1. 30/4/1975, Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) tức tưởi chết!
Đọc được từ một email t́nh cờ lạc vào inbox tôi:
“C̣n nhớ trưa ngày 30/4/1975 dưới bầu trời u ám như muốn đổ lệ, tôi đứng ngay cổng xe lửa số 6 trên đường Trương Minh Giảng – Phú Nhuận. Lúc đó lính Cộng Ḥa đă trút bỏ quần áo đi bộ từng đoàn thất thểu. Súng ống, ba-lô, quân phục họ vất đầy lề đường. Xe tăng và các binh đoàn Motolova của Cộng Sản đă tràn vào thủ đô Sài G̣n, chạy rầm rầm hướng về Bộ Tổng Tham Mưu. Chung quanh ai cũng hốt hoảng lo t́m đường chạy về nhà, giờ này đi di tản kể như đă quá trễ. Lâu lâu lại thấy một vài đứa khốn nạn Cách Mạng 30/4 đeo băng đỏ ngồi trên xe Jeep cầm súng chĩa lên trời, chúng bắn từng tràng đạn chào mừng ngày Giải Phóng. (…)
Sau ngày 30/4 vào khoảng tháng 5 khi có chiến dịch Bài Trừ Văn Hóa Đồi Trụy Mỹ Ngụy, có một vụ chấn động Sài G̣n là vụ nổ ở một tiệm cho mướn sách cũ. Chủ tiệm lùa hết bọn đeo băng đỏ vào trong rồi mở kíp lựu đạn tự sát cho dính chùm. Nghe đâu chết vài mống Cách Mạng 30/4, ông chủ cũng chết. Tiệm này nằm trong phường 10, quận Phú Nhuận (chung với phường của nhà ḿnh bên đường Thiệu Trị – Nguyễn Huỳnh Đức). C̣n một vụ khác vào khoảng năm 1976, có một gia đ́nh bên khu đường rầy xe lửa hướng đi ra Cống Bà Xếp. Gia đ́nh này có hai vợ chồng và tám đứa con. V́ căm phẫn chế độ Cộng Sản, họ đă t́m ra đường thoát. Hôm đó, họ nấu một nồi cháo vịt, bỏ thuốc giết chuột vô, cả nhà cùng ăn chung bữa cuối cùng rồi nắm tay nhau chết hết...."...
Đọc được từ một nữ bộ đội miền Bắc, sau này là nhà văn nổi tiếng Dương Thu Hương:
“Lần thứ nhất khi đội quân chiến thắng vào Sài G̣n năm 1975, trong khi tất cả mọi người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở cười th́ tôi lại khóc. V́ tôi thấy tuổi xuân của tôi đă hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp v́ nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà v́ tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy rẫy các phương tiện thông tin như TV, radio, cassette. Những phương tiện đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ.”
2. Chao ôi, đă bốn mươi lăm năm rồi kể từ cái ngày tang thương 30/4/1975!
Trong những ngày này, khi tất cả chúng ta ngậm ngùi nhớ lại thời điểm bi thảm đó, th́ trên diễn đàn Liên Hiệp Quốc, chính quyền Cộng Sản Việt Nam đang cố gắng vô hiệu hóa công hàm nhượng bộ Trung Quốc của thủ tướng VC Phạm Văn Đồng năm 1958 bằng cách khẳng định tính cách hợp pháp của chế độ VNCH trong cuộc đấu tranh pháp lư giành lại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa qua hai Công Hàm 257-HC năm 2016 và A/72/692 năm 2018 do họ gửi cho Liên Hiệp Quốc. Xin dẫn một trích đoạn liên hệ:
“Từ khi quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam năm 1956, chính quyền VNCH đă tiếp quản quần đảo Trường Sa từ Pháp. Bằng Sắc Lệnh Số 143-NV đề ngày 22 tháng 10 năm 1956, Chính Phủ nước Việt Nam Cộng Hoà đă chuyển quần đảo Trường Sa từ tỉnh Bà Rịa về tỉnh Phước Tuy. Trong khoảng thời gian giữa 1954 và 1975, Việt Nam tạm thời bị chia thành hai phần. Do vị trí địa lư, vào thời gian này, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được đặt dưới quyền cai trị của chính phủ VNCH (Miền Nam Việt Nam). Như thế, sự kiện chính phủ VNCH hành xử việc cai trị lănh thổ hai Quần Đảo trong thời điểm đó là phù hợp với thực tế và luật pháp trong bối cảnh của giai đoạn này. Thông lệ quốc tế chỉ rơ rằng trong thời Chiến Tranh Lạnh, có sự hiện diện của hai quốc gia giống Việt Nam như Đức, Yemen…(…) Vào năm 1975, sau khi Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm cứ quần đảo Hoàng Sa (vào tháng 1 năm 1974), Chính Phủ VNCH đă công bố một Bạch Thư đưa ra những bằng chứng lịch sử xác định một cách rơ ràng và đầy thuyết phục chủ quyền lâu dài của Việt Nam trên hai quần đảo này.”
Trong lúc nguy cấp, rốt cuộc, nhà cầm quyền Cộng Sản buộc phải bỏ cái thói kiêu ngạo cố hữu, chính thức thừa nhận sự hiện hữu hợp pháp của VNCH như một cái phao cứu sinh.
Thực tế là, VNCH đă từng là một quốc gia có cương thổ, có quân đội, có chủ quyền pháp lư, được 87 quốc gia trên thế giới công nhận và đă là thành viên của nhiều Uỷ Ban trong Liên Hiệp Quốc, trong lúc vào thời điểm đó, chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa của miền Bắc chỉ được một số rất ít các quốc gia trong khối Cộng Sản thừa nhận.
Khi nói đến VNCH, thường th́ người ta chỉ nghĩ đến các chính quyền: chính quyền Ngô Đ́nh Diệm, chính quyền Nguyễn Khánh, chính quyền Nguyễn Cao Kỳ, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu… Và khi nghĩ đến các chính quyền, người ta chỉ nh́n thấy một VNCH đầy những h́nh ảnh tiêu cực: tham nhũng thối nát, thay ngôi đổi chủ xoành xoạch, lệ thuộc ngoại bang…và dựa vào đó, quy cho VNCH là phồn vinh giả tạo, là đầy dẫy các tệ nạn xă hội, là bất công, áp bức, vân vân và vân vân. Thực ra, cũng như những quốc gia khác, VNCH là một tổng thế, có cái tiêu cực, nhưng không thiếu những điều tích cực. Và những điều tích cực đó là h́nh ảnh của một VNCH khác, đẹp đẽ, nhân bản, dân tộc, thường bị che giấu bởi thiên kiến hay bị xuyên tạc một cách bất công.
Với riêng tôi (mà cũng là cả thế hệ chúng tôi) sinh trưởng trong ḷng chế độ VNCH, nơi chúng tôi được trưởng thành như những con người tự do, được học hành, được mơ ước, được tranh đấu chống bất công, áp bức, nói tóm lại, được tự hào là người Việt Nam, th́ VNCH không chỉ là một một quốc gia, một dân tộc mà hơn thế nữa, đó là một quá khứ thân thuộc, êm đềm, sinh động, đa dạng và phong phú. VNCH tuy không c̣n nữa, nhưng với chúng tôi, VNCH không hề biến mất.
3. Người bạn học thời trẻ của tôi, Lê Hiếu Đằng, một cán bộ Cộng Sản hoạt động nằm vùng, trong “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh…”, kể lại:
“Nhắc đến đây tôi có một kỷ niệm khó quên: ba tôi và mẹ Lư Thiện Sanh nóng ḷng v́ đă đến ḱ thi Tú tài II nhưng chúng tôi vẫn bị nhốt trong tù. V́ vậy ông bà làm đơn hú họa xin hai chúng tôi ra thi. Thế mà chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó lại giải quyết cho ra thi. Tôi theo ban C Triết học nên chỉ c̣n vài ngày nữa là thi, ba tôi gửi một số sách vào cho tôi. May mắn lúc đó tôi đă đọc nhiều sách triết học của các Giáo sư Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Toàn và các tạp chí Sáng tạo, Hiện đại của nhà văn Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, nhà thơ Nguyên Sa, Tô Thuỳ Yên, v.v., kể cả quyển sách viết về Nietzsche của Nguyễn Đ́nh Thi trước năm 1975. Gặp đề thi triết khá hay tôi tán đủ điều, đậu hạng thứ dễ dàng. C̣n Lư Thiện Sanh học ban B vốn rất giỏi nên đậu hạng b́nh thứ. (…) Tôi không biết với chế độ gọi là “ưu việt” hiện nay có người tù nào đă được cho ra đi thi như chúng tôi hay không?”
Những chi tiết Lê Hiếu Đằng tŕnh bày ở trên là hoàn toàn chính xác, theo tôi. Lê Hiếu Đằng học Đệ Nhất C, Lư Thiện Sanh và tôi Đệ Nhất B, dù không ngồi cùng lớp, nhưng thường hay đi cà phê cà pháo, bàn luận chuyện văn chương thế sự với nhau. Các bạn nào đă từng học Quốc Học vào thời điểm đó (1964) đều ít nhiều biết rơ vụ Lê Hiếu Đằng và Lư Thiện Sanh bị bắt giam v́ bị nghi là hoạt động cho Cộng Sản, nhưng được chính quyền địa phương cho mang sách vở vào lao Thừa Phủ học thi, được ra đi thi như những học sinh b́nh thường khác và rồi đậu tú tài II.
Được phóng thích sau gần nửa năm bị cầm tù, Lê Hiếu Đằng tiếp tục tham gia hoạt động cho Cộng Sản ở các trường đại học Sài G̣n, c̣n Lư Thiện Sanh theo học Y Khoa, tốt nghiệp bác sĩ, làm việc tại bệnh viện Nguyễn Văn Học, Gia Định. Thành thật mà nói, trong nhiều bài viết có tính cách phản tỉnh một cách triệt để vào lúc cuối đời của Đằng, th́ những ḍng này khiến tôi cảm động, v́ anh nêu ra một chi tiết rất nhỏ nhưng lại nói được một điều khá lớn và đầy ư nghĩa. Những cái “ưu việt” của Cộng Sản mà Đằng đă từng v́ chúng mà theo suốt cuộc đời, hóa ra không thể so sánh được với cái “nghĩa cử” đầy t́nh người của chính quyền Thừa Thiên-Huế hồi đó. Nghĩa cử này chắc chắn không xuất phát từ ḷng xót thương của một cá nhân, hay từ lỗ hổng của luật pháp mà từ cái cơ chế b́nh thường của nó, của VNCH. Biết đâu chính cái chi tiết nho nhỏ này đă ám ảnh Đằng và là động lực khiến anh chọn lựa ra khỏi đảng Cộng Sản vào lúc cuối đời!
Nhân chi tiết khá lư thú đó, tôi thấy cần phải giới thiệu lại một bài viết, đúng hơn là một phần trong tập hồi kư của một trong những khuôn mặt trí thức tả khuynh nổi tiếng hàng đầu ở miền Nam trước năm 1975, giáo sư Nguyễn Văn Trung:
“Tưởng niệm Việt Nam Cộng Ḥa” (In memoriam Việt Nam Cộng Ḥa); hồi kư này đượcviết từ năm 1993 và được công bố lần đầu tiên trong tạp chí Văn Học (Cali) năm 2000. Giới thiệu phần hồi kư đặc biệt này, tạp chí Văn Học viết, “Chúng tôi xem bài viết của giáo sư Trung là một biểu hiện của sự liêm khiết và can đảm của người trí thức, v́ cho đến nay, trên toàn cầu, giới trí thức khuynh tả vẫn chưa có can đảm ‘tự phán’ một cách ṣng phẳng, rốt ráo. Họ không dám nhận rằng chỗ đứng an toàn của họ không đâu khác hơn là xă hội cho phép họ được công khai bày tỏ lập trường khuynh tả, và khi chế độ bị họ khinh miệt tiêu vong, để thay thế bằng một chế độ toàn trị, th́ số phận của họ cũng bị tiêu vong theo. Hay nói như Giáo sư Nguyễn Văn Trung, ‘tham gia cách mạng là tham gia vào một quá tŕnh tự tiêu diệt sau này’.” (Thư ṭa soạn)
Qua hồi kư, Nguyễn Văn Trung đă phác họa lại h́nh ảnh chân xác của VNCH bằng cách hướng cái nh́n vào một số nét cụ thể khá đa dạng và phong phú không lệ thuộc vào các chính phủ, thường bị bỏ quên hay bị che mờ bởi thiên kiến hay bởi một nhăn quan lệch lạc, thậm chí có tính cách thù nghịch. Một trong những nền tảng của VNCH là cơ chế công chức. Theo ông,“Khi người Pháp ra đi, một trong những điều tích cực của họ để lại là một số thể chế nhà nước, cụ thể là một nền hành chánh và một giới công chức được đào tạo theo tinh thần phân biệt tôn giáo và nhà nước.”
Trong ṿng 20 năm (1955-1975), dù có nhiều thay đổi trong chính phủ, cái hệ thống hành chánh, guồng máy đó vẫn như thế, vẫn chạy đều như không có ǵ xảy ra. Công chức cấp dưới có tŕnh độ văn hóa tương đối, c̣n công chức cao cấp tối thiểu cũng có bằng tú tài hay tốt nghiệp đại học. Và dù ở cấp nào, giới công chức vẫn giữ phong cách của những người làm việc công: mực thước, tôn trọng của công, tôn trọng luật pháp và phục vụ công chúng.
Một đặc điểm khác của VNCH là “xă hội dân sự”. “Những ‘chính quyền’ hay [những] thay đổi ở miền Nam cần phân biệt với ‘chế độ xă hội’ miền Nam ít nhiều vẫn duy tŕ và phát huy những sinh hoạt của điều mà ta gọi là xă hội dân sự (société civile).”(…)
“Nếu phân biệt ‘xă hội công’ (le social public) với ‘xă hội tư’(le social privé) th́ ‘xă hội dân sự’ là một loại h́nh xă hội trong đó nhà nước không can thiệp vào xă hội tư về các quan hệ nghề nghiệp, giáo dục, tư tưởng, văn hóa, cứu tế, liên đới xă hội và các quan hệ về mặt t́nh cảm (gia đ́nh, họ hàng, bè bạn, thầy tṛ…). Xă hội dân sự miền Nam, do đó, là một xă hội đa dạng với vô số tổ chức, hội đoàn tư nhân lớn, nhỏ hoạt động độc lập và hợp pháp, được chính quyền tôn trọng và giúp đỡ từ tôn giáo, nghề nghiệp, cho đến kinh doanh, văn nghệ, vân vân. Lợi dụng điều này, người Cộng Sản đă đứng ra thành lập nhiều hội đoàn, tổ chức hợp pháp để ngụy trang cho các hoạt động của ḿnh. Có thể đây chính là lư do khiến nhà cầm quyền Cộng Sản hiện nay rất sợ h́nh thức “xă hội dân sự”.
Đề cập đến pháp lư và đạo lư, Nguyễn Văn Trung viết, “Một trường hợp cũng khá phổ biến trước đây ở miền Nam: Trong cái thế đối lập giữa hai trật tự: trật tự pháp lư chính trị và trật tự đạo lư t́nh người, có những lựa chọn trật tự cao hơn (đạo lư t́nh người), chẳng hạn anh em, con cháu, bạn bè theo Việt Cộng trà trộn trong cơ quan, trong dân chúng, biết mà không tố cáo, thậm chí c̣n cho tá túc trong nhà v́ coi t́nh nghĩa ruột thịt, bạn bè cao hơn quyền lợi chính trị, pháp luật…”.
Mặt khác, một người có người thân hay họ hàng đi theo Cộng Sản, con cái họ chẳng gặp khó khăn ǵ trong việc học hành, thi cử và những quyền lợi hợp pháp khác và khi lớn lên, nếu không trực tiếp tham gia hoạt động cho Cộng Sản th́ vẫn được đi làm việc b́nh thường, không bị phân biệt đối xử. Có người c̣n được cấp học bổng đi du học nước ngoài, và về sau lại hoạt động chống đối kịch liệt VNCH. Chính v́ thế, “Dù người dân có khinh ghét chính quyền Sài G̣n thế nào đi nữa, có lẽ ít ai nghĩ rằng ḿnh đang sống trong vùng Mỹ-ngụy, vùng tạm chiếm mà chỉ nh́n nhận: Việt Nam là một dân tộc, nhưng hiện đang bị chia cắt, có hai thể chế chính trị: Việt Nam Cộng Hoà và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, và mong muốn một ngày nào đó có thống nhất trong hoà b́nh,” theo ông.
Nói về quân đội, Nguyễn Văn Trung nhận định, “Trong quân đội ngay từ những khóa hạ sĩ quan Nam Định hồi 1951-1952 đến các khóa học của trường Vơ Bị Đà lạt, Nha Trang, Thủ Đức hồi đầu thời Đệ Nhất Cộng Ḥa cũng dần dà tạo được một giới sĩ quan có tŕnh độ tú tài hay đại học không hề mặc cảm là lính đánh thuê của quân đội viễn chinh, trái lại họ có được một điều mà nền Đệ Nhất Cộng Ḥa đă tạo cho họ đó là một bản sắc, một căn cước quốc gia (identité nationale).”
Một trong những mặt xuất sắc nhất của VNCH là văn học nghệ thuật. Nó thoát thai từ sự kiện: VNCH là một xă hội mở, xă hội tự do. Theo Nguyễn Văn Trung, trong kinh nghiệm rất riêng của ḿnh, những nhà văn, nhà trí thức miền Nam viết bất cứ cái ǵ mà không bận tâm mấy về an ninh bản thân. Họ chỉ bận tâm về “viết cái ǵ” và “viết thế nào”, chứ không phải về “có thể viết được hay không.” Có được như thế là nhờ phong cách làm việc trí thức của giới công chức trong các bộ liên hệ: bộ Văn Hóa, bộ Thông Tin và bộ Nội Vụ.
Về điểm này, cũng theo Nguyễn Văn Trung, trong một bài viết khác, “Hướng về Miền Nam Việt Nam”,th́ dưới chế độ VNCH, “Báo th́ không phải kiểm duyệt nhưng có thể bị tịch thu đưa ra ṭa. Trong khuôn khổ chính sách hạn chế tự do chính trị như vậy, nếu không xuất bản công khai, hợp pháp, vẫn có thể in ronéo, phổ biến, bày bán ngay cả trên các sạp báo và có thể bị tịch thu… Người cầm bút viết những điều cấm kỵ, phê phán chính sách này, chính sách kia của nhà nước, thậm chí họp nhau viết kháng thư phản đối, đăng trên báo mà không lo ngại về an ninh chính trị của bản thân gia đ́nh bạn bè. Nói cách khác, viết phê phán mà không sợ nhà nước.” Trong bài thuyết tŕnh “Tính ‘văn học’ trong Văn Học Miền Nam” đọc trong buổi hội thảo về Văn Học Miền Nam tổ chức tại ṭa soạn nhật báo Người Việt vào ngày 6/12/2014, tôi đă phân tích kỹ về tính chất đa dạng, tự do, hiện đại, kế tục, nhân bản… của Văn Học Miền Nam, những tính chất khiến cho tự bản thân, nền văn học đó đă mang một giá trị bất khả bàn căi và cao hơn hẳn một nền văn học được chỉ đạo bằng các nghị quyết chính trị.
Xin cụ thể hóa nhận định trên của Nguyễn Văn Trung bằng một trích đoạn đề cập đến việc tiếp quản trường Đại Học Vạn Hạnh sau ngày 30/4/1975 trong một bài viết ngắn của một người miền Bắc có tham gia vào công việc này:
“Nhưng miền Bắc không chỉ giải phóng miền Nam khỏi những văn bản cổ của văn minh nhân loại hay những trước tác nóng hổi nhất trên thế giới nửa thế kỉ trước, miền Bắc chúng ta đă giải phóng họ khỏi một nền đại học được xây dựng trên ư niệm tự do. Trong số sách Thư viện Vạn Hạnh c̣n sót lại, có một loại sách đặc biệt, do trường xuất bản, in những bài phát biểu của các diễn giả được mời đến nói chuyện và tranh luận với giảng viên, sinh viên của trường. Đọc những cuốn sách đó, bạn sẽ nhận ra Đại Học Vạn Hạnh đương thời giống như một diễn đàn khổng lồ của xă hội dân sự, nơi tất cả các xu hướng tư tưởng khác nhau đều được cất lên tiếng nói của ḿnh, từ chống Cộng Sản đến chống Hoa Kỳ, ủng hộ miền Bắc đến ủng hộ VNCH… Tất cả đều có một không gian b́nh đẳng để giải thích v́ sao họ suy nghĩ và hành động như vậy. Lúc đó tôi đă tự hỏi, giữa Sài G̣n thời đó th́ có những tiếng nói chống lại hệ thống Cộng Sản là đương nhiên, nhưng tại sao chế độ Việt Nam Cộng hoà lại để cho Đại Học Vạn Hạnh (và đương nhiên không chỉ Vạn Hạnh) trở thành nơi những người chống lại ḿnh có thể phát biểu tư tưởng? Câu trả lời nằm ở Hiến pháp 1967 miền Nam Việt Nam: Đại học là tự trị. (…) Những trải nghiệm như thế làm cho mọi chàng ‘miền Bắc có lư luận’ cảm thấy ḿnh thuộc về ‘miền Nam’.”
Quy chế “đại học tự trị” quả là một ưu điểm đáng kể của VNCH, góp phần tạo nên một môi trường tri thức thực sự, không thua bất cứ một đại học của một nước tiên tiến nào trên thế giới. Chính v́ thế mà dù sống trong thời chiến, các giáo sư và sinh viên vẫn được hưởng một không khí thoải mái trong nghiên cứu và học tập, thậm chí trong các cuộc đấu tranh đ̣i dân chủ, ḥa b́nh và chống chính quyền. Tác giả bài viết trên tỏ ra ngạc nhiên về tính cách “tự do tư tưởng” khi tiếp quản trường Đại Học Vạn Hạnh, một trường mới được thành lập sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm sụp đổ. Thực ra, sự cởi mở của VNCH về phương diện tư tưởng đă hiện hữu từ thời Đệ Nhất Cộng Ḥa. Hồi đó, hầu hết các tác phẩm được viết trước năm 1945 của những tác giả đang sống và phục vụ dưới chế độ Cộng Sản miền Bắc (trừ một số tác phẩm nặng tính chất tuyên truyền của Tố Hữu, Nguyễn Đ́nh Thi…) từ Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tô Hoài, Anh Thơ cho đến Thế Lữ, Nguyễn Tuân…đều được tái bản, không những thế, c̣n được đưa vào chương tŕnh dạy văn của học sinh từ tiểu học đến trung và đại học, được đánh giá xứng đáng với giá trị nghệ thuật và vai tṛ của chúng trong lịch sử văn học. Các tác phẩm đó được nghiên cứu y như chúng hoàn toàn độc lập đối với lập trường và hành vi chính trị hiện đương của các tác giả. Nhờ thế mà thế hệ chúng tôi lớn lên ở miền Nam biết khá rơ giá trị văn chương của từng tác giả, để làm cơ sở đối chiếu với những sáng tác đầy tính chất tuyên truyền, phi-văn chương sau này của họ.
Cũng cần ghi nhận ngay bản “Quốc ca” VNCH (đă đổi lời một phần) được sử dụng tại miền Nam hồi đó và tại hải ngoại hiện nay cũng được ghi tên tác giả là Lưu Hữu Phước vốn là một người Cộng Sản. Nhà thơ Nguyễn Đăng Thường đă từng đưa lên trang mạng “Talawas” một Phụ Lục “Thay lời phi lộ” là lời của nhà xuất bản Hoa Tiên khi cho tái bản tại miền Nam các tác phẩm Lửa thiêng của Huy Cận năm 1967, Tiếng thu của Lưu Trọng Lư năm 1968, Quê ngoại của Hồ Dzếnh năm 1969… Lời phi lộ cho thấy nhà xuất bản đă tách rời văn bản ra khỏi con người tác giả.
Sau 1975, nhà nước Cộng Sản t́m mọi cách hủy diệt nền văn học nghệ thuật VNCH qua một chiến dịch rất bài bản, liên tục và quyết liệt bằng cách đốt sách báo và bắt bỏ tù nhà văn, nhà báo và cả những người giữ sách báo, nhưng rốt cuộc, chỉ là công dă tràng. Họ chỉ có thể đốt phá cái hữu h́nh nhưng không thể đốt phá được cái vô h́nh: tư tưởng và tấm ḷng. Rốt cuộc, không những nền văn học đó không biến mất mà tồn tại, dai dẳng tồn tại và được trân trọng bảo tồn cả ở trong Nam lẫn ngoài Bắc.
Càng về sau, văn học miền Nam càng được đánh giá một cách tích cực, từ những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp cho đến ngay cả từ chính nhà cầm quyền Cộng Sản. Trong bài nghiên cứu khá kỹ và ít thiên kiến, “Chiến tranh, xă hội tiêu thụ và thị trường văn học miền Nam 1954 – 1975”, đăng trên tập san “Nghiên cứu văn học”, một trong những cơ quan nghiên cứu văn học hàng đầu của nhà nước Cộng Sản, có đoạn viết:
“Thật vậy, những cơ sở báo chí và xuất bản trung thực đă giúp người đọc miền Nam nh́n rơ hơn xă hội ở chung quanh ḿnh, đă liên kết những người thiện chí trong một nỗ lực vận động cho ḥa b́nh, tự do, độc lập dân tộc và một nền văn hóa văn nghệ tiến bộ, cho thấy mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt, sinh hoạt văn hóa miền Nam không có tính chất một chiều mà c̣n có những mầm mống của dân chủ, thông qua tiếng nói phản biện và phản kháng.
Trong đời sống văn học miền Nam, những sáng tác và công tŕnh nghiên cứu chứa đựng những yếu tố dân tộc, nhân đạo, dân chủ và cách tân, xuất hiện trên cái nền của hoạt động báo chí và xuất bản rất đa dạng và phức tạp của nhiều khuynh hướng khác nhau về tư tưởng cũng như về nghệ thuật. Giữa các khuynh hướng đó không có ranh giới tuyệt đối, mà có sự giao thoa, tương tác và chuyển hóa lẫn nhau. Sách báo thân chính quyền cũng có lúc ấn hành những tác phẩm đả kích quan chức của chế độ, thậm chí bị tịch thu. Sự chuyển biến của sách báo khuynh tả cũng là một quá tŕnh từ tự phát đến tự giác. Trên một tờ báo hay một nhà xuất bản có thể xuất hiện những cộng tác viên đối lập nhau về lập trường chính trị và quan điểm văn học.”
Một nhận định văn học khá lạ, nhất là dưới cái nh́n của kẻ thắng cuộc nh́n về kẻ thua cuộc. Nếu không trích dẫn nguồn, có thể chúng ta sẽ cho đó là bài viết của một cây bút VNCH nào đó tự đánh giá văn học miền Nam. C̣n lạ hơn nữa, mới đây, “Nhân Dân”, tờ báo chính thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam, cho đi một bài của Hạnh Nguyên, Ứng xử với văn học miền nam trước 1975, trong đó có đoạn:
“Từ chỗ bị phê phán gay gắt, bị loại bỏ, cấm phổ biến, văn học miền Nam dần dần đă được coi là một bộ phận không thể tách rời của văn học Việt Nam, được xuất bản và nghiên cứu nghiêm túc. Nhiều tác giả (nhà văn, nhà phê b́nh) miền Nam
xuất hiện trở lại trong đời sống văn học đương đại, nhiều tác phẩm (sáng tác, nghiên cứu, phê b́nh, văn học sử) được in lại và được bạn đọc ghi nhận. Báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, Diễn đàn văn nghệ Việt Nam của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam đều từng mở chuyên mục giới thiệu văn học miền Nam trước 1975; nhiều tạp chí chuyên ngành ở trung ương và địa phương cũng đăng tải những nghiên cứu về các tác giả, tác phẩm, hiện tượng văn học, phê b́nh văn học Sài G̣n trước 1975; không ít luận án, luận văn cao học và không ít đề tài nghiên cứu cấp cơ sở, cấp Bộ, cấp Nhà nước đă lấy văn học, học thuật miền Nam 1954-1975 làm đối tượng khảo sát, phân tích, đánh giá; một số nhà xuất bản, công ty văn hóa truyền thông đă chọn lọc giới thiệu những “người lạ mặt quen thuộc”…
Nói cách khác, sự thay đổi trong thái độ đối với văn học miền Nam diễn ra ở cả khu vực nghiên cứu, xuất bản, lẫn giảng dạy, sưu tầm, giới thiệu, phổ biến đến công chúng. Hoạt động được khuyến khích là vượt qua định kiến, thiên kiến, tỉnh táo chọn lọc những tác phẩm có yếu tố dân tộc, tinh thần nhân đạo, dân chủ, yêu nước và tiến bộ, có giá trị cách tân.
Có thể nói, nếu không có không khí cởi mở, chắc chắn những sáng tác của Du Tử Lê, Trần Thị NgH, Đinh Hùng, Nguyên Sa, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện…; những nghiên cứu của Nguyễn Văn Trung, Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Thanh Lăng, Toan Ánh… không có điều kiện tái xuất hiện trong đời sống văn học. Nhờ sự thay đổi trong cách ứng xử, mới có những nghiên cứu về các trường hợp như Lê Tuyên, Thanh Tâm Tuyền… về tư tưởng triết học và các khuynh hướng lư luận – phê b́nh văn học ở đô thị miền Nam 1954 – 1975. Theo GS Huỳnh Như Phương:
“Từ 1975 đến nay, khoảng 160 tác giả và dịch giả ở các đô thị miền Nam có tác phẩm được tái bản chính thức trong nước, trong đó có người c̣n sống, người đă mất và một số ít đang định cư ở nước ngoài. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân, việc làm đó chưa thật hệ thống và đầy đủ. Trong thời điểm hiện nay, xúc tiến việc tập hợp, tuyển chọn những tác phẩm, công tŕnh có giá trị là việc làm đúng lúc và cần thiết, không chỉ để cung cấp tài liệu cho các nhà nghiên cứu mà c̣n góp phần làm phong phú và đa dạng đời sống tinh thần của đất nước.”
Từ chỗ “ngăn chặn, chống, phê phán, đấu tranh, quét sạch văn hóa nô dịch, đồi trụy, lai căng; xóa bỏ những xuất bản phẩm phản động, khiêu dâm; trừng trị nghiêm khắc những ai cố ư vi phạm các quy định của Nhà nước…” ...đến chỗ thừa nhận văn học miền Nam là “một bộ phận không thể tách rời của văn học Việt Nam”, “không chỉ để cung cấp tài liệu cho các nhà nghiên cứu mà c̣n góp phần làm phong phú và đa dạng đời sống tinh thần của đất nước” ...quả là một thay đổi 180 độ. Đâu là động lực của thái độ tích cực đó? Có nhiều lư do, nhưng một trong những lư do chính theo tôi, đó là giá trị thuyết phục của tự bản thân Văn Học Miền Nam. Nhận định về ảnh hưởng của văn hóa nghệ thuật miền Nam đối với miền Bắc, nhà thơ Hoàng Hưng, một trong những thành viên ṇng cốt của trang mạng Văn Việt ở trong nước, nhận xét:
"Sự tiếp xúc với Văn học Miền Nam trước 1975 đă tạo bước ngoặt quyết định về khuynh hướng tư tưởng cho không ít tác giả của nền văn học “chính thống” miền Bắc. Tinh thần tự do, nhân bản và cách tân của nó đă dần dần “tẩy rửa” thói quen “tự kiểm duyệt” và “phục vụ chính trị”, giáo điều “hiện thực xă hội chủ nghĩa”… vốn ngấm sâu vào tâm trí của thế hệ cầm bút “chống Pháp chống Mỹ”. Chắc chắn nó đă khởi hứng cho những ư tưởng thay đổi mạnh mẽ của vài nhà lănh đạo văn nghệ cuối thập niên 1970 như Trần Độ, Nguyên Ngọc… và của nhiều cây bút thành công từ sau khi có chính sách “Đổi mới”cuối thập niên 1980. Hầu hết những cây bút trẻ hiện nay ở Việt Nam đang đi theo tinh thần ấy".
4. Trong lúc các tác phẩm văn học VNCH vẫn c̣n được xuất bản hạn chế, th́ một h́nh thái nghệ thuật khác của VNCH, ca nhạc, hay nói theo cách nói phổ biến hiện nay là nhạc vàng, gần như “thống trị” sinh hoạt ca nhạc trong nước. Ca nhạc miền Nam đă có ảnh hưởng từ đầu, ngay sau ngày 30 tháng Tư.