà không phải qua bất cứ kỳ thi nào cả.

V́ cái viễn ảnh tươi đẹp đó, tôi cứ nghĩ rằng tôi sẽ đậu kỳ thi cuối năm. Số ḿnh đậu, chắc chắn sẽ đậu, không cần phải cố gắng chi cho nhiều. Rủi thay, tôi lại . . . thi rớt. Vào thời đó, chưa có lệnh . . . Tổng động viên, nên tôi cứ tàn tàn học lại chờ thi khoá 2. Số mạng của tôi là miệt mài khoa cử, nhưng lại khác mọi người: Khoa cử của tôi không về các nghề nghiệp dân sự, mà lại khoa cử về . . . binh nghiệp.

Một hôm, trong khi tôi đang ngồi chăm chỉ học bài thi, th́ người anh họ (học cùng lớp) của tôi đến chơi. Đợi lúc không có ai, anh ghé tai tôi nói nhỏ:

“Tao . . . t́nh nguyện đi học khoá Hạ Sĩ Quan Đồng Đế, vừa thoả măn đời trai tang bồng hồ th́, vừa có tí tiền xài”

Tôi thắc mắc:

“Anh không lo học để mà thi lại bằng Tú Tài Một à?”

“Đi lính trước đă, khi ra đơn vị rồi, nộp đơn xin về đi thi. Bộ Quốc Pḥng và Bộ Giáo Dục đồng ư năng đỡ những quân nhân có tinh thần học hỏi, nên cho thêm điểm, dễ đậu lắm.”

Tôi nghe bùi tai, xin cha mẹ cho đi lính.

Học căn bản quân sự ở Trung Tâm Huấn Luyện “Quang Trung” ba tháng, đến khoàng tháng 9 năm 1959, chúng tôi khoác ba lô đi ra Nha Trang để học khoá “Trần B́nh Trọng” ở Trường Hạ sĩ Quan Đồng Đế (lâu quá rồi, tôi không nhớ rơ tên khoá học, nên tên này có thê đúng, và cũng có thể sai). Gần măn khoá học, các binh chủng quân đội, như Nhẩy Dù, Thuỷ Quân Lục Chiến. Thiết Giáp, Pháo Binh . . . đều cử phái đoàn đến để giới thiệu binh chủng của ḿnh và cũng để tuyển mộ tân binh. Tôi đang đứng sớ rớ th́ gặp thầy giáo đầu đời bậc Tiểu học của tôi là Thầy Khai Tâm. Thầy đă không c̣n tiếp tục dậy học nữa, mà mang lon Trung uư, mặc bộ quân phục Nhẩy Dù, đội mũ bê rê đỏ chói, làm trưởng toán tuyển mộ của “Lữ Đoàn Nhẩy Dù”. Thầy hỏi tôi:

Em có muốn đi lính . . . Thiên Thần Mũ Đỏ hay không?”

Thôi th́ thầy đi đâu tṛ theo tới đó, tôi đặt bút kư t́nh nguyện gia nhập Binh Chủng Nhẩy Dù.

Học xong khoá huấn luyện nhẩy dù, tôi được bổ xung cho Tiểu Đoàn 5 do Đại uư Phạm Xuân Soạn làm Tiểu Đoàn Trưởng. Sau vài tháng mưa nắng chiến trường, là tới kỳ thi Tú Tài I, do tôi đă nộp đơn từ trước, nên được cho một tuần lễ nghỉ phép để về Sài G̣n dự thi. May mắn đă đến, tôi được chấm đậu.

Đại Uư Soạn kư giấy cho tôi đi học khoá 3 Sĩ Quan Đặc Biệt, cũng tại trung tâm huấn luyện Đồng Đế, Nha Trang.

Măn khóa học, tôi được gắn lon Chuẩn Uư, nhưng Sự Vụ Lệnh câp cho tôi lại không trở về Nhẩy dù, mà lại về phục vụ cho Lực Lượng Đặc Biệt, trực thuộc Lữ Đoàn Liên Binh Pḥng Vệ Phủ Tổng Thống. Tuần lễ đầu, tôi được đặc biệt cho hưởng nhàn, đi tới đi lui trong doanh trại ở Đại Lộ Thống Nhất, gặp và làm quen với những Biệt kích quân khác, mà đa số là độc thân, trẻ tuổi và . . . theo đạo Công Giáo.

Suốt một năm trời sau đó, tôi được đưa đi học đủ thứ khóa học của Biệt Kich. V́ đă có bằng nhẩy dù rồi, tôi chỉ học thêm những môn học sau đây: T́nh Báo, Truyền Tinh, Khai Thác Mật Mă, Phá Hoại, Tác Chiến và Mưu Sinh Thoát Hiểm . . .

Đầu năm 1962, tôi măn khóa học để chính thức trở thành một Biệt Kích Quân. Chuyến hành quân đầu tiên của tôi là:

Đổ bộ vào Hà Tĩnh, theo dơi t́nh h́nh và . . . bắt cóc một người lính Bắc Việt, đem về hậu cứ để khac thác thêm.

Đêm tối đen c̣n hơn mực, tôi được một giang đĩnh của Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa (cải trang thành một thuyền đánh cá của ngư dân vùng Hà Tĩnh) đưa vào gần bờ biển. Từ đó, tôi một ḿnh một bóng bơi vào bờ, đem theo trong ḿnh giấy tùy thân của một ngư dân Hà Tĩnh, một bức thư liên lạc, một máy truyền tin và khẩu súng lục Browning.

Vào bờ, tôi liên lạc với điệp viên gài sẵn của Biệt Kích, bằng cách đem bức thư liên lạc đến bỏ tại “Hộp Thơ Chết”. Đó là một địa điểm do điệp viên của chúng ta tại Hà Tĩnh chỉ định để nhận thơ và tài liệu. Khi nhận được tài liệu, người điệp viên sẽ liên lạc trực tiếp với tổng đài để báo tin và cho địa điểm của “Hộp Thơ Chết” sắp tới. Đúng giờ đă ấn định, tôi liên lạc vói Tổng đài để biết sẽ phải tới đâu để nhận tài liệu. Biết được đích xác nơi phải đến để dọ thám, tôi cứ tự nhiên như là người bản xứ, từ rừng đi vào thành phố Vinh, nhập vào đoàn người mà đi tới đi lui trong giới hạn mà tôi có thể di chuyển. Trong thời gian này, tôi phải chọn đối tượng để bắt cóc. Đối tượng phải là một người lính chính quy của Bắc Việt, có mặc quân phục hẳn hoi. Tôi mon men lại gần một bệnh viện của đám bộ đội, bọn chúng đi tới bệnh viện xin khám bệnh vào sáng sớm và chiều tối. Tôi theo dơi, t́m được một con mồi, đợi lúc hắn ta đi về nhà một ḿnh, ra tay nhanh như chớp chụp thuốc mê kéo anh ta về băi biển đă định sẵn. Đêm đến, ghe đánh cá vào tận nơi, những anh em Biệt Kích khác phụ với tôi khiêng người tù binh lên thuyền, trực chỉ Đà Nẵng.

Sau này, tôi được biết, người tù binh đó là một Thượng Úy. Khi tỉnh dậy, anh ta như là lạc vào một . . . thế giới khác, với những người nói cùng một thứ tiếng với anh, nhưng không gian th́ hoàn toàn khác hẳn với thành phố Vinh của anh. Anh đă . . . thực t́nh khai báo những ǵ mà anh biết về t́nh h́nh dịa phương và đơn vị trực thuộc của anh.

Trở về Saig̣n, tôi được chỉ định ở tại một ngôi nhà gọi là “Nhà An Toàn” với một số anh em khác. Đó là một ngôi nhà rất binh thường trên con đường Trần Hưng Đạo cũng rất b́nh thường của thành phố Saig̣n, mà Lực Lượng Đặc Biệt sử dụng cho các toán viên có nơi trú ngụ và dễ tập trung. Gia đ́nh tôi vẫn ở vùng Ḥa Hưng, nên tôi về đó sống tiện hơn là ở Nhà An Toàn.

Được thảnh thơi khoảng một tuần, tôi được lênh lên máy bay trở lại Đà Nẵng, rồi từ đó bay thẳng qua Lào, vào khu rừng núi trùng điệp, căn cứ của Biệt Kích và CIA Mỹ, nằm trong khu vực của Tướng Lào Vàng Pao. Tôi nhớ rơ là được kư tên trên giấy tờ là làm việc với tư cách Điệp Viên, không có tên tuổi, không có số quân, không đơn vị (mặc dầu về phía Việt Nam, tôi gốc lính Nhầy Dù, Biệt Kích, có số quân hẳn hoi). Sau đó, tôi được xếp toán 6 người, sẽ lên trực thăng nhầy xuống vùng biên giới Lào Việt để xâm nhập vào Nghệ An.

Tôi chưa hề gặp và quen biết những biệt kích quân cùng toán với tôi, những cái tên mà chúng tôi được giới thiệu để gọi nhau, đều là những tên . . . giả. Giấy tờ tùy thân, mặc dầu là là giấy . . . thật, có đóng dấu đỏ chót của “Khai Thác Địa Chất Miền Núi” nhưng lại do CIA cung cấp. Thời gian này, toán chúng tôi chỉ có nhiệm vụ thâu thập tin tức, giữ liên lạc với những điệp viên đă được gài sẵn ở Miền Bắc mà thôi. Những tin tức này được gởi về Đà Nẵng để t́m hiểu thêm và từ đó đưa ra những kế hoạch hành quân. Ngoài những toán Biệt Kích Việt Nam, trung tâm hành quân này c̣n có những toán Biệt Kích của Đài Loan, họ đều lớn tuổi, khoàng từ 30 tới 45 tuổi, nhưng tinh thần chống cộng rất cao. Thời gian đầu chưa quen biết, họ nói tiếng Hoa, chúng tôi nói tiếng Việt, lúc sau, có nhiều người trong bọn họ học nói tiếng Việt, nên chúng tôi nói chuyện vui lắm.

Ở phần đầu, tôi có nhắc tới những “Điệp Viên” của chúng ta gài lại ở miền Bắc. Làm cách nào mà pḥng Phản Gián của chúng ta gài được những điệp viên này?

Theo tôi được biết, vào năm 1954, trước khi quân đội Pháp rút khỏi miền Bắc, họ có tuyển một số người t́nh nguyện, đưa đi học một khóa t́nh báo ở Osaka khoàng 15 ngày, sau đó đem họ trở về sống b́nh thường ở khắp nơi trên lănh thỗ miền Bắc. Con số điệp viên không biết là bao nhiêu, gồm cả những điệp viên của Tướng

Tưởng Giới Thạch, Cộng Ḥa Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Những lần ra Bắc, chúng tôi thường xuyên liên lạc với họ qua những “Hộp Thơ Chết” nhưng chưa bao giờ nh́n thấy mặt họ, và cũng không bao giờ được phép t́m hiểu họ là ai? Những điệp viên này, tùy theo nhu cầu, có thể xin phép tuyển thêm nhân viên. Họ được trả lương và cung cấp máy truyền tin mới rất đều đặn. Cho đến nay, những điệp viên này vẫn c̣n sống, có điều không c̣n ai liên lạc với họ nữa, và họ cũng chẳng c̣n ai để báo tin.

Thông thường, cứ khoảng ba bốn tuần, chúng tôi lại làm một chuyến công tác nhảy toán một lần, mỗi chuyến công tác kéo dài khoảng 7 ngày, có khi kéo dài cả tháng, tùy t́nh h́nh an ninh tại nơi thâu thập tin tức, và nơi trực thăng bốc chúng tôi. Cuộc đời của nguời lính T́nh Báo Biệt Kích, tuy nguy hiểm và đầy những cam go và thử thách (có đời lính nào mà không nguy hiểm và cam go hay không?), nhưng đa số những toán t́nh báo đều trở về đầy đủ và an toàn. Sau mỗi chuyến công tác ở miền Bắc trở về, chúng tôi được đi máy bay Hàng Không Việt Nam về Saig̣n hoặc Đà Nẵng nghỉ phép.

Chuyến công tác dài bao nhiêu ngày th́ khi về sẽ được nghỉ phép bấy nhiêu ngày. Mỗi khi đi phép, chúng tôi đều mặc thuờng phục và sống tại những “Nhà An Toàn” đă định sẵn, chỉ những lần đi lĩnh lương th́ mới mặc quân phục mà thôi. Chúng tôi mặc quân phục của lính Nhẩy dù, đội mũ đen có gắn cánh dù tương tự như Binh Chủng Nhầy dù, nhưng kích thước lớn hơn (sau này mới đổi qua bê rê mầu xanh lá cây, giống như Thủy Quân Lục Chiến). Mặc dù không có Thẻ Căn Cước Quân Nhân, nhưng chúng tôi có một Giấy Chứng Nhận với chữ kư của Đại Tá Lê Quang Tung, chỉ huy trưởng Lực Lượng Đặc Biệt, trên đó có in tiêu đề của binh chủng, tên quân nhân, số thứ tự cùa giấy chứng nhận và huy hiệu cánh dù Biệt Kích. Tên trên giấy chứng nhận là tên thật của chúng tôi, và v́ không có h́nh ảnh dán kèm, nên mỗi khi chúng tôi gặp rắc rối, Quân Cảnh chỉ c̣n một cách duy nhất là gọi điện thoại cho Bộ Chỉ Huy của chúng tôi để hỏi thêm chi tiết mà thôi. Tiền lương chúng tôi lănh, là lương b́nh thường của người lính Việt Nam Cộng Ḥa, kèm theo phụ cấp bằng Dù, Bằng Biệt Kích mà thôi. Ngoài tiền lương này, về phía Mỹ, mỗi khi nhầy toán trở về, chúng tôi lănh thêm tiền phụ cấp của CIA, v́ những tin t́nh báo do chúng tôi thâu thập, CIA cũng đều sử dụng.

Tướng Dương Văn Minh đảo chánh Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm hồi nào? Tôi hoàn toàn không biết, v́ lúc đó, tôi và anh em c̣n ở tuốt ngoài Nghệ An lận.

Sau chuyến công tác, vào khoảng tháng cuôi tháng 11 năm 1963, tôi nhận được sự vụ lệnh về tŕnh diện Bộ chỉ huy gấp, do Đại Tá Lam Sơn, chỉ huy trưởng Lực Lượng Đặc Biệt kư.

Được mời về một cách đặc biệt như vậy, anh em trong toán, và ngay cả tôi nữa, cũng đều cho rằng, tôi sẽ được . . . thăng chức, hoặc ít ra cũng được . . . gắn huy chương v́ thành tích nhầy toán xuất xắc.

Vào pḥng chỉ huy trưởng, tôi chẳng thấy huy chương, cũng chằng thấy lon lá ǵ để sẵn cho tôi cả, trái lại, Đại Tá Lam Sơn hỏi tôi một câu mà tôi không hề dự định:

“Chú em là đảng viên của . . . Đảng Cần Lao Nhân vị, phải không?”

Tôi thất vọng, buồn bă trả lời ông:

-“Dạ đúng, thưa Đại Tá!”

-“Tại sao chú lại gia nhập đảng Cần Lao Nhân Vị?”

-“Tại v́ đàng này có đường lối ôn ḥa, tôn trọng sức cần lao và nhân vị con người.”

-“Chú em có biết rằng, Hội Đồng Tướng Lănh Cách Mạng đă ra chỉ thị đ́nh chỉ công tác, theo dơi, thấm vấn và loại trừ những đảng viên của Đảng Cần Lao hay không?”

-“Thưa Đại Tá, có phải đây là lư do tôi được gọi về tŕnh diện Đại tá?”

-“Đúng vậy.”

-“Nếu vậy th́ tùy Đại Tá định liệu. Tôi là lính, lúc nào cũng chỉ là một người lính mà thôi. Lệnh đó áp dụng cho những vị chỉ huy cao cấp ḱa, chứ c̣n tôi, suốt ngày tôi ở rừng ở núi, không lẽ Đại Tá d́nh chỉ công tác của tôi, cho tôi về . . . hậu cứ?”

-“Chú mày ngon! Dám nói như vậy với chỉ huy trưởng?”

-“Tôi đâu có c̣n cách nào để mà nói nữa, thưa Đại Tá.”

Đại Tá Lam Sơn chống tay cạnh sườn đi tới đi lui trong pḥng một hồi để suy nghĩ, cuối cùng, ông đập tay lên bàn một cái . . . Rầm, nói với tôi:

-“Được! Chú mày ngon, th́ anh cũng . . . chơi ngon với chú mày. Anh cho chú mày . . . mười bốn ngày phép, sau đó về tŕnh diện, làm việc tại đây với anh.”

Tôi đứng như trời trồng, không ngờ là ḿnh lại đuợc may mắn như thế. Đi phép hai tuần th́ tôi ham, nhưng về làm việc ngay tại cái hang cọp này, th́ tôi . . . ớn lắm. Đời trai, tôi đang c̣n thích bay nhẩy, làm sao mà ngồi một chỗ được. Tôi làm gan, nói lớn với vị chỉ huy:

-“Thưa Đại Tá, tôi không dám xin đi phép, chỉ xin Đại Tá cho tôi được. . . trở về đơn vị cũ.”

Ông Đại Tá cười sang sảng:

-“Đúng như anh nghĩ. Chú mày . . . bảnh thiệt! Vậy th́ anh cho chú mày mười bốn ngày phép, lănh lương liền, sau đó về lại căn cứ Vàng Pao, nghe chưa?”

Tôi . . . bay liền lập tức ra khỏi bộ chỉ huy.

Hai tuần lễ nghĩ phép đặc biệt thật là hạnh phúc. Tôi về nhà thăm cha mẹ, anh chị em, đi phố chơi với nguời yêu . . . đủ cả mọi thứ, tiền bạc xài rủng rỉnh.

Hết phép, tôi lại trở về vùng rừng núi đầy sương mù nơi đất Lào xa xôi cách trở.

Đầu năm 1964, toán t́nh báo của chúng tôi đuợc lệnh đi Nghệ An một lần nữa. Lần này nhiệm vụ hơi nhiều: Chúng tôi phải t́m hiểu chung quanh tỉnh Nghệ An có cả thẩy bao nhiêu bồn chứa xăng? Đă gắn bao nhiêu dàn rada? Lấy tin tức chính xác về “Đập nước Linh Cảm” những nơi có thể đặt bom để phả hủy đập nước này. . .

Tin tức được lấy đầy đủ, tôi báo cáo rơ ràng mọi chi tiết cho trung tâm và được lệnh trở về. Tôi cho anh em biết địa điểm tập trung, nói họ cứ đi trước, tôi c̣n một nhiệm vụ nữa phải làm, sẽ tới sau.

Địa điểm tới của tôi là đến nhà thờ Vinh, thăm cha sứ để làm quen và mời cha làm đầu cầu liên lạc mới, v́ cha là nguời nổi tỉếng chống cộng ở ngay tại miền Bắc Cộng Sản.

Tôi mua vé xe khách vào Vinh, rồi đi bộ tới nhà thờ. Vừa đi đuợc khoảng vài bước, tôi có linh tính là đang bị theo dơi. Trước khi lên xe, tôi đă dấu máy truyền tin ở một nơi rất kín, chí mang theo người giấy tờ tùy thân (giấy giả) và khẩu súng pḥng thân mà thôi. Hai tên công an mặc thường phục đă đến sát bên tôi rồi, tôi muốn rút súng ra bắn tụi này rồi chạy thoát thân. Nhưng súng chỉ dùng khi ḿnh có cơ hội chạy thoát mà tôi, bây giờ tôi đang ở trong thành phố, có bắn chúng nó th́ cũng không biết chạy đi đâu? Thôi th́ tới đâu hay tới đó. Hai tên công an tới sát bên tôi, một tên chĩa súng, tên kia hỏi giấy đi đường của tôi. Tôi b́nh tĩnh đưa tay vào trong áo, tính rút súng ra bắn thằng cầm súng rồi áp đảo thằng kia, nhưng chúng nó không phải có hai tên, mà c̣n nhiều tên bên cạnh đó nữa, chúng nhào vô đẩy tôi ngă xuồng đất rồi c̣ng tay bịt mắt tôi ngay lập tức. Một tên ṃ trong người tôi, lấy được khẩu súng và giấy tờ, hắn kêu lên mừng rỡ:

“Biệt Kích Miền Nam! Bắt được rồi.”

Về đồn công an, thay v́ đánh đập tra tấn, bọn chúng để tôi ngồi yên trong pḥng giam, gọi điện thoại đi tứ tung. Sáng sớm, một đám công an mới tới, có vẻ là cấp lớn hơn, chúng dắt tôi ra bắt đầu thẩm vấn. Càng trể càng tốt, gị này th́ các toán viên của tôi đă an toàn lên trực thăng rời khỏi Nghệ An rồi. Một tên hỏi dằn mặt tôi ngay lập tức:

“Tôi có danh sách sáu người Biệt Kích Miền Nam hoạt động trong vùng này. Chỉ có trưởng toán mới được quyền đi vào thành phố, anh tên là Nguyễn Văn Hinh, phải không?”

Đây chắc là đám chống t́nh báo của Việt cộng. Tôi không ngờ là bọn chúng lại có đầy đủ tên họ của cả toán Biệt Kích, lại tên thật nữa. Chối cũng vô ích, tôi nhận là đúng tên tôi.

Bọn chúng hỏi ngay máy truyền tin của tôi. May mắn là tôi không mang theo, nên khai là bị thất lạc ở trong rừng rồi. Bọn chúng hỏi số mật mă liên lạc với trung ương? Tôi trả lời thật dể dàng:

“Nhiều số lắm, tôi không nhớ hết được, nên đă ghi vào mảnh giấy, gắn vào máy truyền tin “

Bọn chúng hỏi rất nhiều, đa số là tôi khai “Không nhớ” “Không biết”. Cho dù là có biết, tôi cũng không khai, v́ biết rằng, lời khai của tôi sẽ có ảnh hưởng rất lớn cho những toán đi về sau. Thấy tôi không khai, bọn chúng đổi chiến thuật, mỗi ngày đưa tôi đến môt địa điểm khác nhau, đa số là nhà dân ở, rồi nói với tôi:

“Chúng tôi không có nhà tù, nên không bíết đem anh giam ở đâu cả, chỉ để anh ở chung với dân mà thôi.”

Nhưng tôi biết, đám dân này toàn là công an đội lốt cả, chúng nó cứ hỏi tôi những câu hỏi vớ vẩn, rồi xen kẽ vào những câu hỏi nghề nghiệp, làm cho tôi phải cố gắng lắm mới không tiết lộ bất cứ những điều ǵ cần phải dấu.

Cuối cùng, vào khoảng tháng 4 năm 1964, bọn chúng lôi tôi ra trước ṭa án nhân dân tỉnh Nghệ An, kết án tôi là “Gián Điệp Biệt Kích Miền Nam” và cho tôi bản án

Tù trung thân.

Xử xong chúng mói đem tôi ra mà làm thịt, chúng đánh tôi nhừ tử. Không khai câu nào, đánh câu nấy, không nói tiếng nào, đánh tiếng đấy. Chúng đánh tôi mềm người rồi mói xách lên xe đưa đi giam tại trại “Cổng Trời”.


Trại tù Cổng Trời không biết được xây từ lúc nào, chắc là do thực dân Pháp xây để giam giữ những nhà ái quốc chống lại chúng. Đó là một trại tù rất kiên cố, xây bằng đá xanh, hàng rào phía bên ngoài cũng bằng đá tảng, cao, cao lắm, cao vút tận trời (khoảng 4m ǵ đó), bên trên lại chăng giây kẽm gai nữa, chỉ có một cổng duy nhất đi vào mà thôi. Bị nhốt ở đây th́ không có cách chi mà vượt ngục, trừ khi vượt ngục bằng cửa chính. (Trại giam “Cồng Trời” nằm trong địa phận huyện Đồng Văn là một trong số 10 huyện của tỉnh Hà Giang.

Hà Giang là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp tỉnh Yên Bái và Lào Cai, phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang. Về phía Bắc, Hà Giang giáp tỉnh Vân Nam và tỉnh Quảng Tây nước Tầu. Trại Cổng Trời chỉ cách biên giới Việt Nam – Trung Cộng độ 10 km đường chim bay).
Tôi bị biệt giam ngay từ khi tới trại. Ban ngày tôi được tự do đi tới đi lui trong pḥng, ban đêm, chúng cùm tôi lại cho tới sáng mới mở ra.

Trại Tù Cổng Trời ở Hà Giang
Thời gian đầu, mỗi khi đêm xuống, tôi không tài nào ngủ được, tôi có cảm giác như người bị hơng chân, không tin rằng ḿnh đă bị bắt. Tôi nhớ lại từng hành vi, cử chỉ khi đang hoạt động ở Nghệ An. Tôi đă nhầy xuống vùng này nhiều lần, đă quá quen thuộc với đường đi nước bước rồi, tại sao lại để bị bắt? có thể v́ đă quá quen, nên tôi đă bị sơ hở?
Tôi hối tiếc, v́ đáng lẽ ra, tôi không nên đi xe ca (xe đ̣) vào buổi sáng, mà nên di vào buổi trưa hoặc chiều, v́ lúc đó, bọn công an đă trở về trại rồi. Nhưng tôi lại tự trả lời: Nếu tôi vào thành phố trễ, sẽ khó gặp cha xứ, v́ cha sẽ phải đi thăm các con chiên trong họ đạo.
Hối tiếc thứ hai của tôi là, cũng đáng lẽ ra, tôi không cần phải đi gặp cha xứ ngay trong lần này. V́ việc tới gặp cha xứ chỉ là tự nguyện, trong trường hợp có thể làm được mà thôi. Chỉ v́ tôi đă quá tôn trọng nhiệm vụ, nên đă liều mạng dùng xe ca để di chuyển.
Nếu tôi không đi gặp cha xứ, chắc chắn tôi đă không bị bắt rồi.
Trong khi ngồi trên xe ca, tôi quan sát, thấy người dân Nghệ An trên xe đều mặc quần áo giống tôi (đồng phục công nhân mầu xanh biển) nhưng chiều cao th́ thấp hơn tôi. Có thể chính cái vóc dáng này (1.76m) đă làm cho tôi khác với mọi người trong xe, nên bọn công an mới để ư và bắt tôi?
Trong thời gian bị chúng hỏi cung, tôi cũng đă trốn thoát một lần, nhưng tại sao tôi lại bị chúng bắt trở lại?

Khoàng hai tuần lễ sau khi bị bắt, chúng giữ tôi tại những căn nhà, gọi là . . . nhà dân và không c̣ng tay c̣ng chân tôi gỉ cả. Một hôm, nhân lúc chúng vừa cho tôi ăn chiều, lo thu dọn đem đi, th́ tôi tàn tàn đi theo chúng nó, thoát ra ngoài, đi thẳng luôn xuống cuối phố, t́m đuởng đi về miền núi. Tôi vừa trốn vừa đi, được ba ngày th́ tới vùng núi non, coi như là thoát rồi, chỉ cần leo lên tới lưng chừng núi là tôi sẽ t́m cách liên lạc với máy bay trực thăng để họ đón tôi về.

Nhưng mà tới lúc đó th́ tôi mệt quá rồi, ba ngày không ăn, không ngủ, tôi kiệt lực, gục xuống một gốc cây thiếp đi. Tới khi tôi tỉnh dậy th́ đă thấy bọn công an đang chĩa súng vào đầu tôi, chân chúng đang đạp lên ngực tôi, thế là tôi lại vào tù. Trên đưởng bị giải đi, tôi thoáng thấy đám trẻ chăn trâu đang nh́n tôi mà chỉ chỏ. Th́ ra đám con nít này đă thấy tôi, đi báo với công an.

Thôi th́. cũng là số mạng đă an bài, tiếc nuối làm chi.
Ḿnh đă làm tṛn nhiệm vụ của một người Biệt Kích. Ḿnh không làm điều ǵ sai trái, không để phiền lụy ǵ tới người khác. Hăy hănh diện v́ công việc ḿnh đă làm.

Suy nghĩ như vậy rồi, tôi chấp nhận với số mạng.
Ở một thời gian Trong trại giam, tôi đă có dịp quan sát trại tù. Pḥng giam của tôi rất nhỏ, chiều dài khoảng 2.5m, chiều rộng khoảng 2.00 m ǵ đó (tôi chỉ pḥng chừng, không nhớ rơ). Ba phía pḥng giam là tường xây bằng đá tảng, đằng trước là cửa gỗ. Qua khe cửa, tôi nh́n thấy trại giam chia làm hai dẫy pḥng đối diên nhau, cách nhau bằng một lối đi khoảng 1m. Tôi đă t́m cách liên lạc với anh em tù bên cạnh tôi và đối diện với pḥng giam của tôi.

Đối với người tù ở hai bên cạnh, tôi dùng muỗng bằng sắt, cạo lớp vôi giữa hai viên đá rồi gơ vào đả theo kiểu truyền tin (Morse). May mắn thay, người tù kế bên cũng là một Biệt kích, nên đă trả lời lại cho tôi. Anh này đă bị tù trước tôi, nên đă cho biết, có khoảng 40 Biệt kích bị giam ở đây, phần c̣n lại là những người dân miền Bắc bị bắt v́ lư do chính trị, những tu sĩ Công giáo và Phật giáo bị bắt trong chính sách diệt trừ tôi giáo của Việt Cộng.
Một hôm, sau khi nhận phần cơm, bọn cai tù đóng cửa bỏ đi, tôi thoáng nghe một giọng nói thật nhẹ nhàng:
“Bị bắt lâu chưa?
Tội ǵ mà vào đây?”
Lời nói như gió thoảng, tôi không nghe rơ cho lắm, và cũng không biết là ai nói với ai? Nên tôi giữ im lặng để cố nghe lại và t́m hiểu xem lời nói đó phát xuất từ đâu?
Giọng nói lại phát ra, lần này tôi nghe rơ, phát ra từ pḥng giam đối diện với tôi:
-“Bị bắt lâu chưa?”
Tôi vội vàng đứng thẳng lên, kê miệng vào khe hở của cánh cửa phía trên, trả lời vừa dủ nghe:
-“Tôi bị giam ở đây khoảng sáu tháng rồi”.
-“Tội ǵ mà vào đây?”
-“Tôi là Biệt Kích Miền Nam, nhẩy ra Bắc, bị bắt.”
-“C̣n tôi là Giám Mục Công Giáo.”
-“Thưa cha, con cũng là người theo đạo Công Giáo.”
Thế là chúng tôi quen nhau, và tiếp tục nói chuyện với nhau rất là tâm đầu ư hiệp. Tôi được biết, cha tên là Nguyễn Văn Vinh. Tôi và cha Vĩnh đă có đôi lần cầu nguyện chung với nhau (đương nhiên là vào ban đêm).
Vào một buổi sáng, khi bọn cai tù đi giao cơm, tôi nghe tiếng chúng mở cửa pḥng của cha Vinh, và nghe những lời đối thoại sau đây giữa người tù giao cơm và tên cai tù:
“Sao không thấy nó cựa cậy? Vào xem nó ra sao?”
“Nó . . . Chết rồi!”
“Tới giờ này mới chịu chết. Thôi được rồi, đóng cửa lại, không cần giao cơm nữa.”
Khi bọn chúng đi rồi, tôi cố gọi cha Vinh:
“Cha ơi, Cha Vinh ơi . . . Cha . . . C̣n sống không? Trả lời cho con đi.”
Tôi gọi cha Vinh nhiều lần nữa, nhưng cha Vinh không bao giờ trả lời tôi nữa. Tôi nhớ thời gian đó là khoảng cuối năm 1964.
Inline image
Bản đồ Việt Nam, do Nha Địa Dư Việt Nam Cộng Ḥa ấn hành, năm 1956.
GHI CHÚ: Ông Mặc Lâm, biên tập viên đài Á Châu Tự Do RFA 2010-12-24 / Phong Trào PNVN/HĐCN http://www.rfa.org đă phỏng vấn quư ông Phùng Văn Tại và Kiều Duy Vinh, như sau:
Ông Phùng Văn Tại, một giáo sư dạy môn giáo sử văn chương trong chủng viện, ông kể rằng:
“Ngày 24 tháng 12 năm 1959 tức là chiều hôm trước chuẩn bị trang trí nhà thờ chính ṭa để đón Noel, th́ Ủy ban Liên lạc Công giáo, tức là Ủy Ban Đoàn Kết Công giáo đến gây chuyện, tranh dành việc trang trí nhà thờ. Tranh giành như thế cha chính Vinh cho kéo chuông. Hai cái tháp nhà thờ Chính Ṭa của Hà Nội có 6 quả chuông cha chính Vinh cho ca đoàn lên kéo cùng một lúc, cứ như thể một cuộc báo động lớn năm 1959 cho nên kinh khủng lắm, và họ hô nhau đến bắt cha chính Vinh.”

Linh Mục Nguyễn Văn Vinh.
Có thể nói cha chính Vinh là nạn nhân đầu tiên trong chính sách xóa sổ thầm lặng đạo Công giáo mà chính quyền Hà Nội hướng tới. LM Nguyễn Văn Vinh do quá cương quyết và không chịu khuất phục đă âm thầm chịu chết sau đó trong trại giam Cổng Trời.

“Bắt cha chính Vinh xong họ bắt một số ca viên, có những người chỉ mới 16, 17 tuổi. Cha chính Vinh bị bắt và cuối cùng ngài bị đày lên Cổng Trời. Cổng Trời là một cái địa ngục nhốt cho đến chết th́ thôi, cùng với cha Lương Huy Hân. Cái chết của cha chính Vinh là như thế.”

Đại Úy Kiều Duy Vinh, khóa 4 Đà Lạt, kể lại rằng:
“Tôi tên là Kiều Duy Vĩnh sinh năm 1931 tại Hà Nội. Tôi học trường Chu Văn An, thế rồi giữa năm 1950 và 1951 tôi học ở trường sĩ quan Đà Lạt khóa 4. Tôi ra trường và đến năm 1954 tôi là đại úy tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 74 D Việt Nam ở khu 9 Linh Trang thuộc địa phận Hải Pḥng.

Vào năm 1954 tôi là con một, tôi không đi di cư và ở lại miền Bắc, tới năm 1959 tôi bị bắt đi tù. Tôi t́nh nguyện thứ nhất 10 năm từ năm 1959 tới 1969 tại trại Cổng Trời. Ở đó tôi gặp tất cả những người tử tù đặc biệt là 72 người đầu tiên.Tôi lên cùng anh Nguyễn Hữu Đang (ông là người từng lănh trọng trách tổ chức buổi lễ tuyên bố độc lập cho chính phủ Hồ Chí Minh. Ông cũng là con chim đầu đàn của phong trào Nhân Vân Giai Phẩm, bị bắt khi phong trào này đ̣i quyền tự do sáng tác.). Chỉ c̣n mỗi tôi và anh Đang c̣n sống c̣n 70 người c̣n lại chết cả trên trại cổng trời. “Trại cổng trời là cái tên một địa danh mà dân gian đặt ra v́ ở đấy nó là một cái dốc cổng trời. C̣n địa danh do Bộ Công an, Cục Lao cải th́ tên chính thức của nó là C65 HE công trường 75A Hà Nội. Không ai biết địa điểm của nó ở đâu, người ta muốn hỏi trại Cổng trời ở đâu th́ đến Hà Nội, hỏi Bộ Công an, và Bộ công an th́…đấy địa chỉ đấy…

Trước năm 1959 tôi với anh Đang lên th́ hầu như không có đường. Người ta chở chúng tôi tới Hà Giang rồi đi một đoạn nữa, rồi đi một đoạn nữa…cứ thế. Lúc ấy tôi đă là một sĩ quan rất biết địa h́nh lắm mà vẫn không biết vị trí thật của nó ở chỗ nào! Tôi ở đấy 10 năm từ 1959 cho tới 1969 th́ tôi được thả về.’
Đến đầu năm 1966 th́ bọn chúng đưa chúng tôi ra giam ở pḥng tập thể, từ 6 người trở lên, và bắt đầu cho học tập chính trị.
Tôi nhớ, bài học đầu tiên là “Tiến bộ của Xă Hội Chủ Nghĩa Liên Xô”. Bọn chúng tập trung anh em tù, đủ mọi thành phần, từ Biệt kích cho tới tù chính trị, tôn giáo . . . khoảng cả trăm người, ngồi đầy chặt cả hội trường. Tên cán bộ phùng mang trợn mắt kể:
“Ở một nhà máy đóng hộp thịt ḅ, người nông dân dắt con ḅ vào để làm thịt ḅ đóng hộp. Từ lúc dắt con ḅ vào cho đến khi giết ḅ, cạo lông, mổ ḅ, chia ra từng bộ phận . . . rồi đóng hộp, chỉ chừng nữa tiếng đồng hồ mà thôi. Sau đó, người nông dân đem về cả một bao đầy những hộp thịt ḅ đă đóng hộp xong để phân phối cho các hợp tác xă của ḿnh.”
Đến phần thảo luận, mà bọn chúng gọi là “Thu Hoạch” tất cả chúng tôi phải đưa ra những lời phát biểu để chứng tỏ rằng ḿnh đă hiểu sự tiến bộ của “Xă Hội Chủ Nghĩa” mà đứng đầu là Liên Bang Xô Viết.

Đến phiên tôi lên phát biểu, trước mặt mọi người , tôi đă kể lại sự ưu việt của Xă Hội Chủ Nghĩa, như sau:
“Liên Bang Xô Viết rất là tiến bộ, nhất là trong lănh vực máy móc cơ khí, đến nỗi các kỹ sư có thể làm sống lại một con ḅ đă được xẻ ra làm thịt hộp. Hồi ở miền Nam, tôi được đưa đi du học ở Tây Đức. Ở Tây Đức có rất ít ḅ, cho nên họ đă mua được một xưởng “Tái Tạo Thịt Ḅ” của Liên Xô. Người nông dân đi mua tất cả những hộp thịt ḅ do nhà máy đóng hộp thịt ḅ sản xuất ra, đem vào xưởng tái tạo.
Người công nhân bỏ tất cả các hộp thịt ḅ vào trong máy tái tạo, chờ chừng nửa tiếng sau, dắt ra một con ḅ nguyên vẹn, đang nhai cỏ, giao lại cho người nông dân.”

Tôi kể câu chuyện tiến bộ của Xă Hội Chủ Nghĩa này bằng một giọng rất là . . . khâm phục và kính nề, nên bọn cán bộ cứ đứng nghệt mặt ra mà nghe để khâm phục tiếp cho tôi. Những nhà tu hành, những tù nhân chính trị không quen với lối nói chuyện của tôi,nên họ cũng ngồi im lặng, bán tín bán nghi.

Nhưng những anh em Biệt kích của tôi th́ phá lên cười, họ vừa vỗ tay tán thưởng ưu việt của Xă Hội Chủ Nghĩa vừa ôm bụng cười nghiêng cười ngửa, cười như chưa bao giờ được cười.
Măi một lúc sau, những người tù khác mới hiểu ra rằng, chẳng thể nào có cái chuyện dắt một con ḅ vào hăng, nửa tiếng sau đem về một rổ thịt ḅ hộp. Muốn làm ra thit ḅ hộp, phải đi qua rất nhiều giai đoạn, mỗi giai đọan ỏ một hăng khác nhau, và mỗi hăng làm một lượt cả trăm con ḅ, chứ không thể nào làm từng con ḅ một. Và cũng không thể nào lấy thịt ḅ đă đóng hộp để mà trộn nó lại để làm nó trở thành một con ḅ sống b́nh thuờng đuợc. Tới lúc đó, họ mới rủ nhau cười lên ồ ồ.

Tên cán bộ kể câu chuyện “Tiến Bộ” tức điên người lên, nhưng hắn không làm ǵ tôi được, v́ rơ ràng tôi khen kỹ thuật tiến bộ của Liên Xô, tới nỗi Tây Đức là một quốc gia tiến bộ mà c̣n phải đi mua máy “Tái Tạo Thịt Ḅ” của Liên Xô. Tên này nói thêm vài câu nũa rồi chấm dứt buổi học tập.
Ra đến ngoài, anh em Biệt kích ào tới, nói với tôi:
“Thằng Việt cộng đă nổ, mày c̣n . . . Nổ hơn thằng Việt Cộng nữa! Cái hay là chúng nó cứ ấm ớ, không dám làm ǵ mày cả, v́ mày . . . khen chúng nó mà!”
Thế là từ đó, tôi có biệt danh “HINH NỔ”
Cứ thế, cuộc sống của chúng tôi ngày này qua ngày khác cứ thế mà trôi đi. Ban ngày th́ đứng ngồi trong pḥng giam, ban đêm th́ cùm kẹp. Bọn chúng không dám đưa chúng tôi ra ngoài rừng làm việc v́ sợ rừng núi là địa bàn hoạt động của chúng tôi, chúng tôi sẽ trốn đi ngay lập tức.
Đối với anh em Biệt kích chúng tôi, trong những ngày đầu tù tôi, đă có rất nhiều người nản chí, nhưng chúng tôi ráng t́m cách liên lạc với nhau, ráng khuyên nhủ nhau giữ vữg tinh thần, v́ ḿnh vẫn c̣n đường sống, mong chờ một ngày mai . . . Đại Quân Miền Nam sẽ đánh ra Bắc, giải thoát cho đám Biệt Kích. Hơn nữa, da số anh em chúng tôi đều là người Công Giáo, nên không bao giờ có chuyện tự tử, vỉ chỉ có Chúa Trời mới có quyền ban cho ḿnh lẽ sống và đưa ḿnh trở về với Chúa Trời.

Đến năm 1966, Không Quân Mỹ đă bắt đầu ném bom ở miền Bắc.
Bọn quản giáo sợ điếng người, nhưng chúng tôi lại mừng ra mặt. Chắc chắn sau những cuộc dội bom này sẽ có cuộc đổ bộ của Đại Quân Miền Nam, mọi người chuyền cho nhau những tin tức thật là nóng hổi, những suy luận thật là hợp t́nh hợp ly. Trong thời gian này, bọn quản giáo không dám lên mặt chửi bới hoặc có hành động ǵ hăm dọa chúng tôi cả. Trái lại, chính bọn chúng tôi đă . . . hù lại bọn chúng:
“Thằng nào làm ǵ, chúng tao nhớ tên từng đứa. Khi Đại Quân Miền Nam ra đây rồi, đố chúng mày chạy đâu cho thoát khỏi tay anh em Biệt kích chúng tao.”
Không thể ngồi không mà chờ đợi, anh em chúng tôi nẩy ra ư định:
VƯỢT TRẠI.
Chúng tôi để ư, mỗi lần có máy bay Mỹ đến dội bom, bọn quản giáo, bọn công an lại cùm chân chúng tôi lại rồi sách súng chạy xuống hầm trú ẩn hết, tới khi hết báo động mới dám chường mặt lên. Anh em trong pḥng giam của tôi đă bàn với nhau:

“Mỗi lần có c̣i báo động, từng nhóm hai tên công an đi với nhau, mỗi tên một khẩu AK và ba băng đạn. Đợi khi chúng tiến tới gần, xiết cổ chúng nó liền lập tức, rồi lột quần áo của chúng mặc vào, đi ra ngay cửa chính mà vào rừng. Lúc báo động, không ai để ư tới ai, ngay chính những tên công an gác ở đài kiểm soát cũng lo chạy xuống hầm, không lo khẩu thượng liên sẽ bắn ḿnh. Vào tới rừng rồi, dễ ǵ chúng t́m ra đuợc.”
Tin tưởng vào cách thức vượt trại này, chúng tôi xem xét, để ư từng cử chỉ, từng đường đi nước bước của bọn công an, t́m ra từng toán hai tên công an đi với nhau để chọn ra toán nào dễ thanh toán.
Rủi thay cho chúng tôi, một Biệt kích trong lúc ngủ mê đă tiết lộ kế hoạch vượt ngục:

“Ngày mai, chờ lúc có c̣i báo động, tôi và anh Hinh sẽ chờ sẵn, tới khi hai thằng Toán và Thể tới gần, sẽ quàng khăn xiết cổ tụi nó liền, nhũng người khác sẽ cướp súng, lột quần áo của hai tên này thật nhanh, rồi cùng . . . áp giải nhau ra cửa chính mà chạy.”
Anh Biệt kích nói trong cơn ngủ mê như vậy, đúng vào lúc hai tên công an Tóan và Thể đang đi tuần ở ngoài. Thế là chúng nhào vào tóm anh ngủ mơ ngay lập tức và đem chúng tôi lên pḥng tra hỏi.
“Chúng mày muốn . . . trốn trại, phải không?”
Tôi trả lời ngay lập tức:
“Đúng!”
“Thằng nào bầy mưu tổ chức?”
“Chẳng có ai bầy mưu tính kế ǵ hết. Thằng Biệt kích nào bị nhốt tù ở đây cũng đều muốn trốn tù hết. Trong đầu óc bất cứ thẳng Biệt kích nào cũng có mưu kế để trốn tù hết. Nếu không có ư định trốn tù, đâu phải là Biệt Kích!”
Inline image
-“Chính mày là chủ chốt vượt ngục, phải không?”
-“Tôi đă trả lời cán bộ rồi, trong đầu óc bất cứ một người Biệt Kích nào cũng có ư tưởng vượt ngục, không cần phải có người nào đứng làm chủ chốt cả. Tuy nhiên, ư định là một chuyện, làm được hay không lại là một chuyện khác, các anh canh gác như thế này th́ chúng tôi làm sao mà vượt ngục được!”

Hai tên công an nh́n nhau, thích thú v́ câu nói của tôi đă . . . khen chúng canh gác kỹ (Trên thực tế, ở trại tù Cổng Trời này, v́ địa thế hiểm trở, nên bọn Công an chỉ canh gác cho có lệ. Tôi nói móc họng tụi nó chứ không phải là khen). Chúng im lặng một lúc rồi cùng bước ra ngoài to nhỏ với nhau.

Tôi đoán rằng, trong lúc này, đầu óc tụi nó đang hoang mang lo sợ máy may Mỹ có thể đến thả bom bất cứ lúc nào. Nếu giữ tôi lại để tra tấn, để hỏi cung, lỡ máy bay Mỹ đột ngột bay tới, làm sao mà kịp giờ để chạy xuống hẩm? Chạy không kịp, lỡ bọn Biệt Kích nổi loạn, chúng nó dám . . . giết ḿnh lắm!

Hơn nữa, chúng tôi cũng chưa hề có một hành động nào chứng tỏ là sẽ vượt ngục, tất cả chỉ là một lời nói trong giấc mơ mà thôi.
Cuối cùng, hai tên cai tù trờ lại, chỉ đe doạ tôi:

-“Chúng mày liệu hồn. Ở trại Cổng Trời này, chưa bao giờ có chuyện vượt ngục, mà dù có vượt ngục cũng không thể trốn đi đâu cho thoát. Đă lên tới cổng trời rồi, th́ chỉ c̣n có một con đường duy nhất để mà đi tới là “Đồi Bà Then” chứ không c̣n con đường nào khác để đi xuống.”
Ghi chú: Đồi Bà Then là nơi chôn tù nhân. Chỉ bó chiếu mà chôn chứ không có mộ bia ǵ cả.

Sau đó, chúng lại cho tôi vào pḥng biệt giam, cùm tôi suốt một tuần lễ rồi mới cho ra pḥng giam chung.
Tù nhân ở trại Cổng Trời, với khí hậu khắc nghiệt, ăn uống thiếu thốn, lại không có thuốc men ǵ cả, rất khó mà kéo dài cuộc sống: Ban đêm, nhiệt độ có khi dưới 0 độ, anh em tù chỉ có trên người một bộ quần áo vải và cái chăn đơn. Lạnh không c̣n nơi nào lạnh hơn. Ăn uống th́ chỉ có khoai sắn, luộc với muối, lâu lâu có ít cơm. Nếu có bệnh, ráng chống chọi để mà qua cơn bệnh, nếu không qua khỏi cơn bệnh, th́ chỉ c̣n cách . . . đem chôn.

Anh em Biệt Kích chúng tôi c̣n sống được là nhờ vào niềm tin:
Niềm tin là một ngày nào đó, Đại Quân Miền Nam sẽ tấn công qua sông Bến Hải để Giải Phóng Miền Bắc, giải cứu anh em Biệt Kích.
Inline image
Quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa được trao trả. H́nh
của minhhoa’s photostream.
Nếu ngày hôm nay Đại quân chưa ra, th́ ngày mai, ngày mốt, một ngày nào đó . . . Cứ thế mà chúng tôi kéo dài cuộc sống tù đầy . . .
Vào một ngày của năm 1973, tất cả tù Biệt kích chúng tôi được dời về trại Phú Lu ở Lào Kay để học tập về Hiệp Định Giơ Neo và cách thức trao trả tù binh. Tôi đếm cả thảy có khoàng một trăm hai mươi Biệt Kích, bao gồm cả những anh em Biệt Kích nhẩy toán ở Cam Pu Chia, đường ṃn HCM và Hạ Lào. Vừa cho học tập, bọn Việt cộng vừa làm công tác tuyên truyền để cài người: Mỗi Biệt kích đều được chúng gọi riêng vào pḥng để doạ nạt, dụ dỗ sẽ cho trao trả sớm nếu chịu làm điệp viên cho chúng, báo cáo cho chúng những tin tức cần thiết ở Miền Nam.

Anh em chúng tôi về pḥng bí mật họp nhau lại, tương kế tựu kế, chỉ nói rằng sẽ làm những ǵ có thể làm, sau đó báo cho nhau đầy đủ những ǵ bọn chúng đ̣i hỏi, coi đó như là một tṛ chơi đấu trí mà thôi. Một số anh em c̣n bàn bạc trao đổi với nhau về những kinh nghiệm nhẩy toán, để nếu sau này c̣n nhẩy ra Bắc nữa, sẽ không mắc phải những lỗi lầm này. Nếu không nhẩy toán, sẽ làm huấn luyện viên, truyền lại những kinh nghiệm này cho đám Biệt Kích đàn em.

Thời gian học tập này là thời gian thoải mái nhất trong cuộc đời tù tội của chúng tôi. Thời gian này cũng là thời gian duy nhất mà anh em Biệt Kích không có ư định vượt ngục: Đang chờ để trao đổi tù binh mà! Vượt ngục làm chi? Cũng trong thời gian này, đôi khi chúng cho chúng tôi đuợc cho ăn thịt. Thông thường, khẩu phần tù được 9kg . . . “Chất Bột” bao gồm khoai, sắn, rau, muối và hiếm khi có một ít gạo. Thịt chỉ được ăn (vài miếng được gọi là thịt) vào hai ngày trong năm: Ngày Tết và ngày mà chúng gọi là “Độc Lập”.

Hàng ngày, chúng tôi được cho nghe tin tức từ đài phát thanh, và được biết, một vài nhóm tù Quân nhân Cộng Hoà đă được trao trả, làm anh em chúng tôi càng nức long hơn nữa.
Chờ măi, chờ măi cho đến tháng 10 năm 1973 mà vẫn chưa được trao đổi, anh em chúng tôi hỏi thẳng đám cán bộ:
“Tại sao chúng tôi không được trao trả?”
Bọn cán bộ trả lời quanh co:
“ Có nhiều toán được trao trả, ráng chờ tới phiên.”
Chờ không nổi nữa rồi, anh em chúng tôi bàn nhau:
Có thể bọn Việt cộng đă dùng chúng tôi để mặc cả một điều ǵ đó, nên mới chần chờ như vậy. Được trao trả theo Hiệp định Genevè là một dịp may hiếm có, phải nắm lấy cơ hội này, phài làm một cái ǵ đó để đ̣i hỏi, nếu không, sẽ không bao giờ c̣n cơ hội nữa.
Anh em Biệt Kích ra quyết định:
“Tuyệt thực, cho đến khi nào được trao trả!”
Không biết v́ lư do nào đó mà anh em Biệt Kích ở Trại Quảng Ninh cũng đă có quyết định tuyệt thực cùng một ngày với anh em Biệt Kích ở Phú Lu chúng tôi, làm cho bọn Việt cộng lo ngại đă có . . . gián điệp Miền Nam trà trộn vào trong đám cán bộ của chúng để cho hai trại biết tin nhau, chứ anh em Biệt Kích không thể nào thông tin với nhau đuợc, v́ hai trại ở rất xa nhau. Chúng tôi thấy bọn cai tù bối rối ra mặt, nên càng quyết định làm tới.

Tuyệt thực tới ngày thứ ba th́ bọn quản giáo họp chúng tôi lại, tuyên bố dỗ ngọt:
“Sẽ đưa nguyện vọng của anh em lên Bộ Công An để cứu xét gấp.”
Sau vài tuần chờ đợi, bọn chúng lại họp anh em chúng tôi lại, chia thành từng toán 20 người đưa lên xe đi, giải thích rằng:
“Trao đổi ở nhiều nơi khác nhau, nên phải chia toán ra mà đi.”
Toán thứ nhất có tôi, được đưa ra khỏi trại để lên xe.
Anh em c̣n lại vui ḷng chờ đợi tới phiên ḿnh.
Bất chợt, những người tù h́nh sự chạy vào báo cáo:
“Anh em trong toán vừa rồi, bị đưa lên xe bít bùng, vừa mới lên xe là bị c̣ng lại. Đưa đi đâu không biết!”
Anh em Biệt Kích c̣n lại họp khẩn với nhau:
Nếu đưa đi nơi khác làm thủ tục trao đổi, tại sao lại phải c̣ng lại? Tại sao phải ngồi xe bít bùng?
Như vậy, có nghĩa là anh em bị đưa đi trại giam khác, chứ không phải được đưa đi trao đổi.

Tất cả Biệt Kích yêu cầu quản giáo giải thích rỗ ràng, nếu không, yêu cầu trao trả đám anh em vừa mới được chuyển đi.
Bọn Công an từ chối giải thích và cũng từ chối trao trả đám tù vừa bị đưa đi. Không những thế, chúng c̣n chĩa súng ra lệnh cho anh em trở về khu nhà giam.
Nhịn không đuợc nữa rồi, anh em Biệt Kích quyết định:
Đánh!
Toàn thể hơn một trăm Biệt Kích bất chấp súng đạn, lưỡi lễ, đă nhào lên tấn công bọn Công an. Anh em dùng dao búa, đồ nghề và bất cứ thứ ǵ có thể dùng làm vũ khí, kéo bàn ghế làm chướng ngại vật để giao chiến với bọn Công An.

Bọn Việt cộng không chịu trao đổi th́ anh em Biệt Kích . . . Tự Trao đổi.
Phải thoát ra ngoài. Phải vượt trại. Phải vượt ngục.
Bọn Việt cộng cũng biết vậy, nên chúng kêu viện binh, thêm cả lính chính quy với đại liên và xe tăng trợ chiến. Kết cuộc, sau một ngày giao chiến, anh em Biệt Kích bị thúc thủ, lại bị bắt c̣ng tay giải đi từng trại khác nhau.
Toán đầu tiên của chúng tôi đă bị đưa trở lại trại Cổng Trời.
Vài ngày sau, đám Biệt Kích c̣n lại cũng lên nhập bọn và bị biệt giam ngay lập tức.

Khi được biết anh em v́ t́nh đồng đội, v́ chúng tôi mà đă bị bọn Công an đàn áp, chúng tôi chỉ c̣n cách nh́n nhau mà thương cảm, xót xa cho cuộc đời tù tội dưới chế độ Cộng sản.
Biệt Kích thương yêu nhau, dùm bọc lẫn nhau như thế đấy!
Tháng 6 năm 1975, đang nằm trong khu biệt giam, chúng tôi được bọn Công an cho nghe radio, phát tin:
“Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà đă đầu hàng Bộ đội Việt Cộng”
Anh em chúng tôi không ai tin cả, v́ đă một lần vào năm 1968, bọn chúng cũng đă cho chúng tôi nghe tin “Bộ đội Bắc Việt đă chiếm toàn cơi Miền Nam” Nhưng sự thật không phải là như vậy, nên lần này, dù bọn chúng có cho chug tôi nghe thật nhiều lần cái tin đầu hàng đó, chúng tôi cũng vẫn không tin, không nghe.

Măi tới tháng 10 1975, bọn Việt cộng tập họp chúng tôi lại, cho xem đoạn phim xe tăng Việt cộng húc đổ cổng sắt tiến chiếm Dinh Độc Lập, Tổng thổng Dương Văn Minh đọc lời hiệu triệu quân dân chính, kêu gọi quân nhân các cấp của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà buông súng ngưng chiến đấu.
Lúc đó, mặt trời mới hoàn toàn đổ xụp trên đầu chúng tôi.
Từ khi bị bắt tới bây giờ, anh em Biệt Kích chúng tôi sở dĩ c̣n sống đến ngày nay là nhờ vào ḷng tin. Ḷng tin một ngày nào đó Đại Quân Miền Nam sẽ tiến về giải phóng quê hương miền Bắc, tiêu diệt bọn Cộng sản dă man, mang lại hoà b́nh cho toàn cơi Việt Nam và giải cứu chúng tôi.
Inline image
Những người lính Biệt Kích đă chứng kiến cuộc sống an lành phồn thịnh của dân chúng ở miền Nam.
Những người lính Biệt Kích như chúng tôi, đă được trui luyện qua nhiều quân trường của quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Đào tạo ra một người lính Việt Nam Cộng Hoà đ̣i hỏi rất nhiều công phu sự luyện tập, đ̣i hỏi vừa khả năng về quân sự lẫn trí óc và ḷng tin. Ḷng tin vào chính nghĩa Tự Do, Cộng Hoà sẽ toàn thắng chủ nghĩa Cộng sản vô thần, vô tổ quốc, dă man, vô nhân đạo.

Đến khi bị bắt, chúng tôi đă được tận mắt chứng kiến mức sống cơ cực của người dân miển Bắc, đă được nh́n thấy những đám lính Cộng sản thiếu huấn luyện, vũ khí thô sơ, không có khả năng chiến đấu, chúng tôi đều có sự suy nghĩ, so sánh và kết luận là:
Miền Nam hơn Miền Bắc rất nhiều, do đó, chắc chắn quân đội của Việt Nam Cộng Hoà sẽ tiến về giải phóng Miền Bắc.
Sự thật xẩy ra đă quá trái ngược với niềm tin tưởng của chúng tôi.
Mặt đất dường như xụp đổ ngay dưới chân của tôi. Tôi đứng không vững, tưởng chửng như nếu bước tới một bước nữa, sẽ bị xụp xuống hố sâu.
Tôi mở mắt nh́n trời, mà tưởng chừng như bầu trời đă biến mất, không c̣n một tia sáng nào ỏ trước mặt.

Chúng tôi nh́n nhau, nói không nói lên lời, khóc không ra tiếng.
Niềm tin vào Miền Nam của chúng tôi đă xụp đổ!
C̣n ǵ để cho chúng tôi vịn vào đó mà sống nữa!
Một số trong anh em chúng tôi đă quá tuyệt vọng, đă tự tử.
Đến lúc này, chúng tôi mới chợt bừng tỉnh.
Trong chiến tranh, thắng bại là chuyện b́nh thường.
Tại sao lại phải chết?
Bại hôm nay, đâu có nghĩa là hoàn toàn bại trận.
Thắng hôm nay, đâu có nghĩa là măi măi thắng.
Lịch sử đă cho thấy, thua ngày hôm nay, ngày mai, năm sau, mười năm sau thắng lại vẫn là chuyện thường xẩy ra và có thể xẩy ra với Miền Nam Việt Nam.

Chúng tôi khuyến khích nhau, hỗ trợ tinh thần cho nhau để cùng đứng vững, cùng tin tưởng vào một ngày mai tươi sáng hơn.
Năm 1976, Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ và một số anh em từ trong Nam bị đưa ra ở cùng trại với chúng tôi, đă cho chúng tôi thật nhiều tin tức. Tin quan trọng nhất mà chúng tôi thu thập được là: Một số Sĩ Quan cao cấp của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đă thoát ra ngoại quốc và đang tổ chức những cuộc kháng chiến.

Thế là trong tâm khảm chúng tôi lại bừng lên một niềm hy vọng mới:
Sẽ lại có ngày ca khúc khải hoàn!
Đến năm 1977, bọn Việt cộng tập họp chúng tôi lại, loan tin:
Án chung thân cho tất cả các Biệt Kích được xoá bỏ. Kể từ nay, tất cả tù nhân sẽ được chuyển về các Nông trường để sản xuất.

Nghe th́ thật là nhân đạo, nhưng thực sự th́ là một phương cách chuyển trại tù mà thôi. Lư do là toàn thể nuớc Việt Nam bây giờ đều nằm trong tay bọn Việt cộng, chúng không c̣n sợ chúng tôi trốn trại nữa, nên thay v́ để chúng tôi ở trong tù, phí phạm, chúng chuyển chúng tôi về các nông trường sản xuất, bắt làm việc tự nuôi thân.

Tôi và một số anh em được đưa về Nông trường Hồng Thắng, ở Phú Lu, thuộc tỉnh Lào cay, để cuốc đất trồng khoai, trồng ḿ. Gọi là Nông trường cho có vẻ hoa mỹ, chứ thực sụ, nông trường này cũng nằm ở một góc rừng không có dân địa phương lai văng. Trong nông trường nhốt đủ mọi thứ tù: Từ tù h́nh sự tới dân sự, từ cán bộ tới bộ đội mà chúng gọi là “Hủ hoá, Tham ô”. Tù ra đồng từ sáng sớm tới tối mịt mới trở về khu nhà ngủ.

Những bữa ăn sáng trưa và chiều tối đều tập trung vào những lán, gọi là nhà ăn. Tất cá các loại tù đều xếp hàng ăn chung với nhau. Việc nấu nuớng ở nhà bếp và chia khẩu phần cơm canh được giao cho những tù h́nh sự, tức là những người ít ra c̣n được bọn Việt cộng tin tưởng, v́ họ sinh ra và sống muôn đời ở ngoài Bắc. Những tù nhân lo việc nấu nướng th́ an nhàn hơn và có thể dấu phần cơm thêm cho ḿnh, nhưng những người tù lo việc phân chia cơm canh lại không được an nhàn như vậy, v́ com canh là lẽ sống của tù, nên chỉ cần chia không đều một vài hột cơm, một nửa củ khoai hoặc sắn là các tù nhân có thể căi vă hoặc đánh người chia cơm liền lập tức, đôi khi đua tới đổ máu, giết lẫn nhau. V́ thế, dù là tù h́nh sự có dữ dằn tới đâu đi nữa, cũng không dám đứng chia phần cơm cho tù được quá một bữa. Các cai tù và tù chia cơm đành phải nhờ tới các Biệt Kích Miền Nam lo nhiệm vụ chia cơm. Lư do mà Biệt Kích Miền Nam dám làm và làm công viêc chia cơm một cách hoàn hảo, không phải v́ anh em Biệt Kích . . . dữ dằn hơn các loại tù khác, mà v́ những lư do như sau:
• Anh em Biệt Kích là những chiến binh can đảm, có số đông, lại luôn luôn bênh vực lẫn nhau. Anh em có đủ bản lănh để đánh trả những ai đụng tới ḿnh hoặc ức hiếp các tù nhân khác.
• Anh em Biệt Kích đều là nhưng người trọng danh dự, không làm lợi riêng cho ḿnh.
• Có đầu óc tính toán, biết cách làm việc, biết cách chia phần cho đồng đều. Đa số đều có tŕnh độ học thức, nên đều biết cách thức chế ra cái cân thăng bằng một đầu có dĩa đựng đồ ăn, đầu kia là quả cân bằng đá.
Ví dụ: Nếu mỗi người tù được nhận 100gram chất bột, th́ anh em cân thử trước mặt mọi người lần đâu: Để đồ ăn lên dĩa, rồi dời quả cân tới điểm thăng bằng và đánh dấu tại đó. Tới phiên lănh cơm th́ một anh xúc đồ ăn lên đĩa, anh kia dời quả cân tới đúng điểm đă đánh dấu, thế là xong, ai cũng có phần đúng như cân lượng.

Trong một bữa ăn trưa, sau khi tôi chia cơm xong, lấy phần của ḿnh ra một góc ngồi ăn, có một anh tù tới gần chỗ tôi ngồi ăn chung, tự giới thiệu anh ta tên Bưởi. Tôi hỏi anh thuộc loại tù ǵ? Anh thản nhiên trả lời:
“Tù . . . Tham ô”
Tham ô? Tôi hơi ngạc nhiên, v́ xứ Bắc nghèo nàn vô tận, có ǵ đâu để mà tham ô?
Anh thuộc loại cán bộ tập kết, lấy vợ là con gái của Phó Giám Đốc Mỏ Than Ḥn Gai. V́ tên Giám đốc ganh tị với bố vợ của anh, nên đă kết tội anh là tham ô, lăng phí. Anh bị kết án tù 10 năm, đưa lên làm lao động ở đây.
Sau vài lần ngồi ăn chung, một hôm, đột nhiên anh hỏi tôi:
“Hồi đó, tôi ở . . . căn nhà an toàn tại lầu 4 đường Trần Hưng Đạo, tôi có treo một bức h́nh Tổng Thống Diệm đang đứng hiệu triệu quốc dân. Không biết có c̣n không?”
Tôi giật ḿnh, lạnh sương sống, củ khoai lang mắc nghẹn trong miệng tôi, v́ tôi có thấy tấm h́nh Tổng Thống Diệm ở trên tường. Tôi im lặng quan sát anh Bưởi một lần nữa:
Anh Bưởi này là ai mà lại ở “Nhà An Toàn” của Biệt Kích?
Anh là ai mà lại treo tấm h́nh Tổng Thống Diệm lên trên tưởng?
Anh Bưởi vừa bóc vỏ khoai lang vừa nh́n quanh, khi đă quan sát để biết rơ không có ai nghe lén, anh mới tiếp tục nói:
“Tôi là Đại Úy Biệt Kích Lê Văn Bưởi, được đưa qua Thái Lan làm con nuôi một gia đ́nh cách mạng, rồi sau đó đưa về Hà Nội với tư cách . . . tập kết. Tôi được sắp xếp làm tại mỏ than Ḥn Gai. Nhiệm vụ của tôi là nhận đồ tiếp liệu từ Hà Nội dem về, nên lấy được nhiều tin tức lắm. Tên Thủ trưởng muốn tôi xuất kho những món hàng có thể đem bán được, tôi không chịu xuất, nên hắn t́m cách cáo buộc tôi là tham ô. Tôi bị tù nhưng v́ có bố vợ can thiệp, nên chỉ phải đưa đi làm lao động mà thôi.”
Tôi ú ớ, không biết có nên tin anh ta hay không? Tôi hỏi lấy lệ:
“Tụi nó đă biết . . . anh là ai hay chưa?”

“Chúng nó cũng là người thôi, chứ đâu phải là thần thánh ǵ để mà biết anh em ḿnh có mặt ở mọi nơi, và đang làm cái ǵ? Nếu chúng nó biết tôi là ai, th́ giờ này tôi đâu có ngồi đây mà nói chuyện với anh. Thôi, chào anh mạnh giỏi, ráng giữ vững tinh thần.”
Rồi anh đứng dậy, vươn vai đi trở lại chỗ làm.
(Ghi chú: Vào năm 2007, tôi có qua Mỹ dự đại hội “Biệt Kích Nhầy Bắc” và có gặp lại Đại Úy Bưởi. Anh kể tiếp cho tôi nghe đoạn cuối của cuộc đời Biệt Kích của anh:
“Năm 1984, tôi được tha, đem vợ con vào Saig̣n sinh sống. Khi nghe tin có chương tŕnh HO, tôi đi thằng tới Ṭa Lănh Sự Mỹ tŕnh diện. Họ coi lại sổ sách, có tên tôi là Biệt Kích Nhầy Bắc, gài tại Hà Nội, thế là họ cho cà gia đ́nh tôi qua Mỹ định cư.”
Anh Bưởi đă qua đời vào năm 2009.)

Anh em Biệt Kích chụp h́nh lưu niệm trước Quốc Hội Hoa Kỳ (1997) trong thời gian tranh đấu đ̣i quyền lợi. H́nh của http://www.chinhnghia.com/tiengnoicongly.asp
Năm 1978- 1979, chiến tranh biên giới giữa Trung cộng và Việt cộng bùng nổ, anh em Biệt kích c̣n bị nhốt ở trại Cổng Trời xôn xao bàn tán: Từ Cổng Trời tới biên giới Trung cộng rất gần, chỉ leo qua ngọn núi là tới. Hăy nhân dịp này mà vượt trại đi thôi. Ở đây th́ chỉ là kiếp tù đầy cho đến chết. Đằng nào cũng chết, chết trên đường t́m Tự do c̣n hơn sống nhục. Thế là một số anh em đă cùng với những Biệt kích của Trung Hoa Dân Quốc (Tưởng Giới Thạch) đă vượt trại đi qua Trung cộng. Số phận của họ ra sao, không ai được biết.

(Ghi chú: Cũng trong dịp đi dự đại hội Biệt Kích Nhầy Bắc vào năm 2007, tôi đă được biết tin: Số anh em Biệt Kích Trung Hoa Dân Quốc, trong đó có anh Ṿng A Cầu và Lê Trung Chính, sau khi vượt trại Cổng Trời, đă qua được tới Trung cộng. Bằng cách nào đó, họ đă liên lạc với Ṭa Đại Sứ Mỹ và cũng đă được bốc về Đài Loan và cuối cùng, họ đă chọn định cư ở Mỹ.)

Phần anh em chúng tôi (khoàng 18 người) ở Nông trưởng Hồng Thắng, bị bọn Công an chuyển về Hà Nội, trực thuộc Cục Quản Lư Trại Giam, để sửa chữa nhà cửa. Bọn chúng phát quần áo công nhân mầu xanh bỉển cho chúng tôi mặc, mỗi sáng đưa chúng tôi lên xe chở đi sửa chữa những trại giam bị hư hại. Sau một thời gian quen thuộc, chúng không đưa xe đi nữa mà bắt chúng tôi tự di chuyển bằng xe lửa. Mỗi buổi sáng, chúng tôi tới ga Hàng Cỏ đón xe lửa tới những trại giam được chỉ định để làm việc, tối lại đón xe lửa về Cục Quản Lư Trại Giam trính diện.

Một hôm, khi chúng tôi vừa tới nhà ga th́ thấy một số các bà các cô đang gồng gánh và khiêng những kiện hàng nặng chĩu xuống xe lửa. Những người này mặc dù mang vác đồ đạc nhưng họ có dáng điệu và cách ăn mặc khác hẳn đám đàn bà buôn bán thường đi xe lửa tại đây. Chắc chắn họ là thân nhân của các Sĩ Quan Miền Nam đang mang đồ đạc thực phẩm tiếp tế cho chồng đang bị tù ở những trại tù ở miền Bắc. Tôi tới gần họ nghe ngóng, một cô trẻ tuổi nói với mẹ:
“Má à, cái đồ này nặng lắm, để cho con “gắn” cho, má mang cái giỏ này đi.”
Trời ơi! Giọng nói của người Miền Nam!
Một giọng nói mà tôi tưởng chừng như là không bao giờ con nghe lại được nữa!
Trong phút chốc, tôi quên mất tôi là người sinh đẻ ở miền Bắc, để nhận tôi là người Nam, và cái giọng nói miền Nam đó là giọng nói của Mẹ Việt Nam của tôi, của đất nuớc tôi.

Nước mắt tôi trào ra. Tôi đứng im nh́n những người đàn bà mà tưởng chừng như đă được về nhà, đang đứng trước cửa nhà của tôi, và trong số những người đàn bà này có mẹ tôi, có cô d́ có chị em của tôi. Tôi mừng quá, chỉ muốn chạy ngay lại chổ bọn họ để mà hỏi thăm, để được nói những câu nói, được nghe những giọng nói mà tôi đă không được nghe từ hơn mười lăm năm trời nay.

Nhưng tôi kịp ngưng lại để nhớ thân phận ḿnh đang là tù, đang ở Hà Nội. Tôi đứng im để cố nhớ lại những tù ngữ miền Nam mà tôi đă học được suôt muời năm sinh sống ở Miền Nam của tôi, khi nhớ lại rồi, tôi chạy lại chổ các bà các cô đang khiêng hàng, cười tươi tỉnh, ráng lấy giọng miền Nam mà nói câu nói đầu tiên:
“Chào mấy chị. Mấy chị mang đồ đi thăm nuôi chồng học cải tạo đó, phải hông?
Tui cũng là người xứ Nam Kỳ như mấy chị đó, tui theo ba tui ra tập kết ngoài đây. Để tui phụ mấy chị khiêng đồ xuống nha.”
Những người đàn bà nghe tôi nói tiếng Nam pha giọng Bắc, mặc dù họ không biết tôi là cái thứ ǵ, nhưng trong xứ Bắc mà nghe được một giọng Nam th́ cũng một phần nào có ḷng tin, họ nhờ tôi khiêng những đồ nặng xuống để chung một chỗ. Tôi hỏi họ muốn đi thăm nuôi ở vùng nào? Trại nào? Rồi ra ngoài mặc cả xe thồ, xe kéo đưa họ đi. Trong khi sắp xếp phuơng tiện, tôi từ từ hỏi họ về t́nh hỉnh ở trong Nam ra sao? Nhất là vùng Thủ Đức, nơi cha mẹ tôi ở.

Chiều về, tôi lại đứng chờ ở ga xe lửa để đón những thân nhân đi thăm tù cải tạo. Tôi lại giúp họ mang vác và mướn xe để ḍ hỏi thêm tin tức trong Nam. Họ cho tôi biết, Việt cộng đă cho đổi tiền, đưa các sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đi tù cải tạo, đánh “Tư Sản Mại Bản”. Tôi cũng cho họ biết tôi theo cha đi tập kết, đă lâu không về miền Nam, nên muốn trở về thăm nhà, nhưng không biết làm cách nào để về, v́ không có giấy tờ, cũng chẳng có tiền bạc ǵ cả. Họ khuyên tôi nếu muốn về Nam, cứ đi về đi, Việt cộng chưa đến nỗi kiểm soát quá kỹ đâu, nhưng nên đi theo các xe chở hàng đỡ bị kiểm soát hơn.

Tối hôm đó, tôi nằm trong trại vắt tay lên trán suy nghĩ. Tương lai của tôi hiện tại chỉ là chôn chặt cuộc đời ở miền Bắc rồi chết đi như một người tù mà thôi. Đằng nào cũng chết, tôi phải bằng mọi cách trốn về Nam. Nhưng nếu đi bằng xe lửa, tôi không có tiền mua vé, dù có tiền mua vé, th́ cũng sẽ bị bắt ở các trạm kiểm soát. Do đó, tôi quyết định phải đi theo xe hàng như đă được thân nhân tù cải tạo chỉ dẫn.

Sáng hôm sau, tôi đi ḍ la bến xe chở hàng ở đâu? Đám xe thồ chỉ cho tôi lối đi tới bến xe Kim Liên. Tôi tới bến xe, vừa lúc một đoàn xe chở hàng ở miền Nam vừa mới tới. Những người tài xế đang túa ra quán ăn sáng, có một người tài xế không đi, đang lui cui mắc vơng nằm nghỉ. Tôi bước tới làm quen.

Anh tài xế cho biết, anh chở hàng từ Saig̣n thẳng tới Hà Nội, nghỉ một đêm rồi lại quay về Nam. Tôi nh́n kỹ trên cổ anh ta có đeo một giây chuyền có h́nh thánh giá. Mừng quá! Tôi đă gặp . . . phe ta rồi! Tôi cố t́nh bẻ cổ áo để lộ rơ cái giây chuyền có h́nh thánh giá đă lên nước bóng loáng của tôi, hỏi anh mới từ trong Nam ra phải không? Đường xá có hư hại nhiều lắm không? Vợ con ra sao? Cuối cùng, tôi hỏi anh trước đây anh có làm nghề lái xe “Tải” hay không mà dám lái đường trường như vậy? Anh cho biết, anh nguyên là Trung sĩ Quân vận của “Lính Ngụy”, nên lái xe đường xa thường lắm. Tôi lấy bổn cũ ra soạn lại, cũng tâm sự là dân miền Nam, tập kết ra Bắc, nhớ nhà quá, bây giờ muốn . . . quá giang xe của anh về Nam thăm gia đ́nh. Tôi nói rất ngậm ngùi là, ở ngoài Bắc này, tôi chỉ được nuôi ăn thôi, chứ không có tiền lương như ở miền Nam, nên sẽ không có tiền trả cho anh, chỉ xin tặng anh cây Thánh Giá bằng gổ Soan mà tôi đang đeo trên cổ.

Ngoài sự dự đoán của tôi, anh trung sĩ hỏi tôi một câu thật là . . . cắc cớ:
“Chú có Đạo, sao lại đi . . . tập kết?”
Tôi bí lối, ráng b́nh tĩnh trả lời:
“Hồi đó, tôi c̣n nhỏ . . . biểu đi th́ đi, chứ đâu có biết là đi đâu!”
Rồi cũng ngoài sự tưởng tượng của tôi, anh Trung sĩ không hỏi ǵ thêm nữa, mà đồng ư ngay:

“Muốn . . . dźa nhà th́ dźa. Tụi tui rời bến sáng sớm mai, muốn . . . guá giang th́ bốn giờ sáng mai có mặt tại đây.”
Tôi mừng quá, bắt tay anh rối rít hẹn sáng mai đúng bốn giờ sẽ có mặt.
Tôi hôm đó, tôi dặn tên công an gác cổng là ngày mai tôi phải đi làm sớm, sẽ rời trại lúc ba giờ sáng. Tên này đồng ư.
Đúng bốn giờ sáng, tôi có mặt tại bến xe Kim Liên gặp anh tài xế. Anh ta mời tôi một gói xôi rồi giới thiệu tôi với anh phụ xe. Xe nổ máy, anh cho tôi ngồi giữa.

Xe bắt đầu rời bến, tôi hồi hộp y như là lúc tôi ngồi trên trực thăng sửa soạn nhẩy xuống Nghệ An mười lăm năm trước đây.
Xe chạy ngang Huế, tôi thấy một vài cửa hàng có treo đèn trung thu, tôi mới biết là sắp tới rằm Tháng Chín.

Đoàn xe vào tới miền Nam mà không phải dừng lại ở bất cứ trạm kiểm soát nào. Cuộc đào thoát của tôi đă trót lọt một cách cực kỳ êm đẹp, không thể nào ngờ được. Trên đường đi, tôi đă nghĩ ra hàng ngàn khó khắn sẽ ập tới, và hàng ngàn câu trả lời mà tôi sẽ phải trả lời. Cuối cùng là nếu bị bắt, tôi sẽ . . . tự xử bằng cách nào để xứng đáng với một Biệt Kích Miền Nam và không làm liên lụy tới người tài xế Quân Vận.
Vậy mả không một khó khăn nào đến với tôi hết!
Xe vào tới địa phận Thủ Đức, tôi xin anh tài xế cho xuống, cám ơn anh, bắt tay anh thật nồng nhiệt.
Cám ơn Thượng Đế.
Cám ơn Đức Chúa Trời.
Con đă thoát khỏi ngục tù Cộng Sản rồi.
Cám ơn anh Trung sĩ Quân Vận của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Cầu xin Chúa phù hộ cho anh.
Lúc đó là bốn giờ sáng, trời c̣n tối lắm, tôi đi bộ tới cái quán cà phê đầu đường. Cái quán này có từ thời tôi nhập ngũ, nay vẫn c̣n đây. Tôi đứng lảng vảng chờ cha mẹ tôi đi lể buổi sáng. Theo thông lệ từ lâu đời, mỗi sáng, cứ vào khoảng năm giờ sáng là cha mẹ tôi dắt tay nhau đi lễ sớm. Khi chưa nhập ngũ, tôi cũng đă từng theo cha mẹ đi lễ sớm.
Đây rồi, mẹ tôi đang từ nhà buớc ra, tôi hồi hộp nhập theo đoàn người thưa thớt bước theo. Tới gần mẹ, tim tôi đập mạnh hơn bao giờ hết. Tôi muốn nói nhưng cổ tôi nghẹn lại. Tôi cố lên tiếng:
“Mẹ! . . . Mẹ ơi . . .”
Đến lần thứ ba tôi mới nói ra tiếng.
Nhưng tôi nói nhỏ quá, mẹ tôi không nghe rơ. Bà thấy có người đi gần th́ lảng ra xa. Tôi bước theo cố gắng nói cho bà đủ nghe:
“Mẹ ơi . . . Con là Hinh đây . . . “
Mẹ tôi quay lại nh́n tôi. Chắc bà nghe không rơ nên lại quay lại tiếp tục bước đi.
Tôi tiếp tục đi theo bà, nói tiếp:
“Mẹ ơi . . . Con là Hinh con trai của mẹ đây.”
Lần này, mẹ tôi đă nghe rơ, bà quay lại nh́n tôi, nh́n từ đầu đến chân:
“Thằng Hinh . . . đấy à.”
Rồi bà té xỉu xuống đất.
Tôi đă dự pḥng trường hợp này rồi, nên tôi ôm chặt lấy mẹ, d́u mẹ tiếp tục bước đi. Một lúc sau, mẹ tôi tỉnh lại, bà nắm chặt lấy tôi như sợ tôi lại biến đi, bà vừa khóc vừa hỏi tôi:
“Con . . . ở đâu về vậy?”
Tôi cũng vừa khóc vừa trả lời mẹ:
“Con nhẩy dù ra Bắc lấy tin tức t́nh báo, bị bắt tù từ ngày đó tới giờ. Con . . . trốn trại về đây.”
Mẹ nghe tôi nói th́ vội vàng đổi hướng quay trở lại:
“Về nhà! Về nhà ngay đi con.”
Hai mẹ con vội vă quay trở về nhà. Mẹ chờ tôi vào nhà, đóng cửa cài then chặt chẽ rồi mới hỏi tôi ngọn ngành.
Mẹ cho tôi biết, ba tôi đă mất cách đây ba năm. Anh em tôi một người đi Không Quân, lái trực thăng, đă chết trận, người kia là Đại úy Biệt Động Quân, đóng ở Long B́nh, sau 30 tháng Tư 1975 không thấy về nhà.
Tôi ở trong nhà suốt mấy ngày trời, hai mẹ con cố gắng t́m cách nào để hợp thức hóa sự có mặt của tôi.
Cuối cùng, mẹ tôi đă nghĩ ra cách giải quyết: Nhà tôi c̣n thân nhân ở lại ngoài Bắc. Tôi sẽ đóng vai chồng của đứa em họ ở Hà Nội vào Nam thăm gia đ́nh. Mặc dù từ thủa nhỏ tôi chưa hề đóng kịch, nhưng đóng vai người ở ngoài Bắc vào Nam th́ tôi rành đủ sáu câu.
Sau hơn mười lăm năm xa nhà, lại có thân h́nh gầy g̣ ốm yếu và cách phát âm đúng điệu Việt cộng, thêm bộ quần áo xanh công nhân mà ở trong Nam không thể có, nên ngay cả những người hàng xóm cũng không nhận ra tôi là ai?
Mọi chuyện được dàn xếp đâu vào đấy. Công an tổ dân phố cũng đă đến kiểm soát. Cái giọng Bắc chính cống Việt cộng, thêm bộ quần áo công nhân làm cho đám công an nể tôi lắm, không hỏi thêm bất cứ câu hỏi nào cả, cũng không thắc mắc tôi sẽ ở trong Nam bao lâu?
Nhưng không lẽ ông cháu rể cứ sống bám măi ở trong Nam, không về Bắc? Tôi không thể nào đóng măi vai này được, phải t́m cách khác giải quyết.
Sau nhiều lần bàn căi, mẹ tôi quyết định t́m đường cho tôi . . . Vượt Biên T́m Tự Do.
Tháng 11 năm 1979, người quen với mẹ tôi giới thiệu một mối ở Long Xuyên. Tôi xuống dưới đó, lên thuyền. Ghe chở đầy . . . muối, đi Rạch Giá.
Buổi tối, ghe chuyển hướng nhắm cửa biển xả máy chạy thẳng.
Đi bốn ngày đêm, tầu của chúng tôi được một tầu buôn vớt, kéo tới Singapore.
Vài tuần lể sau, phái đoàn Mỹ tới phỏng vấn tôi:
-“Anh là Biệt Kích được thả ra Bắc?
Đúng.
Anh có muốn định cử ở Mỹ hay không?
“KHÔNG!”
-Tại sao anh là Biệt kích mà lại không muốn đi Mỹ?
-Tại v́ chính quyền Mỹ đă bỏ rơi Việt Nam Cộng Ḥa, nên chúng tôi mới bị thua trận.
– Trong thời gian ở tù ở miền Bắc, anh có thấy bất cứ tù nhân Mỹ nào hay không?
– Có.
– Tôi đại diện cho chính phủ Mỹ, xin mời anh tới định cư ở Mỹ. Anh có thể cung cấp cho chúng tôi tin tức về những người tù binh Mỹ mà anh đă gặp, chúng tôi phải cứu dân của chúng tôi.
– Cám ơn ông đă mời, nhưng tôi không xin đi Mỹ đâu. C̣n về tù binh Mỹ, ông cứ việc hỏi, tôi sẽ trả lời.
– Rất tiếc, tôi không phải là người làm nhiệm vụ thâu thập tin tức t́nh báo. Tôi sẽ báo cáo trường hợp của anh cho cấp trên dể họ cử người xuống gặp anh.
– Vậy khi nào những người thâu thập tin tức đó tới, tôi sẽ nói cho họ hay.“
Tôi được chinh phủ Ḥa Lan chấp thuận cho định cư ở nước họ. Đúng bốn tháng trời ở trại tỵ nạn, tôi lên máy bay tới Ḥa Lan.
Bốn chục tuổi đời, tôi vẫn c̣n . . . Độc Thân Vui Tính.
Hai tháng sau khi tói Ḥa Lan, tôi nhận được thơ của Ṭa Dại Sứ Mỹ . . . mời qua Mỹ gặp Đại Tướng Smith của Biệt Kích Mỹ. V́ tôi là người Biệt Kích Nhẩy Bắc đầu tiên vượt thoát được lao tù Việt cộng, nên họ muốn nhờ tôi cung cấp những chi tiết cần thiết cho họ, mọi chi phí di chuyển, ăn ở . . . trong tḥi gian 6 tuần lễ tại Mỹ đều do toán này lo liệu.
Tất cả những câu trả lời về các trại giam Biệt kích, tôi đều trả lời đầy đủ.
Toán đặc nhiệm về tù binh Mỹ hỏi tôi có gặp bất cứ tù nhân Mỹ nào bị giam ở Bắc Việt hay không?
Tôi cho biết, khi sửa chữa những nhà tù ở Hà Nội, tôi có thoáng thấy những tù binh Mỹ bị giam ở đó.
Có bao nhiêu tù binh Mỹ?
Tôi không biết, chỉ thoáng thấy mà thôi, không được đứng lâu ở đó.
Tên họ những người tù binh Mỹ?

Cái đó tôi lại càng không thể biết được. Tôi đâu phải là công an Việt cộng đâu mà biết tên họ của những tù binh này.
Cuối cùng, tôi đoán ra mục đích của chuyến đi của tôi: Mỹ chỉ muốn biết về số phận của những tù binh Mỹ bị giam ở Bắc Việt mà thôi. Rất tiếc, tù Biệt kích không có giam chung với tù binh Mỹ, tôi chỉ xác nhận là có thấy những tù binh này mà thôi, ngoài ra, tôi không giúp ǵ thêm cho họ được cả.

Tôi trở về Ḥa Lan, lập gia đ́nh và tiếp tục cuộrc sống tỵ nạn.
Đến năm 1984, Việt cộng bắt đầu trả tự do cho những Biệt Kích Miền Nam, tôi có gỏi thơ về nhờ gia đ́nh t́m gặp một số bạn bè trong toán của tôi. Anh em Biệt kích vẫn liên lạc mật thiết với nhau, nên tôi t́m họ không khó. Tấm h́nh đầu tiên trong đời mà anh em Biệt kích chụp chung với nhau là tấm h́nh do Ninh “Côi” gởi cho tôi (Ninh mồ côi cha mẹ, lại chưa có bồ, nên chúng tôi đặt cho anh biệt hiệu “Mồ côi”). Ninh lấy vợ, đám cưới có đầy đủ những Biệt kích tới tham dự, họ chụp chung một tấm h́nh gởi cho tôi. Tấm h́nh này là gia sản độc nhất của cuộc đời Biệt kích của tôi. Tôi sẽ giữ nó măi măi . . .

Đám cưới của Ninh “CÔI”. Bạn bè và phù rể đều là anh em Biệt Kích
Nhầy Bắc.

Từ năm 1987, 1991 . . . 1992 . . . 1974, bắt đầu chương tŕnh HO, tất cả các Biệt kích đều được đưa qua định cư tại Mỹ. Chúng tôi vẫn tiếp tục liên lạc với nhau để giúp đỡ và bảo vệ quyền lợi của nhau.
Sau hơn mưới năm ở Ḥa Lan, với lư do đoàn tụ gia đ́nh, gia đ́nh nhỏ của tôi đă được bên vợ bảo lănh qua Úc sinh sông từ năm 1998.
Năm 2007, lần đầu tiên anh em Biệt Kích Nhẩy Bắc đă tổ chức cuộc hội ngộ tại Hoa kỳ. Tôi đă gặp lại những anh em cùng toán nhầy Bắc với tôi. Sau những hàn huyên tâm sự, chúng tôi dở sổ đời ra cùng ngồi lại tính toán với nhau.

Trong lần nhẩy cuối cùng ra Bắc, toán của tôi có sáu nguời, chỉ một ḿnh tôi bị bắt mà thôi. Năm anh em c̣n lại đă nhập vào những toán khác tiếp tục nhẩy ra Bắc, một người tử trận trong khi giao tranh, hai người khác chết v́ đói và lạnh ở trại tù Cổng Trời, c̣n ba người chúng tôi sống sót, đă gặp nhau và đang bàn tán với nhau đây.
Có một số người cho rằng, trước khi nhẩy ra Bắc, anh em chúng tôi đều được lănh trước . . . 12 tháng tiền tử!
Không. Không một ai trong đám Biệt Kích Nhẩy Bắc của chúng tôi được nghe nói tới hoặc lănh số tiền này cả.

Tính kỹ ra, mỗi kỳ nhẩy toán, xác xuất đều là . . . Năm Ăn Năm Thua. V́ tin vào xác xuất này, chúng tôi mới dám ra đi, chứ nếu biết . . . Đi là Chết, chắc chắn là anh em chúng tôi sẽ không bao giờ đi, mặc dù can đảm chúng tôi có thừa. Cấp trên của chúng tôi đều cũng lả Lính, đều cũng là người, không lẽ họ đẩy chúng tôi vào chỗ chết một cách b́nh thản như vậy sao? Chắc chắn trên thế giới, chưa có toán biệt kích nào ra đi để chắc chắn nhận lấy cái chết. Như tôi đă nói ở trên, nhẩy toán ra Bắc cũng chỉ là một cuộc hành quân, giống như những cuộc hành quân của những binh chủng khác trong quân đội mà thôi. Trước khi ra trận, ai cũng hy vọng trở về an toàn, Biệt kích nhẩy Bắc cũng vậy, chúng tôi cũng hy vọng trở về an toàn. Sống chết là do số mạng, do sự rủi ro, sự nguy hiểm của chiến tranh mà thôi.

Chỉ từ năm 1966 trở đi, không hiểu v́ lư do nào mà đa số anh em nhầy toán đều bị lộ, một số bị chết trong khi giao tranh, số c̣n lại đều bị bắt. Có thể là Sở Bắc đă bị bọn Việt cộng gài người vào, nên những toán sau đó mới bị lộ h́nh tich như vậy. Thật là đáng tiếc.
Tuy nhiên, chiến tranh là như vậy, chẳng có một quy luật nào cả.
Thắng một trận, chưa phải là hoàn toàn thắng.
Thua một trận, cũng không phải là hoàn toàn thua.
BIỆT KÍCH LUÔN LUÔN HY VỌNG VÀO NGÀY MAI
NGÀY MAI ĐÂY, ĐẠI QUÂN MIỀN NAM SẼ TRỞ LẠI.

Ông Sedgwich Tourison (một tù binh Mỹ, đă giúp đở và tranh đấu cho quyền lợc của anh em Biệt Kích Nhẩy Bắc) chụp h́nh chung với anh em Biệt Kích và gia đ́nh của họ. (H́nh trên internet)

GHI CHÚ:
Vào năm 1996, anh em Biệt kích đă làm đơn khiếu nại lên Quốc Hội Mỹ xin bồi thường và lănh tiền lương cho những tháng năm bị bắt giam tại Bắc Việt. V́ ngoài nhiệm vụ là người Lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, anh em c̣n kư hợp đồng cung cấp tin tức cho CIA nữa. Quư ông Sedgwick Tourison, Luật sư John Mattes, Thượng Nghị Sĩ John Mc Cain . . . là những người đă tích cực hỗ trợ và vận động cho anh em. Cuối cùng, vào năm 1999, Quốc Hội Hoa Kỳ đă chấp nhận bồi thường và cấp huy chương Phục Vụ cho tất cả các Biệt Kích Nhẩy Bắc.

Luât sư Jonh Matter (người đă giúp đở và bênh vực quyền lợi cho các Biệt Kích
Nhẩy Bắc) chụp h́nh chung với anh em Biệt Kích. (H́nh trên internet)

Biệt Kích Nguyễn Thái Kiên , Tŕnh A Sám, Thượng Nghị Sĩ John Mc. Cain, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot, Biệt Kích Kim Âu Hà văn Sơn tại một buổi điều trần của Quốc Hội Hoa Kỳ. H́nh của http://www.chinhnghia.com/tiengnoicongly.asp
MỘT NGÀY LÀ BIỆT KÍCH, CẢ ĐỜI LÀ BIỆT KÍCH.
NGƯỜI LÍNH BIỆT KÍCH CỦA QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ CHÚNG TÔI,
LÀ THẾ ĐẤY!./-
Theo nguyenkhapnoi.com
Attached Images
 
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (09-23-2020), huudangdo1 (09-23-2020), phokhuya (09-25-2020), trungthu (09-24-2020)
Old 09-23-2020   #597
hoathienly19
R4 Cao Thủ Vơ Lâm
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 842
Thanks: 1,657
Thanked 1,149 Times in 509 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 23 Post(s)
Rep Power: 5
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default LỰC LƯỢNG BIỆT KÍCH CỦA QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG

LỰC LƯỢNG BIỆT KÍCH CỦA QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG H̉A



hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following 3 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (09-24-2020), huudangdo1 (09-23-2020), phokhuya (09-25-2020)
Old 09-24-2020   #598
hoathienly19
R4 Cao Thủ Vơ Lâm
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 842
Thanks: 1,657
Thanked 1,149 Times in 509 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 23 Post(s)
Rep Power: 5
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default BÁC SĨ TRẦN ĐÔNG A , ÔNG LÀ AI ?

BÁC SĨ TRẦN ĐÔNG A , ÔNG LÀ AI ?






Sau vụ mổ cho 2 cháu Trúc Nhi và Diệu Nhi thành công, một số FBker đưa bài nói ông A là người phản bội. Tôi th́ không nghĩ vậy.


Trước hết tôi nghĩ ông ấy là một bác sỹ giỏi, bác sỹ Quân Y Nhảy Dù được VNCH đào tạo, lại được gửi qua Mỹ tu nghiệp th́ phải giỏi rồi.


Thứ đến tôi nghĩ ông ấy là một người khiếm thính, hăy đọc những ǵ Bác Sỹ Quân Y Nhảy Dù Tôn Thất Sơn viết về ông A trên Trang Đại Học Y Khoa Huế vào khoảng năm 2010:


Trích:

-Tôi gặp NT Trần Đức Tường sớm, vào khoảng 1982-1983 liên quan đến Mặt Trận Hoàng Cơ Minh. Sau một thời gian vài năm, tôi chấm dứt sinh hoạt với MT/Việt Tân. NT TĐT kể về Trần Đông A đại khái:



Trong thời gian trong tù cải tạo VC, TĐA đă có những lời nói “bưng bô” quá đáng, và NT TĐT có nói nhỏ với TĐA đại khái :


“ Toa nên nhớ ở đời, cũng phải biết cứt là thối hay thơm .”


Nay mọi người đều rơ TĐA là giáo sư y khoa, là đại biểu quốc hội VC. TĐA từng cùng với cựu YS Th/tá Trần Thành Trai chia cắt thành công cặp song sinh dính vào nhau.

Hết trích


Ông A c̣n là người thức thời, nghe nói ông ấy từ bỏ Đạo Thiên Chúa Giáo để làm đại biểu quốc hội csvn.


Ngoài ra ông ấy c̣n là người có đầu óc kinh doanh, nghe đâu vợ ông ấy làm ăn lớn có khu nghỉ mát ở Phan Thiết.


Ông ấy là người "có công", được huân chương lao động hạng nhất, được phong anh hùng lao động, thầy thuốc nhân dân.


Ông A c̣n là người biết chọn mặt gửi vàng. Tuy là thầy thuốc nhân dân, nhưng đâu phải nhân dân nào muốn được ông chữa cũng được, chẳng thấy ông ra Nhà Thờ Chúa Cứu Thế khám bệnh cho Thương Phế Binh VNCH bao giờ.



Ông ấy là một người hay quên, quên những ǵ ông quỳ xuống thề với trời đất, với Quốc Dân trong ngày lễ măn khóa của các bác sỹ quân y VNCH.


Nghe đâu ông ấy đă từng nói "là người làm nghề y, hễ ở đâu cũng là để cứu người", vậy th́ hăy để ông làm tṛn chức năng của ḿnh, một ông già đă trên dưới 80 tuổi, có tài và "tật" th́ xin đừng nói ông là người phản bội, tội nghiệp.



Tôi Yêu Miền Nam
hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following 3 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (09-24-2020), huudangdo1 (09-24-2020), phokhuya (09-25-2020)
Old 09-24-2020   #599
hoathienly19
R4 Cao Thủ Vơ Lâm
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 842
Thanks: 1,657
Thanked 1,149 Times in 509 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 23 Post(s)
Rep Power: 5
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default TRẦN ĐÔNG A , ÔNG LÀ AI ?

TRẦN ĐÔNG A , ÔNG LÀ AI ?


Hồi ức của Xuân Đỗ

Tên ông mới nghe tưởng ông là thầy thuốc nam, có tiệm thuốc bắc bên cầu Sắt miệt Gia Định. Nhưng ngoài đời ông lại là một bác sĩ Tây y, khi đi lính ông là một bác sĩ Quân y, hết đi lính ông là một tù cải tạo.



Hết cải tạo ông trở thành bác sĩ Giải phóng và suốt gần ba mươi năm sau ông vừa hành nghề bác sĩ vừa là Đại biểu Quốc hội CHXHCN/VN đại diện cho cử tri thành phố mang tên Bác.


Có điều lạ là vào lúc cuối đời cái lư lịch trích ngang của ông lại thêm một đảng tịch:


“ Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam ”.







Cuộc đời ông tôi nghĩ là ông nên viết hồi kư, một cuộc đời rất trôi nổi, rất sôi nổi của một con người có ư chí, nhiều tài năng, đầy tham vọng, trải qua nhiều hiểm nguy nhưng cũng gặt hái nhiều tiếng tăm.


Tuy nhiên sự nghiệp cá nhân của đời ông vừa mang niềm tự hào kiêu hănh, vừa mặc cảm ray rứt khi ông trở thành ”con quay” của một thời kỳ đất nước đầy biến động từ lúc ông sinh ra đến nay đă vào tuổi cổ lai hy.


Khi đọc bài viết này, có thể ông hỏi ngược lại, “ tôi (tác giả) là ai ” mà dám hỏi “ông (TDDA) là ai”.


Ông thắc mắc là phải v́ tôi biết ông, nhớ ông, phục ông nên mới dám viết về ông, c̣n cá nhân tôi chẳng có ǵ nổi bật, nên ông coi tôi xa lạ là phải.



*


Ta hăy quay ngược thời gian, trở về những năm cuối thập niên 50, đầu 60.


Tôi và ông đều ở tuổi sinh viên, nhưng theo hai ngành khác nhau, ông được quân đội cho học ngành (bác sĩ) quân y, tôi học ngành (sư phạm) quân giáo.


Cả ông và tôi đều mang ơn quân đội để rồi khi ra trường sẽ trở thành những người lính hiện dịch phục vụ cho lính và con cái của lính.


T́nh cờ họ lại xếp chúng tôi, tuy khác ngành nhưng lại ăn ở nội trú cùng doanh trại với các ông, đó cũng là cái duyên v́ sao tôi quen biết nhiều thầy thuốc gốc lính.






Phải nói những năm tháng này là thời gian đẹp nhất của đời sinh viên, đất nước chưa đi vào chiến tranh, cuộc sống thanh b́nh, xă hội ổn định, cả tôi lẫn ông đều có niềm tư hào đă chọn con đường mang thiên chức của thầy thuốc, của nhà giáo.

V́ cùng là cánh Bắc kỳ di cư nên tôi hay để ư đến ông, một người ít giao thiệp với bạn bè, lúc nào cũng chỉ chú tâm vào việc học.


Tôi biết ông quyết lấy bằng bác sĩ, coi đó là cách vượt khỏi số phận và ngoi lên với đời.


Ông cũng có cái khác đời là ăn mặc rất xuyềnh xoàng, ít chải chuốt, đi cái xe kiểu Lambretta “cởi truồng”, môĩ lần đậu xe anh em biết ngay là “thằng A mới về”.


Có điều lạ là ông không bồ bịch với cô nào, trong khi cuộc đời sinh viên anh nào cũng có những mối t́nh lẻ, nhất là cái mác y khoa của ông chỉ cần hứa chứ không cần “ chi ” mà vẫn có người theo.


Nói vậy chứ ông cũng có chơi bóng bàn, bóng chuyền và tham gia bích báo sinh viên. Ông có khiếu ăn nói, tranh căi, hiếu thắng, thích làm lănh đạo nhóm. Học hành nói chung không nổi bật (có thể v́ bài vở bằng tiếng Pháp), ai có ngờ đâu khi ra trường tay nghề của ông thuộc loại bậc thầy.


Ít năm sau mỗi người một ngả. Ông ra trường đúng vào cao điểm của chiến tranh. Qua bạn bè tôi được biết ông t́nh nguyện về đơn vị Nhảy Dù, một binh chủng thiện chiến bậc nhất và thương vong cũng cao nhất, đặc biệt số thương binh cần tải thương.


Tôi đánh giá nhầm về ông, tôi tưởng ông lạnh cẳng xin về các đơn vị hậu cứ. Lại ngạc nhiên hơn khi biết ông hay thực hiện các ca mổ ngay tại chiến trường. Pḥng mổ dă chiến phải đặt các bao cát đề pḥng trường hơp bị nổ do các đầu đạn c̣n nằm trong thân thể thương binh.


Ông nổi tiếng là một người thương lính, không quản thời gian, nguy hiểm trực chờ và là y sĩ có số ca mổ dă chiến nhiều nhất trong sư đoàn Dù. Bản thân ông không có pḥng mạch riêng, không thích làm tiền, và h́nh như chỉ muốn hiến thân cho nghề nghiệp.







*


Sau tháng tư đen, tôi với ông lại có dịp hội ngộ tại một trại gần Suối Máu. Lúc này trong hoàn cảnh tan hàng ông có vẻ ít nói và né tránh bạn bè.






Nhưng khi vào đợt học tập “ chính sách mười điểm ”, trong phần kiểm điểm tôi lỗi và phát biểu tại Tổ, th́ ông như lấy lại được cái sinh khí tranh luận rất nhiệt t́nh của thời sinh viên, ông can đảm nhận “tội”,





mà cái tội nặng nhất của ông là đi lính Dù và chữa lành cho nhiều lính “ngụy” để chúng trở lại chiến trường chống phá cách mạng.





Nếu kể về lư lịch bản thân, ông là cấp Tá, được xếp thành phần ác ôn lọai 2 (tác chiến Dù).


Về lịch sử gia đ́nh thuộc loại di cư chống Cộng.


Có liên hê với Mỹ v́ đi tu nghiệp phẫu thuật tại Texas.



Động cơ đi lính là diện t́nh nguyện chứ không phải bị bắt lính. Được khen thưởng nhiều huy chương (ít nhất 5 anh dũng bội tinh) kể cả một huân chương của sư đoàn Không kỵ Mỹ.



Nh́n chung ông có nhiều điểm giống tôi về mặt lư lịch, nhưng nhờ cái bằng bác sĩ của ông nên Đảng cần người, giơ cao đánh sẽ cho về sớm, không người nào quá ba năm. Trước khi ông được tha th́ tôi đă ra Bắc từ năm 76.


*


Mười hai năm sau trở lại Sàig̣n th́ được biết ông đă thành Giám đốc của một bệnh viện nhi khoa thành phố.


Cuối thập niên 80, tiếng tăm ông lại nổi như cồn v́ đă chủ tŕ và thành công trong ca mổ tách đôi hai em bé sanh đôi dính liền nhau có cái tên Việt &Đức.


Một ca mổ tuy có sự hỗ trợ về dụng cụ, kỹ thuật từ phía Nhật, nhưng về chuyên môn th́ chính ông và toán bác sĩ y tá Việt nam hoàn toàn đảm nhiệm.



Ca mổ làm cho các đồng chí trong thành ủy vô cùng tự hào, v́ từ nay thành phố mang tên Bác trở thành ngọn cờ đầu về lănh vực khoa học kỹ thuật trong cả nước.


Chẳng phải các đồng chí không thôi, chính chúng tôi là những người chế độ cũ cũng hănh diện khi người đồng đội cũ của ḿnh chứng tỏ tài năng cho cả nước về chức năng và sở học của ḿnh.



Tôi chắc ông cũng đă đọc bài báo của nhà học giả CS Trần Bạch Đằng viết cách đây mấy năm đă cảnh giác về sự cần cải tổ hệ thống giáo dục đào tạo nhân tài, trong đó ông có viện dẫn gương của hai bác sĩ Trần Đông A và Phạm Thành Trai :


“ Cứ nói họ được đào tạo dưới chế độ Mỹ ngụy, nhưng tài năng họ hơn ta rất nhiều ”.






Sau cái vụ mổ xẻ này th́ ông được tiến cử sung vào thành phần đại biểu quốc hội đại diện cho thành phố và cứ năm năm một lần được bầu lại cho đến khóa VI hiện giờ.


Chuyện này th́ cũng chẳng làm ai ngạc nhiên, các trí thức cũ có công với các mạng cũng đă được đề bạt vào chức danh này, cho nặng phần “mặt trận” đoàn kết đa nguyên.


Rất tiếc chuyện lại không ngừng ở đây. T́nh cờ đọc phần phỏng vấn cựu thủ tướng CS Vơ văn Kiệt trên V.W., chúng tôi mới được biết ông đă vào... Đảng, ai nói th́ tôi không tin nhưng ông Kiệt nói tôi tin v́ ông ta tự nhận là người đă giới thiệu ông để chứng tỏ với kiều bào hải ngoại là Cộng sản họ không có vụ kỳ thị và luôn có thiện chí muốn “nối ṿng tay lớn”.



Tôi có phần ngạc nhiên v́ lúc này nhiều nhà trí thức, tướng tá quân đội của họ đang trả lại thẻ đảng th́ ông lại t́m đường vào đảng.


Lại ngạc nhiên hơn với cái lư lịch và quá tŕnh bản thân như vậy th́ không thể nào trở thành người Cộng sản được.






1. Điều kiện lư lịch gia đ́nh như thế nào th́ được xem xét kết nạp Đảng?

Thủ tục kết nạp Đảng như thế nào?

* Người vào Đảng phải:

- Có đơn tự nguyện xin vào Đảng.

- Báo cáo trung thực lư lịch với chi bộ.

- Được hai đảng viên chính thức giới thiệu.

Nơi có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người vào Đảng trong độ tuổi thanh niên phải là đoàn viên, được ban chấp hành đoàn cơ sở và một đảng viên chính thức giới thiệu.

Ở các cơ quan, doanh nghiệp nơi không có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người vào Đảng phải là đoàn viên công đoàn, được ban chấp hành công đoàn cơ sở và một đảng viên chính thức giới thiệu.

* Người giới thiệu phải :

- Là đảng viên chính thức và cùng công tác với người vào Đảng ít nhất 01 năm.

- Báo cáo với chi bộ về lư lịch, phẩm chất, năng lực của người vào Đảng và chịu trách nhiệm về sự giới thiệu của ḿnh. Có điều ǵ chưa rơ th́ báo cáo để chi bộ và cấp trên xem xét.

https://danluat.thuvienphapluat.vn/5...ng-142182.aspx


Tôi và có thể nhiều người tán đồng việc ông phục vụ -thông qua chế độ- là nhằm lợi ích cho dân, đem sở học của ḿnh để phục vụ tha nhân như bản thân ông thường tích cực thể hiện.


Nhưng rất tiếc sự mưu t́m một dấu ấn chính trị cho dài thêm lư lịch trích ngang, theo tôi, xét ra không cần thiết đối với ông, một con ngừơi đă khẳng định được vị trí của ḿnh trong quần chúng cả nước.


Xin ông cứ tiếp tục con đường của riêng ông.


Nhiều chiến sĩ Dù vẫn c̣n nhắc nhớ đến ông.


Riêng tôi th́ vẫn khâm phục ông và nhớ ông như một người đồng cảnh đă một thời nhờ quân đội miền nam cho ăn học nên người.



Last edited by hoathienly19; 09-24-2020 at 23:16.
hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following 3 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (09-25-2020), huudangdo1 (09-24-2020), phokhuya (09-25-2020)
Old 09-25-2020   #600
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,184
Thanks: 21,586
Thanked 37,411 Times in 12,684 Posts
Mentioned: 632 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7196 Post(s)
Rep Power: 68
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default đọc vài bài thơ lính của Cái Trọng Ty và Nguyễn Phúc Sông Hương



Tháng Ba, Tháng Tư, 1975, là tháng chạy. Chạy chiến tranh. Chạy Cộng Sản. Dân khổ, lính c̣n khổ hơn. Đau nhất là có súng mà không được bắn. Có quân mà không được đánh. Không đánh mà phải thua; không thua mà phải chạy. Thành ra nghịch lư: đáng lẽ phải bảo vệ dân, lính phải chạy theo dân.

Trong lịch sử, chưa có cuộc chiến nào kết thúc một cách lạ lùng dường ấy. Đó là nỗi uất ức không có ǵ giải nỗi. Chẳng lạ ǵ, 44 năm sau khi tàn cuộc chiến, trong lúc có thể có người đă quên, nhưng người lính th́ không bao giờ. Bài thơ Tháng Ba, Tháng Tư nào của người lính miền Nam Việt Nam cũng ưu uất, tức tối. Lịch sử đă qua, nhưng những sự kiện lịch sử vẫn c̣n nằm đó.

Năm nay, Tháng Tư, tôi đọc vài bài thơ lính của hai tác giả, một là Cái Trọng Ty và hai là Nguyễn Phúc Sông Hương. Cả hai nhà thơ đều là sĩ quan trong Quân Lực VNCH. Trong những tháng ngày cuối cùng của cuộc chiến, hai ông ở hai hoàn cảnh tương đối khác nhau, do đó, thơ Tháng Tư của hai ông cũng có những h́nh ảnh và trạng thái tâm lư khác nhau. Nhưng cảm xúc th́ vẫn là cảm xúc. Đau. Buồn. Uất ức. Tháng Tư đến, đọc lại thơ hai ông, ḷng vô cùng cảm khái.


Hai bài thơ của Cái Trọng Ty, một, “Ban Mê;” và hai, “Tháng Tư Bẻ Súng;” nằm trong “Có Một Mùa Trăng Xa Người” (Thư Ấn Quán 2015), tập thơ đầu tay gồm có 60 bài cùa ông. Cái Trọng Ty đóng ở cao nguyên, ngay chính nơi là “thủ phạm” cho cuộc triệt thoái phi lư, đưa đến sự tan ră của quân đội VNCH: Ban Mê Thuột. Chứng kiến cảnh triệt thoái khiến thơ Cái Trọng Ty vừa thực, vừa bàng hoàng, xót xa xen lẫn phẫn uất. Bài “Ban Mê” (Ban Mê Thuột) khái quát h́nh ảnh đau ḷng của một khởi đầu bi thảm:

“này anh lính trẻ trói tay thất trận
ngày lui binh súng đạn tả tơi
tạ từ buôn bản theo đơn vị
chiều cao nguyên mắt cỏ mục vàng hoe
đêm pháo dập nghe chim trời vỗ cánh”

Một số chữ dùng, tuy rất b́nh thường mà nghe khá lạ, lại chính xác: “trói tay thất trận,” “mắt cỏ mục vàng hoe.” Chính v́ bị trói tay, không phải v́ khiếp nhược bỏ chạy, nên hơi thơ nghe đầy uất ức:

“tiếng hát hỏa châu rụng cánh sao sa
ḷng đau uất những điều không muốn nhớ
có v́ sao khuya thức dậy bên trời
sinh bất phùng thời
thiên hạ rối tung
ngày tháng ba giặc tràn qua tây vực
đêm ban mê tanh khiếp máu nhân quần
ở phía thành đô trời chớp lóe
đoàn quân ma trơ trốc núi xương khô”

Hai chữ trơ trốc (= trơ và trốc), lạ, hiếm có ai dùng, nhất là trong thơ. Nhưng ở đây rất gợi h́nh. Cả câu thơ “đoàn quân ma trơ trốc núi xương khô” như lột tả được hết thực cảnh của cuộc “trói tay thất trận” của lính trận VNCH đóng ở cao nguyên ngày đó.

Tháng Ba “trói tay thất trận,” nên có “Tháng Tư Bẻ Súng.” Bài thơ như một bút kư ghi lại thực cảnh chen lẫn nhiều cảm xúc khá phức tạp, khi th́ đớn đau, dằn xé, khi th́ trầm tư, khi th́ cay đắng, khi th́ chùng xuống, da diếc. Bài thơ bắt đầu bằng những h́nh ảnh dữ dội:

"Lương Sơn xa lắc đồi rỉ máu
ngựa cuồng quay quắt chiến trường xưa
đồng đội cũ đâu lưng nỗi chết
(…)
biển gầm núi hú quân tàn ră
lịch sử sang sông băo tố tràn
ráng chiều đỏ quạch trăng tận tuyệt
biển dâu cung kiếm bóng chiều sương”

Rồi đột nhiên trầm xuống, lắng đọng:

“về đây ngồi ngóng triền sông cũ
chợt thấm vô cùng thương tích xưa
tháng Tư bẻ súng người tự sát
oan khiên tận khốc nỗi niềm đau”

Sau đó, theo ḍng sự kiện và cảm xúc, khi th́ giọng thơ lên cao, ưu uất, khi th́ trầm xuống, ngậm ngùi, cay đắng:

"quân về xuôi tan tác phương Nam
mịt mờ chiến trận
mây lửa mênh mông
(…)
em đau đớn
t́m anh vô vọng
cái chết tuổi tràn xuân
(…) chàng phiêu giạt
rời Sông Pha cùng đơn vị bơ vơ (…)
nước mất thân vong
ngậm ngùi quê quán cũ…
(…)
tháng Tư đêm đen
đồi chiêm rực lửa
trời sông Lâu trôi cuối mùa Xuân
khổ nạn chập chùng
bèo dâu vạn hướng”

Bài thơ kết thúc bằng hai h́nh ảnh chia cách nhau nhưng phản chiếu lẫn nhau, giữa người lính và người t́nh. Gắn bó và cách biệt. Đắm đuối và tan nát.

“băi trầm luân se sắt
băo đời xoay
thân lính trận rách bươm

em trồng một đóa hoa trên đá
vỡ nát tàn phai một cuộc t́nh
ngày ấy bên sông tàn nắng mật
chiều vàng rơi lại giọt thiên thu”

Những h́nh ảnh ghi lại thật bất ngờ: trồng hoa trên đá, tàn nắng mật, giọt thiên thu.

“Em trồng một đóa hoa trên đá.” Câu thơ đẹp và buồn.

Ngậm ngùi đến thế th́ thôi!

***

Nếu Cái Trọng Ty bi phẫn, tuyệt vọng v́ phải bẻ súng, th́ tâm trạng của một người lính khác, Nguyễn Phúc Sông Hương, có phần hơi khác. Nguyễn Phúc Sông Hương đóng quân ở Xuân Lộc. Trong lúc các miền Trung và cao nguyên chạy th́ pḥng tuyến Xuân Lộc vẫn c̣n đứng vững. Lính vẫn c̣n cầm súng, chưa đi theo ḍng người di tản hỗn loạn.

Nhưng rồi, đến những ngày cuối Tháng Tư, trong cơn vật vă đau thương của lịch sử miền Nam, đơn vị ông cũng đành ôm hận, lui quân. Nếu “Tháng Tư Bẻ Súng” là một bút kư th́ “Nửa Hồn Xuân Lộc” là một tùy bút, vừa t́nh yêu, vừa t́nh đất, vừa t́nh lính. Cả mấy thứ t́nh chen lộn lẫn nhau. Hơi thơ lúc đầu nghe vẫn c̣n b́nh tĩnh, chừng mực nhưng chứa chan ân hận.

“C̣n ta nhận lệnh rời Xuân Lộc
Lại muốn t́m em nói ít lời,
Nhưng sợ áo ḿnh đầy khói súng
Cay nồng mắt người gục trên vai.

V́ chắc ôm nhau em sẽ khóc,
Khóc theo, vợ lính cả trăm người!
Em biết dù tim ta sắt đá
Cũng vỡ theo ngàn giọt lệ rơi.

Mây xa dù quen đời chia biệt
Ngoảnh mặt ra đi cũng ngậm ngùi.
Rút quân, bỏ lại hồn ta đó
Bảo Chánh, Gia Rai lửa ngút trời!

Bí mật lui quân mà đành phụ
Mối t́nh Long Khánh tội người ơi.
Mất thêm Xuân Lộc tay càng ngắn
Núm ruột miền Trung càng xa vời.
(…)
Đêm nay Xuân Lộc vầng trăng khuyết
Như một vành tang bịt đất trời!
Chân theo quân rút, hồn ta ở
Sông nước La Ngà pha máu sôi
(…)
Ta đi, áo nhuộm màu đất đỏ
Cao su vướng tóc măi thơm mùi,
Tiếc quá nắng vàng phơi áo trận,
Vườn nhà em chuối chín vàng tươi.
Ta nhớ người bên đàn thỏ trắng,
Cho bầy gà nắm lúa đang phơi,
Chôm chôm hai gốc đong đưa vơng,
Ru nắng mùa xuân đẹp nụ cười…”

Nhưng càng về sau, hơi thơ càng nghe uất ức:

“Nếu được đưa quân lên Định Quán
Cuối cùng một trận cũng là vui
Núi Chứa Chan kia sừng sững đứng
Sư đoàn 18 sao quân lui?
Thân ta là ngựa sao không hí
Cho nỗi đau lan rộng đất trời.
Hồn ta là kiếm sao không chém
Rạp ngă rừng xanh, bạt núi đồi.
(…)
Chân bước, nửa hồn chinh chiến giục
Nửa hồn Xuân Lộc gọi quay lui.”

Bài thơ kết thúc bằng một h́nh ảnh bi thảm và buồn thảm:

“Ta biết dưới hầm em đang khóc
Thét gầm pháo địch dập không thôi
Em ơi Xuân Lộc, em Xuân Lộc
Xích sắt nghiến qua những xác người.”

Rồi đến cái ngày định mệnh tàn nhẫn ấy: 30 Tháng Tư!

Lính đau! Miền Nam đau! Đất nước đau!

Có lẽ không có h́nh ảnh nào kỳ lạ bằng h́nh ảnh nảy, ghi dấu ngày tàn cuộc chiến:

“Tiểu đoàn hai hàng đều bước
Tay không súng đạn,
Vẫn ngước cao đầu,
Dân làng bên đường
Vỗ tay chào đón,
Người được thắng trận
Ngơ ngác nh́n nhau.”

Đoạn thơ này nằm ở trong một bài thơ khác, cũng của Nguyễn Phúc Sông Hương, “Chén cơm làng Long Thạnh Mỹ ngày 30-4.”

Để kết thúc, xin trích một đoạn ngắn trong một bài viết khá dài, “Mỗi tháng Tư về…” của một cô giáo trẻ lớn lên ở miền Bắc (Hải Pḥng), Thảo Dân, t́m thấy trong Facebook của cô, nhắc đến chiến trường Xuân Lộc: (1)

“Tôi từng vô cùng xúc động khi bạn gửi cho vị trí sông La Ngà trên Messenger. Nh́n chiếc xe nhích từng ô trên địa đồ, tôi như nh́n thấy trước mắt ḿnh, từng đoàn quân của Sư Đoàn 18BB kiêu dũng đang lặng lẽ rút khỏi Xuân Lộc vào trung tuần Tháng Tư năm 1975 sau những trận đánh được ghi vào Quân Sử VNCH như một chiến thắng sau cùng, bi tráng nhất, ác liệt nhất và tầm vóc của nó không thua kém bất kỳ trận huyết chiến nào trên thế giới. Nhưng cuộc tử thủ phá ṿng vây phong tỏa như trận Leningrad kinh điển trong Chiến Tranh Thế Giới 2 đă không xảy ra…

‘Đêm nay Xuân Lộc vầng trăng khuyết
Như một vành tang bịt đất trời!
Chân theo quân rút, hồn ta ở
Sông nước La Ngà pha máu sôi.’

Chưa khi nào, con sông La Ngà trong sử sách, trong thơ của Nguyễn Phúc Sông Hương, vị tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 3, Sư Đoàn BB18 lại gần với tôi tới như thế.”

***

Cái Trọng Ty là sĩ quan quân lực VNCH. Sau 1975, ở tù Cộng Sản 10 năm. Định cư tại Hoa Kỳ năm 1991.

Nguyễn Phúc Sông Hương, tên thật là Nguyễn Hồng Phúc. Vào Tháng Tư, 1975, ông là tiểu đoàn trưởng thuộc Sư Đoàn 18 BB, người trực tiếp cầm tiểu đoàn dự trận Xuân Lộc ngày 29 Tháng Tư. Sau 30 Tháng Tư, đi tù gần 10 năm. Hiện định cư tại Hoa Kỳ.

Trần Doăn Nho
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	1575246677-nguoi-linh-vnch.jpg
Views:	0
Size:	98.9 KB
ID:	1659821  
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (09-25-2020), phokhuya (09-25-2020), tcdinh (09-25-2020), trungthu (09-26-2020)
Reply
Page 30 of 35 « First 2026272829 30 31323334 Last »

User Tag List


Facebook Comments


 
iPad Tablet Menu

HOME

Breaking News

Society News

VietOversea

World News

Business News

Other News

History

Car News

Computer News

Game News

USA News

Mobile News

Music News

Movies News

Sport News

ZONE 1

ZONE 2

Phim Bộ

Phim Lẻ

Ca Nhạc

Thơ Ca

Help Me

Sport Live

Stranger Stories

Comedy Stories

Cooking Chat

Nice Pictures

Fashion

School

Travelling

Funny Videos

NEWS 24h

HOT 3 Days

NEWS 3 Days

HOT 7 Days

NEWS 7 Days

HOT 30 Days

NEWS 30 Days

Member News

Tin Sôi Nổi Nhất 24h Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 3 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 7 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 14 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 30 Ngày Qua
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.


All times are GMT. The time now is 23:57.
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2006 - 2024
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2024 DragonByte Technologies Ltd.
Log Out Unregistered

Page generated in 1.00200 seconds with 15 queries