Chỉ tiếc rằng sau khi rời khỏi “khung trời đại học”, những chọn lựa cá nhân trong cái nh́n trách nhiệm về thời cuộc th́ những người bạn cùng lớp như Nguyễn Trọng Văn, Dương Văn Ba, Lê Mạnh Thát (Thích Trí Siêu, học sau một lớp) và cả những người như Lữ Phương, (bỏ triết để học Việt hán), Bùi Văn Nam Sơn đă có những lư do riêng để “chia tay ư thức hệ”.
Phải nói thêm rằng cái mối liên hệ giữa cầm phấn viết bảng và cầm bút rất là gần. Nhiều người trong anh em chúng tôi là những cây viết sáng giá.
Trong số những người bạn ấy có Nguyễn Xuân Hoàng cái ǵ cũng hơn tôi một bước. Trẻ hơn mà học trước tôi. Trông thấy ông ấy đi sánh đôi với một trong những người con gái đẹp nhất trường ngó mà thèm. Đẹp trai mà hào hoa, tôi th́ lôi thôi, lếch thếch. Ông trở thành nhà văn rất sớm có tên mà chưa đợi tuổi. C̣n tôi th́ có tuổi mà chưa có tên.
Đến nỗi nhà văn Uyên Thao khi phải giới thiệu cuốn sách: Hai mươi năm miền Nam không biết phải gọi NVL là ǵ? Nhà văn không phải, sử học cũng không, phê b́nh văn học cũng không.
Có lẽ cái danh xưng đúng nhất th́ tôi là người cầm bút muộn.
Một điều an ủi nhất là tuyệt đại đa số những bạn bè khác như Hồ Công Hưng, Hồ Công Danh, Vĩnh Đễ, Nguyễn Đồng, Tô Văn Lai, Huỳnh Phan Anh, Phạm Phú Minh, chị Phi Loan (phu nhân nhà văn Sơn Tùng đă quá văng) và hằng trăm người khác th́ tự chọn chỗ đứng trong hàng ngũ những người chống lại những người cộng sản.
Những thứ triết lư nhân bản mà chúng tôi đă được tiếp thu, làm sao anh em bạn bè có thể xếp hàng trong hàng ngũ những người cộng sản?
Và đến một lúc nào đó t́nh bạn bị sứt mẻ v́ chính kiến bất đồng. Trong một bữa ăn họp mặt năm 2005 đầu 2006, tại Sài G̣n. Một người bạn đă nhân cơ hội này đứng lên vạch mặt một người bạn khác hài cái tội “gài bẫy” anh em.
Bữa ăn họp mặt đó tưởng đă đủ là một bài học cho ai đó. Vậy mà bằng một lư do tiềm ẩn nào sau đó, Nguyễn Trọng Văn bắn phát súng lệnh mở màn phê phán nặng nề thày cũ của ḿnh.
Tôi đă buộc ḷng viết những bài báo đáp trả nặng nề lại Nguyễn Trọng Văn, Lữ Phương. Hầu như không có phản hồi. Ngưng bắn.
Cho đến bây giờ, tôi vẫn nghĩ đó là một bổn phận người cầm bút miền Nam. Và cái tội danh ấy gây ra mâu thuẫn đối đầu giữa bạn bè cuối cùng phải nh́n thấy nguyên do là ở chính quyền cộng sản.
Cộng sản đă phá nát tất cả mọi giá trị con người trong đó có t́nh thầy tṛ, t́nh bạn và t́nh người.
Hóa cho nên, học cùng một trường, cùng một lề lối đào tạo mà tiêu chí của đại học là tinh thần tự do tư duy và tinh thần nhân bản trong sự tôn trọng con người chưa đủ để nối kết chúng tôi lại. Thời thế gay go, hoàn cảnh chính trị khuynh đảo đă là nguyên cớ tách rẽ một vài người bạn trở thành những kẻ đối đầu. Như Lê Mạnh Thát mang án trọng tội tử h́nh một lúc nào đó đổi chiều trở thành “người của thời thế” làm trung gian giữa thế quyền và thần quyền để rồi cũng mai danh, ẩn tích?
Nhưng trong buổi họp tháng bảy vừa qua, tại California với một số bạn bè cùng trường Đà Lạt, chúng tôi đă chẳng hề nhắc tên những người bạn ấy.
T́nh bạn bè vẫn là yếu tố chính nối kết nối con người mà những nhân tố khác như chính trị tạm thời được “để trong ngoặc” hay đi chỗ khác chơi.
V́ thế chúng tôi chỉ nhắc lại những kỷ niệm vui buồn thời tuổi trẻ để mà cười như vỡ nhà.
Câu chuyện được kể lại và làm mọi người thích thú của Tô Văn Lai (Paris by night) kể là vào khoảng tháng 11, 12 ǵ đó, vào lúc gần nửa đêm, chẳng hiểu tại sao Tô Văn Lai thách: đứa nào bơi qua được hồ Hồ Xuân Hương với một tay thôi th́ TVL mất cái Radio–Cassette. Trong lớp lúc ấy có ba Minh th́ Minh “heo” nhận lời. Nửa đêm, sinh viên học xá ùn ùn kéo nhau chạy ra hồ để coi.
Phần tôi cũng choàng vội cái áo nhà binh 4 túi như thường lệ chạy theo ra coi. Đêm tối, trời lạnh quả là một lũ điên khùng mới làm như vậy… mọi người lo lắng hồi hộp theo dơi bóng của Minh. Đến giữa hồ, Minh heo sợ kêu to: cứu tôi với, cứu tôi với... Nhiều tiếng hét từ trên bờ kêu hắn quay trở lại, bơi vào bờ. Nguyễn Trọng Văn cũng to và mập cởi quần áo bơi hộ tống. Phần Minh, kêu th́ vẫn kêu, nhưng anh ta vẫn cứ thế với chỉ một tay bơi vào bờ bên kia bằng mọi giá để chiếm cái Radio, một vật sở hữu không phải ai cũng có.
Đà Lạt
Nghĩ lại Tô Văn Lai nói, tại sao ḿnh lại ngu thế: Nhỡ hắn bị syncope, cứng đơ chết đuối th́ ḿnh mang tội giết người mà nếu hắn bơi được vào bờ th́ tư nhiên ḿnh mất cái Radio! Khùng ơi là khùng! Cả thằng thách đố lẫn thằng nhận thách đố đều khùng.
Phải chăng đó là cái làm nên tuổi trẻ chúng tôi – những nghịch phá ngây ngô và khờ dại.
Câu chuyện thứ hai là vụ tranh chức chủ tịch sinh viên giữa Nguyễn Trọng Văn và Nguyễn Ngọc Thạch. Thạch nhỏ người so với Nguyễn Trọng Văn, tức khí tuổi trẻ, lừa lúc NTV đang chải đầu trong nhà tắm, lấy gậy quất túi bụi vào lưng NTV rồi bỏ chạy...
Vậy mà lúc tôi đang viết những ḍng này đây th́ Nguyễn Trọng Văn đă bị tai biến mạch máu năo, ngồi xe lăn từ mấy năm nay. Phần Nguyễn Ngọc Thạch th́ nay lâm trọng bệnh khó qua khỏi. (Anh đă ra đi trong tháng trước để lại nhiều thương tiếc trong đám bạn bè quận 8, các phong trào du ca vv..)
Nghĩ tới Nguyễn Ngọc Thạch, tôi chợt nghĩ đến hai ḍng tiếp hiện dấn thân của thanh niên, sinh viên thời đó.
Một ḍng dấn thân vào các cuộc tranh đấu, “xuống đường” với biểu t́nh, đối diện với cảnh sát, hàng rào kẽm gai, khói lựu đạn cay với tuyệt thực, với biểu ngữ.
Nhưng bên cạnh đó, có những phong trào sinh viên học sinh mà tôi gọi là “Lên đường” với rất nhiều chương tŕnh xă hội phục vụ quần chúng. Đại loại như các phong trào “khóm ước”, “hẻm ước” đa dạng. Những tôn tạo chữ khóm ước nay chỉ c̣n là giấc mơ của một thời tuổi trẻ. Cạnh đó là các tổ chức như:
– Giỗ tổ Hùng Vương.
– Tổ chức cứu lụt miền Trung 64–66.
– Tổ chức các trung tâm khuyến học tại trung tâm khuyến học Hùng Vương.
– Hội họa sĩ Trẻ.
– Quán Văn Khoa.
– Các Phong trào Du ca, Trầm ca.
– Đoàn Văn nghệ sinh viên học sinh Nguồn sống.
– Phong trào Học đường phụng sự xă hội. Chương tŕnh phát triển quận 8
– Chương tŕnh công tác hè 1965, Summer Youth Program (SYP.)
Chỉ tiếc rằng sau khi rời khỏi “khung trời đại học”, những chọn lựa cá nhân trong cái nh́n trách nhiệm về thời cuộc th́ những người bạn cùng lớp như Nguyễn Trọng Văn, Dương Văn Ba, Lê Mạnh Thát (Thích Trí Siêu, học sau một lớp) và cả những người như Lữ Phương, (bỏ triết để học Việt hán), Bùi Văn Nam Sơn đă có những lư do riêng để “chia tay ư thức hệ”.
Phải nói thêm rằng cái mối liên hệ giữa cầm phấn viết bảng và cầm bút rất là gần. Nhiều người trong anh em chúng tôi là những cây viết sáng giá.
Trong số những người bạn ấy có Nguyễn Xuân Hoàng cái ǵ cũng hơn tôi một bước. Trẻ hơn mà học trước tôi. Trông thấy ông ấy đi sánh đôi với một trong những người con gái đẹp nhất trường ngó mà thèm. Đẹp trai mà hào hoa, tôi th́ lôi thôi, lếch thếch. Ông trở thành nhà văn rất sớm có tên mà chưa đợi tuổi. C̣n tôi th́ có tuổi mà chưa có tên.
Đến nỗi nhà văn Uyên Thao khi phải giới thiệu cuốn sách: Hai mươi năm miền Nam không biết phải gọi NVL là ǵ? Nhà văn không phải, sử học cũng không, phê b́nh văn học cũng không.
Có lẽ cái danh xưng đúng nhất th́ tôi là người cầm bút muộn.
Một điều an ủi nhất là tuyệt đại đa số những bạn bè khác như Hồ Công Hưng, Hồ Công Danh, Vĩnh Đễ, Nguyễn Đồng, Tô Văn Lai, Huỳnh Phan Anh, Phạm Phú Minh, chị Phi Loan (phu nhân nhà văn Sơn Tùng đă quá văng) và hằng trăm người khác th́ tự chọn chỗ đứng trong hàng ngũ những người chống lại những người cộng sản.
Những thứ triết lư nhân bản mà chúng tôi đă được tiếp thu, làm sao anh em bạn bè có thể xếp hàng trong hàng ngũ những người cộng sản?
Và đến một lúc nào đó t́nh bạn bị sứt mẻ v́ chính kiến bất đồng. Trong một bữa ăn họp mặt năm 2005 đầu 2006, tại Sài G̣n. Một người bạn đă nhân cơ hội này đứng lên vạch mặt một người bạn khác hài cái tội “gài bẫy” anh em.
Bữa ăn họp mặt đó tưởng đă đủ là một bài học cho ai đó. Vậy mà bằng một lư do tiềm ẩn nào sau đó, Nguyễn Trọng Văn bắn phát súng lệnh mở màn phê phán nặng nề thày cũ của ḿnh.
Tôi đă buộc ḷng viết những bài báo đáp trả nặng nề lại Nguyễn Trọng Văn, Lữ Phương. Hầu như không có phản hồi. Ngưng bắn.
Cho đến bây giờ, tôi vẫn nghĩ đó là một bổn phận người cầm bút miền Nam. Và cái tội danh ấy gây ra mâu thuẫn đối đầu giữa bạn bè cuối cùng phải nh́n thấy nguyên do là ở chính quyền cộng sản.
Cộng sản đă phá nát tất cả mọi giá trị con người trong đó có t́nh thầy tṛ, t́nh bạn và t́nh người.
Hóa cho nên, học cùng một trường, cùng một lề lối đào tạo mà tiêu chí của đại học là tinh thần tự do tư duy và tinh thần nhân bản trong sự tôn trọng con người chưa đủ để nối kết chúng tôi lại. Thời thế gay go, hoàn cảnh chính trị khuynh đảo đă là nguyên cớ tách rẽ một vài người bạn trở thành những kẻ đối đầu. Như Lê Mạnh Thát mang án trọng tội tử h́nh một lúc nào đó đổi chiều trở thành “người của thời thế” làm trung gian giữa thế quyền và thần quyền để rồi cũng mai danh, ẩn tích?
Nhưng trong buổi họp tháng bảy vừa qua, tại California với một số bạn bè cùng trường Đà Lạt, chúng tôi đă chẳng hề nhắc tên những người bạn ấy.
T́nh bạn bè vẫn là yếu tố chính nối kết nối con người mà những nhân tố khác như chính trị tạm thời được “để trong ngoặc” hay đi chỗ khác chơi.
V́ thế chúng tôi chỉ nhắc lại những kỷ niệm vui buồn thời tuổi trẻ để mà cười như vỡ nhà.
Câu chuyện được kể lại và làm mọi người thích thú của Tô Văn Lai (Paris by night) kể là vào khoảng tháng 11, 12 ǵ đó, vào lúc gần nửa đêm, chẳng hiểu tại sao Tô Văn Lai thách: đứa nào bơi qua được hồ Hồ Xuân Hương với một tay thôi th́ TVL mất cái Radio–Cassette. Trong lớp lúc ấy có ba Minh th́ Minh “heo” nhận lời. Nửa đêm, sinh viên học xá ùn ùn kéo nhau chạy ra hồ để coi.
Phần tôi cũng choàng vội cái áo nhà binh 4 túi như thường lệ chạy theo ra coi. Đêm tối, trời lạnh quả là một lũ điên khùng mới làm như vậy… mọi người lo lắng hồi hộp theo dơi bóng của Minh. Đến giữa hồ, Minh heo sợ kêu to: cứu tôi với, cứu tôi với... Nhiều tiếng hét từ trên bờ kêu hắn quay trở lại, bơi vào bờ. Nguyễn Trọng Văn cũng to và mập cởi quần áo bơi hộ tống. Phần Minh, kêu th́ vẫn kêu, nhưng anh ta vẫn cứ thế với chỉ một tay bơi vào bờ bên kia bằng mọi giá để chiếm cái Radio, một vật sở hữu không phải ai cũng có.
Đà Lạt
Nghĩ lại Tô Văn Lai nói, tại sao ḿnh lại ngu thế: Nhỡ hắn bị syncope, cứng đơ chết đuối th́ ḿnh mang tội giết người mà nếu hắn bơi được vào bờ th́ tư nhiên ḿnh mất cái Radio! Khùng ơi là khùng! Cả thằng thách đố lẫn thằng nhận thách đố đều khùng.
Phải chăng đó là cái làm nên tuổi trẻ chúng tôi – những nghịch phá ngây ngô và khờ dại.
Câu chuyện thứ hai là vụ tranh chức chủ tịch sinh viên giữa Nguyễn Trọng Văn và Nguyễn Ngọc Thạch. Thạch nhỏ người so với Nguyễn Trọng Văn, tức khí tuổi trẻ, lừa lúc NTV đang chải đầu trong nhà tắm, lấy gậy quất túi bụi vào lưng NTV rồi bỏ chạy...
Vậy mà lúc tôi đang viết những ḍng này đây th́ Nguyễn Trọng Văn đă bị tai biến mạch máu năo, ngồi xe lăn từ mấy năm nay. Phần Nguyễn Ngọc Thạch th́ nay lâm trọng bệnh khó qua khỏi. (Anh đă ra đi trong tháng trước để lại nhiều thương tiếc trong đám bạn bè quận 8, các phong trào du ca vv..)
Nghĩ tới Nguyễn Ngọc Thạch, tôi chợt nghĩ đến hai ḍng tiếp hiện dấn thân của thanh niên, sinh viên thời đó.
Một ḍng dấn thân vào các cuộc tranh đấu, “xuống đường” với biểu t́nh, đối diện với cảnh sát, hàng rào kẽm gai, khói lựu đạn cay với tuyệt thực, với biểu ngữ.
Nhưng bên cạnh đó, có những phong trào sinh viên học sinh mà tôi gọi là “Lên đường” với rất nhiều chương tŕnh xă hội phục vụ quần chúng. Đại loại như các phong trào “khóm ước”, “hẻm ước” đa dạng. Những tôn tạo chữ khóm ước nay chỉ c̣n là giấc mơ của một thời tuổi trẻ. Cạnh đó là các tổ chức như:
– Giỗ tổ Hùng Vương.
– Tổ chức cứu lụt miền Trung 64–66.
– Tổ chức các trung tâm khuyến học tại trung tâm khuyến học Hùng Vương.
– Hội họa sĩ Trẻ.
– Quán Văn Khoa.
– Các Phong trào Du ca, Trầm ca.
– Đoàn Văn nghệ sinh viên học sinh Nguồn sống.
– Phong trào Học đường phụng sự xă hội. Chương tŕnh phát triển quận 8
– Chương tŕnh công tác hè 1965, Summer Youth Program (SYP.)
Khi chúng tôi rời khỏi trường Đà Lạt trong biểu tương “Thụ Nhân”, trồng người và với sứ mệnh bung tỏa đi khắp nơi trên mọi nẻo đường đất nước. Nghĩ lại, chúng tôi là như những kẻ “gieo trồng” đem gieo hạt giống tư tưởng Triết đi khắp nơi, cho tất cả thế hệ trẻ miền Nam.
Trường Đại Học Đà Lạt sau đó thay h́nh đổi dạng như “mặc bộ áo mới” với hàng ngàn thanh niên trẻ “lên núi” học trường Chính Tri, Kinh doanh.
Tại sao họ lại leo núi, tại sao họ chọn lựa phân khoa Chính Trị, Kinh Doanh? Câu trả lời về phía họ...
Chỉ biết rằng, nhất là sau 1975, họ trở thành “nên ông nên bà”, có vai tṛ trong xă hội. Cả một lớp người mới mà sau này họ trở thành những nhà quản trị, những chủ nhân ông, những giám đốc xí nghiệp, v.v…
Có lẽ đó là cách đánh giá thành quả quư giá nhất của viện Đại Học Đà Lạt sau này.
Được như thế, như trên đă viết, không thể quên một người: linh mục viện trưởng Nguyễn Văn Lập mà sau này các anh em cựu sinh viên chính trị kinh doanh các khóa đầu đă đối đăi trong t́nh tôn sư trọng đạo.
Trong số những người mở đường cho phân khoa này, c̣n có giáo sư Trần Long có mặt trong kỳ họp cựu sinh viên Thụ Nhân, năm 2010.
Xin chia xẻ niềm vui và hân hoan với các cựu sinh viên CTKD, Đà Lạt trong dịp họp mặt này vào cuối tháng 11 tại Úc Đại Lợi.
Các anh, các chị “đă làm nên chuyện”.
Phần những cựu sinh viên như chúng tôi trở thành những thế hệ chót được đào tạo triết học trong bối cảnh miền Nam đang đi vào những nóng bỏng của thời cuộc.
Nh́n lại cả quăng đời tuổi trẻ theo nghĩa “Trở về” trong triết học th́ hành tŕnh nhân thế Đi là để Về, không thể Đi mà không Về... như bước Đi và bước Nghỉ, như thân phận Người...
Cái ư nghĩa của cuộc đời (raison d’être) là cảm thấy đă làm được một điều ǵ, dù có thể chưa hoàn tất đi nữa. Dù có đôi chút t́nh tự lăng mạn:
Người cầm bút muộn (2010)
“Hôm sau vào lớp
Nh́n em ngại ngần”
(Phạm Thiên Thư)
Nhưng điều chính là chúng tôi phải tự hào về những năm tháng ấy như những người thợ gieo gặt trên mảnh đất miền Nam – từng ngày– từng năm tháng– từng thế hệ thanh thiếu niên.
Chúng tôi đă “cấy” những luồng tư tưởng mới, cấy niềm tin, gieo vào vào đầu óc những thế hệ thanh niên những giá tri tinh thần với niềm xác tín. Bởi v́ dạy học mà không có xác tín, không cấy được niềm tin th́ không có giáo dục.
Chính ở điểm then chốt này từ sau 75, chúng ta mới có dịp so đo để thấy đâu là giáo dục, đâu là không giáo dục!
Và đây cũng là lời gửi nhắn đến các thế hệ sinh viên đàn em CTKD Đà Lạt, các học tṛ khắp nơi. Chúng ta có thể thua cuộc. Chúng ta có thể đă để mất miền Nam. Văn học của chúng ta bị Cộng sản vùi dập, phần thư.
Nhưng chúng ta vẫn có thể tự hào và đừng bao giờ để mất cái niềm tự hào ấy là sau 35 năm rồi, chưa bao giờ thế hệ con em chúng ta đă được thừa hưởng một nền giáo dục như thế!
Thụ Nhân là Trồng Người, nào có thể trao vào tay những tên bạo chúa của thời đại bây giờ. Chẳng lẽ chúng ta vẫn ngồi yên nh́n cái sa lầy và cái ngu dốt của một chế độ đang trên đà tan ră? Và đối với những ai đang tham gia vào quá tŕnh “cách mạng” là tự tham gia vào một quá tŕnh tự tiêu diệt chính ḿnh trong nay mai!
Khi chúng tôi rời khỏi trường Đà Lạt trong biểu tương “Thụ Nhân”, trồng người và với sứ mệnh bung tỏa đi khắp nơi trên mọi nẻo đường đất nước. Nghĩ lại, chúng tôi là như những kẻ “gieo trồng” đem gieo hạt giống tư tưởng Triết đi khắp nơi, cho tất cả thế hệ trẻ miền Nam.
Trường Đại Học Đà Lạt sau đó thay h́nh đổi dạng như “mặc bộ áo mới” với hàng ngàn thanh niên trẻ “lên núi” học trường Chính Tri, Kinh doanh.
Tại sao họ lại leo núi, tại sao họ chọn lựa phân khoa Chính Trị, Kinh Doanh? Câu trả lời về phía họ...
Chỉ biết rằng, nhất là sau 1975, họ trở thành “nên ông nên bà”, có vai tṛ trong xă hội. Cả một lớp người mới mà sau này họ trở thành những nhà quản trị, những chủ nhân ông, những giám đốc xí nghiệp, v.v…
Có lẽ đó là cách đánh giá thành quả quư giá nhất của viện Đại Học Đà Lạt sau này.
Được như thế, như trên đă viết, không thể quên một người: linh mục viện trưởng Nguyễn Văn Lập mà sau này các anh em cựu sinh viên chính trị kinh doanh các khóa đầu đă đối đăi trong t́nh tôn sư trọng đạo.
Trong số những người mở đường cho phân khoa này, c̣n có giáo sư Trần Long có mặt trong kỳ họp cựu sinh viên Thụ Nhân, năm 2010.
Xin chia xẻ niềm vui và hân hoan với các cựu sinh viên CTKD, Đà Lạt trong dịp họp mặt này vào cuối tháng 11 tại Úc Đại Lợi.
Các anh, các chị “đă làm nên chuyện”.
Phần những cựu sinh viên như chúng tôi trở thành những thế hệ chót được đào tạo triết học trong bối cảnh miền Nam đang đi vào những nóng bỏng của thời cuộc.
Nh́n lại cả quăng đời tuổi trẻ theo nghĩa “Trở về” trong triết học th́ hành tŕnh nhân thế Đi là để Về, không thể Đi mà không Về... như bước Đi và bước Nghỉ, như thân phận Người...
Cái ư nghĩa của cuộc đời (raison d’être) là cảm thấy đă làm được một điều ǵ, dù có thể chưa hoàn tất đi nữa. Dù có đôi chút t́nh tự lăng mạn:
Người cầm bút muộn (2010)
“Hôm sau vào lớp
Nh́n em ngại ngần”
(Phạm Thiên Thư)
Nhưng điều chính là chúng tôi phải tự hào về những năm tháng ấy như những người thợ gieo gặt trên mảnh đất miền Nam – từng ngày– từng năm tháng– từng thế hệ thanh thiếu niên.
Chúng tôi đă “cấy” những luồng tư tưởng mới, cấy niềm tin, gieo vào vào đầu óc những thế hệ thanh niên những giá tri tinh thần với niềm xác tín. Bởi v́ dạy học mà không có xác tín, không cấy được niềm tin th́ không có giáo dục.
Chính ở điểm then chốt này từ sau 75, chúng ta mới có dịp so đo để thấy đâu là giáo dục, đâu là không giáo dục!
Và đây cũng là lời gửi nhắn đến các thế hệ sinh viên đàn em CTKD Đà Lạt, các học tṛ khắp nơi. Chúng ta có thể thua cuộc. Chúng ta có thể đă để mất miền Nam. Văn học của chúng ta bị Cộng sản vùi dập, phần thư.
Nhưng chúng ta vẫn có thể tự hào và đừng bao giờ để mất cái niềm tự hào ấy là sau 35 năm rồi, chưa bao giờ thế hệ con em chúng ta đă được thừa hưởng một nền giáo dục như thế!
Thụ Nhân là Trồng Người, nào có thể trao vào tay những tên bạo chúa của thời đại bây giờ. Chẳng lẽ chúng ta vẫn ngồi yên nh́n cái sa lầy và cái ngu dốt của một chế độ đang trên đà tan ră? Và đối với những ai đang tham gia vào quá tŕnh “cách mạng” là tự tham gia vào một quá tŕnh tự tiêu diệt chính ḿnh trong nay mai!