View Full Version : CHUYỆN LINH TINH BUỒN VUI TRONG ĐỜI
hoanglan22
01-25-2019, 20:41
MỤC LỤC
A
Ai là tác giả bản "Cờ Ta Bay Trên Quảng Trị Thân Yêu" ? (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=3)
B
Bắc Việt Gửi Thư Đầu Hàng HK 1972 (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=1)
Bài viết chửi Cộng hay nhất thế kỷ (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=1)
Bí ẩn về những chiếc vali hạt nhân (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=1)
Bí mật đằng sau cái Tên. (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=1)
4 "Trọc Phú" lừng danh đất Sài G̣n xưa . (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=2)
Bản Lĩnh Của Nguyễn Văn Thiệu Trước Áp Lực Của Johnson (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=2)
Bí mật sức mạnh hệ thống pḥng thủ hoả tiển Mỹ (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=2)
Bom BLU-82 (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=7)
Bắc Việt Gửi Thư Đầu Hàng HK 1972 (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=8)
Bí Ẩn 30-4-1975 (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=8)
30 THÁNG 4 NĂM 1975: NHỮNG KHUÔN MẶT MỸ KHÓ QUÊN (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=10)
C
Con người đáng nể (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=1)
CH-47 Chinook (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=2)
Cô Gái Này Là Ai (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=2)
“cái ấy” và “chuyện ấy” trong ca dao, tục ngữ . (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=2)
Cuộc Chiến Không Được Thắng ... (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=3)
CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065 (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=3)
Câu Chuyện Cuộc Đời... (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=6)
Cười Cay Đắng Từ Câu Chuyện "Lái Xe Cho Ông Sếp Nhật Dở Hơi" (1"https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=6")
Cái chết của Thích Quảng Đức qua lời phát biểu của Thích Tâm Châu (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=7)
Con Đường Catinat và nếp sống Sài G̣n xưa (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=7)
Chuyến tầu định mệnh Trường Xuân Hành tŕnh t́m tự do (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=7)
Chiếc giường đắt nhất thế giới chính là giường bệnh: Đừng cố kiếm tiền chỉ để mua nó... (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=7)
Chiếc bàn ủi con gà nhà tôi (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=9)
Chuyến Đi Kinh Hoàng - Những Món Nợ Ân T́nh Không Bao Giờ Trả Được (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=9)
D
Du khách thích sờ 'của quư' của VICTOR NOIR (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=6)
Đ
Để Tang Cho Sách (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=5)
Đọc Khalil Gibran: The Prophet (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=5)
Định Nghĩa Chữ "BẠN" (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=8)
Đàn Bà, Đàn Ông (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=8)
E
G
H
Hiệp Định Paris 1973 (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=1)
Ḥa B́nh của Nấm Mồ (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=1)
Hoa Con Vẹt (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=1)
HỘP ĐEN TRÊN PHI CƠ (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=1)
Hệ thống tiền tệ Mỹ . (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=8)
I
Im lặng nghĩa là yếu đuối? Không, đó là quyền năng của kẻ thông minh! (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=6)
K
Khóc & Cười với những con số (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=4)
L
LÁ THƯ CUỐI CÙNG CỦA TỔNG THỐNG NGUYỄN VĂN THIỆU (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=8)
M
10 đài phun nước độc đáo nhất thế giới (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=2)
15 câu nói đáng nhớ của TT Ronald Reagan (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=2)
N
NGƯỜI ĐẶT TÊN CHO CÁC ĐƯỜNG PHỐ SÀI G̉N TRƯỚC 1975 (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=3)
Năm Kỷ Hợi nói chuyện… con heo (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=4)
Năm Hợi nói chuyện Heo (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=4)
Ngày Xuân nghe lính kể "Chuyện Ma" (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=5)
Nước bốc cháy (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=5)
Ngày Tết nói chuyện mâm ngũ quả (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=4)
Người cha nói với con rể (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=6)
Ngày 8/3: Tuần lễ khen vợ (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=6)
Người Vợ Tù Cải Tạo - Thụy Vi tự thuật (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=6)
Nói thêm về Thích Thiện Minh (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=7)
Người đàn ông Anh sống hạnh phúc cùng 12 búp bê t́nh dục (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=8)
[https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=9"]50 năm sự kiện Vịnh Bắc bộ: Nghị Quyết Vịnh Bắc bộ – 1964[/URL]
Nhà hàng khỏa thân ở Paris đóng cửa v́ thiếu khách hàng (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=9)
O
Ở đâu đó có một nơi tên Sài G̣n (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=5)
P
Q
R
Ra tù (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=9)
S
Sài G̣n xưa : Ăn Chơi ngày Tết (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=5)
T
Tết về dzồi...Ai lo chuyện nấy (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=4)
Tết Tây và Tết Ta (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=4)
Tài Liệu SNIE 14.3-67: Bài Học Đắt Giá của Việc Chính-Trị-Hóa Tình Báo (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=5)
Tiếng Anh của bà nội trợ]/URL]
[URL="https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=8"]Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hải-Quân Hoa-Kỳ (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=5)
Tử h́nh khủng bố VC Trần Văn Đang tại pháp trường cát (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=9)
Trên những vết thương c̣n chảy máu (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=9)
Thêm chuyện Paris: Tháo dỡ 65 tấn ổ khóa t́nh yêu ở Paris … đem bán (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=9)
Trại 5 - Mùa Cùm! (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=9)
V
Việt Cộng Nằm Vùng . (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=122 2074&page=8)
******************** ******************** *********
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1331973&stc=1&d=1548448840
Tôi mở trang này để các bạn có thể post những chuyện trên trời dưới đất thật hay không thật . Bao gồm mọi vấn đề , tuy nhiên những post mà bạn nào chửi tục ở đây sẽ delete:thankyou::tha nkyou::handshake::ha ndshake:
Mong rằng các bạn hăy tham gia và post nhiều điều hay cho tất cả các thành viên chúng biết thêm về những mới lạ . một lần nữa :thankyou: đến các bạn
Thân kính
hoanglan22
01-25-2019, 20:42
Tháng tư 1973, thi hành Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973, Quân Lực Hoa Kỳ đơn phương rút khỏi Việt Nam.
Tháng tư 1975 Quân Đội Bắc Việt xâm chiếm Việt Nam Cộng Ḥa bằng vơ lực.
Mặc dầu vậy, Tướng William Westmoreland Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam nhận định : “Chúng ta (Hoa Kỳ) không thất trận tại Việt Nam. Nhưng chúng ta đă không giữ lới cam kết với Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Thay mặt Quân Đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn cựu chiến binh Quân Lực Miền Nam Việt Nam v́ chúng tôi đă bỏ rơi các bạn”(On behalf of the United States Armed Forces, I would like to apologize to the veterans of the South Vietnamese Armed Forces for abandoning you guys).
Và năm 1985, 10 năm sau khi Saigon thất thủ, trong cuốn “No More Vietnams”, Tổng Thống Richard Nixon tự phán : “Trong cuộc chiến đấu này Hoa Kỳ đă thất bại và phản bội đồng minh (failure and betrayal). Chúng ta đă thắng trong chiến tranh, nhưng đă thua trong ḥa b́nh."
Đúng lư Nixon phải nói : Chúng ta thắng về Quân sự, nhưng lại tháo chạy và đầu hàng lịch sự. Chúng ta thua về chính trị và, theo Thuyết Domino, đă gieo tai họa vô lường cho các Quốc gia đồng minh Đông Dương Việt-Miên-Lào, cũng như một số các Quốc gia Á Phi và Nam Mỹ như A-Phú-Hăn, Iran, Angola, Mozambique, Ethiopia, South Yemen, Nicaragua v.v...
Ngày nay, sau 40, năm chúng ta b́nh tâm duyệt lại bài học lịch sử 1975.
Bài này gồm 3 phần :
Thắng trong chiến tranh, Phản bội đồng minh và Lưỡng Diện Thụ Địch.
I. Thắng trong Chiến Tranh.
Việt Nam Cộng Ḥa và Hoa Kỳ đă thắng trong chiến tranh từ 1965 đến 1972.
1968 : Tổng Công Kích Tổng Khởi Nghĩa Tết Mậu Thân.
Cuộc Tổng Công Kích Tổng Khởi Nghĩa Tết Mậu Thân 1968 của Bắc Việt đă hoàn toàn thất bại về Chính trị cũng như về Quân sự.
Cộng Sản dối gạt các cán binh rằng vào Nam chỉ để tiếp thu, và sẽ có tổng khởi nghĩa của Nhân dân Miền Nam. Thật ra cuộc đồng khởi chính trị không được dân chúng hưởng ứng. Theo báo cáo của thủ trưởng Định Tường, ngày Tổng Khởi Nghĩa sẽ có 50 tổ đồng khởi. Vậy mà tới ngày đó, chỉ có một tổ của thủ trưởng mà thôi, “không thấy 49 tổ kia đâu !” Nhận định về sự sai biệt này, về chính trị Hồ Chí Minh đúc kết : “Tổng Khởi Nghĩa thất bại v́ báo cáo chủ quan”. (Tỷ lệ phóng đại là 98%).
Về Quân sự, cũng theo Hồ Chí Minh : “Tổng Công Kích thất bại v́ hạ tầng cơ sở du kích tan ră” (do Chiến Dịch “Lùng và Diệt Địch” phát động từ 1965). Nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam bị tiêu diệt toàn bộ; có đoàn quân đi 2.000 người mà sau một đêm chỉ c̣n có 30.
Mậu Thân, hai ngàn người xuống đồng bằng,
Chỉ một đêm, c̣n sống có ba mươi.
(Chế Lan Viên)
(Tỷ lệ tổn thất cũng là 98%)
Phục sinh 1972 : Mùa Hè Đỏ Lửa / Tổng Tấn Công Xuân Hạ.
Sự thật chiến trường cho biết, từ tháng 4-1972, khi Bắc Việt huy động hơn 200 ngàn quân trong Chiến Dịch Tổng Tấn Công Xuân Hạ hay Mùa Hè Đỏ Lửa (Easter Offensive), tới tháng 10-1972 khi Chiến Dịch tàn lụi, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă đẩy lui 14 Sư đoàn chính quy Bắc Việt, dầu rằng lúc này Quân Lực Hoa Kỳ không c̣n tham chiến trên bộ nữa. Và số thương vong của Bắc Việt đă vượt quá 100 ngàn.
Như vậy từ tháng 2-1968 (Tết Mậu Thân) đến tháng 10-1972 (sau Mùa Hè Đỏ Lửa), “Bắc Việt đă thực sự thua trận, nhưng họ làm ra vẻ thắng trận, trong khi Việt Nam Cộng Ḥa đă thực sự thắng trận”. Nixon, sách đă dẫn).
Giáng Sinh 1972 : Tập Kích Chiến Lược.
Đến Mùa Giáng Sinh 1972, sau cuộc Tập Kích Chiến Lược 12 ngày đêm của Không Lực B52 Hoa Kỳ tại Hà Nội, Hải Pḥng và vùng phụ cận (từ 18-12 đến 30-12, trừ Ngày Giáng Sinh), Bắc Việt đă hoàn toàn kiệt quệ. Tại Hà Nội và Hải Pḥng, tin trong nước cho biết, nhà nào cũng may cờ trắng đầu hàng để dân chúng nghênh đón các chiến sĩ Miền Nam ra giải phóng Miền Bắc.
Thế nhưng, ngày10-7-1971 và ngày 21- 2-1972 khi tiếp kiến Chu Ân Lai tại Bắc Kinh, Kissinger thú nhận Hoa Kỳ không chủ trương đánh bại Bắc Việt, chỉ muốn 3 điều là ngưng chiến, rút quân và trao đổi tù binh.
Tiết lộ bí mật Quân sự là nối giáo cho giặc và phản bội đồng minh.
II. Phản bội Đồng Minh.
Trong Chiến Tranh Việt Nam, Hoa Kỳ đă mắc phải 3 mâu thuẫn hay 3 nghịch lư về Chính trị, Quân sự, Pháp lư về sự chế tài vi phạm hiệp định của Bắc Việt.
Nghịch Lư Thứ Nhất về thành phần tham dự Hội Nghị.
Nghịch lư cơ sở thứ nhất là Hoa Kỳ đă thừa nhận một Quốc gia thứ hai tại Miền Nam Việt Nam là “nước” Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam (CHMNVN) với một “Chính phủ Lâm thời”(CPLT).
Cuối tháng 12-1960, để giàn dựng sân khấu nội chiến, Đảng Cộng Sản thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN). Và tới tháng 6-1969, tại Hội Nghị Paris, lại thấy xuất hiện cái gọi là CPLT CHMNVN.
MTGPMN do Đảng Cộng Sản Việt Nam dựng lên v́ lư do chính trị giai đoạn. Cũng như các cây kiểng Mặt Trận Việt Minh, Mặt Trận Liên Việt, Mặt Trận Tổ Quốc, Đảng Dân Chủ, Đảng Xă Hội v.v… là những tổ chức ngoại vi được Đảng Cộng Sản khai sanh từ thập niên 1940.
Từ sau 1975, khi Đảng Cộng Sản công khai xuất hiện, các tổ chức ngoại vi nói trên như Đảng Dân Chủ của Vũ Đ́nh Ḥe và Đảng Xă Hội của Nguyễn Xiển đă bị giải thể sau khi hoàn thành sứ mạng bầy cảnh đa đảng. Cùng chung số phận, MTGPMN cũng đă bị giải thể và sát nhập vào Mặt Trận Tổ Quốc từ tháng 11-1975 sau khi hoàn thành sứ mạng giàn dựng sân khấu nội chiến tại Miền Nam. Trước đó Quân Đội GPMN cũng được “thống nhất” với Quân Đội Bắc Việt từ sau tháng 4-1975.
Kế hoạch “3 Nước Việt” đă được Cộng Sản đề ra để giăng bẫy Hoa Kỳ. Bắc Kinh hứa sẽ dùng CHMNVN làm Quốc gia trung lập trái độn giữa Bắc và Nam Việt.
Từ 1969 Hoa Kỳ đă áp lực Việt Nam Cộng Ḥa phải nh́n nhận thực thể CHMNVN.
Nghịch Lư Thứ Hai về Rút Quân.
Trước kia, theo Hiệp Định Đ́nh Chiến Geneva 1954, trong thời hạn 300 ngày, Quân Đội Bắc Việt phải rút khỏi Miền Nam và tập trung tại phía Bắc Vĩ Tuyến 17. Trong khi đó, Hiệp Định Ḥa B́nh Paris 1973 buộc Hoa Kỳ phải đơn phương rút quân khỏi Miền Nam Việt Nam trong thời hạn 60 ngày.
Bắc Việt được hưởng quy chế ngừng bắn tại chỗ và không phải rút quân khỏi Miền Nam.
Nghịch Lư Thứ Ba về sự Bảo Đảm Thi Hành Hiệp Định.
Ngày 14-11-1972 Tổng Thống Nixon viết cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu : “Điều quan trọng hơn cả bản văn Hiệp Định là vấn đề chúng ta sẽ phản ứng thế nào trong trường hợp kẻ thù tái xâm lược. Tôi xin cam kết rằng, nếu Bắc Việt không tuân theo những điều khoản của Hiệp Định, tôi cương quyết sẽ trả đũa tức th́ và mănh liệt”.
Và 10 ngày trước khi kư Hiệp Định, ngày 17-1-1973, Nixon c̣n khẳng định : “Tự do và Độc lập của Việt Nam Cộng Ḥa là mục tiêu tối hậu của chính sách đối ngoại Hoa Kỳ... Tôi xin cam kết 3 điều sau đây :
Hoa Kỳ chỉ thừa nhận Chính Phủ Việt Nam Cộng Ḥa là chính phủ hợp pháp duy nhất tại Việt Nam;
Hoa Kỳ không chấp nhận cho Bắc Việt được đồn trú quân trên lănh thổ Miền Nam Việt Nam;
Hoa Kỳ sẽ trả đũa mănh liệt khi Bắc Việt vi phạm Hiệp Định”.
Đó cũng là điều cam kết của Tổng Thống Ford.
Sau khi Nixon từ chức, ngày 10-8-1974, với tư cách là người kế quyền Nixon, Tổng Thống Ford cũng gởi văn thư cho Tổng Thống Thiệu xác định rằng : “Những cam kết mà Hoa Kỳ đă hứa với Việt Nam Cộng Ḥa trong thời gian vừa qua vẫn giữ nguyên giá trị. Và tôi sẽ triệt để tôn trọng những cam kết này trong suốt thời gian nhiệm chức của tôi.”(Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter: The Palace File).
Năm tuần lễ sau khi kư Hiệp Định Paris, cũng tại Paris ngày 2-3-1973, với sự chứng kiến của ông Tổng Thư Kư Liên Hiệp Quốc, 12 quốc gia đă họp và kư tên vào bản Định Ước của Hội Nghị Quốc Tế về Việt Nam để “trịnh trọng ghi nhận những cam kết của 4 bên kết ước và đứng ra nhận trách nhiệm bảo đảm sự thi hành nghiêm chỉnh Hiệp Định.
Hoa Kỳ là quốc gia đứng ra triệu tập Hội Nghị Paris, đă cưỡng chế Việt Nam Cộng Ḥa phải tham dự Hội Nghị và phải kư Hiệp Định cùng với Hoa Kỳ.
Trong trường hợp Bắc Việt vi phạm Hiệp Định bằng xâm lăng vơ trang Hoa Kỳ có nghĩa vụ triệu tập Hội Nghị Quốc Tế để ban hành những biện pháp chế tài cần thiết.
Nói tóm lại :
Với sự xóa bỏ Hiệp Định Geneva 1954, sự thừa nhận nhà nước và chính phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam, sự rút quân đơn phương của Hoa Kỳ, sự cắt giảm viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Ḥa từ sau Hiệp Định Paris, đặc biệt là việc Hoa Kỳ bội ước không tôn trọng lời cam kết của Tổng Thống Nixon trong 30 văn thư gửi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu hứa sẽ trả đũa quyết liệt trong trường hợp Bắc Việt tấn công vơ trang vi phạm nghiêm trọng Hiệp Định, Tổng Thống Nixon thú nhận : “Hoa Kỳ đă phản bội Đồng Minh và đă thất bại trong việc thực thi những điều cam kết bảo vệ Độc Lập và Tự Do của Việt Nam Cộng Ḥa. Đây là sự phản bội và thất bại không tiền khoáng hậu trong lịch sử Hoa Kỳ”.
Trước sự nhẫn tâm của Phe Phản Chiến, Tổng Thống Nixon nhận định :
“Các dân biểu và nghị sĩ phản chiến đă xóa tên Việt Nam Cộng Ḥa trong danh sách các Quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ. Kể cả từ sau Hiệp Định Ḥa B́nh Paris 1973, chúng ta đă thắng trong chiến tranh. Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă thành công trong việc chặn đứng những vụ vi phạm ngừng bắn của Bắc Việt trong suốt 2 năm (1973-1975). Lư do thất bại là v́ Quốc Hội Hoa Kỳ đă khước từ không chịu cấp quân viện cho Saigon ngang với số quân viện Liên Xô cấp cho Hà Nội. Tất cả các Tướng lănh chỉ huy cao cấp Hoa Kỳ tại Việt Nam và Hoa Thịnh Đốn đều xác nhận rằng, nếu được trang bị đầy đủ, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa sẽ có khả năng đẩy lui những Sư đoàn thiện chiến nhất của Bắc Việt xâm nhập vào Nam...” (Nixon, sách đă dẫn)
III. Lưỡng diện thụ địch.
Năm 1973, dưới áp lực của Hoa Kỳ, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bị du vào thế lưỡng diện thụ địch, phải kư Hiệp Định Paris để chấp nhận những tai ương gây ra bởi bản văn Hiệp Định, cũng như bởi sự trí trá của Cộng Sản và sự bội ước của Đồng Minh.
Chúng ta hăy nêu giả thuyết :
Trong trường hợp ông Thiệu có tinh thần vô uư không chịu lùi bước trước cái chết (như Thủ Tướng Sirik Matak tại Cao Miên) liệu ông có thể làm được những ǵ cho Quốc Gia ?
Với tư cách nguyên thủ của một Quốc Gia có Hiến Pháp và Quốc Hội, ông Thiệu có thể ra chỉ thị cho Chính phủ của ông không kư hiệp định trong trường hợp Hoa Kỳ cho quân Bắc Việt tiếp tục đồn trú tại Miền Nam trái với lời cam kết minh thị của Nixon. Về mặt hiến chế các hiệp ước do Hành Pháp kư chỉ có hiệu lực thi hành nếu được Lập Pháp phê chuẩn. Mà Quốc Hội Việt Nam Cộng Ḥa đầu thập niên 1970 vẫn tôn trọng Hiến Pháp Đệ Nhị Cộng Ḥa 1967 với chủ trương “đặt Cộng Sản ra ngoài ṿng pháp luật”.
Quốc Hội Việt Nam Cộng Ḥa sẽ công bố lập trường không chấp nhận và sẽ không phê chuẩn bất cứ hiệp định nào kư với Bắc Việt nếu có một trong ba sự kiện sau đây :
1. Có sự tham gia của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, một tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng Sản, đại diện bởi cái gọi là “Chính Phủ Lâm Thời” của “Nước” CHMNVN, một nước hữu danh vô thực CPLT được khai sanh vào tháng 6-1969 v́ nhu cầu chính trị giai đoạn. Nó bị khai tử tháng 11-1975 cùng với CHMNVN.
2. Trong Hiệp Định không có điều khoản ghi rơ Quân Đội Bắc Việt phải triệt thoái khỏi Miền Nam Việt Nam đồng thời với Quân Lực Hoa Kỳ.
3. Hoa Kỳ được vĩnh viễn giải kết tại Việt Nam nên không c̣n chịu trách nhiệm bảo đảm sự thi hành Hiệp Định, nhất là không trả đũa tái oanh tạc nếu Bắc Việt vi phạm Điều 15 Hiệp Định Paris bằng xâm lăng vơ trang để thôn tính Miền Nam Việt Nam.
Nếu có một trong ba trường hợp nói trên, Chính Phủ Việt Nam Cộng Ḥa sẽ không kư Hiệp Định v́ biết rằng Quốc Hội sẽ không phê chuẩn. Quốc Hội Việt Nam Cộng Ḥa sẽ ra Tuyên Cáo và Chính Phủ Việt Nam Cộng Ḥa sẽ họp báo tại Saigon, Paris và Hoa Thịnh Đốn để công bố lập trường và tranh thủ cảm t́nh của dư luận Quốc gia và Quốc tế.
Đó là sách lược Tổng Thống trao lại cho Quốc Dân-do Quốc Hội đại diện-quyền quyết định về vấn đề Ḥa hay Chiến theo gương Hội Nghị Diên Hồng chống Đế Quốc Mông Cổ hồi Thế Kỷ 13.
Hoa Kỳ sẽ phản ứng ra sao ?
Theo giới am hiểu, nhiều phần người Mỹ sẽ không dám hạ sát ông Thiệu năm 1973 như họ đă hạ sát ông Diệm năm 1963. Trong một thập niên, Hoa Kỳ không dám sát hại hai vị nguyên thủ của một Quốc gia đồng minh đă đồng tâm hiệp lực với Hoa Kỳ đứng ra làm tiền đồn chống Cộng để bảo vệ Tự Do cho các Quốc gia Đông Nam Á dưới sự lănh đạo của Hoa Kỳ qua Khối Liên Minh Pḥng Thủ Đông Nam Á (SEATO).
Tổng kết lại, trong trường hợp Việt Nam Cộng Ḥa không kư Hiệp Định Paris 1973 th́ việc ǵ sẽ xẩy ra, và Hoa Kỳ sẽ phản ứng ra sao ?
1. Rất có thể, do áp lực Quốc nội, cũng như v́ quyền lợi riêng tư, Hoa Kỳ sẽ kư hiệp ước tay đôi với Bắc Việt về ngừng bắn, rút quân và thả tù. Và để trả đũa Hoa Kỳ sẽ cắt hết viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Ḥa, để tạo cơ hội cho Cộng Sản thôn tính Miền Nam bằng vơ lực. Trước dư luận Quốc tế và Quốc nội, cũng như về mặt ngoại giao, liên minh, chính nghĩa, tín nghĩa và lương tâm, liệu Hoa Kỳ có dám nhẫn tâm làm điều đó không ?
Câu trả lời hợp lư là “không”.
V́ hành động như vậy là phản bội đồng minh và đầu hàng nhục nhă. Chẳng khác nào, nếu đầu thập niên 1940, Roosevelt kư với Đức Quốc Xă hiệp ước bất tương xâm để trao Tây Âu cho Hitler; hay cuối thập niên 1940, Truman ngưng tiếp vận hàng không cho Tây Bá Linh để trao Thị trấn này cho Honecker; hay đầu thập niên 1950, Truman kư ḥa ước với Bắc Hàn để rút quân và bán đứng Nam Hàn cho Kim Nhật Thành.
Những vụ phản bội và đầu hàng nhục nhă này nếu có, chẳng những tác hại đến Anh Quốc, Tây Đức và Đại Hàn, mà c̣n gây thảm họa cho toàn cơi Âu Châu, từ Tây Âu sang Đông Âu, cũng như cho toàn cơi Á Châu, từ Đông Bắc Á qua Đông Nam Á. Do hậu quả dây chuyền của Thuyết Domino.
2. Dầu sao, nhiều phần là, muốn ngừng bắn, rút quân và chuộc tù, Hoa Kỳ vẫn cần phải có sự tham dự của Việt Nam Cộng Ḥa tại Hội Nghị. Muốn thế Hoa Kỳ sẽ t́m cách lật đổ ông Thiệu theo kế hoạch “thay đổi nhân sự” được áp dụng năm 1963. Trong trường hợp này, cũng như 10 năm trước, rất có thể ông Dương Văn Minh sẽ lại được chiếu cố. Và ông này sẽ tuân lệnh Hoa Kỳ (và Bắc Việt) để thành lập một Chính Phủ Liên Hiệp 3 Thành Phần do Cộng Sản khống chế. Kết quả là phe Cộng Ḥa chỉ c̣n 1/3 chủ quyền, 1/3 chính quyền, 1/3 lănh thổ và 1/3 lực lượng tại Miền Nam. Nghĩa là trong toàn cơi Việt Nam, phe Cộng Sản chiếm tuyệt đại đa số 5/6. Trong điều kiện đó Bắc Việt sẽ thôn tính Miền Nam bằng bạo lực.
Trong trường hợp này, đối với Hoa Kỳ, hành động bán đứng Việt Nam Cộng Ḥa cũng là phản bội đồng minh và đầu hàng nhục nhă.
Và, một lần nữa, vấn đề đặt ra là, về mặt ngoại giao, liên minh, chính nghĩa, tín nghĩa và lương tâm, liệu Hoa Kỳ có dám nhẫn tâm làm điều đó không ?
Câu trả lời hợp lư cũng vẫn là “không”.
Rút kinh nghiệm vụ “thay đổi nhân sự” năm 1963 tại Việt Nam, Hoa Kỳ sẽ rất ngần ngại khi phải can thiệp lộ liễu vào nội bộ của một Quốc Gia Đồng Minh trong Thế Giới Dân Chủ.
Trong văn thư ngày 31-8-1972 chính Nixon cũng xác nhận điều này với ông Thiệu: “Tôi xin một lần nữa đoan chắc với Ngài về lập trường căn bản của Hoa Kỳ: Nhân dân Hoa Kỳ ư thức rằng muốn mang lại ḥa b́nh và danh dự cho quốc gia, chúng tôi không thể bỏ rơi một đồng minh dũng cảm ( như Việt Nam Cộng Ḥa ). Điều này tôi không thể làm và sẽ không bao giờ làm”.
V́ việc này đi trái Chính Nghĩa, Tín Nghĩa, Lương Tâm, Danh Dự, Quyền Lợi Quốc Gia và Truyền Thống Dân Chủ của Hoa Kỳ từ khi lập quốc.
Có điều là, trong lịch sử nhân loại cổ kim, chưa từng thấy một đế quốc nào dám ra tay hạ sát hai vị nguyên thủ của một Quốc gia đồng minh trong ṿng một thập kỷ.
Thật vậy, khi Hoa Kỳ nhẫn tâm rũ áo ra đi để mặc cho phe Quốc Tế Cộng Sản thôn tính Miền Nam bằng vơ lực, th́ bao nhiêu công lao, danh dự và uy tín quốc gia, xây dựng từ Thế Chiến I đến Thế Chiến II và Chiến Tranh Triều Tiên, sẽ phút chốc tiêu tan, đem lại sự bất b́nh và chê bai của các quốc gia văn minh trên thế giới. Hậu quả dễ thấy nhất là sự bành trướng thế lực vượt bực của phe Quốc Tế Cộng Sản tại Á Châu, Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh.
Ngoài ra, sự hoài nghi của các dân tộc trên thế giới về Quyết Tâm và Lư Tưởng Tự Do của Hoa Kỳ sẽ có tác dụng làm suy yếu cuộc đấu tranh giải thể chế độ độc tài Cộng sản tại Đông Âu và Liên Xô.
Do đó, cho đến nay không ai dám quyết đoán về việc Hoa Kỳ có theo chính sách thực dụng để nhẫn tâm làm việc đó không ?
Có điều là, nếu quân dân một ḷng, và nếu vị nguyên thủ quốc gia có tinh thần vô úy “coi tấm thân nhẹ tựa hồng mao”, không chịu lùi bước trước cái chết, th́ uy tín của Việt Nam Cộng Ḥa sẽ được bảo toàn, danh dự của Quân LựcViệt Nam Cộng Ḥa sẽ được ǵn giữ. Và vị nguyên thủ Quốc gia sẽ có cơ hội đi vào Lịch Sử Dân Tộc như Nguyễn Thái Học và Hoàng Diệu trong hai thế kỷ vừa qua.
Mà, nếu biết vận dụng t́nh thế, với quyết tâm, có cố vấn và mưu lược, rất có thể Việt Nam Cộng Ḥa sẽ tạo được thời cơ để bảo vệ chủ quyền lănh thổ quốc gia từng phần hay toàn diện.
Nhuệ Hồng Nguyễn Hữu Thống
hoanglan22
01-25-2019, 20:46
Cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trả lời phỏng vấn của Spiegel 1979
Phạm Thị Hoài dịch
Nguyễn Văn Thiệu và Henry Kissinger
Spiegel: Thưa ông Thiệu, từ 1968 đến 1973 Hoa Kỳ đă nỗ lực thương lượng ḥa b́nh cho Việt Nam. Trong cuốn hồi kư của ḿnh, ông Henry Kissinger, trưởng phái đoàn đàm phán Hoa Kỳ đă dùng nhiều trang để miêu tả việc ông, Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa, đă chống lại những nỗ lực nhằm đem lại ḥa b́nh cho một cuộc chiến đă kéo dài nhiều năm, với hàng triệu nạn nhân và dường như là một cuộc chiến để "bóp nát trái tim Hoa Kỳ". V́ sao ông lại cản trở như vậy?
Nguyễn Văn Thiệu: Nói thế là tuyệt đối vô nghĩa. Nếu tôi cản trở th́ đă không có Hiệp định Ḥa b́nh năm 1973 – mặc dù, như ai cũng biết, đó không phải là một nền ḥa b́nh tốt đẹp; hậu quả của nó ở Việt Nam là chứng chỉ rơ ràng nhất. Kissinger đại diện cho chính sách và lợi ích của chính phủ Mỹ. Là Tổng thống Nam Việt Nam, bổn phận của tôi là bảo vệ những lợi ích sống c̣n của đất nước tôi.
Tôi đă nhiều lần chỉ ra cho Tổng thống Nixon và TS Kissinger rằng, đối với một cường quốc như Hoa Kỳ th́ việc từ bỏ một số vị trí không mấy quan trọng ở một quốc gia bé nhỏ như Nam Việt Nam không có ǵ đáng kể. Nhưng với chúng tôi, đó là vấn đề sinh tử của cả một dân tộc.
Spiegel: Kissinger không phủ nhận rằng cuối cùng ông cũng đồng ư. Nhưng ông ấy cũng nói rằng phải đàm phán lâu như vậy v́ ông cản trở nhiều, rằng ông đồng ư với các đề xuất của Mỹ chỉ v́ ông chắc mẩm rằng đằng nào th́ Hà Nội cũng sẽ bác bỏ.
Nguyễn Văn Thiệu: Không đúng như vậy. Để chấm dứt một cuộc chiến tranh đă kéo dài gần 30 năm, người ta cần nhiều thời gian hơn là hai, ba ngày hay hai, ba tháng. Tôi hiểu rơ rằng đối với người Mỹ đă đến giúp chúng tôi, đây là cuộc chiến dài nhất trong lịch sử của họ. Có lẽ v́ thế mà họ vội vă như vậy. Nhưng điều chúng tôi cần là một nền ḥa b́nh lâu dài.
Spiegel: Kissinger có ư cho rằng ông không thực sự muốn kư kết một thỏa thuận về ḥa b́nh, đúng ra ông ngầm mong phía miền Bắc cũng sẽ cứng đầu như ông. Kissinger viết rằng ông đồng ư với nhiều đề xuất từ phía Mỹ - trong tinh thần sẵn sàng không tuân thủ, chỉ v́ trong thâm tâm ông không tin rằng ḥa b́nh sẽ được kư kết. Có phải là trong khi đàm phán, ông đă bịp, với hy vọng là sẽ không bao giờ phải ngửa bài lên?
Nguyễn Văn Thiệu: Không. Sao lại có thể nói là một dân tộc đă chịu đựng bao nhiêu đau khổ suốt 30 năm lại muốn kéo dài cuộc chiến? Kissinger muốn xúc tiến thật nhanh mọi việc để Mỹ có thể rút quân và tù binh Mỹ được thả. Mà có lẽ mục đích của chính phủ Mỹ cũng là cao chạy xa bay. Họ th́ có thể bỏ chạy. Nhưng chúng tôi th́ phải ở lại Nam Việt Nam.
Chúng tôi có quyền chính đáng để đ̣i hỏi một hiệp định ḥa b́nh toàn diện. Không phải là vài ba năm ḥa b́nh, rồi sau đó lại 30 năm chiến tranh.
Nguyễn Văn Thiệu và Richard Nixon tại cuộc họp ở Midway 1969
Spiegel: Vậy tại sao ông lại đi trước cả người Mỹ và tự đề nghị Hoa Kỳ rút quân trong cuộc họp tại đảo Midway ở Thái B́nh Dương tháng Sáu 1969, theo tường thuật của Kissinger?
Nguyễn Văn Thiệu: Trước khi họp ở Midway, việc chính phủ Mỹ dự định rút quân đă không c̣n là điều bí mật. Cho phép tôi nhắc để các ông nhớ lại, tin tức về việc Mỹ sẽ rút một số quân đă loan khắp thế giới, trước cuộc họp ở Midway. V́ sao? Theo tôi, chính phủ Mỹ muốn thả bóng thăm ḍ, tiết lộ thông tin trước cho báo chí và đẩy chúng tôi vào sự đă rồi.
Spiegel: Tức là ông đă nắm được t́nh h́nh?
Nguyễn Văn Thiệu: Đúng thế. Cuộc họp ở Midway nhằm hai mục đích. Thứ nhất, cho hai vị tân tổng thống cơ hội làm quen và bàn về đề tài Việt Nam. Điểm thứ hai đă vạch rất rơ là bàn về việc rút những toán quân Mỹ đầu tiên. Tôi đă không h́nh dung sai điều ǵ và đă làm chủ t́nh thế. Không có ǵ phải lo lắng, và tôi đă rất vững tâm.
Spiegel: Khi đề xuất Mỹ rút quân, ông có thật sự tin rằng Nam Việt Nam có thể chiến đấu một ḿnh và cuối cùng sẽ chiến thắng trong một cuộc chiến mà hơn 540.000 lính Mỹ cùng toàn bộ guồng máy quân sự khổng lồ của Hoa Kỳ không thắng nổi không? Chuyện đó khó tin lắm.
Nguyễn Văn Thiệu: Không, đề xuất đó không phải của tôi. Tôi chỉ chấp thuận. Tôi chấp thuận đợt rút quân đầu tiên của Mỹ, v́ Tổng thống Nixon bảo tôi là ông ấy gặp khó khăn trong đối nội và việc rút quân chỉ mang tính tượng trưng. Ông ấy cần sự ủng hộ của dư luận và của Quốc hội. Nhưng tôi cũng bảo ông ấy rằng: Ông phải chắc chắn rằng Hà Nội không coi việc bắt đầu rút quân đó là dấu hiệu suy yếu của Hoa Kỳ.
Spiegel: Và ông không nghĩ đó là khởi đầu của việc rút quân toàn bộ?
Nguyễn Văn Thiệu: Không. Tôi đă h́nh dung được rằng, đó là bước đầu tiên để cắt giảm quân số. Nhưng không bao giờ tôi có thể nghĩ Mỹ sẽ rút hẳn và bỏ rơi Nam Việt Nam. Tôi đă tŕnh bày với Tổng thống Nixon rằng việc cắt giảm quân số sẽ phải tiến hành từng bước, như khả năng chiến đấu và việc tiếp tục củng cố Quân lực Việt Nam Cộng ḥa cho phép – tương ứng với những viện trợ quân sự và kinh tế có thể giúp Nam Việt Nam tự đứng trên đôi chân của ḿnh.
Quan trọng hơn, tôi đă bảo ông ấy phải yêu cầu Hà Nội có một hành động tương ứng đáp lại. Phía Mỹ đồng ư với tôi ở mọi điểm; về một sự rút quân từng bước và của cả hai phía...
Spiegel: ... và mang tính tượng trưng?
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi hiểu rơ rằng cuộc chiến ở Việt Nam cũng là một vấn đề đối nội của Hoa Kỳ. Và Tổng thống Nixon giải thích rằng ông ấy cần một cử chỉ tượng trưng để giải quyết vấn đề đó. Trước đó một tuần tôi đến Seoul và Đài Loan, tôi đă nói với Tổng thống Park Chung Hee và Tổng thống Tưởng Giới Thạch rằng tôi hy vọng việc rút quân sắp bàn với Tổng thống Nixon ở Midway chỉ là một sự cắt giảm quân số mang tính tượng trưng. Song tôi cũng lưu ư rằng nếu Hoa Kỳ muốn rút hẳn th́ chúng tôi cũng không thể ngăn cản. Vậy th́ đề nghị họ rút quân từng bước, đồng thời viện trợ để củng cố một quân đội Nam Việt Nam hùng mạnh và hiện đại, có thể thay thế người Mỹ, sẽ là hợp lư hơn. Không bao giờ tôi đặt giả thiết là lính Mỹ sẽ ở lại Việt Nam vĩnh viễn.
Spiegel: Mỹ vẫn đóng quân ở Hàn Quốc và Tây Đức mà.
Nguyễn Văn Thiệu: Nhưng chúng tôi là một dân tộc rất kiêu hănh. Chúng tôi bảo họ rằng, chúng tôi cần vũ khí và viện trợ, nhưng nhiệt huyết và tính mạng th́ chúng tôi không thiếu.
Spiegel: Ông đánh giá thế nào về t́nh thế của ông khi ấy? Vài tháng trước đó, Bộ trưởng Quốc pḥng Mỹ Melvin Laird vừa đưa ra một khái niệm mới: "Việt Nam hóa chiến tranh". Trước đây người Mỹ chỉ nói đến việc "phi Mỹ hóa" cuộc chiến. Cái khái niệm mới ấy đă thể hiện rơ dự định rút khá nhanh của người Mỹ rồi, đúng không?
Nguyễn Văn Thiệu: Khi đến Sài G̣n vào tháng Bảy 1969, ông Nixon đă nhắc lại rằng ông ấy cần được sự hậu thuẫn của dư luận trong nước Mỹ. Tôi hiểu ông ấy. Nhưng ông ấy không hề tuyên bố rằng việc rút quân là một lịch tŕnh mang tính hệ thống do sáng kiến của Mỹ. Ông ấy chỉ nói với tôi về những khó khăn trong nước, ở Mỹ, và đề nghị tôi giúp. Ông ấy bảo: "Hăy giúp chúng tôi giúp ông." Tôi đáp: "Tôi giúp ông giúp chúng tôi." Trong lần họp mặt đó, chúng tôi lại tiếp tục bàn về việc rút quân từng bước.
Spiegel: Nhưng không đưa ra một lịch tŕnh cụ thể?
Nguyễn Văn Thiệu: Không. Và ông Nixon lại hứa rằng việc rút quân của Mỹ sẽ phải đi đôi với những hành động tương ứng của Bắc Việt và phải phù hợp với khả năng pḥng thủ của Nam Việt Nam cũng như phải phù hợp với việc Mỹ tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế cho Nam Việt Nam.
Spiegel: Ở thời điểm đó ông có nhận ra rằng nếu thấy cần th́ Mỹ cũng sẽ sẵn sàng đơn phương rút quân không?
Nguyễn Văn Thiệu: Có, tôi đă ngờ. Nhưng lúc đó tôi vẫn rất vững tâm và tin tưởng vào đồng minh lớn của chúng tôi.
Spiegel: Có lẽ ông tin thế là phải. Cuốn hồi kư của Kissinger cho thấy khá rơ rằng chính phủ Nixon không thể dễ dàng "đ́nh chỉ một dự án liên quan đến hai chính phủ, năm quốc gia đồng minh và đă khiến 31,000 người Mỹ phải bỏ mạng, như thể ta đơn giản chuyển sang một kênh TV khác."
Rơ ràng là người Mỹ muốn thoát khỏi Việt Nam bằng con đường đàm phán. Chỉ trong trường hợp cần thiết họ mới muốn đơn phương rút quân. Ông có đưa ra yêu sách nào liên quan đến những cuộc thương lượng giữa Washington và Hà Nội không?
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi đă chán ngấy chiến tranh và quyết tâm chấm dứt nó qua đàm phán. Chúng tôi yêu cầu những kẻ xâm lăng đă tràn vào đất nước của chúng tôi phải rút đi. Tất cả chỉ có vậy.
Spiegel: Ông đă oán trách rằng sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam năm 1975 chủ yếu là do sau Hiệp định Paris, miền Bắc vẫn được phép đóng quân tại miền Nam. Ông khẳng định rằng ḿnh chỉ chấp nhận sự hiện diện đó của miền Bắc trong quá tŕnh đàm phán, c̣n sau khi kư kết th́ Hà Nội phải rút quân.
Nhưng Kissinger lại khẳng định trong hồi kư rằng ông thừa biết việc Hà Nội sẽ tiếp tục trụ lại ở miền Nam, và cho đến tận tháng Mười 1972 ông cũng không hề phản đối những đề xuất của phía Mỹ liên quan đến điểm này.
Nguyễn Văn Thiệu: Đó là một lời nói dối hết sức vô giáo dục của Kissinger, rằng tôi chấp thuận cho quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam. Nếu ngay từ đầu tôi đă chấp thuận như Kissinger nói th́ lúc ông ấy cho tôi xem bản dự thảo, trong đó không có điều khoản nào về việc rút quân của Bắc Việt, tôi đă chẳng phản đối quyết liệt như thế.
Điểm then chốt nhất mà tôi dốc sức bảo vệ, từ đầu cho đến khi kết thúc đàm phán, chính là yêu cầu Hà Nội phải rút quân. Tôi đă tuyên bố rơ với Kissinger là nếu không đạt được điều đó th́ không có kư kết.
Sau nhiều ngày tranh luận gay gắt, cuối cùng ông ta bảo: "Thưa Tổng thống, điều đó là không thể được. Nếu được th́ tôi đă làm rồi. Vấn đề này đă đặt ra ba năm trước, nhưng phía Liên Xô không chấp nhận." Tôi hiểu ra rằng chính phủ Mỹ đă nhượng bộ trước yêu sách của Liên Xô, và đó là nỗi thất vọng lớn nhất của tôi.
Spiegel: Có lẽ Liên Xô không thể làm khác, v́ Hà Nội không chấp nhận coi Nam Việt Nam là một quốc gia khác, và một thời gian dài họ c̣n phủ nhận việc họ đă đưa quân đội chính quy vào miền Nam.
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi đă chiến đấu hơn 20 năm và học được rằng, đừng bao giờ tin lời Nga Xô và Hà Nội. Bắc Việt đóng quân ở cả Lào, Campuchia và Nam Việt Nam, tôi tin rằng một người mù cũng nh́n ra điều đó. Muốn chấm dứt chiến tranh th́ chúng ta phải nh́n vào hiện thực chứ không thể chỉ nghe lời kẻ địch.
Spiegel: Ông có lập luận như thế với Kissinger không?
Nguyễn Văn Thiệu: Tất nhiên, và với cả Tướng Haig nữa. Tôi bảo ông ấy thế này: "Ông Haig, ông là tướng, tôi là tướng. Ông có biết một hiệp định ḥa b́nh nào trong lịch sử lại cho phép kẻ xâm lăng tiếp tục đóng quân tại lănh thổ mà nó xâm lược không? Ông có cho phép Liên Xô vào Hoa Kỳ đóng quân rồi tuyên bố rằng ông đă kư kết thành công một hiệp định ḥa b́nh với Liên Xô không?"
Spiegel: Ông ấy trả lời sao?
Nguyễn Văn Thiệu: Ông ấy không trả lời được. Mà trả lời thế nào cơ chứ, chuyện đó hoàn toàn vô lư. C̣n ǵ mà nói nữa.
Spiegel: Nhưng Kissinger th́ có câu trả lời trong hồi kư. Ông ấy viết rằng khó mà bắt Hà Nội rút quân, v́ họ hoàn toàn không sẵn sàng từ bỏ trên bàn đàm phán những thứ mà họ không mất trên chiến trường. Nhưng ông ấy cũng nói rằng trong Hiệp định Paris có một điều khoản không cho phép xâm lấn. Ông ấy đi đến kết luận rằng "lực lượng miền Bắc sẽ tự nhiên tiêu hao sinh lực và dần dần biến mất."
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi thấy chính phủ Mỹ và đặc biệt là TS Kissinger không hề rút ra được bài học nào khi phải đàm phán với cộng sản, sau những kinh nghiệm đau thương năm 1954 giữa Pháp và cộng sản Việt Nam và từ Chiến tranh Triều Tiên. Họ cũng không học được ǵ từ những cuộc đàm phán về Lào và Campuchia và cũng không nắm bắt được là nên xử sự thế nào với cộng sản và cần phải hiểu chiến lược và chiến thuật của cộng sản ra sao.
Tức là ta lại phải trở về với vấn đề rằng, v́ sao TS Kissinger, người đại diện cho một quốc gia lớn và tự cho ḿnh là nhà thương thuyết giỏi giang nhất, lại có thể tin rằng quân Bắc Việt đóng tại miền Nam sẽ không xâm lấn. Sao ông ấy có thể tin như vậy cơ chứ?
Ông ấy đủ sức kiểm soát từng tấc đất trên biên giới của Campuchia, và của Lào, và của Nam Việt Nam à? Dù có cả triệu nhân viên quốc tế giám sát, chúng tôi cũng không bao giờ có thể khẳng định là đă có đủ bằng chứng rằng không có xâm lấn. Sao ông ấy lại có thể tin những ǵ Bắc Việt nói. Ông ấy có thể tin lời cộng sản, nhưng chúng tôi th́ không. V́ thế mà tôi đă cương quyết đ̣i Bắc Việt phải rút quân. Nếu họ thực sự muốn ḥa b́nh th́ họ ở lại miền Nam làm ǵ?
Spiegel: Vậy Kissinger nói sao?
Nguyễn Văn Thiệu: C̣n nói ǵ được nữa? Ông ấy và chính phủ Mỹ chỉ muốn chính xác có một điều: rút khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt và đảm bảo việc trao trả tù binh Mỹ. Họ bảo chúng tôi là họ mong muốn một giải pháp trong danh dự, nhưng sự thực th́ họ chỉ muốn bỏ của chạy lấy người. Nhưng họ lại không muốn bị người Việt và cả thế giới kết tội là đă bỏ rơi chúng tôi. Đó là thế kẹt của họ.
Spiegel: Kissinger viết rằng, ngay sau Chiến dịch Xuân-Hè 1972 của Hà Nội, các bên dường như đă đổi vai. Hà Nội đột nhiên muốn đàm phán trở lại, c̣n Sài G̣n th́ muốn đánh cho đến khi giành toàn thắng.
Nguyễn Văn Thiệu: Hoàn toàn vô nghĩa! Ông TS Kissinger hiểu thế nào là chiến thắng? Bắc Việt đă đem chiến tranh vào miền Nam. Chúng tôi yêu cầu họ phải rút quân. Thế là chiến thắng hay sao? Tôi chưa bao giờ yêu cầu Bắc Việt tự coi ḿnh là tù binh của miền Nam. Tôi chưa bao giờ yêu cầu Bắc Việt bồi thường cho tổn thất chiến tranh. Tôi chưa bao giờ đ̣i hỏi Bắc Việt giao nộp lănh thổ. Tôi chưa bao giờ đ̣i có chân trong chính phủ ở Hà Nội. Vậy ông Kissinger hiểu thế nào về chiến thắng và toàn thắng?
Spiegel: Về vấn đề rút quân của miền Bắc, 31 tháng Năm 1971 là một ngày quan trọng. Kissinger cho biết là khi đó, trong các cuộc họp kín, Mỹ đă đưa ra yêu cầu hai bên cùng rút quân. Trong hồi kư, ít nhất ba lần TS Kissinger viết rằng không những ông được thông báo trước, mà ông c̣n chấp thuận.
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi không bao giờ chấp thuận việc rút quân đơn phương. Từ cuộc họp ở Midway, tôi luôn luôn yêu cầu rút quân từng bước và cả hai bên cùng rút. Hoa Kỳ đă thay đổi lập trường và t́m cách ép chúng tôi, với những chiến thuật mà họ thường sử dụng, bằng cách huơ thanh gươm Damocles trên đầu tôi, chẳng hạn họ đem công luận Mỹ ra đe tôi, họ bảo: "H́nh ảnh của ông tại Hoa Kỳ hiện nay rất tồi tệ!" Hoặc: "Quốc hội muốn cắt giảm viện trợ." Vân vân. Họ áp dụng đúng những chiến thuật đă biết, tiết lộ thông tin cho báo giới và đặt tôi trước sự đă rồi.
Nếu tôi từ chối, công luận sẽ quay ra chống tôi: "Ông ta đ̣i quá nhiều, ông ta sẽ không bao giờ cho Mỹ được rút, ông ta sẽ không bao giờ cho tù binh Mỹ được trở về." Thế là tôi luôn phải chấp thuận. Không phải tự nguyện, mà miễn cưỡng. Tôi phản đối làm sao được, khi lần nào họ cũng bảo rằng: "Ông mà chống th́ sẽ bị cắt viện trợ."
Spiegel: Kissinger viết rằng trước bất kỳ một quyết định dù dưới h́nh thức nào, phía Mỹ cũng hỏi ư kiến ông trước.
Nguyễn Văn Thiệu: Vâng, họ hỏi ư kiến tôi, nhưng chắc chắn không phải là để nghe tôi nói "Không", nếu đó là những quyết định phục vụ cho lợi ích của Hoa Kỳ. Họ ưa gây sức ép hơn, và đạt được gần như mọi thứ bằng cách đó.
Spiegel: Bây giờ Kissinger cay đắng chỉ trích về Chiến dịch Hạ Lào năm 1971. Ông ấy viết rằng, ông đă đồng ư rằng chiến dịch này nhất định phải thực hiện trong mùa khô. Vậy ư tưởng đó ban đầu là của ai?
Nguyễn Văn Thiệu: Của người Mỹ. Trước đó khá lâu, chúng tôi từng có ư định thực hiện, nhưng không đủ khả năng tiến hành một ḿnh. Đến khi phía Mỹ đề xuất th́ chúng tôi sẵn sàng đồng ư, để sớm chấm dứt chiến tranh. Chiến dịch đó do liên quân Việt-Mỹ thực hiện và được vạch ra rất rơ ràng: Chúng tôi tác chiến tại Lào, c̣n phía Mỹ th́ hỗ trợ tiếp vận từ Việt Nam và từ biên giới.
Spiegel: V́ sao? V́ Quốc hội Mỹ có luật cấm quân đội Mỹ xâm nhập lănh thổ Lào?
Nguyễn Văn Thiệu: Vâng, tôi tin là vậy. Nhưng cũng v́ chúng tôi không có đủ phương tiện để tiếp tế cho binh lính, và nhất là để cứu thương binh ra ngoài. Việc đó chỉ có thề thực hiện bằng trực thăng, và chỉ phía Mỹ mới có đủ trực thăng. Không có họ th́ không đời nào chúng tôi đồng ư thực hiện chiến dịch tại Lào.
Spiegel: Kissinger viết rằng quân của ông gặp khó khăn khi yêu cầu không quân hỗ trợ, v́ gần như không có báo vụ viên nói được tiếng Anh.
Nguyễn Văn Thiệu: Hoàn toàn không có vấn đề ǵ với việc hỗ trợ của không quân. Đôi khi không có th́ chúng tôi cũng không lo lắng; chúng tôi có thể dùng pháo binh. Vấn đề là: trong ba ngày mở đầu chiến dịch, phía Mỹ đă mất rất nhiều phi công trực thăng. V́ thế mà họ chần chừ, không bay đúng thời điểm và ở quy mô cần thiết. Điều đó thành ra một vấn đề lớn với quân lực Nam Việt Nam.
Spiegel: Tinh thần binh lính bị suy sụp?
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi không đem được binh lính tử trận và thương binh ra ngoài. Không phải chỉ tinh thần binh lính, mà cả tiến độ của chiến dịch cũng bị ảnh hưởng.
Spiegel: Kissinger nêu ra một lư do khác. Rằng ông đă lệnh cho các sĩ quan chỉ huy phải thận trọng khi tiến về hướng Tây và ngừng chiến dịch nếu quân số tổn thất lên tới 3000. Kissinger viết rằng nếu phía Mỹ biết trước điều đó th́ không đời nào họ đồng ư tham gia chiến dịch này.
Nguyễn Văn Thiệu: Đối với một quân nhân, định trước một tổn thất về quân số là điều phi lư. Nếu TS Kissinger nói thế th́ ông ấy thật giàu trí tưởng tượng. Chúng tôi chỉ có thể tiến về phía Tây trong giới hạn mà trực thăng cứu viện có thể bay đến. Kissinger bảo là chúng tôi đă rút quân mà không báo cho phía Mỹ. Làm sao chúng tôi có thể triệt thoái trên 10,000 quân mà họ không hay biết ǵ?
Spiegel: Tức là ông đă thông báo cho họ?
Nguyễn Văn Thiệu: Ồ, tất nhiên. Để tôi kể cho ông nghe một câu chuyện. Hồi đó tờ Time hay tờ Newsweek có đăng bức h́nh một người lính Nam Việt Nam đang bám vào càng một chiếc trực thăng cứu viện. Bên dưới đề: "Nhát như cáy". Tôi chỉ cười. Tôi thấy nó tệ. Không thể ngăn một người lính lẻ loi hành động như vậy được. Nhưng báo chí lại kết tội lính Nam Việt Nam là hèn nhát và đồng thời giấu biến sự thật về tinh thần chiến đấu sút kém của phi công trực thăng Mỹ trong chiến dịch này.
Spiegel: Một điểm gây rất nhiều tranh căi giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam là vấn đề ngưng bắn. Theo cuốn hồi kư của Kissinger th́ ngay từ mùa Hè 1970 chính phủ Mỹ đă thống nhất về việc sẽ đề xuất một thỏa thuận ngưng bắn tại các chiến tuyến hiện có. Kissinger khẳng định rằng ông không chỉ chấp thuận mà c̣n ủng hộ đề xuất này.
Nguyễn Văn Thiệu: Đúng như vậy, tôi cũng cho rằng ngưng bắn phải là bước đầu tiên để đáp ứng một hiệp định ḥa b́nh. Nhưng ngưng bắn ngay lập tức – và tôi xin nhắc lại: ngay lập tức – th́ tôi không bao giờ đồng ư với Kissinger. Tôi bảo, chúng ta phải cân nhắc hết sức kỹ lưỡng việc này. Không thể thực hiện ngưng bắn trước khi tính kỹ việc ai sẽ giám sát việc ngưng bắn, nếu ai vi phạm th́ hậu quả sẽ thế nào, hai bên sẽ đóng quân ở đâu, vân vân.
Spiegel: Kissinger viết: "Khi đó chúng tôi vẫn tưởng rằng chúng tôi và Thiệu cùng đồng hành hợp tác." Phía Mỹ đă không hiểu rằng ông đem những "chiến thuật né tránh" mà "người Việt thường áp dụng với người ngoại quốc" ra dùng.
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi là một nước nhỏ, gần như mọi thứ đều nhờ ở một đồng minh lớn và vẫn tiếp tục phải xin viện trợ dài hạn của đồng minh đó, không bao giờ chúng tôi lại cho phép ḿnh dùng những thủ đoạn nào đó.
Spiegel: Khi Mỹ đă rút, c̣n Hà Nội th́ được phép tiếp tục đóng quân ở miền Nam, chắc ông phải thấy là ông đă thua trong cuộc chiến này?
Nguyễn Văn Thiệu: Không hẳn, nếu chúng tôi tiếp tục được sự trợ giúp cần thiết từ phía Mỹ, như chính phủ Mỹ đă hứa khi chúng tôi đặt bút kư hiệp định. Ngay cả khi kư, tôi đă coi đó là một nền ḥa b́nh tráo trở.
Nhưng chúng tôi vẫn tin rằng có thể chống lại bất kỳ sự xâm lăng nào của Bắc Việt. V́ hai lư do: Chúng tôi có lời hứa chắc chắn bằng văn bản của Tổng thống Nixon rằng Hoa Kỳ sẽ phản ứng quyết liệt, nếu Bắc Việt vi phạm hiệp định.
Spiegel: Mặc dù ông ấy không hề cho biết sẽ phản ứng bằng cách nào.
Nguyễn Văn Thiệu: Thứ hai, chúng tôi được đảm bảo là sẽ có đủ viện trợ quân sự và kinh tế cần thiết để chống Bắc Việt xâm lược. Nếu chính phủ Mỹ thực ḷng giữ lời hứa th́ chiến tranh có thể kéo dài, nhưng miền Nam sẽ không bị Bắc Việt thôn tính.
Spiegel: Về điều này th́ ông và Kissinger ít nhiều đồng quan điểm. Ông ấy viết rằng chiến lược toàn cục có thể sẽ thành công, nếu Mỹ đủ khả năng hành động trước bất kỳ một vi phạm nào của Hà Nội và tiếp tục viện trợ đầy đủ cho miền Nam. Nhưng chuyện ǵ đă xảy ra? Kissinger quy lỗi cho vụ Watergate, v́ sau đó Tổng thống Mỹ không c̣n đủ uy tín. Ông có nghĩ rằng vụ Watergate thực sự chịu trách nhiệm, khiến tất cả sụp đổ không?
Nguyễn Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi không phải là người Mỹ. Tôi không muốn quét rác trước cửa nhà người Mỹ. Nhưng nếu người Mỹ giữ lời hứa th́ đó là sự cảnh báo tốt nhất, khiến Bắc Việt không tiếp tục xâm lăng, và chiến tranh có thể sẽ dần chấm dứt.
Spiegel: Nếu Hoa Kỳ giữ lời th́ theo ông, hiệp định hoàn toàn có thể thành công?
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi cho là như vậy.
Spiegel: Như vậy về tổng thể, Hiệp định Paris không đến nỗi tồi?
Nguyễn Văn Thiệu: Đó chắc chắn không phải là một hiệp định có lợi cho chúng tôi. Nó tráo trở. Nhưng đó là lối thoát cuối cùng. Ông phải hiểu rằng chúng tôi đă kư kết, v́ chúng tôi không chỉ có lời hứa của chính phủ Mỹ như tôi đă nói, mà hiệp định đó c̣n được mười hai quốc gia và Liên Hiệp Quốc đảm bảo.
Spiegel: Trong cuốn hồi kư, TS Kissinger có những b́nh luận rát mặt về khá nhiều chính khách đầu đàn. Nhưng riêng ông th́ bị ông ấy dành cho những lời hạ nhục nhất. Tuy đánh giá cao "trí tuệ", "sự can đảm", "nền tảng văn hóa" của ông, nhưng ông ấy vẫn chú tâm vào "thái độ vô liêm sỉ", "xấc xược", "tính vị kỷ chà đạp" và "chiến thuật khủng khiếp, gần như bị ám ảnh điên cuồng" trong cách ứng xử với người Mỹ của ông. V́ thế, cuối cùng Kissinger nhận ra "sự phẫn nộ bất lực mà người Việt thường dùng để hành hạ những đối thủ mạnh hơn về thể lực". Ư kiến của ông về những khắc họa đó thế nào?
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi không muốn đáp lại ông ấy. Tôi không muốn nhận xét ǵ về ông ấy. Ông ấy có thể đánh giá tôi, tốt hay xấu, thế nào cũng được. Tôi muốn nói về những điều đă xảy ra giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam hơn.
Spiegel: Hay ông đă làm ǵ khiến ông ấy có cái cớ để viết về ông với giọng coi thường như thế?
Nguyễn Văn Thiệu: Có thể ông ấy đă ngạc nhiên v́ gặp những người quá thông minh và mẫn cán. Có thể cũng do cái phức cảm tự tôn của một người đàn ông hết sức huênh hoang. Có thể ông ấy không tin nổi là người Việt đối thoại với ông ta lại địch được một người tự coi ḿnh là vô cùng quan trọng.
Để tôi kể thêm một câu chuyện nữa: Ở đảo Midway tôi thấy buồn cười, v́ thật chẳng bao giờ tôi có thể h́nh dung là những người như vậy lại tệ đến thế. Chúng tôi, gồm ông Nixon, ông Kissinger, phụ tá của tôi và tôi, gặp nhau ở nhà một sĩ quan chỉ huy hải quân ở Midway. Ở đó có ba chiếc ghế thấp và một chiếc ghế cao. Ông Nixon ngồi trên chiếc ghế cao.
Spiegel: Như trong phim Nhà độc tài vĩ đại của Chaplin? Hitler cũng ngồi trên một chiếc ghế cao để có thể nh́n xuống Mussolini, ngồi trên một chiếc ghế thấp hơn.
Nguyễn Văn Thiệu: Nhưng tôi vào góc pḥng lấy một chiếc ghế cao khác, nên tôi ngồi ngang tầm với Nixon. Sau buổi gặp đó ở Midway, tôi nghe bạn bè người Mỹ kể lại rằng Kissinger đă rất bất ngờ v́ Tổng thống Thiệu là một người như vốn dĩ vẫn vậy.
Spiegel: Trong hồi kư, Kissinger phàn nàn là đă bị cá nhân ông đối xử rất tệ; ông bỏ hẹn để đi chơi trượt nước. Nixon c̣n quá lời hơn. Theo Kissinger th́ Nixon đă gọi ông là "đồ chó đẻ" (son of a bitch) mà Nixon sẽ dạy cho biết "thế nào là tàn bạo".
Nguyễn Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi không thể cho phép ḿnh đáp lại những lời khiếm nhă, thô tục đó của Nixon, v́ tôi xuất thân từ một gia đ́nh có nề nếp.
Nếu tôi không tiếp TS Kissinger và Đại sứ Bunker th́ đơn giản chỉ v́ chúng tôi chưa chuẩn bị xong để tiếp tục đàm thoại. Họ đă cần đến 4 năm, vậy v́ sao lại bắt tôi trả lời ngay lập tức trong ṿng một tiếng đồng hồ?
Có lẽ họ sẽ hài ḷng, nếu chúng tôi chỉ biết vâng dạ. Nhưng tôi không phải là một người chỉ biết vâng dạ, và nhân dân Nam Việt Nam không phải là một dân tộc chỉ biết vâng dạ, và Quốc hội của chúng tôi không phải là một Quốc hội chỉ biết vâng dạ. Mà tôi phải hỏi ư kiến Quốc hội.
Spiegel: TS Kissinger viết rằng thái độ của ông với ông ấy chủ yếu xuất phát từ "ḷng oán hận độc địa".
Nguyễn Văn Thiệu: Không. Tôi chỉ bảo vệ lợi ích của đất nước tôi. Dĩ nhiên là đă có những cuộc tranh luận nảy lửa, nhưng thái độ của tôi xuất phát từ tinh thần yêu nước của tôi.
Spiegel: Kissinger viết rằng ông ấy hoàn toàn "thông cảm với hoàn cảnh bất khả kháng" của ông. Ông có thấy dấu hiệu nào của sự thông cảm đó không?
Nguyễn Văn Thiệu: Không, tôi không thấy. Tôi chỉ thấy duy nhất một điều, đó là áp lực từ phía chính phủ Mỹ.
Spiegel: Kissinger viết rằng ông không bao giờ tham gia vào các buổi thảo luận về chủ trương chung. Ông ấy bảo rằng ông chiến đấu "theo kiểu Việt Nam: gián tiếp, đi đường ṿng và dùng những phương pháp khiến người ta mệt mỏi hơn là làm sáng tỏ vấn đề", rằng ông "chê bai mọi thứ, nhưng không bao giờ nói đúng vào trọng tâm câu chuyện".
Nguyễn Văn Thiệu: Hăy thử đặt ḿnh vào t́nh thế của tôi: Ngay từ đầu tôi đă chấp nhận để chính phủ Mỹ họp kín với Hà Nội. Kissinger bảo là đă thường xuyên thông báo cho tôi. Vâng, tôi được thông báo thật – nhưng chỉ về những ǵ mà ông ấy muốn thông báo. Nhưng tôi đă tin tưởng rằng đồng minh của ḿnh sẽ không bao giờ lừa ḿnh, không bao giờ qua mặt tôi để đàm phán và bí mật bán đứng đất nước tôi.
Các ông có h́nh dung được không: vỏn vẹn bốn ngày trước khi lên đường đến Hà Nội vào tháng Mười 1972, ông ấy mới trao cho tôi bản dự thảo mà sau này sẽ được chuyển thành văn bản hiệp định ở Paris, bằng tiếng Anh? Chúng tôi phải làm việc với bản dự thảo tiếng Anh này, từng điểm một.
Và bản dự thảo đó không phải do Nam Việt Nam cùng Hoa Kỳ soạn ra, mà do Hà Nội cùng Hoa Kỳ soạn ra. Các ông có thể tưởng tượng được điều đó không? Lẽ ra, trước hết phía Mỹ nên cùng chúng tôi thống nhất quan điểm về những điều kiện đặt ra cho hiệp định, và sau đó, nếu Bắc Việt có đề nghị ǵ khác th́ Kissinger phải trở lại hội ư với chúng tôi. Nhưng ông ấy không hề làm như vậy.
Thay vào đó, ông ấy cùng Bắc Việt soạn ra các thỏa thuận rồi tŕnh ra cho tôi bằng tiếng Anh. Các ông có thể hiểu cảm giác của tôi khi cầm văn bản của hiệp định ḥa b́nh sẽ quyết định số phận của dân tộc tôi mà thậm chí không buồn được viết bằng ngôn ngữ của chúng tôi không?
Spiegel: Nhưng cuối cùng ông cũng có bản tiếng Việt?
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi cương quyết đ̣i bản tiếng Việt, đ̣i bằng được. Măi đến phút cuối cùng ông ấy mới miễn cưỡng chấp nhận. Sau đó chúng tôi phát hiện ra rất nhiều cái bẫy. Tôi hỏi Đại sứ Bunker và Kissinger, ai đă soạn bản tiếng Việt. Họ bảo: một người Mỹ rất có năng lực thuộc International Linguistics College tại Hoa Kỳ cùng với phía Hà Nội. Nhưng làm sao một người Mỹ có thể hiểu và viết tiếng Việt thành thạo hơn người Việt. Và làm sao một người Mỹ có thể ứng đối bằng tiếng Việt với cộng sản Bắc Việt giỏi hơn chính chúng tôi? Đồng minh mà như thế th́ có chân thành và trung thực không?
Spiegel: Một số quan chức cao cấp ở Hoa Kỳ từng nhận định rằng thực ra Kissinger chỉ cố gắng đạt được một khoảng thời gian khả dĩ giữa việc Mỹ rút quân và sự sụp đổ tất yếu của Nam Việt Nam. Trong cuốn sách của ḿnh, Kissinger bác bỏ quan niệm đó. Ư kiến của ông th́ thế nào?
Nguyễn Văn Thiệu: Bất kể người Mỹ nói ǵ, tôi tin rằng mục đích cuối cùng của chính phủ Mỹ là một chính phủ liên hiệp tại Nam Việt Nam.
Spiegel: Nhưng Kissinger đưa ra cả một loạt điểm để chứng minh rằng không phải như vậy.
Nguyễn Văn Thiệu: Chính phủ Mỹ t́m cách ép chúng tôi phải đồng ư. Để họ có thể hănh diện là đă thoát ra được bằng một "thỏa thuận danh dự". Để họ có thề tuyên bố ở Hoa Kỳ rằng: "Chúng ta rút quân về nước, chúng ta đảm bảo việc phóng thích tù binh Mỹ." Và ở ngoài nước Mỹ th́ họ nói rằng: "Chúng tôi đă đạt được ḥa b́nh cho Nam Việt Nam. Bây giờ mọi chuyện do người dân Nam Việt Nam định đoạt. Nếu chính phủ liên hiệp biến thành một chính phủ do cộng sản chi phối th́ đó là vấn đề của họ. Chúng tôi đă đạt được một giải pháp danh dự."
Spiegel: Kissinger viết như sau: "Nguyên tắc mà chúng tôi tuân thủ trong các cuộc đàm phán là: Hoa Kỳ không phản bội đồng minh."
Nguyễn Văn Thiệu: Ông cứ nh́n miền Nam Việt Nam, Campuchia và toàn bộ Đông Dương hiện nay th́ biết. Khi tranh luận với các đại diện chính phủ Mỹ về hiệp định ḥa b́nh, chúng tôi thường có ấn tượng rằng họ không chỉ đóng vai, mà thực tế là đă biện hộ cho ác quỷ.
Spiegel: Có bao giờ ông thấy một chút ǵ như là biết ơn đối với những điều mà người Mỹ đă làm để giúp nước ông không? Trong cuốn sách của ḿnh, Kissinger viết rằng: "Biết công nhận những cống hiến của người khác không phải là đặc tính của người Việt."
Nguyễn Văn Thiệu (cười): Về những điều mà Kissinger viết trong cuốn sách của ông ấy th́ tôi cho rằng chỉ một người có đầu óc lộn bậy, chỉ một người có tính khí tởm lợm mới nghĩ ra được những thứ như vậy. Trong cuốn sách đó ông ấy c̣n tỏ ư sợ người Việt sẽ đem những người Mỹ c̣n sót lại ra trả thù, sau khi Washington bỏ rơi chúng tôi. Không bao giờ chúng tôi làm những điều như thế, không bây giờ và không bao giờ.
Spiegel: Cá nhân ông có cảm thấy một chút hàm ơn nào với họ không?
Nguyễn Văn Thiệu: Hết sức thực ḷng: Nếu chính phủ Mỹ không phản bội, không đâm dao sau lưng chúng tôi th́ nhân dân Việt Nam măi măi biết ơn họ. Có lần, sau khi chúng tôi tranh luận rất kịch liệt về một văn bản trong hiệp định, một số thành viên trong chính phủ của tôi bảo rằng, nếu Kissinger lập công với miền Nam như ông ta đă lập công với miền Bắc th́ may mắn biết bao. Tôi bảo họ: nếu ông ấy thương lượng được một nền ḥa b́nh thực sự với Hà Nội th́ miền Nam sẽ dựng tượng ông ấy, như MacAthur ở Nam Hàn.
Nhưng đáng tiếc là đă không như vậy. Nh́n vào những hậu quả của nền ḥa b́nh ấy: trại tập trung cải tạo, nạn đói, nhục h́nh tra tấn, hàng ngàn thuyền nhân bỏ mạng trên biển, và một cuộc diệt chủng tàn bạo hơn, hệ thống hơn và hoạch định hơn cả ở Campuchia, tôi nghĩ tốt nhất là người Mỹ nên tự đánh giá những điều mà ông Nixon và ông Kissinger đă gây ra cho miền Nam Việt Nam. Kissinger không có ǵ để tự hào về nền ḥa b́nh mà ông ấy đă đạt được. Đó là ḥa b́nh của nấm mồ.
Spiegel: Xin cảm ơn ông Thiệu đă dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
Tuesday, 28 April 2015 16:11
(Nguồn: "Die Amerikaner haben uns verraten", tạp chí Spiegel số 50/1979. Những người thực hiện: Engel, Johannes K., Lohfeldt, Heinz P.)
hoanglan22
01-25-2019, 20:53
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1331974&stc=1&d=1548449578
Độc đáo Hoa , h́nh con Vẹt
Khi ngắm nh́n những bông hoa này rất nhiều người đă nhầm tưởng đây là những con vẹt tuyệt đẹp với cái đầu màu đỏ và bộ cánh màu hồng. Loài hoa mang h́nh con vẹt này có tên khoa học là Impatiens Psittacina, tuy nhiên người ta thường gọi chúng là Parrot Flower (Hoa con vẹt). Chúng rất quư hiếm, chỉ mọc tại một số vùng của Ấn Độ, Thái Lan, Myanmar với số lượng rất ít.
Hoa con vẹt do nhà thực vật học người Anh, ông Joseph Dalton Hooker t́m thấy vào năm 1901. Ông Hooker t́nh cờ phát hiện ra loài hoa này ở Ấn Độ và đă mang hạt giống của nó về ươm thử ở Vườn Bách thảo Hoàng gia Kew ở London, tuy nhiên trải qua vài năm mà hạt vẫn không thấy nảy mầm. Hoa con vẹt rất khó để nhân giống, bởi chúng đ̣i hỏi loại đất trồng phải có một độ kiềm rất khắt khe th́ hoa mới có h́nh dáng đẹp mắt của một con vẹt đang bay với 'bộ lông' màu hồng và xanh nhạt.
Hoa con vẹt đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng, chính v́ vậy chính phủ Thái Lan đă cấm xuất khẩu hạt giống sang nước khác, họ sợ việc làm này sẽ ảnh hưởng tới sự sống của các cây hoa.
hoanglan22
01-25-2019, 20:58
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1331975&stc=1&d=1548449834
Hộp đen là thiết bị ghi lại những dữ kiện của chuyến bay, giúp cơ quan điều tra có thể t́m ra nguyên nhân nào đă xảy ra trong chuyến bay,khi gặp những chuyện bất lành.
Tiến sĩ David Warren ở Melbourne( AUSTRALIA) phát minh ra chiếc Hộp đen này vào năm 1954, nhưng nay Hộp đen đă được cải tiến rất nhiều để phù hợp cho những trường hợp khó khăn, tinh vi, xảy ra.
Hộp đen gồm có 02 phần chính:
• Thiết bị ghi âm buồng lái( CVR )
• Thiết bị ghi dữ kiện chuyến bay( FDR )
CVR: được nối với những micro đặt trong buồng lái, để ghi lại những âm thanh, như lời nói, tiếng bật công tắc, tiếng gơ cửa…
Thường có 04 cái, đặt trên đầu phi công chính, phi công phụ, phi công thứ 03(nếu có) và ở giữa buồng lái.
CVR: có thể ghi dữ liệu suốt 02 giờ
FDR: được nối với các thiết bị cảm ứng đặt ở nhiều nơi trên máy bay, có nhiệm vụ ghi lại những thông tin về thời gian, áp suất, tốc độ, độ cao, hướng, số, tay lái, nhiên liệu…
FDR: có thể ghi lại những dữ liệu suốt 25 giờ.
Hộp đen chịu được:
* Va đập lên tới 3.400Gs
* Sức ép 227kg/6.5cm2
* Nhiệt độ 1.100oC
* Nước muối( dưới đáy biển) 24 đến 30 ngày, không bị rỉ sét, không bị hư hại.
Hộp đen được đặt ở đuôi máy bay để giảm thiểu các tác động khi máy bay bị rơi.
Hộp được sơn màu Đen lúc khởi thủy, nhưng nay người ta thường sơn màu sáng, thường là màu cam để dễ t́m kiếm, nhưng theo thói quen ban đầu, người ta vẫn gọi hộp này là Hộp đen.
Trên Hộp đen c̣n có một thiết bị( ULB ) giúp định vị khi hộp đen rơi xuống nước, thiết bị này có 02 “mắt thần”, khi nước ngập đến mắt thần, thiết bị sẽ phát ra sóng âm thanh ở 37,5 kHz với tần suất 1 lần/ giây trong suốt 30 ngày.
Ngày nay, Hộp đen không chỉ dùng trên máy bay mà c̣n dùng trên nhiều phương tiện khác, như xe hơi, tàu lửa ….
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1331976&stc=1&d=1548449834
( Theo Howstuff Works )
hoanglan22
01-26-2019, 00:42
Giấc mơ bay xa và cao của trẻ nhỏ là ǵ? Trở thành một phi công lái chiến đấu cơ oai hùng, một hạm trưởng với giấc mộng hải hồ hay một sĩ quan biệt hải Navy Seal can trường, vào sinh ra tử? Hay trở thành một lương y cứu người, tốt nghiệp từ ngôi trường Harvard danh tiếng thế giới? Hoặc xa hơn nữa, là giấc mơ trở thành một phi hành gia, với những chuyến thám hiểm không gian kỳ thú? Là ǵ đi nữa th́ chỉ cần đạt đến một trong những thành tựu kể trên đă được xem như là sự thành công nghề nghiệp lớn của một đời người. Bởi bất cứ ai đạt đến những cơ hội hiếm hoi trên đều được xem là những thanh niên ưu tú và xuất chúng, là một thứ tài sản quốc gia. Nên khi một thanh niên 34 tuổi gốc Đại Hàn đạt được đồng thời cả ba điều kể trên th́ có lẽ khó có ai đă và sẽ gộp chung được một hồ sơ cá nhân đầy kỳ tích như anh. Bạn đă nghe đến cái tên Jonny Kim thuộc thế hệ phi hành gia tương lai của nước Mỹ chưa?
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1331989&stc=1&d=1548462994
Người ta vẫn thường nói đến mức độ tinh nhuệ và thiện chiến của đơn vị biệt hải, tức lực lượng người nhái đặc biệt Navy Seal trong quân đội. Đó là những con người có thể chất hơn người, có một tinh thần thép cùng một tâm lư vững chăi, bén nhạy. Họ được tuyển chọn và vượt qua những cuộc huấn luyện cam go và nguy hiểm, có lắm người từng là một lính chiến mạnh mẽ cũng phải bỏ cuộc hay bị loại giữa đường, thậm chí bỏ mạng trước khi trở thành một người lính biệt hải thực thụ. Jonny Kim đă vượt qua được điều này.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1331990&stc=1&d=1548462994
Jonny sau một trận đánh ở Iraq
Sinh năm 1984 tại Los Angeles trong một gia đ́nh di dân Đại Hàn, mang giấc mộng đời binh nghiệp, Jonny đăng lính ngay sau khi tốt nghiệp trung học và chọn ngay binh chủng thử thách, nguy hiểm nhất trong quân đội: lực lượng biệt hải. Jonny kể lại rằng, anh không thích cái con người trong cái gia đ́nh và văn hóa mà anh đă đang lớn lên, muốn thoát ra khỏi cái bảo bọc, không gian an toàn đó mà muốn đi t́m bản thể thật sự cho chính ḿnh và của chính ḿnh. Anh muốn dấn thân vào một cuộc phiêu lưu, phục vụ với lư tưởng cao hơn đời sống mưu cầu cá nhân. Anh được chọn và cho cơ hội để tham dự khóa huấn luyện khắc nghiệt và căng thẳng trong hai năm trời, cùng những lời cảnh báo trước rằng, không có ǵ bảo đảm là những ai được chọn theo huấn luyện cũng sẽ đủ khả năng và có cơ hội trở thành một người lính biệt hải thực thụ. Bởi các số liệu cho biết có khoảng ba phần tư quân nhân được huấn luyện đă phải bỏ cuộc hay bị loại khóa huấn luyện, đặc biệt là trong “tuần lễ địa ngục” (Hell Week), khi những huấn nhục này có thể gấp 20 lần những ǵ người lính tưởng tượng. Đó là cuộc thử thách để quân đội lọc và chọn được những người lính biệt hải đúng theo tiêu chuẩn khắt khe nhất của binh chủng này. Được huấn luyện chung với những người lính ưu tú từ các binh chủng khác, Jonny Kim cũng không là ngoại lệ. Anh thú nhận đó là tuần lễ huấn nhục trong băng tuyết khủng khiếp nhất mà anh tưởng đă phải bỏ cuộc, khi người lính chỉ được ngủ đôi lần, mỗi lần chỉ dăm ba tiếng trong suốt năm ngày. Nhưng anh đă vượt qua được, để tốt nghiệp khóa huấn luyện, trở thành một sĩ quan biệt hải thiện chiến thực thụ. Jonny Kim được điều sang Iraq hai lần, tham gia hàng trăm đặc vụ trong vị trí một xạ thủ bắn tẻ, một nhân viên cứu thương chiến trường, một người dẫn đường, từng phục vụ chung toán với những tay bắn tỉa huyền thoại như Chris Kyle (người được dựng thành bộ phim Sniper mà chuyên mục đă từng có bài viết) với hàng chục huân chương chiến công oai hùng. Nhưng rồi cái chết của hai đồng đội, là những người bạn thân thiết nhất của anh trong một đặc vụ nguy hiểm tại Iraq mà anh không cách nào cứu chữa được ngay trên tay ḿnh, là nỗi ám ảnh và ngã rẽ đưa Jonny Kim đến với suy nghĩ về nghề Y. Anh quyết định đi theo nghề Y khi vẫn c̣n tại ngũ, với ư định sẽ quay lại quân ngũ và tiếp tục phục vụ trong vai tṛ bác sĩ quân y.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1331991&stc=1&d=1548462994
Bác sĩ khoa cấp cứu Jonny Kim
Tham gia chương trình Hải Quân trừ bị RNOTC dành cho các sĩ quan hiện dịch quay lại đại học, chàng Trung Úy Jonny tốt nghiệp cử nhân ưu hạng tại Đại Học San Diego sau ba năm ṛng ră theo học. Với thành tích và hồ sơ đặc biệt của ḿnh, Jonny được đại học Harvard thu nhận cho theo học và đào tạo thành một bác sĩ chuyên khoa cấp cứu cho Hải Quân. Ba năm trước, năm 2016, Jonny Kim tốt nghiệp bác sĩ Y Khoa tại Đại Học Harvard và chuyển sang nội trú tại khoa cấp cứu của bịnh viện Massachusetts. Jonny là một trong những bác sĩ nội trú hiếm hoi từng có kinh nghiệm cấp cứu trên chiến trường. Những bác sĩ trưởng khoa tại đây nhắc về anh như một bác sĩ khiêm cung, tài ba cùng tính cách đặc biệt và hiếm thấy, mà bất cứ bịnh viện hay bịnh nhân nào cũng mong muốn có những bác sĩ như vậy. Dù họ biết rằng anh sẽ quay lại với Hải Quân sau khi hoàn tất nội trú, v́ Hải Quân cũng cần có anh. Câu chuyện đến đây tưởng cũng đủ để kết thúc câu chuyện đặc biệt về một người lính biệt hải trở thành bác sĩ, một nỗ lực đáng ngưỡng mộ của một chàng sĩ quan trẻ hào hùng, mang đầy tinh thần phục vụ quốc gia. Nhưng nó không dừng lại ở đó.
Hồi tháng Sáu năm ngoái, Phó Tổng Thống Mike Pence đă thay mặt Tổng thống, đích thân bay sang trung tâm NASA tại Houston, Texas để tham dự buổi lễ đặc biệt, công bố và giới thiệu thế hệ phi hành gia tương lai của Hoa Kỳ đến người dân. Trong đó cái tên Jonny Kim được xướng lên. Anh là một trong 12 người đă được NASA chọn để huấn luyện trở thành phi hành gia sau nhiều ṿng xét tuyển khắt khe của NASA từ hơn 18,000 sĩ quan, bác sĩ, kỹ sư, khoa học gia, những nhà nghiên cứu xuất sắc, có nhiều thành tích khắp nước Mỹ gởi đơn về để ứng tuyển, trong đó có đơn của Jonny đă nộp. Với 44 phi hành gia đang có, NASA tuyển chọn và huấn luyện các thế hệ phi hành gia tương lai cho nước Mỹ mỗi bốn năm. Khoá phi hành gia 22 này là đông đảo nhất trong lịch sử, với khoảng một nửa là những sĩ quan từng tốt nghiệp các Học Viện Quân Đội, Không Quân hay Hải Quân, cộng thêm các bằng cấp kỹ thuật và chuyên môn cao (từ Cao học) và hàng ngàn giờ bay thực thụ cùng các chuyên gia dân sự khác, đều là những người có hồ sơ cá nhân đáng nể. Sau hai năm được huấn luyện về ngoại ngữ (tiếng Nga), thể lực và chuyên môn tại trung tâm NASA Johnson Space Center, các phi hành gia này sẽ làm việc, nghiên cứu trong các pḥng thí nghiệm phi hành gia, chờ tham gia các phi vụ nghiên cứu trên trạm không gian quốc tế ISS hay các chương tŕnh thám hiểm không gian tương lai của Hoa Kỳ.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1331992&stc=1&d=1548462994
Jonny Kim, phi hành gia tương lai của Hoa Kỳ
Trung Úy Hải Quân Biệt Hải, bác sĩ Y Khoa Harvard, Phi Hành Gia Jonny Kim quả thật là câu chuyện kỳ tích khó ai làm được. Anh là niềm hănh diện của Đại Học Harvard, của các bịnh viện anh đă từng nội trú và của Hải Quân Hoa Kỳ. Tạp chí Hải Quân Navy Times đưa cái tên Jonny Kim vào danh sách những sĩ quan hải quân xuất chúng nhất mọi thời đại, bên cạnh những nhân vật vĩ đại của nước Mỹ từng phục vụ Hải Quân Hoa Kỳ như Tổng Thống John F. Kennedy, phi hành gia Neil Armstrong – người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng… Chàng thanh niên Jonny Kim trong gia đ́nh di dân gốc Đại Hàn này ắt cũng là niềm hănh diện thật sự và đúng nghĩa cho cộng đồng Đại Hàn khi có đứa con xuất chúng, người mang tài trí ḿnh để phục vụ cho lư tưởng quốc gia. Và chắc chắn, anh đă mang lại sự ngưỡng mộ và niềm hứng khởi cho giới trẻ bởi những ǵ anh đạt được tưởng như không thể xảy ra với cùng một người. Nhưng nó đă xảy ra.
ĐYT
hoanglan22
01-26-2019, 02:09
Vào năm 1972, Bắc Việt đă gửi thư đầu hàng HK vô điều kiện
Tác Giả: Saigon Echo sưu tầm
Đây là sự thực của cái mà Đảng CSVN huyênh hoang về chiến thắng đánh "Mỹ nguỵ". Bắc Việt đă đầu hàng, nhưng Kissinger có ư đồ riêng, không chấp nhận.
hwvXyzo7MjM
Đoạn video tài liệu được giải mật, dài 3:50, có 2 phần. Phần 1 dài 1:50 là bản dịch tiếng Việt không có âm thanh. Phần 2 c̣n lại nói Tiếng Anh và có âm thanh. Xem để biết CS Hà Nội đă gởi điện thư đầu hàng vô điều kiện nhưng bản văn đă bị ém nhẹm...
Những tài liệu bất ngờ cùng nhân chứng cao cấp của chính quyền Hoa Kỳ cho biết sau năm 1968, CSVN đă bị kiệt quệ nhân sự v́ hầu hết các lực lượng chính quy chủ lực quân cộng sản bắc Việt đă bị Mỹ và VNCH tiêu diệt . Vào năm 1972 máy bay B52 đă san bằng Bắc Việt đưa tới sự việc lănh đạo đảng CSVN gửi điện thư Đầu Hàng Vô Điều Kiện tới pḥng truyền tin Hoa Kỳ. Bức điện thư đầu hàng của CSVN đă được pḥng truyền tin gửi về NGŨ GIÁC ĐÀI .
Thay v́ tuyên bố cho thế giới biết về sự việc cộng sản bắc Việt đầu hàng.Nhưng ngược lại, CIA đă đưa về nước 79 nhân viên pḥng truyền tin Hoa Kỳ và thay đổi hoàn toàn nhân viên mới.
Điện thư đầu hàng của CS bắc Việt đă được ém lại.
Trên 80% quân đội nhân dân Trung cộng đă đánh chiếm cao nguyên miền Nam VNCH, Lính Trung cộng đă ngụy trang cộng sản bắc Việt xâm chiếm miền Nam Việt Nam.!!! Tại Sao ???
Chúng tôi phỏng vấn anh Nguyễn Hoàng Việt về sự kiện nầy.
Thu Hiền: Xin anh cho biết những sự kiện bất ngờ về việc CSVN đă đầu hàng VNCH từ năm 1973, thêm sự việc quân Trung Quốc ngụy trang lính Bắc Việt đánh chiếm Miền Nam VN vào năm 1975, anh nghĩ sao về vấn đề nầy?
Hoàng Việt: Tôi nghĩ tất cả là sự thật nhưng nguyên do tại sao chính quyền Ḥa Kỳ lúc bấy giờ không tuyên bố bức điện thư đầu hàng từ của CSVN mà lại t́m cách ém chuyện nầy đó là điều ḿnh phải cần phân tích.
Ông Ted Gunderson là nhân viên đặc nhiệm ở Los Angeles và Washington DC (Special Agent in Charge, Los Angeles, Special Agent in Charge, Washington,D.C. offices) Trong thời gian cuộc chiến tranh VN ông ta là Trưởng Pḥng điều tra, làm việc với những hồ sơ thuộc loại bảo mật quốc pḥng (high-profile cases) . Trong thời gian gần đây, ông đă tiết lộ cho biết là CSVN đă có điện thư đầu hàng Đồng Minh vào đầu năm 1973 trong một cuộc nói chuyện tại Washinton DC, ông cho biết như vậy . Trong cuộc nói chuyện nầy được nhiều cựu chiến binh Hoa Kỳ hỏi về chiến dịch "Operation Linebacker" là chiến dịch dùng B52 để san bằng, tiêu diệt quân đội Bắc Việt đă đưa tới kết quả nào th́ ông cho biết là CSVN đă đầu hàng sau đó . Chiến dịch "Operation Linebacker" bắt đầu từ mùa Xuân 1972.
Thu Hiền: Như vậy anh cho biết tại sao tin CSVN đầu hàng không được phổ biến để rồi kết quả cuộc chiến ngược lại ?
Hoàng Việt: Ông Ted Gunderson cho biết là trong thời gian làm việc tại VN, ông đă tiếp xúc nhiều sĩ quan cao cấp Quân Đội Hoa Kỳ nhất là nhân viên thuộc pḥng Truyền Tin bộ Tham Mưu Hoa Kỳ tại VN, họ đă cho ông biết về bức điện thư CSVN tuyên bố đầu hàng vô điều kiện quân Đồng Minh vào đầu năm 1973 . Bức điện thư đó cho tới nay vẫn chưa được giải mă, Ông Ted Gunderson c̣n cho biết thêm là tất cả các nhân viên thuộc pḥng truyền tin sau đó đă được CIA thay thế toàn bộ ! Tôi t́m ra được một đoạn Video Ông Ted Gunderson có nói về vấn đề nầy.
hoanglan22
01-26-2019, 02:41
LTS: Bài viết chửi Cộng Sâu Sắc nhất mà BBT Vietland chưa từng đọc qua . Bài viết thâm thúy và diễn tả xác thực chế độ ngày nay của Việt Nam dưới quyền đảng CSVN .
Bài viết nầy của tác giả lấy nickname: Shinra được đăng trên diễn đàn lề phải hoangsa.org . Bài viết bị bôi đỏ (dĩ nhiên) nhưng được nhiều thành viên trong nước cảm ơn bài viết đầy ư nghĩa nầy . Bài viết nói lên tâm trạng thay cho nhiều người không nói được . Bài viết nói lên sự thật hiện t́nh đang xảy ra tại VN .
Bài viết nầy được BBTVietland bầu lần nhất là Bài "Hay nhất trong năm" nhưng nghĩ ra cho cùng . Trên 34 năm nay chưa có đoản văn nào ngắn gọn mà lại lột hết được sự thật của một xă hội , hơn nữa tác giả của bài viết không phải là một văn sĩ mà chỉ là của một thanh niên Việt Nam khắc khoải trước sự tồn vong của Dân Tộc, bài viết lên án hành động bán nước và hèn hạ của tập đoàn lănh đạo CSVN , nói hết những ǵ muốn nói nhưng chỉ dài vọn vẹn một trang giấy!
Bài viết nầy theo chúng tôi là bài viết chửi cộng "Hay nhất thế kỷ ." Mời bạn đọc VL cùng đọc .
"Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn"
Lời: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
Tác giả : Shinra
Đây là bài đầu tiên tôi viết trong diễn đàn này.
Khỏi mất thời gian của quư vị, xin nói mấy lời chân t́nh.
Quư vị có biết vụ tẩy trứng gà Tàu thành trứng gà ta không? Quư vị có suy nghĩ như thế nào?
Nếu hỏi quư vị một câu rằng nếu quư vị là một người dân thuộc làng Đông Ngàn, quư vị có tham gia vào cái việc tẩy trứng rồi đem đầu độc lại đồng bào của các vị không, th́ chắc 100% quư vị ở đây trả lời là không !
Nhưng kỳ thực là quư vị đang làm những việc tệ hại hơn nhiều so với việc ấy.
Quư vị có bao giờ thấy người dân các nước "tư bản thối nát" "theo đuôi Mỹ" như châu Âu, Nhật, hàn Quốc người ta làm những cái tṛ đồi bại như tẩy trứng bằng axit, trộn melamin vào sữa, bơm hoá chất vào rau quả, quết mật ong giả vào chân gà thối.... để đem đầu độc chính gịng giống của họ không? Tuyệt nhiên là không.
Những vị nào đọc đến đây mà bảo tôi là "rân chủ", "ăn phải bả của tư bản", th́ mời quư vị khỏi đọc nữa, đỡ mất thời gian của quư vị.
Quư vị có bao giờ nói hàng Mỹ, châu Âu, Nhật, Hàn, Thái là rởm, là đểu, là lừa đảo, là chạy theo đồng tiền... không? Hay là quư vị lùng sục mua bằng được những món đồ sản xuất ở những nước "tư bản thối nát" ấy với giá đắt gấp đôi gấp ba so với hàng của Trung Quốc?
Quư vị có thể không tẩm chất độc vào trứng, vào rau như những người nông dân kém hiểu biết, nhưng quư vị lại tẩm chất độc vào đầu óc của những con người xung quanh quư vị bằng những lời dối trá, hối lộ, chạy chọt để được vinh thân ph́ gia. Dần dần, mọi người trong xă hội đều chạy theo quư vị với một suy nghĩ cực kỳ lệch lạc rằng "ḿnh không làm ắt sẽ có người khác làm".
Kinh tế quyết định chính trị, nhưng chính trị lại có tác động ngược trở lại kinh tế.
Một xă hội mà ai cũng chỉ biết lo cho bản thân ḿnh như xă hội Việt Nam, xă hội Trung Quốc th́ có đáng được gọi là "xă hội chủ nghĩa" không?
Các vị có hiểu thế nào gọi là "xă hội chủ nghĩa" và "tư bản chủ nghĩa" không?
Các vị hiểu "XHCN" tức là có đảng cộng sản lănh đạo c̣n "TBCN" là có nhiều đảng thay nhau lănh đạo, hoặc là "nhiều đảng tư sản thay nhau lănh đạo" phải không? Sai lầm
Xă hội chủ nghĩa là đặt xă hội lên đầu, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân, nó đối lập với tư bản chủ nghĩa nơi mà "tư bản" được đặt lên đầu, mà tư bản chính là "tiền nằm trong lưu thông", hay nói tóm lại "tư bản" là lợi ích cá nhân.
Theo Hán Việt "tư bản" nghĩa là "vốn".
Một xă hội như Mỹ, Nhật là nơi mà con người luôn sống v́ lợi ích riêng, nhưng không chà đạp lên lợi ích chung.
Người Nhật không bao giờ tẩm thuốc kích thích vào rau quả v́ họ biết làm như thế sẽ gây hại cho những người đồng bào của họ, họ cũng không xuất khẩu những đồ kém chất lượng v́ nó sẽ gây hại đến những đồng loại của họ, dù là người nước ngoài.
Người Nhật có thể tự sát, kết thúc sinh mệnh của ḿnh, để bảo toàn danh dự cho gia đ́nh, cho ḍng tộc của họ.
Một xă hội như Việt Nam, trung Quốc là nơi con người miệng th́ nói rằng "v́ lợi ích tập thể", "xă hội chủ nghĩa", nhưng tay và chân th́ chà đạp giày xéo lên người khác. Hăy nh́n thử một vụ tắc đường ở Việt Nam và một vụ tắc đường ở Thái Lan th́ biết.
Vậy ở đâu mới xứng đáng là xă hội chủ nghĩa?
Đó là một điều mà tôi muốn nói với quư vị
Các vị nói rằng ngày xưa dù nghèo khổ nhưng Việt Nam vẫn kiên cường chống lại hai đế quốc to. Điều này là đúng và theo một nghĩa nào đó, th́ đáng tự hào
Nhưng các vị lại nói ngày nay để được hoà b́nh, hay nói toẹt ra là để các vị được yên ổn làm ăn, yên ổn kiếm tiền, th́ Việt Nam cần mềm dẻo với trung quốc, cho dù trên thực tế và trên tuyên bố, Trung Quốc đă và đang chiếm nhiều đất của chúng ta.
Vậy theo cái lư ngày xưa của quư vị th́ đáng ra Việt Nam phải vùng lên đánh lại Trung Quốc, hoặc theo cái lư ngày nay của quư vị th́ đáng ra ngày xưa Việt Nam không nên đánh lại Pháp và Mỹ mới phải.
Nhưng sự thực th́ quư vị luôn tự hào về ngày xưa và đớn hèn về ngày nay. Chẳng có cái lư nào ngoài cái lư tiền. Các vị sợ đánh nhau với trung quốc th́ con cái các vị phải ra trận, hoặc ít ra th́ khi có chiến tranh, việc làm ăn kiếm tiền của các vị sẽ khó khăn hơn. Tóm lại các vị chỉ biết có bản thân ḿnh, các vị cá nhân chủ nghĩa ở tŕnh độ cao cấp.
Đó là cái thứ hai tôi muốn nói với các vị.
Các vị khi th́ hô hào "Việt Nam là bạn với thế giới" , khi th́ hô hào "Việt Nam phải cảnh giác với Mỹ, Âu, Tàu, Nhật". Như thế là cái lư ǵ?
V́ cái tư tưởng lúc nào cũng thù với hận của các vị, nên các vị không bao giờ thật ḷng giao hảo với bất cứ ai. Các vị bắt tay người nước ngoài khi họ đến mang theo đô la và các vật dụng đắt tiền cho các vị hưởng, nhưng các vị lại vênh mồm lên chửi khi họ chỉ ra những cái sai lầm của quư vị. Quư vị biện luận rằng trong quan hệ quốc tế thằng nào cũng chỉ lợi dụng lẫn nhau thôi. Vậy th́ người ta sẽ nghĩ về quư vị đúng như thế. Thuỵ Điển, na uy hàng năm cho không Việt Nam hàng triệu đô la và nhiều chương tŕnh đào tạo phát triển, họ lợi dụng ǵ quư vị? Hay là quư vị nghĩ rằng họ chẳng qua muốn lấy ḷng quư vị nên mới thế? Vậy nghĩ xem quư vị đă là cái thá ǵ mà người ta phải lấy ḷng?
Quư vị thử ch́a tay ra cho một người, rồi biết được người ấy lúc nào cũng nhăm nhăm "cảnh giác cao độ" với cái ch́a tay của quư vị, th́ quư vị sẽ nghĩ ǵ về người đó?
Đầu óc quư vị quá đen tối và nói thẳng ra quư vị cũng suốt ngày t́m cách lợi dụng người khác nên mới nghĩ cho người khác đen tối như thế.
V́ thế nên Việt Nam ta mới tụt hậu so với nước ngoài như hôm nay. Những quốc gia như Nhật, Hàn, Thái Lan vốn có điểm xuất phát không hơn ta là mấy nhưng nay họ đă vượt ta nhiều, đó là v́ sao? V́ họ có tầm nh́n hơn chúng ta. V́ họ hiểu được một lư thuyết cơ bản nhất của thương mại đó là cả hai bên cùng có lợi, họ không bao giờ bắt tay với người khác mà trong bụng th́ cứ nơm nớp lo người ta "lợi dụng" ḿnh. Suy nghĩ kiểu như thế chỉ tồn tại trong những bộ óc chưa tiến hoá hết từ vượn sang người.
Nói thẳng ra, các vị là những kẻ hám tiền, lo cho lợi ích của cá nhân và cùng lắm là gia đ́nh ḿnh, là hết. Các vị ưa xiểm nịnh, khi báo Washington Post đưa tin rằng nền KT việt nam đang cất cánh th́ quư vị tung hô tờ báo ấy như là chuẩn mực của sự trung thực, c̣n khi cũng báo Washington Post đưa tin về tham nhũng của Việt Nam th́ các vị nói họ đưa tin không chính xác. Cái thái độ lá mặt lá trái ấy cũng đúng trong trường hợp người ta nói về "kẻ thù" của quư vị, ví như việc Ân Xá Quốc Tế lên án Mỹ vi phạm nhân quyền và cũng lên án Việt Nam với tội danh tương tự.
Đây là điều thứ ba tôi muốn nói với quư vị.
Điều thứ tư nghe sẽ hơi sốc: nói thẳng ra là quư vị cực ngu.
Quư vị không tin vào các thông tin "lề trái", tức là những thông tin trái ngược với báo chí chính thống và những tuyên bố chính thức của Việt Nam. Nhưng bản thân quư vị đang sinh hoạt ở một diễn đàn có tên miền quốc tế, đă hoạt động được hơn 2 năm nhưng ngân khoản duy tŕ sự tồn tại của nó vẫn là từ tiền của cá nhân những con người đáng trân trọng đă lập ra website này. Tại sao website này không thể có đuôi .vn và cũng không thể đăng quảng cáo được, quư vị nếu đủ thông minh th́ đă nghĩ ra từ lâu rồi.
Quư vị quy kết tất cả những lời nói, bài viết của người khác là "phản động" "chống lại Việt Nam", "bán rẻ tổ quốc" chỉ v́ những người ấy không có tư tưởng giống như quư vị. Quư vị bỏ ngoài tai mọi lời phân tích không theo ư kiến của quư vị, quư vị biến một diễn đàn trao đổi tri thức thành một cái chợ để căi nhau và sỉ vả nhau bằng những từ như "thằng chó", "con lợn", một cách tự nhiên không biết ngượng mồm. Nếu vậy quư vị mất thời gian lên diễn đàn làm ǵ? Sao không trùm chăn lại tự nói cho xong?
Quư vị gọi người khác là "chống lại đất nước" bởi v́ họ chống lại suy nghĩ của quư vị, như thế khác ǵ quư vị tự coi ḿnh là đại diện của nước Việt Nam? Quư vị tự cho ḿnh là người phát ngôn của chính phủ Việt Nam, hay ngắn gọn, quư vị chính là Việt Nam?
Quư vị kêu gọi người ta "cảnh giác với những âm mưu gây chia rẽ", nhưng lại không nhận ra rằng chính cái lời kêu gọi ấy của quư vị là một âm mưu gây chia rẽ. Nếu quư vị muốn sống tốt với hàng xóm của ḿnh, ắt quư vị không bao giờ bắc loa giữa phố mà rằng "hăy cảnh giác với thằng A, con B, hàng xóm của tôi, chúng nó đang âm mưu chia rẽ".
Quư vị ngu lắm.
Muốn đất nước phát triển được, hăy thôi ṃ mẫm và ảo tưởng trong cái thế giới độc tôn của quư vị, hăy tỉnh táo trước những khẩu hiệu, hăy đi vào bản chất thay v́ hô hào bên ngoài, hăy lắng nghe xem người khác nói thế nào, và hăy chân thật trong mọi mối quan hệ.
Nhưng tôi không vọng tưởng rằng một ngày nào đó quư vị sẽ thay đổi. Quư vị sẽ măi măi là người dân của một đất nước tụt hậu, tham nhũng, ô nhiễm và không được bạn bè quốc tế coi trọng.
Đên đây chợt nhớ câu nói của cụ Tản Đà:
"Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn..."
Gửi một số quư vị trong diễn đàn, ai đọc thấy không phải ḿnh th́ tức là không phải đối tượng mà tôi nói đến.
hoanglan22
01-26-2019, 02:43
Từng được gọi với nhiều cái tên - như "Nuclear Football", "President's Emergency Satchel", "The Button" - những chiếc vali hạt nhân (VLHN - hay c̣n gọi là nút bấm hạt nhân) luôn là đề tài bí ẩn thu hút được sự ṭ ṃ của công chúng, mỗi khi người ta nh́n thấy chúng trên tay các sĩ quan quân đội hộ tống đi kèm các nguyên thủ của Nga và Mỹ. Trong lịch sử hàng chục năm tồn tại của ḿnh, đă có không ít những câu chuyện kỳ thú xung quanh những chiếc vali hạt nhân này...
Eisenhower – Cha đẻ của vali hạt nhân
Là quốc gia đầu tiên có vũ khí hạt nhân, chính người Mỹ cũng là người đầu tiên nghĩ ra chiếc VLHN, bắt đầu từ thời của Tổng thống Eisenhower (1953-1961). Khi đó, phía Mỹ cũng đang có được một ưu thế về vũ khí hạt nhân - 300 quả bom hạt nhân so với vỏn vẹn 10 quả của Liên Xô.
Tuy nhiên, phương tiện kiểm soát khả năng khai hỏa vũ khí hạt nhân này của Mỹ chỉ có được h́nh dạng tương tự như chiếc VLHN hiện nay bắt đầu xuất hiện từ cuộc khủng hoảng Caribe, khi Tổng thống Kennedy nghi ngờ về khả năng kiểm soát kho vũ khí hạt nhân của ông với tư cách là Tổng tư lệnh tối cao.
Trước những lời kêu gọi có phần cực đoan từ nhiều viên chức cao cấp quân sự cũng như dân sự đ̣i "trừng phạt người Nga" vào những thời khắc cao điểm của cuộc khủng hoảng, Kennedy lo ngại lệnh phát động đ̣n tấn công hạt nhân có thể được thực thi mà không có sự đồng ư của ông ta. Mặt khác, Kennedy mong muốn khi cấp thiết có thể ban hành lệnh tấn công này mà không cần phải có mặt tại trung tâm điều hành. Đó là những lư do chính dẫn tới sự xuất hiện của chiếc VLHN như hiện nay. Kể từ thời điểm đó, chỉ riêng Tổng thống Mỹ mới có khả năng ban hành lệnh phóng hoả tiển hạt nhân. Ông chủ Nhà Trắng có thể làm được điều này ngay cả tại pḥng ngủ của ḿnh, với điều kiện bên cạnh ông ta có mặt chiếc VLHN.
Bên trong chiếc vali hạt nhân Mỹ
Bất cứ người dân nào cũng ṭ ṃ muốn biết: Chiếc VLHN của Mỹ có h́nh dạng như thế nào? Và bên trong nó có chứa đựng những ǵ? Thành phần và nguyên tắc hoạt động của chiếc VLHN luôn là bí mật, cho dù qua một vài nguồn tin nội bộ, vẫn có thể biết được không ít chi tiết. Đó thực ra là một chiếc tráp bằng da màu đen, bên trong là một vali bằng titan rất chắc nặng 18kg, kích thước 45x35x25cm với khóa bằng mật mă - do Hăng Zero Halliburton sản xuất. Chiếc vali này không được phép rời xa viên sĩ quan phụ tá đặc biệt của tổng thống.
Khi đang trong ca trực, viên trợ lư này luôn "dính chặt" với chiếc VLHN bằng một chiếc ṿng đặc biệt gắn vào cổ tay. Có tất cả 5 viên trợ lư như vậy trực liên tục suốt ngày đêm theo ca - tất cả được lựa chọn hết sức kỹ lưỡng từ các sĩ quan không quân và lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ. Họ phải trải qua các thủ tục kiểm tra chi tiết nhất về tiểu sử và những mối quan hệ. Những sĩ quan này được phép mang vũ khí, có quyền khai hỏa mà không cần cảnh cáo để tiêu diệt đối phương, và điều quan trọng nhất - luôn luôn phải ở bên cạnh Tổng thống. Chính v́ vậy, viên phụ tá xách vali hạt nhân luôn phải đi đứng bênh cạnh Tổng thống, ở cùng với ông ta trên máy bay hay trong xe hơi. Nói tóm lại, viên phụ tá phải luôn là "cái bóng" của Tổng thống.
Bên trong chiếc vali nhỏ trên là một máy phát sóng vệ tinh và một số tài liệu, dựa vào đó Tổng thống cần phải đưa ra quyết định về việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Trong số này có một "cuốn sách đen" dày 30 trang ghi những phương án sơ lược của kế hoạch đ̣n đánh hạt nhân. Vào thời cao điểm của Chiến tranh lạnh, bản kế hoạch tổng thể này từng bao gồm 12.500 mục tiêu khác nhau trên lănh thổ Liên Xô
Trong vali c̣n có danh sách những hầm ngầm bí mật mà Tổng thống có thể sử dụng trong trường hợp nước Mỹ phải hứng chịu đ̣n tấn công hạt nhân, kèm theo đó là chỉ dẫn liên lạc với Ngũ giác đài và đề xuất về các bước hành động tiếp theo. Ngoài ra, c̣n có các thủ tục để kích hoạt hệ thống thông tin khẩn cấp EAS, nhờ đó Tổng thống có thể phát biểu trước toàn dân chỉ trong ṿng 10 phút, sau khi tuyên bố về t́nh trạng khẩn cấp, không phụ thuộc vào việc ông ta đang ở đâu.
Một khi Tổng thống quyết định sử dụng vũ khí hạt nhân, lực lượng bảo vệ cần tăng cường bảo đảm an toàn cho ông ta, trong khi viên sĩ quan phụ tá đặc biệt mở vali. Tiếp đó, Tổng thống và trợ lư này cần phải lựa chọn phương án hành động thích hợp nhất, trước khi liên lạc với Lầu Năm Góc hay Bộ chỉ huy trên không được đặt trên một chiếc máy bay Boeing E-4B. Nhưng để cho mệnh lệnh được thực thi, Tổng thống phải xác nhận bản thân ḿnh nhờ một "mật mă vàng" đặc biệt - lưu trong một chiếc thẻ nhựa tương tự như chiếc thẻ tín dụng ngày nay. Thực ra đó chính là mật mă riêng của Tổng thống dưới dạng các con số và chữ cái, có thể ra lệnh cho tất cả những cá nhân có trách nhiệm nhấn nút phóng hoả tiển từ các hầm chứa hay tàu ngầm.
Mật mă vàng vào… hiệu tẩy hấp đồ
VLHN được chuyển giao chính thức giữa các đời Tổng thống Mỹ vào đúng giữa trưa ngày tuyên thệ nhậm chức, đúng thời điểm diễn ra lễ chuyển giao quyền lực. Mỗi ông chủ mới của Nhà Trắng đều được giải thích chi tiết cách sử dụng VLHN. Tuy nhiên, cũng có không ít trường hợp rắc rối khi các ông chủ Nhà Trắng quên mất sự tồn tại của chiếc VLHN.
Tổng thống Carter từng làm giới lănh đạo quân sự phải đứng tim, khi để quên chiếc thẻ "mật mă vàng" của ḿnh trong túi một chiếc áo khoác, được gửi đến hiệu tẩy hấp đồ.
Reagan lại nhét thẻ trong ví để ở túi quần sau, và sau vụ ám sát hụt nhằm vào ông ta, người ta đă không thể t́m lại được chiếc thẻ mật mă trên.
Hay như Tổng thống Ford bỏ mặc chiếc vali cùng trợ lư đặc biệt của ḿnh trên khoang máy bay ở Paris.
Cũng lại Carter không cho phép phụ tá đặc biệt ở cùng với ḿnh trong thời gian đi nghỉ tại trang trại ở bang Georgia, khiến chiếc vali phải ở tại một khách sạn cách xa Tổng thống tới 10km.
Bush-cha sau buổi đánh tennis tại Los Angeles đă lên xe đi thẳng, khiến trợ lư phải xách VLHN đuổi theo chiếc Limousine của Tổng thống bằng... taxi.
Nhưng tất cả những vụ trên chưa thể bằng việc Tổng thống Bill Clinton vào đúng ngày kỷ niệm 50 năm thành lập NATO tại Washington, đă bỏ mặc viên phụ tá đặc biệt cùng chiếc VLHN ngay trên đường phố. Anh chàng tội nghiệp này đă phải đuổi theo đoàn xe của Tổng thống trên đường về Nhà Trắng trong suốt 15 phút.
Vali hạt nhân cho Tổng Bí thư Liên Xô
So với người Mỹ, Liên Xô bắt đầu có VLHN chậm hơn tới 20 năm, khi mức độ phát triển các loại hoả tiển hạt nhân của họ đă đủ cho khả năng ra đ̣n tấn công bất ngờ. Dù triển khai nghiên cứu chế tạo từ những năm 70 thế kỷ trước,
từ thời Brejnev, nhưng phải đến thờiChernenko mới bắt đầu xuất hiện các sĩ quan xách VLHN hộ tống Tổng bí thư. VLHN của Liên Xô (có mật danh là "Cheget") là một phần trong hệ thống tự động hóa điều khiển các lực lượng hạt nhân chiến lược "Kazbek", được chính thức đưa vào hoạt động từ năm 1983. Công chúng cho tới giờ vẫn chưa thể biết những ǵ được cất giữ trong chiếc vali nặng tới 11kg này.
Dưới thời Brejnev, từng có ư tưởng đề nghị về sự tồn tại của 3 chiếc vali hạt nhân giống nhau do Tổng bí thư, Bộ trưởng Quốc pḥng và Tổng tham mưu trưởng nắm giữ. Tuy nhiên, ư tưởng này đă bị băi bỏ do khó có khả năng luôn bảo đảm được sự liên lạc đồng thời giữa 3 quan chức này, chưa kể thời gian để đưa ra một quyết định khó khăn như trên chỉ chưa đầy 30 phút (thời gian để hoả tiển đối phương bay tới mục tiêu).
Theo như toán , khi có dấu hiệu đối phương phóng hoả tiển , viên sĩ quan trực tại trung tâm phải xác định đó có thực sự là cuộc chiến hay không. Khi mọi chuyện đă rơ ràng, tín hiệu báo động ngay lập tức được gửi tới Tổng bí thư, Bộ trưởng Quốc pḥng, Tổng tham mưu trưởng và trực chỉ huy của tất cả các quân chủng. Đầu tiên là một đường dây nóng được nối nhằm xác minh t́nh h́nh. Khi ba quan chức hàng đầu trên đưa ra quyết định cuối cùng, các sĩ quan trực chỉ việc mở khóa, nhấn nút phóng hoả tiển và... chiến tranh hạt nhân bắt đầu.
Vali hạt nhân của Nga hiện nay
Ban đầu, việc duy tŕ VLHN của Nga đă gặp nhiều khó khăn sau khi Liên Xô tan ră. Đến năm 1993, tất cả những nguồn tài nguyên kỹ thuật cho hệ thống này gần như đă cạn kiệt. Trong hệ thống sử dụng toàn những chi tiết nội địa, trong khi các vi mạch điện tử thời gian này hầu hết được sản xuất ở nước ngoài. Việc sử dụng các phụ tùng nhập ngoại lại không được phép về mặt nguyên tắc, v́ rất có thể chúng đă được cài những con chip gián điệp. Chưa kể phần lớn các chuyên gia thành thạo về hệ thống trên đều đă qua đời.
Về mặt thủ tục, đích thân Phó tổng tham mưu trưởng quân đội Nga là người lựa chọn các sĩ quan xách VLHN tháp tùng tổng thống. Theo mỗi phiên trực thường có hai người túc trực, luôn đi bên cạnh Tổng thống, hoặc ở gian pḥng cạnh đó, chỉ cách một bức tường. Trong những lúc này, nếu một người được phép thiếp đi, người kia phải thường xuyên kiểm tra khả năng hoạt động của vali, cũng như thử nghiệm tất cả các tần số liên lạc đặc biệt.
Để liên lạc không bao giờ bị ngắt trong hệ thống, người Nga trước đó cũng từng đưa vào sử dụng một hệ thống liên lạc và phối hợp song song có tên "Chu vi". Vai tṛ của hệ thống này là nhằm bảo đảm có thể phóng kịp thời hoả tiển từ các bệ phóng trên mặt đất hay tàu ngầm, ngay cả trong trường hợp đối phương đă kịp tiêu diệt hết tất cả các mắt xích liên lạc, điều hành và chỉ huy khác.
Được nghiên cứu, chế tạo, thử nghiệm trong giai đoạn 1979-1982, "Chu vi" chính thức được đưa vào trực chiến từ tháng 1/1985. Người Mỹ chỉ biết tới hệ thống này vào năm 1993, khi một trong những tác giả của dự án "Chu vi" đào thoát và khai ra tất cả mọi thông tin nắm được. Ngày 8-10-1993, tờ The New York Times đă cho đăng tải một bài báo nhan đề "Russia Has Doomsday Machine" (Nước Nga có cỗ máy ngày tận thế), nói về hệ thống đặc biệt trên. Theo các thỏa thuận trong Hiệp ước START-I, Nga chính thức rút hệ thống "Chu vi" khỏi chế độ trực chiến vào tháng 6/1995.
Đối với Tổng thống đầu tiên của nước Nga là Boris Eltsin, chiếc VLHN luôn được nh́n nhận như một biểu tượng về quyền lực, của một cường quốc. Ngay cả khi phải vào pḥng phẫu thuật tim, ông Eltsin vẫn không chịu trao lại chiếc vali cho bất cứ ai. Các sĩ quan mang VLHN phải ngồi túc trực ngay tại tiền sảnh của bệnh viện, và ngay khi Tổng thống vừa hồi tỉnh sau ca phẫu thuật, chiếc vali được đưa ngay vào trong pḥng. Tuy nhiên, thời gian gần đây, bên cạnh Tổng thống Nga trong các chuyến đi trong nước cũng như ngoài nước, người ta không nh́n thấy bóng dáng của các sĩ quan xách VLHN. Rất có thể theo một số quy định mới, những sĩ quan này tháp tùng Tổng thống Nga trong điều kiện kín đáo hơn.
Một chi tiết nữa được nhiều người quan tâm là thủ tục chuyển giao chiếc VLHN từ đời Tổng thống này sang đời Tổng thống khác tại Nga. Theo các quy định, chiếc vali được Tổng thống măn nhiệm chuyển giao cho người kế nhiệm vào đúng ngày tuyên thệ nhậm chức (tương tự như tại Mỹ). Tuy nhiên, thủ tục đầy đủ này chỉ được thực hiện lần đầu tiên khi ông Putin bàn giao quyền lực cho tân Tổng thống Medvedev. C̣n Eltsin trao chiếc VLHN cho Putin vào đúng ngày tuyên bố từ chức của ḿnh.
Trước đó, Gorbachev c̣n nhất quyết không chịu đích thân trao lại vali cho Eltsin. Khi đó, một chỉ huy của Bộ tổng tham mưu là tướng Boldyrev xách chiếc vali cùng với các sĩ quan liên lạc đặc biệt xuất hiện tại pḥng khách của Tổng thống Nga, qua đường điện thoại thông báo: "Chúng tôi đă tới chỗ của ngài".
Sưu-Tầm
hoanglan22
01-26-2019, 02:44
Chữ cái bắt đầu tên bạn có thể nói lên rất nhiều điều về tính cách của bạn. Nó sẽ giúp bạn tự đánh giá được điểm mạnh và điểm yếu của ḿnh bởi “nhân vô thập toàn”.
A (Ă, Â)
Nếu chữ cái đầu tên bạn là một trong ba chữ trên chứng tỏ bạn là một người tự lập và đầy tham vọng. Bạn không bao giờ để tuột khỏi tay cơ hội gần như đă nắm chắc và thường nhanh chóng đưa ra quyết định chứ không phải là người nước đôi, ba phải. Nếu ở cương vị của một nhà lănh đạo, bạn sẽ chứng tỏ được nhiều hơn năng lực của ḿnh.
Những nguyên âm này chứa đựng năng lực chỉ huy, có khả năng đứng vững trên đôi chân của ḿnh. Họ có nhiều tham vọng, thường rơi vào t́nh thế phải đưa ra những quyết định nhanh. Mặt tiêu cực: cố chấp, hơi bảo thủ và ích kỷ. Đặc biệt: dễ mắc bệnh về hô hấp.
B
Họ thường là những người nhút nhát, sống coi trọng t́nh cảm và đặc biệt là biết kiềm chế bản thân trước những cám dỗ. Những người tên bắt đầu bằng chữ B cũng là người thích sưu tầm và giữ ǵn những ǵ mà họ tôn trọng và yêu mến.
Bạn có tính cách rụt rè, kín đáo, luôn khao khát t́nh cảm yêu thương. Bạn rất hay dồn nén những buồn vui cho riêng ḿnh chịu đựng. Chớ nên quá cầu toàn đi t́m điều tốt đẹp hơn một khi bạn đă chấp nhận những sự việc chung quanh ḿnh. Mặt tiêu cực: bạn sống hơi cô lập và ủy mị.
C
C là một chữ cái mở bởi thế mà những người có tên bắt đầu bằng chữ C là những con người thân thiện, dễ ḥa đồng, cởi mở. Không chỉ có vậy, họ c̣n rất năng động và sáng tạo. Họ ưa thích đi đây đi đó nên thường rất khó tiết kiệm tiền.
Bạn thích làm việc trong môi trường chuyên nghiệp, thích du lịch và chấp nhận rủi ro để kiếm tiền. Mặt tiêu cực: đôi khi bạn hay lănh đạm, dửng dưng và tủn mủn.
D (Đ)
Chữ D (Đ) vốn là một chữ cái đóng nên nếu tên của bạn bắt đầu bằng chữ D (Đ) th́ bạn là người khá dè dặt, thận trọng, không có tính phiêu lưu. Điểm đáng quư của bạn là coi trọng cuộc sống gia đ́nh nhưng hơi tham công tiếc việc. Nếu đảm nhận vai tṛ người quản lư bạn sẽ làm rất tốt.
Nếu có tên bắt đầu bằng chữ D, bạn có thể là một quản trị gia tài ba. Bạn là người rất bảo thủ. Mặt tiêu cực: khắt khe, bướng bỉnh và thích tranh căi.
E (Ê)
Nếu tên bạn bắt đầu bằng chữ E (Ê) bạn là một người cởi mở, thích tự do và đôi khi dễ thay đổi. Do chữ E có h́nh dạng quay về phía trước nên bạn là người lạc quan, nh́n xa trông rộng. Tuy nhiên, bạn rất nóng tính.
G
Nếu chữ cái đầu tên bạn rơi vào chữ G, bạn không được cởi mở cho lắm. Bạn có khuynh hướng thích sống một ḿnh. Bởi vậy, bạn thường bị người khác hiểu lầm là lạnh lùng, khó gần. Khi bạn đă thích điều ǵ, bạn sẽ say mê đến cuồng nhiệt và thường đánh giá mọi người qua bản chất chứ không phải qua h́nh thức. Ngoài ra, bạn c̣n có khả năng diễn thuyết trước đám đông.
Bạn sống cô lập, bảo thủ. Bạn rất hay bị hiểu lầm, người khác nh́n bạn như một ốc đảo. Tuy nhiên, bạn có quyết tâm cao và luôn xem “chất lượng hơn số lượng”. Mặt trái của bạn là thích chỉ trích và dễ làm tổn thương người khác.
H
Chữ H giống như một chiếc thang. Bởi vậy, bạn sẽ có nhiều bước thăng trầm trong cuộc đời. Bạn là người tự chủ, biết ḿnh muốn ǵ, cần ǵ và hơn hết bạn là người đầy tham vọng, luôn khát khao vươn lên nấc thang của sự thành công. Nhược điểm duy nhất của bạn là quá ham kiếm tiền.
Bạn tự kiểm soát tốt, có khát vọng mạnh mẽ đến thành công. Nếu có địa vị, bạn có thể là người lănh đạo tốt, song cũng có thể rất tồi. Mặt tiêu cực: Hơi khắt khe trong cách nh́n nhận, đánh giá con người và sự việc. Bạn cũng nên cẩn thận với tiền bạc v́ chữ H của bạn trống rỗng cả đầu lẫn đuôi.
K
Nếu K là chữ cái bắt đầu tên bạn chứng tỏ bạn thích cuộc sống tự do, vui vẻ và vô tư. Bạn đặc biệt yêu thích âm nhạc v́ âm nhạc có thể làm dịu bớt sự căng thẳng trong tâm hồn. Bạn thường chủ động đối mặt với những vấn đề nan giải trong cuộc sống.
Bạn hành động rất ngẫu hứng, lúc nào cũng khẳng khái, ung dung và cạn nghĩ. Các giác quan của bạn hơi kém. Nên lắng nghe những mối linh cảm của ḿnh. Mặt tiêu cực của người có tên bắt đầu bằng phụ âm này: ít thật ḷng và hay ủ dột.
L
Chữ L nói lên bạn là người thân thiện, nồng hậu, có đôi chút lăng mạn và thường coi trọng cuộc sống gia đ́nh. Bạn có khả năng sư phạm hoặc năng khiếu âm nhạc. Tuy vậy, điều duy nhất mà bạn c̣n thiếu là sự kiên nhẫn.
Đôi khi, bạn c̣n tỏ ra là người rất lăng mạn. Nghề giáo, hoặc các hoạt động trong lĩnh vực âm nhạc rất thích hợp với bạn. Bạn hay có cảm giác bị người khác hiểu lầm. Chỉ cần rèn luyện thêm tính kiên nhẫn, bạn có thể trở thành một “quan ṭa” tốt cho những rắc rối.
M
Bạn là người trầm tính và suy nghĩ khá chín chắn nếu tên bạn bắt đầu bằng chữ M. Bạn c̣n có năng lực quản lư mọi việc và tương đối chăm chỉ. Nhược điểm lớn nhất của bạn là tính thực dụng.
Bạn siêng năng làm việc, cầu tiến và biết tổ chức tốt công việc. Mẫu người nội trợ giỏi cũng chính là bạn. Một khi đă vươn lên được một bậc, bạn biết cách giữ vững chỗ đứng của ḿnh. Mặt tiêu cực của những người có tên bắt đầu bằng chữ M: hơi lạnh lùng, thiếu cảm thông và thiếu nhạy cảm.
N
Chữ N ở đầu tên cho thấy bạn là người thích tự do, bộc trực và đôi lúc có những ư tưởng hay. Trong suốt cuộc đời của ḿnh, bạn có thể sẽ được đi rất nhiều nơi. Điểm thiếu sót của bạn là lập trường không vững vàng.
Chữ N vốn có h́nh dạng “kết mở” ở cả 2 đầu. V́ thế, người có tên bắt đầu bằng chữ này có suy nghĩ cực kỳ phóng khoáng. Tuy nhiên, họ không phải là người ồn ào. Những người này có trực giác tốt, tư duy linh hoạt. Mặt tiêu cực: hơi độc đoán, dễ cáu gắt và ích kỷ.
O (Ô, Ơ)
Người có tên bắt đầu bằng một trong ba chữ cái trên là người cố chấp nhưng có trách nhiệm trong công việc. Họ cũng rất trung thực và luôn coi gia đ́nh là quan trọng. Tuy nhiên, họ là người hơi tự măn và thường bằng ḷng với những ǵ ḿnh đă có. Điều đó lư giải v́ sao những người có quyền hành thường ít bắt đầu bằng chữ O (Ô, Ơ) trong tên.
Bảo thủ là tính cách dễ nhận thấy nhất ở bạn. Chính h́nh thù tṛn trĩnh, khép kín của chữ O đă thể hiện sự “tự vệ” ấy. Tuy nhiên, bạn là người có tinh thần trách nhiệm và rất “có duyên” với tiền bạc. Đối với bạn, mái ấm gia đ́nh rất quan trọng. Đó là nơi để bạn đi về sau một ngày làm việc mệt nhọc. Một ưu điểm nữa của bạn là sống rất thật ḷng. Mặt tiêu cực: hay tự cho ḿnh là đúng, hơi tự măn và đa nghi.
P
Bạn là người hiểu biết và tập trung cao độ khi làm việc. Bởi thế nên không có ǵ khó hiểu khi bạn thường giải quyết công việc một cách nhanh chóng và kiên tŕ trước những khó khăn trong cuộc sống.
Tên bắt đầu bằng chữ P là người uyên bác và có năng lực tập trung cao. Tính hay lo xa, v́ thế, bạn luôn làm việc chăm chỉ, xử sự và chi tiêu luôn có cân nhắc. Điều đó không có nghĩa là suốt ngày bạn vùi đầu vào công việc. Bạn biết tận hưởng những giây phút thư giăn quư báu. Mặt tiêu cực: bướng bỉnh, hay tự cao tự đại và thường ưu sầu.
Q
Chữ Q cho biết bạn là người trung thành, ít thay đổi tâm t́nh và rất hiểu biết. Bạn có khả năng kiếm ra tiền nhưng đôi khi giàu trí tưởng tượng và thiếu thực tế.
Bạn là người đằm thắm, thủy chung và có hiểu biết. Những người này có thiên hướng h́nh thành tính cách, phẩm chất như tầng lớp quư tộc. Hăy cẩn thận, mặt tiêu cực của chữ cái bắt đầu này có thể rất nguy hiểm.
R
Những người bắt đầu tên bằng chữ R thường hiểu biết rộng nhưng khá thực dụng. Họ là những người tự tin và truyền niềm tin cho người khác bởi họ thích làm những công việc từ thiện. Nhược điểm của họ là thiếu kiên nhẫn.
S
Bạn là người thích làm việc một ḿnh và có tính tự lập từ khá sớm. Bạn có trí nhớ tốt nên có thể thích hợp với nghề diễn viên. Nhược điểm của bạn là thường làm việc không đến nơi đến chốn.
Thường chỉ kết thúc đường công danh sự nghiệp khi đă làm ông, bà chủ. Bạn thường muốn đạt cho bằng được mục đích, nhưng đôi khi cũng hay bỏ dở nửa chừng. Khúc lượn ngay giữa chữ S chính là nguyên do của tính cách này. Mặt tiêu cực: hơi tự phụ.
T
H́nh dạng của chữ T quay về hai phía nên nếu tên bạn bắt đầu bằng chữ T bạn là người tinh tế và luôn nh́n vào hai mặt của một vấn đề. Bạn hay giúp đỡ người khác nhưng cũng rất dễ bị tổn thương. Bạn có tính đoàn kết cao.
Bạn thường biết ngăn ngừa những điều xấu có thể xảy ra với ḿnh. Tuy nhiên, bạn cũng rất dễ bị tổn thương. Những người có tên bắt đầu bằng chữ T có tinh thần hợp tác tốt, rất thích hợp với vai tṛ ḥa giải. Mặt tiêu cực: bướng bỉnh, nóng tính và thích mỉa mai.
U
Bạn là người cởi mở, thân thiện. Điều đáng quư ở bạn là sự trung thực và đáng tin cậy. Nhưng cũng chính bởi sự thật thà, trung thực mà đôi khi bạn không sáng suốt và hay cả tin.
Bạn có diện mạo dễ coi, có đầu óc sáng tạo, trí nhớ tốt đối với những vấn đề có liên quan đến ngôn từ, chữ nghĩa. Mặt tiêu cực: bạn rất hay ghen. Đôi khi không kiềm chế được cảm xúc, bạn dễ nổi nóng, sẵn sàng gây gỗ với người khác. Rắc rối rất dễ xảy ra.
V
Chữ V cho thấy bạn là người biết cân bằng mọi vấn đề trong cuộc sống. Không chỉ có vậy, bạn c̣n hơn những người có tên bắt đầu bằng chữ cái khác ở chỗ bạn biết đặt ra cho ḿnh mục tiêu vươn lên và sẵn sàng làm việc không biết mệt mỏi để có thể đạt được.
Suốt cuộc đời, bạn luôn phải xây dựng một sự cân bằng như 2 vế của chữ V. Chữ V thoải dốc, có đáy nhọn. Đây cũng là nét tính cách của bạn: biết đúc kết những suy nghĩ thành ư tưởng. Mặt tiêu cực trong tính cách của bạn là không thận trọng trong công việc, thực dụng, đôi khi hoang phí và thiếu cân nhắc.
X
Nếu tên bạn bắt đầu bằng chữ X, bạn là người biết cân bằng giữa vật chất và tinh thần, không bao giờ có những đ̣i hỏi quá cao. Bạn thích giúp đỡ gia đ́nh và bạn bè.
Những người có cái tên bắt đầu với chữ X luôn có được một tinh thần sáng suốt và lành mạnh. Chính nhờ ưu điểm này bạn luôn giúp ích được cho bạn bè và người thân. Tuy nhiên, bạn thường hay gặp khó khăn, cuộc sống của bạn chứa đựng nhiều cay đắng và thù hận.
Y
Chữ Y cho biết bạn là người có suy nghĩ chín chắn nhưng rất quyết đoán. Bạn lúc nào cũng thích hoạt động và ghét phải ngồi rỗi. Trong cuộc sống bạn là người thường phải đối mặt với khó khăn và đặc biệt là sự đơn độc.
Bạn yêu thích t́m ṭi, học hỏi và không thích ngồi lê đôi mách. Tuy nhiên trong cuộc sống thường ngày, bạn thường không dứt khoát khi đưa ra quyết định cuối cùng cho một vấn đề. Mặt tiêu cực của những người này: thường cảm thấy ḿnh rất cô đơn, hơi nhiều dục vọng.
hoanglan22
01-26-2019, 02:49
CH-47 Chinook là máy bay trực thăng vận tải hạng nặng đa năng 2 động cơ 2 cánh quạt do Boeing Integrated Defense Systems thiết kế và chế tạo. Công năng thiết kế của máy bay này là chuyển quân, chuyển vũ khí hạng nặng và hỗ trợ hậu cần cho chiến trường.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332087&stc=1&d=1548470899
Lịch sử
CH-47 Chinook được thiết kế vào năm 1962. Chinook vốn là tên một dân tộc ở Tây Bắc Thái B́nh Dương. Đến tháng 2 năm 1966, 161 chiếc Chinook đă được chế tạo và bàn giao cho Quân đội Hoa Kỳ.
Năm 1965, Sư đoàn Kỵ binh Bay số 1 của Hoa Kỳ sang Việt Nam tham chiến đă biên chế 1 tiểu đoàn máy bay Chinook. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Chinook trong Chiến tranh Việt Nam là vận chuyển pháo lên các điểm cao và đảm bảo cung cấp đạn dược cho các khẩu pháo này.
Trong chiến tranh Iraq, có tới khoảng 163 chiếc Chinook đă được sử dụng.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332088&stc=1&d=1548470899
hoanglan22
01-26-2019, 02:55
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332091&stc=1&d=1548471224http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332092&stc=1&d=1548471224
Jennifer Katherine Gates!! Con gáí của Bill Gates, người giàu nhất hành tinh
Rất khâm phục con gái của người giàu nhất Thế giới !
Thật giản dị, đẹp, phúc hậu và dễ thương vô cùng ....
phải không ?
TỈ PHÚ MỸ GIÁU NHẤT THẾ GIỚI XÀI TIỀN NHƯNG THẾ NÀO?
Là vợ của Bill Gates, người đàn ông giàu nhất hành tinh nhưng Melinda không mấy quan tâm đến những cửa hàng thời trang sang trọng, những loại mỹ phẩm đắt tiền hay những tác phẩm nghệ thuật danh giá. Thay vào đó, suốt ngày bà chúi mũi vào những chuyện đại loại như... chu tŕnh sống của con muỗi.
Ngay sau khi cưới nhau, vợ chồng Bill Gates bắt đầu làm từ thiện nhưng làm một cách dè dặt, trong đó có lần tặng máy vi tính xách tay cho các ngôi làng ở khu vực cận Sahara (Phi châu). Nhưng rồi hai người nhận ra người dân lục địa đen cần thức ăn để no bụng và thuốc men để chống lại cái chết hơn là phần mềm Windows xa xỉ. Thế là họ tậu bao nhiêu là sách về các bệnh lây lan v́ kư sinh trùng, về hệ miễn dịch, về cách pḥng bệnh... "Bạn không thể nói về chuyện tài trợ cho thuốc chống sốt rét nếu như bạn không hiểu rơ chu tŕnh sống của con muỗi. Làm từ thiện không chỉ đơn giản là kư séc chi tiền", Melinda nói."Tại sao lại phải nhọc công đến thế? " Melinda có thể tận hưởng một cuộc sống trong nhung lụa, dành thời gian chăm sóc con cái.
"Khi cưới nhau, tôi và Bill định khi về già sẽ chia sẻ tiền bạc với người khác.. Lần đầu tiên chúng tôi đến châu Phi là nhân một chuyến đi săn năm 1993. Chúng tôi không thể nào tận hưởng thiên nhiên hoang dă v́ cảnh tượng mọi người đi chân đất, phụ nữ phải vừa bế con vừa xách nước đi hàng cây số và bởi lời mời từ một bộ lạc về việc dự buổi lễ cắt âm vật phụ nữ.Sau đó về nhà, chúng tôi t́m đọc Báo cáo về phát triển thế giới năm 1993 và không khỏi giật ḿnh. Trẻ con đang chết hàng loạt chỉ v́ căn bệnh tiêu chảy và những loại bệnh cơ bản mà trẻ con ở nước chúng tôi đă được tiêm vắc-xin. Chúng tôi tự thấy ḿnh phải có trách nhiệm t́m hiểu sự thật và càng t́m hiểu, chúng tôi càng thấy không thể chờ v́ bệnh tật không đợi chúng tôi. Tôi đi ṿng quanh thế giới để xem điều ǵ đang xảy ra.Nỗi sợ hăi khi quay về quá khủng khiếp đến độ tôi không dám hy vọng. Nhưng rồi bạn thấy đó, kinh tế đang thay da đổi thịt ở các nước phát triển và tự nó cải thiện mọi chuyện. Điều đó đă vực Bill và tôi dậy". "Chúng ta có xem rẻ mạng sống của người Phi châu hơn mạng sống của chúng ta không? Bill và tôi cho rằng không có sinh linh nào mang giá trị hơn hay kém so với sinh linh khác. Chính sự công bằng này là lư do để quỹ từ thiện của chúng tôi hoạt động" Quỹ từ thiện Bill & Melinda Gates (BMGF) bắt đầu hoạt động với quy mô nhỏ vào năm 1997 rồi chính thức khai trương vào năm 2000. Vợ chồng Gates đă cam kết sẽ trao tặng hết 95% tài sản khổng lồ của ḿnh (hiện ước tính khoảng 46 tỉ USD). Vắc-xin và tạo hệ miễn dịch cho trẻ em là mục tiêu chính của quỹ.Đến nay BMGF đă chi tổng cộng 28,8 tỉ USD. Hồi đầu năm, BMGF đă tặng cho Liên minh Vắc-xin và miễn dịch toàn cầu (Gavi) 750 triệu USD - một trong những món quà cá nhân lớn nhất lịch sử. Những lần tài trợ trước đó của vợ chồng Bill Gates đă giúp tiêm pḥng viêm gan siêu vi B cho 43 triệu trẻ em, giúp giảm 39% tỷ lệ trẻ em bị sởi... Ngoài ra, BMGF c̣n chi mạnh cho các dự án khoa học nghiên cứu vắc-xin và thuốc men, trong đó phải kể đến chương tŕnh trị giá 35 triệu USD để thử nghiệm vắc-xin chống sốt rét ở Zambia. Hẳn nhiều người sẽ ngạc nhiên v́ ông bà Gates không dành phần lớn tài sản của ḿnh để lại cho con cái. Hiện họ đang có 3 đứa con nhỏ nhưng Melinda không tỏ ra lo lắng: "Bất cứ lúc nào gia đ́nh tôi nói tới chuyện tài sản, chúng tôi đều nói đến trách nhiệm phải trao tặng nó cho thế giới. Các con của chúng tôi đă có tài khoản riêng của chúng. Không phải lúc nào chúng muốn mua ǵ cũng được nấy mà phải đợi đến những dịp như sinh nhật mới được tặng hay đợi cho đến khi chúng tự để dành đủ tiền".Hiệp hội Bill & Melinda Gates đă chi bao nhiêu cho ai? Tính đến đầu năm 2005, tỷ phú này đă cam kết số tiền 28 tỷ USD cho nhiều dự án cứu tế, từ thiện, y tế và giáo dục. Tức ông đă đem cho không đến 38% tổng tài sản của ḿnh.12,5 tỷ USD là tổng số tiền mà tỷ phú giàu nhất thế giới Bill Gates đă chi cho các công cuộc từ thiện cứu tế và giáo dục thông qua hiệp hội mang họ tên ḿnh thành lập vào năm 2000. Chúng được chia ra như sau: - Sức khoẻ: 5,4 tỷ USD (gồm chi An lược sức khoẻ toàn cầu, 2,3 tỷ USD nghiên cứu trị HIV/AIDS, bệnh lao và y tế sinh sản, 1,5 tỷ USD; các bệnh lây lan khác, 1,1 tỷ USD; nghiên cứu phát triển công nghệ y tế toàn cầu, 0,4 tỷ USD; nghiên cứu y tế, chiến dịch y tế toàn cầu…, 0,1 tỷ USD)
- Giáo dục: 2,4 tỷ USD
- Chương tŕnh xây dựng thư viện toàn cầu: 0,3 tỷ USD
- Những dự án đặc biệt khác: 0,6 tỷ USD
- Các chương tŕnh từ thiện ở khu vực Tây Bắc Thái B́nh Dương: 0,6 tỷ USD
- Quỹ Thiếu Niên Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc : 1,2 tỷ USD
- Quỹ hoạt động Tổ chức Liên Hiêp Quốc : 1 tỷ USD
- Quỹ Tổ chức Y Tế Thế Giới : 1 tỷ USD
PS : tui nh́n thấy đẹp thật từ con người đến cách ăn mặc thật giản dị
hoanglan22
01-26-2019, 03:32
Với h́nh dạng, màu sắc cùng kiến trúc vô cùng độc đáo, những đài phun nước “độc nhất vô nhị” trên thế giới vẫn luôn là điểm đến có sức hút vô cùng lớn với khách du lịch. Hăy cùng chiêm ngưỡng 10 đài phun nước độc đáo nhất thế giới.
1. Đài phun nước tại cầu Banpo, Seoul, Hàn Quốc
Đài phun nước tại cầu Banpo ở Seoul có một bề mặt được dàn trải được tạo nên bởi 10.000 ṿi phun nước nhỏ được bố trí dọc theo 2 bên thành cầu. Những ṿi phun này th́ mới được lắp đặt vào thời gian gần đây nhưng hoá ra việc này đă giúp cho cây cầu trở thành một địa điểm tham quan rất hấp dẫn du khách.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332095&stc=1&d=1548472465http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332096&stc=1&d=1548472465
Đó là điều dễ hiểu bởi chắc chắn rằng không có ai chỉ lái xe qua một chiếc cầu đang liên tục phun ra 190 tấn nước mỗi phút mà không chiêm ngưỡng qua vẻ đẹp vô cùng ngoạn mục của nó. Và kể từ khi nó bơm nước lên từ ḍng sông bên dưới, nó thật sự khoác lên ḿnh vẻ đẹp lộng lẫy và trở nên thân thiện với môi trường hơn bao giờ hết.
2. Loá mắt trước vẻ đẹp của đài phun nước tại Dubaihttp://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332098&stc=1&d=1548472593
3. Đài phun nước Floating, Osaka, Japan
Đài phun nước Floating là một tác phẩm độc đáo cuối cùng mà kiến trúc sư Isamu Noguchi dành cho hội chợ triển lăm quốc tế tại Osaka, Nhật Bản.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332099&stc=1&d=1548472669
Ông Noguchi đă làm cho những ḍng nước chảy ra một cách ảo tưởng và tạo thêm thành 9 đài phun nước “lơ lửng” tại hội chợ thế giới trong thời gian đó. Những đài phun nước không tưởng này tạo cho người xem cảm giác có vẻ như chúng đang bay lơ lửng trong không khí.
4. Đài phun nước tại quảng trường nhà hát tại Nhà hát lớn ở Nga.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332100&stc=1&d=1548472753
5. Đài phun nước Swarovski, Áo
Swarovski Kristallwelten, toạ lạc tại khu vui chơi giải trí Swarovski Crystal World, là một đài phun nước độc đáo thuộc vùng Tyrol, Áo (gần khu vực dăy núi Alpes) với vị trí giống như một viên đá quư nằm trên chiếc nhẫn.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332101&stc=1&d=1548472819
Đây là khu du lịch nổi tiếng rất hấp dẫn khách du lịch tại nước Áo do tập đoàn Swarovski đầu tư xây dựng vào năm 1995 nhân kỷ kiệm 100 năm công ty được thành lập.
6. Đài phun nước Vortex ấn tượng do William Pye thiết kế.http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332104&stc=1&d=1548472947
7. Đài phun nước h́nh núi lửa ở Abu Dhabi.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332105&stc=1&d=1548473010
8. Bellagio Fountains (Las Vegas, Mỹ).
Đài phun nước của khách sạn Bellagio ở được mệnh danh là Vũ điệu Ba lê của nước những ḍng nước được bắn lên trời và nhảy múa theo nhịp điệu của bản nhạc "Fly Me To The Moon" (Frank Sinatra), "Time to Say Goodbye" (Sarah Brightman and Andrea Bocelli) và "My Heart Will Go On" (Celine Dion).http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332106&stc=1&d=1548473097
Hàng ngày đài nước sẽ phun 30 phút vào lúc hoàng hôn và và buổi sáng sớm, sau đó cứ 15 phút một lần từ 8 giờ sáng cho tới nửa đêm. Đài phun nước này có tới 1200 ống dẫn nước và 4,500 ngọn đèn màu chiếu sáng và xây hết 50triệu USD.
9. Đài phun nước Wealth (Suntec, Singapore).
Đài phun nước nằm thấp hơn mặt đất của trung tâm thương lớn nhất thành phố Suntec City. Theo đạo Hindu 4 cột cùng hoà chung một ḍng nước tượng trưng cho sự hoà hợp của 4 sắc tộc chủ yếu ở đảo quốc sư tử này.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332107&stc=1&d=1548473168
Đài phun nước làm bằng đồng cao 13.8m và chu vi là 1683 m và nước được phun từ độ cao 30m.
10. Đài phun nước Montjuic (Barcelona, Tây Ban Nha).
Đươc miêu tả là vũ điệu ngoạn mục của nước và ánh nằm ở giữa Placa d’Espanya và National Palau. Đài phun nước này làm cảnh đêm của Barcelona thêm huyền ảo và thu hút hàng ngàn du khác.http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332109&stc=1&d=1548473299
Đây là công tŕnh đạt giải Great Universal Exhibition do kỹ sư Carles Buigas thiết kế năm 1929 và 3000 công nhân làm việc.
*********
(Việt Nam cũng có những đài phun nước tự nhiên rất độc đáo
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332111&stc=1&d=1548473513
hoanglan22
01-26-2019, 16:01
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332286&stc=1&d=1548518077
1. “Chấm dứt chiến tranh không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. V́ lẽ, cái giá phải trả cho loại ḥa b́nh đó là ngàn năm tăm tối cho các thế hệ sinh tại Viêt Nam về sau.”
2. “Chúng ta đang chiến đấu với một đối thủ nguy hiểm nhất trong lịch sử nhân loại, và nếu chúng ta thua trong cuộc chiến này, chúng ta sẽ mất đi sự tự do, lịch sử sẽ ghi nhận lại rằng những người có nhiều thứ để mất nhất đă làm ít nhất để ngăn chặn nó.”
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332287&stc=1&d=1548518077
3. “Làm thế nào để bạn biết người đó là một người cộng sản? Đó là những người đọc Marx và Lenin. Và làm thế nào để bạn biết được người đó là người chống cộng sản? Đó là những người hiểu Marx và Lenin.”
4. “Nếu chúng ta mất tự do ở đây (nước Mỹ), sẽ không c̣n một nơi nào khác để trốn. Đây là trụ cột cuối cùng trên trái đất. Và cái ư tưởng rằng chính phủ phải lệ thuộc người dân, là một ư tưởng mới lạ và khác biệt nhất trong lịch sử nhân loại.”
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332288&stc=1&d=1548518077
5. “Chúng ta đă được bảo rằng chúng ta phải chọn giữa phe cánh hữu hay phe cánh tả, nhưng tôi muốn gợi ư rằng chẳng có tả hay hữu ǵ cả. Chỉ có tiến bước hoặc lùi bước. Tiến bước để bảo vệ giấc mơ của nhân loại; quyền tự do trong mỗi cá nhân – hoặc lùi bước để trở về với sự độc tài, và những ai đă bán đổi sự tự do của chúng ta để lấy một chút ḥa b́nh đă lùi bước vào nô lệ.”
6. “Tôi và bạn đều biết ḥa b́nh dù có đẹp cách mấy cũng không có ư nghĩa ǵ nếu nó được mua với cái giá gông cùm và nô lệ.”
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332297&stc=1&d=1548518260
7. “Chúng ta nên làm ǵ để có được ḥa b́nh? Chỉ một cách, rất đơn giản. Bạn và tôi phải có đủ can đảm để nói với địch thủ, “Có một cái giá mà chúng tôi sẽ không trả.” Có một ư nghĩa trong câu nói của Barry Goldwater, “ḥa b́nh qua sức mạnh.””
8. “Bạn và tôi đều có cuộc đối mặt với đệnh mệnh. Chúng ta sẽ ǵn giữ cho con cháu chúng ta điều này, niềm hy vọng cuối cùng cho nhân loại, hoặc chúng ta sẽ kết án chúng bước bước cuối cùng vào một ngàn năm đen tối.”
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332298&stc=1&d=1548518260
9. “Chúng ta sẽ luôn nhớ, luôn tự hào. Chúng ta sẽ luôn chuẩn bị, để chúng ta sẽ măi được tự do.”
10. “Trong cơn khủng hoản hiện tại, chính phủ không phải là giải pháp cho các vấn đề; chính chính phủ là vấn đề. Từ ngàn xưa chúng ta đều tin rằng xă hội quá phức tạp để cho phép quyền tự chủ, rằng chính phủ của một nhóm ưu tú sẽ tốt hơn một chính phủ của dân, cho dân và v́ dân. Nếu không một ai trong chúng ta có đủ khẳ năng để tự chủ th́ làm sao ai có đủ khả năng để tự quyết giùm người khác?”
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332299&stc=1&d=1548518260
11. “Trên hết, chúng ta phải nhận ra rằng không có vũ khí nào lợi hại hơn ư chí và sự dũng cảm đức hạnh của những con người tự do. Đó là một vũ khí mà địch thủ chúng ta không có, nhưng đó là một vũ khí mà người Mỹ chúng ta có. Tất cả những tổ chức độc tài khủng bố trên thế giới nên nhớ điều đó.”
12. “Chúng ta là một quốc gia có một chính phủ, chứ không phải ngược lại. Và điều này khiến chúng ta rất đặc biệt so với các nước khác. Chính phủ chúng ta không có quyền lực ǵ trừ những quyền lực mà nhân dân đă giao cho họ.”
13. “Khi bạn bắt đầu một cuộc tranh đấu, bạn sẽ không biết nó sẽ đi về đâu. Chúng ta muốn thay đổi một đất nước, nhưng thay vào đó chúng ta đă thay đổi cả thế giới.”
14. ““Chúng ta, những người dân” cho chính phủ biết họ nên làm ǵ, họ không không có quyền làm ngược lại. Chúng ta là người lái, chính phủ là chiếc xe. Và chúng ta sẽ quyết định chiếc xe đó sẽ đi về đâu, bằng đường nào, với tốc độ bao nhiêu. Hầu hết tất cả các hiến pháp trên thế giới đều viết với khái niệm chính phủ sẽ cho nhân dân biết quyền lợi của họ là ǵ. Hiến pháp của chúng ta được viết với khái niệm “Chúng Ta” sẽ cho chính phủ biết quyền lợi của họ là ǵ. “Chúng ta, những người dân” đang tự do.”
15. “Có một quy luật nhân quả đơn giản và dễ hiểu như luật vật lư: “chính phủ càng lớn, tự do càng bị thu hẹp.” Con người sẽ không được tự do trừ khi chính phủ bị giới hạn.”
Dịch: Nguyễn Trọng Nhân
hoanglan22
01-26-2019, 16:07
Vào cuối thế kỷ 19, đất Sài G̣n - Chợ Lớn nổi lên bốn vị trọc phú có gia sản kếch xù, được mệnh danh là “Tứ đại phú hộ” mà tiếng tăm c̣n truyền lại đến bây giờ qua câu nói dân gian “Nhất Sỹ, Nh́ Phương, Tam Xường, Tứ Định”.
Huyện Sỹ - Lê Phát Đạt: Giàu hơn vua Bảo Đại
Nhân vật số một của Tứ đại phú hộ là Huyện Sỹ (1841 – 1900), người có tên khai sinh là Lê Nhứt Sỹ, sinh ra tại Sài G̣n trong một gia đ́nh theo đạo Công giáo. Từ nhỏ ông đă được các tu sỹ người Pháp đưa đi du học ở Malaysia. Tại đây, ông đổi tên thành Lê Phát Đạt do tên cũ của ông trùng với tên một người thầy dạy.
Sau khi về nước, ông được Chính phủ Pháp bổ nhiệm làm thông ngôn, từ năm 1880 làm Ủy viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ. Dù đă đổi tên nhưng người quen vẫn gọi ông bằng tên cúng cơm, v́ vậy mà cái tên Huyện Sỹ đă gắn bó với số phận của ông.
Sự giàu có nhanh chóng của Huyện Sỹ - Lê Phát Đạt bắt đầu từ một việc trớ trêu. Khi người Pháp chiếm Nam Kỳ, dân cư tản mát, nhiều ruộng đất trở nên vô chủ, bán rẻ mạt mà không ai mua. Chính quyền thuộc địa ép Lê Phát Đạt, khiến ông bất đắc dĩ phải đi vay mượn mà mua liều. Không ngờ ruộng của ông trúng mùa liên tiếp mấy năm liền, khiến ông bỗng chốc phát tài. Dù nhiều tiền của nhưng ông không tiêu xài phung phí mà c̣n dạy người nhà thói cần kiệm.
Là người mộ đạo, ông đă dùng gia sản khổng lồ của ḿnh để xây các nhà thờ bề thế ở Sài G̣n, là nhà thờ Huyện Sỹ và nhà thờ Chí Ḥa ngày nay. Người con trai của ông là kỹ sư Lê Phát Thanh cũng bỏ tiền ra xây nhà thờ Hạnh Thông Tây, nay thuộc quận G̣ Vấp của TP HCM.
Các con cái của Huyện Sỹ đều là những đại điền chủ sở hữu vô số đất đai ở Nam Kỳ lục tỉnh, nhận nhiều bổng lộc từ triều đ́nh nhà Nguyễn dù không phải người hoàng tộc. Sau này, một người cháu ngoại của Huyện Sỹ là Nguyễn Hữu Thị Lan đă trở thành hôn thê của vua Bảo Đại, được biết đến với danh xưng Nam Phương hoàng hậu. Mức độ giàu có của gia tộc Huyện Sỹ được đồn thổi là lớn hơn rất nhiều lần so với vua Bảo Đại.
Sự giàu có của Huyện Sỹ ngày nay c̣n được thể hiện một cách rơ nét qua các công tŕnh xây dựng mà ông để lại. Nổi bật số đó là nhà thờ Huyện Sỹ, công tŕnh mà ông đă hiến 1/7 tài sản cá nhân để xây dựng. Nhà được khởi công xây dựng từ năm 1902 và đến năm 1905 hoàn thành theo thiết kế của linh mục Bouttier, tiêu tốn khoảng 30 ngàn đồng bạc Đông Dương thời bấy giờ.
Huyện Sỹ - Lê Phát Đạt qua đời năm 1900, trước khi ngôi nhà thờ tâm huyết của ông được xây dựng. Sai khi vợ của ông là bà Huỳnh Thị Tài mất năm 1920, con cháu đă đưa thi hài hai ông bà về chôn ở gian chái sau cung thánh của nhà thờ Huyện Sỹ. Nơi đây cũng đặt tượng của ông cùng vợ và các con.
Ngày nay, nhà thờ Huyện Sỹ là một điểm đến thu hút khách du lịch, đặc biệt là đối với những ai muốn t́m hiểu về cuộc đời của đại gia giàu có bậc nhất Sài G̣n thời xưa.
Đỗ Hữu Phương: Tiến thân nhờ theo Pháp
Đỗ Hữu Phương (1841 - 1914), nhân vật số hai trong “Tứ đại phú hộ” sinh tại Sài G̣n, là con của Bá hộ Khiêm – một người giàu có của đất Nam Kỳ lúc đó. Ông được đánh giá là người rất khôn ngoan, có sự nghiệp gắn với chính quyền bộ máy thực dân Pháp.
Năm 1859, khi quân Pháp tiến đánh Gia Định, Đỗ Hữu Phương lui về Bà Điểm, Hóc Môn lánh thân và chờ thời. Năm 1861, ông được nhận làm cộng sự của người Pháp với sự giới thiệu của cai tổng Đỗ Kiến Phước. Sài G̣n Chợ Lớn thời đó chia làm 20 hộ. Đỗ Hữu Phương được chính quyền cho làm hộ trưởng, từ đó lần lượt leo lên nhiều chức vụ khác nhau.
Từ năm 1866 - 1868, Đỗ Hữu Phương chỉ huy hoạt động do thám phong trào chống đối Pháp và tham gia dẹp nhiều cuộc khởi nghĩa ở vùng Sài G̣n – Chợ Lớn và lân cận. So với những tay sai khác của Pháp, ông tỏ ra khéo léo và mềm mỏng, chủ trương tránh gây đổ máu, chuốc thù oán. Bằng sự khôn khéo của ḿnh, ông đă thuyết phục nhiều nhân vật nổi dậy quy hàng, đồng thời xin chính phủ Pháp ân xá cho họ.
Dù vậy, Đỗ Hữu Phương tỏ ra rất không thương xót với những người nổi loạn cứng rắn. Ông đă thẳng tay trừng trị Thủ khoa Huân (Đỗ Hữu Huân) - một trong những bạn hồi thơ ấu, khi bị nhà lănh đạo khởi nghĩa này bội tín. Bản thân Đỗ Hữu Phương đă có lần suưt chết v́ sự chống trả của quân khởi nghĩa.
Với các công trạng của ḿnh, Đỗ Hữu Phương tiếp tục thăng tiến. Đến năm 1872, ông trở thành hội viên Hội đồng thành phố Chợ Lớn và năm 1879 làm phụ tá Xă Tây Chợ Lớn cho Antony Landes.
Tận dụng chức vụ này, Đỗ Hữu Phương thường ngầm làm trung gian để giới thương gia người Hoa hối lộ cho các viên chức Pháp và bỏ túi những lợi nhuận khổng lồ. Ông giàu lên nhanh chóng, uy thế lớn đến mức quan Toàn quyền Paul Doumer cũng biết tiếng và ghé thăm. Lợi dụng cái bóng của Paul Doumer, ông thâu tóm được một diện tích đất ruộng lên đến 2.223 mẫu.
Trên đường quan lộ, Đỗ Hữu Phương vẫn thăng tiến như diều gặp gió, được thưởng tam đẳng bội tinh, thăng Tổng đốc hàm và nhận được nhiều ưu đăi khác. Năm 1881, ông gia nhập quốc tịch Pháp, các con đều được đưa sang Pháp du học.
Ông được người Pháp ca ngợi rằng: “Phương tích cực phục vụ cho sự nghiệp của nước Pháp, không chỉ với khả năng quân sự mà c̣n với sự hiểu biết tường tận về xứ này, đặc biệt là Chợ Lớn”. Trên thực tế, Đỗ Hữu Phương là một trong những tay sai đắc lực nhất cho các sĩ quan Pháp trong việc b́nh định xứ Nam Kỳ.
Đỗ Hữu Phương mất năm 1914. Đám tang của ông được tổ chức rất trọng thể. Thi hài của ông được quàn nửa tháng mới chôn, mỗi ngày đón hàng trăm lượt khách viếng. Trâu, ḅ, lợn, gà được mổ liên miên để cúng và đăi khách.
Bá hộ Xường: Đại gia ngành thực phẩm
Bá hộ Xường (1842 – 1896) tên thật là Lư Tường Quan, tên tự là Phước Trai, là nhân vật thứ ba trong Tứ đại phú hộ đất Sài G̣n.
Cuộc đời và sự nghiệp của Bá hộ Xường - Lư Tường Quan được ghi chép lại rất ít, hầu hết chỉ c̣n lưu lại trong những giai thoại. Theo đó, Lư Tường Quan là người Minh Hương (Hoa Kiều trung thành với nhà Minh) chống lại nhà Thanh nên đến lánh nạn ở miền Nam Việt Nam.
Thông thạo cả tiếng Hoa lẫn tiếng Pháp, Lư Tường Quan trở thành thông ngôn cho Pháp và được chính quyền thực dân tin tưởng, trọng dụng.
Tuy vậy, địa vị mà nghề thông ngôn mang lại không làm Lư Tường Quan thỏa măn. Khoảng năm 30 tuổi, ông bỏ nghề này và nhảy vào thương trường.
Lĩnh vực mà Lư Tường Quan nhắm đến là cung cấp lương thực, thực phẩm cho Sài G̣n và các tỉnh lân cận. Biết tranh thủ thời cơ khan hiếm hàng hóa, lại giỏi lấy ḷng quan Tây để được che chở, nâng đỡ, ông nhanh chóng trở thành đại gia số một trong lĩnh vực lương thực - thực phẩm lúc bấy giờ. Do Tường Quan c̣n có tên khác là Xường, lại rất giàu có, nên người dân thường gọi ông là Bá hộ Xường.
Với lợi nhận từ việc kinh doanh thịt cá, Bá hộ Xường bắt đầu mua đất xây cất biệt thự tại vùng Chợ Lớn để cho thuê và bán, gia sản lại càng được mở rộng.
Dinh thự của Bá hộ Xường rất bề thế, ngày nay tọa lạc trên đường Hải Thượng Lăn Ông, được nhà nước xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp thành phố.
Một công tŕnh khác ông để lại là khu nhà mồ cổ xây dựng năm 1896, hiện thuộc địa phận quận Tân B́nh, TP HCM. Toàn bộ công tŕnh tuy không đồ sộ nhưng rất khoáng đạt và tinh tế, là sự kết hợp của lối kiến trúc gôtich với phong cách Á Đông.
Bá hộ Xường qua đời năm 1896. Sau khi ông mất, hầu hết tài sản bị con cháu ăn xài, tiêu phí hết.
Bá hộ Định và các “ứng viên” khác
Trong câu truyền miệng trong dân gian “Nhất Sỹ, Nh́ Phương, Tam Xường, Tứ Định”, nếu ba vị trí đầu tiên của Tứ đại phú hộ được phân định rơ ràng th́ vị trí thứ tư lại có nhiều “phiên bản” khác nhau. Đôi khi “Tứ Định” được thay thế bằng Tứ Hỏa, Tứ Trạch hoặc Tứ Bưởi.
“Tứ Định” ở đây chính là bá hộ Định, một thương gia có tên thật là Trần Hữu Định. Ông vốn là chủ tiệm cầm đồ rồi được chính quyền Pháp cho làm Hộ trưởng kinh doanh đất đai, xuất nhập khẩu vải sợi, phất lên thành đại gia nhờ biết nắm thời cơ những lúc hàng khan hiếm, tương tự như bá hộ Xường. Và cũng giống bá hộ Xường, sau khi bá hộ Định mất, gia sản của ông bị con cháu tàn phá tan hoang.
Trong vị trí thứ tư của Tứ đại phú hộ, “Tứ Hỏa”, thường được gọi là Chú Hỏa, là nhân vật gắn với nhiều giai thoại về sự giàu có.
Chú Hỏa (1845-1901) có tên thật là Hứa Bổn Ḥa, có tổ tiên là người Hoa ở Phúc Kiến chống chính quyền măn Thanh nên di cư sang Việt Nam. Vốn là người nhặt ve chai, Chú Hỏa đă trở nên giàu có một cách lạ kỳ.
Thiên hạ đồn rằng, khi đi nhặt ve chai Chú Hỏa đă nhặt được cả túi vàng nằm trong một chiếc ghế nệm cũ và dùng số vàng đó làm ăn rồi giàu lên nhanh chóng. Các phiên bản khác của giai thoại này thay túi vằng bằng bức tượng đúc đồng nhưng bên trong đầy vàng, hoặc những thứ đồ cực kỳ quư hiếm trong những món đồ vứt đi.
Rồi có cả những giai thoại cho rằng chú Hỏa an táng mộ cha đúng long mạch nên làm ăn phát đạt hay thừa hưởng cả một kho báu của nhà Minh để lại. Những giả thiết có phần thực tế hơn cho rằng Hỏa đă tích cóp để trở thành chủ đại lư ve chai, hoặc được một ông chủ người Pháp thương t́nh giúp đỡ, từ đó có vốn liếng để làm ăn.
Dù sự thật như thế nào th́ Chú Hỏa đă chứng tỏ được ḿnh là một nhà kinh doanh có tài. Ông là chủ nhân của công ty bất động sản Hui Bon Hoa, từng sở hữu trên 20.000 căn nhà ở Sài G̣n.
Công ty của Chú Hỏa đă xây dựng nhiều công tŕnh có giá trị, c̣n tồn tại đến nay như Bảo tàng Mỹ thuật TP HCM, Khách sạn Majestic, Bệnh viện Từ Dũ, Trung tâm cấp cứu Sài G̣n, khu nhà khách Chính phủ v..v.
Ngoài ra, “Tứ Trạch” trong Tứ đại phú hộ là Trần Trinh Trạch (1872-1942). Tương truyền, ông xuất thân nhà nghèo, đi làm mướn cho một điền chủ nhập tịch Pháp nên có vốn chữ nghĩa tiếng Pháp. Sau này, ông đi làm viên chức cho ṭa hành chính tỉnh Bạc Liêu. Nhờ vốn kiến thức về luật pháp mà ông giàu lên nhờ thu mua tài sản điền địa của các địa chủ thất vận.
Trần Trinh Trạch được xem là một trong những đồng sáng lập Ngân hàng Việt Nam năm 1927- ngân hàng đầu tiên do chính người Việt Nam sáng lập và điều hành, trụ sở đặt tại Sài G̣n.
Người con trai thứ ba của ông chính là Công tử Bạc Liêu, một cậu ấm ăn chơi khét tiếng cả Nam Kỳ.
“Tứ Bưởi” trong Tứ đại phú hộ chính là Bạch Thái Bưởi, người được xem là nhà tư sản dân tộc tiêu biểu thời cận đại trong lịch sử Việt Nam.
Hoàng Phương
hoanglan22
01-26-2019, 16:19
Các ông sẽ bỏ rơi chúng tôihttp://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332314&stc=1&d=1548519495
Năm 1968, ngày 13-10, Đại sứ Bunker cùng với Phó đại sứ Berger và Tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam là Tướng Abrams đến dinh Độc Lập tŕnh bày diễn biến những ǵ mới xảy ra tại Paris và yêu cầu Tổng thống Thiệu chuẩn bị soạn thảo một tuyên bố chung với Tổng thống HK về việc ngưng ném bom toàn Miền Bắc và xúc tiến ḥa đàm.
Tổng thống Thiệu không tin CSVN thực sự muốn đàm phán, ông nghĩ rằng Hà Nội chỉ bắt nọn các chính trị gia HK trong cuộc vận động tranh cử đang tới hồi kết thúc. Rồi ông cho biết ông chỉ kư tên vào bản tuyên bố chung nếu Hoa Kỳ vẫn c̣n duy tŕ một lực lượng đủ để đối phó nếu Hà Nội xua quân qua vùng phi quân sự, và Hoa Kỳ phải bảo đảm sẽ tái oanh tạc Bắc Việt nếu Hà Nội lợi dụng ḥa đàm để tạo lợi thế tấn công quân sự.
Tổng thống Thiệu nói với 3 vị khách: “Vấn đề chính không phải là việc ngưng ném bom Bắc Việt mà là ngưng chiến tranh. Chúng ta thử đưa ra những lời tuyên bố như thế xem Hà Nội nghiêm chỉnh đến độ nào”. ( Tức là tuyên bố duy tŕ một số quân và sẽ ném bom trở lại nếu Hà Nội vi phạm. Stepen Young, Victory Lost, Bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 229 ).
Bunker trả lời là chuyện “thử xem” như vậy không thể nào đưa ra trong một tuyên bố kêu gọi ngưng bắn, chỉ có thể đưa ra trong một tuyên bố kêu gọi đầu hàng ( Tôi bảo anh hạ súng xuống, nếu không tôi sẽ thả bom ), nhưng đây không phải là kêu gọi đầu hàng. Sau đó Tổng thống Thiệu đồng ư là sẽ cùng nhau ra bản tuyên bố chung.
– Ngày 16-10, Đại sứ Bunker bị dựng dậy vào lúc 3 giờ 15 sáng bởi v́ ông nhận được lệnh của Washington là phải đến gặp Tổng thống Thiệu để thảo luận về bản dự thảo chung sẽ công bố nếu Bắc Việt chấp thuận cùng ngồi vào bàn ḥa đàm. Lúc 7 giờ sáng Bunker gọi điện thoại xin gặp Tổng thống Thiệu để tŕnh bản dự thảo tuyên bố chung do Hoa Kỳ soạn.
Khi gặp nhau Tổng thống Thiệu cho biết ông không đồng ư một số điểm trong bản dự thảo do Bunker đưa ra. Và ông sẽ có một bản tuyên bố riêng cho đồng bào Miền Nam Việt Nam.
Sau đó Tổng thống Thiệu họp Hội đồng an ninh Quốc gia và hai vị chủ tịch Quốc hội. Tại buổi họp, Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ đọc chậm từng điểm của bản dự thảo do Bunker soạn cho mọi người nghe, rồi Kỳ kết luận: “Chúng ta không thể chấp nhận bản dự thảo này được, nó mơ hồ quá”.
– Ngày 18-10, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao VNCH thông báo cho Cố vấn chính trị Hoa Kỳ biết rằng Sài G̣n sẽ không tham dự bất cứ cuộc đàm phán nào mà trong đó có sự hiện diện của MTGPMN trong tư cách là một thành phần riêng biệt ( Nghĩa là chỉ chấp nhận đại diện của MTGPMN như là một nhánh của phái đoàn Hà Nội ).
– Ngày 19-10, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu họp báo tại Vũng Tàu, nội dung cũng cho biết VNCH không chấp nhận MTGPMN như là một thành phần riêng biệt, hiện nay giữa Hoa Kỳ và Hà Nội cũng chưa đạt được những thỏa thuận căn bản.
Chiều hôm đó Phó đại sứ Berger đến gặp Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ. Tướng Kỳ từ chối ủng hộ kế hoạch của Washington nhưng cũng hứa sẽ không vào hùa với ông Thiệu về việc làm khó dễ cho bản tuyên bố chung.
Đến tối Ṭa đại sứ Hoa Kỳ nhận được tin Tướng Kỳ ra lệnh cho một số sĩ quan Không quân chuẩn bị dội bom dinh Độc Lập ( Cho rằng ông Thiệu bắt tay với Hoa Kỳ phản bội dân chúng Miền Nam. Kỳ đại diện cho phe diều hâu trong quân đội, chủ trương Bắc tiến hoặc tử chiến với Cọng sản chứ nhất quyết không bắt tay ).
– Ngày 20-10, Đại sứ Bunker và Phó đại sứ Berger đến gặp Tổng thống Thiệu. Bunker cáo buộc Thiệu đă đưa ra vấn đề Mặt trận Giải phóng để làm khó dễ Hoa Kỳ. Sư hiện diện của MTGP trong bàn hội nghị là một điều bắt buộc phải có, nhưng họ có với tư cách nào là trong chuyện nội bộ của họ. Giờ đây HK và VNCH không thể buộc MTGP phải tham dự với những quy định sẵn rằng MTGP phải như thế này hay phải như thế kia trong bàn hội nghị.
Tổng thống Thiệu đáp lại: “Vấn đề là chúng tôi không chấp nhận sự hiện diện của Mặt trận Giải Phóng như thể một phần tử biệt lập. Quá đáng ở chỗ nào?”.
Ông nói tiếp: “Điều ấy dễ dàng đối với các ông, với Hoa Kỳ, một cường quốc đến bàn hội nghị cùng với Mặt trận Giải phóng mà không cần xác định căn bản họ là ai; nhưng không dễ dàng đối với chúng tôi, một nước nhỏ…
Tôi là một quân nhân và tôi cũng đă chuẩn bị đối phó với những bất trắc có thể xảy đến. Nhưng tôi phải nói rơ rằng, sẽ có những bất ổn theo sau nếu vấn đề trở thành đề tài thảo luận lan rộng trong cả nước. Lư do là dân chúng sợ hăi các ông sẽ bỏ rơi chúng tôi như trường hợp nước Pháp đă làm vào năm 1954” ( Tài liệu của Bunker do Stephen Young phổ biến. Bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 239 ).
Những điều trái ngược với quyền lợi của dân tộc chúng tôi
– Ngày 23-10, Cơ quan an ninh quốc gia Hoa kỳ ( NSA, National Security Agency ) phát hiện một bức điện mật của đại sứ VNCH tại Hoa Kỳ là Bùi Diễm gởi về cho Nguyễn Văn Thiệu: “Nhiều người trong đảng Cọng Ḥa khuyên chúng ta giữ vững lập trường. Họ đang quan tâm về phía chúng ta đang bắt đầu nhượng bộ”. Và ngày 27-10, một bức mật điện nữa từ Bùi Diễm: “Nên kéo dài t́nh trạng như hiện nay, càng lâu th́ càng có lợi cho chúng ta” ( Nghĩa là càng có lợi cho Nixon ).
Từ tháng 4 năm 1968 Tổng thống Johnson ra lệnh đặt máy nghe lén điện thoại và theo dơi mật điện giữa Ṭa đại sứ VNCH với Sài G̣n. Tháng 7-1968 Cơ quan mật vụ đă phát hiện quan hệ giữa Đại sứ Bùi Diễm và ứng cử viên Cọng Ḥa Nixon qua trung gian là bà Chenault.
Nhận được báo cáo của NSA về các bức điện của Bùi Diễm, Tổng thống Johnson biết rằng có thể Nguyễn Văn Thiệu sẽ phá Humphrey bằng cách không kư vào bản thông cáo chung cho đến ngày bầu cử. Nếu VNCH không tham dự ḥa đàm th́ ḥa hội bất thành và như vậy lời hứa hẹn nhanh chóng giải quyết chiến tranh Việt Nam sẽ trở thành xa vời. Cử tri Hoa kỳ sẽ quay sang với Nixon v́ ông này tuyên bố nếu đắc cử th́ sẽ có cách giải quyết chiến tranh êm đẹp.
Cũng trong ngày 23-10, Bunker và Berger họp với Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao VNCH. Tài liệu của Bunker ghi lại:
“ Phó Tổng thống Kỳ thêm vào, chính phủ của ông không muốn đón nhận những nguy hiểm qua các cuộc thương thuyết và mong muốn Hoa Kỳ giải thích cho dân chúng Miền Nam hiểu rằng chính phủ Việt Nam không bắt buộc phải thương thuyết với Mặt trận Giải phóng.
Bunker phản ứng: “Ông là nhân vật lănh đạo, thưa Phó tổng thống, điều đó chỉ tạo nên sự phức tạp đối với dân chúng”.
Kỳ đáp lại, nhà lănh đạo là ở chỗ đó, là chính phủ th́ phải thấy điều mà dân chúng miền Nam Việt Nam lo lắng và quan tâm sâu xa nhất…Tiếp theo Kỳ than phiền, thời điểm này không đúng lúc. Dân chúng Miền Nam sẽ cho rằng, do cuộc bầu cử của Hoa Kỳ, mà Sài G̣n phải nói chuyện với Hà Nội” ( Bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 243 ).
– Ngày 28-10, buổi sáng, Bunker lại gặp riêng Nguyễn Văn Thiệu nhằm chuẩn bị lần cuối bản dự thảo tuyên bố chung. Lần này Bunker kèm theo lời đe dọa: “Nếu Miền Nam Việt Nam lại đặt ra những điều kiện mới và không tham dự vào cuộc đàm phán th́ Bunker e rằng Thiệu sẽ không thể nào lường trước được hậu quả do Thiệu gây ra”. Thiệu đồng ư là ông ta biết hậu quả sẽ nghiêm trọng nhưng cuối cùng ông nói: “Tôi nghĩ là không cần đ̣i hỏi thêm ǵ nữa”.
Buổi chiều Bunker họp với Thiệu, Kỳ và Ngoại trưởng VNCH. Sau khi hoàn tất bản dự thảo tuyên bố chung, Kỳ lên tiếng: “Một cách thẳng thắn, chúng tôi không hài ḷng, nhưng với bản công bố này (sau khi đă thay đổi một số từ ngữ), chúng tôi có thể trấn an đồng bào chúng tôi nếu cuộc đám phán kéo dài trong nhiều tháng…”
Bây giờ chỉ c̣n chờ phúc đáp của Hà Nội về ngày giờ bắt đầu nhóm họp và ngày giờ hai bên cùng ra thông báo.
– Ngày 29-10, Bunker đến thông báo cho Tổng thống Thiệu biết là Hà Nội đồng ư ngày ngưng ném bom là 30-10 và bắt đầu họp là 2-11-1968. Hoa Kỳ và VNCH sẽ cùng đọc bản thông cáo chung vào lúc 8 giờ sáng ngày 30-10, giờ Sài G̣n, và 7 giờ chiều ngày 29-10, giờ Washington. Thiệu đồng ư về ngày giờ đọc thông cáo nhưng ngày họp đầu tiên là 2-11 th́ quá sớm và quá nhanh, phía VNCH không thể nào chuẩn bị kịp.
Đến tối, sau khi họp Hội đồng an ninh Quốc gia, Bunker đến gặp Thiệu và Kỳ, hai ông cho biết là cần phải có từ 7 tới 10 ngày để chuẩn bị cho cuộc họp đầu tiên. (Nghĩa là qua ngày bầu cử 5-11). Bunker về báo lại cho Washington.
– Ngày 30-10, lúc 1 giờ sáng (?), Bunker trở lại dinh Độc Lập nhưng không có Thiệu ở đó, chỉ có Ngoại trưởng VNCH là Trần Chánh Thành, ông này cho biết Thiệu c̣n phải chờ lưỡng viện Quốc hội nhóm họp và cho phép Tổng thống được quyền đàm phán với Hà Nội. Bunker gần phát điên v́ như vậy là qua ngày bầu cử rồi c̣n ǵ?
Đă vậy Ngoại trưởng Thành c̣n cho biết thêm là ông ta mới nhận được điện từ Paris cho biết tại Paris đại diện Hoa Kỳ là Hariman đă tuyên bố khác với những thỏa thuận trước đây giữa Washington và Sài G̣n. Phía Việt Nam cần phải nghiên cứu lại tuyên bố mới này của Hariman, và do đó có thể bản thông cáo chung cần phải viết lại.
Bunker cực lực phản đối, cho rằng tại sao trước đây ông Thiệu không cho Bunker biết rằng cần phải có sự chấp thuận của Quốc hội? Ngoài ra ông cũng bảo đảm rằng không có chuyện khác nhau giữa những ǵ Hariman tuyên bố tại Paris với những ǵ đă ghi trong bản dự thảo.
Cuối cùng Bunker nói với Nguyễn Chánh Thành: “Nếu ông muốn, chúng tôi có thể tường tŕnh về Washington là bây giờ Sài G̣n không đồng ư tiếp tục tiến tới những điều căn bản mà hai chính phủ đă thảo luận và đồng ư”. Ông Thành trả lời rằng những điều mà hai chính phủ thỏa thuận trước kia khác với những điều tuyên bố mới đây của Hariman cho nên VNCH không thể thỏa thuận với những điều mới được sửa đổi. Vả lại VNCH cần có thêm thời gian.
Bunker quay về tŕnh lại với Washington, đề nghị hoăn ngày giờ công bố thêm 24 giờ và dời ngày khai mạc hội nghị đến ngày 7-11 thay v́ 2-11.
– Ngày 31-10, lúc 1 giờ sáng (?), Bunker trở lại dinh Độc Lập để chuyển một công điện của Tổng thống Johnson gởi cho Tổng thống Thiệu. Trong đó Johnson cho rằng nếu Thiệu là một trở ngại cho cuộc đàm phán th́ Quốc hội Hoa kỳ sẽ ngưng viện trợ cho VNCH. Ngoài ra Johson cũng xa gần de dọa Thiệu về việc âm mưu với Nixon làm thiên lệch kết quả cuộc bầu cử.
Trong sự xúc động và ở trạng thái xa cách, Thiệu nói với Bunker: “Các ông là một cường quốc, các ông có thể nói với các nước nhược tiểu những điều các ông muốn. Chúng tôi hiểu rằng Hoa Kỳ đă hy sinh nhiều cho đất nước chúng tôi. Dân chúng Miền Nam chúng tôi đều biết rằng nền độc lập của chúng tôi có được là nhờ sự giúp đỡ của Hoa Kỳ.
Nhưng các ông không thề cưỡng bức chúng tôi phải thực hiện những điều trái ngược với quyền lợi của dân tộc chúng tôi. Cuộc đàm phán này không phải là một vấn đề sống c̣n với Hoa Kỳ nhưng là vấn đề chết sống của Miền Nam chúng tôi. Tôi sẽ đọc một thông điệp trước quần chúng, và nhân danh cá nhân, chính phủ, và đồng bào tôi, tỏ ḷng tri ân sâu xa về những ǵ mà Tổng thống Johnson đă giúp đỡ chúng tôi” ( Stephen Young, Victory Lost, Bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 250 )
Một biểu hiện tháo chạy của đồng minh
– Ngày 31-10, lúc sáng sớm, Bunker đến gặp Tổng thống Thiệu để thông báo rằng Hà Nội đă thỏa thuận những điều ghi trong bản dự thảo công bố của HK và VNCH. Sau 40 phút thảo luận, Tổng thống Thiệu hứa là ông sẽ triệu tập một buổi họp Hội đồng an ninh Quốc gia và chủ tịch lưỡng viện Quốc hội vào chiều hôm đó.
Lúc 11 giờ sáng, Bunker đến gặp Ngoại trưởng Nguyễn Chánh Thành để cùng nhau duyệt lại tiến tŕnh đàm phán tại Paris. Đến 11 giờ 45 Bunker đến gặp Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ. Kỳ hứa sẽ thuyết phục các thành viên khác trong Hội đồng an ninh Quốc gia chấp thuận những đề nghị của phía Hoa Kỳ. Ông nói thêm rằng giữa ông và Tổng thống Thiệu luôn có sự nhất trí và ông sẽ cố sức để giữ sự đoàn kết này.
Lúc 8 giờ tối, Bunker và những nhân viên của ông họp với Ngoại trưởng Nguyễn Chánh Thành tại pḥng họp của dinh Độc Lập. Cuối cùng Ngoại trưởng Thành kết luận: “ Vấn đề căn bản là phía bên kia chỉ có 1 phái đoàn. Ông phải yêu cầu Hà Nội chấp nhận điều cơ bản đó. Mọi vấn đề khác sẽ giải quyết sau”.
Sau đó Bunker gặp Tổng thống Thiệu cùng với Phó tổng thống Kỳ. Ông Thiệu cho biết ông đă họp Hội đồng an ninh Quốc gia và tất cả đồng ư là cần Hoa Kỳ bảo đảm 3 điểm: (1) Hà Nội phải cam kết xuống thang chiến tranh. (2) Hà Nội phải cam kết sẽ đàm phán trực tiếp với Sài G̣n. (3) Hà Nội phải bảo đảm MTGPMN không được coi như là một thành phần riêng biệt.
Ngoài ra Nguyễn Văn Thiệu cũng đưa ra nhận xét chua chát rằng việc ngưng ném bom vô điều kiện có vẻ như là một biểu hiện sẽ tháo chạy của đồng minh. Phó Tổng thống Kỳ cũng lên tiếng đồng ư với Tổng thống Thiệu. Cuối cùng cả hai ông đều không c̣n muốn nghe Bunker. Phó tổng thống Kỳ nói VNCH cần thêm thời gian để Sài G̣n có thể hỏi chuyện với Hà Nội tại Paris. Và Kỳ chấm dứt phiên họp vào lúc 3 giờ sáng (?) ngày 1-11 với lời yêu cầu hoăn tuyên bố ngưng ném bom 24 giờ.
– Ngày 1-11, lúc 5 giờ sáng (?), Bunker và Phó đại sứ Berger tái họp với Tổng thống Thiệu, Phó Tổng thống Kỳ và Phụ tá của Tổng thống Thiệu Nguyễn Phú Đức. Lại tiếp tục tranh căi ṿng vo. Có những đoạn đối thoại rất căng thẳng được ghi lại trong tài liệu của Bunker:
“Tổng thống Thiệu: Tại sao ông phản đối chúng tôi đặt ra những câu hỏi với Hà Nội? Nguyên tắc tiên khởi cho cuộc thương thuyết là phải đặt căn bản trên vấn đề lănh thổ.
Phó đại sứ Berger: Nếu chúng tôi thực hiện những điều ấy tại cuộc thương thuyết, có nghĩa là Hà Nội chỉ có một phái đoàn- chúng tôi sẽ không hỗ trợ cho ông.
Tổng thống Thiệu: Tôi sẽ lưu ư điều này. Ông nói là ông sẽ không ủng hộ chúng tôi nếu phía bên kia chỉ có một phái đoàn?
Phó đại sứ Berger: Tôi không nói như thế.
Đại sứ Bunker: Tôi không nói như thế.
Tổng thống Thiệu: Tôi đă thu băng điều đó.
Phó đại sứ Berger: Ư của tôi là nếu ông xem đó là một điều kiện để tham dự ḥa đàm th́ chúng tôi sẽ không hỗ trợ ông. Nhưng chúng tôi sẽ hỗ trợ ông trong tư thế thương thuyết, xem phía bên kia như một phái đoàn”. (Bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 261).
Cuộc họp chấm dứt lúc 7 giờ 45 sáng. Tới lúc đó Đại sứ Bunker mới biết chắc rằng Tổng thống Johnson phải đơn phương tuyên bố. C̣n Thiệu và Kỳ sẽ có tuyên bố riêng với quốc dân.
Kể từ lúc này dưới mắt báo chí Hoa Kỳ, ông Thiệu trở thành “kẻ phá hoại ḥa b́nh”, “kẻ luôn luôn đi ngược lại đường lối của HK”, “một kẻ phản bội”, “một tên tay sai không sài được”.
Bùi Anh Trinh
“Giải Mă Những Bí Ẩn Của Chiến Tranh Việt Nam
ChickenGook
01-26-2019, 17:04
.....
Mặc dầu vậy, Tướng William Westmoreland Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam nhận định : “Chúng ta (Hoa Kỳ) không thất trận tại Việt Nam. Nhưng chúng ta đă không giữ lới cam kết với Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Thay mặt Quân Đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn cựu chiến binh Quân Lực Miền Nam Việt Nam v́ chúng tôi đă bỏ rơi các bạn”(On behalf of the United States Armed Forces, I would like to apologize to the veterans of the South Vietnamese Armed Forces for abandoning you guys).
......
Tôi không kiếm ra được cái source nào về cái quote này của tướng William Westmoreland, chỉ thấy toàn các trang tiếng Việt sử dụng câu nói này.
Bạn có cái link tin tưởng nào không???
hoanglan22
01-26-2019, 17:19
Tôi không kiếm ra được cái source nào về cái quote này của tướng William Westmoreland, chỉ thấy toàn các trang tiếng Việt sử dụng câu nói này.
Bạn có cái link tin tưởng nào không???
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332325&stc=1&d=1548523042
Nhân Lễ Kỷ Niệm Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa tại New Orleans, Louisiana vào năm 1987; đứng trước một cử tọa gồm hàng ngàn cựu quân nhân Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Ḥa, Đại Tướng Westmoreland đă tuyên bố nguyên văn, “Thay mặt cho quân đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn cựu quân nhân của Quân Lực Miền Nam Việt Nam v́ chúng tôi đă bỏ rơi các bạn.” (On behalf of the United States Armed Forces, I would like to apologize to the veterans of the South Vietnamese Armed Forces for abandoning you guys.)
Cả hội trường New Orleans Convention Center gồm hàng ngàn cựu quân nhân Việt-Mỹ và gia đ́nh đă ôm choàng lấy nhau mắt lệ nghẹn ngào v́ lời xin lỗi đầy t́nh huynh đệ chi binh của Đại Tướng Westmoreland. Ngay lúc đó từ hàng ghế danh dự, chúng tôi đă bước ngay đến vị trí của diễn đàn, đứng trong thế nghiêm, chào tay để cám ơn Đại Tướng Westmoreland, một vị tướng lănh đạo đức và là một người bạn đồng minh khả kính của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa cho đến giờ lâm chung
Ghi chú
Mùa hè năm 1987, chúng tôi đă được vinh dự đón nhận trọng trách của Tổng Hội Cựu Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa tại hải ngoại để đảm nhận chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Tổ Chức Lễ Kỷ Niệm Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa tại thành phố New Orleans, Louisiana. Chúng tôi đă đạt thư mời Đại Tướng và Bà Westmoreland cùng nhiều tướng lănh Việt-Mỹ khác về tham dự buổi lễ. Nhiều tướng lănh Việt-Mỹ đă nhận lời tham dự, ngược lại một số cựu tướng lănh V.N.C.H. khác đă viện nhiều lư do khác nhau từ chối không tham dự. Sự hiện diện của Đại Tướng Westmoreland đối với Lễ Kỷ Niệm Ngày Quân Lực V.N.C.H. năm 1987 đă nói lên sự ngưỡng mộ của cá nhân ông đối với tinh thần chiến đấu anh dũng của quân lực V.N.C.H. trong suốt cuộc chiến. Trong những cuộc mạn đàm thân mật với Đại Tướng và Bà Westmoreland sau đó, Đại Tướng đă bày tỏ sự bất đồng về đường lối chánh trị của Hoa Kỳ đối với Việt Nam Cộng Ḥa lúc bấy giờ; đồng thời ông cũng bùi ngùi nhắc đến thời gian phục vụ của ông tại Việt Nam, những người bạn đồng minh c̣n lại tại Sài G̣n, cũng như sự bức tử Việt Nam Cộng Ḥa vào tháng Tư năm 1975.
hoanglan22
01-26-2019, 17:58
Người ta nói rất nhiều về hệ thống pḥng thủ tên lửa Mỹ, nhất là khi xảy ra các cuộc khủng hoảng tại Iran hay Triều Tiên...Nga và Trung Quốc cũng luôn bất an về hệ thống này.
Hệ thống pḥng thủ tên lửa NMD được h́nh thành bởi Cơ quan Quốc pḥng quốc gia Hoa kỳ và được điều hành bởi cơ quan pḥng thủ tên lửa (Missile Defense Agency) (MDA) của Mỹ. NMD c̣n gọi là GMD (Ground-based midcourse interseptor).http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332348&stc=1&d=1548524753
Hệ thống đánh chặn tên lửa trên mặt đất, Theo cấu h́nh, hệ thống đánh chặn tên lửa có căn cứ trên mặt đất là hệ thống bệ phóng tên lửa cố định, các tên lửa pḥng không có nhiệm vụ đánh chặn các tên lửa đạn đạo trong vũ trụ. Các bệ phóng tên lửa được lắp đặt trong các hầm ngầm, khi phóng đạn, tên lửa đẩy đạt vận tốc 10 km/s mang theo đầu đạn nặng 64 kg có khả năng cơ động rất cao và tấn công theo phương pháp sử dụng động năng va chạm "Kamikaze". Đầu đạn có nhiệm vụ tiêu diệt các tên lửa đạn đạo khi tên lửa bay ở giai đoạn giữa của quỹ đạo tên lửa.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332349&stc=1&d=1548524753
Hệ thống pḥng thủ tên lửa bao gồm có các thành phần cơ bản như sau:
GBI (Ground-based interseptor) Thiết bị bay và đầu đạn đánh chặn (Interceptor) - "Raytheon". Tên lửa đẩy mang thiết bị bay đánh chặn và đầu đạn đánh chặn bằng va chạm, được phóng lên từ những hầm phóng dưới mặt đất (Hệ thống GBI) - "Peace Sayent".
Trung tâm chỉ huy, điều hành tác chiến, kiểm soát phóng đạn và liên kết phối hơp (BMC3), bao gồm có hệ thống BMC2 và hệ thống liên kết truyền thống đầu đạn đánh chặn (IFCS). "Northrop Grumman". Radar mặt đất - X-Band Radars (XBRs) "Raytheon"
Radar cảnh báo sớm bao gồm cả các radar trên các tầu trinh sát, cảnh giới (UEWR) "Pawe Paws" - "Raytheon". Hệ thống cung cấp thông tin t́nh báo trên các vệ tinh trinh sát quân sự (SBIRS) - "Raytheon"
Có thể nhận thấy rằng, thành phần cơ bản của tổ hợp GMD trên đất liền là các radars tiền tiêu cố định hoặc cơ động trên biển.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332350&stc=1&d=1548524753
Radar di động thuộc hệ thống pḥng thủ tên lửa Mỹ
Một trong những radars trinh sát tầm xa đă được đưa vào biên chế trong lực lượng pḥng thủ vũ trụ lá chắn tên lửa trên biển.
Có khả năng rà quét và trinh sát ở tầm xa đến 2000 km, tổ hợp radars tầm xa có khả năng triển khai nhanh khi có nguy cơ tên lửa đạn đạo. Đến tháng 6 năm 2009, tổ hợp radars trinh sát tầm xa được triển khai trên các ḥn đảo của Aleutian ở Alaska nhằm kiểm soát các khu vực của Trung Quốc và Triều Tiên. Vào tháng 6/2009 tổ hợp được điều chuyển đến quần đảo Hawai, như một phương thức nhằm kiểm soát các hoạt động thử tên lửa của Bắc Triều Tiên.
Thành phần quan trọng thứ hai của hệ thống NMD trên đất liền là các radars cảnh báo sớm.
Hệ thống tập hợp các radars cảnh báo sớm có nhiệm vụ phát hiện ra tên lửa đạn đạo khi tên lửa đi vào giai đoạn tiếp cận khu vực mục tiêu, trong trường hợp các radars trinh sát tầm xa không phát hiện được mục tiêu..
Thành phần thứ ba đóng vai tṛ chủ chốt trong công tác t́nh báo là Hệ thống các vệ tinh trinh sát quân sự (SBIRS) bằng hồng ngoại, ảnh nhiệt và quang học.
Khi các radars đă phát hiện và khóa mục tiêu, trung tâm chỉ huy đánh chặn ra lệnh phóng tên lửa. Tên lửa pḥng thủ được phóng lên với vận tốc lên đến 10km/s mang theo thiết bị đánh chặn nặng 64kg, thiết bị đầu đạn sẽ bám tên lửa đạn đạo và lao thẳng vào tên lửa, tạo ra một vụ va chạm mạnh và tiêu diệt tên lửa. Thiết bị có hệ thống điều khiển đạo hàng quán tính, thiết bị bị ảnh hưởng rất ít bởi nhiễu điện từ trường và có thể thực hiện nhiệm vụ lựa chọn mục tiêu (mỗi thiết bị đánh chặn một tên lửa). Động năng khi va chạm của thiết bị vượt quá 50 MJ. Hoàn toàn đủ để phá hủy đầu đạn hạt nhân, hoặc loại ra khỏi ṿng chiến đấu.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332351&stc=1&d=1548524753
Đầu đạn đánh chặn GBI.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332352&stc=1&d=1548525021
Cấu trúc hệ thống GMD.
Hệ thống được triển khai vào năm 2000, mặc dù vẫn c̣n những vấn đề chưa được giải quyết, khi thử nghiệm, hiệu quả đánh trúng mục tiêu không vượt quá 53%. Cũng cần phải tính đến các t́nh huống khi thử nghiệm, phần lớn các trường hợp không đánh chặn được là do các phương tiện bay - mục tiêu không đi đúng quỹ đạo dự kiến (có nghĩa là bay qua mà không gây nguy hiểm), nếu loại trừ các trường hợp này, hiệu quả tác chiến tăng lên thêm 17% hoàn toàn phù hợp với những mục tiêu mà hệ thống có nhiệm vụ tiêu diệt. Hệ thống cho hiệu quả rất thấp khi chống lại các tên lửa đạn đạo mang nhiều đầu đạn (ngoại trừ trường hợp đánh chặn ngay khi tên lửa đạn đạo trong giai đoạn đầu tiên (giai đoạn tên lửa bay lên độ cao cần thiết), nhưng các tên lửa mang nhiều đầu đạn hạt nhân chỉ có ở rất ít các nước (Liên bang Nga) do đó, điều này có thể loại bỏ.
Hiện nay, Mỹ đă triển khai hai căn cứ đánh chặn trên mặt đất gồm: Fort Greely, Alaska và California. Dự kiến triển khai căn cứ thứ ba tại Ba lan, nhưng do phản ứng dữ dội từ phía Nga, do đó Mỹ buộc phải từ bỏ ư định này.
ABM (Aegis Ballistic Missile Defense System) hệ thống pḥng thủ tên lửa đạn đạo phi chiến lược - Aegi:
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332353&stc=1&d=1548525021
Tàu khu trục lớp Aegis mang tên lửa đánh chặn
Aegis system – Chương tŕnh đánh chặn tên lửa đạn đạo do lực lượng Hải quân Mỹ phát triển trên đại dương. Chương tŕnh trong mọi điều kiện chính trị đang phát triển ở thời điểm thuận lợi nhất và có lẽ là “rẻ nhất” bởi v́ cấu h́nh cơ bản của hệ thống đă có sẵn các thành phần như radars Aegis, tên lửa "Standard". Thành phần mới nhất chỉ là thiết bị đánh chặn có khối lượng nhỏ hơn, được lắp đặt trong các tên lửa đẩy này.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332354&stc=1&d=1548525021
Thiết bị đánh chặn hạng nhẹ trên tên lửa SM-3
Chương tŕnh được triển khai vào năm 1965, khi lực lượng Hải quân lần đầu tiên thử nghiệm sử dụng tên lửa pḥng không lớp "Corporal" và "Redstone." Thử nghiệm được tiến hành, cơ bản chỉ là thử nghiệm với mục đích chung, không có những quan điểm dự kiến ứng dụng trong thực tiễn đánh chặn.
Sự phát triển được thực sự tiến hành vào năm 1991, khi trong khuôn khổ của chương tŕnh phát triển vũ khí pḥng không đă chế tạo ra máy bay tiêm kích khối lượng nhẹ ngoài khí quyển. Thiết bị bay này được chế tạo như một máy bay tiêm kích thu nhỏ, tấn công phá hủy mục tiêu bằng phương thức động năng va chạm.
Thực tế đă chứng minh rằng đây là phương thức hiệu quả nhất. Mảnh vỡ của đầu đạn có khối nổ không đủ năng lực tạo ra sự hủy diệt tên lửa, vốn được thiết kế khá chắc chắn, nhưng một cú va chạm của một thiết bị bay hạng nhẹ có tốc độ từ 2 - 10 km/s hoàn toàn có khả năng biến một đầu đạn tên lửa thành một đám mây mảnh vụn.
Phát triển hệ thống đánh chặn được bắt đầu từ năm 2003. Cơ sở căn bản là tên lửa ba tầng đẩy SM-3, bán kính hoạt động là 500 km với tầm cao tiêu diệt mục tiêu đến độ cao 160 km. Tên lửa có khả năng đẩy thiết bị đánh chặn đến tốc độ 2,5km/s, hoàn toàn đủ để đánh chặn mọi tên lửa đạn đạo.
Giá trị cao nhất của tên lửa là hệ thống radars dẫn đường và chỉ thị mục tiêu thông thường AEGIS có thể lắp đặt trên các chiến hạm không cần có những thiết kế lại cấu trúc thân tầu. Chương tŕnh được đánh giá là một trong những phát triển quân sự thành công nhất, tất cả những yêu cầu kỹ chiến thuật đặt ra đều được đáp ứng đầy đủ, điều này đă được minh chứng trong rất nhiều lần diễn tập hỏa lực và đă có một lần phóng thành công “gần với điều kiện chiến trường” khi bắn hạ một vệ tinh không điều khiển.
Trong giai đoạn hiện nay, các tên lửa đánh chặn được trang bị cho 3 tầu tuần dương lớp "Ticonderoga" và 12 tầu khu trục lớp"Arleigh Burke". Năm 2010 Chính phủ Mỹ quyết định lắp đặt cho tất cả các tầu tuần dương lớp "Ticonderoga" các hệ thống tên lửa đánh chặn này. Dự kiến sau năm 2010 sẽ có tới 21 tầu được trang bị hệ thống đánh chặn tên lửa đạn đạo, năm 2012 có 27 tầu và đến năm 2015 sẽ có 38 tầu tuần dương, khu trục được trang bị tên lửa đánh chặn lớp AEGIS.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332355&stc=1&d=1548525021
THAAD (Hệ thống tên lửa đánh chặn giai đoạn cuối -Therminal High-Altitude Area Defense) – hay c̣n gọi là hệ thống pḥng thủ tên lửa chiến trường được phát triển bởi lực lượng bộ binh - lục quân với mục đích đánh chặn các đầu đạn tên lửa bay ở giai đoạn cuối của quỹ đạo đường đạn. Được phát triển từ năm 1987, hệ thống pḥng thủ tên lửa chiến trường được đưa vào biên chế sẵn sàng chiến đấu vào năm 2008.
Hệ thống THAAD là hệ thống tên lửa tác chiến cơ động, được lắp đặt trên các xe chuyên dụng siêu trường, siêu trọng của lục quân. Hệ thống tên lửa có thể tiêu diệt mục tiêu trong bán kính 200 km và độ cao tối đa 150 km.
Hệ thống THAAD có độ tin cậy rất cao, trong thử nghiệm của những năm đưa vào biên chế, tính từ năm 2000 đă tiến hành 12 lần phóng đạn, chỉ có 2 lần đánh trượt mục tiêu do vật bay – mục tiêu không chuẩn. Bản thân đối với tên lửa không có khiếu nại và nhận xét xấu nào, cho đến hiện nay vẫn được coi là tổ hợp có hiệu quả nhất của hệ thống pḥng thủ tên lửa chiến trường.
Trong giai đoạn ngày nay, Mỹ đang thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động chế tạo mới và hoàn thiện hệ thống pḥng thủ tên lửa cấp chiến lược – với sự gia tăng ứng dụng các công nghệ hiện đại và siêu hiên đại - lực lượng pḥng thủ tên lửa – pḥng thủ vũ trụ đă mang những tính chất mới.
Không ngừng phát triển và hoàn thiện lực lượng và vũ khí trang bị tấn công cấp chiến lược, đồng thời, các thế lực chính trị nước Mỹ đă ra những quyết định chính trị liên quan đến không gian vũ trụ, cho phép nước Mỹ, trước hết là lực lượng chính trị, quân sự tiến hành định hướng các hoạt động chiến lược nhằm chiếm được ưu thế tuyệt đối về kỹ thuật quân sự trong lĩnh vực chiến dịch – chiến lược trước mọi kẻ thù tiềm năng hoặc các đồng minh của kẻ thù.
Lực lượng pḥng thủ chiến lược, bao gồm binh lực và phương tiện cảnh báo sớm về đ̣n tấn công tên lửa hạt nhân (SPRYAU), binh lực và phượng tiện pḥng thủ vũ trụ (FFP), kiểm soát không gian vũ trụ (SKKP), binh lực và phương tiện pḥng thủ tên lửa, lực lượng pḥng không của toàn bộ vùng Bắc Mỹ, trên thực tế đă được gắn kết và liên kết phối hợp trở thành một hệ thống Pḥng không và Pḥng thủ vũ trụ EKR.
Trong khoảng giữa những năm 1980, trong tài liệu “Huyền thoại và thực tế” (cùng với sự tiếp nhận chương tŕnh SDI) của Mỹ có tuyên bố: “Sự phát triển của lực lượng vũ trang Mỹ trên thực tế cần hướng tới không chỉ là chạy đua với Liên bang Xô Viết trong số lượng và chất lượng các đơn vị tăng thiết giáp và bộ binh cơ giới để tiến hành các trận đánh trên đất liền, mà sử dụng tất cả tiềm năng của nền công nghiệp Mỹ và tiềm năng công nghệ hiện đại để chế tạo các loại vũ khí có độ chính xác cao được bố trí trên các phương tiện mang trên biển và trên không với ư nghĩa thực tế là các loại vũ khí trên vũ trụ, các phương tiện có người lái và không có người lái trên không, các tổ hợp robot trinh sát – công kích, đồng thời là các hệ thống điều hành tác chiến trên toàn cầu, các trang thiết bị, vũ khí chiến trường có thể tấn công ồ ạt với số lượng lớn bằng các xung điện từ trường và hỏa lực, đ̣n đánh có tính quyết định ngay từ đợt tấn công đầu tiên và cuối cùng, dành thắng lợi và giải quyết chiến trường , kết thúc chiến tranh mà không cần phải đổ bộ lực lượng lên lănh thổ đối phương.
Đánh giá t́nh h́nh chính trị quân sự trong những năm gần đây, phát biểu về những vấn đề chính trị và an ninh trong Hội nghị quốc tế tại Munich, 10 Tháng 2 năm 2007. Vladimir Putin đă nhấn mạnh “ … Chúng tôi thấy được càng ngày càng có những hành động bỏ qua những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Hơn thế nữa, một số các tiêu chí hoặc theo thực tế hầu như toàn bộ hệ thống pháp luật của một quốc gia, mà trước nhất là nước Mỹ đă vượt qua những giới hạn vốn có của một quốc gia trong tất cả mọi lĩnh vực của quốc tế…
Vị trí địa lư của Hoa Kỳ đă cho thấy, mọi nguy cơ chính đe dọa tiềm lực kinh tế và quân sự của Mỹ chỉ có thể bắt đầu từ những phương tiện chiến tranh, hoạt động trên không trung và vũ trụ. Có thể thấy rằng nước Mỹ không có đường biên giới với những nước mà ở đó có một lực lượng lục quân lớn, nước Mỹ có một lực lượng Hải quân mạnh nhất thế giới, do đó, nguy cơ bị tấn công bằng đổ bộ đường biển hoàn toàn không có khả năng. Xây dựng một vùng đệm từ những nước ở Đông Âu và bố trí các căn cứ quân sự tiền tiêu của khối NATO trên lănh thổ các nước đó, nguy cơ bị tấn công đă được đẩy lên đến tầng không gian vũ trụ. Đồng thời, tiềm lực quân sự và kinh tế của các nước châu Âu tập trung chủ yếu ở phía Tây, do đó, nhiệm vụ bảo vệ tiềm lực kinh tế - quân sự của các nước Tây Âu trong trường hợp xảy ra xung đột sẽ là nhiệm vụ quan trong bậc nhất hiện nay.
Trên quan điểm thống trị không gian, xây dựng hệ thống pḥng không – pḥng thủ vũ trụ của Mỹ và các nước đồng minh được nh́n nhận như là một nội dung cơ bản trong các nội dung nhằm đạt được ưu thế chiến lược trên toàn cầu. Trong định hướng chiến lược này, bộ máy lănh đạo quân sự, chính trị của Mỹ nh́n nhận hệ thống pḥng thủ vũ trụ, pḥng thủ tên lửa và pḥng không (Aerospace Defence- ASD) sẽ là một hệ thống đồng bộ thống nhất về kỹ thuật và một định hướng chiến lược thống nhất cho những người đặt hàng (các lực lượng pḥng thủ) và những nhà phát triển vũ khí trang bị.
Khi xây dựng hệ thống pḥng thủ không gian khu vực Bắc Mỹ và Phía Tây Âu trong giai đoạn hiện đại hóa công nghệ, đồng bộ hóa thành một hệ thống thống nhất. Hệ thống sẽ tích hợp và liên kết trao đổi thông tin trinh sát t́nh báo và các hệ thống cấp thấp hơn, nhất thể hóa hệ thống điều hành tác chiến, liên kết phối hợp các phương tiện, vũ khí trang bị của các quân binh chủng trong các lực lượng vũ trang các nước.
Một điều hiển nhiên là giải quyết sứ mệnh pḥng thủ vũ trụ hoàn toàn không thể thực hiện được nếu không xây dựng một hệ thống pḥng thủ vũ trụ rộng khắp, đồng bộ thống nhất từ các hệ thống pḥng thủ cấp thấp hơn. Như vậy, một trong những nhiệm vụ trung tâm để đạt được ưu thế chiến dịch – chiến lược trong không gian cũng như ưu thế tuyệt đối trong công nghệ quân sự, theo những tuyên bố và hành động của bộ máy lănh đạo chính trị quân sự nước Mỹ, là xây dựng một hệ thống pḥng thủ vũ trụ nhiều tầng, nhiều lớp, cơ quan pḥng thủ không gian Aerospace Defence và pḥng thủ tên lửa Missile Defense Agency xây dựng mô h́nh pḥng thủ thành 3 tuyến pḥng thủ với các thành phần lực lượng có căn cứ trên đất liền, căn cứ trên biển, các phương tiện mang trên không và trên vũ trụ, đồng thời liên kết phối hợp, chia xẻ thông tin từ hệ thống các trang thiết bị pḥng không, hệ thống cảnh báo sớm về nguy cơ tấn công bằng tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hủy diệt lớn và hệ thống kiểm soát không gian vũ trụ.
Trong giai đoạn tiến hành vận động bầu cử Tổng thống Mỹ, ông Barac Obama đă nhiều lần phát biểu về những vấn đề liên quan đến hệ thống pḥng thủ tên lửa. Trong một khía cạnh nào đó, ông Obama đă khẳng định rằng Mỹ không và sẽ không xây dựng bất cứ hệ thống nào chống lại các đ̣n tấn công từ phía Nga, nhưng không hề quan tâm đến những tuyên bố chính thống trên các phương tiện thông tin đại chúng, chính phủ Mỹ tiếp tục phát triển hệ thống pḥng thủ tên lửa, có khả năng trong tương lai bảo vệ chắc chắn nước Mỹ trước mọi đ̣n tấn công bằng tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân từ bất cứ kẻ thù tiềm năng nào…
Cần phải xác định rơ, quyết định mang tính nguyên tắc về việc triển khai hệ thống pḥng thủ tên lửa NMD được đưa ra từ thời Tổng thống Mỹ Bill Clinton. Như vậy, sự cần thiết phải có hệ thống pḥng thủ tên lửa đă được sự đồng thuận của cả chính giới lănh đạo nước Mỹ. Quy mô toàn cầu của hệ thống pḥng thủ do Mỹ và các đồng minh trong khối quân sự Bắc Đại Tây Dương triển khai, cũng không cho phép chúng ta thấy được, hệ thống có mục đích pḥng thủ chống lại một kẻ thù cụ thể nào, do hệ thống trinh sát t́m kiếm, t́nh báo và đảm bảo cung cấp thông tin, hệ thống điều hành tác chiến và các phương tiện, vũ khí trang bị đảm bảo có khả năng đánh chặn tên lửa từ mọi hướng.
Như vậy, ư đồ xây dựng hệ thống pḥng thủ tên lửa của Mỹ, những tính năng kỹ chiến thuật và khả năng tác chiến của hệ thống, nước Nga hoàn toàn không thể bỏ qua, cần phải nghiên cứu xem xét sự triển khai lá chắn tên lửa của Mỹ dưới góc độ như là một nguy cơ đe dọa an ninh của Liên bang Nga.
Nghiên cứu và phân tích t́nh h́nh triển khai và phát triển hệ thống pḥng thủ tên lửa của Mỹ tại châu Âu, cần phải chú ư đến những điểm sau: Thứ nhất: Các tổ hợp trang thiết bị thu thập thông tin của hệ thống – trước hết là các phương tiện bay trong không gian vũ trụ của hệ thống SBIRS, STSS và SBR các phương tiện tích hợp thông tin cảnh báo sớm đ̣n tấn công bằng tên lửa hạt nhân SPRYAU và các phương tiện kiểm soát không gian vũ trụ SKKP. Các phương tiên thông tin, trinh sát và t́nh báo đang được đưa vào hoạt động chính xác theo biểu đồ yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan pḥng thủ tên lửa. Kế hoạch được đặt ra là đưa các phương tiện và các trang thiết bị vào hoạt động từ năm 2006 đến 2010. Thực tế cho thấy đă hoàn thành mọi khối lượng công việc, trang thiết bị hoạt động ổn định.
Hệ thống t́nh báo, trinh sát và cảnh báo sớm được coi là bộ khung kết cấu cơ bản của hệ thống pḥng thủ vũ trụ và pḥng thủ tên lửa, hệ thống cho phép tăng cường và tập trung mọi vũ khí, phương tiện tác chiến đến mức độ cần thiết về hướng có nguy cơ bị tấn công với tốc độ nhanh nhất dựa trên khả năng cơ động cao của các phương tiện cùng với các tính năng kỹ chiến thuật liên tục được nâng cấp và hoàn thiện trong khuôn khổ các chương tŕnh hiện đại hóa các vũ khí trang bị, khí tài tác chiến và chế tạo theo phương thức module hóa các vũ khí, trang bị, phương tiện tác chiến mới.
Thứ hai, hệ thống pḥng thủ tên lửa được triển khai theo phân đoạn, phụ thuộc vào yêu cầu thực tế t́nh h́nh quân sự - chính trị thế giới do hệ thống pḥng thủ tên lửa GMD có giá thành quá cao, nên thường phải dừng lại theo thời gian. Một trong những thay đổi cơ bản trong GMD so với kế hoạch đă đặt ra là sự thoái lui khỏi kế hoạch tăng cường sức mạnh cho cụm tên lửa chống tên lửa đạn đạo GBI ở Fort Greely (Alaska) hay trên căn cứ không quân "Vandenberg” (California).
Song song cùng với việc thay đổi kế hoạch, vấn đề xây dựng khu vực pḥng thủ tên lửa chiến lược GMD trên lănh thổ Mỹ tại căn cứ không quân "Grand Forks" hiện nay cũng không được xem xét lại. Đồng thời cũng dừng lại việc triển khai hệ thống tên lửa đánh chặn GBI ở Ba Lan (khu vực Gdansk và hệ thống radar chống tên lửa đạn đạo loại GBR tại Tiệp Khắc).
Theo thông báo của phó Tổng tham mưu trưởng Hội đồng liên quân Mỹ James Cartwright, năng lực tác chiến của tên lửa đánh chặn 3 tầng đẩy ngăn chặn các đ̣n tấn công của tên lửa đạn đạo liên lục địa phụ thuộc vào kết quả phát triển tên lửa đánh chặn model cơ động trên xe. Đồng thời, mặc dù đă có quyết định ngừng sản xuất những tên lửa đánh chặn phóng dưới hầm ngầm GBI (trên thân và động cơ tên lửa "Minuteman"), quá tŕnh nghiên cứu và phát triển tên lửa đánh chặn GMD vẫn được tiếp tục.
Hiện nay, công ty Boeing tiếp tục hoàn thiện tên lửa đánh chặn GBI, một phần của kế hoạch là phát triển hệ thống phóng tên lửa cơ động với tên lửa đánh chặn tầm xa, đầu đạn được trang bị nhiều đầu tự dẫn hồng ngoại. Công ty Boeing đă giới thiệu mẫu tên lửa đánh chặn hạng nhẹ, có thể phóng từ các bệ phóng trên xe cơ giới. Theo thông báo chính thức của đại diện công ty Boeing, hệ thống bệ phóng tên lửa cơ động có thể sẵn sàng vào năm 2015.
Riêng với các hệ thống tên lửa đánh chặn mặt đất cơ động. Phó chủ nhiệm chương tŕnh tên lửa đánh chặn của công ty Boeing Greg Hyslop thông báo rằng, giá thành chế tạo các dàn phóng tên lửa đánh chặn cơ động trên xe cơ giới cùng với việc triển khai hệ thống trên thực tế rẻ hơn nhiều lần so với việc triển khai các hệ thống GBI phóng từ hầm ngầm. Hệ thống tên lửa cơ động này có thể triển khai trên mọi nước trong khối NATO, cùng với nước Mỹ có kư hiệp ước có sự có mặt của lực lượng quân sự Mỹ, đồng thời hệ thống có khả năng trở thành yếu tố ngăn chặn những nguy cơ từ phía Liên bang Nga. Công ty cho rằng, tính từ thời điểm cơ động di chuyển đến của các tổ hợp tên lửa đánh chặn trên xe cơ giới từ bất cứ vùng nào của nước Mỹ, chỉ sau 24 giờ, các hệ thống tên lửa đánh chặn GBI đă ở trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất.
Cần thấy rằng, việc triển khai các tên lửa đánh chặn GBI và những hoạt động nghiên cứu khoa học riêng lẻ như tổ hợp pháo laser trên các máy bay (chương tŕnh ABL) ở giai đoạn đầu tiền hầu hết mang ư nghĩa chính trị, thực tế các hoạt động cơ bản về đồng bộ hóa và nhất thể hóa chương tŕnh đánh chặn tên lửa đạn đạo vẫn nằm trong việc xây dựng hạ tầng cơ cở cho hệ thống pḥng thủ vũ trụ Aerospace Defence (ASD), trước hết vẫn là đồng bộ hóa và hiện đại hóa các phương tiện trinh sát và t́nh báo thông tin, các trung tâm chỉ huy, điều hành tác chiến, các hệ thống điều hành tác chiến và truyền thông liên kết phối hợp.
Căn cứ vào những quyết định của bộ máy lănh đạo nước Mỹ vào năm 2009, sự phát triển tiếp theo của hệ thống pḥng thủ tên lửa Mỹ và các nước trong khối quân sự NATO sẽ định hướng triệt để theo phương án các phương tiện đánh chặn cơ động, c̣n được gọi là Hệ thống đánh chặn tên lửa phi chiến lược. Để tăng cường hiệu quả tác chiến của hệ thống pḥng thủ tên lửa, Mỹ lên kế hoạch hoàn thiện và tăng cường sức mạnh của các cụm lực lượng đánh chặn Phi chiến lược, cơ sở căn bản của kế hoạch này là các tổ hợp tên lửa đánh chặn Standard Missile-3 (SM-3) được bố trí trên đất liền và trên đại dương, hệ thống tên lửa đánh chặn Terminal High Altitude Area Defense (THAAD) và pḥng không ЗРК Patriot Advanced Capability-3 (PAC-3).
Vũ khí cơ bản giải quyết các nhiệm vụ đánh chặn tên lửa đạn đạo khi đang bay ở giai đoạn giữa của quỹ đạo đường đạn được lựa chọn là tên lửa SM-3 (Option block IA) tích hợp với hệ thống radars Aegis, tổ hợp tên lửa đánh chặn này khi thử nghiệm trên thực địa cho khả năng tiêu diệt mục tiêu đang bay ở độ cao 250 km với vận tốc 7,5 km/s (thông số theo nhiệm vụ tiêu diệt thiết bị bay vũ trụ của Mỹ USA – 193 bằng tên lửa SM-3), theo khả năng tác chiến th́ tên lửa SM-3 tương đương với các tên lửa đánh chặn của hệ thống đánh chặn chiến lược GMD trên mặt đất.
Trong giai đoạn hiện nay, trong biên chế của Lực lượng Hải quân Mỹ có 18 tầu tên lửa, được trang bị hệ thống radars Aegis. Đây là tầu tuần dương "Ticonderoga" và tầu khu trục "Arleigh Burke", có khả năng sử dụng tên lửa SM-3. Bộ Quốc pḥng Mỹ dự kiến tiếp tục tăng cường phát triển chương tŕnh tên lửa SM-3.
Chi phí tài chính đến năm 2010 cho hệ thống Aegis được tăng đến 900 triệu USD, 200 triệu USD nhằm để trang bị hệ thống radars Aegis cho 6 tầu chiến của Hải quân Mỹ. Cần phải nhận thức rằng, phát hiện ra hệ thống Aegis trên chiến hạm tương đối khó khăn, do tầu được trang bị Aegis hoàn toàn không khác ǵ với tầu chiến thông thường, không được trang bị tên lửa đánh chặn. Đây là một vấn đề rất quan trọng đối với Liên bang Nga, xét từ góc độ an ninh quốc gia, khi các chiến hạm Mỹ đang hoạt động trên các vùng nước quốc tế thuộc Biển Đen, Biển Baltic hay biển Bắc, theo ư kiến của các chuyên gia quân sự Mỹ, không thể được xem xét như là một yếu tố đe dọa an ninh quốc gia Liên bang Nga theo các điều khoản của các hiệp ước đă được kư kết. Đồng thời, sự triển khai các chiến hạm đó trong khu vực hoạt động của các tầu ngầm chiến lược – mang các tên lửa đạn đạo hoàn toàn có thể làm giảm rất nhiều hiệu quả răn đe của tiềm năng vũ khí hạt nhân Liên bang Nga.
Cơ quan pḥng thủ tên lửa (МDA) trong giai đoạn ngày nay đặc biệt chú ư đến những giải pháp làm hoàn thiện tên lửa đánh chặn SM-3 Block IВ và phát triển loại tên lửa thế hệ tiếp theo SM-3 Block IIA, IIВ với khả năng tăng tầm xa đánh chặn đến 2 lần. Cùng với các nhà phát triển tên lửa Mỹ, trong quá tŕnh hoàn thiện tên lửa đánh chặn c̣n có sự tham gia của các chuyên gia khoa học quân sự Nhật bản trong hiệp ước được kư kết giữa hai nước Mỹ và Nhật, các công ty Nhật tham gia nghiên cứu chế tạo cấp độ đánh chặn mới của tên lửa đồng thời chế tạo các đầu đạn đa thành phần tự dẫn hồng ngoại, động cơ tăng tốc phản lực và đầu chụp khí động học của tên lửa.
Lực lượng Hải quân của Nhật trong giai đoạn hiện nay có trong biên chế các chiến hạm, có đủ khả năng tiếp nhận và và sử dụng tên lửa đánh chặn SM-3. Ngày 18/9/2007, trong khu vực quần đảo Hawai, cuộc tập trận chung pḥng thủ tên lửa Mỹ Nhật, các trắc thủ trên tầu khu trục Kongo, được trang bị hệ thống Aegis, đă tiến hành thực nghiệm tính toán và phóng tên lửa đánh chặn, tiêu diệt mục tiêu mô phỏng trên độ cao 180 km.
Với những hoạt động đó, đă có nhiều khả năng Mỹ và đồng minh sẽ triển khai lực lượng pḥng thủ tên lửa tại vùng Viễn Đông dưới chiêu bài bảo vệ đồng minh trước nguy cơ tấn công bằng tên lửa đạn đạo từ phía Triều Tiên hay kể cả địch thủ tiềm năng là Trung Quốc. Hệ thống chống tên lửa đă nêu cũng dễ dàng chuyển hướng sang thành lá chắn tên lửa đối với lực lượng hạt nhân chiến lược Liên bang Nga, đang được bố trí tại vùng Viễn đông và Camchatka, và chính vấn đề đó cũng tạo lên áp lực đe dọa sự cân bằng cán cân lực lượng đối với Liên bang Nga.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332356&stc=1&d=1548525401
Lá chắn tên lửa phi chiến lược trên biển Atlantic của Mỹ với nước Nga.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332357&stc=1&d=1548525401
Lá chắn tên lửa phi chiến lược trên biển của Mỹ với nước Nga ở Đông Âu.
Những thử nghiệm đầu tiên của tên lửa SM-3 Block IВ được tiến hành vào đầu năm 2011, với những thành công đă đạt được, nội dung triển khai các hệ thống tên lửa SM-3 Block IВ sẽ được tiến hành vào năm 2013. Phương án sẽ là sử dụng các tầu chiến để trang bị hệ thống Aegis và các bệ phóng tên lửa cơ động trên đất liền, nằm trong biên chế của hệ thống pḥng thủ Bờ biển Aegis (Aegis Ashore).
Tầm bắn của tên lửa đánh chặn có thể được tăng lên dựa trên cơ sở đặt các tên lửa đánh chặn ở rất xa khu vực bố trí các đài radars và hệ thống điều khiển hỏa lực. Hiện nay đang triển khai đồng bộ các giải pháp và triển khai thiết kế, chế tạo nhằm đảm bảo SM-3 tương thích và có thể sử dụng các bệ phóng đạn trên mặt đất. Lần đầu tiên phương án lắp đặt SM-3 được công ty Raytheo đề xuất từ năm 2003, theo ư kiến của các lănh đạo hăng Raytheo th́ các thử nghiệm trên thực địa của SM-3 Block-1В có thể bắt đầu vào năm 2013.
Giải pháp đưa tên lửa SM-3 vào hệ thống với giải pháp phương án cơ động trên mặt đất, theo ư kiến của đại diện Raytheo, có thể dễ dàng tích hợp với hệ thống tên lửa pḥng thủ chiến trường THAAD ( điểm phức tạp mấu chốt là đưa hệ thống tên lửa sang hoạt động tích hợp với radars của tên lửa PAC THAAD AN/TPY – 2–3-см có dải tần số là 2-3cm, trong đó SM-3 hoạt động với radars có dải tần số là 10 cm. Để t́m kiếm và thực hiện giải pháp đó, Cơ quan lănh đạo MDA được nhận thêm một khoản ngân sách bổ xung là 50 triệu USD trong tài khóa năm 2010.
Cùng với những quyết định đă được đưa ra của Nhà trắng vào tháng 9 năm 2009, trong tương lại gần, trọng tâm sẽ là hệ thống đánh chặn tên lửa trên mặt biển, được triển khai lần lượt các thành phần cho các hạm đội trên biển Địa Trung hải, biển Ban Tích, Biển Nauy, Biển Bắc và vùng biển Đen, đồng thời triển khai các đơn vị cơ động trên đất liền trên lănh thổ của các nước thuộc châu Âu.
Nền tảng kỹ thuật cơ bản của hệ thống cơ động tác chiến đánh chặn bao gồm: Hệ thống radars mặt biển Aegis, tổ hợp tên lửa đánh chặn SM-3 Block-1В và SM-3 Block-IIA. Các hệ thống mặt đất sử dụng radars AN/ТPY-2, loại radars trong biên chế của hệ thống đánh chặn tên lửa chiến trường THAAD.
Thông tin t́nh báo và trinh sát bảo đảm cho hệ thống radars chiến đấu Aegis và tên lửa SM-3 ở các khu vực không có hệ thống vệ tinh quân sự, radars trinh sát của các lực lượng pḥng thủ vũ trụ và lực lượng pḥng thủ tên lửa hạt nhân chiến lược, có thế sử dụng các radars X-band SBX trên các tầu cơ động trên biển. Đồng thời các radars trên biển cũng có khả năng tăng cường sức mạnh cho các lực lượng radars trên mặt đất của hệ thống pḥng thủ tên lửa và pḥng thủ vũ trụ trên các hướng có nguy cơ tập trung nhiều tên lửa đạn đạo.
Một trong những phương tiện tác chiến được chuyên biệt hóa cao, nằm trong lĩnh vực sử dụng phi chiến lược, là tổ hợp tên lửa pḥng thủ chiến trường THAAD. Đây là các tổ hợp tên lửa đánh chặn pḥng thủ trên chiến trường có hiệu quả tác chiến rất cao. Trong giai đoạn hiện này Mỹ có hai đơn vị tên lửa THAAD (căn cứ đóng tại Bliss, bang Texas) hai tiểu đoàn tên lửa này nằm trong biên chế của lữ đoàn số 11 thuộc quân đoàn chống tên lửa đạn đạo và pḥng không số 32 của lực lượng Lục quân Mỹ.
Trong biên chế của mỗi một tiểu đoàn THAAD có các tên lửa đánh chặn, các bệ ống phóng tên lửa, hệ thống điều khiển hỏa lực, radar điều khiển hỏa lực X- tần số (3cm) với các an ten mạng pha AN/TPY-2. Một trong những tính năng kỹ chiến thuật quan trọng của THAAD là tổ hợp có thể cơ động bằng đường không do đó, có thể được vận tải bằng các máy bay vận tải đường không đến mọi điểm của chiến trường.
Nhịp độ biên chế các tổ hợp tên lửa THAAD vào lực lượng vũ trang Mỹ như sau: tháng 3 năm 2009, một tiểu đoàn, tháng 10 năm 2009, 2 tiểu đoàn, đến năm 2013 trong biên chế của lục quân mỹ sẽ có 5 tiểu đoàn THAAD với 24 xe phóng tên lửa đánh chặn.
Phương án GBI được đề xuất trước đây với lá chắn tên lửa châu Âu (mục đích của lá chắn này là ngăn chặn các đ̣n tấn công bằng tên lửa đạn đạo từ lănh thổ Iran) được xây dựng trên cơ sở sủ dụng công nghệ hầm phóng tên lửa, công nghệ này đ̣i hỏi thời gian dài để xây dựng, thực hiện các thử nghiệm đắt đỏ về kỹ thuật, hoàn thiện cấu h́nh hệ thống phóng đạn và khai thác sử dụng, đồng thời, các hệ thống hầm phóng rơ ràng không an toàn đối với các đ̣n phản kích chống tên lửa của đối phương.
Với phương hướng phát triển hệ thống pḥng thủ tên lửa mới ở châu Âu, theo ư kiến của Bộ trưởng BQP Mỹ Robert Gates, cùng với nội dung triển khai các tổ hợp tên lửa PAC-3, mục đích chiến thuật là che chắn pḥng không cho các trận địa tên lửa SM-3 chống lại các đ̣n tấn công của các tên lửa phản kích tấn công các trận địa tên lửa đánh chặn. Trên lănh thổ của Ba Lan và Tiệp Khắc sẽ triển khai các tên lửa đánh chặn SM-3 trên mặt đất.
Thứ trưởng Bộ quốc pḥng Mỹ Alexander Vershbow, với vấn đề an ninh thế giới, trong cuộc viếng thăm Vacsava đă tuyên bố: “Chúng tôi rất quan tâm đến vấn đề, Ba Lan sẽ đồng thuận cho chúng tôi xây dựng 2 trong số 4 căn cứ tên lửa SM-3, kế hoạch xây dựng và lắp đặt các tên lửa đánh chặn SM-3 sẽ được dự kiến triển khai trong kế hoạch 4 năm, theo đề xuất của tổng thống Mỹ Obama”.
Ngoài các kế hoạch triển khai hệ thống đánh chặn tên lửa GMD ở Cộng ḥa Sec và Balan, Trong giai đoạn hiện nay, bộ máy quân sự chính trị Mỹ cũng quan tâm đến khả năng triển khai tên lửa đánh chặn phi chiến lược sử dụng hệ thống Aegis (Pḥng thủ bờ biển) sử dụng các tổ hợp tên lửa đánh chặn hải quân SM-3 Block-1В (Block-IIA) tại Rumani và Hungary.
Trong tương lai gần, có những khả năng đầy hứa hẹn cho việc triển khai các thành phần của hệ thống pḥng thủ tên lửa (theo tuyên bố của một số quan chức Mỹ) trên lănh thổ của các nước vùng Balkans và Thổ Nhĩ Kỳ. Các cuộc đàm phán về việc triển khai các tổ hợp tên lửa đánh chặn trên lănh thổ các đồng minh của Mỹ ở Trung Đông.
Trước mắt, các tổ hợp tên lửa pḥng thủ chiến trường THAAD được dự kiến triển khai tại các Tiểu vương quốc Arab, Israel cũng muốn có được các hệ thống tên lửa THAAD. Nhiệm vụ xây dựng hệ thống đánh chặn tên lửa tại Tây Âu và Trung Đông dự kiến sẽ triển khai vào năm 2015. Như vậy, cơ cấu lại và tăng cường sức mạnh của hệ thống pḥng thủ tên lửa ở Châu Âu cho phép giảm giá thành xây dựng hệ thống và nâng cao hiệu quả tác chiến đánh chặn các tên lửa đạn đạo. Đồng thời, cùng với việc chính thức hủy bỏ kế hoạch lắp đặt là chắn tên lửa chiến lược ở châu Âu có thể làm giảm đi sự căng thẳng chính trị giữa nước Mỹ với các nước châu Âu trong vấn đề xây dựng hệ thống pḥng thủ tên lửa của chính Tây Âu.
Triển khai các phương tiện đánh chặn tên lửa gần với biên giới của Liên bang Nga cho phép NATO sử dụng tên lửa đánh chặn tên lửa đạn đạo của Liên bang Nga ngay trong giai đoạn đầu của quỹ đạo tên lửa, làm tăng gấp nhiều lần hiệu quả tác chiến của các tên lửa đánh chặn, khi tác chiến với các tên lửa mang nhiều đầu đạn hạt nhân.
Cùng với định hướng phát triển các thành phần của hệ thống đánh chặn tên lửa đạn đạo sang hướng phi chiến lược pḥng thủ tên lửa, ngân sách quốc pḥng Mỹ vào năm 2010 đă giảm nhiều chi phí (1,4 tỷ USD) cho việc triển khai các hệ thống pḥng thủ tên lửa theo chương tŕnh GMD (sử dụng tên lửa đẩy "Minuteman" hủy bỏ kế hoạch mua máy bay Boeing – 747- 400 theo chương tŕnh ABL (do hiệu quả tác chiến rất thấp đồng thời giá thành lại quá cao khi trong thực tế tác chiến phải đối phó với các tên lửa đạn đạo liên lục địa hạng nặng), đồng thời cũng giảm chi phí cho nghiên cứu model tên lửa KEI với các đầu đạn casset Multiple Kill Vehicle cỡ nhỏ nhằm tấn công nhiều mục tiêu cho các tên lửa GBI trong khuôn khổ của chương tŕnh GMD (dừng các chương tŕnh nghiên cứu chế tạo tên lửa đánh chặn hạng nặng). Nhưng nguồn tài chính cho những hoạt động theo các hướng phát triển tên lá chắn tên lửa vẫn tiếp tục, và những trang thiết bị đă đặt hàng vẫn được tiến hành nghiên cứu thử nghiệm.
Có thể thấy rơ, mặc dù có những tuyên bố của các quan chức chính phủ Mỹ và những quyết định hạn chế các thành phần chiến lược của GMD, bằng cách chuyển các định hướng tài chính và nguồn lực cho việc hoàn thiện các thành phần, phương tiện tác chiến, vũ khí trang bị của hệ thống pḥng thủ tên lửa phi chiến lược, h́nh thành một hệ thống đánh chặn tên lửa mới, hệ thống đánh chặn tên lửa mới này hoàn toàn cho phép Mỹ không những giữ được hiệu quả cần thiết của lá chắn tên lửa chống lại mọi đ̣n tấn công bằng tên lửa đạn đạo của mọi đối thủ tiềm năng, bao gồm cả các đ̣n tấn công của Liên bang Nga, đồng thời, các trang thiết bị của hệ thống nhờ vào khả năng cơ động rất cao, trong một khoảng thời gian rất ngắn có thể được triển khai ở bất cứ một khu vực nào trên trái đất và đại dương, khi xuất hiện những nguy cơ đe dọa bằng vũ khí hạt nhân.
Ngoài ra, những tính năng kỹ chiến thuật mới của hệ thống pḥng thủ tên lửa c̣n đảm bảo tăng cường khả năng sống c̣n của hê thống trước các đ̣n công kích nhằm tiêu diệt hệ thống lá chắn bằng tên lửa đạn đạo của đối phương.
Những hoạt động nghiên cứu nhằm phát triển hệ thống pḥng thủ và tấn công phản kích hệ thống pḥng thủ của đối phương của các nước châu Âu, không phụ thuộc vào lá chắn tên lửa của Mỹ , như chương tŕnh “Tuyến pḥng thủ tên lửa tích cực chiến trường” (ALTBMD), được bắt đầu vào năm 2005, mục đích của hệ thống là đảm bảo bảo vệ lực lượng quân sự NATO, sau đó là các mục tiêu dân sự trước những đ̣n tấn công của tên lửa đạn đạo, có tầm bắn lên đến 3000km. Sự phát triển của hệ thống đánh chặn tên lửa đạn đạo và tấn công bằng tên lửa đạn đạo cùng với sự triển khai của hệ thống trên chiến trường châu Âu rơ ràng cũng làm tăng đáng kể sức mạnh và khả năng lá chắn tên lửa của Mỹ.
Đối với an ninh quân sự của Liên bang Nga, một điều rất quan trọng là số lượng và biên chế các phương tiện, vũ khí trang bị của hệ thống đánh chặn tên lửa của Mỹ và khối NATO. Với số lượng từ 1.500 – 2.000 tên lửa đánh chặn, một phần không nhỏ các tên lửa đó có thể được triển khai gần sát với biên giới của Liên bang. Trong khuôn khổ của Hiệp ước giảm thiểu vũ khí hạt nhân chiến lược ОСВ-2, Liên bang Nga có 700 phương tiện mang, 1.550 đầu đạn hạt nhân. Như vậy Mỹ và khối quân sự NATO hoàn toàn có khả năng ngăn chặn nguy cơ tên lửa đạn đạo chiến lược của Liên bang Nga với lănh thổ của Mỹ và NATO.
Phân tích và đánh giá mọi mặt của tiến tŕnh xây dựng hệ thống pḥng thủ tên lửa và nội dung hoàn thiện hệ thống pḥng không – pḥng thủ vũ trụ của Mỹ nói chung và sự gắn kết chặt chẽ với việc phát triển và hoàn thiện các lực lượng tiến công chiến lược, các phương tiện tiến công chiến lược cho phép đặt ra những vấn đề trọng tâm sau:
Hoàn thành việc tái cơ cấu lại cơ bản bộ tư lệnh chỉ huy chiến lược, được lănh đạo bởi một quan chức cao cấp của lực lượng không quân Mỹ, các cấp chiến dịch và một phần cơ quan hành chính thuộc quyền chỉ huy của lực lượng pḥng thủ chiến lược (ASD) Mỹ.
Ư nghĩa đặc biệt trong việc hoàn thiện hệ thống pḥng thủ pḥng không - vũ trụ Hoa Kỳ và các nước Tây Âu hiện nay là việc thành lập một hệ thống đồng bộ nhất thể hóa trong khuôn khổ quy mô rộng khắp của ASD các hệ thống thông tin, chỉ huy, kiểm soát, thông tin liên lạc và truyền thông, xử lư dữ liệu. Gần như hoàn tất việc tạo ra các phân khúc trên mặt đất của hệ thống thông tin và quản lư đảm bảo cung cấp thông tin, hệ thống chỉ huy, điều hành tác chiến lệnh và điều khiển ASD của Mỹ. Hệ thống pḥng thủ vũ trụ sẽ được phát triển và triển khai theo kế hoạch và sẽ được đưa vào biên chế và chính thức hoạt động vào năm 2020.
Cho đến nay, Mỹ gần như đă hoàn thành các nghiên cứu trên quy mô lớn và các giải pháp phát triển, được dựa trên công nghệ tiên tiến và thế hệ một mới của các thành phần cơ bản của thế hệ vũ khí, trang bị và phương tiện tác chiến mới, cũng như hiện đại hóa đến mức cơ bản các phương tiện, vũ khí trang bị hiện có và các hệ thống tác chiến cấp chiến lược, bao gồm cả thử nghiệm thực tiễn và tiến hành các chuyến bay thử nghiệm các nguyên mẫu của phương tiện, vũ khí trang bị nói riêng cũng như toàn hệ thống vũ khí, phương tiện chiến tranh nói chung.
Những nhiệm vụ cơ bản là hoàn thiện hệ thống Pḥng thủ vũ trụ ASD của khu vực Bắc Mỹ và các nước đồng minh trong giai đoạn 2015 – 2020. Nhiệm vụ sẽ đạt được là trên mọi độ cao, mở rộng các vùng phát hiện từ xa, nhận dạng mục tiêu, điều hành tác chiến và tiêu diệt các mục tiêu trên vũ trụ, tên lửa đạn đạo và các mục tiêu trên không (bao gồm cả các mục tiêu bay với vận tốc siêu âm), có khả năng tiêu diệt các mục tiêu ngoài khu vực pḥng thủ. Trong lĩnh vực pḥng thủ tên lửa, lực lượng quân sự Mỹ đang cố găng mở rộng số lượng và chất lượng các phương tiện đánh chặn, đồng thời tiếp tục nâng cao năng lực tác chiến của các loại vũ khí, trang bị, phương tiện chiến tranh.
Những hoạt động nhằm chế tạo các loại vũ khí trang thiêt bị, phương tiện và cấu trúc các hệ thống trong Tập hợp hệ thống pḥng thủ vũ trụ ASD nằm trong khuôn khổ của chương tŕnh nâng cấp và hoàn thiện hệ thống pḥng không , hệ thống cảnh báo sớm đ̣n tấn công bằng vũ khí hạt nhân SPRYAU, hệ thống đánh chặn tên lửa GMD, hệ thống kiểm soát không gian vũ trụ PAC và hệ thống pḥng thủ vũ trụ FFP (CAP) được định hướng tập trung chặt chẽ và liên quan tương thích lẫn nhau với không chỉ với các thành phần công nghệ, mà c̣n định hướng phát triển chung đồng bộ trong tương lai, nội dung công tác theo quy định được ưu tiên đầu tư xây dựng, chế tạo và phát triển các trang thiết bị, phương tiện thông tin tích hợp có độ chính xác cao, các hệ thống trinh sát thông tin, t́nh báo và truyền thông trên các phương tiện mang trong không gian, trên mặt đất, trên không và trên biển.
Tiến hành các hoạt động nhằm phát triển và thử nghiệm các loại vũ khí trang bị, phương tiện tác chiến và các hệ thống tên lửa, vũ khí trang bị đánh chặn tên lửa đạn đạo sao cho có thể, tùy thuộc vào các t́nh huống chính trị - quân sự trên thế giới, trong một thời gian ngắn nhất có thể triển khai quy mô đầy đủ hệ thống đánh chặn và các loại vũ khí, trang thiết bị đi cùng, đảm bảo rằng thực hiện các nhiệm vụ pḥng không và pḥng thủ vũ trụ khu vực Bắc Mỹ và các nước thuộc khu vực Tây Âu.
Những hoạt động được triển khai phạm vi rộng lớn nhằm xây dựng và hiện đại hóa của hệ thống ASD, và một trong những thành phần chính - các hệ thống pḥng thủ tên lửa đă minh chứng những tham vọng của chính giới lănh đạo quân sự-chính trị của Hoa Kỳ với mục đích tăng cường rất mạnh khả năng của các lực lượng pḥng thủ chiến lược trong khuôn khổ của Hiệp ước cắt giảm và giới hạn vũ khí chiến lược tấn công. Giới quân sự Mỹ bằng mọi phương án đang nỗ lực đạt được ưu thế vượt trội về chiến dịch - chiến lược và sự hơn hẳn về kỹ thuật- công nghệ quân sự trong lĩnh vực pḥng thủ chiến lược so với bất kỳ đối thủ tiềm năng nào trong tương lai gần.
Trịnh Thái Bằng
hoanglan22
01-26-2019, 18:04
C. so với các cơ phận khác có những cái rất là đặc biệt. Nó rất mẫn cảm đối với phía bên kia:
“Ra đường gặp ả hồng nhan /
Thằng cu nghển cổ nóng ran cả người”.
Nó rất thích của lạ:
“Cái ǵ không mắt, không tai
Cổ đeo hai bị, tóc dài ngang lưng
Của nhà thấy cứ lừng khừng
Hễ thấy của lạ bừng bừng ngổng lên”.
Hoặc:
“Cái ǵ chỉ có một đầu
Có mồm không mắt, đeo râu xồm xoàm
Khỏe đứng thẳng, nhọc nằm ngang
Thất thường tính khí họ hàng không ưa
Của lạ xài mấy cũng vừa
Của nhà th́ cứ dây dưa khất lần”.
Chồng người buôn bán ngược xuôi
Chồng em xó bếp để buồi dính tro
Bố mẹ sinh ra vốn chẳng hèn
Tối tuy không mắt (mà) sáng hơn đèn
Đầu đội nón da loe chóp đỏ (vẫn c̣n da quy đầu)
Lưng đeo bị đạn rủ thao đen(thao=tua bằng vải)
Hồ xuân Huơng
Kích thước, h́nh thù của nó cũng mỗi người mỗi khác.
V́ thế, mới có chuyện:
Ba chị đi chợ về đố nhau:
“Của cánh đàn ông thế nào th́ sướng?”.
Chị th́ nói ngắn ,
Chị th́ nói dài,
Chị th́ nói cong.
Chẳng ai chịu ai. Cuối cùng cả ba kéo nhau đến gặp một ả có tiếng lẳng lơ, mới được “bật mí” như thế này:
“Ngắn sướng ngoài,
Dài sướng trong
Cong cong sướng chính giữa”.
V́ nó sướng thế nên phía bên kia đă “cương quyết chiến dấu” để “không cho chúng nó thoát”:
“Nhịn ăn, nhịn mặc, không ai nhịn C.. cho ai”.
Chuyển sang cái Bướm
“Nửa đêm thức dậy đâm xay (đâm xay = giă gạo và xay lúa)
Khải (găi) L. xoạc xoạc lông bay đầy nhà”.
“Chiều chiều xách mủng (thúng) xuống đồn
Cậu cho bát gạo, banh L. cậu coi”.
“Mẹ em cứ bảo không L.
Cái chi dưới háng như cồn cỏ may”.
“ Bướm đồng, động đến th́ bay
Bướm nhà động đến lăn ngay ra giường”.
Một chàng trai thấy một cô gái đẹp liền hát:
“Hỡi người đi đó xinh thay
Có khuôn đúc tượng, cho anh đây đúc cùng”.
Cô gái đă trả lời rất t́nh tứ:
“Người sao ăn nói lạ lùng
Khuôn ai nấy đúc, đúc cùng ai cho!”.
Có một cô gái ngây thơ hỏi chị dâu khi cả hai
“Chị em rủ nhau tắm đầm
Của em sao đỏ, chị thâm thế này?”.
Đă được cô chị dâu cho biết nguyên nhân:
“Nó thâm bởi tại anh mày
Xưa kia chị cũng hạt chay đỏ ḷm”
Sự cân đối so với các cơ phận khác cũng mỗi người mỗi vẻ.
Thông thường th́ tỷ lệ thuận: “To đường cấy, nậy ngả ba”.
Hoặc:
“Em là con gái Phú Đa
Con người phốp pháp, ngă ba to đùng”.
Nhưng cũng có khi ngược lại:
“Em là con gái chợ Cồn
Người th́ bé nhỏ, cái L. lại to !”.
Rồi diện mạo của nó thế nào?
Một chàng trai hỏỉ:
“Cô kia, cô kỉa, cô ḱa
Người cô thế ấy, cái kia thế nào?”.
Đă được phía bên kia trả lời thật tuyệt vời:
“Nó x́nhh, nó xỉnh, nó xinh
Nó cũng như ḿnh, nó đă có ria!.”
Nó giống mồm anh. Đau hơn hoạn !
Nó cũng có độ sâu chết người. Bởi thế có khách qua sông đă hỏi cô lái đ̣:
“Sông này sâu cạn thế nào
Lại đây anh thả một con sào hỡi em”.
Đă bị đối phương giáng trả:
“Sông này chỗ cạn chỗ sâu
Sa chân th́ ngập cả đầu đó anh!”.
Lại có chuyện: Ba anh chàng đi học về, thấy một chị nông dân đang cấy dưới ruộng, xúc cảnh sinh t́nh, liền đố nhau:
“Của chị ấy thế nào?”.
Anh nói tṛn,
Anh nói méo,
Anh nói vuông.
Chẳng ai chịu ai, bèn kéo nhau vào huyện đường nhờ quan phân xử. Quan phán: “ Mai gọi thị ấy xuống đây, rồi ta phân xử cho”.
Về nhà, ba anh biện ba món quà để “ hối lời” chị ta. Sáng hôm sau kéo nhau vào huyện đường.
Lập nghiêm, quan hỏi: “Thị kia ! Của mày thế nào mà để ba thầy đây đi học về đố nhau: Thầy nói tṛn, thầy nói méo, thầy nói vuông?”
Được quan cho phép, chị nông dân lễ phép thưa
:“Bẩm quan, cả ba thầy đều đúng ạ!”
Quan ngạc nhiên. Chị ta nói tiếp:
“Khi con đi, th́ của con méo
Khi chồng con đến đéo, th́ của con tṛn
Những khi ngồi đ̣n, th́ của con vuông!”
Có người c̣n vẽ h́nh hài nó như thế này:
“Đi nhai, đứng ngậm, ngồi cười
Vô phúc mạt đời, mọc cái răng nanh !”.
L. có sức mạnh hơn cả ma quỷ:
“Ma hớp hồn, không bằng L. rút ruột”.
V́ nó mà có kẻ mất hết cả trí tuệ:
“Khoe anh lắm khéo, lắm khôn
Qua cửa nhà L. bảy vía, c̣n ba !”
Đến những bậc văn nhân,tài tử mà dính lấy nó th́ cũng trở nên đần độn:
“Văn chương chữ nghĩa bề bề
Thần L. ám ảnh th́ mê mẩn đời !”.
Nó làm cho các vip, các sếp đến mê mệt mất cả tỉnh táo:
“ Cây luồng mà bỏ u rê ( mùi ammoniac khai khai giống mùi L.)
Các vip, các sếp đều mê cây luồng”.
Ḱ diệu hơn, nó có thể tái sinh sự sống.
Bởi thế mới có chuyện: một ả đi cày thách đố một chàng trai:
“Đưa chàng một nắm ngô rang
Chàng đút vô cho nó mọc, thiếp theo chàng về ngay”.
Anh ta đă trả lời thật hóm hỉnh:
“Nơi nào mà nắng không khô/
Mà mưa không ướt đút vô, mọc liền !”.
Có khi nó trở thành “tiêu chuẩn”để đo sự trưởng thành của một đấng tu mi nam tử:
“Làm trai cho đáng nên trai
Mồm thơm mùi rượu, tay khai mùi L.”.
Bước chân vào quán đèn mờ ,
Ngồi gần con gái không sờ là ngu .
Thà rằng cắt tóc đi tu ,
Ngồi gần con gái , sao … ngu không sờ ?
Đến các bậc quân tử cũng có khi “gương mẫu” như thế này:
“Tưởng là quân tử nhất ngôn
Ai ngờ quân tử rờ L. hai tay”.
Bởi thế, mới có kẻ tuyên bố:
“Quân tử nhất ngôn là quân tử dại
Quân tử nói lại, là quân tử khôn
Quân tử rờ L. là quân tử giỏi !”.
Thật là hết chỗ nói ! Lắm anh chàng nổi tiếng khôn cũng bởi do biết :
“Làm trai như thế mới khôn
Ăn cơm dùng đũa, rờ L. dùng tay”.
Giờ nói đến chuyện ấy.
Đó là chuyện “ làm t́nh” của một cặp t́nh nhân muôn đời. Có nhiều cách để gọi sự ... ấy.
Thông thuờng th́ gọi là đụ Khi th́ gọi là “mần”, là “ấy”:
Nhưng phổ biến nhất vẫn là đụ. Từ xa xưa, tạo hóa đă bắt C. và L. phải làm bạn với nhau. Ai không có bạn “ thân mến” ấy là bất hạnh, là vô phúc ! Bởi thế một cô gái mới đem “của ḿnh” ra để đố bạn trai:
“ L. vàng, bẹn ngọc, đóc sơn son
Trai nam nhi đối được, thiếp theo non về dừ”.
Bạn trai của cô ta đă đối lại khá chuẩn:
“Lông mun, dái chắc, C. xà cừ
Anh đây đối được, em cho dừ hay mai ?”.
Rơ ràng là cái chắc đă ngoắc lấy cái đẹp. Và cái đẹp đă kẹp lấy cái chắc!
Ca dao phồn thực c̣n cho ta biết:
“Con gái 17, vú cảy, L. sưng
Hai mắt trập trừng, H́nh như muốn đu.”
V́ thế đến tuổi dậy th́, mới có chuyện con trai trách con gái:
“Tổ cha ba đứa có L.
Không cho tui đụ để L. mần chi?”.
Liền được phía con gái trả lời:
“Anh hỏi th́ em xin thưa
L. em đang nhỏ, chưa vừa C. anh ”.
Nó c̣n cho biết chuyện ấy sẽ xẩy ra khi nào:
“No th́ L. .L., C. C.
Đói th́ hục hặc chuyện ăn”.
Con người khác với loài vật ở chỗ nào:
“ Chó mùa thu, tru (trâu) mùa hè
Người th́ nhè bát tiết” (Nghĩa là quanh năm).
Trong ca dao chuyện ấy ít nói bóng, nói gió. Đa phần là nói thẳng.
Cho nên có anh chàng nào đó đă đề nghị:
“L. em tủm hủm mu rùa
Cho anh đụ cái, đến mùa lấy khoai”.
“Hôm qua lên núi hái chè
Gặp thằng phải gió nó đè em ra
Em lạy mà nó chẳng tha
vội vàng nó nhét đầu cha nó vào
Đêm về L. thấy khát khao
Ngày mai em lại đồi cao hái chè !”.
Có khi phái yếu ở trong tư thế sẵn sàng “chiến đấu”:
“Nửa đêm nghe chuột khoét dần
Tưởng chồng đến đụ trương gân banh L. !”.
Có người c̣n so sánh, đề ra ‘tiêu chí” thế nào là cha thương con, vợ thương chồng:
“Cha thương con làm nhà tứ trụ
Vợ thương chồng cho đụ suốt đêm”.
Có chỗ c̣n nói tới tác hại của nó khi vượt ngưỡng:
“Hay ăn th́ béo, hay đéo th́ gầy”.
Trong khi văn chương bác học nêu lên cách tẩm bổ và hành lạc như thế này:
“B́nh minh nhất trản trà
Bán dạ tam bôi tửu
nhất nguyệt giao nhất độ
Lương y bất đáo gia”.
Nghĩa là:
B́nh minh một chén trà
“Nửa đêm ba ly rượu
Một tháng “ấy” một cái
Thầy thuốc chẳng tới nhà”.
Th́ tục ngữ dân gian nói: “Đêm bảy ngày ba, vô ra không kê”.
Để giữ được nhịp độ đó, người xưa bày cho:
“Thương chồng nấu cháo cu cu
Chồng ăn chồng đụ như tru (trâu) phá ràn”.
“Thương chồng th́ nấu cháo lươn
Chồng ăn chồng đụ cho trườn ra sân”.
“Thương chồng th́ nấu cháo gà/
Chồng ăn chồng đụ gấp ba ngày thường”.
Thật là khủng khiếp! Lại c̣n bày cho cách tiến hành thế nào để đạt đến cực điểm của sự khoái lạc:
“Kéo gỗ th́ cốt bỏ đà
Đụ chắc th́ cốt đàn bà nắc lên”.
Ca dao c̣n cho biết trong chuyện ấy, thành phần nào, lứa tuổi nào là khỏe nhất:
“Lính về, lính đụ ba ngày
Bằng anh dân cày đụ trong ba tháng”.
Hoặc:
“Ba năm quân tử nằm kề
Không bằng lính chiến chỉ về một đêm”.
“Ăn th́ đi rú, đụ th́ đi lính”
(muốn ăn th́ đi vào rừng rú, muốn đụ thi đi theo lính).
Rồi h́nh dung bề ngoài như thế nào, th́ khỏe khoản ấy. Nào là:
“Người gầy thầy đụ”.
Hoặc :
“Trai tơ mà đu. gái tơ
Hắn sướng trong bụng hơn mơ được vàng”.
C̣n lớp người “trên bảo dưới không nghe” th́:
“Ông già mà đụ bà già
Cũng bằng bốc trấu mà xoa giữa L.”.
Hoặc coi đây là một phép dưỡng sinh cực kỳ quí giá:
“Trẻ th́ lấy con, lấy cái
Già th́ thông đái, ngon cơm”.
( đi đái thông suốt, không bi’ đái).
Nhưng cũng có khi:
“Càng già càng dẻo, càng dai”,
như cái chuyện đă xẩy ra ở một xă, tại huyện nọ:
“Qùynh Lưu lại có chuyện cười
Dưỡng sinh, sinh dưỡng mới ḷi đuôi ra
Cụ ông mà đụ cụ bà
Người già L., C. chưa già, lạ thay !”.
Nhiều khi nó có giá trị như một liều thuốc “cải lăo hoàn đồng”:
“Cụ già tuổi dă tám mươi
Nghe nói chuyện đụ trong người nóng ran”.
Hay:
“Lâu ngày đụ 1 cái khỏe ra
Mặt mày trẻ lại, cái già mất tiêu”.
Bởi thế nhịn “khoản ấy” là con người trở nên tiều tụy, phờ phạc:
“Nhịn ăn mười bữa chưa gầy
Nhịn đụ một bữa mặt mày xanh xao”.
Nhiều kẻ giàu có, v́ chuyện ấy mà khuynh gia bại sản:
“Anh kia tan cửa nát nhà
V́ một cái đụ nên ra thế này”.
Hoặc:
“Tan cửa nát nhà, cũng v́ ba cái đụ!”.
Người ta có nhiều cái khổ. Một trong những cái khổ ấy là vợ mất sớm.
Vợ mất sớm là một trong ba “nhân sinh tam khổ”:
“Tuổi trẻ mất cha, về già mất con
Trung niên mất vợ héo hon vô cùng”.
V́ thế vợ chết, hoặc vợ đi đâu lâu ngày, lắm người đă khổ và than thở như thế này:
“Vợ chết mới được ba ngày
Con C. đă ngỏng như chày đâm vưng (vừng)”.
Hoặc :
“Vợ chết mặt c̣n rầu rầu
Con Cac. đă nóng như đầu hỏa xa”.
C̣n phía bên kia th́ sao? Cũng khổ không kém !
“Chồng chết sang ngày thứ tư
Cái vú hắn dựng y như ḥn lèn”.
Hoặc:
“Đàn bà chồng chết ba năm
Được một cái đụ sướng rân tháng tṛn”.
Hoặc:
“Chồng chết c̣n chưa đoạn tang
Cái L. ngáp ngáp như mang cá mè”.
Cho nên có trường hợp đă phải t́m cách “phá bỏ gông xiềng nô lệ !”.
Nếu xa vợ lâu ngày quá th́:
“Vợ rồi th́ mặc vợ rồi
Lâu ngày đại hạn, sang ngồi với em”.
Nếu xa chồng lâu ngày quá th́:
“Có chồng th́ mặc có chồng
Lâu ngày vắng vẻ, “tơ hồng” cứ se”.
Thậm chí có chị vừa ru con, vừa thông báo hoàn cảnh của ḿnh cho láng giềng biết:
“Lâu nay bố nó vắng nhà
Muốn ấy một cái la cà sang đây !”.
C̣n trường hợp sau đây th́ không biết là “khổ” hay là “sướng”, phản đối hay không phản đối:
“Hôm qua lên núi hái chè
Gặp thằng phải gió nó đè em ra
Em lạy mà nó không tha
Tụt quần, hắn nhét đầu cha hắn vào
Đêm về ḷng những khát khao/
Ngày mai em lại đồi cao hái chè !”.
Tóm lại, hai cái ấy và chuyện ấy sớm được đề cập trong ca dao, tục ngữ. Nó trở thành của “gia bảo”, “liều thuốc vạn năng” để người lao động có thêm sức lực vượt qua những “chướng ngại vật” trên đường đời.
Bởi thế, mất ǵ th́ mất, nhưng những câu ca dao , tục ngữ nói về hai cái ấy và chuyện ấy, th́ dù không được bày, dạy vẫn “thừa sức” lướt qua phong ba băo táp của thời gian;
Chỉ cần một lần thoảng qua cái lỗ tai là găm lại trong trí nhớ. Nó trở thành “tiềm lực” trong con người, đặc biệt là những người lao động chân tay.
Ca dao xưa có câu:
“Chàng làng chèo chẹt nỏ mần (chẳng làm) chi ai
Chim cu ngẩm ngẩm, ăn hết đậu, hết khoai nhà người”.
Một số người, nh́n bề ngoài có vẻ “đạo mạo, đứng đắn”, nhưng bên trong lại là những tay “thợ giác, thợ khoan” “nổi tiếng”!
V́ thế, người xưa đă lớn tiếng tố cáo,vạch mặt:
“Bộ Binh, bộ Hộ, bộ H́nh
Ba bộ đồng t́nh bóp vú con tôi”.
Hoặc:
“Ban ngày quan lớn như thần
Ban đêm quan lớn tần mần như ma”
(Sưu-Tầm)
hoanglan22
02-07-2019, 05:04
Nhiều bà nội trợ có cách học tiếng Anh độc đáo: nh́n vào vật ǵ th́ liên tưởng đến chữ có cách phát âm tương tự. Nh́n vào cái mâm th́ nói "Mâm đây": thứ hai (Monday)...
Dưới đây là một ví dụ về cách họ học đọc các ngày trong tuần:
Nh́n vào cái mâm th́ nói "Mâm đây": thứ hai (Monday).
Nh́n vào hũ tiêu và nói "Tiêu đây": thứ ba (Tuesday).
Nh́n vào cái chổi và nói "Quét đây": thứ tư (Wednesday).
Nh́n vào cái thớt nói " Thớt đây": thứ năm (Thursday).
Nh́n vào con dao, nói "Phay đây": thứ sáu (Friday).
Nh́n vào hũ rượu rắn của chồng và nói "Xà tửu đây": thứ bảy (Saturday).
C̣n Chủ nhật th́ tất cả đều đồng thanh: "sướng đây" (Sunday)
ST
hoanglan22
02-07-2019, 05:17
....Sau tháng tư năm ấy, cái tháng tư mà dù nằm dưới mộ sâu ông vẫn c̣n đau đớn, những cuốn sách của ông tưởng sẽ sống đến ngàn năm đă bị bức tử một cách oan nghiệt.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1337394&stc=1&d=1549516486
Bà tôi thường than thở, hết một nửa cơ nghiệp của nhà này đă tan tành theo sách. Một nửa cơ nghiệp nói cho to, cho xứng với nỗi đau tiếc của của bà, chứ thực ra chỉ vài trăm cuốn sách của ông tôi thôi. Có điều, đó không phải là những quyển sách bèo nhèo giấy rơm thô kệch, đang tràn ngập trong các hiệu sách, trong trường học và trong thư viện.
Chưa nói tới nội dung, chỉ mới lật qua vài trang mờ nhoẹt vàng đục với những con chữ ốm o đói khát như những người bị sốt rét rừng là đă thấy chán lắm rồi.
Sách của ông tôi, bạn chỉ ngắm không thôi cũng đă thấy thích. Những cuốn tự điển của Pháp, của Việt, thư pháp của Trung Hoa, những sách thuốc, sách khoa học, những bộ tiểu thuyết của các nhà văn danh tiếng, những sách học làm người, những sách triết…đứng sát bên nhau phơi cái gáy mạ vàng như cả một đội ngự lâm quân thông thái và oai vệ. Trang nghiêm nhưng không lạnh lẽo, bọn họ là thầy là bạn của ông tôi. Và v́ vậy, bạn cũng như tôi chỉ được phép đứng nh́n mà thôi.
Ông tôi là một người mê sách (cũng lại là cách nói vừa tấm tức vừa giận hờn của bà) mê hơn cả vợ con. Nếu bảo rằng “thư trung hữu nữ nhan như ngọc”, th́ ông tôi tuy đă già nhưng lại có đến những mấy trăm người đẹp như các vua chúa ngày xưa, nên bà tôi “ghen” cũng phải.
Ông mê sách như người mê đồ cổ. Nghe ở đâu có sách quư là ông t́m tới dù có phải tốn kém tàu xe và phải bỏ ra cả một ṃn tiền lớn để “rước” người có nhan như ngọc đó về, ông cũng dám chơi một phen cho thơa chí. Như cuốn Tự vị của Paulus Của, nghe đâu như là ấn bản đầu tiên của một ông cụ nào đó bắc bực làm cao đến tận giời, ông tôi đă phải lặn lội vào tận xứ Thủ Dầu Một xa lắc xa lơ để mua cho bằng được. Công cuộc mua quyển sách đó, chẳng những khiến ông mất đến mấy chỉ vàng, mà c̣n ốm một trận thừa sống thiếu chết.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1337395&stc=1&d=1549516486
Cuốn sách cũ đến nỗi như đă ngàn năm tuổi. C̣n hơn một người chơi đồ cổ, ông tôi lại phải tốn thêm một món tiền và nhất là tốn rất nhiều th́ giờ để nài nĩ và kiên nhẫn ngồi chờ anh thợ đóng sách đóng lại giùm. Lúc này quyển sách đối với ông như một con bệnh thập tử nhất sinh và anh thợ đóng sách cứ như một bác sĩ. Khi anh thợ tháo bung sách ra, ông đau nhói như thể gan ruột của ḿnh cũng bị lôi ra như thế. Ông hồi hộp theo dơi từng mũi chỉ khâu, nín thở xem anh ta cắt xén, làm b́a. Cho đến khi sách được làm mới một cách khỏe mạnh, xinh đẹp, ông ôm quyển sách trước ngực như một người mẹ ôm đứa con bé bỏng vừa được bác sĩ cứu sống. Ông hết lời cảm ơn anh ta, đưa cho anh một tờ tiền lớn và hào phóng không nhận tiền thối lại. Đem quyển sách về nhà, ông lại mất cả buổi ngồi ngắm đến nỗi quên cả bữa cơm khiến bà tôi phải giục.
Đó là với những sách cũ quư hiếm. C̣n sách mới, ông lại “phá của” một cách không giống ai. Sách nào ông cũng phải mua đến những hai quyển, một để đọc và cho mượn, một để nguyên không đụng tới. Những quyển sách để nguyên ấy nằm im trong tủ kính, mỗi lần mở ra là thơm nồng mùi giấy mới và mực in. Đối với ông, đó là một mùi thơm huyền hoặc đầy quyến rủ và mê đắm như những người nghiện nghe thấy mùi thuốc phiện. Chẳng những chỉ mùi thơm trinh nguyên không thôi, quyển sách vẫn c̣n trinh trắng khi hăy c̣n những lề chưa rọc.
Học cách người xưa, không để của cải cho con cháu mà để sách, nên giá như có phải v́ thế mà tiêu hết cả cơ nghiệp, ông tôi cũng không tiếc. Chỉ có một điều khiến ông băn khoăn, ấy là trong đám con cháu thực sự chưa có một người nào đủ để ông tin tưởng. Gạt hết những đứa chỉ biết có nhà to xe đẹp, những đứa chỉ biết vung tiền trong các cuộc ăn chơi, suốt một đời chưa đụng tới một quyển sách nào, những đứa mà ông bảo là trong đầu toàn chứa những thứ vớ vẩn nếu không muốn nói là hôi thối ấy, c̣n lại chỉ vài đứa có để mắt tới sách, nhưng với một thái độ hờ hững, một đôi khi thô bỉ xúc phạm đến sách.
Ông ghét nhứt ai đó đọc sách mà miệng cứ nhai nhồm nhoàm, vừa đọc vừa tán chuyện, bạ chỗ nào cũng đọc ngay cả trong nhà cầu, đang đọc mà có ai ới lên một tiếng là ném ngay cái xạch sau khi đă tàn nhẫn xếp lại một góc để làm dấu, rồi bỏ đi mà không cần biêt tới quyển sách có thể bị ướt, bị bẩn hay bị cháy. Ông cũng không chịu được cái cách lật sách thô bạo bằng cả bàn tay úp lên trang giấy hay thấm nước bọt trên đầu ngón tay. Đó là cách cư xử của kẻ phàm phu tục tử, của phường giá áo túi cơm. Lật sách mà như thế có khác ǵ sàm sỡ nếu không muốn nói là cưỡng bức. Phải lật như những nhà sư nâng nhẹ một trang kinh hay là như khẽ lay một người đẹp đang ngủ.
Đối với ông, đọc sách là để được tiếp cận với những tâm hồn ngoại hạng, cho nên trước hết phải tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc chỉnh tề, phải “dọn ḿnh”như con chiên quỳ trước Chúa, như nhà sư đảnh lễ trước bàn thờ Phật. Chẳng những sạch ở phần xác mà c̣n sạch cả phần hồn. Nghĩa là không để những giận hờn phiền muộn hay những ư nghĩ ô trọc dính bám cho dù chỉ một tí trong đầu. Chỉ đọc trong lúc thanh tịnh giữa khuya hay khi gần sáng tinh mơ. Đọc với hương trầm cộng với mùi hương ngai ngái của giấy mực, hương của sương đêm loáng thoáng hay hương của nước mưa mát dịu. Đọc là mở hồn ra để hơi thở của sách ùa vào căng buồm lên cho con thuyền bé nhỏ của ḿnh được dọc ngang trên biển học mông mênh.
Đương nhiên là ông tôi khó tính nhất nhà. Cái viện sách bé nhỏ của ông là một nơi khả kính, thâm nghiêm như một ngôi đền không một ai ngay cả bà tôi dám động tới. Bảy mươi năm sống trên đời của ông th́ hết một nửa là ở trong cái gian pḥng đựng đầy sách với mùi hương và sắc màu của những tâm hồn kỳ vĩ. Dạo ấy, mặc dù được cưng chiều và rất có triển vọng được ông tin tưởng, tôi cũng chưa được một lần đọc một quyển sách nào trong tủ sách ấy. Ông bảo tôi chưa đủ tuổi và chưa học được cách nâng niu ǵn giữ theo cách gần như tôn thờ, th́ đọc chẳng ích lợi ǵ mà c̣n “giết” sách. Theo ông, đọc v́ ṭ ṃ, đọc như “luà cơm”, đọc như ngốn ngấu th́ cả đầu óc ḿnh chỉ là một băi hoang chứa đầy những xác chết của sách bị vất ngổn ngang mà thôi. Đọc là phải ngấm từng chữ từng câu, phải để nó bén rễ trong đầu mới có thể thành cây cho trái ngọt.
Năm tháng qua đi, ông tôi âm thầm làm một cuộc chuyển giao lặng lẽ. Tiền bạc trong nhà cứ cạn dần nhưng sách của ông lại đầy lên, phải đóng thêm tủ kê thêm kệ. Cô chú tôi biết ư ông, nên mừng tuổi không bằng trà ngon rượu bổ, mà bằng những phong b́ ít nhất cũng đủ cho ông mua được một hai quyển sách. Những lúc ấy ông vui như một đứa trẻ lên 5 được nhận tiền ĺ x́. Rồi ông đi ra tiệm sách, khệ nệ ôm về những chồng sách mà ông ao ước nhưng chưa đủ tiền mua. Ông ve vuốt từng cái b́a, ngắm nghía từng con chữ, đê mê những sách của Lá Bối, An Tiêm, mơ màng với những tác giả Saint Exsupéry, Bùi Giáng…Giá như ông sống đến một trăm tuổi và giá như ông c̣n có đủ tiền th́ cái viện sách của ông sẽ kín đặc những sách. Ông sẽ ngồi giữa những bức tường dày cộm thơm tho đó như một anh lính già đang tử thủ trong một cái lô cốt văn hóa.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1337396&stc=1&d=1549516486
Sau tháng tư năm ấy, cái tháng tư mà dù nằm dưới mộ sâu ông vẫn c̣n đau đớn, những cuốn sách của ông tưởng sẽ sống đến ngàn năm đă bị bức tử một cách oan nghiệt.
Khi người ta đội lên đầu những quyển sách của ông, có những quyển già như một ông tiên đầu bạc, có những quyển xinh tươi như những thiếu nữ trẻ trung, những chiếc mũ có tên là “nọc độc”, là “đồi trụy”, là “phản động” th́ hơn ai hết ông hiểu đó là một lời tuyên án tử h́nh.
Ông suy nghĩ lung lắm, không phải để t́m cách chôn dấu hay tẩu tán. Mà suy nghĩ làm sao để chọn cho sách một cái chết xứng đáng với ḷng tin yêu và kính trọng của ông.
Một đêm thức trắng.
Rồi hai đêm thức trắng.
Ngày thường ông b́nh tĩnh là thế nhưng lúc này, ông bối rối run rẩy. Có lúc mặt ông đỏ bừng và mắt ông lóe lên những tia lửa căm hờn. Cả nhà chẳng ai dám hỏi nói ǵ với ông. Giống như một con sư tử già bị săn đuổi cùng đường, lâu lâu ông lại gầm lên một cách tuyệt vọng.
Cuối cùng ông đă chọn cho mấy trăm cuốn sách một cái chết dũng cảm. Đó là chính ông tự ḿnh đốt sách.
Một quyết định cháy ḷng.
Tôi cũng được dự phần trong cuộc hỏa thiêu đau đớn ấy, bằng cách giúp ông bê hết sách ra sân. Dù đem đi đốt nhưng ông không cho phép tôi làm rơi rớt xuống đất, không được nặng tay, mà phải sẽ lén nhẹ êm như đang bồng một em bé say ngủ. Phải rồi, những cuốn sách của ông đang say ngủ. Đánh thức chúng dậy, ông sẽ không chịu nổi những tiếng khóc mà chỉ riêng ông mới nghe được mà thôi.
Sách được xây thành một cái tháp quanh những thanh củi chẻ nhỏ. Ông không muốn đốt chúng bằng xăng hay dầu. Ông lại càng không muốn xé sách ra từng mảnh nhỏ để đốt. Xé ra là làm chúng đau. Và làm cho chúng đau trước khi chết là tội ác. Một người coi sách là sinh vật sống, để cả đời nâng niu bồng ẳm, vậy mà phải giết do chính bàn tay của ḿnh, bạn phải biết là ông tôi đă đau khổ đến nhường nào.
Đó là một đêm tháng năm lặng gió. Cây cối im ngủ. Những ngôi sao như tan đi trong khói trời mờ đục. Ông tôi cử hành lễ đốt sách cũng bi tráng và lẫm liệt như Huấn Cao cho chữ trong ngục. Ông mặc toàn đồ trắng, cắm một cây đuốc giữa trời, khấn khứa ŕ rầm rồi lạy bốn hướng mỗi nơi một lạy. Xong ông lấy cây đuốc đang cháy đặt vào giữa tháp. Dứt khoát và quyết liệt như cái cách các vơ sĩ đạo đâm kiếm vào bụng.
Lửa bắt rất nhanh, chỉ trong phút chốc đă bắn vọt lên đầu ngọn tháp.
Đă nghe mùi mực và mùi giấy.
Đă nghe tiếng vặn ḿnh của các b́a sách.
Đă nghe những âm thanh líu ríu như run như rẩy của những trang sách méo mó cong vênh.
Lửa trào ra như từ miệng hỏa diệm sơn.
Lửa ôm choàng lấy sách, hôn dữ dội bằng đôi môi bỏng cháy.
Sau cùng, cái tháp bằng sách đỏ rực như một trái tim để lộn ngược.
Ông tôi ngồi xếp bằng, cố giữ nét mặt trầm tĩnh một cách cao cả. Không một giọt nước mắt cho dù là v́ khói cay xè. Ông như thượng tọa Thích Quảng Đức đang ngồi kiết già với ngọn lửa bao quanh. Có thể nói, chính ông cũng đang tự thiêu. Bất giác tôi cảm thấy muốn khóc v́ lo sợ. Đến một lúc nào đó, biết đâu ông đứng bật dậy bước thẳng vào ngọn lửa.
Ông chết theo sách.
Đó là một cái chết đẹp, xứng đáng với một người yêu sách như ông.
Nhưng ông chưa muốn chết v́ ông c̣n phải để tang cho sách như một đứa con chí hiếu. Ngay lúc lửa tàn, ông quỳ xuống lạy ba lạy. Rồi ông kiên nhẫn ngồi đợi cho tất cả biến thành tro nguội. Ông bảo tôi hốt tro vào bao, cất vào tủ rồi mới chịu đi vào nhà. Gần như suốt đêm ông không ngủ. Bà tôi than thở là nghe tiếng dép của ông kéo lê lệt sệt măi tới tận sáng.
Hôm sau, ông bảo tôi thuê thợ đóng nhiều chiếc hộp để đựng tro. Mỗi chiếc để một ngăn tủ. Ông khóa lại và dặn không được dùng vào việc ǵ khác ngoài việc ǵn giữ những chiếc quách ấy. Hơn 30 năm sau, cái tủ đựng đầy những hộp tro vẫn đứng im đó như một nhà mồ. Ngày giỗ ông, chúng tôi cũng đem một bát nhang đến thắp trên đầu tủ. Có cảm giác như hồn ông và hồn sách cùng lảng đảng bay về.
Vẫn chưa hết chuyện về ông tôi đâu. Một tháng trước ngày mất ông muốn tôi làm cho ông những tấm mộ bia bằng giấy. Ông đưa tôi một danh sách dài những quyển sách bị đốt, cứ mỗi tấm bia đề tên một quyển sách. Hơn mấy trăm cái bia như thế, phải mất cả tuần mới làm xong. Những mộ bia không có ngày sinh nhưng có chung một ngày tử. Chúng được xếp lên kệ thay cho hàng trăm cuốn sách đă chết tập thể.
Cả viện sách của ông giờ đây biến thành một nghĩa trang.
Ông trịnh trọng chít khăn trắng, lên nhang đèn rồi cung kính khấn vái như trước bàn thờ tổ tiên. Trong những lời ŕ rầm, nhiều lúc bỗng vang lên như tiếng khóc, ta là người có tội, có tội. Theo như tôi hiểu đó là cái tội không bảo vệ được sách, tội với các tác giả, tội với những thợ sắp chữ ở nhà in và xa hơn nữa là có tội với giấy và mực.
Ông biết ơn họ bao nhiêu th́ bây giờ ông ray rứt v́ ḿnh có tội bấy nhiêu.
Từ đó ông ăn ít ngủ ít. Ông đem từng tấm bia đặt lên bàn, lặng lẽ ngồi ngắm hằng giờ như đang đọc sách. Mỗi tấm bia gợi nhớ đến màu b́a, co chữ, tranh vẽ và cả nội dung mà chỉ có ông mới thấy được, hiểu được. Ông như sống lại những năm dài trước đó với những niềm vui kín đáo khi t́m được sách quư, hay mua được những sách hay. Những lần như thế, ông tự thưởng cho ḿnh khi th́ một b́nh trà, lúc một chung rượu hay tách cà phê và những điếu thuốc thơm thay cho hương trầm.
Rồi đến một lúc ông không ăn mà cũng chẳng ngủ. Người ông khô kiệt tái xám. Ba tôi và các chú đi cải tạo chưa về đương nhiên là khoét sâu vào hồn ông những nỗi buồn lo khôn nguôi. Nhưng dù vậy, tận cùng của đêm th́ cũng phải sáng. Ông có thể đợi đến mười năm hay hai mươi năm. Chỉ có những quyển sách bị đốt là không đợi được. Ông nói với bà, biết trước như vầy tôi đă để hết tiền cho bà chứ mua sách làm chi. Bà tôi cay đắng, ai mà có con mắt sau lưng.
Buổi chiều cuối cùng ngồi bóp chân cho ông, tôi nghe ông hỏi, cháu thấy ông thế nào? Tôi nói, dạ, ông nên ăn chút cháo, trông ông gầy lắm. Không phải, ông nói, da ông thế nào, đă ngă thành màu đất chưa? Không biết da màu đất là màu ǵ, tôi nói đại, chưa ông à. Ngă màu đất là sắp chết đấy cháu, ông nói. Ông đă có ư để lại sách cho cháu, nhưng ta tính làm sao được bằng trời tính. Cháu nhớ giữ giùm ông cái tủ và mấy cái kệ.
Nghe ông nói, tôi thấy da ông quả thật rất giống với màu đất bạc phếch, lạnh lẽo ở nghĩa địa. Da ông là da của một người đă chết từ lâu nhưng chưa chôn. Hay là ông đă chết từ cái đêm hôm ấy. Hồn ông đă cùng với hồn sách nương theo khói bay lên tận trời cao. Cái miền đất ồn ào đầy ô trọc và thù hận này biết đến bao giờ mới lại có được những con người, những quyển sách biết yêu quư tương kính lẫn nhau như thế. Chính lúc này tôi mới thấy thấm thía nỗi đau mất sách của ông.
Tôi vừa buông tay ra th́ ông ngừng thở. Ông chết nhẹ nhàng như gấp lại một cuốn sách. Tính ra, ông đă để tang cho sách đúng một trăm ngày.
Khuất Đẩu
hoanglan22
02-08-2019, 04:40
Vào Đông. Tiết trời lành lạnh. Tôi kéo cao cổ áo “trận” để tránh giá buốt của đêm trừ tịch kéo về. Ngoài khung cửa sổ, gió hiu hiu, đong đưa những cành lá rũ chết. Bầu trời không trăng sao! Tôi. Một ḿnh. Ngồi nhớ nhà!
Giờ này sắp giao thừa rồi đó! Tôi định lấy giấy, viết, khai bút đầu xuân. Tôi cũng không biết ḿnh sẽ viết những ǵ trong đêm giao thừa. Ư nghĩ chờn vờn. Muốn viết nhiều mà chữ nghĩa dường như trốn mất. Giờ này có lẽ Mẹ tôi sắp sửa “ĺ x́” cho các cháu Nội, Ngoại của Mẹ, đang tề tựu dưới mái ấm gia đ́nh. Chúng đang xếp hàng thành nửa ṿng tṛn h́nh bán nguyệt, trước bàn thờ tổ tiên, để chờ Mẹ tôi cho mỗi đứa một phong b́ đỏ, có tiền ĺ x́ c̣n thơm mùi giấy. Nghĩ thế mà ḷng tôi se lại!
Tôi nh́n quanh pḥng. Ngoài chiếc giường lẻ loi kê sát vách, cạnh cái bàn nhỏ, tựa cửa sổ; không c̣n một thứ ǵ khác hơn.
Đây là một pḥng ngủ “Văng Lai” của Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận Tiểu Khu B́nh Thuận; đơn vị mới mà tôi vừa đảm nhậm. Vị sĩ quan tiền nhiệm của đơn vị này, mặc dù đă nhận bàn giao công tác của tôi tại Khánh Ḥa, hơn một tuần trước; nhưng măi cho đến nay, vẫn chưa bàn giao lại “cư xá sĩ quan” mà tôi được sử dụng, trong suốt thời gian phục vụ tại đơn vị này.
Tôi đảm nhậm đơn vị mới và nhận bàn giao chỉ trước giao thừa có mấy đêm. V́ vị sĩ quan tiền nhiệm chưa bàn giao cư xá, nên tôi được Thiếu tá Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận, cho phép tôi được xử dụng một pḥng của Văng Lai Sĩ quan, cho đến khi tôi được nhận cư xá sĩ quan cấp riêng cho tôi.
Tôi c̣n nhớ, khi tŕnh bày với Thiếu tá Phạm Minh, Chỉ Huy Trưởng để xin xử dụng tạm thời pḥng văng lai, Thiếu tá Minh, có vẻ lưỡng lự, không bằng ḷng. Ông nhíu mày dường như đang suy nghĩ để lấy quyết định.
Một chập lâu sau, ông nói với tôi:
-Thật ra cũng bất tiện cho anh. T́nh h́nh an ninh không được khả quan. Anh là sĩ quan cấp tá, càng không nên cư ngụ bên ngoài doanh trại. Trong t́nh trạng này, tôi cũng đành để anh sử dụng văng lai mà thôi.
Tôi đáp: Dạ cám ơn Thiếu tá Chỉ Huy Trưởng.
Ông ta có vẻ ngần ngại, hỏi lại tôi:
- Nhưng anh có sợ ma không?
- Làm ǵ có ma mà ḿnh sợ!
Ông thong thả, nói gằn từng tiếng một:
- Nhưng tôi báo trước với anh nhé! Căn pḥng mà anh sẽ sử dụng đă bỏ từ lâu, không ai dám ở. Ai đă vào đó, chỉ được vài giờ đồng hồ là chạy ngay ra thôi.
Thiếu tá Minh ngừng trong giây lát, rồi chậm răi nói:
- Tùy ư anh đó! Sau này nếu có thấy ma, cũng xin đừng nghĩ là tôi chơi thâm nhé!
Tôi quả quyết:
- Xin Thiếu tá Chỉ Huy Trưởng đừng ngại. Tôi chẳng biết sợ ma! Hơn thế nữa ḿnh không chọc ma th́ ma cũng chẳng chọc ḿnh bao giờ!
Trao đổi xong, tôi bảo Hạ sĩ Cảnh tài xế mang hộ tôi va ly và những thứ linh tinh khác vào pḥng số 4 của Văng Lai. Tôi thấy Hạ sĩ Cảnh dường như hốt hoảng. Nh́n nét mặt, tôi thấy anh hơi ái ngại. Anh tŕnh bày:
- Thiếu tá bảo anh Liêm khiêng các thứ này với em.
Tôi chưa hiểu được ư của anh, nên không do dự, tôi nói ngay:
- Chỉ có 1 cái va ly, anh khiêng một cái, c̣n những cái kia để lại cho tôi coi, sau đó, anh ra lấy các thứ lặt vặt đem vào pḥng rồi khóa cửa lại, trao ch́a khóa cho tôi tại Khối Tài Chánh.
Mặt Hạ sĩ Cảnh tái xanh:
- Dạ... dạ thưa... dạ thưa Thiếu tá... thương em... cái mà em không dám vào pḥng đó một ḿnh em đâu... cái mà Thiếu tá nói với anh Liêm đi cùng với em. Đi một ḿnh em sợ lắm!
Tôi gắt: -Lính mà sợ ma. Chứ anh không biết ma nó sợ súng lắm hay sao?
- Dạ! dạ thưa Thiếu tá, nếu Thiếu tá không tin em, phạt em... đánh em, bắn em... em cũng chịu, chứ có ông sĩ quan nào của Khối Tài Chánh mà... dám ở pḥng đó một đêm thôi, em đưa đầu cho Thiếu tá bắn!
Tôi nh́n nét mặt xanh lét, nghe giọng nói ngập ngừng, dáng dấp run sợ, tôi biết anh ta đang hoảng hốt thật. Nhưng với tư cách là sĩ quan chỉ huy, tôi b́nh tĩnh hỏi lại anh:
- Tôi hỏi thật, anh đă thấy con ma trong pḥng 4 văng lai lần nào chưa, mà anh sợ khiếp như vậy?
- Dạ Thưa Ông Thầy, em chưa thấy, chỉ nghe kể, em đă sợ chết cha em rồi. Chứ em mà thấy, chắc tim em ngừng đập ngay, đâu c̣n sống đến bây giờ.
Tôi lấy một điếu Pall Mall đầu lọc mời anh. Tôi rút thêm một điếu nữa, chăm lửa hút:
Tôi vỗ về anh: - Hút đi! B́nh tĩnh. Nào nói cho tôi nghe! Con ma như thế nào, nó ra sao?
Hạ sĩ Cảnh hít một hơi thật dài, nhả khói thuốc làm nhiều lần. Anh nh́n quanh như sợ hồn ma đứng đâu đó. Tôi thấy anh đang tựa lưng vào thành xe Jeep, mắt lơ láo nh́n quanh. Anh không trả lời trực tiếp câu tôi hỏi mà nói quanh co:
- Thiếu tá mà ở pḥng văng lai đó, sáng sáng... anh Liêm cũng không dám đem cà-phê vào pḥng đó cho Thiếu tá đâu! Không tin em... Ông Thầy kêu anh Liêm hỏi thử th́ biết... ngay mà!
Tôi bảo Hạ sĩ Cảnh:
- Được! Gọi Hạ sĩ Liêm cho tôi.
Hạ sĩ Cảnh mừng rỡ như thoát được gánh nợ, vôi vàng chạy về Khối Tài Chánh.
Không bao lâu, tôi thấy Hạ sĩ Liêm hốt ha hốt hoảng cùng chạy ra với Hạ sĩ Cảnh:
- Dạ! Thiếu tá gọi em?
Tôi hỏi thăm ḍ ngay:
- Tôi ở tạm tại pḥng văng lai số 4. Sáng sáng anh chịu khó mang cà-phê vào đó cho tôi được không?
- Dạ! Thưa Ông Thầy! Ông Thầy bảo ǵ th́ em cũng chết với ông thầy. Bảo em lên rừng bắn cọp, xuống biển bắt cá, em cũng đi ngay, mang về cho ông thầy... nhưng...
Tôi nói lớn tiếng: - Nhưng sao?
- Ông thầy bắn em th́ bắn, đưa em ra đơn vị tác chiến th́ em cũng đành ḷng... nhưng... nhưng biểu em bưng cà-phê đến đó cho ông thầy th́ em chịu chết thôi!
Tôi gật gù: -Thôi được! Hai anh khiêng hộ giùm tôi ba thứ linh tinh, lỉnh kỉnh này, rồi về Khối làm việc. Chưa thấy ma th́ đă sợ! C̣n đ̣i lên rừng bắt cọp! Làm ǵ có ma quỷ trên trần gian này! Suốt đời tôi chưa bao giờ gặp ma! Mà có gặp cũng chẳng sao!
Nói xong tôi xách cặp đi thẳng vào pḥng văng lai. Hạ sĩ Cảnh và Hạ sĩ Liêm rón rén bước theo.
Đêm hôm đó, tôi thao thức hoài không thể nào ngủ được.
Bên ngoài cửa sổ, bóng đen vẫn lạnh lẽo, bao trùm cảnh vật trong màn sương dày đặc của đêm trừ tịch. Không một tiếng pháo giao thừa! Đâu đây chỉ có tiếng súng bắn vu vơ của một tiền đồn nào đó, mà thanh âm rời rạc... lạc lơng, chơ vơ!
Bỗng chốc mây đen kéo đến. Gió giật từng cơn. Mưa tuôn xối xả, như nước từ trên trời trút xuống. Tôi nằm xoay mặt vào tường. Ngấu nghiến từng trang cuốn tiểu thuyết, đến đoạn hấp dẫn, Chú Đạt và cháu Diễm đang chuyện tṛ, gợi t́nh nhau... Bất chợt tôi nghe một tiếng soạt, dường như có ai đang mở chốt cửa vào pḥng tôi. B́nh tĩnh, xoay người lại, nhưng tôi vẫn giữ nguyên ở vị thế nằm.
Tôi đưa tay ṃ khẩu Colt 45, vẫn c̣n y nguyên dưới gối.
Căn pḥng lặng thinh như tờ. Tôi nh́n về hướng cửa ra vào. Cửa vẫn c̣n khép kín. Tôi nh́n đồng hồ, 3 giờ 48 phút khuya của đêm trừ tịch. Không thấy động tịnh ǵ, tôi xoay người vào vách tường đọc tiếp cuốn tiểu thuyết...
Khoảng vài phút sau, tôi lại nghe một tiếng soạt, như tiếng ổ khóa đang có người mở cửa. Phản ứng tự nhiên, tôi xoay người, bật dậy. Trong khoảnh khắc bối rối, tôi nh́n về phía cửa. Phút chốc, cánh cửa từ từ hé mở, như có ai đó muốn vào nhưng vẫn c̣n e dè chưa dám bước vào. Khoảng vài giây sau, một thiếu nữ đứng chần chờ trước cửa, nàng chăm chú nh́n về hướng giường tôi đang nằm.
Qua cái mùng thưa. đă bỏ xuống để ngăn muỗi, tôi thấy một thiếu nữ trẻ, đầu đội chiếc nón lá, trên tay xách một cái bóp trắng, làm nổi bật chiếc áo dài nhung màu tím, màu áo của thời trang, mà vào dạo ấy nhiều phụ nữ thích mặc.
Thiếu nữ vừa xuất hiện, rón rén bước đến nơi tôi đang nằm. Nàng nh́n rất chăm chú vào mùng. Ánh mắt ngạc nhiên, khi biết có người đang nằm trong mùng.
Sau một hồi ngập ngừng, nàng lấy chiếc nón đặt úp ngay trên đầu mùng. Tôi choáng mắt trước sắc đẹp của nàng. Sau đó, nàng vén mùng, ngồi xuống cạnh giường. Hai chân vẫn c̣n để ở ngoài mùng.
Vẫn chưa định thần, tôi ngỡ ḿnh đang trong cơn choáng váng, nên vẫn nằm im không có một cử động nhỏ nào. Tôi tưởng tôi đă đi lạc vào đám mây mù của ảo giác hoặc đang rơi vào hoang tưởng...
Thiếu nữ đưa tay choàng qua ḿnh tôi. Mặt nàng nh́n thẳng vào mắt tôi dường như muốn nói điều ǵ nhưng lại thôi. Phản ứng tự nhiên, tôi đưa tay gạt ngang lưng nàng. Cảm giác rờn rợn, tôi cảm nhận tay tôi đă chạm vào một miếng vải nhung êm ả. Phút chốc h́nh hài thiếu nữ tan biến, trong ánh sáng mờ ảo.
B́nh tĩnh, tôi nh́n lên đầu mùng, chiếc nón mà thiếu nữ đă đặt trước khi ngồi trên giường tôi đang nằm đă biến mất. Tôi xem lại mé mùng, chỗ của thiếu nữ đă ngồi khi năy, có một khoảng mùng bị kéo ra khỏi cái nệm, mà lúc vào trong giường, tôi đă nhét mùng dưới nệm để bầy muỗi khỏi bay vào.
Tôi vẫn biết ḿnh chưa ngủ. Tôi khép cuốn sách lại, trước khi xếp một góc trang mà tôi vừa đọc để đánh dấu ḿnh đă đọc đến trang nào...
Cảnh tượng chỉ xảy ra trong thoáng chốc chưa đủ làm cho tôi sợ hăi. Tôi vẫn chưa tin thiếu nữ đó là ma.
Hoang mang, tôi ngồi dậy, bước ra khỏi mùng. Đến cái bàn nhỏ, có cái điện thoại dă chiến EE8, tôi quay vài ṿng để gọi pḥng trực. Im lặng không có tiếng bên kia đầu giây trả lời. Quay thêm một ṿng nữa, vẫn lặng lẽ, không có một thanh âm nhỏ nhoi nào báo động cho biết điện thoại c̣n hoạt động. Tôi mở 2 cục pin A30 để kiểm soát lại. Pin vẫn đặt đúng vị trí. Hơi bối rối, tôi mang vội đôi giày trận, tay cầm khẩu Colt 45. Tôi đi vội ra pḥng trực. Dọc hành lang của nhà văng lai, ánh sáng leo lét của các bóng đèn 25 watt, không cho đủ ánh sáng. Tôi cảm thấy có cái ǵ lành lạnh ở sau gáy. Đến pḥng sĩ quan trực, anh em có phận sự trực vẫn c̣n tề chỉnh trong trang phục tác chiến. Thiếu úy sĩ quan trực thấy tôi, bèn đứng dậy, nghiêm chỉnh chào. Vị sĩ quan trực đứng trước mặt tôi, với giọng nói và nét mặt linh hoạt. Anh ta có dáng điệu của một thanh niên c̣n trẻ, khoẻ mạnh. Gương mặt phản chiếu những nét linh động, hoạt bát...
Tôi hỏi: Hồi năy tôi có gọi ra pḥng trực, Thiếu úy có nghe điện thoại reo không?
- Dạ! Thưa không!
Anh ta vẫn c̣n đứng nghiêm sau bàn trực và lễ phép hỏi tôi:
- Thiếu tá cần ǵ?
- Không! Tôi không cần ǵ! Tôi chỉ muốn thử lại điện thoại thôi!
Hồi năy tôi có gọi thử ra pḥng trực nhưng không ai trả lời. Tôi đă kiểm soát lại pin, nhưng điện thoại vẫn không hoạt động được.
Thiếu úy sĩ quan trực, thong thả nói:
- Tôi nghĩ là pin đă hết hạn xử dụng.
Tôi quả quyết: -Không! Trung sĩ Giang, hạ sĩ quan tiếp liệu, sáng nay có trao cho tôi 2 cục pin A30 c̣n nguyên xi mà.
- Tôi sẽ cùng đi với Thiếu tá, để kiểm soát lại đường giây điện thoại nối vào pḥng số 4.
Vừa nói xong, Thiếu úy sĩ quan trực rời bàn trực, định đi theo tôi.
Nh́n quanh, tôi không biết ai là hạ sĩ quan trực. Tôi hỏi:
- Hạ sĩ quan trực đâu?
Trong một góc pḥng, năm sáu quân nhân đang bao quanh bàn cờ tướng, Một thượng sĩ chạy đến bàn sĩ quan trực, nói:
- Dạ. Tôi trực đêm nay.
Tôi dặn:
- Tôi về pḥng văng lai, thỉnh thoảng anh gọi vào pḥng số 4, để tôi thử điện thoại nhé!
- Dạ!
Tôi cùng đi với Thiếu úy sĩ quan trực trở lại pḥng văng lai.
Một điều làm tôi ngạc nhiên vô cùng. Mùng bị tháo gỡ ra khỏi giường gỗ, và được xếp gọn gàng, đặt ngay trên đầu giường. Mọi vật dụng dường như có ai đó làm xê dịch đi đôi chút. Trong lúc đó, viên sĩ quan trực không lấy ǵ làm ngạc nhiên. Anh ta kiểm soát lại đường giây điện thoại dă chiến mắc vào pḥng. Một chặp lâu sau, anh nói với tôi:
- Thưa Thiếu tá, có một đầu giây điện thoại bị hở, tôi đă gắn lại rồi. Tôi sẽ gọi ra pḥng trực, để xem c̣n trục trặc nữa không. Vừa nói anh ta vừa quay mấy ṿng trên cái điện thoại EE8.
- A-lô! Pḥng trực có nghe tôi không?
Bên kia đầu giây có tiếng trả lời. Tôi nghe sĩ quan trực nói:
- Không có ǵ, tôi đang thử đường giây điện thoại. Cám ơn!
Anh ấy đặt điện thoại xuống và nói với tôi:
- Có lẽ hôm nay gió mạnh, nên cành cây ngoài cửa sổ lay động, làm hở mạch điện thoại.
Nói xong, anh ta chào tôi về lại pḥng trực. C̣n lại một ḿnh, tôi loay hoay mắc mùng và đi ngủ lại. Đến một nơi xa lạ, nên khó ngủ. Tôi tiếp tục đọc sách, chờ đợi và nghe ngóng chính hơi thở và con tim của ḿnh đang đập th́nh thịch.
Bỗng nhiên, từ trên trần nhà, ngay chỗ cái bóng đèn tṛn, một người con gái mặt mày máu me, trên đầu có những lọn tóc rối, trắng phau, thả xuống gần đôi chân. Đầu đang bị treo vào một sợi dây tḥng lọng. Hai tay và hai chân đong đưa như đang bị nghẹt thở. Mắt trợn tṛng, liêng liếc. Một tay vẫy gọi tôi như cầu cứu.
Tôi toát mồ hôi hột, vội chụp súng và chạy ngay ra pḥng trực. Tôi kể chuyện cho Thiếu úy sĩ quan trực nghe. Anh ta cũng ngạc nhiên vô cùng.
Tôi hỏi:
- Thiếu úy ở đơn vị này lâu rồi, Thiếu úy có nghe ai kể chuyện pḥng đó có ma không?
- Dạ thưa Thiếu tá, tôi cũng có nghe nhiều người nói là pḥng số 4 có ma, nhưng chưa nghe ai nói có người tự tử treo cổ lửng lơ trên trần nhà.
Tôi nh́n đồng hồ treo trên tường của pḥng trực th́ đă 4 giờ sáng rồi.
Tôi hỏi vị sĩ quan trực:
- Mấy giờ Câu lạc bộ mở cửa?
- Dạ, 4 giờ rưỡi.
Tôi hơi ngạc nhiên:
- Sao mở cửa sớm vậy?
Anh ta thong thả trả lời:
- Cả tháng nay, Tiểu Khu ra lệnh cấm trại 100-phần-100, nên anh em đều ngủ lại trong trại. Câu lạc bộ mở cửa sớm để anh em uống cà-phê, dùng điểm tâm v́ 6 giờ đă điểm danh rồi.
- Mấy giờ anh bàn giao phiên trực?
- Dạ, tôi chỉ chờ Khối Điều Hành Tổng Quát đến để kư Sổ Bàn Giao.
Anh ta giải thích thêm:
- Ở đây, Ban Trực chỉ chịu trách nhiệm từ 5 giờ chiều đến 5 giờ sáng. C̣n trong giờ làm việc th́ Khối Điều Hành Tổng Quát chịu trách nhiệm.
Tôi nói:
- Tôi mời Thiếu úy xuống Câu lạc bộ uống cà-phê sáng với tôi.
- Dạ được. Tôi sẽ cùng đi với Thiếu tá.
Vừa nói, anh vừa quay điện thoại:
- A-Lô! Khối Điều Hành Tổng Quát đó hả! Cho người nhận bàn giao đi chứ! Trễ của tôi 10 phút rồi đó!
Anh ta đặt ống nghe xuống, tươi cười nói:
- Khối Điều Hành Tổng Quát đang cho người xuống kư Sổ Bàn Giao!
Ngay lúc đó, tôi nhớ ḿnh chưa khóa cửa pḥng Văng Lai. Tôi nói:
- Thiếu úy cùng tôi về pḥng Văng Lai, để tôi khóa cửa rồi ḿnh xuống Câu lạc bộ.
Chúng tôi cùng đi về pḥng Văng Lai. Vừa bước vào, chúng tôi thấy một thiếu nữ mặc áo nhung đen, đang nằm ngửa ra trên sàn nhà với chiếc gối hoen máu. Tôi đưa mắt liếc nh́n. Bỗng dưng tôi nghẹt thở. Tôi kinh hoàng, nh́n không chớp mắt. Vết thương rỉ ra trên cổ nàng và vệt máu vẫn c̣n nhỏ giọt, ươn ướt tuôn ra từ trên cổ nàng. Thiếu nữ cố hít một hơi yếu đuối, nàng từ từ chống khuỷu tay ngóc đầu dậy. Nút áo bị tuột ra, hở ngực. Như có ai đă xé toét ra từ trước. Nàng đưa đôi mắt trắng dă, nh́n chúng tôi như cầu cứu. Chúng tôi c̣n đang ngơ ngác th́ h́nh hài của thiếu nữ đó biến mất.
Lần này tôi thật sự khiếp sợ. Giường ngủ bị lật úp xuống, bốn chân lộn ngược lên trần nhà. Tôi vội đẩy viên sĩ quan trựcc ra khỏi gian pḥng. Anh ta đang đứng lặng người ở trước cửa, há hốc miệng nh́n tôi, mặt mũi xanh như tàu lá chuối. Tôi đóng cửa và vội vă kêu viên sĩ quan trực ra khỏi hành lang. Anh ta hổn hển nói: - Ma!
Chúng tôi lao ḿnh ra khỏi hành lang và nhảy xuống cầu thang tầng hai, ba bậc một. Xuống Câu lạc bộ, chúng tôi kêu cà-phê và cháo gà để điểm tâm.
Vừa liếm từng giọt cà-phê nóng hổi, tôi vừa nh́n quanh. Câu lạc bộ đông người, mà tôi vẫn c̣n kinh hoàng, khủng khiếp nh́n quanh... một vệt máu c̣n đọng lại trên cổ người thiếu nữ đang nằm vất vưởng trên sàn nhà...
Sau đó, tôi được biết, Câu lạc bộ do vợ một thượng sĩ thầu. Tôi nghe nói bà này đă bán Câu lạc bộ này nhiều năm, nên tôi hỏi thăm về chuyện ma tại văng lai, được bà cho biết như sau:
- “Chồng tôi phục vụ tại doanh trại này đă từ lâu. Anh ấy trước đây là lính GI (khố xanh), sau khi Pháp rút quân về nước, doanh trại này được bàn giao cho Tiểu đoàn 82 Việt Nam. Tiểu đoàn Bảo An B́nh Thuận được thành lập do Đại úy Danh làm Tỉnh Đoàn Trưởng, cũng đă đồn trú tại đây. Tỉnh Đoàn Bảo An bị giải tán và sáp nhập vào Tiểu Khu cho nên nơi đây là Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận B́nh Thuận. Nhưng trước năm 1945, doanh trại này là Pḥng Nh́ của Quân Đội Viễn Chinh Pháp.
Hồi đó tôi c̣n bán cái quán nhỏ trước trại lính này. Nghe nói tụi Pháp có bắt về một thiếu nữ trẻ đẹp, bị t́nh nghi là tiếp tế cho Việt Cộng. Ban đêm tụi Pháp điều tra, đánh đập và hăm hiếp thiếu nữ này nhiều lần. Uất ức, cô ta thắt cổ tự tử và sau này con gái của Đại úy Danh, Tỉnh Đoàn Trưởng Tỉnh Đoàn Bảo An cũng đă tự tử v́ t́nh duyên trắc trở sao đó, cũng tại pḥng số 4 của Nhà Văng Lai này. Từ đó về sau, không một sĩ quan nào dám trú ngụ tại pḥng số 5 của Văng Lai đó.”
Bà nói thêm:
- “Thiếu tá Minh cho dọn dẹp pḥng đó rất sạch sẽ, để khi nào có Phái Đoàn Thanh Tra nào mà hách x́ xằng, vẽ vời thứ này thứ nọ, th́ ông mời vào pḥng đó để tạm trú. Ai vào ở cũng gặp ma và sáng hôm sau cuốn gói về Sài G̣n ngay mà không c̣n muốn thanh tra, thanh triết ǵ nữa...”
Tôi nghe kể câu chuyện như thế bèn thở dài: -Ừ! Ra là thế.
Nhiều năm về sau, khi chúng tôi gặp lại nhau và hồi tưởng lại chuyện cũ, th́ chuyện hai con ma trong Pḥng số 4 Văng Lai, của Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận Tiểu Khu B́nh Thuận, lúc nào cũng được kể lại.
Duy Xuyên, Tacoma
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1337922&stc=1&d=1549600832
hoanglan22
02-08-2019, 04:51
Cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân (từ cuối tháng 1-1968) của phe Cộng Sản trên toàn lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa, mà báo chí sách vở Hoa Kỳ thường gọi là Tet Offensive, đã được đánh giá như là một thất bại lớn về tình báo của Hoa Kỳ trong Chiến Tranh Việt Nam. Việc đánh giá như vậy có hoàn toàn đúng hay không ? Bài viết này tìm hiểu những tranh luận chung quanh tài liệu SNIE 14.3-67 của CIA nhằm cố gắng trả lời câu hỏi đó.
SNIE 14.3-67 là tài liệu gì ?
SNIE, chữ viết tắt của Special National Intelligence Estimate, tạm dịch là Bản Ước Lượng Tình Báo Quốc Gia Đặc Biệt, là một dạng đặc biệt của NIE (National Intelligence Estimate), tài liệu về tình báo của Cơ Quan Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ (Central Intelligence Agency, thường được viết tắt là CIA) đã được xét duyệt và thông qua bởi United States Intelligence Board (USIB = Hội Đồng Tình Báo Hoa Kỳ) và sau đó sẽ được ấn hành bởi một bộ phận của CIA là Office of National Estimates (ONE).
Mỗi NIE được tạo ra nhằm cung cấp cho các cấp lãnh đạo của Hoa Kỳ những thông tin căn bản cần thiết về tình hình về mọi mặt của từng quốc gia trên thế giới. Các NIE luôn luôn được cập nhật dựa trên tình hình phát triển của các quốc gia đó, và thỉnh thoảng, theo nhu cầu của tình hình, các SNIE sẽ được soạn thảo. Việc soạn thảo các NIE và SNIE là nhiệm vụ của một đơn vị thuộc quyền của Phó Giám Đốc Tình Báo của CIA (Deputy Director for Intelligence, thường được viết tắt là DDI; Ray S. Cline (1962-1966) và Russell Jack Smith (1966-1971) là hai người kế tiếp nhau giữ vị trí DDI trong giai đoạn này của Chiến Tranh Việt Nam).
Như trên đã trình bày, các NIE và SNIE luôn luôn phải được xét duyệt và thông qua bởi USIB gồm các đại diện có thẩm quyền của tất cả các cơ quan an ninh tình báo của Hoa Kỳ mà quan trọng nhứt là các cơ quan sau đây: CIA, DIA (Defense Intelligence Agency, cơ quan tình báo của Bộ Quốc Phòng), các cơ quan tình báo của 3 quân chủng (Hải, Lục và Không Quân), và cơ quan tình báo của Bộ Ngoại Giao (Bureau of Intelligence and Research – State Department, thường được viết tắt là INR).
Tài liệu SNIE 14.3-67 có trang bìa như hình dưới đây:
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1337927&stc=1&d=1549601330
Nhan đề của tài liệu này cho thấy rõ ràng nội dung của nó là đề cập đến khả năng chiến đấu của các lực lượng Cộng sản tại Miền Nam Việt Nam, và số hiệu 14.3-67 gồm 2 phần: 14.3 là ám số của CIA dùng cho khu vực Đông Dương (Indo-China), và 67 là của năm 1967.
Sam Adams là ai ?
Nói đến câu chuyện của tài liệu SNIE 14.3-67 thì không thể nào không nhắc đến cái tên Sam Adams được. Vậy Sam Adams là ai ?
Người nhân viên CIA đã khuấy động chuyện này có tên là Samuel Alexander Adams (1934-1988), thường được biết bằng tên ngắn gọn hơn là Sam Adams, là một nhân viên phân tích tình báo (intelligene analyst) của cơ quan CIA. Ông sinh ngày 14-6-1934 tại thành phố Bridgeport, tiểu bang Connecticut, thuộc dòng dõi họ Adams nổi tiếng của tiểu bang Massachusetts, đã từng sản sinh ra 2 vị Tổng Thống của Hoa Kỳ, đó là hai cha con: cha là John Adams (1735-1826), Tổng Thống thứ nhì (1797-1801) và con là John Quincy Adams (1767-1848), Tổng Thống thứ sáu (1825-1829).[1] Sau khi tốt nghiệp Đại Học Harvard (Harvard College) về ngành Sử Âu Châu vào năm 1955, ông phục vụ hai năm trong lực lượng Hải Quân Hoa Kỳ. Sau khi giải ngũ, ông theo học Luật tại Đại Học Harvard (Harvard Law School), và sau đó làm việc cho một số ngân hàng trong một thời gian. Năm 1963 ông được Cơ quan CIA tuyển chọn làm nhân viên phân tích tình báo và đơn vị đầu tiên ông phục vụ là tổ Congo, thuộc Khối Phi Châu (Congo desk of Africa Division). Nhờ cách làm việc siêng năng, cần mẫn, có phương pháp và với óc nhận xét và phân tích rất sắc bén, chỉ một thời gian ngắn, ông đã được các đồng nghiệp kính nể và các cấp chỉ huy CIA đánh giá cao. Tháng 8 năm 1965, ông chuyển sang tổ Việt Nam, thuộc phân bộ Đông Nam Á, Khối Viễn Đông (Vietnam desk, Southeast Asia Branch, Far East Division).
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1337928&stc=1&d=1549601330
Hình Sam Adams chụp khoảng năm 1984 -- Nguồn: Internet
Vào thời gian này, sau khi quân bộ chiến của Hoa Kỳ ồ ạt đổ vào Việt Nam, cán binh Cộng sản bị giao động tinh thần rất nặng nề: tỷ lệ hồi chánh và đào ngũ tăng lên rất nhiều. Adams được phân bộ trưởng Ed Hauck giao cho nhiệm vụ tìm hiểu về vấn đề tinh thần của cán binh Việt Cộng (Viet Cong morale).
Adams bắt tay ngay vào việc và đã bỏ ra rất nhiều thời gian cũng như công sức để thực hiện các hồ sơ cần thiết cho công việc được giao phó. Trong bước đầu, ông tạo ra 3 bộ hồ sơ căn bản mà ông đặt tên cho là: 1) Primary Evidence (Bằng chứng nhứt đẳng) gồm các văn kiện, báo cáo trực tiếp từ phía VC như là các tài liệu bắt được (captured documents), cung tù hàng binh (POW interrogations; POW = Prisoner Of War), và các cuộc phỏng vấn với các cán binh VC ra hồi chánh (defector interviews); 2) Statistics (Thống kê) gồm các trang trích ra từ các báo cáo gởi từ Sài Gòn về các con số đào binh và tù binh VC cũng như các con số dân tỵ nạn từ các vùng nằm dưới sự kiểm soát của VC; 3) Everything Else (Tất cả các thông tin khác) gồm tất cả các loại tài liệu không thể xếp vào 2 bộ hồ sơ kia. Về sau, bộ hồ sơ thứ ba này quá lớn nhưng không hữu dụng cho công việc của ông nên ông quyết định vứt bỏ đi.
Những con số gây ngạc nhiên
Adams bắt đầu đọc các tài liệu thuộc hồ sơ 1 nhưng không thấy gì đặc biệt. Khi chuyển sang đọc các số liệu thống kê thì ông bắt đầu thấy thích thú và ngạc nhiên. Tài liệu gây ngạc nhiên cho ông là báo cáo về chương trình Chiêu Hồi của tuần lễ đầu tháng 8-1965: báo cáo ghi rõ là tổng số cán binh VC ra hồi chánh trong tuần lễ đó là 211 người. Ông đọc tiếp các báo cáo của các tuần lễ còn lại của tháng 8-1965 và nhận ra rằng con số 211 hồi chánh viên trong một tuần không phải là một trường hợp đặc biệt gì cả mà chỉ là một con số trung bình mà thôi. Ông tính nhẩm: như vậy mỗi năm có trên 10.000 cán binh VC về hồi chánh, một tỷ lệ rất đáng kể là 5% trên tổng số lực lượng VC theo ước tính của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ là khoảng dưới 200.000 quân. Thật sự kích động, ông đọc hết tất cả các báo cáo của chương trình Chiêu Hồi, và sau đó khi so sánh giữa con số VC hồi chánh và con số VC tử trận, ông càng kinh ngạc hơn: trong khoảng thời gian từ tháng 8-1964 đến tháng 8-1965 con số VC tử trận chỉ tăng gấp đôi trong khi con số VC hồi chánh tăng gấp 5 lần. Điều này có nghĩa là cường độ chiến tranh càng ác liệt thì số cán binh VC ra hồi chánh sẽ càng tăng lên nhanh chóng hơn.[2] Như vậy, xem ra có vẻ chiến lược “lùng và diệt địch” (Search and Destroy) của Tướng Westmoreland,[3] Tư Lệnh MACV [4] áp dụng cho cuộc chiến tranh hao mòn (war of attrition) này đã có kết quả tốt. Và, nếu tiếp tục với cái đà này, chỉ một thời gian ngắn nữa VC sẽ không còn quân để đánh nhau nữa. Nhưng rồi Adams sớm nhận ra rằng sự thật không phải như vậy. Vì VC vẫn tiếp tục đánh phá khắp nơi, không có một triệu chứng nào báo hiệu cho thấy tinh thần chiến đấu của VC bị ảnh hưởng nặng và sẽ đi đến chổ sụp đổ toàn diện. Adams đang đối diện với 2 khối lượng thông tin hoàn toàn mâu thuẩn nhau: một khối thông tin cho thấy mức độ cán binh VC hồi chánh rất cao và ngày càng gia tăng, còn khối thông tin kia thì cho thấy các kực lượng VC vẫn tiếp tục chiến đấu dữ dội khắp nơi trên lãnh thổ của VNCH. Adams tin rằng như vậy phải có cái gì không đúng đây. Anh quyết định tìm hiểu thêm về các cán binh VC hồi chánh.
Mối nghi ngờ chớm nở
Tháng 1-1966, Adams được biệt phái sang làm việc tại Việt Nam trong 3 tháng. Đây là lần đầu tiên Adams tiếp nhận được kinh nghiệm trực tiếp về chiến tranh Việt Nam nói chung, và về tổ chức nhân sự của VC nói riêng.
Nơi Adams được chỉ định đến công tác là Phân Bộ Thu Xếp (Collation Branch) của CIA tại Sài Gòn. Phân bộ này được đặt dưới quyền chỉ huy của George Allen là người phó của George Carver lúc đó đang đãm nhận chức vụ Phụ Tá Đặc Biệt về Việt Nam (SAVA = Special Assistant for Vietnam Affairs) của Giám Đốc CIA, Richard Helms. Dưới sự hướng dẫn của Allen, Adams bắt tay vào công tác tìm hiểu về các hồi chánh viên (defectors). Ông được biết là lúc đó trạm CIA tại Sài Gòn không có giữ một danh sách gốc (master list) về các hồi chánh viên. Allen khuyên ông nên tìm gặp Leon Gore, người đứng đầu phân bộ đặc trách về Động Cơ và Tinh Thần của Việt Cộng (VC Motivation and Morale Branch) của Rand Corporation,[5] mà trụ sở đặt tại biệt thư số 176 đường Pasteur ở Sài Gòn, để có thể nắm được thông tin tin đầy đủ về vấn đề này. Tuy nhiên, Allen cũng dặn Adams là không nên sa lầy trong vấn đề này vì, theo Allen, còn một vấn đề còn quan trọng hơn nữa là vấn đề các cán binh VC đào ngũ (deserters). Đây là những cán binh VC, vì nhiều lý do khác nhau, đã rời bỏ hàng ngũ Cộng sản nhưng không ra hồi chánh, và cũng không thể trở về quê quán vì sợ bị VC thanh toán, họ trốn về và sinh sống bất hợp pháp trong các thành phố. Khi đến gặp và làm việc với Gore, Adams càng kinh ngạc hơn khi được Gore cho biết con số đào ngũ còn cao hơn con số hồi chánh: tỷ lệ là gấp 7 lần.[6] Như vậy, mỗi năm lực lượng VC mất đi, không phải 10.000 quân hay 5% (do hồi chánh), mà đến 80.000 quân hay 40% (10.000 hồi chánh + 70.000 đào ngũ). Đó là chưa kể đến số thương vong. Và cho một đạo quân chưa đến 200.000 người theo ước tính của MACV. Vậy mà cường độ chiến tranh không hề suy giảm chút nào cả, ngược lại ngày càng ác liệt, với số thương vong của quân đội Mỹ không ngừng gia tăng.[7] Như vậy rõ ràng là lực lượng VC phải cao hơn con số 200.000 quân rất nhiều.
Mối nghi ngờ gia tăng
Ngày 2-2-1966, từ Sài Gòn Adams đáp chuyến bay trực thăng của Air America [8] xuống Tân An làm việc tại Trung Tâm Chiêu Hồi của tỉnh Long An. Tại đây, Adams đã tiếp cận với toàn bộ hồ sơ của 146 cán binh VC đã ra hồi chánh trong thời gian 4 tháng trước đó. Trong suốt thời gian 2 tuần lễ, với sự giúp đở rất tích cực của một nữ thông dịch viên, Adams đã ghi chép thật cẩn thận về tất cả 146 hồi chánh viên đó với những thông tin cá nhân của từng người cần thiết cho công tác của ông như là: tên họ, tuổi tác, thành phần (quân sự, chính trị, chính quy, địa phương, liên lạc viên, du kích, dân quân tự vệ, vv.), thời gian phục vụ trong hàng ngũ CS. Ông nhận ra trong số 146 hồi chánh viên này có khoàng gần 90 người thuộc thành phần quân sự, và trong số nầy chỉ có 6 người thuộc các đơn vị chính quy hay địa phương, phần còn lại khoảng 80 người là thuộc diện du kích – dân quân (guerilla-militia). Kiểm tra lại với con số du kích – dân quân liệt kê cho tỉnh Long An trong bảng trận liệt (Order of Battle, hay OB) của MACV, ông giựt mình vì bảng OB của MACV ghi rõ là tỉnh Long An chỉ có tổng cộng 160 du kích – dân quân. Ông tính nhẩm: vậy thì lực lượng du kích – dân quân của VC trong tỉnh Long An đã bị tổn thất đến 50% nghĩa là rất nặng. Nhưng rõ ràng tình hình hoạt động của VC tại Long An vẫn không bị ảnh hưởng. Ngay trong thời gian đó, vào ngày 11-2-1066, đã xảy ra một trận đánh lớn tại quận Tân Trụ, cách tỉnh lỵ Tân An khoảng 10 km về phía Nam, trong cuộc Hành Quân An Dân 14/66, giữa các đơn vị của Sư Đoàn 7 Bộ Binh của QLVNCH và Tiều đoàn 506 địa phương của VC. Tiểu Đoàn 506 của VC đã bị tổn thất thật nặng với trên 100 binh sĩ tử trận, bỏ xác tại chổ mà QLVNCH đã đếm được.[9] Mấy hôm sau, Adams được gặp và đã nêu thắc mắc về con số du kích – dân quân của VC với Đại Tá Phạm Anh, Tỉnh Trưởng Long An. Đại Tá Anh cho biết ngay là con số 160 trong OB của MACV là sai, con số du kích – dân quân tại Long An đúng phải là 2000, và ông cũng yêu cầu Adams sau này về Sài Gòn, nếu có cơ hội, nên báo cho MACV điều chỉnh lại con số này trong OB của họ. Adams hứa sẽ làm chuyện này. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, Adams có dịp đến làm việc tại Quận Tân Trụ, và được biết Tiểu đoàn địa phương 506 của VC, vừa bị thiệt hại nặng trong cuộc Hành quân An Dân 14/66 vừa nói trên, đã bổ sung xong quân số và hoạt động trở lại như trước.[10] Như vậy rõ ràng là con số 2000 du kích – dân quân (nguồn bổ sung cho các đơn vị quân sự địa phương của VC) của ông đại tá tỉnh trưởng Long An hoàn toàn có thể tin được. Đây là lần đầu tiên Adams được biết một cách gần như chắc chắn là con số du kích – dân quân trong OB của MCV là quá thấp. Ngày hôm sau, trở về Sài Gòn, Adams báo cáo ngay cho George Allen về chuyện này. Allen không ngạc nhiên chút nào cả, và còn cho Adams biết rằng từ nhiều năm qua MACV đã bỏ qua, không để tâm đến vấn đề du kích – dân quân của VC. Nhớ lại lời hứa với đại tá tỉnh trưởng Long An, Adams đã gọi cho Ban Phụ Trách Trận Liệt (Order of Battle Branch) của MACV để cho họ biết về con số chính xác của du kích – dân quân tại Long An. Người nhân viên trực ban ghi nhận và cho biết sẽ báo cáo lại cho Đại Tá Gaines Hawkins, Trưởng Ban OB của MACV. Sau vụ Long An, mối nghi ngờ của Adams về các con số liên quan đến lực lượng du kích – dân quân trong OB của MACV càng gia tăng thêm, và ông quyết định tìm đọc các tài liệu tịch thu được của VC để xem thông tin và nhận định của chính đối phương về vấn đề ra sao. Ông càng bàng hoàng hơn khi thấy ngay chính trong các tài liệu bắt được của địch tỷ lệ giữa con số hồi chánh và con số đào ngũ của cán binh VC còn cao hơn cái tỷ lệ 1/7 mà Gore đã nói với ông rất nhiều: [11]
• Một tài liệu có tựa đề là “Các biện pháp đối phó với các thành phần hồi chánh, đào ngũ và phản bội” (Countermeasures against defectors, deserters, and traitors) cho biết số hồi chánh “hiếm” hơn số đào ngũ)
•Một tài liệu khác, lần đầu tiên cho biết cái tỷ lệ giữa đào ngũ và hồi chánh: 138 đào ngũ trong đó chỉ có 5 ra hồi chánh, tỷ lệ là 5/138 = 27 lần
•Một tài liệu khác cho biết: trong vòng 1 tháng, một đơn vị có 47 người đào ngũ, trong đó chỉ có 2 ra hồi chánh: tỷ lệ là 2/47 = 23 lần
•Một tài liệu nữa, cụ thể hơn rất nhiều: Đại đội vũ khí của Tiều đoàn 269, thuộc Trung đoàn 2 Đồng Tháp, trong 3 tháng cuối năm 1965, đã có đến 20 người đào ngũ; tính theo cấp số của đại đội vũ khí là 87 người, tỷ lệ đào ngũ của đơn vị này là 20/87 = 22.9% nghĩa là rất cao
Thời gian còn lại tại Việt Nam, Adams đến làm việc tại Trung Tâm Khai Thác Tài Liệu Hỗn Hợp của MACV (Combined Document Exploitation Center – CDEC [12]) tại Sài Gòn. Tại đây, Adams đọc tất cả các tài liệu bắt được của địch, đặc biệt là các danh sách của các đơn vị địch (enemy rosters), và nhận rõ là tất cả các tài liệu này đều cho thấy một mức độ đào ngũ trầm trọng trong hàng ngũ cán binh VC. Adams đã sao chụp và mang vể Mỹ một số lớn tài liệu loại này. Ông trở về Tổng Hành Dinh của CIA ở Langley, Virginia vào ngày 2-5-1966, và bản báo cáo của ông về vấn đề đào ngũ của cán binh VC rất được chú ý và đánh giá cao. Do đó, Adams đã được gọi lên thuyết trình cho Đô Đốc William F. Raborn, người vừa được bổ nhiệm thay cho John A. McCone trong chức vụ Giám Đốc CIA. Sau vụ thuyết trình này của Adams, Giám Đốc Raborn quyết định cử 1 đoàn chuyên viên về phân tâm (psychiatrists) của CIA sang Việt Nam (cùng với Adams với tư cách cố cấn cho đoàn) để nghiên cứu tại chổ vê tinh thần của cán binh VC. Sau một tháng rưởi làm việc tại Việt Nam, đoàn chuyên viên trở về Mỹ và báo cáo của họ khẳng định là, mặc dù với tỷ lệ đào ngũ cao như thế, tinh thần chiến đấu của cán binh VC vẫn rất tốt.
Sau khi trở lại Mỹ, dùng nhiều cách tính khác nhau, Adams ước tính con số cán binh VC đào ngũ trong một năm rất cao, không bao giờ dưới 50.000, có khi lên đến trên 100.000. Trong khi đó, tổng số cán binh VC tử trận, bị thương và bị bắt làm tù binh là vào khoảng 150.000 mỗi năm. Như vậy, nếu căn cứ vào con số ước tính toàn bộ lực lượng của VC trong OB của MACV là 280.000 (vào tháng 6-1966) thì lực lượng này sẽ bị triệt tiêu trong một thời gian ngắn sắp tời. Nhưng rõ ràng, qua kinh nghiệm bản thân của Adams trong thời gian 3 tháng công tác tại Việt Nam, cũng như qua kết quả điều tra của đoàn chuyên viên về phân tâm học của CIA, tinh thần chiến đấu của cán binh VC không hề giảm sút và cường độ chiến tranh vẫn ngày càng ác liệt, không có một dấu hiệu gì cho thấy cuộc chiến sắp đi đến kết thúc cả. Adams nhớ kinh nghiệm thu nhận được trong thời gian công tác tại Long An: 1) Sự sai biệt quá lớn giữa 2 con số về du kích – dân quân do đại tá tỉng trưởng Long An cung cấp và con số trong OB của MACV; và 2) Vụ Tiểu đoàn địa phương 506 của VC tại Long An, đã bổ sung quân số thật nhanh và hoạt động trở lại ngay, sau khi bị thiệt hại nặng trong cuộc hành quân An Dân 14/66 tại Tân Trụ trong tháng 2-1966.
Lúc bấy giờ, CIA vừa trải qua một cuộc cải tổ, và xếp mới của Adams là Dean Moor. Adams lập tức báo cáo ngay cho Moor các phát hiện của mình về Long An và xin phép được nghiên cứu thêm về vấn đề nhân sự của VC. Được sự chấp thuận của Moor, Adams bỏ thì giờ tìm đọc tất cả các tài liệu bắt được của VC (đã được CDEC chuyển dịch sang Anh ngữ) và sưu tập lại trong các thông cáo nội bộ của CIA, gọi là “Bulletin” lưu giữ trong văn khố của CIA. Ngày 18-8-1966, ông đọc đến Bulletin mang số 689 mang tựa đề là “Recaptitulated Report on the People’s Warfare Movement from Binh Dinh Province” (Báo cáo tóm lược vể phong trào chiến tranh nhân dân tại tỉnh Bình ĐInh). Tài liệu này chỉ gồm có 3 trang và do Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Không Vận của Hoa Kỳ (U.S. First Air Calvary Division, VC thường gọi là Sư Đoàn 1 Anh Cả Đỏ) tịch thu được trong một cuộc cuộc hành quân tại phía Bắc Bình Định vào ngày 30-5-1966. Tài liệu không có đề ngày, nhưng liệt kê các con số du kích và dân quân tại Bình Đinh của 3 tháng đầu năm 1966. So lại với các con số du kích – dân quân VC tại tỉnh Bình Định trong OB của MACV, Adams lại một lần nữa giựt mình vì rất giống trường hợp của Long An: [13]
Lực Lượng VC Tài Liệu của VC
Du kích 15.800
Dân Quân Tự Vệ 34.441
Tổng cộng 50.241
Tài Liệu của MACV
1.446
3.222
TC 4.668
Adams lập tức báo cáo ngay cho George Allen, và Dean Moor và được lệnh viết ngay một báo cáo chính thức về chuyện này. Trong lúc viết báo cáo này, Adams lại phát hiện thêm một tài liệu về lực lượng du kích – dân quân của VC trong tỉnh Phú Yên, ở phía Nam của tỉnh Bình Định, và nhận ra sự khác biệt giữa con số trong tài liệu của VC và tài liệu của MACV cũng giống hệt như các trường hợp của các tỉnh Long An và Bình Định: tài liệu của VC cho biết tổng số là 20.407 trong khi tài liệu của MACV chỉ ghi có 3.210. Cũng trong thời gian này, Adams lại tìm thấy một tài liệu khác còn quan trọng hơn rất nhiều. Đó là một tài liệu của Trung Ương Cục Miền Nam tức là Bộ Chỉ Huy Tối Cao của tất cả lực lượng Cộng sản tại Miền Nam Việt Nam (người Mỹ thường dùng chữ tắt để gọi là COSVN = Central Office for South Vietnam; tên chính thức là Ban Chấp Hành Trung ương của Đảng Nhân Dân Cách Mạng = Central Executive Committee of the People’s Revolutionary Party). Tài liệu này ghi rõ là “…cố gắng gia tăng lực lượng du kích và dân quân lên mức 250.000-300.000 vào cuối năm 1965.” [14] Như vậy, rõ ràng là con số ước lượng 100.000 du kích – dân quân trong OB của MACV là hoàn toàn quá thấp, khó có thể chấp nhận được. Adams quyết định đưa con số 250.000 ước tính cho lực lượng du kích – dân quân VC vào báo cáo của ông. Tuy không được mọi người hoàn toàn ủng hộ, sau cùng, ngày 8-9-1966, báo cáo của Adams cũng được R. Jack Smith, lúc đó là Phó Giám Đốc CIA Đặc Trách về Tình Báo (Depuy Director for Intelligence, hay thường được gọi tắt là DDI) cho phép in và lưu hành giới hạn (chỉ in 25 bản, thay vì 200 bản) như là một bản thảo mà thôi (draft working paper), với chỉ một bản duy nhứt gửi đi Việt Nam cho Trưởng Ban OB của MACV là Đại Tá Hawkins. Người mang bản duy nhứt này về Việt Nam cho Đại Tá Hawkins là George Fowler, một nhân viên của Cơ Quan Quân Báo của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ (Defense Intelligence Agency, hay DIA).
Đương đầu với MACV
Đầu tháng 10-1966, Fowler trở về Mỹ và cho biết MACV, thông qua một yêu cầu từ Đại Tá Hawkins gửi cho các toán Cố vấn quân sự Mỹ ở khắp 44 tỉnh của VNCH, đã bắt đầu tiến hành việc xét duyệt lại tất cả các ước tính trong OB, kể cả lực lượng du kích – dân quân của VC. Một tháng sau, vào ngày 7-11-1966, Adams nhận được một tin làm ông rất phấn khởi: báo cáo đầu tiên về lực lượng du kích – dân quân của VC, theo yêu cầu của Đại Tá Hawkins, từ tỉnh Quảng Tín cho biết con số là 17.027, so với con số cũ trong OB của MACV chỉ có 1.760,[15] nghĩa là gấp 10 lần, hoàn toàn rất giống như điều mà Adams đã khám phá trước đây. Điều quan trọng hơn là lần này, con số lớn hơn 10 lần đó là do chính 1 đơn vị của MACV ghi nhận và báo cáo.
Cũng trong thời gian này, Adams khám phá thêm 2 chuyện rất quan trọng:
• Thứ nhứt là tầm quan trọng của lực lượng du kích – dân quân của VC trong Chiến Tranh Việt Nam: theo một bài báo đăng trên tờ New York Times, số ra ngày 7-10-1966, số thương vong của quân đội Hoa Kỳ trong Đệ Nhị Thế Chiến và Chiến Tranh Việt Nam là như sau:
Nguyên Nhân Thế Chiến 2 CT Việt Nam
Pháo binh 61% 21%
Lựu đạn 2% 16%
Mìn bẩy 3% 21%
Adams tìm hiểu thêm qua trao đổi với các nhân viên CIA vốn là các cựu sĩ quan đã từng tham chiến tại Việt Nam và được biết mìn bẩy là do các lực lương du kích – dân quân của VC thực hiện. Như vậy du kích – dân quân của VC là lực lượng đã gây hơn 1/5 thống kê về thương vong của binh sĩ Hoa Kỳ, một con số thống kê rất đáng kể.
•Thứ hai là MACV đã từng cố tình hạ thấp con số về du kích – dân quân của VC trong OB của họ. Thông tin này do chính George Allen cung cấp cho Adams. Chuyện này xảy ra từ đầu năm 1963 lúc MACV còn mang danh hiệu là MAAG (Military Assistance Advisory Group) dưới quyền Tướng Paul D. Harkins. Dựa vào một tài liệu bắt được của VC, Allen tính ra con số du kích – dân quân của VC lúc đó là vào khoảng trên 100.000. Con số này đã được Ban 2 (J-2 = Tình báo) của MAAG chấp nhận nhưng khi J-2 trình lên thì Harkins không chấp nhận và chỉ cho phép ghi 70.000 thôi.
Như vậy, rõ ràng cái khó khăn của CIA sẽ là thái độ coi thường của MACV đối với tầm quan trọng của lực lượng du kích – dân quân của VC cũng như thói quen tùy tiện của MACV trong việc ước lượng lực lượng của địch trong OB của họ. Để có thể đương đầu với MACV, lực lượng đang thi hành chủ trương sử dụng quân sự tại Việt Nam của Chính phủ Hoa Kỳ, CIA cần phải đoàn kết và thống nhứt ý kiến trong nội bộ. Adams quyết định xin chuyển sang làm việc trực tiếp với George Carver và George Allen như một nhân viên của SAVA, trực thuộc dưới quyền của Giám Đốc CIA lúc đó là Richard Helms.[16] Adams chính thức làm việc với SAVA từ tháng 1-1967. Ngay trong tuần lễ đầu tiên, Adams dàn xếp để được SAVA chỉ định thuyết trình cho Hội Đồng Ước Tính Tình Báo Quốc Gia (Board of National Estimates = BNE, là một bộ phận của ONE gồm khoảng trên dưới 10 chuyên gia cao cấp về tình báo)) về lực lượng du kích – dân quân của VC. Trên cơ sở của bài thuyết trình này của Adams, BNE soạn thảo và phổ biến một tài liệu đến tất cả các cơ quan tình báo của Hoa Kỳ, và lần đầu tiên ghi rõ con số ước tính cho lực lượng du kích – dân quân của VC là “từ 250.000 đến 300.000.”
Phấn khởi với thành quả này, ngày Thứ Ba, 10-1-1967, Adams soạn thảo một văn kiện quan trọng, mang tính chất như một nghị định (decree), cho George Carver, với tư cách là SAVA, trình cho Richard Helms ký, mang tựa đề “Revising the Viet Cong Order of Battle” (Duyệt xét lại Bảng Trận Liệt của Việt Cộng), và chỉ thị cho DDI (Deputy Director for Intelligence, lúc đó là R. Jack Smith) thi hành.
Mười ngày sau, Thứ Sáu 20-1-1967, CIA nhận được một văn thư từ Đại Tướng Earl G. Wheeler, Tham Mưu Trưởng Liên Quân (Chairman of the Joint Chiefs of Staff, sĩ quan cao cấp nhứt của quân đội Hoa Kỳ, dứng đầu Bộ Tham Mưu Liên Quân gồm 4 vị tướng Tham Mưu Trường của 4 quân chủng Hải Quân, Lục Quân, Không Quân và Thủy Quân Lục Chiến, do chính Tổng Thống bổ nhiệm, với nhiệm kỳ là 2 năm và có thể được tái bổ nhiệm). Văn thư nói lên phản ứng tiêu cực của Bộ Quốc Phòng và Quân Đội đối với con số ước tính mới về lực lượng du kích – dân quân của CIA trong văn kiện do BNE phổ biến. Wheeler cũng quyết định triệu tập một hội nghị tại Honolulu (tiểu bang Hawaii) vào ngày 6-2-1967 để các đại diện chính thức của CIA, DIA, MACV, vv. thảo luận và giải quyến vấn đề khác biệt giữa các con số OB của CIA và MACV. Trên thực tế, hội nghị này chẳng giải quyết gì cả, chỉ khẳng định là OB là thuộc lãnh vực thẩm quyền của MACV mà thôi. Như vậy, lập trường của MACV về OB đã lộ rõ. MACV sẽ không theo đề nghị của CIA về con số ước tính lực lượng du kích – dân quân VC của CIA, mà MACV cho là quá cao. CIA cũng không nhượng bộ, không chấp nhận con số của MACV mà CIA cho là quá thấp. Theo MACV, toàn bộ (kể cả du kích – dân quân) lực lượng của VC là khoảng 270.000 người, trong khi đó CIA tin rằng con số này phải là gần 600.000.[17]
Các cuộc tranh luận về SNIE 14.3-67
Ngày 12-6-1967, ONE công bố bản thảo của SNIE 14.3-67 trong đó sử dụng con số ước tính 250.000 cho lực lượng du kích – dân quân của VC. Cuộc thảo luận đầu tiên về SNIE 14.3-67 được ấn định vào ngày 23-6-1967.
Cuộc thảo luận đầu tiên này chỉ là để cả hai phe, CIA và MACV, thăm dò phản ứng của nhau thôi nên không đi tới đâu cả. Cả hai phe đều giữ vững lập trường, cố gắng bảo vệ con số của mình đưa ra, và phản bác con số của đối phương đưa ra. Trong tháng 6-1967 còn có thêm ba cuộc thảo luận nữa nhưng lập trường của cả hai phe cũng vẫn như cũ. Đầu tháng 7-1967, Adams nhận được 1 công điện mật từ Sài Gòn do George Carver gởi về. Carver cho biết đã có một buổi họp với Đại Tá Hawkins, Trưởng Ban OB của MACV và Thiếu Tướng Philip B. Davidson, vừa mới thay thế Thiếu Tướng Joseph A. McChristian trong chức vụ Trưởng Ban Tình Báo (J-2) của MACV. Buổi họp diễn ra khá tốt đẹp với kết quả là lập trường của MACV đã có nhiều thay đổi và tiến gần với lập trường của CIA. Cụ thể là: 1) Đại Tá Hawkins đồng ý trên căn bản đối với con số ước tính 100.000 người của CIA về lực lượng du kích của VC; ông cũng cho rằng con số 75.000 của CIA về lực lượng hậu cần (service troops) của VC chỉ là hơi cao một chút mà thôi; 2) Sau khi nghe Tướng Davidson cho biết nếu chấp nhận hoàn toàn con số OB cao của CIA, MACV sẽ gặp khó khăn lớn về chính trị, nhứt là với báo chí, Carver đã đề nghị một giải pháp thỏa hiệp như sau: chia OB (với tổng số khoảng 500.000) thành 2 phần, phần “quân sự” bao gồm các lực lượng chính quy, hậu cần, và du kích, với tổng số khoảng 300.000, và phần “dân sự” bao gồm dân quân tự vệ, và cán bộ chính trị, với tổng số khoảng 200.000; với cách này, MACV sẽ dễ biện minh hơn cho tổng số mới của OB. Tướng Davidson cho rằng đây có vẻ là một ý kiến hay và hứa là ông sẽ trình lại với Tướng Westmoreland, Tư Lệnh MACV. Để cho MACV có thời gian giải quyết những khó khăn trong nội bộ, CIA quyết định dời phiên họp kế tiếp về SNIE 13.4-67 sang tháng 8-1967, khi đó chính Đại Tá Hawkins sẽ từ Sài Gòn sang dự.[18]
Khi cuộc họp diễn ra vào đầu tháng 8-1967 với sự hiện diện của Đại Tá Hawkins từ Sài Gòn sang thì Adams bị hoàn toàn bất ngờ. Bảng OB trình bày lực lượng của VC gần như không thay đỗi gì cả với tổng số là 298.900 như sau: [19]
Quân chính quy 120.400
Quân hậu cần 26.000
Du kích – Dân Quân 65.000
Cán bộ chính trị 87.500
Tổng số 298.900
Về phía MACV, cùng tham dự buổi họp với Đại Tá Hawkind còn có Chuẩn Tướng George A. Godding, Deputy J-2 của MACV, tức là phó tướng của Thiếu Tướng Davidson. Ngoài ra, trong các lúc nghỉ giải lao, Đại Tá Hawkins luôn luôn cho các nhân viên CIA biết là ông tin rằng các con số của CIA là đúng hơn các con số của MACV, nhưng mỗi khi họp thì ông luôn luôn nói theo các con số chính thức của MACV. Các tín hiệu này cho phép Adams nghĩ và tin rằng Đại Tá Hawkins đã bị trói tay và sự hiện diện của Tướng Godding là để kềm chế ông. Cuộc họp về SNIE 14.3-67 lần này diễn ra trên 10 ngày với rất nhiều buổi họp nhưng cũng chẳng đi tới một thỏa hiệp nào gữa CIA và MACV. Một điều chắc chắn là MACV, mà Tư Lệnh là Đại Tướng William Westmoreland và Tư Lệnh Phó là Đại Tướng Creighton Abrams, đã dứt khoát quyết định không chấp nhận ước tính về lực lượng VC của CIA. Tại sao vậy ?
Chính-trị-hóa tình báo
Adams không phải chờ đợi lâu để hiểu rõ lập trường của MACV. Ngày 21-8-1967, Tướng Abrams, Tư Lệnh Phó của MACV, gửi 1 công điện cho Tướng Wheeler, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, và Tướng Wheeler đã chuyển cho CIA. Trong công điện, Abrams nói rõ quan điểm của MACV đối với SNIE 14.3-67 là phải loại bỏ ước tính của CIA về lực lượng dân quân của VC vì, nếu giữ lại, thì tổng số lực lượng của VC sẽ vượt xa con số mà Bộ Tư Lệnh MACV đã trình bày với báo chí tại Việt Nam. Từ mấy tháng qua, MACV đã tiên đoán về một chiến thắng sắp tới; nếu bây giờ con số lực lượng cao như vậy của VC được công chúng biết đến thì khó mà ngăn cản báo chí đi đến một kết luận đen tối và sai lầm. Một lúc sau, Tướng Westmoreland cũng gởi một công điện cho biết hoàn toàn đồng ý với Tướng Abrams.[20]
Như vậy, quan điểm của MACV đã rất rõ ràng: họ dứt khoát không chấp nhận, và sẳn sàng bỏ qua ước tính tình báo của CIA không phải vì ước tính này sai lầm mà chỉ vì ước tính này đi ngược lại cái nhìn lạc quan (sắp thắng VC đến nơi rồi) của họ về Chiến tranh Việt Nam. Lập trường lạc quan này của MACV dựa trên hai tiền đề như sau: 1) chiến lược “Search and Destroy = Lùng và Diệt địch,” nồng cốt của quan niệm chiến tranh tiêu hao (war of attrition) làm cho địch bị kiệt quệ dần về nhân lực và sau cùng phải chịu bỏ cuộc; 2) quan niệm về “Crossover Point = Điểm vượt,” thời điểm khi sự hao mòn về nhân lực của địch vượt quá khả năng bổ sung của địch. Dựa vào OB của VC mà họ đã ước tính thì tại thời điểm giữa năm 1967 này, VC đã sắp đến “điểm vượt” rồi.[21] Đến tháng 6, dựa trên một báo cáo của Đại Tá Daniel Graham, một phân tích viên của ban OB thuộc J-2, MACV tin rằng VC đã đến “điểm vượt” rồi.[22] Lập trường lạc quan này cũng chính là điều mong ước của Chính phủ Hoa Kỳ do Tổng Thống Johnson lãnh đạo. Từ khi lập quốc, trong gần 2 thế kỷ, Hoa Kỳ chưa bao giờ bại trận, và từ sau Thế Chiến 2, Hoa Kỳ đã trở thành cường quốc số 1 của thế giới. Chuyện tin tưởng là Hoa Kỳ cũng sẽ thắng trong cuộc chiến tranh này tại Việt Nam cũng là một điều có thể được chấp nhận đễ dàng. Lập trường lạc quan của Bộ Tư Lệnh MACV tại Việt Nam, dĩ nhiên, đã được báo cáo về Mỹ và hoàn toàn được Chính phủ Johnson hoan nghênh và tích cực ủng hộ. Trên thực tế, nó đã trở thành lập trường chính thức của Chính phủ Mỹ. Cơ quan CIA là một bộ phận của Chính phủ Mỹ, và Giám Đốc CIA, Richard Helms, do chính Tổng Thống Johnson bổ nhiệm, không thể đi ngược lại đường lối, chủ trương của Chính phủ Mỹ được. Do đó, chuyện phải xảy ra đã xảy ra.
Đầu tháng 9-1967, cùng với Carver cầm đầu phái đoàn CIA, Adams bay sang Sài Gòn để dự một hội nghị về OB tại tổng hành dinh của MACV tại Tân Sơn Nhứt. Hội nghị OB khai mạc đúng 10:30 sáng Thứ Bảy, 9-9-1967, dưới sự chủ tọa của Tướng Davidson, J-2 của MACV. Carver giữ vững lập trường của CIA, tích cực chống lưng cho Adams trong việc đối phó với Tướng Davidson và các thủ hạ của ông ta, từng bước đánh đổ các ước tính của MACV. Trước tình hình này, MACV đành phải dùng đến con bài chủ để đánh bại Carver: lệnh của Chính phủ Hoa Kỳ. Cơ quan CIA, mà đứng đầu là Giám Đốc Richard Helms, đã bị áp lực rất nặng nề từ phía chính quyền Johnson. Kết quả là ngày Thứ Hai, 11-9-1967, Carver đã nhận được một công điện từ Helms ra lệnh cho ông phải, bằng mọi cách, đi đến đồng thuận với MACV. Ngay ngày hôm đó, Carver điện về cho Helms, với câu mở đầu như sau: “We have squared the circle.” (Tạm dịch: Chúng ta đã đóng khung vuông được cái vòng tròn rồi, nghĩa bóng: Chúng ta đã làm xong được cái chuyện không thể nào làm được). Ngày hôm sau, Thứ Ba, 12-9-1967, ước tính OB của VC mà MACV và CIA đồng thuận là như sau: [23]
Quân chính quy 119.000
Quân hậu cần 37.500
Quân du kích 80.000
Tổng số quân 236.500
Cán bộ chính trị 80.000
Trở về Mỹ, CIA tiếp tục tổ chức các cuộc thảo luận về SNIE 14.3-67 với các cơ quan tình báo khác của Hoa Kỳ. Adams tiếp tục chống đối trong vô vọng. Sau cùng, SNIE 14.3-67 cũng được thông qua và công bố ngày 13-11-1967 với chữ ký của Richard Helms, Giám Đốc CIA và với sự đồng thuận của:
•Thomas L. Hughes, Giám Đốc INR của Bộ Ngoại Giao
•Trung Tướng Joseph F. Carroll, Giám Đốc DIA, Bộ Quốc Phòng
•Trung Tướng Marshall S. Carter, Giám Đốc NSA (National Security Agency = Cơ Quan An Ninh Quốc Gia)
Trong tài liệu này, lực lượng quân sự của Cộng sản tại Miền Nam được ghi rõ như sau: [24]
• Quân chính quy Bắc Việt: 54.000
• Quân chính quy và địa
phương của Việt Cộng: 64.000
Tổng cộng: 118.000
Con số quân du kích được ước tính vào khoảng 70.000 – 90.000 (tr. 14 của SNIE 14.3-67). Tài liệu SNIE 14.3-67 cũng có bàn đến lực lượng dân quân tự vệ của VC, và có ghi nhận là một số tài liệu có cho biết là vào đầu năm 1966 lực lượng này gồm khoảng 150.000 nhưng nói rõ là lực lượng này hoàn toàn bị loại bỏ, không được tính vào tổng số lực lượng quân sự của VC.[25]
Hậu quả của việc chính-trị-hóa tình báo
Các cơ quan tình báo của các quốc gia đều có nhiệm vụ cung cấp cho các nhà lãnh đạo những tin tức mà họ thu thập được và đã được họ đánh giá là có mức độ khả tín cao để giúp cho các nhà lãnh đạo thực hiện được những chính sách đúng đắn. Vì thế, trên nguyên tắc, về phương diện tổ chức, các cơ quan tình báo thường có cơ chế độc lập, không lệ thuộc nặng nề vào các tổ chức chính quyền. Do đó, một khi cơ quan tình báo chịu sự sai khiến của chính quyền, và chỉ cung cấp cho chính quyền những tin tức mà chính quyền muốn có, muốn nghe thì hậu quả chắc chắn sẽ không tốt đẹp. Và đó chính là hoàn cảnh mà CIA đã lâm vào trong thời gian cuối năm 1967, đưa đến việc họ đã không tiên đoán được vụ Tổng Tấn Công Mậu Thân vào cuối tháng 1-1968.
Cuối tháng 11-1967, Walt W. Rostow, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Johnson, yêu cầu Trạm CIA tại Sài Gòn gởi một báo cáo về những phát triển mới nhứt trong chiến lược của phe Cộng sản. Một ngày sau Lễ Tạ Ỏn (Thanksgiving) của năm 1967, tức là ngày Thứ Sáu, 24-11-1967, Trạm CIA tại Sài Gòn gửi về cho Rostow một báo cáo do phân tích viên Joseph Hovey thực hiện. Trong báo cáo, Hovey nói rõ là Chiến dịch Đông-Xuân 1967-1968 của Cộng quân gồm 3 đợt; đợt 1 đã bắt đầu trong tháng 9-1967 vừa qua, và đợt 3 sẽ chấm dứt vào tháng 6-1968; nhiều tài liệu tịch thu được của địch, đã được ghi chú trong báo cáo, cho biết Cộng quân, nhắm đạt một chiến thắng quyết định trong năm 1968, sẽ thực hiện một cuộc tổng tấn công nhắm vào các thành phố trên khắp lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa.[26]
Rostow đã chuyển cho CIA một bản của báo cáo này và người nhận chính là George Carver, Phụ Tá Đặc Biệt về Việt Nam (SAVA = Special Assistant for Vietnam Affairs) của Giám Đốc CIA Richard Helms. Carver chính là người đã ủng hộ Adams rất tích cực trong vụ tranh chấp về OB của VC với MACV, nhưng sau đó, theo lệnh của Helms, đã thỏa hiệp với MACV. Carver giao cho phụ tá của mình là George Allen xét duyệt báo cáo này. Carver bác bỏ báo cáo, cho rằng những tài liệu tịch thu được của địch đã được nêu trong báo cáo là không đáng tin vì VC cũng đã từng rêu rao về một “chiến thắng quyết định” như vậy từ năm 1966.
Sang đầu tháng 12-1967, ngày 8-12-1967, Joseph Hovey lại gởi thêm một báo cáo nữa, khẳng định lại điều đã ghi nhận trong báo cáo trước (về cuộc Tổng Tấn Công sắp diễn ra của VC vào các thành phố của VNCH) nhưng với nhiều chi tiết hơn, đặc biệt nhấn mạnh là VC sẽ tổ chức các cuộc tấn công lớn ở biên giới để cầm chân các lực lượng của Hoa Kỳ để cho cuộc tổng tấn công vào các thành phố được dễ dàng thành công hơn. Lần này, khi nhận được báo cáo thứ nhì của Hovey, Carver giao cho Phòng Tình Báo Hiện Hành (Office of Current Intelligence = OCI) xét duyệt, và OCI cũng đã bác bỏ báo cáo này, cho rằng Trạm CIA Sài Gòn đã thổi phồng, cường điệu tình hình của địch. Khác với lần trước, lần này Carver cũng tham khảo cả Adams. Adams tin là phân tích của Sài Gòn là rất đáng tin. Như vậy, chỉ có một mình Adams là tin vào báo cáo của Sài Gòn, toàn thể CIA đã không tin, và đã báo cáo như thế cho Rostow.
Cuối năm 1967, Tướng Westmoreland, Tư Lệnh MACV, được triệu về Mỹ để khẳng định lập trường lạc quan này của Chính Phủ Johnson. Ngày 21-11-1967, Westmoreland tuyên bố tại Washinton, D.C. là chiến tranh Việt Nam sắp kết thúc tới nơi rồi.[27]
Thay Lời Kết
Về sau, tất cả mọi người đều đã biết là mọi việc đã diễn ra đúng như báo cáo của Hovey. CIA đã thất bại hoàn toàn, không tiên đoán được cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân đã diễn ra trên khắp lãnh thổ của VNCH vào cuối tháng 1-1968. Cuộc Tổng Tấn Công Mậu Thân sau đó đã là thất bại quân sự rất lớn cho VC nhưng đã đạt được thành quả chính trị vô cùng to lớn. Dân chúng Mỹ không còn tin vào chính phủ nữa, phong trào phản chiến ngày càng mạnh thêm. Tổng Thống Johnson bác bỏ yêu cầu tăng thêm quân của Tướng Westmoreland, chấm dứt nhiệm vụ Tư Lệnh MACV của ông, và cử Tướng Abrams lên thay. Tổng Thống Johnson cũng quyết định không ra tái tranh cử Tổng Thống, và quyết định xuống thang chiến tranh, ngưng oanh tạc Bắc Việt, và kêu gọi phe Cộng sản đến bàn hội nghị. Về phần Adams, sau khi CIA thỏa hiệp với MACV, ông đã chính thức yêu cầu văn phòng Tổng Thanh Tra của CIA mở cuộc điều tra nhưng không đi tới đâu. Ông đã mang một số khá lớn các tài liệu mật của CIA về vụ này ra khỏi cơ quan và chôn dấu trong một khu rừng gần nhà ông. Tháng 5-1973, ông từ chức không làm cho CIA nữa. Sau đó ông liên lạc với nhiều dân biểu quốc hội Mỹ để nói cho họ biết về việc này nhưng không có dân biểu nào quan tâm. Do đó ông quyết định phải viết báo.
Năm 1975, ông viết một bài báo cho tạp chí Harper’s; bài báo được đăng vào tháng đầu 5-1975 nhưng đúng vào lúc VNCH sụp đổ nên bài báo bị chìm đi. Năm 1982, đài truyền hình CBS mời ông cộng tác trong việc thực hiện một chương trình phóng sự điều tra mang tên “The Uncounted Enemy: A Vietnam Deception.” Tướng Westmoreland cho rằng ông bị lăng mạ bởi phóng sự đó nên đã kiện CBS ra tòa. Nội vụ kéo dài mấy năm, với rất nhiều nhân chứng quan trọng. Sau cùng, trước khi tòa án giao cho bồi thẩm đoàn thảo luận, Westmoreland rút lại đơn kiện vào ngày 18-2-1985. Adams đột ngột qua đời vào ngày 10-10-1988 khi còn đang viết chưa xong cuốn hồi ký của ông “War of Numbers.” Từ 2002, các bạn đồng nghiệp CIA của ông tạo ra một giải thưởng mang tên là “Sam Adams Award for Integrity in Intelligence” để tưởng niệm ông.
Ghi Chú:
1. Adams political family, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://en.wìkipedia.org/wiki/Adams_political_fami ly
2. Adams, Sam. War of numbers: an intelligence memoir ; introduction by Colonel David Hackworth. South Royalton, Vermont. : Steerforth Press, 1994. Tr. 33-35.
3. Tướng William C. Westmoreland (1914-2005) là một Đại Tướng. Hệ thống tướng lãnh của quân đội Mỹ là như sau: Brigadier-General = Chuẩn Tướng, 1 sao); Major-General = Thiếu Tướng, 2 sao; Lieutenant-General = Trung Tướng, 3 sao; và Full General hay General = Đại Tướng, 4 sao. Trước kia, còn có cấp General of the Army = Thống Tướng, 5 sao, như các Tướng Douglas McArthur, Dwight Eisenhower, và Omar Bradley. Tướng Bradley là vị Thống Tướng sau cùng của quân đội Hoa Kỳ; sau khi ông qua đời chưa có một tướng lãnh nào được phong lên cấp bậc này nữa cả). Tướng Westmoreland sinh ngày 26-03-1914 tại Spartanburg County, tiểu bang South Carolina. Ông tốt nghiệp trường Vơ Bị West Point khóa 1936. Trong thời gian Đệ Nhị Thế Chiến, ông ch̀ huy một tiểu đoàn pháo binh tại mặt trận Bắc Phi, Sicile và Pháp, và là Tham Mưu Trưởng cûa Sư đoàn 9 Bộ Binh Hoa Kỳ trong giai đoạn cuối cûa Thế Chiến 2. Trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, ông là Tư Lệnh Trung đoàn 187 nhảy dù. Sau chiến tranh Triều Tiên ông là Tư Lệnh Sư đoàn Dù 101 nổi tiếng của Hoa Kỳ. Năm 1960, ông được bổ nhiệm làm Chỉ Huy Trưởng trường Vơ Bị West Point. Đầu năm 1964, ông được bổ nhiệm Tư Lệnh Phó lực lượng cố vấn quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam, dưới quyền Tướng Paul Harkins. Từ tháng 6 năm 1964, ông thay thế tướng Harkins làm Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam. Trong thời gian 1964-1968, với sự hỗ trợ tích cực của Tổng Thống Johnson, ông đă đưa quân số cûa lực lượng này lên đến trên nửa triệu quân. Ông cũng là ngườ đã thực hiện chiến lược “Lùng và Diệt Địch” cûa quân đội Hoa Kỳ trên chiến trường Việt Nam. Sau cuộc Tổng Tấn Công Mậu Thân cûa Việt Công, ông bị rút về Mỹ vào tháng 7 năm 1968. Sau đó ông giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ (U.S. Army Chief of Staff) cho đến khi ông về hưu năm 1972. Ông là tác giä quyển sách “A Soldier Reports” (Garden City, N.Y.: Doubleday, 1976).
4. MACV là chữ viết tắt của Military Assistance Command – Vietnam, tức là Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
5. RAND Corporation là một tổ chức bất vụ lợi (non-profit organization) do Công ty sản xuất phi cơ Douglas Aircraft Company của Hoa Kỳ thành lập vào năm 1948 để phục vụ công tác nghiên cứu và phát triển (Research and Development, vì thế nên tổ chức được đặt tên là RAND) cho Không Lực Hoa Kỳ. Sang thập niên 1960, RAND trở thành 1 think tank có mục tiêu là trợ giúp chính phủ Hoa Kỳ trong việc nghiên cứu và hình thành các chính sách. Do đó, RAND đã tham gia rất tích cực vào các dự án nghiên cứu cho Chính phủ Hoa Kỳ trong thời gian chiến tranh Việt Nam.
6. Adams, sđd, tr. 46.
7. Số binh sĩ tử trận (KIA = Killed In Action) của quân đội Mỹ trong năm 1966 đã gia tăng như sau:
- Tháng 1: 196
- Tháng 2: 208
- Tháng 3: 231
- Tháng 4: 245
- Tháng 5: 255
- Tháng 6: 268
- Tháng 7: 277
- Tháng 8: 297
- Tháng 9: 313
- Tháng 10: 342
- Tháng 11: 356
- Tháng 12: 385
Nguồn: Vietnam War deaths and casualties by month, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.americanwarlibra ry.com/vietnam/vwc24.htm
8. Air America là 1 công ty hàng không do chính phủ Hoa Kỳ thành lập, và được cơ quan CIA sử dụng trong các hoạt động cả công khai lẩn bí mật. Nó là đề tài cho cuốn phim của Hollywood có cùng tên, sản xuất năm 1990, do 2 tài tử Mel Gibson và Robert Downey, Jr. đóng vai chánh, nói về các hoạt động bí mật của CIA (buôn thuốc phiện trắng) tại Lào.
9. Đoàn Thêm. 1966: việc từng ngày; tựa của Lãng Nhân. Sài Gòn: Cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai, 1968. Los Alamitos, Calif.: Xuân Thu tái bản, 1989. Tr. 29.
10. Adams, sđd, tr. 58. Nguyên văn trong sách như sau: “…The 506th’s up in the northern part of the province, up near Hau Nghia. It’s back up to T, O and E.” Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “… Tiểu đoàn 506 đã có mặt tại phía Bắc của tỉnh, gần Hậu Nghĩa. Nó đã bổ sung xong đầy đủ quân số và trang bị.” Các chữ “T,O and E” là viết tắt cho “Table of Organization and Equipment” trong ngữ vựng tình báo Mỹ và có nghĩa là “đầy đủ quân số và trang bị.”
11. Adams, sdd, tr. 59-60.
12. Lâm Vĩnh Thế. Tình báo trong Chiến Tranh Việt Nam, tài liệu trực tuyến, đã đăng trong trang Web Nam Kỳ Lục Tỉnh, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://sites.google.com/site/namkyl...tranh-viet-nam, tr. 18-19.
13. Adams, sđd, tr. 65-66.
14. Adams, sđd, tr. 68.
15. Adams, sđd, tr. 77.
16. Richard Helms, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://en.wikipedia.org/wiki/Richard_Helms Helms là 1 nhân viên tình báo chuyên nghiệp, xuất thân từ tổ chức OSS (Office of Strategic Services, tiền thân của CIA, trong thời gian Đệ Nhị Thế Chiến); khi CIA được thành lập, ông là Chief of Operations, dưới quyền DDP (Deputy Director for Plans) Frank Wisner; sau đó ông trở thành DDP dưới thời Tổng Thống Kennedy, và sau cùng được Tổng Thống Johnson bổ nhiệm làm Giám Đốc CIA (DCI = Director of Central Intelligence).
17. Ford, Ronnie E. Tet 1968: understanding the surprise; forewords by General William C. Westmoreland and George W. Allen. London: Frank Cass, 1995. Tr. 172-173.
18. Adams, sđd, tr. 96-97.
19. Adams, tr. 101.
20. Adams, sđd, tr. 106. Công điện của Abrams có những đoạn như sau: “… the resulting sum would be in sharp contrast to the current overall strength figure of about 299,000 given to the press here… We have been projecting an image of success over recent months… if the higher numbers were to become public, all caveats and explanations will not prevent the press from drawing an erroneous and gloomy conclusion…” Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “… tổng số đưa đến sẽ nghịch hẳn với tổng số hiện nay cho toàn bộ lực lượng [của VC] là 299.000 đã cung cấp cho báo chí ở đây… Mấy tháng vừa qua, chúng ta đã đưa ra một hình ảnh chiến thắng … nếu những con số cao hơn đó được công bố , tất cả những báo động, giải thích sẽ không ngăn chận được báo chí đi đến kết luận sai lầm và ảm đạm …” Công điện của Westmoreland có những đoạn như sau: “… I have just read General Abrams’ [message], and I agree… no possible explanations could prevent the erroneous conclusions that would result.” Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “… Tôi vừa đọc xong [công điện] của Tướng Abrams, và tôi đồng ý… không có lời giải thích nào có thể ngăn chận được những kết luận sai lầm từ đó.”
21. Ford, Harold P. CIA and the Vietnam policymakers: three episodes, 1962-1968. Langley, Va.: Central Intelligence Agency, Center for the Study of Intelligence, 1998. Tr. 87. Tác giả viết rõ như sau: “… the MACV staff had been claiming for some time that the enemy was suffering great losses in Vietnam, and in mid-1967 predicted that a “crossover” would soon occur when losses would exceed the replacement capacity;…” Tạm dich sang Việt ngữ như sau: “… nhân viên MACV, trong một thời gian, đã cho rằng địch đã bị thiệt hại nặng tại Việt Nam, và vào giữa năm 1967 đã tiên đoán rằng “điểm vượt” sắp xảy ra khi thiệt hại vượt quá khả năng bổ sung; …).
22. Wirtz, James J. The Tet Offensive: intelligence failure in war. Ithaca, N.Y.: Cornell University Press, 1991. Tr. 119. Nguyên văn Anh ngữ như sau: “In June 1967, MACV analysts claimed that the crossover point had been reached throughgout South Vietnam. In the “Crossover Memo of June 1967,” Col. Daniel Graham, an analyst in the order-of-battle section at MACV J-2, stated that the monthly infiltration rate had dropped to 6,000-7,000 men per month, and that VC recruitment had dropped to 3,500 per month. At these rates, the enemy was losing men faster than they could be replaced. Graham’s memo formed the basis of the June measurement of progress report, which stated that the crossover point had been reached.” Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Vào tháng 6-1967, các phân tích viên của MACV cho rằng đã đạt đến điểm vượt trên khắp lãnh thổ của Nam Việt Nam. Trong “Công văn về điểm vượt tháng 6-1967,” Đại Tá Daniel Graham, phân tích viên của ban OB của J-2 của MACV, cho biết là mức độ xâm nhập hàng tháng của địch đã giảm xuống còn 6.000-7.000 người một tháng, và mức độ tuyển mộ của VC đã giảm xuống còn 3.500 một tháng. Với các mức độ này, địch quân đang tổn thất người nhanh hơn mức bổ sung. Công văn của Graham đã tạo nên căn bản cho các tính toán trong báo cáo của tháng 6 cho rằng điểm vượt đã đạt đến.”
23. Adams, sđd, tr. 117.
24. Special National Intelligence Estimate Number 14.3-67: Capabilities of the Vietnamese Communists for Fighting in South Vietnam, tr. 11.
25. Tài liệu SNIE 14.3-67 vừa kể trên, tr. 15-16.
26. Ovodenko, Alexander, “Visions of the enemy from the field and from abroad: revisiting CIA and military expectations of the Tet Offensive,” Journal of strategic studies, v. 34, no. 1 (Feb. 2011), tr. 125. Nguyên văn Anh ngữ như sau: “…that the Winter–Spring campaign consisted of three phases, with the first phase having begun in September 1967 and the third phase expected to end in June 1968. Captured documents referenced in the report suggested that the communists intended to achieve a decisive victory in 1968 by launching large-scale offensives, including against urban centers throughout South Vietnam,...”
27. Valentine, Tom. Credibility gap, tài liệu trực tuyến, đăng trong trang Web The Vietnam War, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://thevietnamwar.info/vietnam-wa...edibility-gap/ Bài viết này có ghi như sau: “Throughout 1967, Johnson administration began to propagate an optimistic picture about the U.S. situation in Vietnam. In late 1967, General William Westmoreland, the head commander of Military Assistance Command, Vietnam (MACV), returned to the United States to give an upbeat assessment of the American War in Vietnam. In the speech before the National Press Club in Washington D.C. on November 21, Westmoreland announced the U.S. “had turned the corner in the war” and that the end of the war in Vietnam “began to come into view”. Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Suốt năm 1967, chính phủ Johnson bắt đầu phổ biên một hình ảnh lạc quan về tình hình của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Cuối năm 1967, Tướng William Westmoreland, cầm đầu Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam, về Mỹ để cung cấp một đánh giá phấn khởi về Chiến tranh Việt Nam. Trong bài diễn văn tại Câu Lạc Bộ Báo Chí Quốc Gia tại Washington, D.C. vào ngày 21 Tháng Mười Một, Westmoreland tuyên bố là Hoa Kỳ “đã vượt qua khúc quanh của cuộc chiến” và kết thúc của cuộc chiến “đã bắt đầu hiện ra trong tầm nhìn.”
Lâm Vĩnh Thế
Librarian Emeritus, M.L.S.
University of Saskatchewan
CANADA
hoanglan22
02-11-2019, 14:18
“Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi
Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi
Người thương gia lợi tức
Người công nhân ấm no
Thoát ly đời gian lao nghèo khó…”
Đó là những ca từ mở đầu cho bài nhạc quen thuộc “Ly rượu mừng” [1] của nhạc sĩ Phạm Đ́nh Chương. Mỗi độ xuân về, cho đến tận bây giờ, “Ly rượu mừng” đă đi vào kư ức của người miền Nam nói chung và người Sài G̣n nói riêng. Tuy nhiên, măi tới năm nay (2016) nhà nước mới “cởi trói” [2] cho một bản nhạc tưởng chừng như… “vô tội vạ”.
H́nh như, theo quan điểm chính trị của Cục Nghệ thuật Biểu diễn, lời của bản nhạc có câu chúc “người binh sĩ lên đàng” rồi lại vinh danh họ là “người v́ nước quên thân ḿnh”… (hiểu ngầm là quân nhân VNCH):
“… Rót thêm tràn đầy chén quan san
Chúc người binh sĩ lên đàng
Chiến đấu công thành
Sáng cuộc đời lành
Mừng người v́ Nước quên thân ḿnh…”
Bản nhạc được sáng tác năm 1956 với âm điệu tươi vui như một lời chúc Tết tốt đẹp theo truyền thống dân tộc. Lời chúc đó gửi tới mọi thành phần xă hội: từ “anh nông phu”, “người công nhân”, “đôi uyên ương”, “người nghệ sĩ” cho đến các thương gia và binh sĩ. Ngay từ khi ra đời, ca khúc đă được ḷng khán thính giả và là tác phẩm được nghe nhiều nhất trong mỗi dịp xuân về tại Miền Nam.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1339646&stc=1&d=1549894351
“Ly rượu mừng”, nhà xuất bản Tinh Hoa ấn hành lần thứ nhất, năm 1956
Sài G̣n xưa ăn Tết rất kỹ. Theo đúng tính cách phóng khoáng, “xả láng” và “chịu chơi” của người Phương Nam:
“Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè”.
Người Miền Nam dùng thuật ngữ “ăn nhậu” để mô tả những hoạt động vui chơi, giải trí sau những ngày làm việc cật lực. Đó là cái tinh thần… “xả láng sáng về sớm”. Ngày Tết người ta tạm quên những công việc hàng ngày để đón mừng năm mới với hai thú vui chính là ăn uống và “nhậu nhẹt”.
Tùy theo túi tiền của từng người, rượu có thể là “rượu tây” thứ “xịn” như Whiskey, Bourbon, Johny Walker (Ông Già Chống Gậy), Champagne… hoặc các loại rượu “nội hóa” như Đế G̣ Đen hay chai bia BGI “Con Cọp”… Để “đưa cay” nhiều khi chỉ cần “củ kiệu tôm khô”, thậm chí chỉ là miếng xoài, trái cóc. Dân nhậu thường nhắc:
“Ăn nem Thủ Đức
Uống rượu Bến Lức G̣ Đen”.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1339647&stc=1&d=1549894351
Rượu Đế G̣ Đen
Đối với nhiều gia đ́nh, thiếu bánh chưng, bánh tét sẽ mất đi hương vị của Tết. Có nghèo lắm cũng cố rước về 1 hay 2 đ̣n bánh tét để trước là cúng ông bà và sau đó là “xẻ” ra cho con cháu để t́m lại chút hương vị ngày xuân. Có thêm vài miếng dưa món ăn kèm sẽ làm cho miếng bánh chưng, bánh tét đỡ ngán!
Nồi thịt kho hột vịt lúc nào cũng hiện diện trên bếp, hâm đi hâm lại sau mỗi lần ăn. Hạt dưa cắn lách tách đến độ đỏ hết hai vành môi, khỏi cần tô son. Có nhiều loại mứt Tết làm từ cây trái: mứt dừa, mứt bí, mứt măng cầu, mứt me… Trái cây tươi th́ có dưa hấu giải nhiệt trong cái nắng hanh vàng của những ngày Tết.
Người Sài G̣n có câu thật dí dỏm “Cầu Dừa Đủ Xài” là tổng hợp của của 4 loại trái: măng cầu, dừa, đu đủ và xoài. Ngày nay, lang thang trên mạng tôi bắt gặp không phải là 4 thứ trái cây mà c̣n thêm cả Bơm (táo), Vú (vú sữa), Sung, Quất (tắc), Bầu.. Ta có một bài thơ “ngũ ngôn tứ tuyệt” rất gợi h́nh trong ngày Tết:
“Bơm vú dừa đủ xài
Cầu sung dừa đủ quất
Cầu quất dừa đủ bầu
Cầu bầu dừa đủ sữa”
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1339648&stc=1&d=1549894351
Hết “ăn” lại nói đến chuyện “chơi” trong ngày Tết. Về khoản này, dân Sài G̣n chiếm ngôi vị “số dách” trong các món chơi. Tuy nhiên, cũng phải xác định có hai cách: “chơi” trong nhà và “chơi” ngoài đường. Nói khác đi là những tṛ đỏ đen, bài bạc vui xuân ngoài cộng đồng hoặc trong gia đ́nh.
Có thể nói, “bầu cua cá cọp” là món thịnh hành nhất trong ngày Tết, diễn ra khắp mọi nơi, từ trong nhà ra ngoài đường. Ṣng bầu cua lưu động ngoài đường c̣n có cả những người “canh me”, hễ thấy bóng dáng “phú-lít” là báo động giải tán.
Lập ṣng bầu cua cũng đơn giản. Chỉ cần một miếng vải hoặc giấy vẽ h́nh 6 biểu tượng: nai, bầu, gà, cá, tôm và cua. Nhà cái c̣n trang bị thêm 3 viên súc sắc h́nh khối vuông, trên mỗi mặt có vẽ h́nh các biểu tượng tương ứng với 6 “linh vật”. Cần thêm một cái chén và cái đĩa để “lắc” ba viên xúc xắc.
Người chơi chỉ việc đặt tiền vào những “linh vật” sau khi nhà cái lắc 3 viên súc sắc được giữ kín trong chén úp trên đĩa. Sau khi mở chén, ba con súc sắc xuất hiện 3 “linh vật” và những ai đặt tiền vào linh vật đó sẽ được nhà cái “chung tiền”. Ngược lại, tiền đặt vào những ô không xuất hiện nhà cái sẽ… “hốt” hết.
Tính theo xác suất tỷ lệ thắng thua đối với nhà cái là 50% nhưng thực tế mỗi lần mở chén nhà cái chỉ thắng hoặc huề chứ ít khi thua. Trường hợp cả ba súc sắc đều giống nhau, nhà cái sẽ chung gấp ba nhưng nếu không ai đặt cửa này th́ nhà cái sẽ “thắng lớn” v́ gom tiền hết ṣng!
Có người giải thích tṛ “bầu cua cá cọp” là một biến thể của “roulette” ở Phương Tây hay “tài sửu” (đại & tiểu) của Tầu. Đây là một tṛ cờ bạc thuộc loại “b́nh dân” có sức hấp dẫn cả người lớn lẫn trẻ em. Đối với trẻ em, nhân ngày Tết nhận tiền “ĺ x́” thường ghé vào các đám bầu cua trong xóm hoặc vui chơi trong gia đ́nh, anh chị em tổ chức đánh bầu cua “thử thời vận năm mới”. Có một câu hát dí dỏm trẻ con đặt ra thời xa xưa khi chuyện chưởng của Kim Dung thịnh hành:
“Có cô gái Đồ Long lắc bầu cua,
Lắc ba cái ra ba con gà mái…”
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1339649&stc=1&d=1549894351
“Bầu cua cá cọp” ngày Tết
Miền Nam tiếp xúc với văn hóa Phương Tây rất sớm nên bộ “Bài Tây” 52 cây đă thâm nhập vào các tỉnh phía Nam ngay sau khi người Pháp đặt chân đến Sài G̣n. Người ta làm quen với các con bài mang 4 kư hiệu: ♥ (cơ), ♦ (rô), ♣ (chuồn), ♠ (bích), tượng trưng cho 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông trong khi bộ bài có 52 lá để chỉ 52 tuần trong một năm.
Mỗi lá bài c̣n có số in tương ứng với số của quân bài. Riêng lá bài K (King) có h́nh vua được “Việt hóa” là Già; Q (Queen) có h́nh hoàng hậu là Đầm: J (Joker) có h́nh tên hề gọi là Bồi. Riêng lá A (Ace) là X́ hoặc Ách, tương đương với con số 1. Bài Tây có rất nhiều cách chơi khi du nhập Miền Nam, sau 1975 cũng xuất hiện một số thuật ngữ lạ từ Miền Bắc như “tú lơ khơ” để chỉ bộ Bài Tây.
Từ bộ bài 52 cây này người ta có nhiều cách chơi. “X́ tố” hay “x́ phé” (poker) với số người chơi từ 2 đến 6. Đầu tiên sẽ chia 2 lá trong đó có 1 con bài úp xấp để các người chơi “tố” bằng cách đi tiền. Người chơi có thể “theo” hoặc “tố ngược” với số tiền cao hơn ban đầu… ai có con bài lớn nhất sẽ thắng. “Binh xập xám” (Chinese poker) lại cần đủ 4 người chơi, mỗi người 13 cây nên mới gọi theo tiếng Tầu là “xập xám”.
Đó là những món có tính cách sát phạt, ăn thua lớn nhưng trong ngày Tết nhiều gia đ́nh tổ chức những “ṣng” mang ư nghĩa thuần túy của sự giải trí như “các tê” hay “x́ lác”. Ăn thua không là vấn đề quan trọng, nhưng cái chính là ông bà, cha mẹ, con cái được dịp vui chơi trong những ngày xuân.
Một ván “x́ lác” diễn ra rất nhanh v́ mỗi người chỉ được chia có hai cây bài và tính điểm theo các con số trên cây bài. Riêng các lá có h́nh (K, Q, J) được tính là 10 và A có thể tính là 1, hoặc 10. Cao nhất là 21 nút, nếu thấy “chưa đủ tuổi” có thể bốc thêm nhưng coi chừng sẽ bị “oác” khi tổng số điểm vượt quá 21.
Tôi nghĩ “các tê” là môn chơi hấp dẫn hơn v́ đ̣i hỏi người chơi phải biết tính toán cho hợp lư. Mỗi người được chia 6 quân bài, phải tính sao cho ḿnh có ít nhất một cây được ngửa, tức là có “tùng”, mới có quyền “chưng” hai cây cuối. Nếu cứ “thiệp” (úp) hết coi như “tiêu tùng” sẽ bị loại khỏi cuộc chơi!
Giai đoạn “chưng” cũng hồi hộp không kém. Nhiều khi “chưng” cây lớn để dành quyền làm chủ nhưng cây úp lại nhỏ tí mà vẫn thắng. Cũng có khi 2 cây cuối cùng rất lớn nhưng vẫn thua v́ ḿnh không có quyền “chưng”. Mỗi ván bài là cả một cuộc đấu trí vừa hồi hộp vừa vui nhộn trong không khí ngày Tết!
Có người quan niệm đánh bài là để “thử thời vận đầu năm”. Người ta tin vào quy luật “đen t́nh, đỏ bạc” nên có thua bài th́ cũng an ủi sẽ gặp vận hên, chẳng hạn như trong chuyện t́nh cảm lứa đôi.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1339650&stc=1&d=1549894351
Bộ bài Tây
Hơn 1 triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 đă đem lại cho Sài G̣n nhiều thú vui ngày Tết mới lạ. Chơi bài tam cúc là một thú vui ngày Tết khá phổ biến trong các gia đ́nh người Bắc di cư.
Bộ bài gồm 32 lá mang h́nh Tướng, Sĩ, Tượng, Xe, Pháo, Mă, Tốt… theo thứ tự của các quân cờ tướng và chia thành hai màu đen và đỏ, trong đó các quân bài màu đỏ có giá trị cao hơn màu đen. Chẳng hạn “tướng bà” đè “tướng ông”, tịnh (tượng) “điều” (đỏ) có quyền “ăn” tịnh đen…
Trong một bộ bài chỉ có hai tướng, tiếp đó các quân khác có một đôi đỏ hoặc đôi đen và 5 con tốt cũng phân thành 2 màu đen-đỏ. Ngôn ngữ trong Tam Cúc rất đặc biệt: “Bộ đôi” là hai quân bài cùng màu, cùng tên như đôi Sĩ điều, đôi Pháo đen... “Bộ ba” gồm ba quân Tướng-Sĩ-Tượng và Xe-Pháo-Mă cùng màu.
Khác với bài Tứ Sắc, các quân bài được chia hết cho tất cả mọi người tham dự chiếu bài. Người làm cái sẽ ra bài đầu tiên và gọi bài: "một cây", "đôi cây" hay "ba cây"... được gọi th́ những người chơi c̣n lại sẽ tương ứng cho ra số cây bài của ḿnh.
Các cây bài được ra với mặt phải (mặt có kư hiệu quân) được giữ kín và úp xuống chiếu bài. Khi mọi người đă ra đầy đủ bài th́ người gọi bài sẽ lật bài đầu tiên rồi theo thứ tự những người bên cạnh, ai có lá bài có giá trị lớn nhất th́ người đó được bài và giành cái. Tuy nhiên, tất cả mọi người được phép “chui” bài bằng cách chịu thua và không lật bài lên để khỏi lộ bài.
“Tứ tử” là bốn quân Tốt cùng màu, nếu ai có sẽ “Tứ tử tŕnh làng” để người khác tự động chui 4 cây bài. Trong trường hợp có đến 5 con Tốt sẽ được quyền “Ngũ tử cướp cái”. Lại có quyền “Đi đêm” với người khác khi gặp những quân bài quá xấu hoặc cần những cây mà ḿnh không có.
Khi cây bài bị thua, người ta dùng thuật ngữ “bị đè”… cho nên nếu giữ lại một cặp tốt đen vào chung cuộc, gọi là “kết”, cũng có thể bị cặp tốt đỏ của đối phương “đè” mà lại c̣n bị “đền”! Trong bối cảnh một ván bài tam cúc, Lê Đ́nh Điểu có bài thơ viết về mùa xuân thật dễ thương của đôi lứa:
“Tốt đỏ mà đè tốt đen
Kết nhất bội nhị làm em phải đền.
Ứ ừ người ta đang đen
Không thèm chơi nữa giả tiền tôi đây.
Ơ ơ bêu chửa cô này
Bị đè c̣n khóc giơ tay đ̣i tiền
Có gan để kết tốt đen
Tất có gan để chịu đền chứ sao?
“Ứ ừ , sao ở trên cao
Người ta thua mất sáu hào hai xu!..”
…
“Mười năm đi dưới trăng sao
Bây giờ dừng lại (nơi nào đây em?)
Ván bài đời có tốt đen
Trăm lần để kết phải đền cả trăm!
Thơ ngây thua nhẵn mười năm
X̣e tay thấy trắng khóc thầm cả đêm
Ngày xưa em khóc, anh đền
Bây giờ anh khóc ai đền cho anh?
Tam Cúc cũng đă đi vào thơ văn từ hồi tiền chiến. Nhà thơ Hồ Dzếnh tả người t́nh trong bài thơ “Cỗ bài Tam Cúc”:
“Ngày Tết mải chơi tam cúc
Không hay anh tới sau lưng
Ghé lại gần anh mách nước
Kết luôn xe pháo mă hồng.
Ô ván bài em đỏ quá
Đỏ như đôi má ngày xuân
Em có ăn trầu đâu nhỉ?
Mà sao người thấy bâng khuâng…”
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1339651&stc=1&d=1549894351
Bộ bài Tam Cúc
Hơn 40 năm về trước, “Ly rượu mừng” đă chúc cho một đất nước Việt Nam tự do, thanh b́nh:
“Chúc non sông hoà b́nh, hoà b́nh
Ngày máu xương thôi tuôn rơi
Ngày ấy quê hương yên vui
Đợi anh về trong chén t́nh đầy vơi…”
Nhưng đến nay, những lời chúc đó vẫn chưa trọn vẹn. Một lần nữa, chúng ta cùng nâng ly để chúc cho một Việt Nam với muôn người hạnh phúc chan ḥa:
“Nhấc cao ly này
Hăy chúc ngày mai sáng trời tự do
Nước non thanh b́nh
Muôn người hạnh phúc chan hoà
Ước mơ hạnh phúc nơi nơi
Hương thanh b́nh dâng phơi phới”
Nguyen ngoc chinh
https://i.postimg.cc/vBW2dmXq/gplus467555539707788 3090.jpg (https://postimg.cc/MMpm7qCV)
hoanglan22
02-16-2019, 14:54
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1341943&stc=1&d=1550328786
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1341944&stc=1&d=1550328786
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1341945&stc=1&d=1550328786
Thưa mấy cô mấy chú, con là 1 đứa nhỏ lớn lên ở Sài G̣n sau 1975, rất nhỏ so với các bác các cô chú ở đây. Mặc dù vậy, niềm yêu thương và t́nh cảm con dành cho vùng đất này không hề nhỏ. Đây là bài con viết cách đây 2 năm, con xin chia sẻ cùng mọi người, để cùng nhau hoài niệm về những tháng ngày tốt đẹp của 1 nơi đă từng rất đẹp.
****
Bữa hổm "trong mùng", gọi chiếc taxi chở mấy đứa nhỏ đi coi xiếc. Anh tài xế hay chuyện, nói tới nói lui 1 hồi anh hỏi em quê ở đâu. Dạ em gốc gác miền Tây nhưng dân Sài G̣n từ trong trứng rồi anh, ảnh cười ờ anh cũng gốc Hoa nè em nhưng cũng thành dân Sài G̣n rặt. Ba điều bốn chuyện ḿnh hỏi anh lái xe vầy nh́n đường sá Sài G̣n riết chắc ngán ngẩm anh ha, ảnh cười cười nói chứ ở riết thương lắm em ơi, giờ em đi đâu cũng vậy hà, em không thương đất lấy ǵ đất nó thương em.
Tự nhiên nh́n lại anh rất khác.
Sài G̣n bây giờ... xấu hơn nhiều, ít nhất là trong mắt những người Sài G̣n xưa hoặc những hoài niệm về vùng đất Gia Định Thành ngày đó. Cái rộn ràng náo nhiệt của Sài G̣n bây giờ bị pha tạp bởi sự ồn ă chói tai. Vẻ đẹp sang chảnh của Sài G̣n bị nhúng chàm bởi những mảng màu diêm dúa thô kệch. Sài G̣n đă dần mất đi nét óng ả nuột nà của ḥn ngọc Viễn đông cách đây chưa lâu. Người hoài niệm Sài G̣n hẳn là buồn.
Thiên hạ nhắc nhau tới Sài G̣n phải cẩn thận của nả, người đâu của đó, coi chừng cướp bóc giật dọc tràn lan ngoài đường. Đường phố Sài G̣n ôi sao mà đông đúc, mà chen lấn, xe cộ ở đây sao không biết nhường nhau, dân Sài G̣n sao mà mánh mung lừa lọc vậy.
Sài G̣n tệ vậy... mà sao Sài G̣n vẫn đông ?
Hôm nọ đọc tản văn của chị Tư* ví von Sài G̣n như một cô vợ bị ruồng rẫy, nhưng vẫn chấp nhận bao dung anh chồng lạc ḷng của ḿnh mỗi khi anh đi ngoại t́nh về, vẫn dịu dàng cơm dẻo canh ngọt giúp anh no ḷng, vẫn giang tay cho anh cơ hội sống tốt ở xứ này... để rồi nhận lấy những lời chê bai đay nghiến so sánh thiệt hơn của anh. Những anh chồng ấy khi hỏi sao không bỏ vợ th́ trơn tuột "thôi ráng giữ gia đ́nh tṛn vẹn cho con", cũng như những người sống ở Sài G̣n nhưng vẫn mang tư tưởng "xứ ǵ mà ồn ào khó sống vậy" khi được hỏi sao không rời chỗ này về quê cho an ổn th́ lại phân vân "thôi, công việc làm ăn ở đây, con cái học hành trên này....sao mà bỏ được". Sài G̣n xấu đi như bây giờ một phần là nhờ những người tham lam như vậy.
Ḿnh chán Sài G̣n không ? Có. Mỗi lần bị nhấn ch́m trong ṿng xoáy ồn ào khói bụi giữa những chiếc xe bất chấp luật lệ bon chen lên trước, hay mỗi lần thấy những anh chị công sở quay đầu khạc nhổ cái xoẹt xuống đường, hoặc mỗi lần đọc tin tệ nạn xă hội ở Sài G̣n lại tăng chóng mặt... ḿnh đều thấy ngao ngán. Ḿnh không sống vào cái thời "ḥn ngọc Viễn đông" để mà có cớ so sánh, nhưng ḿnh có đọc những bài viết về người Sài G̣n hào sảng, chân t́nh và hồn hậu; ḿnh có xem những tấm ảnh chụp nhịp sống thường nhật hồi ấy; ḿnh nh́n thấy vẻ thư thái tự tại trên gương mặt của người dân Sài G̣n thời đó. Biết rồi tiếc thôi.
Nhưng ḿnh vẫn yêu Sài G̣n lắm. Thuở nhỏ là niềm háo hức đi chợ hoa Nguyễn Huệ lúc giáp Tết, là sự ngỡ ngàng mỗi lần đi chợ Cũ ngó "hàng tàu viễn dương", là niềm ao ước mỗi khi đi Tạ Thu Thâu coi đồ đẹp. Lớn chút nữa, những kư ức về lễ hội "300 năm Sài G̣n" vẫn khắc sâu lắm. Rồi những kem Bạch Đằng, phở Tàu Bay, chè Hiển Khánh.... C̣n nhiều nữa những con đường Sài G̣n in dấu chân ḿnh đi qua, những góc nhỏ Sài G̣n chứng kiến t́nh cảm non tơ của ḿnh ngày đang lớn. Nhớ vậy, để biết trái tim ḿnh thuộc về Sài G̣n.
Có những ai đă đi xa Sài G̣n, nuối tiếc thời quá văng mà lên tiếng gièm pha chê bai Sài G̣n của-bây-giờ, cũng không trách họ được. Chỉ thương Sài G̣n vẫn lặng lẽ chịu đựng, luôn cố gắng gồng gánh sức nặng cơm áo gạo tiền cho bao nhiêu người, và phải cố gắng gấp đôi thế để bao dung hết thảy những lời bỉ bôi. Vậy cho nên, những ai đang ở đất Sài G̣n, kiếm sống từ đất Sài G̣n....xin hăy thương lấy vùng đất này bằng cách đừng làm nó xấu thêm bằng chính những hành động của ḿnh.
Có lẽ măi măi sẽ chẳng thể trở lại vị thế ḥn ngọc viễn đông như trước kia nữa, chỉ hy vọng Sài G̣n đừng biến thành mảnh vỡ thủy tinh le lói dưới ánh mặt trời.
Người Sài G̣n sẽ đau lắm, biết không ?
by Michou Pham
wonderful
02-21-2019, 01:41
Nước bốc cháy
Theo các nguồn tin th́ các khoa học gia khắp thế giới đang chuẩn bị đổ về Việt Nam để t́m hiểu và nghiên cứu một nguồn năng lượng mới rất rẻ tiền nhưng lại có khả năng thay thế xăng. Đó là… nước giếng. Theo tin trong nước th́ bà con nông dân tại xă Hương Trạch, Hà Tĩnh khi kéo nước giếng để giặt giũ, nấu ăn như bao năm nay th́ thấy nước giếng có mùi… dầu lửa. Khi thử châm lửa th́ nước bốc cháy phừng phực như… xăng. Tin tức về loại nước giếng này lan truyền nhanh chóng, khi một số người mê tín tin rằng đó là nước… (!) của ông địa. C̣n có người th́ hào hứng bảo rằng nước giếng Hương Trạch có thể thay xăng, làm nguồn năng lượng mới hay xuất cảng thu ngoại tệ. Chỉ có một “già làng” thông thái th́ bảo, “Con bà nó, cái này là mấy hầm chứa xăng của mấy công ty khai thác bị bể nên mới lan vào nước giếng và có mùi xăng dầu như vậy”. Quả nhiên đúng là vậy.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1346571&d=1551128398
Tại nó lộn
Đôi tuần trước cả nước Mỹ vỗ tay hoan nghinh nữ phi công Tammy Jo Shults của Southwest Airlines, người hùng đă cứu mạng hàng trăm hành khách khi hạ cánh an toàn chiếc phi cơ bị hỏng máy. Tuần qua th́ phi công Việt Nam được “vỗ chân” khi máy bay không hư và thời tiết không xấu nhưng cũng hạ cánh… thiếu an toàn, mém làm 200 hành khách mất mạng. Chuyến bay VN7344 của hăng Hàng Không Việt Nam từ Tân Sơn Nhất bay đi Cam Ranh trong lúc một giờ trưa ngày 30 tháng 4 vừa qua, đến Cam Ranh không biết phi hành đoàn đang đánh phé hay làm ǵ, c̣n nhân viên không lưu đang ngủ trưa hay nhậu chưa biết và nhân viên mặt đất của phi trường c̣n đang bận chôm hành lư của khách hay sao (nhà chức trách đang c̣n điều tra) mà phi cơ không hạ cánh xuống phi đạo, lại hạ cánh xuống… công trường xây dựng kế bên. May mà không đụng xe cẩu, vật liệu sắt thép… Theo điều tra ban đầu th́ lỗi là… phi đạo (nằm không đúng chỗ). Lộn thôi mà!
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1346573&d=1551128559
wonderful
02-21-2019, 21:51
Du khách thích sờ 'của quư' của VICTOR NOIR một bức tượng nam để cải thiện khả năng chăn gối?
- Với niềm tin sẽ cải thiện khả năng chăn gối và khỏi t́nh trạng vô sinh, mỗi năm có hàng ngh́n du khách đến nghĩa trang Père Lachaise (Lớn nhất ở PARIS) để sờ vào “của quư” của bức tượng Victor Noir, một nhà báo trẻ người Pháp sống tại thế kỷ 19.
Victor Noir tên thật là Yvan Salmon, sinh ngày 27/7/1848 tại Attigny, Vosges, nay thuộc vùng Grand Est, phía đông bắc nước Pháp. Ông là một nhà báo viết mảng chính trị cho tờ La Marseillaise, một tuần báo do chính trị gia Henri Rochefort thành lập năm 1869 ở Paris.
Victor Noir chết khi tuổi đời c̣n rất trẻ (22 tuổi), tuy nhiên người ta chỉ biết đến ông sau khi ông qua đời do nguyên nhân cái chết có liên quan đến cháu trai của vị hoàng đế vĩ đại của nước Pháp Napoleon Bonaparte
Để tưởng nhớ đến ông, trên phần mộ của Victor Noir đặt một bức tượng bằng đồng do đích thân nhà điêu khắc Jules Dalou (1838-1902) chế tác. Bức tượng có kích cỡ tương đương người thật, được lấy nguyên mẫu h́nh ảnh ông sau khi bị bắn.
Bức tượng đặt trong tư thế nằm ngửa trên đài mộ, với mái tóc bồng bềnh, phóng khoáng, bên cạnh là chiếc mũ và bộ trang phục mà các quư ông thời đó hay mặc.
Đặc biệt, v́ một nguyên nhân nào đó mà Dalou đă "cố t́nh" điêu khắc bộ phận nhạy cảm của Noir nổi lên khá rơ. Đây chính là điểm khiến bức tượng Victor Noir trở nên "nổi tiếng" đối với các quư bà và đông đảo chị em phụ nữ.
Một "truyền thuyết" về khả năng chữa vô sinh và cải thiện khả năng "yêu" của bức tượng cũng được rất nhiều phụ nữ truyền miệng. Người ta cho rằng phụ nữ chỉ cần hôn lên môi và chạm tay vào phần nhạy cảm của bức tượng là sẽ đạt được sự như ư về khả năng sinh sản và t́nh dục hoặc kiếm được một tấm chồng như ư.
Đó là lư do tại sao môi, cằm và phần nhạy cảm của bức tượng Victor Noir đều trở nên sáng bóng, trong khi phần c̣n lại của bức tượng có màu xanh lá cây do hiện tượng đồng bị oxy hóa. Một số nữ du khách c̣n thực hiện một số hành vi khiếm nhă như ngồi lên bức tượng gây phẫn nộ và xúc phạm đến sự yên nghỉ của người đă khuất
Để khắc phục t́nh trạng này, vào năm 2004, chính quyền cho lắp đặt một hàng rào xung quanh ngôi mộ của Victor Noir để ngăn những người dân mê tín thực hiện "nghi lễ" trên.
Tuy nhiên việc làm này lại vấp phải sự phản đối của người dân (tất nhiên hầu hết người phản đối là phụ nữ) nên chính quyền đă cho tháo dỡ hàng rào không lâu sau đó.
Sự nổi tiếng của Victor Noir sau khi qua đời không phải là v́ tài năng của ông với tư cách là một nhà báo, cũng không phải với vai tṛ là biểu tượng cho phong trào chống lại chế độ quân chủ ở Pháp, mà nổi tiếng theo cách mà có lẽ Noir không hề mong muốn chút nào.
Hiện nay, phần mộ của Victor Noir là một trong những nơi có nhiều người đến thăm nhất trong nghĩa trang, đặc biệt là du khách nữ. Rất nhiều du khách cố gắng đến nghĩa trang để một lần sờ vào của quư của bức tượng đồng
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1346164&d=1551034874http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1346574&d=1551128755
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1344441&d=1550785694http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1344442&d=1550785706
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1344443&d=1550785718http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1344444&d=1550785733
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1344445&d=1550785747http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1344741&d=1550825923
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1344742&d=1550825936
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1346576&d=1551129845
Wonderful đă viếng Nghỉa Trang nầy nhiều lần mổi khi tới Paris và có lần cũng sờ cái của quư nầy gọi là lấy hên giống như người ta ...vui mà...và xin đừng xóa những tấm h́nh này v́ nó rất hay mà ḿnh sưu tầm...Xin cám ơn và đừng làm nản ḷng tôi..người có thiện chí tốt. :eek: :eek:
wonderful
02-23-2019, 01:33
Wonderful xin kể một câu chuyện hay và hiểu thế nào là cái sai lầm của người đời.
Câu Chuyện Cuộc Đời...
Năm nay tôi đă gần bảy mươi tuổi. Cái tuổi mà con cháu đă có thể chúc thọ được rồi. Tôi đă chứng kiến biết bao câu chuyện cuộc đời. Nhưng có một câu chuyện mà tôi không thể nào quên được. Tôi viết lá thư này gửi các anh, các chị để kể lại câu chuyện mà tôi là một người liên quan đến câu chuyện đó. Hy vọng, câu chuyện của tôi nếu được in lên, sẽ nói với bạn đọc gần xa một điều ǵ đó về cuộc đời này.
Câu chuyện xảy ra vào năm cuối cùng trong đời sinh viên của tôi, ở kư túc xá mà tôi ở lúc đó. Một hôm, chúng tôi đi tập quân sự. Duy chỉ có một người trong pḥng kêu ốm và ở lại. Người đó là Sơn, quê ở Thanh Hóa. Buổi chiều trở về, tôi sắp xếp lại đồ đạc cá nhân và hoảng hốt nhận ra một chỉ vàng của tôi không cánh mà bay. Đó là chỉ vàng mà cha mẹ cho, để mua xe đạp đi làm sau khi tôi ra trường. Ngay lúc đó, tôi nh́n Sơn đang nằm quay mặt vào tường, và hoàn toàn tin rằng Sơn đă lấy cắp chỉ vàng của tôi.
Tôi đề nghị mọi người trong pḥng cho tôi khám tư trang của họ. Cuộc khám xét không thành công.
Nhưng qua phân tích của chúng tôi và qua thái độ hoang mang của Sơn, chúng tôi đều tin Sơn đă giả ốm ở nhà để lấy cắp chỉ vàng. Bảo vệ nhà trường cho biết, buổi sáng chúng tôi đi tập quân sự th́ Sơn có ra khỏi trường khoảng một giờ đồng hồ. Mặc dù Sơn cả quyết không hề lấy cắp chỉ vàng ấy, nhưng chúng tôi và nhà trường đă tiến hành nhiều cuộc họp để chất vấn và khẳng định thủ phạm vụ trộm đó là Sơn.
Một tuần sau, chúng tôi phát hiện Sơn mang một bao tải ḿ sợi ra ga tàu mang về quê. Chúng tôi túm lại hỏi Sơn lấy tiền đâu mà mua ḿ sợi. S không nói ǵ mà ôm mặt khóc. Năm đó, nhà trường đă không xét tốt nghiệp cho Sơn mặc dù học lực của Sơn rất khá, với lư do đă có hành vi đạo đức xấu và không trung thực với tội lỗi của ḿnh. Chúng tôi hồ hởi nhận bằng tốt nghiệp và quyết định phân công công tác. Chỉ có Sơn không được nhận bằng tốt nghiệp và tạm thời không được phân công công tác. Đồng thời nhà trường có công văn gửi về địa phương Sơn sinh sống, đề nghị địa phương theo dơi và giáo dục Sơn. Khi nào địa phương chứng nhận Sơn đă hối cải và tiến bộ, th́ nhà trường sẽ xem xét giải quyết trường hợp của Sơn.
Thời gian cứ thế trôi đi. Một số bạn bè học cùng chúng tôi vẫn có liên lạc với nhau. Duy chỉ có Sơn là không ai biết rơ ràng ở đâu và làm ǵ. Nhà trường cho biết, Sơn cũng không quay lại trường để xin cấp bằng và phân công công tác.
Ngày tháng trôi qua, tôi chẳng c̣n nhớ tới chỉ vàng bị lấy cắp năm xưa. Trong đám bạn bè tôi, có những người rất thành đạt. Đặc biệt Huy đă trở thành một người rất giàu có bằng năng lực và sức lao động của chính anh. Anh là một người được xă hội biết đến.
Một hôm, sau ngày tôi vừa nghỉ hưu, có một thanh niên mang đến nhà tôi một lá thư và một cái hộp giấy nhỏ. Anh thanh niên nói là một người nhờ chuyển, nhưng lại nói là không nhớ tên người đó. Tôi băn khoăn và hồi hộp mở thư ra. Lá thư chỉ vẻn vẹn mấy ḍng: "Anh Phong thân mến, tôi xin được gửi trả lại anh chỉ vàng mà tôi đă lấy của anh cách đây mấy chục năm.
Tôi sẽ đến gặp anh để xin anh thứ tội. Kính". Đọc thư xong, tôi thực sự bàng hoàng. Lá thư không kư tên. Tôi không c̣n nhận được chữ đó là của ai viết nữa. Tôi đoán đó là thư của Sơn. Tôi mở chiếc hộp giấy nhỏ và nhận ra trong đó có một chỉ vàng. Đó là một chỉ vàng mới. Không hiểu tại sao lúc đó nước mắt tôi chảy ra giàn giụa. Lúc này tôi mới thực sự nghĩ đến Sơn với một nỗi xót thương. Ngày ấy, Sơn là sinh viên nghèo nhất trong lớp. Bố Sơn mất sớm. Mẹ Sơn phải tần tảo nuôi năm anh chị em Sơn ăn học. Có lẽ v́ thế mà trong một phút không làm chủ được ḿnh, Sơn đă trở thành một kẻ ăn cắp. Nếu lúc đó, chúng tôi có được sự xót thương như bây giờ th́ có lẽ chúng tôi không đẩy Sơn vào t́nh cảnh như ngày ấy.
Sau khi nhận được lá thư và chỉ vàng, tôi hầu như mất ăn, mất ngủ. Có một nỗi ân hận cứ xâm chiếm ḷng tôi. Ngày ngày tôi đợi Sơn đến t́m. Tôi sẽ nói với Sơn là tôi tha thứ tất cả và tôi cũng xin lỗi Sơn v́ ḷng tôi thiếu sự thông cảm và thiếu vị tha.
Một buổi sáng có tiếng chuông cửa. Tôi vội chạy ra mở cửa. Người xuất hiện trước tôi không phải là Sơn mà là Huy. Tôi reo lên: "Ối, hôm nay sao rồng lại đến nhà tôm thế này". Khác với những lần gặp gỡ trước kia, hôm đó gương mặt Huy trầm tư khác thường. Tôi kéo Huy vào nhà và nói ngay: "Ḿnh vừa nhận được thư thằng Sơn. Cậu có biết nó viết ǵ không? Nó đã trả lại tôi chỉ vàng và nói sẽ đến gặp tôi để xin lỗi". Khi tôi nói xong, Huy bước đến bên tôi và nói: "Anh Phong, anh không nhận ra chữ viết của tôi ư. Tôi chính là người viết lá thư đó. Tôi chính là người đă ăn cắp chỉ vàng của anh". Nói xong, Huy như ngă đổ vào tôi và khóc rống lên. Tôi vô cùng bàng hoàng và không tin đó là sự thật. Khóc xong, Huy đă kể cho tôi nghe tất cả sự thật. V́ cũng muốn mua một chiếc xe đạp sau khi tốt nghiệp đi làm, Huy đă t́m cách lấy trộm chỉ vàng. Và suốt thời gian qua, Huy rất ăn năn và luôn t́m kiếm Sơn để chuộc lỗi. Thế rồi chúng tôi quyết định về quê Sơn mặc dù biết Sơn không c̣n sinh sống ở quê đă lâu.
Vất vả lắm chúng tôi mới biết thông tin về Sơn: Sau khi bị nhà trường gửi công văn đến địa phương thông báo về đạo đức của ḿnh, Sơn đă phải chịu quá nhiều tai tiếng và những ánh mắt khinh bỉ của hàng xóm. Sơn đă xin đi khai hoang ở một huyện miền núi. Nghe vậy, chúng tôi lại tức tốc lên đường t́m đến nơi Sơn đang sinh sống. Ở đó Sơn sống cùng vợ con trong một ngôi nhà gỗ đẹp dưới chân một dăy đồi. Sơn trồng trọt và mở một trang trại chăn ḅ lớn. Trông anh già hơn tuổi nhưng khỏe mạnh và đôi mắt nhân ái vô cùng. Cả ba chúng tôi ôm lấy nhau mà khóc.
Tôi và Huy quyết định ngủ lại một đêm với Sơn, Huy xin Sơn cho Huy được kể sự thật cho vợ con Sơn nghe để họ thanh thản và hănh diện về chồng, về cha ḿnh và Huy muốn được tạ lỗi với vợ con Sơn. Nhưng Sơn gạt đi và nói: "Chưa bao giờ họ tin tôi là kẻ ăn cắp". Trước khi chia tay nhau, Huy cầm tay Sơn khóc và nói: "Ḿnh có tội với cậu. Cậu đă tha tội cho ḿnh. Nhưng ḿnh muốn được trả một phần nhỏ cái nợ lớn mà đời ḿnh đă mang nợ với cậu. Hăy nói ḿnh phải trả nợ cậu như thế nào". Sơn mỉm cười và nói: "Ông đă trả hết nợ rồi". Khi tôi và Huy c̣n chưa hiểu ư th́ Sơn nói: "Việc ông nói ra sự thật về tội lỗi của ông là ông đă trả hết nợ rồi. Đừng nghĩ ǵ về chuyện cũ nữa. Mà thực ra, ông nợ chính ông nhiều hơn là ông nợ tôi. Nợ người dễ trả hơn nợ chính ḿnh". Cho đến lúc đó, tôi mới thực sự hiểu con người Sơn. Tôi hiểu ra một điều ǵ đó thật xúc động, thật sâu sắc về cuộc đời này. Hóa ra, có những tâm hồn lớn lao và cao thượng lại nằm trong những con người khốn khó và giản dị như thế.
Cũng trong cái đêm thức với Sơn tại ngôi nhà gỗ của anh, chúng tôi mới biết những ngày đi học, khi nghỉ học, Sơn vẫn đi quay ḿ sợi thuê để mua ḿ sợi cứu đói cho gia đ́nh. Chúng tôi đă không hiểu được bạn bè ḿnh. Chúng tôi đă làm cho một con người như Sơn nếu không có nghị lực, không có ḷng tin có thể dễ dàng rơi vào tuyệt vọng.
Thưa các anh, các chị, câu chuyện tôi kể cho các anh, các chị chỉ có vậy. Nhưng với tôi đó là một bài học về con người và về cuộc đời.
Thân ái
Đổ Văn Phong.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1345607&d=1550948314
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1345019&d=1550886463
Ảnh minh họa...bao nhiêu người bạn là bấy nhiêu vấn đề để nói...
hoanglan22
02-23-2019, 01:46
:thankyou: Bác wonderful , đọc xong ngẫm nghĩ lại chuyện đời ....:handshake:
wonderful
02-23-2019, 21:12
Người cha nói với con rể
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1345640&d=1550956544
Gần đây tôi đă rất xúc động từ một đám cưới .
Trong đám cưới, người cha nói với con rể :
"Tôi là người đầu tiên nắm tay cô ấy, không phải cậu
Người đầu tiên hôn cô ấy là tôi, không phải là cậu
Người đầu tiên bảo vệ cô ấy là tôi, không phải cậu.
Nhưng mà
Có thể đi cùng cô ấy suốt cuộc đời,
Đó là cậu chứ không phải là tôi.
Nếu có một ngày cậu không yêu cô ấy nữa
Đừng phản bội cô ấy
Đừng đánh cô ấy
Đừng nói với cô ấy.
Nói với tôi,
Tôi đưa cô ấy về nhà! "
Cậu con rể quỳ xuống,lúc đó các khách mời đều rơi nước mắt
Nếu bạn là một người đàn ông,
Xin hăy tử tế yêu quư người phụ nữ bên cạnh ḿnh
Bởi v́ họ là những cô con gái quư báu của người khác.
Lúc nhỏ tiêu tiền là ở nhà bố mẹ đẻ
Lúc khôn lớn đi kiếm được tiền là ở nhà chồng
Thế nên bạn nên nhớ, ngoài cha mẹ của họ ra,
Họ không nợ bất kỳ ai.
wonderful
02-24-2019, 21:33
Im lặng nghĩa là yếu đuối? Không, đó là quyền năng của kẻ thông minh!
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1346569&d=1551128092
Người khôn ngoan không bao giờ phải t́m kiếm sự hơn thua trong lời nói, họ chỉ cần im lặng cũng chứng minh được bản lĩnh.
Chúng ta thường có câu nói cửa miệng ‘Im lặng là vàng’. Im lặng không có nghĩa là tự cô lập ḿnh, tách biệt hay rời xa hoàn toàn khỏi cuộc sống hiện tại mà là biết cách đừng lên tiếng tranh căi trong một thời điểm thích hợp để tránh hại người hại ta.
Một người thông minh đến mấy cũng không thể nh́n thấu mọi chuyện, có trí tuệ đến đâu cũng không thể luôn thuận buồm xuôi gió. Trong thời điểm xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp với người khác, sự im lặng của bạn không phải yếu đuối, không phải thỏa hiệp, càng không phải thờ ơ mà có nghĩa là bạn đă thực sự trưởng thành. Bạn biết cách xem nhẹ rất nhiều chuyện không đáng phải so đo v́ đôi khi, im lặng c̣n đáng giá hơn cả ngàn lời nói.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1346570&d=1551128111
hoanglan22
02-25-2019, 02:47
Du khách thích sờ 'của quư' của VICTOR NOIR một bức tượng nam để cải thiện khả năng chăn gối?
- Với niềm tin sẽ cải thiện khả năng chăn gối và khỏi t́nh trạng vô sinh, mỗi năm có hàng ngh́n du khách đến nghĩa trang Père Lachaise (Lớn nhất ở PARIS) để sờ vào “của quư” của bức tượng Victor Noir, một nhà báo trẻ người Pháp sống tại thế kỷ 19.
Victor Noir tên thật là Yvan Salmon, sinh ngày 27/7/1848 tại Attigny, Vosges, nay thuộc vùng Grand Est, phía đông bắc nước Pháp. Ông là một nhà báo viết mảng chính trị cho tờ La Marseillaise, một tuần báo do chính trị gia Henri Rochefort thành lập năm 1869 ở Paris.
Victor Noir chết khi tuổi đời c̣n rất trẻ (22 tuổi), tuy nhiên người ta chỉ biết đến ông sau khi ông qua đời do nguyên nhân cái chết có liên quan đến cháu trai của vị hoàng đế vĩ đại của nước Pháp Napoleon Bonaparte
Để tưởng nhớ đến ông, trên phần mộ của Victor Noir đặt một bức tượng bằng đồng do đích thân nhà điêu khắc Jules Dalou (1838-1902) chế tác. Bức tượng có kích cỡ tương đương người thật, được lấy nguyên mẫu h́nh ảnh ông sau khi bị bắn.
Bức tượng đặt trong tư thế nằm ngửa trên đài mộ, với mái tóc bồng bềnh, phóng khoáng, bên cạnh là chiếc mũ và bộ trang phục mà các quư ông thời đó hay mặc.
Đặc biệt, v́ một nguyên nhân nào đó mà Dalou đă "cố t́nh" điêu khắc bộ phận nhạy cảm của Noir nổi lên khá rơ. Đây chính là điểm khiến bức tượng Victor Noir trở nên "nổi tiếng" đối với các quư bà và đông đảo chị em phụ nữ.
Một "truyền thuyết" về khả năng chữa vô sinh và cải thiện khả năng "yêu" của bức tượng cũng được rất nhiều phụ nữ truyền miệng. Người ta cho rằng phụ nữ chỉ cần hôn lên môi và chạm tay vào phần nhạy cảm của bức tượng là sẽ đạt được sự như ư về khả năng sinh sản và t́nh dục hoặc kiếm được một tấm chồng như ư.
Đó là lư do tại sao môi, cằm và phần nhạy cảm của bức tượng Victor Noir đều trở nên sáng bóng, trong khi phần c̣n lại của bức tượng có màu xanh lá cây do hiện tượng đồng bị oxy hóa. Một số nữ du khách c̣n thực hiện một số hành vi khiếm nhă như ngồi lên bức tượng gây phẫn nộ và xúc phạm đến sự yên nghỉ của người đă khuất
Để khắc phục t́nh trạng này, vào năm 2004, chính quyền cho lắp đặt một hàng rào xung quanh ngôi mộ của Victor Noir để ngăn những người dân mê tín thực hiện "nghi lễ" trên.
Tuy nhiên việc làm này lại vấp phải sự phản đối của người dân (tất nhiên hầu hết người phản đối là phụ nữ) nên chính quyền đă cho tháo dỡ hàng rào không lâu sau đó.
Sự nổi tiếng của Victor Noir sau khi qua đời không phải là v́ tài năng của ông với tư cách là một nhà báo, cũng không phải với vai tṛ là biểu tượng cho phong trào chống lại chế độ quân chủ ở Pháp, mà nổi tiếng theo cách mà có lẽ Noir không hề mong muốn chút nào.
Hiện nay, phần mộ của Victor Noir là một trong những nơi có nhiều người đến thăm nhất trong nghĩa trang, đặc biệt là du khách nữ. Rất nhiều du khách cố gắng đến nghĩa trang để một lần sờ vào của quư của bức tượng đồng
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1346164&d=1551034874
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1344439&d=1550785659http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1344440&d=1550785678
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1344441&d=1550785694http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1344442&d=1550785706
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1344443&d=1550785718http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1344444&d=1550785733
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1344445&d=1550785747http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1344741&d=1550825923
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1344742&d=1550825936
Wonderful đă viếng Nghỉa Trang nầy nhiều lần mổi khi tới Paris và có lần cũng sờ cái của quư nầy gọi là lấy hên giống như người ta ...vui mà...và xin đừng xóa những tấm h́nh này v́ nó rất hay mà ḿnh sưu tầm...Xin cám ơn và đừng làm nản ḷng tôi..người có thiện chí tốt. :eek: :eek:
Mấy tấm h́nh của Bác bị xóa chắc là AD , hay một supper Mod nào đó .
Bởi v́ HL coi lại th́ không thấy EDIT delete xuất hiện
hoanglan22
02-25-2019, 02:49
Im lặng nghĩa là yếu đuối? Không, đó là quyền năng của kẻ thông minh!
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1346184&d=1551043833
Người khôn ngoan không bao giờ phải t́m kiếm sự hơn thua trong lời nói, họ chỉ cần im lặng cũng chứng minh được bản lĩnh.
Chúng ta thường có câu nói cửa miệng ‘Im lặng là vàng’. Im lặng không có nghĩa là tự cô lập ḿnh, tách biệt hay rời xa hoàn toàn khỏi cuộc sống hiện tại mà là biết cách đừng lên tiếng tranh căi trong một thời điểm thích hợp để tránh hại người hại ta.
Một người thông minh đến mấy cũng không thể nh́n thấu mọi chuyện, có trí tuệ đến đâu cũng không thể luôn thuận buồm xuôi gió. Trong thời điểm xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp với người khác, sự im lặng của bạn không phải yếu đuối, không phải thỏa hiệp, càng không phải thờ ơ mà có nghĩa là bạn đă thực sự trưởng thành. Bạn biết cách xem nhẹ rất nhiều chuyện không đáng phải so đo v́ đôi khi, im lặng c̣n đáng giá hơn cả ngàn lời nói.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1346185&d=1551043845
Bài học rất hay:handshake::thank you:
wonderful
02-26-2019, 01:12
Cười Cay Đắng Từ Câu Chuyện "Lái Xe Cho Ông Sếp Nhật Dở Hơi"
Công ty tôi vừa có một tên người Nhật sang làm dự án trong khoảng 3 tháng, và tôi được giao nhiệm vụ lái xe cho hắn. Lâu nay toàn lái xe cho các sếp Việt Nam, giờ lần đầu tiên được lái cho sếp Nhật nên tôi thấy hứng thú lắm! Tôi tức tốc ra vỉa hè mua quyển sách “Tự học tiếng Nhật cấp tốc” về để nghiên cứu. “Ḿnh lái xe cho sếp Nhật th́ cũng phải biết vài ba câu giao tiếp tiếng Nhật chứ!”. Từ khi mua sách về, tôi nghiên cứu và tự học rất miệt mài, gần như không lúc nào tôi rời quyển sách (chỉ trừ lúc ăn cơm, lúc tắm, lúc ngủ, lúc xem tivi, lúc đi chơi và đi làm). Bởi thế, hôm gặp sếp Nhật tôi tự tin lắm, chủ động bắt tay rất thân thiện và chào hỏi cực kỳ trôi chảy bằng tiếng Nhật:
- Mi đua ku ra, ta xoa ku mi!
Có vẻ như tên Nhật đó không hiểu tôi nói ǵ th́ phải, hắn lắc đầu ngơ ngác rồi hỏi lại:
- Xoa ku ta chi? Ngu chi cho xoa, xa ku ta ra, xoa ku mi đi!
Tất nhiên là tôi cũng không hiểu hắn nói ǵ, vậy nên cuối cùng cả hai quyết định sử dụng tiếng Anh, dù rằng tŕnh độ tiếng Anh của tôi và hắn cũng bập bẹ ngang nhau, nhưng may là vẫn đủ để đoán được ư mà đối phương đang muốn diễn đạt.
Một điều khá thú vị đó là tên sếp Nhật này lại nói được vài câu tiếng Việt, không phải “xin chào”, “cảm ơn” - như mấy ông ngoại quốc, mấy chị đại sứ nước ngoài nào đó hay nói bọ bẹ trên tivi đâu, mà là những câu dài hẳn hoi, kiểu như: “Cấm ăn cắp vặt, ăn cắp vặt là phạm tội!”, hoặc “Vui ḷng ăn bao nhiêu lấy bấy nhiêu, ăn không hết sẽ bị phạt tiền”, rồi cả “Không được dắt chó vào công viên này, nếu chó ị ra phải tự mang phân chó về”… Tôi nghe tên sếp Nhật ấy nói mấy câu đó th́ ngạc nhiên và khen hắn giỏi quá! Nhưng hắn chỉ cười mỉm rồi cất giọng đầy khiêm tốn:
- Giỏi ǵ đâu! Ở bên Nhật, mấy câu đó viết đầy trong siêu thị, nhà hàng, công viên, nh́n nhiều nên quen, nên nhớ thôi!
Một cảm giác tự hào chợt dâng trào trong ḷng tôi nghẹn ngào. Tự hào là phải, bởi lâu nay người ta luôn coi tiếng Anh, tiếng Trung là hai ngôn ngữ phổ biến và được sử dụng nhiều nhất trên thế giới, nhưng bây giờ, tiếng Việt đang trỗi dậy và nhăm nhe lật đổ sự thống trị của hai thứ tiếng ấy. Giờ, đi ra nước ngoài, không chỉ ở Đông Nam Á, Châu Á, mà cả Phi, Mỹ, Úc, Âu, đâu đâu ta cũng có thể bắt gặp những ḍng chữ tiếng Việt thân thương, dù rằng chúng được viết nguệch ngoạc, sai chính tả, thiếu dấu, thiếu vần, trên những tấm ván, tấm b́a nham nhở, lấm lem, nhưng chỉ vậy thôi cũng đủ để chúng ta cảm thấy nao ḷng.
Ban đầu hào hứng bao nhiêu th́ sau đó tôi chán nản bấy nhiêu. Người đời dạy rằng: “Thà có một kẻ thù giỏi c̣n hơn có một ông chủ dở hơi”, quả là không sai. Trước đây, khi lái cho các sếp cũ th́ phải 8 rưỡi, 9 giờ sáng tôi mới phải đánh xe đến đón các sếp, rồi chở sếp qua quán phở ăn sáng, xong uống café, đến công ty cũng đă là gần 10 giờ. Sếp làm việc đến 11 giờ th́ lại chở sếp đi ăn trưa, uống bia, 3 giờ chiều đưa sếp quay lại công ty rồi 4 rưỡi đón sếp về, thế là xong. Những lúc sếp ăn uống, nhậu nhẹt th́ thường là sếp gọi tôi vào ngồi cùng. Nếu hôm nào sếp tiếp khách sang, không được gọi vào, th́ tôi lại ra xe ngả ghế xuống ngủ rất thảnh thơi.
Thế nhưng chỉ sau hai tuần làm lái xe cho thằng sếp Nhật dở hơi, tôi trở nên phờ phạc, bă bời. Đúng 6 rưỡi sáng tôi phải dậy chuẩn bị xe qua đón nó. Theo quy định của công ty th́ 7 rưỡi mới là giờ làm việc nhưng chỉ khoảng 7 giờ 15 là nó đă có mặt và chui vào pḥng làm việc luôn. Ngày trước đi với các sếp cũ tôi thường xuyên được các sếp cho ăn sáng, ăn trưa, uống bia, gái gú, hát ḥ, chứ từ ngày lái cho thằng Nhật này tôi toàn phải nhịn đói, v́ sáng tôi đến đón nó th́ nó đă ăn sáng xong rồi, trưa nó ăn qua quưt ngay tại pḥng bằng đồ ăn nhanh rồi lại cắm đầu vào làm việc, tối nào nó cũng ngồi lại công ty đến 7, 8 giờ, vậy nên tôi cũng phải ngồi chờ nó với cái bụng đói meo và khuôn mặt bơ phờ.
Chưa hết, nhiều lần đang đi, nó bắt tôi dừng xe lại, rồi nó mở cửa xe chạy vụt ra. Tôi tưởng nó đi tè nhưng không phải, hóa ra nó nhặt cái vỏ bao cám con c̣ về để may túi xách.
Đặc biệt có lần tôi chở nó đi công chuyện, vừa đánh lái ra cổng th́ tôi quệt ngay vào cái xe đạp cũ nát của ai đó dựng ở mé đường làm chiếc xe đạp đổ kềnh, cái yên xe gẫy gập và văng ra. Tôi đang định phóng đi th́ thằng sếp Nhật bắt tôi dừng lại, rồi nó mở cửa phi ra. Nó dựng cái xe đạp lên ngay ngắn, móc ra tờ 500 ngh́n rồi kẹp vào tờ giấy, để vào giỏ cái xe đạp, trên tờ giấy nó nhờ tôi viết hộ rằng: “Tôi vô t́nh làm găy yên xe của bạn. Hăy cầm tiền này để sửa xe, và hăy tha lỗi cho tôi”.
Hôm sau, cũng đúng lúc đánh lái ra cổng, tôi lại quệt vào cái xe đạp cũ nát đó. Lần này th́ cái yên không văng ra nữa mà là cái bàn đạp. Thằng Nhật lại nhảy xuống, dựng xe lên, bỏ 500 ngh́n vào giỏ xe rồi để lại mảnh giấy: “Tôi vô t́nh làm găy bàn đạp của bạn. Hăy cầm tiền này để sửa xe, và hăy tha lỗi cho tôi”.
Hôm sau nữa, cũng đúng lúc đánh lái ra cổng, tôi lại quệt vào cái xe đạp đó. Lần này th́ cái yên và cái bàn đạp không văng ra nữa mà là cái chắn xích. Tuy nhiên, hôm đó không có thằng Nhật đi cùng mà chỉ có ḿnh tôi trên xe, vậy nên tôi phóng thẳng. Đang định nhấn ga lao đi th́ từ bên đường, một mụ già lao ra chặn ngay đầu xe tôi, mụ vừa dang hai tay, vừa gào thét:
- Thằng chó! Dừng lại đền tiền sửa xe cho bà đi chứ! Tại sao hôm nay mày lại bỏ chạy?!
Tôi nghe vậy th́ mở cửa, tḥ đầu ra bảo:
- Thôi đi bà ơi! Cái xe của bà bán cho đồng nát chắc được hai chục! Hôm nay có ḿnh tôi thôi, thằng Nhật không đi cùng đâu! Nghỉ sớm đi!
Rồi một lần khác, đang vội nên tôi vượt đèn đỏ và bị công an tuưt c̣i. Theo bản năng, tôi nhấn ga vọt lên. Công an thấy tôi chạy th́ cũng không đuổi theo nữa. Tưởng là xuôi, ai ngờ thằng Nhật ấy chửi tôi, nó nói rằng vượt đèn đỏ và bỏ chạy là phạm luật. Rồi nó bắt tôi quay xe lại chỗ công an nộp phạt đàng hoàng xong mới đi tiếp. Đúng là thằng dở hơi!
Lái xe cho thằng Nhật hâm ấy một thời gian th́ tôi đă hiểu được tính cách của nó. Đi đường thấy cái vỏ bao cám con c̣ nào vứt bên đường th́ tôi tự giác dừng lại cho nó xuống nhặt; chẳng may có quệt vào xe cộ hay đồ đạc của ai gây hư hỏng th́ tôi cũng tự giác dừng lại để nó xuống trả tiền bồi thường; có lỡ quen chân vượt đèn đỏ hay đi ngược chiều th́ cũng tự giác ṿng xe ra chỗ mấy anh công an để nộp phạt.
Hôm ấy, thằng sếp Nhật bảo tôi ra sân bay đón một thằng Nhật khác. Cái thằng Nhật này mặt cứ lầm ĺ, từ lúc lên xe nó không nói với tôi câu nào. Tôi cũng chả quan tâm mà chỉ tập trung vào lái xe. Tập trung là thế, ấy vậy mà qua ngă tư tôi lại quen chân vượt đèn đỏ, và lại bị công an tuưt c̣i. Tôi đang giảm tốc độc và cho xe chầm chậm táp vào lề bên phải theo hiệu lệnh của anh công an giao thông th́ bất chợt thằng Nhật đó hét lên, và nó hét bằng tiếng Việt:
- Mày dừng lại làm cái ǵ! Chạy luôn đi! Đường đông thế này công an không đuổi theo đâu!
- Em tưởng anh là người Nhật? – Tôi hỏi hắn bằng giọng thảng thốt!
- Tao là người Nhật, nhưng tao sống ở Việt Nam mấy chục năm rồi! Chạy nhanh lên!
Wonderful dịch và xào nấu....hihihi
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1346598&d=1551143409
wonderful
03-09-2019, 23:52
Wonderful ghi một bài đọc mà suy gẩm rất hay.
Ngày 8/3: Tuần lễ khen vợ
Người ta kể rằng, có một gă chiếm được hàng trăm trái tim phụ nữ và sau đó chiếm đoạt luôn cả tài sản của họ nên cuối cùng phải vào tù.
Một nhà tâm lư học ṭ ṃ đến tận nơi xem hắn có bí quyết ǵ không. Ông ta bất ngờ v́ đó là một gă đă luống tuổi, h́nh thức b́nh thường, duy chỉ có cái miệng rất có duyên.
Ông hỏi: "Làm thế nào anh chinh phục được nhiều phụ nữ như vậy?". Hắn trả lời cụt ngủn: "Có ǵ đâu. Cứ khen và khen nhiều vào".
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1347255&d=1552176617
Nhà tâm lư học nổi tiếng người Mỹ, Dale Carnegie thường đi giảng ở các lớp học làm vợ, làm chồng. Một hôm, sau bài giảng về nghệ thuật làm chồng, ông ra bài tập cho học viên về nhà làm.
Ông yêu cầu tất cả đàn ông thực hiện một “Tuần lễ khen vợ”, ngày nào cũng khen từ sáng đến tối.
Ông cam đoan sẽ thấy hiệu quả ngay lập tức. Học viên chẳng mấy người tin. Có người c̣n nghĩ là ông nói đùa, nhưng số đông vẫn thử “làm bài tập” xem sao và kết quả thật bất ngờ.
Một anh vừa ngủ dậy, nhớ đến bài tập, nói luôn: “Nằm cạnh em sướng thật, mùa đông th́ ấm, mùa hè th́ mát”. Vợ tát yêu một cái. Vợ tập thể dục xong, chồng lại khen: “Hồi này trông thần sắc em rất tốt!”. Vợ càng ngạc nhiên v́ chưa bao giờ thấy chồng để ư đến ḿnh. Lúc dọn món ăn sáng ra, anh ta lại xoa hai bàn tay: “Chà, em làm món ǵ trông ngon thế!”. Vợ sung sướng nguưt yêu chồng một cái nữa. Ăn xong lại khen: “Anh thấy đi ăn sáng ở đâu cũng chẳng bằng em làm!”.
Trước khi đi làm, ngắm vợ một phút, anh lại thốt lên: “Em mặc bộ này trông quá được!”. Không ngờ chỉ trong ṿng một tiếng, mới khen có mấy câu mà chưa bao giờ anh ta thấy trên gương mặt vợ lại có những nét hạnh phúc ngời ngời đến thế. Ra đến cửa anh c̣n quay lại: “Anh đi nhá. Em rất tuyệt,anh yêu em, vợ cưng của anh”.
Hết tuần, có học viên báo cáo với thầy là chỉ sau một “tuần lễ khen”, anh ta được hưởng hạnh phúc hơn 10 năm chung sống cộng lại.
Nhưng có một thứ, người vợ nào cũng khao khát th́ họ lại quên. Đó là lời khen.
Tuy nhiên, nếu vợ đẹp th́ khen đẹp, nếu quần áo đẹp th́ khen quần áo, nếu ngoại h́nh không đẹp th́ khen công dung ngôn hạnh... miễn sao phải chân thật. Khen bừa lỡ thành mỉa mai th́ sẽ tác dụng ngược đấy.
Ai cũng biết “đàn ông yêu bằng mắt, đàn bà yêu bằng tai”....
Có anh... c̣n "môi miếng”: "Em hút hồn anh ngay từ lần đầu mới gặp. Đôi mắt em sao mà sâu thăm thẳm say đắm vậy"...
Đàn ông Việt thường "quên" nịnh vợ..??? và ráng chịu....
C̣n Wonderful ưa nói câu " Anh đi Đông đi Tây cũng không bằng về nhà với vợ với con " thế là cả đời ḿnh tới bây giờ sống trong hạnh phúc và ảnh hưởng rất hay tới con cái,lúc nào cũng coi tổ ấm gia đ́nh là trên hết.... ......8 march 2019.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1347258&d=1552176637
hoanglan22
03-11-2019, 01:09
Con người ta khi đă có một quảng đời dằng dặc khổ đau, một quảng đời dằng dặc ưu phiền… Đáng lẽ không nên ngoái đầu nh́n lại. Bởi vui vẻ th́ hiếm hoi, c̣n chuỗi ngày cơ khổ th́ dài vô tận. Cũng như muốn nói về nó, cũng không thể nói hết một lần, chỉ c̣n cách kể lại những biến cố chính bằng chút chữ nghĩa với tất cả xúc động cùng tâm t́nh, ư tưởng…
*****
Bị Đuổi Ra Khỏi Ngôi Nhà Của Ḿnh......
Khi hay tin Việt Cộng bắt hết anh em cùng chồng tôi tại ty Cảnh sát, cảm giác của tôi lúc đó thấy ḿnh y hệt như trái banh bị ném quật một cách mạnh bạo phũ phàng. Sau giây phút chới với, tôi bắt đầu hốt hoảng, nhưng biết cầu cứu với ai, v́ chung quanh tôi trống không – những người thân giờ kẻ c̣n người mất, người ra đi mất hút nơi nào không ai biết… Cuối cùng tôi chỉ biết khóc lặng thinh trong tuyệt vọng và thấp thỏm chờ đợi những bất hạnh chắc chắn sẽ theo nhau kéo tới…
Biến động Ngay 30, Tháng Tư, Năm 1975 chưa hết bàng hoàng. Không khí ghê rợn cuộc xử bắn Tỉnh Trưởng Hồ Ngọc Cẩn c̣n nặng nề u ám. Đột nhiên rộ lên tin đồn sẽ xử bắn thêm vài người nữa trong nay mai khiến mọi người trong tỉnh càng hoang mang sợ hăi. Một buổi sáng thức dậy nh́n qua bên đường thấy một khán đài dựng lên sừng sững hồi nào, Tôi vừa ngờ ngợ, đột nhiên có tiếng gọi ngoài cổng rồi vài người cầm súng xông vào nhà tôi với nét mặt hằn học ra lịnh cho Tôi phải ở yên trong nhà không được đi ra ngoài. Thấy thái độ hung hăng của họ, hai đầu gối Tôi run lên v́ biết tai họa tới rồi. Khán đài dựng ngoài kia và họ canh giữ Tôi đây là ngày xử án chồng tôi rồi ! Nghĩ đến đó tôi cảm thấy mặt đất dưới chân tôi như đổ ụp xuống khiến thân h́nh tôi lảo đảo phải ngồi bệt xuống ghế t́m điểm tựa. Sau phút điếng hồn, chợt nhớ ra sự thật, chợt nhớ chồng tôi sắp chết, đột nhiên hết sợ, tôi đứng lên, bế đứa con bươn bả đi ra cửa về phía đám đông đang tụ họp, mặc kệ họ hầm h́ kè súng chạy theo.
Tôi chen vào phía khán đài chong mắt t́m chồng nhưng chỉ thấy mấy tên cán bộ mặt mày lạnh tanh đầy sát khí lớp đứng lớp ngồi lố nhố. Không t́m thấy anh nhưng tôi thật b́nh tĩnh kiên nhẫn quan sát chung quanh. Giờ phút này tôi nhứt định không khóc, nhất định không để mắt tôi nhoè nhoẹt, phải ngẩng đầu nh́n cho rơ mặt kẻ thù dă tâm giết chết chồng ḿnh.
Trong khi mọi người lao xao bàn tán, hồi hộp đợi chờ. Bỗng một tốp người chạy dạt ra hai bên rồi tiếng la hét lao xao khi chiếc xe bít bùng chở tử tù xuất hiện chậm chậm tiến vào. Tôi xốc nách đứa con len lỏi vào ḍng người mặc kệ tiếng thằng du kích gọi giựt giọng sau lưng “đứng lại! đứng lại!…” để áp sát nh́n vào khung cửa sổ hai bên xe. Qua lớp kính màu xám đục tôi nhận ra ông trung tá Trưởng Ty Cảnh sát Vơ Văn Đường, bên kia là chú Thiên làm sở Mỹ có tiệm café Con Chồn gần đó. Lấp ló bên vai ông Đường là khuôn mặt Đại úy thám sát Lê Văn Bé. Vừa lúc đó có tiếng khóc sát bên tôi, quay lại thấy vợ và bầy con ông Bé rũ rượi khóc kêu chồng kêu cha ḅ lê ḅ càng dưới đất thật thảm thiết. Dù đă tự chủ là không khóc, nhưng nh́n thấy cảnh thê lương bất nhẫn, tôi chịu không nỗi, nước mắt chảy ràn rụa trên mặt cho tới khi một tốp lính ôm súng hung hản chạy rầm rập bao quanh chiếc xe…Một người bước tới mở cửa…Tôi lau mắt nín thở, cổ họng nghẹt cứng…Tiếng ồn ào, tiếng khóc rộ lên từng hồi khi từng người bị lôi ra, ông Đường xuống trước, kế tới ông Bé, kế tới chú Thiên…Ai nữa ? Tim tôi như ngừng đập… Tôi thấy cửa xe toang hoát không c̣n người nào…tưởng hoa mắt…Tôi nhóng cổ…chồng tôi đâu ? Lúc cửa xe đóng lại…Tôi c̣n mơ hồ, khi biết chắc không có anh, tôi mừng đến ngẩn ngơ, hai bàn chân không nhấc nổi đứng im sững nh́n đám đông rồng rắn ùa theo sau những tử tù. Tôi đứng như thế không biết bao lâu cho tới có tiếng ồm ồm của công tố viên trên loa phóng thanh, tôi mới lủi nhủi nôn nao bế con đi về nhà rồi lập cập khoá cửa lại, vội vă đi pha cho con b́nh sữa rồi đặt con lên giường vừa ôm con vừa dỗ cho con ngủ mà đầu óc c̣n mông lung không tin đây là sự thật !?
Tôi bị treo tim thêm vài phiên xử bắn nữa, nhưng cuối cùng tạ ơn Trời chồng tôi vẫn thoát chết. Tuy nhiên, sau đó không lâu, tôi nhận được lịnh của Ủy ban Quân quản cho biết nhà tôi bị tịch thu. Trước khi từ giă mái ấm được xây cất do đồng tiền chắt chiu của hai vợ chồng – Tôi không biết ḿnh đứng chết lặng như cái xác không hồn trong bao lâu, rồi dắt díu đứa con trai bốn tuổi cùng với một mầm sống trong bụng và chút tư trang khiêm nhường để bắt đầu bước vào đời sống vô vọng mịt mù…
Trong cơn Quốc phá Gia vong khiến bà con của tôi tán lạc kẻ c̣n người mất. Không c̣n cách chọn lựa, tôi đành phải đưa con đến tá túc nhà mẹ ruột đang sống cùng ông dượng ghẻ tại Cần Thơ. Thời gian đầu, ông dượng ghẻ cư xử với tôi thật tử tế, nhưng càng ngày ông dượng ghẻ tôi càng lộ ra sự khó chịu, ông bắt đầu đay nghiến chưởi chó mắng mèo và thẳng tay đánh đập con tôi mặc dù cháu bé không hề gây ra lỗi ǵ quá đáng. Mẹ tôi không biết v́ bất lực hay a ṭng cũng nín thinh. Người hàng xóm đoán được ư ông dượng ghẻ muốn ǵ nên mách nước … Thế là tôi móc hết tiền bạc, bông tai nhẫn cưới… vội vàng giao nạp !
Sinh con chưa được hai tuần tôi phải trở ra buôn bán Thuốc Lá nơi đầu đường để phụ thêm tiền chợ cho mẹ vui. Tưởng yên thân, nhưng ông dượng ghẻ không để tôi yên v́ ông nghĩ vợ chồng tôi có rất nhiều tiền và đang cất giấu đâu đó. Thật ra, nếu chồng tôi không thanh liêm, với chức vụ của anh, chắc chắn nh có hàng trăm cơ hội làm giàu. Thấy tôi không “ xùy” Tiền, ông dượng ghẻ càng làm dữ. Tôi chịu đựng hết nỗi nên quyết định thu xếp ít quần áo, ba mẹ con tôi bồng chống ra đi !
Ra khỏi nhà. Tay ôm con, tay mang bọc hành lư, đứa con lớn lẽo đẽo sau lưng. Tôi bơ vơ, đi như người thất thần – Tôi đi tới, đi lui, lầm lủi đi, đi măi mà không biết đi đâu ? Ghé đâu ? Sống đâu ? Tôi cứ đi như thế và đầu óc bắt đầu nghĩ tới con đường chết !
Ư tưởng chết manh nha trong trí càng lúc càng thôi thúc khiến tôi quay ngoắt lại, quày quả đi ra hướng bến phà Cần Thơ.
Chiếc phà từ từ trôi ra giữa sông. Tay ôm đứa con sơ sinh, tay nắm cứng đứa con lớn, Tôi mon men ra phía chỗ không có những hàng lan can chắn giữ rồi lầm ĺ đứng im miên man nh́n xuống làn nước chảy xiết bên dưới. Tôi dự định sẽ ôm chặt hai con và phóng xuống thật nhanh. Gió lạnh làm con tôi rùng ḿnh co ro. Tôi cúi ôm con và nói: “ Mẹ con ḿnh chết với nhau nghe con!” Thằng bé 4 tuổi không biết có hiểu chết là ǵ không bỗng nhiên khóc rống, lắc đầu quầy quậy “ Con không chịu ! Con không chịu ! …” Tiếng la khóc xé ḷng của con như một tia chớp lóe, khiến tôi giật ḿnh, sửng người chợt tỉnh. Tôi c̣n nhớ, măi măi, cái cảm giác của tôi lúc đó là một nhói buốt kinh hoàng ở ngực. Tôi sợ hăi, ôm các con lùi vội vô phía trong rồi hôn con như điên như dại với nước mắt giàn giụa và ḷng chưa hết nỗi bàng hoàng.
Ba mẹ con Tôi vừa thoát qua được cái chết trong giây phút ngu muội, oan uổng, v́ thế tôi cảm thấy ḿnh cần phải sống. Đối với tôi từ giờ phút này – Hai con chính là lẽ sống duy nhất của tôi trên đời này !
Tôi đến kiếm người bạn tên Duyên xin tá túc. Gia đ́nh Duyên không khá giả, nhưng sẳn ḷng chia cho mẹ con tôi một chỗ ở.. Sợ bạn v́ ḷng tốt sẽ bị phiền hà với công an khu vực v́ dám chứa “ Vợ Ngụy” nên tôi xin dọn ra ở trong căn cḥi đựng củi phía sau nhà.
Đêm đầu tiên ngủ trên vạt giường đóng vội bằng những cây tràm cong queo nên tôi phải lôi hết khăn khíu, quần áo để lót cho con tôi nằm đỡ cấn.. Nửa đêm trời bỗng đổ mưa, mưa vật vă dập những ḍng nước cuồng bạo vào các vách nhà và gió lăn lộn thổi thốc khiến mái lá dựng đứng đưa những giọt nước xối xuống làm mùng chiếu ướt đẫm và ngọn đèn dầu tù mù một hồi rồi tắt ngấm. Tôi ṃ mẫm trong bóng tối ôm kín hai con đang giật ḿnh khóc tấm tức rồi vơ vội cái mền lết t́m chỗ nào đỡ dột nhất ngồi thu lu phủ trùm cái mền cho con ấm rồi nhẹ nhàng đung đưa dỗ cho con ngủ tiếp. Tội nghiệp hai đứa con gầy g̣ như hai cọng cây non rút sát trong ngực tôi thiếp trong giấc ngủ chập chờn.
Lát sau gió lui xa, nhưng mưa c̣n chập chùng. Tôi ngồi trong ngôi cḥi quây kín bằng lớp lá dừa chằm mỏng manh nặng mùi ẩm mốc mà tôi tưởng như đang ngồi trong chiếc thuyền vật vờ lênh đênh trong giông băo ngoài biển khơi mịt mùng. Trong hoàn cảnh này, tôi không c̣n nước mắt đâu để khóc, cũng không c̣n cảm xúc để kêu trời hay gọi đất, chỉ mong mưa tạnh, trời mau sáng – Như chị Dậu, một nhân vật của Ngô Tất Tố – Tôi cô đơn tê tái nh́n chung quanh khuất ch́m sau màn đen dầy kịt.
Kiếm Sống:
Cứ sáng sáng là ba mẹ con tôi có mặt ngoài chợ Cần Thơ. Tấm ny-lon trải dưới đất nơi góc chợ với mớ quần áo cũ là nghề kiếm sống mà tôi có thể nuôi on và tiếp tế cho Chồng. Một hôm đang ngồi tháo chỉ quần áo th́ gặp Vợ Anh La Phú Xương đi ngang qua. Bạn thân lâu ngày gặp mừng lắm, đến chừng quay lại thấy hai con tôi nằm chèo queo ngủ thiêm thiếp bụi đời dưới bóng nắng hắt trên chiếc xe ba bánh th́ chị không dằn được nên bật khóc. Rồi chị khuyên tôi nên dọn tới nhà chị ở. Trong khi tôi mua bán ngoài chợ, các con tôi ở nhà với các con chị, khỏi phải dầm mưa dăi nắng.
Nghe chị Xương đề nghị hợp lư, phần Duyên cũng đốc thúc nên tôi ngậm ngùi chia tay với căn cḥi t́nh nghĩa, nơi, đă cưu mang mẹ con tôi trong những ngày cùng khổ nhất.
Chị Xương đùm bọc mẹ con tôi giống như lá rách đùm lá nát v́ hoàn cảnh chị có hơn ǵ tôi đâu ? Anh Xương đi TÙ CẢI TẠO , ở nhà bốn mẹ con chị phải cạy từng lớp gạch bông, từng lớp gạch bếp ra đổi gạo. Sau khi không c̣n ǵ để bán th́ thằng con trai út phải ra ngoài chạy xe đạp ôm. Chị Xương tập tành đi buôn – Chị bó từng cục thịt trong người đi buôn lậu từ chỗ này tới chỗ kia.
Trong mỗi mảnh đời của những người đàn bà có chồng bị TÙ CẢI TẠO không có mảnh đời nào sướng hơn mảnh đời nào, không có mảnh đời nào “Nhục” hơn mảnh đời nào. Bởi v́ cuộc đời những người đàn bà như chúng tôi bây giờ nếu không là mưa nắng th́ là gió táp vập vùi. Cho nên người đàn bà dang thân ra đứng bán chợ trời th́ gặp trăm ngàn cay đắng do bạn hàng o ép có khác ǵ người đàn bà dăi dầu đi buôn từng bịch gạo, kư thịt cũng đắng cay bởi những tên lơ xe, tài xế, đứng bến tiểu nhân đắc ư quyền hành.
Thời gian này chiến tranh cơm gạo mới tồi tàn làm sao. Đó chính là sự đổi thay rộng lớn của cuộc đời và con người. Đó chính là sự đổi thay tàn nhẫn, ghê gớm đến cái độ tan biến, đảo lộn hoàn toàn nề nếp cũ khiến người đàn bà khác hẳn – sẵn sàng xù lông giương móng dành nhau từng kư bo bo, từng kư ḿ sợi, từng lít nước muối pha màu để giữ chặt phần ăn cho con ḿnh.
Tôi sống như thế cho đến một ngày, cuộc trùng phùng với vợ chồng người nhân viên cũ như một cơn mơ làm thay đổi cuộc đời của tôi. Xin được kể lại một chút về sự liên hệ ân t́nh này:
…Năm đó chú Sáng là tài xế lái xe cho chồng tôi. Như thường lệ, mỗi sáng chú lái chiếc Scout đậu trước nhà chờ. Xe lúc nào cũng nổ máy, nhưng hôm đó chú loay hoay lau xe nên không thấy một đứa bé trai ba tuổi, con của Thiếu tá Nguyễn Thanh Ṭng trưởng ty Cảnh sát đang lon ton theo người nhà đi mua điểm tâm. Đang đi như vậy, bỗng thằng bé chun vô ngồi trong gầm xe hồi nào không ai hay. Chồng tôi từ nhà bước ra, vô ư, mở cửa leo lên, xe vọt tới, có người la hoảng, nhưng đă trễ ! Xe cứu cấp tới th́ thằng bé đă chết. Chú Sáng bị câu lưu rồi được thả để chuẩn bị ra toà. Mặc dầu ông bà Trưởng ty hứa sẽ băi nại, nhưng chú không yên tâm. Một buổi chiều chú ghé thăm, mặt mày có vẻ nôn nóng muốn bỏ trốn. Tôi thông cảm, lén chồng dắm dúi đưa chú ít tiền làm vốn để về quê nuôi vợ con. Từ đó chúng tôi bặt tin.
Sau năm 1975 vợ chồng chú Sáng xúc động khi nghe người ta kể lại những biến cố trong gia đ́nh tôi nên vợ chồng chú quyết tâm t́m cho ra tung tích vợ con người chỉ huy cũ để giúp đở. Gặp nhau giữa chợ. Chúng tôi nh́n nhau mừng mừng tủi tủi. Sau đó vợ chồng chú ân cần đề nghị đón mẹ con tôi về sinh sống nơi quê vườn của chú. Trong lúc này, thôn dă là nơi trú ẩn an toàn hiền hoà nhất cho một người Vợ nuôi con đợi Chồng. Vả lại, cảnh dang thân dầm ḿnh giữa chợ và cuộc sống không một tờ giấy tùy thân đă khiến tôi thấm mệt. Con tôi lại sắp đến tuổi đi học và tờ Hộ khẩu là tờ giấy bức thiết để con tôi vào trường. Lời đề nghị của vợ chồng chú Sáng ngay lúc này như cái phao trong tầm tay. Tôi muốn từ đây chấm dứt cuộc sống lưu lạc như mèo mẹ bơ vơ tha con ḿnh đi cùng khắp.
Nghe tôi nhận lời, vợ chồng chú hối hả về quê dựng liền mái nhà rồi tức tốc trở xuống Cần Thơ đón mẹ con tôi. Ngày chia tay lại là một ngày toàn nước mắt. Gia đ́nh Duyên, gia đ́nh chị Xương và gia đ́nh tôi bịn rịn không rời.
H1.jpg
Chúng tôi về Vàm Cống, ở trong ngôi nhà tranh kín đáo, cất giữa đồng. Trong nhà chúng tôi có giường cây, bàn cây, ghế cây, tuy chỉ những loại gỗ tạp rẻ tiền nhưng tôi cảm thấy ḿnh thật giàu có và bắt đầu học bài học biết ơn mọi thứ. Tôi như sống trong một gia đ́nh, tôi có người bao bọc, giúp đỡ mọi mặt. Những ngày tháng tù đầy phơi rốn cứ thế êm đềm qua. Tôi là người sống động, nên cho dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù phải nếm qua bao khốn khó tủi nhục ǵ, dù đang ở một nơi thiếu tiện nghi nhất – như vùng quê này, không điện, không nước máy, không TV, nhưng tôi lúc nào cũng t́m một cái ǵ vui để quên khốn khó, vẫn thêu dệt nhiều mộng đẹp, thí dụ mái cḥi tranh tôi đang ở thi vị hoá là “lều thơ” và biến nó thành một nơi ở thơ mộng, là một nơi an toàn cho các con tôi có chỗ chạy nhảy nô đùa. Ở chung với ba mẹ con tôi c̣n có cháu Thủy con gái của vợ chồng chú Sáng. Cứ sáng sớm tôi lên chợ Long Xuyên bán buôn th́ mấy chị em ở nhà với nhau. Chiều chiều tôi xách gạo, thức ăn về nấu, cả nhà xúm lại ăn với nhau thật vui rồi tụm lại nghe tôi đọc truyện trước khi đi ngủ. Thằng con trai lớn của tôi lúc đó biết mê Thủy Hử. Những cuốn truyện xưa c̣n sót lại thằng bé đọc đến thuộc ḷng. Biết con thiếu cha là một thiệt tḥi rất lớn, nên tôi phải làm tất cả, hết sức ḿnh để bù đắp. Hôm nào có gánh hát, tôi và Thủy đạp hai xe chở hai con đi coi hát, sau những cơn vui nho nhỏ, đêm tối thức giấc ṿ vơ nghe ếch nhái rền ră ồm ọp kêu than thăm thiết mới thấy nỗi hiu quạnh. Cái âm điệu đó ám ảnh tôi cho tới tận hôm nay, khi Tôi đă sống đoàn viên trên nước Mỹ – nhiều đêm ngủ tôi c̣n nghe văng vẳng đâu đây, giật ḿnh hoảng hốt choàng dậy, lắng nghe…may quá, chỉ là tiếng gió !Tôi trồng một số cây ăn trái chung quanh nhà đang sơn sởn th́ trận lụt kinh hồn năm 1978 nhận ch́m nghĩm. May nhờ có hàng xóm trước đó đến làm cho mẹ con tôi cái sàn để kê đồ đạc cho khỏi ướt và làm chỗ cho mẹ con tôi và cháu Thủy ở. Cái sàn tuy áp sát mái nhà nhưng an toàn. Để đề pḥng đêm khuya nguy hiểm, vợ chồng chú Sáng c̣n treo cái kẻng có ǵ th́ tôi khua lên cho hàng xóm chạy tới. Mấy tháng nước nổi nhưng các con tôi không hề thiếu ăn, thiếm Sáng ngoài tiếp tế bánh trái, thiếm c̣n cho canh cho cá… Có lần thiếm cho ăn món canh chua Xiêm La, ngon tuyệt, nhớ suốt đời !
THĂM NUÔI
Đời sống trôi qua một cách vật vă. Những ngày tháng tất tả chạy ngược chạy xuôi, thăm nuôi cha, thăm nuôi chồng, nuôi con và nuôi ḿnh, khiến tôi tàn tạ không ngờ. Người vợ “ Thục nữ yểu điệu” ngày nào giờ bơ phờ cằn cỗi. Nhà tôi cách phà Vàm Cống đúng hai cây số.. Mỗi chuyến thăm nuôi chồng, tôi phải dậy lúc nửa đêm, hai mẹ con khiêng vác những bao bị giỏ xách khệ nệ đi bộ ra tới bến phà, đập cửa nhà ông thuyền câu, nhờ ông chở qua sông trước ba giờ sáng để kịp đón xe tài nhất từ Long Xuyên chạy xuống Cần Thơ.
Chúng tôi qua con sông bắc Vàm Cống bằng chiếc thuyền câu chèo tay mỏng manh. Bây giờ ngồi nhớ lại, không hiểu sao tôi có can đảm đưa con ngồi trên chiếc thuyền băng ngang ḍng nước chảy xiết trên khoảng sông rộng mênh mông dập dềnh những con sóng cơ hồ nhiều lần nhận chiếc thuyền xuống nước trong đêm tối chập chờn như thế ?
Có lần tôi kể cảnh tám năm thăm nuôi trong bài Khóc Lặng Thinh là tám năm tôi và đứa con trai đầu ḷng vừa bốn tuổi có rất nhiều kỷ niệm tủi cực trong những chuyến thăm nuôi chồng tôi ở trong TÙ CẢI TẠO… Trong những lần đó, mẹ con chúng tôi nhiều đêm phải ngủ ngoài lề đường, hoặc là ngồi bó gối suốt đêm ngoài bến xe, ngủ lăn lóc ngoài bến tàu, ngủ bờ, ngủ bụi… thậm chí tôi cũng thường xuyên ṭn ten đeo cửa xe đ̣ trên quảng đường đầy ổ gà dài vài chục cây số. Có một lần xe đ̣ bể bánh, lật nhào, lăn nhiều ṿng, tôi ôm chặt lấy con tôi mà tưởng hai mẹ ccon cùng chết. Khi chiếc xe nặng nề nằm im thôi không lăn nữa và biết ḿnh c̣n sống, hai mẹ con lóp ngóp run rẩy chen chúc ḅ ra, tôi vội vàng rờ rẫm khắp cùng ḿnh mẩy Con để chắc coi con ḿnh có bị ǵ không, miệng năn nỉ hỏi coi con đau chỗ nào. Biết con không sao, tôi yên tâm rồi thảng thốt đi như người mộng du bươi t́m trong đống ngổn ngang lôi ra bao thức ăn thăm nuôi bẹp rúm rồi kéo lê kéo lết lên bờ đường. Tai nạn tuy không có người chết nhưng chung quanh tôi mọi người kêu réo lao xao. Lúc này tôi mới cảm thấy thân thể tôi ră rời, vừa ôm dỗ đứa con bé bỏng xanh xao nằm thiêm thiếp mệt nhọc trên ngực mà tôi tê tái, buồn đến quặn thắt đau xót ruột gan. Tôi lặng lẽ ôm con mà khóc.
Trại Tù Kinh Năm tại xả Hoả Lựu tỉnh Chương Thiện là một tập đoàn ăn hối lộ trắng trợn. Tù muốn đi phép về thăm vợ ? Tù muốn đi công tác ngoài tỉnh ? Tù muốn vượt biên ? Những điều kiện này Tù cứ việc đóng vàng cho cán bộ phụ trách theo quy định giá cả hẳn ḥi. Kể cả việc Vợ Tù muốn ngủ đêm với Chồng. Kế bên nhà trại dựng sẳn nhà một cán bộ, vợ Tù cứ mang “ Bao Thư ” hay “ Giỏ Quà ” đến đó th́ sẽ toại ư muốn ngủ lại với chồng hai ba đêm ǵ cũng được !
Năm đó, chồng Tôi bị thổ huyết, mỗi lần ho, máu ộc từng ngụm nhiều lần tưởng chết nhưng vẫn phải bắt buộc lao động nặng. Tôi lo lắng, lần đi thăm nuôi, tên Công An quản giáo lân la gợi ư bắt mối cho biết muốn chồng tôi được lao động nhẹ th́ nên “ lo lót” cho vợ Hai Râu trưởng Trại Tù. Thế là tôi chạy sất bất sang bang, nhà nào tôi cũng gơ cửa, cuối cùng gom được hai lượng vàng. Duyên bạn tôi e ngại vợ trưởng trại chê ít, nên chu đáo cho thêm 200 con cá giống Chép và Trắm Cỏ rồi kêu xe chở tôi cùng hai bịch cá khổng lồ vô nhà vợ ông ta đang sống tại Phụng Hiệp.
Tôi loay hoay thật lâu bên lề đường trước khi may mắn được mấy người chăn trâu phụ khiêng hai bọc cá khổng lồ đầy nước với Oxy vô nhà vợ Hai Râu. Mặc dù nắng trên đầu như đổ lửa nhưng tôi không thấy mệt chút nào. Tôi mang niềm hy vọng đi lấp xấp quẹo vô ngơ, bỗng đụng mặt một người đàn bà vẻ khinh khỉnh đứng đó. Tôi chưa kịp chào, bà hất mặt “ Bưng ǵ đó ?” Tôi khựng lại, cảm thấy nhục, nhưng cố dằn cái bất b́nh xuống, mềm mỏng “ Tôi có ít Cá giống tốt tặng chị, mong chị thơm thảo nhận dùm”. Con mụ vợ trưởng trại tù Kinh 5 nói giọng kiểu tiểu nhân đắc ư “ Chèn ơi ! mấy con vợ Tá, vợ Úy của tụi Ngụy tặng tui xe Honda, tủ lạnh lủ khủ tui c̣n hông thèm, chị cho chi mấy con cá này ?!” Tôi tức uất lên, nếu không thể chửi mụ vài câu th́ cũng bỏ bịch cá đang lội lờ đờ dưới chân đi thẳng… Nhưng nhớ đến thân h́nh gầy guộc của chồng, nhớ đến cơn bịnh không biết cướp mạng chồng ḿnh lúc nào nên tôi dằn cơn giận xuống, tay như run nhẹ trong túi áo khi móc gói hai lượng vàng ra đưa mụ. Tôi nói “ Lần đầu tặng Chị làm quen, mai mốt Chị muốn ǵ tôi đem vô… thêm ” Con vợ thằng trưởng trại lấy gói vàng lật ra chăm chú xem rồi nhét vô túi, miệng cười hệch ra. Nhưng lúc đó mụ cũng vừa liếc thấy chiếc ṿng cẩm thạch của tôi đeo dấu trong tay áo bà ba, mụ liền nắm tay tôi kéo vô nhà vừa cười mơn vừa vén tay áo của tôi để săm soi chiếc ṿng, miệng nói ngọt sớt “ Chèn ơi! chị em không mà, chiếc ṿng xanh dữ hén, chắc màu lư. À chồng chị tên ǵ, cấp bậc ǵ, trại TÙ CẢI TẠO mấy, nói tui giúp liền…” Câu giúp liền của mụ là tôi biết tỏng mụ rồi, nhưng tôi biết làm ǵ hơn đành phải bấm bụng kêu mụ lấy nước với cục xà bông, mụ mừng lắm, hối mấy đứa con lè lẹ. Nước xà bông đem tới, mụ sà bên tôi vừa bóp vừa thoa vừa cật lực kéo chiếc ṿng Cẩm Thạch cho tuột ra. Tôi đau điếng, chịu đựng, ngồi kể lể t́nh cảnh của chồng ḿnh. Lột được Chiếc Ṿng Cẩm Thạch, tôi thấy hai con mắt mụ sáng rực, không biết mụ có nhớ tôi nhờ ǵ không ? Sợ mụ quên, tôi nhắc tên và cấp bậc, pḥng, Trại Tù Cải tạo của Chồng Tôi lần nữa rồi lủi thủi ra về với bàn tay sưng đỏ.
Sau đó chồng tôi được điều vào tổ khác: Đôi ngày ngồi cưa củi, lột vỏ tràm. Vài ngày chuyển qua dầm ḿnh dưới sông để vớt rong, lục b́nh về cho tổ rẩy. Công việc này tuy chưa phải là lao động nhẹ, nhưng dù sao cũng đỡ hơn đi đào đất, móc gốc cây rất nhiều.
Những đợt kiểm kê tịch thu thuốc men, quần áo, vải vóc đă cạn kiệt. Bây giờ một viên ABC sổ mũi nhức đầu không có mà uống nên các loại Trụ Sinh chỉ mua bán lén lút chợ đen. Hôm đó đi thăm nuôi về, Duyên bạn tôi giới thiệu có lô thuốc Trụ Sinh trị cầm máu. Tôi suy nghĩ một chút hứa sẽ trở lại lấy rồi dắt tay đứa con kêu xe kéo đến bịnh viện để bán máu. Y tá rút tôi một ống máu, thấy ḿnh c̣n khoẻ, tôi năn nỉ họ rút thêm ống nữa. Có lẽ thấy tôi tội nghiệp cho nên rút máu xong, họ tặng thêm cho cái bánh ú. Ra đến cổng tôi thấy hơi chóng mặt, nên ngồi xuống lề đường, hai mẹ con lột cái bánh ra ăn, kêu thêm ly trà đá. Vừa uống hết ly trà, con tôi khều tay chỉ “ Họ múc nước này trong cầu tiêu ḱa mẹ ” Tôi quay lại thấy mấy người xách xâu đựng ly trên tay, vừa múc nước trong hồ dội cầu để pha trà. Nhưng không hiểu sao, Tôi cảm thấy ăn cái bánh này, uống ly nước này thật ngon nhất trong đời, y như ông hoàng tử được ăn “ Cháo bắp, mắm hến” của ông nhà văn nào đó viết.
ĐOÀN VIÊN:
Sau bảy năm bốn tháng, chồng tôi được thả ve. Cảnh vợ chồng, cha con đoàn viên không sao tả xiết hết nỗi vui mừng hạnh phúc. Xóm giềng tôi dù nghèo nhưng nhà này nhà kia đem gà đem vịt tới ăn mừng. Ai cũng chúc phúc từ giờ vợ chồng tôi khổ tận cam lai. Vui được mấy ngày, chúng tôi bắt buộc phải về nguyên quán Mỹ Tho theo quy định nhà Nước Viet Cong. Mới chân ướt chân ráo lại lâm vào cảnh không nhà. Người em bà con cám cảnh, kêu cho cái vũng śnh trồng rau muống khuất trong hẻm gần chợ Cũ. Thế là con cháu, chị em xúm lại đổ đất đấp nền nên chẳng mấy chốc chúng tôi có được một nơi chốn kín đáo, ấm cúng, sạch sẽ mát mắt lạ thường.
Sau khi giải quyết được cái ở, chúng tôi bắt đầu lo tới cái ăn. Với bản tánh nhạy bén, tôi thấy chỗ của ḿnh có lợi thế về mua bán quà bánh thức ăn, nên bày ra bán cháo huyết. Thế là chồng tôi hộc tốc về quê mượn bàn ghế nồi niêu tô chén để gian hàng cháo của tôi kịp khai trương ngay đầu hẻm.
Bán cháo có ngày đắt ngày ế. Ế th́ cả nhà húp cháo thay cơm, nhưng ế hoài th́ mất vốn. Thấy tôi bán cháo cứ bị ế nên chồng tôi lén vợ đi bán kem. Mấy ngày đầu tưởng anh về quê phụ làm ruộng, nhưng một ngày anh bê nguyên thùng kem… vô đăi mẹ con ăn v́…ế, th́ tôi thật ngỡ ngàng. Cứ h́nh dung mặt mày anh bơ phờ, dáng vóc c̣m cơi vừa rung cái chuông leng keng, vừa đạp khắp làng cuối xóm để bán mà ứa nước mắt.
Chúng tôi phải vật lộn với gian khổ từng ngày như thế hơn mười năm sau….
Khi cuộc sống đă yên lành no ấm trên một đất nước tự do, có Nhân Quyền của miền Đất Mới là Quê Hương Thứ Hai, tôi thấy một cuộc đổi đời nào cũng là một cuộc đổi thay to lớn cho một đời người.
V́ thế, tôi càng thấm thía về cái được cái mất, về giá trị của sự sinh tồn.
Nhất là giá trị một quăng đời sống, phải trong sự rún ép, cay độc, nhục nhă, bị phân biệt đối xử của chế độ Cộng Sản Việt Nam mà nếu viết hết th́ chỉ vài trăm trang giấy không làm sao nói hết, ngày xưa sống trong ác mộng ...
Thụy Vi
23 - 02 - 2019
hoanglan22
03-11-2019, 03:09
Đúng 5 giờ 40 phút sáng ngày 9/4/1975, hàng ngàn trái đại bác đủ loại trút xuống thị xă nhỏ bé Xuân Lộc với diện tích vài cây số vuông. Trận mưa pháo tàn bạo và hiểm ác kéo dài trong một tiếng đồng hồ, tiếp theo sau là những đợt tấn công biễn người có xe tăng yểm trợ. Nhưng 3 sư đoàn 6, 7 và 341 của Quân Đoàn 4 do Thiếu Tướng Hoàng Cầm chỉ huy đă thất bại ngay trong những đợt tấn công đầu tiên. Các đợt tấn công của quân CSBV đă bị chận đứng ngay bên ngoài ṿng đai pḥng thủ của các chiến binh dũng cảm Nỏ Thần Miền Đông, Mũ Nâu, ĐPQ & NQ tỉnh Long Khánh. Sau ba ngày liên tục pháo và tấn công, quân CSBV vẫn bị cầm chân bên ngoài, chỉ có một vài toán nhỏ bộ đội lọt được vào bên trong, nhưng bị tiêu diệt ngay, phần lớn bị bắt làm tù binh. Bọn đầu sỏ Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng và Trần Văn Trà phải mở cuộc họp khẩn cấp tại Lộc Ninh vào buổi chiều ngày 11/4/75 để bàn thảo một phương án mới hầu tránh bị tiêu diệt. Trong lúc đó, vào buổi sáng ngày 12/4/75, quân trú pḥng lại được tămg cường Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, làm cho kế hoạch tấn chiếm Xuân Lộc càng thêm vô vọng.
Cuộc chiến vẫn trong t́nh trạng giằng co. CSBV điều thêm vào chiến trường Trung Đoàn 95B, rồi Sư Đoàn 325, nhưng vẫn không đạt được những ǵ chúng mong muốn. Sau khi pḥng tuyến Phan Rang thất thủ chiều ngày 16/4/75, Quân Đoàn Duyên Hải/CSBV do Tướng Lê Trọng Tấn chỉ huy đang trực chỉ Xuân Lộc. Bộ đội của hắn đă xuất hiện ở Rừng Lá.
Quân CSBV càng tập trung đông đảo, càng là miếng mồi ngon cho loại bom có sức hủy diệt lớn. Đó là Bom BLU-82.
BẢO ĐỊNH Vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh Quốc Cộng, QLVNCH được người bạn đồng minh Hoa Kỳ cung cấp cho 6 trái bom loại lớn nhất, có tên gọi là BLU-82 để QLVNCH có thể ngăn chận được làn sóng đỏ đang hung dữ tràn vào từ phương Bắc. Loại bom này xử dụng ng̣i nổ “Daisy Cutter”. Nhưng có điều hôi hài, người bạn chỉ cung cấp 2 ng̣i nổ!
Bom nặng 15,000 pounds, đường kính 54 inches, chiều dài 141,6 inches, trị giá khoảng $27,318 USD. Bom được đặt lên vận tải cơ C.130, bay ở cao độ 6,000 feet. Tùy theo tính chất của mục tiêu, bom BLU-82 có loại văng miểng, có loại gây hơi ép, khi nổ tạo ra áp lực 1,000 pounds/square inch. BLU-82 có công hiệu chống hầm hố bằng cách phóng ra một hổn hợp nhiên liệu khí, khi nổ gây sức ép lớn, đồng thời đốt hết dưỡng khí trong một khu vực.
Theo tài liệu của George J. Veith & Merle L. Pribbenow II trong quyển “Fighting Is An Art”, tháng 4 năm 1975, Không Lực Hoa Kỳ dùng máy bay C-130 chở những trái bom tới Phi trường Tân Sơn Nhất, trao lại cho Không Quân VNCH. Các chuyên viên của cơ quan DAO sẽ huấn luyện cho phi công QLVNCH cách xử dụng. Buổi chiều ngày Thứ Ba, 22 tháng 4 năm 1975, một chiếc C-130 của Không Quân VNCH chở một trái CBU rời Phi trường TSN, bay ra Xuân Lộc, đảo một ṿng rồi nhắm hướng Đông, thả trái bom CBU xuống Chỉ Huy Sở của Sư Đoàn 341/CSBV, đặt ngay bên ngoài thị xă Xuân Lộc vừa bị bỏ ngỏ. Bom đă gây thiệt hại nặng nề cho quân CSBV. Có hơn 250 tên bộ đội xâm lăng đền tội. Nhưng ở một đoạn khác, tác giả nói v́ không có những phi vụ B-52, KQ/QLVNCH đă bay thả xuống những mục tiêu quan trọng tại chiến trường Xuân Lộc những trái bom nặng 15,000 pounds gọi là “Daisy Cutter”. Ngày 14/4, trái “Daisy Cutter” đầu tiên thả xuống Chỉ Huy Sở của QĐ4/CSBV, cách Xuân Lộc 12 cây số về hướng Đông Bắc. Tin tức ghi nhận có đến 75% mục tiêu bị hủy diệt. Tuy nhiên, một nguồn tin khác cho rằng trái “Daisy Cutter” đầu tiên đă được KQ/QLVNCH thả xuống hồi tháng 11/74. Theo Quân sử của QĐ4/CSBV, KQ/QLVNCH đă thả loại bom có tầm sát hại lớn là CBU (Cluster Bomb Unit) làm cho các đơn vị của chúng bị thiệt hại nặng.
Khi Tướng Vơ Nguyên Giáp được báo cáo về vụ ném bom, đă gửi ngay một công điện vào Mặt Trận, khuyến cáo bọn chỉ huy chiến trường phải tấn công TSN và các phi trường khác để máy bay của KQ/QLVNCH không thể cất cánh được. Nhưng sự việc ai đă ra lệnh cho xử dụng bom, bao nhiêu trái, mục tiêu đánh bom, và sự thiệt hại do bom gây ra th́ vẫn trong ṿng bí mật.
Theo tài liệu “Tuyến Thép Xuân Lộc” do Đại Tá Hứa Yến Lến, TMT/HQ/SĐ18BB, biên soạn, Chuẩn Tướng Trần Đ́nh Thọ, Trưởng Pḥng 3/BTTM/QLVNCH, xác nhận hai trái bom thả xuống Xuân Lộc là loại bom BLU-82 chứ không phải CBU-55, do Không Quân QLVNCH bay thả xuống vùng tập trung quân CSBV. Mục tiêu do Tư Lệnh Chiến Trường (Lê Minh Đảo) cung cấp, Tư Lệnh Quân Đoàn (Nguyễn Văn Toàn) xin BTTM, và khi Đại Tướng TTMT Cao Văn Viên chấp thuận th́ chuyển qua cho Tư Lệnh Không Quân (Trung Tướng Trần Văn Minh). Và chỉ có Tư Lệnh Không Quân biết để mà thi hành.
Theo quyển “Những Ngày Cuối của VNCH” của Đại Tướng Cao Văn Viên, cuối tháng 2/1975, BTTM xin Hoa Kỳ cung cấp những loại bom chiến lược không quân có thể xử dụng được. Hoa Kỳ hứa gửi 27 quả bom và chuyên viên huấn luyện. Giữa tháng 4, ba trái được chở đến, cuối tháng 4, thêm ba trái nữa. Một chuyên viên Hoa Kỳ đi theo để hướng dẫn. Nhưng người phi công Hoa Kỳ có trách nhiệm lái máy bay thả bom th́ không đến. Trong t́nh trạng khẩn trương của chiến trường, BTTM và BTL/KQ quyết định tuyển chọn một phi công kinh nghiệm cho nhiệm vụ thả bom.
“Vào một giờ sáng phi cơ thả trái “Daisy Cutter” đầu tiên cách Xuân Lộc 6 cây số về hướng tây bắc. Thành phố Xuân Lộc rúng động như gặp động đất; tất cả đèn điện bị tắt, và truyền tin của địch ngưng hoạt động – bộ chỉ huy sư đoàn 341 CSBV bị tiêu hủy”.
Theo quyển “Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954-1975” của Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Đại Tá Lê Bá Khiếu, và Tiến Sĩ Nguyễn Văn, trang 255 có ghi: “Đêm 15/4/75, sau khi cộng quân tràn ngập vùng ngă ba Dầu Giây, Tướng Toàn, TL/QĐ III đă quyết định đề nghị Bộ TTM cho xử dụng hai quả bom “Daisy Cutter”. Bom Daisy Cutter thực sự dùng để phá rừng, sửa soạn băi đáp trực thăng cho một số quân cở Trung Đoàn, cho nên từ trước đến nay, QLVNCH chưa bao giờ xử dụng đến. Kết quả hai trái bom “Daisy Cutter” đă loại khỏi ṿng chiến 2 Sư Đoàn Cộng Quân (hơn 10,000 quân). Sau khi bị hai trái bom “Daisy Cutter” sát hại, Bắc Việt la hoảng phản đối, cho rằng B-52 của Hoa Kỳ đă trở lại…”
Theo Đại Tá Hoàng Đ́nh Thọ, Trưởng Pḥng 3/QĐ III cho biết “khu vực đánh bom là dọc theo QL20, phía Nam Kiệm Tân”. Theo Hànội th́ khu vực bị đánh bom nằm giữa Biên Ḥa và Xuân Lộc. Mục tiêu được lựa chọn để đánh bom là chỉ huy sở của sư đoàn 341/CSBV.
Theo quyển Hồi Kư “Chiến Đấu Đến Cùng” của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, TL/Lực Lượng Xung Kích QĐIII, nói ông đă cho lệnh đánh hai trái bom CBU-55. Đại Úy Chi Đoàn Trưởng thuộc CĐ315 Kỵ Binh cho rằng đă chứng kiến 2 trái bom rớt xuống khu vực ngă ba Dầu Giây. Nhưng theo kinh nghiệm của người viết, là Tiểu Đoàn Trưởng của đơn vị pḥng thủ Núi Thị, chỉ cách ngă ba lối 7 cây số, th́ nếu bom đánh ở khu vực Ngă Ba, căn cứ Núi Thị phải bị chấn động. Và nhất là Đại Đội 43 Trinh Sát của Trung Úy Khoát, hoạt động khu vực hướng Tây Nam Núi Ma, cách Ngă Ba lối 3 cây số mà không hề hay biết ǵ cả! Vậy có thể mục tiêu không phải là ngă ba Dầu Giây.
Ông Nguyễn Cao Kỳ trong quyển “Buddha’s Child” (My Fight To Save Vietnam) viết chung với Marvin J. Wolf, xuất bản May 2002, cũng tuyên bố chính ông cho lệnh đánh hai trái bom. Nhưng trong thời điểm đó, ông Kỳ chỉ là Tướng “không quân”, “ngồi chơi xơi nước”, không đảm trách một nhiệm vụ ǵ về Hành Chánh hay Quân Đội. Đă không chức, không quyền th́ ông Kỳ ra lệnh được ai? Và ai dám thi hành lệnh của ông, dù ông là cựu Phó Tổng Thống, cựu Thủ Tướng, cựu Tư Lệnh Không Quân. Ở trang 331, ông Kỳ viết: “…One day Operations called to say that an enemy division (thật ra là 3 sư đoàn 6, 7 và 341) had encircled one of our bases. Our people asked for air support, but there were so many troops that only a cluster bomb would be of any use.
I had none on hand, so I asked the air force commander. He said that he had no authority to autorize their use. I asked the chief of the joint general staff; his answer was the same. I called several generals, and each said they had no authority. I knew that if I were to ask Thieu, he would have to consider his answer for a while, so I called the prime minister, Tran Thien Khiem.
“It’s up to you,” he replied after I had explained the situation. “Tell them that I’m okay with it.”
I called the chief of operations back and said, “Okay, use it.” He accepted my authority (ông Giám Đốc Trung Tâm Hành Quân này chắc phải ra Ṭa Án Quân Sự!), and the resulting air strike was the last time we inflicted major casualies on the enemy”.
Theo Đại Tá Lê Xuân Hiếu, Chiến Đoàn Trưởng 43 nằm bên trong thị xă Xuân Lộc, hai trái bom được thả vào ban đêm. Ngay sau khi hai trái bom đă được thả, Đại Tá Trang, bạn cùng khóa Vơ Bị, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Đoàn III, gọi cho ông hỏi có cảm nhận ǵ không? Đại Tá Hiếu cho biết, bom nổ đă gây chấn động mạnh, các ngọn đèn điện phụt tắt.
Về sự thiệt hại do hai trái bom gây ra th́ có nhiều nguồn tin khác nhau. Từ con số vài trăm đến vài ngàn, thậm chí có tác giả đưa ra con số 10,000, và nói đă loại khỏi ṿng chiến 2 Sư Đoàn CSBV! Nhưng nhiều người, kể cả Hànội, vẫn đồng ư mục tiêu là chỉ huy sở của Sư 341/CSBV, nơi tập trung nhiều xe tăng, bộ đội và hậu cần của chúng.
Trong một trận đánh tại mặt trận Trảng Bom vào giờ thứ 25 của cuộc chiến, một sĩ quan cấp Tiểu Đoàn Trưởng của Sư đoàn 18BB bị bắt, được dẫn tới gặp tên E Trưởng (tức Trung Đoàn Trưởng), tên này nói: “May mắn cho anh là gặp chúng tôi, nếu anh gặp đơn vị kia (ư hắn muốn nói đơn vị bị thiệt hại nặng, hẳn là Sư 341) th́ anh đă bị bắn chết tại chỗ!
Sau khi thả hai trái bom gây chấn động trong hàng ngũ CSBV, LL/XK/QĐIII của Tướng Khôi và Trung Đoàn 8 của Đại Tá Hùng vẫn tiếp tục đánh nhau với Cộng quân tại khu vực phía Tây ngă ba Dầu Giây cho đến khi Sư Đoàn 18BB có lệnh rút.
Tại căn cứ hỏa lực Núi Thị, hai chủ đồn điền cao su người Pháp, một của đồn điền Túc Trưng, và một là chủ đồn điền S.I.P., bị quân CSBV bắt giam đưa vào rừng mấy ngày, nhưng khi được xác nhận là Pháp kiều th́ được thả. Họ đă đến tŕnh diện vị Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng 2/43, và đă cung cấp nhiều tin tức quan trọng.. Đặc biệt họ cho biết đă chứng kiến cảnh xe ḅ, xe trâu tản thương suốt cả một ngày và một đêm. Mỗi xe đều chồng chất lên nhau từ 3 đến 5 thương binh hay xác chết của Cộng quân. Phải chăng đó là những tổn thất của CSBV do hai trái bom BLU-82 gây ra.
Nếu Không Quân QLVNCH có đủ 6 ng̣i nổ để đánh phủ đầu quân CSBV xâm lăng th́ có lẽ t́nh thế đă đổi khác.
Sau khi chiếm được Phan Rang chiều ngày 16/4/75, Quân Đoàn Duyên Hải của Tướng Lê Trọng Tấn liền trực chỉ Xuân Lộc. Bộ đội của hắn đă xuất hiện ở Rừng Lá. Các đoàn convoy chở đầy bộ đội và tiếp liệu th́ cứ phon phon chạy trên đường QL1. Chúng đă công khai ra mặt, không cần lén lút dấu diếm.
Nhưng người bạn Mỹ chỉ cần 2 trái để làm chậm bước tiến quân của bộ đội CSBV, hầu Đại Sứ Quán của họ có đủ thời gian sắp xếp cho việc di tản nhân viên và kiều dân Mỹ ra Hạm Đội 7 đang đậu ngoài khơi thành phố Vũng Tàu. Một trang sử mới đă lật qua nhẹ nhàng đối với người bạn một thời là đồng minh của VNCH. Ngày 26/4/1975, c̣n 4 ngày nữa Sàig̣n mới thất thủ, nhưng tại New Orleans, Louisiana, trong một bài diễn văn, Tổng Thống Gerald R. Ford tuyên bố: “…the war was ‘finished as far as America is concerned.’”
BẢO ĐỊNH
(Xuân Lộc, Trận Chiến Cuối Cùng mà tôi biết)
hoanglan22
03-11-2019, 03:17
Ông Thích Quảng Đức theo tài liệu, có tên là Lâm Văn Tức đi tu từ khi c̣n nhỏ, sau đó lại phạm giới có vợ và có con, nhưng không công khai chuyện này để bịp người đời ông vẫn là một người tu hành chân chính. Kiểu sống lưu manh hai mặt lừa dối ḷng tin của tín đồ như ông Lâm Văn Tức không có ǵ là hiếm trong giới “tu hành” của Phật Giáo Việt Nam từ năm 1963 tới nay. Chẳng hạn như Thích Hộ Giác, Thích Trí Dũng, Thích Phước Huệ, Thích Giác Đẳng, Thích Viên Lư và ngay cả HT Thích Tâm Châu cũng có trong danh sách đó. Ngoài chuyện phạm giới với phụ nữ ra họ c̣n hoạt động chính trị. Sau vụ bị nướng sống, nhà sư vọng ngữ phạm giới Thích Quảng Đức được Phật Giáo Ấn Quang thăng lon Bồ Tát, đúc tượng. Cộng với việc giậu đổ b́m leo, những tên phản tặc như Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Trần Thiện Khiêm, Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim, c̣n đem ông Lâm Văn Tức đặt tên đường ở Phú Nhuận, ngang hàng với tổ tiên và những người đă đóng góp công lao to lớn trong việc xây dựng nước nhà! Ngẫm lại ông Thích Quảng Đức Lâm Văn Tức quả c̣n tốt số hơn cả Xuân Tóc Đỏ!
Bên cạnh sự tốt số của Lâm Văn Tức, những kẻ hưởng sái vụ nướng sống ông ta cũng trúng mánh lây. Đó là những tên phản tặc mang tội “giết vua”, tức tội phản quốc đă một bước lên ngôi cửu ngũ. Theo luật pháp của bất cứ quốc gia nào, những tên này phải bị đem ra ṭa án quân sự mặt trận để kết tội tử h́nh. Nhưng không, không những không bị tử h́nh mà lại c̣n được lên làm Thủ Tướng, Tổng Thống, Bộ Trưởng lănh đạo quốc gia! Thương thay cho đất nước một thời bị lănh đạo bởi những tên tội phạm như vậy, thảo nào không tránh khỏi hậu quả cuối cùng là Trung Cộng thanh toán Việt Nam! C̣n nhóm tăng lữ Ấn Quang cũng là một thứ cá mè một lứa với những tên tội đồ giết vua không kém. Ấn Quang được bọn phản loạn nâng đỡ nuông chiều, dùng họ để xóa tội giết vua của chúng và chụp mũ “đàn áp Phật Giáo” cho người đă bị giết, một người mà “Không thể vừa đi tu vừa làm chính trị. Được việc này th́ hỏng việc kia. Làm chính trị, mà đạo đức như nhà tu, không biết lừa lọc tráo trở thủ đoạn nên mới bị phản và mất mạng” (Vĩnh Phúc, BBC). V́ có bọn phản loạn bảo kê cho nên những tên cộng sản đầu trọc như Thích Trí Quang và những ông không tóc khác như Thích Tâm Châu trở thành quyền uy một cơi, có khác nào các ngài quốc phụ!
Thích Tâm Châu - 1964
Thích Tâm Châu - 1965
Dịch phần chú thích: (Ảnh trái) 16/12/1964 - Saigon, Thích Tâm Châu được một em hướng đạo sinh hộ tống sau khi ông ta chấm dứt 48 tiếng tuyệt thực chống chính phủ Trần Văn Hương. Các lănh tụ Phật giáo thề sẽ thực hiện bất kể cuộc hy sinh nào để lật đổ cho được chính phủ này mà theo họ là chống Phật giáo và độc tài. (Ảnh phải) 27/1/1965 - Saigon, lănh tụ Phật giáo Thích Tâm Châu đang lần xâu chuỗi hạt và ngồi sau song cửa tại Việt Nam Quốc Tự ở Sàigon hôm nay sau khi chấm dứt 1 tuần lễ tuyệt thực chống chính phủ Nam Việt Nam của Trần Văn Hương. Chính phủ Hương đă bị lật đổ hôm nay trong một cuộc đảo chánh không đổ máu bởi Tướng Nguyễn Khánh. Hàng ngàn người đến bên cửa sổ xem.
Từ đó quốc gia lâm vào t́nh trạng thần quyền. Hể không theo ư muốn của Phật Giáo Tranh Đấu là lập tức ngày mai có biểu t́nh tự thiêu lớn với khẩu hiệu đây là chính phủ “Diệm mà không Diệm”. Trong chỉ hai năm mà có gần 15 “chính phủ” cai trị Miền Nam, mà tất cả các chính phủ đểu đẻ non chết yểu không tồn tại quá 3 tháng, có những chính phủ chỉ tồn tại vài tuần! Phật Giáo Tranh Đấu trở thành quốc giáo, quốc phụ, quốc trưởng, Tối Cao Pháp Viện. Kẻ giết Diệm là Dương Văn Minh cũng bị Phật Giáo Tranh Đấu cho là “Diệm mà không Diệm”, kẻ chống Diệm như Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát cũng bị Phật Giáo Tranh Đấu cho là “Diệm mà không Diệm”. Ai mà bọn quốc phụ này không ưa hoặc không theo lệnh chúng đều biến thành “Diệm mà không Diệm”, một số ngay cả c̣n bị chúng tặng cho bản án tử h́nh như các ông Phan Quang Đông, Ngô Đ́nh Cẩn và vô số những cuộc đời phải tan nát khác như Dương Văn Hiếu, Đặng Sĩ. Với những tội ác như vậy mà bọn “tu hành” PGVNTN không bị quả báo mới là lạ! Đối với bọn tăng lữ Ấn Quang, chỉ trừ Việt Cộng và chính chúng mới không là “Diệm mà không Diệm”. Hăy nghe phật giáo tranh đấu Thích Huyền Quang xác nhận điều đó:“Sau khi chế độ nhà Ngô sụp đổ, nhưng một chế độ Diệm mà không Diệm vẫn tiếp tục cai trị từ năm 1963 đến 1975” (Huyền Quang Kỷ Yếu trang 41).
Nhưng sự tốt số của đám tội đồ giết vua và bọn quyền thần Phật Giáo Tranh Đấu chỉ là ngắn hạn, mà kẻ tốt số thực sự là thầy kín của phong trào Phật Giáo Tranh Đấu, đó là thầy Việt Cộng. Vụ bị thiêu của Lâm Văn Tức đă chính thức châm ng̣i cho các sóng gió trong chính trường Miền Nam, sự đau buồn của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm về t́nh trạng Phật Giáo như sau “Tôi thấy khi có vụ Phật giáo rồi, cụ Diệm buồn. Tôi đoán thấy ông hơi chán nản. Phật giáo làm quá rồi, ổng không muốn làm việc nữa” (Quách Ṭng Đức/ Vĩnh Phúc/ BBC) và cuối cùng cái chết của anh em ông đă đem lại một thảm họa mà không ai có thể biện bác khác đi được đó là Miền Nam đă bị chặt đầu, Essentially Leaderless Viet Nam (!) mà Bộ Quốc Pḥng cũng như cơ quan CIA Hoa Kỳ đă phải công nhận. Không có lănh đạo th́ chín năm sau đó Miền Nam tất phải rơi vào tay Trung Cộng, mà chính tên Bộ Trưởng Ngoại Giao cộng sản Nguyễn Cơ Thạch cũng đă công nhận “đây là bắt đầu của thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 5 vô cùng nguy hiểm” (Bùi Tín/ RFA)! Sự việc Trung Cộng thôn tính Hoàng Sa hơn 1 năm trước ngày Miền Nam thất thủ là một bằng chứng Bắc Thuộc không thể nào sai được!
Đó là hậu quả mà những tên giặc như Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Trần Thiện Khiêm, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim, Nguyễn Văn Nhung, Dương Hiếu Nghĩa và PGVNTN đă mang lại cho đất nước, trong đó, vụ nướng sống Thích Quảng Đức là một ng̣i nổ hết sức quan trọng. V́ vậy, năm mươi năm sau, bọn Tiết Độ Sứ Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Sinh Hùng đă vô cùng sung sướng đúc tượng hoành tráng để nhớ ơn ông ta, đồng thời tiếp tục chính sách bôi nhọ chính quyền Miền Nam rằng chính quyền Miền Nam đàn áp Phật Giáo, c̣n chúng th́ thương yêu Phật Giáo!
Tượng đài Thích Quảng Đức
Phạm Phương Thảo, Lê Thanh Hải và các đại diện UBND Thành phố đến cắt băng khánh thành tượng đài Thích Quảng Đức, 2010 (cand.com.vn)
Mục đích chính trị và thủ phạm việc nướng sống ông Thích Quảng Đức không ai mà không biết, nhưng v́ một số người Việt Quốc Gia vẫn c̣n giữ thái độ im lặng khiến cho những kẻ bất lương và Việt Cộng tưởng bở làm tới. Tưởng Thích Quảng Đức vẫn c̣n giá trị của một cái ổ khóa để khóa miệng những ai muốn vạch trần bộ mặt thật của bọn “Phật Giáo Tranh Đấu”. V́ vậy, cái ổ khóa Thích Quảng Đức đă được bôi dầu mỡ tune up lại với quư danh rất bảnh là “Bồ Tát” Thích Quảng Đức và một công tŕnh công viên tượng đài đồ sộ trong nước và tổ chức lăng xê khắp hoàn cầu. Chủ nhân của chiến dịch này ai cũng biết là cái mặt mẹt Trung Ương Đảng Việt Cộng. Dĩ nhiên chẳng ai thèm đếm xỉa đến những những ǵ Việt Cộng và những tên sư quốc doanh khoa môi múa mỏ, nhưng ở ngoài nước th́ tất cả những tên tay sai của chúng cần phải bị điểm mặt, trong đó cóchùa Khánh Anh của Thích Minh Tâm tại Âu Châu, chùa Pháp Luân của Thích Giác Đẳng tại Houston Texas, chùa Bát Nhă Santa Ana của Thích Nguyên Trí và “tổng hội cư sĩ” của Huỳnh Tấn Lê, hung thủ Trần Quang Thuận, giặc già hung thủ Tôn Thất Đính, chùa Bảo Quang của tên du đảng Thích Quảng Thanh với nhân vật Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái quậy phá lừng lẫy một thời kiêm hung thủ,Thích Tâm Châu, và đám “báo chí” tay sai Nhă Ca, Trần Dạ Từ, Nguyên Huy, Vũ Ánh.
Trí Quang & Tâm Châu
Dịch chú thích: (Ảnh trái) 12/12/1964 - Hai lănh tụ phật giáo Thích Trí Quang, trái, và Thích Tâm Châu cùng cầu nguyện tại trụ sở chính của phật giáo trước khi bắt đầu cuộc tuyệt thực 48 tiếng chống chính phủ Trần Văn Hương. Nhóm phật giáo buộc tội rằng người đứng đầu chính phủ đang thua cuộc chiến bởi v́ họ làm cho nhân dân chán ghét. (Ảnh phải) 9/4/1966 - Nhóm phật giáo đ̣i hỏi thành lập chính phủ dân sự. Các lănh tụ phật giáo cao nhất Thích Trí Quang, trái, và Thích Tâm Châu, phải, đang ngồi họp tại Viện Hóa Đạo ở trung tâm Sàig̣n hôm nay khi một bản tuyên cáo được đưa ra chống chính phủ quân đội của Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ và yêu cầu có một chính phủ dân sự được bầu cử. Toàn bộ lănh tụ phật giáo từ tất cả mọi phe cánh tập trung lại ra một bản tuyên cáo chung này. Các tín đồ trẻ th́ biểu t́nh chống chính phủ Kỳ và, trong một phạm vi nhỏ hơn, chống Mỹ trong ṿng một tháng qua (AP).
Nói về Thích Tâm Châu th́ người Miền Nam không c̣n ai lạ ǵ thành tích phá hoại của ông ta. Đă từng một thời kết băng kết đảng chặt chẽ vớiThích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Hộ Giác, Thích Quảng Độ, Thích Chánh Lạc, Thích Huyền Quang, Vơ Đ́nh Cường, Thích Minh Châu hè nhau phá nát Miền Nam. Nỗi đau đất nước bị lọt vào tay Trung Cộng và Việt Cộng quá lớn trong đó từng tên phá hoại trong đám sư chính trị nói trên đă bị vạch mặt, nhưng người ta không nhắc đến tên Thích Tâm Châu v́ lẽ vào thập niên 1990, ông ta đă công nhận, cho dù là chỉ khúc đuôi dấu đi khúc đầu, rằng: “Thực sự, cuộc tranh đấu từ tháng 6-1966, cho đến nay chia đôi Giáo Hội, đều do bàn tay Cộng Sản đạo diễn, làm hại cho Phật Giáo và quốc gia Việt Nam không nhỏ. V́ vậy, Phật Giáo không phải là không có trách nhiệm, liên đới đến sự để mất VNCH cho Cộng Sản. Vấn đề này, chính Ḥa Thượng Thích Huyền Quang cũng thường nhắc đi nhắc lại: CS từng tuyên bố: "Phật Giáo Ấn Quang hai lần có công với Cách Mạng". Đó là lư do tại sao người ta không nhắc đến tên Thích Tâm Châu là vậy.
Nhưng chuyện đời 99% không thể “buông dao đồ tể là thành Phật”, không phải vậy, mà câu “mèo lại hoàn mèo, cốt khỉ vẫn hoàn cốt khỉ” lại được chứng minh gần như là một định luật. Hôm nay, cái định luật cốt khỉ này đă được chứng minh là đúng với Thích Tâm Châu. Hăy tóm tắt những điểm chính bài phát biểu của ông cựu Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo th́ thấy ngay cái cốt khỉ đó.
Trong bài phát biểu, ông Thích Tâm Châu đă đề cập 6 điểm: Điểm thứ nhất “cấm treo cờ Phật Giáo” kéo theo vụ nổ Đài Phát Thanh Huế làm cho “các Phật tử vị pháp vong thân”, điểm thứ hai là Dụ số 10, thứ ba là chính phủ “hăm hại” chùa Từ Đàm và các chùa tại Huế, thứ tư là việc chính ông ta chỉ huy vụ “tự thiêu” của Thích Quảng Đức để cứu nguy cho Phật Giáo, thứ năm là “Phật Giáo” của các ông không oán thù ǵ Thiên Chúa Giáo, và thứ sáu là kêu gọi đoàn kết để chống cộng, tiến lên đoàn kết toàn thế giới, “ngay cả lúc nào luôn luôn cũng thành thực trung thành liên kết chặt chẽ vui vẻ xây dựng với cả Trung Hoa, các nước láng giếng và tất cả trên thế giới” (???!) (Trích nguyên văn100%).
Chúng tôi xin phân tích từng điểm mà ông Tâm Châu đề cập:
1. Thích Tâm Châu nói: “Mùa Phật Đản năm 1963, không hiểu vô t́nh hay hữu ư có ra thông bạch cấm treo cờ PG nhân mùa Phật Đản đó. V́ vậy cho nên tại Huế năm đó đă xảy ra sự đấu tranh ngay tại đêm Phật đản ngay tại Đài Phát Thanh Huế. Các Phật tử đă bị vị pháp vong thân, 8 vị.”
Sự thật thế nào? Sự thật th́ chỉ có thông tư nhắc nhở về thể lệ treo cờ chung chung trên toàn quốc chứ không phải lệnh cấm treo cờ Phật Giáo nhưbọn Thích Trí Quang và Cộng Sản hùa nhau rêu rao. Căn cứ vào sự kiện chỉ có mỗi Huế là “bị cấm treo cờ” mà không nơi nào khác trên toàn quốc bị cấm cả, điều này chứng tỏ đây là một âm mưu của bọn Phật Giáo Tranh Đấu và nội tuyến nằm vùng trong chính quyền địa phương Huế. Đặc biệt là sự kiện ngay cả sau khi TT Ngô Đ́nh Diệm bị sát hại, các tướng lănh phản loạn cũng không t́m thấy cái lệnh này, một điều mà chắc chắn bọn phản loạn phải t́m cho bằng được để kết tội cho Tổng Thống và chính nghĩa hóa việc “giết vua” của chúng. Ngay cả đến ngày hôm nay cũng không ai thấy được cái lệnh này nó tṛn méo ra sao, mà tất cả chỉ là nói miệng, và cứ như thế truyền tụng từ năm này đến năm khác, chổ này đến chổ khác. V́ vậy, có thể kết luận rằng lệnh cấm treo cờ chỉ là một tṛ bịp bợm của Thích Trí Quang và Cộng Sản, dựa trên sự nhắc nhở về thể thức treo cờ chung chung của chính phủ mà đồng bọn nằm vùng trong Phật Giáo và nội tuyến trong chính quyền đă dàn dựng nhằm gây bất lợi chính trị cho chính quyền VNCH.
Một người đă cho xây chùa Xá Lợi, tu sửa chùa Từ Đàm, tặng không miếng đất lớn để xây chùa Vĩnh Nghiêm như TT Ngô Đ́nh Diệm, hơn 2 ngàn ngôi chùa mới đă được xây dựng dưới sự cai trị của ông mà chính Thích Nhất Hạnh cũng phải công nhận, đâu có điên rồ đến mức lựa ngày Phật Đản để cấm treo cờ Phật Giáo? Mà tại sao lại chỉ cấm treo cờ tại Huế thôi mà không là lịnh cấm trên toàn quốc? Như vậy, có ngu cỡ nào th́ cũng phải biết đây là âm mưu bịa ra của bọn Phật Giáo Tranh Đấu và Việt Cộng.
Hậu quả của việc treo cờ này, theo ông Thích Tâm Châu, đă đẻ ra vụ nổ Đài Phát Thanh Huế và đẻ luôn ra 8 Phật tử “vị pháp vong thân”. Đoạn này, ông Thích Tâm Châu ngoa ngữ không khác ǵ cộng sản, bởi v́ Chính phủ VNCH có bức tử 8 thiếu nhi này v́ tội theo đạo Phật hay không mà gọi họ là “thánh tử đạo vị pháp vong thân”? Đơn giản 8 thiếu nhi này chỉ là nạn nhân trong hàng chục ngàn đồng bào Miền Nam bị chết v́ chất nổ khủng bố của Việt Cộng mà họ có được phong thánh tử đạo đâu? Trong trường hợp khủng bố này, ngoài Việt Cộng c̣n có bàn tay của Thích Trí Quang nhúng vào, theo như lời Đại Tá Đào Thế Hiển Giám Đốc Công An Cảnh Sát Trung Nguyên Trung Phần. Tṛ vừa ăn cướp vừa la làng, gắp lửa bỏ tay người là tṛ Việt Cộng thực hiện thường xuyên tại Miền Nam, như vụ giết Giáo Sư Bông chẳng hạn, chẳng có ǵ lạ. C̣n những ai muốn tự nhận ḿnh là những kẻ ngu dốt và cuồng tín th́ cứ việc gọi 8 nạn nhân này là “Thánh Tử Đạo vị pháp vong thân”, chẳng hạn như bọnHuỳnh Tấn Lê, Trần Quang Thuận, Vũ Ánh, Nhă Ca, Trần Dạ Từ, Thích Tâm Châu, Thích Nguyên Trí, Thích Giác Đẳng, Thích Viên Lư, Thích Chánh Lạc, Vơ Văn Ái v.v. cứ việc go ahead! V́ trên đời này không ai có quyền cấm quư vị ngu cả!
2. Về Dụ Số 10: Đây là món mà Phật Giáo Tranh Đấu và ủng hộ viên của chúng cũng như ông Thích Tâm Châu lúc nào cũng lăi nhăi, như đó làcái tội đàn áp Phật Giáo của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm vậy.
Muốn chứng minh Dụ số 10 là tội ác của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, th́ tất cả các ông có tên dưới đây: Thích Tâm Châu, Cao Huy Thuần,Huỳnh Tấn Lê, Trần Quang Thuận, Vũ Ánh, Nhă Ca, Trần Dạ Từ, Thích Giác Đẳng, Thích Minh Tâm, Thích Nguyên Trí, Hội Cư Sĩ của Huỳnh Tấn Lê và tất cả những kẻ lớn tiếng vu cáo chế độ TT Ngô Đ́nh Diệm trong hội trường Jerome cũng như tất cả các kẻ đồng hội đồng thuyền khác trên thế giới, phải trả lời cho được các câu hỏi sau đây:
Thứ nhất, nội dung chính của Dụ số 10 là ǵ? Dụ này soạn ra để đàn áp Phật Giáo hay để thanh lọc cộng sản giả dạng tu hành, và điều này có cần thiết cho an ninh quốc gia hay không? Thứ hai, ai ban hành Dụ số 10, TT Ngô Đ́nh Diệm hay Quốc Trưởng Bảo Đại? Thứ ba, ai có quyền sửa đổi luật pháp, TT Ngô Đ́nh Diệm hay quốc hội VNCH? Thứ tư, sau khi TT Ngô Đ́nh Diệm bị sát hại th́ chính tên giết người Dương Văn Minh tuyên bố “mọi luật lệ tạm thời giữ nguyên”. Tại sao Phật Giáo Tranh Đấu không nhảy cỡn lên với nó hoặc nhảy cỡn lên với quốc hội Đệ Nhị Cộng Ḥa yêu cầu họ phải băi bỏ cái Dụ ác ôn này lập tức, mà trái lại lại chẳng hề đếm xỉa ǵ đến Dụ này nữa, thế là sao? Tại sao sau đó không tiếp tục gào thét về cái Dụ Số 10 này nữa để đến nổi cái luật ác ôn này nó vẫn hiên ngang tồn tại mà đàn áp quư vị cho măi đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 là sao? Thứ năm, tại sao sau khi TT Ngô Đ́nh Diệm không c̣n nữa th́ Phật Giáo Tranh Đấu cũng tảng lờ cái Dụ số 10, nhưng hể có ai đá động đến công ơn của TT Ngô Đ́nh Diệm th́ lại đem Dụ số 10 ra lăi nhăi, tại sao lạ vậy?
Nếu không trả lời được các câu hỏi trên th́ những kẻ mắc bịnh “Dụ số 10” một là bị bịnh đần độn, hai là bị bịnh khả ố vô liêm sĩ, ba là bịnh tay sai cho cộng sản. Có kẻ mắc một trong ba thứ bịnh này, có kẻ mắc cùng một lúc cả ba chứng không chừng, chúng ta tạm thời liệt kê bọn này là vậy!
3. Thứ ba: Yêu cầu ông Thích Tâm Châu đưa ra bằng cớ chính phủ VNCH đă cắt điện nước, không cho thức ăn uống và hăm hại các chùa tại Huế trong đó có chùa Từ Đàm, ai đă bị hăm hại và hăm hại như thế nào, đưa ra bằng cớ? Nếu ông không đưa ra được bằng cớ th́ ông nên tự vả vào miệng ḿnh và đi đâu nên kiếm cái mo mà đậy mặt lại.
4. Thứ tư: Ông nói rằng Phật Giáo không thù oán ganh ghét ǵ Thiên Chúa Giáo. Không oán thù gia đ́nh Ngô Đ́nh... Ông hăy đọc lời một trong những đồng bọn Tranh Đấu của ông: “Các thành phần đưa đi lập nghiệp mới này đa số là tín đồ Phật giáo và một số dân chúng đă có đời sống ổn định. Đa số các khu nói trên do các cán bộ Chống Cộng điều khiển nghiêm nhặt, có nơi nằm dưới quyền các vị Linh mục. Ai chịu phục tùng, hoặc ai chịu cải đạo Thiên chúa giáo th́ được cấp phát lương thực đầy đủ. Những kẻ khác bị đối đăi phân biệt.” (Huyền Quang Kỷ Yếu tr. 39). "Ở miền Nam, ông Diệm t́m đủ cách dẹp Phật giáo, dành địa bàn cho Thiên Chúa Giáo. Một chế độ giáo trị và gia đ́nh trị, độc tài chuyên chế. Nhưng đă không thành công biến miền Nam thành quốc gia Thiên Chúa giáo như tại Philippines ở phía đông Việt Nam. V́ vậy sau 9 năm ngự trị đất nước chẳng phát triển được bao nhiêu..." (Huyền Quang Kỷ Yếu tr. 40).
Quư vị không thù oán ǵ với Thiên Chúa Giáo mà lại tuyên truyền khẩu hiệu “Cần Lao Công Giáo, mật vụ Nhu Diệm,“Cần Lao Công Giáo phù Ngô phục hận” thế là thế nào?
Không thù oán Diệm tại sao lại có câu “Diệm mà không Diệm”? “Sau khi chế độ nhà Ngô sụp đổ, nhưng một chế độ Diệm mà không Diệm vẫn tiếp tục cai trị từ năm 1963 đến 1975” (Huyền Quang Kỷ Yếu trang 41). Qua câu nói này th́ không những Diệm bị oán thù mà tất cả chính quyền VNCH đều bị Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất oán thù, kể cả những tên đă giết Diệm dùm cho Phật Giáo Tranh Đấu, tức PGVNTN, như Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Trần Thiện Khiêm.
Đi tu kiểu ǵ đây? Quỷ sứ đi tu hay người đàng hoàng đi tu thưa ông Thích Tâm Châu?
5. Thứ năm, chuyện ông Thích Tâm Châu kêu gọi ḥa hợp ḥa giải với cộng sản Trung Hoa “luôn luôn thành thực trung thành liên kết chặt chẽ vui vẻ xây dựng với cả Trung Hoa, các nước láng giềng và tất cả trên thế giới”(trích nguyên văn). Đọc đến đây tôi bị á khẩu đột ngột không thể b́nh luận được nữa. Chỉ xin hỏi một câu rất ngắn, “Thưa ông Tâm Châu, ông bị trúng gió hay trúng tiền của Việt Cộng và Trung Cộng(?), trong hai cái, ông đă trúng cái nào hay ông trúng cả hai?”
6. Cuối cùng chúng tôi xin bàn đến vai tṛ của Thích Tâm Châu và Trần Quang Thuận trong việc đốt sống Thích Quảng Đức:
Đầu tiên hung thủ Trần Quang Thuận, một trong những con cá sấu chính, đă đến hội trường Jerome Santa Ana ngày 23 tháng 6 2013 để khóc con mồi Thích Quảng Đức và chửi bới Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, y lái chiếc xe Austin hai mầu xanh trắng, mang số DBA 599 chở Thích Quảng Đức đến chỗ bị thiêu ở Ngă tư Lê Văn Duyệt và Phan Đ́nh Phùng. Tên hung thủ này đă thoát lưới pháp luật nhưng y cần phải bị vạch mặt trước ṭa án lịch sử.
11/6/1963 - Chiếc xe Austin mà Trần Quang Thuận đă chở ông Quảng Đức đến hiện trường.
Và đây là niềm hănh diện của cá sấu Thích Tâm Châu: “Chính tôi là người đầu tiên hướng dẫn đoàn biểu t́nh ấy và đầu tiên chính tôi đứng tại đó. Tất cả chư tăng ni đều nghĩa là khóc lóc. Riêng có tôi quả t́nh khóc trong tâm chứ ngoài không có khóc vẫn im lặng để chỉ huy công việc biểu t́nh ngày hôm ấy”… “Khi đó đại đức Chân Ngữ mới tưới xăng trên đầu và tự ngài tự bật diêm quẹt để lửa bốc cháy”... “ngài vẫn ngồi im lặng hoàn toàn thiền định như vậy, để ǵ? Để tự hóa thân ḿnh cảnh tỉnh cho nhân tâm thế sự và đồng thời cứu nguy cho Phật giáo Việt Nam trong lúc đó”.
Đầu tiên phải sửa lại lời nói của Thích Tâm Châu cho đúng sự thật. Đây là một vụ đốt người chứ không phải biểu t́nh. V́ vậy, lời của ông Thích Tâm Châu phải được sửa lại cho chính xác thế này, “vẫn im lặng để chỉ huy việc đốt sống Thích Quảng Đức hôm ấy”. Tiếp đến phải khẳng định lại “tự ngài tự bật diêm quẹt để lửa bốc cháy” hay “ngài đă bị một hung thủ thứ hai bật diêm đốt cháy”?
Phải nói rơ rằng, hoàn toàn không có chuyện Thích Quảng Đức tự bật diêm quẹt để đốt ḿnh như Thích Tâm Châu, Malcolm Browne, David Halberstam, Neil Sheehan và một số báo chí và một đám về hùa đă bịp thiên hạ. Tấm h́nh Thích Quảng Đức đang chắp tay đă bị phụ chú giả bên dưới là đang bật diêm quẹt. Ông Tâm Châu, Malcolm Browne và tất cả bọn đă nói Thích Quảng Đức tự bật diêm quẹt là một bọn nói láo trắng trợn vô liêm sĩ. Hăy nh́n Video đốt cháy Thích Quảng Đức như sau:
Đầu tiên, hung thủ Thích Chơn Ngữ, người được xác nhận bởi Thích Tâm Châu, đổ xăng lên đầu Lâm Văn Tức, sau đó tên này đổ tràn ra chung quanh chổ nạn nhân ngồi thành một ṿng tṛn lớn. Mục đích là làm cho cây đuốc khi bốc cháy trở thành lớn và “hoành tráng”. Cuối cùng Thích Chơn Ngữ rưới thành một vệt dài đàng sau lưng Lâm Văn Tức để dẫn lửa. Vết xăng này nhằm bảo đảm khoảng cách an toàn cho người ném diêm quẹt với cái vũng xăng lênh láng chung quanh Lâm Văn Tức, nếu không lửa sẽ phựt lên táp vào người y.
Sau đó lửa phát ra từ đâu? Lửa đă khởi đầu từ vết xăng dẫn đường mà tên Thích Chơn Ngữ rưới cuối cùng. Trước khi đó, chúng ta thoáng thấy một cái đầu trọc khác tại đầu cuối cùng của vết xăng này và lửa đă được dẫn đi từ đó. Lửa ḅ từ xa rồi đến phía sau lưng chổ Thích Quảng Đứcngồi, rồi ḅ tới bên phải của Thích Quảng Đức và sau đó ập ra phía trước mặt rồi bùng lên thành một cây đuốc tṛn rất “hoành tráng”. Với cuốn video rơ ràng như vậy, không một ai dám cho rằng Thích Quảng Đức đă tự châm quẹt diêm, trừ những kẻ vô liêm sĩ, trong đó có Malcolm Browne và Thích Tâm Châu.
Bây giờ chúng ta bàn đến việc ông Lâm Văn Tức đă bị chích thuốc mê hay không chích thuốc mê. Ông Tâm Châu nói: “Ngài ung dung tự tại bước ra từ xe đến cái chổ ngài ngồi tọa thiền vững chắc …sau này có nhiều người tuyên truyền xuyên tạc cho cách này cho cách khác cho là nướng sống cho là chích thuốc mê hoàn toàn sai sự thật và hoàn toàn không biết sự tu chứng của Phật giáo.”
Sự thật thế nào, khi Thích Quảng Đức bước xuống xe, đă không thể tự đi một ḿnh cho dù là đi lạng quạng, mà phải có người d́u đi. Hay nói chính xác hơn là đă có người kéo các xác không hồn của ông ta đi và sau đó đặt ông ta ngồi xuống đất. Nếu ông ta không bị chích thuốc mê th́ ông ta phải tự ḿnh đi đến chổ chết, và trước đám đông đầy báo chí và máy quay phim, ông ta phải dơng dạc tuyên bố lư do ông ta tự thiêu, kêu gọi Tổng Thống thức tỉnh nhân tâm, đồng thời phải làm cho được hai hành động cuối cùng là phải tự đổ xăng lên đầu ḿnh và tự châm lửa. Tại sao ông ta không thể cầm can xăng tưới lên đầu ḿnh và cũng không thể tự bật diêm quẹt? Bởi v́ đă bị thuốc mê rồi th́ sức lực đâu c̣n để làm những điều hết sức đơn giản này?. Ngoài ra ông ta cũng không ngồi tọa thiền cho đến khi đám cháy lụi tàn như lời đồn thổi hoang đường, mà chỉ 15 giây sau, ông Thích Quảng Đức đă ngă chổng queo ra đất không một chút dăy dụa, giống hệt như một cái xác đă bị làm cho tê liệt hẳn từ trước, nay đem nướng chín. Bồ Tát ngồi tọa thiền đến tàn cuộc chiến v́ có nội lực tu chứng hay chỉ mới 15 giây đă ngă chỏng gọng ngay lập tức và bất động như đă bị liệt từ trước?
Thời đại Internet không dễ nói láo đâu quư vị Phật Giáo Tranh Đấu và đám cuồng tín!
Rơ ràng, lư thuyết cho rằng ông Lâm Văn Tức không bị chích thuốc mê là điều hoang đường. Và cái gọi là “trái tim bất diệt” của Thích Quảng Đức cũng thuộc loại trái tim bất diệt của anh hùng Lê Văn Tám.
Như vậy, không có chuyện tự thiêu mà cũng chẳng có chuyện ông Lâm văn Tức không bị chích thuốc mê từ trước.
Thứ đến, xin chúc mừng ông Thích Tâm Châu và chúc mừng Phong Trào Phật Giáo Việt Nam giai đoạn 1963-1966, quả là may mắn mới tụ tập được một băng lănh đạo đầy máu lạnh và không biết gớm tay về việc giết người nơi công cộng và trước ống kính như Trần Quang Thuận, Thích Chơn Ngữ và Thích Tâm Châu. Thích Tâm Châu nói “vẫn im lặng để chỉ huy công việc đốt sống (biểu t́nh) ngày hôm ấy”, như vậy Bà Ngô Đ́nh Nhu nói rằng “Họ đă barbecue các ông sư” điều này có ǵ sai? Nhờ có bản lănh và máu lạnh như thế cho nên sau khi “Diệm” kẻ thù của các ông bị giết rồi, các ông vẫn tiếp tục im lặng chỉ huy công việc đập tan bộ máy chính quyền Mỹ Ngụy đến hơi thở cuối cùng, như lời Thích Hộ Giác, một đồng bọn của ông Thích Tâm Châu gào thét trước đám đông: Phật Giáo sẽ chiến đấu đến “giọt máu cuối cùng và hơi thở cuối cùng” để đạt được yêu sách 4 điểm, trong đó việc loại trừ chính phủ VNCH hiện tại, được nhấn mạnh là yêu sách hàng đầu (United Press International, 16/3/1966).
Hai năm hỗn loạn chính trị, thay đổi cả thảy hàng chục chính phủ, không chính phủ nào tồn tại quá 3 tháng dưới sự biểu t́nh đêm ngày ngày đêm và đem người đốt sống một cách vô lương tâm như đốt pháo bông của các ông Phật Giáo Tranh Đấu, đă tạo lợi thế quân sự và t́nh báo cho Việt Cộng đến mức mà lẽ ra Miền Nam đă rơi vào tay cộng sản năm 1966 rồi chứ không đợi đến năm 1975, nếu như không có sự đổ bộ khẩn cấp của quân đội Hoa Kỳ vào tháng 3 năm 1965. Do đó, việc đổ quân đội Hoa Kỳ vào Việt Nam không phải là không có trách nhiệm của Phật Giáo Tranh Đấu, mà phải nói rằng các ông là thủ phạm chính dẫn đưa đất nước đến t́nh trạng hấp hối đó. Tất cả những điều nói trên là bằng chứng lịch sử về mưu đồ chính trị của băng đảng Phật Giáo Tranh Đấu mà không cách chi PGVNTN có thể chối căi được.
Thích Huyền Quang nói: “Sau khi chế độ nhà Ngô sụp đổ, nhưng một chế độ Diệm mà không Diệm vẫn tiếp tục cai trị từ năm 1963 đến 1975” (Huyền Quang Kỷ Yếu trang 41).
Điều đó nói lên cái ǵ? Điều đó khẳng định rằng Diệm chết rồi mà các “nhà tu” Phật Giáo Tranh Đấu vẫn c̣n thù ghét Diệm cho đến hơi thở cuối cùng, Miền Nam vẫn phải có biểu t́nh lên đường xuống đường cho tới hơi thở cuối cùng, sách động bởi đám sư săi và Phật Tử của Phật Giáo Tranh Đấu để loại trừ “Diệm mà không Diệm”, cũng có nghĩa là dân chúng Miền Nam phải chịu đựng t́nh trạng bất ổn chính trị gây ra bởi PGTĐ mà hậu quả là tiềm lực chiến tranh bị suy yếu theo trong lúc quốc gia đang có chiến tranh với cộng sản, kéo đến t́nh trạng nguy hiểm an ninh lănh thổ. Điều này cũng chứng tỏ tu hành chỉ là cái nhăn hiệu của đám Phật Giáo Tranh Đấu mà thực chất bên trong bọn chúng là một đám hoạt động chính trị vận động cho thần quyền khống chế thế quyền và liên kết với cộng sản để kiếm sức mạnh và đă được cộng sản sử dụng hữu hiệu. Nhiệm vụ chính của Phật Giáo Tranh Đấu, tức Phật Giáo Thống Nhất, không phải là tu hành mà là làm chính trị mà phải giật cho sập chế độ VNCH bằng mọi giá, bất kể ai là đại diện chính quyền, trừ phi đó là chính quyền Việt Cộng và chính quyền Phật Giáo Tranh Đấu.
Bởi thế cho nên ngày 18/2/1967, Thích Quảng Độ và Thích Trí Quang, Cao Ngọc Phượng mới hiên ngang nói rằng Chính quyền Nam Việt Nam hiện nay không phải là chính quyền của chúng tôi và không đại diện cho nhân dân chúng tôi. Nó được Mỹ áp đặt lên chúng tôi và được điều khiển bởi những tên lính đánh thuê cho Pháp chống lại nhân dân Việt Nam trước 1954. Nếu chúng tôi được bầu cử tự do, chính quyền này không tồn tại một ngày. Chúng tôi muốn tự chúng tôi giải quyết vấn đề Việt Nam của chúng tôi bằng cách điều đ́nh với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Bắc Việt cũng như sự rút quân của Mỹ." (Ngày 18/2/1967 Thích Quảng Độ, Thích Trí Quang, New York Times 1967).
Câu hỏi của chúng tôi là, với những ngôn ngữ như vậy tại sao chính phủ VNCH đă không bắt bọn cộng sản trá h́nh này hoặc ít nhất đuổi chúng qua bên kia cầu Hiền Lương để chúng điều đ́nh với Bắc Việt và MTGPMN theo như ư chúng muốn? Chính quyền VNCH đă quá nhu nhược với bọn giả dạng tu hành này, chúng nó quyền hành ǵ, ai bầu chúng lên mà đ̣i đại diện dân chúng Miền Nam trực tiếp điều đ́nh với kẻ thù cộng sản?
Được đàng chân lân đàng đầu, Thích Quảng Độ ngày 20/10/1974 lớn lối tiếp: “Nếu Thiệu ngoan cố không từ chức, th́ Ấn Quang sẽ hành động kéo Thiệu xuống” (Thích Quảng Độ 20/10/1974 Washington Post).
Sau khi Thiệu đă xuống th́ VNCH cũng xuống theo bước chân của Thiệu, lúc đó PGVNTN hiện nguyên h́nh tay sai cộng sản như sau: “Trưa 30/4/75 chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa thất thủ. Sau khi nghe Đại Tướng Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện trước sự tiến công của Bộ Đội Cách Mạng, lúc ấy tôi có mặt tại trụ sở GHPGVNTN ở chùa Ấn Quang. Chúng tôi họp bàn và bàn thảo tờ tuyên cáo nội dung hoan nghênh cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn vừa kết thúc. GHPGVNTN sẽ t́m phuơng tiện để hàn gắn vết thương chiến tranh” (Huyền Quang Kỷ Yếu trang 41).
Sau đó là màn đ̣i chia ghế v́ “Phật Giáo Việt Nam đă hai lần có công với cách mạng” (Thích Huyền Quang). Hăy xem tiếp màn xin ghế nhục nhă của Phật Giáo Tranh Đấu tức Việt Nam Thống Nhất với Việt Cộng như sau:
“Hội đồng viện thỉnh cử Đại Lăo HT Thích Đôn Hậu nguyên đại diện miền Vạn Hạnh của GHPGVNTN, hướng dẫn một phái đoàn đến hội kiến ông Nguyễn Văn Hiếu, Bộ Trưởng Bộ Văn Hóa Chính Phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam để xin mở cuộc họp thống nhất hai giáo hội Nam Bắc. Nhưng tại cuộc gặp này, ông Hiếu nói: “Thống nhất Phật Giáo th́ tốt, nhưng thống nhất với Phật Giáo cách mạng, chứ thống nhất làm chi với bọn Phật giáo phản động!” Ḥa thượng Đôn Hậu hỏi: “Phật giáo phản động là ai? Ông Bộ Trưởng Hiếu không trả lời. Như thế, sau ngày 30.4.1975. GHPGVNTN muốn thử thời vận nhưng đă thất bại!” (Huyền Quang Kỷ Yếu trang 42).
Thật là nhục nhă thảm thương cho PGVNTN một thời lên đường xuống đường trực diện đối đầu giày xéo chính quyền Miền Nam, c̣n đối với Việt Cộng th́ chỉ dám xin thử thời vận! Hiền khô như vậy mà lại bị cộng sản mắng ngay vào mặt thống nhất làm chi với bọn Phật giáo phản động! Thật là tội nghiệp! Thích Đôn Hậu hay Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, và cả đám Mặt Trận GPMN đều là một đám ngu dốt đi tin lời Việt Cộng làm việc không công cho nó. Công lao lên đường xuống đường, đốt bao nhiêu sư như đốt pháo bông để loại trừ Diệm Thiệu đă bị thành công cốc, lại c̣n chuốc lấy nhục nhă ê chề!: Như thế, sau ngày 30.4.1975.
GHPGVNTN muốn thử thời vận nhưng đă thất bại!”(Huyền Quang Kỷ Yếu tr. 42).
Tuy nhiên, dù bị nhục nhă ê chề như vậy, nhưng chỉ cần vài cái vuốt ve của Mai Chí Thọ, có được cái chùa đẹp đẽ là th́ lại tiếp tục sự nghiệp chống Mỹ chống Diệm chống Thiệu cứu nước ngay. Hăy xem sự nghiệp chống Mỹ chống Ngụy sau 1975 của Thích Quang Độ: “Hàng tỉ đô la Hoa Kỳ đổ ra nuôi một bộ máy quốc gia chống Cộng, nuôi hàng triệu binh sĩ, cảnh sát, mật vụ chống Cộng, với sự tiếp tay của nửa triệu binh sĩ Hoa Kỳ. Những tác nhân chính này đă làm ǵ để bảo vệ Miền Nam? (Quảng Độ 18/1/2010 queme.net). Ngày 8 tháng 5 năm 2011 chống tiếp: “Nên lần đầu trong lịch sử, Phật giáo Việt Nam mới phải có cuộc đấu tranh xuống đường thập niên 60 để bảo vệ lư tưởng đạo đức Đông phương trước sức tấn công hung hăn của các ư thức hệ ngoại lai làm tha hóa xă hội và con người” (8/5/2011 Quảng Độqueme.net).
Xin hỏi toàn bộ đám Phật Giáo Tranh Đấu, từ Thống Nhất đến Về Nguồn, đến Việt Nam Quốc Tự, từ Thích Quảng Độ đến Thích Tâm Châu, đến Thích Giác Đẳng, Thích Viên Lư, Thích Chánh Lạc, Thích Nguyên Trí, Thích Minh Tâm, Vơ Văn Ái, Nguyễn Trọng Nho, và đám Về Nguồn Trần Quang Thuận, Huỳnh Tấn Lê, Đào Văn B́nh, Cao Văn Hở, Trần Phú Hùng, Nguyễn Phú Hùng, đám “nhà báo” PG tranh đấu Vũ Ánh, Nguyên Huy, Nhă Ca, Trần Dạ Từ, xin hỏi xă hội Miền Nam từ năm 1954 đến 1975 tha hóa đến chừng nào? Cho ví dụ cụ thể?
Có kiểu tu hành ǵ mà lại lấy tên Phật Giáo Tranh Đấu rồi thề sẽ chiến đấu đến “giọt máu cuối cùng và hơi thở cuối cùng” để đạt được yêu sách 4 điểm, trong đó việc loại trừ chính phủ VNCH hiện tại, được nhấn mạnh là yêu sách hàng đầu (United Press International, 16/3/1966)?
Quỷ Sa Tăng tranh đấu hay Phật Giáo tranh đấu?
Ông Thích Tâm Châu, bây giờ ông nói rằng Thích Quảng Đức tự thiêu là “để tự hóa thân ḿnh cảnh tỉnh cho nhân tâm thế sự và đồng thời cứu nguy cho Phật giáo Việt Nam trong lúc đó”. Thế th́ ông và băng đảng Huỳnh Tấn Lê, Nhă Ca, Trần Dạ Từ Vũ Ánh hăy cùng đọc đoạn nhà báo Vĩnh Phúc cựu phóng viên đài BBC phỏng vấn ông Vơ Như Nguyện về cái “nhân tâm” của người mà Thích Quảng Đức muốn cảnh tỉnh đi: “Phần cụ Vơ Như Nguyện, lúc c̣n làm Chủ tịch Uỷ ban Nội vụ Quốc Hội, đă đưa các TT Trí Thủ, Thiện Minh, Trí Quang vào gặp Tổng thống Diệm để xin đổi tên Hội Phật giáo Thừa Thiên thành Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Ngày hôm sau ông Diệm kư liền"(Nhà báo Vĩnh Phúc BBC phỏng vấn Cụ Vơ Như Nguyện).
Vậy th́ bài báo của Việt Báo trong đó đăng toàn bộ các lời thóa mạ TT Ngô Đ́nh Diệm, đăng rằng ông đă giết trên 300 ngàn Phật Tử và nhiều điều rùng rợn khác, và đăng lếu láo rằng Bà Ngô Đ́nh Nhu xin lỗi Phật Giáo, trong khi đó th́ vào năm 1982 bà đă tái khẳng định trong cuộc phỏng vấn với openvault.wgbh.org rằng: “Đối với những người điên rồ v́ hào quang giả tạo, đến độ chấp nhận bị đánh thuốc mê và để bị đốt cháy đến chết. Họ có quyền không bao giờ bị ai đặt vấn đề. Nhưng phải làm ǵ để ngăn chặn việc họ chấp nhận bị sát hại bởi các cuộc biểu t́nh?Điều duy nhất tôi có thể làm vào lúc đó là chế giễu họ. Bởi v́ khi nó được tô vẽ như một cái ǵ đó hoàn toàn xứng đáng được khen ngợi, th́ tất nhiên, sẽ luôn luôn có thêm người điên rồ v́ hào quang giả tạo tiếp tục tự thiêu. V́ vậy, tôi phải làm ngược lại”, vậy th́, báo đăng những chuyện lếu láo và không buồn kiểm chứng như vậy là loại báo ǵ?
Báo như Việt Báo và Người Việt là báo ǵ? Báo Lá Cải hay Báo Lá Khoai? Nhà báo kiểu Vũ Ánh, Nhă Ca, Trần Dạ Từ, Nguyên Huy là loại nhà báo ǵ? Nhà báo có giá trị hay nhà báo kiếm sống bằng cách chuyên đăng những chuyện bịa đặt vu khống và chửi đổng?
Và xin mời ông Thích Tâm Châu cùng băng đảng “Jerome Santa Ana” đọc lại cái gọi là Phật Giáo Tranh Đấu đă làm đẹp mặt Phật, qua Bạch Thư của chính ông Thích Tâm Châu:
“Phong trào mang bàn thờ Phật ra đường lan tràn khắp nơi và vào cả đến Saigon. Tại Saigon họ đem ảnh Phật ra để trên đống rác”. “Sự việc rơ ràng như thanh thiên bạch nhật, mà nhóm tranh đấu của Ấn Quang, được sự hộ trợ ngầm của CS nằm vùng, lải nhải vu khống cho VN Quốc Tự chia rẽ Giáo Hội, Thích Tâm Châu phá hoại và lũng đoạn Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất…”” Cho đến nỗi những vị Tăng không biết chút ǵ về việc tranh đấu, việc xây dựng Giáo Hội, cũng như các vị Tăng, Ni Phật - từ ở xa, hay sau này, cũng a dua, hùa theo sự tuyên truyền nhồi sọ của nhóm tranh đấu Ấn Quang và CS nằm vùng trong suốt hơn 30 năm naỵ Thực tội nghiệp” “Nói thẳng thắn, cuộc chiến tranh Quốc Cộng tại Việt Nam, không có một tôn giáo, một đoàn thể nào, không bị CS nằm vùng gây chia rẽ, phá hoại. Thiên Chúa Giáo có những cán bộ gộc nằm vùng như Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng v.v... Phật Giáo cũng vậy, CS nằm vùng từ thượng tầng, tới hạ tầng, càng dễ dàng hơn.
Thực sự, cuộc tranh đấu từ tháng 6-1966, cho đến nay chia đôi Giáo Hội, đều do bàn tay CS đạo diễn, làm hại cho Phật Giáo và quốc gia VN không nhỏ. V́ vậy, Phật Giáo không phải là không có trách nhiệm, liên đới đến sự để mất VNCH cho CS” (Bạch Thư Thích Tâm Châu).
Và đây là những ǵ ông Thích Tâm Châu đă nói với nhà báo Vĩnh Phúc đài BBC về TT Ngô Đ́nh Diệm và vụ Chùa Xá Lợi, hy vọng rằng ông không chối:
Nhà báo Vĩnh Phúc: - Theo Ḥa Thượng, Tổng thống Diệm và ông Nhu có kỳ thị Phật giáo không?
Thích Tâm Châu: - Thực ra đối với TT Diệm khi đó tôi có gặp th́ biết, ngài là người nho học. Ngài có tinh thần dân chủ hơn. C̣n vấn đề kỳ thị, th́ tôi không dám nói có hay không có. Chắc chắn th́ tôi nói thẳng thắn ở cấp trên th́ đương nhiên hiểu biết rộng hơn cấp thừa hành dưới, hoặc là chẳng hạn bị ảnh hưởng của Tổng giám mục Ngô Đ́nh Thục là người vẫn muốn làm sao tôn giáo ḿnh phát triển, nên t́m phương thức.. Có thể người dưới làm những cái nó sinh ra chuyện không tốt. Tôi tin tưởng là cấp trên không đến nỗi nào.
- Hồi đó sự phát triển Phật giáo nói chung, mà điển h́nh là sự phát triển các chùa chiền, có ǵ trở ngại không?
- Thực ra không có ǵ trở ngại. Nó chỉ có vấn đề trong sự b́nh thường chỗ nào làm chùa mà xin phép th́ được xét thôi. Chung chung không có ǵ cả.
- Không bị trở ngại?
- Chỗ nào th́ tôi không biết chứ trong Sàig̣n th́ tôi không thấy.Tôi thực sự không thấy.
- Hôm cảnh sát tấn công chùa, Thầy đang ở đâu?
- Tôi đang ở chùa Xá Lợi. Tôi cũng bị bắt, bị giam, nhưng không biết là giam ở đâu. Giam cho đến ngày 2/11/1963 mới được về.
- Thầy có bị hành hung không?
- Đánh đập th́ không có.
-Phong trào tranh đấu Phật giáo có bị ảnh hưởng của Cộng Sản không?
- Dạ không. Không có. Ở miền Trung th́ tôi không biết, nhưng trong Nam th́ tôi không thấy có vấn đề Cộng Sản. Về sau mới có chứ lúc ấy không có ǵ.
Những ǵ ông biết về cộng sản nằm vùng chỉ là kiến thức hạn hẹp của một ông thầy tu, c̣n chính phủ VNCH phải biết gấp ngàn lần hơn ông v́ đó là bổn phận trách nhiệm và họ có phương tiện kỹ thuật để biết điều đó. Trong đó, bằng chứng đă quá rơ là Thích Quảng Đức, Thích Quảng Độ, Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, v.v. là những tên cộng sản nằm vùng mà mỗi tên có một vai tṛ khác nhau, mỗi tên chống lại chính phủ VNCH theo mỗi kiểu trá h́nh khác nhau, chống đến khi chính phủ tan nát th́ dân chúng cũng nát nhà tan cửa theo luôn mà các ông vẫn không sám hối. Rơ ràng chỉ khi các ông được lên ngôi cửu ngũ th́ khi đó mới hết người đàn áp các ông!
Đây là sự thật Chùa Xá Lợi mà ông Thích Tâm Châu có mặt trong đó, mời ông đọc tiếp:
Nhà báo Vĩnh Phúc: “Ông Cao Xuân Vỹ cũng có mặt ở chùa Xá Lợi, lúc chùa bị tấn công. Chắc hẳn những điều ông nói là đúng.
Cụ Quách Ṭng Đức: Có lẽ với vai tṛ của cụ là Đổng Lư Văn Pḥng phủ Tổng Thống, cụ cũng có thể biết được tường tận vụ khủng hoảng Phật giáo. Nhà cụ lại ở ngay cạnh chùa Xá Lợi nên cũng thấy cuộc tấn công chùa. Đây là những câu tôi hỏi cụ: “Có đàn áp Phật giáo hay không?” “Không có đàn áp Phật giáo. Chính phủ giúp xây chùa Xá Lợi và nhiều chùa khác. Ông Diệm vốn biết nhược điểm của ḿnh là người Thiên Chúa, ông cố giữ quân b́nh. “Ai ra lệnh tấn công chùa?” “Lúc đó ra lệnh miệng thôi à. Tấn công chùa là Cảnh sát, không phải Quân đội. Tôi ở ngay bên, các chùa cũng để loa rầm rộ lắm. Nghe họ hô những khẩu hiệu ghê lắm. Xem thường chính phủ lắm”. “Có vài tướng đề nghị đánh chùa?” “Chắc là các tướng như tướng Đính có ư kiến đánh vào các chùa.
Tôi thấy khi có vụ Phật Giáo rồi, cụ Diệm buồn. Tôi đoán thấy ông hơi chán nản. Phật giáo làm quá rồi, ổng không muốn làm việc nữa. Một số công việc tôi tŕnh lên. Ổng nói đưa cho ông Nhu. Tôi không thấy ông Nhu có tham vọng thay ông Diệm. Không thấy ǵ".
Và đây là cái gọi là “Chiến Dịch Nước Lũ” chùa Xá Lợi của Phật Giáo Tranh Đấu qua điều tra của Liên Hiệp Quốc, xin mời các nhà báo vĩ đạiNhă Ca, Trần Dạ Từ, Vũ Ánh, Nguyên Huy đọc tiếp:
Ông Đại Sứ Volio phái đoàn điều tra của Liên Hiệp Quốc đă kể lại một số chi tiết khi nghe lời khai của một người dự định t́nh nguyện tự vận bằng cách tự thiêu như sau:
“Có một vị sư trẻ mới 19 tuổi, khai với phái đoàn điều tra rằng, ông ta được một số sư săi khuyến khích tự thiêu v́ Ḥa Thượng Hội Chủ Phật Giáo Thích Tịnh Khiết đă bị giết, hằng trăm Phật tử đă bị chính quyền d́m chết dưới sông Sài g̣n, nhiều ni cô đă bị mổ bụng, và chùa Xá Lợi đă bị đốt cháy. Nhà sư 19 tuổi nầy được yêu cầu t́nh nguyện hy sinh tự vận v́ Phật giáo, và được bảo đảm rằng ông ta sẽ được cho uống thuốc để không bị đau đớn, ngoài ra ông ta cũng được đưa 3 bức thư tuyệt mệnh đă được viết sẵn để cho ông ta kư vào. Ông ta bị cảnh sát bắt, ngăn chận cuộc tự thiêu của ông ta và cũng là kịp lúc nhà sư trẻ 19 tuổi nầy biết được những ǵ mà ông ta đă nghe các nhà sư kia kể cho ông chỉ là những chuyện láo khoét bịa đặt, độc ác và hoàn toàn thất thiệt. Tất cả chỉ là để kích động ông mà thôi”.
Ḥa Thượng Tịnh Khiết bị giết? Ni cô bị chính phủ mổ bụng? Chùa Xá Lợi bị đốt cháy? Hàng trăm Phật Tử nào bị chính quyền d́m xuống sông Sài G̣n?
Láo lường và bỉ ổi đến thế là cùng!
Và đây là những “offers”: Kẻ t́nh nguyện tự thiêu sẽ được “cho uống thuốc để không bị đau đớn” khi tự thiêu? Thư tuyệt mệnh sẽ được viết sẳn 3 bức để nạn nhân kư vào! Bọn khủng bố chiêu dụ người ôm bom tự sát thời này cũng không thể làm hơn được Phật Giáo Tranh Đấu của Việt Nam thời đó.
Rơ ràng đây là quỷ sứ đi tu chứ chẳng phải người thường đi tu!
Vậy th́ có ǵ bảo đảm là ông Thích Quảng Đức đă không bị cho uống thuốc mê và thư tuyệt mệnh của ông ta là thư tuyệt mệnh thật? Láo lường và bỉ ổi đến thế là cùng. Vậy mà không biết nhục c̣n hè nhau kỷ niệm 50 năm ngày thiêu sống Thích Quảng Đức!
Trở lại bài báo trên tờ Việt Báo của ông bà Nhă Ca Trần Dạ Từ, xin được lập lại một đoạn viết ở trên lần nữa: Vậy th́ bài báo của Việt Báo trong đó đăng toàn bộ các lời thóa mạ TT Ngô Đ́nh Diệm rằng ông đă giết trên 300 ngàn Phật Tử và nhiều điều rùng rợn khác, và đăng lếu láo làBà Ngô Đ́nh Nhu đă xin lỗi Phật Giáo, báo như vậy là loại báo ǵ? Báo Lá Cải hay Báo Lá Khoai? Nhà báo kiểu Vũ Ánh, Nhă Ca, Trần Dạ Từ, Nguyên Huy là loại nhà báo ǵ? Nhà báo nói láo ăn tiền? Nhà báo kiếm sống bằng những chuyện bịa đặt vu khống và chửi đổng?
Winston Churchill đă nói “It has been said that democracy is the worst form of government except all the others that have been tried.” Tạm dịch “Người ta thường chê bai chính phủ dân chủ là chính phủ tệ hại nhất, trừ phi người ta đă nếm mùi tất cả các loại chính phủ khác”.
Các ông bà đă nếm mùi chính phủ Dương Văn Minh, chính phủ Nguyễn Khánh, chính phủ Phan Khắc Sửu, chính phủ Trần Văn Hương, chính phủ Phan Huy Quát, chính phủ Nguyễn Văn Thiệu, chính phủ của Hồ Chí Minh, chính phủ Phật Giáo Tranh Đấu tại Huế 1966, nhưng đối với các ông bà Thích Tâm Châu, chùa Pháp Luân Houston, chùa Bát Nhă California, Huỳnh Tấn Lê, Nguyễn Trọng Nho, Nhă Ca, Vũ Ánh, Trần Dạ Từ và băng đảng “Tổng hội cư sĩ” th́ dường như chính phủ tốt nhất với các ông bà vẫn là chính phủ Phật Giáo Tranh Đấu, nh́ là chính phủ Hồ Chí Minh, chỉ có vậy. Cho nên mới tụ tập lại để thương tiếc cho một kẻ làm lợi cho cộng sản Thích Quảng Đức và cùng nhau vu khống chính phủ VNCH giết hại 300 ngàn người, bắt dân chúng cải đạo Thiên Chúa, phỉ báng một vị nguyên thủ quốc gia mà “Ông Diệm là một người đạo đức, sống như một nhà tu hành, không có tham vọng vật chất và thật sự có ḷng yêu nước, thương dân. Ông tự tin vào lương tâm trong sáng của ḿnh nên muốn bắt mọi người phải nghe theo.” Xưa nay người ta chỉ làm được một việc nếu muốn giỏi. Không thể vừa đi tu vừa làm chính trị. Được việc này th́ hỏng việc kia. Làm chính trị, mà đạo đức như nhà tu, không biết lừa lọc tráo trở thủ đoạn nên mới bị phản và mất mạng. (Nhà báo Vĩnh Phúc đài BBC).
Lương tâm của loài vật có lẽ c̣n tốt đẹp hơn lương tâm của bọn Huỳnh Tấn Lê, Trần Quang Thuận, Nguyễn Trọng Nho, Nhă Ca, Trần Dạ Từ, Vũ Ánh, Nguyên Huy, Cao Huy Thuần, Lưu Tường Quang, Tổng Hội Cư Sĩ… Một bọn mà “a dua, hùa theo sự tuyên truyền nhồi sọ của nhóm tranh đấu Ấn Quang và CS nằm vùng trong suốt hơn 30 năm nay."
Kết luận:
Nhóm Phật Giáo Tranh Đấu là một băng đảng hoạt động chính trị cộng sản chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp mà Thích Quảng Đức là một thành viên của băng đảng này. Cái chết của Thích Quảng Đức chỉ là một cách để châm ng̣i nổ, tiếp theo các ng̣i nổ lếu láo “cấm treo cờ", “thánh tử đạo” Đài Phát Thanh Huế. Những ai c̣n tiếp tục gọi tu sĩ phạm giới Lâm Văn Tức là Bồ Tát Thích Quảng Đức kẻ đó tự xác nhận ḿnh bôi bẩn chế độ chính trị tốt đẹp nhất của Việt Nam và bôi bẩn chính ḿnh v́ quá thiếu kiến thức và tâm địa quá xấu xa nhỏ mọn. Đề nghị băng đảng này nên hiên ngang cầm cái cờ đỏ sao vàng bên cạnh cái cờ ngũ sắc cho giống người anh em trong nước. Làm như vậy, may ra c̣n có chút liêm sĩ.
Và cuối cùng, đây là câu trả lời cho Trung Ương Đảng Việt Cộng, bọn bán nước cho nhà Hán, thủ phạm chính của việc giết người, và bọn tay sai tại hải ngoại rằng, có xây cho Thích Quảng Đức một trăm cái tháp chín tầng, có tôn Thích Quảng Đức là Phật sống đi chăng nữa th́ lịch sử cũng biết Thích Quảng Đức là ai. Thích Quảng Đức chẳng là cái đinh ǵ cả! Cốt khỉ vẫn hoàn cốt khỉ!
Kính dâng bài viết này lên hương hồn những nhà ái quốc Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Nhu, Trần Lệ Xuân, Ngô Đ́nh Cẩn, Phan Quang Đông.
Trần Minh
hoanglan22
03-11-2019, 03:33
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1347880&stc=1&d=1552275137
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1347881&stc=1&d=1552275137
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1347882&stc=1&d=1552275137
Năm 1861, khi Sài G̣n lọt vào tay quân Pháp th́ con đường này đă có một quá tŕnh dài góp mặt vào sinh hoạt của cư dân địa phương. Nó được biết đến nhiều v́ ở đầu con đường, nơi giáp với bờ sông (sông Sài G̣n), từng là nơi vua nhà Nguyễn đến nghỉ ngơi và... tắm (Bến Ngự). Tuy nhiên, từ trước năm 1865, nó cùng 25 con đường khác chỉ mang số thứ tự kế tiếp nhau, từ 1 đến 26. Phải chờ đến ngày 1-2-1865, Đề đốc De La Grandière mới đặt tên cho từng con đường một và con đường số 16 lần đầu tiên mang tên Catinat. Nhiều người không rơ xuất xứ của tên này. Theo một số sử liệu, Catinat là tên một thống chế Pháp sinh năm 1637 và mất năm 1712, phục vụ dưới thời vua Louis XIV. Giữa thế kỷ XIX, Pháp lấy tên Catinat đặt cho một chiếc tàu chiến từng tham gia trận đánh Sài G̣n năm 1859 và dựa vào chi tiết này, De La Grandière đặt cho con đường số 16 tên Catinat (trường hợp tương tự cũng xảy ra với rạch Thị Nghè, được Pháp gọi là Arroyo d’Avalanche).
Một trong những tác giả Pháp đầu tiên là Pallu de la Barrière đă miêu tả con đường số 16 này vào năm 1861 như sau: "Du khách đến Sài G̣n nh́n thấy bên hữu ngạn con sông một loại đường phố mà hai bên bị đứt quăng bởi những khoảng trống lớn. Phần lớn nhà cửa làm bằng cây lợp lá cọ ngắn; số khác ít hơn, làm bằng đá. Mái nhà lợp bằng ngói đỏ làm vui mắt và tạo được cảm giác yên b́nh...". Tính cách quan trọng của con đường Catinat thể hiện ở chỗ nó được thực dân Pháp sử dụng làm trung tâm của bộ máy thuộc địa. Đầu tiên, vào năm 1863, ở vạt đất nằm giữa hai con đường Mossard và Gouverneur (sau là De La Grandlière, Gia Long), họ dựng lên dinh Thủy sư Đề đốc, cơ quan đầu năo của thực dân Pháp tại Viễn Đông, gần chiếc đồng hồ lên cái tháp trước dinh, từ đó, quảng đất trống phía trước (nay là khu đất trước mặt tiền Nhà thờ Đức Bà) được gọi là "Quảng trường Đồng hồ" (Place de l’Horloge). Ngày 15-8-1865, tại quảng trường này đă diễn ra một buổi lễ trong thể có duyệt binh do chính De La Grandière chủ tŕ nhằm tôn vinh Hoàng đế Pháp Napoléon III và Hoàng hậu.
Năm 1864, Nha Giám đốc Nội vụ (Direction de I’ Intérieur), người dân đương thời gọi là "Dinh Thượng thơ", được xây dựng, nh́n ra đường Catinat, ở phía đối diện dinh Thủy sư Đề đốc. Viên chức lănh đạo cơ quan này, xét về mặt cai trị, chỉ xếp sau Thống đốc Nam Kỳ, trực tiếp chỉ huy các tham biện Pháp và quan lại Việt Nam hàng Huyện, Phủ, Đốc phủ sứ. Đầu thập niên 1880, ngay trên lộ tŕnh con đường chạy qua, mọc lên ngôi nhà thờ Notre Dame, về sau được cư dân Sài G̣n gọi là Nhà thờ Đức Bà hay Vương cung Thánh đường. Sau lưng nhà thờ là đường Norodom, lấy tên ông hoàng xứ Cambodge (Campuchia) đến thăm Sài G̣n vào đầu năm 1867, nhân cuộc đấu xảo canh nông đầu tiên tổ chức tại đây.
Năm 1886, Pháp khởi công xây trụ sở chính Sở Bưu chính và Viễn thông trên khu đất đối diện với mặt tiền nhà thờ, nằm giữa con đường Catinat và đường Paul Blanchy. Cuối đường Catinat, người ta nh́n thấy một tháp nước cao được xây dựng năm 1878 nhằm cung cấp nước uống cho cư dân trong vùng. Tuy nhiên, đến năm 1921, với sự phát triển của dân cư, tháp nước này không c̣n đáp ứng được yêu cầu nên bị đập bỏ. Ngày 1-1-1900, nhà hát Tây được khánh thành trên giao lộ đường Bonard và Catinat, trở thành nơi biểu diễn thường xuyên của những đoàn hát từ phương Tây đến.
- Nhịp sống trên đường Catinat
Sinh hoạt của đường Catinat vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX được tác giả Nguyễn Liên Phong miêu tả sinh động trong Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca xuất bản tại Sài G̣n năm 1906:
Nhứt là đường Ca-ti-na,
Hai bên lầu các, phố nhà phân minh.
Bực thềm lót đá sạch tinh,
Các cửa hàng bán lịch thanh tốt đều.
Máy may mấy chỗ quá nhiều,
Các tiệm tủ ghế dập dều (sic) phô trương.
Đồ sành, đồ cẩn, đồ đương,
Đồ thêu, đồ chạm trữ thường thiếu chi.
... Nhà in, nhà thuộc, nhà chà,
Nhà hàng ăn ngủ với nhà lạc son (xoong.
... Phong lưu cách điệu ai bằng,
Đường đi trơn láng, đền giăng sáng ḷa.
Thứ năm, thứ bảy, thứ ba,
Với đêm chúa nhựt hát nhà hát Tây...
Vào thời kỳ này, đường Catinat là bộ mặt sinh hoạt của cả Sài G̣n, thành phố thuộc địa đầu tiên ở vùng Viễn Đông với sự hiện diện của khoảng 3.000 người Pháp, hơn 3/4 trong số này là sĩ quan và viên chức. Lính Pháp ở trong các bungalow (loại nhà gỗ có hiên rộng) nằm khuất trong những vườn cây xanh. Để tiết kiệm chi phí và t́m sự đông vui hai, ba anh chung nhau tiền mướn một chỗ ở, có sự giúp việc của một anh bồi (boy) bản xứ, đi chợ, giặt giũ, nấu ăn... Sinh hoạt dân sự trên đường Catinat cũng được những người Pháp đương thời miêu tả đúng như Nguyễn Liên Phong. Hai bên đường, các thợ may, thợ đóng giầy người Hoa hoạt động khá đông, sau đó đến các cửa hiệu tạp hóa, nơi du khách có thể t́m thấy thức ăn khô, mũ nón hay yên cương... Từ ngày 24-2-1897, đoạn đường Catinat từ phía sau nhà thờ Đức Bà đến tháp nước (nay là Hồ Con Rùa) mang một tên mới là đường Blancsubé. Về sau nữa, khi thành phố được mở rộng hơn, con đường được tiếp tục nối dài đến đường Mayer (sau là Hiền Vương) và khúc cuối này có tên là đường Garcerie.
Tiêu biểu cho sinh hoạt trên đường Catinat vào thời kỳ đầu Pháp thuộc là nhiều cơ sở dịch vụ thương mại được thành lập từ rất sớm. Sớm nhất có thể không đâu hơn Hăng Denis Frère mọc lên ở đầu đường, phía bờ sông, nay là khu vực của Grand Hotel, đối diện với Nhà hàng Majestic phía bên kia đường. Sau Denis Frère là hiệu thuốc Tây đầu tiên của cả Sài G̣n nằm ở góc Catinat và Bonard, khai trương năm 1865, chủ nhân là Lourdeau, sau làm Xă trưởng Sài G̣n (1870). Ít lâu sau, hiệu thuốc được giao lại cho Holbé, tiến sĩ dược khoa, một nhân vật khá nổi tiếng của đất Sài G̣n xưa, từng làm Phó Chủ tịch Pḥng Thương mại Sài G̣n, Phó Chủ tịch Hội đồng quản hạt Nam kỳ (Conseil colonial de la Cochinchine). Holbé từng điều chế ra một loai biệt dược có tên "Gouttes Holbé" dành cho những tay nghiện á phiện cai nghiện. Về sau, nhà thuốc Tây về tay Renoux, rồi Solirène và mang tên vị chủ nhân này trong một thời gian dài, trước khi bị thay thế bởi nhà hàng Givral c̣n hoạt động đến ngày nay.
- Những nhà hàng nổi tiếng xưa nay
Đề cập đến sinh hoạt của cư dân Sài G̣n trên đường Catinat, không thể không nói đến nhà hàng Continental, tuy sinh sau đẻ muộn hơn (năm 1880), nhưng bề dày lịch sử của nó th́ không một cơ sở dịch vụ, thương mại nào sánh kịp. Trong khi nhà hát Tây ở cạnh đó măi đến ngày 1-1-1900 mới được khánh thành và sinh hoạt diễn ra 4 ngày mỗi tuần th́ từ đầu thập niên 1880, nhà hàng - khách sạn Continental là nơi dừng chân của các viên chức, sĩ quan cao cấp chính quốc trên đường công tác xứ thuộc địa, là chỗ tụ hội của những du khách trên đường hành hương sang Đế Thiên - Đế Thích của xứ chùa Tháp.
Chủ nhân đầu tiên của Continental là Pierre Cazeau, nhà sản xuất vật liệu xây dựng, sau bán lại cho Công tước De Montpensier. Người ta kể rằng chính vị công tước này là chủ nhân của Lầu Ông Hoàng ở Phan Thiết (nơi chứng kiến t́nh sử của thi nhân Hàn Mạc Tử và người bạn gái Mộng Cầm). Năm 1930, nhà hàng có chủ mới là Mathieu Francini, người đă điều hành thành công trong một thời gian dài, cho đến ngày quân đội Pháp rút về nước sau thảm bại Điên Biên Phủ.
Tuy nhiên sự nổi tiếng của Continental không xuất phát từ các chủ nhân của nó, mà từ nhiều t́nh cờ lịch sử diễn ra trên đất Sài G̣n xưa. Trước thế chiến thứ hai (1939-1945), nó từng được đón tiếp hai nhân vật sừng sỏ trong thế giới văn chương là thi hào Ấn Độ Rabindranath Tagore, giải thưởng Nobel văn chương năm 1913 và nhà văn Pháp lừng danh André Malraux, tác giả của La condition humaine (Thân phận con người 1933), sau làm Bộ trưởng Văn hóa Pháp (1959-1969). Trong buổi "giao thời" Pháp đi, Mỹ đến, căn pḥng số 214 của khách sạn Contiental là nơi "ngự trị" của Graham Greene, người đă thai nghén và cho ra đời quyển tiểu thuyết nổi tiếng The Quiet American (Người Mỹ trầm lặng) ngay trong căn pḥng này.
Thành tích của Continental không chỉ có thế, cho dù như thế là đă quá đủ để tự hào rồi. Về một lĩnh vực nào đó, như truyền thông chẳng hạn, nó c̣n tiêu biểu cho cả con đường Catinat. Cụm từ "Radio Catinat" hay "Radio Catinat một đèn" phổ biến trong giới báo chí Sài G̣n đầu thập niên 1950 xuất phát từ chính nhà hàng này. Nó chứng tỏ đây là nơi tụ hội của giới truyền thông nhất là báo giới và từ đó loan truyền đi những tin tức thời sự "nóng" nhất. Sở dĩ có từ một đèn là v́ vào những thập niên 1940-1950, hầu hết máy thu thanh c̣n sử dụng đèn điện tử, ai có máy 2, 3 đèn trở lên là thuộc hạng sang, máy chỉ có một đèn điện tử thuộc về giới b́nh dân, v́ thế từ này mang chút ư nghĩa châm biếm trong đó.
Nhà hàng kỳ cựu sau Continental là Majestic, thành lập năm 1925, nằm ở góc đường Catinat và Luro (sau là Cường Để) nh́n ra bờ sông Sài G̣n, do một thương nhân người Hoa giàu có và nổi tiếng nhất nh́ Sài G̣n thời bây giờ là Hui Bon Hoa (chú Hỏa) xây dựng theo đồ án thiết kế của một kiến trúc sư Pháp. Cạnh khách sạn Majestic là rạp hát cùng tên, ngó mặt ra đường Catinat. Ngược lên phía trên, và những thập niên trước ngày Pháp về nước, những người thuộc lớp trước 70 trở lên không quên hiệu bán đĩa hát Ménestrel, rạp Catinat (nằm trên một con hẻm đâm ra đường Catinat), nhà hàng Brodard... Qua bên kia đường Bonard, cạnh nhà thuốc Tây Soliréne (sau là nhà hàng Givral) là rạp hát Eden, tiệm sách Albert Portail, nhà thuốc Tây Pharmacie de France (sau là La Thành), nhà hàng La Pagodel, cũng từng là nơi gặp gỡ của báo giới Sài G̣n.
Gabrielle M. Vassal, một phụ nữ Pháp có chồng là bác sĩ, mấy tuần sau lễ cưới đă theo chồng sang Việt Nam, đến ở Nha Trang là nơi ông chồng làm việc trong ba năm. Trên lộ tŕnh từ Pháp sang, bà đă dừng chân ở Sài G̣n một thời gian và bằng một nhận xét tinh tế, đă miêu tả nhịp sóng Sài G̣n xưa trong quyển kư Mes trois ans d’ Annam (Ba năm sống ở Việt Nam) do nhà Hachette (Paris) xuất bản năm 1912:
"Người ta nh́n thấy nhiều dân bản xứ đi trên phố. Ngày làm việc kết thúc, họ đi thành từng nhóm trên đường về nhà. Trong số họ, các thầy thông ngôn được phân biệt bởi mới tóc cắt ngắn, chiếc khăn đội đầu xếp nhiều lớp một cách hoàn hảo, quần dài trắng, giầy cổ thấp và vớ ngắn. Các nông dân (nguyên văn: nhaqués) mặc áo cánh màu xanh sẫm, có khi vá nhiều chỗ đến nổi không c̣n thấy mảnh vải gốc nào nữa, và quần dài trắng. Họ đi một bên lề đường, chân để trần, người này đi sau người kia. Vài người cầm trên tay đôi giày Tàu dành sử dụng trong những dịp đặc biệt, tay kia cầm cây dù giương rộng che trên đầu... Những phụ nữ bản xứ có địa vị cao hơn th́ ngồi xe kéo (pousse - pousse), người th́ quấn khăn bằng lụa mỏng trên đầu, người th́ cẩn thận cài chiếc trâm vàng trên búi tóc đen nhánh...
... Chúng tôi ngồi ăn tối trên sân thượng nhà hàng Continental. Dù đă khuya, những bàn ăn chất đầy rượu mạnh và thức uống lạnh vẫn c̣n đông khách. Con đường (Catinat) im ắng, nhưng đồng thời cũng rất náo nhiệt. Xe kéo chạy thật êm trên những chiếc bánh cao su, người phu xe nện đôi chân trần xuống đất mà không gây ra một tiếng động nhỏ nào..."./.
Nguyễn Tiến Quang
hoanglan22
03-11-2019, 14:11
Trên tầu Trường Xuân - NGUỒN TRUONGXUANVOYAGE.COM
Đó là tựa đề cuốn Kỷ Yếu do nhóm thân hữu Trường Xuân ở Sydney, Úc Châu, thực hiện để ghi nhớ đúng 35 năm gần 4000 người tỵ nạn Việt Nam rời bỏ quê hương trên chuyến tầu định mệnh Trường Xuân. Tôi rất ngạc nhiên khi cầm trên tay cuốn kỷ yếu thật đặc biệt từ h́nh thức tới nội dung và khá tốn kém này. Thoạt nh́n, có người tưởng lầm đây là một cuốn tự điển v́ vẻ “gồ ghề” của nó từ cái b́a cứng in chữ lớn mạ vàng óng ánh tới bề dầy 2 inches và hơn 600 trang bằng loại giấy láng dầy. Theo tôi, ngoài nhóm thân hữu Trường Xuân ở Úc ra, có lẽ không có một hội đoàn hay đoàn thể non-profit nào tại hải ngoại dám gồng ḿnh thực hiện một cuốn kỷ yếu có tầm cỡ và tốn kém như vậy. Cuốn kỷ yếu mang tựa đề “Hành tŕnh t́m Tự Do – Journey to Freedom”quả là một di sản giá trị để lại cho các thế hệ con cháu sau này, có thể đọc và hiểu được lư do tại sao cha ông của họ đă phải liều chết đi t́m Tự Do. Tất cả những tài liệu, những bài viết, những h́nh ảnh trong cuốn Kỷ Yếu đều được tŕnh bày bằng song ngữ Việt-Anh để giới trẻ có thể đọc hay nghiên cứu. Chưa hết! Cuốn Kỷ Yếu này c̣n được gửi tặng tất cả các vị nguyên thủ của 14 quốc gia đă dang rộng ṿng tay nhân từ đón nhận những người tỵ nạn cộng sản Việt Nam trên chuyến tầu Trường Xuân. Cuốn sách sẽ được lưu giữ và trưng bày tại nhiều thư viện của nhiều quốc gia trên thế giới.
Đă có rất nhiều người nghe biết về chuyến tầu Trường Xuân nhưng có lẽ vẫn chưa rơ các diễn biến và các chi tiết về chuyến hải hành đầy cam go này. Nhạc sĩ Lam Phương cũng là một thuyền nhân trên con tầu định mệnh Trường Xuân.
Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy
Cover cuốn kỷ yếu “Hành tŕnh t́m Tự Do - Journey to Freedom”
Xin mượn những ḍng tâm sự của Thuyền trưởng Phạm-Ngọc-Lũy để nói về chuyến tầu định mệnh Trường Xuân:
“Thượng đế đă ban cho tôi ân huệ được sống với đồng bào trong những giờ phút đau thương và bi thảm nhất của một giai đoạn lịch sử tan vỡ. 10 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, tiếng nói từ đài phát thanh Sài g̣n gieo vào ḷng người quốc gia nỗi kinh hoàng đến tuyệt vọng. Làn sóng người đổ xô ra tầu Trường Xuân mỗi phút mỗi đông. Tôi thấy bóng dáng nhiều binh chủng lẫn trong đám đồng bào. Tất cả đă hy sinh rất nhiều, đă quá yêu tổ quốc và gia đ́nh… Tất cả đều mang nét mặt buồn thảm, hốt hoảng đến cùng cực, đi t́m đường sống trong cái chết. Trên đài chỉ huy, tôi bị dằn vặt và bị ám ảnh nặng nề về tin tức tôi mới nhận được từ viên sĩ quan phụ tá: có âm mưu phá hoại! Tôi biết ḿnh phải làm ǵ? hành động thế nào để có thể đưa thoát đồng bào rời khỏi Sài G̣n nơi chúng ta đă bám vào đấy để sống. Tôi vốn dĩ lạnh lùng trước hiểm nguy nhưng tôi lại có nhược điểm là rất dễ bị xúc động. B́nh tĩnh trước gian nguy tôi thấy dễ nhưng ngăn chặn được giọt nước mắt lăn trên má lúc này mới là điều khó khăn. Không b́nh tĩnh, không nén được xúc động, tôi sẽ mất hết đồng bào, mất hết những người thân yêu. Tôi đă vận dụng hết khả năng, ư chí, tận dụng nguồn sinh lực để cố giữ b́nh tĩnh cho chính ḿnh v́ tôi không muốn và không được phép “chưa lâm trận đă chịu thất trận”. Trong giờ phút muộn màng, gay go, nguy cấp nhất và biết trước sẽ gặp rất nhiều bất trắc, tôi vẫn tin tưởng, tin ḿnh, tin đồng bào ư thức được mối nguy chung… tôi ra lệnh khởi hành. Đồng hồ chỉ 13 giờ 30 phút.”
Để quư vị có một cái nh́n khá chi tiết về chuyến tầu định mệnh Trường Xuân, xin được ghi lại vài trang Nhật kư Hải hành của Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy như sau:
Xà lan Song An kéo tầu Trường Xuân - NGUỒN TRUONGXUANVOYAGE.COM
14-4-1975: Trường-Xuân (TX) rời Singapore về Sài g̣n.
17-4-1975: TX cập bến kho 5 Khánh Hội lúc 14 giờ.
20-4-1975: Thuyền chủ Trần-Đ́nh-Trường đề nghị: TX chở hết đồng bào nào muốn di tản tại miền Trung…
21-4-1975: TX chất đầy hàng sắt phế thải để chở đi Manila.
26-4-1975: Sắt đă chất đầy 2 hầm tầu. Thủ tục quan thuế và giấy xuất ngoại đă chuẩn bị đầy đủ… nhưng ḷ hơi vẫn chưa sửa chữa xong.
27-4-1975:Tầu trong t́nh trạng không có cơ khí trưởng… việc chở người di tản coi như bị hủy bỏ.
29-4-1975: Phi trường TSN bị pháo kích dữ dội.
Tàu Clara Maersk nh́n từ tàu Trường Xuân - NGUỒN TRUONGXUANVOYAGE.COM
Đồng bào trên tàu Clara Maersk - NGUỒN TRUONGXUANVOYAGE.COM
-13 giờ: tôi lại hăng tầu nhưng không gặp Thuyền chủ Trần Đ́nh Trường (TĐT).
- 16 giờ: Ông TĐT chỉ thị: thuyền trưởng có toàn quyền sử dụng tầu TX.
- 19 giờ : Tôi ra tầu nhưng không gặp cơ khí trưởng. Tôi chỉ thị sĩ quan phụ tá TVC: Tầu sẽ khởi hành ngày 30 tháng 4 khoảng 12 giờ trưa…
- 20 giờ: Tôi trở về nhà và suốt đêm không sao ngủ được. Tôi phải có quyết định dứt khoát: đi hay không đi ! Tôi vẫn c̣n bị ám ảnh bởi cuộc di tản đầy chết chóc tại miền Trung.
- 6 giờ sáng: Tôi ra tầu để thẩm định t́nh trạng con tầu.
- 7:45 sáng: Tôi trở lại nhà… Gần 200 bà con anh em, hàng xóm dồn lên 2 chiếc xe GMC nhưng bị chận lại ở cổng thương cảng mặc dù đă xuất tŕnh giấy tờ của Bộ nội vụ. Nhưng rồi cuối cùng chúng tôi cũng vô được bên trong…
- 9:45 sáng: Sĩ quan vô tuyến xin ở lại v́ thất lạc gia đ́nh. May mắn cùng lúc đó anh NNT, sĩ quan vô tuyến của một tầu khác cùng hăng đến xin thay thế. Đồng bào kéo tới và lên tầu mỗi lúc một đông.
- 10:25 sáng: Đài phát thanh loan tin đầu hàng… và ngay sau đó hàng ngàn người gồm các quân, dân đổ xô xuống tầu TX từ khắp mọi nẻo.
- 12:00 trưa: Dinh Độc Lập và Ngân hàng quốc gia bị chiếm
- 12 Cơ khí trưởng báo tin máy đă ở t́nh trạng chuẩn bị sẵn sàng. Lệnh khởi hành được ban ra tức khắc. Nhưng vừa tách bến, hệ thống lái bị phá hoại: có người đă đổ nước vào máy thay v́ đổ dầu… Thủy triều bắt đầu lên đẩy lái quay ngang sông và dần dần mũi tầu quay ra biển. Đến bây giờ tôi vẫn c̣n thắc mắc : Tại sao lại có cáimay mắn lạ lùng này ???
- 13:30 : Tầu TX khởi hành sử dụng hệ thống lái tay pḥng hờ, một việc mà không thuyền trưởng nào dám làm trong sông. Tôi thành lập ngay ban tham mưu và các ban cần thiết khác :
Đồng bào được chăm sóc trên tàu Clara Maersk - NGUỒN TRUONGXUANVOYAGE.COM
a. Ban tham mưu: gồm 1 trung tá phi công, 1 thiếu tá cựu sĩ quan sư đoàn 25 BB, 1 nha sĩ, 1 giáo sư, 1 -3 luật sư, 2 cựu sĩ quan hải quân, 1 sinh viên.
b. Ban an ninh trật tự: gồm 1 trung tá cảnh sát dă chiến, 1 thiếu tá dù và nhiều sĩ quan, binh sĩ, 1 dân sự.
c. Ban y tế : gồm 1 bác sĩ và nhiều t́nh nguyện viên khác…
- 17 giờ: Máy phát điện bị tê liệt. tầu mắc cạn, mũi tầu đâm vào bờ. Hàng chục thanh niên xuống pḥng máy bơm thuyền trưởng năn nỉ cầu xin giúp đỡ, tầu kéo xà lan mang tên Song An đă cột dây thừng kéo tầu TX khỏi chỗ bị mắc cạn và kéo TX từ từ ra Vũng Tầu ví như con kiến mà kéo con… voi.
- 23:00 : Tầu Song An đâm vào lưới cá. Các anh em binh sĩ nỗ lực cưa dây cáp và lưới cuốn vào chân vịt tầu Song An.
01-5-1975: Dây kéo tầu bị đứt liên tục v́ tầu TX quá nặng với hàng ngàn tấn sắt vụn và gần 4000 sinh mạng. Thủy triều lên quá mạnh.
- 5 giờ sáng: TX chạy sát gần ven chân núi Vũng Tầu để tránh con tầu ch́m “Kagwamaru”. Dây cáp lại bị đứt. Tầu TX trôi ngược lại dạt ra xa chân núi. Quân nhân trên tầu ở tư thế chiến đấu nếu bị tấn công
- 7:30 sáng: TX chạy ngang băi trước
- 8:00 sáng: TX chạy ngang phao London Maru, cách Sài G̣n 45 hải lư. Nước bắt đầu ṛng
- 10:00 sáng: TX cách Vũng Tầu 16 hải lư về phía nam. Máy chạy lại được. Tôi ra lệnh nộp tất cả vũ khí. Súng lớn súng nhỏ vào khoảng 50 cây được cất trong pḥng hải đồ và được khóa cẩn thận.
02-5-1975: Sau bao nhiêu tai nạn liên miên xảy ra, chịu đói chịu khát, nhưng nhờ nỗ lực và ư thức tự giác cao độ của tất cả đồng bào trên tầu… nên tới 16 giờ ngày 2-5-1975, gần 4000 đồng bào tỵ nạn cộng sản đă được chuyển sang an toàn trên tầu Đan Mạch mang tên Clara Maersk trong khi nước biển đă tràn ngập pḥng máy. Sau khi nhận được tín hiệu SOS kêu cứu, chiều ngày 2 Tháng Năm, tầu Đan Mạch đă chạy tới gần tầu Trường Xuân. Tôi vội vă sang tầu Đan Mạch để gặp vị thuyền trưởng và khẩn thiết yêu cầu ông hăy v́ nhân đạo mà cứu hết mọi người. Lúc đầu TT Olson chỉ muốn tiếp tế thức ăn, nước uống và thuốc men nhưng sau khi tôi xin ông qua thăm t́nh trạng bi đát của đồng bào và sau khi thấy tận mắt rất nhiều người nằm la liệt trên tầu TX v́ kiệt sức, v́ đói khát nhất là t́nh trạng vệ sinh rất tồi tệ rất dễ sinh ra các bệnh truyền nhiễm khác v.v. TT. Olson, đă quyết định cứu vớt tất cả trong tiếng reo ḥ và vỗ tay vang dội của mọi người. Khi tất cả đă an toàn trên tầu Đan Mạch, tầu TX bị bỏ lại bồng bềnh trên mặt biển bao la. Và khoảng một tháng sau đó, một tầu đánh cá của Hồng Kông đă t́nh cờ gặp tầu TX và kéo vào bờ cùng với thi hài của Đại Tá Ṿng A Sáng. Ông đă chết v́ kiệt sức không thể leo qua tầu Đan Mạch và thay v́ bị ném xuống biển, xác ông đă được bỏ lại trên tầu TX. Trước ông Sáng, đă có 2 người tự sát v́ quá tuyệt vọng và v́ vợ con c̣n ở lại không có mặt trên tầu TX. Nhưng bù lại, đă có 2 em bé được sinh ra trên tầu TX và hiện nay cả 2 em đều rất thành công tại hải ngoại sau đúng 40 năm.
Tầu Đan Mạch chở đồng bào tới Hông Kông vào tối ngày 2-5-1975 và chúng tôi được cho tạm trú tại 3 trại tỵ nạn để chờ được định cư tại quốc gia thứ ba. Được biết đă có 14 quốc gia tiếp nhận gần 4000 đồng bào tỵ nạn trên con tầu Trường Xuân.
Sau bốn mươi năm xa xứ, các thế hệ con cháu của những người di tản đă và đang đóng góp tài năng, trí tuệ cho quốc gia mà họ đă nhận làm quê hương thứ hai. Và niềm hy vọng nh́n thấy một quê hương thanh b́nh, tự do vẫn luôn trong tâm thức họ…
Tàu kéo Song An kéo TX ra khỏi sông Ḷng Tảo
Tác Giả:Nguyễn Việt Cường
laongoandong
03-11-2019, 21:01
Nói thêm về Thích Thiện Minh :
V́ chuyện xảy ra quá lâu và nhiều chi tiết không nhớ rỏ chính xác tḥi gian nhưng cuộc đời ḿnh đă gặp phải, không bao giờ quên được. Nó nằm trong đầu ḿnh, lần đầu tiên ḿnh xin kể ra đây.
Trước khi đi vào vấn đề ḿnh xin nói thêm. Đạo nào ḿnh cũng tôn trọng nhưng con người hành đạo không tốt th́ ḿnh cũng không thể tôn trọng nữa để gọi là thầy.
TT Minh bị bắt ở khu đại học và giao cho Quân Cảnh tạm quản thúc chờ ngày ra Ṭa án quân sự. Đơn vị được giao cho là Tiểu đoàn 6 Quân Cảnh phụ trách Quân khu Thủ Đô đóng tại Trại Lê Văn Duyêt chung với Bộ TL Biệt Khu Thủ Đô..Doanh trại của Tiểu Đoàn không lớn nhưng lúc ấy t́m chổ để tạm quản thúc TT Minh là chuyện chưa từng có bao giờ v́ nhiệm vụ của đơn vị chỉ là giử ǵn an ninh trật tự và quân phong quân kỷ mà thôi. Cũng may là đơn vị có hai nhà kho riêng biệt khoảng 16m2 mỗi kho. Tường dầy và xây nền cách mặt đất 50cm. Thế là đơn vị chuẩn bị cả ngày dọn trống và làm sạch để rước nghi phạm về quản thúc. Đặc biệt là phải có một bàn thờ Phật cho thầy.
Hằng ngày có một nữ quân nhân tơi giao cơm ba buổi. Có một nhân viên QC đặc trách canh giữ và người chịu trách nhiệm giám sát đôn dốc canh giữ là tôi, với chức vụ Sỉ Quan An ninh Chính Trị của Tiểu Đoàn. Ḿnh không nhớ là quản thúc TT Minh bao lâu nhưng hằng ngày ḿnh vừa phụ trách trưởng ban điều hành tiểu đoàn vừa dảo quanh căn pḥng xem ông ta như thế nào.
Những ai muốn thăm viếng TT Minh phải có giấy phép. Mọi tiếp xúc và kiểm soát từ trong ra ngoài là tôi. Điều đáng nhớ nhất là thời gian rỗi rảnh TT Minh nghe một radio nho nhỏ. Buổi sáng sớm bước vào pḥng chỉ thấy hương trên bàn thờ và một ít trái cây. Không bao giờ nghe và thấy ông tụnh kinh.
Vài ngày sau tự nhiên ông hỏi có bàn cờ tướng và xin phép được đánh cờ. Được phép!! và người duy nhất được tiếp xúc với ông chỉ có tôi và tôi cũng ṭ ṃ muốn biết tŕnh độ của ông và muốn có dịp gần gủi để t́m hiểu con người gây nên ầm ỉ chính trị này. Cá nhân tôi không thích chính trị nhưng bao lâu nay bị cấm trại ứng chiến cũng v́ những thành phấn như TT Minh này.
Tŕnh độ cờ tướng của ông TT Minh chỉ khoảng 7/10 đối với cá nhân tôi. Trong khi chơi, những lúc suy nghỉ chọn nước đi, tôi mới quan sát kỷ con người tu hành này. Ông bà ta có câu : Nhất lé, nh́ lùn. tam hô, tứ hí. Ông này thuộc dạng số 1. Không hiểu sao tôi lại không có cảm t́nh với ông. Có lẻ v́ ông gây rối trong vấn đề Phật giáo hồi đó nên chúng tôi phải bị cấm trại hoài hay là mỗi khi ông phàn nàn cau có v́ sơ xuất đi một nước cờ và ngước lên vói hai con ngươi, một vừa nh́n tôi và một nh́n nơi khác. Một trong những cách để t́m hiểu cá tánh của một con người là trong lúc họ bài bạc, như trong x́ phé chẳng hạn. Con người xài hoang, con người thâm trầm, mưu chước, bất biến v..v..
Ngày này qua ngày kia, khi đánh cờ tôi cứ tưởng là tôi đánh cờ với ông hàng xóm chạy xe ba gác bên trong xóm ở gần nhà ba má tôi ở đường Cao Thằng nối dài, chứ không phải với ông thầy tu. Từ cái vổ đùi cho đến tiếng kêu “ la” khi hớ một nước đi. Đôi khi tôi thử để ông thắng th́ cơn cao ngạo hiên lên. Chữ Hỉ và chữ Ố c̣n nhiều trong ông. Buổi trưa khi người nữ quân nhân mang cơm đến th́..giọng nói và cách hành xử như người ăn trên ngồi trước chứ không phải là người tu hành hay là kẻ bị quản thúc được phát cơm.
Và c̣n một điểm nữa là đến ngày đi ra ṭa, ḿnh phụ trách áp giải. V́ chỉ có ḿnh ông ấy nên ḿnh dùng xe của ḿnh. Sắp đặt th́ dỉ nhiên ḿnh ngồi bên tài xế phía trước và ông phải ngồi phía sau với một nhân viên QC. Ông nhất quyết không chịu ngồi băng sau và nhất quyết đ̣i ngồi chổ của người đi áp giải.
Oái oăm thay !!!
Từ đó ḿnh xin để mọi người biết và đánh giá về chân tu của ông này.
SQ Quân Cảnh
wonderful
03-11-2019, 22:50
Thêm một chút tài liệu về Thượng Tọa Thích Tâm Châu với vài h́nh minh họa.
wonderful
03-12-2019, 01:37
Chiếc giường đắt nhất thế giới chính là giường bệnh: Đừng cố kiếm tiền chỉ để mua nó...
Bài nầy đọc suy gẩm rất hay mà Wonderful thêm nhiều ư cá nhân trong đó..
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1348274&d=1552355276
Đừng dành dụm cả đời chỉ để tiêu cho chiếc giường bệnh!
Cả một đời người được ví như là một trận bóng.
Nửa hiệp trước là học hành, quyền lực, tiền tài, danh vọng, thành tích, tăng lương, tiến chức. C̣n nửa hiệp sau là huyết áp, mỡ máu, tiểu đường, ung thư, cô đơn, sầu năo.
Nửa hiệp đầu là phấn đấu hết ḿnh, nửa hiệp sau là chấp nhận, buông xuôi.
Cả một đời tranh đấu v́ lợi ích bản thân, nỗ lực v́ tương lai. Công sức, trí năo bỏ ra để phấn đấu v́ một tương lai xán lạn, no đủ, không thua kém bè bạn, để gia đ́nh được ngẩng cao mặt với họ hàng, làng xóm. Nhưng từng ấy thời gian đốt cháy năng lượng vào công việc, quay cuồng trong tiền tài sự nghiệp cũng là từng ấy thời gian sức khỏe hao ṃn, bị vắt kiệt như một chiếc giẻ lau bảng khô khốc, nhàu nhĩ, xơ xác.
Những ngày tháng sung sức nhất là những ngày tháng tuổi trẻ. Nhưng so với cả quăng dài cuộc đời th́ quăng dài tuổi trẻ chỉ chiếm 1/4 thôi. Phải nói, tuổi trẻ ngắn thật, quay đi quay lại cũng chỉ bằng một cái chớp mắt.
Vậy nên, nhiều người cứ quan niệm c̣n trẻ c̣n khỏe, phải tranh thủ tận dụng cái tuổi trẻ ấy để làm việc mà quên rằng 3/4 quăng thời gian sau, ḿnh lại cần nhiều sức khỏe hơn cả để làm những việc lớn hơn.
Không có bệnh cũng phải giữ ǵn sức khỏe
Pḥng bệnh c̣n hơn chữa bệnh. Bỏ ra 5 triệu đồng một lần đi khám bệnh tổng quát mỗi tháng c̣n hơn đi vay mượn một lúc 500 triệu để chữa ung thư giai đoạn cuối.
Không khát cũng phải uống nước, không mệt cũng phải nghỉ ngơi, bận mấy cũng phải rèn luyện. Đừng viện cớ phải làm v́ đam mê, phải làm v́ tương lai, phải làm v́ “không tiền làm sao mai sống”. Hăy đặt sức khỏe làm ưu tiên hàng đầu.
Một bộ quần áo giá 1 triệu, tờ phiếu nhỏ có thể chứng minh.
Một chiếc xe giá 1 tỷ, hóa đơn có thể chứng minh.
Một căn nhà giá 3 tỷ, hợp đồng mua bán có thể chứng minh.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1348276&d=1552355308
Nhưng rốt cuộc, một con người trị giá bao nhiêu tiền? Chỉ có sức khỏe mới có thể chứng minh được
Hăy nhớ, sức khỏe chính là bảo hiểm của bạn. Đừng mang máy tính ra tính rằng bạn đă tiêu bao nhiêu tiền cho sức khỏe. Trên đời này, bạn nhất định phải có một món tiền phải tiêu, hoặc là để chăm sóc sức khỏe trước, hoặc là để chữa trị bệnh t́nh về sau.
Lựa chọn món nào là quyền của bạn. Có sức khỏe gọi là tài sản, không có sức khỏe th́ chỉ c̣n là di sản mà thôi.
Không coi trọng sức khỏe, dùng sức khỏe như dùng một con trâu để đi cày, rồi đến một ngày sẽ phải ngỡ ngàng v́ không biết phải t́m sức khỏe ở đâu. Nên nhớ, một khi mất đi sức khỏe là mất tất cả. Sức khỏe mất đi, không giống như khi bát cơm hết lại đầy, cũng chẳng giống như cốc nước vơi lại tràn.
Người có sức khỏe th́ có cả trăm ngàn ước mơ, người không có sức khỏe th́ chỉ có một ước mơ duy nhất là sức khỏe. Có sức khỏe là có tất cả, sức khỏe quư hơn vàng. Thời hạn của cuộc đời tùy thuộc sức khỏe, c̣n sức khỏe th́ do cách sống quyết định.
Chiếc giường đắt nhất trên thế giới chính là giường bệnh
Đầu tư vào sức khỏe chính là một trong số những món đầu tư có lợi nhất. Bỏ tiền, bỏ thời gian để tập thể dục, ăn uống ba bữa một ngày đầy đủ chất dinh dưỡng, ngủ đúng giấc, dậy đúng giờ; đồng thời, tránh xa những thói xấu hại sức khỏe.
Trên thế giới này có thể có người lái xe thay bạn, có thể có người kiếm tiền thay bạn, nhưng không có ai t́nh nguyện mắc bệnh thay bạn đâu. Đồ mất rồi đều có thể t́m thấy lại nhưng có một thứ mất đi là vĩnh viễn không c̣n t́m thấy, đó chính là sức khỏe.
Đừng cật lực làm chỉ để có ngôi mộ đẹp
Sức khỏe thật sự rất quan trọng, đứng trước ranh giới của sự sống và chết choc, các bạn sẽ phát hiện, bất ḱ những lần tăng ca nào (một thời gian dài thức đêm đó chính là đồng nghĩa với tự sát), gia tăng áp lực nặng nề cho chính ḿnh ḿnh, hay mua nhà lầu thầu xe hơi, tất cả thứ đó bỗng trở nên thật phù phiếm biết bao.
Nếu như có thời gian, hăy ở bên con bạn thật nhiều, dành số tiền tích góp tậu xe để mua tặng đôi giày cho cha mẹ, đừng quá thật lực làm việc để đổi lấy một căn biệt thự nghỉ dưỡng cao cấp, hay những thứ xa hoa nào khác, bởi chỉ cần phải được ở cạnh người ḿnh yêu, mặc dù ở một nơi nhỏ như vỏ ốc cũng cảm nhận thấy êm ấm, yên b́nh.
Nắm chắc lấy những thứ hiện tại, yêu thương bảo đảm an toàn cơ thể của chính ḿnh, chú ư rèn luyện sức khỏe, đừng khiến cuộc sống tương lai của chính ḿnh sống trong vũng lầy của sự hối tiếc. Giá trị của tiền bạc nằm ở cách sử dụng, vị ngon của coffe cũng ngon ở nhiệt độ của chính nó.
Chúng ta chẳng khi nào dự đoán được trước tương lai, nói không chừng một ngày nào đó bạn bỗng nhiên rời khỏi thế giới này, để lại cuộc đời rất rất nhiều những việc vẫn dang dở có đầy ắp cơ hội lại chẳng kịp hoàn thành.
Cách duy nhất để điều đó không khi nào xảy ra đó chính là sống trọn vẹn những ngày bạn đang sống, để mỗi phút giây trôi qua chẳng khi nào mang tên tiếc nuối.
Học cách trân trọng những năm tháng của bạn c̣n tồn tại trên cơi đời này, ăn những thứ ḿnh thích ăn, làm những việc bản thân muốn làm, xem những thứ bản thân ḿnh muốn biết, hưởng thụ hiện tại, để mỗi ngày trôi qua là mỗi một ngày đáng sống theo cách riêng của nó.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1348275&d=1552355294
Steve Jobs cũng đă nói về sức khỏe những ngày cuối đời
Bạn có thể thuê ai đó làm người lái xe cho bạn, kiếm tiền cho bạn, nhưng bạn không thể có một người nào đó phải chịu bệnh tật cho bạn.
Vật chất bị mất có thể được t́m thấy. Nhưng có một điều mà không bao giờ có thể được t́m thấy khi nó bị mất – “CUỘC ĐỜI BẠN”.
Khi một người đi vào pḥng mổ, anh sẽ nhận ra rằng có một cuốn sách mà anh ta vẫn chưa hoàn thành việc đọc – “CUỐN SÁCH sức khỏe CỦA CUỘC SỐNG ĐĂ BAN”.
hoanglan22
03-12-2019, 04:06
Woderful
Tôi có save một bài cho bạn nhưng thấy có tựa ...
năm nay năm HỢI tuổi heo của em....em tự nguyện ăn chay cho ốm bớt và con lợn ḷng cũng bớt rên rỉ ...hihih ....
Bài thứ 2 đọc suy ngẫm cũng hay trong đó có ư của bạn:thankyou::handsh ake:
PS : H́nh th́ ḿnh không load vào chung được
hoanglan22
03-13-2019, 01:39
Nói thêm về Thích Thiện Minh :
V́ chuyện xảy ra quá lâu và nhiều chi tiết không nhớ rỏ chính xác tḥi gian nhưng cuộc đời ḿnh đă gặp phải, không bao giờ quên được. Nó nằm trong đầu ḿnh, lần đầu tiên ḿnh xin kể ra đây.
Trước khi đi vào vấn đề ḿnh xin nói thêm. Đạo nào ḿnh cũng tôn trọng nhưng con người hành đạo không tốt th́ ḿnh cũng không thể tôn trọng nữa để gọi là thầy.....
Từ đó ḿnh xin để mọi người biết và đánh giá về chân tu của ông này.
SQ Quân Cảnh
Ghi chú thêm một chút
Sư Thích Thiện Minh (1922 -1978) Phó Viện trưởng, Viện Hóa Đạo (VHĐ), GHPGVNTN (1971). Quyền viện trưởng Viện Hóa Đạo (1973)
Bối cảnh chính trị miền Nam trước 1975, trong GHPGVNTN xuất hiện nhiều khuôn mặt làm chao đảo chính trường, một trong số đó là Thầy: Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Tâm Châu, Thích Trí Thủ, v.v… quí Thầy thường xuất hiện ḥa quyện vào nhau, đan xen nhiều mặt, đến nỗi có người nh́n... Thích Trí Quang (phụ trách hành động), Thích Thiện Minh (phụ trách tổ chức - nhà chiến lược), Thích Tâm Châu (phụ trách về đường lối), Thích Trí Thủ (phụ trách cơ sở) như là “bộ tứ” gây nên sóng gió với chính trường miền Nam
laongoandong
03-13-2019, 11:55
Ghi chú thêm một chút
Sư Thích Thiện Minh (1922 -1978) Phó Viện trưởng, Viện Hóa Đạo (VHĐ), GHPGVNTN (1971). Quyền viện trưởng Viện Hóa Đạo (1973)
Bối cảnh chính trị miền Nam trước 1975, trong GHPGVNTN xuất hiện nhiều khuôn mặt làm chao đảo chính trường, một trong số đó là Thầy: Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Tâm Châu, Thích Trí Thủ, v.v… quí Thầy thường xuất hiện ḥa quyện vào nhau, đan xen nhiều mặt, đến nỗi có người nh́n... Thích Trí Quang (phụ trách hành động), Thích Thiện Minh (phụ trách tổ chức - nhà chiến lược), Thích Tâm Châu (phụ trách về đường lối), Thích Trí Thủ (phụ trách cơ sở) như là “bộ tứ” gây nên sóng gió với chính trường miền Nam
Không hiểu bây giờ các "thầy" này ra sao ?! Nếu vị nào có tin tức xin cho biết. Chỉ là ṭ ṃ thôi. Gieo quả nào th́ trời cho quả đó.
hoanglan22
03-13-2019, 14:02
Bạn bè cũng như tiền:
Có tờ ... thật
Có tờ ... giả
Có tờ ... lành
Có tờ ... rách
Chỉ tiếc v́ ḿnh không phải là máy soi tiền nên không thể biết được...
AI LÀ BẠN và BẠN LÀ AI?
* Hai chữ BẠN THÂN có nghiă là:
B: bao dung
A: an toàn
N: nhường nhịn
T: thương yêu
H: hiền ḥa
Â: ấm áp
N: ngọt ngào
* T́nh bạn trong đời
Nếu một ngày nào đó, bạn cảm thấy thật buồn và muốn khóc...
Hăy gọi cho tôi!
Tôi không hứa sẽ làm cho bạn cười, nhưng biết đâu tôi sẽ khóc cùng bạn!
Nếu một ngày nào đó, bạn cảm thấy vô cùng đơn độc..
Hăy gọi cho tôi!
Tôi sẽ đến bên bạn, chỉ để im lặng không nói một lời, nhưng tôi muốn bạn biết rằng luôn có tôi bên cạnh.
Nếu một ngày nào đó, bạn phân vân trước những quyết định của ḿnh.
Hăy gọi cho tôi!
Tôi sẽ không quyết định thay bạn, nhưng có thể giúp bạn vững tâm hơn trước sự chọn lựa của ḿnh.
Nếu một ngày nào đó, bạn gặp thất bại trong công việc.
Hăy gọi cho tôi!
Tôi sẽ không đem lại cho bạn một công việc mới, nhưng tôi sẽ giúp bạn t́m thấy một cánh cửa khác của sự thành công.
Nếu một ngày nào đó, bạn vô cùng đau khổ v́ phạm phải sai lầm.
Hăy gọi cho tôi!
Tôi không thể sửa chữa sai lầm đó, nhưng tôi có thể giúp bạn nhận ra rằng những sai lầm sẽ giúp bạn trưởng thành và tự tin hơn.
Nếu một ngày nào đó, bạn lo sợ những điều tốt đẹp sẽ qua đi.
Hăy gọi cho tôi!
Toi sẽ không níu giữ chúng lại, nhưng tôi giúp bạn hiểu rằng mọi việc đều có những điểm khởi đầu và kết thúc.
Nếu một ngày nào đó, bạn trở nên bế tắc và tuyệt vọng.
Hăy gọi cho tôi!
Tôi không hứa sẽ làm bạn quên đi tất cả, nhưng tôi có thể giúp bạn t́m niềm tin trong cuộc sống.
Nhưng một ngày nào đó, bạn gọi mà không thấy tôi trả lời.
Bạn hăy đến bên tôi, v́ lúc đó tôi đang cần bạn!
Trong cuộc đời dù hai tiếng BẠN & BÈ thật rất ư khác biệt nhưng hai tiếng "bạn bè" vẫn thường được ghép đôi !
-Khi đắc thời đâu biết... AI là BẠN
-Lúc thất thời mới biết ... BẠN là AI
-Trong cuộc vui vẫn coi ... BÈ là BẠN
- Khi hoạn nạn mới biết ... BẠN là BÈ
ST
hoanglan22
03-15-2019, 03:40
Đàn Bà Đàn Ông có những đ́ểm khác nhau như người viết mới tŕnh bày sơ sơ ở phần 1, thế mà trời sinh họ vẫn thương nhau, thế mới mệt và khổ cho cuộc sống con người! Bởi v́ sao? Bởi v́ họ bị trúng mũi tên Yêu rồi nhỉ?
SL xin mời qúy bạn đọc tiếp Đàn Bà Đàn Ông để khám phá ra họ c̣n khác nhau về đ́ểm nào nữa và họ làm như thế nào để có thể "sống chung ḥa b́nh" nhé. Smile!
SL
Đàn Bà Đàn Ông
Hay là:
Lúc xem TV, đến phần quảng cáo thương mại các ông thường bóp cái tầm xa (remote control) lia lịa để đổi đài, ngược lại các bà th́ nhẫn nại hơn và vẫn tiếp tục xem phần quảng cáo một cách b́nh thản… Các bà thường phàn nàn các ông sao làm biếng kéo nắp toilet xuống quá mỗi khi tè xong, c̣n các ông th́ càu nhàu tại sao các bà sao không chịu dỡ nắp lên khi các bà xong việc cho người ta nhờ một tí… Các bà thường hay tỉ mỉ từng ly từng chút, chi tiết quá trời nên thường trách các ông sao quá bừa băi. Đàn ông thường phải mất rất nhiều thời giờ để t́m được 2 chiếc vớ cùng màu bỏ lộn xộn không thứ tự trong ngăn tủ, nhưng ngược lại các CDs của họ đều được xấp xếp rất ư là có thứ tự trên bàn. Đàn ông phải mất cả buổi mới t́m ra xâu ch́a khóa xe bị thất lạc, trong khi Đàn bà t́m ra ngay chỉ trong một thời gian rất ngắn…
Hoặc là:
Đàn ông có khiếu xác định vị trí trong không gian, họ đọc bản đồ rất nhanh và t́m ra hướng Bắc rất dễ dàng. Nhờ năng khiếu này mà thuở tạo thiên lập điạ, người Đàn ông mới có thể đi săn thú trong rừng để nuôi sống gia đ́nh. Đàn bà nếu có xem bản đồ họ thường xem ngược ngạo. Lỡ có lạc đường, th́ các bà thường mau mau ngưng xe lại trạm xăng để hỏi thăm, c̣n các ông th́ ít chịu làm như vậy để khỏi bị chê là ḿnh quá yếu quá dở. Các ông thường ráng chạy loanh quanh cả tiếng đồng hồ để t́m đường, miệng th́ lẩm bẩm: “h́nh như tôi có thấy chỗ này rồi”...
Đàn bà thường có thị giác ngoại biên rộng lớn (wider peripheral vision), Đàn ông th́ có thị giác hẹp hơn nhưng lại thấy rất xa (narrow tunnel vision). Bởi vậy, nếu có lái xe đường xa, người ta khuyên nên để Đàn bà lái xe lúc ban ngày sáng tỏ, c̣n Đàn ông th́ nên lái xe lúc về đêm tăm tối v́ họ có thể nhận thấy các xe khác từ xa ở phía trước lẫn phía sau.
Đặc biệt nhất là:
Năo của Đàn ông chỉ program để làm mỗi lần một việc mà thôi. Họ chỉ sử dụng có 1 bán cầu năo (thường là phía trái) để suy nghĩ. Mỗi khi ngừng xe lại để đọc bản đồ là họ cần phải vặn nhỏ cái radio xuống rồi mới có thể đọc được. Đang xem TV mà bà xă hỏi th́ có ông nào nghe đâu. Bởi vậy lúc các ông xă đang lái xe các bà xă đừng nên nói đừng nên hỏi ǵ hết có thể nguy hiểm đó! Ngược lại ở Đàn bà, mỗi khi suy nghĩ họ thường sử dụng cả 2 bán cầu năo phía trái và phía phải, và nhờ vậy các bà có thể dễ dàng làm được nhiều việc cùng một lúc. Đàn bà có thể vừa đọc sách và vừa nghe radio hoặc vừa làm bếp nấu nướng vừa nói điện thoại. Các bạn có để ư không, trong các siêu thị ở quày trả tiền thường các cô thu ngân viên, mắt vừa nh́n các món hàng, tay th́ bấm máy lia lịa, đôi khi vừa làm vừa trả lời khách hàng hoặc vừa viết và vừa nói điện thoại kẹp nơi cổ. Nếu được hỏi th́nh ĺnh phía nào là tay phải, phía nào là tay trái, các bà thường hay lộn nếu họ không nh́n vào chiếc nhẩn đeo trên tay.
Xin mời quư bạn đọc tiếp thêm một vài câu danh ngôn nói về đàn bà:
1. Cả cuộc đời của người phụ nữ là một bài lịch sử về những yêu thương. (Washington Irving)
2. Nếu phụ nữ không hiện hữu, tất cả tiền bạc trên thế giới đều vô nghĩa. (Aristotle onassis)
3. Quả tim của người đàn bà không bao giờ già cỗi, và một khi nó không yêu nữa th́ đó là v́ nó đă ngừng đập (P. Rochepedre)
4. Rung động, yêu thương, đau khổ, hy sinh, tất cả sẽ măi măi là những trang t́nh sử của người đàn bà. (Honoré De Balzac)
5. Nơi nào có người đàn bà đẹp, th́ nơi đó có người đàn ông thở dài. (Tục Ngữ Hung-Ga-Ri)
Dĩ nhiên qúy bạn cũng cần nên đọc một vài danh ngôn về quư ông nữa cho vui chứ lị:
1. Tài hoa, đạo đức, anh hùng, người đàn ông nên có đủ ba tính chất ấy (Tản Đà)
2. Đàn ông thựng hay yêu nhưng yêu ít
Đàn bà rất ít yêu nhưng yêu đậm đà (Basta)
3.- Lúc c̣n làm t́nh nhân th́ người đàn ông là người khổ, lúc thành vợ chồng th́ người đàn bà là người thiệt tḥi nhất ( Shakespeare)
4.- Nhi nữ thường t́nh, anh hùng khí đoản (Cổ ngữ Trung Hoa)
5.- T́nh Yêu vào trong người đàn ông qua con mắt, vào trong người đàn bà qua lỗ tai (Ngạn ngữ Ba Lan)
Đàn ông và đàn bà có nhiều sự khác biệt nhau như thế nhưng: “Đàn ông ở một ḿnh không tốt.” (Kinh Thánh) cho nên Thượng Đế đă kết hợp đàn ông đàn bà phải yêu thương nhau, săn sóc, giúp đỡ lẫn nhau và sống hạnh phúc bên nhau như lời kết dưới đây:
Chồng giận th́ vợ bớt lời.
Cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê.
Đầu tôm nấu với ruột bầu,
Chồng chan vợ húp, gật đầu khen ngon.
(Ca Dao Việt Nam)
Đàn Ông Đàn Bà của Nguyễn Thượng Chánh
hoanglan22
03-15-2019, 03:54
Lần theo mê-lộ có đường hầm của Hệ Thống Tiền Tệ Mỹ
B.S. Nguyễn Lưu Viên
------------ --------- --------- --------- --------- --------- ---
Lời nói đầu
Cả năm qua báo chí Mỹ thường hay nói tới việc mất giá của đồng dollar, tới việc mắc nợ của chánh phủ Mỹ, rồi hay nhắc tới Federal Reserve, và tới tên của Ông Greenspan. Tôi không có học ÉcoPo của Pháp, không có học MBA của Mỹ nên mù tịt. Nhưng v́ ṭ ṃ muốn hiểu biết, nên tôi đă cố gắng t́m ṭi, học hỏi đó đây. Th́ mới thấy rằng vấn đề tiền tệ của Mỹ là cả một mê-lộ có đường hầm, [un vrai labyrinthe avec des souterrains] một con đường máng dện chằng chịt mà nếu đi không có bản chỉ dẫn th́ sẽ dể bị lạc.
Rồi tôi nghĩ rằng trong số độc giả của Y Tế Nguyệt San chắc cũng có một ít bạn đọc mù tịt như tôi, nhưng không có th́ giờ để nghiên cứu đó đây như tôi, nên tôi viết bài này tóm lược và giản-dị -hóa tối đa một vấn đề vô cùng phức tạp đă kéo dài theo lịch sử của Hoa-kỳ, để giúp phần nào các bạn ấy hiểu sơ sơ vấn đề về đồng dollar là một thực thể mà ḿnh phải đ6í phó hằng ngày. Tôi sẽ dùng phương pháp hơi và đáp [H & Đ] để dẫn đường quư bạn đi trên mê lộ và trong đường hầm ấy.
Tôi xin lưu ư quư bạn: V́ trong bài có vài ba cụm-từ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần nên tôi sẽ viết tắt các cụm từ ấy như sau: FED là Federal Reserve, CPLB là Chánh Phủ Liên Bang, HCQHK là Hiệp Chũng Quốc Hoa-Kỳ USA và T.T. là Tổng Thống.
------------ --------- --------- --------- --------- ------
I- Tạo ra tiền [create money].
H-: Dollar là tiền chính thức của HCQHK. Vây ở bên Mỹ cơ quan nào có quiyền phát hành dollar?
Đ-: Câu trả lời tự nhiên và thông thường mà cũng hợp lư là Bộ Tài Chánh của C PLB . Nhưng trên thực tế th́ không hẳn như vậy. Bộ Tài Chánh của C PLB chỉ có quyền phát hành “coins” nghĩa là đúc [mint] các dồng tiền One Cent, Five Cents, One Dime, One Quarter, và một số đồng tiền One Dollar.
H-: Vậy th́ cơ quan nào có quyền phát hành giấy xanh dollar?
Đ-: Chỉ có Federal Reserve [FED] mới có quyền phát hành giấy xanh dollar.
H-: Tôi thấy trên giấy xanh dollar nào cũng có h́nh của một ông Tổng Thống Mỹ, cũng có chữ kư tên của “Treasurer of the United States”, và của “Secretary of the Treasury” mà không phải do Department of Treasury của CPLB phát hành là ǵ ?
Đ-: Vâng, coi vậy mà không phải vậy. Trên giấy xanh dollar nào cũng có in hàng chữ “Federal Reserve Note” mà chữ note ở đây có nghĩa là “ a paper acknowledging a debt and promising payment; promissory note”. Tức là tờ giấy xanh dollar nào cũng là một tờ giấy nợ.
H-: Ai nợ ai?
Đ-: Chánh Phủ Liên Bang nợ FED.
H-: Sao lại có chuyện đó?
Đ-: Số tiên CPLB cần luôn luôn nhiều hơn số tiền thuế của dân đóng góp, nên C PLB phải mượn. Mượn ai? Mượn FED là cơ quan duy nhứt có quyền phát hành tiền dollar. Mượn bằng cách nào? Bằng cách cho phép Bộ Tài Chánh [The Treasury Department] in giấy nợ dưới h́nh thức “Federal Bonds” [là giấy IOU (I Owe You) trong đó chánh phủ cam kết sẽ trả lại với tiền lời] [mà bách-phân lời (% interest) là do FED. chủ nợ, quyết định]. FED chấp nhận và in [thí dụ như một tỷ dollars $1 billion] đưa cho chánh phủ. Thế là chánh phủ [tức là quốc gia, là dân Mỹ] nợ FED một tỷ dollars với tiền lời. Rồi mỗi năm tiền nợ đó chồng chất lên nên đến năm 1995 số tiền nợ là $5 trillion [1 trillion là 1 ngàn tỷ] và đến ngày 16-th.3-2006 là hơn $8,21 trillion.
H-: FED là một cơ quan của Liên Bang, vậy C PLB mà nợ FED th́ có khác ǵ là “Tôi nợ Tôi”.
Đ-: Khác, v́ FED là một cơ quan mang tên là “Liên Bang” [Federal] nhưng không phải của Liên Bang. FED là một công-ty độc lập của tư-nhân [a corporation independent privately owned].
H-: Privately owned th́ ai own nó?
Đ-: Federal Reserve [FED] gồm có 12 cái Fed bank địa phương [twelve regional federal reserve banks] mỗi cái là sở-hữu của những nhà bank buôn bán tư thành viên của cái Fed địa phương đó Các Fed địa phương có trụ sở ở: 1- Boston, 2-New York, 3-Philadelphia, 4-Cleveland, 5-St Louis, 6-San Francisco, 7-Richmond, 8-Atlanta, 9-Chicago, 10- Minneapolis, 11- Kansas City và 12-Dallas.
Fed Bank của New York có đa số cổ phần [53% of shares]. Mà trong Fed bank của New York , Citibank và J.P.Morgan Chase Co nắm đa số cổ phần. Citibank là của gia-đ́nh Rockefeller và J.P. Morgan Chase Co là của gia-đ́nh Morgan. Hai gia đ́nh này và gia đ́nh Carnegie với gia đ́nh Rothschild là thành phấn quan trọng nhứt của một nhóm người mà hoc giả Mỹ gọi là “the Robber Barons” [những Nam-tước Trộm Cắp].
H-: Nhưng trong Ban Quản Trị [Board] của FED ở Washington có Ông Tổng Trưởng Tài Chánh [the Treasury Secretary] và Ông Giám Sát Ngân Khố [the Comptroller of Treasury] là nhân viên chánh phủ.
Đ-: Vâng, v́ vậy mà trên các giấy xanh dollar có chữ kư tên của hai ông này. Và T.T. Mỹ cũng bổ nhiệm [với sự chấp thuận của Senat] ông Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị [Chairman of The Governing Board] của FED, cho nên FED được coi như là một cơ-quan “gần như chính thức” [ quasi-governmental] . Hội Đồng này gồm có 7 người, với nhiệm kỳ là 14 năm, mà Tổng Thống chỉ có quyền thay thế một người mỗi hai năm.
Như vậy, thí dụ như có một ông T.T. muốn sữa đổi FED theo ư của ông, th́ trong nhiệm kỳ 4 năm của T. T, ông chỉ thay thế được có 2 người [v́ ông chỉ có quyền thay thế một người mỗi 2 năm.] Thôi th́ cho rằng ông ấy là một ông T. T. tài ba lổi lạc, vượt qua được những khó khăn và những chống đối mà ông đă gây ra [v́ quan niệm muốn sửa đổi FED], trong hàng ngũ dân-biểu và nghị sĩ của cả hai đảng, trong chính trường và trong media, để ông được đắc cử một nhiệm kỳ thứ hai, th́ ông sẽ bổ nhiệm được 2 người nữa trong Governing Board (nếu được the Senate chấp thuận) th́ cho đến gần cuối nhiệm kỳ 2, ông mới đưa ra được một dự luật sữa đổi, mà chưa chắc dự luật ấy sẽ có được số phiếu cần thiết ở hai viện để trở thành một đạo luật trước khi ông phải rời khỏi Nhà Trắng.
Mặt khác ban Quản Trị [Board] không kiểm soát được cả 12 Fed bank địa phương và các Fed bank địa phương phải theo chánh sách của Fed Bank New York nắm đa số cổ phần. Vă lại FED kể từ khi thành lập cho tới nay, chưa bao giờ bị chánh phủ “audit”[ soát xét ] v́ năm 1975 dự luật [bill] H.R.4316 cho phép chánh phủ “audit” FED, được đưa ra Congress, nhưng dự luật không qua được v́ không đủ phiếu.
Hảy xem như ông Alan Greenspan đang làm giám đốc công ty [corporate director] cho J.P. Morgan, th́ được T.T. Reagan bổ nhiệm năm 1987 làm Chủ Tịch của FED, giử chức đó gần 19 năm, đến năm 2006 dưới thời T.T.George W. Bush mới về hưu. Nghỉa là đă làm Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị FED với bốn T.T. Mà trong lúc tại chức Ông không bao giờ có hợp báo, không bao giờ cho phỏng vấn, tức là không có việc hỏi han chất vấn lôi thôi.
H-: Trở lại đồng dollar. Bây giờ tôi mới biết rằng CPLB chỉ có quyền đúc coins, c̣n quyền phát hành giấy xanh là của FED, mà FED th́ bị các nhà bank tư nắm. Vậy trong tổng số tiền của Mỹ, tỹ-lệ của mổi thứ tiền là bao nhiêu?
Đ-: Tiền coin của CPLB đúc chỉ là lối một phần ngàn tổng số tiền của Mỹ, cộng với tổng số tiền giấy xanh của FED phát hành, thành ra cái được gọi là “tiền sờ thấy được” [tangible currency] chỉ có lối 10% tổng số tiền được cung cấp [American Money Supply]
H-: Sao kỳ vậy? C̣n 90% kia là tiền ǵ ở đâu ra?
Đ-: Phần 90% c̣n lại là tiền ma [phantom money].
H-: Tiền ma là tiền ǵ?
Đ-: Là tiền không có thật, là tiền được tạo ra từ chổ không có ǵ hết [money created from nothing], do cái tṛ ảo-thuật cho vay [gọi là “loan”] tạo ra.
H-: Thật sự tôi không hiểu được.
Đ-: Thực ra th́ cũng không có ǵ khó hiểu cho lắm. Tṛ ảo thuật tạo ra tiền từ con số không [create money out of nothing] dựa trên cái gọi là “fractional reserve banking” do đao-luật tạo ra FED [Federal Reserve Act] cho phép. Theo đó th́ khi mà nhà bank có trong kho của nó một số tiền X là tiền thật [hồi xưa là vàng, bây giờ là giấy xanh] được coi như là để dự-trữ [reserve], th́ nó có quyền phát ra 10 X [tức là có 9 X tiền ma, không có bảo đảm reserve].
Thí dụ như tôi gởi vào nhà bank trong checking account của tôi $ 10,000 th́ nhà bank để số tiền đó trong kho của nó như reserve, và nó có quyền phát ra $100,000 [tức là trong đó có $ 90,000 là tiền ma, v́ không có reserve bảo đảm] Cũng như thế, Anh B để vào bank trong saving account $ 20,000, th́ nhà bank có quyền phát ra $200,000 [tức có $180,000 là tiền ma]. Tổng cộng nhà bank có quyền phát ra $300,000 mà trong đó có $270.000 là tiền ma. Rồi khi Anh C đến mượn nhà bank $300,000 [để mua nhà, sửa nhà hay làm ǵ khác] th́ nhà bank cho ảnh mượn [dưới h́nh thức loan] $300,000 đó. Anh C sẽ trả cho nhà bank số tiền đó cộng với lời [x %] dưới h́nh thức mortgage hằng tháng, trong 15 hoac 30 năm chẳng hạn, bằng tiền dollar thật, mà Anh C có được nhờ lương của Anh C, hoặc nhờ việc làm [như pḥng mạch] của Anh. Tức là nhà bank, nhờ cái ảo-thuật của “loan” đă “create money out of nothing”.
Thí dụ trên là lấy cá nhân A, B, C làm mẩu, nên chỉ nói tới tiền với con số ngàn, nếu là nhà buôn, là nhà hàng, là hăng, là cơ sở sản xuất, th́ tiền phải là tới số triệu. Mà cả HCQHK có hằng bao nhiêu triệu cá nhân, nhà buôn, hăng, xưởng v.v. cân tiền và phải vay tiền của nhà bank dưới h́nh thức “loan” th́ không có ǵ lạ khi thấy rằng trong tổng số tiền cung cấp cho nền kinh tế Mỹ [american money supply] năm 2005 là $9.7 trillion trong đó tiền thật [tangible currency] chỉ có $ 1.4 trillion, c̣n $8.3 trillion là tiền ma. Và sau này nguyên tắc đó cũng được áp dụng cho việc dùng credit card [Visa, Master Card, American Express v.v.] với một lải xụất [% interest] c̣n cao hơn gắp bội.
II- Một chút lịch sử.
H-: Từ đâu, tại sao, và từ hồi nào mới có cái quái thai đó?
Đ-: Anh nói là “quái thai” th́ cũng đúng, nhưng học giả Mỹ thường ví FED như một con “Hydra”. Theo từ-điển Hydra là một con rắn có chín đầu [trong thần thoại] hể chặt đầu này th́ nó mọc đầu khác, và nó có nhiều cái ṿi [tentacles] rất dài để bắt mồi từ xa. FED [con hydra dưới h́nh thức hiện tại] sanh ra nhờ cái Federal Reserve Act năm 1913 do Tổng Thống Woodrow Wilson kư [về sau ông hối tiếc]. C̣n từ đâu và tại sao có nó, th́ phải xem lại hết cái lịch sử của HCQHK v́ trong dĩ văng nó cũng đă bị chặt đầu nhiều lần, mổi lần lại sống lại với một tên khác.
H-: Anh có thể tóm tắt cho chúng tôi biết một chút không?
Đ-: Tôi sẽ cố gắng tóm lược tối đa một câu chuyện dài mấy thế kỷ và chiếm vài trăm trang trong mỗi sách nói đến chuyện ấy mà tôi có dịp đọc.
Ở Trung học chúng ta học trong sách rằng HCQHK hồi xưa là 13 thuộc địa của Anh-quốc. Đến năm 1774, để phản đối việc mẫu-quốc Anh đánh thuế vào trà [tea tax] một buổi tiêc trà được tổ chức ở Boston [Boston Tea Party]. Trong dịp đó một số người Mỹ giả làm người Da-đỏ nhảy lên tàu chở trà và vất các thùng trà xuống biển. Bị chánh quyền cai trị đàn áp, những đ̣an dân quân được thành lập để chống trả lại, và Ông Benjamin Franklin triệu tập một Hội Nghị gọi là Congress ở Philadelphia để đưa ra “Bản Tuyên Ngôn Quyền Của Người Mỹ Có Đống Thuế” [Delaration des Droits du Contribuable Americain] năm 1774. Sau đó, với sự chiến thắng của đoàn dân quân của Massachusetts , Congress cho ra Bản Tuyên Ngôn Độc Lâp [Déclaration d’Indépendance ngày 4-th7-1776.] Rồi dưới sự chỉ huy của Tướng George Washington, quân Mỹ đánh thắng quân Anh dưới quyền Tướng Cornallis ở Georgetown năm 1781, và theo Ḥa Ước Versailles năm 1785 Anh-Quốc công nhận cho HCQHK độc lập.
Nhưng sau này một số học giả, sau khi đọc kỹ lại những tác phẩm của chính ông Benjamin Franklin viết hồi thời ấy, mới thấy là sự thật phức tạp hơn nhiều.
1-V́ không có tiền vàng hay bạc, nên kể từ năm 1691, các thuộc địa của Anh trên đất Mỹ phát hành tiền giấy gọi là “Colonial Scrip” để trả lương cho công chức và để cho dân xài trong việc mua bán trao đổi hàng hóa trả tiền công v.v. Mà người chủ nhà in lại chính là Ông Benjamin Franklin, người làm việc cho dân, v́ dân, không t́m cái lời cái lợi trong việc in giấy bạc nên chỉ phát hành đúng theo nhu cầu, cần bao nhiêu th́ phát hành bấy nhiêu, nên không cần lấy thuế của dân để chánh phủ có tiền, mà không tạo ra sự lạm phát [inflation] hay sự kém phát [deflation] nên giá vật và giá công [product and service] vẫn được đều ḥa và thăng bằng Nhờ vậy mà các thuộc địa trở nên rất phồn thịnh, không có thất nghiệp, không có ăn mày, trong lúc mà ở London của mẫu-quốc ngoài đường có đầy ăn mày và người đi lang thang lêu lổng [The streets are covered with beggars and tramps]. Th́ các chủ nhà bank Anh [the British bankers] lobby triều đ́nh, nên năm 1751, vua George II ra lệnh cấm các thuộc địa phát hành tiền giấy, mà phải dùng tiền “coins” của mẩu-quốc [do các nhà bank Anh đă hợp thành một thể dưới tên là Bank of England phát hành]. Vua George III kế vị vua cha từ năm 1752 giữ nguyên lênh ấy. Th́ các thuộc địa bị ảnh hưởng tai hại. V́ thiếu tiền coins [do mẩu quốc siết để tạo sự kém phát deflation], người làm ruộng hay trồng tỉa không có đủ tiền mướn người làm nên lúa không ai gặt, trái không ai hái. Người có hảng xưởng không đủ tiền mướn thợ, hàng hóa không được sản xuất. Cả dân trong một vùng đất rộng lớn của 13 thuộc địa bị nghèo đói không gia đ́nh nào không bị ảnh hưởng, nên họ đứng lên chống đối chánh quyền và đó là nguyên do sâu xa của cuộc Cách Mạng Mỹ năm 1774. Cái”Boston Tea Party” chỉ là giọt nước làm tràn cái b́nh.
2- Việc đầu tiên Congress làm là phát hành tiền giấy được gọi là “the Continental” dưới h́nh thức IOU [I owe you.] nghĩa là giấy nợ mà Chánh Phủ Cách Mạng cam kết sẽ trả lại bằng tiền coins [vàng hay bạc] sau này. Lối chừng 200 triệu dollars dưới h́nh thức “continental scrip” được phát hành để chi phí cho cuộc chiến giành độc lập. Th́ mẫu quốc phản ứng bằng cách in tiền giả để đổ ào ạt vào thị trường các thuộc địa, gây ra môt cuộc đại-lạm-phát, làm cho đến ngày độc lập tiền “the Continental” hầu như không c̣n giá trị ǵ hết. Thế là mẫu-quốc thua trên chiến trường, nhưng thắng trên mặt trận kinh tế [dính liền với tài chánh].
3- V́ thấy tiền Continental gần như không c̣n giá trị, nên các nhà “Quốc Phụ Lập Quốc [the Founding Fathers], không c̣n tin tưởng nơi giấy bạc, nên trong Hiến Pháp được viết ra, các ngài không nói tới tiền giấy mà ghi rằng Congress có quyền “coin money” [thay v́ “create money”] và có quyền vay tiền dựa trên uy tín của chánh phủ [“and to borrow money on the credit of the United States]. Th́ các nhà bank của mẫu-quốc Anh củ, là các ngân hàng Anh quốc tư nhân; xâm nhập vào HCQHK tạo dựng US Bank theo mẫu của England Bank. Mà England Bank từ thời thành lập cho đến ngày hôm nay là do các nhóm tài phiệt tư nhân gốc gác Ḥa-lan [Amsterdam] nắm và chính các nhóm này xâm nhập vào hệ thống US Bank, khai thác lỗ hở to tát đó [the enormous loophole] mà nói rằng chiếu theo Hiến Pháp chánh phủ chỉ có quyền phát hành coins, và nhà bank có quyền phát hành tiền giấy. V́ tiền coins th́ cồng kềng và quá nặng khi cần tới nhiều, nên nhà bank in giấy cam két sẽ trả lại đúng số coins [bằng vàng hay bạc] ghi trên giấy, th́ dân chấp nhận coi những giấy ấy như là tiền.
4- Rồi với thời gian qua, các nhà bank để ư rằng rất ít người trở lại nhà bank để đ̣i lấy lại đồng tiền coins. Trung b́nh hằng năm chỉ có độ 10% người làm việc đó, c̣n 90% người c̣n lại th́ không bao giờ thấy đến đ̣i lấy lại tiền coins. Th́ nhà bank nghĩ rằng ḿnh có thể phát hành thêm 90% nữa mà không sao. Đó là nguồn gốc của cái gọi là “fractional reserve” dẫn tới việc phát hành tiền ma.
5- Tổng Thống Thomas Jefferson (1801-1809) vị T.T. thứ ba của Mỹ thấy cái nguy hại cho đất nước và gọi liên đ̣an các nhà bank [the banking cartel] là ”một con quái vật ăn thịt ngưởi có cái đầu của con hydra” và Ông nói rằng “Nếu dân Mỹ để cho nhà bank kiểm soát việc phát hành tiền tệ của ḿnh, th́ trước hết bằng sự lạm phát [inflation] rồi bằng sự kém phát [deflation] các nhà bank và các công ty [corrporations] sẽ phát triển và tước đoạt hết tài sản của dân, th́ con cháu chúng ta sẽ thức dậy vô gia-cư, trên cái lục địa mà cha mẹ của chúng đă chiếm được.” Nên năm 1811 Congress không chấp nhận tái ban cho đặc quyền [renew the charter] cho First U.S.Bank. Th́ chiến tranh với Anh quốc [the War of 1812] bùng nổ. Chiến tranh đưa quốc gia đến sự lạm phát [inflation] và nợ nần [debt]. V́ những lư do đó, Tổng Thống James Madison (1809-1817) vị T.T. thứ tư của Mỹ, phải kư một đặc quyền 20 năm [a twenty year charter] cho Second Bank of The United States vào năm 1816.
6- Tổng Thống Andrew Jacksaon (1829-1837) vị T.T. thứ 7 của Mỹ veto dự luật của Congress cho phép tiép tục ban đặc quyền cho Second Bank of the United States . Trong bản veto Ông viết:” Không có cái ǵ nguy hại cho sự tự do và độc lập của chúng ta hơn là khi mà hệ thống nhà bank nằm trong tay của người ngoại quốc. Kiểm soát tiền tệ của chúng ta, lấy tiền của dân ta, và bắt giữ cả ngàn công dân của chúng ta phải lệ thuộc, th́ c̣n đáng sợ hơn và nguy hiểm hơn là một thủy binh hay một quân đội của địch”.
Nhưng Ông cũng biết cái veto chỉ là bước đầu của cuộc chiến với nhà bank nên Ông nói: “ Con hydra của sự đồi bại mới bị chận lại chớ chưa chết”. Ông ra lệnh cho Ông Tổng Trưởng Tài Chánh [Treasury Secretary] mới của Ông, chuyển hết tiền deposits của chánh phủ từ Second US Bank qua các nhà bank của Tiểu Bang [state banks] th́ ông này từ chối không làm. Ông T.T. cách chức ông ấy, và bổ nhiệm một người khác Ông này cũng từ chối không làm th́ T.T. Jackson bổ nhiệm người thứ ba, Ông này thi hành lệnh nên T.T. Jackson vui mứng mà nói: “ Tôi đă trói được con quái vật rồi” Nhưng ông chủ nhà Bank, lobby được Senat không chấp thuận người được Tổng Thống bổ nhiệm và gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế với việc siết chặt sự cung cấp tiền, để tạo ra một sự kém phát [deflation] bằng cách hồi [call in] các “loan” cũ, không cho thêm “loan” mới, nên một sự hoảng hốt tài chánh [a financial panic] xẩy ra trong dân chúng, th́ báo chí lại đổ tội vào đầu Tổng Thống Jackson. Nhưng may thay Ông Governor của Pennsylvania [là nơi có trụ sở của nhà bank] xuất hiện để ủng hộ T. T. Jackson và phê b́nh nhà bank rất gắt gao và kế hoạch làm lũng đọan kinh tế của nhà bank bị phơi bày trước công chúng.
Cho nên đến tháng 4- 1834 Hạ Viện [House of Representatives] với 134 phiéu thuân và 82 phiéu chống, đă hủy bỏ việc tái ban đặc quyền [rechartering] cho Second U.S.Bank. Đến tháng 1- 1835 th́ T.T. Jackson trả được hết các nợ của chánh phủ. Rồi ngày 30-th.1- 1835, khi T.T. Jackson đến Capitol để dự tang lể của Dân-biểu Warren R. Davis của South Carolina th́ ông bị mưu sát bởi một tên thợ sơn “điên”(?) núp trong rotunda cách Ông có sáu feet bắn hai phát đều trật. Nhưng sau khi T.T. Jackson đóng cửa nhà bank trung ương [Central Bank] th́ tiền giấy được dùng là những banknotes của của các nhà banks tư của các Tiểu Bang, hứa sẽ trả lại bằng vàng hay bạc chớ không phải là tiền của quốc gia [national currency].
7- Sau T.T. Jackson, ông tổng thống dám đánh con hydra tiền tệ là T.T. Abraham Lincoln (1861-1865), vị T.T. thứ 16 của Mỹ. Liền sau khi Ông đắc cử và trước khi Ông nhậm chức th́ Nội Chiến Nam-Bắc [The Civil War] bùng nổ (1860) v́ vấn đề “Nô-lệ” [Slavery]. Các nhà bank của vủng Đông [tức là thuộc về Union ] đề nghi cho chánh phủ vay $150 triệu với bách phân lời quá nặng từ 24 tới 26%. T. T. Lincoln từ chối và quyết định chánh phủ sẽ in tiền lấy. Tiền in ra có tên chính thức là “United Note’ nhưng dân chúng quen gọi là “Greenback” v́ phía sau in bằng mực màu xanh lá cây. Tiền được quan niệm không phải là một giấy nợ [IOU] với cam kết trả lại bằng vàng hay bạc, mà là một tờ giấy chứng nhận công lao cho xă hội. Công lao sản xuất [product] từ lúa gạo, trái cây cho tới vải sồ và vật dụng, công lao dịch vụ [service] từ thợ, cai, đến giám đốc, công lao bảo vệ an ninh trật tự, và ǵn giữ đất nước, từ lính cảnh sát đến lính và quan trong quân đội, công lao điều khiển bộ máy cai trị, từ thơ kư đến giam đốc đến nguyên thủ quốc gia. Lănh lương là lănh giấy chứng nhận công lao, để mua thức ăn đồ dùng là trao giấy chứng nhận công lao của ḿnh để nhận lấy món hàng được sản xuất với công lao tương đương của người bán.
V́ tiền được in ra vừa đúng nhu cầu của dân, cho dân, và v́ dân, chớ không phải cho hay v́ tư lợi nào hết, cũng như hồi thời Ông Benjamin Franklin lúc Hoa kỳ c̣n là 13 thuôc địa phồn thịnh, nên trong có bốn năm tại chức mà ngoài việc chiến thắng lọan Miền Nam được Anh giúp tiền, và việc giải phóng bốn triệu người nô lệ, T.T. Lincoln đă thực hiện cho nước Mỹ những công tác vĩ đại như: xây dựng và vơ trang một quân đội lớn nhứt thế giới lúc bấy giờ, biến Hoa-kỳ thành một nước kỹ-nghệ khổng lồ [industrial giant], kỹ nghệ thép [steel industry] được thành lập, một hệ thống hỏa-xa xuyên luc-địa dược xây dựng, Bộ Canh Nông được thành lập để thúc đẩy viêc chế tạo máy và dụng cụ làm ruộng rẻ tiền, một hệ thống đại học miễn phí được thành lập nhờ Land Grant College System, lập lên những bộ máy hành chánh cho các vùng Miền Tây, tăng múc sản xuất lao động [labor productivity] lên từ 50 đến 75 %. Tất cả những viêc ấy thục hiện được là nhờ có một việc rất giản dị là chính chánh phủ phát hành tiền. Tức là cái đầu của con hydra tiền tệ đă bị T.T.Lincoln chặt.
Nhưng đến ngày 14-th.4-1865, th́ một kịch-sĩ tên là John Wilkes Booth ám sát T.T. Lincoln trong lúc Ông đang xem tuồng hát Our American Cousin trong rạp hát Ford’s Theatre ở Washington. Thế là con hydra lại có cơ mọc đầu lại. Và đầu nó mọc lại thật, v́ dân vẩn thích có tiền vàng nên tiền greenback mất giá dần dần đối với đồng tiền dollar vàng. Th́ các nhà bank phát hành banknotes bảo đảm trả lại bằng vàng. Dân chúng tin nên dùng những banknotes đó như tiền thật, cho tới năm 1913 th́ một con hydra mới xuất hiện nhờ luật Federal Reserve Act 1913.
III- Tân hydra chào đời.
H- : Tai sao có Luật đó?
Đ-: V́ năm 1907 xẩy ra một cuộc “Kinh Khủmg Tài Chánh” [a Financial Panic] nên năm 1908 T.T.Theodore Roosevelt (1901-1909), vị T.T. thứ26 của Mỹ, cho thành lập cái National Monetary Commission để chỉnh đốn vấn đề tài chánh. Chủ tịch của Commission đó là Ông Nghị Sĩ Nelson Aldrich [bên ngoại của David Rockefeller Sr.]. Ông Aldrich dẫn cả commission đi tour sang Âu-châu để nghiên cứu trong ṿng hai năm. Rồi khi trở về, Ông lập lên, một cách ḥan ṭan bí mật, một nhóm bị gọi là “The First Name Club” v́ cấm triệt để không được nhắc tới Last Name để cho đầy tớ và người làm, dù có nghe trộm được cũng không biết là ai, để nói lại cho người ngoài và báo chí biết là có những ai. Nhóm đó gồm có một số người được chọn lọc rất cẩn thận trong giới tài chánh và ngân hàng. Trong số đó người sẽ đống vai quan trọng nhất là Ông Paul Warburg (1868-1932) người gốc Đức di cư sang Mỹ năm 1904, được quốc tịch Mỹ năm 1911, và là thành viên của ngân hàng Kuhn, Loeb and Company Bankers ở New york [thuộc vào tài sản của Rothschild].
“First Name Club” được triệu tâp đến một ḥn đảo nhỏ bé, riêng biệt và vắng vẻ có tên là đảo Jekyll Island, ở Georgia, hợp trong chín ngày liên tiếp, để viết một dự luật cải tổ hệ thống nhà bank và luật pháp tiền tệ [the banking and currency legislation] sẽ tŕnh cho Congress.
H-: Trong dự luật có cái ǵ là đặc biệt?
Đ-: Có rất nhiều cái đặc biệt. Trước hết là cái tên: v́ dân đă quá ghét. nên phải tránh cho kỳ được cụm-từ “Central Bank “ rồi phải làm sao cho dân tưởng rằng cơ quan này là của chánh phủ, do nhân viên chánh phủ điều khiển v́ vậy mà có danh từ “Federal” và “Reserve“ [chớ không phải là Central Bank] và có Governing Board mà ông chủ tịch là do T.T. bổ nhiệm, và trong đó có hai nhân viên chánh phủ, mà trong thực tế th́ Governing Board không có điều khiển được chánh sách của cơ quan. Rồi phải dùng những danh từ mờ ám khó hiểu để che giấu thực ư: như trong Lời Mở Đầu [Preamble] của dự luật nói: Mục đích của luật là để cho FED có thể “cung cấp một thứ tiền co dăn” [to furnish an elastic currency] nghĩa là ǵ?
Trong thực tế nghĩa là tiền mà nhà bank đă có th́ nhà bank có thể, tùy nghi, thổi phồng lên. Rồi như danh từ “tái chiết khấu “[rediscounting] nghỉa là ǵ? Trong thực tế nghĩa là: một kỹ thuật cho phép nhà bank dùng để tăng gia tiền hiện có trong quỹ của nó, bằng cách cho vay thêm mà không cần chờ cho tới khi các loan trước hết hạn. Kết quả là Luật cho phép một nhà bank trung ương tư [a private central bank] tạo ra tiền từ chô không có ǵ hết [create money out of nothing] rồi cho chánh phủ vay số tiền đó để lấy lời và kiểm soát sự cung cấp tiền cho quốc gia bằng cách bôm pḥng nó lên hay hút bớt nó xuống tùy theo ư muốn [control the national money supply, expanding or contracting it at will.]
H-: Thế mà không có Ông Nghị sĩ hay Dân biểu nào thấy sao?
Đ-: Có chớ. một số thấy và la làng lên .Như ở Hạ Viện Dân Biểu Charles Lindbergh Sr. [bố của phi công trứ danh Lindbergh] nói:” Luật tạo ra FED là một cái tội pháp luật tệ hại nhứt của mọi thời đại Hệ thống tài chánh đă bị lật lại cho một nhóm ngừơi chỉ có biết lợi dụng Hệ thống là của tư-nhân, được hướng dẫn về muc tiêu duy nhứt là lấy cho được những cái lợi tối đa từ việc xử dụng tiền của người khác “.
Và cũng c̣n một số dân biểu và nghị sĩ khác nữa la làng lên nhưng họ không đủ để đánh bại số dân biểu và nghị sĩ đă bị mua chuộc, đúng như lời của một người trong nhóm Rothschild ở London nói với một hội-viên của nhà bank ở New York ngày 25-th.6-1863 rằng: “Số nhỏ người hiểu cái hệ thống là ǵ, th́, hoặc là v́ thấy có lợi cho ḿnh, hoặc là v́ đă tùy thuộc vào những ân huệ đang được hưởng, nên sẽ không có sự chống đối từ những hạng người đó. C̣n nhóm đa số người không có đủ trí khôn để hiểu, th́ sẽ chịu cái gánh nặng mà không than phiền”
Bởi vậy cho nên ngày 18-th.9-1913, dự luật được Hạ Viện chấp thuận với 287 phiếu thuận và 85 phiếu chống, rồi lên Thượng Viện th́ ngày 19-th.12-1913, dự luật được chấp thuận với nhiều sửa đổi bằng 54 phiếu thuận và 34 phiếu chống. Đến đây lại có một việc lạ nhứt chưa bao giờ xẩy ra trong lịch sử của HCQHK, là trong cái bản văn của dự luật ở Hạ Viện có cho tới 40 điểm mà Thượng Viên không đồng ư nên đă sửa lại. Th́ sau khi Thượng Viên biẻu vquyết, hai Viện phải ngồi chung lại để sữa lại sao cho cả hai bên đều đồng ư. Thế mà việc đó được thực hiện chỉ có trong một weelend. .Cho nên ngày Thứ Hai 22-th.12-1913 dự luật được biểu quyết ở Hạ Viện với 282 phiếu thuận và 60 phiếu chống rồi, cùng ngày, sang Thượng Viện được chấp thuận luôn với 43 phiếu thuận và 23 phiếu chống. Và T.T. Woodrow Wilson (1913-1921), vị T.T.thứ 28 của Mỹ kư thành Luật ngày hôm sau Thứ Ba 23 th.12-1913.
Tất cả những việc ấy xẩy ra một cách hết sức mau lẹ và trái ngược với tục lệ và truyền thống của Quốc Hội và của Chánh Phủ Mỹ là không bao giờ Lập Pháp Congress [Thượng và Hạ Viện] thảo luân và biểu quyết một Dự Luật vào lúc gần Noel, để cho Congress “recess” [thường thường là kể từ 15, 17 Dec.] và các Nghị Sĩ và Dân Biểu về quê của ḿnh ăn mừng Christmas và New Year, và không bao giờ Hành Pháp [Chánh Phủ] kư một Đạo Luật vào Noel để cho T.T. về nhà riêng hay “ranch” của ḿnh ăn mừng Christmas và New Year. Thế mà kỳ này Thượng Viên hợp lại, thảo luận, và biểu quyết ngày Thứ Sáu 19 Dec. Rồi cả hai viện làm việc với nhau weekend 20-21 Dec, để ngày Thứ Hai 22-Dec cả hai viện, hơp lại, thảo luận và biểu quyết dự luật, và ngày Thứ Ba 23 Dec. T.T. kư thành Luật.
Dân Biểu Lindbergh nói ở Hạ Viện: “Dự luật này thành lâp cái “trust” khổng lồ nhất trên thế giới. Khi mà T.T. kư cái dự luật này (thành Luật), th́ cái chánh phủ vô h́nh của Mănh Lực Tiền Tệ sẽ được hơp-pháp-hóa. Dân chúng có thể không biết chuyện đó ngay, nhưng mà rồi sự biết được chuyện chỉ được dời lại vài năm sau mà thôi”. Trong lúc đó th́ báo chí [đă ở trong tay của “Mănh Lưc Tiền Tệ”] th́ ca tụng hết lời. Báo New York Times viết bằng chữ lớn ở trang đầu: “Tổng Thống Wilson kư Dự Luật Tiền Tệ Sự phồn thịnh được tự do và sẽ giúp mọi giai câp.
H-: Thế là con hydra được khai sanh là đứa con hơp pháp của HCQHK để lớn lên với đất nước?
Đ-: Hay đúng hơn th́ phải nói “để lớn lên với đứa em song thai”.
H-: Nói ǵ lạ vây, đứa em song-thai nào?
Đ-: Khi nhóm của Nghị Sĩ Nelson Aldrich có Ông Paul Warburg chuẩn bị viết dự luật FED để tŕnh cho Congress, họ đă tiên đóan rằng với sự áp dụng luật này th́ C PLB sẽ mắc nợ FED càng ngày càng nhiều nên phải tím cách làm sao cho phép chánh phủ đánh thuế vào dân để có tiền trả nợ cho FED. th́ họ kèm theo dự luật FED một Tu-Chỉnh Hiến Pháp [là the Sixteenth Amendment] cho phép C PLB đánh thuế income tax vào dân. Lúc ấy bản văn của Tu-Chỉnh chỉ có một trang giấy và nguyên Bộ Luật về thuế má chỉ có14 trang mà bây giờ th́ nó dày đến 17,000 trang, cũng như nợ của chánh phủ do FED gây ra lớn lên từ số không cho tới bây giờ là $8.5 trillion.
H-: Bộ trước đó dân không phải đóng income tax cho CPLB sao?
Đ-: Không, trước 1913, dân chỉ đóng thuế income cho Tiểu Bang của ḿnh mà thôi.
H-: Đă được hơp-pháp-hóa rồi, con hydra c̣n phá phách ǵ nữa không?
Đ-: Nói là phá phách th́ không hẳn là phá phách, nhưng khi được hơp-pháp-hóa rồi th́ FED hoạt động tích cực hơn, nên gây tai nạn cho dân.
H-: Tai nạn ǵ?
Đ-: Cuộc Đại Khủng Hoảng [The Great Depression] năm 1930.
H-: Bằng cách nào?
Đ-: Bằng cách tạo ra tiền “out of nothing” qua tṛ ảo-thuật “loan”. Để khuyến khích dân vay tiền, nên FED hạ thấp bách phân lời [% interest] th́ dân ùn ùn vay loan và loan để có tiền tiêu xài thả ga. Th́ nhà bank thảy vào nền kinh tế quốc gia một số tiền khổng lồ, tạo ra một cuộc lạm phát [inflation]. Rồi nói là để kềm hảm sự lạm phát, th́ lại siết chặt việc cung cấp tiền, thu hồi các loan đả phát ra, không cho vay loan mới, th́ dân thiếu nợ phải vội vàng bán nhà cửa ruộng đất để trả nợ, nên những người có liên hệ với “Mănh Lực Tiền Tệ [Monetary Power] có tiền mua những bất động sản ấy với giá rẻ mạt. C̣n con cháu những người thiếu nợ th́ trở nên vô gia cư vô nghề nghiệp đi lang thang thất thểu ngoài đường như hồi Mỹ c̣n là 13 thuộc địa dưới thời các vua George II và vua George III, trước ngày Cách Mạng Mỹ [American Revolution] năm 1774. Nhưng nhờ chánh sách “New Deal” của T.T.Franklin D.Roosevelt (1933-1945) vị T.T. thứ 32 của Mỹ, và việc lập lên cái FDIC [Federal Deposit Insurance Corporation] mà t́nh thế trở lại yên ổn. Giáo sư Milton Friedman, Nobel Prize về kinh tế, viết: “Nhứt định là FED đă gây ra cuộc Đại Khủng Hoảng v́ thu rút lại một phần ba [1/3] số tiền đang lưu hành.từ năm 1929 tới năm 1930”.
C̣n Ông Louis T. McFadden Chủ tịch The House Banking and Currency Commttee, th́ nói: “Cuộc khủng hoảng không phải là bất ngờ ngẫu nhiên mà là một việc được trù liệu rất cẩn thận … Những chủ nhà bank quốc tế t́m cách đem đến đây sự thất vọng để rồi họ có thể trở thành nhưng kẻ ra lệnh cho tất cả chúng ta”
H-: Thế rồi kể từ đó không có Ông T.T. nào dám đụng tới FED nữa?
Đ-: Có chớ, T.T. John F. Kennedy, (1961-1963) vị T.T. thứ 35 của Mỹ. Ngày 4-th.6-1963 T.T. Kennedy kư một Hành Pháp Lệnh [an Executive Order số 11110] cho phép CPLB phát hành tiền mà không phải qua FED bằng cách cho phép Bộ Tài Chành The Treasury phát hành những giấy chứng nhận bạc đối với mọi thoi bạc, bạc, hay là mọi dollar dựa trên bản vị bạc của Bộ [the power to issue silver certificates against any silver bullion, silver or standard silver dollars in the Treasury] Nghĩa là một khi Bộ Tài Chánh có trong kho một ounce bạc nào, th́ Bộ có quyền phát hành ra một giấy bạc để lưu hành trong nền kinh tế. Như vậy T.T.Kennedy đă tung ra $4.3 tỷ dollars cho lưu hành. Th́ FED bank của New York sẽ phá sản, v́ dân chúng biết rằng các giấy chứng nhận bạc [silver certificates] của Chánh Phủ được bạc yểm trợ [backed by silver] chớ giấy bạc của FED [Federal Reserve Notes] không có cái ǵ yểm trợ hết. Lệnh số 11110 nói trên c̣n giúp chánh phủ trả hết nợ của ḿnh mà không phải qua FED để trả tiền lời, do FED tạo ra tiền out of nothing. Tức là trên thực tế Lệnh sô 11110 cho CPLB quyền tạo ra tiền của ḿnh có bạc yểm trợ, đúng theo Điều I, Phần 8 của Hiến Pháp Hoa Kỳ.
Năm tháng sau, ngày 22-th.11-1963, T.T.Kennedy bị tên Lee Harvey Oswald ám sát và tên này hai ngày sau bị Jack Ruby (Rubenstein) giết chết trong Dallas Police Station.
H-: Như thế th́ phải chăng là một nhóm tài phiệt cai trị xứ này v́ người ta hay nói: “Ai nắm được tiền là nắm được quyền” phải không?
Đ-: Tôi không dám trả lời là phải hay là không [yes or no] v́ tôi không đọc được sách nào nói rơ là đă có một ṭa án nào kết án một người nào trong giới Mănh Lực Tiền Tệ [the Monetary Power] hay một vị nào trong nhóm những Nam Tước Trộm Cắp [the Robber Barons] về tội dùng tiền của ḿnh mua được quyền thế. Cho nên tôi xin để cho quư bạn đọc mỗi người kết luận theo ư kiến của ḿnh.
Tôi chỉ xin phép nhắc lại lời nói của Ông Nathan Rothschild hồi năm 1838: “Để cho tôi phát hành và kiểm soát tiền của một quốc gia, th́ tôi cóc cần biết ai viết luật pháp”, và tôi cũng xin phép nhắc lại số phận của những vị Tổng Thống đă có gan dám chặt đầu con hydra tiền tệ: T.T.Andrew Jackson bị mưu sát, T.T.Abraham Lincoln và T.T.John F.Kennedy bị ám sát.
Tài liệu được tham khảo:
The Web of Debt by Ellen Hodgson Brown, nxb Third Millennium, Baton Rouge , 2007
hoanglan22
03-19-2019, 01:58
Vào năm 1972, Bắc Việt đă gửi thư đầu hàng HK vô điều kiện
Tác Giả: Saigon Echo sưu tầm
Thứ Hai, 26 Tháng 4 Năm 2010 05:35
Đây là sự thực của cái mà Đảng CSVN huyênh hoang về chiến thắng đánh "Mỹ nguỵ". Bắc Việt đă đầu hàng, nhưng Kissinger có ư đồ riêng, không chấp nhận.
hwvXyzo7MjM
Đoạn video tài liệu được giải mật, dài 3:50, có 2 phần. Phần 1 dài 1:50 là bản dịch tiếng Việt không có âm thanh. Phần 2 c̣n lại nói Tiếng Anh và có âm thanh. Xem để biết CS Hà Nội đă gởi điện thư đầu hàng vô điều kiện nhưng bản văn đă bị ém nhẹm...
Những tài liệu bất ngờ cùng nhân chứng cao cấp của chính quyền Hoa Kỳ cho biết sau năm 1968, CSVN đă bị kiệt quệ nhân sự v́ hầu hết các lực lượng chính quy chủ lực quân cộng sản bắc Việt đă bị Mỹ và VNCH tiêu diệt . Vào năm 1972 máy bay B52 đă san bằng Bắc Việt đưa tới sự việc lănh đạo đảng CSVN gửi điện thư Đầu Hàng Vô Điều Kiện tới pḥng truyền tin Hoa Kỳ. Bức điện thư đầu hàng của CSVN đă được pḥng truyền tin gửi về NGŨ GIÁC ĐÀI .
Thay v́ tuyên bố cho thế giới biết về sự việc cộng sản bắc Việt đầu hàng.Nhưng ngược lại, CIA đă đưa về nước 79 nhân viên pḥng truyền tin Hoa Kỳ và thay đổi hoàn toàn nhân viên mới.
Điện thư đầu hàng của CS bắc Việt đă được ém lại.
Trên 80% quân đội nhân dân Trung cộng đă đánh chiếm cao nguyên miền Nam VNCH, Lính Trung cộng đă ngụy trang cộng sản bắc Việt xâm chiếm miền Nam Việt Nam.!!! Tại Sao ???
Chúng tôi phỏng vấn anh Nguyễn Hoàng Việt về sự kiện nầy.
Thu Hiền: Xin anh cho biết những sự kiện bất ngờ về việc CSVN đă đầu hàng VNCH từ năm 1973, thêm sự việc quân Trung Quốc ngụy trang lính Bắc Việt đánh chiếm Miền Nam VN vào năm 1975, anh nghĩ sao về vấn đề nầy?
Hoàng Việt: Tôi nghĩ tất cả là sự thật nhưng nguyên do tại sao chính quyền Ḥa Kỳ lúc bấy giờ không tuyên bố bức điện thư đầu hàng từ của CSVN mà lại t́m cách ém chuyện nầy đó là điều ḿnh phải cần phân tích.
Ông Ted Gunderson là nhân viên đặc nhiệm ở Los Angeles và Washington DC (Special Agent in Charge, Los Angeles, Special Agent in Charge, Washington,D.C. offices) Trong thời gian cuộc chiến tranh VN ông ta là Trưởng Pḥng điều tra, làm việc với những hồ sơ thuộc loại bảo mật quốc pḥng (high-profile cases) . Trong thời gian gần đây, ông đă tiết lộ cho biết là CSVN đă có điện thư đầu hàng Đồng Minh vào đầu năm 1973 trong một cuộc nói chuyện tại Washinton DC, ông cho biết như vậy . Trong cuộc nói chuyện nầy được nhiều cựu chiến binh Hoa Kỳ hỏi về chiến dịch "Operation Linebacker" là chiến dịch dùng B52 để san bằng, tiêu diệt quân đội Bắc Việt đă đưa tới kết quả nào th́ ông cho biết là CSVN đă đầu hàng sau đó . Chiến dịch "Operation Linebacker" bắt đầu từ mùa Xuân 1972.
Thu Hiền: Như vậy anh cho biết tại sao tin CSVN đầu hàng không được phổ biến để rồi kết quả cuộc chiến ngược lại ?
Hoàng Việt: Ông Ted Gunderson cho biết là trong thời gian làm việc tại VN, ông đă tiếp xúc nhiều sĩ quan cao cấp Quân Đội Hoa Kỳ nhất là nhân viên thuộc pḥng Truyền Tin bộ Tham Mưu Hoa Kỳ tại VN, họ đă cho ông biết về bức điện thư CSVN tuyên bố đầu hàng vô điều kiện quân Đồng Minh vào đầu năm 1973 . Bức điện thư đó cho tới nay vẫn chưa được giải mă, Ông Ted Gunderson c̣n cho biết thêm là tất cả các nhân viên thuộc pḥng truyền tin sau đó đă được CIA thay thế toàn bộ ! Tôi t́m ra được một đoạn Video Ông Ted Gunderson có nói về vấn đề nầy.
hoanglan22
03-19-2019, 02:03
1) Mở đầu
Đối với đa số người Việt đă từng sống trải qua, ngày 30.04.1975 là một biến cố đau thương nhứt của một đời người. Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy - một b́nh luận gia am tường mọi biến chuyển quốc tế, từng nổi tiếng với những bài nhận định thời cuộc "T́nh h́nh thế giới trong tháng vừa qua" đăng tải trên nhiều tờ báo tại Âu Mỹ - đă đề cập công khai trực tiếp hoặc kín đáo gián tiếp trả lời những câu hỏi về biến cố lịch sử đặc biệt nêu trên.
Từ hồi c̣n là sinh viên, chúng tôi được tiếp xúc với Giáo sư Huy và đă may mắn có nhiều dịp hàn huyên đối thoại ghi nhận được những chi tiết rất đặc biệt. Sau khi Giáo sư Huy qua đời vào ngày 28.07.1990, chúng tôi đă đảm trách nối tiếp Giáo sư Huy hàng tháng viết bài nhận định thời cuộc "T́nh h́nh thế giới trong tháng vừa qua" kéo dài trên 5 năm trên nguyệt san Tự Do Dân Bản tại Hoa Kỳ. Nhân dịp đó, chúng tôi đă phải nghiên cứu các sáng tác của cố Giáo sư để nắm vững thêm mọi vấn đề. Nhờ vậy, chúng tôi mới cảm nhận và thấy được tầm kiến thức rất uyên bác, rất đa diện của Giáo sư Huy mà hiếm ai cùng thời có được (xin xem thêm phần phụ lục phía dưới về tiểu sử). Nổi bật nhứt là những viễn kiến và phân tích độc đáo về các biến cố lịch sử trên thế giới.
2) Ai đă gây ra thảm họa 30.04.1975?
Câu hỏi lịch sử này cũng đă được bàn căi sôi nổi từ 35 năm qua và chưa đi đến một kết luận nào hữu lư để được mọi khuynh hướng chấp thuận. Điển h́nh nhứt là ngay trong dịp Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nh́n Lại" ("Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 vừa qua quy tụ gần 200 nhân vật với thành phần nổi tiếng như cựu Đại sứ Bùi Diễm, cựu Đại tá không quân Hoa Kỳ Tiến sĩ Stephen Randolph, Trung tá biệt cách dù Nguyễn Văn Lân, Thứ trưởng John Negroponte, Sử gia Dale Andrade, Tiến sĩ John Carland, Cựu Bộ trưởng Hoàng Đức Nhă, Đại tá Trần Minh Công, Đại tá Hoàng Ngọc Lung... cũng không đưa ra được câu trả lời thỏa măn cho sự thắc mắc: Ai đă gây ra thảm họa 30.04.1975?
Nh́n trở lại, người ta có thể thấy rơ ràng trong thời gian đầu ngay sau 30.04.1975, phần lớn các khuynh hướng, từ chính trị đến tôn giáo, đều t́m cách đổ trách nhiệm lẫn cho nhau về tội đă làm mất miền Nam. Chỉ có Giáo sư Huy là sớm thấy rơ nguyên nhân chính nào đă khiến xảy ra thảm họa 30.04.1975. Trong dịp tái ngộ cùng Giáo sư Huy vào năm 1982, chúng tôi có hỏi đến vấn đề nhức nhối này và được Giáo sư Huy trả lời cho biết nguyên nhân chính là Hoa Kỳ đă có kế hoạch giải kết (bỏ mọi cam kết bảo vệ miền Nam!) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH. Tuy nhiên thảm họa 30.04.1975 xảy ra bất ngờ hơn mọi người đă dự đoán bởi v́ vụ x́ căng đan Watergate dẫn tới sự từ chức của Tổng Thống Nixon vào ngày 9.8.1974 đă làm tê liệt mọi cố gắng để cứu văng t́nh thế.
Về thế lực nào ở Hoa Kỳ đứng sau kế hoạch bỏ rơi miền Nam, Giáo sư Huy cho biết trên chính trường Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt. Đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ Lan (Ireland) và sắc tộc gốc Do Thái.
- Trong ḍng lịch sử, Cộng Đồng Người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan đă rất nhiều lần thắng cử chức vụ Tổng Thống.
- Bên cạnh đó Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái chủ trương nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ. Họ gài được nhiều nhân sự vào bên hành pháp cũng như lập pháp. Trong các bộ quan trọng nhứt như ngoại giao, quốc pḥng và tài chánh thường thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái và nhiều lần cấp bộ trưởng cũng do người Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong Thượng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng. V́ vậy, thế lực của Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đă khiến cho chánh sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái.
Tham dự Ḥa đàm Paris, Giáo sư Huy nhận xét rằng Kissinger (một người Mỹ gốc Do Thái lúc đó c̣n làm Cố Vấn An Ninh cho Tổng Thống Nixon) có thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng ("đi đêm"!) với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị th́ các chính trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rơ rệt. Như vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trương của thế lực Do Thái.
Thế lực Do Thái này phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow... với tổng số 13,1 triệu người, trong đó 5,4 triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia khác. Thế lực này được điều khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm cơ quan t́nh báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới ( - World Jewish Congress - từ năm 2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder người Mỹ gốc Do Thái ) . Ngoài ra, Giáo sư Huy c̣n chỉ dẩn cho chúng tôi nhận biết được dân gốc Do Thái đặc biệt thường với mũi to loại diều hâu, điển h́nh như Ngoại trưởng Kissinger hoặc Nữ Ngoại trưởng Albright.
Những tiết lộ tế nhị của Giáo Sư Huy hoàn toàn phù hợp với nhận định của Linh Mục Cao văn Luận (1908 - 1986) nhân dịp tái bản tác phẩm Bên Gịng Lịch Sử cũng cho rằng thế lực dân Mỹ gốc Do Thái chủ trương Hoa Kỳ phải rút quân ra khỏi Việt Nam. Riêng dư luận báo chí quốc tế đă sớm nh́n thấy rơ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 (mà họ phân tích là nhằm thay đổi màu da tử sĩ!), nhứt là ḥa đàm Paris (mà họ nhận định là nhằm bảo đảm Mỹ rút quân được an toàn!).
Như vậy thảm họa 30.04.1975 đă xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực Do Thái thúc đẩy chính sách đó được thực hiện qua Kissinger.
3) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam?
a) Thế lực Do Thái tại Hoa Kỳ
Đối với chúng tôi quả thực hoàn toàn mới mẻ và đầy ngạc nhiên khi được Giáo sư Huy vào năm 1982 cho biết đến vai tṛ thực sự của người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và gốc Do Thái trên chính trường Hoa Kỳ. Sau này sinh hoạt lâu năm tại Hoa Kỳ và qua nghiên cứu, chúng tôi công nhận thấy Giáo sư Huy hoàn toàn đúng.
Điển h́nh là cho đến nay có ít nhứt 23 Tổng Thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan (xem website: http://en.wikipedia .org/wiki/ List_of_Irish_ Americans) mà trong đó có Tổng Thống Washington và những Tổng Thống gần đây như Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả Tổng Thống Obama (bên ngoại gốc Ái Nhĩ Lan)
Cũng như hiện nay tại quốc hội có 15 Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do Thái và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc Do Thái (xem website http://en.wikipedia .org/wiki/ List_of_Jewish_ American_ politicians# List). Thực sự nếu nghiên cứu sâu rộng th́ sẽ thấy thế lực Do Thái tại Mỹ c̣n lớn hơn nhiều. Họ thành công trong việc gài được những nhân sự cấp lănh đạo ở các bộ phận yết hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển h́nh gần đây như:
- Trong Thượng Viện và Hạ Viện hiện nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái (so sánh chỉ có 1 dân biểu gốc Việt Nam là ông Cao Quang Ánh!).
- Trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trưởng Henry Kissinger dưới thời TT Nixon và Bộ trưởng Madeleine Albright dưới thời TT Clinton...
- Trong Bộ Quốc Pḥng có Bộ trưởng James Schlesinger dưới thời TT Nixon và thời TT Ford.
- Trong Bộ Tài Chánh có Bộ trưởng Larry Summer và Bộ trưởng Robert Rubin dưới thời TT Clinton.
- Trong CIA có Tổng giám đốc John M. Deutch dưới thời TT Reagan.
- Trong Ngân Hàng Trung Ương (Fed) cầm đầu bởi Tiến sĩ Alan Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sư Ben Bernanke từ 2006 đến nay.
Họ c̣n chủ động nắm những lănh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán, báo chí, truyền thanh, truyền h́nh, và điện ảnh...
Đặc biệt, ngành truyền thông, quan trong nhứt là điện ảnh Hollywood, nằm trong tay thế lực Do Thái. Tại Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn đến diễn viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng nhứt như Steven Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas, Harrison Ford... (xem website: http://en.wikipedia .org/wiki/ List_of_Jewish_ American_ entertainers). Họ biết rơ rằng nắm được truyền thông trong tay là hướng dẫn được dư luận quần chúng trong mục tiêu phục vụ quyền lợi cho nguời Do Thái. Họ c̣n điều khiển một phần lớn các viện nghiên cứu chiến lược nhằm đưa ra những đề nghị cho chính sách tương lai cho chánh phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền lợi của người Do Thái.
Ngoài ra tại các cường quốc Âu Châu, thế lực Do Thái có ảnh hưởng tuy âm thầm nhưng cũng mạnh mẽ lắm. Điển h́nh nhứt là Tổng Thống Sarkozy (Pháp) & Thủ Tướng Đức Schmidt ( Đức ) đều gốc Do Thái nên không bao giờ lên tiếng thực sự chống lại những vi phạm cam kết của Do Thái tại Trung Đông. Chính v́ vậy đa số thành viên Liên Hiệp Quốc đă cho rằng thế lực Do Thái có ảnh hưởng quá lớn đến chính sách và biểu quyết về Trung Đông của các cường quốc Âu Mỹ.
b) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam?
Muốn biết rơ, chúng ta phải t́m hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước của người Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và phải lưu vong khắp nơi v́ đế quốc La Mă. Thảm họa mất nước đó thường được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đă đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do Thái. Chính v́ chuyện này đă làm cho dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu vong. Nhưng cũng chính v́ có niềm tin mănh liệt vào Do Thái Giáo, họ đă đoàn kết nhau lại dưới sự lănh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy sĩ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine. Thế Chiến thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đă tạo cơ hội ngàn năm một thuở để họ dựng lại đất nước vào ngày 14.5.1948 sau gần 2,000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đă lên tiếng công nhân quốc gia mới này, bất chấp mọi chống đối của thế giới Ả Rập và đă yểm trợ hữu hiệu cho Do Thái chống lại cuộc tấn công ngay sau đó của các quốc gia Ả Rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này.
Như vậy, Do Thái c̣n tồn tại đến ngày nay là nhờ Hoa Kỳ làm "lá bùa hộ mạng". Nhiều nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam kết tại Trung Đông chỉ v́ duy nhứt Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết (veto) nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng giải kết (phản bội!) bỏ rơi đồng minh như Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Đài Loan... , nhưng luôn luôn "sống chết" hết ḷng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại lợi ích ǵ về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ, mà trái lại chính v́ Do Thái, Hoa Kỳ c̣n gây rất nhiều hiềm khích (mang họa vào thân!) với thế giới Hồi Giáo dân số rất đông đảo (1,3 tỷ) và rất quan trọng về năng lượng dầu hỏa . Tất cả cho thấy rơ ràng v́ thế lực Do Thái nắm giữ được các bộ phận huyết mạch tại Mỹ nên chính sách của Hoa Kỳ phải luôn luôn không được đi trái ngược lại với quyền lợi của quốc gia Do Thái.
Từ đó, chúng ta mới hiểu rơ tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là v́ họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không c̣n khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái tồn tại như trong quá khứ Hoa Kỳ đă từng làm. Cho nên họ chủ trương Hoa Kỳ phải giải kết bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực hiện mục tiêu này họ đă có kế hoạch rơ ràng từng bước một.
c) Kế hoạch Do Thái thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam.
Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông Ngô Đ́nh Nhu đă ngạc nhiên và bất măn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891 - 1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lănh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rơ ràng phía thế lực Do Thái muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn Đông. Sự nhượng bộ rút lui này đă khiến lực lượng CSVN kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường ṃn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và vơ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975.
Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas!) cùng ban tham mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của ḿnh. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng.
Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại B́nh Giă, Đồng Xoài, Đức Cơ... bắt đầu gây tử thương nhiều quân nhân Mỹ. Những h́nh ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo sau h́nh ảnh dă man và bất lợi ( thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan! ) của chiến tranh được hệ thống truyền thông Hoa Kỳ -đa số gốc Do Thái quản trị- khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà c̣n lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác .
Tướng độc nhởn Moshe Dayan -Bộ trưởng Quốc pḥng của Do Thái- đột ngột tự qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức h́nh biểu diễn đang đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến "hành quân" chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam v́ không thể thắng cuộc chiến này được ( rất là vô lư v́ thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày , mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy ! ) . Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson. Tiếc thay sau này và mới năm ngoái đây, vẫn c̣n có những kư giả và b́nh luận gia Việt Nam ca ngợi những phân tích và đề nghị của ông tướng một mắt này, mà không hiểu đó chính là một trong những thủ phạm đă góp phần "khai tử" miền Nam!
Israeli General Moshe Dayan on Patrol with US Marines - South Vietnam 1966
Phong trào phản chiến càng lên cao và đă khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đă tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Ḥa nắm chắc sự thắng cử. V́ vậy thế lực Do Thái đă gài được Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Ḥa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng thăng cử làm Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An ninh.
Thế lực Do Thái c̣n đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc pḥng James Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (1925 - 1999)... Với những chức vụ then chốt này, họ đă thành công bày mưu cho Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chương tŕnh Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam.
Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Hoa t́m cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng.
Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đă dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lănh đạo VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH kư kết Hiệp Định Paris vào ngày 27.1.1973 để quân đội Hoa Kỳ được an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư luận báo chí quốc tế đă sớm thấy rơ âm mưu của Kissinger và đă ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam.
Chính ngay Kissinger cũng đă tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau:
"Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn th́ được 1 năm rưỡi mới mất". Tương tự , Kissinger đă trấn an T.T Nixon là:
" Hoa Kỳ phải t́m ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau, sau đó th́ …chẳng ai cần đếch ǵ nữa . V́ lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ c̣n là băi hoang vắng ”.
Bởi vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do Thái.
Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái c̣n có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ chót nhờ có Kissinger thuyết phục được Nixon nỗ lực can thiệp giúp Do Thái nên t́nh thế không c̣n bi đát nhiều. Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhỡn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc pḥng v́ chịu trách nhiệm bị thua trận.
4) Kết luận
Biến cố thua trận lần đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho thấy thế lực Do Thái nh́n rất xa và rất có lư với nỗi lo sợ Hoa Kỳ v́ bị sa lầy ở chiến trường Việt Nam nên không c̣n có thể chuyên tâm giúp cho Do Thái thắng trận như trước đây. Cho nên không ǵ ngạc nhiên khi thế lực Do Thái phải vận dụng toàn diện từ trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới lănh đạo Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam.
Bí ẩn về lư do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải rút quân bỏ rơi miến Nam được che dấu tinh vi không đưa ra dư luận nổi , bởi v́ phần lớn hệ thống truyền thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Do Thái hoặc bị họ ảnh hưởng kiểm soát không cho phép làm hoặc sợ bị mang tiếng bài Do Thái (Anti-Semitism). Cho nên đến 35 năm sau dư luận vẫn c̣n bị xí gạt.
Điển h́nh, về phía dư luận ngoại quốc vẫn c̣n có những học giả (thí dụ: Tiến sĩ Stephen Randolph trong Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nh́n Lại" ("Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 lầm lẫn hoặc cố t́nh cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam (chịu thua ! v́ đang câu con cá to hơn ("has bigger fish to fry”) . Thực tế Hoa Kỳ đă có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kssinger bước vào Ṭa Bạch Ốc năm 1969 với gia tăng Việt Nam Hóa Chiến Tranh.
Về phía Cộng Sản Bắc Việt, ngoại trừ lợi thế sẵn có của đường lối độc tài cuồng tín trong chiến tranh dám vô nhân đạo dùng chiến thuật biển người hy sinh " nướng quân " hàng loạt trên chiến trường (theo nhận xét của Tướng Westmoreland !), họ không ngờ có được sự giúp đỡ hữu hiệu của thế lực Do Thái tạo ra phong trào phản chiến đưa tới t́nh trạng "Đồng Minh tháo chạy" (từ ngữ theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Đức !) bỏ rơi VNCH. Thực tế, nếu không có sự phản bội của thế lực Do Thái qua sự nắm quyền của ê kíp Kissinger th́ chưa chắc ǵ Cộng Sản Bắc Việt sớm thắng trận . Như vậy miền Nam chỉ cần cầm cự được vài năm cho đến khi Tổng Thống Reagan nắm quyền và với tài lănh đạo xuất sắc cương quyết nổi tiếng của ông này chắc chắn miền Nam sẽ được yểm trợ đầy đủ ( đă xảy ra như vậy tại Nam Mỹ và A Phú Hản ! ) để không thể dể dàng rơi vào tay cộng sản như đă xảy ra trong ngày 30.4.1975.
Đa số người Việt chúng ta đều có tâm t́nh thiện cảm với dân tộc Do Thái (một phần bị ảnh hưởng qua tác phẩm lừng danh " Về miền đất hứa / Exodus " của tác giả Leon Uris) v́ ngưỡng mộ tinh thần đoàn kết và chiến đấu dũng cảm của họ sau 2000 năm lưu vong đă thành công trở về tái dựng lại quốc gia Do Thái nhỏ bé bất chấp trước mọi đe dọa của Khối Ả Rập khổng lồ. Cũng trong cảm t́nh nồng nàn đó, Học giả Nguyễn Hiến Lê vào năm 1968 mang sức ra viết tác phẩm "Bài học Israel (Do Thái)". Nhưng thực tế chính trị cho thấy tham vọng thủ đoạn của Do Thái sau khi tái lập quốc , nên chính ông đă không ngần ngại lên tiếng chỉ trích nặng nề. Đó cũng là tâm trạng của chúng tôi khi biết qua Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận khám phá ra mưu sâu của thế lực Do Thái khiến xảy ra thảm họa 30.4.1975 cho quê hương Việt Nam và dẩn tới hiểm họa mất nước vào tay Trung Cộng.
Chúng tôi tin rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đă đi bước tiên phong đầu tiên tiết lộ những bí ẩn về thảm họa 30.4.1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực để lịch sử Việt Nam và thế giới mai sau không c̣n bị sai lầm nữa. Mong thay !
Bài viết của: Phạm Trần Hoàng Việt
hoanglan22
03-19-2019, 02:48
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1352345&stc=1&d=1552963704
Congratulation Gentlemen.. You two got promoted (top job).
hoanglan22
03-21-2019, 03:45
Lời giới thiệu: Cựu Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh, nguyên Tư-Lệnh Hải-Quân V.N.C.H. xuất thân khóa I Hải-Quân Nha-Trang. Ông là một trong số rất ít sĩ quan cao cấp Hải-Quân Việt-Nam c̣n giữ được mối liên lạc mật thiết với Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hải-Quân-Hoa-Kỳ.
Bài biên soạn công phu sau đây của cựu Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh sẽ giúp độc giả thấu triệt được nhiều điều hữu ích về ngôi trường quân sự mà hầu hết các cấp lănh đạo Hải-Quân V.N.C.H. đều đă theo học.
“Viribus Mare Victoria” (Chiến thắng của con người trên đại dương) là phương châm của một cơ quan huấn luyện cao cấp nhất trong Hải-Quân Hoa-Kỳ: Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến (CĐHC) Hải-Quân Hoa-Kỳ.
Trường CĐHC tọa lạc trên bán đảo Coaster Harbor Island của thị xă Newport, nằm trong vịnh Narragansett thuộc Rhode Island, một tiểu bang nhỏ nhất của Hoa-Kỳ. Thị xă Newport, đặc biệt vào mùa Hè, là một địa danh nổi tiếng trong ngành du lịch, nhờ khí hậu tương đối mát mẻ; những băi biển cát trắng, nước trong; và những lâu đài lộng lẫy như The Elms, The Breakers, The Marble House, Chateau-Sur-Mer, Rose Cliff, v. v… Newport cũng là nơi hội ngộ của những tay đua thuyền buồm quốc tế vào những dịp tổ chức America’s Cup.
Trường CĐHC có đầy đủ tiện nghi về huấn luyện và tiếp vận cũng như tại hầu hết các Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Hoa-Kỳ. Viện Trưởng là những sĩ quan cấp Đô-Đốc thâm niên, hầu hết sau nhiệm kỳ chỉ huy Trường CĐHC, những vị này đều về hưu.
Được thành lập vào năm 1884, Trường CĐHC thoạt tiên được tổ chức để huấn luyện sĩ quan Hải-Quân Hoa-Kỳ theo học các khóa tham mưu (staff) và chỉ huy (command) dựa trên những căn bản chiến thuật và chiến lược hải chiến để tổ chức những cuộc hành quân
Đến năm 1956, Trường CĐHC mở thêm những khóa huấn luyện cho sĩ quan Hải-Quân quốc tế đồng minh của Hoa-Kỳ. Cơ cấu Trường CĐHC được chia thành hai khối:
-Trường Tham-Mưu Hải-Quân (Naval Staff College)
-Trường Chỉ-Huy Hải-Quân (Naval Command College – NCC)
Riêng về Trường Chỉ-Huy Hải-Quân th́ có hai phần riêng biệt dành cho sĩ quan Hải-Quân Hoa-Kỳ (HQHK) thuần túy (1) và sĩ quan Hải-Quân Đồng-Minh (2).
Để có nhiều ư nghĩa liên quan mật thiết với Hải-Quân V.N.C.H., bài này được viết trên căn bản không gian và thời gian của kỷ niên 1965 và đặc biệt chú trọng nhiều hơn về Trường Chỉ-Huy Hải-Quân dành cho sĩ quan Hải-Quân đồng minh tại Trường CĐHC.
Trường CĐHC/HQHK huấn luyện những sĩ quan Hải-Quân cấp tá thâm niên, để chuẩn bị cho họ một căn bản chỉ huy dựa trên những lư thuyết chiến thuật và chiến lược quốc tế hiện đại.
Khóa học kéo dài 11 tháng, gồm những phần chính yếu như:
-Thuyết giảng về chiến thuật tác chiến của các quân binh chủng bạn có liên hệ đến hoạt động của Hải-Quân.
-Lập trận đồ và chỉ huy hạm đội tham chiến (War Games).
-Đi quan sát các cơ cấu quân sự quốc pḥng thuộc hệ thống pḥng thủ Hoa-Kỳ.
-Viếng những cơ sở kỹ nghệ chiến tranh trong nước và ngoài nước. (Field trips)
-Viết một bài luận án theo các đề mục tùy ư về quân sự, kinh tế, ngoại giao, v. v…
Khóa sinh đến Trường CĐHC như một sứ giả của quốc gia ḿnh; v́ tất cả khóa sinh đều được hưởng quy chế đặc miễn chính thức dành cho một ngoại giao đoàn quốc tế hợp lệ. Ngoài quyền tự do di chuyển, khóa sinh c̣n được tự do phát biểu ư kiến ngay tại quân trường vào những dịp khóa sinh hội thảo những đề tài trong chương tŕnh huấn luyện và trong những dịp thuyết tŕnh tại các trường trung học địa phương hay tại pḥng Thương Mại Newport mà khóa sinh được Lions Club hoặc Rotary Club mời như một thuyết tŕnh viên danh dự.
Những ư kiến mà khóa sinh đă phát biểu trong những dịp hội thảo – kể cả trong luận án – sẽ không được tiết lộ hoặc phổ biến nếu không có sự chấp thuận của tác giả.
Trong nhiều cuộc hội thảo chính thức, khóa sinh thẳng thắn chỉ trích chính sách ngoại giao của Hoa-Kỳ, đường lối Hoa-Kỳ viện trợ cho các quốc gia nhược tiểu và chính sách thương mại và trao đổi với quốc tế. Đến khi đàm đạo trong những dịp “trà dư tửu hậu” giữa khóa sinh và sĩ quan cán bộ HQHK, những chỉ trích về phương diện giáo dục và xă hội của Hoa-Kỳ lại được tiếp tục. Ư niệm chung của khóa sinh là: “Chúng tôi đến đây với tư cách là đồng minh của Hoa-Kỳ để hấp thụ những kinh nghiệm quư báu của Hải-Quân Hoa-Kỳ trong những trận thế chiến đă qua; nhưng chúng tôi không hoàn toàn đồng đồng ư trên nhiều vấn đề mà quốc gia của chúng tôi có nhiều ưu điểm hơn.”
Mặc dù có nhiều dị biệt tư tưởng giữa khóa sinh đồng minh và sĩ quan huấn vụ, sau cùng t́nh thân hữu ngày càng nẩy nở tốt đẹp suốt khóa học. Tinh thần “Tứ hải giai huynh đệ” bao trùm không khí khóa học, làm cho khóa sinh và sĩ quan huấn vụ quân trường thông cảm và hiểu biết nhau hơn, khắng khít nhau hơn, để sau cùng tạo ra một “Tinh thần Trường Chỉ-Huy Hải-Quân Newport”. (“The Spirit of The Naval Command College).
Điểm tế nhị nhất là không hề xảy ra những xung đột hoặc đả kích công khai nào giữa các khóa sinh tụ họp từ bốn phương trời, mang nhiều màu sắc khác biệt, không cùng ngôn ngữ, tuổi tác chênh lệch và đang có những rắc rối về vấn đề chính trị quốc gia.
Thật vậy, trong khóa học năm 1964-1965 có bốn quốc gia đang trong t́nh trạng tranh chấp lănh thổ với nhau. Đó là Thổ-Nhỉ-Kỳ với Hy-Lạp và Ấn-Độ với Pakistan. Tuy nhiên, trong suốt khóa học, mặc dầu sự thân t́nh giữa đại diện các quốc gia này không được biểu lộ một cách sâu đậm, nhưng trái lại cũng không hề xảy ra một cuộc đụng chạm nào.
V́ thời gian thụ huấn khá dài, khóa sinh thuộc các quốc gia Âu-Châu, Mỹ-Châu và Trung-Đông đem theo gia đ́nh khi đến nhập học. Khóa sinh các nước Á-Châu và Phi-Châu, có thể v́ t́nh trạng kinh tế và chính trị, không đem theo gia đ́nh.
Khóa sinh đến tŕnh diện nhập khóa và lập thủ tục tại Luce Hall. Luce Hall là bộ chỉ huy và cũng là cơ quan hành chánh của Trường CĐHC. Tại Trường CĐHC, khóa sinh được theo quy chế ngoại trú, được tự do sinh hoạt nơi nào ḿnh thích, miễn là phải tham dự đầy đủ những giờ thuyết giảng tại Trường hoặc tháp tùng những chuyến đi quan sát xen kẻ trong chương tŕnh huấn luyện.
Sự tiếp đón của Trường CĐHC được tổ chức rất chu đáo và có vẻ trịnh trọng ngay từ khi khóa sinh vừa đến phi trường Providence, thủ đô của Rhode Island, để đưa về tạm trú tại BOQ, chờ hoàn tất thủ tục nhập khóa. Sĩ quan thuộc Bộ-Tham-Mưu quân trường được chỉ định làm cố vấn cho mỗi khóa sinh về phương diện huấn luyện cũng như những vấn đề tổng quát khác như thuê nhà, mua xe, mua bảo hiểm, v. v…
Khóa học bắt đầu vào giữa tháng Tám.
Sinh hoạt của khóa sinh bắt đầu từ giảng đường tại Simms Hall để nghe thuyết giảng về chiến thuật và chiến lược hải chiến. Trưa, sau bữa ăn tại câu lạc bộ sĩ quan là những giờ dành cho việc khảo cứu tài liệu mượn từ thư viện Mahan Hall đem về văn pḥng riêng của mỗi khóa sinh. Những đề tài thuyết giảng chiến thuật và chiến lược rất bao quát và ngoạn mục với phim ảnh do thuyết tŕnh viên tŕnh bày.
Trong những dịp hội thảo toàn khóa, một hội trường rộng lớn được xử dụng và trang trí như dành cho một Đại Hội Đồng quốc tế nhóm họp. Mỗi khóa sinh có một bàn riêng, được trưng bày Quốc-Kỳ và bảng tên của ḿnh. Mọi sự sắp xếp đều theo mẫu tự, không có sự phân biệt cấp bậc hoặc quốc gia của khóa sinh. Tại Mahan Hall và Luce Hall, quốc kỳ các quốc gia đồng minh của Hoa-Kỳ được dương cao, trong số đó lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tung bay…
Sau nhiều tuần huấn luyện tại Trường, khóa sinh bắt đầu đi quan sát. Phương tiện di chuyển hầu hết là phi cơ của Hải-Quân Hoa-Kỳ. Những phi cơ này sẵn sàng tại căn cứ Nagaransett Naval Air Station trên đảo Connecticut, bên kia vịnh về hướng Tây.
Thời gian 1965, Newport Bridge dài hai miles nối liền bán đảo Newport với đảo Connecticut chưa được xây cất, khóa sinh dùng tiểu đỉnh của Naval Base để sang đảo. Đôi khi Trường lại dùng xe chuyên chở công cộng đưa khóa sinh sang phi trường, nhưng phải dùng chiếc phà Jamestown Ferry để qua đảo Connecticut.
Ngày nay Newport Bridge tối tân đă thâu ngắn thời gian di chuyển từ Newport qua đảo Connecticut, nhưng đă vô t́nh xóa đi h́nh ảnh thơ mộng của chiếc phà Jamestown Ferry với đoàn hải âu lượn quanh t́m mồi do hành khách rải xuống biển.
Những chuyến đi quan sát thường kéo dài trọn tuần lễ. Nào Bermuda thuộc Anh-Cát-Lợi nằm giữa Đại-Tây-Dương, đến Roosevelt Roads Naval Air Station ở Puerto Rico nằm trong biển Caribbean, rồi trở về Key West Naval Station và Miami thuộc Florida. Có lần sang Ottawa, thủ đô Gia-Nă-Đại rồi trở về miền Trung Bắc Hoa-Kỳ để viếng các xưởng kỹ nghệ sản xuất xe thiết giáp và quân xa đủ loại tại Detroit, Michigan. Tiếp đến là viếng Bộ-Chỉ-Huy Không-Quân Chiến-Lược (Strategic Air Command) đặt sâu trong ḷng núi đá ở Nebraska. Trong chuyến đi miền Tây, đến vùng Bắc California viếng căn cứ chiến thuật Không-Quân với hệ thống tiếp vận tân tiến rồi sang thăm quốc hội California và Thống-Đốc Ronald Reagan tại Sacramento. Đi về miền Nam California th́ viếng những cơ xưởng chế tạo phi cơ tác chiến ở Los Angeles và Bộ-Tư-Lệnh Hạm-Đội Thái-B́nh-Dương tại San Diego. Chuyến đi kế tiếp lại sang miền Đông quan sát những cuộc biểu diễn hành quân tại các Căn-Cứ Thủy-Quân Lục-Chiến (Camp Le Jeune) và Lưc-Lượng Đặc-Biệt (Fort Bragg) ở North Caroline; viếng Bộ Tư-Lệnh Hạm-Đội Đại-Tây-Dương đặt ở Norfolk, xưởng kỹ nghệ đóng tàu tại Newport News, nơi chế tạo hàng không mẫu hạm và tiềm thủy đỉnh nguyên tử; viếng Williamsburg, thủ đô đầu tiên của tiểu bang Virginia. Đi dần về miền Đông Bắc, viếng thủ đô Hoa-Thịnh-Đốn với Quốc-Hội và Ṭa Bạch-Ốc, rồi Ngũ-Giác-Đài. Chuyến kế tiếp được viếng Nữu-Ước hoa lệ với ṭa nhà Liên-Hiệp-Quốc, thị trường chứng khoáng Wall Street, tượng Nữ Thần Tự-Do trước khi trở về New London, tiểu ban Connecticut để quan sát Căn-Cứ và Trung-Tâm Huấn-Luyện Tiềm-Thủy-Đỉnh. Khóa sinh được dịp ra khơi bằng Tiềm-Thủy-Đỉnh và quan sát cuộc thực tập tác chiếc có xử dụng ngư lôi.
Tại mỗi nơi thăm viếng khóa sinh được tiếp đón nồng hậu và chu đáo. Các vị Thống Đốc, Thị Trưởng, Tư-Lệnh quân chủng hay Chỉ-Huy-Trưởng cơ quan thường có mặt để tiếp đón phái đoàn khóa sinh. Trong những buổi dạ tiệc, quà kỷ niệm, chứng chỉ Công Dân Danh Dự và ch́a khóa vàng của thành phố được trao tặng cho mỗi khóa sinh.
Từ năm thành lập cho đến nay (1990), Trường Chỉ-Huy Hải-Quân đă huấn luyện được 35 khóa học liên tiếp, với 1.045 khóa sinh thuộc 70 quốc gia trên thế giới. Trong tổng số khóa sinh có 545 người đă được thăng cấp Đô-Đốc Hải-Quân hoặc Tướng Lănh Lục-Quân và Không-Quân. Hai mươi sáu người giữ chức Tổng Bộ Trưởng trong chính phủ hoặc làm Đại-Sứ. Đặc biệt có một cựu khóa sinh đă trở thành Tổng Thống!
Lư thuyết và kinh nghiệm thâu nhận được sau những chuyến đi quan sát và t́nh thân hữu nẩy nở trong khối khóa sinh quốc tế là những điểm son khóa sinh mang về khi hồi hương. Những kỷ niệm vui buồn cũng giúp thêm nhiều màu sắc rực rỡ cho bức tranh kỷ niệm của Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hoa-Kỳ. Bất cứ một sĩ quan nào đă tu nghiệp tại Trường Chỉ-Huy Hải-Quân đều không thể quên được phương châm đặc biệt của Trường: Populos Mare Jungit. (Con người triền miên với biển cả).
1. Gồm một số sĩ quan Thủy-Quân Lục-Chiến (U.S. Marine Corps), sĩ quan Lục-Quân, Không-Quân và công chức cao cấp quốc pḥng
2. Gồm một số sĩ quan Lục-Quân và Không-Quân của vài quốc gia đồng minh.
Danh sách sĩ-quan Hải-Quân V.N.C.H. từng tu nghiệp tại Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hoa-Kỳ:
Hải-Quân Trung-Tá Trần Văn Chơn 1959-1960
Hải-Quân Trung-Tá Chung Tấn Cang 1960-1961
Hải-Quân Trung-Tá Đặng Cao Thăng 1961-1962
Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Đức Vân 1962-1963
Hải-Quân Trung-Tá Trần Văn Phấn 1963-1964
Hải-Quân Trung-Tá Lâm Ngươn Tánh 1964-1965
Hải-Quân Trung-Tá Đinh Mạnh Hùng 1965-1966
Hải-Quân Trung-Tá Khương Hữu Bá 1966-1967
Hải-Quân Trung-Tá Vũ Đ́nh Đào 1967-1968
Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Hữu Chí 1968-1969
Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Xuân Sơn 1969-1970
Hải-Quân Trung-Tá Trịnh Xuân Phong 1970-1971
Hải-Quân Đại-Tá Ngô Khắc Luân 1971-1972
Hải-Quân Đại-Tá Bùi Cửu Viên 1972-1973
Hải-Quân Đại-Tá Phan Văn Cổn 1973-1974
Hải-Quân Đại-Tá Dư Trí Hùng 1974-1975
(Trích từ Hải-Quân VNCH Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh)
hoanglan22
03-21-2019, 03:59
1* Mở bài
Việt Cộng nằm vùng thời nào cũng có.
Trong cuộc chiến tranh bảo vệ tự do dân chủ của Việt Nam Cộng Hoà, cái nhức nhối nhất là chỗ nào cũng có bọn VC nằm vùng, chúng tràn lan trong các tổ chức chính quyền, các cơ quan truyền thông, văn nghệ, tôn giáo, sinh viên học sinh…
Trong các tổ chức chính quyền, từ Bộ Quốc Pḥng, Bộ Tổng Tham Mưu, Phủ Đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo, Tổng Nha Cảnh Sát, Quốc Hội, và ngay cả trong Dinh Độc Lập cũng có VC nằm vùng. Bọn nầy ẩn nấp dưới hàng trăm hàng ngàn bộ mặt, muôn h́nh vạn trạng, đánh phá miền Nam, từ công khai hợp pháp, đến bí mật dưới muôn ngàn h́nh thức. Độc hại nhất là bọn ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản.
Ngày nay, trong cuộc đấu tranh cho một nước Việt Nam tự do, dân chủ của các cộng đồng tỵ nạn Cộng Sản hải ngoại, cũng không tránh khỏi bọn nầy. Ở thế kỷ 21, kỹ thuật đánh phá tinh vi hơn, nhất là lợi dụng các thứ tự do, công khai và hợp pháp để đánh phá.
Phạm vi hoạt động của Việt Cộng
Thời nào cũng vậy, bài bản của phạm vi hoạt động cũng giống nhau. Đó ví như một ṿng tṛn có ba phần:
Phần trung tâm, là do cán bộ đảng viên thực hiện.
Phần thứ hai của ṿng tṛn, nối tiếp bên ngoài trung tâm, là những tổ chức được thành lập, do liên minh, liên kết, trong đó cán bộ đảng viên nắm phần lănh đạo, chỉ huy, và đa số các thành phần quần chúng tham gia là không Cộng Sản. Đó là những “Mặt Trận”, như Mặt Trận Việt Minh, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, Mặt Trận Tổ Quốc…
Phần ngoài cùng của ṿng tṛn, là những tổ chức quần chúng không cộng sản, nhưng thân cộng, bị VC len lỏi bên trong, giật dây, tác động. Đó là những “Phong Trào”, như:
Phong trào hoà b́nh (chống chiến tranh, phản chiến), Phong trào chống tham nhũng, Phong trào Nhân dân cứu đói, Phong trào bảo vệ phụ nữ, Phong trào bảo vệ văn hoá dân tộc, Phong trào đ̣i thi hành Hiệp định Paris, Lực lượng quốc gia tiến bộ, Thành phần thứ ba…
2* Những tên Việt Cộng nằm vùng
2.1. Nhà văn nhà báo Việt Cộng nằm vùng
Cuối năm 1957, dưới thời tỉnh trưởng Nguyễn Trân, một mẻ lưới của cảnh sát Định Tường tung ra, bắt giữ những kư giả đem về giam tại Mỷ Tho, gồm có những người nằm vùng trong những tờ báo như sau:
Triệu Công Minh (báo Tiếng Dội), Lương Ngọc (Trời Nam), Nam Thanh (Lẻ Sống), Đồng Văn Nam, Phương Ngọc, Phan Ba (Buổi Sáng), Nguyễn Bảo Hoá (Ánh Sáng), vợ Nguyễn Bảo Hoá là dược sĩ Mă Thị Chu (Tiếng Chuông), LS Nguyễn Văn Diệp, đạo diễn Lê Dân, Mai Thế Đông (giám đốc cải lương).
Nguyễn Trân tổ chức tranh luận công khai tại rạp hát Viễn Trường, Mỷ Tho, nếu nhận CNCS là sai và ăn năn hối cải th́ được thả ra. Sau khi được thả, toàn bộ dông tuốt vô bưng, xem như Nguyễn Trân thả cọp về rừng.
2.2. Truy lùng Việt Cộng
Sau cuộc truy lùng trong các báo nêu trên, chính quyền bắt giam hàng loạt cán bộ nằm vùng cấp thành ủy, như GS Nguyễn Văn Ch́, Lê Văn Chí, Trần Văn Hanh, Nguyễn Trường Cữu, Cổ Tấn Lương, Bùi Đức Thịnh, bà B́nh Minh, đa số là giáo sư tư thục.
2.3. Việt Cộng nằm vùng, nhà văn Vũ Hạnh
Vũ Hạnh tên thật là Nguyễn Đức Dũng sinh năm 1926 tại Quảng Nam. Cán bộ văn hoá khu ủy Sài G̣n-Gia Định, hoạt động công khai đơn tuyến ở nội thành Sài G̣n.
Trước 1975, Vũ Hạnh bị bắt 5 lần, nhưng lần nào cũng có người bảo lănh cho ra. Người bảo lănh Vũ Hạnh sau cùng, là LM Thanh Lăng, Chủ tịch Hội Văn Bút.
Sau ngày 30-4-1975, Vũ Hạnh giữ chức Chủ tịch Hội Nhà Văn TP/SG. Vũ Hạnh mang súng kè kè bên hông, th́ bị thi sĩ Hoàng Anh Tuấn, nửa đùa nửa thật bảo: “Anh em văn nghệ sĩ chỉ quen càm bút chư có biết chơi súng đau”.
Nhưng mấy tháng sau, ông lắc đầu nói nhỏ “Totalement décu” (hoàn toàn bị lừa). Với chức vụ Chủ tịch Hội Nhà Văn, chẳng có quyền hành và quyền lợi ǵ, coi bộ đời sống thời bao cấp gặp nhiều khó khăn. Ít lâu sau, nghe nói có một nhà giàu cộng tác để Vũ Hạnh mở ra một gánh hát cải lương, nhưng sau đó dẹp tiệm. Vũ Hạnh lại t́m người có vốn mở xưởng làm xà bong, nhưng cũng không khá v́ thiếu nguyên liệu.
Ít lâu sau nữa, một trong những người bạn cho biết, Vũ Hạnh đang t́m đường dây cho con vượt biên, nhưng bạn bè chả ai dám giúp đở v́ sợ cái bản chất phản bội của tên nằm vùng.
2.4. Những tờ báo của Việt Cộng và có Việt Cộng nằm vùng
2.4.1. Tờ Tin Văn
Báo nhà nước đưa tin như sau:
“Đầu năm 1966, đảng ủy giao cho cán bộ Vũ Hạnh đang hoạt động trong “vùng bị tạm chiếm”, ngụy trang dưới chiêu bài “bảo vệ văn hoá”, xin phép cho ra tờ Tin Văn, chủ trương chống văn hoá đồi trụy, chống văn hoá ngoại lai đầu độc thanh niên.
Tờ báo được các cán bộ ta chỉ đạo, đứng đầu là đồng chí Trần Bạch Đằng, Ủy viên thường trực Thành Ủy SG-GĐ, lănh đạo tuyên huấn, mặt trận, trí vận, Hoa vận, và thanh niên (bao gồm sinh viên và học sinh).
Chủ nhiệm tờ Tin Văn là Nguyễn Mạnh Lương. Một số nhà văn cộng tác như Lữ Phương, Hồng Cúc, Nguyễn Hữu Ba, Vũ Hạnh. Toà soạn đặt trong một ngôi chùa”.
Sau 1975, Vũ Hạnh viết như sau: “Tuần báo Tin Văn, với những bài phê b́nh vạch mặt những tên xung kích chống cách mạng, qua các tác phẩm đồi trụy, phản động, đă tạo ra một phong trào quần chúng sôi nổi. Ngụy quyền hoang mang nên t́m cách phản kích. Chúng trắng trợn cho tên Chu Tử, tay sai của Sở Công An và Phủ Đặc Ủy TW T́nh Báo ngụy, bắt đầu một chiến dịch đả kích tôi, tố cáo tôi là “VC nằm vùng”, và liên tiếp trong nhiều số báo như vậy, y đă “vu khống tôi” cốt làm cho những người tham gia phong trào sợ hăi. Lúc đó, đảng ủy văn hoá và thường vụ khu ủy, động viên, chăm sóc và giúp đở tôi về vật chất lẫn tinh thần, thông qua vợ tôi. Mở đường dây liên lạc mới, tôi trực tiếp nhận sự chỉ đạo của đảng.” (Trích từ Vũ Hạnh: Trui rèn trong lửa đỏ, trang 179).
Tên VC láu cá nầy là “VC chính cống”, thật sự nằm vùng, mà nhảy lên như đỉa phải vôi, khi bị Chu Tử vạch mặt là “VC nằm vùng”, rồi lại nói là “bị vu khống”. Bọn nằm vùng luôn luôn có phản ứng như thế!
2.4.2. Hai tờ báo có Việt Cộng nằm vùng
1. Tờ Đại Dân Tộc
Chủ nhiệm: Vơ Long Triều
Tổng thư kư: Hồ Ngọc Nhuận
VC nằm vùng là: Hồ Ngọc Nhuận và Huỳnh Bá Thành (hoạ sĩ Ớt)
2. Tờ Điện Tín
Chủ bút Hồ Ngọc Nhuận
Chủ nhiệm: cựu đại tá, cựu nghị sĩ Hồng Sơn Đông
Chủ bút: Hồ Ngọc Nhuận
2 VC nằm vùng là: Hồ Ngọc Nhuận và Huỳnh Bá Thành (họa sĩ Ớt)
2.4.3. Nói về tờ Tin Sáng
Báo Tin Sáng có 3 thời kỳ:
1. Tin Sáng cũ trước năm 1973
2. Tin Sáng lậu từ 1973 đến 1975
3. Tin Sáng bộ mới từ ngày 10-8-1975 đến 1-7-1981
Tin Sáng cũ trước 1973. Toà sọan ở số 124 đường Lê Lai, Q.1. do nhóm dân biểu đối lập, thân cộng và VC nằm vùng, như: Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lư Chánh Trung, Dương Văn Ba, có cán bộ VC nằm vùng nhưng giữ chức vụ khiêm tốn.
Trên tờ báo có 50 bài viết của LM Nguyễn Ngọc Lan, chửi Mỹ, chửi VNCH và chống chiến tranh. Tin Sáng là nơi kích động các cuộc biểu t́nh của nhóm SV/VC nằm vùng Huỳnh Tấn Mẫm. Ṭa soạn bị đốt và có truyền đơn “Đồng bào quyết đập chết những tên VC nằm vùng Ngô Công Đức và Hồ Ngọc Nhuận. Quần chúng rất phẩn nộ trước hành động đâm sau lưng chiến của dân biểu tay sai VC Ngô Công Đức và Hồ Ngọc Nhuận”.
Trần Văn Giàu nhận xét: “Các anh làm báo CS hơn CS”. Alain Ruscio ghi lại trong cuốn Vivre au Vietnam như sau: “Không ai nói ngọt hơn Lư Chánh Trung được. Mặc dù trong thâm tâm họ biết là họ đang nói dối, đang đóng kịch. Nhưng điều quan trọng là lời nói đă phát ra th́ không thu lại được”. Đó là những tiếng chửi rất nặng nề của trí thức đối với trí thức. Không biết bọn nằm vùng nầy có hiểu và cảm thấy nhục nhă hay không?
Ngô Công Đức cũng đă sáng mắt ra, trước khi chết cũng để lại chúc thơ bộc bạch phân trần đôi điều, nhưng quá muộn. Nói chung, những tên VC nằm vùng đă mở mắt ra, và té ngửa hết, nhưng đă muộn cho một cuộc đời.
Tại sao Tin Sáng sống được 5 năm dưới chế độ Cộng Sản?
Thứ nhất, báo Tin Sáng nịnh bợ VC hơn báo VC.
Thứ hai, Vơ Văn Kiệt nhận thấy người dân miền Nam c̣n căm thù VC. Từ đổi tiền, đuổi đi kinh tế mới, cải tạo thương nghiệp, xếp hàng mua gạo, ăn độn, chồng, con, cha mẹ của đa số bị tù cải tạo. Người dân chưa thấy cái “ưu việt” của XHCN như tuyên truyền. Trong khi đó, báo Sài G̣n GP th́ c̣n non trẻ, chờ cho đến khi thành lập tờ Thanh Niên, nói theo giọng điệu o bế người dân, tŕnh diễn màn lừa bịp, là “nói thẳng, nói thật”…, v́ thế Vơ Văn Kiệt chưa khai tử báo Tin Sáng, để cho sống 5 năm trong t́nh trạng trái ngược, là mỗi khi số lượng phát hành gia tăng lên cao, th́ ban biên tập lại hồi hộp chờ ngày giờ kết liểu cuộc đời nịnh bợ.
2.5. Trí thức thân cộng và bọn “ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản”
Ở miền Trung th́ nổi bật những tên Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Ngô Kha, Trần Quang Vọng, Trần Hữu Lực, Trần Duy Phiên, Lê Văn Ngăn, Trần Vàng Sao, Vơ Quế…
Hoàng Phủ Ngọc Tường phải sống những ngày khổ nhục, oán hận, khi thấy người đồng chí trẻ của y là Bửu Chỉ đang ngủ với vợ của y là nữ đồng chí, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.
Ở miền Nam, th́ có Tôn Nữ Thị Ninh, LS Trần Ngọc Liễng, GS Lư Chánh Trung, LS Ngô Bá Thành. Những LM Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phan Khắc Từ, các thượng tọa Thích Trí Quang, Nhất Hạnh.
2.6. Thành phần thứ ba và Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói
“Theo chỉ đạo của ta, một lực lượng chính trị mới ra đời, đó là “Thành phần thứ ba” gồm trí thức, nhân sĩ, binh sĩ, dân biểu, báo chí, tu sĩ, công thương gia, cựu tướng lănh, có khuynh hướng chống Thiệu, đ̣i hoà b́nh, nổi bật nhất là các nhân vật như LS Trần Ngọc Liễng, Ngô Bá Thành, KS Dương Văn Đại, DB Hồ Ngọc Nhuận, Lư Quư Chung, Kiều Mộng Thu, Nguyễn Văn Hàm, Lư Chánh Trung, LM Phan Khắc Từ, Thích Pháp Lan, ni sư Huỳnh Liên và nhà báo Nam Đ́nh”. Tướng Dương Văn Minh đại diện cho thành phần nầy ra đảm nhiệm chức Tổng thống.
Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói
Ra đời tháng 9 năm 1974 do Đại đức Thích Hiển Pháp làm Chủ tịch. Dân biểu Nguyễn Văn Hàm làm Tổng Thư kư. Các nghệ sĩ Kim Cương, Thanh Nga tích cực tham dự. Ni sư Huỳnh Liên, LM. Phan Khắc Từ, các DB Kiều Mộng Thu, Hồ Ngọc Nhuận, GS Lư Chánh Trung, LS Ngô Bá Thành…
“Ta đưa một số cán bộ đứng tên vào mặt trận: Ngọc Trảng, Ba Thép, Xuân Thượng, với khẩu hiệu “Lá lành đùm lá rách” ẩn chứa nội dung tố cáo chế độ. H́nh thức biểu t́nh rất sáng tạo, biểu t́nh có ca hát “Dậy mà đi”. Biểu t́nh “xa luân chiến”, không lớn mà liên miên từ ngày nầy qua đêm khác, đêm nầy qua đêm nọ như bánh xe quay, làm cho cảnh sát ngụy mất ăn mất ngủ”. Phong trào th́ công khai, nhưng ra báo th́ bí mật. Công khai th́ có Kiều Mộng Thu trong báo Đại Dân Tộc, ở tờ Điện tín th́ có Lư Chánh Trung. Về phía bí mật, Cứu Đói in 10,000 bản phổ biến trong quần chúng.
Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói lập khối Dân Tộc Xă Hội ở Hạ Viện để đấu tranh nghị trường.
Tổ chức “báo nói”, “văn nghệ chạy”, “biểu t́nh ngồi”, “phát chẩn”.
Ni sư Huỳnh Liên sinh tại Mỷ Tho năm 1923, mất ngày 16-4-1987, tên thật là Nguyễn Thị Trừ, ni sư trưởng Tịnh xá Ngọc Phượng. Đại biểu QH Khoá VI. Phó Chủ tịch UB/MTTQ Sài G̣n, Ủy viên TW MTTQ/VN.
Bọn cứu đói cứng họng, cảm thấy ô nhục khi nhân dân kêu đói, khi đồng bào ăn bo bo, ăn độn mà chúng lặn mất, im thin thít của thái độ hèn nhát, lưu manh.
3* Dân biểu Việt Cộng nằm vùng và dân biểu thân cộng
Trên tờ Tuổi Trẻ trong nước, bài viết đề ngày 31-7-2012 với tựa đề “Dân tin người thật tâm, thật tài”, nói đến 2 dân biểu VNCH là những “chứng nhân lịch sử” của 37 năm về trước. Đó là dân biểu Nguyễn Văn Hàm từng giữ cương vị Phó Chủ Tịch Ủy Ban Quân Quản Sài G̣n, sau ngày 30-4-1975, và dân biểu Đinh Văn Đệ, từng làm Chánh Văn Pḥng Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH.
3.1. Dân biểu Nguyễn Văn Hàm
Nguyễn Văn Hàm khoe thành tích như sau: “Ở Sài G̣n có những cuộc biểu t́nh mà tôi và những người khác đă tổ chức rất công phu như “phong trào cứu đói”, “kư giả đi ăn mày”. Cũng có những cuộc biểu t́nh tự phát, không cần ai tổ chức cả. Quần chúng qui tụ quanh chúng tôi, gọi là “lực lượng thứ ba”.
“Quê ở Mộ Đức, Quảng Ngăi, Nguyễn Văn Hàm làm thơ, viết báo, giảng dạy triết học, văn chương. Tham gia Quốc Hội Hạ Viện khoá 2 (1971), là một dân biểu đối lập, thủ lĩnh phong trào quần chúng Phật giáo”.
Sau 1975, đương sự làm Phó Chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân, bên cạnh Ủy Ban Nhân Dân. Hội đồng chả có quyền hạn ǵ cả, rồi hắn bị đá ra. Vợ và con vượt biên qua Úc. Có đứa con gái đang sống ở Minnesota, nhưng không nh́n cha.
3.2. Dân biểu Đinh Văn Đệ
Sau năm 1975, nhiều người “bức xúc” khi thấy cựu dân biểu Đinh Văn Đệ ra vào làm việc trong Ủy Ban Nhân Dân Thành phố Sài G̣n. Vơ văn Kiệt cho biết : Hắn là người Cộng Sản mà không có đảng” (Il est Communist sans party)
Đinh Văn Đệ
3.2.1. Đinh Văn Đệ là lính VNCVH
Tờ báo viết: “Ông Đinh Văn Đệ bị động viên đi lính rồi trở thành trung tá Chánh văn pḥng Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH (1954-1961). Làm Tỉnh trưởng Tuyên Đức kiêm Thị trưởng Đà Lạt (1963). Tỉnh trưởng B́nh Thuận (1964-1967).
Năm 1967, ra ứng cử dân biểu Quốc hội. Giữ chức Chủ tịch Ủy Ban Quốc Pḥng Hạ Viện. Tổng thống Thiệu cử ông làm “trưởng phái đoàn” sang Mỹ xin viện trợ khẩn cấp. Kết quả chuyến đi, ông Đệ được Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Miền Nam tặng thưởng Huân Chương Chiến Công hạng nhất.”
Đinh Văn Đệ phát biểu: “Tôi được giáo dục từ nhỏ, mang sẵn trong ḷng t́nh yêu nước thực sự, yêu con người thực sự, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt chính thể. Bị động viên, tôi đành phải đi lính, và luôn luôn giữ cái tâm lành, trung thực, ngay thẳng. Bao nhiêu năm đeo lon, đeo súng, tôi không một lần sát sanh. Bây giờ xuất gia, theo đạo Cao Đài”.
Đinh Văn Đệ sinh năm 1924, mồ côi cha lúc 15 tuổi. Nhà nghèo, học hết Trung học đệ nhất cấp rồi ra đi dạy học, theo đạo Cao Đài.
3.2.2. Người có công xây dựng gián điệp U 4
Năm 1969, danh sách điệp viên của t́nh báo chiến lược Việt Cộng có thêm một tên mới, Đinh Văn Đệ, bí số U 4.
Người có công đầu, móc nối, tác động, xây dựng U 4, là Đinh Văn Út, chú của Đinh Văn Đệ. Út có bí danh là Chín Mẫn, sinh năm 1919 tại Châu Đốc. Chín Mẫn thuộc pḥng t́nh báo T4 của Thành Ủy Sài G̣n Gia Định, thuộc Trung Ương Cục miền Nam, c̣n gọi là Cục R, B2 và “Ông Cụ”. T4 do Mười Hương phụ trách.
Năm 1969, Đinh Văn Đệ cung cấp tài liệu kinh tế hậu chiến của VNCH, chính Đệ lấy xe riêng đưa người và tài liệu đến nơi an toàn. Cũng năm nầy, Đệ thoả thuận và tiếp nhận toàn bộ qui ước liên lạc, mực mật, giấy viết mực mật, thuốc hiện mực mật, vật ngụy trang, mật khẩu giao liên… nói chung, Đinh Văn Đệ, Chủ tịch Ủy Ban Quốc Pḥng Hạ Viện Quốc Hội VNCH, đă chính thức trở thành một gián điệp của Việt Cộng, mang bí số U 4 trực thuộc pḥng T́nh báo mật danh J.22 của Cục R (c̣n gọi là B2). Em của Đinh Văn Đệ là Đinh Văn Huệ, trước làm chính trị viên tiểu đoàn giao thông vũ trang thuộc J. 22
Đinh Văn Đệ
Đinh Văn Đệ kể những chiến công như sau.
1). Kế hoạch oanh kích Lộc Ninh
“Sau khi ta (VC) giải phóng Phước Long ngày 6-1-1975, đồng chí Phạm Hùng muốn biết địch (VNCH) có ư định tái chiếm Phước Long hay không? Tôi được giao phó nhiệm vụ trả lời câu hỏi nầy.
Trước hết, tôi điện qua Phủ Thủ Tướng, mời Tổng trưởng Quốc Pḥng ra điều trần trước Hạ Viện, tại sao thất thủ Phước Long? Trách nhiệm của ai?
Tại buổi điều trần, Tổng trưởng QP đổ mồ hôi hột, bối rối v́ bị chất vấn sôi nổi, tới tấp. Tôi binh vực và đề nghị, mỗi lần điều trần như thế nầy vất vả lắm, vậy Bộ QP cấp cho tôi cái giấy được tự do ra vào các nơi liên hệ, để hỏi trực tiếp các cấp chỉ huy phần hành. Thế rồi, với tờ giấy trong tay, tôi đến Pḥng Hành Quân, th́ gặp ngay người quen biết cũ, là một chuẩn tướng, ông ta nói: “Đại ca đừng lo. Ai lại dại ǵ kéo quân đi lấy lại nơi mà ḿnh pḥng thủ đă bị thất bại. Tôi sẽ trả thù bằng cách dội bom cho nát Lộc Ninh”.
Tôi báo cáo tin đó. Vài hôm sau, địch (VNCH) đă ném bom Lộc Ninh, nhưng quân ta tránh được thiệt hại.
2). Trung Ương Cục ở đâu?
Trung Ương Cục Miền Nam (TWCMN) hay Cục R, B2, “Ông Cụ”, là cơ quan đại diện cho Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, để chỉ đạo chiến trường miền Nam. Ban Anh ninh TWCMN do thiếu tướng Cao Đăng Chiếm phụ trách từ năm 74 đến 75.
Ban An Ninh T4 thuộc về Thành Ủy Sài G̣n Gia Định do Mười Hương phụ trách.
TWCMN hỏi tôi là địch (VNCH) có biết Cục R ở đâu không?
Tôi gọi điện qua Bộ QP/VNCH xin 3 chiếc trực thăng, cho tôi là Chủ tịch Ủy Ban QP/HV, cho Trung tướng Tôn Thất Đính, nghị sĩ, Chủ tịch UB/QP Thượng Viện và cho Trung tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng, mỗi người một chiếc trực thăng, thành lập một phái đoàn đi ủy lạo binh sĩ đang cố thủ tại Pleiku, Đà Nẳng và Bến Cát (SĐ 5 đóng ở B́nh Dương). Đi đến đâu tôi cũng hỏi các cấp chỉ huy “Địch nó biết rơ vị trí của ta, vậy ta có biết Cục R ở đâu không? Tôi đúc kết các câu trả lời và báo cáo về Cục R.
3). Xin viện trợ để cắt viện trợ
“Tôi tham gia phái đoàn sang Mỹ để xin viện trợ khẩn cấp, v́ Thiệu ngoan cố, cố chống giữ. Phái đoàn chia nhau đi “vận động hành lang” với các cơ quan và chính khách Mỹ. Trước khi đi, tôi suy nghĩ, làm thế nào để vận động xin viện trợ mà kết quả là bị cắt viện trợ. Khi sang Mỹ, mỗi dân biểu, nghị sĩ đều có nhân viên của toà đại sứ đi kèm, nếu sơ hở là bị lộ ngay.
Với cái chiêu “nói vậy mà không phải vậy”, làm cho các đại biểu trong đoàn thấy tôi là người tận tâm, tha thiết nhất trong việc xin viện trợ để cứu chế độ Sài G̣n.
Với mục đích làm cho Mỹ nản chí và bỏ cuộc, tôi đưa ra h́nh ảnh của người lính VNCH không c̣n muốn chiến đấu, đă bỏ chạy bằng cách níu càng trực thăng, trốn ra khỏi chiến trường, th́ người Mỹ hiểu ngay là họ phải làm ǵ.
Khi tiếp phái đoàn, Tổng thống G. Ford cho biết: “Thôi các bạn cứ yên tâm ra về, tôi sẽ cử một viên tướng qua thị sát t́nh h́nh rồi sẽ có quyết định sau”. Nghe vậy, tôi hiểu là Mỹ đă bỏ cuộc”.
Theo chỉ thị của trên, Đinh Văn Đệ đă đưa một gián điệp mang bí danh “Số 6” vừa tốt nghiệp cao học nước ngoài vào làm việc trong Ủy Ban QP của Hạ Viện QH/VNCH.
Đinh Văn Đệ qua cái nh́n họa sĩ Ớt vào thời điểm trước năm 1975
Năm 1972, t́nh báo Hà Nội đă nhận đầy đủ chi tiết về hệ thống tổ chức, về quân số ở các quân khu, về ngân khoản QP/VNCH, thậm chí c̣n nhận những khoản viện trợ không công khai cho VNCH, ẩn dưới chương tŕnh PL (Program Law), thương mại hoá, tức không viện trợ bằng tiền, mà bằng hàng hoá, để VNCH bán lấy tiền dùng cho quân sự.
Sau khi 2 giao liên Ngô Viết Triều và Nguyễn Thị Thành bị bắt, cuối năm 1971, Đinh Văn Đệ được chuyển sang hoạt động đơn tuyến, nhận lịnh trực tiếp của Cục R thông qua một nữ t́nh báo giao liên.
Đinh Văn Đệ
Đinh Văn Đệ hiện sống ở Sài G̣n vẫn khỏe mạnh và nổi tiếng là một Thiên Vương Tinh đức cao trọng vọng của đạo Cao Đài.
Có một điều Đinh Văn Đệ dấu đầu ḷi đuôi là “tôi luôn luôn có cái tâm lành, trung thực và ngay thẳng”. Một tên gián điệp phản quốc, sống dối trá, hành động phản bội mà c̣n cái ǵ gọi là tâm lành, trung thực, ngay thẳng cho được?
4. Sinh viên nằm vùng
4.1. Danh sách 16 sinh viên bị chính quyền VNCH bắt giữ
Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy, Lê Thành Yến, Phùng Hữu Trân, Trần Khiêm, Đỗ Hữu Ứng, Lê Anh, Vơ Ba, Đỗ Hữu Bút, Hồ Nghĩa, Cao Thị Quế Hương, Trương Hồng Liên, Trương Thị Kim Liên, Vơ Thị Tố Nga.
4.2. Danh sách sinh viên thoát ly ra căn cứ Bắc Lộ 7, Campuchia
Phan Công Tŕnh, Nguyễn Đ́nh Mai,Tôn Thất Lập, Trần Long Ân, Nguyễn Văn Sanh, Lê Thành Yến, Trương Quốc Khánh, Huỳnh Ngọc Hải, Huỳnh Quang Thư, Dương Văn Đầy, Trần Ngọc Hảo, Hai Nam, Năm Sao, Trần Thị Ngọc Dung, Hà Văn Hùng, Trương Quốc Khoách.
4.3. Sinh viên Việt Cộng nằm vùng Huỳnh Tấn Mẫm
4.3.1. Huỳnh Tấn Mẫm
Huỳnh Tấn Mẫm tên thật là Trần Văn Thật, sinh năm 1943 tại Sài G̣n. Trước 1975 là một đảng viên cộng sản nằm vùng, hoạt động công khai ở Sài G̣n. Sau 1975, học tiếp y khoa, ra bác sĩ. Sang học Liên Xô về Triết học Mác Lênin.
Trở về VN được cử làm Tổng Biên Tập báo Thanh Niên. Là thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc và hội viên Hội Liên Hiệp Thanh Niên.
Với những chức vụ như thế, Huỳnh Tấn Mẫm (HTM) trở thành một cán bộ thuộc hàng cao cấp, có tiếng tâm của Sài G̣n.
4.3.2. Huỳnh Tấn Mẫm mở mắt nhưng quá trễ
Con đường hoạn lộ của HTM bị nhiều trắc trở, v́ thực tế sau 1975 cho thấy, cái quan điểm tự do dân chủ kiểu “tư sản” của miền Nam không c̣n được áp dụng trong chế độ chuyên chế XHCN. Ngoài HTM ra, các sinh viên VC khác cũng đều vở mộng, cho nên đă thể hiện những hành động bị cho là “chệch hướng”, không được ḷng đảng v́ khác đường lối, nên bị hạ tầng công tác, loại trừ.
Đă vậy, vợ của cán bộ cao cấp lại làm chủ hụi và giựt hụi. Vợ ra toà lănh án đă đành, Huỳnh Tấn Mẫm c̣n bị kêu ra toà làm chứng chống lại vợ, nên mất uy tín.
Thế là một cuộc đảo chánh trong nội bộ, đă khai trừ HTM ra khỏi tờ báo Thanh Niên năm 1990. Được chuyển về Hội Hồng Thập Tự, làm bác sĩ phụ trách pḥng mạch miễn phí, thế là hết cơ hội chấm mút, thu hoạch như các đồng chí khác trên đường hữu sản hoá cán bộ trong thời đổi mới, mở cửa.
Mở pḥng mạch ngoài giờ, chuyên chăm sóc da mặt, nặn mụn cho phụ nữ, nhưng chẳng có ai chiếu cố tới, v́ bác sĩ cách mạng, có một thời không được bịnh nhân tin tưởng bằng “bác sĩ ngụy”. Riêng cá nhân HTM, trước kia chỉ lo biểu t́nh, đấu tranh, chạy trốn và ở tù, th́ c̣n ngày giờ đâu mà học với hành. Hơn nữa, đảng cần “hồng” hơn “chuyên”, chỉ cần có quan điểm lập trường 101% cộng sản là một bác sĩ tốt rồi. Pḥng mạch ế. Bị gán là bác sĩ chính trị, mà thứ chính trị của CNCS đă bị ném vào sọt rác từ lâu rồi. Người ta nhận xét: “bác sĩ nửa vời, chính trị nửa vời, cuộc đời cũng nửa vời, gia đ́nh tan nát, sự nghiệp tiêu tan. H́nh ảnh “anh hùng” vang bóng một thời, làm rung chuyển chế độ miền Nam đă chấm dứt trong cay đắng, chán chường, tiêu cực, mệt mơi”.
Kể ra ông trời cũng có con mắt.
5. Thành Đoàn Cộng Sản Sài G̣n Gia Định lộng hành
Thành Đoàn là tên gọi tắt của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh đang hoạt động trong nội thành Sài G̣n.
5.1. Thành Đoàn Cộng Sản giết sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật
Ngày 28-6-1971, Biệt Động Thành bắn chết sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật ngay tại hành lang trường Luật Sài G̣n.
Ban ám sát Thành Đoàn cử 2 tên tới Đại Học Luật Khoa, số 4 đường Duy Tân, nhận là người nhà muốn gặp Lê Khắc Sinh Nhật có việc cần. Lúc đó, sắp tới mùa thi cuối năm, Nhật đang hướng dẫn sinh viên năm thứ nhất về cách thức thi cử tại một giảng đường. Nhật vừa ra tới hành lang, th́ một tên móc súng bắn liền 3 phát vào ngực. Hắn phóng lên một chiếc Honda nổ máy chờ sẵn. Hắn ném lại một quả lựu đạn nhưng may mắn, lựu đạn không nổ. Cảnh sát gác bên ngoài bắn 3 phát chỉ thiên. Nhạc sĩ Vũ Thành An sáng tác một bài hát tưởng niệm Lê Khắc Sinh Nhật.
Lư do giết SV Lê Khắc Sinh Nhật
Thành Đoàn CS giết SV Lê Khắc Sinh Nhật (LKSN) v́ 2 lư do:
Một là răn đe các sinh viên thuần túy, có tinh thần quốc gia
Hai là để trả mối hận bị đánh bại trong 2 cuộc bầu cử, mà Liên danh của LKSN đă thắng Liên danh SV Việt Cộng Trịnh Đ́nh Ban, trong cuộc bầu cử Ban Đại Diện SV trường Luật niên khoá 1970-1971. Và đă thắng Liên danh SV/VC trong tay Thành Đoàn trong cuộc bầu cử Ban Đại Diện Tổng Hội Sinh Viên Sài G̣n, tại Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp (Nông Lâm Súc) ngày 20-6-1971. Trong cuộc bầu cử nầy, khi thấy kết quả nghiêng về phía Liên danh LKSN do SV Lư Bửu Lâm đứng đầu, th́ bọn SV/VC giở ngay bản chất côn đồ, nhảy lên bục “đá thùng phiếu để hủy bỏ kết quả bầu cử” và ấu đả, hỗn chiến xảy ra” (Trích trong “Trui rèn trong lửa đỏ” trang 21 của thiếu tướng Trần Bạch Đằng)
Bị thất bại trong cuộc bầu cử, Thành Đoàn CS cay cú, đưa ra 2 quyết định:
Một là, sát hại SV Lê Khắc Sinh Nhật
Hai là, chỉ thị cho SV Huỳnh Tấn Mẫm, tập họp một số SV tại Tổng Vụ Thanh Niên Phật Tử, số 294 Công Lư, vào ngày 28-7-1971 để bầu ra một tổ chức ma, chưa bao giờ có, đó là “Tổng Hội Sinh Viên VN” do Huỳnh Tấn Mẫm làm Chủ tịch. Tổ chức nầy không đại diện cho ai cả, ngoài đám SV/VC và một số ít bị lừa.
Quyết định hạ sát SV Lê Khắc Sinh Nhật là một hành động tội ác của Thành Đoàn CS/SG.
5.2. Thành đoàn CS/SG giết GS Nguyễn Văn Bông
Ngày 10-11-1971, SV/VC Vũ Quang Hùng (bí danh Ba Diệp, năm thứ 3 Khoa học) và tên Lê Văn Châu, dùng chất nổ ám sát chết GS Nguyễn Văn Bông, Viện trưởng Quốc Gia Hành Chánh, tại ngă tư Cao Thắng - Phan Thanh Giản. Hai tên Hùng và Châu thuộc Trinh sát vơ trang bí số S1, hoạt động nội thành SG-GĐ, thuộc Ban An ninh T4 của Thành Ủy SG-GĐ (trong mật khu). Cả hai bị bắt, đày đi Côn Đảo.
Sau ngày 30-4-1975, Vũ Quang Hùng viết : “Tôi ám sát người sắp làm thủ tướng” và rất hảnh diện về thành tích đó. Tên Hùng giải thích lư do giết GS Nguyễn Văn Bông như sau: “Tin t́nh báo cho biết, GS Nguyễn Văn Bông sẽ làm thủ tướng v́ chính quyền ngụy muốn chuyển từ quân sự sang dân sự. GS Bông là một trí thức rất có uy tín mà lên làm Thủ tướng, th́ cách mạng sẽ khó khăn hơn. Để giữ bí mật, tôi đặt tên mục tiêu phải giết với bí số G.33”.
Đến tháng 4 năm 2000, trong lễ kỷ niện 25 năm ngày “chiến thắng 30 tháng 4”, nhà báo chuyên về t́nh báo Nam Thi của báo Thanh Niên, cũng kể lại “thành tích” nầy, trong đó có sự trợ giúp đắc lực của SV kiến trúc Nguyễn Hữu Thái, người đă theo tướng Dương Văn Minh đến đài phát thanh để tuyên bố đầu hàng trong ngày 30-4-1975. Chính SV Nguyễn Hữu Thái làm “xướng ngôn viên bất đắt dĩ”, đă giới thiệu tướng DVM đọc tuyên bố. Sau đó, Nguyễn Hữu Thái xuất cảnh sang Canada theo diện đoàn tụ gia đ́nh.
Phu nhân của GS Bông có lẻ đă biết tên ṭng phạm nầy.
Trong phỏng vấn của đài RFA, kư giả Mạc Lâm ghi lại như sau: “Đă hơn 40 năm, những nạn nhân như bà Lê Thị Thu Vân, tức bà Jackie Bông, phu nhân của cố giáo sư lừng danh Nguyễn Văn Bông, bị tên SV Vũ Quang Hùng ám sát, tuy không bao giờ quên nổi biến cố bi thương, bổng ập xuống cuộc đời bà và các con nhỏ dại của bà năm xưa. Nhưng bà đă lấy tâm Phật mà “cầu nguyện cho ông ấy (tức tên Vũ Quang Hùng, kẻ đă giết chồng bà) và mong nhà cầm quyền Hà Nội “mở mắt ra”, “mở tấm ḷng ra”. (RFA ngày 5-5-2011)
Ngoài việc ám sát GS Nguyễn Văn Bông, Thành Đoàn c̣n ném lựu đạn M-26 vào xe của BS Lê Minh Trí, Tổng trưởng GD&TN ngày 6-1-1969.
Hai tháng sau, đến lượt BS Trần Anh, Tân Viện Trưởng Viện Đại Học Sài G̣n, bị bắn chết trước cổng trường Chu Văn An, bên cạnh Đại học xá Minh Mạng, ngang nhà thờ Ngă Sáu, Chợ Lớn. BS Trần Anh đang đi bộ từ Bộ Y Tế trên đường về nhà ở bên cạnh Đại học xá Minh Mạng.
6* Phan Nhật Nam tố cáo Việt Cộng nằm Vùng
6.1. Thiếu tá “VC Killer” Thái Quang Chức
Trong bài viết tựa đề “Những tên Việt Cộng nằm vùng”, một thiếu tá Hải quân có danh hiệu là “VC Killer” mang tên Thái Quang Chức, em của tướng Thái Quang Hoàng.
Năm 1957, thanh niên Thái Quang Chức lội qua sông Bến Hải vượt tuyến vào Nam. Tốt nghiệp trường Bộ Binh Thủ Đức, về làm việc tại Bộ Tư Lịnh Hải Quân Vùng 4, Sông Ng̣i, Mỷ Tho.
Năm 1970, mang lon thiếu tá, nổi tiếng là “VC Killer”, v́ sau cuộc hành quân, xác VC được kéo chạy trên sông để biểu dương ư chí chống Cộng.
Trong những ngày sau cùng của tháng 4 năm 1975, tướng Thái Quang Hoàng cho người em xuống Mỷ Tho gọi Chức về để cùng gia đ́nh di tản, đương sự quyết định ở lại để góp phần xây dựng quê hương.
Tŕnh diện học tập cải tạo, Chức được đưa đến trại Hoàng Liên Sơn.
Hai năm sau, năm 1977, một người mặc thường phục đến bộ chỉ huy đoàn 776, đưa thiếu tá “VC Killer” ra khỏi trại, về làm nhiệm vụ mới.
6.2. Trung úy Trần Trung Phương, tiểu đoàn 3 Nhảy dù, VC nằm vùng
Do được giới thiệu, tác giả đến một đường dây chạy giấy xuất cảnh. Đến một cơ sở không có bảng hiệu, nhân viên thường phục tiếp đón với thái độ “chúng tôi đă biết rơ tất cả”, “chào anh Nam, anh có mạnh không?”. Anh ta nói: “Tôi biết anh nhiều lắm”, rồi mở tủ hồ sơ lấy ra cho coi Chứng Chỉ Nhảy Dù do Trung Tâm Huấn Luyện Sư Đoàn Dù cấp, có kư tên đóng dấu của trung tá Trần Văn Vinh.
Anh ta tự giới thiệu: “Trung úy Trần Trung Phương, gốc Đại Đội 33, tiểu đoàn 3 Dù, đơn vị cuối cùng là “Biệt Đội Quân Báo Điện Tử Sư đoàn. Là nhân viên Đặc vụ Sở Phản Gián Bộ Nội Vụ (Cộng Sản).
Điều kiện đưa ra, tôi có thể làm hồ sơ cho anh ra khỏi VN tối đa là 8 tháng. Gia đ́nh anh tại Mỹ phải trả cho người của chúng bên đó 2,000 đô là, và kèm thao một số điều kiện…
“Lẽ tất nhiên, tôi không chấp nhận điều kiện của Phương, từ 2,000 đô la đến “những điều kiện khác…”.
Sau đó, năm 1993, để giúp một người quen cần phải xuất cảnh để giải quyết những khó khăn, tôi t́m đến Trần Trung Phương ở một địa chỉ mới, là một văn pḥng ở khách sạn đường Nguyễn Văn Trỗi, nhân viên văn pḥng cho biết, ông Phương đang Hoa Kỳ, ở vùng Westminster, Cali.
Trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, Hạ Lào, những băi đáp đổ quân, những vị trí tấn công, toạ độ dội bom B-52 của SĐ Dù, đă bị quân báo VC giải mă từ cơ quan đầu mối, tối cao, là Biệt Đội Điện Tử và Pḥng Hành Quân SĐ.
Ngày 30-4-1975, viên hạ sĩ quan ở đơn vị đó mà tôi biết, đă dẫn trung tá Nguyễn Văn Tư, Chỉ huy trưởng Tổng Hành Dinh SĐ Dù, qua Camp Davis để giao nộp hồ sơ trận địa của đơn vị mà hạ sĩ quan nầy đă lưu giữ từ hơn 10 năm trước đó.
Phan Nhật Nam: “Tôi có bổn phận chỉ đích danh những cá nhân tác hại, điển h́nh như Trần Trung Phương, Thái Quang Chức, những hạ sĩ quan và những công an VC, đă đi theo diện ghép với những gia đ́nh HO và ODP hiện tràn lan khắp các cộng đồng người Việt hải ngoại”.
Ngoài những tên VC nằm vùng mà ông Phan Nhật Nam nêu trên, c̣n có 1 tên vô cùng lợi hại, đó là một thượng sĩ.
“Giữa tháng 4, 1975, Bộ Chính Trị nêu vấn đề, nếu chúng ta đánh lớn, liệu Mỹ có nhảy vào cứu nguy hay không?
Giải đáp câu hỏi nầy là công lao của đồng chí Nguyễn Văn Minh, là thượng sĩ giữ hồ sơ tuyệt mật của Cao Văn Viên. Lúc đó, thư của TT/HK gởi cho Thiệu: “Cuộc chiến tranh VN coi như đă chấm dứt đối với Mỹ, chi viện 700 triệu đô la, c̣n mọi việc khác th́ tùy theo quư ngài định liệu”. Bản sao bức thư được gởi cho Cao Văn Viên. Đồng chí Minh lập tức chép lại, gởi ra bộ chỉ huy miền. Nhờ tài liệu nầy mà BCT nắm được điểm yếu của địch, nên nêu phương châm tấn công “Thần tốc - Táo bạo - Chắc thắng”.
7* “Những bí ẩn của báo Người Việt”
Đó là cái tựa của bài viết trên tờ SGN ngày 28-7-2012.
Căn cứ vào 2 trang web Tân Đại Dương và trang tài liệu 401k-plans, để xác định “Nguoi Viet Daily News không phải là một công ty,, “Corporation Nguoi Viet Inc.” như đă công bố trên báo chí. Tác giả bài viết đặt câu hỏi: “Ai là chủ thực sự của báo Người Việt?”
Đây là một câu hỏi cần được phải trả lời để đánh tan những nghi ngờ gần như xác định về báo Người Việt, đang sôi nổi trong những ngày gần đây. Đương nhiên là báo NV có quyền không trả lời, tuy nhiên, nếu không trả lời rơ ràng và hợp lư th́ dễ biến sự nghi ngờ trở thành xác định.
Hôm nọ, xem ông Ngô Kỷ liệt kê “thành tích” của báo Người Việt trên You Tube, th́ quả thật, báo Người Việt rất đúng, chẳng sai tí nào đối với những tố cáo của các đoàn thể vừa qua. Hết phương chối căi. Những lời lẻ binh vực xem như ngụy biện, không thuyết phục.
8* Kết
Đem t́nh trạng “Việt Cộng nằm vùng ở miền Nam trước năm 1975”, đặt vào t́nh trạng của phong trào đấu tranh cho một nước VN tự do, dân chủ, nhân quyền hiện tại, th́ mới thấy rơ bài bản, âm mưu và kỹ thuật đánh phá của VC trong nước. Thời nào cũng vậy, ở đâu cũng có bọn lưu manh nằm vùng cả. Bản chất của bọn nằm vùng là gian manh, xảo trá và phản bội, tôi ác của bọn chúng là đă góp phần đưa dân tộc VN vào chế độ độc tài Cộng Sản hiện nay.
Trăm năm bia đá cũng ṃn, ngàn năm bia miệng vẫn c̣n trơ trơ, đừng có tưởng chết là hết.
Trúc Giang
hoanglan22
03-25-2019, 01:39
TỬ H̀NH KHỦNG BỐ VC TRẦN VĂN ĐANG TẠI PHÁP TRƯỜNG CÁT
LS NGUYỄN VĂN CHỨC
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1354926&stc=1&d=1553477708
“Em đă bị chúng nó lừa. Luật sư nhớ bảo vợ em đừng ở dưới vườn, đừng nghe theo chúng nó và gắng nuôi con.”
(Lời nói cuối cùng của “liệt sĩ” Trần Văn Đang trước khi bị xử bắn)
Chi tiết vụ án:
Luật sư Nguyễn Văn Chức, người được luật sư đoàn Sài G̣n chỉ định biện hộ (thày căi) cho Trần Văn Đang, đă kể lại sự vụ của y như dưới đây. Xin chép lại (trích trong báo Con Ong số 84) để quư bạn đọc thấy trong số các nạn nhân của Việt Cộng, cũng có cả các "liệt sĩ" của chúng như trường hợp Trần Văn Đang ở trong bài viết này.
* * *
Tôi về đến nhà, đă thấy chiếc xe mô tô đen của trung sĩ Ân đỗ trong sân. Ân giơ tay chào, đưa cho tôi một phong thư mầu vàng của ṭa án Mặt Trận, và yêu cầu tôi đọc ngay. Phong thư đóng dấu " tối mật ". Tôi xé ra. Bức thư bên trong chỉ vỏn vẹn mấy ḍng chữ đánh máy, nhưng tôi đọc rất lâu. Tôi kư sổ biên nhận, rồi bước vào trong nhà.
Ân có chào tôi hay không, và chiếc mô tô rồ máy bỏ đi lúc nào, tôi cũng không để ư. Tôi đang bận nghĩ đến hắn...
Cách đây khoảng 3 tháng, luật sư đoàn Sài G̣n chỉ định tôi biện hộ cho hắn trước ṭa án Mặt Trận Vùng Ba Chiến Thuật. Hắn là tên đặc công bị bắt trong khi đặt chất nổ trên đường Tự Do. Hắn bị truy tố về hai tội phản nghịch và mưu sát; hắn có thể bị tử h́nh. Sau khi xem xong hồ sơ, tôi vào nhà lao để gặp hắn. Đây là một thói quen nghề nghiệp, và cũng là một cái thú. Nói chuyện với tử tù, thường phạm hay chính trị, đôi khi hấp dẫn hơn đọc một cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất.
Tôi ngồi trong pḥng đợi, nh́n ra vạt sân nắng bên kia chấn song sắt, rồi chợt nhớ đến Nguyễn Văn Trỗi. Trước đây, Trỗi cũng đă ngồi nói chuyện với tôi trong căn pḥng này. Trỗi khóc như một đứa con nít, thỉnh thoảng đưa hai tay lên vắt nước mũi rồi quẹt xuống gầm bàn. Trỗi c̣n trẻ, mới 26 tuổi, nhưng trông già như người 40.
Hắn trẻ hơn Trỗi. Khi nhân viên nhà lao dẫn hắn đến gặp luật sư, miệng hắn đang c̣n nhai nhóp nhép, h́nh như là khô mực. Người hắn sặc mùi dầu khuynh diệp. Hắn khép nép ngồi xuống một cái ghế trước mặt, rồi chăm chú nh́n tôi. Lúc đó tôi mới để ư đến cái đầu húi cua và khuôn mặt non nớt của hắn. Khác hẳn với tấm h́nh đăng trên các báo: tóc dài bù xù, và mặt nhăn nheo như mang đầy thẹo. Tôi mỉm cười hỏi: " Em vừa húi tóc? ". Hắn gật. Tôi lại hỏi: " Em là Trần Văn Đang? ". Hắn gật.
- Em có bí danh Sáu Nhỏ, Hai Gà, Năm Lựu Đạn, có phải vậy không? Hắn gật.
- Em bị bắt khi đặt chất nổ trên đường Tự Do, có phải vậy không? Hắn gật.
Tôi nói cho hắn biết: tôi là luật sư sẽ căi cho hắn trước ṭa, hôm nay tôi vào nhà lao gặp hắn để t́m hiểu thêm về tội trạng của hắn. Và tôi yêu cầu hắn kể lại tất cả sự việc từ đầu đến cuối, để giúp tôi phối kiểm lại hồ sơ.
Hắn nh́n tập hồ sơ trên bàn, rồi nh́n ra ngoài sân rất lâu, như đang suy nghĩ lung về một vấn đề. Tôi cũng nh́n hắn và chợt thấy hắn dễ thương. Hắn vẫn ngồi im. Tôi hỏi: " Khi lấy cung, người ta có tra tấn và hăm dọa em không? ". Hắn mở to mắt nh́n tôi. Tôi lại dục: " Em nên kể lại tất cả sự việc, từ lúc được móc nối cho đến khi bị bắt, bị hỏi cung. Em kể lại hay không, đó là quyền của em. Em cũng có thể từ chối không nhận tôi là luật sư của em và chọn một luật sư khác. Đó là quyền của em ".
H́nh như tôi c̣n nói nhiều nữa. Tôi muốn đến gần hắn, tôi muốn được " hân hạnh " nói chuyện với hắn.
Hắn nh́n tôi, tỏ vẻ dè dặt. Tôi đợi một lúc khá lâu, rồi lại hỏi: " Tất cả những điều em khai trong hồ sơ đều là sự thật, có phải vậy không? ". Hắn gật đầu một cách thản nhiên.
Bên ngoài vạt nắng đă thu hẹp lại ở góc tường bao quanh cái sân nhỏ. Tiếng người gọi đi thăm nuôi, tiếng quát tháo, tiếng chửi thề... đă bắt đầu thưa thớt. Tôi không đeo đồng hồ, và trong pḥng cũng không có đồng hồ, nhưng tôi đoán lúc đó khoảng 4 giờ chiều, nghĩa là gần hết giờ thăm nuôi phạm nhân. Riêng tôi, v́ là luật sư, tôi có thể nói chuyện với thân chủ cho đến 5 giờ chiều. Khổ một nỗi, thân chủ lại không muốn nói chuyện với luật sư. Tôi đành phải làm cái công việc bất đắc dĩ của nghề nghiệp, là tóm tắt hồ sơ và đọc những điểm quan trọng cho thân chủ nghe, để thân chủ hoặc xác nhận, hoặc phủ nhận.
Hồ sơ hắn dầy gần trăm trang đánh máy, gồm phúc tŕnh của CS và An Ninh Quân Đội. Cô thư kư của tôi đă chép độ 20 trang quan trọng nhất. Riêng tôi đă lận đận trọn một ngày ở ṭa án Mặt Trận để đọc lại toàn bộ hồ sơ và ghi chú thêm. Lận đận như vậy, v́ lương tâm nghề nghiệp, và cũng v́ ṭ ṃ nghề nghiệp. Trong những vụ án chính trị lớn tại miền Nam, tôi từng tiêu hoang th́ giờ tại ṭa án, để đọc và suy nghĩ về những lời khai của các bị can. Nhờ đó, tôi đă biết được cái lư do sâu xa đă khiến văn hào Nhất Linh-Nguyễn Tường Tam uống thuốc độc tự vận, một ngày trước khi ṭa xử.
Tôi giở hồ sơ hắn ra và bắt đầu đọc:
Hắn sinh tại G̣ Dầu Hạ, bố vô danh. Mười lăm tuổi, hắn mồ côi mẹ và được người chú mang lên làm công cho một tiệm sửa xe Vespa tại đường Trương Minh Giảng-Sài G̣n. Trong thời gian sống ở Sài G̣n hắn làm quen với một tên Tư. Tên này " xây dựng " hắn, và gửi hắn vào bưng học tập.
Bốn tháng sau, hắn trở về Sài G̣n hoạt động trong tổ đặc công của tên Tư. Một ngày trước khi bị bắt, hắn được tên Tư cho đi ăn uống tại một con hẻm đường Nguyễn Huệ. Sau bữa ăn, cả hai thả bộ ra đường Tự Do để quan sát địa điểm hành động. Đó là một cái " bar " Mỹ mà hắn đă từng đi ngang qua nhiều lần. Chiều hôm sau, một buổi chiều thứ Bẩy, tên Tư đem về hai cái bọc, mỗi cái đựng 10 kg thuốc nổ và bộ phận nổ chậm. Tên Tư gài bộ phận nổ chậm, rồi đặt cái bọc thứ nhất trong thùng một chiếc Vespa mầu xanh. Cái bọc thứ hai được đặt trong thùng một chiếc Vespa mầu trắng. Rồi cả hai cùng đi tới địa điểm hành động. Lúc đó, đồng hồ nhà tên Tư chỉ đúng 5 giờ 15 phút. Hắn cưỡi chiếc xe Vespa mầu xanh, tên Tư cưỡi chiếc xe mầu trắng, hai xe cách nhau khoảng 200 thước. Hắn có nhiệm vụ phá cái bar Mỹ đă quan sát chiều hôm trước. C̣n tên Tư có nhiệm vụ phá cái bar khác gần khách sạn Eden Rock ở cuối đường Tự Do. Khoảng 15 phút sau, hắn tới cái bar Mỹ. Hắn ngừng xe lại, c̣n tên Tư tiếp tục đi về phía cuối đường Tự Do. Hắn xuống xe, nhấc chiếc Vespa lên lề đường, rồi dắt chiếc xe về phía cái bar Mỹ. Theo chỉ thị của tên Tư, hắn có nhiệm vụ đỗ chiếc xe Vespa trước cửa cái bar Mỹ rồi bỏ đi. Tên Tư cũng cho hắn biết: quả ḿn sẽ nổ đúng 6 giờ. Hắn không đeo đồng hồ. Hắn biết chắc hắn c̣n nhiều th́ giờ, ít nhất là 15 phút để thi hành phận sự. Hắn lấy chân đạp vào chiếc cần sắt của chiếc Vespa, kéo ngược chiếc Vespa lên và dựng chiếc Vespa ngay trước cửa bar. Hắn chưa kịp bỏ đi, th́ người cảnh sát đứng bên kia đường thổi c̣i và ngoắc tay làm hiệu cho hắn phải dắt chiếc xe đi chỗ khác. Hắn đâm ra lúng túng, và trong lúc hạ cần xe xuống, hắn làm đổ chiếc Vespa. Hắn h́ hục dựng chiếc Vespa lên. Người cảnh sát bên kia đường lại thổi c̣i. Hắn đâm ra hốt hoảng. Chiếc Vespa trở nên quá nặng đối với hắn. Hắn sẽ phải dựng chiếc xe lên. Hắn sẽ phải dắt chiếc xe đi chỗ khác. Và hắn chợt nhớ tới quả ḿn. Quả ḿn sẽ nổ banh xác hắn. Hắn không kịp nghĩ thêm ǵ nữa. Hắn rầm chạy. Hắn chạy ngược về phía tiệm sơn mài Thành Lễ. Mấy người cảnh sát bên kia đường rút súng, huưt c̣i đuổi theo. Và hắn đă bị bắt. Khoảng 20 phút sau, nhân viên cảnh sát lục soát chiếc xe Vespa và đă t́m thấy quả ḿn. Theo phúc tŕnh của cảnh sát, th́ bộ phận nổ chậm bị hư, nếu không, quả ḿn đă nổ vào lúc 5 giờ 50 phút, nghĩa là lúc hắn đang lúng túng với chiếc xe Vespa. Theo hồ sơ, hắn nhận hết tội, tại nha CS cũng như tại An Ninh Quân Đội, và không một lần nào phản cung. Hắn có vợ và một đứa con trai 10 tháng.
Tôi đọc hồ sơ rất chậm, chờ đợi ở hắn một phản ứng, một cử chỉ, một lời nói. Nhưng tôi đă đọc hết ḍng chót, mà hắn vẫn ngồi im, mặt cúi gầm xuống đất. Có lẽ hắn không nghe tôi đọc.
Tôi muốn hỏi hắn về những điểm trong hồ sơ, nhất là về tên Tư nào đó. Nhưng nhân viên nhà lao đă bước vào cho tôi biết chỉ c̣n đúng 5 phút với hắn. Tôi nh́n ra ngoài, thở dài. Vạt sân đă hết nắng. Khi xốc hồ sơ bỏ vô cặp, tôi vô ư làm rớt tấm ảnh của thằng con trai tôi mới được 8 tháng. Tôi chợt nhớ ra: hắn cũng có một đứa con trai trạc tuổi đó. Tôi liền hỏi: " Từ ngày em bị bắt, em đă gặp con chưa? ". Hắn nh́n tôi rất nhanh, đôi mắt vụt trở nên khẩn thiết. Tôi lại hỏi: " Em có muốn gặp vợ con em không? ". Hắn túm tím miệng, nuốt nước bọt cái ực, rồi nói một cách vội vàng: " Ông có giúp tôi được không? ". Tôi gật. Lúc đó hắn mới cho tôi biết: theo lời khuyên của tên Tư, một tuần trước khi đặt chất nổ, hắn đă cho vợ con về sống với quê ngoại ở Mỏ Cày. Hắn hy vọng vợ hắn đọc báo đă biết tin hắn bị bắt và đă đem con lên Sài G̣n ở với người chú. Hắn cho tôi hai địa chỉ ở miệt Cầu Ông Lănh, và xin tôi làm mọi cách để vợ con hắn vào thăm hắn trong tù. H́nh như hắn muốn nói nhiều nữa, nhưng nhân viên nhà lao đă bước vào đem hắn đi. Hắn bỗng nắm chặt bàn tay tôi, cánh tay run run. Hắn nh́n tôi, và tôi thấy mắt hắn ướt.
Chiều hôm ấy, khi ra khỏi nhà lao, tôi lái xe thẳng đến khuôn viên nhà thờ Đức Bà, gửi xe cho một đứa bé, rồi thuê xích lô đạp về chợ Cầu Ông Lănh. Tối mịt, tôi mới ra về. Tôi không t́m thấy vợ con hắn.
Trưa hôm sau, tôi viết hai lá thư, một cho người chú, một cho vợ hắn, báo tin ngày ṭa xử và nhắn vợ hắn đến văn pḥng tôi để làm thủ tục xin giấy đi thăm nuôi chồng. Kư xong bức thư, tôi vào nhà lao báo cho hắn biết về cuộc t́m kiếm của tôi. Nhưng tôi không được gặp hắn: hắn đă bị trả về An Ninh Quân Đội để bổ túc hồ sơ. Từ hôm đó đến ngày xử, tôi không có dịp gặp hắn nữa.
Hôm ṭa xử, tôi đi rất sớm. Mới 8 giờ sáng tôi đă có mặt ở bến Bạch Đằng. Khi lái xe vào cổng ṭa án Mặt Trận, tôi thấy một thiếu phụ ôm con ngồi nép ở lối đi, bên cạnh một cái lẵng mây. Không hiểu sao tôi nghĩ đó là vợ hắn. Tôi đỗ xe trong sân ṭa án, rồi đi bộ ra cổng gặp người thiếu phụ. Tôi hỏi ngay: " Chị là vợ anh Đang? ". Thiếu phụ gật. Tôi hỏi: " Chị được tin hôm nào? ". Thiếu phụ cho biết: khi đọc báo biết tin chồng bị bắt, chị muốn lên Sài G̣n ngay, nhưng v́ đứa con đau nặng, nên ông bà già không cho đi. Cách đây bốn hôm, chị nhận được thư của người chú báo tin ngày ṭa xử, vả lại đứa con cũng đă gần hết bịnh, nên ông bà già cho đi.
Tôi nh́n đứa bé nằm ngủ trong ḷng mẹ. Da nó xanh mét. Thỉnh thoảng nó cựa ḿnh rên khe khẽ, người mẹ lại vỗ nhẹ lên người nó để ru. Chị ta hỏi tôi: " Thưa ông, liệu ảnh có việc ǵ không? ". Tôi không t́m được câu trả lời. Tôi nh́n đứa bé rồi hỏi: " Cháu được mấy tháng? ". Chị ta trả lời: " Con sanh cháu được 10 tháng th́ ảnh bị bắt ".
Bỗng có tiếng c̣i hụ và tiếng người nhốn nháo. Tôi nh́n về phía đường Bạch Đằng. Một chiếc xe nhà binh đang trờ tới. Đó là xe chở tội nhân. Những người đứng dưới đường vội vàng dạt ra hai bên để cho xe quẹo vào cổng ṭa án. Khi chiếc xe đi ngang qua, tôi nh́n thấy hắn, và người vợ cũng nh́n thấy chồng. Chị ta vội vă đứng lên, một tay xách chiếc lẵng mây, một tay ôm con, lễ mễ chạy vào trong sân ṭa.
Đoàn tội nhân đă xuống khỏi xe, đứng xếp hàng giữa sân ṭa. Hắn đứng ở hàng chót, ngơ ngác nh́n quanh như t́m kiếm. Vợ hắn gọi lớn: " Anh hai, em và con đây nè ". Hắn quay mặt về phía tiếng gọi, và khi trông thấy vợ hắn, hắn giơ hai tay bị c̣ng lên như muốn ôm gh́ một h́nh bóng. Vợ hắn đứng cách xa hắn chỉ một khoảng sân nhỏ. Chị ta bỏ chiếc lẵng mây xuống đất, ôm con xăm xăm chạy về phía hắn. Nhưng người lính đă ngăn chị ta lại, rồi ra lệnh cho đoàn tội nhân đi vào hành lang. Đây là một lối đi lộ thiên, nằm giữa hai bức tường của hai dăy nhà quay lưng vào nhau. Người ta dùng chỗ đó để tạm giữ tội nhân, trong khi chờ ṭa gọi tội nhân ra trước vành móng ngựa.
Hắn ngồi hàng chót, nép vào chân tường. Tay hắn đă được mở c̣ng. Vợ hắn lễ mễ ôm con lại gần. Người lính định cản lại, nhưng thấy tội nghiệp, nên đă để cho đi qua.
Tôi chỉ kịp trông thấy người đàn bà ngồi thụp xuống đất bên cạnh người chồng rồi khóc nức nở. Hắn không khóc, mở to mắt nh́n về trước mặt, một tay để lên vai vợ, một tay vuốt tóc con. Lúc sau người vợ lấy vạt áo lau nước mắt, rồi lấy ở trong lẵng ra một xị nước ngọt đựng trong túi nylon đưa cho chồng: " Anh uống đi cho đă khát, em có mua cho anh ổ bánh ḿ thịt ở trong lẵng ". Hắn rời tay khỏi vai vợ, đỡ lấy túi nước ngọt đưa lên môi, nhưng tay kia vẫn sờ trên ḿnh đứa con, đôi mắt dịu hẳn xuống. Trong một lúc t́nh cờ, hắn ngẩng đầu lên. Hắn nh́n thấy tôi đứng bên kia tường. Tôi giơ tay làm hiệu chào hắn.
Chỉ c̣n độ một hai giờ nữa, ṭa sẽ kêu đến vụ hắn. Tôi muốn nói chuyện với hắn. Nhưng tôi không nỡ làm bận rộn cuộc xum họp mà tôi linh cảm là cuộc xum họp lần chót. Tôi thở dài ái ngại, rồi bỏ đi ra phía sân ṭa. Thời gian như chậm lại. Hắn, con hắn, vợ hắn, lởn vởn trong đầu tôi. Làm thế nào để cứu hắn khỏi chết? Làm thế nào để ṭa án hiểu rằng: hắn, cũng như Nguyễn Văn Trỗi, cũng như bao thanh thiếu niên khác, chỉ là nạn nhân đáng thương của một hệ thống đểu cáng và vô nhân đạo nhất lịch sử loài người.
Măi mười một giờ trưa, ṭa mới kêu đến tên hắn. Hắn từ hành lang đi ra, bên cạnh hai người lính. Vợ hắn lễ mễ ôm con theo từ đằng xa, rồi ngồi xuống một chiếc ghế cuối pḥng xử. Pḥng xử hôm đó đông nghẹt dân chúng. Bên ngoài, trời oi ả như sắp có cơn dông.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1354928&stc=1&d=1553477840
Trần Văn Đang trước vành móng ngựa (h́nh: AP)
Trước vành móng ngựa, hắn nhỏ bé và non nớt hơn cái hôm tôi gặp hắn trong nhà lao. Da hắn xanh mướt, và nét mặt thản nhiên. Tôi đến bên hắn, hắn quay lại nh́n tôi một thoáng rồi lại nh́n thẳng đàng trước mặt. Không khí nặng nề. Cả pḥng xử im lặng. Ông chánh thẩm hỏi lư lịch, rồi truyền cho hắn trở về ghế bị can để nghe bản cáo trạng. Tôi cũng từ vành móng ngựa đi theo xuống ngồi bên cạnh hắn. Hắn xích lại gần, như để tỏ ḷng biết ơn. Viên lục sự bắt đầu đọc bản cáo trạng, tiếng ông ta vang lên đều đều. Cả ṭa, từ ông chánh thẩm, ủy viên chính phủ, đến công chúng ngồi dưới, đều lắng tai nghe. Chỉ có hắn là không. Hắn nh́n đăm đăm đàng trước mặt, như đang suy nghĩ. Có lẽ hắn nghĩ tới vợ con hắn. Một lần, tôi chợt thấy hắn quay đầu lại nh́n xuống cuối pḥng xử, như muốn t́m xem vợ con hắn ngồi ở đâu. Bỗng nhiên, mặt hắn biến sắc, tay hắn run run, đầu cúi rầm xuống.
Viên lục sự đă đọc xong bản cáo trạng. Hắn rời ghế bị can, rồi cùng tôi bước lên vành móng ngựa.
Ông chánh thẩm hỏi: " Anh đă nghe bản cáo trạng. Anh bị cáo về tội phản nghịch và mưu sát. Anh có nhận tội không? ". Hắn gật đầu.
- Anh có thể kể lại cho ṭa nghe tất cả sự việc từ đầu đến cuối không?
Hắn nh́n ông chánh thẩm, nh́n bồi thẩm đoàn, nh́n ủy viên chính phủ, nh́n tôi, rồi lắc đầu.
Ông chánh thẩm lại hỏi: " Có phải anh đă đỗ chiếc Vespa trước cái bar Mỹ? ". Hắn gật.
- Anh có biết chiếc Vespa có chất nổ không?
Hắn gật.
- Anh đỗ chiếc Vespa trước cửa bar, để phá cái bar đó, có phải không?
Hắn gật.
- Tên Tư bao nhiêu tuổi, vóc dáng như thế nào?
Hắn đứng im không trả lời.
Ông chánh thẩm nh́n tôi, tôi nh́n ông ta. Một bên ở vào cái thế khó xử, một bên ở cái thế khó căi. Đại tá Ủy viên Chính Phủ bỗng quát lớn: " Tại sao bị can không trả lời? ". Hắn ngước mắt nh́n ủy viên chính phủ, rồi đứng im như pho tượng.
Khi ṭa trao lời cho ủy viên chính Phủ chính thức đặt câu hỏi, th́ ủy viên chính phủ nhún vai, như muốn nói với ṭa rằng ông không có ǵ để hỏi một bị can chỉ biết gật với lắc đầu. Nhưng chỉ một vài giây sau, ông nói như hét: " Thằng Tư, tên thật nó là ǵ. Địa chỉ nó ở đâu? ". Hắn lại nh́n ủy viên chính phủ rồi im lặng. Một lần nữa, ủy viên chính phủ lại nhún vai và làm cái cử chi quen thuộc để ṭa hiểu rằng ông ta không c̣n ǵ để hỏi nữa.
Đến lượt tôi đặt câu hỏi. Tôi hỏi hắn: " Khi bị lấy cung tại nha CS và An Ninh Quân Đội, em có bị tra tấn hoặc bị hăm dọa không? ". Hắn lắc đầu. Tôi lại hỏi: " Em có hối hận v́ đă trót nghe lời dụ dỗ của tên Tư không? ". Hắn cúi gầm mặt xuống lắc đầu.
Tôi đă đưa ra hai cây sào để cứu hắn. Không ngờ hắn đă từ chối không nắm lấy và h́nh như c̣n thích thú để cho nước cuốn trôi đi. Nước mắt người vợ và t́nh thương con đă không làm hắn thay đổi. Một đời luật sư, tôi từng ngang dọc trong những vụ kiện lớn của chế độ, nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy ḿnh bất lực như hôm nay.
Ủy viên Chính Phủ đứng lên buộc tội. Trong 15 phút hùng biện, ông gay gắt lên án bị can. Ông nhấn mạnh đến trường hợp quả tang phạm pháp, đến bản chất của tội trạng (phản nghịch và mưu sát) và sự ngoan cố của bị can. Ông kết luận: " Trong cuộc đấu tranh chống lại bọn cộng sản " kẻ thù của dân tộc " chúng ta cần phải nghiêm trị những bọn phá hoại, những tên cán bộ nằm vùng, những tên đặc công khủng bố giết người không gớm tay. Nếu hôm đó quả ḿn nổ, bao nhiêu dân chúng qua đường đă bị chết thảm, bao nhiêu người dân vô tội đă bị què cụt đui mù... ". Ông yêu cầu ṭa lên án tử h́nh. Ṭa trao lời cho tôi. Trách nhiệm của tôi quá lớn, và nhiệm vụ của tôi quá khó khăn. Tôi biện hộ cho một bị can phạm tội phản nghịch và mưu sát với trường hợp gia trọng. Bị can ấy nhận tội tại nha CS, tại An Ninh Quân Đội, và trước ṭa án. Bị can ấy từ đầu đến cuối không lúc nào phản cung. Bị can ấy từ chối không trả lời ṭa án, không trả lời ủy viên chính phủ, không trả lời luật sư. Bị can ấy im lặng tuyệt đối, như để bảo mật cái tổ đặc công giết người của hắn, theo một mệnh lệnh... Giọng tôi trầm trầm. Tôi nói, h́nh như không phải cho ṭa nghe, mà cho chính tôi nghe. Tôi nói, để cố trả lời cho những câu hỏi mà chính tôi đang thắc mắc. Tại sao hắn không có một lời để tự bào chữa? Tại sao hắn đă nhận tội một cách thản nhiên, và không một lần nào phản cung, trong hồ sơ cũng như trước ṭa án? Hắn là một tên đặc công bị bắt quả tang trong khi đặt chất nổ, chắc chắn hắn đă bị tra tấn của công an trong khi lấy cung. Tại sao hắn không nói điều ấy ra trước ṭa? Và tên Tư? Tên Tư là ai? Tại sao hắn lại im lặng không chịu cung khai về tên Tư? Tại sao hắn lại từ chối không trả lời những câu hỏi có lợi cho hắn?
Không ai muốn chết. Không ai muốn bị hành h́nh. Không ai muốn bị đập chết như một con chó ở góc tường, như những nhân vật trong tiểu thuyết Kafka. Huống chi, hắn mới 21 tuổi, có vợ, có con, và thương vợ thương con. Thế th́ tại sao hắn lại im lặng? Chỉ có một câu trả lời. Hắn bị quyến rũ phạm tội ác, và sau khi bị bắt, hắn vẫn bị theo rơi. Hắn sợ vợ con hắn bị trả thù, hắn đă phải im lặng, tuyệt đối im lặng. Biết đâu trong pḥng xử hôm nay, lại không có tên Tư nào đó đang ngồi theo rơi hắn. Hướng về phía ông Ủy viên Chính Phủ, tôi nói như tâm sự: " Tôi đồng ư với ông là chúng ta, những người quốc gia, phải thẳng tay trừng trị, nếu cần, phải giết những tên đặc công gian manh, những tên cán bộ khát máu, những tên đặc công giết người không gớm tay. Nhưng trong hiện vụ, tôi không nghĩ bị can là một tên cộng sản gian manh, một tên cán bộ khát máu, một tên giết người không gớm tay. Và đây là điểm cực kỳ quan trọng: quả ḿn hôm ấy đă không nổ ".
Kết luận, tôi yêu cầu ṭa khoan hồng. Bị can mới hai mươi mốt tuổi, chưa hề can án, có vợ c̣n trẻ và con c̣n nhỏ, v́ vậy đáng được hưởng sự khoan hồng của luật pháp.
Sau lời biện hộ của tôi, ṭa hỏi hắn: " Luật sư đă biện hộ cho anh rồi. Anh có quyền nói lời chót. Anh muốn nói ǵ không? ". Hắn lắc đầu. Ṭa ngưng xử, bước vào pḥng để nghị án. Khoảng một giờ sau, ṭa trở lại tuyên án: tử h́nh. Lập tức, hắn bị c̣ng tay mang đi. Lúc đó, đă quá trưa, những đám mây đen từ đâu kéo về bao kín cả một góc trời đă mất ánh sáng. Dân chúng kéo nhau ra về. Tôi xách cặp đi ra xe như người mất hồn. Khi lái xe qua cổng ṭa án, tôi thấy vợ hắn ôm con ngồi khóc. Tôi về văn pḥng, viết đơn xin ân xá cho hắn. Đây chỉ là thủ tục ṭa án, nhưng tôi đă làm với tất cả sự cẩn trọng của một lễ nghi tôn giáo. Tôi muốn cứu hắn khỏi chết. V́ nhân đạo. V́ nghề nghiệp. Và cũng v́ trường hợp cá biệt của hắn.
Hắn khác Nguyễn Văn Trỗi. Nguyễn Văn Trỗi khóc lóc van xin trước ṭa, và sau khi bị ṭa lên án tử h́nh, Trỗi đă hô lớn " Hồ Chí Minh muôn năm ". Hô xong lại khóc, lại van xin. C̣n hắn, hắn nín thinh. Không khóc lóc, không van xin, không hô khẩu hiệu.
Hắn khác Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Hữu Thọ huênh hoang và cao ngạo trước ṭa. Hắn chịu đựng, nhẫn nhục, đến độ gần như khắc kỷ. Tôi nghĩ đến con chó sói trong bài thơ " La Mort du Loup " của thi hào Vigny.
* * *
Ba tháng đă trôi qua. Bức thư của ṭa án Mặt Trận mà trung sĩ Ân đưa cho tôi chiều hôm nay chỉ vỏn vẹn mấy ḍng chữ đánh máy: " Trân trọng báo để luật sư tường: đơn xin ân xá của Trần Văn Đang đă bị bác. Ngày mai, hồi 5 giờ sáng, bản án tử h́nh sẽ được thi hành. Nếu luật sư muốn hiện diện nơi hành quyết, th́ xin có mặt tại khám Chí Ḥa vào lúc 4 giờ sáng. Trân trọng ".
Suốt đêm, tôi trằn trọc không ngủ, đầu óc lởn vởn khuôn mặt của hắn, và h́nh ảnh của hắn ngồi trong hành lang ṭa án, một tay để lên vai vợ, một tay sờ lên ḿnh đứa con. Chưa đầy 3 giờ sáng, tôi đă thức dậy, đi vào khám Chí Ḥa. Tôi bước vào pḥng đợi, đă thấy một nhà sư gầy g̣ mặc nâu ṣng đang ngồi lần chuỗi hạt. Viên quản đốc nhà lao cho tôi biết: nhà sư đă đến trước tôi cả nửa giờ. Lát sau, một linh mục béo tốt bước vào, trong bộ quân phục thiếu tá tuyên úy. Bốn giờ ba mươi phút, ủy viên chính phủ đến. Rồi đoàn người, gồm viên quản đốc nhà lao, ủy viên chính phủ, luật sư, và hai vị tuyên úy, lặng lẽ đi vào một căn pḥng rộng. Thường nhật, đây là chỗ điểm danh tội nhân. Hắn đă ngồi đó từ bao giờ, bên cạnh cái bọc quần áo. Ánh sáng vàng bệch của ngọn đèn cáu bụi trên trần nhà phả xuống bốn bức tường trắng xóa. Tôi chợt có ư nghĩ kỳ lạ là đang bước vào căn nhà xác của bệnh viện. Đoàn người tiến lại gần hắn. Hắn đứng dậy, đôi mắt như ḍ hỏi. Một phút im lặng, dài như một ngày. Đại tá ủy viên chính phủ trịnh trọng nói với hắn: " Anh hăy cam đảm lên, và nghe tôi đọc ". Rồi ông lớn tiếng đọc bản án tử h́nh và bản quyết định bác đơn xin ân xá của hắn. Hắn cúi đầu nh́n xuống sàn nhà, đôi mắt mở to. Người hắn run lên. Nhưng chỉ giây lát, hắn lấy lại b́nh tĩnh. Hắn hỏi: " Bao giờ người ta xử tôi? ". Viên quản đốc nhà lao để tay lên vai hắn: " Ngay sáng hôm nay, trước khi mặt trời mọc ". Rồi ông thân mật nói với hắn: " Bây giờ em muốn ăn uống ǵ không, khám đường sẽ chu tất cho em ? ". Hắn lắc đầu.
Lúc đó, không ai bảo ai, mỗi người nói với hắn một vài câu an ủi. Không khí trở nên thân mật và âu yếm như trong một cuộc tiễn đưa. Riêng tôi chỉ nh́n hắn, tôi muốn nói chuyện riêng với hắn; đó là quyền của tôi, quyền của luật sư biện hộ. Ủy viên chính phủ đồng ư, và cho tôi biết: tôi có 5 phút. Rồi đoàn người bước ra khỏi pḥng, để một ḿnh tôi với hắn. Người cuối cùng đă bước ra khỏi pḥng. Hắn nắm lấy tay tôi, và nh́n tôi rất lâu, đôi mắt ướt sũng. Tôi hỏi: " Em có muốn nói nhắn với vợ em điều ǵ không? ". Hắn suy nghĩ giây lát, rồi nói: " Em bị chúng nó lừa. Luật sư có gặp vợ em, th́ bảo đừng ở dưới vườn nữa, và nuôi lấy con ". Tôi hỏi: " Em chết, có điều ǵ oán hận không? ". Hắn không trả lời. Tôi an ủi hắn: " Người ta, ai cũng phải chết một lần, đời sau mới là quan hệ. Em theo đạo nào? ". Tôi là người Công giáo. Tôi ước ao hắn dành một vài phút để nghĩ đến Thượng Đế và t́nh thương bao la của Người. Nhưng ủy viên chính phủ đă bước vào nói nhỏ: " Luật sư hết giờ rồi ". Rồi ông thân mật hỏi hắn: " Ở đây có hai vị tuyên úy em muốn nói chuyện với ai? ". Hắn nh́n nhà sư mặc áo tu hành, hắn nh́n vị linh mục mặc quân phục thiếu tá, rồi xin được nói chuyện với nhà sư. Tôi cúi đầu theo ủy viên chính phủ và vị linh mục đi ra một góc pḥng. Nh́n về phía hắn, tôi thấy nhà sư cúi đầu tụng kinh, và hắn cũng cúi đầu như lắng tai nghe kinh. Khoảng khắc, nhà sư ngẩng đầu lên, đặt tay lên vai hắn, trong một cử chỉ vỗ về bao dung. Lúc đó, đồng hồ trên tường chỉ đúng 5 giờ sáng, giờ khởi hành. Người ta xúm lại chung quanh hắn, mỗi người nói với hắn một câu chân t́nh. Hắn như chợt nhớ ra, xin phép được thay quần áo. Một cảnh sát viên chạy lại cầm cái bọc quần áo đưa cho hắn. Hắn mở bọc, lấy ra một chiếc sơ mi cụt mầu xám, và một chiếc quần vải dragon đen đă bạc mầu. Khi hắn quay mặt vào tường để thay quần áo, tôi nh́n thấy những lằn roi trên da thịt xanh xao của hắn. Thay xong quần áo, hắn xin một điếu thuốc. Viên quản đốc nhà lao mỉm cười, rút trong túi ra một bao thuốc lá Ách Chuồn. Ông ta trịnh trọng lấy ra một điếu, dộng dộng trên ngón tay cái, rồi đưa cho hắn. Hắn ngậm điếu thuốc, và được viên quản đốc châm lửa. Lúc đó, nhân viên an ninh đến. Hắn ngoan ngoăn đưa hai tay chụm ra đằng trước để người ta c̣ng. Rồi đoàn người lặng lẽ đi ra. Hắn đi đầu, thản nhiên bước qua từng đợt cửa, thỉnh thoảng dùng hai tay c̣ng đưa điếu thuốc lên môi. Khi đoàn người ra tới sân nhà lao, điếu thuốc gần lụi, và hắn buông rơi xuống đất. Hắn bước lên chiếc xe bít bùng, đầu hơi cúi xuống. Cửa xe đóng sập lại. Tôi lên xe riêng, lái thật nhanh ra khỏi nhà lao.
Chiếc xe của tôi lầm lũi đi trong đêm, ánh đèn pha chiếu dài cả con đường Ḥa Hưng, rồi đường Lê Văn Duyệt. Thành phố Sài G̣n đang trở ḿnh thức giấc, một vài gánh hàng đi nép bên lề đường. Và đó đây, có tiếng động cơ quen thuộc của những chiếc xe Lam dậy sớm. Tới bùng binh chợ Bến Thành, tôi đă thấy một đám đông bu quanh vùng ánh sáng của pháp trường cát. Những phóng viên ngoại quốc chạy nhốn nháo, với máy ảnh và máy quay phim. Cảnh sát chận xe tôi lại. Khi nh́n thấy chiếc áo đen của tôi, họ dẹp đám đông cho xe tôi tiến vào. Tôi đỗ xe sát chân tường Nha Hỏa Xa, cách pháp trường cát độ 30 thước. Những ngọn đèn pha cực mạnh đă được đặt tại đó chiều hôm trước. Tất cả đều chiếu vào pháp trường cát, tạo nên một vùng ánh sáng rợn người. Một chiếc cọc đen đứng cô đơn, đằng sau là những bao cát chất thành ṿng cung. Cách đó 3 thước, là chiếc quan tài đậy nắp, trên nắp có một tấm vải trắng. Xa nữa là chiếc xe chữa lửa.
Tôi đứng trong ṿng ánh sáng chưa được 10 phút th́ nghe tiếng c̣i hụ. Người ta chạy nhốn nháo. Tôi háy mắt nh́n về phía tiếng c̣i hụ, th́ thấy đoàn xe chở tội nhân đang tiến tới. Chiếc xe bít bùng đỗ lại bên lề đường. Lát sau hắn bước xuống khỏi xe. Tôi vội choàng lên người chiếc áo đen, chạy ra với hắn. Hắn và tôi đi đầu, theo sau là đoàn áp giải. Hắn bước đều đều, mặt cúi xuống đất. Dân chúng bu nghẹt chung quanh, chỉ chừa một lối đi được ngăn giữ bằng hàng rào an ninh. Bây giờ chúng tôi đă bước vào vùng ánh sáng. Hắn bỗng ngửng đầu lên, và đứng khựng lại. Người lính đằng sau lấy tay đẩy nhẹ vào lưng hắn, hắn lại tiếp tục bước đi. Tôi đoán chiếc quan tài và chiếc khăn liệm đă làm hắn khựng lại. H́nh ảnh trung thực của chiến tranh không được t́m thấy ở chiến trường " da ngựa bọc thây ", mà được t́m thấy trong các bệnh viện, nơi đó có những h́nh hài cụt chân cụt tay, những đống thịt bầy nhầy, những hố mắt sâu thẳm, những cuốn băng bê bết máu, và những tiếng rên rỉ đau đớn. Và h́nh ảnh trung thực của cái chết vẫn là chiếc quan tài, tấm khăn liệm và những người thân yêu tiễn đưa. Bây giờ, hắn và tôi đă bước vào trong ṿng những bao cát. Người ta mở c̣ng, rồi giữ gh́ lấy hai cánh tay hắn, đẩy hắn dựa lưng vào chiếc cọc sắt. Hai cổ chân hắn bị cột chặt vào thân cọc, hai cánh tay hắn bị kéo ngược ra đằng sau, cột ngược vào một cái cọc ngang. Chiếc cọc ngang này hơi cao, hắn phải kiễng chân lên. Hắn nhăn mặt kêu đau. Tôi nói với viên sĩ quan: " Đằng nào tội nhân cũng sắp chết, ông nên cho hạ thấp chiếc cọc ngang xuống, kẻo máu bị ngừng ở nơi nách, tội nghiệp ". Viên sĩ quan gật đầu, hạ thấp chiếc cọc ngang xuống. Hắn nh́n tôi, và lần đầu tiên hắn nói: " Cám ơn luật sư ". Lúc đó, đội hành quyết đă sắp hàng chỉnh tề, chỉ c̣n đợi sĩ quan Quân Trấn Trưởng của Quân khu Sài G̣n đến là khởi sự. Một phút, hai phút, rồi ba phút... Cả pháp trường im lặng, trong sự đợi chờ và trong ánh sáng chói chang.
Chỉ c̣n ḿnh tôi đứng bên cạnh hắn. Hắn bỗng trăn trối: " Em đă bị chúng nó lừa. Luật sư nhớ bảo vợ em đừng ở dưới vườn, đừng nghe theo chúng nó và gắng nuôi con ". Tôi gật đầu. Hắn nấc lên: " Con ơi, Cảnh ơi, Cảnh ơi ". Tiếng nấc của hắn làm tôi mủi ḷng. Tôi để tay lên vai hắn, định an ủi, nhưng cổ họng bị tắc nghẽn. Tôi chợt nghĩ đến linh hồn hắn. Tôi th́ thầm bên tai hắn: " Em hăy ăn năn hối cải, và cầu xin Chúa giúp em chết lành. Em chết, nhớ phù hộ cho vợ con em ". Hắn lại nấc lên: " Con ơi, con ơi, Cảnh ơi, Cảnh ơi ". Lúc đó, có tiếng c̣i hụ. Quân Trấn Trưởng đến. Đội hành quyết đứng nghiêm. Người ta bịt mắt hắn. Hắn vẫn nấc, vẫn gọi tên con. Có tiếng lên đạn đàng sau lưng tôi. Ủy viên chính phủ nói lớn: " Xin ông luật sư đứng tránh xa ra một bên ". Tôi đi giật lùi ngang về phía bên trái, mắt không rời hắn. Miệng hắn vẫn lắp bắp gọi tên con. Một tiếng hô. Một loạt đạn nổ. Đầu hắn ngoẹo xuống, gục về bên trái. Máu từ trong người hắn chảy róc xuống đùi, xuống chân, rồi ḅ ngoằn ngoèo trên lề đường. Viên đội trưởng hành quyết tiến lại, nắm tóc kéo ngược đầu hắn về phía sau, dí khẩu súng lục vào màng tang bên trái của hắn, bắn phát súng ân huệ. Một tiếng " đẹt " khô khan. Người ta vội vàng liệm xác hắn, và chiếc ṿi nước của chiếc xe chữa lửa vội vă phụt sạch những vết máu trên lề đường. Phương Đông, chân trời đă bắt đầu hừng đỏ.
Tối hôm đó, đài phát thanh Hà Nội mặc niệm hắn, hết lời ca tụng cái chết anh hùng của hắn. Đài phát thanh Hà Nội nói rơ ràng: từ lúc bị trói vào cọc cho đến lúc bị hành quyết, hắn đă noi gương anh hùng Nguyễn Văn Trỗi, không ngớt đả đảo Mỹ Ngụy và hô to khẩu hiệu " Hồ Chí Minh muôn năm ".
Nguyễn Văn Chức
Chú thích (của luật sư Nguyễn Văn Chức):
Dưới đây là những chi tiết liên quan đến vụ Trần Văn Đang. Bị can sinh năm 1942 tại Vĩnh Long, bị bắt ngày 30 tháng 3 năm 1965 trong khi đặt chất nổ, bị đem ra ṭa án Mặt Trận hai tuần sau, và bị bắn tại pháp trường cát bùng binh chợ Bến Thành sáng ngày 21 tháng 6 năm 1965.
Chánh thẩm xử án là đại tá Phan Đ́nh Thứ (tức Lam Sơn), linh mục tuyên úy Công giáo tên Thông, nhà sư tuyên úy Phật giáo là đại đức Sĩ. Quân Trấn Trưởng là đại tá Giám.
Nguyễn Văn Trỗi bị bắt ngày 9 tháng 5 năm 1964, trong lúc đặt bom ở gầm cầu Công Lư, chờ ám sát phái đoàn của Bộ trưởng Quốc pḥng Hoa Kỳ Mc Namara. Y bị toà án Vùng 3 Chiến Thuật xử tử h́nh. Trước toà, y khóc lóc, chửi bọn xúi y đi ôm bom là bọn " chó đẻ ", và xin toà tha tội. Khi toà tuyên án tử h́nh, y hô to Hồ Chí Minh muôn năm. Hô xong y lại khóc và xin toà tha.
Năm 1993, tôi (luật sư Nguyễn Văn Chức) có đọc cuốn "Chung Một Bóng Cờ" do nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia (Hà Nội) ấn hành, gồm những bài viết của Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Văn Đồng... Cuốn sách đă dành một trang để nói về cái chết của Anh Hùng Trần Văn Đang. Xin trích một vài ḍng cuối: " Sáng ngày 21 tháng 6 năm 1965 lúc 5 giờ 52 phút, Mỹ và chính quyền Sài G̣n đem anh ra xử bắn tại pháp trường cát, với hy vọng có thể khủng bố được tinh thần nhân dân Sài G̣n. Nhưng chúng đă lầm. Trước đông đảo đồng bào và phóng viên trong và ngoài nước đang tụ tập dọc đường Hàm Nghi và chợ Bến Thành, vừa bước xuống xe, Trần Văn Đang dơng dạc nói lớn: Hỡi đồng bào chợ Bến Thành, hỡi đồng bào Sài G̣n thân yêu, tôi là Trần Văn Đang đây, chiến sĩ giải phóng, tôi đánh Mỹ để giải phóng dân tộc... Đả đảo đế quốc Mỹ... đả đảo tập đoàn tay sai bán nước. Ngay sau khi súng đă nổ, anh vẫn không ngừng hô to Hồ chủ tịch muôn năm, đả đảo đế quốc Mỹ " (trích trong Chung Một Bóng Cờ, trang 886-887).
hoanglan22
03-27-2019, 13:17
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1356503&stc=1&d=1553692589
Diễn tiến
Trước hết tôi xin nói về diễn tiến của sự kiện lịch sử này theo lời cựu Bộ trưởng quốc pḥng McNamara và nhận định của ông (1). Nước Mỹ tiến gần tới tuyên chiến tại Việt Nam đó là vụ Nghị quyết vịnh Bắc Việt tháng 8-1964. Những biến chuyển quanh Nghị quyết này cho tới nay vẫn c̣n nhiều tranh căi mâu thuẫn.
Trước tháng 8-1964 chỉ có một số ít người Mỹ không quan tâm đến diễn tiến ở VN, chiến tranh có vẻ c̣n xa nhưng biến cố Vịnh Bắc Việt đă thay đổi cái nh́n đó. Về đoản kỳ khi tầu chiến Mỹ bị tấn công trong vịnh và nghị quyết của Quốc hội sau đó đă đưa tới khả năng Mỹ can thiệp vào cuộc chiến chưa từng có trước đây. Theo McNamara điều quan trọng hơn là chính phủ Johnson đă xin Quốc hội ra Nghị quyết này để hợp thức hóa về mặt hiến pháp mọi hoạt động quân sự của Hành pháp Mỹ tại VN từ 1965.
Quốc hội nh́n nhận quyền hạn lớn của Nghị quyết dành cho TT nhưng nó không có nghĩa như một tuyên chiến và cũng không có nghĩa đó là sự cho phép mở rộng lực lực lượng Mỹ tại VN từ 16,000 cố vấn lên 550,000 quân tác chiến. Bảo đảm sự tuyên chiến và cho phép quân tác chiến những năm sau đó chắc là không được.
Nhiều người coi chín ngày từ 30-7 tới 7-8-1964 như một giai đoạn nhiều tranh căi nhất của cuộc chiến 25 năm. Qua nhiều thập niên, đă có nhiều tranh luận về những sự kiện tại vịnh, Hành pháp tường tŕnh cho Quốc hội và người dân thế nào, xin Quốc hội quyền hành động và hai ông Tổng thống đă xử dụng quyền này qua các năm ra sao
McNamara nêu nên một số câu hỏi và tự ông trả lời như sau.
Tầu tuần duyên của Bác Việt tấn công khu trục hạm Mỹ ngày 2-8 và 4-8-1964, có thật không?
Trả lời: ngày 2-4 th́ chắc chắn không chối căi được. Ngày 9-11-1995 tại Hà Nội, McNamara có gặp gỡ và nói chuyện với Vơ nguyên Giáp, ông ta nói ngày 4-8 không có cuộc tấn công của tầu BV như người Mỹ tưởng.
Hồi đó và sau này một số vị dân cử Quốc hội và người dân Mỹ cho rằng chính phủ Johnson khiêu khích địch để có cớ leo thang chiến tranh và dùng mưu mẹo để được Quốc hội chấp thuận cho leo thang.
Trả lời: hoàn toàn không có chuyện này.
Tổng thống trả đũa, cho máy bay ném bom bốn căn cứ tầu tuần duyên và một kho nhiên liệu, như thế có đúng không?
Trả lời: có thể.
Những biến cố tại vịnh BV có liên hệ tới hai chiến dịch riêng rẽ của Mỹ trước đây: Kế hoạch 34A và DESOTO.
Từ tháng 1-1964 Hội đồng an ninh quốc gia đă chấp nhận cho CIA yểm trợ miền nam VN những hoạt động bí mật chống phá BV, mật danh 34A gồm hai hoạt động trước hết thả biệt kích ra Bắc, thứ hai dùng tầu tuần duyên nhỏ, tốc độ cao do người Việt hoặc Mỹ lái đánh phá bờ biển hoặc hải đảo BV những nơi được coi là xuất phát xâm nhập, yểm trợ VC tại miền nam, đánh rồi chạy (hit and run).
DESOTO là một phần của hệ thống thám thính toàn cầu bằng điện tử do những tầu hải quân Mỹ chạy ngoài hải phận quốc tế. Những tầu này thu lượm những tín hiệu của radar, những truyền tin từ các trạm trên bờ các nước CS như Nga, Trung cộng, Bắc Hàn, Bắc Việt cũng giống như Nga dùng tầu lưới cá tại bờ biển Mỹ.
Tối 30-7 -1964, tầu tuần duyên của VNCH tấn công hai hải đảo thuộc vịnh BV được cho là dùng để yểm trợ xâm nhập miền nam VN. Sáng hôm sau khu trục hạm Mỹ Maddox đi vào vịnh (chiến dịch DESOTO ) rất xa các đảo. Hai ngày rưỡi sau tức 2-8 lúc 3 giờ 40 (giờ VN, tức 3 giờ 40 sáng Mỹ) tầu Maddox báo cáo bị những tầu tuần duyên cao tốc đuổi theo, một lúc sau bị tấn công bằng ngư lôi và súng tự động nhưng Maddox không bị trúng đạn hoặc hư hại. Thủy thủ lấy được những mảnh đạn trên boong tầu mà McNamara yêu cầu gửi cho ông làm bằng chứng. Trong quân sử của BV, họ xác nhận đă đưa ra lệnh tấn công Maddox, khi biến cố sẩy ta khu trục hạm này nằm ở hải phận quốc tế, cách bờ biển BV hơn 25 dặm.
Lúc 11:30 sáng (2-8) Tổng thống Johnson họp các cố vấn để nghiên cứu t́nh h́nh. Mọi người tin là do cấp chỉ huy địa phương BV hơn là do cấp lớn đă khởi động. Tổng thống v́ thế không trả đũa mà chỉ gửi kháng thư cho Hà Nội, ông vẫn cho tiếp tục tuần tiễu, cho thêm khu trục hạm C.Turner Joy đi kèm. Maxwell Taylor, Đại sứ Mỹ tại Sài G̣n phản đối tại sao không giáng trả BV, có thể coi như Mỹ lùi bước không dám đối đầu với CS.
Vào lúc 3 giờ chiều hôm sau Dean Rusk (bộ trưởng ngoại giao) và McNamara thuyết tŕnh cho các Thượng nghị sĩ thuộc Ủy ban ngoại vụ và Ủy ban quân sự để diễn tả chiến dịch 34A, DESOTO và tại sao Tổng thống đă không giáng trả địch. Hai ông cũng giải thích cho biết DESOTO không có ư khiêu khích BV để tầu Maddox bị tấn công, vẫn tiếp tục chiến dịch DESOTO.
Vào lúc 7 giờ sáng (7 giờ chiều VN) ngày 4-8 tầu Maddox cho biết bị tầu lạ tấn công. Một giờ sau tầu Maddox nói radar cho thấy ba tầu lạ. Hàng không mẫu hạm Ticonderoga ở gần đó đă cho máy bay tới yểm trợ hai tầu Mỹ Maddox và Turner Joy. Trời nhiều mây, có mưa băo lớn rất khó quan sát. Mấy tiếng sau hai tầu này báo cáo bị hơn hai mươi ngư lôi tấn công, thấy vệt sóng của ngư lôi, ánh đèn chiếu sáng trên boong tầu địch, súng tự động nhả đạn, radar của tầu Mỹ có báo hiệu.
McNamara cùng ông phụ tá họp với bộ tham mưu để đối phó. Mọi người đồng ư nếu báo cáo này đúng, cần trừng trị thích đáng kẻ tấn công tầu Mỹ ngoài hải phận quốc tế , v́ thế họ vội triển khai ngay kế hoạch cho máy bay từ hàng không mẫu hạm đánh phá bốn căn cứ tầu tuần duyên và và hai kho nhiên liệu. Lúc 11 giờ 40 sáng, McNamara họp với Dean, Mac (Bundy) và các Tướng khác để duyệt lại quyết định, họ tiếp tục bàn tại phiên họp tại Hội đồng an ninh QG và họp với Tổng thống. Johnson đồng ư lần này nếu được xác nhận đúng cần phải trừng trị nhanh và mạnh.
Vấn đề c̣n lại là cuộc tấn công lần thứ hai có thật không?
Như đă nói tầm nh́n khi bị tấn công đợt hai rất hạn chế, v́ thế và v́ tiếng động máy ḍ tầu ngầm thường không đáng tin lắm cho thấy báo cáo về cuộc tấn công đợt hai (4-8) không chắc chắn lắm. V́ thế McNamara cố điều tra để t́m sự thật, ông yêu cầu Trung tướng David A Burchinal liên lạc hỏi Đô đốc Sharp ở Honolulu để biết hư thực.
Lúc 1 giờ 27 chiều đại úy Herrick, người điều hành DESOTO trên tầu Maddox cho biết tin tức về việc bị tấn công bằng ngư lôi có vẻ nghi ngờ. Thời tiêt xấu ảnh hưởng radar có thể gây lên báo cáo đó, đề nghị lượng giá lại trước khi hành động. Bốn mươi phút sau Đô đốc Sharp gọi cho tướng Burchinal nói mặc dù đại úy Herrick nói thế nhưng ông vẫn tin là cuộc tấn công lần thứ hai (4-8) là có thật. McNamara gọi hỏi thẳng Sharp, ông này cho biết có vài nghi ngờ xong cũng tin có bị tấn công bằng một số ngư lôi, tầu Turner Joy báo cáo đánh ch́m ba tầu tuần duyên, Maddox báo cáo đánh ch́m một hoặc hai cái. McNamara nói khi nào biết chắc là có thật th́ sẽ trả đũa. Sharp nói có thể có và sẽ điều tra thêm.
Lúc 4 giờ 47 McNamara họp với các tham mưu trưởng duyệt các chứng cớ liên quan cuộc tấn công, có năm yếu tố cho thấy cuộc tấn công có thật. Tầu Turner Joy bị chiếu sáng khi bị bắn bằng súng tự động, một trong hai khu trục hạm thấy đèn pha trên boong tầu tuần duyên, súng pḥng không của họ đă bắn hai phi cơ Mỹ bay ở trên, đă bắt được và giải mă một bản tin của BV được biết họ có hai chiếc tầu bị bắn ch́m. Đô đốc Sharp nói có thể có tấn công ngày 4-8. Đến 5 giờ 23 Đô đốc gọi Tướng Burchinal và nói chắc chắn có tấn công các khu trục hạm Mỹ.
Lúc 6 giờ 15 chiều, Hội đồng an ninh QG họp, McNamara kể sơ chứng cớ và đề nghị trả đũa. Mọi người nhất trí hành động, Tổng thống cho lệnh máy bay thuộc Hải quân trừng phạt. Lúc 6 giờ 45 TT Johnson, Dean Rusk, Bus Wheeler (Tham mưu trưởng mới), McNamara họp với các vị Chủ tịch ủy ban Quốc hội để thuyết tŕnh sự việc, giải thích sự trừng phạt. Dean nói BV đă cố ư tấn công, ta cần trừng trị giới hạn. Tổng thống nói ông muốn đưa ra Quốc hội để xin yểm trợ cuộc chiến nếu cần, một số vị dân cử nói họ sẽ ủng hộ.
Lúc 7 giờ 22 hàng không mẫu hạm Ticonderoga và Constelletion được lệnh tấn công trả đũa. Tổng cộng có 64 phi vụ tấn công các căn cứ tuần duyên và kho dầu để trả đũa, chỉ là tấn công giới hạn.
Mấy năm sau, tháng 2-1968 Thượng viện họp xét lại chứng cớ và chỉ trích tường tŕnh của chính phủ. Năm 1972, Tordella, phụ tá giám đốc cơ quan an ninh QG kết luận bản tin nghe được của BV cho là lệnh tấn công ngày 4-8 thực ra là lệnh tấn công ngày 2-8. Cline, phụ tá giám đốc CIA 1964 trả lời một cuộc phỏng vấn năm 1984 nói thế. Phi công Stockdale, năm 1964 đă bay yểm trợ cho hai khu trục hạm Mỹ tối 4-8, sau này viết hồi kư nói tối hôm đó khi bay ngang hai khu trục hạm ông ta chẳng thấy cái tầu BV nào cả và nói chắc không hề có cuộc tấn công này.
Ngày 6-8-1964, lúc 9 giờ sáng các ông Dean, Bus, McNamara vào pḥng họp với Ủy ban Ngoại vụ và Quân sự Thượng viện để xác nhận vụ tấn công 2-8 và 4-8 và xin Thượng viện ủng hộ. Dean nhấn mạnh cuộc tấn công này không phải là biến cố riêng mà nó nằm chung trong kế hoạch xâm chiếm miền Nam và các nước Đông nam Á. Sau đó nói chi tiết hai vụ tấn công, Tướng Bus cho biết các TMT nhất trí trả đũa, đó là thích đáng.
McNamara cho rằng Quốc hội hiểu quyền hạn rộng lớn mà Nghị quyết dành cho Tổng thống, nhưng chắc Quốc hội hiểu rằng Tổng thống sẽ không dùng nó mà không tham khảo cẩn thận tường tận với Quốc hội. Hôm sau, lưỡng viện bỏ phiếu bầu ngày 7-8. Thượng Viện thông qua Nghị quyết Tonkin Gulf Resolution với tỷ lệ 88-2, Hạ viện bỏ phiếu thuận hoàn toàn 416-0, tỷ lệ chung là 99.60%.
Nhiều người chỉ trích (sau này) cho rằng chuyện Vịnh có nhiểu âm mưu giả dối, họ lên án chính phủ mong được Quốc hội ủng hộ cuộc chiến tại Đông Dương, soạn thảo một nghị quyết, khiêu khích địch gây ra biến cố để được ủng hộ, McNamara nói những chỉ trích này vô căn cứ.
Tổng thống không hề nghĩ Nghị quyết cần để đưa quân vào VN mà vài vị Tham mưu trưởng đă đề nghị từ tháng 1-1964, việc đưa quân vào cần có Quốc hội chấp thuận. Bộ Ngoại giao đă soạn một Nghị quyết từ cuối tháng năm nhưng v́ Max Taylor khuyên nên hoăn chiến dịch quân sự tới tới mùa thu. Johnson, Dean, Mac, McNamara đồng ư và đă quyết định hoăn đưa dự thảo Nghị quyết ra Quốc hội chờ khi Đạo luật Nhân quyền đă được Thượng viện chấp thuận tháng Chín.
Nhưng khi BV tấn công, Johnson thấy đó là cơ hội để được Quốc hội ủng hộ cuộc chiến chống lại âm mưu xâm lược của Hà Nội, hành động của ông cứng rắn nhưng vẫn ôn ḥa so với ứng cử viên diều hâu Goldwater của đảng đối lập.
Năm 1977, George Ball (cựu thứ trưởng ngoại giao 1964) trả lời phỏng vấn đài BBC chỉ trích chính phủ đă mở chiến dịch DESOTO khiêu khích BV để có cớ trả đũa. Ngược lại Bill Bundy (CIA, cố vấn ngoại vụ TT 1964) cũng đă nói chuyện trên BBC, ông ta phủ nhận những lời cáo buộc như trên, theo Bill t́nh h́nh lúc đó (tại VNCH) chưa tồi tệ đến nỗi phải có biện pháp mạnh. Bill nói “Không có chuyện Chính phủ cố t́nh khiêu khích để tạo ra biến cố ấy” (2)
McNamara cho rằng nếu Nghị quyết vịnh Bắc Việt đă không đưa tới sự can thiệp quân sự lớn lao tại VN th́ nó đă không gây nhiều tranh căi như vậy. Nhưng nó dùng để mở cửa cho ḍng thác lũ (đưa quân vào), McNamara nói tuy nhiên cho rằng chính phủ Johnson lừa gạt Quốc hội là sai. Vấn đề không phải là Quốc hội không nắm được khả năng của Nghị quyết mà là nhưng là không nắm được tiềm lực của cuộc chiến và chính phủ có thể đối phó với nó như thế nào. Trong phiên họp ngày 20-2-1968 để duyệt lại vấn đề này, Thượng nghị sĩ Fulbright vui vẻ từ bỏ lời đă kết án McNamara cố ư khiến cho Quốc hội sai lầm, ông nói “Tôi không bao giờ có cảm tưởng rằng tôi đă nghĩ ông cố t́nh gạt chúng tôi”, các Thượng nghị sĩ Mansfield , Claiborne Pell và Symington cũng xác nhận thế (3)
McNamara kết luận cơ bản của vấn đề Vịnh Bắc Việt không phải là sự lừa gạt nhưng nói đúng hơn là sự lạm dụng quyền hạn từ Nghị quyết. Ngôn ngữ của Nghị quyết cho Tổng thống quyền hành xử, và Quốc hội hiểu tầm vóc của quyền hạn khi họ ủng hộ tối đa Nghị quyết ngày 7-8-1964. Nhưng chắc chắn là Quốc hội không có ư định cho phép xa hơn trong việc tăng vọt từ 16,000 lính Mỹ lên 550,000 tại VN mà không tham khảo đầy đủ với Quốc hội. Nó khiến chiến tranh mở rộng lớn có nguy cơ kéo Nga, Trung Cộng vào cuộc và đă mở rộng sự can thiệp của Mỹ tại VN trong nhiều năm.
Vấn đề Quyền hạn của Quốc hội đối nghịch với quyền Tổng thống về điều động quân đội vẫn c̣n tranh căi cho tới nay. Căn nguyên của sự tranh chấp này nằm ở chỗ văn tự Hiến Pháp mơ hồ, nó trao Tổng thống quyền Tổng tư lệnh nhưng lại cho Quốc hội quyền tuyên chiến.
Những nhận định khác
Trên đây là nội dung vấn đề theo diễn tả và ư kiến của McNamara, nhân vật đóng vai tṛ then chốt trong chiến tranh VN giai đoạn 1963-1968. Tôi xin ghi thêm nhận xét và ư kiến của các chính khách và nhà nghiên cứu khác để vấn đề được nh́n thêm dưới nhiều khía cạnh. Về cuộc tấn công hai ngày 2-8 và 4-8 qua sự tường thuật của các tác giả có khác nhau về chi tiết, có thể v́ do tam sao thất bản, tôi chú trọng về ư kiến riêng của họ nhiều hơn.
Về biến cố này cựu Tổng thống Nixon nói (4) ngày 2-8 tầu tuấn duyên BV tấn công khu trục hạm Maddox tại vịnh trên bằng ngư lôi nhưng không gây thiệt hại, và sau đó ngày 4-8 họ lại tấn công hai tầu Maddox và C Turner Joy. Nhiều năm sau, các kư giả phản chiến xác định rằng cuộc tấn công 4-8 của BV không hề có, họ kết án Johnson và quân đội ngụy tạo ra để lấy cớ can thiệp vào cuộc chiến. Nixon kết luận là không có chứng cớ nào cho thấy Mỹ khiêu khích, ngay quân sử của BV cũng kể lại chuyện này.
Ông cũng nói Nghị quyết vịnh BV không phải là mưu mẹo để được rộng quyền tham chiến như một số người kết án nhưng nó là một cố gắng lương thiện để được Quốc hội yểm trợ cho việc can thiệp sâu rộng hơn mà nó buộc ta phải gánh vác. Nghị quyết của Johnson không phải là lư do người Mỹ vào VN, nó xác nhận rằng các cuộc tấn công này chỉ là một phần của chiến dịch xâm lược có hệ thống của CSBV đối với các nước láng giềng, các nước liên kết chiến đấu cho tự do. Quốc hội chấp thuận và ủng hộ quyết định của Tổng thống, với cương vị Tổng tư lệnh, bằng mọi cách đẩy lui những lực lượng gây hấn với Hoa Kỳ và pḥng ngừa những gây hấn trong tương lai.
Nixon nói “Chúng ta không lâm chiến v́ hai cuộc tấn công nhỏ ngoài khơi nhưng v́ Bắc Việt đang ra sức chiếm trọn Đông dương” (5). Nhiều người trách Johnson không xin Quốc hội tuyên chiến. Quốc hội và Ngũ giác đài không tuyên chiến v́ họ không ngờ cuộc chiến lại kéo dài như thế, Johnson tưởng là oanh tạc chiến thuật tại miền nam VN và oanh tạc giới hạn tại BV sẽ khiến Hà nội từ bỏ xâm lược, tuyên chiến có thể lôi kéo Nga Trung Cộng nhập cuộc. Johnson không muốn chiến tranh khi ông chuẩn bị ứng cử Tổng thống năm 1964. Hạ viện chỉ họp trong bốn mươi phút và đồng thuận 100% (480-0), Thượng viện bàn thảo 8 tiếng cuối cùng bầu với 88 thuận, 2 chống. Nixon nói sự kiện chứng tỏ Quốc hội đă ủng hộ vô cùng vững chắc.
Những người ủng hộ Nghị quyết về sau họ chống chiến tranh kết án Johnson lừa gạt Quốc hội để vượt quá quyền hạn của ḿnh. Nixon cho là không phải như thế, bản ghi âm cuộc thảo luận tại Thượng viện cho thấy Quốc hội tham chiến với con mắt mở to, hoàn toàn tự nguyện. Nghị quyết này không phải chỉ là căn bản hợp pháp để lâm chiến, Johnson cũng hành động phù hợp với những điều khoản an ninh của Tổ chức Liên pḥng Đông nam Á (SEATO). Vả lại Quốc hội cũng hành xử quyền hạn chiến tranh của ḿnh hàng năm khi họ chi tiền cho quân đội Mỹ tại VN.
Tác giả Bernard C. Nalty (6) nói ngày 2-8 ba tầu tuần duyên BV đuổi theo tầu Maddox đang ở ngoài hải phận quốc tế, tầu BV đă phóng ba ngư lôi nhưng không trúng mục tiêu. Tầu Maddox bắn trả bằng đại bác 127 ly gây thiệt hại nặng cho hai tầu BV, phi cơ từ hàng không mẫu hạm Ticonderoga tới yểm trợ.
Về cuộc tấn công ngày 4-8, Nalty nói BV gây hấn hay người Mỹ tưởng tượng? ông tỏ vẻ nghi ngờ biến cố này. Hôm sau Tổng thống Johnson cho tăng cường thêm khu trục hạm C Turner Joy, ngày 4-8 người chuyên viên radar trên tầu Maddox báo cáo có năm tầu phóng ngư lôi đang đuổi theo, sau đó cả hai thuyền trưởng của Maddox và C. Turner Joy quả quyết là họ bị tấn công và gọi máy bay yểm trợ đồng thời cho khai hỏa, họ báo cáo là bắn ch́m hai tầu BV và làm hư hại hai cái khác.
Theo tác giả có nhiều chỉ trích gồm cả các viên chức t́nh báo, lời của họ đă được viết vào Văn kiện Ngũ giác đài, sau này nó xác nhận “tầu địch” chẳng qua chỉ là những tiếng “blip”của radar do những đợt sóng phía sau tầu C Turner Joy gây ra mà những chuyên viên radar chưa có kinh nghiệm của tầu Maddox đă tưởng lầm. Tuy nhiên các vị chỉ huy tại chiến trường xác nhận là có tấn công và tin rằng BV đáng bị trừng phạt giới hạn, Tổng thống Johnson quyết định trả đũa, cho không kích các căn cứ xuất phát tấn công nhưng không có mục đích mở rộng chiến tranh. Các phi cơ từ hàng không mẫu hạm Ticonderoga và Constellation tấn công bốn căn cứ hải quân và một kho dầu của BV. Khoảng 25 tầu tuần duyên bị phá hủy, 90% các kho dầu tại Vinh bị bốc cháy. Hai máy bay Mỹ bị pḥng không bắn rơi, hai chiêc khác bị hư hại.
Thăm ḍ cho thấy sau cuộc tấn công trả đũa, người dân Mỹ ủng hộ hành động của Johnson rất cao.
Tác giả Marilyn B. Young (7) nhận xét: nhiều năm sau Nghị quyết khi sự lừa dối được phát hiện và Quốc hội muốn tự tách ra khỏi cuộc chiến mà chính họ đă phê chuẩn năm 1964, nhiều Thượng nghị sĩ than phiền rằng nếu họ biết sự thật th́ họ đă chống lại Nghị quyết. Dân biểu Dante, Florida nói ông Tổng thống có nhu cầu quyền hạn, một biến cố t́nh cờ có thể đem lại quyền lực cho ông. Quốc hội nghĩ oanh tạc BV sẽ khiến họ chấm dứt chiến tranh. Họ cũng nghĩ như Hành pháp, nếu Mỹ khiến CS trả giá cao th́ sẽ ngưng xâm lược miền nam. James Thomson (1964 trong Hội đồng an ninh GQ) trong một phiên họp của Thượng viện năm 1968 nói biến cố Vịnh lần sau (4-8) là cách thuận lợi chứng tỏ ư chí của chung mà chẳng cần có chứng cớ rơ ràng để tham dự cuộc chiến. Thượng viện sau này đánh giá Hành pháp Johnson sai lầm khi nghĩ rằng dùng oanh tạc hay sức mạnh quân sự có thể khiến Hà nội bị khuất phục.
Không cần biết chuyện ǵ sẩy ra ở Vịnh BV, việc đưa ra Quốc hội thành công mà các cố vấn của Tổng thống đă khuyên ông làm để đưa Hoa Kỳ vào cuộc chiến. Theo Marilyn B. Young Hà nội quyết tâm đi vào cuộc chiến, tháng 10-1964 họ đă đưa ba trung đoàn chính qui khoảng 4,500 người vào Nam, chiến dịch oanh tạc của Johnson không khiến Hà nội phải đầu hàng mà c̣n mở rộng cuộc chiến hơn nữa, cuối cùng Johnson không t́m được ḥa b́nh như ông đă hứa với người dân.
Tác giả Stanley Karnow (8) nói tổng cộng cuộc oanh kích trả đũa BV của Johnson gồm 64 phi vụ, có khoảng 25 tầu bị phá hủy hoặc hư hại, Mỹ bị mất hai máy bay.
McNamara hồi đó cho biết ông đă có bốn công điện của BV cho thấy họ cho lệnh tấn công tối 4-8, những công điện này được giữ bí mật từ đó. Nhưng hoặc ông hiểu sai công điện hay cố t́nh dấu diếm nó, theo một cựu viên chức Mỹ rành về những bản truyền tin của địch th́ đó không phải là lệnh tấn công (attack orders) mà McNamara hiểu nhưng là lệnh của bộ chỉ huy cho các tầu tuần duyên chuẩn bị tác chiến (military operations) mà có thể là tự vệ. Ray Cline phụ tá giàm đốc CIA hồi đó, đă phân tách sự khác biệt chính giữa hai cuộc tấn công là: sau khi duyệt xét những hồ sơ th́ chỉ thấy nó liến quan đến cuộc tấn công trước (2-8)
Kết Luận
Những năm đầu thập niên 60, người dân Mỹ và Quốc hội ủng hộ mạnh mẽ cuộc chiến tranh VN v́ quá sợ CS, họ tin rằng nếu mất miền nam VN hay Đông dương sẽ mất Đông nam Á. Tất cả sách báo, thống kê về giai đoạn này, nhất là 1964 đều nói đa số, đại đa số người dân, thậm chí có tài liệu nói 78% hoặc 85% (9) ủng hộ cuộc chiến, đại đa số Quốc hội ủng hộ cuộc chiến. Tháng 8-1964 Johnson đưa ra Quốc hội xin Nghị quyết Đông nam Á và đă được chấp thuận với tên Nghị quyết Vịnh Bắc Việt ngày 7-8-1964 với tỷ lệ tối đa 99.60% số phiếu thuận choTổng thống can thiệp vào cuộc chiến ngăn chận CS tại VN.
Trường hợp nếu Johnson -McNamara dùng oanh tạc khuất phục được BV, mang lại ḥa b́nh th́ sẽ không có ai đề cập tới Nghị quyết này. Nhưng sau khi được Quốc hội cho phép hành động, Johnson McNamara đă đem hơn nửa triệu quân vào miền nam VN trong mấy năm chiến tranh nhưng không thắng được CS, cuộc chiến ngày càng mở rộng. Sau trận Tết Mậu Thân tháng 2-1968 số người ủng hộ chiến tranh tụt thang nhanh chóng, tỷ lệ chống chiến tranh tăng nhanh. Khi ấy người ta kết tội Johnson đă gây lên cuộc chiến sa lầy, họ bèn xét lại Nghị quyết và lên án ông đă lừa gạt Quốc hội để đưa nước Mỹ can thiệp vào VN. Sau đó tới màn bới lông t́m vết, vạch lá t́m sâu và duyệt xét lại Nghị quyết để kết luận không có cuộc tấn công lần thứ hai ngày 4-8 của tầu tuần duyên BV mà do McNamara và ban tham mưu bịa ra tŕnh Tổng thống lường gạt Quốc hội, nghĩa là chỉ Johnson McNamara là chịu trách nhiệm, người dân và Quốc hội không có ǵ đáng chê trách!
Như đă nói trên buổi chiều tối 4-8 chuyên viên radar trên tầu Maddox cho biết nhận được tín hiệu bị tấn công bằng ngư lôi, các thủy thủ trên tầu Turner Joy xác nhận đă nh́n thấy đèn pha chiếu sáng từ tầu địch và thấy súng tự động bắn, súng pḥng không bắn hai máy bay Mỹ bay trên cao (10). Hai thuyền trưởng trên hai khu trục hạm Maddox và C Turner Joy báo động và ra lệnh bắn trả tối đa về hướng nghi ngờ, không có lửa tại sao lại có khói?
Thuyền trưởng kêu gọi không quân yểm trợ, Stockdale một trong các phi công từ hàng không mẫu hạm bay tới, ông đảo trên trời một tiếng rưỡi và không thấy chiếc tầu nào của BV mà chỉ thấy tầu Mỹ bắn loạn xạ trên mặt biển, sau này viết hồi kư kể lại như vậy.
Đô đốc Sharp, Tư lệnh Thái b́nh dương dựa theo báo cáo của hai thuyền trưởng để tường tŕnh với McNamara và ông này tŕnh lên Tổng thống như đă nói trên. Mặc dù chứng cớ về cuộc tấn công này có vẻ mơ hồ nhưng phản bác của những người chống đối cũng không có ǵ là cụ thể, chỉ là “lư sự”, thí dụ họ nói các chuyên viên radar thiếu kinh nghiệm, tưởng lấm, những năm sau giải mật các bản công điện của BV th́ thấy chắc là lệnh tự vệ chứ không phải lệnh tấn công. Đó cũng chỉ là một cách hiểu khác, giải thích khác cũng như người ta giải nghĩa những câu văn trong Kinh Dịch, mỗi người hiểu một cách. Ngoài ra những bản công điện, vô tuyến điện thoại của BV chưa chắc đáng tin cậy, họ thường đưa tin giả để nghi binh, Đại tá Nguyễn trọng Luật, cựu tỉnh trưởng Ban mê Thuột cho biết CSBV thừa biết đối phương hay nghe lén điện thoại, công diện nên họ đă đưa nhiều tin giả để lừa địch.
Nhưng vấn đề là Johnson McNamara có cần phải khiếu khích BV và tạo biến cố giả tại Vịnh Bắc việt để đánh lừa Quốc hội hay không trong khi cuộc chiến giữa Mỹ-VNCH với Hà nội đă thực sự diễn ra từ 1959.
Ngày 13-5-1959 tại Hà Nội, CSBV đă mở Hội nghị thứ 15, ra Nghị quyết phát động chiến tranh chiếm miền nam bằng vũ lực (11). Họ thành lập đoàn 559 đưa người vũ khí xâm nhập miền nam qua Lào và hai tháng sau đoàn 779 xâm nhập đường biển. Năm 1959 có hơn 2,500 vụ ám sát các viên chức chính phủ, gấp hai lần năm 1958 (12). Ngày 12-12-1960, CSBV thành lập Mặt trận giải phóng miền nam tại Hà nội, chính thức ra mắt ngày 20-12-1960 (13). Ngày 18-9-1961 hai tiểu đoàn VC chiếm tỉnh lỵ Phước Thành trọn một ngày, giết tỉnh trưởng, phó tỉnh trưởng và 10 công chức, tổng cộng có 17,000 cán binh xâm nhập miền nam. Ngày 18-10-1961 Tổng thống VNCH ban hành t́nh trạng khẩn cấp toàn quốc (14). Năm 1962 cố vấn Mỹ gia tăng 11,300 người, quân đội VNCH tăng lên 220,000 người (15).
Đầu tháng 1-1963 trận Ấp Bắc thuộc tỉnh Mỹ Tho, VC bắn rơi 4 trực thăng Mỹ và bắn cháy ba M113, VNCH thiệt hại 63 người, Mỹ có 3 người chết, VC chết 41 nguời (16). Ngày 23-11-1963 tại trận Hiệp Ḥa, tỉnh Hậu Nghĩa có 41 Dân sự chiến đấu miền nam bị giết, 120 bị thương , 32 mất tích, VC bỏ lại 7 xác, 4 lực lượng đặc biệt Mỹ mất tích (17). Ngày 1-1-1964 VC pháo kích phi trường Biên ḥa, phá hủy 6 máy bay B-57, làm hư hại 20 cái khác , giết 5 người Mỹ, 2 VN, 76 bị thương (18). Từ 1959 cho tới 1962 có 100 cố vấn Mỹ bị giết, tới cuối 1964, tổng cộng có 416 người Mỹ bị giết chưa kể số người bị thương và bị bắt làm tù binh (19). Từ cuối 1964, đầu 1965 Hà nội công khai đưa quân chính qui vào nam. Như thế chiến tranh đă diễn ra rất sôi động rồi, cần ǵ phải t́m lư do?
Johnson chẳng thiếu ǵ chứng cớ để xin Quốc hội ủng hộ, đâu cần phải ngụy tạo biến cố Vịnh Bắc Việt ? dù có hay không Nghị quyết th́ cuộc chiến tranh giữa Mỹ-VNCH với Hà nội đă diễn ra từ lâu rồi.
Ngoài ra Johnson không phải diều hâu, ông chủ trương ḥa b́nh, dùng oanh tạc đe dọa để Hà nội thấy cái giá phải trả mà từ bỏ cuộc chiến xâm lược, khác với ứng cử viên đối lập Goldwater chủ trương đánh mạnh hơn nữa. Năm 1965 khi t́nh h́nh quân sự tại miền nam rất xấu, Cộng quân gia tăng xâm nhập tấn công liên tục, Quân đội miền nam bị thiệt hại nhiều, Tướng Westmoreland khẩn khoản xin McNamara và Johnson gửi thêm quân tác chiến để cứu nguy miền nam. Mặc dù vậy, Johnson vẫn chần chừ, ông thăm ḍ các cố vấn, hỏi ư kiến cựu Tổng thống Eisenhower đến khi mọi người khuyên ông phải tăng quân theo yêu cầu của Tư lệnh, Johnson mới chịu dấn thân. Ông leo thang khi Hà Nội đă gia tăng xâm nhập, tấn công mạnh để làm sụp đổ VNCH. Trong khi đại đa số người dân, Quốc hội ủng hộ cổ vơ cuộc chiến, nó đă gián tiếp lôi cuốn Johnson can thiệp, ông tham gia cuộc chiến để khỏi mất phiếu v́ bị cho là nhu nhược.
Nguyên do TT Johnson không muốn tham gia cuộc chiến VN v́ sợ nó sẽ làm hỏng chương tŕnh chương tŕnh phúc lợi xă hội Great Society của ông gồm medicaire, cải tổ di dân, chống nghèo, làm dịu kỳ thị chủng tộc, nâng đỡ nhân quyền…. Johnson nghĩ ngân sách quốc pḥng sẽ làm hỏng chương tŕnh xă hội của ông.
Nếu nói là Johnson lừa gạt Quốc hội để được chấp thuận Nghị quyết Vịnh BV 1964 rồi đem quân vào VN là không đúng tí nào v́ dù không có Nghị quyết này ông vẫn có thể đem quân vào VN mà không cần đưa ra Quốc hội v́ hồi đó chưa có Nghị quyết War Powers Resolution, giới hạn quyền Tổng thống trong chiến tranh mà măi tới năm 1973 mới có.
(Tháng 8- 1973 War Powers Resolution được ban hành, nó qui định TT phải tham khảo Quốc Hội trước khi tham chiến. Sau khi tham khảo, TT có quyền tham chiến trong 60 ngày không cần sự chấp thuận của Quốc Hội và thêm 30 ngày nữa….)
Trường hợp TT Johnson gần giống TT Bush năm 2003 khi ông đă được Quốc hội và người dân ủng hộ cuộc chiến Iraq, nhưng mấy năm sau khi bị sa lầy người ta chỉ trích ông lừa gạt người dân v́ không t́m thấy vũ khí giết người hàng loạt. Tuy nhiên trường hợp Johnson có hơi khác là ông không muốn tham chiến v́ chuẩn bị ứng cử, v́ chương tŕnh phúc lợi xă hội.. c̣n Bush muốn chiến tranh, nhiều người nói cuộc chiến Iraq là do ư muốn của chính ông.
Người ta chỉ trích chiến dịch oanh tạc BV thất bại, Johnson không làm cho BV chịu thua cuộc nhưng cả Quốc hội, người dân cũng tin vào kế hoạch này. Không riêng ǵ Johnson mà cả nước Mỹ sai lầm v́ chủ quan, khinh địch, đánh giá quá thấp đối phương cũng như CS quốc tế, quá tin tưởng vào sức mạnh của ḿnh. Chiến dịch thất bại một phần v́ hỏa lực pḥng không địch rất mạnh, người Mỹ không nghĩ CS quốc tế viện trợ cho Hà Nội dồi dào như thế, từ đầu chí cuối họ đă cung cấp cho BV 3,229 khẩu cao xạ; 20,000 hỏa tiễn địa-không (SAM) (20)
Phản chiến nói TT Johnson lừa Quốc hội để có Nghị quyết vịnh BV, từ Nghị quyết này đi tới cuộc chiến lớn và sa lầy tại VN, có nghĩa v́ sự lừa gạt mà đưa tới cuộc chiến VN. Nhận định này không có căn cứ tí nào v́ như đă nói dù không có biến cố vịnh BV Johnson cũng có những lư do khác để đưa ra Quốc hội, và thậm chí dù không có Nghị quyết Vịnh BV 1964, ông vẫn có thể đưa quân vào VN được v́ ông là Tổng tư lệnh quân đội, v́ t́nh h́nh đ̣i hỏi và v́ hồi đó chưa có Nghị quyết hạn chế quyền Tổng thống (1973).
Những người chống chiến tranh và cả McNamara sau này cho là cuộc chiến VN sai lầm, nhưng nếu sai lầm tại sao không rút bỏ VN từ giữa thập niên 60? Tháng 12-1964, Hội đồng quân lực VNCH đă yêu cầu Quốc trưởng Phan Khắc Sứu và Thủ tướng Trần văn Hương trục xuất Đại sứ Mỹ Taylor mà họ cho là có thái độ hách dịch (21). Trong tường tŕnh cuối năm về Ṭa Bạch ốc, Taylor có đề nghị rút bỏ miền nam VN (22) nhưng không được ai chú ư. McNamara (hồi kư trang 320) cho là đáng lư Mỹ phải rút bỏ miền nam từ cuối 1963 hay cuối 1964 hoặc đầu 1965.
Nói cho oai thôi chứ trên thực tế Hoa kỳ vẫn bám vào miền nam VN kỹ lắm, mặc dù 1965, 1966 phản chiến tại Mỹ lên cao, ngay tại miền nam cũng có nhóm quá khích chống chiến tranh1966 nhưng họ cũng không dám rút bỏ. Người Mỹ chỉ rút bỏ VN năm 1975 sau khi đă ḥa được với CS quốc tế.
Những năm 1964, 1965 Hoa Kỳ có thể lựa chọn hoặc tham chiến hoặc rút bỏ miền nam VN hay không? Thực ra họ không có con đường nào khác hơn là can thiệp vào cuộc chiến VN để giữ Đông nam Á, để bảo vệ an ninh cho chính họ, bảo vệ cho chính quyền lợi của nước Mỹ.
Như thế không thể kết luận chỉ có Johnson là người đă đưa nước Mỹ vào cuộc chiến sa lầ.
© Trọng Đạt
Chú thích
(1) McNamara, In Retrospect, The Tragedy and Lessons of Vietnam, trang 127-143
(2) In Retrospect trang 140
(3) In Retrospect trang 141
(4) No More Vietnams trang 73-76
(5) No More Vietnams trang 74
(6) The Vietnam war, trang 81, 82
(7) The Vietnam war 1945-1990, trang 120-123
(8) Vietnam a History trang 388,389
(9) Vietnam a History trang 390; answer.com, domino theory
(10) In Retrospect trang 134
(11) Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1955-1963, trang 152
(12) Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn tập trang 61
(13) VN Niên Biểu trang 206
(14) VN Niên Biểu trang 228,229
(15) Chiến Tranh VN Toàn Tập trang 61
(16) Sách kể trên trang 63.
(17) Sách kể trên trang 94,95
(18) The World Almanac of The Vietnam War trang 95
(19) National Archives, Statistical Information about Fatal Casualties of the Vietnam War
(20) Đăng Phong, Năm Đường Ṃn Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Trí thức Hà nội 2008, trang 120, 121
(21) Lâm vĩnh Thế, VNCH 1963-1967, Những Năm Xáo Trộn trang 98
(22) In Retrospect, trang 164
hoanglan22
04-01-2019, 13:21
Nhờ có các chị lớn đi học mặc áo dài, cần phải ủi ngay ngắn nên nhà tôi có bàn ủi con gà khá sớm. Thời đó, quần áo nữ thường được may bằng các loại xoa như xoa Pháp, xoa suưt, nilon, xoa nhung mềm mại… dễ bị nhăn khi giặt nên cần phải ủi cho ngay ngắn.
Bàn ủi con gà được sản xuất từ Pháp cách đây khoảng 200 năm. Sau này ở Huế, khoảng năm 1930, cũng có đúc ra loại bàn ủi giống như vầy.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1359102&stc=1&d=1554124758
Bàn ủi con gà của Pháp được đúc bằng đồng có khả năng tích nhiệt từ than củi do chúng ta đốt sẵn từ bên ngoài cho vào. Do có một cái khóa h́nh con gà cũng bằng đồng cài lại cho chắc để khi ủi không bật tung ra trong lúc ủi đồ, nên người ta quen gọi nó là “bàn ủi con gà”.
Bên trong bàn ủi có một cái vỉ kê cao khoảng một phân, nằm vừa khít với phần đáy bàn ủi. Cái vỉ này có tác dụng giữ than cách với bàn ủi cho bàn ủi không bị nóng táp dễ cháy đồ, đồng thời là chỗ chứa lớp tro tàn từ than nóng. Nếu ủi đồ nhiều, cần phải đổ than ra ngoài thay than hồng khác cho nóng.
Trong lúc ủi, thỉnh thoảng dùng cái quạt mo quạt vào hàng lỗ dưới hông bàn ủi giúp cho tro bay bớt và than nóng lên.
Ngoài ra, c̣n có một cái đế h́nh tam giác là nơi đặt bàn ủi những khi nghỉ tay để xoay trở áo quần.
Khi cả nhà đi xuống chợ ở, tôi vừa nấu bếp dầu vừa nấu bếp củi. Dầu th́ cứ lăn thùng phi ra cây xăng bơm vào, rồi lăn về nhà xài. C̣n củi th́ chở trên quê xuống, má tôi lúc nào cũng chất để dành cả chục thước củi đă được phơi khô trong nhà.
Mấy chị tôi khi nào cần ủi đồ th́ dặn tôi nấu bếp củi để có than mà ủi đồ. Tôi phải lựa những loại củi chắc cây cho than lâu tàn, nếu có mủng vùa đốt lên than sẽ rất nóng mà lại lâu tàn hơn.
Có hôm mấy chị lười bắt tôi ủi đồ, nhờ vậy tôi ủi đồ cho ḿnh luôn. Tôi được cái lanh tay lẹ chân nên khi ủi đồ, tôi vừa ủi vừa xoay trở áo quần mà không cần đặt bàn ủi xuống. Chỉ ở chỗ khó phải căng ra ủi cẩn thận, tôi mới đặt bàn ủi xuống.
Có những lúc vội vàng, tôi gài cái khóa con gà không kỹ, vừa xách lên th́ than đổ ra đất tùm lum. Lại có lần tôi quên không thử bàn ủi trước, nên bị cháy một lỗ to. Khi bỏ than vào, bàn ủi tích nhiệt rất nóng nên phải ủi qua miếng lá chuối tươi cho đến khi nó khô quéo mới an tâm mà ủi quần áo.
Sau 75, bàn ủi con gà cũng theo tôi về trên quê. Lúc đó tôi đi học ở trường Trương Định G̣ Công. Quần áo lúc đó không có nhiều, nên lắm lúc mắc mưa, đồ giặt không kịp khô. Khuya tôi dậy nấu cơm sớm, đốt lấy than để ủi đồ. Củi than cháy chưa hết, bỏ vào bàn ủi, lúc ủi khói bay lên cay chảy nước mắt. Đă vậy quần áo c̣n ướt, ủi năm lần ba lượt mới khô, nếu không c̣n nóng phải đi thay than khác.
Lâu rồi cái khóa con gà bị lờn, cài lại không dính nên tôi phải dùng sợi dây vải cột từ tay cầm bàn ủi tṛng qua đầu con gà giữ cho chặt.
Những năm tháng đó nếu không có bàn ủi con gà th́ không biết làm sao, chẳng lẽ mặc đồ ướt đồ nhăn đi học, nhất là vải xoa dễ nhăn.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1359101&stc=1&d=1554124758
Rời quê lên Sài G̣n, tôi quên khuấy mất cái bàn ủi con gà thân thương. Cứ vài ba ngày tôi ủi đồ cho cô dượng tôi bằng bàn ủi điện, nhẹ nhàng không có khói và nhất là không sợ cháy đồ như bàn ủi than.
Nhưng khi bước ra đường, tôi lại thấy bàn ủi con gà ở một vài góc phố lúc cần đi ép nhựa giấy tờ. Họ cắt miếng nhựa đặt giấy tờ trong đó, rồi đặt miếng giấy lụa lên, đẩy bàn ủi đi bốn phía. Sau này người ta dùng máy điện để ép nhựa, ép plastic, tôi vẫn thấy c̣n vài người ngồi góc đường vời bàn ủi con gà ép nhựa giấy tờ.
Tôi nhớ, một thời những người này c̣n ép b́a bao tập vở cho học sinh. Sau nữa có những cuốn sách quá khổ cũng nhờ bàn ủi con gà ép cho cái b́a bao. Có người có thâm niên ép nhựa cả 40 năm…
Bàn ủi trở nên món đồ cổ khi người ta xài bàn ủi điện, cho nó ra ŕa. Nhưng nhờ vậy, bàn ủi con gà càng tăng giá trị cùa nó mà theo báo chí đưa tin là có những tay săn lùng t́m mua với giá bạc tỷ (?).
Bàn ủi con gà có giá, nói nào ngay, cũng v́ nó đặc biệt. Đó là “con gà” gắn trong bàn ủi phải là loại đồng lạnh, tức là nó không hấp nhiệt; trong bàn ủi có than, vậy mà rờ vào “con gà” vẫn không thấy nóng.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1359103&stc=1&d=1554124758
Nghe nói có một người đàn ông ở ngoài Nha Trang đă sưu tầm cả trăm cái bàn ủi than đủ loại – mà ông gọi là bộ sưu tập “Kư ức thời thơ ấu”. Ngoài bàn ủi con gà đủ loại với năm sản xuất khác nhau, ông c̣n có những loại bàn ủi khác như bàn ủi hoa sen triều Nguyễn, bàn ủi h́nh đầu lính La Mă, bàn ủi của Mỹ nhỏ nặng khoảng 100 gram…
Tôi không quan tâm đồ cổ v́ đôi khi vật chất vô hồn, người giữ nó phải có tâm th́ mới thổi hồn vào cho nó trở nên sống động. Tôi chỉ có thể nhớ đến một thời bàn ủi con gà mà lắm khi trong ḍng đời trôi chảy tôi vô t́nh quên nó đi.
Cảm ơn sự hiện diện của cái bàn ủi con gà trong hành tŕnh của tôi, như một người bạn đă giúp đỡ tôi những lúc cần đến…
Đăng lại từ Fanpage Dấu Quê
hoanglan22
04-01-2019, 13:31
(Xin chân thành gửi đến anh Trần Đ́nh Phước, cựu Trung Úy Không Quân VNCH, sự biết ơn sâu xa đă khuyến khích, bỏ ra nhiều thời gian và nhiệt t́nh giúp tôi hoàn tất viết lại những ḍng hồi kư đúng vào ngày Giáng Sinh 2015 về chuyến đi nhiều phép lạ mầu nhiệm này.)
Kính dâng lên hương hồn những thuyền nhân đă bỏ ḿnh trên biển cả v́ lư tưởng tự do. H́nh ảnh hiệu đính trên bài viết do một thuyền nhân là CVH, cựu Trung Úy Không Quân VNCH, cựu Phóng Viên Đài VOA cung cấp sau chuyến đi thăm lại Đảo Pulau Bidong vào tháng 08, năm 2015. Nơi đây hàng trăm ngàn thuyền nhân Việt Nam đă tạm dừng chân, trước khi được đi định cư ở một nước thứ ba. (tdp)
Cuộc đời chúng ta có những điều trôi qua, rồi tan biến như cơn gió thoảng. Tuy nhiên, có những điều măi măi in đậm trong kư ức, dù có muốn quên cũng không thể nào quên được. Đối với tôi, một trong những điều không thể nào quên và cũng là món nợ không bao giờ trả được, dù bây giờ tôi có tiền rừng, bạc biển chăng nữa!
Câu chuyện xảy ra đă hơn ba mươi mốt năm. Hôm nay tôi xin ghi lại những phép lạ, mà tôi may mắn được chứng nghiệm trong chuyến đi bảy ngày đêm lênh đênh trên biển cả, với nhiều biến cố hăi hùng và kinh dị. Nếu như không có bàn tay nhiệm mầu của Thượng Đế, Trời, Phật cứu vớt th́ 137 người đă cùng chết trong ḷng đại dương trên bước đường đi t́m "Tự Do".
Chuyến đi rất bất ngờ, do hai ân nhân là anh Nguyễn Vinh Tôn và anh ruột là Nguyễn Quốc Trụ, cựu Đại Úy thuộc binh chủng Nhảy Dù Quân Đội VNCH bảo trợ cho tôi mọi chi phí được trả từ Hoa Kỳ.
Có lẽ v́ đột ngột, nên tôi đă khóc suốt đêm và không thể nào ngủ được. Tâm trạng khác hẳn với những lần đi trước. Chưa ra đi mà trong ḷng đă tràn dâng niềm thương nhớ những người thân yêu trong gia đ́nh.
Khoảng 3 giờ sáng, ngày 23-9-1984, tôi đến thắp nhang bàn thờ Phật. Nguyện cầu cho chuyến đi được b́nh an, may mắn, tai qua nạn khỏi, không bị tù đày, nhất là đừng gặp hải tặc. Có như thế tôi mới có thể giúp được gia đ́nh thoát được cuộc sống bế tắc, khó khăn như hiện nay. Tôi cầu nguyện sức khoẻ, b́nh an, may mắn đến cho bố tôi đă già yếu, bệnh tật, cùng các anh chị em và một người tôi gọi là Cô đang sống đơn chiếc (đúng ra là D́ v́ là em ruột của mẹ tôi). Cô đă đùm bọc, giúp đỡ gia đ́nh chúng tôi rất nhiều kể từ khi Mẹ tôi bất ngờ ra đi v́ quá đau khổ và lo sợ cho ngày mai đen tối của một gia đ́nh mà hầu hết là quân nhân, công chức của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, sau biến cố 30-4-1975.
Và trong chuyến đi này, tôi cũng có thêm một lời nguyện cầu:Tôi sẽ tái ngộ một “Thiên Thần” đang chờ đợi tôi với một tấm ḷng trong sáng và cao quư.
Lúc 3giờ 45 sáng.Tôi đánh thức cô tôi dậy. Cô cũng vừa mới chợp mắt được một chút. Tôi cố giữ thật b́nh tĩnh chào từ giă cô để cho cô được yên tâm. Trong gia đ́nh và bà con thân thuộc chỉ có cô lúc nào cũng bên cạnh tôi và là người duy nhất biết tôi sắp đi xa, mà chuyến đi này lành th́ ít, nhưng dữ th́ quá nhiều không thể nào lường được. Ngoài ra, cần phải giữ bí mật v́ sơ xuất sẽ gặp những điều nguy hiểm có thể xảy ra.
Đúng 4:00 giờ sáng, nh́n qua khe cửa sổ, tôi thấy đèn từ một chiếc Honda gắn máy chớp đi, chớp lại bốn lần trước cửa nhà. Đây là tín hiệu mà tôi đă được cho biết trước: Có người trong nhóm tổ chức sẽ đến đón tôi.
Tôi lặng lẽ, nhẹ nhàng mở cửa. Tay ôm một túi xách nhỏ gồm: một ít lương khô, một bộ quần áo cũ, vài tấm ảnh gia đ́nh, một quyển kinh loại bỏ túi “Bạch Y Thần Chú” do bác tôi cho. Bác căn dặn phải thường xuyên khấn niệm để cầu xin b́nh an; và một sợi dây chuyền có h́nh con chim Đại Bàng đang xoè cánh do một người bạn tặng tôi từ lâu. Tôi luôn mang theo trong người v́ biết người ấy luôn luôn cầu nguyện cho tôi được may mắn. Đối với tôi, đó cũng là một biểu tượng "thần thoại. " Tôi sẽ được chim Đại Bàng mang tôi đến vùng trời mơ ước.Tôi cũng bỏ theo một b́nh nước nhỏ, tuy rằng, người của tổ chức dặn đừng mang theo ǵ hết v́ họ đă chuẩn bị tất cả đâu vào đó rồi.
Ngồi sau lưng người lái Honda mà tôi hoàn toàn không hề quen biết, tôi hơi lo sợ. Ngoái cổ nh́n lại con hẻm nhỏ thân yêu của một xóm nghèo gần ngă ba Cao Thắng và Trần Quốc Toản, Sài g̣n. Giờ này hầu như mọi người đang yên giấc. Tôi chào vĩnh biệt trong nước mắt căn nhà mà gia đ́nh tôi nương náu gần mười năm qua. Nơi đây bố tôi đă đưa cả gia đ́nh về sống, sau khi trả lại căn nhà do chính phủ VNCH cấp cho công chức chỉ trước biến cố 30/04/1975 vài tháng. Nếu c̣n tiếp tục ở lại căn nhà đó th́ không biết gia đ́nh tôi sẽ gặp khó khăn biết chừng nào, khi người ta đến tiếp thu và yêu cầu gia đ́nh tôi phải ra khỏi trong ṿng hai mươi bốn giờ.
Tài xế Honda chở tôi ra bến xe miền Tây. Tại đây có một ngựi đàn ông đội nón đen đă đứng chờ sẵn, ông ta trao vé xe đ̣ đă mua từ trước để tôi lên xe đi Mỹ Tho. Khi đến Mỹ Tho, tôi được một người đàn ông khác hướng dẫn chuyển xe đi tiếp Bến Tre. Đến nơi, khoảng giữa trưa, tôi cùng mấy nguời đă tới trước cùng ngồi ăn với nhau. Tôi nghĩ họ là những người sẽ cùng đi chung chuyến vượt biên với tôi.
Sau khi ăn trưa xong, tất cả được mời lên xe Lambretta ba bánh để chở ra bến đ̣ gần đó. Tại đây, người ta chia chúng tôi ra từng nhóm xuống những chiếc ghe nhỏ chở đầy trái cây để ngụy trang mà dân vượt biên c̣n gọi là “Ghe Taxi, hay “Cá Nhỏ”, để tránh những trạm kiểm soát dọc bờ sông, hoặc đột xuất có thể chận lại khám xét bất th́nh ĺnh.
Ghe đi được một lúc th́ nhóm tổ chức phát cho mỗi người một miếng giấy nhỏ, với mật mă do nhóm tổ chức ghi trên đó. Cho đến chiều th́ ghe tấp vào một bụi rậm ven sông để chờ đợi. Khi bóng đêm vừa bao trùm xuống, ghe lại tiếp tục đi thêm một khoảng khá xa. Tại đây đă có một ghe lớn neo sẵn, c̣n gọi là “Cá Lớn.” Đây là ghe sẽ đưa chúng tôi ra đi trên biển cả.
Lúc này đă có nhiều ghe nhỏ đang vây quanh và mọi người cùng một lúc đang t́m mọi cách để leo lên Cá Lớn, nên vô cùng hỗn loạn. Phụ nữ, trẻ em đứng trên vai những người đàn ông hay thân nhân để vịn vào thành ghe, sau đó nhảy lọt được vào cá lớn. Trước cảnh đó, tôi chỉ muốn bỏ cuộc, v́ nghĩ rằng tôi không thể nào đủ sức để có thể tự nhảy lên bám được vào thành ghe, rồi sau đó leo vào bên trong. Thời học sinh, tôi luôn luôn đứng cuối lớp về môn Thể Dục, đặc biệt là hai môn leo dây và nhảy cao th́ yếu nhất. Bây giờ, nếu đứng trên mặt đất bằng phẳng, tôi cũng không thể nào làm nỗi, huống chi là phải bám vào thành ghe đang tṛng trành trên sông nước. Tôi lại nhỏ con, thể lực rất yếu đuối; nếu chẳng may không vào được con cá lớn mà bị rớt xuống sông trong cảnh hỗn loạn và bóng đêm dày đặc này, chắc chắn một trăm phần trăm là chết đuối, v́ tôi không biết bơi và cũng chẳng có ai can đảm cứu tôi trong lúc này. Nhưng nếu bỏ cuộc, có nghĩa là sẽ ở tù, v́ tôi không thể t́m cách trở về nhà được trong lúc này nữa.
Tôi chỉ c̣n biết cầu xin Trời, Phật, Ông Bà khuất mặt hăy cứu vớt: “Con không thể đi tù thêm lần nữa! Con không thể nào chết. Con phải đi thoát được th́ con mới có cơ hội giúp gia đ́nh. Tất cả đang trông vào con. Gia đ́nh con không có điều kiện tiền bạc để cho con vượt biên. Nay có quư nhơn giúp đỡ, con chỉ cần quyết tâm, chấp nhận gian nguy là đạt được. Trời Phật có thương con, phù hộ cho con th́ con sẽ vượt qua.”
Tôi đă có kinh nghiệm trong lần vượt biên ở Cần Giờ bị bắt vào năm 1981 và ở tù trong Chí Hoà, sau đó bị đưa đi lao động ở Sông Bé. Chỉ trong vài phút thôi, Cá Lớn sẽ nhổ neo. Không bao giờ tổ chức vượt biên đợi người lên đầy đủ mới ra đi.
Tôi không thể do dự hay chần chờ ǵ nữa! Phải quyết định tức khắc. Tôi vừa khóc, vừa niệm Phật, vừa cố lấy hết sức nhắm vào thành Cá Lớn, tung hết sức b́nh sinh nhảy thật cao, thật chắc. Ôi! thật là may mắn! Tôi bám được vào thành ghe. Ôi! Tôi đă lọt thỏm vào Cá Lớn. Phải chăng có một sức mạnh vô h́nh nào đă nhấc bổng tôi lên, để tôi được vào khoang ghe, v́ b́nh thường tôi không bao giờ có thể làm nỗi điều này. Chưa kịp đứng lên th́ đă bị một số người nhảy tiếp sau đạp và đè lên khắp người. Tôi lại tiếp tục niệm Phật giúp tôi có đủ sức đứng dậy; nếu không tôi sẽ bị chết bẹp ở đây. May sao!tôi đứng dậy được và nép sát người vào thành ghe.
Chưa kịp hoàn hồn, nghe tiếng hét to: “Không ai được lên nữa! Ghe đă quá trọng tải. Nếu c̣n tiếp tục nhảy lên, ghe sẽ bị lật và ch́m, tất cả mọi người sẽ chết tại gịng sông này.” Ngay sau đó, người của tổ chức bật đèn pin sáng lên để bắt đầu kiểm tra mật mă. Một số người tŕnh mất mă, nhưng họ cho là không đúng và ra lệnh quăng những người này xuống những chiếc “Ta Xi” vẫn c̣n đang bao quanh con"Cá Lớn"chờ đợi.
Khi đến chỗ tôi đứng, tôi rất tự tin trao mảnh giấy ra cho họ xem. Vừa đọc xong, họ nói "Đây là mật mă của Ba Châu (tên người liên lạc dẫn tôi đi.) Chúng tôi không chấp nhận khách của Ba Châu. Vậy xin mời cô trở xuống ghe taxi đi về." Nghe đến đây, tôi tưởng chừng như tiếng sét đánh ngang tai, chân tay rụng rời. Làm sao lại xảy ra như vậy? Khách nào của Ba Châu cũng đều bị tai hoạ bất ngờ v́ sự bất đồng và phản bội trong nội bộ tổ chức với nhau.
Nghĩ lại, nếu không nhờ phép lạ th́ làm sao tôi lọt được vào cá lớn, rồi sau đó đứng dậy an toàn được. Vậy mà bây giờ bị đuổi xuống và chắc chắn sẽ lại bị ở tù.
Không thể được! Tôi bật khóc và năn nỉ "Tôi cũng là khách như những người khác, nhưng chẳng may là khách của Ba Châu. Gia đ́nh tôi đă thoả thuận mọi điều kiện cho chuyến đi qua Ba Châu. Nay xin các bác, các anh cho tôi được tiếp tục đi. Gia đ́nh tôi ở Mỹ sẽ đền ơn theo mọi điều kiện yêu cầu của quí vị." Khóc lóc, van nài, nhưng họ vẫn một mực dứt khoát từ chối. Hai người đàn ông được lệnh khiêng đầu và chân tôi quăng xuống ghe taxi. Tôi coi như chắc chắn vào tù. Trong ḷng quá đau xót và coi như số tôi phải vào tù không thể nào tránh được.
Bỗng nhiên, ánh sáng đèn pin vụt tắt. Hai người đang khiêng tôi bèn bỏ tôi xuống sàn ghe. Cá Lớn được lệnh phải xả hết tốc lực phóng ra biển. Có lẽ thời gian mua băi đă hết, nếu chậm trễ toán công an biên pḥng khác đến đổi phiên trực có thể giữ ghe lại? Tôi bàng hoàng mừng rỡ; chỉ trong tích tắc tôi đă thoát được cảnh ngục tù. Phải chăng cũng là một phép lạ do Ơn Trên đă cứu tôi?
Chiếc ghe nhắm hướng ra biển lao như mũi tên bay trong bóng đêm dày đặc nghe rợn cả người. Chạy khoảng hơn bốn tiếng đồng hồ th́ có những tiếng reo mừng:"Ghe đă ra được Hải Phận Quốc Tế. Chúng ta coi như sắp được tự do rồi.” Vừa nghe xong, tôi oà lên khóc nức nở, dù trong ḷng cũng mừng. V́ từ giờ phút này tôi đă thật sự xa tất cả những người thân yêu. Không biết đến bao giờ mới có thể gặp lại, hoặc xa ĺa vĩnh viễn; nếu như gặp nạn không tới được bến bờ.
Lúc này nhóm tổ chức bắt đầu quay lại hạch sách những hành khách của Ba Châu đang có mặt trên ghe. Họ doạ nạt từng người. Ai có cà rá, đồng hồ hay bất kỳ vật nào có giá trị th́ đưa cho họ ngay. Khi họ hỏi tôi có ǵ đưa cho họ, tôi trả lời không có ǵ hết, ngoài một ít hành lư tôi đang có trên người. Thậ ra, tôi có giấu một chỉ vàng trong áo lót được cô tôi cho để pḥng khi hữu sự. Tôi không thể nào nộp cho họ.Tôi năn nỉ với họ là khi nào được định cư, tôi hứa sẽ xin hoàn lại đầy đủ.
Trời lại dần dần sáng. Một ngày mới bắt đầu trên đại dương bao la. Tất cả đều vui mừng và hy vọng vài ngày nữa sẽ đến được bất cứ trại tị nạn nào và sau đó được đi định cư ở một nước thứ ba; lúc đó coi như đổi đời. Khi mặt trời lên cao, nắng chói chang, có lẽ là giữa trưa, nhóm chủ ghe bắt đầu cho phân phối nước uống. Tiêu chuẩn cho mỗi người là hai muỗng canh, phát vào buổi sáng và vào buổi chiều. Điều này khiến mọi người trên ghe hoang mang. Vậy là sao? Lúc đi đă hứa lương thực, nước uống cung cấp đầy đủ. Bây giờ lại xảy ra t́nh huống kỳ quái này! Có chuyện ǵ đây?
Lúc này, chủ ghe mới cho biết là anh tài công chánh mang theo các phương tiện đi biển đă bị kẹt lại, không hiểu v́ lư do ǵ mà không lên Cá Lớn được? Nên chúng ta khó hy vọng sẽ đi đến được các trại tị nạn như đă dự tính, v́ trên ghe không ai có kinh nghiệm đi biển. Tài công phụ chỉ có kinh nghiệm đi đường sông. Bây giờ chỉ c̣n trông mong vào số mệnh và ơn trên cứu giúp. Phải lênh đênh trên biển không biết bao nhiêu ngày. Cầu xin sóng yên, biển lặng và gặp tàu thuyền nào đi ngang qua xin được cứu vớt, như vài trường hợp các ghe đi trước may mắn đă gặp. Bây giờ, xin các bà con thông cảm về việc cần phải tiết kiệm nước tối đa để có thể cầm cự trong thời gian dài chưa biết đến khi nào.
Khi nghe chủ ghe giải thích xong, mọi người trên ghe cùng nh́n nhau lo lắng. Riêng tôi chết lặng cả người. Bao nhiêu tin tức về chuyện vượt biên lởn vởn trong đầu óc tôi. Có những chuyến, nếu may mắn không có ǵ xảy ra th́ chỉ vài ba ngày là đến được trại tị nạn. Có những chuyến lênh đênh cả tháng trời bị các cơn đói khát, bệnh tật hành hạ. Đôi khi phải ăn thịt lẫn nhau để được sống c̣n; và cũng có những chuyến bị hải tặc tấn công cướp bóc, hảm hiếp và những phụ nữ bị bắt đem theo chúng. Biết bao là những bi kịch thảm khốc về chuyện vượt biên mà các cơ quan truyền thông đă đăng tải.
Tôi nghĩ số phận chíếc ghe của chúng tôi sẽ trôi giạt về đâu? Bến bờ vô định nào? Lương thực, nước uống, xăng nhớt sẽ cạn kiệt trong bao lâu nữa? Và cũng có thể làm mồi cho đại dương. Tôi có đạt được sự đổi đời như mơ ước, được sống và học hỏi ở các nước văn minh, dân chủ, tự do. Lúc đó tôi sẽ có điều kiện để giúp đỡ gia đ́nh đang tin tưởng vào nơi tôi. Hoặc tôi tự trách ḿnh đi t́m một cái chết ngu xuẩn, làm cho gia đ́nh đau khổ hơn và mang tội bất hiếu với bố tôi. Trước mắt, tôi cứ niệm Phật, cầu nguyện cho được may mắn. Mà rơ ràng tôi đă thoát chết từ lúc nhảy vào được cá lớn, và chút xíu nữa đă bị chủ ghe ném xuống "taxi", nếu không có báo động bất ngờ xảy đến.
Bóng đêm lại buông xuống, tôi mệt đừ và khát rát cả cổ họng. Phải chờ đến ngày mai mới được phát nước uống. Tôi nghĩ ḿnh có đem theo b́nh một lít nước. Nếu mỗi ngày uống hai muỗng th́ tôi có thể cầm cự được trên nửa tháng. Thế là tôi lấy ra hớp một hớp. Chưa kịp cất lại th́ vợ chồng trẻ và cô em gái ngồi kế bên thấy tôi cầm b́nh nước th́ van xin cho họ uống bằng giọng nói lễ phép và lịch sự. Tôi nghĩ cho ba người uống th́ nhiều quá, nó sẽ ảnh hưởng đến số nước dự trữ của tôi và cũng là bùa hộ mạng trong lúc này. Nhưng thấy họ nói quá, nên động ḷng trắc ẩn.Tôi trao b́nh nước cho họ và nói "xin mỗi người chỉ được một hớp thôi nhé!" Tuy nhiên, khi cầm được b́nh nước trên tay, sau khi hớp xong, họ ngang ngược không chịu trả lại, mà c̣n giở giọng côn đồ ra thách đố tôi muốn làm ǵ th́ làm! Vô t́nh tôi đă tự đánh mất bùa hộ mệnh v́ ḷng thương không đúng người.
Ngày thứ hai trôi giạt trên biển theo một hướng vô định. Cầu mong sẽ gặp đuợc tàu thuyền đi ngang qua giúp đỡ, hay phi cơ bay trên đầu để ra dấu kêu cứu. Nhưng chỉ có cả một không gian tĩnh mịch, im lặng của đại dương lạnh lùng và ghê sợ. Trên bầu trời không có bóng dáng một loài chim biển nào. Mọi người đoán là ghe đă đi lạc và cách rất xa đất liền. Tôi vừa đói, vừa khát, vừa nhức đầu, chóng mặt v́ các mùi hôi thối của ói mửa, tiêu tiểu của trẻ con bắt đầu xông lên nồng nặc, v́ chỉ có một chỗ đi vệ sinh nằm ở phía cuối ghe, trong khi người nằm, kẻ ngồi la liệt không c̣n chỗ để nhúc nhích.
Sự khủng hoảng bắt đầu khi cô bé khoảng mười lăm tuổi, ngồi đối diện tôi bị ngất xỉu v́ khát. Mẹ của cô khẩn khoản, van xin “Ai có nuớc làm ơn cho con tôi xin một hớp; một hớp nước có thể cứu sống được con tôi”. Không một ai lên tiếng! Có lẽ mọi người nhớ lại lời nhóm chủ tàu căn dặn và đe doạ “Không ai được tự động đi lại, phải tuyệt đối giữ ǵn trật tự tối đa. Không được đ̣i hỏi bất cứ ǵ! Nếu ai không chấp hành và căi lời sẽ bị ném ngay xuống biển.” Nh́n mặt cô bé nhợt nhạt v́ khát, chỉ cần một muỗng nước là có thể đem lại sự sống cho cô ta. Không thể đành ḷng nh́n cô bé đang bất động, dù kiệt lực, tôi cũng cố gắng ḅ lên cầu thang để gặp nhóm chủ tàu xin nước cho cô bé. Họ nh́n tôi bằng cặp mắt giận dữ. Tôi b́nh tĩnh nói với họ là tôi không xin cho tôi mà xin các ông hăy nhỏ ḷng thương cho cô bé kia đang cần vài muỗng nước. Nếu không, cô ta sẽ chết v́ khát! Quả thật, khi được vài muỗng nước th́ cô bé lần hồi tỉnh lại. Gia đ́nh cô rất vui mừng và tôi cũng vui theo.
Ngày thứ ba, biển vẫn yên, sóng vẫn lặng. Đúng là Thái B́nh Dương! Tuy nhiên, trong ḷng mọi người đều bồn chồn, lo lắng. Sự đói khát đă bắt đầu hoành hành. Ánh nắng mặt trời chiếu xuống, th́ cô bé lại kiệt sức và bất tỉnh lần nữa. Gia đ́nh cô bé không dám gặp chủ tàu xin nước v́ sợ chủ tàu nóng giận th́ sẽ bị phiền phức. Sự việc xảy ra trước mắt tôi, nên tôi cũng không thể làm ngơ. Và tôi cũng cố lết đi gặp chủ tàu xin cho cô bé vài muỗng nước. Sau khi được vài muỗng nước th́ cô bắt đầu tỉnh lại dần như hôm qua.
Ánh nắng càng lúc càng gay gắt. Tôi tưởng chừng như sắp ngất xỉu đến nơi giống như cô bé vừa rồi. May sao, có một cơn mưa trút xuống. Ôi! Tôi quá mừng như vừa được hồi sinh. Những giọt nước mưa như nước cam lồ của Phật Quan Thế Âm làm mát dịu cổ họng đang rát bỏng của tôi. Nhóm chủ tàu chạy đi lấy mấy tấm bạt Nylon để hứng nước mưa, xong đổ vào những thùng nhựa. Kết quả không ai có thể thể nào uống được v́ những thùng chứa nước mưa trước đó dùng đựng nhớt, xăng dầu, làm cho nước mưa có mùi giống như nước cống rảnh, đen ng̣m cho vào miệng bị nôn ra ngoài ngay. Nhờ cơn mưa bất chợt coi như một phép màu đă tiếp sức cho tôi sống c̣n.
Sang đến ngày thứ tư lênh đênh trong vô định. Giấc mơ t́m tự do có dấu hiệu tốt đẹp hơn. Đă thấy những cánh chim biển bay trên bầu trời, thấy những vệt khói dài của vài chiếc phi cơ phản lực để lại. Bóng dáng những chiếc tàu nhấp nhô từ xa đang tiến lại gần hơn. Chủ ghe cho người đốt quần áo để phát tín hiệu xin tiếp cứu. Nhưng tất cả đều vô ích. Không một tàu nào đến gần để giúp đỡ. Có lẽ họ sợ lănh trách nhiệm và gặp nhiều phiền toái?
Thế rồi, thất vọng này, tiếp nối theo thất vọng khác. Những cơn đói khát dày ṿ cơ thể. Tôi bị khát rang cả cổ, nên không thể nào nuốt được bất cứ ǵ. Thức ăn mang theo tôi đều cho hết. Trong lúc này tôi chỉ cần một hớp nước. Nhưng nếu tôi xin chủ tàu, chắc chắn ông ta sẽ cho người quăng tôi xuống biển như lời ông ta đă hăm doạ. Trong lúc đó gia đ́nh chủ tàu có nước, có dừa, có cam quưt tha hồ sung sướng không sợ đói khát. Vài người trên ghe có sáng kiến mưu sinh thoát hiểm. Họ lượm các vỏ dừa ném bừa băi dưới ghe, đem tướt những lớp xơ để ngậm lấy chất đắng, chát và có độ ẩm để giữ cho cổ họng đỡ phần nào cháy bỏng v́ khát. Nhờ vậy mà chúng tôi vẫn tiếp tục cầm cự, chưa bị gục ngă.
Cô bé trước mặt tôi lại ngất xỉu lần thứ ba trong ba ngày liên tiếp. Tôi nhờ cơn mưa hôm qua được hồi sinh, nay nhờ ngậm thêm xơ vỏ dừa, nên cũng có thể ḅ lên cầu thang xin nước cho cô bé. Không may, ngày hôm nay nhóm chủ tàu cương quyết từ chối. Họ lấy cớ là muốn sự công bằng cho mọi người. Trong ṿng 30 phút cô bé cứ lập đi, lập lại: “cho tôi nước, cho tôi xin nước, nước, nước."Tôi thấy tội nghiệp và đau ḷng qua, cầu mong cho mưa xuống ngay bây giờ. Ôi! Tôi không tin vào mắt tôi. Cô bé nấc lên, đảo một ṿng mắt và rồi nhắm nghiền lại và bất động. Ngựi Mẹ hét lên “Cứu con tôi, con tôi chết rồi.” Tất cả mọi người đều sửng sốt. Nghe la, nhóm chủ tàu vội vàng chạy xuống đem theo nước đổ vào miệng cô bé. Nhưng vô ích! Cô bé đă bất động và không bao giờ cần xin nước nữa! Mẹ cô, anh em trong gia đ́nh khóc nức nở. Mọi người, kể cả nhóm chủ tàu cũng đều xúc động. Có lẽ họ đang hối hận về sự sai lầm của họ, khi không cho cô nước như hai ngày vừa qua. Nhất là đă không giữ lời hứa lo cho khách lương thực đầy đủ trong mười ngày.
Mới có ngày thứ năm, đă có người chết v́ không được cung cấp nước. Với t́nh trạng con thuyền trôi vô định không biết đi về đâu? Dù biển yên, sóng lặng cũng sẽ chết dần, chết ṃn, chứ đừng nghĩ chi đến sóng to, gió lớn. Lần đầu tiên, tôi thấy bóng tử thần đang chập chờn. Mọi người vừa xúc động, vừa lo sợ sẽ có thêm nhiều người kiệt sức, trước khi đến được “bến bờ Tự Do”.
Nắng đă bắt đầu tắt, hoàng hôn đang dần xuống. Nhóm chủ tàu quyết định "thủy táng cô bé". Họ kêu gọi bất cứ ai tùy theo tôn giáo của ḿnh cầu nguyện cho cô bé. Không có ai hết! Tôi không hề đi lễ chùa, không biết ǵ về nghi thức tụng niệm. Nhưng từ những năm sau 30/04/1975, tôi đă sống triền miên trong nước mắt, chỉ biết đêm ngày cầu nguyện Trời Phật cứu vớt cho gia đ́nh đang tan nát v́ cha và anh lâm nạn, trong khi Mẹ qua đời và các em c̣n quá nhỏ dại.
Những năm gần đây, có những quư nhân giúp tôi vượt biên. Trong người tôi luôn luôn mang theo quyển kinh “Bạch Y Thần Chú” để cầu nguyện. Biết rằng đây không phải là kinh cầu siêu. Nhưng tôi cảm thấy có thể làm người mất đi được ấm áp, nên tôi t́nh nguyện đứng ra thắp nhang tụng niệm. Mẹ của cô bé cho tôi biết tên em là Tuyết Nhiên (tôi không c̣n nhớ họ). Sau khi thắp nhang do chủ tàu mang theo đưa cho. Tôi lăm răm tụng niệm. Sau đó, hai người đàn ông đến gần xác cô bé, người đỡ đầu, kẻ khiêng chân đẩy xác cô bé xuống biển, trong tiếng khóc nghẹn ngào của người Mẹ và anh em trong gia đ́nh. Tôi cũng không cầm được nước mắt, thương tiếc cho cô bé hồn nhiên ngồi trước mặt tôi năm ngày qua. Hôm nay em đă đi vào ḷng đại dương chỉ v́ nhóm tổ chức đă tàn nhẫn bội ước.
Tôi chợt rùng ḿnh: "Nếu không có cơn mưa nhiệm mầu hôm qua, th́ nguời đầu tiên bị Thủy Táng đă là tôi.” V́ có lẽ không ai dám gặp nhóm tổ chức để xin nước cho tôi được hồi sinh thêm vài ngày như Tuyết Nhiên.
Sự xúc động vẫn chưa nguôi, th́ nghe tiếng xôn xao"Máy ghe bị hư rồi, tự nhiên máy ghe bị tắt, không biết làm cách nào đễ cho ghe di chuyển.Vậy, bà con nào biết ǵ về sửa chữa máy móc làm ơn giúp để cho ghe có thể đi tiếp." Một vài đàn ông, thanh niên đi tới chỗ đầu máy loay hoay sờ tới, sờ lui, nhưng chẳng mang lại kết quả ǵ! Chiếc ghe vẫn không thấy động đậy.
Sau đó một hiện tượng kỳ lạ mà tôi chưa bao giờ thấy trong đời đă diễn ra trước mắt tôi và mọi người: Tự nhiên, một số người đứng dậy nhốn nháo làm chiếc ghe tṛng trành, nghiêng qua, nghiêng lại. Nhóm tổ chức hét lớn lên:“Xin bà con hăy ngồi yên, nếu c̣n tiếp tục ghe sẽ lật úp và mọi người sẽ chết hết.”Tôi kinh ngạc nh́n thấy vài người lần lượt sắc mặt trở thành đờ đẫn, mắt ngây dại và miệng th́ thào: “Nước, cho tôi xin nước.” Đúng là ánh mắt và câu nói liên tục của Tuyết Nhiên trước khi ra đi. Đang nghĩ như vậy th́ một cô gái trẻ ngồi cạnh tôi mấy hôm nay, cũng từ từ đổi sắc mặt và lập lại đúng câu đó, giống như những người kia.
Tôi vốn dĩ rất nhát. Sau khi Mẹ tôi mất, tôi không dám đi ngang bàn thờ Mẹ một ḿnh. Vậy mà lúc ấy, trước ánh mắt kỳ quái của cô ta, tôi không hốt hoảng chạy đi t́m chỗ khác như người ta. Tôi nghĩ ngay lập tức: "Đúng là hồn của Tuyết Nhiên nhập vào cô này rồi.” Tôi b́nh tĩnh, nghiêm trang nh́n thẳng vào ánh mắt đờ đẫn, kỳ quái của cô ta và nói: “Tuyết Nhiên, em có sống khôn, thác thiêng Xin em hăy tha thứ cho những ai đă sai lầm không cho nước để em được hồi sức. Em hăy phù hộ cho Mẹ, cho anh em của em và bà con trên ghe đuợc an toàn, không bị nguy hiểm đến tính mạng. Nguyện cầu Trời, Phật, Chư Thiên Thánh Thần và Thủy Thần cho hương linh em được siêu thoát về cơi vĩnh hằng.Tôi niệm: “Nam Mô A Di Đà Phật và Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát ba lần.” Thật là quá ngạc nhiên! Chỉ trong vài phút sắc mặt cô ta trở lại b́nh thường và không nhớ ḿnh vừa nói những lời cuối cùng của Tuyết Nhiên như vài người khác mà cô thấy trước đó.
Càng lại ngạc nhiên hơn là vài phút sau đó có nhiều tiếng reo mừng: "Ồ, máy ghe đă nổ lại được rồi, ghe từ từ chuyển động và đi tiếp.” (Hai hiện tượng này không thể giải thích theo khoa học được và coi như hoang tưởng. Nhưng tất cả là sự thật một trăm phần trăm, mà cho đến nay tôi vẫn c̣n thắc mắc về sự kiện này.)
Không khí ảm đạm và đau buồn, kèm theo sự lo lắng, sợ hăi lại tiếp tục phủ trùm những thuyền nhân trên chiếc ghe đang di chuyển trong vô định. Hôm nay đă bước vào ngày thứ năm giữa đại dương bao la. Tôi nhớ là ngày 28 tháng 09, năm1984.
Tất cả mọi người gia tăng sự lo lắng và hoang mang, nôn nóng cầu mong gặp đuợc bất cứ tàu thuyền nào đi ngang qua cứu. Sức chịu đựng càng ngày, càng mỏi ṃn, kiệt quệ, tinh thần suy sụp! Làm sao có thể cầm cự được lâu dài? Tùy theo tôn giáo riêng của ḿnh, mọi người cùng khấn nguyện đấng thiêng liêng, hiển linh phù trợ. Riêng tôi th́ liên tục cầu nguyện Mẹ Quan Thế Âm Bồ Tát gia hộ. Thấp thoáng từ phía xa xa có vài bóng dáng những chiếc tàu đi ngang qua, nhưng sau đó biến dạng.
Th́nh ĺnh, mọi người thấy một chiếc thuyền lớn xuất hiện và đang tiến dần về phía ghe của ḿnh. Tất cả đều mừng rỡ và hy vọng gặp “Thần Hộ Mạng” đến cứu. Họ cho thuyền cặp sát ghe và quăng dây neo lên. Sau đó họ trèo qua ghe. Lúc đó tôi mới định thần và thấy năm người đàn ông đen như cột nhà cháy, râu ria rậm rạp, trên người chỉ mặc một quần xà lơn. Một người cầm súng dài. Tôi đoán có lẽ là tên cầm đầu? Bốn tên c̣n lại th́ kẻ dao, người búa và mă tấu. Có tiếng x́ xào “Chết mẹ rồi, gặp hải tặc là coi như xong đời.”
Tự nhiên, toàn thân thể tôi cảm thấy rụng rời. Ôi! Trời, Phật xin hăy cứu con! Con luôn ngày đêm nguyện cầu: “Đừng cho con gặp hải tặc. Nếu gia đ́nh con đă đến lúc tận cùng, mạt vận. Con thà chết trong ḷng đại dương, c̣n hơn rơi vào tay bọn hải tặc.” Lời nguyện cầu của con không được Trời, Phật chứng giám. Không lẽ con tới số rồi sao? Tim tôi đập vào lồng ngực th́nh thịch y như tiếng trống. Tôi tưởng chừng như trái tim văng ra khỏi lồng ngực và tôi sẽ chết ngay tại chỗ.
Bọn chúng trao đổi với nhau bằng tiếng Thái và ra dấu hiệu cho mọi người. Ai cũng đoán và hiểu là "Không được di chuyển hay động đậy. Nếu căi lời sẽ bị quăng xuống biển ngay lập tức.” Thế là, chúng chia nhau đi lục soát từng người, tịch thu những ǵ quư giá mà chúng bắt gặp. Có cả trăm người bị chúng lục soát.Tôi và vài người khác không có ǵ đáng giá, c̣n đa số không ít th́ nhiều đều bị chúng tước đoạt của cải. Tính ra chúng tịch thu cũng kha khá. Nhóm chủ tàu coi như bị thiệt hại nhiều nhất. Sau đó tên cầm súng mang các “chiến lợi phẩm” cướp được đem trở lại thuyền. Bốn tên hải tặc trên ghe dơi mắt nh́n theo hắn một cách chăm chú, h́nh như muốn xem tên đầu đảng cất giấu chiến lợi phẩm ở đâu?
B́nh thường, tôi được ví yếu như con sên, chậm hơn rùa v́ thể lực tôi rất yếu đuối. Tôi chỉ muốn càng xa bọn chúng càng tốt, dù chiếc ghe dài chỉ khoảng hơn mười thước. Lợi dụng cơ hội này, tôi vụt đứng dậy, lao thật nhanh về phía cuối ghe, rồi ngội thụp xuống giữa tiếng lao xao của vài người “Bà nội này tới số rồi, muốn chết sao? Con nhỏ này chắc muốn bị ném xuống biển!”Ngay tức khắc, anh tài công ném cho tôi một cục nhớt đen thui và nói "Trắng quá, bôi ngay vào mặt đi." Tôi vội vă bôi ngay vào mặt mũi và khắp cả người. Vài cô ngồi bên cạnh nhao nhao kêu:"cho tôi xin cục nhớt với.” Anh tài công lại ném tiếp vài cục nữa về phía các cô gái. Thấy thế bọn cướp giơ cao hung khí la hét, chửi rủa và bắt phải im lặng. May sao, tên đầu đảng vẫn chưa quay lại ghe, nên bốn tên hải tặc tiếp tục đưa mắt nh́n về phía thuyền của chúng. Lúc này, nh́n lại th́ tôi đang ngồi đối diện với Mẹ Tuyết Nhiên, mà trước đó khi hồn Tuyết Nhiên nhập vào vài người th́ họ đă sợ chạy đi t́m chỗ khác, do đó nhiều người không c̣n ngồi vị trí cũ nữa.
Lập tức, bà giao cho tôi đứa con gái út khoảng 2,3 tuổi và nói thật nhanh, giống như ra lệnh:"Cô hăy ôm cháu vào ḷng ngay đi."Mấy cô ngồi bên cạnh tôi định giật đứa bé từ trên tay tôi. Mẹ Tuyết Nhiên nói:"Yên ngay! Cô này là D́ ruột của cháu bé này.” Lúc này, bọn cướp qua tức giận, chúng dùng vũ khí đập mạnh xuống sàn ghe và xồng xộc tiến về phía cuối ghe đang ồn ào. Tên cầm dao găm, gương mặt đầy thẹo, đen đúa, râu ria lổm chổm dùng cánh tay mặt xốc tôi đứng lên, khiến đứa bé đang được tôi bồng khóc thét lên và đưa hai tay bấu chặt vào người tôi. Tên cướp có vẻ hơi nao núng. Hắn đưa mắt thật nhanh nh́n đứa bé, rồi quay nh́n tôi. Thấy một phụ nữ có con quá dơ dáy, bẩn thỉu, trông thật gớm ghiếc, nên buông tôi ra. Sau đó bọn chúng đi lùng sục khắp ghe. Cuối cùng, bắt được năm cô gái trẻ, sạch sẽ, xinh đẹp. Chúng lôi xềnh xệch về phía thuyền của chúng, mặc kệ các cô vùng vẫy, kêu khóc thảm thiết, cùng với tiếng van xin, gào thét của thân nhân kẻ bị nạn. Trong số các cô bị chúng bắt mang theo có con gái chủ ghe mới 15 tuổi.
Người trên ghe bèn đặt cho tôi một biệt danh là “Người đàn bà bị hải tặc chê.” Trườc khi rút lui, bọn chúng ra lệnh mọi người phải im và dùng vũ khí đập mạnh xuống sàn ghe làm thủng vài chỗ. Sau này, tôi được biết là nhóm tổ chức có mang theo vài cây súng để pḥng thân, nhưng không dám chống cự, v́ sợ nếu chống cự bọn hải tặc sẽ lên cơn điên và giết hết mọi người trên ghe. Do đó nhóm chủ ghe phải bó tay chịu trận, và đành đau ḷng hy sinh ngay cả con gái của ḿnh cho bọn hải tặc bắt mang đi.
Chiếc thuyền của bọn cướp biển đang xa dần. Mọi người trên ghe vẫn c̣n sững sờ v́ vừa trải qua một biến cố quá kinh hoàng. Những tiếng khóc của thân nhân các cô gái bị bắt đi thật sầu thảm. Tôi không biết ḿnh đang tỉnh hay đang mê? Tôi đă thoát khỏi bàn tay hải tặc dễ dàng vậy sao? Làm sao tôi lại có can đảm đứng dậy chạy về phía cuối ghe, trong khi bọn cướp ra lệnh ở đâu phải ngồi đó, không được nhúc nhích. Trời, Phật, hay hồn thiêng của bé Tuyết Nhiên đă nhấc tôi đứng dậy, đẩy tôi chạy về cuối ghe, để may mắn gặp lại Mẹ Tuyết Nhiên và được bà trao em của Tuyết Nhiên cho tôi bồng, cũng như tại sao anh tài công đă ném cho tôi cục nhớt và nói tôi bôi ngay vào người nhanh lên? Nhờ đó, tôi đă thoát khỏi bàn tay hung ác của hải tặc trong đường tơ, kẻ tóc. Vậy là thêm một phép lạ đă cứu sống tôi. Mới có mấy ngày mà tôi đă suưt chết mấy lần. Liệu tôi c̣n sức và c̣n may mắn thêm lần nào nữa để được bến bờ tự do hay không?
Mọi người bắt đầu lao xao: "Tát nước ngay, tát nước ngay! Nước tràn vào ghe rồi!" Đàn ông, thanh niên cố gắng dùng các vật dụng do chủ ghe đưa, cố ra sức tát nước đang làm ghe bị khẳm v́ những lỗ thủng trên sàn ghe do bọn cướp gây ra. Ôi! Vừa không biết phương hướng, vừa chống chọi với đói khát, vừa lo hết nhiên liệu, vừa lo nguy cơ chiếc ghe sẽ bị ch́m v́ nước biển đang tràn vào. Bây giờ, mọi người thật sự thấy tử thần càng lúc, càng trở nên gần hơn. Sự khủng hoảng càng gia tăng, nhưng vẫn cố hy vọng "c̣n nước, c̣n tát." Chiếc ghe cứ lê lết đi tiếp. Tôi vẫn tiếp tục niệm Phật cầu nguyện và thiếp đi trong sự hăi hùng chưa nguôi. Tôi lập đi, lập lại trong đầu:" Con không thể chết được. Con là niềm hy vọng của gia đ́nh. Con phải sống để cứu vớt gia đ́nh đang trông mong vào con."
Chiếc ghe tiếp tục di chuyển từ từ trong tuyệt vọng. Ánh nắng chiều dịu tắt dần, từ xa bỗng rực rỡ ánh đèn sáng ngời như từ cái tháp khổng lồ trên mặt nước. Vài người mừng rỡ, la lên: "Có giàn khoan dầu ở phía trước. Hăy cố gắng hướng về phía đó. Hy vọng sẽ được vớt." Tôi chợt bừng tỉnh, nh́n những ánh đèn màu rực rỡ ở trên cao, ngày càng gần hơn, tôi tưởng như ḿnh đang mơ khi được thấy cung điện của Thủy Thần trong một truyện thần thoại. Nghe tiếng reo mừng của mọi người trên ghe, tôi biết đây là sự thật! Không phải là ảo tưởng hay trong mơ. Tôi tưởng chừng ngất lịm trong nỗi vui mừng tột độ, và muốn hét to lên: "Vậy là coi như thoát chết, sẽ được giàn khoan cứu vớt, sẽ được đến bến bờ tự do như đă cầu khẩn.Vậy là đă được Trời, Phật chứng giám, độ tŕ.”
Mọi nguời như được uống thuốc hồi sinh. Đàn ông, thanh niên ra cố gắng ra sức tát nước nhiều hơn, chiếc ghe dường như cũng đi nhanh hơn. Một lúc sau chiếc ghe đă đến được gần chiếc tàu khổng lồ treo cờ Anh Quốc với hàng chữ to PANAMA. Dù vô cùng vui mừng, nhưng tôi lại rơi vào t́nh trạng hôn mê v́ đă kiệt sức từ lúc quá hăi hùng khi vừa thoát bọn hải tặc sáng nay. Một lát sau, tôi mơ hồ thấy có người cho nước uống, nên tỉnh dậy, th́ ra đó là vài ba thủy thủ của tàu Panama đang cho chúng tôi nước và một số thức ăn. Tôi nghe thoáng thoáng tiếng người nói “Có một cựu Trung Úy Quân Đội VNCH đă lên gặp Thuyền Trưởng xin được cứu vớt, nhưng ông ta từ chối. Và một cưụ Trung Tá hiện đang tiếp xúc với Thuyền Trưởng cũng để tiếp tục cầu xin cứu vớt." Nhưng vài phút sau, ông Trung Tá trở lại ghe với nỗi buồn tuyệt vọng cho biết: “Thuyền Trưởng không thể nào cứu được, v́ họ đang làm nhiệm vụ khai thác dầu hoả. Ông tặng ghe chúng ta một hải bàn và hướng dẫn đi về hướng trại tị nạn. Ông nói, trên đường đi sẽ gặp tàu của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc và họ sẽ cứu chúng ta.” Ai ai cũng đều thất vọng, nhưng cũng mừng v́ đă có hải bàn và hy vọng sẽ có tàu đến cứu. Hiện giờ đă được cung cấp nước uống, thức ăn, một số quần áo; không như trước đây trong hoàn cảnh đói khát, vô phuơng hướng, vô tin tức và sống trong tuyệt vọng.
Tôi đang hồi tỉnh một chút th́ lại choáng váng khi nghe tin không may này. Bất ngờ, có một thanh niên la to lên:" Trong chuyến đi này có một cô giáo dạy Anh Văn tên Duyên.Vậy cô Duyên có trên ghe không? Nếu có, sao cô không chịu lên gặp Thuyền Trưởng xin cứu giúp đi? "Tôi đoán thanh niên này là Khánh, em vợ của anh Nguyễn Quốc Trụ. Khánh chưa hề gặp tôi, nhưng đă được anh Trụ dặn:" Hăy nhớ t́m cô Duyên, cô giáo dạy tiếng Anh đi trong chuyến này”. Mọi người lao xao la to theo: “Cô Duyên đâu? Cô Duyên đâu?” Tôi chưa kịp trả lời th́ nghe tiếng x́ xào: "Chắc cô ta bị quăng xuống “ghe taxi” hay bị hải tặc bắt đi theo rồi chăng? ”Tôi không c̣n đủ hơi sức để lên tiếng, chỉ đưa tay vẫy vẫy. Có người nói:" Ồ! cái bà tưởng đă chết hồi sáng nay.”
Hai thanh niên c̣n khoẻ mạnh vội tiến về phía tôi, một người khiêng đầu, một người khiêng chân để đưa tôi lên thang dây, sau đó họ đặt tôi nằm trên sàn tàu. Chỉ vài phút sau, có một Bác Sĩ và vài thủy thủ vây chung quanh tôi. Họ cho tôi thở Oxy, tiếp theo cho uống một loại nước hay thuốc ǵ đó. Vị Bác Sĩ tiếp tục đo huyết áp, nghe tim, phổi và theo dơi. Ông nói tôi cứ thở tự nhiên. Được hít thở gió biển trong lành khoảng 15 phút, tôi thật sư tưởng ḿnh đă được uống thuốc tiên “cải tử hoàn sinh” trong các truyện cổ tích. Tôi có thể trả lời các câu hỏi của Bác Sĩ bằng giọng nói rơ ràng, và xin được đứng dậy để được nói chuyện với Thuyền Trưởng cũng đang đứng tại đó.
Lần đầu tiên được đứng trên sàn tàu vững chắc, kiên cố, rộng mênh mông, mà trước đó chỉ được ngồi chen chúc như cá hộp trên chiếc ghe mong manh; rồi đói khát, lo sợ hăi hùng với bao biến cố cận kề cái chết. Nh́n những ánh đèn màu rực rỡ từ trên cao của giàn khoang giữa những màu sắc lung linh của mặt trời như một viên hồng ngọc trên mặt nước biển vào lúc hoàng hôn, khiến tôi tưởng ḿnh đang ở Thiên Đàng. Nếu may mắn được Thuyền Trưởng cứu, cho lên chiếc tàu Panama, th́ đúng như từ âm phủ được lên cơi Tiên.
Sau khi nghe tôi tŕnh bày "Chúng tôi là những người ra đi từ miền Nam Việt Nam, đă bất chấp mạng sống, bất chấp hiểm nguy để đi t́m tự do bằng chiếc ghe bé bỏng, mong manh và hiện đang bị vô nước v́ hải tặc đâm thủng. " Vị Thuyền Trưởng lắc đầu, rồi buồn bă nói: “Tôi rất tiếc không thể cứu quư vị được.Trước đó đă có hai người đàn ông nói chuyện tôi về yên cầu này. Tôi đă giải thích lư do tôi không thể cứu được.
Thứ nhất: Chúng tôi đang khai thác dầu hỏa tại nước Malaysia này, chúng tôi không có đầy đủ phương tiện cứu nạn.
Thứ hai: Số người trên ghe quư vị phải hơn 100 người, chúng tôi lại càng gặp rất nhiều khó khăn để giúp đỡ. Tuy nhiên, xin quư vị đừng nên lo lắng. Hăy an tâm. Tôi đă cung cấp hải bàn để định phương hướng trên biển. Tôi đă hướng dẫn kỹ lưỡng đi về phía có trại tị nạn gần nhất, và tôi sẽ liên lạc với các tàu của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc đang di chuyển gần đây đến để cứu quư vị. Các thủy thủ chúng tôi đă làm mọi cách để giúp quư vị rồi. Tôi nghĩ quư vị sẽ lên đường b́nh an.”
Đến đây, tôi lại thấy đầu óc quay cuồng. Từ lúc đầu tiên lọt vào được chiếc ghe Cá Lớn cho đến nay đă 5 ngày lênh đênh giữa đại dương trong tuyệt vọng. Nếu không có những phép lạ xảy ra, làm sao tôi c̣n sống sót đến giờ phút này. Ôi!Tại sao có thể như thế này? Phải cố gắng nài nỉ, van xin Thuyền Trưởng. Tôi cố gắng tŕnh bày với Thuyền Trưởng những biến cố hăi hùng, những nguy hiểm mà chúng tôi đă trải qua mấy ngày hôm nay như: không có người biết lái, nên chiếc ghe trôi vô dịnh, một cô bé đă chết khát và phải bị ném xuống biển, 5 thiếu nữ đă bị hải tặc bắt đem theo sáng nay. Trước khi rút lui bọn hải tặc đă làm thủng ghe, hiện phải tát nước để có thể cầm cự, sống c̣n. May mắn đă gặp giàn khoang của các ông. Bây giờ chờ được tàu của Cao Ủy LHQ đến cứu, có lẽ tất cả chúng tôi sẽ làm mồi cho biển cả không bao lâu nữa.
Thuyền Trưởng lộ vẻ xúc động, nhưng lại trấn an tôi: “Bây giờ đă có phương hướng, và sẽ có tàu của Cao Ủy LHQ đến cứu, quư vị đă có đủ lương thực và nước uống trong vài ngày nữa, xin cứ an tâm”. Chỉ nghĩ khi tôi trở về chiếc ghe mong manh, chật ních, ngột ngạt v́ bao nhiêu mùi hôi hám cũng đủ chết. Trên ghe ai có đủ khả năng biết xử dụng hải bàn để lái cho đúng hướng? "Sai một ly sẽ đi một dặm” giữa đại dương th́ cũng sẽ lạc hướng, tiếp tục trong vô định. Thêm vào đó t́nh trạng chiếc ghe bị đục thủng th́ làm sao cầm cự cho đến khi gặp được tàu của Cao Ủy LHQ?
Đứng trên sàn tàu kiên cố này, tôi thấy rơ rằng. Đây là đất sống. Chiếc ghe mong manh kia là miền đất chết. Tất cả sẽ đi vào cơi chết nếu như không được lên tàu Panama này. Giờ phút này gặp giàn khoang mà không được cứu, th́ đúng là số tôi phải chết dưới ḷng biển rồi. Tôi lặng người khẩn cầu Trời, Phật: “Gia đ́nh con thật sự đă đến lúc tận cùng mạt vận, nên con đă thoát khỏi tay hải tặc, nhưng phải chịu chết dưới ḷng đại dương như đă khấn nguyện chăng? Tại sao Trời, Phật đă ra tay cứu con thoát khỏi bao nguy hiểm từ lúc ban đầu, mà nay phải bắt con chết tức tửi, giữa lúc tưởng rằng thật sự thoát mọi hiểm nguy? Tại sao? Tại sao? Nguời cha già, cả một đời là công chức hiền lương cuối cùng phải lâm nạn; các em thơ dại đă chịu đựng quá nhiều đau khổ trong bao nhiêu năm, nay sẽ càng đau thương hơn?”
Con phải sống. Con chỉ có ước nguyện giúp cha già, các em dại ra khỏi đường hầm, đen tối của đau khổ, và con cầu xin được gặp lại một “thiên thần” đang tha thiết chờ đợi con. Nhưng giờ phút này, tôi thấy thật sự hoàn toàn tuyệt vọng rồi, nên nước mắt đầm đ́a, ngước nh́n Thuyền Trưởng khẩn khoản trong nghẹn ngào. "Nếu ông cương quyết từ chối, tôi xin thay mặt hơn 100 người xin kính chào Vĩnh Biệt. V́ tôi tin chắc rằng giờ phút tôi rời khỏi nơi đây, trở về chiếc ghe bất hạnh, tất cả chúng tôi sẽ chết dưới ḷng biển. Chiếc ghe đă bị đục thủng và đang bị vô nước trầm trọng th́ làm sao chúng tôi có thể có cơ hội gặp được tàu của Cao Ủy LHQ cứu như lời Thuyền Trưởng nói. Xin Vĩnh Biệt Thuyền Trưởng!”
Sau lời chào vĩnh biệt đầy nước mắt trong nỗi tuyệt vọng của tôi, Thuyền Trưởng xúc động thật sự. Ông hỏi tôi:“Có tất cả bao nhiêu trẻ con và phụ nữ trên ghe?” Tôi trả lời “Tôi không biết”, nhưng có lẽ ít hơn đàn ông và thanh niên. Ông nói tiếp: “Trong điều kiện của chúng tôi hiện tại, chúng tôi chỉ cố gắng cứu trẻ em, phụ nữ. Đây là những người dễ dàng bị chết trong cơn nguy hiểm. Riêng các đàn ông, thanh niên xin tiếp tục lên đường, sẽ được tàu của Cao Ủy LHQ hay các tàu khác đi ngang qua gặp sẽ cứu.
Ôi! Thuyền Trưởng đă đổi ư! Đă bằng ḷng cứu trẻ con và phụ nữ. Vậy là tôi thật sự thoát chết, và chắc chắn sẽ được đến bến bờ “Tự Do” như hằng ước nguyện. Ôi! Vô vàn cảm tạ Thuyền Trưởng! Ôi! Phải chăng Thượng Đế, Trời, Phật, những người khuất mặt đă làm Thuyền Trưởng đổi ư? Tôi quay qua nói với hai thanh niên khiêng tôi lên đây, và vẫn đang đứng đó, nóng ḷng chờ kết quả:“Thuyền Trưởng chỉ có thể cứu trẻ con, phụ nữ mà thôi!"Hai anh thét to lên: “Thuyền Trưởng đă đồng ư cứu trẻ con và phụ nữ.”
Sau đó, ông ra lệnh cho các Thủy Thủ xuống ghe, bồng bế các trẻ con, phụ giúp các phụ nữ bước lên thang dây của tàu Panama. Tổng cộng đếm được tất cả là 50 người. Mọi người khóc nức nở, đưa tay vẫy chào những người thân: chồng, cha, chú, bác, cậu, anh em…phải ở lại chiếc ghe không lành lặn, trải qua bao biến cố hiểm nguy, đau buồn, biết đến bao giờ có cơ hội đoàn tụ hay sẽ vĩnh viễn chia ĺa? Mặc dù, tôi không có bất cứ người thân nào trên chiếc ghe này, nhưng trước cảnh chia ly năo nề với những người đă chịu cùng chung số phận với ḿnh từ ngày 23 tháng 09. Nay cá nhân tôi sẽ được b́nh yên, đến được bến bờ Tự Do mà ai cũng mơ ước; c̣n họ sẽ đi về đâu, khi tiếp tục lênh đênh trên biển cả, dù được cung cấp đầy dủ phương tiện đi biển? Nhưng chiếc ghe đang bị vô nước và không ai có kinh nghiệm đi biển th́ làm sao đi đúng hướng và biết đến khi nào gặp được tàu của Cao Ủy LHQ hay bất cứ tàu nào khác tiếp cứu. Theo tôi tất cả là vô vọng. Tôi vẫn cảm thấy “Chiếc ghe ấy là cơi chết”, nên tôi rất đau ḷng và suy nghĩ. Hay ḿnh thử cố gắng năn nỉ Thuyền Trưởng cứu họ. Ông đă can đảm không xin lệnh cấp trên để tự quyết định cứu trẻ con, phụ nữ. Bây ǵờ ḿnh yêu sách thêm. Không biết ông sẽ phản ứng ra sao? Ḿnh có quá đáng và không biết sự quảng đại của ông không? Nh́n thấy 50 người đứng chiếm một diện tích bé nhỏ khoảng vài phần trăm trên con tàu khổng lồ, kiên cố chẳng đáng là bao. Dù lo sợ, tôi tiếp tục cố gắng nói với ông: “Thưa Thuyền Trưởng, xin ông tha thứ cho tôi. Tôi rất đội ơn ông đă cứu mạng tôi và những người khác. Nay xin ông hăy cứu tất cả mọi người c̣n lại. Với chiếc ghe như vậy, tôi không tin họ sẽ có cơ hội gặp được tàu của Cao Ủy LHQ. Chúng tôi không cần thức ăn, quần áo, chúng tôi chỉ cần một nơi an toàn có hy vọng được sống. Chiếc tàu của ông là đất sống, chiếc ghe kia là cơi chết. Nếu ông nhận thêm những người kia mà tôi nghĩ chỉ chiếm thêm diện tích không đáng là bao của chiếc tàu khổng lồ này, và tất cả cùng chờ đợi gặp tàu của Cao Ủy LHQ đến giúp đưa đi tới trại tị nạn.“ Có lẽ Thuyền Trưởng đă xúc động giữa tiếng khóc nghẹn ngào, những tiếng chào biệt ly, dù bằng tiếng Việt, một ngôn ngữ mà ông hoàn toàn xa lạ và không hiểu:“ Ba ráng bảo trọng, tạm biệt anh; tạm biệt con, tạm biệt cậu, chú vvv…” nên ông lặng yên, trầm ngâm suy nghĩ với ánh mắt đầy xúc động. Sau một, hai phút, ông nh́n tôi nhè nhẹ gật đầu và ra dấu bằng ḷng cứu tất cả mọi người c̣n lại trên ghe. Nhiều tiếng hét to:“ Thuyền Trưởng bằng ḷng cứu tất cả mọi người.“ Ôi! Không c̣n ǵ may mắn và hạnh phúc hơn! Cảnh tượng đau ḷng như một đám tang tập thể trước đó, lập tức trở thành hân hoan, vui sướng với mọi người. Thế là, từng người vội vă cuống quưt leo lên thang dây với sự giúp đỡ của các Thủy Thủ để bước lên sàn tàu. Những khuôn mặt rạng rỡ lẫn ngỡ ngàng, dù nét lo âu, khủng hoảng vẫn c̣n in trên nét mặt.
Khi không c̣n ai lên nữa, vài thủy thủ hỏi to bằng tiếng Anh: “C̣n ai ở dưới ghe không?” Không có tiếng trả lời. Họ hỏi thêm vài lần nữa! và nói chúng tôi xem lại có người nào bị kiệt sức, ngất xỉu chưa lên được chăng? Tất cả gia đ́nh cùng xem lại thân nhân của ḿnh. Thật là một cử chỉ nhân từ và chu đáo! Sau đó các thủy thủ dùng búa chặt đứt sợi dây thừng to dùng để cột chiếc ghe vào tàu Panama trước đó, chiếc ghe tṛng trành, lơ lửng trôi bềnh bồng, trên đó có chiếc túi xách mà lúc hai người khiêng tôi lên tàu Panama tôi làm rớt lại. Biểu tượng thần thoại, cánh chim Đại Bàng mà tôi thường mang theo trong những lần vượt biên từ nay sẽ trôi theo gịng nước, không bao giờ cùng tôi đi tiếp bất cứ nơi đâu!
Tất cả mọi người được yêu cầu đứng xếp hàng để đếm số người. Tất cả 137 người gồm: trẻ em, phụ nữ, thanh niên và đàn ông. Vừa mới đếm xong th́ vài phút sau bỗng nhiên giông tố ầm ầm từ đâu kéo tới, kèm theo những đợt sóng khổng lồ đánh tràn vào cả sàn tàu. Các thủy thủ vội vă dùng những sợi dây thừng thật to, cột mọi người lại với nhau, và sau đó buộc chặt vào các cột tàu để không bị sóng đánh cuốn trôi đi. Một sự kinh hoàng diễn ra trước mắt mọi người đang bị ướt đẫm:
Chiếc ghe mà truớc đó chứa cả trăm người chỉ trong nháy mắt đă bị nhận ch́m theo những đợt sóng khổng lồ, rồi mất hút ngay dưới cơn mưa tầm tă đổ xuống như thác, sấm chớp nổ vang khắp trời.
137 người trong đó có tôi đă chết đi và sống lại trong sự nhiệm mầu của Thượng Đế, Trời, Phật??? Nếu không may mắn gặp vị Thuyền Trưởng đầy ḷng bác ái và nhân từ này th́ chúng tôi đă cùng theo chiếc ghe ch́m sâu vào ḷng đại dương lúc đó. Tôi đi từ bàng hoàng này sang đến bàng hoàng khác. Chỉ trong năm ngày lênh đênh trên biển, tôi đă chứng nghiệm được quá nhiều phép nhiệm mầu của Thượng Đế, Trời, Phật đă cứu vớt tôi thoát khỏi Tử Thần, và kể từ giờ phút này đă cùng 136 người được trở về từ cơi chết.
Thuyền Trưởng và các Thủy Thủ cảm thấy vui mừng đă cứu đuợc 137 người một cách bất ngờ. Chỉ trong ṿng vài phút đă có những tấm bạt khổng lồ được căng lên che chở cho đoàn người chúng tôi đang bị ướt sũng, và lạnh run cầm cập bởi những luồng gió mạnh như vũ băo quất thẳng vào người.
Sau đó mọi người được các Thủy Thủ đưa vào các pḥng cho ấm. Rồi họ phân phát những cục xà bông thơm phức và một số quần áo, yêu cầu mọi người lần lượt, từng nhóm bốn, năm người, chia ra nam theo nam, nữ theo nữ đi tắm, v́ không có đủ pḥng tắm cho từng người tắm riêng. Lúc bấy giờ, tôi đă hoàn hồn, và không c̣n lạnh run nữa, không khỏi bật cười khi nh́n thấy vài cô mặt mũi, ḿnh mẫy vẫn c̣n dính đầy nhớt, lem luốc trông thật gớm ghiếc (giống như tôi).
Sau khi được tắm rửa sạch sẽ, ấm áp, mọi người được mời vào pḥng ăn. Bao nhiêu thức ăn được khui ra từ các hộp thịt, hộp súp đă được bày sẵn trên các bàn trong căn pḥng sáng rực những ánh đèn Néon. Chỉ mới sau mấy ngày đói khát, luôn luôn bị khủng hoảng, lo sợ, và lúc nào cũng kề cận với Tử Thần, chúng tôi cảm thấy như được thưởng thức một bửa yến tiệc linh đ́nh, thịnh soạn do chiếc Đèn Thần của Aladin biến hoá. Tôi nhờ vài thanh niên đi ṿng quanh càc bàn nhắc nhở mọi người dùng súp truớc, cố gắng ăn từ từ và ít thôi để bao tử không bị ảnh hưởng, có thể gây nguy hiểm đến tính mạng khi chuyển từ t́nh trạng quá đói sang quá no.
Mọi người lại được phân phát mền, dù không đủ cho mọi người, nhưng chúng tôi vui vẻ, chia theo nhóm đắp chung cho càng ấm, và nằm tạm trên sàn tàu dưới những tấm bạt che mưa vẫn đang c̣n rỉ rả. Riêng tôi th́ may mắn được ngủ trong một pḥng riêng nho nhỏ, có lẽ của một Thủy Thủ nhường chỗ cho dùng tạm trong thời gian chờ đợi này?
Cơn giông băo đă ngưng gầm thét để cho mọi người được ngủ yên trong niềm vui sướng và diễm phúc lớn lao nhất: Đă sống lại từ cơi chết và sẽ đến bến bờ Tự Do như ước nguyện. Chưa bao giờ tôi có một giấc ngủ thật say trong tâm trạng b́nh an, và tinh thần phơi phới như đêm hôm đó!
Chúng tôi chỉ van xin Thuyền Trưởng cho chúng tôi một chỗ ngồi trên sàn tàu Panama kiên cố, để được sống sót, và chờ đợi được tàu của Cao Ủy Tị Nan Liên Hiệp Quốc đến cứu.
Chúng tôi không dám mong được ăn uống, phân phát chăn mền, quần áo như thế này. Chắc là đoàn người chúng tôi đă tiêu thụ hết thực phẩm, quần áo dự trữ của tất cả Thủy Thủ đoàn? Có thể v́ thế mà Thuyền Trưởng đă cương quyết từ chối lúc ban đầu. Ơn cứu mạng này của Thuyền Trưởng chắc chắn không bao giờ có thể đền trả được.
Mọi người sung sướng, yên tâm chờ đợi trên tàu Panama thêm một ngày và một đêm. Lần thứ hai được nằm trên chiếc giường bé nhỏ có chăn nệm trắng phau giữa tiếng sóng biển ŕ rào và thỉnh thoảng có tiếng ầm ầm của những cơn sóng từ xa vọng lại, không khí mát dịu, trong lành mà chưa bao giờ tôi có trong đời đă đưa tôi ch́m vào giấc ngủ thật dễ dàng và êm ái.
Tiếng gơ cửa của một Thủy Thủ đánh thức tôi dậy giữa lúc tôi c̣n đắm ch́m trong giấc ngủ êm đềm. Anh ta nói khi tôi vừa mở cửa "Tôi xin lỗi đă đánh thức cô. Cô đă có một giấc ngủ ngon không? Thuyền Trưởng muốn gặp cô".
Tôi vội theo anh ta bước lên cầu thang dẫn tới boong tàu trên cao. Dưới ánh b́nh minh giữa đại dương, mặt trời thật rạng rỡ trên mặt nước bao la xanh biếc, cảnh sắc c̣n đẹp hơn cả bức tranh thủy mạc. Vị Thuyền Trưởng cứu tinh của chúng tôi đang đứng chờ và đưa tay ra bắt trong lúc tôi chào ông ta. Sau đó, với khuôn mặt thật nghiêm trang quay về phía mặt Trời đang tiếp tục lên cao trên mặt nước, vị Thuyền Trưởng quỳ xuống, lâm râm vài lời và làm dấu lạy Thượng Đế theo kiểu Thiên Chúa Giáo, tôi cũng vội vă quỳ xuống theo.
Rồi Thuyền Trưởng đứng đậy, nói: "Cảm ơn Thượng Đế đă nhờ Cô cho tôi cơ hội cứu được 137 người. Đúng như lời cô, nếu tôi không thay đổi quyết định kịp thời, 137 người đă thật sự bị chôn vùi dưới ḷng đại dương lúc đó. Và suốt hai ngày nay, tôi không liên lạc được với bất kỳ tàu nào của Cao Ủy, v́ ảnh hưởng của cơn băo, điện thoại cũng hoàn toàn bị tê liệt. Hôm nay, không thể chờ thêm nữa, chúng tôi phải nhổ neo để đưa quư vị đến một trại tị nạn gần đây nhất. "Tôi rưng rưng nước mắt, chỉ biết tận đáy ḷng, vô cùng cảm ơn cứu mạng của Thuyền Trưởng. Tôi xin ông cho tôi cơ hội được liên lạc với ông trong tương lai khi được định cư. Thuyền Trưởng về pḥng, vài phút sau trở ra trao cho mảnh giấy có ghi tên, địa chỉ ở đất liền bằng chữ viết tay:
Captain Brian O' Connell
17 Arundel Close
Bexley
Kent
England
U.K
Các Thủy Thủ được lệnh nhổ neo tiếp tục lên đường, tàu từ từ xa giàn khoan đứng sừng sững như toà lâu đài giữa đại dương vào buổi sáng ngày 30 tháng 09, năm 1984. Buổi chiều cùng ngày th́ đến Đảo Pulau Bidong, một trại tị nạn dành cho các thuyền nhân Việt Nam trên quốc gia Mă Lai Á.
Mọi người coi như đă đạt ước nguyện nhờ ơn cứu mang của vị Thuyền Trưởng có tấm ḷng bác ái bao la, "Thuyền Trưởng O'Connell”. Lần lượt từng người chào từ biệt Thuyền Trưởng và các Thủy Thủ với tất cả sự biết ơn không có lời nào có thể diễn tả được. Tất cả Thủy Thủ đoàn và Thuyền Trưởng hân hoan chúc chúng tôi may mắn, sớm được định cư ở một nước thứ ba.
V́ tàu được cặp vào đất liền, chúng tôi không phài dùng thang dây để leo xuống như lúc ở giữa biển. Mọi người ung dung bước ra khỏi tàu như bước ra khỏi phi cơ, có lối đi thẳng lên chiếc cầu giữa mặt nước, rồi cao lên dần cho đến khi giáp với đất liền. Sau này tôi được biết tên cây cầu là Jetty.
Thuyền trưởng O’Connell bắt tay từ biệt tôi lần cuối, sau khi giới thiệu tôi với các Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đang đứng chờ đón đoàn người tị nạn được tàu Panama bàn giao.
Một trang sách mới đă được lật qua trong ḍng đời của 137 thuyền nhân sống sót nhờ một phép mầu vào ngày 28 tháng 09, năm 1984 v́ đă may mắn gặp được vị Thuyền Trưởng giàu ḷng nhân ái. Và bắt đầu đoạn đời tị nạn từ đây với mă số do Văn Pḥng Cao Ủy Tị Nạn đăt tên theo thứ tự khi có đoàn người tới đảo: MB 224 Pulau Bidong.
Vẫy tay chào tàu Panama đang xa dần trên mặt nước mênh mông, tôi vẫn c̣n ngẩn ngơ như đang mê ngủ. Đứng trên nền cát trắng, dưới những hàng dừa xanh cao vút dọc theo băi biển, tôi hướng về phía mặt trời rực rỡ đang dần dần đi xuống gần mặt nước xanh trong vắt, thành tâm khấn nguyện lời cảm tạ Thượng Đế,Trời, Phật, những hương linh đă cứu vớt tôi thoát khỏi Tử Thần đầy nhiệm mầu qua bao biến cố kinh hoàng suốt mấy ngày qua.
Từ đây, bắt đầu một khúc rẽ cuộc đời như một hành khất đi chân đất, với hai bàn tay không; cái túi xách nhỏ có vài kỷ niệm và đôi dép đă bị rớt lại trên chiếc ghe trong lúc được khiêng lên tàu Panama. Tôi đă không dám xin đôi giầy hoặc dép trong thời gian chờ đợi, v́ đă nói với Thuyền Trưởng: Chỉ xin một chỗ đứng trên “vùng đất sống”.
Hành trang tôi mang đến Pulau Bidong chỉ có một trái tim tràn ngập ḷng biết ơn Thượng Đế, Trời, Phật và những ân nhân đă cứu giúp tôi trên từng bước đường đời, sự thương nhớ những người thân yêu c̣n lại đang vất vả nơi quê nhà, và đang ấp ủ những ước mơ cho ngày mai tươi sáng. Bên cạnh đó là một linh hồn nặng trĩu với những h́nh ảnh hăi hùng, tuyệt vọng trong cuộc hành tŕnh đi t́m "Tự Do", với bao kư ức đau buồn của những năm tháng" đại bác đêm đêm vọng về thành phố" trên quê hương. Một linh hồn quằn quại v́ sự tan nát của gia đ́nh khi chiến tranh chấm dứt trong cảnh nước mất, nhà tan, đau thương, thống khổ chất chồng.
Thấm thoát đă hơn ba mươi mốt năm trôi qua. Tôi đă bước qua bao nhiêu ngă rẽ cuộc đời như chiếc thuyền trôi theo gịng nước. Có những lúc rẽ qua gịng suối nên thơ, có đôi khi rẽ vào gịng sông êm ả và cũng có lúc di vào ḷng biển khơi đang trong cơn giông tố. Ở bất kỳ ngă rẽ nào, không có một khoảnh khắc nào trong đời, tôi có thể quên được những phép lạ đă cứu vớt tôi trong chuyến đi nhiệm màu ấy.
Những lời cuối cho ḍng hồi ức về những phép lạ tôi đang kể lại, xin thay mặt 137 người cùng thoát chết dưới ḷng đại dương trong cơn giông băo vào buổi chiều ngày 28 tháng 09, năm 1984, và bây giờ không biết đang tản mạn ở các phương trời nào, ai c̣n, ai mất, thành tâm gửi đến Thuyền Trưởng Brian O' Connell (cũng không biết ông đang phiêu du ở chân trời, góc bể nào), ḷng biết ơn vô bờ bến và không bao giờ đền trả được ơn cứu mạng ngày ấy.
Ước nguyện tha thiết nhất của tôi trong những năm tháng cuối cuộc đời là được Ơn Trên ban phép lạ cho tôi t́m được tin tức vị Thuyền Trưởng có tấm ḷng bác ái bao la đă cứu 137 người tưởng chừng như chắc chắn là chết được trở về đất sống.
Sự liên lạc của tôi với Thuyền Trưởng đă bị cắt đứt, sau bức thư gửi đến ông năm 1988 đă bị trả về với hàng chữ: "Moved to unknown address". Nhiều năm nay, các con tôi đă cố truy t́m trên nhiều trang mạng từ Internet, nhưng tảt cả đều vô vọng.
Cũng xin thay mặt 137 thuyền nhân, gửi đến tảt cả Thủy Thủ đoàn của tàu Panama ngày ấy sự biết ơn sâu xa trước sự giúp đỡ nhiệt t́nh đầy ḷng bác ái của quư vị.
Từ đáy ḷng , xin gửi đến cô Minh, mẹ của Tuyết Nhiên, và anh tài công sự biết ơn vô bờ đă giúp tôi thoát khỏi bọn hải tặc một cách nhiệm mầu, khi giao cháu bé và liệng cục nhớt cho tôi kịp thời trong tích tắc.
Và cũng tận đáy ḷng, xin chân thành đặc biệt gửi đến ân nhân Nguyễn Vinh Tôn sự biết ơn vô bờ đă giúp tôi bước lên chiếc thuyền định mạng ngày 23 tháng 09, năm 1984. NVT măi măi là một Thiên Thần của sự trong sáng và cao quư trong hồn tôi.
Giờ đây, tôi xin thắp một nén hương dâng lên hương linh của anh Nguyễn Quốc Trụ với tất cả sự biết ơn chân thành nhất của một người hân hạnh và may mắn đă được anh giúp trong chuyến vượt biên này.
Và cùng hàng triệu Quân, Dân, Cán, Chính VNCH, xin tưởng nhớ, ghi ơn những anh hùng đă hy sinh bảo vệ VNCH, trong đó có người anh hùng Mũ Đỏ Nguyễn Quốc Trụ, SVSQ/ Khoá 20 Vơ Bị Đà Lạt, Đại Úy thuộc Binh Chủng Nhảy Dù, người đă tham dự trận chiến khốc liệt nhất trong quân sử VNCH, trận Đồi 31, Lam Sơn 719, Hạ Lào 1971, nơi anh hùng Mũ Đỏ Nguyễn Văn Đương đă nằm xuống, và đi vào huyền thoại qua nhạc phẩm bất hủ "Anh không Chết Đâu Anh" của Nhạc Sĩ Trần Thiện Thanh, c̣n anh Nguyễn Quốc Trụ và nhiều Sĩ Quan, binh sĩ đă bị bắt làm tù binh trong những trại tù nghiệt ngă ở Bắc Việt cho đến năm 1979.
Xin thắp một nén hương dâng lên người Cô (D́) yêu dấu Hồng Hoàng Lan, với tất cả sự biết ơn của người cháu được Cô thay Mẹ, an ủi, đùm bọc trong giai đoạn gia đ́nh tan nát, đau thương sau biến cố lịch sử 30 tháng 04, năm 1975. Cô là người duy nhất trong gia đ́nh Mẹ tôi c̣n ở lại Hà Nội sau năm 1954 v́ đă không thể bỏ lại những cây đàn yêu quư để ra đi. Là một nhạc sĩ xử dụng đàn Violoncelle trong Dàn Nhạc Giao Hưởng Hà Nội, cô đă kịp thời vào Sàig̣n để đưa tiễn Mẹ tôi về cơi vĩnh hằng ngay sau 30-4-1975. Cô cũng là người đă khuyến khích, giúp tôi t́m đường vượt biên, và bắt nhịp cầu cho tôi được bước vào chuyến đi hăi hùng, nhưng mầu nhiệm này.
Và xin thắp một nén hương nguyện cầu cho hương linh emTuyết Nhiên cùng tất cả những thuyền nhân đă nằm xuống ḷng đại dương trong những cuộc hành tŕnh đi t́m Tự Do đưọc an nghỉ nơi vùng trời miên viễn.
Nếu không có những phép lạ nhiệm mầu cứu vớt, 137 người trong đó có tôi cũng đă chung số phận âm thầm nằm trong ḷng biển cả ngày 28 tháng 09, năm 1984. Và những biến cố dồn dập xảy ra trong suốt cuộc hành tŕnh không bao giờ thân nhân được biết.
Cuối cùng, xin chân thành gửi đến anh Trần Đ́nh Phước, cựu Trung Úy Không Quân VNCH, sự biết ơn sâu xa đă khuyến khích, bỏ ra nhiều thời gian và nhiệt t́nh giúp tôi hoàn tất viết lại những ḍng hồi kư đúng vào ngày Giáng Sinh 2015 về chuyến đi nhiều phép lạ mầu nhiệm này.
Toronto, Giáng Sinh 2015
Phạm T. Duyên
*Kính dâng lên hương hồn những thuyền nhân đă bỏ ḿnh trên biển cả v́ lư tưởng tự do. Xin Quư vị nào biết tin tức về Thuyền Trưởng người Anh tên là Brian O’ Connell và Thủy Thủ Đoàn của tàu Panama khoan dầu trên Biển Đông cách đây hơn 31 năm. Xin làm ơn giúp, để tôi có thể liên lạc, dù là muộn màng. Đây cũng là ước nguyện cuối đời của tôi. (PTD)
Phạm T. Duyên
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1359104&stc=1&d=1554125213
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1359105&stc=1&d=1554125213
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1359106&stc=1&d=1554125213
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1359107&stc=1&d=1554125213
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1359108&stc=1&d=1554125213
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1359109&stc=1&d=1554125213
hoanglan22
04-03-2019, 13:38
Qua cầu Phú Mỹ, chạy một lúc là tới Cát Lái rồi lên Thủ Đức. Vậy mà lần lửa từ trước tết đến hôm nay tôi mới đi được. Để tránh thay đổi ư định giờ chót, tôi gọi cho Hùng từ hôm qua.
Tháng sáu trời hay mưa vào buổi chiều, quá 12 giờ th́ đă mịt mù mây đen, tôi vẫn cứ phải đi.
Con sông Sài G̣n ngày nước lên mênh mông, đám ghe buôn, ghe hàng trôi theo nước chen kín một khúc phía xa chân cầu Phú Mỹ, cây cầu dây giăng mới xử dụng vài năm đă có dấu hiệu xuống cấp, mặt nhựa trên lớp bê tông đă nhăn nhúm và phía đông cây cầu, người ta đang hối hả đổ đá phủ lên, lấp bồi đồng hoang cỏ dại của bao năm rừng nước mặn. Đám gốc rễ tràm, rễ đước phơi khô bên đường là dấu hiệu của những đợt tàn phá thẳng tay. Cái khu “Nhà bè nước chảy chia hai, ai về Gia Định Đồng Nai th́ về” bây giờ nó chỉ là đất đá ngổn ngang dưới chân những tháp cẩu cao ṿi vọi.
Chưa tới ngả tư B́nh Thái, Hùng đă réo vang trên điện thoại:
– Ông nhớ ṃ vô đường số 3, tụi tui đang ngồi ở cuối đường, mà cha nội biết ngơ vô chỗ này không đă?
– Trời! lên Thủ Đức tui c̣n muốn lạc huống chi đường mới, tên mới thôi tui gọi ông khi tới gần đó.
Vậy đó, Sài G̣n bây giờ lạ lẫm như vậy, tôi là thứ Mán lạc rừng ở đất địa này, sau mấy chục năm ít có cơ hội ra khỏi nhà.
Đón tôi là 5 gă thương tật từ đầu tới chân, 5 con người ngồi lọt thỏn trong góc quán dưới tàng cây sân thả những sợi rễ dài chấm dất, trông có vẻ t́nh tự văn nghệ, văn gừng không chịu được. Chào nhau chưa kịp đă nghe tiếng Hùng với khuôn mặt biến dạng sau ngày bị thương ở Lai Khê, khi theo tiểu đoàn vào Tống Lê Chân, ào ào trách cứ:
– Nửa năm rồi nghen cha nội, hứa bao lần ông mới ṃ tới tụi tôi.
– Có trời làm chứng, tui ráng hết gân mới tới được, tuổi già bệnh hoạn mà cha.
Quanh bàn là 3 ông Biệt Động.
Người lớn tuổi nhất cựu binh Mai Vinh của sư đoàn 5, người ở lính khi tôi mới một tuổi, ông về sư đoàn này khi ông Thiệu c̣n là đại tá tư lệnh, qua bao chiến trường, bao trận mạc. Cuối cùng, ông lănh một trái phá khi sư đoàn dưới quyền tướng Lê Văn Hưng, với một khuôn mặt méo mó, mất luôn con mắt trái, hàng tá mảnh đạn găm vào người. Ông về vườn và sống tất bật theo cái tuổi về chiều cùng với mớ sắt thép đạn bom vẫn tồn tại trên thân thể đă già nua.
Hai mai Huỳnh Thanh Tâm của Biệt động quân vẫn ngồi yên lặng nh́n tôi năy giờ:
– Từ sau cái G̣ Công Tây, anh mới chịu ló cái mặt ra.
– Anh khoẻ không? Cha! râu dài gần tới rốn, bộ anh muốn lên núi hả?
Người phế binh một chân c̣n lại đó là đàn anh quá tầm so với thời tôi, anh chiến đấu ở An lộc từ cái năm 1970, khi tôi chưa ăn cơm nhà bàn. Anh đi nát chiến trường miền đông, rồi bỏ lại cái chân ở Chơn Thành, có lẽ chính v́ thế anh cũng thân t́nh với hạ sĩ Dương, anh chàng Vơ Phùng Dương này của 4/52 BĐQ quá thân với tôi trong những ngày lặn lội lên đồi Gió, đồi 169 vào những năm 2011 thăm lom những mả mồ hoang lạnh c̣n sót lại sau chiến tranh, và hắn “thằng một chân về chôn bạn” mà tôi rất quí.
Anh Tâm rất hiền, nhưng là dân học trường “Tây uưnh Pháp” nên thường, anh hay rớt lại mấy câu tiếng Tây quen thuộc trong câu chuyện và là dân khoá 23 TĐ, nên dĩ nhiên, một ông ĐĐT trinh sát của lính rằn ri vẫn “you and me”quen thuộc, như thời anh đấu hót với cái máy truyền tin trên tần số của lính Mỹ, khi gọi pháo yểm.
Kéo cái chân giả lên anh Tâm nói với tôi:
– Nó xưa và cũ như cuộc đời tui vậy đó, thấy chưa? Nhưng tui khoái nó, như khóai cái “cây mùa xuân vừa héo ở G̣ Công Tây” của ông vậy.
– Cha nội chuyện đó xưa như trái đất rồi anh nhắc chi?
– Nhắc chớ, những lời nói thật dù dễ phật ḷng nhưng… tui khoái.
Anh cho tôi xem cái chân giả của anh, nó được làm từ thời của thập niên 60, 70 ǵ đó trông thật thô và kỳ cục.
– Trời sao anh không làm cái mới dễ đi hơn.
– Kệ, tui quen nó rồi, dấu chiến chinh giữ măi trong ḷng…
Trương Văn Vân, ngồi đối diện tôi, kế anh là Bùi Văn Ấn của SĐ 25BB. Vân gơ ngón tay lên cái chân nhựa kéo cao ống quần lộ ra cái chân cụt gần sát gối
– Tui bỏ cái chân thiệt ở Hậu Nghĩa, may mà ngày đứt phim có nó chứ không cũng mệt lắm.
Tôi lấy máy ảnh chụp một phát, 3 con người một thời xương máu, c̣n lại chỉ có 3 cái cẳng chân, và cố lấy h́nh ba cái chân giả, mỗi cái có một niên đại chế tác khác nhau, màu sắc khác nhau, dù cùng một chiến trường Miền Nam Việt Nam, nó đánh dấu bao thế hệ nối nhau đi chiến đấu.
Chợt nhớ tới Hoàng Thế Minh:
– Sao tui không thấy Thế Minh vậy? tôi hỏi Hùng.
– Nó chờ ông từ sáng, nên mới về nhà, để tui gọi nó qua, ở gần đây mà. Nghiêng cái mặt dị dạng Hùng ngó tôi trả lời từng tiếng.
Chiều đă xuống và cơn mưa sẽ đến, cái nóng hầm hập của thời tiết Nam bộ cho tôi cái “ngửi” được hơi gió lạnh và mưa đang tới. Hoàng Thế Minh đến, khó nhọc với cặp nạng, nhưng thao tác quen thuộc, anh chống nó xuống mặt đường, quăng người rời khỏi yên xe gắn máy, thằng con trai lớn của anh giúp ông bố tật nguyền đi vào, trên hai cái nạng. Tôi và Hùng đứng dậy đón anh.
Trong bàn chỉ có tôi, Hùng và cựu binh Mai Vinh c̣n nguyên hai chân, nhưng anh Vinh già và hom hem tới độ tôi có cảm giác anh khó ḷng đứng lên được.
– Sao rồi ? Tôi vỗ vai Thế Minh.
– Cũng vậy thôi, chờ anh hoài mà tới nay mới có dịp ngồi lại với nhau.
Câu nói rất b́nh thường của Thế Minh làm tôi khựng lại. Tôi đă từng hứa với anh sẽ lên Thủ Đức thăm anh và hứa từ hai năm rồi vậy mà cho tới hôm nay mới ṃ lên được, dù Thủ Đức chỉ cách nơi tôi ở không quá 45 phút chạy xe gắn máy.
Hùng bảo tôi uống bia, café th́ lúc này toàn ba cái café dỏm, không bắp rang th́ cũng sái nh́ sái ba pha thêm hương liệu, nước ngọt th́ là hoá chất trộn đường hoá học, chẳng c̣n lựa chọn nào khác, dù ba cái bia bọt quả t́nh tôi không thích, Thế Minh cầm càng với chai trà không độ.
Chúng tôi tha hồ đấu hót, chuyện trên trời, dưới nước, chuyện thượng vàng hạ cám.
Hùng nhắc lại với Thế Minh:
– Mày biết hôn, tao ném cái combine, đỡ ông thiếu úy Tuân, bị chơi một phát ở vai phải khi ông ta rút colt 45 hô anh em xung phong, cho đến khi hai thầy tṛ d́u nhau ngả xuống, ông Tuân dính thêm phát nữa và tử trận ở Tàu Ô, trên đường 13 nhuộm máu…
– Mày biết không ổng chết trên tay tao, trước khi phi cơ xuống tải thương. Và hănh diện:
– Tao mang máy cho ổng mà… Tao lại không dính ở trận Tàu Ô này mà rớt tại Lai Khê lúc chuẩn bị lên Tống lê Chân.
Thế Minh thở dài nói với Hùng:
– Vào An Lộc tao cũng te tua nhưng tao ra quân khu I.. và rớt ở khu Trà Bồng, Quảng Ngăi. Tao bị ở đồi Hoàng Oanh.
Hai người chiến binh cùng mũ nâu ngồi nhắc nhau thuở chiến trường, bây giờ họ đang sống chật vật với thương tật trong cái tuổi về chiều, cùng nhau hồi tưởng những mặt trận họ từng qua. Trong mắt họ tôi nh́n thấy một chút nuối tiếc phảng phất trong từng câu, từng chữ, thời lẫm liệt của một đời trai trẻ đă qua.
Cho đến khi Hùng nhắc cái vụ nhận quà từ một tổ chức thiện nguyện mang tên VHF, anh càm ràm về những vấn đề tệ hại xảy ra từ những cá nhân liên quan đại diện cho tổ chức này, th́ câu chuyện bắt đầu ́ xèo lên.
Một cái tên “Chín Cùi” nào đó, đă nhiều lần lạm dụng danh nghĩa đại diện cho tổ chức VHF lừa lọc anh em TPB đang sống tại VN, cướp đi những trợ giúp từ tổ chức này gởi cho các anh TPB mà anh ta làm đại diện.
– Trời có vụ này nữa sao?
Trời đổ mưa, mưa như trút xuống, chúng tôi vịn níu nhau chạy vào bên trong quán, cô chủ quán, một thiếu phụ trung niên, có vẻ rất quen với những tay tàn tật này, chạy ra thu dọn ly tách.
Bên trong quán đă có một bàn với ba người khách đang đánh đàn guitar cùng hát ḥ những ca khúc thời xưa cũ, cái quán rất văn nghệ, tính cách của nó bộc lộ qua những khách gần như quen thuộc với quán, bởi cô chủ cũng là một trong những “ca sĩ” của buổi tŕnh diễn bỏ túi mà không có khán thính giả này.
Vào bàn mới, câu chuyện lại xoay quanh vụ VHF.
Tôi nói với anh Tâm:
– Tổ chức này là VietNam Healing Foundation hả đại ca? Tui có lần vào trang này trên net.
– Ừ, tui cũng bị nó chơi mấy phát, từ 3 năm nay, chỉ vỏn vẹn 600 ngàn một lần, mà hỏi ra th́ VHF vẫn thường chuyển về tôi theo qui định mỗi năm hai lần và mỗi lần là 1 triệu 500 ngàn.
Tôi lẩm bẩm tính toán mỗi năm hai lần:
– Mỗi năm 150 đô la cho mỗi TPB, như vậy cũng tốt quá rồi.
Hùng cau mặt:
– Tốt con khỉ, thằng Thế Minh nè, nhận chiếc xe lăn trị giá hơn triệu tám, tới tay th́ trớt quớt.
Tôi quay sang hỏi Hoàng Thế Minh:
– Sao trớt quớt vậy Minh?
– À, tui mất hai chân, tổ chức này cho một chiếc xe lăn. Tay “Chín Cùi” gọi tôi lên nhận và hỏi tui: “Mày muốn nhận xe hay nhận tiền?”
Anh biết không, cái xe lăn rất quí, nhưng tui không dùng được v́ nhà chật chội, xê dịch khó khăn, nó cồng kềnh so với cái chỗ tui ở, tui nghĩ măi và cuối cùng nói với Chín Cùi “Thôi anh cho tui nhận bằng tiền cũng được”. Chín “Cùi” bảo tui:
“Mày muốn nhận th́ nè, ở đây 600 ngàn tao đưa trước, mày kiếm ra chiếc xe lăn ngồi trên đó chụp h́nh rồi đưa tao, tao sẽ đưa phần c̣n lại 1 triệu 200 ngàn cho mày sau”. Tui về, chạy vắt đầu tóc kiếm cho ra cái xe, chụp h́nh rồi đưa anh ta. Mấy ngày sau Chín “Cùi” gặp tui, bảo tui cà phê cà pháo với hắn cái đă. Bất đắc dĩ tui phải mời anh ta vào quán, ngồi xuống bàn là Chín “Cùi” điện thoại rủ một lô bạn của hắn tới. Kết quả là tui trả hết 700 ngàn tiền nhậu cho họ, rồi ṭ te về với cái xe lăn bằng 500 ngàn đồng trong túi.
Huỳnh Thanh Tâm, gục gặt đầu, mấy sợi râu bạc bay phất phơ trông như một ông thiền sư đă ngộ đạo đang tung tăng trên đỉnh núi.
– Chưa hết đâu, nó c̣n chơi cái màn, cứ mỗi một triệu mà nó đi giao tới là phải 100 ngàn tiền xăng nhớt, chưa nói đến cái khoản café.
Nghe đến đây tôi thực sự lạnh toát người. Trời, anh em bè bạn tôi, những TPB một thời xương máu đă đổ xuống cho biết bao thằng c̣n nguyên vẹn bị cư xử như thế này sao?
– Nhưng mà Chín “Cùi” là ai vậy? tôi hỏi trống không.
Trương Văn Vân, im lặng năy giờ, xắn tay áo góp chuyện:
– Chín “Cùi” hả? Hắn là Nguyễn Hồng Minh h́nh như cũng là TPB của TĐ 3 TQLC. Thằng này xui mà gặp tui là tới số…
Anh Tâm xen vào:
– Tui nghe nói, hắn lấy giấy tờ của anh ruột hắn, chứ hắn không phải là TPB.
Hoàng Thế Minh thêm một câu làm tôi ngẩn người:
– Khi VHF mới tổ chức, có 24 TPB đầu tiên. Tui ghi danh và nhận trợ giúp từ đầu, chính v́ vậy sau một lần duy nhất nhận th́ không có nữa tôi mới hỏi Chín “Cùi”. Anh ta nói là “Mày chưa gởi hồ sơ làm sao có” tui kể cho anh ta là ḿnh chính là những TPB trong danh sách đầu tiên, anh ta nói “Tao không biết, mày hỏi lại đi”. Chuyện này xảy ra trước khi có cái vụ xe lăn.
Đến đây th́ tôi hiểu ra một điều, rất nhiều tổ chức thiện nguyện từ các nơi, cố tâm giúp đỡ những TPB của QLVNCH c̣n ở lại VN nhưng do chính những người đại diện của họ, nên có khi v́ một lư do nào đó, số quà hay sự hỗ trợ của họ không đến được tận tay người nhận.
Cái lư do quả thật nghiệt ngă, cái lư do chết tiệt chẳng có một chút t́nh người, cái lư do nói như kiểu nhà binh, mà Trương Văn Vân trong một phút bất măn đă thốt ra “cái lư do tào lao”.
Lăo tướng Mai Vinh từ đầu không bàn vào câu chuyện trần ai này, anh thở dài:
– Nói cho cùng ngay cả sinh mệnh của ḿnh, ḿnh cũng không biết hà huống chi những cái từ trên trời, từ xa lắc, qua biết bao ṿng, biết bao chặng mới tới tay ḿnh…
Trời đă xuống thẫm một màu, màu mưa lớn, chúng tôi tan hàng. Trương Văn Vân bận chuyện nhà nên về trước, nhưng vẫn rời bàn sau cựu binh Bùi văn Ấn, lăo này phải về rước cháu ngoại tan học nên chào chia tay từ trước cơn mưa. Tôi chở Thế Minh về Thủ Đức, Hùng đưa anh Thanh Tâm về nhà, lăo tướng Mai Vinh lên yên ngựa một ḿnh dù chỉ một nút nữa là tới 80, cái tuổi hiếm hoi trong số cựu binh tôi từng gặp.
Không quen với hai cái nạng xếp dọc sườn xe, nhưng tôi vẫn cố chạy cẩn thận giữa ḍng xe đông như kiến dọc xa lộ với một con người thiếu thăng bằng ngồi phía sau, Thế Minh ṿng tay ngang người tôi giữ cho khỏi ngă trong những cú lạng tránh những gă thanh niên mặt non choẹt đang hùng hổ rú ga chạy ào ào trên con đường chật chội.
– Thời đại của tụi ḿnh hết rồi. Tôi nói với Thế Minh.
– Anh tới ngă tư Kha Vạn Cân th́ quẹo trái nghen.
Đó là con đường tử thần của xe tải một thời vang danh, bởi những chuyến đất đá chở về từ hướng Biên Hoà, con đường bây giờ trở nên chật chội hơn, hàng quán đông hơn, tới nhà Thế Minh phải quẹo trái, phải thêm vài cái nữa, tôi thật chẳng thể nào nhớ nỗi đường xá ở cái xứ người đông như kiến này.
Thế Minh cởi trần kéo tôi ngồi xuống ngay cái chỗ anh ngủ, một cái nhà bếp nhỏ và cái kệ bếp dùng chứa đồ, anh đă nằm ngủ trên cái sàn chật chội nhiều chục năm qua. Nh́n cái khó, cái nghèo xơ xác, bộc lộ qua mái tôn lót một lớp xốp chống nóng, lu bu, ngổn ngang đồ đạc là biết anh khốn khó tới cỡ nào.
Tôi mở máy cho Minh coi những tấm h́nh đă chụp hồi chiều, hai đứa cùng nghe lại mấy lời bực dọc của Vân cùng sự giận dữ của Hùng khi nhắc đến câu chuyện về VHF.
Theo thói quen, để tránh những dấu hỏi khó chịu nếu có sau này, tôi ghi vội trên điện thoại. Hai đứa ngồi với nhau một lúc lâu, rất là lâu.
Chia tay với Hoàng Thế Minh tôi chạy xe dưới màn mưa bụi suốt từ Thủ Đức về đến đầu cầu Phú Mỹ, cả người lem luốc và ướt nhẹp.
Thắng xe dừng ở giữa cầu, chỗ có thể tránh đường xe chạy qua, đứng trên hành lang dành cho người đi bộ, tôi nh́n xuống sông Sài g̣n, thấp thoáng phía xa thành phố mới lên đèn.
Câu nói của lăo tướng Mai Vinh cứ lởn vởn trong đầu tôi “…ngay cả cái sinh mệnh của ḿnh, ḿnh c̣n không biết…”. Cay đắng làm sao! Những con người có một thời chinh chiến, bản thân họ là TPB, mà là TPB của một chính quyền bị tước trên tay từ một chính quyền khác, sự sống c̣n như một tṛ chơi không hơn, tương trợ nhau được biểu diễn qua một đường cong ma mănh.
Bầm dập gần 40 năm tính từ ngày mà cái quân đội họ đă phục vụ không c̣n nữa. Nhưng, suy cho cùng sự chiến đấu lẫm liệt đó chính là chiến đấu cho tự do, cho sinh tồn của dân tộc, của đất nước. Chiến tranh qua đi, sao nó không giống những quốc gia khác, cũng có những cuộc nội chiến, cũng có thương binh. Sao người ta cư xử trong tinh thần thượng tôn của vơ nghiệp, trong cái trân trọng một con người, mà ở đây, trên đất nước này lại khác. Nhớ anh Nguyễn Đ́nh Toàn từng hát cho tôi nghe một ca khúc sau ngày tan trận, lúc hai anh em bị nhốt chung ở nhà giam T20 thành Gia Định từ những năm 1977, trong đó có một câu thật đau đớn “…người với người, đă trở thành thiên tai…”.
Không phải cái đau xuất phát từ những người đối lập, mà nó lại khởi nguồn từ những người cùng một hoàn cảnh, tồi tệ nhất trong các thứ hoàn cảnh tồi tệ khác. Cướp nhau tận cùng, tước đoạt tận mạng những thứ có thể tước đoạt được, trong cái tranh giành sống c̣n hôm nay. V́ cái ǵ? Đói khổ làm người ta mụ mẫm cả lương tri.
Trách sao những món tiền khổng lồ mà các tổ chức quốc tế, của Liên Hiệp Quốc với những kế hoạch đă có vài mươi năm, hỗ trợ cho những kẻ bị nạn sau chiến tranh, những con số hàng chục, hàng trăm triệu đô la, không bao giờ, không thể nào đến tay những thương binh của một quân đội đă bị lăng quên. Những món tiền cỏn con như chút quà mọn như vậy c̣n bị cắt xén tan nát nói chi là cái khác to, lớn hơn nhiều rất nhiều. Chiến tranh để lại quá nhiều tai ương.
Dẫu sao tôi cũng đă thực hiện được cái mong muốn gặp Minh, gặp Hùng và những TPB mà tôi từng biết đến, có người chỉ biết qua một cái tên, có người đôi lần cùng nhau chia xẻ trong những khi tôi có cơ hội và có khả năng chạy vạy từ anh em bè bạn của ḿnh.
Nhắc đến điều này tôi như một con nợ, gánh một gánh với nhiều anh em quen biết, cũng có kẻ chưa từng gặp mặt nhau. Từ những nhà hảo tâm có khi biết, có khi không, giúp tôi có thêm cơ hội sống gần, kề cận với những anh em TPB và biết được những thứ trời ơi đất hỡi chung quanh chuyện trao nhận quà cáp từ xa chuyển về, biết cái sống như chết rồi của anh em, biết cái oai hùng trong đoạn đời chiến đấu của từng người và chính v́ thế mới biết những “cái lư do tào lao” và câu chuyện chết tiệt mà trong đời có lẽ sẽ không sao hiểu nỗi.
nguyễn thanh khiết
wonderful
04-05-2019, 02:37
Thêm chuyện Paris: Tháo dỡ 65 tấn ổ khóa t́nh yêu ở Paris … đem bán
Cầu Pont Neuf vốn được xem là điểm hẹn của hàng ngàn cặp đôi trên toàn thế giới nay sắp bị tháo dỡ toàn bộ ổ khóa t́nh yêu.
Bắc ngang ḍng sông Seine chảy trong ḷng thành phố Paris – Pháp có hết thảy 37 chiếc cầu bắc ngang, nhưng nổi tiếng và được nhiều người biết đến nhất chính là chiếc cầu nhỏ Pont Neuf dành riêng cho những người bộ hành. Từ lâu, nơi đây đă trở thành điểm đến cho t́nh nhân khắp nơi trên thế giới. Họ “thề non hẹn biển” bằng đủ các loại ổ khóa, gắn vào hàng rào dọc theo thành cầu để cầu mong t́nh yêu bền chặt, gắn bó.
Việc dùng ổ khóa để “trói buộc” nhau là một quan niệm được các cặp t́nh nhân phương Tây khá tin tưởng. Các đôi thường khắc tên ḿnh hay lời nhắn nhủ trên ổ khóa rồi gắn vào thành cầu sau đó vứt ch́a khóa xuống sông gần như trở thành “đặc sản” mà nhiều du khách đến đây đều không thể bỏ qua.
Tuy nhiên, khi mật độ ổ khóa ở đây ngày càng tăng đă vô t́nh tạo nên sức nặng khủng khiếp khiến chiếc cầu có nguy cơ hư hỏng trầm trọng. Trước thực trạng đáng buồn này, chính quyền Paris đă tuyên bố bắt đầu loại bỏ các ổ khoá t́nh yêu gắn trên những cây cầu từ năm 2014 đến nay, đồng thời kết thúc trào lưu khóa t́nh yêu. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra là làm thế nào để xử lí tốt nhất 65 tấn kim loại từ hàng ngàn ổ khóa này trở thành vấn đề được mọi người quan tâm.
Vừa qua, phó thị trưởng Paris Bruno Julliard đă đề xuất ư kiến: thành phố sẽ bán các ổ khoá và khoản tiền thu về đem quyên góp cho những người tị nạn. “Người dân có thể mua lại từ 5-10 ổ khóa hoặc thậm chí là nhiều hơn, xem như lưu giữ một phần lịch sử và kỉ niệm với Paris. Và tất cả lợi nhuận thu về chúng tôi sẽ chuyển hết cho nhóm người tị nạn đang sinh sống tại thành phố”– ông Julliard chia sẻ.
Đợt mở bán đầu tiên sẽ diễn ra vào đầu năm 2017 và hứa hẹn sẽ thu về khoảng 100.000 euro (tương đương 2,4 tỉ đồng). Song song với quyết định này là chiến dịch No Love Locks được phát động mạnh mẽ nhằm kêu gọi du khách ngưng gắn ổ khóa trên các “cây cầu t́nh yêu” ở Paris.
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1360945&d=1554431581
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1360946&d=1554431592
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1360947&d=1554431602
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1360948&d=1554431614
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1360955&d=1554431633
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1360956&d=1554431643
hoanglan22
04-06-2019, 14:48
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1361576&stc=1&d=1554562024
C̣n mấy ngày nữa là đúng thời khắc bốn mươi năm trước, cầm giấy ra trại trên tay và mười mấy đồng tiền xe tàu làm lộ phí. Ḷng nhẹ nhơm. Thế là ước mơ được trở về nhà sau mấy chục tháng “tu tiên “ đă trở thành hiện thực. Dù biết rằng chưa thành người công dân nhưng khi bước ra cổng trại, ngoái nh́n lại những dăy nhà tranh đơn sơ đă một thời là mái ấm, ḷng vẫn thấy vừa vui, vừa bùi ngùi. Một thời gian dài bắt tay viết lại lịch sử đời ḿnh, có những góc kư ức không cố nhớ mà sao khó quên.
Buổi sáng, đứng chờ xe lửa trên ga nhỏ Trản Táo trở về thành phố, ḷng rộn ràng khó tả. Nh́n mười mấy người cải tạo gầy g̣, thuộc nhiều lứa tuổi, mặt mày ai cũng rạng rỡ, măc bồ đồ tươm tất nhất có được, sao thấy đứa nào cũng ngố. Bộ đồ trên người cũng vậy. Hồi đi tŕnh diện mặc một bộ, hai bộ c̣n lại nhét ở túi xách; theo thời gian hai bộ kia đă rách bươn. Bộ đồ sạch sẽ nhất được giặt và cất kỹ ở đáy túi xách, chỉ mặc vào dịp lễ tết và chờ ngày hôm nay. May mà ngày ấy, cũng kịp đến, bộ đồ có cũ đi nhưng vẫn c̣n nguyên.
Ba mươi hai tháng trong trại, ngày ngày lao động, có khi lên rừng đốn cây, thường mặc bộ đồ lính cũ, nay đă rách bươn, vá chằng chịt, hôm qua tặng lại cho thằng “sún“, trẻ nhất trong 6 đứa c̣n lại ở trại như một kỷ niệm để nó có thêm áo quần thay khi tắm giặt, bởi v́ mỗi lần giặt, ai cũng phải phơi nắng ở b́a rừng hai ngày mới khô. Tội nghiệp thằng nhỏ mới khoảng hơn hai mươi tuổi, hồi nhỏ chạy giấy tờ làm lính kiểng ở đơn vị nào đó và ăn rồi cà nhỏng đi chơi, đi học ở saigon. Rồi phải ḷng một cô gái trong xóm lao động gần nhà, cô này lại mê sĩ quan nên anh chàng mỗi lần đến nhà cô gái lại mang bộ đồ lính rằn ri “giật le”, trên vai đeo hai bông mai vàng chói (trung úy) mua ngoài tiệm. Sau ngày 30 tháng tư, đi tŕnh diện như lính ”đơ dèm cùi bắp” bị mấy ông “nằm vùng” tố cáo “khai man lư lịch nên bắt đi cải tạo 10 ngày, chung chỗ với sĩ quan. Không biết chừng nào mới được về với cha mẹ .
Nó nằm gần, trên cái giường tre tập thể, (quên mất tên ǵ rồi, xin lỗi em), đêm nào cũng khóc hu hu v́ nhớ nhà làm nhiều đứa cũng khó ngủ theo. Đưa cho em, hết đồ cá nhân c̣n lại trong trại, tôi chỉ cầm cái xắc nhỏ đeo vai trên người y như ngày đi tŕnh diện 3 năm trước. Khi chiếc tàu lửa đổ xịch trên sân ga, mười mấy đứa lên tàu, cái căm giác nhẹ nhơm lộ hẳn ra trên nét mặt. Vậy là được tự do thật rồi, sắp về nhà rồi. Là tàu chợ Nha Trang-Saigon nên trên tàu chật nêm, đầy những bao bố, thúng gánh hầm bà lằng trên sàn. Tôi chen được một chỗ trước mặt nhờ có bà già đang ngồi thấy người dáo dác t́m chỗ nên co ro, rút một chân lên ghế.
- Tụi bây là cải tạo phải không?
- Dạ, thưa bác, đúng rồi. Mà tại sao, bác biết. Tôi ngạc nhiên hỏi bà cụ.
Bà cười hiền hậu, cái miệng móm mém, chỉ c̣n lưa thưa một hai cái ở trong miệng:
- Tổ cha mày, má nh́n mấy cái mặt tụi bây, ngơ ngơ ngáo ngáo là biết không giống mấy người trên tàu này, thấy không con?
Mà bà già nói đúng thiệt. Xung quanh,phần lớn là đàn bà, phụ nữ, ai nấy, tiều tụy, căng thẳng, nhiều âu lo, nét mặt phong trần , đầy vẻ láu lỉnh; c̣n, nh́n kỷ lại tụi này, thằng nào cũng ngơ ngơ, mắt mở to, thấy cái ǵ cũng nh́n v́ lạ quá. Chiếc tàu mệt mỏi, x́nh x́nh leo qua đồi tre. Nhiều đứa cố nhón gót, nh́n lại lần cuối, nơi quen thuộc bao nhiêu tháng miệt mài với rừng núi.
Vài ba đứa mặc quần áo lao động cải tạo vẫy vẫy tay. Tôi cố nh́n kỷ ,Ơ ḱa, có thằng nhỏ sún răng , chung tổ. Nó nhón gót vẫy tay lần cuối. Khuôn mặt nó nhỏ dần, xa dần rồi mờ hẳn. Mắt tôi mờ đi. Chắc thế nào nó cũng khóc , khóc v́ mừng cho mấy anh và cũng khóc v́ nhớ nhà. Tối nào nó cũng khóc rấm rức mà. Thôi, ráng lên em. Tội nghiệp.
Bà má Nam Bộ, hỏi tôi:
- Ủa sao mày khóc, hả con?
- Tại con mới thấy thằng em c̣n lại trong trại nó mới vẫy tay chào, tôi nghiệp nó. Tôi ngượng nghịu trả lời
- Nó là em mày hả con?
- Dạ, không phải. Nhưng nó hiền lắm nhỏ tuổi hơn đứa em ở nhà, nên tụi con, ai cũng coi nó như em. Thấy nó vẫy tay, tự nhiên chảy nước mắt.
Rồi bà bước xuống đứng cạnh tôi, bà hỏi
- Hồi trước, mày làm lính, nghề ǵ?
- Dạ, con là trung úy, làm bác sĩ.
- Má cũng có con, cũng làm lính đánh giặc nhưng chết lâu rồi, nên má bỏ Saigon, về làm ruộng trong vùng sâu Long Khánh, má sắp xuống ga tới rồi. Nh́n tụi mày, má nhớ con má. Hồi xưa, có lần má đi khám bệnh “quan đốc tây”, gọi bằng Ngài không hà. Sợ lắm, không dám nh́n mặt quan “đốc”. Ở đây, lâu rồi chưa gặp thằng bác sĩ nào trẻ như mầy. Giống con tao. Ráng giữ sức khỏe nghe con, rồi làm ăn nghe. Mà mày có vợ con ǵ chưa con?
- Dạ chưa má ơi. Tôi gọi “má” tự nhiên, ngọt xớt.
- Thôi ráng chịu cực khổ, làm ăn , rồi có vợ con như người ta đi.
Má lần tay vào lưng quần, rồi nắm lấy tay tôi, nói nhỏ:
- Má cho mày cái này.
Rồi bà giúi vào tay tôi mấy đồng bạc nhàu nát moi từ lưng quần. “Xuống ga mà uống nước mía rồi ăn hủ tíu”. Tôi gạt tay bà, định từ chối.
- “Mày đừng làm má khóc, nghe con. Bỏ túi đi. Cho má rờ cái mặt của bác sĩ một chút nghe con. Mắt má nh́n không rơ.
Không đợi trả lời, bàn tay sần sùi, nhăn nheo của bà rờ, mân mê trên mặt tôi từ trán xuống cằm. Tới chỗ c̣n ướt nước mắt, bàn tay bỗng dứng lại, ngập ngừng mân mê như có chút bâng khuâng. Má tôi chết v́ bệnh lâu rồi, chắc cũng gần hai mươi năm. Ngày xưa, má tôi cũng hay mân mê trên mặt con ḿnh, rồi vuốt tóc. Tôi bỗng ôm chầm lấy bà rồi thảng thốt” Con cám ơn má”.
Tàu rúc lên hồi c̣i dài, báo hiệu sắp dừng, bà buông tay tôi, chuẩn bị xuống ga. Mấy đứa đở má xuống ga. “Thôi má về nghe con. Giọng bà buồn, ướt đẫm. Đôi mắt bà bỗng sáng lên, rồi mờ đi. Tôi nắm chặt lấy tay người má Nam Bộ mới gặp, bóp chặt như một lời chia tay. “Thôi má về b́nh an”.
Nh́n ra cửa sổ con tàu trên đường từ ga Trản táo về hướng Saigon, cố nhớ địa điểm ga xép này. Sau này, nhiều lần tôi đă có dịp ngồi trên xe lửa Nha Trang –Saigon, đă nhiều lần lóng ngóng nh́n ra cửa sổ để t́m lại h́nh ảnh người phụ nữ năm xưa nhưng sao hoài vẫn chưa thấy. Cũng đă gần 40 năm rồi, ngồi viết lại mấy ḍng này, mới sực nhớ chưa biết má tên ǵ, nhà ở vùng nào để biết đâu c̣n có dịp gặp lại. Nhưng mà, nếu quả thật, có duyên và Trời Phật thương, chắc thế nào cũng có ngày má con ḿnh gặp lại, nếu má c̣n sống. Lúc đó, tôi tin rằng, sẽ nhận ra ngay v́ h́nh ảnh của má vẫn c̣n nguyên trong trí nhớ, dù rằng, giờ này, tuổi con cũng gần như tuổi má hôm ấy.
Làm sao quên được đôi mắt nhân từ của má hôm ấy, đôi mắt ướt trên da mặt nhăn nheo và cái miệng móm mém. Khuôn mặt buồn thiên thu. Khoan chết nghe má, để c̣n có ngày gặp lại.
Người Đăng: buithiengiao
hoanglan22
04-08-2019, 02:55
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1362239&stc=1&d=1554691882
Chú thích của TV PVT: Trại 5 Lam Sơn ngày nay (sau 2010 ....) cũng c̣n gọi là Trại 5 Thanh Hóa tức trại giam số 5 của Bộ Công an cộng sản tại Thanh Hóa, nơi đây sau 2005 đă giam giữ Phạm Thanh Nghiên, Trần Ngọc Anh, Lê Thị Công Nhân, Lê thị Kim Thu, Tạ Phong Tần, Cù Huy Hà Vũ, Trần Khải Thanh Thủy … và mới đây giam những người bị tước đoạt điền sản tại Dương Nội với người nữ dân oan tiêu biểu là chị Cấn thị Thêu. Nơi đây cũng c̣n đang giam giữ người con gái đất Trà Vinh, Nguyễn Đặng Minh Mẫn... - Nguồn ảnh: VOA tiếng Việt (http://www.voatiengviet.com/)
******
1. 1995
Sau Tết chừng hai tháng th́ 10 người tù A 20 ra Bắc hồi đợt tháng 11.1994 được chuyển sang nhà 4, đoàn tụ với anh em A 20 ra Bắc đợt cận Tết 1995. Anh em mừng tủi ôm nhau nước mắt lưng tṛng. Tội tu sĩ Nguyễn hữu Tín, ông gầy đét, trơ hai hàm răng trắng đứng đợi tôi cạnh cổng ra vào, nắm lấy lấy tay tôi ông hỏi « …sao gầy vậy Thành! »
Nh́n ông, nh́n anh em, vui mà muốn khóc. Tôi nói.
- Bộ thầy mập lắm hay sao mà biểu con sao gầy thế?
Ông cười, mặt gần như chỉ c̣n thấy hàm răng trắng và hai con mắt đă nhiều lớp nhăn, xúng xính trong bộ áo quần màu nâu đă bạc thếch, nổi đậm lên hai chữ cải tạo màu đen đă đổi thành xám xịt, đóng to đùng giữa lưng và hai đùi.
Anh Nguyễn Kim Long đứng trên bực thềm, gầy không thể tả! Hai con mắt đă thành sâu hoắm, đôi tay ḷng kḥng đưa ra ôm lấy tôi. Bên cạnh là giáo sư Nguyễn văn Bảo và vơ sư Lê Ngọc Vàng.
Đỗ bạch Thố vẫn như ngày nào ở A 20, rất nhanh gỡ ba lô và cái ḥm gỗ (chính Thố đóng bằng gỗ mít ở A 20) trên tay tôi xuống rồi đem thẳng vào chỗ nằm đă qui định sẵn.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1362241&stc=1&d=1554691991
Những người tù từ A20 Xuân Phước, bị cộng sản đày ra Trại 5 Thanh Hoá 1995 và ngày 29.12.1999 chuyển về trại Nam Hà. Trong h́nh này, hầu hết là án từ 16 năm đến chung thân. Hàng đầu từ trái: Trần Đế (Cần Thơ 18 năm); Chí sĩ Cao Đài Hồ Vũ Khanh; Đỗ Minh Tuấn - tổ chức Hoàng văn Hoan- Hải Pḥng); và Trần Nam Phương (Quảng Nam chung thân). Hàng sau từ trái: Nguyễn duy Cường (Vũng Tàu, áo choàng xanh đen, 14 năm); Dương văn Sĩ (Sóc Trăng chung thân); Lê Thiện Quang (Huế 15 năm); Lương quang Ḥa (Thanh Hóa); Vũ đ́nh Thụy tức Vơ Lâm Tể (Phú Yên chung thân); Phan Văn Bàn (Quảng Nam /Long Thành, tổng án 32 năm) (1); Bùi Thúc Nhu (Phú Yên, chung thân) - ảnh tư liệu của Phạm văn Thành
Gặp lại nhau, dù mới cách xa có 5 tháng, nhưng t́nh cảm thật dạt dào! Thứ t́nh cảm mà suốt 16 năm tiếp theo đằng đẵng trong đời tôi - sau tù - không thể t́m có được, dù đă đi cùng trời cuối đất khắp Âu Á Mỹ Úc xa xôi…
Khu cách ly A4 là một nhà bê tông mái bằng, xây dựng lại trên nền đất của bệnh xá trại tù trung ương số 5 Lam Sơn, một nhà tù hơn 50 năm liền đoạt danh hiệu tiến tiến tiêu biểu của ngành công an quản lư tù!
Dăy nhà ngăn làm đôi. Tôi và toàn nhóm 10 người bị xếp vào phần nhà phiá ngoài gần cổng A4a. Nhà có bốn thường phạm sống chung với chính trị phạm chúng tôi. Vơ sư Lê ngọc Vàng, giáo sư Bảo, bác sĩ Kim Long, thày Tín, Biệt kích Nguyễn văn Trung, B́nh định Trần Minh Tuấn, nhà giáo Hoàng xuân Chinh …. đều bị xé khỏi tôi và Phạm anh Dũng, Nguyễn ngọc Đăng, Lê Thiên Quang và Trần văn Lương.
Lược qua nhân sự phân bổ hai nhà, tôi hiểu là cách phân bổ này được chỉ định từ trung ương, nằm ngoài hoàn toàn quyền hành của giám thị trại 5, v́ phải là đă theo dơi hồ sơ cùng hành vi của từng người nhiều tháng nhiều năm mới có thể phân định được chính xác sự …gai góc của từng người mà xếp chỗ nằm như vậy.
Pḥng tôi có hai sự lạ là sự có mặt của Phượng Hoàng Phan văn Bàn. Như vậy là anh Bàn đă dấu được độ gai góc của ḿnh. Có anh Bàn trong buồng, tôi vững tâm rất nhiều. Chỗ nằm của anh bị xếp vào góc trong cùng sát tường, đối diện chỗ nằm của Thày Mai Đắc Chương. Bên cạnh thày Chương là Trần Nam Phương rồi đến tôi, đến h́nh sự (thường phạm) Sáng và tới Lê thiện Quang, Đỗ Bạch Thố, Phạm anh Dũng, Trần văn Lương, Nguyễn đ́nh văn Long, Nguyễn hữu Thiết (vụ Linh Mục Nguyễn Văn Vàng (2)). Sau anh Thiết là hai người tù thường phạm khác. Dăy bê tông đối diện là h́nh sự Quân, rồi tới chính trị phạm Michel Nguyễn Muôn, Moris Đỗ Hườn, rồi Kiên h́nh sự, rồi chính trị phạm cựu Đại úy Đỗ Hồng Vân (cùng vụ tôi), nhà giáo Phan văn Lợi (anh Bảy Lợi) và một anh quê ở Huế tôi đă quên tên rồi đến anh Phan văn Bàn. Dương văn Sĩ sau khi từ Thanh Cẩm chuyển về (4 tháng sau khi tôi chuyển sang nhà A4) được xếp sát chỗ nằm anh Bàn. Vũ đ́nh Thụy cũng nằm gần anh Bàn.
Sinh hoạt chính của khu cách ly được biểu lộ rơ nét ở buổi trưa. Đây là giờ chuẩn bị ăn trưa và nghỉ trưa. Muốn biết quan điểm và thái độ của từng người tù, cứ điểm danh các nhóm ăn cơm chung là có đáp số rạch ṛi.
Khi tôi sang nhà 4A, các nhóm quan điểm tự nhiên h́nh thành công khai. Góc đầu hồi trên bệ hành lang phiá sau nhà A4a được anh Bàn quét dọn sạch sẽ và trở thành chiếu sinh hoạt của nhóm chúng tôi. Chủ lực từ giấc sáng tan giờ đập đá là anh Kim Long, giáo sư Bảo, Lê Ngọc Vàng, Hoàng xuân Chinh … từ buồng A4b sang. Cơm trưa chủ yếu là anh Bàn và anh Trương văn Sương quán xuyến. Nơi chiếc chiếu này, lư thuyết Nhân Bản Việt được giáo sư Nguyễn văn Bảo đặc biệt chú trọng giải bày. Bác sĩ Nguyễn Kim Long phân tích chi tiết về các vấn đề của Hiệp định Geneve và Hiệp định Paris 1973. Anh Phan văn Bàn nói về các chiến dịch Phượng Hoàng và các kinh nghiệm. Trương văn Sương được hỏi kỹ về giai đoạn hoạt động ở Hoàng Sa và biên giới Thái Việt với tổ chức anh Trần văn Bá. Vụ án và tổ chức của ông Hoàng cơ Minh cũng được đặc biệt mổ xẻ tại không gian này một cách hết sức nghiêm khắc.
Lê thiện Quang (3) chủ yếu nói về yêu cầu hài ḥa tôn giáo và yêu cầu chuyên nghiệp hoá các phản ứng mang tính cách chính trị, đây là người rất cứng rắn yêu cầu anh em lột bỏ những quán tính quá khứ quân đội của những người như anh Trương văn Sương, Vũ đ́nh Thụy:
« …Chúng ta 20 năm trước là những Thiếu úy, Trung úy, Đại úy. Nếu không mất nước mà c̣n sống, giờ này chúng ta đă phải mang trách nhiệm của những Đại tá, Thiếu tướng, Trung tướng … cầm vận mạng của hàng chục ngàn chiến binh và gia đ́nh họ. 20 năm đă trôi qua, đừng ám ảnh cái dĩ văng Thiếu úy Trung úy nữa! Quân đội đă mất, vũ khí đă mất, nước cũng không c̣n … việc hôm nay của chúng ta là việc của những bậc đại sĩ làm chính trị hưng quốc. Tầm vóc ấy hàng ngàn thằng Thiếu úy Trung úy không so sánh được! Phải nhận ra trách nhiệm lớn lao của từng người … »
Quang là người Công Giáo Phú Cam, truyền thống giữ đạo của người vùng đất thánh địa La Vang là một truyền thống hết sức đặc biệt. Vụ án của tôi bị kích lên hàng tối nguy hiểm để xử ṭa đại h́nh đồng lúc sơ chung thẩm cũng là v́ những nghi ngại liên quan đến lực lượng công giáo Phủ Cam, bởi Trần Tư đầu vụ có xuất thân từ Phủ Cam, Văn đ́nh Nhật cũng có những dấu chỉ liên quan mật thiết với Phủ Cam, Phạm đức Hậu từ Mỹ về trước khi bị bắt hầu hết quan hệ đều dính dáng tơí các họ đạo Công giáo và Đỗ hồng Vân lại liên quan chặt chẽ với các nhóm lực vũ trang Cao đài và Phật Giáo Ḥa Hảo! Vụ án tiềm tàng một nỗi ám ảnh mà cơ quan an ninh đầu năo cộng sản luôn luôn sợ hăi, đó là thế lực hành động của các lực lượng tôn giáo.
Trong bối cảnh ấy, Quang là người khả dĩ có thể nói rất cứng với những anh cựu sĩ quan VNCH khác, bởi bản tánh cũng như tầm hiểu biết của Quang là rất vững vàng. Xuất thân sĩ quan Nha Kỹ Thuật cũng tự nhiên làm thành tường lũy để anh có thể phát biểu những ư tưởng vơ tuyên với tất cả những anh em tù A 20 mà ít ai là không phải suy nghĩ sau khi nghe những điều anh nói. Một người hiểu biết nhiều nhưng không phải bạ chỗ nào cũng phát biểu những suy nghĩ của ḿnh.
Chiếu ăn nhóm chúng tôi khoảng 12 người sau khi tôi tách nhóm sinh hoat của Đỗ bạch Thố và anh Phạm anh Dũng. Mục đích là tránh sự chú ư của phiá giám thị vào những nhân lực chủ yếu luôn muốn hành động chống lại chủ nghĩa cộng sản bằng bất kỳ giá nào hoặc kiểu cách nào.
Hoàng xuân Chinh sống một ḿnh vơí sự kham khổ đến mức tối đa. Nguyễn văn Trung cũng vậy, Trần Minh Tuấn cũng vậy. Đây là ba con ngướ đăc biệt vơí những cá tánh cực kỳ đặc biệt, không chịu mang ơn bất kỳ ai, dù đời sống chỉ có cơm trại và rau muối. Trần minh Tuấn suốt ngày giang nắng ngoài trời, những vồng đất cằn phèn thế nào đi nữa, với bàn tay của Tuấn, chỉ hai ba tháng sau là khổ qua, đậu bắp, cà chua, cải, mướp, bạc hà mọc lên la liệt…anh em cũng nhờ vậy mà có thêm thứ để nhét vào bụng và cũng là cơ hội để nhét vào túi cói của Tuấn lúc th́ chai nước tương khi th́ vài lát đậu phụ, coi như có qua có lại v́ ông thần nước mặn này vô cùng khái tính. Tính cách này 20 năm ṛng, Tuấn mang theo nguyên vẹn qua tất cả các nhà tù khắc nghiệt nhất nh́ Nam Bắc. Giờ đây, 16 năm sau khi bị tống xuất khỏi nhà tù và quê hương, nhắc đến anh, ḷng tôi không khỏi mênh mang cảm giác luyến thương và kính phục, một mẫu người trai đất vơ đặc thù của sông núi miền trung (B́nh Định).
Khu cách ly A4 là nằm trên phần đất rộng nhất của các khu trong phân trại A (giờ họ gọi là Phân trại 1, theo như cựu tù chính trị đang c̣n trong nước, cô Phạm Thanh Nghiên (4) xác định). Khu này giếng không có nhiều nước nên anh em quyết định đào sâu thêm. Tôi vô cùng ái ngại khi biết rằng trước đây, thời c̣n các anh tù cải tạo 1978/1988, khu này là bệnh xá và nhà cầu bệnh xá cũ không xa nơi đang đào sâu thêm cái giếng định mệnh là bao! Giếng sau khi cố đào hàng tuần, nước cũng chỉ đủ ½ cho gần trăm con người nên giám thị buộc phải để đội phân bổ người xuống nhà bếp để gánh nước về dùng. Anh em rất nhanh đề cử tôi đi lấy nước cho nhà buồng, v́ trong nhà hầu hết đều đă già yếu hoăc bệnh tật.
Mấy tháng đầu phiá trực trại không đồng ư cho tôi ra khỏi khu cách ly để đi xuống khu nhà bếp kéo nước giếng về nhà buồng … nhưng sau đợt cùm kiên giam 7 tháng, họ nhắm mắt khi thấy tôi cứ xồng xộc gánh đôi thùng đi kéo nước, phần v́ thời gian cũng đă hai năm, t́nh cảm nơi mỗi con người chân chính khó có thể ghét nhau măi được. Trên có hét ḥ th́ hét ḥ, c̣n họ là ngướ dưới, miễn sao giữ không để chúng tôi làm loạn là được … nên mỗi khi tôi xồng xộc đi kéo nước, lại có hai ba cậu h́nh sự xách thùng chạy theo và ông quản giáo đội bếp phải canh chừng, đội trưởng đội bếp cũng lảng vảng suốt "hành tŕnh" từ bếp đi qua nhà căng tin, qua cổng bệnh xá và vào khu cách ly. Tất cả các thường phạm đều được lệnh cấm triệt để không được chào hỏi hay dạ thưa ǵ vơí chúng tôi nếu như «vô phúc » phải đụng đầu. Nhớ có lần tôi bắt chuyện vơí một ngướ mẹ c̣n rất trẻ, chị đang địu đứa con chừng 5 tháng, vừa địu con vừa rửa rau, cả một xe ḅ rau muống …
- Tôi giúp cô được ǵ không?
- Bác cho cháu cái …sịp!
Người mẹ trẻ trả lời rất nhanh, mắt vẫn không rời những thúng rau bự chảng.Tôi sững người mất vài giây mới hiểu ra …
Cả tháng sau đó vô t́nh cũng một lần rửa rau ở bờ giếng. Cô bé than “Các ông ấy vặn hỏi cháu đến chết khiếp. Giờ bác có cho cháu cái ǵ cháu cũng không dám nhận! Hăi lắm”!
Đó là người thiếu phụ sanh con trong nhà tù, bị bắt án 12 năm v́ tội “gánh Thánh Kinh vượt biên giới”! Lần ấy, qua một đứa em h́nh sự tôi nhờ bàn tay nữ giang hồ khét tiếng đất cảng là cô Dung Hà để lo chút đỉnh cho cô gái bé nhỏ ấy. Được biết là Dung Hà có lo lắng cho mẹ con cô này, trước khi được trả tự do và sau đó chết thảm trong một vụ thanh toán giang hồ với tổ chức xă hội đen Năm Cam ở Sài G̣n.
Giàn phong lan được các tù h́nh sự cắt gọt từ vách Núi Mành vốn treo la liệt khi chuẩn bị đón đoàn tù thứ hai ở A 20 ra trại 5 này, các đoàn “tham quan” cũng đă hai ba lần vào ra xem xét. Tôi ngứa mắt bèn đào hố và xuống khu chăn nuôi heo gánh phân chuồng (đă rất hoai / phân hủy). Mấy tay an ninh trại cũng đành chịu vơí quyết định ương bướng của tôi. Tay quản giáo tên Nghị phàn nàn vơí tôi “Anh thật quá quắt! Giàn phong lan như thế anh cho mướp đắng vơí bầu leo lên th́ c̣n ǵ là phong lan?”. Tôi trả lời nhă nhặng nhưng không kém cứng rắn:
- Chúng tôi cần sống! Tất cả những thứ anh em tôi trồng ngoài đội đều bị ăn cắp hết! Giờ tôi làm thế này, lan sống đươc th́ càng đẹp, không sống được th́ để chúng tôi sống!
Quản giáo Nghị ừ hử một vài câu rồi bỏ đi.
Giàn phong lan hai tháng sau thành giàn bầu bí và khổ qua dày đăc, trái ra cơ man nào là trái. Nhóm chúng tôi kéo chiếu xuống giàn mướp đắng. Không gian này vơí tôi thành chồng chất biết bao kỷ niệm.
Một lần Đỗ Bạch Thố tỏ ư muốn làm lễ giỗ cho ông Hoàng cơ Minh và anh em đă chết trong cuộc xâm nhập từ Thái năm 1987 (“Đông Tiến” 2). Đó là tuần lễ cuối cùng của tháng 8 năm 1996. Tôi nh́n Thố, nhẹ giọng.
- Cùm đấy bồ tèo!
Thố cười khoe đôi hàm răng đă bị đánh gẫy hơn nửa.
- Cùm th́ cùm chớ ngại ǵ! Anh em họ cũng cần chút hương khói…
Mâm cơm cúng có một con gà luộc vàng lườm, có xôi trắng của Quang cho gạo, hai đĩa muối. Thố kêu tôi chủ lễ nhưng tôi từ chối.
- Ở đây chỉ ông có đủ tư cách chủ lễ!
Anh em về từ Thái có B́nh là nhóm Đông Tiến 1 nhưng v́ khi ở A 20 B́nh có thời gian làm đội trưởng mội đội làm gạch, lại có một số vấn đề lớn c̣n khúc mắc trong giai đoạn xâm nhập cùng đoàn ông đại tá Dương văn Tư … nên chỉ có Vơ Kỳ Phát và Đỗ bạch Thố là hai người của đoàn xâm nhập 1987 đang có mặt tại khu cách ly chính trị trại 5.
Nhóm Đông Tiến 3 ở khu nhà 1A (nhóm Trần quang Đô tức Đào bá Kế), mấy đứa em làm cách nào đó tôi không biết, chuyển được cho Thố chừng gần một xị rượu đế (cỡ 200ml).
Các đầu vụ đang có mặt tại khu cách ly đều biết giờ làm giỗ, hầu hết đều có mặt, chiếc cốc nhựa đựng cát sạch dùng để cặm chân nhang (do h́nh sự Nguyễn văn Linh t́m nhang bên khu nữ) khi tàn, tôi đếm là 22 gốc nhang.
Anh em từng người bái nhang, lâm râm khấn vái, ḷng biết chắc là hôm sau sẽ to chuyện.
Ngày hôm sau Thiếu tá Lâm an ninh trại ra lệnh tập trung toàn bộ tù ra từ A 20, lên hội trường họp.
Buổi họp được gọi là buổi kiểm xét đột xuất và sự việc cúng giỗ ông Hoàng cơ Minh và đoàn quân xâm nhập từ Thái Lan 1987 đươc ông Lâm lên lớp tuyên giáo. Tôi yên lặng quan sát thái độ từng người v́ biết chắc ông ta sẽ gọi một số người tiêu biểu (đă có ư quy thuận quyền lực nhà tù). Trù liệu của tôi xảy ra đúng y x́. Ông Phạm đức Khâm, ông Michel Nguyễn Muôn bị mời đích danh phát biểu. Khá bất ngờ là cả hai ông đều nói rằng việc đó là việc đạo nghĩa cá nhân của mỗi người, các ông không ư kiến. Tất cả những người cứng rắn đều ở tư thế chuẩn bị phát biểu, không khí bắt đầu căng thẳng...
Có lẽ chỉ muốn cho xong việc v́ đây là thừa lệnh của cấp trên, nên thiếu tá Lâm sớm nói lời kết thúc. Khi nói lời kết thúc, miệng ông có khuynh hướng ḍm vào chiếc túi áo ông ta… và tôi hiểu là ông ta nói cốt cho cái micro đang ẩn trong ấy nghe rơ.
Tôi nh́n anh Bàn. Anh Bàn chớp mắt nhẹ lắc đầu. Nh́n qua Trung, Trung đưa mắt sang anh Bàn. Tôi hiểu là không nên dồn Lâm vào đường bí nên im lặng không phát biểu.
Buổi họp kiểm xét xong, về buồng, hai sĩ quan cai tù vào tận chỗ Thố đề nghị Thố đi làm việc. Buổi chiều, mấy người h́nh sự được lệnh gói hết đồ đạc của Thố niêm phong lại và cho đem vào khu cùm duy nhất một chiếc chiếu đơn đă rách tơi hẳn một góc.
Đợt cùm này khởi đầu cho nguyên một mùa cùm của chúng tôi, Đỗ Bạch Thố, Nguyễn văn Trung lai, Trương văn Sương, Phạm văn Thành, Phạm Anh Dũng, Nguyễn Ngọc Đăng, Vũ Đ́nh Thụy, Hoàng Xuân Chinh và người tù Fulro luôn có ánh nh́n căm thù tất cả mọi dạng người Kinh. Mùa gặt cùm này tôi bị kéo dài 7 tháng cùng với cái chết cô độc của Kstum!
* * *
V́ sự nhạy cảm của đội tù chính trị miền Nam đang có măt tại trại Lam Sơn, nhà tù phải cho các đội h́nh sự đánh xe ḅ để chở đá lớn từ ngoài trại, đem vào tận khu cách ly để tù chính trị lao động đập thành đá rải đường cung cấp cho bên công lộ.
Các anh tù miền Nam ra từ A 20 chuẩn bị chỗ ngồi đập đá của mỗi người thành như những bộ ghế dành cho các sơn vương xa xưa thường ngồi ngự. Thái độ bất cần quyền lực của kẻ cầm quyền thể hiện rất rơ ràng. Phiá giám thị cũng chỉ coi việc đập đá của nhóm tù miền nam là việc h́nh thức để giữ thể diện nên không có chuyện gay gắt bắt phải chỉ tiêu này chỉ tiêu kia...
Thời gian này có một sự lạ, đó là sự xuất hiện của một ông quản giáo đă đứng tuổi thay cho Nghị. Nghi là thiếu tá, tuổi ngang với tuổi tôi (sanh khoảng 1960). Người quản giáo đứng tuổi cư xử rất nhẹ nhàng với nhóm tù miền Nam. Điều lạ là ông ta gọi khoảng một nửa số tù từ miền Nam đang có măt tại trại 5 Lam Sơn. Từng người một để “làm việc”. Ông ta kê hai cái ghế ở góc một khoảng đất mà anh em đang trồng rau. Nội dung các câu hỏi xoáy quanh lư do “phạm tộ” của người được hỏi. Thời gian xảy ra vụ án và số người bị lĩnh án. Các anh đa phần sau khi “làm việc” đều thông báo chi tiết các nội dung cho tôi qua hai cầu nối là anh Bùi thúc Nhu và anh Trần Nam Phương. Nhóm tham mưu gồm Hoàng xuân Chinh, Trần minh Tuấn,Trần nam Phương, Nguyễn văn Trung, Nguyễn văn Bảo, Phan văn Bàn, Dương văn Sĩ, Lê thiện Quang, Lê ngọc Vàng, Phạm anh Dũng và tôi mỗi 4 ngày đều có một buổi trưa bàn thảo từng câu hỏi đă được đặt ra. Sau hai tuần, chúng tôi đều chung một nhận định rằng sự kiện tù A 20 là một sự kiện đă gây sự ngạc nhiên lớn lao cho tầng lớp quân cán chính tại toàn vùng Thanh Hoá. Ông Nguyễn văn Bảo nói.
- Ngựa đă sang sông! Ít nhất chúng ta đă làm được một nhiệm vụ. Đó là đánh tiếng cồng tranh đấu vang vọng vào tâm trí đồng bào của chúng ta ngay nơi vùng đất đă đẻ ra chế độ! Người có ư thức của miền bắc sẽ được hiểu là cuộc tranh đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản chưa bao giờ dừng lại tại miền nam, dù đă phải trả những cái giá cực kỳ thảm khốc!
Ông Bảo là người nhỏ con nhất trong đoàn tù từ nam ra bắc năm 1995. Thân ḿnh nhỏ nhưng cái đầu của vị giáo sư trung học VNCH này là cực kỳ cứng rắn và sắc bén.
Người quản giáo đứng tuổi đến với đội tù A 20 được chừng hơn một tháng th́ xảy ra chuyện.
Hôm ấy tôi và Nguyễn văn Trung đi cùng người quản giáo này để mượn hai tấm ky khênh đá (bện bằng tre nứa đă đập dập luồn vào hai đ̣n cáng, dùng để hai người khênh đất hoặc đá cho xây dựng hoăc đào ao). Ky là mượn của đội “quá đà” - tức đội của Đào bá Kế. Không biết Trung đi lấy ky thế nào mà tên quản giáo của đội Đào bá Kế văng tục gián tiếp với Trung. Y đối đáp với viên quản giáo của đội chúng tôi đại khái là “ĐM, giă nhừ chúng nó ra, viêc đ... ǵ phải nhân nhượng”! Trung vác tấm ky lên chỗ tôi và mấy anh em đứng đợi, mặt tái đi. Trung là người mang hai ḍng máu Pháp Việt, cao mét tám da trắng mũi cao đặc thù. Làn da trắng này khi giận là biến thành như xanh tái. Tôi đến gần ư muốn hỏi chuyện ǵ. Anh nói ngay.
- Không xong rồi! Thà là nó nói hẳn sau lưng ḿnh! Chứ nó nói cố ư cho ḿnh nghe … th́ không xong!
Tôi đỡ một đầu tấm ky, nói với Trung.
- Ra đội đă anh Trung! Ǵ cũng phải bàn bạc nhau cái đă …
Từ b́a trại ra đến khu vực đội làm rau tự túc của nhóm tù từ nam ra trại 5 chỉ chừng 15 phút. Đội nằm bên một cái ao rộng, có ba bốn cây mít cổ thụ gốc hàng hai người ôm. Bờ giếng sạch và nước rất trong mát. Một hàng dừa khoảng 30 cây chạy chung quanh bờ ao sát vời cánh đồng cấy lúa quanh năm, được dẫn nước từ con đập mà tù đă đắp suốt nhiều năm để ngăn chuyển ḍng nước sông Cầu Chày.
Bên những gốc dừa vừa được kê đá thành các chỗ ngồi để đập đá lớn thành đá dăm nhỏ. Quyết định đ̣i phải có sự đối mặt vơí quản giáo đội “quá đà” để hỏi rơ nội dung câu nói “gĩa nhừ” là nhắm vào ai? Nếu là nhắm vào đội tù từ A 20 th́ nguyên cớ từ đâu?
- Nó là đ̣n nắn gân! Ta không phản ứng th́ trưóc sau chúng cũng sẽ xếp ta ngang hàng với bên đội “quá đà”, tức là chúng mặc nhiên coi chúng ta là “phỉ”. Hoạt động phỉ!
Chinh nói dơng dạc và Tuấn đóng đinh đề tài bàn luận.
- Ngay sau đây, anh Vàng đại diện đội nói rơ ràng ư kiến của anh em với quản giáo, rằng chúng ta không chấp nhận câu nói ấy của một quản giáo nhà trại. Chúng ta cần sự minh bạch của câu nói đó! Để tỏ thái độ, bắt đầu từ chiều nay chúng ta sẽ phản đối việc lao động cưỡng bức. Đồng loạt không đi làm!
Vàng nh́n một lượt, thấy sắc mặt mọi người đều đanh lại hoăc cười nửa miệng, anh biết là không thể bàn lùi được. Vàng xoay người, đập đập chiếc mũ vải trên tay bước đi về phiá nhà lô (tức là nhà trực của quản giáo và bảo vệ vũ trang của mỗi đội tù).
Chừng 10 phút sau, người quản giáo đứng tuổi xuống tận gốc dừa nơi anh em đang ngồi uông trà. Ông muốn câu chuyện được chấm hết ở đây và ông nhấn mạnh rằng câu nói đó chỉ là một sự ngộ nhận. Nửa giờ đồng hồ nói chuyện qua lại, hai bên không có được điểm đồng thuận. Đội giữ nguyên quyết định chiều sẽ không xuất trại lao động.
Buổi trưa, một cuộc bàn thảo diễn ra dưới giàn khổ qua, quyết định sẽ xếp hàng trong sân khu cách ly. Đúng khi quản giáo và trực trại mở cổng để xuất khu, một ngướ sẽ đứng ra xác định thái độ bất tuân quyền lực nhà trại về việc lao động để bày tỏ sự phản đối thái độ của quản giáo đội “quá đà”. Yêu cầu tiến hành cuộc đối mặt công khai giữa đội tù từ A 20 và quản giáo đội quá đà! Người đứng ra xác định quan điểm ấy là tôi.
13 giờ, dưới cái nắng gay gắt. Khi quản giáo và quản chế vũ trang mở cổng, không khí khác thường thấy rơ. Bên cạnh viên quản giáo là hai người thượng tá phó giám thị. Quản chế súng dài bốn hay năm người đứng chắn ngang ngoài cổng khu. Đội đứng im sau khi anh Vàng báo danh số người hiện diện. Tôi tách hàng hai mét. Nói đủ lớn để tất cả mọi người đủ nghe từng câu từng chữ. Nội dung xác định việc bất đồng quan điểm đối vơí thái độ phát ngôn của viên đại úy quản giáo đội quá đà, đồng thời yêu cầu phải trực tiếp đối mặt với viên đại úy đó để làm rơ ràng về nội dung lời đă phát biểu!
Dứt lời, tôi bước ngang hẳn bốn mét rời khỏi hàng chính thức của đội và yêu cầu những anh em nào đồng ư vơí sự phát biểu phản đối lao động mà tôi vừa đại diện tŕnh bày, th́ bước hẳn sang hàng phiá trái (tức hàng tôi đang đứng), anh em nào không đồng ư vơí sự phát biểu của tôi th́ đứng nguyên hàng và xuất trại đi lao động b́nh thường.
Không khí đấu tranh quyết liệt hiện lên rất rơ ràng. Ba phần tư tách hàng đứng về phía bên trái. Viên phó giám thị mặt lạnh như tiền, bảo những anh em đồng ư xuất trại lao động xuất cổng. Cổng đóng lại sau khi các anh em đồng ư xuất trại bước hết ra sân ngoài.
Những người giám thị và quản giáo, trực trại, an ninh, giáo dục … không ai nói ǵ, quay đấu hướng về lầu giám thị. Anh em vừa tách hàng đứng ra bên trái tách nhanh, ai về tụm ấy. Ai cũng hiểu cái giá sẽ giáng xuống anh em sẽ xảy ra trong vài giờ tới.
15 h Hoàng xuân Chinh bị mời ra lầu giám thị làm việc.
16 h Vũ đ́nh Thụy được mời đi.
17h30 Nhóm tù h́nh sự được lệnh gói tư trang của anh Thụy và anh Chinh niêm phong.
18h30 BÁO ĐIỂM DANH NHẬP BUỒNG. THỤY VÀ CHINH KHÔNG THẤY ÁP GIẢI VÀO KHU CÙM. Nghĩa là đi đâu không biết!
Không khí có vẻ khó thở, v́ bản thân chúng tôi không có ai biết rành rẽ từng phân trại ở đây, chỉ mơ hồ nghe về Khu C, được gọi là K Chết, tức là khu trại gốc của thời Lư Bá Sơ, nằm hẳn sát vào b́a núi phía sau hẳn hai cánh đồng mà đội chúng tôi hằng ngày đập đá bên cạnh.
Buổi tổi tôi trao đồi với anh Dũng.
- Trận này sẽ rất căng. Ta cần người không bị dính ǵ đến qui chế kỷ luật để thông tin ra bên ngoài nên anh cần phải đối lập vơí em …
Dũng gật đầu, bảo anh biết rồi!
Quay sang Thố, tôi định nhờ Thố chuẩn bị một túi cói cho tôi, trong đó có những thứ thiết thân là bàn chải đánh răng và thuốc phong thấp. Tôi chưa nói th́ Thố đă bảo “xong hết rồi”. Thố vừa ra buồng cùm sau 2 lệnh, người như một con cá cơm khô đét!
2. Tháng 11 trời đất Bắc đă rét ngọt, tôi bước ra sân điểm danh với hai bộ quần áo trại mặc chồng lên nhau, dự pḥng khi họ đưa vào buồng cùm th́ với hai lớp quần áo, dù là áo trại mỏng lét, vẫn c̣n hơn là một bộ sơ sài.
Giờ điểm danh 6h sáng không khí trĩu nặng. Màn sương mù làm mọi thứ như càng trĩu nặng hơn. Việc hôm qua họ đưa Chinh và Thụy đi biệt tích là một sự việc nằm ngoài trù liệu của tất cả chúng tôi. Với suy nghĩ rằng họ rất ngại phân tán chúng tôi ra các trại hoặc phân trại khác, v́ sợ dân chúng chung quanh sẽ ngày càng biết về sự hiện diện của đoàn tù miền Nam chúng tôi, vốn dĩ chính là h́nh ảnh phản kháng quyết liệt của miền nam đối vơí điều mà họ thường rêu rao là thống nhất bắc nam trong hạnh phúc và mơ ước của dân chúng miền nam. Điều này, trong tất cả những cuộc thăm gặp thân nhân, những buổi áp giải ra đội lao động và qua sự nghiêm ngặt cấm triệt để mọi h́nh thức tiếp xúc của các tù nhân h́nh sự khác… cho chúng tôi hiểu rơ sự sợ hăi này của họ.
Việc « ông » quản giáo đứng tuổi được đưa vào quản đội, mà qua chỉ một vài câu hỏi với quản giáo Nghị cùng sĩ quan an ninh, giáo dục … chúng tôi hiểu ngay được là một sự việc bất thường. Thứ nhất là vị ấy đă cao tuổi. Thứ hai là thái độ nhă nhặn đăc biệt và thứ ba la thái độ khoảng cách đăc biệt của những sĩ quan cấp tá vừa lên bậc (tuổi ngang ngửa với tôi đang nắm an ninh, giáo dục, trực trại, quản giáo … của trại này). Khoảng cách ấy cho chúng tôi hiểu là người quản giáo già KHÔNG PHẢI NGƯỜI CỦA TRẠI NÀY.
Thái độ hỏi han, t́nh tiết hỏi han của ông ta lại càng chứng tỏ không phải là của công an quản giáo chuyên nghiệp. Quản giáo chuyên nghiệp họ biết rơ họ được hỏi người tù chính trị về những điều ǵ và những phạm trù nào họ không được đụng đến hoặc tránh hẳn không muốn đụng đến.
Bằng cách dọ hỏi gián tiếp thêm qua 8 đưá h́nh sự ở chung (đều là nhân lực được gởi gấm của đội ngũ giám thị) chúng tôi lại được biết vị quản giáo này MÀY TAO với giám thị trưởng Phạm Ninh. Với tôi thế là đáp án đă được mở, khi liên hệ lại hành trạng khác thường của giám thị Ninh lúc tôi mới đến trại.
Lần gặp gỡ bất thường ấy chỉ có tôi và ông ta trong khu cách ly (điều này hoàn toàn không b́nh thường và trái nguyên tắc, v́ theo thông lệ, luôn luôn có hai sĩ quan bảo vệ đi kèm giám thị trưởng khi giám thị trưởng bước vào không gian sinh hoạt của phạm nhân, nhất là là những phạm nhân được đánh giá là đăc biệt nguy hiểm).
Lần ấy sau khi ông nhắc đến việc ông từng có mặt tại chiến trường Khe Sanh và An Lộc thời 1967 / 75 ông trầm giọng nói vơí tôi câu nói đặc biệt « Tôi xuất thân là một người lính và đến chết vẫn là một người lính. Hăy nh́n tôi là một người lính ». Lần ấy ông kín đáo ghi âm trọn vẹn buổi nói chuyện đă diễn ra. Tại sao ông đă phải gặp tôi như vậy thay v́ gặp ngoài nhà làm việc (mà các pḥng đều có hệ thống ghi âm)?
Những câu trao đổi qua lại cũng nằm ngoài phạm vi trách nhiệm của một giám thị trưởng. Những câu hỏi đều dẫn đến mục đích để biết tận tường rằng tôi có thật sự là Phạm văn Thành hay không, với những t́nh tiết nhân thân đăc biệt mà nếu không đúng là tôi (với giai đoạn tuổi thơ đăc biệt), sẽ không ai trả lời được.
Qua những câu hỏi đó, tôi hiểu được là phiá giám thị Ninh đă có những thông tin riêng về hoàn cảnh gia đ́nh của tôi mà chắc chắn đă phải có người tiếp xúc đến tận làng quê của tôi, với những thân nhân c̣n sót lại và với cả những đứa bạn thân tôi thủa niên thiếu. Những đứa bạn tôi đă bằng mọi cách dấu biệt các sự liên hệ khi quyết định lao vào cuộc chơi sinh tử với nhà cầm quyền cộng sản. Những sự điều tra về nhân thân, chắc chắn phiá an ninh chính trị điều tra bên A15, A16 và A24 đă làm chi tiết, nhưng phiá V26 th́ chắc chắn không thể có được những t́nh tiết ấy nếu không có một « đường chuyển » đặc biệt.
Những điều vị quản giáo già quan tâm ḍ hỏi các anh của những vụ trọng án đang sống trong khu cách ly đều xoáy vào một chủ đích: T́m ra nguyên nhân, thời gian và nhân lực đă tiến hành các vụ bạo kháng. Điều này nằm ngoài hẳn chức năng và quyền hạn của một quản giáo trại tù. Tất cả các câu hỏi đều được hỏi giữa … vườn rau, nơi không thể có một thiết bị nghe nh́n nào có thể cài cắm!
Điểm danh được chừng 30 phút, Trần minh Tuấn marathon đụng đầu tôi ṿng thứ nhất, nói vừa đủ tôi nghe: « Đợt này anh đi một ḿnh, tôi ở ngoài … ». Lời nói ngắn cụt ngủn nhưng đủ để tôi hiểu rằng Tuấn e ngại việc thông tin không ra khỏi trại được nên quyết định ở ṿng ngoài cốt để t́m cách chẻ thông tin về cho gia đ́nh, thân nhân. Một cảm giác ngậm ngùi lan tỏa trong tôi, v́ tôi biết, sở trường này không phải của các anh, nơi xứ sở hoàn toàn lạ lẫm và cô độc này. Chọn lựa của Tuấn chắc chắn phải là một chọn lựa không hề dễ dàng, khi hầu hết những người đứng tách hàng hôm qua đều là những người đă từng sát cánh với anh trong tất cả những cuộc « hành tŕnh cùm kẹp », từ ngày có vụ làm tờ báo Hợp Đoàn của A20 do ông Vũ Ánh khởi xướng thời thập niên 1980. Sáng hôm qua, khi anh đứng nguyên bên “hàng thuần phục” chờ xuất trại, tinh mắt sẽ nhận thấy hai đầu gối của anh có những lúc như run rẩy. Trạng thái này không qua mắt được Hoàng xuân Chinh, vốn xuất thân từ một gia đ́nh chuyên bắt mạch, bốc và sắc thuốc Nam.
Tôi bước Marathon ṿng thứ ba th́ ông Sơn chặn tôi lại. Ông Lê văn Sơn đă gần 70, là một nhân sĩ Phật Giáo Ḥa Hảo. Ông hỏi ngay.
- Liệu chịu được không Thành? Chắc chắn sẽ rất lâu đấy!
Tôi đáp là tôi nghĩ đủ sức chịu đựng. Ông cầm lấy bàn tay tôi bảo x̣e ra rồi đặt vào vỉ thuốc Bi Profenid. Vỉ thuốc tôi mới chia ra đưa cho ông hai tuần trước, khi thấy đầu gối của ông sưng to không đi được. Vỉ thuốc c̣n 8 viên, nghĩa là ông uống thấy bớt đau nên giữ lại để dành. Tôi cau mày nói với ông là uống thuốc như vậy không hạ đau được bao lâu. Thuốc tôi đưa là để ông uống 7 ngày liên tiếp. Đây là thuốc tôi phải nhịn nhục nài nỉ họ (giám thị trại tù) mới chịu đưa. Họ cũng biết là tôi lấy để chia cho anh em chứ chẳng phải giữ cho riêng ḿnh làm ǵ. Tôi nói ông Sơn nhận lại mà ông nhất định không nhận. Tôi đổ quạu sau khi nói rằng tôi vẫn c̣n đủ cho tôi. Tôi nói.
- Họ không thể để em chết! Anh phải biết là như vậy! Các anh có thể chết nhưng em họ không thể để cho em chết!
Thấy tôi quạu, ông Sơn băn lẽn cầm vỉ thuốc nhét vào túi chiếc áo nâu đà đă bạc phếch. Đôi mắt già nua chớp chớp nh́n lên trời …
7h đội xếp hàng chờ xuất cổng. Vẫn hai hàng cách biệt. 2 phía 2 thái độ chống đối và an phận đă hiển lộ tỏ tường.
Cổng khu cách ly mở. Tiếng sợi dây xích vừa được bổ xung thêm đêm qua được cố ư kéo qua các thanh sắt nghe rất khó chịu. Khoảng 6 người bước ra cổng, trong đó có Lê ngọc Vàng là đội trưởng và sát ngay Vàng là Trần minh Tuấn. Mặt Tuấn lạnh lùng không cảm xúc.
Cổng đóng lại với những ṿng xích sáng loáng.
Khoảng 9h Trương văn Sương được gọi đi làm việc. Anh đi ra khỏi cổng, giọng cười ặc ặc cố hữu khi bước ngang cửa buồng tôi. Anh đi chân đất, tướng pháp lềnh khênh với mái tóc muối tiêu hớt carré cứng cỏi.
Khoảng 10 h, tư trang của anh Sương được niêm phong. An ninh và hai người thi đua (5) áp giải anh vào khu cùm cuối trại, sát phần chuồng heo và nhà bếp, ngăn cách với nhà 4 nữ, kế cận « giếng tiên » (6) .
Khoảng hơn 10 h, Nguyễn văn Trung (Trung lai) được mời đi ra lầu giám thị. Trung đi rồi tôi nói với cư sĩ Trần nam Phương: "Ta tiến hành chuyện bộ ḷng thôi!". Phương thảng thốt nh́n tôi, ư như không muốn nghe rơ. Tôi lập lại lần thứ hai: "Ta chuẩn bị thôi anh!". Phương ngần ngừ, hai tay xoắn xoắn vào nhau. Tôi cứng giọng, từng tiếng một "Em có làm sao sẽ đều là do khâu sát trùng…". Phương ù ừ rồi đi nhanh ra phiá sau, nơi gốc mướp có anh Phan văn Bàn đang quạt bếp than nấu trà.
Việc này chúng tôi đă bàn rất kỹ. Anh Kim Long đă chỉ dẫn tôi rất chi tiết thủ thuật rạch bụng moi ruột ra mà không chết. Con dao làm từ chiếc liềm cụt nhặt ngoài đội đă đưọc anh Bàn đàn qua lửa than đá thành một ngọn dao lá cực sắc và cất dấu ở đâu đó. Nơi tôi mổ bụng sẽ là chỗ nằm của tôi, sát bên chỗ nằm của tu sĩ Mai đắc Chương và Trần nam Phương. Điều kiện thiết yếu là nền đá phải cực sạch. Đ́ều này Phương phải chịu trách nhiệm. Lần thử sau cùng bằng mực hạt mồng tơi, tôi đă làm rất nhanh và chính xác. Lần ấy anh Long nói.
- Đây là việc đối đế mà chỉ có Thành làm được. Anh em nội địa mà làm th́ chúng sẽ để cho chết luôn. Chúng sẽ không tận lực đưa đi bệnh viện khẩn cấp. Từ đây ra bệnh xá Sao Vàng chừng nửa tiếng. Đến đó được là sống. Từ đó chúng sẽ đưa ra bệnh viện huyện Thiệu Yên rồi sau đó ra Thanh Hoá. Điều cần yếu là phải giữ thật sạch bộ ḷng của Thành!
Lần thực tập « giả đ̣» đó, anh Bảo là người phản đối. Anh vốn người hiền lành nhân đức, từ bé đến già chưa từng chặt chân hay cắt tiết một con gà. Anh nói.
- Mấy cha bạo lực quá! Anh không đồng ư đâu!..
Anh Long nói rất cứng: « Tôi bảo đảm hắn không chết! Một là hắn rất tỉnh táo, không run tay. Hai là …tử vi hắn c̣n sống lâu »!
- Chuyện tử vi th́ anh không bàn. Nhưng chuyện máu me th́ anh không muốn! Rồi c̣n thày Chương nữa. Máu me lênh láng ra chỗ ổng nằm, ám ảnh người ta suốt đời…
- Tôi là tôi không chịu! Nhất lại là máu anh em ḿnh!
Anh Bảo kết câu chuyện bằng thái độ vùng vằng rồi bỏ đi, ra tận góc thật khuất của mấy luống khoai môn Tuấn trồng, ngồi một ḿnh.
Anh em ba người tiếp tục bàn thực hiện ư định c̣n Trần nam Phương, anh Long và tôi. Phương nhặt được một chiếc liềm cụt -dấu trong háng- mang được vào buồng đưa anh Bàn, bảo anh Bàn lấy nó làm con dao thật bén v́ Thành nó cần. Việc này anh Bàn chỉ biết đến vậy. Con dao cũng được dấu riêng biệt và hàng tuần được Phương nhắc để anh Bàn kín đáo đem ra nướng than lại. Một cái chậu nhôm cũ đă được Phương mua lại của ai đó rồi đánh cát đánh tro cực kỳ cẩn thận treo trên giàn mướp. Có mấy lần anh Sương lấy chậu ấy đựng rau, bị anh Phương la như tát nước! Chả ai hiểu cái chậu ấy có điều ǵ quái gở mà Phương không cho bất kỳ ai đụng đến, thậm chí cả anh Bàn. Chỗ nằm của tôi bên thày Chương và anh Phương được Phương nhúng nước sạch lau bóng mỗi buổi trưa. Thày Chương thấy lạ mấy ngày đầu nhưng rồi cũng quen đi …
Giờ là lúc thực hiện. Phương bần thần xách nước vào chỗ nằm của tôi, lau rửa cực kỳ cẩn thận. Cái chậu nhôm được mang vào. Thày Chương ngồi trên vơng, tay cầm cỗ tràng hạt …
Có tiếng gơ cổng sắt khá lớn, tôi nh́n ra không thấy cán bộ nào cả. Chỉ thấy ông Quư với Kiên h́nh sự đang đứng sát cổng. Ông Qúy ngoài 70, người Cao Đài, nguyên vơ sư, hay cầm đá đứng gần cổng sắt, gặp cán bộ đi ngang ông ném thẳng cánh. Đá chưa bao giờ trúng đích v́ các chấn song của sắt thường làm lệch mục tiêu.
Chừng 10 phút sau cổng khu cách ly mở. Kiên thoát ra ngoài. Cũng chừng 10 phút sau Huy giáo dục đi vào buồng tôi hai ba ṿng rồi đi ra. Huy ra rồi trực trại vào hỏi tôi ở đâu. Tôi đang ngồi chiếu sau hè với anh Long.
Huy yêu cầu tôi ra ngoài nhà cơ quan làm việc. Lúc này đă gần trưa. Việc này bất thường. Khi tôi ra khỏi cổng khu cũng là lúc Trung được dẫn vào sân trại, men theo tường bên khu nữ để vào nhà cùm. H́nh như họ cố ư cho tôi nh́n thấy Trung bước hẳn vào nhà cùm.
Tôi được dẫn lên lầu trực trại thay v́ ra ngoài khu nhà cơ quan. Thiếu tá Hùng ngồi chờ tôi sẵn. Đây là trưởng giáo dục toàn phân trại, đồng cấp với một người cũng tên Hùng nhưng mang họ Lê Khả. Lê Khả Hùng cao ráo trắng trẻo mặt sáng, khác với ông Hùng này, xạm đen và lời nói thoát ra từ hai hàm răng lúc nào cũng như muốn khít chặt.
Hùng kêu tôi ngồi ghế đối diện. Mặt Hùng như phảng phất một làn sát khí. Tôi ngồi xuống ghế, ḷng nghĩ thầm "rơ thật là dở hơi ".
Hùng chằc hơn tôi một hai tuổi, thái độ của người lúc nào cũng thấy ḿnh là quan trọng. Kiểu cách nói luôn như muốn lên gân để chứng tỏ quan điểm và vị trí. Ông hỏi ngay khi tôi đă ngồi hẳn xuống ghế.
- Nghe chừng như là anh lại muốn làm loạn?
Tôi khá ngạc nhiên, không nghĩ là ḿnh sẽ phải nghe câu hỏi này với thái độ này. Với tôi, Hùng không là ǵ cả. Ở trại này tôi chỉ nể giám thị trưởng Phạm Ninh. Nể không phải v́ tài cán hay quyền lực mà nể v́ cái tính lính tráng của ông ta. Từ ngày vào trại, tôi biết rất rơ ngay đến giám thị cũng không có quyền hạch sách điều tra tôi, v́ tất cả các cuộc "làm việc" từ ngày tôi ra đây, toàn do từ “trung uơng” về làm, và người khét lẹt nhất là đại tá mật vụ La văn Tiếp, khi làm việc cùng tôi cũng không dấu được nét e ngại. Vậy hà cớ ǵ ông thiếu tá này xử dụng thái độ quyền lực với tôi, một thái độ mà cánh trung ương đă có kinh nghiệm và hiểu rất rơ sẽ là vô giá trị đối với tôi, từ ngày c̣n ở A20 Xuân Phước!
Tôi b́nh tĩnh nh́n thẳng vào mắt Hùng. Ông ta cường liệt đối mắt lại. Trong vài giây như vậy, tôi hiểu được là ông ta thực sự đang nghĩ ḿnh là người mang chính nghĩa. Đây là đởm lược chỉ những người đang nghĩ ḿnh đích thực là chính nghĩa mới mang được tia mắt ấy. Tôi nhẹ giọng.
- Ông nghĩ thế nào là làm loạn?
- Chúng tôi nuôi các anh không thiếu thứ ǵ. Ở đây các anh có tất cả. Các anh c̣n đ̣i ǵ nữa?
- Danh dự! Các ông có thể tước đoạt quyền tự do của chúng tôi nhưng các ông không tước đoạt danh dự chúng tôi được nếu chúng tôi cương quyết ǵn giữ! Chúng tôi cũng không cần các ông nuôi. Các ông không hiểu ǵ về công pháp quốc tế về quyền dân chủ chính trị nên các ông bắt bừa chúng tôi vào tù …
- Anh biết thế nào là dân chủ? - Hùng ngắt lời tôi, sẵng giọng, lưng hơi dựng thẳng lên thoát khỏi lưng ghế.
Tôi cố giữ giọng nhẹ nhàng.
- Dân chủ là người dân có quyền nói lên tiếng nói của họ. Người làm chính quyền nếu không được ḷng dân, phải bị băi nhiệm …
- Các anh nói các anh có thể băi nhiệm được chúng tôi à? Anh điên khùng hay ảo tưởng? Dân ở Việt Nam đều là của chúng tôi. Tất cả đều cần chúng tôi... Các anh là một lũ ất ơ, tháo chạy ra khỏi nước rồi giờ về đ̣i chúng tôi chia quyền. Đừng mơ! Hiaz! Đừng mơ mộng hăo huyền …
Tôi thấy không thể nói chuyện tiếp tục với tay Thiếu tá này. Cái đầu này đă đóng đinh vào những giáo điều và càng nói, sẽ chỉ càng gây tức giận thêm cho cả hai người. Tôi quyết định chọn thái độ im lặng.
Ông Hùng nói khá nhiều về dân chủ và hai ba lần hỏi hằn học lại tôi rằng "…các anh nghĩ chúng tôi sẽ cho các anh chia quyền à …". Thấy tôi không phản ứng ǵ, cũng không lên tiếng phản bác, ông chuyển sang một câu hỏi khá « ngoài luồng ».
- Anh nghĩ thế nào về bác Hồ?
Tôi khá bất ngờ v́ câu chuyện bị quẹo cua quá gấp.
Dựa hẳn lưng vào ghế, tôi từ tốn đáp.
- Ông chắc có đọc Ngục Trung Nhật Kư?
- Đọc chứ sao lại không?
- Ông chắc hẳn có đọc Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện?
- Đọc! – Hùng có vẻ khó chịu khi tôi hỏi thay v́ trả lời. Ông dằn cốc nước trà trên mặt bàn gỗ lim bóng loáng. Tôi nh́n theo cái đà dằn của đáy cốc để t́m xem nội lực hàm chứa của Hùng đến đâu. Thấy cũng tầm thường nên tôi hỏi tiếp.
- Chắc cán bộ biết nhà văn Trần Dân Tiên?
- Biết!
- Chắc cụ Trần Dân Tiên có nhiều tác phẩm giá trị?
- Ừ, tôi nghĩ vậy!
- Cán bộ có biết bác Hồ có người con gái ở Pháp không?
- … Anh định láo toét với tôi đấy à?
Tôi vẫn b́nh tĩnh hỏi tiếp, chậm răi.
- Cán bộ có biết ông Hồ Học Lăm không?
- Không! Chỉ nghe qua thôi!
- Bác Hồ là một nhân vật lịch sử c̣n bị bao trùm bởi nhiều điều huyển bí …
- Các anh chỉ là những người ăn càn nói bậy! Các anh xúm nhau đi bôi bác bác Hồ, lại c̣n nhận ḿnh là người yêu nước. Nói tóm lại cho các anh hiểu nhá. Chỉ có bác Hồ là người yêu nước! Chỉ có bác Hồ mới có thẩm quyền nói đến bốn chữ “danh dự dân tộc”! C̣n th́ các anh nhá... Quên đi!
Tôi lại ngồi thinh lặng, mắt thỉnh thoảng nh́n thẳng vào mắt Hùng. Hùng không bao giờ né tránh ánh mắt tôi nên có thể nói hai người những năm sáu lần “đấu vơ mắt” với nhau. Lần nào tôi cũng là người làm hoà trước, nghĩa là hướng tia nh́n ra khỏi tầm sát phạt trực tiếp. Tôi không sợ, nhưng biết là thắng thua không ích ǵ, chỉ thử lửa với nhau để hiểu nhiệt tâm của của nhau đến đâu mà thôi.
Có tiếng mở cửa. Tôi không quay lại. Hùng đứng lên, khom người chào người mới vào. Tên ông là Vân. Hùng gọi là Ban Vân. Ông Vân mang hàm Thượng tá, người cao ngang ngửa tôi, tướng pháp sang cả, trắng hồng, không có bụng như đa phần đám thượng tá đại tá từ trung ương vào. Ông chào tôi rồi kéo ghế ngồi.
Ông Hùng hỏi lại câu nói ban năy.
- Anh định làm loạn nữa phải không?
Tôi đă thấy cần phải cứng rắn, nên nh́n trực diện vào con ngươi Hùng.
- Loạn hay không, tùy các ông thôi!
- Anh nghĩ là ở đây, trại 5 này … mà anh có thể đứng giữa sân quát tháo đ̣i tự do đ̣i nhân quyền cho các anh như ở Xuân Phước được à! Gô cổ anh lại ngay chứ lỵ …!
Tôi không nói ǵ, vẫn điềm nhiên bám sát con ngươi của Hùng, Hùng đứng lên, vung tay áo như làm cho dăn xương cốt. Ông Vân vẫn không nói ǵ.
Khoảng ba bốn phút sau lại có tiếng gơ cửa rồi tiếng Lâm an ninh bảo “đă xong rồi “!. Ông Vân đứng lên bước ra ngoài pḥng.
Lâm cầm tờ giấy có dấu đỏ nói với tôi.
- Anh Thành. Ban giám thị quyết định kỷ luật anh v́ lư do anh có ư đồ tổ chức gây rối loạn sinh hoạt trại. Giờ mời anh theo chúng tôi!
Tôi b́nh thản đứng lên, đẩy ghế lại dưới bàn và nh́n Hùng.
- Chào cán bộ!
Hùng chắc có phần ngạc nhiên v́ thái độ nhẹ nhàng của tôi, lại thấy tôi không hề có phản ứng ǵ khi biết ḿnh bị kỷ luật (nghĩa là bị cùm chân như giam một con mănh thú). Ông bật ra một câu gần như vô nghĩa “… con gái tôi nó học tiếng Pháp, năm nay là đầu trường đấy …”. Tôi bất chợt nghe chùng ḷng xuống. À th́ ra, đám đàn ông chúng ta đều có chung một cảm xúc, đó là đều rất thương yêu con gái ḿnh, thường là thương hơn những thằng con trai, lo lắng hơn, hănh diện cũng hơn … Ở Thiệu Yên Thanh hoá mà học tiếng Pháp, gần như là một điều ǵ đó có thể được hiểu là văn hoá văn minh, hơi khác với chỉ học Anh ngữ hoăc Hoa ngữ. Tôi nhẹ giọng.
- Vâng, con cái, nhất là con gái … chúng là cả cuộc đời của chúng ta!
Giọng tôi có lẽ có một thang âm bất thường nào đó nên trên khuôn mạnh luôn cố làm ra lạnh lùng quyền lực của người sĩ quan giáo dục bỗng thoáng hiện một nụ cười chất phác. Trong câu nói như khoe ban năy, có lẽ ông cũng hiểu là gần như sẽ không có cơ hội gặp và trao đổi đối thoại với tôi lần nữa, mà tôi lại là người ở xứ Pháp xa xôi lần về. Ông khoe con gái học tiếng Pháp, gần như là một sự vô t́nh, đối với một người từng ở Pháp nhiều năm... phản ứng như vậy là phản ứng của một con người rất người, c̣n cái gốc nhân bản từ trong vô thức …
Tại sao chúng ta lại là kẻ thù của nhau nhỉ?!
Tôi đi theo Lâm, ḷng miên man nghĩ về người nào đó là con gái của Hùng. Chắc phải là một thiếu nữ sang và đẹp. Bởi không, chắc sẽ không chọn ngôn ngữ Pháp làm hành tŕnh sự nghiệp ở cái xứ sở cực nhọc vốn đang bật dậy t́m cách thoát nghèo này …
Hai người tù thi đua và sĩ quan trực trại đi bên tôi qua hết chiều dài sân trung tâm (cỡ bằng một sân bóng) rồi vào khu cùm. Từ cổng của nhà cách ly, anh em lố nhố đứng đầy chiếc cổng hẹp, đưa tay vẫy vẫy. Tôi nhướng mắt nh́n vào trong nhà, các ô cửa sổ gần phía sân trung tâm dầy đặc những cái đầu của anh em ra từ A20 Xuân Phước. Tôi nắm hai tay kiểu chào của Việt Vơ Đạo lạy chào lại anh em. Cảm giác của tôi là sẽ phải xa các anh măi.
Khu cùm xây cao hẳn lên trên một bệ bê tông cao gần đầu người. Khoảng 10 buồng đều quay hướng bắc, nghĩa là nh́n cḥng chọc vào khu nhà 4 B Nữ. Bờ giếng rất rộng của khu nữ nằm chỉ cách “lầu cùm” khoảng 8 thước. Đám tù lưu cữu gọi cái giếng này là giếng tiên. V́ trại này, 1995 đổ về về trước, nam nữ hầu như tắm đều cởi truồng, v́ đa phần đều nghèo khó.
Bước vào hẳn khu cùm, Thiếu tá Lâm yêu cầu tôi đứng nghiêm để nghe đọc lệnh kỷ luật. Người kư lệnh kỷ luật là Thượng tá Vân (họ ǵ tôi đă quên rồi).
Lệnh đọc xong Lâm lùi ra ngoài khu cùm. Sĩ quan trực trại cùng hai tù thi đua kè tôi lên những bậc thang. Khi đă đứng hẳn trên thềm hành lang tôi đưa mắt nh́n toàn cảnh để nhận rơ vị trí của ḿnh. Mắt tôi đụng phải khoảng 10 tấm lưng trần đang ngồi xúm vào nhau quay lưng về phía tôi và người cán bộ. Họ đều không mặc quần áo và đang xối nước tắm, có những tấm lưng trắng hồng.
Trực trại dẫn tôi vào buồng số 5. Cánh cửa gỗ lim dày làm tôi có cảm giác dễ chịu khi liên tưởng lại tất cả các buồng cùm ở B34 và A20, vốn đều làm bằng sắt và gờ tường cũng là sắt thép. Âm thanh của sắt thép va đập mạnh gây rất khó chịu cho người cùm ở bên trong, vốn chỉ có một lỗ thông hơi chừng 15, 20 phân vuông.
Vào hẳn buồng, tù thi đua yêu cầu tôi lột hết quần áo. Hai ngướ nặn kỹ cả chim c̣ và nắn cả vào hạ môn. Tôi nói nhỏ "không có ǵ đâu mấy anh, bất ngờ thế sao mà chuẩn bị ǵ được…". Hai người, người nhỏ con tính t́nh láu cá rất liếng thoắng nhưng người to lớn th́ cư xử rất chừng mực với tôi.
Cuối cùng tôi được mang một bộ quần áo trại. Sàn bê tông không có chiếu. Một người tù thi đua chạy ṿng ra phiá sau tường hậu của khu cùm để đút đầu cây suốt dài khoảng 3 mét rưỡi chọc ngang qua bệ cùm bên trái để xuyên qua bệ cùm bên phải là chỗ tôi nằm. Người tù thi đua lớn con nâng tầm móng cùm cho chính xác với đầu cây suốt thép tṛn to khoảng gần nửa cổ tay rồi hô lớn “đóng vào “. Đầu cây suốt phi qua lỗ sắt của bệ cùm, xuyên qua được một cái cùm bên chân trái của tôi. Đầu suốt được rút lại một chút rồi bất ngờ thục mạnh lần thứ hai, lần này đầu suốt đâm qua khoen cùm chân thứ hai, chui tọt qua lỗ thép xuyên tường để tḥi đầu khoá ra bên ngoài hành lang. Tiêng suốt cùm xuyên qua các lỗ thép nghe gai người, tiện thể lấy mất của tôi một mảng da trắng ởn ở cổ chân phải. Tiếng người tù bự con la rất lớn “ĐM mày làm ăn kiểu ǵ thế …”. Phiá sau tường hậu không thấy đáp lại … tôi bảo không việc ǵ, dù rằng cú trượt cùm ấy làm tôi đau đớn muốn tái dại người đi.
Cùm được chốt lại. Khoá cùm được đóng bập từ bên ngoài. Cánh cửa gỗ lim ầm một tiếng mạnh sau khi người sĩ quan đại úy trực trại bước chân hẳn vào buồng cầm chiếc dùi cui điện gơ gơ vào cây suốt cùm vừa được thọc chui qua hai bức tường.
Bóng tối trần ngập, một mùi khai ùa vào khứu giác và tiếng muỗi bay hỗn độn. Phiá ngoài cửa, nối tiếp với âm thanh những đế giày và ch́a khoá của ba người đàn ông đi khuất là những tiếng í éo của bầy phụ nữ, những tiếng càu nhàu bảo kỳ cọ chỗ này găi chà chỗ kia, cả tiếng những bàn tay vỗ bèn bẹt trên da thịt và những tiếng cười ngặt nghẽo. Tôi ngồi cúi áp sát mặt vào thanh cùm, ánh sáng luồn từ đáy khe cửa hắt le lói vào nền buồng, mang theo cả những âm thanh của tiếng vỗ nước đặc thù chỉ phát ra từ một số điểm đặc thù của cơ thể người nữ. Những âm thanh mà chỉ có những người quen tắm sông tắm suối mới nghe nhận ra được! Tôi lẩm bẩm “ Bỏ mẹ con rồi “!
Khoảng 4 chiều tiếng cổng sắt khu cùm loảng xoảng mở rồi tiếng người trực trại tra ch́a khoá vào từng buồng cùm. Trong mấy giờ vừa qua tôi đă biết được Trung nhốt ở buồng số 1 đầu tiên, rồi đến một ngướ tù về từ Thái Lan trong nhóm ông Hoàng cơ Minh đợt xâm nhập thứ ba -Đông Tiến 3 - đợt xâm nhập mà tôi đặt vô vàn nghi vấn từ khi biết sự có mặt của họ tại trại này và trại Thanh Liệt Hà Nội. Buồng thứ ba là Trương văn Sương, buồng bốn trống và đến buống tôi, buồng 6 trống, buồng 7 có một h́nh sự nữ không cùm. Các buồng nói với nhau vô cùng khó nghe v́ trần cao kín mít chỉ có một lỗ gió rộng chừng 10 cm dài chừng 30 cm lấy gió vào từ phiá … chuồng heo sát khu bếp.
Các cửa buồng mở, mỗi buồng được tù thi đua đặt vào sàn cùm một nắm cơm và một chén nước (bằng nhựa). Khoảng 10 phút là xong công việc phát cơm như vậy cho tất cả các buồng. Tôi yên lặng không nói ǵ.
Đêm chập xuống, muỗi vô vàn là muỗi. Muỗi ở đây không hề hiền, chúng như những mũi tên, bay veo véo từ trên cao phóng phập xuống da thịt và cắm ngay đầu kim hút máu liền. Rất côn đồ thảo khấu. Tôi luôn tay đập muỗi mà chúng th́ như bọn thiêu thân, không buồn né khi bị đập. Đâu ra thứ muỗi lạ lùng! Chừng 1 giờ đồng hồ như vậy th́ chúng biến đi đâu mất hầu hết, chỉ c̣n lại mấy con vo ve như loại muỗi thường thấy. Nghĩ đến chiều chập tối ngày mai tôi rùng ḿnh ớn lạnh. Đèn vàng vọt đă sáng lên trong buồng mờ nhạt, bàn tay tôi hiện rơ đỏ loe màu máu!
5h30 sáng kẻng báo thức, cổng khu cùm mở, tất cả các cửa buồng lần lượt được mở ra, trực trại tḥ đầu vào sau khi tù nhân lên tiếng báo cáo hiện diện. Tôi im lặng ngồi (đương nhiên là duỗi thẳng chân) không lên tiếng. Trực trại hỏi tôi.
- Khoẻ chứ anh Thành?
Tôi đáp “cám ơn các ông “, không thêm tiếng nào nữa. Có lẽ người tù thi đua hiểu thâm ư của tôi nên nói giả lả ngay “Sao lại là các ông, anh Thành?“.
Thâm ư của tôi quả đúng là đă bị ngướ tù thi đua nhận sớm ra. Nguyên v́ các trại phiá bắc, tù nhân bất kỳ già trẻ lớn bé đều phải gọi cán bộ bằng ÔNG và xưng CON hoặc Cháu. Riêng với giám thị th́ phải gọi bằng BAN xưng con hoạc cháu. Tù ở Nam ra tuyệt đối không ai xưng hô kiểu này và việc tôi đáp bốn chữ “ cám ơn các ông “ là hành vi cố ư coi người sĩ quan trực trại cũng ngang hàng bằng vai với hai người tù thi đua đang đi mở các cửa buồng điểm danh.
Khoảng 10 sáng cổng khu cùm lại mở. Lách cách tiếng những bát cơm bằng nhựa va vào nhau. Các cửa buồng được mở, tù thi đua đưa chén nước và nắm cơm vào rồi khoá cửa lại, từng buồng luôn có sự giám sát của sĩ quan trực trại. Bàn tay người tù thi đua to con ngần ngừ khi đặt nắm cơm lên bệ xi măng sát ụ cùm của tôi. Nắm cơm mới đặt cạnh nắm cơm cũ. Bát nước th́ đă hết nước nên người tù thi đua đưa chén nước mới vào. Viên sĩ quan trực theo sát mọi hành vi của người tù tự giác mắt như tránh nh́n vào chố tôi đang ngồi duỗi thẳng đôi chân gắn với hai cổ cùm. Cửa đóng lại.
Buổi chiếu khoảng 4 giờ thủ tục đưa cơm lấy bát lại bắt đầu được lập lại. Bên gờ bệ cùm của tôi ba nắm cơm đă xếp bằng nhau. Chiều hôm nay tôi được đi đổ bô. Bô chẳng có phân nhưng tôi vẫn cầm đi ra. Chân đă có phần tê dại nên bước đi đă có vẻ chập choạng. Một tay lần theo tường để đi về phiá sau buồng cùm số 8 để đổ. Tôi đi chậm, tay cầm bô giơ ra bên phần đùi phải, cố ư cho mấy ô cửa sổ bên khu nữ nh́n rơ cảnh trạng “không mấy ǵ là đẹp đẽ“ này.
Đến sáng ngày cùm thứ ba th́ sĩ quan y sĩ vào buồng tôi, sau khi nắm cơm thứ 4 đă xếp ngay ngắn trước bệ cùm. Chiều qua tôi nghe loáng thoáng tiếng ngướ tù thi đua nói với ai đó, giọng rất khúm núm “ dạ … anh ấy không hề sờ vào. Cháu để sao th́ lần sau vẫn y như vậy …”.
Viên y sĩ đứng ngay đầu bệ cùm, hỏi tôi sao không ăn cơm. Tôi nói đă quen ăn cơm có mâm có bàn tử tế. Việc cho tù ăn như thế này là xúc phạm người tù. Dù là tù tội, chúng tôi vẫn là những con người VÀ LÀ NHỮNG CON NGƯỜI CHƯA MẤT NHÂN TÍNH. Tôi nói vừa đủ nghe, nhưng nói chậm từng câu từng chữ …
Cửa đóng lại. Chừng 15 phút sau có tiếng bàn gỗ được đem vào khu cùm. Tiếng ghế gỗ va chạm với thành tường xi măng. Tôi được sĩ quan trực mở cửa và người tù thi đua mở cùm, nhă nhặn nói với tôi rằng, bàn ăn của tôi đă có ở đầu tường khu cùm. Tôi chậm răi bước ra. Ngồi vào bàn. Trên bàn là một chén cơm (bằng nhựa dĩ nhiên) và một chén rau muống. Tôi ngồi ngay ngắn, đưa tay làm tín dấu công giáo rồi cầm đũa ăn ngon lành. Tôi đă rất đói. Viên sĩ quan trực trại gọi đội trưởng đội bếp đem ra hai cái ghế dựa, một cho ông ta ngồi ngoài sân chung hướng mặt vào cổng khu cùm, một cho người tù thi đua ngồi cạnh tôi chừng 4 mét, trong khu cùm cổng khoá.
Chừng 15 phút, không ai giục giă, nhưng tôi biết giấc này là giấc rất bộn bề của sĩ quan trực trại. Tôi đứng lên chậm răi đi về buồng cùm. Khi người sĩ quan vào kiểm tra chế độ cùm, tôi nói với ông ta rằng “ở đây tất cả chúng tôi đều là con người như mọi con người khác. Ngày mai tôi sẽ tiếp tục không ăn nếu anh em của tôi vẫn bị đối xử như những con mănh thú …”.
Bắt đầu từ ngày cùm thứ tư, họ dọn cho anh Trung ăn trước, đến anh Sương rồi đến tôi, mỗi người từ 15 đến 20 phút. Người anh em bên nhóm Đông Tiến 3 đă ra cùm, ngướ tù nữ cũng hưởng qui chế kiên giam.
T́nh trạng sinh hoạt khu cùm trại A của tôi kéo sang lệnh thứ hai. Ngày thứ 7 của lệnh 1 giám thị mời tôi ra ngoài nhà cơ quan. Người làm việc từ Hà nội vào, không xưng tên, tuổi hơn tôi cỡ ba bốn tuổi. Nội dung tổng quát họ muốn biết tôi muốn điều ǵ.
Tôi xác định 3 điêù.
- Thứ nhất là chúng tôi không chấp nhận hành vi “địt mẹ địt cha” chúng tôi một cách bừa băi.
- Thứ hai, chúng tôi sẵn sàng đương đầu với bất kỳ ai công khai phát biểu muốn “gĩa nhừ“ đoàn tù A20 chúng tôi.
- Thứ ba, bản thân tôi không chấp nhận việc đưa anh Hoàng xuân Chinh và anh Vũ đ́nh Thụy đi mất tích.
Họ ghi nhận và nói chuyện đưa anh Hoàng xuân Chinh đi đâu anh Vũ đ́nh Thụy đi đâu … là thuộc thẩm quyền nhà trại. Tôi đặt vấn đề như vậy là vượt giới hạn. Tôi xác định là tôi sẽ chống đối đến cùng nếu như tôi không biết anh Hoàng xuân Chinh và anh Vũ đ́nh Thụy ở đâu!
Buổi làm việc coi như không giải quyết được ǵ cụ thể.
Tôi về buồng cùm, nhận lệnh cùm thứ 2 th́ anh Trung đă rời nhà cùm, không biết đi đâu. Anh Trương văn Sương cũng đă bị đưa đi ra khỏi buồng cùm. Rất hoang mang, tôi quyết định không ăn, tuy nhiên, rút kinh nghiệm vụ tuyệt thực ở A20, tôi không tuyên bố ǵ hết, cứ lẳng lặng thực hiện việc không ăn.
Ngày thứ ba của lệnh 2, ông Phạm Ninh vào tận buồng, khuyên tôi nên ăn cơm, chuyện đâu c̣n có đó. Tôi nói lời cám ơn, không hứa ǵ cả. Sang ngày thứ 5 th́ vấn đề xảy ra.
Qua ngày thứ 5 của lệnh cùm 2, đêm lạnh đă bắt đầu thấm vào hai đầu vai và vùng xương chậu. Những cơn đau thấp khớp tôi cố vượt qua v́ biết chắc họ không chuyển thuốc để tôi xử dụng. Những giờ tập khí công đă bị nhập nhoạng nửa mê nửa tỉnh v́ không có tư thế ngồi hoàn chỉnh, nằm th́ khí lạnh của đá ngấm buốt vào nội phủ. Tôi không ăn 3 ngày của lệnh 1 và 5 ngày của lệnh 2. V́ không tuyên bố tuyên bọ ǵ sất nên họ vẫn cấp nước ngày một bát nên chuyện hụt nước không đến nỗi trầm trọng lắm tuy vẫn bị thiếu nước uống. Vấn đề trầm trọng ở đây là muỗi ban đêm, và ban ngày th́ những tiếng éo nhéo của đàn phụ nữ hơi quá đa t́nh. Họ không hề biết là tôi không ăn, đang phải tranh đấu cật lực vơí cái sự đói … nên có ư trêu rất dai. Những sự trêu đùa ấy vô t́nh phá nát vấn đề gắng tĩnh thần tịnh khí của tôi. Đêm thứ 4 của lệnh 2, khoảng giấc gần sáng tôi ch́m vào mê man không cưỡng lại được …
3. Đến khi TÔI THẤY TÔI ĐƯỢC D̀U TỪ TRONG BUỒNG CÙM ĐI RA, đầu gục xuống ngực, hai bên là hai ngướ tù thi đua, phía trước phiá sau năm bảy người sĩ quan lúp xúp trong áo mưa. Trời chưa sáng. TÔI THẤY HỌ ĐƯA TÔI VÀO KHU BỆNH XÁ. Ở đó ông Ninh đứng chờ sẵn, nghe được ông ta hỏi “kim tiêm của nó đâu“. Viên sĩ quan y sĩ ú ớ nói là hết rồi. Tiếng ông Ninh quát “ … khi nó ra trại này hang 4, 5 trăm mũi kim riêng “. “ Dạ! đă hết rồi, anh ấy cho hết rồi … “. Có tiếng đàn bà, là bà bác sĩ của trại, nghe đồn là bồ nhí của cục trưởng V.26 -đại tá Đỗ Năm. Tiếng bà giục đem nhanh kim tiêm ra. Viên Trung úy y sĩ nói chỉ c̣n kim trại. “ Mài kim!! Nấu nước! “ tiếng giám thị Phạm Ninh như gào lên. Căn pḥng cấp cứu trạm xá người chạy ra kẻ chạy vào lốn nhốn, đồ tù lẫn đồ công an trộn lẫn vào nhau. Tiếng ông Ninh “ĐM, nó mà làm sao, tao rút chúng mày hai bậc…"
Tôi mơ màng nhận diện được sự vật, chẳng biết đă bao nhiêu giờ trôi qua, chỉ biết là đèn điện sáng chung quanh. Linh Nghệ An đỡ tôi ngồi lên nhưng tôi không cách chi ngồi được, tất cả đều nghiêng hẳn về một phiá như chuẩn bị đổ ập. Nhà nghiêng, giường nghiêng làm tay tôi bấu chặt với bất kỳ thứ ǵ có thể bấu được!
Họ đưa tôi sang trạm xá, nằm chung với khoảng bốn năm chục người bệnh lao đợi chết. Chỗ nằm của tôi là trong góc trong cùng, có Linh đặc cách từ khu cách ly sang nằm cạnh, hai người nằm trên ba chiếc chiếu. Linh nấu cháo đậu xanh đút cho tôi từng th́a.
Mấy người tù h́nh sự bệnh nặng có người nói “ … ông này tù ǵ mà lạ thế này …”.
Tiếng Linh đối đáp “ĐM! Làm ơn yên ắng, ngậm cái mồm bớt lại! Ban Ninh c̣n phải sợ ông này …”.
Thằng bé không hiểu sự t́nh nên phun bừa ra câu ông Ninh cũng phải sợ tôi! Biết là nó nói trật lất nhưng lưỡi tôi đơ đơ, không lên tiếng được …
Linh người Công Giáo Nghệ An. Tôi không như những anh em A20 khác, thường hay coi Linh như kẻ nguy hiểm. Chỉ bảo được Linh điều ǵ là tôi chỉ bảo tận t́nh. Trong hoàn cảnh nhiễu nhương tù tội, từ vô thức, nó coi tôi như một người anh lớn lúc nào không hay. Cách mớm cháo của nó, tôi hiểu nó thương tôi thật ḷng. Chứ tù với tù, lại là những thứ đàn ông ngang bướng vốn đời nhiều lần vào sinh ra tử…không dễ ǵ mà ân cần cho nhau từng th́a cháo như thế. Nó biết tôi hận nhiều thứ nhưng cố ḱm nén nên đă nói với tôi những câu mà người ta thường nói khi nghĩ rằng người thân yêu của ḿnh đang có thể sắp sửa chết “ Anh cố nuốt!..C̣n mẹ anh! C̣n con anh nữa …”.
Nó vụng về, nói lắp ba lắp bắp, nhưng tôi biết là nó nói với tâm thành, dù là tôi không ngồi dậy được, dù là mọi thứ nghiêng và xoay liên hồi … tôi vẫn loé lên được ư chí là ḿnh phải sống, từ những lời sách tấn tinh thần vụng về nhưng chân thành của một đứa tù h́nh sự bị bắt buộc phải theo dơi tôi từng li từng tí!
… Ngày thứ tư từ ngày sang bệnh xá, tôi lẫm chẫm đi được. Luống hoa thược dược nở đầy những bông tím xanh trắng vàng, tôi cố định thần nh́n theo những cành hoa ấy mà đi. Ngă xuống lại lồm cồm ḅ lên. Linh lúc nào cũng bên tôi, d́u từng bước, đỡ từng cái té sấp vô vô phương hướng của tôi…
Ngày thứ sáu, tôi đă đi được một ḿnh. Lâm vào gọi tôi ra khu cấp cứu. Đọc lệnh kiên giam. Tôi không nói ǵ. Nh́n Linh lần cuối rồi đi theo Lâm. Lâm thấy tôi muốn ngă nên đứng lại, bước đến sát bên tôi, cầm tay phải của tôi khoác lên vai Lâm. Rất chậm, hai chúng tôi đi như thế ra lầu trung tâm. Dù đoạn đường đi chỉ có chừng 250 mét, nhưng đă vô t́nh hằn sâu vào tâm hồn tôi một ư thức khó tả. Tôi là đứa ương bướng, chưa từng bao giờ nghĩ ḿnh phải bấu bám vai một người công an mật vụ hay quản tù … để bước đi những bước chân chập chững.
Lâm có thể không biết, nhưng trong khoảng khắc ấy, tôi đă là một con người với rất nhiều thay đổi.
Sau này, tôi biết là từ những giờ phút ấy, tôi đă trở thành NGƯỜ ĐẤU TRANH KHÔNG THÙ HẬN.
Chiếc xe U Oát đậu sát thềm lầu hội trường. Tư trang của tôi đă xếp gọn gàng trong xe. Người tài xế nổ máy chờ sẵn. Lâm d́u tôi ngồi xuống ghế bên cạnh tài xế. mở hộp c̣ng số 8 loại mi ni bập vào hai ngón tay cái của tôi. Bộ c̣ng lớn bập vào gọng sắt ghế ngồi và cổ tay trái. Tôi chầm chậm đưa mắt nh́n một lượt bốn chung quanh, nghĩ rằng ḿnh sẽ không c̣n có dịp quay về nơi đây. Cổng khu tù chính trị khuất hẳn tầm nh́n của tôi. Tôi b́nh thản thả trôi mạng sống cho số phận. Giờ này chẳng c̣n phản ứng ǵ được nữa, đứng c̣n không vững lấy ǵ lư luận với phản kháng.
Xe qua cổng chính. Bốn người trên xe gồm tài xế, Lâm an ninh và một bảo vệ súng dài. Tôi cảm giác rằng sẽ đi không xa nơi đây, v́ chỉ có một bảo vệ và Lâm không mặc đồ lễ mũ vành.
Xe chạy qua đội tù chính trị miền Nam, dáng Nguyễn đ́nh Oai gánh đôi thùng tưới đi thoăn thoắt trên những luốn rau cải xanh ngắt. Dáng TRung cao ḷng kḥng và Trần Minh Tuấn giữa vườn rau. Bóng anh Vàng tất tưởi chạy ra ven lộ đưa tay vẫy vẫy rồi bóng cả đội đập đá đứng nhốn nháo hết cả lên khi xe bất ngờ chạy ngang, rơ nhất là Đỗ bạch Thố đứng bên ông Bùi Gia Liêm với mái tóc bạc trắng và hàm râu nghệ sĩ. Tôi muốn đưa tay vẫy chào anh em thân yêu mà không được, v́ tay tôi dính với thành ghế rồi!
Mới gặp lại nhau chưa đầy 10 tháng, giờ lại chia tay. Lần này đường đi chỉ ḿnh tôi! Nỗi luyến lưu bất chợt dâng lên đong đầy hai con mắt. Tôi để mặc những giọt nước mắt ưá ra lăn qua má rớt tuỉ nhục lên đôi c̣ng thép bạc.
4. Biệt giam K.C!
Xe chạy ngang qua cánh đồng trại 5. Phân trại A nh́n từ con đường xuyên ngang cánh đồng trông thật thâm u v́ không thấy được các mái nhà tầng ở bên trong. Tường đá ong xây cao như một cổ thành thời Trung Cổ. Ba cḥi canh nghễu nghện với những hàng dây điện trông như một gă phù thủy đứng bất động tụng kinh. Các thửa ruộng hai bên lổ chỗ thửa đang gặt thửa vừa mới cấy. Rải rác khắp cánh đồng là những bóng người cúi lưng vục mặt xuống các mặt ruộng. Chân núi uốn lượn ṿng vèo.
Xe qua một cổng trại, tôi biết đó là phân trại B. Tường phân trại B không nghễu nghện đá ong như phân trại A, không có nhà cao tầng, trông rơ là kém bề thế rất nhiều so vơí phân trại A.
Qua cổng phân trại B, xe ôm cua tay mặt, đường đi bây giờ là sạn đạo, một bên là vách núi một bên là cánh đồng nước bạc nhấp nhô xen lẫn những thảm lúa xanh. Giữa khoảng nước bạc nhấp nhô là một sân đất nện nổi lên trông thật lạ lùng.
Tôi hỏi ông Lâm:
- Sân ǵ vậy cán bộ?
- Sân phơi thóc, cộ thóc? Lâm đáp, có vẻ tự hào.
- Sao mà lớn vậy!
- Sông c̣n chặn được th́ cái sân có nghĩa lư ǵ …
Bất giác tôi rùng ḿnh, liên tưởng lại những điều mô tả trong cuốn tự truyện Trại Đầm Đùn (7). Đầu tôi lùng nhùng âm thanh bốn chữ “nước sông công tù”! Bao nhiêu người đă nằm xuống cho cái sân phơi hoành tráng giữa đồng kia? Bao nhiêu mồ hôi, bao nhiêu đ̣n roi, bao nhiêu nước mắt của thân nhân họ khi biền biệt năm tháng không thấy người thân trở về …
Tôi bỗng bật ra câu hỏi với Lâm, gần như từ vô thức:
- Cán bộ có bao giờ nghe bài hát Ông Lái Đ̣ (8) không?
Lâm đáp nhanh, gật gù, tự nhiên, thanh thản
- ”Có chứ! Bài ấy hay …”
Tôi kín đáo nghiêng người nh́n về tay mặt bên sườn núi, nhưng là để thẩm định lại cho rơ thái độ của Lâm. Lâm vô tư nh́n theo hướng nh́n của tôi. Tôi biết là Lâm không biết lịch sử của ca khúc đau đớn ấy nên mới trả lời tôi như vậy. Đó là ca khúc đă ra đời từ những gịng sông dẫn vào trại ngày nay, xưa gọi là các trại Lư Bá Sơ. Thời 1950 đă bao người Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt đă bị bắt đưa vào các trại Lư Bá Sơ, người đưa đ̣ chuyển họ qua sông với dây thừng cột dính thành từng chùm nhóm. Những chuyến đ̣ không bao giờ được trả tiền công và cũng không bao giờ thấy ”khách” quay về, đến cả khi người chèo đ̣ già yếu và chết đi, vẫn không thấy ai quay về …Giờ đây, tôi đang cận mặt với những ǵ họ đă trút máu xương xây thành. Đầm Đùn, Lư Bá Sơ năm xưa, giờ là trại 5 công nghiệp tù!
Xe gật gù men theo đường sạn đạo, mắt tôi đụng phải một mái ngói xám chênh vênh giữa chân núi, đầu đao cong lên như thế nhảy của một con nghê bị trói bụng. Một cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng! Xe chạy gần hơn cho tôi nhận ra đó là một ngôi miếu loại hoành tráng, nửa miếu nửa đền! Tôi bật miệng hỏi:
- Miếu ai đây?
- Đền chứ miếu ǵ? Đền Lê Lai đấy! Ông ấy chết ngay tại đây! Trên kia là hang Lê Lợi …
Viên sĩ quan tài xế vừa nói vừa chỉ tay lên phiá núi. Tai tôi cơ hồ như ù đi. Lê Lai! Người anh hùng lịch sử mà tôi kính trọng nhất, hơn tất cả những vua chúa của các dân tộc Kinh Mường Nùng Chàm Thái, Hoa, Miên. Ở ông, từ thủa thiếu thời, tôi đă ám ảnh cách chọn cái chết vô cầu phi thường của ông, ḷng đă từng nghĩ có ngày phải t́m đến đền ông mà bái lạy. Giờ là đền ông ngay bên cạnh tôi, và tôi chân tay cùm xích…
Xe chạy qua đền, chắc chắn cả Lâm lẫn người tài xế và tay súng bảo vệ đều chẳng biết ḷng tôi vừa đụng phải một tia chớp giật cực mạnh.
Xe vào hẳn trong cổng. Cánh cổng sắt đồ sộ. Đây chính là phân trại C. Hướng núi và ṿng xe di chuyển cho tôi biết chắc đây là phân trại C. Trại gốc của một vùng huyền ảo Lư Bá Sơ năm nào. Sân trại phẳng tắp không cây cối, nền sân đất đá nện rất chắc chắn. Xe de đít vào ngay góc cổng trại. Một khu vực tường xây cao 2 mét biết lập hẳn vơí khu tù chung. Như vậy, khu kỷ luật của phân trại C là ngay đầu trại. “Ngay đầu trại th́ sinh khí hơn”! Tôi lẩm bẩm và bước xuống xe theo đà của cánh cửa, sau khi c̣ng được mở.
Đồ đạc tư trang của tôi được mang ngay vào buồng đầu tiên của khu cùm. Khu cùm từ tường vây đến tường nhà tường sân …đều xây bằng đá nâu. Tất cả đều cao nghễu nghện! Dao cạo râu, thuốc uống (tất cả các loại thuốc –dược phẩm) đều bị lưu kư. Quyển tự điển Hán Việt và quyển Pháp Việt, Anh Việt được lật kiểm từng trang. Bất kỳ bút ch́ bút bi hay thỏi ch́ … đều bị thu giữ. Thư gia đ́nh th́ tù được quyền giữ, nhưng giấy trắng th́ bị thu sạch.
Về đồ ăn, tôi là đứa vô sản nên không có ǵ, viên trực trại khu C hỏi tôi có đồ ăn khô ǵ không? Tôi bảo không. Ông ta chỉ vào một gói giấy hỏi cái ǵ đây rồi mở ra. Đó là bọc gói bên trong có xếp 10 gói ḿ Miliket loại có bao b́ bằng giấy cũ vàng y như là giấy bao xi măng, tức là loại ḿ ăn liền rẻ tiền nhất ở Việt Nam thời bấy giờ. Tôi cố dấu sự mừng rỡ, v́ biết đây là thủ thuật do Thố đă lo lắng cho tôi.
Thố bị cùm đă nhiều trận, kiên giam cũng đă nhiều lần kinh qua nên biết cái ǵ cần thiết cho người cùm kiên giam. 10 gói ḿ này tôi có thể ăn được 30 ngày. Tôi tính toán và h́nh dung ngay tức khắc sẽ bẻ làm ba mỗi gói và sẽ là ba ngày cho một gói ḿ. Một hạnh phúc tầm thường đối với những người thường bên ngoài xă hội, nhưng với người kiên giam là cả một sự rất qúi báu. Thố đă khôn ngoan gói lại và đặt trong thùng gỗ đựng sách vở và thuốc của tôi cốt để phiá cán bộ sẽ phải mở ra khi đă lỡ làng đặt trước mặt tôi khi khám tư trang tù như thủ tục. Với tôi, việc lấy lại 10 gói ḿ sẽ là việc gây khó khăn cho hầu hết cán bộ của các phân trại này. V́ thùng thuốc tây của tôi, tôi không từ chối chia sớt với ai bao giờ. Các thuốc tây ấy là do các anh chị của nhóm ông bà Nguyễn quốc Nam từ Pháp gởi cho gia đ́nh tôi (sau khi ra tù hàng chục năm sau tôi mới biết chi tiết này!) và gia đ́nh hàng tháng gởi vào cho tôi. Khi nh́n thấy số thuốc và kim tiêm cá nhân của tôi khi tôi bị chuyển từ A20 ra Trại 5, chính bà Đại úy bác sĩ trại tù này c̣n phải thốt lên ”cơ số thuốc của anh c̣n hơn cơ số thuốc của bệnh xá trại 5 …”
Giúp ai được điều ǵ th́ tôi chân thành giúp, anh em tù cũng vậy, phiá cán bộ cũng vậy. Với tôi, con bệnh không phân biệt quan điểm chính trị!
Giờ đây số thuốc của tôi chỉ c̣n lèo tèo mấy chục vỉ của tất cả các loại. “Trung ương” yêu cầu thu giữ lưu kư hết, kể cả thuốc thiết thân là thuốc thấp khớp của tôi.
- ”Khi lên cơn đau, bác sĩ trại sẽ khám và cấp thuốc”! Viên trực trại nói với tôi rằng quyết định “ở trên” là như vậy.
Tôi có đươc chiếc chăn trại. Một tấm chiếu. Tất cả những thứ được đem vào buồng cùm kiên giam được xếp gọn vào chiếc thùng gỗ mà Thố đă đóng cho tôi từ lúc c̣n ở A20 Xuân Phước Phú Yên. Dao cạo râu, kem đánh răng, bàn chải …không được mang vào.
Tôi vơ ngay lấy chiếc bàn chải và hộp kem, nặn ngay kem ra và tức khắc đánh răng, vừa đánh răng vừa chầm chậm vào buồng. Thật là sảng khoái khi người tù thi đua trại C đưa cho tôi ca nước bằng nhựa để hoàn tất công việc đánh răng. Từ ngày bị đưa vào buồng cùm và ra trạm cấp cứu đến nay đă ba tuần, tôi chưa hề đươc đánh răng! Râu ria tua tủa thật khó chịu (tôi có hàm râu chả đẹp đẽ ǵ, mọc bừa bộn thô lậu).
Lâm chào tôi. Lần đầu tiên Lâm đưa tay ra bắt tay tôi. Lâm là sĩ quan an ninh của trại 5 nhưng tướng pháp khác hẳn Lâm an ninh A20. Tướng Lâm A20 nhong nhỏng cao, mặt trắng nhợt nhạt, môi luôn như mím lại, trái với Lâm an ninh trại 5. Tướng đi ngang tang dềnh dàng, ngướ tầm thước đậm đà, miệng lúc nào cũng như muốn cười, mặt vuông vức … nh́n tướng đi của Lâm, tôi cảm giác là Lâm đă chọn lầm nghề. Tướng pháp như Lâm không thể nào hiểm độc hay thích tàn ác vơí tha nhân, điều trái ngược hẳn vơí nghề nghiệp công an - an ninh trại tù.
Ở Lâm tôi mờ mờ nhận ra đâu đó bóng dáng của một thằng bạn rất thân của tôi thủa thiếu thời 1978/80 là Đào Hậu. Hậu là đứa hết long v́ bạn, ruột để ngoài da, luôn thương người thấp kém hơn ḿnh, rất anh hùng mă thượng trong mọi hoàn cảnh. Hai tướng đi và hai ánh mắt của hai người này rất giống nhau.
An ninh, giáo dục, trực trại của phân trại C đừng chộn rộn trong ô sân cùm. Tất cả đều như mang một chút ngạc nhiên khi thấy Lâm đưa tay bắt tay tôi, thái độ thân ái như hai người bạn khi xa nhau. Lâm quay ḿnh bước ra cổng sân buồng cùm, không quay lại. Sân buồng c̣n lại hai người đại úy bảo tôi vào ô cùm.
Ô cùm kiên giam ngang chừng 2m50 rộng cũng chừng ấy. Cửa ra vào khoảng cao 1m60. Cửa sắt và gờ cừa cũng là sắt dầy. Cửa sắt kín từ dưới lên khoảng 1m20. 40 centimet trên cùng là sắt tṛn hàn thành các ô vuông 10 centimet để lấy ánh sang và không khí vào cho gian cùm. Bệ cùm chân cùm đă được phá đi, xây chồng lên là một lớp đá dầy. Tường vôi mới quét bốn chung quanh. Một ô vuông tường khuất hằn có lối đi vào là bể nước và WC bàn cầu ngồi. Cấu trúc này với tôi thật là lạ lùng. Cửa sắt đóng lại. Hai người đại úy lúi húi cùng cầm cùng xoay xoay nắn ổ khoá … Ra là họ không cùm tôi!
Sảng khoái, tôi chầm chậm ngồi xuống bệ nằm bằng đá. Tiếng bước chân hai người sĩ quan đi ra cửa sân rồi tiếng lách cách khoá cổng sân, cuối cùng là tiếng cánh cổng sắt khu kiên giam uỳnh uỳnh đóng lại. Tôi từ từ ngả lưng nằm dài xuống nền đá … nhưng vội gượng ngồi ngay dậy khi cảm thấy cả khu cùm bắt đầu quay ṃng ṃng! Tôi đă rất sợ cảm giác mọi thứ cứ quay lộn tùng phèo hết cả lên, không biết nắm vào đâu để giữ thăng bằng …
- Út ơi!
Tôi chới với đứng ngay dậy. Lờ quờ bước ba bốn bước ghé mặt sát các song cửa! Tiếng ai như tiếng anh Sương vừa gọi tôi!
Không nghe ǵ nữa cả! Tôi bẹo mạnh vào bắp tay để chắc chắn biết là ḿnh hoàn toàn tỉnh táo! Một cảm giác thảng thốt len nhanh qua tâm trí «… không lẽ Sương … không c̣n! » Tôi quyết định lên tiếng và nghĩ nếu là Sương đă chết th́ chắc chắn Sương đă về với tôi. Tôi nói lớn, nghiêm giọng:
- Phải anh Sương không?
- Sương đây Út ơi!
Tiếng anh Sương lập tức đáp lại, như từ một vách núi nào xa lắm! Tôi bán tín bán nghi bèn vào trong ô buồng WC, tường WC là giáp tường bên buồng số 2. Nếu Sương bên buồng 2 th́ Sương phải nghe tiếng tôi dộng tay vào tường. Tôi dộng mạnh năm sáu phát liền. Có năm sáu phát dộng lại, cũng như xa lắm! Vậy là Sương ở bên kia! Tôi mừng muốn khụyu chân xuống.
Tôi ra cửa, nói lớn, chậm răi v́ biết âm thanh bên anh Sương khó thoát ra
- « Em đây anh Sương? Anh sao rồi ».
- Khỏe Thành ơi! - Vẫn tiếng rất xa.
- Sao anh nói khó nghe quá!
-Anh ở xa cửa!
Tôi bần thần. Như vậy là Sương bị cùm!
-Anh bị cùm à?
- Ừa! Mà bộ tụi nó không cùm em à?
- Bên này không có bệ cùm!
- Có mà!
- Quái lạ! Là thực hay là mơ đây? Tôi định thần lại một lần nữa. Nh́n chung quanh buồng. Quả là vết bê tông ụ nằm lát đá c̣n rất mới!
- Mà thôi đừng nói nữa! Để mấy bữa nữa đi! Chớ nói nữa họ chuyển xa nhau là chết ngắc!...
Tôi không đáp, ḷng bấn loạn nghĩ đến Chinh và Thụy nên hỏi lớn.
- Anh biết Chinh Thụy đi đâu không?
- Bên số 5!
Tôi bàng hoàng, hỏi lớn.
- 5 nào?
- Anh số 2. Út số 1. Chinh số 5. Dũng số 6. Thụy 11, Đăng 12 đàng sau …
Tôi rú lên, đập cửa th́nh th́nh. Tiếng sắt thép va vào nhau rổn rảng, là tiếng đập cùm của anh Sương vọng sang!
*******
Tôi đứng khum khum nh́n ra khoảnh sân trước buồng cùm. Sân lát gạch nung vuông 30cm, bề ngang sân 5 mét, bề dài khoảng 7 mét là đến cửa cổng. Vách tường đá nâu cao ngất ngưởng khoảng 4 mét, trên 4 mét ấy mơí xây thêm 1 mét gạch thường. Như vậy, ô sân trở thành một cái giếng. Âm thanh từ buồng cùm vọng ra đă khó, trèo qua được bước tường cao này th́ biến dạng là phải.
Mắt tôi quan sát bên trên các bức tường đá. Rêu đă có khá nhiều, chứng tỏ căn buồng cùm này không mấy khi có người ở. Sát mép buồng cùm, lênh khênh trên một gờ đá ong có một thân cây giống cây me mọc bám chắc đă lâu ngày, cây cao chừng 30 cm bám chênh vênh giữa khoảng tường đá, thân cây cằn cỗi khẳng khiu cỡ bằng nửa chiếc đũa. ”Chắc con chim nào đă ị hạt giống vào đây”. Tôi ngẫm nghĩ nh́n gốc cây lạ lùng vô danh tí hon rồi đưa mắt soi cẩn thận xuống nền gạch của sân. Giữa sân, sát tường bên tay trái có một bệ đá xây như bàn ngồi ăn cơm và ghế đá. Tất cả đều là mới làm xong cỡ năm ba ngày. Chính giữa sân, thẳng tắp từ cửa buồng cùm đi thẳng ra cửa sân, hàng gạch nung bị vạt sâu hơm xuống thành một đường rănh hơm rất đều nhau. Tại sao có đường rănh này? Câu hỏi rất nhanh xẹt qua đầu và tức khắc đưa ra câu trả lời khốc liệt: Những người bị xiềng chân lưu cữu!
Bất giác tôi thấy ḿnh như lớn hẳn lên v́ thảng thốt nhận ra một dấu tích, tuy nhỏ nhặt bé mọn nhưng là một sự nối kết vô h́nh của một giai đoạn lịch sử tàn khốc, của nửa thế kỷ kéo dài dính chặt đến hôm nay, những con người mang một ư thức công bằng dân sinh, độc lập dân tộc, tự do tư tưởng … vẫn c̣n phải trả giá bằng những sự thù hận man dă từ chính những người đồng chủng chung một tổ tiên chung một nền văn hoá.
Những bước tường như thời Trung cổ Âu châu đang vây chung quanh tôi đây, đă ít nhất hơn 50 năm chứng kiến bao cảnh một đàn gà chung một Mẹ già tận lực xé xác lẫn nhau! Tôi cả nửa đời lang bạt kỳ hồ, ḷng chưa bao giờ h́nh dung đến sẽ phải (hay được) đứng trong một dăy hầm cùm đă được xây dựng từ 50 năm trước, khi đất nước vừa được người Nhật trao trả quyền độc lập sau các biến động Thế Chiến và bị thế lực cộng sản quốc tế thừa cơ chiếm đoạt, gây nên bao cảnh hăi hùng khởi từ những tấm ḷng cuồng nhiệt cực độ mà ngu ngơ cũng cực độ … dẫn đất nước vào hai cuộc chiến tranh triền miên máu, nước mắt và đói khát hèn hạ.
50 năm trước, khi dân c̣n cơ cầu đói khát lơ láo với món quà độc lập từ trên trời rơi xuống… th́ những trại tù hùng vĩ thế này được cất lên! Ai đă xây những bức tường này? Ai đă đập đá giă vôi? Ai đă ngào hồ trộn vữa… để cơ ngơi trùng trùng những nhà tù hôm nay trở thành như một nền công nghiệp trên giải đất Lam Sơn lịch sử 10 năm nằm gai nềm mật kháng chiến chống quân Hán Minh 500 năm về trước! Căn cứ nghĩa quân! Sân tập trận! Băi thao trường …là nơi giờ đây tôi đang đứng chân lên trên, trong một căn hầm dành cho loài mănh thú, với án danh là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng cho an ninh quốc gia!!!
Nh́n các vách tường đá lưu cữu, nh́n bầu trời trong xanh đă bị bó hẹp lại trên đỉnh những gờ đá, nh́n xa xa là vách núi dựng đứng, nơi có dấu chấm được gọi là miệng hang Lê Lợi lúc ẩn lúc hiện giữa những làn mây treo lơ lửng… khiến cảm xúc trong tôi tôi như sóng vỗ xô bờ
Có bóng người thấp thoáng đi qua đi lại trước khu cửa sân buồng số 1, là người tù thi đua ban năy đă phụ đem chiếc ḥm gỗ của tôi vào buồng. Như vậy là họ đă để túc trực một người tù thi đua ngay trong khu kỷ luật cách ly này. Chả trách anh Chinh và anh Dũng không lên tiếng với tôi, v́ chắc chắn sẽ phải gào rất lớn tôi mới nghe được, trong khi khu nhà trực trại là sát ngay tường phiá bên ngoài khu biệt giam, chỉ cách con đường chính dẫn vào cổng trại.
Người tù thi đua này có vẻ chân phương, không « gai góc sắc sảo » như hai người tù thi đua ngoài trại A. Anh ta có vẻ muốn gần gũi tôi, nhưng xa quá, chỉ nh́n thoáng thấy tia mắt của nhau từ cửa sắt buồng cùm vơí của sắt để dẫn ra cổng khu cách ly.
Khoảng 4 giờ chiều có tiếng lỉnh kỉnh mở cổng khu kỷ luật, rồi ngay sau đó là mở cửa sân buồng tôi. Hai người đại úy đi vào cửa buồng, cùng lúi húi tra ch́a khoá vào ổ để mở khoá. Khoá mở xong th́ một người cầm ổ khoá trên tay gọi tôi bước ra sân. Trong sân có ba người là hai đại úy và người tù thi đua. Viên đại úy cao ngang ngửa vơí tôi lên tiếng.
- Tôi là trực trại, ông … (tôi quên tên) đây là trách nhiệm giáo dục. Qui chế sinh hoạt của anh cho tuần này là không cùm. Anh có hai lần mỗi ngày, chúng tôi mở cửa buồng để anh ra bàn ăn cơm. 11 giờ sáng và 4 giờ chiều. Mỗi lần ra sân anh có 30 phút.
Nh́n chung quanh một lượt ông nói tiếp, giọng người Mường Thanh hoá đặc thù.
- Đây là phân trại C. Anh chắc đă nhận thấy sự khác biệt của buồng anh vơí các buồng khác. Chúng tôi mong anh an tâm sinh hoạt, không để xảy ra những chuyện đáng tiếc … v́ chắc chắn là anh chỉ sẽ thiệt hại mà thôi…
Tôi không nói ǵ, đứng yên lắng nghe. Thái độ của cả hai là thái độ nhă nhặn, tuyệt không thấy sự thù hằn nào hiện lên trên hai khuôn mặt này.
Ông ta chỉ người tù thi đua.
-Đây là anh … (tôi quên tên rồi) là người bên cạnh các anh. Có điều ǵ cần gặp chúng tôi, anh cứ nói vơí anh ta. Nước nôi sinh hoạt của buồng anh … sẽ hàng ngày châm cho đầy cái bể trong nhà met (WC). Cơm anh ta cũng là người nấu trực tiếp cho các anh, không chung nồi với trại chung …
Nói xong ông ta ra hiệu cho người tù thi đua mang cơm vào. Người tù thi đua bê một chồng 4 cái mâm vào đặt trên bàn đá rồi thứ tự lấy mâm trên cao nhất đặt xuống mặt bàn, lấy mâm cao thứ ba đặt lên cái mâm thứ nhất dưới mặt bàn và chuyền chiếc mâm áp chót của hàng mâm lúc đem vào, đặt lên thành tầng thứ ba của ba mâm. Như vậy. Mâm cuối cùng là mâm của tôi. Thủ tục này suốt hai tháng trời là như thế.
Ba mâm của các anh Dũng, Sương, Chinh bằng nhau, bát cơm đầy hơn một chút so với bát cơm mâm của tôi, bát canh rau muống giống nhau và đăc biệt mỗi bát cơm của các anh có một nủa con cá khô, bằng chừng gần ngón tay út.
-“Miếng ăn trong tù to lớn vô cùng”! Vào trong hoàn cảnh này tôi mới thật sự hiểu được giá trị của câu nói ấy.
Thủ tục này tôi hiểu là hoàn toàn không phát sinh từ giám thị trại này. V́ “tiêu chuẩn” ăn của tôi, ngay đến giám thị Lường (phân trại C) cũng có lần bày tỏ sự bất b́nh trước mặt tôi.”Sao lại đối xử với các anh như thế này nhỉ …” câu nói ấy theo tôi măi đến ngày hôm nay, từ một người thượng tá gốc Mường đơn sơ đôn hậu.
Tôi ăn cơm xong (chỉ 5 phút) bèn tận dụng giờ được tản bộ trong sân tôi mon men ra cánh cửa sắt, hy vọng t́m thấy h́nh bóng hay âm thanh nào đó của Chinh và Dũng … nhưng không tḥ đầu ra song cửa sắt được. Gờ tường quá dầy nên tầm mắt nh́n nghiêng qua buồng 1 và 2, chỉ thấy ba, bốn mét lối đi. Có lẽ các anh sợ bị chuyển xa nhau nên không lên tiếng lớn, chỉ húng hắng ho để tôi nhận biết là các anh đă biết tôi ở buồng này. Tôi to mồm gọi chào anh Dũng anh Chinh. Đăng và Thụy ở bên kia, phẩn tường đàng sau th́ không cách chi bắn tiếng cho nhau được. Tuy nhiên, biết các anh cả ở đây là yên tâm rồi. Có điều anh Dũng và Đăng tại sao bị bắt vào cùm th́ tôi chưa biết lư do. Vơí anh Dũng, tôi đă dặn kỹ trước khi xảy ra chuyện đối đầu là anh cần đứng ngoài, không dính chùm vào với tôi… vậy hà cớ ǵ anh lại bị cùm vào đây! Đăng tôi cũng không hiểu v́ sao!
Người tù thi đua luôn ẩn hiện. Một lần tôi ”chộp” được anh ta.
- Này anh bạn!
- Dạ …
Anh ta có vẻ lúng túng.
- Quê anh ở đâu?
- Ở tỉnh này anh ạ!
Nghe giọng nói và cung cách, tôi không dấu đươc ngạc nhiên.
- Sao ông lại … vào đây nhỉ? - Tôi vừa hỏi vừa lắc lắc cái đầu, không ngờ cảm giác lộn tùng phèo ập ngay đến. Tôi vội ngồi thụp xuống tựa lưng vào thành cửa sắt, dán chạt lựng vào tấm cửa, hai chân dạng rộng ra để khỏi mất thăng bằng mà đâm đầu xuống nền đá. Tiếng người tù thi đua í ới chạy ra cổng khu gọi ”ông ơi ông ơi” bài hăi!
Phải nói là tôi đă rất sợ cảm giác lộn tùng phèo tất tần tật tất cả mọi thứ lên. Nhớ mấy hôm c̣n bên bệnh xá trại A, những lúc ngă đâm đầu xuống cạnh luống hoa thược dược mà không có Linh, mặt mũi tôi bê bết đất cát khi đứng lên được! Tôi sợ trời đất quay ṃng ṃng. Sợ cảm giác sụp đổ. Sợ thân ḿnh bị chổng ngược lơ lửng giữa đất trời và những mái tầng nhà tù.
May mà t́nh trạng đảo lộn chỉ thoáng qua chừng 3, 4 phút. Tôi bắt đầu co chân lại để vịn tường đứng lên th́ cửa mở. Viên đại úy trực trại ào vào vực nách tôi d́u vào buồng. Cả hai đều cao lớn nên cùng phải khom khom mới lọt qua được cánh cửa sắt. mà vơí tôi, việc cúi đầu xuống là việc đă trở thành tối kỵ… nên trôi phải khụy gối xuống, nửa bước nửa qùy để vào bệ cùm, ngồi tựa lưng ngay ngắn vào vách tường.
Viên sĩ quan trực trại có vẻ rất ái ngại khi phải khoá cửa buồng để tôi lại một ḿnh. Ông lần khân lần khan vẻ như không biét xử trí ra sao.
Tôi nói
- Tôi quen rồi. Không sao đâu cán bộ..
Ông ta tần ngần cùng người tù thi đua đi ra khỏi buồng, lách cách đóng khoá. Lần này th́ tôi biết chắc rằng cái ổ khoá là loại khoá hai ch́a!
- Tôi lẩm bẩm “… mấy ông bị lừa rồi! Tôi có là con khỉ khô ǵ đâu mà mấy ông phải nh́n tôi là quan trọng một cách quái gở thế này …”.
Khoảng 2 tiếng sau, bóng đêm ập xuống, ánh đèn vàng vọt từ một cái lỗ như lỗ thông hơi trên cửa ra vào sát với trần buồng hắt le lói vào đúng vị trí bệ cùm tôi nằm. Những tiếng tạch xè tạch xè quen thuộc của một thủa ấu thơ dội về, tôi rảo mắt chầm chậm nh́n lên hướng đền vàng vọt và thấy những cánh bay của những chú cào cào bay qua bay lại trước cửa buồng. Ḷng tôi mừng húm! V́ những con cào cào sẽ là những dấu chỉ của cuộc sống đang sinh động diễn ra, thứ nữa là tôi có thể … ăn được những chú mà tôi có thể vồ được. Tôi sẽ ăn các chú cào cào, v́ nếu không ăn, tôi e rằng ḿnh khó có thể sống mà không bị suy kiệt dinh dưỡng, đầu óc v́ thế sẽ trở thành mông muội, sẽ thành đất cát mất … vả lại, tôi không ăn các chú th́ các chú cũng chết, v́ các chú sẽ chẳng biết lối đâu mà bay ra. Phần tôi, chắc chắn sẽ không đuổi theo các chú được, với cái đầu giờ cứ phải như người máy thế này. Đầu quay đi đâu là cả thân người phải quay theo thế ấy, không dám nh́n xuống, không dám nh́n lên. Tôi cần phải sống các bạn ạ.
Tôi ngồi như vậy với những đường bay của các chú cào cào, cả mấy mẹ thiêu thân cũng cắm đầu ra cắm đầu vào cái bóng đèn, có hai ba chú lọt vào buồng và quả nhiên là bay đâm loạn xà ngầu vào các ngách tường. Tôi chả dại ǵ mà đừng lên, nhất nữa là đuổi theo các chú. Đúng lúc tôi quan sát một chú cào cào đang ḅ trên tường th́ phát hiện suy đoàn kiến lửa đang xa luân chiến cái mớ quà qúi báu mà Thố đă khôn khéo gói cho tôi: Túi ḿ gói Mikilét (h́nh như tên nguyên dạng là Ḿ Liên Kết).
Này th́ không xong rồi. Ở cái đất này, h́nh như các loại sinh vật đều rất dễ nảy sinh hành vi thảo khấu. Đến mấy con muỗi cũng cư xử như thảo khấu và giờ là binh đoàn kiến vàng. Liên tưởng đến những gói ḿ bao bằng giấy bị hàng vạn những cái gọng hàm nghênh ngang kia liên thủ đục khoét th́ … chẳng mấy chốc mà nát bét. Tôi bám tường cố đứng lên, chậm răi bước đến cái nóc ḥm gỗ. Giời ạ! Đúng là hàng sư đoàn! Mới chỉ có hai ba gói bị vỡ hàng rào pḥng ngự. Tôi cầm chiếc túi có 10 gói ḿ, ph́ ph́ thổi thổi cho lũ kiến đang điên cuồng bới gặm phải rơi xuống nền buồng, nhưng rồi không biết phải để bọc ḿ khô ở đâu! Binh đoàn kiến th́ đâu chúng cũng có thể ṃ tới mà tường th́ không có mấu hay đinh, que, dây … ǵ để có thể treo. Cuối cùng th́ miếng áo nhựa dùng để đi mưa đă được tôi nhớ ra, quấn 10 gói ḿ vào rồi tôi thả nổi nổi trên mặt cái bể nước trong nhà wc. 10 gói ḿ này sẽ là … sinh lực cho tôi hàng tháng hoặc có thể hơn cả tháng trời. Nó sẽ giúp tôi phấn đấu … Tôi đă ”ra chỉ tiêu” cứng rắn là mỗi ngày, 10 giờ tối tôi sẽ được tự ”thưởng” cho ḿnh 1 phần 3 của lát ḿ gói Miliket kia.
Tôi về chỗ nằm, ngồi tựa vào tường. Bên anh Sương yên ắng như một khu nhà mồ …
Bỗng có tiếng dế gáy rơ to vang lên. Bỏ mẹ tôi rồi! Dế cơm Lam Sơn! Những con dế cơm không hề cơm tí nào! Chúng gáy hung dũng và to gấp năm sáu lần những con dế chiến của tôi thủa ấu thời. Làm sao mà bịt mồm con dế này được? Tôi tự hỏi trong đầu và từng bước đứng lên đi t́m cái ca đựng nước xối WC. Tôi múc một ca đầy, ḷ ḍ ngồi kiểu nước lụt rồi nhếch từng chút một t́m chỗ con dế ác liệt. Không thể nhân nhượng hay thơ ca lẩn thẩn ǵ được với trự dế cơm này. Tiếng gáy của y như muốn nong cả óc của tôi ra rồi.
Đây rồi, hai sợi râu của hắn tḥ hẳn ra một ngách đá ong sát chân tường, cao hơn măt nền buồng chừng 5cm! Này th́ sao mà đổ nước vào cái ngách ấy! Chỉ c̣n nước là lấy cái ca đập vào miệng ngách hang bé tí cho hắn sợ mà”câm miệng” lại! Tôi đổ nước ra mép cửa, gơ gơ chiếc ca nhựa vào miệng hang! Thật đúng là thứ du côn! Hắn im được chưa tới 5 phút đă lại gáy tướng lên. Tôi lại ṃ đến miệng ngách hang, lại gơ gơ. Lần này hắn không thèm im luôn! Tôi gơ cứ gơ! Hắn gáy cứ gáy! Thậm chí c̣n có phần gay cấn hơn!
Tôi trở lại chỗ nằm. Kiểu này anh chàng dế chắc đă thành tinh, hắn chắc thèm một đối tác cộng sinh để giải tỏa nhu cầu ca hát. Vậy th́ ta chỉ c̣n cách là lơ luôn hắn đi. Tôi định thần ngồi yên, bắt đầu khép chân bán già để tập tịnh tâm. Chàng dế không buông tha tôi. Hắn gáy một ḿnh có vẻ không đă tai nên tỏ rơ thái độ nửa cám dỗ nửa khiêu khích. Hắn lẫm chẫm ḅ ra hẳn ngách, đứng oai phong sát tường và nền nhà, nhổng cái đít lên, khuỳnh hai cái càng đen đủi gớm ghiếc ra mà gáy, đầu hướng về phiá tôi ngồi. Giời ạ, dế ǵ đâu mà du côn quá trời! Hắn đen trùi nhũi, to bằng cả ngón tay cái của tôi! Khi tôi mới ra trại 5, ở khu cách ly bên khu nữ đă thấy một con ẩn trong ngách đá gần bờ giếng. Lúc ấy tôi đă rất ngạc nhiên v́ cái sự ”cơm” của loài dế này. Nhưng con ấy so với con này coi bộ chỉ là hàng em út! Con này chắc đă thành tinh rồi!
“Đất không chịu giời th́ giời phải chịu đất thôi”! Tôi ngẫm nghĩ và t́m cách nương theo âm thanh của cu dế này mà gieo các nhịp thở. Khốn nỗi cu chàng gáy chả theo một thứ tự hay âm giai hợp lư nào cả. Lúc th́ hùng dũng sang trọng kiểu giao hưởng Beethoven, lúc lại như kiểu rèng rẹc ghẹ mái. Thật là quá quắt! Chừng hơn 1 giờ như thế, hắn bỗng im bặt, lần ṃ thu xếp kèn loa rồi chui vào cái khe ngách ấm yên của hắn. Trả lại cho căn buồng sự tĩnh mịch thật là héo hắt.
Tôi cố giữ nhịp nhàng cho các hơi thở, lược dần những sự suy nghĩ ra khỏi đầu, dù rất nhiều thứ đang thúc dục tôi phải nhớ lại từng sự việc để suy ra bản chất những điều đă đến với anh em chúng tôi trong ba tuần vừa qua. Điều lo lắng lớn nhất của tôi là Chinh và Thụy th́ đă được giải tỏa. Các ảnh ở đây, cùng vơí tôi trong khu cùm kỷ luật này. Mà chuyện cùm kẹp đối mấy ổng th́ chẳng có ǵ phải lo lắng. Họ đều là những cội đại thụ của A20 trong chuyện cùm kẹp!
Đúng lúc tôi bắt đầu có sự yên ắng nhẹ nhàng của các nhịp thở th́ những âm thanh đập cùm ầm ầm vọng sang từ buồng sát vách buồng tôi, phiá dăy sau. Tiếng va đập cùm phải là của một người nào đó rất khỏe và rất lỳ đ̣n. Tiếng va cùm kiểu ấy, ngay như tôi cũng không dám làm, v́ chắc chắn sẽ bật máu cổ chân!
Tiếng đập cùm cứ năm ba phút lại vang lên, dộng như nện vào đầu tôi sự công phá nặng tŕnh trịch. Cán bộ không ai vào dù những tiếng chửi thề độc địa đă bật ra không c̣n đâu là giới hạn. Từ quản giáo đến giám thị, đều bị anh chàng lôi ra chửi không tiếc hơi sức. Gần 1 giờ liên tục như vậy. Nghỉ chừng 15 phút lại ”tăng ca”! Thật là thảm hại cho tôi nếu cứ phải chịu cảnh này. Hết thằng dế cơm ngổ ngáo lại đến anh chàng tù kỷ luật lên cơn điên. Kiểu này là không xong rồi! Sẽ không tập trung zô ga zô ghiếc ǵ được trong bối cảnh quái gở này. Tôi quyết định ”làm chủ t́nh thế”. Tôi gồng người nói lớn, chậm để âm thanh có thể dẫn truyền trọn vẹn sang cho ngướ đồng cảnh bất đắc dĩ.
- Này …anh…bạn…ǵ…ấy…ơi…!
Im ắng lạ lùng.Tôi gọi lại lần thứ hai y như vậy, th́ có tiếng trả lời.
- Anh …ǵ …là …Việt…kiều… phải không?
- Ừ, Việt kiều Pháp đây!
Tôi đáp to từng tiếng và dặn anh ta cũng phải nói như vậy, nếu không th́ lơm bơm rất khó nghe.
Tôi hỏi anh ta muốn ǵ? Anh ta bảo là chỉ muốn ra trại chung thôi, chứ ở đây chịu không nổi nữa rồi. Tôi hỏi chịu không nổi là sao? Anh ta bảo.
- Thèm tiếng người! Giờ chúng nó chửi em, em cũng thích nghe!
Một cảm giác thương tâm bật lên trong ḷng tôi. Chỉ một câu ngắn ngủi với âm giọng lơm bơm nhưng là thể hiện một nhu cầu thật là hết sức con người.
Tôi nhớ lại thời kỳ bị biệt giam ở B34, những tháng chờ ra ṭa thật là đằng đẵng. Khi ấy tôi cũng có cảm giác thật thèm được nghe tiếng người. Cảm giác ấy, mấy mươi năm đầu của cuộc đời, tôi không bao giờ nghĩ là nó có trên cơi đời này! Đêm nay, một người tù xa lạ, cách tôi một bức tường đá dày hàng nửa thước, chân bị kẹp trong suốt cùm, dùng chính cái móng cùm đang thắt chặt ở cổ chân mà đập lấy đập để vào trụ cùm, mong đ̣i được nghe tiếng con người! Được sống b́nh thường như một con người tù b́nh thường ở trại chung...
Một ư nghĩ thoáng qua đầu và tôi lớn giọng gào tiếp tục.
- Này … Anh…Bạn…Bên…Kia… ơi!
Tiếng đáp ”em đây” rơ mồn một!
- Anh có muốn ra ngoài trại chung không?
Tiếng đáp ”C…ó …” rất to.
- Anh có sợ không?
- Em chả sợ ǵ sất!
Vậy tôi hét câu nào, anh lập lại câu ấy nhá! Lập lại giống y như tôi nhá …
Tiếng anh ta ”vâng ạ” lớn. Tôi lập lại.
- Hét giống y như tôi nhá!
- Vâng!
- Thề đi!
-Thề! Em Xin Thề!
Tôi đứng hẳn lên. Khom người chu mỏ ra ô cửa sắt, gào cật lực từng câu từng chữ.
- Đ. M. Hồ …chí… Minh…!
….!
Không tiếng đáp lại! Tôi gào lại lần nữa!
- Đ.M. Hồ… chí… Minh..!
- …
Tôi hoàn toàn không nghe bất cứ âm thanh ǵ thêm nữa. Hỏi với sang: ”Anh Ǵ Đâu Rồi …” chỉ là tiếng mấy con cào cào tạch xè bay qua bay lại trên đầu tôi, phiá cái bóng đèn mờ mờ nhợt nhạt.
Chừng 15 phút sau tiếng cổng cánh cửa sắt khu kỷ luật bật mở. Tôi cười thầm, ”giải thoát được cho ông rồi nhá”!
Tiếng cửa buồng phiá sau bật mở rất nhanh, tiếng lách cách tháo khoá và tiếng suốt cùm roèn roẹt kéo qua trụ sắt.
Từ đó, tôi không bao giờ gập lại người tù kỷ luật ấy nữa, một người đă thoát được khu cùm kỷ luật kinh hoàng mà đám h́nh sự gọi là khu cùm K Chết!
Tôi thiếp đi trong những âm thanh hỗn độn của tiếng người tru tréo, tiếng than thở, tiếng van cầu … và những người đàn ông đàn bà không quần áo đứng ngoài cửa buồng nh́n vào!
Đêm hầm cùm đầu tiên của khu kỷ luật Lam Sơn C trôi qua với nhiều những âm vang vọng lại đến cả suốt 20 năm sau của đời tôi.
Phạm Văn Thành
hoanglan22
04-08-2019, 03:04
Một trà, một rượu, một đàn bà
Trong đời sống con người, nhất là nam giới thường mắc phải vài thói hư tật xấu. Tứ đổ tường thường dính phải một, hai. Có nhiều người c̣n tự hào về những thói hư tật xấu của ḿnh.
Xin đọc câu chuyện vui sau đây:“Một người đàn ông đi làm việc về thấy một gă lạ mặt, quần áo rách rưới đứng trước sân nhà, liền hỏi:- Ông là ai mà đứng trước nhà tôi?
Gă lạ mặt trả lời:- Thưa ông, tôi lỡ đường, lại đói quá, xin ông vui ḷng giúp tôi ít tiền để tôi có được buổi ăn chiều.Người đàn ông từ chối:
- Tôi có thể giúp anh nhưng tôi biết cho anh tiền anh sẽ đi uống rượu hoặc đánh bạc.
Gă lạ trả lời:
- Tôi thề với ông, đời tôi chẳng biết tứ đổ tường là ǵ, th́ khi nào tôi lại đi uống rượu hay đánh bạc.
Mắt người đàn ông sáng lên, vui vẻ nói:
- Vậy th́ mời anh bước vào nhà uống miếng nước rồi tôi giúp anh chút tiền ăn cơm chiều
Gă lạ mặt ngạc nhiên:
- Sao lại phải bước vào nhà, áo quần tôi rách rưới, dơ bẩn.
Người đàn ông nói:
- Tôi chỉ muốn vợ tôi nh́n thấy một người không có thói hư tật xấu nó như thế nào. Vậy thôi!
***
Như ông Tú Vị Xuyên:
“Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ. Rượu chè, trai gái đủ tam khoanh.”
Thế mà ông Tú chẳng ngại miệng đời, ngông nghênh làm thơ nói ra cho thiên hạ biết đời người có tứ khoái: Ăn, ngủ, ấy, ể.
Những cái khoái của ông Tú là:
“Một trà, một rượu, một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được thứ nào hay thứ nấy
Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà.”
Vậy ta hăy tán gẫu về những thứ mà ông Tú là Vị Xuyên vướng phải cho vui:
1- MỘT TRÀ:
Chẳng được bao lâu. Một lần sau buổi cơm chiều, bà vợ đang rửa chén sau nhà th́ nghe chồng gọi: “Bà nó ơi! Vào xơi chè với tôi.”
Trà là thức uống thanh nhă của người Á đông. Trà, tiếng miền Bắc gọi là chè.
Có cặp vợ chồng, chồng Bắc, vợ Nam , cưới nhau
Bà vợ ngạc nhiên la lên: “Mới ăn cơm xong no muốn chết, bụng dạ đâu ăn chè cho nổi.” Ba miền Bắc, Trung , Nam có nhiều tiếng khiến dân ba miền hiểu lầm nhau. Có lần người viết bài nầy đến thăm cô bạn gái người Huế, thuộc dạng hoàng tộc, cũng là người trong giới cầm bút. Vừa mở cổng, có hai con chó chạy ào ra sủa toáng lên làm tôi sợ hăi. Lúc đó, người bạn từ trong nhà chạy ra vừa xua đuổi hai con chó vừa trấn an tôi: “Không răng mô! Không răng mô!” Tôi vừa sợ vừa giận, nói lớn: “Chó nhà em răng chơm chởm thế kia, sao bảo không răng?”
Trở lại chuyện uống trà. Uống trà tinh thần sảng khoái, quên cả mệt nhọc.Trong trà có chất thebaine, giống như chất cafeine có tác dụng giúp cho tỉnh ngủ. Thuở xưa các dân du mục bên Tàu, mỗi lần đi săn hay chinh chiến về, thấy loài ngựa mệt nhọc, thường hay t́m một thứ lá cây để ăn. Ăn xong loài ngựa như khoẻ ra. Loài người thấy vậy bèn lấy lá nấu nước, uống thử, thấy nước có vị hơi đắng và chát nhưng hậu ngọt. Uống vào một lát sau thấy người khoẻ khoắn. Từ đó người ta t́m ra được một thức uống mới và mỗi ngày một cố gắng cải tiến để trà uống được ngon hơn.
Trà uống có nhiều cách. Có người tính t́nh giản dị, đun nước cho sôi, bỏ trà vào b́nh rồi châm nước vào đợi một lúc cho ra trà, rót vào chén lớn uống ừng ực đến đă th́ thôi. Uống như vậy gọi là “ngưu ẩm.”
Có nhiều người cách uống cầu kỳ. Họ không nấu trà bằng nước mưa mà bằng nước giếng khơi ở trên núi hoặc bằng nước suối. Các cụ bảo: “Tuyền dĩ trà vi hữu.” Suối là bạn của trà. C̣n nước giếng th́ phải trong, ngọt và không có phèn.
Bậc vua chúa uống trà c̣n cầu kỳ hơn nữa. Mỗi sáng các cung phi ra vườn, hứng những giọt sương đêm đọng trên lá sen rồi đem đước đun sôi trên cái ḷ than nhỏ. Than phải đốt đến lúc đỏ rực để không c̣n khói mới bắc ấm nước lên. Nước sôi, châm nước vào cái b́nh bằng đất nung màu đồng vỏ cua để tráng ấm. Rồi mới châm nước vào trà. Nước đầu tiên cốt để rửa trà cho sạch, gọi là nước Khất Cái. Kế đó châm nước lần thứ hai, đậy nắp b́nh lại giữ nóng cho ra trà. Nước nầy gọi là nước Hoàng đế. Xong đổ ra chén tống rồi chuyển sang chén quân, mới uống.
Loại b́nh trà tốt có màu như gan gà. Thứ nhứt Thế Đức gan gà, thứ nh́ Lưu Bội thứ ba Mạnh Thần.
Uống trà phải uống thong thả để tận hưởng hương vị trà. Nhiều người chỉ uống một ḿnh vào buổi sáng tinh mơ, vừa uống vừa suy nghĩ chuyện đời.
Uống như vậy gọi là độc ẩm. Nếu có thêm một tri kỷ ngồi uống với ḿnh gọi là đối ẩm.
Trà có nhiều loại không sao biết hết. Loại trà Bạch Mao Hầu, trà Thiết Quan Âm, trà Trảm M. thường thấy ở Việt Nam . Vùng Thái Hồ, huyện Bích La bên Tàu có trà Bích La Xuân nước trà màu xanh biếc, rất thơm có vị đắng nhưng hậu ngọt. Vùng Vân Nam có thứ sơn trà danh tiếng được mệnh danh là Điền Trà, màu vàng sậm. đắt tiền nhất là trà Mạn Đà. Trà nầy chỉ có bậc vua chúa hoặc rất giàu có mới dùng nổi. Ngoài ra c̣n trà Mạn Nguyệt, trà Hồng Trang Tố Lữ, trà Thập Bát Học Sĩ có mười tám bông màu sắc đều khác nhau. Trà Phong Trấn Tam Hiệp có ba bông. Trà Nhị Kiều có hai bông và c̣n nhiều nữa.
Người Tàu và người Việt Nam , không ai không biết uống trà. Miếng trà đậm đà câu chuyện. Có lẽ v́ vậy, mỗi lần khách đến, chủ nhà vội vàng nấu nước pha trà ngay. Có một ông khách đến thăm ngay lúc nhà bà bạn đang sửa ống nước. Ống nước chính dẫn vào nhà bị khoá. Trong nhà không c̣n nước để nấu trà. Bà chủ hoảng quá, chạy vội vào pḥng tắm vét hết số nước c̣n lại trong một cái xô” đem nấu trà đăi khách. Khi khách uống, bỗng thấy ở cổ vương vướng một vật ǵ, cố gắng khạc ra th́ là một sợi lông. Ông khách là người thiếu tế nhị, đưa sợi lông ra hỏi: “Sao trong trà lại có lông?” Bà chủ nhà đỏ mặt, ấp úng đáp: “Thưa, đó là trà Ô Long.” Ông khách thầm nghĩ Ô Long là con rồng đen đâu phải sợi lông đen nhưng ông khách im lặng. Lúc ra về ông ghé qua khắp các tiệm trà trong phố, hỏi xem th́ không có loại trà nào là Ô Lông cả..
C̣n một thứ trà rất rẻ tiền, người nghèo cũng có thể uống được. Hương trà rất thơm ngon, tên là trà Thái Đức. Uống vào thức đái suốt đêm.
II- MỘT RƯỢU:
Rượu chữ nho gọi là tửu. “ Nam vô tửu như kỳ vô phong.” Cờ không gặp gió, lá cờ rũ xuống, xem chẳng oai hùng chút nào đàn ông thiếu rượu, giống như lá cờ rũ, kim đồng hồ thường chỉ sáu giờ, trông phát nản.
Rượu cất bằng gạo nếp, nấu xong, dùng men ủ, vài ngày sau mới đem ra cất. Rượu ngon hay dở c̣n tuỳ vào bí quyết và kinh nghiệm nấu. Rượu là lộc Trời cho.
Bậc vua chúa ngày xưa, đă biết dùng rượu để di dưỡng thiên hạ, dùng vào việc tế Trời, lễ đất, cầu phúc, cầu lợi. Vô tửu bất thành lễ.
Các bậc thánh nhân ngày xưa không ai không uống rượu. Lưu Bang Hán Cao Tổ nhân lúc rượu say, cầm gươm chém rắn bạch, khởi nghĩa, lập nên cơ đồ nhà Hán. Phàn Khoái dự tiệc Hồng Môn Phàn, lấy cao cắt thịt, uống rượu, thi đua múa gươm, mưu đồ đại sự. Khổng Tử lúc hứng uống cả ngàn chung. Tử Lộ uống như hũ ch́m. Lă Bạch càng uống, làm thơ càng hay. Nhiều người không quen mùi rượu, đọc xong thơ của Lă Bạch cũng lăn quay ra say khước. Một lần Kinh Kha rượu đă ngà ngà, uống thêm một chén rượu tiễn đưa, rút gươm chỉ xuống ḍng sông Dịch chửi thề: - Mẹ kiếp! Chuyến nầy không thành công th́ ông đíu thèm qua sông nầy nữa.
Và lần đó Kinh Kha đă hát bài nhạc Pháp “Aller Sans Retour,” mua tấm vé tàu suốt rong chơi miền tiên cảnh.
Người tài hoa phải biết đủ cầm, kỳ, thi, hoạ, nhưng chưa sành sọi về rượu th́ chưa trọn vẹn. Người sành rượu không phải chỉ biết vị, biết hương của rượu mà c̣n phải nhập vào linh hồn của rượu nữa.
Rượu giúp con người thêm can đảm. Nếu không say rượu th́ có cho kẹo, Lưu Bang cũng không khi nào dám chơi dại cầm gươm chém rắn. Chỉ nhờ lúc có rượu làm liều mà dựng nên sự nghiệp. Rượu gây thêm hào hứng cho kẻ anh hùng đàn ông có rượu vào, khí thế oai minh, thái độ hùng dũng như cờ gặp gió, như lân gặp pháo.
Thứ nhất rượu đă ngà ngà,
Thứ nh́ chàng ở phương xa mới về.
Chàng ở phương xa mới về th́ phải biết đá liên tu bất tận nhưng nói nào ngay đá chẳng được bền. C̣n rượu đă ngà ngà th́ không thể chê vào đâu được đá mạnh, đá bền bĩ, đá đến lúc các bà ngả nón chào thua mới thôi.
Lờ rằng lờ chẳng sợ ai
Sợ thằng say rượu ấy dai đau lờ.
Đấy, thằng say rượu nó hung hăng đến như thế. V́ vậy các bà có kinh nghiệm sống lại thích có một ông chồng say.
Thấy chồng đôi ba ngày không uống rượu th́ t́m cách làm thức ăn ngon bày ra trước mắt. Dân nhậu thấy thức ăn ngon th́ chém chết cũng đ̣i rượu mà đ̣i rượu coi như sụp bẫy các bà.
Đốt than nướng cá cho vàng
Lấy tiền mua rượu cho chàng nhậu chơi.
Dân nhậu có tính thảo ăn. Có thức ăn ngon th́ nghĩ ngay đến bạn hiền. Nếu trong ḷng tâm sự đa mang, có được người bạn hiền để chén chú, chén anh, nỉ non tâm sự th́ c̣n ǵ bằng:
Một ly nhâm nhi t́nh bạn
Hai ly uống cạn ḷng sầu
Ba ly mũi chảy tới râu
Bốn ly ngồi đâu gục đó
Năm ly cho chó ăn chè
Sáu ly vợ đè cạo gió.
Giai thoại về rượu rất nhiều, không sao kể xiết. Mỗi quốc gia có vài thứ rượu đặc biệt. Rượu Pháp nổi tiếng nhất thế giới như rượu vang Champagne . Ai cũng biết Champange là loại rượu sủi bọt (Sparkling wine) thường dùng trong các cuộc vui như đám cưới, sinh nhật v...v... Napoléon, Hoàng đế nước Pháp đă nói một câu để đời về rượu Champange:
- Khi thắng trận ta uống Champange để mừng chiến thắng.
- Khi bại trận ta càng cần phải uống Champange để giải sầu.
Nho để làm rượu Champange phải là loại Chardonnay (chát trắng) và loại Pinot noir (chát đỏ) của vùng Bourgonge mới số dzách. Mở Champagne cũng là một nghệ thuật. Mở thế nào cho rượu nổ một tiếng pop khá lớn mà rượu không vọt ra ngoài do áp suất của khí carbonique trong chai. Lan man về Champange đă hơi nhiều, người viết xin nói tiếp về rượu Pháp. Ngoài Champange c̣n rượu khai vị như Cointreau, Grand Marnier, rượu mạnh có Martell, Hennessy, Courvoisier, Remy Martin, thứ nào cũng hết xảy nhưng phải loại XO mới tuyệt cú mèo. Đó là rượu Tây.
Người Tàu coi trọng vấn đề ăn uống. Gặp nhau câu hỏi đầu tiên là: - Lứ chía pừng bị? hay Nị xực phàn m.? hoặc Nị sứ phán mĩ dầu? có nghĩa là Anh ăn cơm chưa? V́ quí trọng miếng ăn nên người Tàu chủ trương miếng ăn, thức uống phải ngon và bổ nên người Tàu nghĩ ra rượu thuốc như: Nhứt dạ lục giao sinh ngũ quỷ. Một đêm lâm trận với sáu bà sinh ra năm thằng quỷ sống, hoặc nhứt long quần ngũ hổ, một con rồng quần với năm chị cọp cái.
Ngoài ra c̣n Mai Quế Lộ, Ngũ Gia B́. Thứ nào cũng cường dương, cũng số dzách.
Nhật bản có Sa-kê. Nga có Vodka, Việt Nam có Whiskyson. Nói lái hai âm ky-song là công xi Rượu công xi Bạc Liêu th́ hết xảy. Rượu đế Phước Long rất nổi tiếng. Chất rượu trong như nước mưa, rót ra, bọt nổi ṿng quanh miệng ly, uống vào nóng muốn cháy cổ. Thở ra nếu ngồi gần vách lá có thể làm cháy nhà như chơi. Ngoài ra c̣n rượu B́nh tây, rượu nếp than. Sau năm 1975 , Việt Cộng mang vào Nam loại rượu cà-phê, rượu chanh, uống như đồ bỏ.
Tôi có một người bạn là Công tử Bạc Liêu, tự pha chế một loại rượu thuốc và đặt tên là Phu ẩm phụ hoà hài tửu. có nghĩa là rượu chồng uống vợ khen. Nếu có văn thi hữu nào viếng nhà Công tử Bạc-liêu, nếm thử vài chung xem đức phu nhân có khen không cho biết.
Rượu ngon, thức nhấm ngon, chỗ ngồi nhậu thoải mái, lại có thêm bạn hiền th́ uống ngàn chung cũng c̣n quá ít.
“Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua là tại không tiền không mua.”
III- MỘT ĐÀN BÀ:
Như trên đă nói, thời tiết có bốn mùa, con người có tứ khoái. Người ta thắc mắc không hiểu tại sao cái khoái thứ ba thường làm người ta điên đảo thần hồn, khốn khổ đến chết lên chết xuống mà vẫn muốn t́m hưởng cho bằng được lại bị xếp vào hàng thứ ba, sau ăn và ngủ? Thật ra cũng chẳng khó khăn ǵ để thắt mắc. Ca dao có câu:
C̣n ăn, c̣n ngủ, c̣n gân,
Hết ăn, hết ngủ, có mần được chi?
Ăn không được, ngủ không được làm ǵ có xí quách mà hưởng cái khoái thứ ba. Ăn không được th́ thác, ngủ không được cũng đi đong. Không hưởng được cái khoái thứ ba tuy có buồn nhưng vẫn sống phây phây, lại không bị đau lưng nhức mỏi. Con người vốn yếu đuối, thường làm nô lệ cho thói quen. Nghiện rượu, nghiện trà muốn bỏ không phải chuyện dễ nhưng theo cụ Tú Xương nghiện rượu, trà ǵ cũng có thể bỏ được, c̣n món đàn bà th́ vô phương: Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà. Thế mới biết món đàn bà khó mà thiếu được.
Trà, rượu là sản phẩm của con người. Đàn bà là tác phẩm của Thượng Đế: Giê-hô-va, Đức Chúa Trời làm cho Adam ngủ mê bèn lấy xương sườn rồi lắp thịt thế vào. Giê-hô-va Đức Chúa Trời dùng xương sườn đă lấy nơi Adam làm nên một người nữ, đưa đến cùng Adam. (Sáng Thế K. 2: 21, 22.)
Từ lúc Adam có thêm bà Eve để đêm đêm đem gà ra chọi chơi cho đỡ buồn th́ bao nhiêu chuyện khốn nạn xảy ra cho Adam và cũng từ đó bọn đàn ông thất điên bát đảo luôn cho tới bây giờ. Thế mà cũng không ai tởn.
Nh́n lại đời xưa, nụ cười của Đắc Kỷ làm sụp đổ nhà Thương, Bao Tự làm tiêu tan nhà Chu , Dương Quí Phi chỉ mỉm cười cũng đủ làm Đường Huyền Tôn són đái đó là chuyện xưa.
C̣n ngày nay, xếp Edward Kennedy cũng v́ nàng Mary Jo mà thân bại danh liệt. Chú nhỏ Gary Hart cũng v́ cái “ lima ” của chị Donna Rice mà tiêu tùng sự nghiệp. Cả đến các bậc tu hành Jim Baker, Oral Robert, Marvin Gorman và Jimmy Swaggart cũng v́ “cái sự đời” mà sự nghiệp tiêu ma. Thế mới biết, cổ nhân ngày xưa đă nói: Sắc bất ba đào dị nịch nhân. Nhan sắc đàn bà không có sóng mà đánh ch́m được con người.
Nhưng cứ đem đàn bà ra tố khổ là điều bất công. Đàn bà cũng trăm thứ đàn bà. Đàn bà của cụ Tú Xương thuộc loại:
“Đàn bà lặn lội bờ sông. Gánh gạo nuôi chồng, tiếng khóc nỉ non” nên Tú Xương không bỏ được, lại c̣n được sống trong chế độ ba nuôi:
Nhỏ cha mẹ nuôi, lớn vợ nuôi, già con nuôi.
“Nhỏ th́ nhờ mẹ nhờ cha,
Lớn lên nhờ vợ về già nhờ con.”
Đàn bà như vậy ngu sao mà bỏ. Cái đau là gặp phải loại đàn bà cột t́m trâu, tối ngày ṃ tới đàn ông, chằn ăn, trăn quấn:
“Chữ trinh đáng giá ngàn vàng
Từ anh chồng cũ đến chàng là năm
C̣n như yêu vụng nhớ thầm
Họp chợ trên bụng có trăm con người.”
Gặp loại đàn bà như vậy mà vẫn không sao bỏ được mới là tai hoạ. Đời sống tị nạn gặp phải cảnh gái thiếu trai thừa, cộng thêm cái hoạ là phong tục xứ người nữ trọng nam khinh. Lộ tŕnh của các ông cứ dần dần đi xuống cực tiểu, trong khi lộ tŕnh của các bà thênh thang như xa lộ không đèn.
Nếu may mắn chớp được một bà dù đẹp, dù xấu, dù hư, dù nên chắc cũng phải khư khư giữ lấy và cũng bắt chước cụ Tú Xương mà ngâm nga:
Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà.
QUÁCH TỐ VƯƠNG
hoanglan22
04-08-2019, 03:40
Nhà hàng khỏa thân ở Paris đóng cửa v́ thiếu khách hàng
Hơn một năm sau khi khai trương, nhà hàng khỏa thân đầu tiên của Paris sẽ chuẩn bị đóng cửa vào tháng 2 do thiếu kinh doanh.
O’Naturel khai trương vào tháng 11 năm 2017 tại thành phố ánh sáng, một minh chứng cho sự phổ biến ngày càng tăng của chủ nghĩa tự nhiên ở Pháp.
Nhưng thật không may, nó đă không chứng minh được sự phổ biến như mong đợi, v́ các chủ nhà hàng vừa công bố ngày cuối cùng sẽ vào tháng tới.
"Thật tiếc nuối khi chúng tôi tuyên bố đóng cửa nhà hàng O'Naturel vào thứ Bảy, ngày 16 tháng 2 năm 2019", chủ nhà hàng 42 tuổi Mike và Stephane Saada, tuyên bố, trên The Local.
"Cảm ơn bạn đă tham gia vào cuộc phiêu lưu này bằng cách đến dùng bữa tại O'Naturel. Chúng tôi sẽ chỉ nhớ những khoảng thời gian tốt đẹp, gặp gỡ những người đẹp và khách hàng đă vui mừng chia sẻ những khoảnh khắc đặc biệt."
Khách sạn 40 chỗ ngồi trong pḥng kiểm tra quần áo trước khi được mang đến bàn của họ. Ở đó, họ có thể dùng bữa với giá cao cấp của Pháp, bao gồm vịt foie gras và escargot, hoàn toàn khỏa thân.
Tuy nhiên, nhân viên phục vụ và nhân viên nhà bếp vẫn mặc quần áo v́ lư do vệ sinh, cùng với bất kỳ thanh thiếu niên nào, phải có người lớn đi kèm.
Michelle Gant - BM
hoanglan22
04-11-2019, 13:13
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1364380&stc=1&d=1554988044
"Chấm dứt chiến tranh không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong, bởi v́ ... cái giá phải trả cho loại ḥa b́nh đó là ngàn năm tăm tối cho các thế hệ về sau." (TT Ronald Reagan)
Cứ mỗi lần 30/4 về trên đất tha phương là mỗi lần ḷng tôi cũng như bao nhiêu người khác ngậm ngùi thương tiếc những năm tháng cũ ở quê nhà.
Những người trẻ chỉ nghe chỉ biết ngày 30/4/75 là ngày đau thương khóc hận của người dân Việt Nam. Nhưng cũng có những người trẻ đă sống với chế độ cộng sản trong những năm qua th́ không mấy quan tâm đến ngày đau thương khóc hận này. Trong lúc đó một số Việt gian hay VC nằm vùng th́ t́m mọi cách xoá bỏ ngày Quốc Hận này theo chỉ thị của đảng csVN.
AI ĐĂ GÂY RA CHIẾN TRANH VN?
Ngày 4/10/1957 Nga sô loan báo sự thành công khi phóng vệ tinh Sputnick lên quỹ đạo, dẫn đầu trong cuộc chạy đua vũ trang với hỏa tiễn Liên lục địa có kéo theo đầu đạn nguyên tử đă làm các nhà chính trị ở Hoa Kỳ và tinh báo Mỹ rất quan tâm. Sự thắng thế của Nga trên kỹ thuật đầu đạn nguyên tử đă làm cho Nga mang ước vọng bá chủ hoàn cầu. Muốn thống lănh toàn cơi thế giới, Nga cần phải kiễm soát hết vùng Đông Nam Á để từ đó Nga đi lần vào Úc thực thi mộng bá chủ Hoàn Cầu.
HCM bây giờ là chủ tịch đảng CSVN tại Bắc Việt. Đồng thời HCM cũng là một tên tay sai của Cộng Sản Nga và lấy chỉ thị của Nga Sô mở chiến tranh tại Nam VN hầu thực thi mộng bá chủ hoàn cầu của Nga.
Người Mỹ biết được vai tṛ tay sai của HCM và dă tâm thôn tính VN và vùng Đông Nam Á của Nga sô nên quyết định đem quân vào bảo vệ Đông Nam Á hầu ngăn cản mộng bá chủ hoàn cầu của Nga theo vết dầu loang.
Toàn dân VN ai ai cũng biết chính HCM đă gây ra cuộc chiến VN, đă biến quê hương VN làm chiến trường trên sự tranh dành ảnh hưởng bá chủ toàn cầu giữa chiến tranh lạnh của Mỹ và Nga Xô.
SỰ ĐỌ SỨC GIỮA NGA SÔ VÀ HOA KY QUA SIÊU KỸ THUẬT VŨ TRANG.
Song song với chiến trường đẫm máu tại VN, chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Nga Sô cũng tăng dần nhiệt độ. Mọi người sống trong bối cảnh chính trị lúc bấy giờ, phần đông đều có dự đoán về sự kết thúc của chiến tranh lạnh sẽ phải trăi qua một cuộc chiến tranh nguyên tử, có thể đưa đến sự diệt vong của nhân loại !
Nhưng không, Hoa Kỳ một mặt hổ trợ chiến trường Nam Việt Nam (Cửa ngơ của Đông Nam Á [ĐNA] ), một mặt phải chạy đua trên siêu kỹ thuật vũ trang để cuối cùng Mỹ đă thắng Nga và Nga đă phải chấp nhận thua mà Mỹ không cần đến một cuộc chiến tranh tàn khốc.
TIỀM THỦY ĐỈNH K129: NGUYÊN NHÂN ĐƯA ĐẾN SỰ THẤT BẠI CỦA NGA SÔ TRONG CUỘC CHIẾN TRANH LẠNH.
Ngày 24-2-1968 (Cái năm này CSVN cho Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân). Chiếc tiềm thủy đỉnh của Nga mang số K129 có mang đầu đạn hoả tiễn nguyên tử, phát xuất từ Hải Sâm Uy (Vladivostok) ở miền cực đông Nga sô, trực chỉ về hướng đông của Thái B́nh Dương. Nhiệm vụ của K129 là phải đạt được mục tiêu, tiến gần đến Mỹ chừng nào tốt chừng đó, nhất là ở Hạ Uy Di để Nga sô có thể uy hiếp Hoa Kỳ bằng hỏa tiễn nguyên tử. Cho dù Hoa Kỳ có muốn bảo vệ hoà binh th́ cũng không dám tấn công Nga. Chiếc tiềm thủy đỉnh nguyên tử K129 có 98 thủy thủ Nga Sô. Khi chiếc tiềm thủy đỉnh K129 của Nga tiến dần vào mục tiêu của Thái B́nh Dương, cả nước Mỹ báo động, t́nh báo Hoa Kỳ báo động. Nhưng trước ḷng biển cả mênh mông Hoa Kỳ có đi t́m chiếc tầu ngầm K129 đă lặn sâu dưới biển cũng lại là một vấn đề.
Biển mênh mông và xa vắng. Lệnh báo động đă được ban hành. Toàn bộ Ngũ Giác Đài và Bộ Tư Lệnh Hoa Kỳ chuẩn bị ứng chiến để tiêu diệt K129. Họ chăm chú vào biển cả theo dơi bất cứ một động tịnh nào.
12 ngày sau khi xuất phát, K129 tiến dần đến cách bờ biển Hoa Kỳ khỏang 1200 dặm về phía Tây Bắc Hạ Uy Di th́ gặp tai nạn.
Một tiếng nỗ làm lũng sườn tàu và chiếc K129 ch́m rất nhanh, đâm thẳng ở độ sâu 4 dặm. V́ ch́m quá nhanh, nên K129 đă không kịp báo động hay kêu cứụ Bộ Tư Lệnh tối cao Nga Sô đă không biết việc ǵ đă xảy ra cho K129. Người Mỹ th́ giữ hoàn toàn im lặng. Im lặng của biển sâu. Họ làm như hoàn toàn không biết chuyện ǵ xảy ra. Trong khi đó Nga Sô không có tin tức rơ ràng về việc K129 đă bị tấn công như thế nào !!!
Nga Sô ṃn mỏi chờ đợi nhiều ngày, nhưng vẫn chỉ là một sự im lặng không hồi âm... Sau đó Nga Sô ra lệnh cho Đô Đốc Nga ông Valentin Betz, chỉ huy một hạm đội gồm 11 chiến hạm nhẹ chạy theo hướng ra đi không trở về của K129. Sau 6 tuần lễ t́m kiếm K129 vẫn biệt vô âm tín. Hạm đội Nga đă trở về tay không. Nga bảo vệ bí mật tầu ngầm và hỏa tiển của họ rất chu đáo. Nhưng trong thâm tâm Nga tin rằng Mỹ đă ra tay, dù Mỹ có làm ra vẽ không biết một điều ǵ... Nga cũng đă thấm thía trọn vẹn sự thất bại của ḿnh. Nga vẫn mang nỗi hoài nghi về Mỹ qua chiếc tiềm thủy đĩnh K129 . Bởi trong chiến tranh lạnh cũng cần nói đến chiến tranh kỹ thuật. Ai nắm được kỹ thuật của ai về vấn đề nguyên tử hay tầu ngầm tức là kẻ đó đă thắng. (The Amazing Story Of K129). Năm 1989 khi Nga thả Tiềm Thủy Đĩnh K129 là để trắc nghiệm thử coi Mỹ có nghiên cứu và nắm vững kỹ thuật nguyên tử tàu ngầm của Nga không? Nga đă vỡ lẽ ra đă thua canh x́ phé ở cuộc chiến VN và K219 đă bị Mỹ theo dơi ngay từ khi xuất phát, Kỹ thuật của Mỹ cũng đă quan sát được những sinh hoạt trong chiếc tầu K219 . Cuốn phim The Hunt For Red October có diễn tả sự kiện này. Gorbachev và Yeltsin đă phải chấp nhận thua Mỹ trong cuộc chiến tranh Lạnh.https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1364381&stc=1&d=1554988044
Mỹ biết chính xác nơi chiếc tàu ngầm K129 bị ch́m, và một khoảng thời gian sau đó đă âm thầm cho tàu trục vớt mang nó về Mỹ để nghiên cứu mọi kỹ thuật về tàu ngầm, về hỏa tiển mang đầu đạn hạt nhân của Nga và toàn bộ mật mă điều khiển các hỏa tiển này
VIỆT NAM CỘNG HOÀ TRONG CANH BẠC GIỮA NGA VÀ MỸ
Đầu tuần tháng 3/1968. Nga thấm thía nỗi mất mát Tiềm Thủy Đĩnh K129 trong khi đó ngày 20/3/1968 Tổng Thổng Johnson cử Đại tướng Wheeler đi thăm chiến trường VN. Ngày 31/2/1968 tổng tấn công tết Mậu Thân của VC hoàn toàn bị tiêu diệt. Quân đội đồng minh Mỹ và VNCH chiếm lại thành phố Huế sau 30 ngày thất thủ. Tuy vậy, TT Johnson đă đọc một bài diễn văn tuyên bố chấm dứt oanh tạc Bắc Việt vô điều kiện. Tổng Thống Johnson kêu gọi Anh Nga can thiệp để mở cuộc hoà đàm nhưng Nga vẫn không chịu. Nga nghĩ rằng Mỹ đă vồ được K129 nên giả vờ hàng ở VN để rănh taỵ
Mỹ đă đọc được sự suy nghĩ của Nga nên đă dàn dựng không biết bao nhiêu chiến thuật như những tài liệu của Ngũ Giác Đài tuyên bố thua phải rút quân. Ưu đăi CSVN rất nhiều điều kiện như việc Đinh Bá Thi và phái đoàn CSVN vào LHQ quan sát... Nga vẫn bán tin, bán nghi về Mỹ nên nhất quyết không cho CSVN ngồi vào bàn Hoà Đàm Ba Lê.
Trong khi Mỹ năn nỉ ỉ ôi Trung Cộng giúp đỡ cho Mỹ thoát khỏi băi sa lầy tại Nam VN. Cũng cùng lúc đó Mỹ đă nhận thức sự chiến đấu anh dũng của quân lực VNCH nên đă dùng thủ đoạn bó tay người lính VNCH trên chiến trường trực diện bằng cách cắt bỏ viện trợ không tiếp tế súng đạn để đồng minh VNCH ra chiến trường bằng những vũ khí xa xưa trong thời đệ nhị thế chiến để đối đầu lại với sức mạnh vũ bảo của những vũ khí tối tân của Nga Sô và Trung Cộng.
Khi người Mỹ đă được ngồi vào bàn Hoà Đàm Ba Lê để rút chân ra khỏi Nam VN trong danh dự th́ họ quên ngay người bạn đồng minh đă từng sánh vai sát cánh bên nhau bảo vệ tự do cho Đông Nam Á.
Ngày kư Hoà Đàm Ba Lê chưa ráo mực th́ VC bất chấp mọi kư kết đem quân xâm lăng Nam VN trước sự phủi tay trắng trợn của Đồng Minh.
Trong những ngày gần đến 30 thang 4 dân chúng miền Trung chạy loạn vào Nam t́m đường trốn VC. Những chiếc ghe bé bỏng ngoài biển khơi Đà Nẳng, những chiếc phà bên bến Sơn Chà là những nơi con dân miền Trung chết thê thảm trên đường trốn chạy.
Từ Đà Nẵng tháng 3 sông nước ngậm ngùi dân chúng t́m đường chạy vào Saigon, Nha trang. Người dân bồng bế nhau t́m đường sống cố thoát ra khỏi mọi tăm tối mà VC sắp vào. VC nhă súng đạn vào người dân. Những con đường mang đầy thân xác người dân Nam VN nằm ngỗn ngang trên đường phố. VC vào, nhà tan cửa nát . Không biết bao nhiêu cảnh thương tâm xảy ra trong một ngày mất nước. Cha mẹ con cái ĺa xa nhau không biết bao giờ gặp lại. Người dân bỏ nước ra đi trên những thuyền bè bé nhỏ cho dù đă biết có ra đi cũng sẽ chết. Biển đêm đêm vọng về lời than khóc ai oán cho những thân xác bỏ ḿnh trong biển sâu. Trời cũng khóc, đất cũng than cho sự tàn ác của VC . Sống và chết chỉ trong đường tơ kẽ tóc. Khăn tang và hương khói ngút ngàn trong ngày mất nước. Cả nước Nam VN khóc, hận, đoạn, ĺa, chia cắt. Một ngày mà cả nước cùng khóc cùng hận trên sự tham tàn của bọn rừng rú răng hô mă tấu giết người. MỘT NGÀY QUỐC HẬN. MỘT NGÀY 30/4/1975.
Đă vậy cũng chưa hết. Khi những người VN tỵ nạn đến Mỹ qua Đạo luật hổ trợ người di cư và tị nạn Đông Dương, được thông qua vào ngày 23 tháng 5 năm 1975, dưới thời Tổng thống Gerald Ford, như là một hành động đền bù đối với sự sụp đổ của Sài G̣n và chấm dứt Chiến tranh Việt Nam. Đợt đầu hơn 700,000 người đă đến tỵ nạn tại Hoa Kỳ sau khi Mỹ bỏ rơi Nam VN, th́ … cũng vào lúc đó người tỵ nạn Việt Nam vào Mỹ bị Đảng Dân Chủ ra tay ngăn chận.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1364382&stc=1&d=1554988044
Thống Đốc Dân Chủ Jerry Brown là người đă chống phá việc Người VN vào Mỹ tỵ nạn. Ông cấm không cho người tỵ nạn Nam VN vào tiểu bang California trong thời gian đầu tiên ông làm Thống Đốc tại đây. Ông ngăn cấm người Việt tỵ nạn vào đây trong khi ông im lặng trước sự xâm nhập của dân Trung Mỹ , Nam Mỹ hay từ Mexico. Trong khi đó Jerry Brown đă ra sức ngăn cản máy bay chở người Việt tỵ nạn xuống căn cứ không quân Travis gần Sacramento.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1364383&stc=1&d=1554988044
Ngoài Jerry Brown c̣n có Thượng Nghị Sĩ Joe Biden đă phàn nàn chính quyền Ford tại sao lại cho dân tỵ nạn VN vào định cư ở Mỹ. Cả hai ông đảng Dân Chủ Jerry Brown và Joe Biden đă từng tuyên bố là : “Một cách tốt hơn hết là để người VN ở lại VN".
Những người trong đảng dân chủ không muốn cho dân tỵ nạn VN vào Mỹ và người Tỵ nạn VN cũng nhớ rất rơ ràng về sự việc này. Hôm nay Joe Biden ra tranh cử vào nhiệm kỳ 2020, liệu ông ta có c̣n nhớ lại hành vi tàn bạo bất nhân của ông ta khi từ chối dân tỵ nạn VN do Mỹ bán đứng cho Cọng Sản giết và cầm tù được vào Mỹ hay không ?
C̣n người Việt Nam Tỵ Nạn cộng sản chắc chắn sẽ không bao giờ quên sự đau thương về nhà tan cửa nát, về sự tráo trở của Đồng Minh và nhất là về sự tủi nhục bị hất hủi từ chối của TNS Joe Biden, Jerry Brown của đảng Dân Chủ./.
Tôn Nữ Hoàng Hoa
hoanglan22
04-19-2019, 04:13
Tôi bị nhốt tám năm trong ngục tù Cộng Sản, được mệnh danh một cách mỹ miều là Trại Cải Tạo. Trong tám năm đó, ngoài sự hành hạ của đám cai tù, chúng tôi c̣n bị thời tiết khắc nghiệt và những con vật và kư sinh đáng ghê sợ hành hạ để bổ túc thêm nỗi đoạn trường cay đắng mà con người trong chốn lao tù này phải chịu đựng, chẳng thua ǵ một con vật.
Trong phạm vi bài này, tôi chỉ tŕnh bày giới hạn một vài khía cạnh 'khôi hài đau ruột' về sự vật lộn, tranh sống giữa người và vật để sinh tồn trong hoàn cảnh đói khát giống nhau. Lẽ tất nhiên con người phải hơn con vật, v́ con người có đủ trí khôn để khống chế, đè bẹp những con vật nào muốn lợi dụng hoàn cảnh ngặt nghèo để uy hiếp, tấn công đối thủ với mục đích tàn phá cơ thể cũng như những ǵ con người sở hửu.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1368180&stc=1&d=1555647153
SỰ VẬT LỘN GIỮA NGƯỜI VÀ RỆP
Trong những ngày tháng đầu tiên, khi bước chân vào trại tù, chúng tôi đă rất khổ cực về thể xác lẫn tinh thần, phần v́ suốt đêm trằn trọc lo nghĩ về thân phận, về gia đ́nh, phần v́ phải đối phó với lũ rệp đông đảo không thể tưởng tượng được. Hằng đêm, chúng tôi đă phải ngồi dậy bắt rệp, bằng cách bóp nát chúng giữa hai ngón tay và đưa lên mũi ngửi mùi máu tanh tưởi của chính ḿnh, như là một hành động phản xạ một cách xót xa của lư trí, khí thấy từng giọt máu của ḿnh bị con vật hút đi, thay vào đó là những mầm mống bệnh tật.
Trong thời kỳ đói kém của những năm đầu sau 75, C.S đă bắt chúng tôi lao động cật lực để tự túc, chứ không hề có một sự giúp đỡ nào từ bên ngoài. Suốt ngày, chúng tôi hết đào hố sắn từ đồi này qua đồi nọ, lại 'nên nuống trồng nang trồng nạc' (lên luống trồng lang trồng lạc), theo một chỉ tiêu của loài vật. Do đó, tối đến là chúng tôi ră rời thân xác, chỉ mong nằm xuống để ch́m ngay vào giấc ngủ mệt nhoài, không c̣n sức lực nào để giết rệp như những ngày đầu mới nhập trại. Thế là, bọn tàu lặn, mặc sức tung hoành, nhậu nhẹt đến căng bụng những giọt máu vốn rất hiếm hoi của những người tù bất hạnh!
Những tên ḅ sát này rất khôn ngoan, cũng như những người lính biệt kích được huấn luyện rất tinh nhuệ. Chúng 'di tản chiến thuật' rất tài t́nh. Khi trời vừa sáng, trước khi tiếng kẻng đánh thức chúng tôi dậy lúc năm giờ, th́ chúng đă kịp 'lặn' sâu vào vào những hang động, nơi địa h́nh hẻm hóc, nằm im chờ đến hôm sau lại ḅ ra 'nhậu' tiếp, chỉ c̣n vài ba tên cố bám, hoặc v́ nhậu no quá không kịp đào thoát, c̣n bám trên mùng mền, nên bị chúng tôi hành quyết tại chỗ.
Chúng tôi biết chắc lũ rệp phải mất một thời gian để len lỏi từ điểm khởi hành đến nơi ăn nhậu. Chúng phải chui qua mùng, lội ngược lên chiếc chiếu, chiếc mền, rồi mới đến cơ thể của chúng tôi. Biết được lộ tŕnh của địch, chúng tôi liền dựng lên chiến luỹ 'Magino' để ngăn bước tiến của quân thù, hoặc ít ra cũng kéo dài thời kỳ tiến quân của chúng cho đến sáng.
Miền Bắc mùa Đông trời rất rét, nên chúng tôi được phát mỗi người một tấm mền dày, cộng thêm của riêng của chúng tôi, gồm một vài tấm mền mỏng hoặc tấm ra, và một số bao cát, dùng làm vật chắn, thế là chúng tôi có đủ vật liệu để xây thành. Những chiếc mền này chỉ để xử dụng ngăn lũ rệp vào mùa hè, c̣n mùa rét th́ dùng để đắp, v́ rệp thường ngủ yên, không hành quân vào mùa này.
Công việc xây chiến luỹ cũng đơn giản thôi. Trước khi nằm xuống, chúng tôi cẩn thận nhét mùng thật sâu dưới chiếu, một cái mền được xếp rộng hơn, phủ lên chiếc chiếu làm tấm bia thứ nh́, chiếc mền thứ hai, rộng hơn nữa, phủ lên chiếc mền thứ nhất...sau hết, chúng tôi dùng những bao cát chận lên những chiếc mền, đến đây xem như chiến luỹ Magino hoàn tất. Kết quả thật không ngờ, chỉ c̣n mười phần trăm quân du kích lọt qua được chiến luỹ của chúng tôi mà thôi! Mà khi chúng vào lọt được rồi, th́ trời cũng sắp sáng, chúng chưa kịp làm ăn ǵ th́ đă bị chúng tôi phát hiện và giết gần sach, v́ chúng thường bám lấm tấm trên mùng, nên rất dễ thấy.
Chúng tôi biết 10% tên này cũng đă phải vất vả, lội suối băng đèo suốt đêm mới tới đích, chắc chúng cũng đă mệt lả rồi! Thật đúng là một sáng kiến, mới nghe qua rất là khó tin, nhưng thật sự chúng tôi đă thành công tốt đẹp. Cái khó đă ló cái khôn, và cái khôn này đă tiết kiệm cho chúng tôi ít nhiều xương máu trong những ngày tháng dài đăng đẳng của kiếp tù đày. Chuyện rệp c̣n dài, nhưng chúng tôi xin tạm ngừng nơi đây, v́ con ruồi đang chờ.
TRÁNH DƠ CHẢ XẤU MẶT NÀO
Ở Hoàng Liên Sơn, trong rừng sâu, có một loại ruồi, mà khứu giác của chúng, có thể nói là nhạy hơn loài chó săn. Chúng có màu nâu đen, nhỏ hơn ruồi xanh một tí, nhưng lại bay nhanh kinh khủng. Tôi mô tả đoạn này hơi khó khăn, v́ phải bàn đến cái thứ mà ai nghe cũng nhăn mặt, bịt mũi. Nếu không được thơm, xin độc giả miễn thứ cho, v́ đây là sự thật.
Khi lao động ngoài đồng, nếu có 'nhu cầu tống xuất' đ̣i hỏi, th́ tù nhân chỉ việc vác cái cuốc đến gặp cán bộ quản giáo (chúng tôi c̣n gọi là cán bộ súng ngắn, tŕnh độ tiểu học, lo về 'bát nháo dục'), hoặc cán bộ quản chế (cán bộ súng dài, lo về việc chế ngự tù vượt ngục), đứng thẳng người hô to: 'Báo cáo cán bộ, tôi đi ngoài'
- 'Được!', tên cán bộ đáp, nghe rất oai phong lẫm liệt!
Thế là người tù ung dung, thụ hưởng cái mà chúng tôi cho là một đặc quyền đặc lợi, không thể bị từ chối, dù lúc đó nhu cầu không đ̣i hỏi. Ai dại ǵ bỏ qua! Tại sao không hưởng thụ mươi mười lăm phút ngồi xả hơi trong bóng mát, không làm ǵ, hoặc làm một việc nhẹ nhàng, mà các 'chú' cho là một trong tứ khoái, thay v́ phải cuốc lia cuốc lịa theo chỉ tiêu, dưới ánh nắng chảy mỡ, và dưới những cặp mắt cú vọ của những tên cai tù ngu dốt và hách dịch.
Nhưng khốn khổ thay, từ khi chúng tôi 'move' đến khu rừng này, th́ một loài không tặc ở đâu bay đến cướp mất cái đặc quyền 'tự khoái' độc nhất của chúng tôi, biến những giây phút thần tiên thành địa ngục! Sự ung dung, thoải mái không c̣n nữa, mà trở thành vội vă và bất đắc dĩ! V́, sau khi 'an toạ' hưởng nhàn một vài phút, để chuẩn bị 'thả bom' xuống cái hố nhỏ mới đào xong, th́ bỗng nghe 'vù' một âm thanh, cùng một luồng gió chướng từ đâu bay đến: một sư đoàn Mig-19 ào ạt tấn công hố bom chúng tôi vừa thả, đồng thời chúng hạ cánh bừa lên chỗ phát xuất những trái bom!
Thế là anh phi công cứ phải nhỏm lên, nhỏm xuống, tay quơ lia lịa v́ nhột nhạt và sợ bị dính bom! Thế th́ c̣n ǵ là khoái lạc, là êm đềm, là thưởng thức, là thoải mái, là v.v...và v.v...? Thà lao động cực nhọc c̣n hơn!
Nhưng, một lần nữa, cái khó ló cái khôn, lại đến với chúng tôi. Để bảo vệ cái đặc lợi Trời cho, chúng tôi dùng một chiến thuật, gọi là 'điệu hổ ly sơn' để đối phó với lũ không tặc mất vệ sinh này: Chúng tôi đào hai hố bom! Các bạn hiểu rồi chứ? Sau khi quả bom cuối cùng được thả ra ở hố bom thứ nhất ( bom 'bo bo' chưa lột vỏ, nên 'đi' rất nhanh), chúng tôi 'di chuyển chiến thuật' qua hố bom thứ hai ngay. Tất cả lũ không tặc đều tập trung ở hố bom thứ nhất, để yên cho người phi công thưởng thức cái 'bất chiến tự nhiên thành' của ḿnh, vừa hút gió vừa nh́n lũ tham ăn một cách khoái chí. Sau điệp vụ thả bom, cây cuốc được dùng đến để lấp cả hai hố bom, khiến một số đông phi đoàn Mig-19 bị vùi thây dưới hố v́ mải lo nhậu nhẹt!
CHUỘT GẶM THỊT NGƯỜI, NGƯỜI NHẬU THỊT CHUỘT
Ngoài việc truyền bệnh dịch hạch ra, chuột c̣n phá phách, ăn vụng không biết bao nhiêu là quà cáp của tù nhân, trong những ngày đầu tiên, khi chúng tôi được nhân quà, sơ sài đựng trong bao nylon hoặc bao giấy.
Hai năm đầu tiên, khi chúng tôi chưa được gởi quà, thăm nuôi, th́ không thấy bóng dáng chuột, chẳng hề bị phá phách quầy rầy ǵ cả, v́ chẳng ai có ǵ để cho chúng phá! Vào mùa Đông, đi vào bất cứ một căn nhà nào ( thường được gọi là láng), vào ban đêm, bạn sẽ có cảm tưởng như đi vào nhà xác vậy. Hai dăy giường dưới và hai dăy giường trên, lối đi ở giữa, gồm toàn những tấm thân trùm mền kín mít, im ĺm, bất động. Cái đói và cái rét cắt da đă biến chúng tôi thành những thây ma, suy tư rất nhiều, nhúc nhích rất ít. Người đói, chuột đói. Người lạnh, chuột lạnh, nên không ai đủ sức hại ai.
Nhưng đến khi những món quà ba kí, rồi mười kí, rồi cả tạ được gởi vào, th́ bầu không khí cả trại tù bỗng sôi động hẳn lên, không c̣n vắng lặng, im ĺm, chết chóc như xưa. Hoàn toàn thay đổi 180 độ. Thuốc lào kêu rét rét cả đêm, đó đây tụm ba tụm bảy, ngồi kể chuyện Tàu, chuyện tiếu lâm, ăn nhậu những thức ăn chế biến rất kỳ quái, nhưng lại ngon đáo để. Thỉnh thoảng lại bỗng vang lên những tiếng cười sảng khoái...Thật là 'có thực th́ cà giựt cà tàng, không thực th́ nằm đực một đống'!
Nhưng đây cũng là lúc lũ chuột ra tay hành động! Những gói quà đầu tiên đều là nạn nhân của chúng, mà từ lâu im ĺm lặng lẽ, nay bỗng vùng dậy một cách mănh liệt, v́ những thức ăn quá hấp dẫn, thơm lừng, bỗng xuất hiện trong một vùng trời nghèo đói, thức ăn hằng ngày chỉ là muối rau, khoai sắn, con người không đủ ăn, đừng nói đến loài chuột!
Không có cách nào bảo vệ an toàn hơn những món quà yêu quư bằng cách là mang chúng vào ngủ chung trong mùng với ḿnh, hoặc làm gối kê đầu, hoặc ôm vào ḷng như ôm 'người t́nh trong mộng' vậy! Chỉ có cách đó mới thoát khỏi lũ chuột tinh quái, đă làm rách nát, vung vải và thất thoát 'nguồn sống' của chúng tôi trong những ngày đầu bất ngờ và chưa kinh nghiệm. Thế mà lũ chuột vẫn chưa chịu thua, chúng chờ đến nửa đêm, ṃ đến bên giường chúng tôi ngủ, khi th́ cắn lộn ngón chân, khi th́ gặm nhầm vành tai, cứ tưởng chúng là những miếng thịt 'dăm bông' hay là 'xúc xích' chưa đóng hộp! Ghê thay cho lũ chuột táo gan! Cũng v́ đói và sự thèm khát con khô con thiều quá mạnh mẽ biến chúng thành những con vật liều mạng, không biết sợ hăi là ǵ!
Tuy nhiên, những gói quà kế tiếp không c̣n đựng trong trong bao b́ nữa, tất cả những thức ăn đều được vô lon hết. Chúng tôi đă báo động cho thân nhân biết để dấy lên phong trào 'lon gô', một thứ lon đựng sữa bột 'guigoz' cho trẻ em, vô cùng thực dụng. Nó vừa nhẹ, vừa bền, rất tiện việc đựng thức ăn và làm nồi để nấu nướng, nóng rất nhanh, v́ chất nhôm dẫn nhiệt rất lẹ. Nhà sản xuất lon 'gô' ở Pháp đâu có ngờ đă cho ra đời một sản phẩm vô cùng quư báu cho đám tù nhân chúng tôi! Xin chân thành cám ơn và hoan hô hăng sữa bột hiệu Guigoz! Những chiếc lon màu trắng bạc xinh xắn, nhẹ nhàng này đă khoá mơm lũ chuột thật sự có hiệu quả, v́ hằng đêm chúng tôi vẫn nghe tiếng sột sột do lũ gặm nhấm cào cắn, nhưng lon gô đủ bền để chống lại những chiếc răng sắc nhọn của lũ chuột.
Khi chúng tôi có đầy đủ gia vị, th́ phong trào bắt chuột lại được dấy lên, thứ nhất để tiêu diệt mầm mống bệnh dịch, thứ hai là ít ra chúng tôi cũng hấp thụ được ít nhiều chất 'protein' để bồi bổ cơ thể đang thiếu hụt chất thịt. Chuột gặm thịt người, người nhậu thịt chuột! Rơ là 'có qua có lại mới toại ḷng nhau!'
SỤC BÙN VỚI ĐỈA
Hai chữ 'sục bùn' có vẽ lạ lẫm đối với người miền Nam, nhưng miền Bắc th́ ai cũng biết, v́ đây là công việc làm tốt cây lúa non, vô cùng lạc hậu và cực nhoc, chỉ có các nước C.S mới áp dụng cho người dân của họ: Khi cây lúa mọc cao khoảng một hai gang tay, gốc cây cần được vun xới và nhổ cỏ xung quanh gốc, thay v́ dùng cào nhỏ để làm công việc này, th́ cai tù lại bắt chúng tôi phải dùng hai tay để bóp nắn và nhổ cỏ từng gốc một, như thể làm 'massage', cho cây lúa được khoẻ mạnh chóng lớn! Muốn làm công việc này, th́ chúng tôi phải sắp hàng ngang, bắt đầu từ bờ ruộng bên này, khom ḿnh xuống, vừa đi tới vừa dùng hai tay, ôm từng gốc cây, cứ thế mà bóp và nhổ cỏ, sang bờ ruộng bên kia, mới được nghỉ một vài phút trước khi tiếp tục công việc hành hạ những tấm lưng c̣m rời ră, mỏi nhừ!
Việc sục bùn đă vất vă lắm rồi, lại cộng thêm nỗi ghê sợ đeo đuổi theo từng bước chân của người tù với những con đỉa to có, nhỏ có, tuôn ra khi nước bùn bị khuấy động, từ chỗ nước trong, từ hẻm hóc, bờ bụi hướng về mục tiêu di động để hút máu no nê, bụng căng phồng. Ngày đầu tiên, có những tù nhân ngại ngùng, ghê sợ, không dám bước xuống ruộng, th́ đă có cán bộ súng ngắn súng dài quát tháo, ép buộc, doạ nạt : 'Này, mấy anh kia! muốn ở đây suốt đời hả? Lao động không tốt th́ đừng mong về sớm nhá!' Thế là, không có cách nào khác, những người tù kia cũng đành nhắm mắt đưa cả chân cả tay cho lũ 'ma cà rồng' dưới nước thoả măn nhu cầu của chúng.
Có anh tù nhân, v́ quá ghê sợ con vật, liền lật đật lấy chiếc quần dài mặc vào, nhưng v́ hơi lính quưnh, đưa cả hai chân vào một ống quần nên mất thăng bằng, té cái ùm xuống ruộng lúa, nước lúp xúp ngang ống chân, khiến các tên cán bộ cười ngặt nghẽo một cách khoái trá. Riêng chúng tôi, khi nh́n hoạt cảnh này, không ai cười nổi, ngược lại trong ḷng cảm thấy một nỗi xót xa, cay đắng và căm hờn. Cách tốt nhất chúng tôi học được, để lôi cổ con đỉa ra khỏi da thịt chúng tôi, là dùng nước miếng nhổ vào bàn tay, bôi vào hai cái ṿi của nó, và giật nó ra, nhờ chất nhờn của nước miếng, con đỉa không c̣n bám được vào da thịt nữa, tuy nhiên, máu đă thấy rỉ ra và con vật vẫn có đủ thời giờ để đánh chén một bụng no sau nhiều lần cố bám. Thật đúng, 'lao động là vinh quang' cho loài đỉa, biến những gốc lúa thành những củ khoai ḿ, bo bo cho tù nhân, và những bát cơm cho giới lănh đạo, v́ chúng tôi làm ǵ mà được ăn thứ xa xỉ này, mặc dù hạt gạo do chính đôi bàn tay chúng tôi làm nên!
Ngoại trừ những con vật đáng ghét như trên đă nêu, tôi chỉ đưa ra một con vật đáng thương nhất trong tù, đó là con trâu. Suốt đời bị đày đoạ làm việc nặng nhọc, nhất là vào mùa lúa, ngoài sự vất vả cày bừa hết ruộng này qua ruộng nọ, lặn hụp dưới bùn lầy, con trâu là một miếng mồi ngon vỗ béo cho lũ kư sinh hút máu. Không có ǵ đáng thương hơn khi nh́n chúng trên bờ ruộng, với dáng điệu hiền lành chịu đưng, trong khi dưới bụng chúng, ḷng tḥng năm ba con đỉa, to bằng ngón tay cái, dài khoảng nửa tấc, gọi là đỉa trâu, mà lần đầu trông thấy, ai cũng muốn nổi gai ốc! Tội nghiệp hơn ở chỗ con trâu đă không hề hay biết, hoặc có biết đi nữa th́ cũng bất lực chịu đựng trước sự tấn công tàn nhẫn của những chiếc ṿi, hút tỉa những giọt máu tươi quư giá nhất trong cơ thể của nó, vốn đă gầy c̣m! Cuối cùng, đau đớn thay, những con trâu này lúc về già, trở thành vô dụng, liền bị đem ra xẻ thịt làm thức ăn cho con người trong những ngày lễ lạc tết nhứt (ngoài Bắc ăn thịt ḅ là một thứ đại xa xỉ, chỉ dành riêng cho giới giàu có hoặc cán bộ cao cấp.
‘SÁNG TAI HỌ ĐIẾC TAI CÀY'
Tuy nhiên, điều tôi muốn nói ở đây, không phải là kiếp đoạ đày của con trâu ( thật ra sống trong ngục tù C.S, con người cũng chẳng khác ǵ con trâu), mà là cái khó đă ló cái khôn ở con trâu, mà con ḅ không có. Người ta nói ngu như ḅ, chứ không ai nói ngu như trâu! Tục ngữ ta có câu 'sáng tai họ, điếc tai cày', có làm việc chung với trâu, tôi mới thấy câu ngụ ngôn này sao mà đúng thê! Này nhé, khi điều khiển trâu để cày hay bừa một thửa ruộng, ta phải biết dùng ngôn ngữ của trâu để hướng dẫn nó đi cho đúng đường. Chẳng hạn như 'tắc' là đi, 'ḥ' là đứng lại.
Một điều mà tôi thấy rất rơ là con trâu khi nghe 'ḥ', th́ nó đứng phắt lại ngay, không đợi đến tiếng thứ hai, nhưng khi nghe 'tắc', th́ phải lập đi lập lại vài ba lần, nó mới chịu đi, nhất là khi mêt, nó đâm ra nghễnh ngăng, như bị lăng tai, phải dùng roi bổ túc cho lời nói, nó mới chịu nghe! Một điều lạ nữa, là khi nghe tiếng kẻng nghỉ giải lao, th́ đố ai bảo nó được, dù bạn có hét lên ầm trời 'tắc...tắc...tắc' để nó cày cho xong nốt một đoạn đường ngắn mấy bước nữa, th́ nó làm như điếc hẳn, không c̣n thính giác nữa! Ngay cả việc dùng roi quất mạnh vào mông, cũng chẳng ăn thua ǵ! Chắc nó cũng muốn hét lên 'give me a break!' nếu nó biết nói tiếng người! Chúng tôi đành chịu thua.
Kết Luận
Đă có nhiều tác giả viết về ngục tù C.S với những khía cạnh khác nhau, ở đây tôi chỉ đề cập một cách bi hài về những con vật đă làm tăng thêm nỗi thống khổ mà người tù đă chịu đựng. Trong hoàn cảnh đó, người tù đă nghĩ ra những biện pháp đơn sơ nhưng không kém hữu hiệu để làm giảm nhẹ bớt nỗi cơ cực hằng ngày.
Cái khó bó cái khôn, nhưng nhiều lúc cái khó cũng ló cái khôn để con người có thể vượt qua mọi trở lực để sinh tồn.
LẠC NHÂN
hoanglan22
04-19-2019, 04:47
Kính chuyển cho Quí Vị đọc để cùng hảnh diện tinh thần cao quí của những anh hùng Biệt Kích và tấm ḷng vàng của các Chị "Vợ Cải Tạo" người miền Nam đối với người miền Bắc sau 1975 !
NTN
******************** **********
“VIỆT CỘNG CON”
NGUYỄN KHẮP NƠI.
Viết theo lời kể của một cô gái người Bắc.
Đương nhiên, tên của tôi không phải là “Việt Cộng Con” rồi.
Và tôi cũng không phải là Việt Cộng, xin bảo đảm một trăm phần trăm.
Tên tôi là Trinh, Trần Thị Ngọc Trinh. Tôi lấy chồng là một người Lính Việt Nam Cộng Ḥa. Con trai tôi tên là Nam, cháu nay đă được năm tuổi rồi. Mỗi lần về thăm nhà, cháu luôn luôn hănh diện khoe với ông bà ngoại:
“Ông ơi, bà ơi, cháu là con của Lính Cộng Ḥa đấy.”
Tức là, tôi không có dính dáng ǵ đến Việt Cộng cả. Vậy th́ tại sao tôi lại có cái tên... “Việt Cộng Con”?
Theo lời bố tôi kể lại, bố mẹ tôi quê quán ở Phú Thọ, sau chuyển về Hà Giang. Đến năm 1979 th́ mới về Hà Nội ở. Lúc đầu, gia đ́nh tôi không có "hộ khẩu", phải sống tạm bợ ở gầm cầu. Hàng ngày, ba mẹ tôi đi ra chợ, bến xe hàng hay là bến xe lửa xuyên Việt đứng chờ công việc làm, ai nhờ việc ǵ th́ làm việc nấy, thông thường là khuân vác, đẩy xe, cưa cây... Kiếm được việc làm không phải dễ, v́ ba mẹ tôi là dân mới tới, thường bị đám người sống lâu năm ở chợ tranh dành đuổi đi đừng ở nơi xa chứ không cho đứng ở gần chợ.
Một hôm, có một đoàn người gồm đa số là đàn bà từ miền Nam vào, nhờ đẩy hàng đi Hà Giang. Hà Giang cách Hà Nội cả trăm cây số, đám đầu nậu không biết địa thế, hơn nữa, v́ Hà Giang gần núi, có nhiều sơn lam chướng khí, nên không ai dám nhận đi hàng, bọn chúng mới gọi bố mẹ tôi đến mà bố thí cho việc làm. Tưởng đi đâu chứ Hà Giang th́ bố mẹ tôi sống ở đó từ nhỏ, biết từng góc rừng, từng con đường ṃn xuyên qua núi. Th́ ra đó là những người vợ, con của Lính Cộng Ḥa bị đi tù cải tạo. Từ Hà Nội đến Hà Giang th́ có xe hàng, nhưng từ Hà Giang tới các trại tù th́ phải gánh hàng đi bộ nhiều ngày mới tới.
Bố mẹ tôi chịu cực khổ đưa những người khách hàng đến tận nơi, chờ họ gặp người thân xong xuôi rồi lại đưa họ trở về ga Hàng Cỏ Hà Nội. Những người này cám ơn bố mẹ tôi và tặng tiền nhiều lắm. Sau chuyến đi đó, bọn đầu nậu đứng bến có vẻ nể nang bố mẹ tôi, không dám dành mối như trước nữa. Thực ra, cũng v́ không có đứa nào biết đường đi nước bước ở Hà Giang và những vùng xa xôi có trại tù cải tạo, nên bố mẹ tôi hầu như được độc quyền đưa đón thân nhân những người tù cải tạo. Những người này vừa tử tế lịch sự, vừa cho tiền thưởng khá, v́ thế, cuộc sống của gia đ́nh tôi mới đỡ vất vả. Nhờ có ít tiền, bố mẹ tôi mới... mua được hộ khẩu ở Hà Nội và cho anh em chúng tôi đi học. Trong thời gian đưa đón những người Miền Nam này, bố mẹ tôi đă được họ tin tưởng, vui vẻ nói chuyện và c̣n chỉ dẫn cách nấu những món ăn ở Miền Nam, như là bánh xèo, bánh phồng tôm, chả gị... Đă có một lần, một nhóm người v́ phải mang theo nhiều hàng, lại già yếu bệnh tật, nên đă nhờ bố mẹ tôi vào Nam để mang hàng từ đó ra ngoài Bắc cho họ. Nhân dịp này, họ đă đưa bố mẹ tôi đi chợ mua những món hàng cần thiết và đăi bố mẹ tôi ăn một bữa no say.
Đến khi những người đi thăm thân nhân tù cải tạo vơi đi dần, bố mẹ tôi liền giải nghệ mà mở một quán ăn nhỏ, chuyên bán những “Món Ngon Miền Nam”. Thời gian đó, bất cứ món hàng nào có xuất xứ "Miền Nam" đều được dân miền Bắc thèm muốn, mua bằng hết, từ cây kim sợi chỉ, nói chi tới những Món Ngon Miền Nam. Cửa hàng của bố mẹ tôi v́ thế mà lúc nào cũng đông khách.
Học xong đại học, tôi xin đi làm cho chính phủ, thời gian rảnh th́ phụ bố mẹ tôi trông coi công việc. Cửa hàng bán những món ăn Miền Nam của bố mẹ tôi càng ngày càng phát triển, không những chỉ bán hàng ăn, bố mẹ tôi c̣n mở công ty, mua nhiều loại hàng ở Miền Nam đem ra Bắc bán nữa.
Trong thời gian làm việc, tôi đă được tiếp xúc với một số bạn bè đi du học trở về, đa số đều nói ngoại ngữ rất khá, và đều vào Sàig̣n làm việc, chứ không chịu ở lại ngoài Bắc, dù rằng Hà Nội mới là thủ đô. Tôi bắt chước bạn bè, xin bố mẹ tôi cho vào Nam làm việc, nhân tiện làm đầu cầu mua hàng trong Nam đem ra Bắc.
Vào tới Sàig̣n rồi, đi làm một thời gian rồi, tôi mới thấy là giữa những người giữ chức vụ cao, được gọi là "lănh đạo cơ quan" mặc dù là học thức kém, tầm mức hiểu biết về việc làm rất là hạn chế, nhưng lại là những người ngồi mát ăn bát vàng, hống hách với dân chúng nhiều nhất. Càng tỏ ra khó khăn, họ càng được hối lộ và lấy đuợc nhiều tiền trong công quỹ. Những người có bằng cấp, biết làm việc và phải tiếp xúc với dân chúng nhiều như chúng tôi th́ lại bị đẩy cho làm việc thật là nhiều. Và cũng v́ sự hống hách quan liêu của cấp trên, mà chúng tôi bị vạ lây, bị dân chúng miền Nam ghét bỏ. Thậm chí, chỉ nh́n thấy chúng tôi, hoặc chỉ cần nghe giọng nói của chúng tôi thôi, họ đă bỏ đi, không quên nói nhỏ với nhau: "Cái đồ Bắc Kỳ... thấy ghét"
Mặc dù những điều kiện mà chúng tôi giải thích, là do cấp trên đ̣i hỏi, chứ chúng tôi không hề muốn làm như vậy.
Một vài lần, tôi được dịp may tiếp xúc với những người ngoại quốc tới làm việc chung với chúng tôi, họ có kiến thức rất cao nhưng lại nói chuyện rất lịch sự. Cũng có những lần tôi được tiếp xúc với vài du khách đến nhờ làm thủ tục, tôi thấy họ nói chuyện cũng thật là ḥa nhă và rất hiểu biết. Tầm mắt và kiến thức của tôi được mở rộng ra, tôi muốn được đi du học để mở mang trí tuệ, và cũng để có thể giúp cho công việc làm ăn của gia đ́nh tôi được phát triển hơn. Tôi đem việc này ra bàn với bố mẹ tôi, cả hai đều đồng ư, nhất là ông bà nội của tôi. Chọn nơi học mới là điều khó khăn hơn cả. Đa số các bạn bè của tôi chọn đi học ở Mỹ (nhất là những đứa có cha mẹ có quốc tịch đảng), tôi lại thấy Úc là xứ sở hiền ḥa có nhiền nét về văn hóa nghệ thuật, nên tôi đă chọn môn học về Tài chánh ở trường Đại Học RMIT (Royal Melbourne Institute of Technology), Melbourne, nước Úc.
Dù là đă có một ít vốn liếng tiếng Anh đă học ở trường học cũng như trường đời, nhưng ngày đầu tiên đến giảng đưởng nghe giảng bài, thú thực là tôi như con vịt nghe sấm, chẳng hiểu ông Giảng viên tóc vàng nói cái ǵ cả, v́ giọng của ông hoàn toàn là giọng Úc, khác xa với những phát âm theo tiếng Mỹ mà tôi đă từng nghe ở Việt Nam. Môn học kế tiếp th́ tôi lại c̣n thua nặng hơn nữa, v́ Giảng viên này gốc ngưởi Ấn Độ, tiếng Anh của ông c̣n pha nhiều âm thanh R R R thật là khó nghe.
Hai năm trời trôi đi thật nhanh, ngoài giờ học, tôi xin đi làm thêm ở những nhà hàng ăn ở đường Victoria, khu vực Richmond. Những nhà hàng này tuy bán món ăn Việt Nam nhưng đa số khách hàng lại là người da trắng, nên nhờ đó mà tiếng Anh của tôi đă khá hơn trước và cách phát âm cũng v́ thế mà đổi hoàn toàn theo giọng Úc.
Cuối cùng, tôi đă học xong cái bằng Master và sửa soạn khăn gói về nước. Bạn bè của tôi đa số xin ở lại Úc làm việc và sinh sống, tôi không có ư định ở lại, chỉ muốn về phụ giúp gia đ́nh mà thôi.
Tôi mua vé máy bay về Sàig̣n trước, nghỉ ở đó một ngày gặp bạn bè rồi mới về Hà Nội ở luôn. Ngồi bên cạnh tôi là một người đàn ông trung niên, ông không bắt chuyện với tôi mà chỉ ngồi im lặng, lâu lâu lại nh́n vào cái hộp sắt gắn kín đang cầm trên tay. Măi khi xuống phi trường Changi để nghỉ hai tiếng, ông mới mở miệng nhờ tôi cầm dùm cái hộp sắt để đứng lên lấy hành lư để trên khoang xuống. Cái hộp tưởng là bằng sắt nhưng lại là hộp bằng nhôm rất nhẹ.
Ngồi trên ghế chờ đợi, ông mới cho tôi biết đó là cái hộp đựng tro của vợ ông. Vợ ông mới qua đời tuần trước, đă được hỏa táng và ông đem về Việt Nam để ở nhà mẹ vợ, theo lời trăn trối của vợ ông trước khi chết.
Tới phi trường Tân Sơn Nhất, ông chào và cám ơn tôi một lần nữa rồi ai về nhà nấy. Tôi không biết tên ông là ǵ và ông cũng chẳng bĩết tôi là ai?
Một năm sau, tôi quay trở lại Úc để dự lễ phát bằng cấp cho đứa em tôi. Đang đi trên đường Victoria, thật là ngạc nhiên, tôi đă gặp lại ông khách đi chung máy bay hồi nào. Ông cho tôi biết đă đem tro tàn của người vợ về xong xuôi rồi, đă đi làm trở lại. Tôi cũng cho ông hay là tôi đă xin được việc làm và đang làm việc ở Sàig̣n, nhân dịp dự lễ phát bằng cấp cho đứa em, tôi xin nghỉ một tháng để đi thăm những thắng cảnh Úc mà trong suốt hai năm đi học tôi không có th́ giờ đi đâu cả. Lần này ông cho tôi số điện thoại và nói nếu tôi muốn đi chơi thăm phong cảnh, ông sẽ xin nghỉ đưa tôi đi cho vui.
Thế là chúng tôi quen nhau. Ông tên Thanh, là Lính Cộng Ḥa, ngày cuối cùng của cuộc chiến, ông là một Chuẩn Úy 18 tuổi mới ra trường, đánh trận đầu tiên và cũng là trận cuối cùng của đời lính. Ông có hai đứa con nhưng chúng nó đi làm ở Tiểu bang khác, lâu lâu mới về thăm nhà, c̣n tôi, tôi ba mươi lăm tuổi rồi, và chưa có ư định ǵ về tương lai cả.
Về lại Sàig̣n, chúng tôi vẫn tiếp tục emails qua lại với nhau. Có một lần ông về Việt Nam thăm tro tàn của vợ và nhân dịp đó đi chơi uống cà phê với tôi. Qua năm sau, tôi muốn trở lại Úc một lần nữa để đi thăm Đảo San Hô ở Queensland, Thanh cũng xin nghỉ để đi chơi cùng với tôi.
Thanh đă ngỏ lời muốn cưới tôi làm vợ. Suy đi nghĩ lại, tôi tuy c̣n độc thân nhưng đă lớn tuổi rồi (so với Thanh th́ tôi c̣n nhỏ lắm), nên đồng ư làm vợ Thanh.
Thanh làm bữa tiệc gia đ́nh để ra mắt tôi với hai đứa con và bạn bè. Hai đứa con của Thanh nói toàn tiếng Anh, tụi nó không có ư kiến ǵ, miễn thấy ba nó vui là được rồi. Lần đầu tiên gặp những người bạn của Thanh, tôi vui miệng kể lại cuộc đi chơi ở Đảo San Hô:
“Thật là... hoành tráng chưa từng thấy. Đi xem đảo xong, chúng em đi phố mua hàng, chỗ nào cũng bán Khuyến măi, thích ghê..”
Cả nhà đang ồn ào, tôi chợt thấy không khí có vẻ im lặng sau khi tôi nói chuyện, những người bạn của Thanh nh́n tôi có vẻ e dè lắm, họ vẫn nói chuyện, nhưng h́nh như không có nói chuyện với tôi. Một bà vợ của người bạnthân của Thanh đă hỏi thẳng tôi:
“Cô là... du học sinh hả? Lấy chồng già để... được ở lại Úc hả?”
Khi vào trong bếp lấy thêm đồ ăn, tôi thoáng nghe một người nào đó nói nhỏ với Thanh:
“Mày lấy... Việt Cộng Con đấy à?”
Tôi nghe Thanh trả lời:
“Đâu phải ai nói giọng Bắc cũng đều là Việt Cộng hết đâu!”
Tiệc cưới của chúng tôi mới là phiền phức, mặc dù chúng tôi chỉ tổ chức đơn giản thôi, nhưng bạn bè của Thanh nhận thiệp mời, họ đều có vẻ ngại ngùng, không muốn tham dự. Thanh nói với tôi:
“Ông Hội trưởng của anh họp cả hội lại để lấy quyết định... có dự tiệc cưới của anh hay không? Họ quyết định... đi với tư cách cá nhân mà thôi, v́ dù sao cũng là bạn bè.”
Tôi ngần ngừ nói với Thanh:
“Anh ơi... nếu thấy khó khăn quá, hay là... ḿnh đừng có lấy nhau nữa... Sao họ lại... kỳ thị với em như vậy? Em nói tiếng Bắc, v́ em sinh đẻ ở ngoài Bắc, chứ em đâu có tội t́nh ǵ đâu?”
Thanh an ủi tôi:
“Em cũng phải hiểu cho họ, họ cũng như anh, đều là những người bị bọn Cộng sản Bắc Việt xâm chiếm đất nước, bắt tù bắt tội sống chết đủ điều. Suốt ngày họ nghe cái giọng Bắc kỳ mạt sát họ, nó thấm vào đầu, nên không thể có cảm t́nh với cái giọng Bắc được. Anh hiểu em, nhưng họ chưa hiểu và chưa thông cảm cho em. Cứ để một thời gian, họ sẽ hiểu em đó mà.”
Tôi sinh đứa con trai đầu ḷng, đặt tên cháu là Nam. Ngày thôi nôi, anh chị nó đến dự, vui vẻ thay phiên ẵm em, đứa con gái út của Thanh ẵm em vừa cười vừa nói:
“My... baby brother”
Những người bạn chúc mừng Thanh... “Đáo Mă Thành Công”.
Khi tôi tháo chiếc dây chuyền hộ mạng của tôi đeo vào cổ cho Nam, một bà ngạc nhiên nh́n sợi giây mà hỏi tôi:
“Cái ǵ vậy?”
“Dây chuyền hộ mạng của em đấy.”
“Đẹp quá nhỉ! Ai khắc mà đẹp quá, h́nh như là hai cái mặt chữ khắc trên gỗ đen th́ phải.”
Chồng tôi biết tôi có sợi dây chuyền này, nhưng coi đó là đồ nữ trang của tôi thôi, nên chẳng để ư đến. Khi thấy ai cũng nh́n vào nó, tôi vui miệng kể lại lai lịch của sợi giây chuyền cho tất cả cùng nghe:
Tôi sinh ra ở Hà Giang. Nói là Hà Giang chỉ để cho có nơi có chốn trên bản đồ mà thôi, chứ thực ra, nơi tôi sinh ra không có tên trên bản đồ miền Bắc. Đó là một nơi ở giữa rừng núi âm u không có vết chân người.
Theo bố tôi kể lại, vào thời năm 1954, khi mọi người dân đều muốn di cư vào Nam, gia đ́nh tôi gồm có ông bà nội, ba mẹ tôi và gia đ́nh của các bác các chú đă gồng gánh từ quê lên Hải Pḥng, để xuống tầu di cư vào Nam. Khi đang ở trên đường th́ gặp một đám người khác cũng nhận là đi di cư và biết có một con đường tắt đi Hải Pḥng rất gần, thế là cả bọn theo chân đám người này. Đến chiều tối th́ có xe hàng tới chở tất cả, nói rằng đi xe cho chóng đến nơi. Xe chở đi tới một vùng rất xa, tài xế cho mọi người xuống mà nói rằng, nghỉ đỡ đêm nay, sáng mai sẽ có xe khác tới chở thẳng đến Hải Pḥng. Ai cũng vui mừng trải chiếu ra ngủ qua đêm. Sáng hôm sau, có xe tới đón thật, nhiều xe lắm, xe nào cũng chở đầy người. Mọi người vui mừng kéo nhau lên xe đi Hải Pḥng. Xe đi cả ngày trời vẫn không tới vùng biển như mọi người mong đợi, trái lại, xe chở mọi người tới một nơi đầy lính canh có súng. Những người lính này chĩa súng bắt tất cả ngồi im không dược hỏi han ǵ cả, họ khiêng từng miếng vải nhà binh tới phủ kín xe rồi bắt đầu chạy suốt đêm. Đến sáng mới tói nơi, cả bọn được đẩy xuống xe để bị chỉa súng bắt đi bộ vào trong rừng. Tới nơi, cán bộ tập họp mọi người lại, kết tội cả nhóm là đă phạm tội phản lại nhân dân, bỏ trốn vào miền Nam, bị đầy vào đây đến bao giờ được cách mạng và nhân dân khoan hồng, sẽ được về với nhân dân.
Đến lúc đó, mọi người mới biết rằng đă bị bọn Cộng sản đưa người ra dụ dỗ đi theo chúng để rồi bị đi đầy vào vùng rừng núi âm u không biết ngày về. Lâu lâu lại có từng đoàn người khác hoặc được xe chở, hoặc bị xiềng xích đi bộ ngang qua để tới những nơi xa xôi hoang vắng khác được gọi là “Cổng Trời”.
Vào khoảng năm 1960, có thêm một nhóm tù nữa được đưa tới Cổng Trời, đám người này thỉnh thoảng được ra ngoài làm rừng, họ tự xưng là “Biệt Kích Miền Nam” được thả ra Bắc để hoạt động, chẳng may bị bắt.
Tôi sinh ra vào năm 1973 ở cái vùng rừng núi âm u, trại tù của những người muốn di cư vào Nam năm 1954 và trải qua thời thơ ấu ở giữa nơi núi rừng trùng điệp không bóng người này. Khi tôi được năm tuổi, một hôm đi theo cha chặt mây, đă bị ngă xuống hố sâu. Bố tôi bất lực nh́n thân xác của tôi mà không có cách nào để cứu. May thay, một nhóm Biệt kích đi ngang, thấy vậy đă tḥng dây đu xuống tận vực xâu mà cứu tôi lên và đưa cả hai bố con tôi về tận nhà. Từ đó, lâu lâu những người Biệt Kích này lại đi ngang vào thăm gia đ́nh tôi. Người Biệt kích cứu tôi nhận tôi làm con nuôi và đă gỡ sợi dây chuyền ông đang đeo để đeo vào cổ tôi mà nói:
“Tặng cho cháu cái bùa hộ mạng đó.”
Ông giải thích cho bố tôi biết, sợi dây chuyền này do ông đẽo gỗ trong rừng mà khắc thành hai chữ BK tức là Biệt Kích. Các chú này đă khuyên bố mẹ tôi nên t́m cách về thành phố mà sống, chứ đừng ở măi nơi rừng hoang cô quạnh này mà bỏ phí cuộc đời của những dám con cháu.
Năm 1979, khi Trung cộng bắt đầu đánh Miền Bắc, những Biệt Kích đă bị đem đi nơi khác, bố mẹ tôi nhớ lời các Biệt Kích mà t́m đường trốn về Hà Nội, v́ thế, tôi mới được đi học và sống cho đến ngày hôm nay.
Khi tôi kể xong câu chuyện, mọi người đều thay nhau cầm lấy sợi dây chuyền của con tôi một cách trân trọng và quư mến. Người bạn mà trước đây gọi tôi là “Việt Cộng Con” là người đầu tiên hỏi tôi:
“Gia đ́nh của chị bị đưa đi... vùng kinh tế mới Cổng Trời đấy à?Chỉ v́ muốn di cư mà bị đầy ải suốt hơn hai mươi năm trời đấy sao? Bọn Việt cộng chúng mày sao mà tàn ác thế! Cám ơn Trời Phật đă phù hộ cho gia đ́nh chị, những người Việt Nam yêu Tự Do, c̣n sống được cho đến ngày hôm nay.”
Tôi mỉm cười nói thêm vào:
“Tôi cảm ơn Trời Phật và cảm ơn Chúa nữa. Ông bà chúng tôi không đi t́m Tự Do vào năm 1954 được, th́ đến đời cháu tức là đời của chúng tôi, chúng tôi đă t́m được Tự Do rồi đấy. Nhờ các anh Biệt Kích Miền Nam mà tôi được cứu sống, nhờ lời khuyên của các anh mà bố mẹ tôi mới dám trốn vùng cải tạo để về được tới Hà Nội. Cũng nhờ những bà mẹ, bà vợ của những người Lính Miền Nam bị tù cải tạo mà bố mẹ tôi mói có cuộc sống đáng sống. Các anh chị thấy không, nhờ t́nh người, nhờ những người Miền Nam mà chúng tôi mới sống đến ngày hôm nay, chứ đâu có bác nào đảng nào cứu giúp chúng tôi đâu? Cũng v́ thế mà dù có ai nói ǵ th́ nói, tôi cũng cứ lấy người Lính Cộng Ḥa mà tôi quư mến.”
Từ hôm đó, tôi thấy tất cả bạn bè của Thanh đă thay đổi thái độ với tôi. Các anh đă gọi tôi là “Chị Thanh” và các bà đă gọi tôi bằng “Trinh” hoặc là “Cô Em Gái Bắc Kỳ”.
Con tôi đă được năm tuổi rồi, cháu đă đi học mẫu giáo, tôi có th́ giờ đi t́m một công việc tạm thời. Tôi t́m đến một văn pḥng Luật Sư của người Việt để xin làm Điện Thoại Viên. Ông Luật Sư phỏng vấn tôi xong, nói với tôi:
“Để chú sắp xếp cho cháu làm hồ sơ nhé, c̣n công việc nghe điện thoại, chú sẽ t́m người khác”
Tôi thông cảm với ông Luật sư, mọi người vẫn c̣n... ác cảm, c̣n... kỳ thị với giọng nói Bắc Kỳ của tôi.
Tôi xin lỗi đă nói như vậy, nhưng thật sự tôi không biết dùng chữ ǵ để nói về hoàn cảnh của tôi.
Chồng tôi đă thông cảm với tôi, anh Thanh đă nói với tôi:
“Người ta nói “Cái áo không làm nên ông thầy tu” Nhưng thực sự cái áo đă làm cho người ta nh́n lầm nguời mặc nó là thầy tu. Em không những nói giọng Bắc, em c̣n dùng những từ ngữ mà cái đám Việt cộng thường dùng, ngay cả những người Miền Nam hay những người Lính Cộng Ḥa mà nói cái giọng đó, cũng bị ghét, nói chi là Bắc Kỳ rặt như em.
Em cứ giữ cái giọng Bắc Kỳ của em, nhưng em đừng... hoành tráng, đừng... bực tức nữa, có được không?”
Tôi suy nghĩ... Đúng! Chồng tôi nói đúng.
Nhập Gia Tùy Tục – Nhập Giang Tùy Khúc.
Tôi đă lấy chồng Lính Cộng Ḥa rồi, mà tôi lúc nào cũng có cái giọng Bắc Kỳ Hai Nút (75, Bắc kỳ chín nút tức là Bắc kỳ 54) th́ ai mà chịu nổi.
Bây giờ, tôi không c̣n... “Xử Lư” nữa, mà tôi phân tích, tôi t́m hiểu từng trường hợp mà giải quyết cho thỏa đáng. Mỗi khi đi ra ngoài đường, nghe tôi nói chuyện, không c̣n ai quay lại nh́n tôi rồi bỏ đi chỗ khác nữa.
Đôi khi, những ông bà bạn của anh Thanh vẫn gọi tôi là “Việt Cộng Con”
Nhưng họ nói chỉ để mà đùa dỡn mà thôi, chứ không c̣n châm chọc như trước nữa.
Riêng phần con tôi, cháu Nam, lúc nào cháu cũng khoe:
“Con là con của “Lính Cộng Ḥa” mà!”
NGƯỜI VIỆT CỦA TÔI, LÀ THẾ ĐẤY.
NGUYỄN KHẮP NƠI.
wonderful
04-24-2019, 23:31
Có một ngôi đền Việt Nam giữa ḷng Paris (ngoại ô Paris th́ đúng hơn...)
Không chỉ độc đáo về kiến trúc, đền kỷ niệm Tử sĩ Đông Dương c̣n là một chứng nhân lịch sử cho mối quan hệ Pháp – Việt.
Đền kỷ niệm Tử sĩ Đông Dương hay Hoài Nam nghĩa sĩ miếu là tên gọi một ngôi đền Việt dựng trong Vườn thuộc địa (Jardin colonial de Nogent-sur-Marne) nằm ngoại ô Paris nước Pháp. Đây là một công tŕnh đặc biệt, được coi là một chứng nhân lịch sử cho mối quan hệ Pháp – Việt.
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1371440&d=1556148889
Lịch sử ngôi đền bắt đầu vào năm 1905, khi quan đẩu tỉnh Thủ Dầu Một là Ernest Outrey đă ra lệnh làm cấp tốc một ngôi nhà bằng gỗ dựa theo kiểu thức của đ́nh Bà Lụa, sau đó chuyên chở bằng tàu đem qua Pháp để tham dự cuộc triển lăm Colonial Exhibition Marseille tổ chức vào năm 1906.
Năm 1907, chính quyền Pháp đem công tŕnh đến triển lăm lần thứ hai trong một khu vườn ở vùng ngoại vi Paris (đường 45bis, đại lộ Belle-Gabrielle, ở Vườn thuộc địa). Ngôi đền nằm tại vị trí này cho đến nay.
Vào thời điểm Thế chiến I kết thúc, người Pháp mới nghĩ đến việc dành một phần trong Vườn thuộc địa để xây dựng những đài tưởng niệm các chiến sĩ xuất thân từ những xứ thuộc địa của Pháp đă hy sinh. Để phản ánh văn hóa của từng dân tộc, người ta cho xây dựng các đền đài tưởng niệm mang phong cách kiến trúc đặc trưng truyền thống của các dân tộc đó.
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1371442&d=1556148914
Ngôi nhà đ́nh phục vụ triển lăm của xứ Nam Kỳ đă được người Pháp tận dụng làm ngôi đền tưởng niệm hơn 1.500 người lính Việt Nam tử trận v́ nước Pháp.
Vào ngày 9/6/1920, lễ khánh thành ngôi đền được tổ chức trang trọng với sự tham dự của nhiều quan chức cao cấp Pháp như Albert Sarraut, thống chế Joffre, Alexandre và Đặng Ngọc Oanh – viên quan đại diện cho Hoàng Đế Việt Nam. Ngoài ra c̣n có các cựu chiến binh Việt, Pháp đang sinh sống tại Pháp.
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1371443&d=1556148930
Trước đó, người ta cho phục hồi lại bàn thờ và các vật dụng trang trí được thực hiện bởi chính các nghệ nhân người Việt trong Nam ngoài Bắc: gốm Cây Mai trong Nam, những tấm biển sơn mài ngoài Bắc, một chiếc lư đồng như phiên bản của cửu đỉnh tại cung thành Huế. Các lễ vật cúng bái như nhang đèn, pháo, trống, chiêng…cũng được chuyên chở gấp rút từ Việt Nam qua.
Từ lúc đó, ngôi đền trở thành điểm tham quan lễ bái cho những người Việt Nam có dịp đến Pháp. Vị thượng khách quan trọng bậc nhất trong số này chính là nhà vua của An Nam. Vào ngày thứ hai, 26/6/1922, vua Khải Định (vị vua Việt Nam đầu tiên công du sang Pháp) với con trai là hoàng tử Bảo Đại, cùng quan Thượng thư Thuộc địa Albert Sarraut đến thăm ngôi đền.
Thế chiến II xảy ra, có thêm khoảng 1.400 binh lính người Việt chết cho nước Pháp. Chính quyền Pháp cho dựng thêm tấm bảng trong ngôi đền để ghi danh họ.
Thế chiến vừa kết thúc, Pháp lại sa lầy vào cuộc chiến 9 năm với Việt Nam, kết thúc bằng thảm bại ở Điện Biên Phủ. Tên của những người Việt ngă xuống trong hàng ngũ quân Pháp lại được bổ sung tại ngôi đền.
Có thể nói, đền kỷ niệm Tử sĩ Đông Dương luôn gắn liền với các sự kiện lịch sử quan trọng của Pháp và Việt Nam.
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1371446&d=1556148982
Đến ngày 21/4/1984, một trận hỏa hoạn đă thiêu rụi ngôi đền. Trên nền cũ, chỉ c̣n lại lối đi tam cấp có tạc h́nh rồng bằng đá. Năm 1992, người ta cho xây một kiến trúc mới đơn sơ, nhỏ hơn trước…
wonderful
04-26-2019, 00:38
ĐẤT NƯỚC TA CÓ 7 LOẠI NGƯỜI.
1 – Loại thứ nhất: Họ bảo thủ đi theo một lối ṃn của một con đường vô định hướng, nhưng họ quyết tâm đi cho bằng được và lái tất cả đi theo con đường đó! Mặc dù phía cuối con đường là chông gai và sụp đổ họ vẫn cứ đi. Loại người này ta gọi là “ngu mà c̣n tỏ ra nguy hiểm”!
2- Loại thứ hai: Họ luồn cúi và nịnh bợ liếm láp mọi thứ và sẵn sàng làm nô lệ cho loại thứ nhất! Loại người này là loại vô liêm sỉ họ đă đổi sự nhục nhă để lấy miếng cơm ăn!
3- Loại thứ ba: Họ không quan tâm đến mọi thứ xung quanh, họ thờ ơ với tất cả, và họ chỉ cần biết lo cho bản thân ḿnh! Loại người này là loại vô hồn, vô cảm, vô tâm!
4- Loại thứ tư: Họ tàn nhẫn cướp của giết người, ăn cắp ăn trộm, đĩ điếm, giả dối, lừa lọc, sống bầy đàn độc ác và man rợ! Loại người này là giống vô loài!
5- Loại thứ năm: Họ biết đúng sai nhưng miệng họ luôn ngậm một hạt thị và không bao giờ dám mở mồm! Loại người này ta gọi là đồ hèn nhát!
6- Loại thứ sáu: Họ bị cuồng tín bởi những lư luận duyên, nghiệp, họ không đấu tranh và chấp nhận bị áp bức! Loại người này thật đáng thương và đáng yêu !
7- Loại thứ bảy: Họ sống có trách nhiệm, ngay thẳng, ṣng phẳng và công bằng, họ dám nói lên chính kiến của ḿnh, họ mong muốn xă hội tiến lên tốt đẹp, nhưng do 6 loại kia đông quá nên họ khó có thể thay đổi tư duy của giống người Việt Nam!
Cho nên gọi là đất nước “thất nhân” thế mới sinh ra thất đức, thất tín, nói một đường làm một nẻo! Chúng ta cần loại người thứ 7 phát triển thật nhiều để lấn át 6 loại c̣n lại. Những ai đang là một trong sáu loại kia nên vắt tay lên trán suy nghĩ để làm sao cho con cháu giống ṇi Việt Nam trong tương lai đừng hèn như những ǵ chúng ta đă và đang làm!
Nói thật mất ḷng cũng được! Nhưng nó sẽ làm cho người ta khôn từ từ
Thầy Lương Ngọc Huỳnh
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1372040&d=1556239247
hoanglan22
05-04-2019, 13:50
Một lần nữa, ngày kỷ niệm biến cố lịch sử 30 tháng 4 lại sắp đến. Kính mời các bạn xem vài bài thơ dưới đây của học giả Thái Bá Tân rất phù hợp với biến cố này để biết Sài G̣n đă được giải phóng, hay chính Sài G̣n đă giải phóng đoàn quân và người dân Bắc Việt?
Bài thứ hai nói về hậu quả của cuộc cách mạnh vô sản. Bài thứ ba nói về chuyện cải tạo các sĩ quan của QLVNCH. Bài thứ tư viết cho các thuyền nhân đă vượt biên để lánh nạn cộng sản. Và bài thứ năm kể lại câu chuyện rùng rợn gây ra bởi Bên Thắng Cuộc.
Học giả Thái Bá Tân, sinh quán ở Nghệ An, được gửi đi du học ở Moscow trong thời kỳ thập niên 60-70. Sau khi trở về, Ông sinh sống ở Hà Nội bằng nghề dạy học, viết văn, dịch sách, và làm thơ. Những bài thơ 5 chữ của ông mang nhiều tính chất nâng cao dân trí rất hay và rất thâm đến tận tim can.
Mỗi bài thơ của Ông đều mang theo một thông điệp để gửi cho một số đối tượng, với lời lẽ nhẹ nhàng nhưng rất thâm thuư.
***********
SÀI G̉N GIẢI PHÓNG
Thái Bá Tân, March 2019
Ta, đoàn quân Bắc Việt,
Như thác lũ phăng phăng,
Từ rừng rú miền núi
Tiến thẳng về đồng bằng.
Bao nhiêu năm mơ ước
Ngày giải phóng Sài G̣n
Khỏi Mỹ Ngụy áp bức,
Cặn bă và du côn.
Hừng hực lửa cách mạng,
Với lư tưởng chói ngời,
Ta hăng hái giải phóng,
Nhưng bất chợt, lặng người.
Cái ta muốn giải phóng,
Tưởng thấp hèn, xấu xa,
Giờ tận mắt thấy nó
Đẳng cấp cao hơn ta.
Một cảm giác đau buốt
Thường nhức nhối về đêm.
Ta, những người thắng cuộc,
Tự nhiên thấy yếu mềm.
Và rồi ta tự hỏi,
Ta, xẻ dọc núi non,
Được Sài G̣n giải phóng,
Hay giải phóng Sài G̣n?
******************** ********************
CÁCH MẠNG
Thái Bá Tân, March 2019
Mục đích của cách mạng
Vô sản và công nông
Là thông qua bạo lực
Biến của tư thành công.
Khi cách mạng thắng lợi,
Nhanh chóng hoặc từ từ,
Các quan chức cộng sản
Biến của công thành tư.
Cộng sản gây đau khổ
Cho hàng triệu, triệu người
Rốt cục để mang lợi
Cho một số ít người.
*
Một sự thật chua xót -
Các vấn đề của ta,
Cách này hay cách nọ,
Từ cộng sản mà ra.
******************** **
CẢI TẠO
Thái Bá Tân, April 2019
Khi chiến tranh kết thúc,
Bên thắng cuộc, bên ta,
Bắt, đưa đi cải tạo
Các sĩ quan Cộng Ḥa.
Mà diện cải tạo ấy
Nhiều lắm, nhiều vạn người.
Thời gian phải cải tạo
Đến cả chục năm trời.
Cải tạo nhằm bắt họ
Từ bỏ cái văn minh
Để đi theo cộng sản
Vĩ đại và quang vinh.
Vậy là các tướng tá,
Hàng ngày phải ngồi nghe
Mấy anh lính mông muội
Vừa mới ở rừng về.
Nghe, rồi viết “thu hoạch”
Về Mác và Lê-nin,
Để “cảm hóa”, “tiến bộ”
Và thay đổi niềm tin.
Một, niềm tin chính trị,
Khi đă chui vào đầu
Th́ không thể thay đổi,
Dù cố gắng đến đâu.
Hai, người bị cải tạo
Phần nhiều học thức cao,
Người cải tạo rừng rú
Th́ cải tạo thế nào?
Ba, ḿnh đang đói khổ,
Nuôi không nhiều vạn người
Th́ tiền đâu cho lại,
Hơn thế, nhiều năm trời?
Bốn, việc cải tạo ấy
Càng khoét sâu thù hằn,
Không giúp tái ḥa giải,
Là cái vốn rất cần...
*
Một việc làm ngu ngốc,
Khiến nhiều người chết oan.
Cộng sản luôn ngu ngốc.
Điều ấy khỏi phải bàn.
Hậu quả việc ngu ấy
C̣n đến tận ngày nay.
Phải nói, chỉ cộng sản
Mới nghĩ được tṛ này.
PS
Thương, cả một thế hệ
Con tướng tá Cộng Ḥa
Bị phân biệt đối xử.
Có đâu như xứ ta?
******************** *
ĐĂ ĐẾN LÚC
Thái Bá Tân, April 2019
Tặng hương hồn những đồng bào
bỏ mạng trên con đường t́m tự do.
Cũng phải có ai đấy
Chịu trách nhiệm chuyện này.
Chuyện thuyền nhân di tản
Mấy mươi năm trước đây?
Thường chiến tranh, loạn lạc
Mới bỏ nhà ra đi.
Tại sao ta, “giải phóng”,
Hàng triệu người ra đi?
Ra đi bằng mọi giá,
Mọi lúc và mọi nơi.
Hàng chục vạn người chết,
Bỏ ḿnh giữa biển khơi.
Một bi kịch vĩ đại.
Một nỗi đau tột cùng.
Nạn nhân một chế độ
“Vinh quang và anh hùng”.
Một tội ác rùng rợn,
Không phải do chiến tranh,
Mà tội ác diệt chủng
Của một thời ḥa b́nh.
Đă đến lúc lịch sử
Phải phán xét chuyện này.
Chuyện thuyền nhân di tản
Mấy mươi năm trước đây.
******************** ******
RÙNG RỢN
Thái Bá Tân, April 16, 2019
Rùng rợn, lính Hàn Quốc
Giết đồng bào Quảng Nam.
Càng rùng rợn, lính Mỹ
Rải chất độc da cam.
Nhưng Mỹ và Hàn Quốc
Đến tạ lỗi, xin tha.
Th́ dẫu rùng rợn thật,
Người Việt Nam đă tha.
Nhưng rùng rợn hơn cả -
Nghe nói giải phóng quân,
Những người lính cách mạng,
Cũng đă từng giết dân.
Mà giết nhiều, chủ ư.
Giết chính đồng bào ḿnh.
Không một lời xin lỗi,
Cứ bịt tai lặng thinh.
Những nỗi đau oan trái,
Những tội ác ghê người
Rồi sẽ được hóa giải,
V́ luôn luôn có trời.
*
Anh có thể lừa dối
Một trăm, một ngh́n người.
Nhưng không thể lừa dối
Cả chín mươi triệu người.
Anh có thể che dấu
Một năm, hai mươi năm.
Nhưng không thể che dấu
Một trăm, hai trăm năm.
Thậm chí anh có thể
Tắt nến, kéo hết rèm
Để ngôi nhà anh sống
Luôn ch́m trong bóng đêm.
Nhưng tiếc, anh không thể
Giơ tay che mặt trời.
Mặt trời mọc, soi rơ
Mặt quỉ và mặt người.
Không có ǵ vĩnh cửu.
Chế độ lại càng không.
Cái ǵ đến sẽ đến.
Đừng trốn mà mất công.
———
30 THÁNG TƯ, 1975
Thái Bá Tân, Apr. 19, 2019
Bộ đội Miền Bắc chết
Một triệu một trăm ngh́n.
Số lính Miền Nam chết -
Hai trăm tám hai ngh́n.
V́ chiến tranh, dân chết -
Trên dưới hai triệu người.
Lính Miền Nam cải tạo,
Ngồi tù - một triệu người.
Trong số một triệu ấy,
Một trăm sáu lăm ngh́n
Chết v́ đói, lao lực,
V́ không c̣n niềm tin.
Trốn chạy khỏi cộng sản -
Hơn một triệu rưỡi người.
Hai trăm ngh́n đă chết,
Bỏ xác ngoài biển khơi.
Từ đấy, dẫu đất nước
Hết chiến sự, b́nh yên,
Chín mươi triệu người Việt
Mất tự do, nhân quyền.
Vậy xin hỏi các vị:
Ngày ấy là ngày ǵ?
Vui mừng và kỷ niệm?
Nhưng vui mừng cái ǵ?
TBT
hoanglan22
05-06-2019, 02:40
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1377857&stc=1&d=1557110394
Đă 44 năm trôi qua kể từ sau ngày 30 tháng 4, 1975, cộng sản Hà Nội tiến chiếm miền Nam, và đặt sự cai trị độc tài man rợ của ḿnh trên toàn cơi Việt Nam. Ngày nay đất nước này có những ǵ? Có đạt được như lời mị dân của Hồ Chí Minh năm 1969 “Xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”? Và trong niềm tin mơ hồ đó, hàng triệu người dân miền Bắc đă tham gia cuộc chiến huynh đệ tương tàn.
Trước 1975, miền Nam Việt Nam là một Quốc gia dân chủ, thịnh vượng đến nỗi mà nhiều nhà lănh đạo của thế giới phải trầm trồ thán phục và ao ước đất nước của họ cũng được phát triển như vậy. Ông Lư Quang Diệu, Tổng thống Singapore từng ví von Sài G̣n như Ḥn Ngọc Viễn Đông. Nhiều người dân xứ Hàn, Thái Lan, Philippines phải sang Việt Nam làm thuê vào thời đó.
Ngày nay, sau 44 năm đổi đời từ ngày 30 tháng 4, nh́n vào trật tự xă hội đang diễn ra trong đất nước Việt Nam, ta thấy có một sự mâu thuẫn vô cùng lớn lao giữa lời nói, ư chí và hành động của người cộng sản. Đó là những ǵ?
Việt Nam có một nền kinh tế đi xin viện trợ, đi vay vốn ODA của nước ngoài và khai thác, bán sạch tài nguyên khoáng sản từ trên rừng cho đến ngoài biển khơi. Mặt khác, hệ thống kinh tế Việt Nam bị dẫn dắt, điều khiển bởi các tập đoàn lợi ích nhóm do các phe phái trong nội bộ đảng cộng sản thao túng. Thế nên, người cộng sản dễ dàng tham nhũng với những khối tài sản khổng lồ của quốc gia một cách vô tội vạ.
Kết quả th́ người dân phải lănh nhận hậu quả, nợ công tăng cao. Số liệu cũ của Bộ Tài chính cho biết vào ngày 17 tháng 8 năm 2017 th́ “Mỗi người dân Việt Nam phải gánh 35 triệu đồng nợ công quốc gia v́ các dự án thua lỗ, và hàng loạt các dự án vay vốn ODA bị điều chỉnh tổng mức đầu tư so với ban đầu”.
Nhiều người đưa ra lư do biện minh cho đất nước vẫn c̣n nghèo như “mới trải qua chiến tranh… gần nửa thế kỷ”, hay Việt Nam cũng có khá lên nhờ kinh tế thị trường với đầu tư ngoại quốc gia tăng. Tuy nhiên, chúng ta đă tụt hậu so với Thái Lan, Hàn Quốc, Singapore… từ vài chục năm cho đến cả một thế kỷ.
Dường như những năm gần đây là giai đoạn bùng phát của căn bệnh không thuốc chữa trong hệ thống Giáo dục mà nó đă âm ỉ hàng mấy thập kỷ qua. Bạo lực học đường mỗi ngày gia tăng và trầm kha hơn. Những cảnh nam, nữ học sinh đánh đập hội đồng, thậm chí chém giết lẫn nhau hết sức đau ḷng tái diễn khắp hang cùng ngơ ngách.
Diễn biến một xă hội đảo điên được tŕnh diễn với nạn mua bán bằng cấp, đổi t́nh lấy điểm, lạm dụng t́nh dục, chạy chức chạy quyền lan tràn mọi miền đất nước. Sinh viên sau khi được đào tạo đại học th́ làm cu ly hay đi làm công nhân, hoặc chạy ra nước ngoài t́m cơ hội mới.
Chưa có thời đại nào rực rỡ hơn dưới triều đại của cộng sản khi người dân xứ ḿnh phải lũ lượt đi làm cu ly nơi xứ người. Hàng trăm ngàn người phụ nữ chấp nhận như một món hàng trao đổi để được làm vợ ngoại quốc, và xót xa hơn nữa có hàng ngàn phụ nữ t́m kiếm cuộc sống tốt hơn bằng nghề bán thân trên khắp thế giới.
Thực trạng đau ḷng của hệ thống y tế tại Việt Nam hiện nay đều quá tải, chất lượng khám chữa bệnh rất thấp. Mối quan hệ giữa y bác sĩ và bệnh nhân nằm trong trạng thái căng thẳng, đó là chưa nói đến vấn đề đầu tiên – tiền đâu. Nếu người bệnh không có tiền th́ sự thờ ơ, vô cảm thấy rơ nơi bệnh viện. Ngày hôm nay ung thư trở thành căn bệnh mang tầm mức quốc gia, giết chết hàng chục ngàn người mỗi năm.
Thật ra, niềm tin vào cộng sản đă từng bước bị mất mát, hụt hơi ngay trong ḷng những người lính Bắc Việt khi tràn vô Sài G̣n. “Thật sai lầm khi giải phóng miền Nam” có lẽ là câu nói được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong không chỉ trong quân lính mà ngay cả lănh đạo cộng sản.
Nhiều câu chuyện truyền tai hay trong hồi kư của họ viết đại ư như thế này “Sai lầm lớn nhất của miền Bắc chúng tôi là đi giải phóng miền Nam. Bởi sau cái ngày 30/4 có quá nhiều những thay đổi ngoài dự kiến của chúng tôi đă xảy ra tại miền Bắc. Bởi khi đoàn quân miền Bắc kéo về mang theo lỉnh kỉnh toàn hàng tiêu dùng của miền Nam làm dân Bắc chúng tôi sững sờ”.
Thực tế, đảng cộng sản đă hoàn toàn bị mất niềm tin từ nhân dân ngày càng rơ nét. Tùy từng mức độ khác nhau, từ mất niềm tin tuyệt đối này th́ có nhiều bộ phận người khác nhau có thái độ chán ghét chế độ, thậm chí chế độ trở thành mối thù của nhiều tầng lớp dân oan. Hoặc muốn thay đổi chế độ như các thành phần trí thức cộng sản, sinh viên, công nhân, nông dân.
Niềm tin của nhân dân là bệ vững chắc cho mọi chế độ tồn tại, ngược lại khi niềm tin đă hết th́ sự sụp đổ ắt sẽ đến dù chế độ đó có dùng nhà tù, súng đạn, đàn áp để chống đỡ, để tồn tại.
Portland 28/4/2019
Paulus Lê Sơn
hoanglan22
05-06-2019, 13:42
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1378207&stc=1&d=1557150098
Người Việt rời bỏ quê hương - Ảnh: YouTube
Đối với những thế hệ lớn lên ở miền Bắc sau năm 1975 cho đến nay th́ lá cờ vàng hay chính nghĩa quốc gia là những khái niệm đầy xa lạ, thậm chí bị hiểu sai, bôi nhọ rất nhiều.
Tiếp xúc với VNCH là một may mắn
Tôi sinh ra ở miền Bắc sau khi chiến tranh đă kết thúc, người thân trực hệ cũng không có ai đi tù cải tạo nên suốt những năm tháng ấu thơ, Chiến tranh Việt Nam cũng như những người ở bên kia chiến tuyến là khái niệm rất mờ nhạt.
Thời bấy giờ, chỉ được nghe người lớn kể rằng gia đ́nh vẫn c̣n mấy ông, bà nữa đang định cư ở Mỹ.
Thời tiểu học, khi thấy tôi háo hức v́ sắp được nghỉ học dịp 30/4, mẹ nhẹ nhàng nói: “Con không nên ăn mừng ngày 30/4. Có biết bao con người khổ đau, họ phải treo cờ rủ, mặc áo tang trong ngày đó đấy”.
Đối với đứa trẻ miền Bắc khi ấy mới 9-10 tuổi, câu nhắc nhở của mẹ để lại trong tôi nỗi nghi vấn trong nhiều năm sau này, v́ trót được dạy rằng 30/4 là ngày “thắng Mỹ.
Một cách khách quan, vào thời đi học, tôi không thấy “Mỹ-Ngụy” là xấu, chỉ thấy nó là cái ǵ đó mơ hồ, xa xôi.
Cho đến khi hiểu được sơ lược về VNCH, tôi mới thấy hóa ra VNCH thực gần gũi, chính là những người máu mủ mà giờ đây bị chia cắt bởi hai bờ đại dương.
Từ sau 1995 tôi đă dần dần được gặp một số người thân từ Mỹ về. Thời gian đầu, giữa tôi và họ cũng không có ǵ đậm đà v́ sự không hiểu nhau, mà chắc nhiều người tị nạn khi về thăm quê hương cũng gặp t́nh trạng tương tự.
Sau này câu chuyện có nhiều tiến triển đáng kể do kiến thức của tôi về phía ‘quốc gia’.
Nhờ vào quan hệ người thân, tôi đă được tiếp xúc với Tiến sĩ Phạm Đỗ Chí, bà quả phụ của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, ca sĩ Minh Phúc (lúc đang viết bài này th́ được tin ông vừa qua đời) và một người cháu nội của cụ Trần Văn Hương đang định cư ở châu Âu.
Tôi cũng từng được Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng và Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại tặng sách, đó vừa là vinh dự cho người trí thức trong nước, cũng là may mắn hiếm hoi của một người trẻ lớn lên ở miền Bắc.
Tôi xem đó là cơ duyên may mắn của ḿnh. V́ với một đứa trẻ miền Bắc lớn lên cùng với hằng hà sa số huân, huy chương chống Mỹ của ông nội, ông ngoại, đó là cơ hội quá hiếm hoi để mở mang đầu óc, xua tan áng sương mù đă án ngữ trong năo trạng của người miền Bắc (sau 1954).
Tôi vẫn c̣n nhớ hai đêm thức trắng đọc cuốn Khi Đồng Minh Tháo Chạy của tác giả Nguyễn Tiến Hưng – cuốn sách mà trang của BBC có giới thiệu.
Đọc xong th́ vừa trăn trở, vừa xót thương cho số mệnh của dân tộc.
Ngoại lệ hiếm hoi
Nhưng tôi có thể xem là một ngoại lệ hiếm hoi của thế hệ sống tại miền Bắc ngày nay.
Tôi đă tiếp xúc với nhiều người, ngay cả với nhiều tầng lớp người ta vẫn gọi là trí thức. Với những người tử tế, hầu hết trong số họ có mục tiêu lớn nhất là nuôi sống gia đ́nh, c̣n lớn hơn nữa là nuôi hoài mộng trở thành đại gia, nhưng số người giàu có ư thức làm từ thiện, tác động tích cực ngược trở lại với xă hội không nhiều, chứ chưa nói đến việc xoay chuyển giang sơn.
Cũng không nên nhầm lẫn những người đấu tranh hiện nay là người quốc gia. Tôi c̣n nhớ có một vị tù nhân lương tâm khi mới sang Mỹ, ngồi họp báo với đồng bào ở Cali nhưng vẫn gọi VNCH là tội đồ của dân tộc v́ chống lại sự thống nhất đất nước.
Chuyện đó không quá lạ lẫm với những người lớn lên ở miền Bắc, v́ từ khi mở mắt chào đời họ (thậm chí bậc phụ huynh của họ) đă chỉ biết có lá cờ đỏ sao vàng là lá cờ duy nhất.
Di sản lớn nhất của VNCH là tri thức, hăy gắng truyền đạt nó về nước.
Tùy vào góc độ nh́n nhận của mỗi người, VNCH có những ảnh hưởng riêng với đời sống trong nước như âm nhạc, văn hóa hay… dollar. Tôi biết nhiều người ở Việt Nam sáng đi họp chi bộ, chiều vẫn kư giấy nhận dollar người nhà bên Mỹ gửi về.
Trong cộng đồng người Việt hải ngoại, có người chọn cách không bao giờ bắt tay với Hà Nội, thậm chí không về thăm quê hương, để bảo vệ lư tưởng, có người chủ động về Việt Nam hợp tác với nhà nước, mong muốn đem kiến thức của ḿnh về xây dựng đất nước tuy chưa biết hiệu quả của nó đến đâu.
Nhưng dù chọn cách nào, tấm ḷng ái quốc của những người Quốc Gia chân chính thực đáng trân trọng.
Sự thực, trong nước bây giờ không c̣n quá thiếu thốn về vật chất như thời thập niên 1980.
Cái thiếu của phần đông thế hệ trẻ trong nước hiện nay là lư tưởng phục vụ tổ quốc hoặc phục vụ nhân loại và tri thức.
Đó là thứ tôi lại cảm nhận thấy rất rơ ràng từ những người Quốc Gia đă lớn lên, đi học dưới thời Đệ Nhất Cộng Ḥa.
Từ những người trí thức đă thoát ra hải ngoại, nay trở về thăm quê hương cho đến những ông cụ thương phế binh Nhảy dù, Thủy quân lục chiến mà tôi từng tiếp xúc trên mảnh đất miền Nam.
Khi kênh SBTN bằng tiếng Việt ở Hoa Kỳ làm cuốn phim tài liệu về trận chiến Quảng Trị vào năm 2007, tôi c̣n nhớ một người lính VNCH năm xưa đă trả lời trước câu hỏi về mong ước cho tương lai:
“Tôi mong con tôi sẽ biết làm người.”
Người cựu quân nhân nêu trên chỉ hành nghề bán vé số ở thời điểm đó, nhưng nói được câu mà bộ phận không nhỏ người lớn lên phía Bắc vĩ tuyến 17 không bao giờ nghĩ đến.
V́ thế người Việt tị nạn cũng nên hạn chế gửi xa xỉ phẩm về nước cho người nhà.
Thay v́ dầu thơm hay chocolate đắt tiền, hăy gắng đem sách vở, tri thức, truyền đạt lư tưởng về chính nghĩa quốc gia cho thế hệ trẻ trong nước.
Họ mới là những người cần biết về ư nghĩa của lá cờ vàng. Họ nên được thấy lá cờ vàng trong những sự kiện tích cực nêu tỏ chính nghĩa quốc gia, chứ không phải làm nền cho những màn chửi bới cộng sản và đả kích lẫn nhau trong cộng đồng.
Họ cũng cần hiểu rằng nhờ có lá cờ vàng, nay mới có cả mấy thế hệ giỏi giang mang ḍng máu Việt ở hải ngoại.
Lời kết, mong ước văn minh cho dân tộc
Mỗi người Việt Nam có những cảm xúc, có những số phận khác nhau xung quanh biến cố 30/4.
Nhưng sau bốn thập kỷ, tôi nghĩ chúng ta nên đánh giá sự kiện này theo hướng tích cực.
Nhờ có biến cố ấy mà người Việt Nam có mặt khắp năm châu, nước Việt Nam tồn tại hai thực thể (trong nước và hải ngoại), từ đó tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau.
Xin được kết bài này nhỏ này bằng câu của thi sĩ, nhà văn Nguyễn Đ́nh Toàn:
“Tôi cố đợi ngày Việt Nam tái sinh, trong sông biển yêu thương.”
Lê Mai Hoa (Gửi bài cho Diễn đàn BBC nhân 30/04)
BBC Tiếng Việt
(Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả)
hoanglan22
05-10-2019, 13:27
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1380936&stc=1&d=1557494678
Trả súng đạn này
Tôi có thể ngồi đồng cả ngày trên mạng, nhảy tường lửa, đọc tài liệu, đọc báo nhăng nhít, nhưng chưa bao giờ xem/nghe trọn một chương tŕnh ca nhạc, dù là ở nhà hay trên những chuyến xe đ̣ đường dài. Xem không trọn chỉ v́ ngủ… gật, đúng hơn, tŕnh độ thưởng thức của tôi chỉ tới cỡ đó. Vậy mà chiều nay tôi đă xem trọn một chương tŕnh ca nhạc.
“….Trả súng đạn này, khi sạch nợ sông núi rồi
Anh trở về quê, trở về quê, t́m tuổi thơ mất nơi nao…”
(Một mai giă từ vũ khí – Trịnh Lâm Ngân)
Ở Việt Nam, các DVD ca nhạc hải ngoại Thuư Nga, Vân Sơn,… dễ kiếm, nhưng Asia th́ khó. Asia “phản động” lắm, lỡ bị phát hiện, sẽ bị tịch thu cả xe, hết đường sống, những người bán DVD dạo nói thế.
Nhưng bây giờ, chỉ cần 1 media hub, người ta có thể tải từ internet đủ loại chương tŕnh giải trí để xem qua TV. Ngủ gật cũng sướng như ăn vụng. Thỉnh thoảng tôi cũng click đại một liveshow nào đó để ru ḿnh ngủ…gật. Và chiều nay, tôi muốn ngủ gật với Asia, để xem “phản động” tới đâu. Tôi chọn chủ đề “55 năm nh́n lại” v́ đoán là nói miền Nam từ thời di cư 54.
Không chỉ là chương tŕnh ca nhạc, mà đan xen vào đó là những thước phim tài liệu, những h́nh ảnh năm xưa, khỏi cần thuyết minh, tôi cũng nhớ ra gần hết. Chuyện hôm nay mau quên, chứ chuyện ngày xưa th́ nhớ dai lắm. Con tàu há mồm “Passage to freedom”, Đệ I, đệ II Cộng hoà, kinh tế, giáo dục, văn hoá, mùa hè đỏ lửa, đại lộ kinh hoàng… Mọi thứ như mới đâu đây, tưởng như chạm tay vào được. Hai mươi năm trước, cha bỏ xứ ra đi. Hai mươi năm sau, con bỏ nước ra đi. Bỏ đi không đành, con ngu hơn cha, nên bây giờ mới ngồi lẩn thẩn.
Nhiều bản nhạc từ lâu lắm rồi, bây giờ mới nghe lại. Nghe lại mà có thể hát theo trong đầu được. Những ca khúc thanh b́nh thưở xưa đó, ngày trước nghe hờ hững, bây giờ lại thấy hay. Dĩ văng sao êm đềm quá! Chưa bao giờ tôi nghe “Một mai giă từ vũ khí” với một cảm xúc ngậm ngùi như thế, như nuốt từng lời ca tiếng nhạc vào tim óc.
Chương tŕnh này cũng khéo “dụ” được bà Dương Nguyệt Ánh làm MC. Cho dù là kịch bản đi nữa, th́ MC Dương Nguyệt Ánh giống như nhà toán học có khiếu làm thơ: ngôn ngữ chắc nịch và giọng nói biểu cảm.
Tôi cũng lần đầu nh́n lại nhiều khuôn mặt ca sĩ quen thuộc. Cận cảnh mới thấy thời gian nghiệt ngă. Son phấn không thể cứu văn, kỹ thuật âm thanh cũng phải bó tay. Khi giọng hát vút lên đuối hơi, những đường gân hiện trên cổ thấy rơ. Con tằm đang nhả những sợi tơ cuối cùng cho đời…
Tôi đọc đâu đó, có lần y sĩ ca sĩ Trung Chỉnh phải nhảy trực thăng xuống vùng chiến sự để cấp cứu. Ông nhảy thoát được, nhưng túi đồ nghề thuốc men bị bắn bể. Ông y sĩ đành lấy tiếng hát thay thuốc men để làm dịu cơn đau của thương binh. Chuyện thật bao nhiêu phần trăm không rơ, nhưng sao thấy thiệt đậm “chất người” giữa làn ranh sống chết.
Thời gian cứ thế trôi ngược theo h́nh ảnh và âm thanh…
Những ngày sau 75, nếu chết chưa chắc là hết, th́ sau khi chết, tôi sẽ không quên được cảnh tượng các em thiếu niên đi tịch thu sách vở “đồi truỵ phản động”, quẳng rầm rầm lên xe ba gác, như chuyển hết căm thù vào đó, vừa quăng vừa dạy đời người lớn.
Hai mươi năm sau, tôi sống lại cảm giác này khi đọc “Sống và chết ở Thượng Hải” của Trịnh Niệm. Người đàn bà cứng cỏi này, dù bị áp lực, ngược đăi tới đâu, cũng nhất định không nhận tội “phản động”, nhưng đă phải cuống quưt van nài bọn Hồng vệ binh, xin hăy tịch thu hết bộ sưu tập đồ cổ tranh quư của bà, nhưng đừng đập phá, dày xéo chúng. Cái cảm giác lạnh buốt chạy dọc theo sống lưng…
Vài năm trước, một đạo diễn trẻ, bà Lê Phong Lan làm bộ phim tài liệu để chứng minh thảm sát Mậu Thân ở Huế chỉ là xuyên tạc. Và mới đây, phó giáo sư tiến sĩ sử học Vũ Quang Hiển, trả lời phỏng vấn đài BBC: làm ǵ có chuyện ngược đăi tù đày những người thua cuộc sau 75, chỉ là tập trung học tập cải tạo cho thông đường lối chính sách, thế thôi.
Nhiều người hải ngoại phản ứng gay gắt. Tôi th́ quen rồi. Những điều “vẫn thế” như bao điều “vẫn thế” ở đất nước này. Trước họ c̣n những G. Porter (Mỹ) chứng minh (bằng cách “chặt chém” số liệu của người khác) rằng, thảm sát Mậu Thân chỉ là chuyện bôi nhọ. Lùi lại hơn chục năm, vị giáo sư này cũng cho rằng, xử chết “quá tay” trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc cũng là chuyện bôi nhọ luôn. Nhà báo W.Burchett (Úc) đă từng “đi dạo” ở Củ Chi thập niên 60 để viết b́nh luận, cũng lại là người hết lời ca tụng “Bước đại nhảy vọt” và “Đại cách mạng văn hoá” của Mao Trạch Đông. Thế đấy!
Tôi phục họ. Bước ra khỏi ranh giới của nhân cách đâu phải ai cũng dám làm.
Lịch sử có thể được nh́n dưới nhiều góc cạnh khác nhau, nhưng sự thật lịch sử th́ chỉ có một. Nhân chứng c̣n đó, và lịch sử vẫn c̣n đó.
Bây giờ, những ngày cuối tháng tư này, nơi đây đốt pháo hoa ăn mừng. Bên kia cúi đầu tưởng niệm. Triệu người vui, triệu người buồn. Vui nhiều kiểu, mà buồn chỉ một kiểu. Vui v́ tự hào là người chiến thắng. Buồn th́ chưa chắc đă v́ chiến bại, mà hậu quả chiến bại th́ đúng hơn. Bốn mươi năm rồi chứ đâu ngắn ngủi. Về kinh tế, chỉ cần nh́n qua các nước lân cận cũng đủ thở dài rồi. Giáo dục thúc đẩy bản năng nhiều hơn, cướp giựt chợ hoa, leo rào bơi miễn phí,… Mỗi năm khoảng 5.000 phụ nữ Việt bị đưa qua Malasia và Singapore bán dâm. Đó là con số chính thức, thực tế nhiều hơn. Và đó cũng chỉ mới nói đến 2 thị trường, c̣n Campuchia, Thái Lan, và nhất là Trung Quốc c̣n khủng nữa.
Nhưng cũng có những niềm vui vô tư v́ “ngày giải phóng” là ngày nghỉ dài, đi chơi thoả thích. Rồi cũng có những nỗi buồn lẩm cẩm với quá khứ, nằm nhà nghe nhạc. Vui buồn, hiểu theo nghĩa tuyệt đối, th́ mỗi năm sẽ thêm triệu triệu người vui. C̣n buồn, th́ vài ngàn, vài trăm, rồi vài chục, chỉ c̣n tí tẹo. Đất nước có chỉ số hạnh phúc cao là thế. Ngẫm lại mới thấy hội chứng Stockholm sao thiệt éo le !
*
Vậy mà 40 năm trôi qua rồi. Chiều nay t́nh cờ xem “55 năm nh́n lại”, đôi khi phải bám chặt tay vào thành ghế… Biết bao tâm tư chất chứa, cũng muốn một lần trải ḷng, nhưng rồi lại thấy, bà Dương Nguyệt Ánh đă “giành” nói hết cả rồi, nói từ 5 -6 năm trước, nói ngắn, gọn và đủ, nói cả những điều nhỏ nhặt mà lịch sử đă quên, đang quên và có lẽ cũng sẽ quên luôn: “Người lính ra trận với vũ khí kém cơi. Lỡ thua th́ bị chê bai, nhưng nếu thắng th́ chỉ những người bạn lớn được nói đến”. Tủi quá! Xin cám ơn bà.
Đă “sạch nợ sông núi rồi”. Mệnh Trời bắt thế, chỉ là lực bất ṭng tâm thôi. Đâu cần phải đấm ngực mea culpa…mea culpa. Cái đó nên dành cho những chính khách salon, những trí thức ba rọi. Sự thật là sự thật. Người lính bên nào lại chẳng đau, mỗi bên đau mỗi kiểu. Cuộc chiến tàn rồi. Ván cờ thế bày ra, không có cửa cho những tay chơi cờ thí chốt.
Tháng tư nào trời chẳng mưa. Quá khứ đâu dễ ǵ quên được. Hai mươi năm đau thương của chiến cuộc, cũng may mắn có được những năm tháng b́nh yên. Rồi thêm bốn mươi năm nữa, học được biết bao chuyện tṛ đời,… Nhưng vẫn c̣n sót lại đâu đó chút t́nh người, phải thế không?
Xin kết thúc bài viết bằng lời nhạc: “… Xin cám ơn, xin cám ơn… người nằm xuống…”
Vũ Thế Thành
hoanglan22
05-14-2019, 02:47
Trong tác phẩm “Not an Easy Day”, tác giả “Mark Owen”,một bí danh của Biệt Kich “Navy Seals” Tiểu Đội 6 kể lại rằng người theo dơi, t́m ra căn nhà nơi Osama bin Laden ẩn náu là một phụ nữ. Bà Jen, chuyên viên phân tích tài liệu t́nh báo để “Truy t́m đối tượng”, c̣n gọi là “Targeter”. Trong Cơ quan T́nh Báo Trung Ương Hoa Kỳ -CIA- c̣n có rất nhiều phụ nữ tài ba tuyệt luân khác làm gián điệp. Phải chăng phụ nữ là một vũ khí đặc biệt trong ngành t́nh báo?
Cuốn sách mới, tuy không chính thức, do chính một thành viên trong Tiểu Đội 6 của Đơn Vị Biệt Kích Navy SEALS tiết lộ lần đầu tiên, kể lại rằng toàn bộ chiến dịch lùng bắt cho được Osama bin Laden thành công là nhờ một phụ nữ, mang bí danh “Jen” làm việc trong CIA. Bà Jen là một nhà phân tích tin tức t́nh báo, đă theo dơi, truy tầm nơi ẩn náu của Bin Laden trong nhiều năm. Cuối cùng bả cả quyết rằng bin Laden đang sống trong một biệt thự kín cổng cao tường chỉ cách Học Viện Quân sự Pakistan chưa đầy nửa dậm, trong tỉnh Abbottabad. Trước khi cuộc tập kích diễn ra, bà Jen thuyết tŕnh trước tiểu đội Biệt Kích về những t́nh huống có thể xảy ra khi mở cuộc tập kích vào căn biệt thự ở Abottabad. Bà mô tả chính xác đến nỗi khi họ phá cánh cổng để vào toà nhà, cái cổng sẽ bung vào phiá trong hay bắn ra ngoài. (Bà Jen đoán không sai một ly).
Bà Jen là một mẫu sĩ quan t́nh báo kiểu mới, làm việc trong CIA với những đặc điểm như thông minh, tự tin, và phải là một phụ nữ. Những đặc điểm này trước đây chưa hề có, bởi v́ từ nhiều năm, cơ quan t́nh báo trung ương thường loại trừ phụ nữ, không tuyển họ vào làm công tác điệp báo. Thường thường nữ nhân viên chỉ được dùng trong chức vụ thư kư, công tác đả tự, hay giỏi lắm th́ cũng chỉ lên đến cấp trung trong việc phân tích tin tức t́nh báo.
Bây giờ t́nh h́nh khác hẳn ngày xưa, những người như bà “Jen” được giao chức vụ “Targeter”, hay chuyên viên truy tầm, theo dơi đối tượng. Nhiệm vụ chính của những Targeter là phải nghiên cứu rất nhiều tin tức t́nh báo do máy bay không người lái đem về,thường là không rơ ràng,và lắng nghe những mẩu điện đàm nghe lén được, hay thu thập những tin tức rời rạc, ráp nối chúng lại, để viết báo cáo về những đối tượng cần theo dơi. Chúng là những tên khủng bố, những kẻ buôn bán ma túy, vũ khí. Sau biến cố 9/11 cơ quan t́nh báo trung ương CIA bị khiến trách, chê bai rất nặng, nhất là từ phía các chính khách. Cũng v́ lư do đó, cơ quan CIA lập tức phải cải tổ, hoàn thiện công tác điệp báo của ḿnh bằng cách trang bị kỹ thuật tối tân, và huấn luyện những đợt chuyên viên targeter hoàn toàn mới, giống như bà “Jen”.
Khác với những nhà phân tích trong lănh vực kinh tế, chính trị của một nước ngoại quốc, những chuyên viên targeter này chỉ chú tâm theo dơi một “đối tượng” duy nhất, thường là những tên khủng bố, hay nhóm đối tượng đặc biệt nào đó. Họ làm việc sát cánh với những đơn vị biệt kích, những sĩ quan tiền tuyến liên quan đến việc phân tích, nhận định t́nh h́nh của họ. Theo ông Jose Rodriguez, cựu phó giám đốc CIA đặc trách về nghiệp vụ, đa số những “targeter” ngày nay lại là phụ nữ.
Thực vậy, đơn vị đầu tiên của CIA được giao nhiệm vụ truy lùng tổ chức Al-Qaeda mang bí danh “ Alec Station” là đơn vị đầu tiên tuyển phụ nữa vào làm điệp báo từ hồi thập niên 1990’s.. Ông Mike Scheuer, Trưởng toán đầu tiên của Alec St ation kể lại rằng vào năm 1999 khi ông rời Alec St ation tất cả 14 “Targeter” trong đơn vị đều là phụ nữ. Ông c̣n tiết lộ thêm rằng sau biến cố 9/11, tên lănh tụ cao cấp đầu tiên của nhóm Al-Qaeda bị tóm cổ chính là nhờ công tác điệp báo của một phụ nữ. Ông đề cao vai tṛ của phụ nữ làm t́nh báo hết mực, khi ông nói: “Nếu được phép, chúng tôi có thể treo tấm bảng hiệu: Chúng tôi không nhận đơn xin việc của đàn ông tại đây.”.
Một trong những “targeter” nổi tiếng trong lịch sử t́nh báo cận đại là bà Jennifer Matthews. Bà là trưởng nhiệm sở CIA ở tỉnh Khost , Afghanistan . Bà có trách nhiệm phải theo dơi hành tung của một lănh tụ cao cấp của Al-Qaeda, tên là Abu Zubaydah. Trong tác phẩm “The Triple Agent” “ Điệp Viên Tam Trùng” ông Jody Warrick kể lại rằng tên gián điệp Zubaydah, sắp được đưa đến điạ điểm an toàn ở Faisalabad , Pakistan . Ông Jody Warrick mô tả hết sức cảm động tâm trạng của một phụ nữ làm gián điệp. Họ bị giằng co giữa trách nhiệm với gia đ́nh và công tác điệp báo ở ngoài tiền tuyến. Bà Matthews tổ chức ăn Lễ Giáng Sinh năm 2009 viễn liên với con cái ở thành phố Fredericksburg , tiểu bang Virginia bằng cách video chat với con, qua hệ thống “skype” . Sau khi những đứa con mở quà giáng sinh, đứa con trai út hỏi mẹ: “Me cho con xem khẩu súng của mẹ đi.”. Bà cầm khẩu súng ngắn, và khẩu súng trường trên tay, gửi h́nh về cho cậu con xem. Ngay sau đó, bà đi vội sang pḥng ăn của đơn vị để cùng ăn tiệc Giáng Sinh với đồng đội. Năm ngày sau, bà Matthews bị giết chết v́ một tên bác sĩ người Jordan mà bà nghĩ y đang cộng tác với bà, và làm gián điệp cho CIA. Nhưng hắn phản bội, ôm bom tự sát, vào gặp bà Matthews và toàn thể nhân viên t́nh báo tại trụ sở CIA ở tỉnh Khost, giết chết gần hết nhân viên CIA ở đây. Ông Phó Giám đốc Rodriguez nói về bà Matthews: “Bà ta là một trong những điệp viên giỏi nhất từ bấy lâu nay.”.
Giống như bà Matthews, một điệp viên nữ khác là bà Gina Bennett, chuyên gia phân tích t́nh h́nh, đă sớm đưa ra lời cảnh cáo cho chính phủ biết từ năm 1993, về sự nguy hiểm của tổ chức Al-Qaeda. Trong tác phẩm tựa đề: “National Security Mom” “Bà Mẹ Làm Việc Trong Ngành An Ninh Quốc Gia” bà bầy tỏ nỗi khổ tâm của người phụ nữ làm nghề gián điệp, không lo tṛn trách nhiệm với gia đ́nh. Nhiều khi họ phải tổ chức những ngày lễ, kỷ niệm của gia đ́nh từ một nơi hẻo lánh xa xôi của trái đất. Bà viết trong cuốn sách: “Tôi được hưởng một ngày Mother’s Day tuyệt vời khi tôi video chat với các con, xem chúng ăn sáng với miếng pancake thơm mùi chocolate. Tôi nh́n các con trên cái laptop của ḿnh, và tưởng tượng ra mùi thơm ngọt ngào của miếng pancake các cháu đang ăn.”.
Là một bà mẹ có năm đứa con, bà Bennet tâm sự: “Tôi không nghĩ phụ nữ khác với nam giới trong việc hy sinh t́nh cảm gia đ́nh với công vụ khi chọn làm nghề gián điệp trong CIA. Điều này không có nghĩa là chồng con không ủng hộ chúng tôi trong việc làm. Thực ra, các đứa con của tôi hết sức thông cảm cho việc làm của mẹ. Chúng coi như là những người bạn đồng hành với tôi, chia sẻ t́nh cảm của gia đ́nh với nhu cầu phục vụ đất nước. Chúng rất hănh diện về việc làm của mẹ chúng.”.
Hồi đầu nắm 2009, Tổng thống Ob ama yêu cầu ông Bruce Riedel, một sĩ quan cao cấp, chuyên viên chống khủng bố, làm việc lâu đời trong CIA đến gặp Tổng thống và duyệt xét lại t́nh h́nh ở Afghanistan cho chính phủ mới của Tổng thống. Một trong những việc đầu tiên ông Bruce phải làm là đến tận trụ sở trung ương của CIA ở Langley , Virginia t́m hiểu về chương tŕnh sử dụng máy bay gián điệp drone trong cuộc chiến chống khủng bố. Ông hiểu rằng chính quyền mới của ông Ob ama chú ư rất nhiều đến chương tŕnh này. Khi đến trụ sở CIA, ông Bruce Riedel hết sức kinh ngạc khi thấy đại đa số thành phần điều khiển chương tŕnh điệp báo bí mật này là phụ nữ. Họ giỏi lắm, họ đứng thuyết tŕnh, và nắm vững từng chi tiết của hoạt động bí mật này. Ngày hôm đó người đứng thuyết tŕnh cho ông Riedel là một phụ nữ, và nhiều “targeter” khác cũng là phụ nữ.
Trước khi Toà Bạch Cung công bố chiến lược mới của chính quyền ở Afghanistan và Pakistan , ông Obama mời toàn bộ toán t́nh báo đến Văn Pḥng Bầu Dục để ngỏ lời cám ơn họ. Nhóm người được ông Riedel mang đến Bạch Cung gặp Tổng thống gồm có chuyên gia về người Afghan trong Bộ Ngoại Giao , và một chuyên gia về Pakistan từ CIA đưa sang. Ông Ri edel nói với Tổng thống: “Xin giới thiệu với Tổng thống đây là một chuyên gia giỏi nhất về t́nh h́nh Pakistan . hiện nay”. Tổng thống ngạc nhiên khi gặp người chuyên gia này là một phụ nữ đi đôi giầy cao gót. Ông bật cười, và nói đùa: “Trông bà không có vẻ ǵ là một chuyên gia về Pakistan chút nào cả.”
Là một trong những phụ nữ đầu tiên được giao trọng trách lănh đạo cao cấp trong ngành t́nh báo, bà Mary Margaret Graham đặc trách những hoạt động bí mật của CIA trong lănh vực chống phản gián, phá hoại, và hoạt động bán quân sự. Bà Graham kể lại rằng phụ nữ làm “targeter” có cái lợi là họ được ngồi làm việc ở trung ương trong vùng Hoa Thịnh Đốn, để phân tích tin tức t́nh báo. Họ lại được giao cho những công tác quan trọng.
Valerie Pl ame một sĩ quan t́nh báo xinh đẹp làm cho CIA, từng bị chính quyền của ông Bush cho bạch hoá lư lịch hồi năm 2003 bằng một bài báo của kư giả Robert Novak liên quan đến vấn đề vũ khí giết người hàng loạt ở Iraq. Bà Pl ame tâm sự rằng công việc của một targeter trong CIA giúp cho người phụ nữ hiểu được t́nh h́nh sôi động của thế giới bên ngoài, và không phải hy sinh đời sống gia đ́nh. Theo bà việc làm này có số giờ làm việc hạn định, không gây ảnh hưởng nhiều cho gia đ́nh.
Khi được hỏi v́ sao phụ nữ được ưa thích để giao làm targeter hơn là nam giới, bà Graham giải thích v́ phụ nữ có năng khiếu chú ư nhiều đến những chi tiết nhỏ hơn đàn ông. Ông Scheuer cũng xác nhận: “Giữa muôn vàn việc nhỏ nhặt trong điệp vụ t́nh báo, quả thực phụ nữ giỏi hơn đàn ông trong việc phân tích mớ tin tức hỗn độn này. Họ có tài chú ư đến tiểu tiết, và kết nối những chi tiết đó lại với nhau. Tin tức lấy về từ những nơi hẻo lánh xa xôi, rồi đem kết nối với tin thu lượm qua giấy thông hành, thẻ tín dụng. Đó là lư do khiến phụ nữ làm việc giỏi hơn đàn ông.”
Bà Bennet th́ nói đùa: “Cái tính nhớ dai của phụ nữ giúp họ tóm cổ trúng phóc những đối tượng cần bắt.”. Phát ngôn viên của CIA Preston Golson th́ cho rằng một chuyên viên phản gián giỏi là người lanh trí, sáng tạo, kiên nhẫn, nhớ dai, và có sức thuyết phục, bất kể đàn ông hay đàn bà.
Hồi xưa, CIA không hoàn toàn giữ thái độ công bằng về giới tính, nhất là khi tuyển nhân viên vào làm nghể gián điệp. Lấy trường hợp của bà Virginia Hall, bà là người đàn bà dân sự duy nhất được trao tặng huân chương bội tinh trong Thế Chiến Thứ Hai. Trong cuộc chiến này, bà Hall từng phục cho cơ quan tiền thân của CIA. Hồi bấy giờ gọi là OSS , Office of Strategic Services. Ngụy trang là người nông dân, bà Hall đă lén xâm nhập vào nước Pháp thời kỳ bị Đức chiếm đóng. Bà giúp huấn luyện ba tiểu đoàn kháng chiến quân. Người ta hết sức thán phục cái tài ngụy trang của bà. Tài liệu lịch sử chính thức của CIA kể lại rằng người ta từng thả dù bà bằng máy bay vào vùng địch. Trên lưng chỉ mang một chiếc ba lô nhỏ, thế là bà len lỏi bám vào vùng địch để sống. Vậy mà sau khi chiến tranh kết thúc, bà Hall xin gia nhập cơ quan CIA, bà bị cho ngồi một xó làm thư kư nghiên cứu t́nh h́nh, tránh xa những việc làm gan dạ của ngành điệp báo.
Thực vậy, rất nhiều sĩ quan OSS trước đây đều không t́m được việc làm trong CIA sau chiến tranh để có dịp thi triển sự gan dạ của ḿnh trong nghề gián điệp. Một cựu giám đốc điều hành trong cơ quan CIA, bà Nora Slatkin xác nhận hiện tượng này trong bài diễn văn đọc ở Hội Đồng Bang Giao Quốc Tế Chicago năm 1996: “Vào thời b́nh, xă hội của chúng ta đành ḷng phí phạm tài năng siêu việt của phụ nữ, để hồ sơ của những nhân vật trứ danh một thời như bà Virginia Hall nằm sâu trong ngăn kéo hồ sơ, không thèm đụng tới.”.
Bà Jean Vertefeuille, một nhân vật có tài bắt kẻ nội gián nằm trong cơ quan CIA. Năm 1994, chính bà đă dẫn đầu nhóm điệp viên bắt được tên phản quốc Aldrich Ames. Tên này ăn cắp tài liệu mật bán cho gián điệp Nga. Bà Vertefeuille cũng đồng ư rằng vào giai đoạn mới thành lập, CIA không đối xử công bằng đối với phụ nữ. Bà đă gia nhập CIA từ năm 1954, và kể rằng có nhiều khi phiá điệp viên đàn ông c̣n tỏ ra ăn hiếp phe phụ nữ. Nếu họ có dịp lấn lướt phụ nữ là họ làm liền, không từ nan một hành vi nào cả. Hồi bấy giờ phụ nữ được tuyển vào làm chỉ được giao làm những việc giấy tờ, hành chánh, dù rằng đương sự có văn bằng Luật khoa.
Kể từ thập niên 1970’s phụ nữ bắt đầu được giao cho công tác điệp báo. Nhưng thường ra cũng chỉ ngồi phân tích, điều nghiên, và làm thư kư. T́nh h́nh từ từ thay đổi. Lấy trường hợp của bà Graham, bà được tuyển vào làm cho CIA từ năm1979, sau khi tốt nghiệp Master (Cao Học) về văn minh Nga, và được gửi sang sứ quan Mỹ ở Mạc Tư Khoa, đóng giả làm vú em. Bà kể lại lại là hồi đó hiếm khi nào có phụ nữ được giao làm công tác gián điệp bí mật. “Khi tôi vào làm chỉ có năm phụ nữ làm gián điệp. Vài năm sau, chỉ c̣n có hai người. Ba người kia bỏ đi v́ lư do riêng, như lập gia đ́nh, hay ở nhà nuôi con.”. Trong giai đoạn này, phụ nữ thường được đề bạt lên làm chức vụ “cổ áo mầu hồng”, ám chỉ những việc làm văn pḥng trong sở nhân dụng, hay lo về ngân sách. Những công tác cao cấp về ngành gián điệp vẫn không cho phụ nữ len lỏi vào.
Vào thời kỳ đầu, phụ nữ nào lọt được vào việc điệp báo, chắc chắn người đó có nhiều lợi thế. Một sĩ quan t́nh báo phụ nữ hồi hưu kể lại rằng: “Không có ai nghĩ rằng một phụ nữ lại làm gián điệp, hay trở thành một “case officer” sĩ quan t́nh báo trong mật vụ đặc biệt. V́ thế, tôi có thể qua mặt nhiều vụ sừng sỏ khó vô cùng.” Nhưng thú thực hồi đó cánh đàn ông vẫn tỏ ra khinh miệt phụ nữ chúng tôi ra mặt. Ngay sau khi bà Plame được bổ nhiệm làm sĩ quan t́nh báo mật, ông trưởng nhiệm sở cho gọi bà lên tŕnh diện để xem mặt. Bà kể lại với tuần báo Newsweek như sau: “Khi tôi bước vào văn pḥng của ông. Ông ta gác chân lên bàn, và ph́ phèo ngậm điếu x́ gà thật to. Ông trừng mắt ngó tôi thật kỹ, và bảo tôi xoay người cho ông xem. Tôi giận quá, hét vào mặt ông.: “Ông là kẻ phải xoay người chứ không phải tôi.”. Ông ta bèn mỉm cười giă lă chữa thẹn.
Đến năm 1986, một số phụ nữ làm việc trong CIA bắt đầu rủ nhau phản công lại. Năm đó, họ cùng nhau thưa cơ quan CIA ra toà trong vụ kiện tập thể về tội cơ quan này kỳ thị, ngăn cản không cho phụ nữ làm những công tác bí mật. Năm 1995, cơ quan CIA phải xin điều đ́nh bồi thường để giải quyết vụ án. Họ hứa sẽ thay đổi chế độ làm việc dưới sự theo dơi của toà án trong ṿng bốn năm. Ngoài ra, cơ quan CIA đồng ư bồi thường những phụ nữ bị thiệt hại, mỗi người một số tiền là $940.000 đô la. Bà Graham tâm sự: “Có một số tiến bộ sau vụ kiện này. Chúng tôi hy vọng sẽ không c̣n phải đem nhau ra toà, v́ đó không phải là điều lư tưởng để t́m sự thay đổi.”
Ngày nay, gần hai thập niên sau khi xảy ra vụ kiện, theo ông Golson phụ nữ chiếm tỉ lệ 40% ở cấp lănh đạo làm trong CIA. Kể từ năm 2011, người đứng hàng thứ ba trong hệ cấp lănh đạo CIA là bà V.Sue Bromley. Trước đó, có bà Stephanie O’Sullivan. Xuống thấp hơn là những người làm công tác phân tích, điều nghiên t́nh h́nh như bà Jen. Nhân vật đă giúp kết liễu khá nhiều lănh tụ cao cấp của tổ chức Al-Qaeda.
Sau vụ tập kích đánh vào nơi ẩn náu, và giết chết bin Laden, toán biệt kích SEALs được chở thẳng đến nhà kho máy bay của Mỹ ở Jalalabad, thuộc Afghanistan . Bà Jen cùng ngồi đợi với những đoàn viên khác trong lúc những người lính chuyển giao bao đựng xác tên lănh tụ khủng bố đi nơi khác. Theo tác giả Mark Owen, bí danh của người biệt kích SEALs bắn chết bin Laden kể lại, anh trông thấy bà Jen đang đứng giữa ṿng tṛn cùng với nhiều quân nhân khác theo dơi việc chuyển giao bao đựng xác tên bin Laden. Một lúc sau, tác giả Owen viết tiếp, trong chiếc phi cơ vận tải C-130 trở về Kabul , anh ta trông thấy bà Jen đang ngồi bó gối như một đưá trẻ trong mớ đồ đạc ngổn ngang trên sàn máy bay. Bà đang rấm rứt khóc v́ sung sướng thấy ḿnh đă làm xong công tác đến nơi đến chốn.
Trong quá khứ, cơ quan CIA t́m mọi cách không cho phụ nữ đi ra tiền tuyến. Bây giờ, họ t́m cách không cho bà Jen xuất đầu lộ diện. Nói về cuốn sách mới này của một người lính biệt kích SEALs, ông Golson cho rằng nó rất nguy hiểm khi kể rành rẽ một cá nhân nào đó làm một công tác đâc biệt. Nhất là khi nói bà này đă giúp t́m ra nơi trốn tránh của bin Laden. Ông nhấn mạnh: “Những cá nhân làm t́nh báo không bao giờ muốn nổi tiếng, hay được sự chú ư, và công luận Mỹ cũng đồng ư rằng những cá nhân này nên được dấu mặt trong bóng tối.”
Như bà Jen chứng tỏ với đồng đội rằng những người phụ nữ làm ngành điệp báo cũng có quyền tranh đấu cho quyền lợi của họ trong bóng tối.
Bài phóng sự điều tra của Eli Lake trên Newsweek
Nguyễn Minh Tâm dịch
hoanglan22
06-28-2019, 14:24
Chị Nga vừa mua một căn phố nằm trên đường Vơ Di Nguy nối dài. Mặt tiền đối diện với Lăng Cha Cả và cổng trại Phi Long. Chồng chị Nga là một trắc họa viên phục vụ tại phi trường Cần Thơ. Anh chị giao cho Ḥa cai quản căn nhà. Tầng dưới, bà Nghĩa mướn mở tiệm phở. Tầng căn gác dành cho Ḥa.
Lăng Cha Cả là phần mộ Cha Bá Đa Lộc. Những bia mộ mang tên Pháp, Bồ Đào Nha... nằm hiu quạnh trong khu nghĩa địa nhỏ sau Lăng. Đă từ lâu tiếng đồn có ma thỉnh thoảng xuất hiện trong lăng nầy. Thường là bóng một người đàn ông mặc áo thụng đen của ông cố đạo. Thoảng hoặc bóng một d́ phước mặc áo trắng đứng ủ rũ bên chân mộ vào lúc nửa đêm.
Lúc nhỏ Ḥa nỗi tiếng gan ĺ lại hay ṭ ṃ , thích nghe những mẩu chuyện kể về ma quái. Hắn từng lén lút đọc bộ sách Liêu Trai Chí dị của Bồ Tùng Linh nằm trong tủ sách mà cha Ḥa cấm đọc.Thuở ấy, vào những đêm tối trời, mỗi lần mẹ sai chị Nga qua nhà bác Hai xin trầu là chị đùn ngay cho Ḥa lấy cớ bận làm bài tập hay học bài thi. Thực ra chị Nga rất sợ phải qua nhà Bác Hai trong đêm tối.
Gia đ́nh bác Hai cách nhà Ḥa một khu vườn rộng. Cuối vườn có miếu thờ Thổ địa. Chiếc đèn dầu sáng leo lét trong am phủ đầy bóng tối âm u của cây đa cổ thụ. Chữ Thần màu đỏ viết bằng chữ Hán nét lớn trên bức b́nh phong chập chờn dưới cánh lá lay động trong đêm. Dù được tiếng là bạo dạn nhất nhà, nhưng mỗi lần qua đó trống ngực Ḥa cũng đập liên hồi như tiếng trống dục trong mùa đua ghe. Ḥa hăi nhất là tiếng tắc kè từ gốc đa cất lên bất chợt.
Giờ đây dù đă trưởng thành, tính ṭ ṃ cố hữu của Ḥa vẫn c̣n thúc đẩy hắn t́m xem tận mắt ma như thế nào. V́ vậy, những đêm đi kèm trẻ tại tư gia về khuya, Ḥa không quên đảo một ṿng quanh lăng mộ.
Căn phố sát vách Ḥa là tiệm may được trưng bày khá sáng sủa. Hiệu may rất đắt khách và nổi tiếng trong vùng. Chủ tiệm là một người đàn ông trung niên, góa vợ. Độ một tháng, sau ngày Ḥa dọn đến ở, người chủ hiệu may tổ chức lễ cưới thật linh đ́nh. Họ hàng, khách dự đều là những người sang trọng. Đám rước dâu có bốn chiếc xe hơi bóng nhoáng. Cô dâu nhỏ nhắn, khuôn mặt phúc hậu. Tuy trong ngày vui mà đôi mắt cô ấy ẩn chứa nỗi buồn sâu thẳm. Ngược lại chàng rể phốp pháp cười rạng rỡ đi bên cô vợ trẻ đẹp.
Đêm động pḥng của đôi tân hôn, người chồng ôm xác vợ chạy dọc theo dăy phố kêu cứu như điên như cuồng. Cô dâu uống thuốc ngủ quyên sinh. Hàng xóm giúp chú rể đưa nàng đến bệnh viện súc ruột, nhưng bất lực. Trái tim cô đă ngừng đập bởi liều thuốc quá mạnh. Trái tim chỉ dành cho người nàng yêu thương ,không tiền bạc, thế lực nào có thể cướp được trái tim chung t́nh đó.
V́ món nợ không trả nổi của cha mẹ, nàng đă ưng thuận lấy người chủ nợ. Giấy nợ được xé bỏ sau giờ rước dâu. Cô dâu tự hủy đời ḿnh trước giờ hợp cẩn. Điều đáng ca ngợi là nàng t́m cái chết để giữ lời nguyền ước với người yêu.
Chú rể chịu cảnh góa vợ thêm lần nữa. Ông buồn rầu đóng cửa hiệu, treo bảng bán nhà. Dăy phố đă vắng vẻ bây giờ càng vắng vẻ hơn.
Nơi tiếp giáp sân sau nhà Ḥa với hiệu may có cây trứng cá khá cao, cành lá sum suê tỏa mát trên hai sân rộng. Ḥa đă lợi dụng cây trứng cá với lan can căn gác làm trụ cho một xà đơn. Vào sáng sớm hay sau giờ học khuya, Ḥa thường treo ḿnh trên barre fixe ấy hít thở cho trí óc bớt căng thẳng.
Qua mười giờ đêm khu Lăng Cha Cả ch́m trong bóng tối. Vài ngọn đèn đường vàng nhạt không đủ sáng cho khu phố trong những đêm tối trời. Ánh đèn pha từ trạm gác chốc chốc quét một luồng sáng ma quái lướt trên khu nghĩa địa.
Sau cuộc chính biến năm 1963, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ, Sài G̣n liên tiếp xảy ra những biến động chính trị. Đặc công Cộng sản lợi dụng t́nh h́nh rối ren tăng cường khủng bố. Lúc th́ rạp hát bị nổ ḿn, khi th́ nhà hàng bị đặt plastic. Mùi chiến tranh đă phảng phất giữa ḷng thủ đô. Riêng khu vực Lăng Cha Cả lại rất êm ả. Các nhà chứa mỗi ngày mọc nhiều hơn. Khách t́m hoa đêm nào cũng tấp nập.
* * *
Sau ngày cúng Thất tuần của cô dâu bạc mệnh, người ta phao tin hồn cô ấy cứ hiện về lởn vởn vào lúc quá nửa đêm, khi th́ mặc áo cưới, lúc bộ bà ba trắng. Con ma treo ḿnh trên cành cây trứng cá, vắt vẻo, đu đưa. Hàng xóm xầm x́ với nhau và nh́n Ḥa với ánh mắt ái ngại…
Đường lên căn gác là một cầu thang hẹp bắc dọc theo vách ngoài hiên nhà. Bên khung cửa sổ, là bàn học Ḥa ngồi hàng đêm. Ánh đèn điện rọi qua màn cửa, hắt vài luồng ánh sáng mỏng lên đám lá đen ng̣m của tàng cây trứng cá. Gió thổi đu đưa cành lá làm chao động vệt sáng trên cây tựa bóng người mặc áo trắng chập chờn.
Chỉ c̣n ba ngày nữa là Ḥa thi tốt nghiệp năm thứ hai Đại học Sư phạm. Chàng ôn tập bài vở đến một hai giờ khuya mới đi ngủ. Thân thể mệt nhoài, Ḥa vừa nằm xuống là giấc ngủ ập tới ngay.
“Anh , anh !” Trong giấc mơ, Ḥa nghe tiếng chim kêu lanh lảnh. “Anh , anh !” lại một âm thanh khác trầm đục như tiếng gơ vào miệng chum bằng sành. “Anh , anh , anh !” Tiếng kêu ngân lên như tiếng chuông nhà thờ dục con chiên đi lễ sáng.
- “Anh , anh !” Bây giờ không c̣n là tiếng chuông mà như tiếng vọng của hồn ma réo lên từ nhà mồ. Trong giấc ngủ u u minh minh, Ḥa nghe tiếng gọi “anh” mỗi lúc một rơ. Bàn tay chàng bị đè lên bởi một vật ǵ rất lạnh. Cái lạnh không phải của nước, của sương. Cái lạnh nhớp nháp nhờn nhờn như của loài ma trơi vất vưởng ngoài đồng! Cái lạnh ḅ dần vào cánh tay trong rồi toàn thân Ḥa bị một khối đen phủ lên đè nặng khiến chàng nghẹt thở. Chàng cố vùng vẫy nhưng bất lực, miệng ú ớ. Một cái lắc mạnh vai chàng:
- “Anh ! em đây, em đây mà!”
Rơ ràng là tiếng một người con gái. Ḥa mở mắt nh́n, kinh hăi: Một bóng ma! Bóng ma trắng nơn nà bên thành giường! Ḥa rút vội tay về và ngồi ngay dậy. Cơn say ngủ chưa tỉnh hẳn. Chàng c̣n ngỡ đó là ánh trăng. Trăng sáng lờ mờ rọi qua khung cửa sổ. Ánh sáng loang tỏa căn pḥng một màu trắng vàng lạnh, trung ḥa với màu trắng bóng ma! Ḥa giụi mắt, định thần. Bóng ma vạch mùng ngồi lên giường. Ḥa khiếp hăi thét lên:
- “Ai đấy?”
- “Em đây ”, giọng run run yếu đuối của người bị kiệt sức. Bóng ma tiến vào,
Ḥa lui sát vách tường. Bóng ấy tiến theo, Ḥa sợ quá thét lên: “Ngồi im đó”. Ánh trăng bây giờ sáng tỏ hơn và tỏa đều trên thân thể người con gái không một mảnh vải. Mái tóc đen dài xơa trên nửa khuôn mặt trắng xanh và che khuất một phần bộ ngực trắng ngần vun cao. Bây giờ đă hoàn toàn tỉnh ngủ, Ḥa với tay bật đèn. Người con gái vội cản:
- “Xin anh đừng cho sáng, em sợ ánh đèn lắm !”
Ḥa thầm nghĩ : “Chỉ có ma quỷ mới sợ ánh đèn, sợ ánh mặt trời và lửa. Đối diện với chàng chẳng lẽ là quỷ hiện h́nh? Quỷ trong thân xác của một người con gái?” Trí nhớ Ḥa vụt hiện ra khuôn mặt trắng bệch, thân thể mềm nhũn của cô dâu tự vẫn ở tiệm may bên cạnh. Toàn thân Ḥa bỗng dưng lạnh toát! Miệng chàng khô khốc, muốn la lên mà lưỡi th́ líu lại. Muốn chạy thoát khỏi giường nhưng đôi chân chàng lại tê cứng. H́nh như bóng người đối diện đoán biết cơn sợ hải của Ḥa vội vàng lên tiếng:
- “Xin anh b́nh tĩnh , em tên là Lài ở bên lầu bà Thúy.”
Lầu bà Thúy là nơi chứa gái hạng sang, ở vùng nầy ai cũng biết. Ḥa điềm tĩnh trở lại và nhủ thầm : “Từ Lầu bà Thúy th́ không cần hỏi lư lịch cũng biết cô gái nầy là ai! chàng vội vất tấm drap mỏng cho nàng che thân. Cô gái quàng vội tấm vải lên người rồi kể tiếp:
- “Em đang đi khách th́ bọn “Cớm” * ập vào pḥng. Em chưa kịp mặc áo quần đă phải vọt qua cửa sổ chạy băng qua các nóc nhà. Khi đến đây bị đuối sức em đă rớt từ trên cao xuống sân gạch. H́nh như em đă ngất đi một thời gian khá lâu, khi tỉnh dậy t́m đường thoát thân mà chẳng có lối ra. Cuối cùng, thấy căn gác nầy không đóng cửa, em đă đường đột vào đây, mong anh tha lỗi và cho em được trốn tránh qua đêm nay”.
Ḥa ngỏ ư bật đèn sáng để t́m cho nàng bộ đồ mặc tạm. Nàng ngăn lại và giải thích:
- “Thấy sáng đèn, cảnh sát sẽ nghi ngờ đến đây xét nhà. Thôi th́ cho em mượn bộ pyjama anh đang mặc cho đỡ lạnh. Em nằm ngoài sương ướt cả mấy tiếng đồng hồ rồi!” Cảm thương thân phận ả giang hồ, Ḥa không thể chối từ lời đề nghị đó.
Cô gái vừa mặc xong quần áo th́ tiếng gơ cửa soát nhà vang lên. Nàng vội vă nằm xuống, kéo mền che cả mặt. Sự sợ hăi quá độ khiến cô run bần bật như bệnh sốt rét bắt đầu lên cơn. Nắm lấy tay Ḥa, với đôi bàn tay hoàn toàn mất tự chủ, nàng lắp bắp van lơn:
- “Xin... cứu... em , nhận... em... là… vợ… anh... nhé...”
Tiếng gơ cửa thêm dồn dập. Với áo lót quần đùi, Ḥa vội vàng xuống nhà mở cửa. Nh́n ra trước lộ, chàng thấy lực lượng vơ trang đứng giăng hàng ngang dọc theo khu phố. Cảnh sát địa phương và ông khối trưởng yêu cầu cho xét nhà và kiểm tra tờ khai gia đ́nh. Ḥa cho biết gia đ́nh bà chủ tiệm phở không ở đây. Chàng chỉ là sinh viên thuê căn gác trọ học. Họ bàn thảo với nhau rồi bỏ sang nhà bên cạnh. Ḥa trở lên căn gác. Cô gái run sợ lúc năy, bây giờ hoàn toàn tươi tỉnh. Ḥa ngạc nhiên khi nh́n thấy cô nàng đă cởi bỏ hết áo quần từ bao giờ. Chàng hỏi:
- “Sao lại làm vậy?”
- “Nếu bọn chúng lên đây kiểm soát th́ em đóng vai là vợ anh!” Nàng vừa trả lời vừa ôm chầm lấy Ḥa và hôn tới tấp trên má, trên môi chàng.
Cô gái th́ thầm:
- “Anh đă cứu mạng em, anh là ân nhân của đời em!”
Nàng siết chặt Ḥa trong ṿng tay nồng nàn và sẵn sàng dâng hiến. Đôi vú căng đầy ép vào ngực Ḥa khiến cơn dục t́nh của họ trương lên cực độ và hai thân thể quyện lấy nhau.
Trời vừa hừng sáng, Lài đă đánh thức Ḥa dậy. Nàng van nài chàng cố gắng t́m một bộ đồ nữ. Giờ nầy, phố chợ chưa mở cửa vả lại, Ḥa chẳng có bà con hàng xóm nào gần gũi quen thân. Áo quần Ḥa th́ quá rộng cô bé không thể dùng được. Đang lúng túng, Ḥa chợt nhớ tới chiếc vali đựng tư trang của người bạn gái mang gởi trước khi về quê nghỉ Hè. Trong rương gồm ít sách vở, một bộ chemise quần, hai bộ áo dài đồng phục nữ sinh. Ḥa mừng rỡ định lấy ra cho nàng bộ chemise quần, nhưng cô bé ngỏ ư mượn bộ áo dài trắng, nàng bảo:
- “Anh vui ḷng cho em mặc bộ nầy, hôm sau giặt ủi tươm tất sẽ mang trả cho anh.”
Lài mặc chiếc áo dài rất vừa vặn. Trên ngực áo nổi bật bảng tên trường nữ trung học Gia Long - Trần Thị Phượng - 11A. Trước khi từ giă, nàng xin Ḥa cuốn tạp chí Phổ Thông cầm nơi tay. Với mái tóc thề ngây thơ, khuôn mặt thanh tú và chiếc áo dài trắng thướt tha, chẳng một ai nghi ngờ Lài là “gái làm tiền”. Bước chân ra đi vội vă, khuôn mặt nàng trở nên lạnh lùng, cứng cỏi mất hẳn nét yếu đuối của đêm qua.
* * *
Nhật báo ra ngày hôm sau có một bản tin đặc biệt đăng tải nơi trang nhất:
“Nhận được tin mật báo, vào lúc 12 giờ đêm ngày 13-6-1967, các đơn vị an ninh Đô thành và Gia Định đă phối hợp bao vây một cuộc họp của bọn VC nằm vùng tại căn lầu 120 đường Trương Minh Kư thuộc khu vực Lăng Cha Cả. Kết quả bắt được 5 tên. Trong số nầy có một đội trưởng Đặc công Biệt động Thành. Số khác chạy thoát. Bọn chúng giả dạng là khách “mua hoa” và gái “bán dâm” để qua mặt lực lượng Cảnh sát. Chủ nhà là bà Phan Thị Đăi, tên thường gọi bà Thúy hiện đang bị câu lưu để điều tra.”
Bản tin trên đối với Ḥa cũng như một số sinh viên, học sinh khác ở thủ đô chẳng có ǵ quan trọng. Họ rất vô tư trước thời cuộc. Ḥa xem qua để rồi quên lăng. Duy có một điều làm Ḥa bận tâm là chờ đợi cô gái tên Lài mang trả bộ áo quần.
Qua ba ngày, rồi một tuần lễ, cô gái vẫn biệt tăm. Ḥa không tin là Lài đă dễ dàng quên lời hứa và quên cả ơn cứu giúp của chàng nhanh đến vậy. Ḥa c̣n nhớ rơ thái độ rất nghiêm túc khi nàng ghi tên họ và số nhà của Ḥa vào một mảnh giấy.
Thường ngày, Ḥa về nhà rất khuya, phải mất ba tiếng đồng hồ kèm trẻ mỗi đêm. Hôm nay, ngày lễ Vu Lan chàng được về sớm. Vừa đặt chân đến đầu hiên nhà là Ḥa đă nghe tiếng mơ tụng kinh. Bà Nghĩa chủ tiệm phở đón chàng ở cửa, hỏi:
- “Mấy bữa nay em có thấy điều ǵ khác lạ không?”
Ḥa đang ngơ ngác, bà Nghĩa tiếp:
- “Cách đây mấy đêm, ma xuất hiện lẩn quẩn trong khu nầy. Hồn cô dâu hiện về khua động trên mái nhà. Hàng xóm thấy bóng một cô gái trần truồng – A Di Đà Phật – mái tóc của Ngài đen tuyền dài đến gót chân. Ngài đi lên chiếc cầu thang nầy đây, đến cửa ra vào th́ biến mất.” Bà Nghĩa vừa nói vừa chỉ chiếc cầu thang lên căn gác của Ḥa ở, rồi tiếp:
- “Hôm nay tôi mời thầy đến đây cúng cô hồn, đồng thời trừ yểm không để Ngài về quấy phá nữa.” Nói xong bà chắp hai tay trước ngực niệm: “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ tát!”.
Bên gốc cây trứng cá là một bàn hương án có đủ lễ vật cúng cô hồn, lại thêm bộ áo cô dâu bằng giấy mă. Ḥa nhíu mày suy nghĩ: “Bóng con ma trần truồng” chẳng lẽ cô gái tên Lài là quỷ hiện h́nh? Cô từ lầu bà Thúy chạy băng trên nóc nhà rồi rớt xuống cái sân nầy. Ma và người làm sao có thể lẫn lộn được. Chàng nhớ khá rơ cái đêm hôm ấy. Thân thể Lài rất nồng ấm và nụ hôn cũng rất trần tục! Duy có một điều mà giờ nầy Ḥa c̣n ngờ vực. Cô gái rất vụng về trong lúc làm t́nh không như gái làng chơi đă từng điêu luyện trong nghề. Ḥa có cảm giác là cô bé lần đầu tiên biết thế nào là cơn tột đỉnh t́nh dục. Đôi tay bấu vào lưng chàng, đôi môi quyện lấy lưỡi chàng. Như thế, nhất định nàng không phải là ma, nhưng nàng có đích thực là gái điếm?
* * *
T́nh h́nh chiến sự ở Cần Thơ có phần nặng nề, chị Nga phải đưa bầy con về Sài G̣n. Bà Nghĩa, chủ tiệm phở phải trả lại nhà cho gia đ́nh chị ở. Việt cộng gia tăng cường độ pháo kích vào các phi trường, v́ vậy khu dân cư nằm quanh ṿng đai sân bay Tân Sơn Nhất , nhà nào cũng phải có hầm trú ẩn tránh pháo.
Những ngày cận kề Tết Nguyên Đán, các gian hàng quanh chợ Bến Thành nhộn nhịp. Tiếng rao hàng ḥa với điệu nhạc mừng Xuân càng thêm náo nức. Chợ hoa trên đường Nguyễn Huệ cũng tấp nập người là người. Những cành mai, cành đào, búp xanh mơn mởn. Những chậu kiểng được cắt tỉa công phu, đầy nghệ thuật và đủ các loại hoa tràn ngập cả một đoạn đường. Các chuyến xe đ̣ cũng đầy nghẹt khách về quê ăn Tết.
Khác với mọi năm, đă cuối ngày ba mươi tháng chạp mà đường phố ngoại ô Sài G̣n vẫn c̣n đông người qua lại. Họ rảo bước về một nơi nào đó như cho kịp chuyến xe cuối cùng. Một số khác, thoạt trông như những chàng tân binh trốn quân trường về nhà ăn Tết. Họ mặc quần áo lính trông lôi thôi lếch thếch. Khuôn mặt người nào cũng mang nét khẩn trương. Xe tuần tra của Quân Cảnh Mỹ-Việt cũng không thấy xuất hiện ở những khu phố có nhiều quán rượu như thường ngày.
Trời vừa nhá nhem tối, dăm ba bàn thờ lẻ loi được đặt trước hiên nhà chuẩn bị đón giao thừa. Anh rể của Ḥa nhắn tin không thể về ăn Tết v́ lệnh cấm trại vào giờ chót. Chị Nga cùng gia đ́nh ăn bữa cơm cúng rước ông bà trễ tràng và nguội lạnh.
Đường phố vắng lặng , chỉ còn một tiếng đồng hồ nữa là đến giờ Giao Thừa , bỗng có tiếng người la lớn: “Việt Cộng bà con ơi!”
Anh thanh niên vừa báo động vừa chạy băng qua đường. Một loạt đạn AK từ trong lăng mộ bắn đuổi phía sau lưng, anh ngă xuống nằm sóng soải trên mặt đường, máu tuôn lênh láng. Từ cổng trại Phi Long, những tràng đại liên cũng bắt đầu quạt liên hồi. Tiếp theo là tiếng nổ của các loại súng, lựu đạn vang lên tứ phía. Cộng quân tấn công vào Bộ Tư Lệnh Không Quân trước giờ Giao Thừa.
Chị Nga hấp tấp lùa bầy con vào hầm trú ẩn. Ḥa ḅ ra cửa, nh́n qua khe hở. Điện đường tắt ngấm, phố xá lờ mờ. Hướng bên bờ thành cổng trại Phi Long, loáng thoáng nhiều bóng người đội nón tai bèo, vai quàng khăn dù núp sau bia mộ.
Tiếng súng bỗng dưng ngưng bặt. Sự yên ắng lạnh lùng bao trùm cả khu phố. Mọi người nằm thiêm thiếp trong hầm. Chợt có tiếng gơ cửa, rồi giọng nói của người đàn ông thúc bách:
- “Mở cửa, quân giải phóng đây !”
Không ai trả lời...!
- “Mở cửa, nếu chậm trễ sẽ giựt sập nhà!”
Chị Nga đẩy Ḥa vào ngách hầm, trấn những bao cát c̣n lại lên cao, chị ra mở cửa. Một nữ các bộ VC mặc bộ bà ba đen, vai mang một khẩu súng ngắn và túi dết bên hông. Theo sau là người du kích với áo quần màu xanh, nón tai bèo, hai tay gh́m khẩu AK. Một người khác đứng chắn ngang cửa.
- “Nhà có mấy người?” Người du kích trừng mắt hỏi.
- “Tôi và bốn đứa con.” Chị Nga trả lời.
- “Chúng nó đâu?”
- “Trong hầm!”
- “Gọi ra!”
Chị Nga theo lệnh vào hầm đẩy bốn đứa nhỏ ra đứng bên chị. Chúng nó sợ hăi, khuôn mặt đứa nào cũng đầm đ́a nước mắt.
Từ lúc vào nhà đến giờ, nữ cán bộ VC lặng lẽ quan sát mọi ngóc ngách trong nhà, chợt y thị hỏi:
- “Tên Hồ Phú Ḥa đâu?”
Chị Nga giật ḿnh nhủ thầm : “Sao nó biết tên em trai ḿnh?”
- “Nhà tôi không có ai tên Hồ Phú Ḥa.” Chị Nga điềm tĩnh trả lời.
Người du kích quát:
- “Cơ sở cách mạng nắm hết danh sách hộ khẩu, các người đừng ḥng che giấu.”
Khuôn mặt lạnh lùng của nữ cán bộ Việt Cộng khẳng định: “Tên Hồ Phú Ḥa là sinh viên trọ học tại nhà nầy.” Chị Nga lấy lại được b́nh tĩnh, tỏ vẻ thành thực hăng hái tiếp lời:
- “Ồ, đúng rồi, nó là sinh viên ở tận ngoài Trung, mướn căn gác nhà tôi trọ học. Nó về ngoài đó ăn Tết đă hơn tuần nay!”
Người du kích nghi ngờ, quét một đường pin sáng vào hầm rồi lên tiếng đe dọa:
- “Nói dối với cách mạng là bị trừng trị đấy.” Hắn quát lớn:
- “ Chuẩn bị ném bộc phá vào hầm!”
Chị Nga thất kinh, lạnh cả người. Chợt người nữ cán bộ bảo: “Không cần thiết”, rồi ra lệnh rời khỏi nhà. Y thị quay nhanh ra cửa, người cận vệ bước theo.
Nín thở trong hầm, Ḥa lắng nghe những mẩu đối thoại vừa rồi. Chàng để ư đến giọng nói nhè nhẹ êm êm của người nữ cán bộ VC. Giọng miền Nam rất quen thuộc, giống hệt tiếng nói của Lài, người con gái đă mượn bộ quần áo dài của Phượng cách nay sáu tháng.
Ngoài đường phố đột nhiên chân người chạy rầm rập. Bộ điện đàm của máy truyền tin kêu xè xè bên hông nhà. Đèn dù của máy bay thả sáng rực cả bầu trời Tân Sơn Nhất. Tiếng súng lại bắt đầu nổ đều khắp. Không riêng ǵ khu vực Ḥa ở mà hầu hết Sài G̣n. Pháo đón giao thừa ở Thủ đô thay bằng tiếng súng. Rượu nồng chúc Xuân chỉ c̣n là máu của lương dân vô tội! Đạn pháo kích của Cộng quân rít lên từng hồi rơi bừa băi trong khu đông dân cư. Máy bay trực thăng quần thảo trên bầu trời phóng từng đợt rocket vào những điểm tập trung của địch cùng những loạt đại liên không ngừng quạt xuống đám cộng quân ẩn nấp trong khu nghĩa địa.
Đồng hồ vừa điểm bốn giờ sáng. Mọi khi, giờ nầy đă nghe tiếng gà gáy bên căn nhà số 80 của ông Tư gà đá. Hôm nay, gà cũng tắt giọng v́ khiếp sợ.
Tiếng súng giao tranh từ hướng Bộ Tổng Tham Mưu vọng về càng lúc càng dữ dội. Riêng khu vực trại Phi Long, trận chiến dần dần lắng dịu. Từng tốp trực thăng rầm rập bay lượn trên bầu trời.
- “Chi Lăng gọi Quyết Thắng! Chi Lăng gọi Quyết Thắng!”
- “Quyết Thắng nghe Chi Lăng.”
- “Quyết Thắng báo cáo t́nh h́nh khu vực trách nhiệm. Nghe rơ trả lời.”
- “Quyết Thắng nghe rơ năm trên năm.”
Ḥa nhận ra tiếng điện đàm truyền tin quen thuộc của lính Cộng ḥa. Chàng kêu chị Nga dậy và báo tin mừng là quân ta đă giải tỏa khu phố ḿnh. Ḥa vội vàng hé cửa nh́n ra đường, trời đă hừng sáng. Lực lượng Biệt Động Quân đă chiếm lĩnh toàn thể khu vực Lăng Cha Cả và trại Phi Long. Nh́n bóng dáng của người lính chiến nơi chiến trường c̣n vương khói súng, ḷng Ḥa xúc động. Khuôn mặt chị Nga đẫm lệ và nước mắt Ḥa cũng rưng rưng. Nước mắt của nỗi vui mừng và ḷng biết ơn dâng tràn. Nước mắt của niềm xúc động sâu xa trước tinh thần quả cảm của người chiến sĩ. Ḥa muốn mở cửa chạy băng qua đường để bắt tay tri ân những chàng trai hào hùng đó. Các anh sẵn sàng hy sinh cả tánh mạng, nhận lấy bao gian nan, khổ ải để dân chúng hưởng hạnh phúc ngày Xuân. Chợt tỉnh ngộ – Ḥa cảm thấy xấu hổ bởi ḷng vị kỉ của ḿnh.
- “A lô ! a lô! đồng bào chú ư. Cộng sản Bắc Việt đă lợi dụng giờ hưu chiến Tết Mâu Thân đồng loạt tấn công vào Thủ đô Sài G̣n và nhiều nơi khác. Đồng bào hăy b́nh tĩnh. Quân đội đă giải tỏa toàn thể khu vực Tân Sơn Nhất, nhưng vẫn c̣n nhiều tên VC đang lẩn trốn trong khu phố. Yêu cầu đồng bào cảnh giác, ở yên trong nhà. Quân đội đang lục soát, truy lùng tàn quân Bắc Việt trên toàn vùng”.
Đó là nội dung bản thông cáo được phát ra từ chiếc loa phóng thanh của toán Chiến tranh Tâm lư. Ḥa mở rộng cửa, ánh nắng ban mai chóa ḷa. Nh́n sang phía sau lăng mộ, bất chợt, Ḥa trông thấy một góc tà áo dài trắng vắt qua tường thành nghĩa địa. Vạt áo phất phơ theo từng cơn gió xuân thổi về đă gợi tính ṭ ṃ của Ḥa. Bất giác, chàng chạy băng qua đường, nhảy qua tường rào. Trước mắt Ḥa là xác một cô gái mặc áo dài trắng dựa lưng vào góc tường. Máu đọng vũng quanh nàng ướt đẫm chiếc quần bà ba đen, một đoạn ruột trào ra nơi bụng nàng . Mái tóc đen dài kẹp chúm vắt qua vai phủ lên ngực áo. Đầu ngả sang một bên che một phần khuôn mặt trắng bệch. Đôi mắt mở trừng trừng, hiện rơ nốt ruồi đen nằm giữa hai hàng lông mày giáp nhau. Ḥa giật ḿnh nhận ra khuôn mặt của Lài. Chàng hất tung lọn tóc phủ trên ngực, bảng tên nữ sinh trường Gia Long c̣n đậm nét hiện ra trên ngực áo : Trần Thị Phượng -11A. Ôi! Chiếc áo của Phượng bạn gái chàng. Chiếc áo đă giúp cho nữ cán bộ Việt cộng nầy qua mặt được lực lượng Cảnh sát truy lùng sáu tháng trước đây. Ḥa đă che giấu nàng và hai người đă qua một đêm ân ái.
Một niềm thương cảm bỗng dưng tràn ngập ḷng Ḥa. Chàng định đặt xác nàng nằm xuống ngay bên cạnh, chợt thấy trên ngôi mộ đối diện có chiếc khăn dù, Ḥa nhặt lên rồi trải trên khoảng đất bằng phẳng. Đoạn, chàng nâng đầu tử thi kéo về hướng có chiếc khăn dù. Bỗng – đoành – tiếng nổ xé trời, khói tỏa mù mịt ! Ḥa ngă xuống.
Trước khi tháo chạy, đồng đội được lệnh cấp trên đặt dưới lưng xác người nữ Cán bộ Biệt động Thành một quả lựu đạn đă rút chốt an toàn.Một sự thật tàn độc của Việt Cộng mà người dân bình thường như anh sinh viên tên Hoà không hề biết đến.
Bóng ma thoáng qua óc Ḥa rồi dần dần lịm tắt!
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
hoanglan22
07-26-2019, 22:43
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1425570&stc=1&d=1564180945
1.
Hồi tôi mới lên đại học là năm 1967, học lớp dự bị Triết trường Văn Khoa, có lần một ông anh rể đă dẫn tôi đi chơi, tập tành nhậu nhẹt với một loại rượu b́nh dân nhưng rất đả. Đó là nhăn rượu Vĩnh Sanh Ḥa, c̣n gọi là Vĩnh Tồn Tâm, chai thủy tinh vuông 1 lít, uống với Soda th́ tuy thoang thoảng mùi thuốc Bắc nhưng ngon không thua cho lắm nếu so với whisky soda, chẳng hạn như Bee Hive, Johnny Walker.
Để uống Vĩnh Ṭn Ten – dân bợm thường gọi tếu như thế – ông anh đă dẫn tôi khu Chợ Cũ, cuối đường Hàm Nghi, Quận Nhứt Sài G̣n thời đó, vào một tiệm nước của người Tàu, đối diện hơi chếch bên kia đường là tiệm bánh danh tiếng Như Lan. Gọi rượu và soda xong, ông anh bước qua đường, vào một tiệm Tàu bán đủ thứ thịt quay: heo quay, gà vịt, vịt quay, ḷng phá lấu, xá xíu…, nhưng bởi là tư chức lương thấp, anh tôi chỉ gọi một thứ… tổng hợp, toàn là cổ, chân, cánh gà vịt quay, lổn nhổn trong miếng lá chuối, bọc thêm giấy báo tiếng Tàu bên ngoài.
Nhấm rượu, gặm cổ, chân vịt một lát, tự nhiên từ bản kế bên một ông khách hơi trọng tuổi cầm ly bước qua, giọng Nam bộ thật chơn chất, vui vẻ nói một hơi:
“Xin lỗi hai chú em, nảy giờ tui ngồi một ḿnh bàn bển thấy hai chú em cũng lịch sự, nói chuyện nghe thiệt đàng hoàng, mà cũng có ‘gu’ thích Vĩnh Ṭn Ten như tui nữa. Thôi th́, tui xin phép cất qua bên cái mớ lá chuối này, rồi ḿnh ngồi chung nhậu thịt quay tui mời cho vui nhe, được hôn mấy chú em?”.
Không có cách nào khác hơn, chúng tôi cùng lịch sự gật đầu “Dạ, mời anh”. Ông khách cười hể hả, trở về bàn đem qua tiếp dĩa thịt heo quay bự xự cùng gói thuốc Craven A rồi ngồi xuống hô liền: “Dô chớ!”.
Sau vài tua cụng Vĩnh Ṭn Ten, ông khách cho biết ḿnh ‘thứ tư’ và hỏi chúng tôi ‘thứ’ mấy. Xứng thứ xong xuôi th́ ở đây, tại bàn rượu này, tôi chợt được có tên mới là “chú Hai” v́ anh Tư–taxi mới quen không hề để ư chút nào đến tên Hùng trong câu trả lời của tôi, rằng “Dạ em tên Hùng, thứ hai”. Ynhư vậy, ông anh của tôi bắt đầu có tên tại bàn là “chú Năm”, c̣n tên Huy anh có xưng ngay từ đầu th́ cũng bị người nghe thông qua luôn.
Vậy đây là anh Tư-taxi bởi anh đang chạy taxi kiếm sống. Bữa nay chạy cũng khá nên sau khi nghỉ đón khách, anh Tư đă cho phép ḿnh trên đường về nhà ghé tiệm ở khu Chợ Cũ này để xả hơi, tức làm vài ly Vĩnh Ṭn Ten với soda như sở thích lâu nay, và mới làm một ly th́ bắt gặp anh em tôi ở bàn bên…
Đến lúc nghe tôi tự giới thiệu chưa đi làm, chỉ là sinh viên học năm đầu đại học, anh Tư chợt có vẻ rất chú ư, hỏi liền:
“Sinh viên tức là có bằng tú tài hai, phải hôn chú em?”
Tôi đáp “Dạ, ai cũng vậy, đậu tú tài hai rồi th́ được ghi danh học đại học, anh Tư”.
Anh Tư chợt cười he he, cầm ly lên:
“Vậy chú Hai là ông thầy rồi. Tui học hành ít mà run rủi tụi ḿnh gặp nhau ở đây th́ thiệt là hên. Vô cái đi rồi tui sẽ nói muốn nhờ chú Hai một chuyện… Coi ông thầy có nhận hôn nhe!”.
Sau đó, anh Tư-taxi kể vắn tắt là có người em ruột, cũng “học hành ít”, vô cảnh sát làm đă lâu mà không thể lên lương bậc ǵ hết, bởi đă không có bằng tiểu học để nộp. Trong khi đó, theo qui định của ngành cảnh sát quốc gia, chỉ cần người có bằng tú tài hai dạy rồi làm giấy chứng nhận, rằng cho anh cảnh sát viên đă học hết chương tŕnh tiểu học của Bộ Giáo dục do ḿnh dạy, nhớ kèm theo là bản photo bằng tú tài. Với tờ chứng đó, anh cảnh sát viên đem nộp là được chấp thuận tăng một bậc lương.
Vậy là “tứ hải giai huynh đệ”, trong lúc gă trai trẻ 18 tuổi là tôi ngượng ngùng, không dám nhận danh xưng “ông thầy” – trên đời, tôi chưa từng được ai gọi như vậy dù tôi đă từng đi kèm trẻ tại tư gia- th́ anh Tư-taxi, thay v́ để ông chủ tiệm tiếp tục đến bàn đong, rót từng shot rượu theo kiểu khách kêu từng ly – đă gọi thêm nguyên chai Vĩnh Sanh Ḥa,…
2.
Chẳng bao lâu, đúng hẹn là anh Tư taxi dẫn chúng tôi đến nhà anh cảnh sát viên, một căn phố nhỏ nằm trong hẻm ở vùng Phú Nhuận. Tên anh chủ nhà là ǵ th́ đă quá lâu rồi, tôi chỉ nhớ mang máng qua lúc làm giấy tờ nhưng chắc chính xác, đó là Trần Văn Tốt. Thôi th́, lại kêu theo kiểu Nam bộ, đây là Sáu Tốt, em anh Tư-taxi. Mở đầu th́ không thể có ǵ khác hơn là một chầu nhậu ‘bộ tứ’ ngồi dưới sàn gạch bông, bia lon Hamm’s của Mỹ với mồi màng hậu hĩnh, ê hề. Sáu Tốt cũng chơn chất, hể hả y như anh ḿnh, lớn hơn tôi cả chục tuồi mà cứ gọi tôi là “ông thầy” hay “thầy” hoài khiến tôi rất ngượng.
Khi tôi viết xong và trao cho anh tờ giấy chứng nhận cùng tờ bản sao bằng tú tài – có dấu đỏ sao y bản chánh đàng hoàng của ủy ban hành chính xă B́nh Ḥa, quận G̣ Vấp, sát bên lăng Ông, Bà Chiểu thời đó, Sáu Tốt rất xúc động, không hề đọc qua tờ chứng dù tôi đă nhắc mấy lần:
“Cám ơn, cám ơn ông thầy nhe. Đọc ǵ chớ, thầy viết là đúng chắc cú luôn rồi. Để tui…”
Sáu Tốt tự nhiên ngừng nói, đứng phắt dậy, cầm tờ giấy cẩn thận cất lên tủ thờ ngay sau lưng ḿnh, nói liền khi ngồi xuống trở lại:
“Xin lỗi, em cất giấy đàng hoàng vậy cho chắc ăn, để dưới này lỡ đỗ bia th́ ướt tèm lem hết sao! Dạ mời mấy anh, mời thầy Hai vô chớ, c̣n khui lon mới…”.
Bữa nhậu rôm rả tiếng cười, hết sức vui vẻ như đánh dấu một công việc lớn vừa hoàn thành, giúp chủ nhà cởi bỏ được một gánh nặng, một nỗi lo suốt bấy lâu nay.
Đang cười bỗng Sáu Tốt nghiêm mặt nói:
“À, xin phép anh Tư, anh Năm, xém nữa Sáu này quên. Mang ơn thầy Hai nhiều quá rồi, xin gởi thầy vài ngàn, chút đỉnh gọi là cám ơn…”
Tôi lập tức ngắt lời Sáu Tốt. Cậu trai mới lớn đă uống chắc cũng 5, 6 lon Hamm’s, giọng đă có vẻ hơi hơi dân chơi, hơi hơi giang hồ, c̣n vỗ vào đầu gối chủ nhà cái “đét” khi nói – một cử chỉ suồng să hiếm thấy nơi cậu SV mới năm dự bị:
“Hổng được nghe anh Sáu, tôi hổng nhận đâu. Tụi tôi mới biết anh Tư, anh Sáu đây thôi nhưng t́nh thương mến thương, giúp được ǵ cho anh Sáu th́ tôi ráng hết ga thôi. Đừng chíp bụng để tâm nghe. Nè, mà đừng kêu tôi thầy nữa, tôi nhỏ hơn anh cả chục tuổi…”
Sáu Tốt lại lè nhè ngắt lời tôi:
“Đâ…âu được. Thầy Hai có học hành cực khổ th́ phải kêu bằng thầy chớ. Mà… nhận dùm tui đi, xin gởi thầy đây là hai ngàn, chút đỉnh coi như tiền giấy mực thôi mà.”
Thời năm 1967 ấy, tôi nhớ giá một chiếc honda C50 dame khoảng 32,000 – 35,000 đồng VNCH, c̣n chiếc Yamaha dame cũng 50cc tôi đang đi học th́ ba má tôi mua hết 29,000 đồng. Và ḱa, dù là tiền thù lao, tiền tạ ơn, tiền giấy mực ǵ đó th́ BỐN TỜ TRẦN HƯNG ĐẠO xanh mướt lúc ấy đều không thể nói là nhỏ hay chẳng có chút nghĩa lư nào đối với một cậu sinh viên con nhà nghèo.
Nhưng rốt cuộc, cũng có thêm ư kiến “Nên” của anh Tư-taxi và ngược lại là “Không nên” của anh rể tôi, tôi đă không nhận món tiền cũng-có-ư-nghĩa ấy.Trong ḷng vui ngút ngàn, một nỗi phấn khích bay bổng bởi cảm giác tự hào là vừa làm được việc tốt cho đời, anh thầy 18 tuổi liên tục hưởng ứng những cái “vô”. “vô” từ phe chủ nhà đến say mèm, đến độ khi tàn cuộc phải để ông anh chở…
Phạm Nga
Sydney, đông 2019
Cô Giáo "Ngụy"
https://i.postimg.cc/524WMmzp/CCB-Co-giao-Nguy-3.jpg (https://postimages.org/)
Nữ sinh Trường Trung Học Công Thanh. Ngôi trường được xây dựng với sự hợp tác của Lữ Đoàn 173 Không Vận Hoa Kỳ và người dân, ngày 12 Tháng Mười, 1967. (H́nh: Flickr manhhai)
“…Tôi đă thấy điều đẹp đẽ trong một xă hội văn minh, tôi không thể nào quay về những cái thấp hèn mà tôi đă mù quáng tôn sùng. Tôi muốn con trai tôi ra đi, tôi không muốn thấy nó trở nên một bánh xe trong cái cỗ máy thống trị này…”
Một đứa học tṛ la lớn. Bọn con trai, mấy đứa con trai đang quây quần ở cuối lớp chơi tṛ “dích” h́nh, đứa nào đứa nấy vội vă thâu tóm lại mấy tấm h́nh màu bằng b́a cứng có in h́nh sặc sỡ. Bọn con gái đang tụm ba tụm bảy nói chuyện nô đùa cũng vội vàng quay về chỗ cũ.
Cô giáo Mai lễ mễ ôm phần chia nhu yếu phẩm của cô tháng này, gồm mấy trăm gram thịt, mấy trăm gram đường bước vào lớp. Cô bước vào lớp, tất cả học sinh đứng lên chào. Sau khi để gói thịt, gói đường cẩn thận vào trong giỏ. Cô mỉm cười:
-Cô cho các tṛ ngồi xuống. Các tṛ làm chi ồn rứa bộ định làm loạn giống…
Mai định nói làm loạn giống “Việt Cộng” như thói quen cô vẫn nói khi la rầy học tṛ trước kia, nhưng cô ngưng lại kịp. Sau khi nghe em lớp trưởng điểm danh, cô bắt đầu khảo bài. Học tṛ của cô phần nhiều thuộc những gia đ́nh mà chính quyền mới gọi là thành phần có nợ máu với nhân dân hoặc có vấn đề với “cách mạng.” Hầu hết cha của các em đang bị cầm tù trong các trại tập trung “cải tạo.” Thêm vào đó có khoảng một vài em thuộc gia đ́nh cán bộ Cộng Sản cao cấp mới vào Nam.
Phần đông các học tṛ miền Nam những năm đầu sau khi bị “giải phóng” các em học tṛ miền Nam c̣n rất ngoan và kính trọng thầy cô, và ngược lại thầy cô miền Nam cũng c̣n coi công việc gơ đầu trẻ là một thiên chức chứ không phải thuần túy là một nghề để sinh nhai. Mai ra trường Sư Phạm Đà Nẵng đi dạy được hai năm th́ miền Nam mất. Cô được chính quyền mới cho đi dạy lại v́ theo họ lư lịch của cô tương đối khá sạch, từ ông bà xuống tới cha mẹ không có ai làm lớn trong chính quyền cũ.
Sáng nay như thường lệ sau khi khảo bài cũ cô bắt đầu dạy bài mới. Trước bảng đen Mai nắn nót viết bài học Pháp văn cho tiết học hôm nay trên bảng đen.
“Mardi 26 Septembre 1977/ Conjuguez le verbe ‘Etre’ Je suis, Tu es, Il est …”
Bỗng một tiếng thét lớn:
-Thưa cô tṛ Hùng cú đầu con!
Mai nhịp nhịp cái thước gỗ vào bảng không trả lời, cả lớp lại im lặng như tờ chỉ có tiếng bút mực sột soạt trên giấy. Cô tiếp tục viết bài học lên bảng đen. “Elle est…”
-Thưa cô tṛ Hùng bóp… cu con…!
Cũng là cái giọng học tṛ hồi năy, và lần này cả lớp phá lên cười như ong vỡ tổ. Cô Mai nghiêm mặt quay lại bảo:
-Hùng, Quang hai em lên đây!
Hai đứa học tṛ lớp Sáu, ngồi cạnh nhau một đứa đen đủi nhỏ thó tướng tá loắt choắt nghịch ngợm, áo bỏ ngoài quần và một đứa mặt mũi trắng trẻo dáng điệu mảnh khảnh. Cả hai lấm lét bước lên phía trên. Tuy có hơi giận v́ học tṛ tinh nghịch, nhưng cô Mai vẫn chậm răi hiền từ:
-Có phải Hùng phá Quang không?
Hùng cúi đầu không đáp, cô Mai lại hỏi lần này giọng nghiêm khắc hơn:
-Có phải em phá bạn làm mất trật tự trong lớp không?
Hùng nh́n lên trả lời lí nhí:
-Không ạ!
Lần này th́ thằng Quang la lớn:
-Nó xạo, nó cú đầu con rồi bóp…
Mai đưa một ngón tay lên môi ra hiệu cho Quang đừng nói nữa không th́ cả lớp lại cười như vỡ chợ. Có nhiều tiếng nhao nhao:
-Tṛ Quang nói đúng đó cô, thằng Hùng nó có làm đó,… nó c̣n viết bậy lên lưng áo em nè…
Thằng Hùng chợt đưa tay làm thành nắm đấm đôi mắt căm hờn:
-Chúng ông sẽ cho tụi mày biết tay nhé… chúng ông cho bố bọn mày đi “cải tạo” cứ là đờ người nhé…
Lần này th́ cô Mai thật sự giận dữ:
-Trong lớp của cô hay bất cứ nơi đâu em cũng không được phép hỗn láo vô phép với người lớn nghe chưa? Nghe rơ chưa? Em Hùng đến góc kia quay mặt vào tường cho đến hết buổi.
Buổi dạy học tưởng như b́nh thường sáng hôm đó đem đến cho Mai nhiều chuyện bất ngờ sau này.
Vài ngày trong khi lớp Pháp văn của cô đang làm bài kiểm tra, người tùy phái đến lớp của cô mời cô xuống văn pḥng hiệu trưởng có chuyện cần. Mai hỏi:
-Có chi quan trọng rứa bác Tam? Lớp tôi đang làm bài thi làm răng mà bỏ đi? Bác nói đợi tới hết giờ rồi tôi sẽ xuống bác hỉ!
Người tùy phái già trả lời:
-Dạ tui cũng nói như rứa với bà hiệu trưởng và ông khách, nhưng họ có chịu nghe mô. O xuống nhanh đi, nghe nói ông khách nớ làm lớn lắm.
Mai đáp:
-Bác Tam à, tôi không thể xuống được ngay bây chừ, bác xuống văn pḥng giải thích dùm tôi…
Ông Tam quày quả đi ra. Khoảng vài phút sau một người đàn ông đội nón cối đeo mắt kính đen, tay đeo cái đồng hồ Seiko5 vàng sáng chói, nước da men mét, hàm răng hơi vổ, mặc quân phục rộng thùng th́nh, vai đeo xà cạp, ngang nhiên bước thẳng vào lớp, theo sau là ông Tam. Con Trang lớp trưởng sau một vài giây ngỡ ngàng v́ người khách vào lớp bất ngờ, nhanh nhẹn hô lớn “Nghiêm!” Cả lớp buông bút viết, đứng thẳng chào khách. Lần này th́ đến lượt người đàn ông đội nón cối đeo mắt kính đen ngỡ ngàng và ngạc nhiên đến độ lúng túng, cô giáo Mai đứng trên bục giảng lễ độ hỏi:
-Thưa ông có việc ǵ cấp thiết không ạ?
Người đàn ông nh́n lên lúng búng trả lời:
-À không, tôi chỉ muốn nói chuyện với cô một vài vấn đề, nhưng bây giờ tôi sẽ đợi cô dưới văn pḥng.
Cô Mai từ trên bục gỗ bước xuống từ tốn:
-Dạ cám ơn ông, xin ông thông cảm, lớp đang làm bài kiểm tra tôi không thể tiếp chuyện ngay với ông.
Hết giờ Pháp văn, cô Mai vội vă xuống văn pḥng hiệu trưởng. Bước vào cô hơi ngạc nhiên khi chỉ thấy có ông khách đang chễm chệ ngồi sau bàn giấy của bà hiệu trưởng. Ông khách đưa tay mời cô ngồi. Ông ta vẫn c̣n đeo đôi kính Rayban đen trong căn pḥng không có cửa sổ. Cô Mai bất giác muốn ph́ cười, nhưng ngăn lại kịp. Ông khách tự giới thiệu:
-Chắc cô không biết tôi là ai, nên không xuống gặp tôi ngay.
Cô Mai trả lời ngay:
-Dạ thưa tôi biết ông là người rất quan trọng nhưng v́ bài kiểm tra này quan trọng đến kỳ thi học kỳ của các em…
Ông khách ngắt lời:
-Ô! Không, không tôi có ư phiền trách ǵ cô đâu, thực ra th́ lúc cô không xuống ngay tôi giận lắm, v́ ngoài Bắc mỗi khi tôi vào trường con tôi học là giáo viên phải đến gặp tôi chứ tôi không bao giờ phải lên kiếm giáo viên cả.
Cô Mai trả lời:
-Dạ trong ni chắc c̣n lạc hậu, không biết bao chừ mới theo được bằng ngoài nớ…
Cô Mai không biết ông khách đang nghĩ ǵ và ánh mắt phản ứng ra sao sau cặp kiếng đen. Ông trầm ngâm một chút rồi nói:
-Bây giờ th́ tôi hết giận rồi cô ạ. Tôi xin tự giới thiệu, tôi là Thượng Tá Trần Ḱnh, chính ủy của Trung Đoàn Không Quân Tiềm Kích 935 đóng tại căn cứ Không Quân Đà Nẵng. Con tôi là Trần Hùng học trong lớp của cô, vài hôm trước đây nó có phản ánh phê b́nh cô có khuynh hướng bảo vệ bọn con cái thành phần chống cách mạng. Cô Mai nghĩ sao?
Mai thật sự ngạc nhiên, dầu miền Nam đă bị chiếm đóng hơn hai năm, bởi một đạo quân nói cùng một ngôn ngữ và cùng chung màu da với cô nhưng cô vẫn chưa thật sự chưa hiểu hết về cách suy nghĩ, giao tế của người Cộng Sản. Cô trả lời chậm răi:
-Thưa ông Ḱnh, tôi không biết phải trả lời ông ra sao. Tôi là một người thầy giáo chuyên nghiệp, tôi dạy bất cứ học sinh nào được giao phó cho tôi, tôi không phân biệt đối xử các em theo thành phần gia đ́nh… hơn nữa các em khi sinh ra cũng không có sự lựa chọn về lư lịch của cha mẹ. Lư lịch cha mẹ các em theo ư tôi không thuộc phạm vi học đường. C̣n việc tôi phạt em Hùng là v́ em đă phá rối trật tự trong giờ dạy học của tôi. Tôi bảo đảm không có vấn đề bênh vực thành phần giai cấp ǵ đó….
Người đàn ông tên Ḱnh, ngồi thẳng lên đan hai bàn tay vào nhau:
-Đó là tư duy của tôi cách đây nửa giờ cô Mai ạ. Sau khi tôi lên lớp của cô thấy việc các em lễ phép chào khách, bàn cô giáo có lọ hoa, các em quần áo chỉnh tề tôi rất lấy làm ấn tượng. Tôi thành khẩn với cô nhá, tôi chưa thấy trường nào ngoài Bắc học tṛ có văn hóa như lớp của cô. Tôi rất mừng thằng Hùng được cô dạy. Thôi th́ thế này nhé, cô cứ công tác tốt, tôi sẽ bảo với đồng chí hiệu trưởng bỏ lời phê b́nh tiêu cực của tôi về cô đi. Coi như không có sự cố ǵ cô Mai nhé.
Mai mỉm cười:
-Dạ nếu ông đă dạy thế th́ tôi rất vui. Nhưng tôi không dám nhận hết lời khen của ông, v́ trong Nam này trường nào lớp nào cũng đứng nghiêm, chào khách chào thầy cô. C̣n chuyện trang hoàng lọ hoa cho bàn thầy cô th́ quả thật là công khó của các em học sinh nữ của lớp tôi đă tự ư hái hoa đồng cỏ dại trang điểm cho lớp học, không phải do tôi dạy bảo.
Ông Ḱnh cười:
-Cô không tuyên truyền cho miền Nam đấy chứ ? Ồ! Tôi chỉ đùa thôi cô ạ, vâng tôi tin cô nói sự thật. C̣n vấn đề này nữa, sao tôi không thấy lớp cô Mai treo ảnh Bác nhỉ?
Mai thán phục sự quan sát của người đàn ông này, chỉ có ít phút trong lớp mà ông Ḱnh đă nhận xét được biết bao nhiêu là chuyện. Cô có biết đâu ngoài Bắc người ta treo h́nh bác Hồ cũng như trong Nam người ta treo cái gương chiếu yêu trước cửa nhà, để xua đuổi ma quỷ. Việc treo h́nh của ông Hồ là một điều bắt buộc, nhà nào cơ quan nào mà không có gương mặt lom lom, cười cười của ông Hồ là có vấn đề lớn. Thành thói quen, nhiều người treo h́nh bác Hồ như một sự thông báo cùng hồn ma bóng quế nhà tôi có chúa quỷ ở đây nhá! Các ngài ma quỷ hồn ma bóng quế tép riu liệu mà xéo đi… Mai ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
-H́nh như một năm trước đây tôi nhớ có treo, nhưng v́ lớp học xây dựng bằng phương pháp tiền chế, vật liệu là sắt và tôn ximăng cho nên đinh đóng vào tường không chắc, bức h́nh lộng kiếng của Bác bị rơi xuống vỡ nát ông ạ.
Ông Ḱnh hỏi:
-Thế th́ sao không báo cáo và thay ngay đi, hồi trước giải phóng các thầy, các cô trong Nam treo ảnh Thiệu ra sao mà bây giờ lại nói đóng đinh không được?
Cô Mai cười x̣a:
-Trước giờ trong này không có lệ treo h́nh lănh tụ trong nhà riêng hay trong lớp học.
Điều này th́ ông Ḱnh có thể tin, v́ khi Trung Đoàn 935 tiếp thu căn cứ Không Quân Đà Nẵng ông cũng hơi ngạc nhiên khi thấy không có văn pḥng, cơ sở nào có treo h́nh Tổng Thống Thiệu cả. Nhưng ông đă tự giải thích rằng chắc cũng như ảnh Bác là biểu tượng thiêng liêng bọn “Ngụy” khi di tản đă đem ảnh của Thiệu theo để tỏ ḷng yêu kính lănh tụ, như cái đồng chí ǵ đấy ở ngoài Bắc, nhà cháy nhưng đồng chí ấy cố xông vào để cứu ảnh Bác, trước khi cứu con trai ruột của ḿnh… Ông chợt thốt lên:
-À, công tác chính trị đảng cầm quyền của Thiệu yếu nhỉ!… À này tôi có xem lư lịch của cô, khá trong sạch và cũng thuộc thành phần cơ bản đấy, cha cô là công nhân sở điện, mẹ làm cho hăng dệt, không hiểu sao trường chưa cho cô vào đối tượng Đoàn? Để tôi giúp cho nhé?
Mai im lặng một chút rồi nói:
-Chuyện hơi dài ông ạ, sợ kể ra đây làm mất th́ giờ của ông, nhưng đây không phải chi bộ Đoàn sơ xuất đâu mà là hoàn toàn do tôi cả.
Ông Ḱnh hơi nhổm người về phía trước:
-Tôi không dám ṭ ṃ, nhưng nếu cô muốn kể th́ tôi không sợ mất th́ giờ cô ạ, tôi muốn t́m cách giúp cô. Cô Mai yên lặng một lúc, ánh mắt cô trở nên xa xăm, rồi cô chậm răi kể.
Chuyện xảy ra cũng gần một năm về trước. Mai gặp lại người bạn học cũ, Đoàn Đ́nh B́nh, B́nh đă theo cha vô bưng sau cuộc “tổng khởi nghĩa” thất bại của Cộng Sản tại Huế năm 1968. Cả lớp của Mai khi ấy không biết B́nh đi đâu hay đă bị chết thảm dưới bàn tay của Việt Cộng khi B́nh về ăn Tết ở Huế.
Đầu năm 1976, B́nh được bổ về làm bí thư chi bộ Đoàn Thanh Niên Cộng Sản tại trường của Mai đang dạy. Lúc đầu hai người không nhận ra nhau, nhưng Mai nhớ ngờ ngợ cái tên người bạn cũ Đoàn Đ́nh B́nh, nên sau một lần họp giáo viên Mai hỏi phải B́nh hồi nhỏ có học trường tư thục B́nh Minh tại Đà Nẵng không? Hai người nhận ra nhau, rồi trở nên đôi bạn thân. Mai rất trân quư những kỷ niệm và bạn học của ngày xưa thời học tṛ. C̣n B́nh th́ cũng vui mừng được gặp lại người bạn xưa của ngôi trường đầy tuổi thơ êm đềm trước khi phải ra Hà Nội để bị hấp thụ một nền giáo dục rất ư “vô giáo dục.”
Qua một thời gian, B́nh âm thầm yêu Mai và muốn tiến xa hơn với Mai, nhưng trước hết phải giới thiệu được cho Mai vào đối tượng Đoàn, th́ việc xin lănh đạo chấp thuận cho cưới Mai sẽ dễ dàng và vinh dự hơn nhiều. Không hỏi ư kiến Mai, v́ muốn dành cho bạn một sự ngạc nhiên mà theo ư B́nh đây cũng là một vinh dự cho Mai. B́nh mời Mai tham dự một buổi họp Đoàn và tuyên bố đề nghị cho Mai được làm đối tượng Đoàn Thanh Niên Cộng Sản, sau khi đă đọc lư lịch trích ngang trích dọc của Mai trước mặt mọi người để minh chứng Mai thuộc thành phần tốt. Về phần Mai khi nhận lời dự buổi họp chỉ v́ nể B́nh và cũng có đôi chút ṭ ṃ muốn biết khi họp Đoàn ngựi ta rù ŕ rủ rỉ cái chi. Mai không ngờ việc xảy ra như thế. Khuôn mặt của Mai từ trắng chuyển sang hồng, Mai im lặng. Cả pḥng họp nghĩ là Mai quá xúc động trước cái đặc ân to lớn kia. Một lúc sau Mai mới run run nói:
-Cảm ơn anh B́nh đă giới thiệu Mai, nhưng Mai không hoàn toàn thuộc thành phần tốt như cách mạng định nghĩa đâu, và cũng không đủ tiêu chuẩn vào Đoàn. Mai đă có chồng, mặc dầu chưa chính thức trên giấy tờ. Chồng của Mai là phi công của Không Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Câu sau cùng Mai nói chậm, dơng dạc từng chữ như lời tuyên bố.
-Lỗi tại Mai, Mai đă không kể cho anh B́nh nghe, v́ Mai nghĩ đó là chuyện riêng tư, nhưng bây giờ th́ bắt buộc Mai phải nói. Cả pḥng họp lặng thinh, không ai biết phải phản ứng như thế nào, c̣n B́nh đứng sững như trời trồng bên cạnh Mai. Một hai phút sau đó anh lắc đầu và bỏ ra ngoài. Mai chạy theo B́nh ra đến khoảng sân vắng nói khẽ với B́nh.
-Mai xin lỗi nhé, nhưng nếu Mai không nói th́ suốt đời Mai sẽ áy náy lắm…
B́nh quay lại hằn học:
-Tại sao Mai không cho tôi biết, Mai làm tôi ngượng trước mặt bao nhiêu người, mà những điều Mai nói là thật hay bịa đặt vậy? B́nh đă hỏi thăm người ta ở chỗ Mai thường trú họ nói là Mai chắc chắn c̣n độc thân mà… B́nh thật không ngờ, không ngờ. Mà nếu điều Mai nói là sự thật Mai có yêu thằng đó – xin lỗi – anh đó không?
Mai ngạc nhiên về thái độ gần như ghen tương của B́nh, Mai không nói ǵ từ từ kéo sợi dây chuyền từ trong cổ và tháo ra một chiếc nhẫn, loại nhẫn mà phi công sau khi ra trường bên Mỹ thường đeo. Mai nói thong thả:
-Mai có chồng thật chứ, nhẫn cưới của anh ấy trao cho Mai đây này…
B́nh bưng hai tai không muốn nghe thêm chạy thất thểu ra khỏi cổng.
Ông Ḱnh, chép miệng:
-À ra thế, thế th́ gay đấy, Đoàn hay Đảng có quyền từ chối đối tượng chứ có ai có gan dám từ chối vào Đoàn vào Đảng… À anh chồng của cô bây giờ ở đâu? C̣n ở đây hay di tản rồi?
Mai nhớ lại câu chuyện các thực tại chưa xa lắm, vào một ngày cuối Tháng Ba năm 1975. Anh Nguyễn Bé Tư, phi công F-5E biệt phái từ Biên Ḥa ra. Hai người quen nhau từ mùa Xuân 1974 trong một buổi văn nghệ ủy lạo, trường của Mai tổ chức để ủy lạo chiến sĩ. Năm 1975, một ngày trước khi Đà Nẵng bị thất thủ, anh đă gặp Mai. Anh không nói ǵ nhưng qua nét mặt âu lo của anh, Mai biết là t́nh h́nh chiến sự ngày càng xấu đi. Anh dẫn Mai đi ăn tối ở nhà hàng Bạch Đằng trên bờ sông Hàn, hai người cố tránh không nói ǵ về chiến tranh để được một lần hẹn ḥ trọn vẹn. Gần lúc chia tay, anh rút chiếc nhẫn ra trường bên Mỹ đeo vào ngón tay Mai và nói:
-Anh muốn cùng em sống đến cuối cuộc đời, em có thuận làm vợ của anh không?
Mai không nói được ǵ, chỉ khe khẽ gật đầu nước mắt bắt đầu tuôn v́ xúc động và vui sướng. Mai đă là phu nhân của Nguyễn Bé Tư từ ngày ấy. Trong buổi tối ngắn ngủi đó hai người đă vẽ ra biết bao nhiêu là mộng đẹp, về ngày cưới về gia đ́nh tương lai… Đêm đó anh Tư phải vào trực tác chiến trong phi đoàn. Ngày hôm sau th́ Đà Nẵng mất, Mai t́m cách về Sài G̣n vào hỏi Bộ Tư Lệnh Không Quân về tin tức của anh Tư. Mai c̣n nhớ mấy người lính Không Quân ai cũng lắc đầu nh́n chị thương cảm ái ngại. Kể từ đó cái tên Nguyễn Bé Tư mộc mạc đối với Mai như thuộc về một kiếp nào rất gần mà rất xa xăm. Nhưng cô lúc nào cũng tự nhận là người vợ âm thầm của người phi công Nguyễn Bé Tư.
Câu chuyện cô Mai từ chối vào Đoàn Thanh Niên Cộng Sản được đồn ra, được thêm thắt, và từ đó học tṛ gọi đùa cô Mai là “Cô giáo ‘Ngụy.’” Cô nghe nhưng không bao giờ la rầy các em v́ biết các em không có ư xấu, ngược lại các em từ đó rất kính nể cô, mấy đứa con trai có cha anh là sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Ḥa, nói cô Mai chịu chơi và “ch́” lắm. Mỗi khi nghe ai kêu “Cô giáo ‘Ngụy’” Mai mỉm cười hạnh phúc tự nhủ: “Ừ, ‘Ngụy’ th́ ‘Ngụy’ ḿnh thua th́ người ta gọi ḿnh là giặc. Ngày xưa Gia Long cũng gọi Bắc B́nh Vương Quang Trung, Tây Sơn là ‘Ngụy’ đó thôi!”
Giáng Sinh 1980
Sau nhiều lần vượt biên hụt, Mai bị đuổi không cho dạy nữa. Cô sinh sống bằng việc lấy mối rau quả và bán ở chợ. Một buổi chiều ông Ḱnh ghé ngang hàng của cô lựa lựa mấy bó rau hồi lâu. Cô không nhận ra ông v́ bây giờ ông coi có da thịt hơn trước nhưng lại già hẳn đi, và không c̣n đeo cặp kính Rayban nữa. Đến khi hết khách ông mới khẽ bảo:
-Gớm! Cô không nhận ra tôi à? Ḱnh đây, tôi kiếm măi mới biết cô bán hàng ở đây, tôi có thể gặp riêng cô để nói một chuyện quan trọng không? Tôi sẽ dàn xếp chỗ gặp, cô nhớ đến nhé.
Buổi chiều hôm đó tại một căn biệt thự, ông Ḱnh đề nghị cô Mai dẫn Hùng con ông đi vượt biên ông sẽ lo mọi chuyện.
Mai dường như không tin vào tai của ḿnh:
-Ông không nói đùa chứ?
Ông Ḱnh nh́n cô cười:
-Tôi nghĩ là cô sẽ nói thế. Lời đề nghị của tôi rất nghiêm túc nói như người Sài G̣n là “một trăm phần dầu” cô ạ. Sau năm năm ở miền Nam tôi thấy chế độ Cộng Sản đă làm băng hoại mọi sự cô ạ. Những năm chiến tranh th́ người ta c̣n có thể biện minh nhưng khi vào miền Nam th́ tôi nhận xét thấy giá trị đạo đức nói chung là trong Nam ưu việt hơn ngoài Bắc. Sau năm năm th́ tôi thấy con người Cộng Sản đă làm cho miền Nam ngày càng tồi tệ, càng ngày càng giống như miền Bắc. Tôi đă thấy điều đẹp đẽ trong một xă hội văn minh, tôi không thể nào quay về những cái thấp hèn mà tôi đă mù quáng tôn sùng. Tôi muốn con trai tôi ra đi, tôi không muốn thấy nó trở nên một bánh xe trong cái cỗ máy thống trị này. Nếu cô hứa dẫn nó đi, chăm sóc nó đến năm 18 tuổi tôi sẽ lo tất cả mọi chi phí phương tiện ra đi cho cô.
Lư do tôi nhờ đến cô v́ thứ nhất tôi biết cô muốn ra đi và thứ hai cô là người rất thật thà, chung thủy. Ngay cả trong người thân tôi cũng không thể thố lộ kế hoạch này hay nhờ ai v́ lư do an ninh và tính mạng của tôi, chỉ có cô mới giúp được tôi. Chuyến vượt biên của cô do công an Đà Nẵng tổ chức bến băi, nên việc ra đi phải nói là rất chu đáo.
Chuyến đi thật suôn sẻ. Tàu vượt biên của Mai sau năm ngày lênh đênh đă cập bến Hương Cảng b́nh yên vô sự. Tại đây Hùng gặp lại gia đ́nh một người bà con xa ở Hải Pḥng đă đến Hương Cảng trước đó một tháng. Hùng muốn nhập chung form định cư với họ. Mai không đồng ư, qua một người trung gian cô gửi thư về Việt Nam hỏi ư kiến ông Ḱnh. Vài tuần sau, Mai được ông cho biết là ông bằng ḷng cho Hùng “tách form” với cô, và coi như lời hứa của cô đối với ông đă hoàn thành.
Khi được Cao Ủy phỏng vấn, cô giáo Mai chọn thành phố Sydney xinh đẹp của quốc gia Úc Đại Lợi làm nơi định cư. C̣n Hùng th́ theo bà con định cư tại Canada. Cô Mai đi học lại lấy bằng kỹ sư điện toán, cô rất nhân hậu nhă nhặn nên được rất nhiều người khác phái theo đuổi, nhưng không có ai có thể thay được h́nh ảnh của người phi công ngày nào.
Trong những năm gần đây khi các hội thân hữu Không Quân QLVNCH được thành lập tại Úc, người ta thường thấy cô trong những buổi họp mặt. Mai tham gia mọi sinh hoạt, báo chí văn nghệ. Câu hỏi đầu tiên cô hỏi những người lính Không Quân mà cô gặp lần đầu lúc nào cũng là: Có ai biết tin tức ǵ về anh Nguyễn Bé Tư phi công F-5E biệt phái ở Đà Nẵng hay không? Cô Mai không biết là lần thứ mấy đă hỏi câu hỏi đó, cô hỏi nhưng chính cô rất sợ câu trả lời về số phận của một người mất tích đă hơn hai mươi lăm năm.
Tháng Tư, 1998
Hùng đứa học tṛ ngày xưa của cô từ Canada qua thăm cô giáo Mai. Hai thầy tṛ gặp nhau mừng mừng tủi tủi sau mười bảy năm. Hùng bây giờ là một thanh niên tuấn tú lễ phép, rất chững chạc và là một bác sĩ y khoa. Hùng báo cho cô Mai biết là ông Ḱnh đă giải ngũ về hưu, và ông đă tỉnh ngộ hẳn giấc mơ Cộng Sản và sống rất an phận tại Hà Nội.
Trước lúc chia tay, Hùng đưa cho cô Mai một phong thư niêm kín, “Em cũng chẳng rơ có cái ǵ trong ấy mà bố em rất cảnh giác không dám gửi qua bưu điện, hay gửi qua người quen đi nước ngoài, chỉ khi em về Việt Nam bố mới trao cho em và dặn là phải đưa tận tay cho cô, và cho cô rơ là phải khó khăn lắm mới lấy được tư liệu này… Bố em dặn cô đọc xong đừng phổ biến, không th́ rắc rối lắm cô nhé!”
Trong phong thư là bản sao của tờ phúc tŕnh tổn thất của sở tác chiến không quân Quân Đội Nhân Dân. Tờ phúc tŕnh như sau: “Thể theo chỉ thị số… Đại Tướng Văn Tiến Dũng được lệnh từ Trung Ương Binh Chủng Không Quân Nhân Dân phải hạ quyết tâm khẩn trương làm chủ và tạo điều kiện hồi phục sử dụng sân bay Đà Nẵng để thành lập bộ phận trinh sát và pḥng thủ mặt Nam đề pḥng bọn Mỹ có thể quay trở lại can thiệp. Theo tinh thần trên, vào sáng ngày 30 Tháng Ba, lúc 5 giờ 15 sáng giờ Hà Nội một phi đội tiêm kích cơ hỗn hợp gồm hai máy bay chủng loại Mig21 và một Mig 17. Phi đội mang bí số KK10 được lệnh cất cánh từ Đồng Hới để trinh sát sân bay Đà Nẵng xem xét khả năng bố trí pḥng không và máy bay tiềm kích của quân đội ta sau này. Tiểu đoàn trinh sát TS5 báo cáo là căn cứ Đà Nẵng của quân đội Ngụy đă bị bỏ ngỏ hoàn toàn vào lúc 2 giờ sáng 30 Tháng Ba. Khi phi đội KK10 đă băng qua Xepon Lào và bắt đầu tiến vào Đà Nẵng từ hướng Tây Bắc, th́ bất ngờ một tiềm kích cơ của Không Quân Ngụy chủng loại F-5E xuất phát từ Đà Nẵng bất th́nh ĺnh tiến công. Giặc lái Ngụy sau khi dùng hai tên lửa loại AIM-9B bắn hạ hai chiếc Mig-21 của ta, hắn c̣n ngoan cố đuổi theo dùng súng bắn hạ thêm một máy bay Mig-17 của ta. Các đồng chí lái của quân đội nhân dân đă kiên cường bất khuất chống trả suốt gần 7 phút. Các đồng chí lái, Lai Như Hạch, Hồ Mạc Dịch, Đỗ Mai Quốc đă hy sinh oanh liệt. C̣n chiếc tiềm kích cơ địch đă bị tên lửa của ta bắn hạ. Tên giặc lái Ngụy nhảy dù đă bị quân dân ta bắt được. Tên giặc lái ác ôn này tên là Nguyễn Bé Tư, cấp bậc trung úy số quân… Trung Ương đă ra lệnh giải quyết thích đáng tên giặc lái này cương quyết không để những thông tin xấu lọt ra ngoài về sự kiện ba máy bay của không quân nhân dân anh hùng bị một tiềm kích cơ địch bắn hạ trong ṿng 7 phút. Bọn địch có thể lợi dụng để nói xấu Không Quân Nhân Dân. Đồng chí Thượng Tá Nguyễn Công Tâm chánh án, kiêm công tố viên ṭa án nhân dân đă tuyên án tử h́nh tên giặc lái Nguyễn Bé Tư. Tên Trung Úy Ngụy Nguyễn Bé Tư đă đền tội vào ngày 5 Tháng Tư, 1975.”
Trên góc trái của tờ phúc tŕnh có hàng chữ TUYỆT MẬT – không bao giờ được công bố.
Mai bâng khuâng, nhưng cô không thấy buồn, cô cảm thấy rất hănh diện và thanh thản như người lữ hành đă về lại nhà ḿnh. Từ lâu cô đă chấp nhận là con người mang cái tên Nguyễn Bé Tư đă không c̣n có mặt trên cơi đời này nữa, cô linh cảm là anh đă đền nợ nước một cách anh dũng, điều cô linh cảm bây giờ đă thành sự thật trên giấy trắng mực đen. Cô kiêu hănh về anh Nguyễn Bé Tư, anh đă chết hào hùng như anh đă sống. Cô thương mến người phi công ấy chẳng phải v́ anh hào hoa phong nhă như người ta thường nói về những người lính Không Quân VNCH. Cô thương anh v́ anh mộc mạc, thứ mộc mạc của loại đá bọc kim cương.
Anh Nguyễn Bé Tư “Ace” đầu tiên của Không Quân QLVNCH một ḿnh hạ ba phi cơ địch trong ṿng 7 phút, thế mà cuộc đời lại không có quyền biết đến anh. Bọn Cộng Sản run sợ và kính nể khi nhắc đến cái tên hiền ḥa của anh, chúng sợ đến nỗi phải giết anh.
Đêm nay Mai thấy ḷng ḿnh thật ấm áp dường như có sự hiện diện của anh Nguyễn Bé Tư đâu đây, dường như anh đang nói với cô đừng buồn đừng giận anh. Xoay xoay chiếc nhẫn Không Quân quanh ngón tay, Mai khe khẽ gật đầu không nói nên lời như đêm cuối cùng năm xưa c̣n ngồi bên anh. Bên ngọn đèn Mai vuốt lại mái tóc đă điểm sương, thấy ḿnh lại là cô giáo trẻ năm nào đang choàng hoa cho người phi công khu trục anh hùng của QLVNCH.
Thần Long
hoanglan22
08-24-2019, 20:27
Vào những năm 1966 – 1967, lúc bấy giờ t́nh h́nh chiến sự ở chiến trường Quảng Nam chưa đến thời kỳ ác liệt cho nên việc tự nguyện đi Hoàng Sa là điều rất hiếm
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1441335&stc=1&d=1566678083
Cuối cùng th́ tôi cũng không thể thoái thác về sự mong muốn của cậu vợ tôi – ông Trần Huỳnh Mính và anh bạn Đồ Xuân Trúc – người cùng học trường chùa Bà Mụ và ở cùng xóm với tôi sau Chùa Phật Học Hội An từ những năm 1952-1953. Mong muốn của hai người là được tôi viết kể về những ngày sống trên đảo Hoàng Sa vào thời điểm tôi làm đảo trưởng để góp mặt với tờ đặc san xuân Quảng Nam – Đà Nẳng với chủ đề: Hoàng Sa-Phần đất quê hương.
Tôi đă được đọc những bài viết về Hoàng Sa trên các báo. Hầu hết viết về tài liệu lịch sử chủ quyền đảo Hoàng Sa, về tài nguyên hải sản và khoáng sản của đảo Hoàng Sa, về cuộc hải chiên đẩm máu anh dũng của hải quân Việt Nam Cộng Ḥa với bọn cướp đảo Trung Cọng vào ngày 20/1/1974 nhưng chưa được đọc (hoặc chưa ai viết) về cuộc sống của những người lính chiến được giao nhiệm vụ trấn thủ đảo Hoàng Sa.
Vào những năm 1966 – 1967, lúc bấy giờ t́nh h́nh chiến sự ở chiến trường Quảng Nam chưa đến thời kỳ ác liệt cho nên việc tự nguyện đi Hoàng Sa là điều rất hiếm. Hầu hết những người trong chúng tôi là những người bị phạt đưa đi – tuy nhiên cũng có người bị chỉ định v́ chuyên môn như hiệu thính viên, y tá, truyền tin và cũng có một số ít người tự nguyện. Riêng bản thân tôi, sau khi cải vả dần đến xô xát với Đai đôi trưởng, tôi đă bị đưa về ty An Ninh Quân Đội của Tiểu khu để làm tự thuật và đă bị bút phê của Trung tá Tín – Tiểu Khu Trưởng T/K Quảng Nam phạt đưa đi Hoàng Sa thay quân.
Nhận công điện của P3/Tiểu Khu, tôi bắt đầu gom góp quân để thành lập trung đội Hoàng Sa, quân số có 35 người bao gồm cả tôi là đảo trưởng. Trung đội Hoàng Sa qui tụ hầu hết những thành phần bị kỷ luật từ các đại đội tác chiến đưa về, mỗi đại đội từ 2 đến 3 người để tôi gom góp lại cho nên sau này anh em gọi đùa tôi là chúa đảo của trung đội trừng giới Hoàng Sa.
Về tổ chức, trung đội được chia ra làm 3 tiểu đội trấn thủ 3 đảo chính gồm:
-Đảo Hoàng Sa (Pattle) có 13 người gồm tôi là đảo trưởng, trung sĩ Huynh là hiệu thính viên đánh morce (liên lạc với Quân Đoàn bằng máy đánh tich tich te te) y tá Khôn và thêm 10 binh sĩ nữa.
-Đảo Quang Ḥa (Duncan) 11 người do một Trung sĩ làm đảo trưởng.
-Đảo Duy Mộng (Drummond) 11 người cũng do một Trung Sĩ làm đảo trưởng.
Thời gian trấn thủ trên đảo HoàngSa của chúng tôi là 3 tháng, sau 3 tháng sẽ có đợt khác thay quân.
Từ một trung đội trưởng tác chiến quen với những ngày cầm súng hành quân lùng giặc, nay trở thành một đảo trưởng không hề biết ǵ về đảo Hoàng Sa nên mọi việc đối với tôi thật ngỡ ngàng. Rất may mắn, tôi đă gặp được C/úy Hệ thuộc Đại đội Hành chánh Tiếp vận/TKQN – người phụ trách về tiếp liệu và hướng dẫn mua sắm những thực phẩm cần thiết để đủ ăn trong 3 tháng ở trên đảo mà không có tiếp tế. Tàu của hải quân chỉ chở chúng tôi đến đảo và sẽ trở lại chở chúng tôi về đất liền sau ba tháng trấn thủ (nếu điều kiện trời yên biển lặng không có băo). Riêng trung đội Hoàng Sa chúng tôi đă phải chịu trể thêm 10 ngày v́ đợt thay quân cho chúng tôi bị cơn biển động nên tàu của hải quân không ra đúng hẹn. Chính v́ vậy cho nên tôi đă chọn tiêu đề cho những trang hồi kư này là: 100 ngày sống trên đảo Hoàng Sa (3tháng + 10 ngày tàu trể).
Để có đủ thực phẩm tiêu dùng cho ba tháng sống trên đảo (ngoại trừ 3 tháng gạo cho mỗi người được nhận từ Đại đội HCTV), chúng tôi đă được nhận một tháng tiền lương để đi mua sắm đầy đủ những thực phẩm để được lâu ngày như thịt hộp, gia vị, mắm muối, dầu ăn v..v… Ngoài ra chúng tôi c̣n mua thêm những thứ khác như thuốc lá, lưỡi câu, sơn đỏ (dùng để đồ mộ bia trên đảo) lưới đánh cá và 35 con vịt sống cho mỗi người một con.
Sau một hai ngày lang thang nấn ná tại Hội An để từ giă người yêu, từ giă vợ con và bạn bè –ngày rời đất liền để ra hải đảo của chúng tôi cũng đă đến. Xe của TK/QN chuyên chở chúng tôi ra trú tạm tại trại tiếp liên Quân vận Đà Nẵng trên đường Độc Lập gần trường Sao Mai để chờ tàu. Chúng tôi ở đây một ngày và sau đó được chuyên chở tiếp ra quân cảng Tiên Sa để chuẩn bị lên tàu ra đảo Hoàng Sa . Tại đây tôi đă gặp được toán nhân viên khí tượng gồm có năm người của sở khí tượng Đà Nằng . Họ cùng đi trên cùng con tàu với chúng tôi và cũng sẽ cùng trở về đất liền sau ba tháng làm việc tại đài khí tượng trên đảo Hoàng Sa.
Trong năm người nhân viên khí tượng, tôi lân la đến làm quen với bác Phong – một người Bắc di cư lớn tuổi –bác cho tôi biết là bác đă t́nh nguyện đi thế cho những người khác để làm việc trên đảo Hoàng Sa đă bốn đợt và đợt này là đợt thứ năm, v́ vậy sau này sống trên đảo bác đă cho tôi biết được nhiều chuyện về Hoàng Sa và một vài kinh nghiệm về câu các loại cá, cách bắt ốc gân, ốc nhảy, ốc tai tượng vv…
Dù chỉ có năm người nhưng hành trang họ mang theo ra đảo th́ lỉnh kỉnh đủ thứ . Khác với chúng tôi, ngoại trừ súng đạn cá nhân, trong chiếc ba-lô chỉ vơn vẹn một hai bộ áo quần. Đặc biệt tôi thấy lạ hơn là một vài người lính trong chúng tôi mang theo những bao cát đựng đầy đất lấy từ quê nhà. Tôi hỏi họ và được trả lời là mang ra đảo để gối đầu ngủ v́ ở ngoài đảo Hoàng Sa không có hơi đất dễ bị chứng phù thủng.
Chiếc Hộ tống hạm mà tôi đọc được hai chữ Đống Đa màu trắng viết trên thân tàu đă cập vào bến cảng. Chúng tôi chuyển mọi thứ lên boong tàu và chia riêng rẽ ra ba phần cho ba đảo để khi đến Hoàng Sa dề bề di chuyển vào bờ. Cùng đi với chúng tôi đợt này c̣n có ba vị sĩ quan Công Binh thuộc Quân Đoàn I – nghe đâu họ ra Hoàng Sa để khảo sát địa h́nh thiết lập sân bay cho loại phi cơ Ca-ri-bu loại phi cơ chỉ cần phi đạo ngắn để cất và hạ cánh.
Sau một hồi c̣i tàu dài để chào từ giả những người trên đất liền, con tàu từ từ rời cảng Tiên Sa và bắt đầu cuộc hải tŕnh hướng đến Hoàng Sa. Tôi nhớ thời điểm đó là ba giờ hiều vào một ngày cuối tháng sáu của năm 1967.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1441336&stc=1&d=1566678083
Hoàng hôn buông xuống . Con tàu vẫn nhẹ nhàng rẻ sóng ra khơi .Nước biển đă đổi màu đen sậm . Cảng Tiên Sa và thành phố Đà Nằng đă lùi lại đằng sau . Chúng tôi chỉ c̣n nh́n được những vệt sáng của ánh điện để biết hướng đó là đất liền . Bây giờ ngồi trên boong tàu, bốn bề mênh mông là biển cả . Nh́n những khuôn mặt sạm nắng nhưng rạng rờ vui tươi của những người lính chiến ḷng tôi cũng cảm thấy vui lây . Là những người quanh năm chỉ biết cầm súng lùng giặc, giờ đây không c̣n e ngại đến những ḿn bẩy băi chông hay sự sống chết thương tật , đời lính chiến dễ ai có được một lần lênh đênh trên biển vừa ăn cơm chiều vừa ngắm sao trời và sóng nước như chúng tôi.
Để khỏi bị nôn mửa,y tá Khôn đă cho tôi và Trung sĩ Huynh uống mỗi người một viên thuốc trừ say sóng,chính nhờ viên thuốc này mà tôi đă đủ sức vận chuyển thực phẩm cùng quân trang của những người lính đi cùng tôi vào bờ khi đến đảo v́ hầu hết họ đều bị say sóng nằm la liêt.
Sau bừa cơm tối tự túc đầy thú vị của mỗi người,chúng tôi dần dần t́m vào giấc ngủ-giấc ngủ chập chờn cùng con tàu lênh đênh trên sóng nước mông mênh .
Nằm thao thức măi không ngủ được,tôi ngồi dậy dựa ḿnh vào boong tàu,đốt điếu thuốc và rít từng hơi dài nghĩ về buổi chia tay từ giă với Tuyết Mai (tên người yêu, bà xă tôi bây giờ) ngày hôm qua tại Đà Nẵng mà ḷng dâng lên bao nỗi nhớ .Tôi lấy cuốn sổ tay mang theo ghi vội mấy câu thơ :
Tàu ra khơi anh mang theo nỗi nhớ
Gọi người t́nh giữa sóng nước mù
Em thành phố,anh miền xa hải đảo
Nhớ nhau xin soi mặt ánh trăng rằm .
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1441338&stc=1&d=1566678083
Có phải chúng tôi cùng hẹn nh́n vào ánh trăng rằm mỗi tháng để cùng thấy nhau cho vơi đi bao nỗi nhớ nhung .
Gió biển đêm lành lạnh .Một vài người lính cũng không ngủ được thức dậy dựa vào boong tàu hút thuốc,vài người th́ nôn mữa v́ không quen với những cái lắc chồng chềnh của con tàu .Sóng vẫn vỗ vào mạn tàu trên màn tối đen của mặt biển tôi chỉ nh́n thấy được những đốm sáng của chất lân tinh trên bọt sóng .Điếu thuốc cũng sắp tàn trên tay,tôi ghi vội thêm bốn câu thơ vào quyển sổ :
Khói quyện tơ sầu trên ngón tay
Chiến y năm tháng nặng vai gầy
Hành trang nửa mănh trăng đầu súng
Đi măi cho tṛn nghĩa nước mây .
Sau này bốn câu thơ đó tôi đà viết bằng sơn đỏ lên bờ tường loang lỗ của ṭa nhà trên đảo-nơi chúng tôi trú đóng .Khoảng cuối năm 1974, t́nh cờ trong một lần ngồi tṛ chuyện về Hoàng Sa, Trung úy Phạm Hy, đại đội trưởng của tiểu đoàn tôi, người đă bị Trung cộng bắt làm tù binh trong trận đánh cướp đảo Hoàng Sa vào ngày 20 tháng 1 năm 1974 đă đọc lại cho tôi nghe bốn câu thơ đó. Anh ta lúc bấy giờ cũng là đảo trưởng Hoàng Sa, anh nói anh em lính trên đảo rất thích bốn câu thơ đó mà không biết tác giả là ai.
Sau một đêm dài lênh đênh trên biển,trời bắt đầu hừng sáng báo hiệu cho chúng tôi một ngày mới .Réo gọi nhau thức dậy nh́n xem mặt trời mọc lên từ chân biển hướng đông .Như một chảo lửa đỏ từ từ nhô lên khỏi mặt biển,đẹp và cũng lạ lùng đối với chúng tôi .Mặt nước biển bây giờ đă đổi từ màu đen sậm sang màu xanh .Tôi nh́n đồng hồ bấy giờ đă là tám giờ sáng ,chúng tôi dùng điểm tâm. bằng những ổ bánh ḿ mua tại đất liền từ chiều hôm qua .Đứng trên boong tàu vừa ăn vừa nh́n những con cá chuồn vụt bay lên khỏi mặt biển khi con tàu chạy đến gần,xa xa là những con hải âu và nhạn biển đang chúi đầu bay sà xuống để bắt mồi là những con cá con bơi gần mặt nước
Từ xa chúng tôi đă nh́n thấy phía trước mũi tàu h́nh ảnh lờ mờ của nhóm đảo Hoàng Sa. Ḷng chúng tôi cũng rộn ràng mong tàu sớm cập bờ. Và cuối cùng th́ tàu cũng đă đến. Tôi nh́n đồng hồ kim chỉ đúng 11 giờ sáng ,như vậy chuyến hải hành của chúng tôi từ cảng Tiên Sa Đà Nẵng đến Hoàng Sa phải mất đến 20 giờ tàu chạy liên tục . Anh em lính trên tàu nhốn nháo chuẩn bị thu xếp mọi thứ để rời tàu .Con tàu chạy chậm lại và vài người lính hải quân đang chuẩn bị thả neo .Tàu đậu ngoài mí sóng (từ của anh em lính ở Hoàng Sa) nơi vùng nước sâu .Từ đây vào đến bờ để lên đảo khoảng cách xa hơn 100 mét,hải quân phải hạ thuyền nhỏ có gắn động cơ để chuyển hành lư,thực phẩm và đưa chúng tôi lên bờ .Từ trên boong tàu nh́n vào đảo tôi đă thấy lố nhố những anh em lính đảo đợt trước chạy tới chạy lui trông có vẻ nôn nóng muốn sớm trở lại đất liền.
Toán chúng tôi có 13 người nhưng đă mất hết tám người bị say sóng không c̣n làm ǵ được .Tôi, trung sĩ Huynh, y tá Khôn và thêm hai người lính nừa cố gắng vận chuyển mọi thứ xuống thuyền máy để di chuyển vào bờ .Chỗ chúng tôi chất quân trang và thực phẩm lên bờ là một cầu tàu nhỏ xây bằng xi-măng chạy dài ra biển độ khoảng 50 mét .Trên cầu tàu có hai đường rây bằng sắt dùng để đẩy xe g̣ong (là một loại xe nhỏ bằng sắt có bốn bánh nhỏ giống như bánh xe lửa chạy trên đường rây dùng để chở phân phốt-phát) Nhờ có chiếc xe này nên chúng tôi chuyển quân trang và thực phẩm một cách dễ dàng từ cầu tàu vào đến ṭa nhà chúng tôi trú đóng .
Ba vị sĩ quan Công Binh cũng theo chúng tôi lên đảo. Tôi th́ bận rộn đi nhận bàn giao c̣n ba vị sĩ quan công binh th́ đi ṿng quanh đảo để khảo sát địa h́nh .Chuẩn úy Bửu – tên người đảo trưởng tiền nhiệm – vội vă bàn giao cho tôi một vài thứ trên đảo để kịp thời gian ra thuyền máy lên tàu. Tôi kư nhận một khẩu đại liên 50 đặt trên sân thượng ṭa nhà, một máy phát điện đă bị gỉ sét v́ hơi nước mặn không c̣n xử dụng được, ba tháng gạo dự trử cho mỗi người đă mục nát không ăn được, một sơ đồ pḥng thủ trên đảo và một máy hiệu thính để hàng ngày liên lạc với quân đoàn I. Nhiệm vụ chính của chúng tôi là trấn thủ trên đảo để bảo vệ và xác định chủ quyền của đảo Hoàng Sa thuộc Việt Nam Cộng Ḥa đồng thời bảo vệ an ninh cho đài khí tượng.
Kư nhận bàn giao xong,tôi chưa kịp hỏi thêm được ǵ th́ Ch/úy Bửu đă vội vàng lên thuyền máy ra tàu lớn .Con tàu nhổ neo và tiếp tục chạy đến thay quân cho hai đảo Duncan và Drummond .Khoảng ba giờ chiều cùng ngày tàu trở lại đảo Hoàng Sa thả neo đón ba vị sĩ quan công binh. Một hồi c̣i tàu dài vang lên cùng với những cái vẫy tay giả từ của anh em lính hải quân, con tàu từ từ rời đảo và hướng về phía đất liền .
Và chúng tôi thật sự bắt đầu một cuộc sống mới – cuộc sống yên b́nh không có không khí chiến tranh, bốn bề xung quanh là trời nước xa tít đến tận chân mây ,một nơi hoàn toàn xa rời cuộc chiến, đêm không c̣n nghe tiếng bom gầm đạn hú và thật sự một nơi vắng bóng đàn bà . Sau khi ổn định được vài việc và phân chia công tác dọn dẹp, nấu nướng cho anh em lính,tôi cùng trung sĩ Huynh đi loanh quanh quan sát một vài nơi trên đảo.
Nơi trú ngụ của chúng tôi là một ṭa nhà lớn xây rất kiên cố, có lẽ xây dựng từ lâu (có thể xây từ thời Pháp thuộc) nên trông rất cũ kỷ .Nhà xây cao,gồm một nhà lớn ở giữa và hai nhà ngang ở hai đầu dính vào nhau .Nơi hai nhà ngang có hai thang bằng sắt thẳng đứng để leo lên sân tầng thượng,tại đây có một tháp hải đăng nhỏ(không xử dụng)và chúng tôi đă đặt một khẩu đại liên 50 có thể xoay quanh bốn phía biển .Đứng trên tầng sân thượng chúng tôi có thể nh́n thấy lờ mờ ba cây dừa từ đảo Duncan khi thủy triều xuống .Chúng tôi cũng xử dụng sân thượng để phơi khô cá và ốc gân bắt được hàng ngày .Để báo hiệu cho máy bay biết đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam Cộng Ḥa, trên mặt bằng sân thượng có vẽ bằng sơn một lá quốc kỳ màu vàng ba sọc đỏ rất lớn .Nền nhà được lát bằng gạch hoa rất đẹp,tất cả các cửa sổ và cửa lớn đều không có,v́ thế chúng tôi rất khốn khổ chịu cảnh ướt át và lạnh mỗi khi trên đảo bị gió băo .Dưới nền móng nhà là một tầng hầm lớn có đường ống dẫn từ sân thượng xuống để chứa nước mưa xử dụng cho sinh hoạt hàng ngày .Những bức tường trong nhà th́ loang lỗ viết đầy những tên tuổi ngày tháng để lưu niệm của những người từng có mặt trên đảo .Tôi đọc được có người đă đến đây từ năm 1955,và chính trên bức tường này tôi đă viết bốn câu thơ như đă nói ở phần trước .
Nh́n về phía bên trái của ṭa nhà chúng tôi ở cách khoảng ba mươi mét là ṭa nhà đài khí tượng Hoàng Sa. Nhà đẹp,khang trang ,đầy đủ cửa kính hai lớp .Pḥng làm việc ,pḥng truyền tin,pḥng ngủ đều riêng biệt thứ tự .Dưới nền sàn nhà cũng là một hầm lớn chứa nước mưa dùng để nấu nướng ăn uống .Chúng tôi thường sang lấy nước tại đây về dùng v́ nước sạch c̣n hầm chứa nước của ṭa nhà chúng tôi ở th́ đầy xác chuột chết và gián nổi lềnh bềnh .Chúng tôi không thể vớt bỏ chúng được v́ chỉ có một ô vuông trống nhỏ trên sàn nhà đủ để thả gàu xuống múc nước ..
Toán khí tượng gồm có năm người .Một người lo phụ trách công việc nấu ăn và giật nổ máy chạy điện c̣n bốn người kia là chuyên viên .Công việc của họ là cứ khoảng hai đến ba giờ là cho máy điện nổ bơm một bong bóng lớn màu đỏ xong thả bay lên không trung rồi dùng kính chuyên môn để đo tốc độ gió và biết hướng gió di chuyển .Họ cũng xử dụng một kính viễn vọng lớn để quan sát quanh đảo,t́m biết vùng nào có bảo đang tập trung và di chuyển về hướng nào .Cứ khoảng hai đến ba giờ họ lại lặp lại công việc đó và báo cáo về đất liền ,v́ vậy thời gian lội biển và đi câu cá của họ rất hiếm,khác với chúng tôi cả ngày cứ lang thang quanh đảo.
Sống gần đài khí tượng chúng tôi cũng nhờ được họ báo cho biết mỗi khi có mưa sắp di chuyển về hướng đảo Hoàng Sa là chúng tôi mang ốc và cá đang phơi nắng vào .Đứng trên tầng thượng ṭa nhà chúng tôi ở,với mắt thường chúng tôi cũng có thể biết được hướng nào có bảo đang tập trung .Vùng có bảo tập trung th́ từ mặt biển lên không trung trông cả một vùng đen xám và u ám trong lúc xung quanh vùng đó trời vẫn nắng và trong sáng .
Phía trước ṭa nhà chúng tôi ở có một cái giếng c̣n tốt đầy nước nh́n rất trong nhưng lại không thể dùng để nấu nướng được mà chỉ dùng để tắm giặt .Nước hơi lờ lợ mặn,chúng tôi múc nấu thử th́ nước sủi bọt và chuyển sang màu đục ngầu như nước vo gạo .Cạnh giếng là một cây dừa,vài cây ớt,vài đám rau sam và nhiều nhất là những bụi sả .Có lẽ nhờ có phân phốt-phát trên đảo nên những bụi sả phát triển và lan ra cả một vùng rộng đến vài mét .Nhờ có những bụi sả này mà chúng tôi có được một gia vị thơm để ướp vào thịt vích xào nấu ngon hơn .Từ cái giếng này chạy ra đến cầu tàu có hai đường rây để đẩy xe g̣ong chở phân và vận chuyển những vật liệu cần thiết .
Bên kia đường rây là một nhà nguyện cho những người theo đạo Công Giáo. Nhà nguyện nhỏ, tường xây bằng gạch và lợp tôn. Tôi bước vào trong chỉ thấy c̣n lại một cây thánh giá bằng gỗ treo trên tường trông có vẻ hoang tàn không có người lui tới .Tôi đă cho hai người lính có đạo Công Giáo dọn quét sạch sẽ .Thời gian sau hai người lính này cùng bác Phong bên khí tượng thường vào đây cầu nguyện cho sự b́nh an của họ trên đảo .Cách nhà nguyện không xa là ba bốn nhà làm bằng tôn khá lớn,đây là cơ sở chế biến phân phốt-phát để chở về đất liền .Tôi nghe bác Phong nói lại cơ sở này là của bà Nhu,sau cuộc đảo chánh lật đổ Tổng thống Diệm năm 1963 th́ cơ sở này ngưng hoạt động,toán công nhân chế biên phân phốt-phát ở đây suưt đói v́ bị bỏ quên .sau nhiều lần nhờ truyền tin bên đài khí tượng cầu cứu,tàu hải quân đă ra chở họ về đất liền .Quan sát bên trong những căn nhà này tôi thấy c̣n bỏ lại một cổ máy xay nghiền phân phốt-phát đă gỉ sét,vài ba bao phân lở dỡ .
Sau khi đi loanh quanh quan sát khu vực gần ṭa nhà chúng tôi ở, tôi rũ trung sĩ Huynh cùng tôi đi dạo một ṿng quanh đảo .Để ra được băi cát chạy quanh đảo,chúng tôi có được ba con đường ṃn đi xuyên qua rừng cây ráy biển (là một loại cây cao độ hai đến ba mét,thân mềm và xốp,lá nhỏ mọc chi chít trên cát,nhờ những cành khô của loại cây này mà chúng tôi có đủ chất đốt để nấu nướng trong suốt thời gian sinh sống trên đảo) và cây nhàu(loại cây này nghe nói rễ và vỏ cây có thể dùng nấu nước làm trà chửa bệnh ǵ đó) ngoại trừ con đường chính từ cầu tàu theo đường rây dẫn vào đến giếng nước .Xung quanh đảo có được ba pháo đài pḥng thủ,nhỏ,xây bằng xi-măng có lỗ châu mai hướng ra phía biển .Đi ṿng quanh hơn nửa đảo vễ phía bên trái,chúng tôi thấy một ngôi miếu xưa xây bằng gạch và vôi, mái lợp ngói âm dương tọa lạc trên băi cát cao xung quanh bao phủ bởi những cây nhàu và cây ráy biển.
Theo lời bác Phong bên đài khí tượng th́ ngôi miếu này được xây dựng từ thời vua Gia Long khi chính vua đă thân hành ngự giá đến đảo Hoàng Sa khoảng vào năm 1816 .Ngôi miếu được gọi là Miếu Bà v́ bên trong nơi bàn thờ chính thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu (một vị nữ thần ban sự b́nh an và cứu những người đi biển gặp nạn ) hai bên bàn thờ là hai câu liễn đỏ viết bằng chữ Hán .Ngôi miếu được anh em lính những đợt trước quét dọn sạch sẽ và cúng bái đầy đủ vào những ngày rằm và mồng một mỗi tháng .Phía sau ngôi miếu là một nghĩa địa nhỏ có khoảng hơn mười ngôi mộ,có hai ngôi mộ có bia bằng chữ Hán,số c̣n lại là mộ đắp bằng cát không có bia .Nghe bác Phong nói lại những ngôi mộ này là mộ của những người đi đánh cá bị băo đánh ch́m và trôi dạt vào đảo,được những người trên đảo chôn cất .Tuy bác Phong là người theo đạo Công Giáo nhưng bác nói với tôi ngôi Miếu Bà này rất linh thiêng,đêm tối đi dạo biển một ḿnh bác không dám đi ngang qua đây .Những người lính đợt trước chúng tôi cũng nói vậy,họ kể lại một cách vội vă trước khi ra tàu trở về đất liền là từ cầu tàu họ đă nh́n thấy một khối lửa đỏ như quả cầu bay xẹt trên mặt biển từ đảo Cam Tuyền qua đến Miếu Bà rồi tắt lịm,họ c̣n dặn ḍ chúng tôi nếu thấy th́ không được quở (tiếng địa phương Quảng Nam có nghĩa là không được kêu,không được hỏi ,không được chỉ chỏ khi nh́n thấy một sự cố ǵ đó có vẻ ma quái,linh thiêng,nếu không sẽ bị điên hoăc bị bệnh )Chính v́ vậy cho nên nhiều người trong chúng tôi thường đến đây thắp nhang cúng vái trong những ngày rằm và mồng một mỗi tháng để cầu xin được b́nh an và sức khỏe trong suốt thời gian sống trên đảo .
Băi biển trước Miếu Bà phần lớn là cát,rất ít san hô và bông đá biển (là tảng đá có h́nh dáng tṛn,dẹp,có dộ dày từ hai đến ba tất ,màu vàng nhạt,trên và xung quanh tảng đá có nhiều con hàu biển bám vào, .dưới tảng đá có nhiều hang nhỏ để cho những con cá mú bông sinh sống,chúng tôi có thể dùng gậy nạy lên khỏi mặt cát ) .Nước sâu và trong vắt nh́n tận đáy .Chính tại băi biển này ,chúng tôi đă bắt được nhiều ốc nhảy để lấy ruột phơi khô đem về đất liền .
Đối diện với Miếu Bà qua một khoảng cách biển nước sâu, xa từ ba đến bốn km về phía tây nam là đảo Cam Tuyền (Robert) Chính con tàu đưa chúng tôi ra đảo đă chạy kẹp vào giữa hai đảo Hoàng Sa và Cam Tuyền, đây là một đảo nhỏ có diện tích khoảng 1,5 km vuông có nhiều phốt-phát,không có quân trú đóng .Từ đảo Hoàng Sa nh́n sang chúng tôi thấy được những tảng đá lớn nhỏ chen với bờ cát bao quanh đảo .Có thể gọi đây là quê hương của những đàn hải âu và nhạn biển .Hầu hết chúng qui tụ về đảo này vào những buổi chiều tối hoặc những lúc biển bị băo tố.
Tiếp tục đi theo băi biển từ Miếu Bà đến một khoảng cách xa nữa th́ chúng tôi gặp được cầu tàu-nơi đầu tiên chúng tôi đặt chân lên đảo .Từ cầu tàu ra đến mí sóng –nơi tàu lớn đậu-có một đường nước sâu khoảng hai đến ba mét không có san hô,nước trong có thể nh́n thấy được những con cá nhỏ bơi dưới đáy .Chính tại đây tôi đă câu được hai con cá mập lớn và cũng là nơi anh em lính chúng tôi thường tụ tập lại để câu cá ban đêm .
Đứng trên cầu tàu nh́n chếch về hướng tây bắc,chúng tôi thấy được xác một chiếc tàu lớn bị ch́m ,đứng trơ vơ giữa băi san hô gần mí sóng cách chỗ chúng tôi đứng chừng 200 mét .Bác Phong cho tôi biết chiếc tàu này là tàu chở phân phốt phát về đất liền bị bỏ lại sau năm 1963 .Trên boong tàu gỉ sét là nơi tụ hội của các loài chim biển như bồ nông,nhạn biển ,hải âu. Tôi đă tốn hết 30 phút để đi giáp một ṿng quanh đảo quan sát toàn cảnh khu vực đảo từ bờ cát ra đến mí sóng .Tôi ước đoán đảo Hoàng Sa có diện tích chừng 3,5 đến 4 km vuông .Phần đảo nhô lên khỏi mặt nước biển chừng 1,5 km vuông gồm có những tảng đá lớn nhỏ,bờ cát vàng bao quanh cùng với những cây nhàu và cây ráy biển mọc chi chít .Phần này cao hơn mặt nước biển độ 5 mét có băi cát chạy lài xuống đến bờ nước .Từ bờ nước ra đến mí sóng là những rặng san hô đủ màu sắc và bông đá biển bao quanh đảo ngoại trừ băi trước Miếu Bà th́ rất ít san hô .Những băi san hô này mọc lan xa ra tận mí sóng đến cả trăm mét có băi xa đến hơn hai trăm mét .Hầu hết san hô và bông đá biển đều nằm ch́m dưới mặt nước .
Với mắt thường không cần dùng đến kính lặn biển ,chúng tôi cũng có thể thấy rỏ được những màu xanh tím đỏ vàng cam trắng của những nhánh san hô. Xen kẽ vào những nhánh san hô,những con cá nhỏ đủ màu sắc bơi lội và rỉa mồi là những sinh vật li ti bám trên san hô và bông đá biển .(San hô là loài động vật xoang trùng sống thành từng băi ở bờ biển,cơ thể có bộ xương bằng chất khoáng kết thành khối theo h́nh gạc hưu)Tôi bẻ thử một nhánh san hô màu xanh đem lên khỏi mặt nước biển để phơi nắng độ 15 phút,san hô từ từ khô dần và chuyển sang màu trắng như vôi .V́ vậy chất phốt-phát trên đảo là do sự tác dụng của phân chim lên chất vôi của san hô tạo nên .Giữa những rặng san hô tôi cũng thấy được những khoảng cát rộng hơn một sân bóng rổ,chính tại những vũng cát trũng này anh em lính chúng tôi đă rượt bắt những con cá chúc đầu khi thủy triều rút xuống.
Về hai đảo Quang Ḥa (Duncan) và Duy Mộng (Drummond) th́ tôi không được nh́n thấy v́ tàu hải quân thay quân cho đảo Hoàng Sa (Pattle) trước tiên, sau đó mới đến đảo Duncan và cuối cùng là Drummond. Sau hơn ba tháng trú đóng trên đảo Hoàng Sa, ngày trở lại đất liền, đứng trên boong tàu tôi mới nh́n thấy được hai đảo này và theo lời kể lại của anh em lính đóng trên hai đảo cùng với sự quan sát được của tôi th́: đảo Duncan gồm có một đảo lớn nối liền với một đảo nhỏ bằng một giải cát chạy dài, nhô lên khỏi mặt nước biển độ bốn mét có nhiều tảng đá lớn nhỏ và băi cát vàng bao quanh. Trên đảo có ngôi nhà bằng tôn cho anh em lính ở, ba cây dừa cùng những bụi cây ráy biển. Đảo Drummond th́ cũng vậy nhưng lại có được một con lạch nhỏ sâu chạy gần sát bờ.
Vào thời điểm tôi ra thay quân cho đảo Hoàng Sa năm 1967, tôi không hề nghe ai nói (kể cả bác Phong bên đài khí tượng ) về tên đảo Phú Lâm. Trên biên bản kư nhận bàn giao chỉ có những tên đảo Hoàng Sa (do tôi làm đảo trưởng ) và hai đảo Duncan và Drummond do hai trung sĩ làm đảo trưởng. Năm 1974, Tr/úy Phạm Hy (Đại đội trưởng của tiểu đoàn tôi) kể lại với tôi là Trung Cọng đă cho quân đổ bộ lên đảo Cam Tuyền (Robert) trước rồi sau đó mới chiếm tiếp đảo Hoàng Sa và bắt toàn bộ anh em trên đảo làm tù binh chở về đảo Hải Nam. Với sự kiện tranh giành xác định chủ quyền của đảo Hoàng Sa hiện thời giữa CS Việt Nam và Trung Cọng th́ tôi nghĩ tên gọi đảo Phú Lâm (tên gọi hiện tại) có phải là tên của đảo Hoàng Sa do tôi trấn đóng năm 1967 ?
H́nh dung trở lại những ngày tháng cũ sống trên đảo Hoàng Sa từ năm 1967 đến nay đă 46 năm trôi qua – 46 năm dài đăng đẳng .Hoàng Sa tuy đă mất vào tay quân cướp đảo Trung Cọng nhưng h́nh ảnh Hoàng Sa vẫn c̣n sống măi trong tâm tưởng của tôi .Những kỷ niệm về Hoàng Sa,từ những sinh hoạt hàng ngày,từ những khuôn mặt sạm nắng của những người lính giữ đảo đến những chuyện vui buồn trên đảo vẫn c̣n in rỏ nét trong kư ức của tôi .Bây giờ tuy đă ngoại tuổi thất thập,đă là người lính già sống đời lưu xứ,nhớ trước quên sau nhưng có một dịp nào đó để tâm hồn lảng đảng trôi đến Hoàng Sa th́ mọi việc trên đảo trong kư ức của tôi dễ dàng sống lại.
Sinh hoạt hàng ngày trên đảo. Bắt vích và t́m trứng vích.
Con vích (Olive ridley sea turtle).
Vích là tên gọi từ những người đánh cá biển và anh em lính đảo chúng tôi chỉ danh những con rùa biển, h́nh dáng giống như con đồi mồi,rất lớn,có con có mu dài đến 1,3 mét và ngang hơn 1 mét có bốn chân giống như chân đồi mồi dùng để bơi . Khi ḅ lên bờ để đẻ th́ quạt bốn chân để trườn ḿnh tới nhưng ở dưới nước th́ bơi rất nhanh .Tuy là con vật sống dưới nước nhưng lại ḅ lên bờ cát đào ổ cạnh những bụi cây ráy biển để đẻ .Trứng vích có hinh tṛn và nhỏ như quả bóng bàn,vỏ trứng mỏng nhưng dai ,màu trắng Khi luộc trứng vích,ḷng đỏ trứng đông cứng lại như ḷng đỏ trứng gà nhưng ḷng trắng th́ vẫn lỏng .Một con vích đẻ gần cả trăm trứng,có con đẻ nhiều hơn.
Bữa thịt vích đầu tiên trên đảo.
Sau hơn 20 tiếng đồng hồ lênh đênh trên mặt biển,đêm đầu tiên chúng tôi t́m vào giấc ngủ ngon lành .Thật sự một giấc ngủ b́nh yên đối với những người lính chiến như chúng tôi . Xa rời cuộc chiến .Sao trời trên đảo thay cho những đóm hỏa châu,tiếng gió biển cùng với tiếng sóng vỗ ŕ rầm đă thay cho tiếng rít dài của làn đạn pháo .Sống trên đảo không có hơi đất,ngủ nhiều và ít hoạt động dễ sinh ra bệnh phù thủng .cho nên từ chiều tôi đă động viên anh em lính mỗi sáng hàng ngày phải thức dậy sớm chạy ṿng quanh đảo.
Mặt trời mới bắt đầu hừng sáng nơi chân mây, chưa kịp thức dậy th́ chúng tôi đă nghe tiếng réo gọi của Chi –tên một người lính –kêu anh em chúng tôi đi lật bắt vích .Té ra cậu này thức dậy từ sớm đi một ḿnh ra băi biển và trông thấy một con vích đang đẻ chưa ḅ xuống nước .Toàn thể chúng tôi thức dậy chạy xuống băi cát nơi có con vích,ba người lính cùng nhau lật ngữa một con vích lớn .Con vích bị lật ngữa,phần nhô lên của mu vích nằm trũng xuống cát và bốn chân ngọ ngoạy giữa khoảng không .Đầu con vích giống như đầu con rùa và lớn như một bàn tay tôi chụm lại. Tôi thấy hai mắt của nó chảy dài nước mắt, những giọt nước mắt nhỏ xuống ướt cả một vùng cát nhỏ.
Lần đầu tiên nh́n thấy được một con vích,chúng tôi không biết bằng cách nào để xẻ thịt .Trung sĩ Huynh đề nghị bắn vào đầu vích trước cho chết rồi mới lấy thịt .Hai phát súng cac-bin đoành đoành,đầu con vích nát bấy .Theo chỉ dẫn của trung sĩ Huynh ,tôi dùng lưỡi lê rọc theo đường mềm của cái yếm con vích dưới bụng .Cái yếm vích được nâng lên,cả cái mu vích lật ngữa giống như một cái chảo lớn đựng đầy huyết và ruột gan phèo phổi. Chúng tôi nghiêng mu vích cho huyết vích chảy ra ngoài xong dùng dao lạng từng miếng thịt vích và đem bộ ḷng vích ra ngoài .Con vích lớn nên thịt vích rất nhiều,tôi đề nghị bỏ vào thùng thiếc muối để dành ăn trong những ngày biển động không bắt được cá .(kết quả năm ngày sau đó phải mang ra cầu tàu đổ v́ hôi thối)
Chúng tôi mang thịt vích về xắt ướp với gia vị từ đất liền mang theo cùng với sả trồng trên đảo.
nấu hai món xào và cari .(thịt vích có màu đỏ,mềm,giống thịt ḅ,nhưng có người nói ăn nhiều sẽ bị nổi phong) .Trong bộ ḷng vích,phần ngon nhất là bao tử vích (giống như bao tử ḅ )màu trắng,mặt bên trong bao tử có những lớp gai lớn ngắn và không có mùi hôi v́ vích ăn toàn rong biển ,luộc chín ,chấm với mắm ăn gịn như bao tử ḅ .Thế là ngày hôm đó và hai ba ngày kế tiếp chúng tôi chỉ ăn toàn thịt vịt đến phát ớn.
T́m đào trứng vích.
Vích thường ḅ lên bờ cát đào lỗ để đẻ trứng .Thời điểm chúng ḅ lên bờ là sau 10 giờ tối và ḅ trở lại xuống nước khi trời hừng sáng .Sau khi t́m được vị trí thích hợp làm ổ,vích dùng hai chân sau moi một cái lỗ sâu chừng bốn tất và rộng chừng ba tất,kê đít vào để rặn đẻ .Khi đă đẻ hết trứng chúng dùng hai chân sau lấp cát lại và xoay ḿnh cà cái yếm dưới bụng tại lỗ vừa mới đẻ ngang với mặt cát,tiếp tục ḅ đi và lặp lại như vậy vài chỗ để ngụy trang,v́ thế nếu không ŕnh được chỗ vích đẻ rất khó t́m thấy trứng.
Xung quanh băi cát đảo Hoàng Sa,chúng tôi thường thấy mỗi đêm có chừng năm sáu con vích ḅ lên bờ để đẻ .Để t́m được trứng vích,chúng tôi dùng cây thông ṇng súng garant M1 thọc sâu xuống cát những chỗ vích xoay ḿnh ngụy trang xong rút cây thông ṇng lên,nếu đầu cây thông ṇng có dính chất ướt nhầy của trứng th́ đích thực là ổ vit đẻ và từ từ moi cát đem trứng vích lên
Thường một ổ vích đẻ chúng tôi đếm được trên 80 trứng Trứng vit đào được không thể ăn hết một lần, chúng tôi đào một lỗ cát bỏ trứng xuống và lấp cát lại,khi cần ăn lại moi cát lấy trứng lên. Hầu như mỗi người trong chúng tôi đều có một lỗ chôn trứng vích để ăn từ từ.
Ŕnh xem vích đẻ.
Để biết được vích đẻ trứng như thế nào,tôi rũ Trung sĩ Huynh,y tá Khôn và tôi mang đèn pin đi ŕnh xem vích đẻ .Đúng 11 giờ tối (thời điểm vích thường ḅ lên bờ )chúng tôi đi ṿng quanh đảo,giữ im lặng và không mở đèn sáng .Trời sáng lờ mờ nhờ đêm có nhiều sao .Chúng tôi thấy một con vích lớn từ dưới nước đang ḅ trườn lên bờ một cách nặng nề .Chúng tôi dừng lại,nấp vào một bụi cây ráy biển để quan sát ,rất im lặng (nếu vích phát hiện có tiếng động hoặc có người th́ sẽ ḅ trở lại xuống nước) con vích ḅ tới ḅ lui t́m một vài chỗ và cuối cùng th́ cùng t́m được một vị trí thích hợp là một chỗ cát cao cạnh bụi cây ráy biển để đào lỗ đẻ trứng.
Ba người chúng tôi yên lặng quan sát .Con vích nằm im,dùng hai chân sau đào một cái lỗ cát sâu và rộng chừng ba tất .Hai chân sau của con vích hất tung cát ra xa,chúng tôi cũng nghe được tiếng cát bay rào rào khi chạm vào những lá cây ráy biển .Đào được một hồi lâu,con vích đặt đít ngay trên miệng lỗ cát vừa mới đào,hai chân sau khép lại hai bên miệng lỗ cát,hai chân trước khép lại hai bên đầu và bắt đầu rặn đẻ .Ba người chúng tôi rón rén ḅ lại phía sau nằm dài trên cát và pin đèn ngay xuống miệng ổ vích để xem .Con vích rặn và thở rất lớn ,nó có vẻ như rất mệt .Mỗi lần vích rặn đẻ,chúng tôi thấy rơi ra từ hai đến ba trứng và có rất nhiều nước nhờn .Tôi se sẽ đặt một bao cát dưới đít con vích và mỗi lần nó rặn trứng vích đều rớt vào bao cát .Trứng trong bao đă nhiều,con vích ngưng không rặn nữa,tôi xách bao cát trứng lên và không quên nhặt lấy những quả trứng c̣n lại trong lỗ .Con vích bắt đầu dùng hai chân sau lấp cát lại .Lỗ cát đă đầy và nó xoay ḿnh dùng bụng để khỏa bằng ổ trứng vừa mới đẻ .vích tiếp tục ḅ trên cát cách ổ của nó chừng hai đến ba mét ,lại xoay ḿnh cà bụng trên cát và cứ như vậy đến ba bốn lần lặp lại như để ngụy trang cho ổ trứng.
Xong công việc ngụy trang ,con vích trườn ḿnh ḅ trở lại xuống nước một cách mệt mơi .Tôi không hiểu bao lâu th́ trứng vích sẽ nở ra vích con và vích mẹ có nhận ra được đàn con của nó hay không. Thời gian sau,t́nh cờ một lần dạo quanh đảo tôi đă chứng kiến được một đàn vích con nhỏ hơn quả trứng gà đang ngoai lên từ mặt cát và từ từ ḅ trườn xuống nước. Nhừng con vích con trông thật dễ thương. Thỉnh thoảng trong những lần dạo biển tôi cũng nh́n thấy những xác vích con chết bị sóng đánh tấp vào bờ.
Trong suốt thờ́ gian trấn đóng trên đảo ,chúng tôi chỉ bắt ăn thịt tổng cộng 3 con vích kể cả con vích chỉ ăn độc nhất cái bao tử .Những người bên đài khí tượng họ không ăn thịt vích nên đă từ chối khi chúng tôi mang thịt vích cho họ .Lấy thịt một con vích th́ quá nhiều,chúng tôi ít người nên cũng biếng nhác không muốn làm thịt vích dù hàng đêm vích ḅ lên đảo rất nhiều .
Câu cá và bắt cá.
Nói đến Hoàng Sa, ngoài những tài nguyên phong phú về khoáng sản,khí đốt và dầu lửa chúng ta phải kể đến trử lượng cá .Biển quanh đảo Hoàng Sa là nơi qui tụ hầu hết các loại cá ngon có giá trị cao trong ngành đánh bắt thủy sản .Cũng chính v́ vậy , nên dù quân cướp đảo Trung Cọng đă chiếm đảo Hoàng Sa từ năm 1974,kiểm soát các đảo và những vùng biển xung quanh,ngư dân Việt Nam chúng ta từ các tỉnh lân cận cùng với ngư dân Quảng Nam Đà Nẵng vẫn kiên cường bám biển đánh bắt thủy sản .Một phần v́ cuộc sống ,một phần để xác định chủ quyền của vùng biển quê hương .
Cá ở Hoàng Sa th́ nhiều vô kể,nhưng những loại cá đánh bắt được nhiều th́ hầu hết nằm ở ngoài khơi .Riêng quanh đảo chúng tôi trấn đóng ,kể từ mí sóng trở vào bờ cát,xen kẽ với những băi san hô chúng tôi thấy có rất nhiều loại cá .Nhiều nhất là cá mó xanh(loại cá này lớn bằng hai ngón tay có màu xanh lá cây)và cá rô biển có màu đen .Hai loại cá này th́ rất nhiều ,chúng lội quanh những nhánh san hô và bông đá biển để rỉa mồi ,chúng tôi lội xuống nước chúng thường bu lại rỉa cắn xung quanh chân .Ngoài hai loại cá này ra là những con cá đủ màu(cá cảnh) bơi lội chen vào giữa những nhánh san hô đầy màu sắc trông rất đẹp mắt .Những con cá mú bông lớn bằng cổ tay,miệng rộng với những đốm vàng ,đen trên lưng cũng không ít ,chúng thường ẩn nấp trong những hang nhỏ dưới tảng bông đá .Thỉnh thoảng chúng tôi cũng thấy được nhiều đàn cá lạ di chuyển vào gần đảo,cá đối,cá cơm, mực và đôi khi là những con cá mập lội sát bờ bắt mồi .Khi thủy triều xuống ,chúng tôi lội trên những băi san hô nước khoảng trên đầu gối thấy được những con hải sâm ( đĩa biển )và rất nhiều nhím biển ( sinh vật biển có h́nh tṛn,dẹp,có rất nhiều gai nhọn dài gần 1 tất mọc tua tủa quanh ḿnh,có màu nâu hoặc đen) Lội biển đụng phải chúng th́ chân bị ngứa ngáy khó chịu .
Bủa lưới bắt cá.
Sau ba ngày ăn thịt vích ớn đến tận cổ,chúng tôi bắt đầu đi bủa lưới bắt cá .Trời về chiều,chúng tôi đem hai tay lưới mua từ Đà Nẳng ra thả xuống băi nước gần cầu tàu và dự trù sáng hôm sau sẽ rủ nhau ra gở cá. Chúng tôi trở vào nhà và yên trí nhờ hai tay lưới này chúng tôi sẽ có cá ăn đều đặn mỗi ngày.
Sáng hôm sau thức dậy sớm mọi người gọi nhau đi gở cá mắc lưới .Đến nơi lội xuống băi nước nơi thả hai tay lưới,chúng tôi thấy cá mắc vào lưới dày đặc,nhiều nhất là cá rô biển và cá mó xanh ,ngoài ra cũng có một vài con cá lạ mà chúng tôi không biết tên .Lưới quện vào nhau như một đống bùi nhùi,có đoạn rách toạc v́ những con cá lớn vùng vẩy khi bị mắc lưới .Kết quả không như chúng tôi mong muốn,hai tay lưới chỉ dùng được một đêm ,loại cá mó xanh và cá rô biển th́ không cần thả lưới bắt lúc nào cũng được . Hy vọng dùng hai tay lưới để có cá ăn hàng ngày đă tiêu tan và chúng tôi lên phương kế khác .
Câu cá mú bông.
Trong các loại cá quanh đảo,chúng tôi thấy cá mú bông là loại cá có thịt ăn ngon hơn cả .Dưới hang của những tảng bông đá biển thường có từ ba đến bốn con cá mú bông trú ngụ .Câu loại cá này th́ cũng dễ dàng v́ miệng cá lớn và lại tạp ăn .Để câu được cá mú bông ,chúng tôi phải lội ra chỗ có nước sâu đến ngực .Đầu tiên ,chúng tôi bắt ốc câu vài con cá mó xanh bằng lưỡi câu nhỏ xong cắt cá ra từng khúc móc vào lưỡi câu làm mồi câu cá mú, ném miếng mồi gần cạnh tảng bông đá,ch́m đưới nước và nh́n thấy được miếng mồi .V́ nước biển trong và sóng nhỏ nên chúng tôi có thể nh́n thấy được những con cá mó xanh và cá rô biển bu quanh rỉa mồi .Từ trong hang bông đá ,cá mú sẽ chạy ra đớp mạnh miếng mồi và chạy ngược vào hang ,chúng tôi giật mạnh cần câu ,con cá chưa kịp vào hang đă bị dính lưỡi câu .Nếu chẳng may cá rúc vào hang rồi,bắt lấy cá rất khó .Đôi lúc chúng tôi phải dùng một cây gậy dài để nạy tảng bông đá lên bắt lấy cá .Gặp phải tảng bông đá lớn th́ phải đành cắt cước bỏ lười câu.
Đi câu cá mú ,thường chúng tôi đi chung hai đến ba người ,đem theo mỗi người một cây gậy dùng để đi dạo biển .Cây gậy thường dài độ hai mét chắc và cứng .Một đầu gậy chúng tôi cột vào ba chỉa nhọn bằng sắt ,mục đích để cắm xuống cát giữ xâu cá mú câu được và dùng làm vũ khí để đề pḥng chống đỡ những con cá mập lội gần bờ bắt mồi .Khi cá mập bơi đến gẫn ,chúng tôi rút cây gậy và thọc lia lịa để xua cá mập đi nơi khác .Thường những con cá mập vào kiếm mồi gần bờ không lớn lắm,chúng lội đưa cả vây trên lưng lên khỏi mặt nước .Trong khoảng thời gian hai đến ba tiếng đồng hồ ,chúng tôi có thể câu được 50 đến 60 con cá mú (nếu mặt nước biển yên không có sóng )Phần nhiều sóng lớn đánh ngoài mí sóng và lan dần vào bờ đảo chỉ c̣n lại những gợn sóng nhỏ lăn tăn .Có nhiều hôm biển lặng mặt nước biển như một mặt gương nằm ngang phẳng lặng .Gặp những hôm như vậy chúng tôi câu được rất nhiều cá mú bông . Cá mú câu được,chúng tôi dùng một phần nấu canh ,xào đôi lúc nướng ăn rất ngon,số lớn c̣n lại chúng tôi xẻ làm hai và phơi khô mang về đất liền .Cái thú của chúng tôi khi đi câu cá mú bông là đốt một đống lửa trên băi cát nướng những con cá mú lớn vừa câu được,ngồi gở thịt ăn và tán gẫu chuyện đời .
Câu cá mập.
Một đêm trăng,năm người chúng tôi rủ nhau ra cầu tàu câu cá mập. Để có đủ đồ nghề câu cá mập ngoài chiếc lưỡi câu lớn (có đường kính bằng đầu chiếc đủa) chúng tôi dùng ba sợi dây kéo điện thoại bện con tít lại với nhau dài độ 20 mét ,một cục ch́ lớn nấu từ 10 mũi đạn Garant M1 cột vào gần lưỡi câu .Mồi là một con cá mú lớn .Nơi cầu tàu có một luồng nước sâu từ mí sóng chạy vào và có một khoảng cát rộng không có san hô .Những con cá mập lớn nhỏ từ mí sóng thường hay lộivào đây săn mồi khi thủy triều lên .
Sau khi móc mồi vào lưỡi câu,tôi cuốn ṿng sợi dây điện thoại lại theo nhiều ṿng và ném thật mạnh ra xa giống như những chàng cao-bồi miền viễn tây vung ṿng dây bắt ngựa .Mồi ch́m sâu xuống nước ,tôi cột sợi dây điện thoại vào cây cọc sắt trên cầu tàu ṿng qua một thùng thiếc trống để khi cá mập ăn mồi kéo dây,thùng thiếc sẽ rơi xuống báo hiệu cho chúng tôi biết .Chúng tôi ngồi đợi cá ăn mồi và kể cho nhau nghe những chuyện ở quê nhà.
Đúng như mong đợi của tôi,chiếc thùng thiếc rơi xuống ,tôi cầm dây điện thoại giật mạnh,con cá mập bị mắc lưỡi câu .Với sức một ḿnh tôi không thể nào kéo nổi ,bốn anh em lính xúm vào kéo hộ .Có lúc chúng tôi nới dây điện thoại ,có lúc chúng tôi kéo mạnh để quần thảo với con cá mập .Đang trên đà ráng sức kéo lui ,dây điện thoại đứt,chúng tôi ngă lăn trên cầu tàu .Kết quả mất một lưỡi câu cá mập và chúng tôi lồm cồm đứng dậy vào nhà .Tôi kể chuyện câu cá mập với bác Phong ,bác cười và cho tôi 20 sải cước câu cá mập .Cước có màu xanh nhạt và lớn hơn sợi dây điện thoại ,bác Phong nói chỉ có loại cước này mới đủ sức câu được cá mập lớn .
Đêm hôm sau ,sửa soạn đầy đủ mọi thứ câu cá mập ,chúng tôi lại trở ra cầu tàu và lặp lại những động tác cũ .Ngồi đợi và tán gẫu với nhau độ 30 phút ,chiếc thùng thiếc rơi xuống báo hiệu cá đă ăn mồi ,tôi cầm sợi cước giật mạnh và cá mập mắc câu .Chúng tôi chung sức lại kéo sợi cước,con cá mập tŕ ḿnh lại ,chúng tôi nới cước xong lại tiếp tục kéo và cứ như vậy đến hơn 30 phút,con cá mập mắc câu h́nh như đă đuối sức theo chiều cước vào đến gần chân cầu tàu Tôi rọi đèn xuống nước và thấy cá rất lớn .Con cá vẫn vùng vẫy lăn lộn c̣n chúng tôi xúm nhau giữ chặc sợi cước Tôi bảo Hóa –tên một người lính –chạy vào nhà lấy khẩu Garant M1 ,tôi nhắm bắn nguyên một gắp đạn Garant tám viên vào đầu con cá mập ..Con cá bị đạn bớt vùng vẫy và đă yếu sức .Lúc bấy giờ tất cả chúng tôi đều có mặt trên cầu tàu .Mười người lính lội xuống nước khiên con cá lên để nằm dài trên sàn xi-măng , nó vẫn c̣n sống ,chiều dài gần 2,5 mét và thân cá rất lớn có màu xam xám .Chi –tên một người lính –tưởng cá đă chết,tḥ tay vào miệng rờ mấy cái răng,con cá táp mạnh bị thương một lóng tay .
Chúng tôi khiên con cá mập bỏ lên xe g̣ong đẩy về nơi giếng nước trước ṭa nhà chúng tôi ở .Đốt đèn sáng lên ,chúng tôi cắt đầu con cá mập và mổ bụng đem bộ ḷng ra ngoài,bộ ḷng cá đựng đầy một thúng lớn .Đầu con cá vẫn c̣n nguyên 8 mũi đạn Garant ghim vào mà không xuyên thấu qua được,lư do những mũi đạn khi tôi bắn xuống đă bị nước cản .Con cá tôi câu được có cái đuôi và bộ vây thật lớn .Trung sĩ Huynh xin toàn bộ .Tôi hỏi anh ta và được trả lời xin về làm thuốc .Sau này tôi mới biết được anh ta mang về đất liền và bán được rất nhiều tiền ,người ta mua để chế biến vi cá nấu súp .Chúng tôi lấy một ít ḷng cá nấu cháo c̣n toàn bộ thịt cá tôi chia cho tất cả anh em lính phơi khô làm khô cá mập .Trong suốt thời gian đóng trên đảo ,tôi và trung sĩ Huynh đă câu được bốn con cá mập nhưng chỉ có con cá mập tôi câu được đầu tiên là lớn hơn cả .
Bắt cá chúc đầu.
Khi thũy triều rút xuống ,xung quanh đảo chỉ c̣n trơ lại những băi san hô chạy ra xa tận mí sóng .B́nh thường khi san hô ở dưới mặt nước ,chúng cho những màu sắc rất đẹp nhưng khi nước cạn ,san hô nhô lên khỏi mặt nước trông chúng xấu xí chỉ toàn là một màu trắng đục v́ chưa bị khô chết . Vào thời điểm này ,chúng tôi rủ nhau đi t́m bắt cá chúc đầu .
Sỡ dĩ chúng tôi gọi là cá chúc đầu v́ chúng tôi không biết tên loại cá này .Ḿnh cá hơi dẹp,lớn bằng bắp chân,vảy cá nhỏ màu trắng .Đặc biệt miệng cá rất nhỏ nên chúng thường chúc đầu xuống rỉa những sinh vật biển li ti bám dưới những gốc san hô hoặc trên mặt bông đá biển.Chúng say sưa rỉa mồi không hề để ư đến thời gian thủy triều xuống .Khi phát hiện nước đă rút ,chúng lui ra vùng nước sâu th́ bị những rặng san hô như hàng rào cản đường . Để thoát thân ,chúng t́m những trũng nước rộng để qui tụ vào đó .Chúng tôi cầm trên tay mỗi người một khúc cây ngắn rượt đánh và ném chúng lên băi san hô .Thường một trũng nước có khoảng 20 đến 25 con cá chúc đầu .Thịt chúng mềm,không có độ dai nên chúng tôi ít phơi khô .
Ném lựu đạn bắt cá.
Ngày rời đất liền,chúng tôi mang theo nhiều lựu đạn M 26 xin từ các bạn đồng đội để ra đảo ném cá , nhờ những quả lựu đạn này mà chúng tôi bắt được nhiều mẻ cá lớn .Khi thủy triều lên ,chúng tôi thường đi dạo quanh đảo để t́m những đàn cá vào sát bờ , khi đă phát hiện ra ,chúng tôi xử dụng lựu đạn để bắt cá .Đă hai lần bắt cá bằng lựu đạn thất bại ,rút chốt lựu đạn , chúng tôi ném xuống ngay đàn cá , lựu đạn ch́m xuống nước và chờ một vài giây sau mới nổ .Kết quả đàn cá vụt chạy tứ tung chỉ chết có vài con chạy sau cùng .Một người lính tên Thanh đă “gồng ḿnh” nghĩ ra một cách ném lựu đạn bắt cá .Anh ta cho lựu đạn bật chốt trên tay, đếm 1,2,3 rồi mới ném xuống nước .(có hai loại lựu đạn :lựu đạn ném tay và lựu đạn gài,lựu đạn gài có một dấu chấm đỏ trên mỏ vịt ,bật mỏ vịt lựu đạn sẽ nổ ngay ) Kết quả nhờ lối ném này,chúng tôi đă bắt được nhiều đàn cá bơi vào gần bờ .Có nhiều đàn cá anh em chúng tôi bắt được đến hai ,ba bao tải,loại bao tải gạo 46 kg đem phơi khô . Hầu hết cá bắt bằng cách ném lựu đạn đều nhỏ như cá liệc hoặc cá đối .Chúng tôi cũng thử ném lựu đạn để bắt cá mập nơi cầu tàu nhưng chẳng ăn thua ǵ đối với chúng. Lựu đạn nổ , chúng quay đuôi chạy ra mí sóng xong lại trở vào để ăn những con cá bị chết v́ lựu đạn .
Tôi c̣n nhớ,có một lần tôi cùng cậu vợ tôi Trần Huỳnh Mính,anh Phùng Rân và Phạm Phú Lợi đi ra Cù Lao Chàm đóng trại hè với học sinh Trần Quí Cáp .Tôi mang theo lựu đạn và dùng lối ném này bắt được một bao tải cá đủ loại về giao cho đầu bếp .Bây giờ đă là người lính già,nghĩ lại nếu phải ném lựu đạn theo kiểu này th́ tôi sẽ xin đưa tay chào thua.
Ốc ở Hoàng Sa.
Ngoài những tài nguyên phong phú về hải sản như cá ,rong biển ,rùa biển quanh đảo ,Hoàng Sa c̣n có nhiễu loại ốc ngon như ốc gân, ốc vú nàng, ốc nhảy, ốc tai tượng v..v..và nhiều loại ốc hoa dùng trong lĩnh vực mỹ nghệ rất đẹp mắt .
Bắt ốc gân.
Mọi người từ những đợt trước cũng như chúng tôi đều gọi loại ốc này là ốc gân ,nhưng thật ra h́nh dáng của chúng giống như một con ṣ rất lớn .B́nh thường chúng lớn bằng chiếc nón sắt quân đội nhưng đôi khi chúng tôi cũng thấy được có con lớn gấp đôi .Chúng có hai chiếc vỏ,nơi miệng vỏ có những đường cong lên cong xuống rất bén ,khi chúng khép hai vỏ lại th́ những đường cong này ăn khớp với nhau .Chúng mở và ngậm hai vỏ lại nhờ một sợi gân lớn màu trắng trong và có tính đàn hồi .
Theo chỉ dẫn của bác Phong ,bắt ốc gân phải thật cẩn thận nếu chẳng may bị ốc kẹp ,gặp con ốc lớn có thể bị đứt lóng tay .Muốn bắt ốc gân phải dùng một cây gậy và một con dao bén có lưỡi giống như chiếc đục hoăc có thể dùng lưỡi lê mài bén để nhủi đứt gân ốc .
Ở dưới nước, ốc gân mở rộng hai vỏ ra để bắt mồi. Mồi là những sinh vật li ti bị hút và miệng . Khi phát hiện ra ốc gân ,chúng tôi lấy cây gậy thọc vào miêng ,ốc gân khép hai vỏ lại rất nhanh, bị cấn cây gậy hai vỏ ốc không thể liền kín vào nhau được và để hở một đường trống dài theo miệng ốc .Chúng tôi dùng dao nhủi sát bên trong vỏ ốc nơi có chiếc gân .Bị đứt gân , hai vỏ ốc tự động mở rộng và chúng tôi tiếp tục nhủi phần vỏ c̣n lại ,moi toàn bộ thịt ốc ra và gở lấy gân .
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1441339&stc=1&d=1566678083
Thường sợi gân ốc khi thun lại có đường kính từ hai đến ba phân .Chúng tôi chỉ bắt những con ốc gân có độ lớn hơn cái tô lớn ,thịt và ruột ốc rất nhiều nhưng chúng tôi không ăn mà chỉ bằm nhỏ làm thức ăn cho vịt .Gân ốc ,chúng tôi dùng dao lạng theo ṿng tṛn hoặc xẻ mỏng dài theo đường zic-zac đem phơi khô .Gân ốc gân khô nướng ăn ngon hơn mực khô nhưng gân c̣n tươi đem xào ăn rất dỡ .
Bắt ốc nhảy.
Ốc nhảy có độ lớn bằng ba ngón tay chụm lại ,nơi vảy đậy miệng ốc có một cái càng dài độ 5 phân đưa ra ngoài,khi di chuyển ốc nhảy dùng chiếc càng này búng mạnh xuống cát và đưa ḿnh tới .Ốc nhảy sống rất nhiều ở băi cát trước Miếu Bà,khi nước cạn chúng tôi rủ nhau đi bắt ốc tại băi này .Ốc bắt được ,luộc chín cầm chiếc càng và rút thịt ốc ra khỏi vỏ dễ dàng .Thịt ốc nhảy xào ăn rất ngon , chúng tôi cũng phơi khô và mang về đất liền .Loại ốc này có đít ốc rất dày dùng để mài nhẩn nhiều màu sắc rất đẹp nên chúng c̣n có tên là ốc nhẩn .Thường mài được một chiếc nhẩn ốc ,chúng tôi cũng mất nửa ngày công tùy theo kiểu cách .
Bắt ốc tai tượng.
Loại ốc này thường sống ở những băi cát sạch nước sâu trên hai mét .Chúng thường úp miệng xuống cát và đưa vỏ ốc lên trên .Miệng vỏ ốc có màu vàng ánh rất đẹp ,lớn và loa ra giống như cái tai voi v́ vậy nên được gọi là ốc tai tượng .Thịt ốc có màu vàng nhạt ,luộc hoặc xào ăn giống như lưỡi ḅ .Vỏ ốc thường để trang trí làm cảnh nơi pḥng khách cho nên muốn giữ được màu vàng ánh nơi miệng ốc chúng tôi không thể luộc chín ốc mà phải lấy thịt ốc khi c̣n tươi .Nếu không muốn lấy thịt ốc để ăn th́ có thể đem ốc chôn xuống cát độ một tuần sau đó đào lên đem súc sạch để lấy vỏ .C̣n muốn lấy cả vỏ ốc lẫn thịt (con lớn thịt có thể gần 1 kg)th́ phải biết phương pháp .
Theo chỉ dẫn của bác Phong ,đầu tiên chúng tôi cột một sợi dây trên vỏ ốc và treo chúc ngược miệng ốc xuống phía mặt đất .Đợi chừng 30 phút ốc khát nước và ló miệng ra ngoài (nếu đụng vào ốc sẽ thụt miệng vào ngay),chúng tôi dùng một sợi dây điện thoại thắt chiếc ṿng,chờ ốc ló miệng ra,thật nhanh tay đưa ṿng thắt chặt miệng ốc lại,lúc này ốc đă thụt miệng vào .Chúng tôi dùng một cục đá nặng độ 2 đến 3 kg cột vào sợi dây vừa thắt miệng ốc và treo ṭn ten như vậy . Ốc khát nước,lại tḥ miệng ra ,cục đá nặng cứ tŕ xuống và cứ như thế từ từ ốc sẽ mơi và tụt toàn bộ thịt ốc ra ngoài .Đem vỏ ốc súc sạch với nước biển và vẫn giữ được màu vàng ánh rất đẹp
Trong một lần về Việt Nam ,du lịch xuống Vũng Tàu tôi thấy tại đây người ta bán rất nhiều ốc tai tượng ,họ xử dụng ốc tai tượng trong mỹ nghệ chạm khắc nhiều h́nh rất đẹp .
Ốc gạo Ḥang Sa.
Sở dĩ chúng tôi gọi là ốc gạo Ḥang Sa v́ h́nh dáng của loại ốc này giống như ốc gạo nhỏ bán ở Hội An .Ốc gạo Hoàng Sa có độ lớn bằng đầu ngón tay cái ,ban ngày không thấy được chúng nhưng chạng vạng tối chúng từ dưới cát ḅ lên rất nhiều .Những băi cát cạnh cầu tàu là nơichúng sinh sản và trú ngụ nhiều nhất .Chúng tôi đốt đèn sáng và rủ nhau đi bắt ốc khi trời tối ,thường mỗi đêm chúng tôi có thể bắt được hơn một thùng thiếc .Ốc bắt được đem về ngâm nước biển độ một ngày cho sạch cát rồi đem luộc chín lể (nhể) ăn rất ngon ,đôi lúc chúng tôi lể dồn lại rồi đem xào với bí đỏ từ đất liền mang ra .
Ốc vú nàng.
Ốc có h́nh xoắn nhiều ṿng và có chóp nhọn như h́nh kim tự tháp lớn bằng nắm tay ,v́ vậy nên mọi người đều gọi là ốc vú nàng .Ốc không có nhiều và thịt loại ốc này rất ngon .Thường khi thủy triều xuống,chúng tôi đi dạo trên những băi san hô th́ bắt được chúng .
Ốc hoa.
Xung quanh những băi san hô ,dưới những tảng bông đá có rất nhiều loại ốc hoa đủ màu sắc đủ kích cỡ h́nh dáng .Con lớn nhất cũng bằng quả trứng gà và nhỏ cũng bằng hạt đậu phụng .Có nhiều con ốc trên vỏ ốc sần sù và có nhiều càng đưa ra dính liền với vỏ ốc .Khi nước cạn,chúng tôi lội gần đến mí sóng lật những tảng bông đá nhỏ và bắt được rất nhiều ốc hoa .Đứng sát mí sóng ,nh́n xuống những hang đá nước sâu xanh thẳm chúng tôi thấy rất nhiều đàn cá mú lớn bằng bắp chân lội qua lội lại .Chúng tôi phải bắt nhanh ốc hoa để quay vào bờ v́ thủy triều sẽ lên trở lại .Riêng tôi đă bắt được nhiều con ốc hoa rất đẹp,có con trên lưng vỏ ốc đen nhánh điểm những chấm vàng ánh như những hoa mai vàng năm cánh .Có con có màu đỏ huyết dụ trên vỏ điểm những chấm trắng, vàng. Với những con ốc hoa này khi mang chúng về đất liền, tôi đă tặng cho người tôi yêu làm quà từ hải đảo.
Đi dạo biển bắt ốc hoa,chúng tôi cũng thường bắt được những con hải sâm,h́nh dáng chúng giống như con đĩa nên c̣n có tên là đĩa biển,lớn bằng ổ bánh ḿ thịt Lee Sandwiche có màu nâu hoặc màu vàng sậm .Chúng tôi dùng dao bén rọc từ đầu đến đít,mở rộng thân ra,trong bụng hải sâm chỉ thấy toàn tơ giống như mủ mít màu trắng .Hải sâm được cạo rửa sạch và phơi khô,khi dùng đem ngâm nước nở ra cắt từng miếng nhỏ nấu cháo hoặc súp rất bổ cho sức khỏe .Chim ở Hoàng Sa.
Khoáng sản chính của Hoàng Sa là phốt-phát do sự tác dụng của phân chim lên chất vôi của san hô tạo nên v́ vậy chim ở Hoàng Sa nhiều vô số kể .Những loại chim mà chúng tôi thường thấy là hải âu,nhạn biển,yến, bồ nông .Chúng thường qui tụ về những đảo không có người để làm tổ đẻ con .Thịt của chúng rất tanh dù ướp nhiều gia vị khi nấu ,chúng tôi đă bắn thử vài con nhưng không thể ăn được .Đứng trên đảo Hoàng Sa nh́n ra hướng biển chúng tôi thường thấy những bầy chim chúi đầu sà xuống mặt nước bắt mồi .Nếu thấy cả bầy chim là nơi vùng biển đó có cả một đàn cá nhỏ bơi gần mặt nước ,thường là những đàn cá cơm .
Chiếc tàu chở phân bị ch́m cách bờ cát 200 mét là nơi các loại chim biển thường tụ tập lại phơi nắng .Một lần đi câu cá mú bông với Trung sĩ Huynh,tôi đến gần chiếc tàu đă bị chúng tấn công,bay sà xuống mổ lên đầu tôi giống như những chiếc phản lực chúi xuống ném bom ,may là tôi có đội chiếc mũ đi rừng .Tôi dùng cây gậy đi biển quơ lia lịa trên đầu để đuổi chúng,Trung sĩ Huynh câu gần đó chạy đến vừa la vừa quơ gậy đuổi dùm chúng mới chịu bay đi .
C̣n chim yến,chúng làm tổ ở nơi đâu chúng tôi không t́m thấy .Chỉ khi nào ở Hoàng Sa bị gió băo,chúng không bay về kịp tổ nên phải bay đến trú tạm nơi ṭa nhà chúng tôi ở,qua cơn gió băo chúng lại bay đi.
Tản mạn về những chuyện vui buồn trên đảo.
Đi câu cá bị cá rỉa “chim”
Ở một nơi thật sự vắng bóng đàn bà nên những ngày đầu tiên trên đảo ,một vài anh em lính thích khỏa thân dạo quanh đảo. Một lần đi câu cá mú bông,lội xuống nước sâu đến ngực,vài người không mặc quần ,mắt đăm đăm nh́n vào miếng mồi đang chờ cá mú trong hang cắn câu không hề để ư đến những ǵ xảy ra quanh thân ḿnh .Bỗng cảm thấy bị đau nhẹ và và nhột nơi hạ bộ,nh́n xuống thấy hơn mười con cá mó xanh và rô biển xúm nhau bu lại rỉa “chim”. Đưa tay đuổi chúng đi, rút tay lên chúng lại tiếp tục bu rỉa, cuối cùng đành ngưng câu chạy vào nhà lấy quần mặc vào câu tiếp.
Những ngày đầu lội biển,hầu hết chúng tôi đi chân không và mặc mỗi chiếc quần đùi thậm chí có người khỏa thân như Adam ,kết quả chân người nào người nấy bị san hô cắt trầy xước rất nhiều .Đôi lúc bị sụp chân vào rặng san hô phải khó khăn lắm mới rút chân lên được ,sau đó chúng tôi đi câu hoặc đi lội biển bắt ốc đều phải mặc quần dài và mang giày bố .
Câu cá mập bị cá kéo chạy .
Có một đêm,năm người chúng tôi rủ nhau ra băi cát gần cầu tàu trải pon-cho ngủ và luôn tiện câu cá mập . Sau khi ném mồi ra chỗ nước sâu,chúng tôi nằm nhai ốc gân nướng và kể cho nhau nghe những lần hành quân ở quê nhà và mơ ước viễn vông trên hải đảo .Đă lâu lắm rồi không thấy được bóng dáng đàn bà nên ước ǵ có một chiếc ghe trôi giạt vào bờ đảo,trên ghe có được vài người đẹp bị băo đánh ch́m tàu bám được trên ghe .Nằm nh́n trời biển ,mơ ước rồi cười và t́m quên vào giấc ngủ . Chờ măi cá chưa ăn mồi,Thanh (tên người lính) lấy dây cước cột chắc vào người và yên chí nằm ngủ nếu cá ăn mồi sẽ biết được .Trời đă về khuya,lúc này thủy triều đang lên và chúng tôi đang ngủ,bỗng nghe tiếng la hét của Thanh,anh ta bị cá mập ăn mồi kéo anh ta đến gần bờ nước .Chúng tôi vùng thức dậy cùng nhau kéo cá,có lúc nới cước ,có lúc kéo mạnh .Con cá đă nuốt miếng mồi vào bụng nên không có cách nào thoát được,và phải mất hơn nửa giờ chúng tôi mới kéo được con cá mập vào bờ cát .
Báo động có ghe lạ vào đảo.
Trời chạng vạng tối .Vài người lính đi dạo quanh đảo,bất chợt phát hiện ra có một chiếc ghe từ ngoài xa mí sóng đang từ từ trôi vào trước băi Miếu Bà . Lệnh báo động được ban ra, mọi người chúng tôi vội. vàng mang súng đạn cá nhân chạy đến bố trí dọc theo bờ đảo nơi Miếu Bà .Nước biển đang lớn,trong bóng tối lờ mờ chúng tôi nh́n thấy chiếc ghe được sóng đưa đến gần bờ cát đảo .Chúng tôi yên lặng quan sát và chờ đợi .Năm phút trôi qua,tôi kẹp khẩu các-bin đă lên đạn cùng hai người lính nữa tiến lại gần chiếc ghe,th́ ra đây là một chiếc ghe đánh cá đă bị băo đánh bung cả gỗ nơi sàn ghe .Trên ghe không có bất cứ một thứ ǵ ngoại trừ cây chèo lái được cột chắc vào ghe .Chúng tôi cùng nhau kéo chiếc ghe lên bờ cát và thu quân trở vào nhà trong tiếng cười nói huyên thuyên .
Hiện tượng huyền bí ở Miếu Bà.
Có một chuyên xảy ra trên đảo mà cho đến bây giỡ đă bốn mươi sáu năm trôi qua,mỗi lần nhắc lại tôi vẫn không sao hiểu được .Trong một đêm trăng,tôi và sáu người lính rủ nhau ra cầu tàu câu cá .Thủy triều đang lên,những đợt sóng vỗ vào chân cầu tàu tung tóe những bọt sóng lóng lánh dưới ánh trăng .Chúng tôi ngồi tán gẩu những chuyện ở quê nhà bỗng thấy một khối sáng đỏ như quả cầu lửa là đà trên mặt biển từ đảo Cam Tuyền đi đến Miếu Bà rồi tắt lịm .Ngày đầu tiên đặt chân lên đảo đă được các anh em lính đợt trước dặn ḍ nên khi thấy hiện tượng đó ,mọi người chúng tôi chỉ nh́n trong yên lặng
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1441337&stc=1&d=1566678083
Có lẽ v́ đă từng chứng kiến được hiện tượng huyền bí này nên những anh em lính từ các đợt thay quân Hoàng Sa trước đă truyền miệng lại cho nhau mua sắm đầy đủ nhang đèn áo giấy vàng mă mang ra cúng bái Miếu Bà .Riêng bản thân tôi là đảo trưởng nên đă thường xuyên đến Miếu Bà cúng vái trong những ngày rằm và mồng một hàng tháng để cầu xin được b́nh an sức khỏe cho mọi người trên đảo. Có phải nhờ vậy mà 13 người trong toán chúng tôi từ ngày đặt chân lên đảo Hoàng Sa đến ngày trở về lại đất liền,không có một ai bị bệnh tật thương tích ǵ cả ?
T́m thấy hài cốt khi đào t́m trứng vích.
Một buổi sáng ,hai người lính đi xăm t́m trứng vích trên cát gần những bụi cây ráy biển .Khi họ đâm sâu cây thông ṇng súng Garant M1 xuống cát đă đụng phải một vật ǵ cứng,họ moi cát lên th́ lộ ra một chiếc đầu lâu trắng hếu .Họ chạy về báo cáo lại sự việc vừa t́m thấy .Tôi ,trung sĩ Huynh cùng mọi người đổ xô chạy ra nơi đó,chúng tôi moi từ từ cát lên và lộ nguyên ra một bộ xương của một người đàn ông, bên cạnh có một đống áo quần đă mục nát .Tôi bảo anh em lính t́m những tấm ván ép củ ghép lại thành một cái ḥm nhỏ, nhặt tất cả xương cốt bỏ vào và mang đến an tang lại sau Miếu Bà .Vun một mộ cát, thắp một nén nhang và cắm một tấm bia bằng gỗ đề Vô Danh Mộ t́m được vào tháng tám năm 1967 , chúng tôi hy vọng linh hồn người quá cố mà chúng tôi chưa hề biết đến được siêu thoát nơi cơi vĩnh hằng . Mọi sự việc tôi có báo cáo về Quân Đoàn nhưng không thấy công điện trả lời .
Những ngày biển động .
B́nh thường những ngày nắng ráo ,trời yên biển lặng nh́n những băi nước xung quanh đảo, chúng tôi thấy rơ được nhiều loại cá đủ màu sắc tung tăng bơi lội trên những rặng san hô xen lẫn với đàn cá mó xanh và cá rô biển,nhưng khi biển động hoặc có gió băo thổi về hướng Hoàng Sa,quanh băi nước đảo không c̣n nh́n thấy bất cứ một con cá nào kể cả những con cá tḥi ḷi biển hàng ngày thường trườn ḿnh lên nằm trên mặt đá .Những ngày này đối với chúng tôi thật buồn chán , có đi dạo biển th́ cũng chỉ nh́n thấy được những cơn sóng lớn vỗ ầm ầm từ mí sóng nối tiếp vào bờ .
Hầu hết chúng tôi đều ở nhà,vài người đem ốc nhảy ra mài nhẩn,một số giải trí bằng cách chơi bài ăn ốc gân khô .Khốn khổ nhất cho chúng tôi là bị những cơn gió mạnh thổi mưa vào nhà,chúng tôi phải xử dụng pon-cho để che chắn cho khỏi ướt v́ căn nhà hoàn toàn trống trải không c̣n một cánh cửa nào .Thức ăn của chúng tôi trong những ngày mưa băo hoặc biển động là cá khô câu được hay thịnh soạn hơn là những lon thịt hộp mang ra từ đất liền .
Riêng tại đảo Drummond,căn nhà tôn xây dựng trên đảo để cho anh em trú ngụ cũng bị băo đánh trốc cả mái , những tấm tôn lợp bay tứ tung ra rừng cây ráy biển .Mọi người trên đảo phải phủ pon-cho ẩn nấp trong những hốc đá chờ băo tan họ mới cùng nhau đi t́m nhặt những tấm tôn mang về tu sửa lại nhà .Cho nên đối với những người lính giữ đảo như chúng tôi,những ngày trời yên biển lặng nắng ráo là những ngày viên măn nhất .
Kêu cứu từ đảo Duncan.
Sống ở đất liền, cho dù ngày đêm đối diện với súng đạn chiến tranh, chạm trán với quân thù, chúng tôi không hề nao núng lo sợ. Ngược lại làm một người lính giữ đảo Hoàng Sa, một nơi cách Đà Nẵng 300 km, phương tiện di chuyển khó khăn, thuốc men thực phẩm thiếu thốn, dù là một nơi b́nh yên sống an nhàn tự tại với trời nước bao la, chúng tôi vẫn nơm nớp lo âu cho bản thân ḿnh nếu chẳng may gặp phải bệnh hoạn hay thương tật.
Mang chung một trách nhiệm giữ đảo, tôi vẫn thường hẹn giờ mở máy liên lạc với hai đảo Drummond và Duncan. Phương tiện liên lạc của chúng tôi lúc bấy giờ là máy PRC-10 của đơn vị tác chiến, nhờ sống ở biển không bị một chướng ngại ǵ cản trở nên chúng tôi liên lạc nhau rất rỏ. Một người lính trên đảo Duncan lội biển đă bị con đẽn biển cắn vào chân (đẽn biển là một loại giống như con rắn ở đất liền, có nọc cực độc, trên ḿnh có nhiều khoan màu đen , vàng bơi lặn dưới nước và sống trong những hang bông đá.) Anh ta bị phù chân và lên cơn sốt cao độ v́ nọc độc chạy lan cả toàn thân. Mặc dù mỗi đảo đều có y tá, nhưng với số thuốc men nghèo nàn mang theo chỉ có vài thứ trị cảm cúm, sát trùng, bông băng, thử hỏi làm sao cứu được một sinh mạng đang trong cơn nguy kịch.
Tôi đă điện liên tiếp hai công điện về Tiểu Khu qua phương tiện truyền tin Quân Đoàn I xin tàu để chở bệnh binh về đất liền cấp cứu. Đến công điện khẩn cấp thứ ba th́ được Tiểu khu trả lời không có phương tiện ra đảo Hoàng Sa, nếu đương sự chẳng may bị chết, an táng đương sự ngay trên đảo. Đọc nội dung công điện trả lời tôi cảm thấy bàng hoàng cả người và nghĩ đến thân phận những người lính giữ đảo như chúng tôi chẳng khác ǵ bị đem con bỏ chợ.
Tôi gọi máy báo với Trung sĩ Khuyến – tên người đảo trưởng Duncan – khuyên anh em cầu nguyện Ơn Trên phù hộ giùm cho người lính bị đẽn biển cắn sớm tai qua nạn khỏi. Và ihật ngạc nhiên sau hơn mười ngày bị sốt cao độ và sưng phù toàn thân anh ta đă dần dần hồi phục nhưng không đi được. Sau hơn ba tháng ở đảo, ngày thay quân anh em lính phải khiên anh ta lên tàu về lại đất liền.
Chuyện kể từ bác Phong.
Trong một lần sang đài khí tượng ngồi chơi, tôi đă được bác Phong kể cho nghe câu chuyện về một người khách lạ không mời mà đến với đảo Hoàng Sa. Bác kể, có một chiếc tàu lớn thả neo ngoài mí sóng đối diện với cầu tàu, những người trên tàu hạ xuống một chiếc ghe máy nhỏ và chạy vào đảo. Trên ghe có ba người, chở theo nhiều bánh kẹo, thuốc lá và những thùng nhựa để xin nước ngọt. Họ là những người Tàu, có một người biết nói tiếng Việt, họ cho biết tàu của họ khởi hành từ Đài Loan đi đến Mă Lai, đi được nửa đường có một ngừơi bị bệnh không thể đi tiếp được và trên tàu đă hết nước ngọt. Họ biếu cho đảo trưởng và anh em lính trên đảo kẹo bánh và thuốc lá, xin vài thùng nước ngọt và gửi lại trên đảo người bị bệnh. Họ nói sau một tuần họ sẽ quay trở lại để đón người bị bệnh về Đài Loan. Người bị bệnh không biết tiếng Việt trùm khăn quanh đầu và mặt nh́n vóc dáng có vẻ đau yếu rũ rượi. Sau khi được đảo trưởng đồng ư, họ xin mấy thùng nước ngọt bên hầm nhà khí tượng và nhổ neo tiếp tục ra khơi. Người Tàu bị bệnh mang nhiều lương khô và sống chung nhà với anh em lính Sau ba ngày, hắn ta b́nh phục và lân la cùng với anh em lính đi ḷng ṿng quanh đảo, hắn quan sát mọi thứ kể cả những sinh hoạt hàng ngày trên đảo như một tên đi ḍ thám.
Đúng hẹn, sau một tuần chiếc tàu đó đă trở lại thả neo và vào đảo để chở người Tàu bị bệnh, cũng không quên cám ơn và biếu cho anh em lính trên đảo thuốc lá cùng bánh kẹo.
Ở ngoài khơi đảo Hoàng Sa, chúng tôi nh́n thấy được nhiều tàu ngoại quốc qua lại nhưng không thể biết được tàu của nước nào v́ đó là hải phận quốc tế. Chiếc tàu vào đảo gửi người bị bệnh nói là đi từ Đài Loan nhưng làm sao để biết được là tàu của Đài Loan hay của Trung cộng.
Qua câu chuyện bác Phong kể, bây giờ Hoàng Sa đă mất vào tay Trung cộng, tôi mới nghiệm ra rằng: chiêu thức gửi người lên đảo chỉ là giả vờ để do thám t́nh h́nh bố trí pḥng thủ trên đảo . Một con tàu lớn như vậy không thể nào thiếu nước ngọt và dù có người bị bệnh th́ vẫn có thể nằm điều trị trên tàu .Tựu trung lại đă là Tàu th́ dù là Tàu Đài Loan hay Tàu Trung cộng th́ vẫn là Tàu với bản chất bành trướng xâm lược đă có sẵn trong máu của chúng. Kể từ khi người Tàu bị bệnh được gửi lên trên đảo Hoàng Sa đến bảy năm sau vào ngày 20 tháng một năm 1974 th́ Trung cộng xua tàu đổ bộ cướp đảo Hoàng Sa, biết đâu đó là âm mưu cướp đảo của bọn chúng đă vạch ra từ bảy năm trước.
Ngày lại ngày. Sáng thức dậy chạy quanh đảo, trưa chiều đi câu cá bắt ốc, dạo biển. Có gặp nhau chăng cũng chỉ là mười tám khuôn mặt quen thuộc trên đảo. Cuộc sống của chúng tôi cứ lặp lại như một điệp khúc buồn chán. V́ thế nên vào những ngày cuối gần đến đợt thay quân, mọi người chúng tôi nôn nao mong đợi sớm trở lại đất liền. Nhận được công điện của Tiểu Khu Quảng Nam báo biển bị động, sóng to gió lớn tàu của hải quân sẽ không ra đúng ngày và có thể bị trể. Gạo đă gần cạn, thức ăn cũng đă hết, chỉ c̣n lại hai con vịt và năm lon nếp để trước khi về lại đất liền nấu xôi cúng ở Miếu Bà và mang theo lên tàu ăn. Hành trang cũng được gói ghém gọn gàng, ngoài chiếc ba lô và súng đạn cá nhân, ngày trở về đất liền của chúng tôi có thêm được những bao cát cá khô, ốc khô lỉnh kỉnh. Lo ngại tàu của hải quân sẽ trễ dài ngày nên tôi đă bắt mọi người phải ăn cháo để tiết kiệm gạo v́ gạo dự trử trên đảo đă bị mục nát không thể ăn được. Tâm trạng của những người bên đài khí tượng cũng nôn nóng giống như chúng tôi.
Cho đến một ngày,nhận được công điện của Tiểu Khu báo tàu của hải quân đă rời cảng Tiên Sa và đang trên đường hướng ra hải đảo. Chúng tôi la lớn reo mừng. Khoảng mười giờ sáng chúng tôi leo lên tầng thượng nh́n về hướng đất liền để t́m bóng dáng của con tàu ra đảo.
Và cuối cùng con tàu đă đến, vẫn là chiếc Hộ tống hạm Đống Đa đă chở chúng tôi từ hơn ba tháng trước. Điệp khúc ngày nào nay được lặp lại. Những người lính vội vă chuyển hành lư ra cầu tàu để chuẩn bị lên tàu lớn. Tôi kư biên bản bàn giao với người đảo trưởng mới đến, chỉ cho anh ta vài kinh nghiệm có được và vài vị trí của băi đảo rồi ra đi chuyến cuối cùng với hai người bên đài khí tượng ra tàu lớn.
Vẫn những cái vẫy tay,vẫn là hồi c̣i tàu kéo dài vang động cả một vùng biển đảo để chào từ giă những người lính đến thay thế cho chúng tôi giữ đảo . Tôi đâu có ngờ đối với tôi là lần vẫy tay cuối cùng để vĩnh biệt Hoàng Sa !
Con tàu tiếp tục chạy đến thay quân cho hai đảo Drummond và Duncan. Những người lính ngày nào của trung đội Hoàng Sa do tôi qui tụ hôm nay mới gặp lại. Vui mừng khôn tả. Người lính bị đẽn biển cắn ngày nào được anh em khiêng hộ lên tàu và thêm hai người nữa phải d́u đi v́ bị phù thủng. Như vậy là sau hơn ba tháng, đúng 100 ngày, anh em lính chúng tôi đă hoàn thành nhiệm vụ trấn giữ Ḥang Sa và bây giờ đang trở lại đất liền. Con tàu rời đảo cuối cùng ở Hoàng Sa khoảng 3 giờ chiều và dự trù sẽ đến cảng Tiên Sa vào 11 giờ sáng hôm sau.
Khác với ngày đi, ngày trở về đất liền ngồi trên boong tàu chúng tôi cười nói xôn xao, kể lại cho nhau nghe những ngày ở đảo. Tâm trạng nôn nóng mong sớm gặp lại người yêu, gặp lại vợ con bạn bè hiện rơ trên khuôn mặt của mỗi người. Và đúng như dự tính, 11 giờ sáng tàu đă đến cảng Tiên Sa sau một đêm dài lênh đênh cùng sóng nước. Hai chiếc xe GMC của Tiểu Khu Quảng Nam đă ra chờ sẵn chở chúng tôi về Hội An.
Ở đảo hơn ba tháng không hớt tóc nên người nào người nấy tóc dài đến tận vai, đen đúa giống như người ở rừng lâu năm xuống phố. Chúng tôi được nhận những tháng lương chưa lảnh khi ở Hoàng Sa và mỗi người được cấp năm ngày phép về thăm gia đ́nh trước khi nhận sứ vụ lệnh ra đơn vị. Điều kiện trước khi nhận giấy phép, đầu tóc phải gọn gàng sạch sẽ v́ vậy nên những tiệm hớt tóc cạnh Tiểu Khu đầy những người lính từ Hoàng Sa về ngồi đợi đến phiên ḿnh hớt tóc.
Tôi chào từ giă anh em và hẹn sẽ có dịp gặp lại nhau trong những lần hành quân lùng địch ở quê nhà.
Hồi tưởng lại những tháng ngày sống trên đảo Hoàng Sa – đối với tôi đến nay đă 46 năm trôi qua, 46 năm gần nửa đời người, 46 năm trăi qua với bao thăng trầm vinh nhục, 46 năm là một chuỗi thời gian dài để quên, nhưng làm sao quên được khi thời buổi hiện tại trước âm mưu bành trướng xâm lược quê hương, biển đảo của Trung cộng, biết bao nhiêu người Việt Nam yêu nước tay trong tay hô vang hai tiếng Hoàng Sa – Việt Nam.
Hoàng Sa – phần đất quê hương lâu đời của Ông cha ta để lại, vùng biển đảo yêu dấu của ngư dân Quảng Nam – Đà Nẵng và của ngư dân các tỉnh lân cận không thể măi măi thuộc về quân cướp đảo Trung cộng . Với tinh thần bất khuất, khí phách hiên ngang hào hùng đă từng đánh bại quân ngoại xâm phương bắc, mỗi người Việt Nam chúng ta hăy nguyện làm con sóng nhỏ âm ĩ quanh đảo Hoàng Sa – triệu triệu con sóng nhỏ kết hợp nhau lại sẽ tạo thành một trận sóng thần trổi dậy quét sạch và chôn vùi quân cướp đảo Trung cộng xuống tận đáy biển đông để Hoàng Sa trở về lại với phần đất quê hương.
Và để kết thúc những trang hồi kư viết về những ngày sống trên đảo Hoàng Sa, tôi xin kính cẩn nghiêng ḿnh mượn hai câu thơ của cụ Nguyễn Du và xin được phép đổi lại hai chữ “t́nh quê” bằng hai chữ Hoàng Sa.
Hoàng Sa góp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh.
Dư Mỹ
HQVN Facebook
hoanglan22
09-05-2019, 14:21
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1447748&stc=1&d=1567693225
Vợ ông Thuận (một cựu sĩ quan VNCH, sang Mỹ theo diện HO) sau cơn bạo bệnh đă mất cách nay hơn 10 năm. Các con trai và gái của ông bà đều lớn cả và có gia đ́nh nên ông ở chỉ có một ḿnh. Từ ngày vợ mất, ông đă ngoài 65 nhưng vẫn c̣n tráng kiện và khoẻ mạnh.
Cái tin ông về VN mấy lần, khá tốn kém để cưới vợ qua Mỹ làm chấn động cả một thị trấn nhỏ, hơi có tin lành dữ ǵ là ai cũng biết.
Dĩ nhiên đâu có ai có thiện cảm với một ông lăo 75 tuổi về VN cưới 1 cô gái trẻ đẹp mới ngoài 20 chỉ đáng tuổi con cháu chắt. Đúng là trâu già thích gặm cỏ non!
Ra phi trường đón cô gái trẻ ấy chỉ có một ḿnh ông. Tất cả con cháu, họ hàng không có một người nào. Thái độ đó ông thừa hiểu là họ phản đối!
Giấy tờ hợp lệ, hôn thú hẳn hoi, ông đưa cô về nhà.
Đêm đầu tiên cô gái cơm nước xong, tắm rửa sạch sẽ, ngồi coi tivi, cô chưa biết tiếng Anh nên ông mở mấy băng Paris By Night, Asia.. cho cô coi.
Khuya, ông chỉ tay vào một căn pḥng và nói:
- Đó là pḥng riêng của Hằng, tất cả đồ đạc có đầy đủ, Hằng cứ tự nhiên.
Nói xong, ông đứng lên đi vào pḥng của ông.
Cô gái hơi ngạc nhiên nhưng chỉ nghĩ là bên Mỹ vợ chồng ngủ riêng mỗi người một pḥng, khi nào cần làm "chuyện ấy" th́ mới...ṃ sang! Hix!
Nhưng cả tháng sau cô chờ hoài mà vẫn không nghe tiếng ông gơ cửa hay có thái độ nào khác!
Sau khi hoàn tất mọi thủ tục bổ sung để làm giấy tờ như thẻ SS (Social Security), thẻ ID, permanent resident card (thẻ xanh thường trú nhân)...
Ông nói nhẹ nhàng nhưng nghiêm trang với cô:
- Từ mai tôi sẽ chở Hằng đi học ESL, sau một thời gian, sẽ đăng kư học tiếp ở college, Hằng phải cố mà học, tôi không sống măi mà bảo bọc cho cô được đâu.
Ở cái xứ sở này, đâu ai để ư ai, đâu ai biết, đó là vợ chồng hay cha con, chỉ thấy ngày ngày ông chở cô đi và đón cô về, ân cần thăm hỏi động viên học hành.
Cô chỉ biết vâng dạ.
Những đêm xa nhà, xa quê hương một ḿnh nơi đất khách quê người, người ta mới hiểu thế nào là cô đơn cực kỳ, là cần hơi ấm người đồng hương, là thèm một tiếng nói dù là tiếng nói của một ông già. Nhiều lần cô lưỡng lự, muốn qua gơ cửa pḥng vào nói chuyện với ông nhưng rồi lại thôi.
Một năm thấm thoát trôi qua. Cô c̣n trẻ lại khá thông minh nên tiến bộ trông thấy, cô apply vào trường college và vượt qua các test để vào ngành y tá.
Ngày cô đi thi quốc tịch cũng là ngày ông mừng ra mặt khi cô báo tin đă pass (đậu).
Rồi ông đốc thúc cô nhanh chóng bảo lănh cha mẹ qua Mỹ!
Cô c̣n đi học nên tất cả mọi chi phí ông đều đài thọ.
Ba năm sau cô và ông ra đón cha mẹ cô và đứa em nhỏ dưới 21 tuổi.
Từ xa, bố vợ của ông tách khỏi gia đ́nh, chạy lại ôm chầm lấy ông, mắt đă nhoè lệ và kêu lên sung sướng:
- Ông Thầy!
Th́ ra ông Thuận nguyên là sĩ quan tiểu đoàn trưởng, thuộc trung đoàn 50, sư đoàn 25 bộ binh VNCH. C̣n "ông bố vợ", bố của Hằng nguyên là một trung sĩ, thuộc cấp của ông.
Hai thầy tṛ ôm nhau mừng mừng tủi tủi.
Chỉ đến khi ông và Hằng ra toà ly dị các con ông mới vỡ lẽ. Họ biết là họ đă sai lầm.
Ngày xưa sau 1975, lúc ông phải đi tù cải tạo, người lính thuộc cấp ấy đă phải đạp xích lô nuôi gia đ́nh bữa no bữa đói mà vẫn chia sẻ giúp đỡ gia đ́nh ông dù chỉ là những đồng tiền khiêm tốn. Những lần vợ ông đi thăm nuôi gần như là toàn bộ đồ dùng người thuộc cấp mua cho ông.
*****
Ông bùi ngùi nói với tôi:
- Chú Ḥa biết không, những ngày trong trại cải tạo, là những ngày đói triền miên, đói vô tận, đói mờ mắt, đói run chân th́ 1 cân đường, 1 kg chà bông, 1 bịch đậu phọng, vài viên thuốc qúy... hơn vàng nhưng những thứ đấy vẫn không qúy bằng cái t́nh nghiă mà người lính dành cho ḿnh. Chính cái t́nh nghiă ấy cho tôi niềm tin và hy vọng.
Khi qua Mỹ, tôi được tin gia đ́nh chú ấy kiệt quệ, đau bệnh liên miên, tiếp tế vài ba trăm cũng chỉ nuôi được mấy tuần, nên tôi đành phải bàn ... làm rể "giả" của chú ấy. (Ông hóm hỉnh khi nói câu này)
*****
Tôi hiểu câu chuyện, th́ ra ông về VN "giả" cưới cô Hằng là để đền ơn người thuộc cấp đă cưu mang giúp đỡ ông và gia đ́nh sau 1975.
Nhưng tôi vẫn c̣n thắc mắc:
- Thế sao cô Hằng không biết chú là cấp chỉ huy của ba cô ấy?
Ông mỉm cười:
- Đám cưới giả mà, phải giữ bí mật chứ, chỉ có 2 người biết là tôi và người lính ấy.
Tôi nhắp ngụm bia, bỗng nảy ra ư tưởng, tôi nói:
-Chuyện của chú cháu đưa lên... facebook được chứ?
- Tôi chỉ làm một việc rất b́nh thường. Sống có t́nh có nghiă là vui lắm rồi, cần ǵ ̣m ĩ...
Hằng và các con ông đang ngồi ăn uống vui vẻ, Hằng đứng dậy đi về phiá tôi và nói:
- Anh Ḥa, anh cứ đưa lên facebook cho em, coi như là lời cảm tạ người Bố thứ 2 của em vậy !
Tôi thấy mắt Hằng long lanh !
ĐNH
Theo tôi nghĩ tác giả tên Ḥa (ĐNH) viết ra cốt truyện không thực tế mấy…v́ Hằng qua Mỹ ngoài 20 tuổi rồi suốt 8 năm (5 năm sau vô quốc tịch + 3 năm làm giấy tờ bảo lănh) học college rồi làm y tá chẳng lẽ không vướng bận t́nh cảm nào với những người cùng tuổi cô? Cô không quen biết bất cứ người Việt nào và cam chịu thân phận tuổi trẻ đầy sức sống của cô bị giam hăm như vậy trong nhà ông Thuận suốt 8 năm???:o
hoanglan22
09-05-2019, 20:48
Theo tôi nghĩ tác giả tên Ḥa (ĐNH) viết ra cốt truyện không thực tế mấy…v́ Hằng qua Mỹ ngoài 20 tuổi rồi suốt 8 năm (5 năm sau vô quốc tịch + 3 năm làm giấy tờ bảo lănh) học college rồi làm y tá chẳng lẽ không vướng bận t́nh cảm nào với những người cùng tuổi cô? Cô không quen biết bất cứ người Việt nào và cam chịu thân phận tuổi trẻ đầy sức sống của cô bị giam hăm như vậy trong nhà ông Thuận suốt 8 năm???:o
Ư chính của tác giả đề cập đến sự trả ơn , c̣n chuyện đời tư cô ta quen biết người đồng tuổi là chuyện riêng .
Ư chính của tác giả đề cập đến sự trả ơn , c̣n chuyện đời tư cô ta quen biết người đồng tuổi là chuyện riêng .
yes, cám ơn lời giải thích:thankyou::hand shake:
thino2000
09-06-2019, 03:27
Cô gái hơi ngạc nhiên nhưng chỉ nghĩ là bên Mỹ vợ chồng ngủ riêng mỗi người một pḥng, khi nào cần làm "chuyện ấy" th́ mới...ṃ sang! Hix!
Hahahaha
hoanglan22
09-12-2019, 03:12
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1451632&stc=1&d=1568257908
Có nhiều lúc tôi tự hỏi, tại sao những chàng trai và cô gái ở miền quê lại phải đi vay ngân hàng để đi xuất khẩu lao động. Lần nào đi sân bay, tôi cũng ít nhiều thấy những gương mặt trẻ ngồi chờ đến lược ḿnh. Đa số họ bằng hoặc nhỏ tuổi hơn tôi.
Có rất nhiều bạn trẻ, nhưng đây là câu chuyện của một cô gái tên Mai Phương, đang lao động ở Nhật trong một trại táo. Quê ở Hà Tĩnh, đă làm việc hơn một năm cùng với những lao động Việt Nam khác. Họ đến từ những vùng miền khác nhau, người từ Nam Định, người quê Quảng Ninh, nên đôi lúc có cảm giác nơi đây là một Việt Nam thu nhỏ.
Công việc chính của Phương là chăm sóc cho những trái táo, trồng trọt theo tiêu chuẩn nông trại đưa ra để có thể bán ra ngoài với giá nhất định. Cô ta làm gần như mọi phân đoạn. Từ trồng, chăm, hái cho đến xếp táo vào thùng.
Ở quê nhà, gia đ́nh Phương là nông dân. Làm cả năm không đủ ăn. Mẹ cô ta dù đă lớn tuổi nhưng vẫn đi làm phụ hồ và được trả 3 triệu mỗi tháng. V́ thương mẹ cha, cho nên Phương chủ động sang Nhật lao động nhằm giúp đỡ gia đ́nh.
Công việc rất nặng và cực. Cô ta phải làm liên tục từ sáng tới tối để đổi lấy đồng lương khoảng 1.2 triệu VND. Nó chỉ là một phần ba so với lương của người bản xứ. Nhưng đối với Phương và những người cùng cảnh ngộ th́ đó là số tiền khổng lồ. Nó nhiều hơn bất cứ công việc khác ở một vùng quê chưa phát triển. Mỗi tháng sau khi để lại số ít để ăn uống, cô ta gửi về cho gia đ́nh 16 triệu đồng. Cô ta tiết kiệm từng đồng một, không phấn son, không đua đ̣i, tất cả v́ gia đ́nh.
Sau khi làm việc vất vả ngoài vườn, Phương và các bạn lao động khác trở về trong căn pḥng chật hẹp. Nó rất nhỏ nhưng rất gọn và ngăn nắp. Người khác có thể không thích cho lắm nhưng đối với một người lao động th́ đây là sự tiện nghi đáng mơ ước.
Họ cùng nhau nấu ăn, đi chợ, lau chùi và kể cho nhau nghe về cuộc đời. Ở quê nhà, cha mẹ và em trai lúc nào cũng nhớ Phương. Là chị cả nên gánh hết trách nhiệm lên đôi vai bé nhỏ của ḿnh.
Khi kể về gia đ́nh, nói về nỗi nhớ nhà, cô ta khóc. Nhưng không sao, cô ta cảm thấy rất vui khi được làm ở đây. Dù cực nhưng khi nghĩ đến gia đ́nh th́ cơ thể luôn tràn đầy sức sống. Niềm vui của gia đ́nh là hạnh phúc của chính bản thân cô ta.
Hiện tại có hàng vạn người Việt Nam đang xa xứ để lao động như Phương. Họ chấp nhận đánh đổi tuổi trẻ và sức khoẻ của ḿnh để nhận lấy những đồng tiền rẻ mạt. Họ cắn răng chịu cực v́ tương lai của ḿnh và gia đ́nh.
Nh́n những h́nh ảnh này, có bao giờ bạn tự hỏi v́ sao họ lại phải xa quê hương không? Đất nước chúng ta có vấn đề ǵ mà khiến họ không thể kiếm sống. Từ bao giờ xứ người là nơi sinh sống, c̣n quê nhà là chỗ để về thăm. Cha mẹ xa con, chồng xa vợ và người xa nhà. Tất cả v́ cuộc sống.
Tôi ngưỡng mộ họ. Ước ǵ ḿnh có nghị lực tương tự, dù chỉ một ít. Những cô gái Bắc Kỳ ấy thật tuyệt vời trong mắt tôi. Sự hy sinh đáng yêu của những thiên thần mới lớn. Chúc các bạn thành công.
Ku Búa @ Cafe Ku Búa
Hành tŕnh đi t́m Nursing Home
Heather Pham
(Đọc bài này hết ham sống … thọ?)
Ḿnh làm POA (Power of Attorney) cho một người bạn, tháng trước bệnh viện chuyển bạn qua Rehab, nhưng v́ không c̣n chỗ nên Case Manager gợi ư là chuyển tới Nursing Home-Rehab, ḿnh có hỏi bạn để ḿnh kiếm Nursing Home tốt, bạn nói không sao v́ Social Worker nói mấy chỗ Nursing Home chung với Rehab thường tốt hơn, và hứa sẽ kiếm một chỗ tốt cho bạn, gần bệnh viện, để tiện việc đi lại.
Giải thích cho bạn Nursing Home, con quạ nào cũng đen Nursing Home, chẳng qua nó biết che hay không thôi. Bạn nói thấy ḿnh bận rộn, với lại bạn biết tiếng Anh và c̣n tỉnh táo chắc không ai dám ăn hiếp bạn. Với lại sau này trước sau cũng vào Nursing Home ở, nên coi như trải nghiệm.
2 ngày sau ḿnh vào thăm bạn, bạn nửa thức nửa ngủ, lờ đờ, Nurse nói bạn ngủ suốt, thường ngày bạn ḿnh là người mất ngủ thường xuyên, mới đầu nghĩ là từ bệnh viện qua, rồi nhiều thuốc mới, có thể chưa quen và mệt. Ḿnh yêu cầu coi list những thuốc bạn đă uống, họ cho tối đa PRN (thuốc yêu cầu khi cần) thuốc ngủ, bạn nói không hề yêu cầu thuốc ngủ, trong khi Nurse một mực nói có.
Trước khi đi ḿnh có chụp h́nh xung quanh pḥng. Hai ngày sau quay lại, rác vẫn chưa đổ, gọi charge nurse complaint, họ đổ thừa là 2 loại rác, house keeping tưởng là rác y tế nên không dọn.
Đồ ăn th́ khỏi phải nói, 90% món ăn là đồ hộp hoặc đông đá, thịt gà cứng và khô, rau green bean th́ mặn chát, tụi nhà bếp c̣n cắt luôn khẩu phần sữa, lại phải đi căi lộn, ḿnh biết tỏng là tụi nó giấu sữa Ensure đem về.
Ngày sau nữa đến, Nurse quên làm wound care, trời ạ, trong khi vết thương cần thay băng mỗi ngày 2 lần. Thuốc th́ một số prepack trong bịch nhỏ, tụi nó cứ ngắt ra mà không cần coi lại, v́ dạng thuốc đóng gói sẵn nên chuyện sai sót thuốc dư thiếu là chuyện b́nh thường, nhưng nurse không hề kiểm tra lại, thuốc huyết áp mém chút uống gấp đôi. Nói bạn uống phải coi chừng, bạn v́ quá đau nhức và không đủ sức khỏe nên cũng không lên tiếng. Ḿnh biết bạn bị cho uống thêm thuốc ngủ mà không làm ǵ được.
Đỉnh điểm là khi Nurse Aid đưa cho bạn ḿnh nước, gọi call light cách đó 3 hrs, khi ngửi có mùi rất khó chịu, ḿnh nói sao đưa nước lấy trong rest room hả, she chối. Ḿnh nói giờ she viết giấy xác nhận, ḿnh sẽ gọi State Police liền, đem nước đi pḥng lab, coi có phải neglected patient không, she hoảng hồn nói chắc nhà bếp đưa Nursing Homeầm, xin lỗi rối rít…
Họ nói có transportation riêng đưa đón người trong đó, ḿnh chứng kiến bà làm ở front desk kiêm tài xế đưa người đi, ai dè lúc đưa người ra khỏi xe, wheelchair bị vướng, ông lăo bị lăn cù mèo té không đứng lên được, v́ không có kinh nghiệm transfer người, bả mặc váy lùng phùng, quay ông già ṿng ṿng bầm dập, ḿnh chạy vào gọi người ra giúp. Ḿnh chắc chắn là gia đ́nh họ sẽ không hề biết chuyện này.
Ở Nursing Home nên đem đồ nhà càng nhiều càng tốt, thí dụ nước uống, bộ trải giường, hay khăn mặt v́ trước đó họ chùi cái ǵ th́ có trời biết được. Bạn ḿnh th́ cứ nói kệ, cho qua đi, bạn chịu khó để ư là được. Ngồi một chút tiếng người già la hét, khóc lóc, tiếng mấy cô nhân viên cũng la hét, mùi hôi khai không thể nào chịu nổi. Ḿnh thừa biết, State muốn kiểm tra, khi qua được cửa th́ mọi việc đă khác.
Ḿnh gọi phone cho Bác sĩ nói xin chuyển him đi chỗ khác, lần này ḿnh t́m được Nursing Home khác, với rating khá cao, có RN (Registered Nurse), BSN (Bachelor of Science Nursing) chứ không phải LPN (Licensed Practical Nurse), pḥng ốc sạch sẽ không hôi hay khai. Giường tối tân có gắn sensor, mỗi 2hr sẽ gọi vào beeper có người vào coi chừng, turn, thực đơn th́ tương đối phong phú, có chef nấu. Nói chung mọi thứ vô cùng yên tâm.
Sau 2 ngày thăm bạn, bạn than đau nhức quá, bị muscle spasm liên tục, tự nhiên ḿnh nghi ngờ he bị withdrawal thuốc, hỏi có uống thuốc giảm đau không, he nói có, ḿnh chờ đúng giờ gọi đưa thuốc, nói bạn nh́n kỹ viên thuốc tối nay coi nó đưa đúng thuốc không, y chang nó đổi thuốc thay thuốc Hydrocodone giảm đau loại mạnh, bằng Tylenol, ḿnh lại làm người xấu đi complaint Nurse căi nói viên đó không phải, sau đó th́ mọi việc yên ổn, không c̣n bị uống thuốc dzỏm. (T́nh trạng Nurse ăn cắp thuốc rất phổ biến ở Nursing Home).
Nurse ở đây làm việc máy móc, computer bị lỗi software, không hiện thông báo, là có khi không cho thuốc antibiotics (through IV) bạn ḿnh phải setup alarm để nhắc.
Chuyện cái giường hiện đại, cứ 2hrs bất kể ngủ hay không CNA cứ đè bạn ḿnh ra turn trái phải làm 2 đêm đầu mất ngủ.
He kể con nhỏ CNA mới đầu thấy him người VN tưởng không biết tiếng Anh, nên vừa ôm phone 8 vừa giúp him, bạn hỏi mày nói chuyện với tao hả, nó nói tưởng bạn ḿnh không biết Anh, sau đó ôm phone xí xố ngôn ngữ khác. Ḿnh kêu bạn thu âm gửi ḿnh, nhờ cả đám coworker nghe là tiếng nước nào, sau khi biết là Creole nhờ coworker dịch, bả không dám dịch, nói tục quá. Ḿnh nói cứ dịch, hôm sau lại chạy lên nữa gặp Nurse Manager, Social Worker, Administrator nói chuyện, họ tưởng ḿnh là dân làm tiền chuyên nghiệp, kiểu như giả vờ bị abuse neglected rồi giả vờ đ̣i đi kiện, để được ăn ở free, hay hù dọa kiếm tiền. Bả offer này nọ, mắc cười chết luôn. Ḿnh nói tôi từng làm việc nên biết, chỉ cần take care tốt cho bạn thôi.
Thời gian 3 tuần cũng qua, bạn ḿnh nói đâu ngờ Nursing Home kinh khủng vậy, mặc dù nghe ḿnh nói rất nhiều chuyện, cứ nghĩ biết tiếng Anh, biết luật là không ai ăn hiếp, ḿnh nói tụi nó rành mọi kẽ hở, lơ mơ là ḿnh không làm ǵ được.
Phải nói thêm là mỗi Nursing Home ḿnh vào thăm, vài ba ngày lại đem hộp bánh, hộp kẹo vào, coi như vừa ủy lạo tinh thần, ḿnh biết công việc Nursing Home không dễ dàng chút nào, và cũng ngầm ư, bạn tôi có người nhà.
Ḿnh suy nghĩ rất nhiều trước khi viết bài này. Là một người từng làm Nursing Home, Hospice, Bệnh viện, ḿnh biết người nhà luôn phải tôn trọng, ḥa nhă,với nhân viên, cũng là viec b́nh thường trong giao tiếp. Những ai đă gặp ḿnh ở ngoài biết ḿnh hiền khô à nhưng nhiều khi cũng nổi điên luôn.
Dù biết mỗi nhà mỗi cảnh, nhưng nếu bạn thật ḷng yêu thương cha mẹ và người thân, xin đừng đem họ vào Nursing Home!
(*) BSC= The Bachelor of Science in Nursing cao hơn RN= Registered Nurse, cao hơn LPN= Licensed Practical Nurse.
(Nursing Home không phải cái nào cũng như nhau, cũng như ở đâu cũng có người tốt và người xấu. Nếu như không có sự chọn lựa phải vào Nursing Home, ḿnh cũng hy vọng anh/chị t́m được một nơi tốt.
* Lưu ư: Bài viết là kinh nghiệm bản thân, không thể dùng làm thước đo cho hệ thống Nursing Home ở Mỹ.
Heather Pham
Mời nghe nhạc cuối tuần.
7N44FRLkuPg
Ai đă đặt tên cho các đường phố Sài-G̣n trước 1975?
Nhà văn Thuần Phong Ngô Văn Phát, người Bạc Liêu và việc đặt tên đường phố Sài-G̣n năm 1956.
Nhưng thật là bất ngờ, bất ngờ đến kinh ngạc, khi qua tài liệu đính kèm của tác giả Nguyễn văn Luận, chúng ta được biết kiệt tác của lịch sử này đă được hoàn thành bởi… một người. Người đó là ông Ngô văn Phát, trưởng pḥng họa đồ thuộc ṭa đô chánh Saigon
saigon3 saigon4
Từ lâu, tôi đă có dịp bày tỏ ḷng ngưỡng mộ và khâm phục về việc đặt tên cho các đường phố tại Saigon vào năm 1956, ngay sau khi chúng ta giành được độc lập từ tay thực dân Pháp. V́ đây là một công việc quá xuất sắc và quá hoàn thiện, nên tôi vẫn đinh ninh rằng đó phải là một công tŕnh do sự đóng góp công sức và trí tuệ của rất nhiều người, của một ủy ban gồm nhiều học giả, nhiều sử gia, nhiều nhà văn, nhà báo…
Nhưng thật là bất ngờ, bất ngờ đến kinh ngạc, khi qua tài liệu đính kèm của tác giả Nguyễn văn Luận, chúng ta được biết kiệt tác của lịch sử này đă được hoàn thành bởi… một người. Người đó là ông Ngô văn Phát, trưởng pḥng họa đồ thuộc ṭa đô chánh Saigon.
Nhà văn Ngô văn Phát, bút hiệu Thuần Phong, sinh quán tại huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Nhân đây, tôi cũng xin được gửi lại một vài ư kiến liên hệ của tôi:
“… Nói vào chi tiết hơn, vua Lê Thánh Tôn đă mở mang bờ cơi từ Quảng Nam, Quảng Ngăi và B́nh Định. Rồi sau đó, chúa Nguyễn Hoàng và con cháu đă vượt đèo Cù Mông, đánh chiếm Phú Yên, Khánh Ḥa, Ninh Thuận, B́nh Thuận, vĩnh viễn xóa sổ nước Chiêm Thành khỏi bản đồ thế giới. Rồi c̣n tiếp tục mang về cho dân tộc cả một đồng bằng Nam Phần mênh mông bao la, từ Đồng Nai đến Cà Mau, Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc... Cũng phải kể luôn cả “Hoàng Triều Cương Thổ” (vùng đất mà thực dân Pháp dành riêng cho các vua nhà Nguyễn) là vùng Cao nguyên Trung phần trù phú mầu mỡ hiện nay. Dĩ nhiên công cuộc mở mang bờ cơi này cũng bao gồm cả các quần đảo Hoàng Sa và Truờng Sa nữa.
Nghĩa là hơn một nửa diện tích đất liền của Việt Nam hiện nay là do gịng họ của Chúa Nguyễn Hoàng đă mang về cho dân tộc Việt Nam!
Riêng Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần, là người đă có công rất lớn trong công cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt là Chúa Hiền Vương đă đóng góp rất nhiều công sức trong việc b́nh định và chinh phục vùng đất Gia Định ngày xưa. Gia Định ngày xưa bao gồm Biên Ḥa, Long Khánh, Bà Rịa, Vũng Tàu, Tây Ninh, Phước Long, B́nh Long, Long An, Mỹ Tho, Gia Định, Saigon... bây giờ. Cho nên chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa đă lấy tên của Ngài để đặt cho một trong hai con đường chính từ hướng Bắc dẫn vào trung tâm Thành Phố Sá G̣n. (CSVN đă thay Hiền Vương bằng tên của Vơ thị Sáu – Đường Nguyễn Hoàng bị đổi thành Trần Phú…).
Loại bỏ tên của Chúa Nguyễn Hoàng, của Chúa Hiền Vương và các vị ân nhân của dân tộc trong công cuộc Nam Tiến ra khỏi bản đồ Sài G̣n và các thành phố Miền Nam là điều mà tục ngữ ca dao b́nh dân gọi là “ăn cháo, đá bát”.
Đấy là chưa nói tới giấc mộng...Tây Tiến chưa thành. Hai vị trung thần nhà Nguyễn là Lê Văn Duyệt và Trương Minh Giảng đă mở mang bờ cơi nước ta tới tận biên giới… Thái Lan bây giờ, đă thiết lập thêm một Trấn mới là Trấn Tây Thành, (hai Trấn kia là Trấn Bắc Thành và Trấn Gia Định Thành). Phải chăng chính v́ vậy mà ngay từ khi vừa dành được chủ quyền từ tay thực dân Pháp, hai con đường lớn từ trung tâm Sài G̣n hướng về Bà Quẹo để sang thẳng đất Miên qua ngả G̣ Dầu, đă được mang tên hai vị Anh Hùng Tây Tiến nổi danh này. Đó là đường Trương Minh Giảng và đường Lê Văn Duyệt. Phải chăng đó cũng như là một nhắc nhở cho các thế hệ mai sau về một sứ mạng chưa thành, một “Mission unaccomplished”...
Nhà văn Thuần Phong Ngô Văn Phát và việc đặt tên đường phố Sàig̣n năm 1956.
Trong những năm làm việc tại Ṭa Đô Chánh Saigon, tôi có dịp góp phần trông coi việc xây dựng và tu bổ đường xá, lúc th́ tại Khu Kiều Lộ Saigon Tây (Chợ Lớn) gồm 6 quận 5, 6, 7, 8, 10 và 11, lúc th́ tại Khu Kiều Lộ Saigon Đông (Saigon) gồm 5 quận 1, 2, 3, 4 và 9. Hàng ngày họp với các ông cai lục lộ phụ trách từng khu vực, nghe báo cáo đường th́ ngập nước sau cơn mưa, đường th́ có ổ gà, nhựa đường tróc hết trơ lớp đá xanh đá đỏ nền đường, đường th́ dân xây cất trên lộ giới tràn ra lề đường, nên tôi gần như thuộc ḷng tên hơn 300 con đường.
Sàig̣n xưa
Qua bao nhiêu năm lịch sử của thành phố, hầu hết đều có tên Tây như:
· Boulevard Charner
· Boulevard Galliéni
· Boulevard Kitchener
· Boulevard Norodom ..v.v...
Sau hiệp định Genève tháng 7 năm 1954 chính quyền Pháp bàn giao cho chính phủ Bảo Đại, với Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm.
Để đánh dấu việc dành độc lập từ tay người Pháp, Toà Đô Chánh Sàig̣n được lệnh gấp rút thay thế toàn bộ tên đường từ tên Pháp qua tên Việt trong khoảng thời gian ngắn nhất. Trong lịch sử của các thành phố có bao nhiêu lần đổi tên hàng loạt toàn bộ các con đường như thế này? Có lẽ vô cùng hiếm hoi.
Việc đối chiếu tên các danh nhân trong lịch sử 4000 năm để đặt tên đường sao cho hợp lư không phải dễ. Chỉ nghĩ đơn thuần, khi dùng tên Vua “Trần Nhân Tôn” và Tướng “Trần Hưng Đạo”, người làm dưới trướng của Vua, để đặt tên cho 2 con đường th́ đường nào to và quan trọng hơn? Câu hỏi nhỏ như vậy c̣n thấy không đơn giản, huống chi cân nhắc cho ngần ấy con đường trong một thời gian gấp rút thật không dễ.
Lúc bấy giờ công việc này được giao cho Ty Kỹ Thuật mà Pḥng Hoạ Đồ là phần hành trực tiếp. May mắn thay cho thành phố có được nhà văn Ngô Văn Phát**, bút hiệu Thuần Phong, có bằng Cán Sự Điền Điạ lúc ấy đang giữ chức Trưởng Pḥng Hoạ Đồ.
Năm 1956, sau hơn ba tháng nghiên cứu, ông đă đệ tŕnh lên Hội Đồng Đô Thành, và toàn bộ danh sách tên đường ấy đă được chấp thuận. Khi tôi vô làm năm 1965 và hàng ngày lái xe đi công trường, đụng chạm với các con đường mới cảm nhận được sự uyên bác về lịch sử của ông. Nh́n những tên đường trên họa đồ, khu nào thuộc trung tâm thành phố, khu nào thuộc ngoại ô, đường nào tên ǵ và vị trí gắn bó với nhau, càng suy nghĩ càng hiểu được cái dụng ư sâu xa của tác giả.
Các đường được đặt tên với sự suy nghĩ rất lớp lang mạch lạc với sự cân nhắc đánh giá bao gồm cả công trạng từng anh hùng một lại phù hợp với điạ thế, và các dinh thự đă có sẵn từ trước. Tác giả đă cố gắng đem cái nh́n vừa tổng quát lại vừa chi tiết, những khiá cạnh vừa t́nh vừa lư, đôi khi chen lẫn tính hài hước, vào việc đặt tên hiếm có này. Tôi xin kể ra đây vài thí dụ, theo sự suy đoán riêng của ḿnh, bởi v́ ông có nói ra đâu, nhưng tôi thấy rơ ràng là ông có ư ấy:
· Đầu tiên là những con đường mang những lư tưởng cao đẹp mà toàn dân hằng ao ước: Tự Do, Công Lư, Dân Chủ, Cộng Hoà, Thống Nhất. Những con đường hoặc công trường này đă nằm ở những vị trí thích hợp nhất.
· Đường đi ngang qua Bộ Y Tế th́ có tên nào xứng hơn là Hồng Thập Tự.
· Đường de Lattre de Tassigny chạy từ phi trường Tân Sơn Nhất đến bến Chương Dương đă được đổi tên là Công Lư, phải chăng v́ đi ngang qua Pháp Đ́nh Sài-G̣n. Con đường dài và đẹp rất xứng đáng. Ba đường Tự Do, Công lư và Thống Nhất giao kết với nhau nằm sát bên nhau bên cạnh dinh Độc Lập.
· Đại lộ Nguyễn Huệ nằm giữa trung tâm Sàig̣n nối từ Toà Đô Chánh đến bến Bạch Đằng rất xứng đáng cho vị anh hùng đă dùng chiến thuật thần tốc phá tan hơn 20 vạn quân Thanh. Đại lộ này cũng ngắn tương xứng với cuộc đời ngắn ngủi của ngài.
· Những danh nhân có liên hệ với nhau thường được xếp gần nhau như Đại Lộ Nguyễn Thái Học với đường Cô Giang và đường Cô Bắc, cả ba là lănh tụ cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Hoặc đường Phan Thanh Giản với đường Phan Liêm và đường Phan Ngữ, Phan Liêm và Phan Ngữ là con, đă tiếp tục sự nghiệp chống Pháp sau khi Phan Thanh Giản tuẫn tiết.
· Những đại lộ dài nhất được đặt tên cho các anh hùng Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Lê Lợi và Hai Bà Trưng. Mỗi đường rộng và dài tương xứng với công dựng nước giữ nước của các ngài.
· Đường mang tên Lê Lai, người chịu chết thay cho Lê Lợi th́ nhỏ và ngắn hơn nằm cận kề với đại lộ Lê Lợi.
· Đường Khổng Tử và Trang Tử trong Chợ Lớn với đa số cư dân là người Hoa.
· Bờ sông Sàigon được chia ra ba đoạn, đặt cho các tên Bến Bạch Đằng, Bến Chương Dương, và Bến Hàm Tử, ghi nhớ những trận thuỷ chiến lẫy lừng trong lịch sử chống quân Mông cổ, chống Nhà Nguyên cuả Hưng Đạo Đại Vương vào thế kỷ 13.
· Cụ Nguyễn Du, mà thầy đồ Thiệp, người dạy học vỡ ḷng cho tôi, khi nói chuyện với cha tôi, bao giờ cũng gọi với danh xưng Cụ Thánh Tiên Điền. Cuốn truyện Kiều của cụ ngày nay được chúng ta dùng như là khuôn mẫu cho tiếng Việt, khi có sự tranh luận về danh từ hay văn phạm, người ta thường trích một câu Kiều làm bằng. Vậy phải t́m đường nào đặt tên cho xứng? Tôi thấy con đường vừa dài vừa có nhiều biệt thự đẹp, với hai hàng cây rợp bóng quanh năm, lại đi ngang qua công viên đẹp nhất Saigon, vườn Bờ Rô, và đi ngang qua Dinh Độc Lập, th́ quá xứng đáng. Không có đường nào thích hợp hơn. Tuyệt! Vườn Bờ Rô cũng được đổi tên thành Vườn Tao Đàn làm cho đường Nguyễn Du càng thêm cao sang.
· Vua Lê Thánh Tôn, người lập ra Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú, cũng cho mang tên một con đường ở địa thế rất quan trọng, đi ngang qua một công viên góc đường Tự Do, và đi trước mặt Toà Đô Chánh.
· Trường nữ trung học Gia Long lớn nhất Sài g̣n th́, (trớ trêu thay?), lại mang tên ông vua sáng lập nhà Nguyễn. Trường nữ mà lại mang tên nam giới! Có lẽ nhà văn Thuần Phong muốn làm một chút ǵ cho trường nữ trung học công lập lớn nhất thủ đô có thêm nữ tính, nên đă đặt tên hai đường song song nhau cặp kè hai bên trường bằng tên của hai nữ sĩ: Bà Huyện Thanh Quan và Đoàn Thị Điểm. Chùa Xá Lợi nằm trên đường Bà Huyện Thanh Quan thấy cũng nhẹ nhàng.
· Thẳng góc với hai đường Bà Huyện Thanh Quan và Đoàn Thị Điểm là đường Hồ Xuân Hương. Ba nữ sĩ nằm bên cạnh nhau, thật là có lư, nhưng có lư hơn nữa có lẽ là đường Hồ Xuân Hương đi ngang qua bệnh viện Da Liễu. Tác giả những câu thơ “Vành ra ba góc da c̣n thiếu, Khép lại hai bên thịt vẫn thừa” mà cho mang tên đường có bệnh viện Da Liễu có lẽ cũng xứng hợp.
Ông Nhà Văn - Trưởng Pḥng Họa Đồ quả là sâu sắc.
Rất tiếc là lúc vào làm việc th́ Thuần Phong Ngô văn Phát đă về hưu nên tôi không được hân hạnh gặp mặt. Măi sau này mới có dịp đọc tiểu sử của ông, mới hết thắc mắc làm sao chỉ là một công chức như tôi mà ông đă làm được việc quá xuất sắc và hi hữu này.
*** Nhà văn, nhà họa đồ Ngô Văn Phát, bút hiệu Thuần Phong, Tố Phang, Đồ Mơ, sinh ngày 16-10-1910 tại huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Thuở nhỏ học ở Bạc Liêu, Sài G̣n, đậu bằng Thành Chung rồi nhập ngạch họa đồ ngành công chánh. Ông ham thích văn chương từ ngày c̣n ngồi trên
ghế nhà trường, từng có thơ đăng trên Phụ nữ tân văn, họa mười hai bài Thập thủ liên hoàn của Thương Tân Thị... Có lúc ông dạy Việt văn tại trường Pétrus kư Sài G̣n.
Năm 1957 ông có bài đăng trên bộ Tự điển Encyclopedia - Britannica ở Luân Đôn (Anh Quốc). Đó là chuyên đề Khảo cứu về thành phố Sài G̣n.
Năm 1964 chuyên đề Ca dao giảng luận in trên tạp chí Trường Viễn đông Bác cổ ở Paris (sau in thành sách ở Sài G̣n). Cùng năm này Trường Cao học Sorbonne (Paris), ông cũng có chuyên đề Nguyễn Du et la métrique populaire (Nguyễn Du với thể dân ca) trong bộ sách nhan đề: Mélanges sur Nguyen Du (Tạp luận về Nguyễn Du).
Những năm 70 ông được mời giảng môn Văn học dân gian tại Đại học Văn khoa, Sư phạm Huế và Cần Thơ.
Ông mất năm 1983 tại Sài G̣n.
(Nguồn : Vũ Linh Châu & Nguyễn Văn Luận)
trungthu
09-19-2019, 04:05
Ai đă đặt tên cho các đường phố Sài-G̣n trước 1975?
Những năm 70 ông được mời giảng môn Văn học dân gian tại Đại học Văn khoa, Sư phạm Huế và Cần Thơ.
Ông mất năm 1983 tại Sài G̣n.
(Nguồn : Vũ Linh Châu & Nguyễn Văn Luận)
Sư phụ thiệt là tài, mới tung ra bài Nursing Home rồi nhạc rên rỉ tưởng sư phụ đi kiếm Khánh Ly hát bài " tóc đầu có c̣n đâu, cho ta,,," tưởng sắp đi đứt rồi nhưng bây giờ lại tung chưởng t́m đường Hồ xuân Hương , đệ tử mừng thầm th́ ra sư phụ vẫn c̣n cứng cựa...
Nói chơi vậy thôi , bài " Ai đă đặt tên cho các đường phố Sài-G̣n trước 1975? " thật là hay, có giá trị khảo cứu , lịch sử , cám ơn sư phụ sưu tầm...
Sẵn tiện đây có 4 câu thơ vấn an gởi cho sư phụ thưởng ngoạn.
Kiếm xưa vùng vẫy 4 trời.
Kiếm nay saongủ bên đồi núi đôi..?
T́nh người sao vẫn xa xôi
Hạc rơi trên giấy vàng khơi điệu buồn..
Trung thu
:handshake::handshak e::thankyou::thankyo u:
hoanglan22
09-19-2019, 04:28
longhue . Bài nào mà lăo gia không biết post ở đâu th́ thảy vào chỗ này , sau này có th́ giờ ḿnh sẽ làm mục lục tuần tự theo vần A B CD . Lúc này cũng bận nhiều việc , làm cho hăng bàn giao công việc cho người mới trước khi rời khỏi hăng ( về hưu trong tháng 10 )
hoanglan22
09-19-2019, 04:32
Sư phụ thiệt là tài, mới tung ra bài Nursing Home rồi nhạc rên rỉ tưởng sư phụ đi kiếm Khánh Ly hát bài " tóc đầu có c̣n đâu, cho ta,,," tưởng sắp đi đứt rồi nhưng bây giờ lại tung chưởng t́m đường Hồ xuân Hương , đệ tử mừng thầm th́ ra sư phụ vẫn c̣n cứng cựa...
Nói chơi vậy thôi , bài " Ai đă đặt tên cho các đường phố Sài-G̣n trước 1975? " thật là hay, có giá trị khảo cứu , lịch sử , cám ơn sư phụ sưu tầm...
Sẵn tiện đây có 4 câu thơ vấn an gởi cho sư phụ thưởng ngoạn.
Kiếm xưa vùng vẫy 4 trời.
Kiếm nay saongủ bên đồi núi đôi..?
T́nh người sao vẫn xa xôi
Hạc rơi trên giấy vàng khơi điệu buồn..
Trung thu
:handshake::handshak e::thankyou::thankyo u:
Qua bài thơ trên không biết có phải là song kiếm trấn ải không ???
XKagi-lnXag
hoanglan22
09-19-2019, 04:54
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1455866&stc=1&d=1568868827
Thưa các bác, Tha Hương nhà cháu mần bài vè này, nếu có chạm bác nào thì hoàn toàn là sự ngẫu nhiên, vì nhà cháu chỉ dùng ngôn ngữ và chân thật vẽ lại những cảnh đời trong cộng đồng tị nạn VC chúng ta ở hải ngoại, khi nghe câu chuyện Đêm Tạ Tình và khi thấy tấm hình lobter này do bác nào đưa lên mạng mà thôi.
Tội cho mấy chú lobsters
Vì đâu mà bị bất ngờ... hy sinh ...
Không một chú kịp trình kịp báo
Mà đã bay vô chảo, vô nồi
Rồi chui vào bụng đám người
Coi chùa văn nghệ lại lời bữa ăn
Lobster này khi lăn qua họng
Xuống dạ dày là ngọng, là câm
Hình đầy trên NET, đâu lầm
Chẳng ai dám tiếng thì thầm, đúng không?
Khi trọc phú lên đồng, chửi mắng
Năm ngàn người im lặng ngồi nghe
Không ai dám chút ho he
Vì tôm hùm đã nằm che họng rồi !
Để trọc phú khơi khơi hỗn xược
"Tôi chửi cho cả nước nghe nè
HIỂU CHƯA?, Vỗ lớn tay nhe !
Chửi cho CHỐNG CỘNG cả bè teo luôn
Văn công vẹm và tuồng nhà Đảng
Tui đem qua, tui ngán đứa nào ?
Biểu tình, chống được tui sao?
Tui RECALL đợi chúng nhào, coi chơi !"
Năm ngàn vị theo đuôi trọc phú
Ngồi im re vì chú lobster
Có người thấy nhục, thấy dơ
Lobster lỡ nuốt, lỡ khờ... đành cam
Có kẻ lại hân hoan, "HỒ HỞI"
Cười rất ngoan đón đợi lobster
Trong bày công cụ, thời cơ
Mèn ui, trán bóng, mặt trơ mấy ngài
Đã ngất ngưởng trên ngai dân cử
Lại tung hoành quá khứ Hát Ô
Và từng chống cộng, bài Hồ
Bỗng nhiên đổi job, bưng bô cho Kiều !
Ôi, cái job... tiêu diêu thân thế
Nên xanh màu tiền tệ, đô la
Do chàng trọc phú tung ra
Mấy ngài hứng lấy xuýt xoa ... thơm lừng !
Ra ngài đã quay lưng đổi óc
Và quăng đi bài học làm người
Lobster lọt được qua môi
Cộng mà có chửi cũng ngồi im re
NGHE CHƯA?- cung kính - Dạ NGHE !
HIỂU KHÔNG? nào dám rụt rè -Thưa KHÔNG !
Mà khép nép trước ông trọc phú
Ngắm lobster cũng đủ mê ly
Lobster có lắm quyền uy
Chung quanh kẻ vái người qùy, cũng dzui
Ai bảo rứa là tồi, ngài đạp
Mướn du côn mõm táp, tay ghè
Rứa là thiên hạ im re....
Và ngài mặc sức vo ve LÀM RUỒI ...
Tha Hương
longhue . Bài nào mà lăo gia không biết post ở đâu th́ thảy vào chỗ này , sau này có th́ giờ ḿnh sẽ làm mục lục tuần tự theo vần A B CD . Lúc này cũng bận nhiều việc , làm cho hăng bàn giao công việc cho người mới trước khi rời khỏi hăng ( về hưu trong tháng 10 )
Bỏ được gánh nặng công việc trong mưu sinh hằng ngày là một việc mừng rồi phải đối mặt với việc mà ai cũng sợ là bệnh lủng túi khi thấy tiền hàng tháng bớt đi. Dư thời gian nhiều quá rồi làm ǵ vậy bạn già. C̣n việc đưa vào mục lục tuần tự cho có thứ tự th́ tui ủng hộ liền. Cảm ơn bạn già nhiều lắm hén. Chúc bạn già những ngày tháng tới bên gia đ́nh trọn niềm vui và an nhiên tự tại.:handshake::hand shake::thankyou::tha nkyou:
Con cái của ḿnh bây giờ đă lớn cho nên cũng không cần lo bọn nó nữa . Về đời sống cũng chẳng lo nghĩ ǵ về tiền bạc , bởi v́ đă đầy đủ , thú vui bây giờ đi vào nhà thờ hay chùa làm thiện nguyện giúp và cũng là một cách giao tiếp với nhiều ông bà anh chị em ở đây , Cuối tuần th́ đi câu cá qua ngày , đầu óc rất thảnh thơi
Chúc vui vẻ:handshake::thanky ou:
Sư phụ thiệt là tài, mới tung ra bài Nursing Home rồi nhạc rên rỉ tưởng sư phụ đi kiếm Khánh Ly hát bài " tóc đầu có c̣n đâu, cho ta,,," tưởng sắp đi đứt rồi nhưng bây giờ lại tung chưởng t́m đường Hồ xuân Hương , đệ tử mừng thầm th́ ra sư phụ vẫn c̣n cứng cựa...
Nói chơi vậy thôi , bài " Ai đă đặt tên cho các đường phố Sài-G̣n trước 1975? " thật là hay, có giá trị khảo cứu , lịch sử , cám ơn sư phụ sưu tầm...
Sẵn tiện đây có 4 câu thơ vấn an gởi cho sư phụ thưởng ngoạn.
Kiếm xưa vùng vẫy 4 trời.
Kiếm nay saongủ bên đồi núi đôi..?
T́nh người sao vẫn xa xôi
Hạc rơi trên giấy vàng khơi điệu buồn..
Trung thu
:handshake::handshak e::thankyou::thankyo u:
Kính chào ông bạn già hay lưng lửng tui hỏng có biết à nhen...sorry, đừng khen quá mà làm già nầy thêm tủi. Phận thấp hèn này chôm được bài nào có ư nghĩa để mọi người tham khảo mà thôi chứ có hay ho ǵ đâu. C̣n đầu th́ trọc cũng đă mấy chục năm rồi ông bạn lưng lửng ui....cười cái coi cho răng vàng sáng chói nha.:handshake::hand shake::thankyou::tha nkyou:
hoanglan22
09-20-2019, 15:17
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1456747&stc=1&d=1568992550
Đến định cư tại miền Bắc California Hoa Kỳ hơn nửa năm, bỗng một hôm, tôi nhận được cú điện thoại của Thung từ Texas gọi qua. Thung là bạn học, cũng là chiến hữu của tôi ngày xưa. Hắn đề nghị gởi vé máy bay mời tôi qua Houston chơi. Nhân tiện thăm viếng khu vực dễ làm ăn và giá nhà cửa cũng dễ thở hơn nhiều so với San Jose. Tôi đồng ư. Một tuần lễ sau, một vé máy bay và một cái check 300 Mỹ kim trong b́ thư gởi đến. Đây là một món quà khá hậu hỉ ở đất lạ quê người. Ba ngày sau, tôi lên máy bay của hăng Continental Airlines đi Texas. Bay suốt bốn tiếng đồng hồ, chiếc Boeing mới hạ cánh xuống phi trường Houston. Thung đón tôi tại lối ra của khu hành khách. Lần gặp nhau cuối cùng ở quê nhà vào năm 1973, tại Đại Học CTCT Đà Lạt. Ngày ấy, trông hắn rắn rỏi, khuôn mặt sạm nắng mà hôm nay, sau mười sáu năm định cư tại Mỹ, hắn hoàn toàn lột xác. Nước da trắng hồng đỏ au, cái bụng căng tṛn, dáng người bệ vệ trông “rất ông chủ”. Mà chủ thực. Thung làm chủ cái chợ bán đồ biển. Vợ và con quản lư c̣n Thung lo chạy ṿng ngoài.
Ngày hôm sau Thung đưa tôi đến thăm cơ sở làm ăn của gia đ́nh. Nào pḥng mạch nha sĩ của đứa con trai đầu ḷng, pḥng dịch vụ về bảo hiểm của đứa con gái. Sau đó Thung mời tôi đi ăn trưa.
Nhà hàng có tên Cổ Lũy Restaurant tọa lạc tại khu sầm uất nhất của người Việt và Hoa tại thành phố Houston. Vào giờ xế trưa, nhà hàng vắng khách nên chúng tôi chọn chiếc bàn đặt gần quầy thu tiền. Người bồi bàn trao cho chúng tôi bản thực đơn. Cái tên Cổ Lũy nghe quen thân quá. Tôi nghĩ, có lẽ chủ nhà hàng là người Quảng Ngăi. Bởi Cổ Lũy là tên một cửa biển từ hai ḍng sông Trà Khúc và Sông Vệ nhập vào. Nơi đây thuyền bè tấp nập ra vào bến tàu Phú Thọ. Trong tờ thực đơn có món “Hến xúc bánh tráng”. Nh́n thấy hến ḿnh lại nhớ đến món don. Chẳng cần xem tiếp tờ thực đơn, tôi gọi ngay một tô don. Cô bồi bàn giọng miền Nam nh́n tôi ngạc nhiên hỏi:
- Don là món ǵ vậy, nghe lạ quá hỡ ông? Thực đơn nhà hàng này không có món đó.
- Cái món “Hến xúc bánh tráng” trong thực đơn có ghi, tại sao lại không có món don ?
Tôi vừa cự nự (kiểu Quảng Ngăi hay co) vừa chỉ cho cô chạy bàn cái món ruột hến, rồi tiếp:
- Nếu không có don th́ cho tôi cái món số 15 này.
Cô gái bồi bàn đi vào bếp. Ngay sau đó, một phụ nữ đứng tuổi ăn mặc sang trọng từ quầy thu tiền đi thẳng đến bàn chúng tôi. Bà có mái tóc ngắn làm nổi bật khuôn mặt trái soan đầy đặn với làn da trắng mịn. Thung khều chân tôi nói nhỏ : “Bà chủ”
- Chào hai anh. Người đàn bà nở nụ cười thân thiện.
- Chào bà chủ, Thung đáp lễ.
- Vị nào thích món don ? bà chủ tươi cười hỏi.
- Thưa bà, tôi ạ.
Xin lỗi, anh người quê Quảng Ngăi ?
- Tại sao bà biết ?
- Tôi chỉ đoán thôi, bởi v́ chỉ có dân sống tại Quảng Ngăi mới thấy thích thú món don. Thế bà cũng là người Quảng Ngăi, đúng không?
- Anh nghĩ sao mà đoán ra thế?
- Chỉ nh́n cái tên hiệu Cổ Lũy của nhà hàng là biết ngay.
- Nầy ông anh, trước kia ở Quảng Ngăi, anh sống ở huyện nào vậy?
- Tôi ở thị xă, trên đường Quang Trung.
Người đàn bà nh́n tôi một chặp lâu rồi quay vào bên trong nhà hàng. Lát sau, món ăn được bưng ra. Một tô bún chả cá cho Thung và một dĩa ruột hến xúc bánh tráng cho tôi. Lâu lắm rồi tôi mới nghe lại mùi hến. Hến ở quê nhà ruột nhỏ, dai và thơm. C̣n hến đóng hộp nhập cảng con lớn, mềm lại mất hết mùi vị. Ngày xưa, mỗi lần đi Huế, tôi nhất định phải ăn cho được một lần cơm hến. Đi đâu xa trở về Quảng Ngăi, tôi không thể nào quên ăn một bữa don cho đă cơn ghiền.
Cô bồi bàn bưng hai ly nước cam vắt đến bàn chúng tôi nói của bà chủ mời, có kèm theo một tấm danh thiếp trao cho tôi. Mặt sau danh thiếp là chữ viết của bà chủ nhà hàng mời riêng tôi đến nhà vào chiều Thứ Bảy. Đặc biệt, bà khoản đăi món don do bà nấu. Phần dưới là số phone và địa chỉ nhà riêng. Trên đường về, tôi hỏi Thung:
- Cậu nghĩ sao cái trường hợp lạ lùng này ?
- Ở quê người, nhớ cố hương, gặp người Việt đă mừng rồi huống chi lại là đồng hương Quảng Ngăi. Bà ấy mời cậu đến nhà có lẽ để hỏi thăm tin tức bà con ở quê nhà. Cứ nh́n dáng dấp bà ấy với cái cơ ngơi nầy là cậu hiểu ngay bà ta là dân trụ ở đây khá lâu. Biết đâu cơ may đem đến cho cậu công ăn việc làm ở thành phố này. Bạn tôi suy luận như thế. Riêng tôi, v́ lạ đất lạ người nên có phần bồn chồn, áy náy.
* * *
Hương vị của món hến xúc bánh tráng làm tôi nhớ đến kỷ niệm ngày mới lớn nơi quê nhà. Tôi từ trên quê xuống tỉnh học, ở trọ nhà người chị thứ Tư trên đường Quang Trung Thị xă Quảng Ngăi. Anh chị dành cho tôi căn pḥng trên căn gác lửng. Có ban-công nhô ra làm mái hiên cho tầng dưới. Thông thường mỗi sáng, tôi thức dậy học bài rất sớm. Đường phố vẫn c̣n sương mù vướng mắc đó đây. Hàng cây bên đường trĩu nặng những hạt sương khuya, dấu kín bóng đêm trong ṿm lá sum sê. Khi chân trời vừa rựng đỏ khuất sau hàng tre hướng Đông, là tiếng rao hàng ăn buổi sáng bắt đầu râm ran trước đường nhựa. Nào xôi, bánh bột lọc, cháo gà, bánh canh, bánh ḿ... đủ các loại hàng ăn vặt, và cũng đủ các loại âm thanh. Tiếng trầm, tiếng bổng, tiếng hơi khàn, giọng Huế, giọng Bắc, giọng Nam... Duy có tiếng rao: “Ai ăn don ho..o..o.. ông” là khiến tôi để ư. Tiếng “ho..o..o..ông” sau cùng kéo dài không đủ hơi chứng tỏ người rao hàng không phải giọng của người đứng tuổi. Tiếng rao nghe lánh lót như chim non mới tập hót, âm điệu ngây thơ rời rạc. Tôi ngồi học mà vẫn để ư đến tiếng rao bán don vang lên trước nhà. Tiếng rao như bị sương lạnh buổi sáng sớm làm đông lại không thoát ra được, nó nhỏ dần, nhỏ dần rồi hút mất ngoài xa.
Một hôm, tôi đang đứng tập mấy động tác hít thở trên ban-công, chợt tiếng rao “Ai ăn don ho..o..ông” quen thuộc vang lên phía dưới đường. Tôi vạch bức mành nh́n xuống thấy một người con gái mặc chiếc áo bà ba trắng thân h́nh mỏng mảnh với gánh don trên vai.
“Ê don”, tôi gọi cô nàng đứng lại rồi vộï vàng xuống thang gác.
Gánh don đă được đặt trước hiên nhà, nàng đứng đó chờ tôi mở cửa.
- Anh ăn don? Nàng hỏi khi tôi nhẹ nhàng lách ḿnh qua cánh cửa sắt. Là một cô bé ước chừng mười mười bốn, mười lăm. Mái tóc vừa chấm vai che một bên khuôn mặt trái soan c̣n măng tơ. Tôi nh́n vào ngực cô bé, đôi nhũ hoa hồng hồng như hai núm quả cau nhú bên trong làn vải mỏng không áo lót, khiến cô bé cúi mặt thẹn thùng. Bạn học của tôi, những cô nữ sinh cùng cỡ tuổi đă bắt đầu chưng diện se sua, áo ngoài áo trong, phần trên phần dưới đủ cả, không khác chi người lớn. C̣n cô bé, với chiếc quần đen, áo bà ba trắng mộc mạc nổi bật nét đẹp của người con gái chân quê.
- Anh ăn don?
Cô bé nhắc lại lần nữa, tôi sực tỉnh trả lời :
- Không ăn don, kêu cô lại làm ǵ?
Cô bé chợt hiểu nở miệng cười chữa thẹn khoe hàm răng trắng đều như những hạt bắp nếp. Nụ cười hồn nhiên khiến người đối diện cũng thấy ḷng dạt dào, xao xuyến. Cô bé hai tay thoăn thoắt múc don. Mùi don thơm nồng pha chút hương biển từ ui don bay lên ngào ngạt. Cô bé trao cho tôi tô don c̣n bốc hơi cùng với chiếc bánh tráng nướng và hai trái ớt xiêm tươi xanh. Ăn don đâu cần phải bàn ghế. Tôi đặt bát don xuống nền xi măng, bẻ bánh tráng bỏ vào tô giằm luôn hai trái ớt. Nước don ngọt và béo. Cái ngọt độc đáo không phải vị ngọt của thịt, cá mà vị ngọt rất đậm đà hương vị quê hương. Lại thêm vị nồng cay của ớt, mùi thơm của bánh tráng nướng nó quyện vào lưỡi, ngấm vào chân răng, kích thích tận cùng tế bào vị giác. Nước don nuốt tới đâu ấm tới đó. Trời lạnh mà ta ăn don vào buổi sáng th́ mới thưởng thức được hết cái thú ăn don ở quê nhà. Miếng don cuối cùng để lại trong miệng, trong cổ của ta vị ngọt ngọt, cay cay, nồng nồng, béo béo quyến rũ lạ kỳ. Nó khiến người ăn don không muốn dừng ở tô thứ nhất.
Tôi ăn ngon lành. Miệng hít hà v́ ớt cay. Cái lưỡi tê tê mùi cay nồng của loại ớt xiêm vô cùng hấp dẫn làm cho nước mắt nước mũi tuôn ra. Nh́n cách ăn rất thật t́nh của tôi, cô bé cứ che miệng cười. Một tô, hai tô rồi ba tô. Cô bé trợn trừng đôi mắt, đôi mắt bồ câu đen lay láy. Cô kêu lên :
- Coi chừng bể bụng đó, anh Hai !
Ô, lần đầu tiên tôi được một người con gái gọi bằng anh. Anh Hai. Mười sáu tuổi, học lớp đệ Tứ rồi đấy nhé. Thế mà cha mẹ, anh chị cứ gọi tôi là Út Đẹt. Mẹ tôi thường nhắc chuyện hồi tôi c̣n nhỏ. Đă bốn, năm tuổi rồi mà vẫn c̣n bú và ăn cháo. Các bà chị tôi chế nhạo hoài mỗi lần tôi ôm vú mẹ. Chị Hai tôi hay trách mẹ tôi nhiều nhất :
- Mẹ ơi, mẹ cưng chiều nó quá làm sao nó thành người lớn. Mẹ tôi cười, nhỏ nhẹ bảo :
- Các chị lớn cả rồi c̣n em nó út ít mà”. Chị tôi bực ḿnh bảo:
- Chừng đó tuổi mà chưa chịu dứt sữa. Chẳng lẽ đến khi đi học, mẹ phải mang vú đến trường cho Út sao?
Chị Hai nói xong bỏ đi. Mẹ ṿ đầu tôi, tóc c̣n ướt nhẹp mồ hôi, âu yếm :
- Giàu út ăn, khó út chịu, Mẹ có sữa con nhờ.
Cái ḥn đá bàn dưới bến sông, nơi để giặt áo quần là chỗ ngủ của tôi trong những buổi trưa hè. Nền nhà lót gạch trước bàn thờ là giường ngủ của tôi trong những đêm nóng bức. Các chị tôi thường hay đùa cợt:
- Thằng Út cứ ăn chay nằm đất kiểu nầy, lớn lên nó trở thành thầy chùa là cái chắc.
Tôi là đứa con thứ bảy trong gia đ́nh. Những tá điền, người làm cho cha mẹ tôi đều gọi tôi là cậu Bảy Út. Thế mà bác Tám Đang ở xóm dưới dám đặt cho tôi biệt danh “Bảy Thưa” chỉ v́ mấy cái răng cửa của tôi mọc hơi sưa một chút. Cái thân h́nh của tôi hồi đó mỏng như thân con nhái bén. Da dẻ sần sùi khô khốc bởi suốt ngày cứ để lưng trần chạy ngoài nắng. Mỗi lần bạn bè rủ tôi đá banh trên ruộng lúa mới cắt, chúng nó cứ la oang oang cái tên “Bảy Thưa” nghe chẳng đẹp tư nào ấy:
- Ê, Bảy Thưa đưa banh qua cho tao. Nào, Bảy Thưa banh đây sút vào...
Tức lắm, tôi bèn ra một điều kiện:
- Nếu bọn bay c̣n gọi cái tên “Bảy Thưa” nữa là tao bỏ chơi. Nhóm thằng Thới xóm Thọ Đông đang chiêu dụ tao đó. Liệu hồn!...
- Nầy cô bé, sao không múc tiếp một tô nữa?
- Anh à, em chưa hề thấy người nào ăn đến ba tô don mà c̣n kêu thêm nữa, ăn no quá mất ngon, thôi để ngày mai nghe anh,
Tiếng “nghe anh” của cô bé sao mà êm đềm quá, ngọt ngào quá. Bỗng nhiên tim tôi đập rộn ràng. Tôi muốn hỏi tên cô bé nhưng cứ ngại ngùng, đành phải móc tiền ra trả. Cô bé đi rồi, tiếng rao “Ai ăn don ho..o..ông” đă văng vẳng ngoài xa mà tôi vẫn c̣n đứng nh́n theo thẫn thờ. Sáng hôm sau, cô bé cất tiếng rao hàng rồi đặt gánh don trước hiên nhà chờ đợi. Tôi lại vội vàng mở cửa :
- Nầy, đằng ấy tên ǵ vậy ?
- Em tên Thuyền
Cô bé trả rồi dạn dĩ nh́n tôi hỏi:
-Thế c̣n tên anh ?”
- Hạo. Hạo, cái tên lạ quá ! Cô bé nhắc lại tên tôi rồi cười bẽn lẽn. Đôi tay Thuyền múc don lẹ làng, vén khéo không hề rơi rớt. Tôi để ư lần này, cô bé đem theo một cái tô cỡ lớn hơn, khác hẳn với những cái tô khác chồng trên miệng ui. Cô tự ư bẻ bánh tráng cho vào tô trước khi đổ don vào. Vừa làm cô bé vừa giải thích :
- Làm thế nầy don c̣n giữ được độ nóng, và hương don không bị loăng.
Cô bé trao tô don cho tôi, vô t́nh tôi đặt bàn tay chạm phải tay nàng. Bé cúi mặt thẹn thùng khiến hai tai nàng rựng đỏ, Thuyền bảo :
- Mỗi sáng anh ăn hai tô nầy là đủ rồi.
Từ đó, sáng nào tôi cũng ăn don của cô bé Thuyền. Thỉnh thoảng chị tôi mua ốc don tươi về nấu. Thông thường chị thêm vào nồi don cả thịt bằm, tóp mỡ, nhưng tôi ăn một cách lơ đăng chẳng thấy hấp dẫn tư nào. Chị tôi chế giễu :
- Thằng Út nó đâu có mê don, chỉ mê con nhỏ bán don.
Có lần tôi cố t́nh giữ bàn tay Thuyền bên dưới tô don, cô bé cứ để nguyên nh́n tôi với ánh mắt long lanh t́nh tứ.
Chặp lâu sau, nàng rút tay về hối thúc:
- Người ta thấy ḱa, ăn đi kẻo nguội.
Thế là suốt mùa don, cô bé Thuyền ít có buổi sáng nào vắng mặt. Ăn hoài tôi đâm ghiền. Ngày nào Thuyền không đến là suốt ngày đó tôi thấy trống vắng lạ thường. Tôi nhớ hương vị của don, tôi nhớ khuôn mặt của Thuyền. Suốt ba tháng hè tôi không về quê lấy cớ học bài thi. Có lẽ nhờ ăn don mà thân thể tôi đẫy đà. Da dẻ tôi thêm hồng hào trắng mịn. Bà chị tôi phát giác sự “thay da đổi thịt” của thằng em út. Chị chế nhạo: “Nghèo nghèo, nợ nợ kiếm cô vợ bán don. Mai sau có chết cũng c̣n cặp ui”.
Năm đó tôi đậu bằng Trung Hoc Đệ Nhất Cấp, cha mẹ tôi cho tôi theo người anh họ vào Sài G̣n tiếp tục học. Tôi từ biệt Quảng Ngăi mà nghe ḷng ḿnh buồn tê tái. Tôi ra đi lúc trời chớm Thu, những cơn mưa đầu mùa đă làm cho nước sông dâng cao. Tôi c̣n nhớ lời Thuyền dặn: “Khi nào nước sông dâng cao th́ don không c̣n nữa. Chừng ấy em sẽ không c̣n dịp gặp anh, chỉ c̣n biết hẹn anh vào mùa don tới đầu tháng Hai âm lịch”.
Biết như thế nhưng sáng nào tôi cũng trông tiếng rao của Thuyền. Tôi mong gặp nàng để nói lời từ biệt. Giờ phút chót ngồi trên xe đ̣ mà tôi vẫn dơi mắt đợi chờ, hy vọng Thuyền xuất hiện. Khi xe chuyển bánh, mẹ và chị tôi mắt rưng rưng lệ nắm tay tôi từ giă. Tôi không cầm được xúc động đă ̣a khóc. Lần đầu tiên tôi xa mẹ xa chị, xa gia đ́nh cách gần ngàn cây số. Tôi cảm thấy nỗi cô đơn như đè nặng lên lồng ngực ḿnh. Tôi thương mẹ, thương chị. Nhưng t́nh của tôi đối với Thuyền vừa nồng nàn vừa xót xa. Tôi xót thương v́ cuộc sống của nàng quá lam lũ. Tuổi vừa lên ba, cha Thuyền đă tử nạn theo tàu đánh cá ngoài khơi khi bị cơn băo bất ngờ ập tới. Mồ côi cha, mẹ ở vậy nuôi Thuyền ăn học hết bậc Tiểu học. Mới chừng ấy tuổi mà phải từ giă ghế nhà trường, lăn lộn vào trường đời. Mẹ nấu don, Thuyền gánh bán dạo hàng ngày đi về trên mười cây số.
* * *
Những đêm đầu tiên ở Sài G̣n, tôi nhớ day dứt nụ cười rạng rỡ của Thuyền. Nhớ đôi bàn tay nhỏ nhắn của nàng run run trong bàn tay tôi. Nhớ đến hương vị thơm lừng của tô don với chất béo của ruột don trộn mùi cay nồng của ớt, mùi bánh tráng nướng, mùi hành lá tươi. Nó tổng hợp thành hương vị không có món ăn nào so sánh được. Don Quảng Ngăi chiếm lĩnh cương vị độc tôn đối với người dân Quảng Ngăi bởi nó là món ăn quê hương. Và đối với riêng tôi có pha cả mùi hương con gái của Thuyền.
Xa nơi chôn nhau cắt rún lần đầu, tôi nhớ nhất là những chuyến đi chơi với bạn bè trên núi Thiên Ấn. Sau một hồi leo giốc mệt bở hơi tai, khát nước khô cả cổ chỉ cần uống mấy ngụm nước giếng của nhà chùa là cơn mệt cùng mồ hôi tan đi hết. Có người bảo đó là nước của Tiên Phật độ tŕ. Một truyền thuyết kể rằng có một vị sư đến đào giếng này suốt cả năm trời, khi giếng có nước th́ vị sư ấy biến mất. Ngôi chùa Thiên Ấn tọa lạc trên đỉnh núi có mặt bằng vuông vức, cao hơn mặt nước biển trên trăm mét, nhưng nước giếng trong và ngọt cung cấp cho chùa không bao giờ cạn. Quả là điều rất hiếm. Đây là “Đệ nhất thắng cảnh” của quê nhà có tên là “Thiên Ấn Niêm Hà” do quan Tuần Vũ Nguyễn Cư Trinh đặt tên trong mười hai bài thơ Đường Luật. Mỗi bài ca ngợi một thắng cảnh của tỉnh Quảng Ngăi. Đứng trên đỉnh núi nh́n bao quát ta thấy ḍng sông Trà Khúc óng ánh bạc uốn ḿnh theo những lũy tre xanh đến tận cùng cửa Cổ Lũy trước khi nhập vào biển Đông. Nơi đây ta có thể thưởng ngoạn thêm “Đệ nhị Thắng cảnh” của quê hương, đó là “Cổ Lũy Cô Thôn” nằm im ĺm nơi cửa biển, nước bủa mênh mông. Nh́n chệch qua bên trái là mũi Ba-Tâng-Gâng phơi ḿnh với sóng băo đại dương. Để hồn trải rộng đến cuối chân trời, ta có cảm tưởng như người được thoát tục về nơi tiên cảnh. Kẻ nào có tham vọng, mang ư đồ đen tối mà đối diện với cảnh sắc nầy, trong thoáng chốc cũng tạm thời quên đi.
Vào những ngày sắp nghỉ Hè, tôi nhận được thư của chị tôi : “...Đầu mùa don năm nầy, con bé bán don trở lại. Sáng nào nó cũng đặt gánh don trước cửa nhà chị. Lâu lâu nó rao lên “Ai ăn don hông” rồi đứng đó đợi chờ. Người ta không biết nó đợi chờ ai, nhưng chị, th́ chị đoán biết. Thời gian kéo dài cả tháng trời, chị thấy tội nghiệp nên thỉnh thoảng kêu don của nó cho cả nhà ăn buổi sáng. Đôi mắt nó thật buồn, cứ lén nh́n sâu vào trong nhà mà không dám hỏi. Một hôm, cầm ḷng không được, chị cho nó biết là em vào Sài G̣n học đă gần một năm. Sau đó chị không c̣n thấy con bé bán don trên con đường nầy nữa...”
Đêm đó tôi nằm mơ nghe thấy tiếng rao: “Ai ăn don ho..o..ông” như tiếng chim cuốc lẻ đôi khắc khoải gào khan suốt mùa Hè thương nhớ rồi cuối cùng chết khô theo con trống, chung t́nh. Thuyền ơi, hăy tha thứ cho tôi. Những rạo rực t́nh yêu đầu đời đă làm cho con tim em phải se thắt v́ phân ly.
Rồi thời gian trôi qua, ba năm miệt mài đèn sách đă giúp tôi quên h́nh ảnh cô gái bán don ngày nào. Sau khi lấy xong bằng Tú Tài toàn phần, tôi về thăm Quảng Ngăi. Vào buổị sáng, tôi dậy sớm cùng chị tôi chuẩn bị về quê thăm cha mẹ. Đang xếp áo quần vào va-li chợt tôi nghe tiếng rao “Ai ăn don ho..o..ông”. Tôi vội vàng chạy ra ban-công gọi :
- Ê ! Cô bán don.
Tôi nhanh chân xuống thang gác mở cửa. Cô bán don đứng đợi dưới mái hiên nhà. Thoáng nh́n, tôi tưởng một thiếu phụ nào khác không phải Thuyền. Nhưng không, làm sao tôi nhầm lẫn được. Âm thanh tiếng rao của Thuyền như mọc rễ trong kư ức của tôi. Cũng thân h́nh mảnh khảnh đó nhưng cao hơn và già dặn hơn. Chính là Thuyền của ba năm về trước.Tôi hỏi:
Thuyền phải không? Nàng nh́n tôi đăm đăm, rồi những giọt nước mắt lăn tṛn má. Tôi thấy loáng thoáng trên ngực áo nàng vết ố của những giọt sữa đă khô. Đứng sát vào Thuyền, tôi đặt tay lên vai nàng bảo:
- Em để gánh xuống đây, múc don cho anh ăn nhé.
- Không. Don em đă cuối mùa, gặp luồng nước bạc (nước lụt), em không bán cho anh đâu.
Nói xong, nàng đưa tay áo quệt nước mắt, trở gánh quay lại con đường cũ. Tôi đứng nh́n theo nàng mà nghe hồn trĩu nặng. Tôi cố lắng nghe tiếng rao “ai ăn don ho..o..ông” lần cuối cùng của Thuyền lẫn lộn với tiếng rao hàng khác nhưng tuyệt nhiên im lặng, chỉ c̣n sót lại hương don thoảng bay trong gió.
* * *
Chiều Thứ Bảy, Thung bỏ tôi trước căn nhà số 28... trên đường White Forge thành phố Sugarland. Căn nhà lầu ở khu mới xây khá đồ sộ. Vách tường áp gạch màu nâu đỏ trông thật mát mắt. Tôi đứng tần ngần một hồi lâu mới bấm chuông. Người phụ nữ ở quán Cổ Lũy hôm trước mở cửa, gục đầu chào rồi mời tôi vào khu pḥng khách trang hoàng lộng lẫy. Bộ sô-pha da màu vàng nhạt choán cả một góc pḥng. Chiếc TV cỡ lớn cùng dàn karaoke với hệ thống âm thanh chiếm trọn góc pḥng đối diện. Bà chủ rót trà :
- Mời anh dùng nước, nàng trao tôi tách nước rồi tự giới thiệu:
- Tôi tên là Mary, chồng tôi là người Mỹ đưa tôi sang đây từ năm 1972. Xa quê ḿnh lâu quá, nay gặp người đồng hương tôi mừng lắm. Và đặc biệt là dân ở Quảng Ngăi mà lại thích ăn don như anh.
- Bà ở huyện nào ? tôi ṭ ṃ hỏi :
- Huyện Tư Nghĩa xă Tư Nguyên.
Bà Mary nh́n tôi định hỏi tiếp điều ǵ, nhưng bà lại đổi thế ngồi, xoay người sang hướng khác bưng b́nh trà rót thêm nước vào tách cho tôi. Bà nói :
- Thôi, để lát sau ḿnh nói chuyện tiếp, giờ mời anh dùng món ăn quê nhà kẻo nguội mất.
Tôi theo nàng đến pḥng ăn. Mùi don từ trên bếp bốc hơi thơm lừng. Bà chủ nhà bưng hai tô don hơi lên nghi ngút đặt trên bàn có cả bánh tráng nướng, đĩa ớt xiêm và lá hành xắt nhỏ.
Bà tươi cười bảo :
- Đây là don chính hiệu từ Quảng Ngăi đấy nhé. Người ở ngoài tỉnh cứ hiểu lầm don là hến. Thực ra don và hến là hai loại ốc khác nhau. Ốc don dài, vỏ mỏng, ruột don có tua màu hồng thoạt trông như cái đuôi. Nước don ngọt và ít nồng hơn hến v́ don chỉ sống nơi vùng sông nước lợ gần cửa biển. Tôi bưng tô don ăn ngon lành, ăn thật t́nh. Ớt cay, don nóng, tôi hít hà, nước mắt nước mũi chảy ra. Bà chủ nhà đưa tissues cho tôi với ánh mắt đầy xúc động. Một tô rồi hai tô, bà ngồi nh́n tôi ăn và khuyến khích thêm tô nữa nhưng tôi vỗ bụng lắc đầu từ chối. Nàng bảo :
- Anh sợ vỡ bụng đấy à?
Câu nói của bà chủ khiến tôi sực nhớ đến Thuyền, cô gái bán don thời tôi c̣n trung học ở Quảng Ngăi. Cô bé đă từ chối bán cho tôi tô thứ tư với câu : “Coi chừng bể bụng”. Tôi ngước nh́n bà Mary, tâm sự:
- Ăn don hôm nay khiến tôi nhớ đến kỷ niệm thời niên thiếu ở quê nhà. Tôi là khách ăn thường xuyên của cô gái bán don tên Thuyền. Tôi thương nàng và tội nghiệp hoàn cảnh cô ấy. Mới mười mấy tuổi đầu đă phải bỏ học thay Mẹ đi bán don dạo. Buổi sáng nào Thuyền cũng gánh don đến trước nhà tôi trọ học và chăm sóc tô don cho tôi như người chị lo cho em. Sau nầy tôi vào Sài G̣n học đă quên bẵng cô bé bán don. Ba năm sau trở về Quảng Ngăi, tôi t́nh cờ gặp lại nàng cũng với gánh don trên vai, nhưng cô bé đă trở thành thiếu phụ. Thuyền đă từ chối không bán don cho tôi c̣n bảo... Vừa nói đến đây, chợt bà Mary cướp lời tôi, lên tiếng :
- Em không bán cho anh đâu, don em cuối mùa lại gặp luồng nước bạc!
Bà chủ nhà đă nói lên nguyên văn câu nói của Thuyền ngày xưa, ẩn chứa sự trách móc giận hờn, khiến tôi giật ḿnh sửng sốt. Tôi nh́n vào mắt bà Mary, h́nh như long lanh ánh nước. Tôi kêu lên:
- Thuyền phải không?
Thuyền ngày xưa không trả lời câu hỏi của tôi chỉ đưa tay áo lau ḍng lệ. Mary bây giờ với giọng ngậm ngùi:
- Vâng, em là Thuyền của 37 năm về trước. Em đă nhận ra anh ngay khi anh cho biết chỗ ở trước kia là đường Quang Trung. Đó là con đường dạt dào hạnh phúc trên mỗi bước đi của em hồi đó, mà cũng là con đường mang đầy xót xa thương nhớ ngày anh rời xa. Thuyền đứng dậy đến ôm vai tôi :
- Cảm ơn anh đă cho em một t́nh cảm trân quư, dù là đối với một cô gái bán don nghèo hèn. Suốt quảng đời đen tối về sau này, t́nh anh là ngọn đèn thắp sáng cho em trong những đêm mịt mù sương tuyết. Hạo ơi - cái tên nghe lạ quá - ngày đó em đă nói với anh như thế. Nhưng sau nầy mỗi khi gặp những đau khổ chất chồng, chính cái tên Hạo trở nên thân thương sưởi ấm ḷng em.
Tôi nắm lấy tay nàng, nói như một triết gia:
- Đời như một ḍng sông, chuyển đổi không ngừng. Xưa kia Thuyền là cô gái bán don, ngày nay Mary là chủ một nhà hàng lớn nhất nh́ ở đây. Chúc mừng em. Chúc mừng người đồng hương Quảng Ngăi đă nắm bắt được cơ hội vươn lên trên xứ người.
Sau buổi hàn huyên, Thuyền đưa tôi ra tận xe khi bạn tôi đến đón. Lên xe rồi, tôi thấy nàng c̣n quyến luyến nh́n theo, đưa mấy đầu ngón tay áp vào môi hôn. Tôi hít một hơi thật sâu vào lồng ngực, chợt nghe hương don c̣n nồng trong hơi thở
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
trungthu
09-20-2019, 20:52
Kính chào ông bạn già hay lưng lửng tui hỏng có biết à nhen...sorry, đừng khen quá mà làm già nầy thêm tủi. Phận thấp hèn này chôm được bài nào có ư nghĩa để mọi người tham khảo mà thôi chứ có hay ho ǵ đâu. C̣n đầu th́ trọc cũng đă mấy chục năm rồi ông bạn lưng lửng ui....cười cái coi cho răng vàng sáng chói nha.:handshake::hand shake::thankyou::tha nkyou:
Lưng lửng là phải dzồi , làm sao mà không lưng lửng được v́ ở trong này c̣ nhiều người nói " tui với bác tuy 2 mà một, bác với tui tuy một mà hai, tui thấy họ nghĩ cũng có lư lắm , đầu giống đầu, nhưng cái đuôi ngược th́ hổng có giống chút nào, cây trương của bác làm bằng cây trúc lâu năm nên chống đi chút síu th́ được, chống nhiều th́ bị run tay , c̣n tui th́ năm bẩy năm nữa sẽ lập lại lời của Nguyễn công Trứ " Ngũ thập niên tiền....:handshake:: handshake::handshake :
trungthu
09-20-2019, 21:06
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1456747&stc=1&d=1568992550
Đến định cư tại miền Bắc California Hoa Kỳ....... Thuyền đưa tôi ra tận xe khi bạn tôi đến đón. Lên xe rồi, tôi thấy nàng c̣n quyến luyến nh́n theo, đưa mấy đầu ngón tay áp vào môi hôn. Tôi hít một hơi thật sâu vào lồng ngực, chợt nghe hương don c̣n nồng trong hơi thở
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
Bác post bài này hay quá, tui dzừa đọc đến câu "Don em đă cuối mùa, gặp luồng nước bạc (nước lụt), em không bán cho anh đâu " , là tui chẩy nước mắt và nhớ đến hoàn cảnh của tui sau 40 năm gặp lại ngưới t́nh cũ bên đường , nàng phán một câu :
---Em đă cuối mùa....em không gả cho anh đâu...
:112::112::112::nana ::nana::nana::thanky ou:
hoanglan22
09-20-2019, 21:12
trungthu . Tính mở thêm Trang Khoa học & tâm linh nhưng chưa có bài nhiều
trungthu
09-20-2019, 21:26
trungthu . Tính mở thêm Trang Khoa học & tâm linh nhưng chưa có bài nhiều
Đề tài này hay đó , thuộc về thế giới vô h́nh , ma quái, bác cứ mạnh dạn đi...
Bài không cần nhiều , chỉ cần có gía trị, chất lượng , đểcho anh em :
_ Mua vui cũng được một vài trống canh ." ( thi hào Nguyễn Du )
Nếu post bài nhiều , mà bài giống như đống rác , có điểm nhưng chẳng ai muốn đọc cả...
:handshake::handshak e::thankyou::thankyo u:
trungthu . Tính mở thêm Trang Khoa học & tâm linh nhưng chưa có bài nhiều
Tới luôn bác tài, cái này tui ủng hộ hai tay à nhen.:thankyou::than kyou::thankyou::hand shake::handshake:
Lưng lửng là phải dzồi , làm sao mà không lưng lửng được v́ ở trong này c̣ nhiều người nói " tui với bác tuy 2 mà một, bác với tui tuy một mà hai, tui thấy họ nghĩ cũng có lư lắm , đầu giống đầu, nhưng cái đuôi ngược th́ hổng có giống chút nào, cây trương của bác làm bằng cây trúc lâu năm nên chống đi chút síu th́ được, chống nhiều th́ bị run tay , c̣n tui th́ năm bẩy năm nữa sẽ lập lại lời của Nguyễn công Trứ " Ngũ thập niên tiền....:handshake:: handshake::handshake :
Úi chà chà, ngon lành quá hén...chúc mừng chúc mừng cho ông bạn con gân lắm. Chừng nào ngủ thập niên tiền nhị thập tam th́ cho tui hay để tui gửi lời chúc mửng ông bạn đến từ âm phủ...hahaha....c ó đúng hông????:handshake:: handshake::thankyou: :thankyou:
hoanglan22
09-21-2019, 14:39
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1457100&stc=1&d=1569076684
Chị thứ mười, thường gọi chị là Mười Quắn. Cha mẹ chị sinh mười một người con. Nếu gọi chị là chị mười một Quắn, e khó nghe, nên người ta gọi chị là Mười Quắn. Chị là út chót trong gia đ́nh nên được gọi cưng một chút là chị út Quắn dễ nghe và dễ thương hơn. Chị út Quắn cũng hănh diện và chấp nhận tên gọi của ḿnh. Gia đ́nh cha mẹ chị út Quắn nghèo, nghèo tả tơi, con lại đông, ở vùng quê đất cày lên sỏi đá nắng hạn nhiều hơn mưa. Nhà nghèo, cha mẹ đau bệnh không tiền chạy thuốc nên hai người lần lượt qua đời. Giàu út ăn, khó út chịu, chị nhận phần hương hỏa cha mẹ để lại, căn nhà tranh vách đất và sào đất sau nhà.
Các anh, các chị không ai được học hành, sinh ra lớn lên theo cha mẹ làm thuê cuốc mướn, lao động chân tay quanh năm. Lần lượt họ cưới vợ, lấy chồng, tứ tản khắp bốn phương trời t́m kế sinh nhai, cái nghèo vẫn đeo theo họ suốt đời. Chị út Quắn ở với cha mẹ cũng vất vả bữa đói bữa no. Chị cũng không được đi học, nhưng tính toán bằng miệng, gọi là tính rợ, th́ không ai qua được chị. Chị nhớ dai những chuyện cổ tích, vài câu ca dao, chuyện đời nay, chuyện trên trời dưới biển. Đối đáp, hát ḥ chị chẳng thua ai.
Chị út Quắn mang cái tuổi Canh Dần. Khi trưởng thành chị biết ḿnh tuổi Canh Dần, tuổi con Cọp, lại Cọp cái, c̣n Canh cô Mồ quả. Mà chị Canh cô Mồ quả thật đăy. Cha mẹ qua đời, các anh chị tứ tản khắp nơi, c̣n lại chị sống một ḿnh trong ngôi nhà cha mẹ để lại.
Thỉnh thoảng chị có sự suy nghĩ về đường chồng con. Người ta bảo đàn bà mang tuổi Dần là sát phu. Có chồng phải mấy đời mới trụ. Nhưng chị lại suy nghĩ khác hơn, có ai hỏi tuổi, chị trả lời thẳng thừng một hơi là tui tuổi Sửu, Kỷ Sửu, tuổi con Trâu đi cày, khỏe mạnh lo làm lo ăn quanh năm suốt tháng không nghỉ ngơi, có nghỉ th́ được nghỉ mấy ngày Tết không hà. Nói xong, chị cười h́ h́ vui tính chứng tỏ điều ḿnh nói không sai để che lấp cái tuổi Dần ghê sợ đó. Chị út Quắn dấu nó rất kỹ coi như một điều không may mắn cho lắm về đường chồng con.
Sào đất sau nhà, chị ra sức chăm sóc trồng các loại thực phẩm kiếm cái ăn. Khi rảnh, chị út Quắn lội khắp các vườn mua trái cây gánh ra chợ bán kiếm đồng lời và cuộc sống tạm đủ qua ngày.
Sau Mậu Thân 68, chị út Quắn tṛn hai mươi tuổi phơi phới đẫy đà, chị ước muốn một tấm chồng như bao cô gái khác trong làng, vậy mà chẳng ai dám mơ màng đến chị. Họ ngại đàn bà con gái tuổi Dần, dầu cho chị có đính chính chối căi.
Sau tháng 4/75, ngôi nhà và sào đất cha mẹ để lại cho chị được Xă địa phương qui định đóng thuế hàng năm theo luật mới. Tiền thuế qui định cao, ngoài khả năng lợi tức của chị. Chị căi chày, căi cối với mấy người có trách nhiệm, từ xưa đến nay cha mẹ chẳng có ai buộc phải nạp thuế nhà và đất. Căi nhau năm lần bảy lượt, chị cương quyết không thi hành, cho dù mấy ông Xă dọa không chịu nạp thuế, nhà và đất sẽ bị tịch thu, phải đi kinh tế mới mà sống với thú rừng. Dọa th́ dọa, chị vẫn tỉnh bơ coi như không có ǵ. Chị ĺ lợm mấy lần khi chị được kêu lên Xă, để họ bắt nạt và hăm he chị.
Vài tháng sau, chán cảnh kêu lên kêu xuống của Xă, chị nghe lời bạn bè rủ nhau đi làm công nhân cạo mủ cao su ở Dầu Tiếng. Chị út Quắn cột chặt cửa nhà, dùng chà gai keo tắp xung quanh. Chị làm đâu chừng năm bị tên cai đồn điền hăm hiếp nhiều lần, chịu không nổi với hắn, chị phải bỏ về xứ mang theo cái thai bất đắc dĩ trong người. Chị sanh một con trai, đâu chừng tháng th́ nó chết ngủm. Chẳng bao lâu chị nghe tên cai đồn điền bị rắn độc cắn chết tươi. Sẵn dịp, bà con cḥm xóm bàn tán nói chị chưa chi đă qua một đời chồng rồi đó. Chị út Quắn phân bua đầu trên xóm dưới rằng nếu tui không bỏ hắn về quê, mà ở lại với hắn th́ làm ǵ hắn vắn số. Cái số của hắn chỉ chừng đó, đâu phải tại tui. Tui đâu phải tuổi Dần, tui tuổi Sửu, nói măi không ai tin.
Sau khi sanh thằng con, tiền bạc dành dụm hết sạch. Sào đất sau nhà chưa trồng trọt được thứ ǵ để ăn. Chị út Quắn ra sức đi làm thuê bữa có bữa không. Trên Xă thấy chị về, kêu chị lên tiếp tục hăm dọa. Họ nói bao nhiêu người trong Xă đều nạp thuế chỉ riêng chị ngoan cố không thi hành. Chị út Quắn biết họ dựng chuyện kiếm cớ để lấy nhà, lấy đất của chị, cũng chỉ v́ cái ông Chủ tịch Xă trước đây khi c̣n là thằng dân ngu khu đen đi cuốc đất mướn đă bao nhiêu lần đến nhà chị đ̣i hăm chị mà không được. Giờ thời thế thay đổi, hắn có chức có quyền sinh sự thù vặt để chiếm nhà chiếm đất của chị làm của riêng tư.
Sau cùng chị út Quắn nhận quyết định của Xă phải đi kinh tế mới, nhà và đất bị tịch thu. Xă kết tội chị phản động, không chấp hành lệnh Chính quyền. Họ thu thẻ chứng minh nhân dân và xóa hộ khẩu của chị. Chị út Quắn đang trở thành người dân không nhà cửa, quê quán, gốc gác, lư lịch... phải lên rừng sống với thú vật.
Phải lên rừng sống với thú vật. Mấy tên du kích Xă đến nhà chĩa súng dẫn chị về Xă. Chị quơ quào mấy bộ quần áo cũ, chén đũa ăn cơm, ca nhựa uống nước... cho vào bị vải. Nh́n tới nh́n lui chẳng c̣n ǵ để mang theo, v́ cũng chẳng có ǵ để lấy. Chị ra khỏi nhà, cột chặt cửa, kéo chà gai keo tắp xung quanh. Chị út Quắn đi giữa mấy tên du kích gh́m súng dẫn về Xă như đang áp dẫn một can phạm. Chị bị đẩy lên xe cùng với một số người khác, già trẻ, đàn ông đàn bà, trẻ con đang ngồi chật cứng trong chiếc xe bít bùng. Kể từ lúc này, chị út Quắn đă trở thành phạm nhân mang bản án phản động, không chấp hành lệnh, cần được cải tạo tư tưởng ở mức độ thấp, được phép đi khai khẩn đất rừng, lao động sản xuất, làm ra của cải vật chất nuôi bản thân, đóng góp đất nước. Bản án được tên Công an Xă đọc trước khi xe khởi hành đến khu kinh tế mới. Cuộc hành tŕnh dài một ngày, một đêm, từ miền Trung lên Cao nguyên vào tận rừng sâu bạt ngàn. Mỗi người được cấp một bao gạo ẩm, bị muối hột, dao rựa, cuốc xẻng, và vài trăm tiền Hồ để tự lực cuộc sống trong rừng hun hút đầy thú dữ và muỗi ṃng rắn rết.
Trong cuộc sống chẳng đặng đừng này ai ai cũng nghĩ rằng chỉ c̣n ra sức phấn đấu để mà sống. Mọi người tỏa ra t́m địa điểm thuận lợi, chặt cây rừng, phát quang, làm cḥi trú ngụ, dọn đất trồng trỉa... khởi sự bước vào cuộc sống rừng rú.
Ngày đầu tiên chị út Quắn quen với anh Tư Ngang. Anh c̣n có cái tên là Tư Xà Lỏn v́ lúc nào anh cũng thích mặc quần Xà lỏn (quần đùi). Nghe đâu anh là lính Nghĩa quân loại 1 ngày trước. Giờ th́ xă liệt anh vào thành phần nguy hiểm cần rời khỏi địa phương. Vợ anh đă chết v́ đạn pháo kích. Anh cũng bị tịch thu chứng minh nhân dân, xóa hộ khẩu trở thành dân lậu không gốc gác, lư lịch, quê quán. Anh xấp xỉ tuổi với chị út Quắn. Đồng cảnh ngộ, đồng tuổi tác, hai anh chị dễ dàng thân thiện giúp nhau làm cḥi, chặt cây, vỡ đất... Hai tháng sau, anh chị chính thức lấy nhau. Chị út Quắn có đời chồng thứ hai, và chị cầu xin vợ chồng sống yên ổn suốt đời. Chị út Quắn vẫn dấu anh tuổi Dần. Chị khai với anh là tuổi Sửu, chị bảo hai người hạp nhau lắm, sẽ ăn đời ở kiếp.
Chị đề nghị với anh Tư là chầm chậm có con, đừng bày đầu năm sinh trai, cuối năm sinh gái khổ lắm. Anh tư Xà Lỏn đồng ư. Anh khuyên chị là nên trốn khỏi nơi này. Chị than với anh:
- Trốn rồi đi đâu, ở đâu. Hộ khẩu không có, chứng minh nhân dân cũng không, ai chứa chấp ḿnh.
Anh tư Xà Lỏn góp ư:
- Trốn về miền Trung không được, họ kiểm soát gắt lắm. Về Saigon lẫn lộn trong Thành phố may ra, sau đó rồi hẵng hay.
Bàn tính xong hai anh chị thừa đêm tối lội rừng suốt một đêm, đến sáng mới ra đường lộ. Nhờ chiếc nhẫn vàng y một chỉ của anh tư Xà Lỏn đem đi bán, vợ chồng chị mới về được Saigon.
Thoát được cuộc sống rừng rú giờ lại chẳng biết ăn đâu ở đâu, tứ cố vô thân. Hai người lang thang từng góc phố con đường. Đêm th́ chui rúc dưới gầm cầu, hiên chái, nhà ga, bến xe... trong giấc ngủ chập chờn v́ muỗi, v́ lạnh, v́ lo sợ cảnh sát hốt. Ban ngày lội ngược lội xuôi t́m kiếm việc làm. Khi có việc người ta không nhận v́ chẳng có giấy tờ tùy thân, hộ khẩu, giấy tạm trú tạm vắng... Không ai thuê mướn người không có lư lịch, căn cước... họ sợ trộm cắp, sợ liên lụy. Xă Phường bắt dân học tập không chứa chấp dân vùng kinh tế mới trốn về. Nếu biết được phải tŕnh báo để bắt giữ và trục xuất. Ai chứa chấp sẽ trị tội. Họ bảo bọn kinh tế mới trốn về trà trộn trong dân gây xáo trộn an ninh, làm mất thẩm mỹ thành phố mang “tên bác”. Ố ! la là ! sao lại phân biệt đối xử kỳ cục quá vậy ! Tại sao coi tụi tui như cùi, như hủi ! Tụi tui là Mọi, là Thượng, là Chàm, là Cà răng căng tai ở rừng rú về mà ! Nhà nước mấy ông ơi ! cho chúng con sống với ...!
Qua mấy tháng ăn chui, ngủ chui không t́m được công việc ǵ làm. Tiền bạc không một xu dính túi. Chị út Quắn và anh Tư xà Lỏn c̣n biết nhắm vào mấy đống rác hôi thúi cao như núi để kiếm miếng ăn. Từ sáng sớm đến nửa đêm, anh chị h́ hục bươi móc trong đống rác để lượm bị Nylon, giấy vụn, chai lọ, các vật dụng bằng nhựa hư hỏng... Lượm được rồi, t́m nước rửa sạch, phơi khô và đem cân kư. Lại c̣n khổ nạn tranh giành nhau từng măng rác thúi hôi. Đống rác nào cũng dày đặc người từ già, trẻ, bé, choi choi... đủ hạng bu như kiến. Thỉnh thoảng xảy ra đánh lộn, chửi bới rang trời dậy đất. Thật cực nhọc trăm chiều. Suốt ngày anh chị út Quắn hít thở đầy ḷng phổi mùi xú khí, hôi thúi bốc hơi từng cuộn khói ngùn ngụt từ trong rác lúc đầu thật khó chịu vô cùng, lâu ngày quen đi không c̣n cảm thấy hôi thúi nữa.
Ngày nào xong công việc sớm vợ chồng chị út Quắn t́m chỗ nghỉ ngơi, bằng không th́ ngủ lăn trên đống rác ướt nhèm nhẹp tanh hôi để giữ của. Làm đến cuối ngày, hai con mắt mờ đi, lồng ngực nặng trĩu tưng tức, khó thở như muốn buồn nôn. Quần áo, cơ thể chẳng được tắm rửa bám đầy xú khí, ngứa ngáy, hôi hám sanh ghẻ lở lói hai bàn tay, bàn chân, mặt mũi, ḿnh mẩy... cũng đành chịu. Cái duy nhất để có miếng ăn bỏ vào miệng là cần thiết hơn cả.
Kiếm được cái ăn để trấn áp bao tử đang dày ṿ thường xuyên thật vất vả cay đắng làm sao ! vậy mà đâu được yên thân ! Đôi ba ngày là bị bọn cảnh sát bố ráp, rượt bắt. Vợ chồng chị út Quắn và anh tư Xà Lỏn cũng như mọi người chỉ c̣n bỏ của chạy lấy người. Chạy th́ chạy, anh chị không quên hai bao lác đựng quần áo rách, mền cũ, vật dụng... là gia tài duy nhất của đời sống. Bọn Cảnh sát đi rồi, mọi người trở lại “họp chợ” bươi móc tranh giành từng miếng ăn từ đống rác hôi thúi.
Chị út Quắn dự tính cật lực làm để dành tiền mướn người thảo đơn ra trung ương khiếu kiện một chuyến. Việc dự tính chưa thực hiện được th́ chị út Quắn bị cảnh sát bố ráp bắt, v́ bụng đang mang thai mệt mỏi, chậm chân chạy không kịp. Anh tư Xà Lỏn nhanh chân hơn nên thoát được. Chị út Quắn can thêm tội bỏ trốn vùng kinh tế mới nên bị nhốt cả tháng trời, nhịn đói nhịn khát, sau đó bị giải trả về lại vùng kinh tế mới.
Về đến nơi, chị bị giam lỏng tại trụ sở Ấp không có cơm ăn, mỗi ngày được đôi ba trái bắp hoặc vài củ khoai đỡ đói, nhưng chị phải lao động sản xuất. Ban đêm cùng với mấy người bỏ trốn vừa bị bắt về ngồi nghe tên Công an khu vực lên lớp cải tạo tư tưởng. Cái thai mỗi ngày mỗi lớn và quậy phá trong bụng chị v́ không có sửa.
Chị út Quắn cố gắng chịu đựng được hơn nửa tháng rồi bỏ trốn lần thứ hai. Chị t́m đường về quê, tạt qua thăm nhà. Chị cảm thấy nhớ nhà vô cùng. Đến nơi chị út Quắn không c̣n nh́n thấy nhà cửa của ḿnh. Họ đă sang bằng ngôi nhà của chị và trên lô đất họ đang cất một ngôi nhà gạch c̣n đang dở dang. Chị uất nghẹn và vô cùng thất vọng. Chị thất thểu trên đường đến trụ sở ủy ban nhân dân Xă để hỏi cho ra lẽ. Tên chủ tịch Xă lạnh lùng không tiếp chị. Hắn bảo du kích Xă đuổi chị ra khỏi làng, và báo cho chị biết rằng chị không c̣n tư cách ǵ để khiếu nại. Nhà đất đă không c̣n sở hữu của chị. Giấy tờ tịch thu hợp pháp. Chị đă không c̣n là người dân trong Xă v́ không có hộ khẩu, không có giấy tờ tùy thân th́ đừng ḥng thưa kiện đ̣i lại nhà và đất, có ức th́ cứ đi kiện.
Chị út Quắn nhất quyết không đi, nằm vạ giữa đường khóc lóc, than thở, và chửi bới suốt ngày. Vài người dân trong Xă thấy thương t́nh cảnh khốn đốn của chị, họ có ư định giúp chị điều này điều khác, nhưng lại không dám chỉ sợ vạ lây. Vài ngày sau, nghĩ thương cái thai trong bụng, nên chị cố nhịn nhục t́m đường về Saigon t́m anh tư Xà Lỏn để cùng nhau lo việc sanh đẻ. Chị út Quắn càng khốn đốn khi trong người không có một xu dính túi và cũng chẳng c̣n ǵ đáng giá để bán. Chị đành đi ăn xin lây lất từng ngày, chắt chiu để có tiền xe.
Hai tháng sau, chị út Quắn mới về đến Saigon và gặp được chồng. Trong thời gian vắng chị, anh tư Xà Lỏn t́m được một chân lơ xe đ̣ đường Saigon-Mỹ Tho. Người chủ xe thương xót hoàn cảnh đă cho anh tư ở tạm cái chái sau nhà thấp lè lè đang chất đồ đạc. Anh tư mua mấy tấm cót dừng chung quanh cho kín đáo làm nơi tạm trú.
Hằng ngày anh tư Xà Lỏn đi phụ xe từ sáng đến tối mới về. Chị út Quắn lănh vé số bán dạo. Hai người chắt chiu tiền bạc để sanh đẻ, đồng thời mướn người làm đơn gởi các nơi và Trung ương để khiếu kiện đ̣i nhà, đ̣i đất, xin cấp lại hộ khấu và giấy tờ tùy thân để trở về quê sinh sống.
Chị út Quắn sức khỏe mỗi ngày mỗi sa sút. Gần ngày sanh, ăn uống thất thường, thiếu dinh dưỡng, chị đă sanh non đứa con mới được bảy tháng. Hài nhi sanh ra, ốm tong teo, quặt quẹo.
Chái hiên đang ở diện tích chưa được mười mét vuông là nơi đứa con gái của chị chào đời, chị út Quắn lấy tên Chái đặt cho con để kỷ niệm cuộc sống khốn khổ của vợ chồng anh chị. Hai vợ chồng nghèo đói nhưng có được đứa con mừng lắm. Nhờ trời thương, con Chái mỗi ngày mỗi lớn và khỏe mạnh.
Con Chái vừa được một tháng tuổi, chị út Quắn tiếp tục lănh vé số bán dạo. Buổi sáng chị đặt con Chái trong chiếc nôi nhỏ có xách tay, tay xách con, tay cầm tập vé số và chị t́m đến những gốc cây, góc phố, ven chợ, mái hiên... mời mọc kẻ qua người lại mua giùm vé số. Có hôm chị ngồi suốt cả ngày ngoài đường. Hôm nào bán hết vé số, chị được về sớm. Con Chái nó cũng biết thân phận, nằm yên trong chiếc nôi nhỏ, không khóc, hết bú rồi ngủ, có lúc nằm trong nôi nh́n người qua lại trong ánh nắng chói chang bụi bặm.
Làm ǵ th́ làm, cứ ba bốn tháng chị út Quắn lại mướn thảo đơn gởi các nơi để van nài đ̣i lại nhà đất, hộ khẩu và giấy tờ tùy thân, để ḿnh không c̣n là dân lậu nữa. Đơn gởi đi nhiều lượt, nhưng chưa thấy ai hỏi han, nhắc nhở đến. Chị út Quắn và anh tư Xà Lỏn cảm thấy tủi nhục khi họ bảo rằng ḿnh là dân lậu. Dân lậu là loại dân không nhà cửa gốc gác, thất tha thất thểu, không một tờ giấy tùy thân, kẻ khinh người ghét, đồ trôi sông lạc chợ, ai thấy cũng sợ như sợ phong cùi hủi lác ,truyền nhiễm lây lan không ai dám đến gần. Chị út Quắn suy nghĩ rằng ḿnh có làm điều ǵ cho cam. Cha mẹ sinh ra, sống giữa đồng quê chân chất, lo làm ăn, không thù ghét ai, không làm điều ǵ phải can dự hoặc dính líu đến ai. Một người dân lương thiện như chị sống trong nghèo đói trơ trọi đă là nạn nhân của quyền thế, bóc lột, chuyên hiếp đáp dân lành. Mạng sống con người đâu quí bằng cái sổ hộ khẩu quái đản, cái thẻ chứng minh nhân dân oái oăm đó!
Muốn được sống yên thân vợ chồng chị út Quắn phải đóng hụi chết hằng tháng cho tên Công an khu vực. Tháng nào chưa kịp đóng tiền, là y hăm dọa bắt nhốt trả về khu kinh tế mới, nghiệt ngă đến kêu trời không thấu!
Con Chái được ba tuổi, biết đi biết chạy th́ tai họa lại đến với chị. Anh tư Xà Lỏn lại chết bất đắc kỳ tử trên chiếc xe đ̣ đường Saigon - Mỹ Tho. Tài xế bất cẩn khi xe đổ dốc đầu cầu Bến Lức đă lạc tay lái chạy vút xuống sông ch́m lỉm. Hành khách ngộp ngạt kẹt cứng trong xe chôn vùi dưới nước. Mấy ngày sau người ta mới trục được chiếc xe, một số người đă chết và śnh lên.
Chị út Quắn khóc sưng mắt. Chị không c̣n đủ sức đi t́m xác chồng. Khốn khổ cho chị, chị út Quắn lại suy nghĩ đến tuổi Dần. Đúng là cái tuổi sao quái ác như thế cứ đeo chị không rời. Có thật phải tin như vậy không ? Tin rồi không tin và lại tin trong ṿng lẩn quẩn đang ám ảnh chị không lối thoát. Đời chị sao hẩm hiu cô đơn quá ! Chỉ mới vài năm đă hai đời chồng rồi ! Chị út Quắn cảm thấy lo sợ. Giờ th́ chị sợ kinh khủng ! Lấy chồng mà làm chi để cuộc đời cứ hẩm hiu cho chính bản thân ḿnh, lại không may mắn cho người đàn ông thương chị. Thôi th́ có được đứa con là niềm vui, là chỗ dựa cho tuổi già. Chị út Quắn quyết ở vậy để nuôi con Chái nên người và làm sao cho nó không phải sống nghèo khổ như chị. Ngày nào đó chị qua đời, c̣n có người khóc chị.
Mệt mỏi, hụt hẫng, và mất thăng bằng trong cuộc sống, trước cái chết đột ngột của anh tư Xà Lỏn chị không c̣n biết bấu víu vào đâu giữa một xă hội đầy bất công. Chị út Quắn quyết định thu xếp tất cả để đi một chuyến Hà Nội đội đơn khiếu kiện. Lần đi duy nhất và cuối cùng để gặp mấy ông lớn may ra sẽ giải quyết được nguyện vọng của chị. Con đường đi xa sẽ tốn kém nhiều tiền bạc, công sức... để quyết một lần cho rơ trắng đen... rồi có chết đi cũng măn nguyện.
Trong cái chái hai vợ chồng chị út Quắn đă ở hơn bốn năm chẳng có ǵ thu dọn cả. Những bộ quần áo cũ, nồi niêu chén bát, chiếu và mền mùng... chị bỏ lại hết, chỉ mang theo vài món cần thiết. Chị trả lại căn chái cho chủ nhà. Vợ chồng ông chủ nhà vừa khánh tận v́ chiếc xe đ̣ bị tai nạn, chẳng giúp được ǵ cho chị út Quắn. Hơn bốn năm anh tư Xà Lỏn làm công, họ giúp chỗ ở trong lúc ngặt nghèo, để đổi lấy mạng sống của chồng, đó có phải trả một giá quá đắt không?
Chị út Quắn ẵm con Chái, mang bọc vải sau lưng đi chuyến tàu suốt Saigon Hà Nội. Chị đă phải mất năm ngày đêm mới đến nơi.
Chị hỏi thăm đường đến khu vực tiếp dân ở số 1 Mai Xuân Thưởng nằm trong quận Ba Đ́nh, Hà Nội dâng đơn lên Trung ương khiếu nại giải oan. Chị hối hả vào pḥng nhờ người ghi tên hộ vào danh sách cũng v́ chị mù chữ, rồi ra ngoài ngồi chờ đợi đến lượt gọi tên. Chị út Quắn hết sức ngỡ ngàng trước cảnh người dân đổ dồn về đây khiếu kiện đông như kiến cỏ. Chị cứ ngỡ rằng đâu phải chỉ riêng một ḿnh chị. Họ đang mất đất, mất nhà, mất tài sản, bị vu oan tù tội, bị xóa hộ khẩu, bị thu giữ giấy tờ tùy thân, bị tước bỏ quyền công dân, bị xử oan ức.... ôi thôi ! vô số lư do khiếu kiện trong bao nhiêu cảnh đàn áp, bóc lột, tham nhũng từ mọi cấp cai trị dân ở khắp các địa phương. Họ đă chờ đợi, họ đă ăn dầm nằm dề có đến nhiều năm... mà vẫn chưa được giải quyết. Người dân lúc nhúc, chen lấn đông đặc xung quanh khu vực tiếp dân rộng lớn, và họ c̣n tràn qua lố nhố phủ kín khu Vườn Hoa Lư Tự Trọng đối diện.
Ngày đêm họ nằm dài dưới đất, trên ghế đá, dưới bóng cây, mái hiên, ngay cả những nhà vệ sinh công cộng của thành phố... nấu nướng, ăn uống, tắm rửa bằng mấy ṿi nước tưới của vườn hoa, khi có, khi không, v́ không một nhà nào dám chứa chấp họ, họ không có giấy tờ tùy thân, họ là dân lậu... nên dễ bị kết tội chứa chấp người bất hợp pháp.
Nh́n khu tập thể người dân về khiếu kiện giải oan nhốn nháo dưới một góc trời đang phơi ḿnh trong nắng gắt oi bức, có hôm co ro run rẩy dưới cơn mưa dầm lạnh cóng để ngóng cổ từng giờ, từng ngày chờ được gọi tên từ loa phóng thanh... ai ai cũng cảm thấy ḿnh chỉ c̣n xứng đáng là một con vật bất hạnh nhất trên đời. Chị út Quắn cảm thấy chán ngán và ớn lạnh cho thân phận người dân thấp cổ bé miệng có kêu trời cũng không thấu. Họ là như thế, liệu ḿnh có đủ sức chịu đựng trải qua nhiều ngày tháng như thế này không biết đến chừng nào. T́m được một chỗ ngồi, một chỗ nằm để trải tấm vải bạt trong toàn khu vực tiếp dân ngay cả khu Vườn Hoa đối diện đâu phải là chuyện dễ dàng. Người người chực chờ tranh giành nhau để chiếm chỗ. Thỉnh thoảng bọn bảo vệ, bọn cán bộ trách nhiệm tại khu tiếp dân và bọn Công an đến càn quét xua đuổi gây khó dễ cũng v́ không giữ vệ sinh, xả rác và tiểu tiện bừa băi.
Chị út Quắn chờ đă ba tháng rồi vẫn chưa nghe tên ḿnh trên loa phóng thanh. Chị đă vào hỏi vài lần, nhưng họ bảo chờ. Chờ và chờ. Không chờ th́ ra về. Tiền bạc mang theo dần dần cạn không biết phải tính sao đây. Chị nẩy sanh ra chuyện ban ngày ngồi hầu chực hằng giờ nghe được gọi tên, ban đêm dẫn con Chái theo những người khác lượm vỏ chai, lon sửa... hoặc đi rửa chén bát thuê, lau chùi nhà... khắp cùng khu vực để kiếm chút tiền mua cơm lót dạ. Thỉnh thoảng các quan chức nhà nước thấy dân khiếu kiện quá đông gây ồn ào, làm bẩn mắt bẩn tai, làm mất vẻ đẹp cơ quan công quyền cầm cân nẩy mực, phóng uế bừa băi hôi thúi... các ngài đă cầu cứu hàng chục chiếc xe Công an đến lùa người dân lên xe chở đi. Ai nhanh chân chạy thoát, ai chậm chân bị bốc lên xe. Chị út Quắn cũng đồng số phận. Công an chở tất cả ra ngoại ô Hà Nội xa hằng trăm cây số, nhốt họ hằng tháng trong các trại tù lớn, bỏ đói bỏ khát mới thả họ ra với những lời đe dọa và đuổi về nguyên quán, không cho họ trở lại khu tiếp dân Mai Xuân Thưởng. Hầu hết họ không có tiền đi xe, phải đành đi bộ từ ngày này sang ngày khác, đói lả, nằm vật vă dọc đường... và cố lê tấm thân tàn ốm yếu... để tiếp tục cuộc hành tŕnh khiếu kiện, giải oan... cho đến bao giờ đạt ước nguyện mới thôi.
Qua một năm chờ đợi, chị út Quắn mới được gọi tên trên loa phóng thanh. Chị hết sức mừng rỡ như người vừa chết rồi được sống lại. Chị út Quắn được một tên Công an áo vàng dẫn vào văn pḥng. Con Chái bốn tuổi, không được phép theo chị vào cửa quan quyền, v́ tên Công an bảo là chỗ tôn nghiêm của các cấp lănh đạo lớn làm việc, con nít con nôi không được phép vào. Con Chái khóc lóc, vùng vằng không chịu rời khỏi mẹ. Nh́n con, chị út Quắn đau xót từng khúc ruột và chị cũng không nỡ bỏ con một ḿnh đứng bên ngoài. Tên Công an áo vàng giục, và y c̣n hăm he rằng, không chịu để con nít bên ngoài th́ về đi. Chị út Quắn phải dỗ ngọt con Chái, con hăy ngồi chỗ cánh cửa này đừng đi đâu hết, chờ mẹ vào trong một chút là mẹ sẽ ra ngay với con.
Chị út Quắn bước vào văn pḥng có tên công an đi kèm theo sau. Người chị lem luốc, quần áo vá đùm vá đụp, đầu tóc rối nùi, đi chân đất, mặt mũi bơ phờ, hôi hám, bẩn thỉu v́ lâu ngày không có nước để tắm rửa tại khu vực tiếp dân.
Căn pḥng có máy lạnh mát rượi, thơm tho. Nền nhà lát gạch bông bóng loáng sang trọng. Giữa căn pḥng là một cái bàn giấy thật lớn bằng gỗ gụ bóng. Sau bàn là chiếc ghế nệm bọc da. Một bộ salon màu kem được kê ở một góc, trên có b́nh hoa tươi, bộ chén trà và một đĩa lớn đựng nhiều trái cây chín. Trên các vách treo nhiều phong cảnh đẹp. Một người đàn ông trung niên, ăn mặc chỉnh tề, áo veste, cà vạt, giày bóng, đầu tóc chải mượt, khuôn mặt béo phệ bóng lưởng, thân h́nh đẫy đà, đang ngồi trên chiếc ghế nệm da, mắt chăm chú những tờ giấy trên bàn. Ông ta điềm nhiên không chú ư sự có mặt của chị út Quắn.
Tên Công an ra lệnh chị út Quắn đứng chờ ở góc pḥng, rồi hắn mở cửa bước ra ngoài. Trong căn pḥng mát lạnh sang trọng trước một quan chức quyền uy, tiếp dân trông thật bề thế, chị út Quắn hơi khớp. Từng phút trôi qua, căn pḥng thật yên tĩnh. Chị cảm thấy ḿnh và ngài quan chức trước mặt kia thật xa lạ và thật cách biệt ngh́n trùng. Chị đang tự ti mặc cảm như thân phận của một can phạm đang đối diện trước ṭa quan lớn. Nơi cửa quan quyền cao ngh́n trùng thăm thẳm, người dân thấp cổ bé miệng làm sao kêu lên thấu. Chỉ ở bên trong này và ngoài cánh cửa kia đă có sự khác biệt vô cùng.
Chị út Quắn nghĩ rằng phải làm sao đây để ngài quan chức đầy uy quyền kia thương xót giải quyết thỏa đáng cho ḿnh. Chị cảm thấy sao quá muôn vàn khó khăn trong giờ phút quan trọng nhất cuộc đời đang quyết định số phận. Bất chợt chị cảm thấy run sợ trước quyền lực con người. Chị lâm râm cầu nguyện thần linh kẻ khuất mặt phù hộ cho thân phận nhỏ nhoi côi cút của chị.
Mười lăm phút hồi hộp lo lắng đi qua. Căn pḥng vẫn hoàn toàn im vắng. Chị út Quắn không c̣n đứng vững để chờ. Sức lực trong người chị đă cùng kiệt. Chị ngồi bệch xuống nền gạch bông mát rượi. Chị cảm thấy thèm một giấc ngủ ngon trên nền gạch bông bóng mát mà suốt đời chị chưa bao giờ nh́n thấy được. Chị thèm giấc ngủ nhưng đôi mắt chị vẫn mở to cḥng chọc dán vào ngài quan chức quyền uy trước mặt để chực chờ van xin. Đôi lần chị muốn mở miệng nói, nhưng lại sợ.
Đột nhiên, vị quan chức ngước nh́n chị út Quắn, hỏi lớn:
- Ê ! chị kia ! tên ǵ?
Chị út Quắn mừng kinh khủng, mừng đến rơi nước mắt, như chết đi sống lại. Nỗi mệt mỏi và buồn ngủ tan biến. Chị đứng bật dậy rất nhanh, dáng co ro bước đến gần ngài quan chức, tiếng nói của chị đứt quăng :
- Dạ....dạ....!!!!...b ẩm...ngài...!!!!bẩm. . ngài,....con...con.. .tên là...Trần...Thị...Qu ắn..!
Vị quan chức nhà nước cảm thấy mùi hôi hôi tanh tanh từ người đàn bà khốn khổ đang bốc ra ám vào mũi ông. Ông khịt khịt mũi, đưa bàn tay quạt quạt trước mặt.
- Ê, chị kia, đứng tránh xa bàn một chút. Sao không chịu tắm rửa, ăn mặc sạch sẽ để hầu kiện hả ? Hôi hám quá thế này ai chịu nổi hả chị kia ? Trông chị như hủi vậy
.
Chị út Quắn cúi đầu e lệ, bước lùi vài bước :
- Dạ ! thưa ngài ! con nghèo quá. Con đă ăn nằm ngoài trời nắng mưa ở đây hơn năm rồi. Con nghèo khổ lắm ngài ơi ! ngài ơi ! ngài rủ ḷng thương con..!
Vị quan chức tỏ vẻ không bằng ḷng :
- Thôi, đừng dài ḍng, chị thưa kiện ǵ đây ? Hả ? Nói lẹ lên.
Chị út Quắn khom người, hai tay ṿng lên ngực, cung kính :
- Dạ, thưa ngài, con là người dân chân chất làm thuê làm mướn bữa đói bữa no ở quê con. Cha mẹ qua đời để lại cho con sào đất và ngôi nhà tranh vách đất. Đột nhiên, Xă ra lệnh cho con phải đóng thuế nhà, thuế đất, mức thuế hằng năm cao quá, con kham không nổi. V́ vậy, Xă gán cho con tội phản động, chống “Chính quyền cách mạng”, không tuân luật lệ, và tịch thu nhà và đất của con, gạch bỏ hộ khẩu của con, thu giấy chứng minh nhân dân của con, tước quyền công dân của con và đuổi con đi kinh tế mới khổ cực trăm bề. Bây giờ con là người không có nhà cửa, gốc gác, quê quán, không có công ăn việc làm, không có giấy tờ tùy thân, không ai chấp chứa, không ai thuê mướn, con là dân lậu. Con đi tới đâu cũng bị người ta xô đuổi, coi con như cùi hủi. Con đă nhiều lần gởi đơn khiếu kiện các nơi mà không ai giải quyết cho con. Bẩm ngài, con qú lạy ngài, con xin ngài rủ ḷng thương, giải quyết cho con lấy lại nhà, lấy lại đất, cho con nhập hộ khẩu, cho con giấy tờ tùy thân để con có cơ hội làm ăn sinh sống nuôi con dại. Trăm lạy ngài, trăm sự kính xin ngài cứu giúp con một phen. Tội cho con lắm ngài ơi ! Trăm lạy ngài rủ ḷng thương con, cứu giúp con một lần, ơn ngài như trời biển, con ghi ḷng tạc dạ...!
Vị quan chức đập bàn, quát ầm lên, khiến chị út Quắn run như cày sấy :
- Rơ đồ khỉ, chuyện nhỏ nhặt thế mà cũng đến đây làm phiền. Chuyện của chị do địa phương chị làm th́ địa phương chị có trách nhiệm giải quyết, Trung ương không can dự vào, phiền ḷng lắm, nghe chưa chị kia. Chị đi về mà khiếu nại ở địa phương chị.
Chị út Quắn như muốn ngất xỉu trước “lời chỉ dạy” của ngài quan chức uy quyền cầm cân nẩy mực. Chị cố lấy sức nói :
- Thưa ngài, con đă đến Xă, Huyện, Tỉnh khiếu nại nhiều lần, nhưng họ bảo con ra Trung ương mà thưa. Giờ ngài chỉ dạy như vậy th́ con biết đi đâu bây giờ, con biết kêu cứu vào ai đây. Ngài thương xót con là kẻ bần cùng đói khổ... ban cho con chút ân huệ... nhỏ nhoi !
Ngài quan chức nhà nước Trung ương uy quyền tột đỉnh xô ghế qua một bên, đứng lên, nét mặt hầm hầm trông rất ghê rợn, quát :
- Ê, chị kia, đừng có nói dai. Đă nói rồi, không nghe. Cút đi. Hết giờ tiếp dân.
Dứt lời ông ta bấm chuông reng reng, tên Công an áo vàng nhanh nhẹn bước vào kéo mạnh chị út Quắn ra khỏi cửa.
Chị út Quắn lảo đảo bước xuống mấy bậc cấp. Cả bầu trời tối sầm trước mặt chị, chị chẳng c̣n nh́n thấy lối đi. Chị ngồi bệch xuống đất khóc rấm rức trong đau khổ tuyệt vọng. Chị đang cảm thấy cái chết trước mắt mới giải quyết được nỗi oan khiên. Hồi lâu chị út Quắn như chợt nhớ ra, chị hoảng hốt, dáo dác rảo mắt t́m Chái.
- Chái ơi ! là Chái ơi ! Chái đâu rồi ! Con tôi đâu rồi ! Chái ơi ! Con ơi ! Con đâu rồi !
Chị út Quắn vừa khóc bù lu bù loa, vừa kêu tên con thảm thiết. Chị chạy khắp ngơ ngách lùng sục t́m con Chái. Vừa t́m, vừa hỏi thăm người này người nọ, nhưng chị vẫn chưa t́m thấy con Chái. Chị chạy vụt ra đường lộ ngơ ngác băng nhanh qua đường t́m con... trong lúc một chiếc xe hơi chạy lướt nhanh tới... chị út Quắn ngă sấp dưới ḷng xe... máu tuôn xối xả... trước nỗi kinh hoàng của đám người dân đang đứng lố nhố chờ đợi khiếu kiện...!
Nguyễn Thế Hoan
Bác post bài này hay quá, tui dzừa đọc đến câu "Don em đă cuối mùa, gặp luồng nước bạc (nước lụt), em không bán cho anh đâu " , là tui chẩy nước mắt và nhớ đến hoàn cảnh của tui sau 40 năm gặp lại ngưới t́nh cũ bên đường , nàng phán một câu :
---Em đă cuối mùa....em không gả cho anh đâu...
:112::112::112::nana ::nana::nana::thanky ou:
Bài hay "t́nh chỉ đẹp khi c̣n dang dở, cưới nhau rồi tắt thở càng nhanh!":hafppy:
C̣n chuyện t́nh TrungThu sau 40 năm...em đă già nên anh không thèm lấy:hafppy:
Tôi Cưới Vợ
https://i.postimg.cc/RFy03h02/2-du-lich-miet-vuon-cai-be-du-lich-viet.jpg (https://postimages.org/)
Hồi học lớp đệ tứ (lớp 9 bây giờ), tôi có đọc đâu đó truyện ngắn tựa là "Lấy vợ miền quê", của tác giả nào tôi quên. Tôi rất khoái truyện ngắn nầy và định bụng lớn lên ḿnh cũng “lấy vợ miền quê” như tác giả kia. Nói th́ hơi xấu hổ, vừa đậu Tú Tài phần hai, lúc đó tôi mới 18 tuổi tây, tức 19 tuổi ta, mà tôi đă..."muốn vợ"! Con trai mà “muốn" chuyện ǵ th́ thường ṿi vĩnh với mẹ, như chiếc xe đạp, đồng hồ, quần áo mới, kể cả chiếc solex cáu cạnh tôi đang chạy, mà chỉ hàng “thiếu gia”... ở tỉnh như tôi mới có.
Những thứ đó tôi đều manh dạn nói với mẹ, và lần nào cũng vậy, mẹ tôi không cần suy nghĩ mà “ô kê” liền. C̣n cái vụ "muốn vợ" nầy, tôi có miệng mà chẳng thốt nên lời! Tôi định bụng lúc nào mẹ vui và khi chỉ có hai mẹ con ở nhà th́ tôi "tâm sự" liền. Mẹ lúc nào lại không vui! Vả lại tôi là con một trong gia d́nh, chỉ cần ba tôi đi uống cà phê hay đi đâu đó th́ có biết bao nhiêu dịp… may!
Thế mà khi thấy mẹ ngồi, tôi vừa xề lại th́ bao dũng khí đă tiêu tan! Bao lần như vậy, dường như bà để ư, giọng ngọt ngào cố hữu:
- Ǵ đó con trai cưng? Muốn ǵ nữa phải không?
Lúc đó tôi chỉ cần một “gờ-ram” dũng khí, thêm một tiếng "vợ" sau tiếng "muốn" của me tôi th́ đ̣n cân cục diện đâu lại vào đấy rồi.
Đàng nầy tôi lại nhút nhát, rụt rè! – Điều nầy, vốn không phải là bản tính của tôi:
- Dạ... có "muốn" ǵ đâu mẹ!
Trả lời xong tôi thấy ấm ức, giận ḿnh sao quá yếu gan! Th́ may thay, vợ chồng anh hai Trân tới chơi. Anh với tôi là chú bác ruột tôi. Hai Trân là con trai trưởng của bác hai, c̣n cha tôi đến thứ chín, nên ảnh nhỏ hơn cha tôi chẳng bao nhiêu. Anh rất vui tính, cởi mở, lẹ làng, sốt sắng. Cái ǵ cũng chịu hoạch toẹt, không chịu úp úp mở mở, nên có khi hơi lố lố. Vậy mà tôi lại quư mến anh ở điểm nầy nhất, mới lạ!
Chưa chào hỏi mẹ tôi, anh nh́n tôi bôm bốp:
- Đậu (Tú Tài ) rồi hả mậy? Là người lớn rồi, cưới vợ được rồi đó nghen!
Thuở đó đậu Tú Tài cũng oai lắm, kiếm việc làm dễ như chơi. Trong thân tộc có người đậu tú tài là niềm hănh diện chung. Nghe anh nói, tôi khoái chí tử, nhưng cũng làm bộ:
- Mới bây lớn mà có vợ ǵ anh ơi!
- Sao lại “bây lớn"? Hồi tao cỡ mầy là con cu biết gáy rồi. Mầy hỏi chú chín....
Chị hai thúc mạnh vào hông chồng:
- Nói bậy không hà! Thím chín ḱa!.. Chú nó c̣n nhỏ...
- Nhỏ nhỏ cái ǵ? Cỡ tuổi nó tôi có con rồi!
Tôi mỉm cười, thấy thích anh lạ! Anh hai quay sang mẹ tôi:
- Thím chín! Em lớn rồi nghen thím. “Nam đại bất hôn như liệt mă vô cương”đó thím. Em nó đẹp trai, học giỏi, nhà giàu, mà thím không chịu cưới vợ cho nó là có ngày có người bồng cháu nội về cho thím nuôi đó!
Chị hai nạt:
- Nói bậy không hà! Cái tật không bỏ!
Anh hai nói chuyện thường chêm vào mấy câu chữ nho, những lần đó tôi cũng bực ḿnh, v́ có câu tôi cũng không hiểu nghĩa rơ ràng.
Câu anh vừa nói tôi hiểu, xem ra nó cũng hay đó chứ! C̣n chị hai, là người phụ nữ nết na, đẹp lại hiền, hay ḱm chế chồng những khi anh quá trớn. Đặc biệt lần nầy tôi lại thấy chị hơi… quá trớn!
Mẹ mỉm cười:
- Biết nó chịu không mà cưới?
Tim tôi đập th́nh thịch. Không ngờ diễn tiến lại thuận lợi như vậy. Mẹ nói thế tức là nếu tôi "chịu" th́ mẹ cưới chứ ǵ? Ôi con đường... cưới vợ sao mà hanh thông như vậy!
Anh hai quyết liệt:
- Sao lại hổng chịu thím? Hỏng lẽ nó muốn vợ nó lại la làng lên sao? Hồi trước con muốn vợ, con cũng đâu dám nói cho má con mà phải nhờ chú chín mở hơi giùm. Thím quên rồi sao?
Quay qua tôi, anh dịu giọng:
- Nè cưng, anh hai hỏi thiệt nghen, cưng có muốn cưới vợ không?
Phải nói là nhờ anh hai mà ḷng tôi tràn dũng khí. Tôi quyết không bỏ lỡ cơ hội. Chỉ cần tôi nói một tiếng "muốn" là bài toán có đáp số ngay, và bao nhiêu đè nén trong ḷng bấy lâu chắc chắn giờ đây tan biến! Nhưng như vậy xem phàm phu quá! Tôi cười cười, đợi cho mọi người chờ một lát, thần khẩu xui tôi phát ra một câu quá tuyệt vời:
- Th́ hồi trước anh hai sao th́ giờ em vậy thôi!
Mọi người cười rần và mang ư nghĩa khác nhau. Tôi cười cho... đở mắc cở. Chị hai cười x̣a góp phần vui; anh hai cười ngất, cười sặc sụa của người thích chí; c̣n mẹ th́ cười hiền ḥa, sung sướng, lấy tay áo chậm hai khóe mắt rưng rưng. Tôi thấy thương mẹ vô cùng, sà vào ḷng mẹ. Dù là một cậu tú, nhưng với mẹ, tôi vẫn thường thích mẹ vuốt ve như thuở lên ba. Mẹ ṿ tóc tôi, nói với anh chị hai:
- Bây thấy hôn? Nó làm c̣n như nhỏ lắm vậy!
Mẹ hỏi tôi:
- Bộ con có để ư bạn gái nào ở trường hả?
Tôi lắc đầu. Mẹ bảo:
- Vậy th́ mẹ biết ai mà cưới cho con?
Anh hai nhanh nhẩu:
- Th́ làm mai! Hồi trước chú chín cũng vậy, con cũng vậy. Có ai thương yêu ai trước đâu? (liếc sang chị hai) Chừng về ở chung cũng khoái thấy mồ...
Anh phủi bàn tay chị hai định nhéo vào hông anh:
- Vậy chớ hỏng phải sao?
Rồi quay sang tôi, anh lại ngọt ngào và xôm tụ:
- Nè, bây giờ em chưa quen ai phải không? E hèm! Hồi trước anh cũng vậy thôi. Có sao? Nhưng em phải cho thím chín và anh chị hai đây biết mẫu người em ưng thế nào th́ ở đây mới kiếm cho em được chứ! Thí dụ, hồi trước anh ra tiêu chuẩn là phải vừa đẹp, vừa hiền, vừa có chút học vấn. Em thấy hôn, chị hai đúng bon tiêu chuẩn đó, Anh thấy là khoái liền. Hề hề…!
Tôi thấy mặt chị hai đỏ lên v́ sung sướng:
- Nói không biết mắc cở....
Sẵn đà, tôi tiếp:
- Mà phải ở miệt vườn nữa em mới chịu.
Anh hai có vẻ cụt hứng, c̣n mẹ th́ có vẻ vui:
- Phải đó à bây, con gái ở vườn nó nết na, thùy mị, giỏi giang.
Anh hai cười. lại xông xáo:
- Trúng tủ bả rồi! Mà cũng dễ thôi! Thím bán tạp hóa lớn, mối mang miệt vườn biết bao nhiêu, nhờ họ mối lái giùm.
Chị hai:
- Sao hăng hái dữ! Mai mốt anh hai chịu lạy đó nghen!
- Tất nhiên! tất nhiên!
Thói thường người ta tin tưởng vào những ǵ ḿnh hy vọng, và sợ mất những ǵ ḿnh có. Mẹ đă xong rồi, c̣n ba th́ sao? Ba thường hay ch́u ư mẹ dù đôi khi ư mẹ có đôi chút ông chẳng hài ḷng, nhưng đó là những việc nhỏ đời thường, c̣n đây là "hôn nhân đại sự", liệu ba có c̣n ch́u mẹ hay không?
Ngày hôm sau, tôi thấy ba có vẻ khác khác - vậy là mẹ nói với ba rồi! Ba ít nói, có chiều nghĩ ngợi. Khi giáp mặt tôi, ba mỉm cười khó hiểu. Phúc hay là họa đây!
Rồi ngày tôi chờ đợi cũng đến. “Phái đoàn” gồm ba mẹ, anh chị hai và tất nhiên có vai chánh là tôi. Thật khó tả được bao cảm xúc bồn chồn lo lắng, hồi hộp, đủ thứ lộn xộn trong ḷng tôi. Mẹ tôi cứ dặn ḍ đủ mọi việc, hết chuyện nọ tới chuyện kia, đến nỗi khó mà nhớ hết; c̣n anh hai th́ cứ lải nhải bên tai "b́nh tỉnh, b́nh tỉnh, đừng có run".
Nhà ông nhạc tôi (tạm gọi vậy) ở xă Ngũ Hiệp, cách thành phố Mỹ tho 30 cây số về hướng tây. Chợ Ngũ Hiệp nằm bên kia sông, muốn qua phải nhờ một phà nhỏ. Từ chợ, theo lời bà mai, chúng tôi phải đi bộ thêm gần ngàn mét nữa. Nghe vậy anh hai nói với tôi:
- Như vậy là "vườn trong vườn" rồi phải không cưng? Tiêu chuẩn một đạt hai trăm phần trăm rồi hén!
Chị hai cau mặt:
- Cái ông nầy lúc nào cũng đùa được.
Thật vậy, đây là vùng trù phú đất đai, cây lành trái ngọt. không biết cơ man nào là cây trái quả mọng trĩu cành! Cam, bưởi, sa bô, dừa, vú sữa, nhăn, chôm chôm... nhất là sầu riêng cây nào cây nấy chân tay đeo đầy nghẹt quả, theo gió thơm lừng. Bà mai chỉ tay về căn nhà ngói kiểu xưa (kiểu "chữ đinh") nói:
- Nhà đó đó.
Tất cả dừng lại “hội ư”. Mẹ khẩn trương thấy rơ, lại dặn ḍ:
- Nhớ những ǵ mẹ dặn nghen con!”
- Dạ!
Anh hai cũng th́ thào:
- Nhà cất kiểu nầy mà gặp ông già củ tỏi th́ mệt lắm à nghen!
Chị hai nạt nhỏ:
- Ông lo cái miệng ông đó. Vô đó nói bậy đi!
Bà mai vô trước, mẹ sửa lại áo quần tôi chưa xong th́ có người ra mời vào. Giờ phút nầy tôi càng thấy t́nh mẫu tử bao la như thế nào. Mẹ hồi hộp như sắp bước vào nơi hang hùm nọc rắn không bằng, lại điệp khúc "Nhớ nghe con!" lại phát ra!
Vừa vào cỗng, tôi bị hốt hồn v́ hơn hai chục cặp mắt, đủ hạng tuổi, nhiều nhất là trẻ em chăm chú vào tôi, một bà trạc tuổi mẹ có lẽ thông cảm được điều ấy, bèn rầy đám nhỏ:
- Nè, mấy đứa làm ǵ tụ tập lại đây dữ vậy? Có đi hết không?
Đám trẻ tản đi vài bước rồi bẽn lẽn đứng nh́n.
Pḥng khách được bài trí hai bàn. Bàn giữa gồm ba mẹ tôi, bà mai, ông bà nhạc và hai vị cao niên. Bàn bên có anh chị hai tôi và bốn người bên gái cùng trang lứa.
Phần tôi nghe lời mẹ là không được ngồi, mà đứng sau ghế cha mẹ, hai tay xếp lại để dưới bụng (nếu đă mời trà xong), tư thế y như lính hầu ở phủ huyện, hay các thái giám ở cung đ́nh hầu hạ đức vua!
Theo cách nói chuyện… lại có dịp đứng trước nhạc phụ mẫu; tôi biết ông bà là người cởi mở, dễ tính. Câu chuyện của hai "sui" càng lâu càng khởi sắc tốt đẹp. Dần dà khách khí không c̣n, mà như đă quen nhau từ trước vậy.
Bỗng Ông nhạc gọi:
- Con hai đâu, châm trà mới đi con!
Một tiếng "dạ" thảnh thót không kém Điêu Thuyền thời Tam Quốc từ nhà dưới vọng lên làm tim tôi rộn ràng. “Phái đoàn” nhà trai ai cũng hồi hộp chờ đợi. Bởi ai cũng biết bảo “châm trà” chẳng qua là lời nói khéo cho con ḿnh ra chào để nhà trai “coi mắt” đó thôi!
Mẹ quay lại nh́n tôi mỉm cười, thầm bảo ”hăy xem kỹ v́ thời gian không lâu”. Tôi chưa kip mỉm cười với mẹ th́ rèm hoa lay động, một kiều nữ vận bộ bà ba, không phấn không son mà má phấn môi hồng.Tóc dài phủ long gọn gàng bởi chiếc kẹp vàng có đính bông hồng chói lọi. Thoạt trông, tôi giật nẩy người, đến nỗi bố vợ nh́n thấy. Đợi giai nhân châm trà xong, ông vội bảo:
- À quên nữa, cháu qua bên ngồi uống nước, hay cứ ra ngoài dạo cho thoải mái.
Mẹ lại quay ra tôi, nhướng mày, thầm bảo “hăy đi đi con”, v́ thực ra, ông nhạc cũng ngầm ư cho tôi và vợ tôi gặp nhau để “t́m hiểu”, dù thời lượng ít oi, nhưng nếu tri túc ắt tiện túc mà thôi! Mọi sự đều được người lớn sắp xếp có bài có bản và, có màn có lớp hẳn hoi!
Không khí bên ngoài thực thoăi mái. Nhiều loại cây trái lớn nhỏ thi nhau che rợp ánh mặt trời làm mát rượi cả một không gian rộng. Vài tia sáng yếu ớt cố gắng chen vào đất tạo thành những đóm trắng lưa thưa đây đó tựa răi hoa. Mùi sầu riêng thơm lừng. Hàng sa-pô thẳng tắp trái nặng sai oằn. Mấy nhánh ổi cho trái bóng láng no tṛn, rục mềm rơi rụng tứ tung, tỏa hương thơm bát ngát. Chim hót líu lo, bướm vờn thẳng cánh. Đàn ong tranh nhau hút mật của trăm ngàn hoa đủ sắc đủ màu. Rơ ràng là vùng đất lành thừa mứa cây lành trái ngọt.
Bên sau một giọng êm đềm:
- Biết người ta ưng hay không mà dám đi hỏi vậy?
Tôi quay lại, th́ ra là vợ tôi, (tạm gọi vậy), mà cũng là Vi, người đă làm tôi kinh ngạc đến đánh thót cả người khi năy!
Vi là bạn học cùng lớp với tôi hồi năm đệ tứ. Hồi đó lớp đệ tứ được xem là cái “móc” của sự chia tay. Bởi con trai, nếu thi rớt th́ cha mẹ thường cho nghỉ để học nghề, c̣n thi đậu (cấp bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp) th́ cũng mỗi người một hướng đi: Vào sư phạm hoặc ngành nghề nào đó, hoặc học tiếp ba năm nữa để lấy Tú Tài rồi lên đai học. Con gái th́ ít người được học đến chốn đến nơi. Rớt hay đậu cũng thường bị cha mẹ cho nghỉ mà lo phụ việc nhà, viện lẽ con gái “học cao” khó có chồng! Vi cũng nằm trong số phận nầy. Bởi vậy cuối năm đệ tứ, chúng tôi thường trao nhau lưu bút, mọi người đều nắn nót tuồng chữ cho trang ḿnh thường tặng cả ảnh, dán vào giữa trang viết, dưới đề:
"Thương nhau mới tặng ảnh nầy,
Để làm kỷ niệm những ngày xa nhau'
Dù cho ảnh có phai màu,
Cũng đừng xé bỏ mà đau ḷng người!”
Không biết bốn câu thơ ấy là của tác giả nào, sáng tác tự bao giờ, mà đến nay, thỉnh thoảng tôi lại thấy sau bức ảnh ”tặng nhau” của các em cũng có đề như vậy.
Hơi lạc đề, nhưng nói thêm cho vui: Hồi đó tôi cũng có quyển lưu bút, tất nhiên khi ai nhận th́ cũng nắn nót từng chữ và giữ sạch sẽ như nói ở trên. Khi tôi đưa cho thằng Nhứt, ngày sau nó trả (thường th́ vậy), nó viết vào trang đôi mấy chữ tổ bố: “Lưu niệm làm cái xê b́nh phương ǵ?" (2), rồi láu cá kư tên giáp cả hai trang giấy!
Tôi xem giận run. Cự nó. Nó cười: “Để sau nầy mầy nhớ tao”.
Tôi nghe cũng x́u ḷng. Quả thật, đến giờ, nó là người tôi nhớ nhất. Và đến ngày cuối, chúng tôi tổ chức tiệc liên hoan cuối khóa tại lớp. Văn nghệ xung quanh các bài hát về “mùa chia tay”, “tạm biệt”, “nỗi buồn hoa phượng”... Tôi có sở trường ngâm thơ, ngâm hai bài thơ Đường luật, bài đầu của thầy H.C, giáo sư sử địa (3), bài nầy tôi chỉ nhớ hai câu cuối:
“...
Rồi đây nếu chẳng sau mùa phượng,
Tất cũng mai kia ở chợ đời!”
Và bài họa của tôi:
"Việc cũ, ngàn sau vẫn đổi dời.
Chút t́nh tâm huyết nói sao vơi?
Luyến lưu kẻ ở đôi ḍng lệ,
Tiếc nhớ người đi một góc trời
Chín tháng vui buồn trong một lớp,
Vài giây ly biệt rẽ ngàn khơi,
Đường mây một kẻ hanh thông bước,
Một kẻ lang thang giữa chợ đời!
(Thơ Kha Tiệm Ly)
Đám con gái mắt đỏ hoe, có đứa khóc thành tiếng. Chúng tôi lại tặng quà lưu niệm cho các bạn “nghỉ luôn”. Tôi tặng Vi cái kẹp tóc bằng vàng 14 (tôi là... “thiếu gia” mà! Vàng hồi đó rẻ lắm, đàn bà con gái chẳng thấy ai đeo, có đeo th́ cũng sơ sài, đeo nhiều mắc cở, bị coi là “quê”; không thấy ai đeo cục cục như giờ. Vi tặng lai cho tôi cây bút Pilot nắp vàng, loại cao cấp nhất thời ấy.
- Sao không trả lời?
Vi nghiêm trang như thuở nào, tôi hơi chột dạ:
- Thật ḷng tôi không ngờ ḿnh đi hỏi cưới Vi. Đă bao năm rồi, vả lại lúc đó ḿnh c̣n nhỏ cả mà!
- Bộ mấy năm qua không nhớ chút ǵ về Vi sao?
- Vẫn nhớ về người bạn nhỏ hiền lành, nhiều nước mắt.
Vi vừa đưa tay rút cây viết trên túi áo tôi, vừa nói:
- Xin lỗi nghe, cho Vi mượn.
Rồi xoay cán viết, nh́n những ḍng chữ khắc trên ấy, Vi có vẻ xúc động:
- Vẫn c̣n giữ của Vi à?
Tôi không đáp, nh́n hai rèm mi chơm chớp, tôi thấy Vi đẹp năo nùng. Tôi nắm lấy tay Vi:
- Không ngờ lại gặp lại Vi. Chẳng phải không có duyên số hay sao? Vi đồng ư nhé!
Vi tủm tỉm cười:
- Nếu em không ưng th́ sao?
- Th́ anh về, nhưng xin gởi trái tim anh lại.
Lại cười:
- Rơ là thi sĩ! Em đă đồng ư từ khi bà mai nói chuyện với ba mẹ, đâu phải đến bây giờ.
- Không biết mặt làm sao ưng?
Vi kéo mái tóc về phía trước ngực:
- Khờ quá đi! Mọi người ở đây ai không biết con trai một của tiệm tạp hóa Vạn Phát, chứ em th́ rành lắm. Vị “công tử” ấy c̣n tặng cho em chiếc kẹp xinh đẹp nầy nữa phải không?
Trên đường về, mẹ luôn miệng với ba:
- Con nhỏ xem nết na và lịch sự (4) ghê ông há?".
Lại lo ngại:
- Hổng biết nó có ưng thằng con trai cưng tôi không nữa?”
Năy giờ tôi lặng thinh, nhớ lại những lời nói của Vi mà thấy ḷng hân hoan lạ. Nhưng thấy mẹ cứ lo lắng măi, tôi mói nói:
- Chắc ăn rồi mẹ ơi! Mẹ đừng lo!
Mẹ nghi ngờ. Anh hai nói:
- Hồi năy ngoài vườn tụi nó nói chuyện, chỉ cần khi về, đá lông nheo một cái là kể như xong. Thím lo ǵ!
Ba châm vào:
- Hồi trước bả cũng vậy, sao bả mau quên quá!
Không biết mẹ đánh hay phủi bụi cho ba::
- Cha già mất nết!
oOo
Thế là chậm lắm khoảng một tuần, mươi ngày tôi đều đến tham nhạc gia, nhạc mẫu. Ba mẹ vợ tôi đều nhân hậu, nghiêm khắc với con cái nhưng xem chừng ”dễ” với thằng rể tương lai.
Trước khi đi, ba tôi dặn. Con đến đó thấy cái ǵ làm được th́ làm, chứ đừng lấy mắt ngó là không được! Ngày xưa trước khi cưới, phải làm rể ba năm: Chẻ củi, vác lúa, cày bừa, làm đủ thứ nặng nhọc, chứ chẳng phải chơi đâu!
Nhưng tôi biết cái ǵ mà làm, mà phụ? Lần đầu đến, tôi thấy ba vợ tôi đang chài cá, thấy tôi sựng rựng, ông hiểu ư, nói:
- Con đứng chơi, ba văi vài chài nữa ba vô.
Thế coi sao được! Đợi mỗi khi ba kéo chài lên, tôi phụ gỡ cá, mà có được đâu! Tôi đụng tới con nào th́ con ấy giăy rồn rột, rách cả tay, có khi phóng lại xuống mương; trong lúc ông bỏ vào giỏ lia lịa như bỏ đá vào vậy!
Một lần th́ thấy ông đang chiết nhánh cây, cái nầy tôi càng mù tịt, nhưng cũng có việc làm là... đưa dây cho ba tôi cột “bầu”; cái công việc không cần người phụ tá!
Ba vợ tôi rất điệu đời, ông thường bảo vợ tôi dắt tôi ra vườn xem có “cái ǵ nó thích th́ hái nó ăn”. Tôi biết ba tạo điều kiện cho chúng tôi chuyện tṛ. Ông dư hiểu, bởi nói tiếng là thăm cha mẹ vợ, nhưng chủ yếu của chàng rể tương lai nào cũng là thăm... vợ cho đở nhớ mà thôi. Nếu không, tại sao mỗi lần đến thăm mà cha mẹ vợ đi vắng th́ chàng rể lại hớn hở trong ḷng!?
Vườn nhà vợ tôi đủ loại cây nên có trái quanh năm, chúng chen chút nhau nên chỉ cách hơn mười thước là không thấy dáng người. Tôi có cảm tưởng như hoàng tử gặp công chúa trong rừng vậy! Đến hàng dừa tơ, quày ôn trĩu trái màu vang rực, sai oằn đụng tới mép mương, Vi đưa tôi dao, bảo:
- Chặt dừa uống nhé!
- Trái nào đây?
- Th́ tùy chọn
Khổ sở lắm tôi mới đem được hai trái dừa rời quày được. Dùng dao chặt phần đầu có cuống. Dao bén ngót mà tôi phạt năm bảy nhát liền mà vỏ dừa chỉ dập dập, trầy trầy, tung mấy miếng văm! Vi cười khoe hai hàm rang đều như hạt bắp:
- Để nô t́ giúp cho, thưa công tử!
Giành lấy dao, Vi chỉ phập ba nhát nhẹ nhàng mà vỏ dừa tách ra từng mảng lớn, nhát thứ tư, nhẹ hơn, chạm vào gáo, Vi thuần thục lách nhẹ lưỡi dao, để lộ phần “cái” trắng bóc mịn màng, bao quanh phần nước sóng sánh trong veo! Một tay đưa dừa cho tôi, tay kia chỉ chỉ vào trái dừa bảo:
- Chặt dừa phải chặt đầu lớn nầy nầy, Lưỡi dao phải để hơi xiêng. Ai đời ở trên bổ xuống... 90 độ. Làm sao đứt được?
Lợi dụng tôi nắm lấy cổ tay tṛn trịa mịn màng của Vi, ghé mũi xuống hít một hơi dài. Vi vẫn để yên nhưng bặm môi:
- Có thấy con dao ở đây không th́ bảo?
Rồi cùng cười, tôi hít mũi chọc:
- C̣n ngọt hơn cả nước dừa!
Đến địa phận chuyên canh sầu riêng. Ôi! hàng hàng thẳng tắp. Không biết cơ man nào là trái đậu trên cành! Tọng teng nhỏ to đủ cở, lủng la, lủng lẳng tầng thấp tầng cao, xem vô cùng ngoạn mục. Tôi hỏi:
- Nghe nói sầu riêng chỉ rụng về đêm, phải không?
- Sao lạ vậy?
- Th́ ... trời khiến để đừng bể đầu người!
Vi cười ngoặt ngoẽo:
- Sao trái dừa vẫn rụng ban ngày? Bộ trái dừa không làm bể được đầu người? Chủ vườn ṇi vậy để cho mấy thằng ăn trộm không dám lẻn vào đó thôi!
Rồi chỉ vào phía trước, bảo:
- Có hai trái rụng ḱa! Anh lại lượm đi! Coi chừng nó "bịch" một cái là hết có vợ đo.o..ó!
Tôi nh́n lên, thấy hàng trăm trái ḷng tḥng, gai tua tủa, giống như những quả chùy của các vơ tướng ngày xưa. Nói dại, nếu nó mà"phịch" xuống một cái như lời Vi nói th́ dù không bể đầu, th́ mặt mũi chắc cũng khó coi! Dợm chạy đi, bỗng luồng gió quái ác từ đâu lùa tới, bèn chột dạ, tôi dừng lại. Vi cười ngất:
- Coi vậy mà cũng sợ mất vợ hén!
Tôi chữa thẹn:
- Vậy chớ vợ như Tây Thi th́ chết sao dành!
Má Vi càng đỏ thêm, nắm tay lại giá giá vào tôi:
- Cái tật nịnh.......
Tôi vừa dặt hai trái sầu riêng xuống th́ Vi bảo:
- Tách ra đi!
Nói đoạn lại bờ rào t́m hái những nhánh bông. tôi lui cui lấy dao chặt ph́nh phịch vào đầu lớn trái sầu riêng, dao cũng để xiêng một góc mà xem ra vỏ sầu riêng c̣n dai hơn cả vỏ dừa. Thật t́nh, sầu riêng tôi ăn có hàng trăm nhưng mỗi lần đều được mẹ bóc sẵn bỏ vào tủ lạnh, nên có biết ǵ đâu!
Tôi lật qua, lật lại, chợt nhớ tới cái vỏ sầu riêng mẹ bóc xong đâu có trầy trụa, hay mất một góc đàng đầu trái, mà xem ra nó c̣n nguyên vẹn giống như một chiếc xuồng! Tôi sửa lại rồi dùng dao bổ theo chiều dọc, cũng chẳng ăn thua! Mệt, tôi định gọi cầu cứu, th́ Vi đă đứng sát bên tôi bụm miệng cười tự lúc nào...
Rơ ràng là Vi biết tôi không làm được mà cố chọc chơi! Bèn ngồi xuống, lấy dao, vừa làm vừa dạy đời:
- Hồi năy em bảo công tử “tách” ra chứ có bảo “chặt” đâu mà làm như bửa củi vậy? Đây nè, chỗ nầy lúc nào cũng có một khe hở. Chỉ cần để mũi dao vào đây rồi dùng đ̣n bẩy Ạc-Shi-Met là xong. Làm rể kiểu nầy mất vợ như chơi.
Tôi bá lấy cổ Vi:
- Giỏi quá, để anh thưởng cho một cái.
Vi nhắm mắt, lắc đầu quầy quậy:
- H..ô..ông..!
Đợi khi tôi “chụt” xong, Vi mới mở mắt ra, chỉ tay vào vỏ sầu riêng, nói:
- Cái vỏ sầu riêng nầy mà vô mặt th́ c̣n hơn té thùng đinh nữa đó!
Lần nào cũng có chuyện tương tự như vậy, thử hỏi sao tôi không khoái về thăm... ông bà nhạc?
Gần tới ngày cưới, tội nghiệp Vi gầy thấy rơ. Sau nầy tôi mới biết, là con gái trưởng trong gia đ́nh, Vi lo lắng sắp xếp mọi thứ, lại nghĩ tới ngày theo chồng, xa mẹ bỏ em nên đủ thứ t́nh cảm ray rức trong ḷng. Vậy mà tṛ chuyện với tôi một hồi, mặt hoa lại rạng rỡ, nói nhỏ cho tôi vừa nghe, như một chuyện ǵ quan trong lắm:
- Làm rể mà lỏng nhỏng không động móng tay, cứ đeo sát con gái người ta hoài không sợ bà con họ nói sao?
Ba vợ tôi thường bảo tôi: “Con ở chợ không quen việc ở vườn. Con cứ về thăm, khỏi làm ǵ hết, đừng ngại, cứ coi như ở nhà con”.
Tôi đem lời nầy nói cho vợ nghe, rồi châm thêm:
- Vậy chứ anh có việc ǵ để làm?
- Em chỉ cho. Gần tới ngày cưới rồi, phải có củi để nấu chứ! Hay là anh chịu khó ra chẻ một mớ....
- Ở đâu?
Vi chỉ tay về một hàng củi được chất ngay ngắn từng ô một, dài chừng... vài chục mét, khúc nào khúc nấy cở bắp đùi... voi. Tôi chột dạ:
- Chẻ hết sao?
Vi làm mặt nghiêm:
- Ừa!... th́ tới đâu hay tới đó! Ngày c̣n dài mà!....
Tôi xách búa đi mà tác phong rời ră như Hạng Vơ tại bến Ô Giang! Nhưng muốn ăn phải lăn vào bếp, muốn cưới được vợ th́ phải bửa củi, cày bừa… Th́ ra lời ba tôi nói chẳng sai, bằng chứng là tôi cũng không ngoại lệ!
Tôi cởi áo sơ mi máng trên cành bưởi, c̣n lại chiếc áo thun ba lổ trắng tinh, vốn là mô đen của con nhà giàu mới có áo lót bên trong. Dù là “công tử”, nhưng tôi thường tập tạ nên bắp thịt coi cũng ngon lành. Tôi đếm thầm: Một, hai, “phập!”; một, hai “phập!” Có cái “phập” làm củi vỡ ra, có cái “phập” th́ búa lại dính khắn vào củi, gỡ ra cũng tróc vải trầy vi! Khi độ mệt đă choáng váng mặt mày, nhưng c̣n đủ để nhận được tiếng ông nhạc ở sau lưng:
- Bây làm cái ǵ vậy?
Tôi quay lại chào ông bà vừa đi xóm về, rồi trả lời với giọng điệu của người vừa lập nên công trạng:
- Dạ, vợ con biểu chẻ củi để khi đám cưới có mà xài!
- Thôi, thôi! Bây “bị” nó rồi! Đi vô! Đi vô uống nước con!
- Dạ, để con chẻ thêm một mớ nữa, ba!
- Củi nầy ba để bán cho ḷ bánh ḿ, đâu cần chẻ! C̣n củi dùng cho đám cưới th́ để trong nhà kho kia, có xài mười đám cũng không hết!
Bà nhạc lắc đầu:
- Cái con nhỏ nầy…
Vào nhà bà nhạc rầy Vi:
- Chồng của mầy nó không quen làm việc nặng. Xúi dại rũi nó trợt chân trợt cẳng th́ sao?
Bà nhạc dùng tiếng “chồng mầy” tôi thấy ấm áp lạ lùng! C̣n vợ tôi th́ chúm chím cười, c̣n liếc qua tôi với ánh mắt c̣n bén hơn... lưỡi búa, lại chu đôi môi đỏ ao chế nhạo.
Thế là bao mệt mỏi trong tôi biến mất tiêu!
Phải nói trong đời thường, về sự thông minh, lúc nào vợ cũng hơn tôi một phép. Khi về làm dâu vợ tôi đă chứng minh đầy đủ điều đó. Ngoài sự hiếu thảo với cha mẹ chồng, vợ tôi c̣n nhiều đức tính như nhân hậu, cần kiệm...
Thuở đó, ở thành phố “nhà giàu” mới có tủ lạnh (ti vi chưa có), c̣n dưới quê th́ tuyệt đối không, bởi có điện đâu mà xài! Nên những ngày đầu, tủ lạnh đối với vợ tôi là một phát minh khoa học lớn lao, nó đủ công năng, nên có cái ǵ cũng “thồn” vô trong đó. Có lần mẹ tôi mở tủ lạnh, rồi nói với vợ tôi:
- Tô mắm nêm nầy, con đừng có để vào đây, nếu không tất cả cái ǵ trong nầy đều có mùi mắm nêm hết.
Chỉ chờ có dịp nầy, tôi cười hí hí:
- Trái cây mà có mùi mắm nêm ăn càng ngon chứ sao mẹ?
Mẹ cười, c̣n vợ tôi cứ đem cái sở trường là bắn nửa mắt vào tôi.
Tôi khoái chí, nói theo kiểu đá banh th́ “gỡ” được một, nhưng dường như chỉ có một mà thôi!
Khi con chúng tôi đă lớn, tuổi có thể về quê thăm ngoại một ḿnh, thế mà một tối cả nhà xem ti vi, không phải nhằm đoạn hài mà vợ tôi cười ngất. Con hỏi, “sao tự nhiên mẹ cười?” Một lát vợ tôi mới trả lời được:
- Mẹ thấy bộ tướng ông thái giám đứng khúm núm kia giống"mấy thằng cha“ lần đầu coi mắt vợ quá!” Hi! Hi!
Biết bị xỏ ngọt nhưng tôi biết ǵ hơn ngoài làm...thinh! May sao đến chương tŕnh quảng cáo, quảng cáo tủ lạnh, tôi nói tỉnh bơ:
- Tủ lanh đời mới coi bộ tốt à nghen! Nó tự khử mùi, dù “mấy con mẹ” ở vườn có để mắm nêm vô đó cũng không sợ hôi. Ha! Ha!...
Tức th́ vành tai tôi bị kéo ra cả thước, tiếp theo là một giọng tru tréo, muốn nổi da gà:
- Trời..u.u..i! Chuyện cũ nhắc hoài! Nhắc hoài!
Vậy đó, “chuyện xưa” th́ vợ tội nhắc được, c̣n “chuyện cũ” tôi nhắc th́ như bị muốn nhai xương!
Có vợ miệt vườn, miệt quê là vậy đó!
Thái Quốc Mưu
hoanglan22
09-22-2019, 02:34
Bài hay "t́nh chỉ đẹp khi c̣n dang dở, cưới nhau rồi tắt thở càng nhanh!":hafppy:
C̣n chuyện t́nh TrungThu sau 40 năm...em đă già nên anh không thèm lấy:hafppy:
Lăo Trung Thu có lấy về th́ con ṣ có NẾP NHĂN đầy chỗ ...không làm ǵ đượchttps://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1457353&stc=1&d=1569119655
Thương chiến : Ngoài Mỹ, Trung Quốc sắp đụng với châu Âu
Tú Anh Đăng ngày 25-09-2019 Sửa đổi ngày 25-09-2019 15:06
media
Sản phẩm thép cán, một trong những mặt hàng tranh chấp thương mại chủ yếu giữa Bắc Kinh và phương Tây. Ảnh chụp 11/2003 kho hàng xuất khẩu của Shanghai Krupp Stainless Co.Ltd.
REUTERS/Claro Cortes IV/File Photo
Trung Quốc đang lâm vào chiến tranh thương mại với Hoa Kỳ. Giờ đây, Bắc Kinh sắp đương đầu với một mặt trận kinh tế thứ hai với châu Âu. Một báo cáo của Pḥng Thương Mại Châu Âu, định chế nhiều thế lực, cho phép giới phân tích suy đoán Bruxelles không c̣n ngây thơ đối với chế độ Tập Cận B́nh.
Sự sống c̣n của châu Âu phụ thuộc vào việc bảo hộ thị trường chung chống hàng Trung Quốc, trừ phi Bắc Kinh cải cách cơ cấu kinh tế, chấp nhận cạnh tranh tự do không có sự trợ giúp can thiệp của Nhà nước.Trên đây là đề xuất của Pḥng Thương Mại Châu Âu vừa được công bố hôm 23/09/2019.
Trong nghiên cứu chi tiết này, các nhóm áp lực hành lang của giới doanh nghiệp châu Âu kêu gọi Liên Hiệp Châu Âu phải có hành động chung, trực tiếp, để hạn chế sức mạnh của các đại tập đoàn Nhà nước Trung Quốc.
Tập Cận B́nh : tác nhân gây căng thẳng với Mỹ
Ông Joerg Wuttke, chủ tịch Pḥng Thương Mại Châu Âu tại Bắc Kinh không nói ṿng vo rằng thay v́ hạn chế các tập đoàn Nhà nước ở một quy mô hợp lư, chọn lọc lănh vực nào cần được duy tŕ, lănh vực nào cần phải tư hữu hóa th́ Bắc Kinh lại theo đuổi mục tiêu « mạnh hơn, hiệu quả hơn, lớn hơn ». Chính chủ tịch kiêm lănh đạo đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận B́nh, trong đại hội đảng lần thứ 19 vào năm 2017 đă chỉ đạo cho các xí nghiệp Nhà nước « phải mạnh nhất, giỏi nhất và to nhất ».
Với mệnh lệnh này, các tập đoàn Trung Quốc tha hồ « ngốn » các nguồn tài trợ, tóm thu các hợp đồng béo bở nhất, « nuốt gọn » các công ty tư nhân và ngăn chận doanh nhân nước ngoài đầu tư vào Hoa lục.
Châu Âu với chiến lược tự vệ và cảnh tỉnh Bắc Kinh
Bản báo cáo c̣n chỉ đích danh chủ tịch Trung Quốc chà đạp các chuẩn mực thế giới về quản lư kinh tế. Chính sách ưu tiên cho lănh vực kinh tế quốc doanh là nguồn cội gây căng thẳng ngày càng nhiều với Hoa Kỳ.
Để đối phó với chế độ không tuân thủ luật chơi công bằng, bản nghiên cứu đưa ra sách lược hành động gồm ba bước.
Nếu Bắc Kinh tiếp tục giả điếc, không cải cách doanh nghiệp Nhà nước, không giữ thái độ trung lập về cạnh tranh cũng như mở cửa thị trường th́ châu Âu áp dụng các biện pháp trả đũa tương xứng để bảo vệ thị trường chung, chống Trung Quốc cạnh tranh.
Song song với phương án này, Bruxelles phải thi hành một chính sách gọi là « an toàn nội tại » bảo vệ an nguy cho doanh nghiệp châu Âu theo nghĩa vừa gia tăng theo dơi, giám sát đầu tư của Trung Quốc ở nước ngoài, vừa t́m kiếm nhận dạng những nguy cơ đe dọa doanh nghiệp châu Âu. Mục đích là đặt Trung Quốc vào thế trận phải nhanh chóng cải cách, tuân thủ luật chơi công bằng của thế giới.
Trong cuộc chiến này, châu Âu không thể hành động đơn độc mà phải phối hợp với các đồng minh có cùng mối ưu tư là Trung Quốc. Bản nghiên cứu đưa thêm giải pháp thứ ba là "chống t́nh trạng đánh cắp sở hữu trí tuệ, phát minh, sáng chế. Cụ thể là hợp tác chặt chẽ với Mỹ và Nhật theo dơi đầu tư Trung Quốc tại châu Âu, buộc phải minh bạch, công khai".
Chỉ trích Tập Cận B́nh, nhưng bản báo cáo khen ngợi những người chủ trương mở cửa trong các thập niên trước đă giúp cho Trung Quốc từ một nước nghèo được thịnh vượng, nay đủ sức « thực sự trở thành một nền kinh tế thị trường, nếu biết thi hành những nguyên tắc tiến bộ, hoàn chỉnh hơn ».
Chiến lược ba bước của Pḥng Thương Mại Châu Âu tại Trung Quốc, theo nhà phân tích Gordon Watts (trên báo mạng Asia Times) tuy mới là đề xuất nhưng có giá trị của một lời khuyến cáo đối với những người lănh đạo và quyết định chính sách ở Bắc Kinh.
Từ khi gây căng thẳng với Mỹ, tỷ lệ tăng trưởng GDP của Trung Quốc rơi xuống mức thấp kỷ lục từ 30 năm nay : 6,2% trong quư hai 2019. Từ một năm nay, mọi chỉ số kinh tế đều giảm.
Tác giả bản báo cáo kết luận : Trung Quốc có nguy cơ rơi vào khủng hoảng, đă đến lúc châu Âu phải hành động.
Chuyện Ấm Trà Quư: Có Được Tri Kỷ Trên Đời Mới Là Điều Đáng Giá Nhất
https://i.postimg.cc/sDSSjmVc/m-tr.jpg (https://postimages.org/)
Trong cuộc đời, có được một người bạn tri kỷ đă là quá đủ. Loại t́nh cảm này, không tác động vào thế giới mỗi người, chỉ đồng hành vô h́nh, mang theo cùng tiếng nói từ con tim…
Ngày xưa có một phú ông rất thích thưởng trà, phàm là người đến nhà dùng trà, dù là người nghèo hay giàu th́ ông ta đều sẽ phân cho hạ nhân chiêu đăi.
Một hôm nọ, có một tên ăn mày rách rưới đứng trước cửa nhà phú ông, không xin cơm, chỉ nói đến xin bát nước trà. Hạ nhân cho hắn vào nhà, đun trà cho hắn.
Tên ăn mày nh́n nh́n rồi nói: “Trà này không ngon”.
Hạ nhân nh́n hắn lấy làm lạ rồi đổi một bát trà ngon khác.
Tên ăn mày ngửi ngửi, nói: “Trà này ngon, nhưng nước vẫn chưa được, phải dùng nước suối trong”.
Hạ nhân nh́n ra hắn cũng có chút hiểu biết, liền đi lấy nước suối cất trữ từ sáng sớm ra để pha trà.
Tên ăn mày nhấp thử một ngụm, nói: “Nước rất tốt, nhưng củi sao trà không được, củi phải dùng củi sau danh sơn. Bởi v́ củi phía trước núi đón nắng nên chất củi xốp, c̣n sau núi chất củi chắc cứng”.
Hạ nhân cuối cùng nhận định người này tinh thông trà đạo, liền dùng loại củi tốt pha lại trà, rồi mời lăo gia ra tiếp. Sau khi trà được mang lên, phú ông và tên ăn mày đối ẩm một bát.
Tên ăn mày nói: “Ừm, bát trà lần này, nước, củi, lửa đều tốt, chỉ có ấm pha trà không ổn”.
Phú ông nói: “Đây là ấm pha tốt nhất của ta”.
Tên ăn mày lắc đầu, từ trong áo cẩn thận lấy ra một ấm trà bằng đất sét tử sa, yêu cầu hạ nhân dùng chiếc b́nh này để pha lại trà. Phú ông vừa nhấp thử mùi vị quả nhiên không tầm thường, lập tức chắp tay thi lễ với tên ăn mày: “Ta xin mua lại chiếc ấm tử sa này, bao nhiêu cũng được”.
Nhưng tên ăn mày cũng rất thích chiếc ấm tử sa, nhất định không muốn bán, tên ăn mày dứt khoát trả lời: “Không được, chiếc ấm này là cuộc sống của ta, ta không thể bán”. Tên ăn mày vội vàng rót trà ra, cất lại chiếc ấm.
Phú ông vội vă ngăn lại, nói: “Ta đổi một nửa gia sản để lấy chiếc ấm của ngươi”.
Tên ăn mày không tin, vẫn bước tiếp. Phú ông nôn nóng, nói: “Ta đổi toàn bộ tài sản để lấy chiếc ấm của ngươi”.
Tên ăn mày nghe vậy không tự chủ mỉm cười, nói: “Nếu không phải tôi tiếc chiếc ấm này th́ cũng không lâm vào bước đường như hôm nay”. Nói xong tên ăn mày quay người bỏ đi.
Phú ông sốt ruột nói: “Như này đi, ấm là của ngươi, ngươi hăy ở lại nhà ta, ta ăn ǵ ngươi ăn đó, nhưng có một điều kiện, chính là ngày nào cũng phải cho ta nh́n chiếc ấm, thế nào”. Phú ông quá thích chiếc ấm rồi v́ vậy trong lúc cấp bách nghĩ ra cách đó.
Tên ăn mày cũng v́ miếng ăn qua ngày mà túng quẫn, chuyện tốt như vậy sao lại không đồng ư nhỉ? Vậy là hắn vui vẻ đồng ư yêu cầu của phú ông.
Cứ như vậy, tên ăn mày ở lại nhà phú ông, ăn cùng ở cùng phú ông, hai người ngày ngày nâng niu chiếc ấm trà, chia sẻ với nhau, thưởng trà ẩm rượu, vô cùng ăn ư. Cứ thể hơn mười năm qua đi hai người trở thành hai lăo già tri kỷ thấu hiểu nhau.
Thời gian trôi đi, phú ông và tên ăn mày cũng dần già đi, lúc này người ta nhận ra người bạn ăn mày lớn tuổi hơn phú ông.
Một hôm phú ông mới nói với người bạn ăn mày của ḿnh: “Ông không có con cháu nối dơi, không có ai kế thừa chiếc ấm trà, không bằng sau khi ông đi, để tôi giúp ông bảo quản, ông thấy thế nào?”.
Lăo ăn mày rưng rưng đồng ư. Không lâu sau, lăo ăn mày thật sự ra đi, phú ông cũng được như mong muốn có được chiếc ấm tử sa.
Vừa mới đầu, phú ông ch́m trong cảm giác vui sướng có được chiếc ấm tử sa, cho đến một ngày, lúc phú ông đang ngắm nghía trên dưới trước sau chiếc ấm đột nhiên cảm thấy như thiếu thứ ǵ đó, lúc này trước mắt ông hiện lên h́nh ảnh ngày trước cùng ông ăn mày vui vẻ thưởng trà. Hiểu rơ tất cả rồi, lăo phú ông lạnh lùng ném mạnh chiếc ấm xuống đất…
***
Câu chuyện kết thúc, kết cục có lẽ khiến người ta không ngờ được. Theo thời gian, có rất nhiều thứ cũng đổi thay, t́nh nghĩa giữa phú ông và tên ăn mày đă vượt qua cái giá trị ban đầu của ấm trà, thứ dù có tốt đến đâu nếu không có ai cùng thưởng thức th́ cũng mất đi ư nghĩa của nó, thứ đáng giá đến đâu cũng không đáng giá bằng tri kỷ. Hăy nghĩ về cuộc đời ḿnh, thứ ǵ mới là quan trọng nhất trong cuộc đời bạn? Có lẽ chính là người cùng bạn giao tâm thưởng trà!
Trong cuộc sống có được một người bạn tri kỷ là quá đủ! Đây là điều mà bao người từng trải đúc kết được. T́nh tri kỷ, như một thứ ấm áp không lời, một sự đồng hành vô h́nh.
Tri kỷ thật sự, là hiểu, là thân thiết, là đồng điệu. Giống như một chén trà xanh, chan chát mà thấm vào tận trong tim. Có những khi chỉ cần một cái ôm, một ánh mắt, là hiểu tất cả mà không cần dùng đến lời nói.
Tri kỷ, không cần che đậy, cũng không cần giải thích, tự nó đă hiểu, tự nó cảm nhận. Không cần dốc hết sức, cũng không cần chuẩn bị, tự nó sẽ đem đến niềm vui, tự nó sẽ như ư thơ. Cuộc sống có một loại t́nh cảm, không tác động vào thế giới mỗi người, chỉ đồng hành trong tâm hồn; không trở ngại cuộc sống mỗi người, chỉ mang cùng tiếng nói từ con tim.
>
> V́ sao gọi “trong Nam, ngoài Bắc”, “vào Nam, ra Bắc”?
>
>
> Thực tiễn lịch sử ghi dấu ấn trong ngôn ngữ, rất đặc biệt, không thể thay đổi.
>
> 1/ Cách gọi “trong Nam, ngoài Bắc”, “vô/vào Nam, ra Bắc” bắt nguồn từ danh xưng Đàng Trong/Đàng Ngoài vào thế kỷ 17 & 18.
>
>
> Tiếng Việt chúng ta khi nói “trong” tức là trung tâm so với “ngoài”; bao giờ “trong” cũng có vai vế hơn (về mặt thực tiễn) so với “ngoài”. Ta nói “trong kinh thành, ngoài biên ải”, chớ không ai đi phân định “trong biên ải, ngoài kinh thành” hết.
>
> Trong một số trường hợp, “trong” c̣n mang tính chất mật thiết hơn so với “ngoài”. Ta nói “trong nhà, ngoài lộ”, chớ không ai đi nói “trong lộ, ngoài nhà”.
>
> 2/ Cái thuở nước Việt chưa phân chia hai miền (chúa Nguyễn, chúa Trịnh) mà Thăng Long c̣n làm kinh đô chung, người ở trong kinh kỳ khi ngó ra chốn mù khơi như B́nh Định gọi là ngó ra ngoài biên ải.
>
> Đến thời phân tranh Trịnh – Nguyễn, lấy ranh giới nơi sông Gianh (Quảng B́nh) mà phân chia đất nước. Nói “Nam hà” 南河 để chỉ lănh thổ từ phía Nam sông Gianh trở vô, “Bắc hà” 北河 để chỉ lănh thổ từ phía Bắc sông Gianh trở ra. Nhưng, danh xưng chính thức th́ không gọi Nam hà / Bắc hà, mà gọi là: Đàng Trong / Đàng Ngoài.
>
> Lạ không, lẽ ra phải gọi toàn lănh thổ phía bắc sông Gianh là “Đàng Trong” bởi nó có kinh đô Thăng Long; c̣n toàn lănh thổ phía nam sông Gianh lẽ ra phải gọi là “Đàng Ngoài” (bởi nằm quá xa ngoài biên cương luôn, vượt qua Phú Yên, vượt tới Cà Mau mịt mù) mới phải chớ?
>
> Nhưng, hoàn toàn ngược lại!
>
> Cơi phía nam được gọi là “Đàng trong”, c̣n cơi phía bắc dầu có kinh kỳ Thăng Long đi nữa nhưng lại trở thành “Đàng ngoài”.
>
> 3/ “Đàng” (Đàng Trong, Đàng Ngoài) nghĩa là ǵ? “Đàng” = “đường”, nhưng “đường” ở đây không phải là “con đường” (Nếu tưởng như vậy, không lẽ “Đàng Trong” nghĩa là… trong con đường, “Đàng Ngoài” là… ngoài con đường? Nghe xong, khỏi hiểu luôn)
>
> Trong Hán tự (nên nhớ trước khi có chữ Quốc ngữ, tiền nhân chúng ta xài Hán tự), “đường” có nhiều nghĩa. Ở đây, “đường” được viết 塘 , nghĩa là “con đê” (đê sông 河 塘 ; đê biển 海 塘)! Cách gọi này có liên quan tới Đào Duy Từ (1572- 1634), ông là người nghĩ ra cách xây lũy pḥng thủ cho chúa Nguyễn (“Lũy Trường Dục”, c̣n gọi là “Lũy Thầy”). Hệ thống lũy này nh́n như con đê.
>
> Lực lượng của chúa Nguyễn đóng phía trong con đê, thành thử gọi “Đàng (đường) Trong”, nằm về phía Nam. C̣n lực lượng chúa Trịnh ở phía ngoài con đê, thành thử gọi “Đàng (đường) Ngoài”, nằm về phía Bắc.
>
> 4/ Trong gần hai thế kỷ (thế kỷ 17, 18), cơi phía Nam sông Gianh liên tục được mở rộng và trải dài tới Cà Mau là cơi có kinh tế phồn thịnh hơn, có văn hóa cởi mở hơn so với cơi phía bắc sông Gianh.
>
> Giáo sư Li Tana ở Đại học Quốc gia Úc khi nghiên cứu về Đàng Trong, bà đánh giá công trạng của Chúa Nguyễn Hoàng tương đương với công trạng của Ngô Quyền. Nếu Ngô Quyền, vào thế kỷ 10, đă mở đầu nền tự chủ lâu dài cho một nước Việt với lănh thổ khoanh lại ở miền Bắc & phía bắc miền Trung, th́ Chúa Tiên (Nguyễn Hoàng), vào thế kỷ 17, đă mở ra một thời kỳ mới cho nước Việt với lănh thổ mở rộng cho tới tận Cà Mau. Nói rơ hơn nữa, Đàng Trong của các Chúa Nguyễn trở thành một trung tâm phát triển mới, một sinh lực mới cho nước Việt.
>
> Tương lai nước Việt được nh́n thấy trên vầng trán của xứ Đàng Trong…
>
> 5/ Cách gọi Đàng Trong / Đàng Ngoài, dễ thấy đây là “hệ qui chiếu” được nh́n từ tọa độ của phía Nam. Và, danh xưng này được ghi chép vào trong sử sách cái rụp – bởi sức ảnh hưởng tự thân của nền kinh tế, xă hội của cơi phía Nam sông Gianh.
>
> Thực tiễn phát triển của mỗi miền (Nam phát triển hơn Bắc) đă ghi dấu ấn rơ rành vào trong ngôn ngữ, thể hiện qua danh xưng: cơi phía Nam mới là “Đàng trong”, cơi phía Bắc chỉ là “Đàng ngoài” thôi.
>
> (Mở ngoặc: người ngoài Bắc hiện nay xin đừng “sân si”, “tự ái” ǵ ráo, bởi đó là thực tiễn lịch sử trong thế kỷ 17, 18; ngay như tôi là… người gốc Bắc, mà tôi cũng ưng tôn trọng cách gọi “Đàng Trong” đầy hănh diện, nói cho cùng, có ích lợi chung cho toàn nước Việt)
>
> Ḍng sử Việt dù đă đi qua thời kỳ định cơi riêng biệt giữa chúa Nguyễn với chúa Trịnh nhưng dấu ấn lịch sử vẫn c̣n lưu lại trong lời ăn tiếng nói của người Việt cho tới hiện nay – gọi “trong Nam, ngoài Bắc” là bởi vậy đó đa!
>
> Và, tới đây chúng ta dễ dàng hiểu v́ sao gọi “vô (vào) Nam”, mà không gọi “ra Nam”. Bởi v́ Nam là “trong” (Đàng Trong), nên người Việt ḿnh khi nói “vô (vào)” tức là vô (vào) bên trong, chớ không ai đi nói “ra bên trong” hết.
>
> Cũng vậy, gọi “ra Bắc”, bởi v́ miền Bắc là “ngoài” (Đàng Ngoài) nên khi ta nói “ra” tức là ra bên ngoài, ra phía ngoài, chớ không ai đi nói “vô (vào) bên ngoài” hết.
>
> Thay lời kết
>
> Từ thuở tự do nơi đất mới
> Càng thương càng quư xứ Đàng Trong…
>
> Ngay cả hiện nay, dù miền Nam không c̣n như trước kia, nhưng luồng di dân từ ngoài Bắc kéo vô Nam để định cư, kiếm sống vẫn tiếp diễn hết năm này qua năm khác (c̣n số người từ trong Nam đi ra Bắc để định cư? ít hơn hẳn, đ́u hiu, không thấm tháp ǵ ráo).
>
> Ta nói, ở miền Nam, “đất lành chim đậu”. C̣n ở những nơi đất không lành th́… đất chọi chết chim.
>
> Nguyễn Chương
>
> Đăng lại từ Nam Kỳ Lục Tỉnh (Namkyluctinh.org)
> Nguồn: www.facebook.com/nguyenchuong158/
>
Sài G̣n Xưa: Chuyện Thành Ngữ “Bỏ Qua Đi Tám!”
Người Sài G̣n xưa có cách xưng hô thứ bậc thú vị: công chức, người có học là thầy Hai, người Hoa buôn bán là chú Ba, đại ca giang hồ là anh Tư, lưu manh là anh Năm… người lao động nghèo xếp thứ Tám. Sao lại xưng hô vậy?
Chiều muộn hôm qua có cậu bạn đi công việc ghé ngang nhà rủ làm ly cà phê tán dóc. Nói chuyện lan man một hồi, tự nhiên anh chàng kể công ty em có ông già gác cửa rất hay nói câu “bỏ qua đi Tám”…
“Em không hiểu, có lần hỏi th́ ổng nói đại khái là dùng khi can ngăn ai bỏ qua chuyện ǵ đó, nhưng sao không phải là Sáu hay Chín mà lại là Tám th́ ổng cũng không biết”, cậu bạn thắc mắc.
Dựa vào những câu chuyện xưa cũ, những giai thoại, nên kể ra đây chút nguyên cớ của câu thành ngữ có lẽ sắp “thất truyền” này…
Trước hết, phải biết là câu này phát sinh ở khu vực Sài G̣n – Chợ Lớn từ thời Pháp thuộc, khoảng đầu thế kỷ 20. Thời đó, cách xưng hô thứ bậc trong xă hội rất phổ biến và phần nào phản ánh vị trí xă hội, giai cấp… một cách khá suồng să và dễ chấp nhận.
Thứ Nhất: Đứng trên hết là các “Quan Lớn” người Pháp hoặc các quan triều nhà Nguyễn, thành phần này th́ không “được” xếp thứ bậc v́ giới b́nh dân hầu như không có cơ hội tiếp xúc đặng xưng hô hay bàn luận thường xuyên.
Thứ Hai: Kế đến là các công chức làm việc cho chính quyền, họ ít nhiều là dân có học và dân thường hay có dịp tiếp xúc ngoài đời, là cầu nối giữa họ với các thủ tục với chính quyền, hoặc đó là thành phần trí thức, đó là các “thầy Hai thông ngôn”, hay “thầy Hai thơ kư”…
Thứ Ba: Là các thương gia Hoa Kiều, với tiềm lực tài chính hùng hậu và truyền thống “bang hội” tương trợ, liên kết chặt chẽ trong kinh doanh, các “chú Ba Tàu” nghiễm nhiên là thế lực đáng vị nể trong mắt xă hội b́nh dân Sài G̣n – Chợ Lớn thời đó.
Thứ Tư: Là các “đại ca” giang hồ, những tay chuyên sống bằng nghề đâm chém và hành xử theo luật riêng, tuy tàn khốc và “vô thiên vô pháp” nhưng khá “tôn ti trật tự (riêng)” và “có đạo nghĩa” chứ không tạp nhạp và thiếu nghĩa khí như các băng nhóm “trẻ trâu” hiện đại. Các “anh Tư dao búa” vừa là hung thần, vừa ít nhiều lấy được sự ngưỡng mộ của giới b́nh dân (và cũng không ít tiểu thư khuê các) thời đó.
Thứ Năm: Là vị trí của giới lưu manh hạ cấp hơn: các anh Năm đá cá lăn dưa, móc túi giật giỏ, hay làm c̣ mồi mại dâm…
Thứ Sáu: Bị giới b́nh dân ghét hơn đám lưu manh côn đồ là các “thầy Sáu phú-lít (police)”, “thầy Sáu mă tà”, “thầy Sáu lèo”. Chức trách là giữ an ninh trật tự, chuyên thổi c̣i đánh đuổi giới buôn gánh bán bưng b́nh dân, nhưng các “thầy Sáu” này cũng không từ cơ hội vơ vét ít tiền mọn “hối lộ” của họ để “nhẩm xà” (uống trà).
Thứ Bảy: Và trong giới buôn bán th́ không thể thiếu chuyện vay vốn làm ăn, mặc dù Tàu hay Việt cũng đều có tổ chức cho vay. Nhưng phổ biến và “quy củ” nhất ở cấp độ trung – cao khu vực Sài G̣n – Chợ Lớn thời đó là các “anh Bảy Chà và”, các anh này là các nhà tài phiệt người Ấn, vừa giàu vừa ít bị “ghét”, vừa ít nhiều có quan hệ qua lại với giới chức người Pháp, lại làm ăn đúng luật lệ, ít thừa cơ bắt chẹt lăi suất nên khá được giới kinh doanh tín nhiệm.
Thứ Tám: Xếp thứ Tám chính là lực lượng đông đảo nhất xă hội b́nh dân bấy giờ: họ là giới lao động nghèo chỉ có sức lực làm vốn nuôi miệng, từ bốc vác, gánh nước bồng em, đến “sang” hơn chút xíu là phu xe kéo…
Tuy đông nhưng lại yếu thế nhất v́ thất học, không có tiền như thầy Hai, anh Ba, cũng hiền lành chứ không bặm trợn phản kháng bạt mạng như các anh Tư anh Năm nên họ thường xuyên chịu sự áp bức, bắt nạt từ mọi phía. Cách để yên thân khả dĩ nhất với họ là khuyên nhau cắn răng nhẫn nhịn, quên đi để sống: “Bỏ qua đi Tám”, bây giờ chắc là đă dễ hiểu rồi.
Thứ Chín: Không c̣n liên quan nữa, nhưng nhân tiện sẵn nói luôn về thứ bậc chót cùng trong xă hội thời đó: các cô, các chị Chín xóm B́nh Khang chuyên “kinh doanh” bằng “vốn tự có”.
Dài ḍng tí để tŕnh bày chút kiến giải về một câu thành ngữ đang dần bị quên lăng dùng để bày tỏ thái độ khuyên người hoặc tự an ủi ḿnh hăy đừng để ư những chuyện không vui, hay bị ai đó “chơi không đẹp”. Nếu lỡ đọc thấy không có ǵ thú vị th́ thôi, “bỏ qua đi Tám”.
&
“Anh Hai Sài G̣n” th́ là cách gọi vui, thân mật, nhưng cũng thể hiện tính cách phóng khoáng, dám làm dám chịu của dân Sài G̣n nói riêng và miền Nam nói chung. V́ sao lại là “Anh Hai” chứ không là “Anh Cả”?
Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, bắt đầu gây dựng chính quyền Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Đây là cái mốc quan trọng của quá tŕnh “Nam tiến” trong lịch sử Việt Nam, cũng là quá tŕnh h́nh thành văn hóa vùng đất phía Nam trong xu thế mang theo và ǵn giữ văn hóa cội nguồn, đồng thời tiếp nhận những yếu tố văn hóa của cư dân vùng đất mới.
Đến năm 1698, Phủ Gia Định được thành lập, Sài G̣n – Gia Định h́nh thành từ đó. Chỉ hơn 300 năm nhưng người Sài G̣n đă kịp định h́nh một bản sắc riêng dễ nhận biết giữa những người của vùng miền khác. Điều này h́nh thành từ nguồn gốc lưu dân và hoàn cảnh lịch sử xă hội của miền Nam /Sài G̣n.
Lưu dân người Việt vào Nam trước hết và đông nhất là những người “Tha phương cầu thực” v́ không có đất đai, không có phương kế sinh sống ở quê hương. Thành phần thứ hai là những người chống đối triều đ́nh, quan lại địa phương bị truy bức nên phải t́m đường trốn tránh. Thứ ba là những tội đồ bị buộc phải ly hương (một h́nh phạt nặng của thời phong kiến). Ngoài ra, c̣n có số ít người tương đối giàu có, muốn mở rộng và phát triển việc làm ăn trên vùng đất mới nên nhập vào hàng ngũ lưu dân tới miền Nam…
Khi Sài G̣n được h́nh thành như một trung tâm của vùng đất phía Nam thời chúa Nguyễn, một đô thị lớn thời thuộc Pháp th́ nơi đây cũng là nơi dân tứ xứ tiếp tục đổ về. Người nhập cư là thành phần hữu cơ của bất cứ đô thị nào, Sài G̣n vốn h́nh thành từ những lớp “người nhập cư” rồi trở thành “người Sài G̣n”, rồi lại tiếp tục thu nhận và chia sẻ cho những lớp người nhập cư mới.
Sống trong những điều kiện lịch sử luôn biến động, người dân miền Nam /Sài G̣n đă tạo dựng một nếp sống tinh thần ấm áp, b́nh đẳng, lấy t́nh nghĩa, nghĩa khí làm trọng…
Người Sài G̣n không phân biệt “quê”, “tỉnh”, “đồng hương” hay không…
Có thể nói, tính cách người Sài G̣n bắt nguồn từ yếu tố, điều kiện thực tế nhất ở Sài G̣n là “Làm”: “Làm ăn”, “Làm chơi ăn thiệt”, “Làm đại”, “Dám làm dám chịu”… được thể hiện một cách giản dị, thiết thực, “liều lĩnh” nhưng cũng đầy trách nhiệm
Ở Sài G̣n, “dư luận xã hội” không nặng nề khe khắt với những cái khác, cái mới. Người Nam khá dân chủ trong các mối quan hệ xã hội và cả trong gia đình, từ cách xưng hô (người Nam thường xưng “tui”) đến việc cá nhân ít lệ thuộc, phụ thuộc vào cộng đồng.
Chỉ vậy thôi, bất kể người tỉnh nào vùng miền nào, miễn là sống ở Sài G̣n, rồi có tính cách như vậy, th́ đó là Người Sài G̣n… Có lẽ v́ vậy mà người ta thường gọi người Sài G̣n một cách tŕu mến là “Anh Hai Sài G̣n”.
Ở miền Bắc con trai trưởng trong nhà gọi là Anh Cả nhưng miền Nam lại gọi Anh Hai. V́ sao là Anh Hai mà không phải là Anh Cả? Có thể từ vài giả thuyết sau: Chúa Nguyễn Hoàng là người con trai thứ hai của Nguyễn Kim, mở đường vào Nam khai phá nên để tôn trọng ông, người dân gọi người con lớn của ḿnh, trai hay gái, cũng chỉ là (thứ) Hai.
Hoặc, có ư kiến cho rằng, khi có phong trào lưu dân vào Nam khai khẩn, trong gia đ́nh thường để con trai thứ ra đi v́ người con trai trưởng có vai tṛ ở lại quê nhà phụng dưỡng cha mẹ và thờ cúng tổ tiên. Cũng có người cho rằng, trong làng quê miền Nam xưa có ông Cả (Hương Cả) là người đứng đầu, v́ vậy trong các gia đ́nh chỉ có người thứ Hai…
Tuy khác nhau về nguồn gốc “thứ Hai” của “anh Hai Sài G̣n” hay “anh Hai Nam Kỳ” nhưng có thể nhận thấy có chung một điểm: Đó là người con thứ không bị ràng buộc trách nhiệm nặng nề “giữ hương hỏa, nền nếp” như người con trưởng nên có thể “rộng chân” ra đi, tự do hơn khi tiếp nhận cái mới, thay đổi cái cũ lạc hậu, dễ thích nghi, có khi thử, liều. Nhưng v́ không có gia đ́nh họ hàng bên cạnh để mà dựa dẫm “tại, v́, bởi…” nên phải có trách nhiệm “dám chịu” nếu lỡ sai lầm.
Nguyễn Thị Hậu
Đăng lại từ bài viết “Chuyện thầy Hai con Tám Sài G̣n xưa”
Tuần vừa qua dư luận tỉnh Đắk Lắk VN xôn xao vụ một nhân viên làm tóc, có ngoại h́nh xinh đẹp học hết cấp 2 (lớp 9) đă dùng bằng cấp 3 của chị gái ḿnh để xin làm nhân viên hợp đồng tại Nhà khách Tỉnh ủy Đắk Lắk. Sau đó, bà tiếp tục đi học đại học, học thạc sĩ và được bổ nhiệm làm trưởng pḥng!!! VBF không thấy ai đưa tin…
http://danviet.vn/event/truong-phong-o-dak-lak-muon-bang-cap-3-2693.html
thôi th́ tui đưa chuyện vui nầy vậy (giống như Bác Trung Thu viết quá :hafppy:)
https://i.postimg.cc/zvNTjqF9/blogtouch-picture-9b4f1013-b6a3-420a-c21a-bc09777b1544.jpg (https://postimg.cc/XG2ZNSh8)
CHUYỆN VUI CUỐI TUẦN: HỒN ÁI SA MUBABA NGỌC THẢO (Tập 1)
(Cấm trẻ em dưới 18 tuổi và người già trên 70)
Đọc FB cả buổi trưa không ngủ được. Tràn ngập thông tin hotgirl vú nở phồng mông núng nính tiến thân vào cơ quan văn pḥng tỉnh ủy của một địa phương vùng cao. Dân mạng tấn công em nó ghê quá. Anh Vo Nhat Thu gọi là Hồn Ái Sa mubaba Ngọc Thảo. Coi như kịch vui đi. Cái đẹp bất tư thiện bất tư ác, không có tội.
Nhưng hotgirl hiến thân, à lộn, tiến thân vào văn pḥng tỉnh ủy là tiến vào đền thiêng chứ không chuyện đùa!
Bước ra sảnh chế tách trà uống, ngắm h́nh em nó mà thấy đầu ngứa ran. Bèn lén vợ đi ra quán gội đầu.
Quán buổi trưa vắng khách. Một em xinh đẹp không thua Ái Sa, à lộn, Ngọc Thảo ra tiếp. Tôi vào ghế, ngửa người ra trong tư thế thật thư giăn. Em nó vuốt tóc và mở ngực áo tôi. Những ngón tay mềm mại xoa lên ngực và mân mê vào đầu vú tôi. Một cảm giác tê tê dại dại lan khắp người. Mùi da thịt và mùi son phấn từ người em nó tỏa ra quyến rũ. Tôi liếc sang bộ ngực đẫy đà em nó cố t́nh cọ vào má tôi... Ôi Ngọc Nữ của thiên đ́nh. Dễ xin tí khí như sư chùa Địa Ngục. Nhưng may mà kiểm soát được v́ có chút mặc cảm tội lỗi với vợ đang ngủ một ḿnh ở nhà. Tôi bắt chuyện để quên cái sự quyến rũ da thịt của em nó:
- Em tên ǵ hỡi em yêu quư?
- Em tên là Ái Saaa - Nàng cố kéo dài âm a ra nghe ngọt ngào như bản đàn du dương đưa ta vào cung tiên.
Tôi hết sức ngạc nhiên. Lẽ nào tên lại trùng tên? Tôi nh́n xuống chiếc váy ngắn với cặp đùi phốp pháp, trắng nơn. Cái váy lụa trắng mỏng tang để lộ chiếc nội y màu đỏ xinh xinh. Chỉ nh́n thôi, hồn tôi đă bay vào thiên thai. Để chống cự trạng thái thần hồn nát thần tính, tôi lại hỏi, nhưng cứ như hỏi trong cơn mê:
- Người đẹp như em bây giờ tiến thân dễ lắm... Sao không tiến nhanh đi em?
- Số em nó xui anh ơi. - Em nó chậc lưỡi - Em đă tiến vào được văn pḥng tỉnh ủy rồi nhưng lại bị đá ra, bây giờ mèo lại hoàn mèo!
Trong lúc tay em nó đẩy sâu xuống dưới rốn tôi th́ đúng lúc đó tôi phải ngồi bật dậy v́ cái câu trả lời của em nó. Tôi nh́n kỹ gương mặt em nó, rồi nh́n từ trên xuống dưới. Lẽ nào không chỉ trùng tên mà c̣n trùng luôn cả sự kiện. Mà xem ra người cũng giống người. Tôi định gạn hỏi cho ra nhẽ nhưng chợt nghĩ, cứ tiếp tục xem câu chuyện sẽ đi đến đâu. Trước khi hỏi tiếp, tôi chặn trước cái hiện thực liên quan đến sinh mệnh chính trị của tôi:
- Anh là thầy giáo. Anh chỉ gội đầu. Không có nhu cầu từ A đến Z.
Tôi lại nằm ngửa ḿnh thư giăn và ra hiệu cho em nó gội đầu. Tôi tiếp tục câu chuyện của chính em nó tiết lộ:
- Thời xưa người ta xác minh để đưa anh vào đảng rất khó khăn. Phải xác minh lư lịch đến ba đời. Bây giờ người ta không xác minh nhân thân mà kết nạp em vào đảng rồi thăng quan tiến chức để em leo cao chui sâu dễ dàng vậy sao?
Em nó vân vê dái tai tôi và nói rất hồn nhiên:
- Thú thực em có leo cao, nhưng chui sâu là mấy anh í. Nhân thân em bị kiểm tra, xác minh kinh lắm. Họ kiểm tra, xác minh bằng đủ các giác quan, mắt, mũi, miệng... Mỗi lần ra quán em gội đầu, mấy anh í chui sâu chui sát đến tận đáy quần chúng, à lộn, quần của em. Rồi thử thách em hơn một năm mới kết luận em trong sạch...
- Lẽ ra em cũng phải biết thân biết phận của ḿnh. Tỉnh ủy là cái đền thiêng, đàn bà con gái leo vào đó không làm tha hóa thần thánh th́ cũng bị thần thánh bắt tội cho...
Tôi nói chưa hết câu, em nó cắt lời:
- Th́ em vẫn muốn làm nghề gội đầu, ngày gặp hàng chục hotboy như anh sướng hơn. Nhưng mấy thần thánh kia lại muốn độc quyền em nên mới rước em vào đó!
Tôi bắt đầu hứng thú với câu chuyện và mặc cho em nó làm ǵ th́ làm, miễn đừng làm tha hóa đạo đức thầy giáo. Tôi hỏi đúng kịch bản vừa đọc trên báo và trên FB:
- Bây giờ th́ em bị cơ quan điều tra kết luận không trong sạch và trả lại làm nghề gội đầu?
Em nó đang xối nước xả, nghe đến đó th́ xả luôn vào mặt tôi:
- Không thể nói là không trong sạch, v́ em thuộc thành phần căn bản. Em chỉ mắc tội sử dụng bằng cấp của chị em. Mà cũng tại mấy anh cấp ủy sáng suốt bày cho chứ em không dám gian. Mà này, trước khi vào tỉnh ủy em tắm rửa sạch sẽ nên trong giá trắng ngần, chỉ sau đó em mới bị tha hóa, biến chất v́ không có thời gian tắm rửa nữa... Nhưng em chỉ bị tha hóa biến chất ở một bộ phận rất nhỏ thôi chứ không phải tất cả nhé!
Nói đoạn, em nó vén váy lên và kéo cái nội y đỏ xuống cho tôi xem cái chỗ tha hóa biến chất đó. Tôi hoảng hốt. Ôi cái mubaba. Ừ tha hóa, biến chất thật! Tôi vội đứng lên trả tiền rồi biến nhanh ra khỏi quán để giữ ǵn trinh tiết.
Về nhà tôi nghĩ măi không ra. Sao sự vụ vừa mới lộ ra mà người ta đă xử lư nhanh vậy? Càng nghĩ đầu óc càng lú lẫn. Đi rửa mặt rồi vào thư pḥng ngồi thiền. Bây giờ th́ mới hiểu cái con mẹ đó nó lừa ḿnh. Nó cũng chơi FB và đóng vai em Ái Sa rồi kể chuyện như thật. Thực ra con mẹ gội đầu cho tôi không phải là Ái Sa mà là Hồn Ái Sa mubaba Ngọc Thảo. Mà cũng chẳng phải Ngọc Thảo. Thế nó là con ǵ? Mai ra quán gội tiếp...
Chu Mộng Long
(tập 2 & 3 tối nay đưa lên...giờ đi mần việc tiếp rồi:mad:)
CHUYỆN VUI CUỐI TUẦN: HỒN ÁI SA MUBABA NGỌC THẢO (Tập 2)
(Cấm trẻ em dưới 18 tuổi và người già trên 70)
Sau khi giảng về "văn hóa không nhúc nhích" trong cái clip tṛ chơi ṃ chim chồng cho mụ vợ nghe, mụ vợ tỏ ra rộng lượng hẳn khi cho tôi được đi gội đầu công khai. Ừ th́ đi.
Thực ra, hôm qua cái con mẹ ở quán gội đầu nó gội kiểu ǵ mà cả đêm qua rồi cả ngày nay găi đầu liên tục. Mụ vợ hắt x́ rồi càm ràm: "Bộ Tài Môi vừa công bố kết luận khoa học khách quan, rằng ô nhiễm bụi mịn là do găi đầu. Anh mà găi suốt ngày thế này th́ em chết mất". Đó là lư do chính đáng mụ cho tôi được đi gội đầu. Mụ chỉ dặn: "Nhớ giữ ǵn trinh tiết, đừng để mấy đứa hotgirl đó làm tha hóa..."
Vậy là hào hứng đi. Đi để t́m hiểu thật giả chuyện hồn Ái Sa mubaba Ngọc Thảo. Chuyện ở quán gội đầu biết đâu lại có ích cho cơ quan điều tra tham khảo.
Quán trưa vẫn vắng tanh. Tôi vào ghế nằm chờ. Một phút rồi hai phút. Tôi búng tay tróc tróc ba lần mới có một cô gái bước ra. Nh́n vào gương trước mặt, tôi nhận ra vẫn em hôm qua, cái em tự xưng là Ái Sa ngọt ngào đó. Nhưng hôm nay lại mặc chiếc áo màu đen, h́nh như là áo ngủ. Em nó vừa đi vừa ngáp:
- Anh ǵ ơi... Em vừa chợp mắt tí teo, buồn ngủ quá...
Hôm nay th́ tôi gọi đích tên em nó tự xưng hôm qua luôn:
- Ái Sa ơi... Trưa hôm qua em gội đầu cho anh kiểu ǵ mà ngứa suốt ngày suốt đêm, không chịu nổi.
Em nó bật cười và đến sát cạnh tôi, vuốt tóc tôi, úp cả bộ ngực nóng bỏng vào má tôi:
- Anh ơi, không ngứa mới là chuyện lạ. Một là tóc anh hơi bị dài, hai là hôm qua chưa xả hết xà pḥng anh đă bỏ về. Hôm nay cắt tóc, ngoáy tai rồi hăy gội anh nhé?
Tôi nghĩ cũng được. Hôm nay tôi cần thời gian tiếp cận em nó để lấy thông tin, miễn không chơi từ A đến Z là được.
Thấy tôi gật đầu, em nó bật ghế dựng đứng dậy và leo lên, thượng hẳn trên cổ tôi, dao kéo cứ thoăn thoắt roẹt roẹt. Bây giờ tôi mới nh́n kỹ qua gương toàn bộ thân h́nh của em nó. Giời ạ, chiếc áo ngủ màu đen nhưng trong suốt đến từng milimet da thịt, từ trên xuống dưới không che chút nội y nào. Đôi chân dài lại chừng như đang kẹp cổ tôi. Mùi phụ nữ nồng nàn. Toàn thân tôi run bắn lên. Không ổn. Cái tí khí mà sư chùa Địa Ngục thích không thể là chân khí mà là tà khí...
- Ǵ vậy anh? Ngồi yên chứ không là em làm hỏng mái tóc đẹp của anh bây giờ...
Em nó ra lệnh và chỉnh cái đầu nghẹo của tôi. Đến nước này th́ tôi phải van xin:
- Tha cho anh. Em sửa nhanh qua rồi bước xuống đất cho anh nhờ. Anh cần chân khí để tu tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa học... Anh là nhà giáo...
Em nó roẹt mấy nhát kéo nữa rồi bước xuống. Rất thành thục, chiếc ghế lại hạ xuống. Tôi ngửa người ra và thở phào. Bây giờ th́ đến công đoạn ngoáy tai. Tôi tranh thủ bắt chuyện ngay:
- Trưa hôm qua vội vàng anh chưa hỏi hết. V́ sao người ta phát hiện em leo trộm vào đền thiêng tỉnh ủy? Mấy anh tỉnh ủy trả lời báo chí nói rằng em đă lừa cả tỉnh ủy 20 năm nay?
- Ơ cái anh này? - Em nó búng một phát vào dái tai tôi rơ đau - Em mà lừa được tỉnh quỷ th́ có mà em thành yêu quái trên trời rơi xuống.
Chiếc ngoáy tai tḥ tận sâu vào tai. Tôi không dám hỏi câu nào sốc óc, không chừng thủng luôn cả màng nhĩ. Bèn nhỏ nhẹ, êm ái, mềm mại như cái váy lụa đen em đang mặc:
- Vậy th́ đúng như họ nói, em đă được tuyển vào đúng quy tŕnh. Dù em mượn bằng của chị ḿnh, nhưng em đă vượt qua tŕnh độ của cái bằng đó để học hết cử nhân và thạc sĩ. Nhưng theo anh, với tư cách là người trong ngành giáo dục, bằng cấp không quan trọng, quan trọng là năng lực. Em học vượt cấp, lại làm việc tốt suốt 20 năm qua. Vậy là em giỏi lắm đó!
Thấy tôi khen, em nó vui lắm. Tôi hỏi tiếp:
- Anh có dạy hệ tại chức tại trung tâm gần nhà khách em làm đă gần 30 năm. Có khi nào em là học tṛ của anh mà anh quên?
Em nó rút chiếc ngoáy tai ra và trả lời rất hồn nhiên:
- Em có đi học bữa nào đâu mà anh biết? Em thuê người học, mỗi ngày tốn 300 ngàn đó anh.
Thôi chết tôi rồi. Vụ này mà lộ ra th́ cả trường tôi bẽ mặt, trong đó có tôi. Tôi lại phải khen em nó tiếp:
- Dẫu sao cũng phải thừa nhận là em quá giỏi. Làm lănh đạo ở tỉnh ủy là lănh đạo của lănh đạo mà em cũng làm nổi th́ đúng là thần thánh.
Em nó sung sướng reo lên:
- Đúng đó anh! Hai mươi năm qua em luôn là chiến sĩ thi đua đó. Dư luận mỉa mai em chứ làm lănh đạo tỉnh ủy th́ cần ǵ bằng cấp, tŕnh độ? Chẳng qua em cần cái bằng để làm sang chứ không lại mang tiếng gái gội đầu đi làm lănh đạo.
Nh́n đôi g̣ bồng đảo rung rinh theo tiếng cười, tôi phải thú nhận em nó thật quyến rũ. Qua làn lụa mỏng màu đen, toàn bộ thân h́nh em nó như hút chặt mắt tôi vào đó, không thể rời ra được. Thế này th́ tôi chết mất. Chợt nghĩ mấy nhà mỹ học, nghệ thuật học nói điêu. Tất cả đều đồng loạt cho rằng, chính sự hư hư thực đă tạo ra sự thanh lọc thẩm mỹ, tức cảm xúc trong sáng và thăng hoa. Thăng vào trong cái lớp sương mù sau làn áo mỏng th́ có. Để chống cự cái sự điên cuồng quỷ ám đó, tôi lại hỏi:
- Lúc sa cơ, tức bị phát hiện và điều tra, không ai làm anh hùng đứng ra cứu em sao?
Đến đây th́ nàng sụt sùi nước mắt. Từng giọt nước mắt em nó rơi xuống miệng tôi đắng chát. Em nó nói:
- Từ Hải có sống lại cũng không cứu được anh ơi. 20 năm trước, lăo Hồ Tôn Hiến đến em gội đầu không biết bao nhiêu lần, toàn quỵt nợ. Đúng ra là lăo trả nợ em bằng cái chỗ làm và cái ghế trưởng pḥng. Xong bán cái em cho cả đám thổ quan. Lăo ấy giỏi trên tất cả mọi người một bậc v́ không để chết v́ gái.
Tôi phải khen em nó mới học cấp hai mà đă hiểu Truyện Kiều. Giỏi hơn nhiều giáo sư tiến sĩ. Đúng lúc đó em nó lại bật ghế dựng lên và đứng đối diện trước mặt tôi để mát xa tai, mát xa trán, mát xa đầu trước khi gội. Bây giờ th́ tôi đang trực diện thân h́nh em nó. Bỗng dưng hết run, như Chí Phèo gặp Thị Nở sau lần gặp bà Ba vừa làm vừa run. Tôi buột miệng nói ngu:
- Lăo Hồ Tôn Hiến bàn giao cho đám thổ quan là phải. V́ cái nhà khách xuống cấp thế này th́ lăo phải xây cái khác...
Lập tức ba cái tát như trời giáng vào mặt tôi thay cho động tác mát xa. Em nó nói, giọng đầy giận dữ:
- Một thằng dùng chứ cả chục thằng dùng quá tải th́ có là lâu đài kiên cố cũng sập chứ đừng nói xuống cấp. Hiểu chưa?
Trong lúc mắt tôi nảy đom đóm th́ em nó lại xoa mặt, xoa má, xoa cằm cho tôi. Bỗng em nó dí cả đầu tôi vào đôi g̣ bồng đảo của em nó, như người mẹ ấp đứa con thơ sau trận đ̣n:
- Xin lỗi anh. Em chỉ là gái gội đầu. Em không là Ái Sa hay Ngọc Thảo nào cả. Chỉ bởi xem mạng ảo mà em bị nhập vai hơi sâu. Nhưng em mong các anh, kể cả là nhà giáo hay nhà khoa học, đừng coi thường nghề của em....
Ôi buồn ôi tan nát... Trưa nay tôi định không về nhà nữa. Nhưng thương vợ con quá mà đành mang cái mặt sưng tấy về nhà. Cái đầu cũng quên chưa gội sạch. Cuộc điều tra như vậy là thất bại thảm hại. Không chơi tṛ chui vào hang cọp nữa. V́ cái loại hang này quá sâu, thật giả lẫn lộn...
Chu Mộng Long
HỒN ÁI SA MUBABA NGỌC THẢO (Tập 3)
(Cấm trẻ em dưới 18 và người già trên 70)
Bảo vệ xong đề tài Giải huyền thoại, Lư thuyết và ứng dụng (gần 200 trang), một thành viên hội đồng gợi ư chiêu đăi món gội đầu để ăn mừng công tŕnh. Ông nói, gội đầu cũng là một cách giải huyền thoại. Lâu nay chúng ta bị bao bọc trong biết bao huyền thoại, trong đó có huyền thoại về cái quần cái áo, huyền thoại về người chồng thủy chung, người cha mẫu mực. Đi gội đầu là cũng là một ứng dụng giải huyền thoại.
Ừ th́ đi vậy. Trốn vợ vào thiên thai thử một lần xem. Tôi dẫn vào quán gội đầu của em tự xưng là Ái Sa hay Ngọc Thảo ǵ đó của trưa hôm trước. Biết là nội thất của em ấy xập xệ rồi, nhưng ở cái thân phận ông giáo như con ngựa già đă từng leo hết dốc này sang dốc khác, kén cá chọn canh ǵ nữa? Có súng dùng súng, có gươm dùng gươm, không có gươm th́ dùng giáo mác, gậy gộc cuốc thuổng vậy!
Có ông bạn già chưa vợ, lâu nay theo học môn giải huyền thoại của tôi, cũng đi theo. Nhưng nghe tôi bảo có ǵ dùng nấy như vậy th́ ông lắc đầu:
- Tao trinh tiết gần cả đời. Nhà mới th́ tao ở, chứ loại nhà khách xập xệ th́ tao sợ...
Tôi kể chuyện em nó vào đảng và từng làm sếp ở văn pḥng tỉnh ủy ra sao, rồi giải thích:
- Nó xập xệ, nhưng yên tâm. Khi người ta đưa nó vào đền thiêng tỉnh ủy th́ người ta đă thẩm tra, đảm bảo vệ sinh tuyệt đối. Giống như ngày xưa người ta làm lễ hiến tế Hà Bá, không phải gái trinh sạch sẽ th́ không hiến tế được.
Vậy là ông bạn già đồng ư đi theo. Cả ba cùng vào quán. Trưa nay em nó ngồi ngủ luôn trên ghế chờ khách. Cả bộ ḷng phơi tênh hênh sau làn áo ngủ trắng tinh. Nhịp thở của em nó làm cho núi đồi như nhấp nhô trong sương khói huyền ảo. Thấy ba vị khách cùng vào một lúc, em nó tươi như hoa:
- Em chào cả ba anh...
Em nó nhận ra tôi ngay. Sợ tôi vẫn c̣n dỗi v́ ba cái tát hôm trước, em nó lại ôm tôi, riết tôi vào bộ ngực nóng bỏng và tiếp tục giọng an ủi:
- Hôm nay em bù cho anh. Yên tâm chưa gội sạch chưa về. Em phục vụ miễn phí cho cả ba anh.
Nghe miễn phí, hai ông bạn tôi hớn hở như địa chủ được mùa. Cả hai đều đồng ư, trưa nay coi như làm lễ khánh thành và khởi động Metro Cát Linh - Hà Đông, đi từ A đến Z.
Cắt tóc, cạo râu, ngoáy tai, gội đầu qua loa thôi. Anh nào cũng sốt ruột lên tàu. Tôi biết rơ, em nó nội thất xập xệ, nhưng nhờ khoác chiếc áo ngủ mỏng tang bên ngoài, cho nên, trong sương khói huyền thoại của chiếc áo ấy, em nó vẫn c̣n một vẻ đẹp quyến rũ.
Em nó dẫn cả ba vào trong một căn pḥng với ánh đèn mờ lung linh. Cả ba lên tàu cùng lúc. Tàu chạy theo nhịp từng nốt nhạc cổ điển long lanh... Chỗ này nhạy cảm, để đảm bảo tính thẩm mỹ của câu chuyện, tôi không miêu tả được. Các bạn chịu khó tưởng tượng vậy.
Cuộc vui kéo dài từ 12h đến 14 giờ chiều.
Cả hai anh bạn tôi đều khen tàu chạy rất êm. Hôm nay tôi không dám chê mà nói nịnh:
- Bọn thù địch cố t́nh bôi nhọ em, chứ đối với anh, nghề gội đầu của em phải nói là danh giá hơn bọn đi gội đầu.
Cái anh là thành viên của hội đồng cũng gật gù khen:
- Em thật xuất sắc. Anh cảm thấy em thành công hơn cả cái công tŕnh khoa học của anh này!
Tôi thấy nhột, v́ ai đời lại đem một công tŕnh khoa học so sánh với cuộc vui mà các thánh nhân gọi là trần tục? Nhưng rồi thấy cũng phải, v́ khoa học phục vụ trí tuệ, nhưng trí tuệ lại phục vụ cho dục năng. Chẳng phải thánh thần hay Thượng đế cấm dục nhân loại để độc quyền thể hiện dục tính mà lại đánh tráo thành sáng tạo thuộc đỉnh cao trí tuệ đó sao?
Anh bạn già của tôi nói leo vào:
- Em được vào đền thiêng của tỉnh ủy nên có khác. Khi đi tàu của em, anh cảm thấy rất an toàn...
Đến đây th́ mặt em nó như cánh hoa tàn sau cơn giông băo. Nước mắt chảy ṛng ṛng:
- Các anh ơi, em bị aids rồi. Em đă giấu điều này, nhưng sau khi bị lộ chuyện, chồng em đă nói ra hết sự thật rồi. Em phải bỏ nhà đi từ hôm đó đến giờ. May mà có các anh làm cho em vui sống được ngày nào hay ngày ấy...
Nghe đến đó th́ cả ba chúng tôi hoảng hốt. Bỏ mẹ rồi! Hồi năy đi tàu, anh nào cũng chủ quan, giải huyền thoại đến mức không bao bọc ǵ. Hai bạn tôi té xĩu xuống đất. Tôi nghĩ ngay đến cái nhà khách tỉnh ủy có bao nhiêu khách vào ra, địa phương có, trung ương có. Tôi ném cơn giận dữ vào mặt em nó:
- Thôi rồi lượm ơi, cái con mẹ này hại biết bao cán bộ của ta rồi... Aids ơi là aids. Tao cứ tưởng tỉnh ủy là cái đền thiêng, có đến 19 điều cấm để cán bộ tao giữ ǵn trinh tiết mà mày nhẫn tâm làm hỏng cả rồi!
Nghe đến đó th́ em nó tốc luôn cả váy lên, ưỡn mông ra chửi lại:
- Trinh cái lon! Nó có là rất là rất khủng khiếp th́ cũng bởi tại chúng mày thi nhau chui vào đó.
Nh́n cái lon của nó đúng là rất là rất khủng khiếp. Nghĩ cho cùng, lỗi bởi tại ta không biết làm người dùng thông minh. Mà ham rẻ, ham miễn phí mà chi. Giời ơi là giời... Đem cái cục nợ nhiễm aids này về nhà ư?
Trong khi cả ba đều muốn chết quách cho xong th́ bỗng tôi chợt nhớ ra cái hoài nghi hôm trước. A, con mẹ này nhập vai thôi. Nó chẳng phải Ái Sa hay Mubaba Ngọc Thảo nào cả. Nó chỉ là gái gội đầu như bao cô gái khác. Mong là nó không bị aids!
Bắt đầu từ mai không gội đầu nữa mà đi xét nghiệm...
Chu Mộng Long
https://i.postimg.cc/133qCfv6/blogtouch-picture-c62746ef-5b64-8457-a445-3175c39475d4.jpg (https://postimg.cc/MvgHXK2K)
Mời các bạn so sánh tướng Mỹ gốc Việt và tướng vẹm.
vi5urLdSdxA
https://www.youtube.com/watch?v=vi5urLdSdxA
https://www.youtube.com/watch?v=oUkSQaPQc1w
https://www.youtube.com/watch?v=N0gBH5ufaTw
trungthu
10-16-2019, 05:29
Chuyện Ấm Trà Quư: Có Được Tri Kỷ Trên Đời Mới Là Điều Đáng Giá Nhất
https://i.postimg.cc/sDSSjmVc/m-tr.jpg (https://postimages.org/)
:eek::eek::eek::hand shake::handshake::ha ndshake:
Trong cuộc sống có được một người bạn tri kỷ là quá đủ! Đây là điều mà bao người từng trải đúc kết được. T́nh tri kỷ, như một thứ ấm áp không lời, một sự đồng hành vô h́nh.
Tri kỷ thật sự, là hiểu, là thân thiết, là đồng điệu. Giống như một chén trà xanh, chan chát mà thấm vào tận trong tim. Có những khi chỉ cần một cái ôm, một ánh mắt, là hiểu tất cả mà không cần dùng đến lời nói.
Tri kỷ, không cần che đậy, cũng không cần giải thích, tự nó đă hiểu, tự nó cảm nhận. Không cần dốc hết sức, cũng không cần chuẩn bị, tự nó sẽ đem đến niềm vui, tự nó sẽ như ư thơ. Cuộc sống có một loại t́nh cảm, không tác động vào thế giới mỗi người, chỉ đồng hành trong tâm hồn; không trở ngại cuộc sống mỗi người, chỉ mang cùng tiếng nói từ con tim.
hoanglan22
10-26-2019, 14:10
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1474537&stc=1&d=1572098719
Bạn đă uống cà phê nhiều, bạn biết muốn pha một ly cà phê tuyệt vời đâu có khó. Cà phê loăng nước nhưng đậm mùi thơm, cà phê mít đặc quánh mà vô vị, hăy chọn một tỷ lệ pha trộn thích hợp là đă đi được 70% đoạn đường rồi; muốn kẹo thêm nữa hả? Muốn hưởng cái cảm giác chát chát, tê tê đầu lưỡi phải không? Dễ mà, thêm vào chút xác cau khô là xong ngay. Bạn muốn có vị rhum, th́ rhum; bạn thích cái béo béo, thơm thơm của bơ, cứ bỏ chút bretain vào. Bạn hỏi tôi nước mắm nhĩ để làm ǵ à? Chà, khó quá đi, nói làm sao cho chính xác đây! Th́ để cho nó đậm đà. Đậm làm sao? Giống như uống coca th́ phải có thêm chút muối cho mặn mà đầu lưỡi ấy mà. Uống chanh đường pha thêm chút rhum cho nó ra dáng tay chơi. Như kẻ hảo ngọt nhưng vẫn cắn răng uống cà phê đen không đường cho lập dị. Thèm đá muốn chết nhưng cứ chốn bạn nhậu th́ nằng nặc đ̣i uống chay không đá cho giống khác người, cho đẳng cấp. Tôi không biết, không tả được, mời bạn hăy thử và tự cảm nhận lấy. Bạn đ̣i phải có tách sứ, th́a bạc; bạn nói phải nghe nhạc tiền chiến, phải hút Capstan (dộng vài phát hết gần nửa điếu và rít đỏ đầu), Ruby hay Basto xanh mới đă đời, thú vị phải không? Bạn đă có đủ những ǵ bạn cần, sao lại cứ thích đi uống cà phê tiệm? Tôi không trách bạn đâu. Cà phê ngon chỉ mới được một nửa, nhưng chúng ta đâu chỉ cần uống cà phê, chúng ta c̣n ghiền “uống” con người tại quán cà phê; “uống” không khí và cảnh sắc cà phê; “uống” câu chuyện quanh bàn cà phê và nhiều thứ nữa. Vậy th́ mời bạn cùng tôi trở lại không khí cà phê Sài G̣n những năm cuối 1960 và đầu 1970.
Sài G̣n những năm giữa thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970 tuổi trẻ lớn lên và tự già đi trong chiến tranh. Những “lưu bút ngày xanh” đành gấp lại; những mơ mộng hoa bướm tự nó thành lỗi nhịp, vô duyên. Tiếng cười dường như ít đi, kém trong trẻo hồn nhiên; khuôn mặt, dáng vẻ tư lự, trầm lắng hơn và đầu óc không thể vô tư nhởn nhơ được nữa. Những điếu thuốc đầu tiên trong đời được đốt lên; những ly cà phê đắng được nhấp vào và quán cà phê trở thành nơi chốn hẹn ḥ để dàn trải tâm tư, để trầm lắng suy gẫm. Có một chút bức thiết, thật ḷng; có một chút làm dáng, thời thượng. Đối với một thanh niên tỉnh lẻ mới mẻ và bỡ ngỡ, Sài G̣n lớn lắm, phồn vinh và náo nhiệt lắm. Phan Thanh Giản đi xuống, Phan Đ́nh Phùng đi lên; hai con đường một chiều và ngược nhau như cái xương sống xuyên dọc trung tâm thành phố giúp định hướng, tạo dễ dàng cho việc di chuyển. Cứ như thế, cái xe cọc cạch, trung thành như một người bạn thân thiết lê la khắp Sài G̣n, Chợ Lớn, Gia Định.
Những ngày này, tôi là khách thường trực của quán Cà phê Thu Hương đường Hai Bà Trưng. Quán nằm ở một vị trí đẹp, chiếm ba lô đất ngó chéo qua phía trại ḥm Tobia; nơi đây có một căn pḥng hẹp vừa đặt quầy thu tiền, vừa là chỗ ngồi cho những ai thích nghe nhạc với âm thanh lớn, phần c̣n lại là một sân gạch rộng, có mái che nhưng không ngăn vách, từ trong có thể nh́n rơ ra đường qua những song sắt nhỏ sơn xanh với một giàn hoa giấy phủ rợp. Ngồi đây có thể nghe được văng vẳng tiếng nhạc vọng ra từ bên trong; cảm được chút riêng tư cách biệt, nhưng đồng thời cũng có thể nhận ra được sức sống bừng lên mỗi sáng, dáng vẻ mệt mỏi, u ám mỗi chiều đang lặng lờ chảy qua trên đường phía ngoài.
Chủ quán ở đây là một người đặc biệt: Khó chịu một cách dễ thương.
H́nh như với ông, bán cà phê chỉ như một cách tiêu khiển và pha cà phê là một nghệ thuật kỳ thú. Ông hănh diện với tên tuổi của Thu Hương và muốn bảo vệ nó. Bạn là khách uống cà phê phải không? Xin cứ ngồi yên đó. Cà phê được bưng tới, ông chủ sẽ ngồi đâu đó quan sát và sẽ xuất hiện đúng lúc cạn phin, sẽ bỏ đường, khuấy đều cho bạn và sẽ lịch sự “xin mời” khi mọi việc hoàn tất. Ly cà phê như vậy mới là cà phê Thu Hương, đó là cung cách của Thu Hương, đặc điểm của Thu Hương. Trong lănh vực kinh doanh quán cà phê, có người dùng âm thanh; có người dùng ánh sáng và cảnh trí; có người nhờ sự duyên dáng của tiếp viên; có người dùng phẩm chất của cà phê để hấp dẫn khách. Ông chủ Thu Hương đă chọn cách cuối cùng, cách khó nhất và ông đă thành công. Khách đến với Thu Hương là ai? Nhiều lắm, nhưng dù từ đâu họ đều có điểm giống nhau là tất cả đều trẻ và đều có vẻ “chữ nghĩa” lắm; “ông”, “bà” nào cũng tha tập cours quằn tay, cộng thêm các tập san Sử địa, Bách khoa, Văn và vân vân…
Bạn thường ăn phở gà Hiền Vương, phở Pasteur; bạn thường đi qua đi lại liếc liếc mấy bộ đồ cưới đẹp ở nhà may áo dài Thiết Lập, vậy bạn có biết cà phê Hồng ở đâu không? Th́ đó chứ đâu, gần nhà may Thiết Lập, cách vài căn về phía đường Nguyễn Đ́nh Chiểu, ngó xéo qua mấy cây cổ thụ ở bờ rào Trung tâm Thực nghiệm Y khoa (Viện Pasteur). Tôi phải hỏi v́ tôi biết có thể bạn không để ư. Quán nhỏ xíu hà, với lại cái tên Hồng và tiền diện của nó trông ủ ê cũ kỹ lắm, chứ không sơn phết hoa ḥe, đèn treo hoa kết ǵ cả. Từ ngoài nh́n vào, quán như mọi ngôi nhà b́nh thường khác, với một cái cửa sổ lúc nào cũng đóng và một cánh cửa ra vào nhỏ, loại sắt cuộn kéo qua kéo lại. Quán hẹp và sâu, với một cái quầy cong cong, đánh verni màu vàng sậm, trên mặt có để một ngọn đèn ngủ chân thấp, với cái chụp to có vẽ h́nh hai thiếu nữ đội nón lá; một b́nh hoa tươi; một con thỏ nhồi bông và một cái cắm viết bằng thủy tinh màu tím than. Phía sau, lúc nào cũng thấp thoáng một mái tóc dài, đen tuyền, óng ả, vừa như lăng mạn phô bày vừa như thẹn thùng, che giấu.
Cà phê Hồng, về ngoại dáng, thực ra không có ǵ đáng nói ngoài cái vẻ xuề x̣a, b́nh dị, tạo cảm giác ấm cúng, thân t́nh và gần gũi; tuy nhiên, nếu ngồi lâu ở đó bạn sẽ cảm được, sẽ nhận ra những nét rất riêng, rất đặc biệt khiến bạn sẽ ghiền đến và thích trở lại. Hồi đó nhạc Trịnh Công Sơn đă trở thành một cái “mốt”, một cơn dịch truyền lan khắp nơi, đậu lại trên môi mọi người, đọng lại trong ḷng mỗi người. Cà phê Hồng đă tận dụng tối đa, nói rơ ra là chỉ hát loại nhạc này và những người khách đến quán – những thanh niên xốc xếch một chút, “bụi” một chút (làm như không bụi th́ không là trí thức)- đă vừa uống cà phê vừa uống cái ră rời trong giọng hát của Khánh Ly. Không hiểu do sáng kiến của các cô chủ, muốn tạo cho quán một không khí văn nghệ, một bộ mặt trí thức hay do t́nh thân và sự quen biết với các tác giả mà ở Cà phê Hồng lâu lâu lại có giới thiệu và bày bán các sách mới xuất bản, phần lớn là của hai nhà Tŕnh Bày và Thái Độ và của các tác giả được coi là dấn thân, tiến bộ. Lại có cả Time, Newsweek cho những bạn nào khát báo nước ngoài. Quán có ba cô chủ, ba chị em; người lớn nhất trên hai mươi và người nhỏ nhất mười lăm, mười sáu ǵ đó. Nói thật ḷng, cả ba cô đều chung chung, không khuynh quốc khuynh thành ǵ, nhưng tất cả cùng có những đặc điểm rất dễ làm xốn xang ḷng người: Cả ba đều có mái tóc rất dài, bàn tay rất đẹp và ít nói, ít cười, trừ cô chị. Những năm 1980, Cà-phê Hồng không c̣n, tôi đă thường đứng lại rất lâu, nh́n vào chốn xưa và tự hỏi: Những người đă có thời ngồi đây mơ ước và hy vọng giờ đâu cả rồi? C̣n chị em cô Hồng: những nhỏ nhẹ tiểu thư, những thon thả tay ngà, những uyển chuyển “chim di” giờ mờ mịt phương nào?
Viện Đại học Vạn Hạnh mở cửa muộn màng nhưng ngay từ những năm đầu tiên nó đă thừa hưởng được những thuận lợi to lớn về tâm lư, cùng với những tên tuổi đă giúp cho Đại Học Vạn Hạnh được nh́n vừa như một cơ sở giáo dục khả tín, vừa như một tập hợp của những thành phần trẻ tuổi ư thức và dấn thân. Tuy nhiên, dường như cái hồn của Đại Học Vạn Hạnh được đặt tại một tiệm cà phê: Quán Nắng Mới ở dốc cầu, ngó xéo về phía chợ Trương Minh Giảng. Quán Nắng Mới có nhiều ưu thế để trở thành đất nhà của dân Vạn Hạnh, trước nhất v́ gần gũi, kế đến là khung cảnh đẹp, nhạc chọn lọc và cuối cùng, có lẽ quan trọng nhất là sự thấp thoáng của những bóng hồng, có vẻ tha thướt, có vẻ chữ nghĩa. Các nhóm làm thơ trẻ đang lên và đang chiếm đều đặn nhiều cột thơ trên báo chí Sài G̣n ngồi đồng từ sáng đến tối để… làm thơ. Nhưng đông hơn cả, ấm áp hơn cả là những nhóm hai người, một tóc dài, một tóc ngắn chờ vào lớp, chờ tan trường và chờ nhau. Nắng Mới đă sống với Vạn Hạnh cho đến ngày cuối cùng. Nắng Mới nay không c̣n. Những con người cũ tứ tán muôn phương.
Có một quán cà phê thân quen nữa không thể không nhắc đến: Quán chị Chi ở gần đầu đường Nguyễn Phi Khanh, kế khu gia cư xưa cũ, rất yên tĩnh và rất dễ thương, nằm phía sau rạp Casino Đa Kao. Ở đó có những con đường rất nhỏ, những ngôi nhà mái ngói phủ đầy rêu xanh, những hàng bông giấy che kín vỉa hè, trầm lắng cô liêu và im ả tách biệt lắm mà mở cửa ra là có thể nghe người bên trái nói, thấy người bên phải cười và có cảm tưởng như có thể đưa tay ra bắt được với người đối diện bên kia đường. Quán chị Chi độ chín mười thước vuông, chỉ đủ chỗ để đặt ba bốn chiếc bàn nhỏ. Quán không có nhạc, không trưng bày trang trí ǵ cả ngoại trừ một bức tranh độc nhất treo trên vách, bức tranh đen trắng, cỡ khổ tạp chí, có lẽ được cắt ra từ một tờ báo Pháp. Tranh chụp để thấy một bàn tay giắt một em bé trai kháu khỉnh, vai đeo cặp sách, miệng phụng phịu làm nũng, hai mắt mở to nhưng nước mắt đang chảy dài theo má, phía dưới có hàng chữ nhỏ: “Hôm qua con đă đi học rồi mà”. Khách đến với chị Chi không phải coi bảng hiệu mà vào, cũng không phải nghe quảng cáo, mà hoàn toàn do thân hữu truyền miệng cho nhau để đến, nhiều lần thành quen, từ quen hóa thân và quyến luyến trở lại. Chị Chi có bán cà phê nhưng tuyệt chiêu của chị là trà; loại trà mạn sen, nước xanh, vị chát nhưng có hậu ngọt và mùi thơm nức mũi. Trà được pha chế công phu trong những chiếc ấm gan gà nhỏ nhắn, xinh xinh. Ấm màu vàng đất, thân tṛn đều, láng mịn, ṿi và quai mảnh mai, cân đối. Mỗi bộ ấm có kèm theo những chiếc tách cùng màu, to bằng ngón tay cái của một người mập, vừa đủ cho hốp nước nhỏ. Ấm có ba loại, được gọi tên ra vẻ “trà đạo” lắm: độc ẩm, song ẩm và quần ẩm, nhưng hồi đó chúng tôi thường “diễn nôm” theo kiểu “tiếng Việt trong sáng” thành ấm chiếc, ấm đôi và ấm bự. Trà được uống kèm với bánh đậu xanh – loại bánh đặc biệt của chị Chi- nhỏ, màu vàng óng và mùi thơm lừng. Nhắp một ngụm trà, khẽ một tí bánh, cà kê đủ chuyện trên trời dưới đất, trông cũng có vẻ phong lưu nhàn tản và thanh cao thoát tục lắm. Quán chị Chi giờ đă biến tướng ít nhiều nhưng dù sao cũng xin cảm ơn chị và xin đại diện cho những anh chị em đă từng ngồi quán chị bày tỏ ḷng tiếc nhớ đến chị và đến những ngày khó quên cũ.
Những năm cuối thập niên 60 Sài G̣n có mở thêm nhiều quán cà phê mới, và thường được trang hoàng công phu hơn, có hệ thống âm thanh tối tân hơn và nhất là quán nào cũng chọn một cái tên rất đẹp, phần lớn là dựa theo tên những bản nhạc nổi tiếng: Cà phê Hạ Trắng, Lệ Đá, Diễm Xưa, Hương Xưa, Hoàng Thị, Biển Nhớ, Hoài Cảm, Da Vàng… Tuy nhiên, ở một con đường nhỏ – H́nh như là Đào Duy Từ – gần sân vận động Thống Nhất bây giờ, có một quán cà phê không theo khuôn mẫu này, nó mang một cái tên rất lạ: Quán Đa La. Đa La là Đà Lạt, quán của chị em cô sinh viên Chính Trị Kinh Doanh, có lẽ vừa từ giă thác Cam Ly, hồ Than Thở để về Sài G̣n học năm cuối tại nhà sách Xuân Thu hay sao đó, mở ra.
Trường kinh doanh quả là khéo đào tạo ra những môn sinh giỏi kinh doanh: Tin mấy cô sinh viên mở quán thật t́nh là không được chính thức loan báo ở đâu cả; tuy nhiên, cứ úp úp mở mở như vậy mà tốt, nó được phóng lớn, lan xa, tạo ấn tượng mạnh và quán được chờ đón với những trân trọng đặc biệt, những náo nức đặc biệt. Những cô chủ chắc có máu văn nghệ, đă cố gắng mang cái hơi hướm của núi rừng Đà Lạt về Sài G̣n: Những gị lan, nhưng giỏ gùi sơn nữ, những cung tên chiến sĩ đă tạo cho quán một dáng vẻ ngồ ngộ, dễ thương; rồi những đôn ghế, những thớt bàn được cưa từ những gốc cây cổ thụ u nần, mang vẻ rừng núi, cổ sơ đă giúp cho Đa La mang sắc thái rất … Đa La. Ngày khai trương, Đa La chuẩn bị một chương tŕnh văn nghệ hết sức rôm rả, với những bản nhạc “nhức nhối” của Lê Uyên Phương, Nguyễn Trung Cang, Lê Hựu Hà… Đa La đông vui, chứng kiến sự nở hoa và tàn úa của nhiều mối t́nh. Nhưng Đa La vắng dần những người khách cũ và đóng cửa lúc nào tôi không nhớ.
Cà phê Hân ở Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao là quán thuộc loại sang trọng, khách phần lớn ở lớp trung niên và đa số thuộc thành phần trung lưu, trí thức. Bàn ghế ở đây đều cao, tạo cho khách một tư thế ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh và bàn nào cũng có đặt sẵn những tạp chí Pháp ngữ số phát hành mới nhất. Câu chuyện ở Hân chắc là quan trọng lắm, lớn lắm; nh́n cái cách người ta ăn mặc; trông cái vẻ người ta thể hiện là biết ngay chứ ǵ; có lẽ cả thời sự, kinh tế tài chánh, văn chương, triết học đều có cả ở đây. Một chỗ như vậy là xa lạ với dân ngoại đạo cà phê. Nhưng Hân là một nơi hết sức đáng yêu, đáng nhớ của nhiều người, dù ngồi quầy là một ông già đeo kính như bước ra từ một câu chuyện của văn hào Nga Anton Chekov. Về sau, đối diện với Hân có thêm quán cà phê Duyên Anh của hai chị em cô Hà, cô Thanh; cô em xinh hơn cô chị và được nhiều chàng trồng cây si. Hai tiệm cà phê, một sang trọng chững chạc, một trẻ trung sinh động, đă trở thành một điểm hẹn, một đích tới mà khi nhắc đến chắc nhiều anh chị em ở trường Văn Khoa, trường Dược, trường Nông Lâm Súc ngay góc Hồng Thập Tự – Cường Để c̣n nhớ, cũng như nhớ món bánh cuốn ở đ́nh Tây Hồ bên trong chợ Đa Kao thờ cụ Phan, nhớ quán cơm “lúc lắc” trong một con hẻm nhỏ đường Nguyễn Bỉnh Khiêm mà nữ sinh viên vừa đi lên căn gác gỗ vừa run khi được mấy chàng mời cơm.
Bạn nào muốn gặp các nhà văn nhà thơ, muốn nh́n họ ngậm ống vố, đeo kính cận nói chuyện văn chương th́ mời đến quán Cái Chùa, anh em nào muốn có không khí trẻ trung đầm ấm mời đến Hầm Gió; anh em nào muốn có chỗ riêng tư tâm sự th́ cứ theo đường Nguyễn Văn Học chạy tuốt lên G̣ Vấp, vào quán Hương Xưa, ở đó có vườn cây đẹp, các cô chủ đẹp và cái cách người ta đối đăi với nhau cũng rất đẹp. Cũng đừng quên nhắc đến quán Chiêu, hẻm Cao Thắng. Rồi c̣n cà phê hàng me Nguyễn Du, cũng Beatles, cũng Elvis Presley như ai ; và cả pha chút Adamo quyến rũ. Giá ở đây thật b́nh dân nhưng thường xuyên chứng kiến những pha so găng giữa học sinh hai trường nghề Cao Thắng và Nguyễn Trường Tộ.
Chán cà phê th́ đi ăn nghêu ṣ, ḅ bía, ăn kem trên đường Nguyễn Tri Phương, góc Minh Mạng hoặc bên hông chợ Tân Định. Phá lấu đă có góc Pasteur-Lê Lợi, nhưng chỉ dành cho các bạn có tiền. Rủng rỉnh tí xu dạy kèm cuối tháng có Mai Hương (nay là Bạch Đằng Lê Lợi). Quán Mù U, hẻm Vơ Tánh, chỗ thương binh chiếm đất ở gần Ngă tư Bảy Hiền dành cho những bạn muốn mờ mờ ảo ảo. Muốn thưởng thức túp lều tranh mời đến cà phê dựa tường Nguyễn Trung Ngạn gần ḍng Kín, đường Cường Để. Rồi quán cà phê Cháo Lú ở chợ Thị Nghè của một tay hoạ sĩ tên Vị Ư. Cao cấp hơn có La Pagode (đổi thành Hương Lan trước khi giải thể), Brodard, Givral. Thích xem phim Pháp xưa, phim Mỹ xưa và ngồi… cả ngày xin mời vào rạp Vĩnh Lợi trên đường Lê Lợi để chung vai với đám đồng tính nam. Vào Casino Sài G̣n có thể vào luôn hẻm bên cạnh ăn cơm trưa rất ngon tại một quầy tôi đă quên tên. Nhưng rạp Rex vẫn là nơi chọn lựa nhiều nhất của sinh viên, cả nghèo lẫn giàu. Cuộc sống sinh viên cứ thế mà trôi đi trong nhịp sống Sài G̣n. Nghèo nhưng vui và mơ mộng. Tống Biệt hành, Đôi mắt người Sơn Tây sống chung với Cô hái Mơ. Đại bác ru đêm sánh vai với Thu vàng. Ảo vọng và thực tế lẫn vào nhau. Thi thoảng lại pha thêm chút Tội ác H́nh phạt, Zara đă nói như thế! Che Guervara, Garcia Lorca. Tất cả những ǵ tôi nhắc tới là một chút ngày cũ, một chút cảnh xưa, một phần hơi thở và nhịp sống của Sài G̣n trong trí nhớ. Xin tặng anh, tặng chị, tặng em, đặc biệt là tặng tất cả những ai tha hương có lúc bỗng bàng hoàng nhận thấy, dường như một nửa trái tim ḿnh c̣n đang bay lơ lửng ở cà phê Hồng, Thu Hương, hay đâu đó ở quê nhà.
Lương Thái Sỹ – An Dân
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1474538&stc=1&d=1572098719
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1474539&stc=1&d=1572098719
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1474540&stc=1&d=1572098719
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1474541&stc=1&d=1572098719
hoanglan22
10-26-2019, 15:18
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1474581&stc=1&d=1572102963
1) ĂN CÓ KHÓ KHÔNG?
Nhớ hồi c̣n nhỏ, một lần trong bữa ăn, ba tôi giận dữ nói: “Con lấy đũa quậy nhiều lần vào nồi cơm lúc đang sôi phải không?” Tôi sợ hăi nh́n ba tôi, ḷng ngạc nhiên không hiểu tại sao ông biết là lúc nấu cơm tôi dùng đũa quậy nhiều lần vào nồi cơm đang sôi, v́ sợ cơm bị khê cháy. Ba tôi bị đau bao tử, nên ông rất khó khăn, kỹ lưỡng chuyện ăn uống. Lúc hết giận, ba tôi giải thích: “Khi cơm sôi, chỉ cần quậy một lần cho đều rồi bớt lữa. Không nên quậy nhiều lần v́ như vậy sẽ làm cho gạo đổ nhựa ra bọc lấy hột cơm, nên hột cơm bên ngoài th́ mềm, ở giữa th́ sượng”
Ha ha… Hồi nhỏ tôi cũng ăn cơm đó mà không thấy khác biệt ǵ, cơm nào cũng là cơm, và nghĩ là ba tôi chỉ… vẽ chuyện.
Bây giờ già rồi; già hơn tuổi ba tôi lúc ông dạy tôi về chuyện nấu cơm và ăn cơm, tôi nhận ra rằng, trong đời, ngay cả chuyện ăn cũng cần phải có kiến thức và kinh nghiệm.
2) NGỦ CÓ KHÓ KHÔNG?
Cũng như “ăn”, “ngủ” là sinh hoạt tự nhiên của con người. Hễ đói th́ ăn; buồn ngủ th́ ngủ; cần ǵ học, mà học là học cách nào?
Nhớ trước đây một cô huê hậu VN đi máy bay, trưng ra một màn “huê hậu ngủ ngày” vô cùng “ấn tượng”. Cô nằm ngủ kiểu mà khi nh́n vào ai cũng tưởng tượng đến câu thơ của Hồ Xuân Hương “Phành ra ba góc da c̣n thiếu”. Cả cộng đồng mạng nổi sóng; kẻ khen người chê ầm ĩ. Người bênh vực th́ bảo “Ngủ th́ làm sao mà kiểm soát được”; người chê th́ bảo “Ngủ th́ ngủ cũng phải ngủ cho đẹp! Ngủ cũng phải học!” Ngủ có phải học không? Cá nhân tôi th́ tin rằng có. Thế hệ trước đây, trong gia đ́nh, từ khi c̣n nhỏ, cha mẹ đă canh chừng gắt gao con cái khi ngồi khi nằm, nhất là con gái. Khi thấy nó nằm hay ngồi hớ hênh quá th́ nhắc, chỉnh cho nó ngồi ngay ngắn, đúng cách lại. Và cả khi ngủ, thấy chúng nằm không ngay, không đẹp mắt th́ “sửa” lại cho ngay. Lâu dần, sẽ thành thói quen, tay chân phành ra hay khép lại đều có “ư thức”; “ư thức” cả trong “vô thức”; lớn lên sẽ không mắc phải cái cảnh ngủ ngày đầy “ấn tượng” như cô huê hậu đó.
Đó là ngủ đơn. Giờ nói chuyện ngủ kép. Trước đây, xă hội VN, trai gái đi đâu cũng phải trai ngủ riêng, gái ngủ riêng. Ngày nay dưới thời “VC rực rỡ” trai gái kéo nhau đi chơi, đi du ngoạn, tối lại ngủ chung với nhau không “ngại ngùng” gi cả. Tôi đă chính mắt xem những cái video clip do bọn trẻ quay lại rồi bỏ lên mạng.
Khổng Tử sống mấy ngàn năm trước, nhưng ông hiểu rơ cái khác nhau giữa lư trí và thể xác, nên chủ trương “nam nữ thọ thọ bất thân”. Thể xác khi “thích” th́ lư trí không “can ngăn” nổi. Cho nên mới nam nữ không được gần gũi nhau. Cọ vào th́ nẹt lửa. Lư trí không nhảy vào can thiệp được. Trừ thánh nhân ra, c̣n người phàm th́ không thể dùng lư trí để kiểm soát những phản ứng của thể xác được. Không ai có thể dùng lư trí để làm cho ḿnh không cảm thấy đau khi bị dao đâm vào da thịt chẳng hạn. Hồi trẻ tôi có nghe một câu chuyện thực như thế này. Thời Tây, một cặp vợ chồng kia chạy không kịp khi lính Tây kéo đến. Người chồng leo lên nóc nhà trốn. Cô vợ bị một tên lính Tây đè ra hiếp. Anh chồng ở bên trên nh́n xuống chứng kiến từ đầu tới cuối. Khi lính Tây rút đi, anh chồng vác dao rượt chém cô vợ. Những người lớn tuổi trong làng đứng ra khuyên can, bảo rằng đó là “ách nước”, chứ có ai muốn vậy đâu. Anh chồng sừng sộ đáp: “Tui chém là chém cái tội nó ở dưới… nẩy lên!” (thanh tao hơn th́ “Tui chém nó v́ cái tội nó rên”)
Tôi tin rằng cô vợ không muốn vậy. Không muốn bị hiếp. Không thích bị hiếp. Không mong bị hiếp. Rất xấu hổ khi bị hiếp. Nhưng những thứ đó thuộc phần lư trí. C̣n phần thể xác th́ khi đă đúng nơi, nói theo kiểu “khoa học hiện đại” là khi đă điểm đúng “huyệt G” rồi th́ dù một tỷ thằng “lư trí” nhảy vào bảo nằm im, cũng không thể nằm im được, không thể không “nẩy lên” được!
Cho nên lúc nào cũng phải học, tuổi nào cũng phải học và việc ǵ cũng phải học. Học để biết. Biết để hiểu. Và hiểu để có sự cảm thông với chính ḿnh và với tha nhân.
3) “ẤY” CÓ KHÓ KHÔNG?
Xin kể ngay một câu chuyện nữa, cũng thuộc loại “người thật việc thật”: Hồi người Việt mới sang tỵ nạn ở Mỹ, có anh chàng Việt lần đầu “vật lộn” với một cô gái Mỹ. Phụ nữ Mỹ họ rất tự nhiên, không thẹn thùng, e lệ như phụ nữ Á châu; nên khi “vật lộn” th́ họ nhiệt t́nh lắm: la hét, cào cấu, hổn hển y như sắp… tắt thở tới nơi khiến anh chàng VN hoảng quá; đang tấn công sắp chiếm được thành rồi mà thấy “địch” la dữ quá tưởng “nó” sắp… chết, nên vội ngưng lại xem chuyện ǵ. Cô gái Mỹ chưng hửng, ngưng… hổn hển và hỏi ráo hoảnh: “Chuyện ǵ vậy?”. Ha ha… Té ra không phải “nó” tắt thở; mà là “nó” đang… nín thở!
Vậy “ấy” có cần học không? Dĩ nhiên là cần! Nếu không tại sao từ ngàn xưa cho đến ngày nay người ta viết hàng đống sách để dạy? Nhưng học là học cái ǵ? Chuyện “ấy” th́ cũng như ăn. Hễ đói th́ kiếm cái ǵ cho vào mồm, nhai rồi nuốt, khó ǵ đâu?
Không phải vậy. Nếu mọi việc trên đời chỉ để thoả măn chính ḿnh th́ cứ sống theo bản năng, không cẩn học. C̣n nếu biết yêu thương nhau, biết trân trọng nhau, biết nghĩ đến nhau trong mọi hoàn cảnh, biết “chia ngọt xẻ bùi” th́ phải học. Học để biết cách cùng đưa nhau lên… thiên thai. Tinh thần và thể xác là hai phần không thể tách rời của đời sống con người.
Các bậc thánh nhân có thể yêu theo kiểu thánh nhân là yêu chay, yêu tinh thần, không cần hôn hít, ve vuốt ǵ cả. C̣n người phàm th́ đại đa số ai cũng cần có một cuộc sống cân bằng về cả hai phương diện tinh thần và thể xác. Không có một t́nh yêu trai gái nào bền vững lâu dài nếu t́nh yêu đó không có t́nh dục; và ngay cả có t́nh dục mà phần t́nh dục đó không cân bằng, nhưng lại không có sự cố gắng của người trong cuộc để học hỏi mà bù đắp, san sẻ yêu thương cho nhau th́ t́nh yêu cũng khó vững bền..
Trong cuốn “Lady Chatterley’s Lover” nhà văn D. H. Lawrence kể chuyện một cặp vợ chồng trẻ thuộc giai cấp quư tộc bên Anh cưới nhau được vài năm; rồi người chồng nhập ngũ và sau đó bị thương liệt cả hai chân, không c̣n có khả năng đàn ông nữa. Từ đó, cuộc sống vợ chồng của họ thời gian đầu vẫn b́nh thường nhưng về sau th́ thay đổi hẳn. Cô vợ tuy yêu chồng nhưng sự thiếu thốn về t́nh dục dẫn đến việc cô có quan hệ xác thịt với người đàn ông quản gia… Về sau, cô vợ bỏ chồng chạy theo người t́nh mà lúc đầu quan hệ chỉ đơn thuần là v́ t́nh dục, rồi dần dà nảy sinh t́nh yêu…..
Câu chuyện c̣n dài. Nhưng tựu chung tác giả muốn nói một điều là t́nh dục là một phần không thể thiếu của t́nh yêu. Không có nó t́nh yêu sẽ chết. Mà ngay cả có t́nh dục nhưng nếu đó chỉ là một hoạt động theo bản năng th́ t́nh yêu cũng sẽ chết. T́nh dục cần được học hỏi để trở thành một hoạt động để bày tỏ, san sẻ yêu thương chứ không phải chỉ đơn thuần để thoả măn nhu cầu sinh lư cho riêng cá nhân ḿnh.
LỜI KẾT
Trong bốn cái khoái của con người, ba cái đầu đă nói qua trong những stt trước rồi, c̣n cái khoái thứ tư th́ tương đối không có ǵ nhiều để học. Chỉ cần kiểm soát chuyện ăn uống của ḿnh để khỏi bị Tào Tháo rượt, và đừng có bạ đâu ỉa đái đó như khỉ trên rừng th́ mọi chuyện sẽ ổn thoả. Cho nên không cần phải dài ḍng.
***
Để kết lại, xă hội VN xưa, con người từ lúc mới sinh ra đến khi trưởng thành đều được gia đ́nh và học đường dạy dỗ nghiêm khắc. Từ chuyện ăn, chuyện ngủ, chuyện “ấy” đến chuyện đại tiện, tiểu tiện đều được nhắc nhở, chỉ bảo cặn kẽ. Nhờ vậy mà xă hội trật tự, ổn định, lành mạnh. Đời sống có thể thiếu tiện nghi, chật vật; nhưng con người đối đăi với nhau trong yêu thương và tôn trọng; sẳn sàng giúp đỡ, nhường nhịn, che chở cho nhau. Ngày nay, từ khi bọn khỉ rừng tràn về thành phố, biến phố thành rừng th́ mọi giá trị mà cha ông chúng ta đă dày công xây dựng đều trở thành công cốc. Bọn khỉ rừng đó “sống, chiến đấu” bằng bản năng khỉ rừng của chúng; dùng cái sức mạnh của loài thú tràn về chiếm được thành phố rồi th́ tưởng ḿnh là cái rốn của vũ trụ, một bước từ khỉ thành người, không cần học; không học từ những chuyện cần học để làm một con người có phẩm cách như ăn, uống; mà ngay cả học để thu thập kiến thức để xây dựng đất nước cũng không học nốt. Chỉ cần mỗi con mua một cái bằng tiến sĩ, phó tiến sĩ, kỹ sư dán trước ngực là đă tự cho ḿnh trí thức, tài ba lỗi lạc rồi. V́ vậy mà chúng ăn không từ một thứ ǵ; ăn xương máu nhân dân, ăn rừng, ăn biển, ăn ruộng vườn, ăn đất đai, ăn cứt con nít, ăn mồ hôi háng phụ nữ, ăn luôn cả hài cốt liệt sĩ từng một thời là đồng chí của chúng. C̣n ngủ th́ bạ đâu ngủ đó; ngủ cả trong khi đang “họp quốc hội”, đứa há mơm, đứa nghẽo đầu, đứa xuôi tay, đứa dạng chân. Đến cái món đ. th́ c̣n kinh khủng hơn nhiều. Chúng đ. từ trẻ con đến người lớn; cha đ. bồ của con trai; đ. vợ, đ. chồng “đồng chí” của nhau. V́ ăn tạp, ngủ tạp và đ. tạp như vậy nên chúng bạ đâu ỉa, đái đó, khiến cả một nước bây giờ thúi um. Một bọn cầm quyền như vậy th́ xă hội VN ngày nay nát bét như tương là chuyện đương nhiên. Giả như lũ khỉ rừng đó có lăn ra chết hết hôm nay th́ xă hội VN cũng phải cần một trăm năm nữa để học lại những giá trị tốt đẹp của cha ông mà ăn không giành giựt, ngủ không “phành ra ba góc”; trở về lại với cách sống nhân bản của ông cha chúng ta đă làm từ nhiều thế hệ trước.
Cho nên, nhân gian có câu châm biếm này: “Nhân bất học, bất tri lư; nhỏ không học lớn làm tỉnh uỷ”. Muốn làm người th́ chuyện ǵ cũng phải học, lúc nào cũng phải học, tuổi nào cũng phải học.
Học làm người mới khó; chứ làm khỉ th́ có khó ǵ!
VNCH đă để lại 'di sản lớn về văn hóa và giáo dục'
Nguyễn Quang Duy Gửi bài cho BBC News Tiếng Việt từ Úc
Việt Nam Cộng Ḥa thành lập ngày 26/10/1955, đang lúc chiến tranh nên quốc sách bảo vệ tự do được ưu tiên, nhưng không phải v́ thế mà quên lăng mục đích xây dựng một xă hội dựa trên triết lư nhân bản, khai phóng và dân tộc.
Lời mở đầu Hiến Pháp 1956 ghi rơ: "…dân tộc ta sẵn sàng tiếp nhận các trào lưu tư tưởng tiến bộ để hoàn thành sứ mạng trước đấng Tạo hóa và trước nhân loại là xây dựng một nền văn minh và nhân bản bảo vệ phát triển con người toàn diện."
C̣n Điều 11 của Hiến pháp 1967 ghi rơ "Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản."
Chợ Lớn thời VNCH và thời nay
Đă có một 'chủ nghĩa cộng ḥa' trong chính trị VN
Về trận Phước Long ở Tây Ninh năm 1975
Hóa ra có tới hai 'Tháng Tư Đen'
Con người làm gốc
Việt Nam Cộng Ḥa nh́n nhận mọi người đều có quyền và có bổn phận như nhau, không ai được sử dụng người khác làm phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu cá nhân hay đảng phái.
Người miền Nam tin rằng giới lănh đạo cũng là con người nên đều mắc phải những sai lầm, v́ thế cần xây dựng một thể chế đa nguyên, đa đảng đối lập, với luật pháp chặt chẽ để kiểm soát quyền lực của tầng lớp lănh đạo.
Việt Nam Cộng Ḥa nh́n nhận sự khác biệt giữa người và người, ngăn cấm việc kỳ thị giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, sắc tộc, tŕnh độ học vấn hay kỳ thị dựa trên lư lịch, trên chính kiến, mọi người đều có cơ hội b́nh đẳng.
Mọi chiến lược, chính sách, chủ trương, hành động quốc gia đều phải phù hợp với nhân sinh quan về con người, với mục đích phục vụ con người, quan tâm tới quyền lợi và hạnh phúc của con người.
Ngoài việc xây dựng thành công nền giáo dục nhân bản, mọi sinh hoạt tôn giáo, sắc tộc, hướng đạo, văn hóa, văn nghệ, nghệ thuật, dân sự đều được đối xử một cách công bằng không thiên vị.
Chính quyền miền Nam nh́n nhận và bảo vệ quyền con người, quyền dân sự được ghi trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế nhân quyền.
Trong hoàn cảnh chiến tranh, gia đ́nh những người theo cộng sản vẫn được đối xử một cách công bằng như mọi công dân khác, được pháp luật bảo vệ, được quyền bầu cử, quyền gia nhập quân đội bảo vệ đất nước, quyền tham gia chính trị, được làm ăn buôn bán, con em họ được đến trường như mọi trẻ em khác tại miền Nam.
Từ năm 1962, chương tŕnh Hồi chánh giúp trên 200 ngàn cán binh cộng sản buông súng quay về tạo dựng cuộc sống mới trong cộng đồng dân tộc.
Dân tộc làm nền tảng
Tinh thần dân tộc được h́nh thành và phát triển theo gịng lịch sử, tạo t́nh đoàn kết, gắn bó dân tộc và phát triển quốc gia.
Trong thời b́nh thúc đẩy người dân đóng góp phát triển kinh tế, xă hội, văn hóa, nghệ thuật, nâng cao dân trí. Vào thời chiến giúp toàn dân đoàn kết đánh đuổi ngoại xâm.
Việt Nam Cộng Ḥa luôn đề cao các giá trị lịch sử dân tộc, độc lập, tự chủ, ngôn ngữ, nghệ thuật, văn hóa. Ngay từ tấm bé trẻ em miền Nam được dạy yêu nước thương ṇi.
Người miền Nam luôn tôn trọng các giá trị đặc thù, các truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong mọi sinh hoạt gia đ́nh, nghề nghiệp, sắc tộc, địa phương và đất nước.
Chính phủ miền Nam chủ trương bảo tồn và phát huy những tinh hoa, những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc, để không bị mất đi hay bị đồng hóa với văn hóa nước ngoài.
Người miền Nam giữ ǵn văn hóa dân tộc nhưng luôn cởi mở, cầu tiến, học hỏi, gạn lọc điều hay cái đẹp của văn hóa dân tộc khác.
Tự do để tiến bộ
Việt Nam Cộng Ḥa lấy triết lư khai phóng làm giường cột thăng tiến, mọi người được tự do mở rộng tầm nh́n, tự do trau dồi năng khiếu, tự do ngôn luận, tự do quyết định cho chính ḿnh, tự do t́m ra sự thật, ra điều hay, lẽ phải, t́m đến chân, thiện, mỹ.
Ngay từ nhỏ trẻ em miền Nam đă được giáo dục tự do, được khuyến khích mở rộng tầm nh́n tiếp nhận những tư tưởng và kiến thức tân tiến trên thế giới.
Nhờ vậy xă hội miền Nam đào tạo được những công dân tự do, sẵn sàng nhận trách nhiệm, tôn trọng luật pháp, biết xây dựng kinh tế, phát triển xă hội, đón nhận văn minh thế giới và tích cực đóng góp vào sự thăng tiến nhân loại.
Miền Nam đă xây dựng một hiến pháp và một thể chế dân chủ tam quyền phân lập rơ ràng.
Nền Cộng Ḥa tại miền Nam có thể được xem là một nền dân chủ hiến định và pháp trị tiên tiến vào bậc nhất trong khu vực Á châu thời ấy.
Nền tảng triết lư Việt Nam Cộng Ḥa
Tổng hợp ba tinh thần nhân bản, khai phóng và dân tộc tạo thành triết lư xây dựng Việt Nam Cộng Ḥa, một quốc gia vừa giành được độc lập, phải đối đầu với chiến tranh và chỉ trong ṿng 20 năm đă xây dựng được nền tảng vững chắc.
Một quốc gia với kinh tế tự do, y tế đại chúng, người cày có ruộng, báo chí tự do, tôn giáo, văn học, văn nghệ, nghệ thuật phát triển tự do, và một nền dân chủ hiến định, pháp trị với tam quyền phân lập rơ ràng.
Một xă hội dân sự với nhiều hội đoàn dân sự, gồm các tổ chức tôn giáo, nghiệp đoàn, hướng đạo, đồng hương, tương trợ, từ thiện, nghiên cứu, các câu lạc bộ, đă được h́nh thành tại miền Nam.
Đặc biệt, nền giáo dục dựa trên nhân bản, khai phóng và dân tộc, đă đào tạo được những thế hệ công dân tốt cho miền Nam, cho Việt Nam và cho nhân loại.
Văn hóa Việt Nam Cộng Ḥa ở hải ngoại
Con người làm gốc, dân tộc làm nền, tự do để tiến bộ đă trở thành nền tảng văn hóa Việt Nam Cộng Ḥa, được bảo tồn và được truyền đạt đến các thế hệ Việt Nam ngày nay.
Văn hóa thể hiện qua cách sống cách suy nghĩ. Người Việt Nam Cộng Ḥa sống, suy nghĩ và hướng về tương lai hoàn toàn khác với người cộng sản.
Sau 20 năm chia cắt lấy thời điểm 30/4/1975 làm mốc, miền Bắc đă trở thành một bản sao của cộng sản Trung Hoa.
Xem lại phim ảnh cách ăn mặc, cách phục sức, cách sống, cách giáo dục, xem lại sách báo, lại văn thơ, lại âm nhạc, lại tranh ảnh miền Bắc bạn sẽ dễ dàng nhận ra điều này.
Ở hải ngoại, 44 năm qua người Việt Nam Cộng Ḥa vừa bảo vệ cộng đồng, bảo tồn văn hóa, vừa hỗ trợ quốc nội đấu tranh cho tự do và vẹn toàn lănh thổ.
Ở những nơi đông người Việt sinh sống nhiều hội đoàn dân sự được thành lập, có trường dạy tiếng Việt, có sách giáo khoa soạn theo chương tŕnh trước 1975, có tổ chức những buổi lễ ghi ơn các anh hùng dân tộc, tổ chức Tết, Tết Trung Thu cho trẻ em.
Mỗi gia đ́nh đều cố gắng ǵn giữ tiếng Việt cho con em, duy tŕ những sinh hoạt gia đ́nh và cộng đồng, vừa giảng giải cho con em truyền thống dân tộc, vừa nhắc nhở con em lư do phải bỏ nước ra đi.
Nhiều ban nhạc, ban kịch, ban cải lương, câu lạc bộ văn học nghệ thuật và cả điện ảnh cũng được h́nh thành ở khắp nơi.
Truyền thanh, truyền h́nh và báo chí là những phương tiện phục vụ cộng đồng có mặt ở mọi nơi.
Nhiều nơi c̣n xây dựng đền thờ Quốc Tổ, đền thờ và tượng đài các anh hùng dân tộc, viện bảo tàng, chùa, nhà thờ, vơ đường, trung tâm sinh hoạt cộng đồng.
Phục hồi những ǵ từ quá khứ ra sao đây?
Ở trong nước, người c̣n nhớ Việt Nam Cộng Ḥa vẫn âm thầm ǵn giữ và truyền bá cho thế hệ tiếp nối nền văn hóa nhân bản, khai phóng và dân tộc.
Theo tôi, sức sống của văn hóa Việt Nam Cộng Ḥa vô cùng mănh liệt.
Dù bị chính quyền hiện nay cấm âm nhạc, văn học, nghệ thuật, cách sống tại Việt Nam ngày nay được phục hồi mạnh mẽ.
Phong trào thoát Trung chính là nỗ lực đẩy lùi tỳ vết văn hóa Trung Quốc cộng sản đưa vào Bắc Việt Nam từ giai đoạn 1950-54 c̣n tồn đọng tại Việt Nam.
Ngay cả nhiều người cộng sản miền Nam trong tiềm thức vẫn chưa quên một xă hội miền Nam đầy nhân bản, khai phóng và dân tộc.
Trước Quốc Hội cộng sản, 12/9/2018, bà chủ tịch Nguyễn Thị Kim Ngân phải thừa nhận kiến thức về sử kư và địa lư nước nhà, bà học từ thời Việt Nam Cộng Ḥa nay vẫn nhớ không quên điều ǵ.
Bà Ngân biểu lộ ḷng luyến tiếc v́ giờ đây trẻ em học hành khổ sở, nhưng sử kư và địa lư nước nhà hầu hết đều không biết.
Triết lư nhân bản, khai phóng và dân tộc ngày nay được nhiều người miền Bắc biết đến, nhất là giới trẻ Việt Nam những người đang t́m kiếm một con đường khác với cộng sản chủ nghĩa đă bị nhân loại đào thải.
Tự do và dân chủ chỉ là điều kiện cần, mục đích và triết lư sống của dân tộc là điều kiện đủ để phục hồi Việt Nam.
Mục đích và triết lư sống giúp mỗi dân tộc biết đang ở đâu, đang làm ǵ, đang sống như thế nào, sẽ đi về đâu, đi cách nào và làm sao để đạt được mục tiêu tối thượng trong hoàn cảnh và khả năng có được.
Tôi tin rằng mục đích, triết lư và văn hóa xây dựng xă hội thời Việt Nam Cộng Ḥa đă thích hợp và thành công ở miền Nam, cũng sẽ thích hợp với cả nước một ngày trong tương lai.
Nhân bản, khai phóng và dân tộc sẽ trở thành mục đích, triết lư và văn hóa chung cho toàn dân tộc làm nền tảng đưa đất nước đi lên theo kịp đà tiến bộ và văn minh nhân loại.
Bài thể hiện quan điểm riêng của ông Nguyễn Quang Duy từ Melbourne, Australia.
Tỉnh Thức: Không Có Gì Gọi Là Bế Tắc Cả!
https://i.postimg.cc/0ychv2b3/2014-05-27-b3xzkqxusbj1111.jpg (https://postimages.org/)
Thiền sư Vô Căn trong một lần nhập định 3 ngày, thần thức của ông xuất khỏi thân thể. Các đệ tử tưởng lầm rằng ông đă tịch diệt nên mang nhục thân ông đi hỏa táng. Sau 3 ngày thần thức của ông trở về nhưng không t́m được nhục thân. T́m không được nhục thân nên thần thức thiền sư Vô Căn quanh quẩn nơi căn pḥng ông ở, liên tiếp than thở nhiều ngày đêm thống thiết : Tôi ơi, Tôi ở đâu?… Tôi ơi, Tôi ở đâu?…
Điều này làm cho các đệ tử của ông rất kinh sợ.
Một người bạn của thiền sư Vô Căn là thiền sư Diệu Không nghe tin liền đến thiền viện và bảo các đệ tử của thiền sư Vô Căn là đêm đó thiền sư sẽ nghỉ lại trong pḥng của thiền sư Vô Căn rồi nhờ họ mang đến cho ông một thau nước và một bếp lửa.
Đêm đến, thiền sư Diệu Không nghe thấy tiếng than thống thiết của bạn : Tôi ơi, Tôi ở đâu ...?… Tôi ơi, Tôi ở đâu?…
Thiền sư Diệu Không liền nói với thần thức của thiền sư Vô Căn :
- Ông ở trong bùn.!
Thần thức thiền sư Vô Căn liền lao xuống bùn t́m kiếm. Một lát sau thần thức thiền sư Vô Căn trở lại gặp thiền sư Diệu Không nói :
- Tôi t́m măi mà không có Tôi trong bùn.
Thiền sư Diệu Không chỉ tay vào thau nước nói :
- Ông ở trong nước.!
Thần thức thiền sư Vô Căn lẩn vào trong nước t́m kiếm. Lát sau thần thức của ông trở lại gặp thiền sư Diệu Không nói :
- Tôi t́m Tôi măi trong nước, vẫn không có ...!
Thiền sư Diệu Không lại chỉ tay vào bếp lửa nói :
- Ông ở trong lửa.!
Thần thức thiền sư Vô Căn lao vào trong lửa t́m kiếm. Lát sau thần thức của ông trở lại gặp thiền sư Diệu Không nói :
- Tôi t́m Tôi trong lửa măi vẫn không có.!
Lúc này thiền sư Diệu Không chỉ tay vào hư không nói :
- Ông ở trong hư không.!
Thần thức của thiền sư Vô Căn bay vào trong hư không t́m kiếm. Lát sau thần thức của ông trở lại gặp thiền sư Diệu Không nói :
- Tôi t́m Tôi khắp nơi trong hư không mà vẫn không t́m được ...
Khi ấy thiền sư Diệu Không lại nói :
- Ông là người có đầy đủ thần thông, thần lực, an nhiên tự tại đi và đến khắp mọi nơi mọi chổ từ bùn đến nước, từ nước đến lửa, từ lửa đến hư không như thế th́ lư do ǵ mà ông cứ phải dính mắc với cái thân thể hôi dơ đó chứ.?
Nghe vậy, thần thức của thiền sư Vô Căn liền tỉnh thức. Kể từ đó không c̣n ai nghe tiếng thở than thống thiết của thần thức thiền sư Vô Căn.”
(Trích theo một truyện thiền Nhật Bản)
Hầu như tất cả mọi người sống trên trái đất này không một ai tránh khỏi một lần vấp ngă và nhận chịu khổ đau ! Có khi c̣n phải đối mặt với những việc làm cho ḿnh khổ đau đến cùng tận, những tưởng rằng ḿnh đă cùng đường, cứ đắm ch́m, ngụp lặn, lăn lộn, vướng mắc trong nỗi khổ đau tưởng như "cùng tận" ấy và chẳng c̣n nhớ ǵ đến những hạnh phúc, những nỗi vui hiện diện xung quanh ḿnh.!
Người bạn này không trung nghĩa th́ ḿnh c̣n nhiều người bạn trung nghĩa khác. Chổ này công việc không tốt th́ c̣n vô số chỗ khác công việc tốt hơn. Thất bại hôm nay nhưng c̣n có ngày mai. Thi rớt kỳ này nhưng vẫn c̣n kỳ tới. Đứa con dâu ngỗ nghịch với ḿnh th́ ḿnh c̣n đứa con trai. Đứa con trai ngỗ nghịch với ḿnh th́ ḿnh c̣n đứa con gái. Đứa con gái ngỗ nghịch với ḿnh th́ ḿnh c̣n đứa con rể. Đứa con rể ngổ nghịch với ḿnh th́ ḿnh c̣n đứa con dâu. Tất cả đều ngỗ nghịch với ḿnh th́ ḿnh c̣n có ông chồng (bà vợ). Ông chồng (bà vợ) phản bội ḿnh th́ ḿnh c̣n có cha mẹ, anh chị em, bạn hữu, con cái, cháu chắt, và thậm chí là chính bản thân ḿnh. Đừng cho phép bất cứ ai làm ḿnh đau khổ.! Khổ hay vui là do chính bạn đấy. Bạn là người có toàn quyền quyết định cái khổ, cái vui cho ḿnh trong mọi biến cố xảy ra trong đời bạn. Bạn đau khổ v́ bạn cho rằng người khác làm cho bạn đau khổ ! Trong khi người làm cho bạn khổ đau luôn tự tại an nhiên ! Vậy tại sao bạn lại tự làm ḿnh đau khổ ...? Hơn hết, Khổ đă tận, th́ Cam sẽ lai, như là giờ phút thần thức thiền sư Vô Căn được thiền sư Diệu Không giúp cho tỉnh thức.
Sưu tầm
hoanglan22
11-01-2019, 05:11
1. Khi CHƯA TU, ta thường nghĩ rằng biết níu giữ là khôn ngoan. Nhưng khi TU RỒI, ta mới nhận ra rằng biết buông bỏ mới là trí tuệ.
2. Khi CHƯA TU, ta thường nghĩ rằng người giàu có là người lấy về rất nhiều. Nhưng khi TU RỒI, ta mới biết rằng người giàu có là người cho đi rất lớn.
3. Khi CHƯA TU, ta thường nghĩ rằng mạnh mẽ là vượt qua người khác. Nhưng khi TU RỒI , ta mới biết rằng mạnh mẽ là vượt qua chính ḿnh.
4. Khi CHƯA TU, ta thường nghĩ rằng kẻ nói nhiều là kẻ thông minh. Nhưng khi TU RỒI, ta mới biết rằng người biết lắng nghe mới là người thông thái.
5. Khi CHƯA TU , ta thường nghĩ rằng nếu ta thắng phải có hơn người thua. Nhưng khi TU RỒI, ta mới biết rằng đến nơi là mọi người cùng thắng.
6. Khi CHƯA TU, ta thường muốn sống thật lâu. Nhưng khi TU RỒI, ta muốn sống sao cho có ư nghĩa với cuộc đời .
7. Khi CHƯA TU, ta thường muốn người khác chấp nhận ḿnh. Nhưng khi TU RỒI , ta nhận ra rằng chỉ cần ḿnh chấp nhận ḿnh là đủ.
8. Khi CHƯA TU, ta mong muốn thay đổi cả thế giới. Nhưng khi TU RỒI, ta mong muốn thay đổi chỉ bản thân ḿnh mà thôi.
9. Khi CHƯA TU, ta thường nghĩ rằng khi trưởng thành, ta sẽ không c̣n bị tổn thương. Nhưng khi TU RỒI, ta mới biết rằng, trưởng thành là biết điều chỉnh tiếng khóc về chế độ im lặng.
10. Và khi CHƯA TU, ta thường nghĩ rằng có tiền sẽ có t́nh yêu, có vật chất người ta sẽ quư
Nhưng khi TU RỒI, ta mới biết rằng: KHI LƯƠNG THIỆN BẠN SẼ CÓ MỌI TRÁI TIM.
hoanglan22
11-19-2019, 14:52
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1486687&stc=1&d=1574175106
May muốn gặp anh em chú bác cô d́ một lần. Cũng đă hơn bốn mươi lăm năm anh em thất tán, kẻ xiêu lạc ngơ này, người xiêu lạc ngơ kia. Nghĩa là qua cuộc đổi đời. Ngày đó May c̣n là một cô nữ sinh mười sáu tuổi, tóc thề thả chấm ngang vai, áo dài trắng thướt tha, ôm tập vở đến trường nữ trung học. Bỗng nhiên, như cuốn phim đang chiếu trong rạp, khán giả đang xem ngon lành, hấp dẫn, bị cắt đứt. Khán giả có la ó phản đối bao nhiêu rồi cũng thôi. May nghỉ học. Và từ đó anh em thất tán nhau. Người ta thường truyền miệng, ngày ấy là "ngày đứt phim".
Từ đó, người theo bên này, kẻ theo bên kia, dằng xé, nh́n nhau bằng đôi mắt h́nh viên đạn, dè chừng, coi như không thân thiện... có kẻ c̣n chơi nhau sát ván. Những ganh ghét, thù oán cá nhân đều được đem ra tung... hứng, đến nổi, anh em, bà con trở nên hận, thù, hay ít ra cũng xa cách.
Có người kể rằng, ngày trước có ông thầy đuổi học một học tṛ ngỗ nghịch, chọc phá, gây ồn ào, náo loạn trong lớp. Anh ta cḥng ghẹo nữ sinh, nói tục, xé ngang tà áo dài trắng của một cô, lộ ra một mảng ngưc trắng phau, núm vú đỏ hồng... Cô nữ sinh chỉ biết khóc, co ro trong một xó. Ông thầy tức quá, bèn bợp tai đứa học tṛ ngỗ nghịch kia và lên văn pḥng kể tội hắn với thầy hiệu trưởng. Đề nghị đuổi học. Đứa học tṛ tức quá, về nhà có dịp móc nối với phía bên kia, liền "nhảy núi".
Đến ngày đứt phim, hắn trở về với nón tai bèo, khẩu AK, đến nhà ông thầy, kêu thấy ra bắn giữa sân, ông thầy chết miệng c̣n há hốc, chưa kịp nhận ra đứa học tṛ cũ, cũng không hiểu ḿnh bị tội ǵ. Thầy chết, máu loang tung tóe, khiến ai cũng le lưỡi, sợ hăi.
Nhưng ngày đó, đă qua lâu quá rồi. Mấy ông cậu, ông chú, ông bác "ngày đứt phim" c̣n trẻ măng, nay đă theo ông bà ông vải gần hết rồi... Chỉ c̣n đám trẻ loi choi, cuối cùng cũng tụ hội tại Mỹ. Nên May muốn mời mấy anh, chị, em, tới nhà ḿnh chơi, lai rai chút đỉnh với ông xă. Ông chồng May cũng thích "lai rai" nên đồng ư ngay, cái điều May đề nghị.
- Anh à, anh em bà con chú bác cô d́ của em ở đây có khoảng đâu mười người, nhà ḿnh có khu sân sau, chiều mát, em làm chút đồ ăn, kêu mấy người tới chơi, lai rai với anh, nhen.
Hoạt th́ nghe May nói, nghĩ ngay tới mấy chai bia Hein mà từ lâu, May không cho anh uống, nàng vẫn dè chừng, có phần dọa dẫm, anh cẩn thận đó, trong bia đường nhiều lắm, có nguy cơ cao đường đó nghe anh. Nay, nhân dịp này, vừa ch́u ḷng May, vừa được uống bia thỏa thích, dại ǵ không đồng ư:
- Anh OK em à, anh chị em em lâu rồi không gặp, gặp lại ở đây th́ vui, em tha hồ tâm sự.
- Vậy nhe anh. Em sẽ làm bánh cuốn ram quê em để đăi khách, để nhớ lại những ngày nhỏ, bà nội thường làm cho tụi em ăn.
Bánh ram cuốn là một món ăn dân dă, chỉ có từ Nha Trang trở ra Quảng Nam, Quảng Ngăi. Tuy gọi là ram, nhưng mỗi nơi có lối làm riêng. Món ram thơm ngon, ḍn rụm quấn bánh tráng rau sống, cũng làm nhiều người nhớ về thời thơ ấu ở quê, mẹ thường làm cho ăn.
May điện thoại cho những người thân, hẹn, nói với từng người, đúng 4 giờ chiều nghe anh, chị. Giờ này trời đă mát, ngồi ngoài sân nhậu mới vui.
Bữa tiệc nhậu toàn là anh em chú bác cô cậu d́, những người "ngày đứt phim" mới mười sáu, mười bảy, bây giờ ai cũng đă lên trên hàng sáu, có người đă ngồi sui, có người đă có cháu nội, ngoại. Thời gian qua choáng ngợp cuộc đời.
***
Anh Dinh mang đến môt hộp lê hàn quốc, những trái lê màu vàng ươm.
Anh chị Thụy th́ đem một thùng táo tàu. Và nhiều anh chị em khác nữa. Riêng anh Duy, chỉ một ḿnh anh tới, không có người đàn bà đi theo, kệ nệ vác thùng bia Hein 24 chai, lên cầu thang lầu 2 của căn nhà. Khi lên tới nơi, khuôn mặt đỏ hồng của Duy đă thấm mồ hôi, thở dốc.
Duy là người đến trễ nhất, ai cũng đă ngồi vô bàn, đă tâm sự hỏi thăm sức khỏe nhau, đă cụng gần hết một chai Ken. Thấy Duy mở cửa bước vào, ai cũng đứng bật lên, tiếp đón.
May đon đả nhất:
- Anh Duy, t́m không ra nhà sao đến trễ vậy anh?
Duy con ông chú, nhưng lớn tuổi hơn May, nên nàng vẫn gọi là anh.
Duy cười, nụ cười của bốn mươi lăm năm về trước. Nụ cười của chàng thanh niên tươi rói hai mươi tuổi.
- Chào các anh chị. Thật vạn hạnh gặp gỡ anh chị ở đây.
Anh đến bắt tay từng người, ai anh cũng cầm tay anh thật lâu.
Có người lên tiếng nói (kháy):
- Anh Duy cũng qua Mỹ ha? Nhớ năm xưa, ngày xa lơ xa lắc ấy. Hồi đó anh Duy "cách mạng" dữ lắm mà.
Duy cười, nụ cười có chút e thẹn, ngượng ngùng. Chàng cố biện hộ cho ḿnh:
- Chuyện cũ rồi mà! Có một nhà văn Nga đă nói, năm hai mươi tuổi ai không theo cộng sản là người không có quả tim. Năm bốn mươi tuổi, ai c̣n theo Cộng sản là người không có cái đầu. Câu nói có vẻ triết lư sâu xa.
Ai cũng nhớ ngày đó, Duy đă hoạt động rất hăng say trong đoàn thanh niên sinh viên Sài G̣n. Đến ngày đứt phim, anh về quê nhận lănh một chức vụ trong ban thanh niên quận ủy. Anh hăng say hoạt đồng, chạy bên này, sang bên kia, kêu gọi, đẩy mạnh mọi công tác, đảng, đoàn. Thế mà nay cũng đă sang Mỹ, cùng chung với những người cùng lứa tuổi anh, đă vượt biên sống chết trên biển Đông.
Khi Duy an tọa xong, ai cũng nghĩ hôm nay là bữa tiệc vui, sum họp gia đ́nh trên hơn bốn mươi bốn năm. Anh em, bên này, bên kia mới gặp nhau, ngày đó, kẻ đỏ, người vàng, người xanh...chia cắt, hận thù nhau... Bây giờ th́ đă xa lắc rồi... cái chiến thắng sau cùng là sự họp mặt ở Mỹ. Nay ai cũng lên chức nội, ngoại. Nghĩa là đă thành người lớn tuổi, trên dưới hàng sáu, hàng bảy rồi chứ ít ǵ đâu... Mà người lớn tuổi th́ phải rộng lượng, bao la...
Anh Dinh là người có số tuổi lớn nhất trong đám, lại là có vai vế cao, anh là con người bác cả.
- Dô đi anh em, bốn mươi bốn năm với bao thăng trầm, anh em ḿnh mới gặp nhau, nên vui lên đi chứ... Dô, dô, dô.
Mấy người đàn bà cũng dô, nhưng dô nước lọc trong chai hay nước cam, c̣n mấy anh đàn ông th́ ai cũng cầm chai Hein lên tu ngon lành...hết ba mươi phần trăm...
Lúc qua chai thứ ba, Duy bắt đầu đỏ mặt. Anh giọng trầm ngâm, tâm sự:
- Kể lại hồi đó, bây giờ em mới thấy ḿnh ngu. Mười tám tuổi, đang là sinh viên mà theo lệnh ông già đem tiếp tế thuốc men, tiền bạc cho phía bên kia ở tận Long An. Ông già đóng sẳn một thùng cạc tông, biểu mang xuống chợ Long An giao cho người phía bên kia, gặp nhau ngoài phía hông chợ, nói mật khẩu rồi giao hàng. C̣n có cả xấp tiền đô nữa, trao tay cho bên đó. Nghĩ mà lạnh người.
Ông già của Duy tức là chú chín, là chú, là cậu, những người có mặt ở đây. Ông là tay kinh tài cho phía bên kia. Ông đă làm nhiều phi vụ như Duy vừa kể, sai thằng con trai mới lớn tiếp tế tiền bạc, gạo thóc, thuốc men đến tận các tỉnh miền tây. Chuyến đi nào cũng trót lọt. Duy, khi th́ đóng vai người nông dân, người xe ôm, người bộ hành, người bán hàng rong...đủ mọi vai diễn...mục đích là tiếp tế thành công.
Lúc đó Duy nghĩ cha ḿnh là người giàu lư tưởng, v́ mục đích giải phóng dân tộc mà mạo hiểm làm những chuyện phi thường. Không phi thường sao được, nếu chuyện mà đổ bể, sẽ bị tù cả đám, sẽ mọt gông ở côn đảo hay ra pháp trường bị xử bắn là cái chắc.
Nhưng sau này đứt phim, chú chín mới thấy được phía bên kia. Nó hiện diện trên cuộc sống với những tư thù tư oán. Người bên kia t́m giết, sát hại, đưa đi tập trung cải tạo những người thua cuộc. Và chú cũng bị cho ra ŕa v́ gia đ́nh có ông cha là người Việt gốc Hoa. Chú không được tin dùng. Những người bà con trong ḍng họ, người người lục tục kéo nhau ra khỏi nước, dù có chết... Tại sao vậy cà? Chú suy nghĩ suốt hai mươi năm...Đến năm thứ hai mươi mốt chú vượt biên. Chú đem hết con cái qua Mỹ, bỏ hết gia tài ra để đóng một chiếc thuyền ra khơi. Sống ở Mỹ được mười năm th́ chú mất.
***
Lại tiếp tục cụng ly, lai rai ba sợi. Với anh Dinh, anh Thụy, anh Duy, bia Hein, nói theo thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn, 40 chai đồ bỏ. Bây giờ mỗi người đă cạn đến chai thứ sáu, sáu lần bốn hai bốn. Đúng là một thùng Hein Hoạt đă mua, đă dự tính, thế là quá đủ. Nhưng anh đă tính sai. Có thể nói các anh ở đây là "hủ ch́m". Mỗi người cưa 6 chai mà thấy tỉnh queo. Hoạt th́ khoan thai, yên tâm uống v́ anh là chủ nhà, say xỉn th́ vào giường nằm ngủ có sao, đâu có lái xe mà sợ cảnh sát hốt.
Anh thấy nên tiếp tục cuộc vui. Anh ra lấy thùng bia của Duy đem tới.
Hoạt đến tủ lạnh lấy đá, bỏ vào một cái sô rồi đem cây gắp đá đến bàn. Những chiếc ly được mang ra, tiếp tục, mỗi người một ly cối...
Hoạt nói:
- Mời quư anh tiếp tục. C̣n thùng bia này của anh Duy đem đến, không được lạnh nên ḿnh uống đá. Không say không về.
Khi đến chai thứ bảy, có lẽ nỗi sợ hăi về lái xe bị cảnh sát chộp, cũng ít đi, các anh em dạn dĩ hơn, coi trời bằng vung hơn, dù ai cũng biết rằng, cảnh sát kêu dừng lại khi đang lái xe, qua máy kiểm nghiệm, nồng độ rượu lên trên số quy định là đời tàn...Nhưng bây giờ đang vô cơ, sá ǵ phương hướng nữa.
Bàn tiệc chỉ có Duy là nhỏ tuổi hơn, nhưng anh đă trải qua những thăng trầm, bầm dập của cuộc đời, cuộc sống, từ một thanh niên lớn lên, yêu nước tràn đầy trong hồn.
Anh đă qua một đời vợ, với hai đứa con trai, nhưng bây giờ không c̣n ǵ, người vợ đă ly dị, trước ly dị giả để qua Mỹ, nay trở thành ly dị thiệt. Người vợ cũ không chịu được sự lọc lừa đó. Chàng ôm nỗi buồn đau vào ḷng, gặm nhấm theo tháng ngày, một ḿnh một chợ ở Mỹ. Ngày anh qua, đến phi trường Los, vào pḥng vệ sinh rửa mặt, thấy giấy vệ sinh lau, chùi, ê hề, không như ở quê nhà, vào toilet, t́m một miếng giấy không ra, phải mua. Nên anh nhận thức ngay, đây là một nơi đáng sống.
Chàng uống cho quên đời, hôm nay, chàng là em út, nhưng cuộc đời khuấy động trong Duy nhiều uẩn khúc, nên Duy nói nhiều... nói cũng là một chia sẻ, để làm vơi đi. Đến chai thứ mười hai th́ Duy gục xuống.
Anh Dinh, anh Thụy, chị Anh, anh chị Quang, lục tục ra về, c̣n Duy xỉn tại chỗ.
May nói với Hoạt.
- Anh cứ để anh Duy nằm đây. Chút nữa, em dọn dẹp xong, lái xe chở ảnh về.
Hoạt cũng trong cơn lơ tơ mơ. Chàng biết chàng không thể lái xe được, nên ậm ừ :
- Em tính thế cũng được. Em đưa anh Duy về hộ anh.
Trần Yên Ḥa
hoanglan22
11-20-2019, 03:51
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1486980&stc=1&d=1574221798
Sàig̣n, vào những năm 1977, 78, nếu có ai lỡ lời nói hai chữ vượt biên th́ mọi người đều e de,sợ sệt. Chỉ cần lỡ lời vài ba câu có dính líu đến hai chữ vượt biên là có thể cải tạo mút mùa. Vậy mà y lại có cái biệt danh thật là ngộ nghĩnh và hết sức ngang tàng: Công tử vượt biên.
Tôi biết y rất rành, rành hơn bất cứ người bạn thân thiết nào của y, là v́ một lư do rất đơn giản. Nhà tôi là chỗ trú chân đầu tiên của y mỗi lần vựơt biên thất bại, trốn về Sàig̣n chờ móc nối chuyến kế. Mỗi lần như vậy, nhiệm vụ của tôi là đạp xe tới nhà y báo cho gia đ́nh chuyến đi lại thất bại, cần thêm tiền chi tiêu và không quên nhắn thêm câu: "ba má, t́m cho con mối khác".
Mỗi lần thất bại như vậy, tôi lại càng thấy rơ sự trưởng thành và quyết tâm của y. Bẩy lần vượt biên không làm y nản chí mà trái lại càng làm y thêm kinh nghiệm và mưu lược hơn. Trong cuộc đời tôi, y là người bạn tôi mến phục và học hỏi được nhiều nhất. Người bạn mà có lẽ khó kiếm được trong lúc sống dưới chế độ mà "cái cột đèn nếu có chân nó cũng vượt biên". Tôi không biết được t́nh bạn ngày xưa đối xử giữa Bá-Nha và Tử-Kỳ như thế nào. Riêng tôi, lúc nào khi nghĩ tới y tôi đều nhủ thầm. Một trong những cái may mắn nhất trong đời tôi là được quen y. Tôi gặp y vào năm cuối cùng của trung học, trường Nguyễn Bá Ṭng, Gia-định, lớp 12C1.
Tôi c̣n nhớ ngày đầu tiên gặp y trong sân trường Nguyễn Bá Ṭng. Y là học sinh duy nhất chuyển từ trường tư Lasan Taberd tới. Chúng tôi th́ ngược lại, phần lớn chuyển từ trường công Hồ Ngọc Cẩn qua. Sáu chúng tôi, băng con nhà nghèo hiếu học, đang đứng chơi trước cửa lớp, th́ thấy y. Y tuy tới một ḿnh nhưng rất là tự nhiên và tự tin. Trong khi đó băng chúng tôi th́ lại e dè, ngại ngùng khi đối mặt. Có lẽ là v́ tại Tường, một người bạn trong đám chúng tôi khi thấy y, nói nhỏ:
"Cái thằng đó con trường Tây. Ông già nó giầu có tiếng trong xóm tao đó. Chị tao ngày xưa làm thợ dệt cho nhà nó. Nó con út, số bọc điều. Giầu tiền xài không hết. Tao nghe nói nhà nó bị kiểm kê đến hai ba lược rồi. Vậy mà nó vẫn phây phây như thường".
Minh, người học sinh giỏi nhất trong đám tôi nh́n Tường hỏi:
"Thế nó học cừ không""
"Tao không biết. Nhưng mà mấy thằng Tây con chắc chẳng học hành ǵ đâu. Tối ngày đi chọc gái rồi mút xúc-cù-là."
Tôi nh́n y từ trên xuống dưới để cố t́m xem có chất xúc-cù-là trong người y như Tường nói không. Cảm tưởng đầu tiên của tôi về y là giữa hai chúng tôi là hai thái cực. Y dáng dong dỏng cao, mái tóc bồng bềnh, quăn tự nhiên. So với chiều cao của người Việt Nam, th́ y bỏ xa. Tôi th́ ngược lại. Bạn bè thường gọi là "Lùn Mă tử". Tóc tôi lại thưa, loại rễ tre, xỉa thẳng đứng lên trời. Y đẻ trong gia đ́nh giầu có, nhà tôi th́ lại thiếu ăn hàng ngày. Tôi con cả, y con út. Có lẽ chúng tôi chỉ có một điều giống nhau. Học tầm thường, chả có ǵ đặc biệt. Tôi nhủ thầm như vậy trước khi bước vào lớp học đầu tiên của niên khóa 1978-79.
Không những tôi lầm, mà cả Tường cũng lầm luôn. Sự học vấn và kiến thức của y làm ngạc nhiên không những chúng tôi mà cả thầy chủ nhiệm Vật Lư Nguyễn văn Lành. Tôi c̣n nhớ thầy có nói: "Em rất có khiếu về Vật lư. Sau này có cơ hội nhớ theo nghành này. Em nhé". Chỉ trong hai tuần lễ học, bọn chúng tôi phần lớn chuyển từ Hồ Ngọc Cẩn qua, đă phải bầu y nắm một chức vụ quan trọng nhất trong lớp, đó là trưởng ban học tập.
Sở dĩ chức này quan trọng là v́ trưởng lớp do chi đoàn chỉ định, trưởngban học tập do học sinh bầu. Trưởng ban học tập phải là tay cự phách. Nó đ̣i hỏi không những thầy cô tin yêu mà anh em nể phục. Trưởng lớp phải là chi đoàn hay cảm t́nh đoàn. Trưởng ban học tập không cần nhưng phải là tay chiến, dám đối mặt với cả thầy cô lẫn chi đoàn. Y không những không chi đoàn mà c̣n lại là thành phần chế độ bất dung. Tư bản mại sản.
Có lẽ y chiếm được hết cảm t́nh của lớp chúng tôi qua cách đối xử đặc biệt đầu tiên với cô Hóa-Học Nguyễn thị Hoàng-Hoa, phó chủ nhiệm lớp. Sau một tuần lễ học, cô khảo bài bốn học sinh trong lớp. Tất cả đều không thuộc bài. Cô tức giận đỏ mặt, hét ầm ầm. Cả lớp im lặng. Y bỗng nhiên đưa tay lên xin phát biểu. Cô gật đầu. Y nói:
"Thưa cô, chúng em không thuộc bài thật là không đúng. Nhưng thái độ của cô đối xử với chúng em cũng không được hoàn toàn lắm".
Cả bọn chúng tôi đều trố mắt nh́n y như một con quái vật. Cô nổi tiếng là dữ nhất trường. Thầy giám hiệu cũng phải kiêng. Cô đẹp, giỏi, hơi lớn tuổi, chưa lập gia đ́nh nên ... chẳng sợ ai. Tôi nhớ mặt cô đang từ đỏ chuyển sang tái xanh. Cô vừa nói vừa thở:
"Em nói rơ tôi nghe chỗ nào tôi đối xử không đúng""
Y ung dung trả lời:
"Chúng em không thuộc bài, cô la th́ đúng nhưng không v́ vậy mà cô tức giận, nhăn nhó. Cô sẽ già lẹ, đau tim, chết sớm. Chúng em không thuộc bài, cô có quyền la nhưng không có quyền tự hành hạ thân thể ḿnh như vậy."
Cô nh́n y một lúc rồi không nhịn được phải ph́ cười. Cả lớp chúng tôi phá lên cười theo. Đời cô từ đó cũng thay đổi nhiều v́ học được một nhân sinh quan mới từ y.
Y học giỏi không chỉ một vài môn mà đặc biệt ở tất cả các môn học. Từ Toán, Lư, Hóa, cho đến Luận văn, Anh văn, Sinh vật, và cả ...Chính trị nữa. Thầy Khải tập kết, chuyên dậy môn Chính Trị học, có lần ngạc nhiên hỏi: "Kiến thức em về Bác thật là uyên bác. Có nhiều chuyện về Bác không hiểu em đọc từ đâu mà thầy cũng chưa từng nghe tới bao giờ".
Sau này, Tường có kể tôi nghe y nói y lấy từ những chuyện danh nhân và lănh tụ nổi tiếng trên thế giới rồi cứ việc sửa George Washington, Charles De Gaule thành... Giặc Hồ.
Không mời mà y tự nhiên coi như đă nhập vào băng chúng tôi. Không những thế mà thái độ y như đứng đầu băng chỉ huy anh em. Minh ức lắm. V́ y bị giáng chức, xuống thứ hai. Minh có biệt danh là Đại Tướng v́ tên họ là Dương văn Minh. Một trong những Đại Tướng có ảnh hưởng rất lớn đến sự sụp đổ của miền Nam Việt-nam. Phạm Tất Đồng tự Thủ Tướng đứng thứ ba. Kế tới là Tường Kiếm Hiệp, Khánh Khổ, Sáu Luận và tôi "Lùn Mă Tử".
Chúng tôi thường gọi y là Công Tử. Sau vài lần vượt biên hụt, đổi thành Công Tử Vượt Biên. Biệt danh của Sáu Luận sau bị Công Tử đổi thành Luận Ḅ. Lần đầu nghe, tôi thích lắm v́ nghĩ Công Tử giống tôi, cho sức học của tôi hơn nó. Công Tử giải thích: "Không đâu, nó vẫn hơn mày, nhưng tại nó cứ hay căi bậy với tao. Nó biết sai vẫn căi cối. Nên là con ḅ rừng."
Luận Ḅ h́nh như rất thích cái biệt danh này hơn. Được có tiếng hay tranh căi với Công Tử là một vinh hạnh. Tôi buồn bă trở lại vị thứ bẩy của ḿnh. Tuy đứng cuối trong nhóm nhưng vẫn là thứ bẩy của lớp. Tôi vẫn đứng trên nhiều người lắm, trên cả thằng chi đoàn trưởng lớp. Công Tử, dĩ nhiên đứng đầu lớp.
Một lần Tường Kiếm Hiệp khám phá ra trường Lê Văn Duyệt có một cô học sinh rất mi nhon, hay đạp xe ngang qua trường tôi đi học. Hôm đó cả bọn ở lại trễ chờ. Cô bé tuyệt vời, nhỏ nhắn, xinh đẹp thật vừa xứng với kích thước… của tôi.
Tôi đang ngây ngất ngắm th́ bỗng Công Tử phán: "Con nhỏ này, tưởng ǵ chứ cho tao ba ngày là tao sẽ ẵm em đi học ngay." Cả bọn nhao lên, chửi bới um sùm. Công Tử nói: "Tụi bay dám cá không, nếu tao làm được th́ từ đây sẽ là đại ca nhóm. C̣n không, bao tụi mày một chầu. Đi đâu ăn cũng được." Chúng tôi đồng ư.
Ba ngày sau, Công Tử đạp xe chở nàng ngang qua trường chúng tôi. Tôi nh́n nàng ôm eo ếch của Công Tử thật tự nhiên và t́nh tứ. Phải chi trong đời tôi được một lần đạp xe chở nàng đi học nhỉ" Từ đó tất cả đều phục tùng tuy rằng sau này khám phá ra cô bé là em họ của Công Tử.
Chuyến vượt biên đầu tiên của Công Tử vào cuối tháng mười một năm đó. Chúng tôi được tin, hùm tiền, đăi Công Tử bữa tiệc cuối cùng tại vườn nhà Tường Kiếm Hiệp vào chiều thứ bẩy. Sở dĩ nhà Tường được chọn là v́ ở cuối xóm dưới. Chung quanh nhà là ruộng rau muống. chúng tôi tha hồ phóng xú uế tới chế độ mà không sợ sự soi mói của mấy tên công an phường.
Căn nhà Tường nhỏ ba gian, vá víu bằng đủ mọi loại vật liệu kiếm được. Mái nửa lá nửa tôn, thỉnh thoảng chen vài viên ngói mẻ, vách chỗ gạch chỗ đất, có chỗ vá cả bằng miếng các tông bự. Tường sống với ba và chị. Ba Tường và Tường chuyên môn cắt, bó rau muống để chị Tường đem bán ngoài chợ nhỏ. Trước khi mất nước, chị Tường làm thợ dệt cho nhà Công Tử. Ba Tường phải kiêm luôn việc bán rau. Giữa nhà đặt một cái bàn nước cọc cạch, mấy cái ghế xiêu vẹo và hai tấm phản hai bên để ngủ và ngơi. Đặc biệt chung quanh vách nhà là những giá sách với đầy áp sách...kiếm hiệp. Bố con Tường mê đọc chuyện kiếm hiệp và ...cắt rau muống. Đặc biệt dù nghèo cũng không muớn, mà chỉ mua chuyện về đóng thành sách, trưng khắp nhà.
Hôm đó chúng tôi đăi Công Tử bằng một con gà luộc, một đĩa dồi chó và ba chai bia quốc doanh. Thủ Tướng nói phải cho Công Tử ăn món quê hương để suốt đời nhớ ...Việt cộng.
Công Tử ở lại nhà Tường măi tới đêm khuya để nói chuyện với ba Tường. Tôi tưởng họ đang bàn chuyện đất nước hoặc kinh tế thế giới. Sau nghe mới biết họ đang nói chuyện ...kiếm hiệp.
Tối Chủ nhật hôm sau, Công Tử đáp chuyến xe lửa đi Nha-Trang rồi xuống ghe ra khơi. Ngày thứ hai kế là ngày dài nhất của bọn chúng tôi. Ngồi nh́n chỗ trống của Công Tử trong lớp, bọn chúng tôi lúc bồi hồi, lúc phập phồng, lúc lo lắng. Chúng tôi phải báo cáo láo với thầy Lành là Công Tử bị ốm nặng.
Qua sáng thứ năm, Công Tử lù lù bước vào lớp, cả bọn nửa buồn nửa vui. Buồn v́ Công Tử đi chưa được, vui v́ lại gặp được người ḿnh muốn.
Giờ ra chơi, cả bọn bu lại hỏi. Công Tử kể:
"Tao xuống ghe nhỏ để ra ghe lớn. Đợi tới gần sáng chả thấy ghe mẹ ǵ mới biết bị lừa, nên về thăm tụi mày lại."
Tháng sau, Công Tử lại từ gĩa chúng tôi để đi Phan-Thiết. Mặc dù tài chánh eo hẹp, chúng tôi cũng cố gắng tổ chức lại một bữa tiệc tiễn tại vườn nhà Tường. Lần này thiếu món dồi v́ nghe nói thịt chó ăn sui.
H́nh như thịt gà cũng sui nên Công Tử lại trở về đi học lại. Hai lần sau đó, chúng tôi chỉ đăi uống chứ không ăn. Khánh Khổ than với tôi: "Khổ quá, Công Tử chưa tới Mỹ th́ ḿnh đă phải khai phá sản". Lúc nào y cũng có thể than khổ.
Lần thứ năm Công Tử đi ở Vũng-Tầu th́ bị bắt và đưa vào B́nh-Ba cải tạo. Chúng tôi không thể dấu được trường măi. Lúc đó thầy tṛ trong trường mới biết tới một nhân vật có biệt danh "Công Tử Vượt Biên".
Chi đoàn họp liên tục, phê b́nh, kiểm điểm sáng tối. Bọn chúng tôi thủ khẩu như b́nh. Huy"n thoại về Công Tử được mọi người mọi lớp truyền tụng hơn cả huyền thoại về ...Bác.
Mỹ-Ngọc, hoa khôi của trường tuyên bố sẵn sàng ra đi với Công Tử bất cứ lúc nào dù là đi ... kinh tế mới. Bích-Huyền, Bích-Ca, hoa hậu song sinh đều đồng ư nâng một khăn, sửa một áo nếu Công Tử có... sức. Thầy chủ nhiệm bị giám hiệu gọi lên khiển trách v́ để Công Tử nghĩ ốm nhiều mà không báo cáo. Cô Hồng-Hoa thỉnh thoảng trong lúc giảng bài đi xuống ngồi vào chỗ trống của Công Tử, thương nhớ về một người học tṛ ưu tú của ḿnh.
Bốn tháng sau, bố mẹ Công Tử t́m được mối chạy năm cây vàng để công an thị xă Vũng-Tầu lén chở Công Tử về Sàig̣n.
Sợ phường khóm gây rắc rối cho nhà ḿnh, Công Tử tới nhà tôi trú ngụ v́ bố tôi là tổ trưởng tổ dân phố có thể biết trước ngày nào phường khóm tới khám nhà.
Công Tử, tôi và đứa em kế chia nhau căn gác lửng cuối nhà. Căn gác nhỏ chỉ kê vừa hai cái bàn học và trải cái chiếu gai. Vậy mà Công Tử ở đó hơn nửa năm.
Trong năm đó Công Tử vượt biên hụt hai lần nữa. Lần sau nhờ có kinh nghiệm nên không bị tó. Tôi trở thành người đưa tin giữa Công Tử và gia đ́nh. Mỗi lần sang nhà Công Tử nhắn tin, tôi đều ghé lại nhà Luận Ḅ để cho tin tới mọi người trong nhóm.
Đối diện nhà Luận có một bông hoa sống mà Luận theo đuổi từ hồi mặt mới mọc mụn. Luận thường tự hào gọi nàng là "Thiên hạ đệ nhất Niên".
Niên thường ngồi cạnh cửa sổ nhà để xếp hàng nhà Niên dệt mướn. Thỉnh thoảng cuồng chân, nàng đi dạo vài ṿng trước nhà. Lúc nào Niên cũng mặc áo vàng in bông cúc nổi và quần xa tanh bóng đen. Tôi thắc mắc, Luận thất t́nh trả lời: "Hỏi Công Tử đó. Tao tốn cả đời theo đuổi không thành. Công Tử chỉ nhập nhóm ca với em mấy ngày là em mê tít. Mẹ kiếp, giọng Công Tử bắc kỳ the thé vậy mà mắt em cứ lim dim, phê giọng trầm và ấm".
Đó là lần đầu tiên tôi mới hiểu tại sao Luận hay so đo, ghen tương với Công Tử.
Niên dáng thanh và cao. Nếu mang guốc cao gót, tôi chắc Luận chỉ đứng tới tai Niên. Công Tử đứng với Niên thật là xứng đôi, như Rồng với Phượng. Niên đứng với Luận như Phượng với ...Ngưu. Tôi chắc chính Luận cũng biết vậy. Khi tôi về là Luận vội chạy qua nhà Niên để cho tin và cũng để...chiêm người đẹp.
Chiều hôm ấy tôi cố t́nh nói chuyện về Luận rồi đưa đẩy tới Niên. Tôi có hỏi sao Công Tử không t́m cách liên lạc với Niên. Công Tử trả lời:
"Mày nghĩ tao đang nghĩ hè hay sao mà thăm với viếng. Việt Cộng biết chuyện giữa tao và Niên. Tao chắc nó bám Niên kỹ lắm. Nếu tao gặp Niên là sẽ gặp ...Bác. Cuộc đời có những cái ḿnh phải hiểu để sống. Số tao sinh ra là để vượt biên, đi Mỹ học, số Niên là ở đây hát ...xây dựng chủ nghĩa. Hai đường đi hai nẻo, phải dứt khoát th́ mới làm được cái ḿnh muốn".
Rồi Công Tử kể tôi nghe chuyện t́nh với Niên. Câu chuyện t́nh đầy tính chất ...xă hội chủ nghĩa.
Mùa hè năm trước, tất cả các học sinh trong phường phải ghi danh sinh hoạt. Như thường lệ Công Tử ra tŕnh diện trễ hai ngày. Tên ủy viên thanh niên gai gai, cho Công Tử đứng chờ chơi. Đang lúc đó th́ Niên tới phàn nàn là tổ ca của nàng thiếu nam, chỉ toàn mấy em gái choai choai mười hai mười ba thôi. Công Tử kể: "Tên ủy viên nghe xong, sực nhớ tới tao, nó đưa hàm răng vàng ố, ám khói thuốc lào ra cười hô hố chỉ tao nói: "Đồng chí xung phong vô tổ ca ngồi kia ḱa". Tao đứng dậy tính phản đối, thấy Niên quay qua nh́n, tao gật đầu ngay."
Cũng như mọi chàng trai đất Việt, lần đầu tiên gặp người đẹp, Công Tử bỡ ngỡ nói một câu hết sức ...lăng mạn cách mạng. "Dân Việt nam ăn toàn bo bo không, sao lại có người như Niên, xinh đẹp như vậy". Niên đỏ mặt, đổi đ" tài, hỏi nhà Công Tử ở chỗ nào trong phường để nàng biết tới gọi đi họp. Công Tử kể tiếp: "Tao chỉ nhà, Niên không tin nói nhà tao chỉ đến bà chị kế tao là hết. Tao nói ông ǵa anh mới nhận anh làm con nuôi tối qua."
Hôm sau Niên đi hỏi ḍ trong xóm mới biết Công Tử là con út, ít khi ra đường nên phần lớn mọi người không biết tới. Gặp Công Tử, Niên hỏi: "Anh làm ǵ mà tối ngày cứ ru rú ở trong nhà không"" Công Tử đáp: "Tại chưa gặp Niên nên không muốn, bây giờ th́ lúc nào cũng nằm ngoài đường."
Từ đó phường 7, quận Phú-Nhuận có chuyện t́nh để mọi người kháo cho qua những tháng ngày vô vị dưới chế độ ba khoan. Khoan sống, khoan hưởng và khoan yêu. Họ nh́n Công Tử và Niên để ước sao cho cuộc t́nh được êm đẹp và thành tựu. H́nh như Công Tử và Niên cũng thấy. Họ lúc nào cũng quyến luyến và ước mơ.
Mùa hè chấm dứt, chị phụ trách sinh hoạt phường, tổ ca, Quách thị Cẩm-Niên đặt bút phê vào sổ sinh hoạt của Công Tử: tiên tiến vượt chỉ tiêu. Tên ủy viên thanh niên phường gầm gừ phản đối ngầm.
Một ngày cuối đông năm 1979, Công Tử đưa tiền cho đứa em gái tôi dặn ra chợ Phú-Nhuận mua sôi và thịt vịt. Hôm đó nhà chúng tôi được thưởng thức một món mà mọi người ưa thích. Tôi có linh cảm thật nhiều. Tối hôm đó Công Tử nói: "Bố mẹ tao đóng tiền bán chính thức xong rồi. Ngày mai em họ tao tới đón tao xuống Rạch-Gía."
Công Tử đưa tôi thẻ căn cước mới có tên tầu là Lư Phu Tŕnh. Tôi nói: "Công Tử Vượt Biên giờ trở thành Cái Nị Dượt Piên". Chúng tôi cười nói nhiều tới khuya.
Ba tháng sau, không thấy tin tức ǵ của Công Tử, tôi ghé qua nhà hỏi. Bà mẹ Bắc-Kỳ, thật Việt Nam, thấy tôi ôm mừng khóc "nó đă tới được Mă Lai rồi con ạ." Tôi từ gĩa vội để chạy qua nhà Luận báo tin.
Mọi lần th́ khác, nhưng lần này vừa thấy chiếc xe đạp Mỹ mà Công Tử để lại cho tôi đậu trước nhà Luận, Niên có linh cảm, chạy vội băng qua đường.
Đó là lần đầu tiên tôi giáp mặt Niên. Niên có gương mặt trái soan. Cặp mắt không to không nhỏ, rất đi đôi với khuôn mặt. Mũi Niên hơi cao, có sóng, không tẹt như mũi người Việt nam. Mái tóc dài ngang lưng, không dầy không thưa nhưng đen nhánh như hai hàng lông mi của nàng. Da Niên trắng tựa như người sinh đẻ ở Gia-Nă-Đại. Mái tóc đen dài, gương mặt trái soan, làn da trắng, chiếc áo vàng in h́nh bông cúc nổi, cái quần xa tanh bóng đen, những thứ ấy tương xứng, đối chọi làm Niên đă đẹp càng đẹp thêm. Không chỉ đẹp, dáng Niên cao cao trông sang và quyền qúi. Phải nói Niên là một kỳ công tuyệt mỹ của Tạo hóa. Bây giờ tôi mới hiểu hết câu nói đầu tiên, ngớ ngẩn của Công Tử khi gặp Niên. "Dân Việt nam ăn toàn bo bo không, sao lại có người như Niên, xinh đẹp như vậy."
Niên bước vào nhà Luận, căn nhà tự nhiên sáng hẳn ra. Không hiểu từ mái tóc Niên hay từ thân thể Niên, cũng có thể từ sự tưởngtượng của tôi, tôi như thấy một mùi thơm ngọt dịu thoảng qua. Niên không để ư ǵ cả, chỉ hỏi vội: "Ảnh có tin ǵ chưa anh"" Tôi gật đầu đáp: "Tới Mă Lai rồi". Chưa đầy một phút sau, hai ḍng nước mắt đă chảy dài trên gương mặt xinh đẹp của Niên. Tôi không cầm được nước mắt. Luận Ḅ cũng khóc. Chúng tôi nh́n nhau khóc thật dễ dàng.
Chín tháng sau tôi mới nhận được lá thư đầu tiên của Công Tử gửi từ một nơi có cái tên lạ hoắc của tiểu bang Texas. College Station.
Thủ Tướng gật gù giải thích: "Th́ đúng rồi, Công Tử phải ở chỗ những người giỏi của nước Mỹ. College Station là chỗ của những người ít nhất phải có bằng Đại học ở." Chúng tôi đều nhất trí.
Tôi mang thư qua nhà Công Tử khoe. Hai ông bà nh́n tôi một lúc rồi khẽ nói:
"Hai bác có chuyện muốn nói với cháu. Trước khi nó đi, hai bác có đóng thêm một chỗ, pḥng nếu đi không xong sẽ có mối khác cho nó. Lúc nó đi có nói nếu trót lọt th́ để dành cho cháu để cám ơn gia đ́nh cháu đă giúp nó. Tiền bác đă đóng rồi, lấy về cũng không được. Cháu về thưa với bố mẹ, rồi sang cho hai bác hay."
Trên đường về, tôi bàng hoàng như người bị say sóng. Bố tôi nghe xong nói: "Trời Phật thương gia đ́nh ḿnh rồi con ơi. Cơ hội ngàn vàng con đừng bỏ. Con phải đi để cứu các em con và cứu cả bố mẹ. Con đi bố chỉ mất chức... tổ trưởng là cùng. Chức cái quái ǵ, toàn là làm không công cho tụi nó không. Đă vậy chúng con phê b́nh bố là không quản lư tốt."
Hai tuần sau, tầu tôi cập bến Mă Lai. Tôi cũng được chuyển qua đảo Pulau Bidong như Công Tử.
V́ thuộc diện hốt rác nên tôi ở đảo gần hai năm. Sau khi từ chối cả Úc, Pháp, Ư và Thụy Sĩ, tôi mới được Mỹ hốt. Tôi tới Houston vào cuối đông năm 82. Trời năm đó lạnh và u ám.
Công Tử ra đón tôi ở phi trường. Vẫn phong thái và kiểu nói của năm xưa, tôi thấy trời đất chuyển ấm và sáng dần.
"Lùn Mă Tử, tao trốn mày gần nửa ṿng trái đất, vậy mà mày cũng bám theo. Làm sao tao có thể dứt mày được đây""
Tôi trả lời:
"Khánh Khổ nói số mày đẻ bọc điều, sinh ra để sống trong nhung lụa. Số tao với nó là số khổ, do đó tao phải bám sát mày. Chỉ cần một tí cái bọc điều của mày, là hưởng suốt đời không hết."
Đúng như Đại Tướng đoán trước, chương tŕnh học bốn năm của Đại học Mỹ, Công Tử chỉ tốn ba năm hơn. Tôi vào trường được hơn một năm, Công Tử tốt nghiệp kỹ sư cơ khí và chuyển lên Fort Worth làm cho một hăng máy bay quốc pḥng nổi tiếng.
Ngày tôi ra trường, Công Tử lái xe về mừng. Gặp tôi, Công Tử thành thật:
"Tao tính mua tặng mày một món quà thật lớn. Nhưng tuần sau tao xong Cao học, mày lại phải trả nợ, mua đồ mừng tao. Do đó đổi ư không mua ǵ cả. Mày mới ra trường chưa có nhiều tiền, chơi cái tṛ tư bản này không xong đâu."
Tôi có hỏi Công Tử có tiếp tục học lên Tiến Sĩ không" Công Tử trả lời:
"Phải ngưng một thời gian, ba má tao nói ngưng học, đi lấy vợ học mới...thông ra thêm. Ông bà cũng ǵa rồi, tao tính về thăm một chuyến, tiện thể tính bề gia thất."
Ngập ngừng một lúc tôi mới nói Công Tử một điều mà tôi đă giấu hơn sáu năm nay:
"Niên đă lấy chồng lâu rồi, chắc giờ con cũng đă lớn."
Lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi thấy mặt Công Tử đổi sắc. Công Tử nh́n tôi một lúc như muốn hỏi điều ǵ, nhưng rồi thôi, chỉ quay đi nh́n về một hướng xa xa.
Tôi hiểu Công Tử muốn hỏi ǵ nên khẽ đáp:
"Luận Ḅ."
Houston, đầu Đông
Lê Như Đức
Số phận đàn ông ở Mỹ
Ôi ! Thời oanh liệt nay c̣n đâu !!!
Ngậm một khối u hoài bên cạnh vợ ,
Ta lờ khờ và lớ ngớ ngu ngơ
Giận vợ già quá ngạo mạn khó ưa .
Giương mắt ....lăo nh́n ta như con trẻ
Nay già rồi chịu gông cùm lép vế
Để mụ già nổi hứng mụ hành chơi !
Chịu ngang bầy cùng lũ chó dở hơi ,
Thường đẩy xe sau mỗi lần đi chợ
Ta sống măi trong t́nh thương nỗi nhớ ,
Thưở tung hoành hống hách những ngày xưa .
Đất Saigon nhớ biết mấy cho vừa ,
Phố xá rộn ràng gái trai d́u dặt .
Ngoài chiến trận ta vẫy vùng ngang dọc ,
Thật kiêu hùng quyết bảo vệ quê hương .
Có toàn dân và em gái hậu phương ,
Nàng ngưỡng mộ tôn ta làm thần tượng
Đi bên ta nàng nhẹ như cánh phượng ,
Nép vào ta nhờ che chở chở che
Ta hiên ngang d́u em dưới hàng me
Hoặc trốn nắng vào ci nê hú hí
Chiều công viên cùng nàng mừng cho có !
Hoặc đêm về ngồi ngắm ánh trăng trong .
Nàng hiền khô yếu đuối gọn trong ḷng .
Để từ đó yêu nàng vô bờ bến ...
Đâu những yêu kiều dịu dàng thương mến
Tiếng thu ca ru giấc ngủ êm đềm ,
Đâu những chiều có chỗ đứng bên thềm .
Ta chết cứng trong tóc mềm môi ướt .
Để ta chiếm lấy phần riêng bí mật .
Than ôi ! Thời oanh liệt nay c̣n đâu !!
Để giờ đây ta ngậm một mối sầu ,
Ghét thế sự con người nhiều thay đổi .
Những cảnh đời nhiều tầm thường giả dối .
Bao bon chen bao gian dối lọc lừa .
Nàng của ta cũng thay đổi bao mùa ,
Hay đanh đá hay chanh chua quát tháo !
Mắt nai tơ giờ trợn trừng thao láo !
Đôi môi mềm cong cớn hết tươi cười ,
Mỗi cuối tuần lănh check bảo "Đưa tôi"
Ta ngửa mặt "Thế thời thời phải thế" !!!!!
Nơi xứ Mỹ thôi ta đành lép vế
Đành ngu ngơ đành nhẫn nhục chờ thời ,
Nhưng càng lâu ta càng thấy ..hết thời ,
Cho đến lúc tự nhiên đâm ra nhát
Để giờ đây những đêm trường ngao ngán
Ta lâu ngày... phở tái vẫn thèm ăn,
Vẫn đợi chờ gió đến để ..bẻ măng ,
Nằm phục kích ..chờ nai vàng nộp mạng ????
Ta nhớ lại những ngày xưa ngang dọc
Mà giờ đây ôm hận suốt đêm thâu
Hăy vùng lên có chỗ đứng ngẩng đầu
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt.
Hăy vươn lên dù chỉ c̣n chút sức,
Hăy la to cho chằng lửa giật ḿnh...
.................... .................... ..................
Nói cho đă rồi sao lại nín thinh
V́ vợ mới kêu ta ....đi rửa chén
Th́ rửa thôi !!!
Tác gỉa: KKB (Không không Biết)
úi chời! Thế Lữ “Nhớ rừng” c̣n bác LH nhớ “Gừng” :hafppy: v́ gừng là vị cay :hafppy: nên bác cay cú uất ức căm hờn…ta thán
Ngậm một khối u hoài bên cạnh vợ ,
Ta lờ khờ và lớ ngớ ngu ngơ
Ôi thời oanh liệt nay c̣n đâu! xin đổi lại là “hu hu giờ liệt liệt (cái ǵ đó!?) nay (vẫn) c̣n đây!”:hafppy: Nên rửa chén là đúng gồi!!!:nana:
Nè tặng bác 2 h́nh này nói lên tất cả
https://i.postimg.cc/zvVFW2pZ/Tr-c-khi-ch-ng-l-y.jpg (https://postimages.org/)[/url]
Before & Thời oanh liệt :hafppy: (trước khi em lấy chồng!)
[url=https://postimages.org/]https://i.postimg.cc/dV8m8yR1/su-tu-cuoi.jpg (https://postimages.org/)
After & Thời liệt liệt :hafppy: (sau khi em có chồng)
:hafppy::hafppy::haf ppy:
trungthu
11-22-2019, 02:49
Số phận đàn ông ở Mỹ
Ôi ! Thời oanh liệt nay c̣n đâu !!!
.................... ...
V́ vợ mới kêu ta ....đi rửa chén
Th́ rửa thôi !!!
Tác gỉa: KKB (Không không Biết)
Long Huệ lúc nào cũng than thở, thở than cho sự sanh trụ dị diệt của " tao hóa " ...nên lẩm cẩm quên mất những vũ khí sẵn có trong ḿnh mà không chịu sử dụng ....
Để tui tặng LH lời cô bồ nhí an ủi ...lăo già.
---- Khúc cây rũ mục bên đường
----Nhưng anh c̣n lưỡi ...mười thương vẫn c̣n....
:nana::nana::nana::n ana:
úi chời! Thế Lữ “Nhớ rừng” c̣n bác LH nhớ “Gừng” :hafppy: v́ gừng là vị cay :hafppy: nên bác cay cú uất ức căm hờn…ta thán
Ôi thời oanh liệt nay c̣n đâu! xin đổi lại là “hu hu giờ liệt liệt (cái ǵ đó!?) nay (vẫn) c̣n đây!”:hafppy: Nên rửa chén là đúng gồi!!!:nana:
Nè tặng bác 2 h́nh này nói lên tất cả
https://i.postimg.cc/zvVFW2pZ/Tr-c-khi-ch-ng-l-y.jpg (https://postimages.org/)[/url]
Before & Thời oanh liệt :hafppy: (trước khi em lấy chồng!)
[url=https://postimages.org/]https://i.postimg.cc/dV8m8yR1/su-tu-cuoi.jpg (https://postimages.org/)
After & Thời liệt liệt :hafppy: (sau khi em có chồng)
:hafppy::hafppy::haf ppy:
Hahaha..quá đúng luôn với thời điểm hiện tại.:thankyou::rolle yes::rolleyes:
Long Huệ lúc nào cũng than thở, thở than cho sự sanh trụ dị diệt của " tao hóa " ...nên lẩm cẩm quên mất những vũ khí sẵn có trong ḿnh mà không chịu sử dụng ....
Để tui tặng LH lời cô bồ nhí an ủi ...lăo già.
---- Khúc cây rũ mục bên đường
----Nhưng anh c̣n lưỡi ...mười thương vẫn c̣n....
:nana::nana::nana::n ana:
Già rùi giờ chỉ c̣n biết thương hận cho số kiếp mỏng manh như đóa phù dung thôi bạn hiền.
Kiếp người như kiếp phù dung
Sớm nở tối tàn ai biết ai hay.
Cho nên gát kiếm rong chơi cho thoải mái kiếp già...hahaha.:handsh ake:
hoanglan22
12-07-2019, 14:47
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1495629&stc=1&d=1575729971
Khu vực "Ngă tư Quốc tế" gần 70 năm trước ,ngày nay là khu phố Tây hay khu Bùi-Viện, khu vực này bây giờ đầy đủ tệ nạn xă hội
- Hơn 60 năm sống tại Saigon tôi đă lần lượt ngụ ở nhiều nơi như xóm đạo nhà thờ Huyện Sĩ, xóm chiếu Khánh Hội, xóm Bùi Viện, khu thương cảng Tân Thuận, Khu Hồng Thập Tư Lê Văn Duyệt, Khu Cư Xá Lê Đại Hành, Khu Cư Xá Nông Tín Cuộc Trương Minh Giảng gần đường rầy xe lửa, duy có một nơi tôi nhớ nhiều nhất, đó là xóm Bùi Viện, lư do tại v́ kỷ niệm thời niên thiếu.
Xóm này gần ngă tư quốc tế, sinh hoạt ở đây rất đa dạng, nhiều màu sắc, nhiều mùi vị, nó là Saigon Tạp Pín Lù, như tựa một cuốn sách của cụ Vương Hồng Sển mô tả .. "Saigon thập cẩm, Saigon tào lao, Saigon ba lăng nhăng" ,gồm đủ cả các món ngon mề gà, ḷng heo, ruột già, dồi trường, chín hay sống sượng ngốn nghiến chàm ngoàm với rau sống, rượu cay, tôi nhớ Bi da Thanh Tâm .. sát bên có tiệm bán Lade đặc trên đường Đề Thám rạp hát Thành Xương, đ́nh Cái Quan, rạp Đại Nam, hai trường tiểu học tôi đă theo đuổi qua nhiều lớp, đồng thời c̣n nhớ thêm rạp Nguyễn Văn Hảo nữa ấy chứ.
Lớn lớn lên bày đặt sống bụi bụi, tôi đă từng ăn cơm tại quán Anh Vũ, ngấp nghé nh́n cái Dancing có tên là Tháp Ngà (Tour d’ Ivoire), lan man một số pḥng khám răng, buôn bán, nhà thuốc tây, hiệu sách Nam Cường, Yiễm Yiễm, Về đêm khu này đèn đuốc sáng trưng cho đến hơn nửa khuya như Ngă Sáu Saigon.
Buôn bán tấp nập, vui nhộn.
Hàng quà vỉa hè bày chật cả lối đi.
Đủ cả: nem nướng, bánh ḿ thịt, ḅ bía, ḅ viên, ḅ khô đu đủ, chă gị, cháo ḷng, cháo huyết, cháo gà, cháo vịt, cháo dứa hột vịt muối, bánh canh, hột vịt lộn, ḿ, hủ tiếu,... Mùi thức ăn bay cả một góc. Xe mía, xe sinh tố, xe đẩy đồ ngọt của người Tàu có táo soạn, đậu đỏ, đậu đen, bo bo, chí mè phủ (mè đen), hột sen, bạch quả, táo đỏ, phổ tai, nhăn nhục, đá bào..,
Buổi sáng cũng nhộn nhịp không kém. Cái lạ là các tiệm ăn bên đường chẳng phiền hà ǵ với các hàng gánh bán rong lưu động. Miễn là có kêu một ly cà phê rồi tự ư kêu món ăn sáng trong tiệm hay ngoài tiệm. Bánh cuốn, bánh xèo, xôi ṿ, xôi rượu nếp, xôi bắp, xôi đậu đen, khoai ḿ, khoai lang, bánh ḿ thịt, hủ tiếu Nam Vang, hủ tiếu Mỹ Tho, phở, cơm tấm b́, sữa đậu nành, đậu hủ, bánh khúc...
Chợ ăn sáng này lúi húi kéo dài tới gần trưa mới thưa người.
Nhà tôi ở thụt trong đường hẻm, số 12B. Sau lưng là đường Phạm Ngũ Lăo; bên hông là đường Nguyễn Thái Học.
Giới nghệ sĩ cải lương, đào kép thượng thặng, quần áo lượt là, sang trọng, kư giả kịch trường và dân anh chị thường tụ năm, tụ ba, ăn uống giải khát ở mấy quán hủ tiếu quanh ngă tư quốc tế. Tôi dọn về địa chỉ này khi học lớp nh́ trường nam tiểu học Trương Minh Kư, cạnh rạp Đại Nam.
Đối diện bên kia đường là trường nữ tiểu học Tôn Thọ Tường.Chợ Cầu Muối, chợ Cầu Ông Lănh, Khu Dân Sinh cách đó không bao xa chỉ độ mươi mười lăm phút đi bộ dọc theo đường Nguyễn Thái Học.
Ở một chỗ "địa linh anh kiệt" như vậy th́ làm sao quên được? Tôi ở đó cho tới hết lớp đệ tứ. Rồi ra Huế học tiếp ở trường Quốc Học (sau ba năm trở lại Saigon). Lúc nào, giờ gíấc nào chúng tôi, lũ con nít trong xóm cũng có nhiều tṛ chơi hay rũ nhau đi phá phách khu xóm.
Trong các tṛ chơi, đá banh là tṛ tôi ham nhất. Sân banh là khúc đường Nguyễn Thái Học bên hông trường Tôn Thọ Tường. Xe cộ chạy th́ mặc kệ xe, chúng tôi cứ lừa, cứ đá ngay giữa lộ. Khi nào cảnh sát tới th́ ù té chạy; hay tản lên lề làm như ḿnh vô can; chỉ đứng ngó "mấy thằng nhỏ mất dạy làm cản trở lưu thông".
Nếu hôm nào không tụm năm tụm ba quậy phá th́ tôi ṃ tới mấy sạp báo góc ngă tư Đề Thám Bùi Viện hay ngă năm Bùi Viện, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Thái Học hoặc vào tiệm sách Yểm Yểm Thư Trang ở gần đó đọc sách báo cọp. Giờ đọc báo cọp thích hợp nhất là buổi trưa nắng gắt; nóng đổ lửa; nhựa đường cũng phải chảy. C̣n đọc sách cọp là lúc tan trường về. Thi vô Petrus Kư rớt nên tôi học trường tư Lê Tấn Thành, nằm trong đường hẽm cạnh tiệm sách.
Khu ngă tư quốc tế vào buổi xế trưa khác hẳn buổi sáng và buổi tối. Quán hàng có vẻ thưa thớt. Sinh hoạt chậm lại, uể oải. Hàng quà vỉa hè dọn đi đâu chỉ c̣n lại năm ba gánh. V́ hay lẫn quẫn cạnh sạp báo, trước tiệm hủ tiếu và thấy mặt mủi tôi không có vẻ loại đá cá lăn dưa lắm nên bà bán báo nhiều khi nhờ tôi coi hộ. Bà đi đâu cả giờ, giao sạp báo và quầy bán thuốc lẻ cho tôiø. Cái thú ngồi quán nước bên ly cà phê đắng bắt đầu từ đấy.
Mười hai mười ba tuổi đầu làm ǵ có tiền để ngồi quán, nhưng nhờ hay lân la đọc báo cọp, nên chủ quán quen mặt không xua đuổi khi tôi kéo ghế ngồi xề bên cái bàn kê ở phía bên ngoài tiệm hủ tiếu.
Hôm nào có chut tiền c̣m tôi bắt chước mấy người khách kêu một ly xây chừng (cà phê đen nhỏ)...chỉ là một cái cớ để có thể ngồi trầm ngâm dài lâu, nếu không th́ tẻ nhạt, vô duyên, cũng tại đây, tôi bắt gặp được một cách uống cà phê rất độc đáo của ông Năm Đen, người quen của bà bán báo, cứ vào khoảng một giờ hơn là ông Năm Đen rề rề đẩy chiếc xích lô vào bóng mát; vào quán kêu một ly tài phế (cà phê đen lớn).
Một chân co lên ghế, một chân duỗi dài, ông ngồi dựa vào tường nh́n ra lộ....Pha đường, nhấm nháp cái muỗng; đổ cà phê ra dĩa; ông đưa dĩa lên miệng vừa thổi vừa uống.
Ông ngồi tư lự một lúc, trả tiền rồi ra lấy chiếc xích lô, chậm răi đạp chở bà bán báo về hướng chợ Thái B́nh, tên cũ là chợ Arras.
Từ thuở ở đường Bùi Viện đến nay có nửa thế kỷ, cái đám nhỏ lau nhau bây giờ ỏ đâu ? Đường đời vạn nẻo, lại thêm lớn lên vào thời đại bác đêm đêm dội về thành phố, thế hệ bất hạnh chúng tôi đă phải rời bỏ Ngă tư Quốc tế, tứ tán khắp năm châu...
Sài G̣n Xưa
hoanglan22
12-12-2019, 21:47
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1498324&stc=1&d=1576187214
Thiệp Chúc Mừng của Đề Đốc Trần Văn Chơn
Cựu Tư lệnh Hải Quân VNCH
(Kinh dâng lên hương hồn Đề Đốc Trần Văn Chơn với vô vàn thương tiếc.)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có nhiều kỷ niệm để nhớ, để nâng niu và giữ ǵn. Riêng tôi, những tấm thiệp chúc mừng Giáng sinh và Năm Mới mỗi năm mà người thân, bạn bè gửi đến th́ tôi rất trân quư. Nhất là thời buổi “hiện đại” này, có lẽ người ta bận trăm công ngàn việc, không có nhiều thời gian, nên hầu như ít có ai chịu ngồi vào bàn viết thiệp chúc mừng, rồ́ sau đó bỏ thời gian đem ra bưu điện dán tem gửi. V́ thế để chúc mừng cho nhau, họ thuờng dùng điện thoại, Email, Viber, Messenge, Facebook... cho nhanh. Tôi đă nhận những tấm thiệp đều đặn mỗi năm từ khi đặt chân đến Hoa Kỳ cuối năm 1992 cho đến năm Mậu Tuất 2018. Các tấm thiệp được viết với những nét chữ đẹp, mạnh mẽ và rơ ràng của một người mà tôi xem như là thân phụ của tôi. Đó là những tấm thiệp của Đề Đốc Trần Văn Chơn, cựu Tư Lệnh Hải Quân VNCH đă viết cho tôi.
Ông vừa tạ thế vào ngày Thứ Năm 02 tháng 05, năm 2019. hưởng đại thượng thọ 100 tuổi. Sự ra đi của ông là nỗi đau buồn cho con cháu, thân nhân, cũng như sự tiếc thương của nhiều người hằng quư mến ông về đạo đức và nhân cách. Tôi may mắn được gặp ông lần cuối vào buổi trưa trước khi ông qua đời tại bệnh viện San José Regional Medical Center.
Gia đ́nh tôi đến San José cuối tháng 10, 1992. Giáng Sinh và Năm Mới đầu tiên ở Mỹ, tôi gửi thiệp chúc mừng đến Đề Đốc Trần Văn Chơn và gia đ́nh ông, và sau đó tôi cũng được ông gửi thiệp chúc mừng lại gia đ́nh tôi. Đều đếu hàng năm tôi gửi đến ông và ông cũng hồi âm cho tôi. Mặc dù, ông và tôi đều mang cùng họ Trần. Nhưng giữa ông và tôi hoàn toàn không dính dáng ǵ đến bà con hay thân tộc. Ông vẫn thường nói với tôi “Có lẽ nhờ cơ duyên đưa đến mà bác cháu ḿnh mới có cơ hội gặp nhau, sau một cuộc đổi đời. Bác có hai người bạn trong quân chủng KQ thuờng hay thăm hỏi Bác: một bạn già là Đại Tá NXV, cựu Tư Lệnh KQ/VNCH và một bạn trẻ là tôi, dù bây giờ tuổi tôi đă quá thất thập cổ lai hy."
Lúc c̣n ở Việt Nam, sau khi ông được trở về đời sống b́nh thường bên gia đ́nh, tôi đă có nhiều dịp đến thăm ông ở Cư Xá Bắc Hải, Quận 10 để nghe ông kể lại những bước thăng trầm trong quân ngũ và những tháng ngày nghiệt ngă mà ông đă phải chịu đựng khi ông quyết định ở lại Việt Nam.
Ông sinh năm 1920 tại Vũng Tàu, Bến Đ́nh trong một gia đ́nh trung lưu, đông con. Ông là con thứ tư. Chị Hai ông là người lớn nhất trong gia đ́nh thay mặt cha mẹ để dạy dỗ các em. Con của các em bà đều gọi bà là Má Hai. Gia đ́nh ông theo đạo Cao Đài, lấy chữ Tâm, chữ Hiếu làm câu giữ ḿnh. Ông thi đậu Baccalauréat I (Tú Tài I Pháp) năm 1939. Năm 1940 theo học ngành Hàng Hải Thương Thuyền và làm việc trong ngành này được 10 năm. Ông t́nh nguyện theo học khoá I đào tạo Sĩ Quan Hải Quân vào năm 1951 và là SVSQ/ HQ lớn tuổi nhất so với các SVSQ/HQ cùng khoá. Ông tốt nghiệp thủ khoa khi ra trường.
Tháng 11/1974, đúng 55 tuổi và phục vụ trong quân ngũ trên 20 năm, ông được giải ngũ theo quy chế của cấp tướng. Khi trở về đời sống dân sự. Ông sống thanh thản, b́nh dị, thường xuyên đến với Đạo Cao Đài và được mời làm cố vấn danh dự cho Hội Thánh. Ông thường nói với tôi “Chính nhờ đạo Cao Đài đă giúp Bác giữ vững tinh thấn để vượt qua những cam go, thử thách. Tôn giáo này đă mang lại cho Bác sức chịu đựng bền bỉ, sự kiên nhẫn vô biên để chấp nhận nghịch cảnh trong giai đoạn khó khăn, bi thảm nhất mà nhiều người khác trong hoàn cảnh như Bác đă bị ngă gục.”
Thời gian phục vụ trong quân ngũ. Ông đă được tưởng thưởng nhiều huy chương cao quư của chính phủ VNCH và đồng minh, trong đó có Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương. Hai lần làm Tư Lệnh Hải Quân (1957-1959 và 1966 -1974). Ông có kể cho tôi nghe vài lần bị thương. Đặc biệt, một tai nạn phi cơ thảm khốc chỉ tích tắc có thể xảy ra mà ông không bao giờ quên.
Trong một chuyến công tác từ vùng 1chiến thuật trở về bằng phương tiện của KQ/VNCH trên chiếc Caribou (C7-A). Khi phi cơ bay đến không phận Biên Hoà th́ nghe có tiếng nổ lớn bên máy phải.Toàn thân phi cơ bị rung lắc mạnh.Trưởng phi cơ đă gọi May Day,May Day, May Day nhiều lần trên tần số báo nguy 243.0, yêu cầu đài Không Lưu phi trường Biên Hoà cho được đáp khẩn cấp. Đồng thời nhờ thông báo cung cấp xe chửa lửa và xe cứu thương túc trực sẵn sàng. Sau đó trưởng phi cơ b́nh tĩnh cho phi cơ đáp. Khi bánh phi cơ vừa chạm mặt phi đạo th́ các động cơ hoàn toàn bị tê liệt, phi cơ nằm chựng lại trên phi đạo không thể di chuyển được. Lúc này, các xe cứu hoả và xe cứu thương bao quanh phi cơ để tiếp cứu. May mắn, phi hành đoàn và tất cả hành khách trên phi cơ hoàn toàn b́nh an vô sự. Ông tin là Trời Phật, Thượng Đế, Đấng Toàn Năng, phép màu huyền bí đă cứu độ cho mọi người tai qua, nạn khỏi trong đường tơ, kẽ tóc.
Ông bà có tất cả mười người con gồm: sáu trai tên Chánh, Trực,Trung, Tâm, Thành và Đạo và bốn gái tên Cúc, Đào,Trang và Nga. Bà là một phụ nữ b́nh thường như bao phụ nữ Việt Nam khác, chỉ biết công việc tề gia nội trợ, nuôi dạy các con nên người. Anh em trong nhà biết kính trên, nhường dưới và vâng lời cha mẹ. Mặc dù, đấng phu quân là một tướng lănh cao cấp trong quân đội VNCH, nhưng bà không bao giờ can dự, hay để ư vào bất cứ việc làm của chồng. Không như một số các bà khác đă lợi dụng quyền chức của đấng phu quân làm những chuyện không đúng gây hệ lụy và ảnh hưởng đến đường quan lộ của chồng. Bà đă ra đi trước ông cách đây gần ba năm (ngày 09 tháng 07, năm 2016.)
Ông bà với cô con gái út rời Việt Nam đi định cư Hoa Kỳ vào Thứ Hai 09 tháng 12, năm 1991 lúc 11 giờ 30 đêm.Tiễn đưa ông bà chỉ có vài thân nhân và bạn hữu. Phu nhân của cựu Thiếu Tướng ĐVQ và tôi trong số vài người thân tiễn chân ông bà ở phi trường Tân Sơn Nhất. Kể từ khi rời Việt Nam, ông bà chưa một lấn nào trở về thăm. Ước mong của ông bà là được thấy b́nh minh trên quê hương Việt Nam. Lúc đó sẽ trở về thăm bà con, mồ mả tổ tiên, nơi chôn nhau cắt rún. Nhưng tất cả chỉ là giấc mơ không bao giờ thành hiện thực.
Sau này, ở San José, Bắc Cali, tôi có may mắn gặp ông nhiều lần và được chụp h́nh với ông trong các sinh hoạt hội đoàn, cộng đồng và kỷ niệm những ngày lễ quan trọng tổ chức ở địa phương như : Kỷ Niệm Trận Hải Chiến Hoàng Sa 19/01, Tưởng Niệm Quốc Hận 30/04, Kỷ Niệm Ngày Quân Lực VNCH 19/06, dựng tượng Đức Trần Hưng Đạo là Thánh Tổ quân chủng Hải Quân ở mặt trước Grand Century, trong khu Vietnam Town trên đường Story... và nhiều lần thăm viếng ông tại tư gia. Các con ông cho biết mỗi lần tôi đến thăm th́ ông rất vui. Hai bác cháu đàm đạo về nhiều đề tài xă hội, sinh hoạt cộng đồng ở địa phương .
Tôi lắng nghe ông kể chuyện ngày xưa với những nghịch lư trong cuộc đời b́nh nghiệp và những năm tháng oan thiên, nhọc nhằn mà ông phải gánh chịu, khi ông chọn ở lại Việt Nam, trong khi đó ông và gia đ́nh có thừa thời gian, phương tiện để di tản. Ngay cả phía Hoa Kỳ cũng cho người đến nhà liên lạc để đưa ông và tất cả gia đ́nh, người thân rời VN bằng phương tiện hang không. Tư dinh ông trên đường Bạch Đằng là nơi hàng trăm bà con tạm tá túc trước khi xuống tàu ra khơi di tản. Thỉnh thoảng ông ra đứng trước cửa nhà đưa tay vẫy, chúc họ được thượng lộ b́nh an và tim được cuộc sống tốt đẹp nơi vùng đất mới.
Trưởng Nam của ông, Sinh Viên Sĩ Quan khoá 24 Vơ Bị Đà Lạt, cựu Đại Uư Hải Quân VNCH, Hạm Trưởng HQ 601 là Trần Minh Chánh đă đưa Tư Lệnh Hải Quân Chung Tấn Cang, cùng nhiều Sĩ Quan cao cấp HQ ra Đệ Thất Hạm Đội, sau đó đem tàu quay lại Sàig̣n để cùng chịu chung số phận như thân phụ. Điều này, mỗi khi nhắc lại ông rất tự hào về con trai ông.
Bây giờ, ông đă về miến miên viễn đề gặp lại hiền thê. Mộ phần ông bà được an táng sát bên nhau tại Nghĩa Trang Oak Hill Memory Park. San José. Ông bà đă có một cuộc sống đầm ấm và hạnh phúc với nhau hơn 70 năm cùng con đàn, cháu đống và lúc nào cũng kề cận bên nhau. Nay ông bà đă gặp lại ở cơi vĩnh hằng.
Sự ra đi của ông ở tuổi Đại Thượng Thọ quả là hiếm có ở trên cơi đời này.Tang lễ của ông được tổ chức theo nghi thức đạo Cao Đài rất trọng thể. Những thuộc cấp cũ, các hội đoàn quân đội, các tổ chức, đoàn thể đều đến tiễn đưa ông lần cuối với vô vàn thương tiếc. V́ lúc c̣n ở trên trần gian, ông là người sống đạo đức, đàng hoàng, tử tế, tư cách và không bị mang tai tiếng. Luôn luôn giữ hoà khí, đứng ngoài các cuộc tranh chấp quyền bính và thương yêu thuộc cấp.
Có lần ông nói với tôi“Người ta đă từng đến nhà đề nghị Bác đứng ra làm chuyện “Thay Đổi”, nhưng Bác đă khéo léo từ chối. Đối với bác quyền lợi Tổ Quốc và Quân Đội luôn luôn đặt trên hàng đầu. Bác dứt khoát không dính dáng đến chuyện chính trị và cũng không bị ảnh hưởng hay lệ thuộc bất cứ phe phái nào.V́ thế, sau những cuộc đảo chánh, chỉnh lư do quân đội cầm đấu, Bác không bị hề hấn ǵ.”
Trong một cuốn sách xuất bản ở VN sau 1975 có tựa đề là “CDTN”, tác giả đă đề cập đến tên tuổi nhiều tướng lănh VNCH trong lúc tại chức.Tuy nhiên, tác giả đă không hề nhắc tên ông trong danh sách này.
Việc ông và gia đ́nh chấp nhận ở lại Việt Nam có nhiều dư luận đồn đoán.Tuy nhiên, ông hoàn toàn không quan tâm đến. Trong một cuộc phỏng vấn, ông đă trả lời “Đối với người Việt Nam chữ Hiếu là trên hết! Ông không muốn nh́n cảnh cha mẹ ḿnh, tuổi già, sức yếu phải rời bỏ quê hương, nơi chôn nhau cắt rún mà suốt cuộc đời họ đă gắn bó.V́ thế, ông đă dứt khoát ở lại để phụng dưỡng song thân.” Ông không hối hận về quyết định quan trọng này. Các con ông cũng v́ chữ Hiếu đă vâng lời ông cùng ở lại, dù họ có đủ điều kiện và phương tiện ra đi dễ dàng. Cuối cùng, cả cha và các con đều cùng chung số phận như bao nhiêu sĩ quan, công nhân viên chức VNCH theo nhau vào Đại Học Máu (tựa đề tùy bút của nhà văn Hải quân Hà Thúc Sinh.”
Hôm nay, khi viết những ḍng chữ này th́ ông đă vĩnh viễn đi thật xa rồi! Tôi không bao giờ c̣n gặp lại ông để được hầu chuyện nữa! Bây giờ nh́n lại từng nét chữ của ông. Trong ḷng tôi cảm thấy buồn vô hạn. Tôi như vừa mất một người thân nhất trong đời. Với tôi, những tấm thiệp ông viết gửi cho tôi vào mùa Giáng Sinh và Năm Mới là món quà vô giá mà tôi may mắn được ông ban tặng.Tôi nghĩ ít có ai được diễm phúc này như tôi.
Xin Đấng Chí Tôn phù hộ cho hương linh Đề Đốc Trần Văn Chơn, cựu Tư Lệnh Quân Chủng HQ/VNCH sớm vễ cơi Diêu Tŕ. Tôi tin rắng các con cháu ông rất hănh diện đă có người cha, người ông gương mẫu, đức độ được nhiều người kính phục và tiếc thương. Riêng tôi, không bao giờ quên những lần được gặp gỡ ông để nghe ông tâm sự về thế thái nhân t́nh. Ông đă cho tôi những bài học quư giá trong cuộc sống.
Xin Kính chào vĩnh biệt Đề Đốc Trần Văn Chơn, một người mà lúc nào tôi cũng xem như cha tôi.
Trần Đ́nh Phước
(San José, California - 2019)
hoanglan22
12-13-2019, 13:27
Chỉ c̣n vài ngày nữa là xong vụ mùa. Tôi được miễn đi lao động, v́ cái chân đau. Hôm qua lúc chuyển lúa vào bồ, tôi vô ư vấp ngă nơi bậc thềm nhà kho. Mặc dù đă được nắn bóp, sửa trặc, khớp xương mắc cá chân vẫn sưng đỏ, đau nhức. Khi các đội đă xuất trại, tôi chống cây gậy ra cửa, đứng nh́n lên sân trại. Giữa sân có đặt ba cái thùng phuy, dùng chứa phân người. Sau một đêm bài tiết của anh em trong trại, phân được xúc từng gánh đem đổ vào thùng. Hàng ngày, người của đội rau xanh sẽ chuyển ba cái thùng này bằng xe cải tiến đến vườn rau.
Đổ phân xuống hố, lấp phủ lên một lớp đất. Ủ phân. Một thời gian sau, phân từ màu vàng như đất sét nhăo, biến thành màu xám như bùn, đă tới lúc có thể dùng được, xúc lên làm phân bón rất tốt. Phân được chế biến kiểu này gọi là phân Bắc. Mới đầu, anh em đội rau xanh rất tởm phân Bắc, nhưng thời gian lâu dài, tiếp xúc măi thành quen, thấy cũng không có ǵ đáng gớm ghiếc, và khám phá ra cái công dụng tuyệt vời của nó. Chỉ cần rau muống nếm một chút phân Bắc, rau trở nên xanh tốt, tăng trưởng rất nhanh.
Từ trong đội cải tạo h́nh sự, có hai tên cầm que đi đến thùng phuy. Nó bươi móc thứ ǵ trong đó. Một trong hai tên này, tôi quen. Hồi mới quen, tôi hỏi nó:
– Mày tên ǵ?
– Nư!
– Tên ngộ quá! Họ ǵ?
– Nê!
– Cái ǵ? Làm ǵ có họ Nê?
– Có chứ! Rất nhiều! Tên họ của cháu: Nê văn Nư.
Tôi chợt hiểu, bật cười:
– Mày nói ngọng. Tên họ của mày là Lê văn Lư.
– Người miền Nam của các chú thường nói thế. Ở đây chúng cháu gọi Nê Văn Nư!
Từ đó trở đi, tôi cũng gọi nó là thằng Nư.
Thấy nó bươi móc trong thùng phuy, tôi kêu lớn:
– Nư! Mày làm cái ǵ đó?
Nó quay lại nh́n tôi, rồi bỏ cái que, đi lại gặp tôi.
– Hôm nay sao chú được nghỉ?
– Tao bị bong gân chân. C̣n mày?
– Cháu chờ để trưa gánh đồ ăn thông tầm cho đội!
– Mày t́m ǵ trong thùng phân?
– Nhà bếp vừa đổ rác trong ấy. Cháu kiếm chút rau cải vụn.
– Ăn uống dơ bẩn, có ngày bỏ mạng con ơi!
– Cháu mang về rửa sạch, cho vào ca cống, đun sôi, vi trùng nào chả chết!
Tôi nh́n thân h́nh gầy g̣, cái mặt hốc hác của nó, và nghĩ đến ḿnh. Tôi có khác nó ǵ đâu. Cùng một hoàn cảnh khốn khó, người ta không cần tỏ ḷng trắc ẩn cho nhau.
Đứng tần ngần một lúc, nó hỏi:
– Chú có thuốc nào, cho cháu xin một bi!
– Vô đây!
Tôi dẫn nó vào lán, ngắt trong cái bọc nhỏ, cho nó một bi thuốc lào. Rít xong hơi thuốc, nó nói:
– Hôm nay, đội cháu có mấy thằng được chỉ định nên khung, mổ nợn cho cán bộ bồi dưỡng. Cháu không được đi.
Tiếc thật!
– Mổ lợn đâu có ǵ thích mà mày tiếc?
– Thích chứ! Được xơi thịt!
– Cán bộ cho ăn hả?
– Không. Làm ǵ có người tốt thế!
– Vậy ăn bằng cách nào?
– Khi được chỉ định đi mổ nợn, thằng nào cũng phải mặc hai nớp quần. Nớp trong được bó sát vào b́u dái như cái quần x́ của người miền Nam. Đến núc xẻ thịt th́ xén vài cục, nén dấu vào quần, dưới b́u dái. Trước khi về, cán bộ bắt đứng xếp hàng, ṃ xét khắp người, nhưng không ṃ dưới b́u dái. Thế nà thoát!
– Tụi mày tài thật!
– Cách này dùng măi, bị phát giác. Chúng nó bắt cởi đồ, chỉ c̣n độc cái quần trong, tḥ tay sờ vào quần, sờ nắn trong háng, nhột bỏ mẹ. Bắt gặp có dấu thịt, chúng nó dần cho nát đ̣n và cùm vào nhà kỷ nuật.
- Khó khăn, nguy hiểm như vậy, tụi mày không sợ?
– Trong khó khăn nẩy sinh sáng tạo. Chúng cháu nghĩ ra được cách giấu thịt, chỉ có trời biết.
Nó ngừng lại, chỉ tay vào túi tôi:
– Chú cho cháu thêm bi thuốc!
– Mày có tài thật, đang kể chuyện tới hồi gây cấn là ngừng lại, đ̣i thứ này, thứ nọ.
Dù cằn nhằn, tôi vẫn ngắt cho nó bi thuốc lào thứ hai. Nó cẩn thận cho bi thuốc vào nơ điếu, châm mồi lửa, rít một hơi dài…Tôi giục:
– Kể tiếp đi. Cái mánh lới giấu thịt của mày!
– Thằng nào được chỉ định đi mổ lợn, khi trở về đội cũng phải nạp cho thằng đội trưởng hai cục thịt bằng ngón chân cái. Không có, nó thụi vào bụng cho thổ huyết!
– Tao không muốn nghe chuyện thằng đội trưởng của tụi mày. Hăy kể phương pháp dấu thịt mà mày cho rằng sáng tạo.
– Vâng! Phương pháp này không cần phải chuẩn bị đồ nghề ǵ cả. Lúc xẻo thịt, nếu cán bộ không để ư, cứ xén từng cục, cho vào mồm xơi tươi!
– Ăn thịt sống hả?
– Vâng! Xơi thịt sống th́ đă có sao?
– Tụi mày ăn uống như người tiền sử!
– Người tiền sử nà người xứ nào mà ăn uống như chúng cháu?
– Chẳng phải xứ nào cả! Đó là tổ tiên của chúng ta nhiều triệu năm về trước. Khi chưa t́m ra lửa, loài người phải ăn thịt sống.
– Đấy! Họ vẫn khỏe mạnh, sinh tồn đến ngày nay. Cọp beo cũng thế!
– Hăy nói vấn đề lấy thịt. Tụi mày ăn tại chỗ, nhưng làm sao lấy về cho thằng đội trưởng?
– Chúng cháu xén sẳn vài cục, khi có nệnh về nà cho vào mồm nuốt ngay... Bọn cán bộ dù có con mắt thánh cũng không bắt gặp. Xét xong, chúng cháu vội về đội, móc họng, nôn ra niền, nạp đủ số cho thằng đội trưởng.
– Rồi thằng đội trưởng ăn bằng cách nào?
– Hắn rửa cục thịt sạch chất nhớt, cho vào ca cống, đun lên nà có được bữa ăn ngon.
Nói xong, thằng Nư đứng dậy:
– Cháu phải về gánh cơm cho đội thông tầm. Cái chân chú đau, không nên đi đứng nhiều.
Nó quay lưng, ra khỏi lán.
Nh́n đôi vai gầy guộc của nó rút lại như đôi vai của người bệnh ho lao, tôi gọi:
-Nư! Mày trở lại lấy vài bi thuốc lào, đêm nay hút cho đỡ lạnh!
Vào những ngày cuối năm, trời bỗng dưng trở lạnh. Mưa phùn lất phất trên những ṿm cây. Đồi nương ẩm đục. Ngày hai mươi chín tháng Chạp, được phép trại trưởng, các đội khỏi phải xuất trại lao động bên ngoài. Thay vào đó, anh em được giao công tác dọn dẹp và làm vệ sinh trong trại, chuẩn bị đón Tết.
Tôi đang ngồi nhổ cỏ dọc theo những chân tường ngăn chia các đội. Thằng Nư đi ra. Hôm nay nó mặc bộ đồ lành lặn, sạch, mặt hiện niềm vui. Tôi nói:
– Chưa Tết mà ngó mày, tao đă thấy mùa xuân!
Nó báo tin:
– Cháu được mẹ từ Vĩnh Yên nên thăm. Bộ đồ này cháu mượn của thằng bạn, để mẹ cháu không nh́n thấy cháu rách. Cháu đang chờ cán bộ dẫn ra nhà thăm nuôi.
– Mày ngon rồi! Vừa có đồ ăn của trại, vừa được mẹ tiếp tế thêm. Tết này mày huy hoàng!
– Vâng! Huy hoàng thật! Cháu không ngờ may mắn đến thế!
Khoảng hai giờ chiều, cán bộ dẫn thằng Nư về trại, tay ôm bụng, mặt nhăn nhó, tái nhợt. Ngờ nó bị trúng gió, tôi theo nó vào lán. Nó nằm vật lên sạp, lăn lộn, kêu đau bụng và lạnh. Tôi hỏi mượn mấy thằng bạn của nó ve dầu nóng để cạo gió.
Thằng đội trưởng h́nh sự đứng nh́n một lúc, nói:
– Chả phải trúng gió đâu! Nó bị bội thực đấy! Móc họng nôn ra là khỏi ngay!
Nhiều thằng khác lao nhao:
– Nôn? đi! Nôn đi!
Thằng Nư trườn về b́a sạp, rướn cổ, tḥ đầu ra ngoài, cho ngón tay vào miệng. Có thằng la lớn:
– Hăy khoan!
Và nó chạy ra ngoài, đem vô một cái thau bằng nhựa, bưng thau kề sát miệng thằng Nư:
– Hăy nôn vào đây!
Thằng Nư móc họng, ụa mữa. Đồ ăn lẫn nhớt dăi tuôn trào xuống thau. Thằng bưng thau bóc lên những miếng thịt c̣n dính ḷng tḥng nhớt dăi, đưa lên miệng ăn. Một thằng khác đang đói cũng ăn.
Có thằng nhăn mặt:
– Gớm quá!
Thằng bưng thau nói:
– Gớm ǵ? Từ bụng kia sang bụng nọ mà thôi!
Sáng mồng một Tết, mọi người quy tụ ra sân trại coi anh em văn nghệ tŕnh diễn. Có đàn và trống xập x́nh vui tai. Tôi gặp thằng Nư đang lóng ngóng coi hát. Tôi hỏi:
– Mày khỏe hẳn chưa?
– Hôm sau nà khỏe ngay!
– Mẹ mày thăm nuôi, sao tao thấy mày đi vào tay không?
– Nhà cháu nghèo, không có tiền sắm sửa. Thăm nuôi là thăm cho có nệ thế thôi! Mẹ cháu chỉ mang cho cháu một con gà nuộc, và một cân xôi.
– Sao không đem vô trại, để dành ăn từ từ?
– Nếu đem vô trại, mấy thằng đầu gấu, chúng nó giành giựt cả. Thế cháu mới xơi hết tại chỗ!
Tôi trợn mắt:
- Mày ăn hết một lần hết con gà và cân xôi?
– Vâng! Không c̣n cách nào khác! Lúc th́ dư thừa phải nôn ra, bây giờ th́ đói.
Nh́n thằng Nư, tôi thấy nó đang tàn tạ, khô héo dần. Nó không có mùa Xuân.
Lâm Chương
hoanglan22
12-27-2019, 21:03
Chuyện mũi ḷng
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1505893&stc=1&d=1577480772
Cô Bạc là người giúp việc cho gia đ́nh tôi. Cái tên bạc chả có ǵ gắn liền với tiền bạc. Có lẽ bạc như vôi th́ đúng hơn. Từ lúc có trí khôn tôi đă thấy cô không được may mắn. Cô là một thành viên của gia đ́nh, gồm bố mẹ, tôi, và Bé Ti. Nghe nói ông nội nhân một một chuyến đi xa, đem về một cô gái nhỏ giúp việc cho bà nội. Khi ông bà mất, bố tôi nghiễm nhiên thừa hưởng gia tài gồm căn nhà và cả cô Bạc.
Công việc mỗi ngày của cô bắt đầu từ sáng sớm, pha trà, pha nước rửa mặt, nấu ăn sáng, giặt quần áo, đi chợ, nấu ăn trưa chiều, dọn dẹp, đút ăn cho Bé Ti, tắm rửa cho hai anh em chúng tôi… Bằng ấy công việc cô làm quần quật như một cái máy, không than van, hêt năm này qua năm khác.
Một hôm bé Ti ốm không ăn được cơm. Cô năn nỉ măi cũng chẳng được. Cô đành cho bé Ti uống thuốc rôi đi ngủ. Bố mẹ tối hôm ấy biết đươc. Bố lấy roi quất túi bụi vào cô, chửi cô lười biếng. Lần đầu trong đời tôi hiểu được thế nào là bất công. Có cái ǵ đó không đúng. Mẹ đứng bên chửi hùa:
– Dạy cho Cô biết. Nhà này không có cơm cho kẻ lười chảy mỡ như cô ăn rồi nằm. Ăn th́ phải làm. Lần tới đuổi ra khỏi nhà.
Nghe tới đuổi cô sợ lắm. Hai tay vẫn c̣n che đầu.
– Cậu mợ đừng đuổi con. Con biết lỗi rồi.
Ngày hôm sau tôi hỏi cô:
– Cô Bạc c̣n đau không?
– Vậy Cu Tí bị đ̣n có đau không?
– Lúc ấy th́ đau, nhưng Mẹ bôi dầu cù là th́ hôm sau hết đau.
Tôi x̣e tay đưa cô xem hộp dầu cù là con cọp bé bằng ngón tay cái. Tôi bảo cô kéo áo lưng lên tôi bôi cho. Những vết roi c̣n bầm tím. Khi bàn tay tôi đụng vào tấm lưng gầy guộc, nh́n thấy rơ xương, cô rùng ḿnh. Có lẽ lần đầu cô được người khác chăm sóc, ánh mắt cô nh́n vào khoảng không. Cô ôm tôi vào ḷng thật lâu.
Cô không ăn cơm chung với gia đ́nh. Chúng tôi ăn trước, cô dọn dẹp rồi ăn sau ở nhà bếp. Thường là những ǵ c̣n thừa mới tới lần cô. Có lần tôi bắt gặp cô lén lút mút miếng xương cá chúng tôi ăn xong vất đi, hay nhặt những hạt cơm c̣n dính đáy nồi, bỏ nhanh vào miệng như sợ mẹ tôi bắt gặp.
***
Mấy hôm nay trời trở lạnh. Nh́n cô mặc cái áo cũ sờn ṃng manh tôi thương hại. Tôi về pḥng lấy cái áo thun cũ bảo cô mặc bên trong rồi tṛng cái áo bên ngoài cho đỡ lạnh. Cô cảm động lắm. Quần áo của cô là đồ cũ của Mẹ để lại. Mẹ to và cao hơn cô cả cái đầu cho nên cô mặc vào trông luộm thuộm buồn cười. Có lần tôi nói đùa: “Cô Bạc mặc quần này đi tới đi lui khỏi quét nhà.” Khi thấy tôi để ư, cô tự ư sửa lại cho vừa vặn; nhưng nh́n kỹ hơn tôi vẫn thấy có cái ǵ đó không ăn khớp lắm. Cái áo ḷe loẹt đi với cái quần bạc thếch. Trông cô như thằng hề.
Có một lần duy nhất tôi thấy cô mặc áo mới. Đó là ngày tết. Cô cột tóc cao, khuôn mặt cô tươi hơn thường ngày. Lần đầu tiên tôi thấy cô đẹp. Mẹ bảo năm nay bố được lên chức và tăng lương, ḿnh sẽ ăn tết lớn hơn mọi năm. Mẹ may áo mới cho cả nhà. Cô cám ơn Mẹ ríu rít. Bữa cơm hôm đó bố uống mấy cốc rượu vang. Bố nh́n cô Bạc nhiều hơn với ánh mắt khác thường. Tất cả không qua mắt được Mẹ. Ngay tối hôm đó tôi nghe Mẹ nói với Cô ở sau bếp: “Từ nay trở đi cô không được lên nhà trên khi có Cậu ở nhà. Cái áo đó cô không được mặc trong nhà này.” Cô cúi gầm mặt xuống và chấp nhận số phận. Từ đó cô ở hẳn dưới bếp, cũng là chổ ngủ của cô.
Một buổi trưa lúc cô đang dỗ bé Ti ngủ. Cô hát vu vơ ǵ đó với âm điệu lạ tai. Tôi ṭ ṃ:
– Quê Cô ở đâu?
Đôi mắt cô buồn rầu:
– Không biết. Xa lắm. Tây nó đốt nhà. Tía má chết hết. Cô c̣n nhỏ đi ăn xin. Ông nội gặp ngoài chợ mang về nuôi.
Có ǵ đó kinh khủng lắm, cô sợ hăi khi nhắc lại quá khứ. Tôi hỏi thêm:
– Cô thích ǵ nhất?
– Ở đây không có. Cô nhớ Tía Má.
Cô lại giải thích thêm “Tía Má” là bố mẹ. Tuy c̣n nhỏ nhưng tôi biết an ủi cô:
– Bố mẹ cô, Cu Tí không biết làm sao để mang về được. Thế cô thích ăn ǵ? Cu Tí mua cho.
Mắt cô trở nên mơ màng: “Cu Tí không mua được đâu. Môi năm đến mùa cá linh, cá nhiều lắm. Tía má mang từng rổ to về nhà. Cứ một lớp cá, một lớp muối, một lớp thính, bỏ vào lu. Một hai tuần mang ra, ăn kèm khế chua, chuối chát. Ôi ăn hoài không thấy no.”
***
Năm đệ lục tôi phải chia tay với gia đ́nh lên tỉnh học. Ngày chia tay Cô Bạc theo mẹ tiễn tôi ra bến tàu. Cô im lặng trong cái im lặng thường có hằng ngày. Cô không nh́n thẳng vào tôi, nói rất khẽ bên tai “Cu Tí đi xa cẩn thận. Tết về chơi.” Khi tàu chạy, tôi ngoái lại, mẹ cao to đứng vẫy tay bên cạnh một thân h́nh gày guộc mờ trong bụi đường.
Tuổi trẻ hời hợt. Tôi quên bẵng đi cô Bạc. Tôi quên hẳn cả cái hương vị cay cay ngọt ngọt trong các món ăn cô thường nấu. Và tôi quên hẳn câu chuyện về món mắm cá linh. Năm đầu tiên tôi c̣n về ăn Tết. Tuy chỉ có một năm xa cách, Cô già hẳn đi. Tóc cô lốm đốm bạc trong khi mẹ tôi tóc c̣n đen nhánh. Thỉnh thoảng cô hung hắng ho. Trong tiếng ho báo điềm không lành.
Nhờ có bằng tú tài, tôi kiếm được việc làm và ở luôn ở tỉnh. Bố mẹ dạo này căi nhau nhiều hơn. Mẹ viết thư cho tôi kể tội Bố có thêm tật hư là đánh bạc. Bố thua to đến độ cầm nhà. Em gái tôi lấy chồng, tôi cũng chẳng về. Mẹ viết thư kể lể khóc lóc “Con phải vay cho mẹ một số tiền lớn, không th́ mất nhà!” Bất đắc dĩ tôi phải cầm một món tiền lớn về đưa cho mẹ trả nợ. Khi tôi về bố không có nhà. Mẹ sau khi cầm tiền đi mất hút. Tôi nghe có tiếng ho sau bếp. Cô Bạc giờ teo lại như con cá khô. Khi không có mẹ ở bên, tôi dúi cho cô mấy đồng bạc. Cô cảm động lắm. Tôi nói khẽ: “Cu Tí đi đây. Kỳ này chắc không về nữa.” Cô nh́n tôi thật lâu. Có lẽ cô nhớ lại Tía Má cô lúc chia tay.
Từ đó tôi bỏ nhà đi thật xa. Cố quên đi cô Bạc. Cố quên đi căn nhà xưa. Quên luôn cả cái bếp, bên cạnh đó có cái gường ọp ẹp, có thân h́nh gầy guộc của một người đàn bà. Khuôn mặt cô Bạc hầu như không c̣n rơ, chỉ c̣n lại tiếng ho yếu ớt.
Một hôm có người bạn rủ tôi về quê chơi. Quê anh ở Châu Đốc. Cũng vào mùa cá linh. Trên bàn vỏn vẹn chỉ có đĩa mắm cá linh, một đĩa khế chua và dưa leo cắt lát. Con cá c̣n dính màu vàng thính. Tôi gắp thử một con, mắm c̣n mới nhưng đă có mùi thơm đặc biệt. Ăn kèm với khế chua và dưa leo, tôi lùa một lúc bốn bát cơm. Tuy là lần đầu thực sự ăn món này, nhưng cái cảm giác quen thuộc kéo tôi trở lại câu chuyện cô kể xa xưa. Nh́n qua cửa sổ. Mặt trời xuống thật nhanh. Ánh nắng vàng vọt cuối ngày gợi tôi chợt nhớ về cô Bạc, nhớ ánh mắt mơ màng của cô khi nói về mắm cá linh. Bàn tay gầy guộc mỗi lần vuốt tóc tôi. Những lần cô ôm tôi thật chặt trong nước mắt. Không biết cô giờ này ra sao?
Tạo Ân
Dec 25, 2019
hoanglan22
12-28-2019, 17:59
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1506307&stc=1&d=1577555703
Tân Định và Đa Kao Thân Yêu
Chỉ C̣n Trong Kỷ Niệm
(tdp/2020)
- Xin kính tặng đến bà con Tân Định & Đa Kao và những ai đă từng đi qua nơi đây.
- Hy vọng bà con sẽ t́m lại được một chút kỷ niệm của ngày xưa yêu dấu.
- Nhiều h́nh ảnh, nhiều nơi đă biến mất hẳn, c̣n lại một ít th́ cũng đang dần dần đi vào chốn hư không. Nếu có c̣n chăng th́ chỉ là những con đường không bị đổi tên.
Cho đến bây giờ, dù đă xa Tân Định và Đa Kao nhiều năm, nhưng trong tôi “Tân Định và Đa Kao” lúc nào cũng là một nỗi nhớ khôn nguôi! Nỗi nhớ này cứ thôi thúc tôi hoài. Đă bao năm qua, tôi muốn t́m về chốn này, để sống lại với kỷ niệm thuở học tṛ, mà t́nh yêu khi đó “chỉ biết đôi mắt nh́n nhau cũng đủ rồi.” Tôi cứ hẹn nhiều lần, nhưng vẫn chưa bao giờ thực hiện được ước mơ của ḿnh. Rồi!một dịp t́nh cờ đưa đến. Giấc mơ đă trở thành hiện thực. Tôi đă có hai tuần lễ đi qua, đi lại, đi tới, đi lui.đi xuôi, đi ngược trên những con đường kỷ niệm của Tân Định và Đa Kao. Điều làm tôi rất đổi ngạc nhiên và thích thú nhất là nhiều con đường trong khu vực này vẫn không hề bị đổi tên.
Thật vậy! Sau 30 tháng 04, năm 1975. Một số tên đường của thành phố Sài G̣n thân yêu đă bị đổi bằng những cái tên hoàn toàn xa lạ. Nay, được thấy lại các tên đường ở khu Tân Định và Đa kao không bị thay đồi nhiều, trong ḷng tôi bỗng nhiên dâng lên một sự xúc động mănh liệt và một niềm sung sướng vô biên.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1506309&stc=1&d=1577555825
Trước hết, xin bắt đầu từ Cầu Kiệu với con đường Hai Bà Trưng đi về phía Sài g̣n. Khoảng đường này, bên tay phải là hẻm Vựa Gạo số 477 HBT. Nơi các ghe thuyền ngày xưa chọn làm bến tấp nập xuống gạo ở đây, để từ đó gạo được giao lại cho các chợ. Hẻm có nhà của Hoạ Sĩ vẽ áo dài ba miền Nam,Trung, Bắc nổi tiếng Lê Trung. Ông đă từng doạt nhiều giải thưởng lớn về Hội Hoạ. Con hẻm đi ra được hẻm 60 Cù Lao Yên Đổ, pḥng khám mắt của Bác Sĩ Kính, tiệm bán bông cườm cho đám tang, tiệm thuốc Bắc của ông Lang Sách. Nay là tiệm bán “Bánh Tầm B́ 457 HBT với “Đặc Sản Bạc Liêu” của con trai cua rơ nước rút Nguyễn Văn Châu thuê mở quán ăn. Cua Rơ xe đạp nước rút Nguyễn Văn Châu đă làm nên một kỳ tích vô tiền khoáng hậu, mà cho đến nay chưa từng có bất cứ cua rơ xe đạp VN nào tạo được.Trong cùng năm 1961, ông đă đoạt chức Vô Địch nước rút Á Châu ở Đông Kinh và Đông Nam Á Vận Hội ở Ngưỡng Quang.
Số 459 HBT là nhà của nữ ca sĩ TV Chi Bảo PHQ. Có lẽ cô là ca sĩ duy nhất xuất thân từ ḷ của nhạc sĩ Nguyễn Đức c̣n cất tiếng hát cho đời thêm vui? Thời vàng son của cô với những bài hát về lính như: Giờ Này Anh Ở Đâu?, Vườn Tao Ngộ, Dấu Chân Kỷ Niệm, Thương Hoài Ngàn Năm…đă đưa tên tuổi cô đến gần với những người yêu tân nhạc, nhất là các anh lính chiến đang trú đóng nơi tiền đồn xa xăm, heo hút. Hiện PHQ định cư ở Nam Cali. Cô cùng nữ ca sĩ TTL phụ trách chương tŕnh truyền h́nh“Tiếng Hát Hậu Phương” được phát trên Hồn Việt TV.
Hẻm cô Hai Kim, số 451 HB. Bên phải đầu hẻm là tiệm điện Ngọc Sơn, trong hẻm có cô Hai Kim chuyên cắt lể, giác hơi, cạo gió và bán thuốc tể. Cạnh bên là nhà của Dịch Giả các truyện kiếp hiệp nổi tiếng Từ Khánh Phụng vớ các truyện: Trảm Lư Bảo Kiếm, Hoả Long Thần Kiếm, Quái Khách Muôn Mặt, Song Nữ Hiệp Hồng Y Kiếm Hiệp,…có ḷ làm bánh hủ tiếu và bánh cuốn tráng hơi của người Hoa chuyên đem bỏ mối trong vùng, Bà Năm Cà Ĺ bán vải ở chợ Tân Định.
Bên trái hẻm là tiệm sửa xe gắn máy Ông Bảy Mập chuyên sửa xe Mô Tô Harley-Davidson, nhà thuốc Nhân Phong Đường hay c̣n gọi là Thuốc Cam Hàng Bạc số 447 B - HBT. Trước cửa trên quày kính bên trái có trưng bày một con nai bằng gỗ mun, nh́n tưởng như thật. Gia đ́nh Nhân Phong Đường hầu hết ở nước ngoài. Hiện, chỉ c̣n người con trai út là cựu quân nhân Binh Chủng Thiết Giáp VNCH ở lại trông coi và kế nghiệp. Căn nhà đă sửa lại khang trang hơn xưa. Trước năm 1975, ông chủ thuốc cam Hàng Bạc có nhiều bộ sưu tập đồ cổ rất giá trị. Nhất là những binh khí và đồ sành sứ cổ xưa. Đặc biệt, có một con chim sáo nhỏ bằng ngọc thuộc loại quư hiếm.
Kế bên là tiệm cà phê tên Hải Nàm của người Việt gốc Hoa. Nơi đây bà con thuộc giới b́nh dân thường đến thưởng thức cà phê pha bằng vợt. Hai chân ngồi trên ghế theo kiểu ngồi nước lụt, miệng nhâm nhi ly cà phê xây chừng, môi bập bẹ điếu thuốc Rê G̣ Vấp, Cotab, Bastos xanh đỏ…để bàn chuyện thời sự, bàn những con số đề do đêm ngủ nằm chiêm bao thấy và hy vọng sẽ xổ vào buổi chiều mà thường th́ suưt trúng, giá cả hàng hóa lên xuống hàng ngày, chuyện chính chị, chính em, bàn về đua ngựa cuối tuần ở trường đua Phú Thọ, với các con ngựa được mang tên các nữ nghệ sĩ cải lương danh tiếng như: Út Bạch Lan, Thanh Nga, Ngọc Giàu, Bạch Tuyết.. Ngoài cà phê ra, c̣n có hủ tíu ḿ, hoành thánh, bánh bao, xíu mại. Buổi chiều có thêm xe bán tiết canh, ḷng heo của bà Th́n, nhà trong hẻm 60 Yên Đổ, Cù Lao.
Phía bên trái, dưới chân Cầu Kiệu là con hẻm nhỏ số 478 HBT chuyên bán chó, kèm theo một đội quân chuyên săn bắt chó. Dụng cụ hành nghề rất đơn giản: một ống nước dài khoảng một thước rưởi, bên trong luồn một sợi dây cáp nhỏ, được thắt nút tḥng lọng. Họ lùng sục khắp hang cùng, ngỏ hẹp trong thành phố, ra đến tận ngoại ô để t́m nguyên liệu chó, đem về cung cấp cho các quán Cờ Tây. Em chó nào chạy lang thang là chỉ vài giây, bằng thao tác chuyện nghiệp các tay săn bắt chó đă đưa tḥng ḷng vào cổ em và ném ngay vào bao bố trong có đựng tro, để cho em bị ngộp, không sủa, không giẫy giụa, hoặc ú ớ được. Nếu em chó nào đẹp, có giá trị th́ chờ vài ngày cho chủ nhân đến t́m chuộc lại theo luật giang hồ. Đợi một thời gian không thấy ai đến chuộc th́ sẽ hoá kiếp.
Kế tiếp là tiệm trà Phật Tổ, cây xăng nhỏ HBT, cửa hàng bán đồ điện Thành Mỹ, tiệm sơn Mậu Kư và cửa hiệu bán xe đạp cùng phụ tùng Đoàn Văn Thẩm được các cua rơ xe đạp chuyên nghiệp như: Lê Thành Các, Bùi Văn Hoàng, Trần Văn Nên, Ngô Thành Liêm, Lưu Quần, Huỳnh Anh, Trần Gia Thu, Trần Gia Châu, Trương Tỷ, Huỳnh Ngọc Chánh, Tô Hiếu Thuận, Vơ Vĩnh Thời, Nguyễn Hữu Thoại, Nguyễn Văn Hoà, Nguyễn Văn Kỉnh, Trần Hữu Tuấn...thường đến chọn mua phụ tùng. Đôi khi họ phải nhờ tiệm đặt hàng sản xuất từ Pháp và Ư Đại Lợi. Sau này, có thêm tiệm bán xe đạpTuấn Kiệt với bà chủ đeo kính trắng, gọng nhựa đen, miệng lúc nào cũng cười tươi như hoa nở.
Quẹo trái ở ngă ba là đường Trần Quang Khải. Đầu đường là pḥng mạch của Bác Sĩ Hạnh. Trước khi đi ngoại quốc đă làm giấy tờ hợp pháp giao lại căn nhà cho người em tên Lịch. Nay, vợ chồng anh hành nghề bôm và vá ép xe giá rất b́nh dân. Họ làm ăn rất đàng hoàng, uy tín và có lương tâm, tiệm Bida TQK, về sau đổi thành Salon bán xe TQK. Đi thêm vài bước là con đường nhỏ tên Nguyễn Hữu Cảnh, c̣n gọi là đường Xóm Chùa v́ trong hẻm có nhiều chùa chiền.
Đầu hẻm, phía bên phải là chỗ mài dao kéo, tông đơ, rồi đến quán bánh cuốn Thanh Tŕ và xôi ṿ số 212/2B vẫn c̣n tồn tại. Quán bắt đầu khai trương từ năm 1957, sau khi ông bà đi cư vảo Nam một thời gian. Bà chủ tên Mai đă mất. Nay, con trai và con dâu của bà tiếp tục nối nghiệp. Khách vẫn đến ủng hộ rất đông. Quán chỉ mở vào buổi sáng cho đến 10 giờ. Ngồi trong quán vừa ăn, vừa nh́n xe và người đi qua, đi lại cũng vui mắt.
Nằm đối diện là Hăng Sáo Công Ty, rồi tới Trường Việt Nam Học Đường, số 38 đường Đặng Tất do Thầy Phan Hiếu Kính làm Hiệu Trưởng và Trường Trung Học Tư Thục Văn Lang, số 51 Trần Quí Khoách do Thầy Ngô Duy Cầu làm Hiệu Trưởng. Trường Văn Lang bắt đầu bằng hai dăy nhà lợp bằng tôn trên nền đất từ các ao rau muống. Sau đó Thầy Cầu cho xây dựng từ từ. Sau này, trường Văn Lang được xem như có bề thế nhất trong vùng. Thành phần giáo sư giảng dạy rất hùng hậu. Đa số đang là Giáo Sư của các Trường Công Lập nổi tiếng như Pétrus Kư, Chu Văn An, Trưng Vương, Gia Long… Năm nào, tỷ lệ học sinh trường Văn Lang cũng đều đạt thành tích rất cao trong các kỳ thi Tú Tài 1 và Tú Tái 2 do Bộ Giáo Dục tổ chức.Thầy Cầu mất đúng vào ngày 30 tháng 04, năm 1975. Hiện nay Trường Văn Lang là trường duy nhất trong khu vực Đa Kao và Tân Định c̣n tồn tại và vẫn giữ tên Văn Lang. Tuy nhiên, chính quyền đang có kế hoạch xây lại mới v́ trường được xây dựng đă trên nửa thế kỷ trên khu đất ruộng, hư hại nhiều theo thời gian. Hiện đang chờ kinh phí phê duyệt xong là bắt đầu đập bỏ để xây lại. Không biết khi xây xong có c̣n mang tên Văn Lang hay trở thành khách sạn, nhà hàng, hoặc chung cư nhiều tầng?
Đối diện trường Văn Lang là Cư Xá Kiến Ốc Cục Tân Định, dành cho công chức. Đi vào phía trong là chùa Vạn Thọ do Thương Toại Bửu Truyền trụ tŕ và một số chùa nhỏ khác nằm rải rác. Ngoài ra có dăy phố mười căn, trong đó có gia đ́nh ban kích động nhạc thần đồng CBC danh tiếng một thời, v́ các nghệ sĩ tŕnh diễn đều c̣n ở lứa tuổi nhi đồng và ban nhạc chuyên phục vụ cho đám tang của Hội Bắc Việt Tương Tế mà nhạc công sử dụng các nhạc cụ dân tộc, kể cả phần khóc mướn.
Phía tay phải là quán cơm cây Điệp, kế bên là hăng sản xuất Gạch Bông Vân Sơn và tiệm Billards mang cùng tên. Nh́n sang bên đường là tiệm giặt ủi Tần Tiến, cho thuê xe xích lô đạp, làm bản kẽm Dầu, trường Trung Học Tư Thục Tân Thạnh do Thầy Phan Út làm Hiệu Trưởng. Trưóc khi đi vào cổng trường, phải đi ngang Bảo Sanh Viện Ngô Liêng. Hẻm Trường Tân Thạnh đi ra được đường Đặng Dung. Quẹo bên trái có khách sạn Đặng Dung, sang bên phải là nhà Thầy Hiệu Trưởng Văn Lang Ngô Duy Cầu, số 48 A Đặng Dung. Nay là pḥng chữa răng Ngọc Nha. Đối diện nhà Thầy Cầu là số 85 Đặng Dung, ngày xưa là Đài Phát Thanh và nhà của gia đ́nh Thuốc Cam Hàng Bạc gần đó.
Đi tiếp sẽ gặp quán cà phê nhạc tên Thơ, trước quán có trang trí mái che được lợp bằng lá dừa phơi khô. Nơi đây, các học sinh, sinh viên thường tới để vừa thưởng thức cà phê, vừa nghe nhạc do các giọng ca tài tử tŕnh diễn v́ giá cả tương đối b́nh dân. Thỉnh thoảng cũng có các nhạc sĩ Phạm Duy, Trịnh Công Sơn,Từ Công Phụng…, các ca sĩ Khánh Ly, Miên Đức Thắng, Nam Lộc…đến tŕnh diễn. Nghe nói cả gia đ́nh Quán Thơ định cư ở Canada
Gần bên là Chùa Cô Hồn hay Tân Hiệp Nam Nữ Hội số 188 TQK chỉ c̣n tấm bảng ở phía trước, số 186 TQK có cây xăng TQK, Photocopy Hoàng Sơn, xe nước mía chị Hai số 186 Bis. Cô em gái tên D là nữ sinh Lê Văn Duyệt rất xinh xắn và duyên dáng. Nhờ thế mà xe nước mía chị Hai lúc nào cũng tấp nập khách đến thuởng thức mà đa số là nam sinh. Nhiều anh chơi nổi kêu một lúc hai, ba ly và t́nh nguyện rửa và dọn ly giùm. Tuy nhiên, một chàng Sĩ Quan tốt nhiệp khoá 19 Vơ Bị Đà Lạt thuộc binh chủng quanh năm hành quân với bưng biền và lặn lội ở Rừng Lá Thấp đă được nàng đáp lại t́nh yêu. Đây là một mối t́nh lăng mạn và trong sáng. Nhưng định mệnh oái ăm đă không đưa đến một kết thúc tốt đẹp v́ thân mẫu cô đă quyết liệt từ chối. Lư do là khác biệt về tôn giáo và nhất là không muốn cô sớm trở thành quả phụ thơ ngây ở tuổi vừa mới chớm hai mươi. Cuối cùng, hai người đành phải nhắm mắt chia tay. Nghe đâu gia đ́nh nàng đang định cư ở Canada. C̣n chàng sau năm 1975 tiếp tục dùi mài kinh sử hơn mười năm ở Đại Học Máu không có ngày tốt nghiệp. Chàng đă cùng gia đ́nh đến Mỹ theo diện H.O và định cư ở Nam Cali. Thỉnh thoảng chàng cũng viết nhiều bài gồm đủ các đề tài và được độc giả các nơi ái mộ. Nghe đâu chàng cũng đă từng đoạt giải“Viết Về Nước Mỹ”nhiều lần.
Đường Bà Lê Chân bên tay phải, ngay góc đường là quán cơm tấm b́, chả, sườn nướng, xí mại và cà phê pha vợt b́nh dân tên Ngọc Long của vợ chồng con trai nghệ sĩ lăo thành Bảy Nhiêu. Kế bên có bà Sáu bán nước trà Huế, bánh kẹp, chuối già và hai bàn đá banh tay, lôi cuốn các học sinh kéo đến chơi thường gây ồn ào trước khi vào học và lúc tan trường. Đôi khi sinh ra ẩu đả v́ cá độ, chọc quê nhau. Cả hai bên thắng hay thua th́ quần áo, mặt mày đều dính dầu nhớt lem luốc. Chắc chắn về nhà sẽ bị cha mẹ đánh đ̣n.
Nằm đối diện là Đ́nh Phú Hoà, số 159 TQK nơi các đoàn hát bộ và cải lương thường đến tập và diễn tuồng. Diện tích Đ́nh Phú Hoà đang dần dần bị thu nhỏ lại v́ được biến thành nơi giử xe và nhiều người cư ngụ. Sát bên Đ́nh Phú Hoà là lớp Anh Ngữ của Giáo Sư Nguyễn Thế Thông nằm ở phía trong nhà, c̣n phía ngoài cho thuê mâm quả, đồ cưới, kế bên có tiệm may mui nệm.
Nằm trên đường Bà Lê Chân phía bên trái có một hẻm nhỏ với ông Sáu Hộ chuyên bó bột trị trật xương, găy xương tay chân, tiệm Kim Thạch bán văn pḥng phẩm, dụng cụ hoc sinh, nhà in Bùi Văn Tạ, bảo sanh viện Hà Đông Hà. Trước mặt có con đường mang tên Mă Lộ. Hồi xưa là bến xe Thổ Mộ và xe Cá. Con đường này chạy song song phía sau chợ Tân Định. Đi thêm khoảng mười mét là gặp đường Hai Bà Trưng. Nằm ngay góc Bà Lê Chân và HBT là Y Viện Tân Định. Phía bên phải có tiệm thịt ḅ Thành Thể và ba tiệm vàng Đ́nh Thể, HữuThành và Mỹ Thịnh. Hai ông bà Mỹ Thịnh sản xuất hàng tá con. Tất cả đều là gái. tướng cô nào cũng đều dong dỏng cao. Nghe đâu ông bà đi cầu tự được một cậu con trai? Cũng nói thêm ở gần đó có tiệm thuốc Đông Y Đức Nguyên ,số 350 HBT của Đông Y Sĩ Chánh Kỷ.
Bên trái là chợ Tân Định hoạt động hầu như suốt ngày. Ban ngày là hoạt động về chợ búa. C̣n về chiều và tối th́ các hàng quán: Trái cây, hột vịt lộn, ốc gạo, ốc hương, ốc len xào dừa, khô mực, đu đủ ḅ khô, gan cháy, hủ tíu ḿ, sâm bổ lượng, cháo ḷng, bánh cuốn…Bà con đi ngang qua thường hay bị kéo lại mời mọc và lực lượng bán vé số vừa thấy khách ngồi là chạy lại đưa xấp vé số vô mặt như ép phải mua. Chưa tính đến các cái bang thường gây phiền phức cho thực khách khi vừa ăn xong, khách chưa rời khỏi bàn đă bị họ nhào tới thu gom chiến trường trong nháy mắt.
Khoảng 10 giờ đêm thường thấy hai anh TPB/VNCH xuất hiện: một anh mù hai mắt, một anh mất một tay và c̣n một chân. Anh mù hai mắt đệm Guitar, c̣n anh kia chống nạng đến từng bàn lịch sự mời thực khách mua vé số. Cả hai cùng song ca những bài hát của các Nhạc Sĩ Trần Thiện Thanh, Lam Phương, Hoàng Thi Thơ, Trúc Phương, Mạnh Phát như: Rừng Lá Thấp, Chiều Trên Phá Tam Giang, Tâm Sự Người Lính Trẻ, 24 giờ Phép, Bông Cỏ May, Thành Phố Buồn, Đường Xưa Lối Cũ, Nửa Đêm Ngoài Phố, Kiếp Tha Phương, Bóng Nhỏ Đường Chiều, Hoa Nở Về Đêm, Duyên Kiếp… rất được bà con hết ḷng ủng hộ và tán thưởng. Nếu có ai yêu cầu hát thêm những bài khác, hai anh cũng sẵn sàng thoả măn. Đặc biệt, khách không muốn mua vé số, nhưng muốn biếu tiền th́ hai anh cảm ơn không nhận, mà trả lời “chỉ bán vé số mà thôi!”
Từ Đ́nh Phú Hoà nh́n sang bên kia là đường Trần Nhật Duật. Xe chè Huỳnh Thị Ngà nằm ngay góc đường. Bà chủ là người miền Bắc di cư. Năm 1954. Xe chè bà nổi tiếng về đậu xanh, đậu đỏ và bánh lọt nước dừa không nơi nào sánh bằng. Bà cũng bán thêm nước chanh muối, sương sáo, sương sa. Vào giờ tan học học sinh các trường kéo đến rất đông. Nếu hôm nào con gái bà tan học về trễ th́ bà trở tay không kịp. Xe chè cũng là sợi dây tơ hồng đem lại nhiều mối t́nh “Thuở học tṛ c̣n buồn vu vơ. Thức bao đêm làm thơ rồi đợi chờ (Bài hát Vọng Gác Đềm Sương - Mạnh Phát). Đường TND chạy dài tới khu nông cơ cũ. Cuối cùng, được chấm dứt bằng một nhánh sông nhỏ chảy ngang qua. Học sinh trốn học thường đến đây tắm sông, trèo hái trứng cá, bần, me, b́nh bát, keo và mướn ghe chèo ra đến Long Vân Tự và cầu Phan Thanh Giản - Xa Lộ Sàig̣n Biên Hoà.
Trên đường Trần Nhật Duật có bốn con đường nhỏ mang tên các nhân vật lịch sử đi ngang qua. Thứ tự như sau: Đặng Dung, Đặng Tất, Trần Quí Khoách và Trần Khánh Dư. Riêng, hai đường Đặng Dung và Trần Khánh Dư chạy dài đến đường Trần Khắc Chân, c̣n gọi là xóm Cầu Mới, có một cây cầu bằng ván bắc ngang đi ra được đường Chi Lăng - Gia Định. Ngoài ra, hẻm số 21 TND có tiệm chụp h́nh Nguyễn Kỳ nổi tiếng. Một thời được các nữ sinh kéo đến ủng hộ rất đông. Họ thường đến đây chụp h́nh chân dung để kỷ niệm hay dán trong lưu bút ngày xanh mỗi dịp Hè về. Chủ nhân có biệt tài tô điểm, thêm thắt làm cho h́nh đẹp, sắc sảo, và giá trị hơn, giống như bây giờ người ta làm photoshop.
Nhà số 10 là Trường Trung Tỉểu Học Tư Thục Huỳnh Thị Ngà do Bà Huỳnh Thị Ngà làm chủ, kiêm Hiệu Trưởng. Trường thành lập từ năm 1947, ban đầu chỉ là những lớp bậc ở Tiểu học ở căn nhà trệt. Dần dần, xây lên nhiều tầng và phát triển thêm Trung Học Đệ Nhất Cấp và Đệ Nhị Cấp. Bà là một phụ nữ giỏi, đảm lược. Thời nào Bà cũng giao thiệp rộng trong các giới chức đương quyền và các Phong Trào Phụ Nữ. Bà biết chèo chống, điều hành và giữ vững ngôi trường Huỳnh Thị Ngà trong bao nhiêu năm, mà chung quanh có nhiều trường trung học tư thục khác như: Vạn Hạnh,Văn Lang, Việt Nam Học Đường, Văn Hiến, Huỳnh Khương Ninh, Vương Gia Cần, Tân Thạnh, Les Lauriers, Nguyễn Công Trứ, Đông Tây Học Đường, La San Đức Minh mà các Hiệu Trưởng đều là phái nam. Họ đă dùng mọi cách để cạnh tranh với trường bà, nhưng không ảnh hưởng được ǵ hết! Đặc biệt, Trường HTN c̣n là trường duy nhất ở Sàig̣n có nhận nữ sinh nội trú. Phụ huynh rất an tâm khi gửi con vào đây học nội trú. Bà dạy dỗ, chăm sóc, theo dơi thường xuyên và áp dụng kỷ luật thật nghiêm khắc với các em.Trường lúc nào cũng đông học sinh, thi cử luôn luôn đạt thành tích tốt v́ được các giáo sư giỏi và nhiều kinh nghiệm cộng tác. Bà khuyến khích học sinh tham gia các chương tŕnh văn nghệ, các công tác phục vụ cộng đồng, cứu trợ các nạn nhân bị hoả hoạn, băo lụt và thăm viếng các thương bệnh binh đang được điều trị ở các Quân Y Viện. Những học sinh có đóng góp được bà nâng đỡ cho học miễn hay giảm một phần học phí. Nữ minh tinh điện ảnh nổi tiếng Thẩm Thúy Hằng, Ca sĩ Trang Mỹ Dung, Thảo Ly, Phương Đại,Thần đồng Phương Mai, Vũ Bộ Song Kim, một nam sinh đă từng đoạt giải trong cuộc thi Tuyển Lực Ca Sĩ do Đài Phát Thanh Sàig̣n tổ chức tại rạp Quốc Thanh và Hưng Đạo…đều từng là học sinh trường HTN.
Ngoài ra, Bà c̣n dành một pḥng rộng nhất cho Giáo Sư dạy Pháp Văn Trần Văn Chánh thuê mở Cour Particulier ở tầng trệt. Giáo Sư Chánh là thân phụ của Bộ Trưởng Y Tế VNCH là Bác Sĩ Trần Lữ Y (Louis.) Lúc đầu Thầy mở các lớp luyện thi Bac 1&2 tại tư gia gần trường Huỳnh Khương Ninh, trước nhà có cây mít ướt đă già, múi nhỏ, nhưng ngọt và thơm. Sau này, học sinh các trường theo chương tŕnh Pháp như: Les Lauriers, Marie Curie, Jean-Jacques Rousseau, Couvent des Oiseaux, Pasteur, Taberd... đến ghi tên học rất đông, nên Thầy phải chuyển sang trường Huỳnh Thị Ngà mới có thể chứa đủ.
Trường hoạt động cho đến ngày 30/04/1975. Tính ra tồn tại gần ba mươi năm. Bà HTN mất ngày 5 tháng 12, năm 1992 tại tiễu bang Virginia (Hoa Kỳ.) Lúc c̣n sinh thời. Bà luôn luôn ước mơ lấy lại ngôi trường thân yêu mà Bà đă bỏ ra bao nhiêu công sức tạo dựng. Nhưng ước mơ của Bà đă không bao giờ trở thành hiện thực.
Đối diện trựng Huỳnh Thị Ngà, góc đường Đặng Dung là nhà gíáo sư khiêu vũ Nguyễn Trọng ở trên lầu một, phía trưóc có cây me to. Học sinh các trường chung quanh thường leo lên hái, Những trái me được túm gọn lại trong áo sơ mi. Khi vừa trèo xuống, thỉnh thoảng bị các anh hùng du đảng xóm chợ Tân Định tịch thu hết chiến lợi phẩm. Lúc đó chỉ biết mếu máo, năn nỉ dàn anh cho xin lại vài trái ăn cho đỡ công sức leo trèo.
Cách đó vài căn là nhà Giáo Sư Huỳnh Văn Mĩ (i ngắn.)Thầy Mĩ nổi tiếng về dạy Pháp Văn, nhất là phương pháp phân tích các mệnh đề rất dễ hiểu. Thầy cũng là một trong những Vơ Sư có công sáng lập môn phái Hàn Bái Đường. Không ai nghe nhắc về vợ thầy, sau khi hết giờ dạy học chỉ thấy Thầy đi chợ một ḿnh, tay xách cái gà mên. Thầy có con trai tên H..đẹp trai, giỏi vơ và tốt nghiệp Bác Sĩ Quân Y.Thầy Mĩ mất ở Nam Cali năm 2004, hưởng thọ 93 tuổi. Học sinh trường Huỳnh Thị Ngà rất nễ sợ thầy. Trong giờ Thầy dạy, học sinh rất kỷ luật, không một em nào dám quậy phá, cho dù bặm trợn, ba gai đến đâu cũng không dám hó hé v́ Thầy rất nghiêm và khó. Em nào vô kỷ luật. Thầy sẵn sàng có biện pháp thích đáng ngay lập tức. Bà Huỳnh Thị Ngà là học tṛ hồi nhỏ của Thầy. Phải kể thêm ở đây xe kem của một người miền Bắc di cư có cô con gái tên Mai và xe ḅ viên của ông Tàu có đổ xí ngầu ăn ḅ viên. Thường thường là ông thắng. Trường hợp ông thua th́ ḅ viên ông múc cho người thắng nhỏ hơn là loại b́nh thường bán cho khách.
Bây giờ, trở ngược ra đường Trần Quang Khải đi về phía Đa Kao. Trước khi đến một ngă năm. Phía bên trái là pḥng nha khoa trang bị máy móc hiện đại của vợ chồng đều là Nha Sĩ. Vợ là Nha Sĩ tên Hạnh. Dáng người mảnh mai, trang nhă. Bệnh nhân đang đau răng được bà chữa trị, tự nhiên cảm thấy không đau. Bà có nụ cười đẹp, hiền từ, hai hàm răng trắng đều. Chồng là Không Quân Thiếu Tá Nha Sĩ Dương Quảng Định đă từng tu nghiệp ở Hoa Kỳ (phục vụ tại Trung Tâm Giám Định Y Khoa Không Quân.) Hai vợ chồng rất đẹp đôi. Đi thêm khoảng ba mươi thước gặp một Villa cổ, phía trước có Depot rác nhỏ. Các công nhân quét rác sau khi gom rác xong đem đến đây đổ.
Bên kia đuờng là chỗ cho thuê sách, tiểu thuyết và truyện kiếm hiệp Đức Hưng, kế bên là tiệm hàn gió đá Sáu An, tiệm hớt tóc Hải Vân. Cách đó vài căn là nơi chuyên sản xuất xích lô đạp và xe ba bánh có tên Ngọc Quế.
Khi đến ngă năm, bên tay trái là đường Trần Khắc Chân, nh́n về phia tay phải là đường Nguyễn Phi Khanh và Trần Văn Thạch. Có nhà may Tụ Bảo (số 16 TVT), tiệm buôn Thế Giới, vựa trái cây, ḷ bánh ḿ, Gị Chả Liên Hương, nhà Bác Sĩ Trần Văn Văn, Cinéma Modern, tiệm thuốc Tây, tiệm sinh tố, nhà sách Yểm Yểm Thư Quán, tiệm may áo dài Lê Châu.
Đối diện là quán cà phê Phúc Thịnh, tiệm bám Vậy Liệu Xây Dựng Đức Thịnh, hai vựa bán gà, xóm Cảnh Sát, v́ đa số những gia đ́nh ở đây đều phục vụ trong ngành Cảnh Sát và nhà Quái Kiệt Tùng Lâm. Hẻm này đi ra được đường Đinh Công Tráng. Căn nhà nằm ngay góc Nguyễn Phi Khanh và Trần Văn Thạch của ông bà Bùi Ngọc Phương. Ông tự phong cho ḿnh là vua dầu hoả Việt Nam và dự định ứng cử Tổng Thống VNCH. Cũng kể thêm tiệm Ô Mai Bắc Việt mà nữ sinh là khách hàng thường xuyên ghé đây.
Nếu đi ngược chiều trên đường Nguyễn Phi Khanh, ngă ba đầu tiên là đường Huyền Quang có Sơn Trà Đ́nh - Tín Nghĩa Hội, số 113 A Nguyễn Phi Khanh nằm ngay góc. Mỗi năm vào dịp Lễ Vu Lan có tŕnh diễn Hát Bộ. Khán giả đi xem thường ném các quạt giấy có kẹp tiền lên sân khấu, để tưởng thưởng khi đến đoạn nào gây cấn, hấp dẫn. Lúc đó chiên trống thi nhau gơ, đánh liên hồi. Tiếng la hét cổ vũ ầm ỉ. Nay đ́nh Sơn Trà bị thu nhỏ lại diện tích v́ người ta chiếm dụng làm nơi bán Vật Liệu Xây Dựng với gạch, cát, xi măng, xe ba bánh. Bà con đi ngang qua đều biết ngao ngán v́ chỉ c̣n thấy tấm bảng có tên Đ́nh Sơn Trà treo tượng trưng. Nơi thờ cúng phía trước có ông Cọp th́ nhang tán, khói lạnh.
Đường Huyền Quang mang tên một vị Sư. Con đường dài khoảng hai mươi thước, đi hết đường Huyền Quang gặp đường Lư Trần Quán. Trên con đường này có nhà nam Tài Tử nổi tiếng Đoàn Châu Mậu. Ông bà có tất cả sáu người con: ba trai và ba gái. Tất cả đều có khiếu về âm nhạc, sử dụng được nhiều nhạc khí. Phải kể Đoàn Châu Bảo và Nhi. Cô con gái út tên Thanh Tuyền cũng là một giọng ca khá nổi tiếng. Tài Tử Đoàn Châu Mậu mất vào năm 2000 ở Hạ Uy Di.
Quẹo trái là trường Mẫu Giáo Mạnh Mẫu. Nơi đây có nữ Nghị Viên Thành Phố nổi danh TKT, mà một dạo báo chí Sàig̣n hết lời ca tụng bà có biệt tài “vừa đánh răng, vừa huưt sáo.” Kế bên là Chả Cá Sơn Hải. Cuối đường sẽ gặp đường Hiền Vương, bên kia đường là bên hông nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi. Quẹo trái là Sở Vệ Sinh Thành Phố. Cũng phải kể thêm hai quán chả cá nữa là Như Ư và Thăng Long trong khu vực Đa Kao.
Ngă ba kế tiếp của đường Nguyễn Phi Khanh là Lư Văn Phức, có một Dépot rác rất lớn. Các công nhân vệ sinh đều đưa rác về đây, trước khi các xe tải lớn đến chở đi tái chế và phế thải. Cuối đường NPK là quán cà phê bà Chi, mà các bài viết về cà phê Sàig̣n cũ luôn luôn phải nhắc đến. Bây giờ con cháu bà vẫn tiếp tục, nhưng khách không c̣n đông. Buổi trưa phải bán thêm cơm phần giao đến các văn pḥng. Quẹo trái gặp rạp hát Casino Đa Kao, tiệm thạch chè Hiển Khánh, nhà may Cao Minh, tiệm bánh Bảo Hiên Rồng Vàng, tiệm kem Mỹ Hương là nhà của nhạc sĩ Tây Ban Cầm Đan Phú. Ông chơi cho các Đài Phát Thanh và chương tŕnh Đại Nhạc Hội hàng tuần do Đài Phát Thanh Sài G̣n tổ chức thi tuyển lựa ca sĩ ở Rạp Quốc Thanh và Hưng Đạo. Khi ông đệm đàn, ông rất khắt khe với ca sĩ hát không đúng nhạc hay không thuộc bài hát. Tuy nhiên, khi đệm cho nữ ca sĩ Liêu Trai Thanh Thúy hát. Dù, ca sĩ Thanh Thúy hát cách nào, đôi khi chỏi, hay rớt nhịp. Ông cũng vui vẻ nhiệt t́nh đệm theo, mà không một chút bực dọc hay phàn nàn.
Kế bên là tiệm Thịt Ḅ Đức Phú. Đối diện bên đường là nhà hàng Pháp tên Casino, tiệm Guốc Đa Kao, tiệm bán quân trang, huy chương và huy hiệu quân đội Quế Anh. Nếu quẹo phải sẽ gặp tiệm hớt tóc Đơ, chuyên hớt tóc theo lối tài tử ngoại quốc, rồi đến Đền Thờ Đức Trần Hưng Đạo số 36 Hiền Vương. Ngơ vào trong đền phía bên trái bán nhang đèn cho khách thập phương đến cầu khẩn, có bà thầy bói mù chuyên gieo quẻ bói bằng hai đồng xu. Gieo quẻ cho bất cứ ai, khi hai đồng xu được bà tung lên vừa rơi xuống chiếu, bà cũng đều nói với thân chủ là sắp nhận được tin vui ở xa và dặn thân chủ đừng cho ai mượn tiền, nên cẩn thận về đi đứng, xe cộ, kẻo bị tai nạn, nhưng khi đă đên đây cầu khấn th́ được Đức Thánh Trần che chở, nên đều tai qua, nạn khỏi. Hăy an tâm! Đă được Thánh phù hộ th́ tên bay, đạn lạc, bom rơi cũng không hề hấn ǵ!
Đoạn đường Trần Quang Khải từ đây ra đến đường Đinh Tiên Hoàng, tuy không dài lắm, nhưng có rất nhiều cửa hiệu buôn bán. Phía bên phải là Pharmacy Duyệt, cũng là tên của Dược Sĩ Duyệt, nghe đồn gia đ́nh ông gặp nạn lúc di tản vào ngày 30/04/1975? rồi đến bảo sanh viện Chung Nam Quế. Nơi các bà bầu khu Đakao và Gia Định thường đến khai hoa nở nhụy. Nhà kế bên trước sân có một hồ nuôi cá tai tuợng rất lớn và hon non bộ nước chảy róc rách. Một phụ nữ rất mập ngồi trước nhà, lúc nào trên tay cũng cầm cây quạt bằng lông gà phe phẩy. Bà hành nghề coi bói bài Tây, thân chủ cũng đông. Tiếp theo là nhà Thuốc Tây Garde Vũ Cung, số 67 C/TQK của Dược Sĩ Vũ Bích Thủy, hai tiệm bán phụ tùng và sửa xe Honda, rồi cà phê Ngọc Dung số 77 Trần Quang Khải. Chủ tiệm ghép tên hai con gái đặt tên cho tiệm.
Đi thêm một chút nữa sẽ gặp Đ́nh Nam Chơn, số 29 TQK. Trước đ́nh có thờ h́nh ông Cọp rất oai vệ. Bên trái cổng, nằm trong sân đ́nh có cây Đa to, rễ đan với nhau chằng chịt. Có lẽ nó được trồng đă hơn một thế kỷ? Hiện nay Đ́nh Nam Chơn được xếp là “Di tích Kiến Trúc Nghệ Thuật” cần phải bảo tồn. Về đêm có dạy vơ thuật, rất đông thanh thiếu niên đến tập luyện. Thêm vài bước nữa là một Phật Đường nhỏ của người Hoa, phía trước có hai cây Mai Tứ Quư đă già, hoa nở quanh năm. Phật Đường thuộc Giáo Hội Phật Đường Nam Tông có tên là Minh Sư Đạo Quang Nam Phật Đường. Nghe đâu Phật Đường này sẽ được xây dựng lại thành nhiều tầng. Mọi chi phí, tốn kém đều do các Hoa Kiều ở nước ngoài gửi tiền về giúp. Hiện đă lên kế hoạch và đang xin phép chính quyền xét duyệt.
Kế bên là tiệm vàng Bảo Thành. Ngoài việc bán vàng bạc, nữ trang, cũng c̣n nổi tiếng về làm bánh Trung Thu, gị lụa, gị thủ và các loại bánh mứt. Trưóc 1975, bà Bảo Thành là chủ thầu các băi giử xe hai bánh lớn nhất Sàig̣n như: Trường Đại học Luât khoa ở đường Duy Tân, Nha Xổ Số Kiến Thiết ở đại lộ Thống Nhất, Rạp Hát Đại Nam trên đường Trần Hưng Đạo, và dọc theo hai bên đường Lê Lợi. Cách một căn là tiệm ăn Tàu có tên Dân Thiên, với các món ḿ xào ḍn, áp chảo, cơm thố và cơm chiên Dương Châu tuyệt vời.
Tiếp tục phía bên trái. Đầu tiên là Chi Cuộc Cảnh Sát Tân Định. Kế bên là Đ́nh Nghĩa Hoà được xây dựng vào năm 1917. Bà con thường gọi là Đ́nh Công Thành Ban. Nơi đây chuyên tŕnh diễn hát bộ. Trước đ́nh có thờ một ông Cọp. Hẻm Đ́nh Nghĩa Hoà đi thông ra được đường Trần Khắc Chân. Tiếp theo sẽ đến một dăy phố, có tiệm Ronéo Lửa Hồng quay ronéo, đánh máy và photocopy bài vở, tài liệu cho các học sinh và thầy cô giáo.Tiệm nhộn nhịp nhất vào mùa thi cử. Ngoài ra, cũng c̣n bán những bản nhạc quay ronéo sẵn với giá rất b́nh dân. Cách đó vài căn là một tiệm bán ḥm, tiệm may Của, rồi đến nhà bà con với bà chủ rạp hát Văn Hoa.
Nổi tiếng ở đoạn đường này là tiệm cầm đồ b́nh dân Kim Ngân. Bà chủ lúc nào cũng trang điểm lộng lẫy như các cô đào cải lương Thanh Nga, Bạch Tuyết sắp lên sân khấu. Chung quanh cũng có nhiều tiệm cầm đồ, nhưng Kim Ngân thường đông khách hơn v́ tiệm cầm mọi mặt hàng giá cao hơn các nơi, cho chuộc với phân lời tương đối thấp và thủ tục đ̣i hỏi không phức tạp so các nơi khác.
Đi thêm khoảng hai mươi mét nữa là một con hẻm lớn, có thể nói là nổi tiếng nhất vùng Tân Định - Đa Kao. Đó là hẻm Vạn Chài. Đây là địa điểm quy tụ anh hùng hào kiệt tứ xứ về hùng cứ. Mỗi lần chính quyền mở các cuộc hành quân cảnh sát để bắt thanh niên trốn quân dịch hay cư trú bất hợp pháp th́ xe cộ, súng ống rầm rộ, ca nô, thuyền nhỏ chạy dài dọc theo sông cầu Bông, đèn pin chiếu pha sáng cả một vùng. Cuối cùng, kết quả chẳng được ǵ hết! V́ thanh niên trốn quân dịch đă nhảy xuống sông, lặn qua bên phía Gia định, hoặc trốn trong các con hẻm sâu, tối tăm, quanh co khó đi vào. Lực lượng kiểm soát đành bó tay và chào thua! Đặc biệt, trong hẻm có một trường trung tiểu học tư thục mang tên Văn Hiến do Thầy Phan Ngô làm Hiệu Trưởng. Thầy cũng từng ra ứng cử và đắc cử Nghị Viên thành phố Sài g̣n.
Ra khỏi hẻm, quẹo trái là gặp ngay rạp hát Văn Hoa số 62 Trần Quang Khải, Quận Một. Rạp này đă từng một thời là nơi hẹn ḥ của những mối t́nh học tṛ thường buồn vu vơ, ăn chưa no, lo chưa tới. Nơi của những học sinh cúp cua vào những giờ học, mà các cô cậu cho là nhàm chán. Nhất là học sinh các lớp Đệ Tam thường trốn học nhiều v́ là lớp không thi, lớp dưỡng sức để chuẩn bị sang năm chiến đấu với thi cử. Lơ tơ mơ là đơ dèm cùi bắp hay đeo cánh gà chiên bơ lủng lẳng trên vai.
Rạp Văn Hoa là một trong những rạp hát quen thuộc, thanh lịch và sang trọng so với các rạp khác trong vùng, v́ có trang bị máy lạnh, màn ảnh rộng và giá vé vào cửa cũng tương đối b́nh dân. Rạp chiếu đủ các loại phim. Những lúc có phim mới và hấp dẫn, bà con sắp hàng rồng rắn, kéo dài tới tận trước ngơ xóm Vạn Chài. Khán giả nào không muốn sắp hàng, không muốn chen lấn đổ mồ hôi, dễ bị rách quần, rách áo hoặc bị rạch bóp, th́ có thể mua vé chợ đen. Đôi khi phải trả gấp đôi, gấp ba lần.
Kế bên rạp hát là một quán cà phê cũng mang tên Văn Hoa, đă đi vào lịch sử của cà phê Saigon. Quán có giàn âm thanh nổi tối tân, nhạc ngoại quốc chọn lọc, hấp dẫn, luôn luôn đổi mới, chỗ ngồi thanh lịch, vị trí thuận lợi và do hai chị em ruột là bà con với vợ của ông chủ rạp Văn Hoa đứng bán.
Cô chị có tên TBD và cô em có tên TBH. Hai chị em đều là nữ sinh trường trung học Huỳnh Thị Ngà. Lúc nào đi học, cả hai cô đều mặc đồ đầm rất xinh xắn. Trông giống búp bê không t́nh yêu. Nghe đâu cũng có nhiều anh trồng cây si đến uống cà phê thường xuyên mỗi ngày, trong số đó có anh là ca sĩ một ban kích động nhạc nhà ở đường Tự Đức nổi tiếng về bài hát Sunday Morning. Ngày nào anh ta cũng đến quán ngồi đồng, vừa thuởng thức cà phê, vừa trồng cây si cô em TBH. Cuối cùng chẳng nên cơm cháo ǵ!Gia đ́nh Cô TBD hiện ở Montréal, c̣n gia đ́nh cô TBH từ Montréal chuyển về Pleasanton (California.) Chồng cô là Kỹ Sư được một hăng điện tử lớn ở Bắc Cali tuyển dụng.
Sau 1975, rạp Hát Văn Hoa vẫn c̣n hoạt động và coi như đă bị xoá sổ hoàn toàn vào ngày 14 tháng 03, năm 2011. Lúc đầu một công ty mua lại dự định xây một chung cư mười lăm tầng với nhà ở và các cửa hàng ăn uống, cùng các phuơng tiện giải trí khác. Nhưng chính quyền không chấp thuận. Do đó công ty tạm ngưng để chờ xin giấy phép. Hiện nay, đă xây dựng xong và mới làm lễ khánh thành mang tên “Trung Tâm Văn Hoá Đa Năng”(IMC TOWER)
Đoạn đường c̣n lại, phải nhắc đến một quán cơm Xă Hội, chuyên phục vụ cho giới lao động, công tư chức với đồng lương thấp và học sinh, sinh viên nghèo.Giá rất b́nh dân, chỉ năm đồng. Thực đơn gồm ba món thay đổi thường xuyên. Cơm ăn thoải mái, ăn cho đến khi nào no bụng th́ thôi! Ngoài ra, c̣n đưọc tặng thêm một trái chuối tráng miệng và ly trà thơm, nóng bốc khói.
Sau đó phải kể thêm hai tiệm bán xi măng, gạch, cát và đá rất lâu đời là Tấn Phát và Tâm Long, tên của vợ và chồng được ghép lại. Tiệm bán vật liệu xây dựng Tâm Long số 8 TQK và tiệm vàng Bảo Thành số 9 TQK. Hai tiệm nằm đối diện nhau. Hai bên gia đ́nh coi nhau rất thân t́nh và đều đông con. Lúc nào cũng có ư muốn làm thông gia với nhau. Nhưng rất tiếc các dâu và rể của cả hai nhà đều là những người ở nơi khác. “Đúng là duyên số do Trời sắp đặt.” Dù có muốn làm mai mối bằng mọi cách, cũng không thể nào được!
Một chút nữa th́ bỏ quên tiệm may áo dài tương đối nổi tiếng là Phương Luân, hiệu ảnh Ngọc Chương, cà phê Cây Trúc nằm ở kế bên. Đi hết đường Trần Quang Khải sẽ gặp đường Đinh Tiên Hoàng. Trước đó gặp một cái đ́nh nhỏ tên là Phú Hoà Vạn số 6 TQK. Nơi đây hồi xưa Thầy Vũ Hữu Tiềm thuê để mở lớp Luyện Thi Đệ Thất vào các trường Công Lập. Nay, Đ́nh Phú Hoà Vạn coi như bị xoá sổ hoàn toàn v́ một gia đ́nh chiếm cứ từ trước đă cố t́nh làm mất đi các di tích của đ́nh. Hiện chính quyền địa phương đang t́m mọi cách thu hồi để làm chuyện công ích, nhưng vẫn chưa lấy lại được v́ gia đ́nh chiếm ngụ cương quyết không chịu trả.
Quẹo trái đi ra cầu Bông, sẽ găp một quán bán thịt gà, vịt và heo quay Huỳnh Kư rất đông khách. Cạnh đó là một tiệm chuyên sửa xe Vespa và Lambretta. Nh́n sang bên kia đường là tiệm giầy Đông Hưng và nhà may áo dài Thanh Châu. Tiệm mang tên người con gái lớn nhất. Nhà may Thanh Châu khá nồi tiếng, chuyên may áo dài cho các ca sĩ và áo cưới cô dâu. Hiện nay, tiệm may Thanh Châu vẫn tồn tại và có rất nhiều khách đến đặt may mỗi ngày.
Bên kia đựng Trần Quang Khải là đường Nguyễn Huy Tự. Phía tay phải có chợ Đa Kao. Trước khi tới chợ Đa Kao, sẽ gặp một gánh chè chỉ duy nhất bán đậu đen. Bà bán chè có tướng trông phúc hậu. Bà chỉ bán vào buổi chiều. Chè đậu đen bà nấu, hạt rất dẻo, hương vị ngọt đậm đà. Thú vị và thơ mộng nhất là “ngồi chồm hỗm” ăn chè nóng dưới cơn mưa lất phất của Sài g̣n, v́ không có ghế cho khách.
Một con đường chạy ngang chợ Đa Kao là đường Trương Hán Siêu. Bên trong có đền thờ nhà cách mạng Tây Hồ Phan Chu Trinh và quán bánh cuốn tráng hơi mang tên Tây Hồ. Bà chủ bánh cuốn tên là bà Cà. Bà khởi nghiệp năm 1960, bằng một cái quán xập xệ, một ít bàn ghế thấp lè tè và mấy tấm bạt cũ để che nắng mưa. Bà mất vào năm 2005. Nay, các con bà phát triển thành ba nơi bán bánh cuốn cùng mang tên Tây Hồ: hai tiệm trên đường Đinh Tiên Hoàng và Huỳnh Khương Ninh và một trên đường Đinh Bộ Lĩnh - B́nh Thạnh. Phía trong chợ Đa Kao, nằm bên dăy chợ cá và bán chạp phô bên tay phải c̣n có Đ́nh Hoà Mỹ, số 7 THS.
Đối diện chợ Đa Kao là Tín Nghĩa Ngân Hàng. Khi chiều đến, ngân hàng đóng cửa th́ xuất hiện một gánh cháo ḷng, mà bà chủ rất khó tánh. Bà luôn luôn ưu tiên bán trước cho nam ǵới, c̣n nữ ǵới th́ bà thường bắt phải đợi. Nếu thắc mắc, khiếu nại th́ bà im lặng, không trả lời. Có nghĩa là bà không muốn bán. Các nữ thực khách đành phải đi nơi khác mà trong bụng rất ấm ức v́ bị bà phân biệt đối xử.
Đường Nguyễn Huy Tự rất ngắn, khoảng chừng ba mươi thước. Chấm dứt khi đụng đường Nguyễn Văn Giai. Chạy thẳng là đường Phạm Đăng Hưng. Đi hết đường quẹo trái là Đài Phát Thanh Sàig̣n.Thêm vài bước sẽ gặp đuờng Nguyễn Bỉnh Khiêm.Trên đường PĐH có Viện Nhu Đạo Quang Trung của Thượng Toạ Thích Tâm Giác. Thầy nguyên là Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo. Đối diện với Viện Nhu Đạo Quang Trung là một ngôi chùa lâu đời của người Hoa, mang tên Phước Hải Tự hay c̣n gọi là Chùa Ngọc Hoàng, số 73 PĐH. Đặc biệt, trong chùa có nhiều cây cổ thụ lâu đời, một cái hồ lớn thả rất nhiều rùa, có những con sống đă vài chục năm trở lên và thờ nhiều h́nh ảnh thần linh có giá trị nghệ thuật và lịch sử. Mỗi khi các bó rau được thả xuống hồ cho chúng ăn th́ cả hồ náo động, nước bắn lên tung toé, v́ các chú rùa giành ăn tạo nên.
Vào ngày 24 tháng 05, năm 2016. Khi đến thăm VN,Tổng Thống thứ 44 của Hoa Kỳ là Barack Obama trong nhiệm kỳ sắp mản, sau khi viếng thăm chính thức Hà Nội, đến trạm dừng chân cuối cùng là Sàig̣n. Ông và đoàn tùy tùng chọn ngôi chùa có tuổi gần một thế kỷ này để viếng thăm khiến nhiều người ngạc nhiên cho sự viếng thăm bất ngờ này.
Đường Nguyễn Huy Tự, quẹo trái là đường Bùi Hữu Nghĩa. Có một cây cầu sắt cũ. Đi về phía chợ Bà Chiểu (Gia Định.) Nếu quẹo phải sẽ găp đường Nguyễn Văn Giai. Đi hết đường Nguyễn Văn Giai sẽ gặp đường Đinh Tiên Hoàng. Nh́n sang phía bên kia đường là đường Huỳnh Khương Ninh. Bên trái là rạp hát Asam, nay đă xây thành chung cư và tiệm thuốc tây Lịch Cường. Pharmacy mang tên của Dược Sĩ Tống Lịch Cường, đi thêm vài bước là tiệm Thông Mỹ bán các dụng cụ về âm thanh. Đầu đường Huỳnh Khương Ninh, có xe bánh ḿ Bảy Quan nổi tiếng với bánh ḿ thịt, dăm bông và ba tê rất độc đáo và xe bánh ḿ Bảy Hổ nằm bên tay trái cách đo không xa, cũng khá nổi tiếng. Mỗi xe có một hương vị đặc biệt riêng, lúc nào cũng đông khách. Muốn mua phải sắp hàng chờ.
Hiện nay, đầu đường HKN là hai tiệm bánh cuốn mang tên Tây Hồ do con gái bà Cà chiếm ngự. Trên con đường này có trường trung học Huỳnh Khương Ninh. Đi hết đường Huỳnh Khương Ninh sẽ gặp đường Phan Liêm. Đường chạy dọc theo bên hông nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi.
Trên đường Đinh Tiên Hoàng giữa khoảng đường Phan Đ́nh Phùng và Phan Thanh Giản có đường Tự Đức, trường tiểu học Đa Kao, ḿ Cây Nhăn, thêm hai nhà hàng Pháp nổi tiếng là Chez Albert và La Cigale.Tiệm Thông Mỹ ngay góc Phan Thanh Giản và Đinh Tiên Hoàng, Tiệm bán mắt kính Đỗ Vượng số 192 Đinh Tiên Hoàng. Ngoài ra, cũng phải kể thêm hai quán cà phê đă đi vào gia phà Cà Phê Saigon trước năm 1975. Quán thứ nhất là cà phê Hân mà tất cả mọi thứ đếu làm bằng Inox từ phin, muỗng, tách đựng đường, đựng sữa. Quán thứ hai là cà phê Duyên Anh. Quán mang tên nhà văn Duyên Anh, nhưng hoàn toàn không hề dính dáng đến nhà văn này. Cô bé ngồi tính tiền tên Q. có nụ cười xinh xinh, đôi mắt tṛn, đen láy và tóc dài thắt bím rất dễ thương. Cô làm cho bao nhiêu đấng anh hùng mê mệt. Cô cũng c̣n là đề tài cho các chàng thi sĩ tài tử đến vừa thưởng thức cà phê, vừa làm thơ sầu mộng. Nhưng chẳng anh nào lọt được vào đôi mắt nai tơ của nàng! Bây giờ Cà phê Hân và Duyên Anh là hai nhà hàng bán thức ăn hải sản. Có thể kể thêm tiệm bán mắt kiềng Đỗ Vượng số 192 ĐTH.
Khu Đa Kao có thể kể thêm những con đường tên không thay đổi:
- Đường Nguyễn Bĩnh Khiêm có Nha Tổng Giám Đốc Trung Tiểu Học và B́nh Dân Giáo Dục, hai trường Trung Học Công Lập Trưng Vương, Vơ Trường Toàn, hồ bơi Nguyễn Bĩnh Khiêm, Đ́nh Tân An, các Sở và Nha An Ninh Quân Đội.
- Đường Phan Kế Bính có quán cà phê Văn Nghệ Cây Tre, Hội Văn Hoá B́nh Dân do ông Huỳnh Văn Lang Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái làm Chủ Tịch. Có nhà Dược Sĩ Nguyễn Chí Nhiều nổi tiếng về thuốc Euquinol trị nóng đầu cho trẻ em. Ông là mạnh thường quân cho bộ môn xe đạp, và là “Ông Bầu” cho đội đua xe đạp Euquinol. Ông cung cấp xe đạp, quần áo, mọi phương tiện và trả lương cho các cua rơ ăn rồi chỉ lo tập dợt. Đội Euquinol luôn luôn thắng trong những cuộc đua lớn. Mỗi lần có tổ chức cuộc đua là ông có cơ hội quảng cáo nhăn hiệu Euquinol, thuốc tiên chuyên trị cảm mạo, thương hàn cho trẻ em và người lớn.
- Đường Mạc Đĩnh Chi với Bi Da và nhà hàng Trường Cang, Hội Việt Mỹ và Ty Cảnh sát Quận Nhất.
- Các đường Trần Cao Vân, Phan Tôn, Phan Ngữ, Trần Doăn Khanh, Cây Điệp, Nguyễn Thành Ư, Hoà Mỹ.
Ngă tư Đinh Tiên Hoàng và Phan Thanh Giản có tiệm bánh Lưu Luyến và Trường Vương Gia Cần. Gần ngă tư Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Phi Khanh, Hoà Mỹ và Hiền Vương vẫn c̣n cây Đa cổ thụ rất to đứng sừng sững, năm sáu người ôm không xuể. Bên kia đường là tiệm chuyên làm con dấu, bảng tên, thêu cờ, bán các huy hiệu và tài liệu Hướng Đạo Việt Nam tên Phúc, số 180 ĐTH. Ông Phúc được thân nhân bảo lănh đi Mỹ. Qua ở chỉ được vài tháng, ông cảm thấy không thích nghi và khó có thể hội nhập, nên quay trở về VN để ngày ngày tiếp tục công việc từ trước đă gắn liền với cuộc đời ông.
Phải kể thêm một con đường tương đối đẹp và thơ mộng là đường Phùng Khắc Khoan với tư gia Đại Sứ Hoa Kỳ. Hai bên đường trồng toàn những cây me. Khi có gió nhẹ và nắng vàng có những chiếc lá me rơi rơi, trông dễ thương và thơ mộng vô cùng!
Cuối cùng trở về khu Tân Định. Xin chỉ ghi ra những con đường không bị đổi tên:
- Nguyễn Văn Mai nối hai đầu đường Hai Bà Trưng và đường Huỳnh Tinh Của có trường tiểu học con trai Tân Định, nhà thuốc Đỗ Phong Thuần và xóm Hầm Sỏi danh tiếng về du đảng trong vùng.
- Đường Đinh Công Tráng với món bánh xèo vang danh, trường (Tân Thịnh, Les Lauries,Văn Minh) và tiệm chụp h́nh Duy Hy, số 76 ĐCT, chuyên chụp h́nh cho học sinh các trường tiểu học công lập để làm kỷ yếu mỗi năm.
- Ngay góc Hai Bà Trưng và Đinh Công Tráng là tiệm thuốc Kính Tiên, số 274 HBT. Nếu quẹo phải có Luyến Photo và ḷ dạy nhạc của ba nhạc sĩ Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng. Được ghép lại là Lê Minh Bằng. Nhạc sĩ Lê Dinh hiện ở Canada, nhạc sĩ Anh Bằng ở Hoa Kỳ vừa mới qua đời, c̣n nhạc sĩ Minh Kỳ đă mất tại Suối Máu, Biên Hoà vào Tháng Tám, năm 1975.
Nếu quẹo trái th́ gặp tiệm giầy Trinh Shoes, hai tiệm bán ḥm Vạn Thọ và Tobia, hẻm Bưu Điện đi ra được đường Hiền Vương. Quẹo bên phải gặp trường dạy lái xe hơi Mayer của ông nghị C̣i Ô Tô Giáp Văn Thập, nhà của nữ nghệ sĩ hài Mỹ Trinh số 110. Cô Mỹ Trinh chưa bao giờ mở quán ăn hay là diễn viên hài khi c̣n ở VN, và cơm tấm Hiền Vương hay Mayer số 114. Quẹo trái gặp trường Mẫu Giáo Michelet và đường Lư Trần Quán.
Gần đó có tiệm chuyên làm cửa sắt, máng xối… của gia đ́nh hai anh em cua rơ Trần Gia Thu và Trần Gia Châu danh tiếng một thời trong làng đua xe đạp VNCH. Đối diện bên kia đường là cà phê Thu Hương cũng nổi tiếng trong lịch sử cà phê Sài g̣n, mà ông chủ không muốn ai đổ nước sôi vào phin cà phê mà phải chính do tự tay ông.
Nhà thờ Tân Định số 289 HBT. Trước năm 1975 có cha Tr.. là thần tượng của giới trẻ. Hôm nào cha giảng th́ nam thanh nữ tú đến nghe rất đông. Cũng phải kể thêm cha TL, nhà trong hẻm sát bên trường La San Đức Minh. Cha TL là một trưởng Hướng Đạo Việt Nam kỳ cựu. Cha sáng tác nhiều bài hát trong sinh hoạt Hướng Đạo như: Anh Em Ta Về, Con Voi. Cha cũng thổi kèn Harmonica rất tuyệt chiêu.
Trường Thiên Phước số 295 HBT là một trường dành cho nữ sinh do các Seour trông coi. Giờ tan học sáng hẳn cả một đoan đường với các đồng phục đầm màu hồng. Chưa kể, khúc đường này thường bị kẹt xe, v́ nhiều xe hơi đến đón các tiểu thư của mấy ông có quyền chức đậu bửa băi, bất chấp luật lệ, nhưng không hề thấy bóng dáng cảnh sát giao thông xuất hiện trong giờ học sinh Thiên Phước tan trường.
Bên trong nhà thờ Tân Định có một cổng sắt thường đóng, chỉ để hở đủ cho một người len qua. Khi nào có lễ lớn th́ cửa mới mở lớn ra. Đi qua cổng này sẽ gặp trường La San Đức Minh, cũng như đường Hiền Vương, đường Pasteur và đường Huỳnh Tịnh Của.
Đầu đường Hai Bà Trưng và Hiền Vương là Tín Nghĩa Ngân Hàng và nhà may Paris Mode. Đối diện là quán Bar Châu Thới. Cạnh bên là một ḷ bánh ḿ và trường Tư Thục Nguyễn Công Trứ. Trên đoạn đường Hiền Vương này có ngơ hẻm Trần Tấn Phát đi ra được đường Duy Tân, Phan Thanh Giản và Hai Bà Trưng, hai cây xăng và rửa xe. Phía tay phải có tiệm gị chả Phú Hương và hai tiệm phở gà nổi tiếng là Hiền Vương và Chí Thành. Nhiều thực khách là các giới chức trong chính quyền Sàig̣n thường đến đây thưởng thức. Hai chủ tiệm phở đều là người cùng quê ở miền Bắc (Hà Nam, Phủ Lư.)
Ngoài ra, cũng xin kể thêm đường Pasteur. Con đường đi ra được Huỳnh Tịnh Của, Hai Bà Trưng, Hiền Vương. Nơi đây có nhiều tiệm phở Hoà, Ngân.., quán cà phê Hồng của hai chị em, nhà may áo dài Thiết Lập và Viện Pasteur, chiềm một chu vi rất rộng, có bốn con đường bao quanh, với những cây cổ thụ to đến nỗi năm, sáu người ôm vẫn không xuễ.
Ngay ngă ba Nguyễn Đinh Chiểu và Pasteur, có một cái mả đá rất lớn được xây bằng đá ong đă bị giải toả. Nằm cuối bên kia đường là một trong những trường dạy Anh Văn đầu tiên của Sàig̣n tên Khải Minh. Quẹo trái ra đường Công Lư, có hảng xe đ̣ tên Cosara của ông Phạm Hoè. Quẹo phải ra chợ Tân Định và Y Viện Tân Định, đi ngang nhà ông Thượng là ông bầu ban kích động nhạc mà các nhạc sĩ đều là các con ông, xóm đạo Pasteur, tiệm hớt tóc Hoàng Lâm và nhà ông chủ Sơn Mài Thành Lễ.
Đầu đường Huỳnh Tịnh Của có cây Phượng Vỹ rất to mà bốn,năm người ôm không thề hết. Cây cho hoa Phượng màu đỏ nở rực vào mùa hè. Dưới tàn cây Phượng những người thợ hớt tóc dùng các ấm bạt để che mứa, nắng và dụng cụ hành nghề của họ gồm một cái ghế, một tấm kính, một miếng da giống dây nịt đề mài dao cạo và vài tờ nhật báo phát hành trong ngày dành cho khách chờ đợi đọc . Bà con nói cây Phượng không lồ này có lẽ đă hơn trăm tuổi?
Kế tiếp là Sàig̣n Ấn Quán, tiệm Phở Hoà B́nh, nhà may Hồng Duyệt. Giữa tiệm phở và nhà may là môt con hẻm nhỏ số 29, có nhà của Hoạ Sĩ Đinh Cường ở đầu ngỏ, đi tiếp th́ đến tiệm thuốc Bắc tên Đại Cồ Việt. Gia đ́nh rất đông con. Trong số đó có một cô tên Mẫn, sinh viên Đại Học Văn Khoa. Cô có nước da trắng, dáng cao, nét hơi lai. Một thời cô Mẫn nổi tiếng về xem bói bài, được nhiều người nễ phục. Khách đến xem rất đông, phải lấy số thứ tự để chờ đến phiên ḿnh được xem bói. Nh́n đồi diện là trường Nữ Tiểu Học Đồ Chiểu.
Để kết thúc bài viết. Xin viết ra một điều kỳ diệu, huyền bí không làm sao giải thích được:
“Tân Định và Đa Kao có lẽ là vùng đất an lành nhất của Sàig̣n, Chợ Lớn và Gia đ́nh.” Chắc là được Ơn Trên, Trời Đất, Ông Bà khuất mặt che chở và phù hộ? V́ thế bà con nơi đây lúc nào cũng sống trong thanh b́nh và an lạc. Mọi sinh hoạt gần như hai mươi bốn giờ, dù trong lúc chiến tranh, thiên tai loạn lạc hay bất cứ biến cố quan trọng ǵ xảy ra cũng không ảnh hưởng đến địa danh này!
Đặc biệt, Tân Định và Đa Kao có nhiều đ́nh, chùa, miếu, đền được xây cất trên đó đă từ lâu. Có cái đă tồn tại hơn một thế kỷ. Nay, th́ diện tích các nơi thờ phượng, cúng bái đó đang dần dần bị thu nhỏ diện tích lại hoặc biến mất hẳn. Người ta cố t́nh đem dùng vào các mục đích thương mại hay xây cất nhà trên đó. Có vài nơi chỉ treo bảng gọi tên là đ́nh, chùa. Nhưng thực sự bên trong th́ hoàn toàn trống trơn, không có vẻ một chút ǵ gọi là nơi thờ phượng.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1506311&stc=1&d=1577555925
Việc đụng chạm và xúc phạm đến những nơi thiêng liêng, tôn nghiêm đă bao đời nay có thể sẽ ảnh hưởng phần nào đến vùng đất Địa Linh, Nhân Kiệt và an b́nh này trong tương lai?
Xin phép được dừng ở đây. Hy vọng các bạn đă t́m lại được một chút hương xưa của ngày tháng cũ! Tất cả chỉ c̣n là kỷ niệm, và:
“Kỷ niệm ấy hôm nay xa rồi!
Thời gian cuốn như ḍng nước trôi
C̣n đâu những giây phút bên nhau
Nh́n trăng lên trong những đêm thâu
Gửi tâm tư cho mây cùng gió.”
(Kỷ Niệm Xa Rồi - Nhạc Sĩ Nguyễn Hữu Thiết)
Một lần nữa Tân Định & Đa Kao măi măi trong tiềm thức của chúng ta.
Trần Đ́nh Phuớc
(San José, California -2020)
Bài rất hữu ích của một bác sĩ, cựu giáo sư đại học y khoa Mỹ.
Lời người gửi:
BÀI RẤT QUƯ CỦA 1 VỊ BÁC SĨ
Quư ACE thân mến,
Có bận cách mấy đi nữa, đề nghị đọc bài dưới đây mà lo cho sức khoẻ của ḿnh.
Bài viết đáng suy ngẫm của một giáo sự đại học USA (he is a Vietnamese American), để kịp thời đối phó với sự kiện khi nó xẩy ra cho chính minh, có thể bây giờ hay sau này.
Kính chúc sức khoẻ.
Lộc
*****
Đời ḿnh đă sống trên 70 là quá đủ, nếu ham sống mà sau khi mổ, phải mang tă cho đến chết, hay ỉa, đái ngang hông, thở oxy thường trực cho đến chết th́ nên suy nghĩ thật kỹ trước khi quyết định cho "lang băm" kiếm thêm tiền của ca mổ. Thân xác ḿnh sẽ gánh chịu suốt quăng đời c̣n lại sau ca mổ đó...
Bài rất hữu ích của một bác sĩ, cựu giáo sư đại học y khoa Mỹ..
Không Nên Mổ
Đă đi vào giai đọan LĂO th́ phải BỆNH th́ mới CHẾT được chứ !!! Nhưng ḿnh có bệnh mà VÔ THỨC trong việc thuốc men chữa trị và giao 100% cho Bác Sĩ th́ đó là NỗI BẤT HẠNH của một số không nhỏ người bệnh !
Có cơ hội gần gũi và tiếp xúc hỏi thăm những người có bệnh (nhiều loại bệnh), được một số không nhỏ yêu cầu trước khi giao cho BS mổ bất cứ bệnh ǵ, ngoại trừ trường hợp Emergency (khẩn cấp) th́ nên có Second /Third Opinion (ư kiến thứ 2, thứ 3) rồi mới OK !
Chuyến đi Los vừa rồi, tôi ghi nhận 3 Ca mổ của bạn bè :
Ca 1 : Mổ mắt bị mù luôn, nên từ chối lời BS bảo mổ mắt c̣n lại và bây giờ chỉ nh́n đời bằng 1 mắt thôi.
Ca 2 : Mổ Tiền Liệt Tuyến - 7 năm nay t́nh trạng ngày càng tệ hại hơn chứ chưa lúc nào khá hơn cho đường tiểu và mất hứng thú nam giới kể từ lúc mổ đến nay !!!
Ca 3 : Mổ đốt Xương sống SỐ 5 ở cổ, trước khi mổ c̣n lái xe đi đây đi đó, nhưng từ sau mổ hết lái xe v́ nhiều bộ phận phản ứng chậm (tay, chân, mắt) do khu thần kinh tiểu năo bị ảnh hưởng xấu của mổ và hiên nay nghĩ lại rất hối tiếc nhưng không c̣n kịp !
Cả 3 Vị này nói câu kết rất đáng suy nghĩ : Người Cao niên có nhiều bệnh phải mổ nhưng nếu hiện chưa cần phải mổ ngay (Trừ Emergency) khi ḿnh chịu đưng được th́ nên ráng sống vui với bệnh và không nên mổ V̀ M̀NH NHIỀU KHI CHẾT TRƯỚC KHI BỆNH CẦN MỔ !!! Triết Lư cuộc sống mà người GIÀ cần suy ngẫm !
Nhờ có chuyến đi này nên tôi kịp thời ngưng việc MỔ một bệnh nhân mà tôi cảm thấy c̣n chịu đựng được !!!
Thân mến chia sẻ cùng mọi người và mời đọc qua các Email dưới đây.
TRẦN MINH NHỰT
Luôn t́m kiếm "second / third opinion. "
V́ trong giới y tế Mỹ cũng có nhiều lang băm lắm.
Tôi cũng là nạn nhân của một anh bác sĩ thích mổ, chắc mổ là có tiền. Bệnh nhân mang tật là chuyện của bệnh nhân.
Cách đây 15 năm, tôi bị nghi là bị prostate cancer (ung thư tiền liệt tuyến) v́ PSA lên cao 6.5. Tôi được giới thiệu tới gặp một anh bác sĩ già chuyên về prostate. Anh ta làm biopsy (sinh thiết) tôi, đâm 18 mũi kim dài vào prostate (tiền liệt tuyến) để lấy mẫu tế bào xem có bị prostate cancer không.
Sau khi bị làm prostate biopsy, tôi bị chảy máu ra nhiều v́ anh bác sĩ này làm vụng quá, rồi tôi bị bí tiểu (urine clot), nên phải đi nhà thương gấp vào ban đêm. Sau hai ngày nằm nhà thương, anh bác sĩ nói tôi bị prostate cancer, đ̣i hai ngày sau phải mổ liền lập tức.
V́ biết prostate cancer không làm ai chết liền 6 tháng, tôi không chiụ và muốn có ư kiến thứ hai của bác sĩ khác, anh bác sĩ già này không thể bịp tôi được, nên tức tôi lắm, và nói đừng trở lại gặp anh ta nếu không muốn anh ta mổ.
Mổ prostate tức là cắt bỏ prostate trong người, sau đó phải đeo tă như con nít c̣n nhỏ suốt đời, v́ khi nước tiểu trong bàng quang (bladder) đầy, sẽ trào ra, v́ đầu valve ở prostate không c̣n nữa.
Sau đó, tôi xin một giáo sư bác sĩ khoa trưởng về urology (khoa tiết niệu) của bệnh viện đại học y khoa khám lại, và làm biopsy lại, kết quả tôi không bị prostate cancer như anh bác sĩ già kia khám, mà chỉ bị sưng prostate.
Mười năm nay tôi không bị prostate cancer.
*** Xin đọc kỹ những kinh nghiệm của BÁC SỸ VI SƠN để có thể tránh được những sai lầm to lớn trong tương lai. ***
Kính thưa quư thân hữu,
Hôm nay tôi nhặt được trên forum (diễn đàn) bạn một lá thư của anh Nguyễn Minh Châu, trung tá Thủy Quân Lục Chiến QLVNCH và là nguyên quận trưởng quận Dĩ An, Biên Hoà viết về một kinh nghiệm anh có gần đây với bác sĩ Mỹ ở một bệnh viện Mỹ ở El Camino, California.
Sau đó, chị Phương Lan có viết thơ hỏi, loại sai lầm như vậy có thực sự xẩy ra với BS và bệnh viện Mỹ không? Xin quư thân hữu đọc lá thơ của anh Nguyễn Minh Châu và sau đó đọc phần tôi xin trả lời chị Phương Lan và một số quư vị đă viết thơ hỏi trước đây về đề tài tương tự.
Kính qúy vị,
Đây là câu chuyện xảy ra tại Bệnh Viện El Camino của Mỹ:
Ngày 9 tháng Oct 2011, tôi được cựu ĐT Vũ Văn Lộc GĐ /IRCC tổ chức ĐNH T́nh Ca Cho Em. Tôi được mời đến xem và nhận một hoa Hồng về dâng lên bàn thờ vợ tôi.
Chẳng may tôi bị té bể đầu và xuất huyết năo, sau khi làm Head Scan. Tôi phải nằm BV 6 ngày để theo dơi. Ngày sau hết chảy máu.
Sau 2 lần nữa Scan trước khi xuất viện, BS cho biết kết quả stable (ổn định).
Thứ Sáu tuần sau làm Scan đầu lại cho an toàn.... Trong thời gian về Belmont tôi có vào Net để biết thêm t́nh trạng Head injury của tôi và tự theo dơi. Tôi chẳng thấy Incidents (biến cố) ǵ xảy ra và vẫn email hằng ngày cho quư vị.
Nhưng Scan lần thứ 4 nầy, Neurologist (BS thần kinh) lại nói năo của tôi sưng thêm và rỉ máu. Ông ấy yêu cầu tôi phải chịu mổ đầu, nhưng tôi quyết định không mổ và yêu cầu Chief of Neurology (trưởng khoa thần kinh) duyệt film lại, v́ theo tôi tự thấy chẳng có chóng mặt, nhức đầu hay Nausea (buồn nôn) ǵ hết và ăn ngủ b́nh thường tại sao phải mổ ?
Sau nửa giờ, ông BS mổ đầu cho tôi biết là Sorry of wrong informations, nên không có mổ.
Kính quư vị, BS là thầy trị bệnh, c̣n người nhận định bệnh và suy xét để quyết định chính là bệnh nhân..
Nếu bệnh nhân không biết ǵ hết mà để BS /BV toàn quyền, có thể tai hại vô cùng.
Kính.
NMC
Theo như thơ anh Nguyễn Minh Châu, th́ một sự sai lầm chuyên môn như vậy có thể xẩy ra đối với bác sĩ và bệnh viện ở Mỹ một cách rộng răi được không?
Theo cơ quan Food and Drug Administration thống kê, th́ ở Mỹ, mỗi ngày có một người chết (oan) v́ sai lầm trong ngành y tế ở Mỹ. Thật xấu hổ cho cách nói của cơ quan FDA mà tôi cho là một trong những cơ quan bất tài và mâu thuẫn nhất trong chính phủ Mỹ. Họ nhiều khi chỉ trong thời gian một năm có thể đổi ngược quyết định 180 độ.
Tuy vậy, họ cũng phải thừa nhận là trên nước Mỹ, hàng năm có 1 triệu ba trăm ngàn (1,300,000) người dân Mỹ bị tổn thương bởi lỗi lầm của BS/Bệnh viện/dược sĩ/dược pḥng.
Về con số tử vong do các thực thể vừa kể gây, không phải chỉ có mỗi ngày một người bị chết v́ lỗi lầm y tế, mà thực ra mỗi năm có tới 7 trăm tám mươi ngàn (780,000) người Mỹ bị chết do lỗi lầm y tế gây ra.
Cần biết, số người Mỹ tử nạn trong tai nạn xe cộ ở Mỹ chỉ độ 45,000 người một năm, nghĩa là 1 phần 17(1/17) của con số trên đây. Có người đă gọi cái thảm trạng này là "the American unspoken holocaust" (1 sự tàn sát ngầm của người Mỹ).
Tôi dám mạnh miệng nói sự thật mà không sợ bị gắn cho là có ác cảm với ngành y-tế Mỹ v́ chính tôi là một thành viên của ngành này.
Cần nói ngay, là thực sự ra, mặc dầu những thiếu sót, xấu xa trong ngành y tế Mỹ, ngành này vẫn là ngành đứng đầu thế giới về mức độ tân tiến và hữu hiệu. Tuy nhiên, vẫn cần nói cái mặt trái của nó v́ "có sống trong chăn, th́ mới biết chăn có rận".
Nói như vậy có mâu thuẫn không? (Am I speaking from both corners of my mouth?)
Dạ thưa không. Chúng ta phải nhớ là không có nước nào đoạt được nhiều giải Nobel Prize về y-tế như nước Mỹ.
Nói về số khoảng 1% giới khoa học gia và nghiên cứu, kể cả y-tế, ở Mỹ th́ họ thuộc thành phần lỗi lạc hàng đầu thế giới, khó ai b́ kịp.
Tuy nhiên, giới chuyên môn ngành y tế c̣n lại th́ thật đa dạng. Một số khoảng 40 % thuộc loại giỏi, 20 % thuộc loại khá. Tôi nói không sợ nói ngoa, là phần 30 % c̣n lại thuộc loại tầm thường tới hoàn toàn bất tài. Họ không thuộc bài vở, định bệnh nhờ phần lớn vào thử nghiệm và trang bị tối tân.
Lại thêm một vấn đề nữa của giới Bác Sĩ Mỹ là trịch thượng (arrogant), không có nhiệt t́nh (compassion) với bệnh nhân, mà chỉ quan tâm làm càng nhiều tiền càng tốt.
Có một anh Bác sĩ về tim ở đây chỉ hai ba năm hành nghề đă kiếm cả chục triệu. Bạn hỏi sao mà dữ vậy.
Cho bạn một ví dụ, như bác sĩ sau đây: thân chủ nào mới tới (trong đó có tôi), anh khám qua loa, rồi nói là phải làm cath (soi tim). Một ngày anh làm từ 2 tới 4 cái, mỗi cái anh tính 4000 dollars (cho riêng anh, không kể tiền bệnh viện).
Trung b́nh chỉ heart cath thôi anh đă kiếm 12 tới 16 ngàn dollars một ngày (dĩ nhiên tôi từ chối không làm cath với anh ta). Một năm chỉ soi tim không, anh ta đă kiếm trên 3 triệu rưỡi.
Tôi đă nói thẳng vào mặt tay này khi anh ta lên tiếng dậy đời với tôi là tôi "sai lầm" khi tôi không chịu làm soi tim với anh ta: "I am not interested in doing anything with a damn money grabber like you!" (Tôi không muốn làm điều ǵ liên quan đến với một người chỉ ham tiền chết tiệt như ông!).
Một chuyện thật đă xảy ra cho người bạn đường yêu mến của tôi.
Bạn biết cách đây hơn 6 năm, Lucie bị breast cancer (ung thư ngực). Tôi mang cô ấy tới một bác sĩ chuyên về ung thư (oncologist). Sau khi định bệnh ung thư được xác nhận và đă giải phẫu bởi một surgeon, bạn tôi. Lucie đi cùng tôi gặp bác sĩ này để làm chemotherapy (hóa trị).
Anh ta nói phủ đầu với tôi ngay là anh biết tôi là bác sĩ nhưng anh không muốn bàn nhiều v́ anh là Bs chuyên môn ngành này và tôi là Bs thần kinh nên chẳng biết ǵ.
Tôi nóng máu hết sức, chẳng cần lịch sự ǵ cả, bèn nói với anh ta :
Excuse me Dr P, let's cut out this BS (bullsh..). This lady is not a simple patient. SHE IS MY WIFE.. AND I WILL HAVE THE LAST SAY ABOUT HOW HER TREAMENT IS GOING TO BE CONDUCTED. (Xin lỗi bác sĩ P., hăy bỏ những thứ điều Bs này (bullshit..). Người phụ nữ này không phải là một bệnh nhân đơn giản. Cô ta là vợ tôi. Và tôi là người sẽ có tiếng nói cuối cùng về việc ĐIỀU TRỊ CỦA CÔ TA sẽ ĐƯỢC THỰC HIỆN như thế nào).
Dĩ nhiên, sau cùng anh ta đă đồng ư hoàn toàn với treatment protocol mà tôi đưa ra (he made 100,000 dollars out of this treatment - ông ta đă kiếm được 100.000 đô la từ việc điều trị này).
Hơn một năm sau, điều trị và Lucie thường tái khám 3 tháng một lần, cũng với cái anh chàng này đă order full body bone scan (yêu cầu chụp h́nh toàn bộ xương cơ thể) cho Lucie. Sau đó, anh ta gọi vợ chồng tôi lại loan báo là dựa vào bone scan th́ bà xă tôi đă bị cancer trở lại.
Tôi bực quá nói thẳng vào mặt anh ta (anh chàng này sau này không dám căi tôi, sau khi biết tôi là giáo sư của nhiều đại học ở Texas và đă là giám đốc của tất cả 4 bệnh viên thần kinh trong vùng) là làm ǵ có cái việc định bệnh cancer relapse (ung thư tái phát) chỉ dựa vào bone scan (chụp h́nh lớp xương). Anh ta nhất định là Lucie phải điều trị ngay bằng Hevastin, một phương thuốc được quảng cáo rầm rộ về mức độ công hiệu (debatable) cho breast cancer, nhưng có điều chắc là có thể gây tử vong bất ngờ.
Tôi không chấp nhận lời đề nghị của anh BS P. này mà đưa bà xă tôi đi Harrington Cancer Center.
Sau mọi thử nghiệm cần thiết nó kết luận là Lucie không hề bị cancer relapse. Và dĩ nhiên là kết luận đó đúng v́ Lucie vẫn c̣n ở với tôi cho tới ngày nay để làm bà xếp oai hùng của tôi.
(Anh chàng BS này sau này không biết bị ai khiếu nại mà bị Board restrict license, không cho làm oncology (điều trị ung thư) nữa.
Một việc nhỏ nữa. Tôi có một bệnh nhân bị Panic disorder (tâm lư rối loạn hoảng sợ) khám tôi định kỳ từ 20 năm nay. Gần đây, anh càng ngày càng khó thở. Anh cho tôi xem kết quả chụp phổi (nhiều procedures) và nói với tôi là anh đă đi nhiều bác sĩ và không ai giải thích được tại sao anh lại có vết nám (hilar mass) trong phổi và increased density (mật độ tăng) on the lungs x rays (chụp h́nh quang tuyến phổi).
Anh ta đến tôi nói là tuy biết tôi là bác sĩ thần kinh, nhưng ở đây nhiều người biết tôi có kiến thức nhiều về nội khoa nên muốn xin ư kiến của tôi. Tôi nhận ra là anh ta trên h́nh phổi có signs of interstitial infiltration / pneumonia (dấu hiệu xâm nhập / viêm phổi) và có một hilar mass. Tôi nói với anh ta là anh nên đi trở lại bác sĩ phổi của anh ta (a certain doctor named Polk) nói là tôi nghi anh ta bị fungal infection và signs of idiopathic pulmonary fibrosis (dấu hiệu nhiễm trùng nấm và xơ hóa phổi tự phát).
Anh ta trở lại nói với BS Polk lời gợi ư của tôi, Ông này bèn phán một câu xanh rờn đầy miệt thị: "I do not take advice from psychiatrists"... (Tôi không chấp nhận lời khuyên từ bác sĩ tâm thần). Bệnh nhân của tôi trở lại báo cáo với tôi lời ông Polk. Tôi bực quá (cái tính nóng tưởng đă chừa, nhưng chưa dứt hẳn) tôi nói với anh ta: "It does not take a rocket scientist to figure it out. If he cannot, he better goes back to school" (không cần một nhà khoa học tên lửa để t́m ra. Nếu anh không thể, anh tốt hơn trở lại trường học).
Và tôi giải thích cho anh là các thử nghiệm đă rule out cancer (loại trừ chuyện bị ung thư), TB test của anh negative (tiêu cực). Ngoài ra, cái dạng opacity không giống một remnant của primo-infection (nhiễm trùng). Anh có triệu chứng của interstitial infiltration (thâm nhiễm kẽ). Dưạ vào đó mà nói th́ Amarillo ở vùng nông nghiệp nên khả năng bị nấm Aspergillus candidus cao hơn.
Nhưng v́ anh làm nghề plumber nên hay phải vật lộn với cống rănh nên tôi nghi hơn nhiều anh bị một loại nấm (Fungus) hiếm nhưng thường thấy trong cống rănh là Bradyrhizobium Japonicum..
Anh bệnh nhân của tôi trở lại nói với BS Polk. Ông ta vẫn ngoan cố không chấp nhận và nói rằng : "he did not know what this Dr. Nguyen is talking about" (ông không biết về những ǵ Tiến sĩ Nguyễn nói).
Anh bệnh nhân đi sang clinic của trường đạ́ học y khoa ở đây (chi nhánh của Texas Tech University, nơi tôi từng là giáo sư) cũng chẳng ai biết cái anh chàng BS "khùng" Vi Sơn này nói ǵ. Sau cùng, một BS chịu làm thử nghiệm và gởi cho pathology lab để kiểm chứng kết quả. Results (kết quả) là anh chàng này bị loại nấm Bradyrhizobium Japonicum đúng như tôi đă tiên đoán.
Anh này hỏi khắp nơi mới biết ở University of Texas, Medical Branch ở Galveston, nơi chị BS Hoàng Kim Khánh làm, có một BS nổi tiếng chuyên về bệnh phổi (pulmonologist). Anh tới khám ông. Ông này, sau khi làm nhiều thử nghiệm, cũng xác nhận là anh bệnh nhân bị nấm Bradyrhizobium Japonicum và idiopathic pulmonary fibrosis.
Tôi viết vài ḍng ở trên để xác nhận là có nhiều BS Mỹ rất dốt hoặc quyết định bị hướng dẫn bởi sự tham lam (greed). Ḿnh nghe BS đề nghị cái ǵ có vẻ trái tai th́ luôn luôn kiếm second/third opinion (ư kiến thứ hai / thứ ba của bác sĩ khác). V́ trong giới y tế Mỹ cũng có nhiều lang băm hay crooks lắm. Với tư cách một cựu giáo sư đại học y khoa Mỹ, tôi đóng góp ư kiến để cảnh giác thân hữu, v́ đây không phải là một lời bàn tầm phào để nói xấu một tầng lớp.
phokhuya
01-01-2020, 19:56
Già rùi giờ chỉ c̣n biết thương hận cho số kiếp mỏng manh như đóa phù dung thôi bạn hiền.
Kiếp người như kiếp phù dung
Sớm nở tối tàn ai biết ai hay.
Cho nên gát kiếm rong chơi cho thoải mái kiếp già...hahaha.:handsh ake:
Bác longhue như đă nhầm lẫn rồi. Cái mà bác gát lên chỉ là vỏ kiếm, c̣n cây kiếm th́ bác vẫn mang bên người khi rong chơi ḱa. :hafppy::hafppy:
Bác longhue như đă nhầm lẫn rồi. Cái mà bác gát lên chỉ là vỏ kiếm, c̣n cây kiếm th́ bác vẫn mang bên người khi rong chơi ḱa. :hafppy::hafppy:
Kiếm cùn, cung tên th́ tận th́ c̣n ǵ nữa hả bác, viết th́ hết mực thôi th́ gươm đàn nữa gánh đành để lại cho thế hệ sau đi.
Than ôi thời oanh liệt nay c̣n đâu
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu......hahaha chịu thôi.:rolleyes::roll eyes:
phokhuya
01-01-2020, 23:21
Kiếm cùn, cung tên th́ tận th́ c̣n ǵ nữa hả bác, viết th́ hết mực thôi th́ gươm đàn nữa gánh đành để lại cho thế hệ sau đi.
Than ôi thời oanh liệt nay c̣n đâu
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu......hahaha chịu thôi.:rolleyes::roll eyes:
Kiếm cùn th́ có thể mài lại. Viết hết mực rồi th́ vẫn có thể bơm mực. Nói chung là vẫn chưa năn chí tang bồng. Bác phải cứng cỏi lên để đám đàn em không sợ tuổi già chứ. Bác mà cứ than văn nữa là tụi này thà chịu trẻ măi cho chắc ăn à. :eek::eek:
Kiếm th́ có thể mài lại nhưng không c̣n sức bác ơi, viết chỉ xài một lần rồi quăng nên đành chịu, C̣n đă già rồi th́ níu kéo ǵ đi nữa cũng là con số không to tướng rồi bác.
Bởi số chạy đâu cho khỏi số
lụy người cho nên phải ch́u người
Cho nên: hết cơn bỉ cực tới hồi chết luôn...hahaha có đúng hôn bác.
trungthu
01-02-2020, 02:01
Kiếm cùn th́ có thể mài lại. Viết hết mực rồi th́ vẫn có thể bơm mực. Nói chung là vẫn chưa năn chí tang bồng. Bác phải cứng cỏi lên để đám đàn em không sợ tuổi già chứ. Bác mà cứ than văn nữa là tụi này thà chịu trẻ măi cho chắc ăn à. :eek::eek:
Hắc bạch vô thường mới dắt ḿnh về dương thế mới vào VBF đọc c̣m của thầy hai th́ đă mê mẩn tâm thần,. Ôi " Kiếm cùn th́ có thể mài lại. Viết hết mực rồi th́ vẫn có thể bơm mực. ", lời nói của kẻ trung trinh , biết liêm sỉ , ngàn đời khó quên...., chỉ tội nghiệp cho sư phụ Long Huệ của tui lúc nhập thiền , tay kiết ấn , chợt thấy thằng nhỏ mất tiêu...nên mới nói " Bởi số chạy đâu cho khỏi số
lụy người cho nên phải ch́u người
Cho nên: hết cơn bỉ cực tới hồi chết luôn, " H́ h́ , Long Huệ th́ lúc nào cũng vậy...., Thôi , nói tới kiếm th́ chợt nhớ tới một câu nói của thi sĩ MLC đă khuất , Trung thu đành mượn lời nói của thi sĩ để gởi lại tới các vị ở VBF mà chúng ta đă nợ nần nhau như Phố Khuya, Hoàng Lan , Long Huệ, tbbt....và nhiều nữa....
" Thương ....kiếm bén ngàn xưa lay động hoàng hôn...." ( M.L. C )
:thankyou::thankyou: :thankyou:
phokhuya
01-02-2020, 02:07
Hắc bạch vô thường mới dắt ḿnh về dương thế mới vào VBF đọc c̣m của thầy hai th́ đă mê mẩn tâm thần,. Ôi " Kiếm cùn th́ có thể mài lại. Viết hết mực rồi th́ vẫn có thể bơm mực. ", lời nói của kẻ trung trinh , biết liêm sỉ , ngàn đời khó quên...., chỉ tội nghiệp cho sư phụ Long Huệ của tui lúc nhập thiền , tay kiết ấn , chợt thấy thằng nhỏ mất tiêu...nên mới nói " Bởi số chạy đâu cho khỏi số
lụy người cho nên phải ch́u người
Cho nên: hết cơn bỉ cực tới hồi chết luôn, " H́ h́ , Long Huệ th́ lúc nào cũng vậy...., Thôi , nói tới kiếm th́ chợt nhớ tới một câu nói của thi sĩ MLC đă khuất , Trung thu đành mượn lời nói của thi sĩ để gởi lại tới các vị ở VBF mà chúng ta đă nợ nần nhau như Phố Khuya, Hoàng Lan , Long Huệ, tbbt....và nhiều nữa....
" Thương ....kiếm bén ngàn xưa lay động hoàng hôn...." ( M.L. C )
:thankyou::thankyou: :thankyou:
" Thấy ....kiếm bén ngày nay lay động là hoảng hồn....":hafppy::hafppy:
trungthu
01-02-2020, 02:26
" Thấy ....kiếm bén ngày nay lay động là hoảng hồn....":hafppy::hafppy:
Ha.. Ha..Ha ..Ha..:hafppy::hafpp y::handshake::handsh ake:
hoanglan22
01-02-2020, 03:03
" Thấy ....kiếm bén ngày nay lay động là hoảng hồn....":hafppy::hafppy:
Tui hay xài kiếm cùn , chém ruồi hoài hổng thảy chảy máu ..mỏi tay quá . Ngồi nốc lon beer khỏe hơn:hafppy::hafppy:: hafppy:
Một hôm tbbt vào cửa hàng thuốc định mua mấy viên diamon nhưng ngại ngần không dám nói nên viết vào giấy 3 chữ L liền nhau đưa cho thằng bán thuốc.
Hắn nh́n 3 chữ L một lúc rồi viết 4 chữ L vào phía dưới gởi lại ḿnh.
Đọc không hiểu cáu quá kéo nó ra hỏi nhỏ như thế lầy là như thế lào?!
Nó cười tủm tỉm bảo thuốc đấy, đơn thuốc đấy, cứ thế mà giă ắt ngon lành.:o
Đang đần thối mặt không biết tính sao th́ nó bảo ông viết 3 chữ L tức là "lâu lên lắm" có phải ko?! Hế hế hế:hafppy:
Nghĩ thằng này chuẩn không cần chỉnh gật đầu cái rụp.:eek:
Nó vẫn cười tủm tỉm nói th́ giải pháp là 4 chữ L đấy thôi, "L... lạ lên liền", cần mua viagra làm ǵ cho rách việc hả bố?!:nana:
Trời...quá đúng, thằng này mới đúng là thầy thuốc nhân dân (!) tbbt bèn vác kiếm làm “hiệp khách hành”:hafppy::hafppy ::hafppy:
hoanglan22
01-02-2020, 05:06
Một hôm tbbt vào cửa hàng thuốc định mua mấy viên diamon nhưng ngại ngần không dám nói nên viết vào giấy 3 chữ L liền nhau đưa cho thằng bán thuốc.
Hắn nh́n 3 chữ L một lúc rồi viết 4 chữ L vào phía dưới gởi lại ḿnh.
Đọc không hiểu cáu quá kéo nó ra hỏi nhỏ như thế lầy là như thế lào?!
Nó cười tủm tỉm bảo thuốc đấy, đơn thuốc đấy, cứ thế mà giă ắt ngon lành.:o
Đang đần thối mặt không biết tính sao th́ nó bảo ông viết 3 chữ L tức là "lâu lên lắm" có phải ko?! Hế hế hế:hafppy:
Nghĩ thằng này chuẩn không cần chỉnh gật đầu cái rụp.:eek:
Nó vẫn cười tủm tỉm nói th́ giải pháp là 4 chữ L đấy thôi, "L... lạ lên liền", cần mua viagra làm ǵ cho rách việc hả bố?!:nana:
Trời...quá đúng, thằng này mới đúng là thầy thuốc nhân dân (!) tbbt bèn vác kiếm làm “hiệp khách hành”:hafppy::hafppy ::hafppy:
Đầu năm cười té ghế với câu chuyện của Bác rôi.:hafppy::hafppy: :thankyou:
phokhuya
01-03-2020, 00:10
Một hôm tbbt vào cửa hàng thuốc định mua mấy viên diamon nhưng ngại ngần không dám nói nên viết vào giấy 3 chữ L liền nhau đưa cho thằng bán thuốc.
Hắn nh́n 3 chữ L một lúc rồi viết 4 chữ L vào phía dưới gởi lại ḿnh.
Đọc không hiểu cáu quá kéo nó ra hỏi nhỏ như thế lầy là như thế lào?!
Nó cười tủm tỉm bảo thuốc đấy, đơn thuốc đấy, cứ thế mà giă ắt ngon lành.:o
Đang đần thối mặt không biết tính sao th́ nó bảo ông viết 3 chữ L tức là "lâu lên lắm" có phải ko?! Hế hế hế:hafppy:
Nghĩ thằng này chuẩn không cần chỉnh gật đầu cái rụp.:eek:
Nó vẫn cười tủm tỉm nói th́ giải pháp là 4 chữ L đấy thôi, "L... lạ lên liền", cần mua viagra làm ǵ cho rách việc hả bố?!:nana:
Trời...quá đúng, thằng này mới đúng là thầy thuốc nhân dân (!) tbbt bèn vác kiếm làm “hiệp khách hành”:hafppy::hafppy ::hafppy:
:hafppy::hafppy::haf ppy::)
Welcome back tbbt!
Ra là mấy hổm rày đi nghiên cứu việc quan trọng.
Trời...quá đúng, thằng này mới đúng là thầy thuốc nhân dân (!) tbbt bèn vác kiếm làm “hiệp khách cô hành”:hafppy::hafppy :
hoanglan22
01-03-2020, 05:15
:hafppy::hafppy::haf ppy::)
Welcome back tbbt!
Ra là mấy hổm rày đi nghiên cứu việc quan trọng.
Trời...quá đúng, thằng này mới đúng là thầy thuốc nhân dân (!) tbbt bèn vác kiếm làm “hiệp khách cô hành”:hafppy::hafppy :
Hèn ǵ Bác tbbt bị CÔ hành nên đi xin thuốc:hafppy::hafppy ::hafppy:
phokhuya
01-03-2020, 05:18
Hèn ǵ Bác tbbt bị CÔ hành nên đi xin thuốc:hafppy::hafppy ::hafppy:
tbbt đang tính ra phim "Độc Cô Cầu Hành" mà bác. :hafppy::hafppy:
hoanglan22
01-03-2020, 05:26
tbbt đang tính ra phim "Độc Cô Cầu Hành" mà bác. :hafppy::hafppy:
Cầu hành ..nhà Bác tbbt Canh Hầu mệt nghĩ . rửa chén , quét nhà dọn dẹp etc ... sau đó mệt hổng c̣n sức ...năm mười đi ngũ luôn https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1509149&stc=1&d=1578029191
Trùi! sửa soạn đi ngủ th́ ách x́ 2 cái...vô đây coi th́ ra 2 cha nụi đang luận tội tui:hafppy::hafppy:: hafppy:
:hafppy::hafppy::haf ppy::)
Welcome back tbbt!
Ra là mấy hổm rày đi nghiên cứu việc quan trọng.
Trời...quá đúng, thằng này mới đúng là thầy thuốc nhân dân (!) tbbt bèn vác kiếm làm “hiệp khách cô hành”:hafppy::hafppy :
h́…h́… đúng quá đi chỉ có cô hành thôi c̣n bà hành là đi be :112: v́ thấy longhue đại ca than thân trách phận :eek: nên tbbt gợi ư bài thuốc nhân …gian (ác) coi kiếm báu đại ca có c̣n hữu dụng hay không ư mà:hafppy::hafppy:
Những triệu chứng cần lưu ư cho tuổi già.
1- Khi không (bỗng nhiên) thấy tức thở .
Lư do: có thể là do nghẽn mạch phổi(pulmonary embolus). Nhận xét: Cảm thấy khó thở sau khi tập thể dục hay đang ngồi có thể là do vận động hay do ưu tư lo lắng. Nhưng nếu đột nhiên bị khó thở có thể là do chứng nghẽn mạch phổi do cục đông máu làm nghẹt mạch máu trong phổi.
Bệnh này có thể nguy hiểm tới tính mạng. Một lư do khác là tim lên cơn đau hoặc trụy tim. Cả hai t́nh huống trên đều làm cho bệnh nhân thở gấp hay khó chịu hoặc cảm thấy thiếu không khí . Cần đưa bệnh nhân đi cấp cứu.
2- Tim đập rộn trong khi đang ngồi yên.
Lư do: có thể là do lên cơn đau tim (heart attack). Nhận xét: Đánh trống ngực (palpitations) có thể chỉ là v́ ưu tư lo lắng, nhưng cũng có thể là dấu hiệu của cơn đau tim hay chứng loạn nhịp tim (arrhythmia) .Nên liên lạc với bác sĩ ngay.
3- Choáng váng chóng mặt khi ra khỏi giường.
Lư do: có thể là do huyết áp thấp. Nhận xét: Chóng mặt vào buổi sáng được gọi là "huyết áp thế đứng thấp" (orthostatic hypotension) gây ra bởi sự loại nước (dehydration) , bệnh tiểu đường, bệnh Parkinson, bệnh trụy tim, hay thuốc men bao gồm cả thuốc lợi tiểu và thuốc huyết áp.
Một lư do khác có thể là chứng "chóng mặt tư thế nhẹ " (benign positional vertigo) gây ra bởi sự xáo trộn của các bộ phận cân bằng của tai trong. Nên đi gặp bác sĩ để chẩn đoán.
4- Nước tiểu ṛ rỉ.
Lư do: có thể là do chứng són đái (urinary incontinence) mà nguyên nhân không phải v́ lăo hoá, nhiễm khuẩn đường tiểu (urinary tract infection-UTI) , bệnh tiền liệt tuyến, dây thần kinh bị ép. hoặc tiểu đường. Nhận xét: đi gặp bác sĩ để chẩn đóan
5- Đầu đau như búa bổ .
Lư do: có thể là do xuất huyết năo. Nhận xét: Trong phần lớn trường hợp đó là triệu chứng của chứng nhức nửa đầu (migraine) chỉ cần uống thuốc giảm đau và nghỉ ngơi là hết. Nhưng một vài trường hợp hiếm xẩy ra là chứng nhức đầu có thể là dấu hiệu có khối u hay xuất huyết trong năo.
Cần đặc biệt chú ư là khi bị đau nhiều nửa bên đầu một cách đột ngột và kéo dài mà lại kèm theo buồn nôn, ói mửa, và chảy nước mắt. Trong trường hợp sau này phải đi bệnh viện gấp.
6- Mắt bị sưng vù.
Lư do: có thể là do viêm dây thần kinh mắt (optic neuritis). Nhận xét: Dây thần kinh mắt có thể bị nhiễm khuẩn hay bị dị ứng. Nếu chữa sớm th́ không hại ǵ cho mắt v́ vậy cần đi bác sĩ khẩn cấp.
7- Tai đau và mắt nh́n thấy hai h́nh (song thị).
Lư do: có thể do tai giữa bị nhiễm khuẩ Nhận xét: Bệnh có thể trở thành nghiêm trọng bất ngờ v́ vậy cần đi bác sĩ cấp thời nếu chứng đau không dứt và/hoặc có bị thêm chóng mặt lảo đảo, nhức đầu, ói mửa, song thị, nửa ngủ nửa thức, cổ cứng đơ, sưng ở sau tai, sốt nhiều và liệt mặt.
8- Tự nhiên giảm sút kư.
Lư do: có thể là do ung thư. Nhận xét: Nếu ăn uống vẫn b́nh thường như cũ mà đột nhiên bị sút cân th́ có thể là bị bệnh ác tính. Một nguyên nhân khác cũng có thể là do sự bất b́nh thường nội tiết (endocrinic abnormality) như bệnh tuyến giáp trạng (thyroid disorder), trầm cảm hay tiểu đường. Nên đi gặp bác sĩ ngay để chẩn đoán.
9- Đột nhiên đau háng.
Lư do: có thể là do tinh hoàn bị xoắn. Nhận xét: Đây là một khuyết tật bẩm sinh khá thông thường. Ống dẫn tinh trùng bị xoắn làm máu không chạy tới tinh hoàn. Cơn đau cũng giống như bị đá vào háng. Đôi khi ngoài cơn đau c̣n thấy bị sưng nữa. Trong ṿng 4 hay 6 tiếng th́ c̣n cứu đươc, chứ trễ từ 12 đến 24 tiếng th́ coi như phải cắt bỏ. Một nguyên nhân khác có thể là nhiễm khuẩn mào tinh hoàn (epididymis) tức là bộ phận trữ tinh trùng. Trong trường hợp này có thể dùng trụ sinh để chữa trị.
10 - Đau nhói gan bàn chân.
Lư do: có thể là do bệnh thần kinh (neuropathy) . Nhận xét: Đau nhói cứ tái phát ở bất cứ chỗ nào trên cơ thể có thể là do sự nén ép dây thần kinh, tăng thông khí phổi (hyperventilation) hoặc bệnh thần kinh. Liên lạc với bác sĩ càng sớm càng tốt.
11- Vết thâm tím măi không tan. Điều ǵ xẩy ra:
Lư do: bệnh tiểu đường. Nhận xét: Vết đứt hay thâm tím chậm lành có thể là dấu hiệu của bệnh tiểu đường (dấu hiệu khác gồm có da bị ngứa hoặc đau nhói bàn tay hay bàn chân). Nên t́m cách giảm cân (giảm 10 phần trăm trọng lượng ảnh hưởng đáng kể lên mức đường trong máu), tập thể dục và coi chừng thói quen ăn uống.
12 - Răng đau buốt khi ăn Sô-cô-la .Điều ǵ sẽ xẩy ra:
Lư do: viêm lợi. Nhận xét: Một trong những dấu hiệu đầu tiên của sâu răng là nhạy cảm với đồ ngọt. Dấu hiệu đầu tiên khác là răng mất mầu và có mùi khi cà răng. Kỹ thuật laser có thể phát hiện sớm các ổ răng sâu và tiêu diệt các vi khuẩn trước khi làm sâu răng.
13 - Ṿng eo rộng 42 inch Điều ǵ sẽ xẩy ra:
Lư do: bất lực. Nhận xét: Có thể bây giờ chưa có vấn đề nhưng trong tương lai bạn có thể bị loạn năng cường dương (erectile disfunction) .Nguyên do là v́ khi đàn ông quá mập các động mạch thường hay bị nghẹt nên ḍng máu không đủ làm cho cương. Hăy tập thể dục đều cho đến khi eo thon lại, thắt vừa dây lưng 34 inch.
14 - Mắt thoáng không thấy ǵ - chỉ trong một giây.
Lư do: có thể là do đột quỵ (stroke). Nhận xét: Các yếu tố rủi ro chính của đột quỵ là cao huyết áp (trên 140/90) và cholesterol toàn phần cao hơn 200. Bị tê một bên người và tạm thời hai mắt không nh́n thấy ǵ là những dấu hiệu đáng chú ư nhất. Đột nhiên bị tê, nói liú lưỡi, hay mất thăng bằng có thể là bằng chứng của một cơn đột quỵ nhẹ gọi là đột quỵ thiếu máu cục bộ đoản kỳ (transient ischemic attack-TIA). Đột quỵ nhẹ này thường báo trước một đột quỵ thật sự nên khi có triệu chứng của TIA th́ phải gặp bác sĩ ngay.
15 - Có cảm giác như bị ợ nóng (heartburn).
Lư do: có thể là do chứng đau thắt (angina). Nhận xét: Đau ngực cả hàng giờ, lúc có lúc không, được bác sĩ gọi là "hội chứng mạch vành không ổn định" (unstable coronary syndrome). Nguyên nhân là v́ các cục đông máu đươc tạo thành bên trong thành động mạch vành ngay tại chỗ mảng (plaque) bị bể vỡ. Khoảng 50 phần trăm những người có hội chứng trên đây sẽ bị lên cơn đau tim trong ṿng 6 tháng sau. Mỗi khi thấy đau thắt ngực, cần phải đi bệnh viện.
16 - Đau lưng nhiều.
Lư do: có thể là do chứng ph́nh mạch (aneurysm). Nhận xét: Đau cũng tương tự như vừa dọn dep xong tủ quần áo bề bộn. Thế nhưng chườm nóng, nghỉ ngơi, uống thuốc giảm đau thông thường lại không khỏi. Nếu không phải v́ tập thể dục th́ đau lưng bất chợt như vậy có thể là dấu hiệu của chứng ph́nh mạch. Chứng đau này chỉ hết khi động mạch chủ bị bể.
Một nguyên nhân khác của chứng đau lưng này - kém phần nguy hiểm hơn -là sạn thận. Bác sĩ cho chụp CT scan để xác định vị trí và h́nh dạng của chỗ mạch ph́nh, sau đó cho uống thuốc huyết áp hay giải phẫu ghép nối nhân tạo.
17- Ngồi lâu trên ghế không yên.
Lư do : có thể do các cơ lưng bị căng thẳng. Nhận xét : Nếu cứ phải thay đổi vị thế ngồi luôn tức là có dấu hiệu các cơ lưng bị căng thẳng và điều này có thể dẫn đến đau lưng dưới. Cần phải lựa chọn ghế ngồi cho thoải mái, sao cho đầu ở vị trí ngay đối với cột sống để giảm tối thiểu sức căng thẳng trên cổ, vai và lưng dưới.
18 - Bạn mới biết thân phụ bị cao huyết áp.
Điều ǵ sẽ xẩy ra: bạn cũng sẽ bị cao huyết áp luôn. Nhận xét: V́ bệnh cao huyết áp vừa phải không có dấu hiệu bên ngoài nên cần phải đo huyết áp mỗi năm một lần, nhất là nếu trong gia đ́nh có tiền sử bị cao huyết áp. Nghiên cứu cho thấy là những người bị căng thẳng tinh thần v́ cha mẹ mắc bệnh cao huyết áp cũng có nhiều rủi ro bị bệnh này luôn. Nếu số đo huyết áp cao hơn 140/90, bạn nên tập thể dục nhiều hơn, t́m cách sụt cân, giảm sodium trong chế độ ăn uống, ăn loại cá tốt cho tim, uống nhiều vitamin C.
19 - Tay bị run khi tập thể dục.
Lư do: có thể là do cơ bắp bị mỏi mệt. Nhận xét: Nếu bạn đă bỏ tập cả nhiều tháng th́ cơ bắp bị run có thể là v́ mệt mỏi. V́ vậy khi mới tập trở lại bạn nên tập vừa phải, đừng tập quá mệt. Bạn hăy ngưng tập khi cảm thấy các cơ bắp bắt đầu run.
20 - Trong bàn tiệc bạn thấy mọi thứ đều quay cuồng.
Lư do: do bạn đă quá chén. Nhận xét: Rượu làm suy yếu hệ thần kinh trung ương. V́ vậy nếu bạn uống quá nhiều, tất cả những ǵ trong cơ thể có liên quan tới hệ này sẽ đều bị suy yếu: trí phán đoán, khí sắc, khả năng phối hợp và quân b́nh, sự nhạy cảm với đau đớn, khả năng sinh dục… Bạn nên tránh đừng uống rươu nhiều. Bạn nên nhớ là nếu nồng độ rượu trong máu hơn 0.06 phần trăm là trên pháp lư bạn đă bị coi như là say rượu.
21- Đau dai dẳng ở bàn chân và cẳng chân.
Lư do: nhiều triển vọng là do gẫy xương v́ sức nén (stress fracture).
Nhận xét: Cũng giống như các mô khác trong cơ thể, xương tự tái tạo. Nhưng nếu bạn tập thể dục quá mạnh, xương không có cơ hội để lành trở lại nên một vết gẫy v́ sức nén (stress fracture) sẽ có thể xuất hiện.
V́ thế mu bàn chân và phiá trước cẳng chân sẽ đau dai dẳng. Bạn càng tập thể dục th́ càng đau và ngay cả khi ngưng nghỉ cũng đau. Uống thuốc ibuprofen hay paracetamol không ăn thua ǵ. Thuốc mầu phóng xạ cho thấy chỗ xương gẫy qua h́nh chụp tia X, và bác sĩ sẽ bắt bạn phải nghỉ tập cho đến khi xương lành. Trường hợp xấu nhất là bạn phải bó bột vài tuần.
22 - Đau như cắt ở bụng.
Lư do: V́ vùng giữa xương sườn và háng có kẹt đầy các bộ phận nên đau có thể là triệu chứng hoặc của viêm ruột thừa, viêm tụy tạng hoặc của túi mật bị sưng. Cả ba trường hợp đểu có cùng một nguyên nhân : v́ một lư do nào đó các bộ phận này đă bị nhiễm khuẩn nguy hại đến tính mạng.
Nhận xét : Nếu để bộ phận nói trên bể vỡ ra th́ bệnh nhân có thể bị chết, v́ vậy cẩn đi bệnh viện cấp thời.
23- Cẳng chân bị đau và sưng to.
Lư do: có thể là do chứng huyết khối tĩnh mạch sâu (deep vein thrombosis –DVT). Nhận xét: Chỉ cẩn ngổi một chỗ liền chừng 6 tiếng hay hơn là máu sẽ tụ ở cẳng chân dưới tạo thành cục đông máu (gọi là chứng huyết khối tĩnh mach sâu). Cục đông máu đủ lớn sẽ làm nghẹt tĩnh mạch bắp chân gây đau và sưng. Xoa cẳng chân là điều đầu tiên bạn sẽ làm nhưng cũng là điều tệ hại nhất v́ cục đông máu lớn có thể chạy ngược lên phổi, điều nầy gây nguy hiểm đến tính mạng của bạn. Muốn chụp h́nh tia X để định bệnh DVT bác sĩ phải chích chất mẩu vào tĩnh mạch. Bác sĩ sẽ cho thuốc làm tan cục đông máu hoặc đặt cái lọc vào tĩnh mạch để chặn cục đông máu không cho chạy lên phổi.
24 - Tiểu tiện bị đau.
Lư do: có thể là do ung thư bàng quang (bọng đái). Nhận xét: Rặn tiểu là cả một cực h́nh và nước tiểu lại có màu rỉ sắt. Đau và máu trong nước tiểu là hai triệu chứng của ung thư bàng quang. Hút thuốc là yếu tố rủi ro bị bệnh lớn nhất. Nếu khám phá sớm bệnh có 90 phần trăm triển vọng được chữa khỏi. Nhiễm khuẩn bàng quang cũng có cùng các triệu chứng như trên (Theo "24 warning signs you cannot afford to ignore").
BK Nguyễn Hữu Thắng sưu tầm
Giải thoát, nếu một ngày...
Đừng nghĩ rằng sự giải thoát chỉ dành cho những bậc xuất gia,
nếu biết tu hành và biết sống th́ giải thoát có thể đến với tất cả
mọi người. Giải thoát trong tầm tay và ngay nơi vị trí ḿnh
đang đứng bạn ạ!
- Nếu một ngày bạn bị hàm oan, bị người khác xúc phạm, tổn
thương, bạn chỉ mỉm cười ghi nhận rồi xem nhẹ, không phản ứng,
th́ ngay đó bạn được giải thoát.
- Nếu một ngày bạn không c̣n tin vào việc cầu siêu, giải hạn.
Bạn không tin vào việc thần thánh có thể ban phước giáng họa.
Bạn chỉ tin vào luật nhân quả công b́nh khắp thế gian. Gieo nhân ǵ,
gặt quả nấy. Bạn tự nhận thấy ḿnh là một cá thể tồn tại trong vũ
trụ này, cá thể đó hoàn toàn có thể vươn lên để tự hoàn thiện ḿnh,
ḥa nhập với Vũ trụ. Ngay đó bạn được giải thoát.
- Nếu một ngày bạn thôi không bất măn với chính ḿnh, với những
người xung quanh. Bạn biết chấp nhận chính ḿnh, chấp nhận
mọi người như họ đang là... Lúc đó bạn được giải thoát.
- Nếu một ngày bạn bằng ḷng với những ǵ bạn có, biết vui với
chiếc điện thoại đă đủ chức năng cần thiết cho nhu cầu của
ḿnh, mà không phải là một chiếc điện thoại hạng sang. Th́ ngay
đó bạn được giải thoát.
- Nếu một ngày bạn nhận ra ḿnh làm việc v́ niềm vui, v́ những
nhu cầu tối thiểu ăn, mặc, ở, v́ muốn san sẻ cho người khác.
Bạn chọn được một công việc vừa lợi ḿnh, vừa không làm tổn
hại đến chúng sinh khác. Không phải v́ tham muốn, không phải
v́ muốn có nhiều hơn, th́ lúc đó bạn được giải thoát.
- Nếu một ngày bạn ngắm đóa hoa ven đường, chỉ đơn giản là
ngắm và thưởng thức vẻ đẹp của đóa hoa mà không phải là
muốn sở hữu nó, th́ ngay đó bạn được giải thoát.
- Ngày nào bạn biết cho đi, biết giúp đỡ mọi người, mọi chúng
sinh. Giúp đỡ mà không yêu cầu nhận lại bất kỳ điều ǵ.
Lúc đó bạn được giải thoát.
Sống an vui, tỉnh thức
Trọn vẹn với hôm nay
Chánh niệm và buông xả
Giải thoát trong tầm tay .
Như Nhiên
h́…h́… đúng quá đi chỉ có cô hành thôi c̣n bà hành là đi be :112: v́ thấy longhue đại ca than thân trách phận :eek: nên tbbt gợi ư bài thuốc nhân …gian (ác) coi kiếm báu đại ca có c̣n hữu dụng hay không ư mà:hafppy::hafppy:
Hahaha cảm ơn thạnh t́nh của bạn hiền đă dành cho, nhưng đă rữa tay gát kiếm rồi nên kiếm dẩu có bén chém sắt như chém bùn nhưng chém bùn chắc ăn hơn bạn hiền ui....:handshake::ro lleyes::rolleyes:
phokhuya
01-03-2020, 16:40
Tạm giải thích những triệu chứng của tuổi già
1- Khi không (bỗng nhiên) thấy tức thở .
Có lẽ lúc đó có một cô nàng thân h́nh bốc lửa xuất hiện trước mặt
2- Tim đập rộn trong khi đang ngồi yên.
Cô nàng bỗng dưng nằm xuống cạnh bác longhue
3- Choáng váng chóng mặt khi ra khỏi giường.
Sau khi bị cô hành
4- Nước tiểu ṛ rỉ.
Ống nước tiểu bị khóa tạm thời sau khi cô hành
5- Đầu đau như búa bổ .
Cô hành trong một thời gian quá lâu
6- Mắt bị sưng vù.
Tai nạn bất đắc dĩ trong khi cô hành
7- Tai đau và mắt nh́n thấy hai h́nh
Có lẽ cô nàng rên la quá lớn và tṛng mắt c̣n đang in đậm h́nh bóng hai quả cầu lửa
8- Tự nhiên giảm sút kư.
Bị cô hành liên tiếp
9- Đột nhiên đau háng.
Bị hành như vậy háng không đau cũng lạ
10 - Đau nhói gan bàn chân.
Đứng nhiều hơn nằm trong lúc bị cô hành
11- Vết thâm tím măi không tan.
Chắc bị bấu chặt lúc cô hành
12 - Răng đau buốt khi ăn Sô-cô-la
Răng cà răng tuy phê mà ê ê khi cà quá mức
13 - Ṿng eo rộng 42 inch Điều ǵ sẽ xẩy ra
Cô đă dính.......rồi
14- Mắt thoáng không thấy ǵ - chỉ trong một giây.
Suy nhược cơ thể
15 - Có cảm giác như bị ợ nóng
Ăn nhiều quá nên hơi ngán
16 - Đau lưng nhiều.
Cô hành kiểu đó không đau lưng mới lạ
17- Ngồi lâu trên ghế không yên.
Cô lại muốn...hành
18 - Bạn mới biết thân phụ bị cao huyết áp.
Lo lắng quá độ không biết bị hành đến bao lâu
19 - Tay bị run khi tập thể dục.
Thân xác ră rời c̣n tập ǵ nổi nữa
20 - Trong bàn tiệc bạn thấy mọi thứ đều quay cuồng.
Lúc này thịt rồng cũng không ngon miệng
21- Đau dai dẳng ở bàn chân và cẳng chân.
Đừng chọn cùng một tư thế khi bị cô hành
22 - Đau như cắt ở bụng.
Búng như tôm trong thời gian dài tất nhiên bụng sẽ đau rồi
23- Cẳng chân bị đau và sưng to.
Lư do c̣n đang t́m hiểu
24 - Tiểu tiện bị đau.
Đi gặp BS cho lẹ.
lol
:hafppy::hafppy:
Tạm giải thích những triệu chứng của tuổi già
1- Khi không (bỗng nhiên) thấy tức thở .
Có lẽ lúc đó có một cô nàng thân h́nh bốc lửa xuất hiện trước mặt
2- Tim đập rộn trong khi đang ngồi yên.
Cô nàng bỗng dưng nằm xuống cạnh bác longhue
3- Choáng váng chóng mặt khi ra khỏi giường.
Sau khi bị cô hành
4- Nước tiểu ṛ rỉ.
Ống nước tiểu bị khóa tạm thời sau khi cô hành
5- Đầu đau như búa bổ .
Cô hành trong một thời gian quá lâu
6- Mắt bị sưng vù.
Tai nạn bất đắc dĩ trong khi cô hành
7- Tai đau và mắt nh́n thấy hai h́nh
Có lẽ cô nàng rên la quá lớn và tṛng mắt c̣n đang in đậm h́nh bóng hai quả cầu lửa
8- Tự nhiên giảm sút kư.
Bị cô hành liên tiếp
9- Đột nhiên đau háng.
Bị hành như vậy háng không đau cũng lạ
10 - Đau nhói gan bàn chân.
Đứng nhiều hơn nằm trong lúc bị cô hành
11- Vết thâm tím măi không tan.
Chắc bị bấu chặt lúc cô hành
12 - Răng đau buốt khi ăn Sô-cô-la
Răng cà răng tuy phê mà ê ê khi cà quá mức
13 - Ṿng eo rộng 42 inch Điều ǵ sẽ xẩy ra
Cô đă dính.......rồi
14- Mắt thoáng không thấy ǵ - chỉ trong một giây.
Suy nhược cơ thể
15 - Có cảm giác như bị ợ nóng
Ăn nhiều quá nên hơi ngán
16 - Đau lưng nhiều.
Cô hành kiểu đó không đau lưng mới lạ
17- Ngồi lâu trên ghế không yên.
Cô lại muốn...hành
18 - Bạn mới biết thân phụ bị cao huyết áp.
Lo lắng quá độ không biết bị hành đến bao lâu
19 - Tay bị run khi tập thể dục.
Thân xác ră rời c̣n tập ǵ nổi nữa
20 - Trong bàn tiệc bạn thấy mọi thứ đều quay cuồng.
Lúc này thịt rồng cũng không ngon miệng
21- Đau dai dẳng ở bàn chân và cẳng chân.
Đừng chọn cùng một tư thế khi bị cô hành
22 - Đau như cắt ở bụng.
Búng như tôm trong thời gian dài tất nhiên bụng sẽ đau rồi
23- Cẳng chân bị đau và sưng to.
Lư do c̣n đang t́m hiểu
24 - Tiểu tiện bị đau.
Đi gặp BS cho lẹ.
lol
:hafppy::hafppy:
trời! tui…tui…té ghế :hafppy::hafppy: Biển Thước hay Hoa Đà tái thế cũng chịu thua Doctor phokhuya:hafppy::haf ppy::hafppy::handsha ke::thankyou:
phokhuya
01-03-2020, 17:58
trời! tui…tui…té ghế :hafppy::hafppy: Biển Thước hay Hoa Đà tái thế cũng chịu thua Doctor phokhuya:hafppy::haf ppy::hafppy::handsha ke::thankyou:
:hafppy::hafppy::haf ppy:
Tạm giải thích những triệu chứng của tuổi già
1- Khi không (bỗng nhiên) thấy tức thở .
Có lẽ lúc đó có một cô nàng thân h́nh bốc lửa xuất hiện trước mặt
2- Tim đập rộn trong khi đang ngồi yên.
Cô nàng bỗng dưng nằm xuống cạnh bác longhue
3- Choáng váng chóng mặt khi ra khỏi giường.
Sau khi bị cô hành
4- Nước tiểu ṛ rỉ.
Ống nước tiểu bị khóa tạm thời sau khi cô hành
5- Đầu đau như búa bổ .
Cô hành trong một thời gian quá lâu
6- Mắt bị sưng vù.
Tai nạn bất đắc dĩ trong khi cô hành
7- Tai đau và mắt nh́n thấy hai h́nh
Có lẽ cô nàng rên la quá lớn và tṛng mắt c̣n đang in đậm h́nh bóng hai quả cầu lửa
8- Tự nhiên giảm sút kư.
Bị cô hành liên tiếp
9- Đột nhiên đau háng.
Bị hành như vậy háng không đau cũng lạ
10 - Đau nhói gan bàn chân.
Đứng nhiều hơn nằm trong lúc bị cô hành
11- Vết thâm tím măi không tan.
Chắc bị bấu chặt lúc cô hành
12 - Răng đau buốt khi ăn Sô-cô-la
Răng cà răng tuy phê mà ê ê khi cà quá mức
13 - Ṿng eo rộng 42 inch Điều ǵ sẽ xẩy ra
Cô đă dính.......rồi
14- Mắt thoáng không thấy ǵ - chỉ trong một giây.
Suy nhược cơ thể
15 - Có cảm giác như bị ợ nóng
Ăn nhiều quá nên hơi ngán
16 - Đau lưng nhiều.
Cô hành kiểu đó không đau lưng mới lạ
17- Ngồi lâu trên ghế không yên.
Cô lại muốn...hành
18 - Bạn mới biết thân phụ bị cao huyết áp.
Lo lắng quá độ không biết bị hành đến bao lâu
19 - Tay bị run khi tập thể dục.
Thân xác ră rời c̣n tập ǵ nổi nữa
20 - Trong bàn tiệc bạn thấy mọi thứ đều quay cuồng.
Lúc này thịt rồng cũng không ngon miệng
21- Đau dai dẳng ở bàn chân và cẳng chân.
Đừng chọn cùng một tư thế khi bị cô hành
22 - Đau như cắt ở bụng.
Búng như tôm trong thời gian dài tất nhiên bụng sẽ đau rồi
23- Cẳng chân bị đau và sưng to.
Lư do c̣n đang t́m hiểu
24 - Tiểu tiện bị đau.
Đi gặp BS cho lẹ.
lol
:hafppy::hafppy:
Hahaha.............. hết ư kiến với ông bạn rùi, quả là cao kiến. Bái phục cho trí tưởng tượng cùa bác phokhuya.:rolleyes:: rolleyes::rolleyes:
phokhuya
01-03-2020, 19:29
Hahaha.............. hết ư kiến với ông bạn rùi.:rolleyes::rolle yes::rolleyes:
Ḿnh th́ liệu bệnh và bác longhue th́ liệu thương muh. :hafppy::hafppy:
trungthu
01-04-2020, 02:55
Một hôm tbbt vào cửa hàng thuốc định mua mấy .... tbbt bèn vác kiếm làm “hiệp khách hành”:hafppy::hafppy ::hafppy:
" tbbt bèn vác kiếm làm “hiệp khách hành”....
Làm hiệp khách hành th́ dzui dẻ rồi , nhưng nhớ đừng để cho " kiếm " của bác bị hành , đến lúc đó th́ khổ lắm...
:hafppy::hafppy::han dshake::handshake:
trungthu
01-04-2020, 02:55
Đọc hoài trong toa thuốc của bác Long Huệ và bác phố phuya nh́n lại bệnh ḿnh thấy không có giống tí nào , thường thường nh́n thấy mỹ nhân th́ tim của ḿnh đập mạnh...nhưng vừa qua nó lại chơi thêm tṛ làm điệu...thấy mỹ nhân nó đập năm sáu cái rồi lại nghỉ một cái... để cho mấy ông bác sĩ trong nhà thương phải bận rộn với ḿnh ..., giờ này với ngộ ra cái lư thuyết vô ngă là tim của ḿnh vẫn không phải là của ḿnh ...nó muốn đập theo kiểu nào là theo ư nó, đến ngày nào đó nó giận ḿnh là nó hổng thèm đập nữa ... để cho ḿnh nghỉ cuộc chơi....
phokhuya
01-04-2020, 03:01
Đọc hoài trong toa thuốc của bác Long Huệ và bác phố phuya nh́n lại bệnh ḿnh thấy không có giống tí nào , thường thường nh́n thấy mỹ nhân th́ tim của ḿnh đập mạnh...nhưng vừa qua nó lại chơi thêm tṛ làm điệu...thấy mỹ nhân nó đập năm sáu cái rồi lại nghỉ một cái... để cho mấy ông bác sĩ trong nhà thương phải bận rộn với ḿnh ..., giờ này với ngộ ra cái lư thuyết vô ngă là tim của ḿnh vẫn không phải là của ḿnh ...nó muốn đập theo kiểu nào là theo ư nó, đến ngày nào đó nó giận ḿnh là nó hổng thèm đập nữa ... để cho ḿnh nghỉ cuộc chơi....
:hafppy::hafppy:bác trung thu làm té ghế thiệt.
hoanglan22
01-04-2020, 03:06
Trùi! sửa soạn đi ngủ th́ ách x́ 2 cái...vô đây coi th́ ra 2 cha nụi đang luận tội tui:hafppy::hafppy:: hafppy:
Dân quậy th́ hay phá nhưng vui ...:handshake::thank you:
phokhuya
01-04-2020, 03:12
Trùi! sửa soạn đi ngủ th́ ách x́ 2 cái...vô đây coi th́ ra 2 cha nụi đang luận tội tui:hafppy::hafppy:: hafppy:
Luận thôi chứ chưa định tội. C̣n cứu chữa được nếu chịu mang ra thêm vài thang thuốc nữa.
:hafppy::hafppy:
hoanglan22
01-04-2020, 03:12
Đọc hoài trong toa thuốc của bác Long Huệ và bác phố phuya nh́n lại bệnh ḿnh thấy không có giống tí nào , thường thường nh́n thấy mỹ nhân th́ tim của ḿnh đập mạnh...nhưng vừa qua nó lại chơi thêm tṛ làm điệu...thấy mỹ nhân nó đập năm sáu cái rồi lại nghỉ một cái... để cho mấy ông bác sĩ trong nhà thương phải bận rộn với ḿnh ..., giờ này với ngộ ra cái lư thuyết vô ngă là tim của ḿnh vẫn không phải là của ḿnh ...nó muốn đập theo kiểu nào là theo ư nó, đến ngày nào đó nó giận ḿnh là nó hổng thèm đập nữa ... để cho ḿnh nghỉ cuộc chơi....
Đêm rằm trung thu bác sẽ thấy hằng nga . Người ta nh́n trăng thấy bác và tui cho là một chú cuội:hafppy::hafppy: :hafppy:
hoanglan22
01-04-2020, 03:15
Luận thôi chứ chưa định tội. C̣n cứu chữa được nếu chịu mang ra thêm vài thang thuốc nữa.
:hafppy::hafppy:
Nhà bác tbtb chưa bị định tội vẫn c̣n hên . Tui th́ bị định tội rồi ...hổng sao :hafppy::hafppy::haf ppy:
phokhuya
01-04-2020, 03:17
Đêm rằm trung thu bác sẽ thấy hằng nga . Người ta nh́n trăng thấy bác và tui bị trói chung cho là một chú cuội
:hafppy::hafppy:
phokhuya
01-04-2020, 03:19
Nhà bác tbtb chưa bị định tội vẫn c̣n hên . Tui th́ bị định tội rồi ...hổng sao :hafppy::hafppy::haf ppy:
Tội của bác th́ ngang ngữa với Trump, khỏi bàn nữa. Trump th́ bị hạn dân chủ soi,và bác bị hạn dân chửi ....bới. hahahhahahahahahhaha ha:hafppy::hafppy:
hoanglan22
01-04-2020, 03:25
Tội của bác th́ ngang ngữa với Trump, khỏi bàn nữa. Trump th́ bị hạn dân chủ soi,và bác bị hạn dân chửi ....bới. hahahhahahahahahhaha ha:hafppy::hafppy:
Thế là TT trump và ḿnh ngang ngửa :hafppy::hafppy::haf ppy::hafppy:
phokhuya
01-04-2020, 03:27
Thế là TT trump và ḿnh ngang ngửa :hafppy::hafppy::haf ppy::hafppy:
Ngang tội thôi, bác đừng có mơ xa quá. Không chừng bác hơn một bực là đă bị định tội, c̣n Trump th́ c̣n đang luận tội.
lol.....:hafppy::haf ppy:
hoanglan22
01-04-2020, 18:54
Hai vợ chồng Cán ngố đi chợ Tết đến cửa hàng bán đồ hàng mả ở Chợ lớn. Tên cán ngố chống nạnh phe phẩy cái nón cối dỏng dạc nói với chủ cửa hàng là người Hoa 😲
- Nầy ông chủ tớ muốn mua một số đồ hàng mả "hiện đại"để cúng cho ông thủ trưởng ngày Tết. Nị cũng biết ông thủ của tớ lúc sinh tiền rất giàu có chỉ dùng hàng ngoại, không bao giờ dùng đồ trong nước. Bà thủ th́ tuần nào cũng đi chợ Sing, chợ Thái để mua thức ăn, c̣n đồ dùng th́ đặt mua [order] từ Âu Mỷ...
- Lị lói th́ ngọ piết dồi. Ở đây là lồ hàng mả cao cấp với kỷ thực cao dành để cúng cho những lồn chí cán lớn. Kỉa hàng của ngọ có xe Fe la ly [Ferrary] dà Mẹt xe đ́ [Mercedes]lời 2 ngàn mừ chín của Lức. Ai pat e [Ipad Air] Ai phôn 9, quy tính ép bồ qui đô 12 [Computer Apple Window 12] ......
- Ông thủ của tớ đă ngủ với bồ nhí qua đời đă mấy năm, mấy thứ nầy mới ra làm sao ổng biết xài ?
- Lị khỏi có lo. Ti Ráp [Steve Jobs] lang ở dưới ló mà, ló sẽ chỉ cho biết xài thui..
- Nhưng ông thủ của tớ mới học tới lớp ba trường làng, tiếng anh tiếng u th́ điếc ngắc, làm sao đồng chí ấy nghe hiểu Ti Ráp nói...
- À dậy cũng kẹt hớ. Hay là lị coi có thèng phản lộng nào giỏi TIẾNG ANH cho ló hui nhị tỳ xuống dưới ló làm thôn dịt cho ôn thủ của lị. Chuyện ló lối với các lồn chí của lị dẻ làm quá mà ...! !
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1509796&stc=1&d=1578164070
hoanglan22
01-11-2020, 17:31
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1513165&stc=1&d=1578763856
Tội ác của Tố Hữu đối với cái chết của thi sĩ Vũ Hoàng Chương.
Vũ Hoàng Chương (5 tháng 5 năm 1916 – 6 tháng 9 năm 1976) là một nhà thơ người Việt Nam, với văn phong được cho là sang trọng, có dư vị hoài cổ, giàu chất nhạc, với nhiều sắc thái Đông Phương. Ông sinh tại Nam Định, nguyên quán tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, nay là huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên.
Thuở nhỏ, ông học chữ Hán ở nhà rồi lên học tiểu học tại Nam Định. Năm 1931 ông nhập học trường Albert Sarraut ở Hà Nội, đỗ Tú tài năm 1937.
Năm 1938 ông vào Trường Luật nhưng chỉ được một năm th́ bỏ đi làm Phó Kiểm soát Sở Hỏa xa Đông Dương, phụ trách đoạn đường Vinh - Na Sầm.
Năm 1941, ông bỏ Sở hỏa xa đi học Cử nhân toán tại Hà Nội, rồi lại bỏ dở để đi dạy ở Hải Pḥng. Trong suốt thời gian này, ông không ngừng sáng tác thơ và kịch. Sau đó trở về Hà Nội lập "Ban kịch Hà Nội" cùng Chu Ngọc và Nguyễn Bính. Năm 1942 đoàn kịch công diễn vở kịch thơ Vân muội tại Nhà hát Lớn. Cũng năm đó ông gặp Đinh Thục Oanh, chị ruột nhà thơ Đinh Hùng và hai người thành hôn năm 1944.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông về Nam Định và cho diễn vở kịch thơ Lên đường của Hoàng Cầm. Kháng chiến toàn quốc nổ ra, Vũ Hoàng Chương tản cư cùng gia đ́nh về Thái B́nh, làm nghề dạy học. Đến 1950, gặp lúc quân Pháp càn đến ruồng bắt cả nhà, ông bỏ miền quê, hồi cư về Hà Nội nơi dạy toán rồi chuyển sang dạy văn và làm nghề này cho đến 1975. Năm 1954, Vũ Hoàng Chương di cư vào Nam, tiếp tục dạy học và sáng tác ở Sài G̣n.
Vũ hoàng Chương với Tố Hữu là bạn nhưng Vũ Hoàng Chương lớn hơn Tố Hữu vài tuổi. Năm 1946 Huy Cận ra bưng theo kháng chiến dùng thi tài của ḿnh để phục vụ bác và đảng, được sủng ái nên đă leo lên đến chức Thứ trưởng bộ Văn hóa. Vũ Hoàng Chương không theo kháng chiến, sau hiệp định Genève năm 1954 di cư vào Saigon tiếp tục nghiệp thơ và sinh sống bằng nghề dạy học.
Năm 1976, Huy Cận được cộng sản cử vào Saigon cùng với một phái đoàn gồm có Tố Hữu, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Vũ Đ́nh Liên, ..., với mục đích thăm ḍ và chiêu dụ các văn nghệ sĩ miền Nam.
Phái đoàn được Thanh Nghị kư giả (một cộng sản nằm vùng) tiếp đón và tổ chức một đêm "họp mặt văn nghệ” với các nhân vật gạo cội miền Nam để cùng đánh giá văn hoá hai miền ngơ hầu thống nhất tư tưởng về một mối. Buổi họp này Vũ Hoàng Chương đă được mời và ông đă tham dự.
Đề tài được đưa ra là mấy câu thơ của Tố Hữu đă làm để khóc Stalin chết vào năm 1953. Hai câu thơ đă gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp với Tố Hữu:
“Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương ḿnh thương một, thương ông thương mười".
Hoài Thanh mời Vũ Hoàng Chương, một nhà thơ của Miền Nam góp ư. Vũ Hoàng Chương đă yêu cầu cử tọa thông cảm nếu có chỗ nào thất thố v́ ông sợ rằng những ǵ ông muốn tŕnh bày sẽ làm tổn thương cái "sáng giá" của đêm họp "văn nghệ đặc biệt" này. Sau đây là lời của Vũ Hoàng Chương:
“Thi nhân từ cảm xúc mỗi lúc tác động vào tâm cảnh của ḿnh, để hồn trí phản ứng theo thất t́nh con người mà vận dụng thi tứ phổ diễn nên lời một t́nh tự nào đó, rồi đăi lọc thành thơ. Sự vận dụng càng xuất thần, việc phổ diễn càng khẩu chiếm, thơ càng có giá trị cao.
Cảm xúc trước cái chết của một thần tượng được "đóng khung" tự bao giờ trong tâm cảnh ḿnh, Tố Hữu đă xuất thần vận dụng nỗi u hoài, phổ diễn nên những lời thơ thật khẩu chiếm, rồi dùng những từ thật tầm thường, ít thi tính, đăi lọc nỗi u hoài của ḿnh thành một tiếng nấc rất tự nhiên, đạt đến một mức độ điêu luyện cao... Nhưng thơ không phải chỉ có thế. Xuất thần khẩu chiếm thuộc phạm vi kỹ thuật, dù đă có thi hứng phần nào, và nếu chỉ có thế th́ thơ chỉ có khéo mà thôi, chưa gọi là đạt; tức chưa phải là hay. Thơ hay cần phải khéo như thế vừa phải đạt thật sự. Thi hứng nằm trong sự thực của t́nh tự phổ diễn nên lời. T́nh tự mà không thực, lời thơ thành gượng ép...
Tố Hữu đặt tiếng khóc của chính ḿnh vào miệng một bà mẹ Việtnam, muốn bà dùng mối u hoài của một nhà thơ để dạy con trẻ Việtnam yêu cụ Stalin thay cho ḿnh. Cũng chẳng sao v́ đó cũng là một kỹ thuật của thi ca. Nhưng trước hết phải biết bà mẹ Việtnam có cùng tâm cảnh với ḿnh không, có chung một mối cảm xúc hay không?
Tôi biết chắc là không. Bởi trong đoạn trên của hai câu lục bát này trong bài "Đời Đời Nhớ Ông", Tố Hữu đă đặt vào lời bà mẹ hai câu:
“Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu ḷng con gọi Stalin"
Chắc chắn là không có một bà mẹ Việtnam nào, kể cả Bà Tố Hữu, mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành. Cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực hai câu sau ta đang mổ xẻ. Một t́nh tự không chân thực, dù đươc luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp, thơ hay, mà chỉ là thơ khéo làm. Đó chỉ là thơ thợ chứ không phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thợ thơ nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là nếu có đ̣i hỏi một tuyên truyền nào đó. Tố Hữu nếu khóc lấy, có lẽ là khóc thực, khóc một ḿnh. Nhưng bà mẹ Việtnam trong bài đă khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm".
Lời phê b́nh của Vũ Hoàng Chương đă gây sôi nổi trong đám thính giả có mặt hôm đó. Muốn phản bác luận điệu của Vũ Hoàng Chương, có người đă yêu cầu Ông nói về thơ để ḥng bắt bẻ này nọ, nhưng Ông vẫn ôn tồn phát biểu:
“Thơ vốn là mộng, là tưởng tượng, là tách rời thực tế, nhưng mộng trên những t́nh tự thực. Không chấp nhận loại thơ t́nh tự hoang. Có khoa học giả tưởng, không có thơ giả tưởng. Nói thơ là nói đến thế giới huyễn tưởng, huyễn tưởng trên sự thực để thăng hoa sự thực, chứ không bất chấp, không chối bỏ sự thực. Nhà thơ không được láo, nhà thơ phải thực nhưng thoát sáo sự thực thành mộng để đưa hồn tính người yêu thơ vươn lên sự thực muôn đời đạt đến chân lư cuộc sống. Thiên chức thi ca là ở chỗ đấy.
“Tôi xin nhắc, sự thực muôn oi đời là cơ sở duy nhất của thi ca. V́ có sự thực cho riêng một người, có sự thực cho riêng một thời, nhưng vẫn có sự thực cho muôn đời, sự thực bao quát không gian, thời gian, chân lư cuộc sống".
Tố Hữu không ngờ bị Vũ Hoàng Chương chê bai là nịnh hót Stalin nên bực tức. Sau đêm đó, Vũ Hoàng Chương đă bị công an nửa đêm ngày 3/4/1976, tràn vào nhà bắt giam tại khám Chí Hoà nhốt chung với BS Phan Huy Quát (cựu Thủ Tướng VNCH).
Trong nhà tù bị hành hạ, ăn uống thiếu thốn, bệnh không có thuốc uống nên ông kiệt sức, cộng sản biết ông sắp chết nên thả về. Chỉ 5 ngày sau đó, ngày 6/9/1976 th́ ông qua đời... Việt Nam đă mất đi một thi nhân tài hoa, bởi bàn tay sắt máu của Tố Hữu.
FB.
trungthu
01-12-2020, 01:30
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1513165&stc=1&d=1578763856
“Thơ vốn là mộng, là tưởng tượng, là tách rời thực tế, nhưng mộng trên những t́nh tự thực. Không chấp nhận loại thơ t́nh tự hoang. Có khoa học giả tưởng, không có thơ giả tưởng. Nói thơ là nói đến thế giới huyễn tưởng, huyễn tưởng trên sự thực để thăng hoa sự thực, chứ không bất chấp, không chối bỏ sự thực. Nhà thơ không được láo, nhà thơ phải thực nhưng thoát sáo sự thực thành mộng để đưa hồn tính người yêu thơ vươn lên sự thực muôn đời đạt đến chân lư cuộc sống. Thiên chức thi ca là ở chỗ đấy.
“Tôi xin nhắc, sự thực muôn oi đời là cơ sở duy nhất của thi ca. V́ có sự thực cho riêng một người, có sự thực cho riêng một thời, nhưng vẫn có sự thực cho muôn đời, sự thực bao quát không gian, thời gian, chân lư cuộc sống".
FB.
Lời nói này của thi bá Vũ Hoàng Chương ...văng vẳng đến ngàn thu...
[QUOTE=trungthu;38187 57]Lời nói này của thi bá Vũ Hoàng Chương ...văng vẳng đến ngàn thu...
Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng, vơ vẫn cùng mây.
:handshake:
Mời những ai muốn biết Thượng đế như thế nào và ta là ai từ đâu đến và sẽ đi về đâu.
zL0vj9ZoFn4
https://www.youtube.com/watch?v=zL0vj9ZoFn4
hoanglan22
01-16-2020, 15:05
Tôi đi Hà Nội một tháng, gặp một số chuyện “độc” chỉ có ở thủ đô, mang về làm quà kể cho bạn nghe. Kể từng chuyện nhé.
* Niềm tin & quốc tịch
Chồng chị là đảng viên. Chị cũng đảng viên, cả hai đều là đảng viên thứ gộc. Họ làm ăn rất tài và phất rất nhanh. Hết mua bán đất đến mua bán nhà, rồi mua bán chung cư, rồi đến chơi chứng khoán. Đầu tư quả nào trúng ngay quả đó.
Một hôm, chị nói với tôi rằng, “Chị vừa mua thêm căn hộ ở Singapore, em ạ.” Tôi rất ngạc nhiên khi nghe chị nói như thế. Trước đây, tôi có nghe kể rằng chị đă mua một ngôi nhà ở Australia và một ngôi nhà nữa ở Mỹ, bang Cali hẳn hoi. Nghĩa là cho con đi du học ở xứ nào th́ chị mua nhà cho chúng ở xứ đó. Trước để khỏi phải tốn tiền thuê nhà, khi học xong th́ cũng vừa trả xong tiền nợ, và giá trị căn nhà cũng tăng đủ để sinh lời. Tuy vậy, tôi hỏi thêm cho rơ, “Nhưng chị đă có nhà ở Úc và ở Mỹ rồi th́ mua thêm ở Sing làm ǵ?”
Chị b́nh thản chia sẻ thật với tôi, “Chị đầu tư mà em. Vả lại vốn vay tại Singapore cực rẻ. Chị sẽ chuyển toàn bộ tài sản ra nước ngoài luôn. Cái quy chế có chừng nửa triệu đô th́ được nhập tịch ở Canada rất thoáng, nhà chị đang lo. Như thế sẽ an toàn hơn. Ở ḿnh, giờ nh́n đâu cũng thấy bóng dáng thần chết. Từ thực phẩm cho đến xe cộ, sơ sảy chút là không toàn mạng. Thậm chí, tháng nào bọn chị cũng bay qua Singapore mua thực phẩm rồi đem về Hà Nội sử dụng dần dần. Mấy cái siêu thị ở đây cũng không thể tin được. Làm sao mà biết chắc rằng chúng không bán hàng đểu cho ḿnh. Ăn bậy vào nếu không ngộ độc th́ cũng ung thư.”
Chị lại khuyên, “Mấy đứa nhỏ ở nhà ráng lo cho chúng đi du học hết đi. Ngày xưa th́ hết tị nạn chính trị đến tị nạn kinh tế, c̣n bây giờ th́ phải kể thêm tị nạn giáo dục nữa. Mà thật ra th́ thời buổi này, ở cái đất nước này, mọi chuyện đều phải tính hết, không thể ù ĺ chờ nước tới chân mới nhảy. Em cố gắng mà chạy cho được thêm cái quốc tịch. Dù sao có hai cái quốc tịch vẫn hơn. Lỡ có chuyện ǵ... th́... bay hơn 1 tiếng đă đến Singapore.”
Trời ơi, cỡ làng nhàng dân ngu khu đen như tôi th́ làm sao mà… chạy thêm cái quốc tịch? Quốc tịch chứ có phải là mớ rau ế mua ở chợ chiều đâu mà dễ chạy vậy ta? Làm sao mà sống tiếp đây? Chẳng lẽ, cái xứ này đến hồi vận mạt rồi sao?
Tôi t́nh thật hỏi tiếp luôn, “Vậy anh chị nghĩ sao về cái vụ đảng viên của ḿnh chứ? Đảng viên mà c̣n tính như thế th́ dân đen như em phải làm sao? Niềm tin đặt vào chỗ nào đây?”
Chị đáp, “Chị có c̣n sinh hoạt đảng ǵ nữa đâu, có cái thẻ th́ giữ cho có để khỏi bị chúng hà hiếp. Ngó tới thêm nhục! C̣n ông ấy th́ phải giữ v́ c̣n phải làm việc trong bộ. Rồi cũng tới lúc phải vất thôi. Chị c̣n nghe thằng bé nhà chị ở Mỹ nó nói là, ở nước ngoài các chính phủ họ căng với đảng viên lắm. Thậm chí khi thi quốc tịch ở Mỹ nó c̣n hỏi người ta khai ra có phải là đảng viên Phát-xít và Cộng sản hay không, nếu có là phăng-teo luôn.”
Tôi thầm nghĩ, trời ơi, làm sao mà sống tiếp đây? Các đại gia, các nhà tư sản đỏ mới có điều kiện để trở thành người tiêu dùng thông thái, nhà đầu tư thông minh như thế. Ai ai cũng thủ thế và chuẩn bị bài chuồn để bảo toàn mạng sống và của cải. Thường thường bậc trung như ḿnh, nghĩ th́ cũng nghĩ tới đấy nhưng chẳng thể làm được. Thôi th́ có chết th́ chết chung với nhau, chết chùm cả nước, chứ có riêng ǵ ḿnh. Lỡ có chuyện ǵ th́ làm ơn… lỡ sớm sớm giùm một chút.
* Cái ǵ cũng “đéo”
Ngày nay hầu như ở Hà Nội người ta không c̣n, hay rất hiếm, nói từ “không”, mà thay bằng từ “đéo”. Ra phố th́ cái ǵ cũng “đéo”. Từ già cho tới trẻ, nam hay nữ ǵ cũng vậy, cũng nói “đéo” thay cho “không”. Thậm chí, có khi bạn c̣n nghe “đéo” trong các môi trường lẽ ra rất lành mạnh như nhà trường. Cái ǵ cũng “đéo”. Nghĩa là, “đéo có cái ǵ mà không đéo”. Giả dụ, ở sạp báo, bạn hỏi, “Ông ơi, có báo Nhân Dân không?” / “Đéo có Nhân Dân, chỉ có Hà Lội Mới thôi!”. Kinh!
* Thịt heo tự nuôi, cho nó lành!
Xem ti-vi, thấy một chị tre trẻ ở Hà Nội đặt họ hàng ở quê nuôi heo để ăn dần cho nó an toàn, bảo đảm là heo nuôi với nguồn thực phẩm tự nhiên, không có chất “tạo nạc”. Ai muốn ăn thịt heo th́ phải ghi tên trước 8 tháng. Nhà đài VTV tường thuật như thể chị chàng kia thông minh lắm, như muốn khuyến khích mọi người theo cái gương đấy. Ḿnh nghĩ, không chừng chắc rồi cũng tới cái lúc dân ta quay lại như thời bao cấp, cái thời nhà nhà nuôi heo, tự cung tự cấp, ủn ỉn ụt ịt trong mọi nhà, trên mọi hành lang chung cư, cho nó lành.
* “Sĩ”
Ra đây một thời gian ngắn tôi nhận ra được cái tính “sĩ” của dân thủ đô. Tôi gặp một số người cho rằng ḿnh là người Hà Nội chính gốc, có tổ tiên hằng bao nhiêu đời làm quan của triều nhà Hồ, nhà Lê. Những người này có niềm kiêu hănh về ḍng dơi của ḿnh, và họ khinh đám dân nhập cư từ Nghệ An, Thanh Hóa, hay các xứ khác đến sống ở Hà Nội ra mặt.
Nếu không khinh ra mặt được th́ họ cũng ngấm ngầm tự hào về cái khả năng không nói ngọng nghịu, lẫn lộn hai âm “nờ” và “lờ”, và tự hào về cái giọng thanh tao (nhưng tôi nghe th́ có khi chua lét) của họ, chứ không nặng ch́nh chịch và quê mùa của người nhập cư. Họ cho rằng như thế ḿnh mới là “sĩ”, là “kẻ sĩ”; nghĩa là, có thể nghèo, nhưng vẫn sang trọng, một cách nào đó, trong nhân cách thừa kế được từ ḍng dơi nhiều đời trước...
Calvin Nguyen
hoanglan22
01-17-2020, 15:30
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1516223&stc=1&d=1579274270
Chuyến bay từ Việt Nam vừa vào không phận Hoa Kỳ, qua khung cửa kính, Mận thấy cảnh sắc dưới xa trông không khác chi những bờ biển xinh đẹp, thân thương bên quê nhà – trước khi “nhà nước” cộng sản Việt Nam (c.s.V.N.) bán hoặc cho Trung cộng thuê đất để xây hãng xưởng và cao ốc.
Mận nghĩ rằng hãng xưởng của Trung cộng cao, to, đẹp và tình “hữu nghị” giữa Trung cộng với đảng c.s.V.N. được ví như 4 tốt 16 chữ vàng cho nên “nhà nước” c.s.V.N. không dám lấy cát dọc bờ biển, ngại làm sập những đồ án “hoành tráng” của Trung cộng thì tình “hữu nghị” giữa Trung cộng và c.s.V.N. cũng sập luôn; vì vậy “nhà nước” c.s.V.N. phải lấy cát trong lòng sông và dọc theo bờ sông.
Từ khi sông mất cát, nhiều nhà dân và “lộ đất” dọc theo bờ sông bị đổ sụp xuống sông thì danh từ “cát tặc” xuất hiện trong dân gian.
“Cát tặc” sống và làm việc trên những chiếc tàu nhỏ, chạy từng đàn, hút cát trong lòng sông hoặc dọc bờ sông rồi đem cát đổ lên chiếc tàu to “tổ chảng”. Sau khi đầy cát, chiếc tàu to “tổ chảng” chạy chầm chậm trong lòng sông, trước ánh mắt uất hận, dòng lệ oán hờn và sự nguyền rủa âm thầm của người dân!
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1516224&stc=1&d=1579274270
Mỗi khi thấy chiếc tàu to “tổ chảng” đó không thể nào bà Ngoại của Mận không “bức xúc” vì nhớ lại bản tin mà mấy “bà già trầu” ngoài chợ thường truyền miệng nhau: “ Ông Dương Văn Sổ, 83 tuổi, bà Sổ 79 tuổi, nhà cặp bờ sông Tiền, trên cồn Tân Bắc (cồn Dơi), ấp Tân Bắc, xă Tân Phú, huyện Châu Thành tỉnh Bến Tre… Từ hồi bị nạn “cát tặc” tới giờ... Ông bà chỉ c̣n một thẻo mỏng dánh vài mét kẹp giữa bờ bao trong, và ḷng sông”. (1)
Ngôi nhà tranh nhỏ xíu của Ngoại cũng “nằm kẹp” giữa “lộ đất” và bờ sông, không biết lúc nào sẽ “đổ ụp” vào lòng sông và không biết Mẹ con, Bà cháu của Ngoại có thoát chết được hay không! Nghĩ đến cảnh hãi hùng có thể xảy đến, Ngoại “chửi đổng”:
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1516225&stc=1&d=1579274270
-Mẹ bà nó, cái thứ phản phúc! Ngày xưa – còn mang danh Việt cộng – ăn không đủ no, áo không đủ mặc thì tụi nó “trốn chui trốn nhủi” trong rừng dừa nước, rừng tràm để tránh “đụng độ” với lính Cộng Hòa. Bây giờ, chiếm được miền Nam rồi, tụi nó lộ nguyên hình là bọn c.s.V.N. bóc lột, hết chiếm đất của dân, của nhà thờ, của chùa thì nay tụi nó lấy cát để bờ sông sụp, cho dân chết trôi – còn người Tàu và người c.s.V.N. thì sống phủ phê trong những dinh thự “hoành tráng”!
Chính những dinh thư “hoành tráng” này làm cho đảng và “nhà nước” c.s.V.N. lúc nào cũng cảm thấy “tự hào?”. Niềm tự hào “to đùng” này được Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng hãnh diện tuyên bố rằng: “Nh́n tổng quát, đất nước ta có bao giờ được thế này không?” còn người dân thì lúc nào cũng tìm mọi phương tiện để ra đi – nhất là đi sang xứ của “đế quốc Mỹ xâm lược”!
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1516226&stc=1&d=1579274270
Khi mới lớn, nghe Tý – anh của Mận – “học đòi” theo Việt Cộng cùng mấy thằng bạn chăn trâu, chăn bò trong xóm thường dùng “cụm từ” “đế quốc Mỹ xâm lược”, Mận không hiểu; vì ba anh em của Tý chỉ được học để biết đọc, biết viết và biết bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia mà thôi.
Một hôm, không hiểu từ đâu, vài chiến đỉnh của Hải Quân Cộng Hòa đến, ủi bãi gần nhà. Mận và nhóm bạn cùng lứa có vẻ lo sợ – vì thường nghe Tý và nhóm “đồng chí nhí” của Tý bảo rằng lính “Ngụy” ăn thịt người – vội núp sau mấy bụi chuối, len lén nhìn ra bờ sông. Khi thấy mấy ông lính “Ngụy” đem dầu ăn, đồ hộp và cơm sấy đến từng nhà, tặng, Mận không hiểu gì cả. Thấy Ngoại vừa cầm mấy lon đồ hộp, mấy bao cơm sấy vừa cười, Mận vội chạy đến, cầm mấy lon thức ăn giùm cho Ngoại.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1516227&stc=1&d=1579274270
Chưa kịp đem quà vào nhà, Mận nghe nhóm bạn reo vui “Mỹ cho kẹo. Mỹ cho kẹo”. Nhìn về phía nhóm bạn, Mận thấy một người đàn ông cao lớn, da trắng, tóc vàng, mắt xanh, không nói được tiếng Việt, đang lấy kẹo từ túi áo nhà binh tặng đám trẻ con trong khi mấy ông lính Cộng Hòa đứng cạnh, nhìn, cười. Mận vội vàng đem mấy lon đồ hộp và gạo sấy vào nhà rồi chạy nhanh đến nhóm bạn, chìa bàn tay về phía ông Mỹ.
Ông Mỹ đang tặng kẹo cho nhóm con gái thì không biết ai báo cho Tý và đám con trai ngoài ruộng; đám con trai chạy ào tới. Ông Mỹ lắc lắc hai bàn tay, tỏ dấu hết kẹo. Bất ngờ, một ông lính Cộng Hòa trên giang đỉnh – mà Tý, nhóm “đồng chí nhí” của Tý và trẻ em quanh xóm được Việt Cộng tuyên truyền rằng tàu của “Ngụy” làm bằng… giấy – gọi lớn: “Mike!” Ông Mỹ quay nhìn về hướng có tiếng gọi. Ông lính Cộng Hòa nói gì đó rồi ông Mỹ đi lui về chiến đỉnh, vừa cười vừa vẫy tay nhè nhẹ, vừa nói “bye bye” với nhóm trẻ em. Mận tự hỏi: “Sao ổng người Mỹ mà cũng tên ‘Mai’, ngộ ‘wá hén?”
Gần tối, sau khi Má và Lê – chị của Mận và là em của Tý – làm ruộng về, Ngoại nấu nước sôi, cho vào bịch cơm sấy, để một chốc rồi cả nhà khui mấy lon đồ hộp, ăn với cơm sấy. Đang ăn “ngon lành”, tự dưng Ngoại nói:
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1516228&stc=1&d=1579274270
-Đồ ăn của Mỹ “Ngụy” ngon như vầy mà sao tụi nó “hỏng” ăn, lại đem cho mình?
Mận cũng thắc mắc:
-Đồ ăn thơm, ngon thì đem cho rồi xẻ thịt moi gan người ta mà ăn!
-Bậy, mày! Ai ăn thịt người?
-Mỹ “Ngụy” chớ ai!
-Ai nói vậy?
-Anh Tý nói.
-Cái thằng Tý “cà chớn”, cứ nghe mấy thằng “khỉ đột” nói tầm bậy tầm bạ không hà!
-Mấy thằng “khỉ đột” là mấy thằng nào, Ngoại?
-Thì mấy thằng mà Ba mày biểu Má mày giấu dưới hầm, ngoài vườn, mày thường đem cơm nước cho tụi nó mỗi chiều đó chứ ai!
-Con hỏng thích mấy người đó đâu, Ngoại! Người gì mà hôi rình, thúi “wắc”, ốm nhom ốm nhách, mặt mày thấy…ghê! Răng vẫu, má lồi, mắt lúc nào cũng láu liêng như mấy con chuột chù, ai mà ăn thịt cho được, Trời!
-Mày nói vậy rủi Ba mày nghe được là mày chết đó, mày!
-Bộ Ba con dám giết con sao, Ngoại?
-Từ ngày Ba mày đi theo “cái đám ôn dịch đó”, Ba mày dám làm mọi chuyện tàn ác, khủng khiếp mà “người mình” “hỏng” dám làm đó, mày!
-Sao Ba ác quá vậy?
-Ờ, thì đám Việt cộng làm cho Ba mày lú rồi, chỉ biết nghe theo thứ ác ôn đó tôn thờ ông Hồ Chí Minh để giết càng nhiều người thì công lao càng lớn.
-Sao Ngoại với Má “hỏng” biểu Ba trở về, đừng theo Việt cộng nữa?
-“Giỡn”, mày! Việt cộng mà, ai theo tụi nó rồi mà bỏ tụi nó là tụi nó “làm thịt” cả nhà chứ tụi nó “hỏng” giết “mình ên” người đó đâu!
Má lên tiếng:
-Má nói với nó mấy chuyện đó chi vậy? Nó còn con nít con nôi…
Ngoại cắt lời Má:
-Nó còn con nít thì cũng phải nói cho nó biết để nó tránh xa “cái lũ giết người không gớm tay”. Chồng mày đi biệt tăm. Lâu lâu nó lẻn về thì cái bụng của mày “chần dần”. Đã vậy nó còn bắt mày chứa thêm mấy “thằng ông nội” dưới hầm để ban đêm mấy thằng này đi khủng bố, đào đường, đặt mìn, ám sát người lương thiện chứ tụi nó có làm ra đồng “xu teng” nào để góp tiền chợ với mày đâu! Thằng Tý với con Lê cũng bắt đầu theo Cha tụi nó, thấy lính Cộng Hòa, hai đứa nó kêu người ta là “Ngụy”.
“Ngụy” là gì, Mận cũng chẳng hiểu được. Nhưng mỗi khi thấy mấy chiếc “tàu bằng giấy” – giang đỉnh – của “Ngụy” chạy trên sông, Mận cùng nhóm con gái đang chơi “u-mọi” cũng ngừng chơi, đưa tay vẫy vẫy, miệng cười “toe toét”. Đôi khi mấy chiếc “tàu bằng giấy” ủi bãi gần cầu gỗ; nhiều khi họ đi luôn!
Sau “cái ngày ôn dịch” – tiếng của Ngoại ám chỉ ngày c.s.V.N. cưỡng chiếm miền Nam rồi đám “khỉ đột” sau vườn chui ra khỏi hầm, nhảy “cà tưng” – thì mấy chiếc “tàu bằng giấy” đó đi luôn, không bao giờ trở lại!
Trong khi Mận cảm thấy buồn buồn vì sự thiếu vắng của mấy chiếc “tàu bằng giấy” thì Ba trở về trong sự ghẻ lạnh của Ngoại nhưng lại là niềm vui của Má, Tý, Lê và Mận.
Gia đình sum vầy chưa được bao lâu thì bỗng dưng một bà chít khăn mõ quạ, nói giọng Bắc “lơ lớ” như người Nùng, đến nhà, xỉa xói vào mặt Ba:
-Tưởng trốn được khỏi tay bà à! Mày lấy được bà là nhờ ơn bác Hồ đã tạo điều kiện cho mày vào đảng c.s.V.N.; rồi sau đó đảng kết hợp mày với “cán bộ gái” ưu tú – là bà đây này! Mày lấy bà có mấy đứa con, đảng và “nhà nước” chứng giám. Bây giờ mày trốn hả? Mày chạy đằng “Giời”!
Biết đây là hậu quả của một “công tử miền Tây giả hiệu”, trong thời gian sống ngoài Bắc, thường khoe ẩu là gia đình có ruộng vườn “cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi”, Ba năn nỉ bà “khăn mỏ quạ”:
-Cái gì cũng từ từ tôi mới giải quyết được. Vô đây! Vô đây, nói chuyện đàng hoàng để làng xóm khỏi cười.
-Cười “hở mười cái răng”! Bà “bức xúc” lắm rồi, chỉ muốn biết mày giải quyết “sự cố” này như thế “lào”?
Giữa khi Má và Ngoại chưa biết phải phản ứng như thế nào, Ba đáp lời bà “khăn mõ quạ”:
-Từ từ tôi sẽ năn nỉ Má thằng Tý chia cho miếng đất, bán lấy tiền làm ăn, nuôi con.
Má ôm mặt, khóc. Ngoại vùng đứng lên, ngón tay trỏ chỉ vào Ba, tay kia chống vào mạn sườn:
-Nè, nè, đất này là đất từ đường, hương hỏa của dòng họ nhà tôi để lại cho tôi. Mấy người ngang ngược vừa phải thôi, nhen! Tưởng chiếm được “Sè-goòn” là chiếm được ruộng vườn của tôi luôn hả? Tôi thề thí cái mạn già này chứ không bao giờ để mất đất đâu, nghe chưa?
-Con lạy Má! Má giúp con; nếu không, nó về Bắc, lôi cả dòng họ nhà nó vào đây thì… con chết, Má ơi!
-Cậu đi theo cái đảng c.s.V.N. “mắc dịch”, bỏ vợ bỏ con của cậu bao nhiêu năm nay; bây giờ biểu cái đảng đó nó giúp cậu!
-Từ từ, khi nào có tiền để “bôi trơn” hồ sơ, con sẽ làm đơn xin cấp trên tuyên dương công trạng của Má. Má là “mẹ liệt sĩ”; vì Má đã che chở, nuôi nấng mấy cán bộ trong hầm suốt nhiều năm. Nhờ Má góp công góp sức cho nên “đất nước ta” mới “thống nhất” được đó, Má!
-“Thống nhất” để làm gì khi mà thiên hạ liều chết, bỏ xứ sở, bỏ tài sản để vượt biên, vượt biển “rần rần” vậy, hả? Người ta đã mất tất cả để xa lánh bọn c.s.V.N.; vậy mà bọn c.s.V.N. còn “theo” qua tuốt bên Thái Lan, Mã Lai, v.v… đập phá mấy tượng đài ghi lại lịch sử thuyền nhân của người ta là sao, hả?
Mọi người im lặng, chỉ nghe tiếng “thút thít” của Má. Bất ngờ Mận thấy Ba ra dấu cho bà “khăn mỏ quạ” rồi hai người đi đâu “mất tiêu”!
Tối đó, Ngoại và Má vẫn ủ rũ, mỗi người ngồi một góc. Tý, Lê và Mận cũng buồn quá, nhịn đói, nằm “ngủ đại” trên nền nhà…
…Dòng ký ức đau buồn của tuổi thơ vừa đến đây, Mận chợt nghe giọng nhỏ nhẹ của tiếp viên phi hành người Mỹ:
- Cô! Cô muốn dùng loại giải khát nào ạ?
Sau buổi chiều Ba và bà “khăn mỏ quạ” đi “mất tiêu”, không hiểu tại sao bà “khăn mỏ quạ” bị chết, xác trôi sông; Ba bị bắt ở tù! Gia đình đã nghèo, nay càng cơ cực hơn; vì Má phải nuôi Ba trong tù. Ngoại đành cầm thế mảnh đất, lấy tiền “bôi trơn” cho hồ sơ xuất khẩu lao động của Tý. Tý được sang Nhật làm lao công, buôn lậu cần sa. Có tiền, Tý gửi về cho Ngoại chuộc lại miếng đất; và cho Má, khuyên Má cho Lê và Mận qua Rạch Giá sống, ban ngày làm công nhân trong xưởng, ban đêm học Anh văn để sau này dễ tìm sinh kế.
Nhờ vậy, Lê quen và thành hôn với ông Việt kiều. Mận – ngoài việc học Anh Văn – lại cảm thấy thích đọc sách báo và nghe “đài nước ngoài” để vun bồi cho số kiến thức quá kém cõi của nàng. Mận đáp bằng tiếng Anh:
- Làm ơn cho tôi một ly nước cam.
Vừa uống nước cam, vừa nhìn qua khung cửa sổ, Mận tự hỏi, đất đai của nước Mỹ còn thừa biết “cơ man nào mà kể”; vậy mà Mỹ không cho Trung cộng thuê hoặc “bán bớt” cho Trung cộng – giống như đảng và “nhà nước” c.s.V.N. đã và đang thực hiện – lấy tiền “xài cho đă”? Mỹ ngu thiệt!
Bất chợt Mận tự hỏi: Ủa, nếu “Mỹ ngu như dzậy” thì tại sao dân tộc nào – kể cả kẻ “thắng” Mỹ, như người c.s.V.N. thường huênh hoang “tự sướng” – cũng đi học Anh văn và đều muốn qua Mỹ sống; hoặc “chí ít” cũng tìm cách gửi con cháu sang Mỹ học “cái ngu của Mỹ”?
Bằng cớ c.s.V.N. đã cho người sang Mỹ học “cái ngu của Mỹ” là: Theo đài VOA, phát thanh ngày 03 tháng 06 năm 2019, phi công đầu tiên – giấu tên – của Không Quân c.s.V.N. theo học chương trình của Không Lực Hoa Kỳ hơn 02 năm; nhưng vì bị trở ngại về Anh ngữ cho nên không được tốt nghiệp. Người thứ hai là thượng úy Đặng Đức Toại đang tu nghiệp tại Căn Cứ Không Quân Columbus, Mississippi. Người thứ ba là trung úy Doãn Văn Cảnh, hiện đang theo học Chương Trình Lãnh Đạo Hàng Không.
Hôm nghe phần phát thanh của đài VOA về chàng phi công của c.s.V.N. không được tốt nghiệp sau hơn 02 năm tu nghiệp tại Mỹ, Mận tự hỏi: Tại sao c.s.V.N. lại ngu, không chịu “bôi trơn” hoặc lo thủ tục “đầu tiên” để ban giám khảo của Không Quân Hoa Kỳ “nâng điểm” – như thầy cô bên Việt Nam thường “nâng điểm” cho học trò và sinh viên Việt Nam – để anh phi công đó được tốt nghiệp? Tốt nghiệp từ chương trình của Không Quân Mỹ danh giá lắm chớ “giỡn” sao mà hà tiện! Ngu!
Khi phi cơ ở vào cao độ vừa phải, Mận thấy nhà cửa san sát – dường như “nhà liền đất?” nhiều hơn “nhà liền kề?” – nhưng không sơn phết màu mè rực rỡ, chói lọi như nhà bên Việt Nam. Bên Việt Nam, đi vào các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Dalat, Nha Trang, Saigon, v.v… thì sẽ thấy những dinh thự, những mộ phần màu sắc rực rỡ, trông nham nhở không thua gì gương mặt “bự” son phấn của mấy cô gái làm trong các tiệm “cà phê mùng”, “bia ôm” và mấy “em chân dài”!
Thấy xe chạy “vèo vèo” trên xa lộ cả tiếng đồng hồ mà không phải dừng lại để trả tiền, Mận ngạc nhiên, hỏi Lê:
-Sao không có trạm thu tiền nào hết vậy, chị?
-Thu tiền gì?
-Tiền xử dụng “đường cao tốc”.
-Chỉ một vài xa lộ thu tiền thôi; nhưng dọc hai bên xa lộ đó – cũng như dọc hai bên các xa lộ không thu tiền – đều có đường cho người nào không muốn lái trên xa lộ thì lái trên đường đó.
-Xa lộ là cái gì?
-Freeway, “đường cao tốc”.
Vì có người anh rể và đứa cháu ngồi trong xe, Mận không dám nói ra nhưng lại thầm nghĩ: “Đường cao tốc” như mạng lưới, đã không thu tiền như BOT ở Việt Nam mà còn làm thêm hai đường song song cho người nào không muốn lái trên xa lộ được xử dụng, đúng là Mỹ ngu thiệt!
Nghĩ rằng Mận đi đường xa, mệt, ít muốn nói chuyện, Lê gợi chuyện tiếp:
-Nghỉ ngơi vài ngày rồi tập lái xe, đi học làm “móng” (tay), kiếm tiền, đặng còn lo đường chồng con chớ ở vậy hoài sao, Mận?
Sau “cái ngày ôn dịch” được mấy năm, Mận “trổ mả” thành một thiếu nữ hiền thục, xinh xắn, làm cho vài anh công an, bộ đội cụ Hồ và một anh cựu Nghĩa Quân – hồi xưa đóng trong đồn gần ngã ba sông Cái Lớn – “phải lòng”. Ai trong xóm cũng nhận thấy Mận có nhiều cảm tình với anh Nghĩa Quân. Rồi Mận và anh Nghĩa Quân yêu nhau. Mỗi chiều “hai đứa” thường hẹn hò, đi chầm chậm dọc bờ sông. Rồi, rất bất ngờ, tin anh Nghĩa Quân bị “công an nhân dân” bắt giam về tội phản động, cấu kết cùng “thế lực thù địch” với ý đồ lật đổ “nhà nước” được công an “tung” ra. Trong khi gia đình anh cựu Nghĩa Quân và Mận chưa biết phải khiếu nại nơi nào để cứu anh thì lại nhận được tin anh Nghĩa Quân đã “tự tử ?” chết trong tù!
Nỗi đau thương còn đọng mãi trong trái tim vụn vỡ và cũng vì thương Má một đời cơ cực và thương Ngoại tuổi già quạnh hiu, Mận không muốn lập gia đình. Mận đáp:
-Thôi, em ở vậy, ráng đi làm kiếm tiền giúp Má, giúp Ngoại; khi nào Ngoại “về với Ông Bà” rồi tính.
-Hồi đó tao nói Má làm hồ sơ gửi qua để tao bảo lãnh Má và Ngoại luôn mà Má không chịu làm.
Mận nhớ, năm đó, sau khi nói chuyện điện thoại với Lê, Má hỏi ý kiến Ngoại. Ngoại bảo Ngoại “hỏng” đi đâu hết. Ngoại “bám trụ” ở đây để khi “về với Ông Bà” Ngoại sẽ được chôn trong mảnh đất của Ông Bà Tổ Tiên. Ngoại không như ông Hồ Chí Minh và người c.s.V.N., đưa cả mấy triệu dân Việt Nam vào chỗ chết chỉ để đánh Mỹ “kíu” nước. Mỹ đi, mang theo những người đã làm việc cho Mỹ, vợ và con lai của Mỹ. Còn Trung cộng, để rồi coi, Trung cộng lấy vợ Việt Nam, sinh con đẻ cái ở đây, cũng giống như Việt cộng hồi xưa – trước khi tập kết ra Bắc – “cấy” lại miền Nam biết bao nhiêu “hạt giống đỏ” để phá hoại miền Nam. Sau này Trung cộng cũng làm “y chang” như vậy. Nếu bây giờ người Việt trong nước cứ “im re”, vì nghe c.s.V.N. chối “bai bải” là “hỏng” có chuyện bán hoặc cho Trung cộng thuê đất. Tới một ngày nào đó người mình “sáng mắt” ra thì sẽ có trận Thiên An Môn ngay trên đất nước Việt Nam cho mà coi!
Mận ngạc nhiên, hỏi: Sao Ngoại biết mấy chuyện đó, tài vậy? Ngoại bảo Ngoại không biết đọc mà Ngoại biết nghe. Mấy “bà già trầu” buôn bán ngoài chợ “chồm hỗm”, tối hôm trước con cháu lén nghe “đài nước ngoài”, bàn tán sao đó, ngày hôm sau – lúc xế trưa, ế hàng – mấy bả bàn tán, nói cho nhau nghe; vậy là Ngoại nghe rồi Ngoại “để bụng”. Ngoại không chịu rời nơi “chôn nhau, cắt rún” thì làm sao Má đành lòng bỏ Ngoại mà đi!
Thấy Mận như đang chìm vào vùng ký ức nào đó, Lê lại gợi chuyện:
-Mận! Về nhà nhớ tập nói tiếng Anh với cháu Andy cho quen, nha!
Nhớ ngày trước Lê cho Ngoại và Má biết Andy bị tật bẩm sinh, Mận xoay sang hỏi nhỏ Lê:
-Cháu có thay đổi gì được không, chị?
-Nó sinh ra như vậy thì chịu thôi!
-Nếu vậy thì làm sao cháu đi học được mà chị biểu em tập nói tiếng Anh với nó?
Chồng của Lê giải thích:
-Ở đây, tùy theo mứt độ khuyết tật, có các lớp riêng cho học trò tiểu học và trung học; lên đại học thì – tùy tiểu bang – nhà trường sẽ có một chuyên viên vào lớp, vừa nghe giáo sư giảng bài vừa đánh máy vào computer; sau đó in bài giảng rồi trao cho sinh viên khuyết tật.
-Trời đất! Một đất nước mà lo cho dân đến như vậy thì… “hết biết”!
Im lặng một chốc, Mận chợt nhớ, vội hỏi Lê:
-Có phải con chị bị ảnh hưởng chất độc da cam không, chị?
-Bậy, mày!
-Bên Việt Nam, đứa bé nào ra đời mà “có vấn đề” đều bị c.s.V.N. đổ thừa là ảnh hưởng chất độc da cam của Mỹ.
-C.s.V.N. muốn “níu áo” Mỹ, đòi bồi thường chiến tranh đó mà. Còn lâu! Khi hai bên “wuýnh” nhau thì tận dụng mọi phương tiện. C.s.V.N. áp dụng chiến thuật biển người – một chiến thuật man rợ, vô nhân đạo nhất của loài người, do c.s.V.N. học của Trung cộng từ thời Điện Biên Phủ – thì Mỹ rải chất da cam để quân của cụ Hồ không có nơi ẩn nấp. “Kẻ chín lạng, người mười phân” chứ c.s.V.N. có nhân từ gì đâu!
Là một người ít nói, nghe Lê và Mận đối đáp, chồng của Lê mỉa mai một cách cay đắng:
-Theo anh, chất độc da cam đã ảnh hưởng đến những người c.s.V.N. có “sáng kiến” cũng như có “công lao” vẽ bức tranh Đạo Pháp và dân tộc được trưng bày vào ngày Lễ Phật Đản năm 2019 tại Học Viện Phật Giáo Việt Nam, tọa lạc tại Sóc Sơn, Hà Nội mà thôi! (2)
Lê ngạc nhiên:
-Sao kỳ vậy?
-Đạo lý của người Việt Nam là thờ kính Ông Bà Cha Mẹ. Từ ngày ông Hồ Chí Minh xuống tàu làm bồi cho Tây rồi du nhập vào Việt Nam chủ thuyết cộng sản để giết người Việt thì đảng c.s.V.N. “tôn” ông Hồ là “Bác”. Sau đó, thấy dân không phản đối, c.s.V.N. “thăng chức” cho ông Hồ Chí Minh lên làm “Cha già dân tộc”. Bây giờ đảng và người c.s.V.N. – những kẻ có tư tưởng bệnh hoạn, tâm trí rối loạn, mất nhân tính và khối óc đen thui như bùn – vì bị chất độc da cam hủy hoại não bộ cho nên mới dám đặt hình của tên đồ tể khát máu Hồ Chí Minh ngang hàng với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni! Đây là sự xúc phạm Phật giáo không thể tha thứ được!
Nghe anh rể phân tích, Mận buồn quá, than thầm: Đất nước Việt Nam, trên nguồn thì Trung cộng xây đập, ngăn sông Dương Tử, “thắt họng” vựa lúa miền Nam; cao nguyên thì Trung cộng khai thác “bauxite”; ngoài biển thì Trung cộng chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, xây đảo nhân tạo và cho quân đội giả ngư dân trên những chiếc thuyền đánh cá được trang bị vũ khí để đuổi, bắn, đâm chìm ghe của ngư dân Việt Nam; bờ biển thì Trung cộng xây cao ốc, cơ xưởng, thải chất độc hủy hoại môi trường, làm cá chết “biết cơ man nào mà kể”; đất liền thì công an và quân đội nhân dân “giải phóng mặt bằng”; lòng sông và bờ sông thì “cát tặc”(3) hoành hành!
Còn chỗ nào trên Quê Hương cho người Việt Nam sống hay không, Trời!!!
Điệp Mỹ Linh
Chú thích:
1.- An Nhiên, RFA
2.- Gió Bấc, RFA.
3.- Những chữ trong ngoặc kép “…” đa số là tiếng của c.s.V.N.; số còn lại là thổ ngữ của người địa phương.
hoanglan22
01-17-2020, 21:09
Mấy hôm nay, Bà Năm mất cả ăn, cả ngủ v́ chỉ c̣n 1 ngày nữa thôi, sáng mai là Bà lên máy bay sang Mỹ đoàn tụ gia đ́nh, sống với đứa con gái lớn đă sang sinh sống ở Mỹ dễ chừng hơn 2 chục năm rồi. Lâu lâu nó vẫn gửi thư cho Bà và gửi tiền nữa. Với số tiền 5, 6 trăm đôla mỗi lần nó gửi về, đem đổi ra tiền Việt Nam hơn chục triệu lận. Bà ngồi mà ăn, cúng vô chỗ này, chỗ nọ để lo cho kẻ nghèo khổ, giúp đỡ bà con, cḥm xóm, kẻ nhiều người ít, cũng không cách nào cho hết. Bà già rồi, sống với đứa con gái út, hàng ngày chỉ có việc ăn 2, 3 bữa rồi đi đây, đi đó, thăm bà con, bè bạn. Về nhà th́ mở tivi, coi băng video cải lương, phim hài, phim chưởng… đủ thứ trên đời. Cuộc sống của Bà nghĩ thật sung sướng. Bao nhiêu người già cả ở quanh cái chợ Bà Chiểu, quận B́nh Thạnh nơi đất Sài G̣n này, ước mơ có được một phần cuộc sống của Bà mà đâu có được. Họ phải đầu tắt, mặt tối, chạy xuôi chạy ngược, buôn bán tảo tần nơi lề đường, hè phố, bị công an rượt đuổi chạy có cờ… để kiếm miếng ăn cho no cái bụng thôi mà cũng không nổi.
Bà Năm có đứa con gái vượt biển rồi đi Mỹ mà cuộc đời sướng như thế đó. Người ta bảo “Bà Năm ăn ở phúc đức lắm mới được đứa con gái như thế. Chớ biết bao nhiêu người, sinh con đẻ cái, gái trai cả bầy mà có làm nên cơm cháo ǵ đâu”.
Cuộc đời của Bà quả là sướng như tiên ở Sài G̣n rồi c̣n chi nữa. Bảo đứa con gái út viết thư cho chị nó, Bà cứ bảo nó viết cái tên Sài G̣n, vừa quen, vừa gọn, vừa dễ nghe, chớ đâu lại có cái tên dài ḷng tḥng…Thành Phố Hồ Chí Minh, nghe mệt thấy mồ.
Mỗi khi nhận được thư của đứa con gái từ Mỹ gửi về Sài G̣n cho Bà, có lúc kèm theo vài tấm ảnh… theo thói quen từ hồi có… “loại thư Việt Kiều gửi về quê”, Bà lại dúi vào tay người đưa thư mấy ngàn bạc cho người ta vui vẻ, lương tiền nhà nước làm chi đủ sống. Chu cha! Đất Mỹ đẹp quá trời! Con Nguyệt, con gái Bà, nói nó ở thành phố San Diego, tiểu bang Ca-li, một thành phố đẹp lắm. Coi những tấm ảnh, Bà thấy thành phố San Diego quả là đẹp thật. Nhà cửa, đồ đạc, xe cộ của con gái Bà sao mà đẹp chi lạ! Hai đứa con trai của nó trong ảnh c̣n đẹp hơn cả mấy đứa trẻ trong những bức tranh Tầu ôm quả đào tiên nữa lận. Con Nguyệt nó bảo làm thủ tục bảo lănh cho Bà sang Mỹ ở với nó. Nó bảo Bà già rồi, sang Mỹ khỏi có phải làm ăn chi hết, rồi ít lâu sau thành dân Mỹ, lại có tiền chính phủ nuôi, chỉ ở nhà chơi với cháu thôi. Bà muốn coi cải lương hả? Băng Video phim Việt Nam, phim Tầu, phim chưởng Hồng Kông nhiều vô số kể. Chẳng thiếu thứ ǵ. Nó mua, nó thuê về nhà cả thùng lận. Bà tha hồ mà coi. Bà muốn đi Chùa hả? Nó lái xe Mỹ, xe Nhật êm ru bà rù, chở Bà đi đây, đi đó, chỉ nháy mắt là tới nơi, chớ đâu có phải đi bộ mỏi cả gị, đổ mồ hôi hột hay đi xích lô chạy loạng quà loạng quạng, cứ như muốn ủi vào xe lam, xe đạp, xe Honda, ô tô con, ô tô mẹ, chạy tưới hạt sen, lộn xộn xà ngầu… kinh khủng, muốn chết quá!
Mấy năm trước, khi Ông Cụ c̣n sống mà ai nói tới chuyện kéo Ông đi Mỹ sống với con gái là Ông chửi toáng cả lên: “Không có đi đâu cả! Ở quê nhà với bà con, cḥm xóm bạn bè, mồ mả Tổ Tiên không sướng hơn hay sao? Tiền bạc nó gửi về, ngồi mà ăn đến chết cũng không hết. Già cả rồi, sang đó làm nên cái giống chi mà làm?”
Thế nhưng từ ngày Ông Cụ mất đi, Bà Cụ thấy buồn buồn làm sao ấy. Thiếu người bầu bạn. Đôi khi có cằn nhằn gấu ó với nhau về cái chuyện “Đi hay ở” thật đấy, nhưng lúc này Bà Năm mới cảm thấy cô đơn, cô đơn thưc sự. Người già có cái t́nh yêu thương cũng như nỗi cô đơn của người già. Thế là càng ngày Bà càng cảm thấy cần phải đi Mỹ để sống với đứa con gái mà Bà từng mang nặng, đẻ đau, rồi c̣n gian nan về những phen chạy giặc, chiến tranh nữa chớ. Bà phải đi Mỹ để sống với hai đứa cháu ngoại trong ảnh thật dễ thương. Lắm lúc Bà ngồi một ḿnh mà nước mắt rưng rưng, Bà thương đứa con gái hiếu thảo và hai đứa cháu ngoại quá chừng chừng…
Sáng nay, Bà gọi con Lan, đứa con gái út, dậy thật sớm để kịp ra phi trường Tân Sơn Nhất. Máy bay cất cánh lúc 7 giờ sáng nhưng xe đón từ lúc 5 giờ. Bà Năm có 2 đứa con gái, con Nguyệt là lớn, vượt biển đi Mỹ đă hơn 2 chục năm. Con Lan là thứ nh́ mà cũng là út, lúc ấy c̣n bé tí ti. Bây giờ con Lan lớn tướng rồi, đă vào Đại Học và theo mấy khoá tiếng Anh.Chị nó bảo “Sang Mỹ, con Lan sẽ vào Đại Học, tha hồ mà học.” Con Lan đang ở cái tuổi mới lớn, nó c̣n thích đi Mỹ hơn cả bà Năm nữa, tuy rằng đi Mỹ th́ nó phải xa vô số bạn bè, thân thiết, đă từng gắn bó với nhau trong những tháng ngày khốn khổ, gian nan, kinh hoàng nữa chớ. Nó nghĩ lại mới ngày nào đó, vậy mà Chị nó đi Mỹ cũng đă hơn 2 chục năm, mau dễ sợ! Nó tính trong đầu: sang Mỹ chịu khó mất 4 năm th́ cũng lấy xong cái B.S. hay B.A. chi đó như Chị nó nói. Học thêm vài năm cũng lấy được cái bằng Master cho nó hách, rồi đi làm. Thế là sẽ có vô số tiền. Nó sẽ đáp máy bay từ Mỹ về Sài G̣n. Lúc đó là đi thẳng cái một, khỏi có… quá cảnh xứ này, nước nọ lôi thôi. Bạn bè của nó kéo cả băng, cả đoàn đi đón. Vui ơi là vui! Nó sẽ cho tiền những đứa bạn nào nghèo khó, chồng con vất vả đầu hôm sớm mai. Nó sẽ lôi hết bạn bè cũ cùng học lớp 12 với nó ở Sài G̣n, thuê vài cái xe đi chơi khắp mọi chỗ kêu bằng… danh lam, thắng cảnh, quay video, chụp ảnh, đi ăn nhà hàng chết bỏ… cho bơ ghét những ngày… con nít chẳng dám đi đâu hay làm cái ǵ…
Có tiếng xe pin! pin! ở ngoài cổng. Người ta tới đón mẹ con Bà Năm ra phi trường. Bà con, bạn bè lối xóm bu lại, nước mắt ngắn dài, kẻ ở người đi… Ôí! Cảnh biệt ly sao mà buồn thế! Mẹ con Bà Năm với mấy cái va-li bự chảng, hai cái xách tay nho nhỏ đă lên xe. Một số bà con thân thiết cũng leo lên xe để tiễn mẹ con bà Năm tới tận phi trường. Một số bà con ở lại, vẫy tay từ biệt khi cái xe 12 chỗ ngồi đă từ từ lăn bánh.
Bà Năm cố nh́n lại cái xóm cũ đă gắn bó, sống chết với Bà từ bao nhiêu năm nay. Những dẫy nhà hai bên đường phố chạy thụt lui lại phiá sau cùng những bóng cây, cột đèn, thân thương quá đỗi. Vài chiếc xích-lô đưa khách sớm, dăm cái xe đạp, vài chiếc Honda rồ máy chạy ào ào… Tự nhiên Bà Năm thấy nhớ, thấy thương Sài G̣n quá đi mất thôi. Vậy mà Bà nỡ bỏ nó để đi xa, chẳng biết bao giờ mới trở lại nơi này.
Bác tài xế bấm c̣i pin! pin! khi tới chỗ ngă tư đông người lộn xộn làm con Lan giật ḿnh khi c̣n đang ngủ gà, ngủ gật v́ sáng nay nó phải dậy sớm. Xe qua cổng phi trường, ṿng qua ṿng lại rồi đậu phiá trước một ngôi nhà đông nghẹt những người.
Hai mẹ con Bà Năm đă lọt vào trong căn pḥng “cách ly” để lạï bên ngoài số bà con, bạn bè thân thiết với bao nhiêu nỗi niềm thương nhớ đến độ xót xa. Thoát được cái cảnh lo sợ bị rạch túi, mất giấy tờ, tiền bạc như thiên hạ vẫn đồn đại, Bà Năm thấy an tâm đỡ khổ. Bà Năm đă già, lẩm cẩm, may mà có con Lan đi theo chớ không dám chết quá. Bà có biết trời trăng, mây nước ǵ đâu. Hết nạp giấy tờ, kêu tên, rồi nạp tiền đủ thứ linh tinh. Đến chỗ mấy ông, mấy bà công an áo vàng, cầu vai đỏ choé, bà hơi run khi thấy họ lục xét, bới tung đồ đạc của mấy người đi trước. Con Lan hích hích cùi chỏ rồi tḥ tay bấm Bà “Má để con!” Con nhỏ này nó học ở đâu mà bữa nay nó lanh… như quạ, dấm dúi tiền bạc cho đám công an bằng những cái phong b́ “có nhân” ở bên trong. Kẹt quá, nó dúi đại cả mớ tiền Hồ vào tay bọn công an tỉnh bơ, chẳng c̣n coi ai ra ǵ cả. Công việc đi qua nhanh như gió. Cuối cùng một lăo công an, mặt lạnh như tiền, hất hàm hỏi “Bà và Cô có đem theo đôla không?” – “Thưa không!” – “Thế c̣n giữ tiền Việt Nam không?” Con Lan lại hích hích cái cùi chỏ vào ba sườn Mẹ nó. Bà Năm lôi trong người ra cái phong b́ to bự đựng mớ tiền Hồ c̣n lại, đưa cho lăo công an, miệng líu ríu “C̣n lại mấy trăm ngàn, xin biếu… đồng chí uống cà phê.” Lăo công an ph́ cười khi nhét cái phong b́ vào ngăn kéo bàn gần đó nhanh như người ta làm xiệc. Lăo ta cười chắc là v́ lăo ta có đồng chí đồng choé ǵ với Bà Năm bao giờ đâu…
Hành khách lên xe, ra chỗ máy bay đậu. Ngồi trong máy bay rồi, con Lan buộc dây lưng an toàn cho Mẹ. Sau một hồi gầm gừ, lắc lư, chiếc máy bay Hàng Không Việt Nam từ từ cất cánh. Bà Năm nhăn mặt v́ khó chịu, nôn nao trong người. Ngồi cạnh cửa kính máy bay, Bà Năm thấy phố xá, đồng ruộng quanh vùng Sài G̣n lu mờ, xa dần rồi mất hẳn. Chung quanh chỉ c̣n là mây trắng xoá, mịt mờ…
Nỗi buồn xa xứ ở đâu tự nhiên kéo đến. Hai hàng nước mắt chạy quanh. Con Lan giương tṛn đôi mắt nh́n Mẹ nhưng chắc là nó không làm sao hiểu nổi. Máy bay dừng lại ở Thái Lan để chuyển sang máy bay quốc tế, nghe nói bự lắm. Con Lan lúc này lanh lẹ, dễ thương vô cùng. Nó thương Mẹ nó. Nó lo cho Bà đủ chuyện trong chuyến đi nửa ṿng trái đất đầu tiên và chắc cũng là cuối cùng của đời Bà. Mới ăn có một bữa trên máy bay với một bữa ở khách sạn để chờ chuyển máy bay mà Bà Năm đă thấy nhớ món cá lóc nấu canh chua, cá nục kho khô, nhất là điă giá sống… Con Lan cứ ăn tỉnh bơ, ào ào hết sạch. Con gái 17 bẻ gẫy sừng ḅ c̣n được, huống hồ năm nay nó đă lớn tướng, dư sức lấy chồng được rồi. Bà lẩm cẩm lo nghĩ vẩn vơ “Nếu cứ ăn uống hoài kiểu này chắc chết quá!” Mà không, con gái Bà nó bảo ở bên Mỹ đồ ăn không thiếu cái chi cả. Chợ Mỹ, Chợ Tầu, chợ Việt Nam có đủ hết. Tha hồ mà làm… bún ḅ gị heo, bún cá, phở, ḿ, bánh canh, bánh xèo, chả gị, bánh cuốn… Tự nhiên Bà Năm lại thấy… lên tinh thần.
Người ta hướng dẫn Mẹ con Bà Năm lên cái máy bay to chi lạ. Nghe nói nó chở cả mấy trăm con người và vô số đồ đạc, va-li, thùng, xách, linh tinh. Dễ sợ thật! Bà thấy hành khách đông vô số kể, ngồi trông tưà tưạ như cái rạp cải lương ở gần Chợ Bà Chiểu thân quen của Bà. Mấy cái màn ảnh chiếu phim cả ngày cả đêm, hoạ hoằn mới cho chúng nó… giải lao nghỉ xả hơi một lúc. Cứ độ 2 tiếng đồng hồ, mấy cô tiếp viên lại đẩy cái xe đi quanh, dọn ăn, dọn uống cho khách. Bà nghe nói ở Mỹ cả chục triệu người béo phị, đi không nổi. Chắc tại họ ăn uống lu bù tối ngày sáng đêm như thế này chăng. Bà ăn đâu có nổi, Chỉ có con Lan là cứ tỉnh bơ như sáo sậu, hết coi phim lại ăn, lại uống. Bà bảo con Lan “Con ăn nhiều thế, mai mốt béo phị ra th́ ai nó thèm lấy!” Con Lan ph́ cười “Má đừng có lo! Con biết hết trơn rồi.”
Máy bay hạ cánh xuống phi trường Mỹ. Con Lan bảo là Phi Trường quốc tế Los Angeles. Bà Năm mệt mỏi nhừ tử cả người, đứng lên muốn hết nổi.Máy bay bay miết, bay hoài, dễ chứng cả ngày lẫn đêm chi đó. Bà Năm thấy cái lối sống ở trên máy bay và chắc cả ở Mỹ nữa nó không đơn giản như ở quê nhà, nơi gần chợ Bà Chiểu. Cái chi cũng máy với móc, lộn xà lộn xộn, không biết đâu mà rờ cả.
Máy bay hạ cánh xuống phi trường Mỹ. Con Lan bảo là phi trường quốc tế Los Angeles. Bà Năm mệt mỏi nhừ tử cả người, đứng lên muốn hết nổi. Con gái Bà, con Nguyệt sẽ lái xe từ San Diego lên đón Mẹ con Bà ngay tại nơi này. Người đâu mà đông thế? Người ta ăn mặc thật là kỳ cục. Cả đời, bây giờ Bà mới thấy người ta ăn mặc chẳng giống dân Sài G̣n của bà tí nào. Đàn ông, con trai th́ lắm người mặc áo để phanh cả bộ ngực lông lá tùm lum. Có người ăn mặc đồ lớn như dân Sài G̣n đi ăn cưới, có người chỉ mặc có mỗi chiếc áo “may-ô ba lỗ”, có người cởi trần trùng trục đi lại tự nhiên, thoải mái. Đàn bà con gái cũng mặc quần, mặc váy như mấy cô, mấy bà hạng sang ở sài G̣n, nhưng có nhiều người lại mặc váy, quần cụt, ngắn cũn cỡn trông chẳng giống ai. Ở chỗ đông người thế này mà đàn bà con gái chi lạ, cứ như ở trần, ở trên th́ vú vê to nung núc, rùng rà rùng ŕnh, để ra cả đống cho người ta coi, ở dưới cứ như là… để ra ngoài hết trơn, cái quần, cái váy ngắn tí teo, lại c̣n xẻ rạch lên một khúc nữa… Trông dễ sợ quá! Bà Năm không biết con gái ḿnh, con Nguyệt nó có ăn mặc như thế này không? Nếu nó lại bắt Bà phải ăn mặc như thế nữa th́ không biết rồi ra làm sao, liệu Bà sống nổi hay không ? Tự nhiên Bà chặc lưỡi … kệ nó tới đâu th́ tới, đă đến đất Mỹ th́ cũng như… đă leo lên lưng cọp rồi, tụt xuống đâu c̣n được nữa. Thôi th́… cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem… đất Mỹ xoay vần tới đâu.
Sau khi làm thủ tục giấy tờ này nọ, Mẹ con Bà đẩy xe hành lư ra phiá ngoài. C̣n đang ngơ ngác th́ con gái Bà, con Nguyệt, đă la lên “Má! Má Con đây nè!” Con gái Bà lúc này nó cao, nó to con, nó đẹp như “đầm” ấy, Bà nhận ra không nổi. Nó chỉ người đàn ông đứng bên cạnh “Đây là chồng con. Đây là hai đứa cháu ngoại của Má! Và đây là bạn bè của con…” Con Lan đứng sau lưng Bà, bây giờ mới đến phiên người ta ôm lấy nó cứng ngắc, hỏi thăm rối rít tít mù, làm cho nó đỏ bừng cả mặt, cả tai …
Mấy cái xe Mỹ, xe Nhật bóng láng đưa Mẹ con Bà Năm về nhà con gái. Bà thấy cái chi cũng lạ. Nhà to và đẹp quá, nhưng không bầy đồ đạc tùm lum tà la như nhà của Bà ở gần Chợ Bà Chiểu. Con rể và con gái Bà chắc hẳn giầu lắm. Hai đứa cháu ngoại th́ cứ nh́n Bà mà nói với nhau bằng thứ tiếng ǵ Bà không hiểu. Chắc là tiếng Mỹ! Vợ chồng con Nguyệt nói với Bà th́ bằng tiếng Việt, c̣n khi chúng nó nói chuyện với nhau lại bằng tiếng Mỹ chi đó, làm Bà chẳng hiểu chi hết trơn.
Gặp mấy ngày nghỉ cuối tuần, bà con bạn bè người Việt ở gần, nghe tin Bà Năm sang Mỹ, cũng kéo tới thăm. Bà cũng thấy vui vui một chút. Cơm nước bầy ra đầy cả bàn, nhưng Bà ăn sao nó dở ẹt, không bằng món cá bống kho tiêu, cá lóc nấu canh chua của Bà ở Sài G̣n. Chúng nó lấy xe chở Mẹ con Bà đi chơi tùm lum đủ chỗ, đẹp mắt và to lớn, vĩ đại vô cùng. Sạch sẽ nữa chớ, không có tạp nhạp, lộn xộn, dơ dáy như cái xóm cũ của Bà.
Mấy ngày đầu đoàn tụ qua đi. Vợ chồng con Nguyệt đi làm, hai đứa cháu ngoại được đưa đến trường học con nít. Chỉ c̣n Bà với con Lan ở nhà, cái nhà rộng thinh rộng thang, pḥng dưới nhà, pḥng trên lầu, đủ kiểu. Chẳng bù với cái nhà của Bà gần Chợ Bà Chiểu, chỉ có một cái pḥng để ngủ, một pḥng cho khách ngồi chơi, c̣n lại là nhà bếp với bộ bàn ghế ăn cơm và linh tinh đủ thứ. Ấy vậy mà mới ở Mỹ chưa được một tháng, Bà Năm đă lại thấy nhớ nhung luyến tiếc nếp sống của Bà, một bà già hiền lành, chất phác, ở gần chợ Bà Chiểu. Đến cái ngày con Lan được Chị nó dẫn đi học ở cái trường nào đó xa lắm, phải đi bằng xe hơi, chớ không có đi bộ hay đi xe đạp được đâu. Thế là chỉ c̣n có một ḿnh Bà ở lại với ngôi nhà to lớn rộng thênh thang mà thôi. Lúc này, Bà thấy quả thiệt là buồn, cái buồn miên man khó tả. Con Lan đă chỉ cho bà cách bật Ti Vi bằng cái… bấm cầm tay. Bật máy lên th́ Bà chỉ thấy toàn là đánh lộn, la hét um xùm. Bật sang kênh khác th́ lại bắn súng đùng đùng, máu me tùm lum. Bà ráng thử bật sang kênh khác nữa. Trời đất quỷ thần! Một lăo đàn ông, một mụ đàn bà ôm nhau cứng ngắc, hôn hít cứ y như là cắn nhau vậy thôi. Rồi cả hai … nhào lên giường vật lộn.. hung hăn, trông mà phát khiếp, chi mà kỳ lạ! Chán quá, Bà tắt máy chẳng buồn lắp phim, coi cải lương với lại chưởng Tầu…. Hết đi ra lại đi vô, Bà đâm ra cứ muốn ngủ gà, ngủ vịt. Mà nằm xuống th́ đâu có ngủ được…
Bà từng nghe nói thành phố San Diego là nơi ấm áp mà sao muà lạnh mới sang Bà đă thấy lạnh chi mà lạnh dữ. Ở Sài G̣n, Bà có thấy lạnh bao giờ đâu. Buổi sáng sớm và ban đêm, ở Mỹ, Bà cứ phải mặc cả mớ quần áo, trông to bự trác như h́nh vẽ Ông già Nô-en vậy. Có bữa con Lan mở Ti Vi, Bà thấy cảnh động đất, mưa lụt, băo bùng, xe cộ tông nhau, người chết, nhà cửa tan tành… Ở Mỹ cái ǵ đối với Bà cũng vĩ đại, to lớn, dễ sợ, kinh hoàng, dựng tóc gáy, nổi da gà. Nó không yên tĩnh, hiền lành như cái vùng đất chợ Bà Chiểu của Bà.
Tối đến vợ chồng con Nguyệt mới đi làm về. Cả nhà chỉ gặp nhau vào lúc ăn cơm. Ăn xong, ai về pḥng người nấy, hai vợ chồng con Nguyệt lại lấy xe đi đâu đến khuya. Bà Năm muốn chơi với hai đứa cháu ngoại. Khốn nỗi hai đứa nhỏ lại chỉ biết nói tiếng Mỹ mà thôi, Bà đâu có hiểu. C̣n có con Lan th́ nó lo học và làm bài túi bụi. Rảnh một tí, nó mở cái Ti Vi để coi ca nhạc mà kẻ đàn, người hát cứ như đánh vật với nhau, la hét um xùm. H́nh như nó bảo nhạc Rốc, nhạc riếc chi đó, nghe đến chóng cả mặt, đau cả đầu. Không thế th́ nó lại ôm cái điện thoại nói chuyện với bạn với bè. Nói liên hồi, không biết mệt. Chuyện chi mà nhiều thế?
Bà Năm đau nặng phải vô nằm bệnh viện, lắm lúc mê man rồi lại tỉnh. Vợ chồng con Nguyệt chỉ biết thương Bà, nhưng vẫn không hiểu được Bà. Chỉ có con Lan về sau nó hiểu, nó hỏi “Có phải ở đây Má buồn, Má không chuyện tṛ được với ai, nhất là với hai đứa cháu ngoại, Má nhớ Quê Hương, bạn bè của Má, Má nhớ mồ mả Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, Má nhớ Chợ Bà Chiểu… nên má đau, má bịnh phải không?” Bà Năm nắm lấy tay nó rồi gật đầu. Con Lan bỗng nhiên mím môi lại, nước mắt chẩy hai hàng “Sao Má không ở lại Việt Nam với cḥm xóm, bạn bè, với Chợ Bà Chiểu của Má? Má không chịu đi Mỹ th́ con đâu có đi! Con nhất định ở với Má cho đến khi nào Má… không c̣n nữa, Má đi với Ba cơ mà!” Rồi nó ôm mặt khóc rưng rức xót thương cho Mẹ, người đă suốt đời khổ cực v́ chồng v́ con, h́nh như chẳng có lúc nào để nghĩ đến chính ḿnh… Bỗng bà Năm tỉnh táo, vẫy tay cho vợ chồng con Nguyệt cùng tới gần. Bà nắm lấy tay 2 đứa con gái, nói trong hơi thở nghẹn ngào “Má chấp nhận rời bỏ tất cả để ra đi v́ Má thấy thương con Nguyệt, nó muốn Má được an nhàn, sung sướng lúc tuổi già, nhất là Má thương con Lan, Má hy sinh v́ mong cho nó được ăn học nên người và có một cuộc sống tốt đẹp như Chị nó ở đất nước văn minh, giầu có, vĩ đại như thế này. Má già rồi nên không quen, nhưng Má chấp nhận… Má chỉ tiếc một điều là không được chết và nghỉ yên bên cạnh Ba con…”
Nguyệt lúc này mới cảm thấy một nỗi xót xa thật to lớn. Nguyệt đă chịu một phần trách nhiệm trong cái chết của Bà Năm. Vợ chồng Nguyệt đă không làm được một việc mà nhiều gia đ́nh Việt Nam khác đă làm được. Đó là vợ chồng Nguyệt không để ư hay không làm được cái việc: dạy cho 2 đứa con những khi ở nhà với Cha Mẹ, tập nói tiếng Việt. Nếu hai đứa con của Nguyệt nói được tiếng Việt như nhiều đứa trẻ gốc Việt khác th́ Bà Năm đă có nhiều giờ phút khuây khỏa, vui chơi, chuyện tṛ với hai đứa cháu ngoại mà Bà thương hết ḿnh. Đằng này, Bà không làm sao gần gũi được với chúng nó. Khi Bà và hai đứa cháu ngoại gần nhau, thay v́ chuyện tṛ như nhiều gia đ́nh gốc Việt Nam khác, th́ lại chỉ biết nh́n nhau như những người xa lạ ở đâu đâu ấy. Nguyệt cũng úp mặt vào hai bàn tay để giấu đi những giọt nước mắt xót thương người Mẹ già đă từ giă tất cả để đến nơi đây sống với ḿnh. Nguyệt thương Mẹ nhưng đă không hiểu được Mẹ. Bây giờ th́ mọi sự đă trễ mất rồi, không cách nào làm lại được nữa dù chỉ một lần… Nếu 2 đứa con của Nguyệt nói được tiếng Việt để Bà cháu hủ hỉ với nhau th́… Bà Năm không nói được nữa, Bà đă vĩnh viễn ra đi để được sống với chồng Bà bên kia thế giới, có lẽ gần gũi hơn với Quê Hương Đất Tổ, ở đó có nhiều bạn bè thân thiết và có cái chợ Bà Chiểu thân thương gắn bó với Bà từ những ngày khốn khổ xa xưa…
Phan Đức Minh
Ngẫm Từ Chuyện Vỏ Lon Bia: Thế Gian Có 4+1 Kiểu Người
Ngày nghỉ cuối tuần, trong lúc vợ đi chợ, anh ta ở nhà, pha b́nh trà nhâm nhi. Ngồi buồn, anh lấy lon bia ra nhấm nháp. Bỗng anh nảy ra một “sáng kiến”, gật gù khoái chí.
Uống xong, anh ném luôn vỏ lon ra đường, rồi nh́n chằm chằm vào chiếc vỏ lon nằm chỏng chơ ở đó.
Thế gian có 4+1 kiểu người
Chẳng lâu sau đó, một người đàn ông đi tới, vô ư giẫm phải chiếc lon, trượt chân suưt ngă. Hậm hực nh́n quanh bằng đôi mắt đỏ ngầu tức giận, ông ta buông vài câu chửi tục, rồi bỏ đi.
Một lúc sau, có cô gái bước tới, suưt giẫm phải chiếc vỏ lon, nhưng may thay, cô đă kịp thấy và thản nhiên đi tiếp.
Chừng mười phút nữa, một em bé nh́n thấy, vội vàng chạy tới nhặt vỏ lon, đem bỏ vào thùng rác công cộng.
Vợ vẫn chưa về, anh lại chăm chú nh́n xuống ḷng đường. Chiếc xe rác leng keng đi tới. Những người công nhân lại nhặt chiếc vỏ lon ấy, bỏ vào chiếc túi riêng, treo bên cạnh chiếc xe.
Vợ đi chợ về, anh hớn hở khoe: “Ngày hôm nay anh chiêm nghiệm được một điều rất kỳ thú nhé”, rồi thuật lại cho vợ chuyện vừa xảy ra.
Anh phấn khích rút ra triết lư sống ở đời: “Vậy là trong xă hội có 4 loại người. Loại thứ nhất trước việc sai trái chỉ biết chửi cho sướng miệng ḿnh, thật đáng phê phán. Loại thứ hai b́nh chân như vại, việc sai mặc ai, thật đáng chê. Kiểu thứ ba là thấy việc sai trái không thuận mắt, sửa ngay. C̣n kiểu người thứ tư, thật đáng khâm phục. Họ biết t́m niềm vui trong lao động, cải tạo những thứ vô ích để trở thành thứ có ích”.
Anh cười lớn với sự “chiêm nghiệm sâu sắc” của ḿnh, nhưng nh́n sang vợ, anh lại thấy cô có nét buồn. Anh bèn hỏi vợ: “Anh nói sai hay sao mà trông em nhăn nhó thế?”.
– Em rất buồn v́ không ngờ…
– Không ngờ ǵ?
– Không ngờ anh quên đi một loại người đáng phải nói. Loại người là thủ phạm của việc sai trái, nhưng không chịu nh́n để thấy, mà lại chỉ thích phán xét và t́m lỗi ở người khác. Những con người ấy, theo anh th́ phải kết luận thế nào đây?
Nghe vợ nói, anh ta ngồi đơ ra như một pho tượng.
:o
trungthu
01-19-2020, 18:45
Ngẫm Từ Chuyện Vỏ Lon Bia: Thế Gian Có 4+1 Kiểu Người
Ngày nghỉ cuối tuần, trong lúc vợ đi chợ, anh ta ở nhà, pha b́nh trà nhâm nhi. Ngồi buồn, anh lấy lon bia ra nhấm nháp. Bỗng anh nảy ra một “sáng kiến”, gật gù khoái chí.
Uống xong, anh ném luôn vỏ lon ra đường, rồi nh́n chằm chằm vào chiếc vỏ lon nằm chỏng chơ ở đó.
Thế gian có 4+1 kiểu người
Chẳng lâu sau đó, một người đàn ông đi tới, vô ư giẫm phải chiếc lon, trượt chân suưt ngă. Hậm hực nh́n quanh bằng đôi mắt đỏ ngầu tức giận, ông ta buông vài câu chửi tục, rồi bỏ đi.
Một lúc sau, có cô gái bước tới, suưt giẫm phải chiếc vỏ lon, nhưng may thay, cô đă kịp thấy và thản nhiên đi tiếp.
Chừng mười phút nữa, một em bé nh́n thấy, vội vàng chạy tới nhặt vỏ lon, đem bỏ vào thùng rác công cộng.
Vợ vẫn chưa về, anh lại chăm chú nh́n xuống ḷng đường. Chiếc xe rác leng keng đi tới. Những người công nhân lại nhặt chiếc vỏ lon ấy, bỏ vào chiếc túi riêng, treo bên cạnh chiếc xe.
Vợ đi chợ về, anh hớn hở khoe: “Ngày hôm nay anh chiêm nghiệm được một điều rất kỳ thú nhé”, rồi thuật lại cho vợ chuyện vừa xảy ra.
Anh phấn khích rút ra triết lư sống ở đời: “Vậy là trong xă hội có 4 loại người. Loại thứ nhất trước việc sai trái chỉ biết chửi cho sướng miệng ḿnh, thật đáng phê phán. Loại thứ hai b́nh chân như vại, việc sai mặc ai, thật đáng chê. Kiểu thứ ba là thấy việc sai trái không thuận mắt, sửa ngay. C̣n kiểu người thứ tư, thật đáng khâm phục. Họ biết t́m niềm vui trong lao động, cải tạo những thứ vô ích để trở thành thứ có ích”.
Anh cười lớn với sự “chiêm nghiệm sâu sắc” của ḿnh, nhưng nh́n sang vợ, anh lại thấy cô có nét buồn. Anh bèn hỏi vợ: “Anh nói sai hay sao mà trông em nhăn nhó thế?”.
– Em rất buồn v́ không ngờ…
– Không ngờ ǵ?
– Không ngờ anh quên đi một loại người đáng phải nói. Loại người là thủ phạm của việc sai trái, nhưng không chịu nh́n để thấy, mà lại chỉ thích phán xét và t́m lỗi ở người khác. Những con người ấy, theo anh th́ phải kết luận thế nào đây?
Nghe vợ nói, anh ta ngồi đơ ra như một pho tượng.
:o
Bài bác viết thật là hay, tui phải đọc đi đọc lại mấy lần , suy ngẫm để học hỏi...nhưng lại thoáng buồn là v́ chỉ có " NGƯỜI " mới đọc và hiểu thôi...
:thankyou::thankyou: :handshake::handshak e:
hoanglan22
01-20-2020, 02:38
Có phải bạn là một trong những người cô độc vào những ngày lễ giáng sinh hoặc tết ???. Bạn có mong muốn rằng ḿnh có được người nào đó bên cạnh để nắm đôi bàn tay, khen gợi và vui vẻ cùng bạn ăn tối?.
Nhưng cho dù bạn mong muốn có có một Bạn trai bao nhiêu đi nữa, th́ t́nh yêu đôi khi lại khó chắc chắn để bạn có thể nắm bắt. Thôi đừng lo lắng nữa. Chỉ trong một vài giờ, bạn có thể thuê một "Bạn Trai" ở Nhật Bản.
Các dịch vụ Host/ Hostess Clubs hay Kyabakura là một kiểu văn hóa phổ biến ở Nhật Bản. Nhưng nó không giống như hầu hết các ngôi nhà ở Khu đèn đỏ trên toàn thế giới [nơi có các hoạt động thoát Y, khỏa thân hoặc quan hệ t́nh dục đầy đủ] th́ Dịch vụ Kyaakuras chỉ để giải trí, như đối với hầu hết các Host Clubs, quan hệ t́nh dục với khách hàng được khuyến khích mạnh mẽ.
Một điều khá thú vị là nên lưu ư rằng khi trở thành Chủ nhà Host cũng giống như chuẩn bị cho sự nghiệp. Theo video, đào tạo 2 năm là tiêu chuẩn để trở thành Chủ nhà Host. Khoản đền đáp có thể nhận được khá nhiều tiền sinh lợi lên tới hàng ngàn USD mỗi tuần chưa bao gồm quà tặng từ các khách hàng quen thuộc.
Trong khi sự thân mật về thể xác với khách hàng không được ưu ái, một số Host có khả năng yêu khách hàng, họ sẽ quan hệ t́nh dục với khách hàng. Có lẽ trong một xă hội rất lịch sự, tham công tiếc việc và nam tính như Nhật Bản, nhu cầu của phụ nữ về khía cạnh lăng mạn thân mật bị xâm phạm. Do đó, các khách hàng của câu lạc bộ Host Clubs họ đă t́m kiếm công ty mong có được những người bạn trai cho thuê này để cảm nhận t́nh yêu và sự an toàn về mặt cảm xúc dù chỉ trong vài giờ.
Xem Video: Dịch Vụ Host Clubs cho thuê "Bạn Trai" ở Nhật Bản:
iPhr6N-c8as
PS : Tui nghĩ 2 bác TT và tbbt bay qua Japan làm ăn vụ này khấm khá...khi về c̣n bộ xương cách trí ...https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1517352&stc=1&d=1579487898
hoanglan22
01-20-2020, 15:02
Nhìn anh́ mắt, khuôn mặt chú bé ôm em không kìm được Cảm động.
Tại một thành phố ở Ấn Độ.. có vị thương gia nọ bận rộn cả ngày v́ công việc.. mệt mỏi.. ông vào một nhà hàng tự thưởng cho ḿnh bữa tối thịnh soạn..!
Khi những món ăn đă được dọn sẵn trên bàn.. bất chợt ông nh́n thấy một cậu bé đang nh́n trộm ông qua cửa kính với ánh mắt thèm thuồng.. h́nh ảnh ấy như có ǵ làm nhói tim ông..!
Ông đưa tay vẫy cậu bé.. cậu liền bước vội vào.. theo sau cậu là 1 bé gái nhỏ.. 2 đứa trẻ nh́n chăm chăm vào những đĩa thức ăn c̣n nóng hổi.. mà chẳng cần biết người vừa gọi chúng vào là ai..?
Vị thương gia bảo chúng cứ tự nhiên mà ăn thỏa thích...
Không nói.. không cười.. cả hai ngấu nghiến ăn hết các món ăn trên bàn một cách ngon lành...
Vị thương gia im lặng.. nh́n hai đứa trẻ ăn đắm đuối.. và khi chúng rời đi.. chúng đă không quên nói lời cám ơn với ông..!
Cơn đói trong ḷng vị thương gia lúc ấy được xua tan một cách lạ kỳ.. kèm theo một cảm giác khó tả đang lâng lâng trong ḷng...
Măi một hồi sau.. vị thương gia gọi tiếp các món ăn lần nữa.. rồi từ từ thưởng thức.. đến khi gọi thanh toán.. nh́n tờ hóa đơn.. không ghi số tiền.. mà chỉ là một hàng chữ:
- “Thật đáng tiếc.. tiệm chúng tôi không in được HÓA ĐƠN THANH TOÁN CHO T̀NH NGƯỜI.. xin chúc ngài măi luôn hạnh phúc..!”
Một giọt nước mắt đă rơi từ vị thương gia.. ông quay nh́n người đàn ông đang đứng tại quầy thu ngân rồi gật đầu mỉm cười.. ông ta đáp lại bằng một nụ cười rạng rỡ...
Vị thương gia đă dùng “Đức” đối xử với người nghèo.
Chủ nhà hàng dùng “Nghĩa” đáp lại “Đức” không biết ai hơn ai.?
***** Người xưa có câu : *****
- Ngồi trên đống Cát.. ai cũng là hiền nhân.. quân tử.
- Ngồi trên đống Vàng.. mới biết rơ.. ai mới là quân tử.. hiền nhân.
T́nh yêu thương luôn đem đến những sự kỳ diệu từ hai phía :
- "người cho và người nhận".
Hạnh phúc của T̀NH NGƯỜI là cảm giác b́nh yên và thật sâu lắng.. xóa tan tất cả những đau khổ và bất hạnh.
Vạn vật tồn tại trên thế giới này đều không thể sống măi với thời gian.. ngay cả con người cũng không thể đi ngược lại hay cưỡng cầu với quy luật ấy.
- Theo thời gian.. mọi thứ đều biến hóa và thay đổi..
- Tất cả có thể sinh ra hoặc mất đi.. có thể phát triển hay lụi tàn..
- Cái ǵ có đến chắc chắn sẽ rời đi.. không bao giờ là tồn tại măi măi.
- Vật chất là ngoài thân.. T̀NH NGƯỜI là vĩnh cửu...❣️❣️❣️
hoanglan22
01-21-2020, 05:23
"Simon và Perot" - Bức tranh sơn dầu của Rubens
Bức tranh sơn dầu của Rubens. Những người lần đầu tiên bước vào viện bảo tàng đă cảm thấy kinh ngạc khi nh́n thấy bức tranh này, có người c̣n cười và chế nhạo. Sao có thể treo bức tranh như vậy ngay cửa chính viện bảo tàng chứ?
Nhưng người dân nước Puerto Rico th́ rất kính trọng bức tranh này, hoặc cảm động rơi nước mắt. Cô gái trẻ để lộ bầu ngực là con gái của ông, ông lăo chính là cha cô gái. Simon trong bức tranh chính là người anh hùng đă đấu tranh đ̣i độc lập cho nước Puerto Rico, nhưng bị bắt giam vào ngục và bị kết tội "cấm thực".
Ông già chết dần chết ṃn, lúc lâm chung con gái ông vừa sinh con đến thăm cha. Nh́n thấy cơ thể suy nhược của cha, không muốn cha chết thành con ma đói. Cô đă cởi áo, đưa ḍng sữa của ḿnh cho cha bú. Cùng một bức tranh, có người cười nhạo, có người cảm động. Người không biết được câu chuyện thật sự đằng sau bức tranh sẽ chế giễu, người biết sẽ cảm thấy đau ḷng.
Con người thường chỉ nh́n thấy bề nổi của sự việc, không nh́n thấy bản chất. Nhiều lúc sự thật không như ta thấy. Đáng sợ nhất không phải bị người ta gạt, mà chính là sự tưởng bở về bản thân. Rất nhiều thứ không thể đánh giá qua bề ngoài. Hăy dùng trái tim tĩnh lặng, đôi mắt sáng suốt và trí tuệ để học thông bài học cuộc đời!
Câu kết
- Ḿnh mua xe, hỏi ư người này người kia. Cuối cùng tiền ḿnh bỏ ra nhưng mua một chiếc xe người khác thích.
- T́m người yêu, người này một câu người kia một câu, cuối cùng t́m được nhưng không phải là người ḿnh muốn.
- Sự nghiệp bản thân, nghe ư kiến của người thân bạn bè. Cuối cùng bỏ lỡ cơ hội thay đổi cuộc đời, đi trên con đường của người khác chứ không phải của ḿnh.
- Đôi giày ḿnh mang, vừa hay không vừa bản thân ḿnh biết. Hăy mang đôi giày của ḿnh đi trên con đường của ḿnh.
ST
hoanglan22
01-22-2020, 14:37
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1518429&stc=1&d=1579703729
Nh́n tờ lịch thấy hôm nay là ngày 5 tháng 1 năm 2020, tôi bồi hồi nhớ lại đúng 30 năm trước, ngày 5 tháng 1 năm 1990, cùng gia đ́nh đến Mỹ theo diện H.O. 1, trong ngày đầu tiên mà diện H.O. được thực hiện. Tôi nhớ trước đó khoảng 8, 9 tháng, nghe phong thanh ở Quận Phú Nhuận sẽ nhận đơn đi Mỹ theo diện O.D.P. (Orderly Departure Program) (1), tôi mừng quá, vội báo tin cho một số bạn thân đi nộp đơn. Một ông bạn cũ, cựu Đại Úy, gạt phắt ngay, “Không! Tôi không ngu! Nộp đơn để chúng nó bắt lại à?”
Tôi ngỡ ngàng, trả lời, “Bắt cái ǵ? Không nộp đơn th́ nếu chúng muốn bắt th́ bắt lúc nào chẳng được? Sao phải bầy ra vụ kêu gọi nộp đơn!”
Bạn tôi không thèm trả lời nữa, quầy quả bỏ đi. Đến một anh bạn cùng đi lính và cùng đi tù, nói anh nộp đơn. Bạn cũng từ chối, nhưng nhẹ nhàng hơn, “Mày muốn nộp th́ cứ nộp trước đi! Tao c̣n kẹt chuyện gia đ́nh!”
Thế là tôi bực ḿnh, chán nản, không rủ rê ai nữa, mà chờ đến khi có tin chính thức từ Quận cho biết sáng mai nhận đơn tại Công An Quận. Đêm đó, tôi ngủ không được. Thấp thỏm đến gần 3 giờ sáng th́ chạy ra Công An Quận, tưởng là ḿnh đến sớm, không ngờ có bạn đă mắc vơng ở gốc cây, ngay cổng từ 11 giờ đêm hôm trước. Tôi là người thứ 50!
Khi vào trong pḥng, môt tay công an đưa tờ giấy cam kết ra cho tôi, hỏi, “Tại sao anh muốn đi Mỹ?”
Tôi trả lời, “V́ tôi muốn các con tôi có tương lai. Ở lại đây, con tôi sẽ không bao giờ có việc làm v́ lư lịch xấu!”
Hắn gật đầu, và hỏi, “Sau khi sang Mỹ, anh có ư định chống đối Cách Mạng không?” Tôi lắc đầu, “Chống làm ǵ? Tôi nghĩ là sang đó, chỉ lo đi làm thôi.” Tay công an đưa tờ giấy cam kết cho tôi bảo tôi viết câu, “Tôi cam kết không làm ǵ chống phá cách mạng!” Tôi viết liền v́ chẳng dại ǵ mà không viết. Sang Mỹ rồi tính!
Sau đó một thời gian, không nhớ là bao tháng, tôi được gọi lên Pḥng Xuất Nhập Cảnh làm thủ tục giấy tờ và đóng tiền linh tinh khoảng gần 2 cây vàng! Đóng tiền xong rồi chờ từng ngày. Qua vài tháng, thấy những người nộp đơn cùng đợt được nhận Passport, tôi sốt ruột quá, lên Pḥng Xuất Nhập Cảnh hỏi vài lần đều không có câu trả lời. Hôm đó, tôi lại lên, nhưng lần này, khôn hơn, đút túi một bao thuốc lá 555! Đến cổng, thấy một tay công an đứng xét giấy, tôi tiến lại, không nói ǵ nhiều, chỉ rút túi áo ra bao thuốc lá 555 rồi nói nhỏ, “Tôi tên…vợ…con…tên! Nhờ anh lên kiếm giùm tôi tờ hộ chiếu.” Hắn gật đầu rồi đi vào trong, c̣n tôi đi thẳng vào bàn giấy nơi tay Thiếu Tá Phó Pḥng ngồi xét đơn.
Chờ người ngồi trước đi khỏi, tôi mới tiến tới, ngồi vào chiếc ghế trước bàn và hỏi xem sao mà tôi chưa có Passport trong khi bạn tôi có đủ cả rồi. Tay Phó Pḥng gật gù, “Hồ sơ anh thất lạc rồi! Bây giờ tôi cho anh hai chọn lựa. Một là tôi trả lại tiền cho anh. Hai là cho anh ưu tiên nộp đơn trước!”
Đột nhiên tôi nổi cơn điên, v́ đă căng thẳng từ lâu rồi. Tôi nói lớn, “Tôi không cần tiền và cũng không muốn nộp đơn lại! Tôi chỉ muốn đi Mỹ! Anh làm mất hồ sơ của tôi, anh phải lo đền!” Tay Phó pḥng cũng không vừa, nói lớn tiếng luôn, “Anh này láo nhỉ? Tôi cho anh làm lại và cho nộp ưu tiên, nếu anh không chịu điều kiện này, th́ dẹp!” Câu chuyện đang sắp tới lúc ng̣i nổ bung ra, th́ anh công an ở cổng nhận gói thuốc lá của tôi, từ trên lầu chạy xuống, ch́a ngay ra 5 cái Passport của tôi và nói, “Nè, hộ chiếu của anh đây!” Nói xong th́ đi thẳng ra cửa! Tên Phó pḥng chưng hửng, v́ mất một cơ hội làm tiền! Tôi biết chắc là tên Phó cứ chộp đại một hồ sơ nào để móc túi người mất! Tối thiểu cũng một cây vàng! Tôi cười h́ h́, chào hắn rồi ra về.
Đến nhà, coi lại mớ Passport th́ thấy hết hạn cả hai tháng rồi! Tay Phó Pḥng giam hồ sơ của khách rồi định tống tiền, ai dè gặp tôi là kẻ cứng đầu. Đành phải trở lại gặp tên gian ác kia! Thế nào hắn cũng chơi tôi! Đúng như điều tôi tiên đoán, khi vừa thấy tôi ngồi xuống chiếc ghế trước cái bàn của hắn, ch́a ra 5 cái hộ chiếu hết hạn, tay Bắc kỳ kia hất hàm, cười đểu,
“A! Ra ông Trung Úy hôm qua! Căi hăng lắm! Này tôi nói cho anh biết! Đừng tưởng anh ngon nhá! Cỡ Trung Úy của anh th́ ra cái quái ǵ! Ở bên Mỹ, Trung Úy các anh như ruồi, đi dọn rác đầy đường! Mẹ kiếp! Tướng Nguyễn Cao Kỳ c̣n đi bán xăng nữa là các anh!”
Tôi ngồi nghe hắn móc ḷ mà im lặng, không trả lời câu nào. Biết thân biết phận, không như hôm qua, v́ khi nghĩ rằng ḿnh không được đi Mỹ nữa, th́ tôi nổi cơn. Nhưng bây giờ, giấy tờ đến tay, tội ǵ mà chọc cho hắn giận! Tay Phó Pḥng kia dũa tôi một hồi đến khi đă nư, rồi hất hàm cho tay công an phụ tá,
- Đóng dấu gia hạn cho anh ta đi!
Thế là xong một giai đoạn! Cả nhà tôi ngồi chờ được gọi lên Nguyễn Du, nơi Mỹ phỏng vấn, như ngồi trên lửa. Cho đến khi được giấy báo lên phỏng vấn, cả nhà tôi đến nhà thờ cầu nguyện, rồi mới đến văn pḥng phỏng vấn. Trước khi đi, chúng tôi đă được mấy người quen mách nước là ăn mặc lịch sự, nói năng nhỏ nhẹ, chỉ trả lời vắn tắt. Vào pḥng phỏng vấn, gặp ông Mỹ trung niên, và một thông ngôn. Tôi cúi chào rồi nói luôn bằng tiếng Anh.
Ông Mỹ gật gù, hỏi tôi tại sao tôi lại nói được tiếng Anh khá thế. Tôi trả lời là tôi từng đi Mỹ, học ở Lackland, rồi sau đó đi học tại trường Sĩ Quan Lục Quân Hoa Kỳ, tốt nghiệp Thiếu Úy. Tôi đă được lệnh thăng thưởng lên Đại Úy trước khi biệt phái, nhưng v́ chưa khao lon, nên trong tờ khai lư lịch khi ở tù, tôi chỉ khai là Trung Úy thôi. Ông Mỹ nghe tôi nói chỉ mỉm cười, sau khi tôi nói hết, ông đứng dậy bắt tay tôi và chúc tôi mọi sự may mắn trên nước Mỹ. (2).
Rồi cũng đến ngày đi khám sức khỏe. Bao nhiêu lời đồn linh tinh về việc này làm chúng tôi ơn ớn. Nào là cấm được khóc v́ họ nghi là đau mắt th́ sẽ ở lại. Nào là phải uống nước dừa nhiều cho phổi trong. Nào là cân phải nặng bao nhiêu… Chúng tôi chỉ cầu nguyện liên tục. Đến khi vào khám sức khỏe, tôi thấy cũng chẳng có ǵ là ghê gớm. Mọi chuyện giải quyết nhanh nhẹn. Chúng tôi chờ ngày lên máy bay thôi.
Điều không ngờ là với danh sách H.O. 1, pḥng Xuất Cảnh cho đăng báo toàn bộ những người sắp đi Mỹ, làm cả Saigon xôn xao như cháy nhà. Mấy ông bạn, hồi trước mắng mỏ tôi, khi tôi rủ đi nộp đơn, th́ mắc cở đến chào tôi, rủ đi uống cà phê, và nói “Khi nào sang Mỹ, thấy cái ǵ hay, th́ gửi về báo cho biết!” Danh sách này chút nữa th́ hại tôi! Cả Phường nơi tôi ở đều biết. Công an khu vực đi qua nhà tôi liên tục, ḍm ḍm ngó ngó. Nhiều cặp mắt như những viên đạn chiếu vào chúng tôi hàng ngày. Chúng tôi phải dọn nhà qua nhà nhạc mẫu ở vài tuần lễ trước khi lên đường để tránh x́ xào. Điều buồn cười là khi nghe lời bạn bè, thay v́ mang vali th́ đến Chợ Lớn đóng hai cái thùng nhôm to đùng để quần áo và đồ dùng cá nhân, mấy chỗ đóng thùng ở Chợ Lớn đều biết chúng tôi đi Mỹ theo diện H.O! Ông Tầu già nói lơ lớ,
-Chú li Mỹ hả! Li theo cái ǵ…“ếch o” phải không? Lể tôi lóng cho chú cái thùng lày chắc lắm! Khỏi lo lứt quai…
(Chiếc thùng nhôm, có sơn hàng chữ đỏ to chần vần là địa chỉ chị tôi ở Mỹ, sau này vẫn c̣n giữ được thêm cả chục năm nữa mới vất đi.)
Đến ngày ra đi, tuy trên giấy mời là chuyến bay 10 giờ sáng, tôi bảo cả nhà phải đi thật sớm, tránh mọi chuyện không hay có thể xảy ra. Thế là khoảng 4 giờ sáng, gia đ́nh chúng tôi chất lên hai chiếc xích lô, ra đi trong im lặng, không một tiếng chó sủa! (Quả nhiên, sự dự đoán của tôi chính xác! Sau này, cậu em vợ c̣n ở lại, cho hay là đến 7 giờ 30 sáng, hai tên Phường Đội mang giấy đến nhà tôi, kêu con trai lớn của tôi đi... nghĩa vụ quân sự! Khi biết là chúng tôi đă đi từ khuya, tên nọ chửi tên kia, “Đ.M. mày! Chỉ lo nhậu nhậu! Tối hôm qua, mà mày không nhậu th́ đă đưa xong rồi! Đ.M. báo cáo làm sao đây!” Nếu tôi đi trễ, th́ cả nhà tôi đă bị giữ lại, và nếu muốn đi th́ phải ch́a ra ít nhất một cây vàng!)
Khi chúng tôi đến phi trường, đưa giấy ra, th́ được chỉ vào một khu tập trung, những người cùng đi một chuyến với tôi, đă đến ngủ từ… hôm trước! Đang ngồi long ngóng, đột nhiên một anh Mỹ trắng, trẻ trung, đi cùng với hai, ba người nữa, lướt qua hàng chúng tôi đang ngồi, và hỏi bằng tiếng Anh, “Ai biết nói tiếng Anh?”
Như một phản xạ, tôi giơ tay liền. Anh Mỹ tươi cười đến bắt tay tôi và giới thiệu, “Tôi là David Jackson, phóng viên đài truyền h́nh số 9 ở California. Muốn hỏi anh vài điều, anh có dám nói không?”
Tôi trả lời ngay, không ngần ngại, “Có ǵ mà không dám! Nhưng đừng hỏi về chính trị, kẻo kẹt tôi!”
David gật đầu ngay, “Không! Sẽ không nói ǵ về chính trị đâu! Tôi biết mà!” Ngay sau đó, anh ta vẹt người ra lấy chỗ trống, rồi mang đèn chiếu sáng trưng chỗ phỏng vấn, amplifier, microphone… với dây điện nối vào mấy b́nh pin khổng lồ, bắt đầu hỏi tôi về suy nghĩ của tôi khi được đi Mỹ… Lư do tại sao lại muốn đi Mỹ... Sang Mỹ th́ định làm ǵ?
Tôi trả lời là v́ “muốn cho con cái tôi có tương lai, nếu ở lại Việt Nam th́ sẽ không có tương lai..” Ngay sau khi cuộc phỏng vấn chấm dứt trước những cặp mắt căm thù của công an, ngại tôi bị nguy hiểm, David và đoàn phóng viên hộ tống chúng tôi vào ngay pḥng cách ly, nghĩa là không có công an nữa mà chỉ có phái đoàn Mỹ. Đến lúc lên máy bay, David cũng đi theo hộ tống chúng tôi, vừa đi vừa quay phim cảnh tôi bế cháu bé út lúc đó mới 2 tuổi rưỡi lên thang máy! David c̣n hẹn tôi là sẽ gặp tôi ở Los Angeles, nói chuyện tiếp.
Lên máy bay rồi, mà ḷng chúng tôi vẫn chưa yên, v́ chưa đến Mỹ, c̣n có thể có chuyện! Đúng như tôi đoán, sau khi đến Thái Lan, đang ở lại pḥng tạm trên phi trường, một gia đ́nh đi cùng bất ngờ bị gọi trở về! Khóc lóc, kêu gào thảm thiết! Chúng tôi chẳng hiểu sao, chỉ biết yên lặng nh́n, mà thương cảm cho người xấu số! Ở lại pḥng tạm một buổi, xe buưt đến đón chúng tôi đưa về nhà tạm trú, ở đó 10 ngày rồi mới đi Mỹ.
Chu Tất Tiến tổ chức Cây Mùa Xuân H.O. tháng 1 năm 1990. (H́nh cung cấp)
Những ngày ở nơi tạm trú này, vui quá là vui, v́ chật như nêm, nằm dài trên sàn trải chiếu, người nọ đụng đầu, chân, tay người kia, khi ngủ say, có ông lăn qua ôm nhầm bà bên cạnh bị ăn cái tát! Buổi sáng th́ xếp hàng đi vệ sinh, các ông bà H.O. cười cười nói nói, đàn ông, đàn bà ǵ cũng cầm tay cuộn giấy vệ sinh, chờ xong việc th́ cũng cả tiếng đồng hồ, “mắc” muốn chết mà vẫn cứ cười. Đi tắm cũng chờ! Ăn cũng chờ. Có điều là việc chờ đợi này giết thời gian nhanh hơn, 10 ngày trôi qua như gió thoảng.
Điều đáng nhớ là ở đây, được ăn miễn phí, nhưng nếu ai muốn ăn ngon, th́ trả tiền thêm. Nho Thái Lan vừa to, vừa ngọt, măi cho đến hôm nay, vẫn chưa thấy nho nào ngọt như nho Thái Lan, hay là tại vui? Điểm đặc biệt mà tôi muốn nhấn mạnh ở đây, là trong khi ở tại trại, có những cuộc gặp gỡ giữa các cô gái Việt Nam ở California sang giúp đỡ và giải thích. Tôi nhớ măi câu nói của một cô, “Ở Bôn Xa mà mặc áo dài th́ dị lắm!”
Một lần, tôi đến gặp ông Mỹ trưởng nhóm để hỏi về những tiện nghi mà báo chí loan tải là “những người H.O. sang Mỹ sẽ có làng ở, có nhà riêng, có việc làm chờ sẵn!” Ông ta lắc đầu, cười, “Toàn là tuyên truyền nhảm! Không có việc đó! Sang Mỹ rồi, mạnh ai nấy sống!” Tôi mới vỡ lẽ ra là nước Mỹ không phải như ḿnh tưởng. V́ tôi biết tiếng Anh, nên hiểu sớm, c̣n mấy bạn tôi, cứ tin tưởng là sang Mỹ th́ sẽ có nhà riêng, có việc làm, có xe đi… nên sau khi thực tế phũ phàng ập xuống, là chẳng có ǵ, sang Mỹ mà không biết tiếng Anh, không có người bảo trợ, th́ như què, như điếc, như đui. V́ thế chỉ trong năm 1990, đă có ba vụ tự tử, một vụ đi bộ lạc vào Freeway 405, bị tai nạn. (3) Sang năm sau, một vụ nổ b́nh ga, giết chết hai người trong một gia đ́nh H.O. (4)
Chờ măi th́ cũng đến lúc lên đường đi Mỹ! Chiếc máy bay khổng lồ đưa chúng tôi đến Miền Đất Hứa, đúng ngày 16 tháng 1 năm 1990. Một điều vui riêng cho cá nhân tôi, là khi từ Los Angeles đến Quận Cam, hai tờ báo lớn ở đây, Los Angeles Times và Orange County Register cùng đến phỏng vấn tôi và chụp h́nh tôi đứng với Mẹ tôi, người đă qua Mỹ trước. Sau đó, điều ngạc nhiên nữa, là một tờ Magazine nổi tiếng không những ở Mỹ mà c̣n trên toàn thế giới, tờ PlayBoy, cũng đến nhà tôi phỏng vấn! Hai người một nam, một nữ, đến hỏi tôi từng chi tiết ở trại tù cải tạo và sau khi đến Mỹ. Đâu có ai biết là tôi đă có h́nh trên tờ Playboy bên ...cạnh mấy kỹ nữ con nhà nghèo!
C̣n David Jackson, y lời hứa, đến đón tôi ở Los Angeles, sau đó một tháng, đến nhà tôi làm một cuộc phỏng vấn dài và đầy đủ, sau đó, chiếu trên đài truyền h́nh số 9, Quận Cam, dưới tựa đề “Vietnam Exodus,” quay từ lúc tôi ở phi trường Tân sơn Nhất, đến Los Angeles, rồi đến nhà tôi ở Appartment gần đường Olive, nhà thờ Westminster, tiếp theo là quay cảnh bà xă tôi đang học Nail ở trường Hằng Nga.
Đến hôm nay, rời Saigon đúng 30 năm. Bao nhiêu đổi, dời, cay đắng, chua chát, cố gắng, nỗ lực, oán than, chán nản, lo lắng, nhục nhă, vui mừng… Nhưng niềm vui nhiều hơn nỗi buồn. Các con chúng tôi cùng những con của các bạn H.O. hầu như thành đạt vẻ vang trên xứ người.. Con cháu dân H.O. chúng tôi đă trưởng thành nhanh, gọn và xuất sắc, rạng danh người Việt Tự Do. Tạ Ơn Nước Mỹ.
Người vợ Chu Tất Tiến trùng phùng cùng người thân. Bài viết đăng trên báo Orange County Register (H́nh cung cấp)
(1) Chương tŕnh chính thức là Orderly Program. Chương tŕnh H.O chỉ là một tiểu mục trong toàn thể các chương tŕnh Ra đi Có Trật Tự.
(2) Ông Mỹ này nói tiếng Việt như gió nhưng giả bộ không nghe. Có một gia đ́nh, chưa bước ra khỏi pḥng đă nói, “Thằng cha Mỹ này khó quá!” Ông Mỹ gọi lại hỏi bằng tiếng Việt, “Sao ông bà lại gọi tôi bằng thằng? Ông bà bất lịch sự quá nên không đáng đi Mỹ nữa!” thế là cúp đơn. Hai vợ chồng khóc ṛng, nhưng đành lủi thủi ra về, cấu xé nhau…
(3) Ngay khi biết tin, tôi đă chạy lại t́m ông Trần D. chủ chợ. Ông vội vàng nói, “Ông chở tôi đến nhà họ ngay” và leo lên xe tôi ngay. Đến nơi, ông Trần D. móc túi ra c̣n 500, trao hết cho bà vợ. Trần D. là người có tâm nhân hậu, đặc biệt với anh em H.O. Ngay trong lần tôi tổ chức H.O. đầu tiên năm 1991, ông móc túi ra $1,000, sau đó lại $1,000 nữa. Bất cứ khi nào mà tôi nhắc “anh giúp chương tŕnh ǵ đó liên quan đến H.O., ông không ngần ngại yểm trợ ngay, tối thiểu cũng $500…Cám ơn anh D.
(4) Vụ này tôi viết báo để khắp nơi gửi tiền về yểm trợ, giúp cho những người c̣n lại, vượt qua được sóng gió.
CHU TẤT TIẾN
hoanglan22
01-24-2020, 15:11
Mùa Hè năm ấy, cả Miền Nam nóng lên từng ngày không những chỉ với khí trời oi bức mà cả với những tin tức thời sự hàng ngày trên báo chí và đài phát thanh.Những trận đánh khốc liệt xẩy ra khắp nước được loan tải khiến dân chúng lo âu. Cuộc chiến nổ ra khắp nơi mà nặng nhất là ở vùng I. Cộng quân tấn công các căn cứ quân sự của Mỹ và VNCH như Caroll, Lao Băo, Khe Sanh, Bastogne, A Sao, A Lưới… có khi với cấp sư đoàn cùng tăng, pháo hạng nặng.
*****https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1519139&stc=1&d=1579878607
Những tháng cuối của năm 1967 tin tức t́nh báo nhiều nơi gởi về cho hay VC sẽ tấn công vào các thành phố vào dịp Tết Mậu Thân. Tất cả nhân viên Ty CSQG Thị Xă Đà Nẵng cũng như các đơn vị trực thuộc đều đặt trong t́nh trạng sẵn sàng ứng chiến.Anh em bàn tán với nhau rằng phen nầy chắc phải cấm trại 100% rồi,đành ăn tết tại chỗ.
Đến cuối tháng 11 Âm Lịch, tin tức chiến sự bỗng nhiên lắng dịu dần rồi chiến trường im ắng vào giữa tháng Chạp. Cộng quân ngưng mọi hoạt động quân sự để chuẩn bị ăn Tết chăng?
Chính Phủ và quân đội VNCH thừa kinh nghiệm để biết rằng cộng sản là bọn lưu manh, gian trá nên các chiến sĩ nơi các tiền đồn vẫn luôn giữ vững tay súng. Những đơn vị hành quân diện địa vẫn ăn Tết với đồng bào nơi mà họ mang trọng trách bảo vệ phần lănh thổ trách nhiệm của ḿnh.
Dù tiếng súng im bặt trên các chiến trường nhưng những tin tức t́nh báo khả tín từ khắp nơi gởi về xác định rằng Bắc quân sẽ tấn công vào các đô thị miền Nam vào dịp Tết Nguyên Đán.
Đến đầu hạ tuần tháng Chạp, cộng quân đưa đề nghị hưu chiến bảy ngày để hai bên và dân chúng đón tết mừng xuân. Chính Phủ VNCH không tin vào thiện chí của VC nên chỉ chấp nhận hưu chiến ba ngày đầu năm mà thôi.
Ngày 25 tháng chạp, Ty CSQG Thị Xă Đà Nẵng nhận được công điện từ Tổng Nha cho xả trại 50% trong ba ngày Tết.
Vào khoảng 4 giờ chiều ngày 29 tết, ông Trưởng ty Phạm Công Bạch cho gọi Nguyễn Văn Sáo, Lê Việt Hằng và tôi về tŕnh diện ông tại văn pḥng. Ba anh em chúng tôi phỏng đoán có lẽ sẽ nhận một công tác nào đó trong dịp Tết.
Ba đứa đứng nghiêm chào kính thượng cấp và chờ lệnh. Ông Bạch nh́n chúng tôi với nụ cười thân thiện trên môi mà chẳng nói lời nào rồi rút trong ngăn kéo ra trao cho mỗi người một mảnh giấy. Thấy chúng tôi ngạc nhiên ông liền lên tiếng: “Các cậu được phép ba ngày về Huế mừng xuân với gia đ́nh, cho tôi gởi lời thăm hỏi và chúc Tết tất cả thân nhân và họ hàng của các cậu.” Chúng tôi nói lời cảm ơn và chúc Tết ông Trưởng ty cùng gia quyến rồi đưa tay lên chào kính trước khi rút lui.
Ba anh em hẹn gặp nhau tại bến xe An Lợi vào lúc 8 giờ sáng hôm sau. Chúng tôi phải vất vả mới lấy được ba tấm vé xe nhưng phải chờ đến mười giờ mới có chuyến v́ người về Huế quá đông. Trước khi lên xe, Sáo lôi từ túi xách ra tặng Hằng và tôi mỗi người hai phong pháo làm quà Tết.
Xuống khỏi đèo Hải Vân, khung cảnh trước mắt chúng tôi là chiếc cầu Lăng Cô vá víu do VC giật sập và được Công Binh VNCH sửa tạm để nối lại giao thông cho dân chúng.
Con đường từ Đà Nẵng đi Huế chỉ dài 100km mà xe phải chạy mất gần bốn tiếng đồng hồ. Tất cả cầu cống lớn nhỏ đều bị VC phá sạch v́ tham vọng cưỡng chiếm Miền Nam bằng vũ lực.
Xuống xe trên đường Trần Hưng Đạo, chân cẳng người nào cũng bị tê cứng v́ tài xế nhét thêm hành khách để thu thêm lợi nhuận. Ba đứa chúng tôi rảo bộ tới bến xe đ̣. Sáo lên xe Tây Lộc để về nhà ở cạnh bờ tường Mang Cá, nơi đặt Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn I/BB. Hằng lấy tuyến đường An Ḥa để về nhà ở làng Đốc Sơ nằm bên kia sông Đào sau lưng Hoàng Thành. Tôi định lên xe đ̣ Thuận An để về Vĩ Dạ, nhưng rồi đổi ư chưa về nhà vội. Phải dạo phố xem cảnh chợ chiều ba mươi tết một chốc, xong về nhà cũng chẳng muộn.
Tôi đi ngược đường Trần Hưng Đạo lên phía cầu Trường Tiền, lững thững vào các chợ hoa. Đúng như người ta thường nói: “Tiêu điều như chợ chiều Ba Mươi Tết”. Nhiều sạp hoa đă dọn sạch, nhiều sạp khác đang vội vă thu vén để về lo cúng lễ rước ông bà. Những người c̣n nán lại đa số là người bán lẻ mong kiếm thêm ít tiền cho gia đ́nh chi tiêu trong ba ngày Tết.
Tôi tạc vào chợ hoa nơi công viên Thương Bạc để cố t́m một cành mai đẹp cho mùa xuân gia đ́nh thêm rạng rỡ.
Đang loay hoay chọn lựa một cành mai, bỗng giật ḿnh v́ có ai vỗ mạnh trên vai. Nh́n lại, một thoáng ngạc nhiên, trước mặt tôi là Phan Cháu. Với đầu tóc húi ngắn và mặt mày sạm nắng trông tương phản trên chiếc sơ mi trắng muốt anh đang mặc. Bạn bè gặp lại nhau sau thời gian xa cách kể từ khi rời Học Viện CSQG. Như một phản xạ tự nhiên hai đứa ôm chầm lấy nhau mừng rỡ. Tôi vui cười hỏi Cháu: “Cậu làm ǵ mà trông phong trần như một chiến binh ngoài mặt trận mới trở về thành phố vậy?”. Cháu tươi cười trả lời: “Khác với khóa Thẩm, khi ra trường khóa BTV về phục vụ ở các đơn vị theo lối bốc thăm. Tôi bốc trúng TTHL/CSDC Đà Lạt. Là sĩ quan huấn luyện viên th́ tóc phải cắt ngắn, suốt ngày ngoài băi tập nên đen đủi như lính chiến. Đó là nghề với nghiệp”.
Cháu viết cho tôi địa chỉ của anh trong Thành Nội và mời tôi ghé nhà chơi. Tôi hứa sẽ cố gắng đến thăm và chúc Tết gia đ́nh Phan Cháu vào chiều mồng ba. Anh em chúc Tết nhau rồi chia tay.
Chọn được cành mai ưng ư, tôi rảo bộ xuôi về chợ Đông Ba. Chẳng có ǵ để vội vàng, tôi đi chầm chậm vừa nh́n phố chợ vào những giờ năm cùng tháng tận vừa nhởn nhơ tận hưởng những giây phút nhàn nhă không vướng bận công vụ hàng ngày. Nhiều căn phố, sạp hàng đă đóng cửa. Nhiều nơi đang bày hương án lên đèn cúng bái.
Những người buôn thúng bán bưng dọc theo vỉa hè vẫn c̣n cố nán lại để mong bán hết phần hàng nhỏ nhoi của ḿnh.
Thay v́ lên xe đ̣ về nhà tôi lần xuống bến phà chợ Đông Ba để về bên kia Đập Đá. Lâu rồi, nay mới t́m lại cảm giác đi phà qua sông Hương.
Đứng trên phà đang lướt sóng giữa ḍng sông tôi đưa mắt nh́n quanh đôi bờ. Xa xa tận thượng nguồn sông Hương, dăy núi Kim Phụng vẫn bốn mùa xanh thẳm. Bên nầy là Cồn Hến với những ruộng bắp xanh ngát, cây cỏ tốt tươi nhờ đất phù sa tô bồi hàng năm. Ven theo bờ sông Vĩ Dạ, hàng tre soải ḿnh trên mặt nước kéo dài đến ngút tầm mắt. Tôi hít sâu không khí trong lành từ làn gió lồng lộng trên sông Hương mang lại. Cảnh vật an b́nh khắp Cố Đô tưởng chừng như đất nước ḿnh chẳng hề có chiến tranh.
Về tới đầu ngơ, ba đứa cháu thấy tôi về liền chạy ra reo ḥ mừng rỡ. Giữa nhà, hương đèn và mâm cỗ đang được bày biện cho lễ rước ông bà.
Sau khi tắm rửa thay quần áo, tôi thắp nhang trước bàn thờ ông bà, cha mẹ, rồi đi ra xóm ngoài thăm gia đ́nh bốn bà chị.
Trở về nhà th́ gia đ́nh đang chuẩn bị cúng lễ Giao Thừa.
Tôi lấy một phong pháo trao cho ba đứa cháu và theo chúng ra treo trên một cành ổi bên cạnh vuông sân trước nhà. Khi tiếng pháo đâu đó nổ vang báo hiệu giờ giao thừa đă điểm, mấy đứa cháu tranh nhau châm lửa. Tiếng pháo nổ ḍn, xác pháo vương văi trên sân, khói bốc mù mịt, không khí hăng hắc mùi thuốc súng. Dây pháo đang ḍn dă bỗng dưng tắt ngấm giữa chừng. Cháu Quả châm lửa một lần nữa nhưng rồi lại tịt ng̣i, đốt lần thứ ba dây pháo mới nổ hết.
Mấy đứa cháu nói rằng “đầu năm đốt pháo bị đứt đoạn, chắc năm nầy có điều ǵ đó chẳng lành”. Tôi nói: “Đừng tin chuyện dị đoan,có lẽ v́ bị ẩm nên pháo nổ không thông suốt”. Tôi bảo mấy đứa cháu đem phong pháo c̣n lại để gần bếp lửa, hy vọng sẽ nổ một lèo vào lễ Khai Niên.
Sáng sớm hôm sau, đang lúc gia đ́nh cúng lễ đầu năm, mấy đứa cháu lại đốt pháo. Tiếng nổ râm rang nhưng nửa chừng lại tắt phải mồi lửa thêm lần nữa.
Mặc cho mấy đứa cháu bới t́m những viên pháo lép trong đống xác pháo, tôi lấy xe đi dự Thánh Lễ cầu nguyện cho “Ḥa b́nh thế giới và quốc thái dân an” tại thánh đường Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp bên cạnh tu viện Ḍng Chúa Cứu Thế Huế. Xong lễ, tôi đi thăm và chúc tết bà con nội ngoại, thắp nhang mừng tuổi ông bà tổ tiên. Đi đâu cũng không quên mang theo những bao ĺ x́ đỏ chót cho trẻ nhỏ.
Sực nhớ tới Sáo và Hằng th́ đă ba giờ chiều tôi liền đạp xe qua Thành Nội vào Tây Lộc thăm gia đ́nh Sáo.
Thăm và chúc tết gia đ́nh Sáo rồi định rút lui để c̣n đi viếng gia đ́nh Lê Việt Hằng. Nhưng ông cụ thân sinh của Sáo giữ lại dùng cơm chiều với gia đ́nh. Thôi th́ “cung kính không bằng vâng lời”. Cơm nước xong th́ trời cũng đă tắt nắng, tôi phải về nhà kẻo trời tối. Đành dời chuyến đi Đốc Sơ vào ngày hôm sau.
Vừa về tới trước ngơ th́ đă nghe tiếng rổn rảng lắc bầu cua trong nhà ḥa lẫn với tiếng reo ḥ của mấy đứa cháu cùng lũ trẻ hàng xóm đến chơi. Thấy tôi về bọn trẻ níu áo bắt tôi làm cái. Tiếng vui cười lại tiếp diễn và nhà cái th́ cứ chung mệt nghỉ. Mấy đứa cháu vừa cười vừa chọc ghẹo: “Năm nay chú gặp hên rồi”.
Tôi đáp: “Thua tận mạng mà hên nỗi ǵ.” Cháu Quả lớn tuổi nhất trong nhóm nói: “Đen bạc đỏ t́nh mà”. Lại cười.
Đến quá nửa đêm, tôi cảm thấy mệt và buồn ngủ nên không chơi nữa. Mấy đứa cháu thấy tôi mệt nên bảo lũ trẻ hàng xóm ra về để tôi nghỉ ngơi.
Suốt hai ngày, từ lúc lên xe ở Đà Nẵng tôi cứ lu bu măi nên thấm mệt. Đặt lưng xuống giường tôi cảm thấy xương sống của ḿnh dăn ra dễ chịu và ch́m dần trong giấc ngủ.
Đang say giấc, bỗng nghe tiếng nổ vang rền khắp nơi. Chổi dậy thấy đồng hồ chỉ hơn hai giờ sáng ngày mồng hai tết và tự hỏi: Tại sao người ta đốt pháo trong giờ nầy? Định thần nghe kỹ th́ có tiếng nổ lớn như lựu đạn, ḿn xen lẫn với tiếng súng cá nhân mà dường như có tiếng súng AK của VC. Tôi nhủ thầm, thôi rồi, thành phố Huế đang bị VC tấn công.
Tôi đến bên cửa sổ nh́n lên bầu trời, có ánh hỏa châu do máy bay thả xuống trên thành phố Huế. Tiếng súng vang rền và hỏa châu soi sáng, nhiều nhất là khu vực cầu Trường Tiền nơi có bản doanh của Tiểu Khu Thừa Thiên, Bộ Chỉ Huy CSQG Thừa Thiên-Huế và cơ quan MACV của Hoa Kỳ. Bên phía Trường Bia An Cựu cũng giao tranh ác liệt, có lẽ VC tấn công căn cứ tiếp vận quân đội VNCH gần núi Ngự B́nh. Xa xa nằm về phía tây thành phố, hỏa châu soi sáng một vùng và tiếng súng lớn nhỏ không ngớt; tôi đoán nơi đó là bản doanh của BTL Sư Đoàn I/BB nằm trong khu Mang Cá. Tôi bỗng nghĩ đến sự an nguy của hai bạn Lê Việt Hằng và Nguyễn Văn Sáo đang ở trong khu vực giao tranh.
Cả nhà kể cả mấy đứa cháu đều đă thức giấc và yên lặng đến đứng cạnh tôi dơi mắt nh́n những trái hỏa châu thay nhau thắp sáng những nơi đang giao tranh.
Chú Đá th́ thào nói: “Thế nầy là thế nào? Đang là thời gian hưu chiến mà”. Tôi khe khẽ trả lời: “Dối trá, lừa đảo là bản chất của cộng sản, nếu quân ḿnh tin VC th́ giờ nầy chắc không có ai để chiến đấu…”
Xem ra VC đă làm chủ t́nh h́nh trên toàn thành phố ngay trong những giờ đầu tiên bất ngờ tấn công Huế, ngoại trừ ba nơi đang có giao tranh.
Tôi mong cho trời mau sáng để cộng quân không chiếm được lợi thế bóng đêm th́ phải rút lui. Thế nhưng trời càng sáng dần th́ tiếng súng càng dữ dội hơn. Cả xóm, nhà nào cũng cửa đóng then cài, đường sá vắng hoe. Mọi người trong gia đ́nh ai cũng lo lắng cho tôi.
Sau khi ai nấy ăn vội chút điểm tâm bằng bánh chưng bánh tét, chị Đa đội nón đi ra đầu xóm để ḍ xem t́nh h́nh. Chừng nửa giờ sau trở về, chị nói với vẻ mặt trầm trọng: “Dọc theo bờ sông phía làng ḿnh đường sá vắng tanh, nhưng bờ sông bên kia từ Đập Đá xuống th́ VC rải dài trong các khu vườn nhà dân. Nghe nói VC đóng chốt nơi đầu đường Thuận An, như vậy là Đập Đá đă bị khóa rồi không c̣n đường nào để lên thành phố cả”. Nghe nói thế tôi cảm thấy ḷng bồn chồn v́ ḿnh đang như ở trong một cái túi mà hiện VC đă cột thắt miệng túi mất rồi.
Đến trưa, tôi vạch hàng rào sau nhà, men theo bờ ruộng sang nhà chị Cúc. Thấy tôi chị vội mở cửa cho tôi vào rồi đóng ngay cửa lại.
Sau bữa cơm trưa chị bảo tôi trông chừng các cháu để chị đi ḍ xem t́nh h́nh và coi có con đường nào cho tôi thoát thân. Tôi nói với chị là không nên đi theo con đường ven sông, rất nguy hiểm. Chị gật đầu rồi cầm nón lá và chiếc rổ ra đi như người đi chợ.
Tôi ngồi xuống tấm chiếu nơi góc nhà, ôm thằng Dũng con út của chị hồi đó mới hai tuổi vào ḷng. Năm đứa lớn ngồi quanh áp sát vào tôi để t́m sự che chở của cậu. Tất cả sáu đứa nhỏ đều im lặng. Tiếng súng vẫn nổ ́ ầm. Trên bầu trời đă thấy xuất hiện mấy chiếc máy bay trực thăng chiến đấu của không quân VNCH, nhưng bay ṿng ṿng rất cao. Thỉnh thoảng chúc đầu xuống phóng rockets vào những cao ốc nơi VC đặt súng pḥng không, hoặc nhả vài tràng đại liên vào các đơn vị VC.
Chị Cúc đi đă hơn một tiếng đồng hồ mà chưa thấy về khiến tôi nôn nóng lo âu. Bỗng cánh cửa sau bếp xịch mở, chị về tôi mừng nhẹ nhơm. Theo lời chị kể th́ từ Đập Đá về tới chợ Vĩ Dạ bộ đội đóng thành từng chốt mà đông nhất là chốt ở đầu Đập Đá. Nơi nầy lại có sự xuất hiện của thằng Nết, một đứa chăn trâu dưới làng Vân Dương, hắn cũng đội mũ tai bèo cầm súng AK. Nghe nói thế tôi đâm lo, từ làng trên xóm dưới thằng Nết biết rơ từng người, nay nó đă theo VC th́ dù cho có hóa trang thành một cụ già cũng không qua mắt nó được. Ngưng giây lát, chị nói tiếp:”Cậu Hạnh bạn của em cùng hai người em trai bị họ bắt đi từ lúc trời chưa sáng, nói là đưa đi học tập một thời gian rồi sẽ cho về. Không phải chỉ có ba anh em Hạnh mà tất cả thanh niên và đàn ông sống hai bên đường Thuận An đều cùng chung số phận”.
Hạnh vừa tốt nghiệp trường Sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức về nhà ăn tết. Em của Hạnh là Thanh Vĩ, ca sĩ đài phát thanh Huế, c̣n đứa em út đang học lớp Đệ Nhất trường Quốc Học. Chú thím Quại chỉ có ba người con đều bị bắt đi hết mà măi măi không thấy trở về. Sau nầy hai ông bà đi từ hố chôn người tập thể nầy đến hố chôn tập thể khác khắp tỉnh Thừa Thiên mà không nhận dạng được ba đứa con trai thân yêu của ḿnh.
Sáng sớm ngày Mồng Ba, anh Khôi nhà ở gần bờ sông bị bắn chết khi xuống bến múc nước cho gia đ́nh xử dụng. Khu vực nầy và phía bờ sông đối diện đều do VC chiếm đóng th́ đây là chỉ dấu cho thấy cộng sản bắt đầu tàn sát dân lành.
Qua ngày mồng bốn, một đạn pháo vu vơ nào đó rớt xuống sân nhà ông Giáo cách vườn nhà tôi chừng 50 mét khiến thím Tập và đứa con nhỏ đang bồng trên tay tan xác. Thím Tập ở đầu xóm bồng con đi tránh đạn lại bị chết thảm.
T́nh h́nh hiểm nguy như thế mà chị Cúc cũng ngày mấy lần len lỏi ra tận Đập Đá để xem có đường nào cho tôi thoát nạn. Nhưng chỉ thấy chị lắc đầu với vẻ mặt âu lo.
Qua đến ngày Mồng 5 Tết th́ cuộc chiến trên thành phố Huế đă mở rộng. Tiếng súng vang dội nhiều nơi trong thành nội. Máy bay trực thăng chiến đấu xuất hiện nhiều hơn và áp sát đánh vào những đơn vị VC đang cố thủ trong gia cư hoặc công sở của thành phố. Mấy chiếc F5 thay nhau đánh bom vào mặt và chân bức tường hoàng thành mà VC dùng làm công sự pḥng thủ. Tôi mừng thầm v́ thấy quân ḿnh đă phản công ngày càng quyết liệt hơn. Tuy nhiên mối lo vẫn c̣n nguyên đó, ḿnh đang c̣n nằm trong vùng chúng kiểm soát th́ có khác chi cá nằm trên thớt.
Sau bữa ăn trưa tại nhà chị Cúc bỗng nghe cháu Huệ, con gái lớn của chị, khe khẻ gọi tôi với giọng khẩn cấp: “Cậu, cậu” và ngoắc tôi đến bên cửa sổ . Nh́n theo hướng chỉ của cháu, qua cánh cửa sổ hé mở tôi thấy dọc theo con đường ven làng Diễn Phái nằm bên kia cánh đồng hẹp, VC đang áp giải một đoàn người toàn là đàn ông. Tất cả đều bị trói tay sau lưng và cột liền nhau bằng một sợi dây thừng tạo thành một chuỗi người. Có lẽ VC bắt đàn ông, thanh niên ở vùng chợ Vĩ Dạ dẫn về hướng quận Hương Thủy và Phú Thứ. Tôi đứng như Trời trồng dơi mắt nh́n theo cho đến khi đoàn người ấy mất hút sau rặng tre làng Vân Dương. Bỗng tôi chú ư đến một người mặc áo trắng chạy ngược từ làng Vân Dương lên theo đường ruộng. Khi người ấy chạy đến sát hàng rào sau nhà, tôi nhận ra ngay đó là anh Hồ Cháu thôn trưởng thôn Diễn Phái, cháu gọi cô ruột tôi bằng thím. Nơi khủy tay trái của anh vẫn c̣n một đoạn dây thừng chưa dứt ra được.Tôi mở rộng cánh cửa để nh́n anh rơ hơn. Thấy tôi, anh dong cánh tay có đoạn dây đang cột và nói lớn cho tôi nghe: “Chạy mau, chúng nó đang t́m bắt đó”. Anh Cháu có lẽ là một trong đoàn người bị bắt mà tôi vừa thấy dẫn đi đă may mắn bứt dây chạy thoát. Tôi cảm thấy nguy cơ bị VC lùng bắt gần kề.
Tôi rời nhà chị Cúc men theo bờ ruộng trở về nhà rồi sang nhà anh Nguyễn Đ́nh Liên, một Hạ sĩ quan Cảnh Sát Đặc Biệt của Ty CSQG Thừa Thiên. Kể cho anh Liên nghe sự kiện tôi vừa mục kích và bàn với anh ấy phải t́m cách ẩn núp ngay kẻo không c̣n kịp. Bàn tới tính lui hai anh em đồng ư làm hầm trú bom đạn, bên trong lại đào thêm một hầm bí mật để trốn mỗi khi VC đi ruồng bắt.
Chúng tôi lấy cuốc xẻng và gom góp vật liệu như bàn ghế, thanh giường, phản…để chống đỡ nóc hầm. Đang lúc chuẩn bị đào đất th́ chị Cúc từ hàng rào phía sau chạy vào và nói với tôi và anh Liên: “Cậu Lang và cậu Tân đă chạy được qua Đập Đá rồi, em và anh Liên tính sao?”. Tôi quyết định chạy c̣n anh Liên bảo không đi v́ quá nguy hiểm.
Tôi khoác vội chiếc áo ấm rồi lao nhanh về phía hàng rào sau nhà. Anh Liên gọi theo: “Kiên, đợi anh với”. Tôi dục: “Nhanh lên, đă 5 giờ rưỡi chiều rồi”. Anh Liên moi khẩu súng ngắn bọc trong bao nylon chôn cạnh bụi chuối sau hè, nhét vào lưng quần rồi theo tôi. Hai anh em băng từ vườn nầy qua vườn khác mà đi. Khi vượt qua vườn nhà chị Liễu, người chị thứ nh́ của tôi, thấy anh Đồng em của anh Tŕnh ló mặt nơi cửa sổ tôi vẫy tay ra dấu cho anh ấy chạy theo.
Ra tới đầu hẻm nơi có cổng chào của thôn Hô Lâu bên đường Thuận An th́ anh Thu và một thanh niên lạ mặt từ căn nhà gần đó ra nhập bọn. Nh́n trước ngó sau không thấy bóng dáng VC chúng tôi bảo nhau dong hai tay lên cao và chạy nhanh qua Đập Đá. Liếc nh́n địa điểm nơi VC đặt chốt, không thấy một tên nào ở đó tôi cảm thấy người ḿnh như nhẹ hẫng lên. Vừa chạy được một đoạn th́ có tiếng từ đồn CSQG Đập Đá: “Đứng lại, không được vượt qua lằn ranh kẽm gai”. Chúng tôi khựng lại, anh Thu đặt tay lên miệng làm loa: “Thu đây”. Bên kia có tiếng đáp trả: “Chỉ một ḿnh anh Thu qua thôi”. Chúng tôi đẩy anh Thu chạy trước, bốn người c̣n lại nối đuôi theo sau. Đến giữa Đập Đá chúng tôi nhảy xuống nước ṿng qua ṿng rào kẽm gai rồi leo lên mặt đường chạy tiếp. Dừng lại trước đồn Cảnh Sát, năm người nh́n nhau cười thoát nạn. Tôi cúi đầu thầm lặng “Tạ ơn Chúa và Đức Mẹ đă đưa chúng con qua khỏi một cửa tử thần”.
Anh Liên và anh Thu ở lại với Cuộc Cảnh Sát Đập Đá. Anh Đồng tôi và người thanh niên tự giới thiệu là Đại Úy Biệt Động Quân tên Vĩnh Điền đi tiếp lên trường Trung Học Kiểu Mẩu nơi được dùng làm trung tâm tạm cư.
Đến ngă ba Lê Lợi-Chu Văn An, tôi bàn với hai anh kia đi qua đường Nguyễn Thị Giang để tôi lên tŕnh diện Ty CSQG và anh Vĩnh Điền có thể tŕnh diện Tiểu khu Thừa Thiên bên cạnh.
Vừa đến ngă ba Chu Văn An-Nguyễn Thị Giang cả ba chúng tôi đều đứng sững lại. Dọc con đường Nguyễn Thị Giang xác cộng quân nằm la liệt, hầu hết đều c̣n rất trẻ, xác nào cũng mang một bánh chất nổ bên hông, c̣n súng AK th́ rơi bên cạnh. Tất cả đă śnh chương lên, nhiều thi thể bị chó, heo gặm đến trơ xương sọ trông thật ghê rợn. Chính h́nh ảnh nầy khiến tôi không sờ đến thịt heo suốt mấy năm liền. Đoàn cảm tử nầy của VC rơ ràng là mồi ngon cho cây đại liên nơi công sự pḥng thủ trước cổng Ty CSQG.
Quay trở lại đường Lê Lợi, ba anh em vừa đi vừa chạy về hướng Trường Kiểu Mẫu. Dưới ánh sáng yếu ớt của một ngày sắp tắt, tôi thấy nhiều xác đàn ông, đàn bà nằm chết vắt lên quang gánh và xe đạp bên lề đường Hàng Me và đường Đội Cung. Trước sự sống và cái chết cách nhau như đường tơ kẽ tóc, trí óc tôi tựa hồ đông cứng lại với thảm cảnh dân lành chết tức tưởi bởi tham vọng điên cuồng của bọn đồ tể Hà Nội.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1519140&stc=1&d=1579878607
Dừng chân trước cổng trường, ngước mắt nh́n lên Kỳ đài trên cửa Ngọ Môn, bất giác tim tôi như có bàn tay vô h́nh nào đó bóp lại. Trên đỉnh cột cờ, lá cờ vàng ba sọc đỏ thân yêu không c̣n nữa. Thay vào đó là một lá cờ lạ hoắc (hai vạch màu xanh nước biển kẹp lá cờ đỏ sao vàng) đang bay vật vờ trong cơn mưa phùn giăng mù ảm đạm. Sau nầy tôi mới biết đó là lá cờ của Lực lượng Liên Minh Dân Chủ và Ḥa B́nh mà chủ tịch là Lê Văn Hảo giáo sư Đại Học Huế. Thượng Tọa Thích Đôn Hậu trụ tŕ chùa Linh Mụ làm Phó chủ tịch và Hoàng Phủ Ngọc Tường giáo sư trường Quốc Học giữ chức vụ Tổng Thư Kư.
Khuôn viên trường Trung Học Kiểu Mẫu rộng răi với hai ṭa kiến trúc h́nh chữ Y cao ba tầng đă chật cứng dân chúng đến lánh nạn. Tối hôm đó tôi không ngủ được v́ đói và lạnh. Sáng ra, nhờ mua được mấy gói ḿ ăn liền nơi một gia đ́nh lánh nạn mới thấy bao tử hết cồn cào. Bỗng nghe tiếng nổ lớn ngoài bờ sông rồi tiếng người xôn xao. Cảnh sát, quân nhân với sự tiếp tay của dân chúng đưa nhiều người bị thương vào sân trường. Một người đàn ông chết không toàn thây c̣n để lại tại chỗ chờ chôn cất. Được biết, sáng sớm nhiều người xuống bờ sông rửa mặt, lấy nước bị VC từ bên kia bờ sông Hương bắn súng cối sang khiến người xấu số lănh nguyên quả đạn.
Trận chiến giải tỏa Huế mạnh dần, trên bầu trời chiến đấu cơ Mỹ xuất hiện đánh vào những nơi VC chiếm giữ trong Thành Nội. Bên phía hữu ngạn, trực thăng vơ trang không lực VNCH bắn phá dữ dội các ṭa nhà Ty Ngân Khố và Bưu Điện nơi VC chiếm giữ làm công sự chiến đấu. Tháp chuông nhà thờ Phanxico bị VC dùng làm cứ điểm đặt súng pḥng không cũng bị rockets từ máy bay trực thăng bắn sập. Sau những đợt tập kích của không quân, các đơn vị chiến đấu của Tiểu Khu Thừa Thiên tràn lên chiếm lại phần đất chỉ cách BCH Tiểu Khu có một block đường. Đồng thời, quân tiếp viện từ Phú Bài và Quận Hương Thủy tiến lên Quốc Lộ 1 giải tỏa khu vực cầu An Cựu rồi bắt tay quân trú pḥng Tiểu Khu TT.
Khoảng năm giờ sáng ngày Mồng 8 Tết, một tiếng nổ kinh hoàng làm các ô cửa kính của trường học vỡ toang rơi loảng xoảng. Nhiều tiếng la thất thanh v́ nhiều người bị thương bởi mảnh kính. Tôi đang hoang mang chưa biết tiếng nổ ấy do đâu mà có th́ mấy người từ bên ngoài vào cho biết cầu Trường Tiền đă bị VC giật sập. Nghe thế, tôi thầm nghĩ, địch quân đang thất thế nên giật sập cầu để ngăn cản bước tiến của quân đội VNCH.
Sáng sớm hôm ấy, một đơn vị TQLC Mỹ chừng hai trung đội xuất hiện. Đây là lần đầu quân đội Mỹ ra quân sau một tuần VC bất ngờ đánh Huế. Một nửa trong số họ hành quân tiến lên phía bệnh viện Trung Ương, mặc dù chỉ là cuộc hành quân thăm ḍ nhưng họ cũng giải cứu được trung tá Phan Văn Khoa Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu Trưởng Thừa Thiên đang ẩn trốn trong bịnh viện. Nửa c̣n lại hộ tống hai chiếc xe tăng, mỗi chiếc trang bị sáu súng đại bác. Chiếc thứ nhất tiến về bờ sông nhắm khu gia cư bên kia cầu Gia Hội mà nhả đạn khiến tiếng súng của cộng quân ở đó im bặt. C̣n chiếc thứ hai chạy xuống Đập Đá bắn phá chốt đóng quân của VC nơi cửa ngỏ vào xă Vỹ Dạ.
Sau cuộc tấn công của xe tăng Mỹ, một số đồng bào bên kia Đập Đá chạy thoát được qua phía bên nầy trong đó có gia đ́nh chị Liễu. Gặp tôi chị khóc ̣a v́ mừng rỡ. Chị nói: “Chiều hôm kia, sau khi em chạy được chừng nửa giờ th́ chúng nó ập vào t́m bắt em và chú Đồng và anh Liên. Sục sạo khắp nơi không có chúng tịch thu một số vật dụng của em,đồng thời chúng bắt d́ Cúc làm giấy cam đoan đi t́m và đưa em về tŕnh diện “cách mạng”. C̣n anh Tŕnh th́ làm giấy cam đoan đi t́m chú Đồng về. Th́ ra chiều mồng sáu VC rút nhân sự tại chốt Đập Đá để đi lùng bắt người.”
Theo lời chị Liễu kể th́ cũng trong đêm hôm đó VC đi t́m bắt lại anh Hồ Cháu không được chúng vào nhà bắt bác Thỉu thân sinh của anh ấy đem ra giữa sân chặt đầu. Ông cụ đă gần tám mươi tuổi và mù cả đôi mắt mà chúng cũng không tha chỉ v́ tội là cha của một thôn trưởng. Bác Thỉu có ba người con trai, anh Hồ Quyền là con trưởng gia nhập đảng CSVN và tập kết ra Bắc năm 1954. Một trong hai người em lớn lên bên cha mẹ lại là Thôn Trưởng. Hóa ra VC bắt đứa em quốc gia không được th́ giết ông bố cũng là cha của một đảng viên cộng sản.
Ngày mồng chín Tết, hai Tiểu đoàn 21 và 39 Biệt Động Quân từ Đà Nẵng ra và một Chiến đoàn TQLC được không vận đến Huế. Tất cả đều đặt dưới quyền điều động của Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Sư Đoàn I/BB.
Biệt Động Quân hành quân về Vĩ Dạ đến tận Quận Phú Vang rồi bọc qua Băi Dâu và giải tỏa vùng Gia Hội. C̣n TQLC nhận nhiệm vụ diệt địch tại Quận II bao gồm các đường phố chính như Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng…và thế chân cho lính Dù đang quần thảo với “bộ đội cụ hồ”trong Thành Nội để binh chủng thiện chiến nầy về đẩy VC ra khỏi Thủ Đô Sài G̣n. Lực lượng Mũ Xanh (TQLC) Hoa Kỳ cũng được điều động đến để sát cánh với TQLC VNCH giải tỏa Thành Nội mà khó khăn nhất là khu Đại Nội v́ cộng sản quyết tử thủ nên chúng chống trả mănh liệt.
Ngay trong ngày đầu VC tấn công Cố Đô th́ lính mũ đỏ VNCH đă có mặt. Đó là một may mắn cho Huế và cũng là một xui xẻo cho Bắc quân. Lúc đó Tiểu Đoàn 2 và Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù đang ăn Tết với dân tại Phong Điền và Quảng Điền. Được lệnh cả hai TĐ nầy tức tốc kéo về cứu Huế. Đụng Độ ác liệt với VC tại làng An Ḥa mà đẩm máu nhất là địa điểm cố thủ của địch tại cửa An Ḥa. Suốt một ngày một đêm quần thảo các Thiên Thần Mủ Đỏ mới tái chiếm cổng thành. Để có được chiến công nầy lính Dù phải chịu tổn thất quá lớn, gần nửa quân số của TĐ 7 Dù đă trở thành anh hùng Vị Quốc Vong Thân. Đến ngày mồng 5 Tết, TĐ 9 Nhảy Dù được không vận từ Quảng Trị và nhảy xuống bắt tay với Sư Đoàn I/BB trong đồn Mang Cá rồi cùng nhau bung ra chiếm lại từng khu vực dân cư từ Cống Lương Y, Tây Lộc, Tây Linh, Hồ Tịnh Tâm…
Bên phía tả ngạn sông Hương, từ khu vực thương măi Quận II về vùng Gia Hội hễ nơi nào được quân đội VNCH đến giải tỏa th́ dân chúng gồng gánh, dắt d́u nhau chạy đi t́m sự che chở của người lính Quốc Gia.
Nhờ Công Binh thiết lập chiếc cầu phao nối liền hai đầu nhịp cầu găy bị d́m sâu dưới nước, đồng bào vượt cầu Trường Tiền về bên hữu ngạn để lánh nạn. Đoàn người thất thểu mang vác đồ đạc, bồng bế trẻ con và cả những người bị thương.
Tôi chạy theo một nhóm thanh niên trong trung tâm tạm cư Kiểu Mẫu ra giữa cầu Trường Tiền giúp đồng bào ḿnh bên kia sông. Chúng tôi d́u những người già cả hoặc bị thương leo ngược đoạn cầu bị VC đánh sập. Thấy một người đàn bà đầu chít khăn tang, một tay bế đứa con gái nhỏ tay kia kéo lê túi xách, sau chị là đứa con trai chừng tám tuổi, tôi liền bước tới đỡ túi xách cho chị. Tôi hỏi nhà chị ở đâu? Chị bảo nhà chị ở Gia Hội gần trường Nguyễn Du, chồng chị đă bị VC giết chết tại một phiên ṭa trong sân trường Gia Hội mà người ngồi xét xử là Hoàng Phủ Ngọc Tường, GS trường Quốc Học. Chị nói với tôi trong nước mắt như những lời than thở cho chính ḿnh và cả cho người dân thành phố Huế: “Thật không ngờ những người được cả thành phố nầy trọng vọng như GS Tôn Thất Dương Tiềm, GS Nguyễn Đóa, GS Hoàng Phủ Ngọc Tường lại là những tên sát thủ của mảnh đất Thần Kinh. Họ đâu phải là người xa lạ, cũng được sinh ra và lớn lên trong chiếc nôi nầy mà hóa ra quỷ dữ”.
Nghe nói thầy Tường đi theo VC và quay lại giết dân xứ Huế tôi bỗng thấy xốn xang trong ḷng. Năm 1962 tôi rời trường B́nh Linh sang học lớp Đệ Nhất trường Quốc Học th́ thầy Hoàng Phủ Ngọc Tường dạy môn Việt Văn lớp Đệ Nhị. Hồi đó đám học sinh đệ nhị cấp chúng tôi ai cũng ngưỡng mộ thầy Tường. Dáng dấp thầy dong dỏng cao, đầu tóc bồng bềnh. Thầy đi chiếc xe gắn máy hiệu Gobel mà chân đạp th́ mất một chiếc trông có vẻ bất cần đời. Con trai mới lớn mà nh́n một vị giáo sư lăng tử như vậy, chúng tôi cảm mến như một thần tượng của ḿnh. Nay nghe chính vợ của nạn nhân bị thầy Tường sát hại th́ thần tượng ngày nào của tôi không những bị tiêu tan mà c̣n đâm ra kinh tởm.
Sáng ngày 18 tháng giêng một chiếc tàu đổ bộ của Hải Quân Mỹ cập bến Ṭa Khâm mang theo nhu yếu phẩm và vật dụng tiếp tế cho cơ quan MACV. Khi nhổ neo quay về Đà Nẵng họ cho một số người Việt quá giang trong đó có tôi.
Chiếc tàu vừa qua khỏi Cồn Hến, một trái B40 phóng ra từ hàng tre bên bờ sông Vĩ Dạ. Trái đạn bay xẹt qua đỉnh chiến hạm rơi xuống nước nổ ầm. Khẩu đại liên hai ṇng bên hông phải chiếc tàu tức khắc gầm lên. Hàng tre rạp xuống như bị một lưỡi dao khổng lồ chém đứt phăng. Từ đó chiếc tàu không c̣n bị tấn công nữa.
Khi tàu đi qua địa phận Băi Dâu mọi người đứng dậy để xem một trận quần thảo giữa một tiểu đỉnh không biết của Việt hay Mỹ với VC ở trên bờ. Chiếc tiểu đỉnh được trang bị hai khẩu đại liên, một phía trước và một ở đằng sau. Khi chúi mũi vào bờ th́ khẩu súng phía trước nhả đạn, gần tới bờ th́ quay ra lúc đó khẩu súng đằng sau hoạt động. Chiếc tiểu đỉnh cứ chạy vào chạy ra cho đến khi không c̣n nghe tiếng súng của địch mới bỏ đi.
Chiếc tàu cập vào bến cá Bạch Đằng gần ṭa Tổng Lănh Sự Hoa Kỳ lúc 10 giờ đêm. Đường phố sáng choang, người người và xe cộ qua lại b́nh thường.
Tôi đă trở về từ địa ngục sau hai mươi ngày lặn hụp trong âm u lạnh lẽo, máu lửa kinh hoàng.
Trở về nhiệm sở, ông Trưởng Ty Phạm Công Bạch cũng như đồng nghiệp chúc mừng tôi đă thoát qua một kiếp nạn. Vui mừng nhất là gặp lại Lê Việt Hằng. Nhờ nhà ở bên cạnh sông Đào nên hắn về được bến Bao Vinh rồi theo đường biển vào Đà Nẵng ngay trong tuần lễ đầu tiên Huế bị tấn công. Riêng Nguyễn Văn Sáo th́ bặt vô âm tín khiến ai cũng lo lắng cho anh ta. Khoảng một tuần lễ sau khi lá đại kỳ màu vàng ba sọc đỏ tái tung bay trên kỳ đài Ngọ Môn Huế th́ Sáo xuất hiện. Gặp lại nhau, ba đứa ôm chầm lấy nhau mừng rỡ.
Huế Mậu Thân là một chứng tích tội ác diệt chủng của CSVN với mồ chôn tập thể khắp nơi trong tỉnh Thừa Thiên mà nạn nhân tổng cộng đến gần sáu ngàn người và trên một ngàn mất tích. Trong số quân cán chính VNCH và thường dân vô tội bị thảm sát ấy có giáo sư môn Toán năm Đệ Nhất Quốc Học của tôi là thầy Châu Khắc Túy và bốn bạn cùng Khóa 1 Học Viện CSQG: Phan Cháu, Nguyễn Văn Lợi, Lê Văn Sấm và Hoàng Khê.
Xin lỗi bạn Cháu,tôi măi măi thất hứa không đến chúc tết bạn và gia đ́nh được. Giặc đă phá tan ngày Tết và đă bắt bạn đem ra bắn dưới chân Hoàng Thành nơi cửa Đông Ba vào lúc tờ mờ sáng ngày mồng Hai.
Ôi Huế của tôi, sao gánh nhiều oan khiên nghiệt ngă. Hết thiên tai rồi lại nhân tai.
Tống Phước Kiên
Tưởng niệm 48 năm biến cố Mậu Thân 1968
hoanglan22
01-24-2020, 17:55
Đêm Giao Thừa đi chiếm mục tiêu .
Cuối năm , đêm 30 trời tối đen như mực , đen như cái tiền đồ của chị Dậu trong tác phẩm Tắt Đèn của Ngô Tất Tố , mà thật tắt đèn th́ tối thui , nghe lạt miệng bèn lôi một điếu thuốc định châm lửa kéo vài hơi cho đă thèm trong lúc chờ giao thừa . Bổng nhiên , tiếng Đại bàng trong ống liên hợp của máy PRC25 vang lên , lệnh chuẩn bị chiếm mục tiêu trong đêm giao thừa ,
-Đại Bàng gọi se sẻ , copy .
_Se sẻ nghe rơ , copy .
_ Lệnh chiếm cho được mục tiêu trong đêm nay bằng mọi giá , nghe rơ .
- Se sẽ nghe rơ 20/20 .copy.
Trườn ḿnh qua giữa cái nghe , không nghe động tĩnh ǵ ,ánh mắt cố xoi thủng màn đêm , xác dịnh vị trí là một cái mu cỏ mượt , cố gắng định vị lổ châu mai của địch , chụp ống liên hợp báo cáo vắn tắt cho Đại Bàng .
-Se sẻ gọi Đại Bàng ... báo cáo đă xác định được mục tiêu , nghe rơ .copy
-Đại Bàng nghe rơ , copy 20/20 lệnh chiếm mục tiêu 5 phút trước 0 giờ .
-Se sẻ nghe rơ copy 20/20.
Nh́n mặt đồng hồ dạ quang , chỉ c̣n đúng 5 phút là 0 giờ , xoay người trong tư thế thuận tiện nhất , nhẹ nhàng đẩy khẩu pháo chống tăng M72 lên mu cỏ , lách qua đám lau sậy , nhắm đúng lổ châu mai của địch , thẳng tiến chiếm mục tiêu như đả định .
Để pháo trong lổ châu mai đă được mười phút , nhắc ống liên hợp , xin lệnh của Đại Bàng
-Se sẻ gọi Đại Bàng , đă khống chế mục tiêu được mười phút , bây giờ đă qua giờ giao thừa xin lệnh khai hoả , copy .
-Đại Bàng nghe rơ , lệnh khai hoả , nghe rơ , copy .
-Se sẻ nhận lệnh , copy 20/20
Tiếng pháo nổ đùng , tiếng quân địch rên ư ử .
-Se sẽ báo cáo Đại Bàng mục tiêu hoàn tất , làm chủ t́nh h́nh điểm G .nghe rơ , copy .
-Đại Bàng nghe rơ nhiệm vụ hoàn tất , có khen thưởng , copy.
Đó là lần một quả pháo M72 trong ṿng mười phút chiếm mục tiêu hai năm .
" Nhất quả , quá nhị niên".
:hafppy::hafppy::haf ppy::hafppy:
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1519211&stc=1&d=1579888536
Gởi chúc đến toàn thể Ban điều hành và ACE năm con chuột an khang thịnh vượng đầy may mắn
cha12 ba
01-24-2020, 18:03
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1519190&stc=1&d=1579884337
hoanglan22
01-24-2020, 19:27
Cư dân gốc Việt sống tại Little Saigon không ai xa lạ với h́nh ảnh người phụ nữ gầy rạc, nhem nhuốc, đen đủi, vai đeo cái túi, tay cầm ly cà phê dang dở, hàng ngày đi lang thang dọc theo lề phố Bolsa.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1519244&stc=1&d=1579893777
Đằng-Giao/Người Việt
WESTMINSTER, California (NV) – Cư dân gốc Việt sống tại Little Saigon không ai xa lạ với h́nh ảnh người phụ nữ gầy rạc, nhem nhuốc, đen đủi, vai đeo cái túi, tay cầm ly cà phê dang dở, hàng ngày đi lang thang dọc theo lề phố Bolsa.
Người phụ nữ bước đi, lúc lầm lũi, yên lặng, lúc bỗng dưng hung dữ, vô cớ chửi bới vang trời. Ít người biết, người phụ nữ này từng là hoa khôi, là ca sĩ của Little Saigon, những năm 80 của thế kỷ trước.
Ông Lư Văn Điệp, cư dân Westminster, nh́n người đàn bà đang trong cơn thịnh nộ qua cửa kính xe hơi. Ông quay kính xuống, lắc đầu rồi nói: “Tội nghiệp!”
Bà Phan Hoàng Yến, chủ nhà sách Tú Quỳnh nói về người đàn bà này bằng giọng nhỏ nhẹ: “Mỗi lần cô ấy vô đây, tôi phải nhẫn nhịn, yên lặng để mặc cô ấy muốn làm ǵ th́ làm. Coi vậy chứ rất khó v́ nhiều lần, cô ấy la lối um sùm làm khách lạ sợ hăi. Khách quen th́ họ quá biết cô ấy là người vô hại nên làm lơ. Tôi coi cô ấy như con cháu trong nhà thôi. Cô ấy ra chơi ngoài này từ hồi xưa rồi.”
Bà nói với giọng thông cảm: “Con người ai cũng có lúc thoải mái, lúc bực bội. Người tỉnh táo th́ mới biết kiềm chế chứ. Hồi đó cô ấy cũng tiểu thơ khuê các chớ đâu phải thường.”
Rất nhiều lần, “bà điên homeless” này, v́ không vừa ư điều ǵ đó, đă đổ ly cà phê trên tay lên sách vở của nhà sách Tú Quỳnh. Bà quơ tay, quơ chân chửi bới oang oang một lúc rồi … trở nên b́nh thường.
“V́ biết quá khứ cô ấy, tôi ráng mà ch́u sự phá phách của cô thôi. Được cái là cô không bao giờ hành hung người khác nên tôi cũng yên tâm,” bà Yến cho biết.
Bà chỉ cuốn sách mang tựa đề “Share Pḥng, Share T́nh” của tác giả Lâm Tường Dũ. H́nh b́a là một cô gái trẻ có khuôn mặt vô cùng lôi cuốn: “Đó, cô ấy hồi trước đó. Đẹp như công chúa mà bây giờ như vầy, ai mà không thấy thương.”
Bà nhấn mạnh: “Hồi đó cô ấy là một ca sĩ, rất đẹp. Ca sĩ Kim Ngân.”
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1519245&stc=1&d=1579893777
Kim Ngân qua ống kính Trần Đ́nh Thục trong h́nh b́a tiểu thuyết Share Pḥng, Share T́nh. (H́nh: Đằng-Giao/Người Việt)
Nhà hàng Thành Mỹ cũng là một nơi từng biết về cựu ca sĩ Kim Ngân. Bà chủ nhà hàng, được mọi người gọi là “cô Ba nhà hàng Thành Mỹ”, thường giúp đỡ bà Kim Ngân.
“Cô Ba” kể: “Kim Ngân ghé đây thường lắm. Được cái là cô ấy chưa bao giờ lớn tiếng hay phá phách ở đây. Vô đây, cô ấy chỉ khi th́ xin tiền, khi th́ xin đồ ăn. Chỉ qua cách cô ấy ‘order’ đồ ăn là ḿnh biết ngay đây là người có một quá khứ ‘ngon lành’ lắm. Tô phở phải có rau giá thiệt tươi, và phải sắp xếp trên đĩa thiệt đẹp mới chịu ăn.”
“Thường thường, ăn xong, cô ấy vô ‘restroom’ lau chùi ḿnh mẩy rồi chải tóc,” bà thêm.
“Cô Ba nhà hàng Thành Mỹ” nhận xét thêm về Kim Ngân: “Hút thuốc lá th́ cô ấy tự ra ngoài chứ không cần ai nhắc. Nhiều lần nh́n phong cách của Kim Ngân, cách cầm điếu thuốc, cách đưa lên miệng hút, tôi thấy một cái ǵ rất ‘oai’, rất ‘sang trọng, quí phái. Cuộc sống khổ cực, theo tôi, không làm mất đi tiềm thức của cô.”
Các nhân viên tiệm Food to Go Hương Hương, Westminster, thường giúp bà Kim Ngân bằng cách bán thức ăn với giá rẻ. Họ nói: “Cô ấy chưa bao giờ xin nên chúng tôi bán giá đặc biệt. Cô ấy hay gây gỗ với khách làm tụi tôi khó xử. May là cô chưa tấn công ai bằng chân tay hết.”
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1519246&stc=1&d=1579893777
Bà Kim Ngân trong Food to Go Hương Hương. (H́nh: Đằng-Giao/Người Việt)
Họ nói thêm: “Trời ơi, coi vậy chứ cô này đài các lắm, kiếm chuyện chê bai đủ thứ chứ không phải thường đâu.”
Khắp phố Bolsa, hầu như ai cũng cảm thương người ca sĩ trẻ đẹp trong quá khứ, từng ngấp nghé ngưỡng cửa của thành công, rồi lại lâm vào cảnh không may đến nỗi phải ra nông nỗi này.
Quá khứ ch́m sâu trong trí óc rối bời bời như mớ ḅng bong, không dễ dàng trở về chút nào. Kim Ngân cũng thế.
Kiều nữ một thời của Little Saigon phải cố gắng lắm th́ quá khứ mới về dần, từng đợt, từng đợt. Quá khứ ấy lẫn lộn với những ưu tư, đôi khi đến vớ vẩn, của cuộc sống hiện tại; nên thoạt nghe, người ta tưởng rằng tất cả những ǵ thốt ra từ miệng chỉ là một chuỗi lảm nhảm của một người mất trí.
Để có thể nghe được từng nốt thăng trầm của cuộc đời một người từng làm các vũ trường, sân khấu ca nhạc Little Saigon hực cháy v́ dung nhan đầy ma lực của ḿnh, chỉ cần kiên nhẫn một chút. Vâng, hăy kiên nhẫn lắng nghe bà, với chút t́nh người, và cả một chút cảm thông.
Điều đầu tiên mà những người từng biết bà, nay nhắc lại, là: Bà từng là một người rất đẹp, cái đẹp có hấp lực mê hồn, pha chút liêu trai.
Hăy lắng nghe bà Kim Ngân nói về đời ḿnh: “Kim Ngân sang đây năm 1975 với má và hai em, một gái, một trai. Năm đó Kim Ngân 12 tuổi và không rành tiếng Việt v́ hồi ở Việt Nam chỉ học tiếng Pháp từ lúc 5 tuổi, cho tới khi đi Mỹ.”
Bà ngừng nói, dùng những ngón tay xinh xắn thuôn dài, những ngón tay cáu đen đất cát không dấu được nét thanh tao của một thời đài các, xé nhỏ miếng chả lụa trong đĩa bánh cuốn, cho vào miệng rồi trệu trạo nhai trong cái miệng không đủ răng. Phải một lúc lâu mà mới nuốt được một miếng nhỏ.
Rồi bà quay lại câu chuyện, nhớ lại từng chi tiết, một cách khó khăn. Khi chưa rời Việt Nam, gia đ́nh Kim Ngân ở đường Hoàng Diệu, khu Khánh Hội, và thân mẫu làm “tài pán” cho vợ chồng ông Ưng Thi, chủ rạp ciné Rex ở Quận Nhất, Sài G̣n.
Bà khẽ nhăn vầng trán nhỏ nhắn mịn màng gần bị nắng mưa tàn phá, chớp cặp mắt tinh anh, cố đuổi bắt một kỷ niệm đẹp rồi nhoẻn cười, nhỏ nhẹ khoe: “Tất cả là nhờ bố Hải. Bố thương Kim Ngân lắm, bố chỉ cho Kim Ngân hát hoài.”
Thật vậy, người dẫn dắt cô bé 22 tuổi Kim Ngân vào con đường văn nghệ năm 1983 là nhạc sĩ Trường Hải.
“Bà xă tôi quen với mẹ Kim Ngân là bà Vơ Thị Nhơn, có tên Mỹ là Annie. Lúc ấy Kim Ngân c̣n trẻ lắm và vô cùng xinh đẹp mà cũng biết ca chút ít nên tôi mời cháu hát bản ‘Không!’ của Nguyễn Ánh 9 cho cuốn video đầu tiên của Trung Tâm Trường Hải tại Hoa Kỳ mang chủ đề ‘KHÔNG!’,” nhạc sĩ Trường Hải kể.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1519247&stc=1&d=1579893777
Kim Ngân thời trong “KHÔNG!” của nhạc sĩ Trường Hải. (H́nh: Poster do ông Trường Hải cung cấp)
Video “KHÔNG!”, sản xuất năm 1983, là cuốn video Việt Nam đầu tiên được sản xuất tại hải ngoại. Ngoài Kim Ngân c̣n có những giọng ca kỳ cựu như Trường Hải, Elvis Phương, Lê Uyên Phương, v.v..
Ông lặng người hồi tưởng rồi khẽ khàng nói: “Ấn tượng đầu tiên của tôi về Kim Ngân là cô rất đam mê ca hát mặc dù giọng hát của cô không phải là xuất sắc, cô lại không rành tiếng Việt cho lắm. Phải mất thời gian tập luyện rất công phu mới thu âm xong bài ‘Không!’”
“Nhưng chỉ thấy mặt cô là tôi không cần phải lo.” Ông Trường Hải thú nhận. “Quả thật cô ca bài đó rất có ‘lửa’ và cuốn băng ấy bán rất chạy và được rất nhiều người khen.”
“Vua Guitar” Trung Nghĩa, “Mười ngón tay vàng,” cũng không quên được vẻ đẹp của ca sĩ Kim Ngân thời ấy. Ông khẳng định: “Kim Ngân vào thời 1985 là một mỹ nhân của Bolsa. Đệ nhất mỹ nhân, chẳng thua kém ai cả. Kim Ngân đẹp kinh khủng. Vừa đẹp vừa sang cả như một tiểu thư trong cổ tích. Tất cả mọi pḥng trà thời đó, chỉ cần có in h́nh cô là bán hết bàn; không cần biết có cô tŕnh diễn hay không.”
Ca sĩ Kiều Nga vui vẻ nói về Kim Ngân: “Chị Kim Ngân rất ‘sexy,’ dễ thương và cởi mở với tất cả mọi người. Chị ấy đẹp tới nỗi đàn bà cũng phải mê.”
Nhạc sĩ Anh Tài cũng có ấn tượng riêng về Kim Ngân. “Nhắc tới Kim Ngân là tôi nhớ một bản nhạc Pháp, duy nhất – Adieu Sois Heuse. Không thể nào quên được Kim Ngân hát bài này,” ông nói.
Bà Kim Ngân cười nhưng nghiêm giọng: “Muốn hay, mỗi bản nhạc phải có linh hồn riêng.”
Ca sĩ Giáng Ngọc cũng nhớ rơ quăng thời gian ca sĩ Kim Ngân tŕnh diễn chung sân khấu với nhóm “Ma Nữ Đa T́nh” gồm năm ca sĩ Giáng Ngọc, Thúy Vi, Zaza Minh Thảo và Ngọc Anh và Linda Trang Đài. Giáng Ngọc kể: “Chị Kim Ngân rất đẹp, nhưng đặc biệt, rất b́nh dị, dễ thương và ḥa đồng với mọi người. Nhạc chị hát có vẻ nhộn nhịp hơn ca sĩ Ngọc Lan.”
Bà Kim Ngân cố t́m ṭi trong kư ức rồi gật đầu: “’Ma Nữ Đa T́nh’ ‘quậy’ lắm. Người nào cũng nhảy giỏi, hát hay và tốt bụng. Mỗi lần lên sân khấu là đàn ông, con trai la hét vỗ tay quá trời. Vui ơi là vui.”
Ông Triệu Thái Ḥa, cư dân Fountain Valley, là khán giả rất “trung thành” của Kim Ngân. Để tả về nhan sắc cô, ông có ba chữ: Yêu kiều, khả ái và mê hồn.
Ông cười bẽn lẽn nói: “Hồi năm 1986, tôi c̣n ở Dallas, Texas. Lần đầu tiên được nh́n thấy cô bằng xương, bằng thịt, chân tay tôi rụng rời, c̣n tim th́ … đứng im. Tôi ngộp thở. Mà tôi đâu phải mới lớn đâu. Lúc đó tôi có bốn đứa con, ba người vợ – hai bà ở Việt Nam, một bà mới cưới bên này. Nói thiệt, lúc đó, chỉ cần Kim Ngân gật đầu một cái, tôi sẵn sàng bỏ tất cả để theo cô.
“Gia đ́nh tôi gốc Hồng Kông, tôi dư tiền lo cho cô sang giàu suốt đời. Tới năm 1997, khi nghe cô ấy ca tôi vẫn c̣n nghĩ vậy mà,” ông Ḥa t́nh thật nói.
Ông Trần Hữu Hoan, ngụ tại Westminster, cũng từng bị sắc đẹp của ca sĩ Kim Ngân lôi cuốn: “Lần đầu nghe Kim Ngân hát ở vũ trường Majestic, cô bạn gái của tôi tên Hoa, v́ thấy tôi ngẩn mặt ra nh́n Kim Ngân nên cô ấy hất đổ ly rượu trên bàn ướt lênh láng rồi hùng hục giật bóp bỏ về. C̣n tôi th́ măi nh́n Kim Ngân trên sân khấu nên không muốn chạy theo. Người đâu mà xinh xắn lại nóng bỏng lạ lùng.”
Ông Nam Nguyễn, cư dân Westminster, dường như có vẻ “cứng rắn” hơn. Ông kể: “Nhan sắc của Kim Ngân làm đàn ông say hơn say rượu nặng. Tôi không mê cô chút nào, nhưng hồi đó, cô hát ở đâu là tôi có mặt ở đó. Có lần tôi phải bay qua New Orleans (Louisiana), để ngắm cô v́ hơn ba tháng liên tiếp cô không hát ở đây (khu Little Saigon).”
“Lúc đó tôi mới hiểu rằng nếu anh em, bạn bè mà bỏ nhau v́ cô, tôi chấp nhận,” ông thêm.
Bà Diễm Hoàng, ngụ tại Fountain Valley, lại có nhận xét khác: “Tôi th́ nhớ là hồi đó cô này lên sân khấu là nhảy nhót, uốn éo như con điên.”
Năm 1982, ca sĩ Kim Ngân lấy chồng là Nguyễn Tiến Bắc, em trai bà Dương Thị Thanh Lan, giám đốc trung tâm phát hành băng nhạc Thanh Lan, năm cô 19 tuổi. Họ có hai đứa con gái, Mai Khanh và Thúy Anh.
Bà Kim Ngân nói: “Mai Khanh lớn hơn Thúy Anh 3 tuổi, năm nay 30 tuổi rồi.” Thở dài, mắt nh́n xa xăm một lúc, bà hỏi một câu hỏi rất đàn bà: “Con lớn như vậy Kim Ngân có già không?”
Đến năm 1993 th́ Kim Ngân không ở với ông Tiến Bắc nữa. Hỏi về chuyện này, bà lặng thinh một lúc lâu rồi thở dài và hỏi: “Chuyện vui không nói, sao nói chuyện buồn? Đàn ông mà, không ai có linh hồn hết.”
Đă có lúc bà có trung tâm phát hành băng nhạc riêng – Trung tâm Kim Ngân (gần tiệm Hủ Tiếu Thanh Xuân ngày nay).
Thế rồi, đến một lúc, Kim Ngân thay đổi. Các đồng nghiệp nói bà bắt đầu trễ năi, không đúng hẹn, ăn nói không cẩn thận và lem nhem tiền bạc làm nhiều người không hài ḷng. “Kim Ngân buồn th́ ‘chơi’ cho đỡ buồn chứ đâu có lường gạt ai đâu mà xấu xa,” bà phân bua.
Năm 1996, bà Kim Ngân có thêm một đứa con trai nữa. Đứa bé này được nhân viên Sở Xă Hội đến đem đi. Lúc đó. Em bé vừa một tuổi.
Ca sĩ Lê Uyên nói với giọng thương tâm: “Thấy thương, tôi đưa hai mẹ con về ở chung cả năm. Trời ơi, thằng nhỏ hơn một tuổi mà nhỏ xíu như đứa bé bốn tháng. Nó cũng không biết đi v́ mẹ nó cứ cặp nó trên nách suốt ngày. Mà lại c̣n thiếu ăn nữa. Nhà có sữa mà mẹ nó chỉ cho bú nước mới lạ lùng. Ḿnh cho nó bú th́ Kim Ngân không chịu.”
Thời gian này, trí óc bà Kim Ngân vẫn c̣n lúc tỉnh, lúc mê.
Kim Ngân khoe là vào năm 2003, bà vẫn c̣n vừa đi hát vừa học làm răng giả. Bà nói: “Khi đó tôi ở Fountain Valley. Hát không đủ tiền nên tôi ráng kiếm nghề đàng hoàng nuôi con.” Lúc này, con bà đă không ở với bà rồi.
Hỏi về đứa con trai, bà Kim Ngân lộ vẻ bực bội: “Hai đứa lớn, người ta bắt đi v́ Kim Ngân làm biếng, không chịu bồng con. Đứa này, ḿnh bồng ngày, bồng đêm mà cũng tới bắt mất tiêu.”
Bà Yến bỏ cuốn sách có h́nh ca sĩ Kim Ngân trẻ đẹp xuống, bà nói: “Đă có mấy lần các nghệ sĩ tổ chức ca nhạc gây quĩ cho Kim Ngân. Họ thương cô ấy lắm.”
“Có. Tôi và Trung Nghĩa cùng một số ca sĩ khác từng tổ chức buổi văn nghệ ngay tại ṭa soạn báo Người Việt quyên tiền cho Kim Ngân. Được một số tiền nhưng không dám đưa hết cho cô ấy v́ sợ cô ấy hút chích. Tôi chỉ giữ $3,000 để mua thức ăn cho hai mẹ con Kim Ngân thôi,”ca sĩ Lê Uyên kể.
Bà Yến nói: “Má Kim Ngân cũng nhiều lần khuyên cô ấy cai nghiện nhưng không được. Cô ấy nói rằng ḿnh là người tự do và không chịu bị nhốt vô một chỗ.”
“Bây giờ không ai biết Kim Ngân có trợ cấp xă hội hay không và có chịu uống thuốc tâm thần hay không,” bà Kim Yến lắc đầu cho hay.
Ông Daniel Rascon, ngụ tại Westminster, biết bà Kim Ngân mười mấy năm trước khi bà hay vào khu nhà tiền chế, mobile home, là khu ông ở, có tên Rancho de Sol tại góc đường Bolsa và Brookhurst. Ông nói: “Cô ấy giới thiệu tên ḿnh là ‘Kim’ nhưng tôi hay gọi cô là ‘Olivia’ v́ cô gầy như một nhân vật phim hoạt h́nh tựa đề ‘Popeye’.”
“Tôi cho cô ở trong mobile home với tôi một thời gian. Nhà chật nên cô ngủ trên air mattress (giường bơm hơi). Tôi nhớ là cô rất ít ngủ. Ban đêm, cứ chừng một tiếng cô lại ra ngoài hút thuốc hay làm ǵ đó với vài người quen nữa. Tôi hỏi họ là ai th́ cô nói là ‘boss’ của cô. Sau đó tôi gặp trục trặc hôn nhân nên dọn đi nơi khác. Tôi quay lại nhà này cách đây bốn năm. Năm ngoái, cô đến gơ cửa nhiều nhà trong khu này xin vô ở. Tôi nhận ra cô nên đồng ư,” ông Rascon phân trần.
“Gần đây, một người đàn bà trong gia đ́nh cô, tên Jan hay Jane, tôi không rơ, có tiếp xúc với tôi qua điện thoại và đề nghị mua mobile home của tôi để cô Kim ở luôn nhưng tôi chưa quyết định,” ông Rascon cho hay.
Ông kể rằng nhiều lần ông về trễ nên bà Kim Ngân phải đứng tựa lưng vào tường chờ đợi rất mệt mỏi. Ông cũng nói bà cứ nằm tạm ở trước cửa ra vô cho đỡ mệt nhưng chưa bao giờ bà làm vậy. Bà Kim Ngân quắc mắt: “Kim Ngân đâu phải con chó giữ nhà. Con người phải giữ linh hồn chứ.”
Theo lời ông Rascon, lần cuối bà Kim Ngân về nhà ông là ngày 11 Tháng Mười Hai, 2015. Ông mừng cho bà Kim Ngân đă có người chăm sóc.
Bà Kim Ngân gọi người đàn bà này là “má Yến.” Kim Ngân kể: “Má Yến lo cho Kim Ngân chỗ ăn, chỗ ở bên này. Kim Ngân không phải ‘homeless’.”
Hiện thời, bà Vơ Thị Nhơn, mẹ bà Kim Ngân, đă tái định cư tại Việt Nam và cũng đă có lúc đưa bà về nước nhưng sau đó Kim Ngân lại đ̣i quay lại Mỹ. “Ḿnh ở xứ này quen rồi. Quen người ta, quen con đường. Con đường có linh hồn của nó.” bà Kim Ngân nói.
Ca sĩ Lê Uyên đang dự trù tổ chức một buổi văn nghệ nữa để giúp Kim Ngân trong thời gian tới. Bà mong sẽ được khán giả mọi nơi đến tham dự đông đảo. “Vấn đề khó nhất bây giờ là phải làm sao cho Kim Ngân ăn mặc sạch sẽ và có mặt hôm đó,” ca sĩ Lê Uyên chia sẻ nỗi lo.
Để đóng góp cho chương tŕnh này, nhạc sĩ Trường Hải gởi tặng một poster chính gốc cho video “KHÔNG!” để kỷ niệm thành quả đầu tiên của bà Kim Ngân năm 1983.
Dưới màn nước tầm tă của trận băo El Nino, bà Kim Ngân, toàn thân ướt sũng, vẫn cầm ly cà phê lủi thủi đi bên lề con đường Bolsa trơn trượt. Không rơ bà có biết trời đang mưa.
Một điều được bà nhắc đi, nhắc lại một cách bực bội và đay nghiến, mỗi khi bà nói về đàn ông. Bà gằn giọng: “Đàn ông Việt Nam ai cũng có một câu giống nhau: ‘Anh có nhiều bạn gái nhưng mà anh chỉ yêu có ḿnh em’.” VS chuyen
Dư âm của một t́nh khúc buồn cho những linh hồn quá khứ?
(Đằng-Giao)
trungthu
01-25-2020, 02:37
[QUOTE=trungthu;38187 57]Lời nói này của thi bá Vũ Hoàng Chương ...văng vẳng đến ngàn thu...
Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng, vơ vẫn cùng mây.
:handshake:https://i.ibb.co/r4sYNqn/ng-Dung1.jpg
Năm hết , tết đến ...tiễn heo đi đập chuột tới... đám em út chẳng có cái ǵ để mừng tuổi lăo đại, vừa qua trong trong lúc dọn dẹp nhà cửa để ăn tết th́ t́m được tấm h́nh tui chụp cho lăo đại trước khi lăo đại tuyên bố.." bẻ kiếm bên trời ".Tui với bác phố khuya phải đem vào pḥng tối rửa tấm h́nh mấy ngày mới xong ...Nay " ĺ x́ " cho lăo đại như một món quà xuân ..dể cho lăo đại lúc xuất định ở núi Nga My đu đuôi bạch tượng nh́n tấm h́nh ḿnh trên vách núi cũng đỡ cô đơn...
C̣n đám bạn bè ở xóm chùa ( hoang lan, pho khuya, tbbt , Sly Guy ...)chắc chăn nói tui không công bằng , sao chỉ có lăo đại là có h́nh , c̣n mọi người th́ không có...tui nói thiệt , tui không có rành nghề làm h́nh lắm...tuy vậy để tạ tội với chư huynh đệ ở đây , tui sẽ bật mí một phần của " chuyện t́nh tui " có dính dáng tới chuột...
Trong chuyện t́nh nam nữ th́ thể hiện những cách yêu đương của 3 miền khác nhau....qua những câu ca dao dí dỏm...
__ Miền bắc th́ " Yêu nhau cởi áo cho nhau... "
__ Miền trung th́ rên rỉ, đau khổ để cho chuyện t́nh nó nên thơ ...như lời của thi sĩ M.L.P :
-----------" Phố cao vách núi trông người
-----------Trong sâu đám ngải xứ Hời c̣n tin.. "
__T́nh yêu của người miền Nam thẳng thắn và thực tế hơn...Tui nhớ ngày xưa khi ông già tui gởi tui xuống miền dưới để học luyện thi.., cô con gái bà chủ nhà và tôi luyện thi đá lông nheo với nhau..., cứ một vài ngày là tui phải ḅ vào pḥng nàng lúc ban đêm để " tâm sư " ....Mèng đéc quỷ thần ơi ...cứ vào buổi chiều gần xẫm tối là nàng chơi 2 câu ca dao Nam bộ bên lỗ tai tui :
__ Chuột kêu chít chít trong rương .
__ Anh đi cho khéo đụng giường mẹ hay...
Mượn lời của lăo đại tui chúc các anh em và gia đ́nh moị sự như ư và khi vào sân chơi VBF th́ :
___Chúc nhau CHƠI khỏe như trâu.
___CHƠI dai như đỉa, CHƠI lâu như rùa...
trung thu
[QUOTE=longhue;381920 8]https://i.ibb.co/r4sYNqn/ng-Dung1.jpg
Năm hết , tết đến ...tiễn heo đi đập chuột tới... đám em út chẳng có cái ǵ để mừng tuổi lăo đại, vừa qua trong trong lúc dọn dẹp nhà cửa để ăn tết th́ t́m được tấm h́nh tui chụp cho lăo đại trước khi lăo đại tuyên bố.." bẻ kiếm bên trời ".Tui với bác phố khuya phải đem vào pḥng tối rửa tấm h́nh mấy ngày mới xong ...Nay " ĺ x́ " cho lăo đại như một món quà xuân ..dể cho lăo đại lúc xuất định ở núi Nga My đu đuôi bạch tượng nh́n tấm h́nh ḿnh trên vách núi cũng đỡ cô đơn...
C̣n đám bạn bè ở xóm chùa ( hoang lan, pho khuya, tbbt , Sly Guy ...)chắc chăn nói tui không công bằng , sao chỉ có lăo đại là có h́nh , c̣n mọi người th́ không có...tui nói thiệt , tui không có rành nghề làm h́nh lắm...tuy vậy để tạ tội với chư huynh đệ ở đây , tui sẽ bật mí một phần của " chuyện t́nh tui " có dính dáng tới chuột...
Trong chuyện t́nh nam nữ th́ thể hiện những cách yêu đương của 3 miền khác nhau....qua những câu ca dao dí dỏm...
__ Miền bắc th́ " Yêu nhau cởi áo cho nhau... "
__ Miền trung th́ rên rỉ, đau khổ để cho chuyện t́nh nó nên thơ ...như lời của thi sĩ M.L.P :
-----------" Phố cao vách núi trông người
-----------Trong sâu đám ngải xứ Hời c̣n tin.. "
__T́nh yêu của người miền Nam thẳng thắn và thực tế hơn...Tui nhớ ngày xưa khi ông già tui gởi tui xuống miền dưới để học luyện thi.., cô con gái bà chủ nhà và tôi luyện thi đá lông nheo với nhau..., cứ một vài ngày là tui phải ḅ vào pḥng nàng lúc ban đêm để " tâm sư " ....Mèng đéc quỷ thần ơi ...cứ vào buổi chiều gần xẫm tối là nàng chơi 2 câu ca dao Nam bộ bên lỗ tai tui :
__ Chuột kêu chít chít trong rương .
__ Anh đi cho khéo đụng giường mẹ hay...
Mượn lời của lăo đại tui chúc các anh em và gia đ́nh moị sự như ư và khi vào sân chơi VBF th́ :
___Chúc nhau CHƠI khỏe như trâu.
___CHƠI dai như đỉa, CHƠI lâu như rùa...
trung thu
Trong này th́ chắc ḿnh nhỏ tuổi hơn mấy Bạn rồi ... nói thật Ba ḿnh là sĩ quan VNCH ( thuộc quân y viện ) tuổi tác của ḿnh th́ chưa tới 50 nên ḿnh tự nhận làm đệ tử hoặc em út cho lể phép ... Chữ nghĩa ḿnh hạn hẹp nên hay viết sai chính tả và không biết văn chương thơ phú như mấy Bạn .. xin thông cảm
Ah ha ...Về chuyện t́nh lúc tuổi mới lớn th́ ḿnh nghĩ chắc mấy Bạn ai cũng có những quá khứ đẹp ..ṭ ṃ ..lén lúc .. hồi hợp .. táo bạo .. dại khờ .. ngốc nghếch .... Phải không ? .............. lâu lâu nghĩ lại cũng thấy vui
:rolleyes:
Chúc tất cả Anh Chị Em vbf năm Canh Tư 2020 sức khỏe dồi dào, vạn sự như ư và an khang thịnh vượng_
[QUOTE=longhue;381920 8]https://i.ibb.co/r4sYNqn/ng-Dung1.jpg
Năm hết , tết đến ...tiễn heo đi đập chuột tới... đám em út chẳng có cái ǵ để mừng tuổi lăo đại, vừa qua trong trong lúc dọn dẹp nhà cửa để ăn tết th́ t́m được tấm h́nh tui chụp cho lăo đại trước khi lăo đại tuyên bố.." bẻ kiếm bên trời ".Tui với bác phố khuya phải đem vào pḥng tối rửa tấm h́nh mấy ngày mới xong ...Nay " ĺ x́ " cho lăo đại như một món quà xuân ..dể cho lăo đại lúc xuất định ở núi Nga My đu đuôi bạch tượng nh́n tấm h́nh ḿnh trên vách núi cũng đỡ cô đơn...
C̣n đám bạn bè ở xóm chùa ( hoang lan, pho khuya, tbbt , Sly Guy ...)chắc chăn nói tui không công bằng , sao chỉ có lăo đại là có h́nh , c̣n mọi người th́ không có...tui nói thiệt , tui không có rành nghề làm h́nh lắm...tuy vậy để tạ tội với chư huynh đệ ở đây , tui sẽ bật mí một phần của " chuyện t́nh tui " có dính dáng tới chuột...
Trong chuyện t́nh nam nữ th́ thể hiện những cách yêu đương của 3 miền khác nhau....qua những câu ca dao dí dỏm...
__ Miền bắc th́ " Yêu nhau cởi áo cho nhau... "
__ Miền trung th́ rên rỉ, đau khổ để cho chuyện t́nh nó nên thơ ...như lời của thi sĩ M.L.P :
-----------" Phố cao vách núi trông người
-----------Trong sâu đám ngải xứ Hời c̣n tin.. "
__T́nh yêu của người miền Nam thẳng thắn và thực tế hơn...Tui nhớ ngày xưa khi ông già tui gởi tui xuống miền dưới để học luyện thi.., cô con gái bà chủ nhà và tôi luyện thi đá lông nheo với nhau..., cứ một vài ngày là tui phải ḅ vào pḥng nàng lúc ban đêm để " tâm sư " ....Mèng đéc quỷ thần ơi ...cứ vào buổi chiều gần xẫm tối là nàng chơi 2 câu ca dao Nam bộ bên lỗ tai tui :
__ Chuột kêu chít chít trong rương .
__ Anh đi cho khéo đụng giường mẹ hay...
Mượn lời của lăo đại tui chúc các anh em và gia đ́nh moị sự như ư và khi vào sân chơi VBF th́ :
___Chúc nhau CHƠI khỏe như trâu.
___CHƠI dai như đỉa, CHƠI lâu như rùa...
trung thu
Cảm ơn bạn già đă tặng tui tấm h́nh làm kỹ nghệ nha, chao ui sao tấm h́nh thấy ngầu quá với lại bài thơ thi tui không hiểu hết nổi cái ư thâm sâu bên trong. Dường như tỏ ḷng ai oán trước vận nước thù nhà với tấm ḷng hoài cổ một triều đại nào đă mất th́ phải có phải không bạn hiền. Có phải bạn ḿnh muốn gửi gấm tâm sự lẫn nổi ḷng người đi tha hương hay không nữa. C̣n vấn đề người của ba miền th́ tui xin nói rơ tui là dân Nam Kỳ rặc cho nên thích hai câu ca dao hay tục ngữ ǵ ǵ đó.
Chuột kêu chít chít trong rương .
Anh đi cho khéo đụng giường mẹ hay...
Mà tui nào có được cái may mắn như bạn ḿnh đâu, thiệt là uổng phí một đời nam nhi chi chí cho nên rữa tay gát kiếm đi tu là phải rùi.
Trót mườn đường tu về bến giác
Th́ duyên t́nh ái tạm mà thôi
Từ đây khép kín duyên hương lữa
Thẳng bước đường tu khép cuộc đời.
Ha...ha...ha...:hafp py: bác TT hùi nhỏ như vầy hèn chi giờ c̣n thèm phở:)
Chuột kêu chít chít trong...hang
Anh "làm" ko khéo em mang bụng bầu:hafppy::hafp py:
C̣n lăo đại ca nầy tui xử chả ở bên cơm phở:hafppy:
hoanglan22
01-27-2020, 17:45
Mời nghe bản nhạc để nhớ lại
WBOsx7a6tJo
[QUOTE=trungthu;38274 20]
Ah ha ...Về chuyện t́nh lúc tuổi mới lớn th́ ḿnh nghĩ chắc mấy Bạn ai cũng có những quá khứ đẹp ..ṭ ṃ ..lén lúc .. hồi hợp .. táo bạo .. dại khờ .. ngốc nghếch .... Phải không ? .............. lâu lâu nghĩ lại cũng thấy vui
:rolleyes:
H́… h́… hé nô…hé nô bồ tèo Slyguy:handshake:
Nghĩ lại cũng thấy vui nhưng nhớ chớ nên gặp lại :eek:
tbbt có 3 mối t́nh rất sâu đậm trong đời! kinh nghiệm của tôi là sau khi chia tay rồi th́ nên giữ…bóng dáng, khuôn mặt trẻ đẹp, tánh t́nh hiền dịu…người yêu “giấu” đó trong tim th́ mối t́nh đó đẹp măi với thời gian…(t́nh chỉ đẹp khi c̣n dang dở! là thế.) là kỷ niệm đẹp…hành trang luôn mang theo trên người cho tới cuối cuộc đời!:eek:
Mối t́nh sâu đậm đầu tiên tbbt gặp lại nàng sau 23 năm là do bạn bè có dịp hội tụ. Gặp lại nhau nàng 4 con, tăng cân, già hẳn đi...không thể nh́n ra người con gái đẹp như trăng rằm, tánh t́nh dịu hiền đoan trang thục nữ năm nào (mối t́nh hoc tṛ ở VN) bỗng nhiên biến mất không c̣n trong tâm trí tbbt nữa… :112: mặc dù tbbt đă chuẩn bị sẳn tư tưởng! một thất vọng buồn và tự trách ḿnh tại sao lại phải cố t́m gặp lại nhau chi…:112:để rồi phải chi…!!!:mad:
Từ đó tbbt không muốn gặp lại 2 mối t́nh cũ c̣n lại và muốn h́nh ảnh xưa đẹp đó măi trong tâm hồn! nhưng v́ biến cố đại tang người thứ hai xuất hiện đến chia buồn! (h́nh như mọi người đàn bà đều ṭ ṃ muốn biết và muốn gặp lại người xưa…coi dung nhan đó bây giờ ra sao!?:o) Người con gái có nét đẹp kiêu sa, khả ái, dịu dàng của ngày xưa thân ái ấy…(mối t́nh đầu tbbt “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy…”) đă tan biến một lần nữa trong tâm trí tbbt!:112: Nhan sắc nàng tàn phai theo năm tháng…!!! mặc dù bạn bè đều nhận xét nàng vẫn c̣n đẹp mặn mà…nh́n trẻ trung nổi bật nhất trong đám bạn gái xưa cùng trang lứa tuổi bọn tôi.
Đó thấy không bồ tèo…:eek:đừng ṭ ṃ…:eek:thà để cái ấn tượng người yêu thời c̣n con gái trẻ đẹp son sắc trong tâm trí hay hơn nhé!:eek: Có bao giờ bạn ái mộ một nữ ca sĩ hay nữ tài tử trẻ xinh đẹp nào đó rồi bẳng đi một thời gian dài không thấy xuất hiện nữa th́ đùng một cái nh́n thấy lại trên tivi…bạn hụt hẩn không?
Người thứ 3 tới giờ chưa gặp (hên quá!) cách xa nhau 4, 5 tiểu bang, may mắn hơn 2 nàng kia tbbt con giữ tấm h́nh ăn ư nhứt của nàng khi c̣n trẻ gởi tặng + cả chục bức thư t́nh viết tay dạt dào t́nh yêu (mối t́nh học sinh ở Mỹ) lúc 2 người c̣n là nhớ nhớ thương thương:eek:
(Vài ba năm có dịp dọn dẹp sắp xếp pḥng hay nhà cửa (giấu kỹ lắm! :hafppy:) vô t́nh t́m thấy th́ lấy ra coi đọc lại mà ngẩn ngơ cả giờ đồng hồ…cất trở vô lại hay giấu chổ khác rồi 3,4 năm sau t́m thấy rồi…cứ thế cho đến nay!:))
Kinh nghiệm tbbt là thế! nhưng cũng có người v́ ṭ ṃ xem dung nhan đó bây giờ ra sao hay biết đâu sẽ là t́nh cũ không rủ cũng tới hoặc chế biến thành phở… tùy tâm tư t́nh cảm hoàn cảnh của mỗi người! riêng nàng thứ 2 của tôi v́ cả 2 c̣n ấm ức chuyện xưa nên sẳn dịp hỏi cho ra lẻ luôn…!:hafppy:
Tự nhiên tết đến ḷng xuân phơi phới nói nhiều quá…ha…ha…ha…:hafppy :
[QUOTE=SlyGuy;3827451]
H́… h́… hé nô…hé nô bồ tèo Slyguy:handshake:
Nghĩ lại cũng thấy vui nhưng nhớ chớ nên gặp lại :eek:
tbbt có 3 mối t́nh rất sâu đậm trong đời! kinh nghiệm của tôi là sau khi chia tay rồi th́ nên giữ…bóng dáng, khuôn mặt trẻ đẹp, tánh t́nh hiền dịu…người yêu “giấu” đó trong tim th́ mối t́nh đó đẹp măi với thời gian…(t́nh chỉ đẹp khi c̣n dang dở! là thế.) là kỷ niệm đẹp…hành trang luôn mang theo trên người cho tới cuối cuộc đời!:eek:
Mối t́nh sâu đậm đầu tiên tbbt gặp lại nàng sau 23 năm là do bạn bè có dịp hội tụ. Gặp lại nhau nàng 4 con, tăng cân, già hẳn đi...không thể nh́n ra người con gái đẹp như trăng rằm, tánh t́nh dịu hiền đoan trang thục nữ năm nào (mối t́nh hoc tṛ ở VN) bỗng nhiên biến mất không c̣n trong tâm trí tbbt nữa… :112: mặc dù tbbt đă chuẩn bị sẳn tư tưởng! một thất vọng buồn và tự trách ḿnh tại sao lại phải cố t́m gặp lại nhau chi…:112:để rồi phải chi…!!!:mad:
Từ đó tbbt không muốn gặp lại 2 mối t́nh cũ c̣n lại và muốn h́nh ảnh xưa đẹp đó măi trong tâm hồn! nhưng v́ biến cố đại tang người thứ hai xuất hiện đến chia buồn! (h́nh như mọi người đàn bà đều ṭ ṃ muốn biết và muốn gặp lại người xưa…coi dung nhan đó bây giờ ra sao!?:o) Người con gái có nét đẹp kiêu sa, khả ái, dịu dàng của ngày xưa thân ái ấy…(mối t́nh đầu tbbt “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy…”) đă tan biến một lần nữa trong tâm trí tbbt!:112: Nhan sắc nàng tàn phai theo năm tháng…!!! mặc dù bạn bè đều nhận xét nàng vẫn c̣n đẹp mặn mà…nh́n trẻ trung nổi bật nhất trong đám bạn gái xưa cùng trang lứa tuổi bọn tôi.
Đó thấy không bồ tèo…:eek:đừng ṭ ṃ…:eek:thà để cái ấn tượng người yêu thời c̣n con gái trẻ đẹp son sắc trong tâm trí hay hơn nhé!:eek: Có bao giờ bạn ái mộ một nữ ca sĩ hay nữ tài tử trẻ xinh đẹp nào đó rồi bẳng đi một thời gian dài không thấy xuất hiện nữa th́ đùng một cái nh́n thấy lại trên tivi…bạn hụt hẩn không?
Người thứ 3 tới giờ chưa gặp (hên quá!) cách xa nhau 4, 5 tiểu bang, may mắn hơn 2 nàng kia tbbt con giữ tấm h́nh ăn ư nhứt của nàng khi c̣n trẻ gởi tặng + cả chục bức thư t́nh viết tay dạt dào t́nh yêu (mối t́nh học sinh ở Mỹ) lúc 2 người c̣n là nhớ nhớ thương thương:eek:
(Vài ba năm có dịp dọn dẹp sắp xếp pḥng hay nhà cửa (giấu kỹ lắm! :hafppy:) vô t́nh t́m thấy th́ lấy ra coi đọc lại mà ngẩn ngơ cả giờ đồng hồ…cất trở vô lại hay giấu chổ khác rồi 3,4 năm sau t́m thấy rồi…cứ thế cho đến nay!:))
Kinh nghiệm tbbt là thế! nhưng cũng có người v́ ṭ ṃ xem dung nhan đó bây giờ ra sao hay biết đâu sẽ là t́nh cũ không rủ cũng tới hoặc chế biến thành phở… tùy tâm tư t́nh cảm hoàn cảnh của mỗi người! riêng nàng thứ 2 của tôi v́ cả 2 c̣n ấm ức chuyện xưa nên sẳn dịp hỏi cho ra lẻ luôn…!:hafppy:
Tự nhiên tết đến ḷng xuân phơi phới nói nhiều quá…ha…ha…ha…:hafppy :
Hahaha theo thói thường th́ những người xâm h́nh con cọp trước ngực và bên dưới có câu: đánh chết không khai, c̣n sau lưng th́ xâm con thỏ đang chạy cong đuôi và bên dưới có câu: đánh đau khai hết....c̣n bạn ḿnh th́ không đánh cũng khai mà khai lén trên net chứ, hahaha có lẻ sợ bà xă quá th́ phải. Cũng hỏng sao v́ vợ ḿnh ḿnh sợ chứ đâu có sợ vợ ai....phải hôn bạn ḿnh, mà dẩu có sợ vợ ai th́ cũng hỏng có sao mà có lữa ở tam tinh....hahaha v́ bị đục trúng. Ui chao ui cái này mới đă đó nhen, có phải hôn đây bạn ui???....:animated-laughing-i:):)
phokhuya
01-30-2020, 00:20
Ai cũng có chuyện t́nh buồn vui để kể, phận ḿnh th́ teo tốp lại chưa lần biết đường vào yêu cho nên ḿnh cứ măi...yếu x́u và khập khểnh trong nhiều lần ....yêu trộm. Như vậy có thể gọi là yêu không ta?
Kể ra sáu bó cũng gần
Chưa yêu, chưa hận, chưa lần tương tư
Thế nào mới gọi là "Yêu"?
Làm sao để biết con tim rộn ràng?
Nghĩ thôi đă thấy bàng hoàng
Thôi th́ cứ thế và rồi....thế thôi.
:o:o
hoanglan22
01-30-2020, 03:24
Ai cũng có chuyện t́nh buồn vui để kể, phận ḿnh th́ teo tốp lại chưa lần biết đường vào yêu cho nên ḿnh cứ măi...yếu x́u và khập khểnh trong nhiều lần ....yêu trộm. Như vậy có thể gọi là yêu không ta?
Kể ra sáu bó cũng gần
Chưa yêu, chưa hận, chưa lần tương tư
Thế nào mới gọi là "Yêu"?
Làm sao để biết con tim rộn ràng?
Nghĩ thôi đă thấy bàng hoàng
Thôi th́ cứ thế và rồi....thế thôi.
:o:o
Một chuyện t́nh ...
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1521514&stc=1&d=1580354658
Lúc c̣n dưới tiểu học, bài tập làm văn nào cũng bắt đầu bằng hai chữ nhân dịp, kể chuyện nầy tôi cũng xin “nhân dịp”.
Nhân dịp được thất nghiệp, máu giang hồ nổi lên, tôi bèn rủ một người bạn làm một chuyến du lịch ṿng quanh nước Mỹ để thăm bạn bè. Bạn tôi có số nhờ vợ. Vợ chồng hắn có một tiệm chạp phô bán gạo, mắm, ớt, tỏi đủ thứ bà rằng. Vợ hắn cưng hắn rất mực, hễ hắn làm ǵ có vẻ lao động chân tay là bị cự ngay “Không ai mượn làm chuyện đó, tránh ra!”. Đúng là hắn tốt nghiệp “ngạch cai trị”! Hắn muốn ǵ, vợ hắn đều răm rắp tuân lịnh một cách vui vẻ. C̣n tôi thuộc loại tứ cố vô thân, chẳng có vợ con, nhà cửa ǵ nên rất thảnh thơi.
Chúng tôi ở miền Đông Bắc Hoa Kỳ, dự định đi xuống miền Nam, ṿng qua Cali, rồi lên phía Tây Bắc.
Lúc đó vào cuối năm âm lịch, khoảng tháng Hai dương lịch mà tuyết và gió lạnh vẫn chưa bớt, nhưng càng về phương Nam, trời ấm dần. Trạm đầu tiên cũng là trạm chính mà tôi cố ư ghé là nhà Hùng ở tiểu bang Georgia. Vợ chồng Hùng đă chờ sẵn ở phi trường đón chúng tôi về nhà. Hôm đó đúng vào ngày ba mươi Tết, trời đă về chiều, gió hơi lạnh lại lất phất mưa, giống hệt những ngày giáp Tết ở miền Trung Việt Nam. Nhà Hùng không lớn lắm nhưng có vườn cây cảnh rất đẹp, đứng trên lầu nh́n ra gịng sông phía xa, bên kia là những đồi cây xanh, lờ mờ trong sương như một bức tranh Tàu. Hai đứa tôi được giành cho hai căn pḥng nhỏ trên lầu. Tắm rửa xong th́ đă sẵn một bàn đồ nhậu ở sân thượng mà Hùng gọi là tiệc đón Giao Thừa. Vợ Hùng làm đồ nhậu rất tuyệt. Nhớ lại sau ngày sập tiệm bảy lăm ở Sài G̣n, mấy tay hành chánh chạy được về cũng khá đông, thường được Hùng mời về nhà nhậu mấy bữa trước khi đun đầu vô rọ cải tạo. Hùng làm ở Bộ Kinh Tế nên thời gian đầu vẫn được “lưu dung”, sau khi mấy cậu việt cộng quen việc rồi th́ được đuổi về, dù sao cũng thoát được nạn đi tù.
Vợ Hùng, người Bắc, rất khéo chế biến món ăn. Cô ta vẫn như trước kia, thỉnh thoảng dưới bếp chạy lên canh chừng, xem thiếu món ǵ th́ tiếp tế. Cô có một đức tính rất quí là chẳng bao giờ bỏ vào tai những ǵ chúng tôi nói với nhau. Bây giờ lớn cả rồi, chuyện lăng nhăng không c̣n thú vị nữa. Chúng tôi thích nói chuyện mĩa mai, thâm thúy hơn. Sau hơn hai mươi năm chúng tôi mới gặp nhau, ôn lại bao kỷ niệm, từ những ngày sống trong kư túc xá ở đường Trần Quốc Toản cho đến khi ra trường mỗi đứa một nơi. Chúng tôi chỉ kể lại những chuyện vui, chuyện oái ăm thôi. Thực ra, ở tù rồi ra tù, đâu cũng vậy, chẳng có ǵ đáng buồn. Ngay cả việc tôi bị vợ bỏ cũng chẳng làm tôi quan tâm, tuy nhiên bạn bè thường rất ngại, không muốn nhắc đến chuyện đó, tưởng như thế là lấy cây mà chọt vào vết thương ḷng của tôi khiến tôi đau đớn lắm. Ai cũng coi tôi như kẻ ngă ngựa, bỏ vợ th́ được chứ vợ bỏ đúng là mất mặt nam nhi. Ngày tôi qua xứ Mỹ, có được số điện thoại, tôi gọi cho Hùng, vợ Hùng mừng lắm cứ giành điện thoại hỏi tôi đủ điều, nhưng khi nghe tôi bảo “Bị vợ bỏ rồi” là không hỏi nữa. Đàn bà rất ṭ ṃ chuyện nầy, vợ Hùng coi bộ ấm ức muốn biết v́ sao tôi bị vợ bỏ “Bây giờ vợ tôi ở đâu, có chồng khác là ai”.
Tôi biết tâm lư đó nên khi rượu đă ngà ngà, tôi bảo.
– Tôi biết bà Hùng muốn nghe chuyện tôi bị vợ bỏ ra sao. Bây giờ tôi kể, coi như món quà tôi tặng bà, để bà khỏi thắc mắc hoài tội nghiệp.
Cô ta làm bộ miễn cưỡng.
– Cái ông nầy! Ai lại đi nghe chuyện đời tư của người ta.
– Bộ bà không muốn nghe sao. Th́ thôi, tôi kể nho nhỏ cho phe đàn ông nghe.
– Ông nầy… Cứ coi như chuyện đùa. Nhưng ông kể chứ không ai ép đâu nhé!
– Nhưng bà đă lo cho mấy đứa nhỏ ăn chưa, hay bắt chúng nhịn miệng đăi khách.
– Có cô chúng lo rồi. Đáng lẽ cho cô ấy và các cháu lên chào hai bác, nhưng v́ hai bác c̣n mệt nên để ngày mai.
– Được rồi ngồi xuống đấy, tôi kể, nhưng hơi dài ḍng một chút.
Tôi quen vợ tôi trong một tiệc cưới của một người bà con ở Đa Lạt. Lúc đó tôi học năm thứ hai Đốc Sự Hành Chánh. Tiệc cưới nào cũng giống nhau, nhưng ḿnh là người ở Sài G̣n náo nhiệt, lên Đa Lạt tự nhiên thấy khác liền, cảnh đẹp mà buổi tối thật yên tĩnh. Tôi được xếp ngồi cạnh một cô gái coi cũng đẹp, nhưng điều làm tôi chú ư là vẻ điềm đạm, chín chắn của cô. Cô thường yên lặng như ch́m đắm vào một ư nghĩ nào đó. Tôi gợi chuyện th́ được biết cô đang học luật ở Sài G̣n. Chúng tôi trao đổi nhau địa chỉ trước khi ra về, nhưng ngay lúc đó trời đổ mưa. Tôi hỏi cô ta về bằng ǵ, cô bảo có người nhà đem xe đến đón. Từ nhà hàng ra cổng phải qua một vườn hoa, tôi hỏi cô xe hiệu ǵ, màu ǵ để tôi ra xem chừng, hễ xe đến tôi sẽ báo, cô khỏi phải ra vào ướt át. Cô bảo nhà có ba chiếc xe nhỏ nên không biết xe nào sẽ đến đón. Thời đó, ai sắm được một chiếc xe du lịch đă là sang trọng rồi, đằng nầy gia đ́nh cô có đến ba chiếc ắt phải giàu và đông người lắm.
Hôm sau tôi đến thăm cô. Đó là một ngôi biệt thự rất xinh, trên đồi thông trông ra hồ Xuân Hương thật nên thơ. Cô sống một ḿnh, phía sau là gia đ́nh người quản gia và nhà để xe. Cô bảo c̣n gia đ́nh người chị nữa nhưng đă đi Đức nghĩ hè rồi v́ người chị có chồng dân Đức. Sau đó về Sài G̣n cô hay đến kư túc xá trường Hành Chánh thăm tôi. Chúng tôi thường đưa nhau đi ăn quà rong, xem ciné giống như những cặp t́nh nhân khác.
Tính cô ít nói, ít khi biểu lộ t́nh cảm. Vậy mà chúng tôi cưới nhau không phải do tôi ngơ ư mà là cô ta. Tôi nhớ năm đó, sau hôm thi tốt nghiệp xong tôi và cô đi xem phim ở rạp Rex. Phim dở quá, chúng tôi nói chuyện ŕ rầm với nhau. Đột nhiên cô hỏi “Ra trường rồi anh có định lấy vợ không”.
“Về các tỉnh buồn lắm, có lẽ phải kiếm một cô vợ”.
“Anh có định cưới em không”.
“Không! Bồ bịch nhau th́ được”.
“Sao vậy”.
“V́ gia đ́nh em giàu quá, người ta bảo anh đào mỏ, vả lại em dư sức lấy kỹ sư, bác sĩ, chọn anh làm ǵ”.
“Em không hiểu ư anh muốn nói ǵ!”.
“Em sung sướng quen rồi, nếu theo anh về tỉnh lẻ, có khi về các quận thôn quê, em chịu sao thấu”.
“Anh đừng lo chuyện đó. Hay là anh chê em, hay là anh đang yêu ai”.
“Anh không chê em, anh cũng yêu em nữa, nhưng yêu ít hơn một người khác”.
Cô ṭ ṃ một cách b́nh tĩnh
“Em có thể biết được người đó là ai không và chuyện hai người đi tới đâu rồi, có định cưới nhau không”.
“Đúng ra là chuyện một người chứ không phải hai người. Anh yêu cô ta hơn hai năm rồi, trước khi gặp em nữa kia, nhưng cô ta không đáp lại v́ cô đang có người yêu. Thực ra anh được gặp và nói chuyện có một lần thôi, c̣n những lần khác chỉ ngồi trong quán bên đường nh́n cô ta . Anh tưởng quen với em sẽ quên được cô ta v́ em đẹp hơn, nhưng rồi chẳng có ǵ thay đổi trong t́nh yêu của anh”.
“Anh yêu th́ cứ yêu nhưng đừng hy vọng ǵ, đừng phá đám người ta. Ngoài ra c̣n có người nào anh có cảm t́nh nhất”.
“Sau đó là em”.
“Không chê em, cũng có yêu em nữa, anh lại thấy cần một người vợ, vậy anh chọn ai”.
Tôi ngạc nhiên trước lối lư luận thẳng thắn và thực tế của cô. Lúc bấy giờ tôi không có một chút ư niệm ǵ về gia đ́nh cả v́ giấc mơ của tôi về một ngày được sống với người con gái tôi yêu đơn phương kia chỉ là không tưởng.
Thế là chúng tôi cưới nhau. Hôm ra trường, chọn nhiệm sở ở Bộ Nội Vụ, vợ tôi dặn, cố chọn cho được tỉnh Lâm Đồng. Chuyện đó quá dễ v́ tôi đậu cao, nhiều ưu tiên hơn các bạn, nhưng tôi thắc mắc th́ vợ tôi kể rằng. Chị cô có chồng dân Đức, họ đang thầu vận chuyển tất cả những ǵ của quân đội Đồng Minh từ các hải cảng miền Trung lên Cao Nguyên, làm chủ hàng mấy chục chiếc xe tải. Họ c̣n có cả một hệ thống đại lư phân bón và thuốc sát trùng cho toàn miền Trung. Nay thấy cô em lập gia đ́nh, cô chị nhường cho em các đại lư từ Dầu Dây, Long Khánh lên đến Di Linh, Đức Trọng.
“Nhưng anh không quen hoạnh họe hay năn nỉ ai cả!”.
“Anh khỏi làm ǵ, chỉ cần các cán bộ xă, ấp biết anh là chồng em là đủ, c̣n mọi việc để em”.
Tôi nghe có lư nên làm theo như lời vợ tôi dặn. Tôi làm trưởng ty Hành Chánh tỉnh Lâm Đồng. Những dịp tỉnh họp quận, xă tôi vui vẻ chào hỏi mọi người, có khi mời họ uống cà phê, ăn điểm tâm nhưng tuyệt nhiên không đả động ǵ đến chuyện làm ăn của vợ tôi. Chúng tôi dọn lên Đà Lạt, mỗi tuần tôi về nhà một lần. Vợ tôi sinh được một thằng con rất kháu khỉnh. Công việc kinh doanh của vợ tôi cũng chẳng có ǵ vất vả, thỉnh thoảng cô đi một ṿng các đại lư để thăm viếng, t́m hiểu c̣n mọi việc có nhân viên lo cả.
Chúng tôi sống với nhau được ba năm th́ xảy ra vụ sập tiệm năm bảy lăm. Trước vụ di tản chiến thuật từ Cao Nguyên về, tôi được thư của vợ tôi từ Sài G̣n nhắn tôi về gấp, ṭa đại sứ Đức sẽ đưa cả gia đ́nh lên máy bay, tên tôi đă có trong danh sách chuyến bay rồi. Sau đó tôi lại được liên tiếp hai lá thư cầm tay nữa. Tôi viết trả lời v́ bận việc, nếu không về kịp gia đ́nh cứ đi trước, đừng lo cho tôi. Thực ra Đà Lạt, Lâm Đồng đâu có bị tấn công, công việc các ty, sở ṭa Hành Chánh lúc đó cũng chẳng ai cần nữa, nhưng tôi không rời nhiệm sở. Sau nầy tôi mới biết, không phải chỉ riêng tôi, biết bao đơn vị hành chánh, cảnh sát, quân đội…cấp chỉ huy đă chạy đâu mất tiêu mà người chiến sĩ vẫn không rời vị trí chiến đấu cho đến khi gục chết vẫn không hề ân hận điều ǵ.
Họ cảm thấy đất nước lâm nguy, bi đát đến độ chỉ biết đem thân ra chống đỡ một cách tuyệt vọng, quên cả bản thân, cha mẹ, vợ con. Khi tôi về th́ tất cả đă đi rồi. Tôi đi tù, và bây giờ ngồi đây. Chuyện chỉ có thế.
Vợ Hùng có vẻ bất măn.
– Nhưng ông phải t́m cho ra vợ con chứ. Ông không thương vợ con ông à”.
– Thương chứ, nhưng t́m vợ con để làm ǵ. Mỗi người đă có một số phận. Cứ để cho vợ tôi coi như tôi đă chết rồi. Hơn hai mươi năm không có tin tức chồng, dù thương yêu bao nhiêu, cô ta cũng không thể làm ḥn vọng phu được. C̣n thằng con, có thể mẹ nó bảo rằng tôi đă chết hoặc người cha sau nầy là cha ruột của nó. Ở bên Đức chắc chắn họ sung sướng, thế là tôi yên tâm. Làm xáo trộn sự yên tĩnh của họ chẳng có lợi cho ai cả.
Mọi người yên lặng như đang tưởng niệm đến bao mối t́nh, bao gia đ́nh tan nát v́ chiến tranh. Và trong không khí yên b́nh của một đêm cuối năm ở xứ người, bỗng xôn sao trong tâm tưởng h́nh ảnh đất nước thân yêu năm nào trong những ngày khói lửa tang thương…
Vợ Hùng chợt lên tiếng.
– Theo ông kể th́ chẳng biết vợ ông có thương yêu ông không nữa?
– Lúc đầu tôi cũng phân vân như thế. Nhưng càng về sau, sống với nhau, tôi mới hiểu tấm ḷng của vợ tôi. Người con gái dù có yêu ai bao nhiêu cũng không bao giờ tỏ t́nh trước, vậy mà cô ta dám gợi ư cho tôi cưới cô, nhưng khi biết được tim tôi đă gởi cho người khác, tuy tranh đấu được tôi trong ṿng tay, nhưng cô không bao giờ biểu lộ t́nh cảm nữa. Cô đă dâng tôi cả trái tim, tâm hồn và cả cuộc đời nữa, nhưng chỉ nhận được ở tôi cái bản năng, cái lương tri của một người chồng có học, đứng đắn thế thôi. Tôi thấy ḿnh ở tù là đáng đời, chẳng phải v́ việt cộng trả thù mà chính Trời phạt tôi đă phụ một tấm chân t́nh. Tôi không xứng đáng với t́nh yêu của cô ta. Hạnh phúc trong tay không chịu hưởng lại chỉ tơ tưởng đến một bóng h́nh xa xôi, vô vọng. Tôi vừa đau đớn vừa cầu mong cô yêu được người chồng sau nầy.
– Nhưng theo ông kể, ông chỉ gặp cô gái kia chỉ một lần mà lại yêu say mê, dai dẳng như thế, chuyện cũng khó tin.
– Chính tôi cũng không hiểu ḿnh nữa. Có lẽ Trương Chi giải thích được v́ sao anh ta chỉ gặp Mỵ Nương có một lần mà thất t́nh đến độ quả tim hóa đá luôn.
– Ông thử kể cô ta hương trời sắc nước ra sao và gặp trong trường hợp nào.
– Chuyện chẳng có ǵ ly kỳ nhưng hơi rắc rối. Tôi nhớ lễ Giáng Sinh năm đó, tôi cùng vài người bạn đi nhà thờ Đức Bà xem người ta đi lễ. Tất cả các lối đến nhà thờ đều cấm xe cộ nên ngang chợ Bến Thành chúng tôi gửi xe đi bộ, chen lấn với mọi nguời t́m ngắm người đẹp. Một lúc sau tôi bị lạc mất bạn. Đang nhướng cổ t́m kiếm, bỗng tôi thấy một cô gái cũng đang ngơ ngác nh́n quanh, có lẽ cô cũng lạc bạn như tôi.
Trong mắt tôi, cô nổi bật như đóa hoa rực rỡ giữa đám cỏ dại. Chẳng phải cô đẹp nhưng có những nét đặc biệt mà tôi tưởng như quen biết, thân yêu từ lâu lắm. Da cô ngăm ngăm, hai mắt đen nhánh dưới đôi lông mày rậm, khi tôi đến gần, cô nh́n tôi với tia nh́n sáng rực như quật mạnh vào nơi sâu kín nhất tâm hồn khiến tôi ngất ngây. Tôi rung động cả thần trí lẫn thể xác, như chết ch́m trong một hạnh phúc tái ngộ đâu từ kiếp trước. Giây phút bất chợt đó, tôi biết tôi đă yêu.
Trang phục cô màu đen, tóc ngang vai, cô cài trên tóc một đóa hoa vàng, không rơ hoa giấy hay hoa nhựa, hai tai cô cũng có hai đóa hoa vàng nhỏ. H́nh ảnh đầu tiên đó đến bây giờ vẫn c̣n nguyên trong trí tôi. Khi tôi đến gần cô th́ gịng người như đặc cứng. Cô bị xô đẩy và muốn thoát ra khỏi đám đông một cách tuyệt vọng.
Tôi đến phía sau cô đẩy những cậu thanh niên vừa la cười vừa giả vờ ngă vào người cô. Chúng tưởng tôi là người thân của cô nên lảng ra. Hai tay tôi giăng ra như một cái khung và cô ở giữa được an toàn. Chúng tôi trôi theo gịng người. Cô biết tôi bảo vệ cho cô nhưng không nói ǵ. Thỉnh thoảng cô khựng lại, ngă vào ngực tôi. Đầu cô vừa tầm mũi tôi, tôi nhận được mùi thơm con gái ngọt ngào từ mái tóc, từ người cô toát ra. Gịng người càng chen lấn, cô càng như nằm trọn trong ṿng tay tôi, nhưng tuyệt nhiên tôi không có một ư nghĩ vẫn đục nào. Cô thân yêu, quư giá và cao sang đến độ tôi tưởng ḿnh là tên nô lệ được hân hạnh bảo vệ cho một nữ hoàng.
Buổi tối hỗn độn như thế mà tôi thấy thế gian vắng lặng chỉ c̣n ḿnh tôi với cô ta mà thôi. Mùi thơm đó, làn da mềm mại của lưng cô, ngực cô, cánh tay cô cứ vương vấn măi trong tôi thành một ước ao mănh liệt đến bơ vơ v́ tuyệt vọng.
Khi chúng tôi thoát ra khỏi đám đông, cô quay lại nh́n tôi mỉm cười. Đời tôi chưa bao giờ thấy một nụ cười đẹp và làm tôi sung sướng đến như thế, và đó là lần duy nhất tôi được ân sủng tuyệt vời cô ban cho. Rồi cô bước nhanh hơn như muốn rời tôi. Tôi vẫn đi theo, cô quay lại nói “Cám ơn”. Tôi cố đi song song với cô và hỏi “Cô đi nhà thờ phải không”. Cô gật đầu, tôi nói “Cho tôi đi theo với”. “Để làm ǵ”. “Để cầu nguyện với Chúa”. “Cầu nguyện ǵ”. “Cầu nguyện cho chúng ḿnh yêu nhau”. Cô quay nh́n tôi, lắc đầu “Không được đâu! Tôi có người yêu rồi”.
Tôi kêu lên “Thôi chết! Tôi làm sao sống nổi đây!”. Cô làm thinh đi nhanh hơn nữa. Biết là cô chán tôi v́ câu tán tỉnh rẻ tiền đó nên tôi đi chậm lại, tần ngần nh́n theo cô đang khuất dần vào đám đông.
Thế là tôi thành kẻ thất t́nh. Chiều nào tôi cũng ra đường Lê Lợi, quăng từ chợ Bến Thành đến đường Tự Do, đi lang thang lên xuống để hy vọng mong manh gặp lại cô. Trước kia tôi cũng có thói quen lang thang như thế, ghé nhà sách Khai Trí t́m một quyển sách, vô quán cà phê ngồi nh́n thiên hạ qua lại, bây giờ tôi được thêm cái thú chờ mong.
Đôi khi tôi đến cả nhà thờ Đức Bà, đứng dưới tượng Đức Mẹ lầm thầm cầu nguyện “Lạy Mẹ cho con gặp lại nàng, chỉ một lần nữa thôi, con nhớ nàng lắm!”. Tôi không phải con chiên công giáo, nhưng h́nh như Đức Mẹ nghe thấy và thế là tôi được gặp cô ta lần thứ hai. Hôm đó tôi ra chợ Bến Thành coi thiên hạ sắm Tết. Từ xa, chỉ thấy dáng người tôi biết ngay là cô ta rồi. Cô đi với bạn trai, cô mặc áo màu xanh nhưng vẫn đeo đôi hoa vàng. Lần nầy tôi quyết theo cô đến nhà. Cũng may, chỗ gửi xe của tôi và cô gần nhau nên tôi theo cô về đến quận Tư. Hóa ra là nhà người bạn học mà tôi có đến vài lần nhưng tôi chỉ đứng ngoài chờ hắn vào lấy ǵ đó trước khi đi chơi với nhau. Lẽ ra với người khác đó là dịp bằng vàng để được làm quen với cô ta, nhưng v́ biết cô đă có người yêu lại thêm mặc cảm cô chẳng thèm để mắt đến tôi nên tôi không dám đến nhà người bạn ấy nữa, sợ cô ta gặp tôi, nhớ ra, rồi kể lại chuyện tán tỉnh lăng nhăng của tôi, chỉ thêm xấu hổ chứ chẳng được ǵ.
Nhưng tôi không thể quên được cô nên mỗi chiều tôi vào một quán cà phê trước nhà cô chờ ngắm cô đi học về, khi th́ với người yêu, khi th́ một ḿnh. Trong đời dù trai hay gái, ai cũng trải qua vài mối t́nh bất ngờ, đơn phương như thế nhưng rồi cũng sẽ quên đi v́ đó chỉ là tiếng kêu vô vọng. Duy với mối t́nh nầy tôi không bao giờ quên. Sau nầy ra trường đi làm việc nơi xa nhưng có dịp về Sài G̣n tôi lại ghé quán cà phê ngồi nh́n qua nhà cô. Có lẽ cô đă theo chồng nhưng tôi vẫn tưởng tượng rằng cô vẫn c̣n ở trong đó, vẫn đi lại, nói năng, sinh hoạt b́nh thường.
Đó là cách để tôi đỡ nhớ cô, để mơ tưởng được nh́n thấy cô. Ngay cả khi đi tù về, tôi hành nghề đạp xích lô, mỗi khi ngang trước nhà cô là tôi gác xe ngồi nh́n vơ vẩn, làm như đang chờ khách. Dù tôi biết nhà đă đổi chủ từ lâu nhưng khi đến nơi thân yêu mơ hồ ấy tôi cảm thấy cuộc đời lẻ loi của ḿnh như có một chút an ủi, một chút vui.
Nếu nói rằng mỗi người một định mệnh th́ đúng là tôi sinh ra chỉ yêu có ḿnh cô ta thôi.
Mọi người vẫn yên lặng. Vợ Hùng phê b́nh một câu.
– Tưởng ông kể chuyện t́nh lâm ly, gay cấn lắm, không ngờ chẳng có ǵ cả. Thế ông có biết bây giờ cô ta ở đâu, ra sao không?
– Câu đó tôi định hỏi vợ chồng bà.
– Cái ông nầy! Vợ chồng tôi có dính dáng ǵ đến người ông yêu đâu.
– Sao không. Đó là cô Mai, em gái ông Hùng chứ ai.
Vợ Hùng trợn mắt lên v́ ngạc nhiên. Hùng gật gù bảo.
– Tớ nhớ ra rồi, lúc ở trường Hành Chánh, tớ có nghe h́nh như có cậu nào yêu em tớ, tớ không để ư, hóa ra là cậu
– Tôi vượt cả ngh́n cây số xuống đây chỉ cốt hỏi một câu là bây giờ cô Mai ra sao? Chiến tranh, ly loạn… Tôi chỉ sợ cô gặp chuyện không may.
– Chồng cô là thiếu tá nhảy dù, tự tử chết trong trại Hoàng Hoa Thám ngày ba mươi tháng tư năm bảy lăm. Hai đứa con tốt nghiệp đại học, đă lập gia đ́nh, hiện cô sống một ḿnh.
Vợ Hùng bảo tôi “Chờ đấy!”, rồi vội vả xuống lầu. Một lúc sau, cô đi lên và nói lớn.
– Cô ấy đang ở bên Việt Nam, ông có dám về tỏ t́nh một lần nữa không?
– Tôi ước được gặp cô ta một lần nữa, cho đỡ nhớ. Lúc đó có lẽ tôi sẽ liều mạng bảo với cô rằng “Tôi yêu cô”. Thế là tôi măn nguyện rồi. C̣n chuyện cô đáp lại, coi bộ khó v́ lúc trai trẻ c̣n bị làm ngơ, bây giờ th́ hy vọng ǵ.
– Nhưng cô ta cũng lớn tuổi rồi, sợ ông không nhận ra nữa đấy.
– Làm sao tôi quên được đôi mắt và miệng cười. Chỉ cần thấy dáng người sau lưng, tôi tin ḿnh sẽ nhận ra cô ngay.
Đă hai mươi năm chúng tôi mới có dịp nhậu nhẹt, cười nói thoải mái với nhau. Tôi không biết uống rượu, chỉ một lon bia là đă mơ màng rồi, nhưng tối đó tôi uống hơn chục lon, quả là một kỷ lục. Có điều sau đó tôi phải chạy vào pḥng vệ sinh ói thốc tháo ra. Tôi chỉ kịp giật nước, rửa mặt qua loa là mắt tối sầm lại, đứng không vững, các bạn vội d́u tôi lên giường. Người tôi toát mồ hôi, nằm bẹp, nhưng một lát sau cũng cảm thấy một bàn tay dịu dàng dùng khăn nóng lau mặt tôi rồi đắp mền cho tôi.
Sáng hôm sau tỉnh dậy, người vẫn c̣n ngầy ngật, đầu nhức nhối khó chịu. Tôi nghe tiếng vợ Hùng dặn ḍ ai đó ở dưới nhà.
– Khi ông ấy dậy nhớ chỉ viên thuốc trên bàn rồi pha cho ông ấy một ly cà phê, hỏi có ăn cháo không th́ nấu. Tụi nầy đi chợ độ một giờ sau sẽ về. Tôi giao ông ấy cho cô trách nhiệm đấy nhé!
Có tiếng đối đáp nho nhỏ rồi tiếng cười rộ lên, tiếng chân xa dần ra phía sân nhà.
Tôi dậy đánh răng, rửa mặt xong lần xuống bếp. Nhà vắng hoe, trên bàn ăn có ly nước lạnh và viên thuốc. Tôi ngồi xuống uống thuốc rồi dùng tay xoa xoa mặt, miết mấy ngón tay lên lông mày cho bớt nhức đầu. Bỗng tôi nghe tiếng nói.
– Anh uống cà phê nhé!
Tôi ngẩn lên thấy một người đàn bà quay lưng về phía tôi đang vặn bếp ga, tiếng lửa cháy ph́ ph́ nho nhỏ.
– Dạ, chị cho xin một ly.
– Anh ăn cháo nhé!
– Dạ không, cám ơn chị.
– Gớm, lúc tối các ông nhậu nhẹt… Sao mà lắm thế.
Tôi lừ nhừ trả lời.
– Bạn bè lâu ngày mới gặp nhau.
Người đàn bà mặc đồ đen, nh́n sau lưng dáng thon thả, tóc hơi ngắn, đôi vai nhỏ. Tôi chợt rúng động tâm thần, người run lên.
– Cô Mai!
Cô quay nh́n tôi, môi mím lại như đang dọa nạt một em bé, nhưng đôi mắt cô sáng lên một nụ cười triều mến, long lanh niềm vui. Hai tai cô vẫn y nguyên hai đóa hoa vàng, giống như hoa mai, loại hoa chỉ nở vào dịp Tết ở quê nhà. Cô nói chậm răi.
– Từ nay em cấm anh không được uống rượu nhiều nữa.
Sau nầy cô ta kể với tôi rằng cô đă khóc khi ŕnh nghe tất cả …/.
Phạm Thành Châu
Ai cũng có chuyện t́nh buồn vui để kể, phận ḿnh th́ teo tốp lại chưa lần biết đường vào yêu cho nên ḿnh cứ măi...yếu x́u và khập khểnh trong nhiều lần ....yêu trộm. Như vậy có thể gọi là yêu không ta?
Kể ra sáu bó cũng gần
Chưa yêu, chưa hận, chưa lần tương tư
Thế nào mới gọi là "Yêu"?
Làm sao để biết con tim rộn ràng?
Nghĩ thôi đă thấy bàng hoàng
Thôi th́ cứ thế và rồi....thế thôi.
:o:o
Sao mà thê thảm quá vậy bạn hiền, không lẻ từ thuở uổng trờ cho tới giờ trái tim bạn ḿnh chưa hề rung động trước một bóng sắc giai nhân nào hay sao. Đầu năm mới nghe cũng mũi ḷng cho bạn tui quá.....có yêu trộm nhiều lần và trăn trở trong đêm về với nổi ḷng thầm thương trộm nhớ vậy mà c̣n hỏi yêu là ǵ nữa, thiệt là bó tay bó tùm lum luôn.
Cái t́nh là cái chi chi?
Dầu chi chi ta cũng chi chi với t́nh
Đa t́nh là dở
Đă mắc vào đố gở cho ra
Khéo khuấy người như lủ tinh ma
Đă từng gọi hồn người thiên cổ dậy
Lại đưa hồn đi những lúc phân kỳ
Cái t́nh là cái chi chi?
Dầu chi chi ta cũng chi với t́nh.....
Yêu là vậy đó ông bạn, cũng may chỉ yêu trộm chớ mà vướng vào rồi th́ ôi thôi nó vừa lảng mạn vừa đau buồn và đôi khi c̣n khóc hận nữa bạn hiền ơi. Vậy mà cũng có người chọn yêu mới khổ chứ bởi v́...yêu là khổ mà không yêu là lổ mà thà khổ hơn lổ bởi vậy cho nên xảy ra những chuyện th́ , là , mà rồi than thở tùm lum tà la...cho nên tui gát tay rữa kiếm cho cái thân già này.
phokhuya
01-31-2020, 00:11
Sao mà thê thảm quá vậy bạn hiền, không lẻ từ thuở uổng trờ cho tới giờ trái tim bạn ḿnh chưa hề rung động trước một bóng sắc giai nhân nào hay sao. Đầu năm mới nghe cũng mũi ḷng cho bạn tui quá.....có yêu trộm nhiều lần và trăn trở trong đêm về với nổi ḷng thầm thương trộm nhớ vậy mà c̣n hỏi yêu là ǵ nữa, thiệt là bó tay bó tùm lum luôn.
Cái t́nh là cái chi chi?
Dầu chi chi ta cũng chi chi với t́nh
Đa t́nh là dở
Đă mắc vào đố gở cho ra
Khéo khuấy người như lủ tinh ma
Đă từng gọi hồn người thiên cổ dậy
Lại đưa hồn đi những lúc phân kỳ
Cái t́nh là cái chi chi?
Dầu chi chi ta cũng chi với t́nh.....
Yêu là vậy đó ông bạn, cũng may chỉ yêu trộm chớ mà vướng vào rồi th́ ôi thôi nó vừa lảng mạn vừa đau buồn và đôi khi c̣n khóc hận nữa bạn hiền ơi. Vậy mà cũng có người chọn yêu mới khổ chứ bởi v́...yêu là khổ mà không yêu là lổ mà thà khổ hơn lổ bởi vậy cho nên xảy ra những chuyện th́ , là , mà rồi than thở tùm lum tà la...cho nên tui gát tay rữa kiếm cho cái thân già này.
Tại ḿnh viết không rơ ràng nên gây ra hiểu lầm. Ư của ḿnh là từ đầu năm đến giờ chưa có yêu.....ai.
lol.....:hafppy::haf ppy:
trungthu
01-31-2020, 02:03
Tại ḿnh viết không rơ ràng nên gây ra hiểu lầm. Ư của ḿnh là từ đầu năm đến giờ chưa có yêu.....ai.
lol.....:hafppy::haf ppy:
Ối, ối mẹ ơi....!!!:hafppy::ha fppy::hafppy:
phokhuya
01-31-2020, 02:07
Ối, ối mẹ ơi....!!!:hafppy::ha fppy::hafppy:
Yêu là đă chết đi trong ḷng một ít
Yêu là hết nhúc nhích nỗi mà vẫn cứ muốn c̣n yêu
Yêu là đôi lúc tự làm tâm hồn ḿnh bất ổn
Nhưng yêu là loại kư sinh trùng mà người đời muốn cấy vào tim:hafppy::hafppy:
hoanglan22
01-31-2020, 15:21
Ông Phan Tôn Công nói dối vợ rằng ông đă kiếm thêm được job thứ hai, làm ca đêm ở môi trường độc hại nên tạm thời không chung chăn chung gối được, nhưng chẳng bao lâu bà vợ biết rơ cái job thơm này của chồng là đi ngủ với vợ hai, bà bèn đi thưa. Quan ṭa ra lệnh cho Công ngủ với vợ cả, Công không được ngủ với vợ hai. Công thi hành án lệnh, nhưng bà vợ cả lại đi kiện, v́ chồng không thi hành đúng. Quan ṭa tức giận đập bàn la bị cáo rằng sao dám coi thường pháp luật, cho nên gia tăng h́nh phạt, không cho Công ngủ với vợ nào nữa mà c̣n bị làm “công chức”, tức nhặt rác một tháng ở bên lề xa lộ. Công kêu oan, tŕnh lên quan bản án đánh máy, có chữ kư của quan và đóng mộc đàng hoàng, bản án ghi rằng:
“Ngủ với vợ cả không được, ngủ với vợ hai”.
Thực ra ai cũng hiểu ư quan ṭa, nhưng thư kư ṭa đă ăn hối lộ của Phan Công, xê dịch cái dấu phẩy (,) đi một ly để chuyện sai đi một dặm, đúng hơn là đảo lộn án lệnh. Bút sa ông ṭa hết căi, Công cứ y án ngủ với vợ hai.
Chuyện khác, có cụ Tổng biết ḿnh sắp chết nên gọi vợ chồng đứa cháu nội đến nhận di chúc và căn dặn đứa cháu dâu rằng phải có nhiều con th́ vợ chồng cháu mới vui vẻ hạnh phúc, chứ như ông nội chỉ có 1 con nên buồn lắm. Thằng cháu nội nháy mắt với luật sư viết di chúc, nên di chúc viết như sau:
“Gia đ́nh cháu phải có nhiều con vợ, chồng cháu mới vui vẻ hạnh phúc”.
Từ đó mỗi khi vợ chồng lục đục về chuyện cơm với phở th́ thằng cháu lại mang di chúc của ông nội ra dẫn chứng. Hắn than với vợ rằng “mệt lắm”, nhưng v́ chữ hiếu mà phải vâng lời ông nội mà thôi.
Chuyện khác nữa, cô em vợ đi thưa thằng anh rể Odam về cái tật hay sờ mó, quan ṭa phán “Sờ mó vợ, cấm sờ mó em vợ”. Thằng thư kư ṭa mổ c̣ trên computer sai vị trí và thêm cái dấu phẩy:
“Sờ mó vợ, cấm, sờ mó em vợ”.
Trăm tội rắc rối cũng chỉ v́ cái dấu phẩy (,) đứng lộn chỗ. Đó là chuyện của các ông có đầu óc kỳ thị phân chia ngôi thứ, chứ c̣n tôi th́ không bao giờ phân chia giai cấp, sống phải cho công bằng, vợ cả, vợ hai, vợ ba, 3 vợ đều là vợ cả. Chuyện tôi muốn nói hôm nay là mong các vị cao tay chỉ dẫn cho biết cách dùng đúng chỗ những cái dấu phẩy (,), dấu chấm phẩy (;), dấu chấm (.), dấu 2 chấm (:), dấu 3 chấm (…), dấu gạch nối (-), dấu chấm than (!), dấu chấm hỏi (?), dấu ngoặc đơn (), dấu ngoặc kép (“..”), dấu chấm vân vân (v.v..) v.v.. trong các bài viết.
Ngày xưa có những ông thợ c̣ chuyên môn sửa lỗi chính tả cho các tờ báo, ngày nay nghe nhà văn Ấu Tím nói có cái xốp-gue sửa lỗi chính tả, sau khi viết bài xong, chỉ cần click một cái là mọi sai sót đều được điều chỉnh, ông nào “dê” không đúng chỗ là máy sửa lưng ngay. Đó là chuyện của các nhà văn nhà báo chuyên nghiệp, c̣n nhà báo cô, tức là báo hại cô vợ như tôi, ăn xong không giúp vợ rửa chén, lau nhà, đổ rác mà ngồi hí hoáy viết, viết xong rồi xóa, xóa rồi lại h́ hục viết th́ thật là phiền toái về mấy cái lỗi chính tả thổ tả này.
Không biết có sách văn phạm tiếng Việt nào dậy về việc dùng các dấu kể trên hay không, nên tôi đem chuyện rắc rối đi hỏi ông Vấn Vẩu, chuyên viên tài chánh th́ ông ấy bảo Mỹ Việt khác nhau, coi chừng mang họa với cái dấu phẩy, dấu chấm khi viết chi phiếu. Hỏi nhà văn nhà thơ lăo thành Khôi Phạm Kim th́ ông bảo việc dùng những dấu kể trên rất dễ nhưng cũng rất khó, dùng sai dẫn đến câu văn “què”, mà viết văn què là thiếu tôn trọng độc giả, dù nội dung có hay. Ông khuyên tôi chỉ nên dùng dấu phẩy, dấu chấm, chấm hỏi, chấm than cho những bài báo, câu chuyện b́nh thường là được rồi.
_ Ông là nhà văn, ông nói th́ dễ mà ông làm cũng dễ luôn, nhưng c̣n những dân chuyên môn bóp c̣ như chúng tôi, nói lại cho rơ là bóp c̣ súng kẻo lại hiểu lầm là “nâng bi”, nay gẫy súng rồi, không c̣n c̣ mà bóp nữa nên muốn gơ vài trang kể lại chuyện cây súng gẫy, cây súng bất khiển dụng th́ thật là vất vả quá!
_ “Đă bảo rằng càng đơn giản càng dễ hiểu, bày đặt chi những cái gạch nối (-), gạch nối (-) không thể thay thế dấu phẩy, những cái 3 chấm (…). Dấu 3 chấm là dấu bỏ lửng, tức là khi muốn nói một điều ǵ đó nhưng khó nói th́ bèn chấm chấm ( …) ra vẻ ngập ngừng, bỏ lửng để người đọc tự t́m hiểu. Thí dụ câu sau đây: “Em xinh quá, anh muốn …”. Ba cái chấm là lấp lửng ư muốn làm quen, muốn cầm tay, muốn hôn má em v.v.. em cho điều nào anh nhận điều đó, không than phiền.
Ngoài những cái dấu ngắt câu không đáng yêu chút nào, người miền Nam tôi cỏn gặp rắc rối về dấu hỏi và dấu ngă, nói th́ đúng, nhưng khi viết th́ lộn tùng phèo, chữ “hỏi” th́ viết thành “hơi”, chữ “ngă” th́ viết thành “ngả”, mà “ngă, ngả” th́ ư nghĩa khác nhau. Tôi có đọc bài viết của một chuyên gia chữ nghĩa hướng dẫn về những quy tắc, luật lệ dùng dấu “hỏi, ngă” mà cứ như đi vào bát quái trận đồ. Thôi, chịu thua, cố gắng được phần nào hay phần nấy, phần c̣n lại nhờ mấy ông gốc miền Bắc sữa dùm hay sửa dùm tùy ư.
Nhưng c̣n một nguyên nhân dẫn đến lộn dấu “hỏi ngă” mà bất cứ ai, không kể Bắc Trung Nam, đều mắc phải là khi “mổ c̣” trên computer. Hai ngón tay trỏ to bằng quả chuối mắn, c̣n hai số 3 và 4 tượng trưng cho hai dấu “hỏi ngă” ở trên hai ô vuông nhỏ nằm sát nhau, giống nhau như hai chị em sinh đôi, nên mấy anh (gơ) lộn cũng là chuyện b́nh thường, lỡ có lộn th́ xin lỗi, chỉ cần chú ư một tí là lần sau có thể tránh được, trừ khi cố t́nh với ư đồ “mía ngon đánh cả cụm”.
Hỏi với ngă đă mệt rồi lại c̣n thêm rắc rối của 2 chữ C và t nữa! Trong một lần ngồi đánh tứ sắc với mấy bà bạn hàng xóm, tôi bốc bài lên, không có đôi mà cũng chẳng khạp, toàn là cọc-cạch, đứt đầu tướng, xe ngựa có rồi nhưng thêm hai chàng pháo gác hai bên, đánh chừng nào mới “xên” đây? Tôi chán nản toan vỗ đùi người ngồi bên cạnh mà than “rát (rác) quá” nhưng liếc thấy cô vợ BK nho nhỏ đang ḍm chừng tôi đành bèn than với nàng rằng:
_ Em ơi, “rác” hay là “rát”, là c hay là t?
_ Rơ nỡm, anh hỏi thật hay đùa đây? Muốn “rác” (c) th́ đi đổ cho em thùng rác, c̣n muốn “rát” (t) th́ vào đây em cạo gió rồi xoa dầu cho là biết thế nào là “rát” ngay.
Nghe nói th́ biết vậy chứ vẫn cứ lộn giữa c và t, “cắt” và “cắc”. Muốn diễn tả thời tiết khắc nghiệt, lạnh như cắt hay như cắc đây? Nếu là “cắc” mà gặp chàng gốc sông Hương núi Ngự như Phu Nhơn mà than “trời lạnh như căc” th́ dễ bị hiểu lầm đấy. Việc nọ xọ sang việc kia, cái việc “dê” thế nào cho đúng lúc đúng chỗ cũng vất vả lắm. Đọc cuốn “Can Trường Trong Chiến Bại”, tác giả viết:
“Khi tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh buôn súng..”.
Tôi phải hỏi cô vợ BK gốc rau rằng buôn có “g” hay không? Nàng bèn đi một đường giải thích:
_ Buôn (không g) là buôn bán, là đi mua, “buôn súng” là đi mua súng, ông DVM tuyên bố đầu hàng th́ bắt quân đi buôn súng để làm ǵ? Ổng ta ra lệnh cho quân đội bỏ súng xuống, vứt súng đi, tức buông (có g) súng xuống. Thôi, anh làm ơn buông em ra, để em c̣n đi buôn, đừng có mượn cớ rồi nắm tay em măi.
_ Thế th́ làm cách nào để biết “dê” (g) sao cho đúng lúc, đúng chỗ?
_ Phải để ư ḍm chừng câu văn hay đối tượng có muốn “g” hay không, anh mà “dê” lộn xộn là em cắt. “G” không đúng chỗ là có ngày mang họa vào thân.
Dù nàng có đe dọa cắt, nhưng biết làm sao tránh được, “dê” không đúng chỗ là cái tật dễ thương của anh em chúng tôi. Tóm lại những lẫn lộn vể dấu hỏi, ngă, về c hay t, g hay không g là chuyện bất khả kháng, ráng sửa được chừng nào hay chừng nấy, xin độc giả thông cảm cho anh em niềm Nam chúng tôi, nhất là khi chúng tôi mới tập tễnh viết để ghi lại những kỷ niệm “đơn vị cũ, chiến trường xưa” sau khi đă hoàn tất mọi công việc nội trợ. Việc nội trợ là việc của đàn bà như đi chợ, nấu cơm, quét nhà, rửa bát, lau chùi v.v.. Ừa th́ ngày xưa c̣n khỏe, c̣n chiến đấu, c̣n làm công việc của đàn ông, nay không c̣n sức để làm nhiệm vụ “đàn ông” nữa th́ lo việc nội trợ có sao đâu, cũng đều là những hành động yêu vợ cả đấy mà.
Hết chuyện rắc rối v́ mấy cái dấu nhỏ bằng móng tay, nay tôi quay qua hỏi chuyện viết hoa. Nếu đọc các bài viết trên các tạp chí, đặc san, lỏng san, tập san v.v.. th́ chúng ta sẽ hoa mắt lên v́ các chữ viết hoa, nhất là các bài viết có dính dáng đến quân đội, tôi không biết phải viết làm sao cho đúng nên t́m thầy hỏi. Thầy HVP, tục danh Phú-Phét, một nhà văn nổi tiếng viết hay, hay viết về các đề tài như kho đạn, băi ḿn, TNT, C4 v.v…
_ Thưa thầy, viết hoa khi nào và thế cho đúng, thí dụ 2 cách viết tên sau đây: Huỳnh Văn Phú và Huỳnh văn Phú. Cách thứ nhất ở giữa viết hoa (to), cách thứ 2 ở giữa nhỏ.
_ Sách vở đă dậy rằng danh từ chung th́ không viết hoa, c̣n danh từ riêng là phải viết hoa, tên người là danh từ riêng th́ phải viết hoa, viết tất cả họ, tên đệm, tên, dù tên đó dài hay ngắn. Thí dụ ngắn như ông Vơ Kỉnh, dài như cô Công Tằng Tôn Nữ Thị Kim Chi, trung b́nh như Nguyễn Hồng Miên, Trần Tiễn San, Huỳnh Văn Phú v.v.. Đa số các cụ ngày xưa thường dùng tên đệm “văn” cho nam, ư chỉ việc học hành văn chương chữ nghĩa, c̣n “thị” là tên đệm cho phái nữ. Chữ “thị” c̣n có nghĩa là cái chợ, là ồn ào, không biết các cụ nghĩ sao mà lại trọng nam khinh nữ như vậy? V́ có sự hiểu lầm đó là danh tử chung nên không viết hoa hai chữ đệm “văn” và “thị”, điều đó không đúng. Nguyễn Hồng Miên, chữ “Hồng” là tên đệm, viết hoa th́ tại sao lại viết Phạm văn Phú? Văn cũng là tên đệm vậy, cũng là chữ ở giữa, không lẽ có sự kỳ thị hay so sánh? Tóm lại, tên người là viết hoa tất cả
_ Thế c̣n Cần Thơ, Cần thơ hay cần Thơ? Hạ Lào, Hạ lào hay hạ Lào? Quảng Trị hay Quảng trị?
_ Rơ là bạn bị tẩu hỏa nhập ma rồi. Ngay từ tiểu học, văn phạm đă dạy chúng ta phải viết hoa những danh từ riêng, không viết hoa những danh từ chung, cứ theo nguyên tắc này mà đi th́ không bị lạc đường. Cần Thơ là danh từ riêng, tên riêng một thành phố, Hạ Lào là tên riêng một địa danh, cả thế giới chỉ có một tên Cần Thơ thôi, vậy th́ phải viết hoa cả hai chữ Cần và Thơ, ai viết Cần thơ, cần Thơ là không đúng. Hạ Lào, chứ không phải Hạ lào, tệ hơn nữa là viết “hạ Lào”. Cũng thế, phải viết hoa cả 2 chữ Quảng Trị.
_ Thế c̣n câu này: “Tôi sinh ở Tỉnh Mỹ Tho, Quận Cai Lậy” th́ thế nào?
_ Những danh từ chỉ xóm làng, xă, quận, huyện, tỉnh, thành phố, thủ đô, chùa, nhà thờ, thánh thất v.v.. đều là những danh từ chung. Có biết bao nhiêu cái xóm, nào là xóm Ông Năm, xóm Bà T́nh, xóm Chị Quư v.v.. văn phạm đă dạy không viết hoa, trừ khi nằm ở đầu câu hay sau dấu chấm. Tỉnh cũng là danh từ chung, không viết hoa, v́ vậy phải viết là tỉnh Mỹ Tho, quận Cai Lậy.
Tôi ghi lại đoạn văn sau đây để xin thầy giải thích về những chữ gạch đít nên viết hoa hay không?
“Rời hậu cứ ở Xă Khoai Hà, Quận Thủ Thừa, trực chỉ về tỉnh Phong Dinh, nghỉ qua đêm ở thị trấn Cái Răng. Hôm sau từ Phi Trường Trà Nóc được trực thăng vận vào vùng chiến trận”.
Như đă nói ở phần trên th́ những chữ xă, quận, tỉnh, thị trấn, phi trường đều là danh từ chung, không cần viết hoa. Trong đoạn văn trên, tác giả đă không dựa vào luật, mà viết “hoa và không hoa” tùy hứng, cùng là danh từ chung th́ viết Xă Khoai Hà, Quận Thủ Thừa, nhưng lại tỉnh Phong Dinh. Thế “nà” thế “lào”?
_ Thưa thầy và thưa quan DinhDauBac, con xin trích nguyên văn câu sau đây trong tập san BĐQ số 32 để xin thầy và quan chỉ dẫn về mấy danh từ đơn vị viết hoa và không viết hoa (những chữ gạch đít)
“Trong trận Ấp Ba, một tiểu đoàn của trung đoàn 9, Sư đoàn 5 BB trong khi xung phong….”
_ Coi chừng bị Cọp bắt đấy (bắt chứ không phải bắc). Trong đoạn văn trên, câu “một tiểu đoàn” là nói đến một tiều đoàn nào đó của Trung Đoàn 9 nên không viết hoa là đúng rồi. Nhưng “trung đoàn 9” và “Sư đoàn 5BB” chỉ rơ danh xưng, là danh từ riêng nên cần phải viết hoa. Không viết hoa danh từ “trung đoàn 9” mà lại viết hoa danh từ “Sư đoàn 5 BB” là không công bằng, là nhất bên trọng nhất bên khinh. Đây là tác giả biết nhưng không chú ư mà thôi. Đề nghị câu trên nên viết cho hợp lư như sau:
“Trong trận Ấp Ba, một tiểu đoàn của Trung Đoàn 9, Sư Đoàn 5/BB trong khi xung phong ..”
Tóm lại các danh xưng đơn vị như tiểu đội, trung đội, tiểu đoàn, sư đoàn, quân đoàn v.v.. đều là danh từ chung, không cần viết hoa, nhưng khi có danh từ chỉ định đi theo sau th́ nhóm danh từ này trở thành danh từ riêng nên viết hoa cho đẹp ḷng nhau.
Đó là đơn vị, c̣n về con người th́ sao? Cùng nhau đọc câu này:
“Tôi thấy một hạ sĩ làm tài xế cho Đại Tướng”.
Trong câu trên, hạ sĩ hay đại tướng đều là danh từ chung, phải được đối xử công bằng như nhau, không có chuyện coi thường hạ sĩ mà nịnh Đại Tướng được. Nhưng nếu hạ sĩ tên là Bé, đại tướng tên là Lớn th́ câu trên nên viết cho đúng để vui vẻ đôi bên là:
“Tôi thấy Hạ Sĩ Bé làm tài xế cho Đại Tướng Lớn”.
Ngoài ra chúng ta cũng nên để ư đến một số danh từ cần viết hoa như ngày, tháng, hướng, mùa. Thí dụ như Thứ Hai, Tháng Ba, Đông, Tây, Nam, Bắc, Xuân, Hạ Thu, Đông.
Những cái rắc rối về lỗi chính tả trong các bài viết tiếng Việt đă được các chuyên viên chữ nghĩa giải đáp, có thể do kinh nghiệm nghề nghiệp, có thể họ căn cứ vào tài liệu, tuy chưa đầy đủ nhưng cũng đă giúp cho chúng tôi rất nhiều điều hữu ích. Có những lỗi rất khó chữa do thói quen địa phương, nhưng có những lỗi rất thông thường nếu người viết chú ư một tư, chịu khó đọc lại th́ có thể tránh được và sửa được, tức là tác giả đă tôn trọng độc giả rồi đấy. Tôi xin ghi tóm tắt lại để quư vị tùy nghi chứ tôi không hề có ư chẻ sợi tóc làm tư làm tám, không hề có ư dám vẽ chuyện và cũng xin quư vị góp ư, bổ sung thêm hầu cùng giúp nhau tránh được những lỗi sơ đẳng.
Điều chính yếu tôi muốn nói trong bài viết này là mượn câu chuyện “cái dấu phẩy” để “phết” vào đít những ai khi thấy danh từ mới XHCN là vội vàng vồ lấy mà dùng. “Thấy sang bắt quàng làm họ” đă là điều đáng chán, chữ nghĩa XHCN không sang, chẳng sáng mà tối ṃ, có khi lại lộn lèo vậy mà một số báo chí và xướng ngôn viên các đài phát thanh hải ngoại cứ nhận là bà con! Thu em hỏi quá!
Ừa, thôi th́ mấy người này thấy ngôn ngữ XHCN đo-đỏ th́ cũng ráng nói theo, viết theo, làm theo cho có vẻ đỏ đít một tư, nhưng c̣n những người anh em tôi, đồng đội tôi, những người gốc lính th́ hà cớ chi mà dính vào những thứ “bân hỏi bẩn” này! Thật là ngứa tai, chói mắt khi một số đồng đội của tôi nói và viết cái thư ngôn ngữ thổ tả này. Có ông c̣n cố bào chữa rằng v́ ở tù lâu nên quen mất rồi!
Nguy hiểm là ở chỗ này đây, “cải tạo” lâu ngày chuyện sai trái cũng thấy quen quen!.
Chẳng phải tôi cực đoan, cái ǵ dính tới VC là chê đâu, thực ra cái ǵ của họ hay hay th́ tôi cũng phải khen chứ, thí dụ như họ dùng chữ “cải tạo” để nhốt những người vô tội. Rất nhiều vị chê chữ “cải tạo” mà tự nhận ḿnh là “tù”, đó là quyền của quư vị, riêng tôi “tù” là phải đi với “tội”, cả thế giới này đều bỏ tù kẻ phạm tội, trừ VC, không nhốt kẻ cướp của công mà dùng chữ “cải tạo” để nhốt người vô tội! Tôi đếch có tội ǵ cả nên không nhận là tù. Tù có thời gian, dù 1 ngày đến 1 thế kỷ, cỏn “cải tạo” là không hạn định, khi nào tiến bộ th́ được về. Tôi xin kể câu chuyện vui mà quư vị đă nghe nhiều lần về cái đáng sợ của 2 chữ “cải tạo”
“Ba nhà lănh đạo Pháp, Mỹ, Liên Sô đi dạo phố Bombay, xứ thờ ḅ, nhưng bị đàn ḅ nghênh ngang giữa đường, TT Pháp xin ḅ nhường đường sẽ bồi thường “La vache qui rit”. Nghe TT Pháp nói thế đàn ḅ bèn cười hô hố. TT Mỹ năn nỉ ḅ tránh ra sẽ cho nhiều dollars, đàn ḅ giở thói cao-bồi nghinh lại. Tổng bí thư Nga ghé tai nói nhỏ, đàn ḅ té đái văi cứt ù té chạy bán sống bán chết. TT Pháp, Mỹ quá đỗi ngạc nhiên hỏi lư do, Nga bảo: “Thứ nhất tôi nói tiếng súc vật, thứ hai tôi bảo chúng tránh ra, nếu không th́ tôi cho đi cải tạo”.
Vậy th́ XHCN dùng chữ “cải tạo” đối với chúng ta là “hay” lắm đấy. Cải tạo là nạo óc, ghê gớm hơn tù nhiều, ghê gớm đến độ ngu như ḅ mà c̣n sợ té đái, huống chi người. Nó “hay” ở chỗ VC dấu kín được cái ác độc hơn tù nên tôi mắc nỡm, t́nh nguyện đi “cải tạo”! Có bác luật sư kết tội rằng tôi khen “cải tạo” là tầm bậy, phải nói là “đi tù”. Thưa cái đó là tùy quan niệm cá nhân, ls thích coi ḿnh là tù th́ tùy.
Về cách dùng chữ mới, cũng có nhiều bác thanh minh rằng chữ này chữ nọ có trong tự điển, đâu phải là của VC. Tôi hoàn toàn đồng ư, thí dụ như những chữ “tiếp cận”, “đăng kư” “thân thương” “khẩn trương” v.v.. có trong tự điển, nhưng thời VNCH chúng ta không dùng, hoặc chỉ dùng vào những trường hợp chính xác mà thôi, nay nó xuất hiện tùm lum theo XHCN mà các bạn lại theo đuôi th́ chán mớ đời. Chúng ta có dùng chữ “khẩn trương”, t́nh trạng khẩn trương, nhưng không bao giờ nói “đái khẩn trương lên”. Xuống xóm ngắm hoa Mai, Lan, Cúc, Huệ mà nghe các em dục “khẩn trương lên anh” th́ chán chết. Tạm thông cảm, nhưng c̣n những cái quá sai, quá ngược đời, lộn lèo mà cũng nhắm mắt làm theo là sao?
Nghe VC than “thiếu đói” là hải ngoại ào ào quyên góp dollars để cứu tụi “thiếu đói” ư?. Chả hiểu tiếng Việt ǵ cả! Báo chí trong nước loan tin nhiều xe hơi đụng nhau “liên hoàn” trên xa lộ, nghe hoàn-hoàn là các bác cứ “hoàn” theo! Sai hoàn toàn, khi nào xe trước ṿng quay đầu lại húc vào đít xe sau th́ mới gọi là liên hoàn. Tại sao không dùng chữ “liên tiếp”? Cầu thủ Backham “vào bóng bẳng gầm giầy” là cái quái ǵ vậy? Gầm là gầm giường c̣n giầy th́ là “đế”. Có thế thôi mà cũng bày đặt sáng tạo đỉnh cao trí tuệ!
Khổ quá đi thôi, chuyện của “người ta” th́ kệ chúng, không nên xen vào nội bộ của họ, c̣n chúng ta, những quân nhân VNCH th́ hăy tránh xa chữ nghĩa XHCN đi. Nói hoài nói măi th́ các anh lại bảo tôi nói nhiều, đàn ông mà sao lắm mồm lắm miệng thế! Nhưng không nói, không nhắc nhở nhau để giữ ǵn tiếng Việt cho trong sáng th́ thật buồn. Mất nước là mất tất cả, danh ngôn của TT Thiệu, đă mang kiếp lưu vong tỵ nạn CS, chỉ c̣n một chút tiếng Việt để nhớ để thương mà cứ tự nguyện cho chữ nghĩa VC xâm lăng vào nữa th́ thật lăng nhách.
Tôi xin trích một vài đoạn văn “tiệc-tác” trong các tác phẩm mà tác giả là gốc lính với cấp bậc cao cao để mời huynh đệ thưởng thức:
1. Ta phải dùng hỏa lực từ xa bằng súng SKZ57 và 2 cây đại liên 30 bắn khống chế đám VC đang có mặt từ trên cao để tiếp tục tiến vào. ….Tôi đề nghị ĐĐ vẫn tiếp tục khống chế hỏa lực từ trên cao của địch bằng 2 cây SKZ 57 …(trích nguyên văn trong bài Nghiệp Lính)
“Khống chế” có hay không có trong tự điển tiếng Việt tôi không cần biết mà chỉ biết nó xuất hiện ở trong nước sau 30/4/75 mà thôi, vậy mà đại bàn(g) đang là tỵ nạn CS ở hải ngoại lại vồ lấy mà dùng th́ cam đảm thật! Tiếng Việt Nam Cộng Ḥa thiếu ǵ chữ hay ho thay cho chữ “khống chế” chết tiệt này.
2. Đă mấy tiếng đồng hồ rồi mà chưa có trực thăng đế tải thương, nh́n những anh em bị thương đang rên la cùng những poncho bọc thây đang căng dần lên v́ sức nóng mà tôi bức xúc. (trích Hạ Lào).
Đoạn văn thật đúng và hay để diễn tả một t́nh trạng đau ḷng, bi thảm của lính trận trong cuộc chiến, vậy mà tác giả nỡ đem 2 chữ VC vào làm đau ḷng lính VNCH! Có biết bao nhiêu ngôn ngữ hay để tác giả biểu lộ cảm xúc, thí dụ như: bực ḿnh, khó chịu, phiền hà, lấn cấn, áy náy, giận dữ, lo âu, đau đớn, muốn văng tục, muốn chửi thề, muốn nổi điên và tục-tục một chút là là là chửi thề đ..m.. Có biết bao nhiêu chữ để dùng, vậy mà bạn viết trong tác phẩm của bạn 2 chữ “bức xúc” khiến tôi cũng muốn “bực và xục” theo. Xin lỗi các đại “bàn” nha.
Captovan.
hoanglan22
01-31-2020, 20:43
Ur_apS95x7w
Tay chơi đàn khó kiếm
hoanglan22
01-31-2020, 20:52
Những Nén Hương Thắp Muộn Trên Đỉnh Tiền Đồn 5
(Xin phép Tác Giả được post câu chuyện thật cảm động)
Đang tản bộ trong một công viên ở London với mấy đứa cháu ngoại, tôi bất ngờ nhận được tin nhắn từ Việt Nam qua Viber. Khi ấy ở Việt Nam đúng 11 giờ trưa ngày 28.7.2019:
-Cháu đă nh́n thấy ngọn núi Tiền Đồn 5 ngay trước mặt và đang chuẩn bị vượt con suối để đến đó, chỉ c̣n cách chừng hơn một cây số.
Gần một giờ sau, tôi nhận mấy tấm ảnh và vài cảnh phim được quay bằng điện thoại trên đỉnh Tiền Đồn 5. Bây giờ chỉ là một khung cảnh hoang tàn, đầy lau sậy, vương văi một số mảnh bao cát, mấy đoạn kẽm gai concertina, đế của một chiếc giày trận và một vài chiếc vỏ đạn rỉ sét. Tôi cảm động hơn khi h́nh ảnh người con trai tật nguyền, chỉ c̣n một cánh tay trái, đang qú lạy tứ phương với một bó nhang nghi ngút khói hương. Và đó cũng chính là người vừa nhắn tin và gởi những h́nh ảnh cho tôi. Cháu Nguyễn Thế Vinh đang đứng trên vị trí mà cha cháu đă hy sinh và nằm lại đây đúng 45 năm, bây giờ đứa con trai mới biết được nơi này.
Khi các chiến thắng liên tục của những người lính Việt Nam Cộng Ḥa vào mùa Hè 1972, không những đă giữ vững được thành phố Kontum mà c̣n gây thiệt hại rất nặng nề cho các đại đơn vị thuộc Mặt Trận B-3 của Cộng Sản, gồm Sư Đoàn 320, Sư Đoàn F 10, Sư Đoàn 2 và sau này có thêm Sư Đoàn tân lập 968. Tất cả buộc phải rút về vùng biên giới Tây Nguyên và Lào để tái lập, bổ sung, th́ bất ngờ Hiệp Định mạo danh Ḥa B́nh được Hoa Kỳ và Bắc Việt thỏa thuận kư kết tại Paris vào ngày 27/1/1973, sau khi chính phủ Nixon đă đi đêm, mặc cả với Trung Cộng, bất chấp sự phản đối của chính quyền Nam Việt Nam. Hiệp định này chẳng khác nào một huyệt mộ được đào lên nhằm chôn sống VNCH.
Các vùng địch xâm chiếm bỗng dưng trở thành an toàn khu của chúng. Nhiều sư đoàn cùng với chiến xa vũ khí hạng nặng, nhiên liệu, đạn dược từ miền Bắc ồ ạt xâm nhập công khai vào Nam theo đường ṃn Hồ Chí Minh, cùng lúc Quốc Hội Mỹ cắt hết mọi viện trợ quân sự cho VNCH.
Đầu năm 1974, lợi dụng t́nh thế bất lợi này của VNCH, Bắc Việt đă tung đại quân tràn ngập, ngang nhiên lấn chiếm một số căn cứ, đơn vị của ta. Đặc biệt tại các vùng mà lực lượng của chúng được phép nằm lại theo hiệp định Paris quái đản, trong khi Hoa Kỳ và tất cả các nước cùng kư tên trong bản hiệp định đều im tiếng, không một lời phản đối.
Đặc biệt, mặc dù Dak Tô, Tân Cảnh đă bị Cộng quân lấn chiếm từ cuối tháng 4/ 72, nhưng Căn cứ Biên pḥng Dak Pek và Chi khu Dak Pek vẫn đứng vững nhờ hệ thống công sự liên hoàn kiên cố và tinh thần chiến đấu vô cùng dũng mănh của các chiến sĩ Biệt Động Quân. Qua rất nhiều lần tấn công, địch quân đều thảm bại. Căn cứ Dak Pek nằm ngay giữa ngă ba biên giới Miên-Lào-Việt, án ngữ con đường huyết mạch của Cộng quân, cách thị xă Kontum 98 cây số về hướng Tây Bắc, được pḥng thủ bởi Tiểu Đoàn 88 Biệt Động Quân Biên Pḥng của Thiếu Tá Vơ Ngọc Di, bên cạnh là Chi Khu Dak Pek được bảo vệ chỉ một đại đội ĐPQ và khoảng 8 trung đội Nghĩa Quân. Cuối tháng 4/72, sau khi Cộng quân chiếm Dak Tô, Tân Cảnh, Dak Pek trở thành một tiền đồn cô lập, nằm giữa ḷng địch, việc tiếp tế chỉ giới hạn bằng phi cơ.
Ngày 15.5.1974, Cộng quân tập trung một lực lượng hùng hậu cấp sư đoàn, do tướng CS Vương Phú, Tư Lệnh Phó Mặt Trận B-3 tổng chỉ huy, gồm Trung Đoàn 3 (ĐoànThuận Hóa) thuộc Sư Đoàn 324 được điều động từ A- Lưới, Trị Thiên vào Tây Nguyên, phối họp cùng Trung Đoàn 66 (Đoàn Pleime) của Sư Đoàn 10, Trung Đoàn 40 Pháo hạng nặng, Trung Đoàn 37 Pḥng Không, được tăng cường một tiểu đoàn đặc công, và đại đội chiến xa T 54, tràn qua sông Pô-Kô đánh chiếm Căn cứ Dak Pek và Chi Khu Dak Pek. Căn cứ thất thủ chiều ngày 16.5. 74, sau gần hai ngày chống trả một lực lượng địch gấp 20 lần. Sau đó, để tránh đụng độ với các đơn vị chủ lực của ta, gồm Sư Đoàn 23 BB và các Liên Đoàn BĐQ hoạt động ở phía Bắc và Tây Bắc Kontum, chúng kéo xuống phía Đông Nam bao vây Măng Buk, đồng thời tăng cường lực lượng địa phương, tiếp tục tấn công về hướng thị xă Kontum, cô lập Chương Nghĩa (Platoni), Măng Đen nằm về hướng Ba Tơ, Quảng Ngăi. Khu vực này hoàn toàn do lực lượng ĐPQ của Tiểu Khu Kontum đảm trách.
Tiền Đồn 5 trở thành pḥng tuyến đầu để ngăn chặn làn sóng xâm lăng của Cộng Sản. Đây là một trong dăy tiền đồn của Tiểu Khu Kontum, nằm phía Đông Bắc, cách thị xă Kontum khoảng 15 cây số đường chim bay, trên một ngọn đồi có cao độ đúng 1200 mét (so với mực nước biển trung b́nh), và cách con đường tỉnh lộ nối liền Kontum – Quảng Ngăi (khi ấy đang bỏ hoang) khoảng bốn cây số, được pḥng thủ bởi một tiểu đoàn ĐPQ của Tiểu Khu Kontum.
Đầu tháng 6/1974, Cộng quân mở nhiều đợt pháo kích, bao vây Tiền Đồn 5 nhằm tiêu diệt lực lượng trú pḥng và phục kích các đơn vị tiếp viện của Tiểu Khu. Lực lượng và vũ khí quá chênh lệch, bên ta bị thiệt hại nặng. Nhờ Không yểm, tiểu đoàn trú đóng mở đường máu di tản, nhưng hơn một nửa quân số bị tổn thất, hai đại đội đóng quân bên ngoài phải phân tán, thất lạc. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II chỉ định Sư Đoàn 23 Bộ Binh mở các cuộc hành quân khẩn cấp giải tỏa áp lực địch và sau đó đưa một tiểu đoàn đến trú đóng tại Tiền Đồn 5, thay thế cho đơn vị ĐPQ đă phải triệt thoái, nhằm ngăn chặn đường tiến quân của địch. Tiểu Đoàn 1/44 nhận lănh trách nhiệm gay go này ngay sau khi có một vị chỉ huy mới, Đại úy Dương Đ́nh Chính (Khóa 20 Vơ Bị) vừa thay thế Thiếu Tá Phan Văn Khánh (Khóa 12 Vơ Bị) đi nhận nhiệm vụ mới.
Ngày 12.7.1974, Tiểu Đoàn 1/44 được trực thăng vận xuống Tiền Đồn 5, vừa củng cố lại công sự pḥng thủ đă bị phá hủy bởi các cuộc pháo kích và tấn công của địch, vừa hành quân tảo thanh chung quanh căn cứ để hổ trợ Tiểu Đoàn ĐPQ t́m gom những binh sĩ c̣n đang thất lạc. Do vị tiểu đoàn trưởng ĐPQ mang cấp bậc thiếu tá, nên khó khăn trong việc chỉ huy, phối hợp, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn chỉ thị Trung Đoàn 44 BB phải thành lập ngay một Bộ Chỉ Huy Nhẹ đến Tiền Đồn 5 để chỉ huy tổng quát. Ngày 14/7/1974, BCH Nhẹ gồm Thiếu Tá Lê Thái Như, Phụ Tá Hành Quân của Trung Đoàn Trưởng cùng một toán tháp tùng được thả xuống Tiền Đồn 5, trong số này có Đại úy Nguyễn Đức Vinh, là sĩ quan liên lạc Pháo Binh của Tiểu Đoàn 233 PB. Thiếu Tá Lê Thái Như nguyên là Quận Trưởng Quận Phụng Hiệp (Phong Dinh) vừa mới thuyên chuyển đến Trung Đoàn 44 BB, chưa có chức vụ chính thức, tạm thời làm sĩ quan phụ tá hành quân cho Đại Tá Phùng Văn Quang và sau đó là Trung Tá Nguyễn Hữu Lữ, Trung Đoàn Trưởng.
Lúc này trên Tiền Đồn 5, ngoài BCH Nhẹ Trung Đoàn 44, BCH Tiểu Đoàn 1/44 và Đại Đội Chỉ Huy Yểm Trợ, được bảo vệ bởi Đại Đội 2/1 của Thiếu úy Nguyễn Xuân Quang, Quyền Đại Đội trưởng. Các đại đội c̣n lại hoạt động ở các cao điểm và hành quân lưu động chung quanh, cách Tiền Đồn 5 từ 2 đến 5 cây số.
Hai ngày sau, các công sự pḥng thủ chưa được sửa chữa xong, vào sáng sớm ngày 16.7.1974, khi sương mù c̣n đang phủ kín cả một vùng núi non và thung lũng, Cộng quân pháo kích dồn dập vào Tiền Đồn 5 từ nhiều hướng khác nhau trong suốt một tiếng đồng hồ bằng đủ các loại pháo 120 ly, 122ly và 155ly bắn thẳng. Lúc này, Pháo Binh của ta đă bị hạn chế tác xạ v́ không c̣n đủ đạn dược và Không Quân cũng không thể yểm trợ được bởi thời tiết quá xấu. Ngay những loạt đạn pháo đầu tiên, hầm chỉ huy bị sập, hệ thống truyền tin bị phá hủy và một số đông quân trú pḥng đă bị tử trận, trong số đó có Đại úy Dương Đ́nh Chính, Tiểu Đoàn Trưởng, Đại úy PB Nguyễn Đức Vinh và Thiếu úy Nguyễn Xuân Quang, Q.Đại Đội Trưởng ĐĐ 2/1. Riêng Thiếu Tá Lê Thái Như bị thương nhẹ, chạy thoát ra ngoài, nhưng bị bắt làm tù binh sau đó.
( Năm 1976, khi bị chuyển tù ra miền Bắc, người viết bất ngờ gặp lại Thiếu Tá Lê Thái Như ở Trại 6 Nghĩa Lộ. Chính Thiếu Tá Như đă kể lại chi tiết trận đánh này).
Cộng quân tràn ngập. Tiền Đồn 5 trở thành một địa điểm “oanh kích tự do” sau đó. Tất cả tử sĩ đều phải đành vùi thây nơi chiến địa. Gia đ́nh họ nhận “Tờ Tŕnh Ủy Khúc” (một h́nh thức báo tử) để chỉ biết người thân của ḿnh đă hy sinh tại một địa danh xa lạ nào đó, với tọa độ AR 863-994 mà chỉ có những nhà quân sự mới có thể biết được.
Bà quả phụ Nguyễn Xuân Quang cũng nhận được “Tờ Tŕnh Ủy Khúc” như thế, nhưng bà không tin là chồng đă chết. V́ trước đây, vào giữa năm 1973, bà cũng nhận được giấy báo tử tương tự, nhưng sau đó mấy tháng th́ bất ngờ nhận được tin chồng c̣n sống và đang được điều trị tại quân y viện Quảng Ngăi. Lần đó, Thiếu úy Quang bị địch bắt tại trận Ngô Trang, phía Bắc Kontum, nhưng v́ anh bị thương khá nặng, nên địch quân bỏ anh lại trên đường áp giải tù binh ra Quảng B́nh, họ nghĩ là anh sẽ chết, nhưng anh đă may mắn được trực thăng bên ta phát hiện cứu sống. Sau khi được điều trị lành vết thương, anh xin trở lại đơn vị cũ tiếp tục chiến đấu.
Thiếu úy Quang ra đi, để lại cho người vợ trẻ bốn đứa con thơ. Cháu lớn nhất chín tuổi và đứa út chưa tṛn một tuổi.
Cuối tháng 3/75 gần cả miền Trung lọt vào tay Cộng sản sau khi Ban Mê Thuột thất thủ và cuộc di tản trên Tỉnh Lộ 7B đă trở thành một nỗi kinh hoàng. Cuối cùng đến ngày 30/4/75 cả miền Nam cũng hoàn toàn bị nhuộm đỏ. Kể từ đó, những mồ mả của tử sĩ miền Nam được chôn cất tại các nghĩa trang trong thành phố c̣n bị CS đập phá, san bằng, th́ chuyện đi t́m những người thân hy sinh trên các vùng núi non vô danh xa lạ, như Tiền Đồn 5 đă trở thành câu chuyện hoang đường. Hơn nữa ở thời điểm ấy, người sống chưa giữ được mạng ḿnh th́ làm sao c̣n có thể lo cho người đă chết.
Bà Nguyễn Xuân Quang không c̣n cách nào khác, rời bỏ ngôi nhà nhỏ bên khu trại gia binh Sông Mao, dắt bốn đứa con thơ về tá túc nhà cha mẹ ở Phan Thiết. Khổ nỗi, bà c̣n có người anh là một sĩ quan cấp tá tốt nghiệp (Khóa 16) Trường Vơ Bị Đà Lạt và hai cậu em đều là sĩ quan Thủ Đức, nên cha mẹ bà cũng bị đuổi ra khỏi nhà. Bây giờ ông bà già phải cưu mang cả cô con gái và bốn đứa cháu ngoại tuổi c̣n thơ dại. Ông bà, con cháu cùng dắt díu nhau, bỏ thành phố Phan Thiết thân yêu, chạy về vùng quê Chợ Lầu, dựng tạm căn nhà lá bên bờ sông Lũy, kiếm sống qua ngày bằng khoai sắn tự trồng và cá lưới dưới ḍng sông. Vậy mà cuộc sống lang bạt ấy vẫn chưa một ngày yên ả. Những hành xử và lời nói khắc nghiệt của những người bên thắng cuộc đă làm cho bà Quang không c̣n con đường sống. Bà đă uống mấy chai thuốc rầy để chết đau đớn trước mặt cha mẹ ḿnh và bốn đứa con thơ. Bà xin lỗi v́ đă để lại cho cha mẹ già một gánh nặng, và xin lỗi các con đă phải đành ḷng bỏ con lại bơ vơ, bà không thể bắt các con phải chết theo ḿnh. Sau đó vài năm, đứa con trai lớn cũng đă uống thuốc rầy theo mẹ. Đứa con trai thứ nh́, Nguyễn Thế Vinh, năm 1975 mới lên năm, bây giờ trở thành người phụ giúp đắc lực cho ông ngoại trong cuộc mưu sinh đầy khốn khó. Nhưng đau đớn thay, “họa vô đơn chí”, năm chín tuổi, khi chăn hai con ḅ của Hợp tác xă, lấy mấy kư lúa phụ ông ngoại, Vinh bị té xuống đất từ trên lưng ḅ. Cánh tay phải bị găy. Do không có thuốc thang và băng bó không đúng cách, cánh tay bị nhiễm trùng, hoại tử phải bị cắt bỏ đến gần bả vai.
Ông bà ngọai lần lượt qua đời, mấy chị em Vinh lại được bà d́ Út không lấy chồng, ở vậy cưu mang. Dù khốn khó, bữa no bữa đói, nhưng Vinh không chịu bỏ học hành. Bị tật nguyền, nhưng cậu bé lên mười vẫn thừa hưởng ư chí sắt đá của người cha để lại, Vinh vượt qua tất cả khó khăn, làm đủ thứ nghề để học hành thành đạt, mặc dù với cái lư lịch rất “đen”, Vinh không chút hy vọng ǵ ḿnh có thể được ngoi lên trong một xă hội đang c̣n đầy dẫy những đố kỵ, hận thù. Đỗ Đại học Kinh tế ưu hạng, nhưng không kiếm được việc làm. Ngày tốt nghiệp có hai ba nơi gởi thư chọn Vinh khi thấy số điểm tối ưu của Vinh, nhưng không bao giờ gọi Vinh đi nhận việc. Vinh đi dạy kèm, mở các lớp luyện thi, và đặc biệt hơn, Vinh đă thành công bằng nghề tay trái – với cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng: Đánh đàn – tất nhiên chỉ bằng tay trái.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1522313&stc=1&d=1580503762
Những năm c̣n nhỏ, đặc biệt khi cậu hai Minh vừa trong tù cải tạo trở về, như để giải sầu trước một tương lai mịt mờ đen tối, ông thường ngồi đàn trong đêm vắng, lúc chỉ c̣n có hai cậu cháu. Vinh đă say mê, v́ dường như chỉ có tiếng đàn mới làm tan biến những đau buồn, trắc ẩn trong ḷng, làm cho Vinh tạm quên đi bao nỗi bất hạnh khi tuổi đời mới lớn, mà chung quanh tưởng chừng chỉ c̣n là bóng tối luôn bao trùm chụp phủ lấy Vinh. Chuyện đàn guitar bằng một tay mà lại là tay trái là một điều không tưởng, nhưng rồi với đam mê và ư chí, Vinh đă thành công. Tài năng và nổ lực phi thường của cậu bé chưa thành niên đă được Nhạc sĩ Nguyễn Ánh Chín biết tới, nâng đỡ, chỉ dạy thêm, và cuối cùng chính ông đă giới thiệu Vinh đến đàn cho Pḥng Trà ATB của nữ ca sĩ Ánh Tuyết. Sau đó Vinh được một số đài truyền h́nh mời biểu diễn. Người nhạc sĩ một tay, đàn guitar bằng tay trái và thổi harmonica, đặc biệt những bản t́nh ca của Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Từ Công Phụng đă làm rung động ḷng người, được cả nước tán dương. Tuy nhiên, đó vẫn chưa phải là điều mà mọi người biết đến để ngưỡng mộ Nguyễn Thế Vinh như sau này.
Từ lúc bỏ Sài g̣n lên Bến Cát, B́nh Dương mở các lớp dạy kèm và luyện thi đại học, Vinh có dịp được gặp nhiều học sinh nghèo, mồ côi, tật nguyền nhưng hiếu học. Suy nghĩ từ thân phận của chính ḿnh, Vinh đă vận động bạn bè, đi khắp nơi kêu gọi những nhà hảo tâm, đứng ra mở Trung Tâm Hướng Dương, bảo bọc, nuôi dạy trên một trăm các em học tṛ nghèo, mồ côi và khuyết tật. Bây giờ thầy giáo Vinh trở thành chủ gia đ́nh Hướng Dương, là cha, là anh cả của đám học tṛ mà chính Vinh đă đi khắp nơi, những vùng xa xôi, nghèo khổ để gom góp dắt díu về đây nuôi dạy. Đến hôm nay, trong số những học tṛ ấy, đă có nhiều em tốt nghiệp đại học, trên ba mươi em du học tại Nhật Bản, một em du học tại Úc Châu và một em đang du học tại Hoa Kỳ. Cậu bé, có cha là lính VNCH tử trận khi chưa tṛn bốn tuổi, mồ côi cả cha lẫn mẹ từ năm lên bảy, mất cánh tay phải từ năm lên chín, giờ trở thành người nổi tiếng được bao nhiêu người trong và ngoài nước yêu thương cảm phục. Nhưng Vinh vẫn vậy, hiền lành, nhân hậu, chân chất, không ai t́m thấy trong nụ cười đôn hậu của Vinh một nét kiêu hănh hay mối hận đời nào. Điều đáng phục hơn, trong bất cứ hoàn cảnh nào, ngay cả khi được các đài truyền h́nh và báo chí trong nước phỏng vấn, lúc nào Vinh cũng hănh diện để nói về người cha quá cố, một sĩ quan QLVNCH đă hết ḷng chiến đấu và hy sinh cho lư tưởng của ḿnh.
Để có đủ tiền trang trải việc điều hành và nuôi dạy các em tại Trung Tâm Hướng Dương, hằng năm Vinh đều phải đi vận động, tŕnh diễn khắp nơi ở hải ngoại, qua chương tŕnh “Góp Lá Mùa Xuân” từ Úc, Âu, Á đến Mỹ Châu, phối họp với các cơ quan từ thiện khác, đặc biệt cùng tham gia tổ chức “Ngọc Trong Tim”, Vinh được mọi nơi hưởng ứng và hỗ trợ hết ḷng. Đến đâu Vinh cũng hănh diện để nói về người cha của ḿnh, một sĩ quan VNCH đă anh dũng hy sinh. H́nh ảnh người cha khá mơ hồ trong kư ức nhưng lại là một động lực để Vinh đứng lên từ nỗi bất hạnh tột cùng, và giúp tha nhân bằng tất cả trái tim ḿnh. Tâm sự với bạn bè, Vinh bảo, điều hạnh phúc nhất của Vinh là nghĩ cha mẹ đang dơi bước chân ḿnh và mỉm cười nơi chín suối.
Tháng 7/ 2019 trong dịp đến Úc Châu, Vinh cũng tŕnh bày về cái chết của cha và ước mong được liên lạc với những người đồng đội cũ cùng đơn vị của ông ngày trước để được biết tường tận hơn về cái chết và địa điểm nằm xuống của cha ḿnh. “Tờ tŕnh ủy khúc” cũng đă thất lạc sau ngày mẹ Vinh qua đời.
Vinh được Luật sư Nguyễn Văn Thuần giới thiệu đến tôi, v́ Thuần là người bạn đồng hương khá thân, biết tôi từng phục vụ gần mười năm ở Trung Đoàn 44 BB, đơn vị cuối cùng mà cha của Vinh, Thiếu úy Nguyễn Xuân Quang đă hy sinh. Vợ chồng LS Nguyễn Văn Thuần cũng là những người có nặng tấm ḷng, tích cực hỗ trợ tổ chức “Ngọc Trong Tim”, gom góp yêu thương mang đến cho những người khuyết tật cùng các anh Thương Binh VNCH c̣n đang sống khốn khổ ở quê nhà.
Tôi liên lạc với Vinh qua điện thư, rồi qua điện thoại. Ngay sau khi biết rơ cấp bậc, tên họ và đơn vị cuối cùng của người đồng đội Nguyễn Xuân Quang, tôi liên lạc hỏi thăm một số bạn bè cùng Tiểu Đoàn 1/44 với anh Quang lúc xưa, được biết chắc chắn là anh Quang đă hy sinh tại Tiền Đồn 5 ở Kontum. Tôi nhớ ngay đến trận đánh tại địa danh này qua lời kể của Thiếu Tá Lê Thái Như, lúc chúng tôi bất ngờ gặp nhau tại trại tù số 6 ở Nghĩa Lộ. Thiếu tá Như là người may mắn sống sót và bị bắt làm tù binh trong trận này.
Tôi c̣n nhớ mang máng Tiền Đồn 5 nằm không xa, nh́n xuống con đường đất nối liền Kontum – Quảng Ngăi, lúc ấy bỏ hoang v́ chiến tranh, nhưng không biết ở quăng nào, thuộc địa danh nào, hơn nữa thời gian đă quá lâu, hơn 45 năm rồi, có biết bao biến đổi. Tôi t́m cách liên lạc với một số sĩ quan thâm niên ở Tiểu Khu Kontum, may mắn gặp một anh đồng hương với vợ tôi, trước kia anh là Đại úy Chi Đoàn Trưởng Chiến Xa M-48, v́ phản đối một khẩu lệnh hành quân của cấp chỉ huy mà anh cho là vô lư, chắc chắn sẽ đưa Chi đoàn của ḿnh vào sa lầy, thảm bại, như trường hợp một chi đoàn bạn, anh bị kỷ luật, cho ra khỏi binh chủng, chuyển về Tiểu Khu Kontum giữ chức vụ tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn ĐPQ. Anh đă từng đóng quân tại Tiền Đồn 4, Tiền Đồn 5, và giữa tháng 10/1974, đơn vị anh bị địch quân tràn ngập ở Chương Nghĩa, anh bị bắt làm tù binh, khi ấy anh vừa được thăng cấp Thiếu Tá hơn một tháng. Anh ngồi vẽ lại vị trí Tiền Đồn 5 cho tôi, và để bảo đảm chính xác hơn, anh gọi cho một anh trung úy, đại đội trưởng dưới quyền của anh lúc xưa, là người Kontum và cũng đă từng đóng quân một thời gian dài tại Tiền Đồn 5. Trí nhớ anh bạn này rất chính xác.
Tôi liền viết một điện thư khá dài cho Vinh :
“Hai hôm nay, chú đă liên lạc với chú Sơn, chú Khanh (ở cùng Tiểu Đoàn 1/44 với ba cháu) và vài người khác, đă tham dự các trận chiến trong cùng thời gian, cùng và chung quanh địa điểm mà ba cháu đă hy sinh, đặc biệt trong số này có người từng sinh ra, lớn lên và đi lính tại Tiểu Khu Kontum.
Đến hôm nay chú và chú Sơn, chú Khanh đă có được một số chi tiết tương đối chính xác về trường hợp hy sinh của ba cháu.
Ba cháu hy sinh tại Tiền Đồn 5 (khác với Căn Cứ 5 ở Tân Cảnh). Tiền đồn này nằm bên con đường từ Kontum đi Quảng Ngăi (lúc ấy bỏ hoang, không sử dụng từ lâu v́ chiến tranh), bây giờ là Quốc Lộ 24.
Tiền Đồn 5 này nằm cách Thị Xă Kontum khoảng 15 km, gần khu vực Kon Xom Luh, giữa 2 địa danh có tên Kon Cha Re và Kon Se Tieu (không t́m thấy tên trên Google Map, có lẽ v́ hai địa danh quá nhỏ).
Đặc biệt, tại Kon Xom Luh hiện có nhà thờ Kon Xom Luh.Nếu có dịp đến Kontum, cháu t́m đến nhà thờ này hỏi thăm các vị linh mục, nhờ quí ngài chỉ giúp, hay hỏi thăm người dân địa phương (lớn tuổi) Kon Cha Re và Kon Se Tieu nằm ở đâu.
Riêng ngày mất của ba cháu, chú nghĩ trong khoảng 15 đến 30 Tháng Sáu, 1974, nhưng chú Sơn và chú Khanh đang t́m hiểu từ những bạn bè có tham dự trận đánh ấy, để cho cháu một ngày chính xác hơn.
Tiếc quá, nếu cháu c̣n giữ ‘giấy báo tử’,lúc ấy được gọi là “Tờ Tŕnh Ủy Khúc”, dành cho người mất tích (Lính hy sinh nhưng không t́m thấy xác đều gọi là mất tích), trong đó có ghi rơ ngày giờ và đặc biệt là tọa độ (địa điểm chính xác nhất) nơi ba cháu hy sinh.
Thời gian đă quá lâu, mọi sự đă thay đổi, các dấu tích chiến tranh và cả xương thịt những người lính hy sinh, chắc cũng không c̣n. Tuy nhiên tất cả đều để lại trong ḷng những người c̣n sống như các chú và nhất là cháu, những vết thương khó lành cùng với một nỗi hoài niệm khó nguôi.
Các chú xin được thành tâm chia sẻ về sự mất mát và nỗi buồn lớn lao này của cháu và cầu nguyện ơn Trên che chở và giúp cháu t́m lại được những điều mà cháu từng mong ước…”
Vinh nhận được email này của tôi lúc đang trên đường ra phi trường Sydney để rời Úc trở về lại Việt nam. Vinh chỉ kịp gởi cho tôi vài hàng tin nhắn qua Viber:
-Cháu sẽ lên Kontum ngay sau khi về lại Việt nam, cháu sẽ làm theo lời hướng dẫn của chú. Có ǵ cháu sẽ gọi chú qua Viber.
Trời đă không phụ ḷng những con người hiếu thảo, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn giữ được trái tim, đặc biệt đối với một tâm hồn không hề vướng chút bụi bẩn của một xă hội kim tiền, vô cảm, Vinh đă được tất cả mọi người giúp đỡ tận t́nh, từ các vị nữ tu, đến người lính Thượng miền Nam thuở trước và cả những người lái xe ôm nghèo khổ, tận t́nh hướng dẫn và giúp Vinh đến Tiền Đồn 5.
Vinh kể:
“Cháu đến chân núi của Tiền Đồn 5 là 11 giờ trưa ngày 28 Tháng Bảy, 2019. Lúc đó trời muốn mưa và mây phủ kín hết ngọn đồi của Tiền Đồn 5. Những ngọn đồi thấp hơn nằm chung quanh th́ c̣n thấy thấp thoáng. Nhiều người dân nơi đó lo lắng cho cháu, khuyên không nên lên v́ đường khó đi, nhưng ḷng cháu lại cảm thấy rất nôn nóng, muốn đi liền ngay tức khắc.
Với sự giúp đỡ của người dân, hai thanh niên địa phương dùng hai chiếc xe gắn máy mà bánh xe phải ràng dây xích, một chiếc chở cháu, một chiếc chở đồ ăn, thức uống, hoa quả, bắt đầu leo núi.
Sau một tiếng leo núi bằng xe Honda qua nhiều đồi khác nhau, khi đến chân đồi của Tiền Đồn 5 th́ không c̣n đường để xe gắn máy chạy nữa, nên cháu bắt đầu đi bộ, vừa đi vừa phải dùng rựa chặt cây mở đường. Sau 30 phút, cháu đến được đỉnh đồi của Tiền Đồn 5.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1522314&stc=1&d=1580503849
Những bao cát dùng làm chiến hào bị rách nát, vài đế giày bốt-đờ-sô vương văi, những cục pin dẹp nằm chỏng chơ, những cọng kẽm gai phần chôn dưới đất, phần ló lên trên… là những ǵ cháu nh́n thấy trên khoảng đồi trống của Tiền Đồn 5. Cháu có cảm giác dấu tích trận đánh và âm thanh súng đạn năm nào vẫn c̣n hiển hiện, phảng phất nơi đây.
Nh́n những ǵ c̣n sót lại đó, cháu cảm thấy rất xúc động. Và thật lạ, là từ lúc lên đây sương mù đă phủ kín hết bầu trời, nhưng khi cháu lấy hoa quả bày ra và thắp bó nhang cho ba cùng các chú, các bác đă nằm lại nơi này, th́ trời lại bỗng dưng ló nắng”.
Cuối cùng th́ Vinh cũng đă đến được đỉnh Tiền Đồn 5, nơi mà xác thân Thiếu úy Quang, người cha thân yêu của Vinh đă nằm lại đó từ 45 năm trước, giờ chắc cũng đă tan cùng tro bụi.
Quỳ giữa đỉnh đồi vắng lặng, bàn tay trái duy nhất cầm chặt bó nhang, Vinh cúi đầu khấn vái hồn thiêng của cha và những người lính miền Nam đă chết cho quê hương và lư tưởng cao đẹp của ḿnh. Bốn mươi lăm năm, đă trải qua biết bao chia ĺa, khốn cùng, bi thảm, nhưng Vinh đă vươn lên, vượt qua những thử thách cay nghiệt nhất, để ngẩng cao đầu trong một xă hội mà cả gia đ́nh ḿnh từng là nạn nhân, luôn bị bên thắng cuộc cố t́nh xô đẩy ra bên lề xă hội, đến bước đường cùng, bởi một thứ hận thù không c̣n nhân tính. Nhưng cuối cùng, nhờ ḍng máu của người cha c̣n luân lưu trong huyết quản, Vinh đă chiến thắng. Không chỉ thắng được số phận của chính ḿnh, mà cao cả hơn, cũng giống như cha ḿnh và những đồng đội của ông, Vinh đă thắng được ḷng người. Cái thắng xem chừng vinh quang và bất diệt nhất.
Vinh đă được mời lên nói chuyện ở các đài truyền h́nh, tọa đàm trong các buổi tu học tại các cơ sở Phật giáo trước hàng vài ngàn Phật tử, được ví như “Cây Xương Rồng Trên Cát”, nói chuyện trong các hội văn nghệ, văn học. Cuốn tự truyện “Ông Giáo Làng Trên Tầng Gác Mái” của Vinh được độc giả cả nước b́nh chọn là “Tác phẩm Xuất Sắc Nhất của năm 2018, với nội dung truyền cảm hứng và động lực nhất để sống và để cống hiến”. Vinh nhận được giải thưởng lớn,100 triệu đồng, và đă góp hết vào ngân quỹ của gia đ́nh Hướng Dương.
Trong cuốn tự truyện của ḿnh, Nguyễn Thế Vinh cho biết: “Chính những ngày tháng dạy học cho các trẻ em nghèo, mồ côi, khuyết tật… đă làm nảy nở trong tôi ước mơ về một ngôi trường, cũng là mái nhà cho mấy đứa trẻ thiệt tḥi ấy chui ra chui vào, vừa học chữ, vừa học làm người. Lũ trẻ và tôi sẽ dũng cảm bước đi trên con đường hướng tới tương lai bằng tinh thần tích cực và độc lập nhất”.
Một nhà phê b́nh đă viết về cuốn tự truyện của Vinh:
“Cuốn sách này kể cho bạn nghe chuyện đời của một “hạt bụi” ngát hương, hết sức hồn nhiên trong cơi trăm năm đi về. Sức sống của “hạt bụi” ấy có thể khiến những ai đang bị cuộc đời dồn ép hoặc thấy ḿnh sắp bị đời xô ngă sẽ kiên cường đứng vững và chân thật mến yêu cuộc đời”
Một nhạc sĩ tên tuổi đă từng thổ lộ: “Một lời tử tế chưa đủ để nói về Vinh”.
Hầu hết học tṛ của Vinh đều bảo “Thầy Vinh là cha, là bạn và cũng là vĩ nhân”
Vinh dự trù sẽ tổ chức một buổi tưởng niệm và cầu siêu cho cha và những đồng đội của ông đă hy sinh trên ngọn đồi Tiền Đồn 5, vào dịp cuối năm hay Tết Nguyên Đán với sự đồng tế của các vị lănh đạo tinh thần các tôn giáo. Tất cả sẽ cùng thắp sáng lại trong tâm hồn một mùa Xuân, mùa của ḷng biết ơn và hy vọng.
Vinh cũng nhờ các cơ quan truyền thông, báo chí và đồng đội của cha, giúp t́m cách thông báo đến thân nhân của những chú, bác đă cùng hy sinh với cha Vinh. Xin hăy liên lạc với Vinh để cùng tham dự buổi lễ tưởng niệm đặc biệt này. Người đầu tiên đă nghe được tiếng gọi của Vinh, một thanh niên hiện định cư ở bên Úc , chính là trưởng nam của cố Thiếu Tá Nguyễn Đức Vinh, sĩ quan liên lạc Pháo Binh của Tiểu Đoàn 233/PB cũng đă nằm lại trên Tiền Đồn 5 ngày ấy. Điều may mắn là cậu ta c̣n giữ được “Tờ Tŕnh Ủy Khúc” trong đó có ghi rơ ngày giờ và địa điểm chính xác nơi cha anh đă hy sinh: ngày 16 tháng 7 năm 1974, tại Tiền Đồn 5, Tọa độ AR 863-994. Những chi tiết mà cháu Nguyễn Thế Vinh cũng đang cần muốn biết. Sau đó Vinh cũng đă liên lạc được với con của Cố Thiếu Tá Dương Đ́nh Chính ở Sài G̣n, và sẽ gặp một thuôc cấp cũ của ba Vinh ở Sông Mao, để có thể liên lạc với gia đ́nh những tử sĩ khác.
Cuộc chiến đă kết thúc – dù trong tột cùng bất công và tức tưởi – nhưng măi đến 45 năm sau, hơn nửa đời người, những người con mới t́m đến được nơi cha ḿnh đă hy sinh, xác thân vùi chôn ở đó. Nh́n h́nh ảnh người con trai chỉ c̣n một cánh tay với những nén nhang thắp muộn trên ngọn đồi hoang vắng, điêu tàn, từng xảy ra bao trận chiến đẫm máu đồng đội, ḷng tôi lắng xuống. Hồi tưởng lại thời gian cuối cùng của cuộc chiến, tôi bỗng thấy đồng cảm, thấm thía với tâm trạng của người lính trẻ Paul Bäumer, nhân vật chính trong “Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh” (All Quiet On The Western Front), tác phẩm viết về chiến tranh nổi tiếng của nhà văn Erich Maria Remarque, mặc dù câu chuyện đă xảy ra từ thời Đê Nhất Thế Chiến:
“Ngày tháng trôi qua. Mùa hè 1918 này là mùa hè đẫm máu và kinh hoàng nhất. Thời gian giống như những thiên thần đang bay lượn trên vùng hủy diệt một cách không thể hiểu nổi. Dường như ai cũng biết rằng chúng tôi sẽ phải thua trong cuộc chiến này. Nhưng rất ít ai nói ra điều ấy. Chúng tôi đang bị đẩy lui. Chúng tôi không còn đủ quân số, không đủ tiếp liệu, đạn dược để có khả năng phản kích sau cuộc tổng công kích này. Duy chỉ có các chiến dịch hành quân là còn đang tiếp diễn – và những cái chết sẽ vẫn c̣n tiếp tục…”
Chỉ có một điều khác biệt. Anh Paul Bäumer may mắn hơn chúng tôi, đối phương của anh dù là người không cùng một nước, nhưng chắc chắn không tàn ác và man rợ như kẻ thù đă chiến thắng chúng tôi, những người có cùng ḍng giống nhưng không hề có trái tim người.
Phạm Tín An Ninh
hoanglan22
02-03-2020, 14:34
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1523723&stc=1&d=1580740388
Ngoài sảnh cả một biển người loi nhoi dáo dác t́m người thân của ḿnh, Dean D mũ lệch, kiếng đen bước đi khệnh khạng ra vẻ lắm, nhiều ánh mắt nh́n theo tỏ vẻ thèm thuồng pha lẫn ngưỡng mộ. Dean D thấy khoái chí nhưng giả vờ làm lơ, ra vẻ ngóng t́m người nhà nhưng thực ra đang cố khoe mẽ với đám đông đang bị mê hoặc bởi cái gió hải ngoại. Dean D tận hưởng cái sự xênh xang áo gấm về làng, cái giây phút thấy ḿnh trở nên có giá cao hơn hẳn đồng loại của ḿnh một bậc, phút giây hănh diện này đánh đổi bằng cả một thời gian dài đằng đẵng cày như trâu ở xứ người. Y c̣n đang dương dương tự đắc th́ người nhà trông thấy kêu gọi ầm ĩ, chưa kịp tay bắt mặt mừng th́ y đă kêu toáng lên:
- Nóng quá, ồn quá sao chịu nổi?
Những người xung quanh cũng chẳng ai quan tâm y nói ǵ, vả laị ai cũng chăm nh́n ở cữa ra xem người nhà ḿnh xuất hiện chưa, ấy thế mà sau lưng y laị có một khứa nhổ toẹt một băi nước bọt xuống sàn. Dean D laị kêu lên:
- Trời đất, sao mà mất vệ sinh thế!
Người nhà bèn keó y đi thẳng ra xe, sau khi chạy khoảng bốn tiếng th́ tấp vào một quán nước ven đường để nghỉ ngơi và đi vệ sinh. Mọi người kêu bia ra uống, Dean D tợp một ngụm rồi nhận xét:
- Bia ở đây lạt quá, không biết đá lạnh có hợp vệ sinh không nữa?
Mấy người anh em của y thoáng nhíu trán nhưng nhanh chóng lấy laị vẻ b́nh thản và bâng quơ đùa:
- Anh Dean về đây chơi nhớ cẩn thận, nếu không mấy em chân dài sẽ móc sạch bóp.
- Dễ ǵ, anh đây đâu phải tay mơ, Dean trả lời
Mà quả thật vậy, ăn được tiền của y quả là không dễ đâu! Dean đi chợ c̣ kè so giá từng xu, chín đồng rưỡi ráng góp thành mười, làm ǵ có chuyện cho ai khơi khơi bao giờ!
Về đến nhà, Dean cho thằng cháu đi mua chục két bia về ăn nhậu tưng bừng, tiếng khui bia lốp bóp, tiếng cụng ly leng keng, tiếng cười hô hố, tiếng tranh nhau nói…ầm ĩ cả xóm. Dàn karaoke được mở hết cỡ, những giọng ca giật giải miệt vườn thi nhau tra tấn lỗ nhĩ bà con lối xóm. Men vào th́ lời ra, ai ai cũng tranh nhau hát, tranh nhau nói… nhưng hễ Dean tỏ ư muốn hát là lập tức mọi người nhường micro cho Dean liền. Dean cũng là người nói nhiều nhất: Chuyện chính trị, chuyện bóng đá, chuyện tôn giáo, chuyện trên trời dưới đất, chuyện giàu sang xứ mẽo, chuyện lạ có thật… nhưng thật bao nhiêu phần trăm th́ chỉ có y mới biết, quả thật người ta nói đâu có sai:” Mạnh v́ gạo bạo v́ tiền”! Ở cái xóm naỳ th́ Dean là mạnh nhất rồi nên nói thao thao bất tuyệt. Thằng Tí trong xóm, vốn là bạn thân từ thuở c̣n cởi truồng tắm mưa bất chợt hỏi:(hồi ấy Dean c̣n là cu Đực, sau này sang mẽo mới đổi thành Dean)
- Cu Đực, ở bển mầy làm ǵ dzậy?
Dean thoáng vẻ không hài ḷng v́ kiểu thân mật gọi cái tên ngày xưa nhưng vẫn trả lời:
- Tao làm kỹ sư hoá chất.
- Thế bà xă mầy làm ǵ?
- Vợ tao làm chuyên viên săn sóc sức khoẻ
Nhiều tiếng xuưt xoa thán phục
- Hồi ấy cu Đực cũng như bọn ḿnh, vậy mà giờ thành công quá, giỏi giang quá! thảo nào tiền bạc rủng roẻn, xài mát trời ông địa luôn.
Lần này Dean tỏ vẻ khó chịu khi nghe gọi tên cu Đực, mặt sa sầm xuống, bọn bạn có kẻ lanh trí liền tâng y lên:
- Nó giờ là Dean D nghe tuị bay!
Lập tức y cười khoái chí nhưng giả đ̣:
- Gọi sao cũng được mà, không quan trọng!
Suốt buổi nhậu Dean cứ chêm vào: Oh my God, Bullshit, oh yeah, perfect… có người hiểu, có người không hiểu nhưng ai ai cũng chăm chăm nâng ly, dô dô trăm phần trăm chứ chẳng hơi đâu mà t́m hiểu tiếng Tây, tiếng u.
Cuộc vui tưng bừng đến tận giấc xế luôn, men đă ngà ngà, Dean lè nhè:
- Honey biết hông? tức chết đi được, tuần rồi anh đắp bộ móng cho con Barbara, móng ǵ mà khó đắp quá trời, đă vậy làm xong nó chê xấu, không trả tiền. Anh phải tháo bỏ, vừa tốn công vừa mất thời giờ, thế mà nó c̣n cà chớn hỏi:” Tụi bay làm nails bao lâu rồi? có bằng không?”. Anh phải nhịn nó, v́ lúc ấy trong tiệm c̣n nhiều người khách khác.
Jenny L, vợ Dean cất giọng oang oang:
- Honey, vậy là c̣n đỡ đấy! em chà chân cho con đen cả tiếng luôn, chân ǵ mà dơ và thúi hoắc, da th́ dày như da trâu… chà xong hết muốn ăn cơm! Ấy vậy mà nó tính quỵt, la lối ầm ĩ, chê bai đủ thứ…kiếm được đồng tiền quả chua cay quá!
Đám bạn có người cười mỉn, có kẻ cười khúc khích. Riêng thằng cu Đẹn th́ cười hô hố:
- Không ngờ tụi mẽo cũng cà chớn, cứ tưởng xứ ḿnh mới có ăn quịt!
Cu Đẹn là bạn học từ phổ thông, nó là người nhiều chữ, học cao nhất trong đám bạn. Nó lấy được bằng cử nhân văn chương, mọi cuộc gặp mặt ai cũng khoái nghe nó kể chuyện. Nó kể rất duyên, hóm hỉnh và hài hước, chuyện ǵ nó cũng biết cả: Đông- tây-kim-cổ…Dĩ nhiên cuộc vui hôm nay cũng không ngoại lệ, mọi người yêu cầu nó kể chuyện nghe chơi. Cu Đẹn uống cạn ly bia rồi thủng thẳng:
“ Năm ấy Tề vương ngồi đọc sách ở bên đ́nh thủy tạ, anh xà ích dắt ngựa đi qua thấy bèn hỏi: “Đaị vương đọc sách ǵ?” Tề vương đang vui nên muốn hí lộng:” Ta đọc sách ngu tử”. Tay xà ích tán:” Người ngu biết ḿnh ngu là trí, người trí không biết chỗ ḿnh ngu ấy là ngu vậy! trí – ngu tuy giống mà khác, tuy khác mà giống!”. Tề vương cười hứng chí bảo:” Ngươi nói tiếp “. Anh xà ích tám:” Người trí không có tiền cũng thành ngu, người ngu có tiền cũng thành trí. Thời thế mà không có tiền th́ thời thế bỏ đi, có tiền cũng có thể tạo ra thời thế. Anh hùng mà không có tiền th́ khác ǵ tiểu nhân, có tiền mà không có đức th́ chẳng sao, có đức mà không có tiền th́ lấy cức ǵ ăn…” Tề vương cau mày bảo:” Thôi! đừng nói những ǵ vượt quá cái bánh xe ngựa của ngươi!”
Cả bọn cười ḅ lăn ḅ càng, có người bảo:” May cho anh xà ích, Tề vương chưa nổi giận.”. Bạn bè cũng ngầm thấy cu Đẹn có ư chỉnh cu Đực, Dean gỡ thẹn:
- Cái móng tuy nhỏ nhưng laị lớn, nhờ nó mà người ta mới mua nổi nhà, xe, nuôi con ăn học, gởi tiền về quê mua đất, rồi những chuyến “y cẩm hồi hương”…
Có vài người bất chợt nh́n cái móng của ḿnh, có kẻ c̣n lấy tay sờ mà tặc lưỡi. Dean nói đúng, nếu không có nghề nails th́ sẽ vất vả lắm đấy!
Buổi tối, cả đám kéo vào vũ trường trong thị xă chơi. Dean giày bốt áo thun, cu Đẹn giày đen, thằng Tí và mấy khứa khác chơi đôi giày thể thao. Vừa lọt qua cữa cách âm là cả một không gian khác, đèn led chớp quét loang loáng, âm thanh dập muốn bể tim. Dean làm ra vẻ sành điệu, bảo anh bồi:
- Em trai, cho anh chai sương mù.
Anh bồi nói:
- Ở đây giá chót phải là Chivas anh ơi, không ai uống sương mù cả!
Dean bóp bụng:
- Vậy th́ Chivas.
Rượu mang ra, mấy em cave vây quanh ưỡn ẹo ngọt xớt, tự khui rượu rồi mời cả bọn. Phải công nhận mấy em uống như rồng lấy nước, nâng ly liên tục, nghề của mấy em mà, làm không lương, chỉ hưởng tiền boa của khách và ăn chia trên số chai. Để làm giá cho cả bọn, thằng Tí giới thiệu với mấy em:
- Đây là anh Dean, Việt kiều Mẽo mới về chơi.
Mấy em cave lập tức nâng ly mừng anh Dean, mấy em rành sáu câu ba cái vụ này quá mà, bởi thế càng ra sức tâng bốc Dean để kiếm tiền boa, một em tên Kim chả chớt:
- Mấy ảnh ở bển về toàn là dân kỹ sư, bác sĩ không hà. Mấy ảnh chơi sộp lắm, năm rồi có anh ga lăng cho em một chiếc xe future đời mới luôn!
Kim trang điểm giống hệt mấy em hàn Quốc, Dean thấy khoái, kéo laị định hôn. Kim ơng ẹo:
- Anh ở bển về chắc hổng biết luật chơi ở vũ trường?
Dean bèn lấy tờ hai mươi đô nhét vào khe ngực để trễ tràng của Kim, cô ta hôn cái chụt lên má Dean. Cả bọn nhảy tưng tưng, quất hết hai chai Chivas, một giờ sáng gọi taxi về. Hôm sau tỉnh rượu, Dean tiếc đứt ruột, bụng bảo dạ:” Mất toi một tuần lương cho một đêm”. Đă thế vợ c̣n tru tréo:
- Ông đi bia ôm chơi bời, coi chừng dính sida.
Thế rồi cô ta bỏ cơm nhà, ra chợ ăn quà. Dean theo năn nỉ găy lưỡi, tụi thằng Tí, cu Đẹn, con Mén… cười:
- Tưởng sao, té ra hổng phải hàng xịn.
Cu Đẹn c̣n văn vẻ, bệnh nghề nghiệp mà:
- Nhác trông ngỡ tượng tô vàng
Nh́n ra mới biết chẫu chàng ngày mưa
Thế là mấy ngày kế nghỉ nhậu, ngày thứ ba mới gầy độ laị, lần này thằng Mùi tham gia. Nó mới về từ cao nguyên, mang theo hũ rượu cần chính gốc của người Ba Na. Ban đầu Dean ngaị, thấy mọi người hút chung mấy cái ṿi nên chê dơ. Tụi bạn khích tướng:
- Mầy hút thử đi, ngon lắm! vi trùng nào sống nổi với lượng cồn này!
Dean hút thử một hơi, chép chép miệng khen:
- Tuy không sang trọng và mắc tiền như rượu Tây nhưng thơm và ngon, cái quư nữa là không có hóa chất.
Thằng Mùi góp vui:
- Nghe nói ở bển tân tiến và hiện đaị lắm phải không mậy? phi thuyền của nó bay là là sát mặt đất sao hoả.
Cả bọn ừ à, Dean cũng chưa nói ǵ th́ nó tiếp:
- Nói th́ nói vậy chứ cũng cách mặt đất một gang tay. Tụi Nga cũng giỏi lắm, tàu ngầm nó lặn sát đáy biển, cũng chỉ cách một gang tay. Các nhà khoa học giỏi thật nhưng không nhằm nḥ ǵ so với các bà mẹ của họ.
Nhiều người nhao nhao:
- Bộ các bà mẹ của họ cũng chế được phi thuyền, tàu ngầm sao?
Thằng Mùi đủng đỉnh một tí rồi mới bảo:
- Các bà mẹ của họ tạo ra họ cũng chỉ cách rốn một gang tay!
Bàn nhậu cười ngả nghiêng, cứ thế những cuộc nhậu kéo dài suốt hai tuần liền.
Những ngày gần tết, hội ruột rà yêu nước tổ chức hội nghị trên thành, địa phương cử người đến nhà Dean D.
- Anh hăy ủng hộ địa phương một ít tài chánh để xây dựng quê hương, địa phương sẽ cử anh lên thành dự hội nghị yêu nước.
Dean đồng ư đóng một số tiền và lên thành phó hội, sau khi nhiều tay có máu mặt đăng đàn phát biểu. Những tay cơ hội làm ăn cũng lên ba hoa kế hoạch này nọ, khi gần kết thúc, ban tổ chức cho mời Dean đaị diện tỉnh nhà phát biểu:
- Chúng tôi xin tri ân triều đ́nh, các ban ngành đoàn thể đă tạo điều kiện cho anh em chúng tôi về xây dựng tương lai. Chúng tôi vô vàn cảm kích sự lănh đạo sáng suốt tài của triều đ́nh. Suốt bao năm dài tha hương chúng tôi luôn được các cấp theo dơi, quan tâm, chỉ đạo sâu sát, thật không sao nói hết ḷng biết ơn của chúng tôi…
Báo chí đưa tin, ti vi phát sóng ồn ào. Dean thấy ḿnh trên ti vi th́ hănh diện lắm, vẻ mặt nhơn nhơn, cuộc nhậu nào cũng khoe:
- Mấy anh em có xem ti vi tối hôm hăm ba tháng chạp hông?
Bạn nhậu có kẻ cười kh́, người cười mím chi, riêng thằng Mùi th́ huỵch toẹt
- Mầy được lên ti vi chứ ǵ? mầy là thành viên hội ruột rà yêu nước ǵ đó, ai mà hổng biết! mầy phát biểu như pháo chuột nổ lẹt đẹt hôm đưa ông táo dzià trời.
Dean giận xám mặt nhưng không biết ăn nói làm sao nên nín thinh
Dean ở chơi đến tháng thứ tư mới bay về laị. Xóm giềng thắc mắc:
- Bộ thất nghiệp hay sao ở lâu vậy? người khác về có hai tuần là vội vàng đi rồi cơ mà!
Trong xóm có kẻ ra vẻ thông thái:
- Thằng Đực làm nghề tự do, thích th́ làm không thích th́ thôi, có ràng buộc ǵ đâu mà sợ.
Dean bay về laị Mẽo, mọi người thở phào:
- Thằng Đực về laị mẽo, thế là bớt một giọng ca karaoke, nghe đâu sang năm nó laị về! ư quên, giờ nó là thằng Dean.
TIỂU LỤC THẦN PHONG
laongoandong
02-05-2020, 09:26
Ai cũng có chuyện t́nh buồn vui để kể, phận ḿnh th́ teo tốp lại chưa lần biết đường vào yêu cho nên ḿnh cứ măi...yếu x́u và khập khểnh trong nhiều lần ....yêu trộm. Như vậy có thể gọi là yêu không ta?
Kể ra sáu bó cũng gần
Chưa yêu, chưa hận, chưa lần tương tư
Thế nào mới gọi là "Yêu"?
Làm sao để biết con tim rộn ràng?
Nghĩ thôi đă thấy bàng hoàng
Thôi th́ cứ thế và rồi....thế thôi.
:o:o
Vấn đề thứ nhất: ḿnh cứ măi yếu x́u. Bạn nên đi khám bác sỉ
Vấn đề thứ hai : chưa lần biết đường vào yêu.? Hay là bạn thử chuyển hệ xem sao .
Đây không phải là ư kiến của ḿnh mà của ông lang mù ở cuối làng quê của một vùng núi Tà Lơn..
phokhuya
02-06-2020, 00:38
Vấn đề thứ nhất: ḿnh cứ măi yếu x́u. Bạn nên đi khám bác sỉ
Vấn đề thứ hai : chưa lần biết đường vào yêu.? Hay là bạn thử chuyển hệ xem sao .
Đây không phải là ư kiến của ḿnh mà của ông lang mù ở cuối làng quê của một vùng núi Tà Lơn..
:hafppy::hafppy::haf ppy:
hoanglan22
02-07-2020, 20:05
"Kế hoạch trăm năm không ǵ hơn là trồng người" (của tên Đại Việt Gian HCM )
Mụ cô cha hắn chứ trồng người!
Té ra trồng người là chôn sống người!
Con Gái Tôi Đâu? - Ngô Viết Trọng
VC THẢM SÁT 6,000+ ĐỒNG BÀO TẾT MẬU THÂN 1968 - VC THẢM SÁT DÂN LÀNH VÔ TỘI TẠI KHE ĐÁ MÀI, HUẾ DỊP TẾT MẬU THÂN 1968
Con Gái Tôi Đâu? hay Vết Hằn Mùa Xuân
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1525983&stc=1&d=1581105708
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1525984&stc=1&d=1581105708
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1525985&stc=1&d=1581105708
để nhớ lại Mùa Xuân năm nào Công Sản đă gieo rắc đau thương trên người dân vô tội.
D́ Sáu đang giúp bà Thái lượm những hạt cứt chuột, những hạt sâu cùng những thứ khác lẫn lộn trong mấy thúng nếp th́ Liên về. Cô gái với khuôn mặt bầu bĩnh tươi như hoa, dựng chiếc xe đạp trước sân, hớn hở bước vào nhà nói như khoe khoang:
- Chào d́ qua chơi! Mạ với d́ thấy chiếc xe đạp của con chưa?
Hai người đàn bà đều ngừng tay nh́n ra. Một chiếc xe đạp đàn bà mới toanh láng coóng, sườn sơn màu tím óng ánh, ghi đông, vành, tăm đều sáng choang.
- Trời! Chiếc xe của công chúa có khác! Cho d́ mượn đi phố một bữa đi!
Bà Thái ngắm nghía chiếc xe, mặt bà cũng tươi rói, hết nh́n Liên lại nh́n d́ Sáu hài ḷng, hănh diện:
- Mất của tôi gần ba chục thúng lúa đấy! Rứa là cô ưng chi tôi cũng thỏa măn cho cả rồi. Vô thay quần áo đi mà ra phụ mạ làm sạch sẽ ba cái nếp để lo bánh trái cho rồi! Tết ni đ́nh chiến chắc mấy thằng anh mi cũng về. Tổ cha mi hai ngày nữa là lên mười tám rồi, phải siêng siêng lên cho mạ nhờ một tí chứ!
Liên cười qua con mắt, nũng nịu nh́n mẹ:
- Th́ con lo học chứ có lười nhác đâu nào! Mạ lo chuẩn bị quà thưởng khi con đậu Tú Tài cuối niên khóa đó!
- Th́ đă thưởng trước chiếc xe đạp rồi cô! Cô liệu hồn để trượt vỏ chuối là chết với tôi đó chứ đừng nói!
D́ Sáu cười chung ḥa niềm vui:
- Th́ thưởng cho hắn một thằng dôn cao ráo đẹp trai, cháu có chịu không?
Cô gái vẫn mặt tươi như hoa cười khúc khích:
- Con không cần tới một thằng dôn cao ráo đẹp trai đâu d́! Con chỉ cần một anh chồng xấu ỉn thôi.
Cả ba người cùng cười ṛn ră. D́ Sáu hỏi:
- Mụ nội mi nói cái chi lạ đời rứa! Răng không ưng chồng đẹp mà lại ưng chồng xấu nói cho d́ nghe thử coi!
Liên lại cười khúc khích:
- D́ không nghe người ta nói “củi nè dễ nấu chồng xấu dễ sai” đó sao? Con dại ǵ mà lấy chồng đẹp!
D́ Sáu cười nghiêng ngửa:
- Th́ ra con nhỏ tinh ranh tới rứa là cùng! Cho hắn bấp một thằng chồng hay đặp vợ cho biết mặt!
Bà Thái cũng cười ṛn ră:
- Tổ cha mi nói rứa có chó mà dám ưng mi! Coi chừng ở quá đó nghe con!
- Ở quá con cũng không sợ. Ở với ba với mạ lo chi!
Liên vừa nói vừa nhí nhảnh đi vào pḥng của ḿnh. D́ Sáu nh́n theo cười:
- Hắn tuổi Tân Măo phải không chị? Mới nhỏ chút xíu đó mà! Hèn chi lớp ḿnh mau tra cũng phải.
- Có thư đi thư lại rồi đó d́! Thấy cái thằng cũng hiền lành dễ thương!
- Chị không la hắn à?
- La mần chi! Trước ḿnh răng th́ chừ hắn rứa! Nhưng ḿnh cũng phải ngó chừng chừng cho hắn chứ! Tôi chỉ ớn ớn mấy thằng lường gạt thôi. Nói cho cam quả, con ni cũng ngộ thiệt. Từ ngày đẻ hắn ra trong nhà cứ ăn mần nên phơi phới. Học hành th́ chuyên đứng nhất đứng nh́, năm mô cũng có phần thưởng. Cha hắn cưng lắm, muốn chi được nấy mà!
- Hắn dễ thương quá đi chứ! Thằng mô mà gặp hắn thiệt là có phước!
Hai người đang vui vẻ bàn tán th́ Liên đă thay xong quần áo, chạy vụt ra phụng phịu đưa cả hai tay đấm thùm thụp vào lưng bà Thái.
- Ồ, cái con! Mi mần cái chi rứa?
- Mạ tầm bậy lắm! Mạ đọc chùng mấy cái thư của con hết trơn rồi phải không? Trong pḥng con ngoài mạ ra ai vô được?
Cả ba người lại cùng cười ṛn ră. Bà Thái nh́n con gái âu yếm:
- Th́ mạ phải kiểm soát chứ lỡ gặp thằng mô ba láp hắn dụ dỗ con mạ dắt đi mất mạ biết mần răng? Nói rứa chứ con của mạ đứa mô mà dụ dỗ được!
- Lần sau cấm mạ không được coi chùng thư riêng của con nữa đó!
D́ Sáu nh́n cái cảnh hạnh phúc tràn trề của hai mẹ con mà thèm khát. Chồng d́, ông Hữu, tập kết ra Bắc biệt tăm đă hơn mười năm rồi. Con Lư, đứa con gái của d́ và ông Hữu kém Liên một tuổi, học hành chưa tới đâu hết phải bỏ ngang. Sau này d́ cũng có thêm một thằng nhỏ nữa giờ đă lên sáu, không rơ cha nó là ai. Cuộc sống của mấy mẹ con d́ chưa lúc nào được thoải mái cho lắm. Bà Thái là chị con ông bác của d́ vốn rất thương d́ nên vẫn hay giúp đỡ d́ nhiều mặt. Hai chị em qua lại với nhau khá tâm đắc. D́ nh́n hai mẹ con bà Thái rồi bất giác thở dài:
- Con gái chỉ ở với cha mẹ được một thời. Mai mốt là con người ta rồi đó.
Lời nói của d́ Sáu như là một cái đánh động nhẹ vào tâm tư bà Thái. Bà Thái quay lại nh́n người em họ rồi lại nh́n Liên. Th́nh ĺnh bà ôm lấy Liên hôn lên tóc, lên má, lên cổ nàng tới tấp. Nước mắt bà trào ra ràn rụa trước sự ngơ ngác của d́ Sáu. Giọng bà thổn thức nấc lên:
- Mai mốt con đi lấy chồng rồi mạ ở với ai đây?
Cặp mắt nai của Liên cũng mở lớn tṛn xoe long lanh nước. Nàng cũng ôm chầm lấy mẹ rồi sau đó gục mặt vào vai mẹ. Bà Thái lại nghẹn ngào:
- Con khoan đi lấy chồng đă nghe! Con đi lấy chồng rồi th́ mạ ở với ai đây?
D́ Sáu sững sờ rưng rưng nước mắt lặng người chốc lát trước hoạt cảnh ấy. Sau đó d́ làm tỉnh lên tiếng:
- Cái chị ni vô duyên thiệt! Con gái lớn ai không lấy chồng? Mà đă có chi mô nà? Gả hay không đều c̣n do ḿnh mà! Hắn đi lấy chồng th́ chị ở với anh Thái chứ ở với ai nữa!
Một chốc sau hai mẹ con buông nhau ra, mắt người nào cũng đẫm lệ. D́ Sáu vươn vai đứng dậy cười:
- Ngồi ngó hai người tôi cũng mệt. Thôi, hai mạ con làm với nhau đi, tôi về!
*****
Ông Thái trước đây đă từng làm Đại Diện xă. Ông là người kiến thức rộng, có đạo đức,làm việc ǵ cũng có lư có t́nh nên rất được ḷng người. Bây giờ ông đă thôi việc nhưng mọi người, kể cả lớp có chức sắc trong xă lúc nào cũng tỏ ra trọng vọng kính mến ông. Những việc làm lớn nhỏ liên can đến chuyện an ninh thôn xă, phát triển văn hóa, quân cấp ruộng đất, cúng tế hàng năm… những người gánh vác công việc lúc nào cũng thỉnh hỏi ư kiến ông. Những mối bất ḥa, những vụ xung đột gia đ́nh hay xóm giềng với nhau, dù không c̣n làm việc, hễ ông đứng ra dàn xếp th́ thế nào cũng yên.
Cúng Giao Thừa xong, ông Thái toan đi ngủ bỗng nhiên ông cảm thấy có ǵ hơi khác trong tiếng pháo nổ như mọi năm. Ông lắng tai và ngạc nhiên nghe những tiếng nổ lạ có thể không phải là tiếng pháo. Không lẽ lại có bắn nhau? Cái tin hưu chiến đă được loan đi rộng răi cho đồng bào yên tâm ăn tết mà! Ông áy náy không thể nào ngủ được. Đến khi nghe thêm nhiều tiếng nổ lạ một vài nơi nữa, ông Thái mới đoan quyết đấy là tiếng súng. Ông liền t́m cách liên lạc với xă để biết t́nh h́nh.
Sau khi ra ủy ban xă, ông Thái liền nhắn về nhà cho biết t́nh h́nh đang xấu lắm, ông chưa thể trở về liền được. Nếu có ai tới thăm hỏi ông cứ bảo là ông đi thăm viếng ai trên phố.
Sáng Mồng Một Tết th́ cả xă nhốn nháo về tin Cộng Sản đă kéo về khắp nơi. Thế là sau đó chẳng ai c̣n bụng dạ xuất hành chúc tết họ hàng chung quanh. Mọi người đều lăng xăng lo cất giấu hoặc thủ tiêu những thứ ǵ trong nhà có liên can đến binh lính và chính quyền miền Nam như bức h́nh chụp, giấy tờ, quần áo giày mũ… Và Cộng Sản đă kéo về làng thật. Ngoại trừ những căn nhà ven quốc lộ 1, nhà nào cũng có vài ba anh bộ đội đến trú đóng. Bà Thái đang hồi hộp nh́n ra đường th́ thấy bốn người lính Cộng Sản đi vào nhà bà. Ba người trẻ mang súng dài tỉnh bơ đến thẳng thềm hiên nhà lớn, cởi ba lô và súng ra ngồi xuống nghỉ. Có lẽ họ đang mệt. Những nhà theo kiểu cổ, trừ khi có cúng giỗ tiệc tùng, ít khi người ta mở cửa nhà lớn. Mọi người trong nhà vẫn vô ra bằng cửa nhà lều. Người thứ tư, một người trung niên mang súng ngắn, tỏ vẻ đă hiểu biết thói tục ở đây, bước tới cửa nhà lều gọi:
- Anh chị Thái ơi, em là Trí đây, anh chị có nhớ em không?
Qua giây phút lo sợ, ngỡ ngàng, bà Thái mừng rỡ bước ra chào hỏi người em họ của chồng. Ông Trí là em con ông cậu ruột của ông Thái, tập kết ra Bắc năm 1954. Sự có mặt của một người bà con trong toán người xa lạ mà xưa nay gia đ́nh bà vẫn coi như là thù địch làm bà Thái đỡ lo hơn nhiều. Bà niềm nỡ săn đón:
- Trời ơi, không ngờ c̣n gặp lại được chú Trí! Chú khỏe mạnh không? Có vợ con rồi chứ chú? Anh Thái vẫn nhắc đến chú hoài! Sáng ni anh Thái lên phố chúc tết mấy người quen không biết răng tới chừ chưa thấy về!
- T́nh h́nh lộn xộn thế mà anh không ở nhà à? Chị có biết bây giờ anh đi đâu không? Nguy hiểm lắm đó nghe!
- Thôi, ông đi mô rồi ông cũng lo về. Chừ mời chú và mấy anh em vô nhà nghỉ ngơi. Chắc mấy chú cũng đói bụng rồi, tôi dọn cơm cho mấy chú ăn nghe!
Ông Trí vui vẻ tự nhiên bước vào ngồi xuống cái giường lèo:
- Để họ nghỉ ngoài đó được rồi. C̣n cơm nước lo chi chị! Bộ đội bác Hồ đến dân vui, đi dân nhớ, ở dân thương, đến đâu nhân dân cũng lo cho đầy đủ cả làm sao mà đói! Em tới đây mục đích chính là thăm anh chị. Sau nữa là xin cho mấy anh em ở tạm vài hôm. Rồi tụi em cũng phải lo đi tiếp thu những chỗ khác. Anh em đàng hoàng lắm, không có phá phách như bọn lính ngụy đâu! Chị đừng lo lắng chi cả!
- Thôi, chốc nữa nói chuyện tiếp. Chừ chú nói mấy anh em rửa tay để ăn cơm, tôi đi dọn ra đây!
- Cứ thủng thẳng đă chị, à, mấy cháu đi đâu mà chẳng thấy cháu nào hết?
- Khi đêm tụi nó ham chơi thức khuya quá chừ c̣n ngủ đó chú!
Cơm dọn ra, một mâm thịt chả cá canh phủ phê. Ông Trí cùng mấy chú bộ đội ăn uống rất thiệt t́nh. Họ vừa ăn vừa huênh hoang nói về những bước hành quân kỳ diệu của họ. Những món ăn khoái khẩu làm cho thực khách càng nói cười vui vẻ cởi mở thêm. Với bà Thái, mấy chú bộ đội cứ một điều thưa mẹ hai điều thưa mẹ rất thân mật. Bầu không khí lo lắng nghi kỵ trong nhà cũng dần loăng đi. Chốc sau, bà Thái vào pḥng kêu chị em Liên và Thảng ra chào ông chú họ và mấy anh bộ đội. Cả hai đều đă thức dậy từ sớm nhưng thấy người lạ vào nhà nên cố nằm nín trong pḥng. Thấy mẹ gọi, Liên rụt rè đẩy em đi trước.
- Thưa chú! Chào mấy chú bộ đội!
- Ối chao! Mấy cháu của chú ngoan thế này à!
Lập tức, ông Trí bước lại ôm lấy thằng Thảng mà hôn hít tới tấp. Thằng nhỏ từ khi lên mười tuổi đă xa hẳn kiểu biểu lộ t́nh cảm nồng nàn thắm thiết đó, đâm ra ngượng ngập, lúng túng, thụ động. Liên trố mắt ngạc nhiên rồi cũng lúng túng thối lui một bước. Liên sợ ông Trí cũng hôn nàng như hôn Thảng. Bà Thái cũng ngạc nhiên cảm động v́ cử chỉ của người em họ chồng. Bà mừng v́ như thế, những người trong gia đ́nh bà, ông Thái và hai đứa con đi lính chắc không đến nỗi nào. Bà có chút ân hận v́ lâu nay nghe chồng mà bà đă hiểu lầm về người Cộng Sản. T́nh cảm họ chan chứa mặn nồng như thế mà bảo họ vô t́nh th́ đúng là đặt điều! Mấy chú bộ đội h́nh như chẳng quan tâm tới chuyện đó. Họ chỉ cười chào lại Liên và Thảng rồi tiếp tục ăn.
Ông Trí vừa ăn vừa nói:
- Anh chị có hai cháu dễ thương quá! Tương lai của đất nước đấy! Bác Hồ nói “kế hoạch trăm năm không ǵ hơn là trồng người”, đào tạo nuôi dưỡng ở lứa tuổi này th́ không chê vào đâu được.
Bà Thái sung sướng hănh diện cười với hai con:
- Các con nghe chú nói đó, phải gắng học thêm lên nữa!
Bữa ăn gần xong, một anh bộ đội nh́n chiếc xe đạp của Liên rồi khen:
- Chiếc xe trông hết sẩy!
Mọi người đều nh́n theo và thay nhau khen. Liên nghe như vậy vẻ sung sướng hănh diện lộ ra mặt. Một anh bộ đội hỏi:
- Chiếc xe này của ai mà sang quá vậy mẹ?
Bà Thái hănh diện trả lời:
- Xe sắm cho cháu Liên đi học đó. Ở đây lên tới trường Đồng Khánh xa lắm mấy chú!
- Dạ, chúng con cũng có nghe nói đến trường Đồng Khánh Huế nữ sinh đẹp lắm. Nghe nói ở đó cũng có nhiều nữ sinh tham gia mấy đội quyết tử của ta chống ngụy quyền gắt gao lắm cơ!
Ông Trí nh́n Liên hỏi:
- Cháu có thấy hoạt động của mấy đội quyết tử ấy không? Cháu có ủng hộ hay tham gia với họ lần nào chưa?
Liên ngơ ngác ngây thơ trả lời:
- Làm ǵ có! Cháu chưa bao giờ thấy đội quyết tử nào hoạt động ở trường Đồng Khánh cả.
Ông Trí vội nói:
- Hoạt động mật, người ta không phổ biến đâu!
Một anh bộ đội ngập ngừng trở lại chuyện chiếc xe đạp:
- Được đi chiếc xe như thế chắc thích lắm nhỉ! Cô Liên cho chúng tôi mượn tập đi thử chốc lát được không?
Câu nói bất ngờ làm cho Liên tắt mất vẻ cười. Nàng bối rối đưa mắt nh́n mẹ. Bà Thái vốn biết tính con ḿnh rất cưng quí xe. B́nh thường, Liên ít khi cho ai mượn xe huống bây giờ xe mới, mà lại đ̣i tập nữa mới khó chứ! Tuy thông cảm với con gái nhưng bà cũng nghĩ tới những khó khăn hiện tại của ḿnh. Sợ con làm mất ḷng mấy chú bộ đội, bà cười giả lả:
- Tập chốc lát cũng được, nhưng cẩn thận giùm một chút kẻo cháu nó nóng ruột, xe mới sắm chưa đi.
Bà Thái nói thế rồi nh́n ông Trí chờ đợi một câu nói ngăn cản hay một lời dặn nào đó. Nhưng ông Trí chưa nói ǵ th́ mấy chú bộ đội đă hồ hởi nhanh nhẹn dắt xe ra sân. Liên nhăn mặt kéo Thảng ra theo ngồi coi. Ông Trí vẫn ngồi uống nước ăn mứt ở bàn ăn.
Sau khi đă dọn dẹp mâm chén xong, bà Thái đến ngồi đối diện với ông Trí:
- Chú Trí cưới vợ lâu chưa? Được mấy cháu rồi?
- Em cưới vợ năm 1957, vợ em người Sơn Tây, đă được ba cháu gái, đứa lớn nhất mới 11 tuổi.
- Rứa chú có đem theo vô đây không?
- Giờ th́ chưa, nhưng chậm lắm là cuối năm nay. Giải phóng xong miền Nam em phải đem vô chứ.
- Ń, chị em tôi hỏi thiệt nghe, như tôi có thằng Long thằng Đạt đi lính quốc gia có can chi không?
- Th́ chị biết mấy cháu ở đâu kêu về là xong. Cách mạng khoan hồng lắm, bác Hồ và Đảng nhân ái lắm chị, chị đừng lo chi cả.
- Như anh Thái trước đây có làm Đại Diện xă nhưng nghỉ lâu rồi có bị tội lệ chi với cách mạng không chú?
- Không sao đâu, chị biết anh ở đâu cứ kêu về là yên chí chứ lo ǵ!
- Chú bảo đảm cho anh ấy được chứ!
- Được quá đi chứ chị! Anh ấy là anh của em mà! Cái t́nh nghĩa của phe dân chủ ḿnh nó thắm thiết sâu đậm lắm chị à! Có em đây chị cứ yên chí mà gọi anh về. Bác và Đảng bao giờ cũng thương dân như con đỏ chứ đâu có vô t́nh vô nghĩa như bọn đế quốc chỉ biết bóc lột, đàn áp, giết chóc mà ngại! Chị phải mọi cách kéo anh về càng sớm càng tốt. Mười đời không rời cánh tay, em lo cho anh ấy lắm. Bây giờ em phải đi họp một chốc. Hi vọng khi em trở lại th́ gặp anh ở nhà.
Bà Thái càng ân hận về những hiểu lầm lâu nay của ḿnh. Thế mà bảo con tố cha, vợ tố chồng, thậm chí c̣n nói đến chuyện chôn sống người nữa, toàn đặt điều hết!
Ông Trí ra dặn ḍ mấy chú bộ đội mấy lời ǵ đó rồi đi.
Ông Trí vừa đi khỏi, Liên liền vào nhà với vẻ bực bội, nói với mẹ:
- Mạ nói họ trả xe lại giùm con đi! Họ tập té lên té xuống trầy trợt hết mạ ơi! Xe mới lấy về chưa kịp đi th́ gặp như thế thiệt rầu thúi ruột.
Bà Thái giải thích với Liên:
- Họ cũng như khách, người ta tốt với ḿnh ḿnh phải tốt lại! Đừng làm mất ḷng họ không hay mô! Cha con đang ở thế kẹt lắm. Họ ở đậu vài bữa rồi họ đi thôi con ơi.
Liên cười méo mó:
- Chợt chạt móp méo nhiều rồi mạ! Khi kia để tết xong rồi lấy về cho rồi!
- Đừng nói nữa con, cầu cho cha con và mấy anh con yên lành là được rồi. Con đậu tú tài xong mạ mua cho chiếc khác. Chừ con ra kêu em vô ăn uống mà ngủ cho sớm.
Nói xong, bà Thái đi thắp một lượt tất cả các bát nhang. Sau đó, bà dọn ra giữa bức phản một mâm bánh thịt và mấy dĩa mứt, lấy lồng bàn đậy lại. Khi trời đă khá chiều, mấy chú bộ đội vẫn thay nhau tập xe như tranh thủ thời gian. Bà Thái tươi cười ra sân nói với họ:
- Mấy chú tập xong đói bụng cứ vô giở lồng bàn có sẵn đồ ăn đó, cứ tự nhiên coi như người trong nhà, đừng ngại chi hết.
- Dạ, chúng con cám ơn mẹ!
*****
Một hiện tượng mà người dân không thể nào hiểu nổi là bộ đội Cộng Sản đóng khắp trong xă thế mà trên quốc lộ 1 xuyên qua xă, lính Mỹ dùng xe di chuyển qua lại đều đều vẫn tuyệt nhiên không có một cuộc đụng độ xảy ra. Rơ ràng là quân hai bên đều trông thấy nhau cả mà! Không biết cái t́nh trạng này c̣n kéo dài tới bao lâu nữa?
Bà Thái mỗi ngày mỗi nôn nóng lo sợ thêm. Ông Thái vẫn biền biệt không nghe tin tức. Mấy kư thịt heo, mấy thẩu dưa món, bốn năm con gà choi và bốn ổ trứng gà đă đi trọn rồi. Ban đầu bà cũng tưởng họ ở đậu vài hôm là cùng, nào ngờ cả tuần rồi vẫn không có chi thay đổi. Ông Trí ngày nào cũng đi họp một hai lần. Thỉnh thoảng cũng có vài người đi công tác đâu đó. Mấy chú bộ đội trẻ cứ rảnh rỗi lại thay nhau hành hạ chiếc xe đạp của Liên. Lúc này Liên cũng phó mặc ra sao th́ ra, không cần để tâm tới nữa. Những ngày sau này ông Trí luôn luôn thúc giục bà Thái t́m cách kiếm chồng về. “Nếu anh ấy không chịu về, tôi không bảo đảm được”, ông Trí nói.
Rồi một buổi sáng bà Thái thấy toán bộ đội có vẻ nhốn nháo. Hẳn có chuyện ǵ xảy ra? Họ hấp tấp sửa soạn hành trang. Sau đó ông Trí với hai người vội vă mang cả đồ cá nhân ra đi. Chỉ có chú bộ đội Minh con người trông nghiêm nghị, ít nói ít cười nhất ở lại. Trước khi đi, ông Trí cũng dặn kỹ người trong nhà từ giờ phút này đừng đi đâu hết. Bữa cơm trưa rồi bữa cơm tối bà Thái đều mời Minh cùng ngồi với gia đ́nh nhưng hôm nay thấy anh ta chẳng thiết tha chi đến chuyện ăn uống. Có lẽ anh ta đang có vấn đề căng thẳng trong đầu. Thấy Minh chỉ một ḿnh, bà Thái ṭ ṃ muốn gợi chuyện nhưng không thể nào cậy môi anh ta được. Anh ta cứ chăm chú hướng mắt ra đường. Tới chạng vạng vẫn chưa thấy một ai về.
Măi tới khi thấy mấy bóng đen xăm xăm bước vào ngơ, bà Thái kêu lên:
- À, mấy chú đă về đó rồi!
Nhưng không phải. Hai người đang tiến vào sân cũng mặc đồ bộ đội nhưng đều là người lạ. Họ tiến thẳng tới trước mặt bà Thái nói giọng nghiêm nghị:
- Lệnh của ủy ban, mời ông Thái sang trường học xă họp ngay bây giờ!
Bà Thái lo lắng trả lời:
- Dạ ông Thái nhà tôi đi chúc tết rồi kẹt mô đó tới nay chưa về đến. Có chú Minh ở đây lâu nay biết rơ đó.
- Nếu ông Thái đi khỏi, xin cho cô Liên đi họp thế vậy!
Một trong hai người quay lại nói với tên Minh:
- Đồng chí cũng thu xếp lên đường. Anh em ai c̣n sót ǵ mang cho họ luôn!
Bà Thái ngạc nhiên sao không mời ḿnh đi họp thế chồng mà lại mời Liên? Mà những người này sao lại biết tên của Liên?
- Dạ cháu nó c̣n dại biết chi mà họp với hành! Tha cho cháu có được không?
- Bà hiểu cho đây là lệnh của ủy ban! Xin mời cô Liên ra ngay cho. Chúng tôi không có th́ giờ nhiều!
- Dạ thôi được, để tôi đi họp thế cho cháu.
- Không được! ủy ban chỉ mời cô Liên, không mời bà!
Bà Thái đang lúng túng th́ ông Trí từ ngoài đi vào. Bà Thái mừng quá đến đón ông lại:
- May quá, có chú về. Mấy anh này mời cháu Liên đi họp, tôi xin đi thế mấy anh không chịu. Nhờ chú nói giùm một tiếng.
- Không được đâu! Ai có việc nấy. Người ta mời ai th́ đi nấy, chết chóc chi đâu mà sợ. Tôi cũng đang có việc của tôi đây.
Bà Thái nghe cái giọng của người em họ chồng không c̣n ngọt ngào lễ phép với ḿnh như những ngày trước đây th́ lo lắm:
- Rứa thôi để tôi cùng đi với cháu nghe chú.
Không biết ông Trí có nghe lời bà Thái không. Ông không trả lời mà chỉ lúi húi t́m cái ǵ đó tại chỗ ông nằm mấy bữa nay. Anh bộ đội truyền lệnh dứt khoát:
- Cô Liên đi một ḿnh được rồi, mời cô ra mau. C̣n bà, đừng bước ra khỏi nhà!
Liên mặc bộ đồ bộ màu tím mới may lững thững đi ra. Bà Thái cầm tay con nhưng không nói ǵ. Từ khi nghe kêu tên ḿnh tới giờ Liên không hề nói một lời. Khi ấy ông Trí có lẽ đă làm xong việc ḿnh, bước lại nói với bà Thái:
- Để nó đi kẻo người ta chờ ḱa. Nó là con chị mà cũng là cháu tôi, tôi cũng biết lo cho nó chứ. Nó qua trường học nghe năm điều ba chuyện rồi về có ǵ mà bịn rịn như ra Hà Nội không bằng!
Bà Thái đứng nh́n bóng dáng mảnh mai của đứa con gái yêu đang theo mấy người bộ đội ra cửa. Bà rưng rưng nước mắt rồi bỗng chạy vụt vào nhà. Chốc sau bà quay trở ra, chạy theo những người đang đi.
- Chú Trí! Chú Trí ơi!
Ông Trí đang đi quay mặt lui:
- Ǵ đó nữa? Lôi thôi măi!
Bà Thái cầm một cái áo len và một gói hạt dưa trao cho ông Trí:
- Nhờ chú đưa cái áo cho cháu Liên mặc thêm kẻo sương xuống lạnh và gói hạt dưa ni để nó cúp đỡ buồn.
- Chị làm như đưa tiễn con lên tàu. Tôi chịu thua chị. Thôi nghe.
Bà Thái có cái cảm tưởng đưa con lên tàu thật. Trường học chỉ cách nhà bà không tới năm trăm thước mà ngỡ như cách trở quan san. Bà nh́n theo bước chân đứa con gái. H́nh như Liên cũng cố t́nh bước nhín nhín v́ sợ chóng hết quăng đường. Khi những bóng người đă khuất hẳn trong màn đêm bà Thái mới trở vào ngồi thừ ra trước thềm cửa. Ông Thái biệt tin cả chục ngày bà không lo lắng bằng việc đứa con gái đang đi họp ở trường học. Khi bà vào nhà th́ thấy thằng Thảng đang nằm chèo queo ngủ trên chiếc giường lèo. Bà chụp mấy con muỗi đang bu cắn con rồi ghé ngồi xuống phần giường c̣n trống dưới chân nó, mỏi mệt dựa nghiêng đầu vào thanh lèo giường, chờ con gái về.
*****
Bà Thái bỗng gật đầu một cái rồi tỉnh thức. Thời gian này hay mất ngủ, mệt người, bà đă ngủ gục một giấc khá dài. Bà đứng dậy nh́n đồng hồ: 3 giờ khuya. Bà Thái hoảng hốt chạy lại đánh thức thằng Thảng:
- Dậy con ơi ! Đi với mạ qua coi thử chứ giờ chừ mà con Liên chưa về, họp hành chi lạ rứa! Mạ nóng ruột quá!
Thằng Thảng bừng mắt ngồi dậy nhưng ngại ngùng:
- Đi giờ này hắn bắn chết! Mạ không thấy mấy người chết rồi đó à? Chắc là chị Liên qua ngủ lại nhà d́ Sáu chứ ǵ!
Bà Thái bực bội:
- Tiếc giấc ngủ th́ ngủ tiếp đi! Mi không thương hắn th́ tau đi t́m một ḿnh.
Bà Thái bưng cây đèn bóng thắp dầu nhỏ bước ra khỏi nhà. Thằng Thảng lật đật chạy theo mẹ. Bưng đèn theo chỉ có mục đích chứng tỏ sự ngay thẳng không mờ ám trong việc đi đêm chứ thật ra lúc đó dù trăng mờ cũng thấy đường được. Khi nh́n được khu vực trường học, bà Thái ngạc nhiên không thấy đèn đuốc chi cả. Bà nôn nóng bước thật nhanh. Ngọn đèn trên tay tắt mất nhưng bà cũng không ngần ngại, càng bước mau hơn. Bấy lâu nay vẫn có một số bộ đội, cán bộ làm việc ở đây, sao bây giờ chẳng thấy ai canh gác ngăn cản chi cả? Tới gần, hai mẹ con thấy có nhiều ghế bàn để ngổn ngang trước sân trường nhưng tuyệt nhiên không có một bóng người.
- Đi qua nhà d́ Sáu ngay!
Nhà d́ Sáu cách trường học chừng 100 thước. Hai mẹ con lại lật đật tới nhà d́ Sáu, đấm cửa th́nh thịch:
- D́ Sáu ơi! D́ Sáu ơi! Con Liên có ngủ lại nhà d́ không?
D́ Sáu nghe tiếng vội vàng nhảy dậy xô cái cửa cho hai mẹ con vào, không kịp t́m diêm bật đèn, d́ nói liền:
- Con Liên không về nhà à, tội nghiệp chưa? Rứa th́ họ đem đi rồi, đem đi mô đó không biết. Khi khoảng 1 giờ khuya họ dắt đi hết không c̣n một người. Hèn chi em có nghe một ông mô đó nói lớn “không bắt được lăo th́ cũng phải làm cho lăo đứt ruột nát gan ra …”. Dám họ nói anh Thái lắm! Em mới vô nằm được một chút chứ mấy!
Nghe đến đây bà Thái liền nằm lăn xuống nền nhà mà kêu khóc:
- Trời ơi! Con tôi nhỏ dại tội t́nh chi mà đem đi mô rứa hỡi trời!
Thằng Thảng sửng sờ đứng ngây người không phản ứng. D́ Sáu th́ hoảng hốt nhào tới ôm bà Thái đỡ dậy và khuyên:
- B́nh tĩnh chị ơi, con Liên c̣n nhỏ dại vô tội họ không làm chi hắn mô mà sợ. Chắc ngày mai họ cũng thả về thôi.
Nhưng bà Thái vẫn tiếp tục lăn lộn khóc lóc:
- Liên ơi là Liên! Chừ mạ biết con ở mô mà t́m…
D́ Sáu biết ḷng thương của người chị họ ḿnh đối với đứa con gái hơn ai hết. D́ cứ ngồi ốm lấy người chị mà an ủi dỗ dành. D́ chẳng buồn đi t́m hộp diêm để châm đèn nữa, d́ không muốn bà Thái thấy trên mắt ḿnh cũng có hai ngấn lệ.
*****
Khi t́nh h́nh đă khá yên, ông Thái mới trở về nhà. Nhưng ông khựng lại khi thấy thằng Thảng ra đón ông không có một nụ cười.
- Mạ mô rồi? Chị Liên mô rồi?
- Chị Liên họ bắt đem đi rồi. C̣n mạ khóc từ khi qua nhà d́ Sáu tới giờ. D́ Sáu và con mới đưa mạ về hồi sáng. Mạ hiện đang nằm khóc trong nhà.
Mặt ông Thái chuyển sang tái ngắt. Ông đă quá hiểu về những con người Cộng Sản. Ông đau đớn nghĩ tới đứa con gái thơ dại của ḿnh. Thôi, thế là hết. Xưa nay, mỗi khi Cộng Sản đă rớ tới ai th́ kẻ đó không mất xác cũng mất hồn. Trên đường về nhà, ông đă nghe tin nhiều người có máu mặt ở thôn xă đă bị chúng bắt đem theo trong khi rút lui. Nhưng ông không hề tưởng tượng rằng đứa con gái của ông cũng chung số phận ấy. Ông đi như chạy vào nhà.
*****
Cả mấy tháng sau trong xă hoàn toàn chưa ai được nghe chính xác tin tức về số phận những người bị bắt. Có tin đồn là một số bị giết và một số lại đi theo Cộng Sản. Gia đ́nh ông Thái vẫn hi vọng Liên ngây thơ vô tội chắc không đến nỗi bị hại. Bà Thái không lúc nào quên nghĩ đến đứa con gái ḿnh. Ngày nào bà cũng thắp hương khấn vái cầu nguyện ông bà giúp đỡ phù hộ cho con ḿnh trở về. Gần như đêm nào bà cũng có khóc. Bà ân hận v́ ḿnh không can đảm giữ Liên lại đừng cho đi họp hay ít nhất cũng cương quyết theo chân Liên đến chỗ họp. Không lư người ta dám bắn ḿnh lúc đó? Bà ân hận v́ đă quá tin tưởng vào những lời phỉnh gạt của người cán bộ em họ chồng ḿnh. Ngày nào bà cũng vào lau chùi trong pḥng Liên và không cho ai làm thay đổi một cái ǵ hết. Đến đôi tấc, bộ áo quần Liên thay lúc ra đi bà vẫn để chỗ cũ, không đem đi giặt. Lúc này bà hay ngủ tại giường của Liên.
Rồi tin dữ cũng chính thức đến với gia đ́nh ông Thái. Khoảng nửa năm sau, khi Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa phát hiện một số hầm chôn người tập thể do lính bác Hồ thực hiện tại quận Phú Thứ, người ta cho khai quật để cải táng. Trong số nạn nhân, người ta đă chính xác nhận ra Liên. Khi gia đ́nh nhận được tin báo, bà Thái ngất xỉu đi mấy phút. Bà không thể tưởng tượng nổi. Hồi c̣n trẻ, bà đă nghe mấy người từng chứng kiến kể lại vài vụ chôn sống. Người th́ bị đánh cho ngất xỉu rồi đẩy xuống hố mà dập đất lên, đó là lúc người ta muốn giải quyết nhanh. Người th́ dùng sức mạnh ép đứng xuống một cái lỗ sâu mà dập đất lên ngang bụng, ngang ngực, hay ngang cổ tùy ư thích của cán bộ lănh đạo. Những người bị chôn sẽ năn nỉ khóc lóc van xin cho đến khi nào không c̣n nói được. Phần thân thể bên dưới của người đó sẽ tê dại nhanh chóng dưới sức ép của đất, mạch máu không c̣n lưu thông được, sau cùng đều chết. Đây là cách giết mà vừa trả thù, vừa thưởng thức. Một cách khác nữa rùng rợn hơn nhiều, gọi là xác chết đội mồ. Người ta đào một cái lỗ cạn, dùng sức đẩy nạn nhân c̣n đang khỏe mạnh xuống rồi dập phủ kín một lớp đất rất mỏng. Nạn nhân sẽ ọ ọ lên mấy tiếng giống như ḅ rống, chỗ đất mới đắp nứt nứt ra rồi cái đầu người phủ đầy đất tḥ lên tưởng như xác chết đội mồ. Những người chung quanh cứ cười nói thỏa thích chờ cho nạn nhân hồi sức được phần nào rồi áp lại dập đất lần khác. Đến khi nào nạn nhân lă người chịu nằm yên dưới lớp đất phủ là xong. Nghe nói không có nạn nhân nào ngoi dậy được lần thứ ba. Ngày trước nghe kể như thế nhưng bà đâu có tin! Bây giờ th́ những nạn nhân lại có nhiều người bà từng gần gũi, quen biết, có luôn cả người thân yêu nhất đời của bà nữa! Bà tưởng tượng ra những nỗi đau đớn quằn quại của đứa con gái ḿnh mà rùng ḿnh thon thót. Bất giác bà nhớ tới câu mà theo ông Trí là của bác Hồ, ba mẹ con bà đă nghe trong dịp tết vừa rồi “kế hoạch trăm năm không ǵ hơn là trồng người”. Con người cả đời hiền lành không biết chửi bới ai một câu bỗng nghiến răng rít lên:
- Mụ cô cha hắn chứ trồng người! Té ra trồng người là chôn sống người!
*****
Sau khi cải táng cho con, bà Thái ngă bệnh kéo dài cả năm.
Khi lành bệnh, tính khí bà trở nên thất thường. Nhiều khi bà ngồi cả buổi để nh́n lên bàn thờ người con gái. H́nh như đôi mắt yếu kém của bà vẫn nh́n thấu suốt qua tấm vải đỏ phủ trên khung ảnh mang gương mặt ngây thơ bầu bĩnh tươi như hoa của cô gái. Những giọt lệ cứ ḅ trên đôi má nhăn nheo của bà. Nhiều khi đang làm việc ǵ bà bỗng ngưng lại, thở dài: Bác Hồ nhân ái lắm, bác thương dân như con đỏ, kế hoạch trăm năm không ǵ hơn là chôn sống người!
Từ ngày mất Liên, ḷng bà Thái cũng mất luôn mùa xuân, mất vĩnh viễn. Có mùa xuân nào nữa mang lại niềm vui cho bà đâu? Càng về già cái tính thất thường của bà càng tăng. Lắm lúc bà quên cả mọi người chung quanh cũng như mọi việc. Nhưng lạ một cái bà vẫn hay nhắc một câu nói cũ và vẫn không lẫn lộn một chữ nào: “bác Hồ nhân ái lắm, bác thương dân như con đỏ, kế koạch trăm năm không ǵ hơn là chôn sống người!”.
Ngô Viết Trọng
Lượm lặt từ các nguồn của Blog 16
Sau cuộc chiến, chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa ước lượng tổng số nạn nhân ở Huế vào khoảng 7,600 như sau:
Bị thương và tàn tật v́ bom đạn : 1.900
Thường dân bị chết v́ bom đạn : 844
Nhóm mồ tập thể thứ nhất ngay sau cuộc chiến : 1.173
Nhóm mồ tập thể thứ nh́, luôn cả G̣ Cát, tháng 3-7, năm 1969 : 809
Nhóm mồ tập thể thứ ba, suối Đá Mài (quận Nam Ḥa, tháng 9, 1969 ) : 428
Nhóm mồ tập thể thứ tư, biễn muối ở Phú Thứ, tháng 11, 1969 : 300
Ước lượng những mồ t́m rải rác chung quanh thành phố Huế : 200
Số người vẫn c̣n mất tích : 1.946
Tổng số nạn nhân của cộng sản ở Huế: 7.600
Chú thích của tác giả – tài liệu trên đây lấy từ
- SEATO: South East Asia Organization.
- PAVN: People’s Army of Vietnam, soldiers of North Vietnam Army serving in the South...
hoanglan22
02-07-2020, 20:09
Trong cuộc chiến Việt Nam, không phải chỉ có những đơn vị chủ lực: Nhảy Dù, TQLC, Biệt Động Quân, Không & Hải Quân..., tham gia chống trả cuộc xâm lăng của Cộng sản miền Bắc. Có nhiều cá nhân, nhiều đơn vị vô danh đă âm thầm đóng góp xương máu của ḿnh vào cuộc chiến ngăn chận bon Cộng Sản xâm lược... Những Anh Hùng Vô Danh!
T́nh Báo Trong Chiến Tranh - Điệp Viên Giỏi Nhất của Việt Nam Cộng Ḥa
(Tài liệu được phổ biến bởi BBC)
Phan Tấn Ngưu
Trong hai ngày 20 và 21 tháng 10 năm 2008, Trung Tâm Việt Nam thuộc Đại Học Công Nghệ Texas, cùng Trung Tâm Nghiên Cứu T́nh báo thuộc CIA, đă tổ chức hội thảo mang chủ đề:
“T́nh báo trong chiến tranh Việt Nam”
- Tường tŕnh của BBC...
... Nhiều chuyên viên đang và từng làm trong ngành t́nh báo của Mỹ và Nga đến nói chuyện về kinh nghiệm của họ trong cuộc chiến.
Có bảy buổi thuyết tŕnh với bảy chủ đề lớn như: CIA ở Việt Nam, Chương tŕnh Phượng Hoàng, Công nghệ và T́nh báo, Cuộc chiến bí mật ở Lào, Hoạt động t́nh báo Nga và Việt Nam…
Một trong các diễn giả, Merle Pribbenow, đem đến hội thảo bài thuyết tŕnh: “Những điệp viên vô danh nổi tiếng nhất trong cuộc chiến Việt Nam.”
Merle Pribbenow, cựu nhân viên CIA và chuyên gia tiếng Việt, từng phục vụ ở Sài G̣n từ 1970 đến 1975. Sau khi rời khỏi CIA năm 1995, ông dành thời gian để dịch các sách lịch sử của Việt Nam và viết về cuộc chiến. Bộ lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam được ông dịch sang tiếng Anh, và được NXB Đại học Kansas ấn hành năm 2002.
Trong bài thuyết tŕnh ở hội thảo, Pribbenow mô tả ba nhân vật hoạt động cho ba cơ quan t́nh báo khác nhau: CIA, Pḥng T́nh Báo Chiến Lược của Trung Ương Cục Miền Nam, và T́nh báo Quân đội Liên Xô.
Được sự cho phép của tác giả, BBC xin giới thiệu hai phần trong bài thuyết tŕnh, nói về Nguyễn Văn Minh (Ba Minh) và Vơ Văn Ba (người được gọi là điệp viên số một của CIA ở ViệtNam).
- Ngưng trích.
V́ chủ đề viết về Điệp Viên ở Tây Ninh, nên chúng tôi không đề cập đến đoạn nói về các Điệp Viên nằm trong văn pḥng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, mà chỉ viết theo đề tài chính mà thôi.
- Trích tiếp:
I. PHẦN THUYẾT TR̀NH CỦA MERLE PRIBBENOW
Trong chiến tranh Việt Nam, Quân đội Mỹ sử dụng nhiều t́nh báo trong cuộc chiến Việt Nam (undefined).
Tiếp theo phần một loạt bài về các điệp viên ít được biết đến trong cuộc chiến Việt Nam, BBC giới thiệu nhân vật Vơ Văn Ba, người được gọi là điệp viên “giỏi nhất của CIA ở Việt Nam”.
(Tư liệu dựa trên bài thuyết tŕnh “Những điệp viên vô danh nổi tiếng nhất trong cuộc chiến Việt Nam" của ông Merle Pribbenow).
Bài này đă đọc tại hội thảo “T́nh báo trong Chiến tranh Việt Nam”, ở Trung tâm Việt Nam thuộc Đại học Công nghệ Texas (undefined).
Đọc phần một loạt bài tại đây:
Orrin De.Forest, một nhân viên CIA phục vụ sáu năm ở Việt Nam, nhắc đến con người này với mật danh “Reaper” trong cuốn sách “Slow Burn: The Rise and Bitter Fall of American Intelligence in Vietnam.” Một chuyên viên khác của CIA, John Sullivan, nói ông ta là “điệp viên giỏi nhất mà chúng ta từng có ở Việt Nam.” C̣n trong cuốn tiểu sử về sếp CIA ở Sài G̣n Ted Shackley, tác giả David Corn dẫn ra một sự đánh giá thời hậu chiến của CIA rằng điệp viên này là “nguồn tin đáng tin cậy nhất về ư định của cộng sản” ở Việt Nam.
Frank Snepp, một nhà phân tích t́nh báo có đôi lần gặp con người này, gọi ông ta là “điệp viên hàng đầu của chúng ta” ở Việt Nam. Văn pḥng của CIA ở Sài G̣n th́ đơn giản gọi ông này là “nguồn tin Tây Ninh”. Sau 1975, những người cộng sản mô tả nhân vật này là “điệp viên nguy hiểm trung thành với CIA” và nói CIA xem ông ta là “điệp viên có giá nhất tại Đông Dương” của CIA.
Con người này là ai?
Tên của người này là Vơ Văn Ba. Theo các ghi chép của phía cộng sản, nhân vật này, sinh năm 1923, là một đảng viên Cộng sản phụ trách tuyển mộ đảng viên mới ở khu vực Ṭa thánh Cao Đài và thành phố Tây Ninh.
Có những ghi nhận khác nhau về cách làm thế nào và nhờ ai mà điệp viên này được tuyển mộ cho CIA. Orrin DeForest nói chú của ông Ba, ban đầu theo Việt Minh nhưng sau trở thành sĩ quan phục vụ trong ngành An Ninh Quân Đội của miền Nam, đă thu dụng người cháu. David Corn và John Sullivan viết rằng chú của Ba, người mà họ chỉ nói là một sĩ quan miền Nam, đă tuyển Ba làm chỉ điểm cho Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Ḥa.
Trước khi CIA vào cuộc, có vẻ Ba làm việc một thời gian cho quân đội Mỹ. Theo John Sullivan, một người trong CIA nói Ba từng làm cho t́nh báo quân đội Mỹ.
Không lâu sau khi đến tỉnh Tây Ninh năm 1969, sĩ quan CIA đầu tiên phụ trách Ba đă nhanh chóng chuyển điệp vụ mà lâu nay tiến hành khá nghiệp dư trở thành một hoạt động t́nh báo chuyên nghiệp, đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của CIA.
Hoạt động
Từ nay ông Ba được yêu cầu báo cáo về những mục tiêu chiến lược, các kế hoạch hành động mang tính chất toàn quốc, chứ không c̣n là những mục tiêu chiến thuật cấp thấp. Ông Ba ở trong vị trí lợi thế để lấy được những thông tin chiến lược v́ trong suốt giai đoạn này, trụ sở chính của Trung Ương Cục Miền Nam đặt rất gần chỗ ông, có lúc bên trong tỉnh Tây Ninh, có lúc ở tỉnh B́nh Long kế cận. Các báo cáo của người này được chuyển qua các kênh thông tin của CIA, và chỉ một số ít người biết về sự tồn tại của Ba.
Quân Mỹ sử dụng thông tin t́nh báo để tiến hành các cuộc tấn công.
Để bảo đảm bí mật, chỉ một sĩ quan Cảnh Sát Đặc Biệt miền Nam và một nhân viên người Việt ở văn pḥng CIA ở Tây Ninh được phép gặp mặt Ba ở Tây Ninh. Chỉ thỉnh thoảng Ba mới gặp nhân viên CIA người Mỹ và cũng chỉ gặp ở địa điểm mật tại Sài G̣n.
Thông tin mà ông Ba cung cấp thường xuyên được sử dụng trong các đánh giá của t́nh báo Mỹ về kế hoạch của phe cộng sản. Ngoài ra, mặc dù Ba chuyên môn theo dơi các khía cạnh chính trị chứ không phải quân sự, nhưng thỉnh thoảng ông cũng báo trước các cuộc tấn công ở khu vực Tây Ninh.
Tuy nhiên, vẫn có những câu hỏi về sự trung thành của ông Ba đối với CIA. Mấy lần kiểm tra ông bằng máy thử nói dối đều có kết quả không làm CIA hài ḷng. Năm 1971, hai năm sau khi CIA tuyển mộ Ba, họ phát hiện rằng Ba vẫn ngầm liên lạc và báo cáo cho t́nh báo quân đội Việt Nam Cộng Ḥa. CIA ngay lập tức liên lạc và yêu cầu quân đội Miền Nam ngừng mọi giao thiệp với Ba. Một số sĩ quan CIA cũng đặt câu hỏi làm sao Ba lại không bị Việt Cộng phát hiện mặc dù các điệp viên cộng sản đă xâm nhập vào toàn bộ các tổ chức t́nh báo của miền Nam, những nơi biết về sự tồn tại của con người này. Nhưng rốt cuộc, sự chính xác trong các báo cáo của Ba làm tan biến mọi hồ nghi, và giới t́nh báo miền Nam và Mỹ xem Ba là tài sản quư giá của họ.
Những người cộng sản cũng ngày một nhận ra là họ có kẻ phản bội trong hàng ngũ. Những thiệt hại ở khu vực Tây Ninh năm 1969, những dấu hiệu là đối phương biết trước ư định tấn công, khiến những người cộng sản nghi ngờ trong nội bộ của họ có điệp viên. Một nữ cán bộ được cử điều tra tại Tây Ninh, nơi Ba có nhiệm vụ tuyển mộ và tổ chức chi bộ đảng. Nhưng nhà nữ điều tra này lại bị an ninh miền Nam bắt được khi bà đi vào địa giới do Việt Nam Cộng Ḥa kiểm soát, và bà bị giam cho đến hết cuộc chiến. Không có tư liệu cho biết liệu có phải ông Ba đă báo cho an ninh miền Nam bắt người này hay không.
Cuộc truy t́m nội gián trở nên gấp rút tới mức, theo một loạt các bài báo đăng trên báo chí Việt Nam năm 2004, một trong những điệp viên cao cấp của cộng sản trong chính quyền miền Nam, Nguyễn Văn Tá (tức Ba Quốc), được giao nhiệm vụ săn lùng nội gián vào năm 1972. Ông Ba Quốc đoán rằng hồ sơ mà ông muốn có thể nằm trong một tủ khóa ở Nha điệp báo (ban K) thuộc Phủ Đặc ủy trung ương t́nh báo. Ông vào được nơi này và định mở khóa, nhưng lại có người vào bất th́nh ĺnh, khiến ông đành bỏ dở. Hai năm sau, các hoạt động của chính ông Ba Quốc bị phát hiện và ông phải trốn vào căn cứ cách mạng ở đồng bằng sông Cửu Long.
Đoạn Kết
Hồ sơ mật về ông Vơ Văn Ba được an toàn cho đến ngày Sài G̣n sụp đổ hôm 30-4-1975. Khi quân đội cộng sản chiếm văn pḥng Phủ Đặc ủy trung ương t́nh báo ở Sài G̣n. Viễn Chi, Cục Trưởng Cục T́nh Báo của Bộ Công an Bắc Việt, được nói là đă t́m thấy hồ sơ về Ba trong ngăn khóa của Nguyễn Khắc B́nh, Tổng giám đốc cảnh sát quốcgia.
Cho đến khi cuộc chiến gần kết thúc, ông Ba tiếp tục có những báo cáo giá trị cho CIA. Thế nhưng đến tháng một năm 1975, khi Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Bắc Việt ra Nghị Quyết tổng tấn công để “dứt điểm” Miền Nam Việt Nam, Vơ Văn Ba đă không báo động trước cho CIA về Nghị Quyết nầy. Đây không phải lỗi của Ba mà là do Cộng sản nghi là có người phản bội trong hàng ngũ của họ, thành ra giới lănh đạo Trung Ương Cục Miền Nam đă quyết định không phổ biến Nghị Quyết mới cho cấp dưới.
Vào giữa tháng Tư 1975, ông Ba cho CIA một loạt báo cáo cuối cùng mô tả chung chung kế hoạch tấn công Sài G̣n của Bắc Việt. Những báo cáo này được xem trọng đến mức chúng được đưa vào bản phúc tŕnh hàng năm của đại sứ Mỹ Martin trước một ủy ban của Quốc hội Mỹ về việc sơ tán khỏi Sài G̣n. Nhưng vào lúc Ba chuyển những báo cáo này th́ số phận của miền Nam đă được định đoạt. Thực tế, số phận của chính ông Ba cũng được định đoạt, mặc dù lúc này ông chưa biết.
Điệp viên Vơ Văn Ba bị bắt đúng ngày 1-5-1975
Khi Sài G̣n sắp sụp đổ, CIA đề nghị đưa Ba và gia đ́nh sang Mỹ. Nhưng ông này lại từ chối, nói là muốn ở Việt Nam thay v́ khởi nghiệp từ đầu ở xứ người trong lúc tuổi đă cao. CIA hứa họ sẽ làm mọi cách để ngăn không cho hồ sơ về ông Ba rơi vào tay đối phương. Tuy vậy, lúc đó quân đội cộng sản đă bắt được và tra hỏi một người mà có lẽ biết hoạt động của ông Ba rơ hơn ai hết.
Theo các ghi chép hậu chiến của Việt Nam, ông Nguyễn Văn Phong (hay Nguyễn Sĩ Phong) là một người di cư miền Bắc 33 tuổi làm việc cho văn pḥng CIA ở Tây Ninh. Ông Phong là người liên lạc của Ba ở CIA kể từ 1969, ngay sau khi CIA tuyển mộ Ba. Sau nhiều năm làm việc trực tiếp với Ba, sau này ông Phong rời khỏi Tây Ninh và làm ở văn pḥng CIA ở Ban Mê Thuột.
Ngày 10-3-1975, lực lượng cộng sản nhanh chóng chiếm được Ban Mê Thuột. Ông Phong và gia đ́nh chạy đến nhà của Paul Struharik, đại diện của USAID và là nhân viên người Mỹ duy nhất c̣n ở lại trong tỉnh. Nhưng ngôi nhà lập tức bị bao vây và mọi người trong đó bị bắt. Ông Phong thú nhận ông đă làm việc cho CIA và khai ra tên của Vơ Văn Ba. Ngày 30-4-1975, quân cộng sản chiếm thành phố Tây Ninh và bắt được Phan Tấn Ngưu, sĩ quan miền Nam phụ trách trường hợp ông Ba. Bản thân ông Ba bị bắt ngày 01- 5-1975.
Phía Việt Nam nói ông Ba tự sát ngày 8-6-1975 trong lúc đang bị giam trong trại của Bộ Công an. Sự thật về cái chết của Vơ Văn Ba – có phải đó là tự sát hay là một điều ǵ khác- có lẽ sẽ không bao giờ được biết.
Đoạn kết khác
C̣n có thêm một đoạn kết khác cho câu chuyện về điệp viên Tây Ninh. Vào năm 1980, trong cao trào thuyền nhân, Paul Struharik, đại diện của USAID ở Buôn Mê Thuột và là người có nhà bị bao vây hồi tháng Ba 1975, nhận được lá thư gửi về địa chỉ nhà ông ở Mỹ. Lá thư được gửi từ Malaysia, và người viết là Nguyễn Văn Phong.
Phong nói ông đă trốn được khỏi trại giam Bắc Việt bằng cách nhảy khỏi xe trong lúc chuyển tù. Ông nói sau khi trốn thoát, ông t́m thấy vợ con và cả nhà sắp ra đi trên con thuyền với những người tị nạn vừa đến được bờ biển Malaysia. Theo Phong viết th́ v́ thuyền của ông vẫn c̣n đi biển được, phía Malaysia muốn đẩy họ đi tiếp, nhưng Phong nói ông thuyết phục được người ta gửi lá thư này về Mỹ. Phong nhờ Struharik giúp đỡ.
Câu chuyện của ông Phong nghe khó tin v́̀ làm sao một người tù quan trọng như ông có thể trốn thoát, lại mang theo được cả vợ con. Tuy vậy người Mỹ biết rằng trong đời này cũng thỉnh thoảng gặp trường hợp phép lạ, thành ra họ vẫn gửi tin nhắn yêu cầu nhân viên chức trách để ư khi thuyền của ông Phong đến được trại tị nạn.
Khoảng hơn một tuần sau, một người Việt Nam lênh đênh trên biển Đông được một chiếc tàu đi ngang cứu được. Người này nói ông ta có mặt trên con thuyền của ông Phong. Ông nói con thuyền đó đă ch́m trên đường tới Indonesia, và mọi người trên thuyền, kể cả ông Phong và gia đ́nh, đă chết.
(theo BBC) . Hết.
II. TƯỜNG TR̀NH CỦA NGƯỜI TRONG CUỘC: Phan Tấn Ngưu
Ngay sau buổi thuyết tŕnh từ Đại Học Công Nghệ về, Merle Pribbenow t́m mọi cách để liên lạc với chúng tôi, v́ ông ta cho rằng bài thuyết tŕnh vừa qua, có những điểm không giải thích được cũng như c̣n những chi tiết mà ông không được biết trong việc xây dựng cũng như điều khiển công tác này, nhất là cách nào đă bảo vệ an toàn cho công tác trong nhiều năm.
Trong chuyến công tác của chúng tôi tại Hoa Thịnh Đốn vào đầu năm 2010, Ông Merle Pribbenow có t́m gặp và cùng nhau đi ăn phở trong khu thương mại Eden. Gặp nhau, để ông yêu cầu là tôi sẽ viết lại những diễn tiến công tác, từ lúc chưa trở thành một điệp viên có bí số X..., cũng như tất cả những chi tiết liên quan đến việc điều hành công tác này, mà cho măi đến 30-4-1975 hăy c̣n an toàn, dù bọn Việt Cộng luôn nghi ngờ và kiểm soát gắt gao trong hàng ngũ của chúng!
Trở lại thuở ban đầu. . . . . . . . . .
Khoảng giữa năm 1970, tôi được Giám Đốc Nha CSQG Vùng III chọn về làm Trưởng Pḥng Cảnh Sát Đặc Biêt Ty CSQG Tây Ninh thay thế cho Ông Lê Quư Thông bị tử thương khi đi hành quân vào tháng 5 năm 1970. Khi nghe tin "được" đi Tây Ninh, cảm thấy ớn da gà, v́ nơi đây đầy những địa danh với những chiến trận khốc liệt. Ớn th́ ớn, nhưng cũng phải xách gói lên đường, với bao lời khuyên bảo, khích lệ cũng như lời hứa giúp đở tận t́nh của Đại Tá Đào Quan Hiển. Tôi hăy c̣n nhớ lời nhắn nhủ của Ông: “Tôi không cần biết cậu có tài hay không, tôi chỉ cần cậu sự siêng năng và không quản ngại khó khăn ....”
Những ngày đầu đến địa phương mới, gần như là những ngày bị mất ngủ, không chỉ với bao công việc phải giải quyết hàng ngày mà phải xem lại từng hồ sơ của những cảm t́nh viên, mật báo viên mà nhất là những t́nh báo viên c̣n đang hoạt động.
Trong đống hồ sơ đó, tôi không thể không lưu tâm đến công tác X.54 (bí số xử dụng trong những năm 1969-1970) và t́nh báo viên có tên là Vơ Văn Ba (tức Năm Huỳnh), hiện cư ngụ tại vùng Ṭa Thánh Cao Đài Tây Ninh. Sinh sống bằng nghề ruộng rẫy, thường xuyên ra vào khu vực xă Ninh Thạnh, Hiệp Ninh và Suối Đá cho măi đến gần chân Núi Bà Đen phía Bắc tỉnh Tây Ninh (đường ra vào của bọn cán bộ Cục R)
Xem lại từng chi tiết về nhân vật này, được biết sinh quán tại Mộc Hóa tỉnh Kiến Tường và v́ chiến cuộc nổi trôi đă đến lập nghiệp tại vùng Long Hoa, quận Phú Khương, tỉnh Tây Ninh. Trong gia đ́nh của Vơ Văn Ba ở Kiến Tường, có người chú đă hoạt động cho Việt Minh và cùng với Ba gia nhập đảng cộng sản từ những năm 1945.
Cho đến khoảng 1967, do sự móc nối của một nhân viên hoạt vụ, trước kia cũng là một cán bộ cộng sản, hoạt động vùng xă Hảo Đước (TN) sau về đầu thú, lập công và được tuyển dụng làm nhân viên Công An từ những năm 1962 (do Đại Tá Nguyễn Văn Y, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, quyết định tuyển chọn), đă tuyển mộ Ba làm Mật Báo viên.
Từ những năm 1967 đến 1970, Vơ Văn Ba thỉnh thoảng báo cáo những hoạt động có tính cách địa phương như dưới h́nh thức lượm lặt, gặp gỡ với bọn cán bộ Việt Cộng trong lúc đi làm rẫy trong vùng bất an ninh mà Quốc Gia chưa kiểm soát được. Những báo cáo của Ba có vẻ chính xác mà chúng ta có thể kiểm chứng được ở từng địa phương và từng thời điểm.
Nhưng có một vài báo cáo mà tôi không thể không lưu tâm:
1. Đó là cuộc Tổng công Kích Tết Mậu Thân năm 1968. Cả hai phía VNCH và Cộng Sản đă kư kết Hiệp Ước ngừng bắn, để cho người dân được vui Xuân đón Tết, có hiệu lực từ ngày Mồng Một tháng Giêng Tết. Nhưng ngày 25 tháng Chạp, Vơ Văn Ba đă báo cáo là cộng sản đang chuẩn bị cuộc tổng tấn công toàn diện trên khắp miền Nam, từ thành phố cho đến thôn quê. Trong báo cáo này, Ba cho biết đă được bọn Việt Cộng đi họp ở phía Bắc núi Bà (Chiến khu D) về thuật lại, là được lệnh Trung Ương phải thực hiện cuộc tổng công kích bất ngờ này để cướp cho bằng được miền Nam. Và báo cáo này được chuyển về Tổng Nha CSQG và Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ nội trong sáng ngày 26 tháng Chạp ta.
Trong những bài trước đây khi viết về Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, chúng tôi có đề cập đến lệnh của Ông, yêu cầu các đơn vị CSQG trên toàn quốc phải cấm trại 100% và ra lệnh phải lo đào hầm trú ẩn chung quanh các đơn vị, trong khi anh em quân nhân đang lần lượt được thay phiên đi phép về thăm nhà...và “ăn Tết”.
2. Trung Ương Cục (TƯC) ra lệnh lui binh để tránh bị tổn thất khi Quân Lực VNCH tấn công qua đất Campuchia từ cuối năm 1969 cho đến 1970. Một số đơn vị phải cố thủ ở vài mật khu quan trọng, c̣n hầu hết rút về phía Nam Lào. Bọn Việt Cộng đoán chắc thế nào Quân Đội VNCH cũng đánh sang Campuchia để tiêu diệt cho bằng được bọn Trung Ương Cục đang ẩn náo nơi đây.
Đây là 2 báo cáo tiêu biểu trong rất nhiều báo cáo b́nh thường khác, tôi cảm thấy Vơ Văn Ba không phải là một “Mật Báo Viên” b́nh thường, mà bên cạnh Ba c̣n có ai hoặc tổ chức nào, hoặc cá nhân của Ba là ai mới có được những tin tức như vậy.
Những thắc mắc của tôi được cố vấn Mỹ lúc đó là Bernard D’ambrossio cũng đồng quan tâm. Sau khi thảo luận, chúng tôi quyết định cần có cuộc gặp với Ba ít nhất trong 3 ngày và địa điểm là tại Sàig̣n. Lúc đó là khảng giữa năm 1971.
Mỗi lần hẹn để gặp với Vơ Văn Ba, chúng tôi phải chuẩn bị từ lúc đi cho đến lúc về, v́ lúc đó Ba đă là một mật báo viên “đáng tin cậy”. Điều quan trọng là trong gia đ́nh, Ba phải giải thích cho vợ và 2 đứa con, một trai và một gái, sự vắng mặt của ḿnh.
Chuẩn bị cho mỗi chuyến đi, không kỳ nào giống kỳ nào. Nhưng chuyến đi đó, là lần đầu tiên sau khi tôi đến phục vụ tại Tây Ninh, chúng tôi yêu cầu Ba giả vờ đi phám bệnh tại bệnh viện tỉnh (nhưng không được gặp bất cứ bác sĩ nào), sau đó, chỉ lách qua một cánh cửa, lẻn ra pḥng kín phía sau, leo nằm trên chiếc băng ca, với tấm vải che toàn thân, mặt và được 4 anh em Cảnh Sát Đặc Biệt khiêng cho vào xe cứu thương và đưa ra phi trường Tây Ninh West (Tỉnh lỵ) có phi cơ chờ sẵn và đưa về Sàig̣n (4 nhân viên CSĐB này cũng không biết là ai đang nằm trên đó). Riêng chúng tôi, cùng với cán bộ điều khiền, lái xe đi đường bộ và hẹn gặp nhau tại Hotel X.Y.
Ngoại trừ khi ở trong pḥng khách sạn ( chúng tôi ở pḥng bên cạnh), khi đi ra ngoài, đi ăn tiệm, nghe nhạc v.v... Vơ Văn Ba đều phải hóa trang tùy theo địa điểm sẽ tới: khi mang tóc giả, khi mang râu v.v..., nhưng thường phải mang kính đen, nếu ban ngày.
Kỳ gặp đó, có cả Frank Snepp, chuyên viên phân tích của ṭa đại sứ Mỹ, tham dự, và thông dịch viên lúc đó là Ông Nguyễn Sĩ Phong cùng với một người Mỹ đến để thu âm mà không tham gia cuộc thảo luận.
Kết quả, chúng tôi được biết:
- Ông Ba là một Trung Ương Ủy Viên, đang giữ nhiệm vụ tuyển mộ cán bộ và đảng viên mới để phụ giúp ông kiểm soát mọi hoạt động trong vùng Ṭa Thánh Tây Ninh cũng như cung cấp nhân sự cho các đơn vị khác từ cấp Quận, Tỉnh và Trung Ương Cục (TƯC) v.v...
- Thi hành mọi chỉ thị của TƯC, trong việc phá hoại tại địa phương như đặt chất nổ, răi truyền đơn. Ông Ba chỉ ra lệnh cho những Chi Bộ khác thực hiện mà không được tham gia trực tiếp các công tác này.
- Bám sát và yểm trợ mọi hoạt động của Chi Bộ Ṭa Thánh để ám sát những chức sắc cao cấp mà bọn chúng cho là do chính quyền Sài-g̣n dựng lên, như quư ông Cao Hoài Sang, Trương Hữu Đức, Lê Thiện Phước, Cựu Trung Tá Nguyễn Văn Nhă (sau này giữ chức Thượng Chánh Phối Sư), mà nhất là Cựu Trung Tướng Cao Đài Nguyễn Văn Thành. (xin mở ngoặc thêm chỗ này: Với chức Thượng Chánh Phối Sư, sau 30 tháng 4/1975, Ông Nguyễn Văn Nhă bị bọn Cộng Sản bắt giam ở khu vực núi Bà 10 năm, cho đến năm 1985 mới được thả)
Chúng tôi đă tường tŕnh trong một bài viết trước đây trên Phượng Hoàng về cái chết của Trung Tướng Nguyễn Văn Thành. Chúng đă ám sát ngay phía sau pḥng ngủ, trong nội ô Ṭa Thánh, v́ chúng cho rằng những người này là người của CIA, gây khó khăn cho bọn TƯC trong việc khống chế Đạo Cao Đài. (Qua những tin tức khác nhận được, không phải Trung Ương Cục chỉ thị cho Riêng X.92 mà Huyện Ủy Ṭa Thánh của Việt cộng cũng được chỉ thị tương tợ, v́ chúng tôi có được một T́nh Báo viên hoạt động trong Huyện Ủy này). Trung Tướng Cao Đài Nguyễn Văn Thành bị giết vào ngày 22 tháng 11 năm 1972 (16 tháng 10 Âm Lịch)
- Dù đang dịnh cư tại Tây Ninh, nhưng Vơ Văn Ba vẫn được bọn Trung Ương Cục bí mật liên lạc để chỉ thị công tác cũng như mời tham dự các cuộc họp ở phía Bắc Núi, nơi cứ địa của Mặt Trận Giải Phóng. Điều nên biết thêm, mỗi lần đi họp như vậy, có cả các cấp Ủy, như Tỉnh, Huyện, Xă... Vơ Văn Ba được sắp xếp cho ngồi phía trước, ở một vị trí được che kín (những người ngồi phía sau không thấy được).
Theo hồ sơ tuyển mộ của ngành Đặc Biệt Tỉnh Tây Ninh, sau một thời gian ngắn khi đến Tây Ninh lập nghiệp, Vơ Văn Ba đang đứng trước ngả ba đường: bọn Việt Cộng vẫn cho người đến để móc nối và thường xuyên đe đọa, nếu Ba từ chối hoặc phản bội, bọn chúng sẽ tố cáo Ba trước kia hoạt động cho Cộng Sản ở Kiến Tường, với cấp đảng là... thuộc tổ chức ..v.v... Đó là lư do mà Ba phải nhờ một người chú họ, giới thiệu cho Ty Cảnh Sát và được tuyển mộ làm “nhân viên ngoại vi”.
Ngành Đặc Biệt Tây Ninh tuyển mộ được 3 nhân viên ngoại vi và cả 3 người này đều đă đem lại thành quả, như sau:
a. Anh Đ. V. N.: Sau này trở thành công tác X.45, đă phá vở ổ Việt cộng ở Làng Cô Nhi Long Thành năm 1973 sau cuộc bố ráp do sự phối hợp của E. Công Tác (BTL) và ngành Đặc Biệt Tỉnh Gia Định.
b. Anh Ng. T.T: sau này trở thành công tác Y.80, đă phá vở tổ chức Y.4 của Việt Cộng và bắt được chủ nhà hàng Thanh Bạch, tọa lạc trên đường Lê Lợi, gần bệnh viện Sài-g̣n năm 1974. Sau năm 1975, anh T. bị bắt và bị di tù tận ngoài Bắc với tôi và được thả sau hơn 10 năm.
c. và Vơ Văn Ba ...
Khi nhận làm nhân viên ngoại vi, chỉ là h́nh thức một cái nón che thân, v́ Ba biết không thể nào thoát được sự bám sát và đe dọa của Việt cộng, nhưng nếu Quốc Gia biết được cũng phải bị bắt.
Từ h́nh thức mượn cách để che thân, dần dần Ba thấy được cái dă tâm của Việt Cộng từ ngày chúng du nhập vào Việt Nam. Trong những dịp có thời giờ tiếp xúc với Ba, anh thường than thở, kiểm điểm lại những ǵ ḿnh đă làm khi theo bọn chúng từ ở vùng quê Kiến Tường cho đến sau này, chỉ là cướp của, giết người, kể cả những người dân vô tội. Muốn cho dân sợ để theo, để "ủng hộ" cách mạng, chỉ có cách là phải "giết"! Cuối cùng, anh than rằng: "Chỉ những người không lương thiện, không có cái tâm, mới theo tụi nó".
Khi anh đă nghĩ như vậy, mới nảy sinh ra một việc mà chúng tôi phải giải quyết. Anh có người con trai, tên Vơ T.D, đậu Tú Tài I năm 1971, nhưng rớt Tú Tài II liền 2 năm sau đó, trong khi đă hết hạn hoản dịch v́ lư do học vấn, v́ lứa tuổi đang thuộc về “tài nguyên của trường Bộ Binh Thủ Đức”. Nếu cho con gia nhập trường Thủ Đức, chắc chắn anh sẽ bị hạ tầng công tác, đương nhiên việc hợp tác với Quốc gia sẽ không c̣n hữu hiệu nữa, đôi khi c̣n gặp rắc rối sau này. Ngược lại, nếu anh cho con theo Việt Cộng, điều mà anh không bao giờ muốn v́ anh đă trải qua gần hết cuộc đời cho chúng.
Sau đó chúng tôi về gặp Đại Tá Huỳnh Thới Tây, Phụ Tá Đặc Biệt Bộ Tư Lệnh CSQG để tŕnh bày sự việc.
Chỉ hơn 1 tuần sau, tôi được gọi về gặp Ông, để nhận giấy hoản dịch tiếp cho VT.D. Khi đó tôi mới biết, Đại Tá Tây lên gặp Thiếu Tướng Tư Lệnh, và với sự yêu cầu của BTL/CSQG, Nha Động Viên (mà Giám Đốc lúc bấy giờ là Thiếu Tướng Bùi Đ́nh Đạm), đă kư giấy hoản dịch này.
Những thắc mắc về nhân vật này dần dần được giải tỏa. Và cũng từ đó, việc bảo vệ an toàn cho công tác phải được quan tâm hơn nữa.
Liền sau đó, chúng tôi đă đổi bí số công tác, từ X.54 (năm 1970), thành X.69 với bí danh là Rạng Đông (năm 1972), cho đến 1974 được đổi thành X.92 với bí danh là Bảo Quốc. Từ nay chúng tôi chỉ dùng bí số X.92 để viết về công tác này, giúp cho người đọc hiểu dễ dàng hơn.
Tiếp theo đây, chúng tôi tŕnh bày một số chi tiết trong việc điều hành Công Tác X.92, cũng là kết quả thỏa thuận với Vơ Văn Ba trong chuyến đi đó cũng như những lần gặp gỡ sau đó:
1. HỆ THỐNG GIAO LIÊN
Với loại công tác như X.92, việc an toàn luôn là nhiệm vụ hàng đầu không thể sơ xuất bất cứ lư đo ǵ. Trong việc liên lạc, chúng tôi đă xử dụng:
a. Hệ thống máy liên lạc: Đó là loại phone không có dây (như loại Walkie Talkie bây giờ). Máy chỉ mở trong những giờ giấc đă ấn định và không được chuyện tṛ hơn 1 phút. Trong một phút đó, chỉ để biết sẽ phải làm ǵ, như đến nhận thư ở hộp thư số..., đến nhà an toàn số ..., hoặc sẽ đi công tác trong mấy ngày....
b. Hộp thơ chết: Có tất cả 3 hộp thư chết, hai đặt trong c̣ng nội ô Ṭa Thánh và 1 đặt bên ngoài, gần Tỉnh lỵ.
c. Hộp thơ lưu động: Phương tiện vận chuyện thông dụng của dân Tây Ninh là xe lôi. Xe lôi có nhiều thứ, nhất là các loại xe: Honda, Suzuki, Yamaha. v.v.. Chiếc xe này được gắn số ẩn tế, hay nói đúng hơn là số giả. Mỗi lần anh tài xế (là nhân viên Đặc Nhiệm) có lệnh đi công tác, là phải lo đổi số xe khác và phải lo gắn cái nóc xe để sẽ có 2 nữ hành khách là 2 học sinh, xách 2 cái cập giống nhau, sẽ đón xe tại những ngả đường khác nhau. Khi đến đoạn đường nào đó sẽ lần lượt xuống xe, kẻ trước người sau, sau khi đă đổi cập cho nhau. Loại lưu động này chúng tôi thường xử dụng, sau mỗi lần X.92 đi công tác hoặc đi họp ở T.Ư.C về, viết báo cáo xong và bấm máy liên lạc 1,2,3. Trên đường trở về, khi đến đoạn đường nào đó, Cán Bộ Điều Khiển ra nhận, bọc kín cập sách lại và mang vào văn pḥng để lấy tài liệu hoặc báo cáo...
d. Nhà an toàn: Đương nhiên, nhu cầu này chỉ là một đề tài mà bất cứ người trong ngành đều được biết và đều phải làm. Riêng với X.92 chúng tôi có 2 cái, ở vùng Long Hoa và ở gần tỉnh lỵ.
2. NHỮNG THÔNG DỊCH VIÊN
Cố vấn Cảnh Sát Đặc Biệt tại Tây Ninh có ít nhất là 3 hay 4 thông dịch viên Việt Nam, v́ công tác ở Tây Ninh khá nhiều, không chỉ ở cấp Tỉnh mà ở các Quận cũng có những T́nh Báo Viên hoặc Mật Báo Viên. Riêng công tác X.92 chỉ có một thông dịch viên, không kiêm nhiệm bất cứ công tác nào khác, mà chúng tôi và cố vấn Mỹ đồng ư với những điều kiện như sau:
- Không phải là người của Tây Ninh
- Không có bà con thân thuộc, là người đang sinh sống tại Tây Ninh.
Suốt hơn 4 năm phục vụ ở Tây Ninh, tôi được gần gũi với 3 thông dịch viên (cho riêng công tác X.92)
- Nguyễn Sĩ Phong
- Nguyễn Cao Quang
- Nguyễn Thanh Trang
Trường hợp Nguyễn Sĩ Phong (không phải Nguyễn văn Phong) đă đến Tây Ninh trước tôi, khoảng năm 1969. Phong người miền Bắc, nhỏ con, tương đối nhanh nhẹn thi hành những công tác được giao phó, nhất là dịch những báo cáo của X.92 sau mỗi lần đi họp ở Trung Ương Cục về, có khi phải thức cả đêm, v́ ngoài báo cáo viết tay, c̣n có cả tài liệu của Trung Ương Đảng phổ biến xuống (đôi khi vài ba chục trang giấy)
Đến năm 1972, Phong có quen với một phụ nữ là dân đang sinh sống với gia đ́nh ở Tây Ninh và định lập gia đ́nh với người này. Trong những ngày đầu, khi Phong cùng đi chơi, ăn uống với phụ nữ này, chúng tôi đă được báo cáo và đă cho bí mật điều tra về họ. Rất may, gia đ́nh này thuộc loại tốt, có thể tin cậy được. Tuy nhiên, khi thảo luận với cố vấn Mỹ, phía Mỹ yêu cầu tôi giữ kín quyết định để họ sắp xếp cho yên, v́ nếu bị bất măn, Phong có thể “hy sinh” X.92 dưới bất cứ h́nh thức nào mà anh ta có thể làm được.
Cuối cùng, chúng tôi được dự một bữa tiệc để tiễn Phong đi phục vụ tại Tổng lănh sự vùng II (Văn Pḥng Cố Vấn CIA), nghĩa là được thăng chức! (từ cấp Tỉnh lên cấp Vùng).
Từ đó, công tác X.92 vẫn được tiếp tục an toàn cho đến sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Sau lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh, đích thân tôi và Trưởng G. Công Tác mang tất cả những hồ sơ t́nh báo (từ hồ sơ tuyển mộ, hồ sơ công tác v.v... mang vào sân của Trung Tâm Thẩm Vấn để đốt và vất tro xuống giếng).
Đến 9 giờ tối ngày 30 tháng 4, tôi và vợ tôi (Đại Úy Cảnh Sát), bị bắt bên trong ṭa Thánh Cao Đài và bị giam vào xà lim từ đó. Thời gian sau, vợ tôi bị đưa lên trại tù Cây Cầy, trong khu rừng “Chiến Khu D”, c̣n tôi bị đưa ra Bắc, đến 1988 chuyển về Nam và được thả ngày 29 tháng 4 năm 1992
Khi đang bị giam ở xà lim Tỉnh, khoảng ngày 4 hay 5 tháng 5/ 1975, tôi được gọi lên gặp cán bộ của bộ Nội Vụ VC tại văn pḥng của Trưởng Ty Công An VC tỉnh Tây Ninh. Điều đầu tiên hắn ta hỏi là tôi có nhớ ǵ về tên Vơ Văn Ba và tại sao tôi ra lệnh đốt tất cả hồ sơ của G. Công Tác v.v...?
Tôi chỉ trả lời, việc đốt chỉ là nguyên tắc khi thấy t́nh h́nh không được an toàn, hoặc nếu chính phủ VNCH ra lệnh di tản, chúng tôi cũng phải đốt trước khi đi. Kể từ đó, gần như ngày nào tôi cũng phải lên “làm việc” với tên cán bộ này và đến lúc đó, tôi được biết Vơ Văn Ba cũng đă bị bắt sau tôi một vài ngày.
Theo phần thuyết tŕnh của Merle Pribbenow, tôi mới biết Nguyễn Sĩ Phong cũng đă bị bắt tại Ban Mê Thuột vào tháng 3 năm 1975, cho tới ngày tôi gặp được Merle Pribbenow tại Hoa Thịnh Đốn vào đầu năm 2010, cùng những tin tức về cái chết của Nguyễn Sĩ Phong vào năm 1980.
Sau đó các anh Quang và Trang tiếp nối cho đến ngày 23 tháng 4 năm 1975 th́ chuyển hết về Vùng III Biên Ḥa.
Cần nói thêm về các cố vấn Mỹ. Khoảng năm 1974, tất cả các cố vấn Mỹ ở các Tỉnh đều phải rút hết về các Vùng. Khi có công tác hay trao đổi việc ǵ, sẽ hẹn gặp nhau mà không c̣n ở lại địa phương như trước kia. Riêng tại Tây Ninh, các cố vấn này, kể cả anh Nguyễn Thanh Trang, phải ở lại Tây Ninh cho đến ngày 23 tháng 4 năm 1975 mới rút đi và người cố vấn sau cùng đó là John R. Stockwell (hiện đang sống ở TB Texas).
Trong bài này, các Cố Vấn không phải là đề tài chính, nên tôi chỉ sơ qua về Mr John R. Stockwell.
Khi qua tới Hoa Kỳ năm 1995, tôi mới biết cấp bậc của John. R. Stockwell là Đại Tá. Khi rời Tây Ninh về Vùng III Biên Ḥa, làm Chỉ Huy Trưởng công tác di tản các Cố Vấn cũng như các lực lượng Hoa Kỳ tại Vùng III trở về Hoa kỳ, v́ Hoa kỳ đă bỏ Việt Nam! Trước khi rời Tây Ninh, vào sáng ngày 23 tháng 4 năm 1975, R. Stockwell có đến gặp tôi tại văn pḥng và yêu cầu tôi cùng bà xă rời Việt Nam ngay hôm đó, v́ phi cơ đang chờ vợ chồng tôi tại phi trường Tỉnh Lỵ. Nhưng tôi có 2 lư do để từ chối đề nghị này:
- Tôi c̣n 2 đứa con đang gởi Ông Bà ngoại chúng ở Long An, (v́ từ những năm 1973 đến 1975, Tây Ninh thường bị pháo kích, bất kể ngày đêm), nên tôi không thể nào bỏ chúng lại mà đi, dù chưa nói cho vợ tôi biết, nhưng tôi biết chắc vợ tôi cũng sẽ có quyết định như vậy.
- Tôi không thể bỏ anh em đă gần 5 năm trời cùng chết sống với tôi trong nhiều công tác khó nhọc, không hề đắn đo, lo sợ sự nguy hiểm trước mắt.
Tôi chỉ nói lời cám ơn và chấp nhận số phận nếu đất nước có ra sao th́ ra! R. Stockwell đứng im lặng một chút, sau đó đến xiết tay tôi và “Say Goodbye!”. Khi qua Mỹ năm 1995, tôi có liên lạc với một số người làm việc ở văn pḥng cố vấn Hoa Kỳ khi xưa và tôi mới biết anh ta đă bất măn khi Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam. Anh đă viết sách, nhưng không được xuất bản bởi lệnh của CIA ! (Có thể kiểm chứng qua những Youtube trong những cuộc thảo luận về “Những Cuộc Chiến Do CIA Tạo Ra Trên Thế Giới).
3. HOẠT ĐỘNG
Không kể những báo cáo tin tức về công tác, về t́nh h́nh trong khu vực trách nhiệm, về những chỉ thị của bọn Trung Ương Cục (TƯC)..., chúng tôi đă kịp báo về Khối Đặc biệt trong thời gian ngắn nhất. Có những tin tức cấp bách, chỉ trong ṿng một hay hai giờ đồng hồ là có phi cơ từ Sàig̣n xuống chuyển về Khối (có khi tôi hoặc Cán Bộ điều khiển đính thân mang đi), c̣n phần cố vấn Hoa Kỳ, cũng nhận bản sao của báo cáo đó để chuyển cho Ṭa Đại Sứ. Trong số đó, nếu có những tin tức liên quan đến địa phương, tôi đến báo trực tiếp cho Tỉnh Trưởng để liệu cách đối phó.
Tin chiến thuật gần như X.92 đă đáp ứng hầu hết mọi nhu cầu cho địa phương cũng như cho khắp các vùng lănh thổ khác của miền Nam. Tuy nhiên những công tác có tính lịch sử, tôi xin được tŕnh bày chi tiết đôi chút.
a. Trận chiến “Mùa Hè Đỏ Lửa”
Khi cũng cố lại lực lượng sau thất bại thảm hại trận chiến Tết Mậu Thân 1968, Cộng Quân quyết định giải quyết cuộc chiến bằng quân sự, hơn là bằng Hội nghị 4 Bên. Song song đó, phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ đă và đang bành trướng mạnh, ảnh hưởng không nhỏ đến các quyết định của Quốc Hội cho sự tiếp tục yểm trợ miền Nam, như lời hứa của các vị Tổng Thống...
Vào tháng 12 năm 1971, X.92 được lệnh vào họp khẩn cấp tại khu vực rừng rậm mà TƯC đang trú đóng. Trong cuộc họp đó, X.92 được chỉ thị phải về họp gấp các Chi Bộ để phổ biến lệnh của Bộ Chính Trị là phải đánh chiếm cho bằng được Ṭa Thánh Cao Đài Tây Ninh thuộc Quận Phú Khương, để mặc cả với chính phủ VNCH trên bàn Hội Nghị tại Ba Lê. Bên ngoài th́ xử dụng quân sự đánh vào, bên trong X.92 phải xách động tín đồ biểu t́nh, phản đối, yêu cầu chính phủ VNCH ngưng xử dụng vũ khí, sợ làm hư hại Ṭa Thánh và làm chết t́n đồ.
Khi báo cáo này được đưa về Sàig̣n, qua sự tŕnh bày của Tỉnh Trưởng Tây Ninh, Đại Tá Lê Văn Thiện, lệnh của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, phải bảo vệ Tây Ninh và Ṭa Thánh Cao Đài bằng mọi giá.
Từ đó, có những cuộc họp liên tục với quư vị: Tư Lệnh Quân Đoàn, Tư Lệnh Sư Đoàn 25, Tỉnh Trưởng cũng như các đơn vị trực thuộc trong tỉnh Tây Ninh. Vài hôm sau, các đơn vị Công Binh, Pháo binh ...được lệnh đào giao thông hào toàn khu vực phí Bắc, để VC không xử dụng xe thiết giáp được. Giao thông hào chạy dài từ căn cứ Trảng Lớn, qua phía Bắc Tỉnh Lỵ đến giáp ranh với Quốc Lộ 22 (khu vực Ngă Ba Giang Tân).
V́ thời gian sau này, bọn VC đă xử dụng xe thiết giáp để chuyển quân cũng như để tấn công các vị trí của VNCH, nên việc đào giao thông hào chỉ là cái vỏ bọc ngoài, là h́nh thức, c̣n thật sự là lắp đặt các hệ thống ḿn đủ các loại. Vào ban đêm, phi cơ từ Biên Ḥa hoặc Sài-g̣n thay phiên bay thám sát vùng phía Bắc Tỉnh lỵ, kể cả phần núi Bà Đen, cách t́nh lỵ 12 cây số.
Trong khi đó, trong khu rừng phía Bắc, đơn vị Biệt Kích 81 vẫn ngày đêm bám sát mọi hoạt động của các đơn vị Việt Cộng, kể cả phần ranh giới với Kampuchia phía Tây Nam, bên kia bờ sông Vàm Cỏ Đông.
Đến khoảng đầu tháng 4 năm 1972, lúc 2 giờ sáng, những tiếng nỗ đồng loạt vang rền, kể cả tiếng pháo kích của địch quân, dọc suốt phía Bắc vào Tỉnh lỵ. V́ mấy chiếc pháo đặt ở khá xa, nên chỉ rơi vào một ít khu vực của dân phía ngoài tỉnh, tổn thất không đáng kể.
Lúc đó chúng tôi đang ở hầm Chỉ Huy của Tỉnh Trưởng, Đại Tá Lê Văn Thiện, đang thay phiên nhau theo dơi báo cáo của các đơn vị dọc tuyến pḥng thủ cũng như ở các Quận gọi về. Các nơi cho biết, địch quân chỉ xử dụng bộ binh mà không thấy xe thiết giáp, nên khi bọn chúng đến gần các giao thông hào, anh em tại các đơn vị chỉ việc “bấm ḿn” ...
Có lẽ, v́ các phi cơ thay phiên nhau bay liên tục, nên bọn VC không dám chuyển quân bằng xe, kể cả thiết giáp, v́ ở Tây Ninh, đa số là rừng cao su, dễ bị phi cơ phát giác.
Khoảng gần 5 giờ khuya hôm đó, tiếng súng thưa dần và im bặt trước khi trời sáng. Sáng hôm sau, các đơn vị báo về, dọc giao thông hào phía Bắc, đầy vết máu của VC và c̣n một số xác chưa kịp mang đi...
Chỉ 3 hay 4 hôm sau, trận chiến ở Lộc Ninh đă nổ ra, quốc lộ 13 đă bị cắt hoàn toàn và An Lộc đă bị cô lập...
Có lẽ, sự chuẩn bị cho Tây Ninh quá kỹ, dựa theo tin tức của X.92, nên đă cứu được Tây Ninh và Ṭa Thánh Cao Đài, thay v́ B́nh Long phải gánh chịu trong vài ngày sau đó....
Trong những lần gặp và thảo luận với Frank Snepp sau đó, chúng tôi có đồng kết luận về trận chiến Mùa Hè 1972 tại khu vực miền Nam:
1. Qua tin tức của X.92 lúc ban đầu, Cộng quân sẽ đánh Tây Ninh bằng mọi giá, chỉ là tin “phịa”, trong khi chúng đang dồn mọi nỗ lực để đánh An Lộc. Đó là lư do mà chỉ trong một thời gian ngắn, An Lộc đă bị cô lập hoàn toàn. Cho đến khi giải tỏa, Quân ta đă phải tốn khá nhiều để tái chiếm, nhất là Lực Lượng Biệt Cách Dù 81.
2. V́ sự chuẩn bị cho Tây Ninh quá kỹ, trong khi Cộng quân chỉ có thể tập trung ở phía Bắc, cách Tỉnh lỵ hơn 10 Km, trong vùng Chiến Khu D, chạy dài đến biên giới Kampuchia, nên bộ binh VC khi tấn công vào đă bị tổn thất khá nặng với hệ thống giao thông hào mới đào chằng chịt, đầy ḿn bẫy. Đó là lư do mà chúng đành phải rút trở lên hướng Đông Bắc để đánh vào B́nh Long như đă xảy ra.
b. Hiệp Định Paris 1973
“Ḥa Đàm Ba-Lê” vẫn đang tiếp diễn tại Paris, với 4 bên: VNCH, Bắc Việt, Mặt Trận Giải Phóng và Hoa Kỳ. Đến giữa tháng 10 năm 1972, sau khi tham dự cuộc họp với T.Ư.C về, X.92 gọi máy khẩn cấp và hẹn hôm sau sẽ sắp xếp cho “Xe Lưu Động” chạy theo lộ tŕnh a, b, c...
Khi nhận và mở cặp sách ra, trong đó có một Nghị Quyết của Bộ Chính Trị ở Hà Nội (bản sao) và một báo cáo chi tiết để thi hành của T.Ư.C, cho biết Hiệp Ước Ba-Lê sẽ được kư kết vào ngày 30 tháng 10 năm 1972, trong đó, có một điều khoản rất quan trọng là Hoa Kỳ và VNCH đă chấp nhận sự hiện hữu của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam trong phần lănh thổ phía Nam từ vĩ tuyến 17 trở xuống. Phần chỉ thị của T.Ư.C là các nơi phải dốc toàn lực để “giành dân lấn đất” từ ngày 27 tháng 10 năm 1972 và phần “giành giựt” này sẽ được Hiệp Định hợp thức hóa sau đó vào ngày 30.
Tôi liên lạc ngay với cố vấn Hoa Kỳ và yêu cầu cho một phi cơ để mang tài liệu về Bộ Tư Lệnh. Song song đó, tôi đă gọi máy SA.100 cho Đại Tá Trưởng Khối Đặc Biệt để tŕnh bày sự việc và hẹn 2 tiếng sau, tôi sẽ mang báo cáo về Khối. Phía cố vấn Hoa Kỳ, tôi copy cho một bản sao để chuyển về Ṭa Đại Sứ Sài-g̣n cùng một chuyến phi cơ.
Khi lên gặp Đại Tá Trưởng Khối Đặc Biệt, tôi tŕnh bày thêm những sự kiên liên quan đến chuyến đi họp trong vùng chiến khu D của X.92 mà bọn TƯC đă chỉ thị là phải đi họp đúng ngày giờ và không được vắng mặt, v́ bất cứ lư do ǵ....
Trước khi ra phi trường TSN trở về Tây Ninh, tôi chỉ nghe Đại Tá Trưởng Khối bảo: “Việt cộng chỉ là một bọn ăn cướp và tụi Mỹ là tụi xỏ lá...”!
Đến ngày 30 tháng 10, không thấy chính phủ chỉ thị hay thông báo ǵ về việc kư kết Hiệp Định và phía VNCH lúc nào cũng phải chuẩn bị những sự tấn công có thể xảy ra ở bất cứ nơi đâu...
Khoảng 10 ngày trước mùa Giáng Sinh năm 1972, tất cả hệ thống thông tin, như tivi, radio khắp miền Nam đều báo tin Mỹ đă đem B.52 ra dội bom ở ngay Hà Nội để làm áp lực bọn cộng sản Bắc Việt và bọn Giải Phóng phải rút khỏi miền Nam, đó là điều kiện tiên quyết mà Hội Nghi Paris đưa ra theo yêu cầu của Chính Phủ VNCH.
Sau vụ dội B52 ở Hà Nội, trong lần gặp Đại Tá Trưởng Khối vài ngày sau đó, ông chỉ cho tôi biết là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, sau khi đọc được báo cáo từ Bộ Tư Lệnh CSQG, do Tư Lệnh Nguyễn Khắc B́nh trao tay, đă mời Đại Sứ Hoa Kỳ đến để “hạch hỏi” những sự việc liên quan cũng như tại sao Hoa Kỳ lại “qua mặt” VNCH? Lời dọa cuối cùng của Tổng Thống VNCH là sẽ triệu hồi phái đoàn của VNCH tại ḥa đàm Ba-Lê về nước.
Sự “đi đêm” của Hoa Kỳ với Bắc Việt không đạt được kết quả, v́ bị VNCH phản đối quyết liệt, nên Hoa kỳ đành phải đem B.52 ra Hà Nội và cuối cùng Bắc Việt chấp nhận điều kiện của VNCH và cho đến ngày 27 tháng 1 năm 1973 ḥa đàm mới được kư kết.
Tuy nhiên, những bài học của chúng ta đối với bọn Cộng Sản ít ai quên, nên trước ngày kư kết Hiệp Định đó, không riêng ǵ ở Tây Ninh mà tất cả các tỉnh khác, kể cả Sài-g̣n đều nhận được lệnh là phải chuẩn bị đối phó trong cuộc chiến mới gọi là “giành dân- lấn đất” ngay ngày Hiệp Định có hiệu lực.
Vào hơn nửa đêm 26 rạng 27 tháng 1 năm 1973, tiếng súng đă nổ khắp nơi. Có vài Tỉnh, vài địa phương phải kéo dài đến 3 hay 4 hôm sau mới chấm dứt.
Kiểm điểm lại, bọn Việt cộng đánh tới đâu là nhận lấy thất bại tới đó, chẵng những không giành được dân, không lấn được đất mà các đơn vị, các tổ chức của chúng càng bị co cụm hơn trước kia.
c. Nghị Quyết 24 Bộ Chính Trị tháng 1/1975
Cuộc chiến Việt Nam, có hay không có Hiệp Định Ba-Lê, cũng tiếp diễn như mọi ngày. Nó chỉ là cái cớ cho Hoa Kỳ bắt đầu rút các đơn vị về nước, trước sự quan tâm của thế giới và làm thỏa ḷng bọn phản chiến ngày càng gây bao khó khăn cho chính phủ.
Đến đầu năm 1975, cuộc chiến ngày càng khốc liệt, người chiến Sĩ VNCH đă phải đối đầu với sự thiếu thốn trăm bề, kể cả đạn dược, và ít ai có thể nghĩ đă kéo dài qua đến năm 1975!
Sau cuộc rút bỏ ở miền Trung vào tháng 3, X.92 phải đi họp liên tục ở TƯC, để nhận những chỉ thị trong việc yêu cầu những cơ sở địa phương đánh vào các kho nhiên liệu, các đơn vị nhỏ như cấp xă, quận v.v..., trong khi đó các đơn vị chính quy sẽ xử dụng tối đa pháo binh và xe thiết giáp để tấn công những mục tiêu chiến lược mà chúng cảm thấy cần thiết. Chúng cho rằng đă đến lúc phải dứt điểm bằng quân sự. Chúng chỉ ra chỉ thị tổng quát mà không có một kế hoạch cụ thể để thi hành. X.92 chỉ báo cáo mà không đưa ra được một yêu cầu nào để thực hiện.
Đến tháng 4/1975, X.92 mang về toàn bộ nghị quyết 24 của Bộ Chính Trị và TƯC biến thành Nghị Quyết 12. Chính hai nghị quyết này, khi được đưa đến tay Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Ông đă triệu tập Hội Đồng An Ninh Quốc Gia nhiều lần để t́m cách đối phó.
Sau này tôi mới biết ít nhiều về phản ứng của Tổng Thống Thiệu, v́ nhân chứng sống, là Tổng Thư Kư trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, là Thiếu Tướng Nguyễn Khắc B́nh, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia.
Trong Nghị Quyết 24 (hay 12 của TƯC) đă phân tích t́nh trạng thiếu thốn của VNCH đủ mọi mặt, trong đó bọn Cộng Sản đă đưa ra một kế hoạch tăng cường quân sự để bao vây Sài-g̣n sau khi chúng đă “được cho không” vùng đất phía Bắc của Vùng I và II hai tháng trước đó.
Người lính chiến phải tiết kiệm từng viên đạn, từng lít xăng v.v..., kèm theo là sự đe dọa, ép buộc của phía Hoa Kỳ, để yêu cầu Tổng Thống Thiệu từ chức. Nhưng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lúc nào cũng vẫn trả lời là VNCH sẽ đánh cho đến “viên đạn sau cùng”.
Trước thực trạng này, bọn cộng sản Hà Nội đă t́m mọi cách đi đêm với Hoa Kỳ để t́m người thay thế cho bằng được TT. Nguyễn Văn Thiệu, sau khi đă cho Hoa Kỳ nhận món quà mà cả nước đang mong đợi: trao trả tù binh do Bắc việt giam giữ theo tinh thần Hiệp Định Ba-Lê đă kư kết.
Cuối cùng, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, sau khi gánh chịu áp lực tứ bề, đă phải từ chức, giao lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương và ... cho đến trưa 30 tháng 4/1975, Ông Dương Văn Minh đă giao đất nước cho Cộng Sản.
Những ǵ xảy ra tiếp theo đó, hoàn toàn ngoài những ǵ mà tôi biết được qua 2 Nghị Quyết đó, cũng như những nhân vật lănh đạo tiếp nối cũng không được đề cập đến.
d. Nhân vật Út Tặng
Trong phần trên, Merle Pribbenow có đề cập đến sự nghi ngờ của bọn chúng về các cơ sở đang hoạt động, v́ những ǵ chúng định làm ḿnh đă biết trước, gây cho chúng những tổn thất không nhỏ. Sau đó chúng cho người ra điều tra.
Đến cuối năm 1971, qua một công tác xâm nhập khác, phạm vi hoạt động trong Quận Phú Khương, tên Ba Dừa, bí thư và tên Tư Tịnh, Chủ Tịch Huyện, (chúng gọi là Huyện Ủy Ṭa Thánh), đă chỉ thị cho một nữ cán bộ hợp pháp ra sinh sống trong khu vực chợ Long Hoa (gần nhà X.92), giả dạng dân buôn bán hàng rong và t́m cách theo dơi X.92.
Qua báo cáo, tôi được biết y thị này là một cựu tù nhân chính trị, tên là Nguyễn Thị Xe, bí danh là Út Tặng. Trước đây đă bị Cảnh Sát Đặc Biệt bắt và Ủy Ban An Ninh Tỉnh quyết định cho an trí 3 năm. Y thị được thả năm 1971 và tái hoạt động ngay sau đó.
Do công tác yêu cầu, hàng ngày Út Tặng đạp xe đạp, chở rau cải, trái cây v.v... ra chợ bán, đến trưa đi ḷng ṿng theo dơi t́nh h́nh và tối về đi báo cáo hoặc thi hành những chỉ thị nào khác.
Sau cuộc gặp gỡ với X.92 tại nhà an toàn, X.92 cho biết y thị rất hăng say và rất nguy hiểm đối với các cơ sở hợp pháp. Dù là cấp Quận, nhưng trong vài lần họp ở mật khu, X.92 thấy có sự tham gia của y thị.
Chỉ 2 ngày sau, chúng tôi đă bí mật bắt cóc Út Tặng ngay trên đường từ Xă Ninh Thạnh đi ra chợ Long Hoa và biệt giam từ đó. Hôm sau, tôi báo về Khối Đặc Biệt và được lệnh chúng tôi phải mang về cơ quan D.6 giữ y thị cho đến ngày 30 tháng 4/1975.
Việc bắt giữ Út Tặng, chúng tôi hoàn toàn không cho X.92 biết, để X.92 luôn phải đề pḥng trong mọi công tác và cũng để X.92 không phải lo âu về sự an toàn của ḿnh. Khoảng hơn 1 năm sau, X.92 mới được TƯC cho biết là Út Tặng đă bị bắt mất tích, nhưng không được cho biết thêm chi tiết nào khác. Bọn chúng có nhờ X.92 ḍ xem Út Tặng hiện bị giam giữ ở đâu và c̣n sống hay đă chết.
e. Công tác “ngoại vi”
Sở dĩ gọi là ngoại vi, v́ các công tác này do chúng tôi thực hiện theo sự yêu cầu của bọn Cộng sản, từ cấp TƯC, Tỉnh Ủy ... và Huyện Ủy chỉ thị cho X.92 phải làm:
- Răi truyền đơn: Thường bọn chúng chỉ thị cho X.92 phải t́m cách răi truyền đơn lên án các chức sắc trong Hội Thánh Cao Đài v́ đa số các vị này t́m cách loại những thanh niên trốn quân dịch vào ẩn trốn trong Nội Ô. Tuy nhiên, trong số thanh niên trốn quân dịch này, cũng có vài người do ḿnh tổ chức để theo dơi bọn cộng sản có thể trà trộn để phá hoại.
Mỗi lần răi truyền đơn, thường là vào những ngày Lễ Vía trong Đạo, nên anh em Cảnh Sát Đặc Biệt phải mặc Đạo Phục với áo dài trắng hiện diện khắp các cơ quan trong Nội Ô. Trong khi đó, người răi truyền đơn cũng là một nhân viên Cảnh Sát, chỉ răi theo một lộ tŕnh đă được ấn định (nhưng đi bằng xe gắn máy để chạy trốn cho nhanh). Sau đó, có một số anh em “đạo hữu” đi nhặt tất cả những truyền đơn này, mang về Bộ Chỉ Huy tỉnh để báo cáo lên Tỉnh, Khu và Bộ Tư Lệnh.
- Đặt chất nổ: Ở Tây Ninh, các tổ chức Nhân Dân Tự Vệ được tổ chức canh gác rất chặt chẽ trên những nẽo đường dẫn về Tỉnh Lỵ, nhất là khu vực giáp ranh giữa Ṭa Thánh và Tỉnh lỵ (Xă Hiệp Ninh và Thái hiệp Thạnh), cách nhau 7 Km.
Trong các trạm gác đó, bọn cộng sản chỉ thị cho X.92 phải phá sập bằng được trạm ranh Xă Hiệp Ninh và trạm ở ngả ba Giang Tân. Hai trạm này đă gây trở ngại cho chúng khi muốn xâm nhập vào vùng trong, nhất là chúng không dám di chuyển vào ban đêm.
Sau khi tŕnh bày sự việc với Tỉnh Trưởng và với Cố Vấn Hoa Kỳ, Tỉnh đồng ư cho đánh chất nổ, nhưng tránh gây thương tích cho dân cũng như anh em Nhân Dân Tự Vệ ở đó. Phần c̣n lại, Cố Vấn Hoa Kỳ sẽ lo mọi chi phí để xây lại các trạm này, tiền sẽ đưa trực tiếp cho Tỉnh trưởng mà không qua trung gian của bất cứ Ty Sở nào trong Tỉnh.
Cái khó mà vui nhất là anh em Cảnh Sát phải đến rủ rê mấy tay Nhân Dân Tự Vệ đi nhậu ở một quán nào gần đó và phải xử dụng loại ḿn hoặc chất nố của tụi Việt Cộng mà ḿnh tịch thu được trong các cuộc hành quân trước đó.
Sau khi đặt chất nổ xong, Tỉnh Trưởng làm giấy khiển trách những người có trách nhiệm, từ cấp Ấp, cấp Xă cho đến cập Quận....
4. SỐ PHẬN
a. Truy t́m kẻ nội gián: Trong phần thuyết tŕnh của Merle Pribbenow, có đề cập đến việc truy t́m kẻ nội gián trong chính quyền miền Nam mà bọn Cộng Sản đă xử dụng tên Nguyễn Văn Tá (bí danh Ba Quốc), tên nội tuyến trong Phủ Đặc Ủy.
Sau khi t́m hiểu với những người liên quan, được biết tên Ba Quốc chỉ là “tép riu” trong PĐU, làm ǵ có quyền đi từ pḥng này sang pḥng khác để t́m cách xâm nhập, mở khóa tủ v.v... Khi bị lộ và phải chạy trốn, Ba Quốc phải báo cáo để lập công hầu bọn cộng sản c̣n tiếp tục cho mấy đoạn giao thông hào hoặc một khu rừng nào đó để vun thân.
Cũng có nguồn tin cho rằng khi bọn Cộng Sản chiếm được văn pḥng của Thiếu Tướng Nguyễn Khắc B́nh ở Phủ Đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo, phải nói rơ là phải sau ngày 30 tháng 4 mà không phải là 29 tháng 4/1975, tên Viễn Chi, Cục Trưởng T́nh Báo của Bộ Công An Bắc Việt, đă t́m thấy hồ sơ của Vơ Văn Ba trong ngăn khóa của Nguyễn Khắc B́nh. Đây là sự “bịa chuyện cho vui”.
Trong việc bảo mật hồ sơ, từ của các Cảm T́nh Viên, Mật Báo Viên cho đến T́nh Báo Viên, chỉ có các địa phương tuyển mộ mới giữ những hồ sơ này, với đầy đủ lư lịch và các mẫu ĐV(từ ĐV.1 đến ĐV.16). Kế đến là E.Điều Hành Khối Đặc Biệt, nhưng chỉ giữ các Mẫu ĐV với Bí Số của các nguồn tin cùng với bản sao các Báo Cáo định kỳ cũng như bất thường, mà không giữ hồ sơ tuyển mộ. Trong các báo cáo, nguồn tin chỉ ghi và kư tên bằng bí số đă được cho.
Điều Hành là cơ quan phối hợp, theo dơi, phối kiểm mọi hoạt động của các nguồn tin t́nh báo trên toàn quốc, để:
- Tránh sự lợi dụng và đánh lừa tin tức v́ mục đích cá nhân. Có thể một người đang cộng tác với 2 hay 3 cơ quan khác nhau, sẽ sanh ra những hệ luy khó kiểm soát và đánh giá sai lệch của các cơ quan anh ninh.
- Tránh những tin ngụy tạo có thể gây nguy hiểm khi mang ra khai thác,
- Tránh những nguồn tin “hai mang”, có thể gây đỗ vỡ công tác và bị đối phương phát giác, vô hiệu hóa.
Như vậy, trong văn pḥng của Tư Lệnh CSQG, dù ở BTL hay ở Phủ Đặc Ủy, kể cả trong văn pḥng của Trưởng Khối Đặc Biệt, làm ǵ có hồ sơ của Vơ Văn Ba mà t́m thấy?? (chỉ có hồ sơ cùa X.92 - Bí danh là Bảo Quốc mà thôi)
Riêng tại Tỉnh Tây Ninh, như phần trên tôi đă tŕnh bày, tôi đă đốt tất cả hồ sơ của các nguồn tin này trước khi rời Bộ Chỉ Huy và đến 9 giờ tối bị bắt trong Nội Ô Ṭa Thánh Cao Đài Tây Ninh.
b. Số phận của Vơ Văn Ba: Trong lần gặp sau cùng, khoảng giữa tháng 3 năm 1975, trước t́nh h́nh rất khó khăn của chính phủ lúc bấy giờ, Cố Vấn J. R Stockwell có hỏi ư kiến và đề nghị đưa X.92 cùng vợ con đi qua Hoa Kỳ. X.92 suy nghĩ hồi lâu, và quyết định:
- V́ đă lớn tuồi nên thấy khó khăn khi đến “lập nghiệp” ở một xứ như Hoa Kỳ.
- X.92 sẽ trở lại đời sống của người dân b́nh thường. Nếu bọn cộng sản có chiếm được miền Nam và giao cho chức vụ nào đó, X.92 cũng sẽ từ chối, v́ đă hiểu quá nhiều về bọn chúng. Trong đó X.92 cũng không quên đề cập đến 2 đứa con, tuyệt đối không hợp tác với cộng sản.
- Cuối cùng, X.92 tuyên bố một câu mà đến giờ này tôi hăy c̣n nhớ, cũng như hăy c̣n bị “ám ảnh” dù đă hơn 40 năm qua: “Nếu tụi cộng sản chiếm được miền Nam, tôi sẽ tự tử!”.
Nhớ điều này, tôi không lấy ǵ làm lạ, khi qua định cư năm 1995, được biết X.92 đă chết trong lúc bị giam tại trại tạm giam của Bộ Công An ở Sài-g̣n, mà lư do tụi cộng sản cho biết là X.92 đă tự tử!
Với tôi, X.92 đă tự tử thật sự. Trong ngục tù Cộng sản, để giết một tên nguy hiểm như X.92, mà chỉ bị giam có 1 tháng th́ hơi “rộng lượng”!
Vâng, tự tử hay bị bức tử trong lúc bị giam là điều thường hay xảy ra trong chế độ vô nhân!
III. PHẦN KẾT
Sau khi gặp Merle Pribbenow vào đầu năm 2010 tại Virginia, tôi rất khó xử, v́ tôi cảm thấy khó có thể thỏa măn yêu cầu. Bên cạnh đó, ngoài Pribbenow c̣n một người bạn của Ông, là người Mỹ cũng đến gặp và cũng yêu cầu tôi nên giúp v́ ông đang viết một cuốn sách về chiến tranh Việt Nam.
Tôi cho là khó xử, v́ ngoài X.92 làm việc trực tiếp với chúng tôi, c̣n biết bao người trong cuộc khác mà hiện c̣n sinh sống tại Việt Nam, nhất là trong vùng tỉnh Tây Ninh. Xem lại phần trên, trong việc điều hành công tác, từ hệ thống giao liên, nhà an toàn, hộp thư sống, hộp thư chết .v.v..., phải cần rất nhiều người mới có thể làm được. Tài liệu có trễ năi, sách có ra chậm, vẫn là chuyện nhỏ so với sự tồn vong của những người “lính không có số quân” này.
Trong hơn 20 năm sống ở hải ngoại, những anh chị em làm việc với tôi khi xưa, tôi không bao giờ dám quên. Tôi nhớ từng người, từng khuôn mặt buồn vui sau mỗi lần đi công tác về, đặc biệt là những người bạn, những người em, những đứa cháu không có tên trong “danh sách lănh lương của chính phủ VNCH”.
Suốt bao năm qua, tôi cũng đă âm thầm bằng điều kiện hạn hẹp của cá nhân, tôi cũng ráng giúp vui cho “những người không có trong danh sách” này mà không dám liệt kê để báo cáo trong mỗi độ Xuân về, Tết đến, v́ báo cáo phải có tên họ, địa chỉ v.v...
Qua cái chết của X.92, cũng như những bài học đă trăi qua trong suốt bao năm phục vụ trước 1975, tôi cảm nghĩ:
* Chỉ có những ai thấu hiểu được Cộng Sản mới dám hy sinh để đối đầu, kể cả mạng sống của chính ḿnh!
Phan Tấn Ngưu
hoanglan22
02-07-2020, 20:15
Trước năm 1975, người miền Nam ít khi nói đến từ bia, mà nói là la-de nhưng viết th́ là la-ve. Rủ nhau đi làm ít la-de, nhâm nhi la-de, mời anh nâng ly… Khúc đường Phạm Ngũ Lăo – Bùi Viện bây giờ là phố Tây ba lô, trước năm 1975 vốn là khu ăn nhậu sầm uất, chiều chiều bàn ghế bày ra đầy vỉa hè, khách b́nh dân hay trung lưu vẫn tạt vào. Món nhậu b́nh dân khoái khẩu của người Sài G̣n lúc đó là uống la-de Con Cọp nhắm với tôm khô củ kiệu (bây giờ th́ cả la-de Con Cọp không c̣n và món tôm khô củ kiệu cũng dần mai một trên bàn nhậu). Giống như Honda được gọi cho xe máy, la-de cũng được gọi cho bia nhưng từ đâu mà lại có chữ la-de?
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1525991&stc=1&d=1581106369
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1525992&stc=1&d=1581106369
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1525993&stc=1&d=1581106369
La-de từ đâu anh tới ?
Giả thuyết thứ nhất cho rằng xuất phát từ cụm từ beer Lager, Lager là một ḍng bia nhẹ kiểu Đức, nên người ta nói chệch từ lager thành la-de.
Giả thuyết thứ hai liên quan đến sự ra đời của hăng bia BGI làm ra bia Con Cọp. Lần ngược thời gian, năm 1875 hăng BGI được thành lập tại Sài G̣n bởi một sĩ quan hàng hải giải ngũ có tên Victor Larue. Tên BGI là viết tắt của Brasseries Glacières d’Indochine (hăng bia và nước đá Đông Dương, đến năm 1954 không c̣n Đông Dương nữa nên chữ “In” đổi lại là Internationales – Quốc tế), lúc đầu chủ yếu làm nước đá, sau mấy năm mới sản xuất bia và nước giải khát.
Sản phẩm bia Con Cọp bên cạnh h́nh con cọp trên nhăn, hai bên có hai chữ Pháp là Biere Larue, Larue chính là tên ông chủ hăng, phát âm theo tiếng Việt là la-ruy-ê đọc liền nhau, dân Việt đọc chệch đi thành la-de, rồi lâu dần bỏ luôn chữ bia, gọi la-de thôi và la-de cũng dần trở thành cách hiểu để nói về bia của người miền Nam.
Tùy mỗi người tin, c̣n bản thân tôi tin rằng chữ la-de xuất phát từ giả thuyết thứ hai.
Con Cọp làm trùm
Ngoài hai loại bia Bière Royale và Bière Hommel (loại nhẹ), hăng BGI sản xuất chính hai loại bia khác nổi tiếng hơn.
Loại thứ nhất là bia xuất khẩu, gọi là bia 33 Export, cái tên 33 đơn giản là do nó đựng trong chai có dung tích 0,33 lít. Bia này có độ cồn cao hơn nên vị uống đậm hơn. Trên nhăn bia ghi chữ bia theo nhiều ngôn ngữ khác nhau: Bière (tiếng Pháp), Beer (tiếng Anh), Bier (tiếng Đức), Bir (tiếng Indonesia), Birra (tiếng Ư)…
Loại thứ hai phổ biến nhất là bia Con Cọp, đựng trong chai có dung tích 0,66 lít nhưng không hiểu sao ở vỏ chai chỉ ghi dung tích là 0,61 lít. Đây là loại bia phổ biến được đông đảo người tiêu dùng đón nhận, từ người lao động b́nh dân cho đến trí thức hay đại gia, từ nhà hàng đến quán cóc lề đường đều có h́nh ảnh của bia Con Cọp. Binh lính và sĩ quan Việt Nam Cộng ḥa cũng rất ưa chuộng bia Con Cọp nhưng giá mua cao, nên Chính phủ đă kư hợp đồng với BGI sản xuất bia với nhăn riêng để bán lại cho quân đội, cảnh sát và viên chức, giá rẻ hơn, gọi là bia Quân Tiếp Vụ.
Năm 1965, quân Mỹ đổ vào miền Nam, năm 1966 Mỹ xây dựng căn cứ Long B́nh làm kho hậu cần khổng lồ phục vụ quân đội. Dân Tam Hiệp, Biên Ḥa đua nhau mở cửa hàng ăn uống phục vụ nhu cầu lính Mỹ, trong đó có bán bia Con Cọp. Họ phát hiện ra lính Mỹ có bia lon riêng do quân đội cung cấp (phát hay bán rẻ ǵ đó) nhưng lính Mỹ chê, họ nói là chua và nhạt nên không thèm uống, mà đi mua bia Con Cọp uống. Điều này đủ thấy khẩu vị của bia Con Cọp cuốn hút ra sao từ ta đến Tây.
Chiến thắng thuộc về kẻ thừa kế
Sau năm 1975, BGI bị quốc hữu hóa và hăng mẹ BGI tiếp tục dùng nhăn hiệu này trên toàn thế giới, trong khi đó loại bia tại Việt Nam được Nhà máy bia Sài G̣n (tức BGI cũ) sản xuất ra theo công thức của bia 33 không được mang nhăn hiệu 33 v́ đây là nhăn hiệu đă đăng kư toàn cầu, nên đổi là 333, chỉ thêm số 3 vào cho khác đi.
Đến năm 1991, BGI mới quay lại Việt Nam nhưng không giành lại thời huy hoàng, dù cho những tháng đầu tiên đă khiến bia Sài G̣n không bán nổi một két và sau cùng BGI phải bán lại cho Foster của Úc. Lư giải thất bại của BGI, đó là bia Con Cọp đă trở lại với chất lượng kém hơn xưa. Có hai nguyên nhân chưa hề được xác nhận chính thức: Thứ nhất, BGI đă sử dụng công nghệ mới hiện đại, ủ men nhanh hơn nên mùi vị khác trước. Trong khi bia Sài G̣n vẫn dùng công nghệ cũ, lạc hậu của BGI trước đây nên vẫn giữ nguyên được chất lượng quen thuộc.
Thứ hai, lúc đầu BGI rất muốn liên doanh với bia Sài G̣n để sản xuất tại nhà máy cũ ở Sài G̣n nhưng không được, đành phải về Tiền Giang. Một bí quyết then chốt trong sản xuất bia Con Cọp trước đây chính là nguồn nước, ở Tiền Giang không có nguồn nước ngầm giống của nhà máy ở Sài G̣n nên chất lượng cũng không bằng. Điều này cũng tương tự rượu Bắc Hà nổi tiếng ở Lào Cai, khi người làm rượu ở Bắc Hà đi nơi khác làm rượu, cũng con người đó, công thức đó, nguyên liệu đó nhưng rượu không ngon v́ dùng nguồn nước khác… Thế nên kẻ thừa kế của bia Con Cọp lại đánh bại được chính chủ. Nhăn hiệu Con Cọp nổi tiếng năm xưa không c̣n nhưng hương vị của nó vẫn ở lại cùng các “bợm bia”.
Năm 1973, hăng BGI tung ra một nhăn hiệu mới, cũng chai 0,66 lít có h́nh con cọp nhưng hai bên có vẽ thêm h́nh ảnh dây leo và một trái tṛn tṛn khía vuông mà người ta thấy giống như trái thơm, nên người ta gọi là bia Con Cọp Trái Thơm. Điểm đặc biệt là bia này bỏ chung với các chai bia Con Cọp khác, cứ một két th́ có một chai, có khi có 2-3 chai. Thiên hạ đồn đây là loại bia đặc biệt, ngon hơn loại thường nên tặng kèm theo một két để khuyến măi khách hàng mua sỉ. Thành thử từ đó người ta hay mua cả két bia để được lấy chai “trái thơm”, trong bàn nhậu, bậc trưởng thượng, chủ xị… được ưu tiên uống chai này. Trong phân chia chất lượng bia của BGI th́ bia Con Cọp Trái Thơm đứng đầu, sau đó tới bia Con Cọp thường và đứng chót sổ, bị chê nhiều nhất là bia Quân Tiếp Vụ.
Sự thực bia Con Cọp Trái Thơm có phải là loại bia ngon nhất ?
TS luật Phan Văn Song, từng là trưởng pḥng tiếp thị rồi giám đốc BGI từ năm 1973 đến 1976 tại Việt Nam, đă bác bỏ điều này. Ông nói: “Nấu hai loại bia đă tóe phở, hộc x́ dầu. BGI đâu có hưỡn nấu ba, bốn loại c̣n vô chai vô cộ, đổi kíp đổi người. Phức tạp lắm. Nội cách đổi vỏ chai cho hạp với rượu cũng đủ hao tiền. Nhưng cắt nghĩa hổng ai tin”.
Vậy v́ sao BGI lại tung ra nhăn bia chai Trái Thơm? Nguyên nhân này cũng được tiết lộ từ người trong cuộc: Năm 1973, BGI muốn thay đổi nhăn bia mới, để đỡ tốn tiền thuê họa sĩ thiết kế ở pháp như mọi khi, ông Song giao cho họa sĩ quảng cáo trong công ty vẽ. Cũng là nhăn Con Cọp cũ nhưng vẽ thêm hoa houblons (c̣n gọi là hốt bố – là loại hoa tạo ra vị đắng của bia), khổ nỗi họa sĩ chưa từng nh́n thấy hoa houblons tươi bao giờ, chỉ thấy hoa khô trong hăng nên từ đó tưởng tượng vẽ ra. Cả khâu duyệt cũng trót lọt v́ dân marketing ngồi văn pḥng có ai biết hoa houblons tươi thế nào. Đem qua nhà máy thủy tinh Khánh Hội đặt in trên 100.000 vỏ chai xong mang về nhà máy Chợ Lớn, mấy kỹ sư trong xưởng bia mới cười rần rần v́ vẽ sai, thế là thôi không in tiếp nữa. 100.000 chai đă lỡ in sai không lẽ bỏ, thế là số chai này được phân công bỏ chen vào các két bia mỗi két một chai để phân tán ra.
Từ đâu dẫn đến diễn biến về bia Trái Thơm đặc biệt khiến thiên hạ lùng mua để uống? Cũng từ các Hoa kiều làm công việc phân phối bia của BGI mà ra. Người Hoa rất nhanh nhạy với các cơ hội làm ăn, họ chụp lấy sự kiện này để “bỏ nhỏ” với các đại lư: Bia Trái Thơm là loại đặc biệt, mỗi két chỉ có một chai nhưng nếu “nị” lấy hàng nhiều, chịu chi thêm th́ “ngộ” sẽ thêm mỗi két vài chai, thậm chí muốn có cả một két toàn Trái Thơm cũng có… Quy tắc mỗi két một chai bị phá tan nhưng bộ sậu lănh đạo ở BGI lờ đi, mặc cho nhóm nhân viên phân phối thao túng. Ai đời từ một sai sót kỹ thuật vớ vẩn như vậy lại được biến thành một sự kiện khiến nhăn hàng gây chú ư với người tiêu dùng miễn phí và khiến doanh số bán tăng vọt th́ họa có… điên mới đi giải thích, đính chính (!). Nói như vậy, không lẽ cả mấy vạn “bợm bia” không phân biệt được bia ngon, bia dở? Thật ra những ai hiểu về tâm lư học và marketing sẽ biết rằng cùng một sản phẩm nhưng nếu cho vào chai lọ, bao b́ thật đẹp, bán giá cao… người ta sẽ cảm thấy nó ngon và tốt hơn cũng sản phẩm đó cho vào bao b́ xấu hoặc giá rẻ. Đó cũng là lư do bia Quân Tiếp Vụ ngày xưa bị chê trong khi nó cũng “y chang” hai loại kia, chẳng qua là đặt sỉ giá rẻ mà thôi.
Theo PHẠM TRƯỜNG GIANG
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1523723&stc=1&d=1580740388
.................... .................... .................... ..
Suốt buổi nhậu Dean cứ chêm vào: Oh my God, Bullshit, oh yeah, perfect… có người hiểu, có người không hiểu nhưng ai ai cũng chăm chăm nâng ly, dô dô trăm phần trăm chứ chẳng hơi đâu mà t́m hiểu tiếng Tây, tiếng u.
.................... .................... .................... .
1 Việt kiều Mỹ về thăm quê hương trong lúc đang huyên tṛ chuyện với bạn bè, anh ta ra vẽ là đă quên bớt tiếng Việt (cho giống người Mỹ chứ sau)
-Oh, cái này.....uh...cái đó....uh....cái đó nói tiếng Việt làm sao ḿnh quên rùi
-Không sao, cứ nói tiếng Anh đi, tụi ḿnh cũng biết tiếng Anh mà
-(Anh Việt Kiều ấp úng)...Tiếng Anh....tiếng anh hả.....uh....uh....t iếng Anh th́ ḿnh chưa....học tới :hafppy:
:hafppy:
hoanglan22
02-13-2020, 04:56
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1529048&stc=1&d=1581569714
Cứ gần giáp năm th́ trong bụng buồn buồn, nhất là nửa đêm ngủ hổng được mà nghe gió rít từng cơn càng năo nuột, những ngày lễ lạc chộn rộn như vầy tôi thường nằm nhà loay hoay với nỗi buồn không tên của ḿnh, coi phim hay đọc sách để quên buồn.
T́nh cờ thấy bộ phim với tựa đề “Hamburger Hill” do Mỹ sản xuất năm 1987 của đạo diễn John Irvin liên quan tới chiến tranh Việt Nam, tôi ṭ ṃ bấm vào coi, phim ngắn thôi nhưng đă làm tôi nín thở theo dơi cuộc chiến đấu quyết liệt của quân đội Mỹ, trong một trận đánh trên ngọn đồi 937 gần biên giới Việt Lào năm 1969.
Thời chiến tranh tôi c̣n vô tâm quá với lứa tuổi ăn chưa no lo chưa tới, nhưng sau khi tàn cuộc chiến thấy có nhiều điều trái tai gai mắt trong chế độ mới, khiến tôi quan tâm đến xă hội, sự dấn thân có lẽ bắt đầu từ giai đoạn cả nước ăn khoai sắn thay cơm, rồi miền Nam của tôi trăi qua bao biến động dưới bàn tay phù thủy tàn độc của cái gọi là XHCN, trả giá cho việc ăn cơm quốc gia mà không chịu thờ ma CS là những năm tháng tù đày, tôi không phàn nàn về cuộc chơi “nhất chín nh́ bù” của ḿnh, coi như một tai nạn xảy đến cho gia đ́nh mà kết cuộc khá bi thảm, một người chết hai người bị thương nặng...
Sau này tôi lại chú ư đến những câu chuyện thời sự hơn là coi phim bộ như thói thường của mấy người già mới qua Mỹ, nên sách vở, phim ảnh hay bất cứ cái ǵ liên quan tới Việt Nam th́ tôi ghé mắt vào, như phim tài liệu Việt Nam Việt Nam của Charlton Heston với những thước phim có giá trị trung thực về cuộc thảm sát ở Huế năm 68 , dĩ nhiên là nó khác với cách nh́n thiên kiến của phim The Viet Nam War của Ken Burns và Lynn Novick nghiêng về chiến công của phe CS và phong trào phản chiến ở Mỹ bùng nổ trong giai đoạn đó, mà không ghi nhận sự chiến đấu anh dũng để bảo vệ miền Nam của quân đội VNCH, bộ phim đă gây nhiều tranh cải và tôi không muốn nhắc lại.
Nhưng thời may có ông đạo diễn Fred Koster, (người đă làm phim Ride The Thunder )thấy bộ phim The VietNam War không công bằng nên ông và một nhóm thân hữu nhất định làm bộ phim The VietNam War though our eyes để trả lại sự thật cho lịch sử, trả lại danh dự cho người lính VNCH bởi họ đă chiến đấu v́ chính nghĩa của miền Nam VN, bộ phim đang được thực hiện và hy vọng chúng ta sẽ được xem trong thời gian gần đây.
Tôi tin vào phim ảnh dựa trên những t́nh tiết có thật nói lên sự tàn khốc của chiến tranh đẫm máu, nhưng bên cạnh đó c̣n có bàn tay phù thủy của đạo diễn để dẫn dắt khán giả theo cái nh́n khác mà họ muốn, nhưng với phim ảnh của các nước XHCN th́ không tin nổi v́ sự giả tạo và tuyên truyền trơ trẻn lố bịch, xạo hết chỗ nói là vậy.
Xem những bộ phim liên quan tới chiến tranh VN, nh́n chung những gương mặt người lính Mỹ thời đó c̣n rất trẻ như hầu hết các chiến binh trong quân đội của cả hai miền Nam Bắc Việt Nam, dù cuộc chiến đấu dưới bất cứ danh nghĩa nào th́ cũng đồng nghĩa với sự hy sinh tuổi trẻ của ḿnh vào nơi lửa đạn chết chóc. Hơn 58.000 lính Mỹ đă chết tại ViệtNam. Tôi tin người Mỹ tham gia chiến đấu v́ một thế giới tự do, tôi xúc động mỗi lần nghĩ tới họ và kinh tởm khi nghe phía Cộng Sản gọi họ là “đế quốc Mỹ xâm lược”, khi sự thật lúc CS cưỡng chiếm miền Nam năm 1975, giang sơn lănh thổ thời đó vẫn c̣n nguyên vẹn nhưng sau 45 năm cầm quyền th́ bọn chúng đă bầm nát đất nước và ngày nay lại âm mưu dâng quê cha đất tổ cho kẻ thù Trung Cộng. Thật đau đớn và căm hận biết bao nhiêu.
Bộ phim làm tôi bần thần nhớ về quá khứ, về những câu chuyện đáng buồn đă qua, về những mất mát không thể nào nguôi ngoai trong kư ức một thời tang tóc. Cuộc chiến đă qua đi lâu rồi nhưng mùi khói súng vẫn khen khét ngập ngụa trong cuộc sống mỗi ngày mà người dân ViệtNam đang phải chịu đựng trong sự phẩn uất, mùi tanh tưởi của bạo quyền trấn áp những kẻ bất đồng chính kiến, mùi tiền và mùi máu của tập đoàn tham nhũng ăn trên xác của đồng loại khốn khổ. Chủ nghĩa Cộng Sản là đại họa của dân tộc, thế giới đă quá mệt mỏi với tên đồ tể gian ác này, các cường quốc đă và đang cố gắng để tiêu diệt nó, nhưng tiếc thay đất nước ḿnh lại dung chứa cái thứ rác rưởi bốc mùi này suốt mấy chục năm qua, sự cam chịu nhẫn nhục cho đến khi nào đây?
Chúng tôi, những người ty nạn CS đang sống yên ấm ở xứ người, được hưởng sự Tự Do và b́nh đẳng như người dân bản xứ nhưng từ trong sâu thẳm của trái tim ḿnh vẫn luôn hướng về quê Mẹ với bao xót xa uất nghẹn, vết thương của người thua cuộc vẫn c̣n đau âm ỉ trong ḷng mỗi khi nhớ về ngày tang tóc của đất nước.
Có lần tôi dự một buổi hội ngộ của cựu tù nhân trại Vĩnh Phú, xúc động bồi hồi khi nghe các anh nhắc lại những năm tháng kinh hoàng, gian khổ đói lạnh bệnh tật trong nhà giam lớn nhất trên núi rừng Việt Bắc, chuyện những người vợ người mẹ chịu thương chịu khó vượt suối băng đèo lặn lội thăm nuôi chồng con ṛng ră mỏi ṃn năm này qua năm khác, để rồi có một ngày nghe tin anh ấy măi măi không về..C̣n nỗi đau nào kinh khủng hơn thế nữa? Giọng anh bạn tôi như nghẹn lại khi nhắc về toa tàu đầy phân ḅ tanh hôi mà họ đă nhốt các anh trong đó khi chuyển trại từ Nam ra Bắc “ Tụi nó coi chúng tôi như súc vật..” và có rất nhiều cái chết thương tâm của những con người bị đối xử không khác ǵ một con vật trong cái nơi mà CS gọi là trại cải tạo, mai mỉa thay.
Năm hết Tết đến, chạnh ḷng gợi nhớ đến khăn sô cho Huế trong thảm sát Mậu Thân mấy mươi năm trước, lại nhói đau khi nghe tin tức bên nhà với khăn tang trắng làng Đồng Tâm Hà Nội, với cảnh màn trời chiếu đất của dân oan Thủ Thiêm, Lộc Hưng Sài g̣n.
Đất nước có c̣n nơi nào b́nh yên dưới bàn tay quỷ đỏ?
Mấy ngày Tết, khắp nơi trên thế giới, chỗ nào có đông dân Việt th́ họ túm tụm lại tổ chức lễ hội ŕnh rang cho đở nhớ quê hương, cũng chợ búa tấp nập, cũng bánh chưng xanh, xâu pháo đỏ, với hoa mai hoa đào rộn ràng màu sắc, nhà nào c̣n giữ lại phong tục VN th́ chuẩn bị hương đăng trà quả đón Giao Thừa, tưởng như nàng Xuân đang đứng trước cổng nhà cho ấm ḷng người xa xứ, mặc dù nước Mỹ đang là mùa đông lạnh lẽo tuyết rơi.
Thật ra mấy ngày này cũng muốn được an nhiên như chàng lăng tử
“Rũ áo phong sương trên gác trọ,
Lặng nh́n thiên hạ đón xuân sang”
Nhưng sao bụng dạ cứ bồn chồn, Xuân này con không về Bên nhà ăn Tết vui ǵ nỗi Má ơi. nếu có lời khấn nguyện thành tâm trong đêm trừ tịch th́ con chỉ cầu cho Việt Nam sớm thoát khỏi chế độ Cộng Sản tàn ác để dân ḿnh an lạc, Tự Do,đất nước được sống trong ḥa b́nh thịnh vượng.
Trần Ngọc Ánh
hoanglan22
02-13-2020, 05:04
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1529051&stc=1&d=1581570205
Trước khi vào bài, tôi kể quư vị nghe một chuyện. Ngày trước, ở làng tôi, có một cô gái, nói là lên tỉnh làm công, thỉnh thoảng về làng, nom vẫn c̣n chân quê lắm. Một lần, có một anh trai cùng làng lên tỉnh t́m gái làng chơi, trớ trêu thế nào mà gọi đúng cô gái cùng làng của ḿnh. Thời gian đầu về làng, anh ta c̣n kín miệng, dấu chuyện, cô gái ấy mỗi lần trở về, đoán chưa bị lộ nên vẫn làm vẻ ngây thơ, rụt rè, chất phác. Một lần anh trai làng uống rượu cùng bạn bè, rượu vào lời ra, phun ra cả chuyện cô gái ấy “làm gái” trên tỉnh. Hôm cô gái về làng, thấy mọi người nh́n ḿnh bằng ánh mắt lạ, c̣n có vài cặp mắt khinh bỉ nữa, cô hiểu là cả làng biết ḿnh làm “gái” rồi, cô không c̣n giữ kẽ nữa, đột nhiên hóa thành cô gái tỉnh, ăn nói vung vít, đi đứng nghênh ngang, trút bỏ bộ bà ba chân quê mà khoác vào cái áo khêu gợi và c̣n tỏ ư: “tao làm đĩ đấy, đứa nào làm ǵ tao…”, tác phong này lạ lẫm với người làng vốn có đời sống c̣n chân chất lắm. Nhiều vị, nhất là những vị trưởng thượng, đạo cao đức dày của làng tỏ ư khinh ra mặt…Bỗng nhiên cô trở nên hào phóng, hỏi các vị này có cần giúp đỡ cái ǵ cho làng không? Rồi x̣e ra cho họ ít tiền… lạ một cái là thái độ của làng đối với cô hoàn toàn thay đổi. Họ xum xoe, cung kính, chèo kéo, hănh diện được quen biết cô… Từ đấy, tôi hiểu là đồng tiền có sức mạnh vạn năng, đổi trắng thành đen, biến tṛn thành méo… từ “đĩ” thành “bà”. Bây giờ trở lại với câu hỏi “Làn Ranh Quốc Cộng - Có C̣n Không?”.
Những năm đầu ty nạn cộng sản trên đất người, “làn ranh” này đậm nét, rơ ràng lắm. Sau nhiều năm dài tăm tối, đổi mới hay là chết, cộng sản buộc phải bang giao với Mỹ. Nhất là từ lúc cộng sản tung ra nghị quyết 36, lũng đoạn cộng đồng người Việt Hải Ngoại. Từ ấy, đă có những kẻ từng ôm cờ quốc gia trong mọi sinh hoạt, từng hô hào không đội trời chung với cộng sản như PD như DTL…đă trở cờ phản bội. Hầu hết là những kẻ đă có danh nhưng nay ḷ ṃ về Việt Nam kiếm lợi và kiếm cả gái nữa…
Gần đây nhất có những đứa bên Mỹ mà danh cũng tươm tất, phận lại khá giả, cũng có thời cao giọng chống cộng kinh lắm, như thằng Hùng hèn, Sơn nổ…thế mà chúng nó không những đă khấu đầu, trở cờ, lạy cộng mà lại c̣n ca tụng cộng hơn cả những thằng cộng sản thứ thiệt nữa, đúng là thờ cộng hơn cộng. Cũng có dấy lên những phong trào đả kích, chống đối bọn này nhưng khí thế chẳng thể nào bằng lúc trước được. Làn Ranh Quốc Cộng, nay chắc cũng nhạt ít nhiều.
Giờ đây lại có những kẻ vô danh tiểu tốt nhưng lại làm ăn thành đạt, loại này chắc chắn không phải là public figure, không phải là người của công chúng, nên thôi đành viết tắt tên cho đỡ phiền phức. Người mà tôi muốn nói ở đây là mợ HP, chủ nhân một tiệm bán đồ trang sức ở vùng Hoa Đô. Mợ này cũng có đóng góp, giúp đỡ cho các Hội Đoàn, cho TPB, tuy ít hơn nhiều so với những Mạnh Thường Quân dấu tên khác, nhưng cũng được trọng vọng lắm. Tôi có gặp và tiếp xúc với Mợ này đôi lần, nói chuyện th́ thấy, ăn không nên miếng, nói không nên lời, câu bất thành câu, cú bất thành cú, từ ngữ th́ dùng loạn cào cào, nghèo từ mà lại thích dùng từ đao to búa lớn, nói câu chuyện th́ đầu chẳng ra đầu, đuôi chẳng đuôi, có lúc câu sau chửi bố câu trước chứng tỏ loại người có tŕnh độ học vấn thấp thế mà chẳng biết làm thế nào, hay nhờ ai làm thơ dùm, mà Mợ cũng có tước Nhà Thơ lại c̣n là Hội Viên của Làng Văn, cái Làng thường tự hào là tổ chức VNCH duy nhất c̣n lại. Chính v́ là hội viên của cái Làng Văn ấy nên tôi mới mất thời giờ viết về Mợ.
Số là Mợ bỏ tiền ra, bỏ rất nhiều tiền để ḥa hợp ḥa giải, giao lưu với cs trong nước. Mợ lén về nước, tổ chức ca múa linh đ́nh, hát xướng tưng bừng mừng đẻng mừng xuân. Mục đích ban đầu của Mợ là mua danh, cứ mua danh cái đă rồi hạ hồi tính, bởi v́ chắc chắn là Mợ tiến hành trong bí mật, những người bạn thân, cả người thân của Mợ, c̣n không biết Mợ về Việt Nam nữa mà, nhưng xui cho Mợ là cái tṛ giao lưu này bại lộ. Bây giờ th́ Mợ lộng giả thành chân, nghênh ngang, công khai phổ biến cái tṛ giao lưu ḥa hợp ḥa giải với cs trong nước, gởi emai khắp chốn, post lên web, bỏ vào facebook khoe khoang nhặng xị. Không những thế, mợ c̣n in cả vạn DVD, cho không biếu không những ông đi qua bà đi lại giữa chợ. Một thứ tuyên truyền mừng đẻng mừng xuân “cực kỳ” thâm độc.
Ôi th́ người ta có tiền, người ta làm cái ǵ th́ kệ người ta, nhưng buồn quá, như thế th́ Làn Ranh Quốc Cộng đă bị xóa tan rồi à, không những thế mà nó lại c̣n nghênh ngang thách thức, chúng mày làm được cái ǵ tao. Rồi khi chúng mày tổ chức sinh hoạt cái ǵ đó, lại khúm núm ṃ đến tao xin vài trăm, thí cho chúng mày vài trăm th́ buộc phải xum xoe bợ đỡ và phải câm như hến. Nghĩ đến kịch bản này, sao quặn thắt cả ruột gan….buồn quá. Thế mà không phải thế. Tin mới nhất mà tôi vừa nhận được:
1/ Tổ Chức VNS VNCH, nơi mà Mợ luồn sâu tới vị trí thứ nh́ đă xóa hẳn tên Mợ trong tổ chức từ ngày 16/12/2019 v́ họ đă đoán được cái tṛ lươn lẹo, khuất tất và nhiều dấu hiệu đáng ngờ của Mợ. Tổ chức này đă ra thông báo, không c̣n bất cứ liên hệ nào với Mợ nữa.
2/ Làng Văn đă khai trừ Mợ.
3/ Hội Đồng Hương những người của Thành Phố bị giặc Hồ chiếm tên đă phải tốn một lần tiền nữa để in ấn lại toàn bộ các poster chỉ v́ loại bỏ phần quảng cáo cho Tiệm bán đồ trang sức của Mợ (nghĩa là không thèm nhận tài trợ của Mợ).
4/ Một nhân vật ở vị trí hàng đầu của Cộng Đồng Hoa Đô cũng bày tỏ ư kiến “đây là một tiền lệ thật xấu” “không thể chấp nhận được” nhưng mới chỉ ở phạm vi trao đổi riêng tư.
Cứ như là “có tin vui giữa giờ tuyệt vọng”, tôi lại lạc quan: “Làn Ranh Quốc Cộng” chưa nḥa.
Đến đây, các bạn đă hiểu tại sao tôi lại kể câu chuyện “Gái Đĩ” ở trên chưa? Vâng, Mợ này đi giao lưu ḥa hợp ḥa giải với cs trong nước (như đi làm đĩ), mợ biết rơ là cộng đồng, nơi mợ ta sinh sống sẽ không chấp nhận (khinh bỉ) thế nên mới lén lén lút lút. Trời bất dung gian, hành vi của Mợ bị lộ. Mợ bèn lộng giả thành chân, công khai thách thức, tao giao lưu đấy, chúng mày làm ǵ tao. Cần ǵ, ra đây, tao cho vài trăm, cầm tiền rồi th́ nhớ ngậm miệng nghe. Chuyện cứ như “con đĩ” ở trên, nhưng các hội đoàn, các chức sắc Hoa Đô có hành xử như các vị Trưởng Thượng của làng tôi hay không?
Cầu Chúa, cầu Phật là không.
Lăo Móc
Feb 12, 2020
-----
Pc: Chúng tôi có Poster và nhiều h́nh ảnh chứng minh Mợ HP giao lưu với cs trong nước. Poster th́ lấy trên web của Nhà Hát Thành Phố “HCM” c̣n h́nh ảnh “người thật việc thật trên sân khấu TP HCM” chúng tôi không rơ là tác giả có giữ bản quyền hay không nên chưa tiện phổ biến. Chỉ gởi kèm đường link để quư vị tự t́m hiểu.
Đường link
https://www.facebook.com/VOHMusicOne/photos/pb.1692000304161035.-2207520000../3206114452749605/?type=3&theater
hoanglan22
02-13-2020, 14:32
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1529186&stc=1&d=1581604319
Một quán cà phê Sài G̣n xưa.
Bạn đă uống cà phê nhiều, bạn biết muốn pha một ly cà phê tuyệt vời đâu có khó. Cà phê loăng nước nhưng đậm mùi thơm, cà phê mít đặc quánh mà vô vị, hăy chọn một tỷ lệ pha trộn thích hợp là đă đi được 70% đoạn đường rồi.
Muốn kẹo thêm nữa hả? Muốn hưởng cái cảm giác chát chát, tê tê đầu lưỡi phải không? Dễ mà, thêm vào chút xác cau khô là xong ngay. Bạn muốn có vị rhum, th́ rhum; bạn thích cái béo béo, thơm thơm của bơ, cứ bỏ chút bretain vào. Bạn hỏi tôi nước mắm nhĩ để làm ǵ à? Chà, khó quá đi, nói làm sao cho chính xác đây! Th́ để cho nó đậm đà. Đậm làm sao? Giống như uống coca th́ phải có thêm chút muối cho mặn mà đầu lưỡi ấy mà. Uống chanh đường pha thêm chút rhum cho nó ra dáng tay chơi. Như kẻ hảo ngọt nhưng vẫn cắn răng uống cà phê đen không đường cho lập dị. Thèm đá muốn chết nhưng cứ chốn bạn nhậu th́ nằng nặc đ̣i uống chay không đá cho giống khác người, cho đẳng cấp. Tôi không biết, không tả được, mời bạn hăy thử và tự cảm nhận lấy.
Bạn đ̣i phải có tách sứ, th́a bạc; bạn nói phải nghe nhạc tiền chiến, phải hút Capstan (dộng vài phát hết gần nửa điếu và rít đỏ đầu), Ruby hay Basto xanh mới đă đời, thú vị phải không? Bạn đă có đủ những ǵ bạn cần, sao lại cứ thích đi uống cà phê tiệm? Tôi không trách bạn đâu. Cà phê ngon chỉ mới được một nửa, nhưng chúng ta đâu chỉ cần uống cà phê, chúng ta c̣n ghiền “uống” con người tại quán cà phê; “uống” không khí và cảnh sắc cà phê; “uống” câu chuyện quanh bàn cà phê và nhiều thứ nữa. Vậy th́ mời bạn cùng tôi trở lại không khí cà phê Sài G̣n những năm cuối 1960 và đầu 1970.
Sài G̣n những năm giữa thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970, tuổi trẻ lớn lên và tự già đi trong chiến tranh. Những “lưu bút ngày xanh” đành gấp lại; những mơ mộng hoa bướm tự nó thành lỗi nhịp, vô duyên. Tiếng cười dường như ít đi, kém trong trẻo hồn nhiên; khuôn mặt, dáng vẻ tư lự, trầm lắng hơn và đầu óc không thể vô tư nhởn nhơ được nữa. Những điếu thuốc đầu tiên trong đời được đốt lên; những ly cà phê đắng được nhấp vào và quán cà phê trở thành nơi chốn hẹn ḥ để dàn trải tâm tư, để trầm lắng suy gẫm. Có một chút bức thiết, thật ḷng; có một chút làm dáng, thời thượng. Đối với một thanh niên tỉnh lẻ mới mẻ và bỡ ngỡ, Sài G̣n lớn lắm, phồn vinh và náo nhiệt lắm. Phan Thanh Giản đi xuống, Phan Đ́nh Phùng đi lên; hai con đường một chiều và ngược nhau như cái xương sống xuyên dọc trung tâm thành phố giúp định hướng, tạo dễ dàng cho việc di chuyển. Cứ như thế, cái xe cọc cạch, trung thành như một người bạn thân thiết lê la khắp Sài G̣n, Chợ Lớn, Gia Định.
Những ngày này, tôi là khách thường trực của quán Cà phê Thu Hương đường Hai Bà Trưng. Quán nằm ở một vị trí đẹp, chiếm ba lô đất ngó chéo qua phía trại ḥm Tobia; nơi đây có một căn pḥng hẹp vừa đặt quầy thu tiền, vừa là chỗ ngồi cho những ai thích nghe nhạc với âm thanh lớn, phần c̣n lại là một sân gạch rộng, có mái che nhưng không ngăn vách, từ trong có thể nh́n rơ ra đường qua những song sắt nhỏ sơn xanh với một giàn hoa giấy phủ rợp. Ngồi đây có thể nghe được văng vẳng tiếng nhạc vọng ra từ bên trong; cảm được chút riêng tư cách biệt, nhưng đồng thời cũng có thể nhận ra được sức sống bừng lên mỗi sáng, dáng vẻ mệt mỏi, u ám mỗi chiều đang lặng lờ chảy qua trên đường phía ngoài.
Chủ quán ở đây là một người đặc biệt: Khó chịu một cách dễ thương. H́nh như với ông, bán cà phê chỉ như một cách tiêu khiển và pha cà phê là một nghệ thuật kỳ thú. Ông hănh diện với tên tuổi của Thu Hương và muốn bảo vệ nó. Bạn là khách uống cà phê phải không? Xin cứ ngồi yên đó. Cà phê được bưng tới, ông chủ sẽ ngồi đâu đó quan sát và sẽ xuất hiện đúng lúc cạn phin, sẽ bỏ đường, khuấy đều cho bạn và sẽ lịch sự “xin mời” khi mọi việc hoàn tất. Ly cà phê như vậy mới là cà phê Thu Hương, đó là cung cách của Thu Hương, đặc điểm của Thu Hương. Trong lănh vực kinh doanh quán cà phê, có người dùng âm thanh; có người dùng ánh sáng và cảnh trí; có người nhờ sự duyên dáng của tiếp viên; có người dùng phẩm chất của cà phê để hấp dẫn khách. Ông chủ Thu Hương đă chọn cách cuối cùng, cách khó nhất và ông đă thành công. Khách đến với Thu Hương là ai? Nhiều lắm, nhưng dù từ đâu họ đều có điểm giống nhau là tất cả đều trẻ và đều có vẻ “chữ nghĩa” lắm; “ông”, “bà” nào cũng tha tập cours quằn tay, cộng thêm các tập san Sử địa, Bách khoa, Văn và vân vân…
Bạn thường ăn phở gà Hiền Vương, phở Pasteur; bạn thường đi qua đi lại liếc liếc mấy bộ đồ cưới đẹp ở nhà may áo dài Thiết Lập, vậy bạn có biết cà phê Hồng ở đâu không? Th́ đó chứ đâu, gần nhà may Thiết Lập, cách vài căn về phía đường Nguyễn Đ́nh Chiểu, ngó xéo qua mấy cây cổ thụ ở bờ rào Trung tâm Thực nghiệm Y khoa (Viện Pasteur). Tôi phải hỏi v́ tôi biết có thể bạn không để ư. Quán nhỏ xíu hà, với lại cái tên Hồng và tiền diện của nó trông ủ ê cũ kỹ lắm, chứ không sơn phết hoa ḥe, đèn treo hoa kết ǵ cả. Từ ngoài nh́n vào, quán như mọi ngôi nhà b́nh thường khác, với một cái cửa sổ lúc nào cũng đóng và một cánh cửa ra vào nhỏ, loại sắt cuộn kéo qua kéo lại. Quán hẹp và sâu, với một cái quầy cong cong, đánh verni màu vàng sậm, trên mặt có để một ngọn đèn ngủ chân thấp, với cái chụp to có vẽ h́nh hai thiếu nữ đội nón lá; một b́nh hoa tươi; một con thỏ nhồi bông và một cái cắm viết bằng thủy tinh màu tím than. Phía sau, lúc nào cũng thấp thoáng một mái tóc dài, đen tuyền, óng ả, vừa như lăng mạng phô bày vừa như thẹn thùng, che dấu.
Cà phê Hồng, về ngoại dáng, thực ra không có ǵ đáng nói ngoài cái vẻ xuề x̣a, b́nh dị, tạo cảm giác ấm cúng, thân t́nh và gần gũi; tuy nhiên, nếu ngồi lâu ở đó bạn sẽ cảm được, sẽ nhận ra những nét rất riêng, rất đặc biệt khiến bạn sẽ ghiền đến và thích trở lại. Hồi đó nhạc Trịnh Công Sơn đă trở thành một cái “mốt”, một cơn dịch truyền lan khắp nơi, đậu lại trên môi mọi người, đọng lại trong ḷng mỗi người. Cà phê Hồng đă tận dụng tối đa, nói rơ ra là chỉ hát loại nhạc này và những người khách đến quán – những thanh niên xốc xếch một chút, “bụi” một chút (làm như không bụi th́ không là trí thức) – đă vừa uống cà phê vừa uống cái ră rời trong giọng hát của Khánh Ly.
Không hiểu do sáng kiến của các cô chủ, muốn tạo cho quán một không khí văn nghệ, một bộ mặt trí thức hay do t́nh thân và sự quen biết với các tác giả mà ở Cà phê Hồng lâu lâu lại có giới thiệu và bày bán các sách mới xuất bản, phần lớn là của hai nhà Tŕnh Bày và Thái Độ và của các tác giả được coi là dấn thân, tiến bộ. Lại có cả Time, Newsweek cho những bạn nào khát báo nước ngoài. Quán có ba cô chủ, ba chị em; người lớn nhất trên hai mươi và người nhỏ nhất mười lăm, mười sáu ǵ đó. Nói thật ḷng, cả ba cô đều chung chung, không khuynh quốc khuynh thành ǵ, nhưng tất cả cùng có những đặc điểm rất dễ làm xốn xang ḷng người: Cả ba đều có mái tóc rất dài, bàn tay rất đẹp và ít nói, ít cười, trừ cô chị. Những năm 1980, Cà-phê Hồng không c̣n, tôi đă thường đứng lại rất lâu, nh́n vào chốn xưa và tự hỏi: Những người đă có thời ngồi đây mơ ước và hy vọng giờ đâu cả rồi? C̣n chị em cô Hồng: những nhỏ nhẹ tiểu thư, những thon thả tay ngà, những uyển chuyển “chim di” giờ mờ mịt phương nào?
Viện Đại học Vạn Hạnh mở cửa muộn màng nhưng ngay từ những năm đầu tiên nó đă thừa hưởng được những thuận lợi to lớn về tâm lư, cùng với những tên tuổi đă giúp cho Đại Học Vạn Hạnh được nh́n vừa như một cơ sở giáo dục khả tín, vừa như một tập hợp của những thành phần trẻ tuổi ư thức và dấn thân. Tuy nhiên, dường như cái hồn của Đại Học Vạn Hạnh được đặt tại một tiệm cà phê: Quán Nắng Mới ở dốc cầu, ngó xéo về phía chợ Trương Minh Giảng. Quán Nắng Mới có nhiều ưu thế để trở thành đất nhà của dân Vạn Hạnh, trước nhất v́ gần gũi, kế đến là khung cảnh đẹp, nhạc chọn lọc và cuối cùng, có lẽ quan trọng nhất là sự thấp thoáng của những bóng hồng, có vẻ tha thướt, có vẻ chữ nghĩa. Các nhóm làm thơ trẻ đang lên và đang chiếm đều đặn nhiều cột thơ trên báo chí Sài G̣n ngồi đồng từ sáng đến tối để… làm thơ. Nhưng đông hơn cả, ấm áp hơn cả là những nhóm hai người, một tóc dài, một tóc ngắn chờ vào lớp, chờ tan trường và chờ nhau. Nắng Mới đă sống với Vạn Hạnh cho đến ngày cuối cùng. Nắng Mới nay không c̣n. Những con người cũ tứ tán muôn phương.
Có một quán cà phê thân quen nữa không thể không nhắc đến: Quán chị Chi ở gần đầu đường Nguyễn Phi Khanh, kế khu gia cư xưa cũ, rất yên tĩnh và rất dễ thương, nằm phía sau rạp Casino Đa Kao. Ở đó có những con đường rất nhỏ, những ngôi nhà mái ngói phủ đầy rêu xanh, những hàng bông giấy che kín vỉa hè, trầm lắng cô liêu và im ả tách biệt lắm mà mở cửa ra là có thể nghe người bên trái nói, thấy người bên phải cười và có cảm tưởng như có thể đưa tay ra bắt được với người đối diện bên kia đường.
Quán chị Chi độ chín mười thước vuông, chỉ đủ chỗ để đặt ba bốn chiếc bàn nhỏ. Quán không có nhạc, không trưng bày trang trí ǵ cả ngoại trừ một bức tranh độc nhất treo trên vách, bức tranh đen trắng, cỡ khổ tạp chí, có lẽ được cắt ra từ một tờ báo Pháp. Tranh chụp để thấy một bàn tay giắt một em bé trai kháu khỉnh, vai đeo cặp sách, miệng phụng phịu làm nũng, hai mắt mở to nhưng nước mắt đang chảy dài theo má, phía dưới có hàng chữ nhỏ: “Hôm qua con đă đi học rồi mà”. Khách đến với chị Chi không phải coi bảng hiệu mà vào, cũng không phải nghe quảng cáo, mà hoàn toàn do thân hữu truyền miệng cho nhau để đến, nhiều lần thành quen, từ quen hóa thân và quyến luyến trở lại. Chị Chi có bán cà phê nhưng tuyệt chiêu của chị là trà; loại trà mạn sen, nước xanh, vị chát nhưng có hậu ngọt và mùi thơm nức mũi. Trà được pha chế công phu trong những chiếc ấm gan gà nhỏ nhắn, xinh xinh. Ấm màu vàng đất, thân tṛn đều, láng mịn, ṿi và quai mảnh mai, cân đối. Mỗi bộ ấm có kèm theo những chiếc tách cùng màu, to bằng ngón tay cái của một người mập, vừa đủ cho hốp nước nhỏ.
Ấm có ba loại, được gọi tên ra vẻ “trà đạo” lắm: độc ẩm, song ẩm và quần ẩm, nhưng hồi đó chúng tôi thường “diễn nôm” theo kiểu “tiếng Việt trong sáng” thành ấm chiếc, ấm đôi và ấm bự. Trà được uống kèm với bánh đậu xanh – loại bánh đặc biệt của chị Chi – nhỏ, màu vàng óng và mùi thơm lừng. Nhắp một ngụm trà, khẽ một tí bánh, cà kê đủ chuyện trên trời dưới đất, trông cũng có vẻ phong lưu nhàn tản và thanh cao thoát tục lắm. Quán chị Chi giờ đă biến tướng ít nhiều nhưng dù sao cũng xin cảm ơn chị và xin đại diện cho những anh chị em đă từng ngồi quán chị bày tỏ ḷng tiếc nhớ đến chị và đến những ngày khó quên cũ.
Những năm cuối thập niên 60 Sài G̣n có mở thêm nhiều quán cà phê mới, và thường được trang hoàng công phu hơn, có hệ thống âm thanh tối tân hơn và nhất là quán nào cũng chọn một cái tên rất đẹp, phần lớn là dựa theo tên những bản nhạc nổi tiếng: Cà phê Hạ Trắng, Lệ Đá, Diễm Xưa, Hương Xưa, Hoàng Thị, Biển Nhớ, Hoài Cảm, Da Vàng… Tuy nhiên, ở một con đường nhỏ – H́nh như là Đào Duy Từ – gần sân vận động Thống Nhất bây giờ, có một quán cà phê không theo khuôn mẫu này, nó mang một cái tên rất lạ: Quán Đa La. Đa La là Đà Lạt, quán của chị em cô sinh viên Chính Trị Kinh Doanh, có lẽ vừa từ giă thác Cam Ly, hồ Than Thở để về Sài G̣n học năm cuối tại nhà sách Xuân Thu hay sao đó, mở ra. Trường kinh doanh quả là khéo đào tạo ra những môn sinh giỏi kinh doanh: Tin mấy cô sinh viên mở quán thật t́nh là không được chính thức loan báo ở đâu cả; tuy nhiên, cứ úp úp mở mở như vậy mà tốt, nó được phóng lớn, lan xa, tạo ấn tượng mạnh và quán được chờ đón với những trân trọng đặc biệt, những náo nức đặc biệt. Những cô chủ chắc có máu văn nghệ, đă cố gắng mang cái hơi hướm của núi rừng Đà Lạt về Sài G̣n: Những gị lan, nhưng giỏ gùi sơn nữ, những cung tên chiến sĩ đă tạo cho quán một dáng vẻ ngồ ngộ, dễ thương; rồi những đôn ghế, những thớt bàn được cưa từ những gốc cây cổ thụ u nần, mang vẻ rừng núi, cổ sơ đă giúp cho Đa La mang sắc thái rất… Đa La.
Ngày khai trương, Đa La chuẩn bị một chương tŕnh văn nghệ hết sức rôm rả, với những bản nhạc “nhức nhối” của Lê Uyên Phương, Nguyễn Trung Cang, Lê Hựu Hà… Đa La đông vui, chứng kiến sự nở hoa và tàn úa của nhiều mối t́nh. Nhưng Đa La vắng dần những người khách cũ và đóng cửa lúc nào tôi không nhớ.
Cà phê Hân ở Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao là quán thuộc loại sang trọng, khách phần lớn ở lớp trung niên và đa số thuộc thành phần trung lưu, trí thức. Bàn ghế ở đây đều cao, tạo cho khách một tư thế ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh và bàn nào cũng có đặt sẵn những tạp chí Pháp ngữ số phát hành mới nhất. Câu chuyện ở Hân chắc là quan trọng lắm, lớn lắm; nh́n cái cách người ta ăn mặc; trông cái vẻ người ta thể hiện là biết ngay chứ ǵ; có lẽ cả thời sự, kinh tế tài chánh, văn chương, triết học đều có cả ở đây. Một chỗ như vậy là xa lạ với dân ngoại đạo cà phê. Nhưng Hân là một nơi hết sức đáng yêu, đáng nhớ của nhiều người, dù ngồi quầy là một ông già đeo kính như bước ra từ một câu chuyện của văn hào Nga Anton Chekov. Về sau, đối diện với Hân có thêm quán cà phê Duyên Anh của hai chị em cô Hà, cô Thanh; cô em xinh hơn cô chị và được nhiều chàng trồng cây si.
Hai tiệm cà phê, một sang trọng chững chạc, một trẻ trung sinh động, đă trở thành một điểm hẹn, một đích tới mà khi nhắc đến chắc nhiều anh chị em ở trường Văn Khoa, trường Dược, trường Nông Lâm Súc ngay góc Hồng Thập Tự – Cường Để c̣n nhớ, cũng như nhớ món bánh cuốn ở đ́nh Tây Hồ bên trong chợ Đa Kao thờ cụ Phan, nhớ quán cơm “lúc lắc” trong một con hẻm nhỏ đường Nguyễn Bỉnh Khiêm mà nữ sinh viên vừa đi lên căn gác gỗ vừa run khi được mấy chàng mời cơm.
Bạn nào muốn gặp các nhà văn nhà thơ, muốn nh́n họ ngậm ống vố, đeo kính cận nói chuyện văn chương th́ mời đến quán Cái Chùa, anh em nào muốn có không khí trẻ trung đầm ấm mời đến Hầm Gió; anh em nào muốn có chỗ riêng tư tâm sự th́ cứ theo đường Nguyễn Văn Học chạy tuốt lên G̣ Vấp, vào quán Hương Xưa, ở đó có vườn cây đẹp, các cô chủ đẹp và cái cách người ta đối đăi với nhau cũng rất đẹp. Cũng đừng quên nhắc đến quán Chiêu, hẻm Cao Thắng. Rồi c̣n cà phê hàng me Nguyễn Du, cũng Beatles, cũng Elvis Presley như ai; và cả pha chút Adamo quyến rũ. Giá ở đây thật b́nh dân nhưng thường xuyên chứng kiến những pha so găng giữa học sinh hai trường nghề Cao Thắng và Nguyễn Trường Tộ.
Chán cà phê th́ đi ăn nghêu ṣ, ḅ bía, ăn kem trên đường Nguyễn Tri Phương, góc Minh Mạng hoặc bên hông chợ Tân Định. Phá lấu đă có góc Pasteur-Lê Lợi, nhưng chỉ dành cho các bạn có tiền. Rủng rỉnh tí xu dạy kèm cuối tháng có Mai Hương (nay là Bạch Đằng Lê Lợi). Quán Mù U, hẻm Vơ Tánh, chỗ thương binh chiếm đất ở gần Ngă tư Bảy Hiền dành cho những bạn muốn mờ mờ ảo ảo. Muốn thưởng thức túp lều tranh mời đến cà phê dựa tường Nguyễn Trung Ngạn gần ḍng Kín, đường Cường Để. Rồi quán cà phê Cháo Lú ở chợ Thị Nghè của một tay hoạ sĩ tên Vị Ư.
Cao cấp hơn có La Pagode (đổi thành Hương Lan trước khi giải thể), Brodard, Givral. Thích xem phim Pháp xưa, phim Mỹ xưa và ngồi… cả ngày xin mời vào rạp Vĩnh Lợi trên đường Lê Lợi để chung vai với đám đồng tính nam. Vào Casino Sài G̣n có thể vào luôn hẻm bên cạnh ăn cơm trưa rất ngon tại một quầy tôi đă quên tên. Nhưng rạp Rex vẫn là nơi chọn lựa nhiều nhất của sinh viên, cả nghèo lẫn giàu. Cuộc sống sinh viên cứ thế mà trôi đi trong nhịp sống Sài G̣n. Nghèo nhưng vui và mơ mộng.
Tống Biệt hành, Đôi mắt người Sơn Tây sống chung với Cô hái Mơ. Đại bác ru đêm sánh vai với Thu vàng. Ảo vọng và thực tế lẫn vào nhau. Thi thoảng lại pha thêm chút Tội ác H́nh phạt, Zara đă nói như thế! Garcia Lorca.
Tất cả những ǵ tôi nhắc tới là một chút ngày cũ, một chút cảnh xưa, một phần hơi thở và nhịp sống của Sài G̣n trong trí nhớ. Xin tặng anh, tặng chị, tặng em, đặc biệt là tặng tất cả những ai tha hương có lúc bỗng bàng hoàng nhận thấy, dường như một nửa trái tim ḿnh c̣n đang bay lơ lửng ở cà phê Hồng, Thu Hương, hay đâu đó ở quê nhà.
Lương Thái Sỹ – An Dân
hoanglan22
02-14-2020, 03:39
Chúng đi buôn .. mời các bạn nghe
J8o2UcnoOBU
hoanglan22
02-14-2020, 15:03
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1529811&stc=1&d=1581692473
Tháng Hai là tháng đặc b́ệt trong năm chỉ có 28 ngày, nhưng tháng Hai năm nay 2020 lại có 29 ngày. Cho nên những người được sinh vào ngày 29 tháng Hai năm nay, phải đợi đến năm 2024 mới được ăn mừng sinh nhật v́ người viết nghe các bạn bè có sinh nhật trong ngày 29 tháng hai nói thế, không biết có đúng không?
Tại sao thế? Có người nói cứ 4 năm th́ hiện tượng tháng hai có 29 ngày được xảy ra khi lấy con số của năm đó chia được cho 4. Năm nay là năm 2020 có thể chia được cho 4. Năm 2013, 2014, 2015 không thể chia được cho 4. Măi đến năm 2024 mới chia được cho 4. Một bài toán giản dị như thế nhưng người viết không biết về phương diện thiên văn, niên lịch đă giải thích như thế nào là hợp lư. Xin các vị cao minh chỉ giáo. Xin đa tạ.
Người viết xin chúc mừng Sinh Nhật Vui Vẻ đến quư vị nào có sinh nhật trong ngày 29 tháng Hai đặc biệt này nhé. “Hooray”!
Tháng Hai lại có sinh nhật của vị Tổng Thống Mỹ Washington, năm nay nhằm ngày 17 tháng Hai và chính phủ Mỹ đă chọn ngày này làm ngày quốc lễ President’s Day luôn để ghi nhớ công ơn của các vị Tổng Thống Hoa Kỳ. Học sinh các trựng công lập và nhân viên các công sở đuợc nghĩ học, nghỉ làm trong ngày thứ hai 17 tháng Hai này. Khi c̣n đi làm trong các trường công lập tại Portland, người viết rất thích những ngày quốc lễ như thế để được nghĩ ở nhà ngủ nướng. Vui quá! Ai đi làm mà không mong có ngày được nghĩ ở nhà thoải mái có ăn lưong, phải không bạn?
Nhưng trong tháng Hai lại có một ngày dù không phải là ngày quốc lễ nhưng lại được đa số quần chúng trên thế giới đón chào trọng thể, nhất là những người đang yêu nhau và những tiệm bán hoa, bán kẹo chocolate, bán thiệp. Không nói ra mà ai cũng biết đó là ngày Valentine’s Day, 14 tháng Hai, Ngày Lễ T́nh Yêu, nếu dịch sang tiếng Việt.
Đă qua rồi thời kỳ thơ mộng của T́nh yêu, nhưng người viết cũng xin được gửi lời chúc mừng tốt đẹp nhất đến những kẻ “tôi c̣n yêu, tôi cứ yêu, tôi c̣n yêu măi măi, tôi c̣n yêu dài dài” cho cuộc đời thêm tươi đẹp nhé.
Về lịch sữ ngày Lễ T́nh Yêu này chắc chắn đă có người nói rồi trong trang báo này hay nơi báo khác. Người viết chỉ đi sưu tầm những điều lư thú mới nhất về ngày lễ đặc biệt này để chia sẻ với các bạn cho vui mà thôi.
ĐIỀU LƯ THÚ VỀ LỄ T̀NH YÊU
73% người mua hoa trong ngày 14 tháng 2 là đàn ông , 27% là phụ nữ
15% phụ nữ mua hoa gởi cho chính bản thân họ trong ngày lễ t́nh yêu
3% số người tặng quà cho pets ( con vật nuôi yêu thích)
Khoảng 1 tỷ thiệp Valentine được gởi đi mỗi năm, nhiều thứ hai chỉ đứng sau thiệp Giáng Sinh.
Giáo viên nhận được thiệp Valentine nhiều nhất, tiếp đó là trẻ em, mẹ, vợ, người yêu và thú nuôi yêu thích. 85% người mua thiệp Valentine là phụ nữ.
Món quà Valentine giá trị nhất của mọi thời đại là tháp Taj Mahal ở Ấn Độ do hoàng đế Mughal Emperor Shahjahan xây để tặng cho vợ ông đă mất.
Hàng năm hơn 189 triệu đóa hoa hồng được tặng nhau chỉ tính riêng ở Hoa Kỳ .
Vào năm 1969, trong việc sửa đổi Lịch các thánh, ngày lễ Thánh Valentine vào ngày 14 tháng 2 đă được đưa ra khỏi Lịch chung của Vatican và được đưa vào hạng đặc biệt (lịch địa phương hoặc thậm chí quốc gia).
Trong Hoa Kỳ, Hội Thiệp Chào Đón ước tính khoảng 190 triệu thiệp valentine được gửi tặng mỗi năm trong Hoa Kỳ. Một nữa trong số ấy được tặng cho những người thân ngoài vợ với chồng, thường th́ cho các đứa con. Nếu tính luôn những thiệp làm trong trường th́ có thể lên tới 1 tỷ thiệp, và các thầy cô là người nhận được thiệp nhiều nhất.Trong một số nước trên thế giới, các học sinh tiểu học làm thiệp và gửi cho nhau và thầy cô. Trong thiệp của các em cũng bày tỏ cảm xúc mến đến các bạn khác giới.
Vào thiên niên kỷ mới, mới sự ra đời và lớn mạnh của Internet đă dần dần tạo thành những truyền thống tặng thiệp mới. Hàng triệu người trên thế giới bắt đầu sử dụng thiệp in ra được trên mạng hoặc gửi thiệp bằng mạng như e-thiệp. Ước tính khoảng 15 triệu e-thiệp được gửi vào năm 2010.
Nói đến t́nh yêu, chúng ta không chỉ nghĩ đến t́nh yêu thơ mộng của chuyện t́nh nam nữ mà c̣n có những t́nh yêu nhẹ nhàng, t́nh cảm khác cũng cần đưọc nhắc đến và vinh danh.
Người viết xin mời bạn đọc câu chuyện cực ngắn dưới đây thật là dễ thương đă giúp ta t́m hiểu t́nh yêu có thể được diễn đạt qua nhiều h́nh ảnh khác và món quà trao cho nhau đâu cần phải là bó hoa hồng rực rỡ hay hộp chocolate béo ngọt.
Ṿng cẩm thạch
Cha kể, cha chỉ ao ước tặng mẹ chiếc ṿng cẩm thạch. Tay mẹ trắng nơn nà đeo ṿng cẩm thạch rất đẹp. Mỗi khi cha định mua, mẹ cứ t́m cách từ chối, lúc mua sữa, lúc sách vở, lúc tiền trường... Đến khi tay mẹ đen sạm, mẹ vẫn chưa một lần được đeo. Chị em hùn tiền mua tặng mẹ một chiếc thật đẹp. Mẹ cất kỹ, thỉnh thoảng lại ngắm nghía, cười: - Mẹ già rồi, tay run lắm, chỉ nh́n thôi cũng thấy vui. Chị em không ai bảo ai, nước mắt rưng rưng.
Sương Lam
hoanglan22
02-14-2020, 18:51
Tiếng nói là sinh mệnh của dân tộc. Không phải phở, nước mắm không c̣n, hay truyện Kiều không c̣n th́ dân tộc mất. Tiếng nói không c̣n, dân tộc diệt. Phở, nước mắm không c̣n th́ ăn món khác, dù có tiếc nuối nhưng dân tộc vẫn c̣n. Truyện Kiều không c̣n th́ viết truyện khác, dù tiếc nuối nhưng dân tộc vẫn c̣n. Mất tiếng nói là dân tộc biến dạng và biến thành một dân tộc khác. Chẳng hạn mai đây toàn dân Việt Nam đều nói tiếng Tàu th́ Việt Nam biến thành một tỉnh của Trung Hoa. Nếu 90 triệu dân đều nói tiếng Pháp th́ Việt Nam biến thành một “Pháp Quốc Hải Ngoại”. C̣n nếu 90 triệu dân đều nói tiếng Anh th́ Việt Nam biến thành tiểu bang thứ 51 của Hoa Kỳ hay giống như Phi Luật Tân, Puerto Rico.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1529880&stc=1&d=1581706088
Như vậy tiếng nói phải tồn tại cùng với dân tộc. Khi nào dân tộc diệt th́ tiếng nói mới bị diệt. Thế nhưng dù tồn tại miên viễn, nó phải tồn tại trong sáng đẹp, có tính văn chương cao và phát âm thanh thoát, rơ ràng. Mỗi một dân tộc có một vùng miền nào đó mà “giọng nói” trở thành tiêu biểu cho cả quốc gia. Chẳng hạn giọng nói của Paris là tiêu biểu cho tiếng Pháp. Giọng Bắc Kinh là tiêu biểu cho tiếng Trung Hoa. Giọng nói của Nữu Ước và California là tiêu biểu cho tiếng Anh ở Hoa Kỳ. Và hiển nhiên giọng Hà Nội trước năm 1954 và giọng Sài G̣n trước 1975 là tiêu biểu cho giọng nói của người Việt Nam.
Thế nhưng không hiểu sao gái Hà Nội bây giờ giọng nói rất nhà quê, lơ lớ, ngai ngái, phát âm không rơ chữ, liến thoắng, cộc lốc, không dịu dàng, không có tiếng “vâng ạ, dạ, thưa” như ngày xưa. Nghe nói trong lúc nói chuyện với nhau, các cô Hà Nội bây giờ, mặt mũi xinh đẹp nhưng ăn nói thô tục kinh hồn. Tôi có ông bạn dược sĩ về thăm Hà Nội cách đây vài năm nói rằng, “Nó nói chuyện với ḿnh th́ chú chú, cháu cháu ngọt sớt. Quay qua nói chuyện với bạn nó th́ thô tục kinh hồn! Không hiểu gia đ́nh, trường học giáo dục nó như thế nào?” Nổi tiếng nhất có bà “Bún mắng cháo chửi” ở Đường Ngô Sĩ Liên, đă được đưa lên chương tŕnh truyền h́nh của đài CNN. Rồi mới đây nhất một bà đại úy công an thuộc Quận Đống Đa, Hà Nội chửi bới thô tục một nhân viên của hăng hàng không tại Phi Cảng Tân Sơn Nhất đă được đưa lên trang tin Sputnik News.
Cả giọng Bắc của các nam/nữ xướng ngôn viên đài VOA, BBC tiếng Việt cũng thế. Cũng liến thoắng, ngai ngái, lơ lớ, eo éo, phát âm không rơ chữ và thường lên giọng ở chữ cuối cùng, nghe khó chịu vô cùng. Khi đọc diễn văn, đọc một bản tin, nói chuyện mà lên giọng ở chữ cuối cùng th́ giống như người Thượng nói tiếng Việt. Những cô gái Thái, Mường, Mèo, Dao… nói c̣n dễ nghe và dễ thương hơn những cô gái này. Sự đổi đời lan rộng ra hải ngoại, tới tận Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn, California và Texas!
Ở đây tôi không viết v́ thù ghét. Nếu viết v́ thù ghét sẽ không c̣n trung thực. Một nhà nghiên cứu văn hóa ở trong nước nói rằng tiếng Bắc th́ c̣n nhưng giọng Hà Nội bây giờ không c̣n nữa. Có rất nhiều nguyên do. Năm 1954, dân Hà Nội di cư vào Nam gần một nửa. Chiếm lĩnh thành phố là dân “bần cố” có công với “cách mạng” cho nên ngôn ngữ ‘bần cố” trở thành ngôn ngữ của giai cấp thống trị và giết chết ngôn ngữ thanh lịch, dịu dàng, văn vẻ của đất “Ngàn Năm Văn Vật”. Lư do thứ hai, có lẽ là để biện minh, rằng thế hệ sau lớn lên nói giọng quê mùa, liến thoắng, lơ lớ như vậy là v́ các chị vú em, người giữ trẻ cho con nhà “cán bộ” từ vùng quê nghèo khổ kéo về, không được học hành cho nên tiếng nói nó mới “đổi đời” như thế.
Một giọng nói muốn trở thành mẫu mực cho đất nước, bất kể Nam-Trung-Bắc phải hội đủ những điều kiện như sau:
1) Phát âm đúng, không ngọng nghịu, ngai ngái, lơ lớ như lai Tây, lai Tàu, lai Mỹ. Tôi đă có dịp hỏi nhạc sĩ Phạm Duy điều kiện để trở thành danh ca. Phạm Duy nói rằng điều quan trọng nhất là phát âm phải đúng. Thí dụ, “buồn” không thể phát âm thành “buồng”, “tuổi” không thể phát âm thành “tủi”, “hoàng hôn” không thể phát âm thành “hoàn hôn”, “mỏi ṃn” không thể phát âm thành “mơi ṃn”, “nỗi ḷng” không thể phát âm thành “nổi ḷng”, “hỏi han” không thể phát âm thành “hơi hang”, “lăng đăng” không thể phát âm thành “lảng đảng”, “điện thoại” không thể phát âm thành “điện thọi”, “lan” không thể phát âm thành “lang”. Tiếng Việt không có âm “shờ”, “chờ” uốn cong lưỡi như tiếng Anh. Cô/cậu/ông/bà/cụ… ca sĩ nào hát những chữ như “anh mong chờ”, “chiều về”, “đêm nay thu sang”…mà uốn cong lưỡi, đều không phải là danh ca, dù hát hay thế nào đi nữa. Theo nhạc sĩ Phạm Duy th́ Thái Thanh và Lệ Thu là hai người phát âm giọng Bắc đúng nhất.
BSudYov7zc4
Chàng này dạy khóa học giao tiếp, nhưng y cũng nói nhanh và eo éo c̣n khó chịu khi nghe.
2) Nói với tốc độ (speed) vừa phải, không liến thoắng, để người nghe kịp hiểu ḿnh nói ǵ. Vào xem các chương tŕnh phóng sự ở Việt Nam và VOA, BBC nhiều khi các cô/cậu phóng viên nói một hồi mà tôi không hiểu các cô/cậu nói ǵ v́ giọng liến thoắng, chữ líu vào nhau và nhanh quá! Xin nhớ cho, nước Mỹ này có 350 triệu dân, ai cũng học hành giỏi giang cả, nhưng để tuyển xướng ngôn viên đài truyền h́nh có giọng nói hay th́ chỉ có vài trăm cô. Đất nước Việt Nam 90 triệu dân, nhưng để tuyển xướng ngôn viên đài truyền h́nh, đài phát thanh có giọng nói như Miền Nam thuở xưa, chưa chắc đă t́m ra một người. Cứ thử mở các băng ghi âm cũ của các chương tŕnh phát thanh hay truyền h́nh của Miền Nam xưa, xem có đúng như vậy không?
3) Âm lượng vừa đủ, không lớn quá, không lí nhí, không the thé.
WAQp8hnWCq0
Bà này nghe cũng tàm tạm, nhưng vẫn c̣n giọng éo éo và kéo dài tiếng nói…
4) Phải có chút trầm bổng, không đều đều, buồn tẻ để hấp dẫn người nghe và dĩ nhiên không nhà quê. Phải biết ngắt câu đúng nơi, đúng chỗ, vừa để ḿnh thở để lấy hơi, vừa để người ta hiểu ḿnh nói ǵ.
5) Không được cộc lốc, gằn, chấm dứt câu đột ngột làm như muốn mắng chửi người ta. Thật lạ lùng! Miền Bắc bây giờ khi nói chuyện, đọc bản tin hoặc đọc diễn văn, trả lời phỏng vấn… mọi người đều ”lên giọng” ở chữ cuối cùng, nghe khó chịu vô cùng, giống như đồng bào Thượng ở Kontum, Pleiku nói tiếng Việt. Trong ngôn ngữ, chỉ ở thể “mệnh lệnh cách” hoặc “câu hỏi” người ta mới “lên giọng” ở chữ cuối cùng. Có lẽ do lối đọc diễn văn nhát gừng, kích động của Ô. Phạm Văn Đồng mấy chục năm về trước hoặc lối đọc diễn văn, tuyên truyền dưới thời Mao Trạch Đông cho nên cả nước “học tập” và bắt chước theo khiến di họa cho tới ngày nay.
6) Phải có những tiếng như “dạ”, “thưa ”, “vâng” trong câu nói để chứng tỏ sự lịch sự của ḿnh. Trong một chương tŕnh truyền h́nh của VTV3, phỏng vấn một bà nguyên là đại sứ tại Liên Hiệp Quốc của đất nước ḿnh mà gọi bằng “chị” th́ thật vô lễ, bất lịch sự quá đỗi. Bắt buộc phải nói, “Thưa bà đại sứ” hoặc “Thưa bà giáo sư”. Không có chuyện “chị em” ở đây. Đó là phép lịch sự tối thiểu.
7) Dĩ nhiên là phải có học để lựa chọn những từ ngữ thanh tao, tránh những từ ngữ thô lỗ, đường phố. Điều này phải nhờ giáo dục học đường mà c̣n cả giáo dục gia đ́nh nữa. Thí dụ: Một con nhà có giáo dục sẽ không nói, “Mày câm cái mồm mày lại!” mà có thể nói, “Ông/bà/anh chị, em …mà cứ nói như vậy th́ câu chuyện sẽ trở nên khó khăn hơn.” Hoặc “Ông/bà/anh chị/em không nên nói như vậy.” Ngoài ra phải có những câu như “xin lỗi”. Chẳng hạn, “Xin lỗi, chúng tôi phải chấm dứt chương tŕnh v́ đă hết giờ.” hoặc “Xin lỗi, tôi ra ngoài một chút.” “Xin lỗi”, đây không có nghĩa là ḿnh có lỗi, mà là lối nói lịch sự. Các câu “ I am sorry” , “Excuse me, “Thank you” luôn luôn được thốt ra từ cửa miệng người Mỹ.
c8M-aSOFjZ8
Giọng cô này nghe giống như tiếng thượng Pleihu, hay đâu đó ở vùng Cao Nguyên
Thú thực, xem các đoạn phim phóng sự sinh hoạt của các cô gái Thái, Mèo, Mường ở Lai Châu, Lào Cai tôi lại thích giọng nói của các cô này hơn là giọng nói của các cô gái Hà Nội chỉ v́ họ nói dịu dàng, nhỏ nhẹ, không liến thoắng và giọng th́ không nhăo, ngai ngái, eo éo… Hầu hết các cô/cậu làm phóng sự đều ở tuổi đôi mươi, nhưng không bao giờ nói được câu “quư vị” trong khi những người xem có thể đáng tuổi ông nội, chú bác, cô d́…của họ …mà chỉ dùng các chữ như “các bạn”, “các bạn nhé!” khiến gây khó chịu cho người nghe. Đây không phải lỗi của các phóng viên mà lỗi ở chủ nhiệm, chủ biên, giám đốc các đài truyền h́nh, tŕnh độ giáo dục quá kém, không biết thế nào là lịch sự, lễ phép đối với khán-thính giả.
Ngay cả giọng nữ của những phát ngôn viên đài truyền h́nh lớn nhất của Sài G̣n, mặt mũi tuyển chọn rất xinh đẹp nhưng giọng Miền Nam lại vô cùng quê mùa. Nó không phải là giọng nói thanh lịch của những nữ sinh Gia Long, Trưng Vương, Marie Curie của Sài G̣n năm xưa, mà nó là giọng quê mùa của các cô gái từ Củ Chi, Cà Mau, Châu Đốc, Đồng Tháp Mười mới lên Sài G̣n. Thật đau buồn! Trong khi giọng nói của các cô gái Nam của các chương tŕnh phát thanh thương mại ở Nam, Bắc Cali, Hoa Thịnh Đốn th́ lại sang và trí thức biết là bao nhiêu. Cứ thử thu băng rồi đem về cho cả nước nghe rồi so sánh xem có đúng như vậy không.
Tôi không bao giờ có ư nghĩ khinh thị các cô gái nói giọng quê mùa. Tại Mỹ này cũng có những giọng nói quê mùa của những vùng như Texas, Alabama và North Carolina… Họ là những con người dễ thương, không có ǵ chê trách. Nhưng khi tuyển một xướng ngôn viên tiểu biểu th́ phải tuyển các cô/cậu có giọng nói trí thức, có học, sống ở nơi đô hội. Ở Mỹ này họ thường tuyển chọn xướng ngôn viên theo giọng nói của Nữu Ước, California. Cũng giống như thi hoa hậu th́ phải tuyển cô đẹp. Tuyển cô xấu mà nói là “hoa hậu” th́ người ta “mắng” cho. Xin nhớ, tuyển cả ngàn cô gái đẹp rất dễ. Nhưng tuyển một cô có giọng nói đúng giọng, sang, trí thức, mẫu mực, dễ nghe, …th́ cả ngàn cô, chưa chắc đă tuyển được một cô. Có cả trăm loài chim, nhưng chim hót hay chỉ có vài con.
Tôi c̣n nhớ, có lẽ khoảng 1964-1965, khi Miền Nam bắt đầu có chương tŕnh truyền h́nh. Đài Sài G̣n tuyển và thí nghiệm ba giọng đọc Nam, Bắc và Huế cùng lúc. Nhưng chỉ sau vài lần, phải bỏ giọng Huế. Dĩ nhiên là giọng Huế rất dễ thương. Nghe các cô ở Sông Hương, Núi Ngự nói chuyện th́ “mê” lắm. Nhưng nghe các cô đọc một bản tin trên đài phát thanh hay đài truyền h́nh th́ nó “nặng”quá. Cho nên giọng Huế không thích hợp cho các xướng ngôn viên, hướng dẫn chương tŕnh, quảng cáo, văn nghệ v.v…
Hiện nay t́nh trạng ngôn ngữ đổi đời lan ra hải ngoại nguyên do chỉ v́ các báo ở hải ngoại , các đài phát thanh, truyền h́nh, cá nhân tuy chửi rủa trong nước đủ điều nhưng lại đua nhau chuyến tiếp/forward và đăng “nguyên con” trên “báo chợ” trên các Diễn Đàn Yahoo Groups các bản tin, bài viết trong nước, nhất là hai trang tin VOA và BBC Việt Ngữ. Chính v́ thế ngôn ngữ đổi đời, ngôn ngữ bát nháo, giọng nói ngọng, ngai ngái, lơ lớ, éo éo… đang trở thành ngôn ngữ chính thống ở hải ngoại. “Buồn ơi chào mi”!
Sống không phải chỉ là miếng ăn ngon, quần áo đẹp, xe đắt tiền, iPhone, iPad, tháng nào, chỗ nào, hang cùng ngơ hẻm nào cũng thi hoa hậu, tuyển lựa ca sĩ…(tất cả những thứ này chỉ là văn nghệ, không phải là văn hóa và có khi phản văn hóa) mà cần có nghệ thuật, văn chương và văn hóa. Tiếng nói là bộ phận sống c̣n của một dân tộc. Tiếng nói thanh tao, lịch sự, lễ độ, mẫu mực, dễ nghe biểu tỏ một tŕnh độ văn hóa, giáo dục cao và một cuộc sống đẹp. Mất nó, hay tiếng nói c̣n đó mà thô tục, bát nháo, thiếu lễ độ là biểu tỏ một xă hội suy đồi, hư đốn.
Không thể phủ nhận, tiếng Bắc giọng Hà Nội trước 1954 và tiếng Nam giọng Sài G̣n 1954-1975 là tiêu biểu cho giọng nói của hai miền Nam-Bắc. Giọng Bắc Hà Nội thanh lịch, dịu dàng, văn vẻ. Giọng Nam Sài G̣n, t́nh cảm, mặn mà, chân thật, dễ thương, chậm răi, dễ hiểu.
Ôi, thèm làm sao tiếng nói dịu dàng, thanh thoát, lịch sự, văn vẻ của Hà Nội và cả giọng nói rất trí thức của Sài G̣n năm xưa, mà nay:
Tạo hóa gây chi cuộc hư trường.
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương.
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo.
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt.
Nước c̣n cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ.
Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường.
(Thăng Long Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan)
Không biết tới bao giờ giọng nói thanh lịch của đất “Ngàn Năm Văn Vật” sống lại ở Việt Nam đây? Có lẽ nó đă bị hủy diệt mất rồi!
Đào Văn B́nh
hoanglan22
02-14-2020, 20:43
Khi bắt đầu bước vào xă hội, bước đầu tiên, họ đă bị lănh đạo "ăn cắp" tiền đút lót để được có việc làm, nên họ phải tiến vào quĩ đạo ăn cắp, họ ăn cắp dự án, ăn cắp đất của nông dân, ....
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1529912&stc=1&d=1581712691
Tôi không bênh vực những tiếp viên hàng không bằng lư do ngô nghê là họ phải đút lót để đựơc có việc làm trong Air VN nên họ phải buôn lậu chuyển hàng ăn cắp để gỡ vốn.
Tôi thực sự thương hại họ, v́ "Quít trồng Giang Nam th́ ngọt, trồng Giang Bắc lại chua"
Ngay khi chào đời, họ đă bị sinh ra trong một bệnh viện "ăn cắp", khi lớn lên, họ lại đi học trong những trường học "ăn cắp", giáo sư "ăn cắp" công tŕnh trí tuệ của người khác, học sinh, sinh viên "ăn cắp" bảng điểm, "ăn cắp" bằng cấp bằng phong b́.
Khi bắt đầu bước vào xă hội, bước đầu tiên, họ đă bị lănh đạo "ăn cắp" tiền đút lót để được có việc làm, nên họ phải tiến vào quĩ đạo ăn cắp, họ ăn cắp dự án, ăn cắp đất của nông dân, họ ăn cắp tiền phạt giao thông, họ ăn cắp sinh mạng của người dân bằng tra tấn, nhục h́nh.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1529913&stc=1&d=1581712691
V́ vậy , khi tôi nh́n thấy những cô ca sĩ, hoa hậu, người mẫu, vênh váo khoe khoang quần áo, túi xách, giầy dép hàng hiệu, xe khủng , nhà khủng, tôi thương hại họ quá, họ cũng bị "ăn cắp" trinh tiết, bị "ăn cắp" phẩm giá, anh ạ. Tôi có con gái, và con gái tôi may mắn, được giáo dục tại trường học phân biệt điều phải, điều trái, được tôn trọng nhân phẩm.
Khi về VN, nhiều lần, xe người bạn chở tôi đi, bị công an thổi c̣i, rồi công an ṿi vĩnh, x̣e tay cầm tiền hối lộ. Tôi rơi nước mắt, họ c̣n nhỏ tuổi hơn con trai tôi. Con trai tôi có công ăn việc làm, nuôi con cái bằng chính sức lao động của ḿnh, dạy con, làm gương cho con bằng chính nhân cách của ḿnh. Những người công an trẻ đó cũng bị "ăn cắp" lương tâm?
Khi những người công an, đánh người, giết người, họ được bố thí trả công bằng vài bữa ăn nhậu, chút đồng tiền rơi rớt.
Khi những phóng viên, bẻ cong ng̣i bút, viết xuống những điều trái với lương tâm, sự thật để được bố thí trả công bằng những nấc thang chức vị, những đồng lương tanh tưởi, nhà văn Vũ Hạnh đă gọi đó là "Bút Máu".
Khi những quan ṭa, đổi trắng thay đen, cầm cán cân công lư có chứa thủy ngân như trong truyện cổ Việt Nam, họ cũng bị "ăn cắp" nhân tính mất rồi.
Trong xă hội, toàn là "ăn cắp", vậy th́ kẻ cắp là ai? Ai cũng biết, nhưng giả vờ không biết, V́ văn hóa "giả vờ" là đồng lơa cho xă hội ăn cắp.
Lấy 1 bịch, nhét vô cái túi này, ai mà thấy !
Cán bộ lănh lương 200 đô la một tháng, xây nhà chục triệu nhưng "giả vờ" đó là công sức lao động tay chân và trí tuệ hay quà tặng của cô em "kết nghĩa". Tôi muốn xin cô em đó cho tôi được làm "con kết nghĩa" của cô ta quá. Thế mà có những lănh đạo, ủy viên Trung Ương Đảng, Đại biểu Quốc Hội, Ban Nội Chính, UỶ Ban Điều Tra, Quan Ṭa "Thiết Diện Vô Tư", Phóng viên Lề phải, Thành Đoàn, Quân Đội Nhân Dân, Chiến sĩ Công An, Trí thức Yêu Nước, Việt Kiều Yêu Nước sẽ sẵn sàng giả vờ tin
vào quà tặng của "cô em kết nghĩa" đó!
C̣n có thể trong tương lai, sẽ có nhiều quan chức sẽ nhận được nhà khủng, quà tặng của ông anh kết nghĩa, bà chị kết nghĩa, ông bố kết nghĩa, ông cố nội kết nghĩa, khi không t́m ra con người nữa, sẽ tiếp theo con chó kết nghĩa, con trâu kết nghĩa.......
Công chúa mặc áo đầm hồng ưỡn ẹo trên đôi giày cao gót hồng đi thị sát công trường xây dựng, theo sau là một đoàn chuyên viên già tuổi tác, thâm niên công vụ, nhưng ai nấy vui vẻ, hớn hở, giả vờ công chúa là một chủ tịch tài năng thiên phú, không cần đi học, không cần kinh nghi
Khi bắt đầu bước vào xă hội, bước đầu tiên, họ đă bị lănh đạo "ăn cắp" tiền đút lót để được có việc làm, nên họ phải tiến vào quĩ đạo ăn cắp, họ ăn cắp dự án, ăn cắp đất của nông dân, ....
họ ăn cắp tiền phạt giao thông, họ ăn cắp sinh mạng của người dân bằng tra tấn, nhục h́nh.
V́ vậy , khi tôi nh́n thấy những cô ca sĩ, hoa hậu, người mẫu, vênh váo khoe khoang quần áo, túi xách, giầy dép hàng hiệu, xe khủng , nhà khủng, tôi thương hại họ quá, họ cũng bị "ăn cắp" trinh tiết, bị "ăn cắp" phẩm giá, anh ạ. Tôi có con gái, và con gái tôi may mắn, được giáo dục tại trường học phân biệt điều phải, điều trái, được tôn trọng nhân phẩm.
Khi về VN, nhiều lần, xe người bạn chở tôi đi, bị công an thổi c̣i, rồi công an ṿi vĩnh, x̣e tay cầm tiền hối lộ. Tôi rơi nước mắt, họ c̣n nhỏ tuổi hơn con trai tôi. Con trai tôi có công ăn việc làm, nuôi con cái bằng chính sức lao động của ḿnh, dạy con, làm gương cho con bằng chính nhân cách của ḿnh. Những người công an trẻ đó cũng bị "ăn cắp" lương tâm?
Khi những người công an, đánh người, giết người, họ được bố thí trả công bằng vài bữa ăn nhậu, chút đồng tiền rơi rớt.
Khi những phóng viên, bẻ cong ng̣i bút, viết xuống những điều trái với lương tâm, sự thật để được bố thí trả công bằng những nấc thang chức vị, những đồng lương tanh tưởi, nhà văn Vũ Hạnh đă gọi đó là "Bút Máu".
Khi những quan ṭa, đổi trắng thay đen, cầm cán cân công lư có chứa thủy ngân như trong truyện cổ Việt Nam, họ cũng bị "ăn cắp" nhân tính mất rồi.
Trong xă hội, toàn là "ăn cắp", vậy th́ kẻ cắp là ai? Ai cũng biết, nhưng giả vờ không biết, V́ văn hóa "giả vờ" là đồng lơa cho xă hội ăn cắp.
Lấy 1 bịch, nhét vô cái túi này, ai mà thấy !
Cán bộ lănh lương 200 đô la một tháng, xây nhà chục triệu nhưng "giả vờ" đó là công sức lao động tay chân và trí tuệ hay quà tặng của cô em "kết nghĩa". Tôi muốn xin cô em đó cho tôi được làm "con kết nghĩa" của cô ta quá. Thế mà có những lănh đạo, ủy viên Trung Ương Đảng, Đại biểu Quốc Hội, Ban Nội Chính, UỶ Ban Điều Tra, Quan Ṭa "Thiết Diện Vô Tư", Phóng viên Lề phải, Thành Đoàn, Quân Đội Nhân Dân, Chiến sĩ Công An, Trí thức Yêu Nước, Việt Kiều Yêu Nước sẽ sẵn sàng giả vờ vào quà tặng của "cô em kết nghĩa" đó
C̣n có thể trong tương lai, sẽ có nhiều quan chức sẽ nhận được nhà khủng, quà tặng của ông anh kết nghĩa, bà chị kết nghĩa, ông bố kết nghĩa, ông cố nội kết nghĩa, khi không t́m ra con người nữa, sẽ tiếp theo con chó kết nghĩa, con trâu kết nghĩa.......
Công chúa mặc áo đầm hồng ưỡn ẹo trên đôi giày cao gót hồng đi thị sát công trường xây dựng, theo sau là một đoàn chuyên viên già tuổi tác, thâm niên công vụ, nhưng ai nấy vui vẻ, hớn hở, giả vờ công chúa là một chủ tịch tài năng thiên phú, không cần đi học, không cần kinh nghiệm.
Thượng bất chính, hạ tắc loạn.
"Thanh tra, thanh mẹ, thanh ǵ?
Hễ có phong b́ th́ Nó "Thank you"
Tôi buồn lắm, có đôi khi quá tuyệt vọng, tôi tự hỏi, ḿnh có nên quên ḿnh là người VN như con đà điểu vùi đầu trong cát, như quả chuối ngoài vàng, trong trắng, v́ tôi yêu nước Mỹ quá rồi.
Nước Mỹ chưa, và có lẽ không bao giờ hoàn hảo, nhưng ở đây, ít nhất không ai có thể "ăn cắp" lương tâm, phẩm giá và nhân tính của tôi. Tôi được sống như một "CON NGƯỜI" không phải chỉ "giả vờ " "làm người" đang sống.
ST
hoanglan22
02-14-2020, 21:42
Tất cả mọi người đă quây quần bên chiếc bàn ăn đặt giữa pḥng. Ba tôi ngồi đầu bàn, mẹ tôi ngồi bên trái của ba, bên phải là Hoàng, em út tôi. Tôi, Kim Châu và Ngọc ngồi kế tiếp.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1529935&stc=1&d=1581716491
Cạnh mẹ tôi vẫn c̣n hai chiếc ghế trống, một của chị Lan, chị cả của tôi; hôm nay Chủ Nhật đúng vào phiên trực của chị ở bệnh viện nên chị về muộn; chiếc ghế c̣n lại dành cho anh Hoài, con của cô Ba, chị của ba tôi. Giờ này mà anh Hoài vẫn chưa đến, mặc dù chúng tôi đă nấn ná chờ anh ngót nửa giờ rồi. Cuối cùng, ba tôi quyết định vào tiệc. Tôi gắp chả gị cho mấy cô bạn nghịch ngợm của tôi, cô nào cũng hít hà khen ngon.
Mà phải công nhận là mẹ tôi làm chả gị ngon thật, lại thêm nước mắm chua ngọt rất vừa miệng, vă lại sự đợi chờ làm cơn đói bụng tăng thêm nên bọn nhóc chúng tôi cùng nhai ngấu nghiến. Chợt có tiếng con ki ki sủa vang ngoài cổng vài tiếng rồi im bặt, tiếp theo là những tiếng kêu ư ử của nó mỗi khi gặp người quen. Tôi reo lên: Chắc là anh Hoài đến đó. Thằng Hoàng nhanh nhẹn chạy ra mở cổng. Anh Hoài vào đến pḥng ăn, chúng tôi đều ngưng đũa. Anh không đến một ḿnh mà cùng đi với anh c̣n có một anh chàng Hải Quân trong bộ quân phục trắng tinh, chiếc mũ đội chênh chếch vừa được anh giở khỏi đầu, ôm trước ngực và kính cẩn cúi người chào ba mẹ tôi. Anh Hoài nhanh miệng:
– Thưa cậu, thưa mợ, đây là Trung bạn học của con hồi ở Petrus Kư.
Mọi người chào nhau. Mẹ tôi vẫn cái tánh cố hữu băi buôi của người miền Bắc:
– Gớm, sao bác sĩ đến trễ thế? Em nó sắp khóc lên đấy và cứ lo sinh nhật của nó mà anh Hoài không đến.
Mẹ hay gọi thế cho nó trang trọng chứ anh Hoài mới học năm thứ ba Y Khoa thôi. Anh hơi ngượng v́ hai chữ bác sĩ mà mẹ tôi gọi anh. Mặt anh đỏ và anh nháy mắt với tôi.
– Con xin lỗi cậu mợ v́ đă để cậu mợ và mọi người phải chờ. Mấy năm rồi tụi con mới gặp lại nhau. Con mạn phép cậu mợ mời Trung đến dự sinh nhật của Phượng luôn.
Với bản chất hể hả của người miền Nam, ba tôi nói:
– Lỗi phải ǵ, ngồi xuống đó đi hai cháu, cả nhà cũng mới bắt đầu ăn thôi.
Thế là tôi quen anh từ đó. Những lần kế tiếp ghé nhà tôi anh c̣n đi chung với anh Hoài, dần dà sau đó th́ anh đến một ḿnh. Anh hay kể cho tôi nghe chuyện bạn bè, chuyện trên tàu của anh và chuyện của những v́ sao.
Từ khi được anh kể cho nghe về huyền thoại của những v́ sao, tôi sinh ra bệnh mộng mơ, có lẽ nó phát sinh từ bản tính lăng mạn sẵn có của tôi chăng? Tôi thích nhất là huyền thoại của nàng Europa, nữ thần t́nh ái. V́ say mê vẻ đẹp mê hồn của nàng nên thần Zeus đă biến dạng thành con ḅ trước khi đến gặp nàng. Con ḅ thần này thật đẹp, toàn thân màu hạt dẻ, hàng lông mày bạc, c̣n sừng th́ như vầng trăng non.
Bị thu hút trước vẻ đẹp của con ḅ, nàng Europa đến gần ve vuốt. Con ḅ liền nằm phủ phục dưới chân nàng như mời Europa hăy cỡi lên lưng của nó. Nàng Europa không chút sợ sệt, leo lên lưng ḅ. Lập tức ḅ đứng dậy chạy thật nhanh rồi bay bổng lên không trung. Chỉ một chốc, ḅ xà xuống mặt biển để nhận sự chào đón của các thần biển và những loài thủy tộc.
Nàng Europa thấy sóng nước và đoàn thủy thần nhào lộn theo con ḅ, nàng sợ hăi, một tay nắm chặt sừng ḅ và tay kia cố giữ xiêm y đang tung bay phất phới. Khi đảo Crete hiện trong tầm mắt, họ liền hạ xuống. Các thần mùa màng và thần núi Olympic đưa đến cho nàng lễ phục tân nương…
Tôi thích nhất huyền thoại trên đây, nói về thần Zeus là thần trên tất cả các vị thần, v́ yêu đă biến thành ḅ để “bắt cóc” nàng Europa về làm vợ. Thật là vừa lăng mạn, vừa “bạo tàn” theo cảm nghĩ của riêng tôi.
Vào những đêm không trăng, bầu trời đen thẫm như nhung với ngàn sao lóng lánh, tôi thường ra sân thường ngồi một ḿnh trên chiếc ghế dựa bằng mây của ba tôi để ngắm các v́ sao và để mơ mộng! Đôi khi mẹ bước ra bắt gặp lại cằn nhằn:
– Trời tối như mực thế mà c̣n ngồi ngoài này làm ǵ? Sao không vào đi ngủ để sáng mai c̣n đi học?
Tôi rầu mẹ vô cùng! Mẹ đâu biết rằng tôi đang ở vào tuổi biết yêu và h́nh như đă gửi một phần trái tim lăng mạn của ḿnh theo bóng h́nh của một chàng thủy thủ! Là con gái một thời, ai lại không có những kỷ niệm đẹp để mang theo, có khi suốt cả cuộc đời?
Hôm nay có lẽ là cuối tháng ta nên trăng đă trốn mất nơi nào, bầu trời đen thẫm không mây nên hàng ngàn v́ sao đang đua nhau lấp lánh. Tôi ngước t́m các cḥm sao mà anh đă chỉ cho tôi. Tôi thấy thật rơ thiên ṭa Taurus gồm những ngôi sao sáng rực nằm gần nhau thật âu yếm.
Trong lúc đang mơ màng về huyền thoại của nữ thần t́nh ái th́ anh đă đứng sau lưng tôi từ bao giờ. Không biết anh đă đi vào bằng lối nào, cổng trước hay cửa sau? Từ sân thượng nh́n xuống, lờ mờ dưới ánh đèn, cổng rào nhà tôi vẫn c̣n đóng kín!
C̣n đang thắc mắc chưa kịp hỏi, th́ anh nói khẻ vào tai tôi:
– Bé có muốn “xa bến” không?
Tôi rất thích hai chữ “xa bến” này, nó vừa làm cho tôi buồn, mà cũng vừa làm cho tôi thích thú. Tôi buồn v́ cứ mỗi lần tàu ra khơi là anh nói đùa với tôi rằng anh “xa bến”. Đó là những chuỗi ngày mong chờ dài dằng dặc. Rất thích thú là khi anh “về bến” th́ tôi lại được nghe anh kể nhiều chuyện về chuyến hải hành vừa qua. V́ vậy khi nghe anh hỏi th́ không c̣n nỗi vui mừng nào hơn, v́ biết bao lần tôi mơ được theo tàu anh ra khơi để hiểu thế nào là xa bến. Tôi reo vui:
– Để em vào xin phép mẹ.
Anh đưa vội ngón tay trỏ lên môi ra dấu cho tôi nói khẽ và th́ thầm bên tai tôi:
– Ḿnh chỉ đi một tí thôi, mẹ không biết đâu!
Tôi c̣n đang ngơ ngác nh́n anh th́ chợt cảm nhận một bàn tay thật ấm đặt nhẹ vào lưng tôi và đi lần qua hông phải, người tôi mềm nhũn ra, tim tôi ngưng đập, chợt toàn thân tôi nhẹ bổng. Th́ ra, tôi được anh ôm chặt bên hông và được anh d́u cùng bay ra khỏi sân thượng nhà tôi! Chúng tôi bay ngang thành phố Sàig̣n sáng rực ánh đèn, bỏ lại bến Bạch Đằng bên dưới, lướt qua vùng ngoại biên và ô ḱa, Băi Trước Vũng Tàu hiện ra dưới mắt tôi. Tóc tôi xơa dài tung bay trong gió lồng lộng. Một tay tôi bá chặt vào cổ anh, tay kia cố gom lại những sợi tóc dài quái ác đang vướng vào mặt mũi hai đứa. Đang bận bịu với mái tóc của ḿnh, chợt anh ghé vào tai tôi và nói:
– Ḿnh đến nơi rồi!
Tôi nh́n xuống. Một hạm đội thắp đèn sáng rực nằm giữa biển đen ng̣m. Ánh sáng bên hông tàu cho tôi thấy rơ số “802”. Anh nhẹ nhàng đáp xuống, chân tôi cũng chạm hẳn xuống sàn tàu. Tôi nh́n quanh thấy các thủy thủ vẫn chăm chú vào những công việc của họ, h́nh như không nh́n thấy sự hiện diện của chúng tôi.
Từ trong pḥng chỉ huy, Trung Tá Hạm Trưởng bước ra. Anh thẳng người chào tay và nhận chào trả. Trung Tá Hạm Trưởng tươi cười bắt tay tôi và mời vào pḥng khách thật trang nhă. Trên tường, cạnh những bức tranh lịch sử hàng hải là những hàng đèn ẩn trong tường tạo cho căn pḥng ánh sáng vừa đủ ấm cúng và sang trọng. Cạnh hai chiếc sofa dài là một chiếc bàn nhỏ mặt kính trong vắt, trên để chiếc đčn bàn xinh xắn, ánh sáng vừa đủ rọi vŕo một quyển sổ lớn hơn quyển tập học tṛ dày độ 2 cm. Trung Tá Hạm Trưởng chỉ vào quyển sổ và nói với tôi:
– Xin mời cô ghi vài ḍng vào quyển sổ lưu niệm của Cơ Xưởng Hạm 802!
Tôi trang trọng lật tấm b́a cứng ra. Những trang kế tiếp tôi thấy danh tánh của những quan khách viếng thăm chiến hạm được viết theo hàng dọc. Từ từ, nhẹ nhàng và nắn nót; tôi ghi tên ḿnh vào quyển sổ. Tôi viết thật chậm để kéo dài thêm cái giây phút được làm khách danh dự của Cơ Xưởng Hạm 802, chiếc cơ xưởng hạm mới nhất của Hải Quân, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa!
Đang nắn nót viết, tôi chợt cảm thấy như có người đang nh́n ḿnh. Ngước lên, tôi bắt gặp đôi mắt lém lỉnh của anh như thầm nói:
– Này cô bé, cô đang kư giấy trọn đời thuộc về gia đěnh Hải Quân rồi đấy nhé!
Hai má tôi chợt nóng bừng. Tiếng của vị Hạm Trưởng cắt đứt ḍng tư tưởng lăng mạn của tôi:
– Tôi sẽ đưa cô đi thăm một ṿng trên tàu.
C̣n nỗi vui thích nào hơn! Tôi đặt cuốn sổ trở lại vị trí của nó và hân hoan bước theo Hạm Trưởng đi qua các “nhiệm sở” làm việc, pḥng họp, pḥng ăn và pḥng ngủ của các sĩ quan, thủy thủ v.v… Hạm Trưởng giải thích cho tôi biết, mặc dù phải đi sửa chửa những chiến hạm khác đôi khi cả tháng chưa về bến, nhưng tàu vẫn đủ nước ngọt để dùng, v́ tàu có trang bị máy lọc nước biển sang nước ngọt. Dù đang đóng vai thượng khách của tàu, tôi vẫn không dấu nỗi tánh trẻ con của ḿnh nên nói khẽ với Hạm Trưởng:
– Thưa Trung Tá, có thể nào Trung Tá cho em nếm thử nước lọc từ nước biển sang được không?
Ông cười nhẹ
– Được chứ, xin mời cô…
Ly nước lọc trong vắt được đặt vào tay tôi. Tôi vừa đưa ly nước lên môi chưa kịp nếm th́ bỗng nhiên người tôi bị ai đó lắc mạnh, hai vai bị kéo ngược về phía sau và tiếng của… mẹ tôi càu nhàu:
– Dậy đi học kẻo trễ! Con gái lớn đầu rồi mà cứ ngủ trưa.
Tôi mở mắt ra, nghe giận mẹ vô cùng và tiếc hùi hụi ly nước chưa kịp nếm, không biết vị nó ngọt ra sao nên vẫn c̣n ao ước đến bây giờ.
Ba năm sau ngày miền Nam bị cưỡng chiếm, bạo quyền cộng sản đă dồn ép người dân Sàig̣n, nói đúng hơn là người dân cả miền Nam Việt Nam, phải lâm vào một thế kẹt không thể nào sống nổi. Chúng thực thi chính sách cướp bóc của cải và tài sản của người dân dưới cái tên “đánh tư sản mại bản”.
Nhiều người đă tự tử v́ mất sạch của cải, tiền bạc và nhà cửa chỉ trong một sớm một chiều! Rất nhiều người trở thành khố rách áo ôm, không một nơi chốn dung thân, không c̣n một phương tiện sinh sống. Thật không bút mực nào có thể diễn tả hết nỗi thống khổ ấy. Phong trào vượt biên lên đến tột đỉnh.
Một câu nói được mọi người nhắc nhở lúc ấy là “cây cột đèn mà có chân th́ nó cũng đi”. Nhận thấy nhiều người vẫn c̣n nhiều vàng bạc chôn dấu mà chúng không thể nào lấy hết được, cộng sản liền bày ra cái tṛ cho phép vượt biên “bán chính thức”. Đă gọi là vượt biên mà c̣n gọi là bán chính thức!
Dù đă học hết lớp 12 rồi mà tôi cũng không làm sao hiểu nổi “danh từ” của bọn ấy. Kế hoạch này do nhà nước đứng ra tổ chức, người nào muốn đi cứ nộp đủ số vàng do bọn chúng đ̣i hỏi. Thật sự đây là một thủ đoạn vơ vét cho đến tận cùng, đến cạn kiệt tài sản của người dân miền Nam.
Lũ người bất lương ấy đă cướp lấy biết bao nhiêu là vàng bạc, của cải, tịch thu biết bao nhiêu là nhà cửa đất đai mà những người vượt biên đă bỏ lại. Gia đ́nh tôi cuối cùng cũng phải gom góp hết tài sản do công lao khó nhọc của ba mẹ tôi tạo ra và dành dụm trong mấy chục năm trời nộp cho bọn chúng để được ra đi, để thoát khỏi sự kềm kẹp của một chế độ phi nhân xuất phát từ cái chủ nghĩa man rợ nhất trong lịch sử nhân loại.
Ngồi trong ḷng chiếc ghe chật hẹp, người chen chúc nhau như cá ṃi đóng hộp, tôi mới thấm thía cái tâm địa tàn độc của bọn người theo chủ nghĩa Mác Lê. Thay v́ chúng đem những người có tài sản ra đấu tố, đập đầu, bắn bỏ… như thời cải cách ruộng đất ở ngoài Bắc mà Hồ Chí Minh đă làm, th́ nay chúng hành xử văn minh và tiến bộ hơn tên đầu đảng của chúng một bậc.
Bằng cách thức tổ chức vượt biên bán chính thức, chúng làm cho mọi người có cảm nghĩ là chính phủ có ḷng nhân đạo khi để cho người Hoa Kiều đi ra khỏi nước Việt Nam. Ngoài ra, chúng cũng làm giấy tờ giả mang tên Hoa Kiều để cấp cho những người Việt Nam chính gốc muốn ra đi. Có như thế, chúng mới vơ vét hết sạch của cải, tài sản của mọi người, đạt đến mục tiêu bần cùng hóa nhân dân cho dễ bề cai trị.
Trước khi ra đi, tôi vẫn c̣n mơ mộng là khi tàu ra khơi, tôi sẽ nh́n thấy trời nước mênh mông của đại dương, tôi sẽ đứng trên boong tàu để t́m những v́ sao mà anh đă chỉ cho tôi… Nhưng có ngờ đâu, bọn người gian ác ấy sau khi lấy vàng của mọi người rồi lại c̣n muốn giết chúng tôi trên biển cả để giấu nhẹm tội ác của họ. Tàu đâu không thấy, hơn một trăm người bị nhét trên một chiếc ghe đánh cá cũ kỹ, mục nát.
Vừa ra khơi là nước bắt đầu theo những lỗ mục ngấm vào ḷng ghe. Các thanh niên thay nhau múc nước đổ ra ngoài. Người đông, ghe nhỏ nên chiếc ghe khẳm gần ngang với mặt nước, có thể ch́m bất cứ lúc nào.
Trải qua hai ngày, tôi mơ mơ màng màng trong những tiếng nguyền rủa, tiếng kêu khóc và sau cùng là những tiếng cầu kinh, tiếng gọi Phật, gọi Chúa, lẫn trong tiếng kêu la thảm thiết của những bà mẹ khi thấy con ḿnh ngất đi, không c̣n cựa quậy. Người tôi cũng chết cứng, tê dại trong cảnh tượng khủng khiếp mà cái chết cận kề chỉ trong gang tấc.
Nhưng may mắn thay, lời cầu khẩn của chúng tôi đă được ơn trên đáp ứng. Hai ngày sau, chúng tôi được một tàu buôn kéo hộ vào đảo Bidong. Đó là lần “xa bến” duy nhất và thật là kinh khủng trong cuộc đời của tôi.
Sau lần xa bến đó, tôi phải đương đầu với thực tế tại xứ người. Sau khi được định cư, tôi cắm đầu học hành và cắm đầu vào công việc làm để sống. Tôi phải luôn cố gắng v́ cuộc đời tha hương của tôi bắt đầu bằng hai bàn tay trắng. Trong những bước đầu vất vả ấy tôi không c̣n th́ giờ và thậm chí không c̣n nước mắt để khóc cho quê hương!
Bây giờ, th́ tôi đă có một cuộc sống b́nh thường trên quê hương thứ hai, có gia đ́nh đầm ấm, các con thành đạt, ngoan ngoăn. Và có lúc, những kỷ niệm đẹp tuyệt vời của thời con gái thuở 17, 18 ngây thơ và mơ mộng lại hiện về.
Đă nhiều lần tôi đi dự những buổi tổ chức kỷ niệm ngày Quân Lực VNCH 19 tháng 6, tôi cũng đă gặp nhiều cựu quân nhân Hải Quân, nhưng có bao giờ tôi gặp lại anh đâu? Ngày xưa, tôi nh́n các anh Hải Quân bằng con mắt lăng mạn qua bộ quân phục trắng tinh, qua những lời ca trữ t́nh “áo dài xanh bên áo trắng hoa biển” hay “trăng đại dương không đủ viết thư đêm…“.
Ngày ấy, tôi nghĩ rằng các anh Hải Quân ra khơi là ngắm trăng gió, là nói chuyện với các v́ sao… Đến bây giờ nghĩ lại mới thấy ḿnh đă lăng mạn hóa bộ quân phục trắng của các anh mà quên đi rằng, các anh cũng đóng góp máu xương trong cuộc chiến bảo vệ tự do cho quê hương. Máu các anh đă thắm vào nước ngọt của sông rạch miền Nam, hoà tan vào biển mặn của vùng duyên hải, của Hoàng Sa, của Trường Sa, của biển cả Nam Hải…
”Tàu đưa ta đi, tàu sẽ đón ta hồi hương….“, tiếng hát của con gái tôi trong nhà bếp vọng ra. Tiếng hát của nó mềm mại suông sẻ theo những nốt nhạc, rất khác với lúc nó nói tiếng Việt ngập ngừng và hơi cứng nghe rất buồn cười, mặc dù tôi cố gắng uốn nắn rất nhiều. Không trách được, v́ nó nói tiếng Mỹ nhiều hơn tiếng Việt, một ngày 8 tiếng đồng hồ trong trường!
Mấy năm nay, nó đă đủ lớn để hiểu là tôi muốn nó ǵn giữ tiếng mẹ đẻ nên phần nó cũng rất cố gắng. Nó hay hát nhạc Việt khi có mặt tôi.
Câu hát vừa rồi của con gái tôi đă cho tôi một hy vọng tràn đầy. Hy vọng đất nước sẽ có ngày “giải phóng” thật sự, thoát khỏi ách đô hộ của bọn giặc nội xâm, bọn quỷ đỏ vô nhân tính. Để một lần xa bến của tôi sẽ không là “một lần đi là vĩnh viễn con tàu, đi để nhớ những chiều pha tóc trắng…” như hai câu thơ của thầy Tuệ Sỹ mà tôi đă thuộc nằm ḷng để thắm thía nỗi khổ đau mỗi khi nghĩ về quê hương Việt Nam nay đă rách nát v́ môi sinh ô nhiễm, t́nh thương đạo nghĩa đă băng hoại đến nỗi phụ nữ trẻ con bị đưa đi bán phấn buôn hương khắp các nơi trên quả địa cầu!
Hăy “về bến” để chấm dứt mối tai họa đang hiện diện, để rồi xây dựng lại quê hương, xây dựng lại tinh thần đạo nghĩa của người Việt Nam mang ḍng máu Tiên Rồng, hỡi những ai c̣n nhận ḿnh là con Hồng, cháu Lạc!
Mỹ Lệ
Thiem Le
Hải Quân QL.VNC
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1529811&stc=1&d=1581692473
Tháng Hai là tháng đặc b́ệt trong năm chỉ có 28 ngày, nhưng tháng Hai năm nay 2020 lại có 29 ngày. Cho nên những người được sinh vào ngày 29 tháng Hai năm nay, phải đợi đến năm 2024 mới được ăn mừng sinh nhật v́ người viết nghe các bạn bè có sinh nhật trong ngày 29 tháng hai nói thế, không biết có đúng không?
Tại sao thế? Có người nói cứ 4 năm th́ hiện tượng tháng hai có 29 ngày được xảy ra khi lấy con số của năm đó chia được cho 4. Năm nay là năm 2020 có thể chia được cho 4. Năm 2013, 2014, 2015 không thể chia được cho 4. Măi đến năm 2024 mới chia được cho 4. Một bài toán giản dị như thế nhưng người viết không biết về phương diện thiên văn, niên lịch đă giải thích như thế nào là hợp lư. Xin các vị cao minh chỉ giáo. Xin đa tạ.
Người viết xin chúc mừng Sinh Nhật Vui Vẻ đến quư vị nào có sinh nhật trong ngày 29 tháng Hai đặc biệt này nhé. “Hooray”!
Tháng Hai lại có sinh nhật của vị Tổng Thống Mỹ Washington, năm nay nhằm ngày 17 tháng Hai và chính phủ Mỹ đă chọn ngày này làm ngày quốc lễ President’s Day luôn để ghi nhớ công ơn của các vị Tổng Thống Hoa Kỳ. Học sinh các trựng công lập và nhân viên các công sở đuợc nghĩ học, nghỉ làm trong ngày thứ hai 17 tháng Hai này. Khi c̣n đi làm trong các trường công lập tại Portland, người viết rất thích những ngày quốc lễ như thế để được nghĩ ở nhà ngủ nướng. Vui quá! Ai đi làm mà không mong có ngày được nghĩ ở nhà thoải mái có ăn lưong, phải không bạn?
Nhưng trong tháng Hai lại có một ngày dù không phải là ngày quốc lễ nhưng lại được đa số quần chúng trên thế giới đón chào trọng thể, nhất là những người đang yêu nhau và những tiệm bán hoa, bán kẹo chocolate, bán thiệp. Không nói ra mà ai cũng biết đó là ngày Valentine’s Day, 14 tháng Hai, Ngày Lễ T́nh Yêu, nếu dịch sang tiếng Việt.
Đă qua rồi thời kỳ thơ mộng của T́nh yêu, nhưng người viết cũng xin được gửi lời chúc mừng tốt đẹp nhất đến những kẻ “tôi c̣n yêu, tôi cứ yêu, tôi c̣n yêu măi măi, tôi c̣n yêu dài dài” cho cuộc đời thêm tươi đẹp nhé.
Về lịch sữ ngày Lễ T́nh Yêu này chắc chắn đă có người nói rồi trong trang báo này hay nơi báo khác. Người viết chỉ đi sưu tầm những điều lư thú mới nhất về ngày lễ đặc biệt này để chia sẻ với các bạn cho vui mà thôi.
ĐIỀU LƯ THÚ VỀ LỄ T̀NH YÊU
73% người mua hoa trong ngày 14 tháng 2 là đàn ông , 27% là phụ nữ
15% phụ nữ mua hoa gởi cho chính bản thân họ trong ngày lễ t́nh yêu
3% số người tặng quà cho pets ( con vật nuôi yêu thích)
Khoảng 1 tỷ thiệp Valentine được gởi đi mỗi năm, nhiều thứ hai chỉ đứng sau thiệp Giáng Sinh.
Giáo viên nhận được thiệp Valentine nhiều nhất, tiếp đó là trẻ em, mẹ, vợ, người yêu và thú nuôi yêu thích. 85% người mua thiệp Valentine là phụ nữ.
Món quà Valentine giá trị nhất của mọi thời đại là tháp Taj Mahal ở Ấn Độ do hoàng đế Mughal Emperor Shahjahan xây để tặng cho vợ ông đă mất.
Hàng năm hơn 189 triệu đóa hoa hồng được tặng nhau chỉ tính riêng ở Hoa Kỳ .
Vào năm 1969, trong việc sửa đổi Lịch các thánh, ngày lễ Thánh Valentine vào ngày 14 tháng 2 đă được đưa ra khỏi Lịch chung của Vatican và được đưa vào hạng đặc biệt (lịch địa phương hoặc thậm chí quốc gia).
Trong Hoa Kỳ, Hội Thiệp Chào Đón ước tính khoảng 190 triệu thiệp valentine được gửi tặng mỗi năm trong Hoa Kỳ. Một nữa trong số ấy được tặng cho những người thân ngoài vợ với chồng, thường th́ cho các đứa con. Nếu tính luôn những thiệp làm trong trường th́ có thể lên tới 1 tỷ thiệp, và các thầy cô là người nhận được thiệp nhiều nhất.Trong một số nước trên thế giới, các học sinh tiểu học làm thiệp và gửi cho nhau và thầy cô. Trong thiệp của các em cũng bày tỏ cảm xúc mến đến các bạn khác giới.
Vào thiên niên kỷ mới, mới sự ra đời và lớn mạnh của Internet đă dần dần tạo thành những truyền thống tặng thiệp mới. Hàng triệu người trên thế giới bắt đầu sử dụng thiệp in ra được trên mạng hoặc gửi thiệp bằng mạng như e-thiệp. Ước tính khoảng 15 triệu e-thiệp được gửi vào năm 2010.
Nói đến t́nh yêu, chúng ta không chỉ nghĩ đến t́nh yêu thơ mộng của chuyện t́nh nam nữ mà c̣n có những t́nh yêu nhẹ nhàng, t́nh cảm khác cũng cần đưọc nhắc đến và vinh danh.
Người viết xin mời bạn đọc câu chuyện cực ngắn dưới đây thật là dễ thương đă giúp ta t́m hiểu t́nh yêu có thể được diễn đạt qua nhiều h́nh ảnh khác và món quà trao cho nhau đâu cần phải là bó hoa hồng rực rỡ hay hộp chocolate béo ngọt.
Ṿng cẩm thạch
Cha kể, cha chỉ ao ước tặng mẹ chiếc ṿng cẩm thạch. Tay mẹ trắng nơn nà đeo ṿng cẩm thạch rất đẹp. Mỗi khi cha định mua, mẹ cứ t́m cách từ chối, lúc mua sữa, lúc sách vở, lúc tiền trường... Đến khi tay mẹ đen sạm, mẹ vẫn chưa một lần được đeo. Chị em hùn tiền mua tặng mẹ một chiếc thật đẹp. Mẹ cất kỹ, thỉnh thoảng lại ngắm nghía, cười: - Mẹ già rồi, tay run lắm, chỉ nh́n thôi cũng thấy vui. Chị em không ai bảo ai, nước mắt rưng rưng.
Sương Lam
Hôm qua là ngày Valentine tui tặng bà boss tui một bó (không phải hoa à nhe!) và một cục (hỏng phải hột xoàn luôn à nhen!) nên tối ra ngủ sô pha và cả ngày nay cũng không nghe “anh ơi! Anh à! “ quá đă :hafppy: nên mới có thời giờ vô đây đọc đủ thứ chuyện :eek:
:hafppy:
hoanglan22
02-16-2020, 02:39
Hôm qua là ngày Valentine tui tặng bà boss tui một bó (không phải hoa à nhe!) và một cục (hỏng phải hột xoàn luôn à nhen!) nên tối ra ngủ sô pha và cả ngày nay cũng không nghe “anh ơi! Anh à! “ quá đă :hafppy: nên mới có thời giờ vô đây đọc đủ thứ chuyện :eek:
:hafppy:
Vậy tui đoán bác tặng cục xà pḥng cho bà ta rồi để bà rửa sạch tay và bóp ... sạch vườn rau củhttps://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1530524&stc=1&d=1581820717 ...
Vậy tui đoán bác tặng cục xà pḥng cho bà ta rồi để bà rửa sạch tay và bóp ... sạch vườn rau củhttps://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1530524&stc=1&d=1581820717 ...
úi trời! bác làm tui xanh lè xanh lẹt mặt mày:hafppy:
bó...rau muống và cục tỏi á đại ca:hafppy:
hoanglan22
02-16-2020, 02:55
úi trời! bác làm tui xanh lè xanh lẹt mặt mày:hafppy:
bó...rau muống và cục tỏi á đại ca:hafppy:
củ gừng ...:hafppy::hafppy:: hafppy:
Bữa nọ rảnh rỗi, Bao Công rủ Công Tôn tiên sinh và Triển Chiêu đến thăm thành phố X. Đây là một thành phố đă hơn ngàn năm tuổi nên có nhiều cái để thăm thú, văn cảnh, t́m hiểu đời sống người dân thành phố này. Tuy nhiên, vốn mắc bệnh nghề nghiệp, nên Bao Công vẫn giành nhiều thời gian t́m hiểu về chuyện xử án nơi đây.
Biết ư Bao Công, Triển Chiêu vội chạy ra phố, đi t́m mua một đống báo về cho ngài xem. Khi cầm đến mấy số báo của một tờ báo nọ, Bao Công bị thu hút ngay bởi loạt bài phải ánh về một xử án vừa mới xong, trong đó, bị đơn là một người phụ nữ đă dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực trong nhiều năm qua. C̣n nguyên đơn lại chính là kẻ bị người phụ nữ kia đưa ra trước ánh sáng công luận về những việc làm khuất tất liên quan đến dự án nọ.
Điều đáng nói là trong khi bị đơn đưa ra đầy đủ những chứng cứ chứng minh sự đúng đắn của ḿnh cũng như sự sai trái của nguyên đơn, th́ bà lại bị ṭa xử thua cuộc. Sau khi đọc đi, đọc lại mấy bài báo đó, Bao Công thấy bất b́nh thay cho người phụ nữ dũng cảm đó. Ông cùng hai người tùy tùng quyết định t́m đến nhà vị chủ tọa phiên ṭa đó. Thấy 3 người lạ mặt, chủ nhà tỏ ra cảnh giác:
- Các ông đến t́m tôi có việc ǵ?
Công Tôn tiên sinh đáp:
- Về cái vụ án mà ông vừa xử xong.
- Ṭa xử xong rồi là thôi, các ông c̣n đến hỏi làm ǵ?
- Nếu toà xử đúng, chúng tôi chẳng đến t́m ông làm ǵ, nhưng v́ thấy ṭa xử sai, nên chúng tôi đến đây, v́ dù sao, chúng tôi với ông cũng là đồng nghiệp.
- Đồng nghiệp?
- Phải. Đây là Bao Công, vị này là Triển Chiêu, c̣n tôi là Công Tôn tiên sinh.
Chủ nhà giật ḿnh, nh́n kỹ vào cái h́nh trăng lưỡi liềm trên gương mặt đen của Bao Công, rồi vội vàng thi lễ:
- Dạ, kính chào Bao đại nhân. Các vị đến chơi mà không báo trước, tại hạ lại có mắt như mù, không trông thấy núi Thái Sơn. Mong Bao đại nhân cùng nhị vị đây lượng thứ cho.
Bao Công phẩy tay:
- Thôi, không cần đa lễ. Ta không có nhiều thời gian, chỉ muốn hỏi ông v́ sao trong vụ án vừa rồi, lại cố t́nh xử sai như thế?
Chủ nhà căi:
- Sai chỗ nào?
Công Tôn tiên sinh liền đem tất cả những t́nh tiết của vụ án ra nói lại một lượt, nào là ṭa sai chỗ nào, nguyên đơn sai chỗ nào, những cơ quan tiếp tay cho nguyên đơn sai ra sao … Bao Công hỏi:
- Ông c̣n ǵ để biện bạch không?
Chủ nhà cười khẩy:
- Tôi chẳng việc ǵ phải biện bạch, án đă tuyên rồi, cứ thế mà thi hành.
- Ngay cả khi dư luận người dân và nhiều vị có uy tín, địa vị cao trong xă hội lên tiếng ủng hộ bị đơn, mà các ông vẫn cố t́nh xử sai sao?
- Ủng hộ hay không là quyền của họ, c̣n xét xử là quyền của chúng tôi. Tôi xử thế nào th́ phải theo thế ấy, vậy thôi.
Triển Chiêu nóng nảy:
- Bao đại nhân ở đây mà ông vẫn ăn nói ngang ngược vậy sao?
Chủ nhà lại cười nhạt:
- Người như Bao đại nhân giờ… xưa rồi. Tôi chỉ biết tới 2 người cũng họ Bao mà thôi.
- Ai vậy?
- Một người là bạn rất thân với tôi, tên là Bao Thư (phong b́). C̣n người kia là đàn anh của tôi, tên là Bao Che. Có hai người họ Bao ấy, tôi cứ việc xử theo ư ḿnh, chẳng sợ ǵ hết
:mad:
hoanglan22
02-16-2020, 04:15
té ghế https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1530577&stc=1&d=1581826523 với nhà bác tbbt
hoanglan22
02-17-2020, 14:52
Một thời, một nơi chốn nào đó, trong đời sống ngôn ngữ dân gian lại nảy sinh ra một số tiếng lóng, một số thành ngữ, một câu hát nhại theo câu hát chính phẩm, hầu hết là để châm biếm, tạo nên nụ cười, hay có khi là để răn đe, t́m sự hoàn thiện trong cuộc sống, chúng chỉ sống một thời rồi tự biến mất, nhường chỗ cho đoạn đời “tiếng lóng” khác đến thay thế. Do đó, việc ghi chúng lại để đọc vui chơi hay phục vụ nghiên cứu văn học dân gian, chỉ có giá trị, khi ghi rơ định vị địa lư và thời gian.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1531347&stc=1&d=1581950855
Tỷ như Sài G̣n vào thập niên 60, thịnh hành một chùm tiếng lóng “sức mấy” để thay nói bất lực hay chuyện không thể. Phổ biến đến nỗi, một nhạc sĩ đă chọn làm đề tài cho một bài hát đường phố “Sức mấy mà buồn, buồn chi bỏ đi Tám”.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1531348&stc=1&d=1581950855
Những câu chuyện thuộc loại tiếng lóng đó xuất hiện vào thời buổi Sài G̣n bị tạm chiếm, Tây - Mỹ nhiễu nhương, quê hương chiến tranh buồn phiền; “sức mấy” đă trở thành bút hiệu của một chuyên mục phiếm luận trên báo, sau đó một kỹ thuật gia sản xuất c̣i ôtô đă chế ra một điệu c̣i ôtô, bấm c̣i là kêu vang trên phố một ḍng nhạc c̣i auto 9 nốt “tính tính tè tè, tè ti tè ti té”, làm cho đường phố càng náo loạn hơn.
Trước đó cũng từ bài ca Diễm xưa của Trịnh Công Sơn mà sinh ra cụm từ tiếng lóng “xưa rồi Diễm ơi”, mỗi khi có ai lặp lại một đ̣i hỏi nào đó, mà người nghe muốn gạt phăng đi.
Thời các vũ trường mới du nhập Sài G̣n như Mỹ Phụng, Baccara, Tháp Ngà, th́ dân chơi gọi Tài-pán tức người điều phối nhóm vũ nữ, bằng tiếng bóng “Cai gà”, gọi cảnh sát là "mă tà", v́ police (cảnh sát) hay mang cái dùi cui, tiếng Tây là matraque, đọc trại thành “mă tà”. Cũng từ thời thuộc địa, tiếng Tây chế ra tiếng lóng âm Việt rất nhiều như: “gác-dang” tức thuê người làm bảo vệ; tiếng Pháp gardien đọc trại ra thành gác-dang. Cũng như nói “de cái đít” tức lùi xe arriere; tiền bồi dưỡng người phục vụ tiếng Pháp: pour-bois âm bồi gọi “tiền boa”, sau này chế ra là “tiền bo”.
Cũng thời Pháp thuộc, Sài G̣n có nhiều cách nói mà đến nay không ai biết nguyên do. Tỷ như gọi ngân hàng là nhà băng, gọi sở bưu điện là nhà dây thép, mua tem dán bao thư gọi là “con c̣”, c̣n nếu gọi “ông c̣” là chỉ cảnh sát trưởng mấy quận ở thành phố, gọi “thầy c̣” tức là các ông chữa morasse các ṭa báo do chữ correcteur, nhưng nói “c̣ mồi” là tay môi giới chạy việc, “ăn tiền c̣” th́ cũng giống như “tiền bo”, nhưng chữ này chỉ dùng cho dịch vụ môi giới.
Thời kinh tế mới phát triển, đi xe auto gọi là đi “xế hộp”, đi xe ngựa gọi là đi “auto hí”, đến thời xe máy nổ ầm ào, đi xe đạp gọi là “xe điếc”, đi nghỉ mát Vũng Tàu gọi là “đi cấp”, đi khiêu vũ gọi là “đi bum”, đi tán tỉnh chị em gọi là đi “chim gái”, đi ngắm chị em trên phố gọi là “đi nghễ”, gọi chỉ vàng là “khoẻn", gọi quần là “quởn”, gọi bộ quần áo mới là “đồ día-vía”. Đi chơi bài tứ sắc các bà gọi là “đi x̣e”, đi đánh chắn gọi là “múa quạt”, đi chơi bài mạt chược các ông gọi là “đi thoa”, đi uống bia gọi “đi nhậu”, đi hớt tóc gọi đi “húi cua”. Có một cụm tiếng lóng từ Huế khoảng 1920 - 1950 du nhập Sài G̣n, đó là “đi đầu dầu”, tức các chàng trai ăn diện “đi nghễ” với đầu trần không mũ nón, để cái mái tóc chải dầu brillantine láng cóng, dù nắng chảy mỡ. Tuyệt vời gọi là “hết sẩy”, quê mùa chậm chạp gọi là “âm lịch", hách dịch tự cao gọi là "chảnh".
Tiền bạc gọi là "địa", có thời trong giới bụi đời thường kháo câu "khứa lăo đa địa" có nghĩa ông khách già đó lắm tiền, không giữ lời hứa gọi là "xù", "xù t́nh", tức cặp bồ rồi tự bỏ ngang. Làm tiền ai gọi là "bắt địa", ăn cắp là "chôm chỉa", tương tự như "nhám tay" hay "cầm nhầm" những thứ không phải của ḿnh.
Ghé qua làng sân khấu cải lương hát bội, người Sài G̣n gọi là làng "hia măo", có một số tiếng lóng người ngoài làng có khi nghe không hiểu. Tỷ như gọi "kép chầu", có nghĩa là đào kép đó tuy cũng tài sắc nhưng v́ một lư do nào đó không được nhập biên chế gánh hát, đêm đêm họ cũng xách valyse trang phục phấn son đến ngồi café cóc trước rạp hay túc trực bên cánh gà, để đợi, ngộ nhỡ có đào kép chính nào trục trặc không đến rạp được, th́ kép chầu thay thế vào ngay. "Kép chầu" phải thuần thục rất nhiều tuồng để đau đâu chữa đó.
Đào chính chuyên đóng vai sầu thảm gọi là "đào thương", kép chính chuyên đóng vai hung tàn gọi là "kép độc". Có một cụm tiếng lóng xuất phát từ hai nơi, một là cải lương rạp hát, hai là quanh các ṭa soạn báo chí, đó là "café à la... ghi” tức uống café thiếu ghi sổ...
Vào làng báo mà tiếng lóng người Sài G̣n xưa gọi "nhật tŕnh". Nếu thiếu tin lấy một tin cũ nhưng chưa đăng báo để đăng lấp chỗ trống, gọi là "tin kho tiêu”, các loại tin vớ vẩn dăm ḍng từ quê ra tỉnh gọi là "tin chó cán xe", tin quan trọng chạy tít lớn gọi là "tin vơ-đét" vedette, nhặt từ tài liệu dài ra thành một bài gọn gọi là “luộc bài", chắp nhiều thông số khác nguồn ra một bài gọi là "xào bài", truyện t́nh cảm dấm dớ gọi là "tiểu thuyết 3 xu", các tạp chí b́nh dân xoi mói đời tư gọi là "báo lá cải". Làng nhật tŕnh kỵ nhất là loan tin thất thiệt, lóng gọi là "tin phịa", nhưng trong "tin phịa" c̣n có hai mảng chấp nhận được đó là loan tin thăm ḍ có chủ đích, lóng gọi là "tin ballons" tức thả quả bóng thăm ḍ, hay tin thi đua nói dối chỉ được xuất hiện vào đầu tháng tư, gọi là "tin Cá tháng Tư".
Có đến bảy tiếng lóng để thay cho từ chết. Đó là "tịch", "hai năm mươi", "mặc chemise gỗ", "đi auto bươn", "về chầu diêm chúa", "đi buôn trái cây" hay "vào nhị tỳ”, "nhị tỳ" thay cho nghĩa địa và "số dách" thay cho số một... đều ảnh hưởng từ ngôn ngữ minh họa theo người Hoa nhập cư.
Thời điểm truyện và phim kiếm hiệp của Kim Dung nói chung là chuyện Tầu thịnh hành, người Sài G̣n đă chế ra nhiều tiếng lóng, như ai dài ḍng gọi là "ṿng vo Tam Quốc", ai nói chuyện phi hiện thực gọi là "chuyện Tề Thiên", tính nóng nảy gọi là "Trương Phi". Một số tên nhân vật điển h́nh của Kim Dung được dùng để chỉ tính cách của một người nào đó. Tỷ như gọi ai là "Nhạc Bất Quần" tức ám chỉ người ngụy quân tử, gọi là "Đoàn Chỉnh Thuần" tức ám chỉ đàn ông đa t́nh có nhiều vợ bé..
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1531349&stc=1&d=1581950855
sài G̣n là đất của dân nhập cư tứ xứ, nơi tha hương văn hóa bốn phương, nên ngôn ngữ càng thêm phong phú, trong đó tiếng lóng cũng "ăn theo" mà ra đời.
Thời Mỹ đến th́ một tiếng "OK Salem", mà các trẻ bụi đời vừa chạy vừa la để xin ông Mỹ điếu thuốc. Thời gọi súng là "sén" hay "chó lửa", dân chơi miệt vườn gọi "công tử Bạc Liêu" c̣n hiểu được, Sài G̣n xuất hiện cụm từ "dân chơi cầu ba cẳng" th́ thật không biết do đâu? Có lẽ cầu ba cẳng có tên Pallicao, lêu nghêu 3 cẳng cao như dáng vẻ cowboy trong các phim bắn súng, nên mới gọi "dân chơi cầu ba cẳng"? Đó cũng là lúc các tiếng lóng như "dân xà bát", "anh chị bự", "main jouer" tay chơi ra đời, chạy xe đua gọi là "anh hùng xa lộ", bị bắt gọi là "tó", vào tù gọi là "xộ khám”. Bỏ học gọi là "cúp cua", bỏ sở làm đi chơi gọi là "thợ lặn", thi hỏng gọi là "bảng gót". Cũng do scandal chàng nhạc sĩ nổi tiếng kia dẫn em dâu là ca sĩ K.Ng. qua Nhà Bè ăn chè, để ngoại t́nh trong túp lều cỏ bị bắt, từ đó "đi ăn chè" trở thành tiếng lóng về hành vi ngoại t́nh trốn ra ngoại ô.
Cũng có một số tiếng lóng do nói lái mà ra như "chà đồ nhôm" tức "chôm đồ nhà”, "chai hia" tức chia hai chai bia bên bàn nhậu, nó cùng họ với "cưa đôi”. Lóng thời sự loại này có "tô ba lây đi xô xích le" tức "Tây ba lô đi xe xích lô". Trong tiếng lóng c̣n chất chứa ân t́nh. Họa sĩ chuyên vẽ tranh sơn mài đề tài lá hoa sen xuất thân xứ Ca Trù hay than "buồn như chấu cắn", hay có người than phiền v́ câu né tránh trách nhiệm với hai tiếng "lu bu" để thất hứa, nay c̣n có người nhấn thêm "lu xu bu" nại lư do không rơ ràng để trốn việc. Để tạm kết thúc phần dẫn này, tôi muốn nhắc một số âm sắc Bắc Hà. Những âm sắc theo chân người Hà Nội vào Nam rồi trở thành tài sản chung của người Việt. Bắt quả tang thành "quả tó", gọi chiếc xe Honda là "con rim", gọi tờ giấy 100USD là "vé", đi ăn cơm b́nh dân gọi là "cơm bụi", xuống phố dạo chơi gọi là "đi bát phố", gọi người lẩm cẩm là "dở hơi"...
Nhưng lư thú nhất là nhờ cụ cố nhà văn Nguyễn Tuân mà Sài G̣n nay có một tiếng lóng hiện đại thay cho cụm từ đi ăn nhà hàng theo American style - tiền ai nấy trả. Đó là cụm lóng KAMA, ghép bốn chữ tắt của "không - ai - mời - ai". Đi KAMA phở một cái, tức cùng đi ăn phở mà không ai mời ai, món ăn cổ truyền nhưng ứng xử là thoải mái. Vào thời văn minh hiện đại, ngôn ngữ tiếng Anh trở thành phổ biến, giới trẻ đă chế ra một tiếng khá văn hoa, như chê một ai đó chảnh, các cô nói "lemon question" tức chanh hỏi - chảnh.
Lê Văn Sâm
hoanglan22
02-20-2020, 14:29
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1533093&stc=1&d=1582208901
Một bài viết ít có báo dám đăng
Một bài viết bị cho là chữi nhăn răng!
Bài nầy độc hơn thuốc Bà Lang Trọc
Xướng ngôn viên các đài... Mần Răng?
letamanh
Chỉ có lad dám đăng vào các Tập San: Trách Nhiệm, Lại Giang, Tây Sơn, Tập San BĐQ thôi hà!
Captovan
Người Việt viết tiếng Việt là chuyện dĩ nhiên, chỉ có VC mới giết tiếng Việt, vì chúng nghĩ rằng nước Việt sẽ bị “háng hóa” nên cái anh chàng họ Bùi kia sáng chế ra kiểu viết tiếng Việt cc (cải cách) như thêm chữ “ô” vào cái họ Bùi của hắn thành Buồi thì bậy bạ thật. Vậy mà Người Việt ở hải ngoại lại đang có khuynh hướng thích “háng hóa” như thẳng cha V+ họ Buồi kia thì quả tình là không thể ngửi được.
Tôi rất “khoái” được đọc các bài viết phê b́nh về ngôn ngữ “thổ tả” của V+ do người Việt yêu tiếng Việt đưa lên diễn đàn. Điển h́nh là ngày 9/12/2013, bạn Trần Quang đưa lên bài: “Chữ Nghĩa Sau 1975.” Rồi sau đó, bạn Vĩnh Can Canada đưa lên bài viết: “Nỗi Buồn Tiếng Việt.”
Nội dung những bài viết này nêu lên những điều sai trong cách dùng tiếng Việt của bọn “đỉnh cáo trí tệ” “Xuống Hố Cả Nút” khiến người dân xuống hố cả nút theo. Hẳn nhiên các bạn Quang và Can đưa lên diễn đàn là có ư nhắc người Việt hải ngoại, đặc biệt tập thể cựu quân nhân phải tránh xa những con virus này, những con virus VC: “thân thương, tham quan, tiếp cận, khống chế, đánh giá cao v.v..” Tôi xin theo chân các bạn Can, Quang để nêu lên một vài trường hợp tôi đă thấy, để chúng ta mỗi người một tay chặn đứng mọi chữ VC “len lỏi” vào trong các tài liệu sách báo, các đặc san quân đội.
Chắc chắn trong chúng ta không ai muốn thấy “tai nạn” này xảy ra, nhưng nó đă xẩy ra. Tôi gọi là “tai nạn” v́ người viết vô t́nh, dễ tính, hoặc không biết, v́ thế tôi xin góp ư để lạng lách cây viết cẩn thận hơn, không xảy ra “tai nạn” nữa.
Nếu xẩy ở trong các emails riêng tư qua lại trên diễn đàn th́ cũng mau chóng qua đi, nhưng nếu có chữ VC trong các bài viết, trong sách báo, lại có cả trong những cuốn sách gọi là “dòng lịch sử” th́ làm sao tẩy xóa? Tôi đă thấy bóng dáng chúng trong các đặc san quân đội, tôi tha thiết xin các vị có trách nhiệm lưu ư cho.
Đây là một việc không dễ, một vài tên du kích “ấn tượng, thân thương” núp trong nhiều trăm trang giấy, trong rừng chữ th́ làm sao phát giác?
Các chủ bút BĐQ, TQLC Đa Hiệu, KBC “ra lệnh” mỗi anh trong BBT phải đọc qua ít nhất một lần khi có bài gửi đến và nhiệm vụ chính là “vạch lá t́m sâu” VC, vậy mà cũng c̣n sót đấy, thế th́ với tập tài liệu ngàn trang, hẳn là ban biên soạn sẽ vất vả lắm đấy, tôi không biết có bao nhiêu anh làm công việc này, nhưng chắc có anh phải ngồi tâm t́nh 12/24 giờ, ngồi thâu đêm với cô “thợ giặt mặt vuông” để nhặt cho hết rác VC thì mới có thể lộng ngôn gọi là tuyệt phẩm được, còn không.. thì không thể là “tuyệt” mà chỉ là “tiệt” phẩm. Giả sử sau này khi sách in ra mà c̣n gặp chữ “thân thương” th́ buồn quá!
* * *
Người Việt chọn tự do, tự do tư hữu, là ruộng của ai người đó cày, nên người Việt viết tiếng Việt. Việt+ chọn +Sản, nghĩa là cộng tất cả tài sản cá nhân lại để chơi chung hưởng chung, tất cả cày chung một miếng ruộng, sản phẩm tạo ra đem gửi nhà trẻ quốc doanh. Cái chế độ ảo tưởng +S đó nó đă “chết-mother” nó từ lâu rồi, chết ngay từ cái gốc, chết từ nơi ông tổ khơi mào ra nó, nó cũng “chết-father” nó ở cái XHCNVN từ lâu rồi, chỉ c̣n sót lại cái đuôi “định hướng XHCN”. Nhưng ngôn ngữ quái đản mà chúng tạo ra vẫn c̣n di hại măi về sau, nó như những mầm ung thư giết chết tiếng Việt. Nhưng có một số người Việt tỵ nạn cộng sản hay bỏ chạy V+ để tha phương cầu thực th́ không chịu viết tiếng Việt, thấy V+ đít đỏ tưởng nó chín nên vẫn cứ nói theo, viết theo những thứ tiếng khỉ gió đó: “Người Việt” Giết Tiếng Việt là vậy.
Nếu là chuyện cá nhân, theo voi nhai bă mía th́ kệ .. họ, nhưng là truyền thông Tự Do mà theo đuôi ngôn ngữ V+ th́ ẹ quá, mang vi trùng lao gieo rắc đó đây những mần mống bệnh hoạn giết chết tiếng Việt th́ “thu em hỏi” (thủm) quá.
Có người nói rằng vấn nạn này nó như bệnh nan y rồi, hết thuốc chữa, cứ mở radio ra mà nghe một số xứơng ngôn viên các đài phát thanh, ông xướng, bà xướng, cô xướng, cậu xướng họ đang xướng với nhau bằng những chữ quái đản như “quá tŕnh, tham quan, hoành tráng, rốt ráo, khuyến măi, khống chế, cực kỳ, thiếu đói v.v..”. Ông Vũ Ki của đài SG-Bé mà cà-kê-dê-ngỗng tin tức trên radio th́ có bao nhiêu chữ “mới” ông dùng hết. Ông Nguyễn Có Công th́ đọc tin tức:
“Nếu Syria bị đánh, họ sẽ chống trả quyết liệt, trong quá tŕnh chống trả ấy sẽ khiến Hoa Kỳ không giải quyết được rốt ráo vấn đề.”
Muốn hiểu rơ “quá tŕnh” là ǵ th́ hăy đến trung tâm văn hóa Hồng Bàng mà hỏi, đừng hỏi thầy cô giáo dậy tiếng Việt, mà hỏi ngay các em đang bập bẹ học tiếng Việt th́ các em sẽ giải thích rơ ràng như thế này:
- Quá: là qua rồi, cũ rồi. Thí thụ như quá cố, quá vãng, quá khứ v.v..
- Trình: là đường đi, hành trình, đăng trình.
Quá trình là diễn ra trong quá khứ, xin nghe bé tâm sự:
- Sáng nay em ăn đỗ (đậu), trong quá tŕnh tiêu hóa thức ăn ở dạ dày, đậu phát sinh ra hơi nên bây giờ bé tức bụng, em muốn đánh rắm, muốn pupu....
Quá tŕnh là chuyện đă xẩy ra trong quá khứ, tức là sáng nay, c̣n bây giờ là hiện tại em đang muốn “pupu.”
Các em đă giải thích rồi đấy nhé, các ông, bà, cô, bác, cậu, mợ, chú, d́, mi, mày, bay phải hiểu cho rằng “quá tŕnh” chỉ dùng cho những diễn tiến đă xảy ra trong quá khứ mà thôi không bao giờ được phép dùng cho hiện tại và tương lai. V+ dùng “quá tŕnh” cho bất cứ thời gian nào, nó dốt nó “say so”, vậy th́ đừng dốt theo nó. Nếu không biết th́ đừng “quá tŕnh” nữa mà hăy dùng những chữ dễ hiểu, thông dụng, dễ dùng cho bất cứ thời gian nào, đó là: “trong lúc, trong khi, trong thời gian, lúc mà, tiến tŕnh v.v...”
Xin đưa ra một thí dụ bà nhà than phiền ông nhà cho dễ hiểu, dễ nhớ:
- Đêm qua trong lúc (quá trình) em đang ngủ say th́ anh đụng chạm vào.. làm cho em thức giấc, bực cả cái ḿnh. Bây giờ trong khi (quá trình) em thức th́ anh lại nằm ỳ ra đó làm em khó chịu. Lần sau, lúc mà (quá trình) em đang ngủ th́ anh đừng có làm phiền người bên cạnh đang cần sự yên lặng để nghỉ ngơi nữa à nha..
Các cô cậu xướng ngôn thử nhét cái “quá tŕnh” vào câu trên xem nó ra cái ǵ?
Những xướng ngôn viên khi đọc bản tin th́ đă xen vào những tiếng lạ tai, khó nghe, khi đọc quảng cáo th́ cứ tự nhiên như người “Hà-Lội”, như ngừơi của thành Hồ, cứ “hoành tráng, khuyến măi” loạn cào cào cả lên. Lăo bà-bà Huỳnh Qương quảng cáo rằng:
- Tết Trung Thu đă được tổ chức trong khu Phước Lộc Thọ rất là HOÀNH TRÁNG, các loại bánh trông rất ẤN TƯỢNG và có chương tŕnh KHUYẾN MĂI”!!!
Tôi hưởng tết Trung Thu từ ngày mặc quần đùi, tḥ ḷ mũi, rước đèn bằng lon sữa ḅ cho đến nay đă quá 7 bó mà chưa bao giờ nghe cái tên “Trung Thu Hoành Tráng”! Thế c̣n “khuyến măi” là ǵ nhỉ? Nghe “khuyến măi” mà tưởng chữ thu ngắn của “khuyến khích măi dâm.” Thà nói tiếng Mỹ là đít-cao, tiếng Việt là bớt giá, hạ giá có phải dễ nghe không nào?
Huỳnh Qương là một ca sĩ thanh sắc vẹn toàn, khó có ai b́ kịp, trong vai tṛ xướng ngôn viên, cô là ngừơi học cao hiểu rộng, nhưng chỉ v́ vô ư tiếp xúc với virus Vicoism hoành tráng, khuyến măi mà cô bị biến tướng thành lăo bà-bà, thật đáng tiếc.
Nhưng cái này mới khiếp đảm:
Ngày 25/7/2018, trên Truyền hình băng tần 57...hai nữ xướng ngôn viên thật xinh đẹp, mặt hoa da phấn, ăn và “lói nưu noát”, mượn lưỡi VC từ lúc nào hay các cô mới trốn... làm từ XHCN chạy sang Hoa Kỳ cầu thực, vẫn giữ nghề cũ xướng ngôn, mỗi khi chấm dứt một chương trình nào đó, thay vì nói một cách dễ hiểu lịch sự, sạch sẽ là: “Chương trình của chúng tôi đến đây là chấm dứt, là hết v.v.. thì các cô lại toét miệng cười:
“Chúng tôi xin KHÉP lại...”
Ờ thì cứ cho là phụ nữ XHCN dạng ra khép lại là chuyện thường ngày ở huyện, nhưng còn các xướng ngôn viên nữ ở hải ngoại, vửa đẹp vừa xinh, vùa có học thức thì xin ngồi khép lại hay bắt chéo chân lên nhau, đừng dạng ra để rồi phải khép lại làm gì cho khán thính giả nhớ đến vế đối vịnh cái quạt của cụ bà Hồ Xuân Hương:
“Chành ra ba góc da còn thiếu.
Khép lại hai bên thịt vẫn thừa” (*).
Dầu sao th́ trên các làn sóng phát thanh, những chữ nghĩa mà các cô cậu chôm chĩa của VC th́ nó cũng bay đi, tuy nó làm chói tai, tức bụng, nhưng cái tai hại là các cô cậu nhà báo viết trên giấy trắng mực đen ngôn ngữ VC cho đồng hương tỵ nạn cộng sản đọc th́ thật là “bây nặng”.
Tôi đem vấn nạn này đi hỏi ngtười lính viết văn PNN rằng tại làm sao lại xẩy ra hiện tượng quái đản này th́ ông bảo:
- Một số người sống lâu trong XHCN đă quen với lối nói này rồi, nay ra hải ngoại vẫn chưa thay đổi được. Một số báo cứ “copy và paste” những bản tin trong nứơc làm của ḿnh mà không dám ghi xuất xứ, mà cũng không có người sửa.
Lời giải thích của ông đúng quá và cũng đau quá, ư ông muốn nói lấy của người khác làm của ḿnh là ăn trộm, lấy bài viết của người khác mà không ghi xuất xứ là đạo văn, lấy tác phẩm nghệ thuật của người khác đem vào sách của mình mà không ghi chú xuất xứ là “đạo hình”. Làm báo mà chỉ “cắt, dán”, “cọp dê, bát” th́ chán quá mấy anh chị ơi!
Tiếng Việt là của chung, sống ở hải ngoại tự do mà bôi bẩn lên tiếng Việt th́ không chấp nhận được, Tự Do và XHCN có ranh giới rơ ràng. Ở XHCN họ nói, viết rằng những cái xe đụng nhau “liên hoàn” trên xa lộ th́ kệ họ, nhưng ở xứ tỵ nạn mà các anh chị viết xe dụng nhau “liên hoàn” trên xa lộ th́ không ai ngửi được.
Báo trong nước vừa loan tin trên xa lộ Sài G̣n Biên Ḥa xẩy ra một tai nạn 10 xe đụng nhau “liên hoàn” th́ vài ngày sau, Người Diệt tháng 8/2013 cũng đăng tin trên xa lộ 405 vửa xẩy ra một tai nạn giao thông 20 xe đụng nhau “liên hoàn”!
Ối trời cao đất dầy ơi! Nó dốt nó không biết phân biệt thế nào là liên tiếp, thế nào là liên hoàn nên nó mới viết xe đụng nhau liên hoàn, tức là cái xe bị đụng đầu tiên (số 1) quay ṿng ngược trở lại để húc, đụng đầu vào đít xe cuối cùng. Chuyện này chỉ có thể xẩy ra ở một ṿng tṛn, c̣n trên đường thẳng th́ chỉ có ở XHCN. Những chuyện tưởng như đùa mà có thật.
Trong bản tin về trung tâm Vân Sơn, ông-bà Đức Tuấn ghi lại lời của Vân Sơn:
- Bên cạnh phần mang lại tiếng cừơi cho khán giả, tuy chương tŕnh có vẻ nặng về MẢNG hài, chúng tôi vẫn không lơ là về MẢNG sáng tạo nội dung sống động cho phần ca hát. Đó là mặt mạnh của chúng tôi, bởi v́ đội ngũ nghệ sĩ tham gia MẢNG hài của TTVS được xem là phong phú.
Chả hiểu có phải chính Vân Sơn dùng chữ “mảng hài” để nói về chương tŕnh hài hước của anh ta hay kư giả-giả của báo Người Diệt này mang cái “mảng hài” ra nhét vào miệng Vân Sơn, dù bất cứ anh nào đi nữa mà nói như vậy th́ đúng là hề thật.
Tự điển tiếng Việt do Khai Trí xuất bản trước 1975 định nghĩa “mảng” là “mảnh”, mảng vườn, mảnh vườn, mảnh đất, mảng da, mảng áo tơi, “áo tơi một mảng lặng ngồi thả câu” chứ đâu có ai gọi là mảng văn nghệ, mảng hài bao giờ! Thấy VC gọi “mảng văn hóa” là các anh nhái theo “mảng hài”! Hề quá.
Cũng vẫn là “Người Việt”, cô Lọc Ngan th́ gọi những người phụ trách trang trí sân khấu là những ông “đạo cụ”! Ơ hay nhỉ, tại sao lại có mấy ông cụ “cụ đạo” ṃ vào hậu trường sân khấu TN Paris làm ǵ trong khi các nữ ca sĩ thay đồ để bị cô Lọc Ngan mắng cho là đồ “đạo cụ”, không lẽ các cụ vừa ấy... lại vừa cạo?
Cũng trên báo Người Việt, một ông là gốc Bắc Kỳ di cư 54 như tôi, chứ không phải BK mang AK vào Nam nhận họ nhận “hàng” sau 30/475, nhưng ông lại thích quên chữ Việt của ông để vuốt đuôi ngôn ngữ V+ trong bài viết cảm tưởng của ông về một ngừơi vừa mới ra đi là cựu Trung Tá TQLC Can Trường. Tôi đọc được điếu văn của ông trên Người Việt như thế này:
- Anh (người quá cố) là một thành viên hoạt động NĂNG NỔ, chắc chắn anh sẽ gặp lại những người THÂN THƯƠNG.
Thưa ông nhiều chữ họ Đoàn Thanh L.., trong tự điển tiếng Việt xuất bản trước năm 1975 tại miền Nam có 14 chữ NĂNG..., nhưng không có chữ nào là “năng nổ” cả, có 70 chữ THÂN..., nhưng không có “thân thương”.
Bản tính người quá cố Đoàn Trọng Cảo là hăng say, hoạt bát, nhiệt t́nh, nhanh nhẹn, quyền biến, linh hoạt, có t́nh thần trách nhiệm v.v.., bao nhiêu đức tính sẵn có của nguời lính VNCH, của Can Trường Trường Can th́ ông L.. không dùng lại đi mượn cái chữ của V+ nghèo nàn mà gán vào áo quan cho người quá cố th́ phản bạn quá!
Đội tuyển túc cầu XHCN đấu đâu thua đó, thua bét-ti-ngă, thua cả Lào, Cao Miên, khi về nước, câu đầu tiên mà thủ trưởng khen là: “tôi đánh giá rất cao các anh...”, sau khi đánh giá cao xong là mới chửi. Thế mà “Người Việt” lại viết “đánh giá cao” việc cộng đồng Việt hải ngoại đi bộ gây quỹ cho nạn nhân băo “Hải Yến” thì nhảm nhí quá đi thôi.
Mấy cái chữ thổ tả “đánh giá cao” không bao giờ có trong tiếng nói hay sách báo VNCH, nó được V+ sáng chế ra để khen chiếu lệ sau đó mới kê khai khuyết điểm để chửi, việc đi bộ gây quỹ có kết quả tốt đẹp, một nghĩa cử vậy mà Người Việt “đánh giá cao” th́ NV tào lao thật.
“Chỉn Chu” là con “bú dù” gì?
Ông Lưu Vội Vã, một phụ mẫu chi dân thời VNCH viết bài than phiền về vụ giờ dây thun trong các tiệc cưới trên tờ xxx như sau:
Thiệp mời ghi bắt đầu lúc 6 giờ, tôi ăn mặc “chỉn chu” đến nhà hàng đúng 6 giờ thì chưa thấy ai...!”
Bớ ông Niu! Trong nước họ “chỉn chu” là quyền của họ còn ông, ngày xưa mỗi lần đi họp ông ăn mặc “chỉnh tề”, vậy ông phải nhớ viết là “chỉnh tề” chứ cớ chi nói leo theo VC “chỉn chu” là con “bú-dù” gì?
Còn ông Trần Vớ Vẩn, một chuyên viên địa ốc kiêm địa.. thì than phiền giá nhà Nam CA quá cao vì “quỹ đất” để xây nhà mới không còn!
Xin ông trả “quỹ đất, mặt bằng” về cho người dân XHCN, đừng lẻo mép liếm môi họ rồi nói theo.
Người sính chữ nghĩa V+, dùng chữ V+ th́ bào chữa là không phải của V+, mà có trong tự điển tiếng Việt từ lâu. Tôi đồng ư với lập luận lập lờ này, đành rằng có một số chữ như “tiếp cận, đăng kư, ấn tượng, khẩn trương” v.v... có trong tự điển, nhưng chúng ta dùng đúng lúc đúng chỗ, thí dụ như “t́nh trạng khẩn trương, những đường tiếp cận, có ấn tượng tốt” v.v.. chứ không dùng lộn tùng phèo làm nghèo tiếng Việt như họ hiện nay.
Tháng 5/75, đoàn xe motôlova chở tù từ trường Taberd xuống Long Giao, dọc đường anh em ta mót... quá kêu thầm tên ba-ác khiến tên cai tù nghe được bèn cho dừng xe thả tù xuống:
- Các anh đái “khẩn trương” lên!
Nghe V+ nói: “đái khẩn trương” nhiều anh em cười té đái, khỏi cần “khần trương.”
Cái gốc của nó nghèo nàn th́ kệ họ, cả một đất nước đẹp giầu chúng c̣n muốn dâng cúng cho Tàu Cộng th́ xá chi một vài chữ nghĩa! Tiếng Việt c̣n th́ nứơc Việt c̣n, nay chúng dâng biên giới, biển đảo cho “tàu lạ” th́ việc chúng giết tiếng Việt cũng không lạ, cái lạ là Ngừơi Việt viết tiếng Việt bỗng chốc trở thành Người Việt giết tiếng Việt th́ tai hại quá, muốn theo voi V+ để hít bă míaTàu Cộng hay sao?
Lại có bạn than rằng nạn chôm chĩa chữ nghĩa V+ là hết thuốc chữa rồi, nó làn tràn khắp nơi do nghị qu.. 36, có nói cũng như nứơc đổ lá môn, nước đổ đầu vịt v.v...
Tự ḿnh yếu đuối nên cái ǵ cũng đổ thửa cho cái “nghị quyết 36 kiểu”, nứơc đổ lá môn, nhưng các lăo bà xướng ngôn, nhà báo, văn sĩ đâu phải lá môn, c̣n các ông th́ đâu phải là đầu vịt, chỉ v́ tí $ quảng cáo, viết văn dễ tính mà nỡ giết chết tiếng Việt.
Cái cần làm ngay để giữ cho tiếng Việt được trong sáng, tiếng Việt c̣n th́ nước Việt c̣n là tất cả những báo chí, tập san, đặc san, “lỏng san” có gốc lính phải tuyệt đối làm gưong trước không để sót bất cứ một tên du kích “bức xúc” nào chui vào, không những diệt tận gốc mà c̣n có bổn phận phổ biến rộng răi, quảng bá nhiều lần những biện pháp ngăn ngừa và tiêu diệt chữ nghĩa V+. Những ngừơi từng cầm súng diệt cộng, nay cầm viết th́ vẫn có nhiệm vụ diệt chữ nghĩa V+, chứ đừng lười biếng, cẩu thả viết chữ VC là giết chữ Việt Nam Cộng Ḥa.
Những ai “có chức” khi đứng trước đám đông muốn nói ǵ th́ nói nhưng phải uốn lữơi 7 lần để khạc ra những cục đàm “ấn tượng, thân thương, tham quan” v.v.., muốn viết văn thư, thông cáo, thông báo th́ phải lách cho kỹ, cho sạch ngôn ngữ VC kẻo bị người đời cười chê, bị mang tiếng là ngừơi “có chứt”. Những ai chữ nghĩa bề bề th́ không thể buông thả, khi viết th́ phải lách, phải loại bỏ những ngôn ngữ VC đi.
Sau nữa là ước mong ngừơi dân tỵ nạn cộng sản đă bỏ chạy cộng sản th́ tiếp tục “bỏ chạy” ngôn ngữ VC đi, truyền thông, báo chí tỵ nạn cộng sản nêu cao tấm gương bảo vệ tiếng Việt cho được trong sáng, ứơc mong không v́ vài đổng bạc cắc mà bán rẻ chữ nghĩa tiếng Việt để mua về, ôm vào báo chí của ḿnh những cái nghèo nàn dốt nát của VC.
Người Việt hăy viết tiếng Việt, Người Việt đừng giết tiếng Việt.
Captovan
(*) Vịnh cái quạt của bà Hồ Xuân Hương.
Sau khi bài viết này được phổ biến thì người viết nhận được bài thơ của đọc giả Phong Châu có cùng lập trường “Xin đừng giết tiếng Việt.”
Xin cám ơn Cô, Bà (Cậu, Chú, Bác) Phong Châu và gửi đến quý vị một bài thơ rất là “hoành tráng” (chứ không chia sẻ, chia xẻ gì cả):
Sao đành quên tiếng Việt Cộng Ḥa,
Ngôn ngữ Vàng của tổ tiên ta,
Nói năng viết lách tanh mùi cộng,
Tội này nhất định tớ chẳng tha.
Chữ nghĩa thế này phải tránh xa,
Tham quan, tiếp cận với lũ tà,
Hoành tráng, quá tŕnh nghe rốt ráo,
Ấy là chữ nghĩa của loài ma.
Khuyến măi: hoan hô nghề măi dâm,
Khẩn trương vơ vét của dân lành,
Nói năng khoác lác thành năng nổ,
Khống chế dân lành đang đấu tranh.
Chị em ta được đánh giá cao,
Mấy mảng khai xuân bác ra vào, (*)
Vui xong bác bảo: hăy khép lại,
Liên hoàn ngu tận tới đỉnh cao.
***
Lắm kẻ quên tiếng Việt Cộng Ḥa,
Ngôn ngữ ngàn xưa tổ tiên ta,
Nói năng viết lách tanh mùi cộng,
Tội này nhất định tớ chẳng tha.
Chữ nghĩa thế này phải tránh xa,
Tham quan, tiếp cận với lũ tà,
Hoành tráng, quá tŕnh nghe rốt ráo,
Ấy là chữ nghĩa của loài ma.
Khuyến măi: hoan hô nghề măi dâm,
Khẩn trương vơ vét của dân lành,
Nói năng khoác lác thành năng nổ,
Khống chế dân lành đang đấu tranh.
Chị em ta được đánh giá cao,
Một mảng thịt thiu cứ ra vào,
Bác hồ bảo: khép khi xong cuộc,
Liên hoàn ngu tận tới đỉnh cao.
Phong Châu
Ghi chú:
khai: nguyễn thị minh khai
xuân: nông thị xuân
hoanglan22
02-21-2020, 06:44
“Em và các con thương mến,
Được thư này em t́m mọi cách ra thăm nuôi anh. Khi đi nhớ mang cho anh các thứ cần thiết sau đây :
- Bánh tét : 30 đ̣n,
- Bánh ếch phơi khô : 100 cái,
- Bánh tổ : 10 bánh, ...
- Thịt chà bông : 3 kư,
- Gạo sấy : 20 bịch,
- Thuốc lào 3 số 8 : 10 bánh,
- Kẹo chuối : 3 gô,
- Đường thẻ : 5 kư,
- Muối mè : 2 gô,
- Sả khô trộn muối, ớt, bột ngọt : 1 bịch lớn,
- Tôm khô : 5 kư,
- Thịt gà ram mặn : 2 con,
- Cà phê : 1 kư,
- Lạp xưởng : 5 kư,
- Sữa hộp : 20 hộp,
- Thuốc lá : 1 cây (mười gói),
- Sữa bột : 5 kư.
Anh luôn cố gắng học tập, lao động tốt để sớm được Đảng và Nhà Nước khoan hồng xét tha để về sum họp với em và các con.”
Các tù binh xôn xao. Người chắt lưỡi, kẻ hít hà, khi nghe bức thư với những liệt kê dài thọng và nặng kư vừa được đọc. Người ngồi bên phải tôi nói :
- “Cầu cả trăm kư.”
Người ngồi bên trái tôi lắc đầu, nói nhỏ :
- “Vợ tôi chắc chắn chẳng làm cách nào có đủ sức mà mua ngần ấy thứ. Nội chạy gạo nuôi mấy đứa nhỏ đă đủ sặc máu.”
Tôi nh́n người vừa nói với cái nh́n đồng cảm.
Tên cán bộ công an phụ trách công tác giáo dục của phân trại nheo nheo mắt đọc tiếp bốn bức thư tương tự nhưng “nhẹ kư” hơn bức thư vừa đọc.Y ngúc ngúc cái đầu làm cái nón cối màu vàng lệch qua một bên, y đưa tay sửa lại chiếc nón cối, nói :
- “Các anh nào có những bức thư tôi vừa đọc hăy viết lại thư khác. Xin ǵ mà xin dữ thế. Các chị phải bán cả nhà để đi thăm các anh ấy à. Đảng và Nhà Nước ta có bỏ đói các anh đâu. Đă bảo các anh nhiều lần là “Thăm viếng” chứ không phải “Thăm nuôi”. Việc nuôi các anh đă có Đảng và Nhà Nước lo.”
Các tù binh im lặng nh́n nhau. Tất cả đều há miệng đáp “rơ” khi tên cán bộ giáo dục hỏi :
- “Các anh có rơ không ?”
Sau đó, đám tù binh đứng lên, sắp hàng để ra hiện trường lao động.
***
Lật bật rồi cũng có những người vợ ở miền Nam đường xa lặn lội mang quà cáp ra miền Bắc thăm chồng.
Hiểu rơ hoàn cảnh của gia đ́nh ḿnh nên tôi rất ít hy vọng vợ tôi sẽ ra thăm tôi. Thế nên tôi rất đỗi ngạc nhiên, mừng rỡ khi được gọi tên. Quà cáp vợ tôi mang theo không được như những yêu cầu của những bức thư bị bắt phải viết lại nhưng cũng đă quá đủ với tôi, người tù cải tạo đă mười năm. V́ là một cá nhân tiên tiến trong đội nên tôi được ở lại qua đêm ở nhà tiếp tân với vợ tôi. Chúng tôi đă hàn huyên tâm sự. Vợ tôi kể về chuyện học hành của các đứa con bây giờ đă lớn. Khi được tôi hỏi làm cách nào vợ tôi có đủ tiền nuôi con từ bấy đến nay, và có thể mua quà cáp để từ miền Nam ra miền Bắc thăm tôi, th́ vợ tôi cho biết là cũng bắt chước các chị em khác buôn bán làm ăn. H́nh như có điều ǵ đó nàng không muốn nói với tôi. Lúc tôi tỏ ư muốn ân ái với nàng th́ nàng từ chối với lư do v́ sợ phải chửa đẻ. Tôi nuốt nỗi ham muốn khi thấy lư do của vợ tôi nêu ra là chính xác.
- “Bây giờ mà em bầu b́ chửa đẻ là có nước chết.”
Khi mang những quà cáp vào trại với dồn nén sinh lư không được thỏa măn, tôi rất đỗi ngạc nhiên v́ những thứ đắt giá, cần thiết mà vợ tôi đă mang ra cho tôi trong chuyến thăm nuôi. Tôi không h́nh dung được công việc làm ăn buôn bán của nàng ra sao. Hồi tôi chưa bị tù tội, vợ tôi chỉ là người đàn bà nội trợ đảm đang. Gia đ́nh chúng tôi sống nhờ vào đồng lương Sĩ quan cấp Tá của tôi chỉ vừa đủ chi tiêu rất dè sẻn.
Tôi im lặng nghe những người bạn đồng tù kể lể chuyện thăm nuôi. Anh Ân, ở chung đội nhà bếp với tôi, cười tủm tỉm, nói :
- “Bà vợ của tôi bả hay thiệt. Anh biết bây giờ bả cũng biết mánh mung này nọ. Buông cái này, bắt cái kia. Hết đi buôn gạo tới buôn thuốc tây, hết đi thịt heo tới đi bột ngọt.”
Anh nhỏ giọng nói với tôi :
- “Anh biết, hồi tôi đi tù, bả ôm đứa con mới sanh mấy tháng.. Tôi đi mà rầu thúi ruột. Nhỏ con gái giờ đă mười tuổi rồi. Tôi tá hoả lúc bả đưa cái “Bao cao su ngừa thai” cho tôi lúc tôi ngỏ ư muốn ăn nằm với bả. Anh biết, bả mà biết xử dụng ba cái vụ này với ḿnh th́ ở nhà đâu có ǵ cấm bả đưa cho người khác xử dụng. Chắc bả cũng biết tôi nghĩ ǵ nên bả nói : Anh đừng có nghi tầm bậy, tầm bạ. Ba cái này bây giờ được mấy ổng phổ biến khắp nơi. Tháng nào hội phụ nữ ở trên Phường cũng thông báo chị em phụ nữ tới lănh. Thu xếp để đi thăm nuôi anh, đọc trong thư anh viết anh là cá nhân tiên tiến trong đội, vợ chồng được phép thăm nuôi 48 tiếng nên em mới nghĩ tới mang theo mấy cái này.”
Lúc tuột quần ra, vợ tôi bả c̣n rắn mắc :
-“Anh đừng có ghen tuông kỳ cục. C̣n y nguyên đây nè. Anh khám coi nó có ṃn miếng nào hôn ?”
Anh ta lắc đầu :
- “Anh biết, tôi chịu thua bà vợ luôn. Bả bắt tôi xài hết sáu bao cao su bả mang theo trong hai đêm, mệt muốn bứt gân luôn.”
Tôi ngạc nhiên nh́n người bạn hiền lành, ít nói và chợt nhận ra khi một người được hạnh phúc, người đó muốn chia xẻ với người khác.
***
Một hôm ở nhà bếp tôi gặp Long, lao động tự giác của đội 6, chuyên phụ trách hái trà của phân trại, cũng vừa được vợ thăm nuôi. Các tù nhân tự giác thuộc các đội buổi trưa đều được vào trại để lấy phần ăn. Trong số các tù nhân tự giác, Long là người rất dễ thương. Thỉnh thoảng anh ta vẫn dúi cho tôi gói trà “móc câu” nước trà xanh, uống vào đăng đắng lúc đầu nhưng hậu vị rất ngọt. Ở trại cải tạo, sáng sớm hút điếu thuốc lào ba số 8, chiêu một ngụm nước trà móc câu là một hạnh phúc tuyệt vời. Lâu lâu anh ta lại dúi cho tôi một gói, nói theo bọn tù h́nh sự là mới “thửa” được.
Gặp tôi hôm đó, anh ta có vẻ buồn. Tôi hỏi :
- “Sao được vợ ra thăm nuôi mà không được vui ?”
Tôi thấy mặt anh ta sịu xuống, giọng nói chán nản :
- “Bể hết rồi, ông anh. Tan nát hết rồi, ông anh !”
Tôi lấy phần cơm sắn của ḿnh và thức ăn được thăm nuôi ra mời Long cùng ăn chung với tôi ở căn pḥng thay quần áo của đội nhà bếp. Tôi im lặng nghe Long kể chuyện.
- “Anh biết, cả nửa năm rồi, má tôi có viết thư báo cho tôi biết là vợ tôi nó đă giao con cho má tôi đi lấy… Cán bộ rồi. Tôi cố không tin. Nhưng mà thơ của má tôi viết sờ sờ ra đó. Được phép viết thơ cho gia đ́nh ra thăm nuôi tôi cũng cứ viết đại. Người tôi chờ đợi ra thăm là má tôi. Ai mà dè lại là con vợ tôi.”
Ngưng lại để nuốt mẩu sắn nhăo nhẹt, Long nói tiếp :
- “Anh biết nó ra thăm nuôi tôi với thằng Cán bộ chồng mới của nó y như thơ của má tôi đă viết. Anh biết thiệt hết sức ngỡ ngàng. Tôi lại được thăm nuôi bốn mươi tám tiếng. Anh biết, lúc con vợ tôi nó giới thiệu với thằng Cán bộ nón cối, tôi chết điếng trong ḷng. Không biết phải nói ǵ. Con vợ tôi nó nói nó ra đây thăm tôi lần cuối cùng, xin tôi cho phép nó đi lấy chồng khác, v́ không biết phải chờ tôi tới bao giờ. Mà nó th́ c̣n trẻ.”
Tôi nhận đồ thăm nuôi. Tôi nói với nó tôi sẽ vào trại. Tôi sẽ kư giấy ưng thuận cho nó, từ giờ nó tự do muốn lấy ai th́ lấy. Vợ tôi nó yêu cầu thằng cán bộ ra ngoài để nó nói chuyện với tôi. Nó yêu cầu được ăn nằm với tôi lần cuối cùng trước khi đi lấy chồng. Tôi vừa giận mà lại vừa thương con vợ tôi. Sao nó lại đi bày cái chuyện oái oăm. Nó ôm tôi khóc lóc thảm thiết. Tôi th́ nghĩ bụng: nó đă muốn vậy th́ cho vậy. Với lại đă lâu ḿnh cũng thèm khát. Trong hai đêm tôi trút tất cả những hờn giận, thương yêu vào thân thể con vợ tôi, trong khi bên pḥng bên kia thằng Cán bộ cứ lăn qua, trở lại v́ không ngủ được. Bốn mươi tám tiếng rồi cũng hết. Vợ tôi và thằng Cán bộ ra về.”
Long chợt bật khóc :
- “Anh biết, lúc đó tôi giận con vợ tôi ghê lắm : tại sao nó lại đặt tôi và thằng Cán bộ vào hoàn cảnh trái ngang. Tôi làm t́nh với nó để trả thù nó. Để chọc tức thằng Cán bộ. Giờ nó về rồi tôi mới nghĩ lại mà thấy tội cho nó. Không biết rồi nó với thằng Cán bộ sẽ sống với nhau như thế nào. Thiếu ǵ đàn bà, con gái mà sao thằng Cán bộ nó không lấy mà lại nhè lấy vợ tôi ? Bộ hết người rồi sao ? Sao con vợ tôi nó lại bày ra cái cảnh oái oăm ? Mà sao tôi lại đi chấp nhận cuộc chơi một cách kỳ cục ?”
Long gạt nước mắt, nói tiếp với giọng nói ráo hoảnh :
- “Tôi không biết con vợ tôi nó có được hạnh phúc không ? Thằng Cán bộ nó sẽ đối xử với vợ tôi như thế nào khi nó đă hai đêm nằm trằn trọc ở pḥng kế bên mà nó biết chắc chắn chúng tôi đang làm chuyện vợ chồng ở pḥng bên này.”
***
Câu chuyện của hai người bạn tù được vợ thăm nuôi càng làm tôi âu lo về vợ tôi và cuộc sống gia đ́nh. Đêm đêm tôi trằn trọc nh́n những con chuột đói đuổi nhau trên mái nứa. Tôi lo sợ những bất trắc, đă và đang, xảy đến cho gia đ́nh tôi. Có phải vợ tôi, cũng như bao nhiêu người đàn bà miền Nam khác, là những cành đào trôi ngược trong cuộc đời giông băo hiện tại ?
Những âu lo không có nhiều thời gian trong trại cải tạo. Cái đối diện thường trực của những người tù là cái đói. Là đợi chờ vô vọng một ngày về.
Cuối cùng rồi tôi cũng được trở lại với đời sau khi đă trải qua những tầng địa ngục.
Tôi có cái may mắn là khi trở về chẳng phải đứng trước ngôi nhà đổi chủ. Tôi cũng chẳng phải ngỡ ngàng khi bước vào nhà thấy có nón cối Bộ đội úp sẵn trên bàn, dép râu B́nh Trị Thiên nằm dưới sàn nhà, kế bên, con chó già không nh́n ra chủ cũ.
Khi tôi trở về nhà cửa vẫn như xưa. Các con tôi đă lớn. Thằng con rất đẹp trai và có vẻ thông minh. Hai đứa con gái đang ở vào lứa tuổi : Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi !
Tôi cám ơn Trời, Phật đă giúp đỡ gia đ́nh tôi. Tôi thầm hănh diện là gia đ́nh ḿnh vẫn c̣n nguyên vẹn trong khi biết bao gia đ́nh khác đă tan nát v́ hậu quả của chiến tranh.
Tiệc đoàn viên rất là ấm cúng. Vợ tôi có già đi v́ năm tháng nhưng tôi thấy nàng vẫn đẹp như xưa. Nàng, đối với tôi, quả là một chinh phụ của thời đại mới. Nàng đă thay tôi : dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân.
Gia đ́nh chúng tôi, đối với mọi người, là một gia đ́nh hoàn toàn hạnh phúc trong cái xă hội đă nhuốm độc dược Cộng sản.
***
Như những người tù cải tạo khác, tôi được Hoa Kỳ nhận cho định cư trong Chiến Dịch Nhân Đạo.
Ngày từ giă Quê hương, tôi muốn hôn lên mặt đất thầm hẹn một ngày về khi đất nước không c̣n bị cai trị bởi một Chủ nghĩa bạo tàn.
Cửa Thiên đường đang rộng mở. Tôi đă thầm tính toán với số tiền truy lănh, với ngôi nhà được chính phủ Mỹ cấp phát, với số tiền 2.000 đô-la được Đức Giáo Hoàng cho ngay khi tới phi trường Bangkok. Với ngần ấy thứ, tôi vẽ cho gia đ́nh tôi một tương lai tươi sáng.
Tôi hân hoan bước lên phi cơ nơi phi trường Tân Sơn Nhất ngày càng bệ rạc v́ những chủ nhân ông mới. Những chú Công an, nhưng nhân viên Quan thuế rất là dễ dăi với những Lưu, Nguyễn của thời đại mới. Nh́n đâu cũng bắt gặp những nụ cười. Vợ tôi biếu chú công an gói 555, chú nhân viên Quan thuế hộp x́ gà, cô tiếp viên một thỏi son ngoại quốc. Chuyến bay xa dần quê hương mà tôi đă buồn đau, sung sướng trong gần sáu mươi năm trời, đáp xuống Thái Lan đất Phật nhưng lại là nơi xuất phát những tên hải tặc gieo đau thương kinh hoàng cho người Việt Nam vượt biển trong mười mấy năm qua. Hai ngàn đô-la của Đức Giáo Hoàng theo lời đồn đăi là một vỡ mộng ban đầu. Rồi những chuyến bay kế tiếp đưa những Lưu, Nguyễn bất đắc dĩ đến thiên đường hạ giới Hoa Kỳ. Căn nhà thuê mướn cho cả gia đ́nh là vỡ mộng thứ hai. Và số tiền truy lănh cũng chỉ là những tin đồn.
Có điều mấy đứa con tôi đă lớn. Chúng nhanh chóng thích nghi với hoàn cảnh của Xứ Cơ Hội.
Chúng tôi không may đến Mỹ vào lúc nền kinh tế nước này đang trên đà xuống dốc. Tiền trợ cấp buổi ban đầu đă giảm. Dù sao tôi vẫn c̣n có cái an ủi là được Tự Do và không c̣n lúc nào cũng lo sợ sẽ bị đưa trở lại nhà tù như lúc c̣n ở Việt Nam.
Tôi rất đỗi đau long khi nghe tin một người bạn tù, quen biết hồi cải tạo, v́ sự tan vỡ của gia đ́nh, đă treo cổ tự tử. Tôi không bao giờ chọn giải pháp tiêu cực và bi thảm đó. Tôi đă không chết ở những địa danh muỗi ṃng đỉa vắt, mịt mù sương lam chướng khí, chẳng lẽ tôi lại chết ở xứ đất tiền, đất bạc này ?
Tôi quyết làm lại một cuộc đời khác. Tôi không muốn sống măi với những nỗi buồn đau. Tôi muốn các con tôi có một tương lai. Và nhất là tôi muốn vợ tôi được hạnh phúc trong quăng đời c̣n lại; bởi, nàng đă phải hy sinh quá nhiều. Bởi, nàng là một người vừa được phục sinh. Nàng là một cành mai nhị độ.
Tôi muốn kể lại đây một lần chuyện đau buồn của đời tôi mà cuộc chiến tranh dai dẳng giữa hai miền Nam, Bắc đă gây ra…
Như đă biết, tôi là một tù binh đă trải qua những tầng địa ngục từ Nam chí Bắc. Khi c̣n sống sót trở về, gia đ́nh vẫn c̣n nguyên vẹn chớ không phải chia ĺa, tan nát như những gia đ́nh khác th́ tôi có ǵ mà phải đau buồn. Sự thực th́ không phải như vậy. Hạnh phúc nào chẳng ẩn giấu những nỗi khổ đau. Đôi khi hạnh phúc của người này lại là bất hạnh của kẻ khác. Và hạnh phúc không phải là sự vừa ư. Và người ta chỉ thực sự hạnh phúc khi biết tha thứ.Xin đừng thắc mắc với những “Triết lư ba xu” của tôi.
Xin hăy vui ḷng nghe tôi kể tiếp câu chuyện.
***
Đêm sum họp đầu tiên, sau bữa cơm gia đ́nh, những ly Champagne làm tôi ngầy ngật. Tôi thấy vợ tôi vô cùng lộng lẫy như đêm tân hôn mấy chục năm về trước. Các con tôi đă rút vào pḥng. Tôi ôm hôn vợ tôi và ngỏ ư muốn ân ái với nàng. Nhưng nàng lắc đầu từ chối với lư do là nàng đang tới kỳ kinh nguyệt. Nàng lui vào pḥng khép cửa lại. Tôi nằm trên bộ sa-lông với cơn thèm muốn dục t́nh tràn ứ cơ thể. Có lẽ v́ mệt mỏi, v́ rượu sau bao nhiêu năm mới được uống lại, tôi thiếp đi chẳng biết bao lâu. Khi thức giấc, tôi thấy đèn trong pḥng vợ tôi vẫn c̣n sáng. Cơn thèm muốn lại nổi lên. Tôi gơ cửa. Câu trả lời chỉ là những tia sáng hắt ra từ những khe hở. Tôi nghe h́nh như có tiếng khóc. Tôi xoay nắm cửa mới biết là cửa pḥng đă khóa.
Tôi bực dọc trở lại chỗ nằm với ḷng ấm ức. Tôi cố dỗ giấc ngủ mà chẳng tài nào ngủ được. Trong cơn mê tỉnh chập chờn, tôi bỗng nghe có tiếng ngă xuống của một chiếc ghế ở trong pḥng của vợ tôi. Tôi gơ mạnh cửa nhưng chẳng có tiếng trả lời của vợ tôi. Tôi tông mạnh cửa pḥng để kịp nh́n thấy vợ tôi nằm sóng soài trên nền gạch, trên tay c̣n nắm chặt những tờ giấy. Ngọn đèn vẫn tỏa sáng. Mấy chai lọ nằm chỏng trơ bên cạnh nàng. Tôi hoảng hốt la toáng lên. Các con tôi thức dậy. Tôi biết vợ tôi đă dùng thuốc ngủ để quyên sinh. Tôi vội vàng đưa nàng đến Bệnh viện. Tôi van xin Bác sĩ, hăy cứu dùm vợ tôi. Tôi đau xót nh́n nàng nằm im như một xác chết. Vị Bác sĩ mới là đáng ghét làm sao. Ông ta nói như một cái máy: “Ông hăy an tâm, chúng tôi sẽ cố gắng. Nhưng mà bà nhà đă dùng quá nhiều thuốc ngủ nên t́nh trạng rất trầm trọng.” Tôi như kẻ mất hồn. Tôi van vái Trời, Phật nếu có kẻ phải chết xin để tôi chết thế cho nàng - người chinh phụ của thời đại mới đă thay chồng nuôi dạy con cái nên người.
***
Vợ tôi nằm im ĺm như một xác chết trong ba ngày đêm. Tôi đọc đi, đọc lại nhiều lần bức thư c̣n hoen những giọt nước mắt của vợ tôi :
“Anh yêu và các con thương mến,
Khi anh đọc bức thư này cũng là lúc em ĺa bỏ cơi đời. Xin anh hăy tha thứ cho em về những việc làm nhơ nhớp chỉ v́ em muốn có tiền để nuôi sống các con và thăm nuôi anh. Ngay sau khi anh đi cải tạo một tháng theo lệnh của Ủy Ban Quân Quản, em cảm thấy bơ vơ và lo sợ vô cùng. Từ khi vợ chồng ḿnh chung sống với nhau cả gia đ́nh ḿnh chỉ sống nhờ vào đồng lương của anh. Rồi các con cái ra đời. Anh vất vả ngược xuôi lo cho mẹ con em. Nhờ chắt chiu dành dụm mà gia đ́nh ḿnh không đến nỗi túng thiếu. Khi những người thắng trận tràn vào Thành phố, không có anh em không biết xoay sở cách nào. Em đă cố gắng bắt chước các chị em khác đi buôn bán để kiếm sống qua ngày. Nhưng anh biết em đâu có nói dối được với khách hàng. Lại không biết cách bắt mối với tài xế, lơ xe để dấu hàng khi qua các trạm Thuế vụ. Do đó, sau vài chuyến đi buôn em đă cụt vốn, đành phải bán lần hồi những ǵ mà vợ chồng ḿnh đă mua sắm để mà sống qua ngày. Chiếc xe Honda anh vẫn dùng để làm phương tiện tới sở làm mỗi ngày được bán để mua sắm trong lần thăm nuôi anh ở trại Suối Máu, là vật đáng giá sau cùng. Khi nhận được thư anh gửi từ miền Bắc là lúc gia đ́nh chẳng c̣n ǵ để bán. Lúc đó cũng là lúc thằng con vừa được trở về nhà với chứng bệnh sốt rét sau hai năm đi Thanh niên Xung phong. Vừa đọc thư anh liệt kê những món cần thiết, vừa nh́n những đứa con ốm yếu xanh xao, cùng âu lo với mẹ mà ḷng em quặn thắt. Có lúc em định bán cái nhà để đi thăm nuôi anh nhưng sợ bán đi rồi th́ mấy mẹ con sẽ ở đâu. Thế nên em đă làm một chuyện vô cùng dại dột là đă “Ngủ với kẻ thù” để có tiền chữa bệnh cho con và đi thăm nuôi anh. Ngày ngày em trang điểm thật đẹp, em hẹn bán thân xác cho những kẻ thù có chức, có quyền (Và dĩ nhiên là phải có tiền). Em đă qua tay hết người này đến người khác, sau ba năm cầm đồ bán đạc. Những năm sau đó, cái em mang đi bán là cái trinh tiết, danh giá của một người đàn bà đă có chồng. Em không muốn các con không được đi học. Em muốn khi lớn lên chúng được đầy đủ kiến thức như ngày xưa chúng ta đă bàn tính với nhau. Em không muốn anh phải âu lo, thiếu thốn ở những trại giết người của những kẻ thắng trận. Em đă làm-đàn-bà-để-sống với ước muốn duy nhất là được gặp lại mặt anh để giao lại các con cho anh. Nhơ nhuốc này chẳng làm sao mà rửa sạch chỉ trừ cái chết. Em từ chối ăn nằm với anh v́ em nghĩ rằng em không c̣n xứng đáng với anh. Các con không biết được những việc làm nhơ nhuốc của mẹ nó. Em đă qua mặt được mọi người lối xóm. Ai cũng khen em là người đàn bà đảm đang v́ em đă khéo léo che đậy những việc làm nhơ nhớp của ḿnh. Em không muốn lừa dối anh. Em xin lấy cái chết để tạ tội cùng anh - người chồng mà em suốt đời yêu thương và kính trọng. Anh hăy đốt lá thư này sau khi đọc xong. Em không muốn tâm hồn các con bị vẩn đục v́ có một người mẹ không xứng đáng. Xin anh hăy chiều em một lần cuối cùng - như từ bấy lâu nay anh vẫn chiều em.
Vĩnh biệt anh.
Người vợ tội lỗi của anh.”
Tôi hoa mắt lên. Tôi đọc đi, đọc lại bức thư nhiều lần. Th́ ra những điều lo sợ của tôi lúc c̣n ở trong trại cải tạo là sự thật. Những ḍng chữ như nhẩy múa trước mặt tôi.
Tôi đă chạy như bay đến Bệnh viện khi được thằng con trai báo tin là vợ tôi đă được cứu sống. Tôi lao vào căn pḥng có vợ tôi đang nằm im ĺm, thoi thóp. Tôi kịp giữ nàng lại lúc nàng cố gắng lấy sức tàn để đập đầu vào tường tự sát một lần nữa. Tôi ôm nàng và khóc như chưa bao giờ được khóc. Tôi van xin nàng hăy v́ tôi, v́ các con mà sống.
Tôi quỳ xuống lạy nàng ba lạy và nói với nàng :
- “Đă chẳng phải em đă chết ba ngày, ba đêm rồi đó sao. Em bây giờ đă là một người khác.”
Tôi nói miên man những ư nghĩ rất thực của ḿnh :
- “Em không có lỗi ǵ với anh cả. Tất cả chỉ là cái hoàn cảnh trái ngang mà chúng ta phải gánh chịu. Bằng cái chết em đă sống lại trong anh, em lại càng cao quư hơn trong anh; bởi, em đă sống thực với em.”
Chúng tôi ôm nhau. Và khóc.
***
Mùa Xuân năm đầu tiên ở xứ lạ, tôi viết tặng “Cành mai nhị độ” của tôi hai câu lục bát :
“Sau lần vấp ngă đứng lên
Cảm ơn nhau : vẫn đi bên cuộc đời.
Môi buồn lại nở nụ cười.
Mắt hoen ố lệ lại ngời tin yêu.”
Với tin tưởng rằng mùa Đông buốt giá rồi sẽ qua đi, để từ đó, bắt đầu một mùa Xuân nắng ấm.
Nguyễn Thiếu Nhẫn
hoanglan22
02-22-2020, 07:28
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1533945&stc=1&d=1582356467
Đợi đến khi nào dân Mỹ thấy tỵ nạn Việt mà bịt mũi, bịt mồm quay qua chỗ khác, khu Bolsa tại thủ đô Tỵ Nạn vắng teo như chùa Bà Đanh lúc bấy giờ nước đến chân…. hết nhảy!
Kìa quân tầu ô !!!!
Tuần trước, thủy thủ già đi dạo mát tại khu Embarcadero. Du khách Tầu, Đại Hàn, Nhật Bản bu đông nghẹt tại bức tượng The Kiss và chen chúc lên chiếc USS Midway. Cứ nghe tiếng líu lo, ngộ, nị ồn ào là ttg lảng ra chỗ khác, nhất là có tiếng ho và ách xì là khập khiễng bước nhanh.
Đây cũng một phần là do tâm lý không thích thái độ tự nhiên hơn người Hà Lội của người tầu. Hành động bắn giết, cướp bóc, bắt nạt ngư dân, lấn chiếm biển đảo của nhà cầm quyền Bắc Kinh đã khiến không riêng gì người Việt mà cả thế giới e dè. Tránh xa đám đông là thái độ thận trọng, phòng ngừa lây bệnh đại dịch Corona là việc phải làm. Ngay cả chính dân Tầu cũng phải đeo khẩu trang và cô lập những nguồn bệnh, cho nên không nên suy diễn sự thận trọng quá đà mà thổi phồng tâm lý kỳ thị dân tầu.
Những sự kiện ghét Tầu, tẩy chay nhà hàng, khu đông người Tầu tại Pháp và Hòa Lan chỉ là những trường hợp cá biệt, chưa phải là phong trào. Không phải toàn thể dân chúng của các quốc gia Âu Châu đều kỳ thị người Tầu trong đại dịch Corona mà chỉ có một số nhỏ vốn sẵn mang tinh thần kỳ thị đã có những lời phát ngôn và hành động quá đáng.
Đợi đến khi nào dân Mỹ thấy tỵ nạn Việt mà bịt mũi, bịt mồm quay qua chỗ khác, khu Bolsa tại thủ đô Tỵ Nạn vắng teo như chùa Bà Đanh lúc bấy giờ nước đến chân…. hết nhảy! Bởi thế những ai về VN ăn Tết hãy mau trở lại Mỹ và những ai lăm le về thăm “chùm khế ngọt” hãy hủy vé máy bay ngay tút suỵt để tránh hậu hoạn. Còn quý vị nào chưa chích ngừa cúm hãy đi chích ngay!
Hải Trinh
hoanglan22
02-24-2020, 03:00
Tôi làm t́nh báo v́ có máu phiêu lưu, thích chuyện mạo hiểm, sau nầy lại thêm mối thù việt cộng giết cha tôi. Ông già tôi là chủ một nhà máy xay lúa nhỏ ở vùng quê tỉnh Bạc Liêu. V́ là vùng mất an ninh nên phải đóng thuế cho Việt cộng, ấy vậy mà cũng bị chúng nửa khuya đến gơ cửa đem ra đồng bắn bỏ. Cả mấy năm sau, tôi cố tâm điều tra mới biết rơ thủ phạm là một tên nằm vùng trong xóm, chỉ v́ một xích mích nhỏ, hắn dẫn đồng bọn về giết người.
Dĩ nhiên tôi trả thù.
Sau khi tốt nghiệp sư phạm, trong lúc chờ sự vụ lệnh, tôi lẻn về nhà trốn trong pḥng không cho hàng xóm biết, đến khuya tôi đến nhà hắn, nằm sau hè chờ. Ở thôn quê không có pḥng vệ sinh trong nhà, khi cần th́ ra sau vườn.
Qua đêm thứ hai hắn mở cửa ra đi tiểu, tôi chĩa súng vào lưng hắn:
- Đồng chí ra ngoài kia trả lời trước tổ chức về vài việc cần gấp.
Hắn sinh nghi định phản ứng, tôi giáng cho một bá súng vào đầu, hắn bất tỉnh, tôi cột chân tay hắn, cơng trên lưng, ́ ạch băng đồng ra chỗ bọn chúng giết cha tôi.
Tôi khai thác tận t́nh cho đến khi hắn thú nhận tội giết cha tôi, lúc đó tôi mới cho hắn biết sự thật.
Hắn van lạy, nhưng vô ích, h́nh ảnh cha tôi chết oan ức, mắt vẫn mở trừng trừng khiến tôi sôi gan. Sau đó gia đ́nh tôi bán nhà máy xay lúa, bán nhà lên Sài G̣n ở.
Tốt nghiệp xong tôi được điều đi các Tỉnh dạy học. Sau mỗi công tác t́nh báo dù thành công hay thất bại tôi lại chuyển qua Tỉnh khác.
Câu chuyện bắt đâu khi tôi được giao cho việc theo dơi một cô thợ may ở ngoại ô một thành phố ven biển miền trung.
Nguyên nhân là thỉnh thoảng lại có truyền đơn rải vào buổi sáng trên con đường vào Thị xă. Đây là con đường mà đa số nông dân thường đem nông sản vào chợ bán.
Họ chở bằng xe đạp, xe Lam hay xe ḅ. Sáng sớm nào cũng có cảnh sát ŕnh ở đó nhưng chẳng thấy ai đáng t́nh nghi cả.
Sau phải cho người nằm sát lề đường mới khám phá ra một cô gái đi xe đạp chở rau muống phía sau, dưới chân chỗ bàn đạp để mớ truyền đơn, cứ dỡ nhẹ chân là truyền đơn rơi xuống đường khó mà thấy được nhất là ở quăng đường tối.
Qua điều tra đây là cô thợ may nhà ở vùng ngoại ô, sát địa giới thành phố.
Sau nhà là một vạt ruộng nhỏ trồng rau muống, mỗi sáng cô chở rau vào chợ bán sỉ cho bạn hàng rồi về ngay.
Cô sống với một mẹ già hơn sáu mươi tuổi. Gọi là tiệm chứ thực sự là một bàn máy may phía trước, cách một tấm vách cót là giường ngủ của hai mẹ con vừa làm chỗ thử áo quần. Gia đ́nh nầy mới từ một Quận miền núi về hơn một năm nay. Theo báo cáo, trước đó cô là nữ sinh trung học, sau theo nghề may.
Tiệm của cô khá đông khách v́ cô hiền lành, vui vẻ lại lấy công rất rẻ, có lẽ đây là trạm giao liên hơn là cơ sở kinh tài của địch.
Nhiệm vụ của tôi là t́m cách tiếp cận cô để theo dơi. Tôi sẽ đóng vai một kẻ si t́nh cô, gặp gỡ cô mà bọn chúng không thể nghi ngờ, hoặc tốt hơn nữa sẽ được móc nối làm việc cho chúng.
Một buổi sáng Chúa nhật tôi chạy xe gắn máy gần đến nhà cô th́ xe chết máy phải dừng lại sửa.
Tôi vào tiệm xin cô miếng giẻ rồi loay hoay mở máy ra chùi, thay bu gi, tháo b́nh xăng con… toát mồ hôi mà xe vẫn không nổ.
Tôi xin cô miếng nước uống và ngồi trước hiên nhà cô hỏi vài câu vơ vẩn rồi dẫn xe về.
Qua hôm sau tôi đem một xấp vải đến nhờ cô may cho một áo sơ mi. Lần nầy tôi được cô mời vào nhà v́ tôi là khách.
Thế rồi, thỉnh thoảng tôi lại nhờ cô may một thứ ǵ đó và tôi ngập ngừng nói là tôi làm thế để được dịp gặp cô, không gặp tôi nhớ.
Cô có vẻ bất ngờ, nhưng yên lặng. Những lần sau cô lại càng giữ ư, nhưng tôi bắt gặp trên đôi mắt cô mỗi khi thấy tôi, long lanh niềm vui. Trong lúc tṛ chuyện tôi cho cô biết về gia đ́nh tôi rằng ông già tôi tham gia mặt trận bị Quân đội Quốc Gia hành quân bắn chết.
Thỉnh thoảng tôi đi chùa nghe thuyết pháp hoặc tham gia mít tinh, tôi phát ngôn bừa băi ra người bất măn chế độ.
Sau một thời gian lạnh lùng, giữ kẽ, cô có vẻ thân thiện, vui vẻ hơn.
Kẻ thù trong bóng tối đang kéo dần con mồi về phía chúng, tôi biết ḿnh đă được để ư, nhưng chỉ đến đấy th́ hầu như bế tắc, tôi không biết được những ǵ chúng tôi cần.
Một sáng chủ nhật, như thường lệ tôi đến thăm cô, nhưng đến nơi chỉ thấy một đống tro tàn đang bốc khói. Th́ ra, không hiểu v́ sao lúc khuya lửa bắt cháy, hai mẹ con chỉ kịp chạy thoát thân. Tôi khuyên nhủ nhưng cô vẫn lắc đầu lo lắng.
- Tiền mua bàn máy may, mua miếng đất em trả chưa hết nợ, c̣n quần áo của khách nữa, họ nói bao nhiêu phải cố mà trả. Nhưng em c̣n đồng nào đâu!
Tôi hứa với cô là sẽ hết ḷng t́m cách giúp đỡ. Thế rồi tôi về bán chiếc xe gắn máy. Nhờ bà con chung quanh phụ giúp nhặt nhạnh những miếng tôle c̣n xài được, mua ít vật liệu, dựng lại căn nhà mới cũng khang trang, ngoài ra c̣n mua được một bàn máy may mới nữa. Chỉ trong một tuần tôi lo toan cho cô chu toàn.
Từ đấy thái độ của cô đối với tôi thay đổi hẳn. Chúng tôi thường đưa nhau đi xem hát, ăn quà rong, đôi khi cô đến nhà trọ thăm tôi nữa.
Mỗi khi đi với nhau cô thường chải chuốt, thoa chút phấn hồng trên má, trông cô đẹp hẳn ra, như lột xác từ một cô thợ may lọ lem thành một nàng tiên, nhưng đối với tôi, đi bên cô, nhất là những chỗ vắng, tôi có cảm giác rờn rợn, tưởng như ḿnh đang đứng trước đỉnh đầu ruồi của một họng súng nào đó trong bóng tối.
V́ nghề nghiệp, lúc nào tôi cũng cảnh giác, ngụy trang, dọ dẫm t́m một chỗ an toàn phía sau lưng.
Một lần cô ghé nhà trọ thăm tôi, có một bà hàng xóm biết cô là thợ may đến năn nỉ cho con gái học nghề may.
Cô là học sinh thi hỏng tú tài, muốn theo nghề may để phụ giúp gia đ́nh.
Nghe tôi nói thêm vào cô ta có vẻ bằng ḷng nhưng hẹn ít hôm nữa mới trả lời, có lẽ chờ quyết định của tên đầu sỏ, chỉ huy cô.
Tuần sau cô đồng ư nhận học tṛ. Được độ ba tháng nhờ sáng ư, cô bé học nghề khá tiến bộ. Tiệm may cũng đông khách hơn trước.
Một hôm tôi gọi riêng cô bé hàng xóm qua nói chuyện.
- Em học nghề may với chị Lan đến đâu rồi?
- Em cắt chưa vững nhưng may th́ khá lắm, khách nào cũng khen đường chỉ em thẳng, mịn và đẹp.
- Có lẽ cần một máy may nữa mới phụ chị Lan kịp giao hàng cho khách.
- Em cũng nghĩ vậy nhưng không có tiền.
Tôi tâm sự với cô học tṛ.
- Như em biết, thầy và chị Lan yêu nhau, dự định sẽ làm đám cưới, nhưng thầy c̣n ngại h́nh như chị Lan đang yêu ai nên thầy nhờ em giúp thầy t́m hiểu chị Lan xem có ai đến thân mật chuyện tṛ với chị ấy không?
Em sẽ chẳng làm ǵ cho chị ấy nghi ngờ. Thầy có cái máy nầy, sẽ giấu dưới xách tay của em, khi đến nơi, em chỉ cần mắc xách tay sau lưng chỗ ngồi của em sát vách với pḥng thử áo quần.
Chỉ thế thôi, đừng cho bất cứ ai biết chuyện nầy. Nếu chị Lan hay ai bắt gặp cứ bảo rằng đó là máy thu thanh, thầy sẽ chỉ em cách mở nghe đài phát thanh.
Em cũng đừng cho chị ấy biết là thầy cho em mượn tiền mua máy may, sợ chị nghi ngờ, ghen tuông phiền phức.
Thế là chúng tôi nghe rơ những trao đổi, bàn bạc với nhau của bọn chúng trong pḥng thử quần áo. Một bộ phận khác ŕnh thu h́nh những khách hàng khả nghi và tiến hành điều tra.
Chúng tôi gần như nắm vững tất cả những tên nằm vùng, cơ sở kinh tài, nơi chứa chấp những tên xâm nhập nữa, nhưng tên đầu sỏ vẫn chưa t́m ra!
Trong nghề nầy, một chút sơ ư là chết. Như cô thợ may, bị chúng tôi theo dơi mà không hay biết.
Cô với tôi như hai tay nhu đạo đang lừa nhau để vật đối thủ xuống, cô đă bị thất thế hoàn toàn, nhưng tôi chưa ra tay và chờ cô ra đ̣n.
Có thể cô làm bộ chuyện tṛ, hỏi han để t́m hiểu tôi hoặc rủ tôi một chiều nào đó ra vùng quê hóng gió tâm sự…
Nhưng tuyệt nhiên chuyện đó không xảy ra. Cô lúc nào cũng ít nói, dịu dàng, nhưng như thế lại càng làm tôi e ngại và thấy cô rất bản lĩnh, rất nguy hiểm.
Đi bên cô tôi cố làm vẻ sung sướng, hạnh phúc nhưng thật sự tôi có cảm tưởng cô như con rắn độc, chỉ một tích tắc cô hành động là đời tôi tàn ngay.
Mạng tôi đổi mạng cô th́ không xứng. Thế nên tôi chẳng hứng thú ǵ trong vai tṛ nầy cả.
Tôi được lịnh phải tiến xa hơn tức là phải chung đụng xác thịt để giữ chặt con mồi, nhưng tôi không làm được. Dù cô có yêu tôi thực hay giả vờ tôi cũng quyết không đụng chạm đến nơi thiêng liêng đó của người con gái. Đó là nhược điểm của một tên t́nh báo non tay nghề như tôi.
Mùa hè năm đó, đối phương lên phương án tấn công Tỉnh. Mẻ lưới được tung ra. Chúng tôi dự định hành quân vào lúc khuya.
Buổi chiều cô bé học may về báo cho tôi biết là lúc trưa có một ông sư khất thực đến trước nhà, cô Lan ra cúng dường, ông sư lầm thầm tụng kinh chúc phúc như mọi khi, nhưng lúc quay vào, thấy mặt cô tái mét, người cứ run lên bần bật…
Chúng tôi đề nghị Cảnh sát hành quân sớm hơn dự định. Thế là cả bọn bị tóm, kể cả chính tôi cũng bị cảnh sát đến gơ cửa, c̣ng tay, đẩy lên xe cây.
Thường th́ sau khi vở kịch đă hạ màn như thế, tôi thảnh thơi nghỉ ngơi rồi nhận công tác mới.
Nhưng không hiểu sao h́nh ảnh cô ta vẫn nguyên vẹn trong đầu tôi.
Khi cô bị bắt, bị giam giữ, ḷng trắc ẩn của tôi lại nổi lên. Đàn bà, con gái, trẻ con không có chỗ trong chiến tranh, họ phải được ở hậu phương, phải được thường xuyên che chở, bảo vệ. Một cô gái vô ư vấp ngă thấy đă động ḷng rồi, huống ǵ cô thợ may hiền lành, dịu dàng kia đang bị nhốt trong nhà giam sau những song sắt như một con thú đă bị săn bắt, chờ ngày bị đem xẻ thịt.
Tôi đă nhiều lần bí mật nh́n cô ủ rũ ngồi ở một góc pḥng giam, héo úa như không có linh hồn, không c̣n cảm giác, suy nghĩ ǵ.
Tương lai là chết rũ trong tù, t́nh yêu, hy vọng của tuổi thanh xuân coi như đă chấm hết.
Đối với cô, tôi thấy thật bất nhẫn, lừa gạt một cô gái dù cô ta được điều khiển từ trong bóng tối. Và khi cảm tưởng cô không c̣n là kẻ thù của tôi nữa, sự cảnh giác đă được gạt bỏ, như bụi bặm trên một bức tranh đă được chùi sạch, để lộ ra h́nh ảnh trong sáng, dịu dàng của cô trong tâm trí tôi.
Thế nên tôi đề nghị thả cô ra để cho những con mồi khác đến móc nối lại với cô.
Từ pḥng giam, tôi lại được gọi lên để đối chất về sự liên hệ giữa tôi và cô.
Chúng tôi xác nhận có yêu nhau nhưng chẳng biết ǵ về Việt cộng cả và anh cảnh sát thẩm vấn (vờ) tin ngay là thật, anh hứa sẽ thả chúng tôi ra và anh cảnh sát bỏ đi làm giấy tờ.
Tôi đến ngồi gần cô cầm lấy tay cô, cô ngước nh́n tôi và lắc đầu, có lẽ cô cho rằng lời anh thẩm vấn viên chỉ là cái bẫy, nhưng tôi cố t́nh cho cô hiểu tôi là người có thẩm quyền, tôi cứu cô ra v́ tôi yêu cô.
- Như em đă nghe lúc năy, anh xin bảo lănh em và chịu trách nhiệm liên đới về những hành động của em sau nầy.
Nếu em thương yêu anh thực ḷng th́ em hăy lánh xa những ǵ có thể gây nguy hiểm cho em.
Em c̣n mẹ già phải nuôi dưỡng, rồi em sẽ lập gia đ́nh, có con cái, sống hạnh phúc như bao người b́nh thường khác.
Đừng dại dột nữa, không phải anh sợ bị vạ lây nhưng nếu em gặp chuyện không may anh sẽ đau khổ lắm.
Anh sẽ thu xếp cho em và mẹ em vào Sài G̣n sống lẫn trong đồng bào th́ sẽ không có ai quấy rầy em nữa.
Chúng ḿnh sẽ làm đám hỏi và khi nào anh vận động xin về dạy gần Sài G̣n sẽ làm đám cưới.
Cô cúi đầu yên lặng nghe, rồi cô nắm tay tôi đặt lên đùi cô, siết nhẹ. Một giọt nước mắt rơi trên tay tôi. Tôi thở phào nhẹ nhơm. Cô đă hiểu ư tôi. Cô viết cho mẹ cô một lá thư, dặn bán nhà để chuẩn bị về quê, chỉ giữ lại bàn máy may.
Sau đó chúng tôi lặng lẽ về Sài G̣n.
Nhờ bạn bè giúp đỡ, tôi t́m mua được một căn nhà nhỏ ở chợ Cây Quéo, góc đường Hoàng Hoa Thám, Ngô Tùng Châu Gia Định. Dĩ nhiên việc theo dơi cô không phải đă chấm dứt.
Công tác của chúng tôi thường được t́nh báo Mỹ yểm trợ.
Người Mỹ rất hào phóng nhưng cũng rất nguyên tắc, họ đă vui vẻ trả lại tiền cho tôi mua lại chiếc xe gắn máy, trả cả những chi phí lặt vặt như đưa cô đi xem hát, ăn quà rong.
Nhưng sau cuộc hành quân, hồ sơ coi như đă đóng. Lần nầy tôi lại bán xe, vay mượn thêm để lo cho cô mà không biết khi nào mới có tiền mua lại xe khác.
Suốt mấy tháng hè, tôi về Sài G̣n với gia đ́nh. Buổi chiều tôi thường ghé thăm cô, có khi tôi ăn cơm tối với gia đ́nh cô.
Sau bữa ăn, bà mẹ dọn dẹp chén đĩa, c̣n cô th́ xin phép đi tắm. Chợ Cây Quéo nằm trong một đường hẻm, sau khi tan chợ chiều, trở thành vắng lặng như ở một vùng quê
Sau nhà cô có một sân vuông nhỏ, rào kín chung quanh, tôi thích ra đấy ngồi xuống một ghế gỗ dài để chờ cô. Cô có thói quen là sau khi tắm cô không mặc nịt ngực, nên qua lần vải mỏng, đồi ngực cô thẳng đứng lên, lồ lộ như hai mụt măng tre vừa chồi lên khỏi mặt đất.
Cô ngồi cạnh tôi, nghiêng đầu dùng khăn ṿ mái tóc cho khô, chải nhẹ cho tóc thẳng, xong cô ngửa người vuốt mái tóc về sau lưng, rồi cô nh́n tôi mỉm cười.
Tôi yên lặng ngắm cô, tưởng như thấy rơ làn da mịn màng, thơm tho của thân thể cô… Sau đó chúng tôi có một thứ quà rong như chè hay trái cây để vừa ăn vừa chuyện tṛ đến khuya mới chia tay.
Sau kỳ nghỉ hè tôi được chuyển ra Huế dạy học, tôi viết cho cô một lá thư dài và hẹn Tết sẽ về xin làm đám hỏi.
Tính cô ít nói, ngay cả thư trả lời chỉ vỏn vẹn mấy câu “Được thư anh, em khóc mấy hôm nay v́ vui mừng. Cám ơn anh đă hiểu em và lời hứa của anh lần nầy em tin là thật, bằng trái tim và cả cuộc đời em”.
Khoảng cuối năm đó tôi xin phép về Sài G̣n, khi đến nhà cô tôi ngạc nhiên thấy nhà đă sửa sang lại tươm tất. Cô dẫn tôi ra phía sau khoe một căn pḥng vừa mới được xây thêm.
- Mẹ ngủ pḥng ngoài kia, em ngủ trong nầy.
- C̣n anh th́ nằm dưới đất?
Cô đỏ mặt nhưng sung sướng.
- Anh với em pḥng nầy chứ.
Lễ hỏi chúng tôi diễn ra đơn giản, kín đáo. Gia đ́nh tôi cứ tưởng tôi sẽ lập gia đ́nh với một cô nữ sinh nào đó, không ngờ là một cô thợ may. Chẳng phải họ kỳ thị hay giai cấp ǵ mà theo lệ thường, thầy giáo rất dễ chọn vợ đẹp trong trường ḿnh dạy.
Nhưng khi gặp lần đầu, mọi người đều thích cô ngay. Cô vừa hiền vừa đẹp một cách thùy mị.
Mẹ tôi cứ mẹ mẹ con con với cô ngọt xớt, các cô em gái tôi th́ tíu tít hỏi han, tṛ chuyện rất thân mật khiến cô bối rối, vụng về v́ cảm động.
Từ đó gần như ngày nào tôi cũng đến nhà cô, đôi khi ngủ lại nữa, nhưng chúng tôi đă hứa với nhau phải giữ ǵn, để dành cho ngày hôn lễ.
Cô có những suy nghĩ lẩm cẩm rất đàn bà. Cô thêu những áo gối có h́nh quả tim, tên tôi và tên cô lồng vào nhau, h́nh đôi chim đang bay, rồi cô phân vân về tên của những đứa con trong tương lai. Tôi chế giễu th́ cô giận, nhưng thâm tâm cô rất vui sướng với giấc mơ đơn giản đó.
Tôi bàn với cô vài tháng nữa sẽ làm đám cưới, nhưng rồi đầu năm 1975 miền Nam bắt đầu sụp đổ từng mảng, tất cả tan ră như bọt nước.
Người ta ùn ùn chạy về phía Nam, tôi phải nấn ná lo tiêu hủy hồ sơ, phân tán mạng lưới nên vào đến Đà Nẳng lại đành quay về Huế v́ miền Trung đă rơi vào tay đối phương rồi. Kẻ thù h́nh như chưa biết ǵ về tôi cả ngoài cái vỏ bọc thầy giáo trung học. Việt cộng bắt đầu gọi các cô thầy đến khai lư lịch và như đang sắp xếp mở cửa các trường học.
Thế rồi khoảng cuối tháng năm, năm bảy lăm, nửa khuya, chúng đến vây nhà trọ, gơ cửa, c̣ng tay tôi dẫn ra xe.
Thoạt nh́n, ngoài chiếc xe cảnh sát chở đầy bộ đội tôi c̣n thấy một xe mang số ẩn tế Sài G̣n, tôi biết ngay bọn chúng đă t́m ra chính xác tông tích tôi. Nhưng tại sao trung ương lại không hủy hồ sơ?
Ngồi kèm tôi là hai tên bộ đội c̣n trẻ mang súng AK. Phía trước, bên cạnh tài xế là một người đàn bà. Xe chạy ra khỏi cửa Thượng Tứ, qua cầu Trường Tiền đến đường Duy Tân, chiếc xe chạy trước quẹo vào Ty cảnh sát (cũ), c̣n xe chở tôi chạy thẳng, hướng về quốc lộ. Tôi đoán chúng đưa tôi về Sài G̣n khai thác. Tôi dự định thoát thân, nhưng đến gần phía Nam tôi mới hành động. Nghĩ thế nên tôi buông thả, thiu thiu ngủ dưỡng sức.
Dọc đường xe phải ngừng ở các nút chặn, tên tài xế cũng là bộ đội tŕnh giấy và nói ǵ đấy, ánh đèn loang loáng vào xe, rồi xe lại tiếp tục. Đến Quảng Ngăi trời đă rạng sáng, tôi lơ mơ mở mắt nh́n quanh. Bỗng tôi lạnh người khi nhận ra người đàn bà ngồi phía trước là cô thợ may, vợ sắp cưới của tôi.
Hoá ra chúng tôi đă lầm trong điệp vụ vừa kể, tên đầu sỏ là cô ta chứ không phải gă thầy tu khất thực.
Tôi cay đắng cười thầm ḿnh thua trí một người đàn bà, cô đă ngụy trang một cách tài t́nh, không chỉ đánh lừa chúng tôi mà c̣n đánh lừa cả đến lũ chân tay của cô.
Nhớ lại những ngày chúng tôi bên nhau, tôi sượng sùng, xấu hổ với cô. Cô đă đóng một vai kịch rất xuất sắc, rất bản lĩnh, tôi vẫn chỉ là một con mồi ngây thơ.
Ấy vậy mà tôi cứ tưởng t́nh yêu chân thành của tôi đă cảm hoá được cô. Giờ đây cô ngồi đó, lạnh như tiền. Cô đang nghĩ ǵ về tôi, một tên điệp viên hạng bét, ngây ngô, lăng mạng tiểu tư sản?
Xe đến B́nh Định, ghé vào một quán cơm bên đường, tôi được tên bộ đội mở c̣ng nhưng dặn:
- Cần ǵ nói tôi, giữ khoảng cách năm bước, đến gần hay xa hơn, sẽ bị bắn bỏ.
Tôi được dẫn vào ngồi một bàn ở một góc quán, mấy tên bộ đội ngồi hai bên, c̣n cô ta th́ ngồi riêng.
Sau bữa ăn, lúc trả tiền cô lôi ra một xấp bạc mới tinh, rút vài tờ vất đấy, đứng dậy, không lấy tiền thối. Tôi cố tỏ ra sợ sệt và ngoan ngoăn để chúng tin, hi vọng đến chiều tối nếu cũng ăn uống như thế nầy tôi sẽ bỏ chạy rất dễ dàng và bóng đêm sẽ che chở cho tôi.
Nhưng tôi đă lầm, xe chạy suốt đến sáng, đến ngă ba Hàng Xanh theo đường Bạch Đằng, rồi Chi Lăng, Ngô Tùng Châu và vào hẽm chợ Cây Quéo.
Cô vào nhà một lúc lâu mới đi ra với bà mẹ. Hai mẹ con ngồi phía trước, xe lại tiếp tục trở ra xa lộ đến Biên Hoà quẹo hướng Vũng Tàu.
Tôi đoán chúng sẽ truy tôi về công tác ở Vũng Tàu, Long Hải trước đây hoặc giao cho lũ nằm vùng, nội tuyến đă bị tôi đưa đi tù, và chúng sẽ mặc sức trả thù.
Đến Vũng Tàu, ghé mua mấy ổ bánh ḿ thịt, xe vào một khách sạn hạng trung b́nh. Sau khi ăn uống, làm vệ sinh, tôi lại bị c̣ng tay cho vào pḥng riêng, phía ngoài là hai tên bộ đội canh cửa.
Tôi nghe cô ta dặn hai tên gác là phải cảnh giác cao độ với tên địch nguy hiểm đó (là tôi), và cô đến ủy ban quân quản có chuyện cần, sẽ về ngay.
Tôi mệt mỏi lăn ra ngủ một giấc lấy sức, dự định tối nay leo cửa sổ trốn đi. Cái c̣ng không thành vấn đề, một cọng thép nhỏ là xong, và cọng thép đó đang nằm trong sợi dây đồng hồ mà tôi đă có được lúc tôi đ̣i đi tiểu ở hàng cơm ở B́nh Định.
Nhưng đến gần tối, sau khi được ăn một ổ bánh ḿ nữa, chúng lại c̣ng cả chân tôi vào giường và hai tên bộ đội ngồi ngay trong pḥng tôi, thay phiên nhau lơ đôi mắt cú vọ canh chừng tôi.
Thế là hết đường trốn thoát! Nhớ lại thời gian hứa hôn chúng tôi sống bên nhau, cô đă dần dần hiểu tôi, trong sự săn sóc cô đón ư tôi rất tài.
Lúc đó tôi sung sướng nghĩ rằng ḿnh có được cô vợ toàn tâm toàn ư, bây giờ chính cái toàn tâm toàn ư kia lại hại tôi.
Cô đă thấy được không sai chạy những ǵ tôi nghĩ trong đầu, dù chỉ vừa thoáng qua là cô đề pḥng ngay.
Tối đó độ hơn mười giờ, tôi được dẫn ra xe, vẫn đủ sáu người như trước. Xe chạy loanh quanh trong thành phố một lúc rồi hướng ra Băi Sau.
Trời đêm đầy mây, lạnh kinh khủng, miền Nam chưa bao giờ lạnh như năm đó, đường vắng tanh, lờ mờ ánh đèn, tiếng sóng vỗ ŕ rào, buồn bă. Xe chạy đến cuối băi th́ dừng lại. Cô ra lịnh bịt mắt tôi lại.
- Đồng chí đưa tôi khẩu AK. Cứ ở đây chờ, khi nào nghe tiếng súng nổ tôi sẽ ra.
Và cô nói với bà mẹ, giọng lạnh lẽo, hàm răng rít lại.
- Mẹ phải theo con, xem con trả thù kẻ đă giết hại gia đ́nh ḿnh và bao nhiêu đồng chí khác nữa.
Đúng là oan oan tương báo. Tôi đă xử tội tên nằm vùng giết cha tôi ra sao, bây giờ tôi sẽ gặp y như vậy.
Nhưng tôi không nhớ rơ ḿnh đă làm ǵ để cô thù hận tôi đến độ giờ đây đem ra xử bắn tôi, không lẽ cô là con của tên nằm vùng kia?
Cô lên đạn, chĩa súng vào lưng tôi, đẩy tôi đi trước. Cô đă phạm một sai lầm chết người. Cô dí súng vào lưng tôi là giúp tôi nắm được quăng cách giữa cô và tôi.
Tầm vóc cô th́ tôi c̣n lạ ǵ. Chỉ cần tôi quay nhanh lại là mũi súng sẽ chệch ra ngoài và với một đ̣n chân, tôi có thể đá găy cổ cô hay ít ra cũng hạ gục cô trong tích tắc.
Trong bóng tối th́ bị bịt mắt hay không cũng mù như nhau.
Tôi lần t́m cọng thép trong dây đồng hồ và bắt đầu mở khoá c̣ng tay.
Được một quăng, khi đoán đă xa tầm nghe ngóng của mấy tên bộ đội, tôi vừa định ra đ̣n th́ cô mở băng bịt mắt tôi.
- Anh cơng mẹ được không? Nhanh lên! Nếu có chuyện ǵ, anh và mẹ cứ chạy thoát đừng lo cho em. Có thuyền chờ sẵn đằng kia.
Cô ôm súng chạy phía trước, tôi cơng bà cụ men theo bờ rừng dương liễu mải miết theo cô. Độ một cây số, chúng tôi đến một thuyền nhỏ có người chờ sẵn. Thuyền được đẩy ra, nổ máy và nửa giờ sau chúng tôi ra thuyền lớn đi thẳng.
Hôm sau chúng tôi được tàu Mỹ vớt về đảo Guam.
Phạm Thành Châu
phokhuya
02-24-2020, 03:59
https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1534889&stc=1&d=1582516099
Tin tức mới nhất là Coronavirus có thể truyền từ không khí vào miệng. Những người hay chửi bậy sẽ có cơ hội truyền nhiễm nhanh nhất.
:hafppy::hafppy::haf ppy:
hoanglan22
02-24-2020, 04:59
https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1534889&stc=1&d=1582516099
Tin tức mới nhất là Coronavirus có thể truyền từ không khí vào miệng. Những người hay chửi bậy sẽ có cơ hội truyền nhiễm nhanh nhất.
:hafppy::hafppy::haf ppy:
Đám dân chửi số một ở forum đi ra ngoài phố chúng nó đeo cái nàyhttps://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1534913&stc=1&d=1582520034 th́ làm sao nhiễm được Coronavirus . Chỉ sợ về đến nhà vợ con chúng nó tưởng là đầu trâu mặt ngựa ... rồi vác cây đập vào đầu vào mơm th́ hộc máu ra chết oan .
Vợ con lúc đó than khóc ..ông ơi là ông ơi !!!!!!!! không chết v́ con Coronavirus mà lại chết hộc máu tức tưởi hàm oan ...
Tui không biết ǵ hết nha ...;)
hoanglan22
02-25-2020, 14:24
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1535786&stc=1&d=1582640644
Hôm đó chủ nhật, hắn căi nhau kịch liệt với vợ và quyết định bỏ nhà ra đi mấy hôm cho vợ biết tay. Đi lang thang chán chê, nghĩ đi nghĩ lại về nhà bố mẹ đẻ th́ các cụ c̣n chửi cho mục mả, đến nhà mấy thằng bạn thân th́ cũng không ổn.
Đi ngang qua trước cửa Bệnh Viện Trung ương, Hắn bèn quyết định ôm ngực lảo đảo vừa đi vừa ho rũ rượi tiến vào pḥng khám xin được xét nghiệm Corona Virus và khai với Bác sĩ rằng mới ở Vũ Hán về mấy hôm. Các Bác sĩ, y tá vội túm lấy hắn yêu cầu xét nghiệm và cách ly khẩn cấp. Thế rồi cơm bưng, nước rót, an ủi động viên sẽ phải ở lại BV 14 ngày, tất cả đều miễn phí hết.
Sáng thứ hai mới 8h, tiếng chuông ĐT réo đánh thức hắn dậy, th́ ra là Sếp gọi...
Sếp gầm lên:
- Anh đang ở đâu ? dự án tôi giao cho anh hôm nay phải tŕnh lên mà giờ này không thấy mặt mũi anh đâu, tôi sẽ đuổi việc anh.
Hắn run rẩy trả lời:
- Thưa Sếp em bị nghi dính Corona đang cách ly ở BV, nếu Sếp cần em sẽ trốn BV về tŕnh Sếp cái dự án ngay ,
Sếp nghe vậy liền hốt hoảng hạ giọng:
- Thôi cậu mà về th́ lây cả Công ty à ? Cứ yên tâm nằm đấy, lương thưởng hưởng đủ, dự án tôi giao người khác làm, chống dịch là công việc quốc gia nghe chưa...
Hắn mừng quá, cái dự án khó như cục xương, chó không thèm gặm, hắn làm măi không xong, nay th́ thoát nợ. Không ngờ một mũi tên bắn trúng hai đích, hắn tự khen ḿnh giỏi như Khổng Minh Gia Cát !!!
Nằm viện được 3 hôm, hắn nhớ vợ quá liền gọi điện thoai làm lành, vợ hắn nhận được ĐT mừng như trúng Viet lottery, khóc nức nở, xin lỗi hắn và muốn được vào BV thăm để thỏa nỗi nhớ nhung. Hắn liền gặp Bác sĩ khai thêm rằng khi từ Vũ Hán về có ghé qua nhà ôm hôn vợ mấy cái. Thế là 30 phút sau, một chiếc xe cấp cứu đă đỗ trước cửa nhà hắn, các nhân viên y tế phủ kín toàn thân như robot tiến hành khử trùng toàn bộ nhà hắn và đưa luôn vợ hắn vào bệnh viện để cách ly. Vợ chồng gặp nhau thỏa nỗi nhớ mong, có ăn và..được hầu hạ chu đáo, lại c̣n có thứ trưởng bộ Y tế đến thăm tặng hoa ...
Sau 14 ngày tất cả xét nghiệm đều âm tính, Bác sĩ tuyên bố hắn khỏi bệnh và cho vợ chồng hắn xuất viện. Các cơ quan báo chí đến chụp ảnh, đưa tin, viết bài tùm lum. Bộ trưởng đến tặng hoa, chụp ảnh lưu niệm chung. Trông hắn cười tươi tắn như từ cơi chết trở về...
Nhà nước tuyên bố chữa khỏi ca bệnh thứ 19 thành công.
hoanglan22
02-26-2020, 03:08
Anh tài xế máy bay UH-1 ngày xưa viết khá vui......
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1536090&stc=1&d=1582686453
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1536091&stc=1&d=1582686453
" Ta vốn dĩ là con chiên không ngoan đạo
Nếu lỡ lên thiên đàng cũng chỉ v́ em. "
Tôi đi đạo theo cái kiểu đó, nhưng khi bị vào hộp sau 30-4 vẫn bị kể là một thằng "Bốn có" của trại cải tạo. Đó là: có du học; có phi pháo; có Công giáo; có Bắc Kỳ di cư.
Ba có đầu th́ tôi không phàn nàn, nhưng ghép tôi vào tội Bắc Kỳ di cư th́ quả là oan ơi ông địa.
Vốn sanh đẻ ở B́nh Dương, nhưng ngụ cư ở Cái Sắn với những người di cư năm 54, nên mấy đứa cùng lớp kêu anh em tôi là "thằng Nam". Nhờ gần mực th́ đen, gần đèn th́ tối, nên mấy năm sau tôi chửi thề và nói tục bằng tiếng Bắc c̣n ngon hơn tụi nó nhiều.
Ngày thi tiểu học, cần có khai sinh để nộp đơn, má tôi dụ khị được hai ông Trùm Khờ của xứ đạo đi xuống toà Hoà Giải Rộng Quyền của tỉnh Kiên Giang mà thề rằng: Tôi đẻ ở tỉnh Bùi Chu ngoài Bắc.
Thế là tôi nghiễm nhiên trở thành thằng Bắc Kỳ di cư với tờ Thế V́ Khai Sanh ghi sinh quán là làng Địch Giáo, huyện Giao Thuỷ, tỉnh Bùi Chu.
Khi lên học trên Sài G̣n, mấy thằng Nam Kỳ Quốc muốn chọc quê tôi, cứ chờ khi có mặt mấy đứa con gái, giả làm một ông già hút thuốc lào rồi nói:
- Thuốc lào Cái Sắn! Say!
Đó là câu quảng cáo mà ta hay thấy ở chợ Ông Tạ hay đầu ngơ vào xứ Bùi Phát đường Trương Minh Giảng.
Có khi tụi nó c̣n hợp ca:
- "Ai bảo Di Cư là khổ, di cư sướng lắm chứ
Ngồi tàu bay ta vào miền Nam, Ḷng ta sướng nao nao
Rao muống trong Nam lại nhiều, mà người Nam không biết ...
Ước mong sao, rao muống lên cao, tăng sức mạnh cần lao .... "
Những lúc đó tôi cầu trời khấn Phật cho mấy thằng giá sống kia thi rớt để vô Quang Trung cho đáng đời.
Sau bao nhiêu năm quân ngũ với bao lần sưu tra lư lịch, tôi vẫn yên trí rằng ḿnh sinh ở tỉnh Bùi Chu. Măi cho đến ngày xập tiệm, có một anh Bắc kỳ chính hiệu Bà Lang Trọc cho tôi biết là ở ngoài Bắc làm ǵ có tỉnh Bùi Chu, Giáo Phận Bùi Chu th́ có.
Tôi thắc mắc: Bùi Chu là Giáo phận hay họ đạo nhỏ bé là thế mà sao đi đâu cũng thấy địa danh dính dáng tới nó??
Tôi ở xứ Tân Chu, bên kia sông là Tân Bùi, bác tôi ở trên Bùi Phát SG, ở gần Nghĩa trang QĐ Biên Hoà c̣n có Bùi Thái nữa.
Người Bắc Bùi Chu đặt tên ngộ lắm: Ông Bứa có thằng em là ông Bỉnh, hai thằng con ông là thằng Vênh, thằng Váo. Kêu tên cả gia đ́nh ông ra th́ dân anh chị nghe cũng phải phát rét.
Ông anh rể tôi tên là Yêm, anh ông tên là Uông, bố tên Am, tên cả nhà: Am Uông Yêm nghe cứ như bản nhạc ếch nhái kêu ngày mưa đầu mùa dưới ruộng vậy.
Ngôn ngữ người di cư hồi đó cũng khó hiểu: Cái thước thăng bằng của thợ nề họ kêu là cái Li-vô (level), cái gào mên ăn cơm của lính họ gọi là cái Lập-là (plate): Tôi vào khoá 69A Hoa tiêu th́ họ gọi là Lái Phi Công!!!
Gần nhà tôi có ông hàng xóm tốt bụng nhưng coi bộ ông ganh với má tôi lắm, chỉ v́ bà là đàn bà goá mà dám có đứa con "Bay được lên giời".
Thỉnh thoảng để tự an ủi hay để an phận, ông thở dài nói: - Bay lên giời! Kinh bỏ mẹ!
Nếu có ai hỏi tôi bay bổng ra sao, tôi thường cười rồi lập lại câu nói ngày xưa của ông: Kinh bỏ mẹ.
Thực ra đời bay bổng, kể cả đi bay lẫn đi máy bay có những cái vui, nhưng cũng có những nỗi lo sợ ít ai chối căi được.
Tính tôi nhát cáy, mà sao ông trời cứ cho tôi gặp những sự bủn rủn tay chân. Hôm chở ông Tư lịnh Sư đoàn từ Tân Uyên sang Lai Khê họp, mới qua khoảng Bố Lá th́ trần mây thấp quá nên phi cơ chỉ bay cao khoảng 1000 bộ, đạn VC nổ như bắp rang dọc theo một tuyến thật dài cả cây số. Ngài Tư Lịnh hoảng quá vội lấy tấm bản đồ hành quân che lên mặt để .. tránh đạn!
Thử hỏi gặp cảnh như thế bố thằng nào lại không sợ. Nhất là khi đáp xuống Lai Khê kiểm lại: Thân tàu lănh hơn 10 lỗ đạn.
Đi hành quân Kampuchia, gồm 1 C&C, 2 gunships, và 4 slicks khởi hành từ Biên Hoà trực chỉ Tây Ninh. Ông C&C muốn dẫn bầy rồng rồng đi le gái nên dơng dạc ra lệnh:
- Bay theo quốc lộ cho an toàn.
Một hợp đoàn gồm bảy chiếc bay rà rà sát mặt đường, thỉnh thoảng lơ xe đ̣ nh́n lên có vẻ ngưỡng mộ lắm.
Ngang Trảng Bàng, chiếc Lead la lên: - Sương mù nhiều quá. Ê! C&C làm sao bây giờ??
- Lead cứ bay tới; thằng một quẹo trái; thằng hai quẹo phải; trail bốc lên cao.
Gunships bay sau la hoảng: - Tụi tao kè hai bên, thằng nào quẹo, tao húc!!
Tôi bay trail (chiếc cuối cùng) nghe thế hồn phi phách tán, bèn bốc tít lên tận trời xanh, mặc cho sương mù dầy đặc..
Khoảng hai phút sau, văng ra được một lỗ mây, to hơn cái dạng háng của thím Tư Năi, mừng thầm. Bỗng thấy một chiếc UH từ cụm mây bên kia bay cái vèo bên hông và lủi tuốt vào vùng mây khói âm u.
Trong cảnh này có ai dám nói là ḿnh không sợ??
Chàng Xạ thủ ngồi đằng sau, đái ra chiếc "Phi bào" sau khi kêu lên được một câu:
- Chúa ơi!
Nhờ vận số hên, (hồi đó tôi cứ tưởng là do tài bay bổng của ḿnh) bốn Tề Thiên tụi tôi cũng đằng vân lên được bên trên mây, có điều không thằng nào đoán nổi là núi Bà Đen nó nằm ở chỗ nào phía dưới.
Sợ cảnh "Đi không ai t́m xác rơi" nên chiếc UH cứ bay ṿng ṿng trên mây hoài. Khốn nỗi là xăng có hạn, làm sao bây giờ?
Chúa ơi! Nếu có thiêng th́ cho người đi kiếm xác bọn con, trước sau ǵ con cũng phải đục mây chui xuống. Tôi chuẩn bị làm một kỳ công tối kỵ của ngành phi hành: Chui mây.
Có lẽ lời cầu được Chúa thông cảm v́:
Dù sao th́ chúa cũng
Một thời làm trai tơ
Dù sao th́ chúa cũng
Là đàn ông dại khờ
(Thơ trích)
Sau một hồi vật lộn với mây, bọn tôi cũng xuống được đất an toàn.
Anh chàng Xạ thủ nói: - Vợ em nó bảo Giời vật em cũng không chết. Thiêng thật!
Những chuyện như thế, không gọi là sợ th́ gọi là ǵ?
****
Sang Mỹ, mỗi lần có dịp đi máy bay, tôi hay lén nh́n ra phi đạo xem chiếc phi cơ chở ḿnh có mở nắp ca bô lên không, v́ theo kinh nghiệm ngoài xa lộ, cứ chiếc nào có cái hood mở lên là y như rằng chết máy.
Đúng ra mấy hăng máy bay Mỹ, nếu thấy phi cơ không đủ tiêu chuẩn cất cánh th́ cũng nên lôi vào chỗ kín kín mà sửa, đừng để cho khách thấy, nếu sợ tốn th́ giờ th́ cứ bay đại đi rồi tính sau.
Chuyện bay đại ở VN th́ Kỹ Thuật KQ làm là thường.
Tôi nhớ có lần hành quân ở Chơn Thành, cái đèn Chip Detector báo đỏ, phải gọi Kỹ Thuật Biên Hoà lên sửa, ông Thượng Sĩ già ung dung trèo lên pḥng lái, nhẹ nhàng rút chiếc cầu ch́ ra cho đèn tắt rồi bảo:
- Trung uư cứ bay về đi.
Tôi cự lại, th́ ông nói máy bay này chỉ bị mát, chứ không có hư và để bảo đảm lời nói của ḿnh, ông sẽ leo lên bay về chung với tôi. Ông ta c̣n giải thích:
-Điện có mát th́ chỉ cháy thôi, chứ không nổ trên trời như khi có mạt sắt trong máy.
Về VN năm nào, nhớ lại nghề bay bổng nên cứ mỗi lần nh́n thấy phi cơ trên trời là ḷng tôi lại thấy nao nao. Tôi hỏi thằng em ruột: - Rạch Giá đi Sài G̣n, thuê xe hơn hay mua vé máy bay hơn?
- Máy bay hết 45 phút, xe chạy hết bốn tiếng, tiền thuê xe bằng tiền mua vé máy bay.
Tôi quyết định đi máy bay của Nga cho biết với người ta.
Sáng thứ tư tôi chuẩn bị cho thằng em đưa ra phi trường Rạch Sỏi để đi Sài G̣n, nó nói:
- Không biết hôm nay có máy bay không.
- Sao mày nói nó bay mỗi thứ tư và thứ bảy?
-Ừ, đó là chương tŕnh, c̣n nó bay hay không th́ chưa biết.
Chờ ở phi trường chừng nửa tiếng th́ chiếc phi cơ khá lớn đáp xuống phi đạo. Tôi làm thủ tục lên tàu, vé mang số 5 ở tuốt hàng đầu, thiên hạ chen nhau lên trước nên khi tôi lên đến nơi th́ không c̣n chỗ. Cô tiếp viên nói gia đ́nh họ đi có đoàn, tôi đành nhường chỗ và theo cô xuống phía dưới..
Cô khá xinh, chỉ cho tôi vịn vào chiếc cột nhôm gần đuôi chiếc máy bay để cô xếp chỗ.
Một lúc sau viên phi công hầm hầm đi xuống từ pḥng lái, cự nự: - Các cô làm ăn thế này th́ chết cả lũ.
Một cô mặc áo màu xanh, nhân viên pḥng vé dưới đất (hồi xưa Tiếp viên Hàng không đi bay th́ mặc áo màu xanh, c̣n bây giờ họ lại đổi màu hồng) năn nỉ:
- Anh Ba thông cảm cho em chuyến này, chuyến sau em làm tốt hơn.
- Chuyến sau! Chuyến sau! Quá tải có ngày chết cả lũ.
Viên phi công hậm hực trở lên pḥng lái, chiếc phi cơ gầm lên lao nhanh trên phi đạo rồi rời khỏi mặt đất.
Tôi nh́n qua cửa máy bay, sống lại cảm giác hồi ḿnh c̣n ở trong Không Quân, bay liên lạc đáp xuống phi trường Rạch Sỏi này. Có khác chăng là ngày xưa th́ ngồi, c̣n bây giờ th́ đứng ôm chiếc cột trong thân tàu.
Chuyện phi cơ quá tải ở VN là thường, tôi đă từng chở 18 người từ An Lộc về Lai Khê, trong khi UH chỉ có 9 chỗ ngồi mà có sao đâu.
Phi cơ không về SG ngay mà lại ra Phú Quốc. Lỗi này là tại tôi không đọc kỹ vé. Hàng Không Dân Dụng có ghi rơ tuyến đường là: HCM-Phú Quốc-Rạch Giá-Phú Quốc-HCM. Có nghĩa là máy bay từ SG ra tới Phú Quốc đổ khách, bốc khách về Rạch Giá, đưa khách từ Rạch Giá ra Phú Quốc rồi mới ṿng về SG.
Không đọc kỹ vé th́ không kêu ca vào đâu được. Có điều bay từ Rạch Giá ra Phú Quốc th́ được free, cho dù là đứng hay ngồi.
Tôi cũng chẳng phàn nàn ǵ về cái ghế trên phi cơ, v́ cô tiếp viên cũng ôm chặt cái cột khi máy bay cất cánh như tôi. Tôi hỏi:
- Cô bay tuyến này khá không?
- Chả có ǵ đâu anh ạ, bay tuyến quốc ngoại mới ăn, nhưng đỡ hơn bay tuyến ngoài Bắc.
- Sao thế??
- Tuyến ngoài Bắc khách cứng đầu lắm, nói thế nào cũng chẳng chịu nghe.
Cô ta làm tôi nhớ tới một ông "Bắc Kỳ Di Cư", y hệt tôi đi trên chuyến Hồng Kông - Sài g̣n trước đây một tuần. Trời SG tháng bảy nóng như đổ lửa mà ông mặc bộ com lê đầy đủ. Khi chuyển máy bay ở Hồng Kông, ông ngồi lộn ghế, tiếp viên năn nỉ thế nào cũng không chịu đứng lên, cuối cùng cô tiếp viên đành chào thua để ông ngồi lỳ ở đó. Lát sau ông quay qua phía tôi phân bua:
- Cứ tưởng ông như nhà quê mà bắt nạt. Mẹ, ông mua vé th́ ông muốn ngồi đâu ông ngồi chứ!
Tôi hy vọng ra đến Phú Quốc sẽ có chỗ ngồi, tôi lại lầm v́ có lẽ VN đang trên đà đổi mới nên làm ăn khấm khá, tuyến nào cũng đầy khách.
Tôi lại đành làm anh hùng đứng ôm cột với cô tiếp viên như khi c̣n nhỏ chơi Thả Đỉa Ba Ba vậy.
Khi phi cơ trở ra cuối phi đạo để cất cánh, tôi ḍm ra thấy có hai viên công an chạy hai chiếc Honda kề bên hông nên hỏi:
- Họ làm ǵ vậy?
Cô giải thích:
- Họ chạy theo để chặn ḅ. Đôi khi phi cơ cất cánh, mà ḅ chạy ra trên phi đạo th́ cũng có... vấn đề đấy.
Tôi hỏi ḅ của ai mà vào được cả trong phi trường, cô trả lời không biết, chắc là của Công an.
Khi đáp xuống Tân Sơn Nhứt tôi mới khám phá ra một sự lạ nữa, là không phải chỉ có tôi và cô tiếp viên không có ghế, mà ở tuốt trên hàng ghế đầu, đặt nằm dưới sàn có một cái băng ca, trên đó nằm đưỡn đừ một bệnh nhân đang thiêm thiếp. Có lẽ ông này được khiêng lên ở Phú Quốc lúc tôi ngồi trong pḥng đợi.
Người ta khiêng ông xuống và chiếc băng ca được đặt nằm trên mặt đất ngoài phi đạo thi gan cùng nắng gió và bụi, h́nh như chờ xe thuê bao đến chở đi nhà thương.
Vị chi chuyến này có ba người ngồi ghế SÚP, y hệt lơ xe đ̣ ngày xưa ráng nhét hành khách vào giữa hai hàng ghế!!
Tôi rời nhà lúc 7g sáng, phi cơ đáp Tân Sơn Nhứt khoảng 12g trưa, vậy là khoảng 5 tiếng đồng hồ. Lâu hơn đi xe, có điều là được đi một đoạn miễn phí và học hỏi được đôi điều thú vị.
Mấy hôm sau, gặp lại thằng em ở SG, nó hỏi: - Anh đi máy bay Nga có sướng không?
Tôi cười như mếu: - Kinh bỏ mẹ!!!
hoanglan22
02-27-2020, 14:55
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1536955&stc=1&d=1582815139
Bất cứ ai đă một thời ca bài “Ta đi ṭng quân” đều không thể nào quên được đời lính. Trong đời lính, dù là lính già hay lính trẻ đều mặc bộ đồ trận, vui buồn theo tiếng kèn đồng đếm nhịp thời gian. Và một trong những món hành trang cần thiết thân yêu của người lính ngoài cây súng nhân t́nh, phải kể đến thành phần quân quân dụng này: Ấy là chiếc Poncho. Nhà binh gọi là “Pông Xô”.
Về h́nh thức, nó lớn bằng chiếc chiếu, mầu xanh cứt ngựa, làm bằng vải pha nylon gọi là vải ngụy trang, bốn cạnh chung quanh có lỗ, có khuy bấm bằng sắt.Chính giữa có một cái lỗ chui đầu làm thành cái mũ che, có giây buộc đàng hoàng.
Về nội dung, Poncho có công dụng chính là làm cái áo đi mưa. Khi trời bắt đầu nổi cơn mưa gió, người lính chỉ việc mở chiếc Poncho ra chui đầu vào giữa, đội nón là xong. Phần c̣n lại của Poncho nó lùng tùng x̣e quanh cổ, quanh vai, quanh người che chở từ súng đạn đến ba-lô rất ư kín đáo an toàn.
Nó dản dị đơn sơ như thế nhưng công dụng th́ lại vô cùng đa diện. Đến ngay người sáng chế ra nó cũng không thể nào ngờ rằng Poncho được dùng trong nhiều việc như thế.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1536956&stc=1&d=1582815139
Với chiếc áo đi mưa nhà binh – Poncho - mắc vào cành cây có thể làm chỗ che nắng che mưa khi canh gác một ḿnh. Với hai chiếc Poncho ghép lại có thể thành một lều cho hai quân nhân tá túc. Với 4, 6 hoặc 8, 10 Poncho, dùng cọc dă chiến nối lại cho dài, dùng giây ghép Poncho cho kín là có một lều cho cấp tiểu đội, nom rất tư cách.
Khi quân ta sang sông trong một chiều hành quân, Poncho có công dụng như phép lạ. Nếu không có chuyến đ̣ vĩ tuyến chuyển quân, nếu không có giây đu bắc ngang ḍng nước ngược, nếu không có chiếc cầu khỉ, cầu treo... th́ nhất định người chiến sĩ phải dùng đến chiếc Poncho làm phao di chuyển.
Mở rộng chiếc Poncho ra, túm chặt lỗ chui đầu lại, bao nhiêu ba lô đạn dược tập trung vào đó. Xong bỏ vài cành cây khô cho cồng kềnh, gấp Poncho lại theo kỹ thuật nhà binh làm sao cho kín mít, nước không lọt, thắt giây xong là Poncho chẳng khác ǵ một chiếc phao. Thả Poncho xuống nước, gác súng trên Poncho, người lính ôm cái phao cá nhân tà tà sang sông rất là đẹp mắt.
Ngoài công dụng che nắng che mưa, làm phao nổi, lều cá nhân, lều tập thể, Poncho c̣n dùng làm chiếu, làm nệm, có khi làm vơng.
Trong các trại gia binh, anh em ở dưới mái nhà tôn nóng như ḷ bánh ḿ th́ lại có sáng kiến dùng Poncho làm trần làm vách cho vợ con đỡ được đôi ba phần nắng nôi gió máy.
C̣n các cấp chỉ huy ở nhà gạch mái ngói không cần đến Poncho làm trần nhưng nhiều vị có sáng kiến lấy Poncho may thành chiếc bạt phủ xe nhà cho khỏi bụi bậm, đỡ trầy nước sơn.
Những nhà dân giả, nhà binh, nhà quê thiếu ống máng hứng nước mưa th́ Poncho là cái phễu vĩ đại, hết sẩy!
Poncho cũng lan tràn đến cả chợ búa. Từ xa trông cảnh chợ, xanh xanh một mầu cả trăm chiếc Poncho giăng mắc la liệt khắp nơi, nom tưởng như một tiểu đoàn đóng quân vậy. Lại gần mới thấy Poncho làm mái che cho hàng cá, hàng thịt, hàng rau, hàng quà, quán nhậu, hủ tíu ḅ viên, bún riêu bún ốc.
Poncho cũng di chuyển cùng chiều với các bạn đạp xích lô, kéo xe thồ, lái xích lô máy. Một chiéc Poncho thôi là đủ may chiếc áo mưa, vừa che đầu, che thân tới nữa người, gọn gàng và bền bỉ.
Poncho được chiếu cố tận t́nh như thế cho nên mức độ tiếp liệu dù cao, dù đúng hạn, dù mau lẹ vẫn không thỏa măn được nhu cầu của quân đội và dân sự.
Các binh đoàn tiếp nhận xong, nhập kho, phân phối là Poncho đă chuẩn bị tan hàng. Một phần về đơn vị, một phần vào các khu dân sinh, chợ Kim Biên, chợ cũ, chợ Ông Tạ...
Tại các tỉnh, các quận, t́nh trạng Poncho cũng tương tự như rứa.
Poncho chẳng những phổ biến rộng răi, đa dụng trong t́nh quân dân cá nước mà c̣n đóng một vai tṛ quan trọng tại các quân trường.
Ai đă một thời nhập trại Quang Trung, Đồng Đế, Thủ Đức mà không nhớ nhung kỷ niệm quân trường những ngày gió mưa tàm tă. Buổi sáng tinh mơ tập họp trung đội, đại đội, tiểu đoàn mà nhằm ngày trời mây u ám gió cuốn tả tơi hoa lá th́ anh em rất là một sự lục xục, lộn xộn, lạo xạo. Ai cũng nón sắt đội đầu Poncho chùm thân, đi đứng lù đù.
Khi anh em đi băi về trong buổi chiều mưa, từng trung đội lạch bạch bùn đất, hàng ngũ trật tự nhưng không mấy chỉnh tề. Nếu có người yêu nào đó đứng chờ, t́m kiếm người t́nh giữa chốn ba quân th́ có mà như đá vọng phu vẫn hoài công đứng đợi. Bởi cả trăm người lính xùm xụp Poncho trong hàng quân như thế, làm sao nhận ra được ai là người yêu của lính? Thế là hoa lạc giữa rừng gươm.
Nhưng bù vào những cái bất tiện như rứa, Poncho cũng có lúc trở thành một ngụi bạn tâm phúc, đắc dụng.
Vào những ngày nghỉ cuối tuần, quân trường nào cũng đầy ắp thân nhân bạn bè vào thăm tân binh, sinh viên sĩ quan. Ngoại trừ những ai được đi phép đặc biệt như chim sổ lồng, c̣n th́ đa số nằm trong trại chờ người nhà đến thăm viếng.
Cái cảnh đồng bào ta lái xe nhà, đi xe đ̣, chạy Honda, Vespa, Lambretta, gắn máy đi thăm lính thật là ồn ào náo nhiệt.
Quà bánh th́ nào là bánh ḿ, bánh bao, bánh ngọt, lạp xường xúc xích, cam táo chôm chôm ổi mận trái cóc, sữa Guigoz, Similac...Có người đem khăn mặt, bàn chải đánh răng, xà bông, thuốc lá,dầu cù là, dầu thơm...
Tất cả cho lính!
Rồi người ta kéo nhau tấp nập vào cổng trường, ghi tên lấy thẻ, qua trạm kiểm soát rồi là coi như thong thả tới địa điểm dành cho từng đơn vị.
Về phía lính th́ cả tuần tập tành, “quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”, chỉ ŕnh mong đến cuối tuần để được đón gia đ́nh, bè bạn vào thăm viếng nên chuẩn bị rất ư là kỹ lưỡng. Có điều giống nhau, chả ai bảo ai, ai cũng cặp kè chiếc Poncho ra khu tiếp tân ngóng đợi thân nhân.
Thành phần thân nhân được phân định làm nhiều giới.
Giới cổ điển là các ông bô bà bô đi thăm con th́ được ngay anh tân binh hay sinh viên sĩ quan mời các cụ vào câu lạc bộ nghỉ đỡ chân. Nếu câu lạc bọ hết chỗ th́ mời hai cụ quá bộ ra cạnh quán, trải chiếc Poncho là tạm xong phần nghênh tiếp. Bố con, mẹ con rủ rỉ chuyện tṛ, ăn uống lai rai cho đến hết giờ thăm viếng.
Giới thứ nh́ là giới bán cổ điển với bầu đoàn thê tử đi thăm chồng vào lính trễ. Giới này thường trải Poncho dưới tàng cây cao bóng mát hoặc ở trong các khu tiếp tân tập thể, vợ chồng con cái đ́u íu, chuyện nhà chuyện cửa, chuyện con cái học hành, chuyện làm ăn buôn bán, chuyện hàng xóm láng tỏi, ồn ào như chợ Bến Thành hay chợ Cầu Ông Lănh.
Giới thứ ba là giới độc thân, toàn đàn ông con trai đi thăm con trai mà thôi. Giới này thường tụ tập tại câu lạc bo nhậu nhẹt tán dóc. Xong cái màn đó, các cậu lại rủ nhau ra lề đường, ngồi trên Poncho ngắm các em gái hậu phương đi thăm chiến sĩ, với lời bàn Mao Tôn Cương rất ác liệt.
Giới thứ tư là giới cô đơn, gồm những anh không có người nhà đến thăm, ôm chiếc Poncho đi ḷng ṿng khắp khu tiếp tân, ngong ngóng một chuyện ǵ như thể sắp xẩy ra mà lại mơ hồ như có như không mới khổ!
Giới thứ năm là giới chiến thuật mà mỗi người là một chiến thuật gia. Giới này thường chuẩn bị rất kỹ, nghiên cứu địa h́nh địa vật và lựa chọn điểm đóng quân thật sớm. Thông thường, các vị trí này cách xa khu tiếp tân, xa các khu ồn ào nhiều kẻ qua người lại.
Họ lựa chọn chỗ vắng vẻ kín đáo, có tí mô đất, có tí cành cây để giăng chiếcPoncho hững hờ lơ lửng. Tuy chiếc Poncho nom ra vẻ lụp xụp, thiếu mỹ thuật thật đấy nhưng lại chứa đựng tất cả những ǵ gọi là nghệ thuật tinh vi và khoa học hiện đại. Giới chiến thuật này thường có đối tượng là người yêu của lính!
Khi những chiếc Poncho xanh mầu lá cây rừng rải rác vô trật tự họp lại mí nhau thành một chiến tuyến th́ dưới những mái Poncho là những cặp t́nh nhân đang tỉ tê quyến luyến, thề non hẹn biển...
Thời gian lặng lẽ một ḍng tưởng chừng buồn tênh mà hóa ra sống động, vùn vụt như ma đuổi. Cho đến khi lá hoa về chiều, lạnh lùng mềm đưa trong nắng lưa thưa, các đôi lứa lại càng quyến luyến xoắn xuưt lấy nhau như sam, như chẳng muốn rời.
Nhất là vào những buổi chiều có tí gió mưa th́ lại càng làm cho ḷng người thêm mưa gió.
Mây trời hạ thấp, những giọt mưa nho nhỏ rơi đều trên Poncho trong làn gió thoảng, đủ làm cho Poncho hạ thấp xuống một chút xíu nữa, như che gió che mưa cho cặp t́nh nhân tạm quên đi thế giới bên ngoài.
Chỉ thấy những mái Poncho lay động, bập bềnh, ngả nghiêng vội vă, trong khi ngoài kia tiếng kèn thu quân đang dục giă liên hồi...
Cuộc hẹn ḥ nào rồi cũng chia xa.
Giới chiến thuật là đơn vị giải tán thành phần cơ hữu sau cùng, vơ vội ôm quàng chiếc Poncho ù té chạy về doanh trại.
Để rồi người lính quân trường lại có những ngày chờ ngày đợi ngày mong. Mong sao cho chóng đến cuói tuần, cặp kè chiếc Poncho với nỗi ḷng nao nức, rạo rực thương yêu của tuổi hoa niên thời chinh chiến.
Như thế, quả nhiên chiếc Poncho đa dụng đa năng cho cả hai phía quân dân. Nó lại c̣n là một biểu tượng của đồng lơa, cho đời vẫn c̣n mầu hồng, c̣n một chút ǵ gọi chút dễ thương.
Và rơ ràng cụ thể nhất, nó chính là kỷ vật cho em
Nghĩ thế, một hôm nhớ về quân trường cũ, kẻ này gặp một cựu nữ sinh hoa khôi, mới khẽ hỏi xem nàng nghĩ thế nào về chiếc Poncho đối với tuổi trẻ ngày xưa?
Người đẹp bỗng nhiên má đỏ hồng hồng, mắt sáng trong trong, thỏ thẻ đáp rằng:
- Poncho! Poncho! Ồ, thật là kỳ diệu...
Hoang Pham
hoanglan22
02-28-2020, 15:58
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1537615&stc=1&d=1582905470
Hẳn ai cũng biết: Không phải chỉ có giàu mới có ḷng thương người. Và cũng không phải chỉ có người giàu mới có hạnh phúc. Một nồi khoai tây hầm với nước xốt màu nâu óng ánh, một mái nhà che mưa nắng, những cái tách và dĩa bằng sành màu xanh trông khá là ḥa hợp, và một người chồng có việc làm tốt và chắc chắn…, chỉ chừng đó thôi, rất thực tế và cũng rất tầm thường, đă tạo nên cuộc sống hạnh phúc của một gia đ́nh.
Câu chuyện cảm động thuật lại sau đây, trích từ Chicken Soup for the Soul, sẽ nói với chúng ta rất nhiều về ư nghĩa của cuộc sống.
Hai đứa trẻ nép ḿnh vào sau cánh cửa để tránh gió lạnh. Áo quần chúng đều tả tơi.
– Bà có báo cũ không?
Lúc ấy, tôi đang bận. Tôi đă muốn nói không -chợt tôi nh́n xuống chân chúng. Những chiếc sandals mỏng manh đẫm mưa tuyết. “Các cháu vào trong này và bà sẽ làm cho các cháu một tách ca cao nóng.” Không nghe tiếng chúng nói chuyện. Những đôi sandals ướt nhẹp của chúng để lại dấu lấm trên nền đá trước ḷ sưởi.
Tôi đă dọn cho chúng ca cao nóng, bánh nướng với mứt để tăng sức cho chúng chống với cái lạnh bên ngoài. Sau đó tôi đi vào bếp và lại bắt đầu tính toán việc chi tiêu trong nhà
Xem thêm: Mối t́nh đầu
Sự im lặng trong căn pḥng trước làm tôi ngạc nhiên. Tôi nh́n vào. Con bé gái cầm cái tách không trên tay, và chăm chú nh́n. Thằng con trai hỏi bằng một giọng b́nh thản. “Thưa bà, bà có giàu không ạ?”
“Bà giàu hả? Ơn trời, không đâu!” Tôi nh́n vào cái tạp dề sờn cũ của ḿnh.
Con bé gái đặt cái tách vào lại trong dĩa, một cách cẩn thận. “Bộ tách của bà rất hợp với những cái dĩa.” Giọng nói của nó có vẻ người lớn, đượm chút ǵ đó như là ưa thích.
Sau đó hai đứa lại lên đường, lấy đống báo cũ che những cơn gió buốt. Chúng không nói lời cám ơn. Mà chúng cũng không cần nói nữa. Chúng đă bày tỏ hơn thế nhiều. Những cái tách cái dĩa sành màu xanh. Nhưng chúng hợp với nhau. Tôi nếm thử khoai và khuấy nước thịt. Khoai tây và nước thịt hầm màu nâu, một mái nhà trên đầu che mưa nắng, chồng có việc làm tốt, ổn định -tất cả những cái này cũng ḥa hợp với nhau đấy chứ.
Tôi dời những cái ghế ra xa ḷ sưởi và dọn dẹp lại pḥng khách. Những dấu sandals nhỏ bé lấm bùn vẫn c̣n dính trên nền đá ḷ sưởi. Tôi để nguyên như thế. Tôi muốn chúng vẫn c̣n đó để nhắc tôi nhớ rằng ḿnh giàu có biết bao.
Như Sao
hoanglan22
02-29-2020, 14:53
Từ nay trở đi Bác Tài cyclo sẽ "nhơng nhẽo" cho coi.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1538064&stc=1&d=1582987769
Cô du khách hồn nhiên dễ thương ghê. Trước kia ḿnh chỉ thấy mấy anh Mỹ trẻ lái cyclo cho bác tài ngồi chơi thôi, nay lại có mấy cô Tây Âu thích chơi b́nh dân không phân biệt giai cấp như Á Đông. Thấy bác xích lô già yếu, cô tây xung phong chở bác đi dạo phố Sài G̣n luôn!
H́nh ảnh hài hước và đáng yêu này được ghi lại trên một con phố Sài G̣n vắng vẻ.
H́nh ảnh du khách nước ngoài ngồi xích lô đă không c̣n xa lạ với chúng ta. Mới đây, một fanpage lớn đă đăng tải nhưng h́nh ảnh ghi lại cô tây đang đạp xích lô chở vị khách đặc biệt đang hút hồn cư dân mạng.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1538065&stc=1&d=1582987769
H́nh ảnh được ghi lại trên một con phố ở thành phố Sài gon
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1538066&stc=1&d=1582987769
Đưa anh đi chơi xa trên con xe xích lô..Chỉ cần nắm thật chặt anh và em sẽ đi đến cuối con đường.
Mọi nẻo đường em hứa sẽ luôn mỉm cười.
Sau khi những h́nh ảnh hiếm gặp được đăng tải, rất nhiều dân mạng để lại b́nh luận.
"Dễ thương quá, chắc bác xích lô vui lắm".
"Khuôn mặt bác căng thẳng quá, chắc mọi ngày ngồi sau quen rồi, giờ ngồi trước không quen".
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1538067&stc=1&d=1582987769
hoanglan22
02-29-2020, 15:05
Vụ chiếc trực thăng UH-1H mang số 60-139 của Phi đoàn 219 bị đánh cắp tại Đà Lạt năm 1973, trong Không Quân hầu như mọi người đều biết và dân chúng Sàig̣n cũng được đọc tin tức trên báo chí thời đó.
Kẻ đánh cắp chiếc trực thăng nói trên là Hồ Duy Hùng, cựu Thiếu Uư Không Quân VNCH, sau khi thụ huấn ở Hoa Kỳ trở về, bị An Ninh KQ khám phá có thân nhân đi theo địch nên tên Hùng đă bị sa thải khỏi Quân Đội. Sau này, bộ máy tuyên truyền của Việt cộng nói rằng Hùng là người của chúng được gài vào Không Quân VNCH để làm nội tuyến. Tuy nhiên đă có nhiều yếu tố khách quan cho thấy thoạt tiên Hùng chỉ là một tay bất măn, đánh cắp máy bay để trả thù việc ḿnh bị sa thải khỏi Quân Đội, để rồi măi về sau này trở thành một người hùng bất đắc dĩ của "Cách mạng"!
Để chứng minh cho lập luận nói trên, thiết nghĩ chúng tôi chỉ cần nêu ra hai sự kiện:
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1538080&stc=1&d=1582988603
*Sự tuyên dương muộn màng:
Khác với Nguyễn Thành Trung - kẻ đă lái F-5 dội bom xuống Dinh Độc Lập, cũng như rất nhiều tên nội tuyến, nằm vùng khác đă được tô son trét phấn để tuyên dương sau ngày "Cách mạng thành công", Hồ Duy Hùng cho măi đến năm 2000 mới được báo chí "quốc doanh" ở Sàig̣n đề cập tới: Bán Nguyệt San Thanh Niên với bài: "Người hùng lặng lẽ", tờ Phụ Nữ Chủ Nhật với bài: "Vụ đánh cắp chiếc trực thăng UH-1...", và bài "Từ vụ án chiếc trực thăng UH-1" kéo dài 12 ngày trên một tờ báo nọ.
Nếu không kể tới những chi tiết "chửi cha nhau" trong ba bài báo nói trên, th́ độc giả được biết đại khái (theo lời kể của Đại tá Quân báo VC Lê Nam Hà và được phóng viên "xào nấu" laị) th́ Hồ Duy Hùng (bí danh là Chính), trước kia hoạt động trong phong trào sinh viên học sinh tại Quy Nhơn, sau Mậu Thân 1968 vào Sàig̣n và được Việt cộng móc nối kết nạp vào "Quân báo đặc khu Sàig̣n-Gia Định".
Sau khi đánh cắp chiếc trực thăng bay về "mật khu", Hùng và Nguyễn Tường Long, một cán bộ Không Quân VC được gửi tới để tháo gỡ chiếc trực thăng chuyển ra miền Bắc. Tại Sơn Tây hai người này ráp trở lại và bay thử thành công. Sau đó cả hai trở lại miền Nam hoạt động, c̣n chiếc trực thăng th́ được xử dụng trong viện huấn luyện phi công Bắc Việt.
Nguyễn Tường Long, nguyên là một kỹ sư gốc Việt kiều (cha Việt, mẹ Pháp) ở Lyon - Pháp; sau t́nh nguyện về nước tham gia "Cách mạng". Điều đáng lưu ư là khi các báo nói trên đồng loạt khai thác vụ "đánh cắp trực thăng" này th́ Nguyễn Tường Long đă chết. Từ đó đưa câu hỏi: phải chăng v́ "chiến sĩ quân báo Hồ Duy Hùng" chỉ là câu chuyện bịa đặt cho nên phải đợi tới lúc một trong hai vai chính về chầu "bác" th́ mới dám "phịa"?
Hỏi tức là trả lời. Và chỉ có câu trả lời đó mới có thể giải thích tại sao sau ngày 30/4/1975, CSVN không rầm rộ tuyên dương "người hùng" Hồ Duy Hùng mà phải đợi đến 15 năm sau? Xét về công trạng, việc "đánh cắp một chiếc trực thăng ngay trước mũi địch rồi chuyển ra miền Bắc" (nguyên văn trên báo VC) của Hồ Duy Hùng nếu không hơn th́ cũng phải bằng vụ dội bom Dinh Độc Lập của Nguyễn Thành Trung!
Hiện nay "đồng chí" Hồ Duy Hùng đang giữ một chức vụ khiêm nhượng: Giám Đốc Công Ty Du Lịch Phú Thọ!
* Bị pḥng không Việt Cộng bắn:
Theo lời kể của Đại tá Quân báo VC Lê Nam Hà th́ việc Hồ Duy Hùng đánh cắp trực thăng bay về đáp ở đồn điền cao su Dầu Tiếng, thuộc mật khu Lộc Ninh là "nằm trong kế hoạch", và các đơn vị địa phương đă được Bộ chỉ huy Miền thông báo trước để chuẩn bị đón "người chiến sĩ phi công anh hùng". Thế nhưng trên thực tế th́...
"Thấy máy bay địch bay về căn cứ của ta, các chiến sĩ giải phóng bắn lên. Máy bay bị trúng nhiều vết đạn nhưng ghế ngồi của phi công có tấm chắn pḥng đạn nên ông Hồ Duy Hùng không bị thương. Ông hạ thấp độ bay pḥng đạn và đă đáp xuống rất chính xác trong một băi không rộng lắm dưới rừng cao su." (Nguyên văn trên báo Thanh Niên).
Theo báo Phụ Nữ Chủ Nhật th́ lúc đó Hùng liên lạc với điện đài đơn vị (của VC) không được là v́ "đồng chí trực điện đài đột ngột bỏ đi uống nước"!!!
Tác giả hai bài báo nói trên - Mạc Đại và Nguyễn Phương Thảo - cho biết họ viết " theo lời kể của Đại tá Nguyễn Nam Hà - nguyên phó giám đốc Quân báo Sàig̣n & Gia Định và đồng chí Hồ Duy Hùng tức Chính", nhưng giữa hai bài báo đă có nhiều chi tiết mâu thuẫn tới mức không thể chấp nhận. Chẳng hạn, trong khi Mạc Đại của báo Thanh Niên viết rằng chiếc UH-1 nói bị trúng đạn, sau khi được tháo gỡ, vận chuyển ra phi trường Ḥa Lạc ở Sơn Tây (miền Bắc) th́ "Từ Hà Nội, Trung đoàn Không Quân Vận Tải đă phải điều tới một xe công tŕnh có đủ phương tiện sửa chữa và một toán cơ khí...", th́ Nguyễn Phương Thảo của báo Phụ Nữ lại viết "... Sau khi kiểm tra chiếc máy bay, Ban Quân Báo tiếp tục phân công Chính (H.D.Hùng) nhiệm vụ mới là dùng máy bay mang bom thả vào Dinh Độc Lập đúng vào 9 giờ sáng ngày 1 tháng 1 năm 1974 là ngày mà Thiệu và nội các tụ tập đón mừng năm mới. Bom đă được đặt làm, Chính cũng đă chuẩn bị các phương tiện kỹ thuật để thực hiện nhiệm vụ. Nhưng đến giờ phút chót, cấp trên đề nghị hủy bỏ kế hoạch này và thay vào đó là một nhiệm vụ khác" (tháo gỡ để mang về Bắc).
Việc để "mất cắp" một chiếc phi cơ để cuối cùng lọt vào tay địch là một việc đáng trách - và rất đáng buồn khi người chịu trách nhiệm lại là một trong những cấp chỉ huy đáng kính phục nhất là trong ngành trực thăng - Cố Trung Tá Nguyễn Văn Nghĩa. Tuy nhiên Lư Tưởng Úc Châu nhắc lại chuyện cũ không với mục đích chê trách người đă khuất mà chỉ để mọi người được biết rơ về một biến cố trong quân chủng (cũng như số phận của chiếc trực thăng mang số đuôi 60-139) - hiện đang được các nhà báo của chế độ CSVN thêu dệt và khai thác - một cách trâng tráo và rẻ tiền.
Tiếp theo chúng tôi xin giới thiệu tới chiến hữu KQ và độc giả bài tường thuật của một người trong cuộc, đó là anh cơ phi Phạm Minh Mẫn của chiếc trực thăng trong phi vụ nói trên.
_________________
Vụ mất máy bay trực thăng UH-1 số 60139 - Ngày 7 tháng 11 năm 1973
MINH MẪN, Cơ Phi PĐ 219
Sáng sớm ngày 6 tháng 11 năm 1973, Thiếu Tá Huỳnh Xuân Thu gặp tôi và nói "Chú về sửa soạn đi bay Quảng Đức ngay, nhớ mang theo đồ ngủ đêm". Tôi chộp vội bộ đồ nhái, cái mền dù và trang bị vệ sinh cá nhân cùng một bộ Domino, sau đó tôi theo Anh Thu và Trung Tá Nguyễn Văn Nghiă (Phi đoàn trưởng) ra kiểm tàu số đuôi 139 để bay đi Quảng Đức thăm biệt đội đang biệt phái tại đây.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1538081&stc=1&d=1582988603
Trung tá Nguyễn Văn Nghĩa đang được gắn cập bậc mới trong ngày vinh thăng (1973). Sau năm 1975, ông bỏ ḿnh trong trại cải tạo ở miền Bắc
Khi đến nơi, Chi khu trưởng thuộc tiểu Khu Phú Bổn tiếp đón rất niềm nở, pḥng nghỉ của biệt đội và chi khu gần nhau nhưng lại xa sân bay: từ sân bay qua một con phố, xuống dốc rồi lại ṿng lên nơi nghỉ ngơi của Biệt Đội 219. Khí hậu ở đây ban ngày th́ rất nóng nực nhưng ban đêm lại lạnh vô cùng v́ chung quanh toàn là núi đá.
Anh Nghiă và Anh Thu đi thăm từng nơi ở và làm việc của Biệt Đội, hỏi thăm t́nh h́nh cuộc sống ăn ở của anh em, sau đó anh muốn ở lại đêm để khích lệ tinh thần anh em. Chiều xuống, cái giá lạnh bắt đầu và rất buồn tẻ. Phố xá không có sự nhộn nhịp, người ta tụ tập ở nhà không muốn ra ngoài đường và trời càng lúc càng tối chỉ leo lét những bóng đèn vàng ố không đủ thắp sáng một căn pḥng, v́ vậy anh em biệt đội chỉ ngồi bù khú trong giây lát rồi tất cả đi ngủ. Nơi đây không có gường, chỉ có ghế bố xếp nhà binh và có đôi khi anh em phải ngủ chung một ghế bố v́ không có đủ; cũng may v́ trời lạnh nên ngủ chung cũng không đến nỗi khó chịu.
Khoảng 10 giờ đêm, khi mọi người đă ngủ th́ Chi Khu xuống báo địch quân hăm đánh vào chi khu và sân bay. Thế là toàn bộ anh em ra ứng chiến tại sân bay. Tất cả mở máy kiểm tra t́nh trạng phi cơ rồi tắt máy nghe Trung Tá Nghiă hướng dẫn bản đồ và phương hướng bay trong trường hợp chi khu bị overrun, sau đó ai nấy về tàu. C̣n lại ba thầy tṛ chúng tôi trong tàu và một phi công nữa tôi quên tên ngồi chơi Domino, cứ chơi như vậy cho đến sáng. Ban đầu th́ tôi thắng nhưng đến gần sáng th́ Anh Nghiă gom sạch.
Sáng sớm hôm sau chúng tôi bay trở về Nha Trang, bay một đoạn Anh Nghiă nói " Thu, chú bay thử vào đám mây kia xem". Anh Thu bay vào khoảng 5 phút, Anh Nghiă bay ra lại và nói "Chú không chịu khó bay instrument, bay ǵ mà kỳ dzậy?". Rồi Anh Nghiă lại nói Anh Thu bay vào trong mây, rồi Anh Nghiă lại bay ra, mây mỏng cứ lấp phất lướt qua phi cơ. Sau đó Anh Nghiă lại nói Anh Thu bay vào cụm mây dầy kia thử xem, rồi càng lúc máy bay càng vào sâu trong mây, mây mỗi lúc một sậm lại, lúc này Anh Nghiă cầm control và anh nói huyên thuyên đủ thứ chuyện trên đời. Anh hỏi tôi:"Mẫn, chú thấy mây thế nào, mây màu ǵ kia?". Tôi lưỡng lự nh́n vào mây trước mặt và nói "Tôi thấy mây màu Hồng Trung Tá!". Anh Nghiă phá lên cười "Trời ơi! Thằng này Vertical quá rồi (ư nói Vertigo), cho chú cầm cần lái chắc chết hết anh em". Rồi anh quay sang Anh Thu cũng hỏi mây màu ǵ và anh cứ nói, chỉ dạy lung tung trong khi anh cứ tiếp tục bay trong mây, 15, 20, rồi 30 phút, anh vẫn b́nh tĩnh bay, phi cơ êm ru.
Gần một tiếng đồng hồ sau, Anh Nghiă thấy cây lờ mờ phía dưới, hỏi Anh Thu "Chú biết ḿnh bay tới đâu rồi không?", Anh Thu chưa kịp đáp th́ Anh Nghiă đă chỉ con đường ở phiá dưới nói là Đơn Dương. Anh theo con đường đó bay đến Đà Lạt với ư định thăm một nhân viên phi hành của 219 đang nghỉ dưỡng thương tại đây. Lúc 9 giờ sáng, phi cơ đáp xuống bờ hồ Xuân Hương bên cạnh nhà hàng Thủy Tạ, tôi cất hành trang của tôi vào sau tail cone, ngay chỗ oil cooler fan. Sau đó ba thầy tṛ đi vào tiểu khu Tuyên Đức nhờ gởi phi cơ nhưng không gặp ALO, đại diện không quân ở đó, định bay vào sân bay Cam Ly nhưng từ đó lại không có phương tiện ra thành phố, hơn nữa lúc đó thời tiết quá xấu, bay vào đáp ở trung tâm Đà Lạt là đă giỏi lắm rồi. Chúng tôi trở lại máy bay, sau đó Anh Nghiă rủ lên nhà hàng Mekong uống cà phê và ăn sáng. Tôi xin Anh Nghiă cho về nhà v́ nhà Bác tôi ở đối diện với cửa sau bên hông nhà hàng Mékong, thấy ngay sát bên, Anh Nghiă đồng ư cho tôi về nhà, hẹn khi nào về th́ hai anh sẽ đến gọi.
Tôi ở nhà chơi và chờ các anh gọi bay về Nha Trang, nhưng măi đến 1 giờ rưỡi trưa vẫn không thấy các anh đến gọi. Tôi chạy sang nhà hàng Mékong th́ không thấy các anh đâu, Sau đó tôi nhờ Bác tôi chở ra nhà hàng Thủy Tạ chỗ đậu phi cơ, khi ra đến nơi th́ không thấy phi cơ đâu cả, chạy qua sân vận động gần đó cũng không thấy. Tôi nghĩ chắc Anh Nghiă và Anh Thu đă bay về Nha Trang mà quên gọi tôi rồi, hay là không lẽ Trung Tá lại đến nhà Thượng Sĩ gọi đi bay?... Các câu hỏi chỉ quanh quẩn vào những điều vô lư đó, và tôi lại lo thêm nữa là khi Anh Nghiă và Anh Thu bay về th́ đồ đạc của tôi dấu vào sau chỗ oil cooler fan lỡ cái mền dù hay bộ đồ nhái nó rơi ra và bị hút vào trong cánh quạt của oil cooler th́ khổ! Rồi thắc mắc và lo âu cứ như thế dồn dập, rồi cái túi đựng helmet đă kép phẹc-mơ-tuya chưa?...Thật t́nh lúc đó tôi rất lo sợ, không sợ Anh Nghiă la rầy mà sợ lỡ phi cơ có bị ǵ th́ sao? Hai anh có sao không?
Tôi quay ngay ra bến xe đ̣ mua vé trở về Nha Trang, dọc đường tôi rất lo lắng và mệt mỏi, rồi gục trên ghế trước ngủ thiếp đi, lát sau giật ḿnh thấy có người nắm tay tôi, tỉnh lại thấy tay ḿnh để trên đùi cô gái ngồi bên cạnh, cô cầm tay tôi để nhẹ qua đùi tôi. Tôi quê quá, vội vàng xin lỗi cô, cô nói thấy tôi có vẻ bồn chồn lo lắng. Cô gái cởi mở và thật có duyên với đôi răng khểnh dễ thương. Tôi quên hết mọ bồn chồn lo lắng, bắt đầu tấn công cô gái, suốt chặng đường chúng tôi đă quen nhau, khi về đến Nha Trang chúng tôi cùng đi ăn và Hường tên cô bé, đă cho tôi địa chỉ hẹn ngày hơm sau tôi sẽ đến t́m.
Khi về đến trại Hàm Tử khu gia binh của phi đoàn 219, lúc đó khoảng 7 giờ rưỡi tối, Hồng "già" chặn tôi lại hỏi: "Mày có biết ǵ không? Mày bay của mày bị mất cắp rồi", tôi chỉ cười v́ cho đây là lời đùa, và như vậy là Anh Nghiă, Anh Thu đă về rồi, tôi thấy yên trí hơn. Sau đó tôi gặp Trần Mạnh Khiêm, nó nói: "Mày về phi đoàn đi, máy bay bị mất rồi, để tao chở mày vô!". Mọi người đều nói một cách nghiêm trang như vậy nghiă là có thật. Lúc này tôi không c̣n hoang mang nữa, chẳng hiểu v́ sao, không thấy sợ, không thấy lo nghĩ, cứ dửng dưng như không có chuyện ǵ cả. Có lẽ v́ mấy chữ "mất máy bay" hay "mấy cắp máy bay" nó không có trong tự điển lưu trữ trong đầu tôi, thành ra đầu tôi cứ trống rỗng. Cũng có thể chỉ số thông minh của tôi thấp, không biết suy nghĩ và không biết phản ứng như thế nào, hoặc v́ tôi mệt lả cả người?...
Vừa về tới cửa pḥng trong trại Bắc B́nh Vương định lấy ch́a khoá mở cửa pḥng th́ có hai Trung Sĩ Không Quân ngồi trên xe Ford Pick-up chờ sẵn ở đó, họ lại chào và hỏi tôi:"Xin lỗi có phải Thượng Sĩ Mẫn không ạ?". Tôi trả lời ngay: "Vâng, tôi đây". Một trong hai người nói:"Chúng tôi mời Th/sĩ lên Pḥng An Ninh có việc cần". Tôi trả lời:"Tôi vừa mới về, các anh có thể cho tôi tắm một cái rồi tôi lên ngay". Nhân viên an ninh trả lời:"Không có ǵ đâu, Th/Sĩ lên một chút xíu rồi về tắm cũng được mà". Mặc dù mệt mỏi tôi cũng phải lên Pḥng An Ninh, việc đầu tiên là họ phủ đầu tôi trước, đưa tôi vào căn pḥng 12 mét vuông, cửa sổ bị đóng bít lại bằng ván ép dằn từ phía bên ngoài, không có đèn điện.
Một lát sau họ quăng vào một cái chiếu đơn và 4 cây đèn cầy của em bé đốt đèn Trung Thu, rồi khoảng 15 phút sau, họ đứng bên ngoài quăng vào cái bô nhôm, nghe một cái cảng, và cứ 15 phút họ lại mở cửa rọi đèn bin vào xem tôi có tự tử hay không?
Khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ sau th́ vị Đại Úy An Ninh tôi quên mất tên, cho gọi tôi lên, lúc này khoảng 10 giờ đêm. Thấy điệu bộ của vị Đại úy An Ninh, tôi hiểu ngay rằng năy giờ họ làm như vậy là để hù họa tôi và cũng để câu giờ chờ sĩ quan đến thẩm vấn tôi.
Vị Đại Úy nói:"Tôi biết Th/Sĩ chỉ là tép riu thôi, như vậy không có ǵ phải sợ, Th/Sĩ cứ tŕnh bày mày bay rời Nha Trang lúc mấy giờ và đến Quảng Đức làm ǵ, sau đó mấy giờ cất cánh và xuống Đà Lạt lúc mấy giờ, và gặp ai, trông thấy ai, rồi đi về hướng nào, và cứ như thế cho đến khi Th/Sĩ khám phá ra mất máy bay". Rồi ông ta đưa cho tôi một xấp giấy bơ-luya và một cây bút bi, tôi cứ hí hoáy viết và kể lại toàn bộ những ǵ tôi biết được, theo dàn bài và cách thức sắp xếp của ông Đại Úy đưa ra. Xong, vị Đại Úy đọc lại rất cẩn thận, rồi đọc lại cho tôi nghe, sau đó nói là sai chưa đúng, bắt tôi khai lại và ông cất tờ kia đi. Cứ như thê nhiều lần... Cho đến 2, 3 giờ sáng, tay tôi cứng lại không c̣n viết được nữa, vị Đại Úy mới cho tôi nghỉ và đưa về pḥng giam.
Về phần Anh Nghiă và Anh Thu khi đến nhà Bác tôi gọi tôi đi về th́ Bác tôi mới nói:"Nó ra chỗ đậu máy bay không thấy máy bay đâu cả, nó sợ các ông bỏ nó nên nó lên xe đ̣ về Nha Trang rồi". Lúc đó hai anh mới hết hồn, nhờ Bác tôi lấy xe LaDaLat chở vô phi trường Cam Ly vẫn không thấy, sau Bác tôi đưa về Tiểu Khu Tuyên Đức ḍ hỏi vẫn không ra, cuối cùng hai anh quyết định tŕnh diện Tiểu Khu báo cáo sự việc và nơi đây Pḥng An Ninh của Tiểu Khu đưa hai anh về Pḥng An Ninh Không Quân Nha Trang ngày 8 tháng 11 năm 1973. Tại Nha Trang hai anh không bị giam giữ, hai anh ở nhà và nhân viên điều tra đến tận nhà làm việc.
Tôi bị giam như vậy lúc đầu tưởng về ngay nên tôi chỉ nhờ bạn đưa vào cái dù thả trái sáng để làm mùng, nhưng rồi vừa nóng vừa ngộp, tôi cứ lấy thuốc là châm thủng từ từ, lúc đầu lỗ nhỏ và ít, sau đó lỗ to và nhiều hơn, cuối cùng th́ nó cũng như không v́ chỗ nào cũng có muỗi. C̣n ăn uống th́ mỗi bữa nhờ nhân viên an ninh mua dùm ổ bánh ḿ và một bịch nước mía, c̣n bạn th́ chẳng thấy ma nào dám bén mảng đến nữa, có lẽ họ sợ liên lụy chăng hay là Pḥng An Ninh không cho thăm viếng?
Ăn bánh ḿ măi không thể nuốt nổi, mà Pḥng An Ninh không có quy chế ăn uống. Tôi phải tự túc mua ở ngoài, tưởng hết chịu nổi th́ sau một tuần lễ, họ lại mời Thiếu Tá Thu vào ở chung với tôi, lúc đó họ mới cho khiêng hai cái gường sắt rồi đóng cửa lại. Lát sau, vị Đại úy điều tra tôi vào xin lỗi:" Thiếu Tá thông cảm, tôi phải đóng cửa lại", Anh Thu tức giận:"Thiếu Tá cái ǵ, tao là thằng tù!", Đại Úy An Ninh trả lời:"Lệnh trên chứ tôi đâu dám...", Anh Thu tức giận nhảy chồm tới:"Tao là thằng tù...", vị Đại Úy nhảy vội ra ngoài và từ đó ngày đêm không đóng cửa nữa.
Rồi mỗi bữa Chị Thu mang vào hai phần cơm cho Anh Thu và cả cho tôi nữa, Chị c̣n làm một lon ghi-gô đậu phộng da cá cho Anh Thu nhưng anh không thích ăn nên giao cho tôi "xử lư" nó. Hai thầy tṛ được tự do đi lại, hay là ra ngoài sân hóng mát khi thoải mái.
Sau khi đối chiếu tất cả những lời khai của Anh Nghiă, Anh Thu và tôi, Pḥng An Ninh Không Quân chuyển hồ sơ về Bộ Tư Lệnh Không Quân cho Trung Tướng Trần Văn Minh duyệt xét, sau đó chuyển lên cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, xem xong Tổng Thống bác lời khai của chúng tôi. Thế là thấy tṛ chúng tôi phải khai lại, và cứ như thế khai đi khai lại cho đến lần thứ ba, Trung Tướng Trần Văn Minh tuyên bố ông đă duyệt xét theo hệ thống quân giai, nếu Tổng Thống c̣n bác nữa tức là không tín nhiệm ông sẽ từ chức, đồng thời Tổng Giám Mục Nguyễn Văn B́nh cũng can thiệp yêu cầu Tổng Thống xét lại, cho tới lúc đó ông Thiệu mới chịu duyệt.
(Trung tá Nguyễn Văn Nghĩa là người Công Giáo, tên thánh là Paul (Phao-lô), gia đ́nh là chỗ thân thiết với Đức Tổng Giám Mục Sài G̣n Phao-lô Nguyễn Văn B́nh. Ông ghé Đà Lạt với ư định thăm Đại úy Phạm Công Khanh của 219 đang dưỡng thương tại đây. Chú thích của Thiên Ân)
Hết tuần lễ thứ hai, họ đưa Anh Nghiă lên Pḥng An Ninh làm thủ tục, xong xuôi họ giải cả ba thầy tṛ chúng tôi ra Đại Đội 24 Quân Cảnh Tư Pháp Nha Trang.
Cơ sở của Quân Cảnh Tư Pháp Nha Trang là một dăy nhà cất theo kiểu dă chiến của Pháp, các pḥng làm việc th́ bừa bộn, thiếu tiện nghi, hồ sơ để lung tung, nhưng cách làm việc có vẻ chuyên môn hơn Pḥng An Ninh KQ Nha Trang. Khi chúng tôi đến nơi, một vị Đại Úy chấp pháp lấy cung chúng tôi từng người một, và không như trong An Ninh KQ, ở đây họ hỏi theo thứ tự lớp lang và họ ghi chép lấy chứ không để chúng tôi tự ghi chép.
Anh Nghiă vào làm việc trước, sau đó đến Anh Thu. cuối cùng mới đến tôi. Sau khi Anh Nghiă ra, Anh Thu vào làm việc. Vị Đại Úy chấp pháp lấy cung rất là lâu nên tôi có hơi bồn chồn, và có vẻ buồn buồn ưu tư. Anh Nghiă thấy vậy nói:"Này cái thằng chết nhát, có ai khai cho chú đâu mà cái vẻ mặt lo lắng, lo sợ vậy hả?... Xem anh đây này, sự nghiệp, địa vị, danh vọng, vợ con... mất hết mà anh có lo lắng điều ǵ đâu, sự việc đă xảy ra rồi th́ điều ǵ đến nó sẽ đến, có lo lắng cách nào th́ nó cũng phải đến vậy thôi..."
Rồi việc lấy cung của chúng tôi cũng kéo dài đến chiều, xong họ sắp xếp chỗ nghỉ ngơi cho chúng tôi. V́ ở đây chỉ có pḥng tạm giam, mà pḥng tạm giam th́ toàn là lính "trời ơi" không thôi, nào là x́-ke, ăn cắp, hiếp dâm, đào ngũ, đánh lộn .v..v.., mà pḥng th́ chỉ là cái cũi làm bằng vỉ sắt phi trường, chung quanh trống trơn, mái cũng bằng vỉ sắt, nếu mưa th́ chịu trận vậy thôi. V́ không có chỗ giam riêng chúng tôi nên buộc ḷng họ phải nhường ba cái gường sắt của họ cho ba thầy tṛ chúng tôi nằm, c̣n họ nằm dưới đất. Sau năm ngày đúc kết hồ sơ thụ lư của chúng tôi, họ đưa Anh Nghiă vô Quân lao c̣n Anh Thu và tôi được cho về.
Lúc này tôi mới nhớ tới cô bé tên Hường mà tôi mới chỉ nắm tay được trước đó 20 ngày. Tôi lục t́m địa chỉ mà em cho tôi, nó thất lạc mất rồi, tôi tiếc ngẩn người, đă hụt mất một nàng thật dễ mến và đáng yêu.
Vài ngày sau, tôi vào Quân Lao Nha Trang thăm Anh Nghiă. Trông thấy tôi, anh nói đùa:"Cái thằng chết nhát, mày vô đây làm ǵ, họ bắt nhốt mày bây giờ". Tư cách của anh thật ung dung. Tôi đưa cho anh quyển "Papillon" (Người tù khổ sai), anh ph́ cười khi thấy tựa cuốn truyện. Và anh kể cho tôi biết ngày anh vô đây, gặp một tên "Đại bàng" trong tù, khi hắn ta biết anh là phi đoàn trưởng phi đoàn 219, hắn kính phục anh ngay, v́ hắn cũng là một quân nhân, đă từng nghe những huyền thoại về 219. Ngoài đời hắn là một tay anh chị khét tiếng ở Nha Trang, và hắn đă có lần đụng độ với những tay ĺ lợm của 219 vào những năm 1968-69, khi phi đoàn chưa dời về Nha Trang (h́nh như hắn là kẻ đă chém lầm vào tay anh Châu Lương Cang tại Bar số 1). Gặp Anh Nghiă hắn nể phục ngay và ra lệnh cho đàn em phục vụ Anh Nghiă mọi nhu cầu. Hắn tuyên bố với các đàn em rằng Anh Nghiă là một "Đại ca giang hồ trí thức" của hắn. Về phần Anh Nghiă, sau này cứ mỗi tháng hay vài tuần là Đại Tá Đặng Duy Lạc hay Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Lượng lại bảo lănh cho về phép...
Đến tháng 5 năm 1974,Anh Thu và tôi được Ṭa Án Quân Sự Nha Trang mời ra làm việc và mọi sự lại khai lại như ban đầu. Sau đó, trong phiên ṭa xử ngày 12 tháng 7, Anh Nghiă bị tuyên án "8 tháng tù ở, kể từ ngày bị bắt giam".
Phiên ṭa kết thúc, mọi người chạy lại chúc mừng anh v́ anh đă trong quân lao 9 tháng, quá thời gian ṭa tuyên án. Từ đó anh về nhà luôn.
Trong năm 1974, không ai cắt tôi đi bay nữa, chỉ trực tại phi đoàn. Lúc này Anh Huỳnh Văn Phố lên làm quyền Phi Đoàn Trưởng, sau hoán chuyển với phi đoàn trưởng 253 ngoài Đà Nẵng là Thiếu Tá Phạm Đăng Luân về làm Phi Đoàn Trưởng 219, Anh Huỳnh Xuân Thu làm Phi Đoàn Phó, Anh Trần Ngọc Thạnh làm Sĩ Quan Huấn Luyện, Anh Phạm Ngọc Sâm làm làm Trưởng Pḥng Hành Quân. Buổi đầu, Anh Sâm cắt bay không để ư đến sự trùng hợp tên tuổi của nhân viên trong phi đoàn nên có vài việc buồn cười xảy ra như khi cắt một phi hành đoàn biệt phái đi Ban Mê Thuột, anh đă ghi trên bảng phi lệnh;"PHĐ: Bơ - Đường - Xả -Cải" (Phan Công Bơ, Trưởng phi cơ - Lư Bổn Đường, Hoa tiêu phó - Hồ Văn Xả, Mevo - Lê Văn Cải, Xạ thủ), thế là mọi người được một mẻ cười v́ nguyên phi hành đoàn toàn đồ ăn, không sợ đói. Sau anh cắt một phi hành đoàn cũng bay đi Ban Mê Thuột, sáng ra các anh thấy tên của phi hành đoàn này th́ đều rụng rời tay chân: "Kiệt - Lực - Quan - Tài" (Vơ Tấn Kiệt, TPC - Nguyễn Hùng Lực, HTP - Nguyễn Văn Quan, Mevo - Nguyễn Văn Tài, Xạ thủ), không anh nào chịu bay cả. Anh Sân phải cắt bay lại với các tên khác các anh mới đi bay...
Minh Mẫn 219
hoanglan22
03-06-2020, 23:56
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1541505&stc=1&d=1583538936
Lời giới thiệu: Cựu Hải-Quân Trung-Úy Trần Trúc Việt xuất thân khóa 19 sĩ quan Hải-Quân Nha-Trang.
Năm 1972, khi đang ṭng sự trên Hải-Vận-Hạm Ninh-Giang HQ 403 và sắp thuyên chuyển về Giang-Đoàn 21 Xung-Phong, ông Việt được chấp thuận sang Hoa-Kỳ du học. Ông Việt thụ huấn khóa II Communications tại Naval Postgraduate School.
Đọc những ḍng sau đây, quư vị sẽ có ư niệm rơ ràng hơn về một trong những trường Hải-Quân có tầm vóc quốc tế mà nhiều sĩ quan Hải-Quân V.N.C.H. đă theo học.
Naval Postgraduate School (NPS) là trường đại học cao cấp nhất được trực tiếp quản trị bởi Bộ-Hải-Quân Hoa-Kỳ. Trường NPS nằm trong thành phố Monterey, thuộc tiểu bang California, một thành phố du lịch nằm ven biển với khí hậu mát mẻ gần như quanh năm, cách San Jose độ hơn một giờ lái xe. Nói đến NPS là nói đến một trường đại học có rất nhiều sĩ quan thuộc các quốc gia đồng minh của Hoa-Kỳ theo học, dĩ nhiên trong đó có các sĩ quan Quân-Lực V.N.C.H., đa số xuất thân từ Trường sĩ quan Hải-Quân Nha-Trang và Trường Vơ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt.
Sơ Lược về Sự Tổ Chức của Naval Postgraduate School
Trường Hậu Đại-Học Hải-Quân Hoa-Kỳ gồm có ba khối: General Lines School, Engineering School và Management School.
Management School (Tạm dịch là Trường Quản-Trị). Trường này có lớp riêng cho sĩ quan Hải-Quân Hoa-Kỳ và lớp riêng, ngắn và dài hạn dành cho sĩ quan đồng minh. (International Defense Management Course).
Trường NPS không chỉ dành riêng cho sĩ quan Hải-Quân, mà thời đó, chính phủ V.N.C.H. gửi cả sĩ quan Lục-Quân, Không-Quân và luôn cả công chức cao cấp quốc pḥng sang tu nghiệp. Về sau, Hoa-Kỳ mở ngay tại Việt-Nam lớp quản trị cho Quân-Lực V.N.C.H.
Engineering School (Tạm dịch là Trường Kỹ Thuật và Cơ khí). Trường này dạy cho sĩ-quan Hải-Quân Hoa-Kỳ xuất thân từ Annapolis và General Lines School và cũng dạy cho sĩ-quan Hải-Quân Đồng-Minh.
Những sĩ quan Hải-Quân Việt-Nam theo học trường này được chia ra hai nhóm:
Sĩ quan cơ khí học các ngành như: Mechanical, Electronic…
Sĩ quan chỉ huy học các ngành: Communications, Operations Research, Aerology…
General Lines School (Tạm dịch là trường dạy ngành chỉ huy). Đa số sĩ quan Hải-Quân Hoa-Kỳ theo học tại NPS đều xuất thân Annapolis Naval Academy. Sĩ quan nào xuất thân từ OCS hoặc Naval Aviation School, v. v… đều phải ra đơn vị phục vụ một thời gian tối thiểu là hai năm rồi mới được xin về NPS học tiếp để lấy bằng Cao Học (Master’s Degree), hoặc tiến sĩ (Ph.D.); do đó NPS được gọi là trường hậu đại học.
Những sĩ quan đồng minh, nhất là sĩ quan Hải-Quân Việt-Nam, theo học trường này đều phải là sĩ quan ngành chỉ huy.
Những Tiêu Chuẩn Được Tuyển Chọn Để Theo Học Trường NPS
Qua chương tŕnh MAP (Military Assistance Program) của chính phủ Hoa-Kỳ, sĩ quan Hải-Quân muốn theo học Trường NPS phải hội đủ những điều kiện sau đây: Có văn bằng hoặc chứng chỉ của phân khoa Đại Học Khoa-Học Saigon; điểm Anh ngữ tối thiểu 80; và hồ sơ quân bạ phải không có “củ”. Ban Du Học thuộc Pḥng Quân-Huấn, Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân có nhiệm vụ xét đơn các ứng cử viên xem có đủ điều kiện hay không sau đó hồ sơ hợp lệ của sĩ quan ghi danh sẽ được chuyển về Trường NPS để duyệt xét, tuyển chọn và quyết định.
V́ phương pháp tuyển chọn do chính Trường NPS quyết định chứ không phải do Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân cho nên rất công b́nh. Sau khi nộp hồ sơ, các sĩ quan phải chờ để được gọi về thi Anh ngữ tại trường Sinh-Ngữ Quân-Đội. Nhiều sĩ quan bị loại v́ không về kịp để thi Anh ngữ. Trường hợp của tôi khá may mắn, hai lần trước về không kịp v́ tàu đang công tác; lần thứ ba – cũng là lần chót – bảy giờ sáng tàu vừa cặp bến chưa cột hết giây, tôi đă xin phép Hạm-Trưởng “phóng” xuống bờ, lấy Honda chạy một mạch đến Trường Sinh-Ngữ Quân-Đội, vừa kịp giờ vào pḥng thi.
Được Chấp Thuận và Lên Đường Du Học
Trong đợt tôi đi, danh sách có năm sĩ quan. Bốn người, kể cả tôi, cùng khóa và một người khóa đàn em. Trong bốn người cùng khóa, có một anh nổi tiếng từ quân trường và có biệt danh là “Gà Tồ”. Anh này phải ở lại đi sau v́ không đủ điểm Anh ngữ; lư do v́ mê chơi cờ tướng nên thường bỏ học Anh ngữ và phải kể cộng thêm cái “gà tồ” của anh nữa. Những sĩ quan được chính thức lên đường phải qua một số thủ tục cần thiết như: xin Thông Hành Quân-Vụ, Sự Vụ Lệnh, chiếu khán nhập cảnh, may quân phục, đổi tiền, v. v…
Chúng tôi đi bằng phi cơ từ phi trường Tân-Sơn-Nhất, dừng tại Hawaii độ hai giờ rồi bay thẳng sang Lackland Air Force Base, San Antonio, Texas, để học thêm ba tháng Anh ngữ. Sau thời gian học Anh ngữ, bốn người chúng tôi đáp máy bay sang Travis Air Force Base, California; từ đây, chúng tôi lấy bus đến Trường NPS.
Trong thời gian di chuyển từ Việt-Nam sang Mỹ, mặc dù Anh văn đă học “một bụng” nhưng mà nói th́ múa máy tay chân hơi nhiều. Nhờ đi chung bốn đứa cho nên cũng đỡ, trật đứa này c̣n đứa khác. Trường hợp anh “Gà Tồ” th́ bi đát hơn, v́ anh đi trễ nên chỉ có một ḿnh. Anh kể rằng khi ghé tạm nghỉ ở Hawaii, anh đi t́m rest room – danh từ duy nhất anh học tại trường Sinh ngữ Quân-Đội – đi mấy ṿng mà không thấy rest room đâu cả, chỉ thấy mấy nơi đề Gentlemen, anh ngẩm nghĩ, không biết ḿnh có được xem như là một Gentleman hay không, v́ quần áo xốc xếch quá. Cuối cùng anh đành nhịn, không dám mở cửa bước vào!
Chương Tŕnh và Các Môn Học
Mặc dù được Bộ-Hải-Quân quản trị, nhưng thật ra không có ǵ là quân đội cả, chương tŕnh học không khác ǵ các trường Đại Học dân sự, ngoại trừ phải lấy nhiều môn học cho mỗi quarter, gần như gấp đôi so với các đại học ngoài. V́ vậy mà ghế trong thư viện của NPS được các sĩ quan “đánh bóng” rất kỹ vào những ngày cuối tuần; đặc biệt là sĩ quan thuộc các quốc gia đồng minh. Những môn học thường được sĩ quan Việt-Nam theo học gồm:
Electronic Engineering
Mechanical Engineering
Communications
Operations Management
Operations Research.
Ban giảng huấn đa số là giáo sư dân chính. Nếu tôi không lầm th́ có tất cả ba khóa học dài hạn được Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân gửi sĩ quan theo học qua chương tŕnh MAP. Ngoài ra, tại NPS có hai khóa huấn luyện ngắn hạn đặc biệt về Quản-Trị Quốc-Pḥng (Defense Management) mỗi năm một lần dành riêng cho sĩ quan cấp Tướng; khóa ba tháng dành cho sĩ quan cấp Đại-Tá. Mỗi năm đều có nhiều sĩ quan cao cấp Việt-Nam theo học hai khóa này. Một người rất đặc biệt trông coi về hành chánh và giao tế cho hai khóa Quản-Trị Quốc-Pḥng tại NPS mà tất cả sĩ quan đều kính trọng v́ sự phóng khoáng và giúp đỡ tận t́nh của Bà. Đó là bà Betty Field. Có thể nói, không một sĩ quan nào theo học tại NPS, khóa ngắn hạn cũng như dài hạn, mà không nhận được sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần của Bà. Sau tháng 4-1975, v́ sự tận t́nh tranh đấu và giúp đỡ những sĩ quan Việt-Nam c̣n đang theo học tại Trường đang gặp khó khăn, Bà đă được sự kính mến và xem như là “Mẹ Tinh Thần” của các sĩ quan tị nạn. Tôi cũng như nhiều sĩ quan khác bọi Bà bằng Mom. Các con của tôi gọi Bà bằng Grandma. Hiện giờ Bà vẫn c̣n trông coi các khóa Quản-Trị Quốc-Pḥng tại NPS.
Trợ Cấp Tài Chánh Học Hành và Ăn Ở
Với số tiền trợ cấp 600 Mỹ kim một tháng - không thuế - được coi là dư giả đối với vật gía vào năm 1972, xăng 32 xu một ga-lông và đi chợ 20 Mỹ kim th́ đầy xe. Sĩ quan có thể thuê nhà ở ngoài, mua xe hoặc mặt thường phục đi học.
Chương tŕnh học cũng giống như các đại học dân sự, không như mọi người lầm tưởng là sẽ nặng về quân sự. Có một anh bạn thuộc Trường Vơ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt, cụ bị đem theo đồ trận và giày trận, v́ nghĩ rằng chắc phải lăn lộn dữ dội ngoài thao trường; khi biết chương tŕnh chỉ toàn học chữ, anh cảm thấy lỡ bộ, bèn dấu biệt đôi giày trận, không bao giờ dám nhắc tới nữa. Đa số sĩ quan bị trở ngại khoảng ba tháng đầu.
Sĩ quan Việt-Nam theo học tại NPS có năm đông nhất lên khoảng 21 người. Những khóa học Electronic, Mechanical và Communications kéo dài ba năm; khóa Operations Research khoảng hai năm rưỡi; khóa Operations Management khoảng 18 tháng. Sĩ quan Bộ-Binh thường theo học khóa Operations Research. NPS là trường đại học về văn hóa cao cấp nhất của quân đội Mỹ, được công nhận bởi hệ thống đại học Miền Tây Hoa-Kỳ và có quyền cấp phát văn bằng tiến sĩ.
Một sĩ quan nổi tiếng trong Hải-Quân Việt-Nam là ông Nguyễn Tiến Ích. Ông xong cao học ở NPS và sau đó theo học ở MIT và đỗ bằng tiến sĩ. Trường hợp đặc biệt có hai sĩ quan đă hai lần theo học NPS, đó là Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Vân và Hải-Quân Trung-Tá Hà Ngọc Lương. Ông Lương về nước và tự tử chết khi xảy ra cuộc rút quân tại Nha-Trang vào đầu tháng 4 năm 1975. Anh Dzĩnh, một sĩ quan Bộ-Binh, nhỏ con nhưng bù lại anh có một khối óc thật vĩ đại, thuộc loại thiên tài. Anh Dzĩnh theo học khóa Operations Research, được tất cả giáo sư kính nể. Một giáo sư đă nói rằng: “Anh Dzĩnh có cả một thư viện trong đầu.” Anh về nước khoảng cuối năm 1974. Nhà trường sẵn sàng can thiệp để anh ở lại tiếp tục học lấy bằng tiến sĩ, nhưng anh từ chối.
Những Sinh Hoạt Trong Trường và Ngoài Trường
Hằng năm nhà Trường thường tổ chức nhiều buổi văn nghệ và triển lăm quốc tế, đặc biệt là ngày International Day. Vào ngày này, những sĩ quan và gia đ́nh thuộc các quốc gia Đồng-Minh thường làm những món ăn “quốc hồn quốc túy” để giới thiệu món ăn truyền thống của quê hương ḿnh. Riêng về phía Việt-Nam, chỉ toàn sĩ quan “độc thân tại chỗ”, cho nên chỉ biết mượn vài bộ lư hương và đồ gốm để trưng bày.
Sở dĩ sĩ quan Việt-Nam không được phép đem gia đ́nh theo là v́, trong những năm trước, có một sĩ quan – có lẽ bất măn với Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân đă không cho phép ông gia hạn học thêm – đă cùng vợ trốn sang Canada, không chịu trở về nước. (Theo quy chế cũ, sĩ quan được phép đem vợ theo nếu khóa học hơn một năm). Từ đó, Bộ-Tổng-Tham-Mưu cấm tuyệt đối, không cho sĩ quan du học đem vợ con theo.
Tất cả sĩ quan đều thuê pḥng trọ cách trường vài blocks để có thể đi bộ đến Trường. Đa số đều có xe, thỉnh thoảng rủ nhau đi San Francisco ghé phố Tầu ăn ḿ và mua thực phẩm Á-Đông. Những sĩ quan trẻ thỉnh thoảng cũng làm một chuyến đi xa tận Nevada thăm Mustang Ranch.
Sĩ quan thâm niện hiện diện lúc đó là Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Ngọc Quỳnh. Thỉnh thoảng Ông mời các sĩ quan họp để, thứ nhất, nhắc nhở các sĩ quan vài điều cần thiết; thứ hai, để thưởng thức món phở đặc biệt và tiếng cười “bất hủ” của Hải-Quân Trung-Tá Đoàn Doanh Tài.
Vùng Monterey và Pacific Grove có khoảng năm gia đ́nh Việt-Nam kỳ cựu và rất hiếu khách. Các sĩ quan trẻ thường đến chơi vào dịp cuối tuần. Đặc biệt phải kể đến gia đ́nh ông bà Thiệp và gia đ́nh Cụ Diệp. Có lẽ tất cả sĩ quan theo học tại NPS đều biết, ngoài đức tính hào phóng và hiếu khách, hai gia đ́nh này c̣n có mấy cô con gái rất đẹp và dễ thương. Mấy chàng sĩ quan trẻ đôi khi bị “C” cũng v́ mấy cô dễ thương này.
Có một trường cũng rất đặc biệt thuộc thành phố Pacific Grove là Trường Sinh Ngữ Quân-Đội (Defense Language Institute). Vào những năm Hoa-Kỳ đổ quân tối đa vào Việt-Nam, Trường đă có hơn 200 giáo chức người Việt dạy tiếng Việt cho những quân nhân chuẩn bị sang Việt-Nam.
Biến Cố Tháng 4 Năm 1975
Mấy tháng trước biến cố tháng 4-1975, những sĩ quan đang theo học tại NPS đều thấy rơ người Mỹ đang chuẩn bị bỏ miền Nam Việt-Nam. Gần như trong suốt thời gian này tất cả sĩ quan không ai c̣n tinh thần để học nữa. Trong giảng đường th́ như người mất hồn, chỉ chờ chiều về để cùng nhau đón xem tin tức từ các đài ABC, NBC và CBS.
Sau tháng 4 năm 1975, Trường NPS chấm dứt việc huấn luyện sĩ quan Việt-Nam, v́ chính phủ V.N.C.H. không c̣n nữa! Tất cả được chuyển qua quy chế tị nạn. Anh em thỉnh cầu nhà Trường gia hạn cho những sĩ quan chỉ c̣n một hoặc hai quarter nữa là măn khóa được tiếp tục học cho xong. Nhà Trường chấp thuận, nhờ đó một số sĩ quan đă kịp thời hoàn tất chương tŕnh học. Tôi thuộc vào số sĩ quan may mắn này. Tôi đă hoàn tất văn bằng cao học vào tháng 6 năm 1975.
Tiếc rằng tôi đă không được dịp đem vốn kiến thức hấp thụ tại xứ người để về phục vụ quê hương Việt-Nam và quân chủng Hải-Quân V.N.C.H.!
hoanglan22
03-07-2020, 00:03
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1541507&stc=1&d=1583539253
Lời giới thiệu: Cựu Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Ngọc Quỳnh xuất thân khóa II Trường Hải-Quân Pháp tại Brest. Mời độc giả hăy cùng “Ngưới Lính Biển chuyên nghiệp” Nguyễn Ngọc Quỳnh khơi lại những kỷ niệm sống thật ở những khía cạnh tốt đẹp nhất trong đời Hải-Quân.
Lănh tàu là điều mơ ước của nhiều lính biển, kể cả kẻ viết bài này. Đó là dịp tốt để thực hiện mộng hải hồ, vượt đại dương, khám phá nhiều chân trời mới lạ và cũng là dịp du lịch nước ngoài miễn phí.
Nhưng, lệnh chỉ định lănh tàu đến với tôi không đúng lúc. V́, lúc đó, ngày 5 tháng 2 năm 1962, tôi đang ở San Diego, chờ ngày hồi hương. Sau một năm du học và gần tám năm hải vụ liên tục, tôi không mơ ǵ hơn là trở về với gia đ́nh và phục vụ ở đơn vị bờ một thời gian. Nhưng đă trót vướng vào nghiệp hải hồ, tôi không thể từ chối một chuyến lênh đênh nữa.
Chiến hạm tôi sắp lănh là Dương-Vận-Hạm Cam-Ranh HQ 500. Ngày bàn giao được dự trù vào giữa tháng 4. Trong khi chờ đợi, tôi theo học các khóa huấn luyện về hành quân thủy bộ tại Coronado; v́ hành quân thủy bộ là nhiệm vụ chính của các Dương-Vận-Hạm.
Khi tôi tới Hải-Quân Công-Xưởng San Francisco th́ thủy thủ đoàn từ Việt-Nam đă đến vào ngày hôm trước. Tôi rất mừng khi gặp họ và được sống lại trong bầu không khí của một đơn vị Hải-Quân Việt-Nam sau một năm xa cách. Tôi cũng mừng v́ có một bộ-tham-mưu và thủy thủ đoàn khá hùng hậu.
Bộ-tham-mưu gồm có các anh Nguyễn Ngọc Rắc, Đinh Vĩnh Giang, Lê Văn Th́; Đặng Trần Du, Hạm-Trưởng và Hoàng Nam, Cơ Khí Trưởng. Mặc dù từ nhiều đơn vị khác nhau tới, chỉ trong một vài ngày chúng tôi đă tạo được tinh thần đồng đội và t́nh tương thân. Đó là yếu tố cần thiết giúp chúng tôi vượt qua những khó khăn, mệt nhọc trong những ngày tháng sắp tới.
Chiến hạm lúc đó sắp hoàn tất chương tŕnh tái trang bị sau một thời gian dự trữ bao kín (mothball). Chúng tôi làm quen với chiến hạm và tiếp tay vào việc tái trang bị. Hải-Quân Hoa-Kỳ biệt phái một toán huấn luyện lưu động để giúp đỡ nhân viên chiến hạm từ lúc đó cho tới khi chiến hạm rời bến, đưa chúng tôi hồi hương. Chúng tôi học hỏi được rất nhiều nhờ sự chỉ dẫn tận t́nh của toán huấn luyện lưu động này. Mặc dù nhiều nhân viên chiến hạm khá thành thạo tiếng Anh, nhưng sự liên lạc giữa hai bên trong vài tuần đầu cũng khá… mỏi tay, v́ phải bổ túc bằng “thủ hiệu quốc tế!”
Lễ trao chiến hạm được tổ chức trọng thể, với sự có mặt của đại diện hai chính quyền Việt-Mỹ. Phía Việt-Nam là một vị đặc sứ từ Ṭa Đại-Sứ Việt-Nam Cộng-Ḥa tại Washington, D.C. Phía Hoa-Kỳ là Đô-Đốc Tư-Lệnh Hải-Khu 12. Nhiều phóng viên báo chí và truyền h́nh Hoa-Kỳ đến làm phóng sự.
Ngay sau lễ bàn giao, chiến hạm bắt đầu tuần lễ huấn luyện trắc nghiệm và làm quen (Shakedown Training). Đúng như nghĩa tiếng Mỹ, trong tuần lễ này chiến hạm bị “quần” rất kỹ, từ nhân viên đến máy móc và dụng cụ, xem có ǵ trục trặc để bổ khuyết, tu chỉnh. Toán huấn luyện lưu động rất hài ḷng về sự hăng hái và khả năng học hỏi của thủy thủ đoàn; nhưng cũng rầu về thói coi thường các biện pháp an toàn của lính biển Việt-Nam.
Trong một lần thực tập tác xạ pḥng không, một viên đạn đại bác 20 bị tịt ng̣i, nằm trong buồng súng. Biện pháp an toàn là xịt nước lạnh lên thép súng, phủ một tấm bố lên súng rồi nhân viên tránh xa ra, chờ một chốc cho đạn nguội mới lấy ra. Nhưng, khi nhân viên đang phủ tấm bố lên th́ anh Trung-Sĩ hỏa đầu vụ đi ngang; có lẽ v́ kinh nghiệm chiến đấu của anh trên sông ng̣i với đại liên, anh cho rằng biện pháp an toàn đó là “bày đặt, mất th́ giờ”, anh bèn phóng tới, mở ngay cơ bẩm, móc viên đạn nóng ra ném ngay xuống biển!
Lần khác, trong cuộc thực tập tiếp tế dầu ngoài biển giữa hai chiến hạm đang chạy song song, nhân viên phải tập cách tháo ống dẫn dầu khẩn cấp, pḥng khi có nguy cơ hỏa hoạn hoặc địch sắp tấn công. Một lần, dây cột đầu ống dầu không tháo ra được, phải cắt đứt ở phía ngoài thành tàu chừng hơn một săi tay. Huấn luyện viên Mỹ đang giúp một nhân viên cột giây an toàn, mang áo phao, nón nhựa để ra cắt, th́, một “đấng” Hạ Sĩ ḿnh trần trùng trục, không mũ, không phao, leo ra ngoài thành tàu để cắt một cách rất…anh hùng! Sĩ quan phụ trách chỉ biết “khóc thét” v́ ngăn không kịp!
Sau tuần huấn luyện, những sửa chữa cần thiết được làm ngay tại San Francisco; phần c̣n lại sẽ được thực hiện tại San Diego.
Chiến hạm rời vịnh San Francisco vào một buổi sáng đẹp trời. Cầu Golden Gate nổi bật trên nền trời xanh thẫm, điểm một vài cánh hải âu trắng. Nhớ lại mấy tuần trước, chúng tôi qua cầu để ra khơi thực tập, cầu ch́m trong sương mù hoặc mưa bụi. Tiếng c̣i báo sương mù the thé ḥa với tiếng gió ù ù và ḍng nước triều chảy xiết khiến cầu có vẻ “đáng sợ” hơn nhiều. Đây là cảm giác mà khi lái xe trên mặt cầu phẳng phiu, thẳng tắp, khó mà h́nh dung ra được.
So với tuần lễ huấn luyện Shakedown, hải tŕnh đi San Diego thật êm ả, dễ chịu. Hải hành dọc theo bờ biển California vào giữa mùa Xuân thấy cảnh trí rất đẹp. Chắc không ai trong chúng tôi nghĩ rằng có ngày ḿnh sẽ nhận nơi này làm quê hương thứ hai.
Đến San Diego chúng tôi tiếp tục sửa chữa, trang bị, huấn luyện và chuẩn bị hành tŕnh hồi hương. Chương tŕnh huấn luyện gồm một tuần huấn luyện tổng quát và một tuần huấn luyện chuyên về hành quân thủy bộ.
Phần huấn luyện chính xác được đặt nặng vào sự chính xác hải hành, chính xác tác xạ, v. v…Qua tuần này, mọi người mới nhận thấy từ trước tới nay ḿnh làm việc quá đại khái. Sở dĩ Hải-Quân Hoa-Kỳ đ̣i hỏi độ chính xác cao v́ kinh nghiệm chiến tranh cho họ thấy đó là vấn đề sinh tử. Chẳng hạn như khi chiến hạm hải hành qua một băi ḿn – có thể là một vùng biển rộng hàng chục hải lư – phải theo đúng lối đă rà ḿn. Lối này thường hẹp, nếu lạng quạng ra ngoài một chút là có thể về tŕnh diện Đại-Hải Long-Vương.
Hành quân thủy bộ có vẻ mới lạ đối với chúng tôi; v́, tuy nhiều người trong chúng tôi đă phục vụ trên các tàu đổ bộ, có lẽ chưa ai được huấn luyện đầy đủ và kỹ lưỡng về chiến thuật này. Chúng tôi tập ủi băi ngày, ủi băi đêm, ủi băi với cầu nổi, ủi băi với một máy, ủi băi không dùng tay lái, ủi băi không neo, ủi băi chính xác, v. v…
Để tiến vào băi đổ bộ, tàu phải chạy theo một hành lang rất hẹp, nếu lệch ra ngoài có thể đụng vào chiến hạm bạn ở hành lang bên cạnh, hoặc lạc vào khu chưa rà ḿn. Chiến hạm c̣n phải ủi băi đúng từng phút. Giờ giấc phải chặt chẽ như vậy v́ trước khi tàu vào băi, hải pháo và phi cơ bạn phải tác xạ cho địch không ngóc đầu dậy được mà bắn chận tàu. Tác xạ này chỉ ngừng đúng bốn phút trước khi tàu chạm băi. Nếu tàu vào sớm, sẽ “ăn” đạn của bạn; nếu vào muộn, địch sẽ ngóc đầu dậy để tấn công ta. Tất cả công tác khó khăn đó được thực hiện tại bờ biển lạ, thường là vào ban đêm, không có hải đăng.
Chúng tôi ủi băi chính xác đến độ các huấn luyện viên Mỹ phải ngạc nhiên. Có lẽ v́ nghĩ rằng tôi “ăn may” cho nên họ yêu cầu các sĩ quan khác làm thử, và ai cũng đạt kết quả tốt. Chúng tôi được sắp hạng cao hơn các chiến hạm Mỹ cùng tập dượt trong tháng đó. Đạt được thành quả tốt đẹp đó có lẽ nhờ sự cố gắng của tất cả nhân viên chiến hạm: Từ người giữ tay lái đến người điểu chỉnh tốc độ máy, từ người xử dụng radar đến người xác định vị trí trên bản đồ, v. v… Ai nấy đều muốn tỏ cho huấn luyện viên Mỹ thấy rằng lính biển Việt-Nam, nếu được huấn luyện và có phương tiện th́ cũng không kém ai.
Ngoài nỗ lực chung, cũng phải kể đến một vài cái “tủ” hay mẹo vặt, hay nói một cách văn chương là một vài “sáng kiến độc đáo” của chúng tôi. Thí dụ như nếu chỉ dùng radar, chiến hạm sẽ khó chạy đúng trục của hành lang đổ bộ. Khi tới gần băi, dù trong đêm tối, với ống ḍm, tôi cũng cố t́m ra một vài dấu vết đặc biệt của dăy cột điện trên bờ, hiện lờ mờ trong ánh sáng của thành phố San Diego ở chân trời xa, và nhờ đó điều chỉnh được chính xác hơn vào mấy phút chót. Thử lại một vài lần thấy đúng, tôi bèn bỏ nhỏ cho các sĩ quan cái “tủ” đó. Các huấn luyện viên Mỹ không hề biết có sự “huấn luyện” nội bộ bí mật này.
Để bảo toàn an ninh, chiến hạm phải che tối hoàn toàn để địch ở trên bờ không trông thấy, kể cả khi mở cửa đổ bộ ra. Một huấn luyện viên Hoa-Kỳ đứng trên bờ sẽ quan sát kỹ lưỡng về điểm này. Để kiểm soát chu đáo, một nhân viên chiến hạm có sáng kiến là cho tiểu đỉnh chạy quanh tàu trước khi tàu tiến vào băi để xem c̣n sót ánh đèn nào ló ra không. Nhờ vậy tránh được nhiều khuyết điểm mà đứng trên tàu không thấy được.
Điểm đặc biệt là những “tủ” này do nhân viên các cấp, các ngành t́m ra. Do đó chúng tôi “khám phá” một điều là: Dân Việt-Nam không biết có thông minh hơn các dân tộc khác hay không, nhưng chắc chắn là “khôn vặt” hơn.
Khi hoàn tất giai đoạn huấn luyện, chúng tôi mới thấy thấm mệt. Có nhiều ngày liên tiếp chúng tôi phải dậy thật sớm để tập từ trước khi mặt trời mọc, rồi thức đến khuya để tập đổ bộ ban đêm. Nhiều đêm chỉ ngủ độ năm tiếng, rồi ngày làm việc khoảng mười sáu tiếng, mà vẫn tỉnh táo, nếu không là dễ xảy ra tai nạn.
Sang giai đoạn sửa chữa và tiếp liệu, chúng tôi mới nghĩ tới chuyện đi bờ, giải trí, mua sắm, nghỉ ngơi.
Tuy nói là “nghỉ ngơi” nhưng chúng tôi cũng rất bận rộn trong việc sửa chữa và tiếp liệu; v́ phải hoàn tất trước ngày khởi hành hồi hương. Không những chiến hạm cần có đủ vật liệu và thực phẩm cho một hải tŕnh dài một phần ba ṿng trái đất, trong khoảng 50 ngày, mà c̣n phải dự pḥng đồ tiếp liệu, nhất là cơ phận thay thế, về lâu dài; v́ đây là Dương-Vận-Hạm đầu tiên của Hải-Quân Việt-Nam cho nên Trung-Tâm Tiếp-Liệu chưa có đủ vật liệu riêng cho loại tàu này.
Có hai điều khó: Một là số lượng nói trên vượt ra ngoài cấp số quy định. Hai là kho tiếp liệu địa phương không đủ để cung cấp kịp thời những vật liệu mà tàu xin cấp. Với sự giúp đỡ của toán huấn luyện lưu động, chúng tôi tạm thỏa măn được nhu cầu bằng cách này hay bằng cách khác. “Cách khác” ở đây có nghĩa là ra ngoài thể thức hợp lệ của Hải-Quân Hoa-Kỳ. Hai lối thông dụng nhất là “midnight requisition” (tạm dịch là xin cấp phát nửa đêm) và “ngoại giao”.
“Xin cấp phát nửa đêm” là t́m cách lấy vật liệu mà không theo đúng thủ tục cấp phát hoặc không được phép. Nói nôm na là “thuổng” hay “cầm nhầm”. Cần phải nói ngay là thuổng cho chiến hạm dùng chứ không phải làm của riêng. Mặc dầu vậy, lúc đầu chúng tôi cũng không dám làm v́ sợ bị túm th́ mang tiếng. Nhưng sau, chính toán huấn luyện lưu động khuyến khích và “huấn luyện” chúng tôi, v́ cách này cũng rất thịnh hành trong Hải-Quân Hoa-Kỳ. (Nếu vị nào không tin, xin xem phim Operation Pettycoat, do Tony Curtis đóng vai một sĩ quan có biệt tài về “xin cấp phát nửa đêm”) Chẳng hạn như chiến hạm có bốn LCVP mà không có bệ đặt để tu bổ, mặc dù theo cấp số có thể xin Hải-Quân Công-Xưởng thực hiện. V́ quá cận ngày, không thể làm kịp, toán huấn luyện lưu động đă xúi chúng tôi lấy ngay bệ có sẵn của Hải-Quân Công-Xưởng San Diego để trên cầu tàu.
Họ “đạo diễn” như sau: Khoảng nửa đêm, chờ cho xe của sĩ quan trực Hải-Quân Công-Xưởng vừa đi tuần qua, nhân viên điện khí lên tắt đèn cầu tàu, nhân viên vận chuyển khuân bệ xuống chiến hạm, nhân viên giám lộ đứng trên cao canh chừng.
Phương pháp “ngoại giao” được thực hiện bằng ngân khoảng tiếp tân của chiến hạm và cũng được toán huấn luyện lưu động cổ vơ. Những buổi tiếp tân hoặc bữa ăn thân mật được tổ chức để cảm ơn toán huấn luyện lưu động đă giúp đỡ chiến hạm, nhưng các giới chức có thẩm quyền về sửa chữa hoặc tiếp liệu cũng được mời. Nhờ vậy, nhiều thủ tục cấp phát hoặc thực hiện công tác được dễ dàng và mau chóng hơn nhiều. Chúng tôi gọi đây là “hối lộ hợp pháp”. Cũng nhờ phương pháp này chúng tôi chiếm cảm t́nh của các sĩ quan một chiến hạm bên cạnh và họ đă “đáp lễ” bằng một cầu thang nhẹ bằng nhôm mà nhân viên vận chuyển từng mơ ước; v́ khiêng nhẹ hơn và đỡ nguy hiểm hơn những cầu thang bằng sắt.
Một trong những chuẩn bị quan trọng cho chuyến hồi hương là hàng hải. Thái-B́nh-Dương là đại dương lớn nhất và không một ai trong chúng tôi có nhiều kinh nghiệm về các bến và vùng biển này. Với đoạn đường hơn 8,000 hải lư và với tốc độ trung b́nh non mười hải lư một giờ, cộng với thời gian ghé bến ba lần, hải tŕnh sẽ dài hơn một tháng rưỡi. Khởi hành gần cuối tháng Sáu, chúng tôi sẽ tới miền Tây Thái-B́nh-Dương vào hạ tuần tháng Bảy, đúng vào mùa băo lớn ở vùng biển này.
Huấn thị hải hành và khí tượng về đoạn đường sắp đi là một chồng sách dày cộm mà tôi biết sẽ không đủ thời giờ đích thân ngồi đọc từng chi tiết và nhiều chi tiết không thể bỏ qua được. Và đây là lúc thấy sự lợi ích của sự phân nhiệm. Theo thường lệ trên chiến hạm, nội vụ và quân kỷ là phần nhiệm của Hạm-Phó. Hải hành được giao cho sĩ quan đệ tam. Biết khả năng của mỗi sĩ quan tôi thấy cần vượt ra ngoài thông lệ đó. Anh Du, Hạm-Phó, là một trong những “cây” hải hành cao thủ của Hải-Quân; trong khi đó tính “đại từ bi” của anh có lẽ không hợp với nhiệm vụ “ông Ác” của trưởng ban nội vụ. Do đó, anh Du và anh Rắc vui vẻ hoán chuyển chức vụ trưởng ban hải hành và trưởng ban nội vu với nhau. Cả hai tỏ ra xuất sắc trong chức vụ mới này.
* *
*
Đoạn đường San Diego – Pearl Harbor dài mười một ngày với thời tiết và biển khá đẹp. Trước khi khởi hành, chúng tôi nhận được chỉ thị phải báo cáo nếu trông thấy loé sáng trên trời đêm khi tới gần Hạ-Uy-Di. Tuy chỉ thị không nói rơ, nhưng tôi biết lúc đó Hoa-Kỳ đang trắc nghiệm những vụ nổ nguyên tử trên thượng tầng khí quyển. Những vụ nổ này có thể chận đứng sự truyền luồng sóng điện trong một thời gian.
Một đêm, tôi đang ngủ trong pḥng ngủ hải hành (sea cabin) ngay dưới đài chỉ huy, th́ anh Rắc, sĩ quan đương phiên, báo cáo là thấy ánh sáng lóe trên trời về hướng Tây Nam. Khi tôi lên đến đài chỉ huy th́ chỉ c̣n thấy một đóm sáng nhỏ, nhưng cả nền trời bắt đầu chuyển sang màu cam giống như ráng chiều, mặc dù lúc là khoảng hai giờ sáng. Chúng tôi thấy có một cảm giác lạ lùng và rùng rợn! Sau này, khi anh Rắc qua đời v́ bệnh ung thư máu, tôi mới nhớ lại vụ thấy ánh sáng nguyên tử và thắc mắc không rơ có phải v́ ảnh hưởng phóng xạ nguyên tử hay không!
Theo lệnh hải hành, chiến hạm chỉ ghé Pearl Harbor ba ngày. Nhưng bơm nhớt của tàu bị nóng, cần sửa chữa ngay. Lúc đó là đầu tháng Bảy, tài khóa cũ đă hết mà ngân khoản sửa chữa dành cho tài khóa mới chưa được chấp thuận, cho nên Hải-Quân Công-Xưởng Pearl Harbor đề nghị chúng tôi ở lại thêm ba hoặc bốn ngày nữa. Vậy là chúng tôi được nghỉ tại Hạ-Uy-Di một tuần lễ.
Trong thời gian chúng tôi ở Hạ-Uy-Di, cụ Mai Thọ Truyền, hội trưởng Hội Phật-Giáo Việt-Nam, có ghé qua trên đường công du. Chúng tôi mời Cụ tới thăm chiến hạm và dùng cơm chay. Khi nghe nói lễ trao chiến hạm tại San Francisco, ngoài vị Tuyên-Úy Công-Giáo c̣n có một Tu-Sĩ Phật-Giáo tới làm lễ, Cụ không tán thành, cho rằng việc cầu an cho chiến hạm, tức là một chiến cụ, không thích hợp với giáo lư của đạo Phật. Chúng tôi phải giải thích rằng đây là lễ cầu an cho thủy thủ đoàn chứ không phải cho chiến hạm.
Sau bảy ngày xả hơi, chúng tôi rời thiên đường hạ giới để tiếp tục hải tŕnh hồi hương với chặng đường dài nhất. V́ thấy đoạn đường tương đối dài, tôi phân vân không biết có nên theo đường trực hành để tới Guam cho đỡ dài, hay theo đường tà hành cho giản tiện, nghĩa là cứ theo đúng một hướng, th́ có lệnh phải đi chếch lên phía Tây Bắc, tới gần quần đảo Midway rồi hăy đổi hướng để trực chỉ Guam. Chỉ thị này được ban hành có lẽ để chiến hạm tránh xa vùng thử bom nguyên tử ở phía Nam Midway. May thay, hải tŕnh này lại rất gần đường trực hành, cho nên tuy phải đi ṿng mà đường lại ngắn hơn. (Xin lỗi quư vị không quen thuộc với khoa hàng hải, v́ phải đọc những lư luận lẩm cẩm này của dân đi biển).
Đối với hầu hết chúng tôi, đoạn đường Hạ-Uy-Di – Guam, mười bảy ngày, có lẽ là đoạn đường dài nhất trong cuộc đời lênh đênh của ḿnh. Nếu Hải-Quân giúp chúng tôi học được đức kiên nhẫn th́ đây là bài học dài nhất. Để phá tan sự nhàm chán và buồn tẻ của cuộc sống hằng ngày, không trông thấy ǵ khác hơn là chân trời phẳng lặng bốn phía, ngoài việc trực phiên hải hành và tu bổ chiến hạm, chúng tôi phải kiếm ra những việc khác. Hữu ích nhất là việc học. Các sĩ quan và hạ sĩ quan thâm niên chia nhau huấn luyện nhân viên về chuyên môn cũng như văn hóa. Anh văn và toán là hai môn mà nhiều nhân viên muốn học.
Nhờ sàn tàu rộng, có nhiều tṛ giải trí và thực phẩm đầy đủ cho nên cuộc sống cũng dễ chịu. Môn giải trí đặc biệt có tính cách truyền thống Hải-Quân là lễ xuyên-nhật-đạo. Chiến hạm vượt qua đường đổi ngày vào khoảng một phần ba đoạn đường đi Guam. (Lịch thêm một ngày khi tàu vượt qua đường đổi ngày) Trên sàn chính có căng một sợi giây tượng trưng cho nhật đạo, hai bên có một số nhân viên hóa trang làm binh cua, lính cá của Đại-Hải Long-Vương. Nhân viên nào chưa hề qua đường đổi ngày – bằng tàu chứ không phải bằng máy bay – sẽ bị đám binh cua, lính cá xịt nước đầy ḿnh rồi rắc bột và đẩy cho chui qua giây nhật đạo giữa tiếng reo ḥ của bạn bè. Sau đó mỗi người được cấp một bằng xuyên-nhật-đạo do Đại-Hải Long-Vương ban. Lễ này có lẽ đă phỏng theo lễ xuyên-xích-đạo mà Hải-Quân các nước thường làm.
Đây là những thành tích mà thủy thủ thường tự hào. Ngoài nhật đạo và xích đạo, người ta c̣n ghi thành tích khi vượt qua ba mũi đất cực Nam (tức mũi Hảo-Vọng ở Phi-Châu, mũi Horn thuộc Nam Mỹ và mũi Tây Nam ở Úc) khi tới Nam Cực bằng tiềm thủy đỉnh lặn dưới lớp băng.
Ban hải hành, các sĩ quan trực phiên và tôi có môn giải trí là hàng hải thiên văn. V́ hải hành xa bờ và dụng cụ hải hành điện tử hơi thô sơ, chúng tôi tin vào hải hành bằng tinh tú hơn. Hằng ngày, đều đặn như một nghi lễ, chúng tôi định vị trí rạng đông, vị trí mặt trời, vị trí hoàng hôn và một đôi khi vị trí đêm bằng mặt trăng.
Làm điểm rạng đông và hoàng hôn tương đối chính xác nhất và cũng thơ mộng nhất; v́ đây là lúc chúng tôi đo và ngắm trăng sao. Các nhà thiên văn quan sát tinh tú bằng con mắt khoa học; các văn nhân, thi sĩ ngắm sao bằng con mắt lăng mạn; dân hải hồ nh́n trăng sao bằng cả hai con mắt đó. Chúng tôi dùng kính lục phân để đo cao độ tinh tú, rồi tính toán và kẻ đường vị trí, trong khi đó vẫn mơ ước lấy được “ngàn sao trên trời, kết thành chuỗi ngọc em đeo”. Khi t́m sao trời trong các nhóm Tiểu-Hùng-Tinh, Song-Nam, Nam-Tào hay các hành tinh, để đo cao độ, chúng tôi thường nghĩ đến cuốn Les Lettres de Mon Moulin với chú mục đồng thả hồn lên bầu trời lấp lánh sao đêm…
Chúng tôi nh́n vết bọt trắng sau lái tàu để phỏng tính độ giạt và cũng tưởng tượng đó là những bông hoa biển nở sau gót con tàu. Người thủy thủ không lấy mộng làm thực, hoặc lấy thực làm mộng, nhưng trong tâm trí họ, thực và mộng đă giao duyên với nhau.
Một môn giải trí khác được chúng tôi thực tập vài ba ngày một lần là nhiệm sở tác chiến, nhiệm sở pḥng tai – cứu hỏa, cứu thương, cứu thủy – nhiệm sở đào thoát, v. v… Đây vừa là nhu cầu an ninh vừa là một cách làm cho đời sống hằng ngày trên chiến hạm bớt đơn điệu. Cũng để tránh đơn điệu, chúng tôi luôn luôn thay đổi đề tài thực tập và thay đổi giờ tập.
Một tṛ tiêu khiển khá phổ thông là đem quà mua được ra ngắm nghía và khoe nhau. Nhiều người cho rằng thủy thủ sống đời giang hồ nên ít chung t́nh. Thật là oan Thị Kính! Cứ nh́n mấy chàng lính biển nâng niu mấy hộp phấn son, quần áo, kể cả…đồ lót nữa, mới thầy rằng “càng đi xa anh càng nhớ em”. Các thủy thủ “bố trẻ con” th́ say sưa chơi thử đồ chơi mua về cho con, say sưa đến độ không biết bố khoái hơn hay con khoái hơn!
Nhờ những tṛ giải trí vừa kể, chúng tôi đă vượt qua đoạn đường dài nhất mà không cảm thấy buồn chán. Thời tiết tốt đều, biển khá đẹp, xứng đáng với tên Thái-B́nh-Dương, khiến cho chuyến đi này khá hứng thú.
Khi gần tới Guam, thời tiết trở nên xấu. Đây là lúc cần định vị trí thiên văn hơn hết để đáp bờ cho chính xác th́ mây mù đă đuổi trăng sao và mặt trời đi chơi chỗ khác. Mưa rào khắp nơi khiến màn ảnh radar trắng xóa, không c̣n thấy bờ đâu nữa. Hải tŕnh như vậy vào ban đêm, giữa vùng biển lạ, nhiều đảo nhỏ - quần đảo Mariana - và ḍng nước chảy mạnh, quả là vất vả. Kể ra, chúng tôi có thể chạy chậm lại để chờ sáng mới bắt đầu đáp bờ cũng được, nhưng coi bộ ai cũng nóng ḷng tới bến sau một chặng đường khá dài, nên đành chịu khó vận dụng hết kinh nghiệm hải hành chính xác để tiến tới Guam ngay trong đêm đó.
Sáng sớm, khi tàu tới ngoại cảnh th́ trời đẹp trở lại. Ở đây hải đồ nội cảng được bỏ trắng v́ lư do an ninh.
Khi chiến hạm cặp bến, một đoàn trẻ em thuộc gia đ́nh Hải-Quân Mỹ đón tiếp chúng tôi bằng những chuỗi hoa đeo cổ (lei) và các vũ điệu Hạ-Uy-Di. Họ đón tiếp nồng hậu và đưa chúng tôi đi xem thắng cảnh. Đáng kể nhất là Trung-Tâm Kiểm-Báo miền Tây Thái-B́nh-Dương. Trung tâm này được đặt tại đây v́ vùng này là nơi xuất phát của hầu hết các trận băo tiến về phía Phi-Luật-Tân, Việt-Nam, Trung-Hoa hoặc Nhật-Bản. Nhờ có phương tiện đầy đủ như máy bay, đài radar, hệ thống liên lạc với các đài khí tượng, v .v…Trung tâm phát giác các trận băo mới phát sinh, đặt tên cho chúng, theo dơi, tiên đoán hướng đi, tốc độ và thông báo cho các quốc gia và tàu bè chạy trong vùng. Chính những bản tin khí tượng này đă bảo vệ Hải-Quân chúng ta hằng năm trong mùa băo. Cuộc thăm viếng này được chúng tôi chú tâm đặc biệt, v́ đoạn đường sắp tới nằm trong vùng băo và mùa băo cũng bắt đầu. Chúng tôi đă học hỏi khá nhiều về những trận băo giết người này.
Sau ba ngay nghỉ bến, chúng tôi đến Guam với thời tiết đẹp. Nhưng chỉ nửa ngày sau đă được báo tin có một trận băo phát sinh ở phía trước chúng tôi và được khuyến cáo chạy chậm lại một chút để tránh biển xấu. Chính trận băo này đă tàn phá miền Trung Phi-Luật-Tân trước khi chúng tôi tới. Mới chạy chậm được hơn một ngày th́ lại có tin một trận băo khác mới ra đời và theo sau gót chiến hạm. Chúng tôi phải tăng vận tốc để giữ khoảng cách giữa hai trận băo. Sau khi được nghe giảng dẫn tường tận về các trận băo nhiệt đới tại Trung-Tâm Kiểm-Báo với tất cả những ǵ đáng sợ về chúng, để rồi đi vào vùng này, chúng tôi có cảm tưởng như đi đêm vào nghĩa địa sau khi nghe kể chuyện ma! Và bây giờ lại có hai con ma kèm sandwich chúng tôi nữa. Tuy nhiên đây chưa phải là điều đáng sợ. Điều mà chúng tôi e ngại nhất là khi chui qua eo San Benardino để vào nội hải Phi-Luật-Tân mà con ma sau đuổi kịp và con ma trước nằm chềnh ềnh gần đó th́ hết lối chạy.
Cũng may, khi chúng tôi tới gần Phi-Luật-Tân th́ trận băo trước đă tan, c̣n trận băo sau đă bye bye, chạy ṿng lên hướng Bắc. Nh́n vết tàn phá của trận băo trước tại Phi, với nhiều tàu bè bị đưa lên cạn hoặc nhận ch́m, mới thấy hú vía.
Chiến hạm ghé Subic Bay ba ngày trước khi về Saigon. Đây là chuyến tàu vét cho những ai c̣n nặng nợ với Navy Exchange, cũng như đối với ban tiếp liệu của chiến hạm v́ đây là căn cứ tiếp liệu cuối cùng của Hải-Quân Mỹ trước khi chúng tôi hồi hương.
Đoạn đường chót của hải tŕnh hồi hương cũng là đoạn đường ngắn nhất. Tại Subic cũng như trên đoạn đường này chúng tôi phải làm sạch sẽ trong ngoài và sơn phết lại chiến hạm để về Saigon với bộ mặt bảnh bao hơn. Tuy là đoạn đường ngắn nhất nhưng ai nấy đều có vẻ nóng ḷng, hồi hộp chờ mong ngày tới quê nhà,
Để mọi người khỏi sốt ruột, anh Du, trưởng ban hải hành hằng ngày thông báo cho mọi người qua hệ thống phóng thanh các chi tiết về vị trí, khoảng đường c̣n lại và ngày giờ phỏng định đến bến. Khi anh báo rằng sắp trông thấy bờ biển Việt-Nam vùng Phan-Thiết, mọi người đều đổ lên sàn chính để canh. Khi mới trông thấy bờ ai nấy đều reo ḥ. Có lẽ ngày xưa, khi Columbus thấy Châu-Mỹ, thủy thủ đoàn cũng chỉ mừng đến thế là cùng!
V́ lư do kỹ thuật và thời tiết, chiến hạm về đến Saigon trễ hơn giờ dự trù chừng bốn tiếng, khi cập cầu trời đă tối. Ḍng nước không thuận tiện, mà trong ḷng lại hồi hộp khi thấy thân nhân nóng ḷng chờ đợi trên bờ, chúng tôi cảm thấy khá vất vả. Tuy nhiên trong ḷng ai cũng vui, và người vui nhất có lẽ là tôi, v́ đă trở về sau hơn một năm rưỡi xa nhà.
Hải tŕnh dài nhất trong cuộc đời binh nghiệp của chúng tôi chấm dứt với hồi c̣i giải tán nhiệm sở vận chuyển. Tính ra chiến hạm đă vượt qua khoảng chín ngàn hải lư, trong 52 ngày, xuyên qua đại dương lớn nhất, sâu nhất và cũng … thiên đàn nhất. Nhưng đối với tôi, cái nhất…nhất là thủy thủ đoàn và bộ-tham-mưu chiến hạm. Đó là niềm hănh diện của tôi trong suốt thời gian nhận lănh chiến hạm, huấn luyện và hoạt động với Hải-Quân Hoa-Kỳ. Tinh thần trách nhiệm và cầu tiến của nhân viên chiến hạm đă khiến toán huấn luyện Hải-Quân Hoa-Kỳ phải nể v́. Trước khi chia tay tại San Diego, vị sĩ quan trưởng toán huấn luyện lưu động đă nói với tôi: “Ông có thể tự hào là đă có một thủy thủ đoàn học hỏi nhanh và thực hành rất đúng. Thú thật với ông, khi tôi mới gặp họ ở San Francisco, tôi không ngờ là họ lại có thể đạt được kết quả huấn luyện tốt đẹp như vậy.”
Lời khen trên được nhắc lại để riêng tặng tất cả nhân viên đă cùng tôi nhận lănh Dương-Vận-Hạm Cam-Ranh, HQ 500, cách nay hơn một phần tư thế kỷ. Giờ đây một số đă vĩnh viễn nằm xuống, một số c̣n kẹt lại quê nhà, và số c̣n lại may mắn thoát ra được hải ngoại. Ước mong chúng ta sớm có ngày tái ngộ trên quê hương thanh b́nh và tự do để cùng nhau ôn lại những kỷ niệm vui buồn trong cuộc đời sông biển
hoanglan22
03-07-2020, 00:13
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1541540&stc=1&d=1583539822
Lời giới thiệu: Cựu Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh, nguyên Tư-Lệnh Hải-Quân V.N.C.H. xuất thân khóa I Hải-Quân Nha-Trang. Ông là một trong số rất ít sĩ quan cao cấp Hải-Quân Việt-Nam c̣n giữ được mối liên lạc mật thiết với Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hải-Quân-Hoa-Kỳ.
Bài biên soạn công phu sau đây của cựu Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh sẽ giúp độc giả thấu triệt được nhiều điều hữu ích về ngôi trường quân sự mà hầu hết các cấp lănh đạo Hải-Quân V.N.C.H. đều đă theo học.
“Viribus Mare Victoria” (Chiến thắng của con người trên đại dương) là phương châm của một cơ quan huấn luyện cao cấp nhất trong Hải-Quân Hoa-Kỳ: Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến (CĐHC) Hải-Quân Hoa-Kỳ.
Trường CĐHC tọa lạc trên bán đảo Coaster Harbor Island của thị xă Newport, nằm trong vịnh Narragansett thuộc Rhode Island, một tiểu bang nhỏ nhất của Hoa-Kỳ. Thị xă Newport, đặc biệt vào mùa Hè, là một địa danh nổi tiếng trong ngành du lịch, nhờ khí hậu tương đối mát mẻ; những băi biển cát trắng, nước trong; và những lâu đài lộng lẫy như The Elms, The Breakers, The Marble House, Chateau-Sur-Mer, Rose Cliff, v. v… Newport cũng là nơi hội ngộ của những tay đua thuyền buồm quốc tế vào những dịp tổ chức America’s Cup.
Trường CĐHC có đầy đủ tiện nghi về huấn luyện và tiếp vận cũng như tại hầu hết các Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Hoa-Kỳ. Viện Trưởng là những sĩ quan cấp Đô-Đốc thâm niên, hầu hết sau nhiệm kỳ chỉ huy Trường CĐHC, những vị này đều về hưu.
Được thành lập vào năm 1884, Trường CĐHC thoạt tiên được tổ chức để huấn luyện sĩ quan Hải-Quân Hoa-Kỳ theo học các khóa tham mưu (staff) và chỉ huy (command) dựa trên những căn bản chiến thuật và chiến lược hải chiến để tổ chức những cuộc hành quân
Đến năm 1956, Trường CĐHC mở thêm những khóa huấn luyện cho sĩ quan Hải-Quân quốc tế đồng minh của Hoa-Kỳ. Cơ cấu Trường CĐHC được hia thành hai khối:
Trường Tham-Mưu Hải-Quân (Naval Staff College)
Trường Chỉ-Huy Hải-Quân (Naval Command College – NCC)
Riêng về Trường Chỉ-Huy Hải-Quân th́ có hai phần riêng biệt dành cho sĩ quan Hải-Quân Hoa-Kỳ (HQHK) thuần túy (1) và sĩ quan Hải-Quân Đồng-Minh (2).
Để có nhiều ư nghĩa liên quan mật thiết với Hải-Quân V.N.C.H., bài này được viết trên căn bản không gian và thời gian của kỷ niên 1965 và đặc biệt chú trọng nhiều hơn về Trường Chỉ-Huy Hải-Quân dành cho sĩ quan Hải-Quân đồng minh tại Trường CĐHC.
Trường CĐHC/HQHK huấn luyện những sĩ quan Hải-Quân cấp tá thâm niên, để chuẩn bị cho họ một căn bản chỉ huy dựa trên những lư thuyết chiến thuật và chiến lược quốc tế hiện đại.
Khóa học kéo dài 11 tháng, gồm những phần chính yếu như:
Thuyết giảng về chiến thuật tác chiến của các quân binh chủng bạn có liên hệ đến hoạt động của Hải-Quân.
Lập trận đồ và chỉ huy hạm đội tham chiến (War Games).
Đi quan sát các cơ cấu quân sự quốc pḥng thuộc hệ thống pḥng thủ Hoa-Kỳ.
Viếng những cơ sở kỹ nghệ chiến tranh trong nước và ngoài nước. (Field trips)
Viết một bài luận án theo các đề mục tùy ư về quân sự, kinh tế, ngoại giao, v. v…
Khóa sinh đến Trường CĐHC như một sứ giả của quốc gia ḿnh; v́ tất cả khóa sinh đều được hưởng quy chế đặc miễn chính thức dành cho một ngoại giao đoàn quốc tế hợp lệ. Ngoài quyền tự do di chuyển, khóa sinh c̣n được tự do phát biểu ư kiến ngay tại quân trường vào những dịp khóa sinh hội thảo những đề tài trong chương tŕnh huấn luyện và trong những dịp thuyết tŕnh tại các trường trung học địa phương hay tại pḥng Thương Mại Newport mà khóa sinh được Lions Club hoặc Rotary Club mời như một thuyết tŕnh viên danh dự.
Những ư kiến mà khóa sinh đă phát biểu trong những dịp hội thảo – kể cả trong luận án – sẽ không được tiết lộ hoặc phổ biến nếu không có sự chấp thuận của tác giả.
Trong nhiều cuộc hội thảo chính thức, khóa sinh thẳng thắn chỉ trích chính sách ngoại giao của Hoa-Kỳ, đường lối Hoa-Kỳ viện trợ cho các quốc gia nhược tiểu và chính sách thương mại và trao đổi với quốc tế. Đến khi đàm đạo trong những dịp “trà dư tửu hậu” giữa khóa sinh và sĩ quan cán bộ HQHK, những chỉ trích về phương diện giáo dục và xă hội của Hoa-Kỳ lại được tiếp tục. Ư niệm chung của khóa sinh là: “Chúng tôi đến đây với tư cách là đồng minh của Hoa-Kỳ để hấp thụ những kinh nghiệm quư báu của Hải-Quân Hoa-Kỳ trong những trận thế chiến đă qua; nhưng chúng tôi không hoàn toàn đồng đồng ư trên nhiều vấn đề mà quốc gia của chúng tôi có nhiều ưu điểm hơn.”
Mặc dù có nhiều dị biệt tư tưởng giữa khóa sinh đồng minh và sĩ quan huấn vụ, sau cùng t́nh thân hữu ngày càng nẩy nở tốt đẹp suốt khóa học. Tinh thần “Tứ hải giai huynh đệ” bao trùm không khí khóa học, làm cho khóa sinh và sĩ quan huấn vụ quân trường thông cảm và hiểu biết nhau hơn, khắng khít nhau hơn, để sau cùng tạo ra một “Tinh thần Trường Chỉ-Huy Hải-Quân Newport”. (“The Spirit of The Naval Command College).
Điểm tế nhị nhất là không hề xảy ra những xung đột hoặc đả kích công khai nào giữa các khóa sinh tụ họp từ bốn phương trời, mang nhiều màu sắc khác biệt, không cùng ngôn ngữ, tuổi tác chênh lệch và đang có những rắc rối về vấn đề chính trị quốc gia.
Thật vậy, trong khóa học năm 1964-1965 có bốn quốc gia đang trong t́nh trạng tranh chấp lănh thổ với nhau. Đó là Thổ-Nhỉ-Kỳ với Hy-Lạp và Ấn-Độ với Pakistan. Tuy nhiên, trong suốt khóa học, mặc dầu sự thân t́nh giữa đại diện các quốc gia này không được biểu lộ một cách sâu đậm, nhưng trái lại cũng không hề xảy ra một cuộc đụng chạm nào.
V́ thời gian thụ huấn khá dài, khóa sinh thuộc các quốc gia Âu-Châu, Mỹ-Châu và Trung-Đông đem theo gia đ́nh khi đến nhập học. Khóa sinh các nước Á-Châu và Phi-Châu, có thể v́ t́nh trạng kinh tế và chính trị, không đem theo gia đ́nh.
Khóa sinh đến tŕnh diện nhập khóa và lập thủ tục tại Luce Hall. Luce Hall là bộ chỉ huy và cũng là cơ quan hành chánh của Trường CĐHC. Tại Trường CĐHC, khóa sinh được theo quy chế ngoại trú, được tự do sinh hoạt nơi nào ḿnh thích, miễn là phải tham dự đầy đủ những giờ thuyết giảng tại Trường hoặc tháp tùng những chuyến đi quan sát xen kẻ trong chương tŕnh huấn luyện.
Sự tiếp đón của Trường CĐHC được tổ chức rất chu đáo và có vẻ trịnh trọng ngay từ khi khóa sinh vừa đến phi trường Providence, thủ đô của Rhode Island, để đưa về tạm trú tại BOQ, chờ hoàn tất thủ tục nhập khóa. Sĩ quan thuộc Bộ-Tham-Mưu quân trường được chỉ định làm cố vấn cho mỗi khóa sinh về phương diện huấn luyện cũng như những vấn đề tổng quát khác như thuê nhà, mua xe, mua bảo hiểm, v. v…
Khóa học bắt đầu vào giữa tháng Tám.
Sinh hoạt của khóa sinh bắt đầu từ giảng đường tại Simms Hall để nghe thuyết giảng về chiến thuật và chiến lược hải chiến. Trưa, sau bữa ăn tại câu lạc bộ sĩ quan là những giờ dành cho việc khảo cứu tài liệu mượn từ thư viện Mahan Hall đem về văn pḥng riêng của mỗi khóa sinh. Những đề tài thuyết giảng chiến thuật và chiến lược rất bao quát và ngoạn mục với phim ảnh do thuyết tŕnh viên tŕnh bày.
Trong những dịp hội thảo toàn khóa, một hội trường rộng lớn được xử dụng và trang trí như dành cho một Đại Hội Đồng quốc tế nhóm họp. Mỗi khóa sinh có một bàn riêng, được trưng bày Quốc-Kỳ và bảng tên của ḿnh. Mọi sự sắp xếp đều theo mẫu tự, không có sự phân biệt cấp bậc hoặc quốc gia của khóa sinh. Tại Mahan Hall và Luce Hall, quốc kỳ các quốc gia đồng minh của Hoa-Kỳ được dương cao, trong số đó lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tung bay…
Sau nhiều tuần huấn luyện tại Trường, khóa sinh bắt đầu đi quan sát. Phương tiện di chuyển hầu hết là phi cơ của Hải-Quân Hoa-Kỳ. Những phi cơ này sẵn sàng tại căn cứ Nagaransett Naval Air Station trên đảo Connecticut, bên kia vịnh về hướng Tây.
Thời gian 1965, Newport Bridge dài hai miles nối liền bán đảo Newport với đảo Connecticut chưa được xây cất, khóa sinh dùng tiểu đỉnh của Naval Base để sang đảo. Đôi khi Trường lại dùng xe chuyên chở công cộng đưa khóa sinh sang phi trường, nhưng phải dùng chiếc phà Jamestown Ferry để qua đảo Connecticut.
Ngày nay Newport Bridge tối tân đă thâu ngắn thời gian di chuyển từ Newport qua đảo Connecticut, nhưng đă vô t́nh xóa đi h́nh ảnh thơ mộng của chiếc phà Jamestown Ferry với đoàn hải âu lượn quanh t́m mồi do hành khách rải xuống biển.
Những chuyến đi quan sát thường kéo dài trọn tuần lễ. Nào Bermuda thuộc Anh-Cát-Lợi nằm giữa Đại-Tây-Dương, đến Roosevelt Roads Naval Air Station ở Puerto Rico nằm trong biển Caribbean, rồi trở về Key West Naval Station và Miami thuộc Florida. Có lần sang Ottawa, thủ đô Gia-Nă-Đại rồi trở về miền Trung Bắc Hoa-Kỳ để viếng các xưởng kỹ nghệ sản xuất xe thiết giáp và quân xa đủ loại tại Detroit, Michigan. Tiếp đến là viếng Bộ-Chỉ-Huy Không-Quân Chiến-Lược (Strategic Air Command) đặt sâu trong ḷng núi đá ở Nebraska. Trong chuyến đi miền Tây, đến vùng Bắc California viếng căn cứ chiến thuật Không-Quân với hệ thống tiếp vận tân tiến rồi sang thăm quốc hội California và Thống-Đốc Ronald Reagan tại Sacramento. Đi về miền Nam California th́ viếng những cơ xưởng chế tạo phi cơ tác chiến ở Los Angeles và Bộ-Tư-Lệnh Hạm-Đội Thái-B́nh-Dương tại San Diego. Chuyến đi kế tiếp lại sang miền Đông quan sát những cuộc biểu diễn hành quân tại các Căn-Cứ Thủy-Quân Lục-Chiến (Camp Le Jeune) và Lưc-Lượng Đặc-Biệt (Fort Bragg) ở North Caroline; viếng Bộ Tư-Lệnh Hạm-Đội Đại-Tây-Dương đặt ở Norfolk, xưởng kỹ nghệ đóng tàu tại Newport News, nơi chế tạo hàng không mẫu hạm và tiềm thủy đỉnh nguyên tử; viếng Williamsburg, thủ đô đầu tiên của tiểu bang Virginia. Đi dần về miền Đông Bắc, viếng thủ đô Hoa-Thịnh-Đốn với Quốc-Hội và Ṭa Bạch-Ốc, rồi Ngũ-Giác-Đài. Chuyến kế tiếp được viếng Nữu-Ước hoa lệ với ṭa nhà Liên-Hiệp-Quốc, thị trường chứng khoáng Wall Street, tượng Nữ Thần Tự-Do trước khi trở về New London, tiểu ban Connecticut để quan sát Căn-Cứ và Trung-Tâm Huấn-Luyện Tiềm-Thủy-Đỉnh. Khóa sinh được dịp ra khơi bằng Tiềm-Thủy-Đỉnh và quan sát cuộc thực tập tác chiếc có xử dụng ngư lôi.
Tại mỗi nơi thăm viếng khóa sinh được tiếp đón nồng hậu và chu đáo. Các vị Thống Đốc, Thị Trưởng, Tư-Lệnh quân chủng hay Chỉ-Huy-Trưởng cơ quan thường có mặt để tiếp đón phái đoàn khóa sinh. Trong những buổi dạ tiệc, quà kỷ niệm, chứng chỉ Công Dân Danh Dự và ch́a khóa vàng của thành phố được trao tặng cho mỗi khóa sinh.
Từ năm thành lập cho đến nay (1990), Trường Chỉ-Huy Hải-Quân đă huấn luyện được 35 khóa học liên tiếp, với 1.045 khóa sinh thuộc 70 quốc gia trên thế giới. Trong tổng số khóa sinh có 545 người đă được thăng cấp Đô-Đốc Hải-Quân hoặc Tướng Lănh Lục-Quân và Không-Quân. Hai mươi sáu người giữ chức Tổng Bộ Trưởng trong chính phủ hoặc làm Đại-Sứ. Đặc biệt có một cựu khóa sinh đă trở thành Tổng Thống!
Lư thuyết và kinh nghiệm thâu nhận được sau những chuyến đi quan sát và t́nh thân hữu nẩy nở trong khối khóa sinh quốc tế là những điểm son khóa sinh mang về khi hồi hương. Những kỷ niệm vui buồn cũng giúp thêm nhiều màu sắc rực rỡ cho bức tranh kỷ niệm của Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hoa-Kỳ. Bất cứ một sĩ quan nào đă tu nghiệp tại Trường Chỉ-Huy Hải-Quân đều không thể quên được phương châm đặc biệt của Trường: Populos Mare Jungit. (Con người triền miên với biển cả).
1. Gồm một số sĩ quan Thủy-Quân Lục-Chiến (U.S. Marine Corps), sĩ quan Lục-Quân, Không-Quân và công chức cáo cấp quốc pḥng
2. Gồm một số sĩ quan Lục-Quân và Không-Quân của vài quốc gia đồng minh.
Danh sách sĩ-quan Hải-Quân V.N.C.H.
từng tu nghiệp tại Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hoa-Kỳ
Hải-Quân Trung-Tá Trần Văn Chơn 1959-1960
Hải-Quân Trung-Tá Chung Tấn Cang 1960-1961
Hải-Quân Trung-Tá Đặng Cao Thăng 1961-1962
Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Đức Vân 1962-1963
Hải-Quân Trung-Tá Trần Văn Phấn 1963-1964
Hải-Quân Trung-Tá Lâm Ngươn Tánh 1964-1965
Hải-Quân Trung-Tá Đinh Mạnh Hùng 1965-1966
Hải-Quân Trung-Tá Khương Hữu Bá 1966-1967
Hải-Quân Trung-Tá Vũ Đ́nh Đào 1967-1968
Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Hữu Chí 1968-1969
Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Xuân Sơn 1969-1970
Hải-Quân Trung-Tá Trịnh Xuân Phong 1970-1971
Hải-Quân Đại-Tá Ngô Khắc Luân 1971-1972
Hải-Quân Đại-Tá Bùi Cửu Viên 1972-1973
Hải-Quân Đại-Tá Phan Văn Cổn 1973-1974
Hải-Quân Đại-Tá Dư Trí Hùng 1974-1975
Người đặt tên cho các đường phố Sài G̣n trước 1975
Vũ Linh Châu - Nguyễn Văn Luân •Thứ sáu, 27/03/2020
Từ lâu, tôi đă có dịp bày tỏ ḷng ngưỡng mộ và khâm phục về việc đặt tên cho các đường phố tại Sài G̣n vào năm 1956, ngay sau khi chúng ta dành được độc lập từ tay thực dân Pháp. V́ đây là một công việc quá xuất sắc và quá hoàn thiện, nên tôi vẫn đinh ninh rằng đó phải là một công tŕnh do sự đóng góp công sức và trí tuệ của rất nhiều người, của một ủy ban gồm nhiều học giả, nhiều sử gia, nhiều nhà văn, nhà báo…
Người đặt tên cho các đường phố Sài G̣n trước 1975 và ư nghĩa của chúng
Nhưng thật là bất ngờ, bất ngờ đến kinh ngạc, khi qua tài liệu đính kèm của tác giả Nguyễn Văn Luân, chúng ta được biết kiệt tác của lịch sử này đă được hoàn thành bởi… một người. Người đó là ông Ngô Văn Phát, Trưởng Pḥng Họa Đồ thuộc Ṭa Đô Chánh Sài G̣n.
Nhà văn Thuần Phong Ngô Văn Phát và việc đặt tên đường phố Sài G̣n
Trong những năm làm việc tại Ṭa Đô Chánh Sài G̣n, tôi có dịp góp phần trông coi việc xây dựng và tu bổ đường xá, lúc th́ tại Khu Kiều Lộ Sài G̣n Tây (Chợ Lớn) gồm 6 quận 5, 6, 7, 8, 10 và 11, lúc th́ tại Khu Kiều Lộ Sài G̣n Đông (Sài G̣n) gồm 5 quận 1, 2, 3, 4 và 9. Hàng ngày họp với các ông cai lục lộ phụ trách từng khu vực, nghe báo cáo đường th́ ngập nước sau cơn mưa, đường th́ có ổ gà, nhựa đường tróc hết trơ lớp đá xanh đá đỏ nền đường, đường th́ dân xây cất trên lộ giới tràn ra lề đường, nên tôi gần như thuộc ḷng tên hơn 300 con đường.
Qua bao nhiêu năm lịch sử của thành phố, hầu hết đều có tên Tây như:
Boulevard Charner
Boulevard Galliéni
Boulevard Kitchener
Boulevard Norodom v.v
Sau hiệp định Genève tháng 7 năm 1954 chính quyền Pháp bàn giao cho Chính Phủ Bảo Đại, với Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm.
Để đánh dấu việc giành độc lập từ tay người Pháp, Toà Đô Chánh Sài G̣n được lệnh gấp rút thay thế toàn bộ tên đường từ tên Pháp qua tên Việt trong khoảng thời gian ngắn nhất. Trong lịch sử của các thành phố có bao nhiêu lần đổi tên hàng loạt toàn bộ các con đường như thế này? Có lẽ vô cùng hiếm hoi.
Người đặt tên cho các đường phố Sài G̣n trước 1975 và ư nghĩa của chúng
Đại lộ Trần Hưng Đạo, Sài G̣n năm 1967 (Ảnh của John Beck)
Việc đối chiếu tên các danh nhân trong lịch sử 4000 năm để đặt tên đường sao cho hợp lư không phải dễ. Chỉ nghĩ đơn thuần, khi dùng tên Vua “Trần Nhân Tôn” và Tướng “Trần Hưng Đạo”, người làm dưới trướng của Vua, để đặt tên cho 2 con đường th́ đường nào to và quan trọng hơn? Câu hỏi nhỏ như vậy c̣n thấy không đơn giản, huống chi cân nhắc cho ngần ấy con đường trong một thời gian gấp rút thật không dễ.
Lúc bấy giờ công việc này được giao cho Ty Kỹ Thuật mà Pḥng Hoạ Đồ là phần hành trực tiếp. May mắn thay cho thành phố có được nhà văn Ngô Văn Phát**, bút hiệu Thuần Phong, có bằng Cán Sự Điền Điạ lúc ấy đang giữ chức Trưởng Pḥng Hoạ Đồ.
Người đặt tên cho các đường phố Sài G̣n trước 1975 và ư nghĩa của chúng
Thuần Phong Ngô Văn Phát h́nh phụ bản Như Việt Lưu
Năm 1956, sau hơn ba tháng nghiên cứu, ông đă đệ tŕnh lên Hội Đồng Đô Thành, và toàn bộ danh sách tên đường ấy đă được chấp thuận. Khi tôi vô làm năm 1965 và hàng ngày lái xe đi công trường, đụng chạm với các con đường mới cảm nhận được sự uyên bác về lịch sử của ông. Nh́n những tên đường trên họa đồ, khu nào thuộc trung tâm thành phố, khu nào thuộc ngoại ô, đường nào tên ǵ và vị trí gắn bó với nhau, càng suy nghĩ càng hiểu được cái dụng ư sâu xa của tác giả.
Các đường được đặt tên với sự suy nghĩ rất lớp lang mạch lạc với sự cân nhắc đánh giá bao gồm cả công trạng từng anh hùng một lại phù hợp với địa thế, và các dinh thự đă có sẵn từ trước. Tác giả đă cố gắng đem cái nh́n vừa tổng quát lại vừa chi tiết, những khía cạnh vừa t́nh vừa lư, đôi khi chen lẫn tính hài hước, vào việc đặt tên hiếm có này. Tôi xin kể ra đây vài thí dụ, theo sự suy đoán riêng của ḿnh, bởi v́ ông có nói ra đâu, nhưng tôi thấy rơ ràng là ông có ư ấy:
Đầu tiên là những con đường mang những lư tưởng cao đẹp mà toàn dân hằng ao ước: Tự Do, Công Lư, Dân Chủ, Cộng Hoà, Thống Nhất. Những con đường hoặc công trường này đă nằm ở những vị trí thích hợp nhất.
Đường đi ngang qua Bộ Y Tế th́ có tên nào xứng hơn là Hồng Thập Tự.
Đường de Lattre de Tassigny chạy từ phi trường Tân Sơn Nhất đến bến Chương Dương đă được đổi tên là Công Lư, phải chăng v́ đi ngang qua Pháp Đ́nh Sài G̣n. Con đường dài và đẹp rất xứng đáng. Ba đường Tự Do, Công Lư và Thống Nhất giao kết với nhau nằm sát bên nhau bên cạnh dinh Độc Lập.
Đại Lộ Nguyễn Huệ nằm giữa trung tâm Sài G̣n nối từ Toà Đô Chánh đến bến Bạch Đằng rất xứng đáng cho vị anh hùng đă dùng chiến thuật thần tốc phá tan hơn 20 vạn quân Thanh. Đại Lộ này cũng ngắn tương xứng với cuộc đời ngắn ngủi của ngài.
Những danh nhân có liên hệ với nhau thường được xếp gần nhau như Đại Lộ Nguyễn Thái Học với đường Cô Giang và đường Cô Bắc, cả ba là lănh tụ cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Hoặc đường Phan Thanh Giản với đường Phan Liêm và đường Phan Ngữ, Phan Liêm và Phan Ngữ là con, đă tiếp tục sự nghiệp chống Pháp sau khi Phan Thanh Giản tuẫn tiết.
Những đại lộ dài nhất được đặt tên cho các anh hùng Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Lê Lợi và Hai Bà Trưng. Mỗi đường rộng và dài tương xứng với công dựng nước giữ nước của các ngài.
Đại lộ Lê Lợi, Sài G̣n năm 1967 (Ảnh của John Beck)
Đường mang tên Lê Lai, người chịu chết thay cho Lê Lợi th́ nhỏ và ngắn hơn nằm cận kề với đại lộ Lê Lợi.
Đường Khổng Tử và Trang Tử trong Chợ Lớn với đa số cư dân là người Hoa.
Bờ sông Sài G̣n được chia ra ba đoạn, đặt cho các tên Bến Bạch Đằng, Bến Chương Dương, và Bến Hàm Tử, ghi nhớ những trận thuỷ chiến lẫy lừng trong lịch sử chống quân Mông Cổ, chống Nhà Nguyên của Hưng Đạo Đại Vương vào thế kỷ 13.
Cụ Nguyễn Du, mà thầy đồ Thiệp, người dạy học vỡ ḷng cho tôi, khi nói chuyện với cha tôi, bao giờ cũng gọi với danh xưng Cụ Thánh Tiên Điền. Cuốn truyện Kiều của cụ ngày nay được chúng ta dùng như là khuôn mẫu cho tiếng Việt, khi có sự tranh luận về danh từ hay văn phạm, người ta thường trích một câu Kiều làm bằng. Vậy phải t́m đường nào đặt tên cho xứng? Tôi thấy con đường vừa dài vừa có nhiều biệt thự đẹp, với hai hàng cây rợp bóng quanh năm, lại đi ngang qua công viên đẹp nhất Sài G̣n, vườn Bờ Rô, và đi ngang qua Dinh Độc Lập, th́ quá xứng đáng. Không có đường nào thích hợp hơn. Tuyệt! Vườn Bờ Rô cũng được đổi tên thành Vườn Tao Đàn làm cho đường Nguyễn Du càng thêm cao sang.
Vua Lê Thánh Tôn, người lập ra Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú, cũng cho mang tên một con đường ở địa thế rất quan trọng, đi ngang qua một công viên góc đường Tự Do, và đi trước mặt Toà Đô Chánh.
Trường nữ Trung Học Gia Long lớn nhất Sài G̣n th́, (trớ trêu thay?), lại mang tên ông vua sáng lập nhà Nguyễn. Trường nữ mà lại mang tên nam giới! Có lẽ nhà văn Thuần Phong muốn làm một chút ǵ cho trường nữ Trung Học công lập lớn nhất thủ đô có thêm nữ tính, nên đă đặt tên hai đường song song nhau cặp kè hai bên trường bằng tên của hai nữ sĩ: Bà Huyện Thanh Quan và Đoàn Thị Điểm. Chùa Xá Lợi nằm trên đường Bà Huyện Thanh Quan thấy cũng nhẹ nhàng.
Thẳng góc với hai đường Bà Huyện Thanh Quan và Đoàn Thị Điểm là đường Hồ Xuân Hương. Ba nữ sĩ nằm bên cạnh nhau, thật là có lư, nhưng có lư hơn nữa có lẽ là đường Hồ Xuân Hương đi ngang qua bệnh viện Da Liễu. Tác giả những câu thơ “Vành ra ba góc da c̣n thiếu, Khép lại hai bên thịt vẫn thừa” mà cho mang tên đường có bệnh viện Da Liễu có lẽ cũng xứng hợp.
Ông Nhà Văn – Trưởng Pḥng Họa Đồ quả là sâu sắc.
Rất tiếc là lúc vào làm việc th́ Thuần Phong Ngô Văn Phát đă về hưu nên tôi không được hân hạnh gặp mặt. Măi sau này mới có dịp đọc tiểu sử của ông, mới hết thắc mắc làm sao chỉ là một công chức như tôi mà ông đă làm được việc quá xuất sắc và hi hữu này.
Cũng chuyện đặt tên đường
Vua Lê Thánh Tôn đă mở mang bờ cơi nước ta từ Quảng Nam, Quảng Ngăi và B́nh Định. Rồi sau đó, chúa Nguyễn Hoàng và con cháu đă vượt đèo Cù Mông, đánh chiếm Phú Yên, Khánh Ḥa, Ninh Thuận, B́nh Thuận, vĩnh viễn xóa sổ nước Chiêm Thành khỏi bản đồ thế giới. Rồi c̣n tiếp tục mang về cho dân tộc cả một đồng bằng Nam Phần mênh mông bao la, từ Đồng Nai đến Cà Mau, Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc…
Cũng phải kể luôn cả “Hoàng Triều Cương Thổ” (vùng đất mà thực dân Pháp dành riêng cho các vua nhà Nguyễn) là vùng Cao nguyên Trung phần trù phú màu mỡ hiện nay. Dĩ nhiên công cuộc mở mang bờ cơi này cũng bao gồm cả các quần đảo Hoàng Sa và Truờng Sa nữa.
Nghĩa là hơn một nửa diện tích đất liền của Việt Nam hiện nay là do ḍng họ của Chúa Nguyễn Hoàng đă mang về cho dân tộc Việt Nam!
Riêng Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần, là người đă có công rất lớn trong công cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt là Chúa Hiền Vương đă đóng góp rất nhiều công sức trong việc b́nh định và chinh phục vùng đất Gia Định ngày xưa. Gia định ngày xưa bao gồm Biên Ḥa, Long Khánh, Bà Rịa, Vũng Tàu, Tây Ninh, Phước Long, B́nh Long, Long An, Mỹ Tho, Gia Định, Sài G̣n… bây giờ. Cho nên chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa đă lấy tên của Ngài để đặt cho một trong hai con đường chính từ hướng Bắc dẫn vào trung tâm Thành Phố Sài G̣n. (Chế độ sau này đă thay Hiền Vương bằng tên của Vơ Thị Sáu – Đường Nguyễn Hoàng bị đổi thành Trần Phú…).
Loại bỏ tên của Chúa Nguyễn Hoàng, của Chúa Hiền Vương và các vị ân nhân của dân tộc trong công cuộc Nam Tiến ra khỏi bản đồ Sài G̣n và các thành phố Miền Nam là điều mà tục ngữ ca dao b́nh dân gọi là “ăn cháo, đá bát”.
Đấy là chưa nói tới giấc mộng… Tây Tiến chưa thành. Hai vị trung thần nhà Nguyễn là Lê Văn Duyệt và Trương Minh Giảng đă mở mang bờ cơi nước ta tới tận biên giới… Thái Lan bây giờ, đă thiết lập thêm một Trấn mới là Trấn Tây Thành, (hai Trấn kia là Trấn Bắc Thành và Trấn Gia Định Thành). Phải chăng chính v́ vậy mà ngay từ khi vừa giành được chủ quyền từ tay thực dân Pháp, hai con đường lớn từ trung tâm Sài G̣n hướng về Bà Quẹo để sang thẳng đất Miên qua ngả G̣ Dầu, đă được mang tên hai vị Anh Hùng Tây Tiến nổi danh này. Đó là đường Trương Minh Giảng và đường Lê Văn Duyệt. Phải chăng đó cũng như là một nhắc nhở cho các thế hệ mai sau về một sứ mạng chưa thành, một “Mission unaccomplished”…
Vũ Linh Châu và Nguyễn Văn Luân
Đăng lại có chỉnh sửa từ bài viết “Ai đă đặt tên cho các đường phố Sài G̣n trước 1975?”
Theo TongPhuocHiep.com (Trang web của nhóm cựu học sinh trường trung học Tống Phước Hiệp – Vĩnh Long)
Tiểu sử nhà văn Ngô Văn Phát:
Nhà văn, nhà họa đồ Ngô Văn Phát, bút hiệu Thuần Phong, Tố Phang, Đồ Mơ, sinh ngày 16-10-1910 tại huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Thuở nhỏ ông học ở Bạc Liêu, Sài G̣n, đậu bằng Thành Chung rồi nhập ngạch họa đồ ngành công chánh. Ông ham thích văn chương từ ngày c̣n ngồi trên ghế nhà trường, từng có thơ đăng trên Phụ Nữ Tân Văn, họa mười hai bài Thập Thủ Liên Hoàn của Thương Tân Thị… Có lúc ông dạy Việt Văn tại trường Pétrus kư Sài G̣n.
Năm 1957 ông có bài đăng trên bộ Tự điển Encyclopedia – Britannica ở Luân Đôn (Anh Quốc). Đó là chuyên đề Khảo cứu về thành phố Sài G̣n.
Năm 1964 chuyên đề Ca dao giảng luận in trên tạp chí Trường Viễn đông Bác cổ ở Paris (sau in thành sách ở Sài G̣n). Cùng năm này Trường Cao học Sorbonne (Paris), ông cũng có chuyên đề Nguyễn Du et la métrique populaire (Nguyễn Du với thể dân ca) trong bộ sách nhan đề: Mélanges sur Nguyen Du (Tạp luận về Nguyễn Du).
Những năm 70 ông được mời giảng môn Văn học dân gian tại Đại học Văn khoa, Sư phạm Huế và Cần Thơ.
Ông mất trong năm 1983 tại Sài G̣n.
hoanglan22
04-04-2020, 15:13
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1558656&stc=1&d=1586013185
Không hiểu chị tôi đă nghe tin về ông bằng cách nào.
Thời đó, đầu thập niên tám mươi, mọi phương tiện truyền thông đều thuộc về nhà nước Cộng Sản, quanh năm suốt tháng báo chỉ đăng tin “nước ta đang trong thời kỳ quá độ…” Kiểu dùng chữ như vậy mọi người phải chịu đựng măi nên đỡ thấy quái đản. Người đọc cứ tự điền vào chỗ trống thành “nghèo quá độ”, “đói quá độ” hay “láo quá độ”… tùy theo câu.
Vậy mà, một buổi tối, đột nhiên chị tôi nói “Em có biết Tướng Lê Minh Đảo không? Ông tướng đánh trận Xuân Lộc đó. Nghe nói ổng mới chết trong tù rồi! Tội quá, ổng c̣n trẻ lắm!”
Trước ngày miền Nam thất thủ tôi không biết ông Lê Minh Đảo. Sau đó, tôi có nghe loáng thoáng người lớn rỉ tai nhau về trận đánh ác liệt bảo vệ ngơ vào Sài G̣n trong những ngày đầu tháng Tư, 1975 tại Xuân Lộc. Tôi cảm phục những người chiến đấu đến cùng, nhưng điều đó sớm ch́m vào những hỗn độn của cuộc đổi đời. Vả lại tôi c̣n nhỏ quá, chẳng biết nghĩ ǵ hơn.
Cũng như thế, tối hôm đó, sau khi nghe chị tôi nói, chúng tôi chỉ biết nh́n nhau trong niềm xót thương lặng lẽ.
Một thời gian sau, tôi lại nghe một người bạn nói “Ông Lê Minh Đảo c̣n sống. Ổng chỉ bị mù thôi.”
Ở trong tù mà bị mù th́ chắc c̣n khổ hơn chết. Tôi thở dài – trẻ con Việt Nam sớm biết thở dài – rồi thầm đọc một lời cầu nguyện cho ông và những người tù chính trị đang bị đọa đày.
*
Đến năm 1993, khi đang ở Mỹ, nghe tin Tướng Lê đă sang theo diện HO và mắt vẫn sáng, tôi ngạc nhiên và vui lắm. Mừng cho ông cuối cùng cũng có những ngày b́nh an sau gần hai thập niên tù ngục.
Nhiều năm sau, khi internet cung cấp mọi tin tức mà ngày trước không dễ kiếm, tôi đă lên mạng t́m xem mặt Tướng Lê và nghe ông nói. Tôi muốn biết về ông. Không phải qua những lời kể, mà bằng cảm nhận của chính tôi.
Và tôi đă gặp được đoạn phim buổi nói chuyện của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo với Việt Dzũng. Buổi phỏng vấn khá dài nhưng tôi nhớ nhất là khi ông nói về sự hy sinh của người lính. Giọng ông hơi lạc đi khi nhắc đến t́nh bạn của hai người lính trẻ và sự đơn sơ, không hận thù trước bờ sinh tử của họ.
Phút nghẹn ngào của Tướng Lê đă làm tôi bồi hồi. Tôi ngỡ tim ông đă cứng và nước mắt ông đă kiệt sau mấy chục năm ngang dọc trên chiến trường và mười bảy năm trong tù. Tôi ngỡ ông sẽ nói nhiều về những chiến công và những đóng góp của ông trong hai mươi năm ǵn giữ miền Nam. Nhưng ông nói về các điều khác, như cái chết của người lính trẻ và sự hy sinh của chiến binh. Hơn hai mươi năm đă qua, ông vẫn tự trách ḿnh, môi ông run run khi nói “…chúng tôi cũng không lo được cho họ một cách đầy đủ…” Có lẽ chưa bao giờ ông ngưng buồn về chuyện đó. Tài làm tướng của ông đă làm tôi phục. Nhưng vết thương mấy chục năm trong ḷng ông mà tôi vừa chứng kiến đă làm tôi quư mến ông.
Đầu tháng Tư, 2015 tôi viết lại chuyện của những sinh viên Việt Nam du học ở Mỹ bốn mươi năm trước. Họ tụ tập tại một chung cư cũ kỹ ở Houston, khắc khoải nh́n về miền Nam đang vuột mất. Người sinh viên năm xưa cứ nhắc đi nhắc lại niềm hy vọng bùng lên khi đám người Việt trẻ theo dơi sự anh dũng của những chiến sĩ Xuân Lộc, dù bị dồn tới chân tường.
V́ thế, tôi t́m xem lại những khúc phim của tháng Tư xưa. Tôi thấy lại khói lửa điêu tàn. Tôi gặp lại các chiến sĩ anh hùng. Và Tướng Lê Minh Đảo, mắt nảy lửa, nghiến răng thề quyết chiến.
Rồi tôi giật ḿnh, nhận ra rằng những người trai dũng mănh ấy nay đă già, và tôi cũng đang già. Mai này khi chúng tôi ra đi, đàn con gốc Việt c̣n biết ǵ về quê cha đất tổ? Phải chăng điều đó tùy thuộc vào những ǵ chúng tôi làm hôm nay?
Thế hệ trẻ cần nghe những điều thật từ những người thật. Sẽ tốt biết bao nếu họ được gặp gỡ những nhân vật lịch sử như Tướng Lê Minh Đảo.
Thế là tôi lần ṃ đi t́m Tướng Lê.
Tôi không có mối quen biết xa gần nào với ông, cũng chẳng có chức tước ở bất cứ hội đoàn nào. Vậy mà tôi thấy chuyện mời ông đến vùng Thung Lũng Điện Tử thật tự nhiên, nhẹ nhàng. Có lẽ tôi linh cảm rằng vị tướng, người sau hơn hai mươi năm vẫn khóc cho lính, rất quan tâm tới lớp trẻ.
Sau hai tuần hỏi thăm nhiều người, cuối cùng tôi may mắn có được sự giúp đỡ tận t́nh của một người chị làm báo. Tôi được một cái hẹn nói chuyện với Tướng Lê. Mười giờ sáng, một ngày đầu tháng Tư, 2015.
Gần tới giờ hẹn, tôi thấy hơi hồi hộp. Thật t́nh tôi sẽ buồn chút thôi nếu Tướng Lê từ chối sang California nói chuyện. Nhưng tôi sẽ buồn nhiều nếu thực tế quá khác với những cảm nghĩ ở trong ḷng.
*
Ông đến San Jose chiều 27 tháng Tư, 2015 trên chuyến bay từ Arizona. Từ xa, tôi thấy ông trong chiếc áo sơ mi kiểu Hawaii màu vàng nhạt có hoa xám, đang dáo dác nh́n quanh.
“Thưa Bác! Con là Kh.A.”
Ông cười. Chúng tôi bắt tay nhau. Giản dị như đă quen từ trước.
Ông cho biết đă lên máy bay ngay sau khi dự buổi lễ kỷ niệm bốn mươi năm miền Nam bị cưỡng chiếm với cộng đồng Việt-Mỹ ở Pheonix, Arizona. Tôi hỏi ông có mệt không, ông nói “Không sao đâu. Bác giờ như một kho sách cũ, chỉ lo không đủ giờ để trao lại kiến thức cho những người đi sau…”
Tối hôm đó, chúng tôi mời ông ghé chơi nhà một người bạn. Khi bước vào nhà, trên salon có một cây đàn guitar kiểu mới, chỉ có khung sắt mà không có thùng đàn. Tôi thấy mắt ông ngời lên một sự thích thú gần như trẻ thơ. Ông bước nhanh tới, nâng cây đàn lạ mắt, vuốt nhẹ lên những sợi dây.
Khi chúng tôi mời ông đánh một bài, ông x̣e bàn tay ra nh́n, cười nhẹ rồi nói:
- Ở tù bị thương, hư tay rồi. Giờ lại già nữa, đánh kém lắm.
Chúng tôi không nài ép, chỉ lẳng lặng nh́n ông vừa nói chuyện vừa lơ đăng lướt tay trên cần đàn. Một lúc sau, như hứng khởi, ông hát
“Trùng dương dâng sóng, biển khơi như thét gào. Cuốn đi cánh hoa đào dạt trôi nơi nao… “
Bài hát đó ông sáng tác trong tù, ngày nghe tin người bạn cùng trại mất hết vợ con trên đường vượt biển.
“C̣n sống tôi c̣n khóc, tôi c̣n thương quê hương tôi …”(*)
Giọng ông nhẹ và buồn. Tôi nghe, và nghĩ rằng ông đang nói những điều tận đáy ḷng.
*
Sáng 29 tháng Tư, Tướng Lê bắt tay vào chuẩn bị cho buổi nói chuyện ngay sau ly cà phê sớm. Ông sắp xếp ư nghĩ, soạn phần trả lời cho các câu hỏi các sinh viên đă gởi đến, và ghi xuống một loạt các quyển sách nói về chiến tranh Việt Nam để giới thiệu đến các sinh viên.
Măi tới giờ ăn trưa tôi mới có dịp nói chuyện với ông. V́ có quá nhiều điều muốn hỏi, tôi buột miệng:
- Bác ơi, có bao giờ Bác hối hận đă làm cho các con Bác kẹt lại với Cộng Sản sau ngày mất miền Nam không? Các con Bác có bao giờ trách Bác không?
Nói xong, tôi hơi bối rối v́ đă hỏi một câu khá nặng nề trong lúc ông đang nghỉ ngơi. Nhưng ông trả lời ngay:
- Đó là một quyết định rất đau ḷng, nhưng Bác chưa bao giờ hối hận. Bác ra lệnh cho anh em binh sĩ quyết đánh, gia đ́nh của họ đều ở lại, có lẽ nào Bác lo cho con Bác ra đi? Bác có thể thu xếp cho gia đ́nh ḿnh, nhưng làm sao thu xếp được cho mọi gia đ́nh của những người đang tin vào Bác? Nếu Bác cho vợ con đi trước, lính của Bác biết là giờ chót Bác có thể lên máy bay đi bất cứ lúc nào. Như vậy họ c̣n tin tưởng để đánh hay không? Như vậy Bác có công bằng với họ hay không? Bác chấp nhận định mệnh của Bác và gia đ́nh, nếu có phải chết th́ chết cùng nhau. Bác muốn đối xử công bằng để sau này con bác không phải xấu hổ với con em của những người từng nghe lời Bác mà liều chết. Bác muốn con bác sau này không phải nh́n Bác mà nghĩ ông già ḿnh ngày xưa từng gạt lính.
Trầm ngâm vài giây, rồi ông tiếp:
- Năm 1979, lúc Bác đang bị Cộng Sản đày đọa, nghe tin gia đ́nh đi thoát hết sau năm lần vượt biên bị tù, Bác trút được gánh nặng khủng khiếp trong ḷng. Bác tạ ơn trời đă cho Bác ân huệ được lương tâm yên ổn, được trọn vẹn mọi bề. Từ đó, Bác không c̣n phải lo lắng, đau khổ cho số phận của vợ con trong nanh vuốt của kẻ thù nữa. Bác không sợ kẻ thù dùng các con thơ để khống chế ḿnh nữa. Bác được tự do.
C̣n các con Bác, tụi nó cũng hiểu và không trách Bác. Trong bốn năm kẹt lại, tụi nó đă học được rất nhiều. Những kinh nghiệm sống đó làm cho chúng biết thương người, biết khiêm nhường, biết quư những điều tưởng như là tầm thường. Các con của Bác có thể tự hào rằng ḿnh đă hiểu biết về Cộng Sản và đă vượt thoát khỏi ngục tù của họ. Đó là một tài sản mà Bác nghĩ các con Bác nên hănh diện đă có được.
Tôi uống một ngụm trà, nuốt xuống cái nghèn nghẹn ở cổ. Tôi nghĩ, trước khi tử chiến ở Xuân Lộc, nếu ông lo cho gia đ́nh đi th́ đó cũng là chuyện thường t́nh. Không ai trách được ông. Nhưng Tướng Lê không phải là người làm những chuyện thường t́nh...
Thời vừa bị chiếm, mạng sống của người miền Nam rất nhỏ, thêm dịch bệnh hoành hành làm trẻ con chết rất nhiều. Nếu chỉ một trong chín người con ông có mệnh hệ nào, nỗi dằn vặt sẽ ám ảnh ông suốt đời. Nhưng Thượng Đế đă ǵn giữ gia đ́nh ông vẹn toàn. Cám ơn Thượng Đế, Tướng Lê cần và xứng đáng với ơn huệ của ngài.
Hôm sau, ngày 30 tháng 4, 2015, ông và người thông dịch miệt mài chuẩn bị cho buổi nói chuyện lúc 6 giờ chiều. Trưa đến, tôi nhắc ông đi ăn nhưng ông dùng dằng măi vẫn chưa đứng lên được. Thấy vậy tôi đành khuân về mấy ổ bánh ḿ thịt nguội. Ông gặm bánh ḿ, uống beer và cười nói vui vẻ, hài ḷng v́ buổi nói chuyện được chuẩn bị chu đáo.
Cuôc gặp gỡ với sinh viên diễn ra thành công và cảm động. Tướng Lê đă nhắn nhủ lớp trẻ bằng những điều ông đúc kết suốt nửa cuộc đời trong chiến tranh cộng với mười bảy năm trong tù ngục. Những chia sẻ của ông thiết tha, sâu sắc nhưng cũng rất thực tế, phù hợp với tâm hồn và đời sống của giới trẻ.
Buổi họp kết thúc khá trễ nên chúng tôi chỉ ghé tiệm kem ăn tráng miệng rồi về.
Măi đến đêm, tôi mới chợt nhận ra rằng bữa ăn “đàng hoàng” nhất của Tướng Lê ngày hôm đó là ổ bánh ḿ. V́ ông đă không đụng đến đĩa thức ăn do các em sinh viên mời lúc chiều, ông nói muốn tập trung để nói chuyện với các em.
*
“Con gián làm mồi câu tốt lắm, con à.”
Buổi chuyện tṛ của tôi và Tướng Lê ngày hôm sau bắt đầu bằng câu chuyện đời thường như thế. Ông kể thời ông ở Cần Thơ, ông thường bắt gián ở đằng sau một tiệm ăn ở gần nhà rồi đem ra bến Ninh Kiều câu cá.
Biết rằng lúc đó ông đă lên tới cấp Tá, tôi hỏi:
- Chắc Bác câu cá cho vui hả Bác?
- Câu cá về ăn chớ! Nhà Bác đông con, lương của Bác th́ khá so với lính, nhưng chẳng dư dả ǵ đâu, con. Lính ḿnh hồi đó cực lắm con à, một tháng lương mua được một tạ gạo. C̣n lương Bác cũng chỉ tạm đủ lo cho vợ con.
Hoàn cảnh lính và những hy sinh của gia đ́nh lính th́ không nói sao cho xiết, con à. Gần một triệu người đă chết và bị thương trong cuộc chiến, c̣n số người chịu mất mát sau lưng họ th́ không biết đếm bằng cách nào! Bác cứ nghĩ con người ta ai cũng bằng xương bằng thịt, nếu Bác chết trận, mười người trong gia đ́nh Bác đau đớn bao nhiêu th́ những cái chết trong gia đ́nh lính cũng đau bấy nhiêu. Hồi ở Chương Thiện, có một người lính đi phục kích, vợ con bị địch câu pháo trúng vô nhà, chết hết. Anh ta về, ngồi gục mặt trước đống gạch nát, Bác đứng đó mà chỉ biết đặt tay lên vai anh ta, không t́m được lời nào an ủi. Vậy mà hai bữa sau, anh ta trở lại đơn vị, tiếp tục đánh giặc…
Cái nhíu mày của ông làm tôi nghĩ ruột ông đang thắt lại, nên tôi chuyển qua đề tài khác:
- Thời Bác ở trong quân đội, di chuyển nhiều nơi, cả nhà đều đi theo hả Bác?
Nụ cười nhẹ làm những vết nhăn trên trán ông dăn ra.
- Ờ! Bác bận rộn quá nên đi đâu Bác cũng cố gắng đem gia đ́nh theo để được ở gần càng nhiều càng tốt. Khi nào có dịp nghỉ, Bác dắt vợ con đi chơi. Nhưng sau này, Bác ở đóng quân ở Long B́nh th́ tụi nhỏ đi học ở Sài G̣n, cuối tuần nếu Bác không đi hành quân th́ mới được gặp. Có một lần Bác dắt tụi nhỏ đi coi chiếu bóng về, tụi nó than đói bụng. Ở tỉnh lỵ đâu có hàng quán ban đêm, Bác lại không muốn sai lính nên tự nấu chè cho tụi nó ăn. Nấu nước sôi, đập vô một củ gừng, quậy đường cát, rồi xé bánh tráng bỏ vô. Bánh tráng mà ḿnh hay ăn đồ cuốn đó. Bánh tráng coi mặn mặn vậy mà nấu chè ngon lắm! Bữa nào con làm thử đi!
Ông vừa nói vừa gật đầu để thêm phần… thuyết phục. Tôi tṛn mắt nh́n ông. Chỉ là một kỷ niệm vui, không màu mè, bóng bẩy, nhưng ông làm tôi cảm động lẫn ngạc nhiên. Một vị Tư Lệnh tự nấu chè cho con ăn khuya? Nồi chè mà tôi không cần thử cũng biết là không thể ngon. Nhưng nó làm tôi thương người cha ở trong ông, và tự hào v́ quân lực VNCH đă có một vị chỉ huy như ông. Ôi, nồi chè của ông Tướng!
Càng nói chuyện với ông, tôi càng thấy ông rất “không thuờng t́nh”. Ông không dè dặt, thận trọng như thường thấy ở những người từng chứng kiến nhiều mưu mô, tráo trở. Ông không có cái trầm ngâm, chán chường của một người nếm quá nhiều đau thương. Ông nhiệt t́nh, hăng hái, và thật. Như thể cuộc đời ông chưa từng bị dập vùi, như thể ông c̣n rất trẻ và c̣n tin tưởng rất nhiều vào con người.
Và, ông hoàn toàn không có cái xa cách của người xem ḿnh là quan trọng. V́ thế, tôi đă hỏi ông một câu mà trước khi gặp ông tôi không nghĩ là ḿnh dám hỏi:
- Bác ơi, ngày 30 tháng Tư 1975, sau khi miền Nam thất thủ, Bác có bao giờ nghĩ đến chuyện tự sát hay không?
- Lúc đó, mỗi người có một quyết định riêng, không ai đúng ai sai. Riêng Bác, Bác không có ư định tự tử. Các con Bác đă mất quá nhiều, Bác không muốn chúng phải mất cha. Nếu bị giặc Cộng giết, Bác chấp nhận nhưng Bác không tự ḿnh làm điều đó với các con. Hơn nữa, Bác không có cái uất ức, đau khổ của một bại tướng v́ Bác chưa bao giờ nghĩ là ḿnh thua. Ḿnh chỉ tạm thời khó khăn v́ những thế lực quốc tế đẩy ḿnh tới đó, nhưng Bác muốn sống để xem mọi sự xoay vần tới đâu.
*
Nếu chỉ được dùng một từ để diễn tả Tướng Lê, tôi sẽ chọn “lăng mạn”.
Những quyết định cực kỳ cứng rắn, những hành động hết sức can đảm của ông đều bắt nguồn từ những t́nh cảm sâu xa. Chỉ có người rất lăng mạn mới đủ tin yêu để làm những điều phi thường như ông đă làm. Ông để vợ con cùng ở lại đương đầu với Cộng quân là v́ ông yêu sự “công bằng” mà ông đă nhắc đến mấy lần trong câu trả lời ngắn. Ông tử chiến v́ ông hết ḷng tin vào sứ mạng ǵn giữ miền Nam. Ông không sợ chết v́ ông không muốn phụ ḷng những người lính đă nằm xuống và những người lính đă dựa vào ông mà đứng lên từ những căn nhà cháy ra tro của họ.
Cống hiến của ông cho đời giống như những viên kim cương, tuyệt sáng và tuyệt cứng. Nhưng chúng đă được hun đúc từ phần lơi là những t́nh cảm tinh tuyền, và những giọt nước mắt. Sẽ không có kim cương nếu không có phần lơi đó.
Lịch sử Việt Nam có Tướng Phạm Ngũ Lăo gạt nước mắt, chia tay mẹ già đi đánh giặc. Có Tướng Trần Khánh Giư bỏ gánh than, từ giă đời ở ẩn để trở về cứu nước. Có biết bao chuyện nhờ dân gian ghi lại mà ngày nay chúng ta được biết.
Cho nên, tôi muốn ghi lại nồi chè bánh tráng của Tướng Lê Minh Đảo. Ghi lại lúc ông chấp nhận để các con ông cùng chung số phận với gia đ́nh lính. Ghi lại ḷng thương yêu và quư trọng vô bờ của ông với binh sĩ và vợ con của họ. Về lời ông nói, đùa mà rất thật “nếu trời cho sống đến hơn trăm tuổi, tôi vẫn muốn cống hiến thời giờ và sức lực cho Việt Nam tới phút cuối.”
Năm nay Tướng Lê đă tám mươi ba. Vinh, nhục, yêu, ghét, thăng hoa, đày đọa … ông đều đă trải. V́ thế, tôi viết bài này không phải cho ông. Mà để lưu lại vài mẩu chuyện về Ông Tướng Lăng Mạn cho mai sau. Để góp một chút tin yêu bởi v́ làm người Việt Nam rất buồn. Để cho chính tôi nhớ gương của Tướng Lê, lạc quan trong khó khăn và cố gắng làm những điều tốt đẹp nhất trong khả năng của ḿnh, hầu mong mai sau con cháu không phải ngần ngại nhận ḿnh là Việt.
Khôi An
(*) Lưu Đày – Nhạc và lời của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo
Bài dịch tiếng Anh “Tướng Lê Minh Đảo tại Đại Học Stanford” và những câu trả lời sinh viên trên trang của SVSA (Stanford Vietnamese Student Assocication):
http://svsa.stanford.edu/blackapril.html#lemi nhdao
hoanglan22
04-17-2020, 16:31
Năm 1957, sau khi tiếp thu các phi đoàn vận tải của KQ Pháp giao lại (như các phi đoàn Béarn, Franche- Comté và Sénégal đóng tại TSN), với cấp bực Trung úy, anh làm huấn luyện viên phi công vận tải tại Liên Phi đoàn 1 vận tải dưới quyền chỉ huy của Trung tá Nguyễn cao Kỳ.
Đầu năm 1958, anh được biệt phái sang Hàng Không Dân sự, lái phi cơ cho hăng Hàng Không VN (Air Vietnam) thay thế cho các phi công dân sự Pháp bị sa thải hồi hương.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1566435&stc=1&d=1587140974
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1566436&stc=1&d=1587140974
Trường bay căn bản Marrakech, Morocco, 1952, Khóa 52F2, hàng ngồi (từ trái): Phan Thanh Vân, Lưu Kim Cương, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Văn Hổ, Trịnh Hảo Tâm, Nguyễn Mai Lâm
Năm 1961, anh được gọi trở về Bộ Tư lệnh KQ để nhận lảnh nhiệm vụ mới. Anh được chỉ định chỉ huy và lái một trong hai chiếc “C̣ Trắng”, có nhiệm vụ đặc biệt bay thám thính, tiếp tế và thả dù các toán gián điệp biệt kích ra miền Bắc CSVN, (lúc bấy giờ chỉ có hai phi hành đoàn C̣ trắng được thành lập để bay ra Bắc theo kế hoạch hoạt động t́nh báo do CIA Mỹ tổ chức và điều động, một phi hành đoàn do Trung tá Kỳ chỉ huy và lái, phi hành đoàn thứ hai do Trung úy Vân chỉ huy. Gọi là C̣ Trắng v́ 2 chiếc phi cơ C47 dành riêng cho các phi vụ đặc biệt này đều được “sterilized”, tẩy xóa hết mọi cờ quạt, quốc huy, quốc hiệu để lại toàn thân chiếc phi cơ một mầu nhôm trắng toát).
Ngày 1 tháng 7 năm 1961, anh lănh một nhiệm vụ đặc biệt thay thế cho ông Kỳ, lái phi cơ ra miền Bắc để thả dù tiếp tế biệt kích. Trong chuyến bay định mệnh này, phi cơ của anh đă bị hỏa tiễn tâm nhiệt của phóng không CSBV bắn rơi lúc 01 giờ 15 phút rạng ngày 2-7-61, khi phi cơ bay sát từ mặt biển vừa vào đất liền. Máy bay bị rơi xuống một nơi thuộc xă Tô hiệu, huyện Kim sơn, tỉnh Ninh B́nh. Phi hành đoàn do anh chỉ huy và lái, gồm thêm 2 phi công phụ (Trung úy Phan khắc Thích, Thiếu úy Trần minh Tâm), 2 điều hành viên (Thiếu úy Tiêu huỳnh Yên, Chuẩn úy Phạm trọng Mậu), 1 Vô tuyến điện Viên (Trung sĩ Nguyễn văn Nở), 1 Cơ khí Viên (Thượng sĩ Phạm văn Đăng), ngoài ra c̣n có 3 Biệt kích Dù (Thượng sĩ Lộc, Trung sĩ Tiết và Thượng sĩ Khoa) thuộc pḥng 46 (sở Bắc, sau đổi thành Nha Kỹ Thuật).
Cả thảy 10 người trên phi cơ lúc bị bắn rơi xuống băi śnh lầy, rồi bốc cháy, người chết cháy v́ kẹt lại trong phi cơ, người bị thương nặng rồi chết sau đó, chỉ c̣n lại 3 người sông sót là anh, người Cơ khí Viên và 1 Biệt kích Dù. Cả 3 đều bị thương tích nặng và bị dân quân CSBV trên bờ ào ra bắt giữ. Sau một thời gian bị giam giữ hỏi cung tại trại giam Hỏa Ḷ Hà Nội, ngày 15 thàng 11 năm 1961, anh bị đưa ra Ṭa Án Quân Sự Trung ương CSBV xét xử cùng với 2 đồng hành với bản án như sau:
- Đinh như Khoa, Biệt kích Dù, 15 năm tù
- Phan thanh Vân, Trưởng phi Cơ, 7 năm tù
- Phạm văn Đăng, Cơ khí Viên, 3 năm tù
Sau khi lảnh án, anh bị đưa đi cải tạo ở trại Bắc Bạc (Ba v́, Sơn tây), rồi sau đó bị đưa lên giam giữ tại trại E ở Phố Lu (Lào Cai).
Năm 1971, anh được CSBV phóng thích sau một thời gian 10 năm (tù giam và quản thúc), và nhờ sự lo lắng của gia đ́nh người chị ruột, qua Hồng thập tự Pháp, anh được đưa sang Pháp để đoàn tụ với gia đ́nh và sinh sống.
*****
Hôm nay đă là 29 tháng Chạp, chỉ c̣n vài ngày nữa là Tết rồi. Tết năm nay là Tết Tân Hợi (1971) và đúng là cái Tết thứ 10 mà ḿnh sống bơ vơ, xa gia đ́nh, xa quê hương xứ sở.
Chiều hôm nay, sau khi hoàn thành xong chiếc giường đôi rẻ quạt, gă chính ủy (ủy viên chính trị) quản lư hợp tác xă mộc Đồng tiến ở thị xă Ba v́, tỉnh Sơn Tây gọi tôi lên văn pḥng và nói:
- Anh nghỉ việc sáng hôm nay, về lán thu xếp để chuẩn bị ngày mai về Hà nội.
Tôi thắc mắc:
- Dạ, báo cáo cán bộ, tôi về Hà nội có chuyện ǵ và về bao lâu?
Gă lạnh như tiền:
- Anh đừng thắc mắc, đó là lệnh trên của Trung ương, tôi cũng không biết lư do. Anh cứ chuẩn bị sẵn sàng đi, và có lẽ anh sẽ không trở về đây đâu.
Ra khỏi văn pḥng cán bộ, tôi trở về lán thu xếp đồ nghề mà trong ḷng nghĩ ngợi miên man; lại cái ǵ đây? Được đưa về đây sống quản thúc ở hợp tác xă mộc này đă gần 2 năm nay, ngày ngày tháng tháng ḷng ḿnh lúc nào cũng thấp thỏm lo âu với cái tội nặng nề thầm kín mang trong người là “giặc lái Mỹ ngụy”
Năm 1961, sau khi lănh cái án tù 7 năm, là từ Hỏa Ḷ Hà Nội đến trại này trại kia, cuối cùng là trại E Phố Lu (Lao Cai), tôi đă “ngoan ngoăn” cải tạo tư tưởng để trở thành “thành phần tiến bộ”, để sau khi hết án 7 năm tù, được hưởng thêm 2 năm “tự giác” ở lại trại giam. Và cuối cùng cho đến năm 1969, tôi đă thở phào nhẹ nhơm người khi được nhân dân, Đảng và nhà nước trả tự do, đưa về đây quản thúc với nghề thợ mộc, ”ngày động tối điểm” (ban ngày lao động: cưa xẻ, đóng bàn, đóng giường, tối điểm danh trước khi đi ngủ).
Tối hôm nay trằn trọc măi, không tài nào ngủ được, lo nghĩ lại chuyện ǵ sẽ đến với mỉnh đây, tại sao lại bị đưa về Hà nội, tại sao…tại sao…nằm măi không ngủ được thôi th́ dậy, ph́ phèo vài điếu thuốc lào.
Ngoài lán các “đồng chí” đang quây quần bên đống lửa to, canh nồi bánh chưng. Nghĩ lại nếu không có cái lệnh đi Hà nội th́ giờ này ḿnh cũng ngồi ngoài đó v́ ban sáng ḿnh đă được phân công canh nấu bánh chưng tối nay.
Sáng rồi, chưa tới 9 giờ th́ thấy đă có một chiếc xe Molotova loại nhỏ như xe Jeep của Mỹ, đậu sẵn ở trong sân của Hợp tác xă. Tôi cũng đă sẵn sàng khi đồng chí cán bộ quản lư xuống kêu lên văn pḥng gặp cán bộ trung ương.
Vào đến văn pḥng là tôi khựng lại, nghĩ thầm trong ḷng: Lại cái ông Toán này nữa, cái ông cán bộ công an đă săn sóc ḿnh trong mấy năm qua, từ khi ḿnh được trở thành người tự do!!
Sau khi anh quản lư bảo tôi ngồi xuồng rồi đi ra, ông Toán mới chậm răi:
- Anh có được khỏe không? Hôm nay tôi lên gặp anh để đưa anh về Hà nội và sau đó đưa anh ra sân bay để anh đi Pháp đoàn tụ với gia đ́nh. Đảng và nhà nước đă rất khoan hồng đối với anh và đă chấp thuận lời xin của gia đ́nh người chị của anh ở bên Pháp, cho anh về Pháp sum họp gia đ́nh.
Nghe đến đây tôi như tắt thở, mừng đến nỗi nhịp tim đập mạnh như muốn nhảy ra ngoài, tuy nhiên vẫn cố lấy b́nh tĩnh để nghe tiếp những lời lải nhải của đĩa hát cũ đă rè, lập đi lập lại, nào là anh phải biết ơn nhân dân, biết ơn Đảng và nhà nước, nào là anh phải tiếp tục cải tạo tư tưởng để thành người tiến bộ, trở về phục vụ nhân dân, phục vụ Đảng và nhà nước v…và v…
Ông Toán nói tiếp:
- Đây là giấy thông hành tạm cấp cho anh để anh dùng đi đường ra nước ngoài, c̣n đây là giấy máy bay của hăng hàng không Pháp Air France đi từ Hà nội đến Paris. Giấy máy bay này do người chị của anh mua và gởi sang cho chúng tôi để nhờ đưa lại cho anh dùng. Thôi chúng ta chuẩn bị lên đường kẻo trễ, anh c̣n có ư kiến, c̣n muốn phát biểu ǵ không?
Tôi lập bập:
- Dạ báo cáo cán bộ, dạ dạ thưa không!
Đứng dậy ra xe chân ḿnh bủn rủn, đi hết muốn vững. Đâu có ngờ!
Ra đến xe thấy cán bộ quản lư chạy lại:
- Anh cầm lấy túi bánh chưng này, đây là quà Tết của hợp tác xă tặng anh, cầm theo mà ăn đi đường.
Xe lăn bánh rời Ba V́, bon bon trên đường hướng về Hà nội. Ngồi trên xe mà ḷng tôi lâng lâng, nửa tỉnh nửa mơ, mừng lo lẫn lộn, v́ chưa hẳn dám tin đó là chuyện thật, hai bên đường cây cối trơ trụi, bụi đường tung tóe theo lằn bánh xe lăn, nhưng sao ḿnh thấy cái ǵ cũng vui tươi, cái ǵ cũng đẹp sáng, tưng bừng như…Tết.
Mải triền miên với trăm ngh́n ư nghĩ trong đầu, tôi không để ư đă băng qua Hà nội lúc nào và đang trên đường tiến về sân bay Bạch mai
Xe đến cổng phi trường th́ chạy chậm lại, tài xế lái xe vào đậu ở gần nhà ga hành khách, ông Toán bước xuống quay lại bảo tôi xuống xe theo ông vào trong làm thủ tục giấy tờ.
Tôi liếc nhanh quanh sân bay, ngoài băi đậu xa hai ba chiếc máy bay rải rác đậu, một chiếc máy bay kiểu Illouchine 14 của Nga (loại máy bay vận tải chở hành khách loại nhỏ đang chuẩn bị, năm ba người nhân công chạy chung quanh, người đổ xăng, người đi ṿng phi cơ kiểm tra.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1566437&stc=1&d=1587140974
Tôi nghĩ bụng ḿnh sẽ đi với chiếc phi cơ này. Sau khi theo ông Toán vào quầy hành khách để tŕnh giấy tờ, giấy thông hành, giấy máy bay…làm xong thủ tục, ông Toán nói:
- Thôi đến giờ rồi, anh theo ra máy bay đi, anh đi mạnh giỏi và hăy nhớ những ǵ anh đă tiếp thu được mà cố gắng trở thành người tốt.
- Dạ báo cáo cán bộ, dạ tôi xin cám ơn!
Ḿnh lập bập, hối hả theo sau độ năm mười người nữa ra hướng máy bay đậu. Nh́n những hành khách khác, không biết là Việt hay Tàu, người nào cũng áo bốn túi, cổ Mao, chắc toàn là cán bộ đi công tác, c̣n ḿnh th́ chả giống ai với bộ bà ba nâu, chân đi dép cao su B́nh Trị Thiên, tay quẩy túi bánh chưng bây giờ mới để ư thấy có bốn cái, ḿnh lững thững bước lên vào t́m chổ ngồi trong phi cơ. Nh́n anh phi công cao lớn, da đỏ có lẽ là người Nga, mặc đồ phi hành dân sự, đi giữa hai hàng ghế hành khách để lên buồng lái, tôi ngẩn ngơ nhớ lại… ngày nào!
Chiếc vận tải cơ Illouchine 14 của hăng hàng không Nga từ từ chuyển bánh ra phi đạo, ngừng lại chỗ thử máy và sau đó cất cánh nhẹ nhàng.
Toàn thân tôi rung mạnh theo đà máy bay lăn trên phi đạo rồi từ từ rời đất liền và theo chiều cao bay lên, bỗng dưng hai mắt tôi nhắm nghiền lại, người tôi tự nhiên thấy ớn lạnh khi chợt nghĩ đến... Một chuyến bay!!!
Rồi những kinh hoàng, hăi hùng của những giây phút rùng rợn gần 10 năm xưa dần dần tiếp diễn qua tâm trí tôi như một cuốn phim:
Tôi nhớ rơ chiếc máy C47 trắng ngần do tôi lái khi vượt qua Vĩ tuyến 17, bay là sát mặt biển xâm nhập vào bầu trời của miền Bắc, dù c̣n ở ngoài khơi của biển Đông, cả 7 người trong pḥng lái chúng tôi đều bắt đầu thấy thần kinh căng thẳng; người này lo lắng liếc mắt nh́n người kia, không ai nói vơi ai một lời. Khi máy bay vào sâu nội địa, tôi c̣n nhớ lúc ấy khoảng hơn 1 giờ đêm, đột nhiên tôi thấy nhoáng lên như ánh chớp màu da cam ngay trước mặt tôi trong bầu trời như bức màn đen, máy bay tự nhiên rung giật mạnh, không hề nghe một tiếng nổ hay bất cứ một âm thanh ǵ, hai tay tôi ôm cứng lấy tay lái, cố giữ thăng bằng cho chiếc máy bay, mắt tôi c̣n thoáng thấy anh Mậu điều hành viên và anh Thích phi công phụ ôm chầm lấy nhau, rồi…tôi không c̣n biết ǵ nữa!
Không biết măi bao lâu sau, khi thấy lạnh run, tôi cố mở mắt nh́n trong đêm tối đen kịt, người tôi như vỡ nát ra trăm mảnh, tôi không cử động được tay chân, đau đớn tận cùng hồn tôi lửng lơ, tôi tưởng như tôi đă chết rồi, hay đang… chết. Sau đó dần dần một lúc, tôi mới cảm thấy đau nhừ khắp cả người, chỗ nào cũng đau, tôi không nh́n thấy ǵ cả, cố thu hết tàn lực đưa tay quờ quạng hốt ít nước bùn lầy đưa lên mặt để rửa. Nước bùn nhầy nhụa ḥa với một thứ nước mằn mặn trên gương mặt loang lổ của tôi, “máu “ mặt tôi đày máu, tôi cố mở mắt nhiều lần nhưng vẫn không thấy ǵ, đầu tôi như có ai cầm chiếc gậy đập đều đều, tôi lại mê man, tâm trí như có một khoảng trống rỗng, chẳng c̣n ư niệm ǵ về thời gian, không gian.
Tôi cũng chẳng biết là cho đến bao lâu nữa, măi khi tai tôi chợt nghe văng vẳng trong gió lao xao của đêm khuya: Chết tôi rồi, chết tôi rồi, nóng quá, nóng quá, chết…tôi rồi!
Tiếng kêu thảm thiết của những người đang chết cháy! Tôi không nhúc nhích ǵ được, cả một nửa người của tôi đă ngập sâu dưới bùn lầy, tôi cố mở mắt từ xa xa cách chỗ tôi “đứng” độ vài trăm thước, một đám cháy to, lửa đỏ bốc lên ngùn ngụt và những tiếng thét kinh hoàng mà tôi nghe từ đó vọng ra, tôi như nửa tỉnh nửa mê, chợt lờ mờ có ư niệm rằng chiếc C47 do tôi lái đă bị bắn rơi xuống đây và đang bốc cháy!
Tôi lại mê man bất tỉnh cho đến khi mở choàng mắt ra, lúc này đă nh́n được lơ mơ thấy khung cảnh đồng ruộng śnh lầy, đầu tôi đau nhức như có người lấy dao nạo vào óc, rồi tôi nghe rơ tiếng người ḥ hét xa xa, tiếng léo nhéo, quát tháo vẳng trong gió đêm.
Một ư thức bừng dậy thành phản xạ của sự sống c̣n ập đến như một đ̣n bẩy, tôi cố vùng vẫy, nhô người lên khỏi đám śnh lầy, nhưng tôi quá yếu, bất lực!
Tiếng quát tháo lẫn lộn của đàn ông lẫn đàn bà càng lúc càng gần cùng với những ngọn đuốc lập ḷe di động đốt sáng cả một góc trời, phần v́ khắp người đau như dần với bao nhiêu thương tích, phần v́ quá khiếp sợ, đầu óc tôi tê đi, cho đến lúc họ đă quát tháo ầm ầm bên tai tôi mà tôi vẫn đứng im như một xác chết. Họ ḥ nhau túm lấy tay chân tôi, kéo tôi ra khỏi śnh lầy.
Lúc này trời đă sáng tỏ, tôi lờ mờ thấy không biết bao nhiêu người, đàn ông, đàn bà lố nhố vây quanh tôi, súng ống gậy gộc, họ hầm hè như muốn nhai xương, nuốt sống, ăn thịt tôi tôi đau đớn sức tàn, tôi sợ quá, nhắm mắt lại, rồi lịm đi, văng vẳng nghe tiếng quát, tiếng chửi rủa ập ngoáy vào tai tôi: Coi chừng, coi chừng, nó hăy c̣n sống, đập chết nó đi, đập chết nó đi, nó là biệt kích ác ôn của Mỹ Diệm!
Cuốn phim đến đây tự nhiên tắt ngay, tôi giựt ḿnh bừng tỉnh dậy. Tôi đang ngả người trên chiếc ghế nhung của hành khách, máy bay đang bay êm, tiếng máy đều đều…trong máy bay gió lạnh nhưng người tôi ướt đẫm mồ hôi, ướt thấm cả bộ quần áo nâu tôi đang mặc, tôi cảm thấy lạnh, lạnh ớn xương sống…với giấc chiêm bao vừa qua!
Với tay với cái mền đắp lên người mới nhớ ra các giấy tờ mang theo trong người, lần ṃ móc ra xem, ngoài tờ giấy thông hành tạm, đóng dấu đỏ của Bộ Công An Hà nội là giấy máy bay của hăng hàng không Pháp Air France, trong đó ghi chặng đường đi:Hà nội, Canton, Hồng kông. Paris.
Tôi nghĩ thầm trong bụng: tại sao ghé qua Quảng đông (Canton) đó là đất đai của Trung cộng, nếu mà lôi thôi trở ngại biết làm sao? Mải loay hoay với ngàn ư nghĩ lo lắng, tôi không để ư đến đèn báo hiệu buộc dây an toàn bật cháy, cho đến khi người chiêu đăi viên đến nhắc tôi v́ máy bay chuẩn bị đáp. Phi trường Quảng đông vắng tanh, lạnh ngắt, không thấy một sinh hoạt nhộn nhịp nào như các phi trường dân sự khác, không thấy một chiếc máy bay nào khác đậu ở sân bay, ngoài chiếc máy bay tôi đang đi, từ từ vào bến đậu, ngay trước nhà ga hành khách. Tôi được mời xuống máy bay theo sau lẻ tẻ hai ba người hành khách khác, đi vào trạm nhà ga.
V́ đă quen với cách thức đi lại của các phi trường quốc tế, tôi t́m ngay đến quầy tiếp khách đại diện của Air France. Sau khi tŕnh giấy tờ, giấy máy bay của tôi cho người nhân viên, một người tầu, bập bẹ nói tiếng Pháp, anh ta xem xong rồi nói:
- Hiện tại chúng tôi không có đường bay nối tiếp (connection) giữa Canton và Hồng kông, theo lộ tŕnh đă được chỉ định và trả tiền trước, chúng tôi sẽ lo liệu cho anh đi Hongkong bằng đường xe lửa, và khi đến Hong kong anh sẽ tiếp tục lấy máy bay đi Paris, anh chuẩn bị theo tôi ra xe để tôi đưa anh ra nhà ga xe lửa cho kịp giờ.
Ngồi trên xe theo người nhân viên Air France từ phi trường ra ga xe lửa, quang cảnh hai bên đường xe chạy lạ hoắc, nhưng tôi đâu c̣n tâm trí nào để nhận xét! Nhà ga xe lửa Quảng đông thật nhộn nhịp ồn ào khác thường, đặc nghẹt hành khách và hành lư. Người nhân viên Tầu dắt tôi len lỏi qua đám người, chen chúc đến quầy lấy vé và đưa tôi lên một toa giữa con tầu để t́m chỗ ngồi, may mắn t́m được một chỗ trống gần cửa sổ, anh ta chỉ cho tôi ngồi xuống và đưa tay bắt tay tôi chúc may mắn (bonne chance)
Khi xe lửa bắt đầu lệnh khệnh lăn bánh, một kiểu xe lửa từ thời chiến tranh 1914-18, cũng là khi tôi thấy đói lả, mệt nhừ! Chợt nhớ túi bánh chưng xách ṭn ten theo từ khi rời Hà nội, tôi mở ra lấy một cái, bóc lá, nhỏm nhẻm ăn ngon lành, thả hồn thưởng thức hương vị của bánh chưng Tết, mặc kệ cho quang cảnh ồn ào chung quanh, tiếng cười, tiếng nói “xí xí ngộ cỏn” của các hành khách nông thôn Tầu đù loại, đang chen chúc nhau trong toa tàu chật hẹp.
Trời đă xế chiều, tôi không có ư niệm chính xác về thời gian, đoán chừng là đă 4, 5 giờ chiều th́ xe lửa từ từ dừng lại v́ đă tới trạm ranh giới giữa Quảng đông và Hồng kông. Sau khi xe lửa ngừng hẳn, giữa cảnh ồn ào nhốn nháo của hành khách, tôi thấy hai người mặc quân phục, một người Anh và một người Tầu, tôi đoán là nhân viên của Sở Di trú (Immigration) lên toa xe để kiềm soát giấy tờ.
Khi họ đến chỗ tôi ngồi và sau khi xem xét giấy thông hành tôi tŕnh ra, nhân viên người Anh lật qua lật lại tờ giấy của tôi, xem xong rồi chậm răi nói:
Với giấy thông hành này của CS Hà nội cấp cho anh đi đường, v́ không phải là sổ thông hành chính thức, chúng tôi chỉ chấp nhận cho anh đi qua (transit) đất Hông kông 24 tiếng đồng hồ mà thôi, sau thời gian đó, anh phải đi ra khỏi Hong kong, nếu không chúng tôi sẽ bắt giữ anh và trục xuất anh về Hà nội, anh có hiểu rơ lời tôi nói không?
Tôi xanh mặt, lẩm bẩm trả lời:
- Yes, yes Sir!
Tay run run cầm tờ giấy thông hành người nhân viên Anh đưa trả lại, bụng nghĩ thầm: Chết cha thằng nhỏ rồi, rồi đây biết lo liệu làm sao?
Xe lửa ngừng hẳn ở nhà ga Hong kong, hành khách chen chúc nhau đi xuống, tôi đặt chân xuống nền gạch sạch mát của nhà ga, ḷng tự nhiên thấy hả hê, vui lây với quang cảnh sinh hoạt của thế giới tự do! Tôi nh́n đồng hồ nhà ga, đă hơn 6 giờ chiều, tôi vội vă len lỏi ra khỏi nhà ga, t́m đường ṃ về phi trường Kaitak v́ biết chắc đó là phi trường quốc tế của Hongkong
“Thả cọp về rừng”, may là đường xá ở Hong kong đâu có xa lạ ǵ với tôi khi tôi c̣n lái cho Air Vietnam và đă từng ghé qua ăn cơm bữa ở đây. Cất bước như vừa đi vừa chạy, băng ngang qua các phố xá đông nghịt người vui nhộn như cảnh Tết, nhưng tôi đâu có dám dừng chân để thưởng thức ǵ, vừa mệt vừa lo sao cho kịp đến phi trường Kaitak để bắt cho kịp chuyến máy bay Air France đi Paris.
Vào đến phi trường là lúc phố xá đă lên đèn, người tôi mệt nhoài, tôi hổn hển t́m đến quầy vé hăng Air France, tŕnh giấy máy bay để đi cho kịp chuyến AF 1002, cất cánh lúc 20 giờ đi từ Hong kong sang Paris theo như trên bảng khởi hành (departure) mà tôi đă nhanh mắt nh́n qua.
Người nhân viên hăng Air France sau khi ghi nhận và xem xét giấy thông hành của tôi, anh ta nói:
- Đây nhé, chúng tôi rất tiếc là không thể nhận cho anh đi trên chuyến bay này v́ anh mang trong ḿnh giấy tờ cùa CSBV và máy bay của chúng tôi phải làm transit ở Bangkok, tôi e ngại rằng nhà cầm quyền Thái lan sẽ làm khó dễ cho anh, tôi khuyên anh nên nhẫn nại chờ chuyến sau, hoặc bay thẳng, hoặc ghé nơi nào có thuận lợi cho anh hơn th́ anh hăy đi.
Cầm giấy tờ người nhân viên đưa trả lại mà tôi “hỡi ơi, sao lại gặp rắc rối quá trời như thế này”. Chân đi không vững, tôi lần ṃ ra ghế băng ngồi nghỉ đợi, trong ḷng “trống đánh thùng thùng”, lo âu cứ nghĩ đến giờ sẽ bị trục xuất! Chợt có ai đằng sau vỗ vai tôi và một giọng phụ nữ vui vẻ nói bằng tiếng Pháp:
- Ê có khỏe không? Anh có phải là anh Vân, Captain Air Vietnam? Đi đâu mà ăn mặc kỳ cục không giống ai hết vậy?
Tôi ngỡ ngàng quay lại, một người đẹp trong bộ y phục chiêu đăi viên hàng không tươi cười đưa tay cho tôi bắt:
- Anh quên tôi rồi sao? Tôi là Francoise, hôtesse Lufthansa nè!
Tôi ngạc nhiên, sượng sùng nh́n người thiếu phụ quen quen không nói được một lời, chị ta tiếp tục huyên thuyên kể lể...
À! th́ té ra là Francoise Dupuis, nữ chiêu đăi viên bay cho hăng hàng không Đức, người mà thời xưa, lúc tôi c̣n lái cho Air Vietnam, đă từng được tôi mời mọc, ăn uống mỗi khi gặp nhau ở các escale Hongkong hay Tokyo…
Tự nhiên tôi thấy thoải mái, mừng lây với cái vui mừng vồn vă, hồn nhiên của người xưa, nay gặp lại nhau, tự nhiên tôi thấy có can đảm để “bốc” với nàng, đem "nghề của chàng", kể lể cuộc đời đă qua với hoàn cảnh hiện giờ của tôi cho nàng nghe. Nghe xong nàng vui vẻ:
- Anh đừng lo, tôi sẽ cố gắng thu xếp giúp anh. Anh đưa vé máy bay của anh cho tôi, tôi sẽ lo liệu cho anh trên chuyến máy bay Lufthansa của tôi, cất cánh đi Francfort lúc 10 giờ đêm, có ghé qua Paris, có điều là tôi dặn anh phải nhớ, khi đáp xuống Bangkok để tiếp tế xăng và lấy thêm hành khách, anh phải giả bệnh nằm lại trên phi cơ, tôi sẽ t́m cách thu xếp ổn thỏa cho anh tránh khỏi qua sự kiểm soát của Thái Lan, anh nhớ nhé. Thôi anh đi theo tôi làm thủ tục cho kịp.
Tôi vui mừng vô cùng, lững thững đi theo người đẹp mà trong ḷng thầm nghĩ sao lại c̣n may mắn gặp được cảnh "thánh nhân đăi kẻ khù khờ".
Sau bao nhiêu gian truân trắc trở, lo lắng trên đoạn đường đời của một người “từ cơi chết t́m về tự do” cuối cùng tôi đặt chân xuống phi trường Orly (Pháp) ngày 7 tháng 2 năm 1971.
C̣ Trắng Phan Thanh Vân
hoanglan22
04-29-2020, 14:01
Ngày đó, vào khoảng năm 1977, tôi đang bị bọn VC bắt đi tù v́ tội có ông Tổng Thống đầu hàng. Cả bọn tôi, đa số là các Sĩ Quan trẻ (cấp bậc từ Thiếu Úy tới Đại Úy) được tập trung ở trại Suối Máu, sau đổi qua Trảng Bom (Biên Ḥa). Bọn VC độc ác bắt chúng tôi làm việc cật lực nhưng không cho ăn uống tử tế, thuốc men hoàn toàn không có . Ai sống được th́ sống, ai về chầu ông bà ông vải th́ cứ việc đi. Phương cách giết người này thật là độc ác, giết nguời mà không cần gươm súng. Mỗi ngày đi lao động bên ngoài, anh em cố gắng kiếm được thêm cái ǵ th́ ráng mà kiếm để sống cho qua ngày. Có người lượm được cái trứng chim, bắt được con thằn lằn, rắn mối...cũng đă cho rằng ḿnh có số sung sướng lắm rồi. Dân làng th́ ở ngoài xa, thỉnh thoảng mới gặp một vài người. Bọn VC quái ác không cho dân tiếp xúc với anh em chúng tôi và cũng cấm tuyệt anh em chúng tôi không được lân la tới khu dân chúng. Đói, đói lắm, đói thê thảm, đói lả người ra! Nhưng anh em c̣n trẻ, sức chịu đựng cao, tinh thần càng cao hơn, nên ráng sống đợi một ngày mai tươi sáng.
Bọn VC khoe với chúng tôi: " Đảng ta đă . . . Đại Thắng Lợi"
Th́ chúng tôi lại vui mừng nh́n nhau, nói trong ư nghĩ: "Anh em ta . . . Đợi Thắng Lại!"
Ruộng mía, khoai lang, khoai ḿ của đồng bào ở chung quanh rất nhiều, nhưng chúng tôi không đụng tới, v́ đó là của dân, mồ hôi nước mắt của họ. Họ cũng đói như chúng tôi vậy, đâu thể nào lấy của dân được. Ngày xưa, chúng tôi bảo vệ họ, ngày nay không làm ǵ được nữa nhưng không v́ đói mà mất tư cách. Đồng bào biết chúng tôi đang bị đầy đọa, họ cũng thương cảm lắm, họ cũng đă t́m đủ mọi cách mà giúp đỡ chúng tôi. Bọn VC cũng biết như vậy, cho nên mỗi lần phải đưa chúng tôi di chuyển ngang khu dân cư, bọn chúng đi kè kè sát bên, không cho ai tiếp xúc với ai. Muốn mua thêm ít đường, ít muối cũng khó ḷng mà làm được!
Thế nhưng trời cao c̣n có mắt mà, không sao! Miễn được thấy dân là ḷng người lính thấy ấm lại rồi! Buổi sáng hôm đó, chúng tôi đang trên đường đi lao động. Từ xa, chúng tôi đă thấy khu dân cư ở đằng trước, và thấy bóng dáng những trẻ em, những cô gái đang tung lúa, thẩy khoai lang ra trước nhà để phơi. Khi tới gần khoảng chừng chục thước, chúng tôi thấy một bóng dáng phụ nữ cầm thúng thẩy khoai lang ra ngoài đường đi, chỗ chúng tôi đang bước thấp bước cao. Chúng tôi tuyệt đối không đụng tới tài sản của dân, dù là mấy củ khoai lang nhỏ bé, nên vẫn cứ thế mà bước đều. Mấy hôm sau, khi đi ngang qua xóm nhà này, chúng tôi lại thấy bóng dáng người phụ nữ này. Cô cũng dáng điệu như cũ, cầm thúng khoai lang thẩy ra đường đi. Lần này cô nói bâng quơ:
- Má à, mấy đám khoai lang hư này, ḿnh đâu có bán cho ai được! Thôi, dục bỏ, nha Má!
Cô vừa nói vừa thẩy khoai lang ra chỗ chúng tôi.
Cô đứng ở xa nói tới, chúng tôi cũng không đi gần nên chỉ nghe cô nói như vậy thôi. Nói là cô gái th́ cũng là nói vậy thôi, chứ không thấy rơ h́nh dáng, nói chi tới mặt mày.
Mấy hôm sau nữa, chúng tôi lại có dịp đi lao động ngang qua khu dân cư này. Chúng tôi lại thấy cô gái hôm trước. Cô vẫn đứng xa xa, nhưng lần này cô cố t́nh cầm khoai lang thẩy vào chúng tôi rồi bỏ đi, dáng vẻ rất là b́nh thường.
Tối về khu trại, chúng tôi bàn tán về cô gái, về những củ khoai lang mà cô thẩy ra ngoài. Chúng tôi cùng đồng ư là thái độ của cô rất lạ: Không có ai phơi khoai lang ở chỗ đường đi đó, mà cũng không có ai dục khoai lang trên đường đi như vậy cả.
Một người bạn - tên Phúc - đă nói với tôi:
- Tao nghĩ rằng cô gái này muốn cho ḿnh những củ khoai lang đó. Chứ nếu cô muốn dục đi, th́ thiếu ǵ chỗ dục. Hơn nữa, khoai lang dù là hư, không cho người ăn được th́ để cho heo ăn, dễ ǵ mà dục bỏ!
Lần sau nữa, khi đi ngang khu nhà dân đó, chúng tôi lại thấy cô. Lần này chúng tôi không thấy cô thẩy khoai lang ra nữa, mà đứng yên ở phía xa xa chỉ trỏ chỗ này, chỗ kia, ư như muốn chỉ cho chúng tôi những củ khoai lang mà cô đă thẩy ra trước đó.
Tối về, chúng tôi lại có dịp bàn tán. Phúc nói với tôi:
- Tao có nh́n thấy mấy củ khoai lang ngay trên đường ḿnh đi. Tao thấy khoai lang kỳ này cũ rồi, không tươi như bữa trước nữa. Tao nghĩ rằng, cô thẩy ra cho tụi ḿnh lượm, nhưng không ai lấy, nên cô lại thâu lại để dành, bữa nay thẩy ra nữa. Chắc chắn là cô cho tụi ḿnh đó, tụi mày đồng ư không?
Tất cả cùng có ư nghĩ đó! Chắc là cô c̣n có ḷng thương những người lính sa cơ đói khổ, mà tặng những củ khoai lang ăn lót ḷng. Củ khoai lang nhỏ nhoi không đáng là bao, nhưng tấm ḷng của cô thật đáng quư! Chẳng có ai ở không mà chờ anh em chúng tôi đi gần tới mới thẩy khoai lang ra. Cũng chẳng có ai có nhiều khoai lang để mà thẩy chơi như vậy. Chắc chắn là khi chúng tôi đi khỏi, cô lại thâu lại những củ khoai đó mà để dành thẩy lại cho chúng tôi vào ngày hôm sau. Anh em chúng tôi cùng đồng ư là kỳ tới, nếu có đi ngang khu nhà dân, nếu cô c̣n có ḷng hảo tâm mà thẩy khoai lang ra, chúng tôi sẽ chia nhau lượm.
Dịp may đă tới, chúng tôi lại có dịp đi ngang khu nhà dân cũ, và lại thấy bóng dáng cô từ xa. Cô lại thẩy khoai lang ra rồi bỏ đi. Chúng tôi đă bàn với nhau trước rồi, nên chia ra làm nhiều toán nhỏ: Toán đi trước bao chung quanh đám quản giáo để chúng khỏi nh́n thấy phía sau, toán th́ đi chậm chậm lượm thật lẹ những củ khoai lang bỏ vào giỏ xách thật nhanh. Lính mà! Chúng tôi thanh toán chiến trường khoai lang lẹ lắm, không thua ǵ những lúc thanh toán bọn quỷ đỏ trên chiến trường trước đây.
Buổi trưa hôm đó, chúng tôi lại chia ra nhiều toán để dắt bọn quản giáo đi ra xa, trên đầu gió, để đám c̣n lại lo nướng khoai . Đói ḷng ăn được củ khoai lang. Ôi, sung sướng nào hơn!
Đám này ăn xong th́ lại ra canh bọn VC để đám kia trở lại ăn những củ khoai lang t́nh nghĩa đó. Lần sau đi ngang khu nhà dân, đến phiên Phúc lo lượm những củ khoai lang của cô gái hảo tâm. Buổi trưa, Phúc nói nhỏ với tôi:
- Đúng như tao dự đoán, mày ạ! Kỳ này cô ta cho ḿnh toàn là khoai mới, bự và ngon hơn khoai bữa trước nhiều lắm! Chắc cô đă núp đâu đó, thấy ḿnh đă lượm hết khoai kỳ trước nên mới đưa khoai lang mới ra đó!
Nhờ những củ khoai lang đó mà anh em chúng tôi có thêm sức khỏe. Nhờ ở cảm t́nh mà người dân đă dành cho chúng tôi qua củ khoai lang mà chúng tôi thêm được sức mạnh để chịu đựng cực khổ, chờ đợi ngày mai trời lại sáng. Chúng tôi ăn những củ khoai lang đó của cô gái tốt bụng, nhưng chỉ nh́n thấy dáng của cô từ phía xa xa mà thôi, chứ chưa bao giờ được nh́n thấy mặt cô cả. Cũng chỉ duy nhất có một lần được nghe giọng nói của cô mà thôi.
Thời gian cứ thế trôi qua, chúng tôi vẫn sống, vẫn hiên ngang với đời.
Rồi ngày mai đă tới, ngày tôi và Phúc được bọn VC trả về nguyên quán. Chúng nói là chúng tôi đă... học tập tốt. Nhưng đối với chúng tôi, với riêng tôi và Phúc, chúng tôi vẫn vậy. Muôn đời chúng tôi vẫn là người lính VNCH và càng căm thù bọn Việt Cộng hơn bao giờ hết. Tôi được gia đ́nh lo liệu sẵn, một thời gian ngắn sau khi về lại nhà, tôi đă may mắn vượt biên trót lọt và qua định cư ở Melbourne xứ Úc Đại Lợi.
Tôi cũng có nghe bạn bè nói, Phúc cũng đă vượt biên và hiện ở Sydney, cùng xứ Úc với tôi.
Một ngày đẹp trời vào năm 1990, vợ chồng tôi có dịp đi Sydney và đă ghé thăm Phúc.
Bạn bè ngày xưa gập nhau mừng mừng tủi tủi, nói chuyện huyên thuyên - Chuyện xưa c̣n đó, nhưng bạn bè nay đâu? Thằng nào c̣n sống? Thằng nào chết trong trại tù? Thằng nào vượt trại? Thằng nào vượt biên? Đi đâu?
Cuối cùng mới tới chuyện đời sống hiện tại.
- Mày lấy vợ hồi nào? Lấy từ hồi ở VN hay qua đây mới lấy? Bao nhiêu đứa con rồi? Đứa lớn bao nhiêu? Đứa nhỏ mấy tuổi. Chúng tôi nói như chưa bao giờ được nói.
Phúc kể, đă lấy vợ từ hồi ở VN, hai vợ chồng cùng vượt biên qua đây. Vợ của Phúc chỉ cười cười khi nghe chồng giới thiệu là tôi ở cùng trại tù với anh từ năm 1977.
Một lúc sau, vợ Phúc bưng ra một đĩa mà Phúc nói rằng rất đặc biệt: Khoai lang Dương Ngọc!
- Ăn đi mày, ăn để nhớ lại cái thời bị tù đầy, bị bọn VC vo tṛn bóp méo!
Tôi sáng mắt lên, vồ lấy củ khoai lang, ăn không kịp bóc. Tại sao lại phải bóc vỏ? Vỏ khoai cũng là khoai vậy! Tại sao lại vứt bỏ đi?
Bao nhiêu kỷ niệm xưa quay trở lại. Tôi cũng đă kể chuyện khoai lang cho vợ tôi nghe nên tất cả đều cùng nhau góp lại chuyện xưa. Tôi vừa ăn vừa ngậm ngùi:
- Không biết cô gái đă cho ḿnh những củ khoai lang đó, bây giờ ra sao? Có ai biết cô đó là ai không? Cô ta c̣n ở đó hay đă trôi nổi đi phương trời biền biệt nào rồi?
Phúc trầm ngâm một lúc rồi trả lời tôi:
- Cô gái cứu sống ḿnh bằng những củ khoai lang... đang ở trước mặt mày đó! Tao cưới cổ rồi!
Thật là không ngờ! Vợ chồng tôi ngạc nhiên tới há hốc miệng, rớt cả củ khoai lang ra ngoài:
- Mày... mày nói cái ǵ? Cô này đây... vợ mày đây... là... là cô gái cho tụi ḿnh khoai lang ở Trảng Bom? Mày... nói chơi hay... nói dỡn vậy? Thiệt không? Làm sao mà mày kiếm ra cổ ? Mà... phải thiệt là cổ không? Làm sao mày biết là cổ mà dám nói là cổ ? Dám lấy cổ?
Vợ Phúc (Dung) mỉm cười giải thích cho chúng tôi:
- Em đâu có gueng, đâu có biết ảnh là ai đâu! Tự dưng ảnh tới kiếm em rồi... hỏi cứ (cưới) em đó chớ!
Phúc giải thích rơ ràng hơn:
- Khi c̣n ở trong trại tù, ḿnh đă nói chuyện với nhau thật nhiều về cô gái đó, tao thầm cám ơn cô đă c̣n nghĩ đến những người lính VNCH đang mắc nạn. Tao đă nghĩ trong đầu rằng, nếu có dịp trở về, thế nào cũng đi t́m cô gái đó mà cảm ơn. Nếu cô ta c̣n độc thân, tao sẽ cưới cô ta làm vợ. Mặc dù chỉ với một hành động nhỏ nhoi tặng những củ khoai lang cho chúng ta, nhưng cô đă chứng minh được rằng, cô là người chống lại bọn VC, cô là người đă c̣n nhớ đến người lính VNCH xưa. "Miếng khi đói bằng gói khi no" mà! Ḿnh đang sa cơ mà c̣n có người dám nghĩ tới ḿnh, th́ làm sao mà không cảm động cho được? Đến khi được thả về, tao trở ra Phan Thiết ở với cha mẹ anh em một tuần, th́ nói với ba má là tao kiếm đường làm ăn. Tao quay trở lại Biên Ḥa, đi vào khu Trảng Bom, nói với Tổ Trưởng vùng đó là tao ở Biên Ḥa, muốn về làm rẫy, mua đất trồng khoai lang. Ông này dẫn tao đi giới thiệu với những gia đ́nh đang trồng khoai lang, có dư đất muốn bán. Nhà nào tao cũng vào làm quen để hỏi mua đất, hỏi kỹ thuật trồng khoai, nhưng mục đích chính là kiếm cho ra cô gái đó. Tao cũng như mày, như những anh em trong trại, đâu có ai biết mặt mũi cô ra làm sao? Ngay cả dáng người cũng không nh́n được, nên khó kiếm hết sức. Nhưng tao c̣n nhớ được giọng nói của cô ta khi nói: "Má à, khoai lang của ḿnh hư hết rồi, không bán được đâu, dục đi nha Má!" Tao nhớ có nhiêu đó thôi. Rồi duyên số cũng giúp cho tao kiếm ra bả. Buổi chiều hôm đó, khi tao đă hết hy vọng kiểm cổ rồi, đang trên đường đi tới nhà Tổ Trưởng chào từ giă. Chợt tao đi ngang qua một căn nhà ở cuối xóm, thấy một cô gái đang gom khoai lang bỏ vô thúng. Tao ngừng lại hỏi bâng quơ:
Cô lựa khoai lang đem bán hả?
- Cô này không quay lại, vừa tiếp tục lựa khoai, vừa trả lời:
- Tui lựa khoai lang dư đặng mai đem thẩy cho mấy người lính "học tập cải tạo".
Tao thấy coi bộ trúng mối rồi, bèn hỏi tới:
- Khoai lang trồng cực khổ mới có. Bộ cô có bà con đang học tập trong đó hay sao mà lại cho họ khoai lang?
- Tui đâu có gueng ai ở trỏng đâu! Bị tui thấy họ tội nghiệp th́ tui giúp đở chúc ít dzậy mà! Hồi xưa, mấy người này đi lính để giữ cho làng xóm được yên, khỏi bị bọn VC phá đám giết hại người ta. Nay những người này bị bắt ở tù, ḿnh phải nhớ ơn họ, phải giúp họ chớ! Hổng giúp được nhiều th́ có mấy củ khoai lang cũng giúp họ chút đỉnh dzậy mà!
Mới nghe bả nói là tao nhớ lại liền. Đúng y là giọng nói "Má à, đám khoai lang này hư rồi . . ." mà tao nhớ không bao giờ quên. Tao lại c̣n kỹ càng hỏi cho ra lẽ tại sao bả lại giúp mấy đám tù cải tạo như ḿnh? Nghe bả trả lời ngon lành như vậy là tao chịu quá đi, nhất định giá nào cũng phải làm quen, nếu được, sẽ cưới bả làm vợ. Lính mà! Dễ lắm! Giản dị lắm: "Hễ ai thương lính là lính thương lại liền".
Tao lại đang trong t́nh trạng độc thân... "Tṛn năm năm lính, chưa hề có bạn tâm t́nh". Tới luôn! Tao đi tới đi lui nhiều lần làm quen với bả, với gia đ́nh bả, nói là xin học làm rẫy. Khi biết rơ gia đ́nh bả, và biết bả c̣n đang độc thân, chưa có đám nào, tao mới trở về Phan Thiết kể lại chuyện của bả cho ông bà già tao nghe và nói ư định muốn cưới cô gái quê, nhưng có ḷng thương lính đó. Ba má tao đồng ư tao muốn lấy ai th́ lấy, miễn là hai vợ chồng hạp với nhau là được rồi. Nhưng mà cô đó có lấy tao hay không th́ lại là chuyện khác nữa.
Tao trở lại nhà Dung phụ làm rẫy tiếp. Trong một bữa nghỉ trưa ở ngoài ruộng, chỉ có một ḿnh tao với bả, tao mới nói rơ tao là ai? Đă cảm cái tấm ḷng của bả và muốn được cưới bả làm vợ. Bả rất ngạc nhiên mà nói với tao, y như bả vừa mới nói với mày vậy: - Tui đâu có gueng biếc ǵ anh đâu? Tui cho mấy anh khoai lang là cho nguyên đám đó chớ đâu phải cho một ḿnh anh! Bị tui nhớ hồi xưa mấy anh đă đi lính giữ làng xóm tụi tui, chứ tui đâu có biết anh ở trỏng đâu? Mà anh . . . cứ (cưới) tui làm chi?
Làm chi th́ tao không biết làm chi, nhưng tao nói tao cảm tấm ḷng của bả mà cưới bả, vậy thôi. Tao nói:
- Ít ra th́ anh với em cũng c̣n giống nhau ở một điểm là "THƯƠNG LÍNH".
Nói ba điều bẩy chuyện một hồi, bả cũng không biết nói sao nữa, kêu tao muốn ǵ th́ về nói chuyện với ba má cổ, chứ cổ... hổng biết. Vậy là chịu rồi! Tao mừng quá, cả hai đưa nhau về gập ông già bà già của bả, tao lại kể rơ lai lịch của tao ra và xin đưa cha mẹ tới xin cưới Dung. Hai ông bà ngạc nhiên hết sức, cuối cùng nói là:
- Nếu vậy đúng là duyên số rồi. Con Dung nhà tui nó đâu có gueng biếc ǵ ông đâu. Nó xin tui ít phai lang, nói là để cho mấy ông bị tù cải tạo, tội nghiệp mấy ổng quá. Ai dè có ông ở trỏng, ông thương nó, ông được dźa rồi th́ ráng lội bộ đi cùng khắp chốn kiếm cho ra nó đặng xin 'cứ' nó! Đó là do Ông Tơ Bà Nguyệt cột đó, chứ hổng có ai bầy ra được đâu!
Tụi tao định ngày, đưa cha mẹ tao tới làm đám hỏi, xong rồi mới mời ổng bả và Dung về nhà tao chơi. Tới Phan Thiết, thấy nhà cửa của ba má tao th́ ổng bả và Dung hoảng hồn, v́ nhà tao hồi đó cha mẹ cũng c̣n nhà cửa, cơ sở làm ăn khá lắm! Dung đă nghéo tao ra sân mà nói:
- Nhà anh giào như zậy, mà anh cứ tui là gái guê làm chi? Thôi, thả tui źa Trảng Bom tui làm rẫy sướng hơn!
Tao phải nói khó với bả:
- Mấy thứ đó là của cha mẹ anh, chứ anh... "Trên Răng Dưới . . . Dế ", đâu có cái ǵ nữa đâu! Có cái mạng cùi cũng nhờ em cho mấy củ khoai lang mới c̣n sống tới ngày nay. Mà em đừng có lo, ḿnh c̣n đủ chân đủ tay, ḿnh tự làm mà nuôi thân, chịu không?"
- Anh nói dzậy th́ tui chịu!
Chịu hay không chịu th́ cũng trễ rồi! Lính đă nói là Lính làm:
- Em có ư kiến nhiêu đó là đủ rồi, mọi thứ c̣n lại để anh lo, đừng có lộn xộn ǵ hết nữa!
Rồi tụi tao làm đám cưới. Cưới xong, tao lo đường vượt biên. Ông bà già vợ thẩy một mớ khoai lang lên tàu, vậy là tụi tao dông. May mắn cho tụi tao, trời yên bể lặng. Sau bốn ngày lênh đênh trên biển, tàu tụi tao cặp được tới Bidong. Tao chọn đi Úc cho nó lẹ và an toàn. Khoảng hai tháng sau tụi tao tới Sydney, gởi điện tín cấp tốc về cho ông bà già tao hay. Hai ổng bả mừng quá, lập tức mướn xe chạy tới Trảng Bom cho ba má Dung hay. Ba Má Dung cũng mừng quá, xá trời xá đất cám ơn lia chia. Ba của Dung cười lớn:
- Dzậy là thằng rể tui khỏi sợ bị Diệc cộng bắt cải tạo nữa rồi ha!
Má của Dung hỏi thêm:
- Ở bển có đất cho tụi nó trồng khoai lang hông dzậy, anh chị sui?
Tụi tao ở bên đây th́ cũng giống như tụi bay vậy, ra sức làm mà lo cho gia đ́nh, con cái, lo cho cha mẹ bên Việt Nam. Tụi tao có hai con rồi. Bây giờ bả hết dám hỏi:
- Anh " cứ " tui làm chi, nữa rồi.
Tụi tao lo làm nuôi con ná thở, đâu c̣n th́ giờ mà hỏi nữa! Hỏi nữa tao để ........ đẻ nữa!
Người lính VNCH
hoanglan22
04-29-2020, 15:02
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1573669&stc=1&d=1588172489
Trong ống kính là gương mặt của một cô gái chừng mười bảy mười tám tuổi. Mái tóc khô cứng xơa dài dưới cái nón tai bèo bự hầu như che hết phần đầu. Chiếc áo bà ba đen bên ngoài thân thể bé loắt choắt chưa tới tuổi dậy th́. Cây súng CKC bắn từng phát một c̣n cao hơn cả thân người.
Trước mặt Quang là một nữ VC đang ngồi trên chiếc xuồng nhỏ chứa được cỡ năm người lớn. Hiện tại chỉ có hai, cầm lái là một phụ nữ không thấy mặt nhưng dáng vẻ trưởng thành sốc vác v́ sở hữu một bờ lưng khỏe, chắc, đưa hẳn về hướng khẩu súng của Quang .
Người đàn bà tiếp tục chèo chống trong khi người trẻ ngồi với tư thế thoải mái không ngó ngàng ǵ đến hai bờ kênh, vô tư trước tám cặp mắt của toán thám sát nằm phục kích. Chắc họ đă qua lại nơi này nhiều lần, hơn nữa đây là khu an toàn giải phóng họ không có ǵ để sợ.
Đứa con gái đang ngồi, gầy g̣ như thiếu ăn lâu năm. Tuổi này chắc gia nhập quân đội giải phóng từ hồi mười bốn mươi lăm tuổi. Cô gái du kích đột nhiên cởi khẩu súng đặt dựa sườn ghe, chĩa mũi về phía bờ kênh pḥng hờ trường hợp có biến. Hành động lành nghề đối với một đứa con nít .
Toàn bộ chiếc ghe và hai VC nằm gọn trong tầm ngắm của Quang cùng toán thám kích . Chỉ chờ tiếng súng đầu tiên của trung đội trưởng. Cách Quang bốn thước là Chín. Ngắm mục tiêu hồi lâu Chín kín đáo hạ súng hất hàm nhẹ về phía Quang.
Ngón tay trỏ của Quang đặt trở lại nhè nhẹ lên c̣.
T́nh báo kỳ nầy sai , không có phái đoàn huyện ủy nào về dự đại hội. Kinh nghiệm nhiều lần phục kích cho biết chiếc ghe đầu chỉ ḍ đường. Thực ra không có cá lớn cỡ huyện ủy th́ dớt đỡ mấy đứa này về tŕnh diện Ông Quận Trưởng chắc cũng được tiền thưởng.
Quang lại tập trung vào gương mặt đứa con gái đang ngồi. Theo lẽ thường cỡ tuổi này nó phải có chút da thịt, ngực nhú lên theo thân thể. Thế mà ngoài gương mặt hốc hác, đen sạm mái tóc tua tủa rễ tre, thân thể nó chẳng thấy dấu hiệu nào về sự trưởng thành thiếu nữ.
Quang chầm chậm điều chỉnh ống nhắm, tập trung vào gương mặt lát nữa sẽ nổ tung như xác dưa hấu khi viên đạn M18 sẽ xuyên qua. Đột nhiên đứa con gái nói vọng lên người đàn bà đang chèo thuyền vài tiếng Quang không nghe rơ. Chỉ thấy người đàn bà lắc nhẹ đầu và tiếp tục chèo. Đứa con gái gỡ chiếc nón tai bèo xuống đứng hẳn lên đối diện với mũi súng đă lên c̣. …
Chợt đứa con gái móc từ trong túi áo bà ba đen loang muối trắng mồ hôi một gói nhỏ bằng nắm tay người lớn. Nó bốc lớp lá chuối ở bên ngoài. Nó đưa lên cho người đàn bà, chị ta lắc đầu nhẹ. Đứa con gái ngồi xuống bẻ đôi chấm vào gói nhỏ hơn trên bàn tay c̣n lại. Một vắt cơm nắm và gói muối pha ớt đậm màu đỏ. Đứa du kích gái đang đói…
************
Trước khi về chỉ huy trung đội thám báo này Quang là trung đội trưởng của một đơn vị trực thuộc một sư đoàn dạn dầy chiến trận ở vùng đất nổi tiếng với muỗi ṃng đĩa vắt. Hồi nhập ngũ Quang đă tự nhủ lỡ mặc đồ lính th́ phải hoặc xanh cỏ hoặc đỏ ngực. Nhiều thằng cùng khóa cho là Quang bị tửng v́ môn học nào trong quân trường Quang cũng siêng năng. Có lần Quang nghe mấy thằng hỏi “ Mầy khùng hả Quang ? học chỉ để đủ điểm ra trường thôi, làm ǵ ghê vậy !” Quang cười mỉm, đậu cao khi ra trường sẽ được ưu tiên chọn đơn vị, và Quang đă biết trước ḿnh sẽ đi đâu rồi.
Ra trường thứ hạng đậu không được như Quang mong muốn. Đơn vị mà Quang ưa thích đă đầy, thủ khoa á khoa cộng thêm mấy thằng ở tốp mười lăm đă ghi danh hết. Thế hệ của Quang toàn điên v́ đây là đơn vị tuyển chọn rất kỹ mà xác suất sống sót thấp nhất trong toàn quân đội.
Quang đành chọn đơn vị thứ hai là một sư đoàn bộ binh sừng sỏ, và cũng là mục tiêu nhắm tới của mấy đứa con nít phải thay áo học tṛ bằng áo trận. Quang về tŕnh diện đơn vị mới, đầu tiên chỉ làm phó đàn anh để rút kinh nghiệm. Không kể sĩ quan hay mấy ông thượng sĩ già trong đơn vị, những người lính dạn dày sương gió cũng là những ông thầy có rất nhiều điều học hỏi.
Dần dà Quang trưởng thành, cứng cỏi trên trận địa. Quang chỉ huy lính dưới quyền bài bản và bắt đầu nhận được sự ngưỡng mộ của lính. Có những lúc Quang như thằng điên nghe tiếng súng địch ở đâu là cắm đầu xung phong lên mặc cho sĩ quan chỉ huy chửi như bắp rang trên máy. Lính thấy Quang nổi cơn khùng cũng đồng loạt điên máu xung phong cảm tử. Chiếm xong mục tiêu ngồi thở dốc Quang mới nhận ra sự ngu xuẩn của ḿnh. Nhiều người lính nh́n ngưỡng mộ cũng có người khen “ Ông thầy ngon quá !! “ .
Sợ muốn rớt tim ra ngoài nhưng Quang đâu dám thổ lộ tâm sự . Chỉ biết mỗi lần nghe tiếng nổ và ngửi thấy mùi thuốc súng đầu óc Quang bị kích thích đến nỗi không c̣n biết suy nghĩ ǵ nữa, cứ xung phong trước mặt rồi ra sao th́ ra. Sợ quá hoá khùng ….
Tới giờ này Quang vẫn chưa bị sứt mẻ ǵ ngoài một viên đạn xuyên đùi, hai miếng B40 nhỏ bằng nửa móng tay lồi lên thành hai cục ở bên ngực phải ( lành rồi thỉnh thoảng chúng lại nổi lên bắt ngứa ).
Hồi c̣n ở đơn vị này mỗi lần hành quân may mắn lắm mới đem đuoc trung đội thiếu ( mười tám mạng ) về nguyên vẹn. Lính nói Quang mát tay không sát lính. Cũng mong như thế c̣n hơn các trung đội trưởng khác trở về hậu cứ phải nhức đầu với mấy bà quả phụ ( Quang biết ḿnh sẽ không chịu nổi ). Bị thương th́ OK, nặng một chút cũng là dịp để nghĩ dưỡng ở hậu cứ gặp mặt gia đ́nh. Miễn đừng trùm bông sô. “Cẩn thận dùm con nha mấy cha “
**********
Quang không biết nhậu tửu lượng yếu, nhưng hành quân về hễ lính bày tiệc Quang không từ chối . Riết rồi tửu lương cũng tăng lên, c̣n bữa nào gục tại bàn thi lính sẽ khiêng về đắp mề . Tỉnh lại thấy lính lo chu đáo nhiều lúc Quang rất cảm động. T́nh huynh đệ chi binh c̣n đậm đà hơn cả anh em ruột thịt.
Những người lính thám báo trong đại đội được tuyển chọn từ các trung đội nghĩa quân và DPQ. Họ là người địa phương biết tường tận đường đi nước bước, từng gia đ́nh. Có khi du kích phía bên kia là bạn thời thơ ấu trong xóm. Hết nhiệm vụ họ lại xách súng trở về nhà chừng mười lăm phút đi bộ. Nhiều khi khó phân biệt được nhiệm vụ của một quân nhân hay một dân sự, v́ sự khác biệt duy nhất là khẩu súng .
Ở đơn vị này Quang thỉnh thoảng tưởng như đang sống giữa một gia đ́nh sinh toàn con trai. Ra trận hoặc đi kích c̣n lệnh lạc, chỉ huy. Về nhà quăng hết chẳng phân biệt quan hay lính. Ở sư đoàn tác chiến, hệ thống hành quân rơ ràng, cộng thêm t́nh huynh đệ chi binh giữa quan và linh dù không nói ra nhưng vẫn có một giới hạn nhất định. Tuỳ thuộc vào cảm t́nh của lính trong cung cách chỉ huy đối xử với họ, đôi khi quyết định phần nào sự sống chết. Lính thương th́ dám nhảy ra đỡ đạn cho ông thầy, lính ghét bỏ mặc chỉ huy cho VC xâm nhập cắt cổ ( từng xảy ra ở những đơn vị khác ). Linh dưới quyền sau một thời gian e dè xem xét ông quan búng ra sữa đă đổi cái nh́n hoàn toàn khác .
Những lần hành quân giải vây cho một tiền đồn hoặc đánh vào cứ điểm của VC, lính của Quang xung phong vào mục tiêu không e dè chậm chạp. Chỉ chờ tiếng hét “ lên “ là cả quan lẫn lính chẳng c̣n biết mạng sống của ḿnh sẽ ra sau, cứ nhằm những bóng đen trước mặt mà bắn. Cụ thể họ lao vào như thiêu thân gặp lửa đến nỗi nhiều địch quân bị bắt sống với nét mặt kinh hoàng không kịp nổ một phát súng .
Những lần xung phong như vậy, lính hai bên nổ súng không kịp nh́n mặt. Khi trúng đạn cái bóng phía trước giật nẩy người lên bật ngả ra phía sau hai tay giang cao, y như người lính giăy đành đạch chạy lụp xúp bên cạnh Quang mươi phút trước. Chết mà không biết ḿnh bị bắn bởi thằng nào mặt mũi ra sao. Những xác chết được sắp xếp cho chôn tập thể hoặc trực thăng chở về hậu cứ trả lại cho gia đ́nh chôn cất .
Những tù binh bị bắt sống hốc hác thùng th́nh trong bộ quần áo xanh lá cây đậm, đặc trưng của quân phục VC. Toàn là con nít mười lăm mười sáu tuổi vừa đủ sức cầm vững cây súng trong tay. Trong chiến trận những đứa con nít nầy cũng hùng hổ hung tợn như điên cuồng xông vào đối thủ đang tấn công họ.
Bây giờ tàn chiến trận c̣n sống nhưng ở trong tay đối phương, họ sợ hăi. Bao nhiêu lần họ được học những giờ chính trị rằng lính Ngụy là những tên giết người không gớm tay sẵn sàng mổ sống tù binh để ăn gan mật. C̣n súng trong tay c̣n anh hùng, giờ bị trói lại họ như những con cá nằm trong thớt.
Quang ít dịp nh́n tận mặt những đứa con nít như thế. Đang đánh nhau không thấy rơ, chỉ biết nả đạn theo quy luật chiến tranh “ bắn chậm th́ chết “ , ai nhắm giỏi và bóp c̣ trước sẽ thọ hơn.
Nhiều lúc nh́n những đứa bé bên kia Quang tự hỏi liệu có đủ can đảm đâm lưỡi lê vào những lồng ngực nhô xương sườn như thế này không. Rất may từ đó đến giờ Quang chưa phải đối diện với chuyện như thế. Chiến trận kết thúc sớm hơn trước khi hai bên phải đánh xáp lá cà .
Có lần đám tù binh ngồi trước mặt ngoại trừ hai người lớn khoảng trên dưới ba mươi, c̣n lại toàn con nít la hoảng khi một người lính của Quang rút lưỡi lê đi về phía họ. Mấy đứa con nít mặt xanh như tàu lá chuối, khóc hu hu la hoảng :
- Bẩm quan xin đừng giết con, con đầu hàng rồi
Người lính đang bước tới chưng hửng :
- Mày nói ǵ vậy thằng nhỏ ?
- Dạ xin đừng đâm lê con, con lạy ông
Người lính bật cười :
- Đâm mày làm cái ǵ, giết mày th́ tao đă bắn ngay từ ngoài kia rồi..Đưa tay đây !!
Người lính thiện nghệ thọc lưỡi lê giữa hai bàn tay bị trói chặt cắt đứt
- Đưa ra phía trước
Người lính ra lệnh , người tù binh sợ hăi rụt rè làm theo. Đám c̣n lại giờ đă hiểu rón rén liếc nh́n e dè. Người lính cười, đưa lưỡi lê dọa như sắp sửa cắt cổ, khiến cả đám nhóc t́ la rú . Người lính cười ha hả :
- Nhát như tụi bây mà cũng ra trận đánh nhau với tụi tao th́ làm sao thắng được ?
Anh rút gói thuốc lấy ra một điếu, mồi, đưa cho đứa gần nhất :
- Hút đi rồi chuyền cho mấy thằng kia…
Đám tù binh toàn lính chính quy dường như vẫn chưa tin được, run rẩy đưa cả hai tay bị trói đón điếu thuốc hút lấy hút để.
Quang chứng kiến chuyện từ đầu đến cuối. Anh ngó lơ cho người lính dưới quyền ḿnh đốt thuốc rồi đưa tù binh để mọi chuyện xảy ra cách tự nhiên. Nếu anh nh́n thấy rơ nét những gương mặt thất sắc nầy ngoài chiến trường không chắc anh và đồng đội anh đủ can đảm để nổ súng. Toàn là một đám con nít…
*************
Đứa con gái nuốt vội miếng cơm nắm trong miệng rồi lấy b́nh nước ở ngang hông đưa lên môi làm một ngụm. Tất cả đang diễn ra rơ mồn một trong ống ngắm của Thiếu úy Quang. Nếu anh nổ súng bây giờ, cả toán sẽ làm theo và hai người nữ du kích không có cơ hội nào sống sót.
Đây là lần đầu tiên anh nh́n thấy gương mặt rơ từng nét của kẻ thù. Cái cử chỉ nhai cơm nắm chấm muối ớt vội vàng của đứa con gái chỉ ra rằng nó đang đói lắm. Một phát súng nó sẽ bật ngửa ra phía sau mặt nát bét. Nó sẽ không kịp chụp lấy khẩu súng dựa vào bệ ghe để bắn trả. Người du kích lớn tuổi hơn cùng số phận. Mạng sống của hai con người vốn không quen biết ǵ với tám lính thám sát sẽ chấm dứt bởi những họng súng đang chĩa vào họ.
Đột nhiên Quang run tay. Anh không kiểm soát được nhận thức của ḿnh giữa nhiệm vụ trung đội trưởng thám sát và sự xúc động của một người anh. H́nh ảnh đứa con gái suy dinh dưỡng trên chiếc ghe ọp ẹp nhắc anh nhớ lại đứa em gái út ở nhà .
Chẳng có ǵ giống nhau giữa hai đứa ngoại trừ em anh cũng ở tuổi này. Nó được ăn uống đầy đủ được đi học, được hưởng mọi thứ nên không gầy g̣, thiếu sức sống. Nó lại b́nh yên giữa thành phố bên cạnh mẹ với đầy đủ yêu thương che chở. Chẳng ai sẽ làm hại nó, chẳng ai muốn lấy mạng nó bằng việc xiết c̣ súng. Cũng chẳng có mũi súng nào chĩa vào nó …
Chỉ cần một cái siết c̣, mọi chuyện sẽ kết thúc, đứa con gái không c̣n phải chịu đói, toán thám kích sẽ trở về nhà nghỉ ngơi sau nhiệm vụ với chiến công kèm theo tiền thưởng. Sẽ có những bữa nhậu nhẹt quên đời, và chỉ vài ngày sau sẽ chẳng c̣n ai nhớ tới hai người du kích bỏ xác giữa gịng sông vào một buổi xế như hôm nay. Nắm cơm sót lại sẽ rơi xuống nước nuôi cá. Tám người lính thám sát sẽ nhận nhiệm vụ mới sau vài ngày nghỉ phép.
Nhưng Quang không thể siết ngón tay được. Có một cái ǵ ngăn anh lại, đồng đội gần anh nhất nhướng mắt nh́n anh tỏ vẻ khó chịu. Làm đi anh Quang, anh c̣n chờ ǵ nữa ? Quang chỉ khẽ lắc đầu anh biết giải thích ǵ đây? chờ chút chờ chút, con cá mập chưa xuất hiện chờ chút…
****************
Chiếc ghe của hai du kích đă vượt khá xa gần đến gốc khuất. Kinh nghiệm cho Quang biết sẽ chẳng có cá mập nào xuất hiện nữa, chỉ có thế, hai du kích nữ. Mười hai phút đă trôi qua từ lúc nh́n thấy chiếc ghe do thám. Tin t́nh báo lần này trật lất …
Quang nhớ tới đứa con gái vẫn thường đi học ngang nhà anh mà nhiều lần anh rất muốn t́m cách nói chuyện. Cô gái mười chín tuổi đang học lớp mười hai ở một trung học lớn nổi tiếng . Má anh cũng bằng ḷng và đă từng gợi ư nếu anh muốn bà sẽ t́m cách gặp gỡ cha mẹ cô gái để đi tới.
Nhưng Quang chưa dứt khoát. Lấy vợ khi vẫn c̣n là một sĩ quan nhí, lại ở vị trí tuyến đầu trong trận chiến như thế này không nằm trong chương tŕnh tương lai của anh. Lỡ chẳng may một viên đạn hoặc mảnh pháo vô t́nh cắt đứt động mạch chính trên thân thể anh? cô gái cũng có vẻ ưng chịu v́ cứ nh́n thấy Quang cô lại bẽn lẽn cuống quít vân vê tà áo. Chờ chiến tranh chấm dứt em ơi…
Chưa bao giờ Quang tự vấn về cuộc chiến mà anh đang là một phần tử trong đó. Quốc gia anh đă sinh ra, lớn lên học hành đang gặp nguy khốn. Tổ quốc yêu cầu và con cái đứng lên cầm súng để bảo vệ. Đủ tuổi đủ sức khỏe Quang hưởng ứng, cầm lấy vũ khí, ra trường cứ nhắm quân thù mà bắn, hoàn toàn không cần biết địch thủ tên ǵ bao nhiêu tuổi sinh quán tại đâu, gương mặt như thế nào ? bắn để mà sống và bắn để bớt đi nguy cơ tổ quốc sẽ lọt vào tay địch. Nhiều lúc lật ngửa mặt xác chết c̣n có phân nữa v́ phần c̣n lại đă nát bét Quang chắt lưỡi. Con nít nhà ai …? Sao mày lại ở trước họng súng của tao? tao đâu có muốn bắn v́ giết mày không đáng !! tao thích một đối thủ dày dạn xứng đáng, để chạm mặt với kẻ thù như hai giác đấu trong đấu trưởng La Mă đồng tài đồng sức .
Đánh nhau với con nít như thế này không cần đến M16 v́ hai tay trần Quang biết ḿnh có thể chấp ba đứa. Những đứa trẻ c̣i cọc. Lính tráng ǵ như thế này: ra trận với cái nón cối làm bằng giấy bồi ép cứng, chân mang dép râu hoặc giầy vải, thùng th́nh trong bộ quần áo mỏng manh phần phật trong gió. Trang bị như thế mà đ̣i ra trận chống chọi với bom B52, với đạn pháo 105, 155… và những người lính dày dạn kinh nghiệm u đầu lỗ trán là cái chắc.
Quân đội của anh thiện chiến can đảm , đánh nhau không biết sợ. Nhưng giỏi cở nào mà bị buộc vào thế pḥng thủ th́ kéo dài đến trăm năm sau cũng chẳng thắng được. Giá như anh cùng đồng đội được xung phong đánh thẳng vào đầu năo địch ở ngoài kia th́ chắc cuộc chiến này đă chấm dứt lâu rồi
Trong khi đó địch thủ của anh thoải mái hơn, họ toàn quyền quyết định mọi chuyện trên chiến trườn. Rút lui, tụ tập, bồi dưỡng, vạch ra mục tiêu mới để tấn công, hoàn toàn dựa vào những lợi thế của ḿnh.
Biết như thế nhưng những người ở cấp bậc như anh và lính dưới quyền làm ǵ được ?
**************
Chiếc ghe đă mờ khuất từ sau khúc ngoặc. Hai mạng người c̣n nguyên. Cô du kích c̣i cọc loắt choắt không biết rằng đă giữ được mạng ḿnh cùng với đồng đội chỉ v́ đang đói. Ít nhất được sống thêm một ngày nữa, và thân thể gầy g̣ vẫn c̣n cơ hội làm đầy bao tử ḿnh bằng vài gói cơm nắm…
Quang uể oải trườn người nhè nhẹ về phía sau, những người lính dưới quyền cũng làm theo. Họ phải thận trọng v́ vẫn chưa thoát khỏi khu vực nguy hiểm. Khoảng năm mươi thước, Quang dừng lại. Anh điếng người nh́n ra ḍng sông giờ đặc nghẹt ghe tam bản với khoảng tám tới mười lính ngụy trang mỗi ghe và tiếng nói chuyện như chỗ không người. Cả toán thám sát thu người hết sức, một tiếng thở một tiếng động nhẹ cũng không nghe thấy. Lính thám sát nằm như chết trong bụi rậm mặc dù đă ngụy trang thật kỹ. Cầu trời khấn phật cho địch (cũng ngụy trang kín mít ) không phát hiện ra họ đang nằm dí trên bờ.
***************
Tám người lính đi như chạy, người kế bên sát Quang hỏi nhỏ :
- Thiếu úy, làm sao ông biết được chuyện nầy vậy? t́nh báo đâu có cho biết ?
Quang ậm ừ, mồ hôi c̣n vă ra trên trán. Nhờ vào nắm cơm chấm muối ớt, nhờ vào thân thể bé loắt choắt suy dinh dưỡng của một đứa con gái lẹt đẹt như con nít, và nhờ vào một t́nh cảm không định h́nh rơ rệt chợt xuất hiện trong ḷng Quang đă đưa cả trung đội thoát khỏi sự tàn sát của tiểu đoàn 482 địa phương lừng danh.
Nguoiviettudo
hoanglan22
06-12-2020, 13:44
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1598512&stc=1&d=1591969162
Kính tặng những ai, đă một lần đến và sống tại thành phố Pleiku để hồi tưởng về kỷ niệm.
Thời chiến tranh Việt Nam, Pleiku là một địa danh mà hầu như ai cũng biết. Một thành phố, (đúng ra là một khu thị trấn) dân cư thưa thớt, mà đa số là dân người Thượng. Một nơi đèo heo hút gió xa tít tận miền cao. Vậy mà tiếng tăm, và vang bóng một thời.Cuộc chiến đă làm nên tiếng tăm? Hay nói đúng hơn là “người lính” đă làm nên một địa danh nổi tiếng này.Ngày trước, ai đă từng là lính chiến? Ai đă từng là kẻ “bị đày”? Và ai đă từng là dân “tứ chiếng”, là kẻ “giang hồ”? Th́ đất địa Pleiku là nơi được mời gọi.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1598513&stc=1&d=1591969162
Tôi đến Pleiku vào giữa năm 1969. Không phải là ǵ ǵ cả, mà là một sĩ quan mới ra trường. Về đơn vị binh chủng Lực lương Đặc biệt, SQ hoặc HSQ mới ra trường là phải đi tác chiến, thử lửa một thời gian. Ai cũng vậy. Coi như phải chấp nhận thử thách, gian nguy, phải rèn luyện “da ngựa dậm ngh́n” cho đáng mặt làm trai.Những ngày đầu mới đến Pleiku thật lạ lẫm, chán chường. Một phố thị chỉ như là một thị trấn nhỏ lại lắm người. Dân địa phương th́ ít mà tứ xứ th́ nhiều. Những năm trước (từ 1966-67), từ khi có bước chân các “chú Sam” đến là sôi động hẵn. Người ta nói: Mỹ đến đâu là như có “mật” ở đó. Đàn ong, lũ kiến, ruồi nhặng bay theo. Có lẻ cũng không sai, v́ từ dạo đó, Pleiku tiếng tăm lừng lẫy.Phố xá nhỏ hẹp. Phố Pleiku chỉ có 5-7 con đường ngang dọc. Đường phố chính là Hoàng Diệu, đi từ đầu đến cuối đường, hút chưa tàn điếu thuốc. Chung quanh th́ làng mạc thưa thớt dân cư. Một thị trấn vùng núi, đèo heo hút gió. Vậy mà, những ǵ ở nơi khác có là Pleiku thời dạo đó vẫn có – có đủ cả. Có quán xá, có bar, có nhà hàng, có vũ trường, có đĩ điếm, có trác tán, ăn chơi… Dân tứ phương đổ về, góp phần cho Pleiku bao thứ hay, thứ dở. Người ta về làm ăn, về t́m việc, sinh nhai, sinh kế kiếm tiền. Về để kiếm sống, và cũng về … để chết.Một bộ Tư Lệnh Quân đoàn nằm đó, và một phi trường lớn cũng ở đó (phi trường Cù Hành). Ngày đêm xe cộ tấp nập tới lui và máy bay lên xuống không ngớt. Từng đoàn quân, từng đơn vị, lính ở đâu cũng lần lượt kéo về, ghé qua, trú đóng. Nhiều thứ lính, nhiều đơn vị, binh chủng, được gọi là “thứ dữ”, thứ “bất trị”, đều có mặt. Nhiều chủng tộc, sắc dân. Không lừng lẫy, tiếng tăm sao được? Người ta hát, qua câu vè ví von: “Pleiku đi dễ khó về, trai đi bỏ mạng, gái về nát thây”. Nghe mà phát ớn.Tuy nhiên, nói vậy, tiếng đồn như vậy, nhưng mà không hẵn là vậy. Thật sự th́ Pleiku không dữ dằn, không khắc nghiệt lắm đâu. Mà là một nơi dễ mến, và cũng “thân thiết”.Tôi đă đến đấy gần hai năm và khi ra đi, cảm thấy nhiều lưu luyến. Xin kể:Pleiku có khí hậu giông giống như Đà Lạt. Một vùng đất cao nên khí hậu mát quanh năm. Cây cảnh hoa màu, Đà Lạt trồng được thứ ǵ th́ Pleiku cũng trồng được thứ đó: bông hoa và rau trái. Ai đă có đến vườn hoa Phú Thọ? Một xóm ngoại ô (chỉ cách thị xă vài cây số?) với nhiều vẻ nên thơ, t́nh tứ, đẹp không ngờ. Hoa rất nhiều và đủ thứ. Hoa khoe săc muôn màu. Ngoài hoa là cây ăn trái. Mít ngon đặc sản vùng này. Tha hồ mua, tha hồ hái trái và tha hồ ăn, cho dầu “kẻo nhựa vân tay”. Mít, hoa chỉ là cái cớ. Nếu vào Phú thọ, khách c̣n t́m nhiều cái khác nữa: Cùng mấy em đi dạo, t́m “sầu riêng”, “măng cụt”, hái “vú sữa” chín mềm, mân mê “mận hồng đào” da trơn thơm ngát (nghĩa bóng). Mặc sức mà thưởng thức. Thú vị làm sao! Nhưng mà cũng phải cẫn thận, coi chừng. VC cũng thường ṃ ra và mời đi “du ngoạn”..Đi dạo biển hổ. Phong cảnh đẹp và thơ mộng. Thiên nhiên đă ưu đăi cho vùng đất địa rừng núi Pleiku. Một cái hồ khá là rộng, chu vi hàng mấy cây số (tôi không được rơ diện tích, nhưng thấy là lớn rộng). Nước phẵng lặng xanh trong. Bao quanh từng khoảng cây rừng, sương giăng mờ mịt. Nghe nói biển hồ không có đáy? Nước không bao giờ cạn kiệt. Một đồi đá thấp, nơi vui chơi, ḥ hẹn rất thơ mộng, rất trữ t́nh. Có am, có chùa, tượng phật, cây cảnh. Từ trên đỉnh dài xuống mé mặt hồ, từng nơi, từng chổ, hấp dẩn, gọi mời. Đă có biết bao mối t́nh hẹn ḥ, thề ước tại đây? Pleiku nắng bụi, mưa bùn? Những ngày mưa dầm rả rít, mưa không dứt, thành phố trở nên ăm đạm. Vậy mà cũng ít ai “an phận” nằm nhà, nằm queo doanh trại để mà nhai gạo sấy, thưởng thức lương khô? Nếu không phải bận công tác, trực hành quân th́ cũng “bay” ra phố, vô quán cà phê, quán nhậu. Hay ít nhất cũng tạt vào “lữ quán” Bà Tám (cầu số 3) để giải buồn. Ở đây, các em tươi mát, chí nghĩa, chí t́nh. Tiền không có cứ “ghi sổ”, lương lănh trả sau. Bà Tám rất là điệu nghệ.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1598514&stc=1&d=1591969162
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1598515&stc=1&d=1591969162
Nắng bụi? Đúng là như vậy. Bụi đường đất đỏ, màu đỏ gạch, bám vào trên thân thể, trên áo quần, trên nón, trên giày…Dầu anh đi về đâu, nếu một lần ghé qua Pleiku, người ta vẫn biết: anh về từ “miền đất đỏ bụi mù” Pleiku, phố núi.Dấu giày in phố núi - Bước chân anh lấm bụi hồng - Đất Pleiku, bụi mờ vươn theo nắng - Lê gót phong trần, anh một thuở dừng chân. Pleiku hầu như con gái khắp tứ xứ, khắp mọi miền. Đủ “kiểu”, đủ “cở”: Từ cô gái Huế nằng nặng giọng nói nghe êm tai đến các nàng “nẩu” (dân Phù Cát, Phú Yên, xứ Quảng). Quen nàng, chỉ nghe nàng nói cũng đă thấy vui tai. Dân miền Nam, tôi cứ “hả?” hoài mà không hiểu được nàng nói những ǵ. Các em B́nh Định, Nha Trang, Tuy Ḥa, Sài g̣n, miền Tây, và cả dân Bắc (Kỳ) cũng không thiếu. Pleiku hầu như qui tụ “bông hoa” khắp mọi miền đất nước.
Đă có nhiều cơ hội, nhờ quen với Tiểu đoàn 20/CTCT. Ban văn nghệ Tiểu đoàn qui tụ khá nhiều ca sĩ – con gái khắp mọi miền – Vài ba tuần lễ, một tháng mở “bale”, mở tiệc rước mời. Rước cả những “em Pleiku” (cở tuổi choai choai 16, 17, 18… ham vui, thích nhảy). Đến để mà tha hồ hát ca, nhảy nhót.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1598516&stc=1&d=1591969162
Đơn vị B17/LLĐB, thời Thiếu Tá Ngô đ́nh Lưu (tay chịu chơi, hào hoa phong nhả) ông cho lập một “vườn tao ngộ”. Trồng hoa kiểng, có ghế đá, xích đu, có bàn ngồi ngắm trăng, uống rượu, tán gẩu nói chuyện phào. Các cô rất thích. Thích v́ được ch́u chuộng săn đón. Ca hát nhăy nhót cho đă, mời các em ngắm, dạo vườn hoa – hoa muôn sắc, hoa muôn màu – các em rất thích. Thích th́ cứ ngắm, cứ chơi. Và… thích nữa… th́ cứ ở qua đêm cũng được…Nhờ thế, mà Pleiku dù là xứ “bị đày”, vẫn không thấy buồn, thấy chán. Vừa đi hành quân, lội rừng, đánh giặc, vừa chơi bất cần đời mà cảm thấy cuộc đời… vẫn đáng sống. Chiến tranh dù nghiệt ngă, chết chóc, dù hủy hoại mọi tương lai. Đời ĺnh dù phải sống nay, chết mai, vẫn không sợ. Kẻ này đi, người khác đến, qua bao tháng năm, vẫn cứ chiến đấu, cứ vui chơi. Nếu không vui, nếu không “xả lán” quên đời th́ làm sao mà chịu nổi. Cứ chơi, cứ lăn xả, và cứ… quên ḿnh. Pleiku vẫn luôn là nơi yêu đời, vui sống.Không vui chơi ở đơn vị, th́ vui chơi ở các tửu đ́ếm, nhà hàng. Hai cứ đ́ểm: Hoàng Liêng, Mimosa, là nơi “đóng quân” hàng đêm của lính. Có tiền th́ vung vít, ít tiền th́ một ly cà phê đá, một gói thuốc cũng đủ cho “nữa đêm về sáng”. Giờ giới nghiêm không là quan trọng. Chưa say, chưa xỉn chưa về. Say quá, gục ngă, nằm đường, có Quân Cảnh chở đưa về. Cùng lắm là “kư củ”. Cả mạng sống c̣n chẳng màng, sá ǵ năm, mười ngày “trọng cấm” lẻ tẻ.Ngang tàng mọi nơi, ăn chơi mọi chổ. Và có lẻ từ tính vung vít bạt mạng, chơi không biết sợ của lính núi rừng mà địch quân phải nể sợ. Sợ những thằng lính liều mạng, liều ḿnh. Liều mà đánh giặc, giữ vững được đất nước quê hương. Sau này, quê hương, đất nước có phải bị mất đi là tại, do ai? Tại những tên (ngồi mát ăn bát vàng) hèn nhát, khiếp nhược. Chắc chắn không phải tại mấy tên lính “ba gai” chẳng bao giờ biết sợ, bất cần đời, coi thường mạng sống
Cà phê Hoàng Lan, những đêm không ngủ được, những lần nhậu xĩn quắc cần câu, ghé Hoàng Lan để thưởng thức hương vị tách cà phê. Đắng bờ môi mà ngọt ngào t́nh cảm. Mùi hương thoang thoảng. Hương hoa (từng nụ) Ngọc Lan phảng phất về đêm. Hương hăng hắt của mái tóc thả lững bờ vai của em (bé) Monique H’ Lem, người con gái Thượng lai Tây có dáng dong dỏng cao, mũi thẳng, cặp mắt lắng sâu màu xanh lục, đôi môi mọng, cười rất duyên, và… đẹp đéo chịu được. Tôi đă ghiền và đă mê “Hoàng Lan” hầu như một dạo. Trời xui đất khiến để tôi, dân trai xứ miền Tây (thiếu ǵ con gái đẹp) lại xúc động, mê say một người con gái Thượng xứ bụi mù. Không biết ai đă từng đến Pleiku, và đă từng “uống” cà phê Hoàng Lan (1970). Xin xẻ chia chút tâm t́nh này. Trên bốn mươi năm. Bây giờ vẫn nhớ.
C̣n nữa! Quán bún về đêm, có một “O” xứ Huế. Giọng nằng nặng, êm ái nhẹ nhàng, quyến rũ làm sao. Em chỉ là người làm công chạy bàn mời khách. Vậy mà đêm nào không ghé, không thưởng thức vị bún ḅ thơm lừng, ăn ớt vào “cay té lưỡi”, nước mắt tuông tràn, th́ về nhà không ngủ được (v́ đói). Em bé Huế dễ thương ơi! Bây giờ, em ở đâu? Chắc đă chồng con, đă già đi, da mồi tóc bạc? Nếu em c̣n sống? Dẫu sao, kỷ niệm một thời nơi xứ nắng bụi mưa bùn, cũng c̣n “một chút ǵ để nhớ, để thương”... Pleiku, một phố thị nhỏ mà đi không giáp. Đi hoài vẫn c̣n chổ để đi. Nếu có được một em bên cạnh đi không biết mơi, không biết chán, và thời khắc cũng như ngưng đọng, ngừng trôi. Các em là dân tứ xứ, và các anh cũng từ mọi nẻo về đây. Bọn anh v́ “bị đày” mà đến, c̣n các em do “tự nguyện” mà về. Về đây đi em? Về để bắt gặp và làm quen (cả làm t́nh) với những tên lính “bụi” như anh. Chắc cũng không phải em ham tiền, ham cao sang danh vọng, hoặc ham làm kiếp “giang hồ” mà là do định mệnh an bày sắp đặt? Ḿnh không tránh được. Cuộc đời lính, kiếp giang hồ, thân phận giống như nhau? Có các em để đời các anh thêm ư nghĩa (dù không trong sạch, chả thanh cao). Nhưng các em cũng đă góp phần, góp sức cho cuộc chiến, cuộc đời. Dở hay. Hay dở? Cứ mặc! Tầm thường hay thánh thiện? Chẳng màng! Chiều Biển Hồ. Một buổi chiều, sau chuyến hành quân về, chờ vự vụ lệnh (thời gian đó, đi phép bằng SVL), đi Sài g̣n. Chúng tôi, hai thằng mượn chiếc xe Jeep của chỉ huy phó để đi một ṿng phố xá. Nói là chỉ đi dạo phố, chứ thực sự là đi kiếm chổ nào đó để giải khuây.Trời xế chiều, Pleiku vắng ngắt một số đường. Hai đứa vừa đảo một ṿng vẫn chưa có ư định đi đâu. Một chiếc xích lô ngược chiều chạy tới. Trên xe hai nàng con gái đẹp mặc áo dài. Trời, mặc áo dài đi dạo phố giữa xế trưa th́ không phải là dân địa phương. Tên chạy xích lô cũng điệu, chạy chầm chậm và ngừng lại trước đầu xe Jeep. Tôi dừng xe, bước tới. Hai người đẹp có ư hỏi t́m địa chỉ nhà. Tôi móc ví trả tiền xe.
- Xin đừng ngại. Hai cô về đâu tôi…, xin phép, chúng tôi có thể đưa hai cô đi. Tụi tôi chỉ đi chơi, đang rănh…
Một nàng e dè. Nàng kia bước xuống đưa địa chỉ t́m nhà.
- Chị em em từ Qui nhơn lên t́m nhà đứa bạn. Địa chỉ này…
- Đường Hai Bà Trưng. Cũng không xa mấy! Tụi tôi đưa hai cô đi. Nếu hai cô không ngại.
- Sợ phiền các anh!
- Không sao. Tụi tôi cũng muốn làm việc nghĩa. Vả lại, rất hân hạnh được các cô cho phép.
Thằng bạn nhanh nhẩu tiếp xách cái túi hành trang để vào xe và trịnh trọng mời hai quí nương lên xe yên vị….
Chó ngáp phải ruồi! Buồn ngủ gặp chiếu manh.! Ở đâu mà khiến xui như thế này?
Vừa đi, vừa gợi chuyện. Th́ ra hai cô giáo lên Pleiku chơi. Cũng muốn t́m biết đây đó một vài nơi xinh đẹp ở xứ bụi mù. Trời c̣n sớm. Mời hai nàng cùng đi một ṿng Pleiku cho biết, và sau đó là ra viếng cảnh biển hồ.Một buổi chiều quá là mộng, là mơ, làm quên đi bao gian khổ chiến trận mấy ngày qua: leo rừng, lội núi. Và quên cả cái sự vụ lệnh đi phép đang chờ. Tôi, thằng bạn, cùng hai người khách bất chợt thật là vui. Hai nàng cũng thành tâm và quyến rủ. Bờ hồ sương giăng lăng đăng. Mặt hồ lăn tăn một ít cơn sóng gợn buổi chiều hôm. Cảnh vật quá mộng, quá thơ, quá hửu t́nh. Hai thằng lính hành quân về chưa kịp hớt tóc, chưa kịp diện đồ. Bù xù tóc tai, áo quần nhà binh xốc xếch, vẫn không làm suy giảm những ân t́nh của hai em gái hậu phương – hai cô giáo miền biển mặn, cát vàng khát khao “t́nh anh lính chiến”.Thêm một đêm, và gần một ngày (hôm sau) với t́nh yêu thương nồng thắm. “Hai mươi hai” giờ, quả là ư nghĩa, quả là thú vị cuộc đời.Chúng tôi chia tay, hẹn ngày tái ngộ, đưa hai nàng về địa chỉ hai nàng cần t́m. Lưu luyến chia ly, giă từ, ḥ hẹn…Tôi về, năn nỉ thiếu tá chỉ huy phó gần đứt lưỡi. Ông chỉ giận dỗi một lúc, rồi mọi việc cũng qua. Lên Ban 1 nhận sự vụ lệnh, bay Sài g̣n đi tiếp mấy ngày (phép) c̣n lại.
T́nh người bản Thượng
Làng Pleimrong, cách Pleiku khoảng 30km. Là một buôn làng giàu có thịnh vượng nhất vùng. Có một trại lực lượng đặc biệt (do Đ/úy Báu làm trưởng trại). Hầu hết biệt kích quân là người Thượng (khoảng một tiểu đoàn (350-400 quân)). Mỗi lần đi hành quân vùng Pleimrong là coi như đi dưỡng sức, v́ địch (khi đó:1970) chỉ lẻ tẻ đơn vị nhỏ. Một vùng khá an ninh nhờ Đ/Úy Báu thường xuyên tung quân hành quân lục soát.. Một lần, tôi cùng đơn vị (tiểu đoàn) BKQ/ Tiếp ứng về đó hành quân, các đại đội th́ đóng bên ngoài. Tôi, SQ phụ tá Toán A174 (chỉ huy TĐ)/BKQ/TƯ - chỉ theo với nhiệm vụ cố vấn - nên tà tà đi nh́ều chỗ cho biết.
Buồn, không làm ǵ, đi vào mấy nhà Thượng (kiếm những nhà giàu). Sức giàu của một nhà Thượng ở đây không thua ǵ người Kinh. Nhà sàn, cây danh mộc, mái ngói. Tài sản có hàng bạc triệu (năm 1970): một đàn ḅ 5-7 chục con, đàn dê cũng 5-6 chục. Heo lúc nhúc, gà lung tung chạy khắp vườn. Mua một con (gà) lớn nhỏ đều đồng giá. Nếu con nhỏ, sau này cũng lớn vậy thôi, núi rừng nuôi nó (người dân thượng bảo vậy). V́ thế không có chuyện so sánh lớn bé. Có một lần, vào dịp Tổng Thống Thiệu đến thăm, và ông được dân làng đăi rượu cần. Hai cái “ché” chứa rượu cần dành đăi tổng thống, trị giá 200.000 đồng/cái. Dân làng tổ chức tiếp đón rất ŕnh rang.Nhà giàu, có con gái –thuộc hàng tiểu thơ – không làm ǵ, thường ở nhà dệt vải. Trông “tiểu thơ” ngồi dệt vải cũng quí phái lắm. Dệt những thứ thổ cẩm (từng miếng vừa vừa dùng làm xà rong, khăn choàng, có thể may áo dài) màu sắc sặc sở rất đẹp. Các nàng cứ lo dệt, dệt trên nhà sàn lót gổ đẹp. “Khách” đến chơi được lịch thiệp chào mời vào nhà. Nói chuyện, các nàng có thể nghe, nói được tiếng kinh (tiếng Việt) nhưng không rành lắm. Như vậy là có thể chọc ghẹo và làm quen. Gặp trai Kinh, hầu như mấy nàng cũng thích, tuy hơi e ngại. Ít nói, chỉ hay cựi. Thân mật, ngồi sát vào nhau, sờ soạn, mó may, không phản đối, có phần như…thích? Ngay cả sờ ngực, sờ vú, hôn hít… Nhưng mà “bắt cái nước” th́ tuyệt đối không, trừ khi là chồng nàng. Đó, dễ dăi như vậy đó, mặc t́nh mà vui chơi, mà thân mật. Sờ ngực khá thú vị, ngực căng cứng, no tṛn. Hôn th́ mùi hăng hăng như khét nắng. Cũng v́ em dễ dăi, em thích. Cũng tại ḿnh ham vui, thích khám phá t́m của lạ. Chứ không ham muốn ǵ đâu. Gái thượng mà không lai (lai Pháp) th́ không thấy ǵ là đẹp. Xin lỗi nha! Nhưng tiến xa hơn nữa, hoặc sàm sở th́… coi chừng. Có thể bị mét (báo cáo), bị thưa v́ có thái độ xấu xa. Tới tai ông tỉnh trưởng Đ/tá Yaba là rắc rối. Đ/tá Yaba rất uy quyền, rất có uy tín, được toàn dân thượng tin yêu. Ông bảo vệ người thượng, rất thẳng thắng với quân đội kinh (nếu có hành vi sai phạm). C̣n nhớ, có một lần đi chơi, thăm mấy nữ nhân viên (kinh) ở ṭa hành chánh tỉnh, tôi đậu xe nhằm “parking” của ông (tại ṭa tỉnh trưởng, v́ thiếu chổ đậu) bị ghi số xe, phù hiệu đơn vị, báo về Đ/tá Can (chỉ huy trưởng C2/LLĐB). Tôi bị kêu lên, ông la cho một trận, thiếu điều kư củ.Con gái thượng, con nhà giàu cũng khá là nết na chững chạc - nết na mà vẫn cho sờ mó? - Thấy trai kinh dường như thích (nhất là sĩ quan trẻ tuổi) nhưng dè dặt, cẫn thận. Thích th́ thích nhưng khó mà rủ đi chơi riêng lẻ. Không biết có phải khó khăn gia đ́nh? Tuy nhiên, đến chơi, ngồi bên nhau, chọc ghẹo, cha mẹ thấy, chẳng nói ǵ. Không biết họ bằng ḷng hay v́ sợ mà không nói?Thú vị nhất là ra ŕnh xem tắm suối. Buổi trưa, không làm ǵ, tôi cùng một vài đứa rủ ra mé suối lén ŕnh đàn bà con gái thượng tắm. Tắm có hai bến tắm: đàn ông tắm riêng và đàn bà con gái tắm riêng, khoảng cách khá xa. Và phái nữ luôn dành phần phía trên ḍng nước chảy. Khi tắm, các ả cứ tự nhiên “thoát y”, lơa lồ thân thể.
Như các nàng tiên. Trửng giởn, liếng thoáng, đùa cợt, té nước, chạy quanh…Cả một đám thân thể trần truồng. mặc sức mà ŕnh xem cho đă mắt. Bất thần đứng dậy. Thấy có người, mẹ con chí chóe la lối, vụt chạy, quơ đồ đạc khăn áo che vào thân, tỏ ra hốt hoảng. Một lần bị như vậy coi như bến tắm phải bỏ đi. T́m bến khác. Ŕnh xem con gái thượng tắm rất vui, nhưng mà phải kín đáo và cẫn thận. Bị báo cáo, bị thưa là khốn. Kư củ và đổ đi chổ khác như chơi.Người thượng khá chân thật, rất t́nh người. Ít ranh ma, xảo trá. Trừ khi họ được chung sống nh́ều với người kinh. Thời VNCH, dân tộc người thượng được luật pháp bảo vệ, lại có phần được ưu đăi nhiều thứ. Cũng nhằm mục đích lấy ḷng để mua chuột, cai trị?Đến với họ, quen thân với người thượng cần nên giữ ư dè chừng. Tránh lợi dụng, tránh ma mảnh, lừa dối, gạt gẫm, hăm hại, nhất là lănh vực t́nh cảm yêu thương. Người con gái thượng khi yêu rất thật, cho bằng cả ḷng tin. Tuy nhiên, gạt gẫm, dối lừa, chơi qua rồi bỏ. Hậu quả khôn lường (cả vật chất lăn tinh thần). Nghe nói người thượng có biệt tài “thư”. Đối với ai gạt lừa bội phản. Thư một đống đá sỏi, da trâu trong bụng, cho bỏ thói Sở Khanh phản trắc lưu manh. Nghe nói thôi, chưa có dịp thấy.Ché rượu cần Làng Pleikép, cách thị xă Pleiku khoảng 10 km. Một làng được người Mỹ (qua VN giới thiệu yêu cầu) giúp vật liệu xây dựng nhà cửa, mọi thứ tiện nghi cho toàn thể dân làng. Đúng ra, Pleikép chỉ là một ấp.Một bữa, xây cất xong, tổ chức lễ khánh thành, mời “ân nhân” BCH/B17/LLĐB (Mỹ lẫn Việt). Chỉ huy trưởng đi công tác. Đáng lẻ chỉ huy phó đi, thiếu tá Quỳnh (CHP) kêu tôi (là trưởng Ban CTCT) đi thế.Một buổi tiếp đón khá trọng thể, Hai dăy thức ăn bày thẳng tắp chạy dài. Phía trên là bàn dành cho khách quí (VIP). Thức ăn là thịt dê thui nham nhở, c̣n sống, máu tuơm . Hai ché rượu cần hai bên. Hai chiếc ghế dành cho thượng khách (trung tá cố vấn Mỹ và tôi). Hai dăy người dân hai bên đông đúc. Mọi người vổ tay hoan hô mừng đón, chờ đợi khai mạc. Tr/tá Mỹ chào. Tôi chào. Hai tên đứng hai bên khá trịnh trọng, mỗi người dùng chiếc khăn trắng nắm cần câu (cần uống ruợu), lau, ngậm miệng nút cho ruợu ra. Xong, lau lại và hai tay cung kính đưa sang cố vấn Mỹ và tôi, mỗi người ngồi nút một cần. Phải uống cạn một “can” (theo nghi thức). Cái miệng ché rộng cở gang tay đầy nước tới miệng ché. Một thanh gác ngang, ở giữa là một que dính liền dài khoảng 2,5cm nằm trong nước hướng mủi xuống dưới. Nút (uống) ruợu (từ dưới đáy), nước trên miệng dực xuống, dực đến khi đầu que lên phía trên mặt nước, là một “can”. Dung lượng rượu có thể gần cả lít. Hai hàng người dân phía dưới đứng chờ. Thỉnh thoảng vổ tay tán thưởng. Tôi nâng chiếc cần nút. Từng giọt rượu nồng tuông chảy vào miệng, ng̣n ngọt, thơm thơm, cũng dể uống. Tuy nhiên, càng uống, cơ thể nóng bừng. Chất rượu lan khắp cơ thể. Bên kia tên Mỹ cũng cố mà nút. Anh ta ngưng và tôi bên này, chiếc que cũng đă lộ ra trên mặt nước. Cơ thể đă nóng và đầu óc hơi choáng váng. Một tràng pháo tay vang dậy. Và hai tên “hầu cận” lại đổ thêm nước vào, lên đầy miệng ché. Kính mời nhị vị cạn thêm “can” nữa. Trời đất! Như vậy là nghi thức phải uống hai “can”. Bụng tôi đă sắp no ph́nh. Tứ chi gần bủng rủng. Tên Tr/tá cố vấn Mỹ nút, và tôi cũng nút. “Bá quan văn vơ” đứng dưới tiếp tục chờ. Cạn thêm ½ can, tôi gần muốn ngă. Đầu óc nóng bừng. Tên Mỹ vừa xong. C̣n tôi. Chết bỏ cũng phải ráng cho cạn, dầu rằng uống không muốn nổi nữa. V́ thể diện, v́ danh dự, tôi cố nút. Và sau cùng cũng cạn. Vổ tay vang dậy, mọi người xúm vào uống và ăn. Tôi được chuyền đưa cái nĩa với miếng thịt dê tươm máu. Đón nhận và cắn một cái, tôi lợm giọng, muốn ói. Phải ráng mà dằn. Để miếng thịt xuống, tôi ra dấu “người bạn đồng hành” (cố vấn Mỹ) xin kiếu. Tên Mỹ đứng dậy chào giă từ. Tôi cũng chào và từ giă bước ra. Lạng quạng, muốn ngă. Tên tài xế d́u tôi ra xe. Vừa lên xe, chạy ra chưa khỏi cổng là tôi ói. Ói tơi tả, ói dài dài về tới cổng trại. Đầu óc như muốn bể tung, nhức buốc. Ai đưa về pḥng tôi cũng không nhớ. Miên mang, dă dượi, suốt một đêm và gần cả một ngày. Chiều đến, tạm tỉnh, Thiếu Tá Quỳnh Chỉ huy Phó đến thăm. Động viên khen ngợi:
- Cậu đở chưa? Kể ra cũng không phải mất mặt. Ói trên xe, ói dọc đường không ai biết. Tham dự buổi lễ thành công. Cám ơn cậu. Một lần, cho biết. Tởn tới già. Sau này nghe nói đến rượu cần, tôi phát sợ.Thật sự, rượu cần ngon. Có lẻ rượu đăi khách quí, người thượng họ làm chất liệu ngon, tốt. Lại nước rượu đầu tiên, nguyên chất. Uống ng̣n ngọt, thơm thơm, nồng nàng hương vị. Cũng là thứ rượu ngon. Ngon không thua ǵ rượu đậu nành, rượu nếp than, rượu đế. Cũng là “quốc tửu”. Hân hạnh lắm thay!...Cuộc đời binh ngiệp, trăi bao năm, tôi đă đi, đến khá nhiều nơi, nhiều chổ: đồng bằng, biển cả, núi rừng… qua bao nhiêu miền đất nước, quê hương. Pleiku vẫn là nơi đáng nhớ.Vùng cao nguyên đất đỏ: nắng bụi mưa bùn. Nghe qua, ai cũng ngại, cũng sợ, không muốn đến. Nhưng đă đến rồi, vẫn thấy luyến, thấy thương – Thương đất nước, thương t́nh người, thương cảnh vật. Trước đây, thời giặc giă chiến tranh là vậy. Bây giờ không biết sao?
Viết về Pleiku, viết để nhớ về kỷ niệm. Và những ai, đă một lần đến Pleiku, xin cùng nhau chia xẻ chút nỗi niềm.
Yk24kxq6qG8
Tháng Tư/11
Ng. Dân
anhhaila
06-12-2020, 14:54
Cà phê Hoàng Lan, tiếc quá hồi đó không có dịp dừng chân . 1972 th́ đang ở Phụng Dực uống cà phê Ban Mê , cám ơn huynh đă cho một thời để nhớ , để yêu em Pleiku .
:thankyou::handshake :
phokhuya
06-14-2020, 01:58
Cà phê Hoàng Lan, tiếc quá hồi đó không có dịp dừng chân . 1972 th́ đang ở Phụng Dực uống cà phê Ban Mê , cám ơn huynh đă cho một thời để nhớ , để yêu em Pleiku .
:thankyou::handshake :
YykZqTyFvxM
trungthu
06-15-2020, 03:00
Cà phê Hoàng Lan, tiếc quá hồi đó không có dịp dừng chân . 1972 th́ đang ở Phụng Dực uống cà phê Ban Mê , cám ơn huynh đă cho một thời để nhớ , để yêu em Pleiku .
:thankyou::handshake :
em Pleiku da thịt đẫy đà...muỗi cắn nên ghẻ nhiều, có lần tụi này thỉnh 2 cô ca sĩ về chỗ tụi này , vừa hát vừa làm đào nhẩy, ngồi kế em nh́n thấy những vết đỏ lấm chấm ở 2 bên đùi...2 bàn tay của tui đi tu luôn.
:hafppy::hafppy::haf ppy:
phokhuya
06-16-2020, 03:20
em Pleiku da thịt đẫy đà...muỗi cắn nên ghẻ nhiều, có lần tụi này thỉnh 2 cô ca sĩ về chỗ tụi này , vừa hát vừa làm đào nhẩy, ngồi kế em nh́n thấy những vết đỏ lấm chấm ở 2 bên đùi...2 bàn tay của tui đi tu luôn.
:hafppy::hafppy::haf ppy:
:hafppy::hafppy::haf ppy::eek::eek::eek:
vBulletin® v3.8.9, Copyright ©2000-2025, vBulletin Solutions, Inc.