Cưới hỏi ở miền Tây c̣n là dịp để nhiều người rèn luyện kỹ năng sống, để làm quen với nhau, hẹn ḥ... Một nhà có đám cưới th́ cả làng chung sức chung tay, thắt chặt thêm t́nh nghĩa.
Ghe đưa dâu trong một đám cưới ở miền Tây
ẢNH: GIA AN
Sau khi đă nhất trí với nhau về ngày cưới và sính lễ, hai họ tiến hành lễ hỏi rất sớm. Lễ hỏi, đàng trai mang qua vài mâm trà rượu, bánh trái và một phần hoặc toàn bộ sính lễ. Người miền Tây không có tục thách cưới như ở miền Bắc, đàng trai muốn trao bao nhiêu cũng được. Tuy nhiên, cơ bản th́ sính lễ gồm nữ trang và tiền đồng, cũng phải coi cho được. Tiền đồng là một số tiền mặt gọi là phụ giúp đàng gái tổ chức đám, mà coi như đền ơn cha mẹ đă nuôi dạy cô gái trưởng thành cũng được. Thông thường món tiền này tương đương trên dưới 4 chỉ vàng, c̣n ai khá nữa th́ tăng lên. Nữ trang cũng tùy gia cảnh nhà trai mà trao tặng nhiều hay ít, nhưng tối thiểu cũng phải có cặp nhẫn, đôi bông tai, sợi dây chuyền, chiếc lắc tay nho nhỏ. Nhà giàu th́ làm nữ trang nặng hơn, c̣n nhà nào quá nghèo th́ chỉ cần cặp nhẫn và đôi bông tai làm duyên con gái đă đủ rồi. Người miền Tây rất sợ mang tiếng là “ra giá” hoặc “bán con”, nên nói chung xuề x̣a. Có lẽ phong tục tốt này bắt nguồn từ thời đi mở hoang vùng đất mới, ai cũng trắng tay nên thật sự thông cảm cho nhau. Trong đám hỏi, đàng gái làm vài mâm tiệc đăi đàng trai, cũng nấu ngon và khéo y như một đám cưới thực thụ.
Lễ cưới thường tổ chức sau lễ hỏi vài tháng. Vui nhất là ngày “nhóm họ”, là hai ngày trước lễ cưới. Cả ḍng tộc và hàng xóm cùng đến phụ giúp. Nhóm thanh niên th́ đi đốn tàu cau, đủng đỉnh về che rạp cưới. Hồi ấy không có rạp làm sẵn như bây giờ mà phải tự làm rạp bằng cây lá trong vườn. Đủng đỉnh là cây thuộc họ cau, có buồng trái tạo thành những cọng dài, dùng để trang trí cho rạp cưới rất đẹp. Lá cau và lá đủng đỉnh được cắt thành những h́nh dáng mỹ thuật, kết hợp với thân cây chuối, cây tre cũng cắt ráp điêu luyện, làm thành cổng có cái bảng khắc chữ Tân hôn hoặc Vu quy bằng bông hoa xinh xắn. Có người khéo tay c̣n kết h́nh rồng phượng từ chính những nguyên liệu tự nhiên ấy. Thanh niên trong làng rất mê môn thủ công này, từ 15 - 16 tuổi đă theo đàn anh học nghề, sau đó đi làm miễn phí cho các đám cưới.
C̣n đám đàn bà con gái th́ lo nấu nướng. Heo, ḅ, gà, vịt được làm tại chỗ chứ không mua ngoài chợ, bởi đăi tới 2 - 3 ngày. Những bà d́, bà thím xúm nhau lại nấu, ướp, con gái trẻ hơn th́ ngồi tỉa hoa những củ cà rốt, cải trắng, ớt sừng trâu để điểm lên dĩa thức ăn cho đẹp. Đây cũng là cơ hội cho các cô học nấu nướng sau này về nhà chồng. Ngày “nhóm họ” cũng đă đông mấy chục người phụ việc, cho nên buổi tối phải có nồi cháo khuya cho mọi người dằn bụng. Ăn xong, mọi người gần như thức chơi với nhau cả đêm, nào uống trà rượu, ca hát… Nhiều cô gái, chàng trai có cảm t́nh với nhau, bắt đầu làm quen, ḥ hẹn. Đi đám cưới cũng là dịp t́m bạn trăm năm mà không cần ai mối mai, giới thiệu. Trong đám cưới, ai giỏi dở ra sao biết liền, ai xăng xái, đảm đang th́ được người khác chú ư. Mấy bà, mấy ông cũng ḍm ngó kỹ lắm để chọn dâu, chọn rể luôn cho ḿnh. Có khi một cái đám cưới này sẽ dẫn theo vài cái đám cưới khác.
Và trong đêm “nhóm họ” trước ngày tiễn cô dâu về nhà chồng th́ đàng gái c̣n có lễ lạy xuất giá. Cô dâu mặc áo dài, ông bà cha mẹ chú bác cô d́ anh chị cũng mặc áo dài trang trọng, ngồi quanh cái bàn giữa nhà, có đặt một mâm trà rượu. Cô dâu rót rượu kính mời từng vị trưởng bối, c̣n các vị trưởng bối th́ dặn ḍ cô dâu những điều nhân nghĩa, nết ăn nết ở khi về bên chồng và tặng nữ trang hoặc tiền riêng cho cô dâu. Thường trong đêm lạy xuất giá mọi người khóc rất nhiều, nhất là cha mẹ và cô dâu. Cha mẹ cô dâu khóc khi nghĩ tới cảnh con ḿnh đi xa, thân gái mười hai bến nước trong đục không lường. Cô dâu th́ nghĩ cảnh cha mẹ ở nhà không ai phụng dưỡng, như câu ca dao “Chồng gần không lấy, mà lấy chồng xa. Rủi mai cha yếu mẹ già, chén cơm, đôi đũa, bộ kỷ trà ai dâng”, thế là khóc như mưa.
Đến sáng ngày chính lễ, gia đ́nh hai họ đều mời một người đàn ông uy tín trong ḍng tộc đứng ra làm trưởng họ, để đại diện ăn nói, tŕnh thưa. Vị này thường là người có đạo đức, ăn nói chững chạc, khôn khéo, đặc biệt phải thuận vợ thuận chồng để lấy vía tốt cho cô dâu chú rể. Đàng trai c̣n nhờ 6 cậu thanh niên khỏe mạnh bưng 6 mâm quả đi vào cổng rước dâu, coi như sính lễ bên cạnh tiền đồng và nữ trang. Mấy mâm quả này phía trên phủ tấm khăn hồng hoặc đỏ, bên trong đựng trà rượu, trầu cau, trái cây, bánh, xôi... 6 mâm là mức trung b́nh, nhà nghèo hơn th́ 4 mâm, giàu hơn th́ 8 - 10 mâm.
Chuyến về, ngoài mấy chiếc ghe của đàng trai th́ lại thêm mấy chiếc ghe của đàng gái đi đưa dâu, tạo thành một đoàn rất đẹp. Đàng gái được đàng trai đăi ăn rồi mới về, và tất nhiên không thiếu nước mắt chia ly của gia đ́nh cô dâu. Nhưng niềm vui th́ rạng ngời trong mắt mỗi người, v́ dựng vợ gả chồng cho con xong là mẹ cha thở phào hạnh phúc.