ẢI NAM QUAN MỘT THỜI VANG BÓNG - VietBF
 
 
 
News Library Technology Giải Trí Portals Tin Sốt Home

HOME

NEWS 24h

ZONE 1

ZONE 2

Phim Bộ

Phim Lẻ

Ca Nhạc

Breaking

Go Back   VietBF > Other News|Tin Khác > Member News | Tin thành viên


Reply
 
Thread Tools
Old 11-20-2018   #1
luyenchuong3000
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
luyenchuong3000's Avatar
 
Join Date: Mar 2008
Posts: 12,200
Thanks: 16,130
Thanked 32,977 Times in 9,613 Posts
Mentioned: 151 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 1709 Post(s)
Rep Power: 63
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11luyenchuong3000 Reputation Uy Tín Level 11
vnch ẢI NAM QUAN MỘT THỜI VANG BÓNG

ẢI NAM QUAN MỘT THỜI VANG BÓNG ......
Ải Nam Quan chiếm một vị trí quan trọng trong tâm thức người Việt Nam. Trải qua bao thời đại, lịch sử đă chứng minh người Việt phải hy sinh bao nhiêu xương máu để chống lại ư đồ Hán hóa, giử vửng biên cương và tồn tại đến ngày nay. Bài viết này không mang tính cách khảo cứu lịch sử nhưng là một cố gắng tóm lược cùng đưa ra nhận định của người viết dựa vào những ǵ, đă thấy, đă nghe và đă tham khảo một số tài liệu về Ải Nam Quan, theo sau chuyến đi thăm vùng địa đầu Chi Lăng, Lạng Sơn, Cửa khẩu quốc tế Hửu Nghị cuối tháng 1 năm 2011.

Người đọc xin chú ư, trong suốt bài viết, nhiều tên được dùng để chỉ cửa Nam Quan (tham khảo bảng dưới đây) cũng như nhiều chú thích quan trọng của người viết trên một số h́nh ảnh mà người đọc cần tham khảo.

Phụ lục 1-h́nh ảnh Nam Quan trước 1950

Phụ lục 2-h́nh ảnh Nam Quan từ 1950-2011

Phụ lục 3-Đâu là Ải Nam Quan? So sánh vị trí xưa và nay

Phụ lục 4-Cột mốc Km 0 qua nhiều biến đổi

Phụ lục 5-Khu vực Nam Quan theo ḍng lịch sử

Phụ lục 6-Tài liệu đề cập đặc biệt đến Nam Quan

Tên khu vực Ải Nam Quan qua các thời đại . Chú ư: chử Quan= 關 =关 (viết dạng đơn giản)

Kê Lăng Quan 雍鸡关 và Giới Đạo Quan 界首关 khoảng 200 BC năm Nhà Hán
Đại Nam Quan大南关
Trấn Nam Quan 镇南关 1725 Gia Tỉnh nhà Minh
Mục Nam Quan睦南关 Jan-1953 TQ (Mao)
Hửu Nghị Quan友谊关 Jan 1965 TQ (Mao + Hồ)
Nguồn: http://hwbdeboke.tadwena.com/…/Frien...+is+one+of+Ch…

Theo sử Việt

Ải Pha Lủy, Pha dữ Trước 1406 Trước Hậu Lê – Thời Minh
Ẳi Nam Quan Thế kỷ 15 cho đến 1/1965
Cửa khẩu Hửu Nghị Jan 1965 từ 1965-CHXHCNVN

Nhận Định

Theo sử lược và dử liệu nghiên cứu, biên giới VN và TQ không được phân chia rỏ rệt trước thế kỹ 14, người Trung Quốc (TQ) có nhiều tên (xem bảng trên) và người Việt Nam (VN) Ải Pha Lủy để chỉ một khu vực có một đường hẻm nhỏ qua Nam (Việt Nam) đi giữa hai trái núi hay đồi trong vùng đồi núi hiểm trở. Đời vua Hồng Vủ (1368-1398) nhà Minh có xây Chiêu Đức đài. Mặc dù không t́m ra sử liệu đề cập đến một kiến trúc cổng tại khu vực Nam Quan trước Chiêu Đức đài, chúng ta có thể suy luận trước nhà Minh đă có dựng một cửa ải trước Chiêu Đức đài để kiểm soát sự thông thương tại Nam Quan. Sự kiện này thích hợp với chuyện Mạc Đỉnh Chi đi sứ nhà Nguyên năm 1308, sai hẹn, phải ra câu đối để được quan trấn Ái nhà Nguyên mở cửa Ải cho sang. Năm Gia Tỉnh nhà Minh (1725) xây lại Trấn Nam Quan(h́nh A và B), tham khảo h́nh A (nguồn TQ) chúng ta thấy cả Chiêu Đức đài. Nơi đây, VN cũng có cửa Ngưỡng đức đài (xem h́nh B) không biết xây từ lúc nào (tham khảo phụ lục 3 h́nh 29). Tôn Sĩ Nghị có dâng biểu lên vua Càn long (1736-1795) nói rỏ “Từ đài Chiêu-đức đến đô thành nước họ (tức Thăng Long Hà Nội), quân đi chẳng qua chỉ mất sáu ngày…” (tham khảo 16)

Hinh A -Zhen Nan Guan-Victory 23/3/1885 Trấn Nam Quan

Nguồn:http://web.nuist.edu.cn/cou…/zgjxds/...njiang/016.HTM http://en.wikipedia.org/…/Battle_of_...8Zhennan_Pass…

Bức ảnh này mô tả quang cảnh của trận đánh tại Nam Quan ngày 23/3/1885. Quân

Pháp thua trận, rút về Lạng Sơn.

H́nh B Trích từ “Sur les frontieres du Tonkin” bài viết của P Neis khoảng 1884-85 trang 339 (33)

Khảo sát chi tiết h́nh A và B, vào thời điểm 1885-86, chúng ta thấy toàn cảnh Nam Quan phù hơp với chi tiết ghi lại trong sử liệu (tham khảo Phụ lục 5, điểm 5, 16, 17). H́nh A cho ta thấy đài Chiêu Đức được xây phía sau Trấn Nam Quan. H́nh B cho ta thấy kiến trúc cổng phía VN mà có lẻ theo Nguyển Trọng Đang, đốc trấn Lạng Sơn 1774 tả lại …Đài không có quán, hai bên tả hửu lợp bằng cỏ; sửa chửa qua loa, vẩn theo như củ… (Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Nam_Quan)

Ngày 26 tháng 6 năm 1887, Công Ước Về Hoạch Định Biên Giới Giữa Việt Nam và Trung Quốc được kư giữa Pháp và Nhà Thanh. Ngày 21 tháng 04 năm 1891 tiến hành cắm cột mốc tại vùng biên giới gần Trấn Nam Quan. Trong Công Ước có nói rỏ biên giới Tonkin (Bắc Việt thời Pháp thuộc) tại cột mốc 25 (sau là 18) nằm 100m cách Trấn Nam Quan (Porte de Chine à Nam Quan).

Một sự kiện quan trọng theo sử Pháp và bài hồi kư của P Neis trong phái đoàn đàm phán biên giới, khu ải Nam Quan bị tướng De Negrier đặt chất nổ san bằng 25 Tháng 2 1885. Ảnh chụp trong thời gian này (H́nh B (nguồn TQ) và B (nguồn Pháp) cho thấy kiến trúc của Trấn Nam Quan trùng hợp với sử liệu Phụ lục 5, điểm 6, 15, 16. Sau khi san bằng th́ kiến trúc Nam Quan đă được xây dựng lại với hai cổng (tham khảo h́nh C,D,E).

H́nh C. 1908 Chụp toàn cảnh từ trên đồi phía Việt Nam

H́nh D: 1909. H́nh chụp trên địa thế VN, thâư rỏ chi tiết tường xây kiểu bậc thang ngắn, so với tường răng cưa bên Trấn Nam Quan, Trung Quốc, dài, hai bên chạy lên tận đỉnh núi (tham khảo h́nh C)

H́nh E: Ảnh chụp năm 1940 cho thấy chức sắc nhà Thanh qua cửa Ải Nam Quan của Việt Nam.

Tóm lại qua sử liệu theo tiến tŕnh thời gian, cho đến 1949 chúng ta thấy được vùng thành ải Nam Quan, có Trấn Nam Quan ở phiá Bắc thuộc Trung Quốc và cửa phía Nam, gọi là ải Nam Quan thuộc về VN và đây cũng là lư do của “ Việt Nam dạng h́nh cong như chử S, kéo dài từ Ải Nam Quan đến mủi Cà Mau” Từ 1949 ta không thấy h́nh ảnh của hai kiến trúc này ở Nam Quan v́ bị chiến tranh phá hủy Pháp Trung 1884-1886, cách mạng Tôn Trung Sơn chống nhà Thanh (1907), chiến tranh Nhật Trung (1937-1945) và Quốc Cộng (1949). Trấn Nam Quan được trùng tu và đổi thành Mục Nam Quan năm 1953. Năm 1957 Tỉnh Quảng Tây cho xây lại Mục Nam quan, đến năm 1965 th́ Mao và Hồ đồng ư đổi tên thành Hửu Nghị Quan (1965) với kiến trúc chính c̣n tồn tại tới nay.

Nhiều bài viết công phu tố cáo chính phủ Cộng Sản Hà Nội “bán đất, nhường đất” cho Bắc Kinh chẳng những vùng Nam quan mà ở các khu vực khác, riêng về vùng Nam Quan, người viết thấy có ba vấn đề cần minh xác:

1) Khoảng cách giữa Đồng Đăng tới Ải Nam Quan không rỏ, theo “Địa-dư Các Tỉnh Bắc-Kỳ” của Ngô Vi-Liễn, Phạm Văn-Thư và Đỗ Đ́nh-Nghiêm (Nhà in Lê Văn-Tân xuất-bản, Hà-Nội, 1926) là 5 km , theo “Đi thăm Đất Nước” của Hoàng Đạo-Thuư (Nhà Xuất bản Văn hoá, Hà Nội, 1976), Đồng- Đăng cách biên-giới Trung-quốc 4 km, trong khi VietNamtourism sách lưu hành nội bộ xuất bản 1989 th́ Đồng Đăng cách biên giới Trung Quốc là 3 km và sách của Tổng cuộc Du lịch Việt Nam 2010-2011 cũng là 3 km.

2) Vị trí cửa Ải? Ngưỡng đức Đài nằm đâu?

Theo Đại Nam Nhất thống chí (ĐNNTC) th́ Ngưỡng đức đài nằm phía Nam của Trấn Nam Quan (TNQ), tất nhiên không phải cửa Nam. Tham khảo phụ lục 1, h́nh 6, 7, 8, 9, chúng ta thấy một kiến trúc cổng với 2 bờ tường ngắn (so với hai bờ tường của TNQ chạy dài lên đỉnh núi cả hai phía Đông và Tây). Tất cả h́nh chụp này sau 1885-86 chỉ có thể được v́ kíến trúc mà Nguyển trọng Đang mô tả (h́nh A) và có cho sửa chửa đă không c̣n nửa sau khi bị Pháp đặt chất nổ phá hủy ngày 25 thàng 2 1885. Trong ĐNNTC, Nguyển trọng Đang cho biết đài Ngưỡng Đức không biết ai xây và vào năm nào, đài không có quán và hai bên tả hửu lợp bằng cỏ

Bức tường ngắn với cổng về phía Nam có lẻ do người Pháp xây cất, thay thế bức tường xụp đổ – cổng này chính là cửa Ải Nam Quan. TQ cũng cho xây cất lại TNQ. Các kiến trúc này tồn tại đến thập niên 1940?

3) Cột mốc biên giới 18 ở đâu?

Công ước Pháp Thanh 1886 và 1898 nói rỏ: cột mốc 18 cách Porte de Chine à Nam Quan -Trấn Nam Quan lúc bấy giờ – 100m .

Cột biên giới 18 (theo hiệp định Pháp Trung 26-6-1887) chôn ở chân tường cửa Ái Nam Quan VietNam. H́nh do quân Nhật chụp tháng 7 1940, trên cột có viết “Trung Việt Quốc Gíới, Trấn Nam Quan ngoại, đệ thập bát hiệu, No 18 Frontiere” Nguồn http://www.danchimviet.info/archives/4256

Cột mốc này 18 đả mất theo ông Vủ Dủng (nguyên thứ trưởng bộ Ngoại giao năm 2007) v́ yếu tố thời gian. Nhưng trước đó Vủ Dủng quên rằng năm 1979 đảng CS Việt Nam đă tố cáo TQ “…đă ủi nát mốc biên giới số 18 rồi đặt cột Km 0 sâu vào lảnh thổ VN trên 100m, trên đường quốc lộ (1A bây giờ), coi đó là biên giới giữa TQ và VN ở khu vực này (phụ lục 3 h́nh 30) http://www.danchimviet.info/archives/4256

Trong tài liệu “Vấn đề Biên Giới Giữa Việt Nam và Trung Quốc-Nhà xuất bản Sự thật Hà nội 1979 trang 10” tố cáo Trung quốc ủi nát cột mốc biên giới số 18 nằm cách cửa Nam Quan 100m.

Cho dù Ngưỡng đức đài, tường thành ngắn và cột mốc 18 , thời nào ai xây, ai giữ, tất cả đă bị tàn phá bởi chiến tranh liên tiếp với TQ, trong chiến tranh Pháp Trung (1885), Tôn Trung Sơn chống phong kiến nhà Thanh (1907), hay chiến tranh Trung -Nhật (1939), Quốc Cộng (1949) và gần đây Việt Trung (1979) th́ Hiệp ước biên giới kư kết 1886 và 1898 cũng phải được thực thi v́ cả TQ và CHXHVN thừa nhận : Biên giới Việt Nam cách Trấn Nam Quan 100m.

Nhưng Hiệp định 30-12-1999 1 vô hiệu hóa các hiệp định trước và đồng ư trụ cột Km 0 là đường ranh biên giới mới nằm giữa cột 1116 và 1117 nằm ngang hai bên của quốc lộ 1A . Cột 1116 thay thế vị trí cột biên giới củ 18. Điều này chứng tỏ dưới áp lực của Bắc Kinh, Chính phủ Hà Nội, tối thiểu2, đă nhường một phần đất vùng Ải Nam quan thuộc Đồng Đăng cho TQ, khoảng cách ước lượng từ 200m đến 500m từ cột Km 0 đến Hửu Nghị Quan (xem h́nh F). Taị sao chính quyền Hà Nội, không đ̣i hỏi TQ tôn trọng công ước 1887 và 1895 (mà TQ đả đồng ư tháng 4/1958), mà lại chấp nhận đường biên giới mới qua cột Km 0-theo hiệp ước 30/12/1999-mà chính phủ Hà Nội tố cáo TQ đả cho san bằng vị trí cột mốc củ và di chuyển cột thay thế mới về phía Vietnam (h́nh 30 phụ lục 4, Tài liệu vong lục của bộ Ngoại Giao Hà Nội công bố 15-3-79). Cũng nên nhắc lại Công hàm nhường luôn Hoàng Sa và Trường Sa cũng được kư cùng năm 14/9/58. Phải chăng đây là quà cho đại huynh Bắc Kinh để được trợ giúp trong thời kỳ anh em đồng chí “môi hở răng lạnh“!

Nói một cách khác để thực thi 16 chử vàng

“Ổn định lâu dài”
“Hướng tới tương lai
“Hữu nghị láng giềng”
“Hợp tác toàn diện”
Chính phủ Hà Nôi đă nhượng phần đất lịch sữ thiêng liêng này cho Trung Quốc. Ải Nam Quan không c̣n nửa, cửa khẩu Hửu Nghị bây ǵờ nằm ngoài vùng Ải, cửa này có trạm cảnh sát biên pḥng cách xa cột mốc km0 (hay cột mốc 1116) khoảng 100m (h́nh G) và cột Km 0 cách Hửu Nghị Quan ước tính khoảng 500m (h́nh F).

Hinh F

Hinh G : Trạm Cảnh Sát Biên pḥng/và ṭa nhà cửa khẩu hửu nghị

Cột Km 0 năm 2000

Cột Km0 : năm 2005, chử Quan biến mất.

Tháng 23 tháng 1 năm 2011, chử Km 0 biến mất

Cột này nằm ngang với cột mốc 1116 và 1117 ngang qua Quốc Lộ 1A (tham khảo phụ lục 3)

Ải Nam Quan bây giờ chỉ c̣n trong lịch sử, trong tâm tư của bao người dân Việt ê a từ lúc cấp sách đến trường ‘Nước Việt Nam h́nh cong như chử S chạy dài từ Mủi Cà Mau đến Ải Nam Quan.

————————————————–

1-Ngày 30/12/1999 Nguyễn Mạnh Cầm và Đường Gia Triển kư Hiệp ước về biên ǵới đất liền Việt Nam – Trung Quốc xác định “Ở khu vực cưả khẩu Hửu Nghị (map 249C) biên ǵới đi qua cột Km 0” (Tài liệu Biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc-Bộ Ngoại Giao, Uỷ ban Biên ǵới Quốc Gia, Hà Nôị 2010, dự án được sự trợ giúp của bộ Di Trú Ôxtrâylia-trang 18). Như vậy hiệp định này đả vô hiệu hóa Công ước 1887 và 1895 về Ải Nam Quan mà trang 13 của tài liệu trên nói rỏ “ Tháng 4/1958 Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đồng ư với Trung ương đảng Lao Động Việt Nam tôn trọng nh́n nhận hiện trạng đường biên giới lịch sử được các Công Ước 1887 và 1895 xác lập”.

2–Hửu Nghị Quan đă di chuyển phía Nam, h́nh 18 (tham khảo h́nh phụ B) nếu xác thực, trước 6-1940 không thấy có Hửu Nghị Quan và 2 đường hầm, điều này chứng tỏ Hửu Nghị Quan đă di về phía Nam (h́nh 18, h́nh phụ A) trong trường hợp này, chi tiết chắc hẳn phải c̣n tồn trong thư khố bí mật của TQ, và như vậy TQ đă lấn sâu vào lảnh thổ VN. Trong hồi kư của P Neis, có đề cập đến biên giới VN ở phía trước Trấn Nam Quan, gần một con suối nhỏ (le ruisseau) cách khoảng 150m (ước đoán cùa P.Neis, tham khảo h́nh 28) th́ theo bài tường tŕnh của BS Trần đại Sỹ, phải chăng đây là suối Phi Khanh và như thế theo ông Sỹ chúng ta đă mất vài km (25). Vị trí của suối này cần được kiểm chứng v́ suối có thề thay đối bởi động lực thiên nhiên hay nhân tạo.

================================================== =======================================

Phụ lục 1

H́nh ảnh Ải Nam Quan trước 1950.

Một số anh dẩn chứng từ nguồn, một số do người viết cung cấp. Tất cả chú thích trên h́nh ảnh theo nhận định từ người viết dựa vào sử liệu.

Hinh 1 -Zhen Nan Guan-Victory 23/3/1885 Trấn Nam Quan

Nguồn:http://web.nuist.edu.cn/cou…/zgjxds/...njiang/016.HTM http://en.wikipedia.org/…/Battle_of_...8Zhennan_Pass…

Bức ảnh này mô tả quang cảnh của trận đánh tại Nam Quan ngày 23/3/1885. Quân

Pháp thua trận, rút về Lạng Sơn.

H́nh 2 Trích từ “Sur les frontieres du Tonkin” bài viết của P Neis khoảng 1884-85 trang 339 (33)

Khảo sát chi tiết h́nh 1 và 2, vào thời điểm 1885-86, chúng ta thấy toàn cảnh Nam Quan phù hơp với chi tiết ghi lại trong sử liệu (tham khảo Phụ lục 5, điểm 5, 16, 17). H́nh 1 cho ta thấy đài Chiêu Đức được xây phía sau Trấn Nam Quan. H́nh 2 cho ta thấy kiến trúc cổng phía VN mà có lẻ theo Nguyển Trọng Đang, đốc trấn Lạng Sơn tả lại …Đài không có quán, hai bên tả hửu lợp bằng cỏ; sửa chửa qua loa, vẩn theo như củ… (Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Nam_Quan)

H́nh 3. 1890-1920: Địa thế toàn cảnh khu vực Nam Quan vẩn c̣n 2 cửa: Trấn Nam Quan (TQ) và Ải Nam Quan (VN)- cổng thấp và nhỏ hơn và vị trí các đỉnh đồi Đông –Nam và Tây Nam (h́nh nhỏ).

Description: ww97059 Dong Dang Tonkin Poste Francais bordure frontier 8 postalisch nicht gelaufen 1890-1920 zeitgenoessische Erhaltung (www.delcampe.net)

Hinh 4 . H́nh chụp 1905 trên đất TQ, thấy rỏ Chiêu đức đài (bên trái), khu Miếu Quan Đế và Đền chiêu Trung (bên phải)

H́nh 5: 1905-1908 nh́n từ phía Trung Quốc, mặt sau của cổng Trấn Nam Quan

H́nh 6. 1908 Chụp toàn cảnh từ trên đồi phía Việt Nam

H́nh 7: 1909. H́nh chụp trên địa thế VN, thâư rỏ chi tiết tường xây kiểu bậc thang ngắn, so với tường răng cưa bên Trấn Nam Quan, Trung Quốc, dài, hai bên chạy lên tận đỉnh núi (tham khảo h́nh 6)

H́nh 8: Ảnh chụp năm 1940 cho thấy chức sắc nhà Thanh qua cửa Ải Nam Quan của Việt Nam.

H́nh 9 và 10: chụp năm 1940. Nguồn www.flickr.comphoto80@N074633

H́nh 11a. H́nh chụp khoảng trước 1949, h́nh 11a và 11b có cùng một kiến trúc, kiến trúc bị phá hủy trong cuộc chiến Quốc Cộng 1949.

H́nh 11b. Khoảng thời gian 1949

Nguồn: http://kekhopk.com/forums/index.php…

Đây là một kiến trúc khác hẳn so với các nhóm h́nh trên (4, 5, 6, 7, 8). Có vẻ sơ sài v́ đă mất hẳn phần kiến trúc phía trên trong cuộc nội chiến tại Trung Cộng vào năm 1949. H́nh 11b cho thấy có dáng một nhân vật đang cầm súng đứng phiá trước Trấn Nam Quan (h́nh chụp từ phía Việt Nam nh́n về TNQ. Tuy nhiên lúc này cổng nhỏ Ải Nam Quan (xem h́nh 7) có lẻ cũng bị san bằng rồi. Theo sử liệu TQ, trong cuộc giao tranh Quốc cộng vào năm 1949 th́ toàn bộ phần trên cổng đă bị phá hoại hoàn toàn (h́nh 12). So sánh với h́nh 12, h́nh 11a và 11b cho thấy Trấn Nam Quan đả được xửa lại sau chiến tranh.

H́nh 12 Khoảng 1949. Quân Trung Cộng chụp h́nh trước tấm biển tạm bợ Mục Nam Quan, ki ến trúc tầng trên bị phá hủy chỉ c̣n 1 tầng có ṿm cổng.

Phụ lục 2

H́nh ảnh của Hửu Nghị Quan trong thời gian 1950’s cho đến nay 2011.

H́nh 12a: Mục Nam Quan Tháng 6 1955 chụp trên đất Tàu với thứ trưởng ngoại giao Ji Pengfei, nhân dịp Hồ chí Minh hướng dẩn phái đoàn Việt Nam tới gặp thủ tưóng TQ. (http://www.picturechina.com.cn/bbs/thread-7784-1-1.html). Tham khảo h́nh 12a và cụm h́nh 13a, 13b,14,15, kiến trúc 12a khác hẳn, lư do chính phủ Quảng Tây đă cho xây lại Mục Nam Quan, sau đó Mao và Hồ đổi tên thành Hửu Nghị Quan (1965). Đây là thời điểm mà TQ có thể xây lại Hửu Nghị Quan di về phương Nam (chưa có tài liệu minh xác việc này)

Hinh 13a: 1965 (22)

H́nh 13b: Năm 2005

Quan sát toàn cảnh khu Nam Quan sau 1949-50 , chúng ta không thấy h́nh ảnh cổng Ái Nam Quan (cổng nhỏ xem h́nh 6, 7, 8, 9, 10) của Việt Nam, có lẻ đă bị chiến tranh phá hủy hay chính TQ phá hủy vào lúc nào th́ chưa thấy tài liệu nào được công bố cả. Chắc chắn tài liệu phải nằm đâu đó bên TQ hay ở cả VN.

H́nh 14: Năm 2009

H́nh 15. Năm 2010

Hinh 12a Chụp tháng 6-1955 cho thấy kiến trúc 2 tầng, mái cong đă được xây lại trùng tu vào n ăm 1957 với kiến trúc 3 tầng (tham khảo h́nh 13a,13b,14,15) . M ột điều đáng chú ư là h́nh Mao Trạch Đông trưng bày (h́nh 12a, 1965) biến mất ở những h́nh sau.

Phụ lục 3

Đâu là Ải Nam Quan: So sánh vị trí của Ải Nam Quan xưa và nay

H́nh 16: chú thích chử trong h́nh phụ A và B do người viết. Tài liệu hiếm lấy từ nguồn Chân Mây 2009 (http://motgocpho.com/forums/showthread.php… )

H́nh phụ B: Do trinh sát quân Nhật Bản chụp vào tháng 6 năm 1940 trước khi tiến hành “cuộc chiến 3 ngày” nhằm đạt mục đích đưa quân vào lănh thổ Đông Dương. H́nh được mô tả: “…thấy được đường xe lửa Lào Cai-Côn Minh. Lại có đường xe ô-tô từ Đồng Đăng lên tận Trấn Nam Quan. Bờ tường thành này bên trong là đất Trung Quốc, ngay bên ngoài là Bắc bộ Đông Dương”.
Từ cao điểm như trong h́nh ta thấy rơ vị trí lô cốt như đă xem qua h́nh B. Có thể lô cốt đă xây dựng trên một nền kiến trúc cổ xưa của Việt Nam.

Hinh A “Từ trên núi Kim Kê (Jinji, Golden rooster mountain) cao 511m chụp xuống, đây là điểm chiến lược cao ở vùng này nằm ở cánh trái cửa khẩu Hửu Nghị nh́n từ VN về hướng TQ, hướng Tây của Hữu Nghị Quan, ṿng tṛn màu vàng là cao điểm tranh chấp Trung-Việt, hiện thời do quân ta khống chế; Vùng màu xanh lá cây h́nh tam giác là khu vực gài địa lôi là nơi mà vào đầu tháng 7-2007, phía Trung Cộng đă tuyên bố hoàn tất gỡ bỏ tấm đạn địa lôi (ḿn) cuối cùng, bảo đảm thông thương an toàn cho “vùng Hữu Nghị, Ḥa b́nh vạn tuế!”. Vạch dài màu tím là con đường sắt qua lại với Đồng Đăng. Vùng trắng giữa h́nh có hai cửa đường hầm là điểm cuối của cao tốc Nam Ninh đến Bằng Tường” . Ảnh do cựu chiến binh Trung Cộng (tham gia chiến tranh biên giới Trung-Việt 1979) chụp vào năm 2005 (21)

Dải núi Kim Kê gồm 3 đỉnh nằm như giá ba chân ngược với vách núi thẳng, về chiến lược rất dể thủ, khó công. Sau chiến tranh Trung Pháp, tướng giử Mục Nam Quan cho xây 3 tháp canh (gọi là Trung, Nam, Bắc tháp). Tháp canh này vẩn c̣n tồn tại, TQ đang xử dụng như tiền đồn với radar hoạt động suốt ngày đêm. (23)

H́nh 17: Ảnh chụp vệ tinh vị trí của Hửu Nghị Quan

Khu vực Hữu Nghị Quan (đóng khung) so với đường biên giới Trung-Việt màu vàng. Ảnh do cựu chiến binh Trung Cộng thiết kế để mô tả lại chiến trận biên giới Trung-Việt năm 1979. Lúc này, Hữu Nghị Quan đă nằm sâu trong đất Trung Cộng từ đời…Hồ Chí Minh!
(24)

Nguồn http://img6.itiexue.net/272/2726598.jpg

H́nh 18. Ngày 25 tháng 2 2009 Việt Nam Trung Quốc cử hành lể chào mừng hoàn thành công tác cắm mốc. (26) Theo hiệp đinh kư kết ngày 30/12/1999 giữa TQ và VN chấp nhận đường ranh biên giới tại khu vực Hửu Nghị bắt đầu từ cột Km 0 nằm trên đường nối ngang quốc lộ 1A giữa hai cột mốc 1116 (thay cho cột 18) và cột mốc 1117

H́nh 19 . Vị trí cột mốc mới (nguồn bộ Ngoại Giao Hà Nội) chú thích người viết

Vị trí cột Km 0 (ngang với cột mốc biên giới mới 1116, tham khảo h́nh 22) và cột mốc 1117 và 1118 (cột mốc 19 xưa).

Lưu ư : Cột mốc phân chia biên giới (có tính cách pháp lư) khác với cột cây số không (Cột Km 0). Theo Hiệp ước 30-12-1999 giữa TQ và VN, cột Km 0 v́ nằm ngang với cột biên giới 1116 v à 1117 nên cũng được xem như cột ranh giới khởi đầu của Quốc lộ (national route) 1A của VN, và quốc lộ (state route) 322 của TQ.

H́nh 20 và 21 Vị trí các cột mốc.

H́nh 22. Các ngọn đồi ở phía đông và đông-nam, tây và tây nam vùng ải Nam Quan.

Tham khảo h́nh 2,3,6,7 và 22a được chụp vào thời Pháp, đồi núi vùng này có độ cao tương đương. Trong hồi kư P.Neis mô tả các ngọn đồi này có độ cao trung b́nh khoảng 50 đến 60m, với tường thành h́nh răng cưa chạy dài lên tận đỉnh núi. Trong khi đó so sánh vị trí các h́nh 3,4,5,6,7, 22 với 18,19,20, 21 chúng ta thấy vị trí những cột mốc mới này chỉ nằm vị trí tương đối bằng phẳng của trái đồi thấp.

Hinh 23: Cột mốc 1116 nằm trên khu đất cao, ngang với Cột mốc Km 0

H́nh 24 : H́nh chụp 23 tháng 1 2011 Khoảng cách từcột biên giới (cột cây số 0) đến Hửu Nghị Quan ước lượng 400m-500m

Phụ lục 4

Cột mốc biên giới Km0 qua nhiều biến đổi

Hinh 25 : Cột biên giới 18 (theo hiệp định Pháp Trung 26-6-1887) chôn ở chân tường cửa Ái Nam Quan VietNam. H́nh do quân Nhật chụp tháng 7 1940, trên cột có viết “Trung Việt Quốc Gíới, Trấn Nam Quan ngoại, đệ thập bát hiệu, No 18 Frontiere” Nguồn http://www.danchimviet.info/archives/4256

Cột mốc này 18 (có lẻ đặt tại thành tường cửa Ải về phía VietNam) (xem ảnh 25) đả mất theo ông Vủ Dủng (nguyên thứ trưởng bộ Ngoại giao năm 2007) v́ yếu tố thời gian. Nhưng trước đó Vủ Dủng quên rằng năm 1979 đảng CS Việt Nam đă tố cáo TQ “…đă ủi nát mốc biên giới số 18 rồi đặt cột Km 0 sâu vào lảnh thổ VN trên 100m, trên đường quốc lộ (1A bây giờ), coi đó là biên giới giữa TQ và VN ở khu vực này (h́nh 30) http://www.danchimviet.info/archives/4256

H́nh 26: năm 2000

H́nh 27: năm 2005, chử Quan biến mất.

H́nh 28: Tháng 23 tháng 1 năm 2011, chử Km 0 biến mất

Theo chử viết bên hông cột mốc Km 0, Đl 6-8-1965, có thể là ngày cột được dựng lên. Cột này nằm ngang với cột mốc 1116 và 1117 ngang qua Quốc Lộ 1A (tham khảo h́nh 18, 19)

Vùng ranh giới có dấu hiệu thay đổi không ngừng, điều nay cho ta thấy TQ t́m mọi cách để xóa bỏ vết tích của việc lấn đất. Cột Km 0 luôn luôn thay đổi, nằm trên lằn ranh giới một cách thờ ơ, miển cưởng. Phiá cửa khẩu Việt Nam từ trụ Km 0 đến trạm biên pḥng, toàn cảnh có tính cách tạm bợ, đơn giản, trong khi quang cảnh phía TQ vừa mỹ quan vừa uy nghi với những ṭa công sự lo việc thông thương qua biên giới. Không hiểu niềm hảnh diện, tự hào của dân tộc VN c̣n được bao nhiêu?

Quang cảnh cửa khẩu Trung Quốc Quang cảnh cửa khẩu Hửu Nghị Việt Nam

H́nh 28a. Hồi kư của P Neis đoạn đầu của trang 338

http://digital.library.cornell.edu/c...ageviewer-idx…

H́nh 28b. Biên bản cấm mốc 1894

Hinh 29 Đại Nam Nhẩt thống Chí -1882

http://public.fotki.com/…/vietnam_bo...m_quan/dn.html

H́nh 30. Tài liệu vong lục của bộ Ngoại Giao Hà Nội công bố 15-3-79, trích từ

http://www.danchimviet.info/archives/4056

Vấn Đề Biên Giới Giữa Việt Nam và Trung Quốc-Nhà xuất bản Sự thật Hà nội 1979 trang 10

H́nh 31: Quang cảnh cửa khẩu Hửu Nghị từ cột Km 0 đến cổng Cảnh Sát Biên Pḥng

H́nh 32: Một vị quan trấn Ải (thời nhà Nguyển?)

Phụ lục 5

Tóm lược lịch sữ nơi khu vực Ải Nam Quan

Một đặc điểm chung của Trung Quốc khi xua quân tràn vào Việt Nam họ đều phải đi qua ngỏ Ải Nam Quan tiến vào Lạng Sơn, điều này chứng tỏ đây là một vị trí chiến lược quan trọng cho tới ngày nay. Trong suốt các thời đại, Ải Nam Quan đă chứng kiến bao nhiêu chiến tích lịch sử gắn liến với vận mệnh của dân tộc và lảnh thổ Việt Nam.

1. Tháng 10-979 Đinh Tiên Hoàng và con Đinh Liển bị sát hại. Vệ vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi vua. Lê Hoàn trở thành Nhiếp chính đại thần. Triều thần nổi dậy chống Lê Hoàn, Lê Hoàn dẹp loạn. Nhà Tống thấy loạn diện cớ sai Hầu Nhân Bảo tấn công Đại Cồ Việt qua đường Lạng Sơn, đi qua ải Nam Quan. Trước t́nh h́nh khẩn trương, ông lên ngôi xưng là Đại Hành Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Thiên Phúc (980-988). Năm 981, quân Tống bị đánh bại,tướng nhà Tống, Hầu Nhân Bảo bị bắt và bị chém tại Ải Chi Lăng (1)

2. Thoát Hoan theo lịnh vua nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt (Kubilai) dùng kế xin VN qua cửa Ải để phạt Chiêm Thành, thực sự đem quân tấn công Đại Việt bằng đường bộ qua Ải Nam Quan Lạng Sơn, tháng chạp năm Giáp Thân (1284) Thượng Hoàng (vua Thánh Tông) cho triệu các bô lăo tới điện Diên Hồng để trưng cầu dân ư cùng hỏi mưu chước. Các bô lăo đều đồng thanh xin đánh. Thế là qua hai hội nghị (Diên Hồng và B́nh Than), toàn quốc đă nhất trí kháng địch. Quân bản bộ của Thoát Hoan đến cửa Nam Quan th́ ngừng lại. Thoát Hoan phái Bá Tổng A Lư mang thư qua nói: “Bản súy chỉ nhờ đường Nam quốc qua đánh Chiêm Thành, chứ không có bụng ǵ đâu mà ngại. Nên mở cửa cho bản súy đi và đến đâu chỉ nhờ giúp ít nhiều lương thảo, khi phá xong Chiêm Thành sẽ có trọng tạ. Nhược bằng kháng cự thiên binh, bản súy sẽ không dong t́nh, bờ cơi sẽ tan hoang, lúc đó có hối cũng đă muộn” (2)

3. Năm 1285, Thoát Hoan thua trận phải chui vào ống đồng trốn vế Tàu cũng qua ngả Nam Quan. (3)

4. Năm 1308 Trạng Mạc Đĩnh Chi đi sứ nhà Nguyên, đến cửa khẩu sai hẹn, quan Tàu giử cửa đang chờ, biết nếu trể th́ cửa phải đóng, trạng phải ngủ lại trạm dịch, quan vui miệng ra câu đối “Tới cửa ải trễ, cửa quan đóng, mời khách qua đường cứ qua” (4)

5. Dưới thời vua Hồng Vủ nhà Minh 1368-1398 Chiêu Đức đài. (Zhaozhong flatform) được xây dựng tại Nam Quan (h́nh 1, ( 5))

6. Tháng 9, mùa Thu 1401, đời nhà Hồ (1401-1407). Nhà Minh sai đại tướng quân Chu Năng, phó tướng quân là bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân sang đánh Hồ Hán Thương (con của Hồ Quư Ly) .Khi tiến quân đến Long châu, Chu Năng chết, Trương Phụ được bổ lên thay. Phụ bèn theo đường Bằng Tường thuộc Quảng Tây tiến quân đến quan ải Pha Lũy (ải Nam Quan), kéo thẳng đến sông Phú Lương… (7)

7. Tháng 6 Đinh Hợi 1406 Nguyền Trải tiển cha Nguyển Phi Khanh bị vua nhà Minh bắt sang tàu cùng cha con Hồ Quư Ly ở Aỉ Nam Quan.(6)

Năm 1406, tháng 9, nhà Minh sai Chinh Di hữu phó tướng quân đeo ấn Chinh di phó tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ, Tham tướng Huỳnh Dương Bá Trần Húc, đem 40 vạn quân đánh vào cửa ải Pha Lũy (ải Nam Quan) cứ một toán mai phục, một toán hành quân, thay nhau phiên nhau cứu ứng lẫn nhau. (8)

8. Tháng 6. Mùa hạ 1427, tháng 6, ngày mồng 10, thời vua Lê Lợi, trấn thủ Quảng Tây Chinh man tướng quân Trấn Viễn Hầu Cố Hưng Tổ của Nhà Minh đem 5 vạn quân, 5 ngh́n cổ ngựa, từ Quảng Tây sang cứu viện các thành. Đến cửa ải Pha Lũy (Nam Quan) bị tướng giữ ải Lê Lựu, Lê Bôi đón đánh ngay tại cửa ải, phá tan quân giặc, chém hơn 3.000 thủ cấp, bắt được 500 ngựa. Hưng Tổ thua to chạy về. (9)

9. Tháng 8 nam 1427 Liểu Thăng bị quân Lê Lợi chém chết tại Ải Chi Lăng, tàn quân Minh trốn về nước qua Ải Nam Quan (7)

10. Khi họ Trịnh (Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng) đă vào được Thăng Long, Mạc Đăng Dung thấy t́nh thế bất lợi, cho người nhà Mạc sang kêu với vua Minh rằng họ Trịnh nổi lên tranh ngôi chớ không phải con cháu nhà Lê. Một phái đoàn của Minh triều được cử sang Nam Quan khám xét.

Tháng 3 năm Bính Thân (1596) các quan nhà Lê là Hộ Bộ thượng thư Đỗ Uông, Đô Ngự Sử Nguyễn Văn Giai (sau lại có hai hoàng thân Lê Cánh, Lê Lựu cùng Công Bộ Tả Thị Lang Phùng Khắc Khoan) đem 10 người kỳ mục, 100 cân vàng 1.000 cân bạc, và cái ấn An Nam Đô Thống Sứ của nhà Mạc và cái ấn An Nam Quốc Vương của vua Lê ngày trước lên tŕnh các quan nhà Minh ở Nam Quan..

11. Các quan nhà Minh đ̣i vua Lê Thế Tông phải lên gặp họ. Trịnh Tùng đành cử Hoàng Đ́nh Ái, Nguyễn Hữu Liêu đem một vạn quân đi hộ giá. Nhà Minh đ̣i phải nộp người vàng và ấn vàng như cũ, rồi không chịu đến hội. Chờ không lâu được vua Thế Tông lại trở về.

12. Tháng tư năm sau, nhà Minh lại mở cuộc họp thứ hai cũng vẫn tại Nam Quan. Lần này 5 vạn quân đi hộ vệ nhà vua cũng do Hoàng Đ́nh Ái chỉ huy, chừng e quan nhà Minh trở mặt bắt vua Lê chăng. Cuộc đàm phán thành tựu v́ phái đoàn của nhà Lê chịu nhận chức Đô Thống Sứ và cử phái đoàn sang nộp cống tại Yên Kinh, sau này Phùng Khắc Khoan c̣n dâng sớ cố nài nhà Minh phong vương cho vua Lê. Từ đó hai nước có sự thông sứ như trước c̣n nhà Mạc th́ được nhà Minh can thiệp nên nhà Lê phải để cao bằng thuộc gia quyến nhà Mạc (10)

13. Đinh Hợi, năm thứ 5 (1647) thời Lê chân Tông, nhà Minh sai bọn Phan Kỳ đệ tờ sắc cáo, cùng đi với bọn Nhân Chính do Trấn Nam Quan sang nước ta, sắc phong thái thượng hoàng làm An Nam quốc vương. (8b)

14. Quư Hợi, năm thứ 4 (1683). (Thanh, năm Khang Hy thứ 22).

Tháng 6 năm trước, vua nhà Thanh hạ lệnh cho quan chức Quảng Tây giao trả tù binh gồm những người nhà Mạc là bọn Kính Liêu. Tích Dục tuần phủ Quảng Tây, báo tin ấy cho nước ta biết Triều đ́nh sai phó đô ngự sử Vũ Duy Đoán và trấn thủ Lạng Sơn là hoạn quan Thân Đức Tài cùng nhau đến cửa ải nơi biên giới tiếp nhận tù binh (12)

15. Năm 1725 Án sát tỉnh Quảng Tây Cam Nhữ Lai vào thời Gia Tĩnh (Yongzheng) nhà Thanh 1722-1735 tu bổ cửa Nam Quan, gồm có một tầng và một cửa đôi để qua lại, năm 1728 cho treo phía trong tường biển đề Trấn Nam Quan, (Zhennan Pass), phía ngoài “Nam cương trọng trấn”. Đời vua Càn Long nhà Thanh, lại cho treo tấm biển “Trung Ngoại Nhất Gia”. Cửa có khóa, chỉ mở khi nào có sứ bộ đi qua (h́nh 2, ( 13))

16. Năm 1774. Đốc trấn Lạng Sơn là Nguyễn Trọng Đang cho tu sửa, xây lại Ải Nam Quan bằng gạch. Về việc sửa sang đài Ngưỡng Đức, văn bia của Nguyễn Trọng Đang ghi khắc có đoạn như sau:

“… Đài “Ngưỡng-Đức” không biết dựng từ năm nào; h́nh như mới có từ khoảng niên hiệu Gia-Tĩnh nhà Minh, ngang với niên-hiệu Nguyên-Ḥa, đời vua Lê Trang Tông ở nước ta. Đài không có quán, hai bên tả hữu lợp bằng cỏ; sửa chữa qua loa, vẫn theo như cũ. Nhà Lê ta trung hưng, đời thứ 14, vua ta kỷ-nguyên thứ 41, là năm Canh tư, ngang với năm thứ 44 niên hiệu Càn-Long nhà Thanh; Đang tôi làm chức Đốc-trấn (Lạng-Sơn), trải qua 5 năm là năm Giáp-th́n, sửa chữa lại, xây dựng bằng gạch ngói, đài mới có vẻ hoành tráng…”.(h́nh 2, (13,14))

17. Năm 1788, tháng 10,theo lời cầu viện của Lê Chiêu Thống, vua nhà Thanh Càn Long (1736-1795) cử Tổng đốc lưỡng Quảng, Tôn Sĩ Nghị cầm đại quân sang Đại Việt, đi bằng ba ngả: Cao Bằng do Sầm Nghi Đống; Tuyên Quang do Đề tổng Vân Nam và Quư Châu, họ, Ô; c̣n Tôn Sĩ Nghị cùng Hứa Thế Hanh qua Trấn Nam Quan tràn vào Đại Việt (15).

Tôn Sỉ Nghị phỏng đoán từ đài Chiêu-đức (Trấn Nam Quan) đến đô thành nước họ (La thành, Hà Nội), quân đi chẳng qua chỉ mất có 6 ngày (16)

18. Năm 1804, tháng giêng, vua Gia Long trú tất ở Hành cung Thăng Long. Có sứ Tàu là Tề Bố Sâm đến cưả Nam Quan để đem cáo sắc và Quốc Ấn sang tuyên phong. Ngài nghe tin, cho Trương Tấn Bửu, Đặng Trần Thường sung chức quan thượng hầu mạng sứ, lại sai đ́nh thần lựa người đẹp tiếp sứ. (17)

19. Trong chiến Tranh Trung Pháp, ngày 25 Tháng 2 Năm 1885, Tướng Pháp De Negrier đặt chất nổ san bằng Trấn Nam Quan (Porte de Chine à Nam Quan) (35). Trong cuôc đàm phán về Công Uớc giữa 8 thang 4 đến 4 tháng 5 năm 1885. Pháp và TQ đồng ư biên ǵới VN là địa điểm cách Trấn Nam Quan và gần con suối. Suối này cách cổng 150m có lẻ là suối Phi Khanh (tên phong cho con suối nơi Nguyền Trải khóc tiển cha-Nguyển phi Khanh-quan nhà Hồ (1401-1407)- bị bắt giải về Tàu) (h́nh 28a).

20. 26 tháng 6 năm 1887, Công Ước Về Hoạch Định Biên Giới Giữa Việt Nam và Trung Quốc kư giữa Pháp và Nhà Thanh. Ngày 21 tháng 04 năm 1891 tiến hành cắm cột mốc tại vùng biên giới gần ải Nam quan. Trong Công Ước có nói rỏ Biên giới Tonkin tại cột mốc 25 (sau là 18) nằm 100m cách Trấn Nam Quan (porte de Chine à Nam Quan) (h́nh 28a và 28b)

21. Sau thỏa uớc Pháp Thanh 1887, Tô Nguyên Xuân (Su Yuanchun) nhà Thanh cho xây lại Trấn Nam Quan với hai tầng lầu và cho xây miếu Quan Đế và đền Chiêu Trung (Zhaozhong hall) phía sau Trấn Nam Quan (18). Cửa Ải của Việt Nam có lẻ cũng được Pháp xây lại cùng thời.

22. Năm Quang Tự (Guangsu) nhà Thanh 1896, Trấn Nam Quan được trùng tu, dở bỏ miếu Quan Đế và đền Chiêu Trung để xây Pháp Quốc Lầu (18)

23. Năm 1907, Tôn Trung Sơn và Hoàng Hưng phát động cuộc khởi nghĩa Trấn Nam Quan chống Thanh, nhưng thất bại. (19)

24. Vùng Trấn Nam Quan bị liên tiếp phá hủy bởi chiến tranh Trung Nhật 1937-45 và chiến tranh quốc cộng 1949 , ngày 20-12-1939 quân Nhật bôi xóa chử Trấn Nam quan và đốt lầu Trấn Nam Quan (19)

25. Sau 1949 Mao Trạch Đông trùng tu Trấn Nam Quan cho xây thêm tầng các, nóc lợp ngói lưu li (20)

26. Năm 1957 Chính phủ Quảng Tây trùng tu Mục Nam Quan với kiến trúc ba tầng như hiện nay (18)

27. Năm 1965 Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh đồng ư đổi Mục nam Quan thành Hửu Nghị Quan, phía Việt Nam gọi là cửa khẩu Hửu Nghị cho tới nay 2011. (22)

28. Từ ngày 17 tháng 2 năm 1979, trong Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979, Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa tung trên 200.000 quân tấn công Việt Nam ở sáu tỉnh biên giới: Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh, và đă chiếm được các thị xă Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn. Bộ binh Trung Hoa vào thị xă Lào Cai bằng thung lũng sông Hồng, vào thị xă Cao Bằng theo thung lũng sông Bằng (Bằng Giang), và vào thị xă Lạng Sơn qua Ải Nam Quan. Có một vài thông tin chưa được kiểm chứng cho rằng sau khi rút quân ngày 5 tháng 3 năm 1979, quân Trung Quôc vẫn chiếm giữ vùng đất phía nam ải Nam Quan, và trạm hải quan (quan thuế) của Việt Nam phải dời xuống phía nam ải nầy, sâu trong lănh thổ Việt Nam. (36)

29. Năm 1999, ngày 30 tháng 12, tại Hà nội, hai ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm của Việt Nam và Đường Gia Triền của Trung quốc chính thức kư ‘Hiệp ước biên giới trên đất liền’, theo đó Ải Nam Quan thuộc về Trung quốc. Bản hiệp ước này được quốc hội Trung quốc thông qua ngày 29 tháng 4 năm 2000, và quốc hội Việt Nam thông qua ngày 9 tháng 6 cùng năm, và việc cắm mốc biên giới bắt đầu từ năm 2001 đến cuối năm 2008 là xong.

30. Ngày 25 tháng 2 2009 Viet Nam Trung Quốc cử hành lể chào mừng hoàn thành công tác cắm mốc. VN chấp nhận phía Nam cột 1116 là cột Km 0 là biên giới VN, là khởi đầu của quốc lộ 1A từ Cửa khẩu Hửu Nghị đến Cà Mau

Phụ lục 6

Tài liệu đề cập đặc biệt về Ải Nam Quan

1490-Tâm Quang-Langlet trong bài “La perception des frontières dans l’Ancien Vietnam à travers quelques cartes vietnamiennes et occidentales” (tạm dịch: Quan niệm biên giới ở Việt Nam thời trước qua vài bàn đồ Việt Nam và Tây Phương) trong quyển “Les frontières du Vietnam, Histoire des frontières de la péninsule indochinoise” (Các biên giới của Việt Nam, Lịch sử các biên giới trên bán đảo Đông Dương), nhà xuất bản L’Harmattan, 1989, cho biết rằng trên bản đồ Hồng Đức (được thiết lập vào năm 1490) có vẽ h́nh một cái đồn để tượng trưng cho ải Nam Quan và có ghi chú là Ải Nam Quan nằm ở huyện Văn Uyên (thuộc trấn Lạng Sơn, tức là thuộc về Việt Nam) và tại đấy có hai đài, đài Chiêu Đức (thuộc về Trung quốc) và đài Ngưỡng Đức (thuộc về Việt Nam).

1774-Năm 1774, Đốc trấn Lạng-Sơn là Nguyễn Trọng Đang cho tu sửa, xây lại Ải Nam Quan bằng gạch. Về việc sửa sang đài Ngưỡng Đức, văn bia của Nguyễn Trọng Đang ghi khắc có đoạn như sau:

“… Đài “Ngưỡng-Đức” không biết dựng từ năm nào; h́nh như mới có từ khoảng niên hiệu Gia-Tĩnh nhà Minh, ngang với niên-hiệu Nguyên-Ḥa, đời vua Lê Trang Tông ở nước ta. Đài không có quán, hai bên tả hữu lợp bằng cỏ, sửa chữa qua loa, vẫn theo như cũ. Nhà Lê ta Trung hưng, đời thứ 14, vua ta kỷ-nguyên thứ 41, là năm Canh tư, ngang với năm thứ 44 niên hiệu Càn-Long nhà Thanh; Đang tôi làm chức Đốc-trấn (Lạng-Sơn), trải qua 5 năm là năm Giáp-th́n; sửa chữa lại, xây dựng bằng gạch ngói, đài mới có vẻ hoành tráng…”.

1882-Theo Đại Nam Nhất Thống Chí (1882) đoạn nói về Ải Nam Quan:

Trấn Nam Quan thuộc nội-địa nước Tàu, dựng dưới đời vua Gia-Tĩnh [1522-1566] nhà Minh. Năm 1726, dưới đời nhà Thanh, niên-hiệu Ung-Chính thứ-ba, quan Án-sát tỉnh Quảng-Tây là Cam Nhũ-Lai có cho tu-bổ lại cửa quan này.

Cửa này dài 110 trượng [khoảng 50m], có đề ba chữ Trấn-Nam Quan — nghĩa là cửa quan

để pḥng giữ [trấn] ở phương Nam [hay người phương Nam]. Bên trong cửa này — vẫn

thuộc nội-địa Trung-quốc — có đài Chiêu-Đức và đ́nh Tham-Đường là nơi đón tiếp sứ-bộ

nước ta mỗi khi sang Tàu công-cán và cũng là nơi sứ-bộ Trung-quốc nghỉ-ngơi trước khi

qua cửa quan này để sang nước ta (31). Đối-diện với Trấn-Nam Quan, thuộc xă Đồng-Đăng

và xă Bảo-Lâm thuộc châu Văn-Uyên, trấn Lạng-Sơn có đài Ngưỡng-Đức của nước ta, là

nơi đón tiếp sứ-bộ Trung-quốc qua ta công-cán. Ngưỡng-Đức Đài này trước lợp bằng cỏ;

năm 1774, Đốc-trấn Lạng-Sơn là Nguyễn Trọng-Đang cho tu-sửa, xây lại bằng gạch. Về

việc sửa sang đài Ngưỡng-Đức, văn bia của Nguyễn Trọng Đang ghi khắc có đoạn như sau

: .. ..Đài [Ngưỡng-Đức] không biết dựng tự năm nào; h́nh như mới có từ khoảng niên-hiệu

Gia-Tĩnh nhà Minh, ngang với niên-hiệu Nguyên-Hoà, đời vua Lê Trang-Tông ở nước ta.

Đài không có quán, hai bên tả hữu lợp bằng cỏ; sửa chữa qua-loa, vẫn theo như cũ. Nhà Lê

ta trung-hưng, đời thứ 14, vua ta kỷ-nguyên thứ 41, là năm Canh-tư, ngang với năm thứ 44

niên-hiệu Càn-Long nhà Thanh; Đang tôi [Nguyễn trọng-Đang] làm chức Đốc-trấn [Lạng-

Sơn], trải qua 5 năm là năm Giáp-th́n; sửa chữa lại, xây dựng bằng gạch ngói, đài mới có

vẻ hoằnh-tráng. ..

Bộ Đại Nam Nhất Thống Chí Quyển 14 viết về Ải Nam quan.

“Ải Nam Quan cách tỉnh thành (Lạng Sơn) 31 dặm về phía bắc, thuộc châu Văn Uyên, phía bắc giáp châu Bằng Tường tỉnh Quảng Tây nước Thanh, tức là chỗ mà người Thanh gọi Trấn Nam Quan. Cửa nầy dựng từ năm Gia Tĩnh nhà Minh, đến năm Ung Chính thứ 3 (1725) nhà Thanh, án sát tỉnh Quảng Tây là Cam Nhữ Lai tu bổ lại có tên nữa là “Đại Nam Quan”, phía đông là một dải núi đất, phía tây là một dải núi đá, đều dựa theo chân núi xây gạch làm tường, gồm 119 trượng, cửa quan đặt ở quăng giữa có biển đề “Trấn Nam Quan”, dựng từ năm Ung Chính thứ 6 (1728) triều Thanh, có một cửa, có khóa, chỉ khi nào có công việc của sứ bộ mới mở. Bên trên cửa có trùng đài, biển đề 4 chữ “Trung ngoại nhất gia”, dựng từ năm Tân Sửu [1781] đời Càn Long nhà Thanh. Phía bắc cửa có “Chiêu đức đài”, đằng sau đài có “Đ́nh tham đường” (nhà giữ ngựa) của nước Thanh; phía nam có “Ngưỡng đức đài” của nước ta, bên tả bên hữu, có hai dăy hành lang, mỗi khi sứ bộ đến cửa quan th́ dùng chỗ nầy làm nơi tạm nghỉ.” (36)

1926-Theo “Địa-dư Các Tỉnh Bắc-Kỳ” của Ngô Vi-Liễn, Phạm Văn-Thư và Đỗ Đ́nh-Nghiêm (Nhà in Lê Văn-Tân xuất-bản, Hà-Nội, 1926):

“Cửa Nam-Quan ở ngay biên-giới Trung-quốc và Việt-Nam. Kể từ Hà-Nội lên đến tỉnh-lỵ Lạng-Sơn là 150 km; đến cây-số 152 là chợ Kỳ-Lừa; đến cây-số 158 là Tam-Lung; đến cây-số 162 là Đồng-Đăng; đến cây-số 167 là cửa Nam-Quan đi sang Long-Châu bên Tàu. Như vậy từ Đồng-Đăng lên cửa Nam-Quan có 5 km; từ Kỳ-Lừa lên Nam-Quan mất 15 km [về phía tây-nam chợ Kỳ-Lừa có động Tam-Thanh, trước động Tam-Thanh có núi Vọng Phu hay tượng nàng Tô-Thị là những danh thắng của tỉnh Lạng-Sơn] và từ tỉnh-lỵ Lạng-Sơn lên Nam-Quan là 17 km.”

1960 -Quyển “Phương Đ́nh Dư địa chí” của Nguyễn Văn Siêu đời Minh Mạng (bản dịch của Ngô Mạnh-Nghinh, Tự Do xuất-bản, Saigon, 1960) th́ ghi:

Về cửa hay ải Nam-Quan đời Hậu-Lê trở về trước gọi là cửa Pha-Lũy [hay Pha-Dữ], ở về phía bắc châu Văn-Uyên (1), trấn Lạng-Sơn. Từ châu Bằng-Tường [tỉnh Quảng-Tây] bên Trung-quốc muốn vào nước An-Nam [tức nước ta] phải qua cửa quan này. Theo Cương-mục, cửa Pha-Lũy chính là cửa Nam-Quan ở xă Đồng-Đăng thuộc huyện Văn-Uyên [xưa là Văn-Châu hay Châu Văn], tỉnh Lạng-Sơn. Từ đời Lê trunghưng, người Tàu gọi cửa Pha-Lũy là Trấn-Nam Quan; c̣n ta th́ quen gọi là của hay ải Nam-Quan.

Theo,“Ải Nam Quan trong lịch sử” -sử gia Trần Gia Phụng, Thư viện Tiếu Lùn, 2006-12-25 :

Mặc dù từ thời Gia Long, thủ đô đă được dời vào Phú Xuân (Huế), tầm quan trọng của Hà Nội không c̣n như trước kia, nhưng nhà Nguyễn cũng hết sức coi trọng hệ thống cửa ải của Lạng Sơn, đặc biệt là hai cửa ải Nam Quan và Du Thôn. Theo Đại Nam thực lục, “phàm có sứ bộ qua lại th́ do ải Nam Quan đưa đi, người phạm tội và dân bị băo xiêu dạt th́ do ải Du Thôn”. Vào thời Lê có đặt hai hiệu để giữ hai ải, mỗi ải có hai chức quan là chánh và phó thủ hiệu, được cấp một chiếc ấn khắc chữ “Văn Uyên châu quảng úy sứ ty chi ấn” để mỗi khi tiếp lănh công văn của nhà Thanh th́ đóng ấn ấy làm tin. Đến đời Gia Long, nhà vua tiếp tục sử dụng hai quan thủ ải cũ là Nguyễn Đ́nh Minh và Nguyễn Đ́nh Giáp, cho Đ́nh Minh làm Thủ hiệu giữ ải Nam Quan, Đ́nh Giáp làm phó thủ hiệu giữ ải Du Thôn, và cấp cho ấn đồng khắc chữ triện “Văn Uyên châu thủ hiệu chi chương”
luyenchuong3000_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to luyenchuong3000 For This Useful Post:
RealMadrid (11-20-2018)
Reply

User Tag List

Thread Tools

Facebook Comments


 
iPad Tablet Menu

HOME

Breaking News

Society News

VietOversea

World News

Business News

Other News

History

Car News

Computer News

Game News

USA News

Mobile News

Music News

Movies News

Sport News

ZONE 1

ZONE 2

Phim Bộ

Phim Lẻ

Ca Nhạc

Thơ Ca

Help Me

Sport Live

Stranger Stories

Comedy Stories

Cooking Chat

Nice Pictures

Fashion

School

Travelling

Funny Videos

NEWS 24h

HOT 3 Days

NEWS 3 Days

HOT 7 Days

NEWS 7 Days

HOT 30 Days

NEWS 30 Days

Member News

Tin Sôi Nổi Nhất 24h Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 3 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 7 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 14 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 30 Ngày Qua
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.


All times are GMT. The time now is 14:56.
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2006 - 2024
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2024 DragonByte Technologies Ltd.
Log Out Unregistered

Page generated in 0.19546 seconds with 14 queries