PDA

View Full Version : CHUYỆN LINH TINH BUỒN VUI TRONG ĐỜI


Pages : 1 [2]

hoanglan22
06-16-2020, 03:22
em Pleiku da thịt đẫy đà...muỗi cắn nên ghẻ nhiều, có lần tụi này thỉnh 2 cô ca sĩ về chỗ tụi này , vừa hát vừa làm đào nhẩy, ngồi kế em nh́n thấy những vết đỏ lấm chấm ở 2 bên đùi...2 bàn tay của tui đi tu luôn.

:hafppy::hafppy::hafppy:

Cha nội TT rờ lộn rồi ai biểu mắt cha nhắm lại làm chi . Đó là mụn cóc https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1600370&stc=1&d=1592277719

hoanglan22
06-20-2020, 14:16
ANAHEIM, California (NV) – Đầu năm 1965 là cột mốc khó quên trong đời khi chàng trai trẻ Hứa Thiện Hùng lần đầu tiên t́nh nguyện vào Quân Chủng Không Quân, Khóa 65D, được qua Mỹ học giai đoạn đầu nhưng sau đó v́ lư do sức khỏe, phải trở về Việt Nam.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1603141&stc=1&d=1592662335

Phi công Hứa Thiện Hùng (trái) trong lễ măn khóa “Gắn Cánh” tốt nghiệp tại Trường Phi Hành Keesler AFB, Biloxi, Mississippi, bên cạnh là bạn cùng khóa và thầy huấn luyện John Hackerman cùng phu nhân. (H́nh: Văn Lan/Người Việt chụp lại)

Nhưng nhiệt huyết vẫn luôn sôi sục trong ḷng khi chứng kiến bao cảnh đau thương của chiến tranh, sau khi về nước ông được đưa qua Khóa 26 Bộ Binh Thủ Đức, măn khóa ông t́nh nguyện về Lực Lượng Đặc Biệt.

Được nhập ngũ trong thời chinh chiến, phục vụ dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ là một biểu tượng của t́nh yêu tổ quốc, đó cũng là danh dự và trách nhiệm của công dân. Và người trai thời loạn Hứa Thiện Hùng, đă vinh dự đứng dưới lá cờ vàng, qua hai sắc lính với hai quân chủng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.

Lần đầu gia nhập Quân Chủng Không Quân Quân Lực VNCH

Tiếp phóng viên nhật báo Người Việt tại nhà ở Anaheim, miền Nam California, ông Hứa Thiện Hùng kể, để bước vào Quân Chủng Không Quân, đầu tiên sau khi thụ huấn tại Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang khoảng 11 tháng, ông Hùng được qua Mỹ học tiếng Anh tại trường Lackland Air Force Base, Texas. Rất tiếc trước khi tiếp tục qua trường học bay, lúc đó sức khỏe không cho phép tiếp tục khóa huấn luyện phi công, ông Hùng đành phải bỏ dở nửa chừng chương tŕnh học.

Trở về nước, ông Hùng gia nhập Khóa 26 Trường Bộ Binh Thủ Đức. Sau khi ra truờng, ông t́nh nguyện vào Lực Lượng Đặc Biệt, đặt hậu cứ ở Nha Trang, thuộc Trung Tâm Hành Quân Delta.

Lúc đó đang trong trận Mậu Thân 1968, ông Hùng đang hành quân ở vùng Cây Quéo, Cây Thị (tỉnh Gia Định), tảo thanh Việt Cộng tấn công vào nội thành Sài G̣n-Gia Định. Lúc đó lực lượng Delta đang truy lùng t́m Việt Cộng lẩn trốn và ông Hùng là phụ tá toán trưởng Delta. Sau trận đó ông được rút về Nha Trang, tiếp tục là trưởng toán nhảy vào mật khu Đồng Ḅ Nha Trang. Rồi ông tiếp tục nhảy vào rừng, mỗi tháng nhảy toán một lần, vào vùng Mỏ Than Nông Sơn, Khu Kỹ Nghệ An Ḥa, Đồng Xoài, Lộc Ninh…

“Tôi ở đó hơn một năm, nhảy trong rừng khoảng 17 lần, mỗi lần vô ra khoảng bảy ngày, dắt theo sáu toán viên. Lúc mới về, có cố vấn Mỹ đi cùng sau đó th́ không cần thiết, ḿnh tự đi. Sau khoảng 13 tháng ở đơn vị nhảy toán Delta, bên Không Quân có yêu cầu Bộ Tổng Tham Mưu cho tôi về khám lại sức khỏe, may sao lại qua hết những đợt kiểm tra này,” ông Hùng cho biết.

Trở qua Mỹ, tiếp tục học khóa phi công

“Tôi lại được trở qua Mỹ lần nữa, đưa về Trường Phi Hành Keesler AFB, Biloxi, Mississippi, để được huấn luyện bay T-28 khoảng 12 tháng. Đây là loại máy bay một động cơ cánh quạt để thực tập các bài học lái căn bản. Người học lái ngồi ghế trước, tiếp cận trực tiếp với bảng đồng hồ và tự điều khiển cần lái, c̣n người thầy huấn luyện ngồi ở ghế sau”. ông Hùng kể.

Ông Hùng cho hay, để học lái trên chiếc T-28, một ngày có khoảng 2 đến 3 giờ bay trong hai buổi, sáng đi bay chiều học dưới đất, khoảng 400 đến 500 giờ là xong chương tŕnh. Khó khăn và nguy hiểm nhất trong chương tŕnh học là kỹ thuật “Spin,” bay chúc đầu xuống, lấy lại thăng bằng b́nh thường để xoay cánh bay lên. Ngoài ra những kỹ thuật cất cánh, đáp, nhận diện địa h́nh dưới đất cũng được học và thực hành rất kỹ.

Nhớ về kỷ niệm đẹp nhất trong đời người phi công, ông Hùng vui vẻ kể: “Khi đă thành thục, người thầy huấn luyện sẽ không đi theo nữa, học viên tự bay một ḿnh, tự cất cánh và đáp xuống với sự điều khiển, nhắc nhở của ông thầy dưới đất. Chuyến bay ‘solo’ thành công, khi đáp xuống học viên sẽ được huấn luyện viên nhấc lên bỏ vô thùng nước ướt hết cả người, leo ra đứng chụp h́nh chung với ông thầy. Cả học viên lẫn người thầy huấn luyện đều vui mừng v́ cả hai đều hoàn thành tốt đẹp khóa học bay!”

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1603142&stc=1&d=1592662335

Ông Hứa Thiện Hùng (phải) với bộ đồ bay ướt sũng, trong thủ tục ăn mừng bay “solo” thành công. Bên cạnh là ông John Hackerman, thầy huấn luyện bay tại Trường Phi Hành Keesler AFB, Biloxi, Mississippi, năm 1971. (H́nh: Văn Lan/Người Việt chụp lại)

“Ngoài ra, sau khi bay ‘solo’ thành công, sẽ được bay bằng phi cụ, tức là học viên ngồi trong buồng lái bao bọc chung quanh một bao tối đen, chỉ tiếp xúc trực tiếp với những đồng hồ chỉ báo tốc độ, cao độ, hướng bay, và người thầy ngồi phía sau điều khiển nhắc nhở,” ông Hùng kể thêm.

Măn khóa học bay T-28, ông Hùng được chuyển qua học bay C-123 là loại máy bay vận tải hai cánh quạt tại Trường Phi Hành Lockbourne AFB ở Columbus, tiểu bang Ohio, khoảng ba tháng là xong khóa học.

Ông Hùng cho biết thêm trong chiến tranh Việt Nam, loại máy bay C-123K có trang bị thêm hai động cơ phản lực phụ để lên xuống ở những phi đạo ngắn, rất đắc dụng để vận chuyển lính đi hành quân, huấn luyện nhảy dù, thả dù tiếp liệu súng đạn, lương thực, thuốc men y tế, nhu yếu phẩm cho từng đơn vị. Trước năm 1975, Mỹ cho thu hồi loại máy bay C123 để đổi lại chiếc C130, mạnh hơn.

Về nước, lái máy bay vận tải C123 khắp chiến trường

Về Việt Nam, ông c̣n một giai đoạn chót nữa trong chương tŕnh huấn luyện tại phi trường Phan Rang, là phi công phải học lái máy bay trên những phi đạo ngắn, được lót bằng những tấm vỉ sắt như phi trường Kon Tum, hoặc đáp xuống những con lộ ngắn tại những quận lỵ nhỏ, hoặc tiền đồn địa phương hẻo lánh, không có phi trường.

“Như ở tiền đồn Tống Lê Chân hoặc những nơi đang bị vây, máy bay đến thả hàng tiếp liệu súng đạn, lương thực, nhu yếu phẩm, thường là súng đạn cho chiến trường đang rất cần, thả cho thật lẹ rồi bay ngay. Cũng có mấy chiếc C123 bị hỏa tiễn SA7 của Việt Cộng bắn rơi trên chiến trường", ông Hùng kể.

Từ đó phi công Đại Úy Hứa Thiện Hùng phục vụ tại Phi Đoàn 423-425, thuộc Không Đoàn Vận Tải 53, Sư Đoàn 5 Không Quân Tân Sơn Nhất, bay khắp nơi để phục vụ chiến trường lúc bấy giờ đang hồi khốc liệt. Tiếp tục bay đến năm 1975, sau đó đời tù “cải tạo” bắt đầu.

“Đầu tiên tôi bị đưa vào trại Trảng Lớn, Tây Ninh, nơi đó là đồn đóng quân của Địa Phương Quân, gần phi trường Trảng Lớn, Tây Ninh. Sau đó tôi bị đưa qua trại Cà Tum, sát biên giới Cam Bốt, trại này thuộc Lực Lượng Đặc Biệt, thuộc Lôi Hổ biên pḥng ngày xưa,” ông nhớ lại.

“Cuộc đời tù cũng như bao người khác, nhưng được cái may mắn là tôi không ở trong những trại tù hắc ám thành ra có phần nhẹ hơn. Ở trại Cà Tum đến cuối năm 1980 th́ tôi được đưa về Thành Ông Năm, Hóc Môn. Ra tù, tôi phải đi đào thủy lợi như mọi người dọc theo con đài ở Đức Ḥa, Đức Huệ, Hậu Nghĩa,” ông Hùng kể.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1603143&stc=1&d=1592662335
Thiếu Úy Hứa Thiện Hùng, thuộc Lực Lượng Đặc Biệt Nhảy Toán Delta, năm 1969. (H́nh: Văn Lan/Người Việt chụp lại)

Chuyến vượt thoát và những nỗi kinh hoàng trên biển

Cuối năm 1980, ông Hùng được người dắt mối vượt biển với giá 2 cây vàng. Chuyến đi xuất phát từ Rạch Giá, Kiên Giang, sau một ngày đêm lênh đênh trên hải phận quốc tế, lần đầu gặp ngay hải tặc Thái Lan.

Chuyến ghe vượt biển dài khoảng gần 20 thước, chở 120 người phần lớn là phụ nữ và trẻ em, c̣n lại chỉ có 19 tay thanh niên trên 18 tuổi, trong đó có tôi, ông Hùng cho hay.

“Bọn hải tặc thả dây kéo ghe ḿnh cập vô sát ghe nó, kêu hết tất cả đàn bà con nít qua hết trên ghe nó, nấu cơm cho ăn tử tế, xong hăm hiếp phụ nữ, khi bọn cướp trả người về ghe của ḿnh, tất cả phụ nữ đều thất thần hoảng loạn!”, ông Hùng bần thần nhớ lại.

“Sau đó ghe tiếp tục đi, vợ con của chủ ghe hoảng hốt, người chủ ghe cũng mất tinh thần theo. Tôi lúc đó nằm dưới lườn ghe, được chủ ghe yêu cầu tôi tiếp tục điều khiển chiếc ghe để đi tiếp. Chủ ghe cho biết nếu bị cướp biển lần nữa, th́ tôi tùy theo hoàn cảnh mà giải quyết, nếu cần th́ liều chết. Tôi kêu các anh em đi trên ghe, cho biết nay tôi theo sự ủy thác của chủ ghe, nếu gặp cướp biển lần nữa, các anh em phải nghe theo sự chỉ huy của tôi, các anh em trên ghe đều đồng ư”, ông Hùng kể tiếp.

Ông Hùng cho hay, mấy anh em đi vượt biển chuyến này hầu hết đều là quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, ít nhiều đều có vơ nghệ để pḥng thân. Hơn nữa vừa xảy ra việc cướp bóc hăm hiếp vừa rồi, nên mọi người đều uất ức!

Bị cướp lần thứ hai, phải giết người trên đất Thái

Ông Hùng kể, ngay ngày hôm sau, lúc đó ông định hướng là gần vô đất Thái, lại gặp cướp lần thứ hai. Lần cướp này xảy ra bài bản hơn lần thứ nhất, khi bọn hải tặc cho tất cả mọi người trên ghe vượt biên qua hết trên tàu lớn của chúng, để bọn chúng lên ghe nhỏ của ḿnh, lục soát lấy những ǵ có thể lấy. Sau đó bọn chúng đập phá nát ghe của ḿnh, mục đích coi c̣n giấu vàng bạc chỗ nào không.

“Sau khi cướp phá xong, bọn hải tặc bắt đầu đuổi người vượt biển trở xuống ghe nhỏ của ḿnh. Tôi nh́n xuống thấy hỡi ơi, chiếc ghe nhỏ ḿnh bị phá tan tành, coi như không thể đi được nữa! Tôi nói với nhóm thanh niên ḿnh, phải chuẩn bị tư thế sẵn sàng, khi nghe tôi ra lệnh, tất cả đều phải lao vào tử chiến”, ông Hùng nhớ chuyện xưa.

“Vừa bị cướp bóc hăm hiếp xong, nỗi uất ức mọi người c̣n dâng tràn, nên sau khi tôi ra lệnh ‘Xung phong,’ cả đám thanh niên say máu ào vô đánh liền. Bọn cướp biển tên nào cũng có cầm dao trên tay, c̣n bọn tôi th́ tay không, nhưng ai nấy cũng đều là quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, ít nhiều ǵ cũng ‘có nghề’ nên nhất tề xông vào đánh tới tấp!”, ông kể.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1603144&stc=1&d=1592662335
Ông Hứa Thiện Hùng (phải) thuộc Lực Lượng Đặc Biệt Nhảy Toán Delta, trong chuyến về thăm nhà tại Phan Thiết năm 1969, trước khi nhảy toán. (H́nh: Văn Lan/Người Việt chụp lại)

Ông Hùng buồn rầu kể lại chuyện đă xảy ra hơn 40 năm: “Bọn cướp biển bất ngờ bị tấn công dữ dội, chúng trở tay không kịp. Riêng tôi bị tên đầu đảng cầm mă tấu phóng tới chém liền. Không may cho nó, tôi chụp chiếc cần xé đan bằng tre rất chắc dùng để đựng cá, quăng tới đỡ liền. Khi mă tấu bị chém hụt, rớt xuống trước mặt, tôi chụp ngay mă tấu chém ngược một nhát ngay cổ tên đầu đảng, hắn ngă xuống giăy đành đạch, máu phun có ṿi!”.

“Việc hỗn chiến diễn ra quá nhanh, kết quả bọn hải tặc chết bốn tên tại chỗ, chúng tôi kéo xác quăng xuống biển, ba tên c̣n lại hốt hoảng nhảy xuống biển. Tôi cũng không ngờ anh em thanh niên ra tay sấm sét như vậy! Bên phe ta có anh Danh bị đâm ḷi ruột nặng nhất, và một anh khác bị chém xệ bả vai. Nhờ có anh Bác Sĩ Chi Lăng đi trong nhóm vượt biên, lấy dụng cụ y tế trên ghe băng bó tạm”, ông nói.

“Kế tiếp tôi chỉ huy anh em lấy cây gỗ trên ghe, chặt thành từng đoạn làm vũ khí chống trả nếu có gặp cướp biển lần nữa. Khi đó có có mấy chiếc ghe Thái chạy ṿng quanh nhưng không dám tới gần. Sau đó tôi kêu anh em nổ máy ghe chạy tiếp vô đất liền, nhưng không biết sao máy không nổ, chiếc ghe nằm yên không nhúc nhích!”, ông Hùng kể tiếp.

Thế là mọi người phải nằm chịu trận tại chỗ cho tới hôm sau, khi thấy một chiếc tàu Hải Quân Thái Lan tới gần, bà con lấy áo phất lên làm dấu hiệu cầu cứu, cùng lúc mấy thanh niên quăng hết dao trên ghe xuống biển để tránh phiền phức.

“Thấy chúng tôi, tàu Hải Quân Thái thả xuống chiếc ca nô nhỏ chạy tới. Thế nhưng, chúng dừng lại quan sát hồi lâu rồi bỗng bắn hàng loạt đạn bay tung trên mặt nước tới tấp để thị uy xong mới xáp vô lục soát. Sau khi thấy không có ǵ nguy hiểm, chúng kéo ghe vô đất liền”, ông miêu tả.

(Văn Lan).

hoanglan22
08-28-2020, 19:44
Ngày này năm xưa, 28/08/1917: Tổng thống Wilson bị người biểu t́nh chặn đường
Vào ngày này năm 1917, Tổng thống Woodrow Wilson đă bị chặn đường bởi những người ủng hộ quyền bầu cử của phụ nữ trước Nhà Trắng,

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1644267&stc=1&d=1598643802

Vào ngày này năm 1917, Tổng thống Woodrow Wilson đă bị chặn đường bởi những người ủng hộ quyền bầu cử của phụ nữ trước Nhà Trắng, những người muốn ông ủng hộ việc sửa đổi Hiến pháp để đảm bảo phụ nữ có quyền bầu cử.

Wilson từng có quá khứ ủng hộ quyền bầu cử của phụ nữ, mặc dù ông thường hứa suông trước những yêu cầu của người ủng hộ trong các chiến dịch chính trị và lịch sự chào hỏi những người biểu t́nh ôn ḥa trước kia tại Nhà Trắng. Ông cũng từng làm giáo viên tại trường nữ sinh và là cha của hai cô con gái tự xem ḿnh là “những người ủng hộ quyền bầu cử của phụ nữ.”

Trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1912 với đối thủ là Theodore Roosevelt, Wilson và Roosevelt đều đồng ư về nhiều biện pháp cải cách như luật lao động trẻ em và luật ủng hộ công đoàn. Tuy nhiên, họ lại khác nhau trong vấn đề quyền bầu cử của phụ nữ, khi Roosevelt tán thành việc phụ nữ có quyền bỏ phiếu.

Theo kho lưu trữ American Memory của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, Wilson đă bước ra từ cổng Nhà Trắng vào sáng ngày 28/08 cùng vợ và ngả mũ về phía những người biểu t́nh như thường lệ. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, nhóm người này ngày càng trở nên kích động khi họ giương các khẩu hiệu phản đối Thế chiến I trên những tấm áp phích – bên cạnh yêu cầu quyền bỏ phiếu.

Cuối ngày hôm đó, những người biểu t́nh và người qua đường ủng hộ chiến tranh đă xung đột với nhau. Nhiều phụ nữ đă bị bắt và bị tống giam. Một số người ủng hộ quyền bầu cử b́nh đẳng đă tuyệt thực trong tù và bị ép ăn bởi những người giam giữ họ. E sợ vấn đề tuyệt thực và lo rằng chính quyền của ḿnh sẽ chịu dư luận tiêu cực, Wilson cuối cùng đă đồng ư thông qua một tu chính án trao quyền bầu cử cho phụ nữ vào tháng 01/1918. Một năm sau, Quốc hội thông qua Tu chính án thứ 19. Tháng 08/1920, tu chính án này được phê chuẩn, trao quyền bầu cử cho phụ nữ.

Biên dịch: Trần Mẫn Linh

hoanglan22
08-28-2020, 19:47
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1644269&stc=1&d=1598643999

Chiếc khu trục hạm DER 331, USS KOINER, sau 3 tuần lễ đi tuần ở ngoài khơi Biển Đông, đă tới hải cảng Cao Hùng, tiếng Anh viết là Kaoshiung, một thành phố duyên hải, cũng là thủ phủ của miền Nam Đài Loan.

Cùng đi với tôi có một thượng sĩ. Chúng tôi cùng lên chiến hạm nầy tại Thái Lan để làm một cuộc thực tập, OJT (On the Job Training) . Tới hải cảng Cao Hùng vào giữa mùa Xuân nên khí hậu rất thoải mái. V́ là một bến cảng nhỏ Cao Hùng không có cầu tàu với nước đủ sâu để một tàu chiến như là một khu trục hạm có thể vô cầu tàu để cặp bến…Trước 10 giờ sáng địa phương th́ tàu chúng tôi đă thả neo xong xuôi, yên ổn. Tàu chia ra 2 phân đội tả, hữu để cho việc đi bờ.. “Đi bờ” (to go ashore) là một tiếng lóng Hải quân chỉ việc thủy thủ đoàn rời tàu lên đất liền nghỉ ngơi hay công tác linh tinh ǵ đó.

Đi bờ cũng là dịp thủy thủ đoàn có dịp ăn nhậu say sưa…đôi khi có những chàng thủy thủ say khướt, được…quân cảnh chở về tàu, chứ không thể đi đứng tự chủ được. Không thuộc hẳn thủy đoàn hai người chúng tôi được sắp cho đi bờ chuyến đầu tiên. Tàu neo trên một nhánh sông nhỏ, đối diện với thành phố, cách bờ chừng hơn một cây số. Muốn vô tới bờ phải dùng những chiếc ghe nhỏ của dân địa phương, gọi là “taxi boat” . Một chiếc thuyền nhỏ như vậy chỉ có thể chở trên dưới 10 người. Thuyền chèo bằng tay, có lẽ do việc tiết kiệm nhiên liệu với lại khoảng cách từ chỗ tàu neo tới bến không có xa lắm. Người chèo thuyền chúng tôi đi, gọi là skipper, là một đàn ông trung niên, khoảng 40 tuổi. Giá tiền là một hai đô la ǵ đó cho mỗi người. Tôi móc sẵn một tờ giấy 10 đô để trả tiền…thuyền phí. Tư thế một sĩ quan tôi sẽ trả tiền taxi boat cho anh thượng sĩ kia luôn. Nói với người skipper, tôi cũng vừa dơ 2 ngón
tay lên : “ lưỡng cô dành…”.Với 3 chữ tiếng Quảng cầu âu đó, mà không ngờ người lái thuyền hiểu. Mà cũng có thể ông ta đă hiểu với 2 ngón tay của tôi đă ra dấu. Ông ta gật đầu miệng cười khả ái, rồi xua tay, cho biết là chúng tôi khỏi phải trả tiền đi bờ…

Cảm t́nh tốt đẹp của tôi đối với thành phố duyên hải này có lẽ đă bắt đầu bằng nghĩa cử trên.

Không phải như bây giờ. Lúc đó là vào năm 1967, đi dạo sơ trên thành phố mà việc đầu tiên là phải đi t́m cái ǵ cho bữa ăn trưa cái đă. Ngó qua nh́n lại tôi không gặp một người Việt Nam nào hết. Và đó cũng là lư do người dân Đài Loan thời ấy chưa biết cái xứ h́nh chữ S của chúng ta tên ǵ và ở đâu..

Đến xứ người Tàu mà không ăn ḿ th́ ăn cái ǵ? Với cái ư nghĩ đó hai chúng tôi vô môt quán ăn nhỏ, và kêu mỗi người một tô ḿ ….Không dở mà cũng chẳng ngon. Ḿ của người Tàu Đài Loan coi bộ không ngon hơn là ḿ của cái xe nhỏ ở đường Nguyễn văn Sâm Sàig̣n…hay là “ḿ cây nhăn” ở đường Phan thanh Giản, Đakao sát bên trường Vương Gia Cần hồi xưa của tôi. Nghĩ lại cũng tự trách là đă hơi khó tính. Người Tàu Quảng Đông là những tay đầu bếp cừ khôi của Trung Hoa…Nhớ xưa kia vua Càn Long nhà Thanh làm cuộc …”thăm dân cho biết sự t́nh” với giai thoại Càn Long du Giang Nam,mà thực sự ra mục đích chánh yếu của ông vua này là chỉ đi về phía Nam của sông Dương Tử để thưởng thức những món ăn tuyệt hảo của người Tàu miền Nam ở xứ Quảng Đông rộng lớn…

Rời quán ăn hai chúng tôi tiếp tục đi lang thang, cố khai phá thành phố trù phú miền duyên hài này, như hai kẻ mù sờ voi. Chẳng có một chỉ dẫn, không có một thổ công để có thể dẫn dắt chúng tôi thăm viếng những thắng cảnh đặc biệt của Cao Hùng. Đi ngang một tiệm hớt tóc, có cái bảng đề chữ Anh hẳn hoi “ Hair Cut, Barber Shop..” tôi mới thử rờ đầu th́ biết tóc đă hơi dài.

Thôi th́ sẵn đây ḿnh đi vô hớt tóc để xem cái không khí nơi đây ra sao. Có cái ǵ giống, có cái chi khác với ở quê nhà hay không. Tiệm hớt tóc vui vẻ đón hai khách hàng hơi đặc biệt. Cô tiếp viên nói một tràng tiếng Đài Loan.Chúng tôi nào hiểu ǵ. Chừng vài giây đồng hồ sau th́ cô tiếp viên mới nhận ra chúng tôi không phải là dân bản xứ. Thế là cô ta ọ ẹ xổ ra vài câu tiếng Anh, đại khác hỏi rằng quí vị muốn hớt tóc hay không? Hai đứa chúng tôi gật đầu và lên ngồi ghế…Bây giờ tôi mới sực nh́n kỹ ra là trong cái tiệm này không có bóng một người thợ đàn ông nào hết. Thú vị quá đi chứ. Vào thời điểm này ở Việt Nam chưa có thợ hớt tóc là đàn bà nào cả….

Ra khỏi tiệm hớt tóc th́ trời đang ngă về chiều. Chúng tôi gặp vài quân nhân cùng chiến hạm. Họ cũng lạc lỏng như hai đứa tôi. Cùng nhau đi với họ chừng một đoạn đường th́ có một tiếng nói oang oang…Tụi ḿnh đi PX mua đồ nha các bạn. Cả bọn ai cũng đồng ư. Cũng may là trong đoàn có một hạ sĩ quan đă từng tới hải cảng này, biết cái PX ở chỗ nào. Thế là 2 người trên một chiếc xe lôi, do một người đạp phía trước. Những anh thủy thủ t́m lại được hơi hám của nước Mỹ với không khí vui nhôn của cửa hàng bách hóa quân tiếp vụ này. Mỗi người tùy theo món hàng muốn nh́n muốn mua mà đi vào một khu khác.

Tôi cũng chẳng biết ḿnh sẽ mua cái ǵ..Chợt nghĩ ra rằng hộp quẹt Zippo là những món quà lư tưởng khi trở về, nó vừa nhỏ vừa gọn…Tôi chưa kịp đi tới quầy hàng bán quẹt máy th́ chợt có một tiếng nói vọng ra từ phía sau lưng…
- Chung úy !
Quay người lại th́ trước mặt tôi là một thanh niên người Việt gốc Hoa
- Sao em biết tôi là người Việt ?
- Dạ, em thấy cái bảng thêu trên cánh vai áo hai chữ VIETNAM mà.
- Sao em lại ở đây?
- Em…chốn lính. Em sanh ở Chợ Lớn…Có người d́ ở đây. Tới tuổi đi
lính ba má em cho qua đây…
Tôi nở một nụ cười thông cảm. Anh ấy nói tiếp:
- Em chỉ có bà con ở Đài Loan nầy thôi, từ mấy đời. Chớ Chung Hoa Lục Địa em đâu có ai bên đó. Chợ lớn là nơi chôn nhau cắt dún của em mà…

Thế rồi anh thanh niên hỏi tôi vô PX t́m mua cái ǵ…Sau khi mua được quẹt máy Zippo, chàng thanh niên mới chỉ cho tôi mua một bộ đồ tiểu lễ Hải quân gồm một quần dài với một sơ mi ngắn. Tôi cũng t́m mua thêm một cái áo mưa đă thích từ lâu. Quân đội Hoa Kỳ mặc áo mưa để phân biệt quân chủng. Màu kaki của lục quân, màu xanh da trời đậm của Không quân, và màu đen cho Hải quân. Khi được tôi hỏi – v́ hiếu kỳ - một sĩ quan trên tàu tại sao màu áo mưa của Không quân là màu xanh, mà của Hải quân là màu đen…th́ được trả lời. Bầu trời lúc nào cũng xanh chớ màu nước biển khi trời tối v́ mây che th́ nước biển không phải màu đen, th́ màu ǵ? Nói xong viên sĩ quan cũng cười…tao nói cho mày biết như tao đoán, chớ có thể là một lư do khác…

Tôi rời PX sau đó trước buổi chiều về trên bến Cao Hùng với một vài ngọn gió mát từ biển thổi vào thành phố. Anh thượng sĩ cũng mua vài thứ lặt vặt đă tính sẵn từ lúc lên tàu. Với hai túi xách hàng hóa mua xong, mà người bạn đồng hành cũng mua những thứ như tôi, th́ hai đứa không c̣n ḷng dạ nào tiếp tục đi dạo thành phố nữa. Chúng tôi lên xe về tàu, để cất đồ vừa mua, và cũng để dùng bữa ăn tối trên tàu luôn.

Chuyện gặp gỡ thanh niên ngựi Việt gốc Hoa đă làm tôi cảm xúc. Sanh đẻ ở Việt Nam người thanh niên ấy đương nhiên đă trở thành người Việt. Rơ ràng là anh ta đă xem tôi là đồng bào v́ cũng sinh ra ở một đất nước nhỏ bé cơi Đông Nam Á nầy. Cha mẹ người thanh niên c̣n ở Chợlớn, với mấy đứa em nhỏ. Do đó mà sự liên hệ mật thiết với xứ Việt Nam không dễ nào một ngày một buổi mà mất mát hao ṃn đi được…

Đứng trên boong tàu nh́n về phía thành phố ban đêm mới nhận ra một vẻ đẹp thầm kín của tỉnh duyên hải Cao Hùng. Cái thị trấn gần 3000 cây số vuông này đâu có ngờ là một thương cảng quan trọng nhất, và cũng là một trung tâm kỹ nghệ chính yếu của Đài Loan.Với một dân số chưa tới 3 triệu,người dân Cao Hùng sống thong thả, không có dồn dập xô bồ như thủ đô Sàig̣n chúng ta. Tiếp tục đọc thêm mớ tài liệu du lịch mà chiến hạm mới có th́ tôi mới nhận ra là ḿnh phải ở nơi này thêm một tuần lễ nửa mới mong đi thăm hết những danh lam thắng cảnh sở tại.

Đang miên man suy nghĩ về cái thành phố kỳ thú ở ngoại quốc mà tôi gặp lần đầu với tư cách là thủy thủ th́ viên sĩ quan trực nhật tới nói chuyện với tôi:
- Good evening Mr. Nguyen
- Good evening OOD…( Officer of the Day, sĩ quan trực nhật)

Rồi hai chúng tôi chuyện văn với nhau. Nào là anh ấy hỏi tôi ở trên tàu này có thích hay không.. Đă đi bờ thăm viếng những ǵ hấp dẫn hay chưa… Tôi có vẻ buồn mà nói ra chuyện quan trọng xa xôi. Sao tôi thấy cái xứ Đài Loan tuy nhỏ bé nhưng yên b́nh và hạnh phúc quá..Trong khi xứ Việt Nam của tôi lại ở trong t́nh trạng chiến tranh, thấy chán thật…Viên sĩ quan khuyên tôi :
- Đây không phải là chuyện của anh, mà cũng không phải là chuyện của tôi.Vả lại mỗi quốc gia có một định mệnh, có lúc lên lúc xuống như sự thăng trầm của một đời người vậy…

Sau vài câu trao đổi nữa th́ viên OOD chào từ giă, chúc tôi ngủ ngon…để anh ta đi một ṿng kiểm soát an ninh chiến hạm.

Tôi trở xuống pḥng để ngủ một đêm đầu tiên của chiến hạm neo ở bến.Nơi ngủ của hai chúng tôi là pḥng ngủ của các thượng sĩ. Trong Hải quân Hoa Kỳ cấp bậc thượng sĩ được trọng vọng nhất. Thượng sĩ là một hạ sĩ quan cao nhất, không phải chỉ v́ cấp bậc mà cũng bởi v́ chuyên nghiệp có kinh nghiệm nhất. Như ở trên đài chỉ huy, trong phiên hải hành, nói b́nh thường là đi ca (quart), th́ đôi khi một thiếu úy mới ra trường, có khi chỉ là sĩ quan trừ bị…th́ việc làm point, tức là xác định vị trí chiến hạm chưa chắc bằng một thượng sĩ giám lộ…Các ngành nghề khác cũng y như thế. Pḥng ngủ của các thượng sĩ cũng có đủ tiện nghi không thua ǵ của sĩ quan.

Tôi đang muốn lên giường nằm ngủ th́ ngang mặt thấy mấy thượng sĩ đang đánh bài giải trí. Rummy là một loại bài của Mỹ chơi giống như là chơi mạc chược của người Tàu….

Anh thượng sĩ Quản nội trưởng, Master at Arms (tương đương với Hạ sĩ
quan Thường vụ của bên lục quân) nói với tôi.
- Mày biết oánh bài này không. Tới chơi với tụi tao cho vui…
- Ờ, tao tới.

Cũng chưa buồn ngủ lắm, tôi trở dây tới ngồi bàn đánh bài Rummy với mấy thượng sĩ.Chơi một hồi th́ mấy anh kia về ngủ hết, chỉ c̣n ḿnh tôi với viên Quản Nội Trưởng. Hai chúng tôi chơi thêm năm sáu bàn nữa mới từ biệt nhau đi về giường. Quản Nội Trưởng nói :
- Mày chơi giỏi quá, Ngày mai chơi với tao nữa nha.
Tôi ầm ừ cho xong rồi quay ra…mơ màng giấc điệp.
*
* *
Sáng hôm sau, ăn sáng xong là tới giờ đi bờ. Tôi phải gói cái quần dài trắng tiểu lễ đi ra phố t́m nơi lên lai quần. Anh thượng sĩ đi cùng không khác ǵ tôi cả. Cũng gói ghém cái quần dài tiểu lễ đi ra phố t́m nơi sửa cái quần chắc chắn là dài hơn cặp chân của người Á Đông nhỏ bé chúng ḿnh.

Muốn ra tới trung tâm thành phố th́ từ nơi bến cảng này hai đứa tôi rỉ rả lội bộ vừa đi vừa dáo dác ngó lên nh́n xuống để may ra gặp một tiệm thợ may nhờ sửa quần. Nơi khu phố xuất phát gồm nhiều con đường nhỏ hẹp, bề ngang không đủ cho hai chiếc ô tô chạy ngược chiều né tránh thong thả.Tuyệt nhiên không có một c̣i ô tô nào bóp inh ỏi vô tội vạ, vừa gấp rút vừa
hoảng hốt như thành phố Ḥn Ngọc Viễn Đông, ḥng làm phiền khách bộ hành. Người lái xe ở đây tôn trọng luật đi đường một cách tích cực, và nhất là tôn trọng sinh mạng của khách qua đường…Thế rồi không biết cơ may nào đưa đến, trên một con phố nhỏ chúng tôi đi ngang qua một loạt các tiệm may tiểu công nghệ hiện ra…Mỗi nhà có một công thợ ngồi may với bàn máy may xoay mặt ra đường. Có nhà rộng răi khang trang, có nhà chật hẹp. Trước mặt mỗi cái “tiệm may” như thế không có một bảng hiệu ǵ cả.Người đi đường ngó vô là nhận biết đó là một tiệm may. Như vậy cũng đủ.Thế nhưng ở một vài tiệm khang trang hơn, cũng có một biển chữ Anh,cốt để thu hút khách hàng người ngoại quốc : “Taylor, Alteration shop” (Tiệm may. Sửa chữa áo quần). Người bạn đồng hành của tôi mừng lắm. Khi hai đứa tôi vừa trao đổi sự vui mừng đă t́m ra địa điểm lư tưởng th́ anh ta nhào vô liền một tiệm may lớn…

Không biết sao tôi chưa muốn vô cùng một tiệm như người bạn đồng hành, mà tiếp tục đi thêm một đoạn đường kiểu như…”phố hàng may” nầy. Khi tới gần cuối phố th́ cũng không c̣n những tiệm may nữa. Tôi cũng phải dừng lại, thong thả đi vô một tiệm trung b́nh, không nhỏ không lớn với một người thợ đang chăm chú vào công việc…

Ông thợ may ngước lên chào tôi là một người đàn ông trung niên. Nét mặt thon, xương xẩu với nét phong trần..Mới nh́n tôi ông ta biết ngay đối tượng chẳng phải là người bản địa…Ông ta thốt ra một tràng tiếng Anh :
- Anh người Nhật Bản ?
- Không phải. Việt Nam…

Thấy ông ta ngơ ngác, tỏ ư không biết Việt Nam là cái xứ nào, ở đâu trên quả đất nầy. Tôi thoáng thấy một bản đồ thế giới đă cũ rách, dán trên tường, mới tới đó chỉ nơi một quốc gia h́nh chữ S miền ở Nam Trung Hoa…Bấy giờ ông ta mới hiểu…

Ông thợ cẩn thận lấy ra cây thước dây đo hai ống quần tôi đang mặc…Thế là không đầy hai mươi phút cái quần tiểu lễ đă được cắt sửa…Tính dợm hỏi phải trả công bao nhiêu th́ từ phía trong nhà một thiếu nữ đi ra. Như chừng đă nghe hai chúng tôi trao đổi năy giờ…Cô gái ghé tai ông bố - mà tôi đoán như thế - để nói một câu ǵ đó. Ông già gật đầu lia lịa, quay lại giải thích :
- Đây là con gái út của tôi đó. Nó không cho tôi lấy tiền công của anh…
- ???
- V́ hai lư do. Thứ nhất bở́ anh là một người khách Á Đông khả ái chúng tôi gặp lần đầu. Sau nữa…sau nữa, anh là…Hải quân. Đứa con trai lớn của tôi cũng là Hải quân, mà con em út nó thương anh Hai dữ lắm. Thấy anh th́ nó nhớ tới anh Hai nó đang công tác trên eo biển Đài Loan…

Tôi không biết làm ǵ hơn là tỏ lời cám ơn rối rít, không quên đưa mắt nh́n cô gái tí xíu kia với vẻ mặt biết ơn.

Vừa bước ra khỏi tiệm may với cái quần đă lên lai th́ thấy người bạn thượng sĩ của tôi đằng sau đi tới. Tôi hỏi :
- Cũng xong rồi à. Mà anh phải trả bao nhiêu ?
- Có 2 đô la mà thôi. Mà h́nh như họ lấy giá hời cho tôi đấy. Thế c̣n Trung úy đă phải chi bao nhiêu…?
- Chả tốn xu nào cả. Ông chủ tiệm có thằng con trai cũng là Hải quân,nên kể ḿnh như con cái bà con…Tôi nói thêm…H́nh như số của tôi là ít khi nào phải lo lắng cho cái ăn cái mặc. Một người bạn cùng khóa biết khoa tử vi bói toán xem tướng ǵ đó, đă nói với tôi rằng…Nam ơi,số mầy phong lưu lắm. Tôi thắc mắc. Trời đất tao có bao giờ giàu có hơn ai đâu, mà bảo rằng được số phong lưu…Người bạn mới giải thích. Tao nói số mầy phong lưu chứ có bảo rằng có số giàu sang đâu.Rồi hắn ta cắt nghĩa, là cả đời mày chả bao giờ phải lo miếng cơm
manh áo hết. Khi mày đói có người nuôi ăn; lúc mày lạnh có người cho quần áo ấm.Thế không phải… phong lưu, th́ là ǵ?

Nói chuyện kháo với nhau mấy phút chợt tôi mới nghĩ…Cái con đường “hàng may” nầy chỉ là một phố nhỏ ven đô. Tôi bảo người bạn đồng hành:
- Từ đây ra tới trung tâm thành phố thực sự chắc cũng c̣n xa.

Thế rồi hai đứa kêu một chiếc xe lôi. Người đạp xe lôi hỏi …Tôi ḍm tấm bảng chỉ đường có hai chữ Down Town để chỉ hướng phải đi theo mũi tên. Người đạp xe lôi dư kinh nghiệm để biết rằng du khách ở miệt ven đô này chỉ muốn tới trung tâm thành phố…là đúng ngay chóc.

Khi xe kéo chúng tôi tới một đại lộ thứ nhất, mà bên lề có cái biểng chỉ đáo hạn phạm vi trung tâm thành phố, th́ người xe lôi cũng ngừng đạp.Không cần trao đổi ǵ nhiều với nhau bằng hai ngôn ngữ mà người đối thoại với nhau không ai hiểu ai cả, người xe lôi đă lanh lẹn đưa hai tay ra dấu số tiền phải trả…Tôi móc tiền ra đưa ông ta, nói theo một tiếng Quảng..” Tố chè, Hùm cói a..” Ông lái xe cũng gật đầu nhận hiểu. Tiếng Quan thoại là ngôn ngữ chính thức của Đài Loan, thế nhưng cũng không cấm một số người am hiểu vài câu vài tiếng Quảng Đông…Với lại tiếng “cám ơn” là một tiếng phổ biến, ai cũng phải biết. Nếu khách hàng nói
“Thank You” hay “Arigato”, “Merci” ǵ th́ ông ta cũng hiểu hết.

Tới đây tầm mắt chúng tôi đă bị hạn chế bởi những cao ốc chật đầy thành phố. Lâu lâu có một nhà chọc trời kiêu hănh vượt lên trên những cao ốc thấp bé và khiêm tốn kia. Ở xa hai đứa tôi thấy một nhà chọc trời đặc biệt cao hẳn hơn mấy chục cái khác. Tôi mở tài liệu du lịch ra mới biết tên của cái tháp cao ngất này : “Suntex Sky Tower” có bề cao đứng hạng thứ nh́ của Đài Loan, mà cái nhà chọc trời hạng nhất kia th́ ở tận thủ đô Đài Bắc. Đấy cũng là một hănh diện của Cao Hùng…Coi tiếp vài trang sau mới biết c̣n nhiều nơi đáng ghé thăm…Này bạn ơi, tôi nói với người đồng hành, tài liệu thắng cảnh ở đây c̣n có Hồ hoa Sen mà ở đó có 2 ngôi chùa, Long Tự với Hổ Tự. Ngay trung tâm thành phố có giáo đường Thiên chúa, nhà thờ Thánh Rosaire của Cao Hùng được xây từ năm 1860. Một nơi khác đáng thăm viếng, là Pḥng Lănh Sự cũ của Anh quốc. Nhưng theo tôi nghĩ có một nơi đáng thăm và dễ dàng đi tới đó nhất là con sông chính chảy qua thành phố. Cái hấp dẫn nhất phải là tên con sông…” Love River”, Sông T́nh Yêu. Đẹp và lăng mạn quá đi thôi. Ḿnh đi một chút xíu nữa là đến bờ sông… đó nha.

Nhưng trở về thật tế nhất là hai chúng tôi phải đi t́m ăn cái ǵ dằn bụng…

Bước vô một tiệm cỡ trung b́nh ở đây, cũng là một nhà hàng lớn hơn gấp bội một quán ăn khiêm tốn ở vùng ven đô. Với kinh nghiệm là đầu bếp Tàu ở Cao Hùng nấu ḿ không ngon bằng ḿ Lacaze Chợlớn hay những tiệm ḿ ngon nổi tiếng ở Sàig̣n…chúng tôi đ̣i xem Menu để chọn vài món ăn khác hơn là ḿ nước…Rồi cũng lẩn quẩn mấy món của người Tàu gặp bất cứ ở tiệm ăn Tàu nào, chúng tôi kêu vài thứ linh tinh như xa xíu, há cẩu, rồi kết thúc bằng một dĩa ḿ xào ḍn thập cẩm. Th́ cũng tạm được thôi. Anh bạn đồng hành th́ nhất quyết Đài Loan, hay Cao Hùng đúng hơn không phải là…Chợlớn của chúng ta.

Trước khi rời tiệm ăn chúng tôi cũng cẩn thận hỏi hướng đi về mé sông…

Hai người có máu song hồ chúng tôi đă măn nguyện, Trước mặt là con sông chánh chảy ngang qua thành phố. Một vài h́nh ảnh, với những chiếc thuyền bé nhỏ bên cạnh những con tàu chở hành khách hay thương thuyền làm cho ư nghĩ trong đầu của tôi cứ lẫn lộn….y như là khi th́ ḿnh đứng ở bến Bạch Đằng Sàig̣n, lúc th́ đang dạo mát buổi chiều ở trên bến Ninh Kiều Cần Thơ để ngắm những chiếc thuyền bé nhỏ trên sông Hậu Giang trước ngỏ vô con kinh Xà No…

Con “ Sông T́nh Yêu” của thành phố Cao Hùng vừa nhỏ hơn con sông Sàig̣n nếu đứng nh́n từ bến Bạch Đằng, lại chắc chắn lớn hơn khúc sông Hậu Giang với tầm mắt của một khách dạo chơi trên bến Ninh Kiều. Nh́n kỹ ra trước mặt hai chúng tôi là một con sông của một thành phố khuếch trương kỹ nghệ. Tàu bè kích thước lớn và nhiều hơn ở sông Sàig̣n. Những chiếc tàu hay thuyền nhỏ xem ra cũng tươm tất hơn…Nhất là hai bên bờ được sửa sang vén khéo đẹp đẽ ngay ngắn dễ nh́n…

Bất giác tôi cảm thấy nhớ những ḍng sông con nước ở quê nhà ḿnh quá. Thân phận của người đi xa đứng trước một con sông làm tôi nhớ ngay ra mấy câu thơ lục bát của ông thầy từ lớp trung học đầu tiên ở tư thục Đông Tây Học Đường (1954/1956):

Sông trôi mấy chiếc thuyền qua,
Đời trôi lữ thứ đường xa không cầu.
Quê hương khói xám, trời sâu
Chiến chinh trắng mộng mái đầu gió sương.
T.V.

Sáng hôm sau Hạm phó kêu chúng tôi đến văn pḥng.. Ông nói rằng ngày mai chiến hạm phải trở lại Hoa Kỳ. Chúng tôi được giấy tới văn pḥng điều hợp không vận của Hải quân (Navy ATCO, Air Transport Coordination Office) chờ máy bay đi về Đài Bắc…Chừng hơn tiếng đồng hồ sau một chiếc C47 của US Navy chở chúng tôi đi về hướng Bắc đề tới thủ đô của Đài Loan.Từ đây hai ngày hôm sau chúng tôi đáp máy bay trở về Việt Nam.

Năm sau, 1968 khi tôi đang ở trên chiếc tàu há mồm, Dương vận Hạm THỊ NẠi, HQ 502 tại đảo Guam th́ sĩ quan trục nhật mới cho tôi biết….Có một Hải quân Thiếu tá Mỹ, vốn là Hạm phó của chiếc khu trục hạm DER 331 mời tôi đến nhà dùng bữa ăn trưa…

Viên sĩ quan cũng nói với tôi…anh Nam nh́n ra phía biển kia, Chiếc USS KOINER, DER331 của anh đi năm ngoái đó đang nằm thả neo…chờ ngày phế thải. Tôi bùi ngùi nh́n lại chiến hạm ḿnh đă đi trên đó gần một tháng, mà cũng cám ơn t́nh cảm của viên Hạm phó, quyết t́m ra cho được tôi để mời về nhà ăn trưa…Nhưng tôi cảm xúc nhất là h́nh ảnh của bến cảng Cao Hùng đă cho tôi những kỷ niệm thân quí của một chuyến thực tập trên một chiến hạm của Đệ thất Hạm đội….

hoanglan22
08-28-2020, 19:52
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1644270&stc=1&d=1598644219

Chuyện con đồi Tăng Nhơn Phú, chuyện những thằng trẻ măng vắt c̣n ra sữa mang súng chạy, ba lô nón sắt tập di hành dă trại trong cái không gian KBC 4100 bỗng nhiên hiện về trong tôi một buổi sáng sang thu hiu hiu lạnh

Chuyện con đồi Tăng Nhơn Phú, chuyện những thằng trẻ măng vắt c̣n ra sữa mang súng chạy, ba lô nón sắt tập di hành dă trại trong cái không gian KBC 4100 bỗng nhiên hiện về trong tôi một buổi sáng sang thu hiu hiu lạnh. Tôi rót một ly trà đậm, ra ngồi dưới tàn lá sau vườn suy nghĩ về những ǵ có liên quan đến một giai đoạn lịch sử trong đời ḿnh. Mài đũng quần ở ghế Trung học rồi ỡm ờ mấy năm đại học cũng để cuối cùng, những thằng như tôi đều chui vào nơi đào tạo những tay súng nối nghiệp cha anh ǵn giữ non sông!

Thật ra th́ tôi chưa được gọi động viên v́ đang học Đại học. Nhưng chính tôi cũng không biết tại sao tôi quyết định một cách hấp tấp chỉ trong một thời gian trên đường từ Đại Học Văn Khoa đến cánh cổng Bộ Quốc Pḥng. Chẳng là tôi có một thằng bạn thân lúc học Tam Nhị ở Vơ Tánh Nha Trang; khi vào Bộ Quốc Pḥng xem niêm yết những ai có trong danh sách vào Thủ Đức khóa 26, tên của Hắn nằm ch́nh ́nh trên giấy. Nó có tên nhập ngũ, thôi th́ ḿnh cũng đi với nó cho vui, trước sau ǵ rồi cũng vào cái cổng quân trường này thôi! Thế là tiện chân tôi vào văn pḥng gần đó làm thủ tục ghi danh.

Tuổi trẻ của tôi là thế đó, không hề muốn hỏi ư kiến một ai khi quyết định làm việc ǵ từ nhỏ đến lớn, kể cả cha mẹ tôi. Mà ngay từ khi tôi lên trung học là đă xa gia đ́nh, cho nên mọi việc ḿnh phải tự lo, trừ chuyện ngửa tay xin tiền cha mẹ, riết rồi trở thành tự tung tự tác. Xứ Tam Quan hồi bấy giờ (1958) chưa có trường trung học. Tôi phải khăn gói cùng bạn bè đồng lứa từ Tam Quan lên Bồng Sơn thi vào Trung Học Tăng Bạt Hổ. Hồi đó ai được lọt vào trường Tăng Bạt Hổ cũng là hạng ngon lành rồi, cả ngàn học sinh dự thi mà trường chỉ có ba lớp đệ thất, mỗi lớp tối đa sáu chục đứa… th́ thằng nào lọt được vào trong số 120 đứa đó là cái mặt đă hinh hỉnh ngó lên trời rồi c̣n ǵ!

Đậu bằng Đệ Nhất Cấp, tôi lại tự ư muốn đi học xa hơn nữa. Có lẽ do tôi sinh hoạt trong phong trào Hướng Đạo nên ư tưởng phiêu lưu cứ thôi thúc. Nhân cuộc nghỉ hè Nha Trang, mê cảnh đẹp và mê cả cái khung cảnh của Trường Vơ Tánh, nên tôi t́m cách vào học trường này. May là Ba tôi có một ông bạn thân đang làm ăn khấm khá ở Nha Trang, trên đường Hoàng Tử Cảnh. Ông có ba đứa con đang học tiểu học, đứa lớp nhất, đứa lớp nh́ và đứa lớp tư, nhận tôi làm thầy dạy kèm tư gia, nuôi ăn ở luôn. (Hồi đó tiểu học được đếm từ thấp đến cao là lớp năm, lớp bốn, lớp ba, lớp nh́, lớp nhất). Trung học Đệ Nhất cấp th́ cũng được sắp đặt theo hệ thống từ Đế Thất, Đệ Lục, Đệ Ngũ, Đệ Tứ. Đệ Nhị cấp th́ lại theo thứ tự từ dưới lên là Đệ Tam, Đệ Nhị, Đệ Nhất. Hệ thống giáo dục sau này th́ tính theo thứ tự từ lớp Một đến lớp Mười Hai, nghe có vẻ xuôi tai hơn!

Sở dĩ tôi dài ḍng văn tự như vậy là v́ tôi muốn nói lên cái sự đời dây mơ rễ má, nó cứ xuyên chằng chịt trong suốt cuộc hành tŕnh một con người. V́ tôi học ở Vơ Tánh Nha Trang, nên mới chơi thân với thằng bạn gốc Hoa này, và cũng có nó nên tôi lại làm quen được với một cô nữ sinh Đệ Tam lúc bấy giờ cũng gốc Chệt. Cô nàng sau này, khi ra trường Thủ Đức, tôi cưới nàng, lúc ấy nàng đang là cô giáo trường Đức Trí Ninh Ḥa. Sau khi cưới nhau, tôi dụ nàng bỏ bầy trẻ, theo tôi ra đơn vị. Có lẽ v́ yêu tôi, nên nàng cũng mù quáng nghe lời xúi bẩy, bỏ trường, bỏ Ninh Ḥa thân yêu để theo tôi đến bất cứ nơi nào tôi đóng quân. Nàng cũng từng nằm dưới hầm đầy bọ chét ở Tam Quan những đêm VC pháo kích, trong lúc tôi đang ở tiền đồn. Năm 1972, Nàng ôm đứa con một tuổi rưỡi và cái bụng bầu bảy tháng leo lên phi cơ chạy khỏi Pleiku trong lúc tôi ứng chiến với đồng đội trong Mùa Hè Đỏ Lửa…

Trở lại chuyện quân trường Thủ Đức, v́ từ hai chữ này mới xảy ra lắm điều. Mới nhắc đến th́ trong đầu tôi lại nhớ câu chuyện từ trại tù Long Khánh năm 1976. Một hôm anh em tù ngồi ăn trưa sau giờ lao động, Thằng Chánh Ruồi đố ai đối được câu “Trai Thủ Đức năm canh thức đủ” thưởng hai điếu thuốc lào. Dĩ nhiên là có nhiều câu đối lại như “gái G̣ Công vừa Gồng vừa Co hay Gái Cù Mông khóc đ̣i Cồng Mu”… Nhưng có anh đối lại câu này ngay địa danh gần cận trại tù Long Khánh: ” Gái Chứa Chan ngày ngủ chán chưa?”. Mới nghe qua ai cũng khoái, nhưng chỉnh th́ không được chỉnh lắm. Núi Chứa Chan ở Long Khánh là núi một, nằm trơ vơ giữa đồng bằng… Dân xuất xứ từ quân trường Thủ Đức, dù bị nhốt trong tù cũng nhớ đến những ngày tháng đậm đà nét đặc thù lính và niềm hănh diện riêng tư.

Ngày đầu tiên tôi làm lính đă bị ăn hiếp. Số là từ nơi tŕnh diên nhập ngũ, chúng tôi được xe chở vào quân trường Thủ Đức. Nơi đây các Sinh Viên Sĩ Quan khóa 25 đứng chờ sẵn, nhận phân phối cho các Đại Đội khóa sinh. Tôi là một trong 20 tên đầu tiên thành lập Đại Đội 10. Doanh trại Đại Đội nằm ngay phía sau Khán đài của Vũ Đ́nh Trường. Từ trưa đến chiều các SVSQ đàn anh dẫn đi lănh quân trang. Khi đùm túm về lại trước sân Đại Đội đă là 5 giờ chiều. C húng tôi đang ngồi lục ba lô, túi quân trang xem có cái nào mặc được không. Quân trang cấp phát cái nào cái ấy to đùng, quần lính mới nhận, tôi mặc vào giống như chui vào cái thùng hai lỗ, áo trận cũng thế… Chúng tôi đang mặc cả với mấy Hạ Sĩ Quan nhận sửa áo quần, đang đo kích thước th́ nghe đàn anh nghiêm trang kính cẩn đứng lên hô to:
- Nghiêm! SVSQ…X tŕnh diện Đại Tá
- Mấy lính mới này biết hít đất chưa?
- Tŕnh Đại Tá họ mới vào và mới lănh quân trang về Đại Đội.
- Cho hít đất 50 cái!
- Tuân lệnh!
Chúng tôi 20 mạng mới ṭ te, quần áo đủ màu xanh trắng xám… Đứng lớ ngớ giống như mấy con gà nuốt giây thun. Vị Đại Tá ngồi trên xe jeep oai phong lẫm liệt vừa ra một khẩu lệnh làm cho SVSQ đàn anh 25 lúng túng. Anh ta bắt chúng tôi tập họp hai hàng ngang theo khẩu lệnh. Lần đầu tiên nghe lệnh và cũng lần dầu tiên lớ ngớ với hai hàng cong queo, mắt thằng này ngó thằng kia. Phải vất vă gần 15 phút chúng tôi mới ổn định được hai hàng ngang. SVSQ đàn anh đứng trước hàng quân nói lớn cách hít đất và thực hành trước cho chúng tôi xem. Sau đó anh ta đứng lên hô: “Theo lệnh tôi, nghiêm, hít đất bắt đầu…một, lên…hai lên…” Chúng tôi làm theo anh ta, thằng đít cong lên, thằng bụng sà sát đất, thằng làm được hai cái nằm luôn, thằng làm được chừng chục cái. Trông cảnh này thê thảm và tức ḿnh không thể nào tả được. Tôi ngó vị Đại Tá đang ngồi trên xe mà ḷng vô cùng hối tiếc. Nghĩ rằng ḿnh đă quyết định vội vàng để bị sĩ nhục như vầy…

Vị Đại Tá quan sát chúng tôi rồi ra lệnh tiếp: ” 50 nhảy xổm!” Anh SVSQ mang Alpha trên vai gập chân cái cốp: ” tuân lệnh!”… Chúng tôi lại tiếp tục được dạy dỗ cách nhảy xổm và lần lượt rơi rớt như những thằng bất lực, mặt mày trông chẳng giống ai! Nh́n hiện trường thê thảm đó, vị Đại Tá cầm can chỉ huy ra lệnh cho tài xế lái đi. SVSQ đàn anh mừng húm nói với chúng tôi: “Đại Tá Lâm Quang Thơ, Chỉ Huy Trưởng đó! Các anh là khóa đầu tiên áp dụng chương tŕnh huấn luyện Sĩ quan của Mỹ. Sắp tới đây các anh sẽ c̣n bị áp dụng các biện pháp huấn luyện khắt khe.” Khóa 26 SQTB là khóa đầu tiên áp dụng chương tŕnh huấn luyện do Hoa Kỳ yểm trợ từ A đến Z. Chúng tôi, trong chín tuần huấn nhục được đàn anh và Sĩ Quan Cán Bộ quân trường dần bầm dập thành con chi chi! Trước đó, đàn anh lè phè và cũng thường thôi, đến lượt khóa 26 chúng tôi th́: Ra bên ngoài là phải chạy, không được đi. Đến nhà ăn, đến pḥng học… th́ cả Đại Đội chạy theo nhịp đếm của huynh trưởng. Hai người trở lên th́ phải có một người hô to đếm nhịp: ” một hai ba bốn, bốn ba hai một…!” Đàn anh th́ bất cứ chỗ nào, không kể thời gian, muốn phạt đàn em th́ cứ bắt thi hành không cần khiếu nại. Nửa đêm đang ngủ dựng đầu dậy, balô đầy đủ quân trang, nón sắt hai lớp, giày trận trong ṿng 2 phút. Cả pḥng ngủ, anh em đồng khóa đều phải giúp người một tay cho đúng thời gian. Nhưng có đúng hay không th́ vẫn phải bị phạt tiếp cho đến khi sức cùng lực tận… Chín tuần huấn nhục mục đích là: ” Tự thắng để chỉ huy”! Ôi v́ quân lệnh thi hành trước, khiếu nại sau của quân đội, nó biến một thường dân như tôi, rèn luyện trong ḷ Thủ Đức, sau chín tháng quân trường, trở thành một quân nhân đầy hănh tiến!

Trở lại với thằng bạn người Việt gốc Hoa có tên đi Thủ Đức, v́ nó mà tôi phải ba lô nón sắt long đong. Nói như thế cho có vẻ “cải lương” một chút, đổ thừa cho ra vẻ ta đây. Nếu không v́ nó mà di lính th́, với cái bằng Đại Học, sẽ là một công chức dân sự ǵ ǵ đó, để khỏi phải vất vả… có khi khỏi đi ở tù suốt bao nhiêu năm tận ngoài xứ Hoàng Liên Sơn, Yên Báy, Vĩnh Phú…! Suốt thời gian bị huấn nhục, chúng tôi ít có dịp gặp nhau v́ nó ở Đại Đội 3, doanh trại ngay sát hội trường và là nơi dạy vơ thuật, gần trạm xá. Vào quân đội rồi, mỗi đứa mỗi nơi, kỷ luật quân đội làm cho chúng tôi lớn lên về thể chất lẫn tinh thần. Thân h́nh khỏe ra, mặt ngẩng cao và dáng hiên ngang tự tin. Sau lễ gắn Alpha, chúng tôi thường đi phép về Sai G̣n và sống những giờ phút vui bất ngờ trong những ngày đẹp trời nóng bức. Chúng tôi chuẩn bị lên làm đàn anh. Hồi c̣n bị đàn anh khóa 25 phạt liên tục trong thời gian huấn nhục, tôi hay nổi giận ngầm, nh́n những thằng đàn anh đứng trước mặt phạt ḿnh, thề rằng: Mai mốt ra ngoài đời, gặp mặt mày, biết tao! Nhưng khi đă lên làm huynh trưởng, đàn anh khóa 27, tôi mới ngộ ra là ḿnh cũng đang làm cái việc của đàn anh trước kia.
Đàn anh khóa 25 ra trường, chúng tôi thêm một gạch dưới con cá trên cầu vai. Alpha một gạch oai phong lẫm liệt. Lên làm huynh trưởng cũng hách x́ xằng lắm lắm. Bây giờ là lúc truyền thụ lại cho đàn em những ǵ ḿnh học được trước đó và cũng thẳng tay phạt đàn em một cách máy móc để thực hành câu “Tự thắng để chỉ huy”. Những bài học về chiến thuật, địa h́nh, bản đồ… Những ngày ngoài băi bắn tắm nắng đen thui và cái cảm khoái khi xách nón sắt đến cô gái bán xương xâm ngồi trong rừng cao su gạ đổi nón… lấy xương xâm Thủ Đức, húp cả nón sắt, thấy đời ư nghĩa lắm thay.

Cuộc sống và rèn luyện đang tiến đến những giai đoạn buồn vui đầy hănh diện với bộ quân phục đi phép màu vàng, chiều thứ bảy, chúa nhật dạo phố Sài G̣n, Thủ Đức th́ sắp đến Tết Mậu Thân. Lên đàn anh, nên những con hẻm nhỏ lớn trong quân trường đều biết, Hội Quán Sinh Viên chỉ có đàn anh được vào làm đàn em thèm muốn. Nhưng cái Hội quán đó cũng chỉ là một góc càphê nghe nhạc tầm thường. Dạo ấy có mấy thằng nhà giàu đem cuốn băng nhạc Trịnh Công Sơn vào Hội Quán Sinh Viên. Chuyện đồn ầm ĩ lên, Sĩ Quan cán bộ cấm không cho nghe, nhưng vẫn nghe lén lút. Chuyện đời là thế, cái ǵ cấm th́ cái đó đắt hàng. Hồi đó, lần đầu tiên họ Trịnh đàn và Khánh Ly hát bằng đàn thùng, tiếng khàn khàn của cô bé có vẻ hấp dẫn tụi lính nhóc t́ đang học đ̣i làm chỉ huy ngoài mặt trận. Ôi! Nghe xong thằng nào cũng buồn xo cho cái thân phận của “Một ngh́n năm nô lệ, hai mươi năm nội chiến, người mù trong công viên, người điên trong thành phố, đàn ḅ vào thành phố và gia tài tan hoang của mẹ…”

Một trong những ngơ nghách mà đàn anh biết được, lại c̣n chỉ cho đàn em là mấy cái “lỗ chó” xung quanh quân trường. Muốn “chuồn” về Sài G̣n, chỉ cần gởi súng cho bạn và chui qua cái lỗ đó là “biến” vào đêm… sáng hôm sau lại chui vào tỉnh bơ như người mới hết “phiên gác đêm xuân”. Trong dịp Tết Mậu Thân, thằng bạn thân về Ninh Ḥa thăm gia đ́nh, buồn quá tôi chuồn về Sài G̣n bằng cái lỗ chó đó. Ba má tôi sống trong một căn nhà tôn, trong khu lao động, phía sau chùa Ấn Quang, trên đường Bà Hạt Chợ Lớn. Năm 1965, Ở Tam quan đă mất an ninh, gia đ́nh tôi đùm túm vào ở trong cái hẻm sâu hun hút và nóng như ḷ hầm gạch. Thế mà cả gia đ́nh gần mười người chen chúc, buổi trưa nóng, ngồi dưới mái tôn thở ra khói… Đang vui Tết th́ trong hẻm nhà tôi đầy những tên lính quần đùi, ở trần, non choẹt, cầm súng ǵ lạ hoắc. Đó là theo lời “báo cáo” của mấy đứa em tôi. Sáng mồng một Tết, tôi đang mặc quần đùi áo thun ngồi uống trà với ba tôi, ông bảo tôi ra xem thử lính ǵ mà ăn bận kỳ cục vậy. Tôi vào sâu trong hẽm thấy mỗi góc một tổ ba, quần đùi, nói tiếng khó nghe, súng loại ǵ tôi không biết, v́ quân trường Thủ Đức chưa có dạy, ngoài súng Garant M 1, thompson, cold 45… ( Sau này tôi mới biết đó là AK 47).

Tôi trở về nói với gia đ́nh, tôi nghi chúng là VC. Ba tôi sợ, bảo tôi bận áo quần dân sự, cuốn gói quần áo nhà binh trong bọc. Sau đó ông chở tôi sang nhà quen ở Bến Chương Dương xin ở tạm. Trực thăng bắt đầu vần vũ trên bầu trời, tôi leo lên sân thượng nhà người quen quan sát và nghe radio. Biết đích xác Cộng Sản vi phạm đ́nh chiến dịp Tết, tấn công cùng lúc vào hầu hết các tỉnh thành và ngay cả thủ đô. Sài G̣n trong cơn hỗn loạn và địch quân cũng xâm nhập nhiều nơi… Tôi t́m cách liên lạc cho Ba tôi biết là khu vực nhà ḿnh ở có thể bị oanh tạc, có thể bị cháy, nên cả nhà phải di tản gấp không cần ǵ của cải, đồ đạc trong nhà. Thế là sau khi chúng tôi chạy khỏi khu Bà Hạt th́ một cuộc chạm súng và oanh tạc dữ dội khiến cho cả một khu vực sau chùa Ấn Quang rộng lớn bị thần hỏa thiêu rụi, không biết là đám con nít quần đùi mang súng AK có thoát khỏi tử thần không, nhưng hàng ngàn gia đ́nh dân chúng lao động, trong đó có gia đ́nh tôi, đều phải lâm vào cảnh màn trời chiếu đất…

Tôi phải t́m cách trở về đơn vị. Ba tôi chở xe gắn máy đến trước cổng quân trường. Tôi phải chui lỗ chó trở vào trong lúc bên trong báo động ứng chiến, với quân số chỉ c̣n mấy trăm mạng kể cả cơ hữu và SVSQ khóa 27 ṭ te chưa biết ǵ và một số đàn anh nào nhát gan không dám chui lỗ chó! Về đến đơn vị tưởng sẽ bị nhốt 301, nhưng vị Sĩ Quan cán bộ thấy tôi về mừng quưnh cho vào mang súng ứng chiến với đàn em. Hóa ra các Sĩ Quan Cán Bộ Đại Đội cũng “chuồn” về nhà ăn Tết hơi nhiều chưa tŕnh diện kịp, trước cuộc tổng tấn công bất ngờ, không tôn trọng lệnh hưu chiến của Cộng Sản!

Từ sau Tết Mậu Thân, khóa 26 chúng tôi không c̣n dịp nào về phép thứ bảy chúa nhật như thường lệ; mà phải trực ứng chiến chung quanh pḥng tuyến quân trường cùng đàn em khóa 27. Chuyện phạt huấn nhục thời gian 9 tuần cho đàn em hết c̣n “linh” v́ đàn em với đàn anh trong những ngày sau Tết Mậu Thân hầu như trở thành một khóa. Trong dịp đi phép ăn Tết, khóa 26 tổn thất một số SVSQ. Đó là những anh về Huế, họ không bao giờ c̣n trở lại quân trường, xác thân của họ có lẽ cũng đă nằm chung trong những nấm mồ tập thể tại cố đô…

Những chuyện vặt vănh ở quân trường th́ khóa nào cũng giống khóa nào. Khác nhau chăng là v́ những biến cố đặc biệt trong cuộc chiến tranh. Khóa 26 của chúng tôi bị rơi vào khoảng thời gian cả miền Nam hứng chịu hành động lật lọng của địch quân, lợi dụng ḷng tin và quân tử Tàu của người miền Nam. Khóa đàn em 27 cũng chung số phận. Trận Mậu Thân kéo dài đến gần cuối năm, tháng 6 năm 1968, chúng tôi ra trường. Chẳng có khóa Thủ Đức nào mà sau khi làm lễ ra trường, mang lon Chuẫn Úy xong là lên xe GMC và các phương tiện khác để ra đơn vị theo nhu cầu cấp bách. Đây là kỷ niệm không bao giờ quên của anh em Sĩ Quan khóa 26 cùng vợ con thân nhân của họ…

Sinh viên sĩ quan Thủ Đức
Thằng bạn tôi được xung vào Biệt Động Quân, tôi về tiểu khu B́nh Định. Sau hai năm xa nhau, chúng tôi lại gặp nhau ở Pleiku. Hắn về Liên Đoàn 22 BĐQ đóng ở Biển Hồ. Tôi về ĐĐ/CTCT Tiểu Khu Pleiku. Vợ nó với vợ tôi là hai chị em bạn d́. Số phận chúng tôi gắn liền nhau theo vận nước trong Mùa hè Đỏ Lửa, trong cuộc di tản đầy lệ máu và phẫn nộ trên Tỉnh Lộ 7, tháng 2 năm 1975.

Liên Đoàn BĐQ di tản về Tuy Ḥa cùng hàng vạn dân chúng và gia đ́nh binh sĩ. Tất cả các đơn vị cùng đi trên một con đường độc nhất và cùng chịu cảnh tan ră từng phần một cách vô cùng lạ lùng trên trang quân sử cổ kim. Tháng 2-1975, tôi được thuyên chuyển về Đặc Khu Cam Ranh, v́ thế mà thoát được cảnh thê thảm trên Lộ 7 chỉ trong đường tơ kẻ tóc. Tôi sẽ có dịp kể về số phận may rủi như thế nào khi tôi đổi khỏi Tam Quan, Bồng Sơn năm 1970 th́ nơi đó bị đánh chiếm năm 1972. Vừa đi khỏi Pleiku hai ngày th́ đường 19 bị cắt đứt và mấy ngày sau, 10-3-1975, Ban-mê-thuột rơi vào tay giặc, để rồi 17 tháng 3 năm 1975, cuộc di tản vô tiền khoáng hậu từ cao nguyên về đồng bằng đầy máu xương hận tủi…
Bạn tôi đùm túm một vợ và ba đứa con trên đoàn xe di tản. Đứa con trai lớn lúc đó mới vừa năm tuổi, một đứa hai tuổi rưỡi, đứa mới vừa sáu tháng… Sau một cuộc hỗn quân hỗn quan bên bờ sông Ba, thằng bạn tôi bị VC bắt làm tù binh, trong lúc trông con cho vợ đi kiếm nước uống. Bắt tù binh th́ chỉ cần bắt người mang ba mai mà thôi, c̣n ba đứa nhỏ th́ sống chết người CS đâu có trách nhiệm!(?) Nên khi người mẹ trở về lối cũ t́m con t́m chồng, th́ hỡi ôi, chẳng c̣n gặp ai, bà ta lúc ấy giống như con mụ điên, đi trong rừng mà không c̣n nhớ ǵ ngoài tên và h́nh ảnh chồng con của ḿnh. Thằng bạn của tôi, sau 30-4-75, bị đưa về trại “cải tạo” ở Tuy Ḥa. Ba đứa con th́ biệt vô âm tín. Vợ nó bao phen đi t́m con, trở lại đường Trường Sơn xưa, ngóng trông tin tức nhưng đều thất bại.
Có một người lính BĐQ trong đơn vị bạn tôi, sau này đi buôn bán với người Thượng. Một hôm, anh thấy một thằng nhỏ độ tám tuổi đang chăn trâu trông không giống người Ra đê, hao hao như người Việt. Anh ta đến gần quan sát và hỏi nhỏ:
- Mày là người Kinh hay người địa phương?
Thằng nhỏ nh́n chung quanh không có ai, kề tai nói nhỏ:
- Con là con của Đại Úy H…
Nói rồi nó vừa nh́n người lạ vừa đi giật lùi vào phía trong b́a rừng. Người lính có tấm ḷng này t́m đến vợ của bạn tôi ở Ninh Ḥa báo tin. Thế là một cuộc mặc cả để có được sự trùng phùng trong nước mắt, đầy ân nghĩa và may mắn. Hai đứa con nhỏ kia cho đến nay vẫn biệt tăm. Đứa bé thất lạc đó giờ đây là một Kỹ Sư tin học, đang làm việc cho một công ty lớn ở Hoa Kỳ, có vợ và đă bốn con. Sau khi định cư theo chương tŕnh HO, gia đ́nh bạn tôi nh́n đứa con suưt thành người Thượng, giờ nầy đang hạnh phúc với cuộc sống mới nói với tôi:
- Nhân định như thử như thử, Thiên ư dĩ nhiên dĩ nhiên…


Lê Anh Dũng
Phuong Nguyen

hoanglan22
08-29-2020, 13:57
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1644685&stc=1&d=1598709379

Tiếng Việt với những danh từ trong ngoặc đơn
Tiếng " Việt Cộng " viết nguyên văn

Ôi Tiếng Việt Sẽ Đi Về Đâu !

Trong một lần đếm ( theo thống kê ) những chiếc F-16 Falcon đă bắn hạ 76 máy bay địch. F-16 hiện vẫn là máy bay phổ biến nhất trong nghĩa vụ quân sự ( không quân ) hiện đại ngày nay: trong số 4.500 chiếc được sản xuất, gần 2.700 chiếc hiện vẫn đang phục vụ ở khoảng 26 quốc gia. Không cần phải nói, chiến đấu cơ thế hệ thứ tư tiên tiến của thập niên 1980 sẽ ở lại với chúng ta trong một thời gian dài hơn.

F-16 SHOT DOWN F-35A TẠI Cuộc tập trận RedFlag

F-16 động cơ đơn ( một ) tận dụng các công nghệ thiết kế
( kỹ thuật ) mới để tối đa hóa hiệu suất động học ( phát triển tối đa năng xuất về khí đông học ) . Một động cơ Pratt & Whitney F100 mạnh mẽ với đầu hút ( khoang hút gió ) nằm dưới thân máy bay có thể tạo ra tỷ lệ lực đẩy tuyệt vời do trọng lượng nhẹ của Falcon, đẩy F-16 lên gấp đôi tốc độ âm thanh ở độ cao. Những chiếc gậy được phát âm ph́nh ra như mui của một con rắn hổ mang từ thân máy bay để hỗ trợ cánh tam giác bị cắt ?, cho phép tốc độ cuộn ( quay lộn ) rất cao.

Buồng láy ( lái ) F-16 như Một tán bong bóng bằng kính phồng lên tạo ra tầm nh́n tuyệt vời cho phi công, người đang ngồi trên chiếc ghế nghiêng 30 độ để giảm bớt lực G khỏi các cuộc diễn tập bạo lực ( thao diễn khốc liệt ). Và F-16 thực sự có thể tạo ra ( điều khiển với )những động tác ( thao tác ) rất dữ dội, trở thành máy bay chiến đấu phản lực đầu tiên có khả năng bay áp ( gần ) đến lực gia trọng lên đến 9G trong ṿng quay ( quẹo ) chặt chẽ hơn bất kỳ máy bay chiến đấu nào khác của Hoa Kỳ cho đến khi chiếc F-22 Raptor ra đời. Điều này lư giải ( chứng tỏ ) cho Quân đội loại h́nh trong phi đội nhào lộn ( trong các cuộc biểu diễn của đội phi diễn Thunderbirds ) trên không của Thunder Force Thunderbirds.

VeSau

hoanglan22
08-29-2020, 15:41
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1644785&stc=1&d=1598715568

Dung Hạnh ở Canada về Hà Nội trong một chuyến công tác với đoàn “chuyên gia”.

Nhân lúc rảnh rỗi, cô dắt các bạn đi ăn kem Hà Nội cho biết mùi.
Dưới đây là câu chuyện “Đi ăn kem ở thủ đô Hà Nội” của cô:
Trong một lần đi công tác tại thủ đô Hà Nội, tôi và đoàn chuyên gia Canada bước vào một quán kem sau một ngày làm việc căng thẳng & mệt mỏi.
Dù đă biết Hà Nội đang rất thịnh hành với “bún chửi”, “cháo mắng”, nhưng tôi vẫn ngạc nhiên pha chút ngượng ngùng cùng đồng nghiệp v́ nét mặt khó chịu không che dấu của cô phục vụ trong quán.
Sau nụ cười như thể vừa bị bà chủ nhắc nhở “mày không cười th́ cuối ngày khỏi nănh nương nhá nhá nhá”, cô đặt tấm thực đơn một cái “rầm” trên bàn rồi đứng dang ra xa bấm iPhone chơi, bỏ mặc mấy anh Canadians ngơ ngác tưởng ḿnh phạm lỗi ǵ.
Chỉ có 1 con nhỏ Mít tố nữ là “tui” quê độ nên cóc thèm coi thực đơn luôn !
Vẫn bằng giọng rất nhẹ nhàng & từ tốn, tôi hỏi:
- Tui: Em ơi, em có các loại kem nào ?

- Ẻm: Cái mơ lu trên bàn đây lày !
- Tui: (pà mịa nó, chị mà không chọc được cô em Bắc Kỳ này th́ chị gác kiếm xuống núi luôn !) Cái mơ lu là cái ǵ vậy cưng ?
- Ẻm: Giời ạ ! Mơ lu cũng không biết nà dź à ? Cái nhà chị lày hay nhễ !
- Tui: Cái nhà chị á ? Đâu có ǵ hay đâu cưng ! À mà em có kem ǵ nói đi để chị thông dịch lại cho đồng nghiệp biết.
- Ẻm: Dź cũng có !
- Tui: Dź là dź ?
- Ẻm (bắt đầu “nồng nộn” chơi nguyên một tràng): Dzâu, dzứa, dzừa, va li, na.
Anh bạn đồng nghiệp hỏi bằng tiếng Pháp: “Tôi nghe được một chữ rồi, ở tiệm kem có bán cả va li nữa à ? (V́ nghe như « valise » trong tiếng Pháp).
Tui vừa cười cười, vừa lắc đầu và ngẫm nghĩ chắc kêu cho bạn mấy loại kem Dâu, Dừa và Dứa (Thơm), c̣n ḿnh ăn thử kem Na coi sao.
Người Nam gọi là trái Măng Cầu, người Bắc gọi là trái Na. Kem Măng Cầu của tiệm kem Cô Ba tại Montreal thơm ngon nổi tiếng, bây giờ phải thử kem Na ở Hà Nội chứ.
- Tui: Em cho các anh này kem Dâu, Dừa và Dứa, cho chị kem Na nha.

- Ẻm: Đây bán chứ không cho nhá ! (Ẻm quay phắt vào phía trong, cất giọng như thùng thiếc bể): 1 dzâu, 1dzứa, 1 dzừa, 1 na.
Đang khoái chí cười cười v́ vừa phá cô em Bắc Kỳ cáu kỉnh th́ ...cụp cụp cụp cụp, nàng đă quay trở lại và dện từng ly kem trên bàn nghe như tiếng chày trên sóc Bom bo !
Cứ nh́n màu kem mà đoán th́ các anh bạn đă có đúng thứ các anh muốn, nhưng ly của tôi h́nh như có ǵ đó sai sai !
- Tui: Em ơi, chị gọi kem Na mà, không phải kem màu trắng sao ? Ly này màu nâu có phải lộn ǵ không cưng ?

- Ẻm: Nộn dź mà nộn ! Kêu Na cho Na, nại lói nộn nà thế lào ?!
- Tui: Na phải màu trắng chứ em, Măng cầu đâu có màu nâu.
- Ẻm: Giời ạ, vớ va vớ vẩn cái nhà chị lày ! Tôi bảo kem Na, nà ... sô cô na, tôi có bảo nà trái Na núc lào !!!

Chuyện này có thật 100%, em không phân biệt vùng-miền ǵ đâu, quư vị nhẹ tay cho em nhờ !

Hoang Pham chuyen

hoanglan22
08-29-2020, 17:11
Một vài dữ kiện khá lư thú về đoạn xa lộ được xem là tối tân nhất của Hoa Kỳ này:
Xa lộ 105, c̣n được gọi là Century Freeway hay Glenn Anderson Freeway, được đề án vào năm 1958, và được thêm vào dự án Interstate Highways cuối thập niên 1960s. Một đơn kiện của cư dân địa phương và các nhà hoạt động bảo vệ môi sinh được nạp năm 1972 xin huỷ bỏ dự án này. Dầu vậy, một phát quyết của thẩm phán Harry Pregerson đă được phê chuẩn và ban hành năm 1979, sau đó được tu chính năm 1981, đă cho phép khởi công xây cất xa lộ I-105.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1644812&stc=1&d=1598720357

I-110/I-105 interchange in Los Angeles

- Lễ đặt viên đá đầu tiên diễn ra ngày 1 tháng 5 năm 1982 và đoạn xa lộ này được chính thức khánh thành cho công chúng xử dụng lúc 3 giờ 13 phút ngày 14 tháng 10 năm 1993, sau 11 năm 5 tháng và 13 ngày xây cất. Từ sáng sớm ngày hôm đó, cả ngàn người đă đậu xe sắp hàng để chờ được "cắt chỉ" khai trương, để được vinh dự là những người đầu tiên được lái xe trên xa lộ I-105.
- Xa lộ I-105 có 3 lối (lanes) chính mỗi chiều, cộng thêm hai lối phụ dành cho những người đi chung xe, thường được gọi là diamond lanes hay car pool lanes. Ngoài ra, chính giữa xa lộ c̣n được thiết bị với hệ thống đường xe điện hai chiều.
- Tổng số xe cộ xử dụng xa lộ I-105 những ngày sau khi khánh thành là 155,000 chiếc mỗi ngày. Con số này đang trên đà gia tăng và Cal Trans ước lượng rằng vào năm 2010, tổng số xe cộ xử dụng xa lộ I-105 sẽ lên đến 230,000 chiếc mỗi ngày.
- Trong 17.3 dặm của xa lộ I-105, chỉ có 0.5 dặm của xa lộ được xây bằng mặt đường. C̣n lại, 10.7 dặm được xây cao hơn mặt đường và 6.1 dặm thấp hơn mặt đường.
- Xa lộ I-105 có 4 giao điểm nối với xa lộ I-405, I-110, I-710, và I-605. Riêng chỗ giao điểm của xa lộ I-105 và xa lộ I-405 là một công tŕnh xây cất giao điểm xa lộ lớn nhất tại California. Giao điểm này rộng 100 mẫu, gồm 5 tầng và có độ cao hơn một cao ốc 7 tầng, với kinh phí xây cất lên đến 134 triệu đô la. Chỉ riêng đoạn xa lộ tạm thời trên xa lộ I-405 để xe cộ có thể lưu thông trong gian xây cất giao điểm, tốn phí đă lên đến hơn 20 triệu đô la.


- Để hoàn thành xa lộ I-105, Cal Trans đă mua lại nhà, đất của 25,000 cư dân địa phương.
- Cal Trans đă xử dụng 930 mẫu đất, 2.3 triệu cubic yards xi-măng, 115,000 tấn thép, đào xới 16 triệu cubic yards đất và lấy đi 500,000 cubic yards đất bị ô nhiễm.
- Công tŕnh này là công sức của 200 nhân viên tiểu bang, và hơn 1500 nhân viên thuộc các hăng thầu.
- Công tŕnh xây dựng xa lộ I-105 đă mang lại hơn 18,000 công việc, cùng gián tiếp hỗ trợ hơn 27,000 công việc khác.
Những quy luật về đặt danh số cho xa lộ:
Có khi nào bạn tự hỏi những danh số đặt tên cho Xa lộ Liên bang và Tiểu bang có ư nghĩa ǵ không ? Xin thưa, chúng đều có ư nghĩa và buộc phải theo một hệ thống nhất định. Vào năm 1957, dấu hiệu và danh số dành cho Xa lộ Liên bang được phổ biến. Theo quy luật này, dấu hiệu của Xa lộ Liên bang sẽ có h́nh khiên, mũi nhọn quay xuống, gồm ba màu xanh dương, trắng và đỏ (màu đỏ ở trên, xanh dương ở dưới, nền trắng, chữ trắng). Cũng theo quy luật này, những Xa lộ Liên bang mang hai con số sẽ được xem như những xa lộ chính. Nếu một xa lộ chính chạy theo hướng Nam-Bắc, nó sẽ mang số lẻ, và ngược lại, nếu một xa lộ chính chạy theo hướng Đông Tây, nó sẽ mang số chẵn. Số nhỏ dành cho những xa lộ bắt đầu từ miền Tây và miền Nam và số lớn dành cho những xa lộ bắt đầu từ miền Đông và miền Bắc. Thí dụ như xa lộ liên bang 5 (số zero được hiểu ngầm), sẽ chạy theo hướng Nam-Bắc và bắt đầu từ Nam California, trong khi đó, xa lộ liên bang I-10, sẽ chạy theo hướng Đông-Tây và cũng bắt đầu từ Nam California.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1644813&stc=1&d=1598720448

Những xa lộ liên bang có 3 con số là những xa lộ ṿng đai hoặc xa lộ phụ thuộc vào xa lộ chính. Chẳng hạn như xa lộ liên bang I-405 là xa lộ phụ của xa lộ liên bang I-5 và xa lộ liên bang I-210 là xa lộ ṿng đai của xa lộ liên bang I-10. Xa lộ ṿng đai hoặc xa lộ phụ cũng phải theo quy luật chẵn, lẻ như xa lộ chính, tuy nhiên vẫn có nhiều trường hợp ngoại lệ. Trường hợp ngoại lệ điển h́nh là Xa lộ Liên bang I-110 hoặc Xa lộ Liên bang I-710, hai xa lộ phụ của Xa lộ Liên bang I-10, tuy mang số chẵn nhưng chúng lại chạy theo hướng Bắc-Nam.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1644814&stc=1&d=1598720541

Dấu hiệu cho Xa lộ Tiểu bang có h́nh dáng và màu sắc tùy mỗi tiểu bang quyết định. Tại California, xa lộ tiểu bang có màu xanh lá cây trên nền trắng, chữ trắng, cũng h́nh khiên nhưng với mũi nhọn chỉ lên trời, như xa lộ tiểu bang CA-91 hoặc xa lộ tiểu bang CA-22. Xa lộ Tiểu bang không nhất thiết theo quy luật chẵn lẻ, điển h́nh là xa lộ Tiểu bang CA-91, tuy mang số lẻ nó lại chạy theo hướng Đông-Tây.

Ngoài hai hệ thống xa lộ liên bang và tiểu bang như đă đề cập, chúng ta c̣n có một hệ thống xa lộ nữa được gọi là Xa lộ US (US Highways). US Highways là một loại hệ thống Xa lộ Liên bang nhưng đă tồn tại trước khi bộ luật Federal Aid Highway Act (FAHA) ra đời. Hệ thống xa lộ này được thành lập đầu tiên vào năm 1925 bởi Federal Aid Highway Act để thay thế sự lẫn lộn của những xa lộ dùng tên gọi (chẳng hạn như xa lộ Lincoln Highway nối liền New York với San Francisco, đă được thay thế bằng US40, sau này trở thành Xa lộ liên bang I-80 tại California). Xa lộ Hoa Kỳ có dấu hiệu cũng h́nh khiên, màu trắng, viền đen, chữ đen với mũi nhọn quay xuống. Hiện nay, phần lớn những Xa lộ Hoa Kỳ đă được thay thế bằng những Xa lộ Liên bang hay Tiểu bang, nhưng một số vẫn c̣n tồn tại, chẳng hạn như xa lộ US-101, hoặc xa lộ US-395.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1644815&stc=1&d=1598720659

Nhiều người thường lầm tưởng rằng Xa lộ Liên bang (Interstate Highways) là xa lộ nối liền các tiểu bang c̣n Xa lộ Tiểu bang (
State Highway
) là xa lộ chỉ chạy trong phạm vi tiểu bang mà thôi. Điều này không hoàn toàn đúng như vậy. Chỉ có xa lộ chính mới chạy xuyên tiểu bang, thí dụ như xa lộ Liên bang I-10 hoặc I-40. C̣n những xa lộ Liên bang phụ hoặc xa lộ ṿng đai chỉ chạy trong phạm vi tiểu bang. Điển h́nh là Xa lộ liên bang I-105 chỉ chạy từ Norwalk đến El Segundo, thuộc tiểu bang California.
Sự khác biệt giữa Xa lộ Liên bang và Xa lộ Tiểu bang ở chỗ Xa lộ Liên bang được tài trợ và chi phối bởi liên bang, trong khi đó Xa lộ Tiểu bang hoàn toàn do tiểu bang chi chuẩn. Một điều đáng được ghi nhận là tiểu bang Alaska không có xa lộ Liên bang nhưng tiểu bang Hawaii th́ có, được biết dưới tên là xa lộ Liên bang H1.

Những điều cần biết khi xử dụng xa lộ:
Như đă thưa ở trên, xa lộ tại Hoa Kỳ được xem như con đường an toàn và hữu hiệu nhất cho những người lái xe ô tô. Đúng vậy, so với các đường trong thành phố, số tai nạn tử vong trên xa lộ rất thấp và thời gian để đi từ điểm A đến điểm B rất ngắn. Thời gian di chuyển trên xa lộ so với đường trong thành phố, nhất là nếu bạn phải đi xa, thường chỉ bằng một nửa hoặc ngắn hơn. Tuy vậy, lái xe trên xa lộ không phải là không nguy hiểm v́ tốc lực xe chạy trên xa lộ rất cao, có thể lên đến 75 hay 80 dặm/giờ. Với một tốc lực cao như vậy, nếu bạn lạc tay lái đâm vào thành xi măng chắn hoặc đâm vào xe ngược chiều th́ kể như tiêu đời.

Với tư cách là một giảng viên của National Traffic Safety Institute (NTSI), tác giả xin được đóng góp một vài ư kiến thô thiển cùng những kinh nghiệm thâu thập được trong nghề ngơ hầu có thể giúp bạn đọc lái xe an toàn hơn và tránh được bị các ông bạn dân chiếu cố:

1. Luôn giữ xe trong t́nh trạng toàn hảo. Chiếc xe của bạn là một trong bốn yếu tố khiến 6,300,000 tai nạn đă xảy ra hằng năm, đưa đến sự tử vong của gần 50,000 người. Bảo tŕ xe là một trong những phương cách có thể giúp giảm thiểu sự nguy hiểm trong việc lái xe. Hăy kiểm soát hệ thống thắng xe của bạn thường xuyên, ít nhất mỗi 15,000 dặm. Đừng để mực dầu thắng xuống thấp hơn mực tối thiểu. Nên thay vỏ bánh xe nếu chúng đă ṃn quá 1/32 của một inch.

2. Tránh xử dụng những xa lộ được mệnh danh là xa lộ tử thần (killer highways), nếu bạn có thể xử dụng những xa lộ khác. Xa lộ tử thần là những xa lộ tiểu bang, chạy xuyên qua những tỉnh lẻ, thường được gọi là những xa lộ đồng quê (country highways), thí dụ như Xa lộ Tiểu bang CA-71. Loại xa lộ tiểu bang này chỉ có hai lối (lanes) đi và về, không có tường chắn ở giữa. Chúng chỉ được ngăn đôi bằng hai vạch vàng liên tục, hoặc đôi khi, một vạch liên tục và một vạch đứt đoạn một bên. Đây là dấu hiệu cho phép tài xế được lấn sang phần đường bên kia để qua mặt xe đằng trước. Lư do những xa lộ này được mệnh danh là xa lộ tử thần v́ số tử vong hằng năm trên những xa lộ này rất cao, phần lớn do tài xế qua mặt một cách bất cẩn, hoặc do tài xế mệt mỏi, ngủ gục và đâm qua lối đi ngược chiều.
Những điều cần ghi nhớ nếu bạn buộc phải xử dụng những xa lộ này:

1. Nếu bỗng dưng bạn thấy xe ngược chiều đâm sang lối của bạn, việc đầu tiên là hăy giữ b́nh tĩnh, bóp kèn hoặc pha đèn để cảnh giác người tài xế với hy vọng anh ta sẽ trở về lối của anh ta. Nếu đèn và kèn không mang lại kết quả, hăy lạng xe về hết bên phải để tránh tai nạn. Không bao giờ lạng về bên trái v́ người tài xế xe ngược chiều có thể giật ḿnh và
trở về lối của anh ta.

2. Chỉ qua mặt khi lằn kẻ vàng bên phần đường của bạn đứt đoạn. Không bao giờ qua mặt tại những khúc quanh, trên dốc và nhất là không bao giờ qua mặt vào ban đêm nếu bạn có thể thấy được hai ánh đèn xe ngược chiều, mặc dù chúng rất nhỏ. Lư do rất dễ hiểu là bạn sẽ không ước lượng chính xác được khoảng cách giữa xe của bạn và xe bên kia, do đó bạn sẽ không đủ th́ giờ để vượt xe đằng trước bạn một cách an toàn.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1644816&stc=1&d=1598720872

3. Luôn luôn giữ khoảng cách an toàn đối với xe đằng trước. Khoảng cách giữa xe của bạn và xe đằng trước được xem là an toàn khi xe đằng trước bạn bất chợt thắng gấp mà bạn vẫn có thể thắng kịp để không gây ra tai nạn. Khoảng cách này được đo bằng thời gian, được đề nghị là 3 giây cho điều kiện thời tiết b́nh thường. Nếu trời đang mưa hoặc có sương mù, khoảng cách này phải được tăng lên, 4 hoặc 5 giây hoặc lâu hơn nữa. Để biết được khoảng cách an toàn giữa xe của bạn và xe đằng trước, hăy để ư chiếc xe trước mặt. Khi chiếc xe này đến một điểm cố định, chẳng hạn như cột đèn, th́ bạn bắt đầu đếm thầm, chậm răi: một ngàn lẻ một, một ngàn lẻ hai, một ngàn lẻ ba. Nếu sau khi đếm tới một ngàn lẻ ba mà xe của bạn chưa đến điểm cố định đó, bạn đă giữ được khoảng cách an toàn. Bằng không, bạn đang đánh bài với sinh mạng của ḿnh.

4. Đừng vượt quá vận tốc giới hạn. Tốc lực tối đa của tiểu bang California là 65 dặm/giờ, ngoại trừ trong những trường hợp điều kiện an toàn cho phép, tốc lực tối đa được tăng lên 70 dặm/giờ. Trên lư thuyết, nếu bạn vượt quá vận tốc giới hạn dầu chỉ 1 dặm, cảnh sát có quyền cho bạn ticket v́ tiểu bang California, cùng 31 tiểu bang khác, áp dụng luật "tốc lực giới hạn tuyệt đối" (absolute speed limit). Tuy nhiên, trên thực tế, cảnh sát thường không viết ticket cho bạn nếu bạn chỉ vượt quá khoảng 5 hoặc 7 dặm. Trong mọi trường hợp, tác giả thành thật khuyên các bạn đừng lái xe quá tốc lực, nhưng nếu bạn là người thích lái xe nhanh, thích t́m cảm giác mạnh, các bạn cần ghi nhớ những điều sau đây để tránh khỏi bị ăn ticket của những ngài cảnh sát:
- Tránh xử dụng lane số 1 (lane sát giữa đường hoặc cạnh diamond lane)
- Tránh đổi lane nhiều lần
- Tránh bám đuôi xe khác quá gần
- Đừng dán kính màu cửa kính trước của xe (phần ghế tài xế và hành khách kế bên)
- Đừng sơn sửa xe để nó có h́nh dạng quá nổi bật như cắt ống nhún cho xe thấp gần sát đất, dùng bánh xe có đường kính 20 inch, sơn xe màu thật nổi như xanh lá cây lợt hoặc vàng, xi bô xe, cảng xe bóng loáng, gắn đèn neon chung quanh hay dưới lườn xe…

Khi có nhiều người vi phạm cùng một lúc, cảnh sát sẽ cho ticket những người nào mà họ cho là dễ bắt nhất, nổi bật nhất và vi phạm lộ liễu nhất.
- Đừng bao giờ qua mặt cảnh sát. Khi lái xe trên xa lộ, bạn hăy để ư đến những xe cảnh sát chạy chậm trong lane trong cùng. Đây là những ông bạn dân đang làm nhiệm vụ của họ là canh bắt những người vi phạm vận tốc giới hạn. Nếu không muốn bị ăn ticket, bạn hăy giữ cùng vận tốc với họ. Khi thấy họ exit ra khỏi freeway, đừng vội nhấn ga đi tiếp v́ nghĩ rằng bạn đă thoát nạn. Trong nhiều trường hợp, họ chỉ vờ exit nhưng thật ra họ rẽ vào con đường nhỏ bên cạnh và bọc lên freeway trở lại.
Và cuối cùng…

5. Đừng lái xe trên car pool lanes nếu bạn chỉ đi một ḿnh. Car pool lanes hay diamond lanes là những lối đi đặc biệt trên xa lộ, hoặc lối ra xa lộ, chỉ dành riêng cho những xe có hai, hoặc ba người trong xe trở lên. Tiền phạt tối thiểu cho những người vi phạm car pool lanes cho tiểu bang California là 271 đô. Đừng ra hoặc vào car pool lanes ở những nơi mà những đường kẻ màu vàng liên tục. Chỉ ra và vào khi nào những đường kẻ đứt đoạn. Vi phạm điều này, bạn cũng sẽ ăn một ticket giống như trường hợp của lái xe trên diamond lane một ḿnh.

Để chấm dứt bài viết này, tác giả xin kể cho các bạn một chuyện vui mà tác giả thường kể cho các học viên trong lớp xoá ticket. Có một bà Mỹ sồn sồn, ḍng dơi luật sư (bố là luật sư, chồng là luật sư, anh em có nhiều người làm luật sư). Bà bị lănh một ticket cho tội lái xe trên diamond lane một ḿnh. Thay v́ đóng phạt rồi xin đi học traffic school, bà chọn việc ra toà tranh căi cho sự vi phạm của bà. Đứng trước mặt quan toà, khi được hỏi: "Có tội hay không có tội?" bà đă anh dũng thưa với quan toà rằng: "Không có tội".

Quan toà tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi bà:
- Bà lái xe trên diamond lane một ḿnh bị cảnh sát bắt, xin bà hăy giải thích về sự vô tội của bà?
Bà liền lôi trong cặp táp ra tờ giấy do bác sĩ cấp, chứng nhận rằng bà đang mang thai 4 tháng, đưa cho quan toà xem. Quan toà liếc mắt nhanh qua tờ giấy, trả lại cho bà mỉm cười:
- Theo luật pháp, đây chỉ mới là thai nhi, không tính là một người. Bà vẫn có tội. Sorry.
Nhưng bà không chịu thua, lớn tiếng thưa:
- Thưa quan toà, ông sai rồi.
Quan toà vẫn cười:
-Tôi sai ? Xin bà hăy chứng minh chỗ tôi sai. Tôi rất muốn nghe sự tŕnh bày của bà.
Bà trả lời một cách tự tin:
- Được, tôi sẽ chứng minh cho ông xem.
Nói xong, bà lại mở cặp, lôi ra một quyển sách luật, mở đến trang đă đánh dấu sẵn, đọc lớn:
- Trong phiên toà ngày ….tại toà án tối cao tiểu bang …. , vị thẩm phán phiên toà đă tuyên án tù chung thân một người đàn ông về tội đă giết chết hai người, đó là người đàn bà mang thai và đứa con c̣n trong bụng của bà ta.
Đọc xong, bà giơ quyển sách luật lên cao, dơng dạc:
-V́ thế, chiếu theo phiên toà này, đứa bé trong bụng tôi là một người.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1644817&stc=1&d=1598721037

Xong bà đắc ư cười lớn:
-Haha, tôi đă bảo ông, tôi sẽ chứng minh cho ông xem mà. Ông thua rồi.
Vị quan toà sau khi nghe bà tŕnh bày, gật gù:
-Tôi có lời khen ngợi bà và xin cảm ơn về sự khảo cứu của bà. Hôm nay tôi được học một điều mới. Bà nói đúng, chiếu theo phiên toà này, đứa bé trong bụng bà là một người. V́ lư do này, tôi sẽ tha bà tội lái xe trên diamond lane, nhưng …
Ngưng một vài giây, ông tiếp:
-Tôi buộc phải phạt bà tội …HAI NGƯỜI NGỒI MỘT GHẾ.
Tác giả xin chúc các bạn một ngày thật vui và xin lái xe thật cẩn thận.

Nhân sâm

hoanglan22
09-08-2020, 15:22
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1650047&stc=1&d=1599578414

Mất cả đêm để hoàn thành 1 bài toán, cậu sinh viên khiến thầy giáo kinh ngạc khi nh́n vào câu trẩ lời.

Đó là 1 bài toán đặc biệt. Thế nên khi nh́n thấy câu trẩ lời của sinh viên, thầy giáo đă không giấu nổi sự kinh ngạc..

Bài toán khó

Vào một ngày đẹp trời năm 1796, trong trường Đại học Gottech ở nước Đức, một chàng trai trẻ 19 tuổi sau khi ăn xong cơm tối liền bắt đầu làm 3 đề toán đă được giáo viên hướng dẫn giao riêng mỗi ngày.

Chàng trai có năng khiếu trời phú về môn toán, v́ vậy nên giáo viên hướng dẫn gửi gắm tất cả hi vọng vào cậu ta, mỗi ngày đều giao thêm cho cậu 2 đề toán tương đối khó để rèn luyện.

Trong t́nh huống thông thường, cậu ta sẽ hoàn thành phần bài tập đặc biệt này trong ṿng 2 tiếng đồng hồ.

"Sao hôm nay thầy giáo lại giao thêm cho ḿnh 1 đề thế này?" Chàng thanh niên vừa mở vở bài tập ra vừa lẩm bẩm, anh chàng cũng không nghĩ nhiều, bắt đầu bắt tay vào làm bài tập.

Cũng giống như b́nh thường, 2 đề trước cậu ta hoàn thành vô cùng thuận lợi trong ṿng hai tiếng. Đề thứ 3 được viết trên một mảnh giấy nhỏ, yêu cầu chỉ dùng compa và một cái thước kẻ không có khắc độ vẽ ra một h́nh có đúng 17 cạnh.

Anh chàng không hề để ư, bắt đầu làm giống như làm hai đề trước đó. Tuy nhiên, càng làm th́ càng cảm thấy tốn sức, cậu ta bắt đầu nghĩ rằng, có lẽ giáo viên thấy ḿnh ngày nào cũng hoàn thành bài tập một cách dễ dàng nên lần này đặc biệt tăng độ khó lên mà thôi.

Nhưng mỗi giây mỗi phút trôi qua, đề toán thứ ba vẫn không có một chút tiến triển ǵ. Chàng trai vắt óc cũng nghĩ không ra kiến thức toán học hiện tại nào của bản thân có thể vận dụng để giải được đề toán này.

Khó khăn khơi dậy ư chí chiến đấu của chàng thanh niên: Ḿnh nhất định phải giải được! Anh chàng cầm compa và thước kẻ vẽ lên giấy, thử những phương pháp thường dùng để giải đề toán này…

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1650048&stc=1&d=1599578414

Hồi kết

Cuối cùng, khi ánh b́nh minh đầu tiên chiếu vào ô cửa sổ, anh chàng đă thở một hơi thật dài, loay hoay măi, cuối cùng cũng đă giải được đề toán khó này rồi!

Khi gặp được giáo viên hướng dẫn, chàng trai cảm thấy có một chút hổ thẹn và tự trách ḿnh. Cậu ta nói với thầy giáo: "Thầy giao cho em đề toán thứ ba em đă phải làm tṛn một đêm, em đă phụ sự bồi dưỡng của thầy rồi…"

Giáo viên hướng dẫn cầm quyển bài tập của chàng trai, vừa xem qua ông đă ngây người, vô cùng kinh ngạc.

Thầy giáo nói với anh chàng bằng giọng run run: "Bài này là do em làm thật sao?"

Anh chàng biểu lộ sự nghi hoặc trên khuôn mặt, nh́n người thầy đang có biểu hiện khác lạ, trả lời: "Đương nhiên rồi, nhưng có lẽ em c̣n kém cỏi, phải mất một đêm em mới giải được bài toán đó."

Thầy giáo bảo chàng trai ngồi xuống, lấy compa và thước kẻ ra, trải giấy lên trên mặt bàn rồi bảo cậu ta vẽ một h́nh có đúng 17 cạnh ở trước mặt ḿnh.

Chàng trai nhanh chóng vẽ ra một h́nh có đầy đủ 17 cạnh. Thầy giáo vô cùng kích động nói với cậu học sinh của ḿnh: "Em có biết hay không, em đă giải được bài toán chưa ai giải được và nó có lịch sử hơn 2000 năm rồi? Archimedes không giải được, Isaac Newton cũng không giải được, em lại có thể giải được nó trong một đêm! Em đúng là một thiên tài!

Gần đây thầy đang nghiên cứu bài toán khó này, hôm qua lúc chuẩn bị giao bài tập cho em, v́ không cẩn thận nên đă kẹp mảnh giấy có ghi bài toán này vào trong phần bài tập của em."

Nhiều năm sau, chàng trai này mỗi khi nhớ lại câu chuyện đó đều nói: "Nếu có người nói cho tôi biết đó là một đề toán khó, có lịch sử hơn 2000 năm chưa ai giải được, tôi sẽ không thể giải được nó trong ṿng một đêm." Chàng thanh niên này chính là "hoàng tử của các nhà toán học" lừng danh Carl Friedrich Gauss.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1650049&stc=1&d=1599578414

Carl Friedrich Gauss là nhà toán học, nhà vật ly học, nhà thiên văn học, nhà trắc lượng học, được sinh ra ở Brunswick, mất ở Göttingen, hưởng thọ 77 tuổi. Ông được đánh giá và một trong những nhà toán học quan trọng nhất trong lịch sử.

hoanglan22
09-11-2020, 18:12
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1651708&stc=1&d=1599847908

Từ thôn quê đến thành thị ở Việt-Nam, đi đến đâu người ta cũng đều thấy Chợ, v́ đây gần như là huyết mạch của đời sống con người. Làng, xă, huyện nhỏ th́ chợ nhỏ, tỉnh thành lớn, chợ lớn theo để đáp ứng cho nhu cầu sinh hoạt của người dân ở tại nơi chốn đó. Hầu hết chợ búa lớn nhỏ đều có xây một nhà lồng chợ ở trung tâm phố chính và mang tên của địa phương, ngoại trừ một số ít chợ lấy tên đặc biệt chẳng hạn như Cố Đô Huế ở miền Trung có chợ Đông-Ba, trong Nam th́ có chợ Bến-Thành tại Sài-G̣n. Tuy nhiên, ở các tỉnh và thành phố lớn, mỗi nơi ngoài chợ chánh c̣n có thêm vài chợ phụ nhỏ nữa, để thuận tiện phục vụ cho đời sống quần chúng tại địa phương, như thành phố có cái tên Đẹp và Thơm là Mỹ-Tho th́ có chợ Hàng Bông, chợ Thạnh-Trị, Chợ Cũ, chợ Ṿng Nhỏ, c̣n ... Chợ Gạo là tên của một quận lỵ cách xa Mỹ-Tho 10 km về hướng tỉnh G̣-Công.

Tôi c̣n nhớ vào giữa thập niên 50, lúc đó tôi chưa đầy 10 tuổi, ngôi chợ Mỹ-Tho do Pháp xây cất tuy c̣n kiên cố, v́ bề ngoài nh́n thấy có rất nhiều cọc sắt lớn nhỏ sơn màu xanh lá cây từ trên tới dưới. Mặc dù chợ chỉ có một tầng trệt, nhưng mái nhà được ngăn làm hai tầng cao thấp bằng ngói, có một khoảng thông hơi và ánh sáng ở giữa, mà tầng trên là h́nh chóp nón dài theo h́nh chữ nhật của ngôi chợ khá cao. Nh́n tổng quát th́ lối kiến trúc không đẹp. Diện tích bên trong nhà lồng chợ có mái che lại không rộng lớn, bởi phần chợ lộ thiên song song dọc theo hai bên chiều dài của nhà lồng chợ đă bằng phân nửa bên trong. Có lẽ v́ thế mà chính quyền địa phương đă cho phá hủy toàn bộ để xây cất mới lại ngôi chợ Mỹ-Tho.

So với chợ cũ th́ mái che chợ mới thấp hơn. Hệ thống thoát hơi phía trên lại không được rộng lớn, v́ thế mà buổi trưa khi trời nắng rất nóng nực. Ngôi chợ mới tứ phía có bốn cổng rộng lớn ra vào với cửa sắt, ban đêm được đóng khóa lại và sáng sớm có người trực trong Ban Quản Lư ở cổng phía đường Nguyễn Huệ đi mở cửa. Chợ Mỹ-Tho h́nh chữ nhật, chiều ngang của mỗi bên có một cổng chánh. Phía trên là một thành vách khá cao mà trên đỉnh có dựng ba chữ “CHỢ MỸ-THO“ to đùng bằng xi-măng sơn màu đỏ tươi.

C̣n cổng ra vào hai bên chiều dài có phần hẹp và thấp hơn chừng một nửa hai cổng chánh, phía trên mỗi bên có xây một bức tường h́nh chữ nhật lớn chừng 3 m x 2 m, ở giữa có hai chữ nổi lớn cũng sơn màu đỏ tươi, bên kia là CỬA NAM, c̣n bên đây là CỬA BẮC, đối diện trực tiếp qua con đường lộ ngắn với cửa nầy là tiệm buôn bán của Ba Mẹ tôi ngày xưa trên dăy phố có mười thương hiệu, con đường phía bên Cửa Nam cũng vậy. Hai dăy phố lầu thương mại hai tầng cùng mang tên là đường Vơ Tánh, được xây cất giống nhau mà chỉ khác số nhà chẵn, lẻ. Mặt ngoài đường và bên trong xung quanh nhà lồng chợ, đều là những tiệm buôn nhỏ xây đâu lưng thống nhất với nhau, mà phần lớn đều bán tạp hóa và hàng vải tơ lụa. Ở giữa trong nhà lồng chợ có một đường đi khá rộng lớn được ngăn đôi từ cổng ra vào từ cửa Nam đến cửa Bắc, một bên dành cho các sạp bán basar, kim chỉ, giày dép, va-li, túi xách, nhưng phần lớn là sạp vải thông với cổng chánh hướng ra đường Nguyễn Huệ. C̣n phân nửa là khu bán tạp hóa và thịt heo, mà cổng chánh hướng ra chợ cá giáp với con sông dài. Nh́n chung với lối kiến trúc cũng như sự phân chia sắp xếp các gian hàng buôn bán bên trong và phía ngoài rất mỹ quan.

Phạm vi chợ Mỹ-Tho tính ra cũng khá rộng lớn, bao gồm từ chợ Hàng Bông phía đường Nguyễn Huệ đến trước rạp hát Vĩnh Lợi, rồi từ bên trái rạp hát đến ngả ba bờ sông đường Trưng Trắc. Trên con đường dài nầy từ dốc cầu quây cho đến ngả ba đường Châu Văn Tiếp rồi quanh trái giáp ṿng lại với Chợ Hàng Bông. Cộng thêm hai con đường ngắn Vơ Tánh dọc theo hai bên chiều dài của nhà lồng chợ, cùng một đoạn ngắn đường Lê Đại Hành ở giữa, giao tiếp với ngả ba đường Nguyễn Huệ và ngả tư Lê Lợi. Ngoài ra, từ dốc cầu quây phía Chợ Cũ bên phải là con đường Phan Thanh Giản chạy dài cho tới Bến Đ̣, một bên là dăy phố buôn bán, c̣n phía bờ sông đều là những vựa cá, vựa bán trái cây và nông sản phẩm cũng tấp nập không kém bởi ghe xuồng, đ̣ máy chở đầy ắp hàng hóa dài dọc theo bờ sông từ các vùng phụ cận tới. Chợ Mỹ-Tho trước năm 1975 được xem là một chợ sầm uất nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, v́ địa thế nằm gần thủ đô Sài-G̣n hơn các tỉnh miền Hậu Giang, nên phương tiện vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ cũng như đường thủy rất thuận lợi.

Chợ Mỹ-Tho sau một đêm vắng vẻ yên tịnh th́ trở ḿnh bừng sống dậy khoảng ba giờ sáng, với đủ mọi thứ tiếng động ồn ào khá lớn. Bắt đầu từ khu chợ cá khi những ghe cá ở trên sông chạy b́nh-bịch từ các địa phương nhỏ thuộc tỉnh lỵ Mỹ-Tho và Bến-Tre rầm rộ đổ tới, cộng với tiếng đ̣ máy chạy đưa khách từ miền thôn quê lân cận của hai tỉnh nhiều sông rạch nầy lên chợ Mỹ-Tho để bổ hàng. Chiếc máy xay nước đá của depot Chú Cẩu không ngừng nổ máy nghe đinh tai điếc óc để cung cấp nước đá bào cho bạn hàng cá. Những cái máng thiếc to và tṛn cạn đáy đựng cá của mấy bà bán cá ban đêm xếp chất chồng lên được thảy xuống đất nghe xốn cả tai.

Vài chiếc xe hàng nổ máy x́nh-xịt chạy chầm chậm vô chợ cá để lên hàng chở về Sài-G̣n. Tiếng nói chuyện to lớn cũng như lời mặc cả giá tiền của những bà bán cá phải nói là như … bể thùng thiếc giữa không gian vào buổi sáng thật sớm. Lâu lâu cũng không tránh khỏi những tiếng chửi lộn tục tĩu trong chốc lát rồi ngưng. Đó là chuyện xăy ra rất b́nh thường, v́ họ là dân “hàng tôm, hàng cá“ mà! Tiếp theo đó, trên khắp các nẻo đường hướng về chợ Mỹ-Tho, từ Cầu Quây phía bên Chợ Cũ, đường Nguyễn Trải, Ngô Quyền, Lê Đại Hành, Lê Lợi, rừng người mà phần đông là các bà, các cô trong vườn gồng gành rau cải, hoa quả, trái cây đổ xô ra chợ bán, có người c̣n buộc cây đuốc đang cháy lửa trên đầu đ̣n gánh để soi đường đi. Song song đó, những chiếc xe xích lô, ba bánh chất đầy rau cải, trái cây từ hướng Bến Xe Mới vội vă chạy xuống chợ. Tất cả tạo nên một quang cảnh vô cùng sống động cho một buổi chợ sáng bắt đầu.

Bên ngoài c̣n nhá nhem tối, tiết trời thật mát dịu vào buổi sáng đầy sương mai. Dưới ánh đèn đường yếu ớt, đông đảo bạn hàng buôn bán xung quanh chợ nhôn nhao bày những chiếc sạp, dựng mái che hoặc trương những cây dù bằng vải ny-lon cho gian hàng của ḿnh. Nhiều người c̣n đốt những cây đèn khí đá hoặc đèn dầu để thấy đường bày hàng ra. Trong nhà lồng chợ, nơi khu vực bán thịt rộng lớn, những phần nửa con heo xẻ ra từ ḷ heo được xe ba bánh vội vă chở đến. Tiếng hô to để thiên hạ tránh đường của những người khuân vác nặng nhọc, cồng kềnh không ngớt vang dậy bởi ngổn ngang người qua lại. Tiếng dao to búa lớn nghe lạnh cả người của các bạn hàng thịt không ngừng thi nhau phân chia xương thịt, trên những tấm thớt không lồ bằng gốc cây to. Khu bán tạp hóa gần đó cũng bắt đầu lăng xăng bày biện đủ thứ đồ hàng xén ra. C̣n phía bên bán vải vóc có vẻ nhàn hạ, sạch sẽ cũng như sự sắp xếp, bày trí th́ tương đối gọn gàng và ít bận rộn hơn, nên từ bảy giờ chủ sạp mới ra mở cửa hàng, v́ khách của họ gần như không thấy vào giờ nầy, ngoài trừ một số ít người ở miền thôn quê đi đ̣ máy lên thật sớm để mua sắm.

Gần chợ cá dọc theo bờ sông là một dăy tiệm nhà sàn đều bán chén, dĩa, ḷ than, cà-ràng, khạp, lu nước chất đầy thiếu điều không có đường đi trong nhà. Nơi đây mở cửa rất sớm, v́ khách hàng của họ phần đông đều từ trong vườn ra đi chợ. Những xe hủ tiếu, quán cà-phê, tiệm nước Cao-Thăng và Kỳ-Hương gần chợ đă có khách ngồi ăn uống một cách ngon lành.

Đoạn đường Trưng Trắc từ chợ cá đến ngả ba đường Châu Văn Tiếp gần cây cầu gỗ bắt qua bên kia sông là những sạp bán gà, vịt con kêu chíp-chíp không ngừng nghe rất vui tai. Tiếp đến là các gian hàng bán đồ thủ công nghệ được đan bằng tre, bằng mây như thúng, rổ, đệm, cần xé .v.v. Đến hàng gia cầm heo, gà, vịt là thấy bắt đầu có mùi khó chịu rồi! Nhiều con gà, vịt bị buộc chân dính từng chùm với nhau nằm la liệt dưới đất, một số ít được nhốt trong các lồng tṛn bằng tre. Thỉnh thoảng có những con gà trống đứng hiên ngang cất tiếng lớn gáy sáng. Kế đến là chỗ bán của những người lái heo c̣n tồi tệ hơn nữa về mặt vệ sinh. Những chú lợn sữa được chủ quan tâm cho ở trong mấy cái chuồng nhỏ khối chữ nhật có lưới kẽm. Phần lớn mấy anh Trư Bát-Giới bị trói chặt chân nằm lăn lóc vẫy vùng trên những lớp rơm mỏng dưới đất, một số khó chịu kêu la như đang bị cắt cổ không bằng, có con c̣n phóng uế tại chỗ bừa băi, nhiều con th́ đưa cái bụng phệ sang một bên nằm ngủ ngáy kḥ kḥ …

Khoảng đường Nguyễn Huệ gần đầu chợ đến ngả ba đường Vơ Tánh là khu vực ưa thích và quen thuộc của các bà, các cô, v́ nơi đây tập trung nhiều sạp hàng ẩm thực ăn uống rất thơm ngon như: cháo ḷng, cháo cá, bánh xèo, bánh giá, bánh đậu, bún b́, thịt nướng, chạo tôm, gỏi, b́ cuốn, chè đậu, chè thưng, bánh ít nhưn đậu, nhưn dừa, bánh tét nhưn đậu, mỡ, chuối, bánh quy, bánh khoai ḿ, bánh da lợn, xôi, bắp ôi thôi đủ các thứ ngon miệng. Con đường Vơ Tánh bên số nhà chẵn, phía Cửa Nam nhà lồng chợ là những sạp bán nón lá, kim chỉ, đồ đệm, mây, chiếu nằm, mà ở góc ngả ba đường Nguyễn Huệ, sát tường bên hông của tiệm thuốc Bắc Thọ-Nam Đường, có một kiosque đặc biệt của chú Bảy Ích chuyên bán các loại bánh Tây và trái cây nhập cảng từ Pháp, Hong-Kong như: nho, táo, lê, củ năng, vải khô, hồng khô, hột dưa .v.v. C̣n con đường ngắn số lẻ bên phía Cửa Bắc chỉ bán rau cải mà thôi. Từ đầu chợ đường Nguyễn Huệ đến con đường ngang rạp hát Vĩnh Lợi, là những sạp bán kim chỉ, guốc, nón lá, áo quần may sẵn. Bên phải khoảng giữa dăy phố, có tiệm buôn độc nhất Vân-Phát Hăng chuyên bán khá đầy đủ tất cả các loại rượu mạnh, thực phẩm đồ hộp, pho mai, mức, bánh kẹo nhập cảng không khác nào như một shop ở nước ngoài. Con đường phía trái dẫn đến ngả ba bờ sông là khu bán trái cây, nhưng nơi nầy bán không nhiều và ngon bằng ở đoạn đường ngắn Lê Đại Hành tiếp giáp hai đầu với đường Nguyễn Huệ và Lê Lợi. C̣n chợ Hàng Bông trái cây với khối lượng lớn thường bán sỉ cho những bạn hàng mua đi bán lại.

Những dăy phố tiệm buôn của người Hoa xung quanh chợ có thông lệ mở cửa lúc 6 giờ sáng, nhưng thật ra vào giờ nầy chẳng mấy tiệm có khách vào mua. Không riêng ǵ tại chợ Mỹ-Tho mà hầu hết ngành thương mại ở các tỉnh thành lớn nhỏ tại Việt-Nam đều do người Hoa nắm giữ, đó chẳng qua v́ họ có biệt tài buôn bán, tháo vác, cần kiệm, chịu cực giỏi và có tinh thần đoàn kết tương trợ lẫn nhau.

Nói về chợ Mỹ-Tho năm xưa, mà không nhắc đến chợ đêm th́ quả là một điều thiếu sót. Nhớ lại hồi nhỏ, các chị em tôi rất thích chợ đêm, v́ quanh năm suốt tháng chỉ thấy chợ ngày, nên khi gặp chợ đêm th́ lấy làm vui thích lắm! Hàng năm, chợ Mỹ-Tho chỉ có ba buổi chợ đêm vào ngày 27, 28 và 29 tháng chạp Âm Lịch. Trước Tết một tuần, những đoạn đường tráng nhựa thuộc phạm vi chợ, đầu tiên người ta thấy hai bên lề đường, cách khoảng xa xa có hai cái lỗ nhỏ sâu hơn nửa thước, được đào sẵn đối diện song song với nhau. Qua hôm sau, tất cả các lỗ đó đă được dựng lên những cây cột cao chừng sáu mét. Mấy ngày kế tiếp, những sợi dây ch́ được nối liền ở phần trên giữa hai cây cột, rồi có dây điện và sau cùng ở chính giữa có gắn một cái bóng đèn tṛn. Đó là diễn tiến của những giai đoạn để chuẩn bị đèn đuốc cho ba buổi chợ đêm vào cuối năm.

Thực sự th́ với những cái bóng đèn nhỏ được treo vỏn vẹn cách khoảng như thế, độ chiếu xa không đủ sức để tỏa sáng khắp các khu vực chợ rộng lớn, mà phải nhờ có sự phối hợp với những cột đèn đường và ánh sáng từ trong nhiều tiệm buôn dọc theo hai bên phố tăng cường thêm.

So với chợ ngày, dĩ nhiên chợ đêm không náo nhiệt bằng. Những gian hàng bánh trái ăn uống buổi sáng, cùng nhiều sạp buôn bán lộ thiên khác trên đường Nguyễn Huệ, ở hướng đầu nhà lồng chợ được rút lui, nhường chỗ cho các gian hàng bán rượu, trà, bánh mức, kẹo, thèo lèo, chà là, quà cáp và pháo Tết .v.v. Nói đến các sạp bán pháo tiểu, pháo trung và pháo đại th́ trẻ em con trai mê thích lắm! Hiệu pháo nổi tiếng nhất thời bấy giờ là Từ Quang và Điện Quang, với những phong pháo 100 viên, được bọc trong hộp giấy cứng dẹp h́nh chữ nhật màu đỏ, có giấy kiếng trắng bao bên ngoài. Một cạnh của chiều dài phong pháo để hở, thấy rơ một bên hai hàng dài “đít” pháo song song đều nhau là 50 cái lơm tṛn nhỏ, với thuốc pháo có chất lưu huỳnh trong đó. Hai hiệu pháo nầy rất nhạy, nổ ḍn lớn tiếng lại tan xác thành từng mảnh nhỏ như pháo của Hong-Kong.

Đặc biệt dọc theo giữa con đường ngang trước rạp hát Vĩnh Lợi, nhiều gian hàng căng dù che và trải những chiếc đệm thật lớn san sát bên nhau, bày bán hàng núi dưa hấu được phân loại lớn nhỏ, chất đống có thứ tự theo h́nh chóp nón trông thật đẹp mắt. Một vài trái dưa bị bể ḷi ruột đỏ au nằm lăn lóc một góc trên mặt đất, bên cạnh một tấm thớt nhỏ với cây dao sắc bén dài bảng lớn. Thỉnh thoảng, người chủ hàng xẻ một trái dưa to thật ngon ra làm 10 đến 12 miếng đều đặn h́nh bán nguyệt, rồi sắp đứng trên một cái mâm nhôm theo h́nh tṛn bên cạnh một dĩa muối và con dao nhỏ, để cho người nhà vác lên một bên vai đi bán dạo ṿng khắp chợ. Dĩ nhiên, dưa bán lẻ từng miếng nhỏ có lời nhiều hơn là bán nguyên trái. Những người có tiền, hay khách hàng mua đi bán lại mua trên chục trái th́ giá tiền lại càng rẻ hơn. Loại dưa thời bấy giờ chỉ có vỏ màu xanh lá cây đậm bóng láng và chỉ xuất hiện trong mùa Tết, chớ không có sọc xanh trắng như ngày nay có quanh năm. Cũng nơi khu vực nầy trên vỉa hè trước rạp hát Vĩnh Lợi, những ṣng “bầu cua cá cọp” bất hợp pháp được đám con nít say mê bao quanh, trước lệnh chỉ cho phép chơi trong ba ngày đầu năm.

Mấy tên lưu manh cờ gian bạc lận thừa cơ hội cho đồng bọn làm c̣ mồi, để chiêu dụ ăn tiền những người nhẹ dạ dễ tin một cách vô lương tâm, bằng tṛ chơi xảo thuật tráo bài ba lá. Mà khổ nỗi nạn nhân thua bạc đáng thương, lại có những người đàn bà bán rau cải, trái cây. Ban đêm họ trải chiếu, giăng mùng đơn sơ ngủ bờ ngủ bụi dưới mái hiên những tiệm buôn dọc theo phố để qua đêm, chờ sáng sớm hôm sau mối lái từ trong vườn mang hàng ra mua rồi bán tiếp. Có bà v́ quá mê tṛ đỏ đen, nên bị thua sạch số tiền làm vốn buôn bán mà mặt mày thất sắc, xanh lét không biết tính sao trông thật tội nghiệp. Mặc dù mấy ông cảnh sát chợ thỉnh thoảng có đi tuần bố ráp các ṣng cờ bạc. Nhưng khi ông C̣ đi rồi th́ nhóm phần tử xấu nầy lại vân tập trở lại, với hai con mắt “phía sau” để lừa bịp thiên hạ.

Mỗi năm khi có chợ đêm, giới trẻ rất thích thú được dịp hẹn nhau đi dạo rong chơi, c̣n những người có gia đ́nh th́ t́m thấy được phần nào không khí mùa Xuân sắp đến, qua sự mua sắm chuẩn bị cho ba ngày Tết. Chợ đêm được kéo dài đến chừng 11 giờ th́ vắng vẻ người đi. Lác đác đâu đó, người ta nghe được những tiếng pháo nổ đ́ đùng, mà lẽ ra lệnh cho đốt pháo được cho phép; kể từ chiều 30 Tết cho đến trễ lắm là hết ngày mùng 10.

Nhắc tới chợ Tết là phải kể đến chợ hoa, mà chợ hoa ở thành phố lớn nhỏ nào cũng có. Mỹ-Tho th́ nhóm ở ngoài vườn hoa Lạc-Hồng. Đoạn đường dài khoảng hơn 100 mét từ góc đường Trưng Trắc cho đến Ty Bưu Điện, được ngăn lại cấm xe lưu thông kể từ ngày 20 tháng chạp. Nơi đây bày bán đầy cả một rừng hoa với đủ mọi chủng loại như: cúc, huệ, mồng gà đỏ, vàng, trắng, tím, nhất là mai vàng và vạn thọ được người mua chiếu cố nhiều nhất! Ngoài bông hoa c̣n có kiểng như tùng, đặc biệt để chỉ sự sung túc th́ có kim quít sai đầy trái vàng tươi.

Chợ hoa tấp nập nhất là vào buổi xế chiều trời mát cho đến tối, với ḍng người nhộn nhịp mà phần đông là phụ nữ. Hàng ngàn chậu hoa đẹp ngũ sắc thuộc nhiều chủng loại, được sắp đầy tua tủa dưới mặt lộ để cho người mua tha hồ chọn lựa ngă giá. Nhiều nhánh mai vàng lớn nhỏ được người bán giơ cao lên để chào hàng. Có những cành mai chưa ra giêng th́ đă nở rộ nên được bán với giá rẻ. C̣n giới người Hoa bán tiệm trong chợ thường chuộng những gốc mai thật to đắt tiền, có nhiều nhánh bung x̣e ra như cánh quạt, để gắn lên đó nhiều thiệp chúc Tết màu đại hồng, của người cùng trong ngành thương mại gởi tặng.

Thường th́ chợ hoa náo nhiệt và bán đắt nhất vào mấy ngày cận Tết. Một số người v́ hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nên đợi cho đến chiều 30 Tết mới đi mua hoa về chưng bày trong nhà, v́ giờ nầy chợ hoa đă thu dẹp rất nhiều và thưa thớt thấy rơ, người bán th́ bán tháo bán đổ để lo về nhà đón Giao-Thừa, người mua được dịp mua hoa rẻ mà vẫn ăn Tết vui vẻ trong ba ngày Xuân.

Những ai có đi Chợ Mỹ-Tho vào buổi sáng 30 Tết th́ đă biết, trên bốn đoạn đường ngắn bao xung quanh nhà lồng chợ, rừng người chen lấn chật cứng như nêm chưa từng thấy chỉ có thể nhích đi từ bước, t́nh trạng móc túi cũng thừa cơ hội nảy sinh ra không ít, v́ sau Tết mấy ngày, chợ mới buôn bán trở lại b́nh thường, nên thiên hạ cần mua thêm nhiều nhu yếu phẩm dự trữ. Chừng 2 giờ chiều, chợ bắt đầu thưa người, từ bạn hàng trong nhà lồng chợ đến những người buôn bán bên ngoài đều đóng cửa, dọn dẹp về nhà lo chuẩn bị đón Giao Thừa. Xe chữa lửa của Sở Pḥng Hỏa Cứu Hỏa bắt đầu tiến vào chợ cá ở bờ sông để rửa chợ cuối năm ăn Tết. Tất cả tiệm buôn tại chợ Mỹ-Tho đều ngưng thương măi, phấn khởi làm tổng vệ sinh xách nước lau bàn, rửa ghế, chùi tủ, quét dọn nền nhà cửa sắt, đánh bóng lư hương tỉ mỉ để đón mừng Năm Mới.

Mùng một Tết, chợ Mỹ-Tho hoàn toàn ngưng hoạt động. Nhan nhản ở những góc phố, nhiều chiếc xe hủ tiếu, nước đá bán đắt như tôm tươi mà phần đông khách của họ là trẻ em mặc áo quần mới, mặt mày hớn hở vui vẻ v́ trong túi có được nhiều tiền ĺ x́ mới toanh. Qua ngày mùng hai, chỉ có một số ít người bán rau cải dọc theo chợ cá. Đến mùng ba, mùng bốn th́ quang cảnh chợ đông đúc thêm, nhà lồng chợ bắt đầu mở cửa, nhưng các sạp bên trong bán vẫn c̣n rất ít. Đến ngày mùng năm, mùng sáu, đa số tiệm buôn bán tại chợ đă khai trương hơn một nửa và đến ngày mùng mười th́ chợ nhóm trở lại b́nh thường.

Thời gian thấm thoát qua mau … Mới đây mà đă gần 40 năm dài xa Việt-Nam. Nhiều lần về thăm quê nhà, trở lại thành phố Mỹ-Tho thân yêu, nơi tôi sinh ra và lớn lên. Những lúc rỗi rảnh, tôi thường yêu cầu thân nhân chở đi ṿng quanh khắp mọi nẻo đường lớn nhỏ để t́m lại dấu chân của ḿnh năm xưa. Đi đến đâu, tôi cũng đều có cảm tưởng như đang phảng phất ít nhiều kỷ niệm của một thời thanh xuân đầy hoa mộng, không khỏi khiến tâm tư bồi hồi xao xuyến.

Khi xe chạy ngang đại lộ Hùng Vương góc đường Ngô-Quyền, ngôi Trường “tà áo dài“ rất dễ thương Lê Ngọc-Hân bên nầy, đối diện gần đó là trường Nguyễn Đ́nh-Chiểu, mà ngày xưa tôi đă một thời theo học và ái mộ nhất! Quẹo trái sang đường Lê Đại-Hành th́ nhà cửa, tiệm buôn đă hoàn toàn khác hơn xưa. Đến cuối đường rẽ sang phải là ngôi chợ hai tầng mới được xây cất sau nầy, mà bên trong rất ít người mua. Từ chợ cá đến những con đường xung quanh nhà lồng, chợ nhóm rất thưa thớt khác hẳn thời trước, người bán nhiều mà người mua th́ lại quá ít. T́nh thiệt mà nói, trầm ngâm đứng nh́n ngôi chợ “thiếu thiện cảm“ nầy, tâm trí tôi không khỏi liên tưởng đến h́nh ảnh ngôi chợ cũ thân thương đầy kỷ niệm với gia đ́nh ba mẹ tôi đă một thời vang bóng: chợ Mỹ-Tho.

Tiểu-Minh

hoanglan22
09-11-2020, 22:21
Các nhà sinh vật học thường hay nghiên cứu, đối chiếu và so sánh sinh hoạt đời sống của thú vật với con người. Các cụ Việt Nam ta, không biết tự một ngày đẹp trời nào, cũng làm công việc quan sát này và đặc biệt chiếu cố tới đời sống t́nh dục của loài dê. Rồi trong một lúc đắc ư, từ ngữ “dê” t́nh cờ ra đời, góp chữ làm giàu cho kho tàng văn học dân gian lưu truyền từ đời này qua đời khác. Ấy cũng bởi cái khả năng sinh sản và giao phối mạnh mẽ, dê đă bị người đời gán cho những h́nh tượng xấu xa, dâm ô, đầy những thành kiến.

Từ “dê” được dùng, lúc như động từ, lúc như danh từ. Ngữ nghĩa, khi nhẹ, khi nặng. Khi nhẹ nó được nghĩ như “tán tỉnh, ve văn”, ám chỉ những người có tính ham muốn và ưa chinh phục người khác (giới). Khi nặng, như dâm dục, thú tính, súc vật, ám chỉ những người mà lư trí không c̣n kiểm soát được sự ham muốn quá độ, nên hành động sai trái, đi tới xâm phạm, chiếm đoạt, hay có những cử chỉ, hành động quấy rối, sàm sỡ, quá đáng với người khác.

“Dê” c̣n được thêm thắt với nhiều nghĩa phụ để thành những từ kép và được sử dụng một cách rộng răi như: máu dê, râu dê, dê xồm, dê già, dê cụ, dê gái.

Giữa nam và nữ, ai bị người đời gán cho danh hiệu có “máu dê” hay “35” nhiều hơn? Và tại sao?

Nếu bạn đọc để ư sẽ nhận ra một điều, từ lâu phái nam đă vang danh trong lănh vực “dê” đặc biệt này. Những câu truyền khẩu trên cửa miệng các bà mẹ khi dặn ḍ con gái thường là “Cẩn thận nghe con, đàn ông nào cũng có máu dê trong người”. Hoặc câu nói “Không dê sao gọi là đàn ông?” được các đấng mày râu phân bua, đính chính hay tự giải thích về hành động “tứ chi qườ quạng, vô tổ chức” của ḿnh. Thậm chí, có người c̣n làm vè:

“Không dê sao gọi đàn ông
Không dê liệu có làm chồng được không?
Đàn bà phải biết chổng mông
Đàn ông dê cụ ráp hông dê bà.”

Có người am tường hơn th́ bảo “Đàn ông ai cũng có máu “35” trong người, không nhiều th́ ít”. Quan sát kỹ hơn, người ta thường thấy phái nam chiêm ngưỡng phái nữ theo nhiều cách, kín đáo, tế nhị, hay lộ liễu, lố bịch, sàm sỡ. Họ thường nh́n ngắm. Có người nh́n lén, người lại nh́n chăm chăm như muốn ăn tươi nuốt sống đối phương. Người lại ưa hành động cụ thể hơn bằng lời nói, cử chỉ. Do đó những từ như “dê đại trà”, “dê đạo lộ”, hay “bạ đâu, dê đấy” ra đời.

Phụ nữ th́ sao? Họ có dê không?

Nếu hiểu theo nghĩa ve văn, tán tỉnh th́ phụ nữ cũng biết và rất thích tán tỉnh phái nam. Họ thể hiện nó bằng nét mặt, ánh mắt, nụ cười và những cử chỉ kín đáo thường là gián tiếp hơn trực tiếp. Có những phụ nữ tự tạo cho ḿnh các nét quyến rũ riêng như một cái bẫy để nhử con mồi và quư ông cứ lao vào mà lầm tưởng rằng chính ḿnh chủ động. Cách họ lắc đầu, vẫy mái tóc để lộ khuôn mặt, kiểu liếc khoé mắt có đuôi, kéo vai áo lộ một chút vai trần hay bờ ngực vun, uốn lượn cặp mông cong, khơi mở một câu chuyện... Tất cả những mời gọi có tính cách nửa hở, nửa kín ấy đều là những dấu hiệu ngầm của sự ve văn.



Có người chọn lối ăn mặc lộ liễu, hở hang. Người lợi dụng tài ăn nói lanh lẹ, uyên bác. Có cô hay liếm môi, thoa son ướt, hay đặt ngón tay lên môi xoa đi xoa lại như một gợi t́nh.

Đôi môi phụ nữ là một công cụ ve văn rất hiệu quả. Họ thích phái nam chú ư đển họ, phần lớn để thoả măn và xoa dịu cái tự ái ít nhất họ c̣n có được sự quyến rũ.

Nếu bảo rằng phụ nữ không thích phái mạnh “dê”, theo nghĩa để ư, tán tỉnh ḿnh, là sai. Họ rất thích sự ve văn của đàn ông nhưng mỗi người thích một lối riêng. Có người yêu kiểu nhẹ nhàng, kín đáo, người ưa lối tấn công mạnh bạo, trực tiếp.

Có “chàng” đă tâm sự khi bị than phiền về lối dê sỗ sàng hay “dê đạo lộ” của họ.
“Hỡi ơi, phụ nữ làm sao hiểu được, những hành động có vẻ mang chút hơi hướm “quấy rối” đó đă làm cho đàn ông vui và hào hứng một cách đặc biệt, nhất là khi đă có chút rượu bia. “Dê” vốn là một đặc điểm nhận dạng không thể thiếu của phái mạnh từ xưa tới nay, kia mà.”

Có người tự thú, tuy được gọi là phái mạnh nhưng thật ra đàn ông là một sinh vật rất yếu đuối (ḷng) và dễ động ḷng. Chỉ cần một nụ cười duyên hay xởi lởi, một mái tóc đang cột tự dưng được gỡ bung ra, chẳng hạn. Ai cấm họ tự hiểu, đó là một thông điệp ngầm đầy khuyến khích của phái đẹp. Họ xem những lối ăn mặc hở hang, thừa da thịt, thiếu vải che, là những hành động “khiêu khích” gián tiếp hay trực tiếp mở đường cho con “dê” ḷng họ xổng chuồng chạy bậy. Từ ư nghĩ đi tới giai đoạn hành động, giơ tay, động chân, tùy theo cá nhân. Không phải bất kỳ người nào cũng ủng hộ tác phong lợi dụng, quờ quạng đó. Phái nam thường xem đó là nỗi xấu hổ, làm mất mặt các đấng nam nhi. Nhưng đa phần quư ông khi rượu bia, chén chú chén anh vào, đều đồng ư rằng, đó là hành động v́ mất tự chủ nên thông cảm được. Do đó, có người đă khuyên phụ nữ nếu không muốn bị “dê” hay xúc phạm nên tránh xa họ khi thấy họ có chút rượu bia hay bắt đầu say.

Vấn đề đôi khi được đặt ra tuỳ thuộc vào sự khêu gợi ở người phụ nữ, v́ không có lửa sao có khói? Một người phụ nữ được trùm kín từ đầu đến chân chỉ chừa đôi mắt, làm sao khiến người đàn ông phạm tội? Tuy nhiên không phải v́ sợ bị dê mà tất cả phụ nữ trên thế giới phải phục sức như phụ nữ Hồi. Chọn lưạ cách phục sức khêu gợi hay tự nhân dáng có sự khêu gợi, c̣n tuỳ thuộc vào quan niệm sống, phong tục và thời trang của phái nữ qua từng thời đại. Trong một cuộc phỏng vấn của một đài truyền h́nh, các thiếu nữ được hỏi “Các cô nghĩ ǵ về phái nam và các cô có ước muốn chinh phục họ không?” . Phần lớn đều trả lời “Bây giờ phái nam rất thích phụ nữ có ngực to nên chúng tôi ước có một thân h́nh đẹp với bộ ngực to và nếu có thể, có tiền để đi sửa ngực cho to”.

Nếu hiểu theo nghĩa “dê” là sự ham muốn hay khát khao dục t́nh th́ phái nam có ham muốn “sex” nhiều hơn phái nữ không? Theo những khảo cứu khoa học gần đây nhất, quả thật phái nam có nghĩ và khao khát điều này nhiều hơn phái nữ. Qua một báo cáo của Edward O. Laumann, giáo sư bác sĩ, khoa xă hội học của University of Chicago, phần lớn quư ông dưới tuổi 60 nghĩ đến “sex” ít nhất là 1 lần trong ngày. Chỉ có một phần tư phụ nữ tiết lộ đă nghĩ đến nó thường xuyên. Nếu so sánh giữa nam và nữ khi có tuổi, khát vọng dục t́nh của nam cao hơn gấp đôi. Roy Baumeister, một tâm lư gia xă hội học của Florida State University, trong một nghiên cứu thăm ḍ, đă t́m ra quư ông thường xuyên bị dục vọng khuấy động một cách tự phát và hay tưởng tượng đến chúng.

Con ong, cái kiến, khát khao chuyện ái ân, loài vật có mùa động t́nh, con người cũng vậy. Phụ nữ chẳng khác, nhưng thường th́ họ chỉ hưng phấn khi nến thơm được thắp lên và toả hương đúng lúc và dĩ nhiên người bạn t́nh là người đầu tiên phải gieo rắc mùi hương. Nhờ nhiều nghiên cứu khoa học mà người ta khám phá ra phái nam không những có ước vọng t́nh dục cao mà c̣n có tính khẩn thiết nữa. Phụ nữ như các con sóng ngầm trong khi đàn ông là những cơn băo dữ. Tuy nhiên phụ nữ thường đặt nặng giá trị cảm xúc và mối liên hệ lên trên hơn là khát vọng dục t́nh. Hơn nữa họ bị ảnh hưởng nặng nề bởi thành kiến đạo đức xă hội nên họ tự kếm chế mọi dục vọng. V́ thế cho dù họ rất ham muốn hay hứng khởi họ vẫn muốn phái nam khởi động và dẫn dắt, họ rất sợ phải mang tiếng là người chủ động.
Vả lại từ xưa, ngay trong truyền thuyết họ được quan niệm là một cái dẻ xương phụ thuộc nên họ tự động phải sống, hành động, sinh hoạt và tuân thủ theo nguyên một cơ thể con người của người đàn ông. Giáo điều, quan niệm và thành kiến xă hội đă đặt để, bắt buộc họ đứng về vị trí của một dẻ xương, một kẻ phụ thuộc, kể cả chuyện dục vọng sinh lư.


Đến đây chắc bạn đọc đă có chút khái niệm trong sự so sánh, nam và nữ, ai “dê” hơn ai rồi. Tuy nhiên trong tương lai, thời thế và quan niệm thay đổi, biết đâu chúng ta sẽ có một câu trả lời khác đi, phải không các bạn?.

Trịnh Thanh Thủy

hoanglan22
09-11-2020, 22:36
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1651757&stc=1&d=1599863707

Đô Đốc Nguyễn văn Hiến


*

Sơ lược tiểu sử Đô Đốc Nguyễn Văn Hiến



Đô đốc Nguyễn Văn Hiến sinh năm 1954 tại Ninh B́nh.

- Năm 2009, ông được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Quốc pḥng kiêm Tư lệnh Quân chủng Hải quân.

- Năm 2011, ông được thăng quân hàm Đô đốc (nên biết tính tới ngày 5 thánh 12 năm 2011, Nguyễn Văn Hiến là người thứ hai mang quân hàm Đô Đốc của Hải quân Việt cộng - người đầu tiên là Đô Đốc Giáp Văn Cương);

- Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng;

- Thứ trưởng Bộ Quốc pḥng kiêm Tư lệnh Quân chủng Hải quân;

- Ủy viên Ủy ban Quốc pḥng và An Ninh của Quốc hội.

Tháng 5 năm 2020, Ṭa án quân sự Quân chủng Hải quân (QCHQ) đă mở phiên xử các bị cáo, trong đó có Đô Đốc Nguyễn Văn Hiến, qua vụ sai phạm tại ba khu đất quốc pḥng trên đường Tôn Đức Thắng (TP HCM). Vào chiều ngày 21/5/2020, Đô Đốc Nguyễn Văn Hiến bị tuyên phạt 4 năm tù về tội vi phạm các quy định về quản lư đất đai, thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, gây thất thoát cho ngân sách nhà nước 939 tỉ đồng (?)

Cũng trong tháng 5/2020, Ban Chấp hành Trung ương đảng csvn quyết định thi hành kỷ luật Đô đốc Nguyễn Văn Hiến, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc pḥng bằng h́nh thức khai trừ ra khỏi đảng csvn.



TVG



*

Sau khi nghe toà tuyên án, Đô Đốc Nguyễn Văn Hiến, tư lệnh quân chủng Hải Quân, lái xe về nhà để chuẩn bị đồ đạc đi tù.

Vừa vào đến nhà, bà vợ hỏi:

- Mấy cuốn lịch?

Hiến trả lời:

- Bốn.

Bà vợ bảo:

- Thế là may rồi. Tôi chỉ sợ mang tiếng có thằng chồng chết rũ tù.

Hiến phát cáu:

- Cái lúc tôi đưa tiền cho bà, bà có nói như thế không?

Vợ Hiến bảo:

- Chuyện! Ăn th́ phải khéo chứ. Bao nhiêu thằng ăn mà có bị làm sao đâu.

Hiến gằn giọng:

- Chúng nó chưa bị moi ra đấy thôi. Moi ra th́ từ thằng chủ tịch nước trở xuống, thằng nào cũng đáng đi tù hơn tôi.

Sau khi uống vội một hớp nước, Hiến dịu giọng:

- Thế bây giờ bà có sửa soạn đồ cho tôi đi tù hay không?

Vợ Hiến đi vào nhà trong lấy ra một cái va ly kéo hiệu “Samsonite” mua từ bên Anh. Hiến bảo:

- Đi tù chứ có phải đi du lịch đâu mà kéo theo cái này. Vào trong trại giam chúng nó cười cho. Kiếm cái va ly nào cũ cũ ấy.

Vợ Hiến bảo:

- Nhà ḿnh làm ǵ có đồ cũ. Đứa nào cười th́ vả vào mặt nó chứ.

Hiến bâng khuâng:

- Tôi có c̣n là Đô đốc nữa đâu. Bây giờ tôi là thằng tù h́nh sự có án. Ở trong đó toàn đại bàng với đầu gấu. Đang lo không biết có bị đứa nào vả vào mặt ḿnh không đây nè.

Hai vợ chồng đang ngồi loay hoay thu xếp ít quần áo và một đống thuốc trị bệnh Trĩ của Hiến cho vào va ly th́ có khách đến. Khách là một người bạn thân của Hiến từ thời c̣n học trung học. Đánh trận ở biên giới phía Bắc bị mảnh pháo vạt đi một mảng đầu, phục viên về cứ ương bướng, không được kết nạp đảng dù thuộc diện đối tượng lâu năm. Sống chật vật với nghề nấu rượu lậu nhưng coi trời bằng vung. Được cái chơi với bạn bè rất tốt, thuỷ chung.

Vừa bước vào nhà, cái miệng người bạn đă oang oang:

- Thằng Hiến, mày giỏi. Mày không khóc ở toà là tao khoái rồi. Tao chỉ lo mày lại giống như mấy thằng khốn nạn kia. Ở ngoài th́ vênh váo, thượng đội hạ đạp, ăn cho nứt bụng, lúc đứng trước vành móng ngựa th́ khóc như con nít. Một điều hai điều xin lỗi bác Trọng vung vít; cứ làm như chúng nó tham nhũng lấy tiền túi của bác Trọng chứ không phải tiền thuế của nhân dân.

Hiến ngước nh́n bạn ḿnh ngơ ngác:

- Khóc cái củ ǵ? Đang mừng thấy mẹ đây. Lănh 4 cuốn lịch, ở tù cao lắm chừng 2 cuốn là cùng. Về xong, tao cho vợ con qua Mỹ theo diện đầu tư hết. Chỉ tốn chừng nửa triệu đô chứ bao nhiêu. Tao có đường dây rồi. Qua bên đó tao chống Cộng tới bến cho mày coi. Bao nhiêu cái thối tha của tụi lănh đạo nhà nước tao sẽ khui ra cho bằng hết…

Người bạn nh́n chằm chằm vào mặt Hiến:

- Tụi mày hành xử y như một lũ kẻ cướp với nhau. Mày cũng chẳng tốt lành ǵ. Đứng đầu quân chủng Hải quân mà để giặc Tàu làm loạn ngoài Biển Đông. Sĩ quan cấp cao th́ bận bịu bán đất quốc pḥng chia nhau, mặc cho lính tráng phải ra ngồi chợ, bán từng bó rau để cải thiện bữa ăn.

Hiến hít một hơi dài, khuôn mặt xanh mét, mái tóc nhuộm chẻ bảy-ba rịn những giọt mồ hôi:

- Chẳng làm ǵ được đâu. Chỗ bạn bè tao mới nói. Chúng nó bán hết biển đảo rồi. Mà bán sỉ chứ không bán lẻ nhá. Biết rơ được điều này nên hàng tướng lănh bọn tao bây giờ thằng nào như thằng nấy, chỉ chăm bẵm lo kiếm tiền pḥng thân thôi.

Người bạn nói:

- Tính cả mày th́ giờ này cũng có cả chục tướng ngồi tù rồi. Thật không có quốc gia nào mà tướng lănh đi tù nhiều như ở cái đất nước vinh quang, hạnh phúc thứ 5 trên thế giới này. Nhưng chắc tụi mày vào đó th́ cũng làm vua tù thôi…

Câu nói vô t́nh của người bạn đă chạm vào nỗi lo ngay ngáy thầm kín của Hiến. Hiến lắc đầu:

- Không đâu. Bà xă tao có đi hỏi thăm mấy người bạn có chồng đi tù. Họ nói bây giờ bọn tai to mặt lớn, bộ trưởng với lại tướng tá kéo nhau vào tù nhiều quá, không c̣n được ở pḥng riêng nữa đâu. Con vợ của thằng tướng Hoá c̣n kể tù đại gia năm bảy người chung một pḥng, cứ căi nhau, đánh nhau đến nỗi quản giáo phải cho mấy thằng tù nghèo vào ở chung để có người can. Bà ấy c̣n kể thằng bộ trưởng Tuấn 2 lần bị tù bị đại bàng đánh lén đến rách cả mắt về cái tội lúc c̣n là bộ trưởng viết sách dạy đạo đức, mang vào trại giam bắt chúng nó học, bây giờ chúng nó ghét.

Người bạn nghe vậy ái ngại nh́n bạn ḿnh. Hiến né tránh cái nh́n ấy bằng cách cụp mắt xuống, chực khóc... Đúng lúc ấy, gia đ́nh đứa con gái ập tới. Đứa cháu ngoại 8 tuổi của Hiến thấy cảnh sắp xếp va ly liền reo lên:

- A! Ông ngoại chuẩn bị hành quân ra mặt trận biển đấy hả ông?

Hiến không trả lời. Hắn cúi mặt xuống thấp hơn nữa, và từ bờ mi của Hiến, hai giọt nước mắt nhục nhă lăn nhanh xuống má.



Loc Duong

hoanglan22
09-15-2020, 14:38
Buổi tối của một ngày đầu tháng 8 năm 1969, khi tôi đang ngồi xem những tấm ảnh màu đám cưới gửi từ Mỹ về, xắp xếp để làm một cuốn album, th́ nghe tiếng chuông cửa. Tôi ra mở cửa, hết sức ngạc nhiên khi thấy Carl và anh Huân là hai người ở Sở trước mặt. Anh Huân làm pḥng tối, phụ trách về rửa phim, in h́nh và Carl vừa là phóng viên vừa là nhiếp ảnh viên. Cả hai người này chẳng bao giờ đến nhà tôi vào giờ này, càng chắc chắn là không phải gọi tôi đi làm. Tôi lúc đó làm thư kư cho hăng Thông Tấn The Associated Press, công việc của tôi là lo tất cả những việc linh tinh cho hăng: Từ phát lương cho nhân viên, giữ sổ chi thu, mua bán h́nh ảnh, thư kư cho ông chánh văn pḥng, đi nghe họp báo bỏ túi, v.v. Những việc này không bao giờ phải làm cuối tuần, cũng như không bao giờ làm ca đêm.


Cả hai người bước vào buồng khách, cả hai nh́n tôi, rồi cả hai nh́n nhau, không ai muốn là ḿnh nói trước. Tôi linh tính có điều không tốt, nhưng không hiểu chuyện ǵ. Cuối cùng Carl nói:

“Sở nhận được điện thoại từ Rạch Giá gọi về chiều nay, nói là Cung, chồng của cô đă tử trận.”

Tôi đứng ngẩn người, nh́n lại cả hai, không nói được tiếng nào, Carl nói tiếp:

“Suốt từ chiều, chúng tôi liên lạc được với Rạch Giá (Kiên Giang), xác định tin rơ ràng, có gọi điện thoại nói chuyện với bà giám thị của đại học xá Trần Quư Cáp, mẹ Cung, cụ cũng nhận được tin rồi.”

Tôi ngồi xuống hai gót chân ḿnh, không nghe được ǵ tiếp, ngoài tiếng xôn xao của cha, mẹ và gia đ́nh.

Chúng tôi mới cưới nhau sau lễ Phục Sinh vào tháng Tư, Cung tử trận 30 tháng 7, năm 1969. Cung không phải là quân nhân chính gốc, anh tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm, ban Pháp Văn và đă đi dạy được 1 năm, anh bị gọi trong chương tŕnh Tổng Động Viên. Khi nhận giấy báo phải nhập ngũ, anh đến xin cha mẹ tôi cho làm hôn thú, v́ sợ sau này sẽ khó khăn khi ở quân đội. Trên giấy tờ, tôi có chồng từ tháng 6-1968. Lúc làm đám hỏi chú rể tương lai không có mặt (đang đóng ở chi-khu Trà Bồng) chỉ có mẹ chồng mang trầu cau sang. Nghĩ cũng tủi thân, nhưng thời chiến mà, làm sao được.

Sau đám cưới, Cung về đơn vị, tôi vẫn ở nhà với cha mẹ, đợi Cung được biệt phái về dạy học lại, (Bộ Giáo Dục hứa sẽ cho các giáo chức được về vào tháng 10/1969) rồi sẽ ra ở riêng.

* * *

Chiếc máy bay vận tải Mỹ đáp xuống phi trường B́nh Thủy, Cần Thơ.

Người phi công phụ quay xuống nói với anh trai của Cung và tôi, đang ngồi cạnh chiếc quan tài.

“Chúng tôi rất tiếc là phải thả hai người và quan tài xuống đây, v́ đây là máy bay quân đội Mỹ chở dầu, chúng tôi chỉ đi tới Cần Thơ chứ không về đến Sàig̣n.”

Đuôi máy bay mở ra, một chiếc forklift tiến đến trục quan tài ra khỏi máy bay để giữa ḷng phi đạo. Anh chồng tôi dặn:

“Em đứng đây, anh vào gặp ông xếp của phi trường này may ra được giúp đỡ.”

Buổi trưa tháng Tám, mặt trời tóe những chùm nắng rát bỏng, chói chang trên sân bay, cái sân bay rộng lớn chổng chơ một chiếc áo quan có phủ xộc xệch lá quốc kỳ, mấy giọt nến đóng thành mảng khô cứng trắng đục trên màu vàng của lá cờ, một vài chiếc lá quăn queo sót lại của ṿng hoa chiều qua c̣n dính ở đó.

Tôi tự thấy ḿnh bé nhỏ, mỏng manh trong chiếc áo dài màu xanh nhạt, áo nhầu nát, tóc bơ phờ, mặt ngơ ngác đứng nh́n chung quanh ḿnh. Cái sân bay trông sao mông mênh thế mà cái áo quan th́ bé tí, tôi đứng bên cạnh trông lại càng bé hơn. Sân bay không một bóng người, vài ba chiếc máy bay quân sự đậu rải rác bên cạnh những phuy dầu chưa kịp xếp vào kho. H́nh như đă có mùi hôi bốc ra từ áo quan, tôi đứng lui ra một tí nữa, xoa tay lên ngực, thấy ḿnh nghẹt thở, ngực nặng và đau buốt, đau thấu xuống tận bụng, tôi muốn ngất đi.

Hai ngày, một đêm ở Kiên Giang đă làm tôi đuối sức. Tôi có làm ǵ đâu. Tôi chỉ không ăn, không ngủ, không khóc, không cả vệ sinh. Chắc trong người tôi không c̣n nước. Bà mẹ chồng một bên, ông anh chồng một bên, họ đổ sữa ông Thọ cho tôi. Bà mẹ chồng tôi thật giỏi, bà có kinh nghiệm với chiến tranh, kinh nghiệm với chết chóc, nên đi đón xác con mà bà c̣n nhớ đem theo hộp sữa ông Thọ cho cô con dâu tiểu thư, cô con dâu c̣n mới như vuông lụa chưa thêu.

“Con uống đi. Con mà gục xuống đây nữa th́ mẹ biết nói làm sao với cha mẹ con.”

Tôi không uống được, cái mùi tử khí trưa nay của mấy chục cái xác xếp chất lớp trước cửa nhà xác vẫn ràn rụa trong thân thể tôi. Nó phủ chụp từ đỉnh đầu xuống hai bàn chân, khi tôi len lỏi bước qua những xác lính bên ngoài để vào bên trong chỗ người ta để xác sĩ quan. Tôi đă phải bước qua từng cái túi có bọc thây người ở trong, có cái tḥi hai bàn chân c̣n nguyên đôi giầy sau ra một đầu, có cái th́ ḷi ra ở đầu kia một đỉnh tóc bết đất, có cái tḥ nguyên một khuôn mặt tái mét vàng khè có mấy con ruồi đậu trên đôi mắt chưa khép kín hẳn. Tôi đi theo bàn tay dắt của người anh chồng, xúc động và kinh hoàng đă làm tôi không c̣n cảm giác nữa. Không biết tôi có dẫm phải ai không. Tôi cố gắng không dẫm lên những người đàn ông nằm đây. Vào được đến bên trong th́ tôi có nh́n thấy ǵ đâu. Tôi chỉ nghe tiếng bật khóc của mẹ chồng, tiếng anh chồng bảo “Đúng là Cung rồi.”

Tôi thấy h́nh như tôi được bế lên, được đặt ngồi xuống một cái bậc thềm, gió ở sông thổi vào mặt tôi, giúp tôi tỉnh lại, tôi mở mắt ra, nh́n xuống. Tôi thấy một gịng nước đục chẩy lờ đờ bên dưới. Th́ ra nhà xác của bệnh viện Kiên Giang nằm sát cạnh bờ sông. Tôi không dám nh́n vào những người đàn bà đang đi lật từng cái poncho quấn thây người để t́m chồng, t́m con họ trước cửa nhà xác. Tôi thấy tôi c̣n may mắn hơn họ.

Người ta đem xác Cung về trại gia binh tiểu khu để làm lễ. Tôi được bày đứng cạnh áo quan cho ông Phó Tỉnh Trưởng đọc diễn văn, trong khi ông đọc th́ tôi đứng nh́n mấy cây nến chẩy, nh́n ṿng hoa đă bắt đầu héo, có cả chén cơm đă khô và quả trứng luộc có mấy con ruồi bay lên bay xuống, tàn nhang rơi phủ đầy trên đó. Ông Phó Tỉnh đọc diễn văn xong, hấp tấp ra về. Chắc ông hơi thất vọng v́ không thấy tôi khóc để có dịp nói lời an ủi. Mấy người vợ lính trong trại gia binh, chạy sang thăm hỏi, mấy đứa nhỏ con lính chạy loanh quanh áo quan với mấy con chó gầy trơ xương, trụi cả lông, cái áo chúng mặc ngắn cũn, bụng ỏng ra ngoài, mũi tḥ ḷ cũng chẳng chùi. Chúng tṛn mắt nh́n mấy người Sài G̣n, mặt mũi có vẻ khang khác với nhưng người trong trại lính nầy. Có người cũng từ xa đến chưa t́m ra xác chồng, xác con đến hỏi han bà mẹ chồng tôi với con mắt nặng trĩu và gương mặt thất thần.

Tôi đứng đó lơ mơ nghe lao xao những tiếng nói chồng lên nhau, mỗi người kể một cách, giống như ở nhà tôi mỗi khi đi xem một cuốn phim về, chị em tôi vẫn thường tranh nhau nói như thế. H́nh như họ nói về trận đánh ngay ở xă Vĩnh Thanh Vân. Xă này, tôi không biết ở đâu nhưng chắc là rất gần. Họ nói đánh ba bốn hôm rồi, và vẫn c̣n đánh nên xác không kéo ra hết được, phải ngồi chờ thôi. Cứ ngồi chờ thế nào cũng gặp, họ bảo nhau.

“Không thấy người th́ thấy xác. Thế nào cũng gặp mà!”

Người anh chồng th́ thỉnh thoảng lại biến mất, không biết đi đâu, chắc là đi t́m cách đưa mọi người về nhà. Tôi thấy trong những người đi nhận xác chỉ có 3 người trong gia đ́nh này ít khóc nhất.

Bà mẹ chồng tôi th́ vừa mếu máo vừa lo xin nước sôi pha sữa cho con dâu uống. Con bé này vốn đă gầy, hai hôm rồi nó chẳng ăn, chẳng nói ǵ làm bà phát hoảng, giá nó cứ khóc sướt mướt như mấy người vợ lính đang khóc ngoài kia th́ bà lại đỡ lo. Không biết c̣n kẹt ở đây đến bao giờ? Bằng vốn liếng tiếng Pháp bà nói chuyện với một ông sĩ quan Mỹ cho bà quá giang máy bay quân sự về Sàig̣n, rồi bà sẽ thuê máy bay dân sự xuống đây đón mấy đứa con.

Bà giỏi lắm. Mấy chục năm trước, c̣n trẻ măng mà bà đă một ḿnh thuê đ̣ ở Nam Định đi t́m chồng. Chồng bà đang đêm được Việt Minh đập cửa mời đi, rồi cả tháng không thấy về. Ông được mời v́ lúc đó ông có một ngôi trường nhỏ dạy học tiếng Pháp ở Nam Định. Bà đi đ̣, đi bộ cả bao nhiêu cây số, đến tận chỗ không ai dám bén mảng đến hỏi tin tức chồng. Họ bảo về đi, bắn chết rồi. Bà lại thuê đ̣ về, tính ngày đi của chồng dùng làm ngày giỗ v́ bà không biết ông bị xử bắn vào hôm nào. Mấy hôm sau bà bỏ nhà ở Nam Định, dắt ba thằng bé, đứa lớn nhất chưa quá 10 tuổi t́m đường ra Hà Nội. Đi làm, nuôi con ăn học. Rồi lại dắt con di cư vào Nam. Ai làm được ǵ th́ bà cũng làm được như vậy. Bà cũng khóc chứ. Nhưng nước mắt th́ vốn chóng khô v́ nó không chảy hết ra một lúc, nó chảy rỉ rả ít một. Chảy suốt một đời. Cô con dâu bà mới cưới được có ba tháng, c̣n trẻ lắm, lại chưa có con, đi đón xác chồng lại có mẹ chồng, anh chồng bên cạnh. So với bà cô c̣n may mắn chán.

Mà đúng thật, bà mẹ chồng tháo vát của tôi số khổ hơn con dâu. Bà xin lên được máy bay về trước các con một hôm th́ cũng bị thả xuống phi trường B́nh Thủy đêm hôm đó, máy bay không về đến Sài G̣n. Một cơn mưa tháng Tám bất chợt ập xuống làm bà ướt sũng, thất thểu t́m một nhà thờ vào xin ngủ qua đêm, bà không cần khóc nữa, trời đất khóc hộ bà rồi. Sáng hôm sau bà đi xe đ̣ về Sàig̣n. Trong khi đó th́ các con của bà: Con sống, con chết cũng bị thả xuống chỗ mẹ ngày hôm qua, nhưng không phải buổi tối mưa sũng nước mà một buổi trưa đầy nắng.
Cuối cùng th́ cũng đưa được quan tài về Sài G̣n. Khi xuống đến phi trường Tân Sơn Nhất th́ cả người và cảnh trông thật bắt mắt. Nếu có cần quay một cảnh phim cho chiến tranh th́ hay quá. Cái quan tài cũng không cần phải trang trí cho ra vẻ tang thương hơn nữa. Lá cờ phủ trên nó nhầu nát, xộc xệch, cô đơn, đă đủ vẻ tang thương.

Hai nhân vật thất thểu xác xơ đứng cạnh không cần phải hóa trang hay diễn xuất, họ đi đứng như người mất hồn, ngơ ngác, thất lạc, rơi ra từng mảnh như những người lính vừa bại trận trở về. Cứ dựng máy quay phim lên, quay họ như thế vào phim cũng tuyệt lắm rồi.

Sau nầy tôi nghĩ lại vẫn tự hỏi. Tại sao lúc đó mà ḿnh tỉnh khô như vậy, sao ḿnh không phát rồ, phát điên, không đập đầu vào tường?

Cả trăm câu hỏi cứ chạy lung tung trong đầu tôi bao nhiêu năm trời.

Một chiếc xe nhà binh đón chở áo quan từ phi trường đến nhà xác bệnh viện Grall. Đă bảo bà mẹ chồng tôi là người tháo vát mà! Bà c̣n xin được miếng đất chôn Cung trong Mạc Đĩnh Chi để bà thăm viếng cho tiện, chứ lên tận Nghĩa Trang Quân Đội th́ làm sao bà có thể đi thăm thường xuyên được.

Họ cho Cung đi qua nhà, dừng lại cho Cung nh́n chỗ ḿnh đă sống, đă lớn lên một lần chót. Chẳng biết ai là người nghĩ ra cái tục không được chết ở nhà th́ phải ghé qua nhà trước khi ra đi hẳn mà hay thế! Tôi thấy những người lân cận và một vài người họ hàng đă đứng chờ sẵn trước cửa nhà. Họ nh́n tôi, nh́n quan tài như xem phim chiếu chậm, họ quen quá rồi cái cảnh nầy những năm gần đây. Tôi c̣n trẻ quá, họ nghĩ. Thế nào rồi cũng quên đi, cũng lại lấy chồng, chỉ tội cho bà mẹ anh ta.

Họ nghĩ cũng chẳng sai mấy. Khi tôi bị đẩy ra khỏi nước, gia đ́nh chồng cũng bỏ đi, chỉ có Cung là người ở lại. Cung cũng chẳng khác ǵ những người c̣n sống, cũng bị đuổi nhà, bị chiếm đoạt tài sản. Người anh họ ở lại t́m cho anh một nơi cư ngụ mới trong nhà thờ Tân Định.

Tôi trôi măi rồi cũng phải dạt vào một chỗ. Bảy năm sau tôi lấy chồng, sanh con, tôi sống b́nh thường như tất cả mọi người đàn bà khác trên một đất nước không có chiến tranh. Tôi cũng vui, cũng buồn với những thăng trầm của đời sống.

Ở đời sống hàng ngày, tôi quên dần cái bất hạnh của tôi mấy mươi năm về trước. Nhưng tôi nhớ rất rơ ràng là cái bất hạnh đó nó có hiện diện trong kiếp người của ḿnh. Thỉnh thoảng Cung vẫn về trong giấc mơ, dù suốt ngày hôm trước tôi không hề nghĩ đến. Cung về như c̣n sống hay về như đă chết th́ khi tỉnh dậy, nước mắt tôi vẫn lặng lẽ trào ra trên gối. Tôi cố gắng không làm giao động người nằm bên cạnh đang ngon giấc. Buổi sáng, thức dậy, tôi thay áo gối, rồi lại thản nhiên bước vào đời sống trước mặt: Giặt giũ cho chồng, cơm bánh cho con.

Thời gian cứ thản nhiên trôi, buồn và vui đầy ắp hai tay. Ngày trắng tóc rồi cũng đến.

* * *

Lần đầu tiên về thăm lại Việt Nam năm 1998, sau 23 năm, tôi đi t́m Cung ở nhà thờ Tân Định. Tôi đi len lỏi giữa những dẫy kệ, đọc từng cái tên, đi đến vần “T” là họ của Cung. Tôi nh́n thấy một cái hộc nhỏ, không có h́nh chỉ có ghi Họ, tên, ngày sinh, ngày mất. Tôi đứng lặng người, run rẩy chạm những ngón tay ḿnh lên mặt chữ. Cái cảm giác chạm tay vào đầu áo quan của năm 1969 bỗng hiện ra dưới những ngón tay tôi. Một tiếng nấc đưa lên thanh quản, vỡ ̣a ra, tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Nước mắt của bao nhiêu năm tụ lại một ngày, nước mắt của những ngày đi đón xác ở Kiên Giang khô lại bây giờ nứt ra như một mạch ngầm của suối bật lên trên mặt đất nứt nẻ. Tôi khuỵu chân ngồi xuống giữa lối đi của hai hàng kệ, khóc như chưa bao giờ được khóc.

Chung quanh tôi vắng lặng. Tôi trầm ḿnh vào nước mắt, vào bất hạnh, vào nỗi cô độc của ḿnh. Cái hộc nhỏ đựng tro than bên trên đầu tôi vẫn thản nhiên, im ĺm nh́n như trước khi tôi đến.

Trần Mộng Tú

hoanglan22
09-15-2020, 14:44
Sĩ quan hành quân (S-3), t́nh báo tác chiến (S-2) thuyết tŕnh hôm 19 tháng Mười Hai năm 1968, trên căn cứ hành quân tiền phương (FOB-2) Kontum, phác họa ra một số mục tiêu cho các toán biệt kích SOG xâm nhập, ḍ thám: T-7 “Ban Blade”, J-3 “Little June”, I-6 “Hip Shot”. Nhiệm vụ cho ngày hôm đó là đưa một toán biệt kích SOG 9 người, xâm nhập mục tiêu H-6. Toán biệt kích sẽ mang danh hiệu “Little John”.

Sau khi toán biệt kích xâm nhập, báo cáo về là khu vực hành quân an toàn. Phi đoàn trực thăng vũ trang 361 “Con Báo” (Panther) được lệnh bay đến mục tiêu Juliet-Nine phá xập một chiếc cầu gỗ trên đường 96.
Chiếc cầu này được bọn cộng quân ngụy trang rất khéo, phi cơ thám thính “Covey” (FAC) không thể nhận ra. Chiếc cầu dài khoảng 30 thước, bắc ngang sông Dak Xou, cách “The Bra”, nơi gịng sông uốn quanh khoảng 300 thước về hướng tây.

“The Bra” rất quen thuộc với phi công và các toán biệt kích trong đơn vị SOG. V́ điạ h́nh khu vực rất đặc biệt, trông rất rơ từ trên không, nên các phi công thường dùng “The Bra” để định hướng, khi bay trên những cánh rừng mênh mông trên đất Lào. Thêm vào nữa, khu vực này khuyến cáo các phi công, cũng như biệt kích phải cẩn thận, “The Bra” là một điểm nóng trên hệ thống đường ṃn hcm, có nhiều hoạt động của quân đội Bắc Việt.

Toán biệt kích SOG xâm nhập vào mới khám phá ra chiếc cầu gỗ, được ngụy trang rất kín đáo dưới những tàng cây cao. Nằm cách vị trí (con đường) chính để băng qua sông chừng 200 thước về hướng bắc. Con đường chính băng qua sông là những lớp đá, bê tông, sắt đặt ngầm dưới mặt nước phi cơ quan sát không thể trông thấy được.

Đường 96, trước đó là một trong những con đường chính ở bên Lào nhưng sau này trở thành một phần trong xa lộ “Bắc-Nam” nối vào hệ thống đường ṃn hcm. Đường 96 hiện ra rất rơ trên bản đồ, cũng như được nh́n thấy từ trên không, nên bị Không Quân Hoa Kỳ thả bom thường xuyên.

Nhưng con đường lại được bọn chúng sửa chữa (lấp hố bom) nhanh chóng cho những đoàn xe vận tải Molotova chở quân xâm lược Bắc Việt cùng với đồ trang bị tiếp vận vào xâm lăng miền Nam Việt Nam. Bọn chúng thường di chuyển ban đêm để tránh bị phi cơ oanh kích. Đường 96 đến gịng sông Dak Xou, tẻ ra nhánh đường 110, uốn quanh theo “The Bra”, đâm vào vùng cao nguyên, Nam Việt Nam.

Phi Đoàn 361 Trực Thăng đă làm việc hàng ngày với đơn vị SOG từ tháng Chín năm 1968 và đă quen với nhiệm vụ hành quân. Sau khi thả toán biệt kích xâm nhập, các phi công “Panther” bay t́m xe cộ của địch đang di chuyển trên đường, băi đậu xe, thuyền bè di chuyển trên sông để tấn công. Trước đó một tháng tháng Mười Một), cà hai phi đoàn trực thăng 361 và 57 đă bay những phi vụ khó khăn nơi phiá bắc mục tiêu “The Bra”.

Cả hai Phi Đoàn 361 “Panther” và 170 “Bikini” đều rơi một trực thăng ngày 1 tháng Mười Hai. Ngày hôm đó sau trận B-52 thả bom trên binh trạm 37, BCH Tiếp Vận của địch gần chiếc cầu trên đường 96, trực thăng thuộc hai Phi Đoàn 361 và 170 đưa một toán biệt kích vào thám sát khu vực đánh bom.

Khi c̣n cách mục tiêu khoảng nửa dặm, các trực thăng hạ thấp cao độ bay trong đám bụi khói, hoang tàn đổ nát do B-52 gây ra, súng pḥng không của địch bắn lên trúng trực thăng chở quân (Slick, Phi Đoàn 170), trong khi toán biệt kích SOG vẫn c̣n trên trực thăng. Chiếc “slick” phải đáp khẩn cấp xuống nơi hướng bắc cách mục tiêu chưa đến một cây số, và về bên trái con đường chính khoảng 75 thước.

Hai trực thăng vơ trang “Panther” bao vùng tấn công mấy ổ súng pḥng không của địch để cho chiếc “slick” (chase, bay theo dự trù) bay vào cứu phi hành đoàn cùng toán biệt kích. Chiếc trực thăng vơ trang dẫn đầu (chính, chỉ huy) do Đại Úy Harold Goldman lái và Chuẩn Úy Mark Clotfelter ngồi ghế phụ, trúng đạn đại liên pḥng không 12.7 ly rơi xuống đất.

Sau khi cứu được phi hành đoàn chiếc “slick” cùng toán biệt kích, tai tôi nghe những tiếng “bíp”, tín hiệu cấp cứu của đại úy Goldman đánh đi. Tôi bay ḍ theo tiếng tín hiệu cấp cứu, đúng lúc trông thấy Đại Úy Goldman cùng Chuẩn Úy Clotfelter được một chiếc “slick” đáp xuống đám cỏ tranh cứu thoát. Chiếc trực thăng vơ trang Cobra c̣n lại có nhiệm vụ bắn tiêu hủy chiếc Cobra bị rơi, trước khi hộ tống mấy chiếc “slick” bay về căn cứ hành quân tiền phương Dak To.

Sau khi thả toán biệt kích “Little John” êm xuôi., toán biệt kích báo cáo “OK”, phi cơ quan sát FAC “Covey” cũng cho biết cả ba toán biệt kích đang hoạt động đều êm xuôi, cho lệnh chúng tôi bay đến tấn công mục tiêu thứ hai, chiếc cầu gỗ bắc qua sông Dak Xou. Ngoài hai chiếc Cobra (Phi Đoàn 361), có thêm một Huey “Bikini 29” (Phi Đoàn 170) bay theo, đề pḥng trường hợp cấp cứu. Chúng tôi bay thấp, theo đường 96 lên hướng bắc, ngang qua những khu rừng bị bom đạn tàn phá đến mục tiêu.
Bay với cao độ thấp, chúng tôi nh́n rơ chiếc cầu gỗ nằm ẩn dưới những tàng cây lớn. Tua (tour, pass) đầu tiên, chúng tôi đánh xập một chân cầu. Đến tua thứ hai, khi tôi chúi mũi chiếc trực thăng xuống, th́ nghe những tiếng súng tiểu liên bắn lên, có lẽ từ những tên lính gác cầu. Chiếc Cobra thứ hai do Trung Úy Paul Renner ngồi ghế phi công, báo cho tôi biết bẻ cua gắt, bay ra khỏi mục tiêu.

Tiếp theo, là hàng loạt súng đủ loại bắn lên, trong đó có cả pḥng không 12.7 ly và 37 ly. Cả trăm tên lính Bắc Việt từ trong những đám cỏ tranh đứng dậy chiả súng AK-47 bắn xối xả lên trực thăng.
Khi tôi lấy cao độ, ṿng lại chứng kiến chiếc Cobra của Paul Renner chúi xuống bắn hỏa tiễn, bọn lính Bắc Việt vừa chạy vừa bắn khắp nơi trong băi cỏ tranh. Chiếc Cobra trúng đạn, tiếp tục đi xuống, cánh quạt trực thăng chém mạnh vào mặt đất, gẫy văng ra chỗ khác. Tôi điều khiển chiếc trực thăng bay thấp để tránh đạn pḥng không, trong khi phi công phụ Mark khai hỏa khẩu đại bác 40 ly xung quanh chiếc Cobra bị rơi của Paul và Ben.

Tôi gọi chiếc “slick” trên hệ thống truyền tin, hy vọng có người nghe được “Bikini 29, đây Panther 16, chúng tôi có một chiếc bị rớt trong khu vực ‘Bra’, cần được tiếp cứu”. Và được phi công lái chiếc “slick” Ken Harper trả lời ngay tức khắc “Roger đang vào”.

Tôi vẫn phải tiếp tục bay ṿng, bắn xung quanh chiếc Cobra bị rơi, ngăn ngừa lính Bắc Việt đang ḥ hét tiến đến chỗ chiếc trực thăng. Trong băi cỏ tranh, Paul đang cố gắng lôi viên phi cộng phụ Ben ra khỏi chiếc trực thăng, rồi chiếc “slick” bay thật nhanh vào đáp bên cạnh, cứu cả hai viên phi công chiếc Cobra. Chiếc Cobra của tôi cũng trúng đạn, lúc đó hệ thống điện bị hỏng, không c̣n liên lạc được nữa.

Về đến căn cứ hành quân tiền phương Dak To, leo ra khỏi chiếc trực thăng, tôi trông thấy một lỗ đạn to khoảng 6 inches. Như vậy địch có đại liên pḥng không 12.7 ly trong khu vực chiếc cầu gỗ. Nh́n xung quanh, chiếc “Bikini 29” đáp ngay trước ban Quân Y, không thấy Ben (phi công phụ của Paul), tôi nghĩ chắc có chuyện… lớn.

Tôi vào trong hầm Quân Y, t́nh trạng của Ben nguy kịch, bộ quần áo phi công của Paul dính đầy máu, kiệt sức. Bốn người gồm có bác sĩ, y tá xúm lại xung quanh Ben, cố gắng đủ mọi cách để cứu sống Ben… Đến lượt chúng tôi đứng xung quanh Ben, người buồn nhất có lẽ là Paul, đă mất biết bao sức lực để mong cứu sống người bạn.

Sau đó, tôi với cương vị phi công trưởng phi tuần, đi theo một nhân viên y tá… làm những thủ tục cuối cùng cho Ben, nhân diện, nhận những vật dụng cá nhân của Ben, để trả về cho gia đ́nh anh… Nước mắt tôi tuôn ra, khó khăn mới kư xong mấy thứ giấy tờ cho Ben.

Khi chúng tôi ra khỏi hầm quân y, một đám đông đang bu quanh, xem xét chiếc Cobra trúng đạn, họ xầm x́ bàn tán… Ben Ide mới xin đổi đến Phi Đoàn 361 Cobra được hai tuần, từ một đơn vị trực thăng Lục Quân, vẫn c̣n đang hoạt động trong khu vực Tân Cảnh, Dak To. Tánh t́nh Ben dễ thương, có nhiều bạn… Tôi định bước đi, bỗng một viên phi công cùng đơn vị cũ với Ben chạy lại hỏi tôi… Những điều bàn tán xôn xao có đúng không? Ben có bị nặng lắm không? Nhưng nh́n qua khuôn mặt của ba chúng tôi, chắc anh ta cũng hiểu…

Ngồi trên sàn chiếc “Bikini”, là hành khách đuợc đưa trở về căn cứ trong phi trường Holloway, Pleiku, nỗi buồn mới thấm thiá. Lúc ra đi bốn phi công trên hai trực thăng tấn công Cobras, lúc trở về chỉ c̣n ba người và phải đi “ké” trực thăng. Chúng tôi, ngồi lặng lẽ, không ai buồn lên tiếng, dầu chỉ một lời… Chúng tôi phải cám ơn phi công chiếc “slick” này, nếu không, sẽ không một ai quay trở về.

Phi công “slick” thả ba đứa tôi xuống trước Bộ Chỉ Huy Phi Đoàn 361. Bạn bè trong đơn vị đă chờ sẵn, bước lại an ủi, dẫn đầu là Thiếu Tá Robert “Jim” Rogers, cấp chỉ huy của chúng tôi, một người đáng kính phục, sẵn sàng “sống chết” với đàn em, thuộc cấp. Tôi đứng cách đám đông khoảng ba thước, với giọng nói nghẹn ngào, báo cáo về nhiệm vụ, chuyện xẩy ra cho hai chiếc Cobras, chuyện xẩy ra cho Ben…

Thiếu Tá Rogers lúc nào cũng hiểu, bao che cho đàn em, ông ta hiểu những chuyện xẩy ra trên chiến trường, rất nhanh chóng… không điều khiển được. Sự ra đi của Ben là điều… nặng nề nhất trong tim mọi người. Tiếp lời tôi, Thiếu Tá Rogers cũng bằng gịong nói buồn, nhỏ nhẹ, chậm chạp, ông ta nói rằng trong chiến tranh… phải chấp nhận sự mất mát… Đó là những điều chúng ta chẳng làm ǵ được hơn.

Cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ lại những chuyện xẩy ra hôm đó, thương tiếc Ben và thầm cảm ơn Thiếu Tá Rogers, cấp chỉ huy của tôi, rất bao dung, tử tế, rộng lượng đối với đàn em. Đó là những tổn thất trong chiến tranh, Ben là một trong những người đầu tiên ra đi, sau đó c̣n nhiều nữa. Mark và tôi lại có dịp… ngồi trên sàn trực thăng “slick” trong tháng Giêng sắp tới, nhưng đó là câu chuyện khác.

Có rất nhiều bài học cay đắng và Thiếu Tá Rogers lại phải an ủi, động viên tinh thần tôi trước sự… ra đi của phi công phụ Mark Clotfelter, và Michael Mahowald trong tháng Bẩy năm đó.

Garry S. Higgins

hoanglan22
09-17-2020, 14:28
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1655240&stc=1&d=1600352900

Sau tháng Tư 1975, chính quyền "cách mạng" hay đặt tên các phương tiện giao thông vận tải xuyên Việt với hai chữ Thống Nhất đi kèm. Chẳng hạn như tuyến đường sắt Thống Nhất, rồi từ đoàn tàu (hỏa) Thống Nhất, đến tàu (thủy) Thống Nhất…

Thời đó, "phó thường dân Nam bộ" hiểu hai chữ “Thống Nhất” này một cách rất "giản đơn:" Từ ngoài Bắc, người th́ đua nhau kéo vào Nam; C̣n từ trong Nam, hàng th́ lũ lượt chở ra Bắc.

Có lần vào cảng Sài G̣n để tiễn người cậu về Bắc, Hùng thấy con tàu Thống Nhất khệ nệ chồng chất đủ mọi thứ "phồn vinh giả tạo" để đem về đất Bắc hà. Khi đó, Bắc hà là một xứ sở mà trong Nam có ai hỏi đến th́ đều được trả lời là "ngoài ấy cái ǵ cũng có." Nhưng thực sự th́ trong Nam "có cái ǵ," "ngoài ấy" đều muốn lấy hết cả.

Đứng cùng người cậu chờ kiểm soát trước khi lên tàu, Hùng thấy có anh bộ đội đẩy đến một chiếc Honda định đưa lên tàu. Nhân viên kiểm soát ngăn lại, yêu cầu hút hết xăng trong xe ra để tránh hỏa hoạn rồi mới cho lên.

Để xe ở đó, anh bộ đội thoăn thoắt quay ra ngoài. Chỉ tí xíu sau đă thấy anh trở lại với chiếc xe khác mới mượn được, rất giống như xe của anh. Rất nhanh nhẹn, anh bộ đội lấy ra một ống cao su và đưa lên miệng hút xăng từ xe anh rồi cắm ống hút vào b́nh xăng của xe bên cạnh mới đem đến để chuyển xăng qua.

Được một lúc, khi xăng ngưng không c̣n chạy qua ống hút, anh bộ đội kiểm soát lại th́ thấy xăng vẫn c̣n nhiều trong xe. Anh bộ đội lại đưa ống lên miệng, hút xăng mạnh hơn và cắm ống hút vào b́nh xăng xe bên cạnh. Làm như vậy vài lần, mà cũng thấy xăng vẫn c̣n hoài trong xe. Xem ra anh bộ đội đă hơi "nóng máy.”

Trên cổ áo của anh bộ đội, thấy đeo toàn là sao, mà Hùng không biết là cấp bậc ǵ. Nhưng qua dáng vẻ cao ngạo hănh tiến, Hùng đoán anh bộ đội chắc phải là cấp chỉ huy. Ṭ ṃ khẽ hỏi người cậu, th́ Hùng được biết anh bộ đội là Trung Úy.

Cứ hút xăng như vậy mấy lần, anh bộ đội đă toát mồ hôi, nhưng xăng trong xe anh vẫn "kiên cường bám trụ” không chịu đi ra hết. Nh́n anh Trung Úy vật lộn với hai b́nh xăng, Hùng đoán anh không biết đến nguyên lư b́nh thông nhau mà, ở miền Nam, Hùng được học khái niệm vào năm cuối bậc tiểu học: Khi chất lỏng được lưu chuyển giữa hai b́nh thông nhau, th́ sau khi đă ổn định, chất lỏng trong hai b́nh sẽ ở cùng một mực ngang nhau. V́ thế chẳng bao giờ mà xăng từ xe anh bộ đội lại có thể chạy hết sang xe bên cạnh một khi hai chiếc xe có cùng chiều cao và đứng cùng trên một mặt phẳng.

Trông anh Trung Úy cứ muốn "khắc phục" chuyện hút xăng theo kiểu "với sức người, sỏi đá cũng thành cơm," người cậu của Hùng cũng ngượng. Ông lên tiếng: “Này đồng chí ơi, đồng chí làm như thế không được đâu....”

Ông chưa kịp nói hết, th́ anh bộ đội Trung Úy đă cởi phăng chiếc áo đang mặc và nằm xuống phía dưới xe bên cạnh để xem xét. Chắc anh bộ đội nghĩ là chiếc xe này có motor của phản động "cài đặt" ở đâu đó để "chống phá cách mạng," không để anh "hoàn thành xong nhiệm vụ" hút xăng ra khỏi b́nh. Thế! Cho nên cần phải "triệt hạ" cái motor "phản động" này ngay.

Vừa ngả người nằm xuống xem xét máy, anh bộ đội vừa trả lời trống không: “Được chứ sao lại không? Đế quốc Mỹ nó mạnh như thế đấy, mà ‘đây’ c̣n đánh cho chúng nó tan tác chạy không kịp, nữa là chiếc xe này...” H́nh như cũng là người lớn lên tại tỉnh thành, cho nên anh bộ đội không phát âm là "chiếc xe ‘lày’."

Người cậu của Hùng, cũng là đảng viên, nhưng nghe anh bộ đội Trung Úy nói như thế, và dù có bẽ mặt, nhưng ông cũng chưa muốn "tan tác" như đế quốc Mỹ, cho nên đành giă biệt Hùng và lẳng lặng đi lên tàu Thống Nhất quay về lại xứ Bắc hà.

Vừa có thành tích đánh Mỹ, lại vừa thấu triệt được tinh túy của câu thơ để đời "với sức người, sỏi đá cũng thành cơm" của Tố Hữu, một đại thi hào của nền thi ca xă hội chủ nghĩa, th́ anh bộ đội Trung Úy đúng thật là văn vơ song toàn. Cộng thêm với khí thế hung hăng ngất trời “khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng,” nghe nổ to c̣n hơn pháo đùng, th́ anh bộ đội chắc chắn sẽ thăng tiến rất nhanh trong binh nghiệp.

Mấy mươi năm trước, anh bộ đội hút xăng đă mang quân hàm Trung Úy. Đến năm 2017 này, anh bộ đội Trung Úy hẳn đă trở thành Ông Bộ Đội Trung Tướng hay ngay cả Đại Tướng.

Ai biết được là Ông Bộ Đội đó lại không đang nắm giữ chức vụ lănh đạo to kềnh trong Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày nay?
Trần Thi

hoathienly19
09-18-2020, 20:11
Bài gốc của anh Nguyễn Ngọc Chính "Hồi Ức Một Đời Người"

Góp nhặt buồn vui thời điêu linh :

CHỢ TRỜI


- Mại dô… Mại dô… Đồng hồ mười hai trụ đèn, không người lái, hai cửa sổ… Xem thử đi các đồng chí… Cái đồng hồ này đáng giá cả một gia tài, nhưng bây giờ chỉ bán với giá ủng hộ…


- Chụp ảnh lấy liền chỉ mất 30 giây bằng máy Polaroid tối tân của Mỹ… Chụp đầy đủ cả bộ Đạp-Đổng-Đài để làm kỷ niệm…


Chỉ c̣n một ít giấy ảnh, chụp ngay kẻo hết... Giá chỉ một ngàn đồng Ngụy một tấm…


Vài chú bộ đội tần ngần dừng chân đứng lại, một chú thắc mắc:


- Chụp 30 giây là thế nào?


- Chỉ sau 30 giây là đồng chí có một tấm ảnh bên cạnh xe đạp, đồng hồ đeo trên tay và radio đeo bên nách…


Chụp đi đồng chí rồi gửi về Bắc làm kỷ niệm, chỉ mất có 1 đồng tiền mới, không có tiền mới th́ trả tiền Ngụy cũng được!

‘Đạo cụ’ của anh thợ chụp h́nh gồm chiếc xe đạp, cái vỏ radio bằng da và nếu người chụp không có đồng hồ anh ta sẵn sàng cho mượn để thực hiện một bộ sưu tập Đạp-Đổng-Đài như quảng cáo.


Mặt hàng ăn khách nhất ở chợ trời là 3 món Đạp, Đổng, Đài, được đánh giá là ‘đỉnh cao’ của sự sung túc theo tiêu chuẩn người miền Bắc.


Đồng hồ họ thích loại có ‘cửa sổ’, một cửa sổ th́ có ngày, hai cửa sổ th́ có cả ngày lẫn thứ nhưng không biết họ có hiểu những chữ Mon, Tue, Wed... hay không.


Radio th́ ở miền Nam hầu như gia đ́nh nào cũng có, nào là Sony, National, Zenith... có đủ cả AM lẫn FM. T


́nh thế đă thay đổi nên nhu cầu nghe radio không c̣n cần thiết, cách tốt nhất là đem ra chợ trời bán lấy tiền mua gạo.


Xe đạp th́ Sài G̣n cũng không hiếm và chạy đầy đường, kiểu cách th́ đa dạng không như xe Phượng Hoàng của Trung Quốc vốn lâu nay làm chúa đường phố Hà Nội.


*


Chợ trời là ‘nền kinh tế mới nổi’ trong thời kỳ Sài G̣n vừa đổi chủ. Chợ trời, ve chai, lạc soong nở rộ khắp hang cùng ngơ hẻm.



Bụng đói nên mọi người phải ra đường kiếm kế mưu sinh. Trong hàng ngũ dân chợ trời, những người chân chính kiếm sống gồm đủ thành phần.


Người ta đồn ca sĩ Thái Thanh đi bán xôi ở khu vườn hoa Công lư, nhạc sĩ Hoài Bắc (Phạm Đ́nh Chương) ra chợ trời Sài G̣n. Thế là gần như ban Thăng Long xuống đường hợp ca bản… chợ trời!


Nhà văn Nguyễn Thụy Long với tác phẩm nổi tiếng Loan Mắt Nhung vốn hiền lành là thế nhưng cũng phải chạy chợ trời để nuôi con khi bị vợ bỏ.


Nguyễn Thụy Long tâm sự:


“Ra chợ trời có nhiều mánh kiếm ăn nhưng tôi chẳng được ‘quư phái’ như nhiều tay chợ trời khác.


Như kư giả Hồng Dương buôn bán vàng ở chợ Lê Thánh Tôn, vải vóc, quần áo cũ hay sách báo lậu, môi giới ăn hoa hồng. Tôi cũng là dân chợ trời nhưng mua đi bán lại vài ba cái bù loong dỉ nên rất là đói rách…”


*


Nhà giáo v́ ‘mất dậy’, ‘vô lương’ nên phải đứng chợ trời. Công chức mất sở làm phải ra chợ trời c̣n sĩ quan ‘ngụy’ bận đi cải tạo...


Từ xưa, trong mắt số đông người miền Nam, chợ trời đồng nghĩa với sự lừa đảo, dối trá, ma lanh, láu cá.


‘Dân chợ trời’ là một cụm từ miệt thị chỉ những tay mua bán theo cơ hội, thời cơ nhưng trong thời điêu linh, Sài G̣n biến thành một chợ trời khổng lồ, trong đó đủ các thành phần xă hội, thượng vàng hạ cám.


Tất cả chỉ v́ miếng ăn, có cái tọng vào họng là được, bất kể sang hèn.


Chợ trời là một hiện tượng nở rộ tại Sài G̣n trong thời điêu linh, kể từ sau 30/4/1975. Về mặt kinh tế, những nơi nào có nhu cầu mua-bán th́ ở đó có chợ trời.


Tuy nhiên, xét cho cùng, chợ trời thời điêu linh là một h́nh thức tự phát khi nhu cầu của người miền Nam cần bán những mặt hàng được coi là không c̣n cần thiết trong t́nh h́nh mới gặp .


Nhu cầu của người mua là những người đến từ phương Bắc, họ săn nhặt những mặt hàng lạ c̣n sót lại từ thế giới tư bản niền Nam.


https://i.postimg.cc/DwZzYrSS/31124322-211462542786094-6798512284118286336-o.jpg


C̣n tiếp ,

hoanglan22
09-18-2020, 21:49
hoathienly19 :thankyou: Bạn có những bài hay . Mong thêm sự đóng góp bài vở của bạn:handshake:

hoathienly19
09-19-2020, 05:24
Bước vào khu vục chợ trời, bạn sẽ được chào đón bằng câu:

" Có ǵ bán không anh ? ".


Nhiều người tỏ vẻ bất b́nh trước câu hỏi sỗ sàng đó, có người lại trả đũa một cách khó chịu :

" Tôi bán tôi, anh có mua không ?"


Sau này, không ngờ câu hỏi cay cú đó lại được sử dụng ở các chợ người, hay c̣n gọi là "chợ lao động " .


https://baovecovang2012.files.wordpress.com/2020/09/bienhoa_nguoi-vuon.jpg


Ở gần khu vực tôi sinh sống có chợ trời Lăng Cha Cả. Chợ buôn bán đủ các loại mặt hàng, từ ‘thượng vàng’ đến ‘hạ cám’.


Tại đây, tôi đă từng đem bán cái nhẫn tốt nghiệp United States Defense Language Institute và chiếc quần jeans có cái nhăn Levi’s gắn bên cạnh túi.


Bán được 2 món đồ thấy nhẹ hẳn người v́ không c̣n " tàn dư Mỹ Ngụy " trên người mà lại có tiền cho vợ con đong gạo "bông cỏ " mua khoai lang sùng, khoai ḿ chạy chỉ và cả " cao lương " tức hột bo bo cứng như đá để độn cơm.


Thật đúng là thời " cao lương mỹ vị " đến độ "cao lương" trở thành món tầm thường mà ai cũng ngán. Phải nói là ngán ngẩm mới đúng.


https://trovetuoitho.com/wp-content/uploads/2020/03/M%C3%AC-bo-bo.jpg


*
Nhà văn Hoàng Hải Thủy vốn là người rất ít khi làm thơ nhưng chợ trời đă khiến ông ‘tức cảnh’ với những ḍng dưới đây:

Xem đồ ta, ngắm đồ người cho vui

T́m vui chỉ thấy ngậm ngùi

Vỉa hè này những khóc cười bầy ra

Lạc loài áo gấm, quần hoa

Này trong khuê các, sao mà đến đây?

Chợ bầy những đọa cùng đầy

Vàng phơi nắng quái, ngọc vầy mưa sa

Bán đồ toàn những người ta

Mua đồ th́ rặt những Ma cùng Mường

Chợ Trời hay Chợ Đoạn Trường

Đầu âm phủ, cuối thiên đường là đây!


*


Ở chợ trời, người bán nhiều hơn người mua, dĩ nhiên đa số người mua là những ‘Ma’ cùng ‘Mường’, họ là những từ phương xa đổ vào thành phố.


Họ là những chiến binh chất phác, chân quê, ‘xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước’ và khi được đặt chân lên Ḥn Ngọc Viễn Đông họ ngỡ ngàng như trong mơ, hàng hóa phong phú như ở các nước… Đông Âu!


https://baovecovang2012.files.wordpress.com/2019/10/85-bodoics-di-cho-troisg.png


Bên cạnh những chiến binh chân chất là những anh bộ đội có tính " sĩ diện hăo’ ". Hỏi :


Anh ngoài Bắc có " ti vi " không ?

Anh trả lời như một cái máy ghi âm Akai:


“Thứ đó chạy đầy đường”.


H́nh như, theo sự hiểu biết của anh, TV là một loại xe Honda nên nói liều là… chạy đầy đường!


https://imagizer.imageshack.com/v2/317x480q90/r/924/Dp4u4D.jpg



Đến khi thân nhân ở nước ngoài gửi quà về Việt Nam qua sân bay Tân Sơn Nhất và bưu điện đường Hai Bà Trưng lại phát sinh một nghề mới, nghề chợ trời mua thu gom đồ.


Họ bám lấy người đi lănh đồ như ruồi, không tiền đóng thuế cho hải quan, họ t́nh nguyện đóng thuế giùm, miễn là bán lại đồ cho họ.


*
Tôi đă chứng kiến nhiều cảnh cười ra nước mắt ở chỗ lănh đồ gửi từ Mỹ về. Trong thùng đồ gửi về có một cây thuốc lá Pall Mall. Cây thuốc thơm tho đă nằm trên bàn kiểm hàng, thủ tục thuế má cũng đă đóng đủ cả chỉ c̣n việc người lănh đồ chờ nhận.


Tuy nhiên, nhân viên Hải quan (quan thuế) cho biết rằng thân nhân bên Mỹ đă gửi đồ một cách… phạm pháp. Người lănh đồ thắc mắc, hồi hộp hỏi:


- Thưa… trong những gói thuốc này có… héroin hay sao :?:


- Không, nhưng nhà nước xử nhẹ thôi, sẽ mua lại với giá chính thức, và cho lại anh một gói hút lấy thảo gọi là t́nh nghĩa với bà con.


Người lănh đồ sống trong tâm trạng của kẻ đi " xin " và được " cho " những ǵ… nhà nước không cấm.


Thuốc Pall Mall vẫn bầy bán trên lề đường Đồng Khởi, hồi xưa gọi là Tự Do. Người ta mới hiểu ra, thuốc lá tịch thu ở chỗ lănh đồ có chân chạy ra đường Đồng Khởi.


Hàng từ ngoại quốc gửi về, nằm trong kho, người nhận quà được giấy báo, đôi khi hỡi ơi, chỉ c̣n thùng bị rút ruột hoặc bị đánh tráo.


Vải từ bên Mỹ gửi về cho thân nhân ở quê nhà lại dệt ở Việt Nam, nhà máy dệt Nam Định chẳng hạn. Gặp những chuyện đó chỉ có nước cắn răng chịu trận. Thân phận con kiến sao kiện được củ khoai.


*


Chuyện đó xảy ra hàng ngày nên không c̣n là chuyện la. Người ta nói rằng có nhân viên hải quan làm việc một năm trời, đồng lương ba cọc ba đồng mà xây nổi nhà cao tầng giữa thành phố.


Rồi giai cấp mới làm kinh doanh qua việc nuôi chó bẹc giê kiếm lời. Một giai cấp nhà giầu mới ra đời, người ta chăm sóc chó, cho chó ăn cả kư lô chả quế, ăn phở tái nạm gầu.


Lời đồn đại về lối sống của giai cấp mới này nhiều vô số kể, nhưng tôi không thể tin hết nếu chưa kiểm chứng.


Trong hồi ức này những điều tôi viết ra đều đă được kiểm chứng và đúng là sự thật. Tôi không “ bắt " ai phải tin hay nghĩ ǵ khác.


C̣n tiếp ,

hoanglan22
09-19-2020, 18:50
Người Sài G̣n xưa thường nói “dân chơi cầu Ba Cẳng”. Vậy cầu Ba Cẳng là cây câu nào? Giờ nó ở đâu mà nhiều người Sài G̣n kiếm hoài không thấy?

Cầu Ba Cẳng thuộc vùng Chợ Lớn bắc qua một cái Vàm (Ngă ba kinh rạch) của kinh Hàng Bàng, do quan Khâm Sai người Pháp ra lệnh xây dựng. Cầu có tên tiếng Pháp là “Pont des 3 arches” (cầu có 3 nhịp ṿng), được xây bởi công ty Brossard et Mopin – công ty từng xây chợ Bến Thành năm 1914.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1656461&stc=1&d=1600541197

Cầu ở cuối đường Kim Biên, đầu đoạn rạch Băi Sậy, nay lấp thành đường Băi Sậy và Phạm Văn Khoẻ quận 6. Nó nằm ở khúc rẽ phải ra kênh Tàu Hủ, hai chân nằm ở bến Băi Sậy và bến Nguyễn Văn Thành và chân kia ở bến Vạn Tượng.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1656462&stc=1&d=1600541197

Nhà văn Trương Đạm Thủy viết về cầu như sau: “Ở vùng quận 6, Chợ Lớn cách đây mấy mươi năm có một cây cầu bằng sắt, h́nh dạng rất lạ, có ba chân. V́ cầu chẳng có cái tên chính thức nào như cầu Bông, cầu Kiệu, cầu Nhị Thiên Đường, cầu Tân Thuận… nên người dân lấy h́nh mă đặt tên, tức cầu Ba Cẳng.”

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1656463&stc=1&d=1600541197

Cây cầu này không đóng góp ǵ nhiều cho giao thông ở khu Chợ Lớn v́ nó chỉ là cầu đi bộ giúp người dân tiện qua chợ Kim Biên, và là nơi hóng gió, hàn huyên… Nó bị “xoá sổ” hồi năm 1990 do bị sập.

C̣n về cụm từ “dân chơi cầu Ba Cẳng” th́ có nhiều giải thích khác nhau.

Người ta kể rằng hồi năm 1955, có một đám côn đồ sau khi làm việc phi pháp bị hai ông cảnh sát rượt đuổi. Chúng chạy lên cầu Ba Cẳng. V́ cầu có ba hướng lên xuống mà cảnh sát chỉ có hai người, do đó, chỉ chận được hai ngă. Bởi vậy, đám côn đồ thoát thân may mắn. Từ đó người ta nói “dân chơi cầu Ba Cẳng” với ngụ ư là dân giang hồ dám làm mà không dám chịu, nhưng lại may mắn mà né được nạn…

Cũng có cách giải thích khác rằng ngày xưa có 1 cuộc hỏa hoạn lớn ở đường Gia Long (nay là Trịnh Hoài Đức, Sài G̣n). Người ta đổ xô lên cầu chen lấn, đứng xem quá đông, khiến cầu (bằng gỗ) bị sập. Sau đó cầu được xây lại thành ba nhánh bằng “bê tông cốt sắt” vững vàng hơn. Dân chúng trong vùng không c̣n gọi là cầu Khâm Sai nữa và gọi theo h́nh dáng xây dựng. Vậy th́ theo câu chuyện này, “dân chơi cầu Ba Cẳng” dùng để chỉ những ai làm ẩu, không có tính toán ǵ, cứ thấy chuyện lạ là nhào vô, thỏa ư ṭ ṃ tới độ cầu sập, sinh ra tai nạn.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1656464&stc=1&d=1600541197

Cũng có truyền thuyết kể rằng cái tên “dân chơi cầu Ba Cẳng” gắn liền với “hiệp sĩ” Mă Ban ở khu này, kẻ từng là nỗi khiếp sợ của đám du đăng ở Chợ Lớn. Cũng v́ có thể trấn áp đám đu đăng nên Mă Ban dần trở thành bảo kê, được các chủ quán người Hoa “ĺ x́”, được một ông chủ người Hoa gả con gái cưng cho. Người ta kể rằng Mă Ban rất chịu chơi và thường là chịu chơi quá đà, mấy lần sạt nghiệp… Từ đó mới có cụm từ “dân chơi cầu Ba Cẳng”. (Xem bài: Sài G̣n xưa: Hiệp sĩ cầu Ba Cẳng)

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1656465&stc=1&d=1600541197

Rạch Băi Sậy hay kênh Hàng Bàng ngày này đă lấp đến 90% và trở thành đường Băi Sậy và đường Phạm Văn Khoẻ. Nhà cửa mọc lên phủ kín bờ rạch, che khuất dấu vết cây cầu xưa. Dẫu sao đi nữa, cầu Ba Cẳng cũng là cây cầu đi bộ đầu tiên của Sài G̣n.

Lê Nguyên

hoathienly19
09-20-2020, 03:43
Chú bộ đội ngồi hóng chuyện dân chợ trời


https://pppre.s3.amazonaws.com/3374793288e5880f/a/2617bdc6078c4c94a11f59bd7a086ece.jpg



Cái cột đèn trong thành phố nó bị trồng cứng xuống lề đường nên đành đứng nguyên một chỗ, c̣n đồ Mỹ có chân, nó chạy ra chợ trời !


Nồi cơm điện, bàn ủi, hay đổng-đài nó có thể chạy ra đến chợ trời Huỳnh Thúc Kháng, Tôn Thất Đạm.

Nơi đây người ta bán chúng với bất cứ giá nào, dân chợ trời mua tùy theo túi tiền có sẵn và người mua về bao giờ cũng vui v́ có được món hàng mà ḿnh ao ước!


https://pppre.s3.amazonaws.com/3374793288e5880f/a/3edefc58607d491f86e9210e2cc99eb1.jpg


Chợ trời thuốc tây lớn nhất Sài G̣n trải dài suốt một con đường bên hông chợ Tân Định.


Người ta có thể t́m mua đủ các loại tân dược tại đây, từ những viên thuốc cảm, sổ mũi, nhức đầu cho đến thuốc " đặc trị " huyết áp, tiểu đường, thấp khớp – cái th́ c̣n " đát " nhưng có cái hết " đát " từ mấy năm về trước.


Nguồn hàng có xuất xứ đa dạng:


- Thuốc từ các viện bào chế trước 1975

- Thuốc từ các nước " xă hội chủ nghĩa anh em " và sau này c̣n có cả thuốc từ các nước tư bản do thân nhân từ nước ngoài gửi về.



https://pppre.s3.amazonaws.com/3374793288e5880f/a/35b61872b98b441e8962a4988bb2eb97.jpg


Nguồn thuốc gửi về có đến 90% t́m đường ra chợ trời v́ người nhận thuốc không phải để uống mà để bán đi lấy tiền lo cơm áo hàng ngày.


Người ta quan niệm, chống đói quan trọng hơn chống bệnh tật gấp ngh́n lần. Thân nhân ở nước ngoài được báo là cứ gửi thuốc về, mặt hàng này có giá rất cao nếu so với quần áo, vải vóc, mỹ phẩn, kẹo bánh. Hơn nữa, trọng lượng lại rất nhẹ cân nếu so với các " hàng viện trợ " khác, đỡ tốn cước phí đối với người gửi.


*


Từ Mỹ, từ Pháp cũng xuất hiện những công ty của người Việt chuyên gửi thuốc tây về Việt Nam với danh sách các loại thuốc " hot " nhất, có nghĩa là bán được nhiều tiền nhất trên thị trường chợ trời.


Tại Sài G̣n có cả một hệ thống thu mua mặt hàng thuốc tây, họ là dân chợ trời nhưng đến tận nhà. Hệ thống chân rết này bắt đầu từ những tay " c̣ " , có mặt tại khu lănh hàng trên phi trường Tân Sơn Nhất hay bưu điện, thấy ai lănh thuốc là xin địa chỉ đến tận nhà để mua, vừa kín đáo lại vừa an toàn, không sợ công an " vồ ".


Dân chợ trời thuốc tây cũng xuất thân đủ mọi ngành nghề:


Từ ông dược sĩ chính hiệu bị mất sở làm đến anh sỹ quan ngụy vừa tốt nghiệp cải tạo .


Từ tên chuyên nghiệp mánh mung đầu đường xó chợ đến kẻ trong túi không có tiền uống cà phê cũng ra chợ trời buôn nước bọt.

Họ đứng ra làm trung gian, dẫn mối.



https://pppre.s3.amazonaws.com/3374793288e5880f/a/86412d723bce415cbdd678b720d9da36.jpg


*

Bạn cải tạo của tôi ra chợ trời kiếm ăn cũng không ít .


" Tổng hành dinh " của đám chợ trời chúng tôi là nhà Nam " đầu bạc " ở đường Hai Bà Trưng, ngay chân Cầu Kiệu, nên rất gần với chợ trời thuốc tây trên đường Nguyễn Hữu Cầu, bên hông chợ Tân Định.


https://pppre.s3.amazonaws.com/3374793288e5880f/a/a04d7fb5c32e47f59ae3b30bcc1250f7.jpg


Nam vốn là bác sĩ quân y, khi đi học tập về sống chung với ca sĩ Phương Hồng Quế và mở pḥng mạch trên đường Triệu Quang Phục trong quận 5, Chợ Lớn. Căn nhà mặt tiền đường Hai Bà Trưng vốn là của gia đ́nh Quế nên được đám bạn chọn là nơi ra vào từ chợ trời.


Thuốc tây thu gom ở chợ Nguyễn Hữu Cầu được gửi tạm tại đây trước khi sang tay, mua đi bán lại.


Mỗi khi bác sĩ Nam cần thuốc cho pḥng mạch cũng đều nhờ anh em chợ trời săn lùng, anh em không ra chợ trời Nam cũng sẵn sàng mua ủng hộ mỗi khi có thuốc tây từ nước ngoài gửi về làm quà.



https://pppre.s3.amazonaws.com/3374793288e5880f/a/4c0109da7066467cab503060b86a114b.jpg


Phần tôi thỉnh thoảng cũng có chút quà nên nhờ Nam mua giúp. Tôi hiểu, những lọ vitamin nếu đem ra chợ trời bán sẽ bị chê ỏng chê eo nên hễ có là tôi nhờ Nam mua… ủng hộ !



Nhóm chợ trời thuốc tây chúng tôi gồm đủ thành phần đă tốt nghiệp " đại học cải tạo ":


- Huệ (sĩ quan Hải quân… mắc cạn)

- Cường " điếc " (pháo binh Thủy quân Lục chiến nên tai bị nghễnh ngăng v́ tiếng súng)

- Chú Định (dân Quốc gia Hành chính, đă từng là phó quận nay là phó thường dân chợ trời)


- Quyền (Giảng viên trường Sinh ngữ Quân đội bị… "mất dậy ")…



https://pppre.s3.amazonaws.com/3374793288e5880f/a/b1f70ead280540c0b919c9b247f8ecfa.jpg


Riêng tôi được miễn " công tác ra chợ trời thuốc tây kiếm sống " thay vào đó là chân " gia sư " kèm Anh Văn cho Phương Hồng Quế, Phương Dung, Thu Hiền và một số bạn bè của Quế cũng như con cái của các bạn cải tạo.


Ông thầy ngày một đông học tṛ nên cuộc sống cũng có phần dễ thở trong suốt thời điêu linh.


*


Tan chợ, anh em thường tụ họp tại Hai Bà Trưng, thỉnh thoảng vào cuối tuần lại chung tiền tổ chức " giải lao " sau những ngày " hành sự ’ tại chợ Nguyễn Hữu Cầu.


Tết Trung Thu Quế lại c̣n tổ chức cho con cái " cái bang " về Hai Bà Trưng đốt lồng đèn, ăn bánh Trung thu…


Tết Trung Thu 1983 tại đường Hai Bà Trưng



https://pppre.s3.amazonaws.com/3374793288e5880f/a/21ff0c59dad2482dae72752e0b128cfc.jpg


*


Giờ th́ anh em cải tạo, người nào cũng ‘sáu, bẩy bó’, lưu lạc bốn phương, kẻ ở lại trong nước, người đă ra nước ngoài. Ngồi viết lại chuyện chợ trời để nhớ lại một thời điêu linh./.

Quà từ Sài G̣n mới giải phóng


https://pppre.s3.amazonaws.com/3374793288e5880f/a/10dc11d983ea44d1b446ac69f1955c14.jpg


(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 6 – Thời điêu linh)

http://chinhhoiuc.blogspot.de/…/gop-nhat-buon-vui-thoi-ieu-…

https://sites.google.com

hoathienly19
09-20-2020, 17:34
Người miền Nam có câu nói ám chỉ một sự việc xa vời, vô định, vô vọng và ch́m sâu vào tuyệt vọng :

“ Mút chỉ cà tha ”.

Những tưởng học tập cải tạo 10 ngày để rồi trở về với cuộc sống b́nh thường hàng ngày, ai ngờ đă qua 10 ngày mà vẫn thấy chưa học tập được một chữ nào ! Thế cho nên chúng tôi bảo nhau :


“Kiểu này học tập... mút chỉ cà tha!”


Sau này t́nh cờ đọc Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư (một nhà văn nữ ở miền cực Nam đất nước) tôi mới biết Mút Cà Tha là một địa danh có thật, ở tận miệt Cà Mau, nơi có những tên đượm sắc Nam bộ như Đầm Chim, Đầm Dơi, Chắc Băng, Cạnh Đền, Gành Hào, Năm Căn, U Minh, Trèm Trẹm và… Mút Cà Tha !


Có lẽ cù lao Mút Cà Tha hàm ư nơi tận cùng của miền cực nam đất nước nên mới có thành ngữ “mút chỉ cà tha”, đi hoài không tới !

Đối với người cải tạo cũng vậy, học hoài không về !


Sau buổi sáng ngày 30/4/1975, cuộc đời tôi hoàn toàn thay đổi. Đang từ một anh Trung úy giảng viên Anh ngữ, ngày ngày lái chiếc Honda SS50 đến trường Sinh ngữ Quân đội, tôi bỗng trở thành một người thất nghiệp với một tương lai vô định trước mắt.


Nhưng thất nghiệp cũng không quan trọng bằng trạng thái tâm hồn bất ổn, lo sợ, không biết mai sau ḿnh sẽ ra sao trước một ngă rẽ lịch sử: sự sụp đổ hoàn toàn, từ những mảnh đời riêng tư cho đến cả một vận nước.


Cảnh điêu tàn trong ngày cuối cùng 30/4/1975



https://1.bp.blogspot.com/-jNnDL4sv76k/UFcBPIa27jI/AAAAAAAAB0Q/2RMVnX5Nq10/s640/44+1+S%C3%A0i+G%C3%B2n+2.jpg


Đối với người bị tập trung học tập cải tạo, có lẽ đây là thời kỳ u ám nhất trong cuộc đời.


Không u ám sao được khi trước 1975, chúng tôi là những thanh niên tràn đầy sức sống, theo đuổi những mục đích và tham vọng riêng tư của tuổi trẻ nay bỗng trở thành những người sống trong trại tập trung.


Chúng tôi sống trong thân phận tù đầy nhưng chính quyền mới đă luôn luôn khẳng định, đây không phải là nhà tù mà đây là nơi học tập cải tạo. :nana:


Ngày tàn cuộc chiến
(Ảnh do phóng viên Đại Hàn chụp)


https://2.bp.blogspot.com/-OluzKtVKWs8/UFcBb6oCAKI/AAAAAAAAB0Y/XGxRjwf6OeY/s640/44+2+April+%C3%81p+gi%E1%BA%A3i+l%C3%ADnh+VNCH+%C4 %91i+tr%C3%ACnh+di%E1%BB%87n,+%E1%BA%A3nh+do+ph%C3 %B3ng+vi%C3%AAn+H%C3%A0n+Qu%E1%BB%91c+ch%E1%BB%A5p .jpg


Những người tù b́nh thường – dù có phạm tội cướp của, giết người – cũng có bản án để biết ngày được tự do.


Ngược lại, những người cải tạo không bao giờ có được bản án để trông mong ngày về. Thay vào đó là châm ngôn được cán bộ quản giáo lập đi, lập lại:


“Học tập tốt, lao động tốt, các anh sẽ được về sum họp với gia đ́nh”.


Có điều, tiêu chuẩn để đạt được những cái tốt đó chỉ lơ lửng ở phía trước, tựa như củ cà rốt treo trước mắt con thỏ trong một cuộc chạy đua dường như không bao giờ đến đích.


Ngày đi học tập, sĩ quan cấp úy và nhân viên " ngụy quyền " đều tin tưởng chỉ kéo dài 10 ngày theo tinh thần thông báo của Ủy ban Quân quản :


“… Đem lương khô đủ dùng trong thời gian 10 ngày…”.


Trước đó, hạ sĩ quan chỉ học tập đúng 3 ngày theo lệnh của Ủy ban Quân quản và dĩ nhiên 10 ngày dành cho sĩ quan là cái giá hợp lư nhất phải trả trước khi trở về với cuộc sống b́nh thường.


" Thẻ tŕnh diện " cấp cho hạ sĩ quan & binh sĩ sau khi học tập 3 ngày




https://2.bp.blogspot.com/-C_GyoHBuQXM/UFcBnQUi2hI/AAAAAAAAB0g/iyel3XX9ZBU/s640/44+3.jpg


Bác sĩ Nguyễn Phước Đại, Giám đốc Bệnh viện Sài G̣n trước năm 1975, có liên quan đến một giai thoại khá dí dỏm mà tôi nghe được qua bà xă, vốn là nhân viên của bệnh viện.


Ông Đại là một bác sĩ giỏi, người gốc miền Nam, nhưng lại là dân ở Pháp về nên khi nghe thông báo đem ‘lương khô’ đủ dùng trong 10 ngày, ông hỏi lại nhân viên:


“ Tôi không ăn được " lươn khô " , đem những thứ khô khác như cá khô không biết có được không nhỉ ? ”.


Tuy đầu óc đang căng thẳng v́ lo cho chồng con nhưng đám nhân viên không khỏi ph́ cười v́ sự nhầm lẫn giữa ‘lương khô’ và ‘lươn khô’ của ông bác sĩ từ bên Tây về.


Tŕnh diện ngày 30/4/1975



https://4.bp.blogspot.com/-J6TbF2VMP3g/UFcBzN_tujI/AAAAAAAAB0o/COwq0qnxDOU/s640/44+4+30-4-19752.png


Ngày bước lên xe Molotova để đến Trảng Lớn (Tây Ninh), tôi thoáng nghe hai anh cán binh "áp tải " nói chuyện với nhau:

- Mấy anh ngụy này rắc rối quá, đă đi cải tạo mà c̣n mang vợ theo nữa !


Số là có mấy sĩ quan nữ quân nhân cũng tŕnh diện nên bị hai anh cán binh trẻ tuổi hiểu lầm là vợ của người đi học tập.


Ḷng lúc đó đang chùng xuống nhưng khi nghe câu chuyện của kẻ cầm AK đi áp tải lại thấy buồn cười v́ những sự ngộ nhận ngây thơ của những kẻ chiến thắng.


Tiếng là học tập nhưng chỉ có vài bài, học hoài mà vẫn chưa về ! Các bài giảng của cán bộ quản giáo được truyền tải trên hội trường, có sức chứa hàng trăm… học tṛ.


Đại khái như trong bài “Đế quốc Mỹ là kẻ thù của dân tộc”, quản giáo lên lớp:


“Mỹ là nước tư bản bóc lột… ngay đến tổng thống của Mỹ là Pho [Gerald Ford] cũng là trùm tư bản có công ty ô tô nổi tiếng là… hăng xe Pho (!)”.


Cán bộ quản giáo lên lớp



https://1.bp.blogspot.com/-Ux9HI9vEmbQ/UFcB-He31tI/AAAAAAAAB0w/ah7WksOMLK8/s640/44+5+lenlop-nghechui.png


Nh́n chung, người cải tạo là những kẻ… lạc quan tếu. Khi ăn hết 10 ngày lương khô mà vẫn chưa thấy được về, người ta lại trông mong đến ngày Quốc khánh 2/9 chắc sẽ về.

Lại mong đến Tết sẽ về nhưng có lẽ là… Tết Congo chứ không phải là Tết của ta. Đến khi đó, mọi lạc quan đều tắt ngấm để thay vào đó là ảo vọng “ Học tập tốt, lao động tốt sẽ được về…”.

Anh Ở Đây_nhạc Thục Vũ & Vũ Đức Nghiêm _ca sĩ Đoàn Chính


IQRyR--iSVg


C̣n tiếp ,

hoathienly19
09-21-2020, 17:05
Những người cải tạo được lệnh tập họp với tất cả đồ dùng cá nhân. Một thoáng " hồ hởi " khi nghĩ rằng đă đến lúc… xả trại.


Chúng tôi được chia thành hai nhóm theo danh sách đă có từ trước. Người nhóm nào cũng tự hỏi không biết nhóm của ḿnh có phải là nhóm được về ăn Tết hay không.


Tôi thuộc nhóm ở lại Trảng Lớn. Nhóm rời trại, măi sau này mới biết, họ lên xe trực chỉ Sài G̣n nhưng đó không phải là điểm đến cuối cùng. Họ được đưa đến bến tàu để tiếp tục cuộc hành tŕnh ra đảo Phú Quốc !


Hóa ra họ là những thành phần được xếp vào loại " ác ôn, có nợ máu với nhân dân’ " .


Họ là những " thiên thần mũ đỏ " (Nhảy dù), " lính thủy đánh bộ " (Thủy quân lục chiến), " cọp 3 đầu rằn’ (Biệt động quân), " giặc lái " (Phi công), "giặc nói " (Chiến tranh chính trị)…



https://imagizer.imageshack.com/v2/480x480q90/r/922/GB7ImV.jpg


Khi người Sài G̣n được bắt đầu thăm nuôi thân nhân tại trại cải tạo Trảng Lớn th́ mọi hy vọng được về đều tan biến.

Tôi đă có lần hỏi chuyện một ông cụ già đi thăm con về t́nh h́nh… ngoài đời. Qua lớp hàng rào kẽm gai ngăn cách giữ khu dành cho người cải tạo và con đường dẫn vào khu thăm nuôi, tôi hỏi vói :


- Bác ơi, Sài G̣n bây giờ ra sao hả bác ?


- Sài G̣n bây giờ mấy tiệm bán mắt kính dẹp hết rồi… người nào người nấy sáng mắt lắm, đâu cần mang kính nữa cháu à…


Thật ư nhị . Câu chuyện thuộc loại " khôi hài đen " ngắn gọn của ông cụ đă nói lên tất cả.



https://imagizer.imageshack.com/v2/250x395q90/r/924/IgVuNg.jpg


Sau bao thời điểm hy vọng ngày về, chúng tôi tập làm quen với ư tưởng “ an tâm cải tạo ”.


Trước mắt, trại ra lệnh " cuốc đất trồng rau " (nói theo cán bộ quản giáo là tăng gia sản xuất) trên những khu đất hoang xung quanh trại. Phải đến giai đoạn này mới thấy được " óc sáng tạo " của các bạn đồng cảnh.


Không có cuốc xẻng nhưng mọi người nghĩ ngay đến việc chế tác các dụng cụ nông nghiệp từ những đồ phế thải trong nhà kho của căn cứ Trảng Lớn.


Rau muống gieo bằng hột, trồng trên đất khô và được chăm sóc rất kỹ nên mọc cao như cây thân thảo, cao đến cả thước chứ không như rau muống mọc ngoài ruộng.


Rau muống tốt một phần nhờ nước tiểu và phân xanh do chính chúng tôi sản xuất. Như vậy là đă hoàn thành một chu tŕnh khép kín :


Ăn vào, thải ra, bón cây rồi lại tiếp tục ăn vào…


Trảng Lớn ngày xưa có một sân bay dă chiến L19 được lót bằng những tấm vỉ sắt. Chúng tôi gỡ những tấm PSP (Perforated Steel Plate) của quân đội Mỹ, mỗi tấm rất nặng, phải cần đến ít nhất 6 người khiêng mới có thể đem về trại dùng trong rất nhiều việc:


Lót quanh giếng để tắm rửa, làm phản để ngủ, thậm chí c̣n dùng để lót cầu tiêu tập thể trong đội.


May mắn cho những người cải tạo tại Trảng Lớn là chúng tôi được thừa hưởng và tận dụng những " tiện nghi tàn dư " của quân đội VNCH c̣n rất nhiều trong căn cứ sư đoàn 25.


Từ những mảnh tôn người ta có thể g̣ thành gàu múc nước, nồi nấu ăn…


Từ những sợi bao cát người ta có thể xe thành sợi dây thừng để làm giây kéo gầu múc nước từ giếng lên. Nếu khéo tay hơn, những bao cát có thể được biến thành những chiếc áo khoác rất… thời trang !


Mỗi lần được ra phi trường L19 " lao động " chúng tôi cũng không quên săn nhặt những mảnh nhôm c̣n sót lại trên xác trực thăng để tha về đội.


Một cựu quân nhân VNCH đang lao động tại một trại cải tạo ở Tây Ninh, tháng 6/1976.


https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2017/06/traicaitao-1.png


Vào những ngày cuối tuần, nghỉ lao động, là những giờ phút lao động " tự biên, tự diễn ".


Chỗ này làm lược, chỗ kia làm ṿng. Những vật dụng đó không xuất phát từ nhu cầu hàng ngày trong trại cải tạo mà lại là những kỷ vật dành cho người thân để kỷ niệm một thời cải tạo.


Chiếc ṿng được chế biến từ vỏ đạn


https://1.bp.blogspot.com/-GczhdRZAYV0/UFcCHdiHbBI/AAAAAAAAB04/st9LdcXfamE/s640/44+6+photo-1107.jpg



Chỉ cần trong đội có một người giỏi nghề sẽ hướng dẫn cho những người c̣n lại cách " xủi " những hoa văn trên chiếc lược hoặc chiếc ṿng nhôm là có một vật kỷ niệm từ trại cải tạo…


Bạn cũng có thể học nghề " g̣ " những tấm tôn cũ thành nồi nấu ăn, thùng đựng nước hoặc gàu múc nước. Rất nhiều thứ có thể học trong trại cải tạo, trừ một thứ là các bài học chính trị…


Cho tới giờ này tôi c̣n giữ được hai kỷ vật từ trại cải tạo: chiếc ṿng đeo tay và chiếc lược bằng nhôm. Trên chiếc ṿng tôi " xủi " tên hai vợ chồng và 4 đứa con, trên chiếc lược là h́nh hoa văn với hai chữ CG.


Ṿng và lược hiện nay 2 đứa cháu ngoại " xí " phần, chúng gọi đó là những kỷ vật " may mắn " được ông ngoại đem về từ trại cải tạo.

Vật may mắn đó nay đă truyền sang thế hệ thứ ba để nhắc lại thời kỳ đau khổ trong một giai đoạn lịch sử của đất nước.


Chiếc lược nhôm với những nét "xủi " học được trong trại cải tạo


https://2.bp.blogspot.com/-GP2s7T7CIo8/UFcCRqc2fHI/AAAAAAAAB1A/emHHZ02Rq58/s640/44+7+photo-12.jpg


Tôi đă học viết chữ Hán từ một anh bạn người Việt gốc Hoa. Giấy viết là bất kỳ một mảnh nào có thể dùng như giấy hoặc dùng que tập viết lên mền đất, thứ bảng viết vô tận mà thiên nhiên đă ưu ái dành cho những kẻ hiếu học từ ngàn xưa. Nếu viết trên giấy bằng que th́ mực là thuốc đỏ pha loăng, trông không kém ǵ mực Tàu.


Tôi cũng dành th́ giờ để dậy Anh văn cho những người muốn học. Không có giáo tŕnh nên cứ dậy tùy theo hứng của thầy nhưng vẫn đủ các môn như từ vựng, ngữ pháp và cả đàm thoại.


Hai năm rưỡi trong trại cải tạo và 9 tháng trong " ḷ bát quái " Chí Ḥa tôi có rất nhiều học tṛ, giờ th́ một số đă định cư tại nước ngoài, tŕnh độ tiếng Anh của họ chắc đă qua mặt thầy…


***




Thời gian cải tạo là một cực h́nh đối với những kẻ ghiền thuốc. Đă có những cảnh " bắt dế " khi mới bước vào những ngày đầu cải tạo. Khi thuốc mang theo đủ hút cho 10 ngày cạn dần mà vẫn chưa thấy ngày về, kẻ hết thuốc bắt đầu khi t́m " dế " là những mẩu thuốc cuối người ta thường vất đi.


" Bắt dế " tức là đi gom mẩu thuốc bỏ đi, gỡ phần sợi thuốc c̣n sót lại để quấn thành một điếu mới. Phần c̣n sót lại luôn luôn chứa nhiều nicotine nhất và cũng là phần nguy hiểm cho sức khỏe nhất nhưng lúc ghiền th́ đâu xá ǵ ung thư phổi.


Khi không c̣n dế để bắt, người ta lấy lá khoai ḿ xắt mỏng như sợi thuốc, xin một tư nước đen ng̣m trong ống điếu thuốc lào trộn vào với lá khoai ḿ sẽ có một thứ sản phẩm trông giống y như sợi thuốc lá. Hút lá khoai ḿ sẽ bị ho nhưng lúc đă quen rồi th́ những cơn ho sù sụ cũng biến mất…


Tôi cũng là người nghiện thuốc nhưng chưa bao giờ hút thuốc lào, có thể v́ thành kiến với loại thuốc này nên có lúc dù thèm thuốc lá nhưng chưa bao giờ thử " phê " thuốc lào.


Theo Đào Duy Anh, cây thuốc lào có lẽ từ Lào (Ai Lao) du nhập vào Việt Nam nên mới có tên gọi như thế. Sách Vân Đài loại ngữ của Lê Quư Đôn và Đồng Khánh dư địa chí gọi cây thuốc lào là tương tư thảo, cỏ tương tư.


Hút thuốc lào phải dùng điếu cầy là một ống tre, sang trọng hơn th́ dùng điếu bát với một ống nhỏ bằng trúc để hút khói được gọi là xe điếu. Trong cải tạo th́ chỉ có loại điếu cầy làm từ ống tre nhưng nhiều khi " vă " quá, người ta có thể dùng lá chuối hoặc giấy cuộn lại, miệng ngậm một ngụm nước là có thể ‘phê’ ngay. Phê đến độ có " anh nuôi " ngồi trước chảo nấu cơm, hút một " bi " thuốc xong rồi cứ thế đâm đầu vào bếp lửa trong cơn say thuốc.


Thầy đồ hút thuốc lào ngày xưa



https://2.bp.blogspot.com/-3dywCx7_eiw/UFcCevnkFbI/AAAAAAAAB1I/mAWyLFeyZQU/s640/44+8+%C4%90%C3%A0n+%C3%B4ng+trung+l%C6%B0u.jpg


Trong cải tạo có anh đề cao thuốc lào là “Thơm mồm, bổ phổi, diệt trùng lao!” hoặc nâng lên hàng ‘quan điểm’ “Hút thuốc lào nâng cao sĩ diện”. Người ta, dĩ nhiên là người miền Bắc, ca tụng thuốc lào một cách cuồng nhiệt :


Thuốc lào chồng hút vợ say

Thằng cu châm điếu lăn quay ra nhà

Có cô hàng xóm đi qua

Hít phải hơi thuốc say ba bốn ngày

Một thằng hút bốn thằng say

Hai thằng châm điếu ngă lăn quay

Bà già vác củi loay hoay

Rít phải hơi thuốc lăn quay xuống đồi

Ngọc hoàng thấy vậy hay hay

Vén mây nh́n xuống cũng say thuốc lào.

Bà Hồ Xuân Hương có một bài thơ " tả chân " rất " sex " như sau:

Mông tṛn vành vạnh, đít bảnh bao,

Mân mân, mó mó đút ngay vào

Thủy hỏa tương giao sôi sùng sục

Âm dương nhị khí sướng làm sao !


Mới đọc cứ tưởng như cảnh làm t́nh của đôi trai gái nhưng thật ra bà tả cảnh… hút thuốc lào đấy !


Trong trại tù th́ chiếc điếu cầy là h́nh ảnh quen thuộc lúc nào cũng đi sát với người cải tạo như vũ khí bên ḿnh, chẳng thế mà có nhiều anh ví von là đeo Bazôka !

Đến giai đoạn trại viên cải tạo được đăng kư mua hàng ngoài chợ Long Hoa th́ " thuốc rê " là món ăn khách không thua ǵ đường tán. Thuốc rê c̣n có tên gọi là " bốc lăn xe’ " nghe có vẻ Tây lắm nhưng kỳ thực ghép bởi các động tác bốc một dúm thuốc, lăn tṛn trên giấy và xe thành điếu thuốc !


Nhà văn Hoàng Hải Thủy gọi thuốc rê thời này với một cái tên thật buồn cười :


“ Bốc En Xe Ông Già Le Lưỡi Liếm”.


Hút thuốc rê có lợi là có thể tiết kiệm thuốc nếu quấn theo kiểu "loa kèn’ tựa như các mệ ngoài Huế hút thuốc cẩm lệ. Giấy cuốn thuốc rê có thể là báo cũ, mực in khi bị đốt cháy chắc sinh nhiều phản ứng hóa học khiến người hút cứ bị ho triền miên.


Sướng nhất có lẽ là những anh… không hút thuốc.


Vào những ngày " nễ nớn " ngoài việc được " ngă qua hàng thịt’ " cách mạng c̣n phát thuốc gói, ba bốn anh chia nhau một gói thuốc. Tôi nhớ h́nh như thuốc Hoa Mai hay Đà Lạt ǵ đó. Vào thời đó, thuốc Tam Đảo, sản xuất tại miền Bắc, được coi là… số một.


Đây là " thời cơ " để những anh không hút thuốc đổi thuốc lấy đường tán, thậm chí c̣n có anh đầu cơ thuốc lá để một khi anh ghiền hết thuốc mới ra giá… cắt cổ !


Đường tán là loại đường màu vàng, có h́nh oval hoặc h́nh vuông được chế biến từ mía bằng phương pháp thủ công. Công dụng của đường, dù là loại đường sơ chế, có tác dụng giúp cơ thể phục hồi sau những giờ lao động cật lực.


Có đi cải tạo mới thấy giá trị của cục đường mà hồi xưa, lúc quá đầy đủ, người ta chưa bao giờ nghĩ tới.



https://1.bp.blogspot.com/-FwoLYsGCYN8/XZSmKK1ju3I/AAAAAAAAW24/7zC0MYV8UpwBGi4tG-b5864R2_2eaaiUQCEwYBhgL/s640/REEDUCATION-CAMPS-copy2_result.jpg


Nói thêm về chuyện " ăn uống " trong cải tạo. Những người có ‘tinh thần ăn uống’ thường gặp nhau trong những bữa tiệc " hàm thụ "!


Bạn tha hồ kể lại những món ngon, vật lạ mà trước đây đă từng thưởng thức… Nào là món vịt quay Bắc Kinh béo ngậy với lớp da gịn tan… tô bún ḅ với miếng gị heo ninh nhừ cay sặc mùi ớt… miếng phá lấu thơm lừng mùi húng ĺu… đĩa gỏi đu đủ, gan cháy chỉ mới nghĩ đến thôi mà sao nước miếng cứ tiết ra ào ào…


Thời thế tạo anh hùng. Có anh với bộ nhớ tốt, cứ tối đến là mọi người tụ tập để nghe anh kể chuyện. Toàn truyện Kim Dung, từ Cô gái đồ long, Anh hùng xạ điêu cho đến Thiên long bát bộ, Lộc đỉnh kư …


Người nghe im phăng phắc để đầu óc có dịp phiêu lưu về một thế giới hư ảo. Trả công cho người kể chuyện là cục đường tán, ly nước chùm bao… Hôm nào người kể chuyện " khó ở " hay chưa nhớ đủ t́nh tiết của truyện th́ được thông báo :


Truyện từ Hồng Kông chưa qua kịp v́ lỡ chuyến bay !


Có những đêm văn nghệ " bỏ túi’ ". Những " giọng hát vàng " (dĩ nhiên là hát nhạc vàng), được phụ họa bằng cây guitar " cải tạo " nhưng cũng đủ 6 giây lại c̣n có tay gơ muỗng giữ nhịp.


Có những anh trước đây là nhạc sĩ, nhạc công đă tận t́nh phục vụ anh em để quên đi những thực tế phũ phàng trong chuỗi ngày cải tạo. Xin cám ơn các anh


***


Trại cải tạo Z30D (Thủ Đức),Hàm Tân, tỉnh Thuận Hải năm 1988.



https://1.bp.blogspot.com/-HyszhrDaiQQ/XZSmHE1NFcI/AAAAAAAAW28/-B8lgR1cquAS50tHTeTLmx9BRfmZcQqqQCEwYBhgL/s640/1988%2B-%2BTr%25E1%25BA%25A1i%2Bc%25E1%25BA%25A3i%2Bt%25E1 %25BA%25A1o%2BZ30D%2B%2528Th%25E1%25BB%25A7%2B%25C 4%2590%25E1%25BB%25A9c%2529%252C%2BQ.H%25C3%25A0m% 2BT%25C3%25A2n%252C%2Bt%25E1%25BB%2589nh%2BThu%25E 1%25BA%25ADn%2BH%25E1%25BA%25A3i_result.jpg


Từ Trảng Lớn, chúng tôi được lệnh chuyển trại lên Đồng Ban. Lên Đồng Ban mới là lao động thật sự nhưng nói chung mọi người đều " hồ hởi’ v́ có lao động mới hy vọng ngày về.


Trước tiên là vào rừng đốn cây, chặt lá về làm lán trại rồi phá đất hoang trồng khoai ḿ.


Tại Đồng Ban vẫn c̣n dấu tích những căn nhà lá bỏ hoang của những người đi kinh tế mới sống không nổi nên bỏ lại để về thành phố.


Cuộc đời chúng tôi h́nh như gắn liền với trảng:


Hết Trảng Lớn rồi đến Trảng Táo.


Ở Trảng Táo có đường xe lửa chạy đến ga Gia Huynh. Những lúc đi lao động dọc theo đường rầy xe lửa, hành khách trên tàu chợ, thường là các bà đi buôn, nên đôi khi họ ném xuống đường đồ ăn, khi th́ vài cục đường tán khi th́ gói thuốc rê cho những người cải tạo. Thật cảm động.


Xe lửa chạy nhanh nên người cho và người nhận chẳng thấy mặt nhau, chỉ đơn thuần là t́nh người giúp nhau trong hoàn cảnh… lá nát đùm lá rách.

Dù sao đi nữa, chúng tôi thấy ḿnh vẫn c̣n may mắn được sống trong sự đùm bọc ở miền Nam nếu so với những bạn bè học tập tại miền Bắc.


Họ chịu đựng nhiều gian khổ gấp trăm ngàn lần so với chúng tôi và nhất là chịu sự lạnh nhạt của những người xung quanh.


Vào thời điểm đó, ảnh hưởng của tuyên truyền về Mỹ-Ngụy vẫn c̣n sâu đậm trong suy nghĩ của người miền Bắc. Sự thật là như vậy và không có điều ǵ để chê trách họ.


"Bằng tốt nghiệp" cải tạo


https://4.bp.blogspot.com/-gW3YswVbEsc/UFcIIKSkI3I/AAAAAAAAB2M/VblJ-1ICAY8/s640/Scan0001.jpg


Tôi nghĩ, cuộc đời thăng trầm tựa như chuyện Tái Ông Thất Mă. Rủi may, may rủi – họa phúc khôn lường. Hóa ra đời chỉ là một chuỗi diễn biến đan xen lẫn nhau giữa buồn-vui, vinh-nhục, thắng-bại tựa như những đợt sóng xô đuổi nhau vỗ vào bờ…


Chuyện xưa kể rằng có ông lăo họ Tái bị mất ngựa, hàng xóm thấy vậy đến chia buồn, ông lăo đáp :


“Mất ngựa chưa chắc đă là chuyện buồn!’.


Quả nhiên, ít lâu sau con ngựa bị mất trở về, lại dẫn thêm ngựa con. Hàng xóm thấy vậy đến chia vui, ông lăo lại đáp:


“Được ngựa chưa chắc là chuyện vui !”. Người con ham cưỡi ngựa mới nên bị té găy chân, hàng xóm lại đến chia buồn. Ông lăo nói :


“Chưa chắc té găy chân là chuyện xui xẻo !”.


Quả nhiên, lúc đó làng bắt lính nhưng v́ găy chân nên đứa con ông lăo họ Tái khỏi phải đi lính…

Cuộc đời cũng giống như chuyện ông già mất ngựa. Những người vượt biên trước khi được sung sướng đến bến bờ tự do cũng đă phải trải qua quá nhiều gian nan, khổ ải…


Những người ở lại có cuộc sống cùng cực nhưng rồi t́nh h́nh thay đổi, họ cũng cố t́m trước mắt một tương lai để hy vọng. Buồn-vui, may-rủi cứ thay nhau đến rồi đi.

Hàn Tín xưa kia là anh đánh cá nghèo hèn đến độ phải ḷn trôn gă bán thịt giữa chợ. Thế mà sau này lại là một danh tướng trong thời Hán Sở tranh hùng, có công rất lớn trong việc giúp Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ lập nên nhà Hán kéo dài suốt 400 năm.


Xét cho cùng, cuộc đời " lên voi xuống chó " của Hàn Tín bao gồm những nỗi nhục-vinh, họa-phúc khôn lường của một anh đánh cá hạ cấp đến vai tṛ của một danh tướng với những chiến thuật, chiến lược dương đông kích tây, minh tu sạn đạo…


Cuộc đời vinh quang tột đỉnh của một Hàn Tín, vị danh tướng bách chiến bách thắng, lại kết thúc bằng một cái chết oan ức bởi chính tay Lưu Bang càng làm rơ thêm những tinh túy của truyện Tái Ông Thất Mă.


Không có ǵ là tuyệt đối trong cuộc đời này.


https://chinhhoiuc.blogspot.com/

hoathienly19
09-23-2020, 05:24
CHIẾN THẮNG THẦN THÁNH là cái con C. ǵ ?...


Trong một buổi sinh hoạt đặc biệt của trại tù cải tạo, để kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, một Đ/Tá Việt Cộng tên Cao Nham đến trại để nói chuyện với các trại viên về chiến thắng này.

Tên Nham nói vung cán cuốc, nước miếng văng tùm lum, ba hoa về cái mà chúng gọi là chiến thắng ĐBP.

Nham vung tay la hét:

-Chiến thắng Điện Biên Phủ là một chiến thắng thần thánh.

-Chiến thắng Điện Biên Phủ là một chiến thắng to lớn của đảng cộng sản Việt Nam

-Chiến thắng Điện Biên Phủ đă đánh nhào Đế Quốc Pháp.


Ảnh chụp Vơ Nguyên Giáp cùng Vi Quốc Thanh ở Điện Biên Phủ. Nguồn: Getty Images



https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2019/05/H3-42.jpg


https://baotiengdan.com/2019/05/07/co-van-vi-quoc-thanh-va-tran-dien-bien-phu/

https://nhandan.com.vn/chinhtri/trung-quoc-lien-xo-giup-do-viet-nam-trong-chien-dich-ien-bien-phu-201897



Trong khi hoa chân múa tay, y để ư thấy Tr/Tướng Dương Văn Đức có cuốn sổ tay, lúi húi ghi chép những lời nói của y, nên y càng sung sướng, nghĩ bụng:


“Tên Tướng này ... nó phục tài ăn nói của ḿnh nên mới ghi chép kỹ lưỡng như vậy”

Khi nói xong, y trịnh trọng hỏi các anh em tù cải tạo:

“Các anh ngồi hàng đầu, chắc là cấp bậc “Tướng”, phải không ?

Khi được xác nhận như vậy, hắn chỉ tay vào Tướng Đức:

“Tôi thấy có anh ǵ đây này, học tập tốt lắm, ghi chép cẩn thận. Có vậy mới được chóng về với gia đ́nh chứ !

Anh tên là ǵ nhỉ "?

Tướng Đức vẫn ngồi, trả lời lên:

“Tôi tên Đức”

Tên Nham hăng hái:

“Anh đă ghi được những ǵ trong bài nói chuyện của tôi ? Anh có thể đọc cho tất cả hội trường cùng nghe được không ?”


“Ấy, không được đâu ! Tôi chỉ ghi cho một ḿnh tôi thôi, không ai được biết đâu !”

Nham nghĩ:

Tướng Đức c̣n khiêm nhường, nên thúc dục:

“ Anh cứ việc đọc cho mọi người cùng nghe đi "

-“Tôi đă nói tôi viết th́ chỉ có một ḿnh tôi hiểu thôi ! Tôi sợ đọc lên, mỗi người lại một ư kiến, phiền lắm ! Thôi, cán bộ cho tôi miễn đi !

Tên Nham đang ở lúc cao hứng, đâu dễ ǵ buông tha :

“Thôi, nếu anh không muốn đọc, cứ đưa đây cho tôi vậy! Tôi sẽ xem qua và đọc lại cho mọi người nghe để cùng hiểu cho rơ !

...


Một tên quản giáo vội vàng chạy lại nhận cuốn sổ tay của Tướng Đức, khúm núm đưa lên cho tên Nham. Tên này hớn hở tiếp lấy, sửa soạn đọc những lời vàng ngọc của y mà Tướng Đức đă ghi.

...

Tay y run lên, nước miếng từ trong miệng chẩy ra nhễu nhăo! Mặt y đanh lại, cặp mắt quắc lên căm hờn ! Y thở không ra hơi, nói không ra tiếng !
Cả hội trường nín thở theo y !


Một lúc sau, tên Nham mới bật ra được vài tiếng lắp bắp:

“Bắt .. Bắt.. lấy tên phản động này !

Nó . . . Nó . . . dám hỗn láo với cách mạng ! Nó dám chửi đảng cộng sản ! Bắt nó ngay lập tức cho tôi !”


Những tên vệ binh đứng gác chung quanh vội vàng chạy lại chỗ Tướng Đức, chĩa súng vào ông, lên đạn rốp rốp, làm như chúng bắn ông ngay lập tức.

Tướng Đức vẫn ngồi yên, b́nh tĩnh trả lời tên Nham :

"Tôi đă nói trước cho cán bộ rồi, tôi viết th́ chỉ ḿnh tôi đọc thôi, ai muốn đọc th́ nấy ráng chịu !

Cán bộ cứ muốn đọc th́ tôi đưa ! Sao cán bộ c̣n bắt lỗi tôi làm chi ”?


Tên Nham lại một lần nữa phùng mang trợn mắt, lắp bắp nói chẳng nên lời ! Mặt mày y tím bầm lại, mắt trợn trắng lên nh́n Tướng Đức, như muốn ăn tươi nuốt sống ông ta vậy.

Tr/Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, với tư cách là Trưởng pḥng tù cải tạo, vội vă đứng lên xin cho Tướng Đức :

“Xin cán bộ bỏ qua cho, không nên chấp nhất những ghi chú của anh Đức làm ǵ, anh ấy bị . . . MÁT đấy mà, trong trại ai cũng biết cả !”

Tên Nham gằn giọng hỏi lại :

“Mát là cái ǵ ?”

“Mát tức là . . . điên, là khùng đó mà! Hồi xưa, anh Đức đă chứi cả Tổng Thống Thiệu nữa đó ! Ông Thiệu cũng đă giận dữ đ̣i bỏ tù anh Đức.
Nhưng khi biết anh ta bị khùng, nên lại tha "

Thế là cả trại nhao nhao lên, ai cũng nói :

“Anh Đức . . . Mát đấy mà, cán bộ chấp làm chi !”

Tên Nham thấy cả trại đồng lên tiếng, cho rằng Tướng Đức khùng, không lẽ y c̣n chấp nhất, một người khùng dù có chửi đảng cộng sản, cũng không có ǵ đáng nói. Nếu cho Tướng Đức là tỉnh, lời ông ta chửi sẽ bay đi khắp các trại tù khác, c̣n nguy hiểm gấp mấy !

Suy tính một hồi, hắn dịu giọng :

“Thôi, nếu các anh nói anh Đức này khùng điên, th́ tôi cũng chẳng chấp nhất làm ǵ ! Các anh đem anh ta về trại, trị bệnh cho anh ta chóng khỏi, để mà học tập cho tốt !”

Rồi y chậm răi xé nhó cuốn sổ tay của Tướng Đức đi.



https://linhvnch.files.wordpress.com/2016/09/trung-tuong-duong-van-duc.jpg


...

Mấy hôm sau, nhân một dịp đi làm lao động, vào lúc nghỉ trưa, anh em đă tụ họp chung quanh Tướng Đức để hỏi ông đă viết ǵ trong cuốn sổ tay, mà làm cho tên Nham tức giận tột cùng như vậy ?


Tướng Đức chậm răi trả lời :

Mấy em có nhớ cái thằng VC đó nói ǵ không ?

Nó nói:


“Chiến thắng Điện Biên Phủ là một chiến thắng thần thánh”, qua móc sổ ra ghi :

“CON CẶC !”

Rồi đóng sổ lại.

Tới khi nó nói tiếp:


“Chiến thắng ĐBP là một chiến thắng vĩ đại của đảng Cộng Sản VN” qua lại móc sổ ra ghi:

“CON CẶC!”

Rồi qua lại xếp sổ lại.

Rổi nó lại nói :


“Chiến thắng ĐBP đă đánh nhào Đế quốc Pháp”, qua lại móc sổ ra ghi :

“CON CẶC!”

Rồi qua lại đóng sổ lại.

Tất cả anh em có măt lúc đó đều cười nghiêng cười ngửa v́ những ghi chú mà Tướng Đức đă ghi trong sổ tay của ông.

Nguyễn Khắp Nơi (Qua lời kể của Lê Phước Khánh, K13 Thủ Đức)

hoanglan22
09-25-2020, 02:21
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1659808&stc=1&d=1601000467

Bàn về Hà Nội, thế nào là một người Hà Nội gốc cũng là để bàn về việc mỗi người đă có văn hóa làm người chưa?

"Ở Hà Nội rồi, quan tâm Luật Thủ đô làm chi"
Hà Nội hôm nay - 'người t́nh' xa lạ?
Hà Nội làm ǵ để giữ văn hóa Tràng An
Người Hà Nội gốc?
Bấy lâu nay người ta hay nói đến cụm từ "người Hà Nội gốc", không ít người cũng tự nhận ḿnh gốc Hà Nội và lấy làm hănh diện về điều đó. Cách đây 30 năm, hồi tôi đang ở Sophia, nhiều người Việt khi được người Bulgaria hỏi cũng nhận "là người Hà Nội". Trong khi tôi biết chắc chắn họ ở nhiều tỉnh khác như: Bắc Ninh, Lạng Sơn, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Nam Định, Đà Nẵng, Sài G̣n...

Không thích nhắc về Hà Nội

Tôi nghĩ, như vậy, nhiều người coi Hà Nội là niềm tự hào. Một phần, có thể bởi người nước ngoài thường chỉ biết đến tên thủ đô của một nước nên mọi người nhận thế cho tiện, cho gọn, và dễ nói. Phần khác, nhiều hơn, là phong thái người Hà Nội cách đây mấy chục năm có khác biệt, có đáng yêu và nhận là người Hà Nội nghĩa là nhận một nét hay mà ḿnh mong muốn...

Nhưng bây giờ, gặp lại nhau hàn huyên, nói chuyện về chuyện xưa ngày cũ, nhắc về Hà Nội, họ đều... không thích.

Không chỉ không muốn nhận là người Hà Nội, nhiều người c̣n lên án Hà Nội từ trật tự đô thị đến phong cách sống, từ lời nói việc làm đến nhân cách con người.

Dĩ nhiên là chúng tôi thân nhau câu chuyện mới được nói ra một cách chân thật, rơ ràng. Họ nhận xét rằng: Hà Nội được thiên nhiên ưu ái rất nhiều, khí hậu bốn mùa rơ rệt, đó là điệu kiện tốt sự hài ḥa của vạn vật và con người trong chu kỳ tiến hóa. Điều đó được các bậc tiền bối lấy làm tâm điểm để xây dựng đời sống cho một thủ đô và duy tŕ nó cho đến đầu những năm 80 của thế kỷ trước.

Lúc đó Hà Nội dân số cộng cả các huyện Ba V́, Thạch Thất, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức mới chỉ chưa đầy 2,5 triệu người. Chưa đông dân, chưa có nhiều phương tiện giao thông, chưa có các tiện nghi hiện đại và cuộc cách mạng triệt để về chỗ ở. Người Hà Nội ngày đó với nhịp sống chậm, con người có thể tự ngắm ḿnh để biết ḿnh có c̣n hào hoa, thanh nhă, lịch lăm và tự trọng hay không .

Bây giờ khác. Hà Nội bây giờ về "hạ tầng cơ sở lẫn thượng tầng kiến trúc" đều khác. Kém đi cũng có, tốt hơn cũng có, cái cần nhiều lên có khi chưa nhiều, cái cần giảm bớt có khi không giảm bớt, và thế là nó làm biến thái Hà Nội.

Hà Nội như chúng ta đang thấy: Khu trung tâm th́ quá đông, nhà cửa cái đẹp đẽ khang trang lịch sự liền kề ngay với cái lươm tươm nhếch nhác. Đường phố đó đây chỗ nào, lúc nào cũng nham nhở như một công trường.

Tiếng ồn của máy xây dựng, của loa truyền thanh công cộng, của xe máy, của ô tô, của các đài đĩa từ cửa hàng thời trang đến tiệm bán đồ ăn, gây ra một không khí náo nhiệt... khủng khiếp. Mọi phản ánh của những người nhạy cảm về điều đó hầu như khó được lắng nghe, và không biến chuyển. Cái đó tạo ra ẩn ức tâm lư.

Cứ thử hỏi các chuyên gia tâm lư đi: Mỗi buổi sáng, buổi chiều đi làm về bị tắc đường con người sẽ hành động như thế nào? Trong lúc tắc đường, hít phải khói bụi, có ai tránh khỏi văng tục chửi bậy không? Chí ít th́ cũng chửi thầm.

Giầu nghèo phân hóa rơ ràng, người nghèo cứ ngày một nghèo xuống măi, người giầu cứ giầu lên măi, không hẳn v́ thông minh hơn giỏi giang hơn mà v́ cơ hội chiếm được nhiều hơn, vậy có sinh ra các tiêu cực không? Gọi tiêu cực chính là cách nói tránh rất tệ của người Hà Nội đấy.

Giờ, phải chửi tục mới...đă

Người Hà Nội xưa, cái cần nói thẳng không nói thẳng như anh Hai Nam Bộ, muốn nói cái A phải nói ṿng qua cái B. Không xấu cũng không tốt. Đặc trưng vùng miền nó thế. Tuy vậy, cuối cùng người Hà Nội xưa vẫn lấy gốc là cái thực. Nhưng bây giờ việc đó nó trở nên thái quá.

Không chỉ nói ṿng nói vèo mà nói rất dài, nói tránh né, xúi người khác nói, sự thật giấu trong sâu thẳm, người nghe phải đoán, phải tự ḿnh hành động, tự ḿnh xử lư, người nói ṿng vẫn được hưởng lợi mà trách nhiệm liêm chính thuộc về kẻ tự xử lư.

Điều đó gây ra một bất măn sâu xa. Đến mức, những người bạn văn nghệ sĩ vừa nổi tiếng vừa thanh lịch của tôi luôn đùa rằng, phải chửi tục mới đă. Từ đó người Hà Nội biến chất dần.

Những người bạn của tôi c̣n cực đoan đến mức đưa ra những tiêu chí của một thị trưởng Thủ đô, đâu tiên của tiêu chí ấy, ông, bà phải là người Hà Nội gốc để ông/ bà có được cái phông nền văn hóa, có được sự nhạy cảm thẩm mỹ mà người của vùng đất ấy cần. Có một thị trưởng như thế sẽ chi phối từ quy hoạch tổng thể thành phố, từ phong thái kiến trúc đến thuần phong mỹ tục.

Cho đến một ngày, từ ông bà, cha mẹ, đến con cái, cháu chắt những người Hà Nội gốc rất ngượng không dám nhận ḿnh là người Hà Nội nữa. Những người tứ xứ đến Hà Nội làm nên con số gần 7000.000 dân th́ đương nhiên phải nhận ḿnh là người Hà Nội cho chắc, cho hoành, cho sướng, cho oai.

Những người bạn của tôi c̣n cực đoan đến mức đưa ra những tiêu chí của một thị trưởng Thủ đô, đâu tiên của tiêu chí ấy ông, bà phải là người Hà Nội gốc để ông/ bà có được cái phông nền văn hóa, có được sự nhạy cảm thẩm mỹ mà người của vùng đất ấy cần. Có một thị trưởng như thế sẽ chi phối từ quy hoạch tổng thể thành phố, từ phong thái kiến trúc đến thuần phong mỹ tục.

Lại có người phản bác, lấy đâu ra một người Hà Nội gốc có bằng cấp thật, kiến thức thật, đủ khả năng và t́nh cảm để yêu từng ngôi nhà góc phố Thủ đô, coi mỗi vết nham nhở, mỗi không gian, ao hồ bị xâm chiếm cắt xén giống như da thịt ḿnh bị tổn thương vậy ? Miễn là phải có luật, mọi người phải chấp hành luật và lộ tŕnh để luật trở nên hữu hiệu, phải bắt đầu từ các cơ quan công quyền.

Tuy nhiên, tôi đồng t́nh với ư kiến của anh bạn tôi, rằng: Chẳng cần ǵ phải tự ái khi có nhiều người từ đâu đến vẫn nhận là người Hà Nội. Ta chỉ buồn khi ta bị lẫn trong số những người sống ở Hà Nội mà không biết cái ǵ làm nên sự tự hào đó.

Người ǵ mà ngồi trên xe Lexus, xe Audi, xe Language... mở cửa kính ra vứt vỏ quưt xuống mặt đường? Người ǵ mặc váy ngắn chân dài, môi tô đỏ chót mà khạc nhổ cho nước mũi, đờm răi bay theo chiều gió vào mặt kẻ đi đằng sau?

Người ǵ mà không động ḷng khi đồng loại già cả c̣ng lưng dưới mưa đẩy xe rau? Hay người ǵ mà làm ngơ trong bệnh viện khi người bệnh không có tiền đưa phong b́...? Người ǵ mà vừa va chạm đă nổi nóng đă chửi rủa và muốn ăn tươi nuốt sống lẫn nhau? Không nhịn nhường không thương xót?

Những câu hỏi trên mới là tiêu chí làm người b́nh thường, làm con người có lương tâm, có văn hóa lành mạnh. Chưa nói là con người của một vùng đất lịch sử, vùng đất bộ mặt cho một quốc gia?

Vậy, bàn về Hà Nội, thế nào là một người Hà Nội gốc cũng là để bàn về việc mỗi người đă có văn hóa làm người chưa?

Trần Hường

hoanglan22
09-25-2020, 03:00
Hắn tên là Cui, Đặng văn Cui. Thứ ba, nên người ta gọi là Ba Cui. Và v́ nước da hắn ngâm ngâm, nên sau này khi đi lính quốc gia, bạn đồng đội đặt cho hắn biệt danh “Cui Đen”. Không phải để phân biệt với thằng Cui khác, mà là để cho dễ nhớ! Bởi v́ tiếng “Cui” một ḿnh vừa cộc lốc, tối nghĩa, vừa khó nhớ nữa!
Thật ra, hồi đi làm khai sanh, ông già hắn đặt tên hắn là “Qui”, nghĩa là “Về”, vừa văn vẻ lại vừa nhắc nhở năm đó ông đưa vợ con trở về quê làm ruộng sau một thời gian dài “bôn ba bá nghệ” ở Sài G̣n Chợ Lớn. Nhưng không biết tại v́ ông phát âm không rơ hay tại v́ ông chánh lục bộ lăng tai mà tiếng “Qui” trở thành “Cui” trong sổ bộ!
Thành ra, trong gia đ́nh và trong xóm người ta gọi hắn là “Qui”, c̣n trong trường và sau này khi ra đời, hắn vẫn mang cái tên “Cui” cứng ngắt đó và thường bị người ta hỏi “Cui là ǵ?”.
Coi vậy chớ tên “Cui” có vẻ như là cái tên... “tiền định”, bởi v́ rất hạp với con người và tánh t́nh của hắn. Con người hắn không đến nỗi quá cục mịch nhưng, thật t́nh, cũng không có nét ǵ thanh tú hết! Người gầy gầy,nước da đen đen như người Miên, mắt lộ, g̣ má cao, môi mỏng dánh, giọng nói th́ nhọn hoắt. Vậy mà trong cử động đi đứng, hắn lại rất lanh lẹ, không... ù ĺ chút nào. C̣n tánh t́nh th́ cứng cỏi, thẳng răng, gan góc... như cây dùi cui!
Hồi đó – cái thời c̣n là lính quốc gia – hắn đánh giặc hăng lắm. Khi lâm trận, mặt nào địch bắn rát nhứt là có Cui Đen phóng tới. Làm như hắn không biết sợ là ǵ. Vậy mà suốt cuộc đời “binh nghiệp” của hắn, chưa bao giờ hắn bị thương! Bạn đồng đội nói: “Chắc thằng Cui Đen nó có vô bùa!”.
Hắn đánh giặc “hết ḿnh” như vậy, không phải tại v́ hắn có lư tưởng này lư tưởng nọ hay có ư thức chánh trị ǵ ǵ, mà tại v́ hắn nghĩ rất đơn giản: “Nhà ai nấy ở. Mắc mớ ông cha ǵ tụi nó mà tụi nó kéo vô đánh ḿnh? Rơ ràng là tụi nó muốn đánh chiếm xứ ḿnh để đô hộ như tụi Tàu tụi Tây hồi đó. Mẹ bà nó! Phải đánh chết cha tụi nó hết!”.
Đánh giặc “chết bỏ” như Cui Đen vậy mà Trời không thương. Cho nên mới có ngày 30 tháng tư năm 1975...
... Được lịnh đầu hàng, hắn tức muốn ói máu! Hắn cắn chặt môi, chĩa súng lên trời bắn như điên. Bắn hết đạn, hắn liệng súng vào đống binh cụ. Trước khi quay đi, hắn nh́n lại vơ khí, ánh mắt câm hờn dịu xuống. Hắn nh́n với cái nh́n của người đàn ông nh́n cô nhân t́nh lần cuối, nhưng hắn lại đưa tay lên trán chào như hắn chào người đồng đội vừa vĩnh viễn nằm xuống nơi chiến trường... Trong đời đánh giặc của hắn, hắn đă từng chào như vậy. Nhưng lần này hắn nghe như hắn đang chào vĩnh biệt một cái ǵ to lớn hơn, một cái ǵ quan trọng hơn, một cái ǵ quí giá hơn người lính cộng ḥa chết trận. “Cái ǵ đó” hắn không định nghĩa được nhưng hắn cảm nhận được. “Cái ǵ đó” cũng bất thần lảnh một viên đạn vào đầu, cũng ngă gục xuống không kịp trối. Nhưng, trong “cái ǵ đó”, hắn thấy rơ có hắn, có vợ con hắn, có bà con hắn, có đồng bào hắn nữa. Xưa nay, Cui Đen không biết khóc. Nhưng bây giờ, bỗng nhiên hắn nghe hai mắt ḿnh xót xót...
Một người bạn trong đơn vị chở Cui Đen về nhà bằng Honda.
Nhà Cui Đen ở gần chợ Bà Chiểu, trong một hẻm ngắn nhưng rộng, xe hơi vào được. Đó là loại phố trệt, có sân trước sân sau, và tường rào cao cỡ đầu người. Cui Đen, vợ và hai con nhỏ, ở căn cuối cùng trong hẻm. Vợ chồng hắn ở đó từ thời chưa có con, nên cả hẻm đó đều biết hắn. Ở đây, người ta gọi hắn là “Ba Cui”.
Ba Cui bước vào sân thấy cửa nhà đóng im ỉm. Mở cửa vội vă, thấy đồ đạc c̣n y nguyên, kể cả chiếc xe đạp của hắn. Hắn bước nhanh vào trong, vừa bước vừa gọi lớn: “Lựu! Lựu à! Mẹ con em đâu? Anh về đây nè!”. Im lặng. Im lặng kéo dài ra tới sân sau. Căn nhà bỗng như rộng minh mong... Trong cái trống vắng đó, Ba Cui nghe như muốn ngộp thở. Hắn trở ra nhà trước, kéo ghế ngồi. Bỗng hắn để ư đến một tờ giấy trắng xếp hai nằm dưới cái gạt tàn thuốc. Lấy lên xem, th́ ra là thơ của vợ hắn. Thơ viết vắn tắt: “Em và hai con di tản theo anh Sáu. Anh ở lại, nhớ nh́n kỹ Thẩm Thúy Hằng để mà sống. Em Lựu”. Đọc câu đầu, hắn nghe yên tâm v́ anh Sáu – anh vợ hắn – là trung tá hải quân. Đọc câu sau, hắn “x́” một tiếng, bỏ lá thơ lên bàn rồi lấy tay vỗ lên đó nghe một cái bốp, miệng lẩm bẩm: “Đến nước này mà c̣n viết móc ḷ móc chảo!”. Nói như vậy, bởi v́ Ba Cui vốn mê đào hát. Hắn cắt h́nh mấy cô minh tinh trong mấy tờ báo Tết, lộng vô khuôn kiếng treo đầy tường. Người mà hắn thường ngắm say mê nhứt là Thẩm Thúy Hằng!
Ba Cui đốt điếu thuốc, vừa hút vừa nh́n quanh. Rồi theo thói quen, mắt hắn dừng lại ở khuôn h́nh người minh tinh mà hắn ái mộ. Cặp mắt quá đẹp! Cái mũi quá đẹp! Nụ cười quá đẹp! Bỗng hắn nghĩ: “Chẳng lẽ trong cái chộn rộn sanh tử của mấy ngày này mà Lựu c̣n nghĩ tới chuyện con nít như vậy à?”. Một lúc lại nghĩ: “À! Mà xưa nay Lựu đâu có ghen về vụ này!”. Rồi hắn lại nh́n chầm chầm khuôn h́nh, miệng lẩm nhẩm: “Nhớ-nh́n-kỹ-Thẩm-Thúy-Hằng... Tại sao phải nh́n kỹ? Mà tại sao để-mà-sống? Và tại sao lại gạch đít trọn câu này? Chắc Lựu muốn nói ǵ đây!”. Hắn đứng lên, bước lại gần để nh́n. Nh́n một lúc, rồi ṭ ṃ, hắn nhắc khuôn h́nh xuống, lật xem phía sau: trên miếng gỗ ép dính bụi có nhiều dấu tay nho nhỏ. Hắn chạy xuống bếp lấy con dao rồi cạy bật mấy cây đinh gài miếng gỗ ép. Miếng gỗ được lật ra, dán dính ở mặt trong bằng băng keo là ba lượng vàng. Ba Cui đứng ngẫn ngơ, quên mất điếu thuốc trên môi đang cháy dở!
Sau ngày 30 tháng tư là chuỗi dài... bận rộn! Đi mết-tinh. Rồi họp rồi hội rồi học tập. Rồi họp rồi hội rồi học tập nữa. Khi tàm tạm yên, kiểm điểm lại th́ những người trong hẻm không có ai đi di tản hết. Thành ra Ba Cui phải nói trớ là vợ con hắn về dưới quê “sống dễ thở hơn”.
Thời gian sau, lần lần người trong hẻm đổi nghề. Có lẽ cho hạp với thời cuộc, với cái gọi là “đổi đời” mà Nhà Nước cách mạng lúc nào “lên lớp” cũng nói. Cho nên thấy thầy Trân nghỉ dạy tiểu học ở phường Sáu, thầy giáo đó bây giờ... “tháo giày” đi làm thợ hồ. Thấy bác Năm thợ bạc bây giờ ngồi bán chuối chiên ở đầu ngơ. Thấy ông thầy chích hạ bảng “Y tá có bằng cấp” rồi sơn viết lại “Hớt tóc b́nh dân”. Thấy bà Ba “thớt thịt” nghỉ bán thịt heo ở chợ Bà Chiểu, tối ngày nằm nghe băng nhạc cải lương, để chồng con chạy áp-phe tuốt trong Chợ Lớn. Thấy ông “Chánh Kư” chuyên cho mướn xe ba bánh bây giờ bán hết dàn xe rồi ra đứng nấu ḿ cho thằng con có tiệm cà phê ở ngang hông chợ... vv.
C̣n Ba Cui th́ đi đạp xích-lô!
Một hôm, trong lúc đạp rề rề trước nhà thương để đón khách, Ba Cui bị xe bộ đội chạy loạn đụng găy chân mặt. Hắn phải mang băng bột cả tháng. Lúc nào xê dịch cũng phải chống hai cây nạng gỗ. Hắn tức lắm! Khi người trong hẻm qua thăm, hắn thường cầm cây nạng gơ vô ống băng bột cốp cốp, để nói: “Mẹ bà nó! Hồi đó đánh giặc, tụi nó không bắn được tôi bị thương. Bây giờ yên rồi, tụi nó cũng ráng đụng cho tôi găy chân, tụi nó mới nghe! Quân chó chết!”.
Hồi c̣n ở nhà thương, khi nhận hai cây nạng gỗ, hắn cặp hai bên nách rồi chĩa thẳng về phía trước như hai cây súng. Mắt hắn trừng lên, hắn bắn bằng miệng: “Pằng! Pằng! Pằng! Pằng!...”. Cho... đỡ tức! Sau đó, hắn gỡ bỏ hai gù cao su của đầu nạng, để mỗi lần hắn chống đi có tiếng côm cốp khô khan sắc bén. Hay khi hắn nói chuyện, hắn gơ đầu nạng xuống mặt gạch nghe cành cạch. Cho... đỡ tức!
Hôm đi cắt băng bột, Ba Cui nói với đôi nạng gỗ: “Tụi bây chịu trận với tao bữa nay nữa là... lễ tất!”. Nào dè, sau khi cắt băng, chân mặt bây giờ ngắn hơn chân trái, mà chỗ xương găy lại cong cong, thành ra chân bị thương đó bây giờ không c̣n chống chỏi mạnh như xưa nữa. Hắn tức giận, quăng cặp nạng vào góc tường, chửi lớn: “Mẹ bà nó! Gia tài có cặp gị để đạp xích-lô mà bị như vầy th́ c̣n làm ăn khỉ ǵ được?”. Cô y tá nói nhỏ: “Tại số anh xui. Hôm đó anh nhập viện nhằm ca của ông bác sĩ ngoài đó...”. Hắn lầm bầm: “Mẹ bà nó!”. Rồi ḷ c̣ lại góc tường lượm đôi nạng lên chĩa thẳng về phía trước, miệng bắn lớn: “Pằng! Pằng! Pằng! Pằng!...”. Mà lần này, hắn bắn đến ba bốn đợt nhưng sao vẫn chưa nghe hả tức! Bỗng hắn thèm có khẩu M16 để hắn... ria một hơi...
Về sau, Ba Cui sắm thùng đồ nghề rồi ngày ngày đạp xe ra góc đường gần Ủy Ban Nhân Dân ngồi sửa xe đạp. Và lúc nào cũng có đôi nạng gỗ, bây giờ đầu dưới có bịt sắt! Cho nó... oai!
... Thầy Hai Khuê ở khít vách Ba Cui, hồi thời trước làm thơ kư kế toán cho một hăng buôn ở Chợ Cũ, sau thời gian đổi nghề đi đan mây tre chắc chịu không nỗi nên... bán nhà. Người chủ mới là đàn bà, cỡ tuổi Ba Cui, con người thanh tú, “coi được lắm”. Cô ta ở một ḿnh. Làm việc ở đâu không biết, nhưng ngày nào cũng thấy đi thấy về bằng chiếc xe Vélo-Solex. V́ vậy, trong hẻm gọi cô ta là “cô Hai Sô-lết”.
Cô Hai không giống người trong xóm. Thời buổi này mà cô ta vẫn ăn mặc như hồi đó, vẫn áo dài màu in bông trang nhă quần hàng trắng ống thon thon. Vẫn chút phấn chút son chút dầu thơm loại “xịn”. Cho nên người trong xóm cũng ngại, không muốn gần, mặc dầu thấy cô Hai Sô-lết cũng dễ thương, gặp ai cũng chào cũng hỏi. Riêng Ba Cui th́ thẳng thừng: “Con mẹ này... Tôi coi không vô! Cái thứ đàn bà ở một ḿnh mà tối ngày son phấn... tôi nghi lắm”. Cho nên, gặp cô ta mấy lần mà hắn chẳng hỏi thăm xă giao một tiếng. Chỉ gật đầu lấy lệ rồi đi luôn!
Một buổi tối, tên công an phường đi xe Honda tới nhà cô Hai Sô-lết với một anh bạn. Họ và cô Hai chào hỏi nhau, giọng điệu chứng tỏ họ đă quen thân nhau từ lâu. Ba Cui nằm trên ghế bố đặt ở pḥng khách – hắn ngủ ở đây cho nó mát – nghe cái lối chào đón của “con mẹ hàng xóm” mà phát ghét. Hắn lầm bầm: “Mẹ bà nó! Tao nói có sai đâu! Cái thứ này... xài không được!”
Bên kia, chắc họ bày biện ăn uống ở ngoài sân nên Ba Cui nghe rơ mồn một:
- Biết bà chị neo đơn nên chúng tôi có mang đến thịt quay và phá lấu đây này.
- Các anh bày vẽ. Hồi trưa, ở cơ quan, em đă bảo đừng mang ǵ hết. Em có bia nè. Em có tôm khô củ kiệu nè. Em có cua rang muối nè.
- Đấy! Đồng chí thấy không? Tôi đă bảo là chị Tâm chu đáo lắm mà đồng chí không tin.
- Ấy! Đây là lần đầu, tớ cũng phải có cái ǵ để ra mắt bà chị chứ!
- Ḿnh là người nhà với nhau hết, mấy anh đừng khách sáo. Em không thích đâu.
- Vâng! Thế th́ cho tôi xin bà chị. Lần sau sẽ nghiêm túc hơn.
Nằm bên nây, Ba Cui vừa lắng nghe vừa suy nghĩ: “Con mẹ này ghê lắm chớ không phải vừa. Thằng công an mà c̣n gọi bằng chị th́ không phải thứ cóc cắn đâu. Theo cách nói chuyện của con mẻ th́ con mẻ vô ra cơ quan Nhà Nước như đi chợ. Vậy là người của tụi nó rồi”. Nghĩ đến đó, hắn có ngay một thái độ: “Mẹ bà nó! Ḿnh phải coi chừng. Trong hẻm này toàn là dân ngụy không mà con mẻ chen vô đây làm ǵ? Phải có ư đồ ǵ đó! Ḿnh phải cho lối xóm biết mới được”.
Sau đó, cứ năm bảy hôm là cô Hai Sô-lết có nấu nướng ăn nhậu với bọn công an. Rồi công an kéo theo công an. Họ nói năng cười cợt như chỗ không người. Cả xóm đều biết. Cho nên mọi người đều dè dặt lẩn tránh cô Hai Sô-lết. Chỉ có Ba Cui là làm ngược lại. Trước đây, hắn không thèm chào một tiếng. Bây giờ th́ hắn nghĩ: “Ḿnh phải làm cho nó thấy là ḿnh biết nó là ai. Ḿnh phải đương đầu với nó để cho nó thấy rằng ḿnh không sợ nó, mặc dầu nó là bà chằn hay ông kẹ ǵ ǵ. Mẹ bà nó! Phải như hồi đó, tao ria cho một trận là chết cha hết!”.
Cho nên, có hôm, nghe Ba Cui nhái giọng nửa Bắc nửa Nam của “tụi giải phóng” để hỏi cô Hai Sô-lết – hỏi trổng:
- Thế nào? Tốt chứ!
- Dạ... Cám ơn anh. Cũng tàm tạm.
- Chà... Dạo này thấy... béo ra đấy!
- Em thấy em cũng vậy, hà.
- Có chứ! Cứ ăn nhậu măi là ph́ ra thôi!
Bỗng cô Hai nh́n thẳng vào mắt Ba Cui, nghiêm giọng:
- Anh Ba à! Ḿnh ăn cây nào ḿnh rào cây nấy, chớ anh!
Hắn phun nước miếng xuống đất, khoát tay rồi chống nạng cành cạch đi vô nhà. Thiếu chút nữa là hắn phun thẳng vào mặt con mẹ hàng xóm đó! Cho bỏ ghét!
Càng ngày, cô Hai Sô-lết càng tiếp đăi “tụi nó” thường hơn, đông hơn và nhiều thành phần hơn. Có cả cán bộ đến bằng xe hơi có tài xế nữa! Ngoài việc ăn uống – h́nh như chủ nhà có tài nấu nướng nên lúc nào cũng nghe “thực khách” hết lời khen ngợi thán phục – không biết họ có... “làm ǵ” nữa không? Ba Cui nhiều lần cố ư ŕnh nghe nhưng chẳng thấy có ǵ khả nghi hết. Nhưng, đối với Ba Cui, nguyên cái sự ăn uống cười đùa thân mật thoải mái của “tụi nó” cũng đủ làm cho hắn “tức con mắt”. C̣n con mẹ hàng xóm th́ hắn dứt khoát: cái giống ǵ mà hắn... hửi không vô! “Cái giống” đó cơng rắn cắn gà nhà, mở ngỏ đưa đường cho tụi ngoài đó vô xâm chiếm thống trị miền Nam rơ ràng mà nói là “đi giải phóng”. Mẹ bà nó!
Một đêm đó, cũng gần khuya, trong lúc bên kia, hai tên công an và gia chủ c̣n chuyện tṛ, bên nây Ba Cui tắt đèn nằm trên ghế bố nghĩ vẩn vơ chờ giấc ngủ, th́ nghe tiếng xe hơi chạy vào thắng gấp trước nhà cô Hai. Hắn lẩm bẩm: “Giờ này mà c̣n kéo tới nữa! Thiệt... cái lũ này...”. Nhưng sao không có tiếng mở cửa đóng cửa xe mà lại nghe có tiếng chân người phóng xuống. Vậy là thuộc loại xe “gíp” chớ không phải xe nhà. Lại nghe tiếng súng khua và tiếng lên c̣ lách cách. Ba Cui phóng nhanh lại cửa, lắng tai nghe. Giọng quen thuộc của tên công an phường vang lên:
- Này! Các đồng chí làm ǵ thế?
Một giọng lạ, nghiêm nghị:
- Hai đồng chí hăy ngồi yên. Con này, đứng vào góc tường kia!
Tiếng cô Hai la: “Ối!”. Có vẻ đau. Tên công an la lên:
- Này! Nhẹ tay chứ đồng chí. Có vấn đề ǵ th́ ta hăy từ từ giải quyết. Loạn à?
- Ừ! Loạn ngay trong phường của đồng chí mà đồng chí c̣n hỏi nữa à? Đồng chí hăy ngồi xuống! C̣n con này, quay mặt vào tường, đứng yên! Không, tao bắn nát óc!
Rồi ra lịnh cho đồng bọn vào lục soát trong nhà xem “có tên nào ẩn nấp trong ấy hay có cất giấu vũ khí không” và “phải cảnh giác”.
Không khí bên đó có vẻ căng thẳng. Tên công an thấp giọng:
- Chị Tâm đây là người của Thành ủy. Chắc đồng chí lầm người rồi.
Không nghe trả lời. Ba Cui đoán bọn mới tới là bộ đội và “thằng xếp” này có vẻ coi thường hai tên công an.
Một lúc sau, nghe:
- Báo cáo đồng chí: không phát hiện ǵ cả.
- Tốt! Hai đồng chí ra ngoài.
Im lặng. Rồi lại nghe giọng “thằng xếp”:
- Các đồng chí có biết con này là ai không?
Ngừng một chút. Chừng như để cho câu nói tiếp theo có hiệu lực hơn, bởi v́ “thằng xếp” gằn từng tiếng:
- Người ta biết nó là Trần thị Tâm, nhưng tên thật của nó là Nguyễn Kim Hoa. Nó được bọn ngụy cài vào hàng ngũ của ta từ ngày giải phóng. Chính nó bao lâu nay bí mật đưa tin cho lũ phản động đang ẩn nấp ở vùng biên giới để chống phá cách mạng. Ác ôn như thế đấy!
Lại ngừng một chút, rồi tiếp:
- Bây giờ th́ hai đồng chí về đi, để chúng tôi xử lư vụ này. Sáng mai chúng ta sẽ nói chuyện sau.
Một lúc, có tiếng Honda của bọn công an rồ máy rồi chạy ra ngơ. “Thằng xếp” ra lịnh:
- Con này! Đi ngay!
- Anh cũng phải để tôi dọn dẹp mấy thứ này vô nhà rồi tắt đèn đóng cửa chớ!
- Ừ! Nhưng khẩn trương lên!
Bên này, Ba Cui chống hai tay lên cửa, đầu gục xuống. Hắn cắn môi kềm xúc động. Hắn nghe ân hận vô cùng: “Cô Hai là người của ḿnh mà lâu nay ḿnh khinh miệt cổ như đồ phản quốc! C̣n đ̣i phun nước miếng vào mặt cổ nữa! Mẹ bà nó! Ḿnh tệ quá! Bây giờ làm sao xin lỗi cổ đây?”. Trong đầu hắn bỗng hiện lên h́nh ảnh của cô Hai Sô-lết. Bây giờ, sao hắn thấy cô Hai đẹp quá, cao cả quá, rắn rỏi quá. Cô vẫn giữ nguyên nét ngụy, từ cái áo cái quần tới chút phấn chút son. Cô vẫn tự trọng chớ không làm ra vẻ lam lũ theo... thời trang cách mạng. Cô đáng phục quá! Bây giờ mới hiểu câu nói “ăn cây nào ḿnh rào cây nấy” của cô Hai. Phải rồi. Cô phải “rào” cho kỹ để rút tỉa tin tức cần thiết cho “Kháng Chiến Phục Quốc”, vậy mà ḿnh đă nghĩ rằng cô là phường bợ đỡ chánh quyền! Thiệt là bậy!
Bên kia, giọng cô Hai Sô-lết nghe rất b́nh tĩnh:
- Rồi. Tôi xong rồi.
- Mang ǵ thế kia?
- Bao quần áo, bàn chải đánh răng, khăn, lược. Nè! Anh xét đi!
- Thôi! Được! Lên xe!
Xe rồ máy, sang số de rồi lùi ra hẻm.
Bên nây, Ba Cui bỏ tay xuống, lắc đầu thở dài. Bỗng, một tiếng nổ chát chúa, tiếp theo là tiếng xe đụng vào tường rào rầm rầm rầm rồi im. Ba Cui giựt ḿnh, đứng thẳng người lên, lắng tai nghe. Tiếng người xôn xao ngoài hẻm:
- Xe bộ đội nổ! Xe bộ đội nổ!
- Nó đụng tường rào nhà bác Năm!
- Có ai sao không?
- Có ai bị ǵ không?
- Anh chị Năm với mấy đứa nhỏ có sao không?
- Không! Không có sao! Tụi này đang ngủ trong nhà.
Ba Cui định mở cửa chạy ra coi nhưng nghĩ lại :“Trong hẻm nầy, chỉ có ḿnh ḿnh là lính ngụy. đứng xớ rớ ở đó nguy hiểm.” Bên ngoài vẫn nghe xôn xao :
- Đứa nào chạy kêu công an coi bây! Trời ơi!
- Lấy đèn pin rọi coi!
- Rọi đây nè! Mầy rọi ở đâu vậy?
- Sao không thấy ai nhúc nhích hết vầy nè!
- Thấy ghê quá!
- Mầy rọi vô giữa coi! Cứ ria ria ngoài nầy th́ thấy khỉ ǵ được. Thằng... nhát gan quá mậy!
- Đưa đèn đây tao rọi coi.
- Trời ơi! Cô Hai Sô-lết chết banh xác trong nầy nè!
Ba Cui bỗng thở hắt ra, gục đầu vào tường, không nghe rơ ǵ ǵ nữa. Làm như tiếng nổ vừa rồi làm cho hắn lùng bùng lỗ tai. Kinh nghiệm chiến trường cho hắn biết đó là tiếng nổ của lựu đạn, loại lựu đạn mà hồi thời c̣n “đánh giặc chết bỏ” hắn vẫn thường dùng để diệt địch. Bây giờ, cô Hai đă dùng nó để nói lên tiếng nói cuối cùng. Một-tiếng-nói-cuối-cùng...
H́nh ảnh cô Hai Sô-lết lại hiện về trong đầu Ba Cui, thật rơ, thật đẹp, nhưng thật hiên ngang, thật oai hùng, thật vĩ đại. Trong bóng tối, hắn bỗng đứng nghiêm, trịnh trọng đưa tay lên trán chào. Xưa nay, hắn không biết khóc. Vậy mà bây giờ hắn bật khóc! Không biết nước mắt ở đâu mà tuôn ra nhiều như vậy ?
Mặc dầu một chân ngắn một chân dài, Ba Cui vẫn đứng thẳng, trong tư thế chào vĩnh biệt người đồng đội vừa tử trận, đứng lâu thật lâu...

Tiểu Tử

hoanglan22
09-25-2020, 14:10
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1659996&stc=1&d=1601042907

Trời tối đen như mực, trong căn nhà giữ vườn ở cồn Tân Phong huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang. Tôi đă ém chặt mấy chục người từ chiều hôm qua, lấy cớ là đi ăn mừng đám sinh nhựt của thằng cháu mới vừa 1 tuổi. Nhưng căn dặn thằng Hai Trung, biểu nó phải thật b́nh tỉnh, nếu chủ nhà là ông Sáu Hảo có lên thăm vườn th́nh ĺnh th́ nói “Mấy người nầy là bà con bên vợ của em…”.

Trước khi quyết định ém người ở đây, tôi đă ở đó hết mấy tháng trời. Lấy cớ là bị bịnh lao phổi nên về vườn dưỡng bịnh, nhờ vậy mà tôi cũng có quen mặt được vài người cḥm xóm, khi mang giỏ đi bắt ốc bưu ở trong khu vực mấy mẫu vườn của ông Sáu Hảo.

Dường như ông Sáu Hảo hồ nghi, cho rằng tôi lên ở đây để ḍ đường, chớ một người khỏe mạnh như tôi th́ làm sao mắc chứng bịnh lao cho được. Khi ông ta cố t́nh hỏi thằng Trung về thân thế của tôi, hồi trước ngày 30/04/1975 làm nghề ǵ ở đâu, sau đó học tập cải tạo tại cơ quan, hay trên Vườn Điều Cai Lậy?.

Thế là hai cậu cháu tôi sống ở đó hết mấy tháng trời. Thằng Trung th́ nó đi hái nhăn cho ông Sáu Hảo, khi nào vườn Sáu Hảo hết mùa th́ nó đi hái mấy nhà vườn xung quanh. Công việc nặng nhọc như vậy cứ tiếp tục đè xuống trên đôi vai bé nhỏ mỗi ngày, c̣n tôi th́ cứ lủi thủi trong nhà khi nào thấy vắng bóng người ta, th́ tôi xách cái giỏ nhỏ đi theo bờ vườn bắt óc bưu “dính cặp”. Nhờ vậy mà cũng được ăn no ngày hai bữa…

Rồi ngày vượt biển cũng tới. Chiếc ghe mà tôi mua ở tại chợ Vĩnh Long, do một người quen giới thiệu, bề dài chỉ có chừng 10 thước. Gắn máy Dodge chạy xăng, nhưng người chủ ghe nói với tôi là đă sửa lại chạy dầu.

Đêm tối đen như mực, khách tôi đă nhờ người quen dẫn xuống ém trước một ngày. Cũng may mọi chuyện đều xuông xẻ. Tôi và thằng con, với thằng tài công đi xuống bằng đ̣ máy như một người dân ở xă Tân Phong, mỗi người có xách trên tay hai cái lọp để đặt cá bóng dừa, với một bịt cá rô phi để đem về thả xuống ao.

Ngồi trong quán cà phê để chờ đ̣ chạy, đó là một quảng thời gian tôi có cảm tưởng thật dài. Khi thấy hành khách lát đát đi xuống bến đ̣, chúng tôi cũng xuống theo, và ngồi rải rác cách xa nhau cho không ai để ư. Từ nơi huyện Cái Bè đ̣ máy chạy qua cồn Tân Phong phải mất hơn 1 tiếng đồng hồ, chiếc đ̣ máy nầy lại tấp vô cho xuống khách hết bến nầy rồi tới bến khác, tới bến cuối cùng là nhà của thằng Hai Trung th́ chúng tôi lại bước lên.

Khi bước vô nhà th́ tôi đă thấy khách ém trong buồng chừng 10 người, đây là thời khắc quan trọng nhứt. Sau một hồi suy nghĩ, tôi liền biểu Hai Trung “mầy cứ tự nhiên đi mời thêm mấy người cḥm xóm xung quanh, nói là ngày mai cúng thôi nôi của con mầy là Cu Tư, nên có mời cậu Năm và mấy người bên vợ từ dưới Mỹ Tho lên chơi, nhưng phải giấu ông Sáu Hảo, nếu ổng có lên bất ngờ th́ nói ‘Ban đầu không định làm, nhưng bà ngoại mấy đứa nhỏ muốn lên cồn Tân Phong chơi cho biết nên mới làm luôn, thành thử không có chuẩn bị nên không có mời xin anh đừng chấp…’”

Thời gian lạnh lùng trôi qua trong sự hồi họp của nhiều người, đến khoảng 9 giờ đêm th́ có tiếng ghe máy chạy vô vàm. Tôi bấm tay thằng Hai Trung cầm đèn Pin mở cửa bước ra, th́ thấy chiếc “ghe Cui” chở củi mà tôi đặt mua đă tới. Nhưng hai anh em chủ ghe họ muốn lật lộng, biểu tôi phải chung vàng cho đủ rồi mới giao ghe. Thế là hai bên cự căi, trong lúc nóng tánh tôi chửi thề “Bộ… tụi bây muốn giựt tiền cọc của tao đó hả”. Tức thời hai anh em chủ ghe, họ nhảy xuống ghe nổ máy la làng, nói là tôi có ư định cướp ghe vượt biển.

Tất cả những người khách hoảng hồn, mạnh ai nấy chạy ra ngoài vườn t́m chỗ thoát thân. Nhưng ban đêm trời tối, x̣e bàn tay ra c̣n không thấy th́ biết đường đâu mà chạy. Tôi tưởng phen nầy chỉ chờ bị bắt mà thôi, nằm như vậy chừng 30 phút sau th́ nghe có tiếng ghe chạy lại rồi hảm máy chun vô vàm. Thằng Út Lớn chủ ghe bước lên bờ chạy vô nhà kêu cửa, nói:

– Anh Năm, tôi chịu giao ghe, nhưng tôi đưa xuống tới chỗ Vườn Hoa Lạc Hồng Mỹ Tho th́ nhận vàng đủ. Được không?

Tôi trả lời:

– Được, sao hồi năy mầy lật lộng, trở mặt bẻ c̣. Tao nói thiệt, có chết th́ chết chung. Bộ mầy tưởng xách ghe chạy đi như vậy là thoát hả? Thôi lở rồi, xuống luôn…

Từ trong nhà mấy người vượt biển chạy ùa ra bước xuống ghe. Vừa lúc đó chiếc ghe của ông tư Viễn Trường chạy tới, khiên chiếc máy Yanmar F7 thảy qua, cùng với một số người lố nhố không biết bao nhiêu mà đếm. Tôi cũng phải đành khoát tay, ra dấu biểu họ chung vô ghe cho lẹ đi đừng đứng đó bị bắt bây giờ.

Khi chiếc ghe chạy hoành lên tới đầu cồn, ở đây có một cái nhà máy xay lúa họ lại pha đèn rọi theo, rồi đồng loạt hô lên “ghe vượt biển”. Những tiếng hô đó nó cứ đuổi theo cho tới khi chiếc ghe vượt biển của tôi chạy khuất qua cái voi bần…

Chiếc ghe cứ chạy như vậy cho tới khi vừa múm vô đầu cồn Phụng, tôi biểu thằng Út Lớn, mầy cho đi ép bên phía cồn ông Đạo Dừa được hôn?

Nó trả lời:

– Được, anh muốn đi bên nào cũng được…

Khi chạy tới ngang chỗ lănh thổ của ông Đạo Dừa chắc cũng 12 giờ khuya. Giữ lời hứa, tôi tḥ tay vô túi quần móc ra một bịt vàng, kêu thằng Út Lớn bước ra sau lái nói:

– Mầy rọi đèn lên kiểm lại cho chắc đi…

Phải nói thằng nầy là dân sông nước giang hồ. Nó đưa lên miệng cắn thử vài cây. Sau đó nó bỏ hết vào trong cái ruột tượng rồi cột ṿng quanh qua bụng. Ôm chặt lấy tôi để tỏ dấu thân t́nh, rồi nói:

– Chúc anh Năm đi b́nh an. Cho em gởi theo thằng Tuấn, qua tới đảo có ǵ nhờ anh giúp đỡ. Nói xong th́ nó ôm cái can nhựa 5 lít, nhảy cái đùng xuống sông rồi mất dạng…

Tôi cũng không biết thằng nầy nó lội đi đâu, lội qua bên Vườn Hoa Lạc Hồng để cỡi quần áo ra vắt cho khô rồi mặc lại, hay là nó lội đi t́m nhà người quen ngủ đỡ đêm nay. Đó là một điều bí mật, đă mấy chục năm trôi qua làm cho tôi cứ thắc mắc trong ḷng. Nhưng không biết hỏi ai, hôm nay tôi viết bài nầy mong nó đọc được…

Tài công chánh của tôi là thằng Hai Ro ở dưới Xóm Lăng Ông phường 2 Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang. Thằng nầy đă có nhiều thành tích, gạt người ta lấy vàng rồi trốn cũng có, đưa ghe ra khỏi cửa biển B́nh Đại rồi lái cho trườn lên Cồn Ngựa, sau đó làm bộ loay hoay nhảy xuống gở chưn vịt một hồi rồi ôm can nhựa lội vô. Tất cả những lư lịch của thằng nầy tôi đều biết hết, nhưng tôi không sợ, nên tôi mới mướn nó làm tài công…

Chiếc ghe chạy xuống tới B́nh Châu, chỗ nầy có 2 chiếc tàu Cảnh Sát Đường Sông đang neo đậu để bắt ghe vượt biển. Hai Ro biểu tôi cho người lấy bao bố nhúng nước bịt bô lại để hảm thanh.

Tôi ngồi sau lái với nó, tay cầm chiếc búa tai mài thật bén, gỏ xuống ghe nói nhỏ:

– Ro, tao đi kỳ nầy không có trở vô, vậy mầy phải lái cho đàng hoàng, đừng tấp vô Cồn Ngựa th́ tao chặt gị mầy đó…

Hai Ro dạ nhỏ, nói:

– Anh nói cái ǵ đâu mà nghe dễ sợ vậy anh Năm…

Chiếc ghe vẫn chạy lầm lũi trong bóng đêm. Chỉ có một ḿnh tôi ngồi sau lái, cúi khom ḿnh xuống bên ngoài c̣n phủ một cái bao bố pḥng hờ khi gặp tụi Cảnh Sát Đường Sông rọi đèn xét hỏi. Thằng Hai Ro là một thằng rái cá trên khúc sông nầy. Tôi cũng biết trước là khi bị cảnh sát pha đèn th́ nó nhảy xuống sông rồi lội vô bờ, nên tôi cứ cầm cái búa tai mà kê lên bàn chưn của nó, dường như nó biết sợ nên nói “Coi chừng đứt gị của em…”

Ghe ra khỏi cửa mọi người nhẹ nhơm. Gặp lúc nước lớn, ngọn gió chướng non thổi rau rau làm bọt sóng nhấp nhô. Tuy là tôi có đề pḥng như vậy, mà thằng Hai Ro thừa cơ trong lúc tôi lơ đểnh, nó lái lách qua bên phải, khi chiếc bánh lái ghe trườn lên mặt cát. Tôi nghe mấy tiếng sựt sựt, chiếc ghe khựng lại. Tôi la lớn. Ro bẻ lái qua trái liền cho tao “Đụ má … chút nữa mầy lái nó lên Cồn Ngựa nữa rồi. Mầy nhắm hàng đáy Sông Cầu mà chạy tới cho tao…”

Lần đầu tiên tôi mới thấy mặt trời trên mặt biển. Một màu đỏ rực, phản chiếu mặt biển nhấp nhô, khi đó chiếc ghe của tôi đă ra khỏi cửa thật xa, nh́n phía bên tay trái th́ ngọn hải đăng Vũng Tàu vẫn c̣n sau lái. Bất ngờ th́ Hai Ro kêu tôi nói:

– Anh Năm. Kêu thằng Kiệt lên lái thế em. Em xuống hầm máy coi dầu, nhớt, để rủi ro th́ cháy máy…

Thằng Kiệt và tôi căng mắt ra trên mặt biển. Mặt biển thật hiền từ như một bà mẹ đang che chở cho ngư dân, cho tàu buôn, cho thuyền buồm lướt sóng. Chớ không có một dấu hiệu ǵ giận giữ thét gào. Một lát sau thằng con tôi nói “Ba kêu anh Ro ra bắt la bàn được rồi, để con chạy phía trong của đảo Côn Sơn”.

Tôi gọi vào trong ghe nói lớn:

– Ro ơi Ro. Ra bắt dùm cái la bàn cho anh nghen, rồi mầy vô mui ghe ngủ tiếp.

Tôi kêu như vậy tới mấy lần, th́ thằng Hai Trung nói vọng ra:

– Không có anh Ro cậu Năm ơi, mà con coi lại th́ mất một can dầu, c̣n dầu th́ đổ lênh láng trong khoan ghe…

Thế là tôi đă hiểu. Thằng Ro đă trốn, ôm can nhựa nhảy xuống biển lội vô bờ rồi. Tôi bước vô muôi ghe nói lớn:

– Thằng Ro tài công chính của ḿnh đă bỏ trốn rồi bà con ơi, bây giờ chỉ c̣n thằng Kiệt với thằng “Siêu Nhân” và tôi. Vậy tùy bà con ḿnh quyết định, tiếp tục đi hay là quay trở vô bờ…

Nhiều tiếng la lớn thất thanh:

– Không được, phải đi. Trở vô th́ cũng bị bắt hết…

Chiếc ghe vẫn nổ máy chạy với một tốc độ b́nh thường, khi cách đảo Côn Sơn không biết bao xa, mà tôi đưa ống ḍm chỉ nh́n thấy một đóm đen là là nằm trên mặt nước. Tôi vừa mừng, vừa lo. Bất ngờ có một cơn giông thổi đến, sóng dữ bắt đầu dựng lên làm chiếc ghe khựng lại. Tôi chưa kịp định thần, th́ từng đám mây đen sà thấp xuống mặt biển, phủ kín trước mũi ghe. Trời bắt đầu vầng vũ, tối đen. Chiếc ghe khịt lên vài tiếng, bắn lại sau đít một vệt khói đen rồi chết máy.

Tôi quay mặt vô ghe nói lớn:

– Thằng Trung đâu, coi mở cái thùng đồ nghề, lấy cây cưa, dao búa ra, rồi banh tấm bạt cắt lấy kẻm may một lá buồm lẹ lên, băo tới bây giờ, nhớ cưa gốc cây tầm vong cao chừng 3 mét thôi, v́ làm cột buồm cao quá th́ sẽ bị găy…

Khi thằng Trung và thằng Siêu Nhân, may tấm buồm xong th́ nh́n tôi hỏi:

– Bây giờ ḿnh đem cậm nó ở đâu Cậu?

Tôi vội trả lời:

– Coi cái bửng nào có lỗ khoen th́ cậm đại nó xuống gấp đi…

Sau một hồi quần tới quần lui, th́ thằng Trung nói:

– Chỉ có tấm bửng sát mũi ghe mới có lỗ Cậu ơi, để con cậm nó xuống ngay chỗ nầy nghen (nhờ vậy mà mũi ghe nhảy sóng, chớ c̣n cậm gần sau lái th́ sẽ bị ch́m ngay).

Tôi ừ cho có tiếng nói, v́ lúc nầy từng cơn sóng bạt đầu dựng đứng trước mũi ghe. Một cơn mưa dường như đang trút nước xuống th́nh ĺnh, từng cơn sấm chớp lóe lên rồi vụt tắt. Thằng Kiệt và Siêu Nhân hai đứa đang ôm cần lái để nương theo con sóng lướt qua. Chiếc buồm bọc gió, rồi nâng mũi ghe lên cao, để xuống nghe một cái rầm, rầm. Một hồi sau th́ cái giàn cào sau lái ghe bị găy. Tôi ḅ vô ghe lấy ra một nùi giây luột, biểu thằng Siêu Nhân và thằng Kiệt “ḷn dây cột qua eo ếch hết đi, nhớ trụ chưn cho vững đừng để té”, c̣n tôi th́ nằm ép sát xuống sàn ghe, ngước mắt nh́n theo tia chớp, rồi la bẻ trái, bẻ phải để đi theo cơn sóng lượng…

Sáng hôm sau th́ cơn băo cũng đă tàn, nh́n lại chiếc ghe nó rách tang hoang, chỗ nào cũng mang đầy thương tích. Tôi nói:

– Anh tư Viễn Trường đâu, cái máy đuôi tôm của anh chở theo, có thợ máy hôn, coi lo bắt lên cho lẹ, để ḿnh lấy lại số la bàn, chớ cơn băo hồi hôm, làm chiếc ghe của ḿnh trôi đi xa dữ lắm.

Sau một hồi vất vả, th́ thằng Hùng thợ máy của ông tư Viễn Trường dắt theo cũng gắn được cái máy đuôi tôm. Phải quay ngang cho cái đuôi tôm tḥng xuống biển, rồi đút tay quay vô quay mấy ṿng th́ tiếng nổ phát ra, mọi người đều thở phào nhẹ nhơm, nhưng thằng Hùng thợ máy lại la lên:

– Thôi… chết mẹ rồi, máy nổ không hút nước bơm lên, th́ làm sao mà chạy. Nó liền tắt máy. Tôi nh́n nó, hỏi:

– Như vậy là sao hả Hùng?

Thằng Hùng sau một hồi quan sát, rồi buông gọn một câu:

– Ống dẫn nước nầy quá lớn. Trong khi máy của ḿnh chỉ có F7, nên nó không đủ sức dẫn nước lên…

Mọi người trong ghe bắt đầu lộn xộn, hết người nầy quay, tới người kia. Cái máy vẫn nổ tạch tạch xè một chút rồi cũng tắt. Tới phiên ông Thiếu úy Chính Dân ở Cái Bè, từ trong mui ḅ ra. Sau một hồi ṃ tới ṃ lui, rồi ông ta tra chiếc tay quây vô bánh trớn, bắt đầu quay mạnh mấy ṿng. Ông ta cũng không ngờ khi bánh trớn trả lại quá nhanh nên buông tay, bộ tay quay văng xa một ṿng th́ rớt trên mặt biển nghe cái chủm. Thế là hết hy vọng, thần chết lảng vảng đến gần. Trên ghe mùi tang tóc sắp xảy ra!

Thiếu úy Chính biết ḿnh có lỗi, nên mở thùng đồ nghề ra t́m được mấy ông tuưp sắt bắt đầu cưa để làm tay quay. Nhưng không thể nào làm được, cho dầu có cố gắng tới bực nào, th́ cũng không thể làm chấu cho vừa cái lỗ đế đút nó vô. Chừng 1 giờ đồng hồ sau th́ mồ hôi nhể nhại. Tôi vỗ vai, nói:

– Thôi anh đừng hoài công vô ích. Chỉ có đúng ch́a khóa với nó th́ mới quay máy được thôi. Nói xong, tôi liền tḥ tay xuống ôm ngang cái máy đuôi tôm F7 lăn xuôi cho nó rớt xuống biển nghe một cái đùng. Sau vài cái suổi tăm, th́ cái máy đuôi tôm nằm sâu trong ḷng biển mặn!

Chiếc ghe như vậy cứ bồng bềnh trôi theo lượng sóng. Tôi bèn họp hết bà con đi trên ghe lại nói:

– Bây giờ trên ghe của ḿnh c̣n được 2 bao gạo, chắc gần 200 kí lô. C̣n nước ngọt th́ được 1 thùng phuy. Củi th́ c̣n hơn 10 bó, theo tôi nếu muốn được sống c̣n để chờ tàu buôn họ vớt, th́ ḿnh phải có một luật lệ đặt ra, chớ không để tùy tiện, nước mạnh ai nấy uống, rồi sẽ có ngưới chết khát…

Vừa dứt lời tôi, th́ có người nói:

– Như vậy th́ anh Năm phải đặt ra một luật lệ cho nghiêm nhặt trước đi, để cho bà con anh em trên ghe của ḿnh biểu quyết.

Sau một hồi lưỡng lự, tôi nói:

– Cơm th́ tôi giao cho anh Vinh nấu và chia. Hai người một chén. Nếu người nào xin lấy nước cơm, th́ không có được phần cơm. Phuy nước tôi giao cho thằng Gấu giữ, một ngày chỉ phát một ca, khi có mưa th́ căng bạt ra hứng tiếp. Tôi mong bà con trên ghe triệt để thi hành. Riêng phần tôi sẽ bắt cặp với thằng Tuấn mồ côi, tới bữa ăn, anh Vinh cứ xúc cơm ra, rồi biểu nó chia ra tôi cho nó bắt trước.

Xong cuộc họp, tôi chun xuống bước vào ghe, thấy chỗ nấu cơm bất tiện, sợ bị cháy ghe, nên tôi biểu thằng Hai Trung lấy một cái can sắt, đụt làm thành một cái cà ràn, mỗi lần nấu cơm, gom tro lại để dành. Sau đó cứ việc rót dầu vào đống tro rồi bật lửa. Nhờ vậy mà việc nấu nồi cơm cũng không có khó khăn, lúc đầu th́ khói có vận vào ghe, nhưng sau đó nhờ ngọn gió nam thổi thông, nên khói cũng bay ra ngoài hết.

Luật lệ nghiêm nhặt đă được ban hành. Có nhiều buổi trưa biển êm không sóng, tôi động viên mọi người cứ múc nước biển tắm đi. Riêng về phần mấy bà, th́ tôi biểu cứ quay tấm Nylon ra tắm. Chiếc ghe cứ trôi lều bều như vậy qua tới ngày thứ 9, th́ có một bầy cá cả trăm con nổi lên gần sát chiếc ghe. Lúc đó th́ không ai biết cá ǵ, cứ tưởng là cá Ông nổi lên cứu nạn. Sau một màn cầu kinh niệm Phật, th́ bà A Pḥ hỏi xin một nắm muối, nắm gạo đốt nhang váy cúng xong, th́ bầy cá lặn xuống sâu mất dấu (sau nầy định cư th́ tôi mới biết đó là cá heo).

Cũng có lúc ḍng nước biển đỏ lừ như máu, cũng có lúc ḍng nước đen thui như mực tàu. Tôi bắt đầu lo sợ. Khi nào gió thổi mạnh, th́ chiếc ghe căng buồm lên lướt sóng rào rào. Mỗi lần nh́n thấy tàu buôn, hay chiếc tàu sắt nào chạy ngang qua, chúng tôi đều làm mọi cách để cho họ vớt, nhưng dường như họ không nh́n thấy chiếc ghe bé nhỏ của chúng tôi, cũng có nhiều lúc gặp thuận gió chúng tôi cũng cố lái chiếc ghe chạy lại gần, họ lại chạy giạt ra xa. Tới lúc đó th́ chúng tôi biết hết hy vọng ǵ sống sót.

Có những đêm trăng sáng tỏ, mặt biển thật hiền từ, mọi người đă quên hết sự lo âu, nên có người mong sao chiếc ghe của ḿnh được tắp vào một đảo hoang nào cũng được. Khi đó sẽ đổ bao gạo ra lựa thóc, rồi đem ngâm làm giống gieo trồng. Họ cử tôi làm tù trưởng trên đảo nó sướng làm sao, mấy khi đó th́ dường như mọi người đều tăng thêm sức lực.

Chiếc ghe cứ chạy theo ngọn sóng cho tới ngày thứ 15, mọi người đều mệt mỏi, đôi mắt thâm quần. V́ c̣n cầm cự được mỗi ngày với một chén cơm, và một ca nước mưa được phát theo tiêu chuẩn. Bất ngờ bà A Pḥ (người Hoa) ḷm c̣m ḅ lại sau lái ghe, nh́n tôi nói:

– A… ông lăm (Năm). Bữa nay Nị cứ việc nấu cơm cho bà con ḿnh ăn đi, đừng hà tiện nữa.

Tôi hỏi:

– Sao kỳ vậy A Pḥ, lỡ hết gạo rồi ḿnh biết làm sao?

– Ông Lăm (năm) đừng lo, hồi hôm nầy nằm ngủ, ngộ thấy Phật Bà Quan Âm hiện xuống trước mũi ghe nói “bữa nay có tàu buôn vớt…”

Vừa lúc đó th́ thằng Kiệt, thằng Siêu Nhân, tụi nó la lên, dường như có một chiếc tàu đang chạy về hướng ghe ḿnh. Tôi nh́n theo tay nó chỉ, th́ quả nhiên như vậy – một vệt trắng bự bằng cái nia đang lớn dần dưới ánh mặt trời, tôi quay vô ghe nói lớn:

– Anh Vinh, anh nấu cơm đi, cho bà con ăn sớm một bữa…

Vinh hỏi lại:

– Thiệt như vậy phải hôn…

Chừng 2 tiếng đồng hồ sau th́ chiếc tàu sơn trắng lộ dần, dường như nó đang chạy thẳng về phía chúng tôi, nên tôi hối anh Vinh:

– Anh coi lo chia cơm ra đi, rồi lo hốt gạo nấu thêm một nồi nữa…

Khoảng cách bắt đầu thu ngắn lại, một con tàu sơn màu trắng cao lớn dềnh dàng, chạy bao ṿng tṛn một hồi rồi dừng lại. Có tiếng loa gọi qua:

– Chúng tôi cần một người biết nói tiếng Anh, chuẩn bị khi tḥng thang dây xuống th́ hăy leo qua…

Tôi mừng rỡ hỏi lớn:

– Trong ghe, ai nói được tiếng Anh?

Bà vợ ông tư Viễn Trường lẹ miệng:

– Dạ… em, em nói được…

Thế là bà ta chun ra khỏi mui ghe. Khi chiếc thang dây vừa tḥng xuống đúng tầm, th́ bà ta vừa nắm vừa phăng, giữa những ánh chớp của máy chụp h́nh loé lên trên mặt biển.

Không biết sau khi lên tàu rồi bà ta nói những ǵ, chừng 10 phút đồng hồ sau th́ chiếc tàu bỏ chạy. Mọi người trên ghe đồng qùy xuống lạy, nhưng chiếc tàu vẫn cương quyết chạy đi. Chiếc ghe vượt biển của tôi vẫn trôi bềnh bồng theo lượng sóng.

Bất ngờ chiếc tàu quay đầu trở lại, thằng Siêu Nhân thấy trước, nó la lên:

– Chiếc tàu trở lại ḱa Ba.

Tôi nh́n theo bàn tay của nó mà ḷng ngờ vực, khi nó đến gần, th́ tiếng loa lại kêu vang. Biểu trên ghe của tôi cử thêm 2 người nữa, nhưng phải nói được tiếng Anh. Tôi khom người xuống, nh́n vô trong ghe nghiêm nghị nói:

– Ai nói được tiếng Anh?

Sau vài giây yên lặng, th́ thằng Cường nói lớn:

– Con nói được, tuy không giỏi, vậy ông Năm hăy giao trách nhiệm cho con.

Tôi nh́n nó rồi nói thêm:

– Thằng Kiệt đâu, mầy lấy hai can nhựa ra vặn nút cho thật chặt, rồi lội xuống biển với thằng Cường, cột dây ṿng qua eo ếch. Nhớ có bề ǵ th́ phải cứu vớt với nhau, v́ lần nầy chiếc tàu họ đậu hơi xa, có lẽ sợ đậu gần, sóng đánh làm ch́m chiếc ghe vượt biển của ḿnh, hay là họ sợ ḿnh tràn qua, rồi trở tay không kịp.

Họ đă tḥng xuống một chiếc thang dây bằng mắt lưới, bên trên mấy người thủy thủ họ đă hườm sẵn máy chụp h́nh. Từng ánh sáng lóe lên, phải mất chừng 5 phút đồng hồ sau th́ thằng Kiệt với thằng Cường mới nắm được chiếc thang dây, rồi leo lên trên bong tàu trăm xí xô xí xào ǵ trên đó.

Tiếng thằng Cường cầm loa nói vọng xuống:

– Ông Năm ơi, họ đồng ư vớt rồi, nhưng tàu nầy chạy thẳng về nước Nam Hàn. Ông có chịu hôn?

– Tôi la lớn “đi đâu cũng được…”

Thế là họ t́m cách đưa con tàu đến gần chiếc ghe. Khi chiếc thang dây bằng lưới Nylon, được mấy người thủy thủ cột chặt với thân tàu, th́ ánh chớp của máy chụp h́nh chớp lên liên tục.

Lúc nầy trên ghe của tôi bắt đầu lộn xộn, người nào cũng muốn nhanh chưn để bước lên tàu. Nh́n cảnh đó tôi la lớn:

– Bà con ḿnh b́nh tỉnh, đừng để xẩy tay rớt xuống biển trong giờ phút nầy. Tôi với thằng Siêu Nhân sẽ đứng ở đây, d́u bà con lên tàu trước, rồi hai cha con tôi mới lên sau.

Gần 20 phút đồng hồ sau, th́ tôi cúi người xuống nói:

– C̣n ai ở trong ghe không, nếu đi không nổi th́ nói lớn cho tôi biết.

Sau đó là những cơn gió thổi tạt ràu ràu, tôi và thằng Siêu Nhân đu dây bước lên sau cùng, giữa tiếng vổ tay của đoàn thủy thủ. Có người hỏi:

– Who is Captain this Ship?

Thằng Cường vội nói:

– Ông nầy, mít tờ Năm…

Người thủy thủ chạy tới bên tôi, rồi ôm tôi quay mấy ṿng thả xuống. Sau đó ông ta nắm tay tôi dẫn đi vô pḥng thuyền trưởng, chỉ tay lên bảng đồ nói:

– Chiếc tàu của “tao” chạy về cảng Pusan Nam Hàn. Mà con mẹ “Lady” của mầy cứ đ̣i chở đi Singapore th́ làm sao đi được…

Rồi ông ta đưa cho tôi một gói thuốc Kent của Mỹ. Tôi bước trở ra bong tàu, nh́n theo chiếc ghe của tôi nhỏ như chiếc lá, tôi đưa tay lên chào lần cuối “Vĩnh biệt chiếc phao, vĩnh biệt chiếc ghe quá nhỏ, đă có mặt trên biển Thái B́nh Dương suốt một cuộc hành tŕnh, để chở 37 mạng người từ người lớn cho tới trẻ em đi t́m một đất nước tự do…”

Tôi đứng nh́n theo chiếc ghe một hồi mà nước mắt tuông rơi. Chiếc buồm bị gió cuốn, làm chiếc ghe quay ṃng ṃng theo cơn sóng. Bất ngờ từ xa có một chiếc tàu khác sơn màu vàng chạy tới. Rồi họ quan sát; thấy chiếc ghe không có người. Họ hiểu, đă có tàu khác vớt rồi. Thế là họ bỏ đi…

Chúng tôi được ông thuyền trưởng ân cần hỏi thăm sức khỏe từng người, sau đó dẫn đi nhận pḥng, rồi dắt vào pḥng tắm. Tôi cũng không ngờ ở giữa biển khơi, mà chúng tôi được tắm nước ngọt pha nóng bằng ṿi hoa sen, tắm rửa xong, chúng tôi được mời xuống pḥng ăn, để cho các thủy thủ dặn ḍ. Sau đó chúng tôi ăn cháo, rồi ngồi xem TV…

Từ nơi điểm tàu vớt, chạy về tới cảng Pusan mất hết 6 ngày. Sau một ngày nghỉ mệt, rồi chúng tôi được xịt thuốc sát trùng trước khi chở về trại tỵ nạn ở Pusan.

Tôi ở trại tỵ nạn Pusan hết 1 năm 21 ngày rồi đi định cư bên nước Úc. Ngày hôm nay ngồi đây nhớ lại để viết bài nầy, tôi cảm thấy vô cùng ân hận và xấu hổ v́ tôi không nhớ được tên con tàu đă cứu vớt chúng tôi. Thậm chí đến mấy người thủy thủ sau đó có vô trại thăm chúng tôi, vậy mà tôi cũng không có ghi lại địa chỉ để sau nầy liên lạc.

Giờ nầy ông thuyền trưởng và những người thủy thủ năm xưa, chắc cũng già yếu lắm rồi, c̣n chúng tôi sau những tháng ngày chờ đợi, th́ mỗi người mỗi ngă. Có người th́ đi Mỹ, Canada, Na Uy. Riêng chiếc ghe của tôi, th́ chỉ có hai cha con tôi và bà A Pḥ đi Úc.

Giờ đây trên xứ lạ quê người, tôi chạnh ḷng mà gọi thầm hai tiếng quê hương. C̣n câu chuyện Phật Bà Quan Âm hiện xuống mũi ghe báo mộng năm nào, chắc không ai c̣n nhớ. Chỉ có một ḿnh tôi thỉnh thoảng trong những đêm khuya canh tàn bấc lụn, mà ḷng thổn thức bồi hồi mà nhớ lại những ngày ở trại tỵ nạn Pusan Korea (Nam Hàn).

Tôi thầm mong có một ngày nào gặp lại ân nhân, để cho tôi nói lên hai tiếng cám ơn, và có ḍng lệ nóng chảy ra từ đôi mắt già nua chờ đợi. Nhưng có lẻ ngày đó không bao giờ tới. V́ bây giờ tất cả đă già, như một chiếc lá khô, chỉ chờ cơn gió thoảng qua rồi rơi xuống nằm yên trên mặt đất./-


Phùng Nhân

hoanglan22
09-28-2020, 14:39
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1661804&stc=1&d=1601303894

Mỗi lần tâm tư tôi giao động v́ những biến cố liên quan đến nước nhà, tôi lại phải ngẫm nghĩ đến một nhân vật chống Cộng khi xưa lúc tôi c̣n bị đám CSVN giam giữ với cái tên rất là nhân đạo: ‘cải tạo!’ Phải nói rằng tâm tư tôi giao động: có nên chống Cộng nữa hay không, hay ḿnh nên ḥa hợp hoà giải cho xong chuyện. Tôi là ai mà cứ phải măi chống Cộng chứ? Biết bao người đă từng bạo phổi tuyên bố này nọ, vậy mà cuối cùng cũng đă bị ‘Việt Cộng’ chiêu hồi, làm cho chính nghĩa của chúng ta có lần đă phải điêu đứng. Gần đây nhất có những quân nhân đă từng khắc vào tay hai chữ ‘sát Cộng’, nhưng cũng bị đám Cộng Sản Việt Nam chiêu dụ. Họ đă mệt mơi rồi chăng? Chẳng những thế, những người đó đă về lại cái đất tự do này tuyên truyền cho cái chủ trương hoà hợp hoà ‘giái’ ấy! Trước những sự kiện ấy, đương nhiên là ḷng tôi bị chao đảo thật sự. Tôi biết tôi chưa từng ṃ lên được cái chức vụ hàng đầu là phó tổng thống Việt Nam Cộng Ḥa, cũng chưa từng làm một nhà báo nổi tiếng, một kịch sĩ trứ danh đă khóc lóc thê thảm như cha chết mẹ chết vậy trước sự tuyên truyền láo khoét của Việt Cộng!

Tôi chỉ biết tôi là thằng thằng bé thuộc loại nobody của Miền Nam Việt Nam chưa từng được diễm phúc vào học trường ‘Quốc Gia Nghĩa Tử’ để được hun đúc ư chí chống Cộng. Tôi chỉ biết tôi là một thằng con trai có cha bị Việt Cộng cắt cổ lôi đi mất xác, có chú bị Việt Cộng trụng nước sôi thảm tử! Tôi chỉ biết tôi là một thằng bé tiểu chủng sinh đă từng lượm một lưỡi kiếm hoen rỉ tại một nghĩa địa tại Qui-Nhơn mang về mài sáng chiều trong ba tháng hè cho nó trắng toát ra với quyết tâm sẽ đi đ̣i mạng những kẻ đă giết cha, chú của ḿnh! Tôi chỉ biết tôi là một quân nhân QLVNCH có nhiệm vụ bảo vệ đồng bào chống lại sự tàn ác của Cộng Nô, đă từng làm cái nhiệm vụ ‘sống để bụng chết mang theo!’ Nghe đâu giờ đây cái khẩu hiệu ấy đă chỉ c̣n có một ư nghĩa thôi. Đó là đơn vị của tôi, một đơn vị lúc nào cũng tiếp tục chiến đấu, cho dù đó là thời b́nh hay thời chiến. Chúng tôi c̣n những người anh em vẫn c̣n bị nguy hiểm nếu kẻ thù biết được danh tánh của họ. Vậy mà có những kẻ đă cố làm cho nó lộ ra, vỗ ngực xưng tên của ḿnh v́ sợ rằng có những kẻ không biết đến ḿnh! Họ có bao giờ nghĩ đến sinh mạng của những anh em khác đang bị đe doạ không? Tôi chỉ biết tôi là một tên tù ‘cải tạo’ của các ‘trường cải tạo’ của chúng với một lập trường rơ ràng trong sáng, từng được những anh em cùng chung lập trường chống Cộng thương yêu.

Tôi đă tiếp xúc với rất nhiều nhân vật, từ những nhân vật đă từng nắm nhiều chức vụ then chốt của chính quyền VNCH, những cấp sĩ quan cao cấp trong QLVNCH, đến những người lính, những Cảnh Sát Viên mà nếu có ai nhắc tên cũng chẳng ai biết đến. Nhưng phải nói một sự thật đau ḷng là càng nắm những địa vị cao, những vị này càng tỏ ra yếm thế, nếu không nói là khiếp sợ không dám nói năng ǵ cả khi đối diện quân thù. Tôi không cố ư vơ cả đũa, v́ trong số những người đó cũng có những vị rất anh hùng. Những người dám chống đối lại bọn chúng, phần lớn là những người rất tầm thường, những nghĩa quân, cảnh sát viên quèn, những viên trung sĩ hoặc những viên sĩ quan cấp úy! Giờ đây chính những người ấy và con cái của họ tiếp tục con đường chống cộng c̣n dang dỡ. Có người gợi ư tôi nên hỏi xem đâu rồi các cấp lănh đạo một thời đó hoặc con cái của họ, thế hệ một rưỡi, thế hệ hai của họ. Sao họ không ra mặt đấu tranh chung với những người thuộc lớp hạ tầng như chúng ta?

Xin thưa chung chung rằng: quư vị hăy tiếp tục đấu tranh đi rồi khi nào thành công sẽ thấy họ hoặc con cái họ đứng lên cầm cân năy mực cho chúng ta. Lo ǵ chứ? Chúng ta là những viên đá ba-lông, những viên đá móng, những viên gạch nằm dưới của một ngôi nhà Việt Nam. Chúng ta có nhiệm vụ phải quyết tử cho tổ quốc quyết sinh! Chúng ta là nền móng. Chúng ta không phải là thượng tầng của ngôi nhà. Nên chi chúng ta không cần phải xem thượng tầng kiến trúc là ai. Lúc ngôi nhà được hoàn thành, cái mái nhà ấy sẽ xuất hiện thôi. Họ là những người được sinh ra chỉ để cho các cương vị lănh đạo, không phải để chiến đấu, để hy sinh như chúng ta. Vậy th́ xin quư vị đừng có hỏi xem họ hiện đang ở đâu và làm ǵ? Họ vẫn ở đó, lẩn quẩn quanh chúng ta thôi. Không chừng họ c̣n đang chén cha chén chú với kẻ thù chúng ta cũng chưa biết chừng. Rồi một ngày nào đó khi cỗ bàn đă dọn ra, quư vị sẽ thấy họ ngồi đầy ra đó. Lúc đó họ sẽ tha hồ mà tuyên bố vung vít!

Xa rồi mấy chục năm kềm kẹp. Xa rồi những loài khỉ mà chúng ta được dạy phải gọi là ông là bà. Chúng ta, những người tù, những người họ ‘Phạm’ bất đắc dĩ, đă tạo ra một loại súc vật mới, loại ‘ông bà’! Đám súc vật này đă cố t́nh hạ nhục chúng ta, gọi chúng ta là ‘đồng bọn’ đối lại ‘đồng chí’ của bọn chúng. Thế nhưng chúng ta đă không ngă quỵ; chúng ta đă không gục ngă, mặc dù có một số kẻ đă mất niềm tin, đă cam tâm làm ăng ten, làm tay sai nối giáo cho giặc.Tuy vậy, thỉnh thoảng chúng ta cũng có được những người anh hùng. Trong các trại tù của bọn chúng, những vị anh hùng đó đều có mặt. Họ đă làm cho đám vuốt đuôi ấy có phần hoảng sợ! Gương những người hùng ấy vẫn c̣n đó, vẫn không làm sao xoá mờ được. Họ là những mẫu người đă giúp tôi sống kiên cường, không mất phương hướng. Hôm nay, ngẫm nghĩ lại, tôi xin đưa cho quư vị một mẫu người hùng như thế.

Trước kia, tôi chưa từng biết Đinh Công Chương là ai. Thật ra tôi không biết anh cũng phải, v́ anh là người dân B́nh Khê, thuộc đất B́nh Định, c̣n tôi hoạt động vùng Quảng Ngăi. Tuy trước đó tôi đă hoat động ở B́nh Định được trên bốn năm, nhưng phạm vi hoạt động của tôi cũng chỉ lẩn quẩn bên trong Sư Đoàn Mănh Hổ Đại Hàn. Tôi thuộc Biệt Đội 5 Quân Báo cạnh Sư Đoàn Mănh Hổ nên hoạt động của chúng tôi v́ thế bị rất nhiều hạn chế, không quen biết nhiều với các đơn vị địa phương thuộc tỉnh B́nh Định. Vă lại, v́ anh cũng chỉ là một nobody như tôi, một nhân viên Cảnh Sát sắc phục tầm thường không tên tuổi thuộc quận B́nh Khê, nên làm sao mà tôi biết đến anh được. Tôi hân hạnh được biết đến anh nhờ tôi ở chung trại cải tạo với anh, trại Nghĩa Điền thuộc K18 Kim sơn, và nhờ một cơ duyên. Nhắc đến cơ duyên ấy tôi bỗng rùng ḿnh. Nếu lỡ ngày ấy ḿnh chết thật ...

Năm 1978, tôi bị bệnh kiết lỵ amibe; cứ năm phút là phải đi cầu. Chẳng có ǵ cả, toàn là đờm thôi. Tôi bị cho vào pḥng ‘cách ly’ chung với một số người cùng mắc chung bệnh. Đây không phải là bị ‘nhốt ô’ hoặc khám tối, không có cùm kẹp ǵ cả. Đây chỉ là một căn trại đóng kín suốt ngày dành riêng cho những người mắc những chứng bệnh truyền nhiễm chờ chết nếu không có ai chữa được. Và đợt này dành cho những người bị bệnh kiết lỵ amibe. Và quả thật, sau khi vào đó một vài ngày đă có một số người đă thật sự ‘thoát tù’! Họ tử v́ bị vi trùng amibe bào thủng ruột của họ. Tôi nghe Bác Sĩ Nguyễn Công Trứ, vị bác sĩ phụ trách, nói thế.

Bác Sĩ Trứ là một Bác Sĩ Quân Y thuộc QLVNCH đă chịu hy sinh ở lại bệnh viện Qui-Nhơn để chăm sóc các thương bệnh binh c̣n nằm điều trị tại đây lúc Việt Cộng chiếm thành phố khoảng đầu tháng 4 năm 1975. Ông là người có công đă chôn cất cố Đại Tá Nguyễn Hữu Thông, cùng 47 anh em tử sĩ thuộc Trung Đoàn 42/ Sư Đoàn 22 Bộ Binh tại Qui-Nhơn lúc Qui-Nhơn thất thủ. Sau một thời gian ngắn bị lợi dụng khi chưa đủ bác sĩ điều trị, vị bác sĩ này đă bị cho đi ‘câu gô’ như những anh em khác. Xin mở ngoặc khi tôi đề cập đến chữ ‘câu gô’ ở đây. Không biết chữ này có phải là một ‘từ của Việt Cộng’ hoặc một chữ do anh em tù chúng ta đặt ra, nhưng theo tôi hiểu th́ ‘câu gô’ mang một nghĩa nhất định: bị tù tội dưới chế độ Cộng Săn. Ở chế độ tự do, người tù đâu có đến nỗi đói khát phải ‘cải thiện’, một từ khác của Việt Cộng chỉ việc kiếm thêm chút đỉnh rau rác ǵ đó để nhét cho đầy cái bụng xẹp lép của ḿnh! Đó là việc dùng một cái lon guigoz, sau này là một cái xoong nhỏ có quai thép tự chế, câu chung quanh ḷ hoàng cầm để ăn thêm!!!

Tôi cũng như một số anh em khác trong trại đă được Bác Sĩ Trứ cứu sống nhờ một sáng kiến táo bạo của anh. Anh đă đi gơ cửa từng trại của các anh em họ ‘Phạm’ xin một số lọ streptomycine, một trong những lọ thuốc quư mà trạm xá của anh không bao giờ có. Thay v́ chích, anh đă hoà với nước cho anh em trực tiếp uống. Sáng kiến phi trường lớp này của anh rốt cuộc đă cứu sống số anh em bị bệnh c̣n lại, trong đó có tôi. Trong thời gian bị nhốt chúng với nhau, chúng tôi có dịp ‘nói khó’ với nhau, kể cho nhau nghe những chuyện anh hùng ‘chống Cộng Sản cứu đồng bào’! Tôi đă gặp đám anh em nghĩa quân B́nh Khê, những trung đội trưởng nghĩa quân. Những anh em này đă kể lại những chiến công hiển hách của họ quanh khu vực lăng Mai Xuân Thưởng. Họ đă chỉ cần có 60 quả ḿn claymore thôi đă diệt hầu như toàn bộ các sĩ quan cao cấp của Sư Đoàn Nông Trường Ba Sao Vàng Bắc Việt, làm cho họ phải án binh bất động một thời gian dài để bổ sung quân số, làm cho vị tư lệnh sư đoàn 22 BB phải khiển trách thuộc hạ v́ đă để lỡ mất cơ hội lập chiến công cho ḿnh, làm cho vị tư lệnh Sư Đoàn mănh Hổ Đại Hàn bực tức phải đuổi vị trung đoàn trưởng Thiết Kỵ của ḿnh về nước cũng v́ lư do trên.

Có lẽ một số quư vị không hiểu tại sao nghĩa quân B́nh Khê lại làm được một chiến công hiển hách như thế mà không tốn một sinh mạng trong khi hai sư đoàn chủ lực thiện chiến lại bỏ mất cơ hội đáng tiếc ấy. Thật ra chuyện ấy cũng đơn giản thôi. Vùng trách nhiệm chiến thuật (TAOR) của hai sư đoàn trùng lập với nhau. V́ thế cả hai sư đoàn đều nhượng nhau ở đường ranh giới trách nhiệm ngang qua lăng Mai Xuân Thưởng. Lợi dụng cơ hội đó, Cộng Sản đă dùng con đường này làm đường giao liên phát xuất từ Núi Bà xuống vùng ven tỉnh lỵ. Hôm đó quả có một phái đoàn sĩ quan cao cấp của Sư Đoàn Nông Trường 3 Sao Vàng Bắc Việt xuống vùng ven tỉnh lỵ Qui-Nhơn để gắn huy chương cho bộ đội của chúng. Nghĩa quân B́nh Khê nhờ may mắn bắt được tin ấy và thế là họ đă tạo nên chiến thắng có một không hai như ‘xi nê của Cộng Sản’ ấy, một trận sát địch mà chỉ có tổn thất nặng cho phe địch. Đúng là hay không bằng hên!

Trong lúc điểm danh những chiến sĩ anh hùng của B́nh Khê, anh em vô t́nh có nhắc đến Đinh công Chương, một nhân viên cảnh sát rất nhỏ nhưng ḷng căm thù Cộng Sản rất lớn, hiện đang bị án 20 năm và giam giữ tại trại Một Kim Sơn, K18. K18 có nhiều phân trại, trại chính là trại Một. Các phân trại gồm có trại 2, trại nữ, và trại Nước Nhóc. Trại 2 và Trại Nữ cách trại 1 không xa, nhưng trại Nước Nhóc ở một vùng núi rất xa. Rất tiếc là tôi chưa từng được đưa đến đây nên chỉ kể sơ như thế thôi. Tôi được nghe anh em kể chuyện về anh Đinh Công Chương và ao ước muốn gặp được anh một lần để làm quen với người anh hùng sát cộng ấy! Nhưng anh lại ở măi trại 1. Biết bao giờ tôi mới hân hạnh được gặp con người lừng danh ấy.

Nhưng sự đời có nhiều việc không ngờ. Phong trào phản động trong nước lại bùng lên. Có phải v́ việc đó hay không, tôi không biết, chỉ biết một lần nữa chúng tôi lại phải dời trại. Trại 2 Kim Sơn bị hủy bỏ và toàn bộ trại bị dời sang Nghĩa Điền, một trại sâu xa trong núi. Tại đây tôi may mắn được cái điều tôi luôn luôn t́m kiếm. Một bộ phận tù nhân có trọng án cũng được chuyển đến trại Nghĩa Điền từ trại 1 Kim Sơn. Qua sự giới thiệu của bạn bè gốc B́nh Khê, tôi dần dần quen biết với Đinh Công Chương.

Anh là một người bảnh trai, với nụ cười lúc nào cũng nở trên môi. Qua lời kể lại của những người đă từng quen biết anh, anh là một vơ sĩ có tầm cở, tuy anh chưa bao giờ lên đài cả. Tất cả những vơ sĩ tôi gặp trong tù đều cho rằng họ đều không phải là địch thủ của anh nếu phải đối địch. Anh học vơ chỉ v́ anh có một mối thù truyền kiếp với Việt Cộng. Anh cần phải đ̣i nợ những kẻ đă giết cha anh. V́ thế anh đă gia nhập vào lực lương cảnh sát B́nh Khê. Mặc dù anh không phải là Nhảy Dù hoặc Thủy Quân Lục Chiến với dấu xăm ‘sát cộng’ trên cánh tay, nhưng anh đă là một sát thủ thứ thiệt. Anh rất căm ghét đám Cộng Sản nằm vùng địa phương. Bộ đội Bắc Việt anh có thể tha, v́ nghĩ rằng họ bị bắt buộc phải nhập ngũ. Nhưng cái thứ ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản, các cán bộ, bộ đội, du kích địa phương th́ anh không thể nào tha thứ được, v́ họ là chính phạm đă làm tan nát gia đ́nh anh. Bắt được những người này là anh bắn ngay không cần phải hỏi han ǵ cả. Chẳng những thế, anh c̣n bắn chết những tù binh do các đơn vị bạn, các đơn vị đồng minh bắt.

Theo luật pháp lúc bấy giờ, anh có thể bị truy tố ra ṭa và đi tù v́ tội giết tù binh. Nhưng v́ thương t́nh anh là một chiến sĩ chống cộng, nên các cấp chỉ huy không đưa anh ra ṭa, chỉ tướt súng anh thôi. Mặc dù không c̣n súng nữa, anh vẫn giết Việt Cộng như thường bằng tay không. Chỉ cần cho anh bắt gặp, nạn nhân sẽ bị vặn đầu trật khái khế ngay. Sau ngày 30 tháng 4, 1975, anh bỏ trốn vô Sài-G̣n. Nếu anh bị bắt ngay từ đầu, có lẽ anh đă không c̣n mạng để trở về. Anh đă may mắn là chỉ bị bắt khi luật pháp của CSVN đă được ổn định trở lại. Do đó anh đă lănh án 20 năm.

Biết rằng tôi vẫn c̣n giữ vững lập trường quốc gia với cái tên cúng cơm là H. T15, anh hay qua lại nói chuyện với tôi trong những khi rảnh rổi. Anh thường than phiền rằng có lẽ anh sẽ phải chết rục trong tù. Để an ủi anh, tôi khuyên anh nên nhẫn nại. Tôi cũng chỉ biết nói vậy thôi, chứ bản thân tôi, tôi cũng chẳng biết tương lai của ḿnh ra sao nữa. Có nhiều lúc, tôi cũng nghĩ đến chuyện trốn trại, nhưng tôi cho là vô ích, v́ không lẻ trốn về nhà để bị bắt lại. Tôi chia sẻ với anh những ǵ tôi suy nghĩ trong đầu với mục đích để an ủi anh. Bây giờ cả đất nước là của họ rồi, c̣n đi đâu nữa?

Không ngờ những ư tưởng đó lại làm cho anh có một quyết tâm mới. Thà trốn trại c̣n hơn chết rục trong tù. Anh lên một kế hoạch trốn trại táo bạo. Một sáng Chủ Nhật, trong lúc nói chuyện với anh em chúng tôi, thừa lúc không ai để ư anh nói nhỏ với tôi: “Tôi đến đây để từ giả anh. Ḷng tôi đă quyết. Tôi phải đi thôi!” “Anh đă tính kỹ chưa? Đă biết bao cuộc trốn trại từ Nghĩa Điền đều thất bại. Gần đây nhất có cuộc trốn chay của một số anh em người Thượng vùng Sơn Hà. Họ rành đường núi. Nhưng rồi Đinh Giàu và Đinh Văn Ôn đă bị bắn chết, c̣n Đinh Nía bị chết rục trong ô.” Tôi nói. Anh cười: “Tôi mà đi, tôi sẽ không đi như mấy anh đó đâu? Tôi phải có ǵ trong tay tôi mới đi. Mà đi là phải vượt biên chứ không về nhà! Tôi chả dại để bị bắt lại lần nữa.”

Tưởng anh chỉ nói để mà nói, không ngờ anh đi thật! Anh thuộc toán nhổ ḿ do tên cán bộ Nhường phụ trách. Thật ra, trong số các cán bộ quản giáo, tên Nhường dễ chịu nhất, không đến nỗi phải tới số. Nhưng biết làm sao được khi anh Chương lại không có một đường lựa chọn tốt hơn. Tên Nhường đă chọn ra khoảng 15 người từ pḥng trọng án. Đa số có án 20 năm, có thể lực tốt. Lúc đầu, theo giữ toán nhổ ḿ c̣n có một tên lính quản chế đi kèm, mỗi ngày một tên khác. Sau một thời gian sinh hoạt, dần dần tên Nhường mất cảnh giác đi, không cần có lính quản chế khác nữa.

Thật ra cũng chẳng phải hắn ta tốt bụng ǵ đâu. Hắn ta muốn mua chuộc anh em tù nhân dưới quyền của hắn để làm việc riêng cho hắn đó thôi. Lúc đó đang có một chiến dịch tăng gia sản xuất trong hàng ngũ của bọn chúng. Mỗi cán bộ ‘quản giáo’ hoặc ‘quản chế’ phải trực tiếp thực hiện. Mỗi tên được cấp cho một sào đất để canh tác. Tên Nhường lợi dụng cảm t́nh của anh em dành cho hắn cứ mỗi Chủ Nhật vào nhận một số anh em ra để làm việc cho hắn. Mỗi lần như thế, hắn ta cho anh em được mua thêm một ít khoai ḿ hoặc gạo của dân chúng bên ngoài để ‘bồi dưỡng’. Như thế hắn vừa được việc vừa chẳng tốn công tí nào. Hắn lại không muốn trên cơ quan biết đến mưu mô của hắn. Do đó hắn t́m cách bớt đi tên lính quản chế để chúng khỏi biết được những việc làm đen tối của hắn.

Ngày thứ bảy định mệnh năm ấy, có lẻ năm 1980 hoặc 1981 tôi không c̣n nhớ rơ, như thường lệ, toán nhổ ḿ do anh Đinh Công Chương làm trưởng toán được tên Cán bộ Nhường dẫn đi nhổ ḿ như thường lệ. Đây là một vùng núi rất sâu về phía Tây có lẻ thuộc Quận Hoài Ân. Sau khi vượt qua một số ngọn đồi, anh em đến một đám ḿ thuộc hàng cố nội. Nh́n những cây ḿ này anh em thấy phát ngán v́ chúng rất to, cây nào cây nấy to cao có thể mắc vơng nằm được. Có lẻ đám ḿ này là một trong số những đám ḿ đă trồng trước năm 1975 bị bỏ hoang. V́ biết công việc hôm nay sẽ rất nặng, anh em bắt tay vào việc ngay, hy vọng sẽ hoàn thành được công việc trước khi trời tối: mỗi người phải đào cho được một gánh đầy. Anh em chia làm hai toán, một toán lo đi phát những sợi dây leo vướng mắc. Không phát những dây leo chằng chịt này sẽ không cách vào len vào được chứ đừng nói đến chuyện nhỗ ḿ. Toán thứ hai dùng cuốc bàn cuốc sơ quanh gốc để cho dễ nhổ. Sau đó anh em bắt đầu chia ba người một tổ xúm nhau nhổ ḿ.

V́ là đất núi rất cứng nên tuy đă đào sơ quanh gốc, nhưng không phải v́ thế mà dễ nhổ. Anh em phải hè nhau vừa lắc vừa t́m thế để nhấc nó lên. Nếu có củ nào bị sót, th́ đă có xà beng để nạy. Ḿ hàng chục năm nên củ nào củ nấy to bằng cái đầu nên anh em h́ hục đă buổi sáng mà chưa nhổ được mấy cây cả. Anh em nh́n nhau ngao ngán. Không ‘đạt’ thế nào tối nay cũng sẽ bị kiểm điểm nặng!

Trong lúc giải lao 15 phút, anh Đinh Công Chương đại diện anh em đến xin tên Nhường cho một số anh em vào làng mua thêm gạo để ‘bồi dưỡng’, v́ nếu anh em ăn không no th́ không thể nào làm tiếp được. Tên cán bộ cũng đă quan sát và biết việc anh em xin cũng là điều hợp lư, nên đồng ư cho hai người đại diện đi mua sắm. Khi bắt tay làm việc lại, bỗng nhiên anh Chương đưa ra một ư kiến. Anh bảo mọi người hăy chờ anh một chút để xem anh biểu diễn sức mạnh. Mọi người đều biết anh Chương mạnh, nhưng mạnh như thế nào th́ không một ai biết. Anh đi giữa hai hàng cây, giang hai cánh tay ra, mỗi tay nắm lấy một thân cây và nhổ một cách nhẹ nhàng hai cây một lúc giữa tiếng reo ḥ cỗ vơ của anh em trong toán. Họ không ngờ anh lại quá mạnh như thế. Và cứ như thế, anh cứ tiếp tục đi và nhổ. Anh em chỉ việc dùng rựa để cắt ra từng củ một và cho vào thúng.

Chẳng bao lâu gánh nào gánh nấy đều đầy cả. Anh em nghỉ mệt để ăn uống. V́ đó là công của một ngày nên sau buổi ăn trưa anh em không phải làm ǵ nữa cả, chỉ việc đợi đến chiều là đi về thôi. Trong thời gian rảnh rổi này, một số anh em đi loanh quanh hái lá cây rừng để ‘bồi dưỡng’ thêm. Anh em bỗng phát hiện một chú ‘cheo’ chạy lạc đến. Anh em thận trong dí cho nó chạy ra ngoài trống để dễ đuổi bắt. Trong lúc anh em lo rượt đuổi con cheo, anh Chương chẳng làm ǵ cả. Anh cứ ngồi đó vấn thuốc hút, hết điếu này đến điếu khác. Bất ngờ, con cheo chay ngang qua chỗ anh đang ngồi.

“Nè Chương, chận con cheo ấy lại, không th́ nó sỗng mất!”

Anh Chương không cần phải được nhắc lại lần thứ hai. Lúc con cheo vừa tầm anh dùng ngay cái cuốc bàn quật vào đầu con cheo một phát, giết nó ngay tại chỗ. Bữa hôm đó anh em được một bữa bồi dưỡng đúng đắn. Tuy không nhiều nhưng ít ra anh em trong toán ai nấy cũng được một ít thịt tươi trong bụng.

Chẳng bao lâu đă đến buổi chiều. Tên cán bộ Nhường cho lệnh về trại. Anh Chương là người trưởng toán nên anh đi sau cùng. Anh em theo con đường ṃn quen thuộc để xuống núi. Đó là một đoạn suối khô đầy đá. Anh em trong toán cố gắng xuống triền núi thật nhanh để chờ đợi. Anh Chương vừa đi vừa kể chuyện tiếu lâm cho anh em nghe. V́ thế anh đi không nhanh lắm. Do đó chẳng mấy chốc bị anh em bỏ rơi lại phía sau. Không một ai biết đó là chủ ư của anh. Anh biết tên Cán bộ Nhường cũng khoái nghe anh kể chuyện v́ hắn đă nghe anh kể chuyện tiếu lâm nhiều lần. Lúc đó trên đoạn suối khô ấy chỉ c̣n có một người đi trước anh, và tên Cán Bộ Nhường đi sau anh thôi. Càng lúc tiếng kể chuyện của anh càng nhỏ dần. V́ để nghe cho rơ hơn, tên cán bộ đă cố đi cho thật gần để nghe tiếp câu chuyện hấp dẫn. Anh chỉ chờ có thế. Khi tên cán bộ vừa tầm. Anh ném ngay cái gánh ḿ xuống đất và trở cán cuốc trên vai bổ ngang một phát ra sau. Cái cuốc bàn định mệnh lúc sáng đă quật chết con cheo giờ cũng đă đập vào đầu tên cán bộ làm cái sọ năo của hắn bể ra óc phọc trắng xoá!

Không một tiếng la, chỉ có một tiếng ‘bốp’ thôi. Người đang gánh ḿ đi trước giật ḿnh xoay lại xem. Anh hoảng quá khi trông thấy tên cán bộ ngă quỵ. Mặt xanh như tàu lá, anh này cũng ném nhanh gánh ḿ trên vai chạy ngay xuống triền núi nơi anh em đang đợi. Lúc anh vừa chạy đến chỗ anh em cũng vừa lúc chiếc nón cối vàng của tên cán bộ cũng lăn theo xuống, Cái nón cối chỉ c̣n cái vành c̣n nguyên thôi. Phần c̣n lại méo mó với một ít tóc, máu và óc trong đó.

Cả toán ḿ sững sờ. Lại sắp có một vụ trốn trại nữa. Lần này không như những vụ trốn trại trước. Lần này có án mạng, một vụ giết cán bộ cướp súng. Cả toán im lặng, một sự im lặng đáng sợ! Không một ai dám phản ứng! Họ chờ đợi người đó xuất hiện trước khi họ có sự phản ứng nào. Quả thật, anh Đinh Công Chương không phí thời gian để xuất hiện. Anh từ từ bước xuống, một tay cầm khẩu carbine M2 của tên cán bộ, tay kia vắt chiếc áo mưa vàng của công an v́ hôm đó trời có mưa lất phất. Không một ai dám nh́n thẳng vào mặt anh cả. Gương mặt của anh tái ngắt; đôi mắt anh đỏ lên, cái đỏ của một sự hận thù. Những cái đó chưa hề xuất hiện trên mặt anh. Anh như đă biến thành một người khác, không c̣n là một anh chàng đẹp trai với nụ cười trên môi nữa. Vẻ mặt anh toát lên một khí thế của một chiến binh đang ra trận. Họ có người đă từng là quân nhân. Họ quá rành về những vẻ mặt như thế.

Bằng một giọng từ tốn nhưng rắn rỏi, anh lên tiếng:

“Sự việc đă như vậy rồi. Không thay đổi được nữa. Anh em chỉ c̣n có một đường binh thôi là hăy đi theo tôi. Ở lại thế nào cũng bị chúng đánh chết. Thế nào anh ‘Bảo’? Có đúng vậy không? Anh em cứ việc cho ư kiến!”

‘Bảo’ là tên của một người có án 20 năm, từng ở trong mặt trận ‘Phục Quốc’. Thường ngày khi nói chuyện với anh em, anh này cũng lên tiếng cứng rắn lắm về lập trường của ḿnh. Nhưng hôm nay, đứng trước một quyết định đi hay ở, anh là một người thiếu dứt khoát nhất. Người anh run run, hai tay anh chắp lại, khom ḿnh xuống lạy anh Chương:

“Anh Chương hăy tha cho tôi đi. Tôi c̣n phải sống cho vợ con tôi ở nhà. Tôi không thể theo anh được.

“Vậy mà cũng đ̣i làm phản động!” Anh Chương cười gằn. “Đi th́ may ra c̣n chút hy vọng. C̣n ở lại th́ ... Chắc anh cũng đoán được rồi đó. C̣n những anh em khác, có ai dám theo tôi không?”

Nghe vậy tất cả mọi người đều run rẫy lạy lục anh Chương như tế sao:

“Thôi mà anh Chương, tha cho chúng tôi đi. Anh nói sao cũng được, nhưng chúng tôi xin anh.”

“Thôi được,” anh Chương nh́n anh em thở dài. “Tụi mày chỉ chống cộng bằng miệng thôi. Tao hy vọng tụi mày sẽ qua khỏi cái truông này.”

“Được rồi, anh nói tiếp. “Anh em hăy đưa tất cả các thùng quẹt đây. Gạo mua lúc sáng cũng không được mang về trại. Và hăy về nhắn với bọn cán bộ trong trại rằng thằng Chương đi hướng này đây. Tụi nó nếu có đứa nào muốn chết th́ hăy lên đây t́m tao!”

Anh thu lấy tất cả các hộp quẹt, dồn tất cả số gạo đă mua lúc sáng vào một bao lớn, và từ từ xoay lưng đi chậm chầm theo hướng củ

Chờ sau khi anh Chương đi khuất, toán ḿ mạnh ai nấy ù té chạy, v́ sợ anh Chương sẽ đổi ư bắn theo. Nhưng không anh không làm vậy. Anh không bắn ai cả.

Quả vậy, đúng như lời anh Chương đă báo trước, ngay khi báo cáo cho vọng gác về t́nh h́nh trốn trại cướp súng của anh Chương, anh em đă bị một số bộ đội quản chế cho ăn những đ̣n thù. Sau những hồi kẻng báo động, toàn bộ trại viên bị nhốt vào pḥng, mặc dầu có nhiều toán lạo động chưa về kịp. Anh em nh́n nhau, có kẻ xanh mặt, có người điểm nụ cười kín đáo. Chẳng cần ai bảo, anh em đều biết có vụ trốn trại, tuy chưa biết là ai.

Pḥng giam của tôi nằm sát ṿng rào nơi có con đường các toán lao động thường đi nhất, nên những ǵ đang xăy ra, chúng tôi đều thấy. Trừ mấy tên lính canh ra, toàn bộ bọn Cộng Sản c̣n lại đều lần lượt đi qua, tên nào tên nấy đề trang bị đầy đủ với Carbine M2, Ak 47 và M.16. Chúng chạy rầm rập như khi đụng phải quân địch mạnh. Khoảng 7 giờ tối, có một toán quay trở lại, trong đó có tiếng phụ nữ than khóc.

“Ác chi mà ác dữ vậy nè! Đă đập chết, c̣n lấy mấu rựa bằm nát mặt, và lột hết quần áo! Tui mà bắt được nó tôi phải bằm nó ra từng khúc, ăn gan nó mới hả giận!”

Bọn chúng đang vơng tên Nhường về. “Tên này là tên thật nguy hiểm,” tiếng của một tên trong bọn vang lên. “Nó không có trốn một cách b́nh thường, nó c̣n nấn ná lại để ra đ̣n thù nữa. Không biết có đồng chí nào bị thương không.”

Thật ra, bọn bộ đội không dám truy kích lên núi. Sau lúc lấy được xác của tên Nhường, bọn chúng biết được ḷng hận thù và quyết tâm của anh, nên không dám theo truy kích. Chúng chỉ kích theo b́a rừng hy vọng sẽ t́m gặp anh. Đêm đó bọn chúng không thành công. Sáng ra, nh́n vẻ mặt phờ phạc của đám bộ đội truy kích, anh em trong trại hiểu ngay là chúng đă thất bại. Trong pḥng anh em tù đoán già đoán non về tung tích của anh Đinh Công Chương.

“Gớm thật, dám thách thức bộ đội bằng cách chỉ hướng đi của ḿnh, trừ Đinh công Chương, chẳng có ai dám như thế cả.”

Sáng Chủ Nhật, các pḥng giam được mở như thường lệ để cho tù đánh răng súc miệng tuy trễ hơn một tiếng. Hôm đó, tuy được mở cửa, anh em không ùa ra đi giành cầu như thường lệ. Anh em cứ tụm thành từng nhóm trước cửa pḥng của ḿnh, mắt đăm đăm nh́n về khu ‘kỷ luật’ nơi toán nhổ ḿ đă bị nhốt từ chiều qua. Nh́n vẻ mặt hận thù của mấy tên cán bộ, bộ đội, anh em đoán được một bầu không khí sát phạt sắp diễn ra.

“Thế nào bọn chúng cũng không để yên cho toán ḿ đâu. Tụi nó muốn dằn mặt đám tù c̣n lại.”

Quả thật, đúng 8 giờ sáng, một toán cán bộ với súng ống đầy đủ lặng lẽ đi vào cổng. Chúng tôi đă quá rành kiểu này của bọn chúng.

“Ai về pḥng nấy!” Tên chỉ huy lớn tiếng.

Bọn chúng nhanh nhẹn tản ra để lùa đám tù nhân hiếu kỳ vào pḥng và khoá cửa lại.

“Chợ trời chăng?” Anh em hỏi nhau.

‘Chợ trời’ trong tù không mang ư nghĩa giống như một chợ trời b́nh thường. Đó là một danh từ mang một ư nghĩa nhất định. Nhất định ở đây không mang ư nghĩa ‘nhất định’ của Cộng Sản đâu nha. ‘Nhất định’ của CS có nghĩa là một cái ǵ đó, không nhất thiết phải là cái ǵ. Nhất định theo cách dùng của chúng ta là ‘duy nhất’. Đó là tổng kiểm soát! Từng pḥng sẽ được mở ra cho tất cả người trong pḥng mang đồ đạc của ḿnh ra ngoại sân và bày ra giống như chợ trời để bọn cán bộ ‘thu mua’, một từ khác của CS mà người tù ám chỉ việc tịch thu những đồ ǵ chúng không muốn cho trại viên sở hửu, hoặc chúng muốn dùng làm của riêng cho bọn chúng. V́ thế anh em trại viên rất ngán cái màn chợ trời này.

Không, hôm nay không phải là ‘chợ trời’, mà là một biến cố khác. Sau khi đóng xong các cửa pḥng giam, bọn chúng tập trung lại và vào khu kỷ luật. Anh em toán ḿ từ từ được gọi ra sắp thành một hàng ngang đối diện với đám cán bộ quản chế. Theo một hiệu lệnh của tên chỉ huy, đám cán bộ nhào vào đám tù nhân xông xáo như sói giữa bầy chiên, vận dùng hết những kỷ năng của chúng, bá dọc bá ngang, lên gối, kiềng ngang, kiệng dọc, đủ cả. Anh em trong pḥng chỉ c̣n nghe được những tiếng thét kêu đau của anh em toán ḿ, những tiếng than văn xin tha mạng, những tiếng cười dă man của bọn quỷ dữ đang hành hạ tội nhân. Rơ ràng là bọn chúng làm theo chỉ thị của ban giám thị, chứ chẳng phải v́ hận thù cá nhân! Đă có nhiều người bị đánh té đái, phọt phân trong quần! Thật không may, trong số những nạn nhân này có hai anh em v́ không chịu nổi những đ̣n thù đó đă chính thức ‘thoát trại’ hai ngày sau đó!

Người ta bị đánh mà ḿnh cảm thấy nóng mặt. Dù ǵ cũng là những người tù với nhau. Họ cảm thấy như chính ḿnh bị những đ̣n thù ấy! Tôi chứng kiến cảnh ấy với vẻ mặt b́nh thản! Quư vị đừng hỏi tại sao!

Anh Đinh Công Chương đă cho chúng tôi nghỉ mấy ngày. Những ngày ấy bộ đội bận đi kích dọc theo b́a rừng. Họ không dám vào rừng v́ nghĩ rằng anh Chương vẫn c̣n ở đó, chưa đi đâu cả. Quả vậy, trong hai ba ngày đầu, anh vẫn c̣n trong rừng đợi bọn chúng đến. Bằng chứng là vào tối thứ hai, trong khi bọn chúng đang kích ở triền núi, anh Chương đă quay trở lại cơ quan của chúng lấy đi gạo và một ít đồ dùng. Đúng là gan cùng ḿnh! Có lẽ anh đă bỏ đi sau đó v́ không ai thấy anh xuất hiện nữa.

Đúng như anh đă từng nói với tôi, anh đă không trở về nhà, mặc dù vùng này không xa B́nh Khê mấy. Anh em B́nh Khê được gia đ́nh cho biết là bộ đội đă ŕnh rập chung quanh nhà anh cả tháng, nhưng không thấy anh đâu cả. Tuy vậy, mọi người cũng được biết chút ít tin tức về đường đi của anh. Trên đường, anh đă giết 7 tên bộ đội và du kích đă đi theo anh và tịch thu súng ống đạn dược và lương thực của họ. Theo lời môt tên cán bộ quản chế cho biết: Cơ quan đă thuê hai viên trung úy người Thượng, những tên rất gan dạ và có thành tích để theo dấu anh. Một tuần sau, có kẻ đă gặp họ trong rừng, mặt bị bằm nát và treo lủng lẳng trên cây!

Cho đến ngày chúng tôi được cho về nhà: một số với nửa trang giấy lệnh tha; số khác như tôi chẳng hạn, v́ cho rằng có ‘nợ máu với nhân dân’ đă được cho về đia phương bằng quyết định quản chế tại địa phương. Tôi đă cố t́m hiểu xem anh có thoát được không. Nhưng anh như con cá đă vượt xa ra biển, không một tin tức.

Cầu mong rằng số phận của anh sẽ không đến nỗi nào!


Song Long

hoanglan22
09-28-2020, 14:53
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1661806&stc=1&d=1601304718


Vào cuối năm 1975, hàng ngàn tù nhân sĩ quan cấp tá của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa từ nhiều trại tập trung cải tạo vùng chung quanh Sài-G̣n đă bị chuyển về nhốt tại trại tù Suối Máu, Tam- Hiệp, Biên- Ḥa.

Một đêm giữa tháng 10, 1975, từ Long Giao, tôi bị chuyển tới đây trên một chiếc Molotova bít bùng kín mít. Tôi bị dẫn vào khu K2. Hai tuần sau có lệnh “biên chế,” tôi lại bị chuyển sang khu K3. K3 chỉ chứa sĩ quan cấp thiếu tá. Tôi bị giam ở đây từ ngày 1 tháng 11, 1975 cho tới ngày lên tàu Sông Hương ra Bắc (tháng 7, 1976.)

Thời gian này, tin tức truyền thanh, truyền h́nh về t́nh h́nh thế giới càng lúc càng xấu đi. Người ta đồn rằng, h́nh như Cộng-Sản Việt-Nam đang trên đường tiến chiếm Thái-Lan. Thế Giới Tự Do như càng lúc càng xa chúng tôi hơn.

Anh em chúng tôi gặp nhau thường ngày, tụ tập từng nhóm, đánh cờ tướng, tán gẫu, bàn chuyện nhà cửa, gia đ́nh, nước non, thời quá khứ. Trong những lúc tụ tập chuyện tṛ, chúng tôi nghe bạn bè rỉ tai rằng, “Chính quyền Giải Phóng” đang nghiên cứu hồ sơ cá nhân của từng người, để xét tha (?) Cũng có tin bi quan, cho rằng chúng tôi sắp bị đưa ra Ṭa án Nhân dân để xử tội. Chúng tôi thực sự hoang mang, chẳng biết tương lai ḿnh sẽ đi về đâu.

Tôi ở Lán 24 thuộc K3 (danh từ VC gọi Lán là nhà, K là Khối.) Mỗi lán chứa khoảng hơn 40 tù nhân, trong Lán 24 đó có vài cựu Sĩ quan Đà Lạt gồm anh Trần Ngọc Dương (K10), Nguyễn Lành (K16), Hoàng Thế B́nh (K18), Tạ Mạnh Huy (K19), khóa 20 có Ngô Văn Niếu và tôi (Vương Mộng Long). Lán tôi cách Lán 17 vài thước. Lán 17 có ba anh Biệt Động Quân K20 Vơ Bị là Nguyễn Cảnh Nguyên, Trịnh Trân, và Quách Thưởng. Trong cảnh đói khát thường xuyên, chúng tôi phải chia nhau từng mớ rau dền, tán đường thẻ, miếng cơm cháy.

Lán 24 lúc nào cũng hôi thối đầy ruồi nhặng, v́ nó nằm trên đường đi ra cầu tiêu, mà bệnh kiết lỵ của tù nhân cải tạo ở đây hầu như bất trị.

Anh trưởng Lán 24 tên Trần Thành Trai, nguyên là Y sĩ Thiếu tá làm việc tại Quân y viện Duy-Tân, Đà-Nẵng. Bác sĩ Trai luôn luôn xác định lập trường của anh là quyết tâm “học tập tốt” để được tha về với vợ con, v́ vậy mỗi lệnh của ban chỉ huy trại đưa xuống, anh luôn luôn t́m cách thi hành đúng đắn.

Thằng Niếu, bạn tôi, được một chân làm bếp, nó ăn uống dưới bếp, nên phần cơm của nó dư, được mang về tiếp tế cho tôi và anh Nguyễn Phong Cảnh, người nằm cạnh tôi.

Vào những ngày cuối năm Ất Mẹo, không khí ở đây trở nên rộn rịp vô cùng. Những người liên lạc được với gia đ́nh th́ có những gói quà nhỏ gởi vào cho ăn Tết, những kẻ ít may mắn hơn th́ đành trông chờ vào những ǵ ban chỉ huy trại ban cho. Thời gian này, các lán gấp rút tập văn nghệ để tŕnh diễn đêm Giao Thừa.

Để khỏi tập ca hát nhảy múa, tôi t́nh nguyện làm công tác tạp dịch, quét tước. Trong khi mọi người ca múa, xả rác, tôi đi lượm rác và xách nước về cho bạn cùng lán rửa mặt rửa tay.

Hai ngày trước Tết, lán tôi phải tập họp đi làm cỏ ngoài rào K3.

Trại Suối Máu vốn dĩ là trại tù Phiến Cộng Tam-Hiệp của Quân Khu 3 Việt-Nam Cộng-Ḥa. Trại có hai khu, hai hệ thống hàng rào. Lớp rào trong nhốt tù, rồi tới khu canh tù, ngoài cùng là rào ḿn pḥng thủ. Trại tù Phiến Cộng này có 6 khối. Mỗi khối cách biệt nhau bởi một khoảng đất trống, có rào ḿn. Từ khối này muốn liên lạc với khối kia chúng tôi phải hét lên mới nghe tiếng nhau.

Ra khỏi hàng rào thứ nhất, tôi chứng kiến vài sự đổi đời.

Cái miếu thờ Thổ Địa trở thành cái chuồng nuôi heo. Nhà Thờ và Niệm Phật Đường của trại tù binh đă thành chuồng gà sản xuất. Sư và Cha, Tuyên úy của trại này, chắc cũng đi tù đâu đây không xa!

Ngoài xa, bên kia hàng rào ḿn là băi cỏ trống rồi tới đường Quốc lộ 1.Trên Quốc lộ, xe Lamb chạy xuôi ngược; người người vội vàng buổi chợ cuối năm. Có vài bàn tay giơ lên ngoắc ngoắc về hướng trại tù, đôi người dân có liên hệ, hoặc ai đó c̣n nhớ tới chúng tôi, những sĩ quan cấp tá của Quân Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa, những người bảo vệ chế độ đến giờ cuối cùng, và những người chậm chân, chạy không kịp, đang bị nhốt ở đây, trong khu nhà tù do chính tay Công-Binh Việt-Nam Cộng-Ḥa xây dựng lên trước đó nhiều năm.

Sáng nay bầu trời màu xanh, không một gợn mây. Từ hướng phi trường Biên-Ḥa, bên kia cánh đồng trồng khoai ḿ, những chiếc F5 thực tập lên, xuống, lượn ṿng…

Đưa tay chỉ những cánh chim sắt đang bay trên trời cao, anh bạn Thiếu tá Không Quân, Trần Chiêu Quân nói với tôi rằng, sau 30 tháng 4, có một số phi công của Việt-Nam Cộng-Ḥa bị trưng dụng để huấn luyện cho phi công Bắc-Việt lái những máy bay chúng ta c̣n để lại.

Những chiếc F5 sáng như bạc đảo lộn trong không gian. Tiếng rít của phi cơ làm cho tâm hồn người cựu chiến binh nao nao.

Làm sao quên được? Lần đầu ra trận (Tháng 2, 1966). Hôm đó, cũng vào một sáng đầu Xuân, đơn vị tôi án binh dưới chân núi Trà-Kiệu (Quảng-Nam) chờ lệnh xuất phát. Tôi ngồi bên bờ Nam sông Thu-Bồn, say sưa nh́n những cánh F-4C, F-5A Hoa Kỳ đan nhau trên vùng trời Bắc. Bên kia sông, vùng trách nhiệm của Trung Đoàn 51 Biệt Lập, khói đạn bom cuồn cuộn…

Rồi tới trận Mậu- Thân (1968) với những chiếc Skyraider dềnh dàng, chậm răi phóng từng trái Napalm dài như chiếc xuồng màu trắng, lướt trên đỉnh 1632 cuối phi đạo Cam-Ly, Đà-Lạt. Khi bom chạm mục tiêu, từ đó, những sợi lửa lân tinh trắng xanh, trông giống như những cái ṿi bạch tuộc, vươn cao…

C̣n nữa…

Nhớ thời chống giữ Pleime, ngày ngày, tôi nghe quen tiếng L19 lè xè của Vơ Ư (K17VB). Chiếc L19 như cánh diều mảnh khảnh, lững lờ quanh đỉnh Chư Gô, hay trên Ia Drang, thung lũng Tử Thần…

Chúng tôi trông chờ đôi lúc trời trong, những phi tuần A-37 theo nhau tuôn bom… chờ những chiếc trực thăng rà sát đọt cây, lướt trên ngọn cột cờ căn cứ. Cơ phi, xạ thủ trên tàu chỉ kịp đạp vội xuống sân trại vài thùng điện tŕ, đạn, gạo sấy, con tàu đă lật bụng đảo một ṿng, thoát chạy về Đông. Pḥng không như lưới, thảy xuống cho nhau được thùng nào, hay thùng nấy! Thảy đồ xong là chạy. Đồ tiếp tế, có thùng c̣n nguyên dạng, có thùng vỡ tan, có thùng bay vào băi ḿn. Như thế cũng quư hóa lắm rồi! Cám ơn anh em Phi đoàn 229 Lạc Long!

Rồi đêm xuống, cứ như “Đúng hẹn lại lên!” Chiếc AC 47 của anh Trần Bạch Thanh (K17) đă có mặt trên vùng.

“Thái Sơn! Đây Hỏa Long gọi!”

Những đóm hỏa châu lập ḷe, vừa trải rộng tầm quan sát cho người trấn giữ tiền đồn, vừa làm cho họ cảm thấy ấm ḷng.

Đă mất rồi, ngày xưa ấy! Giờ này tôi đang đứng nh́n những cánh chim sắt chao lượn trên đầu, người lái không phải là quân bạn.

Tiếng động cơ F5 nghe sao quá xót xa!

o O o

Tôi đang nhổ cỏ th́ thấy một đoàn người từ hướng ban chỉ huy trại ḥ nhau khiêng một cái cổng gỗ rất to vừa đóng xong.

Tấm bảng nền đỏ chữ vàng “Không Có Ǵ Quư Hơn Độc Lập Tự Do” được nâng niu như trứng trên vai những người tù nhễ nhại mồ hôi. Những người tù đang bị sức nặng của cái cổng đè trĩu trên vai. Họ phải lên gân chân mỗi lúc bước tới trước.

Mới vài tháng trước đây họ c̣n là những vị chỉ huy oai phong lẫm liệt. Giờ đây đành cam thân sống cảnh đọa đày, đóng vai những anh thợ mộc bất đắc dĩ không công. Ngày nào họ cũng ra đi rất sớm, chiều tối mới trở về trại. Họ dựng những cái cổng chào. Họ tu sửa, sơn phết những khẩu hiệu trên tường. Họ trồng lại hàng rào trại.

Mọi việc làm này là để chào đón ngày Quốc-Hội Việt-Nam Thống-Nhất ra đời. Những vị sĩ quan cao cấp này đă khởi đầu nghề thợ mộc của họ bằng những cái bảng “Không Có Ǵ Quư…” ở trại tù Tam-Hiệp.

Tôi có quen vài người trong số những “cải tạo viên” hằng ngày xuất trại làm mộc, như vị sĩ quan cựu Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân/ Quân Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa và vị sĩ quan cựu Tiểu Đoàn Phó Nhảy Dù. Cả hai vị đó, sau này nơi đất Bắc, đă thành hai ông đội trưởng nổi tiếng. Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh!

Chỉ chín tháng sau ngày chế độ Cộng-Ḥa sụp đổ, giờ đây tôi đang chứng kiến một hoạt cảnh không ai có thể tưởng tượng nổi: Trên trời, phi công Việt-Cộng đang lái F5; trước cổng trại tù, sĩ quan cấp tá Việt-Nam Cộng-Ḥa đang dựng cổng chào; quanh rào trại tù, sĩ quan cấp tá Việt-Nam Cộng-Ḥa đang làm cỏ. Nơi nơi, người người, chuẩn bị đón Xuân. Mỗi người mang một tâm sự riêng…

Tới trưa, khi nghe tiếng kẻng phát cơm của nhà bếp, chúng tôi được dẫn trở lại trong ṿng rào trại K3. Khi đi ngang qua sân bóng chuyền, tôi thấy người ta đang cá độ nhau trận đấu tay đôi đang diễn, một bên là Thiếu tá Trần Đạo Hàm, cựu vô địch nhảy cao của Quân Đội Việt-Nam Cộng-Ḥa, bên kia là một tay Thiếu tá Không Quân. Anh Lê Hữu Khái (K15) và thằng bạn Nguyễn Bích (K20) của tôi đang nhảy tưng tưng cổ vũ cho anh Hàm v́ anh Hàm là “gà nhà”, Vơ Bị khóa 17! Cái miệng thằng Bích lớn lắm, nó la hét vỗ tay, b́nh luận ào ào. Anh Hàm thật là may mắn, có cái loa phóng thanh cỡ bự Nguyễn Bích cổ vũ nên anh có vẻ như đang dẫn điểm.

Tôi thấy nhiều người đă để ghế “xí” chỗ tốt cho buổi TV văn nghệ tối; ngày nào cũng thế, cứ đến trưa là bà con đem ghế ra đặt sẵn trên sân bóng để “xí” chỗ xem phim TV của đài Sài-G̣n Giải-Phóng. Ai chậm chân th́ không c̣n chỗ tốt. Thời gian này TV Sài-G̣n Giải-Phóng liên tiếp chiếu bộ phim nhiều tập “Trên Từng Cây Số” và “Đại úy Đen” của Ba-Lan.

Trong các lán, có nhiều bạn tụ tập bóc lột nhau bằng những con bài. X́ phé, sập xám và mạt chược là những môn chơi phổ thông khắp nơi trong trại. Tôi đă chứng kiến nhiều anh thua bạc phải bán cả những quà cáp từ gia đ́nh gởi vào, như kem đánh răng, thuốc lào, thuốc tây để trừ nợ.

Sau Tết ít lâu, tôi nghe một câu chuyện đau ḷng ở K3 năm ấy: có một vị Thiếu tá Quận trưởng khi cắt bánh thuốc lào làm đôi để chi cho chủ nợ một nửa, th́ phát hiện ra một bức thư “chui” của người nhà giấu trong ruột bánh thuốc lào. Bức thư vắn tắt đôi lời làm đau ḷng người đọc:

“Chị ấy đă gởi hai đứa con của anh cho bà nội của chúng nuôi. Chị đă đi lấy chồng rồi! Anh đừng buồn, ráng học tập lao động cho tiến bộ để sớm được thả về mà nuôi dạy con anh.”

Cái tin bất ngờ sét đánh ấy đă làm cho ông Quận sững sờ, buông rơi những con bài Cơ, Rô, Chuồn, Bích…

Từ đấy, tôi thấy ông suốt ngày thẫn thờ bên rào, nh́n về phía xa xôi. Đôi lúc tỉnh táo, ông ôm cây Guitar, đàn solo những bài nhạc xưa, buồn đứt ruột.

Tôi bồi hồi nhớ lại lời Tổng thống nói ngày nào:

“Đất nước c̣n, c̣n tất cả. Đất nước mất, mất tất cả!”

Ôi! Lời Tổng thống nói thật là hữu lư!

Tổng thống ơi! Chúng tôi đă cố gắng hết sức ḿnh để giữ nước, nhưng chúng tôi đă không thể giữ nổi. Chúng tôi lấy làm xấu hổ vô cùng! Sao Tổng thống không ở lại giữ nước với chúng tôi? Lúc này chúng tôi đă “mất tất cả” rồi Tổng thống ơi!

Về tới lán, tôi nhận được một vỉ thuốc ho, một nắm xôi đậu xanh, và mười cục đường tán do anh bạn Phan Văn Hải gởi cho.

Tôi, Phan Văn Hải, cùng ba anh bạn khóa 20 Vơ Bị là Phan Độ, Huỳnh Bá An, Trần Hữu Bảo, xuất thân từ trường Nam Tiểu Học Đà-Nẵng. Chúng tôi là học tṛ của cô giáo Phạm Thị Tịnh Hoài, lớp Nhất C.

Phan Văn Hải là sĩ quan khóa Đặc biệt Thủ Đức, anh về phục vụ cùng đơn vị Biệt Động Quân của tôi ở Pleiku. Những ngày cuối của cuộc chiến, Thiếu tá Phan Văn Hải giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 89 Biệt Động Quân. Khi đi tù, bạn tôi không có ai thư từ, tiếp tế, nhưng hắn bài bạc rất giỏi, nên lúc nào cũng sung túc.

Chiều hôm đó, anh lán phó hậu cần, Hải Quân Thiếu tá Bùi Tiết Quư thâu tiền của trại viên trong lán, gởi cán bộ trại mua giùm ḿ gói, tương, chao, x́ dầu và đường tán để ăn bồi bổ thêm trong ba ngày Tết. Tối đến, sau khi đă chia hết phần đường cho người mua, anh Quư cạo được một chén đường chảy dính trong thùng giấy và bao giấy gói đường. Anh ung dung ngồi thưởng thức nồi chè đặc biệt, nấu bằng đường mót được với hột su su và mấy hạt bắp non anh trồng được bên rào. Làm đội phó hậu cần cũng có chút bổng lộc!

Sáng Ba Mươi Tết, lại gặp ngày tổ tôi trực lán, tôi và một số bạn bị chỉ định xuống làm việc tăng cường cho Lán 9 nhà bếp. Tôi phụ việc vo gạo cho thằng Niếu và anh Cung. Những tạ gạo đựng trong bao viền chỉ xanh rất cũ được chuyển về từ bưng biền. Gạo th́ mốc vàng, mốc xanh.

Những tổ sâu gạo to như nắm tay. Khi tôi tách những cái tổ sâu ra từng phần nhỏ th́ những con sâu gạo trắng ngần có khoang, béo núc, to gần bằng đầu đũa và dài cả phân, ngo ngoe, ngo ngoe…

Anh Cung không cho phép tôi vứt bỏ những cái tổ sâu ấy, anh nói rằng nếu vứt bỏ sâu đi th́ hết gạo, “Nếu vứt sâu đi th́ c̣n cái ǵ mà ăn? Cứ nấu tưới đi! Sâu cũng bổ béo, cũng nhiều Prồ-tê-in, sâu gạo chứ có phải là ḍi ở ngoài chuồng xí đâu mà ngán!”

Khi chảo cơm bắt đầu sôi th́ nhiều khách khất thực nước cơm đă cầm ca đứng đợi. Anh Cung cho vài người, mà cũng từ chối đôi người. Người có phần, th́ riu ríu cám ơn, người không có phần tiu nghỉu ra về, miệng lầm bầm, “Đ! M!… Đ!M!..”

Những trại viên nhà bếp gọi đám người chờ xin nước cơm là “Đội quân cầm ca.” Chữ “cầm ca” ở đây không có nghĩa là ca sĩ, ca hát, hay ca kỹ mà có nghĩa đen chỉ sự cầm cái ca U.S dùng để đựng nước uống, cái ca nằm dưới cái bi-đông bộ binh ấy mà!

Dân “cầm ca” phải đứng xếp hàng cả giờ đồng hồ trước cửa ḷ cơm để chờ xin một ly nước cơm. Nước cơm có Vitamin B1 chữa được bệnh phù thủng (?) Chuyện xếp hàng trước, xếp hàng sau, đôi lúc cũng gây ra ẩu đả.

Sau này, khi ở trại tù Phú-Sơn 4, Thái-Nguyên, tôi có đọc một tài liệu nói về cái chất độc của nấm cúc vàng từ gạo mục, gạo mốc. Nấm cúc vàng có chứa một loại chất độc nguyên nhân gây ung thư gan. Nước cơm lại là phần đậm đặc nhất của chất độc nấm cúc vàng từ gạo mốc. Không biết có bao nhiêu nạn nhân của bệnh xơ gan sau này có mặt trong đội quân “cầm ca” ngày ấy?

Chiều Ba Mươi Tết, bữa ăn có thịt heo kho. Thằng Niếu đem thêm về cả phần ḷng heo bồi dưỡng nhà bếp của nó.

Thời buổi khó khăn, thuốc lá bắt đầu khan, những tay nghiền miền Nam bắt đầu nói chuyện thuốc lào.

Những danh từ “điếu cày,” “điếu bát,” “Cái Sắn,” “Hố Nai,” “Vĩnh Phúc,” “Tiên Lăng” nghe măi cũng quen tai.

Anh Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân của tôi, từ bên K4 nhờ ai đó chuyển cho tôi được một bao thuốc lá 555 và một lạng cà phê.

Trong khi thằng Niếu và anh Cảnh lo bếp núc cúng Tất Niên th́ tôi đi ṿng ṿng tán dóc với anh bạn Lưu Văn Ngọc, cựu Sĩ quan Quân Pháp Quân Đoàn II.

o O o

Tối Ba Mươi Tết ở K3 Suối Máu không khí thật là rộn ră tưng bừng. Mọi lán đều đă chuẩn bị sẵn sàng chương tŕnh văn nghệ chào đón Chúa Xuân. Sân khấu văn nghệ được thiết lập giữa sân tập họp. Đèn điện sáng choang. Cờ Mặt Trận Giải- Phóng Miền- Nam che kín cả sân khấu.

Trước giờ văn nghệ, loa phóng thanh truyền đi những bản nhạc từ đài Sài- G̣n Giải- Phóng mà Tô Lan Phương là giọng ca chính. Những nghệ sĩ tù cũng ăn mặc tươm tất để sẵn sàng tŕnh diễn giúp vui. Đàn ghi-ta, trống, sáo đều làm bằng vật liệu lấy từ kho của nhà bếp như tôle, củi, ván gỗ…các nghệ nhân tự đẽo gọt, cắt xén, dán, ghép thành các nhạc cụ.

Tám giờ tối, buổi “Liên hoan văn nghệ” đêm Ba Mươi Tết bắt đầu.

Mở màn chương tŕnh là bài đồng ca “Như có Bác” tôi không nhớ do lán nào tŕnh diễn.

Kế tiếp, cựu Thiếu tá Không Quân Hoàng Đ́nh Ngoạn (K17 VB) lên đài trong tiếng hoan hô vỗ tay của “đồng bọn” tù Vơ Bị.

Anh vừa hát được nửa bài t́nh ca, nhạc vàng “Mùa Xuân Trên Đỉnh B́nh Yên” th́ bị cán bộ Cộng-Sản chặn lại, đuổi xuống đài. Lư do, “Nhạc Ngụy ủy mị!”

Sau đó, chỉ những bài hát “Giải Phóng” mới được phép tŕnh diễn.

Trên sân khấu, tiếng sáo trúc Tô Kiều Ngân lâm ly bài “Mùa Xuân Trên Thành Phố HCM” ḥa ca cùng tiếng sáo miệng của Nguyễn Tuyên Thùy. Tôi cũng nghe vọng lại từ các khu khác, đại để, bạn tù cũng chỉ hát những bài ca eo éo, nghe rợn tóc gáy, như “Cô Gái Vót Chông,” “Tiếng Đàn Ta Lư,” “Năm Anh Em Trên Chiếc Xe Tăng” vân vân…

Khắp 6 khu của trại tù đều sáng rực ánh đèn và vang rền tiếng nhạc…

Năm mới đang từ từ tiến về…

Đến khi màn tŕnh diễn của Lán 24 vừa được giới thiệu, th́ tôi bỏ chạy về lán. Tôi ngồi một ḿnh trong cái nhà tôle vắng tanh. Nỗi đau đớn nhói tim tôi!

Ngoài kia, bạn cùng lán của tôi, không tự nguyện, đang phải đóng vai “Dân quân chống Tầu, chống Tây, chống Mỹ, chống Ngụy” trong một vở trường kịch. Khi họ tập bài bản trong lán, tôi biết họ cũng đau ḷng lắm.

Bạn Vơ Bị của tôi, Tạ Mạnh Huy v́ là Tây lai phải đóng giả làm Tây cho người ta trói. Thằng Niếu phải đóng vai “Biệt Động Quân Ngụy” giơ tay đầu hàng để anh Dương người Bắc, đóng vai bô lăo nông dân Việt Nam “đả đảo”. Mỗi lần tập xong, các bạn tôi đều buồn, họ đề nghị anh lán trưởng Trần Thành Trai cho tập một kịch bản lịch sử “Vua Quang Trung diệt quân Thanh” nhưng anh lán trưởng không đồng ư.

Anh Trai nói, “Ban chỉ huy trại đă ra lệnh” cho anh phải thực hiện cho được trường kịch này để mừng Giao Thừa, v́ nó có tính cách “Lô gích lịch sử” (?)

Và đêm ấy, anh đội trưởng Trần Thành Trai đă thực hiện thành công xuất sắc vở trường kịch “Việt Nam 4000 năm anh hùng.”

Ngay sau khi bế mạc buổi văn nghệ mừng Xuân Bính Th́n, mùa Xuân đầu tiên của nước “Việt Nam Thống Nhất” cũng là mùa Xuân đầu tiên quân và dân Miền Nam mất nước, anh đội trưởng Trần Thành Trai đă được ban chỉ huy trại “tuyên dương công lao” trước trại.

Khi trên sân khấu người diễn kịch bắt đầu hát bài “Tiến Quân Ca” th́ tôi bật khóc.

Một ḿnh, ngồi trong đêm tối, tôi nức nở khóc vùi. Tôi chưa bao giờ thấy cái khóc lại có hiệu lực chữa đau đớn hiệu nghiệm như đêm ấy!

Chợt tôi nghe tiếng chân ai ngoài cửa lán. Rồi tiếng lên đạn súng AK…

Th́nh ĺnh, tia đèn pin chiếu ngay mặt tôi, làm mắt tôi chói lóa.

“Anh kia! làm ǵ ngồi khóc đấy? Sao không đi “rự nễ” mừng Xuân?”

Tên bộ đội đi tuần tra lớn tiếng hỏi.

Tôi lấy tay che mắt, nhưng không nh́n thấy ǵ. Tôi lặng thinh. Tiếng quát lại tiếp:

“Anh có mồm không th́ bảo? Câm à? Sao không giả nhời tôi?”

Tôi vẫn ngồi im. Ánh đèn đảo một ṿng quanh vách lán rồi tắt. Căn pḥng tối om. Tôi nghe tiếng chửi:

“Địt mẹ thằng câm! Mới xa nhà có mấy tháng mà đă nhớ nhà phải khóc. Ông đây xa nhà hai ‘lăm’ rồi mà ông có khóc đâu! Đồ không biết xấu hổ!”

Tôi vẫn lặng thinh.

“Rầm!” Tên bộ đội giận dữ, đóng sập cửa lán.

“Chảng!” Nó c̣n bồi thêm một cái đá cật lực vào vách tôle.

Vài giây sau, tôi nghe tiếng dép râu bước đi xa dần về hướng sân. Tôi nh́n đồng hồ tay (ngày đó chưa có lệnh thu giữ tư trang của tù) đúng lúc này hai cái kim lân tinh vừa chập nhau trên số 12: Giao Thừa!

Ngoài sân tiếng ca hát c̣n đang tiếp tục. Tôi mồi một điếu thuốc 555. Trong trí óc tôi, h́nh ảnh những Giao Thừa đă qua trong đời hiện về, mờ nhạt như từ thế giới nào rất xa…

Ngày xưa, mỗi độ Giao Thừa, cho dù lúc đó tôi đang đi hành quân với một toán Biên Vụ (Viễn Thám) quân số chỉ có 6 người, lần ṃ trên những nhánh của hệ thống “Đường ṃn Hồ Chí Minh” trên đất Lào, hoặc len lỏi trong rừng tre gai Plei-Trap Valley, hay lúc tôi đang chỉ huy cả năm trăm, sáu trăm quân trấn giữ Pleime, hoặc ải địa đầu Bu-Prang miền biên giới Việt Miên, tôi không lần nào quên nghe chương tŕnh Giao Thừa của Đài Phát Thanh Quân-Đội.

Giao Thừa Xuân Bính-Th́n là Giao Thừa đầu tiên trong đời, tôi không t́m thấy lá cờ nước tôi, không nghe được câu hát: “Này công dân ơi! Đứng lên đáp lời sông núi…”

Bài quốc ca này đă đi vào lịch sử. Một thế hệ đă hát nó với cả bầu máu nóng trong tim. Bao nhiêu người thân của tôi, bao nhiêu bạn bè của tôi đă cống hiến tuổi trẻ và cả thân xác ḿnh cho bài ca đó. Một thế hệ đă lớn lên thành người với bài ca đó. Một thế hệ sẽ mang nó theo, xuống tuyền đài…

Chợt tiếng anh lán trưởng Trần Thành Trai vọng lại trên loa phóng thanh:

“Đổi đời đă tới! Cách Mạng đă thành công!”

Tiếng hô lặp lại hai chữ “Thành công!” của trại viên vang dội đêm Trừ Tịch. Tôi cảm thấy tiếng hoan hô đă làm rung những tấm tôle trên mái.

Trời đêm Trừ Tịch tối đen.

Tôi không biết những vạt đen ẩn hiện sau hè, là bóng những bụi rau dền, giàn mùng tơi hay những hồn ma đói cuối năm chập chờn.

Ngoài xa vẳng lại, từ bên K4, ai đó bắt đầu hát bài “Lá Đỏ”…

o O o

Vài năm sau, tôi nghe tin, cựu Y sĩ Thiếu tá Trần Thành Trai của quân y viện Duy-Tân, Đà-Nẵng, đă được tha khỏi trại cải tạo. Bác sĩ Trai đă cùng Bác sĩ Trần Đông A, cựu Y sĩ Thiếu tá Nhảy Dù, nổi tiếng sau những ca mổ tách rời trẻ song sinh ở Sài-G̣n. Tôi cũng đă nghe tin, giờ này, Bác sĩ Trai đang là một “Dân biểu” của Quốc Hội nước Cộng-Ḥa Xă-Hội Chủ Nghĩa Việt-Nam.

Nhân ngày đầu Xuân Ất Dậu (2005), tôi nhớ lại chuyện xưa, ba mươi năm trước. Nhớ những bạn Vơ-Bị, cựu tù Lán 24 Suối Máu, Tam- Hiệp, Biên- Ḥa.

Trong số những người bạn đó, th́ hai người đă qua đời, là Hoàng Thế B́nh và Ngô Văn Niếu. C̣n những bạn khác như Dương, Lành, và Huy th́ đang ở Mỹ, không rơ họ có c̣n nhớ chuyện ngày xưa hay không?

Riêng tôi, cái đêm Giao Thừa ba mươi năm trước ấy đă trở thành không thể nào quên, v́ đó là lần đầu trong đời, tôi đón năm mới với thân phận một người tù mất nước…!!!

VML – K20 –

Lời bàn

Tập thể tù ở đâu cũng có những tên anten, làm chó săn !!, nhưng không nhiều ,tuy nhiên theo tôi có lẻ trong tất cả các trại tù th́ các trại mà anh em là thành phần tù binh bị bắt tại mặt trận th́ tinh thần vững vàng ,do hầu hết và gần như đồng nhất là lính tác chiến các binh chủng ,hiếm có các loại lính bàn giấy, yễm trợ...nên ngang tàng quen rồi, tính hào hùng có trong máu.

DQY cũng bị tó trên băi biển Thuận An nên cũng như anh em là thành phần tù binh mà luôn luôn hảnh diện điều đó ,sau này cũng có thập tḥ vài tên anten là bị trừng trị thẳng tay, thậm chí sau 5-6 năm khi trại đọc lịnh tha tên anten gộc không dám ra về v́ anh em bà con chờ sẵn bên ngoài để đập cho chết, hắn phải năn nỉ bộ đội ,năn nỉ anh em nói giùm tha cho hắn ra. DQY thuộc trại tù Cồn Tiên-Ái Tử B́nh Điền mà gốc là khi trước thuộc Đoàn 76 giam giử tù binh thành lập từ trước trận Điện Biên rồi chuyễn vào Nam phía bên kia biên giới Lào trong chiến tranh từ 54 tới 75.Tiếp tục cho tới khi giao lại cho ḅ vàng.

DQY cũng xin kể một lần làm anten theo lịnh cán bộ trại :
- Khoăn năm 1978 vào một đêm đẹp trời, DQY được( hay Bị ) cán bộ kêu lên khung ,vừa đi vừa băn khoăn Mẹ họ lại có tên nào báo cáo cái chi rồi ,tự vấn th́ thấy mâm mô cũng có, từ bài bạc ,mua bán đổi chát, hay phát biểu linh tinh...thôi kệ nó tới đâu th́ tới.Nhưng khi lên th́ thấy thái độ cán bộ vui vẻ ,ôn tồn hỏi han ,À, cái này mới lạ v́ DQY biết bản thân ḿnh thuộc loại không chịu tiến bộ !!, nhưng cán bộ quản giáo cho biết là dạo gần đây thấy DQY có tiến bộ , nhưng theo trên khung nói là chưa đủ cần phải tiến bộ nhiều hơn nữa bằng cách giúp cho anh em trong lán trại cùng tiến bộ ,DQY phải báo cáo những ai có tư tưởng chưa tốt ,c̣n cải thiện linh tinh, c̣n quan hệ dân khi ra ngoài lao động...nói chung là làm anten. Chà kẹt dử đa, lúc đó mà say NO th́ nó oánh chết mẹ, mà làm theo lịnh th́ DQY không làm được, cuối cùng DQY có kế sách thoát thận
Khi về tới lán anh em bu hỏi v́ thấy lạ, mấy lần trước kêu lên xong lúc về là lết, có khi máu me tùm lum v́ được tẩm quất tận t́nh ,DQY bảo đăm khi có dịp kể lại các h́nh phạt đă trải qua, sẽ thấy chuồng cọp Côn Sơn ,tra tấn này nọ không tàn bạo bằng ( DQY bây giờ vẫn c̣n sẹo dài cả gang tay dưới thắt lưng phía sau ngay lá gan kết quả trận đánh hội đồng 4 tên vệ binh theo chỉ thị của tên Tŕnh là Chính ũy trại : Đánh cho nó chết !!!

Sau khi về lán DQY xin anh em chú ư nghe DQY nói: Thưa anh em, cán bộ kêu tôi lên và giao nhiệm vụ là về giúp đở cho anh em tiến bộ, cho nên từ nay khi anh em thấy mặt tôi th́ hạn chế nói năng linh tinh, bớt cải thiện hoặc làm kín đáo hơn.....nói chưa hết th́ thấy tên vệ binh bước vào bảo: Mày lên đây, bước ra khỏi lán là hắn đấm DQY liền, Lên tới khung DQY cứ kêu oan là tôi chỉ làm theo lời cán bộ dặn ḍ. Kết quả là cắt thăm gặp ,bị cách chức anten ngay. Đấy lần làm anten của DQY chưa được tới 5 phút là bị cách chức c̣n bị đấm.

Người ta đi tù th́ ráng khai là gia đ́nh cách mạng, riêng phần DQY th́ anh em nói là mày hả, gia đ́nh liều mạng th́ có ,ông già 13 niên hơn ,ông chú ruột cùng với ông anh bà con 17 niên hơn về cuối cùng ( dân t́nh báo ) anh ruột là giặc lái...cho nên DQY cũng có đi thăm nuôi như người ta, thăm ông già ,ông chú..

hoathienly19
09-29-2020, 20:41
VỀ THĂM TRẠI CŨ !

oofyn9Lx9KA

Chuyện kỳ cục nhất thế giới là đây :

Ai cũng biết CS BV đưa bộ đội xâm lăng miền Nam nước Việt Nam.


Lính miền Nam đă hành động đúng là đứng lên cùng nhau cầm súng bảo vệ đất nước.


Trận chiền kéo dài với số dân lành miền Nam chết rất nhiều, điển h́nh như 6000 người dân lành bị thảm sát tại Huế năm MẬU THÂN 1968, và c̣n nhiều vụ khác nửa.


Sau cùng là tới năm 1975 miền Nam đầu hàng.

CHIẾN TRANH CHẤM DỨT trong đau buồn của toàn miền Nam.

Tới đây th́ ai thù ai ?

Miền nam đương nhiên phải thù miền bắc.

Sự thực là như vậy.

Nhưng quá mâu thuẩn .


Miền Bắc lại căm thù miền Nam một cách thậm tệ. Họ lùa tất cả vô tù những ai quan hệ tới chính quyền của VN CH.


Và đây là những trại tù khổ sai kinh khủng nhất thế giới, người bị giử tronng đó bị ăn đói, lao động nặng nề, bị nhục mạ, mắng chửi đánh đập bị biệt giam bất cứ lúc nào và bị giam giử dài hạng không biết lúc nào mới được trả tự do.


Người về nhà sớm nhất khoản 3, 4 năm, có nhiều người th́ 5, 7, năm hay 10 năm thậm chí trên 10 năm và 17 năm. Nhiều người được thả về nhà trong t́nh trạng kiệt sức chĩ chờ chết.



https://huongduongtxd.com/gpmn.jpg


Bên Mỹ thời Nam-Bắc chiến tranh CIVIL WAR, hai phía đành nhau dằn dai 4, 5 năm trời. Khi phe miền Nam đầu hàng , hai phe gặp nhau và thỏa thuận.

Sự thỏa thuận thật đơn giản :

Phe đầu hàng chĩ cần người lính bỏ súng xuống rồi thong thả cởi ngựa trở về nhà và là một CÔNG DÂN B̀NH THƯỜNG ĐỂ CÙNG NHAU XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC.

Nước Mỹ giải quyết chiến tranh thật là đơn giản, văn minh.

an an

hoathienly19
09-30-2020, 15:31
TRUNG TÁ VƠ VÀNG : XIN MỘT LẦN ĐƯỢC NHẮC TÊN ANH



https://lh3.googleusercontent.com/proxy/pxEeUszEL-HTsWCCGWuIaw_mRnKSgw-TBONypNY_WIZRzajNEDQeJj7q-dynkpguKjLTFM88rob-P4wHGfls1-Oz1iWrfPM=s0-d


Thời gian vẫn vô t́nh trôi qua, như nước chảy dưới cầu, như vó câu qua cửa sổ ...Và ḷng ngướ th́ bị cuốn hút vào trong cơn lốc xoáy nghiệt ngă của thời cuộc. Tháng Tư uất hận một lần nữa lại về...


ifAbF1Kka4A


Đă bao lần tôi muốn viết vài gịng trân trọng, để tưởng nhớ anh, nhưng tiếc thay tôi biết quá ít về đời tư của anh, dù đă có thời gian anh đối xử và thương mến tôi, như thằng em nhỏ dại.


Sau khi cải taọ về, tôi đă cố t́m gặp những người có mặt bên anh trong những giây phút cuối, để lấy thêm dữ kiện sống, nhưng cũng không thỏa măn được, những điều tôi muốn biết.


Ngay khi mới đinh cư tại Hoa kỳ, tôi đă t́m ṭi qua báo chí, nhất là những thiên Hồi kư trong tù của nhiều người, nhưng cũng chỉ thoáng qua tên anh.


Tháng Tư năm 1975, tháng Tư 2004 :


29 năm, một phần ba đời người sống thọ, Thời gian thật dài. Sợ chờ đợi măi, có khi trí óc bị bào ṃn. và thời gian sẽ đưa tất cả vào quên lăng. Thà thắp lên tia lửa nhỏ, c̣n hơn ngồi nguyền rũa bóng đêm.


Tôi quyết định, mạo muội viết những kỷ niệm về anh, gọi là thắp nén hương tưởng niệm người Anh-hùng, tôi hằng kính yêu, nhân ngày giổ thứ 27 sắp tới của anh. Tháng 7 năm 1977...Tháng 7 năm 20


CFUrCsjkols


Quen Anh Như Là Một Định Mệnh :

Người ta ở đời, có hai trường hợp.

Thứ nhất :

Mới thoáng gặp nhau là đă có cảm t́nh, muốn tṛ chuyện. muốn kết thân, hay trai gái mơí gặp nhau đầu mày, cuối mắt đă phải ḷng nhau, muốn trao nhau trái tim yêu nóng hổi, sách tướng số, bói toán goị là hạp căn, hạp tuổi, hạp mạng v.v ...

Thứ hai :

Mới gặp nhau dù chưa từng quen biết, mới thoáng qua là đă muốn dọa, muốn đục, muốn đuổi đi cho khuất mắt, sách tướng số gọi là xung khắc, không hạp căn, không hạp mạng, gần nhau là như chó với mèo ...

Tôi hân hạnh quen anh nằm trong hai trường hợp trên.


Sau chuyến công tác, trở về Đà nẵng, buổi chiều hôm đó tôi dẫn cô bé Lệ H...đi ăn ở nhà hàng nổi, trước khách sạn Bạch đằng, đây là lần đầu tiên tôi đưa cô bé đi ăn ở nhà hàng, thường thường chúng tôi đi ăn kem Diệp hăi Dung, cơm gà Hải Nam, hay bánh hỏi thịt nướng, chè Ngă Năm .... đi vào chỗ nào cô bé cũng rụt rè, e-lệ, tôi muốn đưa vào nhà hàng, để cô bé làm quen với không khí mới lạ.


https://hoiquanphidung.com/echo/media/k2/items/cache/500a44935c8320008f1c713a63e32b8e_XL.jpg


Bước chân vào trong, cô bé đă tỏ ra mất b́nh tĩnh, trước không khí nhiểm đầy khói thuốc và sắc áo rằn ri, tôi trấn tỉnh em và đưa vào một góc cuối, hai đứa đang cúi xuống trên tấm thực đơn, chọn thức ăn, th́ có một bóng người đến đứng trước bàn tôi, tôi ngẩng đầu lên, bắt gặp khuôn mặt đỏ ké.

Trong bộ quân phục rằn ri Biệt động, trên cổ aó một bông mai đen, tôi tưởng bạn nh́n lầm người, nên định đứng lên chào, nhưng không, anh chàng đưa mắt nh́n Lệ H... và gằn giọng nói với tôi:

- Ai cho phép mầy nghinh bọn tao ? ? ? Tôi biết ḿnh đang bị kiếm cớ gây sự.

Tôi thầm kêu khổ trong bụng, không phải tôi sợ, tôi là thằng ĺ có tiếng, ngàn lần tôi không sợ, nhưng làm sao tránh cho cô bé khỏi bị tổn thương. Tôi xin vắn tắt vài gịng, xem tôi đă làm ǵ mà các bạn Biệt Động ngứa mắt.

Tôi vừa ra trường trên một năm, xông pha trận mạc vài lần, nhưng nhỏ con, chưa qua khỏi tuổi 21, nên c̣n rất thư sinh, nếu cởi bỏ binh phục thay vào aó trắng quần xanh, tôi cũng chỉ là cậu hoc tṛ Trung học.

Thế mà dám dẫn đào vào đây rước đèn, áo quần cũng rằn ri nhưng khác màu cuả Biệt động, binh chủng chúng tôi có cái thói quen lập dị là không bao giờ mang cấp bậc, nếu có mang cũng rất kín đáo, như muốn không cho ai thấy, gắn ở chuôi dao găm, sau nắp túi aó...


Rừng nào th́ cọp nấy, Thành phố ĐN là rừng của anh em Liên đoàn I BĐQ. Tôi biết tôi đă làm cho các anh gai con mắt, và muốn đục tôi dằn mặt. Anh Thiếu uư chưa thấy tôi trả lời, đă cao giọng ra lệnh :

Mầy hăy đến bàn kia xin lổi mấy anh đi , th́ tau tha cho ! Tôi biết t́nh h́nh quả gay go. thực khách lần lượt ra khỏi nhà hàng. Xin lổi ư ? Không bao giờ, v́ tôi có lỗi ǵ đâu.

V́ tự ái, v́ màu áo tôi đang mặc, tôi biết chắc là có đổ máu, đổ máu một cách vô ích, v́ trong túi quần trận tôi luôn luôn có khẩu Breta nhỏ, Lệ H... tái mét mặt mày...


Tôi bảo nhỏ:

Em qua ghế đá ngồi đợi anh. Tôi bỏ tay vào túi quần, chạm cục thép lạnh, tôi nghĩ nếu anh bạn xáng tôi bạt tai, th́ máu sẽ đổ.

Trong giây phút quả bong bóng căng sắp nổ, th́ có tiếng tằng hắng nghe rơ mồn một ở gần quầy, anh chàng Thiếu úy nh́n lên, lẳng lặng về bàn và cả bộ ba kéo nhau rời nhà hàng.

Lệ H... như chết khiếp, tôi phải trấn an nàng, nên chưa để ư xem ai vứa tằng hắng, mà mấy ông thần gây sự bỏ đi.


Th́ một ngướ cao to, bước đến trước mặt, tôi nh́n thấy cặp galon Thiếu tá trên cổ aó rằn ri, bảng tên trên túi: VANG.


https://hoiquanphidung.com/echo/media/k2/items/cache/e44a6f32e15cb53ee479b2697e759e2e_XL.jpg


Tôi đứng thẳng ngướ chào, nhưng Thiêú tá vỗ vổ vào vai tôi và nói :


- Em hăy ngồi xuống và tự nhiên cùng bạn gái em ăn uống... xem như không có ǵ xảy ra, Ông hỏi tôi về đơn vị, tôi trinh bày đơn vị, cấp bậc và nói :


- Em vừa về sau chuyến nhảy dài nên chưa cắt tóc, các anh kia thấy gai mắt mà sinh chuyện, xin Thiếu tá tha lỗi .

Ông dịu dàng :


Em không có lỗi ǵ cả, thôi quên đi mà vui vẻ với bạn gái, chúng tôi chưa ăn ǵ cả, và thức ăn cũng chưa mang ra. Lệ H... một mực đ̣i về, tôi đành chiều nàng, tôi đứng lên :


- Thưa Thiếu tá, cho em đưa bạn gái về, không ngờ ông sốt sắng lấy xe Jeep đưa chúng tôi về, dù tôi quyết liệt từ chối, sợ làm phiền ông, sau khi trả Lệ H... về nhà nàng, tôi lại đi chơi và tâm sự với ông gần sáng đêm.


Đó là Thiếu tá VƠ VÀNG, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 21 BĐQ, lừng danh trên chiến trường Miền Trung, từ lúc c̣n mài đủng quần trên ghế Trường TH/PCT/ ĐN, tôi đă nghe danh và ngưỡng mộ người anh hùng nầy, không ngờ t́nh cờ như một định mênh xui khiến, tôi được quen Ổng và được ổng thương mến như em út .

Thiếu tá Vơ Vàng, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 21 Biệt Động Quân.


https://scontent-yyz1-1.xx.fbcdn.net/v/t1.0-9/120511962_676433636329126_2887012942969433307_n.jp g?_nc_cat=108&_nc_sid=0be424&_nc_ohc=PAdWr2q3tAoAX_vKD7A&_nc_ht=scontent-yyz1-1.xx&oh=13cab2b40305191a03ee97e6f289dffd&oe=5F9AEFB9


Ông bắt tôi gọi bằng anh và goi tôi bằng mày, (Tiếng mày từ miệng ông sao mà thân mật quá, không như tiếng mày của anh bạn Thiếu-uư BĐ gọi tôi trong nhà hàng, nghe qua đă lộn máu nóng lên đầu...)

Tôi thưa :

Trước mặt lính tráng của Thiếu tá, mà em goị như vậy e bất tiện qúa!

Ổng nghiêm giọng :


Có sao đâu, mầy là em tau, là em tau th́ phải gọi tau bằng ANH ...


Những Năm Tháng Có Anh Trong Đời :


Từ đó sau, những lần về ĐN tôi thường ra căn cứ Liên đoàn 1/BĐQ ở Phú lộc (Trên đường ra Hoà Khánh, quẹo tay mặt) để thăm anh, nhờ đó mà tôi quen gần hết các bạn trong Tiểu đoàn 21/BĐQ, kể cả anh Thiếu uư T. người đ̣i đục tôi trong nhà hàng.

Thời gian những năm 66 - 67 chiến trường miền Trung vô cùng sôi động, Đồng minh ào ạt đổ quân vào, Tiểu đoàn 21 BĐ của Thiếu tá Vơ Vàng đă tạo những chiến công vang dội, Báo chí trong và ngoài nước nức ḷng ngơị khen, Các cấp chỉ huy Quân Đồng minh nể mặt.


Những lần gặp lại anh, tôi được anh thương mến đặc biệt, thường dặn ḍ và bày vẽ những kinh nghiệm chiến trường, v́ duới mắt anh, tôi chỉ là con dê non ưa húc càn.

Anh luôn nói về đời lính, và yêu đời quân ngũ trên hết mọi chuyện, ở anh chỉ có chiến công và mong sớm có thanh b́nh cho Quê hương, Tết Mậu thân, hai anh em cùng hành quân trên một địa bàn, Nam sông Hương, khi tạm yên tiếng súng, anh gọi tôi sớm mai đến Bộ chỉ huy (BCH) cuả anh để uống bia, nhưng đêm đó, tôi nhận lệnh bàn giao khu vực trách nhiệm cho đơn vị bạn, để đến vùng hành quân khác, thất hẹn với anh.


https://hoiquanphidung.com/echo/media/k2/items/cache/d0d354668f69293e040aa69de3140c78_XL.jpg


Sau Mậu Thân, anh được vinh thăng Trung tá và giữ chức vụ Liên đoàn phó LĐI /BĐQ.

Sau đó anh được thuyên chuyển về Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt, giữ nhiệm vụ Trưởng ban Quân vụ, đây là thời gian dài, chúng tôi không gặp nhau, Trương Vơ bị Đà-lạt là chỗ dung thân tốt nhất, cho những ai muốn t́m chữ THỌ, nhưng trong những bức thư anh gởi cho tôi, anh luôn luôn than buồn chán và nhớ chiến trường, hơn ai hết, tôi biết con hổ bất đắc dĩ phải xa núi rừng th́ rất nhớ rừng xanh, núi thẳm, anh mong được trở lại thời ngang dọc cũ.


Và anh được toại nguyện, anh trở ra cầm quân trong chức vụ Trung đ̣an trưởng, Trung đ̣an 5 SĐ2/ BB, tôi cứ đinh ninh với tài thao lược, và kinh nghiệm của anh, đường tiến thân của anh sẽ thênh thang, rộng mở.

Những ngày trước khi Hiệp dịnh Paris được bốn bên kư kết, VC cố đánh chiếm Sa huỳnh, để làm cửa khẩu và cắt đứt con đường huyết mạch Nam Bắc của VNCH, đây là đất anh dụng vơ, anh muốn đánh trận đánh để đời, nhưng đột nhiên tôi nghe anh bị cất chức Trung Đoàn trưởng, nguời cách chức anh là Ch/T Trần văn Nhựt. Tư lệnh SĐ2 / BB.


https://i.postimg.cc/GhK3ZthD/Chun-tng-Trn-Vn-Nht.jpg


Tôi xin dành ít gịng để điểm qua Báo chí về vị tướng nầy :

Trong suốt cuộc đời binh nghiệp của CH/ T Nhựt th́ canh bạc x́ phé, ông ăn đậm nhất là khi mặt trận B́nh long nổ ra, ổng đă về nhiệm sở kịp thời để xí phần, v́ trên cương vị Tỉnh trưởng và Tiểu khu trưởng B́nh Long, ông không góp tí công lao nào cả, mà moị chuyện đă có Ch/Tướng HƯNG Tư lệnh SĐ5/ BB, Đ/Tá Lê quang LƯỠNG LĐ/ Dù. Đ/Tá HUẤN, Liên đoàn 81 Biệt cách / Dù lo trọn gói ...


Khi An lộc được quân dân anh hùng tái chiếm, Bà vợ C/Tướng Nhựt đă chạy cửa hậu, với chị Sáu Thẹo, kiếm cho cái chức Tư lệnh SĐ2/BB và một ông sao (Ông này có số núp bóng quần hồng).

Trong trận tái chiếm Sa huỳnh, SĐ2/ BB dưới tài cầm quân của Ch/T Nhựt th́ ra sao???

Xin mời qúy vị hăy nghe nhân chứng sống, Tr/ Úy Trần thi VÂN, ngườ́ trực tiếp dự trận đánh, với chức vụ Đai đội trưởng ĐĐ1, Tiểu đoàn 21 BĐQ, kể sau đây trong tập bút kư chiến trường ANH HÙNG BẠT MẠNG của Ông:

Mũ Nâu Trần Thy Vân một thời ‘Anh Hùng Bạt Mạng’


https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2020/01/CCB-Tran-Thy-Van-2-1.jpg

https://www.nguoi-viet.com/cuu-chien-binh/mu-nau-tran-thy-van-mot-thoi-anh-hung-bat-mang/


(Theo lời Th/ tá Quách Thưởng kể, trước khi T/T Nguyễn văn Thiệu đến BCH Trung đoàn 6 xem thành quả tái chiếm Sa huỳnh, các khối vũ khí được tŕnh bày riêng rẻ, với tấm bảng đề tên đơn vị tịch thu, dĩ nhiên chiến lợi phẫm của LĐI/BĐQcũng được ghi rơ. Đặc biệt thêm một tấm tương tự treo trên ṇng súng pḥng không 12 ly 8.

Nhưng khi phái đoàn T/T đáp trực thăng xuống, và các Sĩ quan Mũ nâu ra sân đón rước, th́ CH/T TRẦN VĂN NHỰT LIỀN CHO BỘ HẠ NƠI PH̉NG TRIỂN LĂM ĐÁNH THÁO HẾT CÁC TẤM BẢNG GHI CHIẾN LỢI PHẨM, NGHĨA LÀ MỘT DĂY 300 CÂY SÚNG ĐỦ LOẠI DO BĐQ TỊCH THU, BỖNG TRỞ THÀNH CHIẾN LỢI PHẪM CỦA SĐ2/ BB.


Ông c̣n trắng trợn, bỉ ổi không thể tả được là độc nhất có cây pḥng không 12ly 8 của Đ/Đ tôi cũng bị đánh tráo luôn, không chút ngượng tay. Rơ ràng hành động của Ch/T Nhựt như anh hàng thịt, treo đầu heo bán thịt chó.

Tội nghiệp đám Tướng sĩ tượng, cả Xe pháo mă đứng xem chỉ biết tâm tắc khen tài, chứ đâu có ngờ ông b́nh vôi, nữa người nữa ngợm, vừa làm tṛ ảo thuật cướp công xương máu BĐQ ...) (Xin ngưng trích).

Tháng Tư năm 75. Ch/T Nhựt (hay là GIỰT chạy) kéo được ít quân tháo chạy về Tuy Hoà, được Tr/T Vĩnh Nghi, Tư lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 3, giao cho làm phụ tá hành quân, tái phối trí lực lượng, ǵữa lúc dầu sôi lữa đỏ, CH/T Nhựt lên trực thăng xin đi thị sát mặt trận, nhưng vù thẳng ra Hạm đội, đào ngũ.


https://hoiquanphidung.com/echo/media/k2/items/cache/7fb770f34c796f7501d3cf0f0dc39075_XL.jpg


Theo kỹ luật Quân đội :

Khi đối diện với đich mà đào ngũ th́ ra toà án binh, bị tước đoạt binh quyền và có thể bị tử h́nh, nhưng khi qua đến Mỹ Ch/T Nhựt đă không bị lột lon, mà c̣n tự phong là Thiếu tướng, ba hoa chích choè, khi bị báo chí vạch lưng, th́ đánh lận con đen, xưng là Tướng (General) để người ta có thể tưởng là Major General, hay LT General hay hơn nữa, mà thực chật là phường biển lận, tên hèn nhát, kẻ vô liêm sỉ, bất tài.


Đất nước chúng ta, để cho những tên như vậy, giữ trọng trách trấn nhậm, những vùng hiểm yếu, mà măi đến 75 mới rơi vào tay CS, âu cũng là một phép lạ, hy vọng sữ sách, sẽ dành cho những tên tướng Quảng lạc nầy vài chương, để hậu thế tránh vết xe cũ.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1554148532-6ttu.jpg


Hiệp định Paris được kư kết, trong đó, có kèm theo 2 Nghị định Thư, tổ chức hai cơ quan thi hành, đó là ICCS (International Commission Control, Surpervision) goi là Uỷ ban kiểm soát và giám sát quốc tế, gồm hai nước CS la Ba lan và Hungary, hai nước tự do là Indonesia và Canada, nhưng sau Canada thấy không đi đến đâu , nên rút lui và Iran vào thay thế (Thời gian nầy Iran c̣n có Vua Penlavi, thân Mỹ ) và cơ quan kia là :


Ban Liên hợp Quân sự bốn bên và sau c̣n lại hai bên (VNCH Và thằng giải phong đội lốt).


Trung tá VƠ VÀNG bị đưa về Phú Bài, giữ chức vụ Trưởng toán BLH/ QS/VNCH Phú Bài, một chức vụ ngồi chơi xơi nước vối, anh như con cọp bị chặt hết nanh vuốt, buồn rầu, chán nản, tôi đến thăm anh, t́m cách an uỉ anh,cũng như t́m hiểu nguyên nhân tại sao, cờ đến tay anh đang phất, mà bị ngướ ta giựt mất, anh chỉ buồn rầu nói:


Chỉ v́ anh biết qúa nhiều, ngướ ta sợ anh nổi lên th́ ngựi ta sẽ mờ đi, nó nhiều tham vọng, nhưng tài hèn và nhiều thủ đoạn...


Tôi sợ anh buồn chán, nên đem đến cho anh đủ dụng cụ thể dục và khuyên anh tập đều đặn, để giữ sức khoẻ, ngướ ta sẽ cần đến anh.


Trong thời gian ở Phú Bài,công việc của anh có phần nghi lễ, nghĩa là đón tiếp các phái đoàn từ Sài g̣n ra, tại sân bay Phú Bài.


Một hôm anh ra đón một Đại tá người Hunggary, Tr/Tá Vơ Vàng trong cái bắt tay xă giao, đă bóp nát tay tên Đ/Tá CS, tên Đại tá nầy sau đó làm lớn chuyện, gởi văn thư phản kháng đến Trung ương.


Anh rất căm thù CS, dù dưới màu da nào.


Hiệp định Paris chưa ráo mực, CS đă vi phạm khắp nơi .

Tướng Ngô Quang Trưởng sáng suốt, thấy được viên dũng sĩ đang ngồi chơi xơi nước vối, nên vội gọi vào tŕnh diện và giao cho Liên đội ĐPQ/Quảng Nam, h́nh thức tổ chức của Liên đội ĐPQ, cấp số cũng tương đương với Lữ-đoàn hay Trung đoàn. Khi đi nhận nhiệm vụ, anh có hỏi tôi :


Muốn làm việc cạnh anh không ? Tôi biết anh thương tôi, muốn nâng đỡ tôi, tôi qúa quyến luyến màu áo đang mặc, nên xin cho thời gian nữa, Nhưng không có thời gian nào cho chúng tôi nữa cả.


Tháng 3/75 ĐN tan tác, ĐN uất nghẹn đau thương, tan đàn xẻ nghé...


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1554148609-11ttu.jpg


Ngày 5 tháng Tư năm 1975, một buổi sáng tôi ra giếng nước trong Quân Điện Bàn/QN (Nơi đám tù tàn binh tập trung) để lấy nước, bất ngờ gặp anh, tôi như chết lặng, tay trái anh được treo lên:

Anh cho biết ngày 29/3 mới về đến ĐN, đang đi trên đương Thống nhất, gần Câu ṿng, th́ bi một chiếc xe dân sự tông anh, may mà anh văng lên lề, chỉ bị thương.

Tôi thật sự lo lắng cho anh, v́ anh nổi tiếng quá, ngay đây, nơi tập trung tù binh, cũng không có ai dám gần anh để giúp anh trong khi đang bị thương, Tôi chỉ nói với anh, ngay bây giờ anh phải t́m cách thoát, lợi dụng lúc nầy để thoát, nguy hiểm quá. Tuần lễ sau, tôi bị đưa đi chỗ khác với thầy Hoàng thế Diệm, không c̣n qua lại thăm anh.



https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1534754074-bdq2.jpg


Người Anh Hùng Bị Thủ Tiêu:


Sau thời gian tập trung tại Quận đường Điện bàn/QN, tất cả tù tàn binh, tŕnh diện hay bị bắt tại ĐN, được đưa lên Trại Kỳ Sơn.


Trại Cải tạo Kỳ Sơn gồm : 1 tổng trại và 4 phân trại


- Sĩ quan cấp Tá ở traị I, gần mỏ vàng Bông Miêu


- Trại 2, nằm sâu về hướng Tây, dành cho Sĩ quan cấp Đại uư

- Trại 3 và 4 dành cho cấp Trung uư trở xuống, gần trại 1 và Tổng trại. Anh Vơ Vàng nằm trong trại 1.

Sau thời gian đầu lo xây dựng doanh trại, phát rẩy canh tác... ổn định nơi ăn chốn ở.


Tháng 5 năm 77, đợt hoc tập chính trị được mở ra trên quy mô rộng lớn. Tất cả đều nghỉ lao động và tham dự 100% ...


Những buổi học, tất cả tập trung tại hội trường để nghe cán bộ chính trị lên lớp, và sau đó về tổ thảo luận. những bài:


- Đế quốc Mỹ tên sen đầm quốc tế, kẻ thù số I cuả nhân dân ta và loá ngướ tiến bộ trên traí đất.


- Hệ thống Xă hôị chủ nghĩa ...

Nhưng hóc búa và điên đầu nhất là bài Nguỵ quân và nguỵ quyền, Tập đoàn tay sai bán nước. Sau khi ngồi nghe chửi ruả trên hội trường, trở về tổ phăi liên hệ bản thân, tự giác khai ra những viếc đă làm trong thời gian phục vụ trong quân đội VNCH.


Đây là bản án, tự ḿnh viết cho ḿnh, ai cũng phải t́m cho ḿnh một cái tội . Sau đợt hoc tập chính trị, có ngướ như bị kiệt sức v́ bị những đ̣n tra tấn cân năo. Nhiều lúc giữa đêm khuya bị goi lên khung (Bộ chi huy) làm việc, cứ tra đi hỏi laị nhũng họat động đă qua.


Tr/ Tá Vơ Vàng là mục tiêu chính, bọn cai tù nhắm đến, luôn luôn chúng đặt câu hỏi :


Trong quá tŕnh chỉ huy BĐQ. Trung đoàn trưởng, Liên đội trưởng, anh đă giết bao nhiêu Cán bộ CS và dân lành, mấy ngày đầu anh trả lời :

Trên cương vị Chỉ huy, tôi chưa bao giờ trực tiếp bắn, c̣n lính dưới quyền, lúc xung trận, ai bắn chậm th́ chết, tôi không biết.

Bọn chúng đâu có chịu, Bọn chúng quây anh từ sáng, tới tối, ngày nọ sang ngày kia, nhưng anh vẫn kiên gan giữ lớ khai, đến lúc đó, bọn chúng mới đem những tờ báo cũ, có ghi kết quả các trận đánh ra, và tổng kết tổn thất địch (VC), trong khoảng thời gian anh Vàng chỉ huy, không dưới 20 ngàn VC phơi thây.


Bản án Tử h́nh cho anh đă manh nha thành h́nh.


https://imagizer.imageshack.com/v2/480x380q90/r/921/RofzCJ.jpg


Trong số các vệ binh coi tù. có nhiêù tên mới theo VC sau 30 tháng 3/ 75, gồm nhiêù thành phần, có tên rất khát máu, thù hận, v́ có thân nhân, bà con chết trong cuộc chiến, nhưng cũng có tên nguyên trước 30 thang 3 là hoc tṛ của vợ tù, nên cũng dễ dăi và dễ bị mua chuộc để lấy tin tức.

Sau đợt học tập chính trị, quy mô kéo dài trên một tháng, tất cả tù được lệnh đi lao động trở lại.


Một đêm đầu tháng 7 năm 1977. Bộ chi huy trại 1 có cuộc họp chi bộ đảng, bản án tử h́nh danh cho Tr/Tá VƠ VÀNG đă được tổng trại Kỳ Sơn kư từ trước, buổi họp nầy, có mục đích t́m ngướ t́nh nguyện thi hành bản án ...


Tên Nguyễn Bốn, tên vệ binh loắt choắt, nhỏ con nhưng khét tiếng ác độc và khát máu đối vời tù, đứng lên t́nh nguyên thi hành. (Tên Bốn nầy có cha hoạt đông nằm vùng cho VC bi Nghĩa quân giết).



https://imagizer.imageshack.com/v2/640x401q90/r/922/qouava.jpg


Buổi trưa Hè, tháng 7 năm 1977, tổ của Tr/tá Vơ VÀNG có nhiệm vụ tỉa bắp trong rẩy, cạnh sông Vàng, (Nói là sông, nhưng thật sự là gịng suôí nhỏ, chảy qua các ghềnh đá bị xoi ṃn rất đẹp) trong khu vực Mỏ Vàng Bông miêu, trời đứng bóng, nắng chang chang, tất cả tổ nghỉ lao động kéo nhau vào bóng mát, lấy vắt cơm sắn và chút nước mắm cáí ra ăn, th́ tên Nguyễn Bốn xuất hiên với AK trên tay, ra lệnh:


Anh Vàng theo tôi lên đồi nhổ sắn (củ ḿ) về bồi dưởng cho cả tổ. Linh tính báo cho biết, việc chẳng lành, anh em trong tổ nhao nhao lên:

Xin anh cho tôi đi nhổ sắn thay, v́ anh Vàng mấy hôm nay bị kiết lị, yếu lắm. Nhưng tên Bốn vẫn khăng khăng bắt anh Vàng đúng lên đi lên đồi. Khoảng từ 7 đến 10 phút sau th́ một loạt AK nổ, lát sau tên Bốn trở xuống nói :


Các anh lên đem xác tên Vàng xuống chôn cất, nó giựt súng tôi, nên tôi đă xử lư.

Bọn khốn nạn, lũ hèn nhát đă giết anh một cách hèn hạ, tại sao chúng lại dựng nên tấn tuồng giết người tay không, một cách hen hạ như vậy??? V́ bản chất chúng là bọn ngướ hèn hạ, bọn đê tiện, làm việc ǵ cũng không quang minh, chính đại, hành động của lũ đầu trộm, đuôi cướp...

Anh đă tức tưởi nằm xuống bên gịng sông Vàng, trong khu Mỏ Vàng Bồng miêu, như là một định mệnh ...


https://imagizer.imageshack.com/v2/351x482q90/r/922/voj1BK.jpg


Anh VƠ VÀNG kính yêu, đă 29 năm, ngày Tổ quốc bị bức tử, 27 năm, ngày anh bị chúng hành h́nh, một cách hèn nhát. Thời gian đủ để mọi ngướ mở mắt, nh́n thấy rơ Thiên đường CS, thời gian đủ dài để xác thân anh trở về với cát bụi, và em tin tưởng linh hồn anh đang oai nghi, thanh thản ở cỏi vĩnh hằng.


Xin hăy cho em một lần được nhắc đến tên Anh, Anh VƠ VÀNG, với ḷng kính phục và thương tiếc sâu xa, một người anh, một chiến sĩ QLVNCH kiệt xuất, hy sinh hết tuổi thanh xuân và cống hiến thân xác cho đại cuộc :

Bảo vệ tự do cho Tổ quốc. Xin anh cho em được đốt nén hương tưởng niệm anh, nhân ngày giỗ thứ 27 của anh. Xin anh cho em một lần nữa nhỏ nước mắt khóc thương Anh.


https://imagizer.imageshack.com/v2/601x480q90/r/922/jwPNE7.jpg


Trương Đức Thủy

https://dalatngayve.blogspot.com

trungthuc
09-30-2020, 17:37
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1661806&stc=1&d=1601304718


Vào cuối năm 1975, hàng ngàn tù nhân sĩ quan cấp tá của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa từ nhiều trại tập trung cải tạo vùng chung quanh Sài-G̣n đă bị chuyển về nhốt tại trại tù Suối Máu, Tam- Hiệp, Biên- Ḥa.

Một đêm giữa tháng 10, 1975, từ Long Giao, tôi bị chuyển tới đây trên một chiếc Molotova bít bùng kín mít. Tôi bị dẫn vào khu K2. Hai tuần sau có lệnh “biên chế,” tôi lại bị chuyển sang khu K3. K3 chỉ chứa sĩ quan cấp thiếu tá. Tôi bị giam ở đây từ ngày 1 tháng 11, 1975 cho tới ngày lên tàu Sông Hương ra Bắc (tháng 7, 1976.)

Thời gian này, tin tức truyền thanh, truyền h́nh về t́nh h́nh thế giới càng lúc càng xấu đi. Người ta đồn rằng, h́nh như Cộng-Sản Việt-Nam đang trên đường tiến chiếm Thái-Lan. Thế Giới Tự Do như càng lúc càng xa chúng tôi hơn.

Anh em chúng tôi gặp nhau thường ngày, tụ tập từng nhóm, đánh cờ tướng, tán gẫu, bàn chuyện nhà cửa, gia đ́nh, nước non, thời quá khứ. Trong những lúc tụ tập chuyện tṛ, chúng tôi nghe bạn bè rỉ tai rằng, “Chính quyền Giải Phóng” đang nghiên cứu hồ sơ cá nhân của từng người, để xét tha (?) Cũng có tin bi quan, cho rằng chúng tôi sắp bị đưa ra Ṭa án Nhân dân để xử tội. Chúng tôi thực sự hoang mang, chẳng biết tương lai ḿnh sẽ đi về đâu.

Tôi ở Lán 24 thuộc K3 (danh từ VC gọi Lán là nhà, K là Khối.) Mỗi lán chứa khoảng hơn 40 tù nhân, trong Lán 24 đó có vài cựu Sĩ quan Đà Lạt gồm anh Trần Ngọc Dương (K10), Nguyễn Lành (K16), Hoàng Thế B́nh (K18), Tạ Mạnh Huy (K19), khóa 20 có Ngô Văn Niếu và tôi (Vương Mộng Long). Lán tôi cách Lán 17 vài thước. Lán 17 có ba anh Biệt Động Quân K20 Vơ Bị là Nguyễn Cảnh Nguyên, Trịnh Trân, và Quách Thưởng. Trong cảnh đói khát thường xuyên, chúng tôi phải chia nhau từng mớ rau dền, tán đường thẻ, miếng cơm cháy.

Lán 24 lúc nào cũng hôi thối đầy ruồi nhặng, v́ nó nằm trên đường đi ra cầu tiêu, mà bệnh kiết lỵ của tù nhân cải tạo ở đây hầu như bất trị.

Anh trưởng Lán 24 tên Trần Thành Trai, nguyên là Y sĩ Thiếu tá làm việc tại Quân y viện Duy-Tân, Đà-Nẵng. Bác sĩ Trai luôn luôn xác định lập trường của anh là quyết tâm “học tập tốt” để được tha về với vợ con, v́ vậy mỗi lệnh của ban chỉ huy trại đưa xuống, anh luôn luôn t́m cách thi hành đúng đắn.

Thằng Niếu, bạn tôi, được một chân làm bếp, nó ăn uống dưới bếp, nên phần cơm của nó dư, được mang về tiếp tế cho tôi và anh Nguyễn Phong Cảnh, người nằm cạnh tôi.

Vào những ngày cuối năm Ất Mẹo, không khí ở đây trở nên rộn rịp vô cùng. Những người liên lạc được với gia đ́nh th́ có những gói quà nhỏ gởi vào cho ăn Tết, những kẻ ít may mắn hơn th́ đành trông chờ vào những ǵ ban chỉ huy trại ban cho. Thời gian này, các lán gấp rút tập văn nghệ để tŕnh diễn đêm Giao Thừa.

Để khỏi tập ca hát nhảy múa, tôi t́nh nguyện làm công tác tạp dịch, quét tước. Trong khi mọi người ca múa, xả rác, tôi đi lượm rác và xách nước về cho bạn cùng lán rửa mặt rửa tay.

Hai ngày trước Tết, lán tôi phải tập họp đi làm cỏ ngoài rào K3.

Trại Suối Máu vốn dĩ là trại tù Phiến Cộng Tam-Hiệp của Quân Khu 3 Việt-Nam Cộng-Ḥa. Trại có hai khu, hai hệ thống hàng rào. Lớp rào trong nhốt tù, rồi tới khu canh tù, ngoài cùng là rào ḿn pḥng thủ. Trại tù Phiến Cộng này có 6 khối. Mỗi khối cách biệt nhau bởi một khoảng đất trống, có rào ḿn. Từ khối này muốn liên lạc với khối kia chúng tôi phải hét lên mới nghe tiếng nhau.

Ra khỏi hàng rào thứ nhất, tôi chứng kiến vài sự đổi đời.

Cái miếu thờ Thổ Địa trở thành cái chuồng nuôi heo. Nhà Thờ và Niệm Phật Đường của trại tù binh đă thành chuồng gà sản xuất. Sư và Cha, Tuyên úy của trại này, chắc cũng đi tù đâu đây không xa!

Ngoài xa, bên kia hàng rào ḿn là băi cỏ trống rồi tới đường Quốc lộ 1.Trên Quốc lộ, xe Lamb chạy xuôi ngược; người người vội vàng buổi chợ cuối năm. Có vài bàn tay giơ lên ngoắc ngoắc về hướng trại tù, đôi người dân có liên hệ, hoặc ai đó c̣n nhớ tới chúng tôi, những sĩ quan cấp tá của Quân Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa, những người bảo vệ chế độ đến giờ cuối cùng, và những người chậm chân, chạy không kịp, đang bị nhốt ở đây, trong khu nhà tù do chính tay Công-Binh Việt-Nam Cộng-Ḥa xây dựng lên trước đó nhiều năm.

Sáng nay bầu trời màu xanh, không một gợn mây. Từ hướng phi trường Biên-Ḥa, bên kia cánh đồng trồng khoai ḿ, những chiếc F5 thực tập lên, xuống, lượn ṿng…

Đưa tay chỉ những cánh chim sắt đang bay trên trời cao, anh bạn Thiếu tá Không Quân, Trần Chiêu Quân nói với tôi rằng, sau 30 tháng 4, có một số phi công của Việt-Nam Cộng-Ḥa bị trưng dụng để huấn luyện cho phi công Bắc-Việt lái những máy bay chúng ta c̣n để lại.

Những chiếc F5 sáng như bạc đảo lộn trong không gian. Tiếng rít của phi cơ làm cho tâm hồn người cựu chiến binh nao nao.

Làm sao quên được? Lần đầu ra trận (Tháng 2, 1966). Hôm đó, cũng vào một sáng đầu Xuân, đơn vị tôi án binh dưới chân núi Trà-Kiệu (Quảng-Nam) chờ lệnh xuất phát. Tôi ngồi bên bờ Nam sông Thu-Bồn, say sưa nh́n những cánh F-4C, F-5A Hoa Kỳ đan nhau trên vùng trời Bắc. Bên kia sông, vùng trách nhiệm của Trung Đoàn 51 Biệt Lập, khói đạn bom cuồn cuộn…

Rồi tới trận Mậu- Thân (1968) với những chiếc Skyraider dềnh dàng, chậm răi phóng từng trái Napalm dài như chiếc xuồng màu trắng, lướt trên đỉnh 1632 cuối phi đạo Cam-Ly, Đà-Lạt. Khi bom chạm mục tiêu, từ đó, những sợi lửa lân tinh trắng xanh, trông giống như những cái ṿi bạch tuộc, vươn cao…

C̣n nữa…

Nhớ thời chống giữ Pleime, ngày ngày, tôi nghe quen tiếng L19 lè xè của Vơ Ư (K17VB). Chiếc L19 như cánh diều mảnh khảnh, lững lờ quanh đỉnh Chư Gô, hay trên Ia Drang, thung lũng Tử Thần…

Chúng tôi trông chờ đôi lúc trời trong, những phi tuần A-37 theo nhau tuôn bom… chờ những chiếc trực thăng rà sát đọt cây, lướt trên ngọn cột cờ căn cứ. Cơ phi, xạ thủ trên tàu chỉ kịp đạp vội xuống sân trại vài thùng điện tŕ, đạn, gạo sấy, con tàu đă lật bụng đảo một ṿng, thoát chạy về Đông. Pḥng không như lưới, thảy xuống cho nhau được thùng nào, hay thùng nấy! Thảy đồ xong là chạy. Đồ tiếp tế, có thùng c̣n nguyên dạng, có thùng vỡ tan, có thùng bay vào băi ḿn. Như thế cũng quư hóa lắm rồi! Cám ơn anh em Phi đoàn 229 Lạc Long!

Rồi đêm xuống, cứ như “Đúng hẹn lại lên!” Chiếc AC 47 của anh Trần Bạch Thanh (K17) đă có mặt trên vùng.

“Thái Sơn! Đây Hỏa Long gọi!”

Những đóm hỏa châu lập ḷe, vừa trải rộng tầm quan sát cho người trấn giữ tiền đồn, vừa làm cho họ cảm thấy ấm ḷng.

Đă mất rồi, ngày xưa ấy! Giờ này tôi đang đứng nh́n những cánh chim sắt chao lượn trên đầu, người lái không phải là quân bạn.

Tiếng động cơ F5 nghe sao quá xót xa!

o O o

Tôi đang nhổ cỏ th́ thấy một đoàn người từ hướng ban chỉ huy trại ḥ nhau khiêng một cái cổng gỗ rất to vừa đóng xong.

Tấm bảng nền đỏ chữ vàng “Không Có Ǵ Quư Hơn Độc Lập Tự Do” được nâng niu như trứng trên vai những người tù nhễ nhại mồ hôi. Những người tù đang bị sức nặng của cái cổng đè trĩu trên vai. Họ phải lên gân chân mỗi lúc bước tới trước.

Mới vài tháng trước đây họ c̣n là những vị chỉ huy oai phong lẫm liệt. Giờ đây đành cam thân sống cảnh đọa đày, đóng vai những anh thợ mộc bất đắc dĩ không công. Ngày nào họ cũng ra đi rất sớm, chiều tối mới trở về trại. Họ dựng những cái cổng chào. Họ tu sửa, sơn phết những khẩu hiệu trên tường. Họ trồng lại hàng rào trại.

Mọi việc làm này là để chào đón ngày Quốc-Hội Việt-Nam Thống-Nhất ra đời. Những vị sĩ quan cao cấp này đă khởi đầu nghề thợ mộc của họ bằng những cái bảng “Không Có Ǵ Quư…” ở trại tù Tam-Hiệp.

Tôi có quen vài người trong số những “cải tạo viên” hằng ngày xuất trại làm mộc, như vị sĩ quan cựu Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân/ Quân Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa và vị sĩ quan cựu Tiểu Đoàn Phó Nhảy Dù. Cả hai vị đó, sau này nơi đất Bắc, đă thành hai ông đội trưởng nổi tiếng. Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh!

Chỉ chín tháng sau ngày chế độ Cộng-Ḥa sụp đổ, giờ đây tôi đang chứng kiến một hoạt cảnh không ai có thể tưởng tượng nổi: Trên trời, phi công Việt-Cộng đang lái F5; trước cổng trại tù, sĩ quan cấp tá Việt-Nam Cộng-Ḥa đang dựng cổng chào; quanh rào trại tù, sĩ quan cấp tá Việt-Nam Cộng-Ḥa đang làm cỏ. Nơi nơi, người người, chuẩn bị đón Xuân. Mỗi người mang một tâm sự riêng…

Tới trưa, khi nghe tiếng kẻng phát cơm của nhà bếp, chúng tôi được dẫn trở lại trong ṿng rào trại K3. Khi đi ngang qua sân bóng chuyền, tôi thấy người ta đang cá độ nhau trận đấu tay đôi đang diễn, một bên là Thiếu tá Trần Đạo Hàm, cựu vô địch nhảy cao của Quân Đội Việt-Nam Cộng-Ḥa, bên kia là một tay Thiếu tá Không Quân. Anh Lê Hữu Khái (K15) và thằng bạn Nguyễn Bích (K20) của tôi đang nhảy tưng tưng cổ vũ cho anh Hàm v́ anh Hàm là “gà nhà”, Vơ Bị khóa 17! Cái miệng thằng Bích lớn lắm, nó la hét vỗ tay, b́nh luận ào ào. Anh Hàm thật là may mắn, có cái loa phóng thanh cỡ bự Nguyễn Bích cổ vũ nên anh có vẻ như đang dẫn điểm.

Tôi thấy nhiều người đă để ghế “xí” chỗ tốt cho buổi TV văn nghệ tối; ngày nào cũng thế, cứ đến trưa là bà con đem ghế ra đặt sẵn trên sân bóng để “xí” chỗ xem phim TV của đài Sài-G̣n Giải-Phóng. Ai chậm chân th́ không c̣n chỗ tốt. Thời gian này TV Sài-G̣n Giải-Phóng liên tiếp chiếu bộ phim nhiều tập “Trên Từng Cây Số” và “Đại úy Đen” của Ba-Lan.

Trong các lán, có nhiều bạn tụ tập bóc lột nhau bằng những con bài. X́ phé, sập xám và mạt chược là những môn chơi phổ thông khắp nơi trong trại. Tôi đă chứng kiến nhiều anh thua bạc phải bán cả những quà cáp từ gia đ́nh gởi vào, như kem đánh răng, thuốc lào, thuốc tây để trừ nợ.

Sau Tết ít lâu, tôi nghe một câu chuyện đau ḷng ở K3 năm ấy: có một vị Thiếu tá Quận trưởng khi cắt bánh thuốc lào làm đôi để chi cho chủ nợ một nửa, th́ phát hiện ra một bức thư “chui” của người nhà giấu trong ruột bánh thuốc lào. Bức thư vắn tắt đôi lời làm đau ḷng người đọc:

“Chị ấy đă gởi hai đứa con của anh cho bà nội của chúng nuôi. Chị đă đi lấy chồng rồi! Anh đừng buồn, ráng học tập lao động cho tiến bộ để sớm được thả về mà nuôi dạy con anh.”

Cái tin bất ngờ sét đánh ấy đă làm cho ông Quận sững sờ, buông rơi những con bài Cơ, Rô, Chuồn, Bích…

Từ đấy, tôi thấy ông suốt ngày thẫn thờ bên rào, nh́n về phía xa xôi. Đôi lúc tỉnh táo, ông ôm cây Guitar, đàn solo những bài nhạc xưa, buồn đứt ruột.

Tôi bồi hồi nhớ lại lời Tổng thống nói ngày nào:

“Đất nước c̣n, c̣n tất cả. Đất nước mất, mất tất cả!”

Ôi! Lời Tổng thống nói thật là hữu lư!

Tổng thống ơi! Chúng tôi đă cố gắng hết sức ḿnh để giữ nước, nhưng chúng tôi đă không thể giữ nổi. Chúng tôi lấy làm xấu hổ vô cùng! Sao Tổng thống không ở lại giữ nước với chúng tôi? Lúc này chúng tôi đă “mất tất cả” rồi Tổng thống ơi!

Về tới lán, tôi nhận được một vỉ thuốc ho, một nắm xôi đậu xanh, và mười cục đường tán do anh bạn Phan Văn Hải gởi cho.

Tôi, Phan Văn Hải, cùng ba anh bạn khóa 20 Vơ Bị là Phan Độ, Huỳnh Bá An, Trần Hữu Bảo, xuất thân từ trường Nam Tiểu Học Đà-Nẵng. Chúng tôi là học tṛ của cô giáo Phạm Thị Tịnh Hoài, lớp Nhất C.

Phan Văn Hải là sĩ quan khóa Đặc biệt Thủ Đức, anh về phục vụ cùng đơn vị Biệt Động Quân của tôi ở Pleiku. Những ngày cuối của cuộc chiến, Thiếu tá Phan Văn Hải giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 89 Biệt Động Quân. Khi đi tù, bạn tôi không có ai thư từ, tiếp tế, nhưng hắn bài bạc rất giỏi, nên lúc nào cũng sung túc.

Chiều hôm đó, anh lán phó hậu cần, Hải Quân Thiếu tá Bùi Tiết Quư thâu tiền của trại viên trong lán, gởi cán bộ trại mua giùm ḿ gói, tương, chao, x́ dầu và đường tán để ăn bồi bổ thêm trong ba ngày Tết. Tối đến, sau khi đă chia hết phần đường cho người mua, anh Quư cạo được một chén đường chảy dính trong thùng giấy và bao giấy gói đường. Anh ung dung ngồi thưởng thức nồi chè đặc biệt, nấu bằng đường mót được với hột su su và mấy hạt bắp non anh trồng được bên rào. Làm đội phó hậu cần cũng có chút bổng lộc!

Sáng Ba Mươi Tết, lại gặp ngày tổ tôi trực lán, tôi và một số bạn bị chỉ định xuống làm việc tăng cường cho Lán 9 nhà bếp. Tôi phụ việc vo gạo cho thằng Niếu và anh Cung. Những tạ gạo đựng trong bao viền chỉ xanh rất cũ được chuyển về từ bưng biền. Gạo th́ mốc vàng, mốc xanh.

Những tổ sâu gạo to như nắm tay. Khi tôi tách những cái tổ sâu ra từng phần nhỏ th́ những con sâu gạo trắng ngần có khoang, béo núc, to gần bằng đầu đũa và dài cả phân, ngo ngoe, ngo ngoe…

Anh Cung không cho phép tôi vứt bỏ những cái tổ sâu ấy, anh nói rằng nếu vứt bỏ sâu đi th́ hết gạo, “Nếu vứt sâu đi th́ c̣n cái ǵ mà ăn? Cứ nấu tưới đi! Sâu cũng bổ béo, cũng nhiều Prồ-tê-in, sâu gạo chứ có phải là ḍi ở ngoài chuồng xí đâu mà ngán!”

Khi chảo cơm bắt đầu sôi th́ nhiều khách khất thực nước cơm đă cầm ca đứng đợi. Anh Cung cho vài người, mà cũng từ chối đôi người. Người có phần, th́ riu ríu cám ơn, người không có phần tiu nghỉu ra về, miệng lầm bầm, “Đ! M!… Đ!M!..”

Những trại viên nhà bếp gọi đám người chờ xin nước cơm là “Đội quân cầm ca.” Chữ “cầm ca” ở đây không có nghĩa là ca sĩ, ca hát, hay ca kỹ mà có nghĩa đen chỉ sự cầm cái ca U.S dùng để đựng nước uống, cái ca nằm dưới cái bi-đông bộ binh ấy mà!

Dân “cầm ca” phải đứng xếp hàng cả giờ đồng hồ trước cửa ḷ cơm để chờ xin một ly nước cơm. Nước cơm có Vitamin B1 chữa được bệnh phù thủng (?) Chuyện xếp hàng trước, xếp hàng sau, đôi lúc cũng gây ra ẩu đả.

Sau này, khi ở trại tù Phú-Sơn 4, Thái-Nguyên, tôi có đọc một tài liệu nói về cái chất độc của nấm cúc vàng từ gạo mục, gạo mốc. Nấm cúc vàng có chứa một loại chất độc nguyên nhân gây ung thư gan. Nước cơm lại là phần đậm đặc nhất của chất độc nấm cúc vàng từ gạo mốc. Không biết có bao nhiêu nạn nhân của bệnh xơ gan sau này có mặt trong đội quân “cầm ca” ngày ấy?

Chiều Ba Mươi Tết, bữa ăn có thịt heo kho. Thằng Niếu đem thêm về cả phần ḷng heo bồi dưỡng nhà bếp của nó.

Thời buổi khó khăn, thuốc lá bắt đầu khan, những tay nghiền miền Nam bắt đầu nói chuyện thuốc lào.

Những danh từ “điếu cày,” “điếu bát,” “Cái Sắn,” “Hố Nai,” “Vĩnh Phúc,” “Tiên Lăng” nghe măi cũng quen tai.

Anh Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân của tôi, từ bên K4 nhờ ai đó chuyển cho tôi được một bao thuốc lá 555 và một lạng cà phê.

Trong khi thằng Niếu và anh Cảnh lo bếp núc cúng Tất Niên th́ tôi đi ṿng ṿng tán dóc với anh bạn Lưu Văn Ngọc, cựu Sĩ quan Quân Pháp Quân Đoàn II.

o O o

Tối Ba Mươi Tết ở K3 Suối Máu không khí thật là rộn ră tưng bừng. Mọi lán đều đă chuẩn bị sẵn sàng chương tŕnh văn nghệ chào đón Chúa Xuân. Sân khấu văn nghệ được thiết lập giữa sân tập họp. Đèn điện sáng choang. Cờ Mặt Trận Giải- Phóng Miền- Nam che kín cả sân khấu.

Trước giờ văn nghệ, loa phóng thanh truyền đi những bản nhạc từ đài Sài- G̣n Giải- Phóng mà Tô Lan Phương là giọng ca chính. Những nghệ sĩ tù cũng ăn mặc tươm tất để sẵn sàng tŕnh diễn giúp vui. Đàn ghi-ta, trống, sáo đều làm bằng vật liệu lấy từ kho của nhà bếp như tôle, củi, ván gỗ…các nghệ nhân tự đẽo gọt, cắt xén, dán, ghép thành các nhạc cụ.

Tám giờ tối, buổi “Liên hoan văn nghệ” đêm Ba Mươi Tết bắt đầu.

Mở màn chương tŕnh là bài đồng ca “Như có Bác” tôi không nhớ do lán nào tŕnh diễn.

Kế tiếp, cựu Thiếu tá Không Quân Hoàng Đ́nh Ngoạn (K17 VB) lên đài trong tiếng hoan hô vỗ tay của “đồng bọn” tù Vơ Bị.

Anh vừa hát được nửa bài t́nh ca, nhạc vàng “Mùa Xuân Trên Đỉnh B́nh Yên” th́ bị cán bộ Cộng-Sản chặn lại, đuổi xuống đài. Lư do, “Nhạc Ngụy ủy mị!”

Sau đó, chỉ những bài hát “Giải Phóng” mới được phép tŕnh diễn.

Trên sân khấu, tiếng sáo trúc Tô Kiều Ngân lâm ly bài “Mùa Xuân Trên Thành Phố HCM” ḥa ca cùng tiếng sáo miệng của Nguyễn Tuyên Thùy. Tôi cũng nghe vọng lại từ các khu khác, đại để, bạn tù cũng chỉ hát những bài ca eo éo, nghe rợn tóc gáy, như “Cô Gái Vót Chông,” “Tiếng Đàn Ta Lư,” “Năm Anh Em Trên Chiếc Xe Tăng” vân vân…

Khắp 6 khu của trại tù đều sáng rực ánh đèn và vang rền tiếng nhạc…

Năm mới đang từ từ tiến về…

Đến khi màn tŕnh diễn của Lán 24 vừa được giới thiệu, th́ tôi bỏ chạy về lán. Tôi ngồi một ḿnh trong cái nhà tôle vắng tanh. Nỗi đau đớn nhói tim tôi!

Ngoài kia, bạn cùng lán của tôi, không tự nguyện, đang phải đóng vai “Dân quân chống Tầu, chống Tây, chống Mỹ, chống Ngụy” trong một vở trường kịch. Khi họ tập bài bản trong lán, tôi biết họ cũng đau ḷng lắm.

Bạn Vơ Bị của tôi, Tạ Mạnh Huy v́ là Tây lai phải đóng giả làm Tây cho người ta trói. Thằng Niếu phải đóng vai “Biệt Động Quân Ngụy” giơ tay đầu hàng để anh Dương người Bắc, đóng vai bô lăo nông dân Việt Nam “đả đảo”. Mỗi lần tập xong, các bạn tôi đều buồn, họ đề nghị anh lán trưởng Trần Thành Trai cho tập một kịch bản lịch sử “Vua Quang Trung diệt quân Thanh” nhưng anh lán trưởng không đồng ư.

Anh Trai nói, “Ban chỉ huy trại đă ra lệnh” cho anh phải thực hiện cho được trường kịch này để mừng Giao Thừa, v́ nó có tính cách “Lô gích lịch sử” (?)

Và đêm ấy, anh đội trưởng Trần Thành Trai đă thực hiện thành công xuất sắc vở trường kịch “Việt Nam 4000 năm anh hùng.”

Ngay sau khi bế mạc buổi văn nghệ mừng Xuân Bính Th́n, mùa Xuân đầu tiên của nước “Việt Nam Thống Nhất” cũng là mùa Xuân đầu tiên quân và dân Miền Nam mất nước, anh đội trưởng Trần Thành Trai đă được ban chỉ huy trại “tuyên dương công lao” trước trại.

Khi trên sân khấu người diễn kịch bắt đầu hát bài “Tiến Quân Ca” th́ tôi bật khóc.

Một ḿnh, ngồi trong đêm tối, tôi nức nở khóc vùi. Tôi chưa bao giờ thấy cái khóc lại có hiệu lực chữa đau đớn hiệu nghiệm như đêm ấy!

Chợt tôi nghe tiếng chân ai ngoài cửa lán. Rồi tiếng lên đạn súng AK…

Th́nh ĺnh, tia đèn pin chiếu ngay mặt tôi, làm mắt tôi chói lóa.

“Anh kia! làm ǵ ngồi khóc đấy? Sao không đi “rự nễ” mừng Xuân?”

Tên bộ đội đi tuần tra lớn tiếng hỏi.

Tôi lấy tay che mắt, nhưng không nh́n thấy ǵ. Tôi lặng thinh. Tiếng quát lại tiếp:

“Anh có mồm không th́ bảo? Câm à? Sao không giả nhời tôi?”

Tôi vẫn ngồi im. Ánh đèn đảo một ṿng quanh vách lán rồi tắt. Căn pḥng tối om. Tôi nghe tiếng chửi:

“Địt mẹ thằng câm! Mới xa nhà có mấy tháng mà đă nhớ nhà phải khóc. Ông đây xa nhà hai ‘lăm’ rồi mà ông có khóc đâu! Đồ không biết xấu hổ!”

Tôi vẫn lặng thinh.

“Rầm!” Tên bộ đội giận dữ, đóng sập cửa lán.

“Chảng!” Nó c̣n bồi thêm một cái đá cật lực vào vách tôle.

Vài giây sau, tôi nghe tiếng dép râu bước đi xa dần về hướng sân. Tôi nh́n đồng hồ tay (ngày đó chưa có lệnh thu giữ tư trang của tù) đúng lúc này hai cái kim lân tinh vừa chập nhau trên số 12: Giao Thừa!

Ngoài sân tiếng ca hát c̣n đang tiếp tục. Tôi mồi một điếu thuốc 555. Trong trí óc tôi, h́nh ảnh những Giao Thừa đă qua trong đời hiện về, mờ nhạt như từ thế giới nào rất xa…

Ngày xưa, mỗi độ Giao Thừa, cho dù lúc đó tôi đang đi hành quân với một toán Biên Vụ (Viễn Thám) quân số chỉ có 6 người, lần ṃ trên những nhánh của hệ thống “Đường ṃn Hồ Chí Minh” trên đất Lào, hoặc len lỏi trong rừng tre gai Plei-Trap Valley, hay lúc tôi đang chỉ huy cả năm trăm, sáu trăm quân trấn giữ Pleime, hoặc ải địa đầu Bu-Prang miền biên giới Việt Miên, tôi không lần nào quên nghe chương tŕnh Giao Thừa của Đài Phát Thanh Quân-Đội.

Giao Thừa Xuân Bính-Th́n là Giao Thừa đầu tiên trong đời, tôi không t́m thấy lá cờ nước tôi, không nghe được câu hát: “Này công dân ơi! Đứng lên đáp lời sông núi…”

Bài quốc ca này đă đi vào lịch sử. Một thế hệ đă hát nó với cả bầu máu nóng trong tim. Bao nhiêu người thân của tôi, bao nhiêu bạn bè của tôi đă cống hiến tuổi trẻ và cả thân xác ḿnh cho bài ca đó. Một thế hệ đă lớn lên thành người với bài ca đó. Một thế hệ sẽ mang nó theo, xuống tuyền đài…

Chợt tiếng anh lán trưởng Trần Thành Trai vọng lại trên loa phóng thanh:

“Đổi đời đă tới! Cách Mạng đă thành công!”

Tiếng hô lặp lại hai chữ “Thành công!” của trại viên vang dội đêm Trừ Tịch. Tôi cảm thấy tiếng hoan hô đă làm rung những tấm tôle trên mái.

Trời đêm Trừ Tịch tối đen.

Tôi không biết những vạt đen ẩn hiện sau hè, là bóng những bụi rau dền, giàn mùng tơi hay những hồn ma đói cuối năm chập chờn.

Ngoài xa vẳng lại, từ bên K4, ai đó bắt đầu hát bài “Lá Đỏ”…

o O o

Vài năm sau, tôi nghe tin, cựu Y sĩ Thiếu tá Trần Thành Trai của quân y viện Duy-Tân, Đà-Nẵng, đă được tha khỏi trại cải tạo. Bác sĩ Trai đă cùng Bác sĩ Trần Đông A, cựu Y sĩ Thiếu tá Nhảy Dù, nổi tiếng sau những ca mổ tách rời trẻ song sinh ở Sài-G̣n. Tôi cũng đă nghe tin, giờ này, Bác sĩ Trai đang là một “Dân biểu” của Quốc Hội nước Cộng-Ḥa Xă-Hội Chủ Nghĩa Việt-Nam.

Nhân ngày đầu Xuân Ất Dậu (2005), tôi nhớ lại chuyện xưa, ba mươi năm trước. Nhớ những bạn Vơ-Bị, cựu tù Lán 24 Suối Máu, Tam- Hiệp, Biên- Ḥa.

Trong số những người bạn đó, th́ hai người đă qua đời, là Hoàng Thế B́nh và Ngô Văn Niếu. C̣n những bạn khác như Dương, Lành, và Huy th́ đang ở Mỹ, không rơ họ có c̣n nhớ chuyện ngày xưa hay không?

Riêng tôi, cái đêm Giao Thừa ba mươi năm trước ấy đă trở thành không thể nào quên, v́ đó là lần đầu trong đời, tôi đón năm mới với thân phận một người tù mất nước…!!!

VML – K20 –

Lời bàn

Tập thể tù ở đâu cũng có những tên anten, làm chó săn !!, nhưng không nhiều ,tuy nhiên theo tôi có lẻ trong tất cả các trại tù th́ các trại mà anh em là thành phần tù binh bị bắt tại mặt trận th́ tinh thần vững vàng ,do hầu hết và gần như đồng nhất là lính tác chiến các binh chủng ,hiếm có các loại lính bàn giấy, yễm trợ...nên ngang tàng quen rồi, tính hào hùng có trong máu.

DQY cũng bị tó trên băi biển Thuận An nên cũng như anh em là thành phần tù binh mà luôn luôn hảnh diện điều đó ,sau này cũng có thập tḥ vài tên anten là bị trừng trị thẳng tay, thậm chí sau 5-6 năm khi trại đọc lịnh tha tên anten gộc không dám ra về v́ anh em bà con chờ sẵn bên ngoài để đập cho chết, hắn phải năn nỉ bộ đội ,năn nỉ anh em nói giùm tha cho hắn ra. DQY thuộc trại tù Cồn Tiên-Ái Tử B́nh Điền mà gốc là khi trước thuộc Đoàn 76 giam giử tù binh thành lập từ trước trận Điện Biên rồi chuyễn vào Nam phía bên kia biên giới Lào trong chiến tranh từ 54 tới 75.Tiếp tục cho tới khi giao lại cho ḅ vàng.

DQY cũng xin kể một lần làm anten theo lịnh cán bộ trại :
- Khoăn năm 1978 vào một đêm đẹp trời, DQY được( hay Bị ) cán bộ kêu lên khung ,vừa đi vừa băn khoăn Mẹ họ lại có tên nào báo cáo cái chi rồi ,tự vấn th́ thấy mâm mô cũng có, từ bài bạc ,mua bán đổi chát, hay phát biểu linh tinh...thôi kệ nó tới đâu th́ tới.Nhưng khi lên th́ thấy thái độ cán bộ vui vẻ ,ôn tồn hỏi han ,À, cái này mới lạ v́ DQY biết bản thân ḿnh thuộc loại không chịu tiến bộ !!, nhưng cán bộ quản giáo cho biết là dạo gần đây thấy DQY có tiến bộ , nhưng theo trên khung nói là chưa đủ cần phải tiến bộ nhiều hơn nữa bằng cách giúp cho anh em trong lán trại cùng tiến bộ ,DQY phải báo cáo những ai có tư tưởng chưa tốt ,c̣n cải thiện linh tinh, c̣n quan hệ dân khi ra ngoài lao động...nói chung là làm anten. Chà kẹt dử đa, lúc đó mà say NO th́ nó oánh chết mẹ, mà làm theo lịnh th́ DQY không làm được, cuối cùng DQY có kế sách thoát thận
Khi về tới lán anh em bu hỏi v́ thấy lạ, mấy lần trước kêu lên xong lúc về là lết, có khi máu me tùm lum v́ được tẩm quất tận t́nh ,DQY bảo đăm khi có dịp kể lại các h́nh phạt đă trải qua, sẽ thấy chuồng cọp Côn Sơn ,tra tấn này nọ không tàn bạo bằng ( DQY bây giờ vẫn c̣n sẹo dài cả gang tay dưới thắt lưng phía sau ngay lá gan kết quả trận đánh hội đồng 4 tên vệ binh theo chỉ thị của tên Tŕnh là Chính ũy trại : Đánh cho nó chết !!!

Sau khi về lán DQY xin anh em chú ư nghe DQY nói: Thưa anh em, cán bộ kêu tôi lên và giao nhiệm vụ là về giúp đở cho anh em tiến bộ, cho nên từ nay khi anh em thấy mặt tôi th́ hạn chế nói năng linh tinh, bớt cải thiện hoặc làm kín đáo hơn.....nói chưa hết th́ thấy tên vệ binh bước vào bảo: Mày lên đây, bước ra khỏi lán là hắn đấm DQY liền, Lên tới khung DQY cứ kêu oan là tôi chỉ làm theo lời cán bộ dặn ḍ. Kết quả là cắt thăm gặp ,bị cách chức anten ngay. Đấy lần làm anten của DQY chưa được tới 5 phút là bị cách chức c̣n bị đấm.

Người ta đi tù th́ ráng khai là gia đ́nh cách mạng, riêng phần DQY th́ anh em nói là mày hả, gia đ́nh liều mạng th́ có ,ông già 13 niên hơn ,ông chú ruột cùng với ông anh bà con 17 niên hơn về cuối cùng ( dân t́nh báo ) anh ruột là giặc lái...cho nên DQY cũng có đi thăm nuôi như người ta, thăm ông già ,ông chú..

Nói đến trại "cải tạo" Suối Máu này làm tôi nhớ vào năm 1977 khi từ KàTum (Tây Ninh) chuyển trại về đây do bọn Polpot khuấy phá vùng biên giới, được đưa vô K4 (dành cho cấp Thiếu úy + Trung úy), không khí ở đây tuy ổn nhưng vẩn có t́nh trạng "ăng-ten" t́m cách chọt anh em nào phát ngôn bừa băi hầu được "điểm tốt" để xét tha trở về sum họp với gia đ́nh.
Và hậu quả là những người "thay ḷng đổi dạ" này đă nhận nhiều trận đ̣n vào ban đêm như bị trùm mềm và bị đánh túi bụi (nhưng không gây thương tích) từ các anh em trong trại.
Có thể thấy rằng tuy căm ghét những kẻ "ăng-ten" này, nhưng v́ t́nh đồng đội, không có một ai nở xuống tay hạ thủ, gây thêm nhiều đau đớn vô ích nửa, v́ nổi đau mất nước, nổi đau xa gia đ́nh, xa vợ con c̣n lớn hơn những ǵ chúng tôi đang trăi qua lúc bấy giờ.

hoathienly19
10-01-2020, 02:28
NGÀN NĂM MÂY BAY


http://lhccsnamcali.com/NTBH/image12.jpg


NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI BIÊN H̉A , NỖI ĐAU C̉N ĐÓ !


aZX_a5NchtQ


Cuối tháng 11 năm 1967, Đại Đội 17 – Khóa 25 Sinh Viên Sĩ Quan Thủ Đức chúng tôi được vinh dự làm Đại Đội dàn chào, khánh thành Đài Tử Sĩ của Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa vừa được Công Binh xây dựng.


Trung Tướng Trần Văn Trung – Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị - thay mặt Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa khánh thành.

Toàn Đại Đội sinh viên sĩ quan chúng tôi trong quân phục vàng, đứng dàn chào hai hàng từ ngoài đường, dưới chân Bức tượng Thương Tiếc, dài vào đến chân đài Tử Sĩ.


Hàng quân chắc dài hơn 200 mét. Trên bậc thang đi lên Đài Tử Sĩ th́ tay trái mỗi sinh viên đều cầm thêm bó đuốc đang cháy. Quang cảnh buổi lễ vô cùng trang nghiêm, lắng đọng.



https://scontent-yyz1-1.xx.fbcdn.net/v/t1.0-9/46397971_1952229251492668_4864847913592815616_n.jp g?_nc_cat=104&_nc_sid=110474&_nc_ohc=mD7CD1pCKu0AX9GdGO3&_nc_ht=scontent-yyz1-1.xx&oh=384e0c491504017745f599b496fa32cc&oe=5F9904A3


Sau khi Tướng Trung đọc xong diễn văn, th́ nghe có tiếng ai đó tiếp đọc sang sảng bài văn tế dài cả tiếng đồng hồ.


Chen lẫn trong từng đoạn là tiếng tiêu ai oán như gọi hồn núi sông. Có khi là tiếng trống trận bừng bừng khí thế.

Rồi tiếp theo là nhạc chiêu hồn tử sĩ trỗi lên nhè nhẹ, ḥa trong bài văn tế.

Lúc đó toàn vùng đồi nghĩa trang vang lên nhiều âm thanh lẫn lộn , ḥa tan vào nhau , khi nhặt khi khoan, lúc hùng dũng, lúc nhẹ nhàng , làm cho tâm hồn mọi người hiện diện nơi đó như say như tỉnh. Ai cũng thấy rợn người, cảm giác như có hàng ngàn hàng vạn oan hồn đang tụ tập mọi nơi trong vùng đồi thấp nầy.


Tiếng trống rộn ràng như thúc giục lên đường, ḥa tan trong tiếng tiêu nhè nhẹ trong mây:

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi

Mặt chinh phu trăng dơi dơi soi


https://scontent-yyz1-1.xx.fbcdn.net/v/t1.0-9/46495861_1952229478159312_4858458466840215552_n.jp g?_nc_cat=100&_nc_sid=110474&_nc_ohc=TSnxyhktWfYAX-xF1Dt&_nc_ht=scontent-yyz1-1.xx&oh=d814b05482ff96d6a18e8b3f0b4792b2&oe=5F99F89E


Buổi lễ kéo dài hơn 2 giờ mới kết thúc mà dư âm c̣n lắng đọng trong ḷng mọi người quá nhiều nỗi xót xa ngậm ngùi.

Năm đó v́ mới xây dựng , nên Nghĩa trang chỉ mới có chừng ngót một ngàn ngôi mộ.


Sau nầy khi chiến sự leo thang , tốc độ mai táng tử sĩ càng ngày càng gia tăng .

Nhất là khi cuộc chiến leo thang đến chót đỉnh vào mùa Hè đỏ lửa năm 1972.

Tử sĩ chở về nghĩa trang càng nhiều th́ thành phần cơ hữu của nghĩa trang cũng phải gia tăng theo.


Họ là thành phần tạp dịch, lo việc hậu sự của tử sĩ như :

Tắm rửa tử thi, tẩn liệm, đào huyệt, xây mộ… Từ một trung đội thành một đại đội khi cuộc chiến chấm dứt năm 1975.


4xrhMr_2e74


Song song đó, Công Binh Cơ Giới cũng bận rộn không kém. Họ tiếp tục đào đất, xây cất thêm những công tŕnh khác. Theo sơ đồ tổng quát toàn khu như đường sá ngăn chia từng khu mộ, bức tường Vành Khăn Tang …


Vào sâu trong trung tâm nghĩa trang, c̣n có Đài Tử Sĩ được xây trang trọng trên ngọn đồi thấp có hàng trăm bậc thang đi lên.


Trước đài có cổng Tam Quan uy nghi… Giữa nghĩa trang là một tháp xi măng cao 43 mét gọi là Nghĩa Dũng Đài, Chung quanh Nghĩa Dũng Đài là một bức tường lớn h́nh tṛn gọi là Vành Khăn Tang.


Không biết ai đặt tên cho bức tường nầy Vành Khăn Tang ? Sao mà nghe ai oán , thê lương, năo ḷng cho người sống và cả cho những linh hồn người lính đă trở về cùng cát bụi, đă nằm im ĺm theo năm tháng đi qua .



https://caoniendc.com/wp-content/uploads/2016/09/Nghia-trang-Bien-Hoa-1.jpg


Từng dăy mồ tiếp nối, dài thêm theo từng ngày, từng tháng. Bia mộ nằm thẳng hàng, yên lặng, b́nh đẳng, hàng hàng, lớp lớp, mút tầm mắt cho đến cuối chân đồi. Việc xây thêm mồ mả đó dừng lại vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Như một định mệnh, như một sự an bài !


https://chungtoimuontudo.files.wordpress.com/2011/10/congtamquandentusy2sep15.jpg



Lúc khánh thành th́ nghĩa trang chỉ có ngót nghét ngàn ngôi mộ. Thế mà khi cuộc chiến chấm dứt vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 , tổng số mộ phần ở đây đă lên gần 16 ngàn ngôi mộ.


Đó là chưa kể nhiều tử sĩ đă được thân nhân đưa về đất nhà, mà con số nầy th́ vô phương tổng kết.


https://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/03/ntbh_044.jpg


Tại nghĩa trang nầy cũng có hơn mười ông Tướng nằm chung với thuộc cấp của ḿnh. Trong số đó có Đại Tướng Đỗ Cao Trí; nằm lại b́nh đẳng – Huynh Đệ Chi Binh.



https://live.staticflickr.com/7901/39746334223_678f06a5de_z.jpg


Theo đồ án dự trù xây cất th́ chung quanh vành tṛn bức tường Vành Khăn Tang nầy , sẽ thi công nhiều công tŕnh điêu khắc nghệ thuật ghi lại những chiến tích oai hùng chống ngoại xâm của dân tộc ta qua các triều đại , từ thuở vua Hùng mở nước kéo dài cho đến ngày nay.


Việc thi công trên c̣n đang tiếp diễn hàng ngày, th́ xảy ra biến cố 30 tháng 4 năm 1975 .


Những phá hoại lớn bắt đầu từ đó ở nghĩa trang nầy qua nhiều bàn tay của bên thắng cuộc.


https://imagizer.imageshack.com/v2/640x354q90/r/924/mJTue2.jpg


Nhà cầm quyền cộng sản quản lư nghĩa trang nầy cắt bỏ 10 mét phần đầu của Nghĩa Dũng Đài đem đâu mất, phần nầy bắng thép, chắc mắc.

“Thương Tiếc” bị xe cần cẩu giựt sập, chở đi biệt tăm. May quá có một kư giả người Pháp chụp được h́nh lúc pho tượng bị kéo sập, phổ biến lên mang nên nhiều người xem được.


https://vietbao.com/images/file/LTsj4rV01ggBAA4P/6-nghia-trang.jpg



C̣n nhiều thứ trong nghĩa trang bị cs đánh cắp, chia chác nhau không ai dám kiểm soát. Con cóc làm sao dám kiện ông Trời ?


https://imagizer.imageshack.com/v2/640x457q90/r/922/81TcDZ.jpg


Đứng trên khu vực dưới chân Nghĩa Dũng Đài, ta thấy cả một cánh đồng mộ chí trùng trùng điệp điệp, dài đến mút mắt .


Một quang cảnh tiêu điều, hoang vu nhưng lại có giá trị lịch sử, trong suốt thời gian điêu tàn vận nước vừa qua:

Tủi thân người lính nằm trong mộ

Nợ máu xương nầy …biết hỏi ai ?

Đêm bấc hồn oan theo bóng đóm

Vật vờ ghềnh băi …ánh ma trơi



https://chungtoimuontudo.files.wordpress.com/2011/10/nddthanhminh2000.jpg


Đại Đội 17 – Khóa 25 Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức chúng tôi , vào tháng 11 năm 1967, là những nhân chứng tận mắt ngày bắt đầu xây dựng Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa. Và nhiều sinh viên khóa 25 nầy c̣n sống sót cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 trong đó có tác giả, lại cũng chứng kiến sự khép cửa Nghĩa trang vĩnh viễn .


Một giai đoạn đau buồn của đất nước Việt Nam đă đến và cũng đă đi qua.

Cầu xin anh hồn của 16 ngàn tử sĩ cùng độ tŕ, phù hộ cho Nghĩa trang không bị tàn phá tiếp.


Xin hỏi núi cao, xin hỏi sông dài, hỏi em bé lên ba, hỏi bà già tám chục, th́ chắc chắn rằng hồn thiêng sông núi và toàn dân Việt đều một ḷng muốn bảo vệ Nghĩa Trang yêu dấu nầy.



https://lh3.googleusercontent.com/proxy/jLjESoj3t1tHpepQs06vRIGYUb2dd824wPnwFfurZLMSsF6wB7 HnhCAs7Rmw0eqXuyOwG6l2EG66BdDSTfAjgLs_jg


Lúc nào toàn dân ở trong nước cũng như ở hải ngoại cũng dành một góc trang trọng trong ḷng, tôn kính những người con anh hùng đă nằm xuống.


Mười sáu ngàn tử sĩ nầy đă đem máu đào bảo vệ từng tấc đất ngọn rau và họ đă đền nợ nước. Mà than ôi !


Kết quả khác nào như việc làm vô ích của những con dă tràng xe cát Biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán ǵ !

Xin đọc bài thơ “Nghĩa Trang” dưới đây:

Nghĩa Trang

Ở đây lớp lớp mồ vô chủ

Nào có ai dành một nén hương ?

Ở đây tối tối hồn oan khóc

Tiếng dế đêm sâu năo nuột buồn

Bao nhiêu mộ chí nằm nghiêng đổ

Bạn với trâu ḅ mỗi giấc trưa

Lối nhỏ hoang tàn gai mắc cỡ

Nào ai thăm viếng lúc sang mùa ?

Người từ tuyến lửa chở về đây

Tử sĩ Binh Long ngăn đá đầy

Từng dăy Poncho về băi H.

Trực thăng lên xuống bụi mù bay

Về đây rũ sạch trần duyên cũ

Lặng lẽ đi về cơi tịch liêu

Về đây hoàn tất phần chung sự

Đồi thấp thiên thu lộng gió chiều

Ở đây b́nh đẳng nằm thanh thản

Kẻ trước người sau…những dăy mồ

Ở đây tất cả là huynh đệ

Mật thiết nhau từ mảnh vải sô

Đồi vắng chiều hôm ai đứng đó

Bàng hoàng lịch sử đă sang trang

Xa xa Châu Thới xanh màu núi

Thánh giá nghiêng xiêu lệ mấy hàng

Người sống hôm nay c̣n thẹn mặt

Với hồn tử sĩ với trăng sao

Ngoài kia pho tượng …đi đâu mất

Chiếc bệ c̣n nguyên nỗi nghẹn ngào

Ở đây tháng Bảy mùa ân xá

Luống những điêu tàn chẳng khói hương

Ai thỉnh cho hồi chuông siêu độ ?

Giải oan hồn phách lạc mười phương

Bao nhiêu suối lệ , bao nhiêu máu

Rồi cũng ô hô kiếp dă tràng

Một sớm Xuân về nghe băo tới

Sơn hà xao xuyến lệ dầm chan

Từ đấy miền Nam…thành khánh tận

Sạch trơn bờ cơi…trắng tay chung

Nổi trôi vận nước bèo mây dạt

Xí xóa cho rồi cuộc phế hưng

Tủi thân người lính nằm trong mộ

Nợ máu xương nầy …biết hỏi ai ?

Đêm bấc hồn oan theo bóng đóm

Vật vờ ghềnh băi …ánh ma trơi

Nhân chứng là đây…từng dăy mộ

Đoạn trường chi lắm núi sông ơi !

Có nghe tiếng quốc buồn bi thiết

Ḥa tiếng mưa rơi cuối…cuối trời

(Sài G̣n trong tôi/ Hồ Thanh Nhă)

hoanglan22
10-01-2020, 04:03
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1663389&stc=1&d=1601524864

Nhà ông Năm ở vùng Cây Quéo, trong một đường đất nhỏ quanh co không ăn thông qua con đường nào khác. Trong cái ngơ cụt đó chỉ có sáu bảy cái nhà cất theo kiểu xưa, kèo cột gỗ, ngói âm dương. Một vài nhà cũng đă được “tân trang” với mặt tiền đúc bê-tông cẩn gạch màu... Điểm đặc biệt là nhà nào cũng có đất chung quanh đầy cây kiểng và cây ăn trái. Cho nên, tuy ở sát nách thành phố mà thấy như ở đâu trong xa miệt vườn vậy! Và thật là yên tịnh. Nhà ông Năm có nhiều cây vú sữa. Giống vú sữa này màu tím, chỉ to bằng nắm tay, nhưng gịn và ngọt lịm. Bà Năm trồng vú sữa một thời với những cây ăn trái khác, hồi mới mua nhà đất. Sau này, vú sữa lại là nguồn huê lợi của ông bà Năm, bởi v́ năm nào trái cũng sai quằn. Bạn hàng ngoài chợ Bà Chiểu thường hay vào đây “mua mảo cả vườn” khi cây vừa mới trổ bông... Cây vú sữa lớn nhứt nằm gần hàng rào phía trước, cành gie ra ngoài. Những cành này lại ít trái. Có lẽ tại v́ ngoài đường gió nhiều nên làm rụng bớt bông. Đến mùa vú sữa, trẻ con trong xóm hay tới đó thọc vú sữa, nhưng chúng có xin phép đàng hoàng và không bao giờ làm ồn. Chúng có... “tư cách” như vậy là nhờ lời dặn ḍ của trẻ con những thế hệ trước: “Đừng ăn cắp! Ông Năm không ưa đâu. Ổng kêu lính bắt chết. Cứ xin là ổng cho hà. Mà cũng đừng làm ồn, ổng ghét lắm!”. Rồi cứ như vậy, trẻ con thế hệ này truyền cho trẻ con thế hệ sau... vv từ không biết bao nhiêu năm, đă thành nếp. Cho nên, khi vú sữa chín tới là hằng ngày nghe giọng trẻ con “đánh tiếng” từ ngoài rào: “Dạ thưa ông Năm cho tụi con xin vài trái vú sữa, nghen”. Có khi nghe tiếng ông Năm “Ừa” vói ra ngoài. Nhưng thông thường, sau khi xin phép như vậy rồi là chúng yên tâm thọc vú sữa. Và ngầm hiểu “Ổng làm thinh là ổng ừa đó!”. Một hôm, ăn trộm chuyền theo mấy cành vú sữa vào nhà ông Năm. Thời may, người nhà hay kịp nên nó đu người phóng ra ngoài tẩu thoát. Sau lần đó, các con ông Năm định cưa hết mấy cành gie ra ngoài, nhưng ông Năm không chịu. Ông nói: “Má tụi bây trồng mấy chục năm mới được như vậy. Cưa chi uổng. Để đó qua mùa tới cho mấy đứa nhỏ trong xóm nó ăn, nó vui!”. Rồi ông giải quyết vấn đề: “Sợ trộm vô th́ tụi bây kéo kẽm gai chằng chịt trên đó, tía thằng nào mà dám trèo?”. Nhờ vậy, trẻ con trong xóm vẫn được ăn dài dài mỗi mùa vú sữa.
... Tháng tư 1975. Trong bầu không khí hỗn loạn của miền Nam, mấy đứa con ông Năm kéo hết gia đ́nh về tá túc ở nhà ổng để cùng nghe ngóng, bàn tính. Cuối cùng là quyết định di tản. Ông Năm không chịu đi.
- Tao già rồi. Năm nay tám mươi chớ ít đâu. Đi đứng phải chống gậy mà tụi bây biểu tao di tản cái nỗi ǵ? Mà cho dầu tao c̣n sức, tao cũng không đi đâu hết. Nhà cửa đất đai này là của mồ hôi nước mắt của má tụi bây và của tao, bỏ sao được. C̣n mồ mả của má tụi bây ở G̣ Vấp, ai coi? Thôi! Tụi bây đi, đi! Đừng lo cho tao!
Vậy là ông Năm ở lại với đứa cháu gái gọi ông bằng ông chú. Cô này - năm nay trên ba mươi, chưa có chồng – ở dưới quê lên giúp việc cho ổng, “coi trong coi ngoài”, từ ngày bà Năm măn phần, nghĩa là đă bốn năm năm...

Trong lúc bên ngoài đường lớn thiên hạ chạy rần rần, nhốn nha nhốn nháo, ông Năm vẫn b́nh thản nằm trên vơng đọc sách, hút thuốc, uống trà. Lâu lâu, chống gậy ra vườn săm soi mấy chậu kiểng, bắt sâu, tỉa nhánh. Xem rất ung dung nhàn hạ!
Thấy cô cháu gái cứ “chạy ra chạy vào”, ông cười:
- Mầy làm cái ǵ mà như gà mắc đẻ vậy, Hai?
- Trời ơi... Người ta nói Việt Cộng nó vô tới rồi mà ông biểu con không lo sao được?
- Lo cái ǵ? Người ta có chức tước, có ṿng vàng, có tài sản to, có cơ sở lớn... mới sợ tụi nó vô nó giết nó lấy. Chớ... cái thứ dân quèn như tao với mầy th́ có khỉ ǵ cho tụi nó lấy?
- Dạ mà sao con cũng hồi hộp quá hà!
- Cái mà mầy phải lo là coi gạo nước ở nhà c̣n đầy đủ không.
- Dạ đồ dự trữ mấy cô chú mang lại đây để đầy nhà. Ông với con ăn cả mấy tháng mới hết!
- Ờ! Vậy là yên tâm một phần. Bởi v́ ḿnh không biết cái vụ này nó kéo dài tới bao lâu đây!
“Cái vụ này”, mà ông Năm nói, chỉ kéo dài có mươi hôm rồi chấm dứt vào ngày 30 tháng tư...

Tiếp theo đó là kiểm kê – kiểm kê đủ thứ - là khai báo – khai báo cũng... đủ thứ (biết cũng khai, không biết cũng khai!), là hội họp học tập từ đường lối chủ trương đến sổ hộ khẩu sổ gạo... Ông Năm cứ phải chống gậy đi với con nhỏ cháu nay tới tổ, mai tới phường, bữa khác tới ban... vv. Ông Năm có phàn nàn rằng ông già rồi mà cứ bắt đi tới đi lui, th́ được “mấy ông cách mạng” giải thích : “Ai cũng phải học tập hết. Không như thế th́ làm sao thông suốt được đường lối chủ trương của Đảng và Nhà Nước, làm sao thực hiện được quyền làm chủ của nhân dân? Ngoài ra, sự có mặt thường xuyên của các chú các bác trong buổi họp càng làm cho bọn trẻ chúng cháu thêm hồ hởi phấn khởi. Các chú các bác có nhất trí không nào?”.

Mỗi lần đi họp, về đến nhà là ông Năm ngă người lên vơng, vừa đong đưa vừa hút thuốc liên miên, không nói một tiếng. Thấy vậy, một hôm đứa cháu gái an ủi:
- Ai sao ḿnh vậy. Đều trời hết chớ phải có ḿnh ḿnh đâu mà ông buồn.
- Tao đâu có buồn! Tao giận chớ đâu có buồn! Cái giống ǵ mà ăn nói ngang như cua, không biết lễ nghĩa ǵ hết. Cũng may là xóm ḿnh không có nhà nào di tản, nên tụi nó không có tiếp thu để chen vô ở như mấy xóm ngoài mặt tiền. Nghe nói tụi nó ồn ào và hay ḍm ngó lắm. Cái ngơ của ḿnh c̣n đầy đủ bà con, nhứt là vẫn được yên tĩnh như từ hồi xưa tới giờ, là ḿnh có phước đó!

Một buổi sáng, đang nằm đọc sách, ông Năm bỗng nghe xào xạc trên mấy cành vú sữa phía trước. Bỏ kiếng lăo, nh́n ra, thấy gió thổi từng cơn. Yên tâm, ông tiếp tục đọc sách, không để ư đến nữa. Trưa đó, đang thiu thiu ngủ ông bỗng giựt ḿnh hết hồn v́ tiếng la chát chúa phát ra từ một cái loa nào đó ngay trước nhà ông: “Chú ư! Chú ư! Pḥng lương thực chiều nay phân phối rau cải. Mời bà con khẩn trương kẻo rau cải úng thúi chúng tôi không chịu trách nhiệm!”. Tiếng trong loa phát ra nghe điếc con ráy, c̣n lập đi lập lại nhiều lần, làm ông Năm phát bực. Ông chống gậy bước ra xem. Th́ ra “tụi nào” đă gắn một cái loa to trên mấy cành vú sữa! Ông hậm hực trở vô, đầu gậy chống xuống mặt sân gạch nghe côm cốp, miệng lẩm bẩm: “Đù cha tụi nó! Quyền ǵ mà nó gắn loa ở nhà người ta? Quyền ǵ mà nó làm mất sự yên tịnh của xóm người ta?”.

Ông Năm không biết – có đi đâu mà biết – rằng công tác “quan trọng hàng đầu” của nhà cầm quyền là cho gắn loa để đưa tiếng nói của Nhà Nước đến tận... lỗ tai của nhân dân. Để đừng ai trách rằng: “Tôi không hay không biết ǵ hết!”. Cứ nhét riết vô lỗ tai, nhét rồi nhét nữa, không thể nói là không... nghe! Mà cho dù không muốn nghe, cuối cùng rồi cũng phải thuộc! Đó là một quy luật máy móc, nó “vô” trong óc hồi nào không hay. Biết như vậy, nên Nhà Nước cho gắn loa cùng khắp: hang cùng ngơ hẻm, ngă tư ngă ba, chợ búa trường học... thậm chí đến bịnh viện là nơi cần sự yên tịnh! (Có người nói: chung quanh bịnh viện có bảng “Cấm bóp c̣i” đàng hoàng mà Nhà Nước không tôn trọng luật lệ ǵ hết. Nói như vậy là sai, là “lư luận chưa đạt yêu cầu”. Bảng “Cấm bóp c̣i” chớ có cấm bắt loa nói cho dân nghe đâu?).

Tuy nhiên, có một nơi mà Nhà Nước không cho gắn loa: đó là nghĩa địa. Không phải tại v́ Nhà Nước biết tôn trọng “giấc ngủ ngàn thu” của những người quá cố, mà tại v́ Nhà Nước sáng suốt, biết rằng có nói ở đó cũng không có... ma nào nghe! Đỉnh cao trí tuệ có khác!

Chịu trận được mấy hôm, bực ḿnh quá, ông Năm nhứt định đi thưa. Ông chống gậy đi một ḿnh – con cháu gái bận đi họp hội đoàn ǵ đó.
Đầu tiên, ông đi gặp ông tổ trưởng. Ông này dẫn qua ông tổ phó an ninh. Ở đây, sau một lúc bàn qua tính lại (bởi v́ họ cũng không rành cái tổ chức cách mạng quá mới mẻ này), cả ba kéo nhau đến công an phường. Anh này tỏ vẻ sành sỏi, giải thích dông dài thế nào là hàng ngang thế nào là hàng dọc, ta tổ chức có khoa học nên theo hệ thống dọc chớ không theo hệ thống ngang... vân vân, rồi vân vân, rồi vân vân. Để cuối cùng kết luận một cách rất... “bài bản”:
- Đấy! Rơ như thế đấy!
- Tôi không hiểu ǵ hết! Tôi chỉ muốn biết bây giờ anh giải quyết cái loa của tôi làm sao đây?
- À! Chuyện này không thuộc diện xử lư của tôi! Cụ nên đến Ủy ban nhân dân quận xem. Không! Cụ phải đến Ủy ban nhân dân phường trước. Ta theo hàng dọc, phải đi từ dưới lên trên. Phải...
Ông Năm chán nản xách gậy đi ra, bỏ mặc hai ông tổ trưởng tổ phó ngồi ngẩn ngơ với cái mà họ gọi là “vụ việc quá căng”!
Gọi xích lô, ông Năm đi thẳng lên quận. Ở đây, người ta chỉ ông đi đúng chỗ. Mừng quá, ông thuật lại vụ cái loa của ông cho người thanh niên ngồi sau bàn viết đầy hồ sơ (Anh này có vẻ cán bộ, v́ thấy ngồi trong văn pḥng mà vẫn đội nón cối xiêng xiêng giống như c̣n đi dưới nắng!). Rồi ông kết:
- Nhờ cậu giải quyết giùm, tôi cám ơn.
- Bác có làm đơn khiếu nại chưa?
- Ủa? Phải làm đơn nữa sao?
- Coi? Đi thưa th́ phải có đơn. Chớ nói khơi khơi vậy lấy ǵ mà giải quyết?
Nghe như vậy, ông xách gậy quay ra đi thẳng.
Tối đó, ông ngồi dưới đèn rị mọ viết đơn. Cả đời ông chưa kiện cáo ai bao giờ, cho nên ông cứ viết rồi xé, xé rồi viết. Đến chừng ông đọc được vừa ư th́ đă mất gần hai tiếng đồng hồ!

Sáng hôm sau, ông “vác đơn lên quận”. Gă thanh niên hôm qua mở ra đọc, châm chú. Và có vẻ... nghiền ngẫm từng câu từng chữ hay sao mà thấy đọc khá lâu. Ông Năm chống gậy ngồi chờ. Một lúc sau, gă đứng lên – vẫn đội nón cối xiêng xiêng – cầm lá đơn đi vào pḥng trong. “Chắc là để báo cáo cho trưởng pḥng” – ông Năm nghĩ như vậy (Nhờ đi họp đi hội liên miên mà ổng bây giờ nghĩ và nói bằng từ ngữ cách mạng một cách... trơn tru, từ lúc nào không hay biết! Cái hay của chế độ là ở chỗ đó. “Cứ nhai tới nhai lui cho tụi nó nghe riết là tụi nó sẽ nhập tâm thôi”). Độ mười phút sau, gă trở ra với một người cán bộ khác đứng tuổi hơn. Ông ta vui vẻ chào ông Năm, tay cầm lá đơn phe phẩy như cầm quạt:
- Chào bác. Chuyện này các đồng chí đó làm bậy. Rồi ta sửa sai thôi. Bác về đi, yên tâm. Họ sẽ tháo gỡ trong ngày hôm nay cho bác.

Ông Năm cám ơn, rồi ra về. Ngồi trên xích lô, ông nghĩ: “Ít ra, cũng có người biết điều như vậy chớ! Lâu nay ḿnh nghĩ quấy cho họ cũng tội.”
Lối gần trưa, ông nghe có tiếng xe máy dầu ngừng phía ngoài rào, kế đó là mấy cành vú sữa dao động một lúc lâu rồi yên. Ông vui vẻ nói với đứa cháu gái:
- Rồi! Họ gỡ rồi! Mầy thấy không, Hai? Họ cũng đàng hoàng chớ đâu đến nỗi.
Xế chiều, đang nằm đọc sách trên vơng, ông bỗng giựt ḿnh v́ tiếng phát thanh chát chúa ́nh ́nh ́nh ́nh của nhạc tiến quân. Lần này, nghe c̣n lớn hơn hồi cái loa nằm trên cành vú sữa! Ông vội vă chống gậy ra ngoài cổng coi là cái ǵ. Th́ ra cái loa bây giờ đă được gắn trên trụ đèn đường nằm ở phía đối diện, miệng loa hướng về phía nhà ông Năm! “Tiên tổ nó! Hèn ǵ!”. Ông Năm hậm hực trở vô thay đồ rồi hối hả gọi xích lô lên quận.
Lần này, ông đ̣i gặp thẳng ông trưởng pḥng. Ông nói với gă thanh niên ngồi ngoài, mà ông dộng đầu gậy xuống sàn gạch nghe côm cốp. Đủ thấy ông bực ḿnh đến đâu!
Nghe to tiếng, ông trưởng pḥng bước ra, ngạc nhiên:
- Họ chưa gỡ cái loa cho bác à?
- Gỡ rồi! Mà họ đem gắn ở trụ đèn phía bên kia đường th́ cũng như vậy thôi.
- Bác nói không đúng! Sao cũng như vậy được? Hồi gắn loa trên cây nhà bác mà không có sự đồng ư của bác, đó là sai, là phạm chủ quyền của bác. Tôi nhất trí điều đó. C̣n bây giờ gắn trên cột đèn thuộc phạm vi của Nhà Nước, nằm trên lối đi công cộng, là đúng chớ đâu có sai.
- Đành rồi. Nhưng điều mà tôi muốn nói là tôi già rồi, cần được yên tĩnh, mà cái loa nó ồn quá. Tôi...
- À! Chỗ này là bác hiểu sai. Nhà Nước đâu phải gắn loa để làm ồn. Nhà Nước gắn loa để hằng ngày báo cáo cho nhân dân những ǵ Nhà Nước đă làm, những thành quả của cách mạng, từng tháng, từng quí, những đường lối chủ trương của đảng đề ra... Bác thấy không? Quan trọng lắm chớ! Đó là trách nhiệm hàng đầu của Nhà Nước đối với nhân dân mà bác nói là làm ồn sao được!

Ông Năm không nói thêm một tiếng, chống gậy côm cốp đi ra mà có cảm tưởng như ḿnh vừa nói chuyện với... một bức tường!
Về nhà, ông nằm ngă người lên vơng, chửi đổng mà như tự chửi ḿnh:
- Đu mẹ bà nó! Nếu biết như vầy, hồi đó tao đă di tản cha nó rồi.
Từ đó, trên cái bàn thấp kê gần vơng để để trà, thuốc, sách của ông Năm, thấy có hai cục bông g̣n nhỏ! Và lúc nào đi họp đi hội, ông cũng cố ư nhét vô lỗ tai hai cục g̣n bự cho người ta thấy! Có ai ra dấu hỏi th́ ông trả lời lớn tiếng như nói với người điếc:
- Từ ngày tôi nghe loa phát thanh của Nhà Nước, tự nhiên tôi bị... thúi lỗ tai. Kỳ quá!

Tiểu Tử

hoanglan22
10-03-2020, 00:04
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1664562&stc=1&d=1601683620

Thường thường những kẻ thiếu hiểu biết, ít học khi viết văn hay dùng những chữ cầu kỳ khiến trở nên dị hợm. Miền Nam gọi đó là “Dốt Hay Nói Chữ”. Ngày nay thảm trạng “Dốt Hay Nói Chữ” lan tràn trong nước và trên hai trang tin BBC và VOA tiếng Việt. Trong nước, miệng th́ hô hào “thoát Trung” mà ngôn ngữ th́ lai Tàu lạ hoắc. Đó là loại tiếng Tàu thời Mao Trạch Đông, không phải là tiếng Hán đă được cha ông ta Việt hóa và sử dụng cả ngàn năm nay. Thí dụ:

1) BBC ngày 26/7/2019: Ở Việt Nam bây giờ cái ǵ cũng “diện mạo”. Hai chữ “bộ mặt” đă chết trong ngôn ngữ Việt Nam. Thí dụ: Thay v́ viết, “Để tạo bộ mặt mới cho nông thôn”, lại viết, “Để tạo diện mạo mới cho nông thôn.” Rồi, “Để tư pháp VN có diện mạo đẹp hơn th́ cần tôn trọng luật sư.” Bài này của Ô. Luật Sư Ngô Ngọc Trai gửi cho BBC từ Hà Nội.

2) BBC ngày 6/8/2020: “Biển Đông: Việt Nam cần tính đến kịch bản Trung Quốc 'tấn công' từ nhiều hướng?” Kịch bản là một kế hoạch được tính toán từ trước và diễn tiến theo thứ tự, lớp lang. Câu văn không dị hợm chỉ là, “Việt Nam cần tính tới t́nh thế/trường hợp Trung Quốc tấn công từ nhiều hướng.” Ở Việt Nam bây giờ cái ǵ cũng “kịch bản”. Giá chứng khoán, giá vàng lên xuống cũng kịch bản. Rồi cuộc tranh cử tổng thống Hoa Kỳ cũng kịch bản. Rồi những cuộc va chạm ở Biển Đông cũng kịch bản. Đúng là một thứ tiếng Việt dị hợm, điên khùng.

3) BBC tiếng Việt ngày 12/8/2020: “Việt Nam tồn tại nhiều khoảng trống lănh đạo?” Câu hỏi ở đây là, “khoảng trống lănh đạo” là ǵ? Là không có lănh đạo ǵ hết, ai muốn làm ǵ th́ làm? Hoặc thiếu người có khả năng lănh đạo? Viết một câu văn mơ hồ như thế này có lẽ tác giả cũng chẳng hiểu ḿnh viết ǵ !

4) BBC tiếng Việt ngày 13/8/2020: “B́nh luận đa chiều về vụ đ́nh chỉ Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung”. Câu văn giản dị và có học chỉ là, “Những ư kiến khác nhau về vụ ngưng chức Chủ Tịch TP. Hà Nội Nguyễn Đức Chung.” Ngày xưa ở Miền Nam, ông kư giả nào viết, “b́nh luận đa chiều” chắc phải đưa ông này vào nhà thương điên Biên Ḥa quá. Rồi nào là, “tạm đ́nh chỉ công tác”. Tại sao không viết “ngưng chức” cho ngắn gọn? Công tác là công việc, c̣n “chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố” sao gọi là “công tác” được?

5) BBC tiếng Việt ngày 13/8/2020: “Khởi tố vụ án cán bộ gần cận Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung.” Khởi tố là khởi tố một cá nhân nào đó chứ không thể “khởi tố vụ án”. Khi nói “vụ án” tức là đă đưa ra ṭa xét xử rồi đâu cần phải khởi tố nữa? Ngoài ra người ta nói, “thân cận” chứ không nói “gần cận”. Tiếng Việt như thế mà cũng đ̣i cầm bút.

6) BBC tiếng Việt ngày 13/8/2020: “Những người phụ nữ đă tạo thành các chuỗi dây người tại Belarus.”. Chẳng ai nói, “chuỗi dây người” mà người ta nói “nắm chặt tay nhau để làm thành một hàng rào”.

7) Điểm chuẩn và điểm sàn. Hiện nay trong nước các nhà giáo dục ông bà nào cũng có bằng Tiến Sĩ nhưng tiếng mẹ đẻ lại không hơn học sinh Trung Học năm xưa nên chế ra những từ ngữ thật lạ lùng. Thí dụ: Điểm thấp nhất để được xét tuyển biến thành điểm sàn. Điểm để được trúng tuyển (bằng hoặc cao hơn) gọi là điểm chuẩn. Nghe nói điểm sàn và điểm chuẩn sinh viên trong nước cũng ngơ ngác chẳng hiểu ǵ cả phải cần thông dịch viên cho nên đă phải xin giải đáp. Trang tin CỔNG THÔNG TIN TUYỂN SINH ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG LỚN NHẤT VIỆT NAM đă phải giải thích về các danh từ bí hiểm này. Ngày nay ở Việt Nam cái ǵ vui, hấp dẫn, ngoạn mục như đá bóng, đưa xe đạp, tŕnh diễn văn nghệ, giá vàng lên xuống bất thường… được gọi là “kịch tính”. Món ăn truyền thống như bánh giày, bánh chưng biến thành “món ăn kinh điển”. Và rồi cái ǵ cũng “siêu” như “siêu ngon”, “siêu rẻ”, “siêu trường, siêu trọng”. Đúng là ở với cộng sản không điên cũng khùng cho nên bằng mọi cách phải trốn đi. Bây giờ giai cấp quyền thế tham nhũng cả trăm triệu đô-la, trốn đi bằng cách bỏ ra vài triệu mua nhập cảnh/hộ chiếu (visa) của Đảo Sip. Đảo Síp (Cyprus) nằm trong Liên Hiệp Âu Châu và có thể tự do di trú trong 166 quốc gia.

8) Vượt ngưỡng: Trong nước bây giờ chữ nghĩa của cả quốc gia lại do bọn bát nháo, ít học, đứng bến mánh mung quyết định rồi cả nước “học tập” và nói theo. Thậm chí cả các ông thủ tướng, tổng bộ trưởng cũng nói theo như con vẹt. Thí dụ: Vượt chỉ tiêu, vượt mức, vượt qua con số…biến thành vượt ngưỡng! Thí dụ: Báo Pháp Luật Việt Nam ngày 21/8/2020, “Hàn Quốc: Số ca nhiễm Covid-19 lần đầu vượt ngưỡng 300 sau hơn 5 tháng.” Tự điển Việt Nam trong nước định nghĩa “Ngưỡng là đoạn gỗ dài để ngang mà giữ lấy cánh cửa, ngưỡng cửa”. Như vậy chỉ có “bước qua ngưỡng cửa chứ làm ǵ có vượt ngưỡng?” Thảm họa văn hóa trong nước càng nói ra càng xấu hổ.

9) Rồi cũng lại VOV ngày 18/9/2020: “Bà mẹ một con Đường Yên trẻ trung, xinh đẹp như thiếu nữ đôi mươi tại sự kiện.” Tôi đố quư vị hiểu câu văn này nói ǵ. Thực ra cô người mẫu một con này xuất hiện trong một màn tŕnh diễn thời trang và trông vẫn đẹp như gái chưa chồng…nhưng được viết bằng đoạn văn vô cùng bí hiểm và bát nháo.

10) Rồi th́ “rung động ḷng người” hay “chinh phục được ḷng người”, “vô cùng xúc động” biến thành “tan chảy” và “đốn tim”. Thí dụ: Báo Người Lao Động ngày 27/8/2020, “Tan chảy với h́nh ảnh và điệu bộ của Trúc Nhi-Diệu Nhi.” Hai em bé nói ở đây sinh đôi dính vào với nhau được các bác sĩ giải phẫu tách ra và các em đă sinh hoạt b́nh thường khiến mọi người vui mừng hay thương cảm nay được bọn bát nháo biến thành “tan chảy”. Rồi chinh phục được khán giả biến thành “đốn tim”. Thí dụ: Báo Thanh niên, “ca sĩ Hà Vân ‘đốn tim’ người nghe với ca khúc về Phật giáo”. Hiện tượng “tan chảy” và “đốn tim” nhiễm ô cả hải ngoại. Trong một chương tŕnh b́nh luận thời sự của SET (Saigon Entertainmnent TV) ở Nam California, ông điều khiển chương tŕnh thay v́ nói, “Việc Việt Nam mua nông phẩm ở các tiểu bang Cộng Ḥa làm Ô. Trump đẹp ḷng v́ giúp ông tái đắc cử.” lại nói, “Việc Việt Nam mua nông phẩm ở các tiểu bang Cộng Ḥa đă đốn tim Ô. Trump.”

11) VOV ngày 19/9/2020: Ban biên tập của đài này tiếng Việt quá kém nên không hiểu nghĩa của hai chữ “đầu tiên” và “hàng đầu”. Đầu tiên chỉ về thời gian. C̣n hàng đầu chỉ về thứ bậc/thứ tự cho nên mới viết, “Mỹ coi Trung Quốc là thách thức chính sách đối ngoại đầu tiên.” Thế mà cũng tự nhận là tờ báo và tiếng nói tiêu biểu cho cả quốc gia. Câu văn đúng phải viết, “Mỹ coi Trung Quốc là thách thức chính sách đối ngoại hàng đầu.”

12) VOV ngày 19/9/2020: “Sắp công bố thương hiệu bánh Trung thu kém chất lượng”. Thế nào là bánh trung thu kém chất lượng? Chỉ có trời mới biết. Nếu nó không hợp vệ sinh hoặc không ngon…th́ nói rơ ra. “Kém chất lượng” là ǵ? Đúng là ngu dốt cho nên nói ẩu mà cứ tưởng ḿnh đúng và khắp cả nước cứ nhai đi nhai lại ba chữ “kém chất lượng”. Đúng ra phải nói “phẩm chất kém” hoặc “không hợp vệ sinh”.

13) VOV ngày 19/8/2020: “Viện Kiểm Sát nói có cơ sở chứng minh quan hệ t́nh cảm giữa ông Tài và bà Thúy.” Trong luật pháp người ta không nói “có cơ sở” mà phải nói “có bằng chứng”. Ngu dốt thế mà cũng đ̣i viết báo. Nguyên do cũng chỉ v́ bị nhồi sọ từ thuở nhỏ cho nên nói như con vẹt và không cần suy nghĩ ǵ hết.

14) VOV ngày 20/9/2020: “43 năm tham gia LHQ: Tạo ra “Thương hiệu Việt Nam” trong hoạt động ngoại giao đa phương”. Trời đất quỷ thần ơi! Tên tuổi của một quốc gia mà lại gọi đó là “thương hiệu”. Đúng là ngu dốt không thể tưởng tượng được! Nếu có học sẽ viết, “43 năm tham gia LHQ: Tạo ra ‘Tên tuổi Việt Nam’ trong hoạt động ngoại giao đa phương.”

Việt Nam ngày nay không c̣n ăn độn ngô, khoai, sắn và bo bo nữa. Cả làng quê cũng xây lâu đài, “biệt phủ” c̣n sang hơn cả Âu Châu, xe hơi đắt tiền giá vài trăm ngàn Mỹ Kim. Thế nhưng ngôn ngữ lại là một thứ bát nháo như nồi cám heo. Nguyên do là v́ các nhà ngôn ngữ, bác học, giáo sư, nhà văn, nhà biên khảo thuộc thế hệ truyền thống đă chết hết cả rồi. Cầm nắm ngôn ngữ dân tộc ngày hôm nay là một phường bát nháo trưởng thành trong ăn độn, xếp hàng tại cửa hàng bách hóa tranh nhau từng miếng thịt mỡ nhỏ bằng ngón tay, từng khẩu phần vải không đủ may một chiếc quần đùi, buôn lậu, mánh mung, trộm cắp, gian lận… cho nên dù có học ǵ, giàu có thế nào đi nữa…th́ vẫn chỉ là một phường vô cùng ngu dốt, tham lam, gian dối và phá hoại. Cứ thử nh́n vào phong trào diệt tham nhũng hiện nay cho thấy từ hàng tổng bộ trưởng tới thứ trưởng, tướng công an, tướng trong quân đội, đô đốc hải quân, tổng giám đốc các ngân hàng, bí thư tỉnh ủy, chủ tịch UBND, huyện ủy, xă ủy bị tù, bị mất chức…cho thấy hệ thống cầm quyền tại Việt Nam đă ung thư, thối rữa như thế nào. Khi bụng đói và đạo đức suy đồi th́ tất cả đều tan nát. Trong nước “đạo đức suy đồi”, “thối nát” không nói mà lại che dấu bằng cách dùng danh từ “biến chất”. Cả nước có “chất” ǵ tốt đâu mà “biến”? Bản chất cộng sản vốn đă xấu rồi, nếu có “biến”đi th́ tốt chứ sao lại lên án? Rồi th́ các quan mua bằng cấp giả, ăn cắp luận án của người khác để có bằng Cao Học (nay gọi là thạc sĩ), Tiến Sĩ để được tiến cử vào chức vụ lớn hơn. Cái này gọi là ‘biến chất” hay bản chất là gian dối? Ở Mỹ cũng có những vụ ông/bà triệu phú hối lộ để con cái được vào học các trường danh tiếng nhưng đă bị lôi ra ṭa xét xử. Sao không thấy trong nước xử phạt các ông/bà này? Làm chính quyền cai trị là “phụ mẫu chi dân” mà gian trá th́ đừng trách đất nước sao tan nát. Cổ nhân có câu, “Nhà dột từ nóc dột xuống” tức cha mẹ không ra ǵ th́ con cái hư hỏng. Đất nước loạn ly không phải tại dân trước mà chỉ v́ vua th́ u mê ám chướng, quan lại th́ tham ô vơ vét. Một đất nước mà vua anh minh, trăm quan liêm chính th́ đất nước làm sao loạn ly được? Ngoài ra đất nước lụn bại là v́ không có nhân tài hoặc có nhân tài mà không biết sử dụng. Khi có nhân tài th́ đất nước phát triển và ngửng mặt với năm châu bốn biển. Ngày xưa Đào Duy Từ không được Chúa Trịnh trọng dụng bèn vào nam, Chúa Nguyễn biết đây là kỳ tài cho nên đă mở nghiệp lớn ở phương nam. Ở đâu cũng vậy, đảng nào nắm quyền th́ cử đảng viên của ḿnh vào những chức vụ quan trọng trong chính quyền. Thậm chí bổ nhiệm thẩm phán Tối Cao Pháp Viện cũng lựa người cùng với lập trường của đảng ḿnh. Thế nhưng đưa bọn “con ông cháu cha, thái tử đảng” vô tài bất tướng vào những chức vụ quan trọng trong chính quyền th́ chúng sẽ phá nát đất nước.

C̣n đối với hải ngoại, thua một trận chiến không đáng sợ bằng thua về văn hóa và tư tưởng. Chúng ta thừa kế cả một nền văn chương, học thuật, ngôn ngữ tuyệt vời của cha ông để lại rồi được Miền Nam phong phú hóa với đầy đủ ngữ vựng cho tất cả các bộ môn, tại sao lại đi bắt chước loại ngôn ngữ không có học? Chinh phục được ḷng người, tạo thiện cảm sao không nói mà nói “đốn tim”? Cảm động, xúc động sao không nói mà lại nói “tan chảy”? Căn nhà sao không nói mà nói “căn hộ”. Gia đ́nh sao không nói mà nói “hộ dân”? Giải tỏa đất đai sao không nói mà nói “giải phóng”? Giải quyết công việc, lọc chất thải… sao không nói mà nói “xử lư”? Tiết kiệm, rẻ tiền sao không nói mà nói “kinh tế”? Du lịch, thăm viếng sao không nói mà nói “tham quan”? Bực tức, bị dồn nén, bất măn sao không nói mà lại nói “bức xúc”? Bài giảng sao không nói mà nói giáo tŕnh? Gặp gỡ, trao đổi, thân hữu sao không nói mà lại nói giao lưu? Tác động qua lại sao không nói mà nói tương tác? Đoạn đường không nói mà lại nói “cung đường”. Cung là một đoạn cong như “h́nh ṿng cung”, cây cung là cây cong để bắn mũi tên. Rồi “kích thích kinh tế” không nói mà lại nói “kích cầu”. Kích cầu là sự bịa đặt chữ nghĩa một cách điên khùng. Ngay cả tự điển Việt Nam trong nước cũng không có hai chữ “kích cầu”. Cả ngàn năm nay người ta thường nói: kích thích, kích động, kích động nhạc, thuốc kích dục, kích thích tố. Danh từ “stimulus” tự điển trong nước dịch là “sự kích thích” nay bọn bát nháo bịa ra là “kích cầu”. Rồi việc tuyển chọn, đề cử người (trong đại hội đảng) không nói mà lại dùng những câu nhức đầu như “công tác nhân sự” (BBC tiếng Việt). Rồi cũng lại BBC tiếng Việt, “Việt Nam hiện nay c̣n thua xa các triều đại phong kiến về trong việc quy hoạch và đào tạo nhân tài.” “Quy hoạch nhân tài” là ǵ thưa ông tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện? Từ xưa đến nay người ta nói, “đào tạo và sử dụng nhân tài” chứ không ai nói “quy hoạch nhân tài” như quy hoạch một thành phố, một đô thị. Tiếng Việt điên khùng và bát nháo thấm cả vào hàng tiến sĩ, nói mà không biết đúng sai. Nói “quy hoạch nhân tài” cũng như nói “xưởng đẻ” vậy. Đúng là ngôn ngữ của Việt cộng và làm đảo lộn cả ngôn ngữ truyền thống của tổ tiên.

Tôi sẽ c̣n tiếp tục phải viết v́ nếu không viết, không vạch ra được cái kịch cỡm, bát nháo, ngu dốt của ngôn ngữ Việt ở trong nước ngày nay và trên trang tin BBC…sẽ đắc tội với con cháu mai sau.

Đào Văn B́nh

hoanglan22
10-03-2020, 00:19
Lời nói đầu:“Đây là câu chuyện thật của chị tôi, Cô giáo S. Trường Tiểu Học C.G và Thiếu Úy T.B Thủy Quân Lục Chiến. Bài viết này xin đề tặng cho 2 người và cũng để hoài niệm một thời tuổi trẻ Việt Nam trong chiến tranh”


* * *
Vâng, Câu chuyện ấy xảy ra vào thời kỳ chiến tranh đau thương khốc liệt.


Năm 1967, trong một đêm giao tranh giữa du kích quân và lính Nghĩa quân tại C.G, một trái lựu đạn đă bất ngờ rơi trúng vào nhà dân...


Ánh chớp như sấm sét ghê rợn giáng xuống đầu chúng tôi. Một tiếng nổ kinh hoàng! Rồi th́ mái ngói vỡ toang cùng các thứ vật dụng trong nhà đổ sập xuống...


Trong phút giây hoảng loạn, trong tiếng súng đạn kinh hồn vẫn c̣n đang say mùi bắn giết bỗng nổi lên tiếng thét thất thanh của Chú tôi: “Trời ơi! cứu! cứu, cứu con gái tôi! trời ơi! chết! chết con gái tôi rồi....!”


Vâng, đó chính là cái đêm mà định mệnh đă chụp xuống cuộc đời chị tôi 1 màu đen tăm tối!


Chị không chết nhưng nguyên cánh tay trái của chị đă mất đi vĩnh viễn và 1 mảnh lựu đạn nhắm ngay vào lá phổi của chị, nằm nguyên ở đó như 1 kỷ vật nhức nhối mà đến chết vẫn phải c̣n mang theo.


Năm ấy chị tôi tṛn 20 tuổi, xinh đẹp, dịu hiền với mối t́nh đầu đẹp như giấc mơ.


Người yêu của chị là lính (như phần lớn thanh niên thời ấy đều trở thành lính chiến) Anh là lính Hải quân, được tin dữ, Anh xin 48 giờ phép đặc biệt để tức tốc trở về bên chị, tiếp máu cho chị, túc trực ân cần chăm sóc chị trong bệnh viện với tất cả t́nh yêu chân thành, tha thiết. Để rồi, khi hết phép, anh ngậm ngùi ra đi...


Mọi người ứa nước mắt mỗi khi nh́n chị nhưng chị lặng lẽ không khóc. Chị nhắm mắt lại, quay mặt vào tường để không nh́n thấy ai và cũng không muốn ai nh́n thấy ḿnh.


Vết thương lành, rời bệnh viện chị trở về nhà và trở thành 1 người khác. Lúc chưa bị thương chị là 1 cô gái vui tươi, ḥa ḿnh, thân thiện với mọi người. Giờ th́ chị lặng lẽ như chiếc bóng, ít tham gia vào sinh hoạt chung của gia đ́nh và tránh mọi giao tiếp bên ngoài.


Từ nơi xa, người yêu chị liên tục gởi thư về. Lá thư đầu tiên Anh đề cập tới ngày cưới. Chị đọc thư xong ôm mặt khóc vùi. Lá thư thứ 2 chị không mở ra và cũng không khóc, lá thứ 3 lại đến và lá thứ 4, thứ 5... chị vẫn không mở ra, cứ thế, những lá thư xếp chồng lên nhau trên mặt bàn viết. Chị không khóc cũng không hồi âm... Rồi th́, những lá thư thưa dần, thưa dần theo những tháng ngày lặng lẽ, ảm đạm của chị tôi. Mọi người ái ngại nhưng không ai dám nói ra điều ǵ, lỡ sơ suất lại khiến cho chị đau buồn thêm.


Trung tâm chỉnh h́nh Saigon làm tặng cho chị 1 cánh tay giả v́ thế khi ra ngoài chị có thể mang nó vào và có thể tự ḿnh đi xe đạp. Ống tay áo che dấu cánh tay giả nên ít người nhận ra. Chị đạp xe thong thả, 2 bàn tay đặt lên ghi đông xe như 1 cô gái b́nh thường. Từ sau ngày bị nạn, trang phục của chị tôi đặc biệt thay đổi màu. Chị đă bỏ hẳn những bộ cánh tươi thắm của 1 thời thiếu nữ để mặc toàn những chiếc áo đen như thiếu phụ để tang chồng. Màu đen điểm trang cho gương mặt chị vốn đă đẹp càng thêm đẹp năo nùng với một nét thơ man mác, một nét duyên u ẩn đến lạ kỳ. Chị thường đạp xe lui tới những nơi mà người ta cũng mặc áo đen như chị đó là Tu Viện của các soeurs ḍng Mến Thánh Giá Cái Mơn...


Thời gian dần trôi, vết thương trên thân thể đă quen và vết thương ḷng chừng như đă bớt đau. Năm 1969, Chị tôi bắt đầu vào nghề giáo. Ty giáo dục ưu ái cấp sự vụ lịnh cho chị về dạy trong 1 trường tiểu học ở quê nhà.


Thế là từ ấy, ngôi trường dần dần tạo nên cho chị 1 niềm vui sống... nhưng màu đen th́ vẫn c̣n đó, vẫn là tà áo đen ngaỳ hai buổi đến trường.


Yêu nghề, yêu trẻ, đặc biệt là yêu các em học tṛ côi cút, khó nghèo, chị đă dùng 1 phần lương cô giáo để bù đắp cho những mảnh đời trẻ thơ bất hạnh qua những bộ quần áo mới, bút mực sách vỡ và cả tiền bánh sáng mỗi ngày.... Học tṛ rất yêu cô và đồng nghiệp ai cũng mến thương “cô giáo áo đen”! Ông Hiệu Trưởng, một thầy giáo già, có lần trong buổi họp nhà trường đă cao hứng đọc lên mấy câu thơ:


“Cô giáo trường tôi với cánh tay c̣n lại.

Vẫn lật hàng ngàn trang sách vở.

Vẫn phê hàng vạn điểm học tṛ.

Như đóa hoa trong thời chinh chiến.

Nở buổi ban mai bom đạn tơi bời.

Cô giáo trường tôi với cánh tay c̣n lại.

Vẫn góp bàn tay tô điểm cuộc đời...”.


Một tràng pháo tay nồng nhiệt nổi lên như niềm vui trong trẻo vang vọng cả sân trường. Lần đầu tiên mọi người nh́n thấy cô giáo áo đen nở một nụ cười hạnh phúc.


Những năm ấy, t́nh h́nh chiến sự càng lúc càng sôi động. Hỏa châu thắp sáng những đêm tối đầy bất trắc. Đạn pháo kích nổ vang trong thành thị và tiếng oanh tạc cơ gầm rú thả bom đáp trả. Những cuộc hành quân truy kích và những cánh quân về ngang thôn xóm nghỉ ngơi dăm ba ngày để rồi tiếp tục lên đường đi chinh chiến.


Mùa đông năm 1970, Một đoàn lính Thủy Quân lục chiến dừng chân ghé lại quê tôi. Lều bạt dựng tạm trên những cánh đồng vừa mới gặt c̣n thơm mùi rạ mới. Những chiếc vơng dù giăng mắc rải rác bên những rặng dừa xanh rợp bóng và ngay cả bên hàng hiên yên ả của khu dân cư... Đó đây trong thôn xóm, trên con phố chợ, những anh lính trẻ dạo chơi, cười nói bông đùa với các cô thôn nữ... Nhóm khác ngồi trong quán nhỏ nhậu nhẹt tưng bừng với rượu ba xị đế và mấy con khô nướng thơm lừng như món quà tự thưởng sau những ngày hành quân gian khổ, sống chết khôn lường... Lặng lẽ hơn, có anh lính ngồi trong quán cà phê, trầm tư trong khói thuốc, nghe nhạc hoặc viết thư cho gia đ́nh hay cho người yêu bé nhỏ.


Ngay chiều hôm dừng quân, đang khi thơ thẩn dạo chơi trong làng, nhằm giờ tan học, Thiếu úy TB bắt gặp 1 tà áo đen giữa một đàn học sinh từ cổng trường túa ra như đàn bướm trắng chấp chới bay. Anh bàng hoàng nh́n thấy khuôn mặt cô giáo trẻ xinh đẹp như một bông hoa tím u ẩn nỗi niềm riêng. Cô đi giữa đàn em thơ tíu tít, có em nắm lấy tay cô, có em ngước mặt lên kể lể điều ǵ đó khiến cô mỉm cười xoa đầu... Một sức hút lạ thường bắt anh phải theo gót chân cô... Nhà cô giáo cách xa trường độ 400m, dọc theo lối nhỏ một bên là ḍng sông, một bên là khu vườn dừa xanh ngát. Chiều xuống êm đềm. Gió sông mát cả tâm hồn. Tà áo đen tung bay, tung bay cùng với làn tóc chấm ngang vai đang đùa vui theo gió cuốn. Vô t́nh không biết có một người lính đi theo ḿnh, cô giáo vẫn hồn nhiên bước đi về tới tận nhà. Khi xoay người lại để đóng cửa rào, cô chợt bắt gặp bên kia đường một người lính Thủy Quân lục chiến tần ngần đứng đó như đang lạc bước... Nhưng việc ấy không để lại 1 điều ǵ khác trong tâm trí cô bởi lẽ thỉnh thoảng vẫn có 1 đoàn quân ghé ngang qua làng và các anh lính vẫn thường đi loanh quanh đây đó.


Ngày hôm sau là Chúa Nhật. Buổi sáng cô gái đi nhà thờ dự lễ mi sa. Khi tan lễ cô trở về nhà, vẫn trên con đường ven sông vắng vẻ, yên b́nh. Mặt trời buổi sáng ửng hồng trên rặng dừa phía đông. Cô gái vừa đi vừa bâng quơ nh́n chiếc bóng của ḿnh đổ dài lên phía trước, bất chợt cô nhận ra có một cái bóng thứ hai của ai đó. Tự dưng cô quay lại nh́n th́ thấy một quân nhân dáng h́nh cao lớn đang bước theo sau. Cô bỗng nhớ lại h́nh như đó là anh lính chiều hôm qua mà cô đă nh́n thấy trước cửa nhà. Cô không nh́n rơ gương mặt anh, chỉ thoáng thấy đôi mắt sáng nổi bật trên khuôn mặt dày dạn nét phong sương và một mái tóc bỗng mà những cuộc hành quân dài ngày nên chưa kịp hớt ngắn. Tâm trí cô giáo trẻ chợt dấy lên một cảm giác lúng túng pha lẫn chút linh cảm mơ hồ, bất an... Cô vội vă bước đi, không dám nh́n ra sau nữa. Trên mặt đường không c̣n thấy chiếc bóng người quân nhân tiến lên, có lẽ anh ta đi chậm lại hoặc đă quay đi hướng khác.


Ngày hôm sau Thứ Hai, Cô giáo lại đến trường mà không biết rằng anh lính ấy ngồi trong quán nước trước cổng trường chờ cho đến giờ tan học để theo gót chân cô đi về trên lối nhỏ...


Thiếu úy T.B, một anh chàng Thủy Quân Lục Chiến kiêu bạt đă từng đặt chân lên 4 vùng chiến thuật, một chàng trai gan lỳ biết bao lần xông pha trong lửa đạn, ngạo nghễ giữa tử sinh, một nam nhân hào hoa bao phen từng trải chốn t́nh trường... Thế mà giờ đây bên cạnh một ḍng sông hiền ḥa trôi chảy anh bỗng đắm đuối, lụy t́nh một cô giáo miền quê!


Anh ngồi đó uống từng ngụm cà phê đắng, trầm tư trong làn khói thuốc để rồi nguồn cảm hứng tuôn trào lên giấy trắng. Anh viết miên man như ch́m sâu vào một cỏi mộng du... Chỉ đến khi tiếng trống trường vang lên báo giờ tan học, anh vội vă đút cuốn sổ tay vào túi áo trận bạc màu, vuốt lại mái tóc bồng bềnh và đứng lên xao xuyến đợi chờ...


Ngày một, ngày hai trôi qua... dân chúng trong khu phố nhỏ kháo nhau chuyện ông sĩ quan Thủy quân lục Chiến trồng cây si cô giáo, và, chính chị tôi cũng đă hiểu ra điều đó khi nhận ra buổi tan trường nào cũng có người ấy lặng lẽ nối gót theo sau, không suồng să, không bâng quơ lấy 1 lời...


Đến ngày thứ bảy, (đúng một tuần lễ ngày đoàn quân dừng chân nơi xóm nhỏ). Khi Cô giáo đang ở trong lớp học trông chừng học sinh cắm cuối làm bài th́ người lính đột ngột xuất hiện. Anh gơ nhẹ vào cửa lớp rồi đứng nghiêm chào cô giáo theo kiểu nhà binh. Ngỡ ngàng không kịp phản ứng, cô giáo ngồi sững sờ bất động. Người lính tự động bước vào, tiến đến bên cô, đặt lên bàn viết một tờ giấy học tṛ sạch sẽ, phẳng phiu trong đó là một bài thơ với tựa đề: NÓI VỚI TÀ ÁO MÀU ĐEN, được viết bằng nét chữ rơ, đẹp, mạnh mẽ và đầy cảm xúc. Anh lính nh́n cô giáo mỉm cười rồi khẽ nghiêng đầu quay bước.


Nói với tà áo màu đen


Ai dám bảo màu đen màu tang chế

Màu u buồn và màu của thê lương

Màu tăm tối như đêm dài tận thế

Như tương lai bị nghẽn lối ngăn đường

Riêng ta thấy chỉ 1 ḿnh ta thấy

Màu đen cười, cười bằng mắt bằng môi

Màu đen reo trong gió lùa tóc rối

Màu u buồn màu áo của em tôi

Màu kín đáo như lời yêu chưa ngỏ

Màu bâng khuâng màu ấp ủ t́nh dài

Màu dẫn lối cho ta vào thương nhớ

Màu hoang đường như câu chuyện tương lai

Màu đen ơi ôi màu đen huyền hoặc

Hồn ta say theo tà áo em bay

T́nh vỗ cánh ta nghe chừng chóng mặt

Không rượu nồng không ma túy mà say...



(Thiếu úy T.B )


Sau này chị tôi kể lại không biết tại sao khi đọc xong bài thơ ấy chị bỗng dưng khó thở, nước mắt trào ra... Chị đă cố ngăn mà không ngăn được... Cuối cùng chị cảm thấy ră rời và gục đầu trên bàn viết. Đám học tṛ nhớn nháo lo sợ, Em trưởng lớp chạy đi báo động với cô giáo lớp kế bên... Buổi dạy gián đoạn... Thầy Hiệu Trưởng cho người đưa chị tôi về bằng xe Honda.


Thiếu úy TB chỉ kịp nh́n thấy một chiếc xe chạy ra khỏi cổng trường, phía sau yên xe cô giáo áo đen úp mặt vào vai cô giáo bạn... Anh băn khoăn, lo sợ và khắc khoải mong cho đến sáng hôm sau là Chúa Nhật để đón gặp cô giáo ở trước cổng nhà thờ. Nhưng ḷng chị tôi đang xao xuyến, bất an, Chị muốn trốn tránh người ấy, chị không đi lễ nhà thờ và chị định bụng sẽ xin nghỉ dạy một tuần để lánh mặt sang nhà Ngoại làng bên.


Thế nhưng vào lúc nửa đêm thứ bảy rạng sáng Chúa Nhật, đoàn quân được mật lênh điều đi nơi khác. Các lều bạt, quân trang, quân dụng được sắp xếp gọn gàng và nhanh chóng... Tiếng xe nhà binh nổ máy, từng chiếc, từng chiếc rầm rộ lên đường trong đêm vắng. Những chàng trai Thủy Quân Lục Chiến chen nhau đứng dựa vào thành xe, mắt nh́n về phía trước, mỗi người một ư nghỉ miên man...


Thời chiến tranh, biết nói ǵ hơn! Đường trường xa, những chuyến xe tiếp tục đưa những người lính đến những chiến trường đẩm máu. Biết có lần nào trở về chốn cũ? Dẩu sao cũng nói lời từ biệt và cám ơn một tuần lễ dưỡng quân nơi xóm nhỏ êm đềm...


Thiếu úy TB chợt nhớ đến một câu văn trong tập truyện của Duyên Anh: Giă biệt em và ngôi trường, Anh ra đi với nỗi buồn thơm ngát”.


H́nh ảnh cô giáo với chiếc áo dài đen sẽ c̣n ở trong trái tim người lính cho đến khi nào?


Rồi sẽ có một tà áo xanh hay áo trắng ở trạm dừng quân nào đó tiếp tục đem đến cho anh một niềm hạnh phúc mới? Dẫu thoáng qua nhưng phút đam mê lăng mạn ấy chính ḍng suối mơ tưới mát tâm hồn khô cháy của người lính trên những nẽo đường tàn khốc của chiến tranh mà nơi ấy giữa bom đạn vô t́nh, kẻ chinh nhân không thể hẹn ngày về....


50 năm đă trôi qua kể từ ngày ấy.


Chị tôi không c̣n trẻ nữa.


Giờ đây chị đă là một cô giáo già hưu trí, vẫn sống độc thân bên cạnh ḍng sông cũ.


Đă hơn 70 tuổi rồi, đă ít nhiều hiểu được những uẩn khúc, éo le của cuộc đời...


Thỉnh thoảng nhắc lại chuyện xưa, chị mượn lời cổ nhân đă dạy: “Bất cứ ai có t́nh cảm, có ḷng thương mến đối với ḿnh th́ đừng hỏi tại sao. Hăy mở ḷng ra đón nhận. Những người bạn đến hay đi qua đời ta đều để lại dấu ấn. Hăy học cách cám ơn họ, v́ nhờ họ mà ta nếm hưởng được đủ hương vị của cuộc đời!”


Vâng, 50 năm đă trôi qua kể từ ngày ấy.


Thiếu úy TB kiêu dũng ngày nào giờ cũng đă trên dưới 80 …


Nếu anh c̣n sống sót sau cuộc chiến chinh, ước mong ở một nơi nào đó anh sống vui, sống đẹp với tuổi già thơ nhàn.


Nếu đọc được ḍng chữ này anh khắc hiểu bài viết hôm nay chính là một hoài niệm để TẠ L̉NG XƯA CŨ!


Trước khi dừng bút, xin được nói thật ḷng:


Thiếu úy TB, Anh làm thơ rất hay! Bài thơ tỏ t́nh của anh thật mănh liệt, đáng yêu! nó nằm trong số những bài thơ t́nh tuyệt vời của thế kỷ 20 đấy! V́ thế mà chị tôi vẫn c̣n giữ măi bài thơ ấy của anh cho đến tận hôm nay...!


Nguyễn thị Tự Tập

hoanglan22
10-05-2020, 04:12
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1665529&stc=1&d=1601870989

Nói đến “chợ trời” chắc ai cũng biết. Ở đó, người ta bán đủ thứ, không cần xếp “ngành nghề” ǵ cả, hàm-bà-lằng! “Thượng vàng hạ cám” ǵ đều ngang nhau hết. Rất b́nh đẳng, không “phân biệt giai cấp”, không “kỳ thị chủng tộc”. “Anh” ti-vi loại “xịn”, loại tổ bố, loại “made in Japan”, vẫn đứng cạnh “anh” quạt máy nhỏ xíu cỡ bằng bàn tay loại “không made in ǵ cả”. Những món hàng ăn cắp vẫn ngang nhiên... kề vai với những món hàng thuộc diện “bảo đảm có phắc-tuya đàng hoàng”. Và cùng đứng rất tự nhiên, không kênh kiệu tự tôn, không tự ti mặc cảm. Thậm chí đến đồ thiệt đồ giả cũng... đứng chung với nhau, lẫn lộn một cách rất hài ḥa thân thiết! Cái thế giới “chợ trời” đúng là cái thế giới lư tưởng bởi v́ đă san bằng được giai cấp và mọi dị biệt đều được ḥa đồng...
Vậy mà sau “ngày cách mạng thành công”, chánh quyền cách mạng đă “cách mạng” chợ trời ráo riết. Nay càn quét chỗ này, mai càn quét chỗ kia. Chợ trời rách nát te tua, rồi mất dạng. Rồi hiện trở lại, rồi lại mất dạng... vv nhiều lần. Giống như tṛ cút bắt.
Chính trong thời gian kể trên, một hôm đi ngang Lăng Ông Bà Chiểu, tôi “được” một anh thanh niên kè theo hỏi nhỏ mà cặp mắt láo liên:
- Chú mua quần tây không chú?
Thật bất ngờ và cũng thật bất thường làm tôi phải lấy ngay “tư thế cảnh giác”. Do bản năng và nhứt là do thói quen sau này – tôi muốn nói sau cuộc đổi đời vĩ đại – lúc nào cũng phải thủ thế, luôn luôn coi chừng lời ăn tiếng nói, luôn luôn coi chừng hành động của ḿnh, luôn luôn coi chừng những người chung quanh... Bởi v́ không biết lúc nào trắng lúc nào đen, không biết ai là ai nữa. Thấy chẳng c̣n ai tin ai nên tôi cũng chẳng dám tin ai. Vậy là lúc nào cũng có ngay một phản ứng rất... thời đại: nghi ngờ!
Tôi nghi gă thanh niên “có ư ǵ”. Bởi v́ nói bán quần tây mà đi hai tay không, lại c̣n ph́ phà điếu thuốc đầu lọc mà chính bản thân tôi – công nhân viên với ngạch trật “kỹ sư bậc hai trên sáu” – không đủ tiền để mua hút! Tôi vội nh́n quanh: chẳng c̣n ai hết ngoài tôi và gă. Vậy là ở đây không có loại “chợ trời mi-ni” để gă có lư do bắt mối chào hàng. Tôi nghiêm nghị trả lời:
- Không!
Gă vẫn đeo theo:
- Mua giúp con mà chú. Quần tây thứ tốt, loại đa-cờ-rong nhập cảng đàng hoàng.
Tôi làm thinh, tiếp tục bước đi và vẫn tiếp tục... thủ. Bỗng, gă đổi giọng than thở:
- Chú không biết chớ bây giờ chợ trời bị dẹp hết, c̣n chỗ đâu mà buôn bán. Dân chợ trời ră ra đi bán chui lẻ tẻ vẫn bị “cum” như thường. Khổ lắm chú ơi! Bữa nay con lang bang xóm này cầu may mà sáng giờ chưa bán được cái quần nào hết. Chú mua giúp đi chú!
Tôi không cần quần nên không cần mua. Nhưng vẫn thắc mắc:
- Anh nói bán quần mà đi tay không, có thấy hàng họ ǵ đâu?
Anh ta nhăn mặt:
- Trời ơi! Cầm trong tay cho tụi nó thấy đặng mang họa à!
Rồi hắn dừng bước, để điếu thuốc lên khóe môi, một tay ôm vạt sơ-mi lên, một tay chỉ vào quần hắn đang mặc:
- Nè! Quần đây nè! Thiệt mà! Chú coi đi!
Tôi thật ngỡ ngàng, không biết phải nói ǵ làm ǵ. Gă cầm lấy bàn tay tôi đặt lên hông gă:
- Đây! Chú rờ coi! Đa-cờ-rong thứ thiệt mà. C̣n mới tinh hà!
Tôi vẫn chưa hết ngỡ ngàng, tay mân mê một cách máy móc chéo vải quần của hắn. Thấy vậy, giọng hắn trở nên vồn vă:
- Để con cởi ra cho chú coi nghen!
Gă dợm mở nút quần, tôi cản lại:
- Đừng! Đừng! Tôi không mua đâu.
- Hay là chú muốn coi quần màu khác? Cũng đa-cờ-rong.
Không đợi tôi trả lời, hắn phun mẩu thuốc trên môi, lẹ làng kéo phẹt-mơ-tuya xuống. Rồi một tay ôm vạt áo, một tay tuột quần khỏi mông, để lộ bên trong một cái quần khác màu sậm hơn! Hắn xoay người qua xoay người lại để... bày hàng, rồi nói:
- Cái này “xịn” hơn. Đa-cờ-rong Mỹ mà. Chú rờ coi! Bảo đảm chưa mặc lần nào hết!
Tôi bỗng thấy tội nghiệp anh ta vô cùng. Và tôi đoán rằng bên trong c̣n một cái quần thứ ba nữa, bởi v́ tôi vừa nhận ra là anh ta ốm tong ốm teo, dư sức để mặc dễ dàng ba cái quần.
Tôi đặt tay lên vai gầy của hắn, thân mật:
- Chú không mua đâu. Đừng mất th́ giờ. Tốt hơn cháu nên chào hàng người khác đi!
Trong lúc tôi bỏ đi, hắn c̣n nói vói theo:
- Chú chưa coi hết mà! C̣n một cái nữa nè!
Tự nhiên, hai chân tôi bước nhanh hơn, bước dài hơn. Làm như muốn chạy.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1665531&stc=1&d=1601871086

Tiểu Tử

tbbt
10-05-2020, 04:42
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1664562&stc=1&d=1601683620

.................................................. .................

Tôi sẽ c̣n tiếp tục phải viết v́ nếu không viết, không vạch ra được cái kịch cỡm, bát nháo, ngu dốt của ngôn ngữ Việt ở trong nước ngày nay và trên trang tin BBC…sẽ đắc tội với con cháu mai sau.

Đào Văn B́nh

https://i.postimg.cc/YSqpd2vM/cdv-haiconvo-1.jpg (https://postimages.org/)

:hafppy::hafppy::hafppy:

hoanglan22
10-05-2020, 14:23
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1665773&stc=1&d=1601907619

Bây giờ là 6 giờ chiều ngày 29 tháng Tư năm 1975. Đó là buổi chiều cuối cùng tôi c̣n là lính. Tôi được gọi lên gặp Hằng Minh (danh hiệu truyền tin của Tướng Tư lệnh Sư đoàn).

Trước buổi trưa, chiến tuyến cuối cùng của VNCH là Trảng Bom (Biên Ḥa). Lúc này Long B́nh đă là địa đầu chiến tuyến. Trước ngày 16.4, quân ta c̣n đánh nhau với quân CSBV tại Phan Rang. Thời gian càng dài ra th́ chiến tuyến càng thu ngắn lại. Sau đó là B́nh Thuận, B́nh Tuy, rồi Xuân Lộc. Quân và dân Xuân Lộc đă anh dũng chiến đấu suốt 12 ngày đêm, với quân số tương đương một sư đoàn, đă chống đở thắng lợi 4 sư đoàn quân CSBV, đă tạo nên chiến tích thần kỳ. Nhưng cuối cùng Xuân Lộc cũng bị bỏ ngỏ vào đêm 20 rạng ngày 21.4. Lực lượng trấn thủ được lệnh lui binh về Biên Ḥa lập pḥng tuyến mới để bảo vệ Biên Ḥa và Thủ đô Sài G̣n.

Vào lúc quá trưa, cộng quân bắt đầu pháo kích kho đạn Long B́nh. Những tiếng nổ long trời lở đất, khói đen bốc lên ngùn ngụt, cao tận mây xanh. Từ buổi sáng, pḥng tuyến Trảng Bom đă vỡ. Một Tiểu đoàn của Trung đoàn 43BB bị địch quân đông gấp bội, với chiến xa trợ chiến, đă tràn ngập vị trí. Vị Tiểu đoàn trưởng được ghi nhận mất tích. Mất Trảng Bom, chiến tuyến cuối cùng của VNCH là Long B́nh.

Tôi dời Bộ chỉ huy Tiểu đoàn vào bên trong căn cứ, đặt tạm tại văn pḥng của Ban chỉ huy Đại đội Quân Cảnh Sư đoàn.

Khi Tiểu đoàn xuống núi (Núi Thị) để hành quân triệt thoái khỏi Xuân Lộc, quân số khá đầy đủ, với hơn 500 tay súng. Nhưng v́ là đơn vị sau cùng triệt thoái khỏi mặt trận, một ḿnh đơn độc, không có không quân và pháo binh yểm trợ, đạn dược thiếu hụt, lại bị Sư đoàn 341/CSBV truy đuổi liên tục trong khu rừng rậm, từ lâu vốn là căn cứ địa của VC, nên đă bị hao hụt rất nhiều. V́ lẽ đó, lần đầu tiên đơn vị được giao một nhiệm vụ khá nhẹ nhàng là bảo vệ Bộ Tư lệnh Sư đoàn, trong lúc các tiểu đoàn bạn phải lên tuyến đầu chống chọi với cộng quân tại chiến tuyến Trảng Bom.

Lối 9 giờ sáng, Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn III kiêm Vùng 3 Chiến thuật bay trực thăng đến BTL/SĐ để gặp Tư lệnh các đại đơn vị: SĐ5, SĐ18, SĐ25, và Lữ đoàn 3 Xung kích. Nhưng hiện diện chỉ có hai tướng là Lê Minh Đảo, TL/SĐ18BB và Trần Quang Khôi, TL/LĐ3XK. Lúc này BTL/QĐ đă di chuyển về Sài G̣n. Sau cuộc họp mặt chớp nhoáng để ban chỉ thị giữ Biên Ḥa, Tướng Toàn vội vả bay đi mà không bao giờ trở lại. Có lẽ đây là những chỉ thị cuối cùng trong tư cách là Tướng Tư lệnh Quân đoàn. Theo “Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954 – 1975” của các tác giả Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Đại tá Lê bá Khiếu, và Tiến sĩ Nguyễn Văn, th́ vào một ngày của tháng 3.1975, Quân đoàn III được lệnh Bộ Tổng Tham Mưu, nghiên cứu băi đổ bộ tại Phước Tuy cho hai Sư đoàn Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ khi hữu sự. Khi Tướng Dương Văn Minh nhậm chức Tổng Thống chiều ngày 28.4.1975, bận lo tổ chức nội các, lo ḥa giải và ḥa hợp với cộng sản, Tướng Toàn t́m mọi cách liên lạc với giới chức có thẩm quyền về việc liệu có việc đổ bộ của hai Sư đoàn TQLC Hoa Kỳ? Nhưng không gặp được ai. Sau khi họp mặt và ban lệnh cho hai Tướng Đảo và Khôi tại Long B́nh là phải giữ Biên Ḥa , Tướng Toàn bay về G̣ Vấp. Sau đó bay ra Soái hạm Blue Ridge của Đệ Thất Hạm đội Mỹ, để yêu cầu xác nhận. Nhưng đó chỉ là “quả lừa.”

Cũng buổi sáng ngày 29.4, lối 8 giờ, trong lúc các đơn vị QLVNCH trên khắp các mặt trận, Sư đoàn 5 tại Lai Khê, Sư đoàn 25 tại Củ Chi, Sư đoàn 18 tại Biên Ḥa, Sư đoàn 22 tại Bến Lức, và tại Vùng 4, quân sĩ của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam với các Sư đoàn 7, 9 và 21, đang anh dũng chiến đấu với quân thù, th́ cựu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đă bay ra Hạm đội 7 bằng trực thăng riêng Huey của ḿnh. Trước khi bay đi, Tướng Kỳ ghé lại Bộ Tổng Tham Mưu, t́nh cờ gặp Trung tướng Ngô Quang Trưởng, và rủ rê cùng đi. Có nguồn tin cho rằng Tướng Kỳ mời Tướng Trưởng bay về Miền Tây gặp Tướng Nam để bàn chuyện cứu nước. Nhưng trực thăng đă trực chỉ ra biển đông. Được biết quân sĩ tại Vùng 4 đă tiếp tục chiến đấu với quân thù, dù có lệnh buông súng của Dương Văn Minh. Họ chỉ buông súng tan hàng sau khi nghe tin các Tướng chỉ huy của họ là Trần Văn Hai (TL/SĐ7BB), Lê Văn Hưng (TLP/QĐ), và Nguyễn Khoa Nam (TL/QĐ) tuẩn tiết. Buổi chiều ngày 28.4, tại xứ Tân Sa Châu thuộc quân Tân B́nh, Tướng Kỳ nói chuyện với những người Bắc Kỳ Di cư, những người đă một lần năm 1954, bỏ nhà bỏ cửa, bỏ ruộng vườn, bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, trốn chạy cộng sản vào Nam. Tướng Kỳ hô hào đoàn kết, cùng nhau chiến đấu chống bọn CSBV xâm lược. Khi nghe Tướng Kỳ tâm sự rằng ông sẽ ở lại chiến đấu cùng đồng bào đến giọt máu cuối cùng, ai ai cũng nức ḷng. Ông c̣n khôi hài rằng qua Mỹ sẽ không có “mắm tôm để ăn”. Đồng bào đă hoan hô Tướng Kỳ hết ḿnh. Một hy vọng mong manh đang nhen nhúm! Hay nói như cách nói qua lời của một bài hát: “Có Tin Vui Giữa Mùa Tuyệt Vọng”.

Sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, bàn giao lại cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương, Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng BTTM/QLVNCH cũng đệ đơn lên Tổng Thống Tân nhiệm xin nghỉ việc. Nhưng Tổng Thống Huơng vẫn lưu nhiệm, và ông chỉ kư Sắc lệnh giải nhiệm Đại tướng Viên trước khi bàn giao chức vụ Tổng Thống cho Tướng Dương Văn Minh. Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng BTTM kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận được cử thay thế. Nhưng Tướng Khuyên cũng rời bỏ nhiệm sở buổi trưa ngày 29.4. Các Tướng có chức có quyền bắt đầu rời bỏ nhiệm sở, t́m cách trốn chạy trước khi quân CSBV vào đến Sài G̣n. Lúc đó tại Sài G̣n, vị sĩ quan cao cấp nhất và thâm niên là Trung tướng Vĩnh Lộc, liền được Tổng thống Dương Văn Minh mời giữ chức TTMT đang bỏ trống. Đồng thời cựu Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (sau này được biết Hạnh đă bị VC móc nối) được gọi tái ngũ, giữ chức Phụ tá TTMT cho Tướng Vĩnh Lộc. Vừa nhận chức TTMT, Tướng Vĩnh Lộc triệu tập cuộc họp tại Bộ TTM, yêu cầu “mọi người đừng bỏ đi, hăy ở lại để làm việc với tất cả trách nhiệm”. Tướng Vĩnh Lộc điện thoại về Vùng 4, nói chuyện với Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, bàn kế hoạch đưa Chính phủ hoặc những nhân vật đầu năo về Miền Tây. Dưới quyền của Tướng Nam, c̣n nguyên vẹn các Sư đoàn 7, 9, 21, Không Quân, Hải Quân, lực luợng ĐPQ và NQ. Tướng Lộc liên lạc với Tư lệnh Không Quân và Tư lệnh Hải Quân cùng lên đài Truyền h́nh, nhưng không thực hiện được. Trong cố gắng cuối cùng, ông ban Nhật lệnh kêu gọi quân sĩ tiếp tục chiến đấu, miệt thị đám tướng lănh và sĩ quan bỏ ngũ, rời nhiệm sở là “những con chuộc nhắt!” Nhưng lối 6 giờ sáng ngày 30.4, cùng với Trung tướng Trần Văn Trung, Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Chiến tranh Chính trị, cũng đă t́m đường di tản, cũng làm “những con chuột nhắt”.

Lúc tôi đến căn pḥng nhỏ nằm sát đàng sau Văn pḥng Tư lệnh, Tướng Đảo đang dùng cơm chiều. Ông ngồi đó, cô đơn, ăn cơm một ḿnh. Một Trung úy Pilot ngồi cạnh đang đọc báo. Các vị Đại tá, gồm Nguyễn Văn Mai, TLP/SĐ, Huỳnh Thao Lược, TMT/SĐ, Hứa Yến Lến, TMP/HQ & TV, Dương Phún Sáng, Chánh Thanh Tra, đều đứng. Không ai nói ǵ, chỉ im lặng. Không khí trầm lắng. Có lẽ các vị vừa họp bàn xong. Đâu ngờ đây là cuộc họp cuối cùng của các vị. Trên khuôn mặt, ai ai đều mang nặng nét ưu tư. Một lúc sau, các vị đều rời khỏi pḥng đi đâu đó. Giờ đây chỉ c̣n lại Tướng Đảo, viên Phi công trực thăng và tôi. Ông mời tôi dùng cơm. Tôi từ chối. Ông khui chai rượu Tây mời uống. Khui hộp bánh Lubico mời ăn. Tôi hỏi khẻ vị Trung úy:

- “Chỉ một ḿnh anh thôi sao?”

- “Vâng, ông Tướng có thể làm co-pilot.”

Tướng Tư lệnh hỏi han t́nh h́nh của đơn vị, nhất là tinh thần quân sĩ. Tôi cứ t́nh thật tŕnh bày. Sau cuộc triệt thoái khỏi Xuân Lộc, là đơn vị rút ra cuối cùng, phải đơn độc chiến đấu không có không quân và pháo binh yểm trợ, phải chống chỏi trước một lực lượng địch đông gấp bội, bị thiệt hại nhiều, tinh thần căn thẳng, thể xác ră rời, chưa lấy lại sức. Thật ra những người lính của tôi đă chịu đựng quá nhiều. Là một trong những đơn vị có thành tích chiến đấu dũng mănh trong Sư đoàn, nhiều lần Tiểu đoàn tôi đă nhận lănh những nhiệm vụ khá nặng nề, và luôn luôn đă hoàn thành xuất sắc. V́ lẽ đó, con số thương vong thường cao. Nhưng người lính QLVNCH vẫn “xem Thái sơn nhẹ tựa hồng mao!” Vào những ngày như những ngày hôm nay, những ngày của giờ thứ 25 cuộc chiến, đơn vị nằm sát đuờng Quốc lộ, chứng kiến hàng đoàn người dân di tản, và tin tức lan truyền từ Sài G̣n, rằng đă có nhiều người bỏ nước ra đi, trong đó không ít các tướng lănh và sĩ quan cao cấp. Con đường QL1 từ Kẻ Sặt đến cầu Đồng Nai, đi ngang qua BTL/SĐBB từ mấy ngày qua trở nên chật hẹp. Người nguời gồng gánh, xe ba-gác, xe lam, xe ngựa, xe trâu, xe ḅ, và xe vận tải, chất đầy người và hành lư, vội vàng xuôi về Sài G̣n. H́nh như Sài G̣n là nơi mà mọi người dân tị nạn chiến cuộc có thể nương náu an toàn. T́nh h́nh xáo động. Người lính chiến từ nhiều tháng nay không có tin tức ǵ về gia đ́nh. Nhưng “Việc công là trọng, niềm tây sá nào”. Quân sĩ của tôi, hầu hết vẫn ở lại chiến đấu. Tinh thần không nao núng! Dù là chiến đấu một cách vô vọng! Họ ở lại, bởi v́ các cấp chỉ huy trực tiếp của họ vẫn c̣n ở lại. Yếu tố quan trọng nhất, vị anh cả của họ, Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo vẫn c̣n ở lại. Buổi chiều trong cuộc họp tại Bộ Tư lệnh, tôi là sĩ quan tác chiến, không phải tham mưu nên không tham dự, chỉ nghe kể lại, rằng ông Tướng đă khẳng định cùng thuộc cấp, rằng ông sẽ không đi đâu cả, rằng ông sẽ ở lại chiến đấu sát cánh cùng anh em. Vợ con ông cũng ở lại, gia đ́nh ông không ai bỏ đi.

Ông khuyên tôi cố gắng giữ Long B́nh. Nếu giữ được Long B́nh th́ Long B́nh là của ḿnh! Ông nói: “Một Phái đoàn của Chính phủ do Giáo sư Bùi Tường Huân, Bộ trưởng Quốc Pḥng của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đă đi gặp đối phương tại một nơi nào đó trên xa lộ Đại Hàn, để bàn chuyện ngưng bắn “da beo”. Sau này được biết, Phái đoàn của Bùi Tường Huân đă bị cộng quân giữ lại, bị bắt làm con tin. Dương Văn Minh bị lừa. Nhà Sư Thích Trí Quang đă bị lừa. Để rồi cả Miền Nam bị lừa.

Ăn cơm xong, ông Tướng đến ngồi bên chiếc bàn nhỏ, có điện thoại bàn. Ông gọi vào Dinh Độc Lập xin gặp Đại tá Đẩu, Tùy viên của Tổng Thống. Nhưng người trả lời trong máy tự xưng là Trung tá, h́nh như tên Thọ, Phó Tùy viên. Trung tá Thọ cho biết, hiện Tổng Thống đang chủ tọa cuộc họp Nội Các. Tướng Đảo tŕnh bày tổng quát t́nh h́nh, và xin lệnh Tổng Thống được đưa Sư đoàn 18BB về thiết lập tuyến pḥng ngự bên bờ Nam sông Đồng Nai để ngăn chận địch từ hướng Đông. Phía Bắc và Tây Bắc có Sư đoàn 5 của Tướng Lê Nguyên Vỹ, và Sư đoàn 25 của Tướng Lư Ṭng Bá, phía Nam có Sư đoàn 22 của Tướng Phan Đ́nh Niệm. Với lực lượng pḥng thủ như vậy, chúng ta có thể giữ được Sài G̣n. Cuộc điện đàm kết thúc với lời hứa của Trung tá Thọ, rằng sẽ tŕnh lại với Tổng Thống và sẽ liên lạc với Tuớng Đảo cho biết quyết định. Được biết sau khi nhậm chức Tổng Thống, Dương Văn Minh đă bổ nhiệm Trung tướng Vĩnh Lộc làm Tổng Tham Mưu Trưởng, và cựu Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (đă giải ngũ), làm Phụ tá TTMT. Nhưng Tướng Vĩnh Lộc vừa mới nhậm chức chưa hiểu rơ t́nh h́nh. Tướng Tư lệnh Quân đoàn th́ đă bỏ nhiệm sở. Do đó Tướng Đảo phải làm việc trực tiếp với Dinh Độc Lập, v́ Tổng Thống là Tổng Tư Lệnh Tối Cao của QLVNCH.

Được biết, vào những ngày cuối cùng, Đại tướng Vanuxem của Pháp có mặt ở Sài G̣n, thường vào ra Dinh Độc lập. Chính vị tướng này đă khuyên Tổng Thống Dương Văn Minh cố gắng để cho quân đội cầm cự thêm 48 tiếng đồng hồ th́ sẽ có giải pháp chính trị có lợi cho VNCH. Theo Tướng Vanuxem, nếu có lời yêu cầu, quân Trung cộng sẽ tràn vào Bắc Việt, áp lực CSBV ngừng tấn công. Một giải pháp chính trị có lợi cho VNCH sẽ được thi hành. Nhưng Tổng Thống Dương Văn Minh đă từ chối. Ông chỉ tin Thầy Thích Trí Quang, là người môi giới để ông tiếp xúc và đàm phán với “người anh em phía bên kia”. Nhưng khi Phái đoàn đàm phán do Giáo sư Bùi Tường Huân (Bộ trưởng Quốc pḥng) cầm đầu, ra xa lộ Đại Hàn gặp VC, th́ bị VC giữ lại làm con tin. Sau nhiều lần thúc dục Thầy Trí Quang không kết quả, Dương Văn Minh tuyệt vọng, đă than: “Thầy hại con rồi!”

Trở lại bàn ăn, Tướng Đảo cho biết, lối 12 giờ khuya nay, BTL/SĐ sẽ dời về Thủ Đức. Trung đoàn 43BB và Trung đoàn 52 vẫn ở lại Long B́nh. Một lần nữa ông khuyên tôi cố gắng giữ cho được Long B́nh. Tôi chỉ dám hứa là làm hết sức ḿnh.

Gặp Tướng Tư lệnh xong, tôi lại được lệnh đi gặp Đại tá Trung đoàn trưởng Lê Xuân Hiếu. Đó là cuộc họp mặt cuối cùng, trong buổi chiều cuối cùng của tôi với các đơn vị trưởng bạn. Chỉ có hai Tiểu đoàn trưởng là tôi, 2/43, và Thiếu tá Nguyễn Văn Dư, 3/43. Tiểu đoàn trưởng 1/43 được ghi nhận là mất tích, trong một trận giao tranh ác liệt tại Trảng Bom sáng nay. Được biết Thiếu tá Dư bị bọn “cách mạng 30” dùng búa đánh chết tại nhà ở Vũng Tàu, sau ngày tan hàng 30.4. Sau khi nghe tôi tŕnh bày chỉ thị tôi vừa nhận trực tiếp từ Tướng Tư lệnh, Đại tá Hiếu đưa ra hai kế họach:

1. Kế hoạch Alpha: Tiểu đoàn 2/43 thi hành theo chỉ thị nhận trực tiếp từ Tướng TL Lê Minh Đảo.

2. Kế hoạch Bravo: Tiểu đoàn 2/43 sẽ di chuyển qua bên kia sông Đồng Nai, lập tuyến pḥng ngự từ cầu Đồng nai đến cầu Ghềnh, dọc theo bờ Nam con sông.

Đúng 12 giờ đêm, trực thăng Tư lệnh cất cánh. Tiếp theo sau đó là BTL với các pḥng ban, cùng các đơn vị kỹ thuật và tiếp vận thuộc BTL bắt đầu di chuyển. Được biết, Tướng Đảo đă hoàn trả chiếc trực thăng về cho Sư đoàn 3/KQ. Ông đă di chuyển bộ cùng binh sĩ qua ngă cầu Ghềnh. Đây là lần thứ hai Tướng Tư lệnh đi bộ cùng binh sĩ khi triệt thoái. Lần thứ nhất là đêm 20 rạng ngày 21.4, Tướng Đảo đi bộ cùng binh sĩ trong cuộc triệt thoái khỏi Xuân Lộc về Bà Rịa. Đây là cuộc triệt thoái thành công nhất. Sự hiện diện của vị Tướng Tư lệnh, cùng di chuyển bộ với binh sĩ là yếu tố thiết yếu cho sự thành công. Một lần nữa, Tướng Đảo lại di chuyển bộ trên đường triệt thoái.

Lúc gần sáng, tôi nhận lệnh thi hành “Kế hoạch Bravo”. Đơn vị rời Long B́nh, di chuyển qua hướng cầu Đồng Nai. Vài chiếc xe tăng địch xuất hiện. Chúng nổ súng một lúc, rồi lại trở lui. Đoàn quân tiếp tục di chuyển. Toán tiền phương đă đến cầu. Nhưng đơn vị bảo vệ cầu chận lại, không cho đi qua. Tôi phải cho lệnh đổi hướng qua ngă cầu Ghềnh. Khi toán quân cuối cùng qua khỏi cầu th́ trời đă hừng sáng. Tôi gặp BCH Trung đoàn đang dừng chân trên đoạn đường dốc gần cầu. Theo kế hoạch đă định, Tiểu đoàn bắt đầu rải quân, thiết lập chiến tuyến. Tôi đặt BCH/Tiểu đoàn trong một khu vườn có ṿng rào bao quanh. Đơn vị cuối cùng là Đại đội 2/2 của Đại úy Vơ Văn Mười cũng bắt đầu rải quân. Nhưng nh́n về hướng cầu Đồng Nai, cách xa vài trăm mét, không tin vào mắt ḿnh, xe tăng và xe chở quân CSBV đang di chuyển trên xa lộ. Chúng đă vượt qua cầu. Cây cầu vẫn c̣n đứng nguyên! Tại sao cây cầu không bị giật sập? Đơn vị bảo vệ cầu đă biến đi đâu? Tối hôm qua Tướng Đảo cho biết tất cả các cây cầu bắt qua sông Đồng Nai, gồm cầu Đồng Nai, cầu Ghềnh và cầu Mới đều đă được công binh đặt ḿn. Cầu sẽ bị đánh sập, nếu cộng quân tiến qua cầu. Nhưng sự việc đă không xảy ra. Sau này được biết chính tên phản tướng Nguyễn Hữu Hạnh, với tư cách Quyền TTMT đă cấm không cho giựt sập cầu, để cho bộ đội CSBV thuận lợi tiến chiếm Sài G̣n. Đây là thành tích “dâng Bác và Đảng” mà tên Hạnh đă khoe trong một bài phỏng vấn của báo Tuổi Trẻ cách đây vài năm, nhân dịp kỷ niệm “Đại thắng Mùa Xuân” của CSBV.

Một đoàn chiến xa quân CSBV, gồm T-54, PT-76, xen lẫn những chiếc Molotova chở đầy bộ đội đang di chuyển trên xa lộ hướng về Sài G̣n. Được biết đó là quân của Tướng Nguyễn Hữu An, Chỉ huy Quân đoàn 2/CSBV được lệnh đưa bộ đội của hắn, “hợp đồng” cùng 4 cánh quân khác, tiến nhanh về Sài G̣n. Theo kế hoạch ban đầu của “Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh”, quân của Tướng Hoàng Cầm, Chỉ huy Quân đoàn 4/CSBV sẽ tiến về Sài G̣n. Nhưng 12 ngày chạm trán Sư đoàn 18BB, Tiểu đoàn 82/BĐQ, Lữ đoàn 1 Dù, lực lượng ĐPQ và NQ Long Khánh, Quân đoàn 4/CSBV bị tử vong hơn 6 ngàn bộ đội, và 37 chiếc xe tăng bị phá hủy. Chỉ huy sở Sư 341 và các đơn vị “tập kết”, chuẩn bị tiến về Biên Ḥa, bị hai trái bom BLU-82 đánh trúng, hơn 10 ngàn bộ đội bị loại ra khỏi ṿng chiến, nên không c̣n khả năng tác chiến. Một sĩ quan bị bắt khi đơn vị bị quân CSBV tràn ngập, trong trận giao tranh ác liệt tại Trảng Bom buổi sáng ngày 29 cho biết:

“Khi bị áp giải đến gặp tên “Thủ trưởng E” (Trung đoàn trưởng), hắn nói: “May mà anh gặp chúng tôi. Nếu anh bị đơn vị kia bắt (ư hắn muốn nói các đơn vị thuộc Sư 341) th́ đă bị giết ngay tại chỗ.”

Thấy c̣n vài chiếc lẹt đẹt chạy sau, tôi cho lệnh nổ súng. Lối 4 chiếc xe tăng dừng lại, quay ṇng súng hướng về chúng tôi nổ súng. Những tràng đại liên 12.8 ly ào ào xối xả, nhưng không lâu. Rồi 4 chiếc xe đó lại quay đầu xe hướng về Sài G̣n, tiếp tục chạy. Chúng cố chạy nhanh cho kịp đoàn quân đang hung hăng hướng về Sài G̣n.

Tôi tự hỏi, nếu đơn vị giữ cầu Đồng Nai để cho Tiểu đoàn tôi qua cầu, nếu đơn vị tôi đă vào vị trí trước khi cộng quân qua cầu, nếu cầu Đồng Nai bị đánh sập th́ chuyện ǵ sẽ xảy ra. Nhưng trang sử đă lật. Những trang sử oai hùng của quân và dân VNCH đang lùi dần vào dĩ văng. Một trang sữ mới đầy đau thương và nước mắt đang ghi lại biết bao nỗi ô nhục của người dân Việt do bọn cầm quyền ngu dốt ngự trị tại “Bắc Bộ Phủ” cam tâm làm tay sai cho kẻ thù truyền kiếp phương Bắc.

Buổi chiều cuối cùng kéo dài đến 11 giờ 30 trưa hôm sau, ngày 30.4. Tiếp theo là bóng đêm. Bóng đêm đă đổ ập xuống trời Nam. Đă bao nhiêu năm qua, hừng đông vẫn chưa ló dạng.

Rút chốt

Tao mệt lắm đốt cho tao điếu thuốc
Máu ra nhiều khát nước quá mày ơi
Chưa, tao chưa đền xong nợ nước
Nhưng phải đành bỏ lỡ cuộc chơi?

Bọn VC có vô mày cứ bỏ tao ở lại
Cơng tao theo, mày không chạy thoát đâu
Hôm qua hay tin vợ tao sanh con gái
Đành làm cha bất nghĩa với đứa con đầu

Áo tao c̣n mấy băng M-16
Mầy lấy đi bắn tụi nó cầm hơi
Nhớ phụ đám nhỏ mở con đường máu
Chừa cho tao trái Lựu Đạn này thôi

Có về ngang nhà, mày nhắn với Ba Má tao
Thằng Hai vẫn khỏe, cuối năm về ăn Tết.
Rút nhanh đi ! VC đă tới sát bên rào...
Tao ở lại chờ tụi nó lên cùng chết.

Bảo Định và BH

hoanglan22
10-05-2020, 14:30
Ngước mắt t́m Biển Đông
Quê nhà xa vời vợi
Mây chập chùng mênh mông
Ngày về không c̣n đợi.

Tháng Tư rồi tháng Tư
Câu chuyện buồn cổ tích
Vết thương xưa nát nhừ
Sau một thời bi kịch.

Tháng Tư rồi tháng Tư
Tuổi đời đang chồng chất
Sao ta c̣n ưu tư
Về những ǵ đă mất?

Ngước mắt nh́n Biển Đông
Anh em ḿnh mất xác
C̣n lại xương cốt không
Hay ngàn đời tan tác?

Đừng bao giờ hỏi anh
Sao hồn c̣n quay quắt?
Chuyện từ thời Xuân Xanh
Tốn làm chi nước mắt!!!

Trần Thu Miên


Từ 30.4.1975 tới 30.4.2020

Đă 45 năm qua, từ ngày 30.4.1975, “chúng ta”, những người tị nạn cộng sản ở hải ngoại, hay tự nhận là chống cộng, hay “người Quốc gia”, vẫn không quên cái ngày đen tối ấy.

Hàng năm, tới ngày đen tối ấy, được gọi là Tháng Tư Đen, hay Ngày Quốc Hận, chúng ta đều làm lễ tưởng niệm, viết bài, làm thơ, đặt nhạc, vẽ tranh… nói lên niềm uất hận, nỗi đau buồn, hoài niệm một thời thái b́nh an lạc không c̣n nữa, hay để “Tôn Vinh Cuộc Chiến Đấu Thần Thánh của Quân Lực VNCH”, như nhan đề một cuốn sách của Luật sư kiêm B́nh luận gia Phạm Kim Vinh.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1665777&stc=1&d=1601908080

Chúng ta gần như hoàn toàn bỏ quên những người “vợ lính”, trong khi chính những người phụ nữ được gọi một cách thiếu kính trọng ấy là những người chịu nhiều hy sinh nhất, nhiều đau khổ nhất, nhiều mất mát nhất trong cuộc phân tranh khốc liệt kéo dài suốt hai thập niên trên mảnh đất miền Nam mà ngày nay cả hai miền Nam Bắc đang biến thành thuộc địa của Trung cộng, đúng như lời tự thú của Lê Duẩn, tổng bí thư đảng CSVN: “Ta đánh đây là đánh cho Liên-Xô, cho Trung Quốc”.

Vậy th́ c̣n tương lai nào cho Việt Nam, 45 năm sau “Ngày Quốc Hận”? Năm nay v́ cơn dịch COVID-19 do Trung cộng gây ra đang làm chao đảo cả thế giới nên không có lễ tưởng niệm, nhưng trên mạng đă có nhiều bài viết về Tháng Tư Đen, trong đó có một bài đặc biệt viết về “vợ lính”. Đúng ra, đây là tự truyện của người vợ cố Thiếu Tá Hồ Đăng Nhựt, qua ng̣i bút của bà Lưu Trùng Dương. Bài viết khá dài, xin trích đăng lại một phần dưới đây:

Chồng tôi là một sĩ quan trưởng toán Delta của đơn vị, tôi yêu anh ngoài cái vóc dáng phong sương, thêm vào h́nh ảnh hiên ngang, oai hùng của nét trai thời đại. Có địa danh nào thiếu dấu chân anh? Từ vùng đất Lào vi vu gió tanh mưa máu, Pleime gió núi mưa rừng, Đồng Xoài, B́nh Giả… máu đổ thịt rơi. Tận đỉnh gió rét mưa phùn của đất Bắc hiểm nghèo chập chùng bất trắc, hiểm họa ŕnh rập theo những bước chân xâm nhập, nỗi chết toa rập cùng sương lam chướng khí chực chờ.

Nha Trang, quê hương có rặng thuỳ dương và bờ cát trắng, đơn vị chồng tôi được đồn trú tại đó vào năm 1964. Căn cứ trưởng là ông đại úy Nguyễn Văn Khách, vị sĩ quan này đă thành lập 5 toán nhảy, mỗi toán không hơn 6 người do một sĩ quan Việt và hai cố vấn Mỹ đảm trách… Cho đến bây giờ, dù trải qua bao dâu bể vẫn không thể xói ṃn tâm trí tôi, tôi vẫn c̣n nhớ cảnh một trận lụt lớn ngập cả thành phố, và cả trại Hoàng Diệu căn cứ của Mỹ cũng như trại Đằng Vân của LLĐB.

EM HỎI ANH BAO GIỜ TRỞ LẠI?

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1665778&stc=1&d=1601908080

Đến năm 1965, ở Vũng Tàu có một trận chiến rất lớn đó là trận B́nh Giả. Lúc này các toán trưởng chuẩn bị theo các trực thăng để thi hành công tác xâm nhập, ngăn chận những nơi Cộng quân di chuyển, tôi chỉ biết có thế thôi. Làm sao tôi có thể vui được, có thể an ḷng được trong tâm trạng nỗi ḷng chinh phụ dơi bóng chinh phu. Cứ mỗi lần chàng chuẩn bị đi vào “miền gió cát”, nhảy vào giữa ḷng đất địch là mỗi lần tôi xót xa thầm hỏi: bao giờ chàng trở lại? Ai có từng là vợ của chiến binh mới thông cảm nỗi lo âu, niềm đau đợi chờ, sự cô đơn từng phút của người vợ lính trong thời chiến chinh. Ôi, Đồng Xoài, B́nh Giả… đất bằng sẽ phong ba, khói lửa ngút ngàn và chồng tôi sẽ đi vào chốn ấy. Tôi thắt thỏm, tôi héo hon theo từng bước anh đi, tôi đợi anh về mà ḷng tơi bời vụn nát….sợ anh về trên đôi nạng gỗ, tôi nghẹn ngào nghĩ đến ngày anh trở về “bên ḥm gỗ cài hoa…” chỉ nghĩ thế thôi mà nước mắt tôi lặng lẽ lăn dài. Tôi rời Nha Trang, tạm biệt chàng, tạm biệt những ngọn thùy dương ŕ rào những đêm tựa đầu nhau nghe sóng biển ngoài khơi, mang theo kỷ niệm những năm tháng bên chồng trở về gia đ́nh tôi tại Sàig̣n.

Sài g̣n không có biển, không có thùy dương cát trắng, tôi cảm thấy bồi hồi nôn nao nhớ, bâng khuâng và nuối tiếc những ngày nồng nàn phấn hương đă vội qua…. “Sài g̣n đẹp lắm, Sài g̣n ơi”, Sài g̣n vẫn nhộn nhịp bao tà áo, từ quán cà phê Continental giọng hát trầm ấm, truyền cảm của Sĩ Phú vọng ra “nắng Sài g̣n em đi mà chợt mát, bởi v́ em mặc áo lụa Hà Đông”. Trời ơi, tôi c̣n tâm trí nào để ch́m đắm trong những gịng âm thanh đó, tôi vội bước nhanh để xa rời tiếng hát như muốn rượt đuổi theo. Một sự tương phản đầy ray rứt như diễu cợt, cách vài mươi cây số đường chim bay, súng nổ đạn bay, thây người ngă qụy. Khuôn mặt diễm lệ Sài g̣n, Ḥn Ngọc Viễn Đông, mà đối với tôi, nó như những loại trang sức diêm dúa trên thân xác loang lổ đạn bom, trên h́nh hài c̣m cơi của Mẹ Việt Nam. Tôi làm ǵ có áo lụa Hà Đông để mặc, nỗi ước mơ đó đối với tôi là vô nghiă, tôi chỉ cần có chàng, tha thiết bên chàng mà thôi. Nhất định anh phải trở về và về nguyên vẹn h́nh hài nha anh, nha Hồ Đăng Nhựt dấu yêu của em!

Chồng tôi từ hậu cứ Nha Trang về Vũng Tàu để chuẩn bị hành quân. Buổi chiều, nhận được tin của người anh gọi tôi ra để gặp chàng. Năm đó tôi mang thai đứa con đầu ḷng được ba tháng, đến cổng trại vào lúc 6 giờ chiều, tôi đă gặp Thiếu Tá Thơm, Đại úy Mai Viết Triết và Đại úy Xuân đang đứng trước trại. Tôi hỏi xin cho gặp chàng, các ông ấy nói: "thím đă đến trễ mất rồi, Nhựt mới vừa từ giă chúng tôi bước ra băi phi cơ trực thăng". Từ trong vô thức năo nùng chợt ùa về loáng thoáng bên tai những vần thơ Cung Oán Chinh Phụ: “Bóng chàng đỏ tợ ráng pha, ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”. Cũng một buổi chiều chiến chinh năm xưa, người chinh phụ tiễn đưa chinh phu lên đường ra trận mạc, con tuấn mă trắng phau như màu tuyết hí vang lừng, cất vó uy nghi nổi bật bên giáp trận rực đỏ như màu ráng cuối trời quan tái. Tôi, hôm nay đơn lẻ, nước mắt đoanh tṛng, đứng nh́n theo từng chiếc trực thăng từ từ cất cánh, tiếng động cơ ầm đùng, gió bụi xoáy cả một vùng, tâm tư tôi rối bời như cỏ úa, loạn cuồng theo từng ṿng quay cánh quạt, ḷng quặn thắt từng cơn nh́n đàn chim sắt khuất dần về hướng đông bắc B́nh Giả trong màu tím thẳm của sương khói hoàng hôn mờ nhân ảnh… B́nh Giả, một địa danh đang sôi sục lửa chiến tranh, thần chết đang đợi chờ, chốc nữa đây chàng sẽ hiện diện nơi đó. Trận đánh này có nhiều đơn vị bộ binh, kể cả tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Cuộc giao tranh đă quyết liệt diễn ra, tiếng bom đạn vọng về.

Cộng quân tổn thất nặng nề, nhiều chiến sĩ Quốc Gia cũng đă hy sinh. Những toán hoạt động của chồng tôi đă bị lộ, nên anh đă băng rừng vượt suối mấy ngày đêm liên tục mới ra được núi Thị Văi tại Bà Rịa. Chàng đă nguyên vẹn trở về, cám ơn Thượng Đế che chở cho chàng, chúng tôi bên nhau những ngày phép ngắn ngủi tại Sài g̣n.

Đến năm 1966, các anh toán trưởng cũng lần lượt mỗi người một nơi, riêng chồng tôi vẫn ở lại đơn vị cũ. Lúc bấy giờ Chỉ Huy Trưởng trại Đằng Vân là Phan Duy Tất, ông này về không bao lâu lại thành lập thêm mấy toán nữa. Tôi nhớ những toán trưởng rất trẻ là: Ngô Văn Thơm, Tô Mười, Nguyễn Ngọc Thiệp, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Văn Biên, v.v… các toán trưởng lần lượt thay phiên nhau đi hết cuộc hành quân này đến cuộc hành quân khác. Các địa danh đẫm máu như Phú Bài, Bồng Sơn, Chu Lai, Khe Sanh, Huế..., cường độ chiến tranh leo thang, tiếp theo là Pleime, trận chiến này, các đội và trưởng toán đă hy sinh rất nhiều.. Trong cảnh đạn lửa trùng điệp, nhiều phi công trực thăng của Không Lực VNCH, khi thấy đồng đội bên dưới bị nguy khốn đă bất chấp mạng sống, liều thân trong các phi vụ đổ quân và tiếp tế lương thực. Nhiều chiếc đă bị bắn rơi tan tành, lửa bốc cháy ngút trời. Lúc đó có Trung úy phi công trực thăng Nguyễn Văn Vui, liều một phen sinh tử đem mạch sống cho đồng đội bằng những thùng lương thực. Từ trên cao Trung úy Vui th́nh ĺnh “cúp” máy cho phi cơ rơi xuống như khối sắt và quay 180 độ, gần đến mặt đất cho trực thăng nổ máy lại, thán phục thay người phi công dũng cảm của QLVNCH.

Đầu năm 1967, tôi lại mang thêm đứa thứ hai mới sanh gần một tháng. Vợ của anh Nguyễn Ngọc Thiệp cùng sanh một lượt, cô này là em chồng của tôi. Lúc này chồng tôi đang hành quân tại Vùng 2 Chiến Thuật sắp về. Tôi được tin từ Sài g̣n và ra hậu cứ đón chồng, thường khi mỗi lần xong công tác là anh được đi phép. Trong lúc chờ phi cơ trở về Sàig̣n, anh Nguyễn Ngọc Thiệp bị tử nạn do thùng tiếp tế lương thực từ trực thăng Mỹ rớt xuống, cái chết của anh Thiệp rất thảm thương. Ôi, chinh chiến bất hạnh từng ngày đến với dân tộc Việt Nam, đứa con của anh Thiệp mới chào đời c̣n đỏ hỏn đă vĩnh viễn không thấy mặt cha và vành khăn sô oan nghiệt vội quấn trên đầu người vợ trẻ. Hôm sau chồng tôi đưa xác Thiệp -người em rể – trở về Sàig̣n an táng. Những ngày phép qua mau trong sự buồn bă, mất mát của người thân. Anh trở lại đơn vị, tôi lại theo chàng về Nha Trang sau 3 tháng sanh nở.

Năm Mậu Thân 1968, tôi trở về Sài g̣n và đứa con thứ ba đă chào đời. Việt Cộng đột nhập và tấn công thành phố Sài g̣n, khắp các tỉnh lỵ đều nổ súng. Trong trận Mậu Thân, chồng tôi lại mất thêm một đồng đội, Trung úy Nguyễn Văn Tùng đă tử trận tại Ṭa Tỉnh Trưởng Nha Trang lúc hai bên kịch chiến. Nửa năm sau ông Phạm Duy Tất đă thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến Thuật, chồng tôi đă phục vụ trong LLĐB từ năm 1962 đến năm 1968. Lúc này anh được lệnh thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến Thuật nhận chức vụ Trung Tâm Hành Quân của C3 tại Biên Ḥa. Sau đó ông Chỉ Huy Trưởng là Trung Tá Phạm Duy Tất đưa anh nhận chức làm Yrưởng trại Chí Linh ở Sông Bé, được một thời gian anh đi qua trại Tống Lê Chân ở B́nh Long và Lộc Ninh. Đến năm 1969 anh coi trại Tống Lê Chân, sau cùng anh về B3 hành quân ở B15 cho đến năm 1972.

Đến cuối 1972 Lực Lượng Đặc Biệt được lệnh giải tán để bổ xung qua các lực lượng bạn như: Biệt Động Quân Biên Pḥng, Nha Kỹ Thuật và các quân binh chủng khác. Anh đă chọn về Sở Liên Lạc thuộc Pḥng 7 Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu và làm việc tại đó cho đến cuối năm 1974.

Đầu năm 1975, anh được lệnh đi nắm Bộ Chỉ Huy nhẹ ở Chiến Đoàn 2 tại Ban Mê Thuột và Kontum. Lúc này t́nh h́nh chiến sự trở nên căng thẳng, hỗn loạn, phương tiện di chuyển vô cùng khan hiếm và khó khăn. Hai ngày ṛng ră chờ đợi tại phi trường Tân Sơn Nhất nhưng vẫn không có phi cơ, anh đành lên phi trường Biên Ḥa và đă được lên đường sau đó. Khi đến tŕnh diện tại Chiến Đoàn 2, mỗi sĩ quan phải thay phiên nhau hành quân 10 ngày. Đến ngày 20 tháng 3 năm 1975, Thiếu Tá Cao Triều Phát đă đem lương lên căn cứ hành quân để phát cho anh em. Ông Thiếu Tá Phát bảo chồng tôi, "'mày' đă xong công tác rồi, có đi theo chuyến bay này về không"? Anh không muốn xa đồng đội trong lúc này, nhất là lúc t́nh h́nh đang rối ren v́ được lệnh sắp rút quân để di tản chiến thuật, hơn nữa các bạn anh đề nghị thôi chúng ḿnh sẽ về chung cho vui. V́ vậy, anh đă nhờ Thiếu Tá Phát mang tiền lương về cho tôi, anh chỉ giữ lại 500 đồng để tiêu xài và nhắn là vài hôm sau anh sẽ về Sài g̣n.

Trên đường rút quân “Triệt Thoái Cao Nguyên”, dọc theo Quốc Lộ, sự di chuyển rất hỗn tạp. Anh được lệnh thượng cấp dẫn quân đi tiên phong để mở đường, bảo vệ và đưa dân chúng về đồng bằng tránh khỏi nạn đao binh và cướp bóc. Sáng ngày 25 tháng 3, anh gởi điện về gặp tôi và báo ngày mai sẽ gặp mẹ con tôi tại Sài g̣n. Chỉ c̣n 24 giờ ngắn ngũi, tôi chờ đợi trong sự hồi hộp xen lẫn niềm vui cho cuộc tương phùng. Chiều cùng ngày, trên đường rút quân, anh cùng Thiếu Tá Hải và vài sĩ quan nữa trên xe, một trái đạn B40 từ phiá Cộng quân mai phục bắn trúng ngay người tài xế cháy không c̣n xác, Thiếu Tá Hải văng ra khỏi xe bị cháy đen, riêng chồng tôi bị dập nát mặt nh́n không ra. Trong xe chết 3 người, c̣n lại 3 người đều bị thương không nguy hiểm đến tánh mạng.

Như thường lệ mổi sáng, từ khu cư xá gia binh của trại Nguyễn Cao Vĩ, trên chiếc Honda ra cổng đưa con đi đến trường, tôi đă thấy Trung úy Thọ và Thượng sĩ Sanh, hai người này chận tôi lại, đôi mắt ái ngại và ngập ngừng cho tôi biết hung tin: "Xin chị b́nh tĩnh, tin chính xác báo cho biết Đại úy Hồ Đăng Nhựt đă tử thương trên đường rút quân chiều hôm qua". Tôi như bị sét đánh, tim tôi như ngưng đập, trước mặt tôi cảnh vật bỗng tối sầm và đảo lộn, tai tôi ù lên những tiếng kêu quái dị, mặt đất bỗng nhiên nhấp nhô dậy sóng. Tôi rụng rời, tôi chao đăo, tôi ngă qụy, chiếc xe Honda với đứa con tôi cũng đổ theo. Các anh em mang tôi vào bệnh xá, sau khi hồi phục tôi làm thủ tục đi nhận lănh xác chồng.

Một trong hàng vạn chuyển kể đầy nước mắt của người vợ lính!

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1665779&stc=1&d=1601908080


"Ngày mai đi nhận xác chồng, ngày mai đi nhận xác anh, cuồng si thuở ấy hiển linh bây giờ". Trời ơi, Hồ Đăng Nhựt ơi! Anh đă bỏ mẹ con em, anh đă bỏ lại bạn bè và đồng đội trong lúc đất nước đang hồi nghiệt ngă. Tôi cùng các anh em đi đến Nghiă Trang Quân Đội tại Biên Ḥa, được một chú lính đưa tôi đi qua dăy hộc tủ chứa đựng tử thi và cuối cùng chúng tôi dừng lại. Dừng lại để chấp nhận một sự bẽ bàng, dừng lại để gói trọn một vụn vỡ đến tê dại toàn thân, nhận một kiếp đời góa phụ. Chiếc hộc tủ gói gọn h́nh hài của Thiếu Tá Hải và thân xác chồng tôi đang nằm bất động. Trời ơi! “Em không nh́n được xác chàng, anh lên lon giữa đôi hàng nến chong”, thi hài chồng tôi nằm trên chiếc băng ca, khuôn mặt đă bể nát, tôi chỉ nhận diện chàng qua tấm thẻ bài. Tấm thẻ bài này nó đă từng theo chàng qua những đoạn đường máu lửa, nó đă từng ấp ủ nhớ thương về người vợ bé nhỏ và đàn con dại mỗi khi dừng bước quân hành giữa lưng đồi của rừng khuya tịch mịch, cuối rặng sim bạt ngàn. Bây giờ “áo bào đă thay chiếu, anh về đất” yêu đương kia đă cùng anh chấp cánh bay tới một vùng trời miên viễn...

(ngưng trích)

Bản nhạc “Ngày mai đi nhận xác chồng” của Phạm Duy có lẽ là bản nhạc gây xúc động nhiều nhất tại miền Nam Việt Nam trong thời chiến đă được mượn lời từ bài thơ “Tưởng như c̣n người yêu” của Lê Thị Ư mà ít người được biết. Nhà thơ Lê Thị Ư định cư tại Vùng Hoa Thịnh Đốn từ nhiều năm nay, và chưa bao giờ… lập gia đ́nh. Có lần hỏi chị lấy cảm hứng ở đâu để viết những câu thơ diễn tả t́nh cảm chân thành gây xúc động như vậy, và cũng không buồn phiền khi đứa con tinh thần của ḿnh bị thay họ đổi tên, nhà thơ cười buồn, trả lời:

Những người làm thơ thường có một tâm hồn nhạy cảm và thường “thương vay khóc mướn.” Nhưng khi làm bài thơ “Thương Ca 1” tôi đă thật sự khóc, v́ lúc đó, chiến tranh lan tràn trên quê hương và tại Pleiku, nơi tôi cư ngụ, những h́nh ảnh đau thương, tang tóc xảy ra quanh tôi hàng ngày, hàng đêm…Cho nên tôi đă đau nỗi đau của người lính, tôi đă đau nỗi đau của các cụ già, các em thơ. Và tất nhiên tôi đă đau nỗi đau của người vợ mất chồng v́ súng đạn…

Những thành phố mà tôi đă sống, đă đi qua: Saigon, Nha Trang, Đà Lạt... và cả yhủ đô nước Mỹ giàu mạnh, cũng chẳng làm cho tôi quên được Pleiku trong những ngày lửa đạn. Do đó, đề tài trong thơ tôi, thường th́ không thoát ra khỏi h́nh ảnh quê hương và người t́nh lính chiến.

Không biết tự bao giờ, tên bài thơ “Thương Ca” của Lê Thị Ư hay là bản nhạc “Tưởng Như C̣n Người Yêu” sau khi Phạm Duy phổ nhạc, đă biến mất! Có lẽ mấy lời mở đầu bài thơ tuy thật giản dị, nhưng tràn đầy xúc động, nên khán thính giả, không ai bảo ai, không hề có văn bản chính thức, đă cùng cho bài thơ, bản nhạc, một cái tên mới: “Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng”.

Dù tên bài thơ, bản nhạc, là ǵ đi nữa, th́ vẫn chỉ nói lên được một phần trong những đau thương ngút ngàn của người dân Việt, người phụ nữ Việt trong cuộc chiến Quốc Cộng suốt hai mươi năm.

Nhà thơ ngừng lại trong vài giây rồi thở dài nói nhỏ: “Bây giờ nhắc lại th́ cũng chỉ là những câu chuyện của một thời đă qua”.

Vâng, đúng như câu nói của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu mà nhiều người thường nhắc lại: “Nước mất là mất tất cả”. Tất cả đều vô nghĩa.

Kư Thiệt

hoathienly19
10-06-2020, 16:13
THẮP NÉN HƯƠNG L̉NG - AM THỜ 626 VONG LINH TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VNCH TẠI TRẠI TÙ KHỔ SAI BA SAO - NAM HÀ :112:


Bia thờ 626 linh hồn những người tù xấu số đă nằm xuống trong cô đơn và buồn tủi tại trại tù lao động khổ sai Ba Sao


https://4.bp.blogspot.com/-IPK8CwXrUrk/VvlyTYE66-I/AAAAAAAB-P4/ttBb6360vbgKl6oRZzoo6FPHwGfVmOPzg/s640/traicaitao2-danlambao.jpg


Xin kính cẩn nghiêng ḿnh "thắp nén hương ḷng" trước tấm bia không mộ của 626 người tù chính trị VNCH đă chết trong nhà tù Ba Sao, Nam Hà giai đoạn 1975-1988; và rất nhiều những người tù chính trị VNCH khác đă chết oan khiên trong ngục tù cộng sản.


https://nguyenxuanchau2019.files.wordpress.com/2018/10/mc6b0e1bb9di-quote2.jpg


Lời đầu

Lẽ ra, câu chuyện này phải được chúng ta kể cho nhau nghe một cách trọn vẹn. Tiếc rằng, v́ một số lư do ngoài ư muốn, “người trong cuộc” (1) đă ngừng sự giúp đỡ tôi nên việc thu thập, t́m hiểu thông tin đă bị gián đoạn.


(1) Người trong cuộc: Những người đă giúp đỡ tôi có được thông tin để viết bài viết này. Tên các nhân vật trong bài đă được thay đổi.

Hơn nữa, xuất phát từ nhu cầu an toàn cá nhân của nhân chứng, nỗi lo về sự can thiệp hầu phá vỡ sự b́nh yên, tôn nghiêm của ngôi Chùa - nơi đặt tấm bia thờ 626 người tù chính trị nên người viết đă phải rất cân nhắc khi chuyển tải thông tin đến bạn đọc.

Nhưng tôi tin, câu chuyện dù không được kể trọn vẹn như mong muốn cũng sẽ khiến chúng ta thấy xót xa cho Thân phận quê hương.

Một Thân phận quê hương được phản chiếu từ Thân phận của những người con Việt bị bức tử bằng cách này hay cách khác trong một giai đoạn khốc liệt, đau thương nhất của lịch sử.


https://lh6.googleusercontent.com/ovsu4lGF_io19Ai_zlwLRcKRbuIIVaWNXoK_Zl80BVy4RkTtFy Ib_sNUVMQHLHYEuJMYqWPtg2rdFc4vrSUjSKh52O4Ai9VXRdgp LgVKnMlKjp0rk1E6YnI2Cq25PLi5EStAgKQrVAwy5AughA


Phần 1: Chuyến tàu vét

Sau khi cưỡng chiếm miền Nam, một trong những hành động đầu tiên mà chế độ cộng sản thực hiện là trả thù những người từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH).

Hầu hết những cựu quân nhân cán chính, những viên chức từng làm việc trong chính quyền VNCH, hoặc bị nghi ngờ thuộc thành phần này đều bị đưa đi “ cải tạo”, nhưng thực chất là chịu lưu đày tại các nhà tù trên khắp cả nước. Một trong những nơi khét tiếng tàn bạo ở miền Bắc, từng giam cầm hàng ngàn cựu quân nhân cán chính VNCH là nhà tù Ba Sao, Nam Hà.

Con tàu cuối cùng chở tù chính trị từ Nam ra Bắc có cái tên rất thơ mộng:

Sông Hương .

Rời Sài G̣n ngày 18/4/1977, sau 2 ngày 3 đêm (2), tàu cập bến Hải Pḥng, tiếp tục hành tŕnh lưu đày tù ngục của 1200 con người thuộc “bên thua cuộc”.

(2) Hai ngày ba đêm : Dựa vào lời kể của nhân chứng và qua hồi kư “Tôi phải sống” của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ

“Chúng tôi, cứ hai người bị chung một chiếc c̣ng.

Vừa lên đất liền, hai bên đường đă có người dân Miền Bắc đợi sẵn. Họ ném gạch đá vào chúng tôi.

Vừa ném, vừa chửi rủa, mạ lỵ rất thậm tệ. Nhiều người trong số chúng tôi bị ném trúng, vỡ đầu, chảy máu và thương tích”.



https://scontent-yyz1-1.xx.fbcdn.net/v/t1.0-9/11202850_1137081726337331_3347867253756860006_n.jp g?_nc_cat=108&_nc_sid=e007fa&_nc_ohc=tw8WTu_IWFIAX9GPOnP&_nc_ht=scontent-yyz1-1.xx&oh=b2b70814ad6f4d993bcf41df7fc37e23&oe=5FA15795


Đấy là lời kể của ông Nam, một trong những người tù bị đẩy ra Bắc trong chuyến tàu Sông Hương. Khi cộng sản cưỡng chiếm Miền Nam, ông Nam đang là thiếu úy quân đội VNCH. Chi tiết này cũng được Linh mục Nguyễn Hữu Lễ thuật lại trong cuốn hồi kư “Tôi phải sống”.

Từ Hải Pḥng, số tù nhân này bị tách ra để chia rải rác cho các trại giam khác. Bài viết này xin chỉ đề cập tới những người tù ở Ba Sao, Nam Hà.


Không riêng ǵ những người tù Ba Sao, hầu như tất cả những người từng phục vụ trong chính quyền VNCH đều bị bắt sau biến cố 30/4/1975. Một số bị đưa ra Bắc ngay thời kỳ đầu. Nhiều người khác bị giam cầm ở miền Nam sau vài năm mới bị chuyển ra Bắc, rồi lại trở ngược vào Nam để tiếp tục cuộc đời lao tù cho đến ngày chết, hoặc trở về khi sức cùng lực cạn.



https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/re-education-or-hard-labor-sentences-04272015215003.html/traicaitao-vuotsong.gif


Nhà tù Ba Sao lại “rộng cửa” đón thêm vài trăm người từ chuyến tàu vét Sông Hương, nơi đang đọa đày hơn 600 tù VNCH đă bị chuyển đến từ những chuyến tàu trước đó.


Tôi có dịp hỏi chuyện linh mục Nguyễn Hữu Lễ (ngài hiện đang sống tại New Zealand) và một nhân chứng khác (sống tại Sài G̣n), th́ nhà tù Ba Sao thời bấy giờ chia làm 4 khu giam giữ.


Khu A :


Giam cầm các thành phần thuộc viên chức chính phủ, dân biểu, nghị sĩ, sĩ quan cao cấp như :

- Thượng nghị sĩ Huỳnh Văn Cao

- Bộ trưởng Đàm Sỹ Hiến

- Bộ trưởng Trần Ngọc Oành

- Tướng Lê Minh Đảo

- Ông Văn Thành Cao

- Tướng Nhu

- Tướng Trần Văn Chơn, ông Nguyễn Văn Lộc…, hay lănh tụ Quốc dân đảng là

- Ông Vũ Hồng Khanh.

Khu B :

Giam những quân nhân cán chính, những người bị buộc tội “phản động” như

- Linh mục Nguyễn Hữu Lễ

- Linh mục Nguyễn B́nh Tỉnh...

Khu C : Giam tù h́nh sự miền Bắc.

Khu Mễ:

Giam cầm những người bệnh tật, đau yếu. Trong khu Mễ lại có một khu “Kiên giam”.

Khu “Kiên giam” dành cho các tù nhân bị kỷ luật với điều kiện giam giữ vô cùng khắc nghiệt. Đă có rất nhiều tù nhân chết trong khi bị “kiên giam”.



https://daivietquocdandang.net/caitao-2.jpg


“Chúng tôi bị chuyển từ nhà tù miền Nam tới nhà tù Ba Sao miền Bắc trong chuyến tàu Sông Hương vào tháng 4/1977. Lúc ấy nhóm của tôi có 350 người ra đi từ trại Giaray tỉnh Xuân Lộc.

Ở Ba Sao được 9 tháng, tôi bị chuyển lên trại Quyết Tiến c̣n gọi là “Cổng Trời” thuộc tỉnh Hà Giang, nằm sát ranh giới Trung Quốc.

Một năm sau đó tôi về trại Thanh Cẩm, tỉnh Thanh Hóa.

Mười năm sau, tức tháng 1/1987, tất cả tù chính trị miền Nam c̣n sót lại rải rác trong các trại miền Bắc được dồn hết về trại Ba Sao, Nam Hà, trong đó có tôi. Nhưng đội của tôi trước khi tôi rời Ba Sao ra đi nay đă chết quá phân nửa.

Tết năm đó có một đợt tha tù, được tổ chức rất ồn ào.

Đến tháng 5/1987, tất cả số tù nhân từ miền Nam c̣n sót lại, được chuyển hết về Nam để ở tù tiếp.

Chỉ c̣n “sót lại” 3 người ở miền Bắc, đó là linh mục Nguyễn B́nh Tỉnh, anh Nguyễn Đức Khuân và tôi. Hầu hết họ đă chết. Chết v́ tuyệt vọng, đói rét, suy kiệt, tiêu chảy, kiết lỵ và nhiều bệnh khác”.

Tác giả Bút kư “Tôi Phải Sống” bùi ngùi kể lại.

Tôi rùng ḿnh tự hỏi, có bao nhiêu tù nhân chính trị đă chết trong suốt thời kỳ từ 1975 trở về sau ?

Bao nhiêu ở nhà tù Ba Sao ? Bao nhiêu ở Cổng Trời, Thanh Hóa, Phú Yên, Xuân Lộc, Xuyên Mộc, Hàm Tân, Bố Lá...?

Bao nhiêu người đă bị bách hại bởi chính người đồng bào ruột thịt mang tên “cộng sản”, và chết lặng câm ở khắp các nhà tù từ Bắc-Trung-Nam trên dải đất đau thương này ?

Không ai biết chính xác, nhưng số người phải bỏ xác ở khắp các nhà tù hẳn không phải là con số ít.

Một ngày nào đó, chế độ cộng sản sẽ phải trả lời những câu hỏi này trước quốc dân đồng bào. Cũng như trả lại sự thật lịch sử cho Dân tộc này.


https://imagizer.imageshack.com/v2/640x354q90/r/924/mJTue2.jpg


Phần 2 : Tấm bia thờ 626 người tù chính trị

“Có một tấm bia thờ những người tù đă chết ở trại Ba Sao, Nam Hà. Nghe nói tấm bia được đặt trong một ngôi chùa ở Miền Bắc.

Ngoài tấm bia ra c̣n có một ngôi Am thờ (3) những người tù này được dựng ngay khu đất thuộc trại giam. Người làm tấm bia này là một cựu Giám thị nhà tù Ba Sao. Em cố gắng đi t́m các anh ấy nhé !”.


(3): Am: Trong tín ngưỡng tôn giáo là nơi thờ Phật, thờ cúng thần linh hoặc vong linh. Am có phạm vi, diện tích nhỏ hơn Miếu.


Một người anh, cũng là cựu tù chính trị hiện sinh sống tại Pháp đă nhắn tôi như thế. Tôi chưa bao giờ trải qua cảm xúc đặc biệt và đầy ám ảnh như lần này. Chuyện thật khó tin :

Một trùm cai tù cộng sản dựng một tấm bia và Am thờ những người tù Việt Nam Cộng Ḥa !

Câu dặn ḍ “em cố gắng đi t́m các anh ấy nhé” làm tôi xót xa. H́nh như tôi sắp làm một công việc rất khó khăn và cũng rất thiêng liêng. Hai chữ “các anh” không c̣n là cách xưng hô nữa mà là tiếng gọi gần gũi, thân thương của những người chung khát vọng.

Chứ theo tuổi tác, họ là bậc cha chú của tôi- đứa nhóc Bắc kỳ sinh sau biến cố 1975.

Măn án tù nhà (4), tôi lên đường.

(4): Măn hạn tù nhà: Với tôi, án quản chế là một h́nh thức tù tại nhà. Tôi hết án quản chế vào tháng 9/2015.


Địa chỉ ngôi Chùa không chính xác nên tôi phải đi t́m hơn hai ngày mới đến nơi. Đó là một ngôi Chùa nhỏ, nằm khiêm tốn bên một con phố khá đông đúc. Sư trụ tŕ đi vắng, tôi lang thang cho hết thời gian rồi trở lại vào buổi chiều.

- Thưa thầy, con được người quen giới thiệu đến đây. Nghe nói nhà Chùa có đặt một tấm bia thờ những người tù đă chết ở trại Ba Sao, Nam Hà ?

Nghe tôi nhắc đến tấm bia, nét mặt thầy tái đi, không giấu được vẻ bối rối.

- Bác Thanh giới thiệu con đến đây.

Nhận ra người quen, sư thầy trở nên cởi mở hẳn.

Sư thầy kể rằng vài năm trước, cô Thu Hương (một Phật tử) đưa viên cựu Giám thị đến gặp sư thầy.

Viên Giám thị trao cho sư thầy một danh sách gồm 626 người tù đă chết trong trại Ba Sao từ năm 1975 đến 1988.

Vị này ngỏ ư muốn làm một tấm bia đặt trong nhà Chùa để thờ cúng các hương linh. Đây không phải ngôi Chùa đầu tiên họ gơ cửa. Những ngôi Chùa trước đều từ chối v́ sợ. Các vị sư trụ tŕ không muốn giữ một danh sách toàn “sĩ quan ngụy” và công khai đặt tấm bia thờ người tù ngay trong Chùa.

- Có cách nào liên lạc với hai người ấy không thưa thầy?

- Khó lắm. Người Giám thị sau khi làm xong tấm bia th́ không trở lại đây nữa. Chỉ có cô Thu Hương thời gian đầu vẫn hay tới Chùa tụng kinh và thắp hương cho 626 vị ấy.

Nhưng kể từ khi đứa con trai 15 tuổi của Thu Hương bị tai nạn giao thông chết hai năm trước, cô ấy không tiếp xúc với ai nữa.

- Thầy có nghe nói đến ngôi Am thờ 626 vị này không?

Tôi hỏi, không giấu nổi vẻ hồi hộp khi chờ câu trả lời.

- Đúng là có cái Am thờ. Nhưng tôi chưa tới thăm bao giờ. Nghe nói nằm trong vùng đất của trại giam th́ phải.

- Vậy ai có thể đưa con tới đó ?

- Chỉ có người Giám thị và cô Thu Hương thôi. Nhưng Thu Hương th́ như tôi vừa nói đấy, cô ấy buồn chán, tuyệt vọng từ ngày mất con nên không c̣n thiết chuyện ǵ. C̣n người Giám thị th́ từ đó không thấy trở lại nữa. Số điện thoại cũng đổi rồi.

Tôi bắt đầu nh́n thấy sự mịt mù phía trước.

Người giữ sổ sách đi vắng. Sư thầy hẹn tôi dịp khác trở lại, sẽ cho tôi xem danh sách 626 người tù. Thầy dẫn tôi xuống nhà linh, nơi đặt tấm bia.

Tôi cảm thấy rợn rợn khi bước chân vào Nhà linh, nơi đặt di ảnh của những người quá cố. Có mấy người đội khăn tang đang ngồi tụng kinh cho người thân mới qua đời.

T́m măi không thấy tấm bia đâu. Tôi bắt đầu lo. Sư thầy quả quyết rằng tấm bia đặt ở pḥng này nhưng lâu ngày không nh́n lại nên ngài không nhớ chính xác vị trí nào.

- Ôi đây rồi ! Sư thầy reo lên.

Tôi sững người lại. Vừa nh́n thấy tấm bia, nước mắt tôi ứa ra.

Tôi không xác định được cảm xúc của ḿnh lúc đó. Vui v́ đă “t́m thấy các anh”, như lời người anh đồng tù nhắn nhủ, hay buồn v́ tôi lại chứng kiến thêm một nỗi đau đớn của quê hương?

Tôi lập cập lục t́m trong túi xách chiếc máy ảnh. Tôi hay bị lúng túng mỗi khi cảm xúc bị “quá độ”.


https://scontent-yyz1-1.xx.fbcdn.net/v/t1.0-9/120737781_746007305979796_6269768772232117517_n.jp g?_nc_cat=103&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=2Mz3rbd6mA4AX8nSdDA&_nc_ht=scontent-yyz1-1.xx&oh=155a33f1c503d572b12f51f0c955d9ba&oe=5FA37866


Sư thầy dặn chỉ chụp tấm bia thôi, đừng để những di ảnh xung quanh lọt vào ống kính. Cảm giác tủi thân và xót xa khiến tôi không nói nổi tiếng “vâng” một cách rơ ràng.


https://1.bp.blogspot.com/-JFveOa0rW5A/VvlqPa_LGtI/AAAAAAAB-Pc/1qbD22cGQg8Mt6cUK8TAB0gZBaeRsPYnw/s640/Bia%2BBa%2BSao%2Bptn.jpg


Trước khi về, tôi gửi một ít tiền để sư thầy giúp việc nhang khói cho “các anh”.

Tôi cầm theo nải chuối, mấy quả cam thầy vừa cho, chậm răi cuốc bộ trên con phố. Tôi không khóc, nhưng cổ họng nghèn nghẹn và bước chân nặng nề.

Một tuần sau tôi trở lại Chùa. Sư thầy đi vắng. Vừa nghe tiếng tôi trong điện thoại, sư thầy nhận ra ngay:

- Chị Nghiên hả ? Tiếc quá ! Thầy đă hỏi người trông coi sổ sách của nhà Chùa rồi. Nhưng chị ấy nói là danh sách đă được hóa đi từ hôm Rằm tháng bảy.

Tôi chết đứng người. Cố gắng lắm tôi mới thốt lên được một câu nghe như không phải giọng của ḿnh.

- Sao lại đốt hả thầy, sao thế được?

- Th́ nhà Chùa nghĩ là không cần dùng đến danh sách ấy nữa nên tiện dịp lễ Vu Lan th́ hóa luôn cùng với áo mũ, vàng mă chị ạ.

- Thầy ơi ! Thầy làm ơn kiểm tra lại giúp con với. Cái danh sách ấy... 626 người tù... thầy ơi, thầy làm ơn!

Tôi cố gắng trấn tĩnh để van lơn.

- Thầy không thể làm ǵ hơn chị Nghiên ạ. Chúng tôi sẽ hương khói đầy đủ cho các vị ấy.

Nói xong, sư thầy cúp máy.

Một cảm giác c̣n tệ hơn sự tuyệt vọng. Tôi ôm mặt ngồi thụp xuống giữa đường. Một đứa bé từ đâu chạy lại, trân trân nh́n tôi. H́nh như bộ dạng tôi làm đứa bé sợ. Nó co chân chạy, không ngoái lại nh́n.

Bấy giờ tôi nhận thấy, có một thứ cảm xúc rất giống với nỗi buồn, rất giống với niềm tuyệt vọng. Nhưng không hoàn toàn như thế. Thứ cảm xúc thật khó gọi tên.

Tôi về nhà, lầm lỳ đến vài hôm.


https://2.bp.blogspot.com/-Fv-4AcVz3Qw/To9Y-iHJbnI/AAAAAAAAD5A/Rsf6YtTbeFw/s1600/1.jpg


https://imagizer.imageshack.com/v2/340x480q90/r/923/Xap0QP.jpg


Không thể dễ dàng bỏ cuộc được, tôi quyết định đi Nam Hà để t́m đến ngôi Am thờ. Người anh đồng tù buồn rầu bảo:

- Không có cô Thu Hương hay vị Giám thị dẫn đường, em không t́m được đâu.

Lần này th́ tôi thật sự tuyệt vọng. Tấm bia, danh sách và Am thờ, tôi chỉ hoàn thành một phần ba công việc.

Tôi nghĩ đến người Giám thị.

Không biết v́ lư do ǵ viên Giám thị lại làm một việc cấm kỵ và mạo hiểm như thế. Hơn ai hết, người này phải ư thức được mức độ nguy hiểm của việc ḿnh làm, nhất là nếu thông tin bị lộ ra ngoài. Chắc chắn phải có một lư do sâu xa và rất đặc biệt để người này làm thế.

V́ lợi nhuận ư ? Không ai dại dột v́ chút giá trị vật chất mà đánh đổi cuộc sống b́nh yên của ḿnh. Vả lại, bản thân nghề cai tù đă là một cơ hội để làm giàu một cách rất an toàn.

Người anh đồng tù và bác Thanh lư giải rằng, niềm tin tâm linh đă thúc đẩy người Giám thị và cô Thu Hương làm như thế. Có thể người Giám thị sợ bị vong hồn của những người tù t́m đến hỏi tội chăng ? Lư giải này không hẳn là vô lư.

Tôi đă từng nghe và được biết những chuyện tương tự như thế khi c̣n trong nhà tù Thanh Hóa. Đă là cai tù, không ít th́ nhiều, không chủ ư th́ cũng bắt buộc phải dính vào tội ác. Song dù với lư do ǵ, th́ hy vọng cũng có phần trăm nào đó của sự ăn năn, của chút lương tâm bị hối thúc.


Tôi vốn không mê tín, không tin chuyện dị đoan nhưng tin rằng luôn có một thế giới tâm linh đang nh́n ngó thế giới con người. Ước ǵ một ngày nào đó, duyên cớ run rủi để chúng ta được biết trọn vẹn câu chuyện về 626 người tù chính trị Ba Sao, Nam Hà.

Chúng ta cần được biết về số phận của những người từng bị cộng sản bách hại để hiểu về một giai đoạn lịch sử đă tạo nên thân phận đau thương của dân tộc này.


https://imagizer.imageshack.com/v2/640x276q90/r/924/opguFp.jpg


Phạm Thanh Nghiên
danlambaovn.blogspot.com

hoanglan22
10-07-2020, 13:41
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1666777&stc=1&d=1602077980

1.Quận Hoài Nhơn, 1969, một năm sau Tết Mậu Thân.

Tôi nhận lệnh dẫn một nửa Đại đội 202 CTCT, từ Ba Gi (Qui Nhơn), đại bản doanh của Sư Đoàn 22BB, ra tăng phái cho Trung đoàn 40 –lúc ấy đóng tại Đệ Đức, trên đường Bồng Sơn và Tam Quan. Nửa đại đội được chia làm hai toán. Mỗi toán gồm trên dưới mười người do một chuẩn úy chỉ huy, hằng ngày, theo lịch tŕnh, đi xuống các xă ấp thuộc quận, hoặc bằng xe dodge cơ hữu, hoặc thỉnh thoảng, v́ lư do an ninh, bằng trực thăng của Sư đoàn I Không Kỵ (1st Cav) Hoa Kỳ, để làm công tác, một cách độc lập, nhưng đôi khi phối hợp với một toán Dân sự vụ Mỹ. Xuống những xă, ấp xa xôi, hai toán chúng tôi phải tự bảo vệ lấy, và v́ thế được trang bị súng ống tương đối đầy đủ, và các toán viên thường là lính tác chiến lâu năm hoặc bị thương đổi về, có nhiều kinh nghiệm chiến trường. Ít khi phải nhờ đến sự trợ giúp của những đơn vị địa phương quân hay nghĩa quân.

Tôi nhớ buổi sáng hôm đó là ngày 25 tháng 12, đúng lễ Giáng Sinh. Chuẩn úy Hoàng, một trưởng toán, bị bệnh. Tôi phải đi thay, dẫn toán của anh đến ấp Vĩnh Phụng, xă Hoài Xuân –nằm dọc, cũng như những xă khác của quận Hoài Nhơn, trên hai bờ sông Lại. Không khí cuối năm vắng ngắt, đơn điệu, đến độ nhàm chán. Tại những vùng quê hẻo lánh Việt Nam thời ấy không có nhà thờ, không tổ chức mừng Giáng Sinh rầm rộ như dân thành thị, Sài G̣n, hay Nha Trang của tôi, chẳng hạn, dù có đạo hay không. Không có tiếng chuông giáo đường ngân nga, rộn ră. Không có, như bây giờ, cây sapin giăng đèn lấp lánh, và ông già Nô-En đứng trước cửa siêu thị, rung chuông leng keng, chúc lễ và phát quà cho trẻ em. Chỉ có một ngôi nhà thờ duy nhất tại thị trấn Bồng Sơn cho toàn quận Hoài Nhơn, và dân Công giáo, từ các xă ấp, phải lên đó để dự lễ mỗi sáng Chúa Nhật.

Chúng tôi đến Vĩnh Phụng làm công tác Dân sự vụ và Tâm lư chiến. Như thường lệ. Nghĩa là bắc loa kêu gọi dân trong ấp đến tập họp trên một khoảng đất trống, rộng, và chung quanh có bóng cây xanh mát, gần trụ sở ấp, rất an toàn. Tại đây, họ được y tá khám bệnh thông thường, phát thuốc tại chỗ, hoặc được xe của toán chở về bệnh xá Bồng Sơn trong trường hợp bệnh nặng, cấp cứu… Hay được nghe một toán viên nói chuyện, nhắc nhở: đề cao chính nghĩa quốc gia, kêu gọi đồng bào đừng bỏ xóm làng, “lên núi thoát ly” theo Việt Cộng, đừng “ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản” v.v… Các em nhỏ được phát kẹo bánh, tập vở, bút mực, và sau đó được tập bài quốc ca VNCH hay những bài hát quen thuộc, ví dụ, tôi nhớ, Việt Nam, Việt Nam nghe từ vào đời… Việt Nam, nước tôi…hay Đây Bạch Đằng giang, sông hùng dũng của ṇi giống Tiên Rồng…

Làm xong bấy nhiêu công việc th́ đă hết buổi sáng. Tôi cho cả toán nghỉ ngơi, ăn trưa và tự do đi lại trong ấp, nhưng không quá xa, chờ đến giờ trở về Đệ Đức. C̣n tôi và một vài anh lính trải poncho nằm trên cỏ, bên gốc cây, ngước nh́n ánh nắng lấp lánh chiếu qua ṿm lá và nghe tiếng chim hót líu lo trên cành. Một số toán viên, c̣n trẻ, xin đi vào nhà dân, để thăm hỏi các cụ già và, tôi đoán, để nhân dịp, tán gẫu với các cô mơn mởn đào tơ, má hồng môi thắm tự nhiên. Thực vậy, theo cặp mắt cá nhân, chủ quan, của tôi, gái Bồng Sơn và Tam Quan nổi tiếng đẹp nhất vùng B́nh Định, nếu không muốn nói cả Vùng II Chiến Thuật.

2.Tôi đang lim dim mắt, miên man suy nghĩ chuyện đời, và một anh lính đang nghêu ngao một bài vọng cổ, th́ bỗng một tiếng ḿn nổ vang, từ bờ ruộng, không xa chỗ tôi nằm bao nhiêu. Giật ḿnh chồm dậy, chụp vội cây súng, và thấy một làn khói đen tỏa bay trong không gian. Nghe tiếng kêu la của vài em nhỏ hớt hải chạy về phía tôi: “Ông Thiếu úy ơi, có con nhỏ Út bị thương nằm kia ḱa…” Cũng đoán biết được chuyện ǵ đă xảy ra, cả toán tất tả đi theo các em, về phía cánh đồng, súng cầm tay, trong tư thế sẵn sàng nhả đạn. Đến nơi, thấy nằm gục nửa dưới ruộng, nửa trên bờ, một bé gái, tức “con nhỏ Út”, độ tám, chín tuổi, cao và gầy đét như khúc củi, ḿnh mẩy và mặt mày đầy máu, nhuộm đỏ cả chiếc áo cụt trắng. Mấy đứa trẻ mách: Út ra ruộng sớm, mót lúa, đă đạp phải ḿn gài sẵn. Chưa biết của bên nào. Tôi thận trọng, đưa mắt quan sát hiện trường, xem có quả ḿn hay lựu đạn nào chưa nổ, hay một tên du kích nào đang ŕnh chờ chúng tôi.

Y tá Thám cúi xuống, cầm lấy tay Út bắt mạch, rồi đặt ống lên ngực nghe nhịp thở, tiêm một mũi thuốc không tên, mà anh nói để “cầm máu”, và cho uống hai viên aspirine để giảm đau, trong khi tôi choàng tay, cẩn thận, đỡ bé ngồi dậy. Người bé mềm nhũn, miệng rên nho nhỏ, liên tục. V́ trái ḿn bẫy đặt ngược hướng, sợi dây kíp khá dài, và nổ khi Út đứng khá xa, nên thân thể c̣n nguyên vẹn, không nát bấy, chỉ bị ghim đầy những miểng sắt li ti. Gương mặt xinh xắn của bé, có vẻ già dặn trước tuổi, lúc ấy xanh như tàu lá, và cặp mắt lờ đờ ngước nh́n tôi. Thám quay sang, kín đáo khẽ lắc đầu, và tôi hiểu. Từ thân thể Út máu tiếp tục chảy từng giọt, chắc bé đau đớn lắm. Bé kêu khát. Tôi mở bi đông, đổ nước vào nắp, cho bé uống vài hớp nhỏ. Vừa suy tính rất nhanh. Tại các ấp, như Vĩnh Phụng, làm ǵ có trạm cấp cứu, nhân viên y tế, hay thuốc men. Chở đi Bồng Sơn không kịp nữa, v́ bé đă yếu lắm rồi, lả người trong ṿng tay tôi. Gọi máy PRC 25 về trung đoàn, buổi trưa, không gặp ai. Gọi thẳng Sư đoàn 1st Cav Mỹ xin trực thăng tải thương th́ không biết tần số, và tốn thời gian lắm, lại sợ họ không tin ḿnh. Không c̣n biết làm ǵ hơn, tôi dùng khăn ướt lau sơ máu trên mặt, trên tay của bé và cầu nguyện cho bé gắng gượng thêm độ nửa giờ nữa thôi –thời gian vừa đủ để xe chúng tôi chở kịp về tới Bồng Sơn.

Bỗng Út mở to mắt, nh́n thẳng vào tôi, ngơ ngác, như vừa tỉnh cơn mê từ một cơi nào rất xa xôi. Bé thều thào hỏi:

– Con qua nổi không chú?

Tôi liếc nhanh về phía y tá Thám, rồi gật đầu:

– Qua nổi chứ con! Nếu con hứa là con gượng thêm nửa giờ nữa…

Bé mở hé đôi môi, cố gắng mỉm cười khó khăn, lắc nhẹ đầu, và đáp khẽ:

– Không kịp đâu chú, con biết con không sống nổi, con mệt quá rồi. Khi năy trong giấc mơ, con có gặp ba cô mặc áo trắng tinh, có hai cánh trên lưng, nói đang chờ để rước con đi…

Rồi Út tiếp, giọng rời rạc, càng lúc càng nhỏ dần, nhỏ dần:

– Chú ơi, con muốn được ôm, trước khi chết… con là đứa mồ côi, không cha không mẹ, không người thân thích… con ở đợ, mót lúa cho nhà người ta… không có ai thương con hết… con muốn được ôm, một lần này thôi…

Tôi bật khóc, ôm bé vào ḷng, hôn lên trán, lên tóc bê bết máu, mà nước mắt tuôn rơi như mưa, chảy xuống ướt chiếc áo trận, ḥa lẫn với máu của bé chưa khô. Vừa lúc ấy, trên cặp môi tím ngắt bé như cố nở một nụ cười măn nguyện. Rồi ngoẹo đầu vào ngực tôi, bé làm động tác muốn giơ hai cánh tay lên, nhưng không đủ sức, lại bỏ xuống, và nửa giây sau, bé từ từ nhăm mắt, và trút hơi thở cuối cùng trong tay tôi. Tất cả diễn ra không đầy bốn phút, từ lúc gặp bé nằm ở bờ ruộng.

Tôi nhẹ nhàng buông xác bé xuống, đặt nằm ngay ngắn trong tấm poncho c̣n mới của tôi. Bé đă được liệm bằng poncho, giống như một người lính chiến thật sự. Giống như những đồng đội của tôi chết trận, mà tôi được chứng kiến, tại Ban Mê Thuột, Kontum, Phan Thiết… năm nào. Chung quanh, mọi người vẫn đứng yên, lặng thinh, mắt đỏ hoe, kể cả tốp lính địa phương quân vừa kịp đến để chứng kiến cảnh tượng thương tâm này. Tôi biết, cũng như tôi, những người lính, rất chai ĺ v́ phải thường trực thách đố với cái chết cận kề, và định mệnh tàn nhẫn, không khóc dễ dàng. Nhưng trước thân xác gầy guộc, đẫm máu, của Út, một bé gái nạn nhân vô tội của chiến tranh khốc liệt, phi lư, cây cỏ cũng khóc theo, huống chi người. Khi tôi hỏi, ḿn do ai gài, một anh địa phương quân nói lớn, có vẻ tức giận:

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1666778&stc=1&d=1602077980

– Ḿn của mấy thằng du kích Việt Cộng gài đó, ông thầy. C̣n ai trồng khoai đất này. Sáng nay, tụi em chưa kịp đi gỡ th́ con nhỏ Út ra ruộng sớm, đạp trúng. Tội nghiệp nó quá.

Tôi giao tấm poncho gói xác Út cho nhóm địa phương quân và moi tiền từ bốn túi quần, cộng với tiền gom góp của anh em tự nguyện trong toán, không đếm bao nhiêu, nhưng đoán khá bộn, đưa hết cho trung sĩ trưởng nhóm, và nói:

– Tôi nghe nói bé Út mồ côi, nghèo khổ, nên nhờ các anh mua cái ḥm cho bé và làm phước, chôn cất tử tế giùm. C̣n thiếu bao nhiêu các anh bù giúp cho.

3.Trên đường về lại Bồng Sơn, cả toán không ai nói với ai một lời nào. Giống như một lần trước đó không lâu, khi chúng tôi chở đến bệnh xá quận lỵ một bé trai mười tuổi từ một ấp, xă khác, gần hơn, đă đạp phải lựu đạn cũng của Việt Cộng –bị thương khá nặng, nhưng sống sót, v́ được cứu kịp thời, chỉ phải cưa một chân. Tôi ngồi im, như tượng đá, và mắt vẫn c̣n cay sè. Đến Bồng Sơn, đi ngang nhà trọ của Thơ Thơ, tôi bảo tài xế dừng lại, chờ tôi mười phút. Nàng mở cửa, thấy quần áo tôi dính đầy máu, hoảng hốt kêu lên:

– Trời ơi, anh bị thương phải không?

Tôi lắc đầu, gượng mỉm cười. Nàng ôm tôi vào ḷng, siết chặt, như sợ tôi biến thành mây bay đi, và tôi kể hết câu chuyện bé Út. Nàng vừa nghe vừa rơm rớm nước mắt. Rồi nghẹn ngào nói nhỏ:

– Tội nghiệp bé quá. Tối nay em sẽ thắp nhang khấn vái cho hồn bé được siêu thoát. Sau khi nghe chuyện này, em yêu anh quá, em yêu anh hơn, em yêu anh măi măi. Măi măi, anh biết không? Cái chết cũng không bao giờ có thể chia ĺa hai đứa chúng ta.

Hôm sau, Hoàng hết bệnh, tôi trả lại toán để anh dẫn xuống Vĩnh Phụng tiếp tục công tác thường nhật. C̣n tôi, từ đó cho đến ngày rời bỏ Bồng Sơn trở về Bà Gi, tức hơn nửa năm sau, không bao giờ đặt chân lên ấp đó nữa, dù chỉ ghé qua một lần. Để tránh nhớ một trong những kỷ niệm thảm thương nhất, nếu không muốn nói một kỷ niệm thảm thương nhất, trong suốt đời lính. Sau ba tháng, tôi được lệnh của trung đoàn ngưng công tác tại quận Hoài Nhơn, và điều động cả hai toán ra Tam Quan –một quận lỵ nguy hiểm nhất của Bắc B́nh Định.

4.Rồi qua bao nhiêu thăng trầm, trong suốt bốn mươi bảy năm kể từ Noël 1969 đó, tôi cố quên cái chết của bé Út, cũng như của Thơ Thơ –đă gục ngă trên đường di tản tháng 4 năm 1975, khi đoàn người chạy loạn bị Việt Cộng pháo kích. Cố quên và xem tất cả như một dĩ văng tàn khốc và kỷ niệm thảm thương của chiến tranh, của một thời để yêu và một thời để chết. Cố quên, nhưng không thể được.

Đặc biệt bé Út. Quả thế, cứ mỗi cuối năm khi mùa Giáng Sinh tới, và cứ mỗi lần tôi giơ tay ôm hug ai, th́ h́nh bóng tội nghiệp của bé bỗng dưng lại hiện về trong tâm trí, với thân xác đầy máu và thương tích, với vẻ mặt đau đớn tột cùng, với những lời trối trăng, đứt quăng, “con muốn được ôm… không ai thương con hết…” Hỡi ơi, buồn này biết đến kiếp nào mới nguôi? Bé hiện về như một ám ảnh dịu dàng, vời vợi. Như một linh hồn nhỏ mồ côi, trắng tinh như tờ giấy mới, lạc loài giữa trần ai quỷ ma ác độc. Như một quư nhân phù trợ mà hương linh lẻ loi c̣n măi lẩn quất bên người, hơn cả chiêm bao, qua suốt nửa thế kỷ. Để cùng với Thơ Thơ –người rất yêu dấu bên ḍng sông tương tư ngày nào– nắm tay tôi, dắt đi qua những phong ba của cuộc đời.

Portland, ngày Giáng Sinh, 25/12/2016

Kim Thanh

hoanglan22
10-07-2020, 15:02
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1666811&stc=1&d=1602082315

Một câu chuyện thương tâm, chỉ có người dân Miền Nam mới hiểu thấu câu Nước Mất Nhà Tan sau ngày mất Nước.

Tôi Nguyễn Văn Đề, sinh ra là một ngôi sao xấu trong những ngôi sao
xấu nhất của bầu trời đất Việt. Cha mẹ tôi nghèo lại phải sinh sống
trong một miền quê hẻo lánh gần một vùng núi rừng heo hút, xa xôi, đất
cày lên sỏi đá.

Tôi chưa bao giờ được cắp sách đến trường. Do đó, từ lúc mới lên bảy,
tôi được một nhà phú hộ mướn chăn dê.

Với đàn dê 40 con, hằng ngày tôi phải lùa chúng vào các triền núi đá
từ sáng sớm tinh sương đến chạng vạng tối mới về. Cả ngày chăn đàn dê
gặm cỏ. Chiều đến tôi phải gom dẫn chúng về nhà phú hộ. Công việc chỉ
đơn thuần như thế. C̣n việc trả công, tôi không hề hay biết. Đó là
việc của người lớn: – Của cha mẹ tôi và nhà phú hộ.

Sáng sớm được mẹ đánh thức, tôi rửa ráy qua loa rồi rủng ra rủng rỉnh
dẫn đàn dê vào núi cho chúng tự t́m thức ăn.

Sáng nào cũng vậy, mẹ trao cho tôi một nắm cơm vắt, đựng trong mo cau
với một ít muối ớt, gói trong miếng lá chuối khô. Đó là bữa cơm trưa
hàng ngày của tôi.

Tôi chưa bao giờ biết ăn sáng hay lót ḷng bao giờ. Ngay cả buổi cơm
cũng chỉ có muối ớt. Họa hoằn lắm mới được thay đổi bữa cơm với một
con cá lép khô muối mặn bằng hai ngón tay. Đó là bữa ăn khá thịnh
soạn, ngon miệng nhất đời chăn dê mà tôi đă hoan hỉ lắm rồi.

Ngồi ăn nghe tiếng lục lạc rủng rẻng trên cổ của bầy dê cũng vui tai quá đỗi.

Đời tôi thăng hoa hơn, năm 1973, vừa đúng 18 tuổi, tôi xin đăng vào
Nghĩa Quân, được tuyển mộ và thăng chức ngay là Nghĩa Quân Viên-một
cấp bậc nhỏ nhoi nhất trong hàng ngũ Nghĩa Quân. Tôi hănh diện được
xúng xính trong quân phục ‘lính áo đen’.

Đời tôi bắt đầu sáng lạn hơn thằng chăn dê rồi đó! Tôi được dạy cho
biết cách sử dụng súng trường Carbin M1 và trong khi đó, “Em Một”
(Carbin M1) là ‘người t́nh’ đi theo tôi trong suốt quăng đời lính
tráng này.

Tôi được phục vụ ngay tại địa phương nơi tôi chào đời và lớn lên trong
đói nghèo, cơ cực. Tiểu đội của tôi gọi là ‘tiểu đội thám báo’.

Nói ‘thám báo’ cho oai, chứ thực ra, nhiệm vụ chính của tiểu đội là
ban ngày canh gác trụ sở Xă, ban đêm tiểu đội thường xuyên di chuyển
từ địa điểm này đến địa h́nh khác với mục đích tránh sự ḍm ngó, quan
sát theo dơi của địch, để khỏi bị tấn công sát hại.

Tuy tránh giao tranh với địch song anh tiểu đội trưởng gọi nhiệm vụ đó
là ‘phục kích đêm’ để phá vỡ đường dây liên lạc của Việt Cộng.

Vào đầu tháng tư năm 1975, tiểu đội di chuyển đến một bờ ruộng. Tuy
nói là ẩn núp, ngụy trang, che dấu để tránh sự quan sát của địch, song
chúng tôi cũng phải chia phiên ra canh gác cẩn mật. Khi phát hiện
địch, chúng tôi cố ư ẩn nấp để tránh giao tranh và sáng hôm sau sẽ báo
cáo để thỉnh thị quyết định của thượng cấp.

Nào ngờ đêm hôm đó, cái đêm định mệnh của đời tôi và cũng là một đêm
tận cùng của tên du kích Việt Cộng, từ rừng núi ŕnh ṃ về thôn xóm để
nhận tiếp tế. Đêm hôm đó, chẳng may hắn lơ đễnh thế nào mà đi lọt vào
ổ phục kích của chúng tôi. Lúc đó là phiên gác của anh Cường nhưng anh
ta ngủ gà ngủ gật, mắt nhắm mắt mở, khi tỉnh giấc anh thấy một bóng
đen xuất hiện quá gần chỗ anh đang gác. Giật ḿnh, anh Cường nổ súng
bắn một băng tiểu liên và tên du kích ngă gục sau phát đạn khai hỏa
đầu tiên của anh ta.

Sáng hôm sau, chúng tôi lật xác tử thi địch để nhận dạng và biết rơ
tên du kích là một người dân trong xă vừa thoát ly gia đ́nh theo Việt
Cộng, khoảng vài tháng trước. Hắn ta theo du kích vào rừng và làm liên
lạc viên cho đám du kích.

Sau đó chúng tôi được lệnh mang xác anh du kích về Xă để cho thân nhân
anh ta nhận xác về chôn cất.

Đây là một chiến thắng đầu tiên kể từ ngày thành lập tiểu đội mang tên
‘thám báo’ của chúng tôi.

Lẽ dĩ nhiên một tiểu đội ‘áo đen’ làm ǵ có phương tiện tải thương để
chuyên chở tử thi địch như các đơn vị Chủ Lực Quân hay Địa Phương
Quân.V́ thế, hôm ấy chúng tôi phải dùng 2 cây sào tre, rồi lấy áo đi
mưa cá nhân, kết hợp làm băng ca, khiêng tử thi tên du kích về xă.

Chúng tôi thay phiên nhau, hai người một, kẻ trước người sau, ́ ạch
khiêng cái xác từ bờ ruộng này đến bờ đê khác. Gần đến trụ sở Xă,
chúng tôi được lệnh của anh trung đội trưởng cho đặt tử thi trước trụ
sở Xă.

Rủi ro cho tôi khi khiêng tử thi về gần đến nơi, người bạn khiêng phía
sau vừa bảo tôi vừa thả buông băng ca xuống:

– Đặt xác nó tại đây đi!

Anh bạn vừa thả băng ca th́ trời bất chợt đổ cơn mưa rào. Tôi đem ḷng
thương hại kẻ xấu số nên cố nắm chặt hai cáng băng ca, lôi xác tử thi
vào thẳng trong chợ để xác khỏi bị…mưa ướt.

Đó là ḷng nhân từ của bất cứ ai cũng phải cư xử với người chết như
thế. Tôi vừa đặt tử thi xuống, bất ngờ một người đàn bà đập th́nh
thịch vào lưng tôi, nhục mạ, chửi rủa om ṣm:

– “Cái quân trời đánh! Chồng tao đi thăm ruộng về khuya. Bọn mày giết
chồng tao!!” rồi lôi xác xềnh xệch như lôi kéo một con chó. “Trời ơi
là trời!”

Tôi định giải thích nhưng nghĩ lại bà ta cũng có cái đau khổ của người
vợ bị mất chồng, nên tôi đành cắn răng chịu đựng, bỏ đi mà không cần
giải thích cặn kẽ cho bà ấy.

Một tháng sau, tháng tư đen năm 1975, đổ sụp về, tất cả các sĩ quan từ
thiếu úy trở lên phải tŕnh diện học tập cải tạo tại các trại tập
trung lao động khổ sai.

Các anh em hạ sĩ quan, binh sĩ và Nghĩa Quân được học tập tại địa
phương 20 ngày th́ được cho về sinh hoạt với gia đ́nh. Riêng tôi lại
bị vợ của tên du kích, nay là chủ tịch Ủy Ban Quân Quản kiêm Ủy Viên
Chính Trị Xă, ra lệnh chuyển tôi từ địa phương ra trại cải tạo Lam Sơn
với tội danh: Thành phần ác ôn, nguy hiểm, có nợ máu với nhân dân…

Những ngày đầu ở Lam Sơn, tôi cố t́m các anh em nghĩa quân khác mà tôi
quen biết. Tôi đă không t́m thấy bất cứ ai, kể cả anh Cường, người
Nghĩa Quân đă bắn chết anh du kích. Các ông trung đội trưởng, tiểu đội
trưởng, tôi cũng chẳng thấy ông nào. Thậm chí ngay cả các anh ‘linh áo
đen’ đă đi phục kích đêm hôm đó, cũng chẳng có ai!

Tôi bị phân bổ vào nhà H.22 gồm 50 thiếu úy, chỉ có một ḿnh tôi là
Nghĩa Quân Viên.

Những ngày đầu, các ông thiếu úy cũng quá đỗi ngạc nhiên và hỏi tôi:

– Mày là thằng nghĩa quân quèn, sao lại tŕnh diện vào đây để ngồi
tù?! Ủa, mày muốn t́nh nguyện học tập hả?

Có người th́ nói ôn tồn, thương hại. Có ông th́ nh́n tôi ṣng sọc, gặng hỏi:

– Chứ bộ mày muốn mấy ổng trả lại cấp bậc nghĩa quân quèn cho mày hay sao?

Tuy bị hạch hỏi nhưng lúc nào tôi cũng ôn tồn, nhă nhặn trả lời:

– Dạ em đâu dám mơ ước như thế đâu thiếu úy!
Dù sao đi nữa, đời tôi cũng đă thăng hoa lắm rồi.

Ngày xưa, có bao giờ tôi được ăn chung, ngủ chung với các vị sĩ quan
trẻ này đâu. Thiếu úy, ít ra các ông ấy cũng là trưởng ban, trưởng
pḥng, cuộc trưởng … ǵ đó trong chi khu, nên lúc nào tôi cũng kính
nể, tôn trọng các vị sĩ quan ấy.

Lao động trong trại tù chừng gần hai năm, các ông thiếu úy lần lượt ra về.

Tôi lại bị dồn vào ở tù chung với trung úy và đại úy. Đời tôi sao được
thăng cấp nhanh quá. Không bao lâu, chúng tôi bị chuyển ra trại Củng
Sơn, Phú Yên. Khoảng 3 năm có rất nhiều trung úy và đại úy lần lượt ra
về. Trại lại nhốt chung tôi với các ông thiếu tá mà ngày xưa tôi chưa
bao giờ dám xuất hiện gần các vị ấy v́ các ông này ít ra cũng là các
cấp chỉ huy của đại úy Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng của tôi. Đời
tôi lại thăng hoa, thăng cấp nhanh như chớp. Càng được sống gần các vị
thiếu tá, tôi càng kính phục họ nhiều hơn. Các ông ấy hiền, đạo đức,
xem tôi như em út trong trại tù.

Sau đó, chúng tôi lại bị dời về A.30. Ở tù hơn 5 năm, hầu hết ai ai
cũng được về đoàn tụ với gia đ́nh. Cá nhân tôi lại được thăng cấp ở
chung với một đại tá và 12 người tù chính trị khác mà trại gọi là ác
ôn, có nhiều nợ máu với nhân dân. Đời tôi tuy thăng hoa, thăng cấp
nhanh, nhưng càng thăng bao nhiêu th́ ngày về lại càng xa tít mù khơi
bấy nhiêu. Tôi hết trông mong có ngày trở về gặp lại vợ con.

À, mà tôi quên kể cho quư vị nghe về gia đ́nh, sự nghiệp, thân thế của tôi…

Năm 18 tuổi tôi cũng đă lập gia đ́nh với con Nại. Cô gái này nhà cũng
nghèo, cũng được phú hộ mướn chăn dê như tôi. Cả hai chúng tôi thường
xuyên gặp nhau ở chỗ thả dê gặm cỏ. Không biết trời xuôi đất khiến thế
nào khi tôi gia nhập ‘quân áo đen’ dưới ‘cờ vàng ba sọc đỏ’ th́ Nại
cũng vừa lớn, nó mắc cỡ không chịu chăn dê nữa. Mẹ tôi thấy nó siêng
năng, hiền lành như búp măng bụ bẫm nên mẹ tôi đem Nại về và nó trở
thành vợ tôi hồi nào tôi cũng chẳng hay biết ǵ!

Vợ chồng quê rất đơn giản, khỏi cần học những câu văn chương lăng mạn
để trao cho nhau làm ǵ cho mất th́ giờ.

Tôi cũng không nhớ rơ, cái đêm động pḥng hoa chúc ấy … ra làm
sao..Tôi đă nói với Nại những ǵ… âu yếm Nại như thế nào..nhưng sáng
ra, tôi thấy Nại nằm trọn trong ṿng tay tôi. Tôi biết ngay, bây giờ
tôi đă có vợ. Gần một năm sau, Nại cho tôi hai đứa con trai sinh đôi
rất khoẻ mạnh. Một năm sau, Nại lại sinh đôi nữa. Đứa con gái chăn dê,
nay là người mẹ 4 con. Hồi đó, ‘quân áo đen’ không được hưởng phụ cấp
gia đ́nh như anh em Chủ Lực Quân và Địa Phương Quân. Bản thân tôi, chỉ
được lănh lương 1.200 đồng mà phải nuôi sáu miệng ăn. Khi tôi đi tù,
Nại một ḿnh nuôi cha mẹ già tôi và bốn đứa con thật vất vả.

Suốt thời gian tôi bị tù, Nại thăm nuôi tôi được 3 lần: lần đầu khi
tôi mới bước chân vào trại Lam Sơn, lần thứ nh́ tại trại A.30. Hồi đó,
trại cho tôi được ngủ đêm với Nại trong nhà ‘thăm nuôi” và Nại sinh
thêm đứa thứ năm. Lần thứ ba, khi được báo có người nhà thăm nuôi, tôi
vội vàng ra cổng trại th́ được biết một thảm kịch đă xảy ra lôi thôi
cho gia đ́nh tôi. Chiếc xe chở vợ của các tù nhân đi thăm nuôi chồng

bị lật và có hai người chết, trong đó có Nại. Xác Nại v́ không có thân
nhân nhận nên địa phương nơi xảy ra tai nạn đă chôn xác Nại ven rừng.
Và năm đứa con tôi đưọc một người quen biết sinh sống cùng địa phương
của Nại cũng đi thăm nuôi chồng, mang giùm mấy đứa nhỏ vào trại giao
cho tôi.

Nại chết để lại 5 đứa con với một ràng bánh tráng, một ít mắm ruốc kho…

Năm đứa con, ngồi khóc v́ không có mẹ, nên trại cho tôi dẫn chúng vào
trại để ở tù chung với tôi. Đời tôi bắt đầu rẽ một khúc quanh.

Nại chết, để lại hai đứa 7 tuổi, hai đứa 6 tuổi và một đứa chưa đầy
hai tuổi. Lúc đầu sáu cha con tôi được anh em cùng tù giúp đỡ. Anh em
bớt phần ăn ít ỏi của chính ḿnh, chia sớt cho tôi để nuôi năm đứa
nhỏ. Sau đó trại thấy bất tiện nên cho tôi một cái lều tranh cũng
trong khuôn viên của trại tù và cấp ba tháng thực phẩm đầu tiên để tôi
tự túc nuôi con sau này.

Cảnh gà trống nuôi con. T́nh cảnh hụt hẫng. Thức ăn thiếu thốn. Cuộc
đời dở khóc dở cười.

Một thời gian sau, nỗi sầu cũng đă lắng xuống nhiều, song h́nh ảnh của
Nại vẫn c̣n lắng đọng trong tâm trí tôi. Ngày ngày tôi cuốc đất trồng
khoai, trồng ḿ. Ba đứa con đầu cũng lẳng lặng theo sau tôi để phụ
giúp công việc lắt nhắt. C̣n lại một đứa sáu tuổi ở nhà trông em hai

tuổi. Tối đến tôi bắt các con đi ngủ sớm. Tôi đă mất hẳn sự trầm tĩnh
và muốn bỏ cuộc. Ban đêm, năm đứa co rúm lại trong một cái mềm rách
trùm kín đầu ở một xó lều như muốn tránh những âm thanh dị kỳ, thét
gào của gió mưa bên ngoài. Tuy làm lụng rất vất vả nhưng hoa màu thu

hoạch cũng không đủ ăn. Thỉnh thoảng vào ban đêm, tôi dẫn con Thanh đi

đào ḿ và hái bắp trộm của trại về cho bầy con ăn thêm để tránh cái
đói đang hành hạ chúng.

Nào ngờ một đêm, tôi giật ḿnh thức giấc th́ thấy vắng mặt con Thanh -
đứa con gái đầu ḷng mà thỉnh thoảng tôi dắt nó đi hái trộm bắp.

Tôi nh́n ra ngoài, bầu trời đen nnư mực. Mưa gió đang gào thét…

Tôi nghi ngờ là con Thanh đang đi bẻ bắp trộm. Tôi vội vă lách mưa đi t́m Thanh.

Sau một hồi t́m kiếm khắp các ruộng bắp, tôi cũng chẳng thấy nó ở đâu.

Trời tối thui như mực. Mưa rơi xào xạc, át hẳn tiếng kêu của tôi:

“Thanh! Thanh! Con ở đâu?” Nhưng tiếng kêu của tôi bị mưa gào, gió
cuốn mất hút trong không gian vô tận. Một chặp lâu sau, tôi nghĩ chắc
giờ này con Thanh cũng đă về nhà rồi nên tôi trở về. Quần áo xài xạc,
nhưng con Thanh vẫn chưa về nhà.

Đánh thức bốn đứa con, tôi gặng hỏi, mắng chửi cho một mẻ nhưng các
con chỉ ngơ ngác không biết chuyện ǵ đang xảy ra.

Tôi bảo các con đi ngủ tiếp và một ḿnh ngồi chờ con Thanh về.

Một chặp lâu sau, tôi nghe tiếng súng bắn inh tai… Không biết chuyện
ǵ đă xảy ra th́ khoảng nửa giờ sau, có tiếng la hét, hối hả của các
ông cán bộ đang đứng giữa nhà.

– Đêm hôm khuya khoắt mà mày sai con đi bẻ trộm bắp… Anh em công an đi tuần tra, tưởng nhầm con mày là tù trốn trại nên đă bắn chết nó rồi…
Khẩn trương theo tụi tao nhận xác nó về.

Điếng cả người, ruột gan tôi rối bời. Rụng rời tay chân, tôi vội chạy
theo họ. Đến nơi, tôi thấy con Thanh nằm chết thê thảm bên vũng máu.
Quanh bụng nó cột một sợi giây và nhét quanh ḿnh chừng mười trái bắp
và hai củ khoai ḿ mà nó vừa mới nhổ. Trong môi miệng nó c̣n đang nhai
mấy hột bắp non. Do đó, tôi biết ban đêm v́ đói, con Thanh ngủ không
được nên lén tôi đi bẻ bắp về cho các em nhai, không ngờ bị bắn chết
thê thảm như vậy.

Sáng hôm sau, tôi chôn Thanh mà ḷng buồn rũ rượi. Tôi không c̣n một
chỗ nào trong tâm trí để căm thù. Ngôi mộ của Thanh nằm ngay trong
mảnh đất do cha con tôi khai phá. Ba ngày sau, tôi cúng mở cửa mả cho
Thanh bằng hai trái bắp và hai củ khoai ḿ đă đổi sinh mạng của nó.

Suốt đời Thanh là một chuỗi ngày dài bất hạnh v́ thiếu t́nh thương của
cha, trong đói nghèo cơ cực của mẹ, và chết trong đói khát của cảnh tù
đày mà trẻ thơ mới có bảy tuổi đă phải nằm tù, gỡ lịch từng ngày với
cha. Thanh chỉ mong được ăn no, mặc cho đủ ấm, nhưng hoàn cảnh xă hội
đă hất hủi, không thương yêu nó.
Ngay cả trước 1975, vợ con của anh em lính Chủ Lực Quân và Địa Phương
Quân được lănh phụ cấp gia đ́nh, nên vợ con lính ai ai cũng đủ cơm ăn,
áo mặc. C̣n vợ con của ‘quân áo đen’ th́ đi chân đất, đầu trần, quần
áo tả tơi không một cấp lănh đạo nào thèm quan tâm đến.

Hồi đó, anh em Nghĩa Quân chúng tôi cũng thuộc Q.L.V.N.C.H mà! Sao lại
phân biệt đối xử với anh em chúng tôi như thế?!
Sau 1975, tôi cũng bị ghép vào ‘ngụy quân’, cũng bị tù, bị hành hạ như
các anh em khác. Sao các ông ‘đỉnh cao của nhân loại’ không biết phân
biệt hành xử để ‘quân áo đen’ như tôi không bị dẫn con vào trại tù và
bị chết thảm như vậy?!

Bảy ngày sau, đúng vào ‘thất thứ nhất’, vào khoảng một giờ khuya, khi
tôi đang ngồi buồn và nghĩ đến hoàn cảnh của gia đ́nh và cái chết thê
thảm của con Thanh …
Mưa đang rơi từng giọt như tiếng ai đang rên rỉ và sau đó tôi nghe
tiếng khóc của con Thanh. Tiếng khóc uất nghẹn, năo nuột. Tôi mở cánh
cửa sổ bằng liếp tre nh́n ra ngoài. Mưa càng lúc càng to. Gió thổi ào
ạt. Dưới gốc một thân cây chồi, ngay chỗ chôn con Thanh, một vệt trắng

hiện lên…Tôi toát mồ hôi, tay chân lạnh ngắt. Tôi cố nh́n kỹ th́ ra đó
là h́nh dáng của con Thanh.. Nó đang đứng trước mộ, khóc sướt mướt.
Quanh lưng cũng đang buột một sợi dây và treo ṭn ten vài trái bắp như
lúc tôi nhận xác nó về. Tôi mất b́nh tĩnh và khóc nấc lên từng cơn. Có

bàn tay ai đó đang bám vào vai tôi. Con Nhàn, đứa con gái sanh đôi với
con Thanh, hai chị em giống như hai giọt nước. Con Nhàn đă đứng sau
lưng tôi tự hồi nào. Nó khóc ấm a ấm ức thật to tiếng. Tất cả các con
tôi đều thức dậy đang ở chung quanh tôi. Ngoài trời đang mưa. Con
Thanh vẫn c̣n đứng đó, nó khóc ngậm ngùi. Tôi hoảng hốt vừa nói với
các con tôi :”Để cha ra bồng con Thanh vào nhà” tôi vừa đẩy tấm liếp;
con Nhàn cũng chạy theo.

Nhưng khi ra đến mả th́ h́nh dáng con Thanh không c̣n nữa. Tôi ngơ
ngác không biết chuyện ǵ đă xảy ra nhưng tôi vẫn c̣n b́nh tĩnh và
biết ngay rằng con Thanh đang bị chết oan, chết lạnh và chết đói trong
nỗi oan ức mà linh hồn của nó cũng chẳng có nơi nương tựa. Không biết
nghĩ sao tôi vừa khóc ừa vái trước mộ nó: “Ba đưa con vào nhà. Ba sẽ
luộc bắp cho con ăn.”
Sau đó tôi bồng con Nhàn vào nhà như thể tôi đă bồng con Thanh.
Vào nhà, tôi lấy một miếng gỗ nhỏ, tựa vào vách, rồi dùng bốn thanh
tre, chôn dưới đất làm bốn chân bàn để làm tạm bàn thờ cho con Thanh.

Trong khi đó, con Nhàn nổi lửa luộc hai trái bắp đẹt làm thức ăn cúng
cho con Thanh.
Tôi thấy trên bàn không có nước, tôi bảo con Nhàn lấy ly rót nước cúng
con Thanh.
Nhàn đi qua đi lại trong cái nhà tranh như đang t́m kiếm vật ǵ? Sau
đó nó lấy một cái gáo dừa đưa lên hỏi tôi: “Ba ơi! Nhà không có ly,
ḿnh dùng cái chén này rót nước cúng chị Thanh được không ba?”

Nước mắt lưng tṛng, tôi khẽ gật đầu.
Thế cũng xong, cũng qua một tuần cúng vái. Các em của Thanh vừa lạy
vừa khóc nức nở với tất cả ḷng yêu thương người chị.

Tôi nhớ ra. Từ ngày vợ tôi đi thăm nuôi, xe bị lật chết. Nại chết tức
tưởi để lại năm đứa con cho tôi.. Kể từ ngày ấy đến giờ tôi cũng chưa
có cơ hội lập một cái bàn thờ cho Nại. Tôi vội t́m trong mớ giấy tờ có
cái chứng minh nhân dân của Nại. Tôi trang trọng vuốt h́nh vợ ḿnh
trong Chứng Minh Nhân Dân; rồi nhẹ nhàng đặt h́nh của Nại lên miếng gỗ
mỏng làm bàn thờ. Tôi thờ chung hai mẹ con Nại và Thanh trên một manh
gỗ mỏng của thời phồn vinh giả tạo c̣n sót lại.

Từ hôm đó, Thanh cũng không về khóc nữa. Nó cũng biết an phận trong
cảnh lưu đày của một chế độ mà người bóc lột người… Thỉnh thoảng tôi
vẫn có những đêm ác mộng: “Nại bị chết kẹt dưới những đống hàng chồng
chất, máu me lênh láng c̣n Thanh th́ đang nằm sóng soài trên một vũng
máu mà miệng vẫn c̣n nhai ngấu nghiến chưa nuốt xong mấy hạt bắp sống.

Duy Xuyên

hoathienly19
10-09-2020, 06:43
NGƯỜI CHIẾN SĨ VNCH :

KỶ NIỆM 65 NĂM THÀNH LẬP BINH CHỦNG THỦY QUÂN LỤC CHIẾN - PART 1


RpYN1qkSQQA


KỶ NIỆM 65 NĂM THÀNH LẬP BINH CHỦNG THỦY QUÂN LỤC CHIẾN - PART 2


2EVjV4FtOc4

hoanglan22
10-09-2020, 16:35
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1667827&stc=1&d=1602260819

Nghe nói ngày trước, khi tuyển một khóa sinh Không Quân, ngoài phần khám y khoa, c̣n có mục khảo sát về thẩm mỹ ngoại h́nh. Chẳng biết tin này có thiệt hay không, nhưng năm 1969 không c̣n thấy áp dụng nữa. KQ lúc này không c̣n ṛng ră là những đấng hào hoa đẹp trai, mà đă lẫn lộn vào đó là vài khuôn mặt không mấy rạng rỡ. Nhân cơ hội này, Tú, Lương và tôi đă trà trộn vào thành phần “Thượng lưu của quân đội”.

Diễn tả lại dung mạo của thằng Tú, không ǵ điển h́nh hơn là nhắc lại câu nói của niên trưởng ngày huấn nhục ở Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang:

– Không hiểu ban tuyển mộ KQ mù cả hay sao mà ông lại lọt được vào đây!

Thật ra thằng Tú không đến nỗi xấu, nó chỉ bị rỗ hoa, miệng lúc nào cũng toe ra cười như cái loa của Tổng Lănh Thiên thần Mi ca e. Nó nhỏ con nhưng có đặc tính là hễ giận ai th́ hay nói:

– Ông vặn cổ mày bây giờ.

Hỗn danh nó là thằng Hố Lai, tuy nhà nó ở Sài G̣n. Phần tôi không biết căn cứ vào sách tướng số nào, mà thằng Tú nói tôi là thằng lừa thầy phản bạn, tiểu nhân và ra đời đụng đâu thua đó. Thằng Lương th́ ngược lại, nó to con, da ngăm đen và có gương mặt rất nông dân chân chính, nên bọn tôi gọi nó là Vơ Ṭng Sát Tẩu. Con gái nh́n thấy nó cứ phải len lén quay đi chỗ khác, v́ sợ nó tán nhầm.

Ba đứa chúng tôi thi nhau làm lung lay cái huyền thoại hào hoa của quân chủng. Nhập khóa 69A ở Nha Trang, Lương lớn nhất nên được tôn là sư huynh. Có một niên trưởng rất hắc ám tên là Thái hay phạt thậm vô lư nên Lương ra lệnh cho tụi tôi:
– Tao đặt tên cho thằng Thái là Dúi, nhưng tụi mày chỉ nên kêu nó là Dúi thôi chứ kêu Thái Dúi, nó biết nó phạt cho th́ toé khói.

Tính Lương rất vui, một bữa kia nó thấy thằng Liên đang lau súng để gác đặc công gài chất nổ trong barrack (Chắc mọi người c̣n nhớ năm 1969 VC đă dùng plastic nổ doanh trại Trường HSQ Đồng đế làm chết rất nhiều khóa sinh) nó đến gần nhỏ nhẹ hỏi:

– Ê Leng, ke đẹ leng béng nghe bèng bèng hỉ?

(Ê Liên, cây đại liên bắn nghe bằng bằng hả)

Liên gốc người Quảng Nam nên nổi tam bành, xách súng đuổi Lương chạy ṿng ṿng trong barrack, miệng liên tục chửi:
– Tau béng xí mẹ thèng Béc Kỳ.
(H́nh như nó nói: Tao bắn thấy mẹ thằng Bắc Kỳ) làm náo loạn cả Phi đội.

Măn khóa quân sự trở về TSN, thi xếp lớp Anh ngữ, Lương học lớp 1100, tức lớp Anh ngữ vỡ ḷng. Tôi rất ngạc nhiên v́ trước khi sang KQ, Lương đă là Tr/s Thông Dịch Viên, nhưng nó tâm sự:

– Làm Thông Dịch Viên dễ hơn là học Anh Văn để du học. Hồi tao đi theo toán Dân Sự Vụ vô làng nọ để khám bệnh, phát thuốc cho dân chúng, có một bà khai bị bịnh mất ngủ, tao không biết dịch thế nào, nghĩ măi mới ra câu; “Xi nô x́ líp. Xi nít áp bờ rin”. Không biết thằng cha BS Mỹ có hiểu tao nói “She no sleep. She need apirin” không mà nó cũng phát cho bà ta một bốc thuốc.

Thấm thoát mấy tháng ở trường Sinh ngữ cũng qua mau, cả ba thằng chúng tôi lại gặp nhau ở Lackland, San Antonio , TX . Không biết thằng Lương kiếm ở đâu ra mà nhiều “bùa” lắm. Hôm trước khi thi test, nó ṃ xuống pḥng tôi rồi bảo:

– Mày nhớ kỹ câu này “Có con chó cái cắn bạn đau chẳng ai đền. Bốn anh công an đi bên đường đỡ cho bạn”.

Tôi cũng chưa hiểu công dụng của lá bùa th́ nó giải thích thêm:

– Cứ theo mẫu tự câu bùa mà khoanh vào. Có con chó cái nghĩa là bốn câu đầu là c, c, c và c; cắn bạn đau chẳng ai đền là c, b, d, c, a và d.

Quả thật bùa của nó rất linh, hôm đó tôi được 20/20. Lương xuống BX (Base Exchange) mua sắm, nó muốn mua một bộ đồ ngủ để mặc buổi tối. Ông nông dân này muốn đóng vai phú hộ trưởng giả ngày xưa. Nó ôm về một bịch ni lông trên đó đề rơ ràng chữ Pijama, nhưng mở ra th́ cái quần cụt ngang đầu gối và cái áo cổ trái tim! Lương mặc vô trông rất cũn cỡn, nó chữa thẹn bằng câu khen: “Hết xẩy” rồi uốn éo đi tới đi lui như một tên GAY chính hiệu.

Đến nay hơn 30 năm đă trôi qua mà tôi vẫn c̣n h́nh dung được cái dung nhan Uất Tŕ Cung của nó rất tương phản với bộ đồ ngủ, mà tôi cứ ngờ ngợ là dành cho đàn bà. Lương ở khu GOẠP trong căn cứ (WAF: Woman Air Force) nhưng hầu như tuần nào nó cũng đón xe bus lên chỗ chúng tôi ở, những lúc này là lúc bạn bè tâm sự nhiều nhất, và cũng là lúc nó chọc thằng Tú nhiều nhất. Nó hỏi:

– Ê Hố Lai (Hố Nai) nghe nói ông cố nội mày ở gần nhà bà hàng xóm ông thầy đồ phải không?

Thằng Tú không hiểu nó muốn nói ǵ, nhưng cũng vặn lại:

– Ừ rồi sao?

– Vậy chắc mày rành điển tích lắm. Mày có biềt ông Lê Quư Đôn than rằng “Phi công nghèo lắm ai ơi. Áo thời thiếu nút quần thời thiếu lưng” không?

– Xạo vừa vừa thôi bố, thời đó làm ǵ đă có máy bay.
Lương gân cổ lên:

– Thằng nhăi ranh, nói có sách mách có chứng đây này. Ông Lê Quư Đôn có nói: Phi trí bất hưng. Phi công bất phú. Phi nông bất ổn. Phi thương bất hoạt. Phi công bất phú không phải lái máy bay nghèo mạt rệp là ǵ?

Thời gian du học sung sướng trôi qua nhanh, chúng tôi đều tốt nghiệp rồi về nước nhưng mỗi đứa một nơi. Lương ra Nha Trang lái A37; Tú lái trực thăng ở Phù Cát c̣n tôi Biên Ḥa.

Hôm Lương về SG rủ tôi xuống xứ Bùi Thái thăm thằng Trinh, bạn cùng khóa 69A nhưng sau thiếu sức khoẻ phi hành nên đổi ra Bộ Binh. Lương nghe đồn là kế bên nhà Trinh có ông bán bánh ḿ bị ma bắt.

Câu chuyện thật hoang đường nhưng sự kiện th́ rất khó giải thích theo khoa học. Khi chúng tôi đến Bùi Thái th́ ông bán bánh ḿ vẫn c̣n nằm trong buồng, đầu tóc rụng trọc lóc.

Người nhà kể trước đây ông vẫn lên chợ Thủ Đức lúc ba bốn giờ sáng lấy bánh ḿ về bán rong. Hôm ấy như thường lệ ông chở một sọt đầy bánh ḿ đem về, khi chạy ngang Nghĩa trang Quân Đội Biên Ḥa th́ có người gọi lại mua cả sọt.

Ông nh́n mặt quen quen nhưng không nhận ra là ai. Mừng v́ hôm nay được nghĩ sớm, ông ngủ một giấc nữa rồi ngồi dậy móc tiền ra đếm th́ hỡi ơi, toàn là tiền vàng mă, loại để cúng người chết.

Lúc này ông mới sực nhớ lại khuôn mặt người mua bánh lúc sớm, đúng y như bức tượng Thương Tiếc mà ông vẫn thấy mỗi ngày khi chạy ngang qua nghĩa trang! Ông Bánh Ḿ hồn phi phách lạc, ông ốm luôn và mấy hôm sau th́ tóc rụng sạch.

Lương trầm ngâm nói:

– Nghĩa Trang Quân Đội linh lắm. Nếu có chết, tao thích nằm ở đó hơn là nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi.

Vài tuần sau trong lúc ngồi hớt tóc, tôi đọc báo thấy phân ưu kín cả trang cuối, đọc kỹ th́ ra đó là thằng Tú, vừa găy cánh ở Phù Mỹ, Qui Nhơn. Tôi lặng người, thương tiếc một đứa bạn thân vừa hy sinh cho dân tộc.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1667828&stc=1&d=1602260819

Năm 1973 Lương đang bay A37 ở Nha Trang th́ chuyển về phi đoàn F5 Biên Ḥa. Nó tâm sự là tuổi ḿnh cũng đă lớn, gia đ́nh muốn nó “có nơi có chốn để gửi tấm thân”, nên lập gia đ́nh với một người mà Lương mô tả là hết xẩy. Khoảng hơn năm sau, có đứa con trai đầu ḷng nó khoe với tôi:
– Tao đặt tên con là Vũ, chữ vũ là mạnh, là mưa, là… nhiều nghĩa lắm.

Tôi chọc nó:
– Ừ “Vũ ỷ mạnh, Vũ ra Vũ múa. Vũ gặp mưa Vũ ướt hết lông”.

Lần cuối cùng tôi gặp Lương ở quán cà phê của phi đoàn nó, hôm đó nó đang trực hành quân. Tôi hẹn hai ngày nữa gặp nhau ở nhà Lương ngoài Tân Mai nhậu chơi.

Vài hôm sau, khoảng 5g chiều tôi từ SG lên Biên Ḥa, vừa quẹo vào con hẻm nhỏ th́ thấy chị của Lương. Tôi chưa kịp hỏi th́ chị ̣a lên khóc:

– Thằng Lương nó đi hai ngày rồi không về.

Tôi tưởng nó biệt phái vùng khác nên nói:

– Biệt phái ít ngày rồi về chứ có ǵ đâu mà khóc.

– Không phải cậu ạ. Người ta nói nó nhảy dù khi máy bay bị bắn rớt.

Đoán là đă có chuyện khẩn cấp nên tôi hỏi vài câu rồi vọt vô phi đoàn, thấy Phi vụ lệnh có chiếc sẽ đi rescue chiếc F5 bị rớt tôi t́nh nguyện đi liền.

Khi chúng tôi đáp ở Bộ Tư Lệnh QĐ III để nhận tin tức của Quân Báo, th́ vị Th/tá Trưởng pḥng nói:

– Thôi anh về đi. Tin nhận được là tụi Trung Đoàn 24 Chiến xa BV đă bắt được phi công rồi!

Tôi trở về phi trường, lấy xe chạy ra nhà Lương th́ chỉ gặp cô Mừng, cháu gái của Lương đang coi nhà. Tôi cũng không biết báo tin thế nào cho ổn nên xă giao vài câu rồi ra sạp báo đầu đường mua tờ Tuổi Ngọc, trở lại đưa cho cô bé, trong đó có kẹp tờ giấy ghi vài ḍng: “Cậu Lương đă bị VC bắt. Báo cho ba má cháu biết”.

Hôm ấy đứa con trai của Lương mới được 20 ngày.

Đời phi công, có lẽ khổ tâm nhất là lúc đi báo cho thân nhân biết bạn bè ḿnh gẫy cánh. Có một lần tôi phải ra Biên Ḥa báo tin là thi hài Đ/úy Hoài đă t́m thấy ở Hạ Lào. Tôi cứ đinh ninh rằng gia đ́nh ông đă biết Đ/úy Hoài chết trước đó cả tuần lễ. Thực ra BTL/KQ chỉ báo là ông bị mất tích v́ chưa lấy được xác. Khi tôi báo tin xong, cô em gái Hoài la lên:

– Má ơi, anh Hoài chết thật rồi.

Cô ngă ra bất tỉnh. Cả nhà vang tiếng khóc.

Khi tôi đổi ra Phù Cát, nghe đồn là SĐ 25BB có thấy một xác chết lâu ngày ở trong rừng, c̣n mặc đồ bay, tôi cứ ngờ ngợ, không biết có phải là xác của Lương không.

Năm 1978 sau khi đi tù về, tôi bị quản chế nên thường bị Công an gọi tập trung lên Huyện, gặp một người trông quen lắm, anh ta gọi tôi:

– Ê Toàn, tao là Hà Diên Tuynh bạn học ngày xưa đây. Có phải mày quen thân với thằng Lương lái F5 không?

Th́ ra trước đây tôi cũng tưởng thằng Tuynh đi BB tử trận ở Bù Na gần Đồng Xoài.

Tôi ngạc nhiên sao thằng này lại biết Lương (?)

Nó kéo tôi ra xa xa rồi kể:

– Tao bị bắt làm tù binh rồi bị đưa ra Bắc, nhốt chung một chỗ với thằng Lương lâu lắm.

Khi biết nó là pilot, tao mới hỏi nó có biết mày không, th́ ra tụi mày là bạn cùng khóa. Thằng Lương gan cóc tía, mấy tay quản giáo đ́ nó lắm v́ nó là “Lănh tụ” trong tù của bọn tao đó. Cũng v́ vậy mà hiện nay nó vẫn c̣n bị tù ngoài bắc đấy. Hôm tao về có ghé nhà nó đưa thư.

Tôi mừng khi nhận được tin này, nhưng cũng buồn cho số phận hẩm hiu của Lương, sau bao nhiêu năm tù tội mà vẫn chưa được thả cho về.

Tỵ nạn tại Mỹ, một lần trong giấc mơ tôi gặp lại Lương. Nó ôn chuyện cũ với tôi, về những lần đánh xe tăng vào Mùa Hè Đỏ lửa, về chuyện nó ốp thằng Trung (Nguyễn Thành Trung thả bom Dinh Đọc Lập) khi bắt gặp thằng này đi trượt patin ở B́nh Triệu mà mặc đồ bay. Tôi mất liên lạc với gia đ́nh Lương đă lâu, nhưng vẫn mường tượng bạn ḿnh đă chết trong tù. Tôi mong mỏi có ngày nào đó được tin xác thực của Lương.

Vào đầu tháng giêng năm 2004, Email của Khóa 69A có bản tin nói rằng ít tháng trước khi mất nước, tại núi Bà Đen Tây Ninh, có một phi công trực thăng thuộc khóa 69A đă cứu được Phan Huy Bách cùng khóa với ḿnh (Bách là con của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát) khi chiếc A37 bị bắn rơi và Bách kịp bung dù. C̣n hai phi công nữa cũng lái A37 th́ bị VC bắt, trong đó có Trần Văn Lương, tự Lương Răng Vàng.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1667829&stc=1&d=1602260819

Tôi trả lời email trên là Lương Răng Vàng không rớt tại núi Bà Đen; Lương cũng không c̣n lái A37 nữa mà vào năm 74 nó đang lái F5 và rớt khi đang lái loại máy bay này, chứ không phải măi đến năm 75 mới bị bắn rơi với chiếc A37.

Ít lâu sau, Nguyễn Tài Cơ cho tin đích xác: Lương đă chết trong một trại tù miền bắc. Hoàng Gia Viễn bạn học cùng khóa T28 với Lương c̣n cho biết chị Lương đang sống ở Washington và cho số phone để anh em liên lạc.

Cuối cùng tôi đă liên lạc được với chị Lương. Hiện nay chị đang sống với người em tại Seattle. Cháu Vũ đă học thành tài và đang làm việc ở California. Chị cho tôi biết kể từ khi Lương bị bắt, gia đ́nh không được một tin tức ǵ, cho măi đến sau ngày mất nước mới nhận được tin chồng c̣n sống và bị giam ở ngoài bắc. Qua bao nhiêu khổ ải chị mới t́m ra chỗ trại giam, lúc này Lương đă bị bịnh thật nặng, chỉ c̣n da bọc xương, bạn bè phải cơng ra chỗ thăm nuôi.

Trở về SG, chị vội vă mua thuốc men để ra thăm lần nữa, nhưng không kịp nữa rồi, có người được thả về tới báo tin anh Lương đă nằm xuống vĩnh viễn ngay vào ngày kỷ niệm hôn nhật của hai người, tại một vùng đất có tên là trại Đô Lương, Nghệ Tĩnh, có ám số là AH 118 NT K2. Chị Lương đă nhiều lần cố gắng t́m hài cốt của chồng nhưng chưa kết quả. Chị hy vọng một ngày rất gần sẽ kiếm được mộ phần của chồng để di chuyển về miền Nam.

Vậy là hơn 30 năm, chúng tôi đă nhận tin tức chính xác về Lương, đêm hôm đó tôi ngủ mơ gặp lại nó đang đứng cười, không nhận ra hai đứa đang ở đâu, nhưng cả hai đều vui vẻ lắm.

Nơi cơi thiên thai nào đó có phải Lương đang hài ḷng v́ cuối cùng, toàn thể các bạn đồng khóa cũng đă biết số phận của Lương, tuy buồn thương nhưng cũng thật dũng cảm, một cánh đại bàng đă găy cánh nơi chiến trường, sa vào tay địch, vẫn ngửng cao đầu lên đến ngày cuối của cuộc đời.

Lương, anh hồn mày nơi vĩnh hằng xin về với chúng tao, cả khóa 69A họp mặt lần thứ 40 kể từ ngày bọn ḿnh quen nhau, để tưởng nhớ đến mày, thằng Tú, thằng Toản, thằng Sương… và nhiều đứa bạn khác đă nằm xuống cho quê hương ḿnh.

Bọn tao đă liên lạc được với gia đ́nh mày. Xin chúc mừng con mày, không hổ danh là con một phi công, cháu Vũ đă thành đạt nơi xứ người, tiếng Anh hẳn là lưu loát không c̣n phải nói “Xi nô x́ líp” như mày ngày nọ.

Vợ mày, chị Lương đă ở vậy thờ chồng nuôi con khôn lớn từ ngày mày nằm xuống, cho dù lúc ấy tuổi mới ngoài hai mươi.

Hăy cùng chúng tao cầu nguyện cho quê hương ḿnh mau quang phục, để chúng tao và những người thân của mày có dịp về lại Việt Nam, đón rước thi hài đại bàng găy cánh trở về, cùng với hài cốt của những đồng đội đă bị tứ tán mọi nơi về an táng tại Nghĩa Trang Quân Đội, nơi mày từng ao ước được nằm bên cạnh những chiến hữu chung một màu cờ.

Phương Toàn

hoathienly19
10-09-2020, 19:48
BA TÔI VÀ TRẠI TÙ VĨNH PHÚ


https://tuxtini.files.wordpress.com/2013/03/lc3a0m-vie1bb87c.jpg


Vượt qua bao nhiêu cửa ải khó khăn, thủ tục nhiêu khê cuối cùng chúng tôi mới cầm được tờ giấy ra thăm ba tại trại cải tạo Tân Lập, Vĩnh Phú.

Tháng 2 năm 1979, hai mẹ con ra Hà nội bằng xe lửa. Sau khi hoàn tất mọi chuẩn bị sau cùng, chúng tôi cùng người gánh hàng thuê lên tàu chợ tuyến Cao Bằng Lạng Sơn để về ga Ấm Thượng.

Hành lư mang theo là hai bao tải đồ ăn gồm lương khô, thực phẩm, thuốc men, áo quần…bất kỳ cái ǵ cũng cần thiết cho người đang “học tập” cải tạo.

Năm 1978, tôi đă thăm được ba lần đầu tiên, đă biết trước địa điểm, lại háo hức mong gặp ba, chuyến đi lần này diễn ra suông sẻ nhanh chóng hơn trước rất nhiều.

Xuống ga Ấm Thượng, vượt qua gần 30 km đường bộ, 2 lần gọi đ̣ qua những ḍng sông nước chảy xiết, cuối cùng chúng tôi cũng đến được nhà khách K2 Tân Lập Vĩnh Phú vào lúc nửa đêm.

Chuyến đi vất vả nhưng mẹ chịu đựng gian khổ và khoẻ hơn tôi tưởng tượng rất nhiều. Nghĩ đến lúc gặp lại ba vào ngày mai, hai mẹ con suốt đêm thao thức không ngủ được.

Nằm bó gối ở một góc pḥng, trong tiếng ễnh ương rên rĩ, tôi nh́n ra bên ngoài từ khe hở của vách tre lá của nhà khách ở một vùng đất gần biên giới Việt Hoa xa xôi, và cảm nhận cái nỗi thê lương của những tháng ngày mà ba tôi, người sĩ quan tù cải tạo, đă và đang trải qua.


https://aihuubienhoa.com/images/file/odhM2rc-0QgBAtN-/caitao-large.png

Tiếp chúng tôi là một tay công an khá lớn tuổi với khuôn mặt rất h́nh sự. Tôi đưa giấy tờ, tŕnh bày lư do, và xin phép được gặp ba. Gă cầm giấy tờ đi vào bên trong. Độ khoảng 15 phút, gă đi ra vẫn với khuôn mặt khó đăm đăm. Gă nói :

Rất tiếc không thể để hai người gặp tù nhân này được. Ông nhà đang bị kỷ luật v́ vi phạm nội quy trại. Hai người có thể để thức ăn và đồ dùng lại chúng tôi sẽ chuyển cho ông.

Mẹ tôi bắt đầu khóc lóc và năn nỉ. Gă một mực cương quyết lắc đầu. Mẹ tôi càng lúc càng khóc to hơn.

Càng bị từ chối, nỗi uất ức càng lớn, bà bắt đầu nằm lăn ra sàn đất. Vừa la vừa lết, vừa khóc vừa hét. Gă công an lúng túng không biết xử lư cách nào. Những người đến thăm nuôi và cả những cán bộ của các bàn bên cạnh đều hướng về phiá chúng tôi.

T́nh h́nh căng thẳng đến tai cấp chỉ huy trại. Một sĩ quan công an bước vào. Hai người thầm th́ nhỏ to ǵ đó. Cuối cùng viên sĩ quan đến gặp chúng tôi, dịu giọng :

" - Thật ra chúng tôi rất muốn giúp bà nhưng quả thật hiện nay ông nhà đang bị kỹ luật bị giam ở ngoài trại cách đây rất xa. Thôi bà về đi. Tuần sau bà quay lại.

Tôi sẽ cho bà gặp ưu tiên với thời gian gấp đôi b́nh thường. C̣n bây giờ bà cứ để thức ăn và đồ dùng chúng tôi hứa sẽ đưa tận tay ông nhà, không thiếu một thứ ǵ. "

Năn nỉ ỉ ôi cách mấy cùng không lay chuyển tên cán bộ quản giáo, tôi nghĩ chắc là hết cách. Chắc phải ở lại Hà Nội thêm một tuần. Nh́n khuôn mặt có vẽ hiền lành của viên sĩ quan công an, tôi nghĩ gă có vẻ thiệt t́nh.

Tôi nói nhỏ với mẹ, ḿnh về thôi, ba bị kỷ luật. có xin cũng không được. Chịu khó về Hà Nội ngủ lây lất. Tuần sau lên lại hy vọng họ giữ lời hứa cho gặp được ba lâu hơn.


https://asianamlitf17.umwblogs.org/files/2017/11/traicaitao-vuotsong.gif


Trong khi quay lại bàn tiếp tân để làm thủ tục đưa thức ăn và đồ dùng cho ba, bỗng dưng tôi thấy một ánh mắt hơi khác lạ của một tù nhân làm nhiệm vụ đem nước chè xanh cho những người đến thăm nuôi.

Để ấm nước xuống bàn, người này đi chầm chậm về phiá cḥi vệ sinh sau khi ngoái lại nh́n tôi, đôi mắt nhấp nháy kỳ lạ. Tôi xin phép gă cán bộ công an đi vệ sinh.


Bước vội vào phía trong vừa kịp thấy dáng kḥm kḥm của người tù nhân bước ra. Tôi bước vào, nh́n quanh cái cḥi tiêu, tiểu được xây tạm bợ bằng lá tranh với cánh cửa tre nửa kín nửa hở.

Tôi ngồi xuống và nh́n quanh vách tre lá. Tôi có linh cảm h́nh như người tù nhân muốn cho tôi biết một điều ǵ đó. Tôi cố nh́n thật kỹ. Quả đúng như linh cảm, trên góc đ̣n tre phía trái của cầu tiêu, tôi thấy một mảnh giấy nhỏ, trên đó viết nguệch ngoạc một ḍng chữ:

“ Ông Điềm bệnh nặng .”

Hoảng hốt tôi vội chạy ngược vào pḥng tiếp tân. Dằn cơn xúc động tôi kéo mẹ ra góc pḥng báo tin. Mẹ b́nh tĩnh và khôn ngoan hơn tôi tưởng rất nhiều. Bà quay trở lại bàn tiếp tân và nói:

Xin cán bộ cho tôi ở lại đây đợi chồng tôi về chứ bây giờ vừa đi vừa về Hà Nội cũng mất hai ngày.

Gă cán bộ nói láo trơn tru:

Ông bị biệt giam ở nơi rất xa, phải tuần sau chúng tôi mới đưa ông nhà ra găp bà được.


Đến lúc này nỗi uất ức trong ḷng mẹ tôi bùng nổ, bà khóc và la hét to hơn:

“Mấy ông nói láo, tôi biết chồng tôi đau nặng, đồ sát nhân, sao không cho chúng tôi gặp. Các ông có c̣n là con người không?”


https://imagizer.imageshack.com/v2/320x180q90/r/924/hI886F.jpg


Đến lúc này th́ mẹ tôi không c̣n biết sợ là ǵ nữa, Tất cả những oán hận chất chứa trong ḷng bao lâu này được dịp thoát ra, không ai có thể ngăn được. Cả pḥng khách của K2 bắt đầu nhốn nháo, ồn ào.

Nhiều người bu quanh mẹ tôi lúc này đang nằm lăn lộn dưới sàn đất cứng ngắt. Gă cán bộ chạy vào trong và đi ra cùng với viên sĩ quan lúc năy. Gă dịu giọng nói với chúng tôi:

Xin bà b́nh tỉnh Mời bà và anh vào trong, chúng tôi sẽ giải quyết. Nói xong gă ra lệnh cho hai tay công an d́u mẹ tôi vào căn pḥng phiá trong. Có lẽ không muốn những người thăm nuôi khác biết chuyện.

Căn pḥng sạch sẽ hơn pḥng bên ngoài nhiều. Viên sĩ quan công an nói:

- Bây giờ tôi xin nói thật về t́nh trạng của ông nhà. Thật ra ông đang bệnh và chúng tôi đang tích cực chữa chạy cho ông. Nay bà đă biết, tôi sẽ thu xếp cho bà vào gặp ông.

Ông nhà đang nằm ở bệnh xá, tôi sẽ cho người dẫn ông bà đi. Xin ông bà đợi một lát. Nói xong gă bước ra, nói nhỏ ǵ đó với công an trực.

Gă công an bước đi thật nhanh. Khoảng 40 hay 50 phút ǵ đó gă trở về, bước đi gấp gáp, hấp tấp. Lại th́ thầm to nhỏ với viên chỉ huy. Tôi linh cảm có chuyện không hay. Lần này viên sĩ quan trầm giọng:

Thưa bà, chúng tôi vừa mới nhận được tin, mặc dù chúng tôi đă tận t́nh chữa trị, nhưng v́ sức yếu, ông nhà vừa mất cách đây 5 phút. Chúng tôi xin chia buồn với bà. Chúng tôi sẽ đưa bà đi gặp ông lần cuối cùng.


Di ảnh Ông Lê Xuân Điềm, Thiếu Tá Cảnh Sát, Bộ tư lệnh Cảnh Sát Sài G̣n. Ông sinh năm 1924.

“Học tập cải tạo” tại K2 trại cải tạo Tân Lập, Vĩnh Phú. Mất ngày 10/2/1979 tại trại K2


https://hung-viet.org/images/file/I_zLYAcn1wgBAPVb/w571/ong-le-xuan-diem-thieu-ta-canh-sat-bo-tu-lenh-canh-sat-sai-gon-ong-sinh-nam-1924-hoc-tap-cai-tao-tai-k2-trai-cai-t.jpg


Nghe tin dữ, mẹ tôi như điên cuồng. Bà nằm lăn ra đất. Vừa khóc vừa la. Không từ nào mà bà không đem ra. Không nhân vật nào bà không réo tên chửi. Vừa chửi vừa khóc, khóc đến khan cả giọng. Mồ hôi quyện với đất đỏ dính đầy áo quần, mặt mũi. Hết khóc rồi bắt đầu cười ngây dại.

Tôi ôm mẹ không nói được nên lời. Nỗi đau quá lớn làm thần kinh tôi như tê liệt. Ôm mẹ với trái tim nhói đau như kim châm và mẹ ngất đi.

Khoảng 15 phút sau, chúng tôi được dẫn di gặp ba. Nơi ba nằm là một căn nhà nhỏ đơn sơ gọi là bệnh xá nằm sâu trong K2 cách nhà khách khoảng 30 phút đi bộ.

Ba nằm trên một giường tre, thân h́nh gầy guộc, khuôn mặt ốm nhom như bộ xương khô. Hàm râu lổm chổm có lẽ được cắt ngắn một cách vội vàng không dài tḥn như lần đầu tôi gặp.

H́nh như đă hết nước mắt, mẹ không khóc yên lặng ngồi bệt xuống đất vói tay ôm lấy ba. Tôi ngồi xuống phiá bên kia. Hai mẹ con ôm choàng lấy ba. Vẫn c̣n hơi ấm của một cơ thể vừa mới qua đời. Mẹ vuốt mắt ba. Mắt trừng trừng nh́n ba. H́nh như tôi thấy trong mắt mẹ màu đỏ của máu.

Sẽ không bao giờ tôi quên được cái h́nh ảnh của ba và mẹ tôi trong bệnh xá trại K2 Tân Lập hôm đó. Mẹ không khóc nhưng lại ngất thêm một lần nữa khi tôi định kéo mẹ đứng lên.


https://imagizer.imageshack.com/v2/640x466q90/r/922/OlfA2o.jpg


Sau này qua một người bạn tù của ba, lúc mẹ con tôi đến thăm trại, đang hấp hối nhưng ba tôi biết. Lúc đó ba đă rất yếu. Ba nói ba sẽ cố gắng sống để găp mẹ một lần và ba cố gắng húp được vài muỗng cháo trắng. Những muổng cháo trắng cuối cùng trước khi ra đi măi măi.

Giá mà tay cán bộ có một chút t́nh người th́ có lẽ mẹ cũng được gặp ba một lần sau chót. Chỉ cần một lần mà thôi, của một cuộc t́nh ba mươi mấy năm.

Tôi biết ba đă không đành ḷng ra đi. Đành ḷng sao được hả ba, khi vượt hàng ngàn cây số từ nam ra bắc, chỉ c̣n cách một bước chân thôi mà mẹ không thể nói với ba những lời yêu thương sau chót, để được nghe một lời trăn trối sau cùng.

Tức tưởi và uất hận lắm ba. Mà thôi ba ơi. Cứ yên ḷng ra đi rồi có ngày mẹ, ba và chúng con sẽ lại gặp nhau một nơi nào đó, trên thiên đàng. Chúng ta sẽ lại có những ngày tháng hạnh phúc bên nhau như thuở nào.


https://imagizer.imageshack.com/v2/320x200q90/r/921/JCxZm7.jpg


Để xoa dịu mẹ con chúng tôi, lần đầu tiên K2 có tổ chức một đám ma tù nhân tương đối đàng hoàng. Từ trước, đă có rất nhiều tù nhân chết ở đây. Toàn bộ được bó vào các manh chiếu mây tre rách rưới và được chôn vùi sơ sài trong các mảnh đất trống bên trong trại.

Ba có lẽ là người đầu tiên đưọc ưu tiên có ḥm làm bằng gỗ ván thông dù rất mỏng dính. Chôn theo với ba là mấy bộ đồ rách bươm.

Cũng có 4 người tù khiêng quan tài. Phía trước và phía sau có 4 công an đi cùng.

Cũng có ly hương là cái chén ăn cơm cũ kỹ. Tôi cầm bài vị là một bức ảnh căn cước nhỏ xíu của ba c̣n sót lại trong trại. Mẹ đi sau quan tài. Đoàn đưa tang gồm 10 người lặng lẽ đi về phía một đồi trọc xa xa, phiá ngoài hàng rào trại K2. Trên đường đi, tôi để ư thấy có những g̣ đất với rất nhiều ngôi mộ vô danh.

Nơi chôn ba là một ngọn đồi, chỉ có một cây đa thật to. Những người tù đào vội một lớp đất không sâu lắm, ḥm được đặt xuống và lấp lại. Thế là xong. Ba tôi, một sĩ quan cảnh sát miền nam thua cuộc, cuối đời nằm ở đây, một vùng đất gần tận cùng biên giới Việt Hoa.


https://imagizer.imageshack.com/v2/320x240q90/r/921/KDl28l.jpg


Một ḿnh, cô đơn, lạnh lẽo. Mẹ không c̣n nước mắt để khóc. Suốt buổi lễ cứ nh́n trừng trừng. Một khuôn mặt tưởng như vô hồn, nhưng tràn đầy oán hận. Một nỗi hận đến vô cùng. Tôi cắn chặt môi đến tươm máu. Thôi ba ơi, hăy yên nghỉ tạm nơi đây, con sẽ quay trở lại một ngày không xa.

Trước khi trở về, tôi cẩn thận ghi dấu vị trí ngôi mộ với một chữ thập ghép bằng hai nhánh tre và khắc tên ba trên gốc cây to trước mộ.

Hai năm sau, thương ba nằm một ḿnh hiu quạnh, mẹ con tôi trở ra lại trại Tân Lập cùng với một người đảo mộ thuê từ Hà Nội. Không xin được giấy phép bốc mộ, nửa đêm chúng tôi đă lén lút đào chui và trải qua những giờ phút gian truân, nguy hiểm. Cuối cùng chúng tôi cũng đem ba về nằm bên cạnh ôn mệ trong mảnh đất phía sau nhà, dưới chân núi Ngự B́nh Huế.



https://imagizer.imageshack.com/v2/522x359q90/r/922/l6o71z.jpg


Từ khi đem được ba về nằm ấm cúng bên cạnh những người thân yêu, cuộc sống của gia đ́nh tôi từng bước thay đổi và trở nên tốt đẹp hơn. Có quá nhiều cái t́nh cờ, may mắn mà dù không muốn tin, tôi cũng phải tin có sự che chở của ba, có sự sắp đặt của ơn trên.

Và nhờ đó gia đ́nh mẹ và 9 anh em chúng tôi vượt qua được những ngày tháng khó khăn, tủi nhục, đen tối để đến cuối năm 1998 toàn bộ gia đ́nh đoàn tụ trên miền đất thật xa quê nhà nhưng tự do này.

Là những người cuối cùng trong đại gia đ́nh qua Mỹ theo diện đoàn tụ, vợ chồng chúng tôi cùng 3 con nhỏ về sống tại thành phố nhỏ Tulsa thuộc tiểu bang Oklahoma.

Vào cuối năm 1998, khi chúng tôi mới đến cư ngụ, Tulsa là một thành phố hiền hoà nhưng cũng thật buồn và trầm lắng. Người Việt không nhiều, nhưng may mắn cũng có một vài chợ Việt Nam, một vài quán ăn người Việt, không ngon lắm nhưng cũng làm vơi đi nỗi nhớ nhà của những đứa con mới vừa lưu lạc.

Lúc vừa mới đến, thấy gia đ́nh 5 người chưa có công việc làm, mấy người bạn đề nghị chúng tôi đi xin housing và chế độ trợ giúp cho người low income.

Vào thời đó ở cái thành phố đất rộng người ít này, việc xin trợ cấp của chính phủ tương đối dể dàng. Ai cũng khuyên v́ với tuổi đời gần 50, một vợ và 3 con c̣n nhỏ, tội ǵ phải đi làm cho vất vả, ở nhà của chính phủ, con cái có nhà nước lo, sáng kéo nhau ra quán cafe, chiều tập trung tại một nơi nào đó cùng với bạn bè, xem đánh cờ và ngồi tám chuyện ngày xưa.

Vừa nhàn, vừa có tiền tội ǵ phải vất vả mưu sinh. Đâu phải ai cũng có điều kiện để xin được trợ cấp như gia đ́nh tôi đâu.

Nhưng đó không phải là con đường của tôi sẽ đi. Đứa con của một sĩ quan tù cải tạo chết ở biên giới Việt Hoa ngày nào sẽ không thể sống như thế.

Thế là, sau thời gian đầu chuẩn bị cho những việc cần thiết, lấy bằng lái xe, ở tạm nhà người em gái, chúng tôi bắt đầu cho một cuộc sống mới trên một miền đất xa lạ này.

Vợ tôi xin vào làm phụ bếp trong một nhà hàng Việt Nam. Tôi và đứa con đầu nhờ có bằng TOEFL nên đăng kư đi học đại học trở lại.

Ngoài giờ học, cháu đi làm thêm công việc phục vụ nhà hàng, tôi nhờ có chút tay nghề sửa máy tính và tivi, xin vào làm technician cho hăng bán máy móc điện tử COMPUSA. Hai con nhỏ đi học ở trường gần nhà.

Tiền lương không cao lắm, nhưng với vật giá không đắt đỏ và con người hiền hoà của một thành phố nơi nhà thờ nhiều hơn nhà dân này, chúng tôi đă có những bước khởi đầu hội nhập không quá đỗi khó khăn.

Và quan trọng là tôi được đoàn tụ với mẹ, các em, và cùng với gia đ́nh riêng, chúng tôi đă sống không giàu có, nhưng lương thiện, đầy đủ và tự do.

Có quá nhiều điều để kể về những ngày tháng trên một miền đất không phải là nơi tôi sinh ra này, hy vọng sẽ có trong một bài viết khác, ở đây tôi chỉ muốn nói đến những mối nhân duyên mà ông trời đă sắp đặt liên quan đến câu chuyện của ba tôi, người sĩ quan tù cải tạo chết tại trại K2 Tân Lập Vĩnh Phú tháng Hai năm 1979.


https://imagizer.imageshack.com/v2/320x180q90/r/924/8kEI9Z.jpg


Cuộc sống ở Tulsa phải nói là rất dể chịu và an b́nh. Với sự tằn tiện và chịu thương chịu khó, chúng tôi cũng mua trả góp được một căn nhà nhỏ, tạm đủ cho một gia đ́nh 5 người, những ngày tháng an b́nh và hạnh phúc.


Nhưng rồi năm 2000, sau khi lấy lại bằng đại học, tôi xin được việc làm tại KLA-TENCOR ở San Jose, Ca. Nghe tôi định di chuyển về San Jose, bạn bè, người thân ai cũng bàn ra.

Thứ nhất tôi đang sống an nhàn, mọi việc ồn định, lên San Jose, tuy lương cao hơn, nhưng nhà cửa, cuộc sống đắt đỏ, lạ lẫm, chắc chắn sẽ khó khăn vất vả hơn nhiều. Làm lại từ đầu, có trụ nổi không hay lại khăn gói trở về như một số người ở bên này.

Nhưng, với tôi, quan trọng không phải là đồng lương cao thấp, đường đi dễ dàng hay vất vả, bằng phẳng hay gập ghềnh, mà là một công việc phù hợp với cái kiến thức và cái khả năng được đào tạo của ḿnh, trong một ngành nghề ḿnh yêu thích.

Thế là gia đ́nh nhỏ, 5 người chúng tôi một lần nữa khăn gói đi về một thành phố xa lạ hơn, một nơi được xem như đắt đỏ vào bậc nhất nước Mỹ để kiếm sống.

Cho đến bây giờ trải qua gần 20 năm, với biết bao thăng trầm, thời gian, với tôi, thời gian ở San Jose vẫn là một quăng đời đáng sống.

Có nhiều điều để nhớ lại, nhưng trong phạm vi bài viết, tôi muốn nhắc đến, chính là cái duyên, cái t́nh cờ sắp đặt của thượng đế, của định mệnh khi chính tại miền đất này, tôi đă gặp lại h́nh bóng của người cha thương yêu.

Đầu năm 2001, khi tôi đang làm tại KLA-TENCOR, lúc đó nhà cửa rất là hot. Tôi t́m măi mới thuê được căn nhà 4 pḥng ngủ. Giá thuê không hề rẻ, 1800USD một tháng. Trả tiền nhà rất vất vả khó khan, mất toi ½ số tiền lương hàng tháng.

Chúng tôi quyết định t́m người cho share lại bớt một pḥng. Đúng lúc có một technician mới vào làm trong dây chuyền của tôi mới được tuyển vào làm việc, cần nơi ở. Thế là thoả thuận về ở chung. Vừa tiện đi làm chung xe, vừa sẽ chia tổn phí, tiện lợi đôi bề.


https://imagizer.imageshack.com/v2/320x240q90/r/921/XyeHOS.jpg

Ở một thời gian, làm chung với nhau cả năm, trong một dịp t́nh cờ khi nhờ ông bạn share pḥng cắt tóc giùm, qua cuộc nói chuyện, phát hiện ra ông bạn cùng nhà mấy lâu nay củng là một sĩ quan từng đi "học tập cải tạo".

- Anh đi tù ở đâu?

- Tân Lập, Vĩnh Phú

- K mấy?

- K2. Biết ông Điềm không?

- Biết quá đi chứ.

Thế đó. Quá bất ngờ hơn, khi người share pḥng bấy lâu lại chính là người đă đưa cho tôi mảnh giấy báo tin ba tôi đau nặng tại pḥng thăm nuôi K2 trại cải tạo Tân Lập ngày nào.

Không thể nói hết sự kỳ diệu của định mệnh, khi sau 22 năm ngày mất, một sĩ quan tù binh cải tạo gặp lại người con của một bạn tù trên một đất nước quá xa vùng đất biên giới xa xôi.

Không diệu kỳ sao được, khi trong hàng triệu người Việt lưu lạc, có mặt trên hàng chục quốc gia, sống trên hơn 50 tiểu bang của Hoa Kỳ, tôi gặp lại đúng một người duy nhất đă đút cho ba tôi những muỗng cháo trắng cuối cùng trước lúc lâm chung.

Người đă sống với ba trong những tháng ngày bi thảm đó. Một trong 4 người bạn tù khiêng cha tôi về miền đất lạnh

Từ xưng anh, từ đó tôi gọi là chú, chú L. Hai chú cháu có những đêm thức trắng để kể chuyện về ba tôi.

Chú là người báo cho ba tôi biết hai mẹ con chúng tôi đang đợi chờ mỏi ṃn tại pḥng thăm nuôi. Duy nhất, chú là người bên ba để chứng kiến những giọt nước mắt cuối cùng tức tưởi của một người đang hấp hối.

Chú là người duy nhất nh́n thấy cặp mắt mong đợi mỏi ṃn của ba. Dù chỉ gần nhau trong gang tấc, trước khi ra đi vẫn không thể nh́n nhau một lời sau cuối.

Cám ơn chú L. Người bạn tù của ba tôi, ân nhân không bao giờ quên được của tôi. Sau khi nghỉ hưu, chú về ở với con gái nghe đâu ở tiểu bang Minnesota xa xôi. Chưa một lần chúng tôi gặp lại nhau. Nhưng dù ở bất cứ nơi đâu, cháu cũng cầu mong chú và những người thân yêu thật nhiều may mắn và b́nh an.

Và tôi tin rằng ở một nơi nào đó thật xa xôi, ba vẫn luôn dơi theo và che chở cho gia đ́nh chú cũng như cho mẹ con chúng tôi. Nếu có một kiếp sau, con vẫn sẽ là con của ba, người tù cải tạo chết ở miền đất biên giới Việt Trung, ngày 10 tháng 2 năm 1979.


Lê Xuân Mỹ

hoanglan22
10-11-2020, 14:52
Đây là đoạn hồi kư của tôi trong những ngày Cộng Sản chiếm miền Nam, và 2 lần vượt ngục tù cải tạo trong 3 năm sống với chế độ Cộng Sản. Hồi kư nầy tôi viết tại trại tỵ nạn Mă Lai, Tiểu bang Kelantan, Tỉnh Kotabaru.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1668801&stc=1&d=1602427578

Dĩ văng hiện lên đầu óc tôi như cơn ác mộng bi thương buồn thảm.!

…Ngày 21-4-75, tôi được báo cho biết có cuộc họp báo nơi pḥng Khánh Tiết (trong Dinh Độc Lập). Nội dung cuộc họp báo tôi chưa được biết, đó cũng là việc làm bảo mật thường ngày của khối Cận Vệ chúng tôi…

Cuộc họp báo lúc 19 giờ đêm 21-4-75.

Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức, bàn giao chức vụ lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương làm Tổng Thống theo Hiến Pháp do Lưỡng Viện Quốc Hội chỉ định.

Trong lúc chiến sự gay go nguy hiểm, Cộng quân đă chiếm toàn miền Trung và đang bao vây Tỉnh Long Khánh. Tin Tổng Thống Thiệu từ chức đă làm cho toàn thể Quân Lực đang chiến đấu với Cộng quân trên khắp các mặt trận bị giao động hoang mang mất hẳn tinh thần …

Đến chiều ngày 28-4-75. Tổng Thống Trần Văn Hương họp báo giao quyền Tổng Thống lại cho Đại Tướng Dương Văn Minh theo yêu cầu của Lưỡng Viện Quốc Hội VNCH.

Ngày 29-4-75. Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh trục xuất người Mỹ phải rời khỏi Việt Nam trong ṿng 24 giờ.

Cảnh tao loạn đă diễn ra khắp nơi trong đô thành, trong khi các phái bộ Hoa Kỳ cấp tốc rời khỏi VN do cuộc không vận khổng lồ từ các căn cứ ở Thái Lan, Phi Luật Tân và Hàng Không Mẫu Hạm Đệ Thất Hạm Đội chờ sẵn ngoài khơi. Trong lúc đó người dân VN cũng được không vận ra đi với các gia đ́nh nhân viên làm việc cho Mỹ, cũng trong số đó có cả quân nhân, công chức cùng thoát đi.

T́nh h́nh chiến sự càng lúc càng thêm nguy ngập, Cộng quân đă cắt hẳn các con đường vào thành phố và đang tập trung quân để bao vây đô thành….

Về phần tôi, sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, 2 ngày sau tôi được lệnh hộ tống đưa Tổng Thống phu nhân lên phi trường để đi Đài Loan. Anh em Cận Vệ chúng tôi vẫn túc trực ứng chiến 24/24 tại Dinh Độc Lập.

Tôi được biết Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sau khi từ chức vẫn c̣n ở lại trong Dinh Độc Lập cho đến đêm 25-4-75. Phái bộ Hoa kỳ vào Dinh “rước đi” cùng lúc với thành phần Nội Các chánh phủ của Ông.

Khối Cận Vệ lúc bấy giờ do Trung Tá Vơ Trung Thứ điều hành, và tất cả cận vệ viên từ sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ vẫn c̣n túc trực., v́ nhiệm vụ của khối Cận Vệ là bảo vệ vị nguyên thủ quốc gia . Khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra đi, chúng tôi lại có nhiệm vụ bảo vệ vị nguyên thủ đương nhiệm Tổng Thống Trần Văn Hương và rồi đến Tổng Thống Dương Văn Minh…

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1668802&stc=1&d=1602427578

Đối với Ông Trần Văn Hương th́ tôi là một trong số những Người Nhái có nhiệm vụ bảo vệ cho Ông từ khi đang giữ chức vụ Thủ Tướng, Đại Tướng Nguyễn Khánh giải nhiệm Ông Trần Văn Hương vào năm 1965. Cộng Sản đă lên 7 bản án tử h́nh, BTL/HQ chỉ thị cho toán Người Nhái bảo vệ an ninh cho Ông.

Ông cụ mỗi đêm thường gọi tôi đến bên Ông ngồi chung trên chiếc vơng đong đưa trong tiền đ́nh của ngôi nhà Santa Maria tại Vũng Tàu..

Ông kể cho tôi nghe những mẫu chuyện trong đời Ông từ thời kháng chiến chống Pháp trong bưng biền và cho đến lúc Ông ra làm Đô Trưởng đô thành Sài G̣n Chợ Lớn, rồi đến chức vụ Thủ Tướng cho đến lúc bị giải nhiệm…Ông thân thiết và thường khuyên bảo tôi như con cháu trong nhà.

Được vài tháng sau tôi và một số NN trở về BTL/HQ để nhận công tác đo nước lập thủy đạo, cập nhật hải đồ các băi đổ bộ cho toàn miền Nam, từ Bến Hải đến Đảo Phú Quốc suốt mấy tháng trường..

Mải đến năm 1971, Ông Trần Văn Hương ứng cử Phó Tổng Thống chung liên danh với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Khối Cận Vệ Phủ Tổng Thống đề cử tôi làm Sĩ Quan trưởng toán Cận Vệ để bảo vệ cho Ông trong suốt thời gian Ông cụ đi vận động tranh cử cho đến khi đắc cử.

Sau lễ Đăng Quang nhậm chức Phó Tổng Thống, toán Cận Vệ chúng tôi trở về nhiệm sở khối Cận Vệ Phủ Tổng Thống, Ông cụ gọi tôi vào và ngỏ ư muốn tôi ở lại làm việc cho Ông, tôi cám ơn Ông cụ và từ chối..V́ nhiệm vụ của toán Cận Vệ chúng tôi là bảo vệ cho Ông cụ và cùng lúc huấn luyện cho toán Vệ Sĩ của Phủ Phó Tổng Thống về các phương pháp bảo vệ an ninh cho yếu nhân do Đại Úy Cương (cháu ruột của Ông cụ) làm Trưởng Toán.

V́ có những liên hệ như trên nên khi Phó Tổng Thống Trần Văn Hương đảm nhiệm chức vụ Tổng Thống VNCH do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bàn giao, tôi lại nhận trách nhiệm Sĩ Quan Cận Vệ cho Ông cụ.

Đến ngày 28-4-75.Đại Tướng Dương Văn Minh nhận chức vụ Tổng Thống VNCH do Lưỡng Viện Quốc Hội yêu cầu Tổng Thống Trần Văn Hương bàn giao.. Đại Úy TBH (cháu ruột của Tổng Thống Dương Văn Minh) giữ chức vụ Trưởng Pḥng Cận Vệ, lại giao cho tôi và Chuẩn Úy Trang Đức cận sát để bảo vệ cho TT Dương Văn Minh. Đại Úy H. biết rơ và tin tưởng khả năng vơ thuật và tác xạ của tôi v́ Đại Úy Huệ phục vụ bên Vơ Pḥng Phủ Tổng Thống lúc trước, nên Đại Úy H. thường thao dượt luyện vơ với tôi. cũng v́ vậy mà tôi phải túc trực 24/24 .

Tối đêm 29-4-75. Cộng quân pháo kích vào đô thành khắp nơi, tôi và Thiếu Tá Trần Chí Đức Trưởng Toán 4 Cận Vệ, đang phân phối điểm gác tại tư dinh số 3 đường Trần Qquư Cáp, Đại Úy H. giao cho tôi tấm vải trắng để xé ra đeo trên cánh tay trái để làm ám hiệu, tôi nghi ngờ hỏi Đại Úy H. : Tại sao lại dùng vải màu trắng làm ám hiệu ? Đại Úy H. không trả lời. Thiếu Tá Trần Chí Đức Trưởng Toán 4 liền lên xe Jeep bỏ đi mất.

Một lúc sau thấy không an toàn v́ pháo kích nên Tổng Thống Minh và Nội Các chánh phủ cùng gia đ́nh vào dinh Độc Lập nghỉ đêm..

Trung Tá Vơ Trung Thứ họp Sĩ Quan chúng tôi lại và rưng rưng nước mắt : Có lệnh cấp trên, các Anh Em hăy nghe tôi..Hăy nghĩ đến gia đ́nh các anh .. mà theo lệnh cấp trên. Buông súng xuống !.Tất cả nhục nhă nầy tôi xin gánh chịu..các anh đừng nên chống lại nữa vô ích…

Trung Tá Thứ c̣n nói nhiều nữa…Nhưng tôi không c̣n nghe ǵ được nữa cả..uất hận tuôn trào.. Tôi cảm thấy chơi vơi..nhục nhă ..đau đớn ê chề.. Tôi nghĩ nếu chúng tôi thật sự chống trả th́ dầu cho Cộng quân có bao vây dinh Độc Lập bằng chiến xa, pháo binh hay tấn công bằng phi cơ, th́ chúng tôi cũng có thể giữ được ít nhứt là nửa tháng…Chúng tôi căm tức nhưng biết ḿnh cũng không xoay sở được ǵ..!

Sau khi suy tính cùng các anh em Cận Vệ, tôi và một số anh em cùng lên xe Jeep chạy đến Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ với hy vọng được rời khỏi Việt Nam trong những chuyến trực thăng di tản cuối cùng, chớ không thể bó tay đầu hàng Cộng Sản được..

Nhưng chúng tôi không thoát được định mạng đă an bài, v́ khi đến Ṭa Đại Sứ Mỹ nh́n thấy dân chúng đang chờ đợi ngoài ṿng rào đông quá, không thể nào trực thăng chở đi hết được v́ đúng 12 giờ đêm 29-4-75 là hết thời hạn di tản. Chúng tôi chờ măi đến 5 giờ sáng ngày 30-4-75…

Thất vọng và chán nản quá.. chúng tôi đành quay trở về dinh Độc Lập ..Đầu óc tôi cứ quay cuồng câu Nước Mất, Nhà Tan .

6 giờ sáng ngày 30-4-75.Chúng tôi hộ tống Tổng Thống Dương Văn Minh qua dinh Thủ Tướng để họp Nội Các. Cộng quân bắt đầu pháo kích mạnh hơn vào thành phố, dân chúng chạy loạn khắp nơi… 9 giờ sáng, 2 chiếc trực thăng dành riêng cho Tổng Thống cất cánh rời khỏi dinh Độc Lập do các sĩ quan phi công bỏ đi đúng như dự tính, nhưng v́ tôi không có mặt nên đành lỡ chuyến..Dự định của chúng tôi sẽ đi khuya đêm 29-4-75, nhưng sợ cất cánh ban đêm sẽ bị bắn v́ có lịnh giới nghiêm, nên phải đợi đến sáng.

Trung Tá Lân- Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn An Ninh Danh Dự, Thiếu Tá Hậu- Trưởng Khối An Ninh Phủ Thủ Tướng và tôi cùng bàn thảo nên thoát đi bằng cách nào, nhưng vẫn vô kế, v́ đường về miền Đông và miền Tây đều bị cô lập..Chúng tôi nh́n nhau mà ḷng buồn man mác..

Tiếng súng vẫn nổ vang rền trên các đường phố, máy truyền tin bên cạnh chúng tôi vẫn vang lên lời báo cáo khắp nơi về..Cộng quân đang giao chiến tại G̣ Vấp..Ngă Tư Bảy Hiền đă thấy bóng Việt Cộng…Cầu Nhị Thiên Đường đang đánh…Tiểu Đoàn Dù đang đụng độ dọc theo các chốt đóng trên xa lộ..v.v.

10 giờ 30, chúng tôi hộ tống TT Minh về dinh Độc Lập, trên tay chúng tôi khẩu súng đătrở thành vô dụng, v́ không được nổ súng trong mọi trường hợp…Anh em chúng tôi đưa mắt nh́n nhau mà không nói được lời nào…Rồi việc phải đến đă đến..Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, đúng như sự nghi ngờ về ám hiệu màu trắng tôi đă nêu trên..

Đầu hàng.. Đầu hàng à… Trời ơi !

Chúng tôi phải chịu nhục nhă như vầy sao ?

Tổ Quốc quấn khăn tang, mây che phủ đầu trên thành phố thân yêu…Hàng vạn nhà ra tro ra khói bốc cao trời..

Bài ca “Vuốt Mặt” như vang lên đâu đây…Làm cho tôi tê tái..giọng ca uất hờn..như tiếng nấc nghẹn ngào của Quê hương… VIỆT NAM ƠI .. VIỆT NAM ƠI !!

Thật không c̣n ǵ đau đớn cho bằng việc tôi nh́n thấy cảnh mất nước do một số người ham tranh giành ngôi vị..để rồi giờ đây đứng cúi đầu rước quân thù trên thềm dinh Độc Lập..nơi mà cả thế giới nh́n vào trên bốn ngàn năm lịch sử oai hùng của dân tộc.

***

Bắt đầu các tên Việt Cộng nằm vùng tiềm phục trong các cơ quan lộ mặt trong dinh Độc Lập th́ do tên thợ điện đứng ra tiếp thu rồi giao lại cho đơn vị bộ đội Hương Giang chiếm giữ.

Sau 5 ngày bị quản thúc tại dinh Độc Lập, chúng tôi được thả về để chờ lịnh tập trung cải tạo…Ḷng tôi tan nát không c̣n nghĩ suy ǵ được nữa cả..Tôi lang thang trên đường phố hết ngày nầy sang ngày khác. Từ thuở nhỏ cho đến bây giờ tôi chưa bao giờ rơi nước mắt v́ bị thương tích của thể xác, nhưng sao bây giờ nước mắt tôi cứ tuôn ra không sao cầm lại được..

Đến ngày chúng gọi tất cả Sĩ Quan đi tŕnh diện học tập cải tạo mà tôi vẫn chưa nghĩ ra được cách nào để hoạt động chống lại bọn Cộng Sản v́ thời gian phải tŕnh diện quá ngắn và c̣n quá rối loạn, nên đành phải đi tŕnh diện học tập, mong nếu chúng giữ lời hứa là Sĩ Quan cấp Úy chỉ đi học tập cải tạo 10 ngày, sau đó mới có cơ hội hoạt động được.

Ngày 28-6-75 là thời hạn cuối cùng, tôi đến tŕnh diện tại trường Sơn Hà (Dakao). Đến 2 giờ sáng ngày 29-6-75, chúng điểm danh và đưa chúng tôi lên xe Molotova bỏ mui bố phủ kín lại trong khi di chuyển. Khoảng 4 giờ sáng đến nơi, có người biết nơi đây là Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 5 Công Binh (Thành Ông Năm) căn cứ nầy c̣n nguyên vẹn. Khoảng 9 giờ sáng bọn chúng ra lịnh chúng tôi đi thâu dọn tất cả đạn dược rơi rải khắp nơi trong trại để giao lại cho chúng. Riêng tôi vẫn nghi ngờ bọn chúng không thật sự giữ lời hứa, nên tôi lén đem giấu 5 trái lựu đạn M 26 nơi đốóng cát trước dăy trại của tôi ở.

Bắt đầu bọn chúng tổ chức chia chúng tôi ra từng khu vực, mỗi khu khoảng 150 người, mỗi đội gồm 5 hoặc 6 tổ, mỗi tổ 12 người. Tổ chức nhà bếp, nhà cầu và đào giếng nước. Tôi càng nghi ngờ hơn về chánh sách của bọn chúng, v́ nếu chỉ đi học tập trong ṿng 10 ngày th́ bọn chúng bắt chúng tôi phải làm tiện nghi có tánh cách dài hạn để làm chi ?.

Đến ngày thứ 3, chúng bắt đầu thâu tiền cơm 10 ngày, bọn chúng cho chúng tôi uống thuốc ngừa sốt rét ?, trong 5 ngày và phải uống trước mặt của chúng nó, tôi không tin v́ nghi ngờ nên chỉ ngậm trong miệng đem ra ngoài bỏ đi.

Lần lựa ngày nầy sang ngày khác, đă đến 10 ngày rồi mà bọn chúng không nói năng chi cả, có người hỏi th́ chúng trả lời các anh chưa học tập bài nào cả nên chưa về được. Rồi một tháng trôi qua chúng vẫn im ĺm..

BẮT ĐẦU NGHIÊN CỨU VÀ TỔ CHỨC VƯỢT TRẠI TÙ

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1668803&stc=1&d=1602427578

Lợi dụng ban ngày c̣n đi qua lại các trại khác được, tôi qua khu trại kế bên để t́m người đồng tâm ư để sắp đặt kế hoạch từ trong trại nầy thoát ra rồi phải làm thế nào v.v.. Khoảng 2 tuần sau, tôi đătổ chức được 2 tổ, mỗi tổ là 2 người, tổ 1 tên Nam và Dũng, Nam là cháu của Giám Đốc Quan Thuế phi cảng Tân Sơn Nhứt, c̣n Dũng th́ có nhà thuốc Tây ở đường Bùi Viện Quận Nh́ Sài G̣n, gia đ́nh của 2 anh có ghe tàu sẵn, đang chờ 2 anh ra để vượt biên.

Tổ 2 Hoàng Trinh, Sĩ Quan Đại Đội Biệt kích Dù đă từng nhảy xuống Hạ Lào, và Nguyễn Hoành, Đại Đội Trưởng Biệt Động Quân. Anh Hoành biết được 2 thứ tiếng Thượng phổ thông. Dự tính tổ 2 khi ra khỏi trại sẽ vượt biên giới qua Thái Lan để t́m đường giây kháng chiến trở về giải phóng đất nước…Trong 2 tổ, tôi thích tổ 2 hơn v́ đồng quan điểm là chúng tôi phải làm ǵ cho quê hương đất nước chớ không thể khoanh tay.. Nhưng vẫn phải chờ cơ hội, v́ các anh đều c̣n hy vọng là được bọn CS thả về rồi mới xoay xở về sau.

Tháng thứ 2 đă trôi qua, bọn chúng bắt đầu cho học tập 10 bài chánh trị trong tháng thứ 3. Nội dung các bài có tánh cách phỉ báng chế độ VNCH, và ngụ ư tất cả người dân miền Nam đều có tội với cách mạng của bọn chúng qua nhiều h́nh thức khác nhau… Tháng thứ 4, sau khi học xong 10 bài, bọn chúng bắt tất cả phải khai tội đối với cách mạng, và dụ dỗ phải khai cho thật, chúng sẽ khoan hồng. v.v.

Tôi rất nóng ḷng v́ biết bọn chúng chẳng bao giờ thả tôi ra. Tôi giấu nhẹm không khai thành tích diệt Cộng Sản khi c̣n ở đơn vị Người Nhái đă từng tiêu diệt VC trong những lần phục kích và đột kích vào mật khu của chúng trong vùng Rừng Sát Nhà Bè, trong suốt mấy tháng hành quân phối hợp cùng với Seal Team Hoa Kỳ .. Nhưng tôi vẫn lo không biết là hồ sơ trong đơn vị c̣n nguyên hay đă được tiêu hủy trước khi chúng vào..

Tôi tổ chức một người bạn ngày trước làm việc tại BTL/HQ/P4. ở gần pḥng tắm của bọn cán bộ để lấy tin tức t́nh h́nh ở ngoài như thế nào, sau mấy tuần tôi được biết ở ngoài đă có biểu t́nh đ̣i chồng con đang đi học tập, và có đụng độ ở Đèo Cheo Reo và Đèo An Khê, Ban Mê Thuột có pháo kích do phần tử ly khai của Quân Đội VNCH thực hiện..

Những tin nầy càng làm cho tôi tin chắc các Sĩ Quan sẽ khó mà được chúng thả về. Tôi đem tin nầy bàn với tổ 1, Nam và Dũng đều không dám vượt rào, tôi đành phải nói xuôi theo là cùng chờ đợi..Tôi bàn với tổ 2 , Hoành và Trinh hơi ngần ngại, nhưng tôi khích động nên 2 anh đồng ư vượt rào, kế hoạch từ trong ra ngoài th́ bên của ai nấy lo, và hẹn điểm gặp nhau ngoài ṿng rào là băi tha ma cách ṿng rào phía Đông chừng 700 thước.

Tôi đem những điều đă nghiên cứu như sau cho Hoành và Trinh biết :

Hệ thống pḥng thủ : Cô lập từng khu; an ninh mật báo từng tổ (v́ thế mà tôi không tổ chức vượt rào trong đội của tôi); giới hạn đi lại qua con đường nhựa; ban đêm có lính gác đôi lưu động có đèn rọi sáng cả con đường nhựa; bờ đê cao 2 thước; 6 lớp Consertina;4 lớp rào kẽm gai, rào đứng, xiêng, ngang và hào chống chiến xa sâu 4 thước, rộng 5 thước; 2 giờ đổi gác 1 lần;ở ngoài ṿng rào khoảng 2 giờ có toán tuần tiễu (đoán theo tiếng chó sủa).

Khi thoát ra đến điểm hẹn ngoài ṿng rào nơi băi tha ma, nếu quá 2 tiếng đồng hồ không gặp nhau th́ tự t́m về Sài G̣n, qua ngày sau sẽ gặp nhau tại điểm hẹn ở xa lộ Biên Ḥa, trễ nhứt là ngày thứ 3 sau khi ra được phải gặp nhau để bàn tính thêm kế hoạch vượt biên giới…Bây giờ chúng tôi chỉ c̣n chờ cơ hội và thời tiết thuận tiện.

***

Đời sống của các Sĩ Quan VNCH trong các trại giam cầm mà bọn CS gọi danh từ thật hoa mỹ là “Học tập cải tạo” thực ra chỉ để trả thù tập thể Quân Đội VNCH, giết lần ṃn v́ đói thiếu dinh dưỡng, bịnh tật v́ không có thuốc men. Trong tổ của tôi có anh bạn Trần Văn Hồ bị bịnh tiêu chảy suốt 1 tuần lễ mà pḥng Y Tế không cho một giọt thuốc nào cả, đến tuần lễ thứ 2 th́ bịnh biến chuyển qua kiết lỵ, anh em cùng tổ lo cho nhau chớ pḥng Y Tế không ngó ngàng ǵ đến.. Ăn uống quá thiếu dinh dưỡng, chỉ trong ṿng 2 tháng mà trại đă có khoảng 40% bị liệt bại.

Tôi nghi ngờ là bị chúng đầu độc bằng thuốc mà bọn chúng đă cho uống khi mới vào trại, từ khi uống thuốc vào, khoảng chừng 2 tháng rưởi sau, đang đứng mà té lúc nào chẳng hay.

Trong suốt gần 4 tháng mà chúng tôi chỉ ăn được mỗi tháng một lần thịt heo, mỗi người được khoảng 8 gram thịt, mỡ lẩn da . Tôi nghĩ may là trại nầy c̣n được mấy con heo do trại gia binh quân đội VNCH bỏ lại, nên bây giờ chúng tôi mới được ăn thừa của bọn chúng bỏ ra cho.. Thèm thịt, thiếu mỡ, không đường, nên chúng tôi bắt tất cả con ǵ ăn được mà ăn như chim chóc, rắn rết,chuột, ếch, cóc nhái, ảnh ương .v.v.

C̣n về tinh thần anh em Sĩ Quan th́ lụn bại thê thảm, tất cả đều bi quan về cuộc chiến thảm bại vừa qua, ư nghĩ của họ mong mỏi được CS khoan hồng mà thả họ về với gia và đ́nh phục hồi đời sống cũ …Cũng trong trại tôi có gặp 2 người bạn ở trại kế bên , một anh lúc trước chỉ huy toán pḥng không dinh Độc Lập, thuộc Toán 4, khi chiếc phản lực cơ do tên phản nghịch Nguyễn Thành Trung, mang bom dội vào dinh Độc Lập, anh đă kịp thời bắn chận nên lần thứ 2 bom thả đălệch ra ngoài v́ không c̣n chính xác , và anh Trưởng Toán gác dinh Độc Lập. Tôi đem ư định vượt rào th́ anh nào cũng không dám thực hành mà cũng chỉ mong được thả về đoàn tụ với gia đ́nh…

Thời cơ đă đến do việc chúng nó phát động phải tích cực lao động nặng. Tôi suy đoán là chúng nó sắp chuyển chúng tôi đến trại khác xa xôi và làm việc nặng nhọc hơn. Tôi bàn tính với Hoành và Trinh nếu để chúng đưa đi trại khác th́ chúng ta không thể biết được t́nh h́nh nơi đó, nếu muốn vượt trại chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, tôi đề nghị vượt trại vào ngày 17-9 âm lịch là ngày 21-10-75. Hoành và Trinh hỏi tôi tại sao lại chọn ngày trăng tṛn mà ra ? Tôi trả lời :

Ḿnh chọn ngày đó là v́ yếu tố bất ngờ, bọn chúng nghĩ chúng ta không dám ra trong những đêm có trăng sáng, chúng sẽ chểnh mảng hơn, và kế hoạch tôi là sẽ vượt ra lúc 8 giờ tối, sau 7.30 giờ điểm danh th́ bọn chúng thay vọng gác mà đi tuần dưới đất, và trước 9 giờ giới nghiêm, và giờ đó trăng chưa mọc. C̣n thoát ra th́ 2 anh nghiên cứu như thế nào th́ hăy cố gắng vượt ra, c̣n tôi th́ đă có cách riêng. Chúng ta phải đi riêng rẽ, chúng nó khó phát giác hơn.

Tôi khích động tinh thần 2 anh :

“Chúng ta toàn là tay thiện chiến, Biệt Động Quân, Biệt Kích Dù và Người Nhái, chúng ta phải chứng tỏ cho chúng nó biết khả năng của chúng ta”.

Tôi tiếp: Tôi nói thật với các anh, nếu ngày mai nầy chúng nó thả tôi ra mà ngày hôm nay có cơ hội tôi cũng thoát ra trước khi chúng nó thả..

Tôi khích động tinh thần và danh dự Binh Chủng của các anh nên 2 anh đồng ư theo chương tŕnh đă hoạch định cho ngày 21-10-75.

***

Vượt trại.! Vượt trại !!

Tiếp theo có tiếng súng nổ và tiếng kẻng đánh liên hồi…và lịnh tập họp điểm danh lúc 2 giờ khuya đêm 14-10-75. Tập họp điểm danh, báo cáo quân số xong, chúng tôi được biết có 2 Sĩ Quan cấp Đại Úy đă vượt rào bị phát giác và bị bắn chết 1 anh tại hàng rào và 1 anh bị thương nơi chân, chúng kéo lôi anh nầy vào để tại hội trường để cảnh cáo chúng tôi hăy xem đó làm gương…Sáng ngày các anh em bó chiếu xác anh đă chết và chôn tại chỗ, c̣n anh bị thương th́ chúng mang đi đến các trại khác để cảnh cáo.

Sự việc xảy ra đă làm cho Hoành và Trinh mất tinh thần không ít. tôi cố gây niềm tin cho 2 anh, phân tách kỹ những lỗi lầm của nạn nhân cho Hoành và Trinh thấy : Các anh đó chọn thời điểm không đúng, 2 giờ khuya thanh vắng quá, nhằm ngày mồng 9 âm lịch, giờ đó có trăng non, và mặc đồ màu xanh lợt nên dễ bị phát giác, và c̣n nhiều chi tiết mà tôi không biết rơ..

Chúng tôi cùng kiểm soát lại kế hoạch xem coi có cần bổ khuyết hay không ?! Và chúng tôi cương quyết vượt trại giam, với tinh thần bất khuất, bất chấp mọi nguy hiểm sẽ xảy ra cho ḿnh. Tôi rất tin tưởng ḿnh sẽ vượt ra an toàn..Chúng tôi chờ đợi chỉ c̣n đúng 1 tuần là đến ngày quyết định với cảnh giác căng thẳng tột độ..

21-10-75. Ngày, giờ quyết định đă đến, lúc 7giờ tối tôi mang qua trại của 2 anh Hoành và Trinh 3 trái lựu đạn M 26 (tôi đă giấu trong đống cát như đă kể trên) c̣n tôi giữ lại 2 trái. 2 anh ngạc nhiên, tôi giải thích cho 2 anh biết và căn dặn, nếu lỡ bị phát giác khi trốn ra th́ phải hy sinh chớ đừng để chúng nó bắt lại

.. Chúng tôi cùng kiểm điểm lại lần cuối cùng kế hoạch đào thoát. Hoành là người hoạt bát và nhờ thế nên Hoành đă nhờ cán bộ mua giùm 100 gr café và đường cách nay hơn một tháng, tôi đă dặn Hoành để dành lại cho ngày hôm nay 3 ly café đặc. Chúng tôi vừa uống vừa tính toán, khi xong hết, Hoành nói là cần mang theo mền và mùng v́ đó là kỷ niệm đời binh nghiệp của anh. Tôi không đồng ư nên ngăn cản .

Trong lúc đó lại thấy gió thổi mạnh và mây đen kéo đến làm cho anh em chúng tôi lên tinh thần vô cùng, tôi thầm nhủ “Trời thương anh em chúng con rồi !”.

19giờ 30 là giờ tập họp điểm danh, tôi từ giă Hoành và Trinh hẹn đúng 20 giờ vượt trại và gặp nhau ngoài điểm hẹn tại băi tha ma. Tôi lần ra hàng rào kẽm gai cô lập trở về trại ḿnh. Tôi đă tạo thói quen là cứ đến khoảng 19 giờ là tôi giăng mùng sẵn để các người cùng tổ không để ư tới tôi, hôm nay cũng vậy. tôi từ bên trại của Hoành và Trinh về, tập họp điểm danh xong tôi liền vào mùng nằm, chừng 20 phút sau, tôi ra đi tiểu, lúc nầy gió thổi rất mạnh, mưa bắt đầu rơi, trại chúng tôi cũng như trại của vệ binh VC đều lo đóng cửa sổ, thừa lúc lộn xộn đó tôi vội bước qua hàng rào kẽm gai lọt qua khu vực của vệ binh VC, đi nhanh ra bờ đê và lăn nhanh qua bờ đê, tôi nằm im để nghe động tịnh và móc ra 2 miếng cao su, (Tôi lấy ruột xe mà bọn VC bỏ lại khi chúng cắt các vỏ xe máy ủi đất để làm dép, tôi đă cắt lỗ để xỏ mấy ngón tay và đem cất giấu) tôi mang 2 bao tay giă vào và ḅ đến hướng đă định, dùng bao tay giả đó để nâng đỡ kẽm gai, lách ḿnh chui qua, tôi làm rất thận trọng, nhanh nhẹn và chính xác, v́ tôi đă nghiên cứu thật kỹ từ loại kẽm gai và cách thức rào ra sao như rào đứng th́ bợ lách như thế nào, rào xiên th́ phải nâng đẩy và đưa chân nào ra trước, rào thấp ngang mặt đất th́ phải nằm ngửa và đỡ từng sợi kẽm gai, rào consertina phải lách và chun qua làm sao…V́ thế nên vượt qua 10 lớp kẽm gai hàng rào và hào chống chiến xa, chỉ trong ṿng 15 phút đến 20 phút th́ tôi đă có mặt ngoài hàng rào rồi, tôi tiến nhanh vào lũy tre cách hàng rào khoảng 50 thước ẩn ḿnh vào bóng tối của lũy tre để tránh đường chân trời..

Mưa bắt đầu nặng hột, tôi thu ḿnh dưới lũy tre cố giương mắt nh́n về hướng điểm hẹn băi tha ma cách đó khoảng 100 thước, v́ đề pḥng 2 anh bạn bị lộ có thể chỉ điểm cho cán bộ bao vây.

Cơn mưa kéo dài đến khoảng 11 giờ đêm, vẫn không thấy bóng dáng của Hoành và Trinh, c̣n ở trong khu trại giam cũng không nghe báo động. Mưa đă tạnh lần, tôi di chuyển ngược lên hướng đào thoát của Hoành và Trinh để đón cũng không thấy tăm hơi chi cả. Tôi nóng ḷng, suy nghĩ không lẽ 2 anh bạn nầy không dám vượt ra ?. Càng về khuya càng cảm thấy nhiều nguy hiểm ! Nhưng tôi vẫn cố gắng đợi chờ, câu hỏi tại sao, tại sao cứ loanh quanh trong đầu óc của tôi. Cảnh đêm khuya hoang vắng cạnh băi tha ma trong rừng chồi nó âm u làm sao !. Tôi cố chờ măi đến khoảng 2 giờ khuya, bầu trời lại bắt đầu vần vũ, mây đen kéo đến mờ mịt. Biết sắp có trận mưa to, tôi lo ngại quá, v́ điểm hẹn chỉ cách hàng rào trại giam có khoảng 700 thước..Trời mưa mà tôi đổ mồ hôi hột v́ lo cho 2 bạn của ḿnh, tôi không nở bỏ đi. . Nhưng ở lại th́ thập phần nguy hiểm có thể bị chúng bao vây bắt lại..

Tôi đang suy tính bỗng nghe có tiếng nói và tiếng chân người đi tới, tôi cấp tốc nép ḿnh vào bụi cây, ḷng hoang mang hồi hộp chờ đợi.. Khi đoàn người đến gần, tôi lắng nghe tiếng nói chuyện … À ! th́ ra là những người dân trong thôn xóm đang gánh rau cải ra chợ bán.! Ư nghĩ thoáng nhanh trong đầu tôi, ḿnh phải rời khỏi nơi nguy hiểm nầy trước, về Sài G̣n rồi sẽ gặp nhau tại điểm thứ 2 an toàn hơn, v́ địa thế nơi đây tôi không biết nên sẵn dịp nầy tôi nương theo những người gánh hàng để tránh các chốt chận khám xét của VC.

Và tôi đă ra đến chợ Hốc Môn, tôi đón chuyến xe đ̣ sớm nhứt và về đến Sài G̣n lúc 7 giờ sáng. Tôi đến nhà người bà con bên vợ để hỏi thăm tin tức và liên lạc với vợ con , tôi và vợ con gặp lại nhau sau 6 tháng qua người bà con nầy, tôi ở tạm đây vài hôm để liên lạc với Hoành và Trinh, nhưng suốt mấy ngày liền tôi đến điểm hẹn đều không có tin tức của 2 anh. Vợ tôi cũng đã thay tôi liên lạc với gia đình của Hoành và được biết không có tin tức gì về Hoành cả. Thế là chương tŕnh dự tính vượt biên giới qua Thái Lan không thành.!

***

Sau mấy ngày ở tạm nhà người bà con, tôi từ giă và di chuyển qua nhà anh Nguyễn Thành Nhơn ở tạm phía sau để liên lạc lại với các anh em đồng chí hướng.

Trước năm 1975. Anh Nguyễn Thành Nhơn, là Chủ Tịch Tổng Cuộc Phong Trào Thể Dục Thẩm Mỹ Việt Nam và cũng là Chủ Tịch Tổng Cuộc Thám Hiểm và Săn Bắn Cá Dưới Biển VN. Giám Đốc Chương Tŕnh Sức Khỏe Giống Ṇi , Chương Tŕnh Con Kiến Càng trên Đài truyền h́nh VN.. Đối với tôi, anh Nguyễn Thành Nhơn là người Thầy và cũng là người Anh tinh thần của tôi, v́ trước khi nhập ngủ vào Quân Đội tôi đă được anh huấn luyện trở thành Huấn Luyện Viên của pḥng tập Trung Ương.

Tôi ở ẩn trong nhà anh và thường xuyên liên lạc với các anh em cùng đơn vị(Xin tạm dấu tên v́ các anh em c̣n đang ở VN). đang chờ đợi những đường dây yểm trợ từ ngoài về để cùng nhau hoạt động lật đổ chế độ Cộng Sản bạo tàn nầy..

NGÀY ĐỊNH MẠNG ĐƯA TÔI VÀO TÙ LẦN THỨ NH̀
(Ngày 9-4-76-Sau 6 tháng vượt trại tù Thành Ông Năm) .

Vào lúc 7 giờ tối, tôi đang đứng chờ vợ tôi làm việc ở ṭa soạn báo Tin Sáng, măn việc ra về, tôi đón nàng để đưa lại chiếc xe velo solex cũ (không có gắn máy) V́ thương con sợ con bị kẹt chân vào bánh xe làm con đau v́ nó đă bị kẹt một lần rồi nên tôi vừa gắn chiếc yên nhỏ để cho vợ tôi chở con tôi..V́ thân phận vượt tù nên tôi phải trốn tránh không thể để cho bà con thân thuộc biết được. Tôi đang đứng chờ đợi ở trước trụ sở Khóm mà tôi không biết v́ chúng không có treo bảng, khoảng chừng 15 phút, tôi thấy 2 tên Công An trong trụ sở đi đến hỏi giấy tờ của tôi, tôi lo sợ nhưng không c̣n tránh né được nữa đành phải đưa giấy tờ ra, chúng giữ giấy tờ của tôi và mời tôi vào trụ sở, tới lúc đó tôi mới biết là đang đứng trước hang cọp. Vừa lúc đó vợ tôi nghỉ việc ra về vừa đi tới, tôi vội trao chiếc xe cho vợ tôi và dặn “Anh đang bị theo dơi em hăy đi nhanh đi..hăy lo cho con..”

Rồi tôi theo Công An vào trụ sở. Sau khi xem giấy tờ tên Công An nghi ngờ giấy tờ của tôi là giả, nên giữ tôi lại để chờ điều tra lại địa chỉ. Ḷng tôi lúc đó như lửa đốt v́ tôi biết sẽ không thoát được, giấy tờ của tôi toàn là giả th́ làm sao chứng minh được ?

Tôi nghĩ hậu quả sẽ vô cùng thảm khốc, nên có ư định hạ tên Công An đang canh gác. Tôi xin đi tiểu để xem địa thế. Xung quanh ṭa trụ sở nầy tường cao khoảng 2 thước phía trên đầu tường có gắn miểng chai lại c̣n 1 ṿng kẽm Consertina, phía sau có dăy nhà bếp, pḥng chứa củi và nhà cầu, trên nóc nhà cũng có ṿng kẽm gai Consertina. Tôi vào pḥng tiểu, suy tính chỉ có phía sau là hy vọng nếu nhảy qua được phía bên nhà khác…Tôi nghĩỉ đă đến đường cùng rồi nên quyết định hy sinh nếu không thoát được th́ thôi !. Tôi ra khỏi nhà cầu và bước theo tên Công An bất thần tung ra một quả đấm vào hàm hạ của tên nầy, nhưng rủi thay, tên nầy trước khi bị ngất xỉu đă la lên một tiếng, tôi chạy nhanh lấy đà đạp lên thành tường nhảy lên nóc nhà phía sau, chạy dọc theo đường kẽm gai, trong lúc đó bọn Công An túa ra và bắn theo tôi, tôi vẫn cố chạy trên nóc nhà,dự tính nhảy qua nóc nhà khác, bỗng tôi bị trượt chân v́ miếng ngói tróc xi măng nên đành nhảy trở xuống đất.. Thôi rồi ! Mặc t́nh cho bọn Công An xúm lại c̣ng tay tréo ra sau rồi chúng thi nhau đấm đá vào thân thể tôi, chúng treo tôi lên cửa sắt với chiếc c̣ng sắt, sức nặng của thân h́nh trên 60 kư lô mà bị treo hỏng chân tréo tay như thế, nên tôi không c̣n sức chịu đựng với những trận đ̣n như mưa bấc..Thân ḿnh tôi gục xuống như tàu lá rủ..

Sáng hôm sau chúng đưa tôi lên khẩu cung, Để tránh liên lụy cho anh Nguyễn Thành Nhơn, tôi khai theo lời sắp sẵn là “sĩ quan trốn trại học tập về thăm nhà, nhưng không dám về nhà v́ biết Công An canh chừng nên phải lang thang ngoài chợ trời, đêm đến th́ mướn chiếu ngủ ngoài nhà ga xe lửa. v.v”. Sau đó bọn chúng giải tôi qua pḥng giam Quận Nh́, trên đường đi tôi có ư định nhảy xuống xe nhưng không có cơ hội v́ chúng nó c̣ng tay tôi chung với ông kư giả Trần Hồng Thu. Đến Quận Nh́, sau khi làm thủ tục, chúng đem tôi và ông Thu vào pḥng giam.

Trại giam quận 2 Sài Gòn.

Nơi đây thật đúng là địa ngục ở trần gian! Chúng vừa mở 2 lớp cửa sắt ra, mùi hôi nồng nặc, chúng xô tôi vào trong rồi khóa cửa lại. Cảm tưởng cửa tôi nơi đây như là nhà thương điên…Trong ánh sáng âm u tôi thấy không biết là bao nhiêu người, thân h́nh gầy guộc trần truồng như nhộng. Lớp th́ bất động miệng thều thào..C̣n những người mạnh hơn th́ bao quanh tôi, xô đẩy nhau dành được đến gần tôi, thật là một cảnh tượng kỳ lạ mà tôi chưa bao giờ thấy. Tên đại diện trại giam phải đánh đập la thét những người nầy mới chịu dang ra khỏi tôi, tên đại diện hỏi tôi có mang theo thuốc lá không ? Tôi trả lời không có v́ tôi không biết hút thuốc. Tốp người vây quanh tôi mới thở dài chán nản. À ! th́ ra các người tưởng tôi mới vào có đem theo thuốc lá nên mới tranh nhau để xin thuốc lá. Tên đại diện trại giam đưa tôi vào trong một pḥng giam phía trong nữa rồi khóa lại. Các người vây quanh hỏi thăm tôi đủ chuyện , tôi chán nản ngồi bó gối không muốn trả lời, v́ biết có trả lời cũng không xuể.

Đời sống trong trại giam nầy chắc không có ai tưởng tượng được, pḥng c̣n để bảng pḥng giam rộng 8 thước vuông , phạm nhân giam chứa tối đa là 40 người, nhưng bọn CS đang giam gần 300 người. Nơi đây nếu người nào đứng lên th́ mất chỗ ngồi, và không đủ không khí để thở, v́ vậy mà đêm ngày ǵ phạm nhân cũng ḿnh mẩy ướt đẫm mồ hôi, ăn uống không có dinh dưỡng, một bữa ăn là 2 chén cơm lường bằng chén nhỏ cho mỗi người, đổ chung vào cái thau nhôm với 4 giá canh rau muống nấu với muối hột, 6 người ăn chung với 3 chiếc muỗng chia nhau múc ăn, v́ tranh ăn nên bữa ăn nào cũng căi vă, đánh đấm nhau , ồn ào suốt ngày đêm..Ban đêm th́ nằm sắp chồng lên nhau, tới lỗ cầu tiêu cũng được nhét giẻ lại để nằm, các song sắt trong hai pḥng giam riêng cũng được chia nhau đeo vào song bằng chiếc áo lót cột ngang lưng để ngủ.

V́ t́nh trạng nêu trên nên những người bị bắt vào đây chỉ trong ṿng 2 tháng là bắt đầu bị ghẻ, loại ghẻ thiếu dinh dưỡng nầy nổi lên thành vành chính giữa th́ lơm sâu và chảy nước vàng. Nước vàng nầy chảy đến đâu th́ ghẻ lở chỗ đó, và sau đó bị liệt bại, ban đêm bị ghẻ lở hành hạ, bịnh nhân la khóc vang trời..Tôi có cảm tưởng như đang ở Địa ngục, thỉnh thoảng có người chết v́ liệt bại, thân xác nạn nhân dược lôi ra khỏi pḥng.

Tôi cố gắng giữ sức khỏe, hàng ngày đều tập thể dục, chạy bộ 400 bước, hít đất 100 cái, tập tay mỗi bên 60 cái. Chịu đựng được đến tháng thứ 5, tôi cảm thấy yếu lần.

Dự tính phá trại giam Quận Nh́.

Tôi đă có ư nghĩ phải phá trại giam nầy từ ngày đầu khi đặt chân vào đây nhưng chưa t́m được người thích hợp nên phải chờ đến bây giờ.

Trong thời gian ở đây tôi quen với một ông Trưởng Ty Xă Hội tại Tỉnh ở Cao Nguyên (Xin tạm dấu tên v́ c̣n đang ở Việt Nam) Ông là đảng viên của Đại Việt. Ông thường kể cho nghe về quá tŕnh hoạt động của Đảng và về cá nhân của Ông.

Vào khoảng một tháng nay, tôi để ư theo dơi một người bị bắt về tội tư sản mại bản, v́ tồn trữ 60 tấn café sống mà không khai báo, tên là Hồ Ngọc Ẩn …Nhà ở đường Tự Do ..,Mỗi tuần đều phải lên pḥng Điều Tra lấy khẩu cung , tôi làm quen và hỏi thăm ư định sau nầy của anh, anh cho biết là không thể chịu đựng nổi ở nơi đây, và anh có ư định trốn ..Tôi gợi ư hỏi Ẩn, nếu muốn thoát ra , anh phải làm sao?. Ẩn nói về cách trốn của Ẩn, tôi thỉnh thoảng bổ túc cho Ẩn, tôi thấy Ẩn có vẻ vui mừng..

V́ tôi nóng ḷng t́m người để thực hiện kế hoạch của tôi nên tạm chọn Ẩn, nhưng tôi chưa cho Ẩn biết ư định của tôi. Ngày hôm sau Ẩn được gọi lên lấy khẩu cung lúc 8 giờ sáng th́ khoảng 9 giờ có tiếng gọi tên tôi và Ông Trưởng Ty , khi tôi và Ông vừa ra khỏi pḥng giam th́ đă có tên Cán Bộ Trưởng trại và 2 tên Công An ôm súng AK, tên Cán Bộ ra lịnh c̣ng tay tôi và ông Trưởng Ty rồi day qua chỉ mặt và nói với tôi : “Tao đă biết kế hoạch của chúng mày rồi, dự định chúa nhựt nầy sẽ giết Cán Bộ, cướp vũ khí, phá trại giam”, rồi quay lại bảo 2 tên Công An đem chúng tôi qua trại giam đặc biệt. Pḥng giam đặc biệt bề dài 3 thước, bề ngang rộng 1. thước, nhốt 10 người, tiêu tiểu tại chỗ, lỗ thông hơi để thở th́ vừa lọt bàn tay, và đến giờ cơm được bọn cán bộ đưa vào mỗi tù nhân là một chén cơm đút vào vừa lọt cái lỗ thông hơi..Sự việc xảy ra tôi nghĩ là do tên Hồ Ngọc Ẩn phản bội đă báo cáo với Công An để lập công .

Nhứt nhựt tại tù, thiên thu tại ngoại!

Ngày ở trong tù sao mà dài lê thê, ngột ngạt, nặng nề ghê gớm vô cùng.

Ngồi bó gối, tôi ôn lại những chuỗi ngày trong tù cải tạo lần trước..

-Thiếu Úy Trần tấn Mao, Sĩ Quan tiếp liệu Người Nhái đă buồn rầu, khóc thương cho gia đ́nh 14 đứa con đói khổ của ḿnh, tôi thường khuyên và gợi ư vượt trại với anh. Nhưng biết ḿnh già yếu, không đủ can đảm vượt trại..Anh chỉ mong được Cộng Sản giữ lời khoan hồng thả anh về đoàn tụ với gia đ́nh.. Anh khóc măi.. Khóc đến mù đôi mắt..!

Tôi buồn ..Tôi suy tư, những h́nh ảnh sắt máu gớm ghê chẳng bao giờ tôi quên được.! Tôi căm thù, uất hận. Tôi nguyện sẽ đem hết sức ḿnh để làm những ǵ mà tôi có thể làm được, để đóng góp cho ngày lật đổ Cộng Sản, giải phóng quê hương được trở lại ngày tự do tươi sáng..Nước mắt tôi rơi.. Đúng tôi khóc chứ ! tôi khóc v́ căm thù, v́ uất hận, hổ thẹn lớp người chúng tôi đă để mất nước…Việt Nam ơi.. Việt Nam ơi !.. Chúng con phải làm sao ? phải làm ǵ cho tổ quốc ?. Rồi bây giờ tôi lại đang sa vào lao lư, biết bao giờ tôi thoát được nơi đây?!

Sau 10 ngày giam tôi nơi biệt pḥng để chúng điều tra lại, nhưng không ra manh mối, nhưng chúng không dám trả tôi về pḥng giam cũ, chúng chuyển tôi qua pḥng giam Quận Nhứt kiên cố hơn. Tôi vừa vào pḥng giam th́ đă thấy 2 người bị giam bên quận 2 là anh Tiến, Trung úy Cảnh Sát và Ông Trưởng Ty. Chúng tôi chào mừng nhau và với các bạn tù mới, trong pḥng giam nầy có một băng đảng cướp có súng nổi tiếng trước năm 75, là băng đảng Đà Lạt. Trong khoảng thời gian trước năm 75, băng đảng nầy đă từng tranh giành ảnh hưởng khu vực làm ăn của nhau với băng đảng Đại Cathay ở vùng Sài G̣n ..Bằng đại diện cho 4 anh em trong băng đảng, đến gặp tôi chào hỏi và ngỏ lời nhờ tôi đứng ra sắp xếp kế hoạch phá trại giam nầy, Bằng nói : “Tụi em đă nghe tiếng anh đă từng vượt trại tù cải tạo, và vừa rồi lại bị bể kế hoạch phá trại giam ở Quận Nh́ .v.v”. Tôi chỉ cười mà không trả lời.

Mỗi ngày Bằng và các anh em đều đến ngồi chung và tâm sự. Bằng kể lại chuyện xưa và nói : “Chúng em ngày trước chỉ biết ăn chơi du đăng du thực, phá phách .. trốn tránh không chịu đi lính để bây giờ chúng nó chiếm miền Nam tất cả đều đói khổ .Bây giờ tụi em hối hận quá! Mong nếu tụi em ra được lần nầy, tụi em nhứt định phải t́m cách phá tụi nó..”

V́ tôi vừa bị phản bởi tên Ẩn, nên thận trọng hơn, tôi đă nghĩ cách phá chỗ nầy rồi nhưng c̣n giữ kín. Tôi hỏi Bằng và anh em có được thăm nuôi không ? Bằng đáp hàng tuần đều được thăm nuôi, tôi nói với Bằng hăy bảo người thăm nuôi gởi vào một típ kem đánh răng chứa Acid nguyên chất, khi nào có rồi th́ cho tôi hay và tôi dặn Bằng đừng hỏi tại sao, Bằng thấy tôi đă chịu giúp th́ rất vui mừng, hứa sẽ làm theo lời dặn của tôi.

Sắp đặt kế hoạch phá trại giam Quận Nhứt.

Nhưng đêm 4-10-76, cán bộ vào thông báo ngày mai tôi và một số người sẽ chuyển trại trong đó có ông Trưởng Ty và Tiến. Tin nầy làm cho Bằng và các anh em trong băng đảng lo buồn, Bằng nói : “Anh rời khỏi nơi đây tụi em không biết làm sao!”. Tôi bèn họp các anh em Bằng lại và nói : “Trước khi tôi đi, tôi sẽ chỉ kế hoạch lại cho các anh, bây giờ các anh em cho tôi biết trong pḥng giam nầy chỗ nào yếu nhứt ?”. Anh em Bằng nói : “Tụi em ở đây gần một năm rồi mà vẫn không nghĩ ra v́ tường dầy 2 tấc, song sắt to bằng cườm tay, nóc và nền đúc xi măng, cửa sắt phải 2 người mở, đóng mới nổi..” Tôi nói : “Tất cả đều kiên cố, các anh thấy cánh cửa sắt dầy và nặng nhưng 2 cái bản lề là chỗ yếu nhứt, các anh em vẫn chưa hiểu?”.

Tôi bắt đầu chỉ kế hoạch dự tính phá trại giam nầy. Khi có típ acid nguyên chất rồi th́ mới lo các phần khác như dưới đây :

· Chọn ngày giờ cho thích hợp

· Chuẩn bị một người giỏi vơ .

· Một chiếc xe đậu sẵn vào giờ đó tại đường gần nghĩa địa Mạc Đỉnh Chi.

Bắt đầu vào kế hoạch :

– Chọn đêm Chúa nhựt, lúc 1 giờ khuya (chúng đổi gác lúc 12 giờ khuya , chọn 1 giờ khuya là lúc tên gác buồn ngủ.)

Đúng giờ đă định, đem típ acid nguyên chất đổ vào 2 bản lề cửa sắt, khoảng 15 phút sau, 2 người khiên cánh cửa sắt qua một bên, người giỏi vơ chạy nhanh ra hạ tên lính gác cướp lấy súng, cách pḥng giam 2 tấm vách tường, trong lúc đó tất cả các anh em đồng chạy lên pḥng trực, hạ sát 3 tên đang ngủ và lấy súng đạn rồi chạy xuống đánh thức tất cả tù nhân cho họ hay là Phục Quốc Qquân đến giải vây và chỉ cho tất cả chạy ra cổng chánh, c̣n các anh em th́ phải vượt tường rào phía nghĩa địa Mạc Đỉnh Chi để lên xe đậu sẵn nơi điểm hẹn .

Điểm quan trọng là phải nhanh lẹ chính xác và cố gắng làm thật im lặng và đừng nổ súng nếu thấy không cần thiết. V́ khi đó mà bị náo động th́ rất nguy hiểm, các điểm gác khác sẽ báo động, các anh em sẽ khó thoát thân.. Các anh em phải xem lại thật kỹ để biết rơ nhiệm vụ của mỗi người mà làm cho thật gọn..Các anh em phải nghĩtrong đầu ḿnh là chỉ được thành công chớ không được thất bại..

Sau khi nghe tôi tŕnh bày sắp xếp kế hoạch, anh em của Bằng rất vui mừng, ôm vai tôi tỏ ḷng biết ơn…

Sáng sớm hôm sau, chúng tôi những người có tên trong danh sách chuyển trại, chúng c̣ng tay chúng tôi lại với nhau đưa lên xe Molotova phủ mui bố xuống, xe chạy đưa chúng tôi lên Gia Định (BCH/Tiểu khu VNCH cũ) để tập trung tù nhân trong 14 Quận của Thành Phố tại đây , sau đó đoàn xe trực chỉ ra ngoại ô, v́ xe bỏ mui bố che lại hết nên chúng tôi không biết bọn chúng chở đi đâu, khoảng 4 giờ di chuyển xe ngừng lại, chúng tôi lần lượt xuống xe. Tôi vươn ḿnh hít dài một hơi thở không khí trong lành của vùng rừng núi cho thoải mái, v́ suốt 6 tháng bị giam, tôi chưa được thấy ánh sáng mặt trời và thở được không khí trong lành..

Chúng tôi đang ở trên một ngọn đồi, san sát các dăy nhà tole và có rất đông bọn Công An.. Các người bị nhốt ở đây cho chúng tôi biết nơi đây là đồi là Phượng Vĩ căn cứ của Trung Đoàn 52, thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh, tại Ngă 3 Ông Đồn, dưới chân núi Chứa Chan..

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1668804&stc=1&d=1602427578

Trại Cải Tạo Phản Động K3
do Công An thành phố quản lư
Đồi Phượng Vĩ trước ngày 30-4-75 là Căn cứ Trung Đoàn 52 Sư Đoàn 18.

Tập họp điểm danh, 120 người chúng tôi được đưa vào 2 dăy nhà lợp tole vách ván , trong tổng số 20 dăy, xung quanh các dăy trại gồm có nhiều lớp kẽm gai bao bọc có gắn lon thiếc. Tất cả 120 người “tù phản động” nầy hầu hết đều liệt bại nên phải khiêng vào..Vừa yên chỗ, một tên cán bộ quản giáo vào “sinh hoạt” cho biết đây là Trường K3 . .Hôm nay các anh đến đây là ngày thứ nhứt của 3 năm học tập cải tạo..v.v. Nơi đây các anh được liên lạc về gia đ́nh để thăm nuôi, mỗi lần thăm nuôi15 phút. Các anh hăy nhớ viết thơ thế nào mà có lợi cho cách mạng, cho gia đ́nh và cho bản thân các anh th́ các anh viết.. Tên cán bộ quản giáo tuyên truyền một lúc rồi kết thúc : V́ các anh mới nhập trại nên ban quản giáo cho các anh được nghỉ “Bồi Dưỡng” vài hôm. Chúng tôi đều hiểu, v́ tất cả bị liệt bại nên chúng nó để cho chúng tôi hồi phục rồi mới bắt đầu mang cày vào cổ chớ có tốt lành ǵ đâu.

Nghiên cứu kế hoạch vượt trại tù lần thứ 2 tại đây trong ṿng 20 ngày.

Một đêm ngủ thoải mái với không khí trong lành của miền rừng núi Chứa Chan, tỉnh Long Khánh.

Ngày hôm sau tôi đi ṿng quanh các dăy trại, tôi gặp anh Dũng Mặt đỏ của pḥng An Ninh Đặc Tra Phủ Tổng Thống. Tôi gặp Dũng sau giờ lao động, anh mừng rỡ chạy lại ôm tôi, tôi dặn nhỏ Dũng đừng nói với ai v́ tôi không có khai thật là Sĩ Quan Cận Vệ. Tôi hỏi thăm Dũng t́nh h́nh nơi đây và tại sao Dũng không vượt trại ? Dũng cho biết hiện giờ đội công tác của anh đă được bọn chúng tin tưởng nên cho đi làm xa tận trong rừng để cưa cây gỗ. C̣n trốn th́ Dũng không dám v́ sợ bị bắt lại và sợ về không có chỗ an thân.

Dũng cho tôi biết: Dũng bị đưa lên đây từ ngày đầu, chúng lấy trại nầy dự định chỉ giam thành phần tŕnh diện học tập thuộc đơn vị tỉnh Biên Ḥa. Sau một thời gian chúng bố pḥng chắc chắn hơn, chúng đưa thêm về đây các tù “phản động” gồm nhiều thành phần từ cấp Tá đến binh sĩ và tù chính trị luôn cả phụ nữ phản động. Phụ nữ th́ chúng ngăn riêng khu vực, và nguy hiểm nhứt là dọc theo triền đồi, trong các lớp kẽm gai có chôn ḿn 3 râu (loại ḿn chống cá nhân có 3 ng̣i nổ) hiện giờ thỉnh thoảng gió thổi lay động cây dại ḿn cũng nổ, v́ vậy mà suốt 16 tháng rồi mà không có ai dám vượt trại trốn ra.!

Tôi gặp anh Thiếu Úy Hoa, Cảnh Sát Dă Chiến Biệt Đoàn 222, Vơ sư Thái Cực Đạo, Huấn luyện viên của Đại Đội Đặc Nhiệm bảo vệ Phủ Tổng Thống. Hoa cho biết anh đă tổ chức trong đội anh được gần 20 người ở đội 16 của anh.
Anh Thượng Sĩ Truyền Tin Vơ Pḥng phủ Tổng Thống là anh Quốc, anh bị bắt v́ hoạt động trong lực lượng Dân Quân Phục Quốc, anh cũng đă tổ chức ở đội 15 gần 20 người.
Anh Ba Hương, là vệ sĩ cho Ông Đại Sứ Nguyễn Văn Kiểu (Anh ruột của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu) anh Ba Hương thuộc toán Bảo Vệ yếu nhân của Cảnh Sát, anh cũng cho biết có tổ chức ở đội 17, gần 20 người.
Được biết Đại Tá Nguyễn văn .P… Tỉnh Trưởng Long Khánh, bị bắt ngoài mặt trận trước ngày 30-4-75 đang bị nhốt ở đây. Tôi nhờ anh Tiến, trước năm 75, Tiến là đệ tử của Đại Tá .P..liên lạc với ông để biết thêm tin tức, th́ được Đ/T P.. cho biết, ông vẫn thường xuyên l/l với Lực lượng Phục Quốc ở bên ngoài. Tôi đề nghị với Đ/T qua anh Tiến . Nếu Đ/T thấy cần đánh phá trại giam nầy th́ tôi xin trách nhiệm một lực lượng xung kích khoảng 50 người giỏi vơ thuật. Anh Tiến chuyển lời tôi đến Đ/T, sau đó Tiến cho tôi biết Đ/T bảo đừng lo, v́ ông đă được lực lượng bên ngoài cho biết sẽ giải thoát trại giam trong tuần nầy hoặc tuần tới ? Nhưng đă qua hơn tuần mà không thấy động tịnh ǵ cả , Tiến hỏi lại Đ/T th́ tôi được biết là trong tuần nầy ?. Tôi cảm thấy bất ổn v́ tôi đă nghe tin nầy đă xầm x́ trong một vài trại, tôi nghi ngờ tin nầy đă bị lộ.! V́ tôi đă theo dơi trong mỗi đội tù đều có nhiều an ninh ch́m của Công An. Tôi nghĩ hậu quả rất ghê gớm, nhưng tại sao chúng biết mà vẫn làm ngơ ? Có lẽ chúng đă có chuẩn bị rồi.Trong đêm thỉnh thoảng chúng thực tập báo động – Chúng thổi c̣i và đánh kẻng báo hiệu, trong ṿng 10 phút tất cả 20 dăy trại đều bị phong tỏa-. Mỗi dăy trại đều có 1 tiểu đội cầm AK 47, trung liên Tiệp Khắc và B 40, chỉa thẳng vào trại…

***

Tôi lo chọn trong số những người trong trại để tính việc đào thoát, v́ tôi không tin tưởng khả năng của LL phục Quốc do Đ/T P… cho biết.

Trong số các anh em quen thân đều ngại vượt tù, chỉ mong được CS tha tội trở về sống với gia đ́nh, tôi chỉ chọn được một người là :

Trung Úy Kỹ sư Điện Tử Trần Quang, đặc trách Đài Radar Phú Lâm. Can đảm chịu đựng, bị bắt do tên Hạ Sĩ Quan dưới quyền điềm chỉ, Quang vẫn cương quyết không nhận làm lại cho CS để được tha tội. Quang cũng thường ngỏ ư với tôi nếu có tổ chức th́ xin cho anh tham gia, và anh hứa sẽ làm bất cứ việc ǵ do tôi sắp đặt, v́ đă nghe tôi đă có thành tích tổ chức vượt tù.

Tôi chọn anh Trần Quang là v́ thích hợp cho kế hoạch của tôi và cùng ở chung dăy với tôi, khổ người của anh nhỏ nhắn, trầm tĩnh nhưng linh hoạt…

Tôi quyết định theo kế hoạch trù liệu để vượt trại. Tôi và Quang mỗi sáng thức dậy và đi “viếng lăng bác Hồ”, tiếng lóng để chỉ việc giải quyết vệ sinh. Vừa đi vừa bàn tính, tôi cho Quang biết ư định vượt rào và dặn Quang chỉ làm theo những ǵ tôi cần chớ đừng hỏi tại sao và phải ngăn cách đừng tỏ ra thân thiện để chúng không nghi ngờ, Quang đồng ư v́ Quang tin tưởng nơi thành tích của tôi.

Sau 2 tuần lễ, tôi đă thâu thập hệ thống pḥng thủ và nghiên cứu thận trọng như sau :

· 20 dăy tole, vách ván, mỗi miếng chiều dài 3 thước có đóng nẹp chận đầu.

· Sau khi điểm danh, 18.giờ 30, tất cả các cửa sổ, cửa chánh đều khóa lại.

. Bên ngoài pḥng, Hàng rào 4 lớp kẽm gai cao 2 thước có treo lon, nhiều hàng rào kẽm gai dọc theo triền đồi, có khoảng 3 lớp consettina cuối cùng dưới chân đồi.

· Băi Ḿn do Trung Đoàn 52, Sư Đoàn 18 Bộ Binh VNCH thiếp lập lẩn trong các lớp hàng rào, Trung Tá Đức Chỉ Huy Trưởng Hậu cứ của Trung Đoàn 52 hiện đang bị giam tại đây, xác nhận là đúng.

. Quân số canh gác và phân công dẫn tù đi lao động là khoảng 200 tên công an.

. 4 vọng gác cao 5 thước, khoảng 2 giờ đổi phiên 24/24, ban đêm khoảng giữa phiên đổi gác, có toán tuần tra vơ trang lẻn vào nghe lén từng dăy trại.

Hệ thống bố pḥng xung quanh đồi

Trung Đoàn Bộ Đội đóng quân toàn diện từ hướng Đông qua Nam đến hướng Tây. Nằm sâu trong rừng và đặc trách núi Chứa Chan, ước tính chiều dầy khoảng chừng 3 cây số, bao trùm mặt tiền của trại giam. Mặt hậu từ hướng Tây Bắc đến Bắc qua Đông, do cán bộ, thanh niên xung phong và khu kinh tế mới, cán bộ nằm vùng lẫn lộn có thể Trung Đoàn Bộ Đội cũng đảm trách vùng nầy. Nh́n chung mặt nầy có vẽ lỏng lẻo nhưng là tử địa v́ khi thoát ra mặt nầy th́ chỉ có thể đi về phía rừng lá, không c̣n đường trốn.

. Hệ thống an ninh ch́m là nguy hiểm nhứt, riêng đội 18 của tôi 60 người đă có 5 tên ch́m đội lớp tù, (do sự điều tra của Quang), chúng kiểm soát từ lời nói và hành động của mỗi người, khi ăn,khi ngủ, khi đi lao động v.v.

Bây giờ tôi chỉ c̣n chờ chúng đưa đi lao động ở ngoài để quan sát và t́m hướng đi…

Sau hai tuần nghỉ dưỡng sức, các người bị liệt bại đă khá hơn. Tối Chúa Nhựt, trước giờ điểm danh, cán bộ đem xuống một danh sách biên chế chỉ định tôi làm đội trưởng 18 K, đúng như suy đoán của tôi, v́ chúng muốn kiểm soát tôi chặt chẽ, sắp xếp đánh số chỗ ngủ, không được ngủ khác chỗ. Tôi phải chịu trách nhiệm mọi sự xảy ra trong đội, báo cáo quân số trước khi đi và khi về, lao động, nghỉ bịnh, công tác nhẹ, và trước khi đi ngủ, tối đến sau khi điểm danh tôi phải điều hành sinh hoạt, phê b́nh, sửa sai, đề nghị, đọc báo và văn nghệ.. Mục đích của chúng là làm cho tôi phải bận rộn trong công việc và an ninh ch́m của chúng dễ theo dơi tôi.(Tôi đă đề pḥng việc nầy nên đă chọn Quang giúp tôi trong việc đào thoát, v́ chúng không để ư đến Quang).

Xung quanh các dăy trại đều đóng ván chiều dài 3 thước và đóng chận nẹp. Tôi giao cho Quang một miếng sắt mỏng nhỏ và dẫn Quang đi ngang qua chỗ miếng ván thiếu chiều dài, chúng thêm vào một miếng ngắn mà không có đóng chận nẹp, tôi chỉ cho Quang và dặn mỗi đêm đi tiểu, Quang ḅ xuống dưới sàn ngủ, đến chỗ đó long đinh, từ bây giờ cho đến thứ sáu phải xong nghĩa là ḿnh có thể đẩy ra nhẹ nhàng không bị động, sau khi xong báo cho tôi hay. Quang nhận lời…

Ông Trưởng Ty T.. và tôi vẫn thường ngày lănh cơm và ăn chung, tôi rất mến ông là người học thức qua tư cách, rất trầm tĩnh. trong tuần lễ vừa qua ông có thăm nuôi, ông được người cháu ruột đem đồ ăn, gồm muối sả, café, sữa đặc, đường và vài trăm gram thịt kho. Được gia đ́nh báo cho biết, trước ngày đi thăm ông, có người anh bà con của ông tập kết về cấp Trung Tá VC . Người nầy coi đồ thăm nuôi đă rầy là gởi đồ thăm nuôi cho tù nhân ăn ngon sẽ bị đưa ra Bắc v́ trại nầy là trại phản động ! Tôi nh́n thấy ông có vẻ lo buồn, nhưng tôi vẫn chưa cho ông biết tôi đă chuẩn bị vượt trại mà trong đó có ông..

Hôm nay là tuần lễ thứ ba, đội 18K của chúng tôi bắt đầu mang cày vào cổ, đội chúng tôi dẫy cỏ và nhổ cây bắp khô.. Đến chiều hết giờ lao động, chúng tôi đến ao tưới rau để tắm, nước ao tù nầy do nước mưa đọng lại gồm cả nước phân do ban trồng hoa màu phụ gánh từ trong trại tưới, nước phân chảy xuống ao. V́ thế đêm đó đội chúng tôi bị ngứa găi muốn rách da..

Ngày thứ ba, vun vồng trồng khoai. Ngày thứ tư, khiêng đá đắp đập ngăn ḍng suối. Ngày thứ năm , tiếp tục khiêng đá đắp đập..đến 11 giờ. Nghỉ việc, tất cả tập họp điểm danh về trại ăn trưa. Khi điểm danh thiếu mất người, tôi vội báo cáo cho tên cán bộ, tên nầy b́nh tĩnh đưa súng AK lên bắn chỉ thiên 3 phát một, và khoảng 1 phút sau có tiếng súng AK đáp lại khắp nơi.. (Cũng nhờ việc nầy xảy ra nên tôi biết được hướng các chốt bọn chúng đang đóng dọc theo b́a rừng từ hướng Tây qua đến hướng Bắc..) Tên cán bộ ra lịnh cho tôi dẫn tù nhân về trại, trên đường về chúng tôi đi ngang qua các chốt của bọn công an, chúng chĩa súng vào đội chúng tôi và chửi nhiều câu thô tục… Tôi căm hận dẫn đội ḿnh về trại. Khoảng 1 tiếng đồng hồ sau, chúng bắt lại được tên trốn và đem về nhốt bên dăy trại của chúng. Tên phó thủ trưởng gọi tôi lên lấy khẩu cung cùng với vài người trong đội. Tôi được biết tên trốn là an ninh ch́m, do Quang báo lại cho tôi, buổi chiều hôm trước tên Hậu nầy đă đứng nói chuyện với cán bộ ở gần hàng rào…, tôi nghỉ đây là màn dàn cảnh để cảnh cáo chúng tôi..

Sáng ngày thứ sáu, Chúng tập họp tất cả 20 dăy trại. Tên phó thủ trưởng đọc bản án và đem tŕnh diện tên Hậu. Tiếp theo chúng cảnh cáo chúng tôi “hăy yên tâm học tập cải tạo. Ngày mà các anh đặt chân đến đây là ngày thứ nhứt của 3 năm. Các anh đừng mong trốn thoát nơi đây, dù một con kiến cũng thể rời khỏi nơi nầy ?..Bằng chứng là suốt 16 tháng qua chẳng ai có ư nghĩ đó. Anh Hậu v́ mới đến nên chưa hiểu, nên anh sẽ lănh phạt 15 ngày quản chế nơi hầm tối…”

Hôm nay đội tôi được lịnh tháo kẽm gai ṿng rào tiền đồn h́nh tam giác án ngữ căn cứ của Trung Đoàn 52/18. Tôi mừng thầm v́ hướng đào thoát của chúng tôi sẽ ở chỗ nầy.. Tôi đôn đốc anh em tháo gỡ cho nhanh kịp trong ngày thứ bảy., v́ tối chúa nhựt là ngày, giờ quyết định.

Trong giờ cơm, bắt đầu tôi báo cho ông Trưởng Ty biết để chuẩn bị thoát khỏi chỗ nầy, ông ngạc nhiên hỏi lại, tôi nói :

“Bác hăy chuẩn bị sẵn bộ đồ đen để mặc khi rời khỏi nơi đây, và một bộ đồ khác bỏ vào túi nylon rồi bỏ vào bao cát để đem theo”.

Tôi nói tiếp:

“Bác phải rời khỏi nơi nầy nếu không Bác sẽ bị đưa ra Bắc”.

Tôi nói tránh v́ ông thường ngày ngồi ăn cơm với tôi, nếu ông không đi ông sẽ bị liên lụy. Tôi nh́n thấy nét mặt đăm chiêu của ông, tôi hơi lo ngại, ông hỏi :

“An tính chừng nào ?”.

Tôi đáp :

“Có thể đêm mai, nếu thời tiết tốt”.

Ông hỏi tiếp :

“Làm sao ra từ đây?”.

Tôi đáp :

“Sẽ chun ra dưới gầm chỗ của bác nằm đó!”

Ông giựt ḿnh :

“Sao ? ở dưới chỗ tôi nằm à ?”

Tôi đáp :

“Dạ phải, miếng ván dưới chỗ bác nằm tôi đă long đinh rồi ! V́ chỉ có chỗ nằm của Bác là có lối ra thôi”.

Tôi kể rơ kế hoạch cho ông nghe :

“Sau khi từ đây chun ra, tôi chạy nhanh ra hàng rào treo lon, tôi ngồi xuống, Quang sẽ chạy ra và leo lên vai tôi, tôi đứng lên, Quang bước qua phía bên kia hàng rào và đứng chờ, Bác chạy ra bước lên vai tôi, tôi đứng lên, bác bước qua vai của Quang ,Quang ngồi xuống để Bác xuống đất.. và tiếp tục đến hết các hàng rào treo lon, và sau đó Bác và Quang phải theo bên tôi, đừng bước sai nguy hiểm..v́ Băi Ḿn dọc theo triền đồi.

Ông lo lắng hỏi :

” An có chắc ḿnh sẽ thoát được Băi Ḿn hay không ?”

Tôi đáp :

“Bác đừng lo, tôi đă t́m ra điểm chuẩn của Băi Ḿn rồi!”

Tôi nói để cho ông an ḷng, và kể rơ hướng đi của kế hoạch.

Nghiên cứu cách thức vượt Băi Ḿn

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1668805&stc=1&d=1602427578

Về phần Băi Ḿn tôi đă suy nghĩ nhiều ngày đêm, tôi đem ra so sánh các cách gài ḿn bẫy của Người Nhái chúng tôi và của Việt Cộng, mà vẫn chưa t́m ra manh mối.. (V́ lúc phối hợp công tác với Người Nhái Hoa Kỳ, tôi đă từng tháo gỡ ḿn bẫy của VC).

V́ chuyên viên Ḿn Bẫy khi gài Băi Ḿn th́ chỉ có đơn vị trưởng và người gài biết sơ đồ mà thôi..

Sau cùng , tôi suy ra từ 2 chữ Pḥng Thủ . Tôi lập sa bàn để định vị trí, các hàng rào cách khoảng với nhau đều đặn, và các trụ cột th́ đều đặt so le hay nói cách khác là h́nh chữ Z. Vậy PḥngThủ th́ khi chuyên viên đặt ḿn bẫy phải đặt Ḿn ở chỗ an toàn cho các trụ cột hàng rào, để khi ḿn nổ không làm sụp đổ các hàng rào để c̣n giữ được phần nào các kẽm gai, v́ hàng rào pḥng thủ mục đích là chống xâm nhập chiến thuật biển người của VC..Theo sa bàn, tôi sẽ vượt ra theo h́nh chi (Z) theo hướng các trụ cột, tránh các khoảng trống mà tôi nghĩ là có đặt Ḿn, và sẽ lần ra gần pḥng trực cổng chánh của bọn công an, v́ trụ cột chuẩn tôi chọn gần cổng chánh, chính xác hơn mấy trụ cột ở khoảng giữa… Tôi đă xem xét rất kỹ giữa khoảng cách 2 hàng rào, chỉ rào kẽm gai chạy dọc, song song với các hàng rào khác và từ hàng nầy qua hàng kia bằng các đường kẽm gai giăng ngang với 2 đường chéo góc, c̣n phía cuối chân đồi có 3 ṿng rào loại Consertina, báo hiệu là đă hết băi Ḿn. (V́ rào loại Consertina cuốn ṿng tṛn, không thể rào trong vùng có ḿn bẫy, v́ có thể bị gió thổi rung động mà chạm ng̣i nổ, v́ loại ḿn chống cá nhân có 3 ng̣i nổ rất nhạy thường gọi là Ḿn 3 râu.).

Tôi vui mừng lẫn lo âu mặc dầu không dám tin chính xác 100/100. Nhưngng tôi đă quyết ḷng t́m cái Sống trong cái Chết , bất chấp mọi nguy hiểm..

Đêm thứ bảy 23-10-76 khoảng 8 giờ tối, trời mưa thật lớn, kéo dài đến 2 giờ khuya, tôi thầm cầu nguyện cho đêm mai cũng có mưa to th́ sẽ là giờ quyết định đào thoát của chúng tôi, v́ theo kinh nghiệm của tôi, nếu hôm nay có mưa th́ ngày hôm sau cũng sẽ có mưa trễ hơn hôm nay, và sẽ mưa liên tiếp vài hôm, (Lần trước tôi đào thoát trại tù Thành Ông Năm, cũng có mưa giống như ngày hôm nay ở đây).

Ngày Chúa Nhựt, từ sáng đến 5 giờ chiều, vợ con tôi mới gặp được tôi sau 6 tháng tù, tôi hàn huyên với vợ con trong 15 phút. Vợ tôi đem đồ ăn thăm nuôi, tôi chỉ lấy café, đường, sữa đặc và mấy đ̣n bánh tét nhỏ,và túi trái cây, c̣n các thức ăn khác tôi đưa lại để vợ tôi đem về, v́ tôi biết vợ con của tôi rất thiếu thốn, khi đi thăm nuôi chắc lại phải bán bớt vật dụng trong nhà.

V́ có tên công an ḍm ngó, tôi chờ khi vợ tôi cúi xuống gần tôi khẽ nói : “Đêm nào trời mưa th́ cầu nguyện cho anh”.

Vợ tôi nghe tôi nói giựt ḿnh lo sợ, v́ vợ tôi hiểu ư câu nói của tôi… Hết giờ thăm nuôi, vợ con tôi phải rời khỏi trại thăm nuôi để đến nhà ga Gia Rây, đón xe lửa về Sài G̣n. C̣n tôi và đoàn tù được thăm nuôi trở lại trại giam..

Cũng như thường lệ, tên cán bộ điểm danh xong, chúng lo khóa lại các cửa cẩn thận. Khoảng 8 giờ tối, mây đen kéo đến và trận mưa bắt đầu đổ hột lúc 9 giờ, Tôi đă cho Quang biết chuẩn bị các chi tiết như ông Trưởng Ty, dặn Quang lược café lấy nước đậm pha với sữa, đường, rồi cất vào b́nh nylon nhựa, chung với các đ̣n bánh tét, c̣n café nước nh́ th́ đăi các anh em không có gia đ́nh thăm nuôi, với chút ít bánh trái .. v́ sợ các anh em uống café đậm sẽ khó ngủ, sẽ tạo khó khăn cho chúng tôi..

Tôi và Quang b́nh tĩnh chờ đợi, tôi chỉ lo cho ông Trưởng Ty, v́ sau khi nghe tôi thông báo vượt trại, tôi thấy ông không ngủ mà ngồi hút thuốc suốt đêm qua. Tôi mến ông v́ đă ở chung qua nhiều lần chuyển trại, và cùng ăn cơm chung..

Mưa càng lúc càng to, 9 giờ tắt đèn, tất cả đều về chỗ nằm, nhưng v́ hôm nay có thăm nuôi, họ thức th́ thầm kể chuyện gia đ́nh cho nhau nghe trong bóng đêm.

11 giờ đêm, tôi cố giương mắt thật to nh́n qua kẻ vách theo dơi 4 chiếc bóng đen mặc áo mưa đi đổi vọng gác qua các lằn ánh sáng của sấm chớp.-Khoảng 1/2 giờ sau, 1 tiểu đội tuần tra mang vũ khí đi kiểm soát 20 dăy trại rồi chúng trở ra pḥng trực ở cổng chánh. .

Giờ đào thoát đă đến..

Tôi nhẹ nhàng rời khỏi chỗ nằm đến chỗ Quang bấm nhẹ. Quang bước theo tôi trong bóng đêm dến chỗ ông Trưởng Ty nằm tôi kéo nhẹ ông xuống đất nhưng ông không chịu xuống, ông kéo tôi sát lại và khẽ nói:

“Xung quanh họ c̣n thức!”.

Tôi trả lời :

“Không sao đâu bác, bác cứ chun xuống gầm sàn là xong”

Ông không chịu, bảo tôi phải chờ cho ông 1 tiếng đồng hồ nữa.

Tôi sợ động mấy người nằm gần nên đành lui về với Quang trở lại đầu dăy trại để tiếp tục theo dơi các toán lính gác qua kẽ hở. Quang nóng ḷng th́ thầm qua tai tôi : “Ông làm như vậy là chết ḿnh rồi anh.” Tôi cố trấn tĩnh Quang: “Không sao.” .Nhưng ḷng tôi như lửa đốt. khoảng nửa giờ sau, bên ngoài bớt mưa.

Tôi quyết định kéo nhẹ Quang đến chỗ ông. Tôi kéo hẳn ông xuống đất và đẩy ông chun xuống gầm sàn dưới chỗ ông nằm ông ta cứ dùng dằng không chịu chun, Quang chun vào trước đẩy nhẹ miếng ván đă long đinh và chun ra ngoài, tôi liền đẩy ông chun ra tiếp, ông không chịu lại đẩy tôi ra, trong lúc dằn co đó làm cho người nằm kế bên ông lên tiếng : “Không biết cái ǵ kêu lụp cụp vậy ?”. Liền lúc đó nghe có tiếng diêm quẹt, tôi cấp tốc chun ra ngoài, nh́n lại không thấy ông chun theo, Quang kéo tôi thúc giục :” Đi anh để chết đó!”. Tôi cố rướn ḿnh lên nh́n vào trong không thấy được v́ tối. Tôi chạy nhanh theo Quang và ngồi xuống cho Quang leo lên vai, tôi đứng lên Quang bước qua bên kia rào tuột xuống đất chờ .Tôi dặn Quang chờ tôi một chút, v́ lúc đó tôi vẫn c̣n nghĩ đến ông. Tôi nhanh nhẹn chạy trở lại lỗ trống hy vọng ông đă chun ra, nhưng tôi không thấy, tôi dán mắt vào kẽ hở, qua diêm quẹt mồi đèn, bóng ông ta đang ngồi bó gối hút thuốc lá trên sàn nơi chỗ ông nằm. Thôi rồi !!…Tôi không c̣n hy vọng ǵ để cứu ông được nữa..!! Tôi chạy thật nhanh trở ra hàng rào kẽm gai, không thấy bóng của Quang, tôi vội trèo qua 4 lớp hàng rào kẽm gai mà vẫn không thấy bóng của Quang đâu cả , tôi cúi rạp người xuống nh́n theo đường chân trời , bổng thấy bụi cây bên phải của tôi lay động, tôi vội ḅ ngay lại đó gặp Quang, th́ ra Quang không dám chờ tôi tại chỗ v́ là đường đi tuần của bọn lính gác. Tôi nắm tay Quang : “Đi theo tôi..”

Tôi dẫn Quang ḅ đến trụ hàng rào điểm chuẩn, gần trạm canh cổng chánh. tôi nhắm theo các trụ cột hàng rào và ḅ lách kẽm gai, thận trọng theo h́nh chữ Z Quang ḅ theo sát tôi, độ chừng 15 phút, tôi và Quang đă xuống tới dưới triền đồi thoát khỏi Băi Ḿn, chúng tôi khom người chạy nhanh qua khoảng đất trống, băng qua tiền đồn h́nh tam giác, nơi đó là chỗ đội của tôi vừa tháo hết kẽm gai hôm thứ bảy, nên tôi và Quang đă vượt qua chỗ nầy dễ dàng, chạy thêm một đoạn thẳng vào b́a rừng , chúng tôi lọt vào vùng gai mắc cỡ tây cao phủ đầu, chúng tôi bị gai đâm vào ḿnh không biết bao nhiêu mà kể, chúng tôi đang vạch gai để t́m đường đi, bỗng chúng tôi bị lọt xuống ḍng suối, tôi rất mừng v́ trong dự tính kế hoạch của tôi không biết có ḍng suối nầy, tôi biết chắc chắn theo con suối nầy sẽ xuống được nhà ga Gia Rây,(v́ tôi đă nh́n thấy từ trên trại giam chiếc cầu xe lửa gần chợ Gia Rây). Tôi bảo Quang tắm cho sạch và đồng thời di chuyển theo ḍng suối, khi đến gần nhà ga Gia Rây, tôi kéo Quang ḅ lên cầu để vào hướng núi Chứa Chan, nhưng khi qua ngang đường rầy xe lửa, bổng tôi nghĩ ra một phương pháp vội kéo Quang đứng lên đường rầy, mỗi người một bên, tôi quàng tay qua vai Quang và Quang làm ngược lại, bây giờ tôi và Quang đă vững trên đường rầy, chúng tôi bắt đầu chạy trên đường rầy dễ dàng không sợ vấp ngă, chúng tôi tiếp tục chạy khoảng 2 giờ đồng hồ nữa rồi ngồi trên đường rầy mà nghỉ mệt, v́ chúng tôi biết là đă thoát ṿng kiểm soát của khu vực trại giam khá xa…

Tôi đang nghỉ đến Ông Trưởng Ty, có lẻ ông biết ḿnh già yếu không c̣n đủ sức chạy bộ, ông lo sẽ làm vướng bận chúng tôi nên đành ở lại?. Khi c̣n ở quận 2, ông có tặng một bài thơ cho tôi và bảo tôi học thuộc ḷng bài thơ như sau :

Tự Thán

Đời là chi ?
Ta là ǵ ?
Ḍng đời vẫn chảy,
Ta cứ mải đi !
Ta là một cội thông hiu quạnh
Đứng chọc trời xanh dưới nắng tà
Sớm chiều vi vút tiếng thông reo
Ẻo lă cành theo ngọn gió vèo
Giông tố bao lần lay lá cội
Sớm chiều vẫn vút tiếng thông reo
Tiếng thông reo, tiếng thông reo
Trải bao giông tố vẫn reo gió chiều.

Nguyễn văn T …

Vừa ngồi nghỉ mệt trên đường rầy xe lửa vừa ăn bánh tét và thưởng thức café sữa ngon lành…Quang quàng tay qua vai tôi giọng cảm động :

“Anh An, anh là người cứu mạng của tôi, nên tôi xin nói thật cho anh biết, – giọng Quang trầm lại – Tôi là đảng viên của Trung Hoa Quốc Dân Đảng, tôi tên thật là Lai Minh Quang, cháu ruột của Trung Tướng Lai Minh Kiên, hiện bác tôi đang ở Đài Loan, tôi có nhiệm vụ nằm trong Quân Đội VNCH, và tên Trần Quang là tên giả, tôi học và tốt nghiệp Kỹ sư Điện Tử tại Okinawa Nhật Bản. Khi về Việt Nam, tôi phụ trách Trưởng Đài Radar Phú Lâm, mục đích là để theo dơi bên Trung Cộng, các máy bay bên Trung Cộng cất cánh th́ ở Đài Radar Phú Lâm đều nhận biết… .Khi miền Nam sụp đổ , tôi đă được báo trước nên đă cho vợ con rời khỏi Việt Nam hiện đang ở Tân Gia Ba, v́ tôi c̣n công tác nên phải ở lại Việt Nam .. Bây giờ việc trước mắt là về Sài g̣n, tôi bắt liên lạc với các điểm rồi chúng ḿnh cùng t́m đường qua Đài Loan, khi ra được ngoại quốc rồi sẽ tính sau..”

Chúng tôi tiếp tục chạy , khi đến nhà ga Bảo Chánh th́ trời gần sáng. Chúng tôi vào rừng chồi thay bộ đồ khô mang theo trong bao nylon bỏ trong bao cát, nhờ lọt xuống suối nên chúng tôi đă tắm sạch đất đỏ, bây giờ thay bộ đồ khô vào trông cũng sạch sẽ. Chúng tôi vẫn tiếp tục chạy trên đường sắt hướng về Long Khánh cho kịp chuyến xe lửa từ Nha Trang vào. Khi tới những nơi có người ở th́ chúng tôi đi bộ, c̣n những chỗ không người th́ chạy tiếp. Những dân cư ở dọc theo con đường xe lửa từ nhà ga Bảo Chánh vào đến Long Khánh chúng tôi thấy phần nhiều là người Thượng. Khi đến nhà ga Long khánh khoảng 8 giờ sáng, con đường dài 35 cây số. Tôi lấy trong lai quần ra 5 đồng tiền VC (V́ đă có kinh nghiệm vượt tù lần trước.) tôi đă dấu từ lúc mới bị bắt, tôi đưa tiền cho Quang vào mua vé, được trạm bán vé cho biết 9 giờ xe lửa tới, tôi và Quang vào quán café gần đó ngồi uống café và bàn chuyện về Sài G̣n mua hột giống để đem về vùng kinh tế mới trồng trọt .v.v . Trong quán cũng có vài tên cán bộ công an VC đang ngồi uống Café.

Tiếng c̣i hú từ xa của chuyến xe lửa từ Nha Trang vào Sài G̣n đă gần đến , tôi và Quang đều cảnh giác. Chúng tôi chia nhau mỗi người một đầu toa để tránh sự theo dơi của bọn công an. Và chúng tôi đă về đến Sài G̣n lúc 12 giờ trưa, nhưng Quang lại bị sưng vù cả 2 chân không đi được nữa,(v́ Quang chưa bao giờ chạy xa như vậy, c̣n đối với tôi đă được huấn luyện qua khóa Người Nhái th́ chạy bộ 35 cây số không có ǵ trở ngại.), tôi gọi xe xích lô đạp chở chúng tôi về Chợ Lớn, nhưng khi đi ngang qua quán phở 79, đường vơ Tánh, chúng tôi cảm thấy thèm quá nên xuống xe vào tiệm gọi phở ăn một bữa thật ngon. V́ thấy chúng tôi nước da sạm đen ông chủ tiệm phở hỏi : “Các anh ở đâu về mà đen quá vậy.?”. Tôi trả lời là chúng tôi từ vùng Kinh Tế mới về Sài G̣n để mua hột giống trồng trọt … Sau đó chúng tôi gọi xe xích lô chở Quang đến một địa điểm riêng của Quang. Chúng tôi từ giă và hẹn gặp lại tại một quán café ở ngả 7 Chợ lớn, nhưng tôi đă đến điểm hẹn liên tiếp mấy ngày mà không gặp Quang. Tôi nghỉ có thể điểm liên lạc của Quang không muốn tiếp xúc với tôi v́ sợ bị lộ, và tôi mất liên lạc với Quang từ đó..!

Tôi đến thăm anh Nguyễn Thành Nhơn trong đêm mới trở về Sài G̣n, tôi nhảy rào vào nhà gặp anh chị. Anh chị rất vui mừng. Tôi kể chuyện lại cho anh chị nghe . Anh Nhơn cho tôi hay là pḥng tập Thể Dục của anh đă bị bọn công an phường tịch thâu rồi, anh bảo tôi ở lại ngủ một đêm rồi sáng mai sẽ đi, tôi cám ơn anh chị và từ giă trước v́ sáng sớm tôi đă rời khỏi nhà của anh chị..

Tôi cố liên lạc lại với các bạn thân ngày trước, nhưng có người thấy tôi từ xa th́ đă vội vào nhà khóa cửa lánh mặt..Cũng may được một người bạn cho mượn chiếc xe đạp, và nhờ đó tôi di chuyển khắp nơi trong thành phố, dự định t́m vào các lực lượng kháng chiến trong rừng. Tôi gặp một đại diện của một giáo phái (xin tạm giấu tên) sau một tháng, ông gặp lại cho và cho hay :

“Chắc em không có phần vào trong với anh em, là v́ tôi đă liên lạc và ở trong đă gởi 3 lần liên lạc viên ra để đưa em vào nhưng đều đổ bể cả.. Và ở trong đă quyết định hủy bỏ công tác đón em rồi!..”

Thêm một lần thoát nạn..

Người bạn thân Mai Văn Lương (hiện đang sống tại Cali) cùng đơn vị phủ Tổng Thống, đă giúp tôi thật nhiều trong lúc cùng cực. Anh đăgiúp tôi liên lạc với một lực lượng vùng Hậu giang, có cơ sở mua bán phân bón, văn pḥng tại đường Trần Hưng Đạo, đối diện với Tổng Nha Công An thành phố. Đêm đó tôi ở lại ngủ tại cơ sở suốt đêm tṛ chuyện cùng anh Hoàng (Hoàng cấp bậc Đại Úy Sĩ Quan Đà Lạt trốn tŕnh diện đi tù cải tạo.) cho biết cơ sở nầy được quyền giữ 20 nhân viên ngủ lại đêm, anh khuyên tôi yên tâm ở lại đây để chờ liên lạc viên từ Hậu Giang lên đón tôi… Sáng sớm hôm sau tôi và anh Hoàng ra ăn sáng ở tại quán café vỉa hè gần đó, Lương cũng vừa tới. Ttrong quán có rất đông bọn Công An đang uống café. Tôi có linh cảm như có việc ǵ sắp xảy ra nên sau khi ăn sáng xong tôi nói với Lương đưa tôi về chỗ ẩn trú của tôi và khi nào có liên lạc viên ở Hậu Giang lên th́ đến đón tôi, v́ ở đây tôi cảm thấy có nhiều nguy hiểm. Lương đồng ư và đưa tôi về chỗ ẩn rồi ra đi.. Nhưng khoảng 12 giờ trưa, Lương trở lại kiếm tôi và cho hay tất cả cơ sở đó đă bị Công An thành phố hốt hết rồi..! Thật may cho tôi, tôi chỉ thoát trong đường tơ kẽ tóc.

Có nhiều ngày tôi lang thang đạp xe từ 6 giờ sáng khắp nơi trong thành phố cho tới 9 giờ tối mà tôi chưa biết đêm nay phải ngủ ở đâu ?.. Có hôm tôi chỉ ăn vài trái chuối qua ngày v́ không tiền. Có nhiều hôm được tin bọn công an bố ráp ở các bến xe đ̣ Xa Cảng Miền Tây, nhà ga xe lửa là những nơi tôi thường mướn chiếu để ngủ nên phải t́m vào nhà các bạn để trốn..

Tôi bị bắt hụt lần thứ 2..

Có lần tôi đang ẩn trong nhà một người bạn ở quận 11, Sài G̣n, khoảng 1 giờ khuya, bọn Công An Phường tông cửa ập vào nhà, tên Công An trưởng ra lệnh tất cả phải đứng yên tại chỗ và cho biết là chúng được tin trong nhà bạn tôi có làm ḷ nướng bánh ḿ lậu . Chúng bắt đầu lục soát..T rong lúc đó tôi đang ở trong pḥng ngủ của bà mẹ anh bạn v́ bà về thăm quê ở Thốt Nốt, nên anh bạn cho tôi ngủ tạm, v́ tôi cũng đề pḥng trường hợp nầy có thể xảy ra nên tôi không nằm ngủ trên giường mà chỉ trải tấm mền lót để nằm dưới đất, c̣n trên giường th́ mùng,mền, nệm gối đều xếp ngay ngắn, cửa pḥng khi vào tôi đă khóa lại phía trong, khi nghe tiếng bọn Công An vào tôi liền kéo tấm mền đẩy vào gầm giường rồi chung vào trốn trong tủ áo v́ quá cấp tốc nên tôi không c̣n đường nào để thoát.. Tiếng tên Công An trưởng hỏi bạn tôi :

“Ai ở trong pḥng nầy?”

Bạn tôi trả lời :

“Đây là pḥng ngủ của má tôi hôm nay bà đă về quê ở Thốt Nốt thăm bà con, không có ai ở trong đó hết”

Tên Công An ra lệnh bạn tôi lấy ch́a khóa mở cửa pḥng để chúng khám xét. Tôi lo sợ nghĩ rằng lần nầy hết phương thoát khỏi. Sau khi cửa pḥng đă mở tôi nghe tiếng chân của tên Công An bước vào pḥng, tôi hé nh́n kẹt cửa tủ áo thấy tên nầy ngó dáo dác trên giường rồi bước đến bàn đèn chộp lấy chiếc đồng hồ đeo tay của tôi đang để trên bàn rồi vội bước ra và ra lệnh cho mấy tên khác lên gác lục soát để t́m tang vật về việc làm bánh ḿ lậu như bột ḿ, bàn cân bột .v.v. Khi bọn Công An lên gác anh bạn vội mở cửa sau cho tôi tẩu thoát. Tôi thoát nạn lần nầy là nhờ vào chiếc đồng hồ “Hai cửa sổ, ba người lái” (Tiếng của bộ đội CS khi mới vào Nam) của tôi, v́ tên Công An lấy được nên vội bỏ đi ra ngay…

Lần thứ 3 bị bắt hụt.

Trong gần dịp lễ Giáng Sinh năm 1977, được tin bọn Công An sẽ bố ráp ở các nơi công cộng, bến xe đ̣, nhà ga xe lửa, nên tôi đến xin bạn tôi cho ngủ nhờ.. Khoảng 12 giờ khuya có tiếng đập cửa và tiếng bọn Công An kêu gọi mở cửa phía trước lẫn phía sau.. Trong lúc bạn tôi đi mở cửa, tôi chạy lên gác lầu và mở cửa sổ leo lên nóc nhà và ḅ rạp ḿnh theo bóng tối qua 2-3 nóc nhà và nằm nép ḿnh xuống máng xối giữa 2 mái nhà của pḥng bán thực phẩm do cán bộ VC quản lư. Chúng lục xét khắp nơi rồi lên gác mở cửa sổ nơi tôi vừa thoát ra.. Chúng nh́n qua mấy nóc nhà nhưng v́ tối quá nên chúng nó không thấy tôi nên chúng xuống lầu rồi bỏ đi… Kể từ đó anh bạn tôi không c̣n muốn thấy mặt tôi nữa v́ anh đă quá sợ. C̣n về phần tôi th́ cũng ngại ngùng không muốn liên lụy đến anh bạn nữa nên tôi tránh xa khu nhà của anh..!

Tôi được một anh bạn khác giới thiệu cho tôi gặp một người đại diện cho một tổ chức kháng chiến chống Cộng ở miền Tây,(xin được giữ kín) lúc đó tôi cũng có trách nhiệm cố vấn tham mưu, đại diện cho một lực lượng tại đô thành Sài G̣n gồm nhiều thành phần hỗn hợp, tôn giáo, quân nhân, công chức của Việt Nam Cộng Hoà . V́ lúc nầy tất cả Sĩ Quan đều bị đi tù cải tạo. .c̣n lại thành phần quân nhân từ Hạ Sĩ Quan trở xuống . Anh bạn Người Nhái của chúng tôi cấp bậc là Thượng Sĩ đă họp cùng một số anh em quân nhân và vài đoàn thể Tôn Giáo khác tổ chức ra một lực lượng trong đô thành. Khi anh gặp được tôi trốn trại lần thứ 2 , anh ngỏ ư nhờ tôi giúp trong phần điều hành nhân sự v́ trong tổ chức nhân sự đă vượt quá khả năng Hạ Sĩ Quan của anh .Tôi cũng cho anh biết là khả năng của tôi cũng hạn hẹp. Không thể lộ mặt được v́ đang lẩn trốn, tạm thời tôi xin nhận phần Ch́m đại diện cho tổ chức để t́m các tổ chức khác để kết hợp.v.v. Trong phần vụ đó tôi đă dấn thân cùng với một tổ chức khác đi về miền Tây để liên lạc với các cánh quân ly khai vùng Sóc Trăng và Cờ Đỏ.., và sau buổi họp tại khách sạn ở Cần Thơ, tôi đă bí mật mang về Sài G̣n những số nhà của các địa điểm cần được phối kiểm để tiếp tế khi cần. Nhưng chỉ vài tuần sau th́ tổ chức tôi đang hơp tác bị bể.. Chúng tôi đành phải nằm yên..

Nhờ người bạn thân giới thiệu tôi với một đại diện một cánh quân ở Miền Tây, tổ chức của anh đang bị động ở miền Tây nên anh lánh về Sài G̣n..Tôi và anh bàn thảo trong tinh thần cởi mở thân mật v́ chúng tôi đều đang đi t́m những đường dây tiếp tế thật sự từ ngoại quốc về và hứa sẽ giúp đỡ cho nhau khi cần với khả năng mà ḿnh có..

Sắp đến Tết Nguyên Đán ở đô thành lại bị bố ráp, tôi đến gặp anh Trần (xin tạm gọi là anh Trần…) nhờ anh giúp đưa tôi tạm lánh nạn về miền Tây ở vùng Cái Răng..Anh giới thiệu tôi là người Tàu lai ở Chợ Lớn đi t́m việc làm với ông chủ vườn cây ăn trái và nhờ ông giúp đỡ.. Ông chủ vườn đưa tôi vào vườn cây của ông cách mặt lộ khoảng 3 cây số.. V́ là vùng đất Bưng (đất sét đen) nên chỉ đi bằng chân không, v́ bùn śnh lún sâu không thể mang giày dép được .Tôi ở chung với vợ chồng người cháu. Tôi tạm gọi là anh Ba, anh là HSQ Truyền Tin, anh tự làm cho mù mắt để được miễn dịch, sau khi VC chiếm miền Nam, vợ chồng anh bần khổ nên về đây ở tạm. Anh cũng thường tự trách ḿnh mỗi khi tâm sự với tôi là ngày trước anh đă hèn nhát, đă tự hủy hoại thân thể để cầu an..bây giờ VC vào rồi anh mới thấy hối hận.. Anh cũng hỏi thăm ḍ tôi thuộc thành phần nào nhưng tôi giấu nhẹm chỉ cho anh biết tôi là người Tàu lai tên là Hứa Gia Ân..

Vườn cây ăn trái có khoảng 300 gốc, ban ngày tôi tưới nước và lặn xuống ḍng rạch để móc śnh non lên vun gốc. Ban đêm khi chiều xuống , tôi và anh Ba chèo xuồng đi giăng câu ở những nơi hoang vắng để tránh tai mắt bọn Công An vùng.. Có nhiều đêm mưa tầm tă chúng tôi quần áo ướt sũng co ro trên xuồng, hoặc t́m vào các ngôi miễu hoang mà trú ẩn cho qua cơn mưa, gần sáng chúng tôi mới chèo xuồng về. Vợ anh Ba, chị đem cá câu được đem ra chợ Cái Răng bán và mua lại gạo muối về dùng..Thỉnh thoảng một vài tuần anh Trần vào thăm tôi và tiếp tế chút ít tiền đưa cho anh chị Ba lo giúp phần ăn uống cho tôi v́ ông chủ vườn cũng không có dư dả nên vợ chồng anh Ba và tôi điều phải tự túc..

Thoát nạn lần thứ 4.

Tôi ở đây gần 3 tuần, tôi đă gặp NN Nguyễn Văn Cao chung khóa 2 NN với tôi,trong lúc tôi ra mặt lộ để hớt tóc. Cao gặp tôi vui mừng, tôi vội kéo Cao ra ngoài để tránh mọi người để ư và cho anh Cao biết là tôi đang lẩn trốn v́ đă vượt tù cải tạo hiện giờ thân phận tôi là người Tàu lai ở Chợ Lớn thất nghiệp nên xuống đây làm vườn để sống….Cao khẽ nói với tôi :

“Chú Ba T..(Ông chủ vườn) ngày xưa đă tiếp tế VC. Nếu anh ở nhà ông th́ tạm là an toàn v́ Công An phường khóm đều quen biết ông.”

.Nhưng vài hôm sau ông chủ vườn cho tôi hay là Công An nói giấy tờ của tôi đă gần hết hạn và muốn gặp mặt tôi vào ngày mai. Tôi cảm thấy nguy hiểm nên khoảng 3 giờ sáng sớm hôm sau tôi lén rời khỏi Cái Răng đi xe đ̣ trở về Sài G̣n…

Sau đó có lúc tôi ở Cai Lậy, Cần Thơ, Cái Răng, Ḅ Ót, Ô Môn, Thất Sơn, Châu Đốc. ..Tôi cố t́m vào các nơi bưng biền, nhưng khi biết ra th́ các anh em chỉ có “ngọn mà không có gốc”.

Tôi đành phải vượt biên, sau khi đă bị VC bắt hụt mấy lần. Cuối cùng tôi được một người bạn thân giúp cho tôi đem vợ và đứa con trai vừa hơn 3 tuổi.

NGÀY VƯỢT BIÊN

Ngày lễ Thanh Minh là ngày vượt biên! Chúng tôi xuống ghe tại bến Ninh Kiều Cần Thơ rồi chạy ra cửa biển Tranh Đề, được chiếc ghe đánh cá Kiên Giang mang số KG- 0660 đón lên ghe và khởi hành ra cửa biển, nhưng khi vừa ra tới cửa biển chiếc ghe lại leo lên cồn cát, tất cả trên ghe là 59 người kể cả lớn nhỏ, đều nhốn nháo lên, v́ trên ghe có người đă vượt biên 5 lần 7 lượt mà vẫn không thoát, lần nầy ghe lại mắc cạn, nên mọi người đều lo sợ.

Tôi đứng ra kêu gọi tất cả hăy b́nh tĩnh, và tổ chức lại, chia ra nhiều tổ, mỗi tổ 2 người, bắt đầu xuống nước tính từ ghe chia ra tổ nào đi theo hướng nấy và khi nào t́m được chỗ nước sâu tới ngực th́ kêu lên. Tất cả đều làm theo lời của tôi, một lúc sau ở hướng bên trái kêu lên có chỗ sâu, tất cả đều cùng xúm lại đẩy ghe về hướng đó, ghe lại khởi hành, nhưng ghe chạy chỉ được chừng vài trăm thước th́ máy bơm nước từ trong ra ngoài bị bể. Tôi liền tổ chức chia thành 3 toán thay phiên nhau tát nước trong ghe ra ngoài. Tôi chọn 3 người lớn tuổi làm trưởng toán có trách nhiệm sắp đặt thay phiên nhau.

Tôi nghi ngờ anh tài công nầy, tôi lên pḥng lái hỏi anh tài công : “Anh chở theo bao nhiêu lít dầu ?”

Tài công trả lời : “400 lít”.

Tôi hỏi :” Ghe nầy chạy bao nhiêu cây số giờ ?”

Tài công : “không biết!”

Tôi hỏi: “Bây giờ anh đang chạy đi đâu ?”

Tài công : “Cứ chạy rồi sáng vô Ḥn Khoai tính lại”

Tôi biết tên tài công nầy có mưu đồ, tôi tức giận thét lớn lên :

“Anh rời khỏi pḥng lái ngay, kể từ bây giờ tôi lái chiếc ghe nầy!”

Tôi kéo cổ tên tài công ra khỏi pḥng lái và dặn các anh trưởng toán coi chừng tên tài công, c̣n tôi vào pḥng lái, lấy hướng 180 độ trên la bàn là hướng giữa Côn Sơn và Ḥn Khoai mà lái đi suốt đêm cho đến 7 giờ sáng. Tôi nh́n về hướng bên trái ghe thấy dạng núi Côn Sơn, biết là đúng hướng rồi, tôi lái thêm ba giờ nữa để ghe ra tới hải phận quốc tế.

Tôi được các người trên ghe cho biết tên tài công không có ư định vượt biên, nên vợ con anh ta để lại Việt Nam. C̣n ghe th́ không có tu bổ hay sửa chữa chi hết, nên nước đă vào theo kẽ hở tróc chai rồi lại hư luôn máy bơm nước, c̣n máy cũng hư, chỉ c̣n máy tiến mà không có máy lùi. Trên ghe đi biển vượt biên mà không có hải đồ, chỉ vỏn vẹn một la bàn trong pḥng lái mà thôi. Tôi đem tấm bản đồ giới thiệu đường hàng không của Mả Lai, tỷ lệ 1/40.triệu, nh́n vào bản đồ thấy nước Việt Nam bằng đầu ngón tay út, dùng bản đồ đó và địa bàn Bộ Binh,(Tôi đem theo tấm bản đồ và địa bàn nầy trong ḿnh là dự tính vượt biên bằng đường bộ.) tôi đo và xoay theo hướng độ, tôi kẻ đường thẳng đến thị trấn Kotabaru,của Mă Lai, giáp biên giới của Thái Lan, là hướng 240 độ.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1668806&stc=1&d=1602427578

Tôi lái ghe đổi hướng trực chỉ.. chúng tôi đă đi 2 đêm 2 ngày, mỗi ngày tôi đều thay dầu vào lúc 4 giờ chiều, rồi lại đi tiếp. Bỗg thấy có chiếc tàu từ xa chạy cùng chiều , chiếc tàu chạy tốc độ rất nhanh khi đến gần chúng tôi mới biết là tàu đánh cá Thái Lan. Chiếc tàu vượt qua ghe rồi ngừng lại, ra dấu cho chúng tôi cập vào, v́ ghe không có máy lùi nên kêu tất cả thanh niên khoảng gần 30 người đứng dàn hàng trên ghe để khi cập vào th́ đỡ lại, và tôi lái góc 90 độ mũi ghe chỉa thẳng vào hông tàu của Thái Lan dự tính khi đến gần sẽ lấy mũi lại song song với tàu, nhưng tàu Thái Lan hoảng sợ vội vọt mạnh về phía trước, làm cho một tên Thái rớt xuống biển. Tôi ṿng ghe lại vớt tên nầy lên, tên thủy thủ lên ghe chúng tôi mà có vẻ sợ sệt, chiếc tàu Thái Lan ṿng lại và ra dấu thả tên Thái đó và ra dấu sẽ tiếp tế thực phẩm cho chúng tôi. Tôi ra dấu cho tên Thái Lan nhảy xuống lội về tàu, chúng tôi được tàu Thái câu bỏ xuống 2 bao gạo và 2 thùng bằng nylon chứa nước ngọt, (v́ khi ghe bị mắc cạn chúng tôi đă đổ bớt nước ngọt đem theo để cho ghe được nhẹ bớt nên thiếu nước ngọt.) Sau đó tàu Thái Lan trở hướng chạy ngược lại, c̣n chúng tôi tiếp tục đi. Bà con trên ghe bàn tán, có lẻ tàu Thái Lan đó là hải tặc, nhưng khi thấy trên ghe đông thanh niên đứng dàn hàng nên chúng nó sợ chúng tôi cướp lại tàu của chúng nó nên chúng đành bỏ đi..?!

Đến chiều ngày hôm đó tôi họp với 3 anh trưởng toán lại và cho các anh biết là t́nh trạng chiếc ghe không c̣n an toàn nữa, v́ chất chai trét đă bị tróc nước vô nhiều, hy vọng có tàu lớn đi ngang cứu giúp. Tất cả đều lo lắng.. Khoảng 6 giờ chiều, bổng thấy ánh sáng chớp lên thật xa, tôi xem kỷ biết là Hải Tiêu, tôi báo cho tất cả trên ghe hay tin đều vui mừng, tôi lái theo hướng Hải Tiêu cho tới 12 giờ đêm mới vào được tới cửa sông, khi tôi ủi ghe lên bờ vừa chạm cồn cát, chiếc ghe ră ra và ch́m xuống nước, 59 người lớn và trẻ em trên ghe đều bồng bế nhau nhảy xuống biển, nước sâu tới cổ, và tất cả mọi người đều an toàn đến bến bờ đất nước Mă Lai..

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1668807&stc=1&d=1602427578

Chiếc ghe đánh cá Kiên Giang mang số KG – 0660 đă làm tṛn trách nhiệm của ḿnh đưa người tới bến bờ TỰ DO và đătrở về với ḷng Đại Dương ngàn đời.!.C̣n Chúng ta ….những đứa con v́ 2 chữ TỰ DO đă bỏ nước ra đi đang lang thang nơi đất lạ khắp năm châu.. Biết đến bao giờ những đứa con nầy mang 2 chữ TỰ DO về cho đất mẹ ?..!!

NN Lê Đ́nh An

Mă Lai, Mùa thu 1978.

Ghi chú : Vào năm 1984, gia đinh tôi c̣n ở Thành phố Houston, tôi có gặp lại một anh sĩ quan bị tù chung ở Thành Ông Năm quận Hốc Môn (Nơi tôi vượt tù lần thứ nhứt). Anh nầy được thả ra sau 3 năm tù, và anh đă vượt biên bằng ghe đánh cá. Sau khi tay bắt mặt mừng, anh cho tôi biết tin tức về các anh em tù cải tạo, tôi hỏi về 2 anh Nguyễn Hoành và Hoàng Trinh. Anh thở dài và cho biết : …Sau khi ở Trại Thành Ông Năm, bọn chúng đă chuyển tù nhân tất cả ra vùng U Minh rồi sau đó chuyển ra An Thới Phú Quốc, rồi chuyển về núi Thị Vải, 2 anh Nguyễn Hoành và Hoàng Trinh đă vượt trại tù ở chân núi Thị Vải Vũng Tàu và đă bị bắn chết cả 2 ở giữa ṿng rào kẽm gai…!!

* * *

Vào tháng 5 – 2003 . Tôi được NN Nguyễn Đức Nguyên báo tin cho tôi biết có gặp anh Đặng Văn Sáu, sĩ quan bị tù cải tạo qua Mỹ trong diện HO hiện anh đang làm an ninh khu vực (Security) của Ngân Hàng nơi NN Nguyên đang gởi tiền. Anh nầy biết Nguyên là NN nên hỏi Nguyên có biết anh Lê Đ́nh An làm việc ở Phủ Tống Thống hay không ?.Nguyên trả lời Anh An là bạn cùng chung đơn vị Phủ Tổng Thống với tôi. Anh Sáu kể lại câu chuyện :

“Anh Lê Đ́nh An và tôi ở tù chung trại Phản động K3. ở Gia Rây. Ngày anh An vượt trại với một người tên là Trần Quang, tất cả Trại tù anh em đều bàng hoàng kinh sợ v́ xung quanh trại đều có ḿn.. Anh Sáu kể tiếp : “Sau khi anh An vượt trại, bọn cán bộ cho tất cả tù ngưng lao động để chờ bắt các anh trở lại, nhưng bọn cán bộ rất tức giận v́ chúng không bắt lại được ..Sau đó khoảng chừng 4 tháng, chúng nó chuyển tất cả trại K.3 ra miền Bắc.Trên chuyến Tàu đang chờ đợi chở ra Bắc, anh em lại thấy cán bộ giải đến một người bị c̣ng tréo tay sau lưng, thân h́nh gầy g̣ ốm yếu, khi giải đến gần anh em mới biết là anh Trần Quang . Sau nầy anh Quang v́ ở chung trại với tôi nên kể cho tôi nghe cuộc vượt tù với anh Lê Đ́nh An, thời gian đó anh Quang v́ bị bịnh sốt xuất huyết cho nên người quen của anh Quang phải đưa vào nhà thương điều trị ..v́ vậy nên Quang bị lộ và bị bắt lại, rồi chúng nó giải giao lại cùng trại Nam Hà chung với toán chúng tôi…

Được vài tháng sau Quang tâm sự với tôi là sẽ t́m cách trốn nữa…Quả thật Quang đă t́m cách trốn bằng cách uống nhiều thuốc trị sốt rét nên bị vật vă , khi bọn cán bộ chở vào nhà thương th́ Quang đă chết v́ bị uống quá liều. Có lẽ Quang dự tính dùng phương pháp nầy để khi vào nhà thương, anh sẽ t́m cách thoát thân… Nhưng anh vĩnh viễn không c̣n cơ hội nữa…!

Vào ngày 03-01-2004. Tôi nhận được diện thoại của anh Đặng Văn Sáu, tôi rất vui mừng. Sau khi hàn huyên thăm hỏi … Anh Sáu cũng kể lại diễn tiến từ khi tôi và Trần Quang vượt trại cải tạo K.3 như kể ở phần trên…

Anh Đặng Văn Sáu được thả ra vào năm 1982. Anh lập gia đ́nh vào năm 1983, khi có được một cháu, gia đ́nh anh được qua Mỹ trong diện HO đợt 10, hiện đang sống tại California.


NN Lê Đ́nh An

hoathienly19
10-12-2020, 03:46
TRẠI GIAM CỔNG TRỜI


verfznuzAaU


TRẠI GIAM CỔNG TRỜI PHẦN 1 & 2



XexIA1H8Ytw


TRẠI GIAM CỔNG TRỜI PHẦN 3



n3p_RuNMcNA


TRẠI GIAM CỔNG TRỜI PHẦN 4&5


8T84W8oVsdM


C̣n tiếp

hoathienly19
10-12-2020, 06:53
TRẠI GIAM CỔNG TRỜI PHẦN 6


VYSOWY0q0Vw


TRẠI GIAM CỔNG TRỜI PHẦN 7&8


9Avn1ozfA9Y


TRẠI GIAM CỔNG TRỜI PHẦN 9 & 10


WK7lYwa0y4E

hoanglan22
10-13-2020, 14:50
ifAbF1Kka4A

Thời gian vẫn vô t́nh trôi qua, như nước chảy dưới cầu, như vó câu qua cửa sổ.... Và ḷng người th́ bị cuốn hút vào trong cơn lốc xoáy nghiệt ngă của thời cuộc. Tháng Tư uất hận một lần nữa lại về .... Đă bao lần tôi muốn viết vài ḍng trân trọng, để tưởng nhớ anh, nhưng tiếc thay tôi biết quá ít về đời tư của anh, dù đă có thời gian anh đối xử và thương mến tôi như thằng em nhỏ dại. Sau khi cải tạo về, tôi đă cố t́m gặp những người có mặt bên anh trong những giây phút cuối, để lấy thêm dữ kiện sống, nhưng cũng không thỏa măn được những điều tôi muốn biết. Ngay khi mới đinh cư tại Hoa kỳ, tôi đă t́m ṭi qua báo chí, nhất là những thiên hồi kư trong tù của nhiều người, nhưng cũng chỉ thoáng qua tên anh. Tháng Tư năm 1975, tháng Tư 2004: 29 năm, một phần ba đời người sống thọ. Thời gian thật dài. Sợ chờ đợi măi, có khi trí óc bị bào ṃn và thời gian sẽ đưa tất cả vào quên lăng. Thà thắp lên tia lửa nhỏ, c̣n hơn ngồi nguyền rủa bóng đêm. Tôi quyết định, mạo muội viết những kỷ niệm về anh, gọi là thắp nén hương tưởng niệm người anh hùng, tôi hằng kính yêu nhân ngày giỗ thứ 27 sắp tới của anh. Tháng 7 năm 1977.... Tháng 7 năm 2004.

QUEN ANH NHƯ LÀ MỘT ĐỊNH MỆNH - Người ta ở đời có hai trường hợp:

Thứ nhất: Mới thoáng gặp nhau là đă có cảm t́nh, muốn tṛ chuyện, muốn kết thân, hay trai gái mới gặp nhau đầu mày, cuối mắt đă phải ḷng nhau, muốn trao nhau trái tim yêu nóng hổi, sách tướng số, bói toán gọi là hạp căn, hạp tuổi, hạp mạng, v.v.. Thứ hai: Mới gặp nhau dù chưa từng quen biết, mới thoáng qua là đă muốn dọa, muốn đục, muốn đuổi đi cho khuất mắt, sách tướng số gọi là xung khắc, không hạp căn, không hạp mạng, gần nhau là như chó với mèo.... Tôi hân hạnh quen anh nằm trong hai trường hợp trên. Sau chuyến công tác, trở về Đà Nẵng, buổi chiều hôm đó tôi dẫn cô bé Lệ H... đi ăn ở nhà hàng nổi, trước khách sạn Bạch Đằng, đây là lần đầu tiên tôi đưa cô bé đi ăn ở nhà hàng. Thường thường chúng tôi đi ăn kem Diệp Hải Dung, cơm gà Hải Nam, hay bánh hỏi thịt nướng, chè Ngă Năm... đi vào chỗ nào, cô bé cũng rụt rè, e lệ, tôi muốn đưa vào nhà hàng để cô bé làm quen với không khí mới lạ. Bước chân vào trong, cô bé đă tỏ ra mất b́nh tĩnh trước không khí nhiễm đầy khói thuốc và sắc áo rằn ri. Tôi trấn tĩnh em và đưa vào một góc cuối, hai đứa đang cúi xuống trên tấm thực đơn, chọn thức ăn, th́ có một bóng người đến đứng trước bàn tôi, tôi ngẩng đầu lên, bắt gặp khuôn mặt đỏ ké, trong bộ quân phục rằn ri Biệt động, trên cổ áo một bông mai đen, tôi tưởng bạn nh́n lầm người, nên định đứng lên chào, nhưng không, anh chàng đưa mắt nh́n Lệ H. và gằn giọng nói với tôi: Ai cho phép mày nghinh bọn tao? Tôi biết ḿnh đang bị kiếm cớ gây sự. Tôi thầm kêu khổ trong bụng, không phải tôi sợ, tôi là thằng ĺ có tiếng, ngàn lần tôi không sợ, nhưng làm sao tránh cho cô bé khỏi bị tổn thương. Tôi xin vắn tắt vài ḍng, xem tôi đă làm ǵ mà các bạn Biệt Động ngứa mắt. Tôi vừa ra trường trên một năm, xông pha trận mạc vài lần, nhưng nhỏ con, chưa qua khỏi tuổi 21, nên c̣n rất thư sinh, nếu cởi bỏ binh phục thay vào áo trắng quần xanh, tôi cũng chỉ là cậu hoc tṛ trung học. Thế mà dám dẫn đào vào đây rước đèn, áo quần cũng rằn ri nhưng khác màu của Biệt động, binh chủng chúng tôi có cái thói quen lập dị là không bao giờ mang cấp bậc, nếu có mang cũng rất kín đáo, như muốn không cho ai thấy, gắn ở chuôi dao găm, sau nắp túi áo.... Rừng nào th́ cọp nấy, thành phố Đà Nẵng là rừng của anh em Liên đoàn I BĐQ. Tôi biết tôi đă làm cho các anh gai con mắt, và muốn đục tôi, dằn mặt.

Anh Thiếu úy chưa thấy tôi trả lời, đă cao giọng ra lệnh: mày hăy đến bàn kia xin lỗi mấy anh đi, th́ tau tha cho! Tôi biết t́nh h́nh quả gay go. Thực khách lần lượt ra khỏi nhà hàng. Xin lỗi ư? Không bao giờ, v́ tôi có lỗi ǵ đâu. V́ tự ái, v́ màu áo tôi đang mặc, tôi biết chắc là có đổ máu, đổ máu một cách vô ích, v́ trong túi quần trận tôi luôn luôn có khẩu Breta nhỏ, Lệ H. tái mét mặt mày. Tôi bảo nhỏ: Em qua ghế đá ngồi đợi anh. Tôi bỏ tay vào túi quần, chạm cục thép lạnh, tôi nghĩ nếu anh bạn xáng tôi bạt tai, th́ máu sẽ đổ. Trong giây phút quả bong bóng căng sắp nổ, th́ có tiếng tằng hắng nghe rơ mồn một ở gần quầy, anh chàng Thiếu úy nh́n lên, lẳng lặng về bàn và cả bộ ba kéo nhau rời nhà hàng. Lệ H. như chết khiếp, tôi phải trấn an nàng, nên chưa để ư xem ai vừa tằng hắng, mà mấy ông thần gây sự bỏ đi, th́ một người cao to, bước đến trước mặt, tôi nh́n thấy cặp galong Thiếu Tá trên cổ áo rằn ri, bảng tên trên túi: VANG. Tôi đứng thẳng người chào, nhưng Thiếu Tá vỗ vỗ vào vai tôi và nói: Em hăy ngồi xuống và tự nhiên cùng bạn gái em ăn uống, xem như không có ǵ xảy ra. Ông hỏi tôi về đơn vị, tôi tŕnh bày đơn vị, cấp bậc, và nói: Em vừa về sau chuyến nhảy dài nên chưa cắt tóc, các anh kia thấy gai mắt mà sinh chuyện, xin Thiếu Tá tha lỗi. Ông dịu dàng: Em không có lỗi ǵ cả, thôi quên đi mà vui vẻ với bạn gái. Chúng tôi chưa ăn ǵ cả, và thức ăn cũng chưa mang ra. Lệ H. một mực đ̣i về, tôi đành chiều nàng. Tôi đứng lên: Thưa Thiếu Tá, cho em đưa bạn gái về, không ngờ ông sốt sắng lấy xe Jeep đưa chúng tôi về, dù tôi quyết liệt từ chối, sợ làm phiền ông. Sau khi trả Lệ H. về nhà nàng, tôi lại đi chơi và tâm sự với ông gần sáng đêm. Đó là Thiếu tá VƠ VÀNG, Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 21 BĐQ, lừng vang trên chiến trường Miền Trung.

Từ lúc c̣n mài đũng quần trên ghế Trường TH/PCT/ĐN, tôi đă nghe danh và ngưỡng mộ người anh hùng này, không ngờ t́nh cờ như một định mênh xui khiến, tôi được quen Ổng và được ổng thương mến như em út. Ông bắt tôi gọi bằng anh và gọi tôi bằng mày (tiếng mày từ miệng ông sao mà thân mật quá, không như tiếng mày của anh bạn Thiếu úy BĐQ gọi tôi trong nhà hàng, nghe qua đă lộn máu nóng lên đầu....) Tôi thưa: Trước mặt lính tráng của Thiếu Tá, mà em gọi như vậy e bất tiện quá! Ổng nghiêm giọng: Có sao đâu, mày là em tau, là em tau th́ phải gọi tau bằng Anh.

NHỮNG NĂM THÁNG CÓ ANH TRONG ĐỜI

Từ đó sau những lần về ĐN tôi thường ra căn cứ Liên đoàn 1/BĐQ ở Phú lộc (trên đường ra Ḥa Khánh, quẹo tay mặt) để thăm anh, nhờ đó mà tôi quen gần hết các bạn trong Tiểu đoàn 21/BĐQ, kể cả anh Thiếu úy T. người đ̣i đục tôi trong nhà hàng. Thời gian những năm 66, 67, chiến trường miền Trung vô cùng sôi động. Đồng minh ào ạt đổ quân vào. Tiểu đoàn 21 BĐQ của Thiếu Tá Vơ Vàng đă tạo những chiến công vang dội, báo chí trong và ngoài nước nức ḷng ngợi khen, các cấp chỉ huy Quân Đồng minh nể mặt. Những lần gặp lại anh, tôi được anh thương mến đặc biệt, thường dặn ḍ và bày vẽ những kinh nghiệm chiến trường, v́ duới mắt anh, tôi chỉ là con dê non ưa húc càn. Anh luôn nói về đời lính và yêu đời quân ngũ trên hết mọi chuyện, ở anh chỉ có chiến công và mong sớm có thanh b́nh cho quê hương. Tết Mậu Thân, hai anh em cùng hành quân trên một địa bàn, Nam sông Hương. Khi tạm yên tiếng súng, anh gọi tôi sớm mai đến Bộ chỉ huy (BCH) của anh để uống bia, nhưng đêm đó, tôi nhận lệnh bàn giao khu vực trách nhiệm cho đơn vị bạn, để đến vùng hành quân khác,thất hẹn với anh. Sau Mậu Thân, anh được vinh thăng Trung tá và giữ chức vụ Liên đoàn phó LĐ1/BĐQ. Sau đó anh được thuyên chuyển về Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt, giữ nhiệm vụ Trưởng ban Quân vụ; đây là thời gian dài, chúng tôi không gặp nhau, Trường Vơ Bị Đà Lạt là chỗ dung thân tốt nhất cho những ai muốn t́m chữ THỌ, nhưng trong những bức thư anh gởi cho tôi, anh luôn luôn than buồn chán và nhớ chiến trường. Hơn ai hết, tôi biết con hổ bất đắc dĩ phải xa núi rừng th́ rất nhớ rừng xanh núi thẳm. Anh mong được trở lại thời ngang dọc cũ. Và anh được toại nguyện, anh trở ra cầm quân trong chức vụ Trung đoàn trưởng trung đ̣an 5/SĐ2 Bộ Binh, tôi cứ đinh ninh với tài thao lược và kinh nghiệm của anh, đường tiến thân của anh sẽ thênh thang, rộng mở. Những ngày trước khi Hiệp định Paris được bốn bên kư kết, VC cố đánh chiếm Sa Huỳnh để làm cửa khẩu và cắt đứt con đường huyết mạch Nam Bắc của VNCH; đây là đất anh dụng vơ, anh muốn đánh trận đánh để đời, nhưng đột nhiên tôi nghe anh bị cách chức Trung Đoàn trưởng. Nguời cách chức anh là Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư lệnh SĐ2 BB. Tôi xin dành ít ḍng để điểm qua báo chí về vị tướng này:

Trong suốt cuộc đời binh nghiệp của Chuẩn tướng Nhựt th́ canh bạc x́ phé ông ăn đậm nhất là khi mặt trận B́nh Long nổ ra. Ông đă về nhiệm sở kịp thời để xí phần v́ trên cương vị Tỉnh trưởng và Tiểu khu trưởng B́nh Long, ông không góp tí công lao nào cả, mà mọi chuyện đă có Chuẩn tướng LÊ VĂN HƯNG Tư lệnh SĐ5/BB, Đại tá Lê Quang Lưỡng, Lữ Đoàn Dù, Đại tá HUẤN, Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù lo trọn gói. Khi An lộc được quân dân anh hùng tái chiếm, Bà vợ Chuẩn tướng Nhựt đă chạy cửa hậu với chị Sáu Thẹo, kiếm cho cái chức Tư lệnh SĐ2BB và một ông sao (ông này có số núp bóng quần hồng). Trong trận tái chiếm Sa Huỳnh, SĐ2BB dưới tài cầm quân của Chuẩn tướng Nhựt th́ ra sao (?) xin mời quư vị hăy nghe nhân chứng sống, Trung úy Trần Thy VÂN, người trực tiếp dự trận đánh với chức vụ Đai đội trưởng ĐĐ1/Tiểu Đoàn 21 BĐQ, kể sau đây trong tập bút kư chiến trường ANH HÙNG BẠT MẠNG của Ông: (Theo lời Thiếu tá Quách Thưởng kể, trước khi TT Nguyễn Văn Thiệu đến BCH Trung đoàn 6 xem thành quả tái chiếm Sa Huỳnh, các khối vũ khí được tŕnh bày riêng rẽ, với tấm bảng đề tên đơn vị tịch thu. Dĩ nhiên chiến lợi phẩm của LĐ1/BĐQ cũng được ghi rơ. Đặc biệt thêm một tấm tương tự treo trên ṇng súng pḥng không 12ly8. Nhưng khi phái đoàn Tổng Thống đáp trực thăng xuống và các Sĩ quan Mũ nâu ra sân đón rước, th́ Chuản Tướng TRẦN VĂN NHỰT LIỀN CHO BỘ HẠ NƠI PH̉NG TRIỂN LĂM ĐÁNH THÁO HẾT CÁC TẤM BẢNG GHI CHIẾN LỢI PHẨM, NGHĨA LÀ MỘT DĂY 300 CÂY SÚNG ĐỦ LOẠI DO BĐQ TỊCH THU, BỖNG TRỞ THÀNH CHIẾN LỢI PHẨM CỦA SĐ2BB. Ông c̣n trắng trợn, bỉ ổi không thể tả được là độc nhất có cây pḥng không 12ly8 của ĐĐ tôi cũng bị đánh tráo luôn, không chút ngượng tay. Rơ ràng hành động của Chuẩn tướng NHỰT như anh hàng thịt, treo đầu heo bán thịt chó. Tội nghiệp đám tướng sĩ tượng, cả xe pháo mă đứng xem chỉ biết tấm tắc khen tài, chứ đâu có ngờ ông b́nh vôi, nửa người nửa ngợm, vừa làm tṛ ảo thuật cướp công xương máu BĐQ....) (Xin ngưng trích).

Tháng Tư năm 1975, Chuẩn Tướng NHỰT (hay là GIỰT chạy) kéo được ít quân tháo chạy về Tuy Ḥa, được Trung Tướng Vĩnh Nghi, Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 3, giao cho làm Phụ tá Hành Quân tái phối trí lực lượng. Giữa lúc dầu sôi lửa đỏ, Chuẩn tướng NHỰT lên trực thăng xin đi thị sát mặt trận, nhưng vù thẳng ra Hạm đội 7, đào ngũ. Theo kỷ luật Quân đội: khi đối diện với địch mà đào ngũ th́ ra toà án binh, bị tước đoạt binh quyền và có thể bị Tử h́nh. Nhưng khi qua đến Mỹ, Chuẩn tướng NHỰT đă không bị lột lon, mà c̣n tự phong là Thiếu tướng, ba hoa chích choè. Khi bị báo chí vạch lưng, th́ đánh lận con đen, xưng là Tướng (General) để người ta có thể tưởng là Major General, hay Lieutenant General, hay hơn nữa... mà thực chất là phường biển lận, tên hèn nhát, kẻ vô liêm sỉ, bất tài. Đất nước chúng ta để cho những tên như vậy, giữ trọng trách trấn nhậm những vùng hiểm yếu, mà măi đến 1975 mới rơi vào tay VC, âu cũng là một phép lạ, hy vọng sử sách sẽ dành cho những tên tướng Quảng-lạc này vài chương, để hậu thế tránh vết xe cũ. Hiệp định Paris được kư kết, trong đó có kèm theo 2 Nghị định Thư, tổ chức hai cơ quan thi hành, đó là ICCS (International Commission Control, Surpervision) gọi là Uỷ ban kiểm soát và giám sát quốc tế gồm hai nước CS là Ba Lan và Hungary, hai nước tự do là Indonesia và Canada. Nhưng sau Canada thấy không đi đến đâu nên rút lui và Iran vào thay thế (thời gian này Iran c̣n có Vua Palavi, thân Mỹ) và cơ quan kia là Ban liên hợp quân sự bốn bên và sau c̣n lại hai bên (VNCH và Thằng Giải Phóng đội lốt). Trung tá VƠ VÀNG bị đưa về Phú Bài, Huế giữ chức vụ trưởng toán BLH/Quân Sự VNCH Phú Bài, một chức vụ ngồi chơi xơi nước vối. Anh như con cọp bị chặt hết nanh vuốt, buồn rầu, chán nản. Tôi đến thăm anh, t́m cách an ủi anh, cũng như t́m hiểu nguyên nhân tại sao cờ đến tay anh đang phất mà bị người ta giựt mất. Anh chỉ buồn rầu nói: Chỉ v́ anh biết quá nhiều, người ta sợ anh nổi lên th́ người ta sẽ mờ đi. Nó nhiều tham vọng nhưng tài hèn và nhiều thủ đoạn....

Tôi sợ anh buồn chán, nên đem đến cho anh đủ dụng cụ thể dục và khuyên anh tập đều đặn, để giữ sức khoẻ, người ta sẽ cần đến anh. Trong thời gian ở Phú Bài, công việc của anh có phần nghi lễ, nghĩa là đón tiếp các phái đoàn từ Sài G̣n ra tại sân bay Phú Bài. Một hôm anh ra đón một Đại tá người Hungary, Trung tá Vơ Vàng trong cái bắt tay xă giao, đă bóp nát tay tên Đại tá CS, tên Đại tá này sau đó làm lớn chuyện, gởi văn thư phản kháng đến Trung ương. Anh rất căm thù CS dù dưới màu da nào. Hiệp định Paris chưa ráo mực, CSVN đă vi phạm khắp nơi, Tướng Ngô Quang Trưởng sáng suốt, thấy được viên dơng sĩ đang ngồi chơi xơi nước vối, nên vội gọi vào tŕnh diện và giao cho Liên đội ĐPQ Quảng Nam, h́nh thức tổ chức của Liên đội ĐPQ, cấp số cũng tương đương với Lữ đoàn hay Trung đoàn. Khi đi nhận nhiệm vụ, anh có hỏi tôi: Muốn làm việc cạnh anh không? Tôi biết anh thương tôi, muốn nâng đỡ tôi. Tôi quá quyến luyến màu áo đang mặc, nên xin cho thời gian nữa. Nhưng không có thời gian nào cho chúng tôi nữa cả. Tháng 3/75, Đà Nẵng tan tác, ĐN uất nghẹn đau thương, tan đàn rẽ nghé.... Ngày 5 tháng Tư năm 1975, một buổi sáng tôi ra giếng nước trong Quận Điện Bàn, Quảng Nam (nơi đám tù tàn binh tập trung) để lấy nước, bất ngờ gặp anh, tôi như chết lặng. Tay trái anh được treo lên: Anh cho biết ngày 29/3 mới về đến Đà Nẵng, đang đi trên đường Thống Nhất gần Cầu Ṿng, th́ bị một chiếc xe dân sự tông anh, may mà anh văng lên lề, chỉ bị thương. Tôi thật sự lo lắng cho anh, v́ anh nổi tiếng quá. Ngay đây, nơi tập trung tù binh, cũng không có ai dám gần anh để giúp anh trong khi anh đang bị thương. Tôi chỉ nói với anh, ngay bây giờ anh phải t́m cách thoát, lợi dụng lúc này để thoát, nguy hiểm quá. Tuần lễ sau, tôi bị đưa đi chỗ khác với thầy Hoàng Thế Diệm, không c̣n qua lại thăm anh.

NGƯỜI ANH HÙNG BỊ THỦ TIÊU

Sau thời gian tập trung tại Quận đường Điện Bàn, QN, tất cả tù tàn binh tŕnh diện hay bị bắt tại Đà Nẵng, được đưa lên Trại Kỳ Sơn. Trại Cải tạo Kỳ Sơn gồm 1 tổng trại và 4 phân trại. Sĩ quan cấp tá ở trại I gần mỏ vàng Bồng Miêu. Trại 2 nằm sâu về hướng Tây, dành cho Sĩ quan cấp Đại úy. Trại 3 và 4 dành cho cấp Trung úy trở xuống, gần trại 1 và Tổng trại. Anh Vơ Vàng nằm trong trại 1. Sau thời gian đầu lo xây dựng doanh trại, phát rẫy canh tác, ổn định nơi ăn chốn ở. Tháng 5 năm 1977, đợt học tập chính trị được mở ra trên quy mô rộng lớn. Tất cả đều nghỉ lao động và tham dự 100%. Những buổi học, tất cả tập trung tại hội trường để nghe cán bộ chinh trị lên lớp và sau đó về tổ thảo luận những bài: Đế quốc Mỹ, tên sen đầm quốc tế, kẻ thù số 1 của nhân dân ta và loài người tiến bộ trên trái đất. Hệ thống Xă hội chũ nghĩa.... Nhưng hóc búa và điên đầu nhất là bài Ngụy quân và Ngụy quyền, tập đoàn tay sai bán nước. Sau khi ngồi nghe chưởi rủa trên hội trường, trở về tổ phải liên hệ bản thân, tự giác khai ra những việc đă làm trong thời gian phục vụ trong quân đội VNCH. Đây là bản án, tự ḿnh viết cho ḿnh, ai cũng phải t́m cho ḿnh một cái tội. Sau đợt học tập chính trị, có người như bị kiệt sức v́ bị những đ̣n tra tấn cân năo. Nhiều lúc giữa đêm khuya bị gọi lên khung (bộ chỉ huy) làm việc, cứ tra đi hỏi lại những hoạt động đă qua. Trung tá Vơ Vàng là mục tiêu chính, bọn cai tù nhắm đến, luôn luôn chúng đặt câu hỏi: Trong quá tŕnh chỉ huy BĐQ, Trung đoàn Trưởng, Liên đội Trưởng, anh đă giết bao nhiêu cán bộ CS và dân lành? Mấy ngày đầu anh trả lời: Trên cương vị chỉ huy, tôi chưa bao giờ trực tiếp bắn, c̣n lính dưới quyền, lúc xung trận, ai bắn chậm th́ chết, tôi không biết. Bọn chúng đâu có chịu... bọn chúng quay anh từ sáng tới tối, ngày nọ sang ngày kia, nhưng anh vẫn kiên gan giữ vững lời khai... đến lúc đó, bọn chúng mới đem những tờ báo cũ có ghi kết quả các trận đánh ra và tổng kết tổn thất địch (VC) trong khoảng thời gian anh Vàng chỉ huy, không dưới 20 ngàn VC phơi thây. Bản án Tử h́nh cho anh đă manh nha thành h́nh.

Trong số các vệ binh coi tù, có nhiều tên mới theo VC sau 30 tháng 3/75, gồm nhiều thành phần, có tên rất khát máu, thù hận v́ có thân nhân bà con chết trong cuộc chiến, nhưng cũng có tên nguyên trước 30 tháng 3 là học tṛ của vợ tù, nên cũng dễ dăi và dễ bị mua chuộc để lấy tin tức. Sau đợt học tập chính trị quy mô kéo dài trên một tháng, tất cả tù được lệnh đi lao động trở lại. Một đêm đầu tháng 7 năm 1977, bộ chi huy trại 1 có cuộc họp chi bộ đảng, bản án tử h́nh dành cho Trung tá VƠ VÀNG đă được tổng trại Kỳ Sơn kư từ trước. Buổi họp này có mục đích t́m người t́nh nguyện thi hành bản án. Tên Nguyễn Bốn, tên vệ binh loắt choắt, nhỏ con nhưng khét tiếng ác độc và khát máu đối vời tù, đứng lên t́nh nguyện thi hành. (tên Bốn này có cha hoạt động nằm vùng cho VC bị nghĩa quân giết). Buổi trưa hè tháng 7 năm 1977, tổ của Trung tá Vơ VÀNG có nhiệm vụ tỉa bắp trong rẫy, cạnh sông Vàng (nói là sông, nhưng thật sự là ḍng suối nhỏ chảy qua các ghềnh đá bị xoi ṃn rất đẹp) trong khu vực Mỏ Vàng Bồng Miêu. Trời đứng bóng, nắng chang chang, tất cả tổ nghỉ lao động kéo nhau vào bóng mát, lấy vắt cơm sắn và chút nước mắm cái ra ăn, th́ tên Nguyễn Bốn xuất hiện với AK trên tay, ra lệnh: Anh Vàng theo tôi lên đồi nhổ sắn (củ ḿ) về bồi dưỡng cho cả tổ. Linh tính báo cho biết việc chẳng lành, anh em trong tổ nhao nhao lên: Xin anh cho tôi đi nhổ sắn thay, v́ anh Vàng mấy hôm nay bị kiết lỵ, yếu lắm. Nhưng tên Bốn vẫn khăng khăng bắt anh Vàng đứng lên đi lên đồi. Khoảng từ 7 đến 10 phút sau, th́ một loạt AK nổ. Lát sau, tên Bốn trở xuống nói: Các anh lên đem xác tên Vàng xuống chôn cất, nó giựt súng tôi, nên tôi đă xử lư. Bọn khốn nạn, lũ hèn nhát đă giết anh một cách hèn hạ. Tại sao chúng lại dựng nên tấn tuồng giết người tay không một cách hèn hạ như vậy? V́ bản chất chúng là bọn người hèn hạ, đê tiện, làm việc ǵ cũng không quang minh, chính đại, hành động của lũ đầu trộm, đuôi cướp.... Anh đă tức tưởi nằm xuống bên ḍng sông Vàng, trong khu Mỏ Vàng Bồng Miêu, như là một định mệnh....

Anh VƠ VÀNG kính yêu, đă 29 năm, ngày Tổ quốc bị bức tử, 27 năm ngày anh bị chúng hành h́nh một cách hèn nhát. Thời gian đủ để mọi người mở mắt nh́n thấy rơ Thiên đường Cộng sản, thời gian đủ dài để xác thân anh trở về với cát bụi, và em tin tưởng linh hồn anh đang oai nghi, thanh thản ở cơi vĩnh hằng. Xin hăy cho em một lần được nhắc đến tên Anh, Anh VƠ VÀNG, với ḷng kính phục và thương tiếc sâu xa, một người anh, một chiến sĩ QLVNCH kiệt xuất, hy sinh hết tuổi thanh xuân và cống hiến thân xác cho đại cuộc: Bảo vệ Tự Do cho Tổ Quốc. Xin anh cho em được đốt nén hương tưởng niệm anh nhân ngày giỗ thứ 27 của anh. Xin anh cho em một lần nữa nhỏ nước mắt nhớ thương Anh.

Trương Đức Thủy

Về Một Lời Hứa Từ 39 Năm Qua

Kính gửi chị Đường - Phu nhân cố Trung Tá Vơ Vàng,

Tôi không c̣n nhớ ḿnh đă từng kéo bàn phím chiếc computer ra bao nhiêu lần nữa, không phải để ‘check’ những ‘mail’ của bạn bè xa gần gửi đến hay t́m kiếm vài thông tin cần thiết hầu bổ sung cho cái ‘nghề tay trái’ đă nuôi sống bản thân và gia đ́nh trong mấy chục năm qua, mà như muốn viết lên một điều ǵ đó, một sự kiện ǵ đó đă xảy ra trong những đoạn đường đời ḿnh đă đi qua. Nhưng rồi, cứ mỗi lần nh́n đăm đăm vào chiếc màn h́nh trắng xóa th́ đầu óc lại không nhớ ra được ḿnh phải gơ lên đó những ǵ dù vẫn có cảm giác như có ai đó đă và đang hối thúc tôi ghi lại những ǵ đă ch́m sâu dần trong kư ức qua bao năm tháng dài tôi vừa phải vật lộn với cuộc sống hằng ngày, vừa phải lạng lách tránh những ŕnh rập vô h́nh măi đeo đẳng tôi cho đến bây giờ…

Rồi bỗng dưng, như một cơn mưa bất chợt giữa ngày Hè nóng bức, trong cuộc gọi chuyện tṛ b́nh thường gần đây nhất với một người vừa là bạn, vừa là đàn anh trong quân ngũ, ở xa, không biết có phải từ những kư ức anh ấy đang cùng với một người bạn gợi lại về quăng đời lao tù trong những nơi Cộng Sản gọi là Trại Tù “Cải Tạo” mà thực chất là Trại Tù Khổ Sai dành cho những Sĩ Quan của chế độ cũ, anh đột nhiên nhắc đến tên của ‘một người’. Lời nhắc này giống như tiếng gơ rất mạnh khiến kư ức tôi mở toang cánh cửa đă vô t́nh đóng kín một lời hứa sau lời xin lỗi với ‘người ấy’ từ hơn 38 năm qua. Và tôi chợt liên tưởng đến những lần muốn kể lại điều ǵ đó từ lâu đang cứ lảng vảng trong tiềm thức khiến tôi măi ray rức, canh cánh trong ḷng….

Lời xin lỗi kèm theo lời hứa với ‘người ấy’ đă chỉ được nói lên trong thầm lặng trong khi tôi và anh Chí (Nhà trưởng thuộc Khối 1 của Trại Tù Kỳ Sơn vào khoảng giữa năm 1977) được lệnh trực tiếp từ tên “Quản giáo” Nhà phải tường tŕnh vụ ‘người ấy’ bị bắn chết, hoàn toàn trái ngược với sự thật, ngược lại với những ǵ chúng tôi đă nghe bằng chính tai và chứng kiến bằng chính đôi mắt của ḿnh.

Từ trại tạm giam tại Điện Bàn, Quảng Nam vào thượng tuần tháng 4/1975, sau khoảng gần 2 tháng và cũng sau khi Sài G̣n thất thủ, chúng tôi bị chuyển lên Trại Kỳ Sơn, Bồng Miêu (Tam Kỳ, Quảng Tín). Từ lúc xe lăn bánh, chúng tôi (số Sĩ quan cấp Tá) đinh ninh sẽ bị đưa ra các trại giam ngoài Bắc (theo tin đồn). Nhưng khi ra đến Quốc Lộ 1 th́ đoàn xe quẹo trái hướng về nam khiến chúng tôi không thể nào đoán được ḿnh sẽ bị đưa đến đâu. Dọc đường, tôi chỉ biết theo dơi những điểm đoàn xe đă đi ngang qua và nhớ lại rất rơ từng địa danh, v́ là vùng trước kia đơn vị tôi đă từng vượt qua trong những lần hành quân (từ cuối 1969 đến giữa 1971).

Đoàn xe đến Tam Kỳ th́ quẹo phải về hướng núi và tiếp tục trên con đường đất rộng khoảng 6-7 mét, lạ hoắc với tôi. Lúc này tôi chỉ c̣n theo dơi cảnh vật gần xa dọc 2 bên đường mà thôi.

Khoảng hơn 50 phút sau, (hồi đó, hầu hết tù binh chúng tôi đều c̣n mang đồng hồ, v́ tại trại Điện Bàn hằng ngày chỉ nghe giảng thuyết về tư tưởng Cộng Sản chứ không bị buộc lao động) đoàn xe chở chúng tôi dừng lại trước một khu trại đă có sẵn mấy chục căn nhà lợp tranh và chúng tôi được lệnh xuống xe vào trại.

Chúng tôi bị chia thành từng toán, mỗi toán gốm 25 người, không phải theo danh sách đă có sẵn mà do ngẫu nhiên, tức là tự động sắp thành từng hàng dọc và ai muốn bước vào hàng nào th́ cứ việc, miễn sao đủ 25 người là được. Sau đó, một người trong mỗi toán mới ghi tên họ những người trong toán, làm thành từng danh sách. Và mỗi toán sẽ ở trong cùng một căn nhà; mỗi 4 Nhà (ngoài Bắc gọi là Buồng) th́ thành một Khôi. Và Trại chúng tôi có tên là Trại 1. Sau đó mới biết Tổng Trại Tù Kỳ Sơn gồm cả Trại 2,3 và 4 nằm quanh quẩn cách Trại 1 chừng 3 hay 4 km do Bộ đội quản lư. Ngoài ra c̣n có một Trạm xá nằm đối diện hơi chênh về phía phải với Trại 3 nhưng ở phía bên kia con lộ chính, sâu vào khoảng 30 mét.

Nhà chúng tôi thuộc Khối 1 gồm hầu hết là Trung Tá và Thiếu Tá, chỉ có 4 hay 5 Đại úy. Tôi chỉ c̣n nhớ một số tôi c̣n ấn tượng do thường chuyện tṛ, cùng toán đi lao động hay ngủ cạnh nhau trên một dăy sạp bằng tre:

- Cấp Trung Tá có Ngô-Hoàng (SĐ2BB, người Huế), Ng-văn-Tố (từng là Tỉnh Trưởng Phú Yên, người Huế), Ng-văn-Thành (Liên đoàn Trưởng Địa Phương Quân, người Huế), Vơ-Vàng (gốc Biệt Động Quân, người Quảng - gọi chung cho Quảng Nam và Quảng Ngăi), Thuật-Xáng (CTCT/QĐ 1, người Huế ), Cẩn (Pháo.Binh, người Quảng-Trị), Liên (Không.Quân, người Nam), Chí (Truyền Tin, người Bắc), v.v…

- Cấp Thiếu Tá có Khoa ( Pháo.Binh, người Huế), Bảo (Pháo.Binh, người Bắc), Cảnh (Bộ Binh SĐ 2, người Huế), Cúc (Ban 2 Tiểu Khu Quảng.Nam, người Quảng ), Hiển (Cảnh Sát, người Huế), tôi (Kỵ Binh, người Huế),v.v…

- Và cấp Đại úy có Chí, Hóa (Công Binh, người Huế), Ninh (Ban 2 Chi.Khu Q.Tín, người Quảng ), v.v…

Mỗi Nhà bầu một Nhà trưởng, và chúng tôi đă bầu anh Chí (để phân biệt với anh Chí cấp Trung Tá, chúng tôi thường gọi anh là Chí ‘nhỏ’). Mỗi Nhà do 1 Quản giáo trách nhiệm. (theo như tôi để ư, hầu hết Quản giáo đều là người Quảng). Riêng về Khối th́ anh Ngô-Hoàng (do Cán bộ chỉ định) làm Khối trưởng Khối 1. Từ đó chúng tôi dần dần làm quen với nhau và cũng từ nơi này chúng tôi bắt đầu nếm mùi vị của tù lao động khổ sai.

Hàng tháng, chúng tôi phải “học tập Chính trị”, thường th́ theo từng toán gồm ½ Nhà (khoảng 12 hay 13 người), do” Quản giáo” hướng dẫn. Có lúc ½ nhà học chính trị và ½ Nhà c̣n lại đi lao động. Và mỗi 2 hay 3 tháng th́ toàn Trại học tại Hội trường do 1 tên chính trị viên từ cấp cao hơn đến phụ trách.

Khoảng hơn 3 tháng sau, gia đ́nh, thân nhân được phép đến thăm tù nhân theo định kỳ mỗi tháng 1 lần tại một căn nhà tranh lớn và tương đối rộng, dựng trên một ngọn đồi thấp, chung quanh là những bụi cây nhỏ cao khoảng hơn 1 mét, ngay ngả ba của đường vào trại 1,2 và 3 (Trại 3 nằm trên cùng một con lộ với Trại 1), cách Trại 1 chúng tôi khoảng 3 km, gọi là Trại Tiếp tân.

Cũng nhờ vào những lần thăm viếng này mà chúng tôi được cung cấp thông tin về t́nh h́nh bên ngoài của một số địa phương kèm theo một ít thức ăn, nhất là đường (loại bánh đường đen hay những miếng đường màu vàng, thứ mà chúng tôi thèm, nhất là trong thời gian lao động nặng).

Khoảng hơn 1 năm sau, sự kiện đầu tiên đă xảy ra, không phải tại các Trại tù mà ngay tại Trạm xá của Tổng trại :

Bác-sĩ Phạm-văn-Lương (nghe nói trước năm 1975 đă từng cầm lựu đạn đến tại cửa ṭa nhà Quốc Hội để chống đối Chính Phủ) đă tự vẫn bằng thuốc chống sốt rét ‘Chloroquine’.

Sau này một vài người trong nhà chúng tôi được vài tù nhân phục vụ tại Trạm xá kể lại về cái chết vật vă bằng loại thuốc này thật khủng khiếp: trước khi chết, anh đă điên cuồng búng người từ sạp này đến sạp khác, quằn quại rồi co quắp một hồi mới tắt thở. Họ cho biết thêm là khoảng 1 tháng trườc đó, sau lần gần nhất được vợ con đến thăm, anh Lương đă tỏ vẻ buồn bực, ít nói hơn. Điều suy đoán tương đối hợp lư cho lư do này là từ những thông tin do gia đ́nh những tù nhân quen biết và sống gần gia đ́nh anh Lương đă cho biết sự thật rất phũ phàng : vợ anh phải đi bán dạo quanh chợ Cồn (Đà Nẳng) để nuôi con. Rồi những lời bàn tán của tù nhân đă đến tai anh. Và thế là ‘Xă hội lư tưởng’ trong anh rách nát, ‘Thiên đường Cộng Sản’ trong anh vỡ vụn. V́ không chịu được cú sốc này, anh đă tự kết liểu đời ḿnh.

Sự kiện thứ 2 đến từ những buổi “học Chính trị”, nói đúng hơn là những lần phải kể lại lư lịch và cái được mô tả là ‘tội ác’ của tù nhân đối với ‘Nhân dân’ và “Cách mạng”. Mỗi lần học, chúng tôi phải khai lại lư lịch, không phải viết trên giấy mà phải tự phát biểu. (nhờ vậy mà về sau, chúng tôi biết anh Ngô-Hoàng có thân nhân tập kết đă vào Nam với chức vụ cao; anh Vơ-Vàng có người anh là “Trung tá Bộ đội” và anh Cúc có cha là “Đại tá Bộ đội”. Tất cả những thông tin bổ sung này có lẽ là do gia đ́nh họ đă cung cấp trong những lần ‘thăm nuôi’).

Riêng về mục kể ‘tội ác’ th́ chúng tôi, nhất là những người đă ở trong đơn vị tác chiến, phải nhớ thêm và nói cụ thể hơn số lượng Việt cộng (du kích, đơn vị địa phương hay bộ đội chính quy) đă bị chúng tôi giết trong những lần hành quân nào, tại những nơi nào, vào những thời điểm nào. Dĩ nhiên, chúng tôi vẫn nhớ chính xác một số yếu tố, c̣n về số lượng th́ phải khôn ngoan nói càng ít càng tốt để tội được nhẹ hơn. Riêng về anh Vàng, khi anh phát biểu, ngoài tên “Quản giáo” của Nhà chúng tôi c̣n có tên “Quản giáo” của Nhà bên cạnh (cũng là người Quảng) cũng bước qua tham gia. Giọng điệu tên này th́ ghê gớm và chứa nhiều hận thù hơn.

Qua những lần đó, tôi mới biết thêm thông tin cá nhân của anh Vàng (khóa 17 VBQGĐL), trong đó những chiến công của anh hồi c̣n làm Tiểu đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 21 thuộc Liên đoàn 1 Biệt Động Quân và sau đó là Trung đoàn Trưởng Trung Đoàn 4 hay 5 ǵ đó thuộc Sư Đoàn 2 BB đă rất vang lừng. (Tôi th́ nhập ngũ sau anh mấy năm và chỉ hành quân ở vùng Bắc đèo Hải Vân đến Bến Hải. Và thời gian đơn vị tôi nằm ở Đà Nẵng đă hành quân chung với Liên đoàn 1 BĐQ tại vùng Thăng B́nh, Quế Sơn và B́nh Giang, B́nh Dương năm 1970 th́ tôi không gặp được anh mà chỉ gặp anh Khang – Tiểu Đoàn 39, anh Thiết và anh Thưởng – Tiểu Đoàn 21 và 37 và Trung tá Hiệp là Liên Đoàn Trưởng). Do đó, mũi dùi của đám “Quản giáo” này nhắm vào anh nhiều nhất (có lẽ do vùng hành quân của đơn vị anh thuộc Quảng Nam và Quảng Ngăi).

Vào khoảng gần giữa năm 1977, trong buổi học chính trị cho toàn trại tại Hội trường, tên Chính trị viên (người Quảng), không biết từ cấp cao nào đến phụ trách, bô lô ba la gần cả giờ về đường lối chính sách của Đảng, tương lai đất nước, v.v… Rồi đến mục khuyên tù nhân thành thật khai báo về ‘nợ máu’ chúng tôi đă gây ra. Nó đă chuyển cụm từ ‘tội ác’ thành ‘nợ máu’, nghe càng rùng rợn hơn. Tôi tự hỏi: ‘Như vậy, nợ máu th́ phải trả bằng máu sao ?’

Sự kiện thứ 3 đă xảy sau buổi học chính trị toàn trại chỉ khoảng 2 tuần.

Hôm đó là ngày Chúa Nhật và cũng là ngày gia đ́nh tù lên thăm nuôi. Khoảng 8 giờ sáng, Nhà chúng tôi có anh Vàng được tên vệ binh Bốn đến gọi ra sắp hàng tại cổng trại cùng với số anh em tù từ các Nhà và Khối khác để nó dẫn ra Trại tiếp tân. Toán thăm nuôi đầu tiên thường được gọi là Toán 1. Khoảng 30 phút sau, tôi cũng được gọi tên ra sắp vào một toán khác gọi là Toán 2 và được một tên vệ binh người Bắc dẫn đi. Khi toán chúng tôi ra đến Trại Tiếp tân th́ mạnh ai nấy kiếm chỗ riêng để cùng gia đ́nh tṛ chuyện, một số ngồi trong trại, một số chọn những bụi cây quanh đó ngay phía bên ngoài trại cách khoảng 10 mét. Thời gian thăm nuôi chỉ được kéo dài 1 giờ theo qui định. Và hôm nay th́ tên Quản giáo phụ trách Trại Tiếp tân là người Bắc, không biết thuộc Khối nào.

Chỉ khoảng gần 15 phút sau, tôi nghe tiếng tên Bốn gọi tập họp Toán 1 để nó dẫn về. Và khoảng 3 phút sau, tôi lại nghe tiếng quát tháo khiến anh em đang ngồi quanh đó đều đứng lên, c̣n tôi th́ bước nhanh đến đó, thấy khoảng 8 người đang đứng sắp hàng chờ điểm danh và kiểm tra những thứ gia đ́nh họ mang lên thăm nuôi, riêng anh Vàng th́ đang đứng đối mặt với tên Bốn, nói :
- “Tôi đă xin phép anh Quản giáo được thăm nuôi thêm một xuất nữa.”

Tên Bốn quát :
- “Anh không chịu vào sắp hàng th́ tôi bắn đấy!”

Nói xong nó cầm súng, lên đạn rắc rắc và chỉ thẳng vào anh Vàng. Anh em quanh đó, ngay cả tôi, đều nghĩ rằng anh Vàng sẽ phải nhịn nhực và đứng vào hàng. Không ngờ anh dùng 2 tay banh ngực áo và nói lớn :
- “Muốn bắn th́ bắn đi!”

Cũng may tên “quản giáo” người Bắc đến vừa kịp, nói ngay:
- “Anh Vàng đă xin phép tôi thăm nuôi thêm một xuất. Và anh ấy sẽ về theo Toán 2”.

Tên Bốn hạ súng xuống một cách miễn cưỡng, đôi mắt nó vẫn đỏ ngầu trên nét mặt đầy hậm hực, khoát tay ra lệnh cho Toán 1 bắt đầu đi về, không nhớ đến việc điểm danh và kiểm tra mấy chiếc bị của tù. (Thật ra th́ chỉ là toán ít người, c̣n việc kiểm tra th́ có thể thực hiện sau khi toán vào cổng trại.)

Cũng chính từ sự kiện này, tôi để ư đến tên Bốn nhiều hơn, v́ chưa từng nghĩ rằng một tên Việt Cộng (không biết là du kích hay bộ đội chính quy v́ màu sắc áo quần của nó là màu xám mà áo quần bộ đội là màu olive) mặt mày c̣n non choẹt, tuổi đời tối đa khoảng 22-23, nhỏ con, mà lại ‘khát máu’ như vậy. Và cũng chính từ đây, tôi thán phục anh Vàng nhiều hơn. Thán phục v́ anh đă làm được điều mà tôi, hay đúng hơn là chúng tôi, không thể làm được, dù cho hành động của anh có xuất phát từ ḷng tự ái hay sự bộc phát nào đó th́ cũng vẫn thể hiện sự bất khuất của một Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa trước kẻ thù trong hoàn cảnh cá chậu chim lồng này.

Thú thật th́ trước đó tôi đă có phần ngưỡng mộ anh về những chiến công anh đă kể lại trong những buổi học chính trị nên t́m cách tṛ chuyện với anh nhiều hơn, dù biết anh rất ít nói. (người tôi thân nhất trong Nhà là anh Tố và v́ anh lớn tuổi hơn nhiều nên tôi thường gọi anh là ‘Bố’). Có lẽ anh cũng hơi thích tôi do tôi là người hay kể chuyện vui, bông đùa và cười lớn tiếng thoải mái nhất trong Nhà. Nhờ vậy mà tôi biết được vợ anh tên Đường, là Giáo viên trước 1975.

Thế rồi, sau khoảng hơn 1 tháng, lúc này trong năm, thời tiết vào khoảng cuối mùa Hè nên không quá nóng như tại những vùng Huế, Quảng Trị và Đông Hà, một phần là do các trại tù đều nằm trong vùng núi, vào một buổi sáng, sau khi anh Chí ‘nhỏ’ (Nhà trưởng) đi họp nhận công tác cho Nhà về, vác theo một bao bố chứa những con ‘dao tông’ và ‘rựa’ và cho biết hôm nay cả Nhà sẽ lao động tập thể. phát quang tại vùng C̣ Bay (đường lên Mỏ vàng Bồng Miêu). Chúng tôi ăn sáng với chế độ ít hơn 1/3 với bữa ăn trưa, rồi lần lượt bới theo cơm trưa chứa trong ‘lon Gô’ (loại bằng nhôm đựng sữa bột Guigoz của Hà Lan dành cho trẻ sơ sinh đến 2 tuổi, khuấy tan với nước nóng để bú bằng b́nh hay bằng ly, tách), một số th́ dùng ‘gà men’ của Quân đội được thân nhân mang lên trong những lần thăm viếng tại ‘Trại Tiếp tân’. Rồi lần lượt xuống ‘Nhà bếp’ lấy nước sôi đổ vào bidon’(b́nh nhựa chứa nước của Quân đội). Những người trẻ như tôi, anh Vàng, anh Thành, Chi, Hóa, Ninh, Cảnh th́ nhận ‘dao tông’(loại dao dài gần 5 tấc với cán dính liền bằng sắt dùng để chặt những cây nhỏ bằng bắp tay), người lớn tuổi th́ nhận ‘rựa’ (loại dao dài chừng 7 tấc gồm luôn cán bằng gỗ dài khoảng 3 tấc, đầu rựa có mấu cong xuống, dùng để chặt tre, phát quang lau sậy, vót lạc, chẻ mây, và nhiều công dụng khác nữa); rồi lần lượt mài dụng cụ trên 2 tảng đá nhỏ đặt sau Nhà (chúng tôi vác chúng lên từ suối để tiết kiệm thời gian phải xuống suối mài trước khi đi lao động). Tiếp đến, chúng tôi được chia thành 2 toán, mỗi toán có 12 người. (riêng anh Cúc th́ thuộc thành phần không lao động ngoài trại được do gót chân đă bi thương trước khi vào Trại nên thường ở nhà trực pḥng, – một vài người trong Nhà của chúng tôi nghi ngờ anh làm ‘antenne’ v́ chính bản thân tôi đă bị 2 lần viết ‘Kiểm điểm’ do có người báo cáo tôi phát ngôn bừa băi trong những lúc chuyện tṛ với anh em ngay tại Nhà. Ví dụ như tôi đă đổi câu châm ngôn của họ : ‘Cho không lấy, thấy không xin’ thành ‘Không cho cũng lấy, không thấy cũng xin !!’…).

Đa số người trong Toán 1 chúng tôi có cấp bậc Thiếu Tá và Trung Tá trong đó có anh Vơ Vàng, cấp Đại úy chỉ có anh Chí và Hóa. Hành trang lao động là chiếc bị vải tự tạo có quai mang vai (có người được thân nhân gửi lên bao đeo mặt nạ ngừa hơi độc của Quân đội), chứa b́nh nước, bữa ăn trưa, vơng nylon hay vải và tấm nylon dùng làm áo mưa.

Đúng 07:30, Nhà chúng tôi bắt đầu di chuyển theo hàng dọc ra cổng trước của Trại, ngay con lộ lên Bồng Miêu, (cổng sau dẩn thẳng ra con suối cạn, rộng khoảng 40 mét, chảy ngoằn ngoèo theo dảy núi phía đối diện, chỉ dùng cho những lúc đi lao động nặng, riêng lẻ hoặc toán ít người và là nơi tắm rửa, giặt giũ), quẹo phải lên hướng vùng C̣ Bay theo con lộ đất rộng khoảng 4-5 mét. Dẩn đầu là tên vệ binh Bốn (người Quảng) và sau cùng là một vệ binh (người Bắc, tôi không nhớ tên). Cả hai đều mang AK-47. (Thường th́ khi tù binh đi lao động ngoài trại với những toán trên 5 người đều có vệ binh đi theo, khi th́ 1 người, khi th́ 2 người).

Thời tiết hôm đó vào buổi sáng vẫn c̣n mát mẻ dù mặt trời đă lên khá cao nhưng bị dăy đồi cao phía đông che khuất. Trong khoảng hơn 2 năm, chúng tôi đă từng đi trên con lộ này không dưới 20 lần nên cảnh vật chung quanh chẳng c̣n ǵ xa lạ nữa, ngoại trừ đám lau sậy và cây nhỏ dọc mé trái lộ đă được phát quang ngày càng xa dần lên hướng C̣ Bay.

Chúng tôi đi khoảng hơn 3 km, đến hết ranh đám lau sậy đă được phát quang, th́ tên vệ binh Bốn hô lớn bảo dừng lại và kêu anh Chí lên ra lệnh ǵ đó. Mấy phút sau th́ nghe Chí bào toán 2 tạt về mé trái con lộ và chỉ định anh Ninh làm trưởng toán với nhiệm vụ phải phát quang dọc bên trái lộ lên hướng C̣ Bay. Từ điểm này lên hướng Tây nam th́ vẫn c̣n đầy lau sậy cao hơn đầu người hơn 1 mét.

Toán 1 của chúng tôi cứ tiếp tục đi xa hơn khoảng hơn 300 mét th́ được lệnh dừng lại và nhận nhiệm vụ phát quang phía bên trái con lộ, sâu vào khoảng 40 mét rồi chuyển hướng dọc theo con lộ lên hướng núi có Mỏ Vàng. Ra lệnh xong, tên vệ binh Bốn và tên vệ binh người Bắc tiếp tục đi thẳng về phía trước. Theo kinh nghiệm từ những lần đi lao động và những khi được giao nhiệm vụ đi theo phát quang cho toán địa chất lên các ḷ của Mỏ Vàng Bồng Miêu, (thường th́ 2 tù binh đi theo để phát cây dọn đường cho toán địa chất gồm 3 hay 4 Kỹ sư có mang súng ngắn ) tôi đoán khoảng 80 mét nữa là đến chiếc cầu xi măng nhỏ, rộng khoảng 2 mét, dài khoảng 8 mét bắc qua con suối thường hầu như cạn nước vào mùa hè, v́ phía trước khoảng 30 mét đă hiện ra khúc quanh quẹo chênh về trái. Phía bên bờ Nam của suối cũng đầy lau sậy dày đặc chạy dài khoảng 300 mét th́ đến vùng trống trải có những căn nhà gạch đă rêu phong, tốc mái, đổ nát trên 60%, cạnh một nhánh suối nhỏ vẫn c̣n những bụi trúc vàng rất đẹp hai bên bờ. Đặc biệt nơi này c̣n sót lại vài đoạn đường ray rộng khoảng 8 tấc và dài khoảng 20-30 mét. Nghe đám địa chất nói th́ đây là những di tích hồi Pháp khai thác mỏ vàng.

Chúng tôi kiếm những cây nhỏ sát con lộ, chặt nhánh nhỏ, chừa một đoạn ngắn chỉa ra để treo những chiếc bị và bắt đầu dàn hàng ngang phát trống lau sây sâu vào chân dảy đồi khoảng 40 mét rồ́ đổi hướng phát dọc theo con lộ.

Dù có được khoảng 10 để uống nước và giải lao sau khoảng 1 giờ lao động (nhờ anh Chí ‘lớn’ và anh Tố vẫn luôn mang theo đồng hồ đeo tay trong túi quần. C̣n phần lớn th́ đă gửi về cho vợ bán lấy tiền nuôi con), chúng tôi cũng cố làm sao để phát quang một diện tích đáng kể trong ngày, nếu không th́ mấy tên vệ binh sẽ báo báo là lao động không tích cực và bị làm kiểm điểm. Mặt trời lên cao dần, giáng xuống đầu và lưng chúng tôi những luồng nóng rát hừng hực khiến mồ hôi liên tục búng ra đẫm ướt cả áo và mặt như đang đi trong mưa. Cho đến khi mặt trời gần đứng bóng, chúng tôi nghỉ khoảng 1 giờ để ăn bữa trưa chứa trong bị mang theo. Mỗi tụm 2 hoặc 3 người cố t́m một bóng cây nào quanh đó để tránh nắng nhưng quả thật rất khó. Chỉ c̣n cách chui đại vào những lùm sậy rồi dùng rựa phạt đứt sậy cao ngang đầu người và dùng chiếc vơng mang theo căng phủ lên phía trên tạo bóng dim bên dưới và mở lon cơm chừng 1 chén với ‘mắm cái’ và ngấu nghiến, mơ màng tưởng tượng một bữa ăn thịnh soạn để đánh lừa bao tử. Ăn xong th́ xé giấy báo vấn một điều thuốc ‘rê’, dựa lưng vào bụi sậy, vừa ph́ phà vừa trao đổi vài nhận xét bâng quơ cho có chuyện mà thôi.

Khoảng 1 giờ chiều, chúng tôi tiếp tục g̣ ḿnh vào công việc c̣n dang dở. Đến khoảng 2 giờ, chúng tôi mới nghỉ giải lao được khoảng 5 phút th́ tên vệ binh Bốn và tên vệ binh người Bắc từ hướng Bồng Miêu đi về. Tên Bốn bèn nói lớn :
- “Anh Chí cho tôi 1 người lên phía trước để chặt những cây lau về bó làm chổi quét”.

Nghe tiếng nói, chúng tôi ngừng tay và nh́n Chí. Dĩ nhiên, nếu chặt lau sậy th́ phải dùng rựa, v́ khi chặt được một số lau th́ dùng mấu rựa kéo về đằng sau. Tôi thấy Chí chỉ vào anh Xáng đang cầm cây rựa cạnh anh và nói :
- “Anh Xáng theo mấy anh vệ binh lên phía trước chặt lau đi !”.

Anh Xáng bèn bước đến một cây nhỏ gần đó lấy chiếc bị hành trang có mang nước theo để uống. Bỗng nhiên tên vệ binh Bốn cản lại và nói :
- “Anh lớn tuổi rồi nên chặt không nhanh. Anh đổi cây rựa cho anh này nè – vừa nói nó vừa chỉ tay vào anh Vàng đang cầm dao tông”.

Thế là anh Xáng và anh Vàng đổi dụng cụ cho nhau và anh Vàng đến lấy hành trang rồi đi theo 2 tên vệ binh. Chúng tôi đều nghĩ rằng đây chỉ là chuyện b́nh thường… rất b́nh thường. Hợp lư nữa là khác. Và chúng tôi lại tiếp tục công việc, cố làm sao để khi tối đến, sau khi cơm nước, họp b́nh bầu cá nhân xuất sắc tại Nhà mà khỏi bị làm kiểm điểm. Thật ra th́ những h́nh thức lao động toàn Nhà như thế này, việc nhận xét ‘tích cực’ hay ‘tiêu cực’ đều do sự cao hứng của vệ binh đi theo mà thôi.

Khoảng hơn 10 phút sau, chúng tôi bỗng nghe 3 tiếng nổ đoàng đoàng đoàng liên tiếp, nhưng từng phát một, ở phía trước, chắc chắn là từ súng AK của 2 tên vệ binh. Tôi buột miệng cười nói: – “Chắc là con nai nào xui xẻo đă bị hạ rồi. Tối nay thế nào mỗi người cũng đều có 1 miếng thịt bồi dưỡng”.

Nghe thế, tôi thấy mấy anh c̣n lại cũng mỉm cười tỏ vẻ đồng t́nh. (V́ thỉnh thoảng chúng tôi cũng đă từng được bồi dưởng bằng thịt heo rừng hay nai).

Đúng là đă hơn 2 năm rối mới nghe lại tiếng súng nên lúc đầu ai cũng hơi hốt hoảng, ngay cả bản thân tôi đă từng là dân tác chiến cũng có chút bàng hoàng, nhưng chỉ trong vài giây thoáng qua. Chúng tôi lại tiếp tục công việc.

Khoảng 5 phút sau, tên vệ binh Bốn, từ phía trước trở về, cách chúng tôi chừng 10 mét, đă kêu lớn :
- “Anh Chí ! Kêu thêm một anh nữa lên phía trên này ngay, không cần mang theo dụng cụ”.

Mọi người lại dừng tay. Riêng tôi th́ thầm nghĩ : ‘Không lẽ ḿnh đă đoán đúng ?’ Chí liếc nh́n quanh và đột nhiên gọi tôi (đang đứng trong hàng ngang cách xa anh 2 người về phía bên phải, gần con lộ):
- “Anh X… bỏ dao xuống và theo tôi”.

Vẫn là điều b́nh thường… rất b́nh thường !! Tôi và Chí bước nhanh để theo kịp tên vệ binh Bốn. Đúng là chỉ khoảng 70 mét, chúng tôi đă thấy chiếc cầu xi măng bắc qua con suối và tên vệ binh người Bắc đang đứng trên cầu. Chúng tôi đến cách cầu chừng 6-7 mét (tại điểm này th́ mé trái con lộ đă vừa mới được phát quang sâu khoảng hơn 1 mét, c̣n sót lại một cây cao, nhỏ và thẳng, trên cành thấp nhất c̣n lủng lẳng chiếc bị của anh Vàng) th́ tên Bốn chỉ tay xuống suối, phía bên trái cầu và nói :
- “Hai anh xuống dưới đó đi !”.

Chúng tôi cũng vẩn đinh ninh một con nai đă bị bắn hạ ngay dưới suối nên vội tạt trái, vừa bước vừa nh́n xuống chân, thận trọng để khỏi dẩm phải những gốc sậy bén. Đến được bờ suối th́ cảnh tượng trước mắt hiện ra giống như một chiếc búa tạ, đập tan vụn những ư nghĩ lạc quan đang nhảy múa trong đầu óc chúng tôi rồi nhét thay thế vào đó sự sợ hăi, thảng thốt : cách chúng tôi khoảng 3 mét, không phải là xác con nai mà là anh Vàng đang nằm sấp, mặt úp xuống bờ cát của ḷng suối c̣n ẩm nước, tay phải hơi giang ra và bàn tay c̣n nắm lơi một phần cán rựa, chân hướng về phía chúng tôi. Tôi cảm thấy như có một luồng khí lạnh từ nổi sợ len lỏi vào dọc xương sống, c̣n Chí th́ mặt mày tái nhợt hẳn ra, cùng ngước nh́n lên tên Bốn đang đứng trên cầu, cách chúng tôi khoảng hơn 4 mét theo đường huyền h́nh tam giác. Có lẽ thấy chúng tôi ngập ngừng không dám bước tiếp, nó dùng súng quơ quơ ra dấu bảo chúng tôi đi tiếp đến chỗ anh Vàng. Tôi, dù muốn dù không, là dân tác chiến nên tốc độ lấy lại b́nh tĩnh chỉ trong mấy giây, bèn đi trước đến sát chân anh Vàng và thấy ngay trên lưng áo của anh đă bị 3 lổ thủng nằm dọc từ hơi dưới vai trái xuống gần thắt lưng bên phải, giống như 3 trái bi trên bàn bi-da Pháp nằm theo thế ‘gị gà’ vậy. Tôi bảo Chí đang đứng phía sau :
- “Chí hăy lên phía đầu của anh Vàng rồi cùng nhau lật ngửa anh ra mới khiêng lên trên con lộ được.”

Chí và tôi vừa lật ngửa anh Vàng ra th́ đột nhiên anh mở đôi mắt, thấy anh Chí và thểu thào kêu lên :
- “Chí ơi !…”

Có lẽ trước khi chết, anh đă cố gom hết sức lực để nói lên điều ǵ đó nhưng chỉ được hai từ ngắn ngủi này, cho nên, dù là thều thào nhưng có lẽ cũng đủ cho 2 tên vệ binh trên cầu nghe, hay có lẽ chúng đă thấy đôi môi anh mấp máy và ngỡ anh vẫn c̣n sống, muốn nói ǵ đó, nên tên Bốn hét lớn :
- “Hai anh tránh xa ra !”

Tôi giật ḿnh phóng người ngược ra phía sau và té ngửa, c̣n Chí th́ chạy lui rất nhanh. Tôi vừa ngồi dậy và liếc nh́n lên cầu th́ một loạt đạn tóe lửa từ súng AK của tên Bốn nhắm vào đầu anh Vàng. Tôi thấy đầu của anh giật giật mấy cái rồi im luôn. Tôi lại đảo mắt nh́n lên cầu lần nữa và thấy tên Bốn, sau khi bắn xong, thản nhiên mang quai súng lên vai cùng tên vệ binh người Bắc song song bước nhanh về hướng cũ. Tôi vẫn ngồi như thế, ngoái nh́n theo cho đến lúc chúng đi khuất sau đám lau sậy mới đứng lên và bước đến gần anh Vàng. Trong loạt súng vừa rồi, có lẽ khoảng 2 hay 3 viên đă trúng làm nát luôn má và miệng của anh, máu chảy lênh láng. Chí th́ h́nh như vẩn chưa hoàn hồn. Tôi bèn bảo Chí :
- “Chí ở lại đây trông chừng để tôi chạy về báo cho anh em trong toán ḿnh biết.”

Chí bỗng nói ngay :
- “Anh ở lại đây để tôi chạy về báo tin cho.” Tôi thấy anh c̣n sợ nên đành gật đầu.

Chờ cho Chí đi rồi, tôi cẩn thận nh́n quanh khoảng một phút, có lẽ v́ sợ tên Bốn bất ngờ quày lại tặng luôn ḿnh một loạt đạn để bịt miệng, rồi nh́n lại anh Vàng th́ thấy hai mắt anh vẫn c̣n mở, bèn đưa tay vuốt mắt anh mà ḷng dậy lên nỗi đau buồn đă mất đi một người bạn tù, một người anh trong Quân ngũ.

Chưa đến 10 phút sau, tôi thấy mấy anh xuất hiện từ sau đám lau sậy rồi nhận ra anh Tố, anh Hoàng và anh Hóa cùng Chí đến gần chỗ tôi. Có lẽ dọc đường đến đây, Chí đă có kể lại một phần nào đó cho họ nghe nên khi đến nơi, chúng tôi chỉ cùng nhau nghĩ cách khiêng anh Vàng về. Liên tưởng đến lúc Trại có người bị bệnh không đi được th́ đă được khiêng bằng vơng đến trạm xá, tôi bèn đề nghị như thế và cùng Hóa chạy đến cây có treo chiếc bị của anh Vàng để lấy chiếc bị có chứa chiếc vơng của anh, đồng thời chặt luôn cây này, tỉa nhánh cho trơn tru dùng làm đ̣n cáng. Tiếp đến, anh Tố và anh Hoàng khiêng xác anh Vàng bỏ lên vơng và chúng tôi cột dây của 2 đầu vơng thật chặt vào đ̣n cáng. Anh Hoàng và anh Tố t́nh nguyện khiêng anh Vàng trước sau khi giao rựa của họ cho Chi, và tôi cùng Chí sẽ thay phiên khi 2 anh đó đă thấm mệt. Chí bèn giao 2 cây rựa của anh Hoàng và anh Tố giao luôn cho anh Hóa vác. Riêng tôi và Chí th́ trên đường về sẽ tạt lại điểm chúng tôi phát quang để lấy bị của mọi người và dao tông của ḿnh.

Anh Hoàng đứng phía đầu đ̣n cáng, hướng chân của anh Vàng và anh Tố ở cuối cáng, hướng đầu của anh Vàng, tôi và Chí cùng tiếp tay nhấc đ̣n cáng lên vai họ. Thế là 5 người chúng tôi bắt đầu lên đường. H́nh như mỗi người đều đang nặng trĩu nhưng suy nghĩ có lẽ cũng hao hao giống nhau: ‘khi về đến trại th́ sẽ phải làm ǵ đây, nói năng như thế nào đây?’ Riêng tôi, và chắc chắn là Chí nữa, th́ c̣n thêm những lo nghĩ khác v́ là những nhân chứng sống cho cái chết của anh Vàng.

Chỉ khoảng mấy phút sau, chúng tôi đă đến điểm chúng tôi đă phát quang, nhưng chẳng c̣n thấy bóng dáng ai cả. Tôi lên tiếng :
- “Họ đâu cả rồi ?”.
Anh Tố buột miệng trả lời :
- “Chắc họ sợ quá sau khi nghe thằng Bốn tuyên bố nên đă chạy về trước rồi.”.

Tôi hỏi tiếp :
- “Nó nói sao, Bố ?”

- “Tên Vơ-Vàng đánh vệ binh để cướp súng trốn trại. Ta đă diệt nó rồi.”
Tôi và Chí loanh quanh khoảng 1 phút t́m dao tông và bị nhưng không thấy. Chí nói :
- “Có lẽ anh em đă mang về giùm rồi.”

Cũng chỉ đoán như vậy thôi, chứ ở vùng không có bóng người dân nào th́ ai mà lấy mấy thứ đó chứ. Tôi và Chí bước nhanh để theo kịp chiếc vơng cáng. Vừa đến ngang anh Tố th́ thấy đầu của anh Vàng lắc lư theo bước chân người khiêng lệch ra khỏi vỏng, bèn vừa đi vừa banh rộng đầu vơng để đầu anh lọt vào. Máu trên vùng ngực của anh hầu như đă khô, c̣n ở má và miệng vẫn c̣n rỉ, tóc và trán vẫn c̣n bám cát từ ḷng suối khô.

Chúng tôi cứ thế lẳng lặng bước… và bước, mong sao cho nhanh về đến trại. Ngang qua điểm phát quang của Toán 2, chúng tôi cũng chẳng thấy ai nữa. Chắc họ cũng đă nghe tên Bốn nói ǵ và đă nhanh chân rời khỏi đó, giống như số anh em c̣n lại của Toán 1.

Tôi ngước nh́n lên bầu trời, lúc này có lẽ đă hơn 3 giờ chiều, nhưng nắng đă có phần dịu bớt nhờ những đám mây trắng nhỏ từ phía Tây bắc lăng đăng trôi qua, che khuất mặt trời như cố ư ngăn bớt luồng nóng hừng hực đâm thẳng vào thân xác một người đă từng vang bóng một thời, đă tung hoành trên khắp chiến trường phía Nam của Quân Đoàn 1 (vùng Quảng Nam, Quảng Ngăi), nhưng lại phải ĺa đời trong tức tưởi. Tôi lại tưởng tượng những đám mây kia là những thân nhân, vợ con và bạn bè, những người đă ngưỡng mộ và thương mến anh, trong những chiếc áo tang, những chiếc khăn sô, đưa tiễn anh lần cuối.

Rồi đầu anh Vàng lại lệch ra khỏi đầu vơng, và với những động tác cũ, tôi lại banh đầu vơng, nâng đầu anh lọt vào như cũ. Nhớ lại th́ tôi đă dùng động tác này không dưới 3 lần trên đường về đến trại, v́ 2 đầu vơng thường bị kéo túm lại do sức nặng nhún nhẩy từ phần giữa vơng. Trước đó, chúng tôi đă cẩn thận dùng phần dây vơng c̣n thừa để buộc 2 chân anh vào một đầu vơng, riêng vơng ở phần đầu của anh th́ không được.

Chúng tôi cứ tiếp tục bước…, bước nhanh, h́nh như không quan tâm ǵ đến thời gian và đoạn đường ḿnh đă đi qua. Cho đến khi tôi định lên tiếng đ̣i thay phiên khiên cáng th́ trước mắt, dảy hàng rào bằng ‘róng’ (cở cây nhỏ hơn hoặc bằng cổ tay cao khoảng 3 mét, gài chéo nhau theo h́nh tổ ong rào quanh trại) sát con lộ đă hiện ra phía bên trái, cách chúng tôi khoảng 60 mét, nên không lên tiếng nữa.

Chỉ khoảng hơn 5 phút, chúng tôi đă đến cách cổng trại chừng 15 mét th́ tên Quản giáo Nhà chúng tôi đă đứng đó từ trước chận chúng tôi lại và bảo :
- “Các anh bỏ anh Vàng tại đây rồi vào trại đi !.”
Nh́n chênh về phía phải, chúng tôi thấy một toán tù binh, không biết thuộc Khối nào, đang đào cái huyệt cách con lộ khoảng 2 mét. Chúng tôi đoán là huyệt dành cho anh Vàng.

Anh Hoàng và anh Tố nhẹ nhàng đặt xác anh Vàng xuống sát mé phải con lộ và chúng tôi lẳng lặng tiến về cổng trại. Qua cổng trại rồi đi xuyên qua trước mặt Khối 2, tôi thấy nhiều anh em tù, một số đứng trước sân, một số trong Nhà lặng lẽ nh́n chúng tôi, trong ánh mắt họ dường như đang ẩn chứa rất nhiều câu hỏi. Về đến Nhà, tôi thấy đống dao rựa đă nằm giữa nhà, cạnh cái lỗ h́nh chữ nhật bề 5 bề 8 tấc, sâu 2 tấc dùng để đốt lá tươi hun khói đuổi muỗi khi đêm đến hoặc đốt củi sưởi ấm vào mùa Đông, và những chiếc bị của chúng tôi đă nằm sẵn trên phần sạp ngủ của mỗi người. Cởi bỏ áo quần lao động (quần áo của lính Bộ binh chế độ cũ được cấp phát cho tù mặc khi lao động), chúng tôi ngả người trên phần sạp của ḿnh nằm nghỉ ngơi cho khô mồ hôi trước khi xuống suối để tắm và giặt. Riêng anh Chí th́ vừa đếm vừa đun hết số dao rựa vào trong bao bố và vác lên trả lại cho nhà kho chứa dụng cụ lao động.

Bầu không khí trong Nhà của cuối ngày lao động hôm đó bao trùm một sự tĩnh lặng hầu như tuyệt đối, giống như đang mặc niệm cho người bạn tù đă vĩnh viễn ra đi, cho một sự mất mát, thiếu vắng từ đây… chỉ c̣n những ánh mắt thỉnh thoảng nh́n nhau… Và thời gian cứ nặng nề trôi qua…

Bỗng nhiên, tôi nghe nhiều tiếng nói lao xao gần phía trước cửa nhà, liền nhỏm dậy xem th́ thấy 3 người, h́nh như thuộc Khối 2, đang vừa đi ngang qua cửa Nhà chúng tôi vừa nói chuyện.

Tôi vội chạy ra hỏi với theo :
- “Mấy anh có biết họ đă chôn anh Vàng chưa không ?”

Một anh trả lời :
- “Vẫn chưa, v́ phải đào một cái huyệt khác cách xa con lộ hơn 10 mét. Mấy thằng cán bộ nói cái huyệt đầu tiên nằm sát đường quá.”

Anh Tố đang nằm nghỉ, nghe thế bèn nhỏm dậy nói :
- “Như thế th́ xui lắm. Ông bà ḿnh tin rằng nếu đào huyệt thứ 2 th́ thân nhân của người chết sẽ bị chết thêm một người nữa đó !”

Tôi th́ chẳng biết ǵ về chuyện này. Anh em c̣n lại trong nhà cũng chỉ đưa mắt nh́n nhau, nửa tin nửa ngờ… nhưng phần nào cũng có chút lo lắng cho những người trong gia đ́nh anh Vàng.

Rồi, như cái máy chạy theo thời khóa biểu, chúng tôi xuống suối, tắm, giặt. Sau đó, người trực cơm xuống bếp nhận cơm lên chia đều cho anh em trong Nhà. Cũng chỉ là 1 chén cơm và ‘mắm cái’ hầu như thường lệ, nhưng hôm nay dường như có thêm những giọt nước mắt nhỏ xuống từ bên trong, thẳng vào cuống họng mỗi lần nuốt 1 ngụm cơm…

Lúc này, màn đêm đang dần phủ trên Trại Tù. chúng tôi chuẩn bị họp Nhà để b́nh bầu cá nhân xuất sắc cho ngày lao động dở dang hôm nay. Một người mang củi vào nhóm lửa và 1 người nữa mang mấy nhành cây nhỏ có nhiều lá c̣n xanh để hun khói đuổi muổi. Trong ánh lửa lập ḷe kèm theo khói, chúng tôi vừa bắt đầu họp th́ thấy tên Quản giáo (người Quảng - tôi không nhớ tên) bước vào. Nó không ngồi lên sạp như thường lệ mà chỉ nói lớn :
- “Các anh hăy coi chừng! Cái chết của anh Vàng là sự trừng phạt cho những muốn trốn trại đó !”

Rồi bỏ đi, một chốc sau, chúng tôi lại thấy tên Bốn đi ngang và nh́n vào Nhà chúng tôi liếc ngang liếc dọc, vai vẫn mang khẩu AK-47, nét mặt có vẻ vênh váo như vừa mới lập được một ‘chiến công’ hèn hạ chưa chừng thấy. Thật ra th́ tất cả anh em cùng Nhà đều mang tâm trạng phập phồng lo sợ… sau sự kiện của anh Vàng. Riêng tôi, và chắc là với Chí ‘nhỏ’, lại càng cảm thấy thấp thỏm hơn, v́ là những nhân chứng sau cùng.

Họp xong, tôi đến bên Chí ‘nhỏ’, nói :
- “Ngày mai Chí cắt tôi đi công tác theo nhóm cho bảo đảm đó !” Chí gật đầu, phần nào hiểu được ư của tôi.

Đặc biệt tối nay, sau khi họp xong, chúng tôi không ra phía trước sân, tụm 2, tụm 3, trao đổi năm điều ba chuyện bâng quơ trước khi vào ngủ, mà một số th́ vẫn ngồi trên sạp, một số nằm dài, theo đuổi những suy nghĩ riêng tư của ḿnh.

Rồi một đêm không b́nh thường nặng nề trôi qua. Sáng hôm sau, Chí lên nhận công tác và vác theo về một bao bố chứa toàn dao tông, và công tác hôm nay là chặt những khúc cây dài từ 4 – 4,5 mét, thật thẳng, có ngọn tối thiểu là 1 tấc 3. Thường th́ đây là công tác riêng lẻ, tức là mạnh ai nấy lên rừng và lục t́m và chặt rồi vác về, nhưng Chí cũng cẩn thận dặn anh em nên đi theo từng toán 4 hay 5 người để khỏi bị vệ binh len lén đi theo và ‘diệt’ từng người trong chúng tôi như trường hợp của anh Vàng.

Cũng may đến gần trưa th́ anh Tố, tôi, Ninh và Cảnh đă chặt xong cây và vác xuống sườn núi, nơi có khoảng trống khá lớn nằm trên con đường nhỏ dẫn về trại và cách trại khoảng hơn 2 km. Chúng tôi kiếm bóng mát để nghỉ ngơi và ăn trưa. Nhân lúc này anh Tố mới bảo tôi kể lại phần cuối của vụ anh Vàng bị bắn. Và tôi đă nói cho họ nghe.

Đến chiều, khoảng 4 giờ, khi vác cây về đến Nhà, chúng tôi lại thoáng thấy tên Bốn đi từ hướng Khối 2 về Khối 1 và, khi đi ngang Nhà chúng tôi, nó bước chậm lại và liếc nh́n vào. Tôi nghĩ rằng đây là điều không b́nh thường, dù thỉnh thoảng vẫn có vệ binh đi ḷng ṿng trước sân các Khối vào gần cuối ngày lao động. Nhà chúng tôi đă cố làm cho bầu không khí trở nên b́nh thường, nhưng thật ra vẫn không b́nh thường như cũ được. Mọi người có vẻ thận trọng, dè dặt, ít nói chuyện với nhau hơn. Chỉ mong thời gian sẽ xóa dần nỗi lo sợ cho những ǵ sẽ xảy ra kế tiếp.

Và điều không b́nh thường này đă đến ngay vào buổi sáng hôm sau. Khi Chí đi nhận công tác về với chiếc bao bố chứa dao, rựa trên vai. Khuôn mặt anh hơi lộ vẻ lo âu. Anh nói đại khái chỉ tiêu lao động trong ngày, rồi tiếp :
- “Hôm nay tôi và anh X… ở nhà làm công tác khác.”

Mọi người bắt đầu hoang mang, thắc mắc nh́n nhau nhưng chẳng ai buồn lên tiếng, ngay cả tôi, mà chỉ lẳng lặng ăn hết miếng bánh xốp làm bằng bột ḿ Liên Xô thay cho điểm tâm rồi mài dụng cụ lao động và rời khỏi Nhà.

Chờ cho anh em đi hết, tôi kéo Chí ra khỏi nhà để đề pḥng anh Cúc nghe được, và chưa kịp hỏi th́ Chí đă nói:
- “Một chốc nữa th́ tên Quản giáo sẽ đến hướng dẫn chúng ta viết bản tường tŕnh về cái chết của anh Vàng. H́nh như người anh của anh Vàng là Trung tá Bộ đội đă đến Tổng trại và yêu cầu điều tra rơ chuyện này. Anh tính thế nào?”

Tôi suy nghĩ một chốc, rồi nói :
- “Viết tường tŕnh vụ này mà do Quản giáo hướng dẫn th́ chắc 2 anh em ḿnh sẽ không nói lên được sự thật ḿnh đă chứng kiến đâu. Bây giờ tụi ḿnh đều như cá nằm trên thớt. Nó bảo sao th́ phải viết vậy thôi.” Như một sự đồng cảm đă có sẵn, Chí gật đầu.

Chúng tôi vào nhà, nằm dài trên sạp của ḿnh, vừa chờ tên “Quản giáo” đến, vừa suy nghĩ xem c̣n có cách ứng phó nào khác nữa không.

Hơn nửa giờ sau, tên “quản giáo” bước vào, tay cầm cuộn giấy tập vở và 2 cây bút bi, bảo chúng tôi đến Hội trường và nói:
- “Hai anh hăy tường tŕnh lại đúng y như lời vệ binh đă nói, tức là anh Vàng đă đánh vệ binh, cướp súng để trốn trại nên đă bị vệ binh bắn chết. Viết ngắn gọn thôi rồi ghi tên ḿnh, Khối và Trại và kư tên là xong. Càng nhanh càng tốt”.

Tôi không biết Chí có ư nghĩ ǵ không. Riêng tôi th́ thầm nói: “Anh Vàng, xin anh thứ lỗi và thông cảm cho hoàn cảnh chúng tôi hiện giờ. Nhưng tôi xin hứa với anh là sẽ kể lại toàn bộ chuyện này cho chị Đường nghe sau khi tôi được tha về!”

Chưa tới 10 phút, chúng tôi đă viết xong. Tên “Quản giáo” cầm từng tờ giấy lên đọc rồi gật đầu, nói :
- “Hai anh về làm vệ sinh quanh Nhà rồi nghỉ ngơi đi!”, rồi bước nhanh về phía cổng trại.

Khoảng 1 giờ sau, chúng tôi đă làm xong công việc được giao phó, rồi Chí th́ soạn kim chỉ vá chiếc bị của anh, c̣n tôi th́ nằm ngả người trên sạp, mắt nh́n lên trần nhà, nhưng lại không thấy trần nhà mà lại thấy hiện ra 2 h́nh ảnh của anh Vàng:

- Một anh Vàng với thân thể cường tráng, nở nang, tiềm ẩn một sức lực dồi dào (anh đă từng được b́nh bầu xuất sắc trong lao động rất nhiều lần và là người khỏe nhất Nhà), dáng người tầm thước (khoảng 1,68 mét), nước da hơi đen sạm. Điểm đặc biệt là anh có đôi mắt to, màu đen pha một chút màu nâu, đầy vẻ bướng bỉnh. Anh thường ít nói và cũng ít cười nhưng dễ tiếp cận. (Tôi chỉ thấy anh cười nhiều nhất, bằng mắt nhiều hơn bằng miệng, khi tôi kể mấy chuyện phiếm tôi c̣n nhớ từ cuốn ‘Truyện cười của Đặng-trần-Huân’). C̣n nghe nói anh cũng có ‘nghề’ (biết vơ thuật) nữa. H́nh như anh không hút thuốc, nhưng v́ có một vài người trong Nhà tập hút thuốc lào nên anh đă thử. Và trong những lần đầu, khi anh rít xong một hơi th́ mặt anh trở nên đờ đẫn, mắt mơ màng khiến anh em không nhịn được cười…

- Và Một anh Vàng trong tư thế nằm sấp nơi ḷng suối khô của vùng C̣ Bay, Bồng Miêu với 3 lỗ đạn ở lưng, rồi trong tư thế nằm ngửa với má và miệng banh nát sau loạt đạn thứ hai, với cái đầu lắc lư trên đầu vơng… : kết quả từ thủ đoạn đê hèn của một chế độ đầy âm mưu thâm độc…

Hai h́nh ảnh này cứ luân phiên chợt ẩn chợt hiện không ngừng trước mắt tôi như chồng chất thêm trong ḷng tôi nổi xót xa, mất mát một người bạn tù đáng kính.

Anh đă nằm xuống nhưng tên Vơ Vàng của anh sẽ không bao giờ chết trong ḷng chúng tôi. Anh vẫn là Người Hùng, một ngôi sao sáng chói trong binh chủng Biệt Động Quân, trong Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.

V́ hoàn cảnh không cho phép gặp trực tiếp để kể lại cho chị Đường và các cháu nghe, tôi xin ghi lại những ḍng này thực hiện lời thầm hứa với anh Vàng sau 39 năm.
Tôi cũng thành thật xin lỗi đă gợi lại những buồn đau của gia đ́nh chị mà có lẽ phần nào đă phôi pha theo thời gian, nhưng đồng thời cũng giúp chị và các cháu luôn giữ vững niềm tự hào đă có một người chồng, người cha kiêu hùng, bất khuất…

Tôi cũng cảm ơn anh Tấn đă nhắc tôi ghi lại sự kiện này, và nhờ anh (cựu Trung Tá, Trung Đoàn Phó Trung Đoàn 2/SĐ 3 BB) t́m cách liên lạc và chuyển giùm, không chỉ cho chị Đường mà c̣n cho những người có tên đă được đề cập trong bài viết để nhận những phản hồi thông qua anh.

Xtanker20
Cựu Tù Nhân Chính Trị Quảng Nam - Đà Nẵng

hoathienly19
10-17-2020, 06:13
NGƯỜI NGHĨA QUÂN THỜ H̀NH CỦA CHÍNH M̀NH

Rừng thiêng sơn trại không ḥ trận

Chỉ thấy tiêu điều những bóng ma

Viên Linh



https://scontent-yyz1-1.xx.fbcdn.net/v/t1.0-9/91396155_2634347916809340_3884804950093463552_o.jp g?_nc_cat=100&_nc_sid=110474&_nc_ohc=U7ahH9EpbtUAX_P5xFh&_nc_ht=scontent-yyz1-1.xx&oh=57c24be42e7400fa9adb14f9551abcba&oe=5FAEFD5E


Tết năm đó tôi về Việt Nam ghé thăm bạn bè. Đến miền Trung, tôi được một người bạn rủ thăm mộ một người bạn khác.

Từ một thị trấn miền biển, chúng tôi ra quốc lộ Một, theo hướng bắc, lên một đèo nhỏ, đến đỉnh đèo, thay v́ xuống dốc, bạn tôi cho xe chạy vào một đường ṃn dọc theo chân núi.

Đây là một vùng hoang vắng, cằn cỗi, toàn đá, cây lưa thưa, cao không quá đầu người. Chiếc xe gắn máy cứ nhảy chồm chồm, như con ngựa trở chứng, mấy lần suưt ngă xuống vực.

Cuối cùng, chúng tôi cũng đến được một nơi, hơi bằng phẳng, có mười mấy ngôi mộ đất, nằm rải rác trên một diện tích khoảng một cái sân lớn. Bạn tôi chỉ một mô đất có miếng gỗ nhỏ ghi chữ Tư bằng hắc ín bạc màu.

- Nó nằm đây !

Chúng tôi lấy nhang, đốt lên, đứng trước mồ bạn, khấn vái mấy câu. Trong giây phút tưởng niệm, tôi như h́nh dung rơ bạn tôi trong những ngày cùng ngồi chung lớp, chung trường.

Bạn tôi vui tươi, khỏe mạnh, yêu đời, lúc nào cũng nói chuyện tếu được, khiến cho dù ai có chuyện buồn cũng phải bật cười…

Rồi cảm tưởng như tất cả những người nằm trong các ngôi mộ rải rác chung quanh đều là bạn thân thiết, vong linh họ đang đứng bên cạnh, ṭ ṃ nh́n xem chúng tôi làm ǵ ?

Ư nghĩ đó khiến tôi thêm ngậm ngùi, thương cảm. Tôi khấn lầm thầm :

- “ Chúng tôi rất hănh diện có được những người bạn đă chọn một cái chết hào hùng để bảo vệ tự do, bảo vệ đồng bào . Sự hy sinh của các bạn càng thêm ư nghĩa sau khi cộng sản Bắc Việt chiếm đóng Miền Nam. Dân chủ, tự do không c̣n nữa !”

Tôi cũng trấn an người bạn học quá cố của chúng tôi khi nói về cuộc sống ổn định của vợ và các con của bạn :

- “ Anh em đồng môn luôn t́m cách an ủi, giúp đỡ chị và các cháu”.

Khấn xong, chúng tôi đem nhang cắm lên tất cả các ngôi mộ.

- Chỉ thằng nầy là dân hành chánh, c̣n mấy cậu nằm chung quanh toàn quân nhân. Nhảy dù với nghĩa quân.

- Có lẽ phải xây một cái khung cho tất cả các ngôi mộ nầy, rồi đổ đất lên mới không bị mồ xiêu mả lạc.

- Lần trước, lên đây, tôi có gặp anh chàng sống một ḿnh trong mái tranh đằng kia, ḿnh có thể nhờ anh ta lo vụ nầy…Chắc không tốn bao nhiêu.


https://motgoctroi.com/NghiatrangQD/HinhAnhNTQDBH/NTQDBH002_HN_NDD.jpg

Mới buổi sáng mà nắng đă gay gắt. Tôi đứng nh́n quanh. Một bên là núi cao, một bên là sườn núi thoai thoải, chạy đến một rừng cây xanh có lẽ là điểm nước, thấp thoáng sau hàng cây là quốc lộ Một, mấy chiếc xe đang chạy trên một cây cầu nhỏ, bắc qua một con suối, về mùa hè nên nước cạn, chỉ thấy lấp loáng ánh nắng qua những gộp đá nhỏ. Bạn tôi chỉ tay về hướng bên kia đồi.

- Nhà anh ta dưới tàng cây lớn kia ḱa, nếu để ư, quá khỏi tàng cây, có cái g̣ cao, giống h́nh người đang ngồi.

Bạn thấy chưa ? Đó là cái g̣ mối, nhưng người ta đồn đăi là mộ của một cô gái rất linh thiêng. Bây giờ ḿnh thử đến đó xem sao.

Chúng tôi đi băng qua đồi. Đường rất khó đi nên phải đẩy bộ chiếc xe gắn máy, có khi phải khiêng qua những những tảng đá lớn chắn lối hay những rănh sâu.

Cuối cùng th́ chúng tôi cũng đến nơi. Đó là một căn nhà tranh vách ván, nằm dưới một cây mít có tàng lớn che gần hết mái nhà. Sau nhà là một khu vườn vuông vức mỗi cạnh độ vài trăm thước, trồng cây lưu niên làm hàng rào, trong vườn là những luống khoai lang, khoai ḿ và bắp, góc vườn có một giàn bầu hay bí ǵ đấy. Nhà vắng tanh. Chúng tôi lên tiếng.

- Có ai trong nhà không ?

Một người đàn ông từ sau bếp bước ra.

- Có tôi !

Anh ta khoảng trên bốn mươi, người hơi ốm nhưng rắn rỏi, da sạm nắng, tóc cắt ngắn, đôi mắt chơn chất sáng lên niềm vui của kẻ sống cô độc được có người đến thăm.

- Chào quí anh. Quí anh có chuyện ǵ mà lên chỗ hẻo lánh nầy ?

- Chúng tôi đi thăm mấy cái mộ đằng kia, nhân tiện ghé thăm anh, định nhờ anh chút chuyện.

Anh ta cười, đưa hàm răng vàng khè v́ khói thuốc.

- Lúc mấy anh đi lên, tôi đă thấy rồi. Vậy chứ mấy anh có thân nhân, bạn bè ǵ nằm ở đó ?

- Có ông bạn học…Lên thăm, và định xây cho nó cái mộ cho tươm tất, để mộ đất, lâu ngày, gió mưa trôi hết, sau nầy t́m không ra.

- Mời hai anh vô nhà ngồi uống nước.

Chúng tôi bước vào. Đó là một ngôi nhà tranh nhỏ tầm thường. Nhà ba gian, giữa là bàn thờ, có tấm màn che. Bên trái là chiếc giường nhỏ, có lẽ là chỗ ngủ của chủ nhà, bên gối tôi thấy có mấy quyển sách, v́ phép lịch sự tôi không nh́n kỹ sách ǵ nhưng như thế chứng tỏ chủ nhà là người có học và có thú vui đọc sách.

Bên phải là một căn buồng đóng cửa. Trước bàn thờ là bàn nước bằng gỗ mộc, cũ kỹ, để một b́nh tích trong trái dừa khô, giúp cho nước giữ nóng được lâu, mấy cái ly thủy tinh trên một dĩa lớn. Có bốn cái ghế dựa để tiếp khách. Anh kéo ghế mời chúng tôi rồi xuống bếp thổi lửa nấu nước, pha trà.


https://fn.vinhphuc.edu.vn/UploadImages/thtelo/admin/4-bai-van-ta-canh-dong-lua-chin-buoi-sang-que-em-lop-5-hinh-anh-3.jpg


Chúng tôi ngồi nh́n quanh, hỏi vọng xuống bếp.

- Anh sống một ḿnh sao ?

Anh ta đi lên nhà trên.

- Tôi sống một ḿnh. Cũng hơn mười năm.

- Không buồn à ? Kiếm một bà về ở chung để có người chuyện tṛ, ốm đau c̣n nương tựa nhau.

- Tôi có vợ rồi, nhưng vợ mất, tôi ở vậy…thờ vợ.

Tôi pha tṛ.

- Anh có hiếu với vợ dữ ! Cô vợ anh chắc sẽ mỉm cười nơi chín suối khi có được người chồng chung t́nh như anh.

Anh ta chỉ cười, xuống bếp lấy ấm nước lên, mở nắp b́nh tích, bỏ trà, chế nước sôi vào.

- Sống một ḿnh cũng quen. Xuống phố thấy xe cộ, người nói, ồn ào, chỉ muốn về nhà cho yên tĩnh.

- Đất vùng nầy cằn cỗi, sao vườn anh tươi tốt vậy?

- Phải xuống suối móc śnh lên đắp, mấy đời như thế nên mới trồng trọt được. Mấy anh đi thăm mộ ai ở đằng đó ?

- Thăm người bạn, tử trận hồi bảy lăm. Bởi vậy mới định nhờ anh…

Anh ta ngồi lên giường, gác tréo chân, thong thả vấn điếu thuốc lá.

- Thỉnh thoảng tôi có ghé thăm chừng, thắp nhang, dọn cỏ mấy ngôi mộ đó. Mấy anh định xây cho mộ nào ?

- Có ông bạn học nằm đó. Cũng định xây luôn cái khung chung quanh tất cả các ngôi mộ rồi đắp thêm đất lên cho mưa lũ khỏi trôi mất. Anh có thể giúp được không ?

- Có phải mấy anh định xây mộ cho ông phó hành chánh nằm đó không ?

- Sao anh biết ?

- Tôi là lính pḥng thủ quận hành chánh. Nghĩa quân tụi tôi với ông phó thân lắm. Đúng ra th́ ông phó không có nhiệm vụ tác chiến, thiếu tá quận trưởng bảo ông đưa gia đ́nh về Sài g̣n, mục đích để khỏi phải đánh nhau, nhưng ông phó chỉ gửi vợ con đi c̣n ông ta th́ ở lại. Ông phó bảo đă tốt nghiệp sĩ quan Thủ Đức mà lại trốn chui trốn nhủi th́ nhục lắm. Mời mấy anh dùng trà.


https://i.pinimg.com/originals/57/de/ea/57deea2cf3d0d3bcdb20a33f62dac776.jpg

Vẻ dè dặt không c̣n trong cách đối xử của anh ta.

- Các anh yên tâm. Nếu các anh muốn xây thêm cái “khuỷnh” cho tất cả các ngôi mộ th́ tôi cũng xin góp chút công. Tôi chỉ tính vật liệu thôi, không tính tiền công. Bây giờ tôi đề nghị thế nầy.

Các anh ở lại đây nghỉ trưa, chúng ta sẽ có th́ giờ bàn lại kỷ hơn chuyện mồ mả. Tôi xin mời các anh một bữa trưa. Chỉ kẹt là không có rựợu, chớ c̣n mồi th́ lúc nào cũng sẵn sàng. Bắt con gà rồi quơ bậy mớ rau thơm là có ngay một nồi cháo. Hai anh cứ ngồi chơi, đợi tôi. Hay là ra sau hè, có gió, mát hơn ở trong nhà.

- Tụi tôi đâu biết nhậu, có cháo gà mà húp cũng đủ khoái rồi.

Hai đứa tôi ra sau hè, tôi nằm đong đưa trên vơng, người bạn ngồi trên cái ghế dài, tựa vào vách nhà. Gió biển thổi lên mát rượi, mấy con chim sâu hót trong bụi rậm, tiếng gió ŕ rào trong cảnh vắng vẻ, tĩnh mịch… Đúng là cơi thần tiên nơi góc núi.

Hai đứa tôi chuyện tṛ linh tinh một lúc, độ hơn nửa giờ th́ anh ta bưng nồi cháo ra, đặt trên một cái bàn nhỏ, thêm mớ chén, đũa, vậy là chúng tôi vừa ś sụp vừa chuyện tṛ.

- Bây giờ anh kể vụ bảy lăm, ở đây, xảy ra những chuyện ǵ ? Tụi tôi chỉ nghe mang máng có đánh nhau dưới cầu kia, anh có tham dự không ?

- Có chứ ! Khi có vụ di tản từ Cao Nguyên xuống th́ ở quận, tụi tôi được lịnh ứng chiến. Ông phó hành chánh, tức bạn của hai anh, dẫn trung đội nghĩa quân tụi tôi lên chốt trên kia. Tụi tôi đóng ở đó được mấy ngày th́ có một đại đội dù đến tăng cường.

Ông phó phối hợp với bên dù cho gài ḿn dưới cầu đằng kia, chờ tụi hắn đến th́ giật sập cầu và chận đánh. Một toán nằm dọc bờ suối, phục ở đó, chờ địch. Tôi và một anh nhảy dù lo việc giật ḿn. Nhiệm vụ tôi hễ bấm xong ḿn th́ lên chỗ g̣ kia nằm, theo dơi và gọi máy báo cáo khi thấy địch xung phong lên núi.


https://i.pinimg.com/236x/89/86/8b/89868bc9605691931b7be64ca015b22b.jpg

Thế rồi, địch xuất hiện, chạy một dọc cả chục chiếc xe lớn chở đầy bộ đội. Tôi bấm ḿn giật sập cầu, mấy anh nhảy dù thụt M72, cháy mấy chiếc xe đi đầu, rồi xả súng như mưa.

Từ ngày tôi đi Nghĩa Quân, thỉnh thoảng có hành quân lùng sục du kích, nhưng bọn việt cộng chỉ bắn mấy phát rồi bỏ chạy, chứ chưa thực sự đụng độ bao giờ. Đến lúc đó tôi mới biết thế nào là đánh nhau.

Ôi thôi ! Súng nổ khắp nơi, rầm trời, rầm đất. Tôi ḅ lên chỗ g̣ mối nằm ḍm chừng để báo cáo t́nh h́nh. Đến chiều th́ xe tăng tụi nó đến. Đại bác của xe tăng thụt phe ta chạy tứ tán, phải núp sau mấy tảng đá, hi vọng tụi nó xung phong theo bờ suối th́ nhào ra.

Vậy mà chúng chỉ bắn cầm chừng, đến tối, chúng vào giở nhà dân bắt cầu, suốt đêm, sáng hôm sau chúng đi mất tiêu. Coi bộ chúng không thiết đánh nhau, chỉ lo chạy vô phía Nam mà thôi.

Sáng đó tụi tôi cũng thu dọn chiến trường, chôn mấy người chết, băng bó người bị thương rồi cũng di chuyển theo đường núi về hướng Nam. Đến tháng Năm th́ tan hàng, ai về nhà nấy.

Tôi về tŕnh diện bọn cộng sản, đi học tập, nghĩa là đi nghe chửi, lao động sản xuất rồi được về nhà. Tôi về đây phụng dưỡng ông bà già. Được năm năm hai ông bà qua đời, tôi vẫn ở đây lo hương khói, chăm nom mồ mả cha mẹ, vợ con cho đến bây giờ.


https://3.bp.blogspot.com/-1oi-qNZcg70/XL9h_AA7gII/AAAAAAAAA6g/xrHbhZOU_ig4TJlKhyXuLHCcrLu_uiJHgCLcBGAs/s400/image1.jpg

Ăn xong chúng tôi phụ nhau dọn dẹp chén đũa. Anh đem b́nh trà và ly ra.

- Trưa nào tôi cũng ra đây làm một giấc. Gió mát lắm !

Tôi nh́n lên đồi, thấy cái g̣ mối giống h́nh người ngồi xây lưng về phía chúng tôi.

- Tôi có nghe kể về chuyện cô gái chết nhưng linh thiêng lắm. Anh biết chuyện đó không ?

- Chuyện linh thiêng th́ tôi không tin, v́ đôi khi chỉ là sự trùng hợp t́nh cờ. Nhưng chuyện về cô gái đó th́ tôi biết rơ. V́ nó xảy ra cùng lúc với vụ đụng độ mà tôi vừa kể cho mấy anh nghe đó.

- Anh có thể kể vắn tắt cho tụi nầy nghe được không ?

- Chuyện chẳng có ǵ lạ lùng cả. Lúc đụng độ th́ cái g̣ mối chưa cao và to như vậy…

Tôi đoán chừng.

- Sau đó cái g̣ mới nổi lên giống h́nh cô gái ngồi nên người ta thêu dệt nên một chuyện linh thiêng, phải không ?

- Cũng gần như thế. Trong toán Nghĩa Quân, có một anh chàng là chồng của cô gái ở nhà nầy, nên ông phó giao cho hai vợ chồng cái chốt đằng kia, canh chừng địch. Coi như vừa làm việc nhà vừa làm việc nước. Hai người mới cưới nhau được có nửa năm.

Anh ta trầm ngâm.

- Cô ta có bầu được ba bốn tháng. Lúc đụng độ, cô ta không ở trên chốt mà ở nhà, ở đây. Cô với cha mẹ nấp dưới hầm nên vẫn b́nh yên. Sáng hôm sau, sau vụ đụng độ, cả đơn vị, dù và nghĩa quân theo đường núi vào Nam. Anh chàng Nghĩa Quân có hẹn với vợ là sẽ quay lại. Nếu t́nh h́nh khó khăn, nguy hiểm th́ anh ta sẽ về ban đêm, điểm hẹn là cái g̣ đó.

Thế nên, khi thành phố bị địch chiếm, làng xă bị kiểm soát, cô ta không hi vọng gặp chồng ban ngày nên buổi tối cô ta thường mang chiếc vơng, mùng mền ra ngoài chốt kia ngủ để chờ chồng. Thường th́ cô ngủ lại ở đó đến gần trưa mới vô. Cha mẹ thấy cô mang bầu, thương con, cứ để cho cô ngủ, khi nào thức dậy th́ vô nhà.

Bữa đó đến chiều, không thấy cô vào, bà mẹ mới ra đánh thức con. Không ngờ ra đến nơi th́ chỗ con gái nằm, mối đă đùn lên ngập xác cô, như một nấm mộ. Hai ông bà chưa biết tính sao th́ hôm sau, mối phủ cao lên nữa, đành để vậy.

Hôm trước đó, cô gái đă than là trong người khó ở, bị sốt, không chịu ăn uống. Cha mẹ cản ngăn nhưng cô vẫn lên chốt ngủ chờ chồng. Có lẽ cô bị trúng gió hay trở bịnh bất ngờ, không ai cứu giúp nên phải chết, vừa lúc mối đùn g̣ ngập luôn xác của cô.


https://3.bp.blogspot.com/-LQd9R_MxSTw/XqStLREGv5I/AAAAAAAAuYQ/HsPf9qqd4sANDV2ntvdeUAbgXK7a11BIQCLcBGAsYHQ/s1600/VNCH.jpg

- Nhưng nghe nói cô linh thiêng lắm, anh có biết tại sao không?

- Số là một năm sau đó, có chuyện xảy ra dưới quốc lộ, chỗ đường ṃn mà mấy anh dẫn xe vô lúc năy. Chuyện như thế nầy. Một buổi tối, trời mưa to, có chiếc xe khách chạy lên đèo. V́ mưa quá lớn không thấy đường sá ǵ cả, anh tài xế phải lái rất cẩn thận.

Lúc xe vừa định quẹo cua, đổ đèo th́ thấy một chị đàn bà, bụng mang bầu, đi băng qua đường. Anh tài xế hoảng kinh, vội thắng gấp rồi tḥ đầu ra cửa xe chửi thề chị đàn bà là đui, là ngu. Chị ta không nói năng ǵ cả, cứ lẳng lặng đi qua rồi khuất trong mưa.

Chửi xong, anh ta cho xe chạy. Nhưnh chưa kịp sang số th́ thấy một chiếc xe tải chết máy, nằm lù lù một đống, không đèn đóm, không dấu hiệu ǵ cả. Nếu không v́ chị đàn bà băng qua đường mà phải thắng gấp, anh ta đă cho xe húc vào đít chiếc xe tải chết máy nằm đó rồi, chắc chắn là xe phải rớt xuống đèo.

Thật hú vía! Anh tài xế xuống xe, cứ hướng chị đàn bà đă đi khuất mà vái lạy rối rít. Không hiểu nghe ai kể mà anh tài xế, ít lâu sau, ra kêu người nhờ xây cái miếu chỗ khúc quanh suưt xảy ra tai nạn.

Không may cho anh ta, mới đổ gạch xuống đó th́ gặp mấy tên công an xă đi ngang. Họ dừng lại hỏi lư do xây miếu, hỏi giấy phép. Anh tài xế kể lại chuyện xảy ra hôm trước, nhưng chẳng ai tin. Vụ xây miếu bị ngưng. Mấy tên công an kéo nhau lên chỗ g̣ mối, tên trưởng công an xă láo xược rút súng bắn vào cái mộ để thị uy :

- “ Chết là hết. Không có ma quỉ, thần thánh ǵ cả. Cái mộ nầy sẽ bị san bằng nay mai” V́ mấy tên đó đi nhậu về, say quá nên khi xuống đồi, xe bị lọt hố, tên trưởng công an xă bị găy tay. Thế là người ta đồn rầm lên là hắn ta bị “Cô” vật.

- Tôi có đọc một truyện ngắn tương tự. Có lẽ người ta dựa theo đó, cùng với ḷng thương cảm cô ta mà thần thánh hóa câu chuyện để người đời truyền tụng.

https://diachishophoa.com/uploads/noidung/images/image-20190816155544-1.jpeg


Anh ta như không để ư lời tôi, kể tiếp.

- Ít lâu sau, anh tài xế được nhắn ra, cho phép tiếp tục xây cái miếu, nhưng không ai dám giúp v́ sợ bị bắt. Vừa may gặp tôi, tôi thầu luôn. Xây xong miếu, tôi vào chùa, xin thầy trụ tŕ viết cho một bài vị bằng chữ nho. Phần trên để mấy chữ thật lớn Anh Hùng, Liệt Nữ. Dưới đó là tên cô gái và tên mấy anh lính chết trận.

Tôi đem đến thợ đá nhờ chạm cho một bia nhỏ để thờ trong miếu. Thành ra, ngày rằm, mồng một, xe cộ ngang qua đấy thường dâng lễ vật, khấn vái, xin “Cô” phù hộ đi đường b́nh an.

- Bộ anh nhớ hết tên mọi người chết trên đó sao ?

- Nghĩa Quân là đồng đội, cùng đơn vị bao nhiêu năm. Với các anh bên Nhảy Dù, sống với nhau hàng tuần lễ, chỉ cần nghe tiếng nói tôi cũng biết là ai, tên ǵ. Vả lại phải nhớ tên mấy người đă chết, để sau nầy thân nhân đi t́m mà chỉ cho họ.

Thấy trời đă về chiều, tôi bàn đến chuyện xây mả, anh ta đề nghị.

- Nên xây từ từ, không cho chính quyền biết, hết tiền tôi sẽ ghé nhà quí anh lấy thêm.

- Anh đừng lo, anh cứ tính công vào cho ṣng phẳng. Chẳng bao nhiêu mà ngại. Tôi để tiền lại, anh cứ ghé bạn tôi mà lấy.

Tôi nhờ anh ta đưa chúng tôi ra thăm g̣ mối là mộ của cô gái. Trông không khác bất cứ g̣ mối nào ở trong rừng, nhưng rất to, kích thước cũng cỡ một ngôi nhà nhỏ. Đứng gần th́ không h́nh dung được, nhưng nếu lùi ra xa, đi ṿng phía bên kia, sẽ thấy giống h́nh một người đàn bà với mái tóc dài, ngực lớn, ngồi xây mặt vô núi. Có một cái nấm nhỏ hơn, giống đứa bé ngồi tựa vào ḷng mẹ. Tôi hỏi.

- Trông giống Ḥn Vọng Phu, nhưng sao Ḥn Vọng Phu nầy lại xây mặt vô núi ?

Anh ta có vẻ đăm chiêu.

- Hai mẹ con chờ người trong núi ra.

Buổi chiều âm u, cảnh vật im ĺm, tôi cảm thấy rờn rợn, tưởng chừng cái nấm mộ vĩ đại giống h́nh người kia cũng có linh hồn, có cảm giác và đang lắng nghe chúng tôi chuyện tṛ. Tôi nói.

- Đáng lẽ phải đem nhang ra đây…

- Vô nhà cúng cũng được. Trong đó có thờ cô ta.

Khi vào nhà, chúng tôi xin được thắp nén nhang, lễ trước bàn thờ tổ tiên, thân nhân của chủ nhà. Anh ta vén tấm màn che bàn thờ lên và lấy nhang, quẹt diêm đốt, trao cho chúng tôi.


https://hellohoa.com/wp-content/uploads/2019/01/hoa-mau-tim-dep-nhat.jpg

Tôi thấy trên bàn thờ có để h́nh hai người lớn tuổi, có lẽ là cha mẹ anh ta. Phía trước là h́nh một cô gái, diện mạo b́nh thường, hơi mập, mặt tṛn, nụ cười hiền lành, chất phác. Cạnh h́nh cô ta là h́nh một người thanh niên.

- Có phải h́nh thờ bên cạnh là chồng cô ta không ?

- Đúng rồi! Vợ chồng phải thờ bên nhau cho có đôi.

Tôi nh́n h́nh người đàn ông, thấy ngờ ngợ như gặp ở đâu ? Nghĩ măi một lúc, quay nh́n anh ta… hóa ra là h́nh của chính anh.

- Ủa, anh chưa chết mà sao lại thờ, hay là h́nh người khác ?

- H́nh của tôi đó ! Cô ta là vợ tôi. Khi cô ấy mất, tôi về đây phụng dưỡng cha mẹ vợ.

- Nhưng sao anh lại thờ chính ḿnh ?

Anh cười buồn, đôi mắt xa xăm.

- Khi trong trại tù khổ sai của bọn cộng sản, tên cán bộ nói rằng nước Việt Nam Cộng Ḥa không c̣n nữa. Tối đó, tôi nằm khóc suốt một đêm. Tôi biết, thế là hết. Đất nước tôi, quê hương, bản quán của tôi đă bị bọn chúng chiếm mất rồi. Chúng tôi sẽ bị kiểm soát, theo dơi như những người tù.

Bạn bè, đồng đội, đứa nào cũng buồn, không muốn gặp mặt nhau ! Tôi như người lính duy nhất c̣n sống sót, lang thang giữa một vùng quen thuộc nhưng không c̣n nơi để trở về.

Cảm tưởng rơ rệt nhất là khi tôi đứng trước quận hành chánh nh́n vào. Quận đường vẫn nguyên vẹn, vọng gác trước cổng, nơi tôi thường ngồi gác vẫn c̣n đó, nhưng tôi không c̣n quyền yêu thương nơi đó nữa. Tôi đă bị xua đuổi khỏi quê hương tôi.

Tôi sống một ḿnh ở đây nhưng lại cảm thấy được gần gũi với bao người thân yêu chung quanh. Thỉnh thoảng tôi ra ngồi tâm sự với vợ con tôi ở g̣ mả ngoài kia. Khi th́ tôi qua bên kia đồi, cạnh các ngôi mộ, chuyện tṛ với đồng đội nằm dưới đó.


https://baikiemtra.com/uploads/news/2019_10/ta-canh-lang-que-vao-buoi-sang.jpg


Tôi nghe được, hiểu được những ǵ các bạn nói với tôi. Tôi nghe cả tiếng cười đùa của họ, nghe cả tiếng lách cách của súng đạn va chạm nhau, ngửi được cái mùi lính, mùi quen thuộc của mồ hôi thấm vào áo trận. Tôi ngồi đó để cảm thấy được an toàn đồng đội như những lúc hành quân, những ngày đóng chốt cũng như khi đụng độ với giặc.

Tôi ngồi đó để tưởng nhớ nước Việt Nam Cộng Ḥa thân yêu của tôi.
Tôi để h́nh tôi trên bàn thờ là coi như ḿnh đă chết theo với nước Việt Nam Cộng Ḥa của tôi.

Tôi chỉ sống lây lất, lo nhang khói cho đồng đội, cho cha mẹï, vợ con. Khi nào thực sự nhắm mắt th́ tôi đă có sẵn cái huyệt mộ, gần vợ con tôi, ngoài kia.

(Sài G̣n trong tôi/ PTC-NET)


jpg.gif VNCH.jpg (220.0 KB)

hoathienly19
10-25-2020, 08:52
" BÍ MẬT " CỦA MỘT VIỆT KIỀU MỸ GIÀ LẤY VỢ TRẺ


Vợ ông Thuận sau cơn bạo bệnh đă mất cách nay hơn 10 năm. Các con trai và gái của ông bà đều lớn cả và có gia đ́nh nên ông ở chỉ có một ḿnh. Từ ngày vợ mất, ông đă ngoài 65 nhưng vẫn c̣n tráng kiện và khoẻ mạnh.

Cái tin ông về VN mấy lần, khá tốn kém để cưới vợ qua Mỹ làm chấn động cả một thị trấn nhỏ, nơi có tin lành dữ ǵ là ai cũng biết.

Dĩ nhiên đâu có ai có thiện cảm với một ông lăo 75 tuổi về VN cưới 1 cô gái trẻ đẹp mới ngoài 20 chỉ đáng tuổi con cháu chắt. Đúng là trâu già thích gặm cỏ non !

Ra phi trường đón cô gái trẻ ấy chỉ có một ḿnh ông. Tất cả con cháu, họ hàng không có một người nào. Thái độ đó ông thừa hiểu là họ phản đối !
Giấy tờ hợp lệ, hôn thú hẳn hoi, ông đưa cô về nhà.

Đêm đầu tiên cô gái cơm nước xong, tắm rửa sạch sẽ, ngồi coi tivi, cô chưa biết tiếng Anh nên ông mở mấy băng Paris By Night, Asia.. cho cô coi. Khuya, ông chỉ tay vào một căn pḥng và nói:

- Đó là pḥng riêng của Hằng, tất cả đồ đạc có đầy đủ, Hằng cứ tự nhiên.

Nói xong, ông đứng lên đi vào pḥng của ông.

Cô gái hơi ngạc nhiên nhưng chỉ nghĩ là bên Mỹ vợ chồng ngủ riêng mỗi người một pḥng, khi nào cần làm "chuyện ấy" th́ mới...ṃ sang ! Hix!
Nhưng cả tháng sau cô chờ hoài mà vẫn không nghe tiếng ông gơ cửa hay có thái độ nào khác !


https://imagizer.imageshack.com/v2/320x214q90/r/923/kx0wmR.jpg


Sau khi hoàn tất mọi thủ tục bổ sung để làm giấy tờ như thẻ SS (Social Security), thẻ ID, permanent resident card (thẻ xanh thường trú nhân)... Ông nói nhẹ nhàng nhưng nghiêm trang với cô:

- Từ mai tôi sẽ chở Hằng đi học ESL, sau một thời gian, sẽ đăng kư học tiếp ở college, Hằng phải cố mà học, tôi không sống măi mà bảo bọc cho cô được đâu.

Ở cái xứ sở này, đâu ai để ư ai, đâu ai biết, đó là vợ chồng hay cha con, chỉ thấy ngày ngày ông chở cô đi và đón cô về, ân cần thăm hỏi động viên học hành.

Cô chỉ biết vâng dạ

Những đêm xa nhà, xa quê hương một ḿnh nơi đất khách quê người, người ta mới hiểu thế nào là cô đơn cực kỳ, là cần hơi ấm người đồng hương, là thèm một tiếng nói dù là tiếng nói của một ông già. Nhiều lần cô lưỡng lự, muốn qua gơ cửa pḥng vào nói chuyện với ông nhưng rồi lại thôi.

Một năm thấm thoát trôi qua. Cô c̣n trẻ lại khá thông minh nên tiến bộ trông thấy, cô apply vào trường college và vượt qua các test để vào ngành y tá.

Ngày cô đi thi quốc tịch cũng là ngày ông mừng ra mặt khi cô báo tin đă pass (đậu).

Rồi ông đốc thúc cô nhanh chóng bảo lănh cha mẹ qua Mỹ ! Cô c̣n đi học nên tất cả mọi chi phí ông đều đài thọ.


https://imagizer.imageshack.com/v2/180x240q90/r/921/QqTlpb.jpg


Ba năm sau cô và ông ra đón cha mẹ cô và đứa em nhỏ dưới 21 tuổi.
Từ xa, bố vợ của ông tách khỏi gia đ́nh, chạy lại ôm chầm lấy ông, mắt đă nhoè lệ và kêu lên sung sướng :

- Ông Thầy !

Th́ ra ông Thuận nguyên là sĩ quan tiểu đoàn trưởng, thuộc trung đoàn 50, sư đoàn 25 bộ binh VNCH. C̣n "ông bố vợ", bố của Hằng nguyên là một trung sĩ, thuộc cấp của ông.

Hai thầy tṛ ôm nhau mừng mừng tủi tủi.

Chỉ đến khi ông và Hằng ra toà ly dị các con ông mới vỡ lẽ. Họ biết là họ đă sai lầm.

Ngày xưa sau 1975, lúc ông phải đi tù cải tạo, người lính thuộc cấp ấy đă phải đạp xích lô nuôi gia đ́nh bữa no bữa đói mà vẫn chia sẻ giúp đỡ gia đ́nh ông dù chỉ là những đồng tiền khiêm tốn. Những lần vợ ông đi thăm nuôi gần như là toàn bộ đồ dùng người thuộc cấp mua cho ông.

Ông bùi ngùi nói với tôi :

- Chú Ḥa biết không, những ngày trong trại cải tạo, là những ngày đói triền miên, đói vô tận, đói mờ mắt, đói run chân th́ 1 cân đường, 1 kg chà bông, 1 bịch đậu phọng, vài viên thuốc qúy... hơn vàng nhưng những thứ đấy vẫn không qúy bằng cái t́nh nghiă mà người lính dành cho ḿnh. Chính cái t́nh nghiă ấy cho tôi niềm tin và hy vọng.

Khi qua Mỹ, tôi được tin gia đ́nh chú ấy kiệt quệ, đau bệnh liên miên, tiếp tế vài ba trăm cũng chỉ nuôi được mấy tuần, nên tôi đành phải bàn ... làm rể "giả" của chú ấy. (Ông hóm hỉnh khi nói câu này)


https://imagizer.imageshack.com/v2/320x240q90/r/921/Mxv7bl.jpg


*****


Tôi hiểu câu chuyện, th́ ra ông về VN "giả" cưới cô Hằng là để đền ơn người thuộc cấp đă cưu mang giúp đỡ ông và gia đ́nh sau 1975.

Nhưng tôi vẫn c̣n thắc mắc:

- Thế sao cô Hằng không biết chú là cấp chỉ huy của ba cô ấy?

Ông mỉm cười:

- Đám cưới giả mà, phải giữ bí mật chứ, chỉ có 2 người biết là tôi và người lính ấy.

Tôi nhắp ngụm bia, bỗng nảy ra ư tưởng, tôi nói:

-Chuyện của chú cháu đưa lên... facebook được chứ?

- Tôi chỉ làm một việc rất b́nh thường. Sống có t́nh có nghiă là vui lắm rồi, cần ǵ ̣m ĩ...

Hằng và các con ông đang ngồi ăn uống vui vẻ, Hằng đứng dậy đi về phiá tôi và nói:

- Anh Ḥa, anh cứ đưa lên facebook cho em, coi như là lời cảm tạ người Bố thứ 2 của em vậy!

Tôi thấy mắt Hằng long lanh !


R0X9ST0xVTg


Trên Mạng không thấy tên tác giả .

hoathienly19
10-30-2020, 06:02
CHUYỆN TÙ CẢI TẠO : VAY VÀ TRẢ


Nhân phát biểu của ông phó giáo sư tiến sĩ Vũ Quang Hiển (không có ngược đăi quân cán chính miền Nam sau 1975 [1]) tôi muốn giới thiệu một bài mang tính hồi tưởng của BS Vơ Tam Anh viết về thời gian trong các trại tù cải tạo.

[1] http://www.bbc.co.uk/…/20…/04/150418_vuquanghien_vietnamwar…


Đây chỉ là 1 trong số hàng ngàn câu chuyện.

Câu chuyện, nói theo ngôn ngữ của Karl Popper, là một minh chứng cho thấy ông Vũ Quang Hiển đă phạm phải một sai lầm lớn. Ông cũng đă xúc phạm hàng triệu người Việt Nam.

Phát biểu của ông Vũ Quang Hiển làm tôi nhớ đến sử gia người Anh tên là David Irving.

Ông Irving nổi tiếng với danh xưng “Holocaust denier” v́ ông phủ nhận rằng Holocaust là chuyện không có thật, rằng mấy ḷ gas là do người Do Thái phịa ra.

Ông Irving nổi tiếng đến nỗi bị Chính phủ Úc cấm không cho vào Úc, và sau này th́ bị toà án Áo phạt tù 3 năm về tội xuyên tạc sự thật lịch sử.

Kể ra th́ ông Vũ Quang Hiển c̣n may mắn chán v́ ông không chịu sự chi phối của luật pháp nước ngoài.


https://imagizer.imageshack.com/v2/640x388q90/r/921/sA3EiS.jpg


Không biết có khi nào ông Vũ Quang Hiển tự hỏi tại sao các lănh đạo cao cấp của VN ra nước ngoài là bị biểu t́nh dữ dội ?

Suốt 40 năm qua, biểu t́nh vẫn xảy ra mỗi khi các vị ấy đến thăm các nước phương Tây.

Một trong những lí do là những người mà chính quyền hiện hành từng bỏ tù họ và hành hạ họ qua nhiều năm trong các trại “cải tạo”.

Cho dù họ đă chết, nhưng con cháu họ th́ không quên. Chính v́ thế mà họ biểu t́nh.


avJktVMIzMM


Tôi không thích việc làm như thế, nhưng tôi hoàn toàn hiểu và thông cảm cho sự tức giận của họ.

Người phương Tây có thành ngữ “What goes around comes around”.

Câu này có thể hiểu là “Cuộc đời có vay th́ có trả “.

Những ǵ mà chính quyền ngược đăi những tù nhân cải tạo th́ bây giờ chính quyền phải nhận lănh hậu quả.

Tưởng là ông Vũ Quang Hiển thừa biết câu đó chứ.

==========


LƯƠNG Y NHƯ….TỪ MẪU

BS Vơ Tam Anh

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, nhân dân Miền Nam Việt Nam lâm vào một tâm trạng hoang mang tột độ, mịt mù trước tương lai, lo âu cho cuộc sống hằng ngày.

Tại Bệnh viện Vĩnh Long, mặc dầu tôi đă không c̣n trách nhiệm ǵ nữa mà anh chị em nhân viên cứ bám lấy tôi để ḍ hỏi, làm như tôi có phép mầu nhiệm ǵ để giải tỏa được những thắc mắc đang quay cuồng trong trí óc mọi người.

Những người thay thế tôi cố sửa đổi bộ mặt của bệnh viện bằng cách cho sơn vẻ khắp nơi những khẩu hiệu cách mạng mới, mà đắc ư nhất là câu “Lương Y như Từ Mẫu”,không biết lượm được ở đâu, mà cứ nhan nhản khắp nơi, từ ngoài cổng, cầu thang, hành lang cho đến pḥng thay áo, nhà tắm…như cố nhét vào đầu óc mọi người để tranh thủ cái độc quyền đạo đức nhân từ mà chỉ riêng người thầy thuốc cách mạng mới xứng đáng với hai chữ lương y.


https://imagizer.imageshack.com/v2/348x480q90/r/923/igM0rT.jpg


Một hôm, tôi bước vào pḥng trực y tá để thăm hỏi, th́ thấy anh chị em đang quây quần tán gẫu, lẽ tất nhiên cũng không ngoài đề tài số một là gạo cơm lương bổng sẽ ra sao.

Bên cạnh là bàn thờ tổ quốc, một thứ trang trí mới trong tất cả các pḥng, bất luận là chuyên môn hay hành chánh, bên trên vẫn là cái câu nhân từ bất hủ đó. Một nữ hộ sinh chỉ vào khẩu hiệu, ngao ngán bảo với tôi :

” Ông Thầy biết không, chúng em bị một phen mừng hụt v́ nó đấy “, rồi lấm lét nh́n ra của, nói tiếp:

“Chiều nay khi mấy chú cán bộ vào kẻ khẩu hiệu, khi ngang tới chữ “Lương y như…” chúng em mừng quá reo lên v́ cứ tưởng là lương y như tháng trước, không ngờ nó lại là như…từ mẫu !”.

Thế rồi v́ không hiểu duyên nợ nghề nghiệp gắn liền hay đạo đức cách mạng chu đáo lo cho chúng tôi mà các bậc từ mẫu đó, tuy khoác áo lương y nhưng lại cư xử theo tư cách một… cai ngục, đă đeo đẳng măi chúng tôi trên suốt đoạn đường dài “cải tạo”.


https://1.bp.blogspot.com/-FwoLYsGCYN8/XZSmKK1ju3I/AAAAAAAAW24/7zC0MYV8UpwBGi4tG-b5864R2_2eaaiUQCEwYBhgL/s640/REEDUCATION-CAMPS-copy2_result.jpg


Sau những năm dài da diết trong rừng sâu Sơn La, trên biên giới Hoa Việt, cuối cùng, v́ có chiến tranh với Trung quốc, chúng tôi được áp tải về một trại giam gần Hà Nội, một trại giam “kiểu mẫu”, một thứ “cây kiểng” để chế độ tŕnh diễn chính sách khoan hồng nhân đạo với thế giới bên ngoài.

Trong cái tủ kính bày hàng đó, lẽ tất nhiên săn sóc sức khỏe cho tù là “ưu tư hàng đầu” của Ban Giám thị và vị lương y phải được đóng vai kép chính.

Trại Nam Hà, cách Chùa Hương không xa, được thời cuộc nâng lên hàng danh lam thắng cảnh để cho quan khách ngoại quốc lui tới viếng thăm, từ Hội Ân Xá Quốc Tế, báo chí Tây phương, các nghiệp đoàn cộng sản Pháp cho tới cả “đồng chí” Chandra Chủ tịch Hội đồng Ḥa b́nh Thế giới v.v…


Một lớp học tập cải tạo tại Tây Ninh năm 1976.


https://1.bp.blogspot.com/-8w_wEN1F5O8/XZSmGEFqYEI/AAAAAAAAW2w/1PL66HdEzeAPxv4ViJbS_aY-DMWGC7rXgCEwYBhgL/s640/1976%2BM%25E1%25BB%2599t%2Bl%25E1%25BB%259Bp%2Bh%2 5E1%25BB%258Dc%2Bt%25E1%25BA%25ADp%2Bc%25E1%25BA%2 5A3i%2Bt%25E1%25BA%25A1o%2Bt%25E1%25BA%25A1i%2BT%2 5C3%25A2y%2BNinh_result.jpg


Từ trại nh́n ra, cảnh đẹp như tranh, xa xa những núi đá vôi nho nhỏ, đủ h́nh đủ dạng, nổi lên trên một mặt nước phẳng ĺ thơ mộng trông như Vịnh Hạ Long.

Cái mặt nước phẳng ĺ hiền ḥa đó, không ai ngờ là một thứ hàng rào thiên nhiên vô cùng độc hại, là những đầm śnh lầy cát lở đă nuốt sống biết bao là tù nhân trốn trại.

Bệnh xá nằm dưới chân đồi, trước sân có ḥn non bộ với Lă Vọng ngồi câu, bên dưới là bể cá vàng lừ đừ lội nh́n chúng tôi bằng cặp mắt thờ ơ chán ngán, trên mái hiên treo đầy lồng chim đủ màu đủ loại, suốt ngày hót líu lo như để mỉa mai tâm trạng héo hắt tơi bời của chúng tôi.

Tất cả cái thú xa xỉ trưởng giả đó đă được đánh đổi bằng xương thịt của chúng tôi qua sự cắt xén tiền thực phẩm vốn đă vô cùng đói rách.

Cá thia vàng, chim hoàng yến, chim họa mi tung tăng bay nhảy, đă được mấy ngàn cặp mắt tù sâu hoắc và phờ phạt v́ thiếu ăn, thèm thuồng nh́n qua giá trị của mấy chục gờ ram prôtêin mà vô cùng tiếc rẻ, v́ nó đang nằm trong tầm tay mà lại ngoài tầm… bao tử.

Cây kiểng trước sân được chăm sóc tỉ mỉ mà mỗi lần gọt tỉa là một dịp cho chúng tôi lượm lá rụng nấu thành một bữa rau để dành giựt nhau, tuy vừa dai vừa đắng nhưng màu đỏ của nước lá dền cũng cho chúng tôi ảo tưởng bổ dưỡng của chất sinh tố B12.

Cái quang cảnh thần tiên của bệnh xá đó đă được lên h́nh trên báo Liên Xô và được tô điểm đến độ mỗi lần thuyết tŕnh cho phái đoàn ngoại quốc, viên giám đốc trại cũng không bao giờ quên luyện giọng một cách thành thực :

“Tôi chỉ mơ ước được sống như những trại viên (ư nói từ chúng tôi)”. Tiếc thay ! ! !


https://i2.wp.com/i415.photobucket.com/albums/pp239/nhacyeuem/August%202012/dalai-lama.jpg


Đến đây tôi mới hiểu tại sao anh em tù Nam Hà gọi cán bộ bằng “Chèo” (phường chèo), trắng trợn đến độ ban giám thị phải gọi lên chỉnh:

“Cán bộ th́ có nam có nữ, cớ sao các anh lại gọi bằng “chèo đực, chèo cái”, nghe chẳng “văn hóa” tư nào”.

Trại có một mật độ chuyên viên y khoa cao nhất thế giới, trong số hai ngàn người (tù) th́ có đến hai mươi bác sĩ (cũng tù). [/i]

Tất cả đều phải lao động khổ sai như nhau, đập đá, đốn củi, ngâm ḿnh dưới nước để kéo cày thay trâu…, trong khi trên bờ đê, cán bộ cầm cái roi dài quất qua quất lại khiến cho tù ở dưới ruộng không hiểu là ḿnh đang c̣n ở kiếp người hay đă đầu thay qua kiếp khác làm trâu ḅ.


https://3.bp.blogspot.com/-mTUXqdREZtM/WvP9Lo1_bGI/AAAAAAAA-9w/s4rTuPfSAdUbfkgmT633khI-TJDhF75ugCEwYBhgL/s640/1%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2BB%25C3%25AD%2B th%25C6%25B0%2B9.jpg


Phần điều trị được nhường lại cho những người ngoài ngành y tế được lựa chọn theo tiêu chuẩn hạnh kiểm và mức độ hợp tác.

Tuy nhiên, bất đắc dĩ bệnh xá phải giữ lại một vài bác sĩ tù để vừa giúp đỡ trong việc chuyên môn, để đọc các tên thuốc bằng ngoại ngữ, vừa để làm kiểng cho phái đoàn ngoại quốc xem, vừa để dạy cho các bác sĩ (không phải y khoa) cách mạng ống nghe, cách bắt mạch v.v…

Người được chọn ở lại bệnh xá là một đồng nghiệp đàn anh, từng tốt nghiệp đại học Paris khi tôi chưa vào trường y khoa, từng giữ nhiều chức vụ điều khiển trong ngành y tế miền Nam, nay đă lớn tuổi được anh em rất nể nang nên tôn làm “đại ca”.

Đại ca c̣n có thêm biệt hiệu nữa là “Vua cháo heo” v́ thỉnh thoảng được anh em nuôi heo cho cán bộ, thương t́nh làm ngơ để cho múc một lon cháo heo (dĩ nhiên là béo bổ hơn cơm tù ) rồi vụt chạy cho cán bộ khỏi thấy.

Thế là tối hôm đó được một đêm huy hoàng.

Sau khi chiếc khóa sắt nặng nề rột rạt khóa kín cửa chuồng lại, chúng tôi bao quanh đại ca, bên cạnh lon cháo heo bốc khói thơm phức, vừa xem đại ca lim dim đôi mắt thưởng thức từng hạt bo bo cháy khét mà tưởng chừng như ăn trứng caviar, vừa để đại ca kể lại cho đàn em nghe những ngày vàng son c̣n du học trên đất Pháp, những đêm liên hoan trên đường phố Montmartre Paris…

Ảnh sinh hoạt trong nhà bếp ở một trại cải tạo tại Việt Nam sau năm 1975.



https://1.bp.blogspot.com/-Ui-KcrHsRkU/XZSmOq0K7BI/AAAAAAAAW28/lPIJNKf40LEx4wvkf82Fj4qUgsoMtQx7ACEwYBhgL/s400/images_result.jpg

Chỉ huy bệnh xá là một bác sĩ ngành công an, luôn luôn nh́n chúng tôi bằng cặp mắt nghi ngờ đầy mặc cảm, có lẽ đă đọc được trong phiếu lư lịch của chúng tôi một tội danh lạ đời :

“ Can tội : bác sĩ ”.

Một hôm tịch thu được hộp dụng cụ tiểu phẫu trong đó có cây kềm Michel giống cái kéo, dùng để gỡ các móc da, bác sĩ loay hoay măi không biết làm sao, cuối cùng chê :

“Kéo với kiết, thế này th́ làm sao cắt được, dốt thế ! ”.

Mắt bác sĩ đă quen nh́n những lọ Pénicilline Trung quốc làm bằng một thứ chai đục ngầu, bọt lỗ đỗ, nút lọ được khằn kín bằng sáp như thuốc “cao đơn hoàn tán”, nên khi gặp một lọ Pénicilline bào chế ở miền Nam, rất kinh ngạc v́ kỹ thuật sai biệt, và khi thấy trên lọ mấy chữ :

“ Laboratoires Ténamyd Thủ Đức ”, bèn mừng rỡ khoe với chúng tôi:

“ Thuốc của Đức đấy, xă hội chủ nghĩa anh em ta đấy”.


https://baovecovang2012.files.wordpress.com/2020/09/bienhoa_nguoi-vuon.jpg


Dưới trướng của vị luơng y này là một ban chuyên môn (không phải y khoa) gồm đủ thành phần.

Một anh có hoa tay đục đẽo, chạm trỗ, biến các lon sữa Guigoz thành những hộp thuốc lá, cái lược, cái ṿng, tinh vi như những nữ trang thứ thiệt để lương y đem về tặng thân nhân hoặc… đổi chác.

Một anh ngành quân cụ lo bảo tŕ chiếc xe đạp “hữu nghị” mà người cỡi cũng hănh diện như lái chiếc xe Mercedes vậy.


https://1.bp.blogspot.com/-vqfemqyxJoM/XZS6oeexU3I/AAAAAAAAW3Y/RwKqO0HXwFEjNzr9uceKdT4smUzcODIWgCLcBGAsYHQ/s640/Screenshot_2019-09-27%2BRe%2BEducation%2BCamp%2BVietnam%2BPictures%2B and%2BPhotos%2B-%2BGetty%2BImages1_result_1.png


Một họa sĩ có biệt tài biến hóa những gương mặt trong gia đ́nh lương y từ một tấm ảnh nhăn nheo vàng khè thành những chân dung sạch sẽ khôi ngô, và lương y cũng không dấu được sự hài ḷng khi thấy khoác lên ông cụ thân sinh chiếc khăn nhiễu, cái áo gấm, trông rất “quan “ , c̣n phu nhân và ái nữ cũng được mặc chiếc áo dài mà ngoài đời họ chưa bao giờ sờ tới.

Riêng bản thân lương y, khi đề nghị mặc bộ âu phục cho oai th́ lưỡng lự hồi lâu rồi buồn rầu trả lời :

“Chớ ! không nên, nhỡ trên biết được th́ khốn”, nên đành chấp nhận bộ đồng phục công an vậy.


https://1.bp.blogspot.com/-HyszhrDaiQQ/XZSmHE1NFcI/AAAAAAAAW28/-B8lgR1cquAS50tHTeTLmx9BRfmZcQqqQCEwYBhgL/s640/1988%2B-%2BTr%25E1%25BA%25A1i%2Bc%25E1%25BA%25A3i%2Bt%25E1 %25BA%25A1o%2BZ30D%2B%2528Th%25E1%25BB%25A7%2B%25C 4%2590%25E1%25BB%25A9c%2529%252C%2BQ.H%25C3%25A0m% 2BT%25C3%25A2n%252C%2Bt%25E1%25BB%2589nh%2BThu%25E 1%25BA%25ADn%2BH%25E1%25BA%25A3i_result.jpg


Về phần điều trị, có lẽ Đảng đă sáng suốt thấy rơ sự lúng túng của lương y, nên chỉ thị cho quốc doanh cung cấp dược phẩm dưới h́nh thức “viên” hết sức đơn giản, hễ đau ở bộ phận nào th́ đă có những viên tương ứng:


Viên gan, viên dạ dày, viên phổi, viên tim, viên xương, viên khớp v.v…

Ban đêm nếu có tiếng kêu cứu từ các pḥng vọng ra, thê thảm xé nát sự im lặng nặng nề của trại tù về đêm, rồi cứ lặp đi lặp lại măi như dội qua vách núi, cho đến khi lương y khệnh khạng đến, cho ống nghe qua một khe nhỏ để khám bệnh nhân ở trong pḥng rồi hoặc phát cho vài “viên”, hoặc bắt bệnh nhân dán mông đít vào song cửa sắt chích cho một mũi thuốc để chờ tới sáng.

Cũng trong hoàn cảnh đó, một Thượng Nghị Sĩ nổi tiếng ở Sài g̣n, bị trúng độc v́ ăn sắn sống, trộm được lúc ban chiều khi đi lao động, đă phải chờ măi cho tới sáng hôm sau, khi được đưa ra khỏi pḥng th́ đă quá trễ.


https://lh6.googleusercontent.com/ovsu4lGF_io19Ai_zlwLRcKRbuIIVaWNXoK_Zl80BVy4RkTtFy Ib_sNUVMQHLHYEuJMYqWPtg2rdFc4vrSUjSKh52O4Ai9VXRdgp LgVKnMlKjp0rk1E6YnI2Cq25PLi5EStAgKQrVAwy5AughA


Một buổi chiều nọ, khi đi lao động về, anh em ngạc nhiên chứng kiến một hiện tượng lạ thường :

Trại được sơn phết lại trắng xóa, trên vách tường lại vẽ thêm những bông hoa màu mè sặc sỡ, có lẽ v́ cây cảnh thật đă bị tù bứt lá bẻ hoa không đủ đem lại vẻ vui tươi cho nhà tù.

Giữa sân lại có cảnh nhóm chợ trời, cán bộ bày bán thịt tươi, rau sống cho anh em tù nào c̣n dấu đút được chút tiền c̣m tung ra mua ăn bồi dưỡng.

Những người giàu tưởng tượng cho truyền ngay một câu sấm, không biết có phải của Trạng Tŕnh không:

“Bao giờ tường đá nở hoa,

Nhà tù nhóm chợ th́ ta…ra về”

Về đâu chẳng thấy nhưng truớc mắt là phải ráo riết chuẩn bị doanh trại để đón tiếp một phái đoàn ngoại quốc quan trọng, một công tác làm đảo lộn hẳn nếp sống hằng ngày, để được đền bù bằng một chút an ủi mơ hồ là c̣n được người đời biết tới.

Ngay tối hôm đó, một số nhạc cụ kể cả cây dương cầm nặng nề được h́ hục chở về từ Hà Nội để cho ban nhạc tha hồ tập dượt măi tới khuya .

Tiếng nhạc vang lên từ một góc núi làm khuây khỏa trong chốc lát những u uẩn của tù nhân.

Thỉnh thoảng một vài bản “nhạc vàng” được chơi lén, tiếng réo rắc của “Diễm Xưa”, “Nắng chiều” gợi lên một nỗi nhớ nhà vô biên, mà lỡ cán bộ có hỏi tới th́ anh em đă sẵn câu trả lời :

“Nhạc Cuba đấy” ,thế là yên.


https://hung-viet.org/images/file/iZh6LTdj0wgBAIhs/traiz30dhamtan.jpg


Căn pḥng chật chội hôi hám trong đó hằng mấy trăm mạng người chen lấn giành giựt từng ly, từng phân trên cái tiêu chuẩn hai bàn tay cho mỗi người, nay được thu dọn thành ba mươi chỗ nằm rộng răi tươm tất, với chiếu hoa mới toanh, chăn len thơm phức, sắp xếp thẳng tắp như trong một quân trường.

Từ mờ sáng, ngoài thành phần ở lại để tŕnh diễn, c̣n tất cả phải lũ lượt kéo nhau thành từng đàn qua các đường ṃn khúc khuỷu để vào trốn sâu trong núi.

Các anh em bệnh nặng th́ được cơng, gánh hoặc khấp khểnh lết đi thật xa để khuất khỏi tầm mắt trong sáng của người ngoại quốc cái h́nh ảnh vẩn đục thê thảm đó.


https://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2019/05/2009_04_28_ganhphan-gif.jpg


Bệnh xá này nhường lại cho những con bệnh mới, không có bệnh nhưng có một thể xác chưa tàn tạ nhờ có thăm nuôi, lúng túng học thuộc ḷng những căn bệnh thời đại do “tàn dư Mỹ Ngụy để lại”:

- Sơ gan v́ rượu chè

- Lên máu v́ nhậu nhẹt, nghẽn mạch máu v́ x́ ke, ma túy…

Gọn gàng sạch sẽ trong những bộ đồ ngủ mới toanh, trên mỗi đầu giường có chưng thêm một hộp sữa cũng “kiểng” như bệnh nhân, nghĩa là sẽ được thu hồi ngay sau khi phái đoàn ra về.


https://imagizer.imageshack.com/v2/320x213q90/r/924/NGyIHM.jpg


Ban thể thao, bóng chuyền, bóng bàn, trong đồng phục gọn ghẽ vui mắt, ra sức “tranh thủ” để được bồi dưỡng thêm mấy củ khoai.

Từ sáng sớm ban nhạc đă inh ỏi trổi lên những bản nhạc hùng khối cộng sản, gây không khí vui nhộn làm cho quan khách có cảm giác là đi chơi chợ phiên hơn là đi thăm nhà tù.


https://imagizer.imageshack.com/v2/219x240q90/r/924/9FXfuk.jpg

Không hiểu là một phần thưởng hay là một cực h́nh tủi nhục cho những ai được chọn để ngồi ăn một bữa cơm “xoàng” mà trong suốt cuộc hành tŕnh cải tạo họ chưa bao giờ được nếm.

Thực đơn, được dán ở cửa, gồm có :

- Cơm trắng (một hiếm hoi trên đất Bắc) và thịt lợn, rau muống (một điều lạ trong nhà tù).

Bữa cỗ được diễn tiến theo một lịch tŕnh khắt khe :

- Ngồi vào bàn khi phái đoàn rời Hà Nội (8 giờ sáng), cầm đũa khi họ đến cổng trại (10 giờ sáng) để cho bao tử cồn cào tiết chất chua, nước mắt nước mũi chảy dài v́ ngỡ ngàng trước mấy món ăn thơm phức béo bổ, cứ thế mà chịu đựng cái cực h́nh sinh lư đó suốt mấy tiếng đồng hồ, hai tay th́ cứ tuyệt vọng vùng vẫy trong một thứ c̣ng vô h́nh cho đến khi bóng dáng của phái đoàn cứu tinh xuất hiện ở ngưỡng cửa mới được lệnh cho thức ăn vào miệng (1 hoặc 2 giờ trưa).


https://imagizer.imageshack.com/v2/640x276q90/r/924/opguFp.jpg


Phần tŕnh diễn của bệnh xá được mở màn khi phái đoàn đặt chân vào trại.

Bác sĩ trưởng, trong bộ áo bờ lu lụng thụng, chiếc nón vải che khuất chân mày, trịnh trọng đặt ống nghe vào bệnh nhân ngồi trước mặt, rồi cứ giữ tư thế đó như một pho tượng sáp cho tới khi phái đoàn đi qua.

Lẽ cố nhiên “đại ca” của chúng tôi cũng có mặt tại bệnh xá với một chỉ thị nghiêm khắc :

" Không được nói tiếng ngoại ngữ và cố tránh mặt phái đoàn chừng nào hay chừng đó. "

Một nhà báo Pháp hỏi đại ca:

“Anh biết tiếng Pháp không ?”.

V́ đă được dặn trước, đại ca phải chờ cho thông dịch viên Bộ Nội vụ dịch xong để chứng tỏ rằng ḿnh không hiểu được câu hỏi, rồi mới trả lời :

- “ Không ”.

Nhà báo hỏi tiếp :

" Anh tốt nghiệp ở đâu ?”.

Câu hỏi bất ngờ này không được ban giám thị cho học tập trước, nhưng cũng vẫn chờ được dịch xong như thường lệ, đại ca mới trả lời :

“ Y khoa Đại học Paris ”.

Nhà báo bàng hoàng, ngạc nhiên như khám phá được một điều ǵ bí ẩn, một cái ǵ bất thường, ṭ ṃ hỏi tiếp th́ được biết vợ anh là người Pháp, hiện sinh sống ở Paris, nên mừng rỡ chụp cho một tấm h́nh rồi ân cần thêm :

“Tuần sau vợ con anh sẽ nhận được”, ḷng hân hoan phấn khởi v́ vừa làm được một nghĩa cử trọng đại.


https://imagizer.imageshack.com/v2/320x226q90/r/923/S4PptG.jpg


Chưa kịp mừng th́ tai họa đến ngay. Sau khi phái đoàn ra về, th́ ông bạn già của chúng ta, nạn nhân của ḷng vị tha nhân đạo kiểu Tây phương, bị bác sĩ trưởng bệnh xá và ban giám thị gọi lên mắng nhiếc thậm tệ, bắt kiểm điểm lên kiểm điểm xuống, để rồi, bắt đầu từ hôm sau, hằng ngày phải ra lao động, đập đá, kéo cày, ngâm ḿnh dưới ruộng như hàng ngàn, hàng vạn anh em tù khác.


https://donghuongkontum.files.wordpress.com/2019/04/cacc89i-tacca3o36-1.jpg


Ngày tôi về, đại ca c̣n ở lại, tiễn đưa tôi bằng cặp mắt đă hết nước mắt và hẹn tôi ở… kiếp sau !

Dư âm nặng nề của cuộc viếng thăm và v́ tấn tuồng đóng vụn, làm cho cơn lôi đ́nh của lương y đă trút hết lên đầu chúng tôi, nay không c̣n khoác áo Từ Mẫu nữa mà lại đội lốt… Ác Mẫu.

Phương Vũ Vơ Tam Anh

https://danlamthan.wordpress.com

hoathienly19
11-01-2020, 08:26
CHUYỆN THẬT KỂ VỀ “ TẤM THẺ BÀI ” CỦA NGƯỜI CHA


Con gái 9 tuổi lạc qua Mỹ ngày 30 tháng 4 năm 1975, trở thành bác sĩ về Việt Nam chửa bệnh từ thiện, ra Nha Trang t́m lại cha mẹ các em, t́nh cờ xe hết xăng ngay chỗ mẹ ruột và hai đứa em đang cải táng mộ cha là một quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa cấp bậc Trung Sĩ tử thương vào ngày 30/04/1975, sau đó cô đă bảo lănh cả mẹ và các em qua định cư tại Hoa Kỳ.

Câu chuyện được bắt đầu vào sáng ngày 23-3-1975

Sau khi chồng và con trai bị chết v́ đạn pháo kích của Việt Cộng đồng thời bị thất lạc đứa con gái trong ngày di tản tại băi biển Chu Lai tại Quảng Tín, chị Buôn tất bật chạy khắp nơi để hỏi thăm về đứa con gái của ḿnh…chị đă được một người chạy nạn cho biết:

- “ Con bé khoảng 9 hay 10 tuổi mặc cái áo xanh, quần đen, cổ có đeo cái thẻ bài của lính là con chị sao ?

Nó được một người trên ca-nô nhào xuống nước bơi vào vớt nó đưa lên ca-nô ra tàu lớn rồi.

Thật là may mắn cho nó!”…

Lệ, đứa con gái thất lạc của chị Buôn được đưa lên tàu Hải quân với chiếc thẻ bài đeo ṭng teng nơi ngực.

Người ta thấy có khắc tên:

Lê văn Buôn Số quân: …. Họ hỏi Lệ.

Lệ nói đó là tên ba nó, ba Buôn của nó, bị lọt lại với má và ba đứa em tại băi biển Chu Lai.

Mới đầu Lệ sụt sùi khóc nhưng có người đàn bà ngồi gần bảo nó khóc không ích ǵ.

Nó cắn răng nghe lời bà này, làm theo những ǵ người ta chỉ bảo. Tiếng nổ làm cho nó ù tai nhưng cái sợ làm nó quên cả.

Kể từ lúc quả lựu đạn nổ, nó gần như mê đi cho đến khi có người vớt nó đưa lên ca-nô rồi lên tàu.


http://motgoctroi.com/StLichsu/LSCandai/ToiAcCSVN/DailoKinhHoang/horror_highway13.jpg

Người vớt nó lên ca-nô và đưa nó lên tàu, nhận nó là con nuôi là một Thiếu Uư Hải quân.

Sau thời gian huấn luyện dài đằng đẳng, tim anh c̣n đầy ắp t́nh người dành cho đồng hương và cả nhân loại.

Ước mơ của anh là những chuyến hải hành xa, đi đến chân trời góc biển, đi đến những đô thị lớn hoa lệ, nguy nga, ngợp ánh đèn về đêm và nườm nượp xe cộ, người đi bộ trên hè phố ban ngày.

Anh tên Lê trọng Nghĩa, 28 tuổi, quê quán ở miệt Thủ Dầu Một, ra trường với hạng cao trong số hơn 60 sinh viên tốt nghiệp trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang và hiện là một sĩ quan ưu tú của Giang đoàn 240 đóng ở miền Trung.

Chiếc tàu Nghĩa và đứa con nuôi là Lệ về đến bến Bạch đằng Sàig̣n vào tuần đầu tháng 4-1975, đang lúc Sàig̣n lên cơn sốt y như miền Trung mấy tuần trước.

Nghĩa đưa Lệ đến gửi tại nhà vợ một người bạn trong trại Sĩ quan bến Bạch đằng, lại gửi tiền và nhờ Xuân Hà, tên vợ người bạn, đi mua sắm quần áo và những thứ cần thiết hàng ngày cho Lệ.

Xuân Hà nh́n Nghĩa rồi nh́n Lệ và hỏi nhỏ Nghĩa:

“Con bé xin được ở đâu mà xinh quá vậy?

Tốn vài tạ gạo nữa là đă ra dáng tiểu thư rồi.Anh lựa hay lắm.”

Nghĩa nghiêm nét mặt bảo Xuân Hà:

“Chị đừng nghĩ vậy.

Ba má nó và ba đứa em c̣n kẹt lại Chu Lai.

Chỉ có ḿnh nó được tôi cứu lên tàu. Tôi nhận nó làm con nuôi.”

Xuân Hà tính đùa thêm một câu nhưng thấy mặt Nghĩa lạnh như tiền nên không dám cợt nhả nữa.


https://imagizer.imageshack.com/v2/320x211q90/r/921/s6PLt8.jpg


Ngày 28-4-1975, Nghĩa lại mang Lệ lên một chiếc tàu Hải Quân HQ lớn để chạy sang Guam.

Nghĩa con một, cha mẹ Nghĩa đă lớn tuổi muốn sống và chết ở Thủ dầu Một nên không đi mặc dù trong thời gian ở Sàig̣n, Nghĩa đă cải trang về thăm và mời ông bà đi.

Sau 5 tháng ở trong trại tạm cư ở Guam, Nghĩa và Lệ được một nhà thờ bảo trợ đi định cư tiểu bang South Carolina.

Từ đây, Nghĩa xin Basic Grant của tiểu bang để vào Đại học học Kỹ sư cơ khí.

Ngoài giờ học, Nghĩa đi làm part time cho tiệm Sears ở downtown để lấy tiền chi phí ăn ở cho hai cha con.

Nghĩa xin cho Lệ vào học ở trường tiểu học địa phương, có xe bus nhà trường đưa đón mỗi ngày và ăn sáng, ăn trưa miễn phí v́ hai cha con Nghĩa chưa có lợi tức.

Nghĩa chỉ thêm bài vở cho Lệ mỗi buổi tối sau khi cơm xong.

Lệ thông minh nên học rất nhanh.

Để giúp ba Nghĩa, nó biết đặt nồi cơm điện, luộc rau, luộc trứng, làm những món giản dị rồi chờ ba Nghĩa về ăn cơm.

Mặc dầu vào ngang thiếu căn bản 4 lớp đầu (học tŕnh Hoa Kỳ), nhưng Lệ đă học xong lớp 5 Việt Nam, Lệ học lại với ba Nghĩa và một cô giáo Mỹ dạy kèm (tutor) tất cả những ǵ cần thiết chưa được học ở các lớp dưới, nhất là Anh ngữ, v́ vậy Lệ tốt nghiệp Trung học lúc mới 17 tuổi với điểm trung b́nh 4.0, một thành tích vượt mức ngay với học sinh bản xứ.

Nhiều lúc Lệ nhớ ba má, nhớ các em day dứt nhưng nghe ba Nghĩa khuyên, Lệ phải cố quên.

Lệ cũng nghĩ và tự nhủ ḷng, có khóc, có nhớ ba má và các em cũng không làm được ǵ, chỉ cản trở việc học.


http://motgoctroi.com/StLichsu/LSCandai/ToiAcCSVN/DailoKinhHoang/horror_highway15.jpg


Đă từng ở trong cảnh nghèo của cha mẹ ở Việt Nam, Lệ biết được đi học thế này là một diễm phúc v́ vậy Lệ cố gắng và chăm chỉ hết mức.

Ba Nghĩa cũng khuyên Lệ, sau này có thể có bang giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, khi ấy Nghĩa sẽ t́m cách hỏi thăm t́m ra tung tích ba má và các em Lệ. Lệ nghe thế lại tạm yên ḷng và hy vọng.

Mùa Thu năm đó, Lệ vào trường Đại học Y khoa South Carolina.
Sau 3 năm, Lệ lấy Cử nhân Sinh Vật học với lời khen của Hội đồng Giám Khảo. Lệ chuyển qua học ngành Nhăn Khoa (Opthalmology).

Năm 1990, Lệ đậu bằng Bác sĩ Nhăn Khoa hạng tối Ưu với lời ngợi khen của Ban Giám Khảo.

Lệ được mời dạy môn Nhăn Khoa cho sinh viên cùng trường.

Lệ hỏi ư kiến ba Nghĩa, sau đó Lệ xin khất cho đến khi trở về từ Việt Nam.

Tốt nghiệp xong, Lệ bàn với ba Nghĩa, lúc này đă có vợ và một đứa con trai 2 tuổi, ba Nghĩa đồng ư, Lệ đi mua vé máy bay về Việt Nam t́m cha mẹ và các em.


https://imagizer.imageshack.com/v2/320x200q90/r/924/YOa9Ku.jpg


Sau hơn 10 năm bế quan toả cảng cả nước sắp chết đói, lúc này (từ 1985) chế độ bắt buộc phải mở cửa cho kinh tế thị trường nên cũng dễ dàng cho Lệ đi lại.

Lệ và một người bạn thân về đến Chu Lai vào một buổi chiều mùa Hạ năm 1990 sau khi đă lặn lội đi bằng đủ thứ xe từ Sàig̣n ra miền Trung.
Sau 15 năm, quang cảnh cũ đă thay đổi nhiều.

Có những căn nhà mới mọc lên nhưng cũng có nhiều căn trại cũ biến mất.

Chỉ có băi biển, trông vẫn như trước mặc dù có nhiều hàng quán mọc lên bán thức ăn, thức uống cho du khách.

Trại Gia binh ngày nào không c̣n. Lệ muốn được gặp lại những người hàng xóm của ba má Lệ ngày xưa như vợ chồng bác Sáu, vợ chồng chú Đàm, vợ chồng cô Bé để hỏi thăm về cha mẹ và các em nhưng đi quanh quanh làng xóm, Lệ không kiếm ra một người quen cũ.

Lệ đeo cái thẻ bài vào cổ như ngày 23-3-1975 ra băi biển Chu Lai, nhà nào Lệ cũng vào hỏi thăm và cho con cái họ quà bánh Lệ đem từ Hoa Kỳ về, giơ chiếc thẻ bài cho họ coi và hỏi thăm xem có ai biết ba má và các em Lệ không ?


https://www.chinook-helicopter.com/history/chu_lai/chu_lai_3.jpg


Nhưng tuyệt nhiên không ai biết. Vốn đă có định kiến, Lệ xin phép chính quyền sở tại, không quên quà cáp cho họ, để mở pḥng mạch khám mắt miễn phí cho mọi người.

Một nữ bác sĩ Hoa Kỳ, cô Ruthie O’Brien, bác sĩ gia đ́nh, vốn là bạn thân và cùng ra trường một ngày với Lệ, cùng đi với Lệ về chơi thăm miền Trung Việt Nam, nhân dịp cũng bỏ đồ nghề ra khám bệnh và cho thuốc cùng những lời khuyên hữu ích để pḥng ngừa bệnh tật.

Các gia đ́nh đến khám mắt và khám tổng quát, nhất là những ông già bà cả đều được hỏi về Trung sĩ Lê văn Buôn, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 1, Sư đoàn 2 Bộ binh vào tháng 3 năm 1975 nhưng không một ai biết.


https://anhxua.net/images/su-doan-2-bo-binh-quan-luc-viet-nam-cong-hoa-339179693414303.jpg


Mỗi buổi chiều khi khám bệnh xong, Lệ và Ruthie thường ra băi biển Chu Lai ngồi ngắm sóng và ngắm hoàng hôn trên biển, nghe những tiếng ŕ rào của sóng biển chạy vào bờ rồi lại trườn ra xa.

Thấy bạn buồn v́ không t́m ra gia đ́nh, Ruthie lựa lời khuyên nhủ và hỏi Lệ có c̣n muốn đến nơi nào khác để kiếm không ?

Lệ nghĩ chỉ có hai nơi khác ba má Lệ có thể ở là Nha Trang, quê của ba và Trà Vinh, quê của má. Lệ nói cho Ruthie nghe những nơi Lệ hy vọng nhiều nhất, sau đó Ruthie khuyên Lệ nên đi Nha Trang.

Nha Trang không hứa hẹn nhiều cho việc t́m kiếm v́ Lệ đă đến đây gần một tuần, đi khắp nơi hỏi nhưng không ai biết cựu Trung sĩ Lê văn Buôn và vợ con.

Lệ thất vọng hoàn toàn, thầm nghĩ chỉ c̣n một nơi nữa là Trà Vinh.

Nếu tại Trà Vinh cũng không có tung tích th́ coi như gia đ́nh Lệ đă bị tiêu tán trong hoặc sau ngày 23-3-1975. Nghĩ đến đó, Lệ cảm thấy buồn muốn khóc.

Ba má và các em đi hết chỉ để lại ḿnh con thôi sao, thế th́ con có sống cũng mang mối u hoài đau khổ ấy suốt đời !

Thà con ở lại nhà chia sẻ những đau khổ với ba má và các em rồi chết chung một huyệt cũng là xong một kiếp người.

Lệ buồn khôn tả và khóc mỗi đêm về nhưng không dám cho Ruthie biết.


https://imagizer.imageshack.com/v2/320x200q90/r/922/N83h35.jpg


Một buổi sáng, Lệ cùng Ruthie mướn một chiếc xe hơi với tài xế để đi thăm Ḥn Chồng, nơi thắng cảnh đẹp có tiếng của Nha Trang.

Thật ra Lệ không c̣n tâm trí đâu ngoạn cảnh v́ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” nhưng để ch́u Ruthie, Lệ cho Ruthie đi nơi này nơi kia chụp h́nh lưu niệm và dọc đường có thể t́m vào các quán ăn ngon, các khách sạn sang trọng mướn pḥng ngủ qua đêm.

Lẽ ra trong chuyến đi này, Lệ mang theo vị hôn phu là bác sĩ Vĩnh quang Dũng, chuyên khoa bệnh tiêu hoá, tốt nghiệp trước Lệ 3 năm và hai người quen nhau khi cùng làm việc trong một bệnh viện nhưng Dũng phải đi Á căn Đ́nh dự một Đại Hội Y Khoa toàn cầu về bệnh tiêu hóa, đại diện cho Bộ Y Tế Hoa Kỳ.

C̣n vị hôn phu của Ruthie có cha già đang nằm bệnh viện chữa trị bệnh tiểu đường nên anh cũng không thể theo Ruthie đi du lịch Việt Nam được.

Sau khi đă dạo chơi băi biển hơn hai tiếng đồng hồ, Lệ đề nghị tài xế chở ṿng qua con đường phía sau, nơi đây lưa thưa có dăm cái nhà trên băi cỏ hoang.

Phong cảnh quá tiêu sơ và u buồn, không có bóng một đứa trẻ.

Lệ và Ruthie bàn với nhau đi xuống cuối con đường rồi trở lại, trở về thành phố Nha Trang.


https://bizweb.dktcdn.net/100/115/245/files/du-lich-phan-thiet-1.jpg


Mới đi thêm một khoảng ngắn, đột nhiên chiếc xe bốc khói ở máy.

Tài xế vội cho xe ngừng lại và kiểm soát máy thấy máy cạn khô không c̣n một giọt nước.

Anh ta hoảng hồn tắt máy và ngơ ngáo đi t́m xung quanh để kiếm nước châm vào máy.

Đó đây, ngoài con lộ đắp bằng đất đỏ th́ toàn là g̣ đống và bụi cây mọc lưa thưa, tít tắp xa mới thấy vài mái tranh hiện trên nền trời xanh lơ.

Lệ và Ruthie phải ngồi chờ dưới gốc cây cho bớt nắng trong khi bác tài lội bộ đi t́m nước.

Chợt Lệ trông thấy một đám người lố nhố trên một cái g̣, cách xa Lệ khoảng 400 mét.

Lệ chợt nghĩ hay là họ đào huyệt chôn người chết như hồi c̣n bé Lệ đă thấy ở Chu Lai nhưng sao không nghe tiếng khóc cũng không thấy quan tài.

Trí ṭ ṃ thúc đẩy Lệ vào đó coi xem sao. Lệ cũng có ư nghĩ giúp đỡ công việc họ đang làm, nếu họ quá nghèo, cần đến một, vài chục đô-la của Lệ.
Lệ nói cho Ruthie nghe ư nghĩ của ḿnh, bảo Ruthie ngồi đó chờ ḿnh nhưng Ruthie không chịu, đứng lên cùng đi với Lệ.

Hai cô gái cứ tưởng gần và ruộng khô, nào ngờ coi vậy nhưng khoảng cách khá xa và có những chỗ nước ngập mắt cá, hai cô phải tháo giầy cầm trên tay để đi.


https://blog.traveloka.com/vn/wp-content/uploads/sites/9/2017/08/du-lich-dao-phu-quoc-traveloka-golocal-5.jpg


Khoảng sáu, bảy người vừa đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ cắm cúi nh́n vào một cái lỗ huyệt đang đào do 4 thanh niên khoẻ mạnh, người cầm xẻng xúc đất đổ vào mê tre, kẻ bê đất đổ lên bờ, để dần dần hiện ra tấm nắp thiên bằng gỗ đen ś một cái quan tài.

Từ xa lội tới, hai cô gái đă bị những cặp mắt ṭ ṃ của đám người trên g̣ nh́n thấy và theo dơi.

Khi hai cô tới gần, tất cả đều ngừng tay nh́n chằm chằm như nh́n một hiện tượng lạ.

Họ quá lạ lùng bởi từ xưa đến nay chưa có người ngoại quốc nào ăn mặc đẹp đẻ thế kia – đám người cho rằng cả hai cô là gái Mỹ, Pháp, Anh, Úc chi đó, lại lội ruộng vào cái g̣ này để coi cải mả.

Phải, họ đang cải mả.

Họ đào cốt người thân chết đă lâu năm, bỏ sang một cái tiểu sành, kiếm chỗ thuận tiện, gần gũi hơn đặt xuống.

Lệ mở lời khi nh́n một người đàn bà lam lũ, già yếu, mặt mày nhăn nheo:

“Chào các bác, các chú, các anh, các chị.

Cháu là người Việt sống tại Hoa Kỳ về thăm quê hương.

Các bác, các chú đang cải táng cho thân nhân, phải không ạ?”

Nghe cô con gái nói tiếng Việt, cả đám người thật ngạc nhiên.

Sao cô gái trông như Mỹ này, chỉ khác mớ tóc đen, lại là người Việt, nói tiếng Việt thạo quá.

Họ bỏ xẻng cuốc đứng vây xung quanh hai cô gái.


https://imagizer.imageshack.com/v2/160x240q90/r/923/JBs3tB.jpg

Người đàn bà lớn tuổi trả lời :

- “Phải, người ở dưới huyệt là chồng tôi, chết từ năm 1975.”

Lệ nghe giọng nói người đàn bà có điều ngờ ngợ nhưng chưa dám tin là ḿnh có thể đúng.

Nhân tiện, cứ hỏi thăm xem có ai biết được ba ḿnh không?

Lệ ch́a tấm thẻ bài đeo trong ngực áo ra cho họ coi, nói:

“Tấm thẻ bài này của ba tôi. Tôi không biết gia đ́nh ông c̣n sống không và nay ở đâu.

Ông tên là Trung sĩ Lê văn Buôn.”

Người đàn bà trân trối nh́n Lệ xong ngập ngừng nói :

“Thế này thực không phải.

Xin lỗi…Có phải tấm thẻ bài này của lính Việt Nam Cộng hoà và cô là …Lệ phải không?”

Điều Lệ nghi ngờ đă đúng.

Giọng nói người đàn bà và nh́n kỹ từ đầu đến chân, Lệ thấy đúng là má Lệ, không c̣n sai vào đâu được.

Lệ ôm chầm lấy bà khóc rưng rức:

“Má ơi! Con đây, Lệ của má đây.

Má c̣n nhận ra con không?”

Bà Buôn, phải, v́ người đàn bà đó chính là vợ goá của Trung sĩ Lê văn Buôn, càng ôm chặt Lệ hơn.

Bà rên rỉ :

“Lệ ơi, má đâu có ngờ Trời Phật c̣n cho gia đ́nh ḿnh ngày hôm nay.

Người nằm dưới huyệt kia chính là ba con đó.

Quả lựu đạn ngày 23-3 đă giết ba và thằng Chưởng.

C̣n lại hai đứa đứng kia, thằng Tung, con Bi giờ đă lớn từng đó.”

Lệ quay ra ôm hôn đứa em gái và thằng em trai.

Chúng cũng xúc động nhưng không xúc động bằng má Lệ và Lệ v́ khi xẩy ra biến cố tan nát gia đ́nh, chúng c̣n quá nhỏ.


https://nhatbaovanhoa.com/images/file/HoHlWWip0wgBAEUH/image287.jpg


Bà Buôn hỏi Lệ :

“Con đeo tấm thẻ bài này 15 năm nay để đi t́m ba má và các em phải không ?”

“Dạ, đúng thế má.

Con đi t́m ba má và các em v́ con đâu biết ba đă hy sinh ngày hôm đó.”

Ruthie đứng ngó mấy mẹ con ôm nhau cũng xúc động nhưng trong ánh mắt cô đọc thấy những tia sáng hân hoan vô bờ của bạn và của mẹ của bạn.

Chuyến đi hoàn toàn thành công quá sức mong mỏi, cô lẩm bẩm.

Bốn thanh niên lại tiếp tục đào.

Họ cậy tấm nắp thiên.

Bộ xương người đen ś lơng bơng nước.

Ruthie nh́n thấy sợ quá phải đứng tránh ra xa.

Cô đă quen với xác chết trong các bệnh viện nhưng không phải là bộ xương đă rữa mục này.

Lần đầu tiên Lệ nh́n thấy bộ xương cải táng nhưng Lệ không sợ mà Lệ muốn đứng thật gần để nh́n cho rơ h́nh hài của người cha đă sinh ra ḿnh.

Khi má Lệ hỏi Lệ v́ sao biết mà vào đây.

Lệ thuật lại từ đầu tới cuối, v́ sao xe phải ngưng lại, bác tài xế phải đi kiếm nước đổ vào máy xe để đi tiếp v.v…

Bà Buôn thắp lên mấy cây nhang và hai ngọn nến trong khi mấy người đàn ông đổ rượu trắng ra cái chậu sành và rửa từng khúc xương cho sạch, lấy giấy bản lau khô xong xếp vào một cái tiểu sành mầu đất nung đỏ quạch.


https://dongsongxua.files.wordpress.com/2020/05/duyem-doan-11-cua-viet.jpg


Trong số người lo chuyện cải táng, có chú Năm thợ hồ có nhiều kinh nghiệm.

Chú vừa làm vừa chỉ dẫn cho mấy anh thanh niên làm. Chú nói:

“Tôi học nghề cải táng từ năm mới 16 tuổi mà năm nay đă 55, coi như 39 năm trong nghề mà tôi chưa thấy một vụ nào lại linh thiêng như Trung sĩ Buôn đây.

Nghe cháu Lệ vừa nói th́ cháu đă để tâm t́m ba má cháu nhiều năm nhưng không ra tung tích; đến bữa nay hồn thiêng Trung sĩ dun dủi làm cho chiếc xe hơi đang chạy ngon lành bỗng hết nước ở ngay khúc đường này, xe bốc khói xuưt cháy máy và từ đó cháu Lệ mới có cơ hội lặn lội vào cái g̣ này v́ tính ṭ ṃ và cũng v́ tính thương người, muốn giúp đỡ người nghèo.

V́ thế mà Trời Phật không bỏ cháu.”

Bác tài xế đă lặn lội đi xin được một b́nh nước đổ vào xe.

Thay v́ hai thanh niên phải khiêng chiếc tiểu sành, giờ này chiếc tiểu sành được bỏ lên xe, mọi người về nghĩa trang gần nơi cư ngụ của gia đ́nh bà Buôn.

Nghe Lệ kể sơ lược từ lúc được ba Nghĩa nuôi vớt lên tàu và được học hành ở Hoa Kỳ, hiện đă là một bác sĩ Nhăn khoa Hoa Kỳ, tiền bạc dư dă, tương lai sáng lạn, bà Buôn quá sung sướng lại khóc.

Bà chạnh ḷng nghĩ đến người chồng bạc phước đă chẳng được sống thêm để nh́n thấy sự thành công của đứa con gái ông yêu quư nhất đời.

Huyệt mộ cho cái tiểu sành đựng nắm xương của người cha bạc số của bác sĩ Vivian Le đă đào xong, nhỏ và nông nên đào rất nhanh.

Lần này nó không nằm trên g̣ đất chung quanh là sa mạc sỏi đá, cây cỏ hoang vu mà ở trong một nghĩa trang đẹp đẽ bên ngoài thành phố Nha Trang.


https://imagizer.imageshack.com/v2/320x200q90/r/923/Cdy1F3.jpg


Khoảng 4 giờ chiều, mọi việc hoàn tất, bà Buôn, Lệ và hai đứa em của Lệ thắp hương, sụp quỳ, vái lậy, khấn khứa.

Lệ cố hết sức giữ cho khỏi quá xúc động nhưng khung ảnh trắng đen của cha Lệ trước mặt lúc nào cũng như đang nh́n Lệ âu yếm làm Lệ tràn nước mắt và cái ngày độc địa 23-3-1975, tại băi biển Chu Lai, lại hiện rơ mồn một như Lệ đang đứng sát bên cha Lệ, bám vào tay ông cho khỏi sóng đánh ra xa.

Nỗi buồn năm xưa dù chưa quên được nhưng hiện tại vẫn là đáng sống. Mẹ con bà Buôn đành phải khép lại trang sử đẫm máu của gia đ́nh và của xóm giềng, thân thuộc để xây dựng ngày mai tươi sáng hơn.

Lệ đă đưa tiền cho má và em đi chợ mua các thức ăn về làm một bữa cơm đăi đằng cḥm xóm và những người thân thuộc, trả công hậu hỉnh cho những người cải táng hôm đó.

Ai cũng tấm tắc khen sao lại có cái thần giao cách cảm đó để mà đến đúng chỗ, đúng lúc, gặp lại mẹ và em và nh́n được hài cốt của cha. Chuyện thực mà khó tin, xẩy ra như trong một giấc mơ.


https://imagizer.imageshack.com/v2/320x212q90/r/922/bJKQ6H.jpg

Nhờ có nghề nghiệp cao và lợi tức vững vàng lại công dân Mỹ của Lệ, hơn hai năm sau bà Buôn và Tung, Bi đă đoàn tụ với Lệ ở Hoa Kỳ.

Bà Buôn lập một bàn thờ, một bên để di ảnh cuối cùng của thằng Chưởng khi nó 3 tuổi, một bên treo tấm thẻ bài, ở giữa bàn thờ là bát hương, có bài vị và di ảnh đen trắng của Trung sĩ Lê văn Buôn, người Chiến sĩ kiêu dũng VNCH đă hy sinh v́ Tổ quốc, người chồng, người cha thân yêu vẫn luôn luôn như đang mỉm cười với vợ và các con !

Đây là câu chuyện thật mà người viết đă lấy từ bài viết “Tấm Thẻ Bài”

ST

hoathienly19
11-03-2020, 20:11
MỘT THỜI BINH LỬA

Hạ Sĩ Nguyễn Văn Râng

Tiểu Đoàn 52 Biệt Động Quân VNCH


Vào một buổi tối, khoảng hơn 10 ngày sau ngày 30-4-75, lúc đó vào khoảng 7 giờ, v́ e ngại những bất trắc có thể xảy ra nên chúng tôi đă đóng cửa nhà từ lúc c̣n chạng vạng, bỗng có tiếng gơ cửa, vợ chồng tôi giật ḿnh ngó nhau.

Tôi quơ vội cây Colt 45 tôi vẫn c̣n giữ pḥng thân, mở khóa an toàn tôi ra dấu cho vợ tôi ra mở cửa, c̣n tôi định bụng nếu bọn du kích hoặc đám cách mạng 30 đến th́ e chuyện chẳng lành, nên đứng núp sau cái kệ ngăn giữa pḥng khách và pḥng ngủ, tay lăm lăm cây súng sẵn sàng phản ứng nếu thấy t́nh h́nh bất ổn sẽ phải hành động để thoát thân trước, rồi tới đâu th́ tới.

Vợ tôi cẩn thận hỏi trước :

– Xin lỗi ai đó ?

Giọng của một người xứ Quảng vọng vào :

– Chị, em là Cư đây.

Nghe tiếng nói có phần hơi quen, tôi im lặng tiến về phía cửa và ra dấu cho vợ tôi hỏi lại lần nữa.

Lần này tôi đă xác định rơ đúng là Cư người “tà lọt” của tôi lúc ở Tiểu Đoàn 52 BĐQ. Tôi kéo cái chốt cửa, Cư xuất hiện trong bộ đồ màu xám. Tôi giắt cây súng vào lưng, kéo nó vào nhà và đóng cửa lại.

Vợ tôi với nét mặt vẫn c̣n nghi ngại, v́ sau ngày 30-4 không thiếu ǵ những kẻ trở cờ hèn hạ theo voi ăn bă mía, theo đóm ăn tàn, như trường hợp thằng Hạ Sĩ Như ở hậu cứ TĐ 36 và thằng Tư, anh em bạn rể với Thượng Sĩ Lê Viêm đă thấy đeo băng đỏ xuất hiện bên phường Tân Tiến và khu ḷ than, v́ ranh giới giữa hai phường là con đường QL1.

Mấy hôm trước bị bắt đi “lao động xă hội chủ nghĩa” vét cống dọc đường, tôi đă cố tránh không để chúng nh́n thấy, không phải v́ sợ chúng nó, mà sợ v́ ḿnh sẽ không chịu nổi cảnh dậu đổ b́m leo.

Tôi bắt đầu hỏi :

– Sao mày không về quê mà c̣n ở lại đây làm ǵ ?

– Em bị chúng bắt làm tù binh, bọn chúng đưa em về đây kéo dây điện thoại cho bọn chúng. Em xin phép đi thăm bà con để nhắn tin về gia đ́nh, em vừa lên hậu cứ t́m cậu em nhưng không c̣n ai ở trong khu gia binh. Em tạt vào đây để thăm gia đ́nh đại úy, gặp lại ông thầy là em mừng rồi.

Sau đó, nó kể lại cho tôi nghe sự việc nó bị bắt và sự kiện liên quan đến cái chết của Tr/u Vi Văn Đạt, Đại Đội Trưởng Đại Đội 2/52,Tr/u Trần Vạn đại, Đại Đội Trưởng Đại Đội 4/52 và Hạ Sĩ Nguyễn Văn Râng.

Tưởng cũng nên ghi lại một phần tiểu sử của những anh hùng chưa được một lần biết đến.

Trung Úy Vi Văn Đạt, Đại Đội Trưởng Đại Đội 2/52 xuất thân Khóa 25 Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam (Đà Lạt).

Chúng tôi cùng ở một địa phương và biết nhau khi c̣n đi học, nhưng không chơi thân với nhau.

Khi Đạt về TĐ 52 BĐQ, chúng tôi bắt đầu chơi thân, tôi thường gọi anh là Vi Tiểu Bảo, Đạt thay thế Tr/u Phú nắm đại đội trưởng khoảng cuối năm 73.


1R9yCoR7-Fk


Trung Úy Trần Vạn, Đại Đội Trưởng Đại Đội 4/52, xuất thân từ khóa đặc biệt ra trường năm 70, trước khi đi học khóa sĩ quan, anh là Trưởng Ban Quân Xa Tiểu Đoàn 36 BĐQ. Vạn từ Đại Đội 2 sang Đại Đội 4, làm đại đội phó cho tôi vào cuối năm 73, khi tiểu đoàn chuyển từ B́nh Long xuống Chơn Thành.

Tính t́nh anh điềm đạm ḥa nhă, anh có thể thích hợp trong vai tṛ của một sĩ quan hậu cứ hơn là một sĩ quan chỉ huy đơn vị tác chiến, khi tôi rời 52 đi học khóa bộ binh trung cấp vào giữa năm 74 th́ anh vừa thăng cấp trung úy và được đề cử giữ chức đại đội trưởng thay tôi.



5Gz2bQVNsTY


Hạ Sĩ Nguyễn văn Râng thuộc ĐĐ 4/52, Râng măn khóa tân binh tại Dục Mỹ và được bổ sung cho ĐĐ tôi tại Suối Đá, trước ngày nhảy lên tử thủ B́nh Long năm 72.

Sau "Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 ", Râng được đặc cách binh nhất, rồi sau đó thăng hạ sĩ. Râng quê ở Gia Kiệm, nên tôi thường gọi đùa là “Bắc Kỳ Râng”

9E-1WCQsh3I


Theo lời Cư kể.

Khi bọn cộng phỉ tấn công Chơn Thành, chúng dùng chiến xa tấn công vào pḥng tuyến ĐĐ 4/52 đang pḥng thủ tại khu gia binh cũ trước mặt BCH/ Chi Khu.

Nhưng trước sự chống cự mănh liệt của đại đội dưới sự chỉ huy dũng cảm không ngờ của Tr/U Vạn, 4 xe tăng T-54 của bọn giặc cướp xâm lược từ phương bắc đă bị bắn cháy, bọn cộng phỉ thất kinh và đă phải t́m đường khác bọc ṿng xuống hướng Nam, chuyển mũi tấn công vào BCH/CK và BCH/LĐ3/BĐQ.

Khi được lệnh triệt thoái, Đại Đội 4 giữ nhiệm vụ đoạn hậu đă rút về hướng Đông, đến Nha Bích rồi, từ đó trực chỉ hướng Nam bảo vệ phía sau cho BCH/TĐ và BCH/LĐ.

Dọc đường bị lũ giặc cướp xâm lược chận đánh tại nhiều nơi, Trung Úy Vạn đă bị thương nặng, Cư đă cơng Vạn được gần trăm thước, nhưng vẫn bị bọn địch bám sát.

Khi ngang qua một bụi cây th́ phát hiện Trung Úy Đạt cũng bị thương đang nằm ở đó. Thấy Cư cũng đă đuối sức Trung Úy Vạn lệnh cho Cư bỏ anh lại cạnh Trung Úy Đạt và yêu cầu để lại cho anh mấy trái lựu đạn.

Thấy ông thầy đă quyết định như vậy, hơn nữa anh cũng không c̣n đủ sức, nên Cư đành để ông nằm lại, sau khi để lại mấy trái lựu đạn anh cũng không quên để thêm bịch gạo sấy và dặn ḍ:

– Hai Trung úy cứ nằm yên giả chết, đừng động đậy, hy vọng chúng không phát hiện. Thôi ông thầy ở lại em đi.

Nói xong, anh gạt nước mắt rồi gắng sức vùng chạy. Chưa đầy hai phút sau, anh nghe có nhiều tiếng lựu đạn nổ phía sau, cùng nhiều tiếng hét hăi hùng vọng lại.


CJn4cRFxrOE

Anh chạy được hơn trăm thước nữa th́ anh bị bọn giặc cướp đông đảo bao vây, đành phải buông súng đầu hàng.

Sau khi bị lănh mấy báng sung vào người, bọn chúng bịt mắt anh lại rồi dắt đi, thỉnh thoảng anh lai nghe tiếng léo nhéo của đám cộng phỉ miền Bắc và số tù binh th́ dường như lại đông hơn. Chúng dùng dây trói hai người làm một để cho khó trốn chạy rồi dẫn đi.

Trên đường đi Cư nghe thấy mấy tên giặc cướp cộng phỉ nói với nhau:

– Đm, cái quân Biệt Động ngụy Sài G̣n này ngoan cố vô cùng, hai thằng trung úy bị thương gần chết vậy mà chúng c̣n ngoan cố dùng lựu đạn chống cự khiến mấy đồng chí của ta bị hy sinh. Chúng lại c̣n tự cho nổ tan xác, đ.m đúng là bọn ngoan cố phản cách mạng.

Nghe chúng nói vậy Cư biết là cả hai ông Trung Úy đă hy sinh, chẳng c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Khi đến đồn điền cao su Minh Thạnh th́ chúng cho dừng lại nghỉ, v́ đă vào vùng an toàn của bọn chúng, nên chúng cho người gỡ miếng vải bịt mắt ra.

Sau vài phút điều tiết cho mắt quen với ánh sáng, Cư nhận thấy có khoảng hơn ba chục anh em gồm cả BĐQ và ĐPQ; trong số này có hơn chục anh em thuộc TĐ 52 và có cả thằng Râng cùng đại đội, anh ra dấu đă nh́n thấy nó.

Cho đến khi trời sụp tối bọn cộng phỉ dồn các anh em lên một chiếc xe tải. Đến khoảng nửa đêm, chúng đổ bọn anh xuống một khu rừng đă bị phá nát v́ bom đạn, một vài căn nhà tranh vừa mới được dựng lên, chúng lùa bọn anh vào hết một căn, rồi gác ở bên ngoài.

Sáng hôm sau, chúng cho bọn anh biết đây là Kàtum, bọn anh đựoc lệnh dọn dẹp cây cối ngă đổ, đốn cây, cắt tranh, dựng lán trại, ngoài ra c̣n có những buổi phải học chính trị,sinh hoạt kiểm điểm hàng đêm, thấm thoát đă hơn một tháng, đốn cây san đất đă phồng tay, học tập chính trị đă chai mắt cá chân.

Hôm 30/4/75, sau khi Dương Văn Minh tuyên bố bàn giao th́ chúng tập họp bọn anh lại, một tên sĩ quan cộng phỉ mặt vênh váo, giọng sắt máu, lố bịch, tởm lợm và vô văn hóa lên tiếng:

– Tôi báo cho các anh biết ngụy quyền miền Nam của các anh đă hoàn toàn sụp đổ. Thằng Thiệu, thằng Kỳ đă trốn đi nước ngoài, thằng Tổng Thống Minh đă đầu hàng, các anh khôn hồn th́ đừng có ngoan cố tiếp tục chống phá cách mạng, hăy ngoan ngoăn học tập lao động cải tạo, rồi cách mạng sẽ khoan hồng cứu xét cho về đoàn tụ với gia đ́nh, bằng không sẽ bị cách mạng trừng trị thẳng tay, các anh nghe rơ chưa ?

Tên thổ phỉ gằn giọng vào những tiếng cuối cùng, hàm ư đe dọa rồi nhếch miệng cười đểu cáng, kệch cỡm, mang vẻ đắc thắng.


O0n7plHAA3Q


Cả nhóm anh em tù ngồi im lặng buồn bă, tai Cư lùng bùng.

Thế là hết, hết thật rồi, không c̣n trông mong ǵ lính ḿnh đến giải cứu, rồi đây không biết số phận ḿnh sẽ bị bọn chúng định đoạt ra sao?

Nhưng bỗng có một tiếng la “Chưa !” thật lớn ở phía sau hàng. Tên sĩ quan cộng phỉ hét lớn một cách tức tối.

– Anh nào đó đứng lên !

Mấy tên vệ binh đứng chung quanh hùng hổ súng chĩa vào phía những tù binh như chúng sẵn sàng xuống tay tàn sát. Có một người đứng bật dậy đó là thằng Bắc Kỳ Râng đang chững chạc hét lên như dồn mọi căm hận lên đầu bọn cộng phỉ:

– Địt mẹ chúng mày, tao có gọi hồ chí minh của chúng mày bằng thằng đâu mà chúng mày gọi Tổng Thống của tao bằng thằng, gọi chúng tao bằng ngụy, ngụy cái con cặc bố !


7XwvefIUfts


Không để Râng nói thêm, ba bốn thằng vệ binh xông vào dùng báng súng đập túi bụi vào đầu vào ngực nó cho đến khi nó đau đớn khụy xuống. Tên sĩ quan cộng phỉ điên cuồng hét lên :

– Lôi cổ thằng ngụy phản động ra ngoài kia xử bắn, c̣n mấy thằng này chúng mày chống mắt lên nh́n cách mạng trừng trị bọn phản động mà lấy đó làm gương !

Ngay lập tức, Râng bị bọn vệ binh kéo lê trên mặt đất bắt đứng lên bên cạnh cái hố bom cách chỗ anh em tù khoảng hơn hai mươi thước. Râng đă bị đánh đau nên không c̣n đủ sức đứng lên nổi nữa, nó lại đổ khụy xuống, nhưng đầu vẫn ngẩng lên hướng anh mắt căm hờn về phía bọn giặc cướp cộng phỉ xâm lược, miệng nở một nụ cười hiên ngang ngạo nghễ.

Tên sĩ quan cộng phỉ càng điên tiết hơn. nó hô to “bắn”, ba bốn con dă thú khát máu thi nhau nă đạn vào người Râng và vừa bắn, chúng vừa đua nhau cười sằng sặc một cách man rợ.


https://imagizer.imageshack.com/v2/640x354q90/r/924/mJTue2.jpg


Sau đó, chúng ra lệnh cho anh em tù mang xác Râng đi chôn mà không một miếng vải nhựa quấn thân. :112:

Nói đến đây, Cư dừng lại khóc, vợ chồng tôi cũng khóc theo, rồi nó sụt sùi kể tiếp:

– Em là đứa được đi chôn nó. Đạn bắn nát đầu và ngực nó không biết bao nhiêu viên mà kể, nhưng mắt nó vẫn mở trừng trừng, em cố vuốt cho nó mấy lần mà nó không chịu nhắm !


https://imagizer.imageshack.com/v2/640x457q90/r/922/81TcDZ.jpg

Nghe nó nói đến đây, ḷng tôi bỗng chùng xuống, tôi thầm nhủ “ Râng ơi !

Trước kia tao là ông thày của mày, nhưng bây giờ th́ mày đáng là thày tao. Tao thua mày xa, mấy ngày nay mấy thằng du kích và đám cách mạng 30 chửi tao, nhục mạ tao, mà tao cũng không dám hé môi, không có một phản ứng ǵ. Cởi bộ quần áo lính ra tao trở thành thằng hèn, tao không c̣n là tao của hơn mười ngày trước đây nữa, Râng ơi!”

Tôi hỏi Cư:

– Thế nó không sợ mày trốn hay sao mà nó cho mày đi tự do như thế này ?

– Trốn đi đâu bây giờ đại úy, em không miếng giấy lận lưng, không một đồng dính túi, quê em th́ ở tuốt Điện Bàn, Quảng Nam, người ḿnh cũng nhiều mà việt cộng cũng lắm, lỡ trốn đi mà nó bắt lại được nó xử tử liền.

Thây kệ bao giờ nó thả th́ em sẽ liệu t́m đường về quê, em c̣n má và hai đứa em ở ngoài đó, chắc bả và tụi nó mong tin em hung lắm. Em ghé đây gặp được đại úy thấy ông thày c̣n sống là em mừng rồi. Ông thày liệu trốn đi đâu được th́ trốn đi, bọn chúng không tha cho ông thày đâu, thôi em xin phép ông thày và chị em đi.

Tôi ôm vai nó lắc mạnh:

– Ừ thôi mày đi, thày tṛ ḿnh có lẽ chẳng có ngày c̣n gặp lại nhau nữa đâu, cẩn thận và ráng giữ ǵn sức khỏe.

Tôi nói vợ tôi lấy cho nó một chai nước mắm, một cái muỗng và năm ngàn đồng.

– Cầm lấy những cái này cho tao vui, may mà bà già vừa cho ít tiền để sống cầm hơi. Tao cũng cám ơn mày đă lo lắng cho tao trong thời gian qua.

Vợ chồng tôi tiễn nó ra cửa, cả hai thày tṛ nước mắt đầm đ́a.


AOvzW8VYwHE


Sáng hôm sau, tôi đi bộ sang nhà của Vi Văn Đạt, định nói cho mẹ nó hay là Đạt đă hy sinh, nhưng không hiểu sao khi tới nơi tôi lại đổi ư và chỉ hỏi bà:

– Bác có được tin ǵ của Đạt không?

Bằng giọng của người dân tộc Nùng bà nói:

– Thím có được tin ǵ đâu. Chỉ có tháng trước có ông Trung Sĩ Toàn đến cho thim biết là em Đạt nó bị mất tích ǵ đó thôi, giờ th́ thím buồn quá đâu biết hỏi ai nữa, chỉ biết van vái ông Trời cho em nó bằng an trở về.
Nói xong, bà lại sụt sùi khóc.

Tôi lặng lẽ chào bà rồi về v́ e nấn ná lại tôi sẽ không chịu nổi, sẽ phải nói ra, không biết việc làm của tôi có đúng hay không, nhưng lúc đó tôi nghĩ rằng hăy để bà sống trong hy vọng, dù chỉ là hy vọng mong manh, c̣n hơn là tuyệt vọng.


https://imagizer.imageshack.com/v2/522x359q90/r/922/l6o71z.jpg


Tôi cũng đi xuống dưới Biên Ḥa t́m nhà Trần Vạn, trong khu gia binh Trần Công Ngọ, nhưng mọi người đă bị bọn giặc cướp từ phương bắc đuổi ra để chúng cướp nhà, không biết vợ con anh trôi dạt nơi nào.



AOvzW8VYwHE


Hôm nay, nơi đất khách quê người, với thân phận tên lính già sau những năm tháng tù đày lao động khổ sai trong nhà tù cộng phỉ và lưu lạc, ngồi viết lại cái chết dũng cảm của các anh, như một nén hương ḷng tưởng niệm đến đồng đội, một khúc chiêu hồn tử sĩ để truy điệu các anh, những người đă hơn một lần cùng tôi chia sẻ vui buồn đời lính, đă cùng tôi một thời lao thân vào lửa đạn, [/b]mang trong tim hoài băo cao đẹp Bảo Vệ Tự Do Cho Đồng Bào và Sự Toàn Vẹn Cho Quê Hương.[/b]


kb_QnzUT5AY


Mũ Nâu Đoàn Trọng Hiếu

Viết theo lời kể của Binh Nhất Nguyễn Văn Cư Đại Đội 4, Tiểu Đoàn 52 BĐQ

hoathienly19
11-06-2020, 08:04
LẦN ĐẦU THẤY QUẠT ĐIỆN :animated-applause-s


ZxdsDHmQ34I

hoathienly19
11-13-2020, 19:13
"NGƯỜI Ở LẠI HOÀNG LIÊN SƠN !


Từ Fb một cựu tù cải tạo - Ng Nguyen

Phải đọc để thấy sự độc ác của cộng sản đối với Cha / Anh trong Quân Lực chúng ta khi găy súng :112:


Trên chuyến tàu Sông Hương chở tù cải tạo từ Nam ra Bắc năm 1976, vừa cặp bến là tù bị dân MB dàn chào ném đá, gậy gộc phang thẳng tay, chủi rủa thậm tệ.

Chỉ vài năm sau trong những lần chuyển trại, và trên đường xuôi Nam, dân MB ném lên xe tù đồ ăn, thức uống, thuốc lá . V́ sao vậy ?

Xin kính mời quư vị và quư bạn đọc đoạn hồi kư "Người Ở Lại Hoàng Liên Sơn".

Tưởng nhớ và tri ân Chiến Sỹ Lê Xuân Đèo.


==========


Trên bước đường lưu đày của những người tù chính trị Miền Nam đầy máu và mồ hôi trên chính quê hương của ḿnh, đă có bao nhiêu người “sinh Nam tử Bắc” và trong số nầy có anh Lê Xuân Đèo là cánh chim ĺa đàn rất sớm.


https://2.bp.blogspot.com/-mBTAZ32wlMM/Xpuh73jR6nI/AAAAAAAAuQw/8nSFevwtYEkA0DpkrIONPaOQXNWNWSF2QCPcBGAYYCw/s1600/van3362-72d.jpg


Giữa tháng 10 năm 1976. Một nhóm tù chính trị Miền Nam khoảng 100 người, từ nhà tù Sơn La lâu đời, nằm trên vùng núi cao đèo heo hút gió của tỉnh Sơn La, phía bắc giáp Yên Bái - Lào Cai, phía tây giáp Lai Châu, phía đông giáp Phú Thọ - Ḥa B́nh, phía Nam giáp Lào, chúng tôi được di chuyển về Hoàng Liên Sơn (Nghĩa Lộ) và tôi gặp anh bạn tù Lê Xuân Đèo tại Trại 6, Liên trại 2, một vùng núi non hiểm trở có cái tên thật mộng mơ :

“ Khe Thắm ” thuộc huyện Văn Chấn.

Khe Thắm là một thung lũng nhỏ hẹp, nằm giữa hai dăy núi trùng điệp. Trại 6 gồm có bốn lán, dựa lưng vào dăy núi bên nầy, bên kia thung lũng là một bản Thái Trắng gồm mươi căn nhà sàn, dưới gầm nhà sàn là chuồng nhốt trâu ḅ. Chỉ có một con đường độc đạo vào Trại 6.

Về sau, khi chúng tôi chuyển sang trại khác, trại nầy được sát nhập vào nông trường Bản Hẻo. Dạo chúng tôi vừa chuyển đến, dân làng đă cấy xong vụ lúa Đông - Xuân.

Trong thung lũng Khe Thắm, mạ non lên xanh phơi phới.


https://thanhlamhotspring.com/wp-content/uploads/2015/01/Ho%C3%A0ng-Li%C3%AAn-S%C6%A1n-003.jpg


Ngay khi vừa mới đến trại, chúng tôi được phát ngay mỗi người hai bộ đồ rằn ri của binh chủng Biệt Động Quân, thế nầy là hết hy vọng trốn trại! Riêng tôi vớ phải cái quần rộng thùng th́nh.

Công tác đầu tiên là đào thủy lợi để dẫn nước từ một con suối gần đó vào ruộng lúa. Tôi và Lê Xuân Đèo ở chung lán 3, c̣n Trương Đăng Sĩ ( người chỉ huy 2 Đại Đội SĐND đă đánh vào tới chân tường Cổ Thành Quảng Trị năm 1972 ) ở lán 4.

Mùa đông năm 1976 là một mùa đông với cái lạnh khắc nghiệt, lạnh thê thảm chưa từng xảy ra ở miền Bắc Việt Nam.

Có nhiều đêm, hàn thử biểu rơi xuống chỉ c̣n một độ bách phân, mặt nước ao hồ đóng váng, cá chết hằng loạt v́ lạnh.

Tuy củi rừng nhiều vô số kể, nhưng bọn cán bộ cấm tù cải tạo đốt ḷ sưởi v́ sợ cháy lán trại ?

Nửa đêm về sáng, chúng tôi phải thức dậy ngồi đâu lưng hoặc nằm sát vào nhau cho ấm. :112:

Bản Thái bên kia thung lũng, dân làng phải đốt rơm hoặc củi để sưởi ấm gia súc.

Làm thân trâu ḅ c̣n sướng hơn tù cải tạo là cái chắc ! Có bao nhiêu quần áo, chúng tôi cũng lôi hết ra mặc, nhưng không sao đủ ấm v́ cái lạnh cắt ruột từ trong xương lạnh ra.:112:

Đi tắm vào mùa đông đối với tù cải tạo là một h́nh thức tra tấn.

Mỗi tuần, tôi chỉ ra bờ suối tắm giặt một lần vào xế trưa chúa nhật, sau khi ngồi trước sân phơi nắng hàng giờ cho ấm.

Ngồi bên cạnh tôi là Nguyễn Minh Thanh vừa phơi nắng vừa ngâm thơ “Tao Đàn” đói thấy mẹ mà hắn c̣n làm thơ được thế mới tài.

Nếu như chiều chúa nhật nào rơi vào ngày mưa là xin hẹn lại tuần sau...mới đi tắm. Như vậy là đạt tiêu chuẩn nếp sống “văn minh, văn hóa mới” lắm rồi !


https://imagizer.imageshack.com/v2/547x480q90/r/923/jaNPu3.jpg


Hầu như lề lối sinh hoạt của tất cả trại tù cải tạo thuộc đoàn 776 do bộ đội csbv quản lư đều giống như nhau.

Sau một ngày ăn đói, thực phẩm chính là khoai, sắn, bo bo, bắp hột mà mỗi khẩu phần của người tù đếm được khoảng 700 hột và lao động khổ sai 10 tiếng một ngày kể cả lúc trời mưa băo. Và mỗi tuần chỉ được nghỉ nửa ngày chúa nhật để tắm giặt.


https://imagizer.imageshack.com/v2/640x470q90/r/924/E9kDpR.jpg


Tối đến là giờ sinh hoạt chính trị, “ngồi đồng” hằng giờ ngay trên chỗ ngủ để nghe đọc báo “Nhân Dân” hoặc “Quân Đội Nhân Dân”, những loại tin tức dùng để tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và chế độ ưu việt xă hội chủ nghĩa.

Sau khi nghe đọc báo là phần bắt thăm nhận công tác lên rừng đốn đủ loại gỗ :

- Gỗ làm cột nhà

- Gỗ làm đ̣n tay

- Gỗ làm kèo nhà...và một toán chặt nứa dùng để lợp mái nhà.

Gỗ và nứa từ trên rừng kéo về tập trung trên một băi đất trống bên cạnh con suối dưới chân núi, cán bộ quản giáo của đội đến kiểm nhận vào mỗi buổi chiều. Sáng hôm sau, toán thợ mộc vác về xưởng mộc cưa, đục, đẽo... để dựng nhà.


cQtub-9gjAA


Lê Xuân Đèo thường đổi công tác với những anh em khác để cùng đi rừng với tôi, v́ cải thiện linh tinh để mưu sinh là nghề của chàng.

Hắn rất chịu những phi vụ táo bạo của tôi. Hắn là dân Nha Trang, lúc b́nh thường th́ giọng nói dễ nghe, nhưng lúc khẩn trương, nghe lời hắn là một tai họa khó lường...

Bên kia thung lũng, đối diện với trại 6 là dăy nhà sàn của dân tộc thiểu số Thái Trắng.


https://danviet.mediacdn.vn/upload/2-2013/images/2013-04-05/1434786087-05_04_nha-san-muong-thainhung-dau-vet-sinh-ton_337e3c53d4b6455ca0a1a5dfdb84e81a.jpg


Tụi cán bộ quản giáo hoặc quản chế thường hù dọa là đồng chí “Bí thư xă” có vũ trang súng trường AK47.

Phía sau dăy nhà là ruộng mía và hằng ngày nó trở thành mục tiêu đầy sức hấp dẫn và cám dỗ nhưng cũng rất nguy hiểm.

Những lần chúng tôi qua dăy núi bên kia đốn nứa, chỉ tiêu một ngày là 100 cây với tiêu chuẩn :

- Phải là nứa già, thẳng đốt, chiều dài từ 3 thước trở lên, sau khi vạt bỏ ngọn. Thường th́ buổi sáng đốn xong, bó lại từng bó 20 cây, giấu đâu đó ở trên rừng.

Giờ lao động buổi chiều, chỉ lo việc chuyển về trại.. Những cây nứa được mấy anh bạn tù cao niên, chặt khúc và đập giập ra để lợp mái nhà.

Một ngày trên đường vác mấy bó nứa chuyển về trại.. Chúng tôi ngồi nghỉ mệt bên ḍng suối vắng. Đèo nh́n qua đám ruộng mía, sau dăy nhà sàn bên kia ḍng suối, hắn thèm đến nhỏ dăi, trông thật tội nghiệp. Hắn nói :

- “ Ê, mầy ! Không biết lúc nầy, bỗng dưng tao thèm ngọt quá trời ! Từ ngày di chuyển ra miền Bắc đến giờ, gần cả năm trời tao chưa hề thấy cục đường tán nó tṛn, nó méo ra làm sao ! Tao chịu hết nổi rồi nghe mậy,”


https://cdn.vietnambiz.vn/171464876016439296/2020/8/4/39-1596526961326397982995.jpg


Đèo tiếp :

“ Thôi, mầy ngồi ở đây chờ tao !” Tôi hỏi:

- “ Vậy chớ, mầy định đi đâu ?” Hắn vừa trả lời, vừa nuốt nước bọt ừng ực :

- “Qua bên kia ruộng mía, chặt vài cây, chia nhau ăn đở thèm ! Mầy c̣n phải hỏi lôi thôi !” Nghe hắn nói, tôi cười ngất, nói :

- “ Thôi đi cha nội ơi! Coi bộ tướng của mầy ḱa ! Ốm nhom, ốm nhách như con c̣ng gió, rủi ro bị họ bắt gặp, mầy làm sao chạy cho thoát ? Nếu họ có súng hoặc nỏ là mầy chết chắc !”

Đèo quả quyết nói:

- “Tao đă nghiên cứu kỹ lưỡng t́nh h́nh rồi ! Trong nhà không có đàn ông mà chỉ có một người đàn bà. Tao c̣n biết chắc, giờ nầy bà ta trên đường đến trường, đón con đi học về nhà. ” Tôi nghi ngờ, hỏi :

- “ Sao mầy biết chắc chắn như vậy chớ ?”

- “ Mầy nhớ không ? Xế trưa hôm qua, lúc tụi ḿnh trở qua đây, vác mấy bó nứa về trại.. Tao thấy bà ta dẫn con đi học vừa về tới nhà !”

- “ Phi vụ nầy mầy lo hay để tao ?” tôi hỏi. Đèo nói, giọng quả quyết:

- “ Mầy nhát bỏ mẹ! Phi vụ nầy mầy để tao lo ! Mầy ngồi đó chờ tao !” Tôi cười, nói :

- “Thôi được rồi, cha nội ! Vụ chôm chỉa nầy mầy để tao lo ! Cứ ngồi đó canh chừng. Hễ nghe động tỉnh ǵ th́ la báo động cho tao biết để tao chuồn !”


https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2019/01/CCB-Trai-cai-tao-CSVN_1.jpg


Nói xong, tôi đứng lên, đi một mạch ra bờ suối, xăn ống quần lên khỏi gối, tay cầm con dao dùng để chặt nứa, lội băng qua ḍng suối. Tôi hành quân theo đúng bài bản, lính bộ binh mà.

Trước hết, tôi bám lấy bờ suối, ngẩng đầu lên quan sát trận địa, thấy bên trong ruộng mía hoàn toàn yên tỉnh, tôi trườn sâu vào trong, giữa hai giồng mía.

Tôi chọn một thật thẳng, tṛn mập, vỏ màu vàng hực thật hấp dẫn, lia một nhát, cây mía đổ xuống. Tôi đứng lom khom, vừa vạt ngọn mía xong. Bỗng tôi nghe hắn la bài hăi bên kia ḍng suối :

- “Chờ tớ ! Chờ tớ ! Chờ tớ...”

Tưởng hắn đ̣i lội qua suối, tôi bèn đứng thẳng người lên, lấy cây mía vẹt lá rồi nh́n qua bên kia bờ suối. Tôi thấy hắn nhảy dựng lên như khỉ mắc phong, tay chỉ chỏ về phía tôi thật khẩn trương. Hắn tiếp tục gào lên:

- “Chờ tớ ! Chờ tớ...”

Tôi thiệt bực ḿnh, cầm cây mía đưa lên khỏi đầu, nói lớn :

- “ Xong rồi ! Qua làm ǵ chớ ! Thôi, ngồi đó chờ tao !”

Nhưng, hắn vẫn tiếp tục gào to hơn nữa. Và lần nầy, tôi nghe cái giọng Nha Trang của nó thật rơ ràng:

- “ Chó tới ! Chó tới....”

Thôi bỏ mẹ rồi ! Bây giờ tôi mới hiểu ra là “ Chó tới !” chớ không phải “ Chờ tớ !” th́ đă muộn..

Một con chó vện to lớn dùng để đi săn, xồng xộc lao tới và chỉ c̣n cách tôi vài mươi thước.

Tôi thật sự hồn vía lên mây, quăng dao, quăng luôn cây mía, bỏ của chạy lấy thân, phóng như bay về phía bờ suối...Nhưng, con chó vện nhanh hơn tôi một bước, nó nhảy chồm lên, phập trúng cái đáy quần, gh́ lại làm tôi té nằm xấp xuống đất . Hai cái răng nanh bén nhọn của nó đă xuyên thủng đáy quần.

Con vện gầm gừ, mơm của nó gh́ chặt lại, giằng xé như muốn lôi tuột cái quần của tôi ra thế mới khiếp ! Cũng may, nhờ trời thương mấy thằng tù cải tạo ốm đói. Chúng tôi phải chôm chỉa để mưu sinh. Nếu hai cái răng nanh của con vện nhích lên vài phân định mệnh nữa th́ bây giờ tôi đă trở thành quan “thái giám” là cái chắc !!!! Tôi thét lên, cầu cứu:

- “Tao bị con chó vện táp trúng rồi Đèo ơi! Cứu tao với...”

Đến giờ phút nầy mà hắn c̣n hỏi đùa được:

- “Trúng chỗ nào vậy cha?”

Tôi bực quá thét:

- “Nó táp lủng đáy quần rồi, tao bị nó gh́ lại, không chạy được!”

- “Chỉ táp trúng đáy quần thôi hả ?” hắn mách nước.

- “ Tụt quần ra, vọt cho lẹ, thằng mắc dịch !”

Thôi th́ cùng tất biến, biến tất thông! Tôi ḷn tay xuống hàng nút quần, cởi thật nhanh hàng nút. Nhờ cái quần rộng thung th́nh, con vện tụt cái quần thật dễ dàng, một chân nó chận cái ống quần, đầu giằng mấy cái thật mạnh để cái quần vuột ra khỏi cái răng nanh.

Tôi chỉ chờ có thế, vừa rút chân ra khỏi cái quần rằn ri là tôi phóng như bay về phía hàng cây bên bờ suối, chỉ cách đó mươi thước.

Tôi trèo lên cây nhanh như con sóc, chưa bao giờ tôi leo trèo nhanh như vậy.. Thế là thoát nạn !

Con vện phóng ḿnh lên cây mấy lần, nhưng lần nào nó cũng bị té đau. V́ thế nó tức tối, ngồi bệt xuống đất, nghểnh mơm nh́n lên một cách hậm hực; thỉnh thoảng, nó le cái lưỡi dài thượt liếm mép.

Tôi phải lấy vạt áo che lại phần khẩu súng nước phía dưới , sợ nó nh́n thấy “thịt tươi” thèm nhỏ dăi tội nghiệp !!

Đứng trên cây nh́n xuống mới thấy rơ h́nh thù con vện, màu lông hơi vàng và có vằn như da cọp, trên lưng có xoáy như giống chó hoang dă ở Phú Quốc. Hèn chi nó dữ dằn quá là phải!


https://animal.vn/wp-content/uploads/2017/03/cho-phu-quoc-thuan-chung-09.jpg


Thú thật, trong suốt 13 năm quân ngũ, vui buồn đời lính bộ binh, đôi giày saut của tôi đă từng chà nát lên các mật khu lừng danh của Việt Cộng ở Miền Tây từ Thất Sơn, Mỹ An, Sầm Giang, Năm Căn, Cái Nước...nhưng chưa có lần nào tôi phải bỏ chạy “té khói” như lần nầy. Kể ra th́ cũng nhục thật đó !

Tôi đứng trên cây, trợn mắt nh́n nó, rủa thầm trong bụng :

“ May cho mầy, nghe đồ chó vện ! Nếu mầy gặp tao ba năm về trước là tao vặn họng mầy, làm thịt chó bảy món nhậu chơi !”

Thế mới biết, chỉ sau một thời gian ngắn, cái gọi là “lao động cải tạo”, con chó vện đối với tôi bây giờ nó đă trở thành “con cọp”. Nhưng mà thôi, tránh cọp chẳng xấu mặt nào !

Nh́n thấy con chó vện đang nhe nanh vuốt, hầm hừ dưới gốc cây, Đèo đứng bên kia bờ suối, nói lớn :

- “ Mầy cứ đứng ở trên cây chờ tao qua! Đừng có tuột xuống !”

Vừa nói, hắn vừa xăn quần lên khỏi gối. Thấy hai ống quyển khẳng khiu của hắn, tôi nản ḷng hết sức. Hắn có vẽ muốn lội qua suối cứu bồ thật, tôi lật đật can:

- “Thôi đi cha nội ! Cứ ở yên bên đó đi ! Tao nhảy xuống suối, lội qua bển được rồi mà !”

Hắn đáp có vẻ rất tự tin:

- “ Mầy yên trí đi ! Tao có cách trị con vện nầy cho mầy coi !”

Tôi miễn cưỡng nói :

- “ Thôi được, mầy có tài ǵ thi thố cho tao coi !”

Con vện thấy hắn đang lội b́ bơm, băng ngang qua ḍng suối. Nó rời gốc cây, đứng chực trên bờ suối, sẵn sàng vồ hắn. Đèo đứng dưới suối, hai tay chống nạnh, vẻ mặt tỉnh bơ.

C̣n con vện nh́n hắn lườm lườm, chân sau quào dưới đất cát rào rào trong tư thế chuẩn bị vồ mồi. Tôi thấy c̣n phát ớn xương sống. Nhưng, Đèo chẳng nao núng chút nào cả thế mới là lạ.

Bất ngờ, hắn huưt sáo miệng bản nhạc “bác cùng chúng cháu hành quân” một cách ung dung.

Con chó vện vừa nghe âm điệu phần mở đầu của bài hát :

Đêm nay trên đường hành quân ra mặt trận... nó lầm tưởng hắn là phe ta nên bỏ hẳn thái độ thù nghịch, ngoe nguẩy cái đuôi, chờ welcome “đồng chí Đèo” !!!!



https://cdn.vntrip.vn/cam-nang/wp-content/uploads/2018/08/ban-cat-cat1.jpg


Mẹ kiếp! Sống ở miền Bắc XHCN nầy, đến con chó c̣n bị tuyên truyền mê hoặc đừng nói chi là con người. Đèo leo lên bờ, hắn vỗ đầu con vện, vuốt đầu nó mấy cái. Đồng chí vện chồm lên, vật ngă hắn xuống rồi liếm cùng mặt.

Thế rồi, người tù cải tạo và “ đồng chí vện ” ù kết thành đôi bạn sống chết có nhau từ dạo đó ! Hắn ôm chặt con vện cho tôi leo xuống. Tôi vội vă lủi vô ruộng mía, lấy quần mặc vào rồi đi kiếm con dao và cây mía. Hai đứa tôi lội trở qua bên kia bờ suối, con chó vện cũng lội suối qua theo. Ngồi dưới bóng cây chia nhau từng lóng mía.

Tôi chỉ ăn 2 lóng, phần c̣n lại của hắn v́ Đèo thèm ngọt. C̣n tôi, tôi thèm thứ khác hấp dẫn hơn nhiều :

“ Thịt! Thịt ! Thịt !”...

Tôi nh́n con vện, tưởng tượng đến dĩa “rựa mận” đang bốc khói, làm tôi thèm đến nhểu nước miếng.

Bất chợt, con vện ngước lên nh́n tôi. Bốn mắt lườm nh́n nhau....tóe khói; h́nh như, cái giác quan thứ sáu của nó, nh́n thấy ư đồ bất chánh của tôi và báo cho nó biết rằng:

“ Coi chừng thằng cha tù ốm đói nầy, hắn sẽ thịt ḿnh đấy !”

V́ vậy, con chó vện chỉ quấn quít bên cạnh anh Đèo và lúc nào cũng đề cao cảnh giác với tôi. Cứ mỗi lần tôi xáp lại gần, định làm quen là nó đứng dậy đi chỗ khác chơi và nh́n tôi với tư thế sẵn sàng chiến đấu.


https://3.bp.blogspot.com/-AV87QD82OZ0/WW16VgszKtI/AAAAAAAA9j4/Ap3Mod30Hfcq2C33QdWnDVFkPxVmyZ2gQCLcBGAs/s320/CT9.jpg


Cách đây ba hoặc bốn tháng ǵ đó. Tên thiếu tá Khoát – trại trưởng – có tuyên bố một câu làm cả trại hồ hởi, phấn khởi :

“Trại ta có kế hoạch nuôi lợn, cung cấp thịt tươi, cải tổ bữa ăn để các anh có đủ sức thâm canh, tăng năng suất, chuẩn bị trồng sắn đại trà.”

Thế là cả trại thi đua vào rừng đốn gỗ dựng trại chăn nuôi. Và chỉ trong ṿng hai tuần lễ, ba cái chuồng nuôi lợn được cất xong bên cạnh bờ suối, đối diện với nhà bếp của ban chỉ huy trại.

Nhưng, tên Quang chỉ mang về một cặp heo mọi, bụng ỏng, đít teo, mỗi con cân nặng khoảng 5 kí là cùng. Thế là, một anh bạn tù cao niên ở lán 2 được giao cho nhiệm vụ “chăn lợn”..


https://kenh14cdn.com/thumb_w/660/2019/1/9/1-1547012223845260289472.jpg


Mỗi ngày, anh có nhiệm vụ mang một cái sô vào nhà bếp cán bộ trại, gặp tên trung sĩ Kây để nhận cơm thừa, canh cặn mang về chuồng nuôi lợn. Không biết nuôi heo bằng cách nào mà cặp heo mọi càng ngày càng gầy nhom.

Ngược lại, trông anh càng ngày tṛn trịa ra !! Đêm hôm kia, chuồng nuôi lợn xảy ra chuyện rùng rợn, khó tin nhưng có thật là hai con heo mọi bị bầy chuột rừng moi ruột cho đến chết. Nhờ vậy, trưa hôm sau, cả trại được ăn cơm trắng với thịt heo kho với nước muối.

Gần 2 tháng nay, chúng tôi mới được ăn một chén cơm trắng và một miếng thịt heo to bằng hai lóng tay út, cho đến bây giờ miệng tôi vẫn c̣n tḥm thèm thịt tươi. Và tôi đang nghĩ kế hoạch thịt con vện...

Chúng tôi lần lượt chuyển hết mớ nứa về trại, con vện đưa hai đứa tôi đến tận cổng trại. Và từ đó, nó trở nên người bạn trung thành với anh Đèo.

Sáng nào nó cũng nằm chờ trong buị cây gần cổng, rồi lẽo đẽo theo chúng tôi vào tận rừng sâu đốn gỗ. Có mấy lần tôi định thịt nó, nhưng Đèo cương quyết ngăn cản. Hắn nói:

- “ Mầy muốn thịt con vện nầy th́ phải bước qua xác chết của tao !”


https://tuxtini.files.wordpress.com/2013/03/0907traitucs.jpg


Nửa năm sau đó, những dăy nhà khang trang bằng gỗ được dựng lên chung quanh ban chỉ huy trại 6 đều do công sức của những người tù cải tạo. Nhưng, gỗ và nứa càng ngày càng khan hiếm, chúng tôi càng phải đi xa hơn, có khi phải đi băng qua thung lũng phía sau trại, lội vào khu rừng già dưới chân núi bên kia, gần nông trường Bản Hẻo để kiếm gỗ.

Thế rồi một hôm. Lần đầu tiên chúng tôi đi theo con đường ṃn băng qua thung lũng vào lúc hừng đông sáng để kiếm gỗ làm đ̣n tay.

Khi những tia nắng ban mai mỏng manh, màu vàng nhạt, như cố xuyên thủng làn sương mai trắng đục bao phủ cả khu rừng, nắng tạo thành những chùm ánh sáng lung linh, huyền ảo. Hai đứa tôi lặng lẽ tiến khá sâu trong khu rừng rậm rạp, cây cối hoang vu, c̣n con vện biến đi đàng nào không biết.

Tiếng suối chảy róc rách khi len lỏi qua những gềnh đá rong rêu, ḥa cùng muôn ngàn tiếng hót líu lo của bầy chim rừng, trổi lên bản hợp tấu đầy sức quyến rũ của núi rừng Tây Bắc, thoang thoảng đâu đây mùi hương nhẹ nhàng tỏa ra từ những đóa phong lan, nép kín sau những thân cây cổ thụ, pha lẫn mùi hăng hắc của lá rừng ẩm mốc.

Tiếng gió lướt trên những tán cây rừng xào xạc, mang theo cái lạnh tái tê từ dăy núi đá chập chùng của rặng Hoàng Liên Sơn thổi về. Gió lay những giọt sương mai đọng trên lá cây rừng, sương rơi nhẹ nhàng trên mái tóc, trên vai áo làm tôi thấm lạnh.


https://i.pinimg.com/originals/06/76/a1/0676a1542c851a906b5cd3f52182d3ef.jpg


Đang mơ màng trong cái không gian liêu trai và cái tĩnh lặng mong lung ấy....Bỗng một tiếng thét chói tai của Đèo đang đi phía trước, làm bầy chim rừng cũng phải giựt ḿnh, bay tán loạn:

“Con mẹ nó! Coi chừng vắt nái! Chạy khỏi khu rừng nầy ngay!”


Vắt nái là một loại vắt màu xanh lá cây, nhỏ hơn đầu đũa một chút và chiều dài chỉ hơn một phân rưởi, khiếp nhất là khi nó có chửa nên đặt cho nó cái tên là “vắt nái”.

Khi đánh được hơi người là nó giương lên như cây “anten”, rồi bún ḿnh lên như cái ḷ xo, bám vào đầu vào cổ người, thú vật hút máu một cách êm thắm, chén no rồi tự động rớt ra, máu từ vết cắn đó chảy ra không ngừng, chỉ có nhai cỏ mực đấp vào vết cắn là tạm cầm máu được.

Có nhiều anh bạn bị nhiểm trùng, vết cắn bị ngứa ngái, lở lói tṛn bằng đồng tiền, nhức nhối tàn bạo.. Hai đứa tôi vội vàng lội băng qua con suối cạn, t́m khoảng đất trống trải để kiểm soát lại đầu cổ, lôi ra cũng được bốn, năm con vắt xanh..


https://images.kienthuc.net.vn/zoomh/800/uploaded/ctvkhoahoc/2017_05_11/kham-pha-ron-nguoi-ve-loai-vat-Hinh-7.jpg


Bỗng có tiếng khèn réo rắt, trầm bổng, văng vẳng từ đâu đưa tới, âm thanh ai oán, năo nùng như khóc như than. Tiếng khèn trôi bồng bềnh trong làn sương mai trắng đục. Tôi ṭ ṃ rũ Đèo đi ngược lên thượng nguồn con suối để t́m người thổi khèn.

Đó là cụ già thuộc bộ tộc Thái đen với mái tóc trắng phau, cḥm râu bạc thả lỏng phất phơ trong gió. Ông vận bộ quần áo cộc màu chàm đang ngồi dưới một gốc đại thụ, chừng đă mọc rễ cả trăm năm, cành lá sum sê, vỏ cây sần sùi phủ rêu xanh, những rễ phụ và dây leo bện nhau bám chằng chịt vào thân cây.

Cách đó mươi thước là hai thanh niên để lưng trần đang cuốc một hố đất.. Thấy có người đến, ông lăo ngưng thổi khèn, ngước mắt nh́n chúng tôi, hỏi:

- “ Mấy ông đi đốn gỗ cho trại cải tạo đấy à ?” ông cảnh báo.

“ Khu rừng nầy có rất nhiều rắn độc, mấy ông phải cẩn thận ! Cách đây mấy hôm, một người trong bản bị một con cạp nia mổ chết rồi đấy !”Tôi nói:

- “ Cám ơn cụ đă chỉ bảo! Chúng tôi sẽ hết sức đề pḥng !” Đèo ph́ cười khi nghe cụ gọi ḿnh bằng ông, hắn nói:

- “ Tôi là Lê Xuân Đèo, gọi tôi là Đèo được rồi! Thế c̣n cụ ?”

- “ Tôi tên Phạm công Trừng, ” ông lăo buồn rầu, than thở.

“ Nhà tôi bị ốm nặng sắp chết đến nơi rồi, các anh ạ !” ông chỉ hai thanh niên, tiếp. “Chúng nó đang đào huyệt, chuẩn bị chôn mẹ chúng đấy!”

- “Thưa cụ, bà cụ bị mắc chứng bệnh ǵ vậy ?” Đèo hỏi.Ông cụ thở dài, nói :

- “Nhà tôi bị bệnh kiết lỵ đă hơn hai tuần nay ! Uống đủ loại cây cỏ, nhưng không thuyên giảm, đang nằm thoi thóp trên giường chờ chết đấy, các anh ạ !”

Đèo nghe ông cụ nói xong. Hắn suy nghĩ trong giây lát rồi nắm tay tôi, kéo ra bờ suối, hỏi:

- “ Tao muốn cứu bà cụ! Mầy nghĩ sao ?” Tôi trợn mắt nh́n hắn, hỏi:

- “Mấy lấy cái ǵ cứu bà cụ chớ ?”

- “Nói cho mầy biết, tao c̣n cất giấu được 10 viên “Reostop”, chôn dưới sạp nứa chỗ tao ngủ ”

Đèo lấy ư kiến tôi lần chót. “Mầy thấy tao có nên giúp họ không?”

- “Việc nầy có liên quan đến sinh mạng của mầy ! Tự quyết định đi, đừng hỏi tao lôi thôi !” Tôi nói.

- “ Tao quyết định cứu họ !” Đèo trả lời một cách dứt khoát.

“Thấy người sắp chết mà không cứu là đắc tội với Trời Phật rồi ! Hơn nữa, tao muốn làm sáng tỏ cái bản chất và truyền thống tốt đẹp của người lính Việt Nam Cộng Ḥa cho đồng bào miền Bắc thấy rơ điều nầy!”


https://scontent.fyyz1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/55818935_10158661014530620_3458025337063997440_o.j pg?_nc_cat=104&ccb=2&_nc_sid=730e14&_nc_ohc=h5aTL57pRREAX_coJQu&_nc_ht=scontent.fyyz1-1.fna&oh=1641583e34951555c3451627c5d1a0ab&oe=5FD3506E


Nghĩ sao làm vậy, Đèo trở lại chỗ ông cụ, nói:

- “Ngày mai cũng vào giờ nầy, cụ đón chúng tôi tại đây để nhận 10 viên thuốc “con nhộng” chuyên trị kiết lỵ, đem về cho bà cụ uống!”

Ông cụ nghe đến thuốc “con nhộng”, mắt cụ ngời sáng tia hy vọng và cảm động đến rớt nước mắt. Cụ bảo hai người con trai vào rừng đốn gỗ đ̣n tay cho chúng tôi, rồi mời chúng tôi về bản làng gần đó uống nước trà xanh.

Căn nhà sàn của gia đ́nh cụ gồm ba gian, nằm trong bản Thái, cách cây bờ suối đó khoảng 200 thước. Căn nhà sàn khá cao để tránh thú dữ nhất là đàn chó sói thường hay kéo vào bản, bắt gia súc.

Đặc điểm những căn nhà sàn của dân tộc thiểu số như Thái, Mường, Mông...cùng có một lối kiến trúc như nhau là không dùng đinh, tất cả đều được liên kết với nhau bằng những con ṣ gỗ và lạt buộc, sàn nhà được nối kết với nhau bằng những cây nứa già được đập giập ra để lót sàn. Leo lên mấy bậc thang gỗ ọp ẹp, thấy ngay bà cụ đang nằm trên cái chơng tre đặt ở một gốc nhà, trùm chăn đến cổ.

Bà cụ gầy lắm, tôi chỉ thấy cái mềm bông màu đỏ phập phồng theo nhịp thở thoi thóp, mỏng manh như sợi chỉ mành treo chuông. Sau khi uống xong chung trà xanh, th́ hai người con cũng về tới nơi.

Thấy mặt trời lên thấp thoáng ngọn cây, chúng tôi xin từ giả ra về.. Cụ đi trước dẫn đường, dùng dao vạt vào thân cây rừng để đánh dấu, cho chúng tôi biết đường trở lại.


https://danviet.mediacdn.vn/upload/4-2016/images/2016-10-17/14767013345005-dv-chinh.jpg


Tới b́a rừng, họ chuyển 6 cây gỗ làm kèo lên vai hai đứa tôi và chúng tôi từ giă nhau ở đấy. Con vện đi sục sạo ở đâu đó trong khu rừng cũng vừa chạy trờ tới, mơm ngoạm một con chuột lông màu xam xám khá to, làm quà tặng anh bạn Đèo.

Trước khi trở về trại, Đèo ra bờ suối làm thịt chuột một cách thành thạo, rồi dùng lá chuối rừng gói lại cẩn thận, bỏ vào trong túi quần mang về trại. Buổi trưa, Đèo lén ra khu nhà bếp nướng một cách vội vă, khi nào có chiến lợi phẩm, hắn cũng chia phần cho tôi một nửa.

Đêm hôm đó, đợi mọi người ngủ say sau một ngày lao động cật lực. Đèo đào một lớp đất mỏng dưới ngay chỗ nằm lấy, ra một chai thuốc “Reostop” c̣n đủ 10 viên rồi giấu dưới gối.

Sáng hôm sau, chúng tôi trở lại vùng nầy, tiếp tục đốn gỗ làm kèo nhà. Lần theo vết dao đánh dấu trên thân cây, hai đứa tôi trở lại chỗ cũ rất dễ dàng.

Đến chỗ hẹn, chúng tôi thấy cụ đang ngồi dưới bóng cây đại thụ, chờ chúng tôi tự bao giờ. Đèo thân mật đặt cái lọ thuốc “Reostop” vào tay ông cu, rồi chỉ cách dùng. Ông cụ vừa mừng, vừa cảm động đến độ nói không nên lời. Trước khi chia tay nhau, ông cụ dặn ḍ:

- “ Tụi bộ đội của đoàn 776, thằng nào cũng ác ôn hết! Các anh phải cảnh giác chúng nó đấy !”

Khoảng một tuần sau đó. Chúng tôi trở lại vùng nầy kiếm gỗ, nh́n thấy cái huyệt đă được lấp đất lại bằng phẳng, cỏ dại đă bắt đầu bén rễ và chúng tôi biết chắc là bà cụ đă được cứu thoát khỏi bệnh kiết lỵ.


C̣n tiếp ,

hoathienly19
11-14-2020, 09:32
"NGƯỜI Ở LẠI HOÀNG LIÊN SƠN !

https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=1222074&page=31


Người tù cải tạo Lê Xuân Đèo đă hoàn thành công tác “dân vận” một cách xuất sắc bằng chính mạng sống của chính ḿnh. V́ ba tháng sau đó, anh từ giă cuộc đời v́ bịnh kiết lỵ v́ không thuốc chữa cho chính bản thân ḿnh ! .

Bịnh kiết lỵ, tiêu chảy và sốt rét rừng là ba căn bệnh rất phổ biến trong các trại tù cải tạo ở Miền Bắc XHCN.

Một người bạn cùng đơn vị là cựu thiếu tá Trần Sĩ cũng gởi nắm xương tàn tại một trại tù khác vào năm 1978 v́ bệnh kiết lỵ và rồi c̣n biết bao nhiêu người khác nữa ?

Trước khi chuyển trại từ trong Nam ra ngoài Bắc, chúng tôi dự trữ khá nhiều thuốc chuyên trị về các chứng bệnh nguy hiểm nầy và nhất là trụ sinh để pḥng thân.

Nhưng, sau khi chuyển đến trại 6 Khe Thắm, một người tù cải tạo tên Phạm Thành K. đă đâm sau lưng chiến hữu, anh ta bàn kế hoạch “chuyển trại giả” với tên thiếu tá Khoát để lấy điểm.

Vào một buổi sáng tinh sương. Trong lúc mọi người chuẩn bị xuất trại lên rừng đốn gỗ, bỗng có tiếng kẻng dồn dập khác thường, đích thân cán bộ quản giáo đến từng lán, đôn đốc mọi người khẩn trương đến tập trung trước sân cờ ban chỉ huy trại để nghe thiếu tá Khoát - trưởng trại - ban hành lệnh hành quân (chuyển trại) và mọi người được thông báo, chỉ c̣n có một tiếng đồng để chuẩn bị hành lư cần thiết mang theo người.

V́ quá vội vă, nên Đèo không kịp đào lấy 10 viên thuốc “reostop” chôn dưới sạp nứa, ngay chỗ anh nằm.


7VUpsW3UNRk


Tại sân đá bóng của xă, trong khi ngồi chờ đợi xe vận tải đến chở đi một trại tù cải tạo khác, bọn cán bộ quản giáo và quản chế yêu cầu tất cả tù cải tạo “bày hành lư bán chợ trời” - tiếng lóng - một h́nh thức kiểm soát hành trang của tù cải tạo để hôi của.

Sau đó, chúng phân tán chúng tôi đứng riêng rẽ từng nhóm nhỏ vài ba người, tù cải tạo c̣n phải trải qua một màn “thoát y vũ” bất đắc dĩ để chúng lục soát quần áo tù. Thế là, sau khi tịch thu toàn bộ số dược phẩm của anh em mang từ trong Nam ra, chỉ c̣n sót lại 10 viên “Reostop” của Lê xuân Đèo.

Sau đó, bọn tù cải tạo chúng tôi mặt mày tiu nghỉu trở về lán trại, tiếp tục lên rừng đốn gỗ. Tên thiếu tá Khoát và tên tù phản bội P. T. K. mặt mày hớn hở v́ chuyến nầy thắng lớn...

Bọn cán bộ trại đem số thuốc tây nầy ra Hà Nội và tỉnh Hoàng Liên Sơn bán lại cho các con buôn, rồi thay vào đấy một loại thuốc dơm trị bá chứng tên “Xuyên Tâm Liên” để trị bịnh cho bọn tù.

Đến năm 1982, nhà nước cộng sản khám phá loại thuốc nầy có độc tố phá vở các tế bào năo, tim và thận và ngưng sản xuất th́ đă muộn. Không biết có bao nhiêu tù cải tạo sống dở, chết dở v́ uống phải loại thuốc nầy ?


https://i2.wp.com/vietbao.com/images/file/395DVss40ggBAO4J/phim-9.jpg


Vào mùa thu năm 1977. Bạn Lê Xuân Đèo không may vướng phải căn bệnh kiết lỵ hiểm nghèo.

Sang đến tuần lễ thứ hai, người anh cứ khô héo dần như cây khô thiếu nước, gầy đến nổi chỉ c̣n da bọc xương, rồi nằm liệt giường, tiểu và đại tiện một chỗ..

Mỗi ngày tên y công tên Lương phát cho vài viên “Xuyên Tâm Liên” và một bát cháo loăng như nước cơm chắt, tiêu chuẩn trừng phạt những người tù cải tạo bị ghép vào tội “chây lười lao động”.

Qua đến đầu tuần lễ thứ ba, người anh tóp xọp như bộ xương cách trí, được bọc lại bằng một lớp da nhăn nheo màu xám xịt, đôi chân gầy guộc như hai thanh nứa, sờ vào lạnh ngắt như đồng.

Anh chỉ c̣n thở thoi thóp, máu h́nh như bắt đầu đông lại trong các động mạch, đôi mắt thất thần, mở trao tráo trong hai cái hốc mắt lơm sâu.

Đến buổi chiều, anh lên cơn mê sảng gọi tên vợ, tên con, rồi khóc rưng rức bằng những hạt lệ khô .:112:

Tối hôm đó, tôi ngồi bên cạnh anh cho tới giờ kẻng đổ, tôi bỏ mùng xuống cho anh, trước khi trở lại chỗ nằm.


https://chongtrungquoc.files.wordpress.com/2015/11/c491e1bba9c-c491e1baa1t-lai-le1baa1t-ma.jpg


Kỳ lạ quá ! Nửa đêm về sáng, tiếng cú rúc liên hồi trong một lùm cây nào đó, ngay phía sau lán 3 như tiếng gọi của thần chết lởn vởn đâu đây, làm tôi rùng ḿnh.

Gió từ dăy Hoàng Liên Sơn thổi về ào ào làm rung chuyển cây rừng, làm tốc mái tranh nứa, gió thổi bật cánh mấy cái phên cửa...

Trong cái không gian lạnh lẽo ấy, vang lên những tiếng ngáy kḥ kḥ khi trầm, khi bổng, có tiếng ngáy cao vút như giọng nam “tenor”, những tiếng nghiến răng trèo trẹo, tiếng trở ḿnh của bạn nào đó trên cái sạp tre ọp ẹp vang lên kẽo kẹt, tiếng mớ ngủ lẫn tiếng thở dài năo nuột.


https://imagizer.imageshack.com/v2/558x480q90/r/921/nXOqyS.jpg


Đôi khi, có anh đang nằm mơ thấy ḿnh đang đánh nhau với Việt cộng, tiếng hét của anh đánh thức cả lán dậy :

“Diều hâu ! Diều hâu ! Đại Bàng nghe rơ không trả lời !

Việt cộng tràn ngập căn cứ hỏa lực rồi ! Rót pháo xă láng ! Nổ chụp trên đầu chúng tôi ! Lẹ lên đi mấy cha...” và tất cả âm thanh đó quyện vào nhau hợp thành một “ bi trường khúc ” đầy ấn tượng sâu sắc trong ḷng người tù cải tạo.:112: :112: :112:


R0X9ST0xVTg


Bỗng tôi nghe tiếng con vện tru từng chập bên bờ suối, tiếng tru buồn thê thảm, kéo dài lê thê trong đêm trường tĩnh mịch.. :112::112::112:

Tôi mệt mơi, ngủ thiếp đi từ lúc nào cũng không hay, cho tới khi tiếng kẻng báo thức vang lên, đánh thức mọi người dậy để chuẩn bị một ngày lao động khổ sai..

Tôi nghe cả lán hoảng hốt, thét lên :

“ Đèo chết rồi ! Đèo chết rồi !...”..

Tôi ngồi bật dậy như cái ḷ xo, nh́n sang chỗ Đèo nằm, hai cái chân như hai thanh nứa già cỗi, khô khốc, buông tḥng xuống đất, bị gió thổi luồn dưới sạp nứa đánh đong đưa, c̣n thân người của anh nằm vất vưởng trong mùng.

Tôi vội vàng chạy đến, vén cái mùng lên.

Tôi thấy đôi mắt đôi mắt của anh mở trợn trừng, hai giọt lệ khổ đau chắt chiu từ một kiếp người bị đày đọa trong tận cùng đáy địa ngục, ứa ra từ trong hai hốc mắt sâu hoắm, c̣n đọng lại chưa khô; h́nh như, anh mới từ giă cuộc đời cách đây không lâu.

Tôi lấy tay vuốt mắt người bạn tù... :112::112::112::112:


ZeEydVjJZKo


Một cái cḥi lá đơn sơ được vội vă dựng lên, chỉ có mỗi mái nứa gần khu rừng sắn, bên cạnh con suối cạn, phía sau ban chỉ huy trại.

Bốn cái cộc gỗ đóng xuống đất chính giữa căn cḥi, hai khúc gỗ gác song song với nhau bên trên, vừa đủ kê một tấm ván mỏng.

Thi hài của Đèo trong bộ quân phục Biệt Động Quân đă bạc màu, rách tơi tả, loang lỗ những vết máu khô v́ tai nạn lao động.:112::112::112::112:

Tôi phủ kín h́nh hài của anh bằng cái mềm màu đỏ. Toán mộc lo đóng quan tài, tôi trong bộ phận đào huyệt c̣n có Trương Đăng Sĩ và Nguyễn Minh Thanh...

Chỗ anh nằm an nghỉ dưới bóng cây cổ thụ dưới chân đồi bên cạnh ḍng suối, cách trại khoảng 2 cây số....

Đến xế chiều, mọi việc đă hoàn tất. Sau khi tẩn liệm cho bạn Đèo xong, chúng tôi trở về trại, không ai được ở lại qua đêm để canh giữ xác của anh.:112::112::112::112::112:


QksJ6oWPNFA


Đêm đó, có lẽ là đêm dài nhất trong 8 năm tù cải tạo của tôi. Vừa chợp mắt là tôi thấy đôi mắt của anh c̣n mở trợn trừng...

Quá nửa đêm về sáng. Bỗng nghe có tiếng chó sủa, tiếng gầm gừ cấu xé lẫn nhau thật dữ dội, tiếng tru tréo từ phía b́a rừng văng vẳng đưa về; h́nh như, chúng đang tranh ăn th́ phải.

Điều nầy đă khiến tôi phập pḥng lo sợ, không biết chuyện ǵ bất hạnh sẽ xảy ra cho anh Đèo.

Tôi thầm cầu nguyện với ơn trên, đừng để bầy chó rừng tha xác của anh đi ! Trời vừa tờ mờ sáng. Sau tiếng kẻng báo thức vào lúc 6:45, tôi đă thức dậy, cuốn mùng mền, rồi vội vă đi về phía cổng trại.

Tên lính canh cho phép tôi xuất trại, ra b́a rừng thăm xác bạn.

Tôi lật đật bước vào cái cḥi lá, cái quan tài của Đèo được ghép vội vă bằng sáu tấm ván mỏng manh bị đẩy xô lệch trên hai cái thanh ngang, suưt chút nữa th́ đổ xuống đất, cái nấp áo quan sẽ bung ra ngay.

Sau khi đẩy cái áo quan lại cho ngay ngắn, tôi bước ra bên ngoài quan sát hiện trường. Cả một vùng cỏ dại chung quanh cái cḥi bị ngă rạp xuống, loang lổ vết máu và lông thú. Tôi đoán không sai, tại ngay chỗ nầy, đêm qua đă xảy ra trận ác đấu thật quyết liệt giữa bầy chó rừng, tranh xác anh Đèo để tha vào rừng.


7VUpsW3UNRk


Có lẽ đánh được hơi người quen thuộc, con chó vện đang nằm bất động gần đó, nó ngước đầu lên nh́n tôi, cố gắng chống hai cái chân trước xuống đất, gượng lết về phía tôi, nhưng được vài bước rồi ngă quỵ xuống, mồm rên ư ...ử v́ đau đớn.

Tôi vội vàng chạy đến ôm chấm lấy nó vào ḷng. Con vệt liếm vào mặt tôi một cách tŕu mến, rồi mệt lả, nghẻo đầu lên vai tôi. Đặt nó nằm xuống đất để quan sát :

Con mắt bên phải bị lột một mảnh da, c̣n bê bết máu, cái chân trước bị táp gẫy xương và cái đùi sau bị ngoạm mất một măng thịt to, vết thương c̣n rỉ máu âm ỉ. Tôi vô cùng xúc động nh́n nó một cách cảm phục và thương mến.


SxOblovsfF8


Thật vậy, không một ai có thể ngờ rằng, con chó vện đă liều mạng sống của nó, tả xung, hữu đột, quyết đấu một mất một c̣n với cả một bầy chó rừng hoang dại để bảo vệ cái xác thân của Lê Xuân Đèo, người bạn của nó, đang nằm trơ trọi giữa bầy dă thú.

Đối với tôi, con chó vện là hiện thân của một dũng sĩ, tuy mang h́nh hài của loài thú bốn chân, nhưng có một trái tim rất “người” dám v́ nghĩa quên ḿnh, chiến đấu đơn độc, không lùi bước trước kẻ thù.

Tinh thần quyết đấu của con chó vện, như một lời nhắn nhủ đầy khí phách với đồng loại của nó :

“Tụi bây muốn làm thịt Lê Xuân Đèo, phải bước qua xác chết của tao!”.

Tôi bế con vện ra bờ suối, khuất sau đám sắn non, rửa vết thương c̣n đẫm máu của nó mà ứa nước mắt. Con vện liếm bàn tay tôi một cách thân ái. Tôi th́ thầm bên tai nó :

“ Nằm đây chờ tao; lát nữa, tao trở lại t́m cách đưa mầy về nhà chủ của mầy !”

Tôi đứng dậy lui gót, nh́n trong ánh mắt lưu luyến của nó và khi nó đưa cái chân trước quào quào một cách yếu ớt trong không khí như những cái vẫy tay chào vĩnh biệt, khiến tôi có cảm tưởng; h́nh như, nó muốn trối trăn điều ǵ đó với tôi chăng ?


Chú chó Hachiko - Nhật Bản biểu tượng về ḷng trung thành với chủ của nó (Nguồn: Internet)


https://media.ex-cdn.com/EXP/media.phatgiao.org.vn/files/f1/Contents/nguyenlinhchi/20180916/phatgiao-org-vn-vi-sao-khong-nen-an-thit-cho-meo7.jpg


Tôi từ giă nó, trở vào trại để cùng với anh em lo việc mai táng Lê Xuân Đèo.

Toán chung sự có bốn người :

Minh Thanh, tôi và hai bạn tù nữa.

Đúng 8 giờ sáng, chúng tôi đẩy cái xe cải tiến cũ kỹ đi ngang qua ban chỉ huy trại, gặp tên trung úy Quang lùn tịt, ngoắc chúng tôi dừng lại, nói :

“ Này, nhớ đấy nhé ! Giữ cái áo quan lại, dành cho những người kế tiếp ! Các anh phải biết bảo vệ tài sản xă hội chủ nghĩa đấy !! Sẽ không có cái áo quan thứ hai đâu ” !!!!


https://tuxtini.files.wordpress.com/2013/03/lc3a0m-vie1bb87c.jpg


Sau khi đặt quan tài của Lê Xuân Đèo lên xe cải tiến. Hai anh cầm càng, tôi và Minh Thanh phụ đẩy. Chiếc xe từ từ lăn bánh trên con đường đất gồ ghề c̣n đẵm hơi sương. Hai cái bánh xe khô nhớt, một cái nghiêng bên nầy, một cái ngă bên kia, phát ra những tiếng kót két rên rỉ một cách mệt nhọc, đau khổ.

Hai anh bạn phía trước gồng ḿnh, ấn cái càng xe xuống, c̣n tôi và Minh Thanh vừa đẩy, vừa nâng phần sau xe lên, v́ sợ hai cái bánh xe bung vành, văng ra khỏi ra cái xe cải tiến bất cứ lúc nào.

Chúng tôi phải đẩy cái xe tang lăn qua ba cái dốc cao mới đến bờ suối. Sau vài phút nghỉ giải lao, chúng tôi cùng nhau kê vai, khiêng quan tài lên lưng chừng đồi, chỗ an giấc ngàn thu của anh, rồi chia nhau vô rừng kiếm dây rừng bện lại như hai sợi dây thừng.

Đặt quan tài lên trên hai sợi dây đó, rồi mỗi người nắm một đầu dây, thả từ từ xuống đáy huyệt. Xong rồi, chúng tôi lấp đất lại, vun thành một nấm mộ đơn sơ. Bốn anh em đứng trước mộ, cúi đầu mặc niệm mà trong thổn thức, bồi hồi. Tôi hái một ít hoa rừng đặt lên nấm mồ của bạn.


https://lh3.googleusercontent.com/proxy/xVOECVI9ZErqKlIsbNTwti6WfNSFANMaJuMKMkdCu7EXOT4nrk RXuJUikcr-mMykbtq2gvit3dAXCn4KlkI5IwjmarTjccghZdzr1IDIDlU_40 u5p0EbBAqk9g4vZgcEg1_5YqvTES4IWn3Y2SY



IQRyR--iSVg


Bạn Nguyễn Minh Thanh cảm khái làm một bài thơ với tựa đề “NẤM MỒ HOANG” để tưởng nhớ bạn Lê Xuân Đèo, người bỏ cuộc giữa đường.

Một nấm mồ hoang cảnh lạnh lùng

Lơ thơ cỏ úa lá chiều rung

Quạnh hiu vằng vặt vây quanh mộ

Rên rỉ bầy ve tiếng năo nùng

Gởi xác ốm nhom tận chốn nầy

Bao la rừng núi, suối trời mây

Người đi vĩnh viễn đă yên phận

Ngàn dặm người thương đâu có hay !

Sương khói hoàng hôn dọc mỗi đời

Công danh phú quí lá vàng rơi

Than ôi ! Thành bại đều chung cuộc

Tuần tự rồi ai cũng thế thôi !


https://skye360.files.wordpress.com/2016/10/img_57791.jpg


C̣n tiếp ,

hoathienly19
11-14-2020, 20:38
Trên đường trở về trại, khi đi đến gần ban chỉ huy, tôi tách rời anh em, lẻn vào khu rừng sắn, ra bờ suối kiếm con vện.

Tôi vô cùng sững sờ nh́n thấy con vện bị ai đó treo ngược đầu xuống đất, bốn chân bị căng ra, buộc chặt vào hai cái cộc gỗ, cổ bị cắt tiết, máu đỏ nhỏ từng giọt xuống cái cái chậu bằng thau đặt dưới đất.

Tôi quỳ xuống nâng đầu của nó lên, cả thân ḿnh con vện khẻ run lên lần cuối cùng, rồi duỗi thẳng ra bất động. Cái chết đau đớn của nó làm tôi rớt nước mắt.

Tên trung sĩ Kây đứng sau lưng tôi từ lúc nào cũng không hay. Hắn lên tiếng làm tôi giật ḿnh:

- “ Trong giờ lao động, anh ra đứng đây làm ǵ thế ?”

Tôi nhanh trí, đáp:

- “ Vừa mới mai táng anh Lê Xuân Đèo xong, ra suối rửa tay chân .”

Hắn nó i:

- “Tôi nhờ anh giúp hộ một tay .”

- “ Được, việc ǵ thế ?” tôi hỏi .Hắn nói như ra lệnh :

- “ Anh tháo dây, mang con cầy vào nhà bếp cho tôi !”

Nói xong, hắn mang cái thau tiết đi trước. Tôi tháo sợi dây rừng, ôm con vện vào ḷng như ôm thi thể một chiến hữu vừa nằm xuống sau một trận đấu...tôi thất thểu ôm xác con vện vào khu nhà bếp mà ḷng quặn đau.

Hôm sau, được phân công làm vệ sinh khu nhà bếp, tôi nhặt những mảnh xương vụn của con vện, đặt lên vào những tấm lá chuối, gói lại cẩn thận. Nhân lúc đi rừng đốn gỗ, tôi ghé thăm mộ bạn Đèo, rồi dùng dao đào một cái hố nhỏ, chôn bộ hài cốt của con chó vện, nằm bên cạnh bạn Lê Xuân Đèo cho có bạn.


https://vectormienphi.com/wp-content/uploads/2019/12/T%E1%BB%95ng-h%E1%BB%A3p-nh%E1%BB%AFng-h%C3%ACnh-%E1%BA%A3nh-hoa-d%E1%BA%A1i-%C4%91%E1%BA%B9p-nh%E1%BA%A5t-1.jpeg


Bắt đầu từ cuối tháng chạp kéo dài đến tháng giêng năm sau. Núi rừng Hoàng Liên Sơn, bầu trời ảm đạm và rét mướt, mưa bụi giăng giăng khắp nơi gần như bất tận..

Mỗi buổi chiều, người tù trùm chăn kín mít, ngồi co ro trong lán, nh́n những cơn mưa bụi bay bay trong hoàng hôn, ai nấy đều chạnh ḷng nhớ quê hương, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ con, nhớ vợ da diết. :112:


Gọi là mưa bụi v́ lượng nước mưa quá yếu không thể rơi thẳng xuống mặt đất, bị gió thổi bay đi, tỏa ra thành những cơn mưa bụi.

Bước sang tháng giêng. Hạt nước mưa kết tinh lớn hơn một chút có thể rơi thẳng xuống mặt đất, nhưng bị gió tạt nghiêng nghiêng, tạo thành những cơn mưa phùn báo hiệu đất trời sắp giao mùa. Sợi mưa phùn mong manh như sợi tóc rối, đan nhau thành những màn nước trắng đục, giăng kín núi rừng, đồng ruộng, thung lũng, sông hồ ...

Trời đất nhạt nḥa trong những cơn mua phùn dai dẳng, kéo dài lê thê trên vùng đất khó. Trong bầu khí hậu ẩm thấp ấy, cây cỏ đang âm thầm nẩy lộc, đâm chồi, chờ trỗi dậy tưng bừng khi mùa xuân đến.

Chỉ tội cho bọn tù cải tạo phải lao động khổ sai trong rừng sâu, tay chân tê cóng v́ đói và lạnh đến rét run.


https://suckhoecuocsong.vn/upload/Du-lich/day-nui-hoang-lien-son-suckhoecuocsong_com_vn.jpg


Thượng tuần tháng 2 năm 1978.


Trại chuẩn bị ăn mừng Tết Nguyên Đán Mậu Ngọ vài ngày sau đó. Tôi được phân công vào đội cắt lá dong dùng để gói bánh chưng. Lá dong thường mọc hoang ở những vùng đất ẩm ướt. Tôi đi vào rừng, lang thang trong thung lũng một ḿnh để t́m lá dong. Tôi nhớ quá anh bạn Đèo và con chó vện thân thương.

Mới hừng đông sáng mà tôi đă nghe tiếng chiêng, tiếng trống vang lên rộn ră từ bản làng của dân tộc Thái Đen. Động tính hiếu kỳ, tôi lần theo con đường ṃn dọc theo con suối chảy róc rách để đi vào bản Thái.


https://motogo.vn/wp-content/uploads/2020/02/Tour-%C4%90i%E1%BB%87n-Bi%C3%AAn-m%C3%B9a-hoa-ban-trang-no-lienviettravel.vn_.jpeg


Ô hay ! Trước mắt tôi là cả một rừng hoa màu trắng tinh khiết như hoa bưởi mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Từ những thân cây khẳng khiu, uốn khúc dù bám vào vách núi đá cheo leo vẫn trổ những chùm hoa trắng muốt, hoa nở rộ khắp núi rừng, dọc theo suối, hoa có năm cánh, nhụy màu hồng, gân màu tim tím.

Mỗi cơn gió nhẹ nhàng lướt thoảng qua khu rừng là những cánh hoa rung lên như hàng vạn cánh bướm đang vỗ cánh chấp chới trong không khí.


Tôi đi lần theo con đường ṃn t́m gia đ́nh cụ Trừng không mấy khó khăn. Tôi đoán, hôm nay là ngày hội làng th́ phải. Trước sân nhà của cụ các bếp đỏ lửa, rực than hồng, họ có mươi người, chia ra làm hai phái :

Phái nữ đang lo nấu thức ăn, c̣n phía nam đang chơi nhạc cụ dân tộc như thổi khèn, khua chiêng, trống...rất vui nhộn.


https://images.foody.vn/images/dien%20bien1.jpg


Thấy tôi đường đột bước vào sân, tất cả đều dừng tay, nh́n tôi trân trối. Chỉ cần nh́n thấy bộ đồ rằn ri của tôi đang mặc, họ đă biết tôi là ai rồi. Một thiếu phụ vội vă chạy đến cầu thang, lên tiếng gọi:

- “ Bố ơ i! Có thằng lính ngụy nó xông vào nhà ḿnh nầy! Con tống cổ nó đi nhá !” Có tiếng quát vọng xuống:

- “Khách quư nhà ḿnh đấy! Đừng hỗn láo, con ạ!”

Đứng trên cầu thang, nh́n thấy tôi, cụ Trừng có vẻ mừng lắm. Cụ quay vào trong căn nhà sàn, gọi bà cụ ơi ới:

- “Bà nầy, theo tôi xuống đây nhanh lên!”

Cụ vội vă chạy xuống cầu thang trước, cụ bà nối gót theo sau. Cụ ôm chầm lấy tôi, trước con mắt ngơ ngác của mọi người. Cụ Trừng nói với vợ:

- “Bà c̣n sống đến ngày hôm nay là nhờ người tù cải tạo nầy đấy!”

Tôi vội vàng đính chính ngay:

- “Không phải tôi cứu bà cụ đâu! Anh Lê Xuân Đèo đấy cụ à!”

Cụ Trừng vỗ trán một cái thật mạnh, nói:

- “À, tôi nhớ ra rồi ! Anh Lê Xuân Đèo đâu ?” Tôi buông thỏng một câu:

- “ Đèo chết rồi !” Cụ Trừng bàng hoàng trong giây lát, rồi hỏi gằn :

- “Bọn quản giáo đánh chết anh Đèo , phải thế không ?”

- “ Không phải vậy, anh Đèo chết v́ bệnh kiết lỵ !”

Bà cụ nói:

- “ Tôi thoát khỏi bệnh kiết lỵ là nhờ 10 viên thuốc “con nhộng” của anh ấy biếu ! Sao anh Đèo không dùng thuốc ấy để chửa bệnh cho ḿnh nhỉ ?”

Tôi buộc ḷng phải thú thật, nói :

- “ Đó là 10 viên thuốc cuối cùng mà anh Đèo đă biếu cho cụ !”

Bà cụ nghe tôi nói, vô cùng xúc động, giọng run run:

- “ Anh Đèo đă hy sinh cái mạng của ḿnh để cho tôi được sống ! Thế mới rơ trắng đen, đồng bào dân tộc chúng tôi ở ngoài nầy đều bị lũ chúng nó bưng bít, tuyên truyền lừa bịp cả !

Chúng nó c̣n bảo “lính ngụy” các anh tàn ác lắm! Mổ bụng, moi gan người ăn sống, uống cả máu tươi! Bọn chúng nó ngậm máu phun người, giỏi thật đấy ! ”


https://3.bp.blogspot.com/-LQd9R_MxSTw/XqStLREGv5I/AAAAAAAAuYQ/HsPf9qqd4sANDV2ntvdeUAbgXK7a11BIQCLcBGAsYHQ/s1600/VNCH.jpg

Đám thanh niên nghe bà cụ nói, xem chừng đă hiểu biết mọi chuyện, họ bỏ hẳn thái độ thù nghịch khi vừa mới gặp tôi. Một anh bạn trẻ đến nắm tay tôi mời mọc rất chân t́nh:

- “Anh ở lại dùng cỗ với chúng em nhá ! Hôm nay, mới bắt đầu mùa lễ hội “Kin Chiêng Bók May” của dân tộc Thái chúng em !”

Tôi hỏi:

- “Mùa lễ hội “Kin Chiêng Bók May” là lễ hội ǵ vậy?”

Cụ Trừng giải thích:

- “Đó là ngày “Hội Hoa Ban” trên vùng cao Hoàng Liên Sơn để đón mùa xuân đến. Hoa ban chỉ nở rộ vào tiết lập xuân, phủ trắng cả núi rừng trên các bản Thái.

Đặc điểm của loài hoa nầy là màu trắng, tượng trưng cho sự trong trắng, tinh khiết của t́nh yêu và hạnh phúc lứa đôi! Một chút nữa đây, sau khi ăn uống no say, bọn họ sẽ chạy vào hái những hoa ban thật đẹp tặng cho nhau làm quà.

Mấy cô gái sẽ thay đổi xiêm y, đầu chít khăn “piêu”, có đôi hàng cúc h́nh bướm trên chiếc áo cóm, thêu tua ở vai, cái quần “sin” (giống như xà-rông) vải xanh thắt ngang lưng để múa x̣e,” cụ Trừng cố mời.

“Anh ở nán lại đây chơi với chúng tôi.”


Ot8kiymVOkg


Mặt trời đă lên khá cao. Rất tiếc là tôi phải từ giă họ để c̣n kịp đi cắt lá dong. Bỗng có ai khều nhẹ vào vai, tôi quay đầu lại nh́n, đó là một cô bé Thái c̣n rất trẻ, độ chừng đôi tám, mắt có mí lót, mũi hơi cao, nước da bánh mật, trong giống người Ấn hơn là người Kinh.

Cô ta trao cho bó hoa ban nới nở, vừa mới hái vội ở trong rừng về tặng tôi, làm món quà trong ngày “Hội Hoa Ban”. Bây giờ tôi mới biết loại hoa màu trắng nơn nà đó chính là hoa ban. Cô bé thỏ thẻ, nói đùa:

- “Bao giờ anh về Sài G̣n, cho em đi theo với nhá!”

Tôi vô cùng ngạc nhiên khi một cô bé Thái miền sơn cước, c̣n biết chối bỏ cái tên Thành phố Hồ Chí Minh do tập đoàn lănh đạo cộng sản áp đặt sau khi cưỡng chiếm Miền Nam, mà vẫn gọi cái tên cũ “Sài G̣n”, thủ đô thân yêu của người Miền Nam .

Sau khi cắt xong một mớ lá dong, trên đường đi về trại, tôi ghé viếng thăm mộ bạn Lê Xuân Đèo. Tôi đặt bó hoa ban trên nấm mồ, rồi th́ thầm báo cáo với hắn:

“ Vinh quang nầy thuộc về mầy! Chớ không phải của tao !”

Nghĩ cho cùng, cái chết tức tưởi của bạn Lê Xuân Đèo không đến nỗi vô ích. Tôi phải gọi đó là một sự hy sinh.

Những người lính QLVNCH thuộc mọi Quân, Binh chủng đă anh dũng hy sinh ngoài mặt trận trong thời chiến. Và những người lính âm thầm nằm xuống trong lao tù cộng sản, đều có giá trị cao quư như nhau !

Thật vậy, anh nằm xuống để thắp lên một ánh đuốc lẻ loi, soi thủng màn đêm tăm tối đầy hận thù bên kia “bức màn sắt”, do bọn CSBV dựng lên tại miền Bắc XHCN, bằng những thủ đoạn tuyên truyền cực kỳ dối trá và bẩn thỉu. Cái chết của Lê Xuân Đèo đă làm sáng tỏ chân giá trị đích thực của người lính thuộc QLVNCH.

Họ cầm súng để nối nghiệp tiền nhân, tận tụy ngày đêm đi ǵn giữ quê hương, đem xương trắng máu đào để bảo vệ sự toàn vẹn lănh thổ của Tổ Quốc.


https://banvannghe.com/images/file/zw8URkCT0wgBAMM6/linh-7.jpg


Sau Tết Mậu Ngọ 1978. Tất cả anh em chúng tôi khăn gói lên đường, di chuyển đến một trại tù cải tạo khác, lần nầy th́ di chuyển thật. Và chúng tôi tiếp tục làm nhiệm vụ khai quang, dựng nhà, trồng hoa màu ở những vùng rừng núi hiểm trở khác để đồng bào miền xuôi về đó, xây dựng nông trường.

Lúc vượt qua đỉnh đèo Lủng Lô, Trương Đăng Sĩ, Nguyễn Minh Thanh và tôi dừng lại giây phút ngắn ngủi, chúng tôi cùng hướng về rặng núi Phu Luông c̣n phảng phất sương mù, vẫy tay chào vĩnh biệt người bạn tù thân mến, anh Lê Xuân Đèo :

NGƯỜI Ở LẠI HOÀNG LIÊN SƠN ! :112:

Nguyễn Vĩnh Long Hồ

hoanglan22
11-17-2020, 15:36
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1690602&stc=1&d=1605627312

Cửa hàng sửa chữa ô tô sẽ biến mất.
Một động cơ xăng có 20.000 bộ phận riêng lẻ.
Xe điện được bán với bảo hành suốt đời và chỉ được sửa chữa bởi các đại lư.
Chỉ mất 10 phút để tháo và thay thế một động cơ điện.
Động cơ điện bị hỏng không được sửa chữa trong đại lư nhưng được gửi đến một cửa hàng sửa chữa khu vực để sửa chữa chúng bằng robot.
Đèn báo lỗi động cơ điện của bạn sẽ sáng, v́ vậy bạn lái xe đến mức trông giống như một chiếc xe tự động Jiffy, và chiếc xe của bạn được kéo qua trong khi bạn có một tách cà phê và ra xe của bạn với một động cơ điện mớ !
Trạm xăng sẽ biến mất
Đồng hồ chỗ đậu xe sẽ được thay thế bằng mét phân phối điện.
Các công ty sẽ lắp đặt các trạm nạp điện; trên thực tế, họ đă bắt đầu.
Bạn có thể t́m thấy chúng tại các địa điểm Dunkin Donuts được chọn.
Hầu hết các nhà sản xuất ô tô lớn thông minh đă có đồ án để bắt đầu xây dựng các nhà máy mới chỉ cho xe điện.
Ngành công nghiệp than sẽ biến mất.
Các công ty xăng dầu sẽ biến mất.
Khoan dầu sẽ dừng lại. V́ vậy, nói lời tạm biệt với OPEC !
Ngôi nhà sẽ sản xuất và lưu trữ nhiều năng lượng điện hơn trong ngày và sau đó họ sử dụng và sẽ bán nó trở lại lưới điện.
Lưới lưu trữ nó và phân phối nó cho các ngành công nghiệp là người sử dụng điện cao.
Có ai nh́n thấy mái nhà Tesla không?
Một em bé của ngày hôm nay sẽ chỉ nh́n thấy chiếc xe cá nhân trong bảo tàng.
TƯƠNG LAI đang tiếp cận nhanh hơn hầu hết chúng ta có thể điều khiển.
Năm 1998, Kodak có 170.000 nhân viên và bán được 85% giấy ảnh toàn thế giới .
Chỉ trong ṿng vài năm, mô h́nh kinh doanh của họ biến mất và họ bị phá sản.
Ai có thể nghĩ về điều đó xảy ra?
Điều ǵ đă xảy ra với Kodak sẽ xảy ra trong rất nhiều ngành công nghiệp trong 5-10 năm tới, và hầu hết mọi người không thấy nó đang xảy ra.
Bạn có nghĩ rằng vào năm 1998 rằng 3 năm sau đó, bạn sẽ không bao giờ chụp ảnh trên phim một lần nữa?
Với điện thoại thông minh ngày nay, thậm chí mấy ai c̣n dùng máy ảnh vào những ngày nay?
Tuy nhiên, máy ảnh kỹ thuật số được phát minh vào năm 1975.
Những máy ảnh đầu tiên chỉ có 10.000 pixel, nhưng theo luật Moore.
V́ vậy, như với tất cả các công nghệ theo cấp số nhân, đó là một sự thất bại trong một thời gian, trước khi nó trở nên vượt trội và trở thành xu hướng chính chỉ trong một vài năm ngắn ngủi.
Phần mềm đă bị gián đoạn và sẽ tiếp tục phá vỡ hầu hết các ngành công nghiệp truyền thống trong 5-10 năm tới.
UBER chỉ là một công cụ phần mềm, họ không sở hữu bất kỳ chiếc xe nào và bây giờ là công ty taxi lớn nhất thế giới !
Hăy hỏi bất kỳ tài xế taxi nào nếu họ thấy điều đó đang đến.
Airbnb hiện là công ty khách sạn lớn nhất thế giới, mặc dù họ không sở hữu bất kỳ tài sản nào.
Hỏi khách sạn Hilton nếu họ thấy điều đó đang đến.
Trí tuệ nhân tạo
Máy tính trở nên tốt hơn theo cấp số nhân trong việc hiểu thế giới.
Năm nay, một máy tính đánh bại người chơi Go tốt nhất thế giới, sớm hơn dự kiến 10 năm
Ở Mỹ, các luật sư trẻ đă không có việc làm.
Bởi v́ của IBM Watson, bạn có thể nhận được cố vấn pháp lư cho đến nay cho ngay bây giờ, những thứ cơ bản trong ṿng vài giây, với độ chính xác 90% so với độ chính xác 70% khi thực hiện bởi con người.
V́ vậy, nếu bạn học luật, hăy dừng ngay lập tức.
Sẽ có ít hơn 90% luật sư trong tương lai, những ǵ là một ư nghĩ ! Chỉ những chuyên gia đặc biệt mới được ở lại.
Watson đă giúp y tá chẩn đoán ung thư, chính xác hơn 4 lần so với y tá của con người.
Facebook hiện có phần mềm nhận diện mẫu có thể nhận diện khuôn mặt tốt hơn con người.
Vào năm 2030, máy tính sẽ trở nên thông minh hơn con người.
Xe tự hành: Năm 2018 những chiếc xe tự lái đầu tiên đă có mặt ở đây.
Trong 2 năm tới, toàn bộ ngành sẽ bắt đầu bị gián đoạn.Bạn sẽ không muốn sở hữu một chiếc xe nữa v́ bạn sẽ gọi một chiếc xe với điện thoại của bạn, nó sẽ hiển thị tại vị trí của bạn và đưa bạn đến đích của bạn.
Bạn sẽ không cần phải đậu nó, bạn sẽ chỉ trả tiền cho khoảng cách lái xe và bạn có thể làm việc hiệu quả trong khi lái xe.
Những đứa trẻ rất nhỏ của ngày hôm nay sẽ không bao giờ có bằng lái xe và sẽ không bao giờ sở hữu một chiếc xe hơi.
Điều này sẽ thay đổi thành phố của chúng tôi, bởi v́ chúng tôi sẽ cần ít hơn 90-95% xe hơi.
Chúng tôi có thể chuyển đổi băi đậu xe cũ thành công viên.
Nó bây giờ sẽ xảy ra một lần nữa nhưng nhanh hơn nhiều với trí thông minh nhân tạo, sức khỏe, xe hơi tự trị và điện, giáo dục, in ấn 3D, nông nghiệp và công ăn việc làm.
Hăy quên đi cuốn sách, “Future Shock”, chào mừng đến với Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
1,2 triệu người chết mỗi năm trong tai nạn xe hơi trên toàn thế giới bao gồm cả lái xe mất tập trung hoặc say rượu.
Bây giờ chúng ta có một tai nạn mỗi 60.000 dặm; với lái xe tự trị mà sẽ giảm xuống c̣n 1 tai nạn trong 6 triệu dặm.
Điều đó sẽ tiết kiệm được hàng triệu sinh mạng cộng với trên toàn thế giới mỗi năm.
Hầu hết các công ty xe hơi truyền thống chắc chắn sẽ bị phá sản.
Các công ty xe hơi truyền thống sẽ thử cách tiếp cận tiến hóa và xây dựng một chiếc xe tốt hơn, trong khi các công ty công nghệ - Tesla, Apple, Google sẽ làm theo cách tiếp cận mang tính cách mạng và xây dựng một máy tính trên bánh xe.
Nh́n vào những ǵ Volvo đang làm ngay bây giờ; không có thêm động cơ đốt trong trong xe của họ bắt đầu từ năm nay với các mẫu 2019, sử dụng tất cả điện với mục đích loại bỏ các mô h́nh lai .Nhiều kỹ sư từ Volkswagen và Audi; là hoàn toàn sợ hăi Tesla .
Nh́n vào tất cả các công ty cung cấp tất cả các loại xe điện. Đó là điều chưa từng nghe thấy, chỉ vài năm trước.
Các công ty bảo hiểm sẽ gặp rắc rối lớn bởi v́, không có tai nạn, chi phí sẽ trở nên rẻ hơn.
Mô h́nh kinh doanh bảo hiểm xe hơi của họ sẽ biến mất.
Bất động sản sẽ thay đổi. Bởi v́ nếu bạn có thể làm việc trong khi bạn đi lại, mọi người sẽ di chuyển xa hơn để sống trong một khu phố đẹp hơn hoặc giá cả phải chăng hơn.
Xe điện sẽ trở thành ḍng chính vào khoảng năm 2030.
Thành phố sẽ ít ồn ào hơn v́ tất cả những chiếc xe mới sẽ chạy bằng điện.
Các thành phố cũng sẽ có không khí sạch hơn nhiều. Chúng ta có thể bắt đầu ở Los Angeles không?
Điện sẽ trở nên cực kỳ rẻ và sạch sẽ.
Sản xuất năng lượng mặt trời đă tăng theo cấp số nhân trong 30 năm, nhưng bây giờ bạn có thể thấy tác động đang phát triển.Và nó đang tăng lên.
Các công ty năng lượng hóa thạch đang cố gắng hạn chế truy cập vào lưới điện để ngăn chặn sự cạnh tranh từ việc lắp đặt năng lượng mặt trời tại nhà, nhưng điều đó đơn giản là không thể tiếp tục – công nghệ sẽ chăm sóc chiến lược đó.
Sức khỏe
Giá Tricorder X sẽ được công bố trong năm nay. Có những công ty sẽ xây dựng một thiết bị y tế gọi là “Tricorder” từ Star Trek hoạt động với điện thoại của bạn,việc này sẽ quét vơng mạc, lấy mẫu máu và cả hơi thở của bạn. Sau đó nó phân tích 54 dấu hiệu sinh học để xác định gần như bất kỳ bệnh nào.Hiện có hàng chục ứng dụng điện thoại với mục đích y tế.
.....Và c̣n nhiều, nhiều nữa....

PC chuyen

hoanglan22
11-18-2020, 04:49
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1691013&stc=1&d=1605674780

Trong khoảng 10 năm gần đây, một số đông du học sinh từ Việt Nam qua Mỹ hay nhiều người du lịch sang Mỹ đă t́m cách kết hôn với người có quốc tịch Mỹ để được ở lại Mỹ hợp pháp. T́m không ra người Việt có quốc tịch Mỹ, th́ họ kiếm đại một anh Mỹ gốc Mễ, gốc Tàu, hay Mỹ đen, Mỹ trắng ǵ cũng được, miễn sao họ chịu làm giấy tờ thẻ xanh cho họ ở lại. Và 3 đến 5 năm sau đó, họ vào quốc tịch Mỹ và chỉ 1 năm sau là bảo lănh cả cha mẹ từ Việt Nam qua Mỹ.

Cha mẹ vợ này có thể là 1 đảng viên cộng sản gốc lớn đang tại chức hay đang bị thất sủng muốn t́m đường qua Mỹ, hay là một đại gia có nhiều tiền muốn chuyển tiền cho con ở Mỹ giữ giùm, mua nhà đầu tư hay chỉ là một bà nhà quê muốn qua Mỹ để hưởng chế độ y tế MEDICAL, MEDICARE miễn phí ưu đăi của chính phủ Mỹ dành cho những người được bảo lănh có thẻ xanh ở Mỹ hợp pháp.

Thế là những cha mẹ này qua Mỹ đă trên 65 tuổi, chưa bao giờ đi làm đóng thuế cho Mỹ đồng nào trong suốt cuộc đời của họ, lại đương nhiên được hưởng phúc lợi dành cho người cao niên ở Mỹ, mà những người đi làm đóng thuế cho Mỹ từ 20 % đến 35 % lợi tức hàng năm trong hơn 40 năm như tôi, như bạn, có khi c̣n không được như họ.

TIN CỘNG ĐỒNG
Cỡ chữ
BẤM VÀO ĐÂY ĐỌC RƠ HƠN
Người Việt lớn tuổi qua Mỹ tại sao bị ghét ?
Trong khoảng 10 năm gần đây, một số đông du học sinh từ Việt Nam qua Mỹ hay nhiều người du lịch sang Mỹ đă t́m cách kết hôn với người có quốc tịch Mỹ để được ở lại Mỹ hợp pháp.


Trong khoảng 10 năm gần đây, một số đông du học sinh từ Việt Nam qua Mỹ hay nhiều người du lịch sang Mỹ đă t́m cách kết hôn với người có quốc tịch Mỹ để được ở lại Mỹ hợp pháp. T́m không ra người Việt có quốc tịch Mỹ, th́ họ kiếm đại một anh Mỹ gốc Mễ, gốc Tàu, hay Mỹ đen, Mỹ trắng ǵ cũng được, miễn sao họ chịu làm giấy tờ thẻ xanh cho họ ở lại. Và 3 đến 5 năm sau đó, họ vào quốc tịch Mỹ và chỉ 1 năm sau là bảo lănh cả cha mẹ từ Việt Nam qua Mỹ.


Cha mẹ vợ này có thể là 1 đảng viên cộng sản gốc lớn đang tại chức hay đang bị thất sủng muốn t́m đường qua Mỹ, hay là một đại gia có nhiều tiền muốn chuyển tiền cho con ở Mỹ giữ giùm, mua nhà đầu tư hay chỉ là một bà nhà quê muốn qua Mỹ để hưởng chế độ y tế MEDICAL, MEDICARE miễn phí ưu đăi của chính phủ Mỹ dành cho những người được bảo lănh có thẻ xanh ở Mỹ hợp pháp.

Thế là những cha mẹ này qua Mỹ đă trên 65 tuổi, chưa bao giờ đi làm đóng thuế cho Mỹ đồng nào trong suốt cuộc đời của họ, lại đương nhiên được hưởng phúc lợi dành cho người cao niên ở Mỹ, mà những người đi làm đóng thuế cho Mỹ từ 20 % đến 35 % lợi tức hàng năm trong hơn 40 năm như tôi, như bạn, có khi c̣n không được như họ.


Thử làm 1 bài toán đơn giản nhé. Mỗi tháng MEDICARE, MEDICAL, MEDICAID trả tiền hoá đơn khi khám bác sĩ, đi lấy thuốc cao máu, tiểu đường , cao mỡ, đau nhức khớp xương, … không dưới 1000 USD một tháng.

Nếu vào bệnh viện hay viện dưỡng lăo th́ không dưới 10000 USD một tháng.

Nếu họ ở nhà th́ chính phủ trả tiền con cháu của họ để chăm sóc họ ít nhất 10 USD/giờ, trung b́nh mỗi tháng 1000 USD đến 1500 USD. 5 năm sau nếu họ vào quốc tịch Mỹ th́ mỗi tháng chính phủ Mỹ cấp cho họ tiền già nhân đạo 900 USD (SSI) ở California. Đây không phải tiền hưu Social Security v́ họ đâu có đi làm ngày nào cho Mỹ mà được hưởng lương hưu. Có khi họ than nghèo, nộp đơn xin Housing để được cấp nhà ở miễn phí, thế là chính phủ Mỹ lại è cổ ra trả mỗi tháng ít nhất 1000 USD để thuê nhà cho họ ở.

V́ vậy mà họ hay nói đùa với nhau :”Tôi có một thằng con hiếu thảo lắm, tháng nào nó cũng gửi tiền cho tôi đúng ngày 1 tây mỗi tháng, đi bác sĩ bệnh viện khỏi tốn tiền c̣n tốt hơn là bảo hiểm mua 700 USD một tháng của những người Mỹ đi làm nhiều năm.”. Hỏi con bà là ai mà tốt vậy th́ bà nói :”Là Tổng Thống Obama chứ c̣n ai nữa ?”

Thử hỏi ngân sách nhà nước Mỹ phải nuôi những người này trong ít nhất 20 năm cho đến khi họ qua đời, th́ không thâm thủng, phá sản mới là chuyện lạ !
Điều làm tôi bất nhẫn là những người này năm nào cũng mua vé máy bay về VN đi chơi, thăm thân nhân, áo gấm về làng, khoe khoang và nổ . Nhưng chỉ về được 29 ngày rồi phải lật đật qua Mỹ trở lại, nếu không họ sẽ bị cắt hết trợ cấp. Về VN họ đem theo thuốc cao máu tiểu đường cao mỡ chỉ có 1 tháng nên ở lâu hơn phải mua thuốc ở VN tốn tiền nên họ không muốn chi.

Khi trở qua Mỹ, họ mở miệng ra là nói nhớ Việt Nam, muốn về Việt Nam ở luôn. Họ nói không thích ở Mỹ, không cần ở Mỹ. Con cháu ở Mỹ bảo lănh họ qua Mỹ th́ họ chẳng bao giờ biết nói tiếng cảm ơn, có khi c̣n chửi rủa khi không vừa ư điều ǵ.

Tôi thật là ngao ngán khi phải tiếp xúc với những loại người này. Nước Mỹ không thiếu nợ họ, phải nuôi báo cô những người lúc nào cũng nói không cần ở Mỹ. Điều trớ trêu là 5 năm đầu ở Mỹ họ không được lănh tiền già 900 USD một tháng v́ chưa phải quốc tịch Mỹ. Cho nên sau 5 năm ở Mỹ một cách bất đắc dĩ, họ lại hỏi thăm xin thủ tục thi vào quốc tịch Mỹ dù bản thân không biết một chữ tiếng Anh nào. Họ đi xin giấy bác sĩ chứng nhận họ đau họ bệnh đủ thứ bệnh, kể cả bệnh tâm thần hay quên hay bệnh điếc khó nghe, nên xin bác sĩ chứng giấy bệnh để được miễn thi hay thi dễ một chút và có người Việt Nam thông dịch đi theo !

Tôi muốn nhắc lại một câu mà tôi đă đọc trước đây trên internet :”

Không phải ai muốn qua Mỹ là được. Đó là phước đức mấy đời của ông bà để lại, bạn mới có cơ hội đến Mỹ. Đáng lư ra, bạn nên biết trân quư sự may mắn này, thay v́ bạn tỏ ra bất cần và chán nản. Nếu như nước Mỹ không như ư bạn muốn, th́ bạn cứ việc mua vé máy bay mà quay về lại xứ thiên đường chủ nghĩa của bạn. Bạn không cần phải nói ra, tôi muốn về Việt Nam quá. Hay tôi rất hối hận khi đi Mỹ. Những câu nói này, đă vừa khó nghe, lại vừa chà đạp lên tinh thần yêu mến tự do, dân chủ của đồng hương ở đây. Không thích th́ về, chứ cứ nói hoài mà vẫn ở đây, th́ nhục lắm. Nếu bạn không thấy nhục, chúng tôi thấy nhục dùm cho bạn. “

Tôi đă từng gặp một bà già đă 93 tuổi nhưng móng tay móng chân lúc nào cũng sơn đỏ chót.

Bà là người nhà quê ít học, không giàu có ǵ nhưng lúc nào cũng tỏ ra sang chảnh và đeo ṿng vàng, hột xoàn để khoe của. Bà thích sống bề ngoài và phô trương. Bà thấy ai không có mua nhà, đi xe cũ th́ bà hỏi sao ở Mỹ nhiều năm mà không mua nổi nhà ? Trong khi đó th́ bà ở nhà mobile home ở chung với con cháu mà cứ tưởng là ḿnh ngon lắm. Lúc nào bà cũng tỏ vẻ ta đây là hơn người, không cần ở Mỹ. Năm nào bà cũng kêu con cháu mua vé máy bay cho bà về VN chơi, mua quà cáp đem về, mặc cho con cháu bà nợ credit card, trả nợ mệt nghĩ. Bà đang nộp đơn xin thi quốc tịch Mỹ. Tôi thật mong là bà nên về Việt Nam xứ thiên đường của bà ở luôn v́ bà cũng gần đất xa trời quá rồi.

Tôi hy vọng những người Việt Nam được thân nhân bảo lănh qua Mỹ và đang hưởng trợ cấp y tế, xă hội của chính phủ Mỹ nên có những cư xử biết tri ân và trân trọng những giúp đỡ ân t́nh từ tiền thuế của người dân Mỹ ở đây, trong đó có rất nhiều đồng hương người Mỹ gốc Việt đi làm đóng thuế cho nhà nước để nhà nước chi trả các khoản chi y tế xă hội và trợ cấp tiền nhà mỗi tháng, dù có thể trước đây quí vị chưa bao giờ đi làm đóng thuế cho cho chính phủ Mỹ đồng nào.

Xin đừng nói những lời khó nghe không cần làm cho nhiều người đồng hương thấy ghét. Nếu không thích ở đây th́ xin mua vé máy bay một chiều về lại Việt Nam, đơn giản vậy thôi.

Một người Mỹ gốc Việt, a taxpayer

Holly Ngo

hoathienly19
11-23-2020, 06:51
NỐT THĂNG TRẦM !


Thuở ấy, vào giữa năm 1956, đoạn cuối con phố sát bờ sông về hướng Sơn-Phong, Hội-An vẫn c̣n hoang vu. Trước khi Chùa Sư Nữ được xây lên, th́ cái băi cỏ rộng bát ngát bên phải đường, kéo dài cho tới mé nước, là nơi để cho bọn con nít chúng tôi tụ tập nô đùa. Thời gian này gia đ́nh tôi ở thuê căn nhà sát cạnh băi cỏ mênh mông đó.

Liền vách nhà tôi là nhà thày giáo Như và cô giáo Ngọc. Phong cách vợ chồng nhà này phảng phất nét cao sang, quư phái. Họ trông rất đẹp đôi. Thày Như có lẽ chưa tới ba mươi tuổi, và cô Ngọc cũng chừng hăm lăm, hăm sáu.

Thày Như rất đẹp trai. Dáng dấp thày lúc nào cũng tao nhă, khoan thai. Đặc biệt, thày có cặp mắt sáng lóng lánh và đôi mày ngài hơi xếch. Cô giáo Ngọc mặt trái soan, mũi dọc dừa. Da cô trắng như trứng gà bóc. Cô để tóc dài. Mái tóc cô đẹp mượt mà, mềm mại như mây.

Cặp vợ chồng nhà giáo này có hai đứa con gái, bé Châu năm tuổi và bé Hạnh hai tuổi. Cô Ngọc dạy tiểu học trên Lai-Nghi. Thày Như dạy trung học trong Tam-Kỳ. Cuối tuần thày lại cưỡi chiếc Goebel về Hội-An. Cḥm xóm thương mến vợ chồng thày lắm.

Ngày nghỉ, bọn con nít chúng tôi hay tụ tập nơi hiên nhà này để nghe cô Ngọc ngâm thơ và thày Như đàn hát. Bé Châu, bé Hạnh bu theo tôi như anh ruột. Chúng nó cứ tranh nhau ngồi trên đùi tôi mỗi khi chúng tôi quây quần trước hiên nhà.

Chiều chiều tôi hay dẫn hai đứa bé ra bờ nước bắt cào cào, châu chấu. Tôi hay xếp những cái thuyền bằng giấy cho hai đứa em thả ven sông. Đôi lần vừa thả thuyền xuống nước, gió đă thổi ào ào cuốn chúng ra xa rồi biến mất trên mặt sóng Thu-Bồn. Hai cô bé đứng dương mắt nh́n theo tiếc rẻ.


Sông bắt nguồn từ đỉnh núi Ngọc Linh cao 2598 mét và đổ ra biển Cửa Đại - Ảnh: Sưu tầm


https://mytourcdn.com/upload_images/Image/Quang%20Dia%20Danh/29/ImageView.jpg


Cô Ngọc là dân Huế Công Tằng Tôn Nữ, nên giọng ngâm thơ của cô nghe truyền cảm vô cùng. Cô ngâm cho chúng tôi nghe những bài thơ trữ t́nh xưa. Bài thơ mà cô đắc ư nhứt có lẽ là bài “Màu Thời Gian” của Đoàn Phú Tứ. Tôi được nghe cô ngâm nhiều lần bài này. Rồi tôi thuộc bài thơ này trước ngày bước chân vào Đệ thất.

Khi những ngón tay thày Như lướt trên cần ghi ta, tôi có cảm tưởng cả một giàn nhạc đang ḥa tấu. Tôi ngồi say mê ngây ngất theo tiếng đàn của thày thánh thót solo một đoạn “Thiên Thai” hay “Chiều Về Trên Sông”.

Lâu lâu, thày Như kể truyện cho chúng tôi nghe. Cái giọng Quảng của thày lúc đó sao mà trầm ấm thế ! Đôi mắt thày long lanh. Thày thao thao nói về những chiến công của các vị anh hùng lừng danh thế giới. Và có lúc hứng chí, thày kể luôn cả những trận công đồn, đả viện của Việt-Minh thời chiến tranh Pháp-Việt (1945-1954).

Nhiều lần cô giáo Ngọc phải cau mày ngăn không cho thày quá lời về những đề tài kháng chiến, vào bưng, chống Tây. Lũ nhóc t́ chúng tôi, lúc đó mới mười hai, mười ba tuổi, coi thày Như như thần tượng.

Những năm sau nhà tôi chuyển địa chỉ lên khu Hồ Sen chùa Âm-Bổn, nhưng tôi vẫn thường xuống Sơn-Phong thăm gia đ́nh thày Như.

Hè năm 1960 gia đ́nh thày Như đột ngột bán nhà và dọn đi xa. Theo thời gian, kỷ niệm với gia đ́nh nhà này cũng nhạt nḥa dần trong tâm trí tôi.

Tôi lớn lên, t́nh nguyện vào Trường Vơ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam, rồi chọn binh chủng Biệt Động Quân.

Sau Tết Mậu-Thân, Tiểu đoàn 11 Biệt Động Quân tăng phái cho Task Force South của Sư đoàn 23 Bộ Binh. Chúng tôi tới Blao tham dự hành quân lùng và diệt địch.


https://dongsongcu.files.wordpress.com/2016/07/huy-hieu-bdq.jpg


Một hôm, nghỉ quân, tôi lang thang trong khu xóm Chùa. Nghe nói, xóm Chùa có nhà ông già “Bàn đèn thuốc phiện”. Dân “Bắn khỉ” thường lén lút tụ tập ở đây. H́nh như ông già Lạc, Thượng sĩ Thường Vụ Đại Đội của tôi cũng hay lai văng chốn này ?

Sau đảo chánh 1963, vấn đề cấm thuốc phiện có vẻ không c̣n khắt khe như thời Cụ Diệm. Tôi có cảm tưởng rằng không khí trong con hẻm xóm Chùa này đặc quánh mùi thơm do khói nhựa của nàng Tiên Nâu.

Xóm Chùa có những nét đặc biệt, khác với những khu dinh điền chỉ dành riêng cho dân Bắc-Kỳ Di-Cư như Tân-Bùi, Tân-Hóa, Tân-Thanh, Tân-Phát. Xóm Chùa quy tụ dân tứ xứ đến từ mọi miền.

Ở đây dân cư nói đủ giọng Bắc, Trung, Nam, B́nh-Định, Thừa-Thiên, Quảng-Nam, Châu-Đốc... Ở đây có đủ mọi thành phần tôn giáo, Ḥa-Hảo, Cao-Đài, Tin-Lành, Phật Tử sống trộn lộn, gần gũi, sát cánh nhau. Tôi nghe từ cuối hẻm, vọng lại tiếng ngâm thơ,

“Tóc mây một món, chiếc dao vàng

Ngh́n trùng e lệ phụng quân vương

Trăm năm t́nh cũ ĺa không hận

Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng”

(Màu Thời Gian- Đoàn Phú Tứ)

Cái giọng Huế nữ của ai đó nghe thật là năo nuột. Tôi chợt có ư muốn được nh́n một lần cho biết cái “mày hoa ” của người đang ngâm thơ ra sao? Tôi lần bước tới sát hàng rào căn nhà có cái sân lát gạch, nơi phát ra tiếng ngâm. Tiếng ngâm thơ nghe rơ hơn. Tôi giật ḿnh v́ giọng ai nghe quen như tiếng cô giáo Ngọc ?

- Xin lỗi, trung úy có chuyện chi cần hỏi ai ở đây rứa?

Một người đàn bà trung niên đứng bên rào đánh tiếng, khi thấy tôi đang dáo dác ḍm vào nhà.

Thôi đúng rồi ! Cô giáo Ngọc chứ c̣n ai ? Dù cách xa gần chục năm, dù cô đă cắt mái tóc dài, uốn tóc cao, tôi vẫn nhận ra khuôn mặt trái soan và giọng nói Huế Công Tằng Tôn Nữ ngọt ngào của cô.

- Cô giáo Ngọc! Em đây! Long đây cô.

- Xin lỗi, tôi không biết trung úy là ai...

- Cô ơi ! Nhà em ở sát nhà cô và thày Như hồi cô và thày c̣n ở Sơn-Phong, Hội-An. Em hay sang nhà cô chơi, bế bé Châu, bé Hạnh...

Người đàn bà nh́n thẳng vào mặt tôi, chăm chú quan sát. Mắt bà lóe lên một tia vui mừng. Bà ngập ngừng, giọng run run,

- Trung úy... ừ, em Long đó ư ? Mới đó mà gần mười năm qua. Em đă lớn và thay đổi quá hí ? Em đi lính và làm tới trung úy rồi. Em vô nhà chơi đi !

- Vâng, em làm đại đội trưởng, đang hành quân vùng này. Như vậy năm 1960 thày cô đă dọn nhà vào dạy học ở Blao ? Cô và thày Như dạo này ra sao? Thày có nhà không vậy cô ? Hai em Châu và Hạnh chắc lớn lắm rồi ?

Có lẽ câu nói vừa rồi của tôi đă đánh thức những kỷ niệm xưa cũ trong tâm hồn cô, tôi thấy mắt cô rươm rướm lệ,

- Ngày đó nhà cô đi vội quá, không kịp thông báo cho bà con. Từ ấy cô cũng chưa có dịp về thăm chốn cũ. Cô hết đi dạy rồi em ơi. Cô đang làm thư kư trong ṭa tỉnh. C̣n thày th́ đi làm xa, măi dưới Sa-Đéc, lâu lâu mới về. Con Châu năm nay mười bảy, con Hạnh mười bốn, c̣n đang đi học. Hai đứa chở nhau đi mua gạo chắc cũng sắp về. Em vô nhà đi !

Tôi theo chân cô giáo Ngọc vào nhà. Căn nhà hẹp mái tôn trang trí giản dị. Một pḥng khách, một pḥng ngủ. Pḥng khách có cái bàn thờ tổ tiên, và một cái phản gỗ. Trên tường, bên trái bàn thờ là cái bảng đen, bên phải bàn thờ là cây ghi ta, cây ghi ta của thày Như ngày xưa. Cây đàn bị phủ một lớp bụi mỏng. Nó được treo trên tường như một đồ trang trí. Có lẽ lâu lắm rồi không ai nắn phím đàn...


Thác Dambri - Blao


https://sites.google.com/site/vuoncva5461dulich/_/rsrc/1529544012477/dl-55/Dambri.jpg


Tôi ngồi chưa nóng chỗ th́ chị em bé Châu và bé Hạnh đă cỡi Honda chở nhau về.

Lần chót tôi gặp gia đ́nh thày Như năm 1960 th́ bé Châu mới chín tuổi, bé Hạnh lên sáu. Nay hai em hàng xóm bé tí năm xưa đă thành hai thiếu nữ duyên dáng, trổ mă. Bé Châu nhận ra tôi ngay,

- Anh Long. Có mấy lần em thấy anh đậu xe trước Quán Duyên bên kia đường, em ngờ ngợ, nhưng không dám hỏi. Với lại... con gái vô duyên mới đi hỏi thăm con trai trước...

Hai cô bé lớn lên ở Lâm-Đồng, hàng ngày học hành, giao thiệp với bạn bè đồng trang lứa ở đây, nên giọng nói của hai em không c̣n chút âm hưởng Quảng-Nam, Huế của cha, của mẹ.

Hôm đó tôi ở lại ăn cơm chiều với gia đ́nh cô giáo Ngọc và ngồi chơi tới gần tối mới về chỗ đóng quân. Khi truyện tṛ, tôi được cô giáo cho biết ngày đó thày Như bị người ta tố cáo là có tư tưởng thiên Cộng nên mất việc.

Gia đ́nh phải cấp tốc bán nhà và dời vào Blao. Cô Ngọc nhờ một người bạn học có thân thế với ông tỉnh trưởng giới thiệu vào làm thư kư trong Ṭa Hành Chánh.

Căn nhà mà gia đ́nh cô đang trú ngụ cũng do người bạn cô cho ở nhờ. C̣n thày Như, để dấu tông tích, phải vào Sa-Đéc làm thư kư cho một hăng buôn nông phẩm của một ông chủ người gốc Hoa.

Cô giáo căn dặn tôi mỗi khi hành quân về, nhớ ghé nhà cô ăn cơm, nghỉ ngơi, đừng đi lang bang nhậu nhẹt mà hư thân mất nết. Tôi cũng mừng rằng sau bao năm xa cách, tôi đă gặp lại một gia đ́nh hàng xóm thân quen. Và như thế là, từ nay tôi cứ việc nại cớ phải về nhà bà con, thay v́ đi theo anh Thiếu úy Đại đội phó Đặng Hữu Duyên vào thăm Trường Nông Lâm Súc.

Anh Duyên có cô bạn gái tên là Thuấn đang nội trú trường này. Cứ về tới phố, anh Duyên lại nhờ tôi chở anh ta tới thả trước cửa sổ pḥng của cô Thuấn. Lần nào cũng vậy, anh ấy cứ nấn ná giữ chân tôi lại, để giới thiệu tôi với những cô gái lạ hoắc !

Cô Thuấn có cả chục cô bạn đẹp ngất ngây. Khổ một điều là, cô nào miệng lưỡi cũng tía lia. Tôi vốn là thằng nhát gái. Đứng trước đám đông khác phái, líu líu, lo lo này, tôi hết hồn, chỉ muốn rút dù.


Chùa Linh Quy Pháp Ấn - Blao


https://sites.google.com/site/vuoncva5461dulich/_/rsrc/1529544204338/dl-55/3.jpg


Ngày Thứ Hai tuần sau, [/i][/color][/size][/b]đại đội tôi nhận nhiệm vụ bảo vệ căn cứ hỏa lực cho một pháo đội 105 ly của Hoa-Kỳ và Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 2 /BĐQ /Hành Quân.

Căn cứ này dự trù thiết lập ngay trên khuôn viên nhà máy trà Tứ-Quư. Đồn điền Tứ-Quư đă ngưng hoạt động từ lâu, nhưng dân chúng vẫn lén ra vào khu vực này để thu hoạch trà hàng ngày.

V́ thế chúng tôi không phân biệt được dấu tích để lại trên các đường lô là của Việt-Cộng hay của dân hái trà. Chúng tôi phải rà soát kỹ từng dăy nhà máy, nhà lô, để chắc chắn không đóng quân trên những căn hầm bí mật của địch.

Sau khi hoàn tất ba cái chốt chặn làm tiền đồn xa cho căn cứ, tôi thông báo cho Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn về sự tạm ổn định an ninh để cơ giới tiến vào. Cuộc chuyển quân diễn ra êm ả.

Tôi đặt ban chỉ huy đại đội dưới hiên phía đông của văn pḥng nhà máy. Từ đây tôi có thể quan sát hết khu vực trọng yếu hướng đông nam căn cứ hỏa lực.

Lều bạt của ban điều hành tác xạ Mỹ nằm giữa sân đồn điền.

Lều của Trung Tá Hồ Hữu Dơng, Liên Đoàn Trưởng nằm trong vườn cà phê, ngay sau lưng dàn súng mười sáu khầu 105 ly của pháo đội Hoa-Kỳ.

Ngay từ khi pháo đội dàn quân chưa xong, một máy điện 40kVA đă nổ “b́nh! bịch! b́nh! bịch !” cung ứng điện cho các máy tính to như những chiếc tủ đứng, đầy đèn, xanh, đỏ, tím, vàng, chớp nhóa.

Chiếc máy điện thứ nh́ được đặt sát căn lều của tôi. Trong trường hợp chiếc máy điện thứ nhất bị trở ngại, chiếc máy thứ nh́ sẽ được khởi động để thay thế. Và nếu cái máy chết tiệt này chạy, th́ căn lều của tôi hứng trọn khói thải ra từ cái ống bô to tổ bố của nó !

Tiếng nhạc xập x́nh, vang vang truyền đi trong không gian. Máy radio từ đài tác xạ và từ các ụ súng tranh nhau phát thanh. Các chú lính Mỹ cởi trần, mặt mày hớn hở, mồ hôi nhễ nhại, cần mẫn thiết lập công sự.


https://tachcaphe.com/wp-content/uploads/2016/12/quang-ngai-nam-1967-1968-trong-anh-cua-steve-eckloff-1-hinh-9-1.jpg


Mấy anh lính Biệt Động Quân Việt-Nam của Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 2 sau khi căng lều vơng xong, cũng nhào sang khu pháo binh bắt tay, bá cổ, bá vai, những người bạn Mỹ. Trong sân đồn điền, tiếng nói chuyện của những chiến sĩ Việt-Mỹ líu lo, om x̣m, xí xa, xí xồ :

“Ô Kê ! Sa lem! Năm bờ oăn! Gút ! Gút ! Năm bờ ten! Bét! Bét! Năm bờ oăn thảo giường !”

Nói bằng miệng không thông, đôi bạn đành dùng tay ra dấu. Đi hành quân, và đóng quân chung với Mỹ quả là vui !

Chiều xuống, một chiếc Chinook tới “ hover ” trên sân cỏ giữa khu đóng quân để xịt nước cho quân nhân của pháo đội Mỹ tắm rửa sau một ngày bụi bặm, cực nhọc, vất vả.

Những chú GI cởi truồng tồng ngồng, thay nhau đứng tắm dưới những tia nước phun xuống từ trên trời cao. Khi hai bịch cao su chứa nước treo ṭn ten dưới bụng con tàu đă xẹp lép, chiếc Chinook mới bay đi.

Đêm xuống dần...

Trong lều, khói thuốc chập chờn. Ngoài lều, sương trắng dâng cao. Anh Duyên thủ thỉ :

- Như vậy hết hành quân kỳ này, anh về nghỉ ở nhà bà con. Anh cho tôi mượn chiếc Jeep đi ṿng ṿng. Anh giữ một máy PRC 25. Có chuyện ǵ cần, anh kêu. Năm phút sau, tôi có mặt liền. Được không ?

Tôi chưa kịp trả lời Duyên th́, từ trong núi, hướng đông,

“Cạch!... Cạch!... Cạch! ... Cạch!...”

Tôi vội vàng xỏ đôi chân vào giầy, miệng la lớn :

“ Pháo kích! Pháo kích !”

Tay xách sợi dây ba chạc và tấm bản đồ, tôi nhoài người tụt lẹ xuống hố cá nhân.

Thiếu úy Duyên quơ cái áo giáp chùm lên đầu, rồi nhảy ào xuống hầm cối 60 ly của đại đội.

Binh nhứt Cường và Hạ sĩ Hoàng thủ hai khầu M16 cũng lăn xuống hố sát bên tôi. Tài xế Nguyễn Lác lười biếng không chịu đào hố, giờ này mới quưnh quáng, nhào đại xuống hố của Hạ sĩ Thọ, người nấu cơm cho tôi. Thế là chí chóe.

- Ê ! Cứa thèng ni ! Mi đè lên đầu tau, mần răng tau thấy đường mà bắn hí ?

- Nhờ “chúc” mà! La chi dữ rứa !

Thường vụ Nguyễn Lạc phản ứng nhanh không kém. Ông già vớ cây sắt vuông PSP gơ “ Canh ! Canh !” vào tấm kẻng sắt treo bên khẩu súng cối. Nghe tiếng kẻng báo động, bên phía quân Mỹ và Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 2 BĐQ mới bắt đầu nhốn nháo.

Theo thói quen nghề nghiệp, tay tôi xoay cái địa bàn về hướng phát ra tiếng cối “depart” để đo hướng súng.

Óc tôi đếm nhẩm từ lúc nghe tiếng “ Cạch ” cho tới khi nghe tiếng “Oành” để đo tầm xa. Thế là tôi có thể ước tính ra gần chính xác tọa độ đặt súng của địch .

“ Xè ! Xè ! Xè ! ....Oành ! Oành ! Oành !”

Tôi đoán chắc rằng Việt-Cộng đang pháo kích chúng tôi bằng cối 82. Điểm đặt súng cách chúng tôi chừng 2 cây số.

Một khẩu hướng 1700 ly giác, khẩu kia hướng 1900 ly giác. Hàng chục quả đạn xé gió vèo vèo bay tới. Mái ngói của căn nhà lầu lănh bốn năm trái. Gạch ngói rơi ào ào.

Trên pḥng tuyến và trong sân đồn điền đă có tiếng rên la của người bị thương. Lúc này không ai dám đi tiếp cứu ai cả. Ai cũng lo tránh né đạn, núp trong hầm.


https://2.bp.blogspot.com/-npjLRVvVvLo/WM_GVxLBw-I/AAAAAAAAFzo/hCeVaxFttUQUe6mzfdaMMp2OWZ-4OxjpQCLcB/s400/coi%2B82-1.png


Tôi biết khẩu cối 60 ly của tôi không phải là địch thủ của hai khẩu 82 ly Việt-Cộng, nên tôi nhoài người , với tay lấy cái điện thoại dă chiến gọi cho Ban 3 Liên Đoàn xin phản pháo. Dây điện thoại bị mảnh 82 cắt đứt, chuông điện thoại không reo !

“Xè!... Oành!.. Xè!... Oành!... Xè!... Oành!...”

Một trái cối rớt ngay giữa sân, xé một miếng lều của đài tác xạ. Qua lỗ rách, ánh đèn chiếu ra lấp lóe. Tôi sực nhớ :

“ Súng phản pháo ở ngay đây ! Xin đâu cho xa ?”

Tôi cầm cái bản đồ, chạy ào vào lều tác xạ. Căn lều sáng choang dưới ánh điện. Toán trực ba người của Hoa-Kỳ nón sắt, áo giáp dềnh dàng, đang núp trong hầm truyền tin của pháo đội dựng bằng bao cát giữa lều.

Tôi lật tấm bản đồ, chỉ cho anh sĩ quan trưởng toán hai vị trí pháo địch, yêu cầu anh ta cho phản pháo tối đa, càng nhanh càng tốt. Tôi ló đầu ra cửa hầm la to :

“ Coi chừng tiền pháo hậu xung Duyên ơi !”

Thiếu úy Duyên một tay cầm đèn bấm, tay kia kéo ông Thượng sĩ Lạc, chạy ra pḥng tuyến ngoài của đại đội.

Trận pháo kích diễn ra lâu chừng năm, sáu phút là chấm dứt. Tôi và Hạ sĩ nhứt Đức, y tá đại đội, đi quanh pḥng tuyến, kiểm điểm tổn thất của quân bạn.

Trong khi đó pháo đội Mỹ khạc đạn liên tu bất tận, có lẽ cả trăm viên 105 ly đă tưới lên vùng nghi ngờ có hai khẩu pháo của quân thù.

Đại đội tôi có một người chết và bốn người bị thương. Pháo binh Mỹ có hai anh lính bị thương. Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 2 BĐQ vô sự.

Một chiếc GMC kéo súng của Mỹ bị bể đầu máy. Hai khẩu đại bác bị xẹp lốp. Chiếc Jeep của tôi bị một mảnh cối đục lủng thùng xăng.

Trực thăng tản thương Hoa-Kỳ được gọi tới cấp kỳ. Hai chiếc Gunships tưới đạn vô tội vạ sát ṿng đai căn cứ, để bảo vệ cho chiếc máy bay tải thương. Tôi phải cho lệnh ba cái tiền đồn chớp đèn để khỏi bị trực thăng vơ trang bắn lầm.

Sau khi tải thương xong, căn cứ hỏa lực Tứ-Quư nằm im thin thít. Đèn đuốc tắt ngấm. Hết tiếng nhạc radio xập x́nh.

Duy nhất chỉ c̣n cái máy phát điện 40KWA là dám “b́nh! bịch! b́nh! bịch!” suốt canh khuya.


https://3.bp.blogspot.com/-RoUuowrndMM/USrbMVjwPOI/AAAAAAAANPI/pjXfewihpyU/s1600/va004094.jpg H́nh minh họa


Năm giờ sáng Trung Tá Dơng gọi tôi lên gặp mặt và ra lệnh.

- Sáng mai Long cho mở đường ngược ra quốc lộ để Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn và Pháo Binh rút về Đại-Nga.

Suốt đêm, tôi cứ ấm ức v́ cú thua lỗ của đại đội ḿnh, nên tôi đề nghị với người chỉ huy :

- Xin Trung tá cho tôi ở lại trong này hai ngày, hai đêm. Tôi muốn gỡ lại món nợ đêm qua.

Trung tá Dơng ngẫm nghĩ một lát rồi gật gù :

- Không ai bắt em làm việc này. Nhưng nếu em muốn, th́ tôi sẽ làm công điện hợp thức hóa. Nhớ là chỉ hai ngày thôi ! Và phải thật cẩn thận đó nghe !

Trưa hôm đó việc rút quân của Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 2/BĐQ và Pháo Binh hoàn tất.

Tôi ra lệnh cho đại đội chuẩn bị sẵn sàng hai ngày cơm sấy và nước uống.

Tuyệt đối cấm khói lửa và hút thuốc trong suốt bốn mươi tám giờ sắp tới. Quân nhân đơn vị tôi đă rất quen với những t́nh trạng căng thẳng như thế này từ khi tôi về chỉ huy họ. Lệnh tôi đă ban ra, th́ mọi người răm rắp nghiêm chỉnh thi hành ngay.

Tôi bung các toán tuần tiễu ra các ngả đường ǵn giữ an ninh để tôi nghiên cứu thực địa, thiết trí một cuộc phục kích.

Hướng nam của nhà máy có một lô trà với h́nh dáng mũi tàu. Bố quân quanh lô trà này, có thể kiểm soát được ba con đường tiến sát từ các hướng đông, đông nam, và nam.


https://cdn.vntrip.vn/cam-nang/wp-content/uploads/2018/06/nong-truong-xanh-mat-vntrip-e1530174491208.jpg


Tôi phân công :

- Trung đội 3 của Chuẩn úy Đinh Quang Biện và khẩu đội đại liên M 60 của Hạ sĩ Nguyễn Bổng sẽ đảm trách công tác phục kích.


https://leminhdao.files.wordpress.com/2011/10/m60_02.jpg


- Ban chỉ huy đại đội cùng hai Trung đội 1 và 2 sẽ đóng quân cách khu phục kích hai trăm mét về hướng bắc để tiện di động đánh bọc trái, hoặc phải cho Trung đội 3.

Tôi và khẩu đội đại liên M 60 của Hạ sĩ Nguyễn Nhứt sẽ đi với thành phần tiếp ứng là Trung đội 1 của Trung sĩ 1 Ngọ.

- Thiếu úy Duyên, Thượng sĩ Lạc và khẩu đội cối 60 ly ở với thành phần trừ bị là Trung đội 2 của Thượng sĩ Em.


https://leminhdao.files.wordpress.com/2011/10/m60_09.jpg


Tất cả các máy truyền tin sẽ tuyệt đối giữ yên lặng vô tuyến cho tới khi nào có tiếng súng nổ.

Một buổi chiều và một đêm yên tĩnh trôi qua.

Đúng mười giờ sáng hôm sau... súng nổ ! Súng nổ ṛn ră hướng Trung đội 3.

Tôi cảm thấy yên tâm, khi nghe rơ ràng tiếng súng của quân ta đang áp đảo tiếng súng của quân địch.

Chuẩn úy Biện báo cáo :

- Tŕnh Thái Sơn ! Có khoảng mười thằng từ trong rừng đi ra. Chúng nó chạy về hướng bên phải.

- Nhận 5 ! Giữ vững vị trí . Tôi và thằng 1 sẽ lên ngay.

Lập tức, Trung đội 1 cùng khẩu đội đại liên M 60 dàn hàng ngang, vừa bắn vừa tiến về hướng chính nam. Thời gian này đạn dược thật là dư dả, dồi dào.

Tôi thấy rằng, dùng hỏa lực tối đa để áp đảo quân địch, tiết kiệm xương máu cho quân bạn, cũng là một điều hay. V́ thế, mỗi khi chạm trận, tôi cho phép anh em tác xạ thả giàn.

Tới sát con lạch hướng nam, chúng tôi ngừng quân, bố trí và lục soát kết quả. Kết quả thật nghèo nàn, không thấy xác thằng Việt-Cộng nào. Chiến lợi phẩm chỉ là bốn cái mũ lưỡi trai Trung-Cộng rơi trên luống trà và hai băng đạn AK bắn dở dang.

Tôi cho Trung đội 3 dàn hàng ngang lục soát thẳng hướng chính đông, tức là xạ trường chính của cuộc phục kích. Chúng tôi t́m được hai xác địch và hai khẩu AK 47 trên đường phân lô.

Hai tên Việt-Cộng này nằm chết cách tuyến phục kích chừng năm thước. Cách hai cái xác đó không xa là một cái cặp da màu đen, với dây đeo ngang hông, thường dùng cho các cán bộ cấp cao. Cái dây đeo cặp bị đạn bắn đứt, nhưng người đeo cặp đă chạy thoát.


https://gamek.mediacdn.vn/133514250583805952/2020/6/24/20120209ak01a8b90-1592966381945585742481.jpg


Tôi ra lệnh lục soát kỹ sâu vào hai bên b́a rừng, dọc theo con đường xe be đất đỏ, dẫn về hướng rừng xanh hướng đông.

Đi xa chừng hai trăm thước, chúng tôi phát giác một kho gạo khổng lồ, cao ngất, toàn là loại bao chỉ xanh 100 kg. Kho gạo nằm dưới tàn cây cao, và được bao bọc che chở bằng những tấm vải nhựa dày màu xanh tránh gió mưa.

Tôi báo cáo tin tức này cho Trung tá Liên Đoàn Trưởng. Trung tá Dơng rất mừng. Ông ra lệnh cho tôi án binh chờ phương tiện chuyên chở tới đem chiến lợi phẩm về Tiểu-Khu. Xế trưa, sáu chiếc xe be nối đuôi nhau vào chuyển vận hết kho gạo ra tỉnh, và tôi được lệnh rút quân ra quốc lộ.

Ra tới đường, trong khi chờ xe đưa về Tân-Hóa, tôi mới mở cái cặp da chiến lợi phẩm ra xem có tài liệu ǵ quan trọng không.

Cái cặp da chứa một quyển sổ ghi tên các cán binh trực thuộc tỉnh đội Lâm-Đồng của Việt-Cộng.

Một sổ tay ghi chi thu hàng tháng của tỉnh đội. Một sổ công tác cá nhân. Một cái bấm móng tay. Một cái lược nhựa. Đặc biệt trong ruột quyển sổ công tác có một tấm ảnh cỡ 4x6 đă cũ, ép nhựa, tránh ẩm ướt.

Tôi ṭ ṃ ngắm nghía cái ảnh. Th́ ra đó là một cái ảnh gia đ́nh. Một gia đ́nh hai vợ chồng trẻ. Người vợ bế đứa con chừng tám tháng tuổi, có lẽ là con gái. H́nh người đàn bà bị ố vàng, nh́n không rơ mặt. Mặt người đàn ông và đứa bé th́ không bị lem.

Lật mặt sau tấm ảnh, tôi là dân Hội-An, nên hơi giật ḿnh, khi thấy sau lưng tấm ảnh có ghi hàng chữ bằng bút “rông” mực tím, “Fai-Foo 1952”. Như vậy tấm ảnh gia đ́nh này phải được chụp năm 1952 ở Hội-An (Fai-Foo).

Chiều hôm đó đại đội tôi được đưa về băi cỏ phía sau lưng cư xá của nhân công hái trà ở xă Tân-Hóa. Chúng tôi tiếp tục giữ căn cứ hỏa lực và làm trừ bị cho Liên Đoàn 2 BĐQ.

Khi giao nộp tài liệu tịch thu được cho Ban 2 Liên Đoàn, tôi đă giữ lại cái ảnh của gia đ́nh vợ chồng người Hội-An để làm kỷ niệm.

Tối hôm ấy, Thiếu úy Duyên và Chuẩn úy Biện chui vào lều của tôi để uống bia và tán gẫu. Anh Biện chợt hỏi tô i:

- Này Trung úy! Trung úy có tin con người ta có số mạng hay không?

- Làm sao biết được? Có lúc tin, mà có lúc cũng không.

Biện trầm ngâm :

- Chắc là con người ta có số ông ạ! Sáng nay tôi nh́n tận mặt thằng cán bộ đeo cái cặp đi giữa hai thằng bộ đội hộ tống. Tôi thấy rơ cả bộ lông mày xếch ngược và đôi mắt sáng quắc của nó đảo qua, đảo lại.

Tôi đă chờ cho ba tên đi đầu c̣n cách bốn năm thước mới khai hỏa. Hai mươi lăm khẩu M16 và một khẩu M 60 bắn như mưa mà chỉ có hai thằng chết. Mà cái thằng đứng gần nhứt lại không chết, th́ có phải là con người ta có số không ?

Tôi rút cái ảnh chiến lợi phẩm ra, đưa cho Biện :

- Có phải thằng cán bộ đeo cặp là người này không?

Anh trung đội trưởng nheo mắt ngắm tấm ảnh :

- Giống lắm ! Nhưng người trong ảnh trẻ hơn nhiều .

Hôm sau tôi căn dặn Thiếu úy Duyên ở nhà trông coi đại đội để tôi về phố hớt tóc và ghé hậu trạm kư sổ ứng tiền ăn tháng tới. Trước khi trở về vị trí đóng quân, tôi tạt vào thăm gia đ́nh cô giáo Ngọc vài phút, nhân tiện cho cô xem cái ảnh của người Hội-An.

Tôi tới xóm Chùa vào lúc cô giáo về nhà nghỉ trưa. Bé Châu và bé Hạnh đi vắng.

Thấy tôi, cô ân cần :

- Em mới về hả ? Tiện bữa, ngồi ăn cơm với cô nhé. Cơm rau mắm thôi.

- Cám ơn cô, em ăn cơm rồi. Em ghé thăm cô vài phút rồi đi liền.

Tôi lục túi, lấy tấm ảnh đưa cho cô giáo :

- Cô xem có quen ai trong ảnh này không?

Cô giáo thấy tôi từ chối ăn cơm, cô có vẻ không vui :

- Cô ít giao thiệp lắm. Cô không có nhiều bạn. Chắc cô không biết ai mô !

Cô hờ hững không thèm đưa tay nhận tấm ảnh. Tôi ch́a cái ảnh trước mặt cô. Cô miễn cưỡng nh́n cái ảnh. Mắt cô vụt sáng lên ngạc nhiên. Cô giáo giựt tấm ảnh trên tay tôi, giọng cô có vẻ mất b́nh tĩnh :

- Em... em... nhặt được tấm h́nh ni ở mô rứa? Tấm h́nh ni anh Như giữ. Mần răng nó tới tay em được?

Rồi h́nh như cô sực nhớ ra điều ǵ đó, cô b́nh tĩnh, ôn tồn trở lại :

- Ừ cô nhớ ra rồi, trước khi rời Hội-An, anh Như đă đưa cái h́nh ni cho bên nội. Chắc người bên nội đưa nó cho em?

Quả thực khi đưa cái ảnh cho cô giáo Ngọc xem, tôi chỉ có ư nghĩ là cô ở Hội-An từ trước ngày Hiệp Định Genève kư kết, có thể cô quen biết gia đ́nh người trong ảnh. Tôi đâu ngờ diễn tiến sự việc lại xoay qua một chiều hướng không lường trước.

Chẳng biết xử trí ra sao, tôi đành nói đại :

- Hôm qua có anh lính nhặt được cái ảnh này trong sở trà Tứ-Quư. Em nghi là của gia đ́nh cô nên mang về cho cô.

Không dè, nghe tôi nói thế, cô giáo cuống cuồng,

- Em nói răng ? Em nhặt được nó trong Tứ-Quư ư ? Có thật không rứa ?

- Em nói thật mà . Nhưng v́ cớ ǵ mà cô lo sợ như thế ?

- À... không... không, cô có lo sợ chi mô em...

Vừa khi đó th́ có tiếng xe Honda rồ ga lên dốc. Chắc bé Châu, bé Hạnh đă về.

Cô giáo nh́n tôi khẩn khoản :

- Em ơi ! Em thương cô th́ đừng tiết lộ cho ai biết chuyện tấm h́nh ni, kể cả hai đứa nhỏ. Cô van em đó ! Em ơi...

- Vâng, em sẽ không nói ǵ về cái ảnh này nữa. Thôi em đi nhé. Hôm nào rảnh, em sẽ về thăm cô.

Tôi ra cửa đúng lúc hai cô nữ sinh Trung Học Bảo-Lộc vào tới sân. Hai đứa em tíu tít :

- Anh Long mới về? Ủa mà sao anh lại đi liền ? Bộ anh chê cơm nhà nghèo không ở lại ăn với chúng em hay sao?

- Anh phải đi ngay. Anh đi hành quân.

Sáng hôm sau Trung tá Dơng cho người xuống mời tôi lên lều của ông để uống cà phê và ăn xôi đậu phọng. Ông nói,

- Chú tịch thu được kho gạo lớn quá. Ông Tướng Ân vừa gọi máy hứa, sau khi kết thúc chiến dịch sẽ tưởng thưởng xứng đáng cho đại đội của chú. Ông muốn khích lệ tinh thần của anh em, nên trưa nay, nhân dịp đi gắn huy chương cho Địa Phương Quân Tiểu-Khu Tuyên-Đức, trực thăng của ổng sẽ ghé đây bốc chú và một anh binh sĩ xuất sắc nhất đại đội về Đà-Lạt nhận huy chương trước.

C̣n tiếp ,

hoathienly19
11-25-2020, 08:01
Bốn mươi ba năm sau, tháng Ba năm 2011, ông cụ Nguyễn Bổng, sáu mươi bảy tuổi, cựu Biệt Động Quân xạ thủ đại liên M 60, hiện đang sống ở Denver, tiểu bang Colorado Hoa-Kỳ, qua điện thoại, với giọng nói B́nh-Định rặt, nửa vui sướng, nửa bùi ngùi, nhắc lại kỷ niệm này .

“Ngày đó chỉ có tui với Trung úy được bốc về sân vận động Đà-Lạt để cho ông Tướng Ân gắn huy chương. Hănh diện quá chừng chừng…”

Sau chiến tranh cả mấy chục năm, khi gặp lại, đồng đội cũ của tôi ở Đại đội 1/11BĐQ vẫn kêu tôi là trung úy :

“Trung úy ơi ! Trung úy dạo này có mạnh khỏe không ?…”

Sau khi Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 2 di chuyển lên Tùng-Nghĩa th́ đại đội tôi cũng lên vùng núi Voi và Đơn-Dương để hành quân diều hâu. Cho tới cả tháng sau tôi mới có dịp trở về ứng chiến ở sân bay Con Hinh Da, Bảo-Lộc.

Bố quân xong, tôi lên xe trực chỉ xóm Chùa.

Tới nhà cô giáo Ngọc, tôi thấy căn nhà vắng lặng. Ông già “Bàn đèn thuốc phiện” ló đầu ra khỏi cửa gọi :

– Ông Trung úy ơi! Có người gửi thư nhờ tôi đưa dùm cho ông đây.

Lá thư cô giáo viết cho tôi chỉ vỏn vẹn có mấy gịng, không ghi ngày tháng, không có tên người nhận, và người viết cũng không kư tên .

“Cô cắn cỏ ngậm vành ghi tạc ơn em. Mong em giữ kín trong ḷng đừng cho ai biết rằng em đă quen biết gia đ́nh cô.

Hăy hứa với cô rằng em sẽ quên tất tận cả những ǵ em biết về gia đ́nh này nhé em! Cám ơn em và chúc em vạn phần may mắn. Vĩnh biệt ! Cô của em.”

Căn nhà tuy khóa cửa chính, nhưng cửa sổ vẫn mở. Tôi nh́n rơ vật dụng trong nhà vẫn y nguyên. Kể cả cây ghi ta vẫn c̣n trên tường. Như thế tôi hiểu rằng lúc dọn nhà, chắc mẹ con cô giáo đă vội vàng, hấp tấp lắm.

Tôi thẫn thờ bước chân xuống đồi. Tôi và gia đ́nh cô giáo Ngọc xa nhau tám năm. Vừa mới gặp lại hai ngày, nay đă chia ly lần nữa.

Trở về phi trường, tôi nói với anh Duyên rằng, anh ấy có thể lấy xe đi đâu th́ đi, đi tới bao giờ về cũng được, đừng lo lắng ǵ cả.


https://imagizer.imageshack.com/v2/347x480q90/r/921/ABIdu3.jpg

Nằm trong lều, vắt tay lên trán, tôi ôn lại những chuyện xảy ra trong thời gian đă qua. Chuyện rơ như ban ngày, sao tôi không nghĩ ra nhỉ ?

Năm 1960 là năm bọn “Mặt Trận Dân-Tộc Giải-Phóng Miền Nam” ra đời. Cuối hè năm đó, học sinh Hội-An thiếu ǵ người bỏ học, vào bưng ?

Dịp này, thày Như đem gia đ́nh vào Blao, nơi xứ lạ, để không ai biết gốc gác lai lịch gia đ́nh thày. Không phải lo lắng chuyện nhà, thày Như có thể yên tâm đi theo ư nguyện của ḿnh. Chắc cô giáo Ngọc biết chồng cô đang hoạt động trong địa phận tỉnh Lâm-Đồng này, nên bất ngờ thấy tấm ảnh cũ, cô lo sợ, dấu diếm quanh co.

Cô nói trớ ra rằng nó đă được chồng cô giao cho người bên nội giữ, nhưng cô quên trước đó vài ngày cô đă kể cho tôi chuyện chồng cô là người cuối cùng của ḍng họ Vơ ở thôn Trà-Đ́nh 2, Hương-An, Thăng-B́nh, Quảng-Nam.

Như vậy, tên cán bộ Việt-Cộng bị đại đội tôi giết hụt ở Tứ-Quư không ai khác hơn là thày Như ! V́ sợ tôi tiết lộ việc này cho con của cô biết, và sợ bị kết tội liên lụy với Việt-Cộng, nên cô Ngọc vội vàng dẫn con ra đi.

Một thời gian sau, v́ bận bịu công việc, tôi cũng không bận tâm thêm chuyện nhà thày Như, cô Ngọc.

Đầu tháng Chín năm đó, Chuẩn tướng Trương Quang Ân, Tư Lệnh Sư đoàn 23 Bộ Binh tử nạn. Giữa Tháng Mười, đơn vị tôi về ở hẳn Pleiku, không c̣n trở lại Blao, Đà-Lạt nữa.


https://1.bp.blogspot.com/-W8k9jufSG8g/WszB0bP1G9I/AAAAAAAA-ck/eX7Xjz9SM-g9Hs5Z0QqeM88yAPyqLElIwCLcBGAs/s640/1%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba% 2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2BCum%2BTB %2B1.jpg


Năm 1975 thua trận, tôi đi tù.

Từ khi khôn lớn, vào đời, tôi chỉ chọn có một nghề, đó là nghề làm lính. Suốt thời gian 12 năm làm lính, tôi quanh quẩn sống trong rừng. Vốn liếng tay nghề của tôi chỉ có rừng.

Sau 13 năm tù “cải tạo”, được tha, tôi lạc loài trong thành phố Sài-G̣n. Tôi đă xoay xở nửa năm, mà không t́m ra cách ǵ để sống. Cuối cùng, tôi đành t́m đường lên núi kiếm ăn.

Tôi quyết định lên Đà-Lạt, vào núi Lap Bé Nord đào thiếc. Phong trào đào vàng, đào thiếc đang rầm rộ ở đấy.

Thế là, đúng hai mươi năm sau ngày đại đội tôi từ giă Blao, nay hoàn cảnh bắt buộc, tôi đành miễn cưỡng quay về chốn xưa.

Chiếc xe đ̣ chở tôi rời Sài-G̣n từ sáng tinh mơ. Xế chiều xe mới tới Đà-Lạt. Tôi lên Đà-Lạt, tá túc tại nhà đứa cháu gái gọi tôi bằng cậu. Nhà cháu tôi nằm bên phường 8, cách Nguyên-Tử-Lực Cuộc một cái thung lũng. Tôi ở trên dốc, dưới dốc có một ông trung sĩ cảnh sát chế độ cũ đang làm nghề đào thiếc. Tôi mon men tới nhà ông ta để làm quen, và xin tháp tùng kiếm ăn.

Khi gặp ông cựu cảnh sát Việt-Nam Cộng-Ḥa, tôi nói chuyện với ông ta bằng thứ tiếng Bắc một trăm phần trăm Hải-Dương. Ông ta tưởng tôi từ ngoài Bắc mới vào nên không thắc mắc ǵ nhiều, vui vẻ cho tôi theo ông vào vùng kiếm “xái”.

Ông cảnh sát này mới lấy vợ kế. Vợ cả của ông ta vừa chết. Vợ kế của ông chính là người em dâu của ông ta. Em trai ông cảnh sát là trung úy chế độ cũ, đă chết trong trại cải tạo. Ông cảnh sát không phải đi tù. Ông thương em dâu góa bụa, thương đàn cháu côi cút, nên vợ ông vừa chết là ông lấy bà em dâu làm vợ luôn.

Sau một tuần lễ cộng tác với ông cảnh sát và thằng cháu, cũng là con riêng của vợ ông, chúng tôi bị “mo”. ( “Mo” tiếng Pháp là “mort”, có nghĩa là chết, là thất bại.)


WGytRgUy_Ow


Tôi đành giă từ Đà-Lạt tụt xuống Đức-Trọng, ṃ vào K3 đào vàng.

H́ hục gần mười ngày, “mo” vẫn hoàn “mo”, đến nỗi tôi không c̣n tiền để đi một chuyến xe thồ về nhà người chị họ ở Đức-Trọng. Có một điều đáng nói là, dân đi đào vàng ở đây, nếu chịu giao thiệp rộng một chút, rất khó bị chết đói. Ngày nào cũng có những đám tiệc cúng tổ.

Cứ xong một giếng, thu hoạch vàng xong, các toán đều trích ra một số vàng để đăi đằng trước khi chia phần. Tôi ở đây mới có hơn tuần lễ mà bà con đă nhẵn mặt, mời ăn nhậu tưng bừng, không ngày nào bị đói.

Rồi một sớm mai có chiếc xe thồ bị tụt xuống hố. Tôi nhanh nhảu giúp anh chủ xe một tay, kéo chiếc xe lên. Anh ta và tôi đều là dân Bắc-Kỳ Di Cư. Hỏi ra, anh ấy ở cách nhà bà chị tôi có vài khu vườn. Thế là anh chàng đồng ư chở tôi về tới nhà bà chị tôi rồi mới lấy tiền.

Tôi không phải là người khách độc nhất của một chuyến thồ. Tôi phải chờ hai người khách nữa cho đủ số ba người cho một cuốc xe. Trong thời gian chờ khách, tôi và anh chủ xe ngồi tán gẫu.

Hóa ra anh ta đang học năm cuối cùng Quốc-Gia-Hành-Chánh th́ Việt-Nam Cộng-Ḥa sụp đổ. Tới lúc bấy giờ tôi mới thổ lộ cho anh ta biết tôi là một cựu thiếu tá tiểu đoàn trưởng Biệt Động Quân Việt-Nam Cộng-Ḥa vừa mới ở tù ra. Nghe vậy, anh ta kéo tay tôi, bắt tôi leo lên xe, không thèm chờ rước thêm khách nữa. Anh ta sẵn sàng chở giúp tôi về nhà không lấy tiền !


https://3.bp.blogspot.com/-35JobGELH7Y/Wwa6wXhhuHI/AAAAAAAAPFU/dgFdCVNaiTkAO6-A0YmE78rSlIP9fb7nQCLcBGAs/s640/Old_Dalat74.jpg


Chúng tôi vừa ra khỏi K3 chừng hai cây số th́ nghe phía trước mặt, trong rừng bên đường có tiếng kêu la, “Lạy hai anh tha cho em…”

Chú Lượng, chủ xe thồ ngừng xe quan sát. Trong rừng thưa bên đường, hai thanh niên mặc đồ bộ đội đang dùng hai khúc cây phang cật lực vào đầu một anh xe thồ để cướp cái Kamaz Liên-Xô.

Bị hai khúc củi đập tới tấp lên đầu, lên vai, nhưng anh chàng xe thồ vẫn không chịu buông cái xe ra. Buông tay ra, là mất xe ! Thà chết, chứ không bỏ của!

Vừa van lạy, vừa chửi rủa, anh xe thồ cứ lăn vào ôm cứng lấy cái Kamaz, dai như đỉa.

Có lẽ nạn nhân đă thấy chúng tôi, nên anh ta la lớn,

– Bớ người ta! Ăn cướp! Ăn cướp giết tôi cướp xe! Cứu tôi với bà con ơí!

Chú Lượng nói nhỏ vào tai tôi :

– Tụi bộ đội nó chơi bạo lắm. Ḿnh can thiệp vào, nó chơi ḿnh luôn. Hay là ta quay lại gọi thêm người phụ giúp. Anh tính sao?

Tôi nghĩ, nếu quay trở lại, chưa chắc đă có ai vui ḷng đi theo giúp. Mà dù cho có người đi theo, th́ khi tới nơi, anh chủ xe thồ có lẽ đă chết mất rồi !

Chợt nghĩ ra một kế, tôi vừa nháy mắt ra dấu cho Lượng, vừa hét lớn,

– Đưa khẩu súng cho tao! Tao bắn vỡ óc hai thằng ăn cướp này!

Lượng làm bộ chần chừ. Rồi anh cũng gân cổ nói cho to

– Anh bắn th́ anh chịu trách nhiệm nghe! Tôi chỉ làm chứng thôi đó!

Tôi hét lớn

– Á!… Á!… Hai thằng chó này tới số rồi! Chết nghe con! Á!… Á!…

Tôi và Lượng vừa quát tháo, vừa từ từ bước tới. Chú Lượng làm bộ lục lọi cái xách tay chú đeo ngang hông để t́m vũ khí.

Hai thằng ăn cướp thấy hai chúng tôi hùng dũng quá, chúng nó sợ bị bắn chết, nên vứt hai khúc củi, ù té chạy bán sống, bán chết xuống chân đồi.

Anh chủ xe bị cướp quỳ xuống đất vái lấy vái để

– Em xin quỳ lạy tạ ơn cứu mạng của hai ông. Suốt đời em ghi ḷng tạc dạ công lao của hai ông.

Chú Lượng thực tế hơn :

– Ê bồ ! Ơn với oán cái con khỉ khô. Một chầu nhậu là xong hết.

Sau đó hai chiếc xe thồ phóng vèo vèo trực chỉ hướng chợ Đức-Trọng.

Tới chợ, anh Nam, cựu nghĩa quân, chủ xe bị cướp, trịnh trọng mời tôi và Lượng vào quán ăn của một bà chủ người Tàu.

Chú Nam kêu không biết bao nhiêu món, gồm đủ vịt, gà, ḅ, heo, tôm, cá để thiết đăi chúng tôi.


Thác Pongour- Đức Trọng- Lâm Đồng


https://tinbds.com/images/place/0/ft.jpg


Trong lúc tôi đang ngất ngưởng, ngà ngà, th́ ngoài sân chợ bỗng nhốn nháo hẳn lên, không biết v́ lư do ǵ. Thấy lạ, tôi bước ra cửa đảo mắt nh́n.

Một chiếc xe con của bộ đội từ hướng Liên-Khương chạy xuống đậu sát hàng hiên một tiệm trà. Nơi đó, một người hành khất già đang nằm ngủ, ngáy kḥ kḥ.

Một thượng úy công an và một công an viên bước xuống. Viên thượng úy cười h́ h́ :

“ Thôi về đi thủ trưởng !”

Hai tay công an áp vào khiêng ông cụ lên, đặt trên ghế sau. Họ cũng cuốn gói đồ lề của ông cụ gồm một cái mũ lưỡi trai, một cái nón mê, và một cây dao quắm bỏ vào thùng xe, rồi trở đầu xe chạy đi.

Bà chủ tiệm trà chơ miệng ra cửa, nhiếc một câu :

– Giầu bỏ bạn, sang bỏ vợ. Cho đáng đời cái đồ mê gái !

Tôi trở lại bàn th́ chú Lượng lắc đầu :

– Ôi! Để ư làm ǵ tới cái thằng khùng này. Thứ ǵ ngu như chó! Quyền cao chức trọng không muốn, muốn đi ăn xin.

– Chú biết lư lịch của ông ăn mày này à ?

– Ở đây ai mà không biết tay này ? Ngày xưa y là con hùm xám, hét ra lửa đấy. Nhưng y ỷ thần, ỷ thế, hăm hiếp một cô nhân viên dưới quyền, nên mất chức . Đến khi vợ lăo chết, lăo thành khùng luôn.

– Công an vừa hốt ông ta đi, chắc là nhốt vào nhà thương điên ?

– Bắt với nhốt cái con tiều ! Cả chục năm nay tên đó cứ lang bang hết chợ Đức Trọng, đến chợ Tùng Nghĩa, chửi bới, khóc lóc om x̣m, rồi lăn quay ra ngáy. Hôm nào hên, có mấy thằng học tṛ cũ hốt về nhà cho ăn ngủ, c̣n không th́ cứ ngủ bờ, ngủ bụi thôi .

– Chắc cái xe công an vừa rồi là của người quen ông cụ ?

– Tay này ngày xưa đi theo hầu, làm đồ đệ của lăo già đó . Nay anh ta lên tới thượng úy đồn trưởng.

– Thế th́ gia đ́nh vợ con ông ta ở đâu ?

– Nhà lăo ở trên Phil-Nôm, nhưng từ khi vợ lăo chết, lăo không bén mảng về nhà nữa .

– Chú Lượng có vẻ rành gốc gác ông điên này quá ?

– Thực ra, em cũng chỉ nghe đồn thôi.

Anh Nam châm thêm rượu đế vào ly của tôi rồi hối :

– Nhậu tiếp đi đại ca ! Chuyện thằng già dịch ấy, nói tới mai chưa hết. Ai đời ? Con gái người ta mới mười bảy, mười tám mà lăo dám đè ra hiếp công khai trong văn pḥng. Gớm thiệt!

– Chắc chú Nam rành về ông già này hơn chú Lượng?

– Th́ có ai tận mắt chứng kiến những ǵ lăo ác ôn này gây ra đâu ? Gia đ́nh lăo ở đây từ cuối 1975, nhưng lăo làm việc trên Tỉnh Đội, lâu lâu mới ghé về nhà.

Em nghe người ta nói lại, thời chống Mỹ, lăo là Huyện Đội Trưởng hay Tỉnh Đội Trưởng ǵ đó dưới Blao, công lao ghê gớm lắm. Sau khi tiếp thu Đà-Lạt, lăo làm lớn lắm. Đùng một cái, cuối 1977 lăo bị mất chức về nằm bẹp trong nhà. Sau đó vợ lăo tự tử, lăo hóa khùng, đi lang bang cả chục năm nay.


mxxtTqJBQ4g


Chúng tôi đánh chén xong th́ trời xế trưa. Anh Nam xin phép về nhà lo thuốc thang chữa chấn thương đầu, cổ. Tôi và chú Lượng cũng chia tay.

Chuyện “người điên ở chợ” tôi c̣n được nghe nhiều người thuật lại, mỗi người nói mỗi khác.

Năm 2003, ở Hoa-Kỳ có người bạn làm cùng sở với tôi kể rằng, năm 1980 khi đi đào đá quư ở Tân-Bùi, Blao, anh ta tận mắt chứng kiến cảnh một tên cán bộ cấp cao của Việt-Cộng bị điên, đầu đội cái nón mê, tay xách con dao quắm, suốt ngày đi lang thang, nói năng lảm nhảm, chửi bới om x̣m ở chợ Tân-Bùi.

Nghe đâu tay cán bộ này giàu sụ, có cô bồ nhí xinh như đào xi nê. Một hôm, cô bé đem cầm, bán hết giấy tờ sở hữu ruộng vườn, xe cộ của ông thủ trưởng, đồng thời thay mặt ông, hốt sạch cả chục chân hụi lớn, hụi nhỏ, rồi ôm tiền của, cùng anh kép trẻ dông đi mất biệt.

Mất của, lại thất t́nh, ông thủ trưởng già hóa rồ, hóa dại, đội cái nón mê, ôm con dao quắm đi truy lùng, truy sát kẻ bạc t́nh.

H́nh như nhà anh chàng trẻ tuổi, t́nh địch của lăo già thủ trưởng Việt-Cộng ở Tân-Bùi th́ phải ?

Nhà chị tôi ở cách chợ Đức-Trọng không xa lắm. Tôi quyết định nghỉ ngơi vài ngày rồi mới xoay xở tiếp.

Hai hôm sau tôi t́m được một chân giữ lô trên Prenn. Làm việc này tuy nhàn nhă nhưng nguy hiểm quá!

Một ḿnh nằm trong căn cḥi lá giữa rừng không tấc sắt trong tay. Xế chiều, một xe bộ đội ghé đít vào khuân đi vài tấm ván xẻ. Nửa đêm, một xe bộ đội ghé đít vào khuân đi vài khúc bằng lăng. Người gác lô (là tôi đây) hỏi :

- “ Các ông có giấy ủy quyền chở gỗ đi không ?”th́ khách vỗ bành bạch vào cái bao K54 bên hông :

“Bộ nhà anh mù, không nh́n thấy cái giấy ủy quyền này hay sao mà c̣n hỏi ?”

Hóa ra lô này chứa gỗ của bọn khai thác lậu. Bộ đội chỉ cần hù một câu là có thể chở đi một xe tỉnh bơ. Tuần sau tôi bỏ việc.


JQeLbpqROyU


Tôi trở về Sài-G̣n phụ giúp một anh bạn đi bán quần áo cũ (c̣n gọi là đồ SIDA) một vài lần, cũng chẳng thấy khá.

Tôi ḷ ṃ tới nhà ông Trung tá Huỳnh Văn Lộc, cựu Liên đoàn trưởng Liên đoàn 25 BĐQ để hỏi cách đi buôn thuốc Tây. Ông anh chỉ vẽ đường đi, nước bước, tận t́nh hết ḿnh.

Chuyến ra quân đầu tiên buôn thuốc Tây, chưa đi khỏi Tân-Cảng tôi đă bị công an túm. Mất toi cả chỉ vàng tiền vốn.

Bí quá, tôi lại lên rừng. Kỳ này th́ hên. Ông anh rể vừa thấy mặt tôi đă reo lên,

– Cậu lên vừa đúng lúc. Vựa cà phê nhà chị Phú Phil-Nôm đang cần chân đốc công, lương hậu, cậu có nhận không ?

– Chơi liền ! Buồn ngủ mà gặp chiếu manh th́ c̣n ǵ bằng ?

Hôm sau ông anh rể tôi chở tôi lên vựa cà phê nhận việc .

Vựa cà phê chị Phú ở ngay con dốc giữa ngă ba Quốc lộ 20 và ngă rẽ về Đơn-Dương. Đất đai hai bên đường của khu vực này được chia ra thành nhiều lô bằng nhau để cấp phát cho gia đ́nh công nhân, bộ đội tự canh tác, cải thiện.

Chồng chị Phú làm việc trên Ty Nông-Nghiệp. Lợi dụng địa thế thuận tiện lưu thông, chị Phú dựng lên một vựa thu mua nông phẩm kiếm lời.

Nhiệm vụ của tôi là cân nhập cà phê, đậu xanh, đậu nành, đậu phọng, rồi hướng dẫn hai cô nhân công chuyển vào kho ; cân xuất hàng ; kiểm soát hai cô nhân công đưa đủ hàng lên xe cho khách; kư biên lai; nhận biên lai ; tổng kết sổ chi thu hàng ngày.

Tôi làm việc trôi chảy được hai ngày. Hôm sau nữa, nhân lúc rảnh, chị Phú nhờ tôi leo lên mái kho, trét nhựa đường vài lỗ dột. Cái thang nhà này đang mắc kẹt chống đỡ buồng chuối tiêu mắn quả sau hiên. Chị Phú chỉ tay sang nhà hàng xóm,

– Anh sang nhà cô Hương nhờ cô ấy cho mượn cái thang một lát.

Sát hàng rào của vựa cà phê là một khu vườn rộng, có giàn su su và những luống đu đủ. Giữa vườn, là một cái nhà tôn, có sân lát gạch để phơi nông phẩm.

Theo lệnh bà chủ, tôi xăng xái đi sang nhà hàng xóm

– Cô Hương ơi ! Cô Hương có nhà không?

Có tiếng trả lời từ sau nhà

– Tôi ở trong vườn su. Ai đó cứ vào đi.

Tôi ḷ ḍ đi ṿng ra phía sau nhà.

Bên một gốc đu đủ, người chủ nhà nghe tiếng chân tôi, bèn quay mặt lại

– Ông cần hỏi chi ?

Dưới nắng ban trưa, đứng trước mặt tôi, rơ ràng là cô giáo Ngọc !

Cũng với cái áo bà ba mầu xanh điểm hoa khế hồng, và cái quần đen, bộ quần áo cô mặc hôm tôi về đưa cho cô cái ảnh gia đ́nh mà tôi tịch thu được trong mật khu Tứ-Quư. Hai mươi năm qua rồi mà mặt cô vẫn y như xưa, không khác tí ti nào.

Tôi buột miệng :

– Cô giáo Ngọc! Cô ơi! Cô đó ư?

Người đàn bà giật ḿnh hoảng hốt

– Ủa! Sao ông lại kêu tôi là cô giáo Ngọc ? Ông là ai vậy ?

Tôi nh́n dán mắt vào mặt người đàn bà. Á ! mà có chút khác ! Cô giáo Ngọc bây giờ trông ngăm ngăm, chứ không c̣n trắng bóc. Giọng nói của cô th́ hoàn toàn xa lạ. Không phải cái giọng Huế Công Tằng Tôn Nữ nữa rồi ! Hay là tôi đă nhầm người ?

Tôi găi đầu

– Thưa bà, tôi xin lỗi, tôi lầm bà với một người quen của tôi.

– Ông ơi ! Ông là ai ? Ông nói người quen của ông là cô giáo Ngọc có phải không?

– Vâng ! Bà giống cô Ngọc như đúc, nhưng bà không phải cô Ngọc . Cô Ngọc người Huế . Bà không phải cô ấy.

Người chủ nhà lại thúc giục :

– Ông nói cho tôi biết đi ! Ông là ai ?

– Tôi xin lỗi bà, tôi tên Hai, là người làm công của vựa cà phê bên hàng xóm. Tôi sang đây mượn cô Hương cái thang về xài một lát. Tôi xin gặp cô Hương.

– Tôi là Hương đây ! Nhưng tôi hỏi ông. Ông quen biết như thế nào với cô Ngọc ? Tôi là con gái cô Ngọc đây, c̣n ông là ai?

Tôi lắc đầu lia lịa .

– Con cô Ngọc chỉ có bé Châu và bé Hạnh, không có ai tên là Hương cả.

Người đàn bà như bị choáng váng, giọng bà ta run run .

– Như vậy ông có phải là anh Long không ? Anh Long !

– Vâng tôi là Long, c̣n bà là ai ?

– Bé Châu đây ! Anh Long ơi !

Bé Châu ̣a khóc. Năm nay (1988) bé Châu ba mươi bảy tuổi, đúng y chang tuổi của cô giáo Ngọc năm Mậu-Thân (1968) khi gặp tôi ở Blao.

Bé Châu giống cô giáo Ngọc như đúc. Có khác chăng là làn da, và giọng nói. Hèn nào tôi không lầm cho được ?


8Rwp0hPIsII


Bé Châu nắm tay tôi, kéo tôi lên nhà trên. Miệng cô em tíu tít chưa hết chuyện này đă nhảy sang chuyện khác, chẳng đâu vào đâu.

– Từ từ đi Châu ! Cô cứ nói lung tung như thế này th́ ai mà hiểu được cô muốn nói cái ǵ . Việc đầu tiên anh muốn biết là mẹ em và bé Hạnh bây giờ ra sao ? Có tin tức ǵ của ba em không ?

Tôi vừa cười vừa nhắc cô em hàng xóm.

Bé Châu như tỉnh ngủ .

– Ừ nhỉ, em nói năng lộn xộn quá. Chỉ v́ em mừng quá đó anh ơi ! Mẹ và bé Hạnh mất rồi . C̣n Ba th́ đă… hóa điên . Anh ngồi chơi đây, em đi nấu nước pha trà . Ngồi đây chờ em, đừng đi đâu anh nhé !

Nhóm bếp xong, bé Châu chạy vội lên nhà trên

– Anh kể cho em nghe đi ! Sau đó anh c̣n ở Blao không ? Anh lấy vợ lúc nào ? Có mấy cháu rồi ? Anh đi học tập có lâu không ? Ngày anh về, gia đ́nh anh có thay đổi ǵ không ?

Tôi ngồi tường tŕnh :

– Bốn tháng sau ngày nhà em dọn đi, th́ đơn vị anh về Pleiku ở luôn, không c̣n trở lại Blao nữa. Anh có vợ và có bốn đứa con rồi. Sau Ba Mươi tháng Tư năm 1975 gia đ́nh anh về tá túc ở nhà của mẹ anh, trong khu chợ Nancy Sài-G̣n.

Anh đi tù “cải tạo” mười ba năm, mới được tha ra cách đây nửa năm. Anh đang đi làm công để phụ giúp vợ, nuôi con.

Bé Châu trợn mắt,

– Anh đi học tập cải tạo tới mười ba năm lận ! Lâu quá vậy ? Chắc chị ở nhà vất vả lắm anh nhỉ ?

– Chị làm thợ may và buôn bán làng nhàng để nuôi con. Cũng khổ lắm.

– Tội nghiệp chị ! Con th́ đông, chồng lại vắng nhà cả chục năm không thấy về,vậy mà chị vẫn kiên tâm vất vả nuôi con chờ chồng. Anh là người có phước lắm đó!

Lúc ấy có tiếng cô Nhi, người giúp việc của chị Phú réo trước cửa,

– Anh Hai ơi ! Về cân hàng ! Có khách chờ ! Chị Phú nói anh sang mượn cái thang,hay sang ngủ ở nhà cô Hương mà cả buổi chưa chịu về ?

Nghe tiếng gọi, tôi vội đứng lên .

– Thôi, mai Chủ Nhựt rảnh, anh sẽ lên nói chuyện tiếp. Anh phải về làm việc bây giờ .

Tôi chạy vội ra cửa .

Chị Phú mặt hầm hầm,

– Anh làm ăn đàng hoàng chứ không tôi đuổi đó !

Tôi chẳng tiện phân bua với bà chủ làm ǵ. Tôi cứ lặng thinh làm phận sự của người làm công.

Từ đó tới chiều, bên hàng rào cứ thấp thoáng bóng dáng bé Châu ngóng cổ sang để t́m tôi .

Bên cót đậu phọng, cô Nhi mắt len lén theo dơi cử chỉ của người hàng xóm, miệng nhỏ to với bà chủ :

– Anh chàng trông khù khờ mà đào hoa dữ a! Bà chủ th́ mặt sưng như tấm thớt.


C̣n tiếp ,

hoathienly19
11-26-2020, 00:36
Hôm sau là ngày Chủ Nhật, được nghỉ, tôi mượn cái xe đạp của ông anh rể, lọc cọc đạp lên nhà bé Châu.

Sau khi khóc lóc đă đời, Bé Châu ngồi kể cho tôi nghe một truyện dài hai mươi năm.

Ngay buổi trưa tôi ghé nhà em lần cuối cùng, Cô Ngọc bắt bé Châu chở cô vào văn pḥng tỉnh, xin lănh trước một tháng lương, rồi xin nghỉ phép một tuần v́ việc gia đ́nh.

Sau đó, hai mẹ con sang trường Trung Học Bảo-Lộc xin rút học bạ để chuyển trường. Chiều đó cô Ngọc đem chiếc Honda đi bán. Sáng hôm sau ba mẹ con vác ba chiếc va li lên chuyến xe đ̣ sớm nhứt đi Đà-Lạt.

Trưa hôm đó mẹ con cô có mặt ở nhà bà chị cô trong ấp Thái-Phiên. Cô nói với bé Châu và bé Hạnh rằng tôi nghe tin cảnh sát sẽ tới bắt cô bỏ tù v́ tội có chồng đang chiến đấu trong bưng nên cô phải dẫn gia đ́nh đi lánh nạn.

Cô Ngọc được bà chị nhượng lại cho một thửa vườn trồng rau để sinh nhai. Ngày đó, bỏ ít tiền ra, cô dễ dàng mua được hai cái khai sinh giả và một cái căn cước giả.

Cô giáo Công Tằng Tôn Nữ Mỹ Ngọc nay mang tên Nguyễn Thị Mỹ.

Bé Vơ Thị Như Châu thành Nguyễn Thị Hương, và Vơ Thị Ngọc Hạnh thành Nguyễn Thị An có tên cha là Nguyễn Trường Giang.

Cô lấy tên con sông Trường-Giang, và tên xă Hương-An ở nơi quê chồng để đặt tên giả cho chồng con, cho dễ nhớ. Tên Vơ Thị Như Châu và Vơ Thị Ngọc Hạnh trên học bạ được tẩy đi, đề tên mới vào.

Lúc đó bé Châu và bé Hạnh mới biết trong tám năm qua, cha của hai em đă vào bưng đi theo Việt-Cộng, chứ không phải làm thư kư ở dưới Sa-Đéc. V́ thế, hai em mới hiểu lư do tại sao từ ngày vào Blao, thày Như không về nhà lần nào.

Hồi mới xa Blao, bé Châu và bé Hạnh buồn khóc thầm cả tuần. Sau rồi cũng nguôi ngoai, quen với cuộc đời mới.

Hai chị em ban ngày theo xe ngựa của nhà hàng xóm về Đà-Lạt học trường Bồ-Đề, ban đêm đan nón, đan quạt lá buôn, lá cọ bỏ mối lấy tiền phụ với mẹ.

Năm 1970 bé Châu đậu Tú Tài 2, xin được một chân giáo viên tiểu học ở dưới trại Hầm.

Năm 1973 bé Hạnh lấy chồng . Năm đó em mười chín tuổi, vừa đậu Tú Tài xong. Chồng bé Hạnh là một Thiếu úy ngành Quân-Báo thuộc Tiểu-Khu B́nh-Định.

Anh ta là cháu một nhà hàng xóm trong ấp Thái-Phiên. Đám cưới vừa xong, bé Hạnh về Quy-Nhơn ở với mẹ chồng.


https://kimdunghn.files.wordpress.com/2018/11/anh-dep-a.jpg


Nhà cô Ngọc ở yên trong Ấp Thái-Phiên cho tới ngày Đà-Lạt di tản.

Sau khi tiếp thu Đà-Lạt, Việt-Cộng đă tới từng nhà để sưu tra lư lịch, và tổng kết dân số. Cô Ngọc khai tên thày Như trong bản khai của gia đ́nh cô.

Chỉ vài ngày sau th́ thày Như về. Ông ta về trên chiếc xe con, theo sau là một xe lớn, có nhiều bộ đội hộ tống. Cô Ngọc và bé Châu mừng quá, khóc suốt một ngày luôn ! Cô Ngọc th́ mừng vui, tươi tắn hẳn lên như con bịnh trầm kha vừa phục hồi sau một liều thuốc tiên.

Thày Như đón vợ con về ở trong một ngôi biệt thự mới bị tịch thu trong khu hồ Mê-Linh (tên cũ là Saint Bénoit).

Gần cuối năm 1975 gia đ́nh ông ta được cấp miếng đất dưới Phil-Nôm và dọn về ở đó cho tới bây giờ.

Thày Như làm việc trên Tỉnh Đội, uy tín dữ lắm. H́nh như cấp trên của ông ta tin tưởng giao phó cho ông đảm đương, kiêm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng…

Bé Châu chợt lặng im ngồi suy nghĩ một hồi, rồi mới tiếp tục thuật lại cho tôi nghe chuyện bé Hạnh.

Cuối tháng Năm năm 1975 bé Hạnh từ Quy-Nhơn về. Nó nói rằng chồng nó vừa bị bắt đi tù cải tạo. Nó khóc lóc thảm thiết, xin thày Như bảo lănh cho chồng nó được tha. Thày Như từ chối thẳng tay,

– Để cho nó đi “ học tập ” ít lâu. Khi nào nó “ tiến bộ ” th́ được tha về chứ cần ǵ Ba phải bảo lănh ? Cả ngàn người cùng t́nh trạng như nó chứ có phải một ḿnh nó đâu?

Thày Như ngồi trên ghế, Bé Hạnh đứng đàng sau, nó ôm vai cha nài nỉ :

– Ba Như ơi ! Ba can thiệp được mà ! Ba xin cho chồng con về đi. Anh ấy là con một, có mẹ già. Nhà ḿnh cũng không có con trai. Anh ấy hiếu thảo lắm. Nếu Ba gặp anh ấy, chắc Ba sẽ thương anh ấy ngay. Ba Như ơi ! Ba Như xin tha cho chồng bé Hạnh về với bé Hạnh đi Ba!

– Ba đă nói rồi mà ! Để cho nó “ học tập ” thành “người tốt "rồi về ! Có ǵ mà phải vội vàng ?

Năn nỉ cha hoài không được, bé Hạnh cầu cứu mẹ và chị phụ giúp. Cô Ngọc và bé Châu cũng nói hết lời, thày Như vẫn một mực khăng khăng chối từ.


https://1.bp.blogspot.com/-yERADzggRbE/UDB-_zoHmnI/AAAAAAAAAe0/baqrGs136_I/s640/1975.jpg


Tháng Tám năm 1975 chồng bé Hạnh trốn trại, bị bắt lại, và bị kiên giam. Bé Hạnh và cô Ngọc xuống thăm chồng nó. Ban chỉ huy trại không cho gặp mặt, cũng không cho nhận quà.

Bé Hạnh lại về năn nỉ cha nó cứu vớt chồng nó lần nữa. Nó quỳ dưới chân thày Như khóc lóc, van xin. Thày Như nhất mực chối từ việc cứu con rể, ông c̣n xúi bé Hạnh bỏ chồng lấy người khác. Rồi hai cha con lớn tiếng căi nhau. T́nh phụ tử bị sứt mẻ. Từ đó bé Hạnh và cha em tránh mặt nhau.

Bé Châu thấy bé Hạnh có lư khi nói rằng cha các em không c̣n như thời trước 1960, ngày các em c̣n bé.

Ngày xưa, mỗi lần thày Như đi xa, bé Châu và bé Hạnh thường chờ cha về để tranh nhau nhảy vào ḷng, bắt ông hôn, rồi ông dắt hai đứa đi lang thang trong sân chờ cô Ngọc dọn cơm.

Lần này ông về, chỉ có ḿnh bé Châu ở nhà, nhưng Châu không c̣n dám nhào vào ḷng cha để ông nâng niu như xưa. Khi cha em ra đi, Châu lên chín. Ngày ông về, em hai mươi bốn.

Cha em đă đi con đường ông ta chọn. Sau mười lăm năm, ông đă thực hiện xong ư nguyện của ông. Nhưng ông đă đánh mất hạnh phúc của chính ḿnh, và của cả gia đ́nh ḿnh.

V́ ông, mà vợ ông đă để uổng phí một thời son trẻ.

V́ ông mà tuổi thơ của hai đứa con ông chỉ là một chuỗi ngày dài đầy lo sợ. Giờ đây, giữa Châu và cha em như có một bức tường vô h́nh ngăn cách.


https://tunhan.files.wordpress.com/2013/07/a-hinhanhtu.jpg


Tháng Chạp năm 1975 chồng bé Hạnh bị xử tử h́nh.

Được tin này, bé Hạnh cấp tốc đi Quy-Nhơn, vào trại giam, xin nhận xác chồng, nhưng người ta không cho. Họ chôn chồng em Hạnh trong nghĩa địa dành cho tù phạm.

Trở về nhà, bé Hạnh thức trắng một đêm để đốt hết những lá thư mà vợ chồng nó đă trao đổi cho nhau từ ba, bốn năm trước ngày đám cưới. Từ lúc về, bé Hạnh không hé môi nói chuyện với ai một lời nào.

Sáng sớm hôm sau, bé Hạnh dậy thật sớm. Nó ôm hôn mẹ nó và chị nó rồi ra đi. Bé Châu và cô Ngọc hỏi rằng Hạnh đi đâu mà sớm thế ? Nó chỉ lắc đầu, hai mắt đỏ hoe.

Hôm đó thày Như có mặt ở nhà. Lúc bé Hạnh bước ra tới cửa, ông giữ tay nó lại,

– Con đi đâu thế ?

Hạnh hất tay ông ta ra, rồi vội vàng bước nhanh ra đường.

Ba ngày sau có người báo cho thày Như biết tin :

“ Cô An chết đuối mới nổi lên ở chân cầu Đại-Ninh ! ”

Kể tới đây, bé Châu nấc lên, nghẹn lời.

Nghe tin bé Hạnh chết, bé Châu bàng hoàng, choáng váng như vừa bị ai đó đập một cái chày vồ lên đầu. Nh́n người ta niệm xác bé Hạnh đặt vào áo quan mà Châu cứ tưởng như đang mơ một giấc mơ dữ.

Cô Ngọc rũ xuống như một sợi bún. Cô thành người mê sảng, miệng không ngừng gọi tên con :

“ Hạnh ơi ! Hạnh ơi !…”

Ngày đưa ma, cô Ngọc và bé Châu không cất bước nổi, phải ở nhà. Hai mẹ con khóc cho tới khi hai mắt sưng vù, nói không c̣n ra tiếng nữa. Người ta chôn cất bé Hạnh ra sao, bé Châu không c̣n nhớ rơ.

Thày Như có rất nhiều người quen, nên khách đi đưa đám con gái ông rất đông. Có cả dàn nhạc và đại diện từ Tỉnh, Huyện về chia buồn.

Từ ngày chôn cất bé Hạnh xong, cứ thấy mặt chồng, cô Ngọc lại nghẹn ngào :

“Ḿnh ơi ! Ḿnh giết bé Hạnh của em rồi hả ḿnh ? Ḿnh ơi ! Sao ḿnh nỡ giết con của chúng ta ? Ḿnh ơi !”

Thày Như phải tránh mặt vợ bằng cách đi làm từ sáng sớm, tới tối mịt mới về.


https://imagizer.imageshack.com/v2/320x180q90/r/922/CGaSz5.jpg


Hai tháng sau ngày bé Hạnh mất, vào một buổi trưa mùa xuân, chỉ có cô Ngọc và bé Châu ở nhà, một bà già Bắc-Kỳ Di-Cư khăn mỏ quạ, áo dài nâu xuất hiện trước cổng. Vừa thấy bóng cô Ngọc, bà già chồng của bé Hạnh đă bù lu, bù loa,

– Dâu ơi, là dâu ! Con ơi là con ! Ai đời ? Chồng chết không chịu nhận khăn tang, mà chẳng nói chẳng rằng, bỏ đi một nước. Bà ơi ! Con gái bà là người, hay là ma, là quỷ vậy ? Con giặc cái ấy đâu rồi ?

Cô Ngọc ôm bà thông gia, vừa sụt sịt, vừa d́u bà cụ tới trước bàn thờ đang khói hương nghi ngút, trên đó là cái ảnh của hai vợ chồng bé Hạnh chụp ngày đám cưới.

– Con dâu của chị đây nè ! Nó nhảy sông, chết theo chồng nó đă hai tháng nay rồi !

Nghe thế, bà già Bắc-Kỳ ngă lăn quay ra nền nhà, đôi mắt trợn ngược. Mẹ con bé Châu phải đánh dầu, cạo gió cho bà, hồi lâu bà già mới tỉnh. Bà cụ lồm cồm đứng lên, với tay ôm cái ảnh của vợ chồng bé Hạnh vào ḷng. Nước mắt ṛng ṛng, hai mắt bà nh́n như ngây như dại vào cái ảnh trên tay,

– Con ơi ! Sao hai con đành bỏ mẹ ? Con ơi !… Con ơi !…

Rồi tay ôm cái ảnh, bà cụ thất thểu bước chân ra cửa. Bé Châu cố giữ bà cụ lại th́ bà cụ trợn mắt, mắm môi, giựt tay ra, rồi chạy biến ra đường.

– Hu!… Hu!… Hu !… Tiên sư cha quân cướp nước ! Chúng mày giết con tao, giết dâu tao, đồ chó má! Tiên sư cha cái đồ Cộng-Sản dă man! Tiên sư cha nhà chúng mày!… Hu !… Hu !… Hu !…

Bà già vừa đi, vừa chửi rủa, vừa than khóc, kêu gào. Từ ấy tới nay bé Châu không gặp lại bà lần nào nữa.


https://imagizer.imageshack.com/v2/471x315q90/r/922/fGp9tV.jpg


Những ngày tháng tiếp theo, nhà thày Như lúc nào cũng u sầu, ảm đạm. Ông đi làm trên tỉnh, lâu lâu mới ghé nhà.

Sức khoẻ của cô Ngọc sa sút nặng nề. Mắt cô mờ đi v́ khóc quá dài ngày. Đôi mắt cô thâm quầng. Hai g̣ má nhô cao, hốc hác. Mái tóc đẹp như mây ngày nào giờ này chỉ c̣n là một mớ bùi nhùi sau gáy được túm gọn bởi sợi dây thun.

Thân h́nh cô gầy tưởng chừng như chỉ cần một cơn gió khá mạnh là có thể thổi cô bay đi. Tuổi cô chưa đầy năm mươi, vậy mà nh́n cô, người ta thấy như cô đang ở sắc quá sáu mươi.

Thày Như có ba người đàn em thân tín thường tới, lui thăm hỏi, là ba tay cựu du kích tên Thuận, B́nh và Xuyên.


Ba người này là học tṛ ở Tam-Kỳ, đă cùng hai người nữa theo ông vào bưng từ năm 1960.

Thày Như thường kể truyện với người quen về vết sẹo khá lớn trên vai trái của ông là do một lần vào năm 1968 đơn vị của ông bị Biệt Động Quân VNCH phục kích. Lần đó ông bị bắn găy tay, năm tên hộ tống th́ hai chết mất xác.

Sau khi chiếm được Đà-Lạt, ông cất nhắc cho ba tên học tṛ sống sót làm những chức vụ quan trọng :

- Tên B́nh làm bí thư riêng

- Tên Thuận làm hậu cần

- Tên Xuyên vốn là thương binh, nên được giao cho chức chủ nhiệm một hợp tác xă rau trên Đà-Lạt.

Giữa năm 1977 ông nhận một người bà con của tên Thuận là cô Xuân vào làm thư kư riêng thay cho tên B́nh chuyển ngành sang công an.

Ông thương cô Xuân lắm, đi đâu cũng chở cô Xuân theo. Ông nói rằng ông coi cô ấy như con, v́ cô ấy có vài nét giống bé Hạnh, tính t́nh cô ta cũng rất thùy mị, dễ thương, nhưng trên tỉnh, nhiều người xầm x́ rằng cô Xuân là bồ nhí của ông Như.

Đùng một cái, giữa trưa ngày lễ mùng Hai tháng Chín năm đó công an của Bộ Nội Vụ ập vào văn pḥng bắt tại chỗ ông Như và cô Xuân đang lơa lồ nằm ngủ với nhau trên giường sau bàn giấy của ông.

Người ta chụp ảnh làm biên bản, rồi c̣ng tay ông dẫn ra xe chở đi. Cô Xuân th́ khóc lóc thảm thiết, khai rằng thủ trưởng Như đă hăm hiếp cô ấy nhiều lần trong văn pḥng này. Cô ta nói, ông ta hăm dọa sẽ bỏ tù cả nhà cô, nếu cô hé răng cho người khác biết chuyện đồi bại này.

Được tin, cô Ngọc hộc tốc chạy lên Ty Công-An Tỉnh. Gặp cô, ông ta thề sống, thề chết với vợ rằng ông ấy bị cô Xuân và tên Thuận dụ dỗ cho uống thuốc mê, chứ ông hoàn toàn vô tội.


https://baokhanhhoa.vn/dataimages/201701//original/images2500641_hcm_png.png


Tối hôm đó, cô Ngọc kể cho bé Châu nghe một điều từ lâu cô giữ kín trong ḷng. Cô nói, thời gian sống trong mật khu, chồng cô đă nhắn cô vào thăm hai lần.

Lần đầu là dịp cuối năm 1963 sau khi đảo chánh ông Diệm.

Lần thứ nh́ là giữa năm 1965.

Cô Ngọc thương chồng hơn ai hết trên cơi đời này, nên cô ráng làm vừa ḷng chồng, dù biết rằng việc vào mật khu là một sự mạo hiểm chết người. Cô vào rừng ở với chồng mỗi lần nửa tháng. Chồng cô muốn có đứa con trai, nhưng vợ chồng cô đă thất bại.

Sau đó cô Ngọc đi khám bác sĩ, bác sĩ cho biết kinh nguyệt của cô không đều, nên rất khó có con. Tới ngày chồng cô về th́ cô đă hết khả năng sinh đẻ. Cô tắt kinh trước đó cả năm rồi.

Cô nói, chuyện đau buồn vừa xảy ra, một phần là do lỗi cô, chỉ v́ cô đă không sinh được một mụn con trai, nên mới ra nông nỗi này !

Đêm đó bé Châu ngủ rồi, cô Ngọc vẫn c̣n ôm mặt khóc. Sáng hôm sau, cô Ngọc ngủ luôn không dậy. Cô đă uống hết cả một ống thuốc ngủ hai chục viên. Liều lượng ghi trên toa thuốc là tối đa một viên cho người lớn.


https://imagizer.imageshack.com/v2/161x240q90/r/923/skJVsG.jpg


Trong thời gian thầy Như bị giam giữ th́ tên Thuận đă bán hết nhà cửa xe cộ, rồi cùng cô Xuân dắt díu nhau đi đâu không ai rơ.

Sau đám tang cô Ngọc, người ta thả thày Như ra. Ông bị tước hết chức tước, quân hàm, nhưng không bị tù, v́ họ xét trong chiến tranh ông là một “anh hùng” của chúng.

Về tới nhà, thày Như ra ngồi bên mộ cô Ngọc và bé Hạnh khóc vùi hai ngày.

Sáng ngày kế tiếp, ông ra bờ giếng mài con dao quắm, dắt vào lưng rồi bước ra cửa.

Từ đó thày Như hóa điên, đi lang thang hết chợ Tùng-Nghĩa tới chợ Đức-Trọng, nằm bụi nằm bờ, không bao giờ bén mảng về nhà. Nhiều lần bé Châu đi t́m cha, nhưng ông không nhận ra em. Có cả chục lần em bị ông chém suưt chết, v́ ông ta cứ lầm em với cô Xuân.

Sau khi rót ly nước trà mời tôi, bé Châu rầu rầu,

– Anh gặp em lần này chắc cũng lại chia tay ngay thôi. Đồ đạc trong nhà, em bán hết rồi. Em đă quyết định từ bỏ cái xứ này để trở về quê ngoại.

Tôi thắc mắc :

– Nhà cửa, công ăn việc làm của em ở đây. Em về Huế làm ǵ?

Bé Châu sụt sùi :

– Tháng trước, cơ quan kiểm kê ruộng đất của tỉnh có đến khu vực này để điều tra, cấp giấy tờ hợp thức hóa sở hữu điền địa để khai thuế. Người đứng tên làm chủ khu đất này là Ba. Dù em khai là con gái Ba, nhưng người ta không tin.

Từ ngày Ba về, xảy ra hết chuyện này tới chuyện khác, đâu có thời giờ điều chỉnh lại giấy tờ ?

Tới nay em vẫn là Nguyễn Thị Hương, con ông Nguyễn Trường Giang, con bà Nguyễn Thị Mỹ.

Em không đủ tư cách pháp lư để ở lại trong căn nhà này. Từ ngày Mẹ mất, em không đi đâu xa. Hết giờ dạy học, em lại về loanh quanh trong rẫy. Chẳng mấy chốc đă gần bốn mươi tuổi, em là cô gái lỡ thời rồi.

Hai tuần lễ trước, có ông cán bộ già người Bắc góa vợ tới ngỏ ư xin lấy em. Ông ta hứa sẽ can thiệp cho em tiếp tục làm chủ mảnh đất em đang ở, nếu em nhận lời ông ta.

Anh ơi ! Anh có tin rằng con người ta có số mạng hay không ? Sao số em lại khốn nạn đến thế ? Em có làm ǵ nên tội đâu anh ? Sao ông trời nỡ đày đọa em như vậy? Mới đó mà hết tuổi xuân. Mới đó mà sắp qua một đời người. Rồi bé Châu nói như khóc,

– Thôi anh về đi! Chúc anh chị và các cháu sớm tai qua nạn khỏi. Chúc gia đ́nh anh vạn điều hạnh phúc ! Anh về b́nh an !



o O o



Sáng Thứ Hai, tôi đi làm. Cô Nhi chờ sẵn trước cửa,

– Tối qua cô Hương có qua nhà, nhờ em nhắn với anh rằng sang nay cô ấy đi sớm. Cô về Huế để xuống tóc đi tu. Cô ấy hứa rằng hàng ngày sẽ cầu nguyện cho gia đ́nh anh được hạnh phúc.

Hôm nay th́ mặt chị Phú đă hết nặng ch́nh chịch, chị cười toe toét :

– Bà con mấy chục năm gặp lại mừng quá há?

– Không phải bà con đâu ! Hàng xóm thời tiểu học của tôi đó ! Xa nhau mấy chục năm trời mới gặp lại. Chưa chi đă chia tay lần nữa.

Khoảng mười giờ sáng, chú Lượng ghé tiệm, báo tin vui,

– Anh về làm hồ sơ đi Mỹ là vừa . Các quận ở Sài-G̣n bắt đầu nhận đơn rồi đó .

Cô Nhi tṛn mắt :

– Anh Hai là sĩ quan chế độ cũ hả ? Anh nói tiếng Bắc rặt như người ngoài Bắc mới vào mà ! Anh Lượng nói thiệt hay nói chơi vậy ?

– Chuyện này ai mà nói chơi!

Ăn cơm trưa xong, tôi giă từ ngă ba Phil-Nôm về Đức-Trọng thu xếp hành lư.

Sau bữa cơm chiều, tôi chào tạm biệt vợ chồng bà chị họ, rồi ghé nhà anh bạn Lượng tốt bụng, để bắt tay cám ơn. Anh Lượng vắng nhà. Tôi lững thững tản bộ về hướng chợ để kiếm xe vận tải quá giang về Sài-G̣n. Mặt trời xế bóng, chợ chiều đă tan.


https://imagizer.imageshack.com/v2/320x240q90/r/923/yZSQHQ.jpg


Trước cửa tiệm trà, một người điên đang múa may. Bộ tịch của ông trông giống một vai hề trong vở tuồng hát bội.

Mặt mày ông ta lem luốc, bẩn thỉu. Hai môi sưng vều. Ông già kẹp một cái nón mê bên nách trái. Tay phải ông cầm một con dao quắm, cán dao dài chừng hai gang. Đầu ông đội một cái mũ lưỡi trai bộ đội có phù hiệu Quân-Đội Cộng sản.

Ông mặc cái quần kaki cũ bết bùn đất bẩn thỉu xăn tới đầu gối, và cái áo bộ đội rách xác xơ. Trên nắp túi áo, lủng lẳng một mớ huy chương. Căn cứ theo bộ dạng, và giọng nói của ông ta, tôi đoán tuổi ông chừng trên, dưới sáu mươi.

Bước tới hai bước, người điên hét :

“ Tao chém mày ! Cái thằng phản thày !”

Ông quơ con dao chém một nhát vào không khí. Ông nhe hàm răng xám xịt, cái mất, cái c̣n, cười h́ h́. Ông lùi hai bước, hét :

“ Tao xử tử mày! Cái đồ phản bạn !” Ông nhặt cái nón mê chùm lên trên cái mũ lưỡi trai, đưa hai tay kéo vành nón xuống phủ tai, rồi chu miệng hú một hơi dài.

Tiếp đó, ông ngồi xẹp xuống đất, lột nón mũ ra, ngước mặt lên trời, đôi mắt lờ đờ như mơ màng thả hồn đi tận đâu đâu. Khi ông già điên ngửng mặt nh́n lên, tôi chợt thấy đôi lông mày của ông ta, đôi lông mày xếch ngược.

Cḥm râu bạc lưa thưa, mái tóc rối bù xù, cùng với bộ lông mày xếch, khiến khuôn mặt lem luốc của người điên thêm phần man rợ, dữ dằn.

Ông già quay ngược cán dao, ôm cây dao quắm như ôm cây đàn. Năm ngón tay sần sùi của ông run run, lần ṃ trên cán dao, như đang bấm cần đàn, miệng ông ngân nga,

“Đồ… Sol… Fa… Ḿ… Fa… Lá… Sol…”

Qua điệu nhạc, tôi nhận ra ngay, đó là đoạn mở đầu của bài “Chiều Về Trên Sông”.

Hết khúc đàn tưởng tượng, người điên ôm mặt khóc .

“Em ơi ! Không phải tại anh ! Em ơi ! Đừng bỏ anh ! Em ơi ! Em ơi !…”

Tiếng ông khóc nghe nghẹn ngào bi ai lạ lùng !

Nếu không biết tiếng khóc đó phát ra từ miệng một người điên, người nghe có thể bị tiếng khóc làm cho mủi ḷng rơi nước mắt.


https://imagizer.imageshack.com/a/img921/1928/ITIBiP.gif


Sau năm 1975 quê hương tôi đă xảy ra không biết bao nhiêu chuyện lạ đời. Gịng đời như gịng nhạc, những nốt thăng trầm là phần số của con người.

Nghĩ tới những ǵ đă xảy ra trong thời gian qua, ḷng tôi chợt thấy xót xa. Tôi khe khẽ xướng âm đoạn chót của bài ca người điên vừa hát,

“Ḿ… Ṣl.. .Đô… Là… Đô… Mí … Đồ… (Là)… Đô…”

Bản nhạc năm xưa c̣n đó, nhưng thế sự đă đổi thay, con người cũng đổi thay.

Tôi thở dài, quay gót bước đi.

Trước mặt tôi là Quốc lộ 20 buồn thiu.

Sau lưng tôi là sân chợ chiều vắng ngắt.

Vương Mộng Long - K20

hoathienly19
12-02-2020, 23:27
TÔI LÀM TÔI MẤT NƯỚC



https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1599337089-toi%20lam%20toi.jpg


Lời Mở Đầu


Từ khi bỏ căn nhà mái tôn trong hẻm Trương Minh Giảng quận 3 Saigon, đem vợ con chạy tọt vào phi trường Tân Sơn Nhất phút chót, nhẩy ù lên trực thăng chạy bay ra biển, leo lên tầu, tá túc Tent City đảo Guam rồi định cư ở Mỹ quốc, cho đến bây giờ tôi vẫn cứ mù tịt về t́nh h́nh chính trị, quân sự của chính nước ḿnh.

Càng đọc báo bổ, tài liệu, càng nghe bàn luận về Việt-Nam, tôi càng hoang mang lạc lơng, khó hiểu.

Một trong những điều khó hiểu ấy là nguyên do đâu mất nước ?

Trách nhiệm ấy của ai ? Của tổng thống hay của tư lệnh vùng ?

Của đại tướng hay đại úy ?

Của tỉnh trưởng hay quận trưởng ?

Hoặc cao xa hơn nữa, trách nhiệm ấy của Nga, của Mỹ hay Tầu ?

Ngay cả đến những cuốn sách mang đầy sử liệu cũng lại có các dữ kiên, phân tích khác nhau khiến kẻ đọc cỡ b́nh dân học vụ như tôi đâm ra ù ù cạc cạc, nh́n thế sự như nh́n vào bức vách.


https://thumbs.dreamstime.com/t/pondering-emoticon-single-finger-thumb-resting-chin-thinking-wondering-ponder-emoticon-103989079.jpg

Qua 10 năm lưu lạc giang hồ, làm dăm bẩy thứ nghề lao động chẳng giống ai, tôi càng cám cảnh trớ trêu thiên địa phong trần, không hồng nhan cũng đa truân như kiểu người yêu của chàng Kim Trọng.

Trong cảnh buồn năo nuột như thế, tôi đâm ra trầm tư mặc tưởng, suy niệm, ôn cố tri tân, t́m hiểu về số phận đất nước.

Cổ nhân nói:

“ Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách ”, làm tôi áy náy nghi ngờ. Quốc gia thịnh hay suy mà lại là trách nhiệm của người dân b́nh thường hay sao?

Tôi cứ tưởng rằng cơ đồ bền vững hưng thịnh là do nhà vua anh minh đức độ biết kén chọn hiền tài điều khiển muôn dân. Cơ đồ sụp đổ là do tổng thống tài hèn sức mọn, dùng bè đảng vây cánh tác hại dân lành. Có đâu trách nhiệm đến kẻ thứ dân.

Lại như câu “Thượng bất chánh, hạ tắc loạn”, trên phải ra trên, dưới phải ra dưới mới có trật tự an ninh ngăn nắp.

Ép anh dân thường phải lănh trách nhiệm, e không ổn tí nào.

Bây giờ, sau khi để dăm ba phút suy nghĩ, tôi bỗng t́m ra chân lư của câu nói “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”.


Tôi hiểu rằng đất nước là trách nhiệm chung, chả cứ riêng ai cả. Thất phu, sĩ phu, trượng phu, đại phu hay kung-fu cũng phải ghé vai gánh vác sơn hà th́ xă tắc mới mong bền vững.

Chẳng ai cáng đáng gánh vác, nước đổ ụp xuống là cả đám ướt như chuột lột.

Vậy chính tôi có trách nhiệm mà không thi hành hoặc thi hành chểnh mảng. Cả hai đều có lỗi. Chả cứ tôi mà c̣n nhiều người khác cũng vậy. Thế nhưng các vị nắm vận mệnh quốc gia, trách nhiệm chỉ huy đơn vị lớn đều cứ chối bai bải về trách nhiệm làm tan tành đất nước.

Theo bản sơ kết t́nh h́nh chiến sự, cho đến nay chưa có ai viết sách, viết bài tự nhận ḿnh có lỗi lầm, tự nhận ḿnh có trách nhiệm làm mất nước cả.

Chỉ thấy họ tŕnh bầy cái lỗi của người khác, xong nêu cái thông minh tài trí của ḿnh rằng đă nói mà chả ai nghe, có bảo nhưng chẳng ai làm, hoặc bị ngoại bang chơi ép, hoặc bị phe này cánh nọ phá hoại, hóa nên hư bột hư đường.

Thành ra, chính họ lại là những người am hiểu t́nh h́nh, tinh thần trách nhiệm cao, tư cách đạo đức sáng ngời, như một người hùng có công với dân tộc, với tổ quốc.

Nhờ dành thời giờ suy tưởng đến dăm ba phút, tôi vỡ lẽ ra rằng chẳng phải nói ai, chính tôi làm tôi mất nước.


https://i.pinimg.com/originals/29/30/b1/2930b19311b21d9394beb83d26507442.jpg


Nḥm vào quá khứ, tôi thấy tôi như h́nh với bóng đồng lơa, làm đủ mọi thứ chuyện tồi bại có hại cho bổn thân, cho gia đ́nh, cho họ hàng anh em hàng xóm, cho đồng bào khiến nên bao nhiêu thứ suy đồi xấu xa tích lũy lại, dần dần đưa tới hậu quả ngày nay.

Hậu quả ấy đến coi như chậm bởi c̣n rất nhiều người có trách nhiệm, nhận trách nhiệm và gánh vác nó.

Họ là các chiến sĩ anh hùng sả thân ngoài chiến tuyến, là những thương phế binh, cô nhi quả phụ can trường nhẫn nhục hy sinh, là những công bộc chuyên cần và thanh liêm, là những cán bộ nông thôn sống với dân và sát với địch, là những người dân lành chăm chỉ thực thà một nắng hai sương… Không có họ, đất nước mất tự khuya rồi !

Tôi đâm ra ăn năn hối hận, dẫu chả ai dí súng bắt viết, không có CIA dúi tiền bảo làm, không ai dụ khị vạch áo cho người xem lưng, tôi cũng xin làm bản kiểm kê tự thú về những cái tồi tệ hư đốn bại hoại của ḿnh.

Để tâm hồn may ra được đôi chút b́nh an, để tạ lỗi với gia đ́nh, với bạn bè đă nằm yên trong Nghĩa Trang Quân Đội hoặc vất vưởng chốn lao tù cải tạo, với những người sắp ra đi, với những người c̣n ở lại đọa đày.



https://daminhtamhiep.net/wp-content/uploads/2018/02/L%E1%BB%9Di-s%C3%A1m-h%E1%BB%91i-mu%E1%BB%99n-m%C3%A0ng-768x461.jpg


___________________________


CHƯƠNG 1

Hồi c̣n bé, tôi có bộ mặt của một tên học tṛ hiền lành ngây ngô rất mực, ai cũng tưởng là đứa trẻ có giáo dục đàng hoàng. Câu nói :

“Trông mặt mà bắt h́nh dong, con lợn có béo th́ ḷng mới ngon” nhiều khi trậc lấc.

Tôi là con lợn nom khá béo nhưng ḷng dạ th́ thật khó thương. Bề ngoài, tôi lù khù mà đầu óc lại quỷ quái ranh ma.

Ở nhà, tôi chuyên môn ăn cắp tiền để đem đi nướng cho mấy tên đánh đáo đánh bi, đi nói dối cha về nhà nói dối bố.

Đến trường học th́ tôi học dốt như ḅ, trốn học, phá phách, chọc ghẹo bạn bè. Thời giờ học bài, tôi lêu lổng ra bờ sông leo cây bàng hái quả, bắt chim non làm tội, bơi qua sông đi đánh nhau.

Khi lên Trung học, tôi ở Hà Nội học 4 năm. Bố mẹ làm ăn vất vả lo cho con th́ con học tà tà, dành tiền đi ăn thịt ḅ khô Bờ Hồ, đi bơi thuyền pê-rít-soa, đi xi-nê Phi-la-mô-ních, lượn Hàng Ngang, Hàng Đào, nhẩy xe điện không bao giờ mua vé.

Các thầy học của tôi đều là những bậc thầy dạy giỏi như các thầy Nguyễn Đức Hiếu, Nguyễn Tá, Nguyễn Đức Kim, Hà Như Vinh, Trần Ngọc Huyến, thầy Sửu, thầy Loan, thầy Thịnh Del, thầy Bốn…

Tôi chả thọ giáo được bao nhiêu v́ trong lớp tôi hay nói chuyện. Bù lại, mỗi khi có bài thi là tôi cóp như điên.

Mấy tên học giỏi đều ngồi trước ngồi sau ngồi cạnh cho nên tôi thi cử không mấy khó khăn, luôn luôn vào hạng khá. Đôi khi có đứa nào ngồi cạnh mà nghỉ v́ bận chuyện nhà, đau ốm th́ bữa đó tôi tụt xuống hạng chót lớp.

Thầy giáo rất ư là khó hiểu rằng làm sao sự học của tôi nó trồi sụt một cách bất thường. Chỉ có tôi hiểu mà thôi.


https://png.pngtree.com/element_our/20190522/ourmid/pngtree-smiley-psd-image_1071807.jpg


Năm 1953,t́nh h́nh chiến sự sôi động, chính phủ gọi lính. Bố mẹ tôi gửi gấm tôi vào Ngự Lâm Quân cho quốc trưởng Bảo Đại. Các bạn tôi, đứa đăng lính tại Hà Nội, đứa xin vào trường Vơ Bị Dalat.

Dalat là đất của nhà vua, kêu bằng Hoàng triều cương thổ, vào đó phải có phép tắc phân minh. Tôi lọt được vào đất nhà vua, coi như số hên ngàn năm một thuở. Bố mẹ tôi chắc phải chạy chọt tay trong tay ngoài lắm tôi mới khỏi đi Điện Biên Phủ.

Vào lính, tôi được đeo ngay cấp bậc Hạ Sĩ, tức Cai Phúc Cánh Gà, át-si-mi-lê chứ khỏi cần tốt nghiệp quân trường ǵ sốt cả (nhưng tôi phải nộp 3 chứng chỉ về kế toán, đánh máy và tốc kư mới được cấp bậc này!).

Hơn 1 năm đi lính Ngự Lâm Quân, nói là đi lính chứ thực ra là đi du lịch, đi du hí v́ công việc tôi thu gọn trong chương tŕnh phát thanh gồm các mục thi ca vũ nhạc kịch, mỗi tuần một lần trên đài Dalat.

Thời kỳ này đúng vào thời kỳ tôi trổ mă, cho nên gặp đúng môi trường hoạt động, tôi tung hoành như chốn không người. Khi th́ mời các nữ sinh tập ca, tập kịch, khi th́ đón các ca sĩ tài tử lên đài hát hỏng ngâm nga. Lại có bận kéo cả bầy đi Trạm Hành, Phan Rang, Phan Thiết, Nha Trang tŕnh diễn văn nghệ văn gừng.

Các em tài tử giai nhân, em nào cũng thơm như múi sầu riêng, đẹp ngồn ngộn, nom cô nào cũng thiệt dễ thương. Tôi bỏ không đành, ngó ai là muốn tán người đó để làm riêng kỷ vật.

Tôi thường lợi dụng công xa, lái xe Jeep của xếp, xe Dodge-4 của ban quân xa chạy đi chơi la cà quán ăn, đi đàn đúm nhẩy nhót, đi chơi cuối tuần Đèo Ngoạn Mục, Suối Vàng, thác Prenn, Cam Ly, Liên Khương, Aáp Hà Đông, Cây Số 4…

Mỗi khi đi công tác, dẫu được đơn vị sở quan đài thọ ăn ở suốt thời gian, tôi cũng xin cái dấu đỏ đóng sau sự vụ lệnh chứng nhận đương sự ăn ở tự túc để đem về ban kế toán làm lương kiếm tí tiền c̣m.

Ít nhất một năm tôi t́m cách đi phép hai phùa. Lư do nào cũng khẩn cấp dễ sợ như điện tín đánh từ Saigon lên rằng mẹ đau nặng, bà ngoại sắp mất, bà nội lâm trọng bệnh, ông nội đă từ trần…toàn là những tin tức đứng tim, cần được phép đặc biệt về thăm nhà thiệt lẹ.

Mẹ tôi đâu có ở Saigon, c̣n các cụ nội ngoại đă qui tiên chầu tổ từ lâu rồi, nhiều cụ tôi đâu có biết mặt.

Nhờ đ̣n tâm lư ấy, tôi về phép đều đều. Cụ nào cũng được chết ít ra 2 lần do tôi đạo diễn.


https://i.pinimg.com/originals/b7/26/c5/b726c5c0fb8fda4416598cb02c113b08.png


Mỗi lần phép dăm ngày, tôi lại ở ĺ thêm một tuần cho đă. Khi lên đơn vị tŕnh diện, tôi găi đầu găi tai kể khổ, nào là cụ ngoại ngoài 80 tuổi gần đất xa trời, tay chân rũ liệt nằm thở hắt ra, nào là cụ cấm khẩu, lạnh tứ chi, các con cháu tề tựu đông đủ đợi chờ.

Cũng may là cụ tuy bệnh t́nh trầm trọng nhưng e… khó chết, cho nên các con cháu lại tan hàng để ai về nhà đó. Các xếp tôi nghe kể lể đều mủi ḷng thương cảm vỗ về.

Nam 1955, Ngự Lâm Quân tan ră, các đơn vị phân tán mỏng, gia nhập Quân Đội Quốc Gia nên tôi đổi lên xứ Ban Mê Thuột. Miền cao nguyên này đất đai ph́ nhiêu, tài nguyên phong phú như cao su, cà phê, gỗ, măng, cam, rau trái, thú rừng, hoa lan…đều là những sản phẩm miền xuôi ao ước.

Vậy mà ai lên đó cũng than đất đỏ mưa lầy, buồn hơn chấu cắn. Tên tỉnh được đọc chẹo là Buồn Muôn Thuở. Ôi cái tên như một tiền định an bài, bởi cái tên cà li đó mà làm cho cả miền Nam tiêu tùng cơ nghiệp sau này.

Nói vậy cũng tội nghiệp cho tên tỉnh, bởi tự nó đâu có tội t́nh chi. Tội chăng là kẻ đặt điều thêm bớt, vả chính tôi cũng a dua phổ biến cái tên Buồn Muôn Thuở, hóa nên nó đâm buồn, nó vận vào chính ḿnh và vận mệnh quốc gia.

Lỗi đó, tự ngay tôi đồng hóa.

Đời sống ở Cao Nguyên cũng có nhiều cái thú như đi săn, thú chơi hoa lan, thú đi rừng lội suối, chụp h́nh. Được ông xếp chịu chơi, tôi tháp tùng ổng lái xe Jeep, ôm các-bin có thêm dăm lính tráng hộ tống đi bắn nai, bắn thỏ, bắn gà rừng.

Thầy tṛ lại lặn lội đi kiếm lan rừng, đem lên xe GMC có sẵn vài giường vải bố để đặt lan vào cho nhẹ nhàng khỏi phạm đến cánh hoa. Mỗi gị lan lại được buộc hờ bằng những cuộn băng trắng tinh của bên Quân Y Viện.

Thế là chúng tôi đă xử dụng công xa, xử dụng vũ khí đạn dược, xăng nhớt, nhân sự của quân đội một cách phí phạm và trái quân luật.

Nhưng chả ai nói ǵ, không ai đem ra ṭa án nhà binh th́ đâu gọi là tội. Vả chăng, nhiều cấp lớn cũng dùng lính cả trung đội, đại đội để làm việc riêng ấy chứ, th́ cỡ tép riu đâu có đáng ǵ.

Chính mấy cái lặt vặt lem nhem ấy, tôi làm tôi mất nước…


https://i.pinimg.com/474x/bf/fa/b2/bffab262383e21f148a0503886890f38.jpg


******

CHƯƠNG 2


Trên Cao Nguyên đất đỏ mưa lầy heo hút buồn thiu, ngoài mấy cái thú đi săn, đi rừng, hái hoa lan, tôi c̣n t́m được nguồn cảm hứng mới lạ. Ấy là ngày cuối tuần ṃ mẫm đi coi coi gái Thượng tắm suối.

Người miền núi khác người miền xuôi ở mấy điểm này :

Miền xuôi, con gái đeo sú chiêng th́ miền núi để hở ngực thỗn thện, đôi g̣ bồng đảo rung rinh gánh lúa rung rinh rất là tự nhiên khỏe mạnh, không bị bó gị ép chặt.

Miền xuôi, con gái mặc quần th́ miền núi quấn sà-rông không ś-líp. Thành ra, so sánh thấy người miền núi sống thoải mái, gần gũi thiên nhiên hơn người ở miền xuôi.

Nhờ sống gần thiên nhiên nên họ thực thà chất phác tự nhiên. Những ngày nắng ấm, con gái miền núi hay rủ nhau ra suối giặt rũ, tắm táp vui vẻ.

Tôi vốn nhát nhưng lại hay ṭ ṃ, chơi ngầm nên lẳng lặng đi ŕnh các em sát nút. Họ tắm với y phục của bà E-Và, chẳng mảnh vải che thân, ngâm ḿnh dưới suối, để lộ bộ ngực no tṛn nắng rám mùi dâu.

Họ đùa nghịch tát nước vào nhau, nước tung trắng xóa; họ cười nói líu lo như chim hót trên cành. Đâu biết rằng sau lùm cây lại có một tên lính nhà binh ma mănh nḥm như cú nḥm nhà bệnh.

Những mục đi coi con gái miền núi tắm suối như thế tuy đă con mắt nhưng chưa thật đă đời.

Xét rằng chả nên khư khư một ḿnh thụ hưởng, tôi mới phổ biến hạn chế ABC cho mấy thằng bạn.

Thế là ngày cuối tuần chúng tôi có bán tiểu đội đi tuần tiễu quan sát tại chỗ.


https://i.pinimg.com/originals/c2/ef/93/c2ef93fc6f1a038d579a9362b50f076a.png


Cũng v́ đi tụm năm túm ba như thế, chỉ một vài phùa là bọn tôi bị lộ tẩy. Con gái miền núi thấy động, bèn nhẩy ào ào lên bờ quấn vội sà-rông, ù té chạy về bản Thượng.

Từ khi họ khám phá có kẻ ŕnh ṃ nh́n trộm bất hợp pháp như thế, con suối t́nh tứ bỗng vắng bóng con trai miền xuôi, con gái miền núi, để trở thành con suối mơ lạnh lẽo ơ hờ…

Nghĩ lại hành động có ư thức của ḿnh, tôi ăn năn coi đó là vô ư thức, khiến con gái cao nguyên mất đi cái vẻ hồn hậu tự nhiên mà lại hóa ra bắt chước con gái thị thành đâm ra rụt rè, e thẹn ngượng ngùng.

Tôi đă làm mất đi một phần nào thuần phong mỹ tục địa phương mà cứ tưởng chuyện vui chơi nào có hại ǵ.

T́nh đoàn kết Kinh Thượng một nhà biết đâu chả v́ thế mà ngại ngùng xa cách ? Tôi là kẻ có tội !

Người cao nguyên Ban Mê Thuột đa số thuộc sắc dân Rhadé. Lên tới em Pleiku má đỏ môi hồng, ở đây phần lớn là dân Jarai. Đến Kontum, Dakto là dân Sédang làm chuẩn.

Người miền núi có hàng trăm tiếng nói khác nhau. Nói chung th́ tính t́nh họ hiền lành, hiếu khách, chuyên nghề làm rẫy, bắt thú rừng. Nhiều bộ lạc c̣n sống đời nay đây mai đó, không định cư chỗ nào lâu dài cả.

Càng xa phố thị, đời sống của họ càng xa cách văn minh. Dân miền Daksut, Dakpek, nhiều người chỉ biết đếm từ một đến năm.

Mua chục quả trứng gà, mỗi cái một t́, mà đưa mười tiền lấy chục trứng là họ không chịu, coi như không đúng. Lấy năm cái, trả năm tiền, đếm một hai ba bốn năm là chịu. Rồi lại trả tiếp năm cái sau như thế.

Tôi đă lợi dụng ḷng tốt, nhẹ dạ, thuần hậu của họ mà buôn bán kiếm chác khá bộn. Như mua măng khô,mua mật ong, mua sừng hươu nai, mua quế. Khi thuận tiện, tôi c̣n hái trộm trái cây hoặc lấy quế vô tội vạ…

Tôi la cà các bản Thượng, lân la thân cận với các chủ làng – ví như xếp ṣng đơn vị – để mưu lợi.

Lúc th́ tôi bán xăng chạy bật lửa kèm theo đá lửa. Lúc bán muối hột, khi bán át-pia-rin, bán bánh kẹo Chợ Lớn. Một vốn bốn lời cắt cổ anh em, lại c̣n cai thầu lâm sản bán cho mối chợ.

Ông chủ làng thấy tôi có cái máy ǵ mà cứ ghé mắt nḥm ngang bấm kêu lách cách, hỏi ra là máy chụp h́nh, có h́nh người như hệt th́ lấy làm khoái lắm.

Tôi bảo chụp một tấm có h́nh ông chỉ tốn 25 tiền ta. Ông chủ làng ngần ngừ, bảo muốn có cả bà vợ và hai đứa con nữa tính bao nhiêu.

Tôi tính 35 tiền rẻ chán. Ông ta lại suy nghĩ vẩn vơ rồi cười xin tôi chụp cho cả con chó, cạnh cái nhà làng và làm sao có tí trời mây nữa được không ?

Tôi bèn làm bộ khó khăn cân nhắc, rồi đồng ư chụp hầm bà làng đủ thứ, chỉ lấy có 40 t́. Vợ chồng con cái, con chó đứng chung, tôi bấm máy đánh tách một cái là xong xuôi, hứa hẹn có h́nh đen trắng đẹp.

Lần sau về làng, tôi bán tấm h́nh, xong mua đồ, ăn nhậu với chủ làng, đôi bên vui vẻ. Tôi đă lợi dụng tâm hồn chất phác mà mần x́n ông chủ làng. Bây giờ tôi đâm ra hối hận. Ông chủ làng nếu biết, chắc ông ấy sẽ chê luôn tất cả người miền xuôi đều cá mè một lứa. Tôi làm xấu lây tập thể và gây chia rẽ đồng bào mà đâu có ngờ.

Ngày nay ngẫm lại mới vỡ lẽ ḿnh mất nước nào phải đổ vạ đổ thừa cho ai. Chính tôi làm tôi mất nước ở những cái nho nhỏ con con ấy.

Cổ nhân bảo “ Lỗ nhỏ đắm thuyền ” hẳn chẳng sai.


https://i.pinimg.com/474x/bf/fa/b2/bffab262383e21f148a0503886890f38.jpg


Ở Cao Nguyên được hơn một năm, tôi giải ngũ về Saigon kiếm việc. Nhờ người lớn giới thiệu, tôi làm công cho một hăng xuất nhập cảng ở đường Tự Do, tên là hăng Việt-Hà. Ông chủ thấy tôi nai vàng ngơ ngác như ở rừng mới về, rất lấy làm ưng ư. Bởi huấn luyện một thằng nhỏ hiền lành có bề dễ hơn là mướn mấy tên tinh ma quỷ quái.

Ông chủ khuyên tôi cố gắng học nghề, ông sẽ truyền nghề cho sau này chả mấy chốc thành triệu phú như ổng.

Tôi cũng tin tưởng như thế, nên từ đó không mua xổ số quốc gia lô độc đắc nữa mà chuyên chú học việc hành nghề.

Tôi cố gắng dành dụm tiền để sắm chiếc xe đạp cũ nên không dám ăn trưa. Buổi trưa, tôi moi trên kệ, trong hộc tủ xem có món ǵ sực được th́ ăn đỡ.

Tôi đớp bánh trứng nhện, kẹo vừng, bánh ḿ khô. Thậm chí đến cả quế chi tôi cũng nhai tuốt luốt. Chỉ sau có một ngày, v́ đớp quế quá kỹ, tôi chẩy máu cam ồng ộc, không dám mó đến món này nữa.

Qua vài tháng, nhận rơ ra rằng cái chân của tôi là đánh máy, tùy phái, lau nhà, tôi bèn xin rút lui có trật tự, bỏ mộng làm triệu phú.

Một bữa, la cà đến nhà người quen, ông này rủ tôi đi Cao Miên làm Ṭa Đại Diện Việt Nam Cộng Ḥa. Tôi coi như cơ hội ngàn năm một thuở, cơ hội bằng vàng, xin gật đầu đi ngay tút suỵt.

Chỉ vài ngày sau, tôi đă trực chỉ hướng G̣ Dầu Hạ, đi qua biên giới Việt Miên đến Phnom Penh như đi du lịch.

Hồi ấy, vị đại diện Việt-Nam – chưa có đại sứ v́ liên lạc ngoại giao chưa thuận lợi – là ông Ngô Trọng Hiếu, cựu Tổng Giám Đốc Ngân Khố, từng dịch sách với nhà văn Nguyễn Hiến Lê, văn nghệ ngoại giao số dzách.

Vị đại diện tướng mạo bệ vệ, nom rất dễ nể.

Bộ tham mưu có bác sĩ Trần Văn Thọ, bác sĩ Thái Doăn Thạc, luật sư Đinh Trịnh Chính, ông tham vụ Trần Đồng Tử.

Phía báo chí chửi cộng sản có Dương Vy Long, Song Hồ, Văn Thế Bảo. Nhân viên ṭa đại diện vài chục người, làm việc rất vui vẻ.

Tôi đặc trách mục làm sổ thông hành cho người Việt, người Miên. Công việc không có chi khó khăn mà lại có tiền, có t́nh, có kẻ chầu người trực.

Lợi dụng chức vụ phát thông hành, tôi bắt thân chủ ĺ x́ dăm ba ḅ, một xín để lấy giấy tờ mau lẹ. Người ta cần đi gấp, đâu có sá chi mấy trăm bạc nhẹ tênh.

Nhờ thế, tôi rủng rỉnh tiền bạc, cứ tháng tháng hai lần về chơi Saigon, lúc buôn lạp xường, lúc buôn vải vóc, lúc buôn vàng đem bán cho mối chợ.


https://image.shutterstock.com/image-vector/happy-smiley-emoticon-face-260nw-123417493.jpg


Tại Phnom Penh thuở ấy có dăm ba cái tiệm nhẩy đầm. Cái b́nh dân như Bar Cầu Saigon – v́ nằm trên con đường đi Saigon, cạnh cây cầu lớn – tha hồ nhẩy múa Lâm Thôn, tậïp ś-lô, pa-sô-đốp.

Mấy cái khác như Tricotin, Cambodge phần nhiều khách sộp lại chơi.

C̣n một tiệm nhẩy đầm Olympia có rất đông vũ nữ Việt Nam hành nghề, tôi thường tới lui nhẩy nhót cho oai, chứ tôi chỉ biết có mỗi một điệu ś-lô tắt đèn mà thôi. Các điệu khác tôi đều chê là tốn sức lao động.

Nhờ làm cái chân pát-po, các em có vẻ chiều chuộng đến điều, để lỡ khi ở lại quá hạn c̣n có người che chở.

Từ vũ trường, tôi la cà đến nơi các em tá túc, bắt bồ nay em nọ mai em kia như một kẻ đa t́nh thương người đồng điệu.

Các em có làm tôi hư hay không tôi không biết, chứ chính tôi vẽ đường cho hươu nai chạy, tạo cho các nàng cái cách chạy thầy chạy thuốc lem nhem, như một lối ṃn độc đạo để sau này các em ngựa quen đường cũ, hễ ai thay tôi cũng thế thi hành.

Tôi cứ tưởng ba cái lặt vặt cỏn con ấy nào có hại chi đến việc lớn. Ai ngờ té ra chính nó tích lũy lại, nhiều kẻ lem nhem đốn mạt như tôi đă đưa đẩy nước non đến hồi mạt rệp.


https://i.pinimg.com/236x/41/77/1c/41771c96a017bfa3195e446f887dcc7f.jpg


Làm việc ở ṭa đai diện, ngoài lương tháng, phụ cấp, nhà ở, tôi lại c̣n được xử dụng quỹ đặc biệt nữa.

Nếu dùng tiền này để làm đúng việc th́ đâu có nói làm chi. Đàng này, tôi dùng tiền công để chi cho việc riêng, coi như tiền chùa, tiền mă.

Sự phí phạm ấy, nếu ai cũng tự cho phép và được phép xử dụng th́ công quỹ chả mấy nỗi mà lép kẹp, nhẹ tênh.

Giờ đây, ngồi ngẫm lại chuyện cũ tích xưa, tôi mới thấy chả phải đổ vạ đổ thừa cho ai làm chi tội nghiệp.

Chính tôi làm tôi mất nước !


http://www.totalita.it/immagini/angry_emoticon-300x218.jpg


*****

CHƯƠNG 3


Làm Ṭa Đại Diện Việt Nam tại Cao Miên đâu chừng một năm, tôi đă muốn rút dù.

Vốn tính hay đổi thay, chóng chán, nên dẫu gần gũi với biển hồ Tonlésap, tôi vẫn nhớ bến Thủ Thiêm, dẫu sát cạnh Chùa Vàng Chùa Bạc tôi vẫn nhớ Lăng Ông, Thiên Mụ, dẫu thân mật với các em ca-ve thơm ngon như xoài cát tôi vẫn nhớ các nàng đồn trú tại quán bia ôm, quán cóc Saigon.

Lai nữa, xuân qua hạ tới thu tận đông tàn, nay lại một mùa xuân tiếp nối khiến ḷng tôi nhớ về chón cũ.

Chốn ấy như quê hương thứ hai của tôi, sau tỉnh Hải Dương bé nhỏ hiền ḥa nằm trên quốc lộ số 5 nối Hà Nội – Hải-Pḥng :

Ấy là Dalat.

Nhân cái cớ anh tùy phái hục hặc tranh mối pát-po tính ăn hớt tay trên tiền nhậm xà của tôi, hắn thậm thọt với cấp trên vu cho tôi bê bối, tôi liền xin nghỉ việc.

Mần ṭa Đại sứ, Đại diện, Lănh sự dẫu ở nước nào cũng là điều mơ ước của nhiều người muốn xuất ngoại phục vụ, mà lại có tiền, sống đời dư dả, cho nên tôi thôi việc lắm đứa mừng thầm, v́ có chỗ cho anh em bà con điền thế, cùng vây cánh làm ăn.

Thế là chỉ nội 24 giờ tôi đă rút khỏi xứ Chùa Tháp, qua biên giới Miên–Việt trở lại Saigon.

Ở thủ đô vài bữa, tôi khăn gói quả mướp lên chuyến xe Minh Trung tại Ngă Bẩy để lên Dalat, tá túc nhà ông anh họ.

Qua mấy năm trở lại chốn xưa, tôi thấy người cũ vẫn cứ đâu ở đó, chưa mấy đổi dời.

Con gái Dalat má đỏ như mận Trại Hầm, mắt trong như mắt nai tơ, môi hồng như trái dâu ấp Hà Đông, Cây số 4. Anh con trai nào nḥm thấy cũng mê như điếu đổ.

Người đẹp đài các như ái nữ của bác sĩ Dương ở biệt thự, có vườn hoa, đêm đêm qua khung cửa mờ ảo ánh đèn, ngân nga tiếng dương cầm thánh thót.

Khu chợ Ḥa B́nh, các cô Ninh, cô Kính chủ tiệm bách hóa Phúc Thái Lai, cổ đeo kiềng vàng, ăn nói dịu dàng, mắt liếc đong đưa.

Đường Phan Đ́nh Phùng, quá rạp hát ngọc Hiệp dăm trăm thước có tiệm chè của hai chị em cô Tâm cô Hiền. Hai đóa hoa được rất nhiều vương tôn công tử giả bộ đến ăn che mà ḷng dạ thật là hảo ngọt.

Nói chi đến các sĩ quan, sinh viên Vơ Bị ngày nghỉ cuối tuần chạm trán nhau đôm đốp ở đây.

Phía nữ sinh Yersin, Couvent, phía nữ công chức hoa hậu hoa khôi mơn mởn đào tơ phơi phới. Với các nàng tiên yêu kiều diễm lệ ấy, tôi chỉ là một anh Trương Chi chèo thuyền mà không biết thổi sáo để làm cảm động Mỵ-Nương.

Vả lại, Cai Phúc hồi ấy chưa thoát khỏi cái vỏ cai sữa, buồn thân tủi phận hẩm hiu, chả ai cảm thương cảnh cùng một lứa bên trời lận đận cho nên chỉ nuốt nước bọt, ngậm bồ ḥn ngắm trộm các nàng cho đỡ ghiền cơn nhớ khó nguôi.

Tôi cũng đoán già đoán non rằng các nàng nh́n tôi không khác chi nh́n một cậu bé con ngu ngơ bé bỏng. Đâu biết rằng trong tim tôi nó thổn thức bồi hồi.


https://hinhanhvietnam.com/wp-content/uploads/2015/08/Old_Dalat41.jpg


Cái mộng yêu hoa biết nói không thể tỏ cùng ai, tôi lang thang như một nghệ sĩ giang hồ, như một nhà thơ khốn khổ ư ử ngâm bài Lỡ Bước Sang Ngang cho ra vẻ Tài Tử Đa Cùng Phú.

Nhớ đến em xưa dưới dốc Nhà Ḅ, tôi ḅ xuống lân la hỏi ḍ tin tức. Ngờ đâu nàng đă tay bế tay bồng đ́u íu sau lưng, nom chả c̣n chi là sắc nước hương người.

Các cụ bảo “gái một con trông ṃn con mắt, gái hai con vú quặt sau lưng” thật chả sai một ly ông cụ nào.

Được cái con chị nó đi, con d́ nó lớn nên tôi đành tự hạ một cấp, ra chiều o bế cô em. Cô em là kẻ yêu hoa nên tôi có nhiệm vụ cung cấp hoa để làm duyên văn tự.

Đêm đêm, tôi vác dao đi chặt trộm những cành hoa anh đào ở bờ hồ, lối lên dốc chợ. Anh đào là loài hoa quư của Nhật. Nhật Bản có tặng cho thành phố Dalat vài trăm cây làm cảnh, chở máy bay qua, quư như vàng nén.

Khi hoa anh đào nở, cả tỉnh đẹp mà khách phương xa đến du ngoạn cũng đẹp lây. Tôi lựa cành nào đẹp, phạng ngay một phát và chạy ù té về dốc Nhà Ḅ.

Chưa hết, công viên nơi nào có hoa là có tôi lởn vởn đến hái. Cả đến tư gia tôi cũng không từ. Dọc đường Hoàng Diệu, Phan Đ́nh Phùng, khu nhà đèn, khu nhà thương, nhiều nhà trồng mẫu đơn, hoa cúc, hoa hồng, hoa thược dược đẹp tươi mơn mởn, cứ tối đến là tôi đi ngắt trộm.

Có lần chủ nhà ŕnh sẵn, tôi mới chợt tới hàng rào là họ đă hô hoán lên vác đ̣n gậy đuổi đánh. Tôi hoảng hồn vắt gị lên cẳng chạy thừa sống thiếu chết mới thoát thân.

Ái t́nh nó làm tôi mụ mẫm một phần, nhưng chính như tôi bản tính đă hay táy máy ăn cắp vặt từ nhỏ cho nên lúc nhớn lên các hành động xấu xa chỉ là tập quán.

Ngày bé tôi ăn cắp ở nhà, bây giờ phá hoại ăn trộm của người, của công cộng, vi phạm an ninh trật tự, tài sản quốc gia và đồng bào, nào tôi có biết nó tệ hại sao đâu. Chỉ coi như vui chơi cuối trời quên lăng, văn nghệ thôi chứ nhằm nḥ, tác hại nỗi ǵ.

Ấy đó, mấy cái đó tích tiểu thành đại, tôi hư lúc nào không biết. Mà vẫn tưởng ḿnh công dân gương mẫu đàng hoàng.

Nh́n quanh, tôi thấy tôi c̣n lương thiện hơn chán vạn kẻ khác. Những đứa họp bè kéo đảng chặt cây cưa gỗ đem từ Định Quán về Biên Ḥa phát mại chia nhau bỏ túi.

Những tên bắt lính đem GMC chở thông từ Dalat mang về Saigon bán dịp Giáng Sinh.

Những kẻ thông đồng với nhân viên lâm sản, với trại kiểm soát để chở gỗ lậu hàng lậu mới là bê bối.

Nhờ bê bối đó, cộng sản mới lợi dụng chở súng đạn, thuốc nổ vào thị thành để đặt ḿn giết dân lành, đàn bà con nít, nên chiến tranh mới đằng đẵng bao năm.

So sánh với những hạng đó, tôi không là… Phật th́ cũng là… á thánh.

Cũng bởi tự so sánh với những quân khốn lịn như thế, tôi cá mè một lứa như chúng nó chứ có hơn ǵ. Chỉ khác nhau mức độ mà thôi.

Mức độ nào cũng là hành động đưa đến mất nước.


https://theraphaelremedy.com/wp-content/uploads/2014/05/images_Emoticons-Taking-Nap.jpg


Mùa xuân trên cao nguyên xứ anh đào, ai may mắn có đào cặp kè thủ thỉ th́ thật ô-mê-ly tuyệt cú mèo số dzách.

Nh́n những cặp nam thanh nữ tú áo quần đẹp tươi nắm tay nhau ngả nghiêng trên đồi thông, ngồi bên ven hồ, ghềnh đá hoặc sát vai trong rạp xi-la-ma, nơi tiệm cà-phê, tiệm ḿ, tiệm phở, ḷng tôi lại thêm nỗi cô đơn chan chứa can tràng.

Tôi bơ vơ như tiếng hát Chế Linh tang thương rách nát, lủi thủi lang thang lạc lơng giữa đường… Trời xuân đẹp, nắng xuân trong, t́nh xuân nồng, gái xuân rực rỡ. Những tà áo mầu áo thêu áo len e ấp vườn Bích Câu, hồ Xuân Hương, suối Cam Ly, đường Minh Mạng, dốc Duy Tân, chợ Ḥa B́nh…

Những sinh viên sĩ quan Vơ Bị quân phục thẳng nếp, huy hiệu phù hiệu cấp hiệu sáng ngời, giầy đen bóng loáng đi đứng hiên ngang.

Xe hơi, xe Vespa, Lambretta, Honda, xe ngựa lên dốc xuống đèo vui như ngày hội.

Đầy trời xuân cỏ hoa rộn nở tưng bừng. Hoa hồng, hoa cúc, thược dược, mẫu đơn, cẩm chướng, bất tử, hoa lan hoa dại lưng đồi. Dalat giống như một cảnh thần tiên của thiên đường hạ giới.

Dẫu cảnh đẹp mê ly là thế mà ḷng tôi lạnh ngắt vắng tanh. Cho nên người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, qua mấy ngày xuân con én đưa thoi, tôi lại đáp chuyến xe đ̣ qua Liên Khương, Bảo Lộc, Định Quán, Long Khánh, Biên Ḥa để về Saigon t́m kế sinh nhai.

Việc đầu tiên là xin tá túc chỗ quen khu Tân Định, xong trích ngân khoản dự trữ sắm chiếc xe đạp thay cho chiếc xe lô-ca-chân, rồi nạp đơn dăm bẩy nơi xin mần việc chính phủ.

Nhờ có tí cựu quân nhân, tôi được tuyển dụng làm thư kư công nhật tại Tổng Nha Kiến Thiết.

Tổng Nha này là hậu thân của Bộ Kiến Thiết thời kiến trúc sư Hoàng Hùng làm bộ trưởng, ở đường Phan Đ́nh Phùng gần đài phát thanh Saigon.

Tôi chăm chỉ làm việc như một công chức gương mẫu, được vài ba tháng th́ bắt đầu dở chứng. Tôi bắt chước những dân bê bối chuyên môn đi trễ về sớm, lấy giấy pơ-luya, dụng cụ văn pḥng đem về nhà.

Lắm lúc lại lợi dụng giờ chánh phủ chuồn đi phố lo chuyện riêng, ăn nhậu, làm áp-phe với thân chủ. Ai muốn nhờ vẽ họa đồ nhà cửa, muốn có giấy phép sớm, mua vật liệu rẻ, xây cất lố với họa đồ, tôi đều trung gian điều chỉnh.

Nhờ vậy, lương tháng ba cọc ba đồng mà tôi vẫn rủng rỉnh tiền bạc.

Lâu lâu tôi lại o bế cấp trên, biếu xén quà cáp chút chút để xếp che chở, phe lờ cho mấy vụ lem nhem.

Hồi ấy có phong trào học đêm, anh em công chức quân nhân tối tối ṃ đi học tại Hội Khuyến Học Bổ Túc đóng đô ở trường tiểu học xế cửa Tổng Nha Kiến Thiết.

Đủ mọi thành phần quân cán chính, đủ lứa tuổi tác già trẻ. Lại có cả các tên tuổi quen thuộc hiện diện dưới đèn.

Như nhạc sĩ Hùng Lân “Khỏe V́ Nước”đêm đêm ôm sách, kèm theo cái đèn điện, ḍng giây tḥng ḷng dưới bàn, cắm điện sáng choang – bởi ông mắt cận thị hơi nặng nên cần nhiều ánh nến.

Có ông vợ con cả bầy lớn bé cũng cắp cặp, đạp xe đạp đi học như Cao Bá Vũ sau này là một giáo sư triết khá nổi tiếng.

Anh nào đi học cũng mong kiếm cái mảnh bằng Tú Tài I, Tú Tài II để làm bước tiến thân.

Tôi cũng lóp ngóp giữa số đó. Được cái là tôi nhă nhặn, hay nhường nhịn cho nên anh em đậu xong Tú Tài, lên Văn Khoa, Luật Khoa, tôi vẫn lẹt đẹt tú đơn chờ tú đụp.

Học hành chưa nên cơm cháo ǵ, đánh đoàng một cái, Bộ Quốc Pḥng ra lệnh rằng hễ ai có Tú Tài I trở lên phải mau mau ca bài Ta Đi Ṭng Quân Cứu Nước.

Tôi từng một thuở yêu đàn, đàn đúm trong ban văn nghệ Ngự Lâm Quân rổi Đệ Tứ Quân Khu Ban Mê Thuột nên coi như cựu quân nhân không hề théc méc.

Thế mà một bữa đang mần việc nhà nước, nhận tờ giấy gọi nhập ngũ, ḷng tôi ngẩn ngơ tái tê, hăi ơi là hăi.

Lệnh trên hành quân không cần xét cựu quân nhân hay tân quân nhân, cứ tú đơn là a-lê hấp đi lính, khiếu nại ǵ hạ hồi phân giải.

Cầm lệnh nhập ngũ, tôi lo lắng, sợ hăi, cứ y như hễ đi lính là ḿnh cầm chắc cái chết trong tay.

Chả bù với những tối ngồi trên gác trọ cùng nhạc sĩ Tuấn Khanh, người viết nhạc kẻ đặt lời các bài hát ca tụng chiến công hiển hách của Chiến Sĩ Cộng Ḥa, tôi đă như một người lính can trường cùng đồng ngũ vào sinh ra tử, hiên ngang tay súng bảo vệ sơn hà.

Bây giờ vào việc mới rơ cái bộ mặt chuột hèn nhát, khiếp nhược của ḿnh. Th́ ra, nói một chuyện c̣n làm lại là một chuyện khác.

Tôi linh cảm cả hiện tại lẫn tương lai xụp đổ cái rầm. Mà con đường phải tiến tới lại là độc đạo. Ấy là đường vào quân trường là đường về quê hương.


E_VP-DiL2qA


Chẳng đặng đừng, tôi thu xếp hành trang một gói, theo chuyến xe buưt ghé Quân Vụ Thị Trấn Saigon tŕnh diện. Chờ đến chiều tà có đông đảo, anh em cùng nhau leo lên chiếc xe GMC qua ngả Lê Văn Duyệt, Ngă Tư Bẩy Hiền trực chỉ hướng Quang Trung đến Trại Nhập Ngũ Số 3 làm thủ tục vào trường.

Cuộc đời tôi tưởng chuyến này là đi đoong mút mùa lệ thủy, ai có ngờ đâu chính lại là đường mây rong ruổi thênh thang nhẹ gánh tang bồng!!!

Âu cũng là định mệnh đă an bài, đục nhờ trong chịu…

C̣n tiếp ,

hoathienly19
12-04-2020, 21:45
CHƯƠNG 4


https://anhxua.net/images/trung-tam-huan-luyen-quang-trung-208052586527015.jpg


Trại Nhập Ngũ số 3, như phần đông các thanh niên ở tuổi quân dịch đều có nghe loáng thoáng, nằm trong khu vực quân sự mạn Quang Trung, Hóc Môn.

Khi tôi nhẩy từ GMC xuống đất đă thấy doanh trại đầy người, nhưng toàn là “xi-vin”, chưa ai quân phục, ngọai trừ một số quân nhân chính cống lo canh gác, làm văn pḥng.

Chỉ sau một hai bữa nằm chờ khám sức khoẻ, tôi đă biết cách tháo bù-loong của giường gỗ ra làm búa để đập bẹp đồng tiền nhôm tạo thành cái nhẫn chơi.

Chiều chiều, chui rào ra ngoài ăn nhậu xong tối lại ṃ vào.

Khi đi khám tại Tổng-Y-Viện Cộng Hoà về tai mũi họng, chụp phổi, linh tinh, thế nào tôi cũng leo tường thành, nhẩy ra đường cái đáp xe lam xuống chuồn về Saigon du hí.

Hôm sau, chuyến GMC chở thanh niên đến cửa Tổng-Y-Viện, tôi lại chờ sẵn, nhẩy tót lên xe, coi như không có chuyện ǵ xảy ra cả.

Như mọi lần, thanh niên làm thủ tục nhập ngũ chỉ nằm ở trại dăm bảy ngày là xong. Đủ sức khoẻ th́ đi mà thiếu điều kiện là về.

Đến phiên tôi đi lính, năm đó là năm 1963, t́nh h́nh lộn xộn, có ông đại sứ Ноа-Kỳ Ca-Bốt-Lốt qua An-Nam, chính phủ h́nh như không muốn thêm nhiều rắc rối cho nên dù quân trường Thủ Đức đă khai giảng một tháng, đám thanh niên già, thanh niên trẻ vẫn nấn ná chờ và phút chót họ leo lên xe GMC, trực chỉ Thủ Đức.

Quân trường đành phải lập thêm một đại đội, tức đại đội 5, và chúng tôi tập luyện ngày đêm, không đi phép cuối tuần để theo kịp các đại đội khác.

Đối với người thanh niên b́nh thường, khi Bộ Quốc Pḥng gọi đi lính, th́ anh ta coi đó là chuyện chấp nhận dĩ nhiên. Trai thời lọan mà lị. Đằng này, tôi tưởng như trời sập, cực chẳng đă đành chịu nhưng t́m cách chui rúc an thân.


Sau thời gian một tháng học quân sự, đeo súng ôm ba-lô đi băi, tôi о bế ông Trung Đội Trưởng, nại cớ chân yếu tay mềm xin được ở lại trại lo lắng công tác báo chí, vệ sinh, thu dọn văn pḥng và làm bất cứ chuyện ǵ riêng của ông Trung Đội Trưởng như lau xe vespa, đánh giày, đóng tủ sách, thay v́ cùng anh em leo lên đồi 29, đồi 30 học chiến thuật bắn súng lớn, ném lựu đạn, đốt giây ḿn, v.v...


https://anhxua.net/photo/700857349959773.jpg


Lâu lâu tôi lại kiếm được cái phép đặc biệt về Saigon một hai ngày “công tác đại đội”. Những ngày không đi băi, sinh viên sĩ quan học ở lớp, hoặc tập thể dục quân sự, hoặc ḅ chiến thuật, leo giây trong sân trường th́ tôi tham gia rất tích cực, xuất sắc.

Qua ba tháng “quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu’’ tôi nào đă đổ tí mồ hôi nào đâu - sinh viên được chọn ngành để đi binh chủng, binh sở.

Binh chủng lớn như Không Quân, Hải Quân... Anh nào ở lại học đến cuối đoạn đường chiến binh là đi bộ binh, “nữ hoàng của chiến trường.” Ngoài binh chủng là binh sở, các sinh viên có thể được đưa về các ngành chuyên môn tùy thuộc khả năng trắc nghiệm.

Thánh nhân đăi kẻ khù khờ, chả hiểu khi trắc nghiệm làm sao mà tôi lại có tên đi lính thợ may. Thằng bạn tôi là Lê Bảo Hùng (anh ruột ca sĩ Lệ Thanh) cũng ABC khoanh у boong như tôi, nó nhẩy lên xe làm lính tài xế !

Trong nhà binh có nhiều cái vui nhộn con con làm cho đời lính cũng đậm đà.

Anh cu nào về ngành tiếp vận quân nhu th́ gọi bằng “lính thợ may” v́ ngành này nổi tiếng có cái xưởng cắt may Trung Tâm Sản Xuất Quân Trang sát nách Hải Quân gần nhà thương Đồn Đất Grall.

Cậu nào về Quân Vận, gọi là “lính tài xế”. Đứa nào đi Quân Cụ th́ gọi là “lính già” mặc dù ai cũng hiểu ngầm rằng “cụ” là dụng cụ khí giới súng ống đạn ḿn...


https://anhxua.net/photo/700859436626231.jpg


Thế là thoắt cái, tôi về trường Quân Nhu nằm trong khuôn trại Lê Văn Duyệt, tức Biệt Khu Thủ Đô, học chuyên môn mấy tháng.

Cả khoá 9 nút Quân Nhu tức khóa 16 Thủ Đức có lối ba chục tên, cộng với sinh viên địa phương quân hai chục mạng, học hành trối chết đủ các môn từ gạo đường tới mắm muối, quân trang, quân dụng đến sửa chữa dù, thả dù tiếp tế, mai táng, quân khuyển, xăng nhớt, tồn trữ, tiếp liệu...

Khoá 9 nút, hầu hết sinh viên sĩ quan là sinh viên đại học hoặc tốt nghiệp đại học, chỉ có tôi lẹt đẹt yếu ớt chả giống ai.

Cả cuộc đời đi học, tôi đều lêu lổng, chỉ nhờ cóp bài mà lẽo đẽo với bạn bè lên lớp. Nay biết không thể nhờ cậy vào ai, lại biết thân phận ḿnh yếu thế nhờ vả chạy chọt xin xỏ nên tôi dốc hết tim gan t́ phế học hành.

Vừa học tôi vừa cầu Trời khẩn Phật, A-la cho tôi đậu cao để được lựa chỗ tốt gần Saigon. Hồi đi lính Thủ Đức, tôi đă có vợ con rồi, nếu phải đi xa ắt gia đ́nh đ́u hiu nhiều khê lắm lắm...

Nhờ cầu nguyện dốc ḷng, lại học hành gạo cụ, khi ra trường tôi lănh cái thủ khoa làm ngơ ngẩn từ thày dạy đến anh em, xuống cả đến quán cà- phê của cô Hồng, cô Thúy.

Thế là “ô-tô-ma-tích” tôi lựa Saigon, mần việc ngay tại Nha Quân Nhu (sau các Nha đổi thành Cục) trong trại Lê Văn Duyệt.

Với cái lon nửa hạ sĩ quan nửa sĩ quan là lon chuẩn úy, tôi làm ở sở Tiếp Vận, đặc trách nhượng vải và làm việc văn pḥng chánh sở. Chỉ một thời gian ngắn, tôi lại biết những cú làm tiền ngon lành, dễ ợt.

Món thứ nhất là nhượng vải cho sĩ quan, loại ka-ki vàng 35 đồng một thước, mỗi sĩ quan có thể xin nhượng 8 thước để tự thực hiện quân phục.

Tôi ngồi chỗ đó, lâu lâu lại lục hồ sơ cũ lấy ra một đơn xin nhượng vải tập thể của đơn vị X, Y, Z nào đó mà tôi đề nghị từ chối, tẩy xoá dấu vết cũ, làm phiếu tŕnh xin chấp thuận nhượng vải xong tŕnh kư phiếu này rồi mầy ṃ xuống xưởng may chạy chọt mua vải với giấy tờ hợp pháp phân miêng.

Với số vải của vài chục sĩ quan, đem bán ra ngoài thị trường Phú Nhuận rẻ ra là 80 đồng một thước, vị chi mỗi thước tôi lời 45 tiền, đem nhân sơ sơ với vài trăm mét kaki, tôi ẵm ngon ơ số tiền trời ơi đất hỡi.

Tôi cứ tưởng như thế là vô tội vạ, v́ bởi nhiều ông lớn thông đồng khoa học với nhà thầu vải, trà , cơm xấy khô, quân dụng, thực phẩm có cả vài chục triệu đồng th́ cái thứ gà què ăn quẩn cối xay như tôi có bơ bèn ǵ.

Sau này tôi mới biết, nói riêng về quân nhu thôi, nhiều khi người lính bỏ đơn vị không phải v́ sợ địch quân, trái lại tinh thần chiến đấu của họ rất cao rất vững, nhưng phải trốn về nhà v́ đơn vị đóng ở miền Cà Mau ruộng đồng bao la, Năm Căn heo hút muỗi sa từng bầy; không có cái mùng để nằm ngủ.

Thiếu cái mùng cá nhân trùm đầu, muỗi đốt đau quá chịu không thấu.

Hoặc người lính miền cao nguyên miền Trung vào những ngày tháng lạnh lẽo thấu xương mà thiếu cái mền th́ làm sao chịu nổi ? :112:

Những nguyên do thật giản dị, nhỏ bé ấy, nếu cấp chỉ huy ư thức được th́ cấp nhỏ không bán vải kaki kiếm lời, cấp lớn không làm hao hụt công quỹ, người lính được tiếp tế đầy đủ tối thiểu th́ sự chiến đấu c̣n hăng say tích cực hơn nữa.

Trong hoàn cảnh dù thiếu thốn như thế, lạ thay chỉ có một số rất nhỏ chiến sĩ xuống tinh thần, c̣n hầu hết đều quyết tâm chế ngự, hy sinh chống kẻ thù Cộng Sản.

Đất nước nhờ vậy mới có những chiến sĩ can trường dũng cảm anh hùng bảo vệ miền Nam qua những cơn băo tố cuồng phong khiến cho chính kẻ thù phải khiếp phục và thế giới c̣n lương tâm phải xúc động bàng hoàng.


kpwnEwPtzDk


Ngoài chuyện bán vải, tôi c̣n đi xin xăng để phát mại nữa.

Kho tồn trữ xăng nào cũng dư xăng v́ được phép hao hụt bốc hơi của bồn xăng theo tỉ lệ qui định. Thực tế, xăng không bốc hơi nhiều như thế, nên đơn vị tồn trữ xăng có thể ngọai giao qua lại với anh em, với các đơn vị bạn để đổi chác loanh quanh.

Tôi th́ khác, có xăng là đem bán liền tù t́, để lâu nó bốc hơi cũng phí đi, mà đơn vị cho chỗ khác, đằng nào rồi xăng cũng đổ vào b́nh xe hơi, xe honda, xe vespa, xe lambretta, xe đ̣, tàu thủy...

Tôi tự cho thế là tôi vô tội, bởi rằng c̣n bao nhiêu kẻ khác làm chuyện tầy trời như bán thuốc men, bán gạo, bán vũ khí, bán tài liệu cho Cộng sản th́ chúng mới đắc tội chứ !

Nói khơi khơi chả ai tin đâu, chỉ khi nào cháy nhà ra mặt chuột, lúc ấy mới rơ mặt nào là mặt mo, mặt nào mặt thớt hoặc mặt sứa gan lim đă góp sức xô đẩy cả một giang sơn gấm vóc vào tay quỷ đỏ.

Nhờ mần việc ngay tại Saigon, lại cấm trại liên miên 100 phần trăm, tôi tiếp tục sách đèn đi thi tú đụp.

Số tôi có duyên nợ với trường thi, năm nào cũng ghi tên những mong bảng hổ đề danh mà lận đận mấy keo mới dính. Tôi dính bởi được cóp bài của thí sinh ngồi chung quanh và nhờ tài quay phim số dzách.

Có lần giám thị bắt quả tang tôi đang lục tài liệu dưới gầm bàn nhưng ông lắc đầu lẳng lặng bỏ qua.

Tôi đoán là ổng thấy tôi mặc quân phục cũng ngán, e tôi thù hận cho cái búa th́ khốn. Cũng có thể ông ấy thấy tôi già đầu c̣n mài đũng quần thi cử nên thương hại. Hoặc ổng thấy cái bộ mặt tôi hiền lành chất phác thật thà nên tha làm phúc. Ấy, chính mấy cái đứa thật thà lại là cha quỷ quái. Như tôi chẳng hạn.

Qua dăm phùa vác bút đi thi, tôi như cá vượt vũ môn, ḷ ḍ vào ngưỡng cửa đại học Luật Khoa học đại cho có tít sinh viên lả lướt với đời.

Mặc dù lên quan, tôi vẫn ở căn nhà ngọai ô khu vực Đồng Ông Cộ bèn Gia Định. Khu này nửa tỉnh nửa quê, vừa có điện có ti-vi, lại vừa có khu vườn rau xanh ngát một màu, có tre xanh, ao cá.

Với số lương nhà binh ít ỏi mà sinh họat gia tăng, tôi tiết kiệm ngân quỹ gia đ́nh bằng cách ăn cắp điện. Dùng một cái sào dài, tôi móc một đầu giây xuống ao khiến cho cá bị điện giật nằm phơi bụng lềnh bềnh, tôi vớt về nấu canh chua cá kho tộ.

Đám trẻ quanh hàng xóm, có đứa thấy tôi làm ngon lành cũng bắt chước, chẳng may mó vào giây điện cao thế, bị giật chết ngoéo.

Chưa bắt được cá nó đă nằm ngay đơ hết thở. Tôi cảm thấy áy náy lương tâm mất mấy tiếng đồng hồ, cho rằng v́ ḿnh đầu têu mà thằng bé bắt chtrớc đến toi mạng.

Sau tự an ủi rằng nó làm nó chịu, ḿnh đâu có xúi giục nó đâu nào. Lương tâm lại êm ru bà rù như không có ǵ phiền muộn...


h8azbgr4n-E


Trong nhà, tôi mua được cái máy lạnh cũ nửa ngựa, c̣n tốt у nguyên. Tiền điện cho cái máy này sơ sơ phải hơn chục ngàn mỗi tháng. Sức voi mới chịu nổi.

Thế là tôi biến chế, lấy điện đường câu thẳng vào máy, không qua đồng hồ điện. Chạy điện chùa thả dàn chả mất xu nào xất cả. Tối nằm máy lạnh, coi ti-vi đài tàng h́nh số 9 ngó cậu Hùng Cường mí lị mợ Mai Lệ Huyền lắc lư con tàu đi song ca kích động, ngắm mợ Thanh Lan nũng nịu dễ thương giọng hát ngọt ngào, rồi theo rơi Tùng Lâm Xuân Phát chọc cười bể bụng, nh́n cậu Nhật Trường áo tây vắt vai lừng khừng trong tiếng ca bay bướm, thích thú coi ban AVT khăn đóng áo dài tŕnh diễn độc đáo tài t́nh, ru hồn vào cơi mộng theo tiếng hát Thái Thanh mê ly tuyệt vời bay bổng...

Tôi đă chẳng thấy chút nào lầm lỗi băn khoăn mà c̣n tự coi như cuộc đời vừa qua mấy nỗi gian truân, nay là lúc được quyền hưởng thụ đôi chút hạnh phúc thanh b́nh...

Cho dù đêm đêm bừng giấc, vẫn nghe vọng về tiếng súng xa xôi...


2RWUQBGuQEk




CHƯƠNG 5


Đôi lúc, từ căn nhà ngọai ô Đồng Ông Cộ nh́n về phía Thủ Đức, Biên Ḥa, có những đóm mắt hỏa châu chập chờn soi sáng, tôi lại bâng khuâng nghĩ đến số phận hẩm hiu của đất nước ḿnh.

Đất nước nằm bên bờ đại dương h́nh cong chữ S mà sao nom trên bản đồ, tôi cứ thấy hiện lên chữ “SOS”.

Chữ S đầu tiên là ranh giới giữa ta với Lào và Cao Miên. Chữ о là h́nh thể đảo Hải Nam, nằm ngang với Thanh Hoá, Vinh, Hà Tĩnh. Chữ S sau cùng nằm ven Nam Hải, sóng nước bao la.

Đất nước tôi chắc v́ thế nên lúc nào cũng ở trong t́nh trạng báo động, giới nghiêm, thiết quân luật, lúc nào cũng khẩn trương, nguy cấp...

Mà nh́n kỹ, nào có thấy ǵ là gây hấn, chiến chinh ? Cảnh toàn cảnh đẹp như Vịnh Hạ Long, Hồ Hoàn Kiếm, Hương Giang, Ngự B́nh, Ngũ Hành Sơn, Cam Ranh, Nha Trang, Đà Lạt, Vũng Tàu, Cửu Long, Tiền Giang, Hậu Giang, Hà Tiên, Phú Quốc...

Địa danh nào cũng mang những tên hiền ḥa phúc hậu nhu ḿ như Ḥa B́nh, Hưng Yên, Kiến An, Nam Định, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Phước Long, An Lộc, Phú Cường, Biên Ḥa, Vĩnh Long, B́nh Long, B́nh Tuy, B́nh Giả...

C̣n nói về con người th́ người nào cũng có cái tên nhẹ nhàng ư nghĩa từ hán tự, kinh điển, danh nhân như Xuân, Hạ, Thu, Đông, Mai, Lan, Cúc, Trúc, Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh, Giáng Hương, Hằng Nga, Bích Ngọc, Vân Kiều, Nguyệt Nga, Thủy Tiên, Mai Hoa, Quư Phi, Hồ Điệp, v.v...

Cảnh là cảnh đẹp, tên là tên xinh, đất là đất lành chim đậu. Ấy thế mà mấy ngàn năm dựng nước, lịch sử đă ghi biết bao nhiêu tang thương ngẫu lục rối bời.

Theo cái đà ấy, đến lượt tôi cũng tiếp tục trôi theo vận nước điêu linh thống khổ, gần hết cuộc đời lớn lên và sống trong chiến tranh.

Xưa kia th́ ngoại bang cai trị đàn áp, ngày nay th́ chủ nghĩa vô thần ác quỷ hiện h́nh người reo rắc đau thương làm cả nước bị đọa đày...

Nên giữa những cánh đồng bao la thơm mùi lúa chín lại có thêm những ṿng giây kẽm gai quanh đồn pḥng ngự.

Nên bên cạnh những bà mẹ già tóc bạc phơ lại có những người vợ trẻ đầu quấn khăn tang bồng con thơ dại. Nên những nấm mồ phủ cờ vàng ba sọc đỏ lại nối tiếp nhau trong nghĩa trang bốn vùng chiến thuật.


GmwvWD-q_oc


Ngành Quân Nhu của chúng tôi chẳng những lo nhu cầu ăn mặc, xăng nhớt cho quân nhân mà lại c̣n phụ trách cả vấn đề chung sự.

Khi người lính giă từ vũ khí mà không về nhà, rủ nhau vào nằm nghĩa trang yên tĩnh nghỉ ngơi. Ở đó, có đủ cấp bậc từ tướng đến tá đến úy đến hạ sĩ quan, đến lính.

Ở đó có đủ tôn giáo họp mặt như Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành, Cao Đài, Ḥa Hảo... Ở đó có đủ huy chương từ Bảo Quốc Huân Chương đến Quân Phong, Quân Vụ Bội Tinh...

Ở đó tôi có nhiều bạn bè nằm xuống hồn nhiên, lặng lẽ, thanh thản. Khi những ngọn nến hắt hiu rồi tàn lụn, những nén nhang nghi ngút xong tắt ngúm, những tiếng khóc nức nở thê thảm gào thét ch́m dần, trôi theo đất cát xuống nắp quan tài... th́ c̣n lại chỉ người nằm xuống bạn bè cùng mưa gió, với trăng sao, với tiếng nỉ non côn trùng rên rỉ...


fzOfW5itMSM


Tôi thường có công tác ở những chốn vui buồn, vui nhiều như đám hỏi, đám cưới; vui vừa như đám tiệc, đám ăn; vui ít như đám... giỗ, đám chạp.

C̣n chỗ buồn ít như nhà thương, buồn nhiều như... nhà xác !

Trong các chốn buồn vui như thế, tôi thích thỉnh thoảng được đến thăm chỗ buồn nhiều. Nơi nghĩa trang có đầy đủ những nét đậm đen đau xót đó. Chỉ ở nơi ấy, tôi mới được dịp gần gũi với chính tôi, kiểm điểm xem ḿnh đă làm được ǵ - không phải nghĩ lớn lao như làm ích lợi cho đất nước đâu, mà chỉ là cho anh em đồng ngũ - để đỡ mang tội với chiến hữu.

Những lúc nghe tiếng khóc ngất của gia đ́nh tử sĩ, tiếng trẻ thơ khóc ṿi ngủ ṿi ăn, tiếng kèn vĩnh biệt ngân xa thăm thẳm, tôi cũng thấy ngậm ngùi không ngăn nổi ḍng nước mắt.

Nước mắt tôi xót thương kẻ ở, người đi một mạch đă đành, mà cũng là nước mắt một kẻ ăn năn hối hận về những tội của ḿnh lỡ phạm.

Khi nghĩa trang G̣ vấp đă đầy đủ quân số, chúng tôi có thêm Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa nằm bên xa lộ, trên ngọn đồi cao, thênh thang trời mây bát ngát.

Nơi đây, dẫu là nơi nghĩ b́nh yên của những chiến sĩ quả cảm, can trường, vẫn có những cặp t́nh nhân sinh viên, những đôi lứa trẻ măng d́u nhau thủ thỉ qua lối ṃn uốn quanh ṿng ốc trên đồi.

Có những ngôi mộ cỏ mọc xanh ŕ, mộ bia cũ kỹ. Có những nấm mồ trồng hoa, trải đá bao quanh, với mộ bia khắc ghi họ tên, ngày tháng năm sinh, năm tử trận.

Dân tộc ta là một dân tộc thi sĩ, mỗi người là một thi sĩ thật không ngoa. Ngay cả đến lúc đau khổ tột cùng, ta vẫn xổ thơ văn để bày tỏ khúc đoạn trường. Trên một bia mộ đá, tôi đọc thấy hai câu thơ này:

Chàng vui tiên cảnh đà an phận

Thiếp với năm con luống ngậm ngùi...

Qua một bia mộ khác, lại thấy:

Sống làm chiến sĩ anh hùng

Chết coi nhẹ tựa lông hồng phù du...


Ôi cha ! Một dân tộc thi sĩ, hồn thơ bay bướm lả lướt như thế mà chịu cảnh địa ngục trần gian, phải làm thơ phúng điếu thay lời !


ZiEoYXTXtCM


Tôi có mấy người bạn họ cũ từ thời tiểu học, khi nhớn lên chúng nó ca bài “ta đi ṭng quân”.

Thằng Nguyễn Trọng Quyền tức “Quyền Thịt Quay” - v́ nhà nó bán heo quay - đi lính đóng tới lon quan ba, quanh năm lùng giặc mạn Kiến Ḥa, mặt mày đen như củ súng.

Hơn chục năm không gặp nhau vẫn nhắc đến thịt quay nhà nó. Đùng một cái tới lúc gặp nhau th́ nó chả thèm nói câu nào. Tôi đứng canh xác nó quàn tại nghĩa trang, phủ cho nó lá cờ tổ quốc ghi ơn và đưa nó vào ḷng đất mẹ. :112:

Thằng cháu tôi đi lính tàu bay đeo lon trung úy, trong một chuyến bay băo bùng, thân tàu va vào núi tan tành. Xác nó tả tơi đâu đó, quân đội chỉ c̣n dăm ba kỷ vật gói ghém bỏ vào quan tài đóng lại để thân nhân chôn cất. :112:

Tôi biết linh hồn nó quanh quất với gia đ́nh. Nấm mồ trên nghĩa trang đă được ba nó, thày học cũ của nó và tôi, chúng tôi chở gạch cát xi-măng xây cho đẹp đẽ, trồng hoa giấy, dọn dẹp tinh tươm. Nó mới ngoài hai mươi, chỉ một lần yêu th́ người con gái lại đa t́nh bay sang cành khác, nên ba năm t́nh lận đận, lúc chết vẫn cứ yên chí rằng người yêu vẫn đợi vẫn chờ. :112:

Nguyễn Ngọc Sơn, thế cũng là định mệnh ! Lại có thằng bạn chọc trời khuấy nước, đi Vơ Bị Đà Lạt năm 1953 mà cấp bậc khi thăng lúc giáng lúc huề, chỉ v́ ba gai, lả lướt với đào.

Nhưng mà đánh trận th́ nó ch́ lắm.

Những ngày cuối cùng của tháng tư đen, nghe nói nó tử thủ Long Khánh, đánh Cộng Sản rất tới, giữ chiến tuyến vững như bàn thạch. Chả hiểu mô tê ra làm sao, bom đạn bị hạn chế, máy bay hạn chế, để cho quân CS ùa vào pḥng tuyến.

Trung tá Lê Quang Đ́nh, tiểu khu phó Long Khánh ở lại cùng anh em chiến đấu tới cùng. Và nó đă đền xong nợ nước tại chiến trường Xuân Lộc. Tôi không tin rằng xác nó được mang về nghĩa trang vào giây phút dầu sôi lửa bỏng đó, nhưng chắc chắn linh hồn nó đă cùng đồng ngũ rủ nhau về tề tựu nghĩa trang như một điểm hẹn ḥ.:112:


R7bxY3IFR-Q


Chú em tôi Trần Kính Trực, sĩ quan pháo binh Long An đi trận đạp phải ḿn, đưa về Tổng-Y- Viện Cộng Ḥa th́ tắt thở. Nó từng rót vào đầu Cộng Sản những cú trọng pháo nẩy tung người. Ngày nó từ bỏ anh em đơn vị một ḿnh thơ thẩn nghĩa trang, đôi dịp đi công tác tôi cũng ghé thăm chốc lát, thắp cho nó một nén nhang, th́ thầm với nó dăm câu tâm sự. Rồi lại âm dương cách biệt, hai ngả phong trần.

Thằng Nguyễn Văn B́nh đi lính với tôi từ hồi ở Ban-Mê-Thuột đệ tứ quân khu, làm pḥng 5 văn nghệ báo chí điện ảnh, đóng lon trung sĩ.

Tôi giải ngũ, tái ngũ, nhập ngũ rồi lại giải ngũ mà nó vẫn ở nhà binh, thuyên chuyển về Saigon làm chuyên viên quay phim cấp bậc chuẩn úy già.

Ngày chiến cuộc B́nh Long tử thủ, cả thế giới theo dơi chiến công của quân lực VNCH anh hùng quả cảm, ít ai dám ṃ vào vùng đạn bay ḿn nổ, th́ nó leo lên trực thăng xông pha nơi trận địa mịt mù thuốc súng với hy vọng quay được những h́nh ảnh sống thực, lẫy lừng. Nó từng bay đến nhiều chiến trường để làm nhiệm vụ nhưng lần này là lần chót.

Nó gẫy cánh trên đường vào An Lộc, chết trong sự t́nh cờ, tuy chẳng dám chờ mong mà như vẫn theo vẫn đợi. Nơi nghĩa trang, nó được phủ quốc kỳ, được truy tặng huân chương, được anh em thương xót tiễn đưa đến nơi an nghĩ cuối cùng. Từ đó, nó miễn phải đeo máy quay h́nh, ôm ba-lô phim ảnh, miễn công tác, miễn tạp dịch.

Miền thảnh thơi thoát tục ấy, nó gặp lại bằng hữu cũ đă một thời xả thân ǵn giữ từng tấc đất quê hương, từng cây cầu, từng con sông, từng mái nhà, từng thửa ruộng... Nó sẽ có dịp cùng bạn bè ôn lại biết bao chiến tích hào hùng của cổ thành Quảng Trị, Khe Sanh, Đức Cơ, Đồng Xoài, B́nh Giả, Kontum, An Lộc, Hạ Lào...

Trong mấy mươi năm chiến đấu, những ai c̣n ai khuất, ai được đặc cách thăng thưởng tại mặt trận, ai được huy chương truy thăng trước linh vị u hoài. Lúc sống, nó không cô đơn. Đến khi giă biệt, nó vẫn c̣n có nơi bù khú. Chỗ họp mặt ấy, là Nghĩa Trang Quân Đội.


9puP1GTL-IQ


Ngày tôi ở quân đội, nhiều ông lớn có tài sản riêng nom mà phát hăi. Trên Đà Lạt, vùng Chi Lăng mọc lên những ngôi biệt thự xây cất kiên cố, đắt tiền. Nhưng nhờ thợ nhà binh, dụng cụ nhà binh nên cũng đỡ tốn kém.

Nh́n các biệt thự ấy, phần lớn tôi thấy ánh sao lấp lánh rạng ngời, mai bạc lung linh. Khu vực bao quanh hồ Xuân Hương được chỉnh trang theo họa đồ thiết kế, không ai được xây cất làm nhà làm cửa ǵ cả, chỉ sau thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă mọc lên lác đác dinh cơ mái đỏ ven đồi, cũng lập loè ánh sao...

Từ đó suy ra th́ các nơi như Huế, Nha Trang, Cam Ranh, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Saigon, Cần Thơ... đều phác họa phương thức trên như nhau hết cả.

Trong sở, có bạn rủ mua đất mạn Lái Thiêu để làm nhà, đào ao thả cá, trồng cây cảnh, ngâm thơ đọc sách. Tôi không nghĩ xa xôi một mực lắc đầu để có thời giờ ăn chơi cho đă.

Trên Đà-Lạt, ông anh làm ṭa thị chính lâu năm xin được đất trung tâm thị xă, rủ chú em làm dăm căn cho thuê, một căn dành nghỉ mát, tôi vái dài v́ muốn dành chút tiền kiếm chác áp-phe buôn bán mau ăn hơn.

Mà thật t́nh, tôi chẳng ham ǵ nhà cửa dinh thự tít măi cao nguyên, cũng chẳng ưa cảnh nhàn du trầm tư mặc tưởng. Tôi cũng không phải lo ǵ về đất cát mai sau.

V́ tôi biết một ngày nào đó hai tay buông xuôi, chuyện đất đai của tôi sẽ có nơi lo liệu, là nằm trong Nghĩa Trang Quân Đội, được gần gũi với anh em bạn bè, với những người chiến sĩ vô danh, với cây cỏ trời mây, với gió mát trăng thanh hiền ḥa êm ái...

Đó là mảnh đất tôi yêu nhất, như một vinh dự của người lính Tiếp Vận có gần mười năm quân vụ, tuy rời tập thể mà h́nh ảnh quân kỳ, t́nh chiến hữu măi c̣n đậm đà, tha thiết, yêu thương...

Mảnh đất nhỏ bé ấy, tôi vẫn xót xa một đời hoài vọng... :112:

C̣n tiếp ,

hoanglan22
12-05-2020, 15:06
hoathienly19 :thankyou:...Với những bài Post , em đều sưu tầm h́nh ảnh để lên cho sống động . Một lần nữa :thankyou: rất nhiều đă góp sức để mọi người đọc

hoathienly19
12-06-2020, 09:33
CHƯƠNG 6


Cứ mỗi lần công tác nghĩa trang như thế, tôi lại có được ít phút ngẫm nghĩ loanh quanh về đất nước, chiến tranh, về những người nằm xuống và dăm ba tội lỗi của ḿnh.

Nhưng khi chiếc xe jeep vừa rời khỏi cổng nghĩa trang, chưa kịp ngoái cổ trông lại bức tượng “ Thương Tiếc ” (của điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu) xe đă bon bon trên xa lộ, th́ bao nhiêu thương tiếc, tiếc thương đều tan biến vào gió lộng, trước mắt chỉ c̣n những nẻo đường đi Biên Ḥa ăn đầu cá hấp, hoặc rẽ ngả Long Thành đi Vũng Tàu ghé quán Bầu Quỳ, quán Tầm Dương ăn cua rang muối, chim quay, ḅ nướng sả, hoặc theo hướng Saigon, quẹo xa lộ Đại Hàn vào Đường Sơn Quán nhâm nhi la-de củ kiệu, hoặc chạy thẳng qua cầu Phan Thanh Giản về mạn Đakao ăn ḿ cây nhăn, chè Hiển Khánh, chả cá Như Ư, Thăng Long...

Lính tiếp vận như tôi là một thứ lính văn pḥng, sớm nhẩy Lambretta đi, tối dọt Lambretta về, ngày qua ngày lại qua ngày.


https://ndb51.files.wordpress.com/2016/06/thuong-tiec.jpg


Trong ngành tiếp vận, ngoài vấn đề xoay sở các cục bạn, khi th́ xin cái b́nh ắc-qui bên Quân Cụ, khi cặp kè ít cục pin Truyền Tin, lúc ngọai giao cục Công Binh làm ít vỉ sắt, ít tôn về sửa nhà, tôi c̣n lân la “ đề mẹc ” với cả bên Quân Tiếp Vụ nữa. Tháng tháng, tôi qua bển, găi đầu găi tai xin ông Cục Trưởng kư cho cái phiếu đặc biệt nhượng hàng.

Thế là tôi có dăm tút thuốc lá, vài chục hộp sữa, vài chục đồ hộp, dăm kư đường, vài hộp dầu ăn... Tôi đă ăn lạm nhu yếu phẩm của vợ con binh sĩ mà cứ ngơ ngơ như một kẻ được dựa hơi quyền thế làm tàng.

Bù vào những cái lem nhem gà què ăn quẩn cối xay như thế, tôi tỏ ra là một sĩ quan có cái vỏ ngoài quân phục chỉnh tề, tôn trọng quân phong quân kỷ.

Quần áo bao giờ cũng hồ thẳng nếp, lon mai vàng bóng loáng trên ve áo, tên rơ ràng, thẻ bài lẻng kẻng ṿng cổ, thắt lưng đen đan bằng giây dù, đôi giày “bốt-đờ-sô” láng cóong, con kiến nào ḅ lên cũng té bổ nhào.

Chiếc nón vải biến chế sáu cạnh may riêng tại xưởng quân trang, đính bông mai vàng lấp lánh. Trên ngực trái, tôi lại có tới hai cái huy chương quân phong bội tinh và quân vụ bội tinh. Với bằng ấy thứ, nom tôi mặc đồ trận với cấp hiệu, phù hiệu, huy chương th́ rơ ra một quân nhân cấp úy đàng goàng tư cách.

Nhưng bên trong cái tư cách ấy chỉ có tôi với mấy ông bà thợ may khu chợ Phú Nhuận, mấy chỗ tiêu thụ xăng lẻ, vài anh em bên Quân Tiếp Vụ cùng mí lị cục bạn là biết tẩy của nhau thôi. Thôi th́, đời lính được như thế đă là măn nguyện lắm rồi, c̣n đ̣i hỏi ǵ hơn nữa!

Ấy vậy mà tôi c̣n được xếp trên thương, phê điểm là sĩ quan gương mẫu (!), làm việc tận tụy với nhiệm vụ giao phó và được đặc cách thăng thưởng tại... văn pḥng, đeo lon trung úy, mỗi bên ve áo hai bông mai vàng mới nở.

Cái năm 1966 là năm song hỷ trùng phùng của tôi, bởi chưa đầy một tuần lễ nghị định thăng cấp trung úy thực thụ cho cả khoá phổ biến tới cục. Tôi leo hai cấp, một cấp giả định và một cấp thực thụ trong ṿng có một tuần lễ.

Ở lính “ thợ may ” 4 niên, đến cuối năm 1967 cả khoá 16 được giải ngũ theo lệnh Bộ Quốc Pḥng. Tôi nghĩ cuộc đời binh nghiệp của ḿnh nếu có nán lại vài mươi năm chắc cũng chẳng thăng quan tiến chức là bao.

Bạn học với tôi, chúng nó đi sĩ quan Đà Lạt từ khoá ba, khoá bốn, đă đeo mai bạc cả rồi.

Như Thiếu Tá Nghiêm Viết Thành, như Trung Tá Nghiêm Kế... Hoặc có đứa nhẩy đi ngọai quốc làm điện ảnh, sau này nghe nói lên tới hàng phụ tá đạo diễn ở La-Mă như Long Cương, hoặc có bọn không phải đi lính, học hành đỗ đạt nên danh phận như chánh án Đào Minh Lượng (văn thơ rất là rả rích), dự thẩm Hoàng Phùng Vơ, luật sư Phạm Thụy Hùng...

Cho nên tôi xin hoàn lại túi quân trang, chiếc giường vải, mùng mền cá nhân tại Ban Tiếp Liệu để trở về đời sống dân sự ở ngạch công chức hành chánh, mong ôn lại sách đèn lều chơng với trường thi.


kwRryYuqRZI


Tôi về nhiệm sở cũ là Phủ Tổng Thống rồi được bổ nhiệm qua văn pḥng Phủ Thủ Tướng.

Hồi đó, luật sư Nguyễn Văn Lộc làm Thủ Tướng, đổng lư văn pḥng là cụ Nguyễn Lê Giang (cũng là nhiếp ảnh gia nữa!), phó đổng lư là xếp cũ Quân Nhu của tôi, Nguyễn Đăng Hải.


Ít lâu sau, cụ Trần Văn Hương thay thế luật sư Lộc, văn pḥng có sự thay đổi nhân sự.

Từ cần Thơ thuộc vùng bốn, ông Lê Công Chất về làm đổng lư thay cụ Giang, xếp Hải qua trấn nhậm Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp, c̣n tôi vẫn phải tiếp tục làm văn pḥng đổng lư với cái tít nghe rất dễ yêu là “ tham chánh văn pḥng .”

Dưới thời cụ Hương, ông Chất được ủy nhiệm thay mặt Thủ Tướng đi thanh tra quan sát chiến dịch tấn công b́nh định tại các quân khu. Ông đổng lư bèn lôi tôi đi xách cập. Ǵ chứ cái chân ôm “cạc-táp”, điếu đóm th́ tôi rất rành, nên vâng dạ xin theo hầu “tút-xuỵt”.

Hàng tuần, thày tṛ bỏ ra hai ba ngày cuối tuần đi thanh sát các tỉnh, các quận trên bốn vùng chiến thuật.

Khi th́ dùng máy bay E-Giao Chỉ, khi công xa Việt Nam ẩn số, lúc trực thăng bán phản lực ù ù, lúc tắc rán, thuyền gỗ, lô ca chân.

Xếp tôi đội cái nón vải nhỏ, mặc đồ xám ba túi, đi dép da, dáng người cao lớn đậm đà, nom nghiêm nghị mà nói năng rất văn thơ dí dỏm, kinh nghiệm đầy ḿnh về hành chánh địa phương.

C̣n tôi mặc bộ đồ kaki nhà binh nhuộm nâu, ṿng quanh vai kè kè khẩu P-38 và vài chục viên đạn đồng, tay xách cặp, tay ph́ phèo điếu Salem.- Suốt thời gian 6 tháng ṛng ră, thày tṛ tôi đi công tác thăm dân cho biết sự t́nh.


https://petruskyaus.files.wordpress.com/2020/07/phat-giao-va-tran-van-huong-01.jpg


Tới Quảng Ngăi, thăm nhà máy làm đường th́ cơ sở chưa dựng xong, Cộng sản đă đặt ḿn phá hoại.

Đường làm bằng mía th́ ruộng mía bị Cộng Sản đốt cháy tiêu.

Về quận thăm ấp an ninh 75 phần trăm tức an ninh lọai B - thấy dân cư mặt mũi xanh rờn, quần áo tinh thơm, cửa hàng mới toanh, thợ hớt tóc khoác áo trắng như áo bác sĩ c̣n hồ thẳng nếp, hàng họ bày bán toàn đồ ở phố thị đem về trưng bày.

Hỏi thăm người dân, có kẻ không nói, có kẻ ậm ừ, có người bảo rằng nghe tin ông lớn về thăm quê nên quận chỉ thị dàn cảnh cấp tốc.

Khi nào ông lớn về th́ dân cũng về quận luôn v́ bên kia sông, Việt Cộng kiểm soát, đêm nào cũng ṃ sang quấy rối.

Tới B́nh Định, thăm các quận B́nh Khê, Phù Cát, Phù Mỹ, Hoài An, lên Bồng Sơn, Tam Quan, thấy quân đội Hoa Kỳ c̣n đồn trú mà quanh đó nghe đâu Cộng sản như rươi.

Ngày phái đoàn đến thăm, xe đi đường bộ, tới địa điểm thấy cờ phướn tưng bừng, biểu ngữ giăng đầy lối xóm. Đông đảo đồng bào cầm cờ nhỏ đón rước phái đoàn.

Sinh hoạt rơ ra là đầy sức sống, tăng gia sản xuất, trái ngọt cây lành, gà vịt trâu ḅ heo đủng đỉnh. Nhà cửa có mặt tiền quét vôi tươi mới, người dân ăn mặc lành lặn.

Rồi diễn văn, đáp từ, ban nhạc địa phương cử hành tân cổ nhạc, ai nấy ra bộ vui vẻ, hân hoan ngày hội lớn.

Buổi chiều, cỡ hai giờ, phái đoàn rút lui cho kịp tới về đến tỉnh th́ chỉ vài tiếng sau địa điểm trên đă vắng lặng như tờ, đồng bào thu xếp vội vàng chuồn cho lẹ, Cộng Sản vẫn làm chủ t́nh h́nh ban đêm.

Nơi ấy, tỉnh thường báo cáo an ninh lọai A, tức 100 phần trăm phe ta kiểm soát.


UWUnF4viPJY


Tới Nha Trang, thăm Cam Lâm, Diên Khánh, gặp ngày địa phương phục kích tiêu diệt trọn ổ Việt Cộng, mời phái đoàn tới thị sát chiến trường c̣n loang máu.

Phái đoàn đến Diên Khánh lội ruộng, nghe quân ta tường tŕnh buổi phục kích và triệt hạ kẻ thù rất là nẩy lửa. Khi nh́n gần chục tử thi CS nằm xếp hàng trên con đường đất nhỏ, úp mặt xuống đất, tên nào cũng trẻ măng tuổi học tṛ, chỉ v́ nghe CS xúi dại mà lao đầu vào chỗ chết, lại nh́n mấy bà mẹ đến xin nhận xác con, khóc tức tưởi nghẹn ngào, mới thấy cuộc chiến Việt Nam thê thảm, năo nề.

Tới Ban-Mê-Thuột, phái đoàn đáp trực thăng đi thăm Biệt Điện - nơi nghỉ ngơi, săn bắn của Cựu Hoàng trước kia - thấy nhện giăng cửa, dơi chuột tung hoành, chiếc hồ rộng đầy rong rêu chật ních, chung quanh cây cối cỏ mọc tùm lum, dân cư lèo tèo thưa thớt.


Phái đoàn đến thăm vài “buôn” của đồng bào thiểu số, tặng quà, ghi nhận nhu cầu xin trợ cấp, lại thăm xă giao các chức sắc FULRO đàm đạo vài hồi trong tinh thần thông cảm Kinh Thượng một nhà (?), rồi tới đồn điền cà-phê của mấy ông Tây hỏi han dăm điều ba chuyện, xong ăn tối với rượu Pháp, món Pháp, các ông lớn x́ xồ tiếng Tây, c̣n tôi ngồi câm như thóc, cắm đầu đớp cá hấp, thịt nai, thịt thỏ như điên, mặc người lớn bàn ngang bàn dọc về trời trăng mây gió, sinh họat địa phương, văn chương chữ nghĩa, rượu vào lời ra vui như nút sâm-banh nổ...

Tới Đà-Lạt, phái đoàn đi xe hơi ṿng quanh đèo núi, thăm đập Đa Nhim, Liên Khương, ấp Hà Đông, coi đồng bào trồng hoa màu, trái thơm, dẫn thủy nhập điền, canh tác bốn mùa.

Thời giờ c̣n lại cuối tuần, thày tṛ đi chơi phố, lên lăng Nguyễn Hữu Hào, Cam Ly, hồ Than Thở, ghé nḥm cổng trường Vơ Bị Quốc Gia, ṿng lại Nha Địa Dư, trường Yersin, chạy quanh hồ Xuân Hương, đỗ tạm vườn hoa Bích Câu, qua Nguyên Tử Lực Cuộc, thế là hết cả ngày giờ thấm thoát thoi đưa.


4GoLPPPSjCg


Tới Cần Thơ, ngồi thuyền gắn máy đuôi tôm chạy trên sông lạch thăm nhà máy xay lúa do người Việt gốc Tàu quản trị, nghe đồng bào ai oán kể vụ bán lúa non, thấy đời sống dân quê tuy đạm bạc nghèo nàn mà vẫn ca vọng cổ lúc ma chay, vẫn ăn thịt cá tôm cua, vẫn lai rai dăm ba sợi mỗi chiều tà, mới biết dân ḿnh an phận thủ thường, vui cái vui ta có, buồn cái buồn ta mang, không than thân trách phận, chỉ c̣n biết vái trời.

Thày tṛ tôi đi nhiều nơi, xuống cả đến làng xóm, ngoài chương tŕnh dự định của địa phương để thấy có nơi mở trường học dạy toàn tiếng Tàu, mặc dù Bộ Giáo Dục có chỉ thị rơ ràng về vấn đề giới hạn giảng dạy tiếng Trung Hoa tại các trường Ноа-Việt.

Có chỗ ông tỉnh, ông quận chưa bao giờ đặt chân tới, nhưng khi xép tôi hỏi thử t́nh h́nh an ninh chỗ ấy ra sao th́ địa phương báo cáo an ninh loại B, 75 phần trăm.

Xếp tôi đi bộ vào thăm làng th́ địa phương huy động cả đại đội dàn quân mở đường, băng đồng, lội ng̣i, lội lạch xục xạo tiền thám cho phái đoàn đi tà tà phía sau chậm bước. Cứ như con mắt có dính tí nghề nghiệp nhà binh th́ đó là một cú hành quân. Mà đă hành quân là có nguy hiểm, có thể đụng độ với Việt Cộng dễ như chơi.

Ông xếp tôi không ở quân đội, chắc không biết nên ṃ tới. Rồi mọi chuyện cũng êm ru bà rù, không có đạn nổ, ḿn bẫy nhau ǵ cả. Ngồi trên xe, tôi rỉ tai ông xếp về chuyện vừa qua th́ xếp tôi cười bảo :


“ Tôi biết chứ chú, th́ ḿnh cũng phải liều. Họ bảo làng đó an ninh mà ḿnh không tới là ḿnh nhát. Phải như vậy để lần sau họ đừng báo cáo láo. Chú hiểu chứ !” Tôi dạ dạ vâng vâng rất là thông cảm.


ZruiLH8Wd2I

Có bận đi công tác Quảng Ngăi, vừa tới nơi đă nghe tin rằng Việt Cộng ám sát ông xếp. Xếp lớn tôi không hăi v́ nghe quen rồi nhưng tôi th́ hăi. Bởi nhỡ nói dại nói dột, quân Cộng sản nhắm phơ xếp tôi mà nó bắn dở, đạn dính ngay vào tên xách cặp th́ có phải đời tôi đi đứt không cơ chứ !

Buổi họp tại rạp hát tỉnh, phái đoàn vừa dự lễ chào cờ xong tôi đă nghe một tiếng nổ, đạn xuyên qua mái tôn, rớt trên sân khấu.

Xếp tôi xin viên đạn bỏ túi đem về làm kỷ niệm !

Có lần đoàn xe chạy từ quận về tỉnh có hộ tống xe tăng th́ khi xe tăng quay về quận bị Việt Cộng bắn sẻ, tuy chả nhằm nḥ chi, nhưng nghe kể lại cũng thấy ngài ngại làm sao ấy.

Những cuộc hành tŕnh cuối tuần như thế, tôi có dịp nghe xếp giảng truyện Kiều, chữ trung hiếu tiết nghĩa trong Lục Vân Tiên, nơi nào xếp tôi nói cũng được cử tọa chăm chú nghe ra chiều chịu lắm.

Cái duyên của người nói chuyện đă làm cho không khí buổi họp giống như một buổi văn nghệ thoải mái nhẹ nhàng.


k734ZpjQe3Y

Nhiệm vụ của tôi là ghi chép ba điều bốn chuyện, lúc về nhà viết lại cho thành bản phúc tŕnh với đầy đủ hiện t́nh, nhận xét, đề nghị.

Phần đề nghị th́ lúc ngồi xe, ngồi máy bay xếp tôi đọc cho chép. C̣n các mục khác, tôi có nhiệm vụ như cái máy h́nh, chụp cho rơ ràng sáng sủa.

Phúc tŕnh nào xếp tôi cũng có làm dăm ba câu thơ phụ đề lả lướt. H́nh như Thủ Tướng khoái lắm, bởi cụ cũng là nhà thơ... găi háng lăn tăn mà lị !

Quả thực , tôi là cái máy h́nh nhưng ống kính tồi , đặt ánh sáng tốc độ sai và chụp góc cạnh không nghệ thuật.

Cho nên t́nh h́nh địa phương А th́ báo cáo tiến triển khả quan, b́nh định đang mạnh mẽ

Tỉnh B có nhiều quận bất ổn th́ tŕnh thượng cấp là an ninh đang được văn hồi, ta làm chủ t́nh h́nh.

Quận C dân chúng cực khổ th́ “ráp po” cho dân chúng sống ngon lành, dễ chịu.

Địa hạt D do chính quyền làm ăn bê bối th́ mô tả rằng hành chánh chạy pho-pho, nhân viên toàn là công bộc.

Miền đồng bào bị “Ва-Tàu” cướp cơm chim, bao vây kinh tế th́ báo cáo nông dân canh tác, thu hoạch nhiều, lợi tức cao...

Khu H cần nhu cầu thuốc men у tế, trợ giúp đồ mặc lạnh th́ phúc tŕnh địa phương lo lắng cho dân đầy đủ mọi bề!

Sở dĩ tôi viết sai quấy như vậy v́ biết tỏng rằng các chức quyền địa phương đều là người tin cậy của xếp bự, gốc lớn, đâu có ngán ai. Th́ cái cỡ ḿnh báo cáo, có moi những cái xấu xa tồi tệ thế nào th́ cũng chả rụng cái lông chân của họ. Lại nhiều khi mua thù chuốc oán nữa nếu họ biết ḿnh vạch lá t́m sâu.

Vả lại mỗi lần thăm viếng như thế, nhiều chỗ rất biết điều, thấy phái đoàn tới là có tí quà nhỏ cho tên điếu đóm để nó hót dùm thêm vài phát cũng vui tai.

Nào là tặng cặp gà tre đă bỏ sẵn trong lồng, nào là nem chua, ché, hoa hồng, dâu, mận, nào là tôm khô, nước mắm, nào là sâm Cao-Ly, vây cá, bánh phồng tôm, chim mía, cá mực, sầu riêng, chôm chôm, ổi, nhăn...


KlloDP4wpb8


Ấy thế cho nên tôi cứ trung dung chi đạo, lơ lửng cái con cá vàng, phúc tŕnh nào cũng đầy khích lệ và tiến triển nom thấy, cấp trên có thấy hay không th́ không biết, chứ như chính tôi, tôi đă tự dối lương tâm làm điều sằng bậy viết lách báo cáo tầm bậy tằm bạ, thiếu trung thực, thiếu đắn đo, lại c̣n toa rập nhận quà cáp lu bù kèn để đến nỗi quên cả lương tri, quên cả những nỗi thống khổ nhục nhằn của người dân nghèo chốn xa xôi sống một đời “ một cổ đôi ba tṛng ” vất vưởng...

Tôi nào nghĩ đó tội t́nh chi. Ḿnh là tép riu ai mà đếm xỉa. Ấy chính mấy cái tép riu đó cộng lại, tích lũy mà đâm ra đổ vỡ. Tôi c̣n lấy làm thú vị t́nh thâm v́ những dịp đi công tác như thế, tôi được nh́n tận mắt những địa danh như “la bàn thạch trận” :

Núi Thiên Ấn, Thiên Bút, sông Trà Khúc, ḍng Hương Giang, nhịp găy Trường Tiền, tiếng chuông Thiên Mụ, cầu Bạch Hổ, đầm Ô Loan, Ngũ Hành Sơn, Tháp Chàm, Ḥn Chồng, thác Prenn, Pongour, đồn điền cà-phê, rừng cao su, vườn hạt tiêu, chiều trên bản Thượng, sông nước Hậu Giang, đồng lúa Long Xuyên, kinh Ва-Thê, kinh Cái Sắn, núi Bà Đen, cồn Phụng của ông Đạo Dừa, quê hương của nhà bác học Trương Vĩnh Kư, lăng Vơ Tánh, Ngô Tùng Châu, lầu ông Hoàng, nơi an nghỉ cuối cùng của Hàn Mặc Tử, chỗ dấy nghiệp của Quang Trung Đại Đế, những miền thùy dương cát trắng lơi lả bóng dừa, những giọng hát câu ḥ của ba miền đất nước mến yêu, những món ăn độc đáo tuyệt vời, những t́nh tự dân tộc ngọt ngào say đắm...

Bây giờ, c̣n đâu những h́nh bóng cố hương tŕu mến ? Huế, Nha Trang, Đà Lạt, Cần Thơ, Cà Mau, Phú Quốc đă xa tầm tay với mất rồi. Phải chăng những chốn cũ bỏ tôi hay bởi chính tôi không ǵn giữ nên mất mát dấu yêu bảo vật ?

Để đến hôm nay làm thân mất nước , đất khách lêu bêu ôm mối nhục ngậm hờn..


JpohdA8shAI


CHƯƠNG 7


Giống như phần đông mọi người, tôi tin rằng mỗi người có một định mệnh. Định mệnh ấy có thể so sánh tựa cái sự vụ lệnh hoặc nghị định, trong đó đánh máy sẵn tên tuổi, số quân, nơi tùng sụ, nơi đáo nhận nhiệm sở mới. Một khi giấy tờ đă kư rồi th́ ta cứ thế mà thi hành.

Cụ thể như thế. Nhưng thực tế, cuộc đời ta đôi khi hoặc lắm lúc đổi thay do chính ta lèo lái với ư hướng tốt đi lên, th́ lời bàn về định mệnh lại có lối thoát để bảo rằng “ xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều ” để chứng minh cho cái thiện tâm cũng cảm được ư trời.

Cái sự vụ lệnh hoặc định của định mệnh đời ta có điều hơi khác là nó không nằm trong hồ sơ Tổng Nha Công Vụ, không có sẵn trong sở làm hoặc trao tận tay ta mỗi khi mới ra đời. Giấy tờ ấy nằm ở đâu, ta không biết nữa.

Chỉ khi nào ứng nghiệm mới thấy đó là số phần dành cho riêng ta, không làm sao khác hơn được. Và như vậy là ta phải chấp nhận, coi như định mệnh đă an bài...

Hồi mới sinh ra đời, tôi đă được ông nội lấy cho lá số tử vi, tuổi Tuất, dương nam, thủy nhị cục, tuần triệt đóng ở cung tài. Các cung khác như mệnh, thân, bào, phối, tử, ách, di, nô, quan, điền, phúc chả có cung nào đẹp.

Các “ sao ” chạy loạn cào cào, thiếu hụt lung tung. Tôi chỉ c̣n nhớ được hai câu thơ kết luận:

‘‘ Số này kể cũng thông minh

Để cho bia đá lấp h́nh dị nhân... ’’


Thuở ấu thơ, tôi có cái thông minh để ăn gian nói dối, trốn học, trốn nhà, dối thày, lửa bạn.

Lớn lên học hành tôi cùng cái thông minh để cóp bài, nịnh nọt mấy thằng ngồi cạnh để nó cho chép văn chương, toán lư hoá.

Khi vào lính, tôi áp dụng cái thông minh để trốn tập họp, điểm danh, chào cờ, canh gác, tuần tiễu, kiếm chác loanh quanh. Lúc về dân sự, tôi mang cái thông minh chạy chọt cấp trên, luồn lụy để được thường xuyên ở Saigon, làm ăn rỉ rả.

Quả nhiên là tôi thông minh, nếu không làm sao sống phây phây giữa chợ đời. C̣n như cái câu “để cho bia đá vân vân” th́ tôi đành chịu, không hiểu nổi cái ǵ là “bia đá”, thế nào là “dị nhân” nên cứ canh cánh bên ḷng niềm riêng khôn tả.


https://imagizer.imageshack.com/v2/320x192q90/924/O8ntRt.jpg


Kịp đến khi làm Phủ Thủ Tướng, sớm tối hầu cận đại nhân, đôi lúc tôi cũng cảm thấy như chính ḿnh là một ông lớn của trào đ́nh. Chả thế mà đi tới đâu cũng tiền hô hậu ủng, tiệc tùng đăi đằng long trọng, các cấp địa phương răm rắp nghe theo.

Măi sau, t́nh cờ đọc chuyện anh đánh xe ngựa cho quan tể tướng mới vỡ lẽ thiên hạ ngả nón nghiêng ḿnh khi xe anh đi qua là họ chào ngài tể tướng chứ có ai thèm đếm xỉa ǵ đến anh phu xe vênh vang tự đắc, tôi mới vỡ mộng thiên đường quyền quư công danh. Nhưng mà ḷng riêng vẫn cứ chập chờn vinh hoa ảo ảnh.

Vào thời tôi, chiến tranh bom đạn tùm lum, quê hương tả tơi rách nát, và ḷng người cũng ly tán hăi hùng.

Thiên hạ chả biết tin vào ai, mới bèn đi hỏi thăm tương lai, định mạng ḿnh qua các nhà bói toán, tử vi, tướng học. Nên như các nhà chuyên môn coi chỉ tay, bài tây, bói dịch, địa lư... được tôn sùng như những bậc thày, như những người nắm vận mệnh quốc gia.

Tôi là kẻ suốt đời cái ǵ cũng bán tín bán nghi, nghi nghi ngờ ngờ, không bao giờ có ḷng tin vững chắc, thấy người ta đi ḍ hỏi tương lai, tôi cũng tập tành bắt chước xem số kiếp ḿnh như thế nào. Nếu các thày xem đoán trúng phóc quá khứ hiện tại, ắt hẳn đoán tương lai là đúng.

Nghĩ như thế, tôi bắt đầu bước vào thế giới huyền bí của trăng sao, của tướng pháp chỉ tay, của địa lư nhân văn, của cơ man là mênh mông kỳ ảo...


iqs9DryPBJs


Nhớ hồi trước khi đi Thủ Đức, tôi lại chợ Phú Nhuận leo lên gác lửng Cô Ba nhờ xem một quẻ bài tây xem chuyến này có phải ca bài “Ta đi ṭng quân” không? Bà thày coi bài, quả quyết rằng tôi có số làm quan, phen này đi lính là :

Cá to đâu chịu ở ng̣i

Người khôn đâu chịu ở nơi hang cùng...

Tôi đă rầu rĩ muốn chết, lại nghe thơ văn như thế, lấy làm buồn thảm lắm. Cũng đành trôi theo định mệnh.

Quả nhiên lên quan, tương lai lấp ló cuối nẻo đường hầm.

Bi giờ, thử vài keo nữa xem tương lai nó đi về đâu. May mắn, tôi quen với một ông bạn già có hơn 30 năm kinh nghiệm tử vi, coi tôi như em út nên đọc kỹ lá số, coi lại giờ sanh, ngày sanh cho thiệt đúng với h́nh dạng, rồi phán ngay rằng cái số tôi là số đang lên chứ đấy chẳng lên chứ đấy chẳng phải vừa đâu.

Để tái phối kiếm và lượng giá các tài đoán số, ông bạn già này lôi tôi đi tới một số thày khác nhờ coi dùm xem chú em nó lên tới đâu.


NaNQ25JX7kQ


Thoạt tiên, chúng tôi mon men lại tư gia của cụ Diễn ở đường Hiền Vương, khu Đa-Kao.

Muốn gặp cụ hơi khó, có khi chờ cả tháng, có khi được hẹn, ngong ngóng mấy tiếng đồng hồ chầu chực cụ mới tiếp. Khách khứa của cụ từ hàng b́nh dân tới hạng cực kỳ cao sang quyền quư.

Lần tôi được diện kiến, cụ nh́n dung nhan mùa hạ vài phút rồi phán rằng số tôi mọi sự b́nh thường. Chỉ có vậy thôi. Tôi đâm ra thất vọng.

Tôi cứ tưởng rằng cụ sẽ nói như nước chảy hoa trôi, ban cho tôi dăm bảy điều vàng ngọc để làm hành trang mở hội rồng mây, ai ngờ cụ lững lờ mấy câu rồi tiếp khách khác đang chờ sẵn xe hơi ngoài ngơ thỉnh cụ đi Vũng Tàu.

Chúng tôi có ghé thày bói Kim ở khu Chi Lăng, Phú Nhuận. Thày Minh Lộc, thày Ích hẻm Calmette, vị nào cũng nói những điểm khác nhau về tương lai đời tôi, tựu trung là khấm khớ, trên trung b́nh.

Đến thày coi mạch Thái Tố đường Cao Thắng, ông này có vẻ độc đáo. Thày bắt mạch, c̣n tay kia cầm bút vẽ ngoằn ngoèo trên một trang giấy, tương tự ghi tốc kư, xong thày ngắm nghía tướng mạo tôi, ngó tờ tốc kư một lát, nhỏ nhẹ bảo tôi coi chừng có cái đại tang !

Hồi đó là cuối năm ta, tôi nghe mà đâm ra ân hận. Làm quái ǵ phải coi bói toán lôi thôi để vừa mất tiền, vừa bị nghe rủa. Tôi ra về, đâm hận ông thày thái tố.


RmQNsEeKpl4


Qua năm cũ, không có chi xảy ra, tôi lấy làm mừng và định bụng từ nay cạch bói toán. Đùng một phát, đầu năm ta, tin từ Bắc đánh vào báo tin má tôi qua đời vào cuối năm cũ.

Tôi được tin rất là... mừng cho má tôi đă thoát cảnh địa ngục trần gian Cộng Sản. Cụ đi như thế là hơi trễ, nhưng cũng c̣n may mắn hơn nhiều cụ khác. Phần riêng, nhớ lại ông thày mạch thái tố phán quyết năm ngoái đâm ra hăi tài ông ấy quá. Không tin cũng phải tin!

Thế là tôi tiếp tục theo ông bạn già lên mạn Thủ Đức Biên Ḥa, tới cái đ́nh làng xa lộ coi bói.

Nghe danh ông thày này như sóng cồn, từng coi cho nhiều cấp lớn chánh quyền, mỗi khi thay đổi chính phủ nườm nượp ông to bà lớn đáp xe Huê- Kỳ đến nhờ thày coi giùm hậu vận. Thày bảo sao cứ у boong mà làm vậy là trúng phóc.

Đến lượt tôi, thày cũng thắp nhang khấn vái cùng với tiền đặt quẻ, xong gieo quẻ, sờ soạng mươi giây, ngẩng đầu lên trần, lâm râm vài câu rồi hỏi rằng :

- Ông đây không cao lắm, mặt tṛn, da trắng, mày thưa, có phải vậy chăng ?

Tôi đáp ngay :

- Dạ, phải.

Thày tiếp :

- Ông này có cái lạ là không đi thi cử ǵ mà lại nhiều bằng cấp...


Tôi đáp :

- Dạ không, tôi không có bằng cấp ǵ cả .

Thày quả quyết :

- Nhất định có, thánh dạy thế chứ tôi đâu có nói sàm. Ông nghĩ coi xem có thi cái ǵ trong đời không ?

À, tôi nhớ ra rồi. Cái hồi đi lính, tôi có nhờ thằng bạn bên quân xa làm cho cái bằng lái xe giả, ba con dấu tức là lái từ xe jeep, xe cam-nhông, đến xe hàng chở hành khách. Rồi sau đó tôi chạy được cái bằng thực có hai con dấu. Đến khi giải ngũ, tôi đổi bằng nhà binh lấy bằng dân sự hai con dấu. Thế là tôi có dăm bảy cái bằng ấy chứ! Tôi chịu thày, bèn đáp :

- Dạ, có ạ. Nhưng toàn bằng lái xe không hà !

Thày cườ i:

- Th́ bằng ǵ mà chả là bằng!

Thày đoán tương lai tôi có chiều thay đổi, đi nhiệm sở khác, làm lớn hơn chỗ cũ, sáng sủa lắm...


O-gJPzAE_SM


Quả nhiên, tôi găi đầu ṿ tai, tả oán với ông đổng lư, được ngài ưng thuận. Chờ có hai ông đốc sự mới ra ḷ về Phủ Thủ Tướng là tôi nhẩy tót qua Ngân Hàng, đặc trách báo chí và giao tế, thân cận với ông Tổng Giám Đốc Nguyễn Đăng Hải .

C̣n ông bạn già tử vi của tôi chính là cụ chánh văn pḥng Nguyễn Trọng Liêm. Tôi c̣n được phong làm phụ tá CVP tạm thay quyền mỗi khi cụ bận công tác ngoài nhiệm sở.

Với bằng ấy chức tước, lại là đệ tử của xếp lớn, tôi cảm thấy ḿnh cũng lớn vậy.

Cụ CVP lại dẫn tôi vào Chợ Lớn, tới con đường có nhiều máy dệt tay, rẽ vào hẻm, leo lên độ 20 bậc thang đến một dăy nhà lầu, dừng chân trước cửa then sắt của một thày tướng số lừng danh : Đó là cụ Fây- Fây.b

Giang sơn của cụ trước kia ở ngoài Bắc là gần 100 chiếc nhà, cụ làm thầu khoán, tiền bạc như nước. Bây giờ loạn lạc vào Nam, cơ đồ c̣n lại một gian gác chia đôi, nửa ngoài làm pḥng khách, ngăn trong làm pḥng ăn, pḥng nghỉ. Cụ ông cụ bà ở đây một ḿnh, các cháu con đều ra ở riêng.

Cụ Fây-Fây (gọi tắt là cụ Fây) có tướng lớn như voi, tiếng nói ầm ầm như sấm, lúc nào cũng tươi tỉnh đùa vui.


dm9xWX7wDKg


Tôi ngồi trên chiếc ghế mây có tựa, quay mặt vào phía trong. Khi tiếp khách, cụ luôn luôn để khách ngồi nghỉ một lát cho sắc diện b́nh thường rồi mới nhập đề:

- Mời tiên sinh ngồi sang ghế kia, nh́n ra phía ngoài cho có ánh sáng rơ ràng để tôi dễ coi diện mạo.

Tôi vâng lời chuyển ghế. Cụ Fây ngắm nghía tôi, sờ đầu, nắn sọ, bóp vai, xong bảo tôi:

- Tiên sinh đứng dậy, đi vài bước cho tôi xem...

Tôi ngượng ngùng bước đi vài bước, xong trở về vị trí cũ an tọa. Cụ pha trà tàu, mời mỗi người một ly trà trong sương sớm cho ấm bụng, rồi phán :

- Tôi nói thật, tiên sinh có quư tướng. Đầu tṛn như đầu cọp, đôi mắt nhân từ, miệng tươi, tiếng nói thanh tao, thân h́nh vững chắc, dáng đi vững vàng, thần khí điều ḥa, cái tâm lúc nào cũng b́nh an, tư tưởng cầu tiến, tánh t́nh nhu ḥa điềm đạm.

Bằng ấy th́ nó hiện trong tướng mệnh, thử hỏi làm sao tiên sinh không làm lớn được? Thế tiên sinh có gia đ́nh chưa nào để tôi làm mối cho, hà hà!

Tôi lí nhí thưa :

- Bẩm cụ, con có gia đ́nh rồi ạ ! C̣n như cái điều cụ đoán cho con, con nghĩ rằng không được như thế . Vóc dáng con lùn t́, nhát như thỏ đế, hay sợ hăi chốn cao sang, làm sao con khá được ?

Cụ ngắt lời cười khà khà mà bảo:

- Theo tướng số, con người ta có hạng ngũ tràng, ngũ lộ, ngũ tiểu, ngũ đoản. Tiên sinh thuộc hạng ngũ đoản. Đầu ngắn, mặt ngắn, thân ngắn, tay, chân ngắn. Vậy là tốt lắm chứ !

Rồi cụ nói tiếp:

- C̣n như nhút nhát hoặc anh hùng cũng tùy tâm, tùy thời. Có kẻ làm vẻ hèn mọn, nhút nhát như Hàn Tín khi chưa gặp thời, phải luồn trôn thằng bán thịt ngoài chợ Trương Minh Giảng th́ sao ? Mà về sau lừng lẫy chọc trời khuấy nước.

Lại có kẻ nom ra vẻ anh hùng mà khi vào việc trốn như trạch, nhát như cáy th́ đó là “anh hùng rơm, ta cho mối lửa mất cơn anh hùng...”

Tiên sinh như cọp rừng thiêng, lúc này dấu nanh cụp vuốt chờ thời. Chứ lúc thời cơ đến, tiên sinh đâu thua ǵ... Hàn Tín!

Nói xong, cụ lại cười vang, rung rinh cả chén trà trong sương sớm.

Tôi đâm ra bẽn lẽn ngại ngùng, bán tín bán nghi. Chẳng lẽ “tứ thập nhi bất hoặc” mà ḿnh vẫn chưa hiểu ḿnh sao ? Trong bụng c̣n đang phân vân th́ cụ Fây phán tiếp:

- Số tiên sinh là số làm thủ tướng đấy nhé. Để lúc nào tôi giới thiệu tiên sinh với bà Tổng Thống...

Tới đây th́ tôi thực t́nh hăi, v́ bởi tam tứ ngũ đại nhà tôi, chưa có ai đi lính mà lên tới đội, mà học hành th́ chả có ai đậu nổi cái bằng sơ học yếu lược, mấy đời làm thợ làm công. Đến đời tôi được như thế này là mả táng hàm rồng rồi, đâu dám mơ ước cao xa đến thế !

Giá mà cụ bảo tôi có thể làm giám đốc, chánh sở họa may c̣n dám tin, chứ cụ bảo tôi số làm thủ tướng th́ là chuyện đội đá vá trời, không tưởng...

Ra về, tôi nghĩ ngợi miên man về cái số tử vi của ông nội để lại, biết đâu “bia đá lại chẳng bay đi cho khác để cho h́nh dị nhân” lộ ra ăn chơi vung vít với đời, khi lên tay kiếm tay cờ, cờ đến tay ai người ấy phất!

Tôi mà phất, hẳn đẹp mắt hơn nhiều anh khác.

Về nhà, không nói cho ai biết, tôi ra sân bước qua bước lại, bước tới bước lui xem có phải quả nhiên ḿnh có dáng đi lên quư phái hay không ?

Mụ vợ tôi thấy giữa trưa nắng chang chang lại có một tên khùng mặc quần đùi áo may-ô phơi nắng ngoài sân th́ tức cười lắm, bèn chỉ thị rằng :

- Này, tên khờ, vào ru con ngủ đi cho người ta rửa bát. Hay muốn rửa bát th́ xuống bếp làm đi, gần hết ngày rồi. Ai hành hạ ǵ mà đứng nắng như thằng điên vậy ?

Mụ ấy đâu biết rằng tôi trên đường mây đang thênh thang mở hội, nay mai thủ tướng mấy hồi...

Sau, tôi có dẫn bạn bè lại nhờ cụ Fây coi dùm tướng số, mấy đứa bạn tôi đều được cụ khen tướng tốt, và vài đứa cũng có số... làm thủ tướng như tôi !

Từ đó suy đi, tôi nghĩ ít ra nước ta có dăm ngàn hiền tài chuẩn bị làm thủ tướng, dăm chục vị ái quốc chờ đợi lănh đạo quốc gia !


rPKzmdceuaI


Phong trào coi tử vi tướng số bói toán tại nước tôi đă một thời hoạt động mạnh mẽ. H́nh như khi người ta không biết tin tưởng vào đâu th́ nơi các nhà tiên đoán vận mệnh là chỗ tốt nhất để nhờ cố vấn lănh đạo.

Có kẻ đi buôn coi ngày tháng mở hàng lấy may, làm ăn nhất bản vạn lợi. Có người đi xa coi ngày tháng xuất hành. Có thờ có thiêng, có kiêng có lành. Những điều đó xét không nguy hại ǵ.

Nhưng mà lại có những vị tướng tá, các cấp chỉ huy lớn, các nhà lănh đạo, cầm vận mệnh mấy chục triệu dân mà cũng coi bói, coi tử vi để lựa ngày hành quân, việc cửa chuyện nhà, chuyện đại sự cũng nhờ thày chỉ đường mách lối th́ thực là mạt vận. Đất nước có tiêu tùng c̣n trách được ai?

Hay là lại đổ thừa như tôi, rằng “ định mệnh đă an bài ” ?

C̣n tiếp ,

hoathienly19
12-09-2020, 09:07
CHƯƠNG 8


Trong thời gian làm việc tại Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp, tôi được cụ chánh văn pḥng dẫn đi giang hồ hơi nhiều.

Cụ là cây tử vi tướng số hạng tài tử, muốn dùng tôi như dùng người mẫu hoặc một vật thí nghiệm, đưa tới quư vị tướng số chuyên nghiệp cũng như vô danh, ẩn dật xem quư vị ấy tiên đoán thời tiết, tương lai bổn mạng của tôi ra làm sao, có trùng hợp với tài tiên tri của cụ không, để dễ bề học hỏi và nghiên cứu.

Cụ kể chuyện Trong thời gian làm việc tại Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp, tôi được cụ chánh văn pḥng dẫn đi giang hồ hơi nhiều. Cụ là cây tử vi tướng số hạng tài tử, muốn dùng tôi như dùng người mẫu hoặc một vật thí nghiệm, đưa tới quư vị tướng số chuyên nghiệp cũng như vô danh, ẩn dật xem quư vị ấy tiên đoán thời tiết, tương lai bổn mạng của tôi ra làm sao, có trùng hợp với tài tiên tri của cụ không, để dễ bề học hỏi và nghiên cứu.

Cụ kể chuyện Hui-Bon-Hoa mả táng hàm rồng, giàu nứt đố đổ vách, tặng đô thành nguyên một cái nhà thương gần chợ Bến Thành, tài sản khắp nơi... Xong cụ lái xe từ Saigon lên Thủ Đức, chỉ cho tôi coi con đường ngoằn ngoèo giống như đuôi, như thân con rồng.

Theo lộ tŕnh Thủ Đức - Biên Ḥa, đi con đường cũ là “đường trong”, quá Thủ Đức một ít cây số ngàn, phía trái có khu mộ nhà Hui-Bon-Hoa.

Cụ bảo có mấy cái mộ xây у như nhau nằm hàng ngang, nhưng chỉ có một cái là mộ chánh, c̣n mấy cái khác đều giả, để không cho kẻ gian biết đâu là thật, đâu là giả mà đào phá.

Cụ giảng rằng mộ đặt ngay boong vào cái họng con rồng. Phía trước mộ thoai thoải xuống sông Biên Ḥa là cái lưỡi rồng. Nhiều ngôi mộ đặt tại khu lưỡi rồng, chẳng kết phát ǵ sốt cả là vậy.


Ys7dTGeefjg


Tôi chả biết rồng rắn là làm sao nhưng nghe giảng địa lư nhân văn ra chiều hợp lư th́ dạ dạ vâng vâng rất chiếu lệ.

Thâm tâm, tôi đă nhắm mục tiêu trực chỉ quán thịt rừng Tân Vạn hoặc tiệm đầu cá hấp Biên Ḥa, bởi nó vừa thực tế, vừa thực thể, vừa cụ thể mà lại vừa tiện thể.

Cụ bảo ở Saigon, có cái phủ đầu rồng là chỗ vị nguyên thủ quốc gia cai trị việc nước, nhưng mà thiếu cái đuôi rồng. Đầu mà thiếu đuôi th́ c̣n ra cái thống chế Pétain ǵ nữa. Cho nên thày địa lư nào đó mới chỉ chỗ đặt đuôi rồng. Nó chính là cái bùng binh tức hồ Duy Tân, nơi đặt đài kỷ niệm tri ân các quốc gia giúp đỡ Việt Nam Cộng Ḥa, có cái hồ nước phun róc rách, sen mọc lai rai.

Giữa hồ, là kiến trúc uốn cong như đuôi rồng. Người ta bảo như thế là đủ bộ, là đẹp. Hồ này cạnh nhà đèn và trường đại học Luật Khoa cây dài bóng mát, chiều chiều mùa hè, các cô các cậu vẫn rủ nhau ra ngồi quanh ven hồ, soi bóng nước gương hẹn ḥ bù khú.

Tối tối, khi thành phố lên đèn, nhiều gia đ́nh chở xe gắn máy, xe vespa, lambretta, xe hơi lại đây cho trẻ con chạy nhẩy chơi đùa. Khu đài kỷ niệm giữa hồ, sau này giăng kẽm gai không cho ai leo lên đuôi rồng, e phá hoại th́ động đến phủ đầu rồng. Những trẻ bán cà-rem và các xe mía hấp, tập trung nơi này, làm ăn coi ṃi ăn khách.



qRuEnLZfeq8


Có khi, thày tṛ tôi lại cụ Fây nghe t́nh h́nh chính sự và chiến sự cùng tử vi địa lư. Cụ Fây vẫn cứ khen tôi có vóc dáng cọp, bảo tôi đưa cụ một tấm h́nh “cát-xít” để cụ niệm chú giúp cho công danh sự nghiệp. Ǵ chứ mục đó th́ tôi chịu liền cái rụp.

Cụ Fây kể chuyện chánh phủ, chuyện tướng lănh, chuyện các quư phu nhơn, rồi bảo rằng trên vùng Lâm Đồng có một chỗ đất đẹp lắm. Mả nào táng vào đó là phát lớn lắm à !

Cụ đă lên tận Blao, đáp trực thăng cùng quan đầu tỉnh, bay ṿng vo tam quốc mấy vùng đồi núi chập chùng quan sát địa lư.

Cụ khám phá ra dưới thung lũng có vũng hố sâu, đó chính là đắc địa. Quan đầu tỉnh c̣n cả phụ mẫu chi dân, vẫn dành chỗ ấy cho mai hậu. Cụ Fây tiếc cho tôi, giá mà làm được th́ lẫy lừng lắm.

Tôi chả sao làm được, v́ bà mẹ mất tận ngoài Bắc, phải cải táng đem hài cốt vào Nam, lên Lâm Đồng tái táng th́ nhiều khê, diệu vợi và hầu như không thể có. C̣n ông bố tôi mới ngoài bẩy mươi tuổi, chân tay vẫn mạnh khỏe, cũng ở Bắc, làm sao mời cụ... đi sớm để đem táng tận Lâm Đồng ?

Dẫu có ham phú quư vinh hoa công danh bổng lộc đến mấy, tôi cũng không dám có cái dă tâm như Cộng sản là làm bất cứ cách ǵ để đạt mục đích dù rằng phải cho đi ô-tô-bương các đấng sinh thành !]

Cụ Fây có lần đến nhà tôi nhân chuyến thăm thân chủ, cụ đảo quanh nhà sau sân trước một lượt rồi phán rằng :

- Cửa chính nhà cậu mà lại xoay ngang, nh́n ra tường nhà bên cạnh, tức là đi vào cửa hông. Người quân tử phải đi cửa chính. Chỉ có kẻ tiểu nhân mới đi cửa hông, cửa sau, cửa hậu. Thành ra cậu không đón được người quân tử vào nhà . Muốn sửa lại, cậu phải bít cái cửa hông ấy đi, phá tường làm cửa mặt trông ra ngoài cổng trước, có vậy mới khá.



Yve8YMve90E


Được nhà địa lư khen ḿnh là người quân tử th́ tôi đă sướng quá đi rồi, nay cụ lại chỉ cho cách chỉnh trang kiến thiết nhà cửa cho đẹp đẽ văn minh hơn, rồi lại được chơi với toàn cỡ quân tử thời tôi chịu lắm lắm.

Ngay tút suỵt, tôi nhờ thợ mộc thợ hồ ra công làm liền tù t́. Chỉ trong ṿng một tuần lễ, cửa ngơ nhà tôi đă nom rơ là chính diện, phong cách. Mỗi lần ra vào cửa chính, tôi đều cảm thấy ḿnh là người quân tử.

Dẫu là quân tử đa cùng và độc diễn như thế, tôi vẫn mang cái mặc cảm lẹt đẹt thua anh kém em về đủ phương diện quốc gia. Như sự học của tôi là một. Hỏi cụ- Fây xem cái số khoa cử học hành thế nào th́ cụ tỉnh bơ mà rằng:

- Cậu th́ học hành cái con mẹ ǵ. Cậu chả cần học cũng đỗ...

Tôi đẩy nhẹ thêm một câu:

- Mà thưa cụ, con đỗ được tới đâu cơ ạ ?

Cụ vẫn bơ đi mà rằng:

- Cậu muốn đỗ tới... tiến sĩ cũng dư sức qua cầu... Mà đỗ th́ phải mang hai chai rượu tây cho tôi đấy nhá!

Nói xong, cụ cười khà khà...

Tôi đă được gọi là người quân tử, nay lại sắp vơng lọng nghênh ngang nữa th́ mê chết đi được. Bèn lẽo đẽo chạy cái lambretta khói phun mờ mịt đến trường luật nhờ vả cậy cục bài vở thi cử để mong chiếm tí bảng gỗ che lưới cho mát mặt với đời.

Tôi có người bạn học cũ ở Khuyến Học Bổ Túc là anh Toàn, mỹ danh “Toàn Ngắn” bởi chiều cao có khi c̣n thấp hơn khẩu] “ga-răng” . Hắn lo dùm ghi danh, lấy thẻ, mua bài, tin tức thi cử... Thế là quư hoá và ưu tiên quá xá rồi.

Dần dà, tôi làm quen được với cụ Tổng Thư Kư Nguyễn Thượng Kiên. Cụ có vóc dáng ḿnh hạc, nom người không mấy mạnh mà nói năng rất khỏe. Chức vụ của cụ là một chức vụ nặng nề nơi trường Luật. Ngôi trường nom có cái mă mà pḥng ốc bàn ghế trong lớp lộn tùng phèo, sinh viên phải đi sớm theo ghế giữ chỗ chờ thày đến giảng bài, nêm như nêm cối, chen chúc như cái chợ vỡ vậy.

Cụ Kiên lo hầm bà lằng hành chánh, quản trị, chương tŕnh thi cử các lớp. Lúc nào cụ cũng bận tối tăm mặt mũi và ít th́ giờ tṛ chuyện với sinh viên. Ấy thế mà tôi lại được đài gương soi đến dấu bèo, cụ dành biệt nhỡn mỗi khi tôi nhờ vả.

Tôi học hành tối ṃ như đêm ba mươi tháng chạp nhưng bù lại trời cho cái thiên tài cóp bài, đút lót, chạy cửa hậu rất kền. Gia đ́nh vợ con đ́u íu, công việc chánh phủ chập chồng mà tôi c̣n đến trường lấy tài liệu bài vở được th́ đă là giỏi lắm rồi ấy chứ !

C̣n bài vở đem về nhà có đọc, có học hay không, chỉ có tôi với cái giường biết mà thôi ! Gần ngày thi, tôi lật dăm ba trang sách ra coi cho có lệ, đỡ thắc mắc. Rồi dành th́ giờ vào phút chót, tôi quay thành các bộ phim tài liệu .


https://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2019/10/truong-DH-Luat-SG.jpg


Học tṛ ngày xưa đi thi, dấu tài liệu dưới gầm bàn, trong tay áo, dưới giày... đều là các phương pháp cổ điển. Tôi đi thi, tài liệu lúc nào cũng ch́nh ́nh ngay trên bàn, trên tay, ngay trước mắt giám khảo, giám thị mà vẫn b́nh tĩnh hiên ngang như chốn không người...

Phương pháp đi thi của tôi có thể in thành sách, ít ra là dầy bằng cuốn học thi vào quốc tịch Hoa Kỳ. Nhưng ở đây, tôi chỉ ghi vắn tắt để tránh bị nghi kỵ là cạnh tranh hoặc khoe khoang lớn lối.]

Cách thứ nhất là ghi các công thức, các tên, các năm, các điều quan trọng cần nhớ vào... bàn học. Ghi bằng bút ch́ vót nhọn. Bàn học bên ta cũ mèm, đen kịt, viết ch́ lên, nom thấy ǵ đâu. Ấy thế mà nghiêng nghiêng con mắt nḥm xéo vào, tôi thấy nguyên con, tha hồ mà chép.

Cái khéo là làm sao ra vẻ như ḿnh suy nghĩ mung lung, ngả nghiêng thẫn thờ t́m ư để ngó và chép cho suya là được. Có cái sườn rồi th́ cứ viết lia lịa cho đầy trang, kéo dài ra là thày tưởng như học tṛ này có ăn có học nên chữ nghĩa đầy ḿnh.]

Cách thứ hai là ghi mật mă, mật hiệu, mật lệnh vào bốn mặt của chiếc thước kẻ. Ghi bằng đầu mũi kim, chỉ cần các nét như khắc vào gỗ. Có thể làm vài cái thước kẻ, mỗi lần thi dùng một cái làm tin. Cũng ngả nghiêng cánh chim mà đọc thước kẻ để ghi ư chính hoặc số liệu cần thiết .]

Cách thứ ba là dùng mũi kim ghi vào sáu mặt của chiếc bút ch́, cũng vẫn phương thức đọc như trên.]

Cách thứ tư là thông tin t́nh báo, tức như làm quen trước với các tử sĩ đông tây nam bắc qua quanh ḿnh. Hễ gặp biến cố th́ nhờ đồng minh cứu nguy, yểm trợ tại chỗ. Nếu phúc đức lại gặp kẻ ngồi cạnh là sinh viên thuần túy, chịu khó đến trường nghe giảng và học thuộc bài như cháo mà cho ta tóm lược, tức là cho chép bài nhưng đừng chép nguyên văn mà khổ cả đám, th́ thực là tuyệt... vọng !]

Cách thứ năm là hỏi xem thày chú trọng những đoạn nào trong sách th́ nhắm vào đó để làm phim, đặt thành trọng tâm công tác t́nh báo chiến thuật.

Sau khi thi cử rồi, coi ṃi bài vở viết được dăm bẩy tám chín trang đầy chữ, th́ theo rơi t́nh h́nh chấm bài. Môn nào ḿnh yếu quá, tất cần chạy thày chạy thuốc cho mau.



dvFzykxOzj0



Trên đại học luật khoa, bài nào dưới ba điểm là rớt dù các bài khác 19, 20... Chạy thuốc, có thể bằng nhiều cách thần sầu, nhưng cũng có giáo sư “đuya”, đụng vào như đụng đá vỡ đầu bể mặt.

Thiên hạ chạy thuốc có khi bằng quyền băng thế, bằng tiền, bằng t́nh... C̣n tôi chỉ nhờ trời cho cái bộ mặt ngây thơ nom rất dễ thương... hại mà hoá lại ăn tiền. Nên cụ Tổng Kiên nom thấy là ra tay cứu vớt đôi phen.

Rồi bạn bè cũ công danh cả đống, tôi kể khổ, moi ra thời xưa đi học, đá banh, ăn ổi có nhau, nay nhờ t́nh đồng môn giúp nhau qua cơn hoạn nạn. Lũ bạn cũ lại vác chân lên cẳng chạy tiếp sức kéo tôi từ vực sâu lên núi cao có trăng thanh gió mát.

Rồi mấy ông thày cũ, mấy ông làm lớn trong chánh phủ mà tôi có dịp phục ṭng, thấy đệ tử đi thi th́ cũng nới tay nâng đỡ.

Nhờ tất cả những cánh quân tả phù hữu bật, tiền đạo, hậu vệ, trung phong nức ḷng bao bọc mà tôi như phi thuyền đang từ mũi Kennedy bay tuốt luốt tới tận cung trăng cùng Hằng Nga, Hậu Nghệ...

Mỗi năm ngon trớn như thế, tôi lại vác một chai rượu tây lên nhà cụ Fây làm lễ tạ ơn và xin “chịu” một chai vào năm tới. Qua bốn phùa thi chơi ăn thiệt, tôi bỗng dưng trở thành một ông cử, tuy khó tin nhưng có thật.

Việc đầu tiên là tôi in một lô danh thiếp với tên tuổi, bằng cấp, gặp ai cũng làm ra vẻ thân mật hỏi nhà cửa rồi trao một tấm danh thiếp để tiện liên lạc sau này.

Họ hàng, phường xóm là chỗ đă quen biết th́ tôi gợi chuyện học hành bận rộn, thi cử vất vả nên ít ghé thăm, để sau cùng đành ḷng phải tiết lộ là ḿnh vừa đậu xong ban đại học.

Với bạn bè cũ, những đứa trước kia cùng đạp xe đi làm, leo xe buưt đi phố, ăn kem mút, uống nước dừa, ăn thịt ḅ khô, bây giờ tôi thấy chúng nó với tôi như xa cách muôn trùng.

Tôi đă là tôi có danh thiếp in bằng cấp sắp thăng hoa, c̣n chúng nó vẫn dậm chân tại chỗ, kém cỏi, tầm thường...

Việt Nam ta một thời có phong trào diễn thuyết “ Tại sao tôi trở thành bác sĩ ?”, “Tại sao tôi trở thành dược sĩ ? ” , v.v... Ai đến dự cũng đều khâm phục và khen ngợi.

Tôi cũng định lập một chương tŕnh đi các tỉnh, các đại học, các đoàn thể, các cơ quan với đề tài “Tại sao...”, nhưng ngồi nghĩ lại thấy ḿnh toàn nhờ cóp bài, láu cá, ranh vặt, chạy chọt, luồn lọt, lạy lục mà có cái mảnh bằng th́ vinh dự, danh giá chi mà đem khoe thiên hạ. Có khi c̣n bị khán thính giả ném cà chua, trứng thối, vạch mặt chỉ tên là đồ vô tư cách, vô liêm sỉ th́ khốn. Cho nên tôi bỏ mộng diễn thuyết “Tại sao...”

Lắm lúc ngẫm lại, nh́n quanh quẩn gần xa tôi lại cảm thấy được đôi chút vỗ về an ủi.

Những thằng “mỏi gối quỳ ṃn sân tướng phủ” để xin một chân đi ngoại giao, những tên đeo mặt nạ theo hầu bà lớn để làm áp-phe kinh tế, những đứa đổi vợ đổi con để lấy một tí danh giá, những đứa buôn bán chợ đen chức tước, bán tống bán tháo quân trang quân dụng của quân đội cho kẻ thù, những đứa đem sinh mạng của hàng triệu đồng bào đổi chác lấy một đời thừa nhục nhă lang thang.

Tôi so sánh rồi tự nhủ là ḿnh chưa can phạm, ḷng phạm hay thủ phạm th́ chưa làm ǵ có tội với quốc dân đồng hồ đâu, việc chi mà áy náy !



https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/7/72/Saigon_University.JPG/1200px-Saigon_University.JPG



Nhớ lại tướng số tử vi của ḿnh, tôi thấy cụ Fây đoán cũng nhiều cái đúng. Như cụ bảo tôi chẳng học mà thi vẫn đậu th́ quả nhiên cụ đoán như thần. Như cụ phán cho tôi sửa nhà th́ từ đó tôi mời mọc cũng có ông lớn, bà lớn tới chơi.

Như cụ bảo số tôi hiển đạt, làm to th́ tương lai tôi đang sáng choang có khi c̣n hơn đèn 50 ngàn nến. Duy có điểm cụ nói tướng tôi là tướng cọp, ví tôi như Hàn Tín th́ tôi c̣n hoang mang, mung lung suy nghĩ.

Có đâu mồ mả nhà tôi lại có ai lén lút đem táng họng rồng, thay thế họ Hui-Bon-Hoa, hoặc có “mission impossible” nào đem hài cốt má tôi bỏ xuống thung lũng hồng miền Bảo-Lộc? Những chuyện ấy chẳng bao giờ có được. Thế th́ :

“Tại sao tôi trở thành” tướng cọp nhỉ?

Niềm vui kỳ ảo ấy cứ canh cánh bên ḷng.

Một bữa cuối tuần đi lang thang quanh chợ Bến Thành, lúc qua gian hàng bán đồ chơi trẻ con, tôi thấy trong đám tàu thủy, máy bay, tàu ngầm, búp bê, mặt nạ, có cả thú vật như gà, heo, khỉ, chó, mèo và... cọp làm bằng giấy.

Tôi đứng lại ngắm nghía một hồi lâu, xong tạt sang xe ngộ mị phá lấu làm một đĩa, nhâm nhi với chai la-de trái dứa. Trong lúc tâm hồn bay bổng với chút men say, tôi chợt trông thấy tôi chập chờn qua h́nh ảnh con cọp. Tôi khám phá được một điều cay đắng...

Thôi đúng rồi, ông cụ tử vi địa lư tướng số này vậy mà thâm trầm, xa xôi bóng gió quá đi thôi.

Chẳng qua là cụ không muốn làm phật ḷng tôi nên nói tránh né. Chứ với kinh nghiệm già đời, với con mắt tinh đời, cụ nh́n đường đi nước bước, nghe lời ăn tiếng nói, phong cách của tôi nó lộ rơ mồn một rồi th́ cứ thế mà đọc ra, nào cần chi phải đoán.

Cụ bảo tôi có tướng cọp mà tôi cứ nghĩ ḿnh là cọp rừng thiêng oai linh dũng mănh “ta say mồi đứng uống ánh trăng tan", hoặc thất thế th́ cũng như con cọp nằm mèo trong sở thú “ ta sống măi trong t́nh thương nỗi nhớ ”, để chờ một mai tháo cũi sổ ḷng lại tung hoành “giữa chốn rừng thiêng không tên không tuổi” như thường...

Đàng này, ư cụ chê tôi là tướng hèn, tiểu nhân, cả đời đi “cọp-pi”, qụy lụy đê tiện, không nhân cách, không cả sức mạnh thể xác lẫn tinh thần, nào có khác chi một con cọp... giấy!

Tôi đâm ra thương cho chính cái thân tôi. Giá được làm con cọp... chết cho đỡ khổ, th́ tôi cũng c̣n măn nguyện v́ các cụ nói “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”, chứ như tôi làm thân “cọp giấy” khác chi làm ông “tiến sĩ giấy” cho trẻ con nó chơi, th́ đầu đường xó chợ nào có thiếu ǵ...



https://tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/trc6b0e1bb9dng-ke1bbb9-sc6b0-cc3b4ng-nghe1bb87-trc6b0e1bb9dng-hc3a0ng-he1baa3i-thue1bb99c-trung-tc3a2m-que1bb91c-gia-ke1bbb9-thue1baadt.jpg


CHƯƠNG 9



Tôi vốn khoái lái xe hơi, cho nên xe nhà binh cái nào tôi cũng ôm “vô-lăng” rất chắc. Từ xe Jeep đến “đốt-cát”, “đốt-sít”, GMC tôi đều lái vèo vèo.

Ngày về dân sự, làm việc ở Ngân Hàng, tôi lại có xe La Dalat và tài xế đưa đón hàng ngày nên đă tận dụng công-ха để công tác th́ ít mà việc riêng la cà, ăn chơi, du hí th́ nhiều, nhấn hết ga cho thoả chí.

Nhớ xưa kia, hồi nghèo mạt rệp, ở trọ trên gác lửng mái tôn nóng hơn ḷ bánh ḿ, đi làm bằng xe buưt xanh, xe buưt vàng, nhẩy xuống ngang đường như máy, ví lép kẹp, quần áo vá víu cũ kỹ, chân đi săng-đan nylon, mặt mày hốc hác, ḷng không dạ bờ đê mà nay rủng rỉnh giày tây, cổ đeo cà-vạt, ngồi xe hơi như ông lớn th́ thử hỏi sướng biết chừng nào. Cho nên, được thể tôi lại nhẩy rào t́m thú đam mê. Con người ta, nhiều người có thú đam mê dễ sợ lắm.

Đam mê đọc sách, nghiên cứu có thể trở thành Học giả, bác học như :

- Trương Vĩnh Kư, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Nguyễn Đức Quỳnh, Nguyễn Đăng Thục, Đào Đăng Vỹ, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Đ́nh Ḥa, Huỳnh Sanh Thông...

Đam mê viết văn có thể trở thành

- Khái Hưng, Nhất Linh, Phạm Cao Củng, Lăng Nhân Phùng Tất Đắc, Lê Văn Trương, Hồ Biểu Chánh, Hoàng Hải Thủy, Mai Thảo, Mặc Đỗ, Duyên Anh, Toan Ánh, Nhật Tiến .

Đam mê viết nhạc có thể giống như :

- Phạm Duy, Lê Thương, Văn Cao, Dương Thiệu Tước, Hoàng Trọng, Cung Tiến, Tuấn Khanh, Lam Phương...

Đam mê làm thơ có thể theo gót

- Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Tú Mỡ, Phạm Thiên Thư, Bàng Bá Lân, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Mai Trung Tĩnh...

Đam mê nhiếp ảnh có thể rất nổi tiếng như :

- Nguyễn Cao Đàm, Phạm Văn Mùi, Trần Cao Lĩnh, Nguyễn Lê Giang, Nguyễn Mạnh Đan, Nguyễn Văn Th́n, Lê Văn Khoa, Nguyễn Văn Vũ, Nguyễn Ngọc Hạnh...

Đam mê ca hát có thể nổi danh như :

- Nhật Trường, Hoài Trung, Hoài Bắc, Sĩ Phú, Elvis Phương, Duy Trác, Trần Ngọc,Việt Ấn, Hùng Cường, Anh Khoa, Chế Linh, Duy Quang...

Đam mê vẽ có thể lẫy lừng như :

- Tú Duyên, Thuận Hồ, Tạ Ty, Thịnh Del, Trần Văn Thọ, Ngô Văn Hoa...

Đam mê nhạc có thể tương tự :

- Nghiêm Phú Phi, Phạm Nghệ, Ṭng Sơn, Lữ Liên, Trần Vĩnh, Đan Thọ, Văn Phụng, HoàngTrọng, Nguyễn Đ́nh Nghĩa...

Đam mê ngâm thơ có thể tựa :

- Quách Đàm, Quang Minh, Nguyễn Thanh...

Đam mê thể thao có thể tên tuổi như :

- Huyền Vũ, Lê Văn Inh, Trần Cảnh Được, Mai Văn Ḥa, Lê Thành Các, Phạm Văn Rạng, Vơ Văn Thành...

Đam mê làm báo có thể lừng lững như :

- Nguyễn Thanh Hoàng, Đỗ Ngọc Yến, Nguyễn Đức Quang, Hà Túc Đạo, Duy Sinh, Nguyễn Hữu Nghĩa, Giang Hữu Tuyên, Nguyễn Thừa Dzu, Hồng Dương, Bùi Bảo Sơn, Lê Hồng Long, Ngô Vương Toại, Nguyễn AnhCa, Phạm Hữu, Vơ văn Ái, Nguyễn Văn Giang, Phạm Huấn...



ndwLvmpzYTk


Đó là một vài cái thú đam mê trong rừng đam mê cao đẹp. Tôi là kẻ bất hạnh, vô phước, không có được mảy may một ly ông cụ nào trong mấy cái thú đam mê tuyệt diệu ấy.

Những cái đam mê nho nhỏ, tôi cũng không có nốt, như mê thuốc lá, mê cà-phê, mê đánh bài, mê nhẩy đầm, mê câu cá, mê chơi cờ, mê uống rượu...

Cuộc đời tôi sẽ là một chuỗi ngày dài lê thê vô vị, nếu như tôi không vớt vát được một cái thú đam mê như tỉnh như say. Cái thú này có cái lạ là hể ai mê nó, ít khi chịu tiết lộ, cứ dấu im ỉm như mèo... Ấy là mê gái !

Ngày tôi hai mươi tuổi, bước chân vào đời lính, cũng là ngày ḍ dẫm lang thang trong lâu đài t́nh ái, một năm cả gan mê tới ba em.

Em Bích Huyền quê hương miền thùy dương bóng dừa ngàn thông, giọng nói nghe êm sao chi lạ, cứ như rót mật vào ḷng.

Cô Mi-Mi thích món canh chua cá kho tộ, ngọt ngào như trái sầu riêng, ca vọng cổ thiệt mùi, chịu hổng có nổi.

Bé Thúy Hiền chính gốc cố đô ngàn năm văn hiến, Hồ Gươm Hà Nội di cư, yểu điệu thanh tân mỏng mày hay hạt...

Bởi húc bừa băi vô trật tự, thiếu kế hoạch, không ngân khoản đài thọ cho nên hậu quả khốc liệt là các em đă tung sáu cánh chim t́m về với ba tổ ấm, để lại cho tôi biết bao nhiêu là khốn đốn, lao đao, tiếc nhớ hùi hụi.

Không biết ông bố tôi hồi xưa có mê gái như một thứ gia truyền không th́ không rơ, chứ cứnhư đời tôi, mê ǵ chẳng mê mà lại vướng vào cái ṿng oan nghiệt oan gia này mới thực là tai họa.

Tôi cứ đinh ninh cái đó gia truyền, như hiểu ta cũng ṇi t́nh đi thương người đồng điệu.

Sau những năm tháng nghèo đói lang thang, bỗng được lên xe xuống ngựa... sắt, tôi lại bổn cũ soạn lại, ngơ ngẩn với t́nh.

Người t́nh của tôi là một mệnh phụ phu nhơn, gặp nhau trong trại heo ở B́nh Dương.

Tôi th́ mần Ngân Hàng chuyên cho vay ngắn hạn, trung hạn, cho vay chăn nuôi, phát triển tăng gia sản xuất. Nàng có cái trại nuôi heo, cần vay tiền của Ngân Hàng.

Nhân dịp đi theo phái đoàn quan sát địa điểm chăn nuôi, tôi bắt gặp ngay đôi mắt của nàng chớp pha, cốt mấy phát khiến tôi bấn loạn tâm thần.

Rồi lúc ngồi ăn trưa, xếp đặt làm sao mà tôi lại ngồi ngay cạnh nàng. Mùi thơm của nước hoa, hương thơm của da người ḥa cùng hương thơm đặc biệt của trại heo làm tôi ngây ngất.

Nàng tiếp thức ăn cho tôi mà tôi cứ ngỡ như nàng đang cho heo ăn vậy. Bởi chính trong tôi cũng có một con lợn ḷng đang muốn phá chuồng sổ cũi...

Từ bữa đó, tôi hay lấy cớ đi công tác báo chí thông tin, lái xe La Dalat một ḿnh tới B́nh Dương gặp nàng tỉ tê bù khú.



J5QMxsapxXc


Tuy gọi là “nàng” cho nó có vẻ văn học nghệ thuật đấy thôi, chứ nàng đă gần bốn mươi cái xuân xanh, con cái lớn cả rồi. Sở dĩ nàng nhón tôi tiêu khiển là để vui chơi chốc lát.

Ông chồng nàng là sĩ quan cấp tá, vớ vẩn thế nào mà lại tù ti với chị người làm, theo quan niệm “Trong nhà ǵ đẹp bằng... sen”,nên bà vợ bỏ liền tù t́, cho đi luôn. Thế là anh đi đường anh, tôi đi ngả tôi, đôi ngả phân ly từ đó.

Tuy nàng băm mí tuổi rồi mà nom vẫn c̣n ngọt nước, màu mỡ lắm. Đôi mắt thật là t́nh tứ đong đưa, nét môi son hồng mời mọc, đồi núi vẫn chập chùng, dáng đi lả lướt quư phái. Nhất là nàng lại trang phục đồ đầm áo lụa hồng mỏng dính như tơ, chiếc juưp đen để lộ cặp gị trắng nơn, nàng như một đoá lan rừng.

Trách chi nàng chả có tên “Mộng Lan” là phải !

Tôi thường trốn nhà, trốn sở đi vào xi-nê-ma ngồi coi phim th́ ít mà rờ rẫm th́ nhiều. Có khi hai đứa ghé vườn lan trên xa lộ Biên Ḥa và Đại Hàn, vào ngắm lan muôn màu ngàn sắc.

Em hỏi tôi lan nào đẹp nhất, xin trả lời chỉ có Mộng Lan thôi ! Có lúc chúng tôi đi Vũng Tàu, Long Hải tắm mát rong chơi như đôi t́nh nhân hợp pháp.

Những mục du dương lả lướt như thế, trước sau rồi cũng có người bắt gặp, rỉ tai, thông tin quốc nội. Chuyện đến tai xếp tôi, tôi vẫn tỉnh bơ chối biến.

C̣n như chuyện đến bếp mụ xă tôi th́ mụ ấy không những chẳng thèm để lọt vào tai mà lại cười ầm lên, bảo rằng khen ai khéo “ bỏ bom ” , kể chuyện khôi hài...

Mụ xă tôi lấy tôi từ thuở xưa, biết tỏng cái tính tôi sợ vợ nhất trên đời, trong túi lại chả bao giờ có nhiều tiền, vợ con cả đống rồi, c̣n có ma nào thèm đến thứ tôi nữa mà cũng có người bàyđặt chuyện. Dù mụ ấy thông minh, lư luận cách mấy nữa cũng không biết rằng ma ăn cỗ và cái tổ con chuồn chuồn nó ở chỗ nào.

Lại nửa, dẫu tôi là kẻ nhát hèn, sợ vợ thật đấy nhưng khi cái máu đam mê nó nổi lên th́ có trời can cũng không nổi. Cho nên, nhờ cái vỏ ngoài ngớ ngẩn đáng tin cậy ấy mà tôi vi vút được một thời gian dan díu với t́nh.

Đến khi Mộng Lan vỡ mộng với Cai tôi, ôm đồ sang thuyền khác th́ tôi lại trở về với mái nhà xưa làm anh chồng chung thủy b́nh thường, đứng đắn như ngoại lệ.



jAs_w5S-g8c



Chưa được bao lâu th́ tôi lại ngựa quen đường cũ, tán tỉnh ngay được một em “gái một con trông ṃn con mắt”.

Em có anh chồng cờ bịch, hút sách cho nên bỏ vợ con lang thang. Tôi là kẻ hào hoa phong nhụy, làm ra vẻ thương người, lúc đem vài thùng sữa Guigoz cho cháu bé, lúc tặng nàng vải may áo, lúc biếu mỹ phẩm, quà bánh liên miên... cảm cái ơn ấy, tôi dụ dỗ được nàng đi chơi, bỏ chồng bỏ con, đi vào con đường tục lụy.

Tôi như một kẻ chiến thắng dẫu chẳng lấy chi làm vinh dự nhưng cũng thoả ḷng khao khát đắm say...

Bạn bè có ai đi ngoại quốc, tôi cậy cục nhờ mua phim, mua lịch khỏa thân để bán kiếm lời. Ai muốn xuất ngoại cần chạy Bộ nọ, Phủ kia, tôi chạy rất lẹ. Nói chi đến các Nha, Sở th́ tôi coi như đồ bỏ, chuyện chi cũng mát mái xuôi chèo. Miễn rằng tiền bạc đ́nh huỳnh, ṣng phẳng, theo đúng luật giang hồ.

Từ khi trong ví có tí tiền, tôi thường la cà vào các chốn nhẩy đầm vuốt ve các em “ca-ve” kiếm chác. Các trà đ́nh tửu quán đều biết mặt tôi khách sộp, chịu chơi.

Đến quán bia ôm là các em quay lại đấu hót như máy, mỗi em một ly nước ngọt, cộng lại x̣e ra dăm xín thanh toán như chơi. Vào những nơi tắm hơi đấm bóp, tôi là khách quen cơm bữa.

Tôi c̣n rủ rê thêm bạn bè, hướng dẫn chúng nó đốt giai đoạn để làm quen các em út, ăn chơi thỏa chí với đời...

Thằng Quỳnh Râu, Giám Đốc Ngoại Thương Bộ Kinh Tế, xưa kia chân chỉ hạt bột mà giờ áp phe tiền triệu vụ đường xăng đại huynh, nhà lắp máy lạnh, đi xe hơi Cortina láng coóng, đào điếc cả bầy...

Thằng Minh Vều, trung tá Tiếp Vận, thỉnh thoảng phải vào ṣng bạc của bà tướng trong Chợ Lớn nướng bớt cho đỡ nặng...

Thằng Út Khang, con út của bác tôi, hiền khô như đất, trông thấy đàn bà là đỏ mặt tía tai, chỉ cặp kè với tôi dăm bẩy phùa đă ôm đào nhẩy ś-lô, tango rất mùi rất lẳng...

Thằng đại úy Lộc, sĩ quan tùy viên của tướng tư lệnh sư đoàn 13, nghe theo lời đường mật của tôi, xách các-táp tùy viên đi bù khú với đào, bao nhiêu tài liệu kín, mật, tối mật bỏ ngỏ cho các em khai thác.

Thằng Cửu Chân, bác sĩ Quân Y quanh năm tiên tuyến bầu bạn với rừng Dakto, Daksut, Dak- rao, Rangréa, Konpo, Konđú mà lúc thuyên chuyển về gần Saigon cũng đă theo chân tôi vào chốn giang hồ, lúc bán thuốc, khi chạy áp-phe quân dịch tái khám, miễn dịch mà khấm khớ...

Thằng Hùng tức “Hùng Hục”, thanh tra Quan Thuế, đồn trú phi cảng Tân Sơn Nhất, chuyên áp phe với các bà tướng buôn lậu đồ từ ngoại quốc về, qua mặt quan thuế cái vèo để bán thuốc phiện, bạch phiến, cần sa, toàn những đồ quốc cấm...

Nhờ tôi mà những đứa ấy mở mặt với đời, từ cuối nẻo đường hầm, chui ra ngoài ánh sáng văn minh.


WUaPd-kjLNE


Sở dĩ chúng tôi yên ổn ăn chơi vi vút như thế v́ biết chắc chắn rằng trên khắp bốn vùng chiến thuật, các chiến sĩ hải lục không quân, các binh chủng nhẩy dù, biệt động quân, thủy quân lục chiến, các đơn vị thiết giáp, pháo binh, các lực lượng địa phương quân, nhân dân tự vệ vẫn ngày đêm giữ vững tiền đồn, giữ yên làng xóm để cho hậu phương được an toàn.

Kẻ hậu phương cũng không quên ơn chiến sĩ. Bằng chứng là năm nào cũng có cây mùa xuân tổ chức dịp Tết Nguyên Đán để mừng anh Chiến Sĩ Cộng Ḥa.

Các cơ quan hành chánh, tự trị cũng đảm nhận công tác thăm viếng anh em chiến sĩ tiền đồn, đi theo phái đoàn văn nghệ hát cho lính trận nghe, tặng quà xà-bông, kem đánh răng, khăn mặt, bánh kẹo, thư an ủi...

Ngân Hàng tôi kết nghĩa với Sư Đoàn 7 Bộ Binh của tướng Nguyễn Khoa Nam. Ngày cuối năm, phái đoàn NHPTNN đáp trực thăng từ Biệt Khu Thủ Đô đi Kiến Tường thăm tiền đồn và thương binh.

Trực thăng bay ṿng vo, lúc cao lúc thấp mới tới Kiến Tường. Hỏi ra th́ phi công cho biết bay như vậy để tránh hỏa tiễn tầm nhiệt của Cộng Sản từ dưới bắn lên. Vùng nào nguy hiểm th́ trực thăng phải bay hướng khác cho an toàn hơn.

Tiền đồn, tuy lúc phái đoàn tới thăm không có khói súng mịt mù, đạn bay tơi tả, nhưng bệnh xá dă chiến có mùi thuốc, mùi “ê-te”, có tiếng rên rỉ của kẻ gẫy tay, người cụt chân băng bó trắng rợn người, máu đào bê bết.

Cái không khí yên lặng tạm thời của tiền đồn là thứ yên lặng chờ đợi, chuẩn bị cho những hận thù nẩy lửa lại sắp diễn ra, bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào. Người quân nhân chỉ biết sẵn sàng tác chiến.

Phái đoàn lại đáp trực thăng về căn cứ Đồng Tâm ở Mỹ Tho, bộ tư lệnh của sư đoàn. Tại đây, đă có phái đoàn đi đường bộ mang hàng trăm gói quà, trong đó có thuốc men, quà bánh, thực phẩm, tiền bạc để tặng các anh em thương bệnh binh đang điều trị tại bệnh xá.

Những người chiến sĩ dầm mưa giăi nắng phong sương, đem cả cuộc đời để bảo vệ mảnh vườn tấc ruộng, quên cả gia đ́nh hạnh phúc để ǵn giữ ngọn cờ, bây giờ mất đi một phần thân thể, nằm đó mà linh hồn như vẫn theo chiến hữu xông pha lửa đạn ngoài trận địa.:112::112::112:

Tinh thần yêu nước ấy âm thầm và bền bỉ, kiêu hănh và can trường. Đó là truyền thống của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa mà thành tích chiến đấu tuyệt vời đă vang động khắp năm châu, đă ghi vào quân sử.


kEiIPc1yEvE


Phái đoàn ăn cơm đoàn kết tại câu lạc bộ với ban tham mưu của tướng Nguyễn Khoa Nam.

Vị tư lệnh độc thân, nói năng từ tốn và chắc chắn, nhiều lúc như trầm tư mặc tưởng, như cả cuộc đời gắn liền với nếp áo quân nhân, với đồng ngũ, với đơn vị. Tôi chỉ được nghe danh tướng Nguyễn Khoa Nam là một vị tướng trong sạch, nên ḷng rất kính phục. Chả bù với các tướng tham nhũng, bất tài vô hạnh...

Giữa một rừng sao quả tạ như thế, rất may c̣n một số v́ sao lấp lánh rạng ngời như ánh hải đăng để Quân Đội c̣n vững niềm tin, c̣n tinh thần chiến đấu diệt Cộng.

Tôi cũng tin tưởng thế, nên chuyện tiền đồn, bệnh xá lại như mây gió thoảng qua, chuyện ăn chơi đàn đúm, làm tiền vẫn là đá nam châm thu hút, đầy ma lực và quyến, rũ...

Một đêm đang ngủ say bỗng có tiếng nói rất quen thuộc mà cũng rất nghiêm nghị, đánh thức tôi dậy, hỏi rằng :

- Có phải thày là Cai Phúc ngày xưa đó chăng ?

Kẻ này đáp :

- Dạ phải !

Cuộc đàm thoại tiếp tục :

- Nhà thày có nhớ hồi tản cư nhà nghèo phải đi hốt phân trâu phân ḅ về bón rau, những đêm hè tát nước gầu đôi gầu ba, những ngày đông rét mướt đi chăn vịt ở Gia Lộc, Thanh Miện ?

- Dạ nhớ .

- Nhà thày chắc chưa quên thời học tṛ Nguyễn Trăi, học công dân giáo dục thày Nguyễn Đức Hiếu về đạo tu thân, tề gia, trị quốc chứ?

- Dạ, quên làm sao được ?

- Thế nhà thày c̣n nhớ lời thày giảng:

“ Bần tiện bất năng di, phú quư bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất ” không ?

- Dạ c̣n nhớ !

- Khi nghèo đói tả tơi mà ḷng dạ chẳng đổi, giấy rách vẫn giữ lấy lề, nhà thày theo tới không ?

- Dạ, chưa làm điều ǵ ác ôn để cha mẹ bị chửi ạ !

- Nếu quả vậy, ta có lời khen. Thế gặp hoàn cảnh bị vơ lực áp bức, hành hạ đe dọa mà vẫn không sợ hăi, không chịu phục ṭng, nhà thày can đảm đến mức nào ?

- Dạ, trong đời từng dăm lần biểu dương thái độ, nhất quyết là không, ít ra là bốn không !

- Nếu việc làm у như lời nói, ta có lời khen nữa. Thế c̣n như câu :

“ Phú quư bất năng dâm ”

- chữ “dâm” đây có nghĩa rộng là tham lam, ham muốn quá độ, say mê sắc dục, lạc lối lầm đường - như :

-'' Dâm bằng” là bạn bè xấu .

- “ Dâm bội” là tà dâm trái đạo .

- “ Dâm hành” là hành động tà dâm .

- “ Dâm học ” là cái học không chính đáng .

- “ Dâm huệ” là ơn huệ không phân minh .

- “ Dâm lệ” là nước mắt đàm đ́a không dứt .

- “ Dâm ngôn ” là lời nói thô tục .

- “ Dâm thị ” là cái nh́n bất chính .

- “ Dâm từ ” là lời nói không đứng đắn .

- “ Dâm uy ” là oai quyền bất chính

- “ Dâm vũ” là mưa rầm rề đường trơn ướt lê thê... Nhà thày theo tới đâu rồi ?

Câu trả lời quả thực là khó, bởi từ ngày le lói tí đom đóm với đời, nhiều phen đổi bạn, đôi lúc muốn bỏ vợ, tôi như con diều gặp gió sắp lên cao, đâu c̣n nhớ ǵ xa xưa, dĩ văng.

Nay có kẻ biết tỏng ḿnh, bầy đặt hỏi móc họng, kê tủ đứng vào mồm, liệt kê những cái tồi tệ, đốn mạt của ḿnh ra khiến tôi vừa bực ḿnh vừa hổ thẹn, phân vân chưa biết trả lời sao th́ lại nghe có tiếng thở dài:

- Có thân mà không chịu tu sửa, có gia đ́nh mà không biết giữ ǵn, có tổ quốc mà không lo bảo vệ. Những kẻ như bây đă làm băng hoại cả một cơ đồ. Trách chi đất nước này chẳng tới hồi mạt vận...
Tôi vội chắp tay kính cẩn:

- Thưa, người là ai, thần linh hay thánh nhân, có điều chi dạy bảo, xin...

Tiếng nói át đi:

- Tao nào có phải thần thánh quỷ quái ǵ đâu! Tao chính là cái LƯƠNG TÂM của mày đó!

Nói xong im luôn.

Tôi toát mồ hôi, mở cửa bước ra sân. Chung quanh không một bóng người.

Từ khu Đồng Ông Cộ nh́n lên bầu trời đen thẳm, lập loè vài đóm mắt hỏa châu. Và tiếng súng trận dồn dập đau thương nghe như mỗi lúc một gần...

C̣n tiếp ,

hoathienly19
12-11-2020, 19:43
CHƯƠNG 10


Mặc dù t́nh h́nh chiến sự trên bốn vùng chiến thuật sôi động, nhiều trận đánh ác liệt kinh hồn, nhưng hầu hết các trục lộ do quân ta kiểm soát an ninh, các đồn pḥng ngự vẫn tung bay ngọn cờ vàng ba sọc đỏ, các thị trấn vẫn sinh hoạt b́nh thường.

Và tại thủ đô miền Nam, Ḥn Ngọc Viễn Đông, vẫn như thuở thanh b́nh thịnh trị.

- Nếu không có người lính Dù ôm M-16, mặc áo giáp đứng trên lô-cốt cạnh cầu Phan Thanh Giản .

- Nếu không có đồn bót quanh ṿng đai an ninh Saigon chất đầy bao cát và những ṿng giây kẽm gai hiểm hóc .

- Nếu không có những quân nhân mặc đồ trận mang nón sắt mang vũ khí di chuyền trong đám thường dân .

- Nếu không có những quân xa sơn màu lá rừng, những xe thiết giáp trang bị súng lớnchạy ầm ầm đây đó

- Nếu không có những chiếc máy bay 130, A-37, trực thăng bay lượn trên ṿm trời xanh mây trắng... th́ ít ai có thể ngờ rằng đất nước tôi ṛng ră buồn vui suốt mấy chục năm vẫn c̣n khói lửa tơi bời.

Khói lửa ở xóm thôn, ở ven đô, có khi trong đô thị. Khói lửa ở các địa danh cao nguyên, đồng bằng, sông rạch, đường xá, vị trí đóng quân, phục kích, hành quân... Nơi mỗi người dân là một mối u sầu lởn vởn.



F0GfcrF8thU


T́nh h́nh quân sự coi ra phía địch được tiếp tế viện trợ tối đa, c̣n phe ta bị hạn chế, cắt ngân khoản, cắt đủ mọi thứ. Người bạn đồng minh đă trở cờ, chuẩn bị rút lui. Chỉ c̣n lại một quân đội can trường kiêu dũng, đánh giặc với các điều kiện hoàn toàn bất lợi. !


https://4.bp.blogspot.com/-TN6qQNQ92c4/XDIpC1Q-96I/AAAAAAAAkNQ/yW3HkYYCj445iyEPUGltvjbOPW46IPlmQCLcBGAs/s1600/content_541-18-01.jpg



T́nh h́nh chính trị càng ngày càng thê thảm hơn. Nhóm ngụy ḥa, thân Cộng ồn ào chống đối chính quyền. Người quốc gia ngao ngán trước t́nh cảnh nguy vong đổ vỡ.

Trong bối cảnh thất điên bát đảo ấy, tôi vẫn vác sách đi học đêm, nghe các giáo sư diễn giảng về chính trị, ngoại giao. Các thày đều là hành chánh gia, lư thuyết gia, chính trị gia, luật gia, nói như nước chảy hoa trôi thao thao bất tuyệt khiến sinh viên cứ ngồi vểnh tai lên mà nghe rất sướng.

Sướng nhất là nghe thày bàn về t́nh h́nh chiến sự và chính trị. Với những luận cứ chắc hơn bắp, thày bảo rằng t́nh thế tuy nó là thế nhưng chưa hẳn đă là thế đâu. Nghĩa là dẫu ta có mất vài tỉnh, rút quân từng phần nhưng đôi bên sẽ phải ngưng ở một nơi có chuyến đ̣ vĩ tuyến.

Vĩ tuyến ấy ở chỗ nào th́ thày đưa ra vài cái rồi quả quyết rằng ta cứ yên chí, chớ có ồn ào, rối trí, mất b́nh tĩnh mà hỏng việc.

Có thày lại viết báo Chính Luận bày tỏ lập trường, dự đoán t́nh h́nh đất nước và lạc quan nhận định dẫu có bề ǵ, ḿnh vẫn c̣n giữ được một phần lớn miền Nam.

Giới trí thức, chính trị mà đă quan sát, phê b́nh như thế, tất nhiên đám sinh viên chúng tôi phải coi là khuôn vàng thước ngọc rồi nên rất an tâm. Có một điều lạ là ngoài phố thiên hạ bàn ra tán vào rất khác lập trường của các thày đại học.

Giới chị em ta có liên lạc mật thiết thân t́nh với quân nhân Mỹ coi ṃi hoạt động mănh liệt hơn cả. Mặc dù t́nh thế rối tơ ṿ, chả ai hiểu đường đi nước bước ra sao, nhưng các chị em ta có lập trường rơ rệt. Ấy là đưa người vào phi cảng, vào DAO để đi Mỹ.

Tôi cũng có giao dịch với chị em ta, tuy không mặn mà như G.I. Mỹ nhưng cũng thu thập khá đủ t́nh h́nh tin tức t́nh báo chiến thuật để quyết định một phùa chót chuyến này.

Nhận thấy rằng nghe theo các thày có vẻ hay đấy nhưng không có lợi. Đàng này, phía chị em ta được đồng minh rỉ tai nên có chương tŕnh ra đi chớp nhoáng mà lại mần x́n khá gọn.

Tôi gia nhập vào băng của họ, chuyên mối lái các gia đ́nh giàu có muốn đi. Thế là tôi thu xếp cho người ta vào DAO, mỗi người chỉ phải nạp ít vàng hoặc đô-la xanh là OK xong việc.

Những chuyến đi như thế, tôi có thể kiếm dăm bẩy ngàn đô-la như bỡn, hoặc dăm mười lượng vàng nhanh như cắt.

Gần cuối tháng 4 năm 1975, t́nh h́nh coi ṃi bết bát, lần lượt các tỉnh lỵ bị Cộng Sản tràn ngập. Chiến sự đă gần kề đô thành. Chính phủ thay đổi. Tôi cũng t́m đường dọt cho mau vào phút chót.

Ngày 28 tháng 4, gia đ́nh tôi đă nằm trong DAO Tân Sơn Nhất, đêm đó Cộng sản pháo kích phi trường, đạn réo như xé lụa, rít lên thật là rùng rợn và kinh hoàng.chót.

Trưa ngày 29 tháng 4, mấy ngàn người cả Việt lẫn Mỹ kẹt trong DAO th́ tôi thấy có xe Mỹ đi nhổ cột điện, chướng ngại vật khu sân rộng. Lính Mỹ nói rằng sẽ có máy bay đến đón chúng tôi và đưa ra biển. Khu DAO ồn ào hẳn lên, nhốn nháo bàn tán, chờ đợi.

Lối 3 giờ chiều, ba chiếc trực thăng từ ngoài Vũng Tàu bay tới, hạ cánh khoảng 100 lính Thủy Quân Lục Chiến, súng ống đầy ḿnh để giữ an ninh cho khu DAO.

Trên trời, mấy chiếc phản lực thay nhau vần vũ. Đám người Việt, người Mỹ được chia từng khu, từng toán trật tự, có lệnh mới a-la-xô lên máy bay. Cứ ba trực thăng đi th́ chút xíu lại có ba cái khác đáp xuống.


Chuyến bay tôi rời DAO lúc 5 giờ chiều. Chiếc trực thăng bán phản lực, chở 60 người cất cánh, bụi tung mù mịt, động cơ ầm ầm, hở phía đuôi, có thể nh́n xuống dễ dàng.

Không ai bảo ai, những người lớn đều ôm mặt. Có người nghẹn ngào nức nở, có người khóc thành tiếng bi thương. Tôi không khóc, không ôm mặt mà lại mở thật to đôi mắt để nh́n quê hương lần cuối.

Dưới đó, là Tân Sơn Nhất, là Gia Định, G̣ Vấp, Thủ Đức, Long Thành, Vũng Tàu... Dưới đó là những mái nhà tôn nhà lá nhà gạch, những con đường nhựa đường làng, những thửa vườn, luống rau, những đồn bót đơn vị, những kỷ niệm chồng chất, dập vùi...

Khi sống trên quê hương, tôi chả bao giờ thiết tha đến những thứ đó, trái lại nhiều lúc c̣n dửng dưng coi rất tầm thường. Mà sao khi mất mát nó rồi mới thấy nhớ nhung, quư báu, xót xa.



uVuWB0KRb-U


Giá trước khi chạy ra máy bay, tôi vốc được một nắm đất bỏ vào túi làm kỷ vật có phải là đẹp biết mấy không cơ chứ. Chiếc trực thăng bay gần 50 phút, chúng tôi ra tới hải phận quốc tế, đáp trên chiến hạm.

Chưa đầy một tiếng đồng hồ, tôi đă là người tỵ nạn lênh đênh như con thuyền không bến. Đoàn người được tiếp tế ăn uống và chờ đợi di chuyển qua tàu khác. Tôi vẫn ôm khư khư cái túi đựng đô-la và vàng Kim Thành, không lúc nào chểnh mảng.

Với số tiền dăm chục ngàn đô-la và vàng lá, qua Mỹ tôi sẽ tự tậu một cái nhà, sắm một cái xe hơi Huê-Kỳ mới toanh và mua một cơ sở tự lập khỏi phải nhờ vả ai phiền phức.

Đến đêm, mấy tàu Mỹ bật đèn như sao sa, sáng choang một vùng biển, nom tựa một thành phố nổi vậy. Nhờ trời mây quang tạnh, các xà-lan chở người qua tàu khác không mấy khó khăn. Chỉ có một chút khó khăn là sóng biển chập chùng, lắc lư cái xà-lan và khi từ xà-lan lên tàu lớn th́ phải trèo thang giây, có người đỡ.

Tôi đă cẩn thận luồn cái túi tiền qua cổ qua vai, thế là yên chí lớn. Đến lượt tôi bắt đầu trèo thang giây, bỗng dưng trời nổi gió. Sóng nước lao đao, c̣n con người cũng lảo đảo. Những người già trẻ lớn bé, đang trèo thang giây, sợ hăi, ḥ hét om ṣm. Tôi lúc đó cũng hoảng hồn chỉ sợ té. Trong khoảnh khắc, tôi cảm thấy người nhẹ hẳn đi, th́ ôi thôi, chiếc túi tiền với vàng đă rơi ṭm xuống biển.

Tôi chết điếng cả người, không dám hé răng v́ c̣n phải cố gắng ṃ thang giây leo lên tàu buôn lớn. Cái tàu buôn này chuyên môn chở hàng, thủy thủ đoàn lối hơn chục người nhưng khi được Hoa Kỳ thuê chở dân tỵ nạn nó đă chứa tới năm ngàn mạng.

Đó là con tàu “Pioneer Commander” . Khi cả nhà lên tàu, kiểm điểm thấy vợ chồng con cái đầy đủ, kiếm được một góc tạm cư, lúc bấy giờ tôi mới nhớ lại cái túi tiền và vàng rớt xuống biển mà ḷng đau như cắt. Mụ vợ tôi thấy tôi thở dài sườn sượt cứ ngỡ rằng tôi buồn nhớ cố hương, mặc dù mụ ấy cũng đang khốn khổ khốn nạn, an ủi rằng:

- Thôi th́ vận nước như thế, ḿnh phải chịu ! C̣n biết bao nhiêu người kẹt lại không đi được th́ sao? Ḿnh phải chấp nhận hoàn cảnh. Trời sinh voi trời sinh cỏ, có người có ta...

Nghe mụ vợ nói lải nhải, tôi đâm cáu:

- Có cái con khỉ ! Mất bố nó cái túi tiền rồi !

Mụ vợ tôi nghe chưa dứt câu đă khóc rống lên như bị ai chọc tiết, làm bàn dân thiên hạ chung quanh quay lại, tưởng bọn tôi nhớ nước thương ṇi nên vỗ về an ủi. Tôi ngồi thừ người ra, c̣n mụ vợ tôi không khóc thống thiết bi ai nữa mà khóc như cha chết !

Thế là của thiên trả địa, vơ vét một vố tưởng ngon ơ, ai ngờ tay trắng lại hoàn tay trắng, nay ngồi trơ mắt ếch !

Con tàu trực chỉ hướng Guam, sau mấy ngày ăn cầm hơi, uống cầm chừng, đoàn người tỵ nạn nối nhau thành hàng dài đặt chân trên đảo.

Nơi đây đă chuẩn bị sẵn sàng các lều nhà binh rộng lớn, các tiện nghi tối thiểu vệ sinh để tiếp đón mọi người. Chúng tôi tạm trú ở Guam ba tuần rồi lại lên máy bay 707 ghé Hạ-Uy-Di, Washington State, xuyên ngang nước Mỹ, hạ cánh tại Florida, về nhà người bảo trợ.

Người này không xa lạ ǵ với tôi v́ ổng chính là cố vấn của Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp mấy năm trước, tên là Schroepfer. Cái tên Đức hơi khó đọc, khó nhớ nên tôi tạm phiên âm là “ Xốp-Phơ ” cho tiện.

Ổng về hưu, ở Spring Hill, cách Tampa vài chục dặm. Khu này đa phần là người già, xa đô thị nên quanh quẩn chỉ có vài trăm gia đ́nh. Chúng tôi tới nhà ông bảo trợ, ăn rầm ở rề ba tuần, ngày ngày theo chân ông Xốp-Phơ đi xin việc.

Ông dẫn tôi lên Tampa xin việc văn pḥng luật sư th́ luật sư chỉ cần thơ kư biết nói tiếng Tây Ban Nha và tiếng Tàu. Hai ngoại ngữ đó tôi mù tịt.

Đến siêu thị xin chân xếp đồ trong kho, bấm máy tính tiền th́ họ không thiếu người. Lại ngân hàng địa phương xin chân kế toán th́ tôi chưa đủ khả năng chuyên môn, cần đi học một thời gian họa may họ có cần mới mướn.

Ghé cơ quan bảo hiểm xin tập sự th́ chủ nhân lắc đầu bảo tiếng ăng-lê của tôi mịt mùng quá, đấu sao nổi với thân chủ Mỹ.

Tạt vào xưởng mổ ḅ th́ mới vô đă choáng váng mặt mày v́ thấy máu chảy lênh láng, mùi hôi lợm giọng, đồ tể nào cũng to con trông thật dữ tợn như muốn mần thịt ḿnh luôn, tôi chùn chân thật gấp trở lui.

Chỉ có cái nghề leo thang lên cây hái cam là được trọng dụng.

Lương trả ba tiền, làm ngày tám tiếng, không có quyền lợi ǵ khác cả. Phần lớn các công nhân ngành này là dân Mễ nghèo rớt mồng tơi mới lănh việc. Làm ngoài trời mùa hè đă nóng, mà cái nạn muỗi đốt, kiến cắn, bọ chui vào đầu vào tai vào ḿnh mẩy, vừa ngứa ngáy bẩn thỉu, lại vừa mồ hôi mồ kê nhễ nhại, gai góc đâm bừa băi, sơ ư là té bổ nhào què chân gẫy tay ḿnh lănh đủ.

Tự lượng sức ḿnh không sao cáng đáng nổi, tôi đâm ra thất vọng năo nề, coi như đường hầm trước mặt.


fASmNb72gCo


Ông bảo trợ nhanh trí mới tô-lô-phôn lên thủ đô Hoa-Thịnh-Đốn nhờ cơ quan nào đó cho tên tôi vào “computer” kiếm việc làm.

Cách một tuần sau, có cú điện thoại từ Lakeland - cách ổng chừng 40 dặm - một chủ trạm xăng cần người phụ tá, được computer thông báo mới kiếm được một hiền tài nhập cảng từ Việt Nam. Hắn liên lạc với ông bảo trợ hẹn gặp nhau họp thượng đỉnh tại Lakeland.

Ông Xốp Phơ dẫn tôi đến nơi, lại trạm xăng gặp ngay anh chủ tên là Bill Gruter, gốc Ḥa Lan cao lớn đẹp trai, cũng di cư 12 năm trước, lập nghiệp với hai bàn tay trắng mà nay chủ ba trạm xăng, có dăm bẩy cái nhà cho thuê, nhà cửa như dinh thự, nào hồ bơi nước nóng nước lạnh, nào sân nuôi ngựa, nào xe hơi hai ba cái láng coóng.

Hắn đưa tụi tôi thăm cơ sở, thăm nhà một ṿng rồi mời ăn trưa tại một tiệm Tây khá sang trọng.

Tôi có xách cái cặp, mở ra tŕnh bằng cấp giấy tờ, kinh nghiệm th́ tên Bill nói rằng:

- Tôi chỉ cần một người khoẻ mạnh, bằng ḷng làm trạm xăng, thế thôi. Các món giấy tờ của anh, tôi không cần ngó làm ǵ cả.

Sau khi hỏi điều kiện làm việc, lương bổng, tôi tính nhẩm có thể nuôi tạm gia đ́nh lúc này, đỡ phiền lụy ông bảo trợ nên gật đầu xin hẹn ba bữa nữa đem cả nhà xuống Lakeland định cư.

Thế là cái số tôi trước sau ǵ rồi cũng dính tí xăng nhớt mới khá.

Ở Việt Nam, mần việc ngành Quân Nhu th́ tôi cũng học qua loa về xăng nhớt và bán xăng rất lẹ. Sang đến đất Mỹ, lại chui đầu vào trạm xăng, kể như định mệnh đă an bài, tránh không khỏi số.

Từ đó, tôi quản trị 12 ṿi xăng, một máy rửa xe, chuyên thay dầu mỡ xe hơi, đặc trách vá lốp các cỡ, thanh tra vệ sinh và bảo tŕ dụng cụ.

Ngoài các nhiệm vụ chánh tôi c̣n túc trực đi câu xe, chạy cờ cho mấy tên thợ sai bảo đi mua cà-phê, mua săng-uưch, mua la-de hoặc đi mua đồ sửa xe dưới phố.

Làm việc được đâu chừng một năm, tôi khá thông suốt đường lối hoạt động, chủ trương, chính sách của chủ nhân và chẳng bao lâu nghiễm nhiên là một phụ tá tín cẩn đắc lực. Từ khi chiếm được ḷng tin của chủ rồi, tôi mới dở tṛ xưa tích cũ ra thi thố tài năng.

Cái tỉnh tôi ở là tỉnh nhỏ đêm buồn, lèo tèo dăm bẩy gia đ́nh tỵ nạn, phần lớn có việc tốt như làm hăng đóng máy bay, làm hăng hoá chất, làm chỗ bán hàng, chỉ có tôi bơm xăng làm chuẩn cho nên ai nh́n tôi cũng thấy là tôi thấp hèn kém cỏi.

Cái giá trị ở xứ Mỹ này được tính bằng tiền lương giờ, lương tháng. Thiên hạ làm gấp hai, gấp ba lương tôi th́ giá trị tôi nào có hơn ǵ cỏ mọn hoa hèn. Để trả thù đời, cho thiên hạ biết mặt, hễ gặp ai tôi cũng gợi chuyện Saigon, hỏi han xem họ làm ǵ rồi nhân đó đem cái tôi ra để hù thiên hạ.

H́nh như thiên hạ qua đây coi mấy cái đó là đồ bỏ cho nên tôi chả buồn nhắc đến nữa. Nhưng dần dà, có thêm dân ta qui tụ quanh vùng, họ qua lại mua xăng th́ tôi lại thừa cơ hội để ra tay, bổn cũ soạn lại, đánh bóng cái tôi một thời vang bóng, cộng thêm, nhân thêm vài ba chi tiết vơ quàng để làm như ta đây nào có kém chi ai. Chỉ bởi mất nước mới ra nông nỗi.

Từ khi được chủ tín nhiệm, biết việc, tôi làm ca đêm từ sáu giờ chiều đến hai giờ sáng, một ḿnh một chợ tung hoành. Dù chủ cho đủ lương sinh sống, cho nhà ở, xe đi, xăng đổ líp ba ga, ăn uống tự do, tôi vẫn tính nào tật ấy kiếm cách mần x́n.

Đối với vụ bán xăng th́ bán bao nhiêu máy chạy số bao nhiêu, thành tiền bắt buộc. Nhưng c̣n các mục khác, tôi t́m được lối mần tiền riêng. Như vá một cái vỏ xe không ruột, chỉ cần đủ dụng cụ nhà nghề và thời gian không quá 60 giây, tôi sửa xong cái vỏ xe thủng mà không cần trục xe tháo lốp.

Tôi lấy bốn tiền bỏ túi dễ dàng, chả ai biết, chả tốn kém là bao, bất quá một hai chục xu là nhiều.

Xe nào lốp cũ bị bể, chủ xe không đủ tiền mua lốp mới, tôi đề nghị bán lốp cũ, thay niềng, làm “ba-lăng” chỉ tính 15 tiền chẵn không thuế.

Xe nào cần thay dầu mỡ, lọc gió th́ tôi vừa làm vừa đổ xăng, cỡ 20 phút xong xuôi, lại c̣n cho chủ xe rửa chùa một cú.

Tiền phụ tùng, tiền công cỡ 20- 25 đô-la, th́nh thoảng tôi bỏ túi một vụ là có tí tiền c̣m. Những mục linh tinh đại khái như thế, chủ trạm xăng không thể nào biết được. Nó không có sổ sách ǵ ráo trọi, giao khoán cho tôi. Có khác ǵ giao trứng cho ác. Đem mỡ để ngay miệng con mèo. Hắn cứ tưởng rằng tôi là một người đứng đắn, đáng tin cậy nên giao tay ḥm ch́a khoá cho tôi.

Tôi thừa hiểu rằng mở một trạm xăng là tiền nhà, tiền đất, tiền thuế, tiền nhân công, tiền điện nước, tiền dụng cụ, tiền ăn uống, tiền may sắm quần áo, trăm thứ đổ vào đầu chủ, mà trạm xăng không kiếm ra tiền, không thu vén th́ chả bao lâu mà vỡ nợ.

Tôi vẫn cứ bơ đi, sống chết mặc bây tiền thày bỏ túi. Tiền đây là tiền ăn cắp của chủ chứ nào phải tiền của ḿnh.

Có nhẽ cái máu ăn cắp đă nhập tới xương tủy của tôi rồi, không sao gột rửa sạch nữa.

Th́ cũng đành coi như định mệnh đă an bài, chứ biết làm chi ?

Một thoáng hối hận, ăn năn rồi lại như nước chảy qua cầu. Biết là thế mà làm lại không như thế. Khó thật !


C̣n tiếp ,

hoathienly19
12-12-2020, 20:15
CHƯƠNG 11


Ấy thế là cuộc đời của tôi gắn liền với cái trạm xăng Amoco, có hơn chục ṿi bơm, có ga-ra sửa xe và có máy rửa xe hút bụi. Tôi bầu bạn với Mỹ Trắng, Mỹ Đen, Cuba, Mễ-Tây-Cơ thuộc đủ tầng lớp xă hội, đủ mọi thành phần già trẻ nam nữ.

Quanh quẩn bên ḿnh là các máy đo b́nh điện, máy xạc b́nh ắc-quỵ, dầu nhớt mỡ, lốp xe, ḱm búa, mỏ lết, kích, giây điện, bu-gi.

Trang bị bản thân với chiếc quần màu xanh, cái áo sơ-mi trắng cộc tay có nhăn hiệu Amoco, túi sau nhét chiếc khăn lau nhỏ màu cam ṭng teng, tôi chạy qua chạy lại lạch bạch như con vịt bầu.

Thân h́nh đă thấp bé, lại đa mang cái tuổi già tóc ngả muối tiêu, nom ḿnh chả giống ai th́ chắc bạn bè có ai trông thấy ḿnh hẳn cũng động ḷng trắc ẩn. Đành rằng ở cái xứ người văn minh tân tiến, một anh trước rửa bát, hoặc chăn ḅ, hoặc đóng phim xi-la-ma mà sau nhờ chí lớn, gặp thời cơ vẫn có thể thành nguyên thủ quốc gia và lấy làm hănh diện về cái thuở thiếu thời, thuở hàn vi với những thành tích lẹt đẹt như thế.

Nhưng ḿnh là người phương Đông, sau lại học cái học bên Tây cho nên đầu óc bao giờ cũng phân ngôi thứ hạng sĩ, nông, công, thương, binh rất là lớp lang rành rẽ. Những giai cấp xă hội đă minh định phân miêng, không thể lộn xộn.

Ngẫm trước kia, dẫu ǵ ḿnh cũng ngạch ngỗng như ai, mần việc chính phủ đ́nh huỳnh, kẻ đưa người đón, vẫy vùng một cơi biên thùy, đến nay qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn ḷng, đang thày xuống thợ, đang ông xuống thằng, đang làm công dân Việt Nam Cộng Ḥa bỗng thành kẻ tỵ nạn ngơ ngơ ngẩn ngẩn.

Mọi chuyện đảo lộn tùng phèo. Gia đ́nh ly tán, bè bạn trôi dạt như bèo như mây, như gió thoảng.

Dẫu làm thân mất nước vẫn ôm khư khư cái dĩ văng tô màu vàng son rực rỡ lung linh, cho nên khổ. Và không muốn để ai coi ḿnh hèn mọn nên đă thổi phồng, đă đánh bóng cái tôi để lừa dối ḿnh, để mong người khác kính nể, để tự măn tự hào trong giây lát.


https://nld.mediacdn.vn/2017/photo-2-1506931845994.jpg


Thế nên, gặp Mỹ hỏi han ba điều bốn chuyện về Việt Nam th́ tôi khoa chân múa tay diễn tả thời cuộc, chính trị, quân sự như một chính khứa. Mỹ hỏi về nghề nghiệp, th́ tôi có sẵn “résumé” trong đầu, phóng ra nào là :


Phó Tổng Giám Đốc Ngân Hàng, Giáo Sư Đại Học, cố vấn cho Hội Sư Tử,Chủ Tịch đoàn thế XYZ... Một lô com-pa- nhi chức tước khiến Mỹ nghe xong cũng phải giây phút ngậm ngùi.

Các nhà thờ, trường học, hội “Li-ông” , Thanh Thương Hội, ṭa báo địa phương cứ quấn quít mời đến cơ sở họ để nói chuyện. Tất nhiên là tôi rất lịch sự từ chối.

Bởi nếu tôi mà tới nói chuyện cho Mỹ nghe th́ chắc chắn Mỹ sẽ vỡ mộng thiên đường, c̣n đâu là huyền thoại một anh cu-li bơm xăng ḿnh đầy chữ nghĩa, hiểu biết và danh vọng ở Việt Nam !

Gặp đồng hương lạ hoắc, tôi vẫn tự nhận ḿnh là dân nhà binh, cấp bậc Trung Tá cho nó hách x́ xằng.

Này nhé, cái hồi đi Thủ Đức, sau ba năm tôi đă đeo hai bông mai vàng. Nếu ở lại ngành cho đến khi mất nước, vị chi sơ sơ tám năm, thế nào mà chả lên ít ra Thiếu Tá ? Mấy thằng bạn đồng khoá, chúng nó đeo mai bạc gần hết đấy chứ !

Nếu không mất nước, ba, bốn năm nữa làm chi chả lên Trung Tá, Đại Tá mấy hồi. Tôi cứ trung dung chi đạo, nhận Trung Tá là nhũn nhặn.

Chả bù với bà cụ già cùng tỉnh Lakeland, mới gặp cụ ấy đă khoe rằng con rể bà cụ là Mỹ, nó mần việc với “ông tướng có hai ngôi sao” tức là thân cận, làm lớn lắm. Sau ḷi ra hắn là trung sĩ hầu cận cho ông tướng chứ lớn lao cái khỉ mốc ǵ. Ấy, chỉ hù nhau như thế cho đời mua vui và hy vọng một chút an ủi.

Chưa bằng thằng bạn học cũ của tôi, hồi ở Việt Nam làm sở Mỹ mà khi qua Mỹ gặp nhau, nó bảo bây giờ vẫn làm cho sở Mỹ lớn lắm, trong hăng có cả ngàn người mà nó đứng hàng thứ tư, thứ năm cơ mà ! Tôi nghe, quả thực là hăi và phục nó sát đất. Sau mới biết rằng nó vẫn làm cái chân lèng tèng phiên dịch chứ có làm ông làm cha ai đâu.

Có nhẽ khi hăng chụp h́nh, nó đứng ở hàng thứ tư, thứ năm trong đám nhân viên của hăng chăng ? Nếu vậy th́ nó vẫn tự trọng, nói đúng. Chỉ có tôi hiểu nhằm v́ đầu óc sẵn tối ṃ ṃ ám ảnh.



https://i.9mobi.vn/cf/images/2015/03/nkk/anh-che-14-4.jpg


Ḿnh đă là thằng chuyên môn phóng đại tô màu, thế mà có bữa đụng ông bạn đồng hương, bà vợ ổng khoe hồi ở Việt Nam, nhà có mấy cái bin-đinh cho Mỹ thuê, c̣n gia đ́nh ở vi-la đường Cách Mạng. Ông chồng khoe làm việc sát Tổng Thống, coi ra vẻ rất trịnh trọng, ác liệt.

Bẵng một dạo, t́nh cờ tôi lại nghe về gia đ́nh ông bà này lộn xộn, thiên hạ bới chuyện kể cho vui mới tiết lộ rằng họ ở thuê trong hẻm Trương Tấn Bửu gần phở gà Nam Xuyên, chồng làm tống thơ văn phủ Tổng Thống.

Những cảnh hù nhau như thế đă chẳng giữ được bao lâu, cũng chẳng no béo vinh hoa ǵ mà chỉ làm tṛ cười cho thiên hạ. Rất may, Mỹ không có khoản thuế nào đánh thuế những đứa nói khoác, chứ không ngân sách Mỹ biết đâu chả nhờ thế mà trang trải hết nợ nần.

Sau này, sống trên đất Mỹ lâu hơn, tôi hiểu rằng cái thang giá trị của người nó khác của ta. Xứ người, có đủ điều kiện, đủ sức khoẻ, đủ tiêu chuẩn, đủ khả năng, và có thêm chút may mắn là bắt được “dóp” .

Dóp tốt hay xấu, nặng hay nhẹ, lương cao hay thấp tùy nơi, tùy việc, tùy người. Người có việc đều đặn, nhiều “crê-đít” tốt là người ấy được nhiều nơi chiếu cố mời-mua nhà, mua xe, mua đồ đạc, máy móc, mua cả ngàn thứ tiện nghi tân kỳ tưởng chừng như chỉ có trong thần thoại.

Thời gian thấm thoát như thoi đưa khung cửi, như bóng ngựa phóng qua mành, mới quay đi mà ngoảnh lại đă ba, bốn năm quê người lủi thủi tấm thân, một tháng đôi ba kỳ tôi vẫn cứ mơ về chốn cũ để nhớ để thương để buồn để tủi.

Trong cơn mê, chập chờn bóng dáng cha già c̣m cơi hắt hiu, ba mươi năm chưa thấy mặt thằng con bất hiếu. Khi mộng mị, gặp những bóng ma leo đèo lội suối phá rừng thi đua cải tạo, thấp thoáng đây đó những ánh mắt quen thuộc, h́nh như ngày xưa cùng đơn vị, cùng nhiệm sở với ḿnh mà nay thân tàn ma dại tù đầy lao tác lầm than.

Lúc thoát hồn, nh́n rơ những đứa nằm vùng, những tên công an, những thằng đi ḍ la ŕnh ṃ bắt bớ giam cầm, những vùng mang tên “ kinh tế mới ” của chế độ có tên “kinh tế thụt lùi” , những khoai sắn bo bo thế chân gạo nàng hương, gạo tám thơm, gạo nanh chồn, gạo dự. Cuộc sống được bủa vây bằng một bức màn tre đầy chông gai, hầm bẫy và bao trùm bởi một tấm màn đen vĩ đại rợn người.



https://nld.mediacdn.vn/2017/photo-1-1506931844140.jpg


Có lần, tôi mơ bị Cộng Sản lùa vào trại cải tạo hành hạ sỉ nhục không xong, chúng nó lôi tôi ra băi đất dùng mă tấu chém đầu...

Thanh mă tấu vừa dơ cao, tôi vùng vẫy hét lớn và tỉnh mộng. Mồ hôi trên trán nhỏ giọt. Vừa lúc thức dậy đi làm.

Có lần, tôi mơ được trở lại thăm nơi chôn nhau cắt rốn là cái tỉnh nhỏ bé Hải Dương, ra bờ sông leo lên đê đi tới tận Bến Bè, Cống Trắng, cầu Phú Lương, vườn hoa Bảo Đại, phố Khách... Rồi thoắt cái có mặt tại Hải Pḥng, lượn qua đường Cát Dài, phi trường Cát Bi, ăn kem Thủy Tinh, ra vườn hoa Con Cóc.

Theo quốc lộ số 5, tôi ghé Bần Yên Nhân, đến Gia Lâm, vượt cầu Long Biên bắc ngang sông Hồng Hà vào thủ đô ngàn năm văn hiến Hà Nội. Cái chợ mà tôi thích nhất là Chợ Đồng Xuân, quà bánh ngon số một. Khu Hàng Đường, Hàng Đào, Hàng Ngang tấp nập bán buôn. Khu bờ Hồ Hoàn Kiếm có cầu Thê Húc, đền Ngọc Sơn, Tháp Rùa, có xe điện chạy leng keng khắp nẻo đô thành.

Vùng Bách Thảo, Hồ Tây có bánh tôm, có bơi thuyền, có chùa Một Cột, có đền Quan Thánh. Hà Nội có nhà hát lớn lâu lâu lại tuyển lựa ca sĩ, lại diễn kịch “Bến Nước Ngũ Bồ”, “Vân Muội”, “Tiếng Trống Hà Hồi”, sau có Ban Thăng Long tŕnh diễn ca nhạc vui như ngày hội lớn.

Hà Nội có tới năm cửa ô xưa, có đến ba mươi sáu phố phường, có cả trăm ngàn cô gái đẹp nơn nà, đài các kiêu sa. Hà Nội có trường Chu Văn An, trường Nguyễn Trăi, trường Trưng Vương, trường Puginier, trường Albert Sarraut. Hà Nội có Tháp Bút, Văn Miếu, g̣ Đống Đa oai linh hiển hách...

Tôi được sống trong mơ với những kỷ niệm học tṛ bát ngát hương hoa, với những tham lam quấn quít vấn vương của thời trẻ dại. Những h́nh bóng xa xưa ấy cứ nương náu tiềm tàng trong vô thức để những lúc sắp quên hay những chiều tưởng nhớ th́ kỷ niệm lại ồ ạt tuôn ra tựa thác lũ mưa ngàn, nhất là khi thu tới, đông về, khi hoa cúc hoa đào chúm chím môi chào chờ đón chúa xuân sang...

Để diễn tả nỗi nhớ nhung vời vợi ấy, tôi nẩy ṇi ư định làm thơ. Và căn cứ -vào câu nói “mỗi người Việt Nam là một thi sĩ”, nên tôi luận lư học theo tam đoạn luận rằng:

“Tôi là người Việt Nam. Vậy tôi đích thực у boong là một thi sĩ.” Bèn phóng bút moi vần chờ điệu ra cái điều ta đây cũng văn nghệ văn gừng.

Nhân dịp năm con Ngựa sắp qua, năm con Dê tựu chức - tức năm 1979 - tôi thừa thắng xông lên mần một bài “phú” kể lể cà kê dê ngỗng như mang nặng tâm tư chất ngất u hoài, phong kín nỗi buồn ảo năo, tang thương. Sợ rằng bài phú không đúng khuôn phép, vi phạm các điều cấm cản, tôi gọi đó là “Phú... Tự Do”để tiện đường vi vút, vẽ vời. Lại lựa vận “A” cho dễ dàng ê а hợp điệu.



https://nld.mediacdn.vn/2017/photo-3-1506931845996.jpg


Và đây là bài “ Phú... tự do ” của tôi sau bốn năm tỵ nạn, với tựa đề:

Xuân Viễn Phương

Ngựa dọt đấy a ?

Dê sang đó hả?

Trộm nhớ thuở giang sơn có bốn ngàn năm lịch sử gấm hoa.

Nghe rằng xưa ḍng dơi Rồng Tiên, toàn liệt nữ hùng anh chí cả.

Đất nước mến yêu, này đây:

Huế, Saigon, Hà Nội, Thiên Mụ, Lăng Tả Quân, Chùa Một Cột, Chùa Hương...

Cơ đồ báu vật, ô ḱa:

Hương Giang, Trà Khúc, Cửu Long, Đồng Nai, Kinh Cái sắn, Sông Hồng, Sông Mă...

Chả biết tại “ nàm thao ’’chiến chinh cứ mù mịt rối bời

Đâu có hiểu “ thế lào ” tang thương c̣n nát tan vất vả.

Đến nỗi đời trai bỏ thây chiến địa

Để cho má đào tàn một kiếp hoa

Đàn trẻ nhỏ lạc loài thiếu nơi nương tựa

Lũ em thơ thui thủi không chỗ vào ra

Rồi bỗng một ngày chướng khí âm u, quân Cộng tràn về bắn vào thành phố

Té ngửa ra rằng bọn chúng chính là lũ quỷ hiện h́nh ôm súng A-Ka.

Tháng Tư Đen, Việt Nam ch́m trong ngục tối

Bốn năm buồn, đoàn người lê gót bốn ba.

Những tưởng qua đây văn dốt vũ dát

ngây ngô như mán xá gà tồ

Ai ngờ thấm thoát đă vi vút tiếng Mỹ tiếng Tây ăn đong quá xá!

Người lớn đi làm th́ chủ mến xếp yêu lương tăng cái rụp

Trẻ c̣n học hành được thày nựng cô chiều chiếm độc hạng A.

T́m bạn tri âm, đó đây thanh niên thiếu nữ

Họp bạn lăo niên, nọ kia hà cả ông già

Chợ búa Á Đông mọc lên c̣n mau hơn nấm

Sách báo An Nam phát hành đẹp tựa muôn hoa

Các mợ, các em nấu nướng đan may,

thảy đều số dách,

Nhiều bác, nhiêu bà tứ đức tam ṭng

liệt phụ khả gia

Đến nay, dân tỵ nạn ta:

Vẫn nghe nhạc Phạm Duy nỉ non lời ru Việt Nam ngàn năm bất diệt,

Thường khóc cùng Thái Thanh ngậm ngùi tiếng hát muộn phiền cay đắng thiết tha vẫn ăn cơm nước mắm

Vẫn rau muống quả cà

Đau niềm đau ruột thịt

Xót t́nh mẹ t́nh cha

Ngoài kia Xuân, trời đất cỏ cây đẹp như tranh vẽ

Trong ḷng Sầu, gió trăng mây nước

buồn tựa sân ga

Tuy sống ấm no

Vẫn vọng tưởng quê nhà

Vẫn tâm tư buồn bă

Thương mấy chục triệu đồng bào đói rách ốm đau

Nhớ bao nhiêu vạn con người lầm than tơi tả

T́m ‘‘ Tự Do ” , vẫn có kẻ thuyền mành hát khúc viễn du

Gọi “ Nhân Quyền ”, chả thấy ai chỉ toàn bóng chim tăm cá

Nghĩ lắm lúc miệng hộc máu tươi, đầu óc nát như tương

Lại suy ra tay đứt ruột mềm, lệ đầm rơi lă chă

Ngán nhỉ ?

Cuộc đời đôi ngả

Dâu bể phong ba

Sao không nghĩ trăm năm là mấy, để rắc reo t́nh thương, xoá bỏ hận thù

Mà cứ hành thân xác ốm o, rồi đấu tố tùm lum hỡi quân Hà Bá ?

Chả có nhẽ, măi tang thương ngẫu lục để khiến cho cả nước căm hờn

Đă hay rằng, dù vật đổi sao dời

th́ cứ biết toàn dân sẽ khá

Nay dịp Xuân sang

Xin gửi nhớ thương chất ngất nghẹn ngào về nơi đất tổ quê cha

Xin b́nh an lặng ru những tấm ḷng héo hon tàn tạ.

Xin gửi các chiến sĩ Phục Quốc Quân

Thêm cảm mến kính yêu vào niềm tin sắt đá

Bởi chính các anh

Là những thành tŕ xây dựng giang sơn đấy ạ!

Xin khẩn cầu Thượng Đế

Nam Mô Phật Thích Ca

Ban ân phước độ tŕ chúng con

Đám con dân vẫn ước mơ có một ngày về bến cũ cây đa

Có con đ̣ êm ái triền miên trên ḍng sông ơ hờ đầy tôm đầy cá

Xin đoàn tụ yên vui đến với những người chờ mẹ mong cha

Xin vợ chồng anh em nâng chén men say bên cạnh ông bà

Xin v́ t́nh yêu nhân loại đậm đà

Phổ hiến “nhân quyền” như quảng cáo Coca

Xin cho nhau t́nh thương, hởi t́nh thương rộng răi thiết tha

Và hai nữa, bởi nó lại c̣n rẻ hơn nước lă

Chỉ ước mơ niêm ước mơ nhỏ bé thế thôi

Tràn vào Việt Nam từng bao nhiêu năm lầm than

v́ bị chiếu sao quả tạ

Để ấm no, đoàn tụ, t́nh thương về dưới mái nhà

Và cuối cùng

Xin ơn trên phù hộ chúng ta...


C̣n tiếp ,

hoathienly19
12-14-2020, 14:06
CHƯƠNG 12


Bốn năm lưu lạc, tôi chưa làm được ǵ cho ra hồn, ngoại trừ miếng cơm manh áo. Với đại gia đ́nh bên kia đại dương đang sống đọa đày trong hờn tủi xót xa, tôi cũng không có lấy một cánh thư an ủi.

Mà thực ra, tôi biết nói ǵ ? Nói về gia đ́nh ḿnh ư ? Th́ phải mô tả nhà có hai, ba pḥng, có điện, có nước nóng, có điện thoại, có máy lạnh, có ti-vi màu, có cassette, có vườn trước sân sau cỏ mọc xanh rờn.

Nhà ở cạnh hồ lớn, có bè rau muống, có thuyền đi câu, có gió mát trăng thanh, hương hoa bưởi, hoa cam thơm lừng một vùng trời an lạc.

Kể về tiện nghi ư ? Th́ nào là xe hơi Huê-Kỳ chạy êm như ru, chợ búa gần gũi, thịt thà, rau cỏ, sữa, trái cây e hề, mùa nào thức đó. Quần áo giày dép th́ đủ kiểu, đủ màu cho hợp thời trang.

Phấn son, mỹ phẩm tha hồ chọn lựa.

Chuyện học hành con cái ư ? Th́ có nhà nước lo xe đưa đón hàng ngày, lớp học mát mẻ, sáng sủa, thoải mái, lâu lâu lại nghỉ lễ, nghỉ chơi, nghỉ hè, cứ tuần tự lên lớp.

C̣n cái mục học tṛ Việt Nam chăm chỉ, lễ độ, thông minh, giỏi toán, giỏi cả anh- văn, cuối năm thường đứng đầu lớp th́ đó là chuyện thường t́nh...

Hay là kèm theo thư, gửi về nhà một vài tấm h́nh lưu niệm ư ? Th́ h́nh là h́nh màu, người là người từ tiên giới, đầy đủ, ấm no... Người ở bên nhà đang chật vật, đói rách với hộ khẩu, với kinh tế mới, đang thất điên bát đảo với hội họp, kiểm thảo, tự khai và bắt bớ ŕnh rập, nay nhận thư, nhận ảnh ngoại quốc, bỗng so sánh như địa ngục với thiên đường, ắt kẻ ở lại đau khổ dập vùi thêm, thất vọng hơn chứ nào có xoa dịu được chút nào đâu!

Thành ra, chỉ có những gói quà lớn nhỏ, tùy khả năng, tùy hoàn cảnh mà an ủi gia đ́nh là xem ra cụ thể và có giá trị hơn cả.

Cũng có người ở nhà bảo rằng chỉ mong thư từ h́nh ảnh của kẻ ở miền xa mà thôi, chứ đâu có cần quà cáp mà không thấy hồi âm. Nhưng sự thực đắng cay là cho dù những người có tư cách nhất, đạo đức nhất, tự ái nhất, một khi đă sống dưới chế độ Cộng sản do nhà nước quản trị, giám sát cái dạ dày, kiểm soát thanh tra luôn tư tưởng th́ con người đă mất đi tất cả tự do và bị lệ thuộc nhiều vào miếng cơm, miếng khoai, củ sắn.

Nên dẫu quân tử Tàu cách mấy, vẫn mơ ước những giúp đỡ, tiếp tế dù to dù nhỏ từ ngoại quốc gửi về.

Như kẻ sắp chết đuối vớ được tấm gỗ, thanh củi hoặc đám bèo... Cái ǵ cũng quí. Bởi đó là sự sống. Bởi đó là hy vọng...



5w4sqacLPfc


Tôi chưa làm được chuyện ǵ ngoạn mục với gia đ́nh, lâu lắm mới có tí quà về biếu ông bố già cô độc. Với đàn em, đàn cháu, tôi xa cách chúng nó mấy chục năm lưu lạc giang hồ, cái t́nh ruột thịt đâm ra cách xa, hầu như đến độ vô t́nh và tự cảm như vô trách nhiệm.

Lũ em tôi, dẫu sống từ tấm bé dưới chế độ Cộng Sản, được nhồi sọ khá đủ các giáo điều, vẫn ôm mộng một ngày nào đó vượt biển t́m tự do. Tôi chả dám khuyên chúng nó nên ở hay nên đi, chỉ biết qui vào số mạng. Đứa nào thoát được ngục tù th́ đứa ấy may mắn. Qua đến đảo là tôi có bổn phận bảo lănh, lúc đó tôi trách nhiệm đă đành.

Chuyện vượt biển đă là chuyện có thực, xẩy ra hàng ngày tại Việt Nam.

Trước năm 1975, chả thấy ai hành trang lên tàu lớn tàu nhỏ ra khơi qua Thái, qua Mă Lai, qua Úc, qua Phi, qua Nhật... Mà chỉ từ khi Cộng Sản được trao lại miền Nam mới thấy ào ào thuyền nhân đi t́m tự do liều lĩnh.

Những con thuyền gỗ mỏng manh, yếu đuối, chứa mấy chục người già trẻ lớn bé. Người lái tàu chưa từng đọc địa bàn, không hề biết sửa máy móc. Ấy thế mà họ vẫn ra đi, một liều ba bẩy cũng liều.

Con thuyền trong đại dương c̣n nhỏ bé hơn chiếc lá tre trên sông lạch, lại sóng nước bao la dập vùi xô đẩy, lại băo tố ngập trời. Vực sâu, miệng cá vẫn đợi chờ ŕnh rập. Họ vẫn ra đi.

Trên đại dương, ngoài sóng to gió lớn biển sâu cá dữ, c̣n có một thứ dữ hơn cả thiên tai, ấy là bọn hải tặc. Bọn chúng đă cướp bóc, hành hạ, hăm hiếp, bắt cóc, thủ tiêu không biết bao nhiêu thuyền nhân.

Trước thảm trạng đó, lương tâm nhân loại hầu như vẫn ngủ im ĺm.


Tôi thường nghe chuyện thương tâm, đau đớn về thuyền nhân nhưng trong ḷng chẳng may may xót thương, lo lắng. Bởi những người chịu thảm trạng đó chẳng ai là ruột thịt của ḿnh. Nên b́nh chân như vại.

Cả đến những công cuộc lạc quyên giúp đỡ trại tỵ nạn, tiếp tế cho thuyền nhân, cứu vớt người vượt biển, các công tác xă hội, у tế để an ủi đồng bào kém may mắn, tôi cũng đều không tham gia, không đóng góp làm ǵ.

Tôi nghĩ rằng nhu cầu th́ nhiều, ḿnh có giúp cũng như muối bỏ biển. Hai nữa, nếu tôi giúp th́ tiền ấy liệu có đến tận tay nạn nhân hay lại trôi dạt phương nào ? Ngoài ra, quanh tôi c̣n biết bao nhiêu kẻ tiền rừng bạc bể đă thấy nhúc nhích đóng góp ǵ đâu?

Với các tôn giáo như Phật Giáo, Công Giáo. Tin Lành, tôi ít khi lai văng tới chốn tôn nghiêm. Thôi th́ bên cha cũng kính, bên mẹ cũng vái, ḿnh bận rộn quanh năm, đâu có thời giờ đi lễ bái. Chưa lần nào tôi đóng góp cho chùa để cầu phước, cầu an. C̣n những hoạt động xă hội, Phật tử, tôi lại càng không mấy quan tâm ủng hộ.

Những ngày Quốc Hận, cộng đồng tổ chức kỷ niệm ngày bỏ nước ra đi, bày tỏ niềm nhớ quê hương, xót xa thân phận những người ở lại, những người bị đày ải giam cầm hành hạ nơi các trại cải tạo tập trung hàng đêm không ngủ, bằng chương tŕnh họp mặt văn nghệ để nung nấu ư chí hờn căm phục hận, mong một ngày về th́ tôi cũng nhớ đấy nhưng nghĩ có tham gia th́ chưa chắc đă chết thằng Cộng Sản nào cho nên nằm nhà nghỉ khoẻ để c̣n giữ sức đi cầy.



vZ6Asy31WFE


Những đám mít-tinh, biểu t́nh lên án chế độ Cộng Sản đă được nhiều giới tham dự, dù trời gió trời mưa, dù phải lái xe hàng bẩy chục dặm đường mới đến nơi, dù phải nghĩ việc một buổi làm, dù có người già vẫn chống gậy lẽo đẽo theo con cháu, dù có kẻ con thơ bế ẵm trên tay cũng cầm thêm được lá cờ quốc gia để bày tỏ lập trường. Các đài truyền h́nh địa phương đă quay những cảnh hội họp và chiếu trên ti-vi, tôi vẫn theo dơi đầy đủ cả đấy chứ !

Lớp người trẻ sang đây rất dễ hội nhập với cuộc sống Âu Mỹ mà có cái lạ làm sao họ vẫn thiết tha với Việt Nam.

Bằng cớ là chính lớp trẻ thường đứng ra tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương, kỷ niệm các bậc anh hùng hào kiệt, đảm trách Chợ Tết, lo văn nghệ liên trường, tổ chức văn nghệ đấu tranh, mở các lớp dạy Việt Ngữ cho thiếu nhi, làm báo, sinh hoạt tập thể. Họ làm việc rất hăng say, dù ít người được người lớn làm cố vấn, yểm trợ, tiếp sức.

Họ làm việc với tinh thần của tuổi trẻ, với trách nhiệm tự đề ra, với ḷng nhiệt thành và t́nh yêu mến quê hương đă tiềm tàng trong ḍng máu.

Những khi đi dự lễ, đi coi chương tŕnh văn nghệ do sinh viên tổ chức, nhiều lúc tôi cũng xúc động đến tràn nước mắt v́ được nh́n lại h́nh bóng cố hương qua các màn ca nhạc kịch vui tươi, được nghe lại những âm điệu với tiếng hát lời ca quen thuộc xa xăm, được theo rơi múa lân, ông địa, trống phách rộn ràng linh động, được tṛ chuyện gặp gỡ bạn cũ mới đồng hương. được sống lại một mảnh đất quê hương trên đất nước người.

Những giây phút ấy, thực t́nh là tôi quyến luyến Việt Nam, vui với cái vui tập thể.

Rồi khi chia tay, cuộc sống thực tại lại kéo tôi về với bổn phận riêng tư. Rồi mọi chuyện lại ch́m sâu vào quên lăng mơ hồ.

Đôi lúc nghĩ quẩn nghĩ quanh, tôi không biết tôi là Việt Nam hay là Mỹ nữa...



https://i.pinimg.com/originals/b8/31/2f/b8312f6e67be512b64405bc1990a736c.gif


Đời sống bên những ṿi xăng, lốp xe, ḱm khoá. dầu nhớt tuy không quá nặng nề nhưng tuổi đời chồng chất mỗi năm một tuổi như đuổi xuân đi, nó làm cho tóc ngả muối tiêu, mắt mờ chân chậm, c̣n hai cánh tay lực sĩ kiến càng ngày nào nay chỉ là hai que củi tong teo, bê cái lốp xe thấy như bê cối đá, dù cái lốp xe vẫn nặng có bấy nhiêu thôi...

Thế là tôi biết tôi đi xuống, tinh thần thể xác yếu nhiều. Nếu không mau t́m đường thoát th́ chắc chắn có ngày sụm bà chè, tôi quỵ tại cái tỉnh nhỏ đêm buồn này lúc nào không biết...

Nhân một chuyến ngao du dịp hè qua tiểu bang Tếch-Xịt, tá túc nhà Hoán Tàu tại Houston, hắn nghe tôi tả oán cuộc sống lam lũ vất vưởng nên động tâm bồ đề trắc ẩn ra tay cứu vớt. Lại được bà vợ hắn rất dễ chịu dễ thương đồng ư sẵn ḷng cưu mang bao bọc cho nên gia đ́nh tôi quyết định bỏ nghề bơm xăng ở Florida để đi Texas làm nghề quét chợ.

Quyết định mau lẹ đến nỗi lúc đi chào bạn bè ở đơn vị chót, ai cũng cười t́nh cho là tôi rỡn chơi chứ đi đứng vào cái khổ nào. Tôi phải làm ra bộ nghiêm nghị đứng đắn, thề thốt dăm ba-phùa, lúc đó anh em mới ngỡ ngàng chia tay từ biệt ngẩn ngơ.

Sự ra đi là chẳng đặng dừng, chứ đất nước người, nơi nào cũng vậy. Đất mát th́ c̣ đậu. Nhẩy lắm cũng mệt, dù là nhẩy... đầm! Vậy mà tôi phải rũ áo Amoco ra đi là chuyện không làm sao hơn được.

Về Houston, sau thời gian mấy tuần lễ ở nhà Hoán Tàu đớp hít thả dàn, tôi được Hoán Tàu giới thiệu với xếp lớn UTOTEM là mông-sừ Lê Phú Thịnh.

Dăm bữa sau, xếp Thịnh cho gia đ́nh tôi quản trị một tiệm Utotem nho nhỏ. Thế là tôi lại có chân đứng khá vững vàng, có nghề ngỗng kiếm ăn. Bỏ nghề bơm xăng qua nghề chạp phô, tưởng giă từ xăng nhớt, ai ngờ nó vẫn cứ lẽo đẽo theo đuôi.

Tiệm chạp phô này, ngoài các mục bán hầm bà lằng đồ ăn thức uống, vật dụng linh tinh, c̣n bán cả xăng “rề-gu-la” và “ân-lít” .

Tôi lại phải kiêm nhiệm luôn vụ đo xăng, bấm máy, báo cáo xăng hàng ngày. Chỉ có điều là không phải giăi nắng dầm mưa đứng tựa cây xăng nh́n trời mây non nước, c̣n th́ trách nhiệm vẫn cứ như thường.

Ba năm ṛng ră làm mỗi ngày 18 tiếng liên miên, gia đ́nh từng năm bảy lần bị Mỹ Trắng, Mỹ Đen, Mể cầm súng ngắn, súng săn vào tiệm dơ súng bắt nạp tiền, có đứa lúc rút lui c̣n bắn pằng pằng lên trần nhà, giống như cao bồi trong phim xi-la-ma vậy. Vợ con xanh máu mặt, khóc ṛng v́ những cú “hít-cốc” .lạnh người.

Nhân lúc nhận định t́nh h́nh chạp phô người khôn của khó, lắm chuyện phiền hà, gia đ́nh tôi lại thêm một phen giă từ ṿi xăng, máy tính chạp phô để xoay nghề khác. Bỏ th́ thương, mà vương th́... hăi ! Dầu ǵ cũng xin cám ơn thành phố có chạp phô, đă nuôi ḿnh no đủ.

Làm nghề chạp phô cốt sao nhận hàng cho đủ. bán hàng đúng giá, bày hàng cho đầy cho đẹp, giữ ǵn cửa tiệm ngăn nắp sạch sẽ, tiếp khách niềm nở ân cần, thi hành chu đáo các chỉ thị của hăng, kiểm hàng không thiếu hụt quá mức ấn định, thế là tà tà kéo dài ngày giờ lao động dễ thương.

Điều quan trọng nhất là giữ sao trong ấm ngoài êm, chớ có nổi nóng gây lộn, súng ống đ́ đùng gây án mạng thương tích.

Mọi chuyện cứ là “thân trọng thiên kim” chịu đựng, b́nh tĩnh để tránh nguy hiểm khi bị cướp đến viếng tiệm.

Lúc nào rảnh tay, buồn chân th́ ta vận động thể dục thẩm mỹ bằng cách cầm cái chổi chà, cái hốt rác ra sân trước chợ, quét dăm ba cái rác rưởi chai lọ giấy gói, sao cho thẩm mỹ quan tươm tất. Cho nên gọi nghề “chạp-phô” tức nghề “quét chợ” hay “lau chợ” là vậy.



https://earlyrising.files.wordpress.com/2012/05/washington.jpg


Bỗng dưng bỏ tiệm, không mau tay là thất nghiệp như chơi. Tôi xoay ra đi làm công cho một tiệm bách hoá Mỹ. Lại cũng phải nhờ đến tay Hoán Tàu một keo nữa, bởi hắn có mấy năm thâm niên mần việc tại nơi này.

Cuộc đời tỵ nạn bảy năm, nghĩ cũng cám cảnh thiên địa phong trần, thấm thía cái buồn hải ngoại thương ca, tôi lại nổi hứng mần một mài thơ tức cảnh sinh t́nh, tự vịnh như sau:

Chẳng phải là ông, chẳng phải thằng

Khôn khôn dại dại múa lăng nhăng

Ba mùa hạ héo đi lau chợ

Bốn độ thu tàn đứng đổ xăng

Chữ nghĩa phất phơ sinh loạc choạc

Học hành lẩm cẩm hoá lai căng

Kèm nhèm mắt mũi, đầu thêm bạc

Lủi thủi ra vào, hết tháng năm...


Lâu lắm không có tin tức gia đ́nh, một bữa tôi nhận thư của chú em nói bóng gió rằng vợ chồng nó cùng thằng em thế nào cũng sang thăm các cháu bên này. Nghĩa là chúng nó tính đường vượt biển t́m tự do. Qua được đảo, có ông anh bảo trợ vào Mỹ th́ yên chí rồi.

Chú em tôi tốt nghiệp kỹ sư, vợ nó giáo sư, lấy nhau mới được một, hai năm chưa con cái ǵ. Cậu em kế độc thân, có bằng dược sĩ.

Dẫu là “ sĩ ” hay “sư” th́ dưới chế độ Cộng Sản, bằng cấp cũng như tờ giấy lộn. Đời sống luôn luôn bị đe dọa, cả vật chất lẫn tinh thần, nói chi đến tương lai mù mịt.

Chúng nó quyết tâm đi t́m tự do và biết rằng chuyến ra khơi nào cũng đầy bắt trắc, hiểm nguy. Từ khi nghe tin nhà, tôi đâm ra lo lắng, không biết chúng nó đi đứng ra làm sao. Đồng thời, tôi cũng phải chuẩn bị chỗ ăn chỗ ở cho chúng nó sang nữa chứ.

Thế là mấy cha con tôi, nhân cơ hội sắp tiếp đón cô chú tỵ nạn, bèn ra tay sửa sang lại cái “ga- ra” cho sạch sẽ, nối ống dẫn hơi lạnh, đổ thêm bông cách nhiệt trên trần nhà, gắn thêm đèn, kê thêm giường, bàn ghế, cứ у như các cô chú ấy đă đến đảo, chỉ vài ngày nữa là qua Mỹ vậy.

Tôi theo rơi tin tức Việt Nam, theo rơi t́nh h́nh đi biển, t́nh trạng thuyền nhân bên đảo Mă, đảo Thái, bám sát các hoạt động cứu trợ quốc tế.

Rồi tôi nhận được một điện tín từ Việt Nam, nói ư rằng hai em trai và em dâu đă lên thuyền. Tôi bồn chồn xúc động, nửa mừng, nửa lo, tối nào cũng thắp nhang chắp tay niệm Phật.



6J8TqZ-Hmdc

Qua ba tuần lễ, tôi không thấy tin tức ǵ. Đợi đến hơn một tháng, vẫn tuyệt vô âm tín. Một bữa đi làm về buổi chiều, tôi nhận được lá thư từ đảo gửi sang, hồi hộp như muốn vỡ tim.

Đúng là thư của chú em tôi rồi, mà sao b́ thư lại đề tên người khác. Tôi xé vội thư, đọc vài hàng xong choáng váng mặt mày té xỉu. Vợ con giựt tóc, đổ thuốc, khóc lóc gọi ầm ĩ làng xóm măi mới tỉnh. Người viết thư là một thuyền nhân, cùng đi chuyến vượt biển với các em tôi, sống sót tới đảo, nhờ có địa chỉ em tôi dặn ḍ trước nên báo cho hay rằng cả ba đứa đều chết trên đảo san hô như báo chí có lần đăng tải.

Chiếc thuyên trôi dạt vào đảo, không thức ăn, không nước uống, rồi phải ăn thịt người để sống. Các em tôi là các nạn nhân cuối cùng, trước khi có tàu lớn phát giác tiếp cứu mấy người sống sót.

Coi xong thư, tôi như kẻ mất hồn, như điên như dại. Bỗng chốc mất đi ba kẻ thân yêu. Các em tôi dư biết về hải tặc cướp bóc, hăm hiếp, chém giết, vậy mà chúng nó vẫn chấp nhận để mong vượt thoát. Nhưng các em tôi không bao giờ lại có thể ngờ rằng sẽ bị phơi xương trên đảo san hô cả. Và không có đứa nào thoát nạn để ít ra c̣n được một người đến bến Tự Do .:112:

Từ khi chịu cái tang đau đớn đó, tôi bắt đầu suy nghĩ về nhân quả, nghiệp chướng, luân hồi, sắc sắc không không. Tôi thấy ḿnh có trách nhiệm về cái chết của các em. Nếu tôi không làm tôi mất nước th́ đâu đến nỗi các em tôi phải vượt biển để chết thảm thương trên đảo san hô định mệnh.

Cũng từ đó, tôi cảm thông được với những đớn đau của tử biệt sinh ly, biết thế nào là đùm bọc yêu thương, hiểu thế nào là t́nh đồng bào một nước.

Và ngày rằm, mùng một lên chùa lễ Phật nghe kinh, tôi cảm thấy tâm hồn như được vỗ về, an ủi, vơi đi rất nhiều khổ năo ưu phiền của tục lụy trần gian...

C̣n tiếp ,

hoathienly19
12-16-2020, 08:21
CHƯƠNG 13


Dẫu được nghe kinh và thành khẩn chiêm bái h́nh ảnh từ bi bác ái của đức Phật tỏa ánh đạo vàng như thế, nhưng qua làn khói hương nghi ngút chốn tôn nghiêm, tôi vẫn thấy ẩn hiện những đôi mắt nh́n ḿnh không chớp.

Những đôi mắt ṃn mỏi đợi chờ của mẹ của cha, những đôi mắt căm hờn của bạn bè trong trại cải tạo, những đôi mắt ngơ ngác của bầy em thơ dại, những đôi mắt khiếp đảm của thuyền nhân, những đôi mắt tuyệt vọng của bắt cóc, hăm hiếp, những đôi mắt cầu cứu của người ở đảo...

Những đôi mắt ấy h́nh như nh́n tôi trách móc, như khinh bỉ, như oán than, như kết tội, như có ư bảo rằng nếu không có những kẻ tồi tệ, ươn hèn, đốn mạt như tôi th́ đâu có đến nỗi nước mất nhà tan, sẻ đàn tan gánh, đâu đến nỗi đau thương uất hận ngút trời !

Những đôi mắt ấy theo tôi cả trong lúc ăn, lúc ngủ, trong lúc tôi khiêu vũ, đánh bài.

Những đôi mắt ấy ám ảnh tôi ray rứt, triền miên như các chứng nhân theo sát một tội đồ.

Rồi đến một hôm, nhân đọc cuốn sách “ Cơi Tự Do ” của Giao Chỉ, tôi biết đích thực trăm phần trăm không c̣n chút ǵ ngờ vực nữa.

“ Rằng chính tôi là một trong những thủ phạm làm mất nước .”



https://quynhthoa.net/wp-content/uploads/2018/06/danh-ngon-ve-su-hoi-tiec.jpg


Tôi vẫn ao ước được quen biết với giới văn nghệ sĩ - nhất là nữ giới - nên khi có ai nhờ vả chuyện ǵ tại địa phương th́ lấy làm vinh dự lắm. Như đưa truyện, thơ, nhạc, báo tới các tiệm sách nhờ phát mại giùm, lâu lâu đảo qua đảo lại xem t́nh h́nh tiêu thụ tới đâu th́ liệu thu tiền chuyển về tác giả.

Như khi nào có các nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ, nhiếp ảnh gia, chủ báo... tới địa phương th́ làm thổ công chùa hướng dẫn thăm viếng loanh quanh. Và được chụp h́nh màu chung với quư vị ấy th́ thực là lưu niệm để đời, sướng không chịu được. Để ít ra đời con, đời cháu ḿnh c̣n được nḥm h́nh ḿnh một thời văn nghệ.

Giao Chỉ với tôi khác nhau một trời một vực.

Lẽ tự nhiên, tôi là kẻ ở dưới vực. Cứ xét hồ sơ quân ngũ th́ rơ :

Ông này đi lính, xuất thân Đà Lạt nên tự nhận là lính trận và có bút hiệu “ Lính Chiến ” . C̣n tôi, sinh viên sĩ quan Thủ Đức hùng anh - như lời bản nhạc của trường - nhưng về binh sở nên gọi là “ Lính Văn Pḥng ”.

Giá trị của Lính Chiến nghe vẫn oai hơn là Lính Văn Pḥng rồi nhá. Ông này ở nhà binh, đóng tới lon đại tá là làm lớn lắm, ba bông màu bạc chớ bộ. C̣n tôi, lèo tèo hai bông mai vàng bé xíu x́u xiu.

Tôi có mỗi cái tên cúng cơm đem ra làm chuẩn mọi mục đề, c̣n ông này nào Hồng Hà, Lính Chiến xong lại lấy bút hiệu Giao Chỉ - đại diện cho cả dân An-Nam ta thời xưa nữa - thế là bao quát vấn đề lắm.

Cứ xét về hồ sơ quân bạ như rứa, hai bên khó ḷng ngồi chung với nhau. Hơn nữa, ông này lại viết báo, viết văn lừng lẫy một cây xanh rờn, tôi rất hăi và khép nép tránh xa.

Đùng một cái, trên bàn giấy của tôi có cuốn “ Cơi Tự Do ” do tác giả gửi tặng. Ḷng ưu ái ấy, kèm theo cái chỉ thị nghiên cứu t́nh h́nh địa phương tẩu tán dùm ít sách, tôi chưa phúc tŕnh thượng cấp vụ bán sách, v́ mải mê đọc cuốn sách mới ra ḷ xem nó ra sao.

Cuốn sách được giới thiệu là tác phẩm tiêu biểu cho 8 năm sinh hoạt cộng đồng, khi người lính “giá súng” để chiến đấu bằng cây bút có lửa, thiên hùng ca tặng QLVNCH... và c̣n nhiều nữa. Tác giả viết về cuộc sống phiêu bạt giang hồ của một nhóm gia đ́nh đi từ miền Đông qua miền Tây để t́m chút nắng ấm quê hương qua mái tóc đen, mớ rau muống, cọng giá sống, lá rau dấp cá, để đứng bên này đại dương vời trông cố hương xa cách muôn trùng, để t́m về kỷ niệm...

Giao Chỉ phê b́nh một cuốn sách của tác giả Nguyễn Cao Kỳ, và theo thứ tự thời gian kể những chuyện về quê hương, chiến tranh, đời sống tỵ nạn với khá nhiều vấn đề phức tạp.

Báo chí đă có những bài điểm sách, ca ngợi nhiệt t́nh. Lại có các nhà văn, nhà thơ, nhà giáo, nhạc sĩ phát biểu cảm tưởng kịch liệt.



https://phuongthovan.files.wordpress.com/2013/05/01.jpg


Tất cả những bài trong cuốn sách tôi đều yêu. Yêu v́ sự chân thực, nhiệt t́nh và phong cách. Nhưng điều mà tôi yêu nhất, khoái nhất với riêng tôi, là bài “Ngôi Trường Cũ”.


Tác giả nhớ về Khóa Cương Quyết Đà Lạt 1954, những ngày thụ huấn gian lao, những kỷ niệm vui buồn quân ngũ, những kẻ c̣n người khuất, những kẻ lạc loài... Ngày họp mặt Hội Ái Hữu Cựu SVSQ Đà Lạt với các đàn em tại xứ người, niên trưởng Giao Chỉ cùng anh em ôn lại chuyện cũ tích xưa.

“Chả hiểu đàn anh ra trường làm ăn ấm ớ thế nào mà nước non cùng quân lực tan tành trong khoảnh khắc.”

Rồi đoạn chót, Giao Chỉ nhắc anh em cố giữ lấy “chút t́nh cốt nhục” để “làm sao mà gắn thành một khối.”

“Và nếu sau này, có ai tổ chức “Hội Những Người Làm Mất Nước” cũng xin vui ḷng kết nạp tôi làm hội viên, bởi v́ khi ta đă từng học ở ngôi trường cao cả ấy th́ chắc chắn hôm nay phải chỉa sẻ nỗi nhục nhằn dù là với tư cách của kẻ thất phu.”

Mấy hàng chữ chót của trang 132 đă khiến tôi nhảy tưng tưng lên như vừa khám phá ra cái ǵ mới lạ.

Đây rồi, ông này nói rằng th́ là ai lập hội “Những Người Làm Mất Nước” th́ cho ông ấy vào một chân.

Cái ư tưởng viết về một bài tố khổ, tả oán chính ḿnh làm cho đất nước đi đoong th́ tôi đă có trong đầu từ mấy năm nay mà chưa dám nói ra đấy thôi. Nay được lời như cởi tấm ḷng, đă có Giao Chỉ nổ pháo lệnh rồi th́ ḿnh a-la-xô xung phong làm lẹ đi chứ, kẻo có người khác lẹ mồm nhận họ là kẻ làm mất nước th́ ḿnh làm quái ǵ c̣n cái chi chi để nói nữa bi giờ ?

Cho nên, như một mớ lửa rơm nổi cháy phừng phừng, tôi viết “ Tôi Làm Tôi Mất Nước”. Đó là lư do tại sao có loạt bài này.

Lại nói về đọc “Cơi Tự Do”, tôi là thứ lửa rơm nên cháy một chút xong là tịt ngúm.

Cuộc đời trước mặt vẫn chỉ là áo cơm cơm áo nhọc nhằn, nên ngày nghĩ, thay v́ tham gia công tác xă hội, sinh viên, đoàn thể, cộng đồng th́ tôi lại t́m niềm vui bên cạnh cái cần câu, ra ngoài biển thả hồn về Vũng Tàu, Cam Ranh, PhúQuốc, Nha Trang, Đà Nẵng...

Và lại mần thơ tựa một nhà thơ hải ngoại thương ca vọng về cố quốc mà ruột rối tơ tằm, năo nề tâm sự đầy vơi:



https://1.bp.blogspot.com/-_jayElUFknA/Wcj6zjdqzVI/AAAAAAAArMs/JZFEp4Cq81AnvcK0NOyuWQWBT_-4zKbAgCLcBGAs/s640/681x454.jpg



Sương Khuya

Một ḿnh bên ghềnh đá

hững hờ buông giây câu

mênh mang trời biển cả

xôn xao sóng bạc đầu

nhấp nhô thuyền mấy lá

trôi dạt biết về đâu

trời chiều đùn mây toả

chập chờn cánh hải âu

lạc loài trên xứ lạ

nh́n nước cuộn ḷng đau

nước dập vùi tàn phá

nước chia cách địa cầu

nước ngăn t́nh đôi ngả

nước khơi mối thảm sầu

cố hương vời vợi quá

nhớ nhung gửi về đâu

quê nghèo xưa vất vả

nắng mưa phận dăi dầu

đất cầy thơm lúa mạ

nhọc nhằn tấm ảo nâu

gái quê hồng đôi má

xinh xinh giấc mộng đầu

giọng ḥ ru lơi lả

đong đưa mấy hàng cau

bờ tre xanh bóng lá

nong tầm thương cành dâu

sáo diều nhà ai thả

trẻ đùa bên lũ trâu

chim hót ngoài mái rạ

đàn c̣ lội trắng phau

khói lam chiều nhẹ tỏa

lối ṃn vương ánh sao

đă xa rồi tất cả

thân ga kiếp con tàu

cánh bèo trôi nghiệt ngă

nước vẫn chảy qua cầu

gió lạnh hồn băng giá

sương khuya tóc ngả màu

ta nh́n ta khác lạ

người cũ t́m nơi đâu

những mảnh đời tơi tả

bao giờ c̣n thấy nhau ?



https://1.bp.blogspot.com/-gqceJTwQCHE/UbrjkAa3fOI/AAAAAAAAAuo/e0iJlkyj0u4/s1600/hinh-anh-dep-que-huong-toi-3.jpg



Thế là, không như tôi tưởng, rằng Giao Chỉ Vũ Văn Lộc và tôi xa cách nhau muôn trùng cả về cấp bậc lẫn uy danh lại có thể ngồi chung được với nhau, th́ hôm nay đây, hai quân trường Đà Lạt - Thủ Đức đă thành liên trường.

Hai cấp Tá - Úy đă là huynh đệ chi binh v́ ḿnh cùng chung đời lính, thương nhau khác chi nhân t́nh. Hai kẻ viết lách, một “ nhà văn ” và một “cḥi văn” đă cùng chung lối về xóm nhỏ. Và nhất là cả hai đều có tư tưởng hùng vĩ trùng hợp у chang, tự nhận ḿnh là kẻ đă làm mất nước, dám nói khơi khơi bằng văn tự th́ kể như anh em nhà binh chúng tôi từ nay trở thành những kẻ khác hội cùng thuyền.

Từ đó suy ra, chúng tôi cùng chung chiến tuyến. Đại Tá Giao Chỉ đă tiếp tế cho tôi một chút xăng vào ng̣i bút để khi viết họa may có chút lửa. Nếu không có lửa, ít ra cũng bay lên tí khói.

Nḥm vào sinh hoạt văn học nghệ thuật hải ngoại, từ khi mất nước đến nay, giới văn nghệ sĩ đă đóng góp tuy chưa nhiều nhưng cũng khá bộn.

Bộ môn nào cũng hướng chủ đề về quê hương đất nước mến yêu, về h́nh ảnh ba miền Huế- Saigon- Hà Nội, về người chiến sĩ Cộng Ḥa dũng cảm, về những trại cải tạo tù đày, về những chờ đợi của người ở quê nhà mong ngày giải phóng Việt Nam, về những tâm t́nh của kẻ ở người đi ngậm ngùi thương nhớ, về những hy vọng phục quốc, nối lại t́nh người...

Như Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo, Tạ Ty, Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh, Phạm Cao Dương, Bùi Văn Bảo, Nguyễn Đông Thành, Phan Lạc Tiếp, Phạm Kim Vinh, Vơ Phiến, Lê Tất Điều, Cao Thế Dung, Túy Hồng,Vũ Thụy Hoàng, Nguyễn Ngọc Ngạn, Tưởng Năng Tiến, Vơ Hoàng... qua nghị luận, biên khảo, sử liệu, sách truyện, tùy bút..

Như Hà Huyền Chi, Nhất Tuấn, Thanh Nam, Cao Tần, Bội Điệp, Du Tử Lê, Bảo Vân, Hoàng Ngọc Ẩn, Tuệ Nga, Đinh Tuấn, Đào Hữu Dương, Lưu Văn Vong, Bắc Phong, Vũ Kiện, Nguyễn Văn Hưng, Minh Lăng... với những bài thơ chất chứa thành sầu, tha thiết quê cha đất tổ...

Như Phạm Duy, Việt Dzũng, Nguyệt Ánh, Nguyễn Đức Quang, Nguyễn Hữu Nghĩa, Phan Ni Tấn, Huỳnh Công Anh, Khúc Lan, Hà Thúc Sinh, Trần Lăng Minh, Lê Uyên Phương, Trần Quan Long... với những nhạc phẩm nung đúc ư chí đấu tranh để có một ngày về...

Như Hoàng Oanh, Hoàng Tường, Diễm Chi, Nguyễn Thanh, Tuấn Minh, Châu Đ́nh An, Hoàng Long, Quỳnh Như đă khơi ngọn lửa hồng mỗi người tỵ nạn để tích cực hăng say tham gia phục quốc...

Như một Trần Cao Lĩnh đi khắp bốn phương trời, hành trang chỉ là những tấm ảnh quê hương để cho đồng bào được nh́n rơ đền thờ Quốc Tổ, h́nh ảnh ba miền đất nước Việt Nam, nếp sống dân tộc cần cù, nhẫn nại, hiếu ḥa, những cảnh đẹp hơn tranh vẽ.

Đó là t́nh tự dân tộc, là tổ quốc chúng ta. Hăy nhớ quay về.



eBdaJ0gCPy4


Và c̣n biết bao nhiêu hoạt động khác của hội đoàn, của sinh viên, của cựu quân nhân, của phụ nữ, các vị lăo niên, của giới thông tin, báo chí, phát thanh, điện ảnh, truyền h́nh, của các phong trào, lực lượng... vẫn ngày đêm ấp ủ t́nh đoàn kết, t́nh đồng bào, cố vun bồi cho gốc nhà Nam được vững vàng dẫu rằng nay sống đất tạm dung.

Nh́n vào các h́nh ảnh tập thể, sinh hoạt mạnh mẽ và đầy tin tưởng như thế, tôi tự nhận thấy rằng ngay cả lúc bỏ quê hương đi tỵ nạn, tôi cũng không đóng góp được ǵ cho đại cuộc, trái lại vẫn c̣n cái đầu óc nhỏ nhen tự ái, khoe khoang, chỉ trích, bất hợp tác, tiếp tục làm những điều lăng nhăng cà chớn.

Đă một lần mất nước, nay không hối hận, ăn năn chuộc tội mà c̣n kéo cho dài thêm ngày về th́ quả là tội tôi lớn lắm.

Khi nh́n rơ chính ḿnh, thời gian đă vùn vụt hơn chín năm quê người lưu lạc. Dẫu muộn c̣n hơn không, tôi cần phải tham gia hội hè như Giao Chỉ đă khơi mào, để làm một cái ǵ chuộc tội.

Hội đó có tên: “ Hội Những Người Làm Mất Nước. ”

Mỗi khi lập hội, những người chủ trương thường nhắm vào các mục đích cao cả đầy lư tưởng, hoặc đa mang tinh thần tương trợ tương thân tương ái, hoặc đầy ắp cử chỉ xă hội học đường, hoặc liên quan đến tôn giáo vinh danh, hoặc đồng nghề nghiệp, hoặc cùng hàng xóm láng tỏi xưa kia, hoặc cùng họ cùng hàng cùng tổ, hoặc cùng thú vui chơi văn nghệ văn giềng tài tử, hoặc độc đáo riêng tư giới hạn, hoặc nhân đạo vị tha công b́nh bác ái, hoặc vân vân và vân vân...

Như “hội kín” là một thứ hội bàn các chuyện bí mật, hành tung nguy hiểm, nguyên tắc là kín như bưng nhưng nhiều khi bị “ hở ”, thế là vỡ mặt. Như hội “ ái hữu ” tự nó có định nghĩa thương nhau cởi áo cho nhau, lá lành đùm lá rách.

Như hội “ ái hữu cựu học sinh ”, hội ái hữu cựu sinh viên, quây quần các người cùng chung dưới mái nhà trường hoặc quân trường. Nhà trường như Nguyễn Trăi, Chu Văn An, Trưng Vương, Gia Long, Hồ Ngọc Cẩn, Lê Bảo Tịnh, Pétrus Kư...

Quân trường như Huế, Nam Định, Thủ Đức, Đà Lạt, Nha Trang, Vũng Tàu... Như hội “ Phủ Giày ”, hội “Thánh Mẫu”, hội “ La Vang ” ...



oD7PoFiEiBs


Như hội у sĩ, hội nữ hộ sinh quốc gia, hội vơ thuật, hội ngân hàng...

Như hội đồng hương Nam Định, hội tương tế Hà Đông, hội tương tế Quảng Ngăi...

Như hội Lê tộc, Nguyễn tộc, Trần tộc, Đinh tộc...

Như hội ái hữu nghệ sĩ cải lương, hội văn nghệ sĩ, hội điện ảnh, hội nhiếp ảnh, hội tao đàn, hội bát âm, hội chèo cổ Bắc Phần...

Như hội cờ tướng, hội đua ngựa, hội sư tử, Thanh Thương hội, Quốc hội...

Như hội bạn người cùi, hội bạn người câm, hội bạn người mù, hội bạn người điếc, hội hoa t́nh thương, v.v...

Cứ phác họa sơ sơ như thế, th́ chỗ nào có người th́ chỗ ấy có hội. Các hội đă hoạt động lớn nhỏ, ồn ào hay âm thầm, phát triển hay thụt lùi tuột dốc, có lẽ chỉ có người trong hội là rành mà thôi.

Hội nào cũng có danh xưng bảng hiệu từ lâu đời, quen thuộc với mọi giới đồng bào bà con cô bác...

Duy có cái hội với tên nghe lạ hoắc là “Hội Những Người Làm Mất Nước” th́ chưa có môn bài hành nghề, cũng chưa ai xin cầu chứng tại ṭa, cho nên bây giờ xuất hiện tuy hơi muộn nhưng có c̣n hơn không, muộn c̣n hơn để cho nó ch́m xuồng.

Hội có tuyên cáo trước quốc dân đồng hồ như vầy :

- Nhận định chắc chắn rằng “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Nay nước mất, không trách chỉ ai mà kẻ thất phu phải cúi đầu chịu tội trước mới phải đạo làm dân .

- Nhận định rơ ràng dù mất nước nhưng thực tế và thực thể th́ nước vẫn c̣n đó, trơ trơ h́nh cong chữ S chứ đâu có suy suyển chút nào.

- Nhận định tuy không nh́n thấy rơ bàn cờ quốc tế, nhưng thân phận nhược tiểu luôn luôn là quân cờ đổi tốt thay xe bất cứ lúc nào đại cường quốc cần quân b́nh cán cân lực lượng.

- Nhận định nghiêm chỉnh rằng từ ngày bỏ nước ra đi, thân phận lưu vong dù ấm no rủng rỉnh, vẫn cứ mơ về chốn cũ người xưa, nhớ nhung chất ngất.

Nhận định đúng đắn rằng :

- Vận nước qua cơn bỉ cực ắt tới thuở thịnh trị thanh b́nh ca hạnh phúc.

- Nhận định chủ quan rằng :

- “Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn kiến trung thần”, tổ quốc có lâm nguy mới rơ mặt quân tử anh hùng, mới tỏ tường tiểu nhân phản phúc.

- Nhận định khách quan rằng luật tạo hóa cũng như luật nhân quả, có trả có vay, đứa nào gây tội th́ phải đền tội, không thể lấp liếm, đổ thửa đổ vạ cho ai.

- Nhận định lạc quan rằng căn cứ vào các nhận định trên, tất nhiên sẽ có một ngày về trên quê hương ta tự do, no ấm.

Nay tuyên cáo :

Thành lập “HỘI NHỮNG NGƯỜI LÀM MẤT NƯỚC”.



jdodRvbliZs



Tuy hội có cái tên lạ hoắc như rứa, nhưng cơ cấu tổ chức, điều hành, nội quy, ngoại vụ lại thi hành theo một lề lối rất ư là quen thuộc, hoàn toàn mang tánh cách tồn cổ, hoài cổ và vọng cổ, đầy dân tộc tính.

Hội không có các chức vụ nghe lớn lao, xôm tṛ như Thống Đốc, Chủ Tịch, Phó Chủ Tịch, Tổng Thư Kư, Ủy Viên...

Hội không họp mũ cao áo dài cổ cồn cà-vạt giầy giầy tây quanh bàn tiệc sâm-banh, khiêu vũ.

Hội không có nhiệm kỳ, không bầu bán chức vị. Hội không tổ chức thành liên danh, thành khối, thành nhóm. Hội không tuyên dương thành tích công trạng, không có ai là cá nhân xuất sắc.

Hội được tổ chức theo chế độ cổ xưa, kêu bằng chế độ xă thôn tự trị.

Chế độ này lấy “làng” làm đơn vị, tự cai quản hành chánh, thuế khóa, công việc xă thôn, có thẩm quyền rộng răi mà ngay cả đến nhà vua cũng không dám xía vào.

“Phép vua thua lệ làng là vậy”. Theo qui tắc trên, mỗi địa phương tổ chức một hội độc lập, không lệ thuộc và chỉ liên lạc với hội bạn, hay làng bạn, theo hàng ngang mà thôi.

Các vai vế trong làng gồm có tiên chỉ, thứ chỉ, các chức sắc vua ban, ngồi họp trên chiếu cạp điều, loại chiếu nhất.

Các hương chức trên như tân, cựu chánh tổng, lư trưởng, hương trưởng, khán thư, trương tuần, nhiêu, xă... ngồi chiếu hoa hạng nh́, chỗ thấp hơn các vị chức sắc.

C̣n mơ làng, ngồi riêng một chiếc chiếu manh, một ḿnh một cỗ.

Dân làng, tức hội viên, được chia thành nhiều hạng:

- Danh dự hội viên : Là những người tỵ nạn lưu vong nhưng chưa có hoàn cảnh gia nhập hội, đă đôi ba bẩy lần làm tổn thương và mất danh dự của Quân Đội.

- Chính thức hội viên: Là những người có đơn xin gia nhập Hội và được tối thiểu một trung đội sáng lập viên giới thiệu, kư tên và thị thực đàng hoàng.

- Dự khuyết hội viên : Là những người có đơn xin nhập hội nhưng chưa đủ túc số giới thiệu, phải lấy số thứ tự chờ đến số mới được kêu bổ túc hồ sơ cứu xét đặc biệt.

- Thân hữu hội viên : Là những người không nhận làm mất nước nhưng là anh em bà con thân hữu với hội viên, từng liên kết với hội viên làm sụp đổ cơ đồ.

- Bảo trợ hội viên : Là những người từng che chở, bao bọc, lấp liếm cho hội viên để làm mất nước.

- Tán trợ hoặc hỗ trợ hội viên : Là những người thường xúi giục, tĩ tê, dụ khị hội viên làm điều phi pháp, hoặc phe lờ ngoảnh mặt cho hội viên quấy nhiễu.

- Định kỳ hội viên : Là những người chỉ tham gia khi có lợi cho cá nhân, c̣n khi không sơ múi ǵ th́ tự động rút dù ch́m sâu lặn kỹ.

Hội c̣n có một “hội đồng cố vấn” gồm đại diện các quốc gia đă gởi quân tham chiến hoặc đóng góp kỹ thuật, у tế, tài chánh, v.v... như Mỹ, Úc, Phi, Đại Hàn, Thái Lan, v.v...



yRN6vqxV4s8


Cạnh hội đồng cố vấn lại có “hội đồng tiểu Liên Hiệp Quốc” gồm đại diện cho các cường quốc từng góp công làm cho Việt Nam ba ch́m bảy nổi, vô t́nh hay cố ư, trực tiếp hay gián tiếp đă tiếp tay cho Cộng Sản làm mất nước Việt Nam: Nga Sô, Trung Cộng, Hoa Kỳ, Pháp, Ăng-Lê , Nhật Bổn...

Thành phần các hội đồng trên, được mời tham gia qua sự giới thiệu của Liên Hiệp Quốc. Hội không có trụ sở chính thức, nên mỗi khi cần hội họp sẽ mượn sân banh, trường học, nhà thờ, nhà chùa, công viên, băi biển làm nơi tập trung.

Hội viên khi tới họp không mang cấp bậc, phù hiệu, huy hiệu, không đeo mề-đay cả cụm hay mề- đay toàn cuống, mà chỉ gắn một lá cờ Việt Nam nhỏ trên ve áo.

Hội không có vấn đề bầu cử, đề cử, độc cử, tiến cử, tái cử. Ai tự nhận thấy ḿnh ở chiếu nào th́ vào chiếu ấy.

Hội có mục đích qui tụ đủ mọi thành phần hội viên, cố vấn đoàn, và có trách nhiệm đề cao cảnh giác mọi âm mưu làm phân hóa người Việt Quốc Gia, tạo hoàn cảnh tốt để gây t́nh đoàn kết, khuyến khích con em học hành tiếng Việt Nam và nói tiếng Việt Nam khi ở nhà, lúc hội họp, tiếp tay cho các hội đoàn trong các chương tŕnh :

- Giỗ Tổ, sùng bái các anh hùng hào kiệt, đề cao lư tưởng quốc gia, hỗ trợ các sinh hoạt xă hội, thể thao, văn nghệ, sáng tác, tham gia cứu trợ thuyền nhân, vớt người vượt biển, ủy lạo người già yếu bệnh tật, thăm nom kẻ côi cút bần hàn.[b][size=3][color=red][i]

Và những công tác tương tự có ích lợi cho đồng bào.

Riêng các anh hùng dám bỏ gia đ́nh, bỏ công việc, bỏ tiện nghi để phục quốc, giải phóng quê hương th́ Hội xin cúi đầu khoanh tay, câm họng, không dám mời vào Hội.

Tất cả các chức vụ lớn nhỏ trong Hội, các hội viên tự vấn lương tâm và tự t́m cho ḿnh một chỗ ngồi tương xứng trên chiếu làng.

Hiện nay, hội chưa có ai xuất hiện vào cái thuở ban đầu thành lập. Duy có sáng lập hội viên Giao Chỉ và Cai Phúc là hai kẻ tŕnh diện sớm ở trong làng.

Giao Chỉ vốn làm lớn, tội nhiều, chắc sẽ can đảm lên ngồi chiếu cạp điều hoặc chiếu hoa chịu trận.

Phần Cai tôi, nhân Hội c̣n khuyết chân thằng mơ nên xin nhận làm mơ làng. Cái chức này tiếng thế nhưng rất kêu, v́ bản chất là mơ tất phải gơ mơ lốc cốc hô chiêng làng nước lắng tai nghe tin tức, t́nh h́nh. Nên mỗi khi cần triệu tập hội hè, Cai tôi sẽ đánh mơ, gân cổ loan tin rơ ràng, chính xác.

Cai tôi theo lệ làng, được một ḿnh một cỗ thảnh thơi ngồi đớp hít. Chức vụ và quyền lợi như thế rất thuận t́nh, họp lư và công bằng, không chỉ théc méc ǵ sốt cả...

Đại khái cái sườn của Hội là thế, các địa phương cứ tùy nghi như thế thi hành...


C̣n tiếp ,

hoathienly19
12-17-2020, 13:12
CHƯƠNG 14


THAY LỜI KẾT


Đă gần mười năm tôi làm tôi mất nước, ngẫm lại mới như vừa bỏ nước hôm qua. Thời gian trôi mau biền biệt, không giống nhau, không ngừng lại.

Cuộc sống lưu vong mà Giao Chỉ gọi đó là nơi sống không bị cùm kẹp, bố ráp tinh thần mang tên “ Cơi Tự Do” . Cơi đó đúng là “ cơi tự do 100 phần trăm ” của nhân loại văn minh, nhưng cơi đó cũng c̣n mang nhiều cái tên tùy theo từng tâm trạng.

Cơi đó c̣n là “ Cơi Mơ Hồ ” , cái ta có ta không, ta là ai, ai là ta và chẳng ai giống ta cả.

Cơi đó như là “ Cơi Buồn ” vây kín chung quanh, chỉ đủ cho ta thở, ta ăn, ta đi làm kéo cầy trả nợ.

Cơi đó là “ Cơi Tiên ” , cơi thiên đàng cho những ai chấp nhận nơi này làm quê hương và quên khuấy đi cái dĩ văng một thời sinh mạng ḿnh gắn liền vào sinh mạng Việt Nam.

Cơi đó là “ Cơi Ưu Phiền ” của tuổi già quạnh quẽ, lạnh lùng dẫu đây bốn mùa xuân hạ thu đông, mùa nào cũng đẹp như tranh vẽ.

Cơi đó là “ Cơi Mộng ” với những ai ước ao được đặt chân tới miền đất thừa thăi vật chất ấm no.

Cơi đó là “ Cơi Bềnh Bồng ” của những tâm hồn lạc loài cô đơn, như cánh bèo trôi theo gịng nước.

Cơi đó là “ Cơi Nhớ ” chập chùng về những kỷ niệm xa xôi kỳ ảo.

Cơi đó là “ Cơi Tương Tư ” ta ở đây mà tâm hồn lúc ở Saigon, khi Cần Thơ, khi Đà Lạt.

Với cái tôi, ví ḿnh cũng giống như thân phận Thúy Kiều, mà c̣n khổ hơn Thúy Kiều ở cái điểm là “không hồng nhan mà cũng vướng nhiều gian truân”.

Gian truân từ khi định cư đất lạ đi làm cu- li của đời mưa gió bơm xăng vá lốp lau nhà. Gánh nặng gia đ́nh đè trĩu hai vai, mới biết thế nào là trách nhiệm cụ thể, thế nào là chịu đựng hy sinh cho đàn con khôn lớn.

Rồi lại chuyển bến xoay vần cuốn theo chiều gió, một xe trong cơi hồng trần đi làm ăn phương khác v́ nghĩ câu “ đâu cũng là nhà ”.

Qua dăm bẩy tám chín thứ nghề, từ văn pḥng bàn giấy, com-lê cà-vạt đến chân bấm giá hàng, dọn kho, lau chợ, c̣ng lưng vẫn gánh nặng đôi vai, vẫn khối buồn đeo đẳng, vẫn canh cánh bên ḷng cái tội cái nợ làm mất nước.

Đời sống xứ người càng đầy đủ ấm no bao nhiêu, phong cảnh càng xinh đẹp mỹ miều bao nhiêu, Cai tôi càng cảm thấy chán ngán, dập vùi, lạc lơng bấy nhiêu...

Nên “Cơi Tự Do” này, tôi gọi nó bằng một cái tên khác, ít ra nó đúng với tôi :

Là “ Cơi Lêu Bêu ” ! Nó vừa lênh đênh bất trắc với tôi, vừa làm cho tôi cứ nhớ cứ thương về quê hương bản quán.

Chốn đó là nơi Cai tôi sinh ra, lớn lên, nửa đời được ăn rau muống với cà, được ê а đánh vần hai tiếng “ Mẹ, Cha ” , được nghe tiếng đại bác ru đêm chập chờn hỏa châu soi sáng tiền đồn, được nằm lều vải cá nhân ôm súng bên đồi sim tím, được ngắm suối reo thác đổ miền cao nguyên trùng điệp, được về miền Tây sông nước bao la cuộc sống hiền ḥa, được nghe dân ca, vọng cổ, hát chèo những ngày mở hội, được đọc ḍng lịch sử liệt oanh, lẫy lừng của dân tộc Việt Nam, được chứng kiến những thăng trầm của vận nước điêu linh, tang tóc...

Thất phu hữu trách, nên Cai tôi cũng trách nhiệm như ai . Nay xin làm thân mất nước ráng làm một cái ǵ trong cơi lêu bêu, cơi tự do này để chuộc tội.

Nếu chuộc tội kiếp này chưa xong, th́ kiếp sau c̣n dịp tái sanh duyên, xin lại được làm người. Và làm người Việt Nam để vẫn c̣n tiếp tục chuộc tội với lương tâm, với gia đ́nh, với bạn bè, với tổ quốc...

Được vậy, khi hai tay buông xuôi nghỉ nơi nghĩa trang quân đội, Cai tôi sẽ yên tâm nhắm mắt mà cười kh́ kh́, coi như đă thi hành xong nghĩa vụ quân dịch, trang trải nợ nần, rũ sạch bụi đời, thoát nợ trần gian và kḥ kḥ vùi sâu giấc cuối...



nQYIQCViFso


(Houston, Texas / 1984)

hoanglan22
12-23-2020, 15:40
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1712438&stc=1&d=1608737850

Hơn 30 năm sau, họ mới gặp lại nhau trên đất Hợp Chủng Quốc. Cô giáo nay đă già. Học tṛ cũng không c̣n trẻ nữa. Cô dĩ nhiên không nhận ra tṛ, nhưng tṛ đă nhận ra cô. Và cô giáo Oanh bỗng nhớ lại tất cả những ngày giờ tai hoạ.
------
- Các đằng ấy ơi, cho tớ chơi với!
Con nhỏ cố nở nụ cười thân thiện nhất năn nỉ ba đứa bạn khác cùng lớp đang đánh đũa trước sân. Một đứa đang định tung trái banh lên, bỗng dừng lại, che miệng cười khúc khích.
- Đằng ấy? Hí! Hí!
Đứa kia chanh chua hơn:
- Ậy, tụi “tớ” chơi dở lắm, không dám chơi với “đằng ấy” đâu.
Cả bọn cùng cười x̣a sau câu đùa của đồng bọn. Đứa thứ ba có vẻ biết điều hơn một chút:
-Tụi tao chơi gần hết bàn rồi, để mai rồi mày chơi chung nghe.
Con nhỏ buồn rầu quay lại. Nó biết con kia chỉ nói cho có lệ mà thôi. Ngày mai tụi nó sẽ nói những câu tương tự, hay cũng kiếm những cớ khác để từ chối không muốn cho nó chơi chung. Đây không phải là lần đầu tôi chứng kiến những đứa học tṛ trong lớp đồng lơa nhau cô lập Vân. Nó là đứa học sinh miền Bắc đầu tiên trong lớp tôi của niên khóa 1976/77.

Nhớ lại sau hôm khai giảng niên khóa mới được hai ngày, tôi đă giật ḿnh lo lắng khi bỗng nhiên bị gọi lên pḥng Giám Hiệu có chuyện cần! Chuyện ǵ? Đối với t́nh h́nh bây giờ, bị gọi lên văn pḥng riêng rẻ như lúc này là một dấu hiệu không tốt. Nhưng sau khi “tự kiểm điểm”, tôi thấy ḿnh không phạm điều ǵ sai nên cũng yên tâm đôi chút.

Mụ hiệu trưởng đón tôi niềm nở hơn mọi ngày. Thấy tôi đi vào, một người đàn ông trong trang phục bộ đội với cái nón cối trên bàn ngừng tay vấn thuốc đứng dậy chào. “Đồng chí” Trần B́nh, theo lời giới thiệu, là một cán bộ cao cấp từ Hà Nội đang trong thời gian công tác dài hạn tại thành phố Hồ Chí Minh. Vân là con gái ông ta. Con bé hôm đó mặc áo bà ba trắng, quần satin đen, tóc dài và rậm kẹp lại gọn gàng phía sau … Nh́n Vân lễ phép chào, tôi bỗng nghe bỗng nghe một chút xót xa. Quả là một xưởng đúc tuyệt vời! Con nhỏ trông không khác chi một cô cán bộ tí hon. Màu sắc duy nhất trên người con bé là đôi dép rỗ màu vàng nhạt. Đôi dép vẫn c̣n mới lắm.

Tôi dắt Vân về lớp và xếp ngồi bàn đầu để có thể dễ dàng “chú ư giúp đỡ” như lời cha nó ân cần nhắn nhủ. Bỏ qua những ǵ bên ngoài, nó cũng khá xinh xắn. Gương mặt bầu bĩnh tuy hơi đen, nói thưa lễ độ. Tuy chán ghét mụ hiệu trưởng đến thậm tệ, không chút cảm t́nh với người đàn ông trong bộ quân phục chuyên chính màu xanh ấy, tôi vẫn không thấy có lư do ǵ để ghét bỏ Vân.

Nhưng, bốn mươi mấy học sinh trong lớp tôi lại không nghĩ như vậy. Những ánh mắt kỳ thị ngày càng rơ rệt. Những mái đầu xanh tụm năm tụm ba x́ xầm bàn tán. Tôi nghe rơ một lần chúng gọi Vân là “con bộ đội”, kháo nhau “Coi chừng nó cho mày đi học tập cải tạo đó!” v.v và vv…V́ thế mà đă gần tháng, con bé vẫn chưa hội nhập vào chúng bạn, mặc dù nó cũng cố gắng lắm. Tôi tội nghiệp giùm Vân, nhưng cũng không trách được lũ học tṛ c̣n lại. Xă hội và hoàn cảnh đă gieo vào đầu óc lũ trẻ thơ ngây những tư tưởng nghi kỵ, oán ghét tất cả những người đă trực tiếp, hay có liên hệ đến sự mất mát trong gia đ́nh chúng. Tôi biết trong lớp có đứa cha là lính Cộng Ḥa đă hy sinh đền nợ nước. Một số khác là con em của sĩ quan hay công chức dưới chế độ Sai gon cũ đang bị đi học tập cải tạo tại một vùng hoang vu nào đó, chưa rơ ngày về.

Anh Hai tôi là Đại Úy Biệt Động Quân, cũng khăn gói quả mướp theo lời nửa dụ dỗ nửa đe dọa của chính quyền nay đă hơn một năm. Tin tức duy nhất nhận được là vài lá thư gởi về mà địa chỉ là một ḥm thư vô nghĩa. Lá thơ theo một khuôn mẫu nhất định như trăm ngàn cái khác, trấn an và động viên gia đ́nh tham gia lao động, triệt để thi hành chính sách của nhà nước. Chị dâu tôi ṃn mỏi trông chờ. Quỹ gia đ́nh thu hẹp, chị phải dấn thân ra chợ trời chụp giựt, tráo trở để kiếm tiền nuôi ba đứa con. Những lúc tôi sang thăm cháu là dịp chị mở bầu tâm sự. Chị nguyền rủa, oán than không tiếc lời với thời thế đảo diên sâu bọ làm người … ngay trước bọn nhỏ.

Cha mẹ đă vậy, con cái cũng dễ dàng ảnh hưởng. Người lớn oán người lớn, th́ trẻ con cũng …ghét trẻ con. Dĩ nhiên những mái đầu thơ chưa đủ trí khôn để hiểu thế nào là độc tài, là đảng trị, là mất mát tự do … Đầu óc lũ trẻ như những trang giấy trắng mà lớp cha anh đă vô t́nh quệt vào một vết đen thù ghét, tị hiềm.

Tôi không ghét Vân như học tṛ tôi. Trái lại là khác. Tôi biết nó đang bị cô lập và lạc loài giữa một môi trường xa lạ. Nhưng mỗi lần nh́n Vân, tôi không khỏi liên tưởng tới mụ hiệu trưởng hợm hĩnh, lúc nào cũng ŕnh rập các giáo viên. Mụ cũng đi làm bằng áo bà ba trắng, quần satin đen khuôn mẩu đó, ngồi bắt chân lên ghế salon trong văn pḥng say sửa giảng chủ nghĩa Mác-Lê. Tôi cũng thấy qua con bé, cha nó hôm gặp mặt. Mặc dù ông ta vẫn lịch sự và nhũn nhặn, tôi cũng không khỏi mang tư tưởng đây là người đă cướp đi tất cả tự do của toàn miền nam, trong đó có tôi.
Không chừng ông ta đă đối diện với anh tôi trong một trận chiến nào đó.
Vân học thua kém chúng bạn rơ ràng. Những môn phải học thuộc ḷng, con bé tương đối chu toàn một cách chăm chỉ. Nhưng về toán số th́ thật bết bát. Những bài toán đố đơn giản với tŕnh độ học sinh lớp bốn cũng khiến con bé ngồi cắn bút. Tôi cũng không rơ ngoài Bắc nó đă học lớp mấy, nên khi lên gặp mụ hiệu trưởng, tưởng là sẽ t́m hiểu thêm tŕnh độ con bé để xếp lớp cho đúng. Ai ngờ mụ trừng mắt nh́n tôi:
- Chị bảo sao? Vân mà kém toán ư? Vô lư thật. Nó là học sinh tiên tiến, và xong lớp hai ở Hà Nội rồi. Chị cũng biết trung học ở miền Bắc ưu việt chỉ 10 năm thôi là đă tương đương với lớp 12 trong này rồi (mụ hănh diện). Nếu cứ học ngoài ấy, nó lên lớp ba, là phải bằng… lớp năm trong này cơ đấy. Tôi xếp nó vào lớp bốn của chị để thử, rồi tính sau…
Mụ ngừng một chút lấy hơi, rồi tiếp:
- Chị có theo đúng chương tŕnh không? Tôi muốn xem lại giáo án của chị.
Trời ơi lư luận như mụ thật là độc đáo. Bỏ qua tŕnh độ của hai học sinh tốt nghiệp hệ 10 năm và 12 năm. Nhưng nói một học sinh lớp hai miền Bắc đă tương đương với lớp bốn trong Nam, th́ tôi cũng đành chịu. Cơn tức giận trào lên, tôi định căi. Nhưng câu cuối cùng của mụ làm tôi chột dạ, ngậm bồ ḥn nuốt xuống. Nói thêm với người đàn bà này chỉ vô ích. Không chừng mụ lại ghép cho tôi tội phản động, bài bác chế độ … th́ mất việc. Đối với hoàn cảnh hiện nay, mất việc là không lao động, là kinh tế mới. Thôi được, mụ là kẻ chiến thắng làm vua, tôi thua phải làm giặc thôi!

Chiến tranh đă qua, Nam Bắc một nhà cùng nhau tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xă hội chủ nghĩa. Những cái loa thông tin nhai đi nhai lại một điệp khúc cằn cỗi và trơ trẽn. Chỉ một thời gian ngắn, toàn miền Nam đă thấm đ̣n. Người ta bảo nhau trông thấy Văn Vĩ lái xe Honda dạo mát Sàig̣n! Đi đâu tôi cũng nghe bàn tán về những chuyến đi danh từ nói: tàu 3 blocks, máy Yammar đầu xanh, đầu bạc v.v…Chỉ nghe và biết thế thôi, tôi hiểu ḿnh không có diễm phúc tham dự v́ gia đ́nh không đủ khả năng tài chánh. Nếu có, ba mẹ tôi cũng phải ưu tiên cho hai đứa em trai đang tuổi sắp đi nghĩa vụ quân sự. Tôi chuẩn bị tinh thần làm cái cột đèn bất đắc dĩ.

Một người bạn tù chung trại vốn là bác sĩ quân y có chuyên môn nên được thả về trong đợt đầu tiên ghé qua báo tin, anh Hai tôi đă ra đi vĩnh viễn. Mấy tháng trước, đúng một năm sau ngày t́nh nguyện đi học tập cải tạo, anh và một số sĩ quan khác chung cảnh ngộ đă cùng nhau đ̣i hỏi ban quản giáo nếu họ có tội ǵ hăy đưa ra ṭa xét xử công bằng. Tại sao lừa dối họ nói đi học tập có 10 ngày mà nay đă một năm trôi qua, ai cũng để lại vợ dại con thơ không rơ cuộc sống thế nào, đem thân khổ sai lao động trên những vùng rừng thiêng nước độc mà ngày về tăm tối mù khơi.
Kết quả nhóm sĩ quan đó bị kết tội toan tính chống đối nhà nước, biệt giam với những h́nh phạt khắc nghiệt. Anh Hai tôi vốn đang bị bệnh, thể chất suy yếu nên không kham nổi, ra đi về miền vĩnh cửu. Anh mất đă mấy tháng rồi nhưng gia đ́nh, cha mẹ, vợ con hoàn toàn không hay…

Tôi lănh nhiệm vụ qua báo tin dữ cho chị Hai, v́ người bạn tù chỉ đến nhà ba mẹ tôi nói vài câu ngắn rồi phải đi ngay. Tối hôm đó, mắt tôi quầng đỏ ấp a ấp úng không thành lời. Chị vẫn b́nh tĩnh hỏi chuyện ǵ đă xẩy ra cho anh Hai? Tôi như được mở khóa, khóc ̣a như đứa trẻ, kể lể. Chị ngồi bất động, không một phản ứng. Nh́n chị, tự nhiên tôi cảm thấy rờn rợn. Người đàn bà trước mặt chỉ hơn tôi hai tuổi mà như xa cách đến hai mươi năm. Chỉ hai năm trời tảo tần nuôi con, nuôi chồng, đă tàn phá dung nhan chị đến độ tàn nhẫn. Nay niềm hy vọng cuối cùng đă tắt. Chị ngồi yên hồi lâu, lẳng lặng đứng dậy bên giường ôm thằng Út lúc đó đang ngủ vùi vào ḷng, xua tay ra hiệu cho tôi đi về. Tôi biết ḿnh không thể nói được điều ǵ thêm. Tất cả những lời an ủi hay khuyên nhủ lúc này chỉ là vô nghĩa. Bước ra cửa, tôi quay lại nh́n và thấy giọt nước mắt đầu tiên của chị rơi trên mặt thằng bé.

*
Ḥa b́nh rồi mà súng vẫn nổ trên khắp mọi miền. Đâu đó vẫn c̣n có kẻ ngă gục, c̣n tù tội, chống đối. Suốt hai mươi năm nội chiến, gia đ́nh tôi đă may mắn toàn vẹn. Anh Hai tôi là người duy nhất trong gia đ́nh chính thức cầm súng chiến đấu, nhưng đă trở về với mái ấm gia đ́nh sau lời kêu gọi đầu hàng của cấp lănh đạo từ tháng tư năm ấy. Nay anh đă nằm xuống, hy sinh trong muộn màng và tức tưởi. Sự ra đi của anh đă tác động vào tâm lư tôi mănh liệt.

Ngày Sàig̣n hoàn toàn rơi vào tay cộng sản, gia đ́nh tôi cũng như tất cả người miền nam dù biết là tương lai bất định, nhưng dù sao cũng c̣n niềm hy vọng mong manh: ḥa b́nh. Cộng sản hay quốc gia, cũng là người Việt. Giải đất này từ bắc chí nam đă rách nát sau bao năm chịu đựng bom đạn. Đă đến lúc mọi người dẹp hết hận thù, chủ nghĩa, để cùng nhau hàn gắn.

Mọi hy vọng chỉ là cái bánh vẽ to tướng. Dân miền Nam thấm đ̣n. Đă muộn rồi. Mỹ đă cút và Ngụy cũng đă nhào. Chính phủ mới nắm chặt bao tử người dân qua chính sách hộ khẩu. Hàng ngũ công an dày đặc khắp phố phường làm dân chúng hết đường cục cựa, chỉ c̣n âm thầm chịu đựng và… nguyền rủa.

Đến bây giờ tôi mới biết thế nào là căm hờn. Thời gian qua, tôi cũng như bao người khác, chán chường một cách thụ động. Nhưng ngoài những mất mát chung, chế độ cũng chưa đụng chạm ǵ đến gia đ́nh tôi. Nh́n chung quanh, những gia đ́nh với nhiều bất hạnh; những người mất nhà mất cửa từ vùng kinh tế mới trở về thành phố lang thang đói khát không hiện tại không tương lai.. tôi đă thấy thỏa măn v́ hoàn cảnh ḿnh cũng c̣n sáng sủa hơn bao người khác.

Tôi đă lầm. Sự yên ổn hiện tại của ḿnh chỉ là tạm thời. Chế độ sẽ không chừa một ai khi thời gian cho phép. Cái chết của anh Hai tôi là phát súng khai hỏa đầu tiên. Tôi căm hờn nh́n những cái nón cối, đôi dép râu, khẩu súng AK … những thứ tiểu biểu tượng trưng cho chế độ.

Vân đập vào mắt tôi mỗi ngày qua cách ăn mặc và cái giọng Bắc Kỳ chua chua của nó. Ôi đối tôi, con nhỏ này đă được nhào nặn từ lúc mới sinh ra. Đầu óc nó chắc chứa đầy những …Bác, và đương nhiên khi lớn lên sẽ sẵn sàng chết cho Đảng. Trời ơi, nó sẽ là một con nhỏ cộng-sản!

Trước kia tôi c̣n thông cảm, giúp đỡ Vân, nay tôi lại ngấm ngầm khoái trá nh́n học tṛ cô lập “con bộ đội” này (?). Tôi biết ḿnh đă nhỏ mọn và sai lầm khi tự nhiên ghét bỏ Vân, nhưng cái chết của anh tôi như đám mây đen kịt che khuất mọi suy nghĩ công bằng mà một người lớn, có học như tôi phải nhận rơ.

Có lẽ Vân cũng thấy sự thay đổi và thắc mắc lắm. Người duy nhất trong lớp đối xử tốt với nó đă về hùa với đám đông để nó một ḿnh. Vân càng mặc cảm hơn khi biết ḿnh thua kém bạn bè trong các môn học. Đôi khi nh́n con bé ở lại trong lớp lơ đăng nh́n các đứa khác chơi đùa ngoài sân trong giờ giải lao, tôi cảm thấy tội nghiệp. Nhưng rồi h́nh ảnh anh tôi ngă gục nơi trại cải tạo nổi lên, tôi lại ghét nó thêm.
*
Sau khi vào lớp độ nửa tiếng, tôi được gọi lên pḥng Giám Hiệu. Thôi chết! Hậu quả đă đến như tôi lo sợ, nhất là hôm nay Vân vắng mặt.
Sự việc bắt đầu từ tuần trước, khi trong giờ sinh hoạt tôi chọn bài hát “Đêm qua em mơ gặp bác Hồ” cho cả lớp cùng ca. Thay v́ câu “râu bác dài tóc bác bạc phơ”, hai ba cái miệng từ cuối lớp gào lên “chân bác dài, bác đạp xích lô” tôi thấy Vân quay lại nh́n thằng Tùng to giọng nhất. Thằng nhỏ không biết tai họa sắp tới, c̣n làm mặt xấu chọc Vân. Tôi làm ngơ, vội vàng chấm dứt ngay giờ sinh hoạt và để ư Vân. Nhưng con nhỏ không để lộ nét ǵ khác hơn ra ngoài mặt.
Một tuần qua, tôi hồi hộp sợ Vân lên báo cáo mụ hiệu trưởng. Thằng Tùng chắc chắn bị đuổi học v́ tội phản động. Ba mẹ nó ở nhà dĩ nhiên gánh lấy hậu quả. Và tôi cũng bị rắc rối to, nhất là đă lơ qua không xét đến.

Khi lên tới pḥng giám hiệu và nh́n vào, tim tôi chùng xuống v́ thấy Vân lấp ló trong đó. Niềm lo âu đă thành sự thật! Không c̣n đường tháo lui, đành đẩy cửa bước vô. Tôi ngạc nhiên v́ người đứng dậy chào không phải mụ hiệu trưởng đáng ghét. Người đàn ông là cha của Vân. Ông ta vẫn trong bộ quân phục màu xanh, cái nón cối để bên cạnh như lần đầu gặp gỡ cách đây mấy tháng. Hắn đến đây để bắt tôi ư? Câu hát giễu vô ư thức của một đứa trẻ có thể đưa đến kết quả nghiêm trọng như vậy sao? Tôi thực sự lo sợ.

Cha của Vân không đi ngay vào vấn đề như tôi nghĩ. Ông ta quanh co hỏi thăm t́nh h́nh nhà trường học sinh … đủ mọi chuyện. Đôi khi đi vào chuyện cá nhân riêng tôi nữa. Hắn muốn ǵ đây? Định giở tṛ mèo vờn chuột ư? Tự ái sùng sục nổi dậy đẩy lui niềm lo sợ lúc ban đầu. Tôi thấy ḿnh đang đối diện với một kẻ thù xảo trá. Hắn đă chiến thắng chúng tôi bằng vũ lực, và nay đang muốn đánh gục tôi bằng tâm lư.Tôi ngang nhiên đối đáp với tất cả niềm ấm ức bấy lâu chất chứa về phương pháp giảng dạy, chương tŕnh, giáo án v.v… và nhất là nhấn mạnh về trường hợp Vân không thể theo nổi các bạn cùng lớp khác. Hắn kiên nhẫn nghe, thỉnh thoảng gật gù. Tôi hăng say bày tỏ tư tưởng không chút e ngại. Tôi cảm thấy sung sướng. Ít ra tôi cũng một lần hiên ngang đối diện với hoàn cảnh.

Khi tôi ngưng nói, người đàn ông nh́n tôi thật lâu, và chậm răi:
- Cám ơn cô đă cho biết những điều vừa rồi. Quả thực tôi chưa bao giờ nghĩ đến … Dù sao, tôi đến đây hôm nay là để cùng cháu Vân từ giă cô. Tuần tới tôi trở ra công tác tại Hà Nội và Vân sẽ theo tôi ra ngoài ấy.
Câu nói thật bất ngờ làm tôi không tin ở tai ḿnh. Ông ta và Vân gọi tôi lên đây để từ giă, không phải để bắt ḿnh ư? Tôi quay sang nh́n Vân và nghe nó nói:
- Thưa cô, em xin chào cô.
Sự việc xẩy ra làm tôi hơi lúng túng. Th́ ra Vân không báo cáo ǵ về vụ thằng Tùng. Bỗng dưng tôi thấy hổ thẹn. Ḿnh đă ngờ oan, lại thêm đối xử không đẹp với Vân gần tháng qua. Tôi cảm thấy cay cay ở mắt. Bỗng nhiên cái nón cối không c̣n nằm trên đầu của Vân nữa. Đôi dép râu cũng trở lại nguyên h́nh đôi dép ny-lông màu vàng nhạt. Trước mặt tôi là một học tṛ thơ ngây như bao nhiêu đứa trẻ khác. Nhân chi sơ, tính bản thiện. Trong đầu óc của Vân có thể chứa đầy bác và đảng, đoàn và đội, nhưng tất cả cũng chỉ v́ nó lỡ sinh ra và lớn lên trong xă hội, trong một chế độ như vậy. Hay đúng ra, Vân cũng như bao kẻ khác, là nạn nhân của chính sách “V́ lợi ích mười năm: trồng cây; v́ lợi ích trăm năm: trồng người” mà thôi.

Lần đầu tiên sau cái chết của anh Hai, tôi trở về với bản ngă vô tư của ḿnh. Đành rằng chế độ có nghiệt ngă, đó là chuyện người lớn. Trẻ thơ ở đâu cũng chỉ là những trang giấy trắng. Nếu tôi không thể tô xanh điểm hồng trên những trang giấy ấy, th́ ít nhứt cũng không có quyền bôi lọ bằng những giọt mực đen.

Vân đứng khép nép ở góc pḥng, sau lưng cha nó, ngượng nghịu cúi gầm mặt, thỉnh thoảng len lén nh́n tôi. Năm năm trời làm nghề giáo, trường hợp học tṛ nghỉ học giữa niên khóa là chuyện đă xẩy ra. Những lần ấy, tôi thường cảm động nắm tay chúng để nhắn nhủ, cầu chúc em những lời sau cùng. Nh́n đứa học tṛ bé dại v́ hoàn cảnh phải rời ghế nhà trường, tôi thường bâng khuâng khi nghĩ rằng trong lớp từ đây sẽ thiếu vắng một bóng dáng quen thuộc, giọng nói ngây thơ. Nhưng tôi cũng cảm thấy tâm hồn yên ổn v́ những ngày tháng qua đă hết ḷng thương yêu, dạy dỗ chúng. Đối với Vân lúc này, tôi thấy có sự thiếu sót, một món nợ ân t́nh với con bé. Tôi muốn chạy lại ôm Vân vào ḷng, quên đi tất cả những hận thù, bom đạn, chủ nghĩa…, tất cả những ǵ đă chia cách hai chúng tôi.
Cha của Vân nh́n đồng hồ và đứng dậy:
- Đến giờ chúng tôi phải lên đường. Xin chào cô.
Ông ta bắt tay tôi từ giă. Vân lẳng lặng theo sau, nó lí nhí:
- Thưa cô em đi.
Cổ tôi nghèn nghẹn, muốn nói vài lời, nhưng không thốt lên được, chỉ gật đầu.
Ra tới cửa, ba của Vân dừng lại, hơi đắn đo một chút rồi nói:
- Tôi muốn thành thực khuyên cô một điều. Những ǵ cô vừa nói với tôi, đừng nói thế với ai cả. Không thay đổi ǵ được đâu. Với thời thế bây giờ, cô cũng biết…
Ông bỏ dở câu nói. Tôi gật đầu hiểu ư, và nh́n hai cha con bước mau trên sân trường đầy nắng.

*
Món nợ ân t́nh của cô giáo Oanh, nhân vật xưng “tôi” từ đầu câu chuyện với cô bé Vân đó, đến hơn ba mươi năm sau mới được trả, trên mảnh đất tự do có tên Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ này.
Cô học tṛ từ miền bắc xă hội chủ nghĩa đi lao động xuất khẩu tại Cộng Hoà Dân Chủ Đức. Năm 1989, khi bức tường Bá Linh sụp đổ, đánh dấu sự cáo chung của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Âu, Vân đă mau mắn xin ở lại xin tỵ nạn với nước Đức tự do nhân ái, không về Việt Nam nữa. Ba năm sau, cô gặp một người Việt du lịch từ Hoa Kỳ sang, kết hôn, và di dân theo chồng về Mỹ. Cô đang làm phụ tá văn pḥng cho một bác sĩ Việt Nam ở Cali

Cô giáo Oanh ở lại Sài G̣n một thời gian, cùng chồng là một sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Ḥa từng bị đi học tập cải tạo. Hai vợ chồng và gia đ́nh được chương tŕnh HO đưa sang định cư tại Cali 1991.
Cô nay đă già, hồi hưu, và đi khám bác sĩ.
Hai người gặp lại nhau tại pḥng mạch. Cô dĩ nhiên không nhận ra tṛ, nhưng tṛ đă nhận ra cô. Hai cô tṛ đă ôm nhau mừng mừng tủi tủi sau hơn ba mươi năm xa cách.

C̣n ông cán bộ Trần B́nh?
Vân ngậm ngùi cho hay cha của cô đă tử trận trong cuộc chiến biên giới 1979 với Trung Cộng. Mẹ của Vân đă dùng tất cả tài sản dành dụm được chạy chọt cho Vân đi lao động sang Đông Đức, dặn ḍ con gái t́m cơ hội đi luôn, nếu có thời cơ hăy đào thoát về miền tự do, đừng bao giờ trở lại Việt Nam nữa.
Vân đă thành công. Cô đă là một công dân Mỹ. Các con của Vân đều được sinh ra trên đất nước tự do này.
Về phần tôi, tác giả bài viết, may mắn được cô giáo Oanh kể lại mối duyên gặp gỡ với cô học tṛ tên Vân.
Cô giáo Oanh đó, là chị của tôi.

TháiNC

hoathienly19
12-27-2020, 06:50
NOEL Ở CẨM - NHÂN


Tháng 7 năm 1976 tàu Sông Hương cập bến Hải-Pḥng. Chúng tôi, khoảng ba ngàn tù cải tạo, cựu sĩ quan của Quân Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa, được chuyển lên tạm nghỉ một ngày ở Sáu-Kho.

Trong chuyến đi này, đội ngũ hành khách tù binh đă hao hụt mất hai người.

Một người bị trượt chân, rớt từ sàn tàu xuống nước ch́m luôn ở Tân-Cảng, Sài-G̣n đêm khởi hành. Người thứ nh́ chết trên tàu giữa biển khơi.

Trước đây, trong tháng 6 năm 1976, cũng đă có vài chuyến tàu chuyển tù, ghé bến Sáu-Kho. Nhưng trí ṭ ṃ của dân địa phương, nhất là những đứa trẻ con, vẫn bị lôi cuốn bởi h́nh ảnh khác thường của đoàn hành khách mới tới.

Người từ phương Nam ra, đi từng cặp một, tay trái của người đi bên phải, c̣ng với tay phải của người đi bên trái. Mọi người vai mang nặng, mặt mày buồn rầu, xanh xao, thân h́nh gầy g̣, tong teo. Họ nối đuôi nhau đi thành hàng im lặng, cúi đầu không nh́n ai. Hai bên là những họng súng AK với lưỡi lê tuốt trần. An ninh thật là nghiêm ngặt.



https://imagizer.imageshack.com/v2/640x457q90/r/922/81TcDZ.jpg


Đoàn tù được lùa vào khu đất rộng, có sáu cái nhà ṿm dài và cao bằng tôn. Xung quanh khu nhà ṿm này là băi cỏ cháy khô, hôi thối, v́ đây là băi đại tiện lộ thiên, công cộng, của xóm dân cư lao động gần đó. Quanh đây, dày đặc hố bom B 52 khổng lồ. Nước trong hố bom màu cà phê sữa lợt, mặt nước lác đác bèo tấm.

Sau khi được cởi khóa cái c̣ng, tôi gởi ba-lô cho anh bạn tù Ngô Văn Niếu giữ giùm. Tôi lang thang trên sân cỏ Sáu-Kho, rồi tạt vào căn nhà ṿm của những tù binh cấp úy. Vừa bước qua cửa đă có người nhận ra tôi rồi. Anh ta ôm chầm lấy tôi, xuưt xoa :

– Thái Sơn ! Anh c̣n sống ư ? Độ đây! Em nghe đồn anh chết ngày Ba Mươi. Vậy mà anh c̣n đây. Ôi ! Mừng quá ! Anh ngồi xuống đi !

Anh Phạm Xuân Độ là đại úy sĩ quan chỉ huy hậu cứ của Liên Đoàn 23 Biệt Động Quân. Chúng tôi quen nhau lâu lắm rồi, từ ngày Độ mới từ Lực Lượng Đặc Biệt chuyển sang Biệt Động Quân.

Độ cầm tay tôi, cao giọng giới thiệu với bạn của anh ta,

– Đây là Thái-Sơn, đàn anh của tớ. Xin giới thiệu với các bồ, để các bồ quen biết một đàn anh, đúng nghĩa một đàn anh.

Nghe anh Độ quảng cáo ồn ào như thế, những người bạn của anh ta liền tỏ thiện cảm với tôi ngay. Họ kéo tôi ngồi xuống manh chiếu góc nhà. Họ mời tôi hút thuốc lào. Họ tíu tít hỏi tôi ở trại nào trong Nam ? Tôi có quen, có gặp người này, người kia hay không ?

Sau khi quân đội ta tan ră, nhiều cấp chỉ huy trở thành những cái bia hứng chịu phỉ nhổ của người dưới. Tuy thế, cũng có nhiều cấp chỉ huy trở thành nỗi luyến tiếc cho thuộc cấp, mỗi khi họ nói về kỷ niệm một thời đă qua.

Cũng may, cái cung cách chỉ huy nghiêm khắc tại mặt trận và thân ái ḥa đồng ở hậu cứ của tôi, không làm thuộc cấp ghét bỏ hay hận thù.

V́ thế mà hôm ấy, ở một nơi ngh́n trùng xa Sài-G̣n, vào cái thời buổi không c̣n ǵ nhục nhă hơn, thật khó tin c̣n có người lễ phép mời ḿnh ngồi uống ly cà phê nấu bằng cơm cháy pha với đường thẻ, rồi cùng nhau ôn lại những kỷ niệm oanh liệt, vàng son.



tyNNxyioJsw


Một người vừa sà xuống chiếu, nh́n tôi gật đầu chào thân thiện. Tôi vội vàng gật đầu chào lại.

Người sĩ quan này da ngăm ngăm. Má anh ta có cái nốt ruồi bằng hạt đậu. Dáng anh ta quen quen… Tôi ngờ ngợ đă gặp anh ta ở đâu đó?

Anh bạn mới, giọng Bắc trầm trầm, tự giới thiệu :

– Tôi tên là Trần Gia Toản, “ Toản Thuốc Lào” . Tôi là em ruột của Trần Gia Toàn cùng khóa với anh. Tôi là bạn thân của Độ. Tôi có rất nhiều bạn Biệt Động Quân. Bạn tôi ai cũng thương anh và phục anh lắm. Tôi đă nghe tên anh nhiều lần. Nay có dịp gặp anh, thật là hân hạnh.

Tôi chợt hiểu, th́ ra anh ta là em ruột của Trần Gia Toàn, bạn cùng Khóa 20 Vơ Bị của tôi. Anh em nhà này giống nhau quá, hèn nào tôi thấy anh ta trông quen quen…

Những người tuổi trẻ thích nói thật, không ṿng vo, quanh co. Hiểu nhau rồi th́ chúng tôi dễ trở thành thân. Từ hôm ấy tôi có thêm một số bạn.

Những người bạn mới lấy ḿ gói ra, giấy bao ḿ gói trở thành củi, cái lon Guigoz trở thành nồi, vỉ cơm cháy trở thành cà phê.

Bỗng nhiên, tôi thành người khách quư của nhóm bạn tù cấp úy trong góc một căn ṿm Sáu-Kho hôm ấy.

Ăn ḿ xong, chúng tôi chuyền tay nhau ca cà phê cơm cháy. Uống cà phê mà không kèm theo khói thuốc th́ không đúng “gu”. Anh em mời tôi hút thuốc lào.

Khi biết tôi chưa tập hút được thuốc lào, th́ chỉ nháy mắt sau tôi đă có một bao thuốc lá Sài-G̣n Giải-Phóng.

Qua trao đổi với họ, tôi được tin tức của vài sĩ quan cấp úy cùng đơn vị như chú Lư Ngọc Châu, chú Trần Cao Chánh, chú Nguyễn Ngọc Khoan…

Tôi cũng có tin những bạn cũ đă chết v́ vượt trại như Quách Hồng Quang và Phạm Hữu Thịnh.

Buổi chiều, chúng tôi bị lùa xuống các hố B52, nước màu cà phê sữa, để tắm rửa. Lúc lên bờ, đỉa đói c̣n bám từng chùm, lủng lẳng trên vế trên đùi, chúng tôi giựt măi chúng không chịu nhả ra.

Sau khi được phát mỗi người một gói lương khô Trung-Cộng, đoàn tù được lệnh chuẩn bị đội ngũ chờ xe lửa để lên đường. Nghe đâu, người ta sẽ đưa chúng tôi lên mạn ngược, vùng biên giới Trung-Hoa, thuộc tỉnh Yên-Bái, Thái-Nguyên, Tuyên-Quang…

Chuyến xe lửa Hải- Pḥng Yên- Bái khởi hành lúc nửa đêm.

Chúng tôi được dồn lên những toa chở súc vật. Cứ bốn mươi người một toa, khóa trái bên ngoài. Diện tích của toa xe chỉ đủ chỗ cho chúng tôi ngồi hoặc đứng chứ không thể nằm. Mỗi toa có bốn cái cửa ṭ ṿ to bằng bàn tay xoè nơi bốn góc.

Tôi chui vào chiếm một góc và tḥ mũi ra lỗ cửa ṭ ṿ để thở. Ngồi kế tôi là Thiếu tá Hoàng Đ́nh Mẫn nguyên tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 81 Biệt Động Quân. Thiếu tá Mẫn là vị tiểu đoàn trưởng già nhất của liên đoàn tôi. Ông Mẫn với tôi thương nhau như anh em.



https://1.bp.blogspot.com/-rXv0PuUrceU/W8q6N9Je-pI/AAAAAAAA_8Q/eW3FsbfzEWMXtxMrar5RrLGPHHSr7FV5ACLcBGAs/s640/1%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba% 2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2B a%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba% 2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2B a%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba% 2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2B a%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2BDinh%2B%25C4%2 590L%2B2%2Ba.jpg



Xe chạy được khoảng một giờ th́ không khí trong toa bắt đầu ngột ngạt.

Lúc lên xe, trưởng đoàn vệ binh có chỉ định anh cựu Đại úy tên là Thu làm trưởng toa.

Từ đầu hôm, anh Thu chiếm cái góc có thùng phuy vệ sinh. Giờ này, thùng cứt đái bắt đầu bốc mùi. Anh Thu bước tới góc cuối toa, và ra lệnh cho tôi nhường chỗ cho anh.

Tôi chưa kịp phản ứng th́ anh Thu đă dện một đạp vào mặt ông già Mẫn để dành cái cửa sổ. Lúc đó ông Mẫn đang ghé mũi vào cửa ṭ ṿ hít khí trời.

Ông Mẫn vừa ôm mặt khóc, vừa chửi rủa.

Anh Thu có dáng dấp của một vơ sĩ. Anh không cao lắm nhưng rất “đô” con.

Anh cởi áo và vắt những ḍng mồ hôi vừa nóng vừa nồng trên đầu tôi v́ lúc đó tôi ngồi dưới chân anh. Rồi anh ngồi xuống bên tôi, tḥ mũi ra lỗ ṭ ṿ. Mồ hôi của anh nồng kinh khủng . Tôi nhè nhẹ đẩy anh ra xa tôi một chút .

Anh hậm hẹ ,

– Đù mạ ! Lộn xộn ăn đ̣n à con ! Mày nhỏ con, tao cho ngồi cạnh để đỡ choán chỗ. Biết điều th́ ngồi êm ! Cục cựa ông bẻ răng à !

Anh Thu ngồi chồm hổm, nách anh choàng qua gáy tôi. Mùi hôi nách làm tôi tắc hơi. Tôi lách đầu cho mũi tôi ghé vào một góc cửa sổ. Tôi hít lấy, hít để cái không khí thơm mùi đ̣ng đ̣ng, lúa mới ngoài kia.



YC72vC0-QZA


Chợt anh tù trưởng toa hẩy mạnh vai, mặt tôi đập vào thành xe nghe “kịch!” một cái, đau tới hoa cả mắt .

– Ê ! Ê ! Ê !… anh này chơi ác quá vậy ?

Trong lúc quưnh quáng, tôi quưu lưỡi, nói xàm như một đứa bé.

Chưa xong, hai bàn tay hộ pháp của tên du côn chẹt cổ tôi, tống tôi vào góc xe,

– Ngồi im ! Cục cựa ông bóp chết !

Tôi chợt cảm thấy có cái ǵ đó ứ nơi cổ.

Mặt tôi nóng dần. Tay tôi run run. Tôi hít vào một hơi dài, rồi thở ra từ từ.

Tôi ra chiều ngồi êm, nhưng tay tôi ṃ t́m… ṃ t́m…

Tôi t́m được nó rồi! Cái nĩa U.S bằng inox, tôi cài nó trong cái túi bên hông ba lô…

Cú đâm quyết định bị trệch mục tiêu v́ thế ngồi quá chật. Cái nĩa đâm sượt mắt trái của anh vơ sĩ, rạch một vết rách sâu trên trán anh.

Tay trái tôi hất mạnh một cái cùi chỏ ngay cằm anh.

Anh chưa kịp la lên th́ cái nĩa đă nằm dưới yết hầu.

Tôi gh́ ngược cái nĩa bằng cả hai tay ngay yết hầu kẻ thù.

Nhiều lần đánh lộn thời học sinh, cũng như trong chiến trận sau này, tôi đă áp dụng thành thạo những đ̣n cận chiến học từ tuổi lên mười ở Trung-Tâm Huấn-Luyện Nhảy Dù Chèm Vẽ (1951-1954).

Hồi đó nhà tôi ở sát cạnh băi tập thể chất của lính Nhảy Dù Liên Hiệp Pháp trước cổng Đông làng Vẽ.

Ngày ngày chứng kiến tân binh Nhảy Dù học cận chiến, tôi thuộc nằm ḷng những thế dao găm đâm ngang, đâm dọc, đâm ngược, đâm xuôi…

Hơn hai mươi năm sau, trong một góc toa xe chở súc vật, tôi phải sử dụng cái thế đâm ngược lợi hại này, với một cái nĩa, để hạ một đồng đội.

Tôi chỉ cần nhấn mạnh thêm năm phân, rồi xoay hai tay theo chiều kim đồng hồ là cái yết hầu của thằng du côn sẽ bị móc ra khỏi cần cổ nó.

Tôi nghe tiếng :

– Em lạy anh, tha cho em !

Tôi lơi tay, nhổ nước miếng vào mặt anh vơ sĩ và nói nhỏ :

– Cút về bên cái cầu tiêu của mày mà ngồi. Tên tao là Vương Mộng Long, tao đă từng là Tiểu đoàn trưởng Biệt Động Quân. Sau khi xuống ga, mày có thể t́m tao bất cứ lúc nào.



1XeqLHQu8EQ


Ông vơ sĩ trưởng toa ôm trán đầy máu ḅ về hướng đầu toa, trả lại cái cửa ṭ ṿ cho mười anh tù ở cuối toa thay phiên nhau ló mũi ra để hít chút không khí mà sống.

Tàu đi ngang cầu Phú-Lương, Hải-Dương, tôi xin anh em cho tôi được ngồi lâu hơn một chút nơi cửa sổ để ngắm nh́n cây cầu tuổi thơ của tôi.

Tôi đă đi qua cây cầu này bằng đôi chân trần tuổi lên sáu, từ vùng “Tề ” chạy giặc trở về thành phố Hải-Dương đổ nát điêu tàn.

Trong trí nhớ non nớt của tôi chỉ c̣n :

Cầu Phú-Lương đồng nghĩa với cầu Đen. Cầu dài lắm, những cái vài khổng lồ sơn đen, lính gác cầu cũng là lính Marốc da đen.

Tôi qua cầu một ngày cuối năm 1948. Từ ấy tôi không c̣n thấy nó. Cho măi tới đêm nay, tháng 7 năm 1976 tôi mới có dịp qua cầu lần nữa.

Hôm nay, cầu Phú-Lương có vẻ đen hơn ngày xưa, v́ tôi qua đó vào lúc nửa đêm, trời tối như mực. Tôi nh́n cây cầu nơi chôn nhau cắt rốn từ cái cửa ṭ ṿ của một toa xe chở súc vật. Trong toa xe chở súc vật này là những sinh vật ưu tú của một dân tộc anh hùng.



https://3.bp.blogspot.com/-IiTNV9BFlk8/VPRyJVsYDqI/AAAAAAAAKUU/WKHT4hee1Mk/s1600/6.jpg


Những sinh vật ưu tú ấy đang bị chuyển hóa thành súc vật. Những con vật này đang tranh sống. Chúng đang giết lẫn nhau để sống.

Toa xe lao nhanh. Động cơ hơi nước ph́ phà “śnh sịch! śnh sịch!” Bánh sắt rít trên tà vẹt nghe “ken két! ken két!” rợn người. Những thanh sắt vài cầu loang loáng sát thành xe.

Rồi tôi không nh́n được ǵ thêm, nước mắt đă rơi, nước mắt bốc thành hơi, đôi mắt cay…

Trời mờ sáng th́ tàu đi ngang Vĩnh-Phúc-Yên, những hố bom B52 c̣n như rất tươi trên ruộng lúa, dọc hai bên đường tàu. Những đoạn đường sắt ở đây cũng thấy như mới được đắp vá. Không khí trong xe ngột ngạt hơn.

Chúng tôi thay nhau cái lỗ ṭ ṿ với tốc độ mau hơn, quyền được thở giảm bớt. Người được thở tự đếm, “một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, hết !” rồi ngồi nhích sang một bên, nhường cho người kế tiếp.

Chúng tôi chia nhau từng giây không khí để sinh tồn.

Đôi người đă khóc, đôi người vẫn cười.

Giờ phút ấy có lẽ không ai c̣n nhớ đến vinh quang.

Nơi góc cuối của một toa xe chở súc vật, mười sĩ quan Quân Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa chia sẻ nhục nhằn để sống.

Ba góc c̣n lại của toa xe không có cái trật tự tự nguyện này. Đă có chuyện không hay.

Có ai đó nơi đầu toa bị ngộp thở . Tiếng người nói xôn xao :

– Làm hô hấp cho anh ấy đi !

Có tiếng la to :

– Anh bộ đội ơi ! Có người xỉu ! Anh bộ đội ơi !


https://2.bp.blogspot.com/-pVf-_-Lq_dQ/XLi44ns0-jI/AAAAAAABCsg/loNblAjrwU4Lai1l2Mcp4X0MdKxR4PYjgCLcBGAs/s640/1%2B%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2 Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba %2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Banh%2Ba%2Ban%2Bba%2Banh%2Bb ac%2Banh%2Bchua%2BB%25E1%25BB%2599%2Btr%25C6%25B0% 25E1%25BB%259Fng%2B%2Banh%2BCo%2Bgiao%2BPha%2B1%2B CT%2BNTDB%2B3%2Bf%2B21.jpg


Tàu vẫn chạy śnh sịch, śnh sịch… tiếng kêu cứu loăng trong không gian, không lời đáp lại.

Xế trưa hôm đó chúng tôi vào ga Yên-Bái. Đang phiên thở hít của tôi, tôi nghe tiếng người gọi nhau,

– Tù tới ! Tù tới !

Tôi thấy vài người dân vội vàng cúi lượm những viên đá xanh lót đường tà vẹt. Thấy không ổn, tôi thụt mũi vào trong toa.

Tôi nói với Thiếu tá Trần Ngọc Báu, Trưởng pḥng 2 Tiểu khu Pleiku là người kế phiên hít thở :

– Đừng ló mặt ra, dân nó ném đá đó!

Anh Báu không tin.

V́ tôi ngồi sát cửa với Báu, tôi nghe rơ tiếng reo :

– Thằng Mỹ mày ơi :

Rồi anh Báu ôm mặt. Mặt anh đầy máu. Một cục đá xanh đập vỡ mũi anh. H́nh như hai cái răng cửa đă nhảy ra khỏi miệng anh.

Khuôn mặt Tây lai của anh biến thành cái mặt nạ máu me bầy nhầy.

Cái cửa được bít lại ngay bởi cái thùng đựng đạn trung liên chứa nước của ông già Mẫn.

Đoàn xe lửa bị một trận mưa đá tới tấp tấn công.

Cho tới khi vài viên đá lạc vào toa xe của vệ binh th́ tôi nghe tiếng súng bắn chỉ thiên.

Rồi tiếng đá chạm thành toa cũng ngưng.

Đoàn xe ra khỏi ga chừng hai trăm mét th́ ngừng bánh. Tù được lệnh xuống xe. Tôi là một trong những người đạp đất sớm nhứt.

Không đội ngũ, đoàn tù bị lùa lên xe Zin chở về nơi nào đó đă định. Hai bên đường, có những người dân mặc trang phục Dao, Tày, Thái, Mán, Thổ, Mường… ngơ ngác trông theo.

Tới một ngă ba, cứ một xe rẽ về trái, th́ xe kế tiếp rẽ về phải. Th́ ra, đoàn tù được chia làm đôi, một nửa đi về Đông Bắc qua hồ Thác-Bà, nửa c̣n lại qua sông Hồng đi về hướng Tây. Chiếc xe chở tôi đi về hướng Đông Bắc.

Anh bạn cùng Khóa 20 Vơ Bị, cùng binh chủng Biệt Động Quân là Ngô Văn Niếu cũng ngồi chung một xe với tôi.

Đoàn 776 Cộng-Sản không đủ phương tiện đưa hết đoàn tù đi trong ngày. Chúng tôi được chia ra thành nhiều đợt lên ca nô vượt hồ.

Toán của tôi là toán chót, lên ca nô sau toán đầu hai ngày, hai đêm.

Hồ Thác-Bà rộng lắm, mỗi chiều cả chục cây số. Ca nô đưa chúng tôi đi ngược lên đầu nguồn sông Chảy, lướt chậm trên di tích của một thung lũng cổ.

Trong đám đọt cây khô giữa làn nước trắng, một gác chuông thánh giá đứng lẻ loi, phần dưới của nhà thờ ch́m trong nước.

Nắng mai từ đỉnh núi hướng Đông chiếu xuống mặt hồ, làm cho những đợt sóng lăn tăn lấp lánh như dát bạc…

Chúng tôi đến cuối Hồ Thác-Bà, hạ trại nơi không xa một xă người Tày. Xă đó tên là Cẩm-Nhân. Xă Cẩm-Nhân thuộc huyện Yên- B́nh, Yên-Bái, tỉnh Hoàng- Liên- Sơn, cách biên giới Việt-Trung gần 50 km.

Bên bờ hồ, nơi một băi lau sậy được đặt tên là Trại 3 Liên Trại 4, tôi và anh bạn Ngô Văn Niếu, Tiểu đoàn trưởng Biệt Động Quân nằm cạnh nhau. Lán trưởng của tôi lại là anh Đại úy tên Thu đă có lần tôi gặp cách đó hai ngày, trên chuyến xe lửa Hải-Pḥng Yên-Bái.



https://mytourcdn.com/upload_images/Image/A_H%E1%BA%A3i%20Y%E1%BA%BFn/H%E1%BB%93%20Th%C3%A1c%20B%C3%A0/Non%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20h%E1%BB%93%20Th%C3%A1c%2 0B%C3%A0.jpg


Anh Thu nh́n tôi như kẻ lạ, như chưa từng thấy nhau. Nh́n cái băng trên trán anh tôi nghĩ anh thật là chóng quên.

Tối đầu tiên ở đây, anh bạn già Nguyễn Tuyên Thùy cho tôi biết một tin buồn:

Có ông Thiếu tá dược sĩ tên là Duy vừa uống thuốc tự tử. Dược sĩ Duy được bó chiếu chôn bên cạnh hồ. Như vậy, trong Nam, gia đ́nh anh Duy sẽ là những người đầu tiên biết chồng con họ đang ở đâu.

Anh Nguyễn Tuyên Thùy đến đây từ tháng trước, nên chứng kiến nhiều chuyện. Anh c̣n nói rằng,

– Nghe đâu, có vài ba người chết ngộp trên chuyến xe lửa từ Vinh ra Yên-Bái hồi tháng trước…

Anh nói chuyện người chết, người sống nghe nhẹ như không. Mà thực vậy, lúc này sinh mạng một người tù thua trận nhẹ như không…

Sáng hôm sau anh Thu tập họp đồng đội trước lán để truyền lại nội quy của trại cho những người mới tới. Anh phân tích rơ tội nào sẽ bị h́nh phạt ǵ. Những tội cải thiện linh tinh sẽ bị cảnh cáo, cúp phần ăn.

Tội phát ngôn bừa băi có thể bị cùm, bỏ đói…Tội vượt trại có thể bị xử bắn…vân vân. Anh cảnh cáo rằng nếu ai đụng vào chai dầu lửa treo ở đầu giường anh th́ sẽ biết tay anh.

Tôi đi quanh trại, la cà tṛ chuyện cùng vài người quen.

Những vị này, thời chiến tranh Đông-Dương, 1945-1954 đă có dịp qua đây, như :

- Trung tá Nguyễn Hữu Phú cựu Tham mưu trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân/ Quân Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa

- Thiếu tá Hoàng Đ́nh Mẫn Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 81 Biệt Động Quân

- Thiếu tá Bùi Ngọc Long Tiểu đoàn trưởng Địa Phương Quân Tiểu khu Quảng Đức

- Thiếu tá Nguyễn Tuyên Thùy ở Bộ Tổng Tham Mưu. Nhưng những đàn anh lớn tuổi này cứ duỗi ra mỗi khi tôi hỏi họ về địa thế, dân t́nh quanh khu Thác-Bà.

Các vị ấy cứ lắc đầu :

– Đường xa diệu vợi lắm ! Đừng dại mà trốn trại ! Mất mạng đó em ơi !

Tôi cứ nghe các anh ấy can ngăn như thế mỗi khi tôi tỏ ư muốn… đi.



https://1.bp.blogspot.com/-3lrUyXNSapY/W7SiB2lOFII/AAAAAAAA_qs/SDk5HEguDWMT5VRRQcfuOnRVnuQBpIrAQCLcBGAs/s640/1%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba% 2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2B a%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba% 2Ba%2BKTVN.jpg


Cuối cùng tôi gặp Đặng Quốc Trụ, người bạn cùng khóa; anh ta đă từng là Tiểu đoàn trưởng của Trung đoàn 48 Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Nghe tôi ngỏ ư t́m bạn đồng hành để đi Lào, anh Đặng Quốc Trụ hưởng ứng ngay…

Chúng tôi chưa biết rơ xă Cẩm-Nhân nằm ở nơi nào trên bản đồ Việt-Nam th́ toán trốn trại đầu đă nhổ neo. Bốn đại úy gồm hai ông ở Tổng Thống Phủ và hai ông pilots trực thăng. Đi được ba ngày th́ bốn Papillons bị bắt lại.

Ṭa án giữa đồng được thiết lập. Không có lời buộc tội nào từ phía cai tù Cộng-Sản, mà chỉ có quân ta kết tội lẫn nhau. Nghiêm khắc nhất là một cải tạo viên, nguyên là phi công trực thăng, đă đề nghị xử bắn những người đi trốn để anh ta được yên tâm cải tạo (!)

Vài người nữa lên phát biểu ư kiến xin trại phạt nặng những kẻ vô kỷ luật để làm gương cho những kẻ khác.

Ban chỉ huy Cộng-Sản của trại cũng không ư kiến. Ṭa giải tán.

Không ai dám hé răng bàn tán về những ǵ đă xảy ra.

Bốn anh trốn trại bị cùm trên đồi, gần ban chỉ huy trại.

Hai ngày sau, toán trốn trại thứ hai ra đi. Toán này gồm có hai người và được coi là có “kí lô”.

Họ là Đại úy Biệt Kích Trần Trung Ginh và Đại úy Nhảy Dù Tôn Thất Ủy (Ủy là tùy viên của Tướng Lưỡng, Tư lệnh Sư Đoàn Dù /Quân Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa).

Sau khi phát giác có thêm một vụ trốn trại nữa, cán bộ Chính Trị Cộng-Sản của Trại 3 tập họp tất cả chúng tôi lại, răn đe :

– Các anh sẽ phải trả giá . Không ai thoát khỏi mạng lưới của nhân dân. Cứ trốn đi ! Tôi thách các anh đấy !

Giữa đêm đó Vương Mộng Long và Đặng Quốc Trụ khăn gói lên núi. Cái bật lửa của bác Biệt Động Quân già Hoàng Đ́nh Mẫn nằm trong hành trang của tôi, và chai dầu lửa của anh đội trưởng tên Thu cũng nằm trong hành trang của tôi.

Vài ngày sau khi tôi và Trụ vượt trại, Trại 3 Liên Trại 4 bị giải tán, tù nhân được chia cho các Trại 5,7,9 kế bên.

Một đoàn tù từ bên hướng Tây sông Hồng được đưa về đây xây Trại 3 mới.

Cái đêm 8 tháng 8 năm 1976, tôi và Đặng Quốc Trụ trốn trại lần đầu là một đêm mưa, khởi đầu trận băo Số 6 khốc liệt. Trận băo này gây nên mưa gió kéo dài hơn một tuần lễ.

Mười ngày sau chúng tôi bị mất hướng, luẩn quẩn trong rừng tre, rồi bị vây bắt lại.

Tên Việt-Cộng chấp cung tôi đă thẩm vấn tôi câu đầu

– Có phải anh Thu cho anh chai dầu lửa để anh đi trốn hay không?

Tôi “ thành khẩn ” khai báo :

– Thưa cán bộ không ạ! Tôi ăn trộm nó khi anh đội trưởng c̣n ngủ.

Tên cán bộ ngạc nhiên lẩm bẩm,

– Lạ nhỉ ? Vậy là anh Thu bị phạt oan, nhưng không hiểu tại sao anh ấy không tự biện bạch?

Từ đêm chui rào khỏi Trại 3, tôi không có dịp gặp lại anh Thu, không rơ đă có hậu quả ǵ đến cho anh sau khi tôi đi.

Tôi và Trụ được đưa về nhốt ở Trại 4 Liên Trại 4. Tại đây đă có 2 “đồng bọn” đang nằm cùm, đó là Trần Trung Ginh và Tôn Thất Ủy.

Cuối năm ấy tụi tôi được tha ra khỏi cùm để về đội lao động.

Nhiều dân trốn trại đă được quy tụ về đây trước đó. Trong số ấy có một băng Vơ-Bị gồm :

- Trần Tấn Ḥa (Nhảy Dù, k20 VB)

- Nguyễn Văn Nghiêm (Nhảy Dù, k20 VB)

- Trần Đăng Khôi (Nhảy Dù, k16 VB)

- Hồ Văn Ḥa (Biệt Động Quân, k16 VB)

- Chu Trí Lệ (SĐ23, k16 VB)

- Trần Bá Huệ (Phủ Tổng Thống, k16 VB)

- Trần Đ́nh Bính (Phủ Tổng Thống, k14 VB).

Anh Đặng Quốc Trụ được đưa về Đội 10 dưới quyền đội trưởng là cựu Trung tá Lâm Kỳ Sáng.

Tôi về Đội 11 dưới quyền cựu Đại úy Đặng kim Bảng.

Vừa chui vào lán, tôi đă nghe giọng Bắc Kỳ quen,

– Mừng đại ca, đại ca có nhận ra em không ?

Dù lúc đó là buổi chiều mùa Đông, trong lán tranh tối tranh sáng, tôi vẫn nhận ra ngay Toản Thuốc Lào.

– Quên sao được hả chú ! Mới tháng trước đây, chúng ḿnh chia tay nhau ở Sáu-Kho…


https://1.bp.blogspot.com/-BkPIG6vFDKQ/WqLMQ7VK6dI/AAAAAAAA9vc/2OGvNWmV72MDMKsoUB0IYUpwSopT9oskACEwYBhgL/s1600/1%2Ba%2Ba%2Ba%2Banh%2Ban%2Bba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba% 2Banh%2BLinh%2BVNCH.jpg


Ngay lúc ấy người đội trưởng bước vào, anh ta nói tôi sẽ được cử đi gánh gạo tiếp tế chiều nay cùng với đội ở bên Cẩm-Nhân.

Sau nhiều ngày nằm cùm, mới đi được hai cây số đường đồi tới chợ Cẩm-Nhân, chân tôi đă muốn ră ra rồi. Đến Hợp-Tác Xă Nông-Nghiệp tôi gặp hai anh bạn cùng khóa là Nguyễn Xuân Hoè và Vũ Văn Minh; hai anh này ở trại khác, cũng đi gánh gạo chiều nay, mừng mừng, tủi tủi.

Bên kia đường, tôi thấy có người đưa tay vẫy. Tôi t́m trong óc xem có phải anh ta cùng khóa với ḿnh không ? Không ! Hóa ra đó là anh Thu !

Thấy anh, tôi nhớ chuyến tàu hôm nào từ Hải-Pḥng đi Yên-Bái.

Tôi nhớ ra chai dầu lửa anh cố t́nh treo trên lối ra vào của lán tù Trại 3. Đêm vượt trại, chỉ cần giơ tay, tôi đă nẫng được chai dầu một cách nhẹ nhàng.

Tôi định đưa tay vẫy lại cái vẫy tay của anh Thu, th́ đoàn tù gánh gạo ấy đă đi xa rồi.

Hôm đó, tiêu chuẩn chung của trại, trọng lượng cân đo, đúng 150 kg cho một chuyến hai người.

Toản cao hơn tôi, Toản đi sau, tôi đi trước.

Chúng tôi phải ḥ “Dô ta!” để lấy đà đứng lên.

Toản ḥ “Dô… ta!” rồi, nhưng Toản không đứng lên.

Toản cúi xuống lượm cái ǵ đó. Tôi hỏi :

– Sao không đi Toản ?

Toản cười,

– Em có quà cho đại ca !

Anh ngước mắt lên, vui sướng đưa cho tôi một cục kẹo đường đen,

– Em lượm được cục kẹo, anh ăn cho hồi sức đă mất trong nhà cùm.

Tôi cảm động, nhận cục kẹo đường đen to bằng đầu ngón tay út.

Toản cười :

– Anh có nhớ hôm nay là Noel đó không?

Tôi cắn cục kẹo làm hai, đưa cho Toản một nửa,

- Merry Christmas!

Thấm thoắt đă mấy chục năm đi qua.

Tôi thấy buồn khi nh́n Noel trở lại.

Tôi thấy buồn khi nhớ ra, bây giờ tôi không c̣n sức để gánh chung cùng bạn một gánh gạo nặng 150 kg trên đoạn đường đồi dài 2 km nữa rồi!

Noel nào tôi cũng nhớ tới buổi chiều đi gánh gạo, nhớ cái vẫy tay của anh Thu, nhớ chai dầu lửa, nhớ cục kẹo đường đen ở Cẩm-Nhân, và nhớ Trần Gia Toản cùng những người bạn tù thuở ấy…

Vương Mộng Long

(Seattle, Noel 2004)

https://hon-viet.co.uk/VuongMongLong_NoelOCamNhan.htm

hoanglan22
01-01-2021, 18:07
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1717615&stc=1&d=1609524395

Từ Khao I Đăng đến Sikew, 1980

Đầu năm 1980, nhóm người Việt vượt biên đường bộ đầu tiên đươc chuyển đến trại Sikew khoảng 600 người, một số từ các trại sát biên giới Thái Miên, số khác từ trại Arrange Pathet (trại tù lao công đào binh), đa số c̣n lại từ trại Khao I Đăng section 13. Tất cả được sắp xếp cho vào các Building 1,2 v à 3. Mỗi Building (B) có trưởng và phó Building do một số cựu quân nhân QL-VNCH được đồng bào bầu ra để đại diện người tị nạn tiếp xúc, liên lạc với người Thái trong mọi công việc về mặt đời sống.

Trại Sikew có lính gác, có trại trưởng và trại phó do quân nhân Thái đảm trách. Gặp 2 người này là phải đứng nghiêm, khoanh tay cúi đầu, cung kính chào: Savadi Khấp!”. Đă có nhiều người bị đánh, cá nhân ḿnh cũng suưt bị ăn gậy v́ thấy tên phó trại mà làm bộ ngơ ngác, không chào. Thấy nhóm tị nạn trông đen đủi và cô hồn quá nên trưởng trại cho tập họp, cảnh cáo ngay và cho biết đây cũng là một trại tù của lính Thái, nên kỷ luật rất nghiêm nhặt, áp dụng cho dân tị nạn giống như quân đội, vi phạm kỷ luật sẽ bị cạo trọc đầu, giam vô chuồng cọp, chuồng beo… tù vô thời hạn.

Người Thái giống việt cộng ở chỗ bắt sĩ quan, quân dân cán chính VNCH đi học tập cải tạo mút mùa mà không cho biết thời hạn phải tù bao lâu. Ở trại Sikew nếu bị tù th́ chua lắm bởi dù phái đoàn có đến gọi tên lên phỏng vấn hay bạn có danh sách đi định cư th́ cũng miễn đi, ở tù đă…

Trại Sikew sẽ có chào cờ ngày 2 lần sáng chiều, mọi người đều phải học thuộc và ca quốc ca Thái Lan, c̣n nhớ lúc đó anh Trần Thịnh* sau này là danh hề nổi tiếng hải ngoại cứ ca nhại “gà dây thung ta nấu cho thành xé phai,… đi đứng lang bang, 2 tay đút vô túi quần..” làm bà con cứ ḅ lăn ra cười.

Sikew có 8 building lớn, ngoài 3 building đầu th́ các building 4,5,6 dành riêng cho người tị nạn Lào gốc Việt, đến từ trại Nong Khai phía Đông Bắc Thái. Họ nói tiếng Thái (tiếng Lào và Thái xài chung ) và nói tiếng Việt rặt giọng Bắc nghe ngồ ngộ, nhưng dễ hiểu và hiền ḥa. Nh́n chung thấy bảnh lắm, v́ nước da họ trắng tuốt, quần áo tươm tất, sạch sẽ. Những cô gái Lào gốc Việt ai cũng khá đẹp, và thường quấn xà- rông cho tiện. Phe ta mới đến, nhào qua thăm hỏi t́nh h́nh th́ họ cho biết người Việt ở Lào đi tị nạn dễ lắm, chỉ bơi qua một con sông là sang đất Thái, qua trại Ṇng Khai, ở riết chán, thấy khổ th́ lại lẻn bơi về. Nhưng sau này cao ủy chuyển về Sikew. Hỏi tới mới biết họ ở trại Sikew này, người ít nhất, sơ sơ cũng trên 1 năm, c̣n 3, 4 năm th́ nhiều, được đi định cư th́ phải là may mắn. Lư do: họ lư luận, đơn giản thôi, người Thái không cho phái đoàn các nước vào trại phỏng vấn?

V́ tị nạn ở trại càng lâu th́ càng đẻ ra nhiều công ăn việc làm cho dân Thái. Tiền do cao ủy trả, điều này có lư khi nh́n vào trại Khao I Đăng, trại khá lớn mà người Thái cấm đào giếng và nước phải do họ cung cấp, bạn tính xem, nhiều trăm chuyến xe do công nhân Thái chở nước vào mỗi ngày ngày cho 5 chục ngàn người Kampuchia ṛng ră trong nhiều năm…?

Trại Khao I Đăng, được biết chỉ được định nghĩa là nơi để “lánh nạn” chứ không phải là “tị nạn” nên không có phái đoàn đến trại phỏng vấn, bởi vậy khi chuyển trại, có một vài người Miên giả làm người Việt tỉnh queo, lên xe đi theo, sau này định cư thành công.

Khao I Đang có Section 13 mới xây thêm, dành riêng cho nhiều nhóm người Việt đầu tiên vượt biên bằng đường bộ. May là thời gian ở đây chỉ vài tuần ngắn ngủi. Cũng có thể do “trâu cột ghét trâu ăn” hay v́ cộng sản Việt Nam đang xâm lăng Kampuchia? nên xảy ra vài đụng chạm nhỏ giữa Miên và Việt, nhờ vậy Cao ủy tị nạn phải di tản đám người Việt về trại Sikew gấp sợ có chuyện.

Nh́n chung thấy đường tương lai sao mù mịt quá! Ở Sikew khoảng vài tháng sau này mới thấy thấm thía hai chữ may mắn mà lúc mới tới không ai để ư. Khi có một gia đ́nh người Lào Việt được đi Đức, loa phóng thanh reo:”Sau đây là danh sách những người… may mắn có tên được đi định cư ở đệ tam quốc gia”. Thôi thế th́ cứ yên tâm sống đời tị nạn mà xem t́nh h́nh biến chuyển thế nào? Ai siêng chịu khó cắp sách đi học thêm sinh ngữ do các thày tị nạn tự nguyện đứng ra dạy và ráng giữ ǵn sức khoẻ chờ thời! Nói giữ ǵn sức khoẻ là v́ góc trại Sikew cũng có nghĩa trang nhỏ, nơi đó có 12 người tị nạn vĩnh viễn chọn làm nơi an nghỉ!

Thời gian 1980, những người vượt biên đường bộ khá tuyệt vọng v́ chưa được thế giới biết đến nhiều bằng những người Việt vượt biên đường biển hiện rầm rộ có mặt khắp nơi tại các nước láng giềng ngoài Thái như Indonesia, Malaysia, Philippine, Hong Kong…

Sikew có Building 8 (B8), rất đặc biệt v́ nằm bên kia trại, cửa ra vào đều bị khóa, kiểm soát chặt chẽ, nội bất xuất, ngoại bất nhập, lính gác có súng. Người tị nạn là những cán binh, bộ đội, trong đó có nhiều người thuộc dân con cái “ngụy” tức phe ta chính gốc VNCH, nhà nghèo không tiền lo lót, bị bắt đi nghĩa vụ quân sự, nhân cơ hội vọt luôn qua Thái xin tị nạn. Những người này trước khi tới trại đều được đưa về Bang kok khai thác chán chê rồi mới đưa về Sikew, và có tin đồn họ sẽ vĩnh viễn ở lại đất Thái, phần nữa cũng không quốc gia nào dám nhận cho phe nón cối, dép râu đi định cư? Chuyện người ta đề pḥng t́nh báo phản gián mà. Thiệt là thê thảm!

Lúc đó ḿnh gặp lại đứa em trong xóm thuộc diện này, nay trở thành bộ đội vượt biên hiện nằm trong B8. Mừng quá v́ nhà nó chỉ được báo cáo mất tích, mọi người ai cũng nghĩ nó bị tiêu rồi! Chú em bắn tiếng qua hàng rào kẽm gai nhờ ḿnh t́m cách báo về Sài G̣n cho má biết là c̣n mạnh khỏe.


B8, T́m Bạn Bốn Phương

Nói về nhân vật của B8, bạn phải nghiêng ḿnh thán phục, nhiều chuyện khôi hài, hồi hộp hay táo tợn. Nhớ có hiện tượng mà toàn trại Sikew ai cũng biết và cười. Các cụ B8 có lạc bước nơi đây, đọc xong xin đại xá..

B8 mặc dù là những người vượt biên t́m Tự Do nhưng đối với người Thái đầy nghi kỵ nên vẫn bị hăm he về chuyện không có ngày đi định cư. Đời sống trong trại tù túng, thiếu thốn không có tương lai kể khá bi đát. Cách hay nhất là viết thư gơ cửa các hội thiện nguyện khắp nơi t́m an ủi, hổ trợ hay sponsor. Kẻ có thân nhân th́ nhờ báo chí hải ngoại tiếp tay đăng t́m giúp và có lẽ vụ t́m bạn bốn phương cũng bắt đầu từ đó.

Không biết ai khởi xướng nhưng chỉ thời gian ngắn sau trăm hoa nở rộ… tức là, trự nào ở B8 cũng có một vài người yêu khắp nơi trên thế giới để mà tâm t́nh, tṛ truyện, nhưng quan trọng nhứt là có thêm thu nhập tài chánh.

Trên mục kết bạn tâm thư báo Văn Nghệ Tiền Phong và báo Hồn Việt tại hải ngoại, California lúc nào cũng đăng tin rất nhiều các em gái trong trắng, ít tuổi đời, lạc bố mất mẹ trên đường vượt biên, hay goá phụ ngây thơ, nữ sinh Gia Long, Marie Curie, Trưng Vương,… nói chung nhan sắc mặn mà, trên trung b́nh, con nhà gia giáo, hiện độc thân, cô đơn lắm… đang mong chờ ṃn mỏi các ân nhân phương xa ra tay cứu giúp, em nguyện sẽ nâng khăn sửa túi, đáp đền khi gặp lại. Thư từ liên lạc xin gửi về em tên…. Địa chỉ trại Sikiu Camp,…Building 8… Panat Nikhon, Ratchasima- Thailand.

Sau 1975 các đấng liền ông thoát được ra hải ngoại đi t́m các cô mà lấy làm vợ, con mắt đổ ghèn t́m hỏng ra nương nào! Mấy cô tiểu thư dù nhan sắc khiêm nhường, chỉ cần hơi trắng da dài tóc là trước ngơ vương tôn công tử đầy kẻ thập tḥ, tha hồ mà chọn. Úi chao! sao cái B8 – Sikew này tự dưng có lắm người đẹp thế! Thế là thư từ đáp ứng cứ nườm nượp thay phiên nhau đổ về.

T́nh h́nh lúc ấy “nóng” quá, không ra tay sớm kẻ khác cuỗm mất, người khôn là người biết ra tay cứu vớt các em từ thủa bơ vơ!

Thùy Trang, 26 tuổi, 1 con, bị chồng ruồng bỏ. Hiền, thùy mỵ, đẹp xấu tùy người đối diện, vừa may mắn cùng con thoát được đến bờ tự do, không thân thuộc bảo lănh. Hiện rất cô đơn, muốn yên phận để nuôi con trưởng thành. T́m nơi nương tựa, chỉ dẫn Trang bước đầu nơi xứ người. Mong gặp đối tượng thành thật để tính chuyện lâu dài. Xin đừng đùa giỡn, Trang hứa sẽ hồi âm và gửi h́nh dù thư đến trễ. Thư về Thùy Trang, B8 – Sikiu.

Rồi sao? Người đẹp “trai” Thùy Trang, có ngày nhận cả 2 chục lá thơ gửi tới, tuyên bố ngon lành, anh nào không thực tế, nói toàn chuyện yêu đương tha thiết, lỉnh kỉnh là dẹp, thơ nào check có mấy choạc, tức là dưới trăm đô, cũng dẹp. Thiệt t́nh Đời tị nạn thành đời vương giả ít ra nơi mặt vật chất!

Màn đại bịp rộ khắp trời Sikiu. Cả nước B8, các đấng nam nhi chuyển giống qua gien “nữ”!

H́nh ảnh để làm tin cho các anh yêu nơi phương trời xa xôi th́ như phần trên đă nói về các cô gái Lào gốc Việt ở Building 4,5,6, họ giống lai gịng nên ai cũng “đép đẹp”, nói theo lối của họ. Tóm lại, duyên may đưa đẩy…Trai Sài G̣n gặp gái Viêng Chân như cá gặp nước, mê nhau như điếu đổ, dù B8 mỗi ngày chỉ có mấy trự được phép thay phiên nhau qua bên này đi chợ ở khu B4, và thời gian th́ không nhiều, nhưng có cô nào mà không thích được chụp h́nh để các anh coi cho đỡ…nhớ! Thiệt là thiên thời địa lợi, h́nh các em gái Lào được các “cô” B8 dùng gởi đến quư anh giai bốn phương trời.

Dân hành nghề nhiếp ảnh thời ấy cứ là kiếm khối tiền!


Vượt biên một phút

Những người bộ đội tị nạn Việt Nam tại B8 th́ mỗi người đều có một hoàn cảnh vượt thoát khac nhau. Câu chuyện có thật của Nguyễn Tấn X, cấp bậc binh nhất, diện Nghĩa Vụ Quân Sự, anh thuộc sư đoàn 5 ninh 8, trung đoàn 123, đại đội 3 (?) trực diện đêm ngày tại tuyến đầu với tàn quân Polpot trong rừng, ngay sát biên giới Thái.

V́ đóng quân án ngữ ngay b́a rừng cạnh biên giới nên ngày ngày lính biên pḥng Thái và bộ đội Việt Nam đều nh́n thấy nhau. Cả hai bên đều canh chừng tàn quân Polpot ở trong rừng. Tuy không có giao tranh nhưng người Thái luôn đề pḥng và bố trí lực lượng khá hùng hậu nơi này. Giữa hai đội quân khác màu áo chỉ khoảng hơn trăm thước là một băi ḿn dầy đặc như để phân ranh giới do cả hai bên thay phiên nhau thay đổi vị trí gài đặt mỗi buổi chiều.

Mỗi sáng, phía Thái có chào cờ th́ bên này cũng tập họp để nghe chính trị viên đại đội cà kê huấn thị. Bữa kia có chuyện…

Như thường lệ buổi sáng thức dậy trời tờ mờ c̣n ngái ngủ ra tập họp, đồng chí X lợi dụng lúc mọi người c̣n đang uể oải, chưa vào hàng đầy đủ đă làm 1 cú lịch sử, đột ngột chạy băng qua băi ḿn trước mắt những người lính của cả 2 bên. Mọi người đều bất động, nín thở chờ ḿn nổ, quên cả nằm xuống v́ bất ngờ quá. Lúc chính trị viên đại đội phát giác la lên th́ mọi người tỉnh hẳn và không tin chuyện xảy ra trước mắt: Hắn la lên: “Đồng chí X, trở lại ngay không tôi bắn…” Đă quá trễ, X cứ chạy, vừa chạy vừa giơ hai tay lên cao tỏ ư đầu hàng để lính Thái khỏi bắn ẩu. Lúc đó phía hàng quân Thái đang tập họp nh́n ra vấn đề ngay và họ lập tức điều động quân lính gờm súng chuẩn bị đáp ứng t́nh thế. Như một phép lạ, càng chạy càng nhanh.

Sau này anh cho biết cảm tưởng lúc đó chân như không c̣n chạm đất mà cũng không sợ đạp trúng phải ḿn nữa, mọi chuyện đều phó mặc định mệnh an bày. Thời gian chưa đầy 1 phút mà rất dài, mọi người ai cũng nín thở nh́n theo chờ nghe tiếng ḿn nổ, và rồi cuối cùng, ḿn… không nổ. Anh đă thành công khi liều mạng chạy băng qua băi ḿn để đổi lấy sự Tự Do. Khi chạy đến phần đất Thái, viên sĩ quan Thái ra hiệu anh tiếp tục chạy xuyên qua hàng lính của họ và tự ḿnh đứng chắn trước lối anh vừa qua…

Họ nhanh chóng khám xét anh rất nhanh và cho người áp tải đi vô sâu trong đất Thái. Phía bô đội tức tốc gởi người qua và đ̣i lính Thái phải giao trả về… “No way Jose!” Bạn ơi làm ǵ có chuyện này!

Đồng chí X được lên xe Jeep chở ra khỏi vùng hỏa tuyến và ngay chiều đó được chuyển về Bang kok. Khoảng tháng sau khi an ninh Thái điều tra với những thủ tục cần làm, họ chuyển anh về Building 8 Sikew. Như vậy, có thể nói cuộc vượt biên bằng chân vượt qua băi ḿn dầy đặc, đánh cược với tử thần đổi lấy Tự Do này thiệt vô tiền khoáng hậu. Thời gian giữa sống và chết chỉ trong khoảng chưa đầy 1 phút, quá nhanh, như vậy xứng đáng được ghi vào sách những kỷ lục lịch sử Guiness thế giới.

Anh cho biết thêm, trong vụ này thực ra có 2 người, kẻ đưa ra ư kiến vượt qua băi ḿn này lại là người bạn bộ đội gốc Bắc kỳ của đồng chí X. Họ trở thành thân nhau trong dịp anh X cứu anh Y thoát chết trong 1 trận giao tranh (đồng chí Y sau này cũng vượt thoát được khi bộ đội cộng sản đánh tràn qua đất Thái đuổi tàn quân Pôn Pốt khoảng giữa năm 1980).

Anh Y cho biết cả hai đă tính toán trước, chuẩn bị cuộc vượt biên liều mạng này lâu rồi và chỉ chờ dịp thuận tiện… Thường buổi chiều hôm trước nếu được giao nhiệm vụ gài ḿn, lúc gài đặt phải lén đánh dấu và cố nhớ kỹ chỗ ḿnh gài để biết mà tránh. Đó là bên này, chưa kể vùng ḿn rác ở giữa, và ḿn gài bên phía lính Thái th́ sẽ tính toán theo sác xuất, quan sát, nhưng họ dĩ nhiên thường hay thay đổi… coi như đánh cuộc số mệnh.

Anh Y cho biết thêm người chính trị viên đại đội đă nhắm bắn anh X nhưng không hiểu sao cuối cùng lại không nổ súng? Anh suy đoán có lẽ hắn cũng hồi hộp không dám bắn thẳng vào anh X v́ nếu trật, trúng lính Thái th́ sẽ có đáp lễ và thành to chuyện ngay, có điều cả đại đội ai cũng biết tay đó bắn rất giỏi?

Anh Y cho biết đêm đó cá nhân anh nhận phiên gác khá xa, bàn giao trễ nên về tới chỉ kịp lúc thoáng thấy anh X đă chạy rồi.


Trại Sikew Được Phỏng Vấn

Quay trở lại nhóm 6 trăm người đến Sikew từ Khao I Đăng, khoảng đầu tháng hai 1980 được dồn vào các Building 1, 2 v à 3. Rất may mắn v́ trong nhóm có người biết tin tức, địa điểm nơi quân nhân mất tích (M.I.A. = missing in action) nên người Mỹ hầu như tuần nào cũng ghé vào trại để làm việc vài ngày. Nhờ vậy nên người Thái cũng phần nào e dè, bớt khắt khe hơn với tị nạn?

Ngoài ra nhóm đầu tiên đa số là dân Sài G̣n, khá nhiều sĩ quan mới học tập cải tạo về, có bác sĩ, giáo sư, luật sư, nhiều cô bác từng làm việc cho sở Mỹ… Tŕnh độ tiếng tây tiếng u như gió. Quả thực là may mắn được ở chung với nhiều người giỏi, v́ vậy nhóm 6 trăm chinh phục được nhiều giới chức, các cô chú c̣n nhờ cao ủy đi gơ cửa các ṭa đại sứ giùm, đánh động phương tây giúp can thiệp định cư.

Cho đến khoảng tháng 8, 9 có tin trại Sikew cho phép các phái đoàn vào phỏng vấn sau nhiều đánh tiếng lên tới cả nhà vua Thái. Dân con côi cũng được phái đoàn Mỹ phỏng vấn theo diện “x́ bông xô hốt rác” nếu kiên quyết chờ và không có thân nhân các nước khác. Lúc ấy th́ “thung thướng” lắm. Thêm chuyện vui là giấy tờ xin phỏng vấn muốn khai sao th́ khai, nên một số rút kinh nghiệm ở Việt Nam sợ đến tuổi phải đi lính sớm, hiên ngang rút tuổi xuống cho trẻ, có kẻ “kéo quá hóa co” bởi cái hại sau này là lúc qua Mỹ rồi rất khó khi làm đơn bảo lănh gia đ́nh đi đoàn tụ. Kỳ rồi quán phở ngoài Bolsa có một cựu Sikew xưa ở chung Building, râu đă dài tới rốn, người qua tuổi lănh hưu trí từ lâu mà vẫn cứ phải bưng tô, đi cày tiếp bởi xưa hơi quá tay, rút tới mười tuổi lận! Cụ nức nở phân trần:”đời ai biết mà ngờ”.

Tay kia rời trại đang vẫy tay chào từ dưới tàu, đi rồi c̣n dặn thợ chụp làm một "bô" kỷ niệm, chỉ khổ cho mấy thằng con bà sơ trên bờ vốn là chuyên viên vay mượn kinh niên phải trả tiền chụp h́nh cho him.
Tay kia rời trại đang vẫy tay chào từ dưới tàu, đi rồi c̣n dặn thợ chụp làm một “bô” kỷ niệm, chỉ khổ cho mấy thằng con bà sơ trên bờ vốn là chuyên viên vay mượn kinh niên phải trả tiền chụp h́nh cho him.


Rời Thailand

Nhóm 600 cuối cùng cũng được “may mắn” rời Sikew làm 3 đợt, ḿnh đi đợt 2 tháng 1 năm 1981 đến trại Panat Nikhom, ở 1 ngày rồi lên trại Lumpini Transit Center, tại thủ đô Bangkok chuẩn bị ra phi trường qua Pulau Galang RPC tức Refugee Processing Center để học Anh ngữ và bước đầu hội nhập đời sống Hoa Kỳ. Đến trại này rủi mà lại vui v́ không hiểu sao hồ sơ bị trục trặc nên phải ở lại hơn hai tháng đâm ra tối ngày lông nhông trốn ra Bankok chơi… V́ là trại chuyển tiếp đến và đi, tất cả người tị nạn bắt buộc phải ghé ngang trước khi rời khỏi xứ Thái. Điều kiện sinh hoạt trại Lumpini khá tốt về ăn uống và nước tắm. Ở đây gặp và kết thân được nhiều bạn đến từ các trại đường biển như Songkhla, Leamsing. Thường người nào bị kẹt lâu lắm cũng chỉ 1,2 tuần, với thâm niên gần 2 tháng ḿnh trở thành trưởng trại, sắp học thuộc được tiếng Thái… Nừng xoỏng xám x́ ha hộc… đếm từ một tới mười th́ lên đường.

Trại Transit Center thường có những vụ trả thù giữa những người tị nạn, tay người Việt kia gây nhiều bất công, ăn chặn tiền ăn bạc, hà hiếp đồng bào lúc có tí chức quyền nơi trại cũ, khi lên tới Lumpini này bị đồng hương tị nạn vác dao rượt chạy có cờ. Một ông cựu trưởng ban an ninh từ trại đường biển, khi lên đây phải đút lót tiền cho cảnh sát Thái xin được ở chung nơi trạm gác, không dám ḷ ḍ vào bên trong để mà lấy cơm về ăn hay đi tắm rửa, cứ vậy cho tới khi lên xe buưt ra phi trường.

Từ trại chuyển tiếp Lumpini lên máy bay qua Singapore, nhân tiện xin được thay mặt tất cả những người tị nạn đă đi qua trại Lumpini thời đó và sau này đă từng nhận được sự giúp đỡ về mặt thơ từ, để nói lời cám ơn chân thành đến Madame Simon Thúy. Một người Việt sinh sống nơi Bangkok, có chồng người Anh, làm trong lănh sự quán Anh Quốc, ông qua đời v́ tai nạn xe. Chị Thúy sống luôn tại Bankok nuôi con, và đă ngày ngày t́nh nguyện vào trại Lumpini giúp chuyển giao và nhận, cùng gửi thư tín đi khắp nơi qua địa chỉ nhà của chị cho đồng bào được yên tâm. Âm thầm hy sinh làm liên tục trong nhiều năm. Hy vọng Chị Thúy có dịp đọc được mấy lời này.


Galang 2, 1981

Đến Singapore, được tàu nhỏ đưa vô đảo Galang. Nhóm ḿnh là những người đầu tiên được vào ở Galang 2, lúc đó mới vừa hoàn thành. Cứ bốn thanh niên được dồn vào 1 Barack mới toanh c̣n thơm phức mùi cây gỗ. Y như khách sạn dành riêng cho Summer Vacation để ngắm cảnh ở Mỹ, tệ lắm cũng được 3 sao dù không căn nào có cửa. Qua thời đi tới đâu cũng cả trăm mống chung một nhà. Ăn uống có đồ hộp, cao ủy phát trước vài ngày 1 lần, tuy thiếu chất tươi nhưng sao cũng được, có tiền th́ có thể ra chợ ngoài Galang 1 mua thêm rau do bà con tị nạn tới trước trồng, nhưng tụi này mà có tiền th́ tối ngày lại thích ra quán ngồi đấu láo cho vui. Nhớ lúc đó cơm cao ủy khi ăn lâu lâu nhai nghe cái “cộp” 1 phát thiếu điều găy răng, lè ra mới thấy nguyên cái ghim bấm giấy (stapler) bằng sắt, mà vụ này bị hoài à? Cũng may là nhai trúng, chớ không th́ chắc phải giải phẩu thay mấy cái bao tử mới??? Pḥng vệ sinh sạch sẽ, có khu tắm tập thể nước bông sen. Vấn đề nước rất quan trọng nên bà con phê quá, tị nạn lúc đó thấy như thiên đàng, bụng nghĩ giá có phải ở lâu tí cũng OK. Các đấng chuyên tán phét ngoài quán cà phê th́ cho rằng đây là nơi đặc biệt, chỉ dành riêng cho những tị nạn đă có vé vô Hoa Kỳ, đến để ăn ngủ, học Anh ngữ, hướng nghiệp rồi lên đường định cư…nên họ phải lo cho thật chu đáo, đầy đủ, ưu tiên hơn những nơi khác! RPC khác với những người chưa được phái đoàn tới phỏng vấn, oai lắm đấy. Nghe sao mà ớn quá! Vấn đề nước tắm nhớ kỹ lại th́ h́nh như chỉ được tuần đầu, tuần sau th́ tắm…khô v́ sau một vài ngày thỏa thê mát mẻ ấy chả hiểu v́ sao không bao giờ thấy nước chảy ra từ ṿi sen nữa! tịt hẳn! họ chỉ biểu diễn lúc đầu để tính tiền cao ủy? cũng may gần đó có suối, chịu khó chờ thứ tự cũng không đến đỗi nào…

Vấn đề học Anh văn phải lấy test để phân chia tŕnh độ cao thấp, lớp phải do các thày người Indonesia dạy, thày Việt chỉ được cho làm trợ giáo, không lương. Lớp học tiếng Anh của ḿnh, gen thô mân (gentleman) lâu lâu thày giáo Inh đô dạy phang bừa thành “giăng tơ lơ măng” làm cả lớp có đứa xém phải khiêng lên bệnh viện v́ chết sặc, cười…

Môt buổi tối tụi này đang chuẩn bị ngủ th́ nghe có buớc chân rầm rầm chạy lên cầu thang, rồi 2 cô cậu chạy ào vào pḥng như cơn gió, tiện tay vồ luôn cái chăn nơi cửa tụi này gấp lại dùng để chùi chân, trùm vô cho kín, giả bộ…đang ngủ ngon. Người nam đưa ngón tay trỏ lên miệng suỵt suỵt, ra dấu nói bà con giữ im lặng giùm…

Khoảng nửa phút sau có tiếng xe máy hung hăn rồ ga, ánh đèn pin nhá nhá, rồi tiếng tây tếng u, tiếng Indo, tiếng… Đan Mạch la hét loạn xạ ngầu, như chửi bới cay cú lắm. Lúc này nhận ra anh mới chạy vào pḥng là người quen cùng trại bên Sikew, qua Galang từ trước hiện đang ở Galang 1. Anh cho biết ṃ từ ngoài đó vô thăm người yêu mới sang ở Galang 2. Cô cậu đang hú hí trên đồi th́ an ninh Inđo đi xe ngang rọi đèn pin thấy và rồ ga lên đồi để bắt quả tang dám… ḥ hẹn trong giờ giới nghiêm. Chả hiểu sao, bữa đó trời không trăng! thiệt xui cho nó mà hên cho cậu mợ, lúc rượt theo th́ đất đỏ gặp giời mưa mấy bữa trước vốn trơn trợt nên cu an ninh bị té xe khá nặng, trợt từ trên đồi xuống nên hai người mới thoát được. Chuyện t́nh Romeo + Juliet này dính như keo nhưng bị bên họ hàng của ổng ngoài Galang 1 phát giác, họ nhao lên phản đối quá xá, sau này khi định cư ở Mỹ th́ mối nhân duyên mới chấm dứt bởi… vợ ổng từ Việt Nam ḷ ḍ dắt theo mấy đứa con qua đoàn tụ! Cái này gọi là Cali t́nh xù chớ Galang t́nh…không xù, nói theo kiểu bác Liêm, người rất nhiệt thành, hiện đứng ra thực hiện đặc san, tổ chức những buổi hội ngộ cho Thuyền nhân, Bộ nhân xưa.

Galang 2, 1981 về mặt tôn giáo cũng có linh mục làm lễ mỗi Chủ Nhật. Bà con Công giáo và kể cả người không công giáo cũng đến tham dự thánh lễ, ngồi đứng đầy trên đồi Golgotha, mọi người ai cũng sốt sắng lắm, đọc kinh rơ là to, chắc cầu cho mau đi định cư? Lúc đấy ḿnh có quen 1 anh bạn làm giúp lễ, cách đây khoảng 2 năm, anh qua Cali chơi đi thăm con chiên ngoài… Phước Lộc Thọ t́nh cờ gặp. Anh cho biết hiện đang là 1 linh mục tuyên úy trong quân đội Hoa Kỳ. Ngài cho ít thông tin về những người quen xưa, đặc biệt nhất là tin về ông cha thời đầu tiên ở Galang 2 thường cử hành thánh lễ mỗi Chủ Nhật. Lúc cha qua Mỹ th́ đă thôi chức linh mục và trở về đời thường. Cởi áo chùng thâm, mặc tuxedo lên xe bông đám cưới, âm thầm theo tiếng gọi con tim về nhà vợ, đến nay cũng đă có nhiều con lớn…

Tóm lại Galang với ḿnh chỉ nhớ được chút ít v́ ở không lâu, đâu khoảng 2,3 tháng ǵ đó là đi rồi. Thời gian ở đây ngắn ngủi quá, t́nh c̣n chưa có lấy chi xù hả các bác?

Từ Galang qua Singapore rồi qua Mỹ, cuộc sống mới bắt đầu với nhiều nỗ lực ḥa nhập, những người bạn cũ ở gần đôi lúc vẫn t́m đến nhau, hay phone thăm hỏi nếu ở xa. Rồi thời gian thưa thớt dần v́ xứ người khá bận rộn, cánh độc thân nơi ăn chốn ở hay thay đổi…

Lâu lâu vẫn có tin về trại cũ do người đi sau may mắn được qua định cư kể lại. Thời gian những năm sau này trở nên thê thảm hơn khi các nước từ chối nhận thêm người tị nạn đến định cư, bắt đầu thanh lọc, ai rớt sẽ bị trả lại về Việt Nam. Đồng bào trong các trại tị nạn phản đối qua nhiều h́nh thức như biểu t́nh, tuyệt thực, kể cả liều thân, mổ bụng tự sát… Về B8, rất may mắn, v́ trước đó, khoảng giữa năm 81, người đi tị nạn vào đất Thái bằng hai ngả đường biển và đường bộ ngày càng đông, tạo nhiều áp lực, người Thái và cao ủy tị nạn quyết định đóng cửa những trại tị nạn rải rác trên đất Thái và dồn hết về trại Sikew, nên phải giải tỏa, cứu xét cho những người ở quá lâu đi, có tin cho biết tất cả những người của B8 đều được phỏng vấn bởi các phái đoàn, riêng những bộ đội tị nạn cộng sản gốc miền Bắc nếu họ muốn đi theo diện nhân đạo sẽ được chính phủ Áo nhận tất cả. Cựu vượt biên đường bộ trại Sikew ở Mỹ báo tin cho nhau và chia xẻ sự vui mừng cho những anh em B8. Tạ ơn Trời Phật.

Tuy nhiên, trong niềm vui vẫn thấy ḷng se thắt… Một số người trong B8 đă đi theo tiếng gọi non sông, lên đường trở về đất mẹ….


Phần cuối

“Old solders will never die, they just fades away… ”
General Douglas MacAthur

Một buổi chiều tại thành phố Westminster – California, khoảng thời gian 1982 – 1984..? Trời u ám buồn, người bạn cũ từ trại Sikeu rủ tới Biên Thùy Quán trên đường Westminster, cho biết có sinh hoạt đặc biệt. Khi đến thấy trong quán có khoảng hơn 2 chục ngựi đang th́ thào nói chuyện, ai cũng đăm chiêu. Trên vách tường treo một lá cờ Việt Nam Cộng Hoà, dưới bàn có một chén nhỏ đựng gạo cắm những cây nhang nghi ngút khói. Không khí như lắng đọng khi được biết đây là buổi tưởng niệm cho một số chiến sĩ phục quốc bị cộng sản sát hại khi trở về lại Việt Nam chiến đấu. Người may mắn thoát được trong trận phục kích đă liên lạc báo tin sang Hoa Kỳ. Đau ḷng thay, một trong số những người hy sinh có trưởng Building 8 của trại Sikew thời đó, anh Vũ Đ́nh Khoa.

Anh Khoa dáng người tầm thước, mặt vuông, cằm bạnh, vẻ quả cảm, toát ra phong cách hào hùng nhưng lại rất yêu văn nghệ, khi nói chuyện niềm nở, thu hút. Nên biết, phải uy tín thế nào mới được bầu làm trưởng B8, một Building với những tay cựu binh sừng sỏ nam bắc, đội đá vá trời và coi lính Thái chả ra quái ǵ! Trưởng trại Sikew cũng biết như vậy nên cần người như anh để mà yên tâm về B8. Đặc biệt, anh đi khắp nơi trong trại mà không cần phải phép tắc ǵ, ai gặp cũng đều phải e dè, nể v́, kể cả trưởng và phó trại. Đó là h́nh ảnh cựu Trung úy Trinh sát, gốc Vơ Bị Đà Lạt. Anh Khoa lâu lâu ghé qua lều gần ḿnh thăm bạn, đốt điếu thuốc, chia sẻ dăm ba kinh nghiệm hành quân bắt sống việt cộng. Nghe ké những chuyện kể khó quên trong đời của anh rất thú vị.

Được biết, nhóm của anh bị phục kích, trận chiến không cân xứng lực lượng, hỏa lực của khoảng hơn trung đội chọi với cả tiểu đoàn có xe tăng nằm chờ sẵn. Anh Khoa bị thương ngay từ đầu, nhưng cương quyết ở lại để cầm chân cho một vị yếu nhân chỉ huy cùng người cận vệ vượt thoát… Khi kể lại câu truyện này trên Face Book th́ nhận được thêm tin nhắn của một cựu B8 dấu tên, cho biết nguyên văn như sau… “Xin lỗi anh, ḿnh đường đột lộ diện để bổ túc thêm info về anh Khoa của tụi ḿnh B8, Vũ Đ́nh Khoa from Đà lạt đă găy cánh ở Hạ Lào cùng với người bạn thân đồng sanh tử là Nguyễn văn Lộc trong chiến dịch mở đường cho Vơ Đại Tôn nhưng có một người cùng đi với hai người trên được định cư tại Canada tên là Trương Quang Vịnh*. Dĩ văng th́ buồn nhưng có những người can đảm như anh nhắc lại th́ ḿnh phải đối diện. Rất là cám ơn anh những chuyện bên lề về Sikew và B8, anh kể hoàn toàn chính xác v́ nhóm chúng tôi là những người bộ đội vào trại đầu tiên tháng 5 – 1979 sau nhiều tháng ở Bangkok làm việc với Bộ Quốc pḥng Thái và CIA – USA…”

Ai cũng nghĩ các anh yên ổn định cư ở một đệ tam quốc gia, nào ngờ! Những người trai thế hệ, được hun đúc bởi hồn thiêng sông núi, người quân nhân ưu tú của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Với lư tưởng Tự Do cho đồng bào, quê hương Việt Nam, đă từ bỏ tất cả, từ chối tương lai tươi sáng trước mắt để anh dũng trở về cầm súng chiến đấu và hy sinh. Thật cảm động và hào hùng. Nhân ngày tháng Tư lại đến, chúng ta cùng nhau dành đôi chút thời gian, thắp nén hương ḷng, tưởng niệm đến các anh nói riêng, và tất cả những người quân dân cán chính đă hy sinh v́ hai chữ Tự Do.

*

Khoảng đời tị nạn tưởng đă quên sau bao năm, nhưng khi ngồi ôn chuyện cũ, có nhiều h́nh ảnh hiện lên rất rơ. Dù Sikew, Galang, hay bạn sống ở những trại tị nạn khác rải rác khắp Đông Nam Á, cũng là một thời qua với nhiều kỷ niệm. Cám ơn Face Book tạo cơ hội cùng nhau hồi tưởng về những tháng ngày long đong, lận đận. Giọt nước mắt mừng vui, đau khổ, hay tuyệt vọng. Có tên đi định cư hay rớt thanh lọc? biểu t́nh phản đối, tuyệt thực, bị trả về lại…

Hiện đă có đặc san Galang Một Thủa, 40 năm Thuyền Nhân Viễn Xứ,… kế hoạch tổ chức hội ngộ do một số anh chị hy sinh đứng ra làm việc để dù chân trời góc bể, cựu trại tị nạn cũ qua đó sẽ có dịp t́m đến được với nhau, chia sẻ, kể lại những chuyện vui buồn ngày xưa. Mong rằng trong sâu xa hơn, sẽ không bao giờ quên nguồn gốc ḿnh là người tị nạn cộng sản v́ hoàn cảnh phải bỏ nước ra đi, và luôn nghĩ về quê hương, nơi đồng bào chúng ta vẫn chưa thực sự có Tự Do, Dân Chủ.

Ghi chú:

– Một số tên nhân vật đă được thay đổi*
– Thời gian làm phai mờ nhiều chi tiết, mong các bạn ở cùng thời bổ túc nếu có sai sót

Trần Kim Bằng

hoanglan22
01-18-2021, 14:26
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1727600&stc=1&d=1610979874

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1727601&stc=1&d=1610979874

Trong Chiến tranh Việt Nam, chiếc T-37 được sửa đổi với động cơ mạnh hơn, trọng lượng tăng từ khoảng 6.000 pound lên 12.000 pound, sức chở khoảng 2.000 pound, và tên gọi mới, A-37 Dragonfly, thay thế cho A- 1.

The 80th Flying Training Wing's mission is "To produce the world's finest pilots with the skills and attitude to succeed in fighter aviation".
SHEPPARD AIR FORCE BASE, Texas -- A familiar noise was missing from the 80th Flying Training Wing's aircraft parking ramp at about 2:30 p.m. June 17, one that has been prevalent in the Air Force's pilot training mission for 50 years - the high-pitched screech of the T-37B Tweet.

The final student training mission began at 1 p.m. marking the last time an Air Force pilot will begin their career in the introductory jet.

Second Lt. Trevor Kernes, a student pilot in the 89th Flying Training Squadron, said he was honored to be part of the historical event.

"Anyone of these guys deserves it," the future Ohio National Guardsman said. "To be chosen out of some of the best in the world is an honor. I'm humbled."

Lieutenant Kernes, a former forward air traffic controller who served in Afghanistan after 9/11 and was part of the initial push into Iraq in 2003, said the Tweet was fun to fly and a good training platform.

"I'm sorry for the T-6A (Texan II) student pilots," he said, "because they didn't get to fly the T-37."

Since 1959, more than 78,000 Air Force pilots have flown the venerable Tweet. The T-37 began its extraordinary flight into history in 1956 when it became an active aircraft in the inventory. It became operational in 1959.

The 80th FTW is the last organization in the Air Force to use the airframe.

Col. David Petersen, commander of the 80th FTW, said the durable aircraft lived up to expectations and then some.

"It's been a great trainer for 50 years," he said. "Right up to the end, it's been a good aircraft."

Lt. Col. Doug Antcliff, a standards and evaluation pilot from 19th Air Force, has flown the Tweet for the last 11 years. He said the aircraft is the same today as it was in 1991 when he was a student pilot. But, it doesn't make it any easier to see an "old friend" retire.

"There is nothing new of that airplane," he said of the aircraft's technology. "But, I'm sad to see it go because it is a true workhorse."

The Tweet will officially retire from active service July 31. The 80th FTW began training student pilots Aug. 29 in the Tweet's replacement the Texan II.

cX1iDQXHK5E

hoathienly19
01-24-2021, 05:03
NGƯỜI TÙ CHUNG THÂN VƯỢT NGỤC – Tràm Cà Mau



https://sl.sbs.com.au/public/image/file/4dfbc6d3-b08e-49a9-a846-37c75ee51f64/crop/16x9


Sau một hồi nói chuyện qua điện thoại, Dung báo cho tôi :

- “ Bác biết chuyện ǵ xẩy ra cho ba cháu chưa ?”

- “ Chưa. Chuyện ǵ ?“

“ Ba cháu đă vào chùa, xuống tóc đi tu từ hơn nửa năm nay. Ba cháu hiện tu ở một chùa gần thành phố bác ở. Ba cháu không cho ai biết chuyện ông đi tu. Dấu, không cho biết tu ở chùa nào. Cháu mới t́m ra. Cháu định tháng tới qua thăm, và rủ bác cùng đi thăm luôn. Gặp bác chắc Ba cháu mừng lắm .”

“Bác cũng mong gặp ba cháu. Lâu rồi, ba cháu và bác chưa gặp lại nhau. À, mà sao ba cháu có quyết định đi tu ? Tại sao lại phải dấu chuyện tu hành. Đi tu, chứ có phải đi tù đâu mà dấu diếm. C̣n mẹ cháu th́ sao ?”

Dung ậm ừ, như không muốn nói. Một lúc sau mới trả lời :

“Mẹ cháu vẫn b́nh thường. Vẫn oai phong như cũ. Thật ra ba cháu không cho ai biết tu nơi nào, v́ sợ mẹ cháu đến phá đám.

Bốn tháng trước, ba cháu tu tại một chùa gần West Virginia, mẹ cháu đến làm ồn ào, bắt ba cháu trở về. La mắng cả sư cụ, xỉ vả ông ta đủ điều, c̣n phao vu lên là sư cụ đồng tính luyến ái với ba cháu.

Thiệt t́nh ! Mẹ cháu nói rằng, ba cháu đức mỏng, đừng tu làm chi cho phí công . Lỡ có lên được niết bàn, cũng chỉ đi bưng ống nhổ cho thiên hạ, v́ kém công đức .

Về địa ngục, may ra c̣n được đi làm thơ kư, gác gian, đỡ nhọc nhằn hơn, bởi tội lỗi cũng không nhiều lắm. Nhà chùa khuyên ba cháu đi t́m nơi khác mà tu. Ư họ muốn đuổi khéo. Ba cháu ra đi, như đi trốn. Thật buồn .”

Tôi cười khà khà, rồi an ủi Dung, người con gái út của bạn cũ :

“ Thôi, cháu đừng buồn. Đi tu là giải thoát khỏi mọi khổ đau, hệ lụy. Biết đâu rồi Ba cháu cũng thành một thứ Phật nho nhỏ nào đó.

Cháu biết không, ngày xưa Đức Thích Ca Mâu Ni nửa đêm cũng trốn hoàng cung ra đi, bỏ lại vợ con, ngai vàng, để t́m đạo. Trường hợp ba cháu, sao cũng có phần tương tự .”

“ Thôi, để gặp bác, cháu sẽ nói nhiều hơn. Không chừng bác có thể khuyên ba cháu trở về. Ba cháu chỉ c̣n có bác là bạn thân nhất, chưa buồn giận ba cháu mà thôi. Ba cháu thường hay nhắc đến bác với giọng thân thiết lắm. ”



https://i.pinimg.com/474x/4e/69/e6/4e69e68850a90893f51b201d755fdf28.jpg


Hai tuần sau, tôi lên phi trường San Francisco đón Dung, con gái út của Hùng, người bạn cũ từ thời c̣n cắp sách đến trường. Hai bác cháu từ nhiều năm không gặp, mà nhận ra nhau ngay.

Dung giống mẹ của cháu thời c̣n con gái. Nhỏ nhắn, trắng trẻo, mặt hơi xương, có nụ cười toét hai vành môi ra đến mang tai, nụ cười tinh nghịch, dí dỏm.

Ba mẹ của Dung đều là bạn cũ ngày xưa. Thật ra, th́ mẹ Dung là em gái của bạn tôi. Tôi biết bà từ khi mũi xanh c̣n hít vào trồi ra và dùng tay áo mà quẹt mũi. Bà xem tôi như ông anh trong gia đ́nh, hay ṿi vĩnh bánh quà.

Dung ôm ngang người tôi và nói :

“ Lạ thật, bác không thay đổi ǵ cả, cháu nhận ra bác ngay. Tóc bác c̣n dày và đen. Đầu ba cháu hói láng, chỉ c̣n cái vành tóc thưa sau đầu mà thôi ” .

Tôi cười với cháu :

“Đầu bác là ‘phồn vinh giả tạo’ cháu à. Bác nhuộm tóc. C̣n ba cháu, th́ có tóc đâu mà gọi là xuống tóc đi tu ? Ông ta đă là sư cụ từ lâu rồi mà !”

Hai bác cháu cùng về trên con đường xa lộ có xe cộ nêm cứng và khói bụi lù mù. Cái giọng nói nhăo nhẹt, ướt rượt kéo dài những tiếng sau cùng của Dung, làm tôi nhớ đến bà Thu, mẹ của Dung.

Bà là người con gái út trong một gia đ́nh toàn anh trai, nên được cưng ch́u, và nhơng nhẽo với các anh, với cha mẹ, và cả với mọi người chung quanh.

Bà thông minh, học giỏi, ganh đua với bạn bè, không chịu thua ai. Khi lên đại học, bà đỗ ba cái bằng cử nhân cùng một năm. Thông minh, học giỏi nên bà thường kiêu hănh.

Bà lạm bàn cả chuyện chính trị, kinh tế. Nhiều khi bà nói hăng say đến nước bọt đóng trắng bên mép. Mỗi lần có vấn đề lâm vào một cuộc tranh luận với bà, th́ tôi thường thoái thác :

“ Thôi, anh chịu thua cô. Khi nào cô cũng có lư hơn người khác cả. Tội ǵ mà tranh luận thắng cô, để cô nhè nước mắt ra, ai mà dỗ cho được .”

“ Thua th́ phải có chầu phở, bún ḅ ǵ chớ. Thua không thôi th́ ai mà chịu cho .”

Rồi bà cười hăng hắc thích thú, không giữ ǵn ư tứ ǵ cả.

Tôi liếc nh́n qua cô cháu gái đang ngồi, hai tay đan nhau, tôi nói :

“Cháu giống mẹ cháu quá. Từ dáng điệu cho đến giọng nói.”


Dung có vẻ không bằng ḷng sự so sánh của tôi. Mặt cháu hơi buồn. Im lặng một lát, Dung nói nho nhỏ:

“Không giống đâu bác à. Mẹ cháu cứng rắn lắm. Cháu th́ mềm yếu, có lẽ cháu giống ba cháu nhiều hơn.” Tôi nói nho nhỏ:

“ Đúng. Mẹ cháu cứng rắn. Bác biết điều đó từ thời bà c̣n nhỏ. Nhưng có chết ai đâu ?” Dung nói nhỏ như hơi thở :

“ Có. Chết một đời ba cháu .”

Hai bác cháu im lặng cho đến khi về đến nhà. Vợ tôi đón và thân mật ôm lấy Dung :

-“ Trời, cháu giống hệt mẹ cháu .” Dung lại thoái thác:

- “ Không giống đâu bác .”

Vợ tôi không hiểu ư nói tiếp :

- “ Giống hệt như đúc ra từ một khuôn. Từ dáng điệu, cử chỉ, và nhất là giọng nói, ướt và ngọt như mật đổ ra đầy bàn.

Thôi cháu thay áo quần, tắm rửa đi mà ăn cơm. Đường xa, bay nhiều giờ mệt nhọc. Tiếc hai thằng con trai của bác lấy vợ sớm quá, không th́ cháu về làm dâu nhà bác cũng vui .”

Trong bữa ăn tối, Dung đưa nhận xét :

“ Hai bác sao hạnh phúc quá. Tâm đầu ư hợp. Bác trai nói ǵ, bác gái cũng đồng ư vui vẻ. Bác gái nói ǵ, bác trai cũng phụ họa, thân mật. Ba mẹ cháu không được như vậy.

Mẹ cháu khi nào cũng đầy cả uy quyền. Khi nào cũng khích bác, chê bai. Ba cháu th́ có khi im lặng đến rợn người .”

Vợ tôi nói với cháu :

“Căi nhau làm chi hở cháu ? Vợ chồng tranh hơn thua làm chi ? Hơn th́ được cái ǵ, mà thua th́ bực ḿnh, và gia đ́nh mất vui.

Ngày xưa, bác cũng thích căi vă, hay cằn nhằn, nhưng rồi học được trong sách vở, học được từ bạn bè, thay đổi dần dần, và thấy không khí gia đ́nh vui vẻ, thân mật, ấm cúng hơn.

Hạnh phúc gia đ́nh phải tạo ra, không phải tự nhiên mà nó đến với ḿnh. Trồng cây cũng phải tưới bón đều đặn, hạnh phúc gia đ́nh cũng phải xây dựng, chăm bón không ngừng.”

Dung nh́n vợ tôi với ánh mắt hơi buồn và hỏi :

“Mục tiêu tối thượng của con người trên thế gian nầy là đi t́m hạnh phúc, thế mà sao không có một ngôi trường nào mở ra, để dạy cách sống hạnh phúc cho mọi người ?

Trường dạy về khoa học, nhân văn, xă hội th́ quá nhiều. Nhưng cái môn học quan trọng nhất là sống sao cho hạnh phúc, th́ không có một ngôi trường nào cả, cũng không là một bộ môn nhỏ của những trường lớn. Sao vậy hở bác ?”

Nghe câu hỏi ngộ nghĩnh, tôi cười :

“ Có chứ, có khắp nơi. Đó là nhà chùa, nhà thờ, đền thánh. Ở những nơi đó, các vị tu sĩ cũng giảng dạy tín đồ, sống sao cho hạnh phúc. T́m hạnh phúc cho riêng ḿnh, và đem hạnh phúc rải rắc cho những người bất hạnh chung quanh.

Kinh điển dạy con người làm lành, tránh ác. Đem kiếp sau ra hù dọa, để ngăn ngừa cái ác, cái xấu. Phải biết kiêng, biết sợ một cái ǵ đó, mới dễ dàng ngăn cản cái xấu trong mỗi người bùng dậy.

Ngoài ra, c̣n có những khóa hội thảo, sách viết về hạnh phúc cũng tràn đầy trên thị trường, đọc không hết, sợ không đủ tiền để mua. Ngay cả kinh Phật, kinh Thánh, kinh Koran cũng là những cuốn sách dạy về hạnh phúc đó cháu à .“



https://gonhub.com/wp-content/uploads/2019/04/nhung-cau-cham-ngon-hay-ve-cuoc-song-tinh-ban-va-tinh-yeu-dang-de-doc-1.jpg


“ Không. Cháu muốn nói đến một ngôi trường chính thức, để người ta theo học một cách nghiêm chỉnh. Có cấp bằng, có thi cử đàng hoàng. Có học kỹ mới thấm, chứ đọc qua, nghe qua, th́ mau quên lắm, và chỉ biết lơ mơ, nhớ lơ mơ cho nên không thi hành những điều học được.

Bởi vậy, nên trên thế gian nầy, chính con người làm khổ con người nhiều nhất. Con người gây rắc rối cho con người nhiều nhất. Bác có đồng ư không ?”

Tôi nh́n Dung, tuổi trẻ mà có những ư nghĩ chín chắn, lạ lùng . Chuyện ǵ đă xẩy ra trong đời cháu , để cháu có những suy tư đó ? Dung ngần ngại nh́n hai vợ chồng tôi và tiếp :

“Bác không đồng ư là chính con người gây tai vạ, gây khổ đau cho con người nhiều hơn là thiên tai, thú dữ và các thứ khác sao ?

Từ tranh chấp thế giới, chiến tranh, cho đến tranh chấp chính trị, tranh chấp quyền hành. Con người bày ra để làm khổ nhau, trong lúc đó, khi nào cũng hô hào, tuyên bố rằng nhân danh hạnh phúc, để tạo ra những khổ đau, khó khăn cho người khác.

Cháu thấy trong các cơ sở chính phủ, cơ sở kinh doanh thương măi, và cả những người hành nghề tư nữa, lâu lâu cũng có một khóa tu nghiệp. Để người ta ôn lại nghề nghiệp, và theo kịp các kỹ thuật tân tiến, để khỏi thụt lùi và lạc hậu. Nhưng không có lớp tu nghiệp nào về hạnh phúc gia đ́nh. Để người ta nhắc nhở và dạy bảo đúng cách làm cha mẹ, làm con cái, làm anh em, làm chồng làm vợ.

Không trường, không lớp, cho nên mỗi người tự học lấy, tự t́m lấy, có người may mắn học được những điều hay, tốt, có người thiếu may mắn, không học được ǵ cả, hoặc học được toàn điều xấu xa, mà không biết đó là xấu, là nguy hại, là phá vỡ hạnh phúc mà họ đang kiếm t́m.

Cháu nghĩ là phải có những khóa tu nghiệp thường xuyên về gây dựng hạnh phúc, mà mỗi người làm cha, làm mẹ, làm con, làm chồng làm vợ, phải tham dự hàng năm, hoặc hàng hai năm một lần. Để đừng quên, để nhắc nhở, để học thêm.

Bởi cuộc đời nầy, tiền bạc, danh vọng, tiếng tăm, cũng chỉ để mà t́m kiếm và vun xới cho hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc gia đ́nh mà thôi. Quan trọng như vậy, mà thiên hạ không đặt thành vấn đề.

Những người cầm quyền, nhân danh đem lại hạnh phúc cho nhân dân, cũng không có một ngân khoản, một cơ quan chính thức nào chăm lo cho vấn đề quan trọng nầy .“



https://gonhub.com/wp-content/uploads/2019/04/nhung-cau-cham-ngon-hay-ve-cuoc-song-tinh-ban-va-tinh-yeu-dang-de-doc-6.jpg


Tôi nói đùa :

“Hay là cháu mở một cơ sở kinh doanh, một trường đại học dạy hạnh phúc gia đ́nh, hạnh phúc cá nhân. Kêu gọi các nhà đầu tư, bán cổ phiếu sinh lời.

Một ngôi trường đại học mới, cho tất cả mọi công dân, là môn học bắt buộc, là môn tu nghiệp phải có hằng năm, không th́ bị phạt vạ. ”

Cả ba chúng tôi đều cười vui vẻ. Dung nói tiếp trong ánh mắt tinh nghịch :

“Phải đó bác à. Gia đ́nh lục đục, li dị, con cái hư hỏng, gây tội ác, vợ chồng giết nhau, tốn kém ngân sách của quốc gia nhiều lắm, dân chúng phải đóng thuế để trang trải cho cái thiếu hạnh phúc trong xă hội. Phí tiền quá.

Bác nói trường đại học ? Cháu nghĩ rằng, phải mở lớp từ sơ đẳng trở đi. V́ cháu thấy nhiều gia đ́nh, nhiều người lớn tuổi, có đủ thứ bằng cấp, bằng cấp cao, mà xử thế như một kẻ không có chút hiểu biết nào về ư niệm hạnh phúc.

Phải xem họ như những kẻ thất học về bộ môn xây dựng hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc cho người chung quanh.

Có thể họ thông thái về khoa học, nhân văn, xă hội, nhưng họ là một kẻ thất học về thứ khác, thứ mà họ cố công theo đuổi trong đời người :

- Hạnh phúc.”

Vợ tôi tṛn mắt ngạc nhiên nh́n Dung. Buổi tối trước khi ngủ, vợ tôi thầm th́ :

“Khổ đau nào đă làm cho con bé chừng đó tuổi có những ư nghĩ lạ lùng kia ? Tội nghiệp. Trường dạy hạnh phúc ? Đâu phải là vô lư. Đời cũng là một trường học, mà phải vấp ngă, phải đớn đau, mới nhận chân ra ư nghĩa, t́m được phần chân lư .”

Tôi thao thức nghĩ đến bà nội tôi, học vấn của bà rất ít, chỉ đọc được năm ba chục chữ nho. Bà dạy con, dạy cháu qua ca dao, tục ngữ, ngạn ngữ. Việc nào cũng có một câu thích ứng, khôn ngoan để nói ra. Nhắc đi nhắc lại măi, làm nó len vào kư ức của con cháu, không thể quên, không phai được.

Những câu như :

- “ Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa ḷng nhau.

- Chồng giận th́ vợ làm ngơ, đừng đổ thêm dầu lửa vở nhà thiêu.

- Một câu nhịn là chín câu lành.

- Thương người như thể thương thân.

- Điều ḿnh không muốn th́ đừng làm cho người khác.

- Anh em như thể tay chân.

- Được mùa chớ phụ môn khoai. Vân vân và vân vân.”

Trong đầu bà tôi, có cả một kho tàng ca dao, những câu nói khôn ngoan của người xưa, mỗi ngày bà nhắc đi nhắc lại cho con cháu nghe, như những lời hướng dẫn cách ứng xử trong cuộc đời thường. Ông anh con bác tôi, thường chế nhạo bà, sửa câu nói của bà, mà cười, và nói thầm với tôi:

- “ Một lần nhịn là chín lần nó cưỡi lên đầu ḿnh. Anh em như thể râu ria. Được mùa th́ tội ǵ mà đớp môn khoai…”

Đó là thời anh c̣n nhỏ, lớn lên, tôi cũng nghe anh dạy con cái bằng những ca dao mà mà bà tôi thường nói ngày xưa.



https://inlen.vn/contents_inlen/uploads/images/lon-rung-va-ngua-hoang.png


Buổi sáng thứ bảy, sau bữa điểm tâm, tôi chở Dung lên chùa thăm ba của cháu.

Trời mát, nắng vàng, cỏ cây xanh tươi. Xa lộ vắng, ít xe, tay lái khoan thai, và trí óc thư dăn. Tôi vặn nhạc. Tiếng nhạc vui tươi, dồn dập, như đổ thêm nguồn sống đất trời.

“ Trời đẹp quá bác nhỉ. Nhạc vui làm tinh thần hăng hái thêm. Có khi nào bác nghe nhạc buồn không ?

Nhạc Việt Nam ḿnh, nhiều bài nghe buồn đứt ruột, buồn đến ră rời thân xác, mềm nhũn tâm trí ra.”

“Có, thỉnh thoảng bác cũng nghe nhạc buồn. Để khơi một chút đau đớn, một chút nhớ thương, đưa hồn đi lạc về kỷ niệm xa xưa. Cũng là một chút khoái lạc trong xa xót mênh mang.

Nhưng chỉ thoáng chốc thôi và không thường xuyên. Hai bác thường ngày nhắc nhủ nhau rằng chuyện không vui th́ quên liền đi, chuyên bực ḿnh đừng than văn, rán nói với nhau những chuyện vui, những lời tử tế.“

“ Lạ thật, chưa ai dạy cho cháu những điều bác vừa nói. Ba mẹ cháu ít khi nói chuyện với nhau bằng giọng tử tế cả. Có thể nào … bác khuyên khéo ba cháu trở về với gia đ́nh không ? Mẹ cháu buồn lắm, cứ ngẫn người ra, cháu sợ mẹ buồn mà phát bệnh, th́ khổ lắm .”

“ Để xem, bác không dám hứa, nhưng thuận tiện th́ bác sẽ nói .”


Thiền Viện Trúc Lâm Đà Lạt



https://ksdalat.com/wp-content/uploads/2017/12/lich-su-hinh-thanh-thien-vien-truc-lam-da-lat.jpg


Hai bác cháu vào chùa. Chùa là một đơn vị gia cư được sửa lại, pḥng khách lớn làm niệm Phật đường. Có một tượng Phật ngồi mà cái đầu quá to và dài so với thân ḿnh. Phần nhà xe được nới rộng, che mái chạy dài ra ngoài sân sau, làm trai pḥng.

Sư cụ đưa chúng tôi ra sau vườn. Hùng, bạn tôi, bố của Dung, mặc bà-ba màu tro nhạt, đang ngồi giặt áo quần bằng tay, bên ṿi nước.

Hùng ngững đầu lên nh́n, với vẻ ngạc nhiên. Hai tay anh c̣n dính đầy bọt xà pḥng. Anh vội vă đứng dậy, ôm chầm Dung và tôi vào hai ṿng tay mừng vui, nói :

- “ Khỉ. Ai cho các người tới đây quấy rầy kẻ tu hành !”

Tôi trả lời :

“ Phật có cấp giấy phép cho tôi đến thăm ông. Đừng lộn xộn. Tu là bỏ hết bạn bè, bỏ con cái hay sao ?”

Bạn tôi xả xà pḥng bộ áo quần nâu, và treo lên dây phơi nắng, như ngày xưa c̣n ở Việt Nam. Dung nh́n theo bố với ánh mắt thương cảm :

-“ Ở đây không có máy giặt hay sao? ”

- “ Chùa không có. Chỉ giặt một bộ thôi, giặt tay cho mau. Ba chỉ có hai bộ quần áo để thay đổi. Hai ngày, thay ra th́ giặt liền.”

Hùng đưa chúng tôi vào trai pḥng, ngồi trên băng dài nói chuyện. Trà đậm chát trong b́nh thủy được rót ra ba chén nhỏ. Hùng cười, nụ cười rất hiền và đầy thương mến, hỏi Dung:

-“ Cả nhà vẫn b́nh thường chứ ?”

Dung nh́n bố, chớp mắt, buồn buồn, giọng hơi hạ xuống :

- “ Không b́nh thường ba ạ. Mẹ con xuống tinh thần, và mong ba trở về sớm .”

Hùng nh́n con gái, rồi nh́n tôi. Hơi lúng túng, sau một tiếng thở dài, Hùng nói một hơi dài :

“Dung à. Nhân sẵn có bác đây, ba nói ra cho con nghe, cũng để bác chia sẻ tâm sự của ba. Ba muốn nói với bác từ lâu, mà chưa có dịp. Đời ba, có ba lần sung sướng nhất, xem như chết đi sống lại.

Lần thứ nhất là ra khỏi trại tù cộng sản. Được ra tù, ai mà không sung sướng cho được, nhất là thứ tù mà không có án, không có thời hạn giam giữ.

Lần thứ hai là khi vượt biên, đặt chân lên đất Mă Lai, dù bị dân họ đánh đập, xua đuổi, nhưng thấy được ánh sáng tự do trước mắt. Mừng đến khóc.

Và lần thứ ba, ra khỏi chính nhà ḿnh, vào chùa đi tu.

Ba thấy ḿnh như một tên tù chung thân thoát được ngục tù. Trong ba lần đó, đem so sánh, th́ lần sau cùng nầy là sung sướng nhất, khoan khoái nhất.

Ba là một kẻ nhu nhược, hèn nhát. Ba tên là Nguyễn Hổ Hùng, ba xấu hổ với cái tên của ḿnh. Chẳng có hùng hổ tí ti nào cả. Đáng ra, phải đổi thành Nguyễn Dun Dế mới đúng. Chính ba cũng tự khinh ḿnh. Tại sao ?

Tại v́ ba thương các con, không muốn các con thấy gia đ́nh lục đục, mất hạnh phúc. Không muốn gieo vào tâm trí non nớt của các con những muộn phiền về một gia đ́nh thiếu ḥa thuận. Nó sẽ có thể ảnh hưởng đến suốt đời, ảnh hưởng tới việc học, tới tương lai sau nầy của các con.

Nhưng ba cũng đă làm gương xấu cho các con về sự bất lực, yếu đuối, bị ức hiếp, chèn nén mà nín lặng chịu đựng.

Mẹ con đă ức chế ba trong mấy chục năm nay.

Nói ra th́ xấu hổ, nhưng có thực, ban đầu th́ v́ muốn yên nhà yên cửa mà chịu nhịn, nhưng dần dà về sau, nó thành nỗi hèn nhát, sợ hăi. Cái sợ nó xâm chiếm trong ba, không biết từ bao giờ, nhưng lo sợ thường trực. Sợ mẹ con. Khi nào cũng nơm nớp sợ.

Nghe tiếng mẹ con ho cũng giật ḿnh, nghe tiếng dép của mẹ con, trong ḷng cũng không yên. Nghe tiếng mẹ con nói ǵ đó với ai, cũng lo là lỡ mẹ nói với ba, mà ba không nghe kịp, th́ sẽ có gây gỗ, có lôi thôi.

Trở thành phản xạ có điều kiện, như con chó trong thí nghiệm tâm lư, cứ nghe tiếng chuông là chảy nước miếng.

Ba sợ mẹ con gây gỗ, khóc lóc, cằn nhằn, nói những điều khinh bạc làm ba đau đớn, gán cho ba những tội lỗi mà ba không sai phạm. Sự lấn ép của mẹ con, mỗi ngày một chút, từ từ, tiệm tiến, nhưng vững chắc và quá đáng.



https://gonhub.com/wp-content/uploads/2019/04/nhung-cau-noi-hay-ve-cuoc-song-hon-nhan-buon-chi-nguoi-trong-cuoc-moi-hieu-1.jpg


Ngay từ khi ba mới bảo lănh được cho mẹ và các con từ trại tị nạn đến Mỹ, mẹ con ngày đêm khóc lóc, tra hỏi ba làm ǵ trong bao nhiêu năm, mà không mua được căn nhà, phải đi ở thuê.

Mẹ con c̣n nói là ba không gởi tiền về giúp đỡ. Không gởi tiền về, làm sao mà mẹ sống phong lưu, và đi vượt biên mấy lần mất tiền, bị lừa.

Không gởi tiền về th́ làm sao mà đi vượt biên được.

Hồi ba mới đến Mỹ, tiếng Anh tiếng u c̣n ấm ớ, nghe không được, nói không ra hơi, phải đi làm lao động chân tay, lương tối thiểu. Công việc th́ khi có, khi không. Làm một lúc ba việc, ba nơi khác nhau.

Ngày đi làm thợ gói hàng, tối đi làm an ninh canh gác, thứ bảy chủ nhật theo các nhóm người xứ Nam Mỹ đi hái trái ớt, hái dâu cho các nông trại.

Trời nóng như lửa đốt trên lưng. Làm việc lănh lương theo khối lượng dâu, ớt hái được. Cong lưng trên ruộng dâu suốt ngày, cái lưng đau như muốn găy đôi. Hai tay th́ đen kịt như nhúng bùn v́ màu nhựa cây, phải chờ lột da mới hết đen điu.

Mỗi đêm chỉ ngủ có ba bốn giờ. Bao nhiêu tiền làm được gom góp gởi về cho mẹ con, hy vọng có ngày gia đ́nh sớm đoàn tụ. Ba chỉ ăn ḿ gói, hột gà, gà kho quanh năm. Nhà cũng không dám thuê, chỉ chia pḥng ở trọ.

Thế mà mẹ con cứ khóc lóc, cả ban ngày, ban đêm, những khi đi chợ, đi chơi, hỏi tiền để đâu cả. Đem cho con bồ nào. Những dằn vặt nầy, kéo dài cho đến gần cả chục năm cũng chưa dứt.

Ba khổ tâm lắm, giải thích cách nào mẹ con cũng không nghe, không chịu hiểu. Ban đầu th́ không hiểu, nhưng về sau, th́ giả vờ không hiểu. Ba cũng thông cảm, v́ không phải chỉ ḿnh ba bị ở trong hoàn cảnh nầy, mà nhiều bạn bè ba cũng phải chịu cái dằn vặt tương tự của những người vợ qua sau.

Hỏi sao ai cũng mua nhà cả, mà ba không mua được. Tiền để đâu ? Phải cả hai vợ chồng cùng đi làm, và làm công việc có đồng lương kha khá, mới gồng ḿnh lên mua được căn nhà. Chứ mới qua Mỹ, chưa có việc chuyên môn, chưa có việc lương khá, và bao nhiêu tiền dể dành, th́ lo chuyển về Việt Nam cho vợ con cả. Lấy ǵ mà mua nhà. Ai bán cho.

Ngân hàng nào cho vay. Mà có mua được, cũng làm sao có tiền trả hàng tháng ?

Mẹ con than văn, so sánh với những gia đ́nh khác. Khi nào cũng thở dài, thở ngắn, cằn nhằn và chê bai. Ba cũng đă làm hết sức ḿnh, nhưng không làm sao cho mẹ con bằng ḷng.

Có lẽ ba cũng có phần lỗi, v́ không đủ tài cán, không đủ may mắn để làm ra thật nhiều tiền, và có những phương tiện vật chất như mẹ con mong muốn.

Trong nhà, ba như một tù nhân, một tên đầy tớ, một tên nô lệ. Mẹ con như một bà chủ, một bà mẹ chồng khắc nghiệt đời xưa, luôn luôn ḍm ngó, phê b́nh, nạt nộ ba.

Ba co rúm người lại trước cái nh́n quắc mắt của mẹ con. Trong bữa ăn, nếu ba vô t́nh làm rớt hạt cơm, hay chút thức ăn ra bàn, là mẹ con mắng ba xối xả, chê bai và nói những lời tàn nhẫn trước mặt con cái, trước mặt bà con, họ hàng.

Bởi vậy, nên trong mỗi bữa cơm, trong ḷng ba cũng không yên, cũng lo lắng sợ vô t́nh làm rớt giọt canh, rơi cọng rau. Mất hết cả tự nhiên, mất hết cả sinh thú trong khi ẩm thực. Lo lắng, khi nào cũng lo lắng không nguôi.

C̣n mẹ con th́ làm đổ cả tô canh, làm rớt cả dĩa thức ăn ra sàn nhà, vỡ tan tành, cũng không ai dám nói một lời nhỏ.

Những lúc nầy, ba chỉ an ủi mẹ con là không can ǵ, ai cũng có lúc sẩy tay. Nói lời an ủi, mà cũng sợ bị quật lại bằng những câu nói đau ḷng.



https://nhandaovadoisong.com.vn/wp-content/uploads/2020/05/stt-vo-chong-son5jpg-1.jpg


Khi ba quét nhà, lau chùi bàn ghế, mẹ con cũng đưa mắt ḍm ngó vào các hốc kẹt để t́m cọng rác bỏ sót, đưa ngón tay quẹt vào góc bàn, xem có c̣n bụi bám hay không. Để rầy rà ba, chê ba cẩu thả, làm biếng. Và bắt ba phải quét lại, chùi lại.

Khi ba rửa chén bát, mẹ con cũng đứng chỉ huy và cằn nhằn, tại sao không rửa cái nầy trước, cái kia sau, và giảng giải về cách tổ chức công việc cho khoa học.

Ba đă từng rửa chén bát nồi niêu ở nhà hàng, cả ngàn cái mỗi ngày, chưa có ông chủ bà chủ nào chê bai than phiền cả.

Những khi ba đang dở tay làm một công việc ǵ đó, như đang đứng trên thang cưa cây, hoặc sơn lại bức tường, mà mẹ con nhờ làm việc khác, dù việc nhỏ nhặt đến đâu, cũng phải buông tay mà làm ngay, không làm liền là có ồn ào, làm liền th́ mẹ con lại chê bai trách mắng ba tại sao không dẹp cái thang, tại sao c̣n để thùng sơn đó.

Việc ǵ ba làm, mẹ con cũng trách móc, uống nước chưa xong, mẹ con cũng lườm mắt hỏi sao không cất cái ly ngay, và chê ba làm biếng.

Cất con dao vào chạn, mẹ con cũng kiếm cớ mà phàn nàn, nhăn nhó.

Áo quần đang thay, chưa cất kịp, cũng la hoảng lên. Con biết hết những điều đó. Ba nhắc lại cho bác nghe, để bác biết cho t́nh cảnh của ba.

Mỗi lần lái xe cho mẹ con đi đâu, là cả một cực h́nh, dọc đường, cứ thế mà mẹ con ra rả than văn đủ chuyện, chê trách ba đủ điều, bới móc chuyện xưa từ mấy chục năm trước để mắng mỏ ba, dù cho ba không hề sai phạm.

Khi lái xe trên đường, th́ mẹ con như ông tướng ra lệnh, với giọng hách dịch sai bảo, lái mau, lái chậm lại, quẹo phải, quẹo trái. Chưa nghe mẹ con ra lệnh với cái giọng dịu dàng bao giờ. Ba là chồng, không phải là tài xế, không phải là kẻ nô lệ.

Tài xế mà nói với giọng hách dịch như vậy, th́ họ cũng bỏ việc, hoặc chửi lại cho nhục nhă.

Mỗi khi lái xe, ba vừa bực ḿnh v́ những lời khó nghe của mẹ, vừa lo lắng sợ đi lạc đường. Nếu chỉ lạc đường một đoạn ngắn, th́ mẹ con làm như trời đất long lở, làm như ba phạm tội sát nhân không bằng.

Mấy lần, người khác bất cẩn, cọ quẹt vào xe ḿnh, thế là ba lănh đủ, bị mẹ con cằn nhằn, xỉ vả, nhiếc móc ba cả năm trời. Và thỉnh thoảng cũng c̣n nhắc lại.



https://nhandaovadoisong.com.vn/wp-content/uploads/2019/07/cau-noi-hay-ve-hanh-phuc-vo-chong-2.jpg


Và khi mẹ con đọc báo, xem truyền h́nh, thấy những chuyện xấu xa xẩy ra trong xă hội, là mẹ con xỉ vả, chửi bới, trách móc, làm như chính ba là kẻ tội phạm. Có khi ba phát cáu, gắt lên, mà mẹ con cũng không tha, cứ tiếp tục hành hạ ba bằng những ngôn từ không tử tế.

Vào tiệm ăn, bao giờ mẹ con cũng giận ba, v́ không lấy đũa muỗng kịp thời cho mẹ, v́ không lấy đủ khăn giấy, hoặc pha trà cho mẹ con quá đầy, quá vơi.

Chưa bao giờ đi ăn tiệm chung với mẹ con, mà ba được quyền lựa chọn món ăn ḿnh thích.

Bởi vậy, những buổi trưa đi làm, ba thích ngồi ăn một ḿnh trong tiệm, thấy ḷng thanh thản, nhàn nhă, và sung sướng lắm. Thế nhưng nhiều khi mẹ con cứ bắt ba bới cơm theo, để tiết kiệm tiền.

Mỗi sáng đi ra khỏi nhà, đến sở, ba cảm thấy b́nh yên, sung sướng, và thấy bạn bè, đồng nghiệp tử tế với ḿnh quá. Ngồi trong sở, ba thấy vui hơn ngồi trong chính ngôi nhà ḿnh.

Trong sở, ba được xem là người cẩn thận, chăm chỉ, thường được giao đảm trách những dự án khó khăn.

Thế nhưng, mẹ con xem ba là người cẩu thả, làm biếng, cái ǵ ba làm, mẹ cũng chê bai. Mỗi buổi chiều tan sở, ba nấn ná để về nhà chậm hơn, lái xe chậm hơn, v́ về đến nhà là nỗi lo sợ dâng lên trong ḷng.

Mở cửa nhà, mà ḷng không vui, nghe tiếng mẹ con nói là giật ḿnh, hoảng hốt. Có khi về nhà, phải đi nhè nhẹ, sợ mẹ con biết ba đă về. Mỗi đêm, ba cũng không có quyền thức đêm đọc sách, xem truyền h́nh, mẹ con ra lệnh đi ngủ, là phải gấp gấp thi hành. Không th́ tru tréo lên, làm ầm nhà ầm cửa.

Ba như một đứa bé hai tuổi, phải tuân phục tuyệt đối. Ba đọc sách, xem truyền h́nh, mẹ con cũng kiểm soát, cũng bảo là phải đọc loại sách nầy, sách kia, phải xem đài nầy, đài kia. Không cho ba xem, đọc những sách, những chương tŕnh truyền h́nh mà ba thích.

Đêm nằm ngủ bên mẹ con, cũng không dám trở ḿnh nhiều, sợ mẹ con mất ngủ, thức giấc dậy phàn nàn, cau có. Giấc ngủ cũng không hết lo, và nhiều đêm ác mộng thấy bị mẹ con dằn vặt, cằn nhằn.

Ngay cả bây giờ, xa mẹ con vạn dặm, những giấc ác mộng đó vẫn chưa thôi.


https://nhandaovadoisong.com.vn/wp-content/uploads/2019/07/cau-noi-hay-ve-hanh-phuc-vo-chong.jpg


Áo quần của ba, cũng phải mặc những thứ mẹ con mua, ba không có quyền lựa chọn áo quần cho ba. Tự mua cái áo là có chuyện rầy rà, mỗi lần đem cái áo đó ra mặc, là mẹ con kiếm cớ chỉ trích, gây gỗ, và nói những lời đau ḷng khó nghe.

Bởi vậy, có những cái áo mà ba không dám đụng đến. Ba phải mặc những thứ áo quần mẹ mua cho, dù không ưa, không thoải mái.

Mỗi khi mua xe, mua nhà, là ba không dám có ư kiến, cứ đưa ư kiến ra, th́ trước hết là bị chê bai, khích bác. Nếu không, th́ sau nầy, có bất cứ chuyện ǵ nhỏ nhặt xẩy ra cho căn nhà, cho chiếc xe, th́ mẹ con níu lấy ba mà đổ lỗi, làm t́nh, làm tội từ năm nầy qua năm kia. Khổ lắm.

Ba cứ để cho mẹ con toàn quyền quyết định. Làm ǵ th́ làm. Nhưng cũng có khi chẳng được yên đâu. Nếu có chuyện bất trắc, th́ mẹ con trách cứ ba là vô trách nhiệm, để mẹ con phải gánh vác một ḿnh.

Những khi trong nhà có thứ ǵ hư hỏng, ba phải sửa chữa, và làm với nỗi lo lắng, bất an, sợ sửa không được th́ mẹ con chê bai, nhục mạ, nói những lời hỗn láo khó nghe.

Mà kêu thợ sửa những thứ lặt vặt, th́ mẹ con cứ lăi nhăi là bất tài, vô dụng, vụng về.

Mẹ con phong tỏa kinh tế, không cho ba giữ tiền, mỗi khi t́m thấy tiền trong túi ba, là mẹ con gây gổ, ồn ào.

Hàng tháng, khi nhận được kết toán chương mục của ngân hàng, là mẹ con ḍ t́m, hạch xách hỏi ba với giọng tra hỏi, tại sao có mục nầy, tại sao có mục kia, trong lúc chỉ có mẹ con kư ngân phiếu và lấy tiền mà thôi.

Ba chỉ nói là cứ đến hỏi ngân hàng, c̣n ba không biết. Nói thế cũng bị mắng mỏ, là không biết ǵ cả.

Mẹ con sợ ba gởi tiền giúp đỡ những người bà con bên quê nhà. Đă giữ hết tiền, mà mẹ con khi nào cũng xa gần chửi bới bà con, bạn bè ba, là ăn bám, là làm biếng, là tham lam.

Khi ba nghèo khó, ba chịu ơn không biết bao nhiêu người, khi ba có chút tiền bạc, khá lên, th́ không ai nhờ vả ba được một xu nào. Ba tự xấu hổ với lương tâm.

Có những bà con bên nhà đau yếu, khó khăn, ba phải mượn tiền bạn bè mà gởi về giúp đỡ. Ba c̣n nợ của bác đây mấy ngàn đồng, đă nhiều năm, chưa trả được một xu. Ba đợi đến sang năm, đủ tuổi lănh non tiền an sinh xă hội, rồi thanh toán luôn.



https://i.pinimg.com/originals/a7/da/1d/a7da1d78be6a250ee957c7a494ffdbb1.jpg


C̣n tiếp ,

hoathienly19
01-26-2021, 12:51
Ba sợ nhất là thất nghiệp. Mỗi lần thất nghiệp phải chịu đựng sự dày ṿ của mẹ con.

Mẹ con chê bai ba, đổ cho ba nhiều tội, cho rằng v́ ba vô trách nhiệm, làm biếng, nên bị cho nghỉ việc.

Mẹ con nói rằng, nếu ba khá hơn, th́ người ta cho người khác nghỉ, chứ không phải là ba.

Mẹ con đằn vặt ba ngày đêm, và thúc hối ba đi t́m việc, làm như ba không muốn t́m ra việc.

Chưa xong, mẹ con c̣n bêu rếu, đi đâu, gặp ai, cũng rêu rao là ba bị cho nghỉ việc v́ kém cỏi. Dù cho cái sở của ba làm có bị phá sản, mẹ con cũng đổ lỗi cho ba. Những khi nầy, mẹ con cho rằng ba ăn bám vào vợ.

Ba tin rằng, đời ba chưa hề ăn được của mẹ con một miếng cơm nào. Có ăn của mẹ con được một miếng cơm, th́ e cũng phải hộc ra ba bụm máu.

Ba c̣n nhớ cái thời mà mẹ con được công ty cho một chức vụ nhỏ, làm trưởng toán, có ba người nhân viên làm việc dưới quyền. Cái thời nầy, mẹ con càng hùng hổ hơn.

Làm như bà là chỉ huy tất cả mọi người. Miệng phán ra toàn mệnh lệnh. Ba càng sợ hăi hơn. Bà con quen biết cũng phải khó chịu lây.

Một điều, mà cho đến ngày nhắm mắt, ba cũng c̣n ân hận, là chuyện bà nội con. Ông nội con mất khi ba c̣n bé. Bà buôn tảo bán tần, nuôi ba học hành đến nơi đến chốn. Có nghề nghiệp vững vàng, có chút địa vị trong xă hội. Biết bao nhiêu là công phu, khó khăn, hy sinh để nuôi nấng ba.

Thế mà khi ba bảo lănh được bà nội qua đây, mẹ con hất hủi, dằn vặt, nói nặng, nói nhẹ bà, để bà không sống nổi với con cháu, mà phải về lại bên quê nhà. Rồi bà mất, mà ba không về được. Ba khổ tâm lắm lắm. Không có ǵ bù đắp, không có ǵ chuộc lại những mất mát trong ḷng ba.

Ba hèn nhát, để vợ đối xử với mẹ như vậy. Không ai có thể dung thứ cho ba cả. Ba có tu mấy mươi kiếp cũng không chuộc lại được tội của ba. Ba biết bà nội đứt ruột đứt gan khi thấy ba đớn hèn, sợ mẹ con như sợ cọp dữ.

Ba đă nói, cái sợ như một phản ứng có điều kiện, nó nhập vào trong tiềm thức, ăn sâu vào trong trí. Lư trí không điều khiển được cái nỗi sợ trong ḷng.



https://4.bp.blogspot.com/-pd8Sl18YCpc/VHwNjEpD1DI/AAAAAAAAMW8/ZCgb4hslFIA/s1600/hinh-nen-cac-loai-hoa%2B(2).jpg

C̣n t́nh thương yêu, th́ cái sợ nó che khuất cả t́nh thương yêu vợ chồng. Điều nầy, đáng ra ba chỉ nói riêng với bác, nhưng con có thể nghe để học kinh nghiệm cho đời sống gia đ́nh sau nầy.

Không c̣n t́nh nữa, những khi vợ chồng gần gũi nhau, chỉ là một việc trả nợ quỷ thần, làm cho xong bổn phận, và khó khăn lắm mới có thể khởi đầu. Đôi khi tưởng ḿnh đă bất lực.

Bạn bè gần của ba, th́ ai cũng biết và tránh không muốn đến nhà. Cái thái độ của mẹ con làm họ khó chịu. Những khi có bạn bè từ xa đến thăm, là ba lo lắng lắm.

Mẹ con chỉ nấu giúp b́nh trà, hay làm một tô ḿ gói, cũng than văn, cằn nhằn là không có sức để hầu hạ bạn của ba. Có khi mẹ con không ra chào bạn của ba. Khách cũng buồn v́ nghĩ là chủ nhà không muốn tiếp ḿnh.

Sau khi khách về, là lúc ba lo lắng nhất, sợ sóng gió dậy lên trong gia đ́nh.

Bà con xa gần bên nội đều lánh mặt, không muốn giao tiếp với gia đ́nh ḿnh. V́ thái độ thiếu lịch sự của mẹ con. Gia đ́nh bên nội khinh ba bạc nhược, hèn nhát. Họ đúng .

Nhưng con biết nguyên nhân sâu xa nào, làm ba trở thành yếu đuối, bạc nhược như vậy? Có lẽ v́ ba mồ côi cha sớm, suốt một đời ba tha thiết t́nh phụ tử mà không có. Ba không muốn các con phải thiếu mất t́nh thương của cha, hoặc của mẹ trong khi tuổi c̣n thơ ấu.

Ba thấy nhiều gia đ́nh, cha mẹ li tán, con cái bơ vơ đau khổ tội nghiệp lắm, có đứa phải bỏ học, những đứa khác có thể thành công trong cuộc đời, nhưng vết thương, niềm đau trong ḷng không bao giờ vơi lấp được.

Đó là lư do chính yếu. Bởi vậy, nên ba nguyện là khi nào con học xong, kiếm được việc làm tốt, th́ ba vào chùa tu, rũ sạch lo âu phiền muộn.

Để hết nhà cửa, tiền bạc, tài sản lại cho mẹ con, ba không cần mang theo một xu. Ba đă già, đời không c̣n bao năm nữa, tại sao lại phải sống trong lo âu, sợ hăi, bực bội, không vui ?

Ba muốn những năm ngắn ngủi c̣n lại trong đời ḿnh, là những ngày tháng thảnh thơi, dễ chịu, thong dong, không bị kềm kẹp, không bị kiểm soát, không bị dằn vặt, đay nghiến bởi bất cứ ai.

Ba bây giờ như kẻ bị tù chung thân, đă thoát được ngục tù. Con đừng bắt giam lại, tội nghiệp ba lắm.“

Hùng bưng trà, chiêu một hơi dài cạn chén, nở một nụ cười thỏa măn, có lẽ v́ đă nói ra được hết nỗi niềm chất chứa trong ḷng từ lâu. Tôi thở dài. Dung th́ nước mắt rưng rưng nắm lấy tay bố.



https://123anhdep.net/wp-content/uploads/2016/05/tuyen-chon-hinh-anh-canh-dong-hoa-dep-lang-man-nen-tho-tham-tuoi-nhat-the-gioi-3.jpg


Tôi đưa tay ṿ cái đầu láng bóng của Hùng và nói đùa :

“Cái đầu của ông trơn quá, e bụi cũng không bám vào được. Không ngờ đời ông mà cay đắng đến thế.

Ngày xưa, khi c̣n sinh viên, mỗi lần biểu t́nh, băi khóa, ông đi đầu cầm biểu ngữ, la hét hùng dũng lắm, chẳng sợ trời đất ǵ cả.

Ra làm việc, ông cũng chẳng coi thượng cấp ra một kí lô nào. Thế mà lớn lên, chỉ sợ vợ thôi. Thiệt đời cũng lạ .”

Chúng tôi cùng cười. Dung đưa tay lau nước mắt và hỏi:

“ Ở đây ba thấy sao ? Có dễ chịu không ? “

“Thiên đường. Ba sung sướng lắm. Trong ḷng ba nhẹ nhàng, cái niềm lo âu đè nặng mấy mươi năm nay nó tuột đi, nhẹ bỗng lâng lâng.

Mỗi sáng thức dậy, vui sướng. Mỗi giờ mỗi khắc không có một chút lo âu, ḷng yên ổn. Chỉ riêng cái ư thức là ḿnh hết lo, hết sợ hăi, cũng đă là sung sướng lắm rồi.”

“Con hỏi, ba có tin đi tu là sẽ được … cái ǵ đó, để mai sau về niết bàn hay … ǵ ǵ đó không ?”

“Ba chẳng tin cái ǵ cả. Có lẽ chết là hết, tan thành tro bụi. Nhưng đọc kinh Phật, ba t́m được rất nhiều an ủi, nhiều thanh thản cho tâm hồn, cởi ra được nhiều sân si c̣n ẩn náu trong ḿnh. Càng đọc, càng thấy ḿnh nhẹ nhàng, thanh thoát. Chỉ có thế thôi .”



https://nhandaovadoisong.com.vn/wp-content/uploads/2019/08/nhung-loi-phat-day-hay-nhat-2.jpg


Buổi trưa, tôi mời Hùng ra tiệm ăn cơm chay, Hùng không chịu, và mời ở lại ăn cơm chùa. Chúng tôi ăn vào lúc gần một giờ chiều. Cơm ba món, canh bí đỏ, rau luộc, và dưa kho. Tôi ăn được ba chén đầy. Tôi nói với Hùng:

“Cơm ngon quá. Món ăn thanh đạm, giản dị, nhưng rất ngon. Tôi làm một lúc ba chén đầy. Ở nhà, chỉ ăn được hai chén là nhiều lắm.”

Hùng cười, nụ cười lém lỉnh thân thiết ngày xưa khi chúng tôi c̣n đi học, và trả lời :

“ Để cho đói đến đắng miệng, th́ ăn cơm nguội cũng ngon. Đây là chủ trương của nhà chùa. Không khi nào dọn cơm đúng bữa, mà phải dọn cơm cho khách thập phương càng trễ càng tốt.”

Tôi chèo kéo và năn nỉ lắm, Hùng mới chịu theo chúng tôi về nhà thăm, ở lại đêm chơi. Hùng mang áo cà sa vàng, cổ quàng một chuỗi hạt màu nâu, đem theo một bộ áo quần ngủ. Về đến nhà, vợ tôi mở cửa, chắp tay vái, và nói:

“Bây giờ th́ chúng tôi phải kêu anh là ǵ cho đúng nhỉ? Thượng tọa, đại đức hay thầy …”

“Chẳng thượng tọa, đại đức ǵ cả. Tôi mới vào tu, chẳng có chức vị ǵ. Mà cũng chẳng cần chức vị. Đi tu để t́m thanh thản cho tâm hồn. Tránh đau phiền nơi tục lụy. Được vậy là đă xem như đốn ngộ rồi.”

Vợ tôi rót nước, pha trà, và dọn bánh mời khách. Chúng tôi ngồi nói chuyện xưa, hàn huyên, nhắc đến bạn bè cũ. Kẻ mất người c̣n. Nhắc đến những kỷ niệm xưa, khi chúng tôi c̣n đi học, c̣n ở tỉnh lỵ nhỏ.

Vợ tôi lấy xe ra đi. Một lúc sau xách về nhiều bao thức ăn, rau, cải, tàu hủ, nước tương, chao. Chúng tôi phụ mang vào trong bếp.

Buổi tối, khi vợ tôi mời vào bàn ăn, thấy trên bàn dọn sẵn gần chục món chay khác nhau, màu sắc xanh đỏ, ngon lành. Có món canh khổ qua dồn thịt chay, chả cua chay vàng ruộm, thịt gà xào sả ớt chay, thịt heo hầm chay, giả cầy chay, miến xào, xà lách bát bửu, cá trê nướng chay, tôm kho nước dừa chay.

Hùng có vẻ ái ngại, nói:

“ Để chị phải mất công mệt nhọc như thế nầy, tôi áy náy quá. Đáng ra tôi phải nói trước, chỉ cần cho tôi chai nước tương tưới vào cơm ăn là đủ rồi .” Vợ tôi cười vui vẻ :

“Thôi, anh đừng khách sáo. Mấy khi tôi được dịp ôn lại cách nấu cơm chay của mẹ tôi ngày xưa. Tôi phải cám ơn anh mới phải, nhờ có anh đến chơi, tôi mới có cơ hội nấu đồ chay. Ngày mai, có cháo gà ăn điểm tâm. Cháo gà đặc biệt lắm, cháo chay mà không nói trước, th́ tưởng như cháo gà thật.” Tôi cười :

“Đă ăn chay rồi, mà c̣n vọng mặn. Ḱa, con cá chiên kia là chay hay mặn, mà giống thế, c̣n dĩa tôm kho nầy nữa. Toàn cả lừa mị thánh thần.” Vợ tôi cười nói :

“Đấy, thế gian nầy đầy cả giả dối. Ngang nhiên lừa mị thánh thần mà c̣n hiu hiu tự đắc. Không chừng, biết là bị đánh lừa, mà mấy ổng lại khoái !”

Khi mở bia mời khách, vợ tôi mới biết là không c̣n nước đá trong ngăn lạnh. Bên ngoài trời đổ mưa tầm tă, vợ tôi hơi bối rối, rồi chạy vào lấy dù ra xe đi mua nước đá. Tôi ngăn lại, cả Hùng cũng cản, v́ uống bia không có nước đá cũng chẳng sao. Vợ tôi cười :

“ Các anh uống bia không có nước đá mất ngon đi ”.

“Nhưng trời mưa to quá, vă lại, đi làm chi cho ướt át, khổ thân .”

“ Để em đi, lỗi tại em không làm đá sẵn, và quên để bia vào tủ lạnh. Các anh và cháu chờ nhé.”

Hùng áy náy nh́n theo vợ tôi đang xách dù mở cửa nhà xe ra đi. Mười lăm phút sau, vợ tôi chạy về với nét mặt vui vẻ, hớn hở, mang theo một bịch nước đá lớn. Bỏ nước đá vào ly của Hùng và tôi, vợ tôi nhẹ nhàng :

“ Không có nước đá, bữa ăn cũng mất ngon phần nào, uổng công tôi làm bếp .“



https://i.gifer.com/CuEh.gif


Vợ tôi tắt đèn điện, bưng ra ba đế đèn cầy, ánh sáng vàng tỏa ra trong nhà ấm cúng. Chúng tôi nâng đũa. Hùng cười đùa :

Bây giờ tôi mới hiểu câu nói : " thân trai mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu’. Nầy ông Nguyên, ông có vợ hiền, gia đ́nh thật là ấm cúng hạnh phúc. Không tu mà được hưởng phước đấy .” Tôi đùa lại:

“Không phải trong nhờ, đục chịu đâu. Có đục cũng phải gạn lọc cho thành trong. Phải là :

" Dạy con từ thuở c̣n thơ, dạy nhau từ thuở bơ vơ mới về."

Để trễ quá, th́ chỉ c̣n có nước vô chùa lánh nạn như ông mà thôi.

“ Lánh nạn th́ đâu cần phải vào chùa hở ba ? Lánh nạn th́ ở đâu mà chẳng được ? Sao ba không qua Hawaii hoặc về Florida mà ở, vừa ấm áp vừa vui.” Hùng trả lời :

“Vào chùa, là xem như dứt khoát hơn, ḿnh dễ làm quen với kinh kệ hơn. Ở ngoài th́ ham cái khác, c̣n vọng động. Mà mục đích chính, là các con c̣n lấy chồng, lấy vợ. Ba không muốn các con mang tiếng có cha mẹ li dị.

Ba đi tu, không ai có thể dị nghị chi các con cả. Người ta nghĩ là ba làm việc tốt. Bây giờ các con lớn rồi, ba có cơ hội để sống thêm ít năm trong yên b́nh tâm trí, mà không ái ngại.

Nếu từ đầu mà không v́ các con, th́ ba đă lấy quyết định dứt khoát ngay. Ba đâu phải là một kẻ ngu đần để cắn răng chịu đựng mấy mươi năm nay. Khi nào các con có gia đ́nh hết rồi, và nếu ba không t́m được an nhiên tự tại trong khi ở chùa, th́ ba sẽ xét lại việc đi tu.

Nhưng hiện nay, như ba đă nói với con, là thiên đường đă t́m thấy, không cần phải chờ qua kiếp sau, hoặc đi đâu xa vời.”

Dung thở dài nói như khóc :

“Con biết ba khổ lâu nay, nhưng không ngờ trong ḷng ba khổ đến thế. Con thương mẹ, nên mù quáng, không thấy hết uẩn khúc trong ba.

Con qua đây để thăm ba, cũng định để thuyết phục ba trở về với mẹ. Nhưng bây giờ, con tin, ba ở lại tu hành là đúng, không có lư do ǵ để ba phải chịu đựng cay cực nhiều hơn nữa.”

Ngày chủ nhật, vợ chồng tôi đưa Hùng và cháu Dung đi thăm San Francisco. Chúng tôi đi bằng xe điện tốc hành, rồi lấy xe bus, ra bến tàu, đi thăm cầu Golden Gate đỏ chói phơi ḿnh một nửa ngoài nắng, một nửa ch́m trong mây mù.

Chụp mấy tấm h́nh kỷ niệm. Về phố Tàu ăn “ tỉm xấm ” và qua thăm vườn Nhật. Buổi tối đi nghe nhạc ḥa tấu đến khuya mới về đến nhà. Chúng tôi pha trà, ngồi nói chuyện cho đến khuya.

Hùng cảm động nói với vợ tôi:

“Bây giờ, tôi tin là hạnh phúc gia đ́nh có thật trên đời nầy. Ở nhà anh chị hai hôm, đi chơi với anh chị suốt ngày, mà chưa hề nghe vợ chồng gay gắt nhau một lời. Người xướng, người họa, vui vẻ, ḥa đồng, khi nào cũng ngọt ngào, tử tế, dịu dàng. Đời sống thật hạnh phúc.

Khi đủ ăn, đủ mặc, không túng thiếu, mà cuộc sống có hạnhphúc, th́ đâu cần đi t́m thiên đàng cho xa xôi.” Dung nh́n vợ tôi và hỏi:

“ Bác cho con một lời khuyên, sau nầy làm sao để tạo được một gia đ́nh hạnh phúc ?”

Vợ tôi cười và trả lời :

“ Cả hai người đều phải biết cho nhiều hơn nhận. Đừng đ̣i hỏi ai phải có bổn phận đối với ḿnh. Nên luôn luôn tự hỏi ḿnh đă làm được ǵ cho người khác chưa , đừng hỏi tại sao người khác chưa làm việc nầy, việc kia cho ḿnh. Biết chấp nhận và thương cả cái ưu điểm, lẫn khuyết điểm của người ḿnh thương ”.


Tràm Cà Mau

http://nguoiphuongnam52.blogspot.com/2020/10/nguoi-tu-chung-than-vuot-nguc-tram-ca.html

hoanglan22
03-13-2021, 15:17
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1755365&stc=1&d=1615648378

Hơn sáu tháng sống chết với chiến trường và giữ vững được Kontum, đầu tháng 10 1972, đơn vị tôi được kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ sung quân số. Đây là phần thưởng đặc biệt dành cho một đơn vị đă tạo nên kỳ tích trong trận chiến đẫm máu để có một “Kontum Kiêu Hùng”. Một tháng đóng trên Đồi Đức Mẹ lại là một tháng gió mưa lầy lội. H́nh ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa hy sinh trên chiến trường Kontum lúc nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ như những vết chém đang c̣n rỉ máu trong ḷng. Muốn tạm quên trong chốc lát đă là một điều không dễ. Bọn tôi thèm những cơn say. Rất may, tôi có một anh bạn, phải nói là ông anh mới đúng, là Liên Đoàn Trưởng của một Liên Đoàn Biệt Động Quân, có căn cứ tại Biển Hồ. Vợ và hai đứa con bị chết thảm tại Quảng Đức hơn một năm trước, khi xe bị VC giật ḿn, nên bây giờ anh chỉ c̣n làm người t́nh với rượu. Những ngày không bận hành quân, anh đến đón tôi đi uống rượu trong một cái quán nằm trong Khu Chợ Mới, đă vậy mỗi khi trở về, anh c̣n dúi cho tôi một chai Hennessy. Trước kia anh từng là một cấp chỉ huy có tiếng trong binh chủng này, nhưng v́ bản tính ngang bướng bất cần, nên nhân một lư do phe phái chính trị nào đó, anh bị ngồi tù một thời gian ngắn. Ra tù, anh bị thuyên chuyển về đơn vị tôi với cái lệnh “không được giữ bất cứ chức vụ chỉ huy nào”. Biết anh là một niên trưởng và từng dạn dày lửa đạn, tôi tận t́nh giúp đỡ, an ủi anh và kéo anh về ở chung nhà trong khu cư xá, vợ tôi lo chuyện cơm nước cho anh. Một thời gian sau, bỗng dưng anh được xét cho “vô tội”, trở lại binh chủng, thăng cấp và chỉ huy một liên đoàn Biệt Động Quân. Do cái ân t́nh đó mà anh quư mến tôi, kéo tôi theo các cuộc giải sầu này.
Dường như ngoài quán rượu ra, thỉnh thoảng anh chỉ ghé đến thăm một cô nhi viện. Nói là viện nhưng thực ra đây chỉ là một ngôi trường cũ, được chỉnh trang lại, tạm đáp ứng nhu cầu cần thiết cho một trại cô nhi. Có lẽ anh muốn t́m lại bóng dáng của hai đứa con đă phải chết oan một cách đau đớn qua h́nh ảnh các cháu cô nhi mà đa số là con của tử sĩ, có cả con của những người lính Biệt Động Quân của anh, mà cả người mẹ cũng chết, hay v́ một lư do nào đó không có khả năng nuôi dưỡng, nên đành phải gởi lại nơi đây, nương nhờ vào bàn tay và tấm ḷng nhân ái của những bà sœur. Anh bảo là từ sau trận chiến Tân Cảnh và Kontum, cô nhi viện này nhận thêm khá nhiều cô nhi. Hằng tháng, anh ghé lại đây thăm và tặng cho viện một số tiền, bởi bây giờ anh sống độc thân, không c̣n phải chu cấp cho ai. Biết điều này, tôi càng kính quí anh hơn. Một người ngang tàng không biết sợ ai, sống bất cần đời, nhưng bên trong là cả một tấm ḷng vị tha nhân ái.

Một hôm theo anh đến đây, chúng tôi được một bà sœur ra tiếp và mời vào văn pḥng uống trà. Anh bạn tôi th́ đă là người quen biết từ lâu, trong cách giao tiếp, anh được các sœur xem như một ân nhân bảo trợ, chỉ có tôi là người lạ. Nhưng khi chào tôi, sœur bảo thấy tôi giống một người thân quen nào đó. C̣n tôi, th́ cũng mơ hồ như đă từng gặp người nữ tu này ở đâu rồi. Cũng có thể v́ khuôn mặt khả ái, hiền thục của sœur phảng phất gương mặt của Đức Mẹ Maria mà tôi thường thấy trên các bức ảnh hay bức tượng trong các nhà thờ. Được giới thiệu là sœur Anna, tôi biết đây chỉ là tên thánh của bà. Khi tôi vừa ngồi xuống phía đối diện, sœur nh́n chăm chú vào cái bảng tên của tôi trên nắp tùi áo, bỗng mắt sœur như sáng lên:
– Có phải lúc trước đại úy ở Tiểu Đoàn 3/44?
Tôi khựng lại, ngạc nhiên:
– Dạ, đúng là trước kia có mấy năm tôi ở tiểu đoàn này. Nhưng cách nay đă 6, 7 năm rồi!
– Đại úy c̣n nhớ trận Quảng Nhiêu. H́nh như đại úy suưt chết trong trận ấy?
Tôi càng ngạc nhiên hơn, không hiểu tại sao người nữ tu này biết rơ ḿnh như thế. Tôi vừa trả lời vừa nghĩ ngợi, thăm ḍ:
– Dạ đúng, nhưng sao sœur biết. Chuyện đă xảy ra lâu lắm rồi mà.
Sœur Anna không trả lời mà hỏi lại tôi:
– Đại úy thoát chết, nhưng người nằm hố bên cạnh th́ bị nguyên một quả đạn súng cối 60 hay 80 ǵ đó, phải không?
Tôi giật ḿnh, từ kư ức hiện ra rất nhanh h́nh ảnh hăi hùng này, và ngay lúc ấy, trước mắt tôi sœur Anna cũng phảng phất bóng dáng của một người con gái khác.
***
Vào khoảng đầu mùa hè năm 1966, tôi đang làm đại đội phó Đại Đội 3 thuộc Tiểu Đoàn 3/44. Thời gian này hậu cứ tại Ban Mê Thuột, nhưng tiểu đoàn được chọn làm đơn vị trừ bị lưu động cho Sư đoàn và Khu 23 Chiến Thuật. Thời ấy chưa có các đại đội trinh sát. Đơn vị tôi có mặt gần như trên khắp lănh thổ Khu 23 Chiến Thuật, kéo dài từ vùng cao nguyên có biên giới với Cam Bốt cho đến tận miền duyên hải. Có khi hôm trước c̣n hành quân ở Quảng Đức, Lâm Đồng, hôm sau lại có mặt ở B́nh Tuy, Tuy Ḥa, Phan Thiết…

Một hôm, sau cuộc hành quân dài hạn ở khu Cà Ná, thuộc tỉnh Ninh Thuận, tiểu đoàn được lệnh di chuyển về Cam Ranh, vừa nghỉ dưỡng quân vừa giữ an ninh các đảo ngoài khơi để lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân xuống đây thiết lập căn cứ.
Trong một đợt bổ sung quân số, đại đội tiếp nhận ba hạ sĩ quan và gần hai mươi tân binh vừa rời khỏi quân trường. Tôi đến bộ chỉ huy tiểu đoàn nhận lănh và đưa về tŕnh diện anh đại đội trưởng. Trong ba trung sĩ, một anh có dáng dấp, nói năng hiền lành như một thầy tu. Xem qua lư lịch và nhất là sau khi nói chuyện, tôi biết anh là thầy giáo một trường ḍng và cũng là trưởng ca đoàn của một nhà thờ ở ngoại ô thành phố Nha Trang, quê hương tôi. Tôi không phải là người Công giáo, nên không mấy am tường các sinh hoạt này, nhưng biết chắc một điều, trưởng ca đoàn phải là một người hát hay và giỏi về nhạc lư. Vốn có máu văn nghệ, lại là người đồng hương, nên tôi dễ thân t́nh và thường bắt anh hát cho cả đại đội nghe. Tôi đề nghị anh đại đội trưởng cho anh làm Hạ Sĩ Quan Tâm Lư Chiến của đại đội. Từ đó chúng tôi rất thân nhau, ăn cơm chung và treo vơng ngủ gần nhau dưới một ṿm cây dương liễu.

Thấy anh có cái tên hơi lạ, Nguyễn Phú Hùng Em, tôi đoán và hỏi anh có phải anh có người anh tên Nguyễn Phú Hùng Anh. Anh cười mà nét mặt không vui:
– Dạ, đúng là có một người là Nguyễn Phú Hùng Anh, nhưng không phải là anh ruột. Chúng tôi lớn lên trong viện mồ côi, v́ trùng tên, và anh ấy lớn hơn tôi ba tuổi, nên các sœur đặt lại tên chúng tôi như thế. Bọn tôi cũng rất thân nhau và xem như anh em. Điều buồn, là anh ấy đi lính trước, vào Trường Sĩ QuanThủ Đức và tử trận cách nay hơn một năm rồi.

Thời gian này, đơn vị chúng tôi rất may mắn, chẳng khác nào được đi nghỉ mát. Hải đảo lại là nơi thực tập cho các toán Biệt kích của Trung Tâm Huấn Luyện Lực Lượng Đặc Biệt Đồng Bà Th́n, nên khá an toàn. Suốt ngày bọn tôi chỉ tắm biển, câu cá, ban đêm nằm nghe sóng vỗ, đàn hát nghêu ngao. Có lẽ đây là thời gian đặc biệt thoải mái nhất trong cuộc đời làm lính của tôi. Nhân cơ hội hiếm hoi này, ông Tiểu đoàn trưởng cho phép binh sĩ được luân phiên đón vợ con ra thăm và được ở lại trong hai tuần lễ.

Một hôm anh Trung sĩ Hùng Em xin tôi cho được đón người yêu mà anh cho biết, nếu anh không bị động viên th́ chắc hai người đă làm đám cưới. Tôi sắp xếp, dọn sang nằm với người lính ô-đô và nhường chiếc vơng lại cho anh. Cả bọn tôi khá bất ngờ khi anh đưa người yêu đến chào. Là một cô con gái đẹp, làn da trắng, khuôn mặt phúc hậu, đôi môi mọng đỏ với nụ cười hiền lành, lễ độ. So với anh, cô c̣n khá trẻ. Cô có cái tên cũng rất khả ái: Thụy Khanh. Đặc biệt c̣n có giọng hát rất hay. Mỗi lần cô hát, cả đám lính tráng bọn tôi ngồi nghe mê mẩn.

Sau đó, cô đến đảo thăm anh vài lần nữa. Những ngày có cô, núi rừng trên đảo dường như bỗng trở nên đẹp, thơ mộng và vui vẻ hơn, sóng biển th́ êm ả hơn như để cùng ḥa theo tiếng hát của cô. Ngoài ra cô c̣n có tài nấu ăn, thường đăi bọn tôi những bữa cơm rất ngon miệng. Tất cả đơn vị, từ quan tới lính ai cũng nghĩ anh Trung sĩ Hùng Em thật là tốt phước, ông trời đă cho anh một người t́nh, một người vợ lư tưởng sau này. Qua tâm t́nh, chúng tôi được biết, hai người quen biết nhau trong viện mồ côi từ khi c̣n rất nhỏ. Sau này anh vừa là thầy dạy học, dạy nhạc vừa là trưởng ca đoàn của cô trong cùng một nhà thờ. Hai người đều chơi dương cầm và hát hay nhất trong ca đoàn. T́nh yêu bắt đầu nẩy nở từ môi trường cô nhi và âm nhạc. Và cuộc t́nh của hai người được các vị linh mục cùng các sœur đồng t́nh, khuyến khích, như là một sự kết hợp nhiệm mầu của Thiên Chúa.

Hơn ba tháng thần tiên ở đảo Cam Ranh, khi các đơn vị tiền trạm của Hoa Kỳ được ào ạt đổ xuống thành lập “Cam Ranh Air Base”, tiểu đoàn tôi có lệnh rời khỏi đảo, di chuyển để tiếp tục lưu động khắp nơi. Lâm Đồng, B́nh Thuận rồi Ninh Thuận, Sau những cuộc hành quân dài hạn trong rừng, mỗi lần đơn vị được về phố ít ngày hoặc đóng quân trong các làng mạc nằm khu ngoại ô, chúng tôi lại thấy người con gái xinh đẹp Thụy Khanh đến thăm và ở lại với người yêu. Đó là một đôi t́nh nhân gắn bó, đẹp và lăng mạn nhất mà bọn tôi chứng kiến, và có lẽ ai cũng thèm thuồng có được một hạnh phúc như thế.

Tháng bảy năm 1966, khi đơn vị nghỉ quân ở Tháp Chàm – Phan Rang, Trung sĩ Hùng Em xin một tuần phép đặc biệt để về Nha Trang làm đám hỏi. Anh bảo cả hai người đều không có cha mẹ anh em, nên lễ đính hôn đều do các vị linh mục và các sœur đỡ đầu tổ chức.

Đúng lúc anh vừa măn phép trở lại, th́ đơn vị có lệnh không vận khẩn cấp lên Ban Mê Thuột để tiếp viện cho một đơn vị Biệt Động Quân và Thiết Giáp bị thiệt hại khá nặng tại trận chiến Quảng Nhiêu, nằm phía Tây Bắc, cách thành phố Ban Mê Thuột khoảng hơn mười cây số. Trận chiến khá cam go, ác liệt. Một lực lượng địch cấp trung đoàn, sau khi tổ chức phục kích gây tổn thất cho chi đoàn Thiết Quân Vận và một đại đội Biệt Động Quân tùng thiết, bọn chúng đào nhiều giao thông hào và hầm hố cá nhân kiên cố trong các vườn cà phê, để chặn đánh các cánh quân của ta tiếp viện. Tiểu đoàn tôi cùng một chi đoàn Thiết Vận Xa khác được tăng phái cho Trung Đoàn 45, đặt dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Vơ Văn Cảnh, đảm trách cuộc hành quân phản công, bao vây tiêu diệt địch.

Địch chiếm ưu thế về vị trí, chuẩn bị trận địa, bên ta có sức mạnh của thiết giáp và không yểm. Sau suốt năm ngày đêm không ngủ, lăn ḿnh trong mịt mù lửa đạn quần thảo với địch, cuối cùng chúng tôi đă đạt được chiến thắng. Một số lớn địch quân bị tiêu diệt và bắt sống, nhưng bên ta cũng phải trả một cái giá không nhỏ. Đại đội tôi may mắn, chỉ có ba quân nhân tử trận và khoảng mười người bị thương, trong đó có anh đại đội trưởng. Tôi được chỉ định tạm thời chỉ huy đại đội.

Cuộc hành quân vẫn chưa kết thúc, một số đơn vị tiếp tục truy kích địch, riêng tiểu đoàn tôi được lệnh ở lại Quảng Nhiêu. Ban ngày tung các cuộc hành quân tảo thanh chung quanh, ban đêm pḥng thủ bảo vệ khu vực dân cư, mà đa số là người Công giáo, đề pḥng địch quay lại quấy rối, phục thù. Đại đội tôi được chỉ định bảo vệ một Pháo đội Pháo Binh 105 ly. Điều tồi tệ là vị trí Pháo đội này nằm trên một khu đất trống trải, trong pḥng tuyến và cả phía bên ngoài cũng không có một cành cây, dưới đất chỉ toàn là bụi đỏ, dày cả một gang tay. Mỗi lần Pháo binh tác xạ, cả đất trời gần như chỉ toàn là bụi. Đám lính chúng tôi từ đầu tới chân cũng phủ đầy bụi đỏ. Đơn vị Pháo Binh th́ đă có sẵn hầm hố kiên cố từ trước, c̣n đại đội tôi phải tự đào lấy những hố cá nhân, nhưng không thể đào sâu được, v́ dưới đất chỉ toàn bụi và bụi, đào đến đâu bụi đỏ tràn theo tới đó, và mỗi lần Pháo Binh tác xạ, những cái hố này bị bụi lấp cạn thêm. Ban đêm, chúng tôi nằm trong những chiếc hố ấy, nhưng không che đủ nửa thân người. Cái hố của tôi dành cho hai người nằm, tôi và anh Hạ sĩ mang máy truyền tin. Hố kế bên trái là Trung sĩ Hùng Em và anh lính ô-đô của tôi.

Một hôm, khoảng hai giờ sáng, khi tôi đang ngủ chập chờn, bỗng một tiếng nổ chát chúa ngay bên cạnh, mảnh đạn và bụi phủ đầy người, tôi bật dậy chụp vội cây súng chạy ra hàng rào pḥng thủ, nơi vọng gác có đặt khẩu đại liên. Rờ nắn vội qua khắp người xem có thương tích ǵ không, tôi thở phào v́ không thấy dấu hiệu đau đớn nào, nhưng khi các trái sáng bắn lên, nh́n bụi đỏ phủ đầy người tôi giật ḿnh cứ ngỡ là máu. Địch quân đă pháo kích chúng tôi hơn 10 quả bằng hai khẩu súng cối 61 ly từ hai địa điểm khác nhau. Pháo Binh đă phản pháo chính xác làm bọn chúng câm họng. Khi t́nh h́nh ổn định, trở về hố, tôi bàng hoàng nghe anh lính ô-đô báo là Trung sĩ Hùng Em đă chết. Anh đă lănh nguyên một quả đạn 61 ly, rớt ngay sát bên cạnh, ruột đổ ra ngoài và thân thể nhuộm đầy máu. Điều kỳ lạ, là anh lính ô-đô của tôi nằm ngay một bên mà không hề hấn ǵ, chỉ có áo quần dính đầy máu và thịt của người đồng đội xấu số. Tôi theo hai người lính khiêng thi thể Trung sĩ Hùng Em, được gói tạm trong tấm poncho, vào hầm cứu thương của Pháo Đội. Anh chết thật thê thảm. Tôi đứng lặng người, sau khi vuốt đôi mắt cho anh. Từ khi ấy cho đến sáng, tôi không hề chợp mắt. Tôi nghĩ đến Thụy Khanh, cô con gái xinh đẹp hiền thục, có giọng hát khuấy động cả trái tim người, vừa trở thành vị hôn thê của anh chỉ mới hai tuần trước. Trưa hôm qua, khi rủ nhau vào thăm ông cha xứ trong xóm đạo và để xin được tắm giặt ở cái giếng sâu phía sau nhà thờ, anh đă khoe tôi tấm h́nh anh chị chụp chung trong lễ đính hôn, và bảo rằng cuối năm này hai người sẽ làm đám cưới. Anh c̣n nói nhỏ với tôi, ông cha xứ của anh hứa sẽ giới thiệu anh với vị Linh mục Tuyên Úy của Sư Đoàn để xin anh về làm ở Pḥng Tuyên Úy, v́ hai ngài là bạn tu với nhau và được thụ phong cùng một ngày.

Nhớ tới hai khuôn mặt hiền lành với nụ cười rạng rỡ trong tấm h́nh đính hôn, ḷng tôi se lại. Chiến tranh tàn ác quá, đă chia ly biết bao nhiêu người, và làm dang dở biết bao mối t́nh đẹp đẽ như anh Hùng Em và cô gái Thụy Khanh. Tôi bỗng chạnh ḷng, nhớ tới người yêu, cũng là vị hôn thê của chính ḿnh, hằng đêm cầu nguyện cho tôi, từ một thị trấn nhỏ, mà giờ đây đang xa tít mịt mùng.

Một năm sau đó, tôi được nghỉ mười lăm ngày phép về Nha Trang làm đám cưới. Nhớ đến Hùng Em, tôi rủ vợ cùng t́m đến nhà thờ gần khu Đồng Đế để hỏi thăm tin tức về nơi chôn cất anh. Chúng tôi được một vị linh mục trẻ đón tiếp niềm nở và hướng dẫn đến thăm mộ Hùng Em, nằm trong một nghĩa trang nhỏ của giáo xứ, gần biển. Từ đó, tôi có thể nh́n thấy Ḥn Chồng, nơi chôn giấu nhiều hang động của tuổi thơ tôi. Đọc trên tấm bia, tôi thấy tên người lập mộ được ghi vỏn vẹn hai chữ: Thụy Khanh.
Nhớ tới người con gái xinh đẹp, phúc hậu, có giọng hát rất hay ấy, tôi hỏi vị linh mục:
– Thưa cha, chị Thụy Khanh, vị hôn thê của anh Hùng Em có khỏe không, và bây giờ chị đang ở đâu?
Vị linh mục buồn bă:
– Chị ấy đă di chuyển đến một nơi khác, khoảng ba tháng sau khi anh Hùng Em qua đời, nhưng thi thoảng chị có ghé về đây ít hôm thăm giáo xứ và viếng mộ anh ấy.
Tôi không dám ṭ ṃ thêm nữa. Cám ơn cha và đưa ngài về lại nhà thờ rồi xin phép cáo từ.
Sau đó, cuộc chiến ngày càng khốc liệt, tôi theo đơn vị hành quân liên miên, bao nhiêu lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Người lính chiến, chuyện sống chết chỉ tùy vào số mệnh, không ai có thể tránh được lằn tên mũi đạn. Đồng đội tôi đă có biết bao người ngă xuống. Có những cái chết c̣n thê thảm hơn cả cái chết của anh Trung sĩ Hùng Em lúc trước. Tôi đă chứng kiến cảnh một người vợ trẻ ngất xỉu khi đến nhận xác chồng mà không t́m thầy cái đầu, một bà mẹ đă lăn đùng ra chết ngất khi thi thể đứa con hy sinh chỉ c̣n lại một phần và bà không thể nhận diện được con ḿnh. Những khủng khiếp của chiến tranh sau này, cùng với thời gian, dần dà làm tôi tạm quên nhiều chuyện đau đớn cũ.
– Ông Trung úy Điệp, người Huế, làm đại đội trưởng lúc ở ngoài Cam Ranh, bây giờ ra sao rồi, đại úy?
Câu hỏi của sœur Anna làm tôi giật ḿnh, trở về thực tại:
– Dạ, anh Điệp đă chết lâu rồi. Anh tử trận tại Thiện Giáo – Phan Thiết, chỉ sau hai tuần làm đám cưới với cô giáo Diệu, cũng người Huế, nhưng sống ở Ninh Ḥa. Hai người quen nhau khi đơn vị tôi về thụ huấn bổ túc tại TTHL Lam Sơn. Không ngờ sœur vẫn c̣n nhớ tên anh ấy.

Sœur cúi xuống, trầm ngâm giây lát. Khi ngước lên, bà lấy khăn tay lau nước mắt.
– Tôi và anh Hùng Em cũng làm đám hỏi đúng hai tuần. Cô giáo Diệu nào đó không biết may mắn hay là bất hạnh hơn tôi khi đă được làm vợ, cũng chỉ mới hai tuần?
Vừa nói xong, sœur vội vàng nói lời xin lỗi, bảo đúng ra, một người đi tu, không nên suy nghĩ đến những điều như thế.

Bốn tháng sau lần gặp gỡ bất ngờ đó, tôi đến thăm cô nhi viện môt lần nữa, nhưng lần này, tôi cùng đi với cô trung úy Trưởng Ban Xă Hội, để giới thiệu với sœur Anna, nhờ cô nhi viện tạm chăm sóc hai đứa bé, con của một anh chuẩn úy. Cả hai vợ chồng bị chết bởi đạn pháo ở Kontum. Sœur Anna rất vui vẻ, ân cần, sẵn sàng nhận giúp và bảo tôi bất cứ khi nào có dịp về Pleiku, nhớ ghé lại thăm. Chúng tôi cám ơn, biếu cô nhi viện một ít tiền, và hứa nhất định sẽ trở lại thăm sœur và hai đứa bé.

Nhưng rồi tôi đă không giữ được lời hứa ấy. Từ đầu năm 1973, sau khi Mỹ kư hiệp định Paris trên xương máu của người bạn đồng minh, những người lính VNCH đă phải chống đỡ làn sóng xâm lăng của Cộng sản phương Bắc, ồ ạt đưa đại quân, xe pháo vào quyết chiếm miền Nam, tôi đă cùng đồng đội miệt mài với chiến trường, súng đạn, mà sự viện trợ ngày một cạn dần, nên xương máu anh em lại càng đổ ra nhiều hơn nữa.

Ngày 11.3.75, Ban Mê Thuột thất thủ. Đơn vị tôi đang hành quân ở khu vực Tây Nam Pleiku, có lệnh kéo về Hàm Rồng để được trực thăng vận xuống Phước An, quân lỵ cuối cùng c̣n lại của tỉnh Đắc Lắc, nhằm tái chiếm Ban Mê Thuột, nơi có bản doanh Sư Đoàn và hậu cứ của đơn vị chúng tôi. Khi BCH Trung Đoàn và một tiểu đoàn cùng đại đội Trinh Sát vừa được đổ xuống Phước An th́ Pleiku có lệnh di tản. Hai tiểu đoàn c̣n lại của chúng tôi phải di chuyển theo đoàn quân di tản trên Tỉnh Lộ 7B. Một kế hoạch triệt thoái tồi tệ đă đưa đến thất bại nặng nề bi thảm. Cả hai tiểu đoàn khi về đến Tuy Ḥa chỉ c̣n lại một phần tư quân số, hai anh tiểu đoàn trưởng đă phải tự sát để không lọt vào tay giặc.

Cuối cùng, miền Nam cũng mất. Tôi và cả cha tôi đều bị tù đày khốn khổ. Cha tôi, tuổi già sức yếu, không đủ sức để chịu đựng bao đ̣n thù tra tấn, hành hạ, nên đă chết trong trại tù Đá Bàn vào tháng 6 năm 1976, c̣n tôi bị đày ải qua nhiều trại tù, từ Nam ra Bắc. Sau gần tám năm tôi được thả về để chứng kiến một quê hương nghèo khổ điêu tàn, vợ con nheo nhóc. Tôi quyết định vượt biên, dù có phải chấp nhận bao hệ lụy khôn lường. Tôi rủ vài người bạn tù cùng tổ chức vượt biển, trong số này có một anh bạn nguyên là sĩ quan Hải quân có nhiều kinh nghiệm hải hành. Nơi bọn tôi hẹn gặp gỡ là một cái quán nhỏ của gia đ́nh người bạn tù khác nằm gần khu Ḥn Chồng.

Một hôm, sau khi bàn công việc và ăn uống xong, tôi bỗng nghĩ tới anh Trung sĩ Hùng Em, khi nhớ ngôi mộ của anh cũng nằm gần nơi này. Tôi nhờ anh bạn chở tôi đến đó. V́ nghĩa trang nhỏ, nên tôi dễ dàng t́m ra ngôi mộ của anh Hùng Em. Điều làm tôi sửng sờ là ngôi mộ nằm bên cạnh có tấm bia ghi đậm tên người quá cố: Sœur Anna Phan Thụy Khanh, được Chúa gọi về ngày 15.3.1975. Tôi không biết v́ sao cô chết, chỉ c̣n nhớ thời gian này đă từng xảy ra cuộc di tản kinh hoàng trên Tỉnh Lộ 7B. Chúng tôi t́m đến nhà thờ với ư định hỏi thăm cha xứ, nhưng rất tiếc ngài đi vắng, trong nhà thờ chỉ có hai thiếu niên rất trẻ, không hề biết sœur Anna là ai. Khi rời khỏi nơi này, trong cái man mác buồn tôi bất chợt thấy vui vui, và buột miệng như để nói với chính ḿnh:
- Cuối cùng th́ hai người cũng được ở bên nhau.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1755366&stc=1&d=1615648454

Tôi chưa (và có lẽ không) có cơ hội nào để trở lại Pleiku. Ngày xưa, tôi chỉ ghé lại thành phố bụi đỏ này một đôi lần ngắn ngủi, như chỉ một thoáng chợt đến chợt đi, chưa hề làm quen với một “em Pleiku má đỏ môi hồng”nào. Ngoài Đồi Đức Mẹ, nơi đơn vị đóng quân một tháng, cả một tháng “gió lạnh mưa mùa”, tôi chỉ c̣n nhớ cái quán rượu trong Khu Chợ Mới, nơi anh bạn Biệt Động Quân đưa tôi đến để t́m những cơn say, và một ngôi trường được dùng làm cô nhi viện, nơi có sœur Anna xinh đẹp, đă gợi lại trong tôi h́nh ảnh của những đồng đội đáng mến mà vắn số như Nguyễn Phú Hùng Em. Tôi da diết nhớ đơn vị xưa, thời chúng tôi c̣n trai trẻ, nhớ từng khuôn mặt bạn bè đă nằm lại trên các chiến trường xưa hay đang lưu lạc muôn phương, tiếc thương cho cuộc t́nh đẹp của những người lính trẻ, lăng mạn, thơ mộng, nồng nàn nhưng sớm chia ĺa đớn đau bởi cuộc chiến tranh oan nghiệt.

Phạm Tín An Ninh

hoanglan22
03-15-2021, 14:41
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1756601&stc=1&d=1615819309

CHUYỆN BUỒN NGƯỜI VỢ TÙ
Tác giả : Trần Thị Thanh Minh.

Một ngôi biệt thự nhỏ nằm khiêm tốn cuối đường Hoàng Diệu, ĐàLạt. Phía sau là vườn hồng và có thể nh́n thấy trường Couvent thấp thoáng áo xanh lam của các nữ sinh nội trú. Đó là“ngôi nhà hạnh phúc” của chúng tôi, cũng là tên do các bạn yêu thương đặt cho nó.

Chúng tôi sống êm đềm hạnh phúc với ba đứa con thật dễ thương và một em bé c̣n đang trong bụng mẹ. Căn nhà lúc nào cũng rộn ră vui tươi nhất làTết đến c̣n thêm “những con bà phước” (tức là những sỹ quan Vơ Bị không được về Sài G̣n ăn Tết v́ cấm trại), tất cả đều quây quần vui chơi như chính nhà của họ, bởi v́ các anh thích cái không khí thoải mái và thân thương nhất mà chúng tôi đă thật thân t́nh đón tiếp.

Nếu cuộc sống ấy được kéo dài th́ thật đúng là chúng tôi đă có một thiên đàng hạnh phúc thật sự rồi. Nhưng đâu có ai ngờ rằng Buôn Mê Thuột mất,mọi nơi di tản vềSài G̣n. Gia đ́nh tôi cũng trong làn sóng kinh hoàng đó.
Tôi và các con được ông bà nội các cháu yêu thương đùm bọc, và tôi đă sinh cháu bé ngay tháng tư năm đó. Cũng v́ thế mà chồng tôi không thể ra đi một ḿnh.

Anh đă lên được tàu nhưng anh lại nhảy xuống bơi về. Nếu anh biết trở về rồi lại phải xa mẹ con tôi vĩnh viễn chắc anh đă chẳng quay về. Đó cũng chính là nỗi đau ray rứt, niềm ân hận khôn nguôi của chúng tôi .

Tháng sáu anh đă đi tŕnh diện học tập cải tạo, với hy vọng sau mười ngày sẽ trở về….. Không có chồng tôi ở nhà, tôi rất sợ hăi và buồn lo.

Anh đă cho tôi một đời sống ổn định vững vàng . Nay không có anh tôi không thể làm ǵ hết, tôi đă mất hết, mất cả những ước mơ toan tính của chúng tôi cho con cái sau này.

Tôi không c̣n ǵ hết ngay cả mạng sống của tôi cũng rất mong manh v́ mới sanh cháu c̣n quá nhỏ. Rất may nhờ sự lo xa của bà nội các cháu nên mẹ con tôi c̣n được ăn cơm thêm vài tháng. Toàn dân ở thành phố đă phải ăn khoai lang, khoai ḿ và bo bo.

Lương thực bán theo sổ gia đ́nh, hoàn toàn không có gạo. Khi nào được mua bột ḿ th́ sung sướng lắm v́ có thể đổi bột lấy bánh ḿ (món ăn ngon nhất lúc bấy giờ) .

Nhờ có bánh ḿ tôi có thêm việc làm để kiếm được vài đồng đi chợ. Tôi phải lo làm nước sốt (muối + càchua) , thái cà rốt , củ cải , dưa leo làm đồ chua , mang ra trước cửa bán từ 4 giờsáng.

Ngày tháng cứ qua đi với buồn lo nặng trĩu v́ 4 đứa con cần ăn để sống . Tôi như con chong chóng hết bán bánh tôm bánh cuốn tại đường Duy Tân lại quay ra bún ốc bún riêu ở đường Gia Long.

Nhưng cũng không được bao lâu v́ “chiến dịch dẹp ḷng lề đường”. Tôi lại phải chạy thuốc tây, ai cần bán cần mua là có tôi làm chân chạy.

Tôi c̣n nhớ một lần , có người cần mua 5 chai nước biển mà tôi chỉ có đủ vốn cho 2 chai, thế là tôi phải chạy làm 3 lần từ chợ Vườn Chuối qua chợ Bà Chiểu mới giao đủ hàng được


Đạp xe đạp muốn kiệt sức v́ mồ hôi và nước mắt nhoè nhoẹt đến không thấy đường đi.
Nhiều lúc đầu óc tôi muốn vỡ tung ra v́ những tính toán cho cuộc mưu sinh, v́ những thay đổi khôn lường của xă hội chủ nghĩa và nhất là v́ những hoang mang lo sợ cho chồng tôi đă bao lâu biệt vô âm tín.

Ban đêm, nh́n những khuôn mặt ngây thơ của các con tôi trong giấc ngủ say sưa , tôi yên tâm v́ tôi vẫn c̣n có chúng ở bên tôi.

Nhưng chồng tôi nay ở đâu ? Đói no ấm lạnh ra sao ?
Anh là người nặng t́nh chồng vợ, yêu qúy các con, liệu anh có yên giấc được không ? Hay cũng như tôi thao thức suốt đêm thâu với bao nỗi lo âu tắc nghẽn không phương giải thoát.

Chỉ có lúc này tôi mới được tự do khóc nức nở đểvơi bớt nỗi buồn lo nặng trĩu bên ḿnh. Tôi không dám khóc trước mặt các con v́ chúng sẽ ̣a khóc theo ngay khi thấy tôi chảy nước mắt.

Măi gần một năm sau ,tôi mới được tin chồng tôi dù chẳng phải là tin vui. Anh đang bị một cơn sốt rét ác tính và thiếu thức ăn trầm trọng có thể chết bất cứ lúc nào.

Mong ước của anh là muốn biết tin tức của mẹ con tôi trước khi anh nhắm mắt. Trời đất như sụp đổ dưới chân tôi , tôi van lạy người đưa tin xin chỉ đường cho tôi đi gặp anh.

Sau cuộc hành tŕnh khá vất vả, lội suối băng rừng, những con vắt cắn tôi chảy máu tùm lum mà tôi không hề biết sợ biết đau. Quần áo ướt hết, gió lạnh làm tôi rét run, xanh mét.

Tới nơi chưa kịp mừng th́ đă bị cán bộ trưởng trại tra hỏi lâu ơi là lâu. Cuối cùng v́“cảm phục ḷng yêu chồng của phụ nữ miền Nam”, họ cho tôi gặp mặt.

V́ chồng tôi đau nặng nên anh em cùng “láng”cho mắc vơng ở giữa c̣n các anh mắc vơng chung quanh để che gió lạnh.

Thật sự th́ có che được bao nhiêu đâu v́ mỗi khi gió tạt vào th́ tất cả đều lănh gió cát đầy cả mặt mũi. Tôi chết đứng khi thấy chồng tôi chỉ c̣n là bộ xương sơn đen , hàm răng trắng nhô ra v́ đôi má đă hóp lại, cặp mắt lơm sâu không c̣n thần sắc.

Tôi khóc như mưa nhào tới bên anh, ôm lấy tay anh, c̣n anh th́ không c̣n đủ sức để nắm tay tôi nữa ! Thời gian như ngừng lại, các anh xung quanh cũng yên lặng ngậm ngùi .

Tôi không thể nào quên được đêm hôm ấy, trước đống lửa bập bùng, mấy chục khuôn mặt mà tôi chắc trước kia đẹp đẽ oai phong lắm trong bộ quân phục VNCH, bây giờ th́ chao ơi là tội nghiệp, họ chỉ c̣n là những bộ xương người biết cử động .

Thương người, thương ḿnh tôi khóc đến đau nhức cả hai mắt. Chồng tôi th́ nằm thoi thóp, miệng vẫn cố cười, chắc anh đă măn nguyện ?

Đứa con gái út của anh mới tám tháng nên hăy c̣n bú mẹ. Hai bầu sữa căng nhức, tôi chợt tỉnh táo để xin lỗi mọi người ra xa để vắt sữa. Tôi bưng chén sữa bỏ thêm hai muỗng đường rồi đổ cho chồng tôi từng muỗng một.

Chồng tôi có lẽ nhờ vào mấy chén sữa của tôi mà tới sáng anh đă tỉnh hẳn. Mấy anh bạn cứ chọc anh là uống sữa tiên nên mới được như vậy.


Sau chuyến đi ấy tôi ngă bệnh cả tuần lễ.
Vừa khỏi là tôi lại sửa soạn đi một chuyến nữa v́ tôi biết chồng tôi rất cần thuốc men và tẩm bổ.
Hai chân anh ấy không mang nổi tấm thân gầy chỉ c̣n 40 kư lô.

Nỗi buồn lo này chưa hết, lại đến nỗi buồn v́ con bé không thèm sữa mẹ nữa , thế là tôi mất thêm niềm hạnh phúc vô biên là được ôm con, ngắm cái miệng xinh xinh của con như gắn liền với bầu vú mẹ để được mẹ chuyền cho ḍng sữa chan chứa yêu thương.

Các cụ đă nói là khi đang cho con bú th́ không được cho ai sữa của ḿnh kẻo trẻ sẽ chê sữa mẹ. Tôi cũng tin như thế nhưng biết làm sao hơn khi thấy chồng tôi cũng đang cần sức sống.

Muốn có thuốc men và đồ ăn cho chồng th́ phải lo tiền nhiều hơn. Bán ngoài đường bị đuổi , tôi xoay ra làm bánh croissant ở nhà.

Tối nào tôi cũng nhờ mấy cậu hàng xóm sang nhào bột hộ, xong bắt bánh rồi chờ bột nở cho vào ḷ. Lúc đầu tôi tự làm, tự bán nhưng sau tôi để bà con lối xóm lấy bánh đi bán các nơi, bán nhiều th́ lời nhiều.

Nếu không bán hết th́ tôi lấy lại để nướng khô bán cho các chị đi thăm nuôi. Vậy mà cũng chẳng được bao lâu th́ hết vốn v́ bánh th́ vẫn phải làm mà tiền th́ không thu về được bởi ai cũng nghèo , nên dù bánh bán hết cũng không đủ tiền mua gạo nên lại khất tôi lần sau, rồi lần sau nữa …

Dù sao tôi vẫn phải cố xoay sở cho có đủ tiền đi thăm nuôi chồng.
Tới năm 1977 , chồng tôi bị“biên chế”chuyển từ KàTum qua Trại An Dưỡng Biên Ḥa . Lúc đó chúng tôi mới được đi thăm chính thức.

Cán bộ trong trại đă gửi giấy về nhà, cho phép thân nhân đi thăm sau gần hai năm biệt tăm tin tức. Có được đặc ân này là do những xôn xao, bất măn của gia đ́nh tù nhân cải tạo. Sau lần thăm đó, anh bị đưa ra Bắc lúc nào tôi không hay .

Thời gian này khủng khiếp nhất v́ họ đổi anh đi lung tung , nào Lào Cai, nào Yên Bái, nào Lạng Sơn !

Vừa được tin ở nơi này th́ đă bị chuyển đi nơi khác, không có cách nào thăm nuôi được . Tôi phải mua chui những tấm phiếu để được phép gửi quà, mỗi gói chỉ có 3 kg thôi, địa chỉ phải viết theo ám số.

Tôi phải làm thịt kho với cả chai nước mắm, hy vọng mặn th́ để được lâu v́ không biết bao giờ gói quà mới tới tay người nhận.

Trông thấy tôi kho thịt, các con tôi nói: “Bố sướng quá, có nhiều đồ ăn ngon hơn tụi ḿnh ! ” C̣n ǵ đau khổ và xót xa hơn cho tôi khi nghe thấy câu so sánh thơ ngây này !!

Cuối cùng tôi cũng t́m ra được , họ chuyển anh về Vinh - Nghệ Tĩnh , tôi và chị anh vội ra thăm. V́ không có giấy phép nên chúng tôi phải đi tàu với giá chợ đen, nghĩa là đi từng chặng một và giá vé gấp đôi .

Tới nơi tôi sẽ vào báo công an là tôi bị mất cắp nên mất luôn cả giấy phép thăm nuôi và xin họ chứng nhận cho. Phải có giấy đó tôi mới được phép vào trại thăm chồng tôi. Tôi đă phải nói dối mới thoát qua ải lính gác.

Vừa xuống tàu là tôi đă hoảng sợ v́ dân địa phương đứng chỉ chỏ bọn tôi: “Vợ ngụy ḱa!” Cũng may họ không ném đá chúng tôi như đă ném đá các anh khi phải chuyển ra Bắc.

Chúng tôi tới nơi là chiều thứ bảy, họ không kiếm được chồng tôi. Qua ngày chủ nhật tôi vẫn c̣n hy vọng gặp mặt v́ họ nói anh đi xa làm việc, đă cho gọi rồi, thứ hai sẽ gặp.

Đêm chủ nhật, tôi nằm mơ thấy anh về báo cho tôi biết là anh đă chết !?
Anh linh thiêng như vậy chăng…..?

Tôi tỉnh dậy khóc quá trời làm thức giấc mọi người. Các chị đi thăm nuôi an ủi tôi “Sinh dữ tử lành, yên chí đi, mai được gặp”.

Tôi không thể nào tả được hết nỗi buồn lo , bối rối của tôi đêm đó và thức luôn đến sáng, không thể nào ngủ lại được. Mờ mờ sáng tôi đă dậy .

Mọi người lo nấu cơm v́ nghe nói ở đó không bao giờ tù nhân có cơm ăn. Trời sáng hẳn. Dưới lớp sương mù của núi, từ trên nh́n xuống, tôi thấy từng toán người đi ra lao động.

Tôi như người mộng du, như có ai đẩy tới, tôi từ từ đi xuống chân núi, nơi cấm các thân nhân tù cải tạo tới gần. Toán 1 đi qua, rồi toán 2 , rồi toán 3, tôi nghe thấy tiếng gọi “Chị Chung, chị Minh” và tiếp theo tiếng ai la to: “Anh Chung chết rồi….! ” Tôi ngă xuống và không c̣n biết ǵ nữa

Khi tỉnh lại, tôi thấy tay chân bị trói vào chơng tre, y sĩ đang chích thêm hai mũi thuốc khoẻ. Tôi nghe kể là tôi đă ngất đi và họ khiêng tôi lên núi cả tiếng đồng hồ qua rồi.
Họ phải trói tôi lại v́ sợ tôi vật vă làm gẫy kim chích.
Tôi nói tôi không sao, cởi trói ra cho tôi . Sau cơn choáng quá đau tôi lại trở thành b́nh tĩnh quá làm họ cũng phát hoảng luôn.
Tôi yêu cầu ǵ th́ họ cũng cho phép hết.

Tôi xin được gặp bạn bè thân của chồng tôi ,trao lại cho các anh hơn 120 kí lô quà tôi mang đến. Ai cần ǵ th́ lấy rồi viết thư về nhà nhắn vợ con đem tiền trả tôi.

Cuối cùng cán bộ mang đến cho tôi một cái túi xách tay, trong chả có ǵ ngoài bộ bà ba cũ mèm của chồng tôi.

Họ cho tôi một chén cơm hẩm hôi mùi gạo mốc, trên có quả trứng luộc để mang ra mộ. Trẻ em theo sau nh́n bát cơm, trầm trồ:

“Cơm ḱa ! Cơm ḱa..!” , tôi di như một thây ma sống, mắt mở to mà nào có nh́n thấy ǵ, tai cũng chẳng nghe thấy ǵ, bước thấp bước cao theo hai người d́u tôi đi, tim như đau buốt, nước mắt chảy không ngừng. Khi ra tới mộ tôi lại ngất đi một lần nữa.
Giá mà khi ấy tôi được đi luôn theo chồng tôi th́ hay biết mấy ..!

Tôi trở về nhà với một thân xác ră rời, một đầu óc rỗng không, biếng ăn, mất ngủ, chả nói năng ǵ, mắt mở to mà chả nh́n thấy ǵ. Tôi đă phải ra, vào nhà thương Chợ Quán mấy lần . Rất may cho tôi và các con tôi là lúc đó tôi có một cô em và một người bạn lo lắng và chăm sóc mẹ con tôi tận t́nh.

Vài tháng sau, tôi nhận được 2 thùng quà trả lại với hàng chữ
“Người nhận đă chết. Trại yêu cầu hoàn.”
Ra bưu điện lĩnh 2 gói quà xong, vừa ra đến cửa tôi lại ngất đi .

Rất may có anh bạn hàng xóm đạp xe xích lô đang chờ để chở tôi về nhà. Tới bữa ăn, nh́n bốn đứa con ngồi ăn cơm ngon lành với tóp mỡ ngào đường và nước mắm, quà của bố trả lại, nước mắt tôi lại chảy như mưa .

Rồi tới gần cả năm sau, phường trưởng mới cử đại diện đến chia buồn và đưa cho tôi biên bản “Phạm nhân chết”.

Nhờ mảnh giấy này mà mẹ con tôi mới được đi Mỹ theo diện HO. ( Tôi vẫn c̣n giữ mảnh giấy này, xin gửi kèm theo đây để mọi người biết “Tội ác” của chồng tôi! )

Can tội: Giảng viên tâm lư chiến xă hội học Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà lạt. Án phạt tù: 3 năm; nhưng khi chết đă 3 năm 7 tháng. Nếu họ đúng lời chắc chồng tôi không thể chết.

Thế là xong , là tuyệt vọng cả đời. Lúc đó tôi sống cũng như chết rồi , nhưng v́ bốn đứa con nhỏ, chúng đâu có tội t́nh ǵ.

Bên nội bên ngoại ai cũng muốn nuôi giùm 1, 2 đứa nhưng tôi không thể nào chịu được nếu để 1 đứa con xa tôi . T́nh thương con đă thắng cái “điên”của tôi để lo lắng cho chúng , nhưng với phường khóm th́ tôi thật là một “mụ điên dữ dằn”.

Tôi không chịu đi họp tổ họp phường ǵ cả. Công an khu vực tới tận nhà bắt đi họp. Tôi nói: “Người mà các anh thấy có tội là chồng tôi th́ anh đă chết rồi, tôi và 4 con nhỏ không c̣n ǵ phải họp với hành nữa”. Lúc trước ḿnh ngu nên cứ tin là phải họp hành cho tốt th́ họ xét cho chồng về sớm.

Nay tôi không c̣n ǵ để sợ nữa th́ họ lại để tôi được yên thân.
Tôi bắt đầu tính chuyện vượt biên , mấy mẹ con dắt díu nhau đi t́m đất hứa không biết bao nhiêu lần.

Hết đi từ Nhà Bè, Vũng Tàu, Mỹ Tho đến Rạch Giá, Sóc Trăng nhưng đều không thoát, ở tù cũng mấy lần. Xuống ghe ra biển lại thấy hối hận v́ thương con, chưa thấy thoát mà chỉ thấy chết tới nơi.

Bị bắt tù đày th́ lại càng hối hận hơn v́ các con không có thức ăn, nước uống chỉ có một ca nhỏ. Trong trại chỉ có 1 cái ao tù, ăn cũng đó mà tắm giặt cùng nơi.

Bẩn thỉu không thể tả cho nên trẻ con không bị đau bụng ỉa chảy th́ cũng ghẻ lỡ ghê hồn. Tôi sợ quá đến không dám nghĩ đến đi nữa . Phải cậy nhờ xin đi dạy lại dù biết là nhà giáo chỉ húp cháo thôi.

Nhưng dù sao đi nữa cũng c̣n có chỗ để mua “nhu yếu phẩm”và được “thầu”để bán quà cho học tṛ trong trường.

Thời gian này tạm ổn định, lo cho các con tới trường cũng phải chạy chọt v́ “nhất thân, nh́ thế”của xă hội lúc bấy giờ. Phận ḿnh th́ xong rồi, bạn bè tôi c̣n rất nhiều người có chồng đang tù tội.

Thỉnh thoảng chúng tôi họp nhau để“lá rách nát đùm lá tả tơi”, đứa nào có thứ ǵ cho tù ăn được th́ mang tới gom lại để chia cho những bạn sắp đi thăm.

Trong cái t́nh đó tôi lại thấy được nhiều sự đau khổ mà người vợ tù phải chịu đựng nhục nhằn , không ai có thể chia xẻvới họ.

Chẳng hạn như một chuyện rất thật của một người bạn thân của tôi, chúng tôi đă chia xẻ từng bó rau muống , từng chén nước mắm “muối + nước màu” ………..cho các con ăn. từng viên đường thẻ để mang vào tù cho chồng.

Lại thêm một cô bạn láng giềng may mắn có ông chồng được thả về sau bảy năm tù tội. Những tháng ngày trong lao tù khiến con người cũng thay đổi nhiều lắm, dễ nóng giận và mặc cảm đầy ḿnh.

Một hôm cô bạn tôi được nhà nước cho mua một khúc vải may quần với giá rẻ dành cho các công nhân viên nhà nước. Cô mang về khoe nói là bán đi sẽ lời được sáu ngàn đồng.

Ông chồng lại muốn may để mặc v́ ông ta thấy cũng cần phải có một cái quần mới . Bạn tôi ngần ngại nửa muốn cho chồng may, nửa muốn bán đi để thêm tư tiền lo cho gia đ́nh nên nói với chồng: “Khúc vải này sáu ngàn lận đó anh.”

Chưa nói dứt lời là bạn tôi bị một cái tát tai choáng váng mặt mày, sự việc xảy ra quá sức tưởng tượng của mọi người.

Anh chồng rất hối hận về hành động vũ phu của ḿnh; tuy nhiên anh vẫn đổ cho bạn tôi cái tội “coi cái quần hơn chồng”. Đó là một trong muôn ngàn cảnh ngộ trớ trêu cuả vợ tù cải tạo.

Thắm thoát đă qua 7 năm , lúc này cuộc sống mấy mẹ con tôi đă dễ thở v́ chị em bạn bè ở ngoại quốc bắt đầu gửi tiền về cứu trợ. Tôi được mẹ chồng cho theo đi để bốc mộ Anh.

Tâm trạng tôi thật rối bời và lo sợ liệu bốc lên có phải là Anh không hay lại là mồ của ai khác?!! Trên đường đi cũng không kém gian nan cực khổ như khi đi thăm nuôi tại Kà Tum.
Tôi phải gửi mẹt ôi tại Nghệ Tĩnh để cùng với người cháu đi vào K3 , chỗ họ chôn xác Anh. Đường th́ xa, đất sét trơn trượt , tôi nghĩ đành phải bỏ cuộc v́ hai bàn chân đă sưng rát .

Tôi ngồi xuống bên đường vừa khóc vừa van vái “Anh có linh thiêng xin phù hộ cho em tới nơi để mang anh về gần em và các con”.

Đang gục đầu khấn nguyện ,th́ nghe tiếng xe lọc cọc do một con trâu kéo, trên là các cán bộ đi công tác về. Họ tra hỏi và tôi “thành khẩn khai báo”nên họ cho tôi lên xe quá giang tới tận nơi.

Tôi nhờ người cháu trở lại đón Mẹ tôi trở vào trại ngày hôm sau để bốc mộ. Tôi không thể nào quên cái cảm giác hăi hùng khi được anh cán bộ đưa lên núi, chỗ đó là chỗ để các thân nhân tù lên ở tạm qua đêm v́ không có xe về ngay .

Khổ cho tôi là khi tôi tới nơi th́ chỉ có một ḿnh, có sợ cũng chẳng làm sao hơn được tôi đành cầu cứu nơi các đấng thiêng liêng,

Đức Mẹ, Phật Quan Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn, cầu chồng tôi che chở bảo vệt ôi . Cứ mở mắt to mà van xin cầu nguyện , đâu có dám nhắm mắt mặc dù đă quá mệt mỏi .

Rất may trời bắt đầu tờ mờ sáng là mẹ tôi đă đến nơi . Chúng tôi được cán bộ hướng dẫn đi t́m mộ, may mắn tôi gặp được anh cán bộ người miền Nam rất tốt bụng đă cho phép chúng tôi được gặp những người đă chôn chồng tôi lúc trước.

Lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi mới biết bốc mộ là ǵ và nhất là thấu hiểu được câu nói “cát bụi trở về với cát bụi”. Thịt da đă tan vào với cát, chỉ c̣n bộ xương trắng mà các bạn anh đă từ từ cầm lên từng cái đầu, xương vai, xương cổ, ống tay ống chân, và ngay cả những đốt xương nhỏ họ cũng ṃ t́m cho đủ.

Một sợi dây làm bằng dây thép nhỏ, cái mặt làm bằng kính máy bay có h́nh dáng 2 người đứng bên nhau đă được anh bạn lấy lên trao cho tôi và nói chính chồng tôi đă làm để tặng cho tôi khi nào tôi lên thăm gặp mặt.

Anh đă phải cất giấu bao ngày v́ nếu cán bộ thấy là bị tịch thu ngay. Rất may là có mẹ tôi và người cháu lo lắng lấy rượu rửa xương rồi quấn vào vải , bỏvào trong một cái bị to để chúng tôi mang về.

C̣n tôi ngồi chết cứng với nước mắt sầu tủi , xót thương anh.
Trên đường về mới gặp toán người thăm nuôi. Gặp cô bạn cũng đi với mẹ già, đang chuyển quà từng khúc một, tôi chạy lại đỡ một tay. Khi tôi dắt bà cụ qua một người tù đang cuốc đất dưới ruộng, ngẩn nh́n và khẽ gọi : “Mẹ“.

Tôi quay lại giúp cô bạn c̣n vài giỏ đồ ăn, chúng tôi vừa đi ngang th́ lại nghe anh ta gọi “Em Liễu”. Cô bạn tôi nghe gọi tên ngoảnh mặt lại nh́n và lại bỏ đi luôn.

Đem đồ lên đặt cùng chỗ với bà cụ,chúng tôi lại quay lại trở lại để đem nốt chỗ c̣n lại, tôi bảo cô bạn, có lẽ anh tù kia quen Liễu đấy .

Tôi nghe thấy anh gọi Mẹ lại kêu tên Liễu đó. Chạm mặt nhau rồi mà Liễu vẫn không nhận ra . Tới khi anh ta quên cả sợ cán bộ, chồm lên đường kêu : “Liễu , Anh đây, Tuấn đây mà .”

Lúc đó bà cụ cũng đă trở lại và nhận ra con, cụ khóc ̣a ôm lấy anh tù, c̣n Liễu cũng khóc nhưng la “Không phải anh mà, không phải anh đâu !“

Người chồng yêu quư v́ tháng năm đói khổ phải ăn khoai ḿ nên mặt anh ta biến dạng , quai hàm bạnh ra và nhựa độc của khoai ḿ làm cho tất cả tù nhân đều có cái mặt vuông gần giống nhau cả.

Tôi cũng không cầm được nước mắt , lại nghĩ rằng chắc chồng tôi c̣n sống th́ mặt mũi cũng chỉ như vậy mà thôi.

Từ trại về chỉ có độc nhất một chiếc xe đ̣, mọi người ngồi chật cứng trong xe,c̣n có nhiều người phải đứng bám vào cửa xe rất nguy hiểm. Mẹ con tôi về đến ga Vinh th́ trời đă tối, lại ôm cồng kềnh một cái bị hài cốt của chồng tôi.

Ngồi ở sân ga đợi tàu rất nguy hiểm v́ mẹ con tôi ngơ ngác với xứ lạ quê người . Mẹ tôi phải lấy dây buộc cái bị và cuốn quanh người , chỉ sợ lỡ mất đi th́ khổ lắm.

Tôi hồi hộp sợ hăi c̣n hơn khi đi vượt biên nữa. Tôi đánh liều vào nhà nghỉ mát của nhân viên xe lửa.

Sau một lúc nói chuyện gây cảm t́nh và nhờ có“thủ tục đầu tiên”( xin trả tiền trước) nên mẹ con tôi được vào tạm trú qua đêm yên lành. Sáng hôm sau cũng nhờ có ông quản lư nhà nghỉ đó mà chúng tôi được lên tàu ở trong toa xe của các nhân viên đi nghỉ mát

Tôi phải tin tưởng là chúng tôi đă có ơn trên che chở nên đă mang thoát được bộ xương của chồng tôi về đến nơi đến chốn.

V́ nếu không được ở trong xe đó chắc chắn chúng tôi không thể thoát
khỏi sự khám xét trên tàu mà nếu họ phát giác ra là có xương người là lập tức đuổi chúng tôi xuống giữa rừng hoặc quăng xương đi .

Giờ đây , lâu lâu tôi lại có cơn ác mộng gặp lại cái cảnh mà công an đi sục sạo trên tàu, bắt mở tất cả mọi thứ để khám xét là tôi hét lên bật dậy , mồ hôi ướt đẫm người , sau đó lại nằm xuống với nước mắt trào ra không thể ngăn nổi v́ nhớ thương anh và tủi phận ḿnh đơn độc.

Hiện tại th́ chồng tôi đă được yên nghỉ tại nghĩa trang Thiên Chúa Giáo ở B́nh Dương. Nhưng cũng không biết được bao lâu nữa v́ họ c̣n tính dẹp cả nghĩa trang , mặc dù đó là đất tư mà gia đ́nh tôi đă phải mua bằng những cây vàng lúc họ dẹp nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi , ngay trong thành phốSaigon .

Bốn mẹ con tôi xuống phi trường Dulles vào một buổi tối mưa tầm tă của tháng 6 năm 1994. Được gia đ́nh cô em ra đón, tôi mừng quá nhưng vẫn chưa hết lo sợ, không biết đây là thật hay mơ.

Nỗi ám ảnh bị bốc đi vùng kinh tế mới và sự không nói có, có nói không của nhà nước CS đă khiến tôi mất hết niềm tin. Tôi chỉ c̣n biết cầu Đức Mẹ ban cho tôi một phép lạ.

Chúng tôi cố gắng học hỏi để hoà nhập vào cuộc sống mới ở Mỹ.
Nay các con tôi đă lớn, đă thành đạt và rất hiếu thảo.

Chúng hết ḷng lo lắng, chăm sóc tôi. Tôi thật măn nguyện, nhưng tôi biết tôi không thể ôm giữ chúng măi được. Chúng phải có cuộc sống riêng, hạnh phúc riêng.



Dù biết vậy, nhưng mỗi khi chúng vắng nhà, c̣n lại một ḿnh tôi, tôi lại thấy sợ hăi. Những năm tháng khổ cực, hăi hùng của thời dĩ văng lại kéo đến ám ảnh tôi.

H́nh ảnh chồng tôi lúc oai hùng, mạnh mẽ trong bộ quân phục, lúc rách nát, tảt ơi, thoi thóp trên chơng tre lại chập chờn quanh tôi.

Tôi đă th́ thầm với anh: “Đợi em đi cùng !” Vâng, tôi ước mong được sớm ra đi b́nh yên để được xum họp với chồng tôi. Chúng tôi chỉ mới được hưởng hạnh phúc gia đ́nh có 4 năm 5 tháng. Tôi chắc chồng tôi cũng nuối tiếc như tôi và đang chờ tôi đi với anh.

Chúng tôi phải nối tiếp lại những ngày hạnh phúc ngắn ngủi xa xưa. Tôi không thể sống măi trong cô đơn để run sợ trước những ám ảnh của dĩ văng và những nhung nhớ khôn nguôi người chồng mà tôi măi măi yêu thương như buổi đầu gặp gỡ….. !!!

Trần Thị Thanh Minh.

hoanglan22
03-17-2021, 13:41
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1757924&stc=1&d=1615988441

Tôi viết như một trải nghiệm của riêng tôi trong quá trình giúp em gái tôi lên kế hoạch tìm ra một phương án sở dĩ an toàn và lâu dài cho người anh cả của gia đình chúng tôi, năm nay đi vào lứa tuổi song thất 77, mặc dù anh không mang một chứng bệnh nền nào, ngoại trừ chứng bệnh già nua, lão hóa quá nhanh, sức khỏe yếu hẳn đi tính từng ngày, đi đứng khó khăn, không tự chăm sóc được cho bản thân, phải nhờ người trợ giúp, thêm phần trầm cảm của tuổi xế chiều trong nỗi bể dâu của một gia đình không được đầm ấm...

Để có được một mái ấm an dưỡng tuổi già trên xứ Mỹ, nhất là trong thời kỳ đại dịch coronavirus, khi mà tin tức phần đông ca tử vong vì COVID-19 đến từ các viện dưỡng lão trên khắp nước Mỹ, thì hành trình đi tìm cho ông anh mình một nơi nghỉ dưỡng an toàn còn khó hơn là tìm đường vượt biên của những thập niên 70's.

Ở đây tôi không nói đến tình trạng tài chánh, vì thường tình một người ở Mỹ sau khi đã một đời đi làm đến tuổi về hưu và sau khi con cái đã thành tài lập nghiệp có gia thất riêng thì vợ chồng già còn lại những gì?

Có chăng còn lại một ngôi nhà đã trả hết nợ nần, nhưng căn nhà giờ đây chỉ còn lại hai ông bà già với một khoảng không gian trống vắng không cùng, đầy ắp những kỷ niệm. Còn đâu những tiếng cười đùa trẻ thơ và những bữa cơm gia đình một thời bên nhau... May mắn thay cho những cặp đôi tuổi già, ngoài căn nhà và sổ lương hưu nhất định, còn lại được chút tình già sớm tối có nhau, dựa nhau cùng nắm tay trên bước đường của một cõi đi về...

Ước mơ thật đơn giản phải không bạn? Nhưng đó lại là giấc mơ không bao giờ với tới được của rất đông bạn già đã về hưu trong hội Ái hữu cựu Sĩ quan Không Quân tỵ nạn trên đất Mỹ mà tôi biết, kể cả ông anh tôi...

Sau mấy mươi năm trường chịu đựng v́ con cái và v́ sĩ diện với bà con dòng họ, với bạn bè, với cộng đồng giáo xứ nơi đang sinh sống, để lo tương lai cho các đứa con, giờ đây khi mái đầu đă điểm sương, dáng đi xiêu vẹo, cháu con đề huề, người vợ một đời đầu ấp tay gối lại quay tít một vòng 360 độ, hoàn toàn đổi ý, bỗng coi nhẹ sỉ diện, chỉ muốn sống một ngày cho ra sống mà cả cuộc đời bà không có cơ hội: một mình, tự do, tự tại... không vướng bận một ai mà chuốc thêm muộn phiền. Ích kỷ giờ đã lên ngôi, hay là cơ hội đã đến để đáp trả lại những ẩn tình khúc hận chất chứa trong lòng bấy lâu cho một cuộc tình không như mơ ước...?

Đó có phải là tâm lý chung? Chỉ có hai người trong cuộc mới thấu. Vì đâu nên nỗi đoạn trường? Hai người đã từng đồng cam cọng khổ bước qua những năm tháng dài gian nan khổ ải, những đêm vợ chồng thức trắng đêm để lo cho con cái bị bệnh. Thế mà, khi những ngày tháng gian khổ qua đi, các con giờ đã trưởng thành, ông bà không c̣n phải bận tâm tới cái ăn, cái mặc, nhàn nhă tuổi già bách niên giai lão. Cứ ngỡ rằng ông bà sẽ cùng nắm tay nhau đi trọn hết cuộc đời ô trọc nầy. Nhưng than ôi! hôn nhân của mấy mươi năm trường đă đi vào ngơ cụt... Đành quay lưng ngoảnh mặt làm ngơ với một lư do cứ tưởng như đùa, thật nhẹ tênh: “Có quá nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn” hay "duyên phận đã hết, đành tận nghĩa phu thê"!

Cả thời tuổi trẻ họ sống v́ con, v́ định kiến xă hội, đến khi ở độ tuổi không c̣n trẻ, tóc đã điểm sương, họ mới tự giải thoát ḿnh ra khỏi cuộc hôn nhân không hạnh phúc nầy chăng?

Để giải quyết. Ly thân, nhưng không ly dị...Thân ai nấy lo, đối xử nhau như một kẻ thù. Ôi cũng là nỗi vô tình của kiếp vô thường... Hồi kết của chuyện tình già sao thật buồn thỉu buồn thiu...

Biết đến bao giờ anh tôi mới ngộ ra cơn trầm cảm của giấc mộng Nam Kha, chấp nhận số phận hẩm hiu... Thôi thì níu kéo nhẫn nhịn thêm để làm gì, chắc gì hạnh phúc. Biết tìm cho mình một chút gì thanh thản ở cuối đời để tâm hướng về cõi phục sinh cứu độ... của Lòng Chúa Thương Xót.

“Người ta bảo, vợ chồng già phải có nhau, chăm sóc nhau nhưng anh th́ bất hạnh. Lúc trước, anh cứ nghĩ chỉ cần anh yêu thương T., tảo tần lo cho gia đình th́ sẽ được tha thứ, bỏ qua hết mọi chuyện. Cú sốc này làm anh đau lắm chứ. Có lẽ quăng đời c̣n lại, anh phải biết sống tốt hơn cho bản thân mình, biết chấp nhận số phận" có lần anh tôi tâm sự như vậy trong nước mắt, lần đưa anh ra dạo biển Huntington gần đây. Nghĩ lại thấy thương thương..., thêm lời cầu cho ông anh mình mong được như vậy... Hay cũng chỉ là câu trả lời trong ánh mắt vô thần của ông anh tôi: - "Biết! Nhưng khó lắm. Sao cũng được. Vẫn bình thường. Cho gì ăn nấy...", đã từng lấy đi bao nước mắt của em gái tôi...

Mới đây tình cờ đọc được một bài viết trên mạng xã hội phản ảnh một phần thực tế về sinh hoạt tại một viện dưỡng lão ở quận Cam, California, của một cô gái Mỹ gốc Việt, cô Mary Tran, một người được đào tạo trong lãnh vực "Y Tế & Dịch Vụ Nhân Sinh" (Health & Human Services field). Xin trân trọng lược dịch và đăng lại để làm trải nghiệm cho những ai đang đi tìm nhà dưỡng lão hay viện hưu dưỡng (Nursing Home - Senior Assistance Living) trên đất Mỹ cho người thân, đỡ bàng hoàng. Bài viết có tựa đề:

"The journey to find a Nursing Home"
(Hành trình đi tìm nhà dưỡng lão)

....Tháng trước đây ḿnh có giúp làm một tờ Giấy ủy quyền (Power of Attorney) cho một người thân của bạn mình, đang điều trị tại một bệnh viện địa phương về bịnh tai biến, lý do bệnh viện muốn chuyển người thân bạn mình qua một khu trung tâm nghỉ dưỡng có cơ sở Phục hồi chức năng (Nursing Home - Rehab), để bệnh nhân vừa dưỡng bệnh vừa qua vật lý trị liệu. Tình hình đại dịch COVID-19 như hiện nay, tất cả mọi nơi đều quá tải, không c̣n chỗ trống, nhân viên quản lý bệnh nhân (Case Manager) vẫn chưa tìm được một nơi nào khả dĩ. Thế là bạn mình gọi nhờ tôi giúp đỡ. Tôi hứa sẽ giúp bạn tôi tìm một nhà dưỡng lão tốt. Chưa có kết quả, thì bạn tôi báo tin vui rằng không cần làn phiền tôi nữa, nhân viên sở xã hội của bạn mình (Social worker) đã tìm giúp cho bạn mình một trung tâm Phục hồi chức năng vừa có luôn cơ sở dưỡng lão (Nursing Home - Rehab) tốt, gần bệnh viện, để tiện cho việc đi lại, đưa đón. Mình rất vui và yên tâm vì biết rằng người thân của bạn mình biết được tiếng Anh và c̣n rất tỉnh táo, nên tin chắc là sẽ không một ai có thể ăn hiếp được người thân đó của bạn tôi. Với lại, sau này khi đã phục hồi được một phần chức năng, người thân của bạn tôi cũng sẽ phải chuyển qua sống trong một viện dưỡng lão lâu dài thôi. Vì thế đây coi như một cuộc trải nghiệm...

Nghe bạn nói thế mình chỉ biết khuyên bạn mình nên hết sức cẩn thận, đừng quá vội tin ai trong việc chọn lựa cho người thân mà bạn yêu thương một nhà hưu dưỡng. Bỡi lẽ trong nghề mình quá biết "con quạ nào lại không đen", chẳng qua nó có biết khéo che đậy hay không mà thôi.

Thật vậy, hai ngày sau khi được bạn mình cho biết địa chỉ cơ sở của nhà "Care Home" nầy, ḿnh đã ghé thăm người thân của bạn tôi tiện thể cho bạn tôi ý kiến chuyên môn của mình. Vào thăm, gặp người thân của bạn tôi, ngồi đó, trên một chiếc xe lăn, gục đầu, nửa thức nửa ngủ, lờ đờ. Tôi hỏi người giúp việc ở đây, họ trả lời là bạn ấy từ ngày vào đây ban ngày thường hay ngủ suốt. Mới đầu tôi nghĩ có lẽ ông ta mới từ bệnh viện qua nên chưa quen hơi, với lại uống nhiều loại thuốc mới, có thể chưa quen. Tôi yêu cầu xin họ cho tôi coi lại danh sách thuốc PRN mà y tá đang cho ông ta uống. Cũng nên biết thêm đơn thuốc PRN là chữ viết tắc của "pro re nata" có nghĩa là việc dùng thuốc không theo lịch tŕnh. Thay vào đó, đơn thuốc được thực hiện khi cần thiết. Tôi xem qua danh sách PRN, khám phá ra họ cho bệnh nhân uống tối đa liều thuốc ngủ cho phép, tôi có hỏi bệnh nhân thì người thân của bạn tôi nói là không hề yêu cầu thuốc ngủ, trong khi Y tá một mực nói là có yêu cầu.

Trước khi đi ḿnh lấy điện thoại chụp nhiều h́nh ảnh chung quanh gian pḥng của ông bạn. Hai ngày sau tôi quay lại, thùng rác và rác cá nhân vẫn chưa đổ hay dẹp, tôi gọi Y tá trực hôm đó để khiếu nại, họ đổ thừa là tại có hai loại rác khác nhau, người phụ trách vệ sinh (house keeping) tưởng là rác y tế nên không dọn. Mùi hôi thúi từ đó xông lên nồng nặc.

Còn đồ ăn th́ khỏi phải bàn, 90% món ăn là từ đồ hộp có sẵn, thứ phát chẩn, hoặc là thức ăn đông đá, thịt gà thì cứng và khô như gỗ, đậu đũa (green beans) từ hộp lon ra th́ mặn chát, nguội lạnh, thế mà tụi nhà bếp lại c̣n cắt luôn khẩu phần sữa dinh dưỡng của người già làm mình phải đi căi lộn với họ, vì ḿnh biết chắc một điều là tụi nó giấu sữa Ensure để đem về.

Ngày hôm sau nữa mình lại đến, lần nầy Y tá quên không rửa vết thương và thay băng mới cho vết thương ngã té của ông bạn mình trong lần ngã trước đây bị nhiễm trùng. Trời ạ, vết thương cần thay băng mỗi ngày 2 lần. Thuốc uống cho bệnh nhân th́ một số đã được phân chia sẵn (prepack) trong những túi nylon nhỏ, tụi nó cứ đem cho bệnh nhân uống mà không cần coi lại, v́ dạng thuốc đóng gói sẵn, nên chuyện sai sót thuốc dư thiếu thừa là chuyện b́nh thường, nhưng Y tá không hề kiểm tra lại. Thuốc huyết áp, mém chút nữa người thân của bạn tôi phải uống liều gấp đôi. Tôi khuyên ông khi uống thuốc phải coi chừng, nhưng v́ quá đau nhức và không đủ sức khỏe nên ông cũng không buồn lên tiếng. Ḿnh biết chắc ông bị cho uống thêm liều thuốc ngủ trong mục PRN mà không làm ǵ giúp được ông.

Đỉnh điểm là khi cô nhân viên phụ việc cho Y tá (Nurse Aid) đưa cho ông ly nước để uống thuốc, tôi thấy không bình thường, khi ngửi có mùi rất khó chịu, ḿnh vặn hỏi sao lại đưa nước lấy trong cầu tiêu (rest room) cho bệnh nhân uống, nàng một mực chối. Ḿnh yêu cầu nàng viết giấy xác nhận cho mình lấy mẫu nước để gởi đi phòng lab thí nghiệm, nếu không mình dọa sẽ gọi cảnh sát (state police) và tố giác trung tâm về tội ngược đãi bệnh nhân (neglected patient), tới khi đó nàng mới xin lỗi rối rít và đổ thừa cho nhà bếp đưa, chớ nàng hoàn toàn không biết gì.

Còn nữa, họ cho biết trung tâm có dịch vụ đưa đón chuyên nghiệp (professional transportation), hôm đó ḿnh mới vỡ lẽ chứng kiến bà thư ký phục dịch tại quầy tiếp đón (front desk) lại kiêm luôn tài xế trong dịch vụ nầy. Bỡi khi chứng kiến cảnh bà nầy đưa người già đi khám bệnh về, khi đưa ra khỏi xe, chiếc xe lăn (wheel chair) của ông lão bị vướng vào vạt áo dài đầm xòe của bà tài xế làm cho ông lăo bị lăn cù xuống đất không tài nào đứng lên được nữa, may mà ông lão không hề hấn gì. Vì không kinh nghiệm và không qua khóa huấn luyện chuyên môn nào về "transfer patient" nên bà ta mới mặc chiếc váy dài lê thê như đi dự dạ tiệc, tội nghiệp cho ông lão phải một phen lộn nhào bầm dập. Thấy tình cảnh nầy ḿnh chạy vào gọi người ta ra giúp. Ḿnh chắc chắn là gia đ́nh họ sẽ không hề biết những chuyện thương tâm như thế này.

Ngồi một chút, bỗng tiếng la hét của người già khóc lóc, trộn lẫn tiếng mấy cô nhân viên la hét, mùi hôi khai ở đâu xông lên nồng nặc không thể nào chịu nổi. Ḿnh thừa biết, khi có nhân viên từ tiểu bang (state) xuống kiểm tra thì mọi thứ đều tốt lành, nhưng khi họ rời khỏi th́ mọi thứ đâu cũng vào đó.

May mắn thay cuối cùng mình cũng tìm ra được cho người thân của bạn mình một nhà dưỡng lão tương đối tốt hơn mà theo bản đánh giá của một viện đánh giá độc lập trên bản xếp hạng có điểm khá cao, ở đây có RN (Registered Nurse) và BSN (Bachelor of Science in Nursing) làm việc, chứ không phải chỉ có LPN (Licensed Practical Nurse) như tại trung tâm cũ. Pḥng ốc sạch sẽ không hôi khai. Giường nằm tối tân có gắn máy báo động (sensor), cứ mỗi 2 giờ sẽ gọi báo vào beeper của Y tá trực, sẽ có người đến xem chừng bệnh nhân, trở bên thế nằm và chăm sóc vệ sinh cá nhân cho họ. Thực đơn nhà bếp th́ tương đối phong phú hơn, nhiều món ăn chọn lựa, có đầu bếp chuyên nghiệp lo việc nấu nướng. Nói chung mọi thứ làm bạn yên tâm.

Ḿnh gọi cho bác sĩ phụ trách yêu cầu xin chuyển ông ta đi qua chỗ mới nầy ngay. Hai ngày sau mình ghé thăm ông ta tại nhà dưỡng lão mới nầy, không ngờ đi tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa, ông ta than với mình là ông bị co rút bắp chân (muscle spasm) liên tục nên rất đau nhức không chịu được. Nghe thế mình sinh nghi là có thể ông ta đã không được cho uống đúng thuốc hay bị thay thế (withdrawal), tôi hỏi ông có uống thuốc giảm đau không, ông nói có, ḿnh chờ đúng giờ ông ta được cho uống thuốc, để coi có phải là loại thuốc giảm đau loại tốt Hydrocodone đúng hiệu không? y chang, nó đổi thuốc bằng hiệu Tylenol, mình lại thêm một lần cải vã với Y tá và dọa sẽ tố cáo gian lận, sau đó th́ mọi việc yên ổn, ông không c̣n bị uống thuốc dzỏm nữa. (T́nh trạng Y tá ăn cắp thuốc rất phổ biến ở viện dưỡng lão)

Y tá ở đây làm việc rất máy móc, như câu chuyện về cái giường nằm thông minh được họ xử dụng ở đây, cứ hễ 2 tiếng, bất kể bệnh nhân ngủ hay không, nhân viên trợ y CNA (Certified Nurses Assistant) cứ đè bạn ḿnh ra quay trái quay phải, khiến cho 2 đêm đầu làm cho ông mất ngủ. Bạn tôi kể, con nhỏ trợ y CNA mới đầu thấy anh ta là người Việt tưởng không biết được tiếng Anh, nên vừa ôm điện thoại nói chuyện với bồ vừa giúp ông ta, bạn tôi hỏi lại có phải mày đang nói chuyện với bồ mày không? nó xin lỗi cứ tưởng bạn ḿnh không biết tiếng Anh, sau đó cô gái đổi qua ngôn ngữ khác để nói chuyện. Ḿnh kêu ông bạn mình thu âm gửi cho ḿnh, mình nhờ nhóm bạn đồng nghiệp của mình tại sở làm nghe là tiếng nước nào, sau khi biết là loại tiếng lóng hay tiếng bồi (Creole), mình nhờ nhóm bạn dịch cho mình, họ không dám dịch vì nó quá tục. Ḿnh nói cứ dịch, hôm sau mình trở lại yêu cầu cho gặp Y tá trưởng (Nurse Manager) hay Social Worker, hoặc Administrator để trình bày câu chuyện. Họ tưởng ḿnh là dân làm tiền chuyên nghiệp, kiểu như giả vờ bị ngược đãi (abuse neglected) rồi giả vờ đ̣i đi kiện, để được ăn ở miễn phí, hay hù dọa kiếm tiền. Bà quản lý ở đây hứa hẹn nhiều thứ cho mình, nghĩ thật buồn cười. Lúc đó ḿnh mới nói thật là mình đã từng làm việc trong nghề nên biết, chỉ cần chăm sóc tốt cho bạn tôi là được.

Thời gian 3 tuần cũng qua mau, bạn ḿnh nói đâu ngờ viện dưỡng lão (Nursing Home) trên đất nước văn minh nầy sao mà nó kinh khủng như vậy. Ḿnh cố giải thích cho bạn mình rất nhiều chuyện, không hẳn hễ cứ biết được tiếng Anh, biết luật là không ai ăn hiếp được mình. Ở viện dưỡng lão họ rất tinh vi, họ rành mọi kẽ hở, lơ mơ là ḿnh không làm ǵ được họ đâu.

Ḿnh suy nghĩ rất nhiều trước khi viết bài này. Là một người từng làm việc ở viện dưỡng lão, Hospice (khu chờ chết), Bệnh viện, ḿnh biết người nhà của bệnh nhân luôn phải biết ăn nói nhã nhặn, luôn biết tôn trọng, ḥa nhă với các nhân viên làm việc ở đây. Những ai đă từng gặp ḿnh ở ngoài thì biết ḿnh hiền khô à 😄 Nhưng đối với những vấn nạn như thế nầy thì mình nhất quyết không nhân nhượng.

Sau cùng, dù biết mỗi gia đình, mỗi hoàn cảnh khác nhau. Nhưng nếu bạn thật ḷng yêu thương cha mẹ, anh em và người thân của mình thì xin bạn đừng bao giờ có ý định đưa họ vào nhà dưỡng lão - Vô số nỗi buồn ở Nursing Home!"
(Hết trích)

Một lời khuyên của người trong nghề nghe sao não lòng!

Hay đó cũng là con đường mà mình sẽ chuẩn bị cho đời mình...

"NGÀY SAU SỎI ĐÁ CŨNG CẦN CÓ NHAU" (tcs)

Anre Huynh

hoanglan22
03-20-2021, 18:02
Sáng thứ hai, một buổi sáng b́nh thường như mọi buổi sáng của tuổi về hưu, khoảng 8 giờ ngày 1 tháng 2 Dương Lịch 2021, New Orleans Louisiana, tôi thức giấc… trong cô đơn, nhà cửa vắng tanh v́ bà xă đang ở xa lo công việc. Vào pḥng tắm vừa đánh răng xong, xoay người toan bước ra th́ tôi bỗng bị… rụng xuống sàn nhà như một trái mít nghe đến rầm một tiếng đinh ai nhức óc.

Đầu và ngực tôi đập xuống sàn có lẽ nặng lắm v́ khi mở mắt ra, tôi nh́n thấy cái … bồn cầu tiêu đang nằm song song ngay trước mặt ḿnh, lại c̣n cao hơn ḿnh cả … thước, ngạo nghễ, trắng bóc và … tṛn quay, đang lắc lư trước mặt ḿnh.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1759886&stc=1&d=1616263122


Đù mẹ, mới sáng sớm đă lại có chuyện rồi, tôi lẩm bẩm chửi thề và tự hỏi: “What’s the fuck going on?” Tối qua ḿnh lại uống rượu say quá chăng? Không, tối qua tôi chẳng uống ǵ cả và hôm nay mới sáng sớm chưa có rượu chè ǵ. Ḿnh cũng không bị trợt té. Thế th́ tại sao tôi lại nằm thẳng cẳng như thế này hở trời?

Có lẽ đây là hậu quả của những ngày đi Cali chơi mùa Noel rồi mới về, ăn nhậu nhiều quá chăng? Nhưng về đă hơn tháng rồi, chẳng hề bị rụng, sao bây giờ mới rụng?
Không cần phài suy nghĩ lâu, sống trong thời buổi thiên hạ bị dính Covid rầm rầm, tôi kết luận ngay là ḿnh đă bị dính cúm Tàu. Tôi đă đọc rất nhiều về cúm Tàu để biết một trong những chuyện thường xảy ra cho bệnh nhân khi mới bị nhiểm là mất hết sức lực. (Thực tế th́ chuyện này chỉ xảy ra ở giai đoạn sau khi bị sốt—nhưng tôi chưa hề bị sốt.) Tôi cũng thắc mắc là suốt tháng qua, từ khi đi chơi xa về, tôi đă không đi đâu, không tiếp xúc với ai, thế th́ sao con Cúm Tàu đột nhập vào tôi được? Cũng cần nói thêm là tất cả khứu giác, vị giác, thính giác của tôi vẫn c̣n đầy đủ, những người bị Covid sẽ bị mất hết những thứ này. Nhưng buổi sáng hôm đó, tôi kết luận ngay là ḿnh bị cúm Tàu. Ǵ chớ cúm Covid-19 th́ nhằm nḥ ǵ. Ai sợ, ông đếch sợ. Ông chỉ cần tỉnh dưỡng và cách ly một vài ngày, xông vài phát thật tốt là xong ngay. Nhưng chuyện quan trọng bây giờ là phải ... đứng lên cái đă.

Loay hoay măi một lúc mới vịn cái bồn tắm ngồi lên được và nh́n vào tấm gương trước mặt, tôi giật ḿnh đến thót. Sao mặt mũi tôi tím bầm và … thô bỉ như thế này hở trời?
Một lúc sau, tôi gượng đứng lên được nhưng lại bị rụng xuống sàn ngay phát thứ hai, cú secondary.

Lúc ấy tôi mới khám phá ra là ḿnh chẳng c̣n chút sức lực nào trong người cả. Chuyện này hơi lạ. Nhưng nghĩ kỹ một chút th́ cũng chẳng… lạ chút nào. Bố khỉ, chú mày đă 70 tuổi rồi, già mẹ nó rồi út ơi. Thằng Út ngày xưa của phi đoàn 114 bây giờ đă thành một lăo già. Sinh Lăo Bệnh Tử là chuyện thường, tôi chẳng lấy ǵ làm buồn. Chuyện đáng làm bây giờ là phải làm thế nào để đứng lên đây? Mẹ bố, không đứng được th́ ông đành phải… ḅ thôi.

Nửa tiếng đồng hồ sau, vừa lết vừa ḅ, tôi cũng ṃ được xuống lầu dưới. Ngồi được xuống cái sofa pḥng khách mà tưởng êm ấm như ngồi trên ghế thiên đàng, thở hồng hộc như trâu, và không biết đă ngất đi thêm bao nhiêu lâu nữa.
Khi tỉnh dậy, quên mẹ nó mất là ḿnh đă hết sức, tôi vụt đứng dậy và lại rớt xuống sàn một lần nữa. Nhà dưới tôi là sàn gạch nên thân thể ê ẩm, tôi nằm co quắp. Lần này th́ tôi không c̣n ḅ dậy được, lăn cũng không được, đành nằm luôn dưới sàn nhà. Lầu dưới nhà tối qua đi ngủ tôi đă tắt máy sưởi, trời bên ngoài h́nh như khoảng 40 độ, sàn gạch lại lạnh như băng, tôi run lên bần bật…

Nhà lúc ấy chỉ có ḿnh tôi, tôi biết nếu nằm thêm một lúc nữa th́ có lẽ tôi sẽ chết cóng… Vợ đang ở măi bên Cali, tôi quyết định gọi điện thoại cho thằng con trai. (Đáng lẽ phải gọi cho 911, nhưng nghĩ không ra) Nhưng khốn nạn, chẳng biết cái điện thoại bị rớt chỗ nào mất tiêu, kiếm măi không ra. May quá, không biết một lúc nào đó, chuông điện thoại tôi reo. Th́ ra nó nằm lọt tuốt dưới đáy cái sofa trước mặt tôi…
Tôi không c̣n nhớ ḿnh đă gọi cho thằng con trai như thế nào, ra sao, nhưng giật ḿnh tỉnh dậy ra th́ đă 11 giờ đêm, đang nằm trong ICU nhà thương Ochsner, chung quanh toàn là đủ thứ ống Ni-lông, từ ống Oxygen cho tới ống máu, ống IV, toàn ống là ống. Thằng con trai tôi vẫn c̣n ngoan ngoản ngồi bên cạnh chờ bố, đang chơi với cái iphone. Nó mừng rỡ nh́n tôi nói:
-Con tới trễ chừng nửa tiếng th́ bố chắc đi rồi… Sao bố không gọi 911?
-Bố bị Covid phải không con?
-No, your Covid test is negative – You got something much, much more serious than that, Daddy.

Nghe như thế th́ biết th́ biết như thế, nhưng đầu óc tôi lúc ấy hoàn toàn không c̣n cảm nhận, không hiểu được ra ǵ cả. Rồi chẳng bao lâu lại mê đi, rồi lại tỉnh dậy rồi lại mê đi cho đến ngày hôm sau mới nói chuyện được với bác sĩ. Bác sĩ chỉ vắn tắt cho biết, mày bị ung thư, nhưng tụi tao vẫn c̣n chờ đợi kết quả thử nghiệm…
Vợ tôi hôm đó cũng đă khẩn cấp bay từ Cali về, hai người chỉ biết ngồi tâm sự, bàn những chuyện cần phải làm, nhưng tuyệt nhiên, không ai than trách số mạng. Trời cho, trời lấy, chẳng có ǵ phải thắc mắc buồn phiền ở đây.

Thêm vài ngày nữa, tỉnh táo hơn, nằm trong nhà thương có nhiều th́ giờ, tôi bắt đầu suy nghĩ về những ǵ xảy ra. Và càng suy nghĩ những chi tiết th́ tôi càng thấy giật ḿnh. Việc tôi nằm ở trong cái ICU này không phải là một chuyện mới xảy ra một sớm một chiều mà dấu hiệu đă có từ cách đây mấy năm mà tôi không thèm để ư đến. Tôi xin viết lại để chia sẽ với những ai ở lứa tuổi trên dưới 70 như tôi.

Hai: Những dấu hiệu ngầm báo trước mà tôi không thèm … thấy
1/ Cách đây khoảng chừng 3 năm, mặt tôi bỗng bị nổi lên những đốm đen trên má, ban đầu nhỏ nhưng sau lớn dần như đồng xu. Cho rằng đây là dấu hiệu của tuổi già, tôi phớt tỉnh.

2/ Khoảng 2 năm trở lại đây, tôi thấy trong người khá mệt mơi và bắt đầu ngủ càng ngày càng nhiều. Có ngày tôi ngủ đến 10, 12 tiếng, chưa kể ngủ trưa, ngủ vặt. Tôi nghĩ bởi ḿnh đă lớn tuổi, lại hay ăn nhậu hay làm việc nhiều quá, nên chẳng quan tâm lắm. Tôi bắt đầu bớt ăn nhậu lại, nhưng t́nh h́nh chẳng khá hơn ǵ.

3/ Đầu óc tôi thấy không c̣n minh mẫn, không c̣n trí sáng tạo như ngày xưa. Có lẽ đó là lư do tôi quyết định về hưu hồi đầu năm ngoái.

4/ Tôi rất dễ cảm thấy lạnh. Trong sở tôi, ai bước vào văn pḥng tôi cũng chê nóng v́ tôi để nhiệt độ cao mà vẫn phải mặc thêm áo khoác.

5/ Thân thể cảm thấy bị ngứa ngáy nhiều chỗ, nhất là sau lưng…

6/ Quan trọng hơn cả, những tháng sau nay, mặt mũi tôi bắt đầu lần lần thấy biến dạng, xưng lên những thớ thịt hai bên má và dưới cổ, có hạch ở nách và dưới háng….

7/ Hay bị chảy nước mắt và mắt cảm thấy bị mờ, ngứa ngáy. Đi khám mắt, bác sĩ chỉ cho thuốc uống.
Đây toàn là những dấu hiệu không tốt, và nếu cẩn thận, một người sẽ đi hỏi bác sĩ. Dĩ nhiên là tôi có hỏi bác sĩ của tôi, một thanh niên mới ra trường, kinh nghiệm không biết có bao nhiêu nhưng đă mở pḥng mạch hốt thuốc đếm tiền. Hắn chỉ lắc đầu bảo, không có ǵ quan trọng. Mẹ, bác sĩ đă nói thế th́ ông việc ǵ phải lo.
Cho đến những ngày hôm nay…

Ba: Những ǵ tôi đă gây ra cho chính tôi
Thành thật mà nói, dĩ nhiên là tôi cũng đóng góp một phần không nhỏ cho sự suy sụp sức khỏe của ḿnh. Trước hết, ai cũng biết, tôi bắt đầu biết ăn nhậu từ hồi chưa đi lính. Vào lính, nhậu dữ hơn. Qua Mỹ, nhậu tiếp. Những năm gần đây, tôi bớt uống đi nhiều, nhưng mỗi ngày cũng phải chơi vài chai bia vân vân.
Có nhiều th́ giờ ngồi coi lại hồ sơ bệnh t́nh và của tôi, nhất là phân tích những kết quả thử máu, tôi ngạc nhiên nhận ra vài điều sau đây:

1/ Số lượng soldium (muối) trong máu quá thấp: Cách đây khoảng 20 năm, v́ bị áp huyết hơi cao, nên tôi đă cử ăn mặn tối đa. Tôi không c̣n nhớ ḿnh đă cử như thế nào, nhưng h́nh như đă mấy chục năm qua, tôi c̣n nh́n thấy một hủ muối nào trong nhà nữa.

2/ Ăn Chay: Khoảng hơn 3 năm nay, khi nh́n thấy những người làm việc trong hăng tôi càng ngày bụng càng bự, đứng gần chúng nó, tôi có cảm tưởng như ḿnh đứng gần cái thùng tô-nô. Thế là tôi đâm hoảng, không muốn như chúng nó nên quyết định ăn chay. Thay v́ ăn uống 3 bữa như thiên hạ, tôi chỉ rút xuống chỉ c̣n ăn 1 bữa ăn chính. Sáng sớm thức dậy, tôi chỉ chơi một ly cà phê, buổi trưa không ăn ǵ và buổi tối th́ ăn một bữa thịnh soạn với rượu bia đầy đủ.

3/ Tự uống Aspirine để ngừa đột quỵ: Đă từ hơn 20 năm nay, nghe lời ai hay đọc ở đâu không biết, tôi uống mỗi ngày 31 mg Aspirine. Cách đây 2 năm, tôi tăng lên 238 mg (tức gấp 3 lần). Cho đến năm ngoái, tự dưng tôi bị chảy máu cam, chảy hoài và chảy nhiều lần. Tôi liền ngưng uống Aspirine th́ đồng thời cũng hết bị chảy máu cam.

4/ Không bao giờ coi trọng việc ăn uống. Xuất thân là một người lính, tôi luôn luôn coi thường chuyện ăn uống. Có khi cả tuần lễ, chỉ uống bia chứ không ăn. Khi nào đói quá, quơ đại vài miếng bánh, miếng chip, ăn cũng xong. Nếu cần đổi một bữa ăn để lấy một chầu nhậu, tôi sẵn sàng liền. Lính mà em.

5/ Tôi không biết ḿnh đă bị thiếu dinh dưởng trầm trọng, từ thiếu máu, muối, ít chất Albumin trong gan, vân vân. Tôi, nói một cách khác, suốt mấy năm nay, đă tự nhịn đói đến … gần chết mà không hay.

6/ Tập thể thao. Tôi không bao giờ tập thể thao nhưng mỗi ngày vận động, làm việc nhà, cắt cỏ vân vân cho đủ một tiếng đồng hồ. Chuyện này không đến nỗi tệ.
Cũng có một điều cần nói là sau 4 tuần lễ trong nhà thương, họ chạy cho tôi hơn vài chục cái khám nghiệm, đủ mọi thứ scan, ultra sound, bone marrow, thử máu, đủ cả, bác sĩ xác nhận bao tử, thận của tôi c̣n rất tốt, không hề bị tiểu đường hay một thứ bệnh ǵ. Tôi không phải là thầy thuốc nên không biết những ǵ tôi làm đă gây tai hại cho sức khỏe của tôi như thế nào. Và cũng đếch có th́ giờ để bàn thêm ở đây, nhưng xin viết lại để anh em coi cho vui.

Bốn: Vài câu chuyện kể lại cho vui

Dĩ nhiên là trong cuộc đời ḿnh, chuyến đi nào thường cũng để lại nhiều kỹ niệm. Chuyến đi vô nhà thương vừa rồi tôi cũng có vài chuyện đáng kể lại cho vui.

1/ You can die any moment now… (Lời bác sĩ)
Sau khi được đưa từ ICU xuống pḥng bệnh, một buổi sáng Chủ nhật, tôi nhớ hôm đó trời ở Texas bắt đầu bị băo tuyết, tôi đang ngồi nghĩ đến bạn bè bên đó đang bị cúp điện, sống chết không biết thế nào th́ khoảng 8 giờ, ông bác sĩ có lẽ là trưởng ca trực ngày hôm đó và một phụ tá bước vào pḥng tôi, tay cẩm một sấp hồ sơ, mặt mày coi nghiêm trọng lắm.
Ông bác sĩ ngồi xuống giường tôi rồi buông liền một câu xanh dờn:
-Mr. Le, xin thông báo cho ông biết là ông đă được chẩn bệnh với Advanced lung cancer. You can die anytime now...
Mới nghe qua, tôi tưởng ḿnh nghe lộn. Nhưng ngài bác sĩ lập lại như thế. Ngay lúc ấy, tôi c̣n đủ sáng suốt để biết rằng một ông bác sĩ Mỹ trực một nhà thương to lớn như thế này không bao giờ có th́ giờ rảnh để tới đây ngồi nói đùa với tôi một câu chuyện quan trọng như vậy.
My death sentence has just been written in the sky, and I know it... Tôi nhủ thầm trong ḷng ḿnh như thế. (Sau này xuất viện, tôi biết tôi được chẩn bệnh không bị ung thư phổi.)
Tôi nhớ măi, lúc ấy nghe như thế và nh́n qua cửa sổ nhà thương, tôi thấy như linh hồn ḿnh như sắp sửa bay ra khỏi cái giường bệnh nơi với những cái ống nhựa đang dính chằng chịt vào người tôi, bay ra khỏi cái chốn ngục tù tăm tối của thế gian này, bay tuốt lên trời cao, ở một chỗ nào đó thanh vắng hơn, yên b́nh hơn, tự do thoải mái hơn chỗ tôi đang ở. Mẹ, làm người khổ thật.

Ở giây phút bi thảm nhất của cuộc đời đó, tôi ngạc nhiên khi thấy ḷng ḿnh tự nhiên trở nên b́nh thản và thanh thản vô cùng, chẳng thấy có ǵ phải tiếc nối cả. Dù cả một cuộc đời làm lụng hy sinh cho gia đ́nh, tuổi trẻ dâng trọn cho tổ quốc, mới được về hưu có mấy tháng, chưa kịp hưởng ǵ đă phải tất tả ra đi, tôi chẳng thấy buồn phiền tiếc nuối ǵ cả. Trước sau ǵ rồi ai cũng phải ra đi thôi. Đi sớm cũng vậy mà đi sau cũng vậy, có ở lại thêm vài chục năm chưa biết cũng sẽ được cái ǵ.

Nhưng tự nhiên, tôi nghĩ đến một điều làm cho tôi cảm thấy đau buồn quá đổi. Đau buồn đến khóc được. Đó là, tôi tự hỏi, suốt đời ḿnh, không biết ḿnh đă làm được cho bao nhiêu người sung sướng? Hoặc đau đớn hơn cả, ḿnh đă làm cho bao nhiêu người đau khổ? Một lời ḿnh nói ra không cần phải nói, một câu chửi thề không cần phải chửi, một lời phê b́nh không cần thiết, tôi đă làm cho bao nhiêu người bực tức, đau khổ?
Quăng đời 70 năm từ lúc lọt ḷng mẹ cho đến ngày hôm nay chạy xẹt qua thật nhanh như một ánh chớp. Những ngày thơ ấu làm khổ cha mẹ anh em, vào trường học làm khổ thầy giáo bạn bè, đi lính th́ vô kỷ luật, vân vân... Tôi đă làm một người lính... không b́nh thường chút nào, gây phiền toái rắc rối cho không biết bao nhiêu người.
Suốt đời tôi, tôi đă nói được bao nhiêu lần những lời nói ngọt ngào êm ái ngay cả với vợ con, với người thân, với anh em bạn bè? Miệng tôi đă nhả được bao nhiêu cành hoa, bao nhiêu hương thơm, bao nhiêu lời hay ư đẹp, bao nhiều lời khen tặng cho đời được tươi đẹp hơn, hay chỉ mở miệng ra là văng tục chửi thề, phun cay đắng hận thù và sự chia rẻ làm cho mọi người vốn đă đau khổ lại càng đau khổ thêm?
Ngay lúc ấy, tôi muốn quỳ ngay xuống đất để xin tạ tội với tất cả mọi người mà tôi đă làm cho họ buồn bực hay đau khổ trong suốt đời tôi, từ những người thân thiết như vợ con, anh chị em trong nhà cho đến bạn bè bằng hữu. Xin tất cả hăy tha thứ cho tôi, để tôi được thoải mái và thanh thản ra đi, ḷng không vướng bận ǵ.

Một lúc sau, ông bác sĩ lại hỏi tôi, nếu tôi bị trường hợp... bất ngờ, hỏi tôi có cho phép nhà thương rút ống hay chữa trị bằng mọi cách? Tôi đă tính quyết định cho họ rút ống đi, nhưng chợt nhớ ra người vợ ở nhà, tôi bảo chuyện đó để vợ tôi lát nữa sẽ vào đây quyết định. Tôi đă quyết định sẽ từ từ tŕnh bày với nàng mọi chuyện khi nàng vào đây.
Ông bác sĩ bắt tay, để lại tờ giấy... rút ống trên giường, chúc tôi may mắn.

Tôi liền bốc điện thoại gọi cho hai đứa con thân yêu, báo cho chúng nó biết rằng bố chúng nó sẽ ra đi. Tôi chậm răi và b́nh thản trăn trối cho từng đứa một, vắn tắt dặn ḍ những ǵ muốn nói, giọng đều đều, không hề xúc động, b́nh thản và chịu đựng, như ngày xưa lái tàu bay, sau những trận đánh đẫm máu, gọi máy về nhà báo cáo kết quả, những làng mạc bị thiêu hủy, những xác người cháy đen nằm đầy dẫy trên núi rừng Trường Sơn. Hai t́nh trạng, hai khoảng đời khác biệt, nhưng mầm móng và h́nh ảnh buồn thảm của những sự đau thương chết chóc chia ĺa chẳng khác nhau chút nào. Một lúc nào đó, các con tôi khóc rống lên trong đường giây, nghe chịu không được.

Rồi vợ tôi vào, câu chuyện trở nên hơi phức tạp hơn và rất nhiều xúc động, nhiều cảm t́nh và nước mắt nhưng rồi cũng xong. Chúng tôi đồng ư ở một quyết định chung.
Nhưng cuối cùng th́ tôi vẫn... không chịu chết. Ra khỏi nhà thương 3 lần, lại bị lôi cổ nhập viện vào pḥng cấp cứu 3 lần v́ xuất huyết không cầm được. Lần cuối cùng, nếu trễ nửa tiếng đồng hồ th́ tôi đă được đưa thẳng xuống nhà xác thay v́ ICU. Đây là lời bác sĩ nói, tôi không… chế biến.
Bây giờ tôi đă về nhà được gần 2 tuần, đang xạ trị và thấy càng ngày càng khỏe ra như trâu.

2/ I’m not a brave man
Một đêm nọ, một bà y tá tới đổi máu và chích thuốc cho tôi. Nh́n những ống kim ống ni-lon chằng chịt quanh ḿnh, tôi lắc đầu ngao ngán than: “You know, I’m not a very brave man. This stuff scares me …”
Tôi nói là nói cho vui vậy thôi trong một giây phút ngă ḷng chán nán, nào ngờ, bà y tá quay lại nh́n tôi, nghiêm mặt nói: “Mr. Le, everybody here thinks you’re a very brave man.”
“Wow, how is that?”
“You have conducted yourself perfectly in this hospital. You are suffering tremendously, yet you take it bravely, silently and gracefully. You always have that beautiful and confident smile on your face. We are supposed to confort you, but it’s you that confort us, cheer us up. Thank you Mr. Le.”
Thành thật mà nói, nghe như thế th́ ḷng ḿnh thấy vui hẳn lên. Không phải riêng ǵ tôi nhưng bất cứ ai đă từng mắc áo lính đều phải học để biết… chấp nhận thương đau. Mẹ, nếu chết th́ đành phải chết chứ làm đếch ǵ mà phải nhăn nhó đau khổ, làm mất cái hào khí của người lính đi, phải không các bạn? Tôi hănh diện rằng ḿnh vẫn c̣n có chút máu lính trong người và hành xử như một người lính của QLVNCH trong một cơn thất cơ lỡ vận.

3/ Nhớ lại một bài thơ cũ làm năm 2012
V́ không biết làm thơ nên tôi rất sợ thơ, nhưng lâu lâu nổi hứng cũng làm đại một bài. Năm 2012, nhân việc thiên hạ bàn chuyện “Ăn Cơm Hay Ăn Phở” trong một bàn nhậu, tôi nổi hứng làm đại một bài chọc phá thiên hạ cho vui. Bài thơ mới đầu là ăn phở, nhưng từ từ lại … biến thái trở thành chuyện nhậu nhẹt với Diêm Vương dưới âm phủ.
Một đêm trong nhà thương, tôi giật ḿnh thức dậy v́ không thở được. Không hiểu tại sao, tất cả những ống ni-lông ống Oxy và IV của tôi vẫn đầy đủ nhưng tôi không thể nào thở được. Tôi ngộp thở muốn chết, tôi vùng vẫy lăn lộn, muốn bấm máy gọi y tá nhưng không gọi được, đầu óc trở nên xây xẩm rồi ngất lịm đi.

Và tôi thấy hồn ḿnh bay khỏi xác, bay xuống dưới âm phủ thật. (Tôi phải xuống âm phủ v́ chẳng ai cho một thằng du côn mất dạy như tôi vào Thiên Đàng—đành chịu thôi) Và xuống âm phủ th́ nhất định phải gặp Diêm Vương. Nhưng gặp Diêm Vương rồi lại được trở về mới là hay…
Không biết bao lâu sau đó, tôi giật ḿnh tỉnh giấc thấy thiên hạ bu quanh ḿnh đông như kiến, chỉ chỏ nói năng tùm lum. Tôi đếch có th́ giờ để t́m hiểu tại sao, nhưng tôi biết tôi vừa thoát chết. Và tôi nhớ ngay đến bài thơ “Ăn Phở” tôi làm năm 2012 như sau:

Ăn cơm hay ăn phở?

Đầu năm mới làm bài thơ ... con cóc
Chuyện ăn cơm, ăn phở thứ nào ngon?
Thiên hạ người muốn ăn kẻ bảo đừng
Có anh c̣n sợ cơm nhà bị hàng xóm... bứng

Lạy Thượng Đế con xin người tha thứ
Phần con, cơm khê, cơm nhảo, con đều... đớp ráo
Ra đường gặp phở con cũng... chơi luôn.
Hủ tíu Mỹ Tho ư? Sức mấy con từ
Ḿ Vịt t́m là món con khoái khẩu
Ếch xào lăn, khỏi nói nhậu tới chiều
Càng cua rang muối càng nhai càng nhớ đến:
Cặp... mông đít em cắn măi, sao ngon được như vầy?

Ham Bơ Gơ Mỹ ai chê xin để đấy
Tóc vàng mắt xanh, “Thù dân tộc” con đành phải trả
Su-Shi uống với Sa-Kê con sẽ ... “Đoàn kết Đại Đông Á”
Jambon Pháp thịt trắng tươi thơm phức, ngu sao chẳng vồ?

Đời người ngắn ngủi làm con phải ằng-gioi
Ai cười con chịu ai chê con cũng cười
Nhưng có vài thứ con không bao giờ đụng tới:
Một là vợ bạn, hai bà con máu mủ,
Ba là phụ nữ tuổi con cháu ḿnh...
Được dâng hiến con lắc đầu... bỏ chạy

Mai mốt ngủm, xuống đáy tầng địa ngục
(Trời đất nào dung một thằng quỷ như con?)
Gặp Diêm Vương hắn chỉ mặt quát lớn:
“Thằng quỷ sống, sao giờ này mới xuống?”

Con chẳng hăi quạt liền, “Mẹ, vừa thôi bố,
Cũng đều là ... quỷ, sao mày nở ép nhau?
Kiếm chai rượu ḿnh ngồi đây cạn láng
Nói thật với mi tao chẳng hám Thiên đàng,
Bởi trên đó toàn Cha Cố Bà Sơ, người đúng đắn
Mặt mày táo bón, bộ tịch nghiêm trang coi mà thấy nản,
Ăn mặc kín bưng chẳng cho ai xem tí... vú chút đùi
Uống toàn nước lạnh, hay cô ca hay cà phê sữa đá
Tao đây bợm rượu làm sao mà sống nổi?

Tao thà xuống địa ngục với mi
Bởi nơi đây hảo hán bạn bè đầy đủ cả,
Toàn những thằng trời đánh phải.... đứng xa
Những thằng ngày xưa vá trời lấp biển
Áo lính giày sô ngang dọc bốn phương trời
Nhưng nửa đường gẫy cánh dù đại bàng cũng ngă
Thành không giữ được, gạt nước mắt, lời thề xưa đành bỏ
Thằng chết thảm, thằng vào tù, thằng bỏ chạy
Uất hận cháy con tim và linh hồn ngập máu
Thôi đành “Làm Quỷ Nước Nam” kể từ ngày tháng đó...
Mi Quỷ nhà trời, tao Quỷ nước Nam, ḿnh cùng đều là quỷ
Thôi uống đi cha đừng giở tṛ lư sự...”

Diêm vương nghe nói liền bùi ngùi sa lệ,
Hắn vỗ vai con “Này thằng quỷ nước Nam,
Năm 75 địa ngục tao bỗng rộn ràng,
Dân lính miền Nam tự dưng ào đổ xuống
Chết trong ngục tù, chết trên biển cả đại dương...
Chết vùng kinh tế mới, chết v́ thiếu ăn, chết bờ chết bụi
Những người thảm tử chết oan mắt không thể nhắm
Chuyện tang thương tao đâu biết, bây giờ mi mới nói,
Cho tao xin lỗi đă làm mi nổi nóng
Thôi bây giờ mi có muốn chi không?”

“Lỗi phải mẹ ǵ vểnh tai nghe tao nói
Tao muốn mi lên trở lại trần thế
Diệt hết loài Cộng Phỉ cho tao
Thằng Hồ thằng Duẫn chết trốn nơi nao?
Và luôn cả thằng cẩu Kỳ khốn nạn
Chỉ cho tao, tao đái vào mặt chúng”

Diêm Vương đưa con cuốn sổ miệng cười cười:
“Chuyện nhỏ cưng ơi, đây này mày sẽ thấy
Cộng Phỉ sắp tàn rồi sổ sách có ghi đây
C̣n bọn thằng Hồ tụi Cộng Sản ác ôn
Tao nhốt hết dưới hầm phân mày ỉa đái
Thôi uống đi cha để rồi cho tao hỏi
Tại sao trần thế có cơm mà c̣n hay mê phở?”

Con làm ngụm rượu rồi khà ra một phát:
“Mẹ, quỷ nhà trời sao hiểu được bọn tao?
Cơm ăn hoài phải đổi món chớ sao
Không những Phở ngon nhưng c̣n nhiều thứ khác...”

Diêm vương ngắt lời và chắp tay mà lạy:
“Con lạy ông, xin ông đừng nói nữa
Làm con thèm chắc bỏ địa ngục theo ông
Ông quả đúng là một thằng quỷ sống...”

Quỷ sống (mầm non thi sĩ) Trường Sơn Lê Xuân Nhị
Xuân 2012

Gần chục năm sau, nhớ lại bài thơ, thấy… hay hay, viết lại chia sẽ cho anh chị em coi. Một điều quan trọng, tâm hồn tôi ngày xưa thế nào th́ bây giờ cũng y như vậy, chẳng thay đổi chút nào. Ai biết đời đổi thay, sẽ không bao giờ thay đổi.

Kết luận
Đời người, Sinh Lăo Bệnh Tử là lẽ thường, mỗi ngày có hàng trăm ngàn người chết trên thế giới, chết thêm một thằng dở hơi như tôi cũng chẳng có ǵ quan trọng. Tôi viết lại những gịng này v́ bây giờ có nhiều th́ giờ để nh́n lại cuộc đời ḿnh. Và nh́n đến đâu th́ tôi thấy ḿnh mang nợ tới đó. Nợ công ơn sinh thành dưỡng dục của song thân, nợ công cha chữ thầy, nợ sông nợ núi, nợ những người lính QLVNCH đă chết cho tôi được sống, nợ bạn bè bằng hữu, nợ tha nhân, vân vân. Nợ tiền bạc có thể trả được, nhưng nợ ân t́nh th́ khó mà trả lắm, chỉ có chết mới đem theo được mà thôi…
Đă trải qua một lần ở ngưởng cửa tử sinh và nh́n thấy được cái phù du mong manh của kiếp người, tôi mới thấy biết ơn vợ con, anh em ruột thịt trong nhà. Những chuyện này b́nh thường tôi không nh́n thấy, nhưng khi hữu sự, mới thấy đó là những món quà vô giá mà trời ban cho tôi. Những giọt nước mắt thổn thức và đau đớn của người vợ hiền, những cái nh́n lo sợ của con cái, những chia sẻ ngọt ngào của anh em ruột thịt trong nhà, đă làm cho ḷng tôi rúng động. Rồi c̣n bạn bè xa gần nữa. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng ḿnh đă làm ǵ xứng đáng đê được quư thương như thế…
Thôi th́ xin quỳ xuống đất mà lạy tạ tất cả.
Nhắc tới bạn bè, từ bạn học La San ngày xưa c̣n bé cho đến bạn bè anh em trong phi đoàn ngày xưa, bạn lính, bạn trong những hội ái hữu, bạn trong phong trào tranh đấu, bạn văn, bạn ăn nhậu bây giờ, bỗng cảm thấy nhớ và thương quá họ quá. Tôi chí t́nh với người ta như thế nào th́ tôi chưa biết rơ, nhưng tôi thấy anh em bạn bè chí t́nh với tôi quá. Từ ngày tôi ngă bệnh, đă không biết có bao nhiêu email, bao nhiêu lời nhắn gởi nồng nàn thân thiết đến với tôi. Tôi đọc và cảm động lắm, nhưng chưa có dịp trả lời.
Nhân bài này, tôi xin gởi đi khắp nơi để cám ơn tất cả các bạn bè thân mến xa gần của tôi. Những tấm thịnh t́nh này, tôi nguyện khắc cốt ghi tên. Tôi hiện c̣n mệt lắm, xin đừng gọi điện thoại, nhưng tôi có thể đọc mail, dù chưa thể trả lời được…

Văn Bút Nam Hoa Kỳ ở Houston sắp long trọng tổ chức họp mặt bầu ban chấp hành mới ngày 13 tháng 3 này, nghe vui quá nhưng tôi đang làm Xạ Trị, không đi được, đành xin kiếu. Xin uống dùm tôi vài hớp rượu cho tôi đỡ thèm, chửi thề dùm tôi vài tiếng cho tôi đỡ nhớ, và cuối cùng, hăy cười lên khằng khặc để nhớ đến nhau. Chúc anh chị em vui vẻ và hẹn lần sau.

3/12/2021
Today is a good day to be alive…
Trường Sơn Lê Xuân Nhị

hoanglan22
04-24-2021, 01:18
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=1779166&stc=1&d=1619227065

Trí nhớ của tôi thường bội bạc. Hoặc thiên vị. Trong cuộc sống, có biết bao nhiêu sự kiện đă ghi sâu vào kư ức của tôi. Và cũng vô số sự kiện khác trôi qua đời tôi như nước trôi đầu vịt, không để lại dấu vết ǵ. Lại có những chi tiết tôi cho là đáng nhớ, chẳng hạn, khi đă khôn lớn, lần đầu tiên cầm vô – lăng lái chiếc xe hơi, nhưng tôi không thể nào nhớ được đấy là xe hiệu ǵ, đi đâu, lúc nào, đi với ai, với mục đích ǵ. Trong khi đó, kư ức về người đàn bà thành phố lỡ bước vào một nơi rừng rú lại thường trở lại với tôi rất rơ nét.

Chiều nay, một chiều cuối năm, ngồi một ḿnh bên tách trà quên uống đă nguội lạnh, tôi lẩn thẩn ôn lại những ngày qua, và h́nh ảnh người đàn bà ấy lại nổi bật kéo theo nhiều chuỗi hồi ức khác tưởng đâu đă hoàn toàn bị quên lăng.

Chuyện xẩy ra cách đây hơn nửa thế kỷ.

Tôi thích núi rừng. Có lẽ từ thuở nhỏ, nhỏ lắm, thời thơ ấu, tôi sống tại một thành phố rất trẻ, rất hoang sơ, rất rừng rú. Núi rừng in đậm vào tâm hồn tôi khi c̣n là một trang giấy trắng. Cây cối, thác ghềnh. Con thỏ rừng, con chồn, con sóc, con hươu, con nai, con heo rừng, con gà rừng, con khỉ … sống lẫn lộn với người – người Việt Nam như tôi, và khá nhiều người thuộc dân tộc thiểu số mà trước kia gọi là người Thượng. Và nhiều thứ khác nữa chứ. Tiếng suối reo, tiếng chim kêu vượn hú, tiếng cọp gầm. Và những trận mưa rừng xoá nhoà trời đất.

Đặc biệt là sương mù. Những buổi sáng sương mù lấp kín nhà sàn nằm cheo leo trên những vách núi, sườn đồi, những thung lũng, những mặt hồ, những hố sâu. Có khi sương mù phủ gần hết những trái đồi thấp, chỉ chừa lại đỉnh. Tưởng như sương mù là biển cả mênh mông, đỉnh đồi là những ḥn cù lao bé nhỏ, lẻ loi.

Lớn lên, cuộc sống kéo tôi ra khỏi núi rừng, ở toàn những nơi phồn hoa đô hội. Nhà cửa chật chội, chi chít; xe cộ rộn ràng, náo động; dân cư ồn ào, chen chúc. Và bụi bặm. Và mải mê tranh sống. Nhiều lúc tôi tưởng tôi đă đánh mất tôi. Nhiều khi quên quá khứ. Tôi thử ḍ xét ḷng ḿnh – nếu cuộc sống cho phép, nghĩa là có công ăn việc làm như nhau, th́ thích sống ở đâu hơn. Rừng núi hay đô thị? Cũng có chút phân vân, tôi chọn núi rừng.

Khi có lệnh động viên, vào trường Vơ Bị Thủ Đức, tôi vẫn thích được đi huấn luyện quân sự tại những băi xa, càng xa càng tốt, hơn là quanh quẩn trong hội trường, trong pḥng học, học những môn như chiến tranh tâm lư, chiến tranh chính trị, tháo gỡ và lắp ráp các loại vũ khí, quân xa, binh thư, vân vân. Đi tới đồi 18 trong vùng quận Thủ Đức, đi G̣ Dưa, đi Tân Vạn, hay có lần được đi di hành xa, cuốc bộ, nón sắt trên đầu, súng trên vai, ba lô nặng trên lưng, đến tận vùng Dĩ An, Biên Ḥa. Mệt nhoài mà thích. Không có rừng núi, nhưng thay vào đó, cũng được gặp những ngọn đồi thấp, những con đường lên lên, xuống xuống, những truông, những trảng, và cây cối tràn lan.

Một hôm, Tết sắp tới, trên băi tập bắn súng đại liên, tôi lân la gợi chuyện với một sỉ quan huấn luyện:
“Thưa Thiếu úy, ngày mai là Ba Mươi Tết rồi. Được nghỉ không, thưa Thiếu úy?”
“Không.”

“Mai học ở hội trường hay đi băi?”
“Đi băi.”

“Đi băi nào? Có xa không, thưa Thiếu uư?

Anh ta nh́n tôi, hơi gắt:
“Anh hỏi để làm ǵ?”

Tôi đang lúng túng t́m câu trả lời th́ vị si quan đó, trẻ tuổi hơn tôi nhiều, lập nghiêm:
“Nhà binh kỷ luật sắt. Có nhiều thứ cần phải bảo mật. Không được hỏi vớ vẩn.”

Nói xong, anh ta cau mày đứng dậy, quay người đi nhanh.

15 năm sau...

Tôi đi tù cải tạo. Trong B (trung đội) của tôi, tôi chơi thân với Chí, một phần do chúng tôi đều có vài kỷ niệm giống nhau, từng sống tại hai thành phố lân cận vùng cao nguyên thời thơ ấu – tôi Pleiku, Chí Ban Mê Thuột. Chí là Đại úy Bộ Binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, từng phục vụ trong cả bốn Vùng Chiến Thuật. Những ngày cuối cùng trước khi “tan hàng”, Chí đóng tại Dakto, Kontum. Đă có gia đ́nh, vợ và ba con, có đứa sắp vào đại học. Qua những lần đi lao động bên cạnh nhau, chuyện tṛ th́ thầm, tôi được biết như thế. Chí vui tính, hiếu động, táo tợn, “rắn mặt.”

Chúng tôi không biết B của chúng tôi thuộc đại đội nào, tiểu đoàn nào, trung đoàn nào. Chỉ biết xa thành phố, nằm sâu trong vùng núi rừng hoang vắng, mùa Hè nóng như thiêu đốt, mùa Đông lạnh thấu xương.

Một hôm, vào giờ nghỉ giải lao, Chí lân la đến cán bộ quản giáo cười cười làm thân, rồi ṭ ṃ hỏi:
“Thưa cán bộ, mai đi lao động khu nào nhỉ?”
“Anh nói tiếp đi!”

“Và có đi sớm như sáng nay không?”
“Cái ǵ? Cứ nói tiếp!”

“Thưa, đi đốn cây hay đi cắt tranh?”

Viên quản giáo quay đầu nh́n chằm chặp, và lặp lại câu nói cũ:
“Nói tiếp!”

Chí lại cười cười:
“Thưa, tôi chỉ muốn biết chừng đó thôi.”

Viên cán bộ quản giáo quắc mắt, nói qua kẽ răng:
“Này, này, ư đồ ǵ vậy?”

Chí chột dạ, gượng cười:
“Thưa … thưa … tôi không có ư đồ ǵ cả. Chẳng qua, chẳng qua…”

Nói chưa hết câu, Chí nghiêng ḿnh chào rồi vội đi nhanh về phía chúng tôi.

Sau khi đi lao động về, trước giờ ăn tối, có người đến đưa Chí lên Khung tŕnh diện, mang theo hành lư. Chúng tôi ngơ ngác. Khung là trụ sở của Trung Đoàn th́ phải. Hành lư rất nhẹ, chỉ một cái bị nhỏ đựng một bộ áo quần tươm tất mang theo từ hồi tŕnh diện học tập cải tạo, khi có thăm nuôi, thắng bộ đồ đó lên cho đẹp mặt. Mặt ai? Có lẽ mặt tù cũng như mặt cai tù. Và một áo cụt ba lỗ, một quần xà lỏn tự khâu lấy bằng vải bao cát. Có cả một cái chén g̣ từ miếng tôn cháy sém, một đôi đũa tre tự chuốt lấy to và dài. Khi tŕnh diện đi tù cải tạo, chúng tôi không có đủ thông tin, nên không mang theo chén, dĩa, nồi, niêu.

Chúng tôi biết mang theo hành lư có nghĩa không trở lại với chúng tôi.

Trại tù có một hội trường khá rộng, mái tranh, nền đất, không có phên, vách. Không có ghế cho tù ngồi. Chỉ có một cái bàn nhỏ, một cái ghế đẩu dành cho cán bộ khi lên lớp. Vào mùa mưa, gió tạt mưa vào, ướt át. Chúng tôi tụm năm tụm ba chạy quanh t́m chỗ khô ráo.

Ngày nào chúng tôi cũng đi lao động trừ Chủ Nhật. Những hôm học các môn lư thuyết, chính trị cũng khỏi đi lao động ngoài rừng. Th́ tới hội trường. Lao động cực nhọc, nhưng chúng tôi thích hơn đến hội trường nghe “nhồi sọ, tẩy năo”.

Có những khu rừng quen v́ đă đến nhiều lần. Nhưng thường đến bằng những lối đi khác nhau. Có nơi đi thật lâu mới tới. V́ xa? Không hẳn. Một lần đi lâu đến một khu rừng lạ. Chí, hồi đó đang c̣n ở tù chung với chúng tôi, trèo lên một cây cao định hái bụi hoa phong lan theo như lời hắn khai, bị lính bảo vệ bắt gặp, nổ súng chỉ thiên. Hắn hoảng hốt tụt xuống, rồi bị biệt giam nửa tháng v́ phạm nội quy. Có lẽ v́ đă phạm cái tội đó cho nên về sau Chí “lèng èng” hỏi chuyện đi khu này khu nọ nên bị dồn hai tội làm một, bị chuyển đi trại khác.

Trở lại thời kỳ hắn chưa bị chuyển trại. Hết bị biệt giam, hắn đổi tính, gắt gỏng. Ít chuyện tṛ với mọi người. Không c̣n những lối đùa giỡn náo nhiệt, vui nhộn. Tệ hại hơn nữa, hắn nh́n mọi người bằng con mắt ngờ vực. Trừ tôi ra. Tôi tự hỏi, hắn nghi ngờ chuyện ǵ? Hay là Khung đă tung hoả mù, gieo những mầm nghi kỵ trong đám tù vốn không quen biết nhau từ nhiều nơi dồn về? Đă thế, đám tù này cũng không được sống chung với nhau lâu ngày. Chúng tôi chưa kịp t́m hiểu nhau th́ “Cách mạng” lại “xóc bài”. Chúng tôi lại bị phân rẽ ra mỗi người đi một ngả.

Một hôm, khi chỉ c̣n hắn và tôi đứng cạnh nhau, hắn th́ thầm:
“Tụi nó có nhiều tṛ quỷ quái lắm. Dẫn tụi ḿnh bị đi quanh quẩn đến hụt hơi mới tới nơi. Nhưng thật ra, rất gần. Trèo lên cây cao thấy ngay. Tao lấy cớ trèo cây hái phong lan, thực ra để quan sát quanh vùng.”
“Quan sát làm ǵ vậy?” Tôi hỏi.

Chí nhớn nhác nh́n quanh, hạ giọng:
“Để trốn trại. Cậu và tui nhé. Có hai đứa, giúp nhau, mới có hy vọng thoát.”

Nó bị chuyển trại chăng? Đó là do chúng tôi bàn tán, suy luận. “Cách Mạng” không bao giờ cho chúng tôi một thông tin nào về nó, hoặc về bất cứ vấn đề nào khác trừ những ǵ liên quan tới “Học tập tốt, lao động tốt”. Chúng tôi cũng không được hỏi han ǵ cả. Câm. Điếc.

Hay là nó bị thủ tiêu rồi, tôi buồn rầu ngẫm nghĩ.

Có lần đi thật lâu, chắc là xa thiệt, tới một khu rừng cây cối cao ngất. Tôi thấy náo nức. Ô, núi cao, rừng sâu! Chúng tôi lần đầu tiên thấy sóc bay. Ngửa mặt nh́n lên ngọn cây, thỉnh thoảng thấy vài ba con sóc màu nâu nương theo gió bay là là từ cành cao của cây này đến cành thấp hơn của cây khác. Không thấy nó bay ngược lại, từ thấp lên cao. Có lẽ không bay được. Thấy chúng tôi, vài ba con sóc ṭ ṃ đáp xuống đất. Một bạn tù ŕnh bắt được một con.

“Mày giỏi quá. Nhanh như sóc mà cũng bị tóm.”
“Nhằm nḥ ǵ. Cá, chim, tao cũng bắt như chơi.”

Thật thế, anh chàng này, vào mùa mưa, có dịp đi qua những hố bom B-52 đầy nước, h́nh tṛn, đường kính khoảng vài mươi mét, mà được quản giáo cho tù xuống tắm, hắn bắt cá. Những người khác ham bơi, lội, vùng vẫy, kỳ cọ, hắn ṃ mẫm bơi quanh ven bờ hố, lấy tay khoét vài cái lỗ sâu độ một gang tay. Anh em quậy nước bùn lên làm cá cay mắt và sợ, trốn vào mấy cái lỗ đó. Mươi phút sau, hắn trở lại ṃ tay vào những cái hang đó bắt được cá. Bắt chim én càng khỏe hơn. Chỉ cắm vài con ruồi vào một khúc tre nhỏ xíu như que tăm, ngay cạnh đó đặt một cái tḥng lọng. Ngày xuân con én đưa thoi, thấy ruồi tiện thể bay qua đớp, vướng vào dây tḥng lọng. Phải chi cứ lo việc đưa thoi.
Thế là bữa ăn chiều của nó thấy mà thèm.
“Hôm nay cậu lại có món sóc rô ti,” Một người hỏi.

“Không, con sóc này lông dày êm quá. Rờ sướng tay. Cậu có coi cuốn phim ǵ ǵ đó có cái thằng khờ thích rờ chuột? Tui là thằng khờ đó, đem về nuôi chớ không ăn. Sóc dễ làm thân lắm. Mới đó nó đă biết giỡn với tui, thấy chưa. Đấy, đấy, coi cặp mắt ngây thơ long lanh kia ḱa. Coi hai bàn tay nó chắp lại kia ḱa.”

Hắn lấy dây lạt cột con sóc vào một gốc cây để rảnh tay đi lao động. Đến giờ nghỉ trưa ăn xong cơm nguội hoặc củ khoai ḿ mang theo, hắn quay lại thăm con sóc. Một bầy kiến lửa bu vào đầy mắt, đầy miệng con sóc. Chết cứng queo.

Tại một khu rừng khác, cũng đi khá lâu mới tới, chắc cũng xa thiệt, chúng tôi chặt mây. Lần đầu tiên tôi thấy dây mây. Nó là một loại dây rừng có những lóng dài, có mắt mọc ra thành vài ba nhánh nhỏ. Vỏ bọc bên ngoài dây mây đầy gai nhọn. Mây ḅ chằng chịt quanh những cành, những cây cao. Chặt mây, rút mây ra khỏi cây to thế nào cũng bị gai đâm rách áo, sướt tay, lủng chân.

Cũng trong cánh rừng này, sắp tập họp trước khi trở về trại, tôi chợt thấy một cây lạ, khá cao, cành lá xanh tươi, một ḿnh đứng lẫn trong nhiều cây cổ thụ khác. Thân cây có một lớp vỏ màu bạc bao kín. Tôi chăm chú nh́n, rồi lấy dao chặt nhẹ mấy nhát vào gốc cây. Thích cái cây đó chặt chơi “làm kỷ niệm”, chứ không định phá hoại “có hệ thống”, cũng không “có ư đồ” ǵ ráo. Vỏ tróc, gỗ bên trong màu vàng tươi thoang thoảng một mùi dễ chịu. Bụng đói, đói liên miên, đói kinh niên, thấy cái ǵ có vẻ ăn được là ăn ngay. Ăn bất cứ con ǵ c̣n nhúc nhích, trừ con ruồi và con muỗi. Nhưng gỗ đâu biết nhúc nhích, cũng nếm thử vài mảnh nhỏ văng ra xem sao. Thấy thơm và ngọt, tôi gọi mấy người trong toán tới. Tất cả đều thích thú cho là đă t́m ra một loại cây quư. Biết đâu quư hiếm hơn cây quế trong rừng. Th́ một bạn thấy thế chạy vội đến la to đừng ăn, đừng ăn, coi chừng ngộ độc chết tươi cả ngay bây giờ. Chúng tôi chợt tỉnh. Đứa th́ cố khạc nhổ, đứa th́ đứng lặng người lắng nghe bụng dạ ḿnh chuyển động ra sao.

Đến bây giờ tôi cũng không rơ đó là cây ǵ. Chỉ nhớ là sau đấy, trên đường về lán, chúng tôi, những người đă nhai những mảnh gỗ vụn đó, đều cảm thấy uể oải, mệt nhọc, hoa mắt, chân bước lâng lâng, lảo đảo. Nếu không có anh em cho vịn vào vai để cùng đi, nếu không có chú lính bảo vệ súng cầm tay, mặt non choẹt cố làm ra vẻ “h́nh sự”, trông thấy thương hơn là ghét, chúng tôi đă nằm lăn quay xuống đường ṃn. Nhiều hôm sau đó chúng tôi cũng chưa b́nh phục hẳn.

H́nh ảnh chú lính bảo vệ trở lại với tôi. Cố làm ra vẻ hắc ám, sắt máu nhưng không che giấu nổi những nét ngây thơ, chất phát, ngờ nghệch. Đúng là một kịch sỹ bất đắc dĩ. Anh ta nghĩ ǵ trong đầu? Là một cá nhân bé nhỏ bị nhồi nặn trong một chế độ độc tài toàn trị, với bộ máy tuyên truyền khổng lồ, liệu anh ta, và ngay cả những quản giáo hay những người chuyên đứng lớp thao thao bất tuyệt về chủ nghĩa này, lư thuyết nọ, có thể nào suy nghĩ độc lập? Có thể anh ta nghĩ rằng chúng tôi là những tên Ngụy rất nguy hiểm, những tên Việt gian bán nước, ôm chân đế quốc, thích ăn tim gan người, uống máu đồng bào, “xơi tái” bào thai của “chiến sỹ gái”? Cho nên, nếu có “sự cố” bất tường nào dù nhỏ nhặt xẩy ra, phải dùng bạo lực cách mạng thẳng tay trấn áp?

Chúng tôi đi tù tại Miền Nam, loại tù không có nhiều “nợ máu với nhân dân”, chắc chắn không nếm mùi đau khổ bằng những người tù bị đưa ra ngoài Bắc. Nhưng đă ở tù th́ kể chi đến gian khổ, tôi thầm nghĩ. Than van, trách móc chỉ khiến cho cái đau đau thêm. Hăy quên hết, quên đói, quên thiếu thốn, quên nhọc nhằn. Quên buồn, quên nhớ. Ư chí nói với tôi như thế. Nhưng tôi có chịu làm theo hay không? Dường như có, dường như không. Dường như mà thôi, chẳng có ǵ rơ ràng.

Liệu tôi có thể quên nếp sống cũ? Liệu tôi có thể nào đừng nghĩ đến xă hội ngoài kia mà tôi không hề có được một tin tức chính xác nào. Quản giáo th́ nói láo, vợ con đến thăm th́ không dám tiết lộ sự thật v́ có cán bộ đứng cạnh nghe ngóng. Báo chí không có đă đành, đài vô tuyến cũng không được nghe ngoại trừ thỉnh thoảng “được” bắt buộc nghe đài phe ta.

Đừng nghĩ “khi về” th́ sẽ làm sao có thể chạm trán với xă hội ngoài kia. Mà khi nào là khi về, “Khi về hỏi liễu Chương Đài”. Đừng nghĩ đến vợ con đang ch́m nổi trong cơn “đại hồng thuỷ”. Đừng nghĩ rằng, trước những thay đổi khủng khiếp, liệu người vợ chỉ trông cậy vào đồng lương ít ỏi và cố định của chồng, suốt ngày lo săn sóc việc nhà và nuôi con, nay có biết và có kịp thay h́nh đổi dạng, để xông pha vào cuộc đời mới đầy đe doạ. Liệu có chịu tập tành buôn thúng bán mẹt; bon chen, giành giật; gồng thuê gánh mướn. Hay là khi vô phương kiếm sống, lại xoay qua làm nghề không vốn. Vâng, biết đâu, biết đâu. Và đứa con độc nhất sắp đến tuổi đi học? Liệu nó có được cắp sách đến trường hay là ngày ngày chạy ra ngoài chợ Cầu Ông Lănh đá cá lăn dưa, hay là lêu lổng đầu đường xó chợ, hay là đi bụi đời. Mà nếu may mắn được đi đến trường th́ cái đầu non nớt đó sẽ học những ǵ? Chắc chắn sẽ có những bài học mới lạ, kỳ quái, và sẽ không thiếu những môn huấn luyện cách “lăng mạ, luận tội, lên án” Ngụy quân, Ngụy quyền trong đó có cha của nó, chú của nó, họ hàng của nó, láng giềng của nó, đồng bào của nó. Khi cha nó về, nó sẽ nh́n cha bằng “nửa con mắt”?

Như đă nói trên, tôi tự nhủ đừng nghĩ ngợi lôi thôi. Càng nghĩ ngợi, càng bế tắc. Và tôi đă thành công. Là v́ những ư nghĩ tối tăm vừa nêu trên, lúc đó, đă nằm sâu dưới cát, lớp cát dày phủ kín đầu con đà điểu ngoài sa mạc. Vâng, người ta nói, khi gặp nguy hiểm, con đà điểu chui đầu xuống cát để khỏi phải thấy ǵ. Sự thật có phải là thế không? Nhờ đấy, con đà điểu “khôn ngoan” đă ù ĺ sống, đă không bị hội chứng tâm lư, chấn động tinh thần. Bây giờ, nước đă chảy nhiều dưới cầu, lớp cát dày bị gió sa mạc thổi bạt, hai con mắt con đà điểu mở to quay nh́n quá khứ. Giật ḿnh.

T́nh yêu có từ bé đối với rừng núi không ngờ lại là điều hay cho tôi. Nhờ t́nh cảm đó, những chuyến “đi rừng” lao động dù cực khổ và bị kềm kẹp vẫn mang lại cho tôi vài ba kỷ niệm khó quên như tôi vừa kể. Nhưng tôi c̣n muốn kể thêm câu chuyện dưới đây nữa. Nó khiến tôi mỗi lần nhớ đến là mỗi lần bàng hoàng thảng thốt như bị dội lên đầu một thau nước lạnh.

Tôi luôn luôn mong được đi rừng xa. Đúng như mong ước của tôi, một hôm gần Tết ta, sau khi tập họp, quản giáo cho hay sẽ đi xa, xa nhất từ trước đến giờ. Sẽ được ghé một nơi đặc biệt. Một người tù bẩm bẩm, Khoan hồng, cách mạng lại khoan hồng.

Tôi nhẩm tính, thế là sắp ăn bốn cái Tết tù. Người xưa dùng chữ đúng quá, “Ăn Tết”. Vừa đi vừa suy đoán năm nay ăn Tết ra sao. Chắc sẽ được nghỉ lao động một ngày, mong nó không rơi vào ngày Chủ Nhật. Và “trên cả tuyệt vời”, có lẽ chúng tôi sẽ có thịt heo, mỗi năm tù được ăn một lần vào dịp Tết. Mỗi người cũng sẽ được chia một miếng thịt khiêm tốn to bằng một lóng ngón tay, gặp miếng có mỡ coi như trúng số. Chắc năm nay cũng thế, B chúng tôi cũng sẽ bàn bạc sôi nổi, cuối cùng “đạt được sự nhất trí cao”: gom thịt và cơm lại, cho vào nồi lớn, thêm chút muối và mấy gàu nước giếng, bắc lên ḷ nấu cho thật nhừ. Thế là, một nồi cháo thịt nóng hổi thua ǵ Cháo Chợ Cũ mà chúng tôi thường nhắc đến khi họp nhau tán gẫu sau bữa ăn tối mà cứ ngỡ chưa ăn.

Chắc cũng sẽ đấu cờ tướng từ sáng đến chiều, cho điên cả cái đầu. Nhà vô địch sẽ không được hưởng “vinh quang”, nghĩa là “bị nghỉ lao động” một ngày. Tên nào thích thể thao, dù thân thể c̣n da bọc xương, chắc sẽ được đá banh. Chân không giày, chia làm hai phe, phe ở trần, phe mặc áo. Nhưng Tết năm nay tôi sẽ không ghi danh đá banh trên cái sân khủng khiếp đó. Nào đá dăm tai mèo nhọn hoắt, nào đá cuội lục cục nằm rải rác đạp lên đau méo mặt, nào lỗ chân trâu gồ ghề, lởm chởm, nào những bụi hoa trinh nữ, tôi thích chữ bông mắc cở hơn, đầy gai nhọn mọc phục kích khắp sân.

Sau trận đấu tên nào cũng bong móng chân cái. Nhiều tháng sau móng mới mới chịu lần ṃ nhú ra thật chậm, trông đến sốt ruột. Đó là chưa kể cái bụng không cứng kéo theo cặp gị rất mềm, đá vào trái banh da mà tưởng như đá vào tảng đá.

Vợ con phải nhịn thèm để dành quà Tết vào dịp thăm nuôi đầu Xuân. Có những ǵ nào? Mong được một thỏi đường đen, thèm ngọt quá; một chai nước mắm thiệt, v́ ngày ngày chỉ được ăn loại nước mắm làm bằng nước muối thắng chút nước màu cho vui mắt; và nhất là cái bánh tét nhân chuối, hay nhân đậu xanh, hay biết đâu nhân thịt. Thèm thịt quá.

Đầu óc lan man, chân bước đều đều như máy. Trên nhiều đoạn đường, tôi đi mù ḷa theo sức lôi kéo vô h́nh của đoàn tù, không để ư đến cái lưng của người đi trước, hay cái vai của người đi bên cạnh. Chỉ cắm đầu loáng thoáng thấy những bàn chân sù ś, gót nứt nẻ, mang dép râu, xủi đất, cát, bụi bay vật vờ. Bỗng nhiều tiếng reo, Ồ con suối, chảy mạnh quá. Tôi bỡ ngỡ nh́n quanh.

Con suối nhỏ rộng khoảng 10 mét chảy ngang qua một vùng đất khá bằng phẳng. Bắc ngang qua con suối là một thân cây c̣n tươi đường kính hơn một gang tay, c̣n cả vỏ nguyên vẹn, chứng tỏ rằng “cây cầu” này ít người qua lại. Bên một bờ suối c̣n một gốc cây lẫn trong đám cỏ cao có nhiều vết mới chặt. Có lẽ mấy ngày trước đây một người nào đó đốn cây này, chặt hết cành, rồi đẩy thân cây cho nằm ngang qua ḍng suối. Thế là có cây cầu. Cành, lá, có lẽ đă được mang về nhà làm chất đốt.

Nhiều người tù khi qua cầu thấy nước chảy nhanh, chóng mặt, sợ ngă xuống suối đành phải ngồi bệt xuống, hai chân choàng qua hai bên thân cây, cái kiểu ngồi trên lưng ngựa, hai tay chống xuống thân cây nâng người lên, nhích nhích tiến tới từng chút một. Trông giống trẻ con đùa giỡn. Quản giáo, lính bảo vệ đi qua cầu một cách dễ dàng như đi trên mặt đất phẳng. Có khi họ c̣n trổ tài chạy phon phon. Tôi nghiệm ra rằng đại đa số chúng tôi không phải là lính chuyên nghiệp, vốn là công chức, tư chức, bị động viên nhập ngũ chưa được bao lâu th́ ră đàn tan nghé. Nay bị ném vào núi rừng. Vụng về, lọng cọng.

Xa xa, phía ngược ḍng suối là rừng tre ngút ngàn. Từ mô đất cao nh́n xuống, tre xanh ngát, hết lớp này đến lớp khác, đu đưa trong gió trông như những tấm gấm vóc khổng lồ lượn sóng. Xuôi theo ḍng suối, rừng cây trùng điệp, cây không tên, hay đúng ra chúng tôi không biết tên, cũng xanh tươi, rậm rạp. Rừng nhiệt đới muà xuân là thế đó. Hai bên lối ṃn ngoằn ngoèo, hoa dại nhiều màu đă nở rộ. Cỏ dại trên mặt đất cũng trổ hoa, thường là hoa màu vàng nhỏ như ngọn rau má. Cũng có bướm bay chờn vờn quấn quưt nhau, đuổi nhau; chuồn chuồn th́ bay đứng một chỗ trên không trung quan sát chúng tôi. Rừng nhiệt đới phải có nhiều loại côn trùng chứ, tôi ngẫm nghĩ. Chúng đâu cả? Chỉ thấy bươm bướm và chuồn chuồn. Chắc hẳn côn trùng đang nằm ẩn trong bụi cây, đám cỏ, ḷng đất, chờ đêm xuống ḅ đi kiếm ăn và thi nhau hoà tấu những khúc nhạc thiên thu. Chim cũng hiếm, trừ chim én. Khó thấy chúng nó, chốc chốc nghe lảnh lót tiếng hót. Hay đó không phải là tiếng chim, mà là “tiếng gọi” của núi rừng. Trên trời cao, mấy cụm mây trắng trôi bồng bềnh. Ở thành phố ít thấy mây bay.

Khoảnh rừng thưa này khá rộng, chim én bay lượn nhiều. Một câu thơ trong Kiều, Ngày xuân con én đưa thoi, đă được nhắc bên trên, lại nhắc lại, v́ tôi thấy nó đẹp, êm, và ấm quá. Tại sao câu thơ ấy đẹp, êm? Khó nói. Nhưng ấm th́ dễ tán láo. Đưa thoi khiến tưởng tượng đến khung cửi với hai bàn tay nhỏ của cô dệt vải, và từ vải may áo thay cho cái gọi là áo làm bằng bao cát sù ś, chùm đụp, xiêng xẹo, hở hang, mới mặc ngứa ngáy chịu hết nổi, lâu ngày quen. Nhưng vẫn nhớ cái áo bằng vải thiệt như trẻ con mới bỏ bú nhớ bầu sữa.

Tưởng là đă đến nơi, nhưng không. Chúng tôi chỉ dừng lại chờ những người ngồi lết lết qua cái cầu độc mộc. Sau khi mọi người qua khỏi cầu, đoàn tù tiếp tục đi.

Đầu óc tôi lại lang thang. Và nhớ. Lang thang nhớ về quá khứ. Đừng nhé, hăy khoan, hăy đừng nghĩ đến tương lai. Hăy là con đà điểu ngoài sa mạc. Nhớ chuyện cũ thôi. Nhớ là liều thuốc xoa dịu, mơn man, làm nhẹ phiền muộn. Là tiếng nói thủ thỉ, hay đay nghiến; nụ cười hân hoan, hay hờn dỗi; ánh mắt reo vui, hay trách móc. Là bàn tay quen quen, mai tóc cỏ rối, nụ hôn bâng khuâng, làn da ấm áp. Là tiếng khóc trẻ thơ trong veo, tiếng tập nói bi bô vừa chớt vừa ngọng, chiếc giày nhỏ xíu nằm lăn lóc trên gác nhỏ một hôm t́m thấy. Là tiếng ho hen quát tháo bầy chó vồ sủa của ông già hàng xóm mỗi khi có khách đến nhà, tiếng rao hàng quà rất đúng giờ mỗi buổi sáng, tiếng xe xích lô máy bỗng nổ ṛn ră khuấy động rồi xa dần, nhỏ dần, mất hút. Là con phố có hàng cây sao, có lề đường rộng, khua vang tiếng guốc chen lẫn với tiếng cười khúc khích mỗi buổi chiều khi học tṛ con gái “Em tan trường về.” Là quán cà phê khói thơm ngào ngạt cùng thân h́nh yểu điệu và mái tóc đen dài che nửa khuôn mặt rất đẹp của cô chủ, làm nổi bật đôi mắt mơ màng lơ đăng không bao giờ nh́n thẳng vào một ai. Phải chăng không nh́n vào người nào chứng tỏ chưa có nơi có chốn, th́ những chàng trai mới lớn tha hồ nuôi hy vọng, ngày ngày đến trồng cây si.

Nhưng không có cái nhớ nào dai dẳng, tha thiết, và lặp đi lặp lại bằng nhớ tô phở, tô bún ḅ, tô hủ tíu. Ngây ngất cả thần hồn v́ mùi thơm bốc lên, ấm cả ḷng dạ khi bàn tay nâng niu bên ngoài cái tô no tṛn nóng, như trẻ thơ nâng bầu vú mẹ. Dù thèm đến mấy, cũng sẽ không dám ăn liền. Như tên mọt sách, cầm cuốn sách mới đă chờ đợi lâu nay, không dám giở ra đọc liền. Âu yếm nh́n tên tác giả, hân hoan như thấy tác giả gật đầu mỉm cười đáp lại, nh́n tranh b́a trước, ngắm chữ b́a sau, ướm thử xem nó nặng bao nhiêu, rồi bàn tay trái cầm gáy cuốn sách, ngón cái tay phải khẩy nhẹ vào cạnh những trang giấy để nghe mùi giấy mới, mực mới, chữ nghĩa mới lan toả những đợt sóng từ trường.

Vâng, tôi sẽ không ăn ngay. Trước khi ăn, như đă nói, tôi hăy thưởng thức bằng khướu giác, xúc giác, rồi mới lim dim mắt ngắm nó như ngắm bức tranh ấn tượng. Màu đỏ cay của ớt, màu xanh mát của hành lá, màu đen ṛn của tiêu, màu trắng mịn của bánh phở, con bún, sợi hủ tíu.

Thế c̣n màu sắc của thịt tái, chín, nạm, gầu, gân, vè, sách, gị heo, chả lụa, thịt băm, tóp mỡ, nước lèo? Màu sắc của những thứ đó vượt ra khỏi lănh vực của ấn tượng. Tượng trưng chăng? Siêu thực chăng? Thật khó mà diễn tả bằng lời.

Cuối cùng đoàn tù dừng lại hẳn. Chúng tôi đến khu rừng này lần đầu. Đúng ra đây không phải là khu rừng, mà là một trảng tranh. Và thật là lạ, tại một góc của cái trảng tranh xanh tốt và khá rộng này có mấy gánh gánh hàng ăn. Khoai, sắn, chuối, ổi, bưởi, trái cóc, mấy khúc mía chưa róc vỏ … Và những loại bánh hấp hoặc nấu chín gói trong lá chuối. Trông ngon lành quá. Gần Tết rồi, chắc có bánh tét. Tết luôn luôn có bánh tét, tôi muốn gọi nó là bánh tết.

Không xa nơi chúng tôi tập họp trước khi phân tán ra làm nhiều toán nhỏ, cuối đám tranh, sau những bụi cây và lau sậy san sát, thấp thoáng năm ba mái nhà lá. Tôi tưởng như lâu ngày nay gặp lại quê nhà, thân, quen, ấm áp, dù đang mùa Đông. Thấp thoáng bóng dáng người dân thường, trông nghèo nàn, lam lũ, nhưng ăn mặc đâu vào đấy. Đàn ông quần cụt, áo sơ mi rách rưới, vá víu, đàn bà quần dài đen, áo bà ba cũ kỹ. Không kỳ quặc như chúng tôi – áo bao cát ba lỗ, một lỗ to cho cái đầu bờm xờm tḥ ra, hai lỗ nhỏ cho hai cánh tay xương xẩu có chỗ thoát ly; quần xà lỏn bao cát th́ trông chỉ văn minh hơn chiếc khố; mỗi người may theo mỗi cách, mà vẫn có mẫu số chung, là méo mó, xộc xệch, hở hang.

A, đây là xă hội loài người, nhưng họ có phải là Việt Cộng hay không nhỉ? Nghĩa là họ có xem ḿnh như kẻ thù, như Ngụy, để họ cải tạo phụ đạo? Hay họ chỉ là những người thường dân, dù sống dưới chế độ nào. Tôi buồn rầu nghĩ tiếp, dưới chế độ nào đi nữa th́ dân vẫn là dân, chính quyền là chính quyền, đảng là đảng, Việt cộng là Việt cộng. Lẽ nào mọi người đều là Việt cộng?

Ở măi trong rừng ngày ngày đối diện với sắt máu, kềm kẹp, ŕnh rập, đói khát, bệnh tật, nhiều khi ḿnh cảm thấy ḿnh không phải là con người nữa. Một nhà thơ nói trúng:

Mười năm, mặt xạm soi khe nước,
Ta hóa thân làm vượn cổ sơ.[1]

Nay thấy loài người, ḷng bỗng nao nao. Và có hàng, có quán. Không chừng có cả chợ. Có lẽ nơi này rất xa những nơi từ trước tới nay chúng tôi đă đến để được “Vinh Quang” – “Lao động là vinh quang.” Khẩu hiệu được lặp đi lặp lại này làm tôi nghĩ đến câu nói “Xúi trẻ ăn cứt gà.” Chúng tôi không c̣n là trẻ con nữa, vậy câu nói đó nên được đổi thành “Xúi già ăn cứt vịt” chăng? Tôi nghĩ bụng vinh quang hay không c̣n tùy thuộc vào mục đích của cái lao động ấy chứ. Chẳng hạn ta được cho ăn bánh vẽ làm việc đến kiệt lực trong khi kẻ khác ngồi không hưởng trọn thành quả của cái lao động ấy, th́ vinh quang cái nỗi nào.

Một người đột nhiên cất cao giọng “phát biểu linh tinh”:
“Hôm nay là ngày cuối năm, mai Tết, ngày vui của dân tộc. Mừng Xuân Ơn Đảng.”

Một giọng khác bẻ:
“Trật. Phải nói: Ơn Đảng Mừng Xuân. Cho nên Cách Mạng chiếu cố cho chúng ta lao động tại vùng này để được gần gũi với nhân dân hưởng cái Tết ấm no, độc lập, thống nhất, tự do, hoà b́nh.”

Có tiếng x́ xào, ŕ rầm. Hưởng ứng hay phản đối? Nhưng dù ǵ th́ dù, mọi người vui hẳn lên, cố cắt thật nhiều tranh, cho mau đạt chỉ tiêu, để c̣n nhiều th́ giờ đi “mua sắm”. Nghĩa là để có thể ngồi nán lâu hơn giờ nghỉ quy định bên các hàng ăn, hàng quà tán gẫu. Ai có tiền th́ “mua sắm” củ khoai, trái chuối, trái bắp, ăn Tết; ai không tiền th́ ăn Tết bằng mắt.

Tôi chợt liên tưởng cách đây 15 năm trên những băi tập quanh vùng Thủ Đức, Chợ Nhỏ. Giờ nghỉ trưa, chúng tôi la cà đến những cô gái quê xinh xắn nói năng ngọt ngào, duyên dáng, áo bà ba nhiều màu, và quần trắng, quần đen mỏng “sexy” làm nổi lên những “đường cong tuyệt mỹ”. Họ ngồi bán những thức ăn, thức uống. Bán những nụ cười tươi tắn. Nay bên những gánh hàng ăn lỏng chỏng xác xơ, cũng những cô gái quê c̣n trẻ lắm nhưng trông lam lũ quá. Tóc búi tó không chút mượt mà, mặt mày hốc hác không trang điểm, nước da nám, sạm, áo quần toàn một màu đen bạc thếch v́ dăi dầu mưa nắng. Đi chân đất.

Tôi ngạc nhiên khi thấy dăm ba bạn tù có tiền đến mua quà. Trong những chuyến thăm nuôi, ngoài “đồ tiếp tế”, thân nhân của họ lén chuồi một ít tiền. Vợ tôi cũng muốn làm như thế nhưng tôi từ chối ngay, nghĩ rằng ở tù trong rừng th́ tiền bạc có ích ǵ. Tôi đâu ngờ rằng có một ngày như hôm nay. Tôi cũng chưa có ư nghĩ trốn trại, th́ phải có chút tiền mang theo pḥng thân.

Tôi càng ngạc nhiên hơn. Lẫn trong nhóm người nghèo khổ đó, ngồi thu ḿnh đằng sau chiếc rổ bày ra mấy món thức ăn, là một người đàn bà c̣n trẻ, trên dưới ba mươi tuổi. Thoáng trông tôi đă nhận ra ngay cái dáng dấp “lăng mạn tiểu tư sản bóc lột”. Cô ta như ở một tinh cầu lạ rơi xuống, khác hẳn bọn tù chúng tôi đă đành, mà cũng không có nét nào giống những cô gái quê khốn khó. Lâu ngày quen mắt với núi rừng âm u, nay bàng hoàng thấy hiện lên h́nh ảnh của ngày xa xưa như trong chuyện cổ tích. Một chút thân thương và rất nhiều xót xa. Tôi quên cả giữ ư, nh́n trân trối.

Người đàn bà gầy g̣, tay chân như thừa thăi. Mái tóc đă lâu không uốn buông thỏng xuống vai áo màu tím nhạt, sờn, rách, để lộ làn da xanh xao. Không lạnh sao, mùa đông nơi rừng núi mà. Đôi mắt to, đen, ngơ ngác, mang một vẻ sợ sệt thường trực khó hiểu, nổi bật lên trên khuôn mặt không vui, với đôi mày thanh tú, cái cằm hơi nhọn, chiếc mũi thon. Hai bàn tay gầy ngón dài thường nắm chặt vào nhau, như để chống cái lạnh, cho thấy trên ngón tay thứ tư của bàn tay trái chiếc nhẫn vàng nho nhỏ. Thế là đă có nơi nương tựa? Hay chàng không c̣n? Hay chàng cũng đang ở tù như chúng tôi? Biết đâu có thể cùng B với tôi.

Ṭ ṃ, hay v́ lâu ngày không thấy người nữ, tôi trố mắt nh́n kỹ hơn. Nh́n hai bàn chân mang dép Nhật ṃn hết gót. Nh́n chiếc quần lănh đen bạc màu có mấy miếng vá ở đầu gối. Khi người đàn bà đứng dậy quay người, tôi nh́n miếng vá ở mông. Và mông. Tôi quên hết mọi cung cách giao tiếp lịch sự tối thiểu. Tôi thầm nghĩ, trước kia, với chút trang điểm và bớt gầy, có lẽ đấy là một nhan sắc đáng kể. Và chắc chắn là dân thành phố. Nhưng sao lại lạc lỏng tới nơi này? Cơn xúc động trong tôi bỗng dưng lóe lên như đốm than hồng phủ tro bị cơn gió mạnh thổi tạt qua.

Rổ đựng thức ăn cũng gợi trí ṭ ṃ của tôi: một ít mứt gừng gói trong giấy trong, hai chén chè đậu xanh đánh, một dĩa xôi lạc, trước kia gọi là xôi đậu phụng, và đũa, muổng. Và một thẻ nhang, một bông cúc vàng gói chung trong một mảnh giấy báo đặt bên dưới dĩa xôi. Tôi muốn xin mảnh giấy báo mang về đọc xem có ǵ trong đó, mà không dám. Chỉ chừng đó. Không có người nào tới đấy hỏi mua quà. Cũng phải thôi, bọn tù chúng tôi đâu cần những món ăn xa xỉ như thế.

Vài ba người bán quà ngồi gần đấy tỏ vẻ khó chịu. Khó chịu v́ tôi chăng? V́ cái nh́n rất ngố không biết che đậy của tôi? Tôi chột dạ, chỉnh đốn lại thái độ. Bỗng họ lớn tiếng bàn bạc với nhau có lẽ cốt để cho tôi nghe chăng.

Một người nói:
“Không biết nó từ đâu mà tự nhiên nhô ra. Coi tức cười quá vậy trời.”

“Nó? Nhưng nó nào?” Người thứ nh́ hỏi.
“Th́ c̣n ai nữa. Cái con ranh đó đó.”

A, họ không nhắm vào tôi. Tôi cảm thấy nhẹ nhơm trong người.

Người thứ nh́ nói tiếp:
“Con ranh đó hả? Th́ từ Sài G̣n chớ từ đâu nữa. Lên đây bán đồ cho … cho … mấy anh tù.” Quay nh́n thẳng vào tôi. “Chắc không phải đâu. Lên làm gái.”

Người thứ nhất lắc đầu, le lưỡi:
“Phải có da có thịt mới có thể làm gái chớ. Ốm như con khỉ gió th́ làm ǵ được!”

Người kia không đồng ư:
“Ở đó mà không làm gái! Coi cái mặt mốc kia ḱa. Không làm gái th́ cái tướng đó làm được ǵ mà sống.”

Người thứ ba bây giờ mới ra miệng, tỏ ra biết nhiều và biết điều hơn, nói với hai người kia, nhưng mắt th́ chăm chăm nh́n cô Sài G̣n:
“Tui biết nó. Tui gặp con khùng này mấy lần rồi. Nó làm ǵ mặc kệ nó, ḿnh dư hơi đâu mà xía vô. Không ưa th́ đuổi nó đi chỗ khác cho đỡ ngứa con mắt.” Nói xong cười thích thú.

Cứ sau mỗi câu nói trên, người đàn bà thành phố, trông như con chó lạc chủ bị một bọn người cầm gậy gộc dọa đánh, run rẩy co rúm người lại. Con mắt càng ngơ ngác, vẻ mặt càng hoảng hốt. Như một phản ứng tự nhiên, quên ḿnh là tên tù, tôi nhảy vào can thiệp. Tôi buột miệng nói mấy câu, ban đầu hùng hồn, dơng dạc, dần dần yếu x́u:
“Ê, ba chị kia, làm ǵ vậy? Người ta cũng …” Xoay nh́n người vừa nói. “À, à chị có biết cô này hả. Thôi, tội nghiệp, tha cho người ta đi. Tui, tui sẽ… Tui sẽ …”
“Tui sẽ làm ǵ?”

Tôi ngẩn người, đáp nhanh:
“Tui sẽ cám ơn lắm lắm.”

Họ cố nhịn cười. Người đàn bà thành phố lấm lét nh́n tôi, ngơ ngác. Tôi đâm ngượng, im bặt. Rồi ngó lăng ra đằng xa nơi vài ba người tù đang ăn khoai ḿ, miệng ngốn ngấu ngon lành, mắt mở thao láo.

Nhưng thật không ngờ, người đàn bà vừa đ̣i đuổi cô thành phố quay lại nói với tôi:
“Tui giỡn chơi thôi, anh biết chớ. Tui có quyền ǵ mà đuổi người ta. C̣n anh muốn mua đồ của nó th́ cứ mua đi. Nói khéo khéo nó sẽ cho ăn chùa, khỏi cần trả tiền, tui bảo đảm. Con này nó khùng mà. Khùng th́ biết ǵ đâu.” Quay nói với hai người bạn hàng. “Thôi, tụi ḿnh đi bán chỗ khác nghen. Ngồi đây nhột.”

Ba người đứng dậy thong thả gánh hàng quà của ḿnh đi đến nơi anh lính bảo vệ đang ngồi cạnh lùm cây nhỏ lấy thuốc lá ra vấn.

Không có một khúc cây, một cục gạch, hay tảng đá gần đó, để ngồi, tôi đứng xớ rớ bắt chuyện:
“Chị bán những thứ ǵ đó?”

Người đàn bà không trả lời, nh́n chỗ khác, có vẻ thèn thẹn. Tôi nói thêm:
“Sao toàn là những đồ cúng cả vậy. Lại có cả thẻ nhang.”
“Kệ tui. Anh đi chỗ khác để cho tui yên. Đi ngay đi.”

A, cái cô này lạ thật. Ḿnh vừa đứng về phe cô ta, cô lại đuổi ḿnh đi. Hay là v́ ḿnh vô ư nh́n người ta như muốn “ăn tươi nuốt sống” khiến người ta bực tức? Tự thấy ḿnh có lỗi, tôi dịu giọng:
“Cô mau quên quá. Không có tui, ba con nhỏ kia đă xé xác cô rồi. Không chừng tụi nó quay lại đó.”

Cô ta đứng bật người dậy, hoảng hốt, nói líu lưỡi:
“Thật không … Thật không… Chết, chết, chết. Làm sao đây?”

Tôi không ngờ cái phản ứng thái quá đó. Không biết nói ǵ, nói đại một cách vớ vẩn, buồn cười:
“Chắc họ không quay lại đâu.”

Người đàn bà coi bộ dễ tin:
“Anh nói thiệt hả anh.” Rồi cười lặng lẽ và cúi xuống lấy một chén chè đưa tôi, miệng lẩm bẩm như nói một ḿnh:
“Trước cúng sau cấp. Cấp th́ ăn. Không ăn th́ bán. Anh ăn không tui bán cho? Ăn xong đi chỗ khác chơi.”

Tôi ngạc nhiên đáp:
“Tui không đói.”

Người đàn bà bỗng đổi thái độ, dịu giọng:
“Tui cũng không đói như anh. Tui anh giống nhau. Không ăn th́ đem lên đây bán. Người ta bán được tui cũng bán được. Anh cũng mua được. Ăn xong đi chỗ khác chơi.”

Cô ta lại lơ đăng nh́n quanh. Đột nhiên cô bước tới gần, nói nhỏ bên tai tôi:
“Nhưng tui không lên đây buôn bán giành khách của họ đâu, mà họ cứ làm khó, làm dễ tui hoài. Tui sợ ba cái bà đó lắm.” Hai bàn tay che mặt, vai thun. “Tui đem lên cho ảnh. Tết năm nay không có ǵ, tui chỉ đem được chừng đó thôi. Lâu quá mới đi mà ít đồ quá. Ảnh có giận không hả anh? Anh cứ nói thiệt đi, tui không ngán đâu.”

Tôi ṭ ṃ hỏi:
“Ảnh? ảnh là ai?”

Người đàn bà cau mày:
“Ảnh là ảnh, chớ c̣n là ai nữa.” Mắt rưng rưng. “Ảnh không chịu gởi thơ về cho tui. Mấy ngày rồi. Mấy tháng rồi. Mấy năm rồi. Tui đi kiếm ảnh nhiều nơi. Thằng con tui cũng bỏ tui mà đi. Nó mới mấy tuổi đầu mà cũng đi đâu mất.”

Cô này đúng là khùng như chị bán hàng hồi năy đă nói, tôi lo lắng. Hay mất trí? Cô ta tiếp tục lảm mhảm:
“Không biết ảnh ở đâu. Đi t́m nhiều nơi lắm, nơi nào cũng có có không không. Người ta chỉ tui tới đây mấy lần rồi, ảnh không chịu gặp tui. Trước cúng sau cấp, tui đem lên cho cho ảnh ăn. Chớ có tính bán buôn ǵ đâu, mà mấy bà hồi năy la rầy dữ quá. Anh thích th́ cứ lấy một chén chè mà ăn. Có tiền trả, không có tiền, ăn chịu. Ăn một chén thôi. Rồi đi nơi khác chơi.”

Tôi chợt nghĩ đến người bạn thân đă bị chuyển trại. Hay đă chết? Tôi buột miệng hỏi:
“Có phải ảnh tên Chí?”

Người đàn bà giật bắn ḿnh, mở to mắt, lắp bắp:
“Đúng, đúng, đúng. Sao, sao anh biết?” Đứng nhón chân lên, hớt hơ hớt hải nh́n bốn phía. “Anh ơi, anh ở đâu?” Xoay qua tôi. “Anh dẫn tui tới ảnh đi.”

Tôi bối rối:
“Này chị. Hăy từ từ. Để tui tính. Anh Chí trước kia cùng B với tôi.”
“Chí cái ǵ, Bê cái ǵ…”

Tôi ngắt lời:
“Nhưng, nhưng …” Tôi không dám nói Chí không c̣n ở chung B với tôi nữa. Ḷng c̣n chút hồ nghi, tôi hỏi thêm. “Chị có ba đứa con phải không? Đứa lớn nhất có lẽ đă vào Đại Học. Ô, chị c̣n trẻ quá, có lẽ nào…”

Người đàn bà ngẩn ngơ, đưa bàn tay xua xua, rồi phá lên cười:
“Tui ba con. Sao nhiều quá vậy. Một thôi. Hai cũng chưa ra nổi lấy đâu có ba, có bốn.” Bỗng ngồi bệt xuống đất hai tay ôm mặt khóc nức nở, nói qua làn nước mắt. “Mà … mà … mà một cũng không xong. Bé ngoan sao lại hư vậy … sao lại cũng bỏ mẹ mà đi, mà … đi chơi … Đi đâu lâu quá không về. Anh ơi. Anh Chính ơi, anh về ngay. Anh và em đi t́m nó!”

Tôi lặng người. Vài người bạn tù thấy thế vội bước tới. Người đàn bà hoảng sợ vói hai tay vồ lấy chiếc rổ đứng lên định chạy. Tôi giữ lại, lúng túng, nói:
“Chị ngồi lại đây một chút, xin ngồi lại một chút thôi. Tui có chuyện muốn thưa chuyện nhiều nhiều với chị, với các bạn. Có ǵ trở ngại đâu, phải không các bạn? Tụi tui không hung dữ đâu, chị đừng sợ.”

Nghe tôi nói thế, không ngờ người đàn bà ngoan ngoăn đặt rổ xuống đất ngồi lại chỗ cũ, nghiêng đầu vểnh tai lên về phía tôi, như muốn nghe cho rơ tôi sẽ nói ǵ. Mấy người bạn ngạc nhiên trố mắt nh́n tôi. Một người lên tiếng:
“Có chuyện riêng muốn nói với nhau hả? Th́ bọn tui đi chỗ khác.” Vừa bước một bước, như sực nhớ điều ǵ, quay lại nói tiếp. “ Này chị, chị có vẻ không phải là dân vùng này, phải không?”
“Tui ở Sài G̣n.”

“Khi nào chị về Sài G̣n?”
“Về Sài G̣n hả? Về chớ sao không về. Về, về. Về ngay bây giờ. Có anh Chính cùng về với tui nữa.”

Người tù lộ vẻ vui mừng rút từ trong túi áo bao cát một bao thư nhàu nḥ đưa cho người đàn bà, th́ thầm:
“Thơ tui viết sẵn từ lâu mà không gởi được. Dặn vợ lần thăm nuôi sắp tới đem vài thứ thuốc. Chỉ có vậy thôi. May quá nay gặp chị. Nhờ chị về Sài G̣n bỏ vô Bưu điện. Đă viết sẵn địa chỉ. Có điều xin chị thương t́nh mua cho tui con tem dán lên cho. Chị làm ơn nhé, tui đội ơn chị vô cùng.”

Người đàn bà ngơ ngác cầm lá thư sửa soạn cho vào túi áo. Bỗng cán bộ quản giáo, theo sau là lính bảo vệ, có lẽ đă quan sát từ năy đến giờ, chạy vọt tới. Anh ta nhanh như chớp giật lấy bức thư trong tay cô ta và bỏ ngay vào trong chiếc cặp. Anh gằn giọng, nói qua kẽ răng:
“Hai người theo tôi.”

Người tù vừa đưa thư đứng sững, mặt xanh như tàu lá. Người đàn bà run lẩy bẩy, cặp mắt điên dại như mắt con thú rừng vừa bị sập bẫy. Màu đen đôi mắt chuyển dần thành màu trắng dă và, lạ quá, trong một thoáng, hai chấm đỏ hiện lên mơ hồ.

Tôi nhớ trong một câu chuyện có đề cập đến săn bắn[2], tác giả cho biết trừ mắt người và voi không phản chiếu ánh đèn, ngọn đèn săn trong đêm quét đến đâu th́ trong ṿng 50 thước ta thấy hiện lên những chấm sáng, từ cặp mắt cọp sáng rực, đến mắt nai, mắt nhái, mắt nhện.

Nhưng đó là ban đêm với ngọn đèn săn. Đằng này mới xế chiều, không đèn, lại là mắt người. Tôi trông gà hóa cuốc chăng? Làm sao có chấm đỏ trong mắt của người đàn bà?

Tôi chồm tới. Lính bảo vệ chỉa súng, lên đạn. Tôi dừng lại, lắp bắp nói :
“Thưa, thưa cán bộ. Cán bộ xét lại cho, cho. Chị này điên.”
“Anh im ngay.” Gằn từng tiếng. “Điên thật hay điên giả? Điên thật ư? Cũng có cách. Đinh hết điên.”

Dường như muốn rơ nghĩa hơn, anh ta nhắc lại cái ư đó, nói qua kẽ răng:
“Đinh đục vào, điên văng ra.”

Hồi tôi c̣n ở Trảng Lớn, Tây Ninh, có một anh tù gốc Quảng Trị bị “mát dây”, ưa lư sự, châm chọc, nói văng mạng, phạm húy. Lại thường chen tiếng Pháp vào. Thỉnh thoảng anh hét to, Tao điên đây, tao điên đây, tụi bay làm chi được tao nào. Sau đó anh bị đưa đi đâu hết mấy tuần lễ. Lúc trở về với bạn tù, anh im lặng một cách khó hiểu. Giống như Chí trước kia. Những lỗ tṛn nhỏ như đầu chiếc đũa tím đen bao quanh bởi lớp da đỏ bầm lấm tấm trên trán, trên hai mép của anh. Bị gặng hỏi nhiều lần về những vết tím đen đó, anh không thoái thác được, đành lầm bầm trả lời, Đinh … đinh … Lúc đó chúng tôi không hiểu anh nói ǵ. Nay th́ hiểu rồi, đinh đục vào, điên văng ra. Quản giáo đă buột miệng tiết lộ sự thật chứ không phải hù dọa.

Bỗng quản giáo nhíu mày ngẫm nghĩ, ngập ngừng liếc nh́n tôi. Ánh mắt đột nhiên chuyển qua dịu dàng, hiền từ, anh ta chậm răi nói chung cho mọi người nghe bằng một giọng ấm áp:
“Nhưng thôi. Cần ǵ phải mạnh tay đến thế nhỉ. Cách mạng đă có rất nhiều cách xử lư rất tốt cho những sự cố như thế này. Và rất khoan hồng, rất nhân đạo.”

Nói xong, cái vẻ hiền từ vụt bay đi mất, quản giáo nghiêm mặt nhắc lại lệnh:
“Anh kia, chị kia, theo tôi.”

Thật bất ngờ, người đàn bà lao vào tôi, ôm chầm, nói đứt quăng:
“Anh Chính! … anh Chính! … Cứu em! …Cứu em với!”

Tôi phản ứng như máy, gỡ những ngón tay của người đàn bà ra, hơi khó khăn, và đẩy nhẹ cô ta về phía quản giáo. Cô buông tay, lảo đảo, sửng sốt nh́n tôi. Cặp mắt đó, lại hiện lên đốm đỏ, chất chứa một điều ǵ rất khó hiểu. Khinh bỉ? Căm hờn? Nó sẽ đeo đuổi tôi măi. Nó sẽ làm hỏng đời tôi sau này.

Quản giáo bước đi trước, hai bàn tay khoát khoát xua đuổi tôi và mấy anh tù đứng gần đấy đi nơi khác. Hai “tội phạm” riu ríu bước theo, lính bảo vệ cầm súng đi sau cùng. Tôi hụt hẫng. Mọi người im lặng ngơ ngác nh́n.

Cảnh tượng vừa rồi vẫn thường xẩy ra sau khi Miền Nam thất thủ. Như giữa sói và cừu. Trên một cánh đồng êm đềm, một đàn cừu ngoan ngoăn gặm cỏ. Bỗng một con chó sói xuất hiện. Đàn cừu hoảng hốt chạy tán loạn. Con sói rượt theo vồ được một con cừu, cắn vào cổ, vật ngă, rồi ngồi xuống từ từ nhai ngấu nghiến con mồi. Đàn cừu thấy yên yên dừng lại quay nh́n. Cừu, hơn cả dê, thích nh́n xa. Có con động tính hiếu kỳ, tiến lên mấy bước, giương đôi mắt ngây thơ nh́n cho rơ hơn.

Tôi cay đắng thầm tự so sánh với con cừu ngây thơ. Tôi tệ hơn.

Rừng mùa Đông mau tối. Chúng tôi không ai có đồng hồ, 6 giờ rồi chăng? Tiếng trời gầm nghe không xa lắm. Một cơn gió chạy luồn theo khe núi tạo nên những tiếng hú dài. Cây, cành nghiêng ngă, lá rụng ào ào. Chắc sắp đổ mưa. Trên đường về, đến phiên tôi phải vác bó cuốc nặng. Lạ chưa, đi cắt tranh mang cuốc? Chắc quản giáo tính lộn, tôi thầm nghĩ. Và nhớ một câu nói “thuộc lấy làm ḷng”của quản giáo: “Chúng tôi không bao giờ nhầm lẫn.”

Mưa đổ xuống thật. Đội mưa đi mà không thôi nghĩ đến người đàn bà và anh bạn tù.

Này này, tôi nói với tôi, nếu mày không lẩn thẩn con cà con kê th́ đâu đến nỗi. Giá mày có tư cách hơn, có dũng khí hơn. Chẳng biết họ sẽ ra sao? Cái anh chàng đó chắc sẽ bị biệt giam. Hay chuyển trại. Hay là, hay là? Và người đàn bà Sài G̣n mất trí? Điên? Đinh?

Con đường đê nhỏ xíu bề ngang chỉ hơn một gang tay, lầy trơn, lồi lơm, khó bước. Tôi tháo dép râu treo lên cán cuốc đi chân không cho dễ bám đất. Ḷng nặng trĩu, bước loạng choạng, tôi trượt chân té xuống một cái ao đầy nước bên đường. Nằm sóng soải, nước ngập đầu, bó cuốc bung ra. Một lưỡi cuốc chém vào bắp chân phải của tôi, và chạm vào xương đầu gối. Máu chảy nhiều. Anh lính bảo vệ đứng lại, chỉa súng, chờ.

Tôi lóp ngóp ngồi dậy, loay hoay bó lại bó cuốc cho chặt hơn, rồi cởi trần lấy áo bao cát quấn vào vết thương cho cầm máu. Lạnh run cầm cập. Đoàn tù đi qua, đi qua, lặng lẽ. Trong bóng mờ tranh tối tranh sáng, có lẽ họ không thấy tôi bị thương. Họ không quan tâm mấy, trượt té là chuyện nhỏ. Hơn nữa, họ không được tự ư đứng lại khi không có lệnh. Khi tôi đứng dậy, mới nhận thấy ḿnh là người đi áp chót. Người đi cuối là lính bảo vệ.

Nhưng không phải thế. Ngoảnh mặt nh́n lui tôi thấy, không xa lắm, không được rơ lắm, trong b́a rừng, bóng dáng mấy người. Tôi cố nh́n kỹ. Một lính bảo vệ súng cầm tay, và thêm hai người nữa. Nh́n kỹ hơn, đúng là anh bạn tù đưa thơ lúc năy hai tay bị trói quặt ra sau lưng, đi lom khom, và người đàn bà Sài G̣n hai tay cũng bị trói, nhưng đưa lủng lẳng ra đằng trước. Từ trước đến giờ tôi vẫn nghĩ chỉ có một quản giáo và một bảo vệ dẫn chúng tôi đi lao động. Th́ ra số người canh gác, số lính “bảo vệ” chúng tôi, có thể lên đến ba, bốn, hoặc nhiều hơn tuỳ theo nhu cầu, hoàn cảnh. Nhưng họ không lộ diện.

Lẫn trong tiếng mưa rơi và tiếng gió hú, là tiếng rên rỉ, than thở, khóc lóc của người đàn bà. Có lúc rít lên nghe như tiếng con heo đang bị thọc huyết, có lúc gơ từng giọt đều đều như tiếng cú rúc trong rừng khuya.

Tôi đặt bó cuốc lên vai, chạy lúp xúp cho kịp đoàn tù đi đằng trước, mấy lần lại suưt trượt té. Tôi chạy bươn bươn, vượt qua gần hết đoàn tù. Tôi chạy như chạy trốn. Tôi không muốn nghe. Tôi không muốn thấy. Nước mắt tự dưng tuôn ra ḥa với nước mưa chảy dài từ cái đầu ướt mèm xuống cằm. Mấy người đi trước, tôi trông như những h́nh nộm múa may, quờ quạng. Bỗng tôi nghe văng vẳng. Mọi thứ âm thanh, mọi tạp âm đều bị gạn lọc hết, tôi chỉ nghe những tiếng khóc, tiếng rú, tiếng than. Và núi rừng, cây cối cũng đều bị nhạt nhoà, tôi chỉ c̣n trông thấy đôi mắt đen tối, trũng sâu, đầm đ́a. Rồi nó đổi màu, nó biến thành hai đốm lửa, lan ra, lan ra măi thành đám cháy lớn. Khu rừng rực lửa trong tôi.

Đầu óc tôi đă bị gột sạch những liên tưởng, những h́nh ảnh, những âm thanh cũ, những thứ lâu nay đă đeo đuổi theo tôi mỗi khi tôi đi lao động trong rừng xa. Vâng, mới đây thôi, mới hôm qua, rừng càng xa càng khiến ḷng tôi phơi phới. Tôi biết rằng chuyến đi hôm nay đă giết chết trong tôi nhiều thứ t́nh cảm rối rắm, chẳng hạn như t́nh thương đối với người lính bảo vệ trông thật vô tư. Và cả t́nh yêu tôi ấp ủ từ thuở nhỏ đối với núi rừng.

Trước kia rừng là nước, tôi là cá. Hết rồi. Rừng nay là lửa. Lửa nung nấu tim gan.

*****

Nắng kéo dài nhiều tháng. Bây giờ, cuối năm, trời bỗng đổ một trận mưa thật lớn như muốn ban cho năm cũ một chút ơn huệ vớt vát muộn màng. Trong những phút đầu tiên của trận mưa ấy, con đường nhựa trở nên trơn trợt, xe phải chạy chậm lại. Sau đó khoảng vài mươi phút, mặt đường mới sạch nhẵn lớp bùn lầy, bánh xe mới dễ bám.

Tuy thế, một chiếc xe hơi cũ kỹ vẫn chạy nhanh trên đường Edinger theo hướng từ Tây sang Đông. Người lái xe là một ông già hơi gầy, cao cao, tóc bạc phơ, trông yếu ớt, mệt nhọc. Phục sức luộm thuộm. Đôi mắt nhớn nhác chứng tỏ một tâm hồn không ổn định. Mang một thứ bệnh nào đó liên quan đến thần kinh chăng? Hẳn nhiên ông già già hơn chiếc xe nhiều. Đuổi theo sau chiếc xe đó là một xe Cảnh Sát đèn chớp, c̣i hụ.

Mưa lớn, đường Edinger vắng, không gặp đèn đỏ, chiếc xe hơi cũ vượt nhanh qua những đường giao lộ như Magnolia, Brookhurst. Chạy hết Mile Square Park, chiếc xe quẹo gấp qua trái trên đường Euclid. Lái xe cái kiểu đó có ngày chết. Xe Cảnh Sát vẫn lẽo đẽo đuổi theo sau cách một quăng ngắn. Mưa càng lúc càng lớn. Cái gạt nước không kịp gạt hết những giọt mưa đập lên kính chắn gió. Cảnh vật trước mặt ông già do đó bồng bềnh, nghiêng ngửa. Kính chắn gió đằng sau của xe th́ bị phủ đầy sương đêm chưa kịp tan, và nước mưa. Ông đă bấm nút “Làm tan băng.” Xe cũ. Những nút bấm không kích hoạt nhanh.

Chiếc xe lại tiếp tục vùn vụt chạy qua các đường Mc. Fadden, rồi Bolsa, rồi Fifth, rồi Hazard. Thấy đèn giao thông màu vàng xuất hiện, ông càng đạp thêm ga cho xe phóng nhanh để kịp vượt qua đèn đỏ.

Bỗng bảng tên đường Emperor Quang Trung hiện lên mờ mờ dưới cơn mưa càng lúc càng nặng hột. Ông đạp thắng gấp, quẹo nhanh qua trái để vào một Khu Doanh Thương. Xe trượt trên lớp nước tràn ngập đường, lủi vào đụng cột đèn điện đánh sầm một tiếng. Và nằm nghiêng cạnh mép đường, đầu xe ch́m một phần trong làn nước. Quên tắt máy, ông nhăn nhó quay nh́n cái tay lái bị đầu gối phải của ông chạm mạnh vào, lệch qua một bên. Cây gậy gỗ nằm cạnh cửa xe găy làm đôi. Máu chảy ra khá nhiều, thấm đỏ ống quần. Ông tỏ vẻ đau đớn, càu nhàu, Lần này bác sĩ dở hơi giở tṛ hỏi đau bao nhiêu từ không đến mười, sẽ đáp không chút phân vân đau chín. Hay mười?

Chiếc xe Cảnh Sát chạy theo đằng sau quẹo ngay vào. Từ trên xe bước xuống một cảnh sát giao thông cao lớn, lực lưỡng. Ông ngồi yên chờ. Người cảnh sát ra dấu bảo ông hạ kính xe xuống. Ông làm theo.

Câu đầu tiên của cảnh sát:
“Ông có bị thương không?”

Ngần ngừ một chút, ông trả lời:
“Không, không sao cả. Hoàn toàn không bị thương.”

Có lẽ ông nghĩ nói như thế sẽ bị phạt nhẹ, hay tha bổng. Là v́ ḿnh làm ḿnh bị thương khi lái xe cũng là phạm luật chứ? Lái xe gây thương tích cho người ta là lỗi nặng, ḿnh cũng là người ta. Bị phạt nặng, rồi c̣n bảo hiểm tăng, có khi bị “treo gị” mấy tháng. Đời nào!

Anh cảnh sát bảo ông tắt máy, yêu cầu ông tŕnh bằng lái xe, giấy bảo hiểm, giấy thuế lưu hành hàng năm. Xem qua một lượt, cảnh sát nói tiếp:
“Ông chạy quá tốc độ. Hai lần vượt đèn đỏ. Làm ǵ mà chạy nhanh dữ thế?”

Ông liếc nh́n đồng hồ, nói:
“Tôi có hẹn với bác sĩ đúng 9 giờ sáng hôm nay. Tôi ngủ quên. Sợ trễ hẹn. Thật ra tôi không vượt đèn đỏ. Vượt đèn vàng thôi. Cái đèn vàng mau tắt, c̣n cái đèn đỏ th́ mau hiện. Có thế thôi.”

Anh cảnh sát mỉm cười. Thấy anh cảnh sát trẻ trung không khó đăm đăm như những cảnh sát khác mà ông đă gặp nhiều lần trong những dịp như thế này, ông cố kéo dài câu chuyện. Biết đâu, anh ta sẽ thông cảm, nhẹ tay. Có lẽ nghĩ như thế, ông hăm hở tranh nói trước khi cảnh sát hỏi tiếp:
“Tôi bị thương ở đầu gối lâu ngày, từ hồi, từ hồi … Cũng cơn mưa lớn như thế này, mưa trên rừng. Chữa măi không lành. Tôi đi khập khiễng nhưng ngồi lái xe th́ b́nh thường. Nghĩa là không có vấn đề ǵ. Thời tiết thay đổi, nhức nhối khó chịu lắm. Nhất là ban đêm không ngủ được. Nay được bạn bè mách nước, bảo tập thể dục mới khỏi, chứ thuốc thang không ăn thua. Tôi thử tới bác sĩ Vật Lư Trị Liệu trong khu này…”

Anh cảnh sát ngắt lời:
“Vâng, tôi nghe đủ rồi. Nhưng tôi đuổi theo, đèn chớp, c̣i hụ, sao ông không chịu dừng lại?”
“Trời mưa lớn quá, tôi không nghe ǵ cả. Cũng không thấy đằng sau. Cái kính sau đó mà, nó bị nước mưa che hết. Hơn nữa tôi lăng tai nặng. Cửa xe đóng kín, không mưa tôi cũng không nghe. Không lẽ anh không biết điều đó?”

Anh cảnh sát như vô cảm, lấy cái máy lớn hơn bàn tay bấm bấm trên các ô, xong ch́a ra cho ông và nói:
“Thế hả? Đây, xin ông vui ḷng kư vào đây.”

Ông già đầu khặc khừ, nhăn mặt, bặm miệng, mắt muốn đổ lửa. Không c̣n lẩn thẩn con cà con kê nữa, cũng không buồn xem cảnh sát ghi ǵ trong máy, ông kư rẹt một cái. Anh cảnh sát lấy lại máy, in tờ biên nhận và trao cho ông. Ông lạnh lùng nói:
“Cám ơn.”

Cảnh sát lạnh lùng đáp:
“Cám ơn.”

Khi anh cảnh sát quay người sắp đi dưới cơn mưa, ông hỏi vói:
“Phạt tui hả? Bao nhiêu tiền?”

Anh cảnh sát không trả lời, nhún vai, đi thẳng. Ông sực nhớ Cảnh Sát chỉ làm biên bản. Ṭa án sẽ quyết định phần c̣n lại.

Ngự Thuyết