‘…Nh́n một cách tổng thể, toàn bộ đời sống miền Nam, trong đó có đời sống văn hoá, văn học, trong 45 năm qua đă dần dần “giải phóng” người dân miền Bắc khỏi cái nhà tù lớn trong đó con người bị buộc phải giả tạo, “gồng ḿnh” hoặc bị mê hoặc mà mù quáng tuân phục trong thời chiến và theo “định hướng XHCN”…’
Điều quan trọng là trở lại với con người thật, con người tự nhiên; cuộc sông thật, cuộc sống tự nhiên
Trường hợp của tôi có lẽ hơi cá biệt so với số đông đồng nghiệp ở miền Bắc trước 1975: Sinh trưởng trong một gia tộc thuộc “tầng lớp trên” thời Pháp thuộc; năm 1954 hầu hết họ hàng của tôi di cư vào Nam, chỉ riêng gia đ́nh tôi ở lại miền Bắc v́ bố tôi là một bác sĩ “chuyên môn thuần tuư” quá tin vào “hiệp thương tổng tuyển cử sau 2 năm” và chưa thấy được bản chất “Cộng sản” của Việt Minh; tuy nhiên bản thân tôi ham đọc sách tiếng Pháp từ nhỏ, được học tiểu học trong nhà trường “quốc gia” và Pháp, cấp 2 (Middle School) theo chương tŕnh chuyển tiếp “quốc gia” sang “dân chủ nhân dân”, đến cấp 3 (High School) mới bắt đầu “nhà trường xă hội chủ nghĩa”; thêm nữa, từ 1954 đến 1975 tôi vẫn chịu khó đọc sách tiếng Pháp trong tủ sách gia đ́nh và kho sách trong Thư viện Quốc gia được Sứ quán Pháp cung cấp. Có lẽ v́ thế, khi vào Sài G̣n khá sớm sau 30/4/1975 để t́m mẹ và họ hàng, tôi thấy như được trở về đời sống tự nhiên của tuổi thơ ḿnh vốn đă bị chế độ chính trị miền Bắc và t́nh trạng chiến tranh làm cho… quên mất!
Phải nói dài ḍng thế, v́ có thể nhận xét của tôi về đời sống và văn hoá miền Nam có phần chủ quan, cá biệt.
1. Về lối sống của người Miền Nam trước 1975 (xin viết tắt là LSMN) và ảnh hưởng của nó sau 1975
Xă hội miền Nam mà tôi thâm nhập trước hết là xă hội của bà con họ hàng thân tộc ở Sài G̣n. Họ vẫn giữ khá đầy đủ những đặc điểm (cả hay lẫn dở) của tầng lớp trung lưu Hà Nội trước 1954. Tất nhiên là nó đối nghịch với xă hội miền Bắc mà tôi sống trong 20 năm “cải tạo xă hội chủ nghĩa” và chiến tranh, ở đó chính quyền toàn trị biến xă hội thành một trại lính khổng lồ, tất cả cho cuộc chiến, mọi người chia sẻ với nhau cảnh nghèo nàn đơn điệu; ở đó sự “nông thôn hoá” Hà Nội khiến cho lối sinh hoạt b́nh dân, suồng să đánh bạt lối sống đài các, thanh lịch của chốn ngàn năm văn vật…
Nh́n một cách bao quát, LSMN là LỐI SỐNG TỰ NHIÊN CỦA CON NGƯỜI dưới một chế độ tôn trọng tự do cá nhân theo ảnh hưởng phương Tây (Pháp rồi Mỹ). Nó khá bất lợi trong việc tham chiến (thực sự là có góp phần không nhỏ trong việc miền Nam “thua cuộc”), nhưng lại có sức hấp dẫn tất yếu sau hoà b́nh đối với những người từng bị sống trong “trại lính khổng lồ”. Với người miền Bắc, lối sống ấy c̣n thêm hấp dẫn bởi nét hồn nhiên phóng khoáng vô tư của cư dân đồng bằng Nam Bộ cộng thêm tâm thế tự do b́nh đẳng của người công dân một xứ Nam Kỳ được hưởng chế độ trực trị lâu năm của Pháp. Chưa kể sự “phồn vinh giả tạo” mà viện trợ Mỹ đem đến cho Sài G̣n đă làm cho sức hấp dẫn tăng thêm bội phần; chỉ cần nhớ lại cảm giác đầu tiên khi đặt chân xuống đường Đinh Tiên Hoàng từ chuyến xe đ̣ đường dài, tôi tưởng ḿnh đang từ Việt Nam sang đến Paris!
LSMN càng được tiếc nuối sau khi con đường “xă hội chủ nghĩa” đưa kinh tế Việt Nam đến bờ vực, “con người xă hội chủ nghĩa” chưa thấy đâu đă phải được “cởi trói” để lao vào “tự cứu” bằng mọi cách, khiến cho chủ nghĩa cá nhân bị đè nén lâu nay bung ra một cách cực đoan theo luật con lắc! Thậm chí một số điểm tích cực mà những người sống có lư tưởng thực sự trong xă hội miền Bắc có được như tinh thần sống giản dị, cống hiến, tập thể, đồng cam cộng khổ… cũng nhanh chóng phai nhạt thậm chí biến mất ở số đông bọn họ! Nhưng điều đó không thể coi là do “ảnh hưởng tiêu cực” của lối sống “cá nhân chủ nghĩa”, “hưởng thụ” của miền Nam như “Tuyên giáo” gán ghép, mà chỉ đơn giản là phản ứng dễ hiểu mang tính “nổi loạn” của con người miền Bắc khi thấy “những ảo mộng tiêu tan” (Illusions perdues) trước mắt ḿnh! Ngược lại, cũng không thể phủ nhận một số ảnh hưởng tiêu cực từ những tệ nạn của một xă hội thời chiến, dưới chế độ dân chủ chưa toàn vẹn, với sự lũng đoạn của “đảng Kaki” và sự hiện diện của hàng chục vạn quân viễn chinh (đĩ điếm, ma tuư, băng đảng, ăn cắp của công và tham nhũng) sau khi trật tự áp đặt của chế độ toàn trị bung vỡ!
Có lẽ hai ưu điểm nổi bật của LSMN đă thâm nhập mạnh, sâu, rộng vào miền Bắc sau 1975 là:
- Tinh thần tự lập, tự vận động, tự định đoạt cuộc sống của cá nhân đă ngày càng chiến thắng thói quen “gà công nghiệp”, thụ động trông chờ “nhà nước, đoàn thể” mà chế độ tập trung bao cấp đă tạo ra trong thời gian dài. Nhất là sau khi nhà nước kiệt quệ, phải thả lỏng cho người dân “tự cứu”. Điều này có tính quyết định cho xă hội dần dần tự do hoá, thoát khỏi sự khống chế, ràng buộc của nhà nước toàn trị. Độc lập về kinh tế th́ mới độc lập về tư tưởng.
- Đời sống tâm linh, chủ yếu là niềm tin và thực hành Phật giáo. Phật giáo bị hạn chế và kiểm soát gắt gao ở miền Bắc đă hồi sinh sau 1975 nhờ được tiếp sức và truyền đạo từ miền Nam. Mặc dù tín ngưỡng bị nhà nước và bọn buôn thần bán thánh lợi dụng tối đa làm cho méo mó tha hoá khủng khiếp, Phật giáo chân chính trong cả nước vẫn phát triển khá mạnh nhờ ảnh hưởng tốt đẹp của truyền thống Phật giáo miền Nam.
2. Đời sống văn hoá văn nghệ miền Nam và ảnh hưởng của nó sau 1975 nên được nh́n nhận trên cái nền tảng xă hội, lối sống như nói trên.
Tôi muốn nói lên những ấn tượng sâu sắc nhất của bản thân trước khi nhận xét về đời sống chung mà ḿnh quan sát.
Đầu tiên là âm nhạc
Hiện tượng Trịnh Công Sơn. Không thể quên cái buổi tối tháng 5/1975, nhóm bạn văn nghệ Hà Nội chúng tôi ngồi nghe băng “cối” ở nhà một người quen là sĩ quan công an được vào Sài G̣n ngay sau 30/4 đem ra. Có thể nói là một buổi xuất thần ít có trong đời! Mọi người ch́m đắm vào không gian âm thanh ma mị, lôi hồn ḿnh thoát khỏi thực tại, đi đến một thế giới hư hư thực thực không rơ là đâu nhưng h́nh như đó là sự giải thoát! Nói thêm là 7 năm sau đó, trong trại tạm giam của Bộ Công an ở ngoại thành Hà Nội, trưa nào tôi cũng ngóng nghe những âm thanh ấy phát ra từ pḥng Giám thị trại! Nghĩa là nó chiếm lĩnh tâm hồn của số rất đông trong “Bên thắng cuộc”. Ca khúc Trịnh Công Sơn theo tôi là sản phẩm văn hoá độc đáo nhất của miền Nam, nó kết tinh cơi sâu lắng của tâm hồn người Việt trong một hoàn cảnh bi thương nhất của lịch sử, chưa từng có trong âm nhạc Việt Nam cho đến tận bây giờ.
hoang_hung02
Dịch giả, nhà thơ, nhà báo Hoàng Hưng từ Hà Nội vào sinh sống và làm việc ở Sài G̣n từ 1977
Nhu cầu ca hát, một trong những nhu cầu tự nhiên nhất của con người, sau nhiều năm bị “nhạc đỏ” độc quyền thống trị, đă bùng lên với “nhạc vàng” khắp phố phường ngơ xóm (trước sự ngơ ngác đáng thương của những người tù trong vụ án “nhạc vàng” ở Hà Nội khi trở về!). Đến mức bây giờ, nhạc “bolero” một thời vốn không được đánh giá cao lắm bởi giới có học ở Sài G̣n, nay đang “tràn ngập lănh thổ”, chiếm lĩnh không gian âm nhạc cả chính thống lẫn tự phát! (Tuy nhiên không ít người vẫn cho rằng thứ âm nhạc uỷ mị mà bolero là chủ đạo góp sức không nhỏ làm nản chí chiến đấu của người lính miền Nam, giống như điệu hậu đ́nh hoa xưa!!!).
Có một chi tiết thú vị về âm nhạc miền Nam: phong cách hát của ca sĩ. Các ca sĩ miền Bắc nh́n chung được học bài bản hơn, nhưng sau khi nghe ca sĩ miền Nam, số đông người nghe bỗng nhận ra cái ǵ đó không thú lắm ở lối hát miền Bắc. Th́ ra kỹ thuật thanh nhạc không thay thế được t́nh cảm tự nhiên, càng không lại được cái hồn gửi vào tiếng hát, và bel canto của opera không thể cuốn hút bằng cái sự tṛn vành rơ chữ tiếng Việt!
Nói cho công bằng, việc tàn lụi của đời sống âm nhạc cổ điển thính pḥng miền Bắc trước 1975 cũng đáng tiếc (do chiến tranh với không quân Mỹ ở miền Bắc từ 1965 và không c̣n được “bao cấp” đủ sau 1975); măi gần đây nó mới bắt đầu hồi phục nhờ sự lớn lên của tầng lớp trung lưu sau 30 năm phát triển kinh tế mang tính thị trường.
Hội hoạ
Điều thú vị là trong giới văn nghệ sĩ Sài G̣n, tôi giao du nhiều nhất với các hoạ sĩ! Từ Nguyên Khai ở ngay gần nhà, đến Thái Tuấn, Nghiêu Đề, Trịnh Cung, Đỗ Quang Em, Phạm Văn Hạng, Hồ Hữu Thủ, Nguyễn Trung… và t́m hiểu khá kỹ hội hoạ miền Nam trước 1975, đặc biệt là tác phẩm của các thành viên Hội hoạ sĩ Trẻ. Đến thập niên 1990, khi làm báo Lao Động, tôi đă có cơ hội viết bài giới thiệu về họ cũng như mời một số hoạ sĩ cộng tác với báo.
Có lẽ v́ hội hoạ là “siêu ngôn ngữ” ít động chạm trực tiếp chuyện chính trị, nên các hoạ sĩ Sài G̣n có phần dễ được tiếp nhận vào đời sống văn nghệ sau 1975. Họ đă đóng góp rất nhiều cho đời sống nghệ thuật phong phú ở TPHCM, Huế, và tác động đáng kể đến việc hiện đại hoá phương pháp nghệ thuật của các hoạ sĩ miền Bắc cũ, như siêu thực, trừu tượng, cực thực…
Sách báo
Khi vào Sài G̣n tháng 7 năm 1975, cái hấp dẫn chủ yếu với tôi là… núi sách ở chợ sách đường Đặng Thị Nhu và các tủ sách gia đ́nh. Tôi hối hả mua, mượn về đọc, rồi chở ra Hà Nội! Vốn khao khát những kiến thức mới về khoa học xă hội nhân văn và văn học thế giới mà những nguồn sách tiếng Pháp ở Hà Nội rất hạn chế, tôi mê mệt với đống sách biên khảo của Lê Thanh Hoàng Dân, Nguyễn Hiến Lê… sách của NXB Lá Bối, các truyện dịch của nhiều tác giả khác nhau, từ Dostoivevski đến Kazanzaki, Remarque, Herman Hesse… các tạp chí văn chương và nghiên cứu như Sáng Tạo, Văn, Bách Khoa…
Ảnh hưởng sâu đậm nhất đến nhận thức và sáng tác của tôi có lẽ là: Thiền luận của Suzuki và các sách Phật giáo, tiểu thuyết của Henry Miller, William Faulkner. Đặc biệt tư tưởng Phật giáo là phát hiện quan trọng nhất đối với tôi sau mấy mươi năm sống trong xă hội bị “vô thần hoá” thành duy vật tầm thường!
Sau “Đổi mới”, ngày càng nhiều sách biên khảo và dịch thuật của miền Nam được tái bản, cung cấp cho công chúng một thị trường kiến thức và giải trí phong phú chưa từng có; có những tác phẩm “hot” không kém ca khúc “bolero”, như tiểu thuyết vơ hiệp Kim Dung của dịch giả Hàn Giang Nhạn… tuy cũng bị trách là dịch phóng, không trung thành với nguyên tác; cũng như việc dịch và xuất bản nhanh để đáp ứng thị trường ở Miền Nam có phần hại cho chất lượng bản dịch!
Phật giáo đang phục hồi trên khắp nước, lôi cuốn không ít người trẻ, có phần tác động quan trọng của những sách Phật học của miền Nam, trong đó nổi bật là các tác phẩm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Do báo chí là hoạt động mà đảng Cộng sản phải nắm rất chặt làm công cụ tuyên truyền dẫn dắt công luận nên ảnh hưởng của báo chí miền Nam (một nền báo chí đúng nghĩa) đối với báo chí sau 1975 th́ chủ yếu ở mặt nghiệp vụ làm báo. Báo Tin Sáng của những người ủng hộ “Mặt trận Giải phóng” là tờ báo kiểu Sài G̣n trong chế độ mới rất được ưa chuộng. Sau “Đổi mới”, nhờ có sự nới lỏng, một số tờ báo ở thành phố HCM đă mạnh dạn sử dụng những nhà báo kỳ cựu của miền Nam, tạo nên sự khởi sắc của báo chí với khuynh hướng tiếp cận sự thật, điều tra độc lập, thông tin nhanh chóng, và các thủ pháp làm báo thị trường mà người Sài G̣n có truyền thống lâu đời được giới báo chí “bao cấp”học theo. Ảnh hưởng của lối làm báo ấy có thể thấy rất rơ đối với các tờ báo ở TP HCM (rơ nhất ở các báo Tuổi Trẻ, Lao động Chủ nhật…) và ngày càng rơ với các tờ báo ở Hà Nội.
Sách báo miền Nam c̣n có tác động khá mạnh đến ngôn ngữ nói cũng như ngôn ngữ viết miền Bắc. Không ít từ ngữ miền Nam đă nghiễm nhiên trở thành phổ biến toàn quốc, việc viết tên riêng bằng kư tự Anh ngữ đă thách thức và đang lấn lướt lối phiên âm Việt hoá lạc hậu và bất cập của miền Bắc