Nhân năm Nhâm Tư (1972) sắp về, chúng tôi xin nói về loài chuột.
Con chuột hèn kém, dơ dáy, ăn cắp... nhưng người ta thường thấy h́nh bóng của nó trong văn chương, trong lịch sử, v́ nó cũng chen vào đời sống của con người. Chuột cũng có giúp ích cho chúng ta, nhưng lắm khi làm cho loài người phải có nhiều lo nghĩ về chúng.
Chúng tôi xin nói về con chuột trong thành ngữ, trong tục ngữ, trong ca dao, trong tử vi, trong thơ ngụ ngôn, trong văn chương Anh, Pháp và Việt Nam, trong sấm Trạng Tŕnh. Chúng ta c̣n xem những truyền thuyết về loài chuột, cũng như sẽ nói đến con chuột trong lịch sử, trong không gian, trong y giới, trong khoa học. Ngoài ra c̣n có con chuột Mickey, một vị trạng sư cho chuột và nhiều chuyện kỳ lạ về gia tộc họ hàng nhà chuột nữa.
CON CHUỘT TRONG THÀNH NGỮ
Trong văn chương b́nh dân, danh từ "CHUỘT" được dùng trong rất nhiều trường hợp:
NHÀ Ổ CHUỘT tức là nhà cửa ở xóm b́nh dân lao động nghèo khổ dơ dáy tồi tàn, đi vào bằng những con đường śnh lầy và ngoằn ngoèo.
Cây PHÁO CHUỘT được nhiều nơi hiểu nghĩa khác nhau: Nó là một loại pháo chai ng̣i, sau khi đốt nguyên phong, trẻ em thường lượm mót lại, x́ đốt chơi lắm khi nó xịt dài dưới đất như con chuột chạy. Hai tiếng "pháo chuột" c̣n để chỉ loại "pháo kim", pháo nhỏ bằng đầu đũa ăn. Nó c̣n chỉ một loại pháo đốt chạy trên mặt nước như con chuột chạy vậy.
Danh từ MỎ CHUỘT chỉ một h́nh dáng nhọn như mỏ con chuột. Đó là danh từ chê bai, biếm nhẽ. C̣n ĐUÔI CHUỘT chỉ một h́nh dáng thon dài: cái rễ cây chánh ăn sâu xuống đất gọi là "rễ đuôi chuột". Hai chữ "đuôi chuột" c̣n ám chỉ "đuôi sam" tức là "bím tóc" người Tàu thời Măn Thanh. Trái DƯA CHUỘT là loại dưa leo nhỏ và dài như một con chuột.
Thành ngữ CHẠY NHƯ CHUỘT dùng để chê bai những người sợ hăi, chạy tán loạn. C̣n từ ngữ CHUỘT ĐỒNG LOẠI ám chỉ những hạng hèn kém như nhau, nhát gan, thô bỉ, đê tiện... Động từ ghép CHIM CHUỘT hay MÈO CHUỘT dùng để chỉ sự thương yêu lén lút giữa trai gái. Giận một người nào ăn cắp của ḿnh, mà cứ chối căi, người ta thường nói tao HÚ CHUỘT hay "tao hú chuột cho mầy". Người b́nh dân c̣n dùng động từ HÚ CHUỘT trong việc nhổ răng: vừa cầm cái răng liệng lên nóc nhà, vừa nói "hú chuột răng cũ về mầy, răng mới về tao" với ư nguyện là răng sắp mọc lên sẽ tốt đẹp và bền chắc.
Danh từ CHUỘT c̣n được gọi là TƯ, tức là một trong mười hai "con giáp": Tuổi con chuột gọi là TUỔI TƯ. C̣n giờ TƯ bắt đầu từ mười một giờ tối đến một giờ khuya. TƯ NGỌ TUYẾN hay là ĐƯỜNG TƯ NGỌ dùng để chỉ một "kinh tuyến" chạy từ Bắc Cực đến Nam Cực.
Thành ngữ ÔNG TƯ REO muốn nói đến những lúc trong nhà có chuột reo, chuột kêu "chí chí" thành tràng dài vui vẻ. Người b́nh dân thường nói khi chuột reo th́ thế nào, ngày sau cũng sẽ có khách đến nhà. Ông Tư báo trước cho biết đấy, và người ta tin là chuột có linh tính, biết tiên tri.
CON CHUỘT TRONG TỤC NGỮ
Danh từ CHUỘT được dùng khá nhiều trong tục ngữ ta.
CHÁY NHÀ RA MẶT CHUỘT
Muốn nói rằng khi cháy nhà, khi hoạn nạn... mới ḷi cái mặt thật, cái mặt đê hèn, c̣n lúc b́nh thường th́ làm bộ giả nhân giả nghĩa. Nó gần giống như câu "gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thứ trung thần", nghĩa là nhà nghèo mới biết con hiếu, nước loạn mới biết tôi trung, có thử lửa rồi mới biết vàng tốt xấu.
ĐẦU VOI ĐUÔI CHUỘT
Dùng chỉ một vật đầu lớn như con voi, mà đuôi lại nhỏ như con chuột, như h́nh thể một chiếc đũa ăn, một cái dùi cui, một cái dùi đục... Một câu chuyện được kể như là rất trọng đại, nhưng sau chót lại không ra ǵ... thường gọi là "chuyện đầu voi đuôi chuột". Việc làm lúc đầu rất hăng say, rất vĩ đại, nhưng sau đó lại buông xuôi cũng được gọi là "việc đầu voi đuôi chuột.
CHUỘT KHEN CHUỘT CHẠY GIỎI
Thường dùng với câu "mèo khen mèo dài đuôi" để chê bai những người thích vỗ ngực khoe ḿnh tài, ḿnh giỏi, ḿnh hay. Đó là tính khoe khoang đáng trách.
MÈO NHỎ BẮT CHUỘT CON
Nghĩa là con mèo nhỏ th́ nên bắt chuột con, chuột bé th́ hơn. Mèo nhỏ mà muốn bắt chuột to lớn là chỉ mang lấy việc thất bại. Nghĩa bóng khuyên ta nên làm những việc vừa sức ḿnh mà thôi. Chớ nên đ̣i hỏi hay mong muốn những ǵ cao hơn địa vị và khả năng của ḿnh. Ta nên "lượng sức liệu ḿnh", "liệu cơm gắp mắm", chớ ước mơ những ǵ viển vông quá sức.
CHUỘT CHẠY CÙNG SÀO
Câu tục ngữ nầy nghĩa là con chuột chạy từ đầu cây sào tre nầy đến chỗ cuối cùng của đầu kia, rồi không đi đến đâu được hơn nữa. Câu nầy dùng để nói một việc làm bí lối, hết đường, không c̣n phương tiện nào để tiến hành thêm được nữa.
CHUỘT SA CHĨNH GẠO hay CHUỘT SA HŨ NẾP
Thường dùng chỉ những người tốt số, cưới được vợ giàu có. Câu tục ngữ nầy c̣n nói đến những người may mắn, , được gặp điều hên. Nó gần giống câu "thời lai, phong tống, Đằng Vương các", thời đến th́ tự nhiên gió cũng đưa ḿnh đến gác Đằng Vương, giàu sang, danh vọng.
CON CHUỘT TRONG CA DAO
Ca dao rất phong phú có nhiều câu chứa đựng h́nh ảnh con chuột, là một loài vật rất gần chúng ta.
Trong mười hai "con giáp": tư, sửu, dần, mẹo... th́ con chuột đứng đầu với câu ca dao:
Tuổi Tư con chuột cống xề
Tha gà tha vịt đem về trong hang.
Về trang hoàng nhà cửa lại có câu:
Bốn pḥng em chạm bốn mèo,
Con th́ bắt chuột, con leo sàn nhà.
Để khuyên răn trẻ em về việc phải biết vâng lời cha mẹ, người b́nh dân hay nói:
Con chuột chạy luột ống tre,
Không nghe lời mẹ thè lè bụng ra.
Nói về việc hay kén lừa, cũng có câu:
Chuột chê lúa lép không ăn,
Chuột chê nhà dột ra nằm bụi tre.
Thuộc loại văn miêu tả đối với tuổi ngây thơ, người ta lại hát:
Con mèo con chuột có lông
Ống tre có mắt, nồi đồng có quai.
Nói về việc "mèo mỡ" vụng trộm chúng ta thường nhắc nhở câu ca dao sau đây:
Chuột kêu chút chít trong hang,
Anh đi cho khéo đụng giường mẹ hay.
Về mèo và chuột lại có bài ca dao khá hóm hỉnh:
Con mèo mầy trèo cây cau (cao),
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà.
Chú chuột đi chợ đường xa,
Mua mắm mua muối giỗ cha con mèo.
Chuột c̣n gọi là "tư" và được thấy trong câu ca dao:
Nửa đêm "giờ tư", canh ba
Vợ tôi, con gái, đàn bà, nữ nhi.
Câu nầy dùng để chê những ai viết "điệp ư", ư trùng nhau: ba từ ngữ "nửa đêm", "giờ tư" và "canh ba" đều chỉ thời gian vào khoảng 12 giờ khuya mà thôi.
CON CHUỘT TRONG THƠ NGỤ NGÔN
Thơ ngụ ngôn dùng rất nhiều về đề tài con chuột trong việc răn đời.
Đây là bài thơ ngụ ngôn của Lữ Phụng Tiên (La Fontaine) do Nguyễn văn Vĩnh dịch nhan đề: