florida80
07-06-2020, 21:03
Đă một thời sinh viên Đại học Đà Lạt
Tôi rời mái trường đại học Đà Lạt để “xuống núi” hành hiệp giang hồ vào giữa năm 1964. Một năm với nhiều biến động nhất thời tuổi trẻ. Những biến động mà sau này như một tiền báo động cho sự sa lầy và mất miền Nam.Vậy mà nay đă ngót nghét non nửa thế kỷ trôi qua.
Thi cử hồi ấy c̣n gay go lắm. Mười người vị tất lấy được vài người. Vậy mà ít nghe nói có chuyện chạy chọt đút lót.
Đấy là những nét son của chế độ. Sau này cũng tham nhũng, nhưng vẫn là thứ “tham nhũng trong hàng rào đạo đức” trong chững mực có thể chấp nhận được.
Phải nói chính phủ Ngô Đ́nh Diệm đặt vấn đề giáo dục lên hàng đầu. Một thứ đầu tư tương lai với một viễn kiến chính trị của một người lănh đạo ưu tư tới đất nước. Trợ cấp của chính phủ cho sinh viên là 1500 đồng một tháng – bằng lương một người lính đánh giặc ngoài mặt trận.
Cứ nghĩ như thế để chỉ c̣n biết ơn miền Nam đă nuôi dưỡng, giáo dục, trang bị cho tuổi trẻ vào đời trở thành những chuyên viên, những trí thức.
Tôi thâm tín rằng thế hệ tuổi trẻ chúng tôi đă thừa hưởng những ưu vượt về các mặt văn hóa, giá trị tinh thần, giá trị con người mà các thế hệ sau đă không có may mắn có được.
Chúng tôi có quyền hănh diện về những năm tháng ấy.
Với 1500 đồng, tiền thuê pḥng ở học xá hết 200 đồng. Tiền ăn 5 đồng một bữa ở quán cơm xă hội. Ngày 2 bữa hết 10 đồng. Vị chi ăn ở hết 500 đồng. Buổi tối đói th́ mua thêm bánh ḿ nóng hổi mới ra ḷ giá hai đồng một ổ. Trét thêm mỡ (shortening), hộp mỡ của Mỹ viện trợ cỡ hơn hai kilô một hộp rồi rắc thêm chút đường. Ngon ơi là ngon! Chẳng ai thắc mắc vớ vẩn về cholesterol ǵ cả? Cũng không thấy một sinh viên nào ăn chay hết!
Cuộc sống sinh viên đạm bạc thật. Nhưng vẫn c̣n dành được chút tiền để cà phê, cà pháo và phần tôi c̣n chắt chiu hà tiện mua sách từ bên Tây về. Sách về chưa đọc mà chỉ giở ra ngắm và hít hà mùi thơm từ sách.
Cả cuộc đời sinh viên, chỉ ước mơ mua một bộ veste để diện mà không dám mua. Phải chăng v́ không có bạn gái? Và lần đầu tiên đi gặp bạn gái, bạn bè hai ba đứa xúm vào cho mượn bộ veste, cả cravate – dĩ nhiên phải cho mượn cả đôi giầy tây – cả bít tất luôn thể.
Nhưng những lần hẹn sau, thấy “phức tạp” quá, tôi trở về với cái “bản thể” nguyên thủy của tôi. Chân đi dép, tôi khoác cái áo nhà binh 4 túi mà một năm không nhớ giặt được mấy lần?
Đó là cái x́ tin của tuổi trẻ. Chút ngang tàng, chút tự hào, chút bất cần đời.
Tuy vậy, tôi cũng biết dành dụm chút tiền để mua quà tết về cho bố mẹ. Phải nói hănh diện và sung sướng lắm – tôi mua một bao tải nặng nào xú phơ, nào dâu tây khệ nệ
vác.
Chắc là không giống ai. Các nữ sinh viên th́ thường nấu mứt dâu rồi để dành mang về.
Tôi thấy mẹ cười hả hê, đon đả ra mặt và hănh diện về đứa con út lắm. Mẹ tôi chỉ có một cái tật xấu nho nhỏ. Số là tôi có một cô bạn gái tên Huy, xinh và rất “đầm” thường đến thăm tôi, đến 9 giờ tối chưa chịu về. Đối với mẹ tôi, quá 9 giờ là có thể “hư” rồi, trước 9 giờ th́ không sao. Mẹ áp dụng “chiến thuật” đuổi khéo; cụ cứ đi ra đi vô ở pḥng khách và đọc kinh to tiếng. Ai cũng phải ngượng mà ra về thôi. Tổng giám mục Kiệt sau này có áp dụng chiến thuật này mà không thành công, v́ cộng sản trơ trẽn quá.
Sau 30 tháng tư 1975, tôi đă viết như thế này về mẹ tôi. Mất miền Nam, tôi mất luôn mẹ.
“Mẹ tôi không nói ra, nhưng có vẻ héo hắt đi. Đôi mắt hơm sâu thêm v́ những đêm không ngủ. Nụ cười úa tàn không c̣n oang oang như trước nữa. Bố tôi th́ bề ngoài thấy như vẫn vậy. Thói quen của mẹ giấu diếm những điều cho riêng ḿnh đă thành tật. Do đó, nó khoét sâu vào tâm khảm, đục khoét cơ thể lúc nào không hay. Người mẹ cứ nhẹ đi như bấc.
Có những buổi trưa bất ngờ sang thăm mẹ. Mẹ ngồi ngủ gục, ẻo lả một bên. Tôi ngỡ ngàng kinh ngạc xót xa. Con rể đi học tập, con trai thứ lang thang, lếch thếch ngoài Vũng Tầu t́m đường đi. Con cả ở ngoài Bắc vẫn biệt tăm, vẫn mù mịt không biết sống hay chết. Đă mấy chục năm rồi sao chưa về. Nỗi đau quá khứ trộn thêm nỗi lo hiện tại.
Các con tứ tán. Mẹ vẫn không một lời ca thán. Mà mẹ biết trách ai bây giờ.
Chẳng bao lâu sau, mẹ từ giă cơi đời v́ gánh nặng cuộc đời không gánh nổi”.
Nghĩ lại cuộc đời tôi trôi nổi và vất vưởng lắm. 7 tuổi “du học” Hà Nội vào mùa hè. Chưa học ǵ th́ chiến tranh xảy ra. Dân Hà Nội sơ tán. Ḿnh tôi ở lại “chiến đấu” sống như loài chuột chui rúc, không phải với Tây mà với đói và lạnh. Măi đến khoảng 1950, mới liên lạc được với gia đ́nh và đi học lại.
Lớn lên, nhiều lúc tôi tự hỏi ḿnh, tại sao ḿnh sống c̣n? Tại sao ḿnh không thành “du côn” mà lại có ngày cầm phấn viết bảng?
1954 theo anh rể ở trong quân đội, tôi đă vào miền Nam trong những chuyến máy bay đầu tiên của quân đội Pháp. Người ta đi học lại. C̣n tôi làm phu “lục lộ” ở Đà Nẵng. Trôi dạt về trại di cư Củ Chi, ông anh họ con nhà bác “rước” tôi lên miệt cao su Dầu Tiếng để học nghề thợ may cho có tương lai. Chỉ một chút xíu nữa tôi có may mắn lấy con gái ông chủ thợ may th́ nay tôi làm chủ tiệm may ở đồn điền cao su rồi.
Cho đến 1956, tôi mới chính thức được đi học lại và v́ “giỏi quá” nên nhảy lớp lia chia. Từ lớp 5ème trường tây, nhảy luôn đệ tứ, rớt đệ tứ nhảy cho lẹ. Mất căn bản, nhất là toán và cho đến bây giờ phải thú thực tŕnh độ toán của tôi tương đương với chương tŕnh đại số phương tŕnh bậc nhất. Khựng lại 3 năm tú tài một, tôi trở thành “trí thức” tối ngày trốn vào thư viện quốc gia đọc hết, đọc tất cả.
Đỗ tú tài một là một “phép lạ Hy Lạp” và kể từ đó, đường học vấn của tôi thênh thang vào Đại Học Đà Lạt bằng cửa lớn.
Sau này nghiệm ra rằng các kỳ thi tốt nghiệp Tiểu học, Trung Học đệ nhất cấp, tú tài 1 chỉ là những rào cản tương lai tuổi trẻ xét ra khe khắt và bất công không ít.
Trở lại những ngày đầu bước chân lên Đà Lạt th́ mọi chuyện đều xa lạ và ngỡ ngàng.
Hăy bắt đầu từ những việc nhỏ nhặt.
Từ chiếc xe đ̣ Minh Trung, 200 đồng một vé đến những địa danh như Định Quán, Blao cho đến những rừng thông, những núi đồi, những con dốc, những ngồi nhà thấp dựng dưới măt đường, những đồi xanh mướt cỏ với những ngôi nhà xinh xắn. Tất cả đều như “xa lạ”. Từ những ngọn đồi cỏ mọc xanh ŕ, sau này, tôi nhân cách hóa trong một số bài viết với “Miền cỏ nhớ”.
Tất cả Đà Lạt toát ra một khung cảnh khoáng đạt, dâng cao, trang nghiêm và trí thức.
Cái cảm giác đầu tiên khi bước qua cổng viện Đại Học Đà Lạt cho thấy nơi đây mới đích thực là chốn để tu luyện trong hành tŕnh trí thức của tuổi trẻ. Phải chăng nơi đây mới xứng danh trường “Académie” mà Platon đă sáng lập ở Athènes, năm 387, trước kỷ nguyên?
Đại học Đà Lạt
https://i.imgur.com/RkFmeTL.jpg
Người sinh viên phải làm quen, theo truyền thống triết học bao giờ cũng có thói quen coi những buổi đầu của việc học tập Triết là “Nhập môn” triết học. Nói nôm na là “dẫn vào triết học”. Nó c̣n có nghĩa bộ môn này có kén chọn, coi như cửa đóng, không thể tự ḿnh sồng sộc vào ra tùy ư được.
Triết học h́nh như có một “cái cửa để vào” cho những ai theo nó.
Sau khi vào rồi th́ đụng với chữ nghĩa phải “lầm than” cặm cụi những năm tháng sau đó!
Bởi v́ học Triết những ngày đầu chỉ là những giờ khai tâm, mới đầu như một cuộc “vỡ đất”. Nó cày sới lên, ngổn ngang, chỗ này một câu, chỗ kia một ư, dàn trải bao la. Cho nên, học triết chỉ là “hiểu lơm bơm” là bước đầu quan trọng nhất của một khai sáng trí tuệ!
Tuy lúc đầu lơm bơm, bập bẹ, nhưng đến một lúc nào đó không ngờ, nó “lóe lên”, nó “khai mở.” Nó giống như tâm cảnh của một người tù suốt đời nh́n vào phía trong bức tường của hang động và lúc được giải thoát được nh́n ra thế giới bên ngoài, ánh sáng chói chang mới hiểu được sự thật là cái ǵ.
Nói theo nhà Phật th́ đó là “Ngộ”
Nhưng trước mắt th́ mỗi ngày cours của các thầy như Gaultier, Tchen 1, Tchen 2, Raguin hay bất cứ ai khác như Palacios, Pineau, Larre th́ chữ như “được nén chặt”, đọc mà như đụng vào bức tường.
Bài học vỡ ḷng lúc đó là phải biết “giở sách” và từ đó hiểu được những danh từ theo nguyên thủy của nó. Chẳng hạn như từ Mauvaise foi chỉ có nghĩa luân lư là có ư xấu.
Nhưng chữ ấy rơi vào tay J. P. Sartre mang ư nghĩa “siêu h́nh” được dịch ra là ngụy tín. Nhưng ngụy tín là ǵ nhỉ? Dài ḍng lắm...
Có thể nói không hiểu được danh từ triết, không hiểu được triết học.
V́ thế phải đọc, phải nghiền ngẫm, phải vật lộn ăn nằm với chữ nghĩa để hiểu thế nào là Philosophie existentialiste của J.P Sartre nó khác với Philosophie existentielle của Gabriel Marcel và Karl. Jaspers và rồi nó cũng khác với Philosophie existentiale của Heidegger. Hiện nay, vẫn chưa có ai dịch nổi những từ này ra tiếng Việt.
Nào đă hết, một dây chuỗi danh từ xuất hiện như: Hiện–thực, ư niệm ngoại cảm, dịch biến, thác tạo tính, hủy thể tính, thân phận hữu hạn, ḥ hẹn với tuyệt đối, thách thức siêu h́nh v.v…
Hiểu hết những từ này, phải ăn chay nằm mộng thôi...
Triết học thật khó. Tôi phải thú thực như vậy. Nó chỉ dễ với những ai không biết nó, những người ngoài cuộc hiểu biết thứ “triết học vĩa hè” như trong bài tham luận “Những người con hoang của Nguyễn Văn Trung”, Nguyễn Trọng Văn đă nặng tay viết:
“Ngay cả những sinh viên chịu khó đi học và học bài, 100 người đă chắc 10 người hiểu được tới nơi, tới chốn Dasein, Hư vô, Dự phóng, Ngụy tín, Hiện hữu là ǵ, nhưng khi viết văn th́ làm như ḿnh đă hiểu hết, đă nắm mọi vấn đề. Họ dùng chữ một cách chát chúa để vượt mặt người khác và chính họ, coi việc làm dáng (tri’ thức) là làm văn nghệ, là sáng tác đích thực.” (Trích lại trong bài viết: 20 năm triết lư Tây Phương ở miền Nam Việt Nam 1955–1975, Nguyễn Văn Lục, Tân Văn số 3, trang 7, 2007.)
Phần Bùi Văn Nam Sơn, dịch giả và chú giải bộ sách đồ sộ, kinh điển của Emmanuel Kant, nguyên bản tiếng Đức: Emmanuel Kant, Phê phán lư tính thuần túy (Kritik Der Reineen Vernunft), dày 1260 trang.
Bùi Văn Nam Sơn khiêm tốn và đầy ḷng biết ơn thầy dạy bằng những ư từ sau đây:
“Tôi không hiểu hết những lời Thầy dạy về Kant… dù nhờ thầy mà lần đầu tiên được nghe những từ đầy “mê hoặc” như siêu nghiệm, vơng luận, Antinomie...(..) khi dịch và chú giải cuốn Phê phán Lư tính thuần túy của Kant, tôi đă trộm phép thầy Trần Thái Đỉnh sử dụng lại một số thuật ngữ tiếng Việt quan trọng được Thầy dùng để dịch Kant mà đến nay, tôi vẫn chưa t́m thấy cách dịch nào tốt hơn: “Niệm thức” (Schema),”Ư thể” (das Ideal), “Phân tích pháp” (Analytik) v.v… để chỉ xin đơn cử một vài thí dụ.” (Trích “Triết Học Kant”, Hồi niệm và viễn cảnh, Bùi Văn Nam Sơn, tạp chí Tân Văn, 39–40.)
Trong những năm mài đũng quần trên ghế nhà trường, tôi nghiệm ra sau này là tinh thần đại học của miền Nam mang tính chất tự do, khai phóng và nhân bản. Tự do v́ ở nơi ấy, sinh viên được suy nghĩ t́m hiểu một cách tự do và độc lập. Xin ghi lại đây một vài hồi tưởng của Nguyễn Trọng Văn về thầy Gaultier chứng tỏ sự tôn trọng tư duy độc lập như thế nào?
Đề tài bài thi tuyển sinh viên vào ban Triết đại học năm ấy như sau, “Triết học là một thái độ luôn luôn đi trên đường (en route). Và v́ thế những câu hỏi triết học thường quan trọng hơn những câu trả lời. Anh chị nghĩ ǵ về tư tưởng trên?”
Tôi không biết Nguyễn Trọng Văn đă viết ǵ trong bài triết trên. Chỉ biết rằng anh ta đă viết ngược với quan điểm của các triết gia hiện sinh thời bấy giờ. (Đặc biệt là Karl. Jaspers). Thầy Gaultier chính là người đă chấm bài của Nguyễn Trọng Văn và cho anh đỗ cao.
Trong giờ đầu tiên học thầy, thầy đă hỏi ai là tác giả bài thi và khi biết rồi có nói với Nguyễn Trọng Văn: Anh viết như thế là giữa tôi và anh không có chút quan điểm đồng thuận nào cả. Và b́nh thường, tôi có thể cho anh rớt, nhưng tôi tôn trọng quan điểm và cách lư luận của anh nên vẫn cho anh đậu.
Phải chăng đây là bài học vỡ ḷng mà những người sinh viên vừa bước vào ngưỡng của môn triết học đă học được để làm vốn vào đời?
Khai phóng v́ với tinh thần tự trị đại hoc, người sinh viên được học, được tham khảo tất cả các trào lưu triết học từ triết lư Nho giáo, Lăo giáo, Ân Độ giáo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo đến Triết học Marx–Hégel, vv…
Tôi đă có may mắn được “gặp”, trao đổi với tất cả các nhà minh triết ở trên. Họ đă giúp “khai phóng”, mở rộng tầm nhận thức của một người trẻ tuổi…
Cạnh đó, quyền tự trị đại học được tôn trọng một cách triệt để không có sự can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào các giáo tŕnh của các vị giáo sư. Quyền ấy có thể bị lấn áp, vi phạm trong phạm vi hành chánh, bổ dụng hay thăng trật. Nhưng ở nơi chốn tôn nghiêm của giảng đường đại học, các trào lưu tư tưởng triết học cổ như Trung cổ, cận đại và hiện đại đều có chỗ. Khổng Tử điềm đạm ngồi đối diện với Mác bàn về giải pháp Nhân trị hay Phát trị hay dùng bạo lực giải phóng? Lăo tử đàm đạo với Thích Ca Mầu ni thế nào là con đường giải thoát? Vô vi hay diệt dục là giải pháp tối ưu?
Các triết gia, các vị minh triết trên thường được xếp vào thời kỳ trục (Période axiale, quan điểm của K. Jasper, không đứng ở quan điểm tôn giáo) như Thích ca, Lăo Tử, Khổng tử và cuối cùng là Jesus. Họ không hẹn mà cũng nhau xuất hiện trong cùng một thời điểm như “cái trục thời gian” sáng chói nhất của lịch sử nhân loại.
Trong tinh thần khai phóng, người sinh viên được tiếp cận với tất cả những bậc minh trí vừa kể trên trong tư thế b́nh đẳng về phạm vi tư tưởng.
Nhưng cái điểm trổi bật nhất của tinh thần đại học miền Nam vẫn là ở chỗ tôn trọng con người, tôn trọng những giá trị tự do, giá trị chọn lựa cá nhân, giá trị đạo đức, giá trị tinh thần cũng như các giá trị tôn giáo.
Nh́n theo viễn tượng đường dài của tương lai th́ đây là những khẳng định khác biệt không chối căi được giữa hai miền Nam Nam Bắc trước 1975 và sau 1975.
Tôi rời mái trường đại học Đà Lạt để “xuống núi” hành hiệp giang hồ vào giữa năm 1964. Một năm với nhiều biến động nhất thời tuổi trẻ. Những biến động mà sau này như một tiền báo động cho sự sa lầy và mất miền Nam.Vậy mà nay đă ngót nghét non nửa thế kỷ trôi qua.
Thi cử hồi ấy c̣n gay go lắm. Mười người vị tất lấy được vài người. Vậy mà ít nghe nói có chuyện chạy chọt đút lót.
Đấy là những nét son của chế độ. Sau này cũng tham nhũng, nhưng vẫn là thứ “tham nhũng trong hàng rào đạo đức” trong chững mực có thể chấp nhận được.
Phải nói chính phủ Ngô Đ́nh Diệm đặt vấn đề giáo dục lên hàng đầu. Một thứ đầu tư tương lai với một viễn kiến chính trị của một người lănh đạo ưu tư tới đất nước. Trợ cấp của chính phủ cho sinh viên là 1500 đồng một tháng – bằng lương một người lính đánh giặc ngoài mặt trận.
Cứ nghĩ như thế để chỉ c̣n biết ơn miền Nam đă nuôi dưỡng, giáo dục, trang bị cho tuổi trẻ vào đời trở thành những chuyên viên, những trí thức.
Tôi thâm tín rằng thế hệ tuổi trẻ chúng tôi đă thừa hưởng những ưu vượt về các mặt văn hóa, giá trị tinh thần, giá trị con người mà các thế hệ sau đă không có may mắn có được.
Chúng tôi có quyền hănh diện về những năm tháng ấy.
Với 1500 đồng, tiền thuê pḥng ở học xá hết 200 đồng. Tiền ăn 5 đồng một bữa ở quán cơm xă hội. Ngày 2 bữa hết 10 đồng. Vị chi ăn ở hết 500 đồng. Buổi tối đói th́ mua thêm bánh ḿ nóng hổi mới ra ḷ giá hai đồng một ổ. Trét thêm mỡ (shortening), hộp mỡ của Mỹ viện trợ cỡ hơn hai kilô một hộp rồi rắc thêm chút đường. Ngon ơi là ngon! Chẳng ai thắc mắc vớ vẩn về cholesterol ǵ cả? Cũng không thấy một sinh viên nào ăn chay hết!
Cuộc sống sinh viên đạm bạc thật. Nhưng vẫn c̣n dành được chút tiền để cà phê, cà pháo và phần tôi c̣n chắt chiu hà tiện mua sách từ bên Tây về. Sách về chưa đọc mà chỉ giở ra ngắm và hít hà mùi thơm từ sách.
Cả cuộc đời sinh viên, chỉ ước mơ mua một bộ veste để diện mà không dám mua. Phải chăng v́ không có bạn gái? Và lần đầu tiên đi gặp bạn gái, bạn bè hai ba đứa xúm vào cho mượn bộ veste, cả cravate – dĩ nhiên phải cho mượn cả đôi giầy tây – cả bít tất luôn thể.
Nhưng những lần hẹn sau, thấy “phức tạp” quá, tôi trở về với cái “bản thể” nguyên thủy của tôi. Chân đi dép, tôi khoác cái áo nhà binh 4 túi mà một năm không nhớ giặt được mấy lần?
Đó là cái x́ tin của tuổi trẻ. Chút ngang tàng, chút tự hào, chút bất cần đời.
Tuy vậy, tôi cũng biết dành dụm chút tiền để mua quà tết về cho bố mẹ. Phải nói hănh diện và sung sướng lắm – tôi mua một bao tải nặng nào xú phơ, nào dâu tây khệ nệ
vác.
Chắc là không giống ai. Các nữ sinh viên th́ thường nấu mứt dâu rồi để dành mang về.
Tôi thấy mẹ cười hả hê, đon đả ra mặt và hănh diện về đứa con út lắm. Mẹ tôi chỉ có một cái tật xấu nho nhỏ. Số là tôi có một cô bạn gái tên Huy, xinh và rất “đầm” thường đến thăm tôi, đến 9 giờ tối chưa chịu về. Đối với mẹ tôi, quá 9 giờ là có thể “hư” rồi, trước 9 giờ th́ không sao. Mẹ áp dụng “chiến thuật” đuổi khéo; cụ cứ đi ra đi vô ở pḥng khách và đọc kinh to tiếng. Ai cũng phải ngượng mà ra về thôi. Tổng giám mục Kiệt sau này có áp dụng chiến thuật này mà không thành công, v́ cộng sản trơ trẽn quá.
Sau 30 tháng tư 1975, tôi đă viết như thế này về mẹ tôi. Mất miền Nam, tôi mất luôn mẹ.
“Mẹ tôi không nói ra, nhưng có vẻ héo hắt đi. Đôi mắt hơm sâu thêm v́ những đêm không ngủ. Nụ cười úa tàn không c̣n oang oang như trước nữa. Bố tôi th́ bề ngoài thấy như vẫn vậy. Thói quen của mẹ giấu diếm những điều cho riêng ḿnh đă thành tật. Do đó, nó khoét sâu vào tâm khảm, đục khoét cơ thể lúc nào không hay. Người mẹ cứ nhẹ đi như bấc.
Có những buổi trưa bất ngờ sang thăm mẹ. Mẹ ngồi ngủ gục, ẻo lả một bên. Tôi ngỡ ngàng kinh ngạc xót xa. Con rể đi học tập, con trai thứ lang thang, lếch thếch ngoài Vũng Tầu t́m đường đi. Con cả ở ngoài Bắc vẫn biệt tăm, vẫn mù mịt không biết sống hay chết. Đă mấy chục năm rồi sao chưa về. Nỗi đau quá khứ trộn thêm nỗi lo hiện tại.
Các con tứ tán. Mẹ vẫn không một lời ca thán. Mà mẹ biết trách ai bây giờ.
Chẳng bao lâu sau, mẹ từ giă cơi đời v́ gánh nặng cuộc đời không gánh nổi”.
Nghĩ lại cuộc đời tôi trôi nổi và vất vưởng lắm. 7 tuổi “du học” Hà Nội vào mùa hè. Chưa học ǵ th́ chiến tranh xảy ra. Dân Hà Nội sơ tán. Ḿnh tôi ở lại “chiến đấu” sống như loài chuột chui rúc, không phải với Tây mà với đói và lạnh. Măi đến khoảng 1950, mới liên lạc được với gia đ́nh và đi học lại.
Lớn lên, nhiều lúc tôi tự hỏi ḿnh, tại sao ḿnh sống c̣n? Tại sao ḿnh không thành “du côn” mà lại có ngày cầm phấn viết bảng?
1954 theo anh rể ở trong quân đội, tôi đă vào miền Nam trong những chuyến máy bay đầu tiên của quân đội Pháp. Người ta đi học lại. C̣n tôi làm phu “lục lộ” ở Đà Nẵng. Trôi dạt về trại di cư Củ Chi, ông anh họ con nhà bác “rước” tôi lên miệt cao su Dầu Tiếng để học nghề thợ may cho có tương lai. Chỉ một chút xíu nữa tôi có may mắn lấy con gái ông chủ thợ may th́ nay tôi làm chủ tiệm may ở đồn điền cao su rồi.
Cho đến 1956, tôi mới chính thức được đi học lại và v́ “giỏi quá” nên nhảy lớp lia chia. Từ lớp 5ème trường tây, nhảy luôn đệ tứ, rớt đệ tứ nhảy cho lẹ. Mất căn bản, nhất là toán và cho đến bây giờ phải thú thực tŕnh độ toán của tôi tương đương với chương tŕnh đại số phương tŕnh bậc nhất. Khựng lại 3 năm tú tài một, tôi trở thành “trí thức” tối ngày trốn vào thư viện quốc gia đọc hết, đọc tất cả.
Đỗ tú tài một là một “phép lạ Hy Lạp” và kể từ đó, đường học vấn của tôi thênh thang vào Đại Học Đà Lạt bằng cửa lớn.
Sau này nghiệm ra rằng các kỳ thi tốt nghiệp Tiểu học, Trung Học đệ nhất cấp, tú tài 1 chỉ là những rào cản tương lai tuổi trẻ xét ra khe khắt và bất công không ít.
Trở lại những ngày đầu bước chân lên Đà Lạt th́ mọi chuyện đều xa lạ và ngỡ ngàng.
Hăy bắt đầu từ những việc nhỏ nhặt.
Từ chiếc xe đ̣ Minh Trung, 200 đồng một vé đến những địa danh như Định Quán, Blao cho đến những rừng thông, những núi đồi, những con dốc, những ngồi nhà thấp dựng dưới măt đường, những đồi xanh mướt cỏ với những ngôi nhà xinh xắn. Tất cả đều như “xa lạ”. Từ những ngọn đồi cỏ mọc xanh ŕ, sau này, tôi nhân cách hóa trong một số bài viết với “Miền cỏ nhớ”.
Tất cả Đà Lạt toát ra một khung cảnh khoáng đạt, dâng cao, trang nghiêm và trí thức.
Cái cảm giác đầu tiên khi bước qua cổng viện Đại Học Đà Lạt cho thấy nơi đây mới đích thực là chốn để tu luyện trong hành tŕnh trí thức của tuổi trẻ. Phải chăng nơi đây mới xứng danh trường “Académie” mà Platon đă sáng lập ở Athènes, năm 387, trước kỷ nguyên?
Đại học Đà Lạt
https://i.imgur.com/RkFmeTL.jpg
Người sinh viên phải làm quen, theo truyền thống triết học bao giờ cũng có thói quen coi những buổi đầu của việc học tập Triết là “Nhập môn” triết học. Nói nôm na là “dẫn vào triết học”. Nó c̣n có nghĩa bộ môn này có kén chọn, coi như cửa đóng, không thể tự ḿnh sồng sộc vào ra tùy ư được.
Triết học h́nh như có một “cái cửa để vào” cho những ai theo nó.
Sau khi vào rồi th́ đụng với chữ nghĩa phải “lầm than” cặm cụi những năm tháng sau đó!
Bởi v́ học Triết những ngày đầu chỉ là những giờ khai tâm, mới đầu như một cuộc “vỡ đất”. Nó cày sới lên, ngổn ngang, chỗ này một câu, chỗ kia một ư, dàn trải bao la. Cho nên, học triết chỉ là “hiểu lơm bơm” là bước đầu quan trọng nhất của một khai sáng trí tuệ!
Tuy lúc đầu lơm bơm, bập bẹ, nhưng đến một lúc nào đó không ngờ, nó “lóe lên”, nó “khai mở.” Nó giống như tâm cảnh của một người tù suốt đời nh́n vào phía trong bức tường của hang động và lúc được giải thoát được nh́n ra thế giới bên ngoài, ánh sáng chói chang mới hiểu được sự thật là cái ǵ.
Nói theo nhà Phật th́ đó là “Ngộ”
Nhưng trước mắt th́ mỗi ngày cours của các thầy như Gaultier, Tchen 1, Tchen 2, Raguin hay bất cứ ai khác như Palacios, Pineau, Larre th́ chữ như “được nén chặt”, đọc mà như đụng vào bức tường.
Bài học vỡ ḷng lúc đó là phải biết “giở sách” và từ đó hiểu được những danh từ theo nguyên thủy của nó. Chẳng hạn như từ Mauvaise foi chỉ có nghĩa luân lư là có ư xấu.
Nhưng chữ ấy rơi vào tay J. P. Sartre mang ư nghĩa “siêu h́nh” được dịch ra là ngụy tín. Nhưng ngụy tín là ǵ nhỉ? Dài ḍng lắm...
Có thể nói không hiểu được danh từ triết, không hiểu được triết học.
V́ thế phải đọc, phải nghiền ngẫm, phải vật lộn ăn nằm với chữ nghĩa để hiểu thế nào là Philosophie existentialiste của J.P Sartre nó khác với Philosophie existentielle của Gabriel Marcel và Karl. Jaspers và rồi nó cũng khác với Philosophie existentiale của Heidegger. Hiện nay, vẫn chưa có ai dịch nổi những từ này ra tiếng Việt.
Nào đă hết, một dây chuỗi danh từ xuất hiện như: Hiện–thực, ư niệm ngoại cảm, dịch biến, thác tạo tính, hủy thể tính, thân phận hữu hạn, ḥ hẹn với tuyệt đối, thách thức siêu h́nh v.v…
Hiểu hết những từ này, phải ăn chay nằm mộng thôi...
Triết học thật khó. Tôi phải thú thực như vậy. Nó chỉ dễ với những ai không biết nó, những người ngoài cuộc hiểu biết thứ “triết học vĩa hè” như trong bài tham luận “Những người con hoang của Nguyễn Văn Trung”, Nguyễn Trọng Văn đă nặng tay viết:
“Ngay cả những sinh viên chịu khó đi học và học bài, 100 người đă chắc 10 người hiểu được tới nơi, tới chốn Dasein, Hư vô, Dự phóng, Ngụy tín, Hiện hữu là ǵ, nhưng khi viết văn th́ làm như ḿnh đă hiểu hết, đă nắm mọi vấn đề. Họ dùng chữ một cách chát chúa để vượt mặt người khác và chính họ, coi việc làm dáng (tri’ thức) là làm văn nghệ, là sáng tác đích thực.” (Trích lại trong bài viết: 20 năm triết lư Tây Phương ở miền Nam Việt Nam 1955–1975, Nguyễn Văn Lục, Tân Văn số 3, trang 7, 2007.)
Phần Bùi Văn Nam Sơn, dịch giả và chú giải bộ sách đồ sộ, kinh điển của Emmanuel Kant, nguyên bản tiếng Đức: Emmanuel Kant, Phê phán lư tính thuần túy (Kritik Der Reineen Vernunft), dày 1260 trang.
Bùi Văn Nam Sơn khiêm tốn và đầy ḷng biết ơn thầy dạy bằng những ư từ sau đây:
“Tôi không hiểu hết những lời Thầy dạy về Kant… dù nhờ thầy mà lần đầu tiên được nghe những từ đầy “mê hoặc” như siêu nghiệm, vơng luận, Antinomie...(..) khi dịch và chú giải cuốn Phê phán Lư tính thuần túy của Kant, tôi đă trộm phép thầy Trần Thái Đỉnh sử dụng lại một số thuật ngữ tiếng Việt quan trọng được Thầy dùng để dịch Kant mà đến nay, tôi vẫn chưa t́m thấy cách dịch nào tốt hơn: “Niệm thức” (Schema),”Ư thể” (das Ideal), “Phân tích pháp” (Analytik) v.v… để chỉ xin đơn cử một vài thí dụ.” (Trích “Triết Học Kant”, Hồi niệm và viễn cảnh, Bùi Văn Nam Sơn, tạp chí Tân Văn, 39–40.)
Trong những năm mài đũng quần trên ghế nhà trường, tôi nghiệm ra sau này là tinh thần đại học của miền Nam mang tính chất tự do, khai phóng và nhân bản. Tự do v́ ở nơi ấy, sinh viên được suy nghĩ t́m hiểu một cách tự do và độc lập. Xin ghi lại đây một vài hồi tưởng của Nguyễn Trọng Văn về thầy Gaultier chứng tỏ sự tôn trọng tư duy độc lập như thế nào?
Đề tài bài thi tuyển sinh viên vào ban Triết đại học năm ấy như sau, “Triết học là một thái độ luôn luôn đi trên đường (en route). Và v́ thế những câu hỏi triết học thường quan trọng hơn những câu trả lời. Anh chị nghĩ ǵ về tư tưởng trên?”
Tôi không biết Nguyễn Trọng Văn đă viết ǵ trong bài triết trên. Chỉ biết rằng anh ta đă viết ngược với quan điểm của các triết gia hiện sinh thời bấy giờ. (Đặc biệt là Karl. Jaspers). Thầy Gaultier chính là người đă chấm bài của Nguyễn Trọng Văn và cho anh đỗ cao.
Trong giờ đầu tiên học thầy, thầy đă hỏi ai là tác giả bài thi và khi biết rồi có nói với Nguyễn Trọng Văn: Anh viết như thế là giữa tôi và anh không có chút quan điểm đồng thuận nào cả. Và b́nh thường, tôi có thể cho anh rớt, nhưng tôi tôn trọng quan điểm và cách lư luận của anh nên vẫn cho anh đậu.
Phải chăng đây là bài học vỡ ḷng mà những người sinh viên vừa bước vào ngưỡng của môn triết học đă học được để làm vốn vào đời?
Khai phóng v́ với tinh thần tự trị đại hoc, người sinh viên được học, được tham khảo tất cả các trào lưu triết học từ triết lư Nho giáo, Lăo giáo, Ân Độ giáo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo đến Triết học Marx–Hégel, vv…
Tôi đă có may mắn được “gặp”, trao đổi với tất cả các nhà minh triết ở trên. Họ đă giúp “khai phóng”, mở rộng tầm nhận thức của một người trẻ tuổi…
Cạnh đó, quyền tự trị đại học được tôn trọng một cách triệt để không có sự can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào các giáo tŕnh của các vị giáo sư. Quyền ấy có thể bị lấn áp, vi phạm trong phạm vi hành chánh, bổ dụng hay thăng trật. Nhưng ở nơi chốn tôn nghiêm của giảng đường đại học, các trào lưu tư tưởng triết học cổ như Trung cổ, cận đại và hiện đại đều có chỗ. Khổng Tử điềm đạm ngồi đối diện với Mác bàn về giải pháp Nhân trị hay Phát trị hay dùng bạo lực giải phóng? Lăo tử đàm đạo với Thích Ca Mầu ni thế nào là con đường giải thoát? Vô vi hay diệt dục là giải pháp tối ưu?
Các triết gia, các vị minh triết trên thường được xếp vào thời kỳ trục (Période axiale, quan điểm của K. Jasper, không đứng ở quan điểm tôn giáo) như Thích ca, Lăo Tử, Khổng tử và cuối cùng là Jesus. Họ không hẹn mà cũng nhau xuất hiện trong cùng một thời điểm như “cái trục thời gian” sáng chói nhất của lịch sử nhân loại.
Trong tinh thần khai phóng, người sinh viên được tiếp cận với tất cả những bậc minh trí vừa kể trên trong tư thế b́nh đẳng về phạm vi tư tưởng.
Nhưng cái điểm trổi bật nhất của tinh thần đại học miền Nam vẫn là ở chỗ tôn trọng con người, tôn trọng những giá trị tự do, giá trị chọn lựa cá nhân, giá trị đạo đức, giá trị tinh thần cũng như các giá trị tôn giáo.
Nh́n theo viễn tượng đường dài của tương lai th́ đây là những khẳng định khác biệt không chối căi được giữa hai miền Nam Nam Bắc trước 1975 và sau 1975.