View Full Version : Sự hoang tưởng quyền lực
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=2333958&stc=1&d=1707580726
Lịch sử đă chứng minh, dân tộc nào có nền văn hoá cao hơn sẽ thống trị và đồng hoá các dân tộc có nền văn hoá thấp hơn, chứ không phải các trận chiến trên chiến trường.
Tại sao Mông Cổ lại bị đồng hóa ngược bởi Trung Quốc?
Năm xưa Thành Cát Tư Hăn đô hộ Trung Quốc áp đặt sự cai trị của ḿnh lên đất nước này. Thời gian qua đi một điều kỳ lạ là những thế hệ sau này của người Măn lại quên đi cái gốc gác của ḿnh là người Mông Cổ, tại sao vậy ?
Không chỉ người Mông Cổ sau một thời gian quên đi gốc gác của ḿnh hoặc nói cách khác là bị Hán hóa đến bất cứ dân tộc du mục nào từng cai trị Trung Quốc cho dù Nữ Chân, Khiết Đan, Đảng Hạ cũng như vậy, cá biệt đám Tiên Ty sau vài đời c̣n tự ḿnh xưng là Hán nhân quên luôn cái gốc du mục của ḿnh thậm chí đến tên gọi, chữ viết cũng không nhớ.
Ngay từ thời cổ trung, văn hóa, lịch pháp, luật chế của Trung Hoa đă rất đồ sộ, đạt đến độ chín và văn minh vượt trội so với nhiều bộ tộc du mục (nhiều bộ tộc c̣n chưa có chữ viết), giai cấp thống trị du mục mà kể cả người Mông Cô v́ nhiều lư do trong đó có cả vấn đề dân số đă phải áp dụng văn hóa, lễ pháp Trung Hoa, dần dần theo nhiều đời bị ảnh hưởng, hán hóa nghiêm trọng dẫn đến quên nguồn gốc.
Không vô lư khi nói rằng: VĂN HOÁ C̉N, DÂN TỘC C̉N.
Thời gian là con đường vô tận, những ǵ bất hạnh, không đạt được thời gian chính là niềm an ủi, một liều thuốc an thần để con người ta nuôi hy vọng.
Những kẻ nào giỏi reo hy vọng vào đầu người khác, để người khác tin là những bậc kỳ tài.
Tại sao có hàng tỷ người tin vào Chúa, Phật, Ala… những thánh nhân, thánh thần…? Ư thức tôn giáo đi cùng với thời gian, không có giới hạn chẳng có điểm mốc thập kỷ, thế kỷ đạt được thành tựu này thành tựu khác… đă ngấm vào huyết quản của họ.
Tôn giáo dẫn con người đi đến tương lai bằng khai sáng tư tưởng, tạo ra một thứ văn hoá con người v́ con người, không phải văn hoá của chế độ áp đặt lên con người.
Văn hoá mang hơi thở của tôn giáo, được tôn giáo dẫn dắt không phụ thuộc vào chế độ xă hội, đem đến sự trường tồn hàng ngh́n năm nay chính là đức tin, sự giác ngộ.
Ai thúc dục những con nhang đệ tử lên chùa dâng lễ?
Niềm tin nào hàng triệu tín đồ Hồi giáo đổ về thánh địa Mecca?
Hàng tỷ giáo dân thành kính đi nhà thờ mỗi sáng chủ nhật v́ lẽ ǵ?
Hàng ngh́n năm nay, qua bao nhiêu chế độ xă hội, qua biết bao nhiêu triều đại, hàng vạn cuộc chiến tranh…các đạo giáo truyền thống vẫn tồn tại. V́ tôn giáo quyết định văn hoá, tôn giáo tạo ra văn hoá, và đức tin chính là bầu sữa nuôi tôn giáo tồn tại.
Rơ ràng tôn giáo không phụ thuộc vào chế độ, mọi chế độ muốn tồn tại phải dựa vào tôn giáo, giữ ǵn tôn giáo chính là văn hoá.
Tôn giáo quyết định văn hóa mà văn hóa th́ quyết định tính cách dân tộc; tính cách dân tộc lại quyết định số phận dân tộc.
Như vậy lịch sử đă chứng minh không có thứ “văn hoá chế độ” được h́nh thành, nếu có nó là phi tôn giáo.
Thế nào là văn hoá của chế độ?
Đây là một thuật ngữ ra đời kể từ khi chế độ cộng sản cầm quyền h́nh thành.
Điều này có nghĩa chính quyền cộng sản xây dựng một nền văn hoá mới cho chế độ, lấy văn hoá chế độ để dẫn dắt con người đi đến tương lai, đạt được các giá trị vật chất, lấy vật chất không phải nuôi dưỡng tinh thần mà chỉ để khao khát đạt được dục vọng, sự hưởng thụ thân xác bằng mọi giá, kể cả bạo lực.
Điểm khác biệt giữa văn hoá h́nh thành từ tôn giáo và văn hoá chế độ là ở chỗ nào?
Văn hoá h́nh thành từ tôn giáo được dẫn dắt bởi các giáo hội, các giáo hội dẫn dắt dân chúng bằng xây dựng đức tin thông qua giáo lư, không phải bằng biện pháp quản lư, chiếm quyền quản lư xă hội, xây dựng nhà nước, lấy tinh thần là mục tiêu hướng tới..
Văn hoá chế độ chỉ h́nh thành khi những người cộng sản cầm quyền. Mục đích của văn hoá chế độ là bảo vệ sự tồn tại của chế độ, thông qua định hướng h́nh thành văn hoá, lấy luật pháp quản lư văn hoá, lấy vật chất định h́nh các mục tiêu phát triển của quốc gia, và văn hoá là công cụ để đạt các mục tiêu ấy.
Văn hoá chế độ là thứ văn hoá phi tôn giáo.
Nó là văn hoá thể hiện quyền lực, bị chi phối bởi quyền lực.
PHẦN 2.
BẢN CHẤT VĂN HOÁ CHẾ ĐỘ.
Trụ sở Viện Triết học nằm trên đường Láng Hạ là một ngôi nhà 4 tầng quanh năm gần như cửa đóng then cài.
Ngày thường là nơi trú ngụ của các hàng quà, hàng nước.
Dịp tết đến cho mấy bà bán hoa thuê bán hàng. Hoa, cây cảnh để trật cả lối ra vào… xem ra nơi trí tuệ đỉnh cao của chế độ cũng chỉ để làm cái chợ.
Thỉnh thoảng các triết gia của chế độ tụ tập về đây theo giấy triệu tập.
Nhiệm vụ của họ không phải dùng thế giới quan và phương luận để phản biện, hay phê phán đường lối chính sách, bởi các vị này tuy học vị, học hàm rất oách giáo sư này tiến sĩ kia nhưng cùng được đào tạo trong một ḷ của đảng.
Thứ kiến thức mà họ được tiếp thu, và dạy dỗ đơn thuần chỉ từ cẩm nang “Triết học Mác- Lê Nin” - Một giáo tŕnh cổ lỗ duy nhất được bê nguyên vẹn du nhập từ Liên Xô cũ.
Công việc chính của Viện Triết học là phục vụ cho Ban tuyên giáo, từ cụ thể hoá đường lối chính sách của đảng, xây dựng nó thành hệ thống lư luận, quan điểm, đường lối … làm sao cho có vẻ khoa học, thực tiễn sinh động.
Họ không làm cái việc đáng phải làm đúng chức năng của ḿnh đó là phản biện, mà trở thành điếu đóm cho chế độ.
Tại sao lại đưa câu chuyện Viện Triết học vào đây?
Nó là một ví dụ cho cách hành xử ngược đời trong chế độ độc đảng cầm quyền, khác với các nước dân chủ - các triết gia nằm trong giới tinh hoa chính trị, họ độc lập không ăn cơm chế độ, cũng chẳng tồn tại theo chế độ, họ uốn nắn xă hội, nh́n nhận xă hội bằng thế giới quan khoa học, dùng các phương pháp luận logic để đánh giá, đo lường đường lối chính sách một cách khách quan, trung thực.
Văn hoá là cách hành xử, vai tṛ của triết gia bị hạ bệ như thế là điển h́nh ứng xử của văn hoá chế độ.
Điều này nó hoàn toàn hợp lư với bản chất của chế độ chuyên quyền.
Một chế độ chuyên quyền, độc đảng cầm quyền dẫn dắt xă hội, “văn hoá đảng” sẽ là văn hoá nền tảng của xă hội, đó là thứ văn hoá mang bản chất quyền lực.
Quyền lực độc tôn, không bị kiểm soát bởi các thành phần khác trong xă hội sẽ đẻ ra các căn bệnh quyền lực.
Những căn bệnh quyền lực này không được ngăn chặn, nó sẽ tạo ra một thứ “văn hoá quan trường”
Văn hoá quan trường của những kẻ nắm vận mệnh quốc gia sẽ chi phối dẫn dắt, là tấm gương cho văn hoá dân tộc, dân chúng đi theo,
Văn hoá chế độ đă làm nát văn hoá dân tộc theo một con đường hủ bại nhất chính là sự biến chất của những kẻ có chức, có quyền - Biến chất, suy đồi từ lối sống đến nhơ nhuốc, bệnh hoạn về mặt tư tưởng, tinh thần.
Các biểu hiện của bệnh quyền lực như thế nào, xin đọc tiếp ở các phần tiếp theo.
PHẦN 3.
BỆNH QUYỀN LỰC TRONG CHẾ ĐỘ CHUYÊN QUYỀN.
Kể từ năm 1917 khi những người vô sản ở Nga lên nắm chính quyền, chế độ chuyên quyền được h́nh thành.
Chế độ chuyên quyền có những đặc điểm cơ bản giống chế độ chuyên chế.
Nhưng thay vào một cá nhân độc tài là một đảng độc tài, và dần theo thời gian tại nhiều quốc gia cộng sản h́nh thái chuyên quyền và chuyên chế cùng song song tồn tại, điển h́nh như Bắc Triều Tiên với gia đ́nh nhà họ Kim, và Trung Quốc mới đây là Tập Cận B́nh.
Không ai khác, chính những người cộng sản lại là những người nói về bệnh quyền lực nhiều nhất, v́ theo họ bệnh quyền lực chính là nguyên nhân biến chất thoái hoá trong đảng, đến một mức độ không kiểm soát được sẽ dẫn đến mất đảng, mất chế độ.
Họ chỉ ra rất nhiều căn bệnh trong chế độ chuyên quyền, nhưng ba căn bệnh quái ác nhất đó là:
- Bệnh HOANG TƯỞNG.
- Bệnh GIÁO ĐIỀU.
- Bệnh THAM QUYỀN CỐ VỊ.
Lịch sử đă chứng minh bệnh quyền lực là con đẻ, bản chất của chế độ chuyên quyền, nhưng những người cộng sản không cho như vậy, chính v́ thế họ ra sức dùng các biện pháp để pḥng chống bệnh quyền lực, thậm chí dùng cả bạo lực để chống.
Và trong thực tế càng chống căn bệnh này càng nặng, và đến một đỉnh điểm nào đó tính dân chủ trong đảng cầm quyền bị mất, trong đảng sẽ xuất hiện một nhân vật độc tài. Điển h́nh trong số này là Stalin, Mao Trạch Đông, Fidel Castro trong quá khứ, họ Kim, Tập Cận B́nh… trong hiện tại.
Những người CS khi cầm quyền họ chống sùng bái cá nhân, lấy dân chủ trong đảng là công cụ nhưng thực tế tất cả các quốc gia cộng sản lại sản sinh ra những kẻ cầm lái vĩ đại.
Lấy đảng cộng sản Trung Quốc làm ví dụ, Mao cầm quyền cho đến khi chết, mọi lời nói của Mao c̣n hơn cả kinh thánh.
Mao chết, cải cách mở cửa Mao bị hạ bệ, tưởng như sự tôn sùng cá nhân đă chấm dứt, nhưng sự chuyên quyền chỉ chuyển từ kẻ này sang kẻ khác.
Tập Cận B́nh trở thành kẻ độc tài mới, thay đổi Hiến pháp, Điều lệ đảng thâu tóm cả ba vị trí quyền lực (Tống bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch quân ủy trung ương) bỏ tư tưởng Mao, tự đưa tư tưởng Tập Cận B́nh vào Hiến pháp, xoá bỏ hai nhiệm kỳ, cầm quyền vô thời hạn.
Với những nhà nghiên cứu về các chế độ chuyên quyền ở phương Tây họ có cách nh́n nhận khác về căn bệnh quyền lực.
Họ cho rằng, những người cộng sản cầm quyền chỉ là dối trá, đạo đức giả.
Hoang tưởng, giáo điều, tham quyền cố vị chính là bản chất của những kẻ độc tài, nó vừa là phương tiện và là mục đích của họ để củng cố quyền lực.
Đây không phải là căn bệnh của chế độ, nó là căn bệnh hủy hoại dân tộc, quốc gia.
Ba căn bệnh này thực chất đó là ba công cụ cai trị, thủ đoạn để bảo vệ chế độ, lúc này là mục đích, lúc khác là phương tiện và ngược lại.
Đến đây chúng ta đă có thể nh́n nhận một cách đúng đắn về bệnh quyền lực, có hai điểm được đúc kết:
- Với chế độ chuyên quyền nó vừa là phương tiện vừa là mục đích - không có hoang tưởng, giáo điều, tham quyền cố vị không phải là chế độ chuyên quyền, không có ba công cụ này chế độ chuyên quyền không tồn tại.
- Việc họ cho rằng, hoang tưởng, giáo điều, tham quyền cố vị là một căn bệnh của đảng cầm quyền chỉ là vỏ bọc nó chính là liều thuốc bổ nuôi sống chế độ chuyên quyền, là độc dược hủy hoại quốc gia, dân tộc.
(C̣n tiếp).
Đâu có sao, khi nào tới đó th́ lao đông tại chổ, khỏi cần xuất khẩu lao động nữa, khỏe re, như con người kéo xe, thay v́ con ḅ kéo xe.
NguoiTânĐinh
02-11-2024, 00:43
Đất nước của VC làm chủ th́ nó muốn làm cái đéo ǵ th́ cũng.... kệ mẹ nó chứ; c̣n đứa nào muốn giữ nước, đéo muốn bị "Hán hóa" th́ đừng có chơi tṛ đào-ngũ-trước-địch-quân, phải đứng lên "cướp" lại cái đéo ǵ ḿnh cứ cho là của ḿnh, xong xuối th́ ḿnh muốn chống Tàu, chống Hán, chống Thanh, vv... muốn làm đất nước kiểu đéo ǵ th́ ḿnh cứ làm theo ư ḿnh.... Chứ đừng có ngày này tháng nọ "rên rỉ" gần 50 năm mà có đụng tay làm cái đéo ǵ cho ra hồn đâu..... Mẹ bố tiên sư..
Cám ơn Bác cho biết : Đât nước là của VC chứ không phải của Toàn Dân Việt, hu hu
PHẦN 4.
BỆNH HOANG TƯỞNG QUYỀN LỰC.
- HỘI CHỨNG “HOANG TƯỞNG CUỒNG VĨ”
Người mắc bệnh hoang tưởng và hoang tưởng quyền lực là hai khái niệm khác nhau.
Người bị bệnh hoang tưởng tự hủy hoại chính ḿnh bằng những hành động vô thức.
Hoang tưởng quyền lực không phải chỉ có trong những kẻ có quyền lực mà bất cứ cá nhân, thành phần trong xă hội đều có.
Họ là những người rất thông minh và tài giỏi, nói là căn bệnh nó chỉ mang nghĩa bóng, thực chất họ chẳng có bệnh tật ǵ.
Sự hoang tưởng của họ đều có chủ đích, nó thể hiện khát vọng đạt được tất cả những ǵ mong muốn, có thể bất chấp đạo đức, luân lư, phản khoa học, thậm chí là tội ác.
Với những kẻ không cầm quyền lực, sự hoang tưởng chính là hội chứng “cuồng vĩ” thúc đẩy họ đi đến những hành động kỳ quặc, quái dị.
Trong lịch sử có thể kể đến câu chuyện của Herostratus, kẻ đốt đền thờ Artemis của thành Ephesus (Hy Lạp) vào năm 356 trước Công nguyên.
Xuất thân từ một kẻ buôn tôm cá ở chợ, khao khát nổi tiếng, để tên tuổi cứ ḿnh trở nên bất tử đă thúc đẩy Herostratus đi đến một hành động điên rồ nhưng đầy mưu mô và tính toán bằng việc đốt đền Artermis.
Trước toà án Herostratus không thèm chối tội mà c̣n ngang nhiên thách thức dư luận, tự đắc viết thành hồi kư truyền bá tội ác đốt đền thờ.
Hắn bỏ tiền mua chuộc cai ngục để làm những cuộc mua bán, đổi chác và thành công ngoài sức tưởng tượng. Kẻ phạm tội tự biến ḿnh thành người hùng, thậm chí khiến vợ chồng nguyên soái Tisafern-đứng đầu thành Ephesus- v́ hư danh mà bất chấp địa vị cao quư để đồng lơa với kẻ phạm tội.
Klementin vợ nguyên soái Tisafern chấp nhận dâng xác thân cho Herostratus trong ngục giam để được hắn tuyên bố đốt ngôi đền thờ v́ t́nh yêu bị khước từ của bà ta. Nguyên soái cai quản cả thành Ephesus phát ngôn toàn những lời chính đạo nhưng lại âm thầm thông đồng với kẻ cho vay nặng lăi để nhân bản hồi kư của Herostratus để đổi chác. Ông ta biết rơ người vợ phản bội ḿnh nhưng nhắm mắt làm ngơ để mọi chuyện diễn ra trong êm đẹp, thậm chí phế đi Quan nhiếp chính tham liêm chỉ v́ ông ta không thỏa hiệp với cái ác.
Herostratus dơng dạc trước toà:
“Hăy lột bỏ bộ mặt nhân văn giả tạo đi và quay về truy vấn thời đại của chính các ông. Thời đại của các ông c̣n đầy rẫy những tên tội phạm đang nhởn nhơ ngoài ṿng pháp luật. Thời đại của ông c̣n ghê sợ hơn các thời đại cũ”
Herostratus đă không uổng công, với trí tuệ tuyệt vời, nắm bắt được sự thối nát của hệ thống quan trường lúc ấy, biến sự hoảng sợ, bối rối của giới thống trị đă thổi bùng sự việc lên quá tầm quan trọng để đạt mục đích của ḿnh, bất chấp sự phỉ nhổ của công luận.
Câu chuyện của Herostratus xảy ra cách đây hàng ngh́n năm nhưng tính thời sự, hiện thực vẫn c̣n có giá trị cho đến ngày nay và về sau.
Hội chứng hoang tưởng cuồng vĩ có hai mặt, nó thúc đẩy con người vươn tới những khát vọng, nhưng khi để đạt được mục đích bất chấp các quy luật của tự nhiên, xă hội, luật pháp, luân lư, đạo đức sẽ đẩy con người ta đi đến tội ác, và thảm họa cho nhân loại.
Herostratus là một kẻ xuất thân hèn kém, sự hoang tưởng cuồng vĩ của Herostratus c̣n gây ra những tội ác kinh hoàng như thế, với những kẻ mắc hội chứng hoang tưởng cuồng vĩ cầm quyền lực trong tay, đặc biệt trong chế độ chuyên quyền c̣n gây tác hại cho loài người kinh khủng đến mức nào?
Và Karl Marx ông tổ của những người cộng sản là điển h́nh của kẻ mắc căn bệnh hoang tưởng cuồng vĩ trong thế giới hiện đại chính là một dạng người như Herostratus.
Karl Marx chính là kẻ tiên phong mở đường truyền căn bệnh hoang tưởng quyền lực cho các thế hệ học tṛ sau này với học thuyết về chủ nghĩa cộng sản, đẩy hàng tỷ con người đi t́m kiếm thế giới thiên đường trong hoang tưởng bệnh hoạn của họ.
(C̣n tiếp).
Lê Huyền Ái Mỹ: Hôm nay, mồng 5 Tết…
Hôm nay mồng 5 Tết Giáp Th́n, 14-2, kỷ niệm 235 chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa đă đánh đuổi 29 vạn quân Thanh ra khỏi bờ cơi nước ta. Năm ngày tới, 17-2 (ngày 21 tháng Giêng năm Kỷ Mùi, 1979), tṛn 45 năm cuộc chiến đấu chống quân xâm lược Trung Quốc, bảo các tỉnh biên giới phía Bắc. Trước đó, cũng những ngày cận Tết, 27 tháng Chạp năm Quư Sửu, tức 19-1-1974, Trung Quốc đă đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam…
Trước khi tiến hành lễ “thệ sư” ở Thọ Hạc, Thanh Hóa, vua Quang Trung đă đọc lời hịch kêu gọi: “Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao nấy đă phân biệt rơ ràng, phương Nam phương Bắc chia nhau mà cai trị… Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh xưa. V́ vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng…”.
Hậu duệ của mấy đời Tống Nguyên Minh xưa giờ vẫn “trông gương”, từ họ Đặng “phải dạy cho Việt Nam một bài học” tới họ Tập vẫn ngang nhiên xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền trên lănh hải Việt Nam.
Nhớ những ngày ra Trường Sa, đang chuẩn bị bài vở cho chương tŕnh phát thanh mỗi tối th́ có tiếng giục của mọi người, cứ thế ḿnh chạy theo. Lên boong trên cùng, mỗi người lần lượt chuyền nhau cái ống nḥm rồi nh́n ra xa cái quần sáng, đó chính là băi đá Châu Viên đă bị bè lũ bành trướng Trung Quốc cưỡng chiếm của Việt Nam từ năm 1988-1989, xây dựng thành đảo nhân tạo lớn nhất ở Trường Sa, từ cuối năm 2013.
Tôi trở về pḥng, lục lọi tư liệu trong… óc để kịp biên bài. Thời may, nhớ sử liệu tháng 8 năm Quư Tỵ 1833. Xin ghi lại: năm ấy, vua Minh Mạng sai bộ Công rằng, “Trong hải phận Quảng Ngăi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không phân biệt được nông sâu. Gần đây, thuyền buôn thường (mắc cạn) bị hại. Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó, dựng miếu, lập bia và trồng nhiều cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người ta dễ nhận biết, ngơ hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời”.
Tối ấy, qua sóng truyền thanh, giọng đọc của chàng chính trị viên hải quân tràn theo sóng biển. Chương tŕnh kết thúc. Tôi lên boong. Một ḿnh. Nh́n về hướng Châu Viên. Lại nhớ giọng nói của vị tướng già Vị Xuyên ngay sau chuyến trở về từ Hà Giang, Lũng Cú, c̣n nhiều anh em nằm lại trên ấy lắm…
Người anh hùng Áo vải đă “đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”, sau ngày chiến thắng, Người đă có lệnh “Trẫm muốn không có thứ ǵ phải mua của Tầu cả”. Có người nhắc khẽ: “Có lẽ vẫn phải mua thuốc Bắc của Tầu” và vua Quang Trung đă “gục gặc đầu đồng ư”.
Nay, đâu chỉ phải mua thuốc Bắc không thôi…
Trương Nhân Tuấn: Một câu hỏi nhân 45 năm cuộc chiến Biên giới Việt-Trung
Cuộc chiến “Biên giới tháng hai” đến nay đă 45 năm. Trung Quốc gọi tên cuộc chiến là “hoàn kích tự vệ”, mục tiêu là “dạy cho Việt Nam một bài học”. Việt Nam gọi cuộc chiến 17 tháng 2 năm 1979 là cuộc chiến “xâm lược”: “Chiến tranh xâm lược ngày 17-2-1979 là đỉnh cao của những hành động thù địch của lănh đạo Trung Quốc”.
Câu hỏi trước tiên đặt ra: Phía Trung Quốc có gọi tên đúng về cuộc chiến hay không? “Hoàn kích tự vệ” có nghĩa là “đánh trả để tự vệ”. Điều này Trung Quốc muốn nói Việt Nam đánh Trung Quốc trước và Trung Quốc chỉ đánh trả tự vệ.
Sự thật thế nào? Việt Nam “đánh trước” Trung Quốc hồi nào? Ở đâu? Lịch sử có được bạch hóa vấn đề này hay chưa?
Một tài liệu của CIA, Mỹ, được bạch hóa từ năm 2002 được nhà báo Vũ Quí Hạo Nhiên công bố năm 2009 trên báo Việt Tide. Một đoạn trong tài liệu của CIA cho rằng, Việt Nam đă chiếm đất của Trung Quốc khoảng 60 cây số vuông.
Câu hỏi đặt ra là, vị trí 60 cây số vuông đất (nói là Việt Nam chiếm của Trung Quốc) ở đâu? Việt Nam chiếm khi nào? Sau khi phân định lại biên giới tháng 12 năm 1999, vùng đất này thuộc về phía nào?
Ai thắng ai thua trong cuộc chiến?
Trung Quốc nói mục tiêu cuộc chiến là “dạy Việt Nam một bài học”. Vậy Việt Nam có học được “bài học” nào từ phía Trung Quốc?
Tôi thấy có rất nhiều tài liệu về cuộc chiến đă được các học giả quốc tế lẫn Trung Quốc được công bố. Nhưng một số điểm mờ về cuộc chiến vẫn không thấy tác giả nào giải mă.
Thí dụ: Việt Nam có chiếm 60 km² đất của Trung Quốc hay không? Điều này rất quan trọng, v́ đây là nguyên nhân để Trung Quốc mở cuộc chiến “hoàn kích tự vệ” đối với Việt Nam.
Tại sao cuộc chiến không chấm dứt hẳn, sau khi Trung Quốc rút quân ngày 5 tháng 3 năm 1979? Trên trận địa (Vị Xuyên) tiếng súng vẫn nổ, máu vẫn rơi cho đến hết năm 1989?
Để đánh dấu 45 năm cuộc chiến, theo tôi truyền thông hải ngoại, VOA, RFA, BBC... nên tổ chức các cuộc hội luận để bạch hóa các vấn đề lịch sử này.
Từ tháng 12 năm 2020 Việt Nam đă ra luật về những điều liên quan đến “bí mật nhà nước của đảng”. Tất cả những vấn đề thuộc về lănh thổ, hải phận, chủ quyền lănh thổ, hải đảo... trở thành “bí mật cấp quốc gia của đảng”.
Ta thấy từ thời điểm đó, trong nước tuyệt đối không có một bài báo nào viết về các vấn đề này được công bố trên báo chính thức.
Người ở hải ngoại không lên tiếng th́ ai trong nước dám lên tiếng?
Sự im lặng của tất cả sẽ trở thành thái độ đồng lơa với bóng tối.
Dương Quốc Chính: Đi viếng mộ "cô" Sáu
Chiều qua ḿnh đi bộ thể dục lang thang thôi, chả hiểu ma xui quỷ khiến thế nào mà đi bộ thẳng tới nghĩa trang Hàng Dương luôn, khéo cô Sáu chỉ đường quá, không dùng bản đồ ǵ hết!
Lúc đó khoảng 5 rưỡi - 6h chiều, nhập nhoạng tối. Thế nên ḿnh chắc là thằng duy nhất đi tay không, không có đồ lễ, mặc quần short, cũng may là không ngắn trên đầu gối. Chứ cô chưa chồng mà mặc quần đùi tới viếng nó kỳ quá.
Giờ này cũng là giờ bắt đầu tấp nập khách thập phương vào viếng nghĩa trang. Ban đầu ḿnh tưởng vậy, vào trong rồi mới biết là không phải. Có lẽ 90% người dân đi viếng cô Sáu, chứ không ai khác. Nên khu vực quanh mộ cô đông như trẩy hội, cùng với khu trung tâm, có cái tháp cao cao, chứ các chỗ khác th́ không có ai viếng mộ các đồng chí khác, chắc cùng lắm là thân nhân họ (chắc đi trước tết) và mấy cháu cán bộ đoàn.
Như vậy là cô Sáu cân team cho toàn bộ nghĩa trang Hàng Dương, các đồng chí khác cũng được hưởng ké lộc lá của cô. Nói rộng ra, cô cân team cho toàn bộ hệ thống du lịch tâm linh và bán đồ lễ (rất nhiều) ở Côn Đảo.
Các cửa hàng đồ lễ hầu như bán một loại lễ duy nhất, màu trắng đồng bộ (đồ lễ cho người chết trẻ), cho thấy rằng người ta đi viếng mộ ở Côn Đảo chủ yếu là viếng cô Sáu th́ mới có đồ lễ một màu vậy. Một bộ đồ lễ có giá niêm yết tầm 700 ngàn đến 2 củ. Vào nghĩa trang, có xe kéo như trong ảnh, chứ không đội, bê đồ lễ như ở chùa ngoài Bắc.
Mộ đồng phục ở Hàng Dương là kiểu xây đá, có cái cột bia, giống nhau. Đa số vong linh các đồng chí là b́nh đẳng, nhưng vong một số đồng chí khác được b́nh đẳng hơn. Ở đây có một số mộ nổi tiếng là các anh hùng, kiểu cô Sáu, th́ mộ được xây to, ốp đá granite đen sang trọng, có bia đẹp, khuôn viên sạch đẹp.
Đặc biệt là mộ cô Sáu c̣n có thêm hàng rào, kệ để đồ lễ, v́ nhiều quá, có thêm chú bảo vệ đứng gác, dọn dẹp. Với vai tṛ như thế, nên vong cô Sáu chắc làm thủ trưởng ở nghĩa trang này, dù khi c̣n sống, cô chỉ là trẻ trâu, chả có chức vụ, vai tṛ ǵ quan trọng hết, gần như anh Trỗi.
Ở nghĩa trang này, loa đọc oang oang với giọng bà Kim Tiến VTV, các huyền thoại, truyền thuyết về cô/ chị Sáu linh thiêng, vật chết bọn cai ngục ác ôn! Thấy kể cả chuyện chúa đảo thời ông Diệm c̣n bí mật thờ cô. Những chuyện này chả biết thực hư ra sao.
C̣n ḿnh chứng kiến một cô/ em áo dài trắng xinh phết, đến khấn cô, đem cả gương theo soi, trang điểm trước mặt mộ cô, rồi lẩm bẩm là cô độ cho trúng số mấy chục tỷ(!?). Đoạn này ḿnh có video quay bên cạnh nhé.
Nghe đồn là cô Sáu cực linh thiêng, với dân lô đề và AEQL. Thế nên những dịp bầu cử, anh em qua xin cô rất đông. Thường viếng vào lúc nhập nhoạng tối tới nửa đêm là linh nhất, chắc giờ đó vong về dễ! Lúc 6h ḿnh ở đó th́ tầm 50 người khấn vái quanh mộ cô. Đủ thành phần nam phụ lăo ấu, Nam Bắc có hết. Quan chức th́ chắc Bắc nhiều, nhưng lô đề th́ Nam nhiều hơn.
Ở đây c̣n mộ chí sĩ Nguyễn An Ninh, ḿnh nghe loa Kim Tiến nói cả về cụ này. Đại khái hai bên Cộng sản và Quốc gia đều tranh giành cụ về phe ḿnh! Lúc đó tối rồi ḿnh chưa qua viếng cụ được, chắc sẽ quay lại quay video.
Theo ḿnh, vong cụ Nguyễn An Ninh mới đủ tầm để làm sếp ở nghĩa trang này, v́ cụ là người trí thức tầm cỡ, chả theo bên nào, chỉ là người yêu nước, chứ cô Sáu tuổi ǵ. Nhưng ḿnh dự là chả mấy ai biết cụ Nguyễn An Ninh là ai.
Nguyễn An Ninh là một thành viên của nhóm Ngũ Long gồm Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành, lấy nick chung là Nguyễn Ái Quốc. Trong đó "bác" ḿnh là trẻ trâu nhất, trong khi bốn người c̣n lại đều là các trí thức có học, có danh tiếng từ trước. Thế mà giờ này, cụ Ninh vai vế tâm linh c̣n thua xa cô Sáu (bị coi là thần kinh... à, mà thôi!). Thật là éo le, đúng là chết trẻ khỏe ma.
Nếu cô thật sự linh thiêng, th́ phong trào cúng viếng này phải từ thời VNCH hoặc ngay sau 1975. Thực tế phong trào này mới rộ được từ khi dân Việt Nam bắt đầu có tiền, lễ bái nhiều. Phong trào này cũng gần như đi vay tiền bà chúa Kho, nhưng an toàn cho tín đồ hơn v́ bố ai dám cấm người dân đi lễ cô Sáu, chứ bà chúa Kho th́ chính quyền dẹp phút mốt.
Bây giờ cô nuôi cả đảo thế này, có mà dẹp vào mắt, dân họ biểu t́nh ngay, v́ mất miếng ăn. Nghe nói sắp cấm hóa vàng thôi, chứ đồ lễ vẫn vô tư và nền công nghiệp du lịch tâm linh này sẽ sống măi trong sự nghiệp của chúng ta.
Tạm thế đă, ḿnh sẽ có video review tổng thể về nền công nghiệp du lịch này và nghĩa trang Hàng Dương.
Tạ Duy Anh: Hồi kư Lư Quang Diệu
Sau nhiều gián đoạn v́ công việc và v́ những cuốn sách khác, cuối cùng tôi cũng đă đọc xong hai tập hồi kư dày gần 1600 trang sách khổ to của ông Lư Quang Diệu.
Có rất nhiều điều để nói về cuốn hồi kư đồ sộ này và chúng không chỉ cần phải có cảm hứng mà cần cả thời gian nữa.
Sau đây chỉ là vài tóm lược vắn tắt nhất về bộ sách.
Trước hết Lư cho thấy ông có sự am hiểu sâu sắc về văn hóa Trung Hoa, các nước Đông Nam á, văn hóa Hồi Giáo, nền chính trị Anh quốc và châu Âu, văn hóa chính trị Hoa Kỳ, mô h́nh cai trị kiểu XoViet...
Từ những hiểu biết và khảo sát các mô h́nh ấy, ông t́m ra mô h́nh phát triển riêng cho Singapore và thành công.
Ông nhận xét, đánh giá về hàng trăm nhân vật chính trị (trong đó có bóng dáng vài nhà lănh đạo Việt Nam) được coi là có ảnh hưởng đến sự thay đổi thế giới, đặc biệt là khu vực châu Á, trong ṿng một trăm năm qua.
Ông đưa ra các tiên đoán về tương lai của nhiều mô h́nh xă hội, trong đó có cả tương lai của mô h́nh phát triển của Singapore.
Ông cho thấy, cùng với thời gian mọi thứ đều có thể thay đổi. Do vậy những ǵ luôn được tung hô “muôn năm” chỉ là ảo giác do hoang tưởng tự đại, hoặc mị dân một cách có chủ đích.
Xuyên suốt trong tác phẩm của ḿnh, dù nêu ra nhiều khiếm khuyết của mô h́nh chính trị dân chủ Mỹ và cách mà nước Mỹ muốn ở các quốc gia khác, nhưng ông khẳng định bất cứ sự chống đối, gây hấn nào với nước Mỹ, đều ngu ngốc và tất yếu gây thiệt hại lớn cho sự phát triển của đất nước ḿnh.
Phần khảo sát về Trung Quốc khá dài, cũng là phần thú vị nhất. Ông cũng dành ra một số trang để nói về Việt Nam, nhưng khá sơ sài.
(Một người bạn của tôi cho biết, phần viết về Việt Nam của ông Lư, khi dịch sang tiếng Việt đă bị lược bỏ những chỗ ông phê phán hay bày tỏ sự thất vọng. Tôi không có điều kiện và hiểu biết để kiểm chứng).
Chống cộng, nhưng theo xu hướng Xă hội chủ nghĩa, ông Lư đề cao mô h́nh Bắc Âu. Tuy vậy chắc chắn ông là một nhà độc tài. Trong nồi lẩu tư tưởng cai trị của ông có đủ thứ: Nho giáo, kỉ luật chiến binh Nhật, luật pháp Anh quốc, thực dụng Mỹ... và có cả một chút "bác ái" kiểu Thiên chúa giáo?
Nhiều quan điểm về phát triển, về trật tự xă hội, về tự do, về quyền cá nhân của ông chỉ phù hợp với Singapore và không ai có thể biết trước tương lai của nó. Chính ông đă cảnh báo về điều đó. Chẳng hạn ông nghi ngờ về sự trường tồn của đảng PAP, của mô h́nh chính trị do ông dày công tạo dựng và tạo ra sự thịnh vượng, thậm chí ông nghi ngờ cả về khả năng tồn tại lâu dài của một quốc gia kiểu thành bang như Singapore trong một thế giới thay đổi điên loạn (Trang 152 và trang 837, tập II).
Tuy nhiên, những ǵ ông thực hành thành công có thể bị các chế độ độc tài, toàn trị khai thác, quảng bá không phải để thuyết phục dân chúng coi như một lựa chọn đúng đắn, mà chủ yếu để biện hộ cho sự tàn bạo, tồi tệ trong cai trị hà khắc của họ.
Đó là lư do v́ sao các thế hệ lănh đạo Trung Quốc sau Mao luôn t́m cách mang mô h́nh Singapore về áp dụng tại đất nước rộng lớn của họ. Chỉ có điều họ bỏ đi những mẩu dân chủ - dù c̣n h́nh thức - hiếm hoi mà ông giữ lại (Chẳng hạn Lư Quang Diệu quyết định để Ṭa án ở Singapore được xét xử độc lập như thời Anh cai trị, cho phép các đảng đối lập tranh cử công khai với đảng PAP thống soái… để ít ra, như chính ông nói, gây áp lực lên các ứng viên đảng PAP trong việc rèn luyện phẩm hạnh, học tập và khiến đảng cầm quyền phải nỗ lực tiến bộ không ngừng).
Dù có nhiều biện hộ, dù cho thấy là một người đề cao sự trung thực, nhưng chỉ cần tinh ư một chút, vẫn có thể nhận ra không ít chỗ tác giả t́m cách che dấu sự thật mà ông không đủ can đảm nói ra, hoặc nói ra sẽ làm lung lay h́nh ảnh về một "người cha lập quốc huyền thoại" trong suy nghĩ của nhiều người Singapre, cũng như những người hâm mộ ông với tư cách là người kiến tạo nên một quốc gia phát triển hàng đầu thế giới từ một ḥn đảo nghèo đói, đầy rẫy tệ nạn.
(Chẳng hạn đoạn ông biện hộ về sự cần thiết phải kiểm soát ngôn luận, cấm tụ tập biểu t́nh, những vụ án chính trị được h́nh sự hóa, hay từ chính những phản bác của ông về ư kiến quy cho ông thực hiện chế độ “gia đ́nh trị”.)
Chắc chắn Lư Quang Diệu là một chính khách lớn của thế giới trong thế kỷ 20.
Với cá nhân tôi, ông c̣n xứng đáng là một nhà văn, nhà văn hóa uyên bác và tinh tế.
Dù thế nào th́ đây cũng là một cuốn sách đáng để đọc và đọc kĩ. Tôi đă phải gạch chân và đánh dấu ngoài lề hàng trăm đoạn, những chỗ mà tôi thấy cần phải nghiền ngẫm tiếp về những điều tác giả viết.
Lư Quang Diệu cũng cho tôi biết, để thoát khỏi cái bẫy thu nhập trung b́nh và vươn lên hàng ngũ phát triển, một quốc gia phải có tăng trưởng hai con số (từ 12-14% một năm) liên tục ít nhất trong ṿng 30 năm.
V́ thế ông yêu cầu các quan chức cũng như người dân Singapore phải không ngừng cảnh giác với căn bệnh thành tích và thói tự măn.
Nguyễn Đ́nh Cống: B́nh luận vài ư trong bài báo của TBT Nguyễn Phú Trọng (Kỳ 1)
1. Giới thiệu
Ngày 31-1-2024, Tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng công bố bài viết “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng”, (gọi tắt là “bài báo”). Bài dài trên 13.000 chữ, ngoài đoạn mở đầu th́ nội dung gồm ba phần, ứng với ba giai đoạn lịch sử: Từ 1930 đến 1975; từ 1975 đến nay và từ nay đến năm 2030.
Bài báo được các đài, báo “lề đảng” đăng toàn văn với những lời ca ngợi rất hùng hồn. Tôi đă đọc qua một lần và phát hiện một số ư không giống như các lời ca ngợi, xin viết để trao đổi với những ai quan tâm.
Tầm quan trọng của một bài báo là thông tin có mới không, có giúp ích ǵ cho người đọc không, hay chỉ gây nên t́nh trạng để người ta phải than thở “biết rồi, khổ lắm, nói măi”. Chắc GS Trọng đă dự kiến được điều này nên mở đầu bằng câu “Như chúng ta đều đă biết...”.
Mọi người đều đă biết th́, nếu rất cần, chỉ nên nhắc lại một cách tóm tắt, chứ viết dài ḍng mà làm ǵ? Liệu bắt người ta đọc những điều họ đă nghe đến nhàm chán th́ có thể “khơi dậy niềm tự hào về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, Dân tộc Việt Nam anh hùng; tăng cường niềm tin đối với sự lănh đạo của Đảng và tương lai tươi sáng của Đất nước ta” (câu trích từ đoạn mở đầu) hay không? Thế mà hầu như toàn bộ thông tin được bài báo dẫn ra đúng như tác giả đă viết là mọi người đều đă biết!
Khi mới lướt mắt qua, tôi thấy trong bài báo có những ánh lấp lánh, cố đọc kỹ để mong “đăi cát t́m vàng”, nhưng chỉ t́m thấy cái lấp lánh của những giáo điều. những giáo điều như vậy, được nhắc đi nhắc laị đến nỗi một số khá đông người ngộ nhận đó là sự thật không thể phản bác.
2. Về phần một: Thời kỳ từ năm 1930 đến 1975
Trong phần 1, ông Trọng viết: “Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản họp ở bán đảo Cửu Long … dưới sự chủ tŕ của lănh tụ Nguyễn Ái Quốc… Việc Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đă trưởng thành và đủ sức gánh vác sứ mệnh lịch sử lănh đạo cách mạng. Luận cương chính trị đầu tiên của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng đă xác định con đường cơ bản của cách mạng Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của Dân tộc và nguyện vọng tha thiết của Nhân dân”.
Trong đoạn trên, ít nhất có vài ư không phản ảnh đúng thực tế mà chỉ là những giáo điều. Thứ nhất là năm 1930 mà cho rằng giai cấp công nhân của Việt Nam đă trưởng thành là khó chấp nhận. Giáo điều ở chỗ cho rằng, đă là đảng Cộng sản th́ phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân, trong lúc những người đến hội nghị hợp nhất không có ai đại diện cho cho công nhân cả. Ngay bây giờ cho rằng, Đảng là “đội tiên phong của giai cấp công nhân” cũng là giáo điều hạng nặng.
Giáo điều thứ hai ở chỗ cho rằng, giai cấp công nhân lănh đạo cách mạng. Thực ra lănh đạo Cách Mạng Tháng Tám là Việt Minh, một tổ chức do Đảng lập ra gồm những người yêu nước mà chủ yếu là các trí thức trẻ. Đặt ra giai cấp lănh đạo là một sự suy diễn của Mác – Lênin, thực tế không tồn tại sự lănh đạo như vậy.
Điều thứ ba là, sự lập lờ về “Luận cương chính trị đầu tiên của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập”. Luận cương đoàn kết dân tộc chống thực dâp Pháp do Nguyễn Ái Quốc đưa ra, được thông qua, nhưng sau đó đă bị Tổng bí thư Trần Phú loại bỏ để thay bằng khẩu hiệu “trí phú, địa hào đào tận gốc, trốc tận rễ”. Khi Hồ Chí Minh lănh đạo Việt Minh mới khôi phục được phần nào luận cương của Nguyễn Ái Quốc. Cách tŕnh bày của bài báo có thể làm người ta hiểu nhầm giữa Luận cương của Nguyễn Ái Quốc và luận cương của đảng do Trần Phú đề xuất.
Ngay sau khi thành lập đảng đă vội tiến hành cách mạng đấu tranh giai cấp bằng phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh và đă thất bại. Phong trào này chỉ thể hiện tinh thần hy sinh anh dũng của nông dân và một số đảng viên chứ không thể hiện một chút tài năng nào của lănh đạo đảng, chưa chứng tỏ sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lê. Nó chỉ thể hiện sự giáo điều về đấu tranh giai cấp.
Nhận xét về các phong trào yêu nước trước năm 1930, bài báo có đoạn: “Song, do hạn chế lịch sử, nhất là thiếu một đường lối đúng, các phong trào đó đă không thành công. Lịch sử đ̣i hỏi phải t́m con đường mới”. Bài báo cho rằng, con đường và chủ nghĩa Mác – Lê do đảng Cộng sản chọn là hoàn toàn đúng, v́ Cách Mạng Tháng Tám “long trời lở đất” và kháng chiến chống Pháp 9 năm đă thắng lợi.
Đây là một đánh giá thiên lệch. Thực chất của cuộc Cách Mạng Tháng Tám là Việt Minh huy động lực lượng đông đảo quần chúng cướp chính quyền, chủ yếu bằng biểu t́nh, với tay cầm gậy gộc và hô khẩu hiệu. “Long trời lở đất” bằng cái ǵ khi việc đánh nhau bằng tay chân cũng không xảy ra. Cách mạng thành công chủ yếu nhờ lợi dụng được thời cơ, Pháp đă bị Nhật loại bỏ vào ngày 9 tháng 3, Nhật đă đầu hàng Đồng Minh vào đầu tháng 8, vua Bảo Đại đă tuyên bố Việt Nam độc lập vào tháng 4 năm 1945 và chính quyền của Bảo Đại (do Trần Trọng Kim làm thủ tưởng) lúc đó không có quân đội.
Chưa thể kết luận con đường mà đảng Cộng sản đă chọn là hay, là đúng v́ ngay năm 1945 Hồ Chí Minh đă thấy cần sự hợp tác với Mỹ, muốn được Mỹ công nhận. Muốn thế, cần từ bỏ con đường cộng sản. V́ thế, Hồ Chí Minh đă có ư muốn giải tán đảng cộng sản để lập ra đảng mới, có tính dân tộc, nhưng thực chất đảng Cộng sản lại rút vào bí mật. Điều này không qua mặt được t́nh báo Mỹ nên việc thiết lập quan hệ với Mỹ không thành. Từ đó phải kháng chiến chống Pháp 9 năm, kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ. Lại c̣n mất 20 năm chiến tranh mới thống nhất được đất nước.
Con đường mà đảng Cộng sản chọn cho dân tộc đúng sai đến đâu, hiện nay chưa bàn được, c̣n chờ lịch sử phán xét. Nhưng so với các nước thuộc địa khác th́ nhiều nước vẫn giành được độc lập, thống nhất được đất nước mà nhân dân không cần phải đổ máu, đất nước không bị phá nát, t́nh cảm dân tộc không bị rạn nứt như ở Việt Nam.
Cuối phần một, ông Trọng viết: “Nh́n lại chặng đường 1930 - 1975, chúng ta rất đỗi tự hào, tin tưởng và biết ơn sâu sắc Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại đă luôn luôn sáng suốt lănh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi vang dội này đến thắng lợi vang dội khác… Tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám long trời lở đất, giành chính quyền về tay Nhân dân... Vừa xây dựng chủ nghĩa xă hội và chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, vừa đấu tranh chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước...”
Cho rằng “Đảng lănh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi vang dội này đến thắng lợi vang dội khác” là giáo điều và chỉ mới viết ra một phần sự thật. Thế th́ Xô Viết Nghệ Tĩnh thắng lợi vang dội ở chỗ nào, khi mà từ cải cách ruộng đất đến hợp tác xă nông nghiệp bậc cao ở miền bắc, cải tạo công thương ở miền nam sau năm 1975, làm kiệt quệ một nền kinh tế đang trong t́nh trạng phát triển tốt? Chủ trương đối xử tàn bạo với những người bên phía bại trận đă xô đẩy hàng triệu người bỏ trốn, vượt biên, mà không ít đă bỏ xác giữa biển khơi. Rồi những quả đấm thép của kinh tế quốc doanh (là kinh tế chủ đạo) đă làm thiệt hại nhiều ngàn tỷ đồng, đánh mạnh vào nền kinh tế non trẻ; rồi sự phát triển nóng nền kinh tế (để đạt chỉ tiêu này nọ) đă phá nát môi trường vật chất và tinh thần; rồi sự suy thoái về đạo đức, văn hóa, giáo dục và nhiều tệ hại khác th́ có phải là thắng lợi vang dội không? Rồi rất nhiều đảng viên cao cấp bị bắt, bị xử tù v́ đủ thứ tội danh th́ có phải là thắng lợi không? Đảng có phải chịu trách nhiệm ǵ trước dân tộc không?
Chỉ nhấn mạnh vào điều mà Đảng tự cho là thắng lợi vang dội (mà có những việc cũng chưa chắc là thắng hay bại) mà lờ đi những thất bại rơ ràng, th́ đó là sự kiêu ngạo của những người thiếu lương thiện.
Cho rằng cuộc đấu tranh tốn nhiều xương máu và tài sản của nhân dân là nhằm “giành chính quyền về tay nhân dân” là một sự đánh tráo khái niệm. Thực ra chính quyền giành được từ đối phương đă bị Đảng chiếm giữ toàn bộ cho ḿnh mà không chịu trả lại cho dân. Thể hiện rơ nhất là, chỉ có đảng viên mới được giữ những chức vụ then chốt, Quốc hội là do Đảng cử dân bầu. Không những chính quyền mà đất đai, tài sản quốc gia Đảng cũng tự xem là của ḿnh tuốt tuồn tuột.
Cho rằng, Đảng “vừa xây dựng chủ nghĩa xă hội và chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, vừa đấu tranh chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước…”.
Viết như thế về miền bắc là chỉ mới nói ra một phần sự thật, v́ trong những năm trước 1975, ở miền bắc có chống chiến tranh phá hoại, là rơ ràng, c̣n xây dựng xă hội với hợp tác xă nông nghiệp bậc cao, không cho dân tự phát triển sản xuất, đến nỗi bí thư tỉnh ủy Kim Ngọc phải bị giằng xé nội tâm, dẫn đến trọng bệnh. Xă hội như vậy không thể là xă hội chủ nghĩa như ông Trọng định nghĩa, mà là một h́nh thái ǵ đó rất gần với xă hội nô lệ.
(C̣n tiếp)
Nguyễn Đ́nh Cống: B́nh luận một số ư trong bài báo của TBT Nguyễn Phú Trọng (Kỳ 2)
3. Về thời kỳ từ năm 1975 đến nay (năm 2024)
Mở đầu phần hai, ông Trọng viết: “Sau khi đất nước được thống nhất, nước ta phải đối mặt với nhiều hậu quả rất nặng nề của 30 năm chiến tranh để lại. Để khắc phục hậu quả chiến tranh, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xă hội trên phạm vi cả nước, Đảng ta đă tập trung lănh đạo xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xă hội 5 năm 1976 - 1980 và 1981 - 1985. Qua đó, hạ tầng kinh tế - xă hội, nhất là các cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, y tế, giáo dục - đào tạo, giao thông, thuỷ lợi từng bước được khôi phục. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể được chăm lo phát triển, có nhiều đóng góp cho sự phát triển của đất nước”.
Sau chiến tranh mọi khó khăn đổ lỗi cho nó là quá đơn giản, nhưng điều đó chỉ đúng một phần cho miền Bắc mà không đúng cho miền Nam, nơi vẫn giữ được nền kinh tế khá phồn vinh. Chỉ đến khi ông Đỗ Mười vào thực hành cải tạo công thương nghiệp, không cho làm kinh tế tư nhân, đưa người đi làm kinh tế mới, ngăn sông, cấm chợ, cấm tư nhân buôn bán th́ đă xô cả nền kinh tế xuống vực thẳm. Sai lầm này của ông Mười được Đảng lờ đi, không nhận.
Ở miền Bắc, Đảng bắt ép nông dân vào hợp tác xă, làm cho sản xuất nông nghiệp tŕ trệ. Nhiều người thợ thủ công tài giỏi như vua lốp Nguyễn Văn Chấn, làm ra nhiều sản phẩm có ích cho xă hội th́ bị cấm đoán, bị tịch thu, bị bắt giam, đời sống của cán bộ thường và người dân rơi vào cảnh cùng quẩn chứ không được như nhận xét của bài báo. Chỉ có cán bộ cấp cao, được cung cấp hàng hóa giá rẻ, mới có thể sống ung dung được.
Bài báo viết về “đổi mới”, với việc cho làm kinh tế tư nhân, mở cửa đón đầu tư từ nước ngoài, phát triển ngoại thường, nhờ thế mà đă khôi phục được kinh tế. Nhưng đó thực chất là sửa sai, làm trái với đường lối kinh tế của chủ nghĩa Mác – Lê chứ chẳng đổi mới ở đâu cả.
Ông Trọng viết tiếp: “Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xă hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp”. Nhận thức được như vậy, với người có hiểu biết th́ nên tạm dừng lại để nghiên cứu xem có khả năng chọn sai đường hay không, nếu chọn sai th́ phải t́m cách đổi hướng. Cứ nhắm mắt, bịt tai “đâm lao phải theo lao” là thái độ của người cố chấp, bảo thủ, cuồng tín.
Bài báo tiếp: “Đưa ra khái niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xă hội chủ nghĩa là một đột phá lư luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lư luận quan trọng qua gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới”.
Cho rằng đưa thêm cái đuôi “định hướng XHCN” là đột phá lư luận và sáng tạo, là sự suy diễn thiếu căn cứ. Như chỗ tôi biết được, phải chăng đó chẳng qua là câu trao đổi bất chợt của hai đảng viên mà một ủy viên Bộ Chính trị khóa IX nghe được. Nhưng cái đuôi ấy chỉ được dùng trong nước. Với nước ngoài, chính phủ Việt Nam muốn vận động người ta công nhận nền kinh tế thị trường th́ phải cắt đuôi. Tuy vậy cũng chưa thuyết phục được ai.
Thực ra kinh tế thị trường có kiểm tra, giám sát của nhà nước đă xuất hiện từ lâu ở nước Anh, chỉ là trong định hướng XHCN phải chấp nhận sự lănh đạo của đảng Cộng sản.
GS Trọng viết: “Phát triển văn hoá, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống c̣n, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đ́nh hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xă hội, thực hiện b́nh đẳng”. Đoạn này viết đúng sách, nhưng nh́n vào thực tế th́ thấy Đảng nói như thế nhưng không làm được thế. Trong mấy chục năm qua đạo đức xă hội xuống cấp, văn hóa và giáo dục suy thoái. Đảng với vai tṛ lănh đạo toàn diện không được thoái thác trách nhiệm về các việc đó.
Trích trong bài báo: “Mô h́nh chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lănh đạo, Nhà nước quản lư và Nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xă hội chủ nghĩa… Đảng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ…”
Mô h́nh nhà nước ba cấp (Đảng lănh dạo, nhà nước quản lư, nhân dân làm chủ) là mô h́nh tạo ra sự chồng chéo, dẫm đạp lên nhau, kém hiệu quả, lăng phí. Cũng đă có người thấy ra nhược điểm của nó và chủ trương “nhất thể hóa” vị trí người đứng đầu bên Đảng và chính quyền, nhưng bộ máy vẫn giữ nguyên, chỉ khắc phục được chút ít mà thôi. Cơ chế này nên được thay thế chứ không nên kéo dài.
Cho rằng “Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN và Đảng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ” là một cách tuyên truyền, không phản ảnh đúng sự thật, không những đối với toàn dân mà nhiều quy định về bầu cử trong Đảng là trái với dân chủ. C̣n việc Đảng cử dân bầu quốc hội là một dẫn chứng rơ ràng về dân chủ giả hiệu.
Cũng theo ông Trọng viết trong bài báo: “Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và tăng trưởng liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 40 năm qua với mức tăng trưởng trung b́nh gần 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2023 đạt khoảng 430 tỉ đô la Mỹ”.
Khi nói về tăng trưởng kinh tế, Đảng thấy rất rơ vai tṛ lănh đạo của ḿnh mà quên mất hai nhân tố quan trọng hơn là nhờ vào vị trí địa lư và tài nguyên của đất nước, nhờ vào sự năng động, sáng tạo của các doanh nhân, các trí thức Việt. Chính v́ phát hiện ra điều này mà Le Van Vu ngày 27/1/2024, viết bài: “Few countries are better placed than Vietnam to get rich. Yet political paralysis could slow it down”. (Hiếm có nước nào có điều kiện làm giàu tốt hơn Việt Nam, nhưng tê liệt chính trị làm chậm tiến tŕnh).
Trong sách “Tại sao các quốc gia thất bại” tác giả chỉ ra rằng, thể chế chính trị (là dân chủ hay độc quyền tàn bạo) có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển hoặc thất bại. Trong lúc thể chế của Việt Nam được Đảng cho là dân chủ, của dân, do dân, v́ dân th́ những người phản biện nhận ra rằng đó là thể chế toàn trị của Đảng dựa vào công an và tuyên giáo. Thể chế đó có phần ḱm hăm chứ không thúc đẩy sự phát triển.
Cứ nhận rằng GDP là 430 tỷ USD th́ một phần đáng kể trong số đó là do tư bản nước ngoài nắm giữ, chúng ta chỉ được cái tiếng. Nhưng với đất nước có dân số như Việt Nam, mà chính thể thật sự dân chủ như Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn, Singapore, Malaysia th́ liệu GDP sẽ nhiều hay ít hơn so với 430 USD? Theo tôi, cũng như theo Le Van Vu và nhiều người khác, th́ sẽ nhiều hơn, có thể đến gấp rưỡi hoặc trên gấp đôi.
Sau khi kể ra nhiều công lao của Đảng, ông Trọng viết: “Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lănh đạo đất nước”.
Về h́nh thức, đoạn trên phản ảnh đúng một sự thật, nhưng nguyên nhân tại sao? Có phải v́ dân tộc Việt không thể sinh ra người tài giỏi? Không phải như vậy mà chính v́ đảng Cộng sản cầm quyền giành quyền “lănh đạo toàn diện, tuyệt đối”, không chấp nhận bất kỳ ai có ư kiến khác với họ. Công an và ṭa án sẵn sàng đàn áp tàn khốc những người có xu hướng chính trị chỉ hơi khác với chính quyền. Mới sinh ra, chưa kịp thở đă bị bóp chết th́ làm sao có thể trưởng thành để lănh đạo đất nước?
Kết thúc phần hai, ông Trọng viết: “Với tất cả sự khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có thể nói rằng: ‘Đảng ta thật là vĩ đại! Nhân dân ta thật là anh hùng! Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay’.”
Nói là khiêm tốn, nhưng thật ra câu đó chứa đầy sự kiêu ngạo cộng sản mà không khó khăn ǵ để phát hiện.
(C̣n tiếp)
Nguyễn Đ́nh Cống: B́nh luận một số ư trong bài báo của TBT Nguyễn Phú Trọng (Kỳ 3)
4. Giai đoạn từ năm 2024 đến năm 2030 (100 năm ngày thành lâp đảng)
Ở đọan đầu của phần ba, ông Trọng viết trong bài: “Chúng ta tự hào, tin tưởng tiến lên dưới lá cờ vẻ vang của Đảng … Để hoàn thành được mục tiêu phát triển kinh tế - xă hội do Đại hội XIII của Đảng đề ra th́ tốc độ tăng trưởng b́nh quân 6 năm 2024 - 2030 phải đạt khoảng 8%... đây là mức rất cao, đ̣i hỏi chúng ta phải có sự quyết tâm cao và nỗ lực rất lớn mới có thể đạt được”.
Đề ra mục tiêu, chỉ tiêu của phát triển kinh tế không phải thuộc kinh tế thị trường mà là do cái đuôi định hướng XHCN, tàn dư của nền kinh tế kế hoạch, mang nặng chất duy ư chí. Tăng trưởng 8% đối với Việt Nam vào cuối thế kỷ 20, (lúc GDP c̣n qua thấp) là chỉ tiêu dễ đạt được, nhưng khi GDP đă thuộc mức trung b́nh th́ việc tăng thêm 1% đă là khó khăn.
Mục tiêu, chỉ tiêu do đại hội Đảng biểu quyết thông qua, nhưng khi biểu quyết ít có đại biểu hiểu được phải làm sao để thực hiện. Hơn nữa khi kinh tế đang kiệt quệ, việc tạm gác lại các vấn đề liên quan đến môi trường, giáo dục, văn hóa và đạo đức, để ưu tiên phát triển kinh tế là cần, nhưng khi môi trường, giáo dục, văn hóa và đạo đức đang suy thoái mà vẫn ưu tiên phát triển kinh tế th́ chưa phải đă là cách lựa chọn đúng nhất v́ nó tạo ra một xă hội quá quan tâm đến đồng tiền, và khi quá quan tâm đến phát triển kinh tế th́ dễ bị lơ là những lĩnh vực thuộc tinh thần.
Khi đặt ra chỉ tiêu quá cao để đến nỗi rất khó đạt th́ dễ phạm lỗi làm cho qua chuyện để báo cáo, tạo ra lăng phí lớn cho xă hội v́ sản xuất ra những sản phẩm vật chất kém chất lượng, chưa dùng đă hỏng, hay tạo ra thói lập thành tích dỏm, khuyến khích sự dối trá.
Ngoài tầm nh́n đến năm 2030, người ta c̣n vạch ra tầm nh́n đến năm 2045 (một trăm năm thành lập chế độ). Cách tạo ra tầm nh́n là một đặc điểm của xă hội Việt Nam trong những năm gần đây. Đó cũng là một loại duy ư chí, đặc biệt trong một thế giới đầy biến động.
Tiếp đến, bài báo vạch ra những tiêu cực, bất cập trong nhiều lĩnh vực như: “T́nh h́nh trên đây đ̣i hỏi chúng ta tuyệt đối không được chủ quan, tự măn, quá say sưa với những kết quả, thành tích đă đạt được, và cũng không quá bi quan, dao động”. Thực ra, những tiêu cực, những bất cập của xă hội mà bài báo chỉ mới kể loa qua, (c̣n thực tế th́ trầm trọng hơn), Đảng lănh đạo toàn diện phải chịu trách nhiệm về đường lối, như thế th́ “chúng ta” làm sao c̣n đủ tự hào và tin tưởng tiến lên dưới lá cờ của Đảng.
Tiếp theo, bài báo nêu ra những bài học kinh nghiệm chép lại từ nghị quyết. Đọc qua thấy hay, nhưng xem kỹ mới biết rằng, phần lớn các kinh nghiệm được rút ra từ lư luận, được viết theo mẫu, chứ không phải từ hoạt động thực tế.
Cuối phần ba, bài báo dẫn ra vài câu thơ của Tố Hữu ca ngợi Đảng như: “Niềm tự hào, niềm tin đó của Nhân dân ta đối với Đảng từng bước được vun đắp, nâng cao, ngày càng bền chặt hơn qua suốt chặng đường cách mạng vẻ vang của Đảng… Tự hào về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại và Dân tộc Việt Nam anh hùng; tin tưởng vào sự lănh đạo sáng suốt của Đảng … toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng theo định hướng xă hội chủ nghĩa”.
Trên đây là trích dẫn đoạn văn tuyên truyền đầy chất giáo điều, trái với thực trạng. Sự độc quyền Đảng trị đă tạo ra nhiều cán bộ tham nhũng, thoái hóa về đạo đức, trong đó có cả một số ủy viên Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương, lại có cả những “cặp đôi hoàn hảo” gồm bí thư và chủ tịch tỉnh khoác tay nhau vào tù.
Cũng sự độc quyền ấy đă tạo ra nhiều vạn dân oan bị cướp đất, bị phá nhà như ở Vườn Rau Lộc Hưng, Thủ Thiêm, Dương Nội và nhiều nơi khác. Nông dân bị đàn áp, khủng bố như Đoàn Văn Vươn, Lê Đ́nh Ḱnh và dân thôn Hoành, Đồng Tâm, hay dân bị thủy điện xả lũ, cuốn trôi nhiều nhà cửa như ở miền Trung; bị ṭa án kết tội oan sai đến mức tử h́nh bằng những “bản án bỏ túi”, gây ra cảnh “Tiếng oan dậy đất, án ngờ ḷa mây”. Rồi giáo dục, văn hóa, đạo đức suy thoái, những vụ án kinh thiên động đia (Việt Á, Chuyến bay giải cứu, Vạn Thịnh Phát v.v…). Với t́nh h́nh xă hội như vậy th́ làm sao mà: “Tự hào về Đảng quang vinh, … tin tưởng vào sự lănh đạo sáng suốt của Đảng”? Đă từng có phát biểu của một số lănh đạo rằng “Niềm tin của dân vào Đảng ngày càng giảm sút”.
Về thể chế, liệu để xây dựng một đất nước thật sự dân chủ, mọi người được tự do, hạnh phúc, b́nh đẳng, thương yêu và tôn trọng nhau trong cuộc sống ḥa b́nh, hợp tác, có nền sản xuất tiên tiến, có nền văn hóa, nền giáo dục nhân bản, khai phóng th́ có nhất thiết phải xây dựng thể chế XHCN do đảng cộng sản theo chủ nghă Mác – Lê lănh đạo hay không? Câu trả lời dứt khoát là không!
Thực tế sinh động chứng tỏ rằng, Liên Xô và các nước Đông Âu đang xây dựng XHCN giữa chừng th́ bị sụp đổ, mà nguyên nhân cơ bản là không thể giải quyết những mâu thuẫn gay gắt nội tại, những mâu thuẫn đó hiện nay đảng Cộng sản Việt Nam đang mắc phải. Ở Việt Nam, ông Tổng bí thư Đảng công nhận là con đường xây dựng CNXH gặp quá nhiều khó khăn và đến cuối thế kỷ 21 chưa chắc đă làm được.
Một thực tế sinh động khác là tại các nước Bắc Âu. Ở đó người ta không xây dựng XHCN với sự lănh đạo của cộng sản theo Mác – Lê, người ta không gặp một khó khăn, trở ngại nào cả mà đă xây dựng được những đất nước thật sự dân chủ, tự do, hạnh phúc, b́nh đẳng cho tất cả mọi người.
Một tấm gương nữa là lư thuyết “mèo trắng, mèo đen” của Đặng Tiểu B́nh. Với lư thuyết đó Trung Quốc đă phát triển ngoạn mục, tiếc rằng v́ tư tưởng Đại Hán mà Tập Cận B́nh đă đi lệch phương hướng.
Thực ra ông Trọng chỉ mượn tiếng XHCN để che lấp ư đồ chính là xây dựng thể chế do đảng Cộng sản của ông điều hành, có như thế th́ tên của ông mới được hậu thế đặt ngang hoặc cao hơn Hồ Chí Minh. Thế rồi những nhà tuyên truyền cộng sản dựng lên câu chuyện, rằng chính Hồ Chí Minh và toàn dân VN chọn chế độ XHCN. Thực ra nhân dân không chọn ǵ cả, mà bị áp đặt.
Theo Milovan Djilas, thể chế toàn trị của cộng sản đă sinh ra một “Giai cấp mới” đầy quyền lực, tạo ra những áp bức độc ác, thô bạo, phản nhân tính so với áp bức của những thế lực thống trị trước đây (đặc biệt là đối với những người bất đồng chính kiến)
Ông Trọng đă thể hiện một người rất nặng giáo điều, cuồng tín vào lư thuyết cộng sản. Nhân dân Việt Nam chỉ c̣n một số ít, v́ cuồng tín mà tin vào ông c̣n đại đa số không c̣n hy vọng ǵ, họ tin chắc rằng không sớm th́ muộn, sẽ có ngày họ thoát được thể chế toàn trị của cộng sản để xây dựng chế độ thực sự dân chủ.
(C̣n tiếp)
Nguyễn Đ́nh Cống: B́nh luận một số ư trong bài báo của TBT Nguyễn Phú Trọng (Kỳ cuối)
5. Thay cho lời kết
Trước hết viết vài điều về chủ thuyết cộng sản. Ông Trọng làm luận án tiến sĩ về “xây dưng đảng”. Thông thường luận án được bắt đầu bằng “Tổng quan”. H́nh như nghiên cứu sinh Trọng được hướng dẫn làm tổng quan chỉ theo một chiều nên đă bỏ qua một tài liệu rất quan trọng là sách “Giai cấp mới” của Milovan Djilas (1911-1995), nguyên là cán bộ cấp cao của Cộng sản Nam Tư, được xếp thứ hai sau lănh tụ Josip Tito (Milovan là người cộng sản gộc, chỉ dưới một người, trên hàng chục triệu người).
Nam Tư từng là một nước trong phe XHCN, nhưng năm 1947 đă bị Stalin khai trừ v́ cho là đi theo con đường xét lại, làm những việc khác với Liên Xô. Tito giao cho Milovan tổ chức nghiên cứu thật kỹ về cộng sản để chứng minh Tito đúng c̣n Stalin sai. Milovan đă tổ chức nghiên cứu một cách khoa học và rút ra kết luận rằng, chủ nghĩa cộng sản chứa nhiều bất hợp lư, những dự đoán của Mác chỉ là ảo tưởng.
Milovan trung thực báo cho Tito rằng, không những Liên Xô mà Tito cũng phạm sai lầm. Tito đă kết tội và khai trừ Milovan. Sau đó v́ tham gia biểu t́nh phản đối việc các nước theo Liên Xô can thiệp vào Hungari nên ông bị kết án tù ba năm. Trong tù ông viết sách “Giai Cấp Mới” và gửi xuất bản ở nước ngoài.
“Giai cấp mới” là những người có quyền cao trong hệ thống của đảng cộng sản cầm quyền. Ở Việt Nam hiện nay họ được gọi là “Các nhóm lợi ích”. Họ được đảng Cộng sản trao cho rất nhiều quyền hành, trở thành những kẻ áp bức mới, với những thủ đoạn tàn bạo chưa từng có trong lịch sử. Có đọc được “Giai cấp mới”, mới hiểu được bản chất của cộng sản. Milovan nói rằng, “Ở tuổi bốn mươi mà không từ bỏ cộng sản là người không có trí tuệ”.
Cậu bé Trọng có một tuổi trẻ được giáo dục một chiều, rằng chủ nghĩa Mác – Lê là tuyệt đối đúng, là kim chỉ nam của mọi hành động để đưa nhân loại đến hạnh phúc. Theo đúng thói quen thông thường, cậu ta ghi nhận mọi điều dạy bảo của người lớn và biến chúng thành chân lư. Khi làm nghiên cứu, lại gặp phải ông thầy đă bị khống chế bởi ư thức hệ Mác – Lê, cả thầy và tṛ không thể nào thoát ra được.
Tổng bí thư Trọng nói rằng, “đất nước chúng ta chưa có bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Có thể ông nói thực ḷng v́ ông, cùng vói an ninh và tuyên giáo đă dựng lên quanh ḿnh một tường lửa, ngăn chặn mọi thông tin ngược chiều từ xă hội. Ông tưởng nhầm rằng ḿnh đă biết được sự thật qua những báo cáo từ cấp dưới, từ những nguồn thông tin đại chúng, từ các buổi tiếp xúc cử tri được dàn dựng công phu. Có biết đâu ông đă bị lừa.
Ông mặc nhiên cho rằng, những người như Milovan Djilas (Nam Tư), Gorbachev, Yeltsin (Nga), Walesa (Ba Lan), Merkel (Đức) là những tên chống cộng quốc tế, những Trần Độ, Trần Xuân Bách, Vũ Đ́nh Huỳnh, Nguyễn Kiến Giang, Hoàng Minh Chính, Tống Văn Công và nhiều trí thức phản biện khác của Việt Nam là những kẻ phản động, tự chuyển hóa. Đáng lẽ ra ông phải cho người t́m hiểu và đối thoại với họ để t́m chân lư, t́m con đường đúng th́ ông chọn cách “phủ định sạch trơn”, rất dễ cho ông nhưng có hại cho dân tộc.
Ông hô hào: Trên dưới một ḷng, nhất hô bá ứng, dọc ngang thông suốt… chỉ là hô hào suông.
Nhận thức về đảng, phải chăng đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng chính trị. Tất cả các đảng chính trị (tạm trừ đảng cộng sản) do một người hoặc một nhóm người lập ra, có cùng chí hướng về một lĩnh vực nào đó của xă hội, chủ yếu là để được cầm quyền bằng cách vận động bầu cử. Riêng đảng Cộng sản Việt Nam và một số đảng cộng sản khác chủ trương giành chính quyền bằng bạo lực với phương châm thể hiện trong lời đảng ca: “Quyết phen này sống chết mà thôi. Chế độ xưa ta mau phá sạch tan tành… Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay ḿnh…”
Theo Lênin, đảng cộng sản phải là đội tiên phong của giai cáp công nhân, phải gồm những người ưu tú. Một thời khá dài, Đảng tuyên truyên rằng, được vào Đảng là vinh dự nhất đời, và Đảng là một tổ chức thiêng liêng mà mọi người chỉ có thể phục tùng vô điều kiện và kính trọng tuyệt đối. Tuyên truyền của Đảng c̣n dựng lên một lănh tụ vĩ đại gần giống như một vị thánh để nhân dân thờ phụng. Đảng đặt ra cụm từ “quần chúng” để phân biệt với “đảng viên”.
Thực ra đảng CSVN về bản chất cũng chỉ là một đảng chính trị, là công cụ của một số chính trị gia bậc cao. Đảng được nhập từ ngoài vào và dựa vào dân, đăc biệt dựa vào ḷng yêu nước của đảng viên và của nhân dân để phát triển.
Xem dân tộc như một cây chủ th́ tổ chức Đảng như một cành tầm gửi, sống nhờ vào nhựa của cây. Đảng chăm lo đến phát triển kinh tế, một phần v́ dân, nhưng chủ yếu là cho Đảng, v́ chi tiêu của Đảng đều lấy từ ngân sách, từ tiền thuế của dân.
Với đảng cầm quyền, ngân sách nhà nước có nghĩa vụ cung cấp một khoản nào đó để hoạt động, nhưng phải công khai, thông qua Quốc hội. Nhưng với đảng CSVN, h́nh như ngân sách nhà nước cũng là của Đảng nên chưa bao giờ thấy Quốc hội thông qua ngân sách cấp cho Đảng. Ở Việt Nam, h́nh như mọi người công nhận việc Đảng tự đặt ḿnh đồng nhất với nhà nước và mọi thứ trên đất này đều thuộc về Đảng, mỗi người dân phải thuộc ḷng câu “Nhờ ơn Đảng nên dân ta mới có được như ngày nay”, rằng mọi người phải nhớ ơn Đảng. Thực ra, nói ngược lại là Đảng phải nhớ ơn dân mới đúng.
Tiếp theo, xin bàn một chút về vị thế ngoại giao của Việt Nam. Trước đây đă từng có những người Việt tự hào rằng, tuy là nước nhỏ nhưng VN xứng đáng là người lính xung kích của phe XHCN, là tấm gương sáng về cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa trong phong trào “ba ḍng thác cách mạng”. Nhưng gương dựng lên rồi để đó, ngoài nước Lào bị khống chế ra chẳng có ai học theo. Đến nỗi, để trả lời sự khoe khoang của ông Phạm Văn Đồng rằng, Việt Nam tự hào đă đánh thắng Pháp và Mỹ, một thủ tướng Thái Lan nói rằng, họ lại tự hào v́ không phải đánh nhau với ai cả.
Gần đây, một số lănh đạo và người dân có một tự hào v́ Việt Nam được nhiều nước kết bạn, công nhận, tôn trọng thể chế và bầu vào một số hội đồng của Liên Hiếp quốc. Người ta tự hào v́ có hai sự nhầm. Một là, Việt Nam có nhiều bạn nhưng không có bạn thân, bạn tốt, sẵn sàng giúp đỡ nhau trong hoạn nạn. Người bạn Trung Quốc vừa là bạn, vừa là kẻ thù. Việt Nam lại mắc mưu Trung Quốc chủ trương quốc pḥng “bốn không”, tự trói tay chân nếu bị TQ xâm lấn.
Nhầm thứ hai là, Việt Nam đă đạt được sự tin cậy và kính trọng của nhiều nước v́ họ tôn trọng quyền tự chọn thể chế và bầu vào một số hội đồng của Liên Hiệp quốc. Nhầm là lẫn lộn giữa tôn trọng sự lưạ chọn với tin cậy, kính trọng.
Trước đây Mỹ và nhiều nước rất lo ngại việc Cộng sản Trung Quốc và tên lính xung kích Việt Nam sẽ tràn ra khắp Đông nam Á. Nhưng càng ngày càng rơ rằng cộng sản ngày nay chỉ c̣n đủ sức gây ra những bất lợi cho nhân dân do họ thống trị mà không c̣n đủ sức truyền ra rộng răi, dân nhiều nước đă thấy rơ những độc hại của cộng sản mà không bị lừa dối.
Nhận thức rằng, lựa chọn thể chế chính trị, tuy là rất quan trọng, nhưng là quyền tự do của mỗi nước, cũng như kết hôn là quyền tự do của con người trưởng thành. V́ nhân quyền mà người ta tôn trọng sự lựa chọn thể chế, nhưng từ tôn trọng sự lựa chọn, đến cho rằng sự chọn đó là đúng, là hay, dẫn đến sự tin cậy, kính trọng, c̣n một quảng khá xa.
Lấy thí dụ, cạnh nhà bạn có ông bị mắc bệnh aids (sida). Trước đây v́ sợ bệnh dễ lây nên bạn tránh xa, nhưng khi hiểu ra bệnh đó, chỉ làm hại người bệnh mà khó lây cho người khác, nên bạn thỉnh thoảng chào hỏi ông ta, thậm chí cùng ngồi ăn uống với nhau, đối xử với ông b́nh đẳng. Như vậy không có nghĩa bạn xem ông ấy là tốt, đáng tin cậy và kính trọng.
Việc vận động các nước công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, tuy đă tốn nhiều công sức nhưng chưa đạt được, v́ người ta thấy rơ sự thiếu trung thực trong đó. Riêng về việc được bầu vào Hội đồng của Liên Hiệp quốc th́ h́nh như cũng phải tốn nhiều công vận động để có được cái danh hảo mà tuyên truyền, chứ thực chất của việc đó không có ư nghĩa thực tế. Tự hào về những điều vừa kể là tự hào một cách hoang tưởng
(Hết bài)
PHẦN 5
HOANG TƯỞNG QUYỀN LỰC DẪN ĐẾN TRANH DÀNH QUYỀN LỰC DƯỚI GÓC ĐỘ LỊCH SỬ.
Hoang tưởng quyền lực thế hiện ở chỗ ham muốn chiếm đoạt quyền lực và khi có quyền lực cố giữ nó bằng mọi giá, mất hết cả lư trí và thường đi đến sự diệt vong.
Cái ṿng ḷng luẩn quẩn này diễn ra không có hồi kết, khi hoang tưởng quyền lực c̣n có đất tồn tại trong những thể chế chuyên chế, chuyên quyền .
Trong lịch sử Việt Nam có nhiều kẻ v́ muốn chiếm đoạt quyền lực của người khác đă không từ một thủ đoạn nào, giết chết người thân thích, phản chủ, sẵn sàng “cơng rắn cắn gà nhà”… không những gây ra những tội ác “trời không dung, đất không tha” c̣n kéo lùi, ḱm hăm sự phát triển đất nước.
…………………….
Ở Việt Nam lịch sử không ít những câu chuyện tranh dành quyền lực tàn khốc, nó diễn ra từ đời Hùng Vương khi đó là một bộ tộc, tiếp theo các triều đại phong kiến và có thể nói đến tận bây giờ.
Lần theo lịch sử, lấy mốc khi người Việt đă h́nh thành nhà nước sẽ thấy tranh dành quyền lực triều đại này nối tiếp triều đại khác, từ chế độ này sang chế độ khác.
- Năm 937, Kiều Công Tiễn giết chết Dương Đ́nh Nghệ, nắm lấy quyền bính, tự xưng là Tiết độ sứ.
Việc Kiều Công Tiễn ám hại chủ tướng để giành lấy quyền bính trái với luân lư đạo thường nên không được các tướng lĩnh và nhân dân ủng hộ.
Chính v́ điều này, con rể của Dương Đ́nh Nghệ đang trấn giữ Ái Châu là Ngô Quyền đă tức tập chuẩn bị binh mă, tiến ra Bắc trả thù. Lo sợ trước sức mạnh của Ngô Quyền, Kiều Công Tiễn lại tiếp tục v́ lợi ích của cá nhân mà bán rẽ độc lập của dân tộc, cầu cứu vua Nam Hán xâm lược nước ta.
- Kế ngay sau đó Năm Mậu Th́n (968) Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt (Nước Việt to lớn), đóng đô ở Hoa Lư (nay là xă Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh B́nh).
Nhà Đinh rơi vào tay nhà Lê chỉ sau 12 năm trị v́ (980) trong âm mưu tiếm quyền của Dương hậu và Thập đạo tướng quân Lê Hoàn.
Trong cuộc đua ganh này, Dương hậu đă tư thông với Lê Hoàn, chọn Lê Hoàn làm chỗ dựa.
Sau sự kiện Đinh Liễn giết Hạng Lang, Đinh Tiên Hoàng không xử phạt Đinh Liễn mà vẫn dự định để Liễn nối nghiệp. Theo lư giải của một số nhà nghiên cứu, một trong những nguyên nhân khiến nhà Tống phát binh xâm lược Đại Cồ Việt chính là do Đinh Liễn, người đă đi lại với nhà Tống và được chính vua Tống phong chức bị sát hại.
Cái chết của Đinh Liễn là âm mưu của Lê Hoàn và Dương hoàng hậu.
Lê Hoàn đă cấu kết với thái hậu họ Dương để giành quyền lực từ tay họ Đinh, để Tống có cớ xâm lược nước ta. Chính Lê Hoàn là nguyên nhân lớn nhất để nội bộ nước ta trở nên chia rẽ.
- Cuộc chiến tranh giành quyền lực vẫn tiếp diễn, nhà Lư thay nhà Lê lên cầm quyền vào năm 1009, nhà Tiền Lê tồn tại vẻn vẹn có gần 30 năm.
Năm 980, Lê Hoàn lên ngôi, lấy hiệu là Lê Đại Hành, lập ra nhà tiền Lê, Ông đánh bại nhà Tống xâm lược năm 981. Lê Đại Hành có tổng thể 11 người con trai trong đó có 1 người con nuôi, tuy nhiên Ông lại không lập thái tử cho một người con trai nào mà phong vương cho các con trai ḿnh cai quản các vùng đất khác nhau và Ông lập đến 5 bà hoàng hậu.
Năm 1005, Lê Đại Hành băng hà, nhường ngôi cho con thứ 3 là Lê Long Việt. Tuy nhiên, xảy ra cuộc chiến tranh giành ngôi báu giữa các con trai của Lê Đại Hành.
Lê Long Việt trấn áp các hoàng tử khác, lên ngôi hoàng đế. Tuy nhiên, chỉ trong ṿng 3 ngày Ông bị giết hại.
Lê Long Đĩnh lên thay anh, và lịch sử lập lờ ghi lại, chính Lê Long Đĩnh là người đă giết anh trai của ḿnh để cướp ngôi.
Đến đây lịch sử bị rơi vào màn đêm bí ẩn, không thể giải thích bằng cách nào Lư Công Uẩn lại được đặt lên ngôi vàng một cách đơn giản chỉ v́ Lê Long Đĩnh giết anh trai của ḿnh nhưng khi thấy Lư Công Uẩn đang ôm xác vua mà rên khóc đau đớn, vua cho đây là con người trung nghĩa, thăng chức cho Lư Công Uẩn.
Giết vua giết anh là bất trung bất nghĩa, một con người như vậy, khó mà trọng dụng một con người trung nghĩa?
Lê Long Đ́nh chết năm 24 tuổi, lúc sống dâm dục quá độ, mắc bệnh không ngồi được, đến buổi chầu th́ cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là Ngọa-triều”.
Tại sao Lư Công Uẩn là trung thần không can ngăn? Cứ cho rằng con vua c̣n quá nhỏ nhưng bấy giờ các anh em của Lư Long Đĩnh vẫn c̣n khá nhiều, là những người có đủ tư cách để kế nghiệp ngai vàng họ Lê, vậy tại sao lại phải chọn một người họ Lư, nắm trong tay binh quyền để nối ngôi?
- Triều Lư tồn tại được 216 năm, truyền ngôi được 9 đời, lại rơi ngai vàng vào nhà Trần. Sự chuyển giao quyền lực này không hề êm thấm đầy âm mưu và thủ đoạn tàn khốc trong cuộc chiến tranh dành quyền lực.
Sử cũ chép rằng, vào năm 1224, Trần Thủ Độ đă ép Huệ Tông nhường ngôi cho con gái mới lên 7 tuổi là Chiêu Thánh Công Chúa, tức Lư Chiêu Hoàng. Chị của Lư Chiêu Hoàng là Thuận Thiên Công Chúa th́ được Trần Thủ Độ sắp đặt kết hôn với con trai lớn của Trần Thừa là Trần Liễu. Em trai Trần Liễu là Trần Cảnh, cũng vừa 7 tuổi kết hôn với Lư Chiêu Hoàng. Năm 1225, Trần Thủ Độ ép Lư Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Thế là, Trần Cảnh lên ngôi lấy hiệu là Thái Tông, bắt đầu triều đại nhà Trần.
Bấy giờ, Thái Tông mới có 8 tuổi, nên mọi việc điều do chú họ là Trần Thủ Độ nắm cả. Vừa lên ngôi, Thái Tông đă ban chiếu phong Trần Thủ Độ làm Thái Sư Thống Quốc nắm hết binh quyền. Đối với một ông vua 8 tuổi, th́ rơ ràng việc gia phong này là do chủ ư Trần Thủ Độ cả.
Để củng cố quyền lực nhà Trần, Thủ Độ rắp tâm diệt cỏ tận gốc đối với tôn thất nhà Lư. Năm 1225, Thủ Độ ép Huệ Tông phải tự tử. Sử cũ c̣n chép, năm 1232, nhân tôn thất nhà Lư về tế lễ, Thủ Độ ngầm sai người đào hầm đặt bẫy chôn sống tất cả. Sau đó, để tuyệt được hậu họa, Thủ Độ c̣n lấy cớ là tên của tiên tổ Triều Trần là Trần Lư, v́ thế phải kiên húy chữ Lư, và ra lệnh người họ Lư trong nước phải đổi thành họ Nguyễn.
(C̣n tiếp).
TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG GIỮA NHÀ TÂY SƠN VÀ NHÀ THANH TRONG CHIẾN TRẬN 1788.
PHẦN 1.
QUÂN NHÀ THANH.
Số quân Thanh sang Đại Việt được ghi chép trong các sử sách của Việt Nam, của Trung Quốc, cũng như của người phương Tây đương thời có những điểm khác biệt rất lớn. Các nhà nghiên cứu Nguyễn Phan Quang, Tạ Chí Đại Trường, Trần Gia Phụng đă có những tổng hợp về các nguồn tài liệu liên quan tới vấn đề này; nguồn tài liệu do các nhà nghiên cứu Việt Nam dẫn ra khá tương đồng.
Sự khác biệt giữa các số liệu do nhiều nguyên nhân khác nhau:
Việc phao tin phóng đại hoặc che giấu bớt lực lượng của các bên, không gian chiến dịch khá rộng (chỉ tính số quân Thanh đóng ở khu vực tác chiến hay tính cả lực lượng vận tải hậu cần ở phía sau), và cả sự phức tạp trong cách tính thành phần của quân Thanh (sử Trung Quốc chỉ ghi rơ số quân chính quy nhưng không ghi rơ số lượng quân địa phương, dân binh đi theo hỗ trợ, cũng không ghi rơ về số lượng quân Lê Chiêu Thống, quân Hoa kiều trợ giúp nhà Thanh).
VIỆT NAM.
Sử sách của Việt Nam như Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Đại Nam Thực Lục, Lê Quư Kỷ Sự, Tây Sơn Thuật Lược... không ghi chép rơ số quân Thanh.
Hoàng Lê nhất thống chí có chép lại "Tám điều quân luật" và "Bài hịch" của Tôn Sĩ Nghị. Trong "Bài hịch", Tôn Sĩ Nghị tuyên bố số quân Thanh có 50 vạn. Theo "Tám điều quân luật" th́ "mỗi người lính được cấp một tên phu" (điều 8 ) Vậy số quân Thanh 50 vạn th́ số phu cũng 50 vạn và toàn bộ lên đến 1 triệu người. Hầu hết các nhà sử học đều cho con số 1 triệu chỉ là phóng đại nhằm khoa trương thanh thế. Nhưng nó cũng cho ta biết rằng 1 người lính chính quy sẽ có một người phu đi theo.
Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện sơ tập (Q.30) và Nguyễn Thị Tây Sơn Kư chép số quân là 20 vạn, nhưng không xác định con số đó có bao gồm lực lượng quân địa phương, nghĩa dũng và dân phu hay không.
Tỷ lệ giữa binh lính và dân phu trong các tài liệu cũng không thống nhất. Điều 8 trong "Quân luật" của Tôn Sĩ Nghị quy định 1 lính được cấp 1 phu, trong lúc "Lê Sử Toản Yếu" và "Minh Đô Sử" của Việt Nam lại chép 1 chiến binh có 3 dân binh phục vụ.
Bài Hàng binh Chiếu của Quang Trung do Ngô Th́ Nhậm viết, là tài liệu được công bố ngay sau chiến thắng Kỷ Dậu. Bài chiếu có đoạn viết:
“Việc Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị nhà các ngươi sức hèn tài mọn, không biết tự lượng, đem hai mươi chín vạn quân sang cửa quan, vượt suối trèo non, vô cớ xông vào chỗ hiểm nguy để gây binh hấn, khiến cho các ngươi, một lũ dân đen vô tội phải nằm sương gối tuyết và chết ở ḥn đạn mũi tên. Đó là tội của Tổng đốc nhà các ngươi.”
Theo bài chiếu, tổng số quân Thanh là 29 vạn. Theo ư kiến một nhà nghiên cứu Việt Nam là Nguyễn Phan Quang, bài Chiếu phát phối hàng binh nội địa của Quang Trung là một văn bản chính thức, đương thời, đáng tin cậy. C̣n theo ư kiến của một người Việt Nam khác là Trần Gia Phụng th́ 29 vạn quân tuy do Ngô Thời Nhậm là người trong cuộc viết nhưng đây là một văn thư có tính tuyên truyền nên cũng chưa hẳn sát với thực tế.
Có tài liệu Việt Nam khác th́ viết rằng lực lượng quân Thanh xâm lăng Đại Việt có khoảng hai mươi vạn (tức 200.000 quân). Đối chiếu với các tài liệu Trung Quốc th́ con số 20 vạn là khá hợp lư: tài liệu Trung Quốc ghi nhận hai cánh quân Lưỡng Quảng và Vân Quư có 29.500 quân chính quy, 6.000 quân địa phương, 12 vạn dân binh (chưa tính cánh quân Điền Châu), lại huy động thêm khoảng 1 vạn Hoa kiều đang sống ở miền Bắc Việt Nam, vài vạn quân nhà Lê. Nhà nghiên cứu Tạ Chí Đại Trường kết luận rằng "Tạm thời ta dùng con số 20 vạn của sử Việt kể luôn quân chính quy và phụ lực của Thanh, quân nghĩa dũng của nhà Lê, chắc không sai bao nhiêu".
NGƯỜI PHƯƠNG TÂY ĐƯƠNG THỜI.
Một số thương nhân, giáo sĩ phương Tây đến Đại Việt vào khoảng thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 có ghi lại trong hồi kư và thư từ, một ít tư liệu về chiến thắng Kỷ Dậu 1789.
Một thương nhân Anh là J. Barrow đến Đại Việt năm 1792 lại ghi nhận một số liệu khác, số quân Thanh là 10 vạn.
Một nguồn thông tin thư từ của một số người nước ngoài sống ở vùng Thăng Long ngay trong thời gian xảy ra trận chiến này. Số thư từ này c̣n được ghi lại trong tập "Nhật Kư của hội truyền giáo Bắc Kỳ" lưu trữ tại Nha văn khố quốc gia Paris. Một bức thư gửi từ Thăng Long đề ngày 25/10/1788 phản ánh một "tin đồn" về 30 vạn quân Thanh sắp kéo sang cứu viện cho Lê Chiêu Thống.
Bức thư của một linh mục trông coi giáo dân ở vùng Thăng Long đề ngày 26 tháng 12 năm 1788 cho biết rơ: "Viện binh Trung Hoa gồm độ 28 vạn người, một nửa đóng trong thành phố, nửa c̣n lại ở bên kia sông". Theo nhận định của Trần Gia Phụng th́:
“Nếu một nửa đóng trong thành phố, nghĩa là có 14 vạn quân Thanh trong thành Thăng Long, th́ thành Thăng Long lúc đó có đủ sức chứa, chỗ ở và nuôi ăn hàng ngày cho quân Thanh không? Ngoài ra, theo tài liệu Trung Hoa, quân Thanh mất hết một nửa khi trở về nước, vậy mất hết khoảng 14 vạn (so với 28 vạn khi ra đi), vừa chết vừa mất tích, trốn chạy th́ con số nầy có thích hợp trong một cuộc chiến bằng vũ khí chưa tối tân? Tuy nhiên con số 28 vạn của tài liệu nầy gần với con số 29 vạn mà Ngô Thời Nhậm đă viết trong "Tờ chiếu phát phối hàng binh người nội địa". ”
Theo nhà nghiên cứu Tạ Chí Đại Trường th́:.
“C̣n về số ước tính của giáo sĩ, ta nghĩ rằng họ thấy thanh thế quân Thanh to quá so với cá nhân con người thời loạn trốn chui trốn nhủi như họ và người đương thời, nên đă phóng đại ra. Tạm thời ta dùng con số 20 vạn của sử Việt kể luôn quân chính quy và phụ lực của Thanh, quân nghĩa dũng của nhà Lê, chắc không sai bao nhiêu....”
Một tài liệu khác trong hồi kư của giáo sĩ Pierre-Jacques Lemonnier de la Bissachère (1764-1830) xuất bản tại Pháp năm 1812 cho biết rằng quân Thanh sang Đại Việt khoảng 40.000 người và bị giết tại trận khoảng 20.000 người. Do ông De la Bissachère tới Đàng Ngoài năm 1790-chỉ 1 năm sau trận chiến và ở lại cho đến năm 1798 nên Trần Gia Phụng cho rằng "có thể ông (de la Bissachère) thu thập được nhiều nguồn tin và lượng định con số quân Thanh sang nước Việt"
Nhật kư về những sự kiện đáng ghi nhớ trong địa phận Giáo hội Bắc kỳ từ tháng 10-1788 cho tới cuối tháng 7-1789 ghi rằng "Quang Trung đă cho đem về Phú Xuân và về tân kinh đô tới 2.000 - 3.000 cỗ đại bác và súng thần công (chiến pháo), không biết bao nhiêu là súng dài và khí giới khác cùng với vô số tiền bạc và (đại khái) tất cả những vật liệu quư giá bắt được của quân Trung Hoa" Dựa theo số lượng chiến lợi phẩm này, có thể thấy số lượng quân Thanh là không dưới vài vạn.
Thư đề ngày 20-1-1790 của giáo sĩ La Mothe gửi cho giáo sĩ Blandin ghi rằng "50.000 binh lính Trung Hoa đă chết v́ tay Tiếm vương năm ngoái chỉ trong một cuộc giao chiến" Nếu con số này là chính xác, có thể thấy số lượng quân Thanh (gồm quân chính quy và dân binh) kéo sang Đại Việt chí ít cũng phải 10 vạn.
TRUNG QUỐC.
Đại Thanh Thực Lục, bộ sử chính thức của nhà Thanh, ghi chép đầy đủ những lệnh dụ của vua Thanh cho biết hai cánh quân Lưỡng Quảng và Vân Quư có 29.500 quân chính quy (quân chủ lực tinh nhuệ điều động ở bốn tỉnh phía nam), 6.000 quân địa phương và khoảng 12 vạn dân binh phục vụ vận tải, trong đó:
Cánh quân Lưỡng Quảng do Tôn sĩ Nghị trực tiếp thống lănh. Cánh quân này gồm 8.000 quân chính quy tỉnh Quảng Đông, 13.500 quân chính quy tỉnh Quảng Tây. Tổng cộng có 21.500 quân chính quy (ban đầu có 15.000, sau tăng viện thêm 6.500), ngoài ra c̣n có 1.500 phu chăn ngựa và 751 con ngựa, 20 khẩu phách sơn pháo.
Cánh quân Vân Quư do đề đốc Ô Đại Kinh chỉ huy có 8.000 quân chính quy, ngoài ra c̣n có 2.000 con ngựa và 2.000 con ḅ để chở lương thực.
Có khoảng 6.000 quân địa phương đi theo 2 cánh quân trên, nhưng không rơ mỗi cánh quân có bao nhiêu quân địa phương.
Cánh quân Vân Quư có 2 vạn dân binh phục vụ vận tải. Không có ghi chép cụ thể số dân binh phục vụ cánh quân Lưỡng Quảng, nhưng riêng đội quân Quảng Tây thuộc cánh quân này đă có 54.000 dân binh đi theo phục vụ, chưa tính số dân binh của đội quân Quảng Đông (theo lời tuần phủ Quảng Tây là Tôn Vĩnh Thanh th́ tổng số dân binh phục vụ cho cánh quân Lưỡng Quảng là hơn 10 vạn).
Các con số trên chưa tính lực lượng cánh quân Điền Châu do Sầm Nghi Đống chỉ huy, nếu tính cả cánh quân này th́ quân Thanh có khoảng gần 40.000 quân và 13-14 vạn dân binh.
Trong "Càn Long chinh vũ An Nam Kư", Ngụy Nguyên đời Thanh khoảng vài chục năm sau có chép tương tự: số quân Thanh là 18.000, trong đó đạo quân Lưỡng Quảng là 10.000 (chưa kể số viện binh sau này) và đạo quân Vân Quư là 8.000. Nhưng Ngụy Nguyên cho biết thêm: "bấy giờ các thổ binh, nghĩa dũng đi theo, tiếng đồn đại binh có vài chục vạn". Như vậy, số quân chủ lực có khoảng 18.000 (chưa kể 11.500 viện binh bổ sung sau đó), chưa tính số "nghĩa binh", "nghĩa dũng" và dân phu vận chuyển có mấy chục vạn người. Dù vậy như Ngụy Nguyễn cũng nói, đây chỉ là "tiếng đồn".
Theo Tiến sĩ Nguyễn Duy Chính của Đại học Irvine, Hoa Kỳ th́ sổ trả lương và kế toán của nhà Thanh ghi gần tương tự, rằng ở phía Đông (vùng Bắc Việt Nam) họ có 10.000 quân, phía Tây có 8.000 và cộng thêm số viện binh theo những nguồn tài liệu khác, sẽ vào khoảng 30.000 quân chính quy. Và cũng trong phân tích này, tiến sĩ có dẫn lại sử gia Ba Lan tên là Wieslaw Olszewski ghi quân Thanh có 200.000 quân (không ghi rơ là loại quân ǵ) sang nước Việt nhưng không rơ số đánh nhau với Tây Sơn là bao nhiêu.
Theo các nhà nghiên cứu Tạ Trí Đại Trường, Phan Huy Lê, Hồ Bạch Thảo và Trần Gia Phụng, sử sách nhà Thanh đă ghi hạ thấp số quân viễn chinh để giảm bớt sự thất bại trầm trọng của triều Thanh.
Các sử gia Trung Quốc đó không ghi chép đầy đủ các lực lượng của toàn bộ quân viễn chinh, nhưng chính những đoạn ghi chép của sử sách nhà Thanh, nhất là bộ Đại Thanh Thực Lục, lại bộc lộ nhiều mâu thuẫn: Số quân vài vạn mà Đại Thanh Thực Lục ghi không tính đến số "thổ binh", "nghĩa dũng" và dân phu.
Hơn nữa, với một đạo quân mấy vạn th́ triều đ́nh nhà Thanh không cần phải cử tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị làm thống soái, dưới trướng gồm một loạt vơ quan cao cấp như: Đề đốc Phó tướng Hứa Thế Hanh, Đề đốc Ô Đại Kinh, Phó tướng Khánh Thành, Phó tướng H́nh Đôn Hành; các tổng binh Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long, Lư Hóa Long cùng nhiều Tham tướng, Tri phủ, Tri huyện, v.v...
Nếu chỉ điều mấy vạn quân, Càn Long cũng không phải quan tâm tới mức vài ngày lại ra một chỉ dụ. Báo cáo của các tướng nhà Thanh trước khi lên đường sang Việt Nam có nêu số quân Tây Sơn ở Bắc Hà có 6 vạn (lúc Nguyễn Huệ chưa rút quân về nam), chưa kể quân đội Tây Sơn (3-4 vạn) đóng ở phía nam, nhà Thanh là bên tấn công nên chắc chắn phải huy động số quân chủ lực đông hơn, vậy th́ lực lượng quân Thanh phải vào khoảng 10 - 15 vạn lính chính quy trong tổng số 29 vạn quân, dân binh đủ các loại.
Trong bài viết in trên Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Nguyễn Duy Chính dẫn lại những tổng kết của Lại Phúc Thuận, một học giả đă dày công dựa vào các tài liệu của Thanh triều như Thanh Cao Tông Thuần Hoàng Đế thực lục, Khâm định An Nam kỷ lược, Thanh sử cảo, Đông Hoa tục lục và các sổ sách của Bộ Hộ, Bộ H́nh v.v. để biên soạn thành Càn Long Trọng Yếu Chiến tranh chi Quân Nhu Nghiên cứu (乾隆重要戰爭之軍需研究), xác định quân Thanh vào Việt Nam bao gồm quân chính quy và quân phụ trợ. Quân chính quy ở cánh Lưỡng Quảng có 21.500 người (Quảng Tây đợt một 10.000, đợt hai 3.500; Quảng Đông đợt đầu 5.000, đợt sau 3.000), bố trí 4.000 quân đóng ở các quan ải dọc biên, 5.000 quân không theo đại quân mà chia ba toán (2.000 pḥng thủ Lạng Sơn, 1.300 canh giữ 17 kho lương dọc đường Lạng Sơn-Thăng Long, 1.700 canh pḥng các nơi hiểm yếu), chỉ có 12.500 người ở cánh này theo Tôn Sĩ Nghị và Hứa Thế Hanh chỉ huy đưa xuống Thăng Long. Số quân phụ trợ (gồm thổ binh phối hợp, mă phu, dân phu) ước mấy chục vạn người.
Theo tính toán của Trần Gia Phụng th́ theo chính sử nhà Thanh, hai cánh quân của Tôn Sĩ Nghị và Ô Đại Kinh khi cộng lại có khoảng gần 2 vạn quân chính quy (chưa kể hơn 1 vạn viện binh bổ sung thêm sau đó), thêm đoàn quân tiếp liệu của Tôn Vĩnh Thanh không dưới 10.000 người nên khi cộng lại đă được 40.000 quân chính quy. Mỗi quân chính quy lại đem theo ít nhất một người phu (điều thứ 8 của quân luật Tôn Sĩ Nghị) th́ số người Thanh qua Đại Việt tối thiểu là 80.000. Đây là con số tối thiểu, mà thực tế theo ông, phải cao hơn nữa do các tướng lănh và sĩ quan Thanh chắc chắn phải đem theo nhiều hơn một người phu, và trước đó để đánh một bộ lạc 150.000 người mà nhà Thanh huy động đến 8 vạn quân, Đại Việt dân đông hơn rất nhiều (khoảng 5 - 6 triệu dân) nên con số 1-2 vạn quân là quá ít.
Tài liệu này khá khớp với tài liệu của giáo sĩ Pierre-Jacques Lemonnier de la Bissachère khi ông cũng ghi lại rằng quân chính quy của nhà Thanh sang Việt Nam năm đó có tối thiểu (đă bị chính sử Trung Quốc ghi chép giảm bớt) 40.000 người. Ông Phụng tin rằng số quân Thanh có thể c̣n cao hơn nữa chút ít, tuy nhiên có thể tạm tin được con số 40.000 quân chính quy (chưa kể số dân binh c̣n đông gấp mấy lần).
(C̣n tiếp).
TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG GIỮA NHÀ TÂY SƠN VÀ NHÀ THANH TRONG CHIẾN TRẬN 1788.
PHẦN 2.
QUÂN NHÀ TÂY SƠN.
Nghe tin báo quân Thanh xâm lược, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22 tháng 12 năm 1788), Bắc B́nh vương Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Với lư do vua Lê đă bỏ nước và rước giặc về, để có danh nghĩa chính thống, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung.
Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (26 tháng 12 năm 1788), đại quân của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An, dừng quân tại đó hơn 10 ngày để tuyển quân và củng cố lực lượng. Để có thêm quân đánh Thanh, vua Quang Trung thi hành chính sách cưỡng bách ṭng quân. Theo tác giả Hoa Bằng, tất cả đinh nam từ 12, 13 đến 60 tuổi đều phải đăng lính.
Theo thư của giáo sĩ La Barette, tất cả nam từ 15 tuổi trở lên đều phải đi lính, người già và phụ nữ phải đi sửa cầu đường.
Theo Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng, cứ 3 suất đinh th́ chọn lấy 1 người đi lính. Trong 10 ngày tuyển quân, Quang Trung đă có thêm khoảng mấy vạn quân, nâng tổng quân số lên tới 10 vạn.
Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, số quân cũ và mới của Quang Trung là 10 vạn, được tổ chức thành 5 đạo: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân, ngoài ra c̣n có một đội tượng binh gồm 200 voi chiến. Quang Trung c̣n tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ tinh thần và ư chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm lược Măn Thanh. Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung tiến quân ra Bắc
KẾT LUẬN.
Theo tổng hợp các số liệu lịch sử có thể thấy chấp nhận số liệu:
Quân nhà Thanh có khoảng 4 vạn, nhà Tây Sơn có khoảng 10 vạn. Cả hai bên không kể đến dân binh.
Ngày trước đánh đồn lũy, pháo đài, thành quách bên tấn công bao giờ cũng phải đông quân hơn.
Nên quân của Tây Sơn được ghi nhận 10 vạn, quân Thanh 4 vạn là hợp lư.
Mặt khác xét về dân số Hà Nội (gồm nội, ngoại thành) cũng chưa đến 50 vạn dân). Khó có lư quân Thanh lên đến 30 vạn, rất khó cho việc cung cấp hậu cần khi đóng quân tại chỗ trong một thời gian dài.
Việc quân Tây Sơn thắng vang dội do những nguyên nhân sau đây:
- Quân Tây Sơn kinh nghiệm trận mạc dày dạn, trải qua thực chiến với nhà Nguyễn, nhà Xiêm.
- Ngoài 200 thớt voi chiến, quân Tây Sơn đă có súng trường, đại bác do phương Tây sản xuất (dù không nhiều) thu được của quân nhà Nguyễn.
Nên biết thêm, nhà Nguyễn đă bán Côn Đảo, Hội An cho Pháp (dù sau này không thành do biến động chính trị ở Pháp) làm tiền đồn đổi lấy vũ khí và trợ giúp đào tạo.
- Diễn biến chiến tranh 1788 có những nét giống chiến tranh 1979, khi những người cầm quyền Bắc Kinh đánh biên giới Việt Nam thực lực của họ không thực sự mạnh, cho nên đánh với bộ đội địa phương, dân quân Việt Nam họ đă khó thắng.
Quân đội Việt Nam có kinh nghiệm chiến đấu gần 20 năm qua hai cuộc chiến tranh đánh Pháp, Mỹ, trang bị hiện đại ít nhất cũng bằng Trung Quốc lúc đó.
Họ tranh thủ bộ đội chủ lực của ta tập trung vào mặt trận Campuchia, cũng như nhà Thanh nghĩ Tây Sơn đang phải đương đầu với nhà Nguyễn.
Nhà Thanh không lường trước, và không đánh giá hết khả năng địch- ta nên đă phiêu lưu phải nhận lấy thất bại cay đắng.
Sau này, Đặng Tiểu B́nh khôn ngoan hơn, nhận thấy ta đưa quân chủ lực ra, vội vă thu quân tránh được một kết cục bi thảm như Đống Đa, Ngọc Hồi.
Huy Đức: Có ai biết "Tiếng vọng đèo Khau Chỉa" là cuốn sử liệu đầu tiên về cuộc chiến tranh 17-2-1979
Tháng 2-2023, trong buổi ra mắt cuốn sách được viết bằng cả tâm sức của ḿnh, tác giả Nguyễn Thái Long xúc động nói:
“Hôm nay cuốn sách Tiếng vọng đèo Khau Chỉa đă đưa tôi đến đây, trước quư vị cử tọa khả kính và các độc giả thân mến. Cùng tôi đến đây hôm nay là những đồng đội của tôi - Cựu chiến binh Trung đoàn 567, họ ngồi ở khán pḥng này, bên cạnh tôi. Và, ngoài kia, vong hồn các liệt sỹ Trung đoàn 567. Hơn 500 con người, 44 năm trước đă vĩnh viễn nằm lại ở những cánh rừng, ngọn núi, ven suối, suốt một dải biên giới Cao Bằng, Vị Xuyên. Suốt mấy chục năm sau đó, không mấy ai biết đến họ, nhớ đến họ. Họ bị ch́m đi trong quên lăng…”.
567 là một trung đoàn địa phương quân. Nhiệm vụ của họ là làm đường. Họ không được chuẩn bị về tinh thần, không được trang bị đủ vũ khí cho một cuộc chiến tranh như cuộc chiến Trung Quốc tấn công Việt Nam trên toàn tuyến Biên giới vào rạng sáng 17-2-1979.
Nhưng ở Khau Chỉa, Tà Lùng, Cao Bằng, Trung đoàn 567 đă chặn đứng mũi tấn công của Quân đoàn 42, Quân khu Thành Đô, Trung Quốc, gồm hai sư đoàn bộ binh, một lữ đoàn xe tăng T59, một lữ đoàn pháo binh. Chiến đấu trong một tương quan vô cùng chênh lệch, nhưng suốt 12 ngày đêm, họ đă không để cho quân xâm lược Trung Quốc vượt qua được đèo Khau Chỉa, hướng tấn công chủ yếu vào Đông Bắc Cao Bằng.
Trong cuốn “Mười Năm Chiến Tranh Việt Trung” [NXB Đại học Tứ Xuyên 1993], Trung Quốc đă gọi con đường tiến vào thị xă Cao Bằng này là những “khe núi đẫm máu”.
Khau Chỉa - Tà Lùng là những Bạch Đằng, Chi Lăng của Thế kỷ 20.
Chưa có cuốn sách nào viết về cuộc chiến tranh Biên giới khốc liệt và sống động như Tiếng Vọng Đèo Khau Chỉa. Cuốn sách tuy chỉ nói về những trận đánh của Trung đoàn 567 và tập trung ở mặt trận Cao Bằng, nhưng nó vừa rất cận cảnh vừa rất khái quát. Cuốn sách vừa đưa người đọc can dự cái ngột ngạt của những trận đánh, vừa chứng kiến những người lính quả cảm, vừa h́nh dung rất rơ kẻ thù và cuộc chiến tranh này.
Nhưng cuốn sách c̣n khiến ta lắng lại bởi rất nhiều thân phận, đặc biệt là câu chuyện của “Bố Hoan”, vị Trung đoàn trưởng Trung đoàn 567.
Bố Hoan quê ở xă Chính Lư, huyện Lư Nhân, Hà Nam. Ông nhập ngũ 1949. Ông cầm quân mưu lược, xả thân, sát cánh cùng những “đứa con” của ḿnh. Ông trở về không phải đi qua những khải hoàn môn, mà một ḿnh, lầm lũi trên một cỗ xe ngựa ông tự đóng.
Bố Hoan mang cỗ xe ngựa về để thỉnh thoảng chở thóc, chở ngô giúp bà con trong làng; tự chở dần vật liệu để thực hiện niềm khao khát có một căn nhà của riêng ḿnh. Niềm khao khát của một người lính già trận mạc hơn ba mươi năm binh nghiệp.
H́nh ảnh vị Trung đoàn trưởng xuất ngũ được một người lính lái xe bắt gặp trên Đèo Gió, là h́nh ảnh của một thế hệ:
“Bố Hoan, trong bộ quân phục cũ, bạc màu, chiếc mũ cối cũ, chiếc b́nh tông nước đeo bên người sứt sẹo và đôi dép rọ sĩ quan cũng cũ ṃn vẹt gót. Chỉ có chiếc khăn mặt lính màu cỏ úa vắt trên vai là c̣n mới và ướt, không rơ là do mồ hôi hay cụ vừa rửa mặt. Khuôn mặt Bố Hoan đỏ bừng và đẫm mồ hôi lẫn bụi đường đỏ quạch trong cái nắng buổi trưa hè ngột ngạt oi nồng. Bên đường, dưới bóng cây là hai con ngựa đang uể oải nhai bó cỏ…”
Nguyễn Thái Long là một người lính 567 cầm súng trong ngày 17-2, không chỉ anh mà những người lính sống sót trong cuộc chiến ấy đă viết nên Tiếng Vọng Đèo Khau Chỉa.
Tiếng Vọng Đèo Khau Chỉa, có thể nói là cuốn sách đầu tiên của Việt Nam viết về cuộc chiến tranh năm 1979. Mấy năm trước đó cũng có một cuốn tự truyện của thiếu tướng Nguyễn Đức Huy. Cuốn sách cung cấp một tư liệu khá hay về Mặt Trận Vị Xuyên nhưng chỉ xoay quanh vai tṛ của ông và các chỉ huy trong một chiến thắng phá vỡ bế tắc ở Mặt trận này năm 1985. Cuốn sách của tướng Huy không nhắc đến vai tṛ của những người lính.
Những người lính làm nên chiến thắng ấy cũng của Trung Đoàn 567, họ đă đánh chiếm và bám trụ cao điểm A6b, “Ḷ Vôi Thế Kỷ”.
Sau Hội Nghị Thành Đô, người Trung Quốc vẫn cho xuất bản sách [khá phiến diện] về cuộc chiến tranh mà họ phát động, xâm lược nước ta [1993]. Nhưng, cho đến tận hôm nay, dù chỉ c̣n hai ngày nữa là tṛn 45 năm ngày nổ ra chiến tranh, chưa thấy báo đài Việt Nam nhắc ǵ về nó.
Bản thảo của cuốn sách này đă phải đi qua khá nhiều nhà xuất bản và chỉ Nhà Xuất Bản Phụ Nữ mới in nó nhưng vẫn rất dè dặt khi không có một ḍng nhỏ ngoài b́a nói về nội dung cuốn sách. Khá nhiều người Việt Nam nh́n thấy Tiếng Vọng Đèo Khau Chỉa trên giá sách, nhưng có rất ít người Việt Nam biết là cuốn sách nói về cuộc chiến tranh 17-2, cuộc chiến mà người Việt đă đổ không biết bao máu xương để bảo vệ biên cương trước quân Trung Quốc.
Chính những người lính là những người khát khao ḥa b́nh nhất. Nhưng không thể có một biên giới ḥa b́nh bằng cách vụng về che đậy quá khứ. Chỉ khi hiểu trung thực về quá khứ mới kiến tạo được một nền ḥa b́nh vững chắc.
NguoiTânĐinh
02-15-2024, 15:55
Tao thấy ngày kỉ niệm Quang Trung đại phá quân Thanh mà lũ thất trận, lũ đào-ngũ-trước-địch-quân, lũ đầu-hàng-vô-điều-kiện, vv... đem ra mà bàn với luận làm tao buồn ỉa quá "chời".... Tao có nói "trái chiều" thế th́ cho là tao thế này với thế nọ, nhưng cảm giác tao thế nào th́ bày thế ấy, chứ tao đéo cần đứa nào phải a-dua tao cả.... Mẹ bố tiên sư...
votongyeuem
02-17-2024, 00:45
nguyên nhân chính là đây
https://www.youtube.com/shorts/2jPjHsd4z4k
congluan
02-17-2024, 23:18
Cám ơn Bác cho biết : Đât nước là của VC chứ không phải của Toàn Dân Việt, hu hu
Tại sao bác lại....hu...hu.. .nhẽ ra phải...ha...ha... mới không bị ghép tội...thế lực thù địch....:hafppy::haf ppy::hafppy: :handshake:
PHẦN 6.
HOANG TƯỞNG QUYỀN LỰC DẪN ĐẾN TRANH DÀNH QUYỀN LỰC DƯỚI GÓC ĐỘ LỊCH SỬ.
PHẦN 6 sẽ tiếp tục dẫn dắt chúng ta theo ḍng lịch sử đất nước để thấy rằng, lịch sử Việt Nam không phải chỉ có những trang chói lọi trong truyền thống chống ngoại xâm, mà c̣n bi kịch nối tiếp bi kịch trong các cuộc tranh dành quyền lực. Đây là nguyên nhân chính để nước ta le lói nổi lên rồi lại rơi vào cảnh nồi da nấu thịt, ch́m sâu trong đói nghèo, tụt hậu chậm phát triển.
Quyền lực là thứ mê hoặc và ám ảnh lớn nhất của con người. Có những kẻ v́ tham quyền đă để lại tiếng xấu muôn thuở, trở thành những kẻ bán nước cầu vinh bị người đời khinh miệt như Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống…
Một số khác dùng quyền lực lũng đoạn triều chính, lũng đoạn nhà nước, thao túng tổ chức … mưu cầu danh vọng cá nhân biến đất nước trở nên vô pháp, bọn cơ hội v́ thế nổi lên đưa đất nước đi đến thảm họa văn hoá suy đồi, đạo đức xuống cấp, tham nhũng cửa quyền, trăm họ sống trong lầm than mất đất, mất quyền làm người….
Lịch sử có giá trị như những bài học cho đời sau qua đó học hỏi rút kinh nghiệm, cái ǵ tốt th́ phát huy, cái ǵ xấu tránh đi vào vết xe đổ.
Nhắc lại lịch sử tranh dành quyền lực của các triều đại phong kiến Việt Nam cũng là lời cảnh tỉnh cho những kẻ đang cố nắm giữ quyền lực về một tương lai không tốt lành đang đợi họ ở phía trước.
HỒ QUƯ LY CƯỚP QUYỀN NHÀ TRẦN.
Triều đại nhà Trần (1226-1400) tồn tại 174 năm dù đă rút được kinh nghiệm sự sụp đổ của các triều đại trước, bằng cách đưa ra những quy định, luật lệ rất ngặt nghèo, hà khắc để bảo vệ ngôi vàng, nhưng quy luật càng cố bám lấy quyền lực th́ các bệnh quyền lực càng nhanh đến, càng nặng và cuối cùng bị xu thế trật tự và tiến bộ mới thay thế là quy luật tất nhiên.
Nhà Trần có tục cha nhường ngôi cho con khi c̣n sống để làm thái thượng hoàng.
Ưu điểm cuả nó là giúp vị vua trẻ có dịp thực tập vai tṛ cuả ḿnh dưới sự d́u dắt cuả vua cha để khi thực sự lănh đạo đất nước sẽ không bị quyền thần lấn át.
Nhưng mặt khác, nếu đă nhường ngôi mà thái thượng hoàng vẫn tham quyền cố vị th́ rất dễ bị nịnh thần khuynh loát.
Nhà Trần có tục “nội hôn” (hôn nhân diễn ra trong ḍng tộc) nhằm mục đích bảo vệ vững chắc triều đại. Ngoài Trần Thái Tông kết hôn với Lư Chiêu Hoàng sau đó với Thuận Thiên công chúa (chị cuả Chiêu Hoàng và vợ cuả Trần Liễu) là anh em cô cậu, th́ từ thời Thánh Tông trở đi các ngôi vị hoàng hậu đều thuộc ḍng dơi nhà Trần: Thánh Tông lấy Thiên Cảm hoàng hậu (con cuả An Sinh vương Trần Liễu, chị em chú bác ruột), Nhân Tông lấy Khâm Từ hoàng hậu (con cuả Tĩnh Quốc vương Quốc Khang, chị em chú bác họ), Anh Tông lấy Thuận Thánh hoàng hậu (con cuả Hưng Nhượng vương Quốc Tảng, chị em chú bác họ), Minh Tông lấy Lệ Thánh hoàng hậu (con cuả Huệ Vơ vương Quốc Chân, anh em chú bác ruột)… Kết quả đă làm luân thường đạo lư đảo lộn, cuộc sống vương triều dâm loạn, ḍng giống bị thoái hoá.
Do vậy nhà Trần chỉ hưng thịnh với bốn vị vua đầu là Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông và Anh Tông.
Tuy nhiên trong thời kỳ này, do giành chiến thắng vang dội đối với nhà Nguyên, nhà Trần lại tiếp tục duy tŕ một lực lương quân mạnh, tỏ thái độ hiếu chiến và tiến hành xâm lấn các nước lân bang, làm cho nền kinh tế của đất nước sau chiến tranh chưa kịp phục hồi càng thêm kiệt quệ.
Kể từ khi Minh Tông lên cầm quyền (1314) nhà Trần bước vào thời kỳ rối ren suy yếu v́ các vị vua cuối đời đều tầm thường.
Sau biến cố Dương Nhật Lễ (1369-1370), ngày 21 tháng 11 năm Canh Tuất (1370) Cung Tĩnh Vương tên huư là Phủ, con thứ ba cuả Minh Tông lúc bấy giờ đă 49 tuổi được đưa lên ngôi tức Trần Nghệ Tông (ở ngôi 2 năm – 1370-1372, làm thái thượng hoàng 22 năm – 1372-1394). Nghệ Tông tuy nhân từ nhưng nhu nhược, thiếu dũng khí, thiếu sáng suốt, thích nịnh hót, không phải một minh quân. Đây là cơ hội ngàn vàng để Quư Ly tham dự và thao túng triều chính rồi cướp ngôi nhà Trần.
Hồ Quư Ly là ông vua được cho là phức tạp nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam khi đánh giá giữa công và tội.
Toàn Thư cho biết:
Quư Ly tên tự là Lư Nguyên, tự suy tổ tiên là Hồ Hưng Dật vốn người Triết Giang, đời Hậu Hán thời Ngũ Quư (947-950) sang làm thái thú Diễn Châu.
Sau đó làm nhà ở hương Bào Đột châu này, rồi là trại chủ. Đến đời Lư (có người) lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đến đời cháu thứ 12 là Hồ Liêm dời đến hương Đại Lại, Thanh Hoá, làm con nuôi tuyên uư Lê Huấn, từ đấy lấy Lê làm họ minh.
Nói tóm lại Hồ Quư Ly là cháu 16 đời cuả Hồ Hưng Dật, gốc người Triết Giang Trung Quốc.
Việc Hồ Qúy Ly cũng như nhà Trần cướp ngôi họ Lư là một quy luật tất yếu khách quan của lịch sử.
Nhà Trần có những công lao hiển hách đối với lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, triều đại này đă mắc phải những sai lầm nghiêm trọng. Không khoan thư sức dân phát triển kinh tế, thể hiện đường lối hiếu chiến trong quân sự và ngoại giao, tin dùng nịnh thần… chính v́ những nguyên do này nên nhà Trần nhanh chóng lâm vào khủng hoảng, hàng trăm cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra, khiến đời sống nhân dân cơ cực.
Hồ Qúy Ly tuy về đạo nghĩa không hợp với luân lư đạo thường theo phép tắc của hệ tư tưởng nho giáo lúc bấy giờ, những việc ông phế truất nhà Trần, lên ngôi hoàng đế, để có đủ sức thực hiện một công cuộc cải cách toàn diện ở nước ta lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, do vấp phải những sai lầm chủ quan cũng như khách quan, những cải cách của ông không đủ thời gian để điều chỉnh. Trong việc xây dựng quân đội nặng về số đông, trong cách đánh giặc thiên về phong ngự, dựa vào thành quách và vũ khí nên cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược Minh dưới thời nhà Hồ thất bại nhanh chóng.
Hồ Qúy Ly là người phải chịu trách nhiệm trong việc để nước ta rơi vào tay giặc, 20 năm Minh thuộc là những năm tháng bi thương nhất của lịch sử dân tộc.
PHẦN T̀M HIỂU THÊM VỀ HỒ QUƯ LY.
Thượng hoàng Trần Nghệ Tông tuy nắm giữ đại quyền, nhưng việc ǵ cũng do Quư Ly quyết định. Quư Ly t́m cách phát triển thế lực riêng, nhưng Nghệ Tông vẫn không hề nghi ngại. Lúc đó, ḷng các quan lại, tôn thất phần nhiều đă chán nản, ră rời, nhiều người biết trước Hồ Quư Ly sẽ cướp ngôi nhà Trần như Trần Nguyên Đán liền kết thông gia với họ Hồ, mong được phú quư và toàn mạng sau này.
Tuy nhiên, Nghệ Tông hết ḷng tin rằng Quư Ly vẫn trung thành với triều Trần, nên trao cho ông gươm và một lá cờ có đề "Văn vơ toàn tài, quân thần đồng đức".
Bấy giờ, Hoàng đế thấy Thượng hoàng quá tin dùng Quư Ly, mới bàn với Thái úy Trang Định vương Trần Ngạc (là con trưởng của Thượng hoàng) rằng nếu không trừ đi ắt thành vạ to. Không ngờ rằng, người hầu vua học là Vũ Như Mai biết được chuyện này, liền báo cho Quư Ly biết trước. Nguyễn Đa Phương khuyên Quư Ly nên tránh ra núi Đại Lại (ở huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa ngày nay) để chờ đợi biến động. Trong khi đó, Phạm Cự Luận lại can rằng:
“Không được, một khi đă ra ngoài th́ khó lo chuyện sống c̣n".
Quư Ly nói:
“Nếu không c̣n phương sách ǵ th́ ta đành tự tử, không để tay kẻ khác giết ḿnh".
Cự Luận nói:
“Thượng hoàng trong ḷng vẫn căm vua về việc giết Quan phục Đại vương [Trần Húc], vua rất không hài ḷng. Nay quyền bính trong thiên hạ đều ở đại nhân cả mà vua lại mưu hại ngài th́ Thượng hoàng lại càng ngờ lắm. Đại nhân hăy liều vào lạy Thượng hoàng, bày tỏ lợi hại, th́ nhất định Thượng hoàng sẽ nghe theo ngài, chuyển họa thành phúc, dễ như trở bàn tay. Thượng hoàng có nhiều con chính đích, ngài cứ tâu rằng thần nghe ngạn ngữ nói "Chưa có ai bán con để nuôi cháu, chỉ thấy bán cháu để nuôi con" may ra Thượng hoàng tỉnh ngộ mà đổi lập Chiêu Định vương [Trần Thuận Tông]. Nếu Thượng hoàng không nghe th́ chết cũng chưa muộn".
Quư Ly nghe vậy, bèn bí mật vào yết kiến Thượng hoàng rồi cứ y tâu như lời Cự Luận.
Thượng hoàng nghe vậy, bèn giả vờ vi hành về Yên Sinh, rồi sai người gọi Đế hiển đến bàn việc nước. Đế hiển đến, lập tức bị bắt rồi bị giam vào chùa Tư Phúc.
Các tướng chỉ huy các phủ quân cũ như tướng chỉ huy quân Thiết Liêm là Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi, tướng chỉ huy quân Thiết Giáp là Nguyễn Kha, Lê Lặc, tướng chỉ huy quân Thiết Sang là Nguyễn Bát Sách định đem quân vào cướp lấy vua đem ra. Đế hiển viết hai chữ "Giải giáp" đưa cho các tướng và răn bảo họ không được trái ư Thượng hoàng, các tướng mới thôi. Lát sau, Nghệ Tông đưa vua xuống phủ Thái Dương và cho thắt cổ cho chết. Bấy giờ Lê Á Phu cùng các tướng Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi, Nguyễn Kha, Lê Lặc, Nguyễn Bát Sách và người học tṛ Lưu Thường v́ cùng mưu với Đế hiển nên đều bị giết cả; chỉ có Nhập nội Hành khiển tả ty Lê Dữ Nghị là bị đày ra Trại Đầu. Về sự việc này, sử gia Ngô Sĩ Liên trong tác phẩm Đại Việt sử kư toàn thư có nói rằng:
“Khi ấy khí thế của họ Hồ đang mạnh, mọi người đều biết là nó sẽ cướp ngôi, Trang Định vương Ngạc là Thái úy, lại là con của Nghệ hoàng, thấy xă tắc sắp nghiêng đổ, nếu biết hướng vua làm điều phải, gây niềm tin ở vua cha, hiệu lệnh nghiêm ngặt, để nhiều người theo về ḿnh, khiến cho Nghệ Tông già lẫn phải tỉnh lại. Giản hoàng nhút nhát phải tự lập, quyền bính về tay hết, mệnh lệnh ban từ trên, th́ ḷng gian của họ Hồ cũng phải tự ngừng lại. Trang Định không mưu tính đến việc đó, Á Phu không lường được vu ḿnh chẳng có tài cương đoán, lại khuyên vua giết Quư Ly, mà cơ mưu không cẩn mật, để cho nó biết trước. Trang Định lại không sớm quyết đoán, bỏ lỡ cơ hội, đến nỗi công việc thất bại, thân ḿnh bị giết, lại giết lây cả đến những quân tướng tài giỏi, thực đáng than thở biết bao! Có người hỏi: Họ Hồ trên được vua tin, dưới nắm binh quyền, dẫu đến Nguyên Đán là người có kiến thức, lại lăo luyện sự đời c̣n không làm ǵ được, huống chi là Trang Định! Xin thưa: Cứ xem nói trong ḷng lo sợ mà định tự tử, th́ việc chế ngự Quư Ly cũng dễ thôi! Trước hết hăy trừ bọn Đa Phương, Cự Luận để chặt vây cánh của nó đi, th́ thế nó phải cô ngay”
Theo Minh thực lục, khoảng cuối tháng 12 năm 1388, Lê Nhất Nguyên (黎一元) giết vua Trần Vĩ (tức Trần Phế Đế) rồi chôn ở phường Đại Dương ngoại thành Thăng Long. Lê Nhất Nguyên sau đó lập Trần Nhật Hỗn (tức Trần Thuận Tông), con Trần Thúc Minh (tức Trần Nghệ Tông) (陳叔明) lên thay.
Triều đại Trần Thuận Tông
Vua Trần Phế Đế bị buộc cổ cho chết, Trần Nghệ Tông lập người con út là Chiêu Định vương Ngung làm hoàng đế, tức vua Trần Thuận Tông, vào năm 1388, đổi niên hiệu là Quang Thái, đại xá, tự xưng là Nguyên Hoàng. Một năm sau, vua lập con gái lớn của Quư Ly làm Hoàng hậu. Cùng năm đó, Hồ Quư Ly lấy người tâm phúc của ḿnh là Phạm Cự Luận làm Thiêm thư Khu mật viện sự, Cự Luận tiến cử cho Quư Ly người em là Phạm Phiếm cùng Vương Khả Tuân, Dương Chương, Hàn Tử Tây, Nguyễn Sùng, Nguyễn Thư, Nguyễn Cảnh Chân và Đỗ Tử Măn, đều là người tài giỏi.
Tháng 10 năm 1389, Chế Bồng Nga lại đánh lên Thanh Hóa, tiến vào hương Cổ Vô. Nghệ Tông lại sai Lê Quư Ly dẫn quân chống cự. Quân Chiêm đắp ngăn sông Bản Nha ở thượng lưu, quân Đại Việt đóng cọc dày đặc đối địch, giữ nhau 20 ngày. Quân Chiêm đặt sẵn quân và voi, giả vờ bỏ doanh trại rút về. Hồ Quư Ly chọn những quân tinh nhuệ, dũng cảm làm quân cảm tử truy kích quân Chiêm. Thủy quân Đại Việt nhổ cọc ra đánh, quân Chiêm phá đập nước, tung voi trận xông ra. Quân tinh nhuệ đă đi xa, quân thủy bị ngược ḍng không tiến lên được. Kết quả quân Đại Việt bị thua to, hàng trăm tướng tử trận. Quư Ly để tỳ tướng Phạm Khả Vĩnh và Nguyễn Đa Phương ở lại cầm cự với giặc, c̣n ḿnh th́ trốn về Thăng Long. Phạm Khả Vĩnh và Nguyễn Đa Phương chống giữ ở Ngu Giang, biết ḿnh thế yếu, bèn dùng kế giương nhiều cờ xí, buộc thuyền lớn vào cọc, sai người canh giữ, đang đêm dong thuyền nhẹ rút lui. Về việc này, Việt sử tiêu án có ghi rằng:
Việc này Quư Ly trốn trước, Đa Phương trốn theo, thế mà c̣n cho rằng: toán quân đi giữ ǵn sau cùng, là công của ḿnh, có vẻ khoe khoang, thế là những người thua bỏ chạy 50 bước cười người chạy 100 bước, lại không xấu hổ với quân lính buộc thuyền giữ cây gỗ đó hay sao? C̣n tài cán ǵ mà khoe khoang.
Quân Chiêm không dám đuổi theo. Quân Đại Việt rút lui trọn vẹn không bị tổn thất. Trở về kinh thành, Nguyễn Đa Phương cậy công lớn có ư lên mặt, công khai chê Quư Ly là bất tài. Quư Ly căm tức, nói với Nghệ Tông rằng trận thua này là do nghe lời Đa Phương. Nghệ Tông nghe vậy bèn cách chức Đa Phương. Quư Ly lại bảo Nghệ Tông nên giết Phương v́ sợ Phương đi hàng Chiêm, khiến Đa Phuơng phải tự vẫn.
Bấy giờ, quân nổi loạn khắp nơi, Nguyễn Thanh làm loạn ở Lương Giang, Phạm Sư Ôn nổi dậy ở Quốc Oai. Về việc này, Việt Nam sử lược ghi rằng:
Bấy giờ trong triều th́ Lê Quư Ly chuyên quyền, chọn những chân tay cai quản các đội quân để làm vây cánh, ngoài các trấn th́ giặc giă nổi lên nhiều lắm. Ở Thanh Hóa có tên Nguyễn Thanh tự xưng là Linh Đức vương làm loạn ở Lương Giang; tên Nguyễn Kị tự xưng là Lỗ vương làm loạn ở Nông Cống. Ở Quốc Oai th́ có người sư tên là Phạm Sư Ôn nổi lên đem quân về đánh Kinh sư. Thượng hoàng, Thuận Tông và triều đ́nh phải bỏ chạy lên Bắc Giang. Phạm Sư Ôn lấy được Kinh sư, ở ba ngày rồi rút về Quốc Oai. Bấy giờ có tướng quân là Hoàng Phụng Thế đóng ở Hoàng Giang để pḥng giữ quân Chiêm Thành, nghe tin Sư Ôn phạm đất Kinh sư mới đem quân về đánh lẻn bắt được Sư Ôn và phá tan giặc ấy.
Lúc đó, quân Việt và quân Chiêm cầm cự nhau ở sông Hoàng giang (khúc sông Hồng ở Hà Nam). Thượng hoàng Trần Nghệ Tông sai Trần Khát Chân lúc đó đang nắm quân Long Tiệp đi chống quân Chiêm. Đến năm 1390, Chế Bồng Nga bị tướng Trần Khát Chân cho quân dùng súng bắn chết. Quan quân đánh đuổi tàn quân rồi cắt lấy đầu Chế Bồng Nga đem về dâng triều đ́nh. Nghệ Tông thấy đầu Chế Bồng Nga, tự ví ḿnh như Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ.
Năm 1391, Lê Quư Ly đi tuần Hóa châu, xét duyệt quân ngũ, sai tướng coi quân Thánh Dực Hoàng Phụng Thế đánh quân Chiêm. Quân Chiêm mai phục, quân Thánh Dực tan vỡ, Phụng Thế đầu hàng, khi quân chạy về, Quư Ly sai chém 30 viên đội phó.
Trước đây, khi Trần Nghệ Tông giết vua Trần Phế Đế, định lập Trần Ngạc làm vua, nhưng Quư Ly lại lừa Nghệ Tông khiến cho Nghệ Tông lập vua Thuận Tông. Ngạc có hiềm khích với Quư Ly, sợ bị giết, liền bỏ chạy ra Nam Định. Thượng hoàng Nghệ Tông sai tướng Nguyễn Nhân Liệt bắt về. Quư Ly ngầm ra lệnh Liệt giết Trần Ngạc, về sau Thượng hoàng tỉnh ngộ, hỏi ai ra lệnh giết Trần Ngạc, Nguyễn Nhân Liệt sợ nên thắt cổ chết.
Đến năm 1392, tôn thất Trần Nhật Chương lập mưu giết Quư Ly, Thượng hoàng sai người giết Nhật Chương. Có người học tṛ Bùi Mộng Hoa dâng sớ có ư khuyên Thượng hoàng trừ Quư Ly, Thượng hoàng đem tờ tâu ấy cho Quư Ly xem, sau Quư Ly nắm đại quyền, Mộng Hoa lánh không ra nữa. Quư Ly dâng sách ḿnh soạn, tên Minh đạo, gồm 14 thiên dâng lên, Quốc tử trợ giáo Đoàn Xuân Lôi cho là không đúng, bị đày đi xa.
Dời đô về Thanh Hóa.
Cổng Nam Thành nhà Hồ, thuộc xă Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
Năm 1394, tháng 2, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông ban bức tranh Tứ phụ cho Quư Ly. Trong tranh ấy vẽ Chu công giúp vua Chu Thành vương, Hoắc Quang giúp Hán Chiêu Đế, Gia Cát Lượng giúp Thục Hậu chủ, Tô Hiến Thành giúp vua Lư Cao Tông, gọi là tranh Tứ phụ, ư nói nên giúp vua Thuận Tông cũng nên như thế.
Thượng hoàng ban đêm nằm mơ thấy Duệ Tông về đọc cho bài thơ, Thượng hoàng suy ngẫm về bài thơ, cho đó là điềm Quư Ly lấy mất ngôi vị nhà Trần, nhưng không thể làm ǵ được nữa. Tháng 4, Thượng hoàng Nghệ Tông gọi Quư Ly vào:
B́nh chương là họ thân thích nhà vua, mọi việc nước nhà đều trao cho khanh cả. Nay thế nước suy yếu, trẫm th́ già nua. Sau khi trẫm chết, quan gia nếu giúp được th́ giúp, nếu hèn kém ngu muội th́ khanh cứ tự nhận lấy ngôi vua.
Quư Ly cởi mũ, khấu đầu khóc lóc mà thề rằng:
“Nếu hạ thần không hết ḷng hết sức giúp nhà vua, th́ trời tru đất diệt. Vả ngày trước Linh Đức vương (tức là Phế Đế) có ḷng làm hại, nếu không có uy linh của bệ hạ, th́ nay đă ngậm cười dưới đất, c̣n đâu ngày nay nữa mà mài thân nghiền cốt để báo đền vạn nhất! Vậy hạ thần đâu có ư ǵ khác, xin bệ hạ tỏ ḷng ấy cho và đừng lo ǵ!"
Tháng 12, năm 1394, Thượng hoàng Nghệ Tông băng hà. Năm sau, Lê Quư Ly lên làm Nhập nội Phụ chính Thái sư B́nh chương quân quốc trọng sự, Tuyên trung Vệ quốc Đại vương, đeo lân phù vàng. Ông cho người dịch thiên Vô Dật ra chữ Nôm để dạy Thuận Tông và tự xưng là Phụ chính Cai giáo Hoàng đế. Vua cho Quư Ly ở bên hữu sảnh, đài gọi là Họa lư.
Đến năm 1397, Quư Ly sai viên quan Đỗ Tỉnh đi xem đất và đo đạc động An Tôn phủ Thanh Hóa, ư muốn di chuyển kinh đô về Thanh Hóa. Phạm Cự Luận và Nguyễn Nhữ Thuyết can, Quư Ly không nghe. Quư Ly bỏ Nguyễn Nhữ Thuyết không dùng, điều mưu sĩ Phạm Cự Luận đi đánh quân phản loạn ở Tuyên Quang, người này bị thua trận chết. Như vậy khi đă nắm đại quyền, hai người tâm phúc, là tướng quân Nguyễn Đa Phương và mưu sĩ Phạm Cự Luận đều bị Lê Quư Ly trừ bỏ. Đến tháng 11, Quư Ly bức vua Thuận Tông dời kinh đô về Thanh Hóa, cung nhân Trần Ngọc Cơ và Trần Ngọc Kiểm nói mật với vua rằng dời đô thế nào cũng bị cướp ngôi, Quư Ly cho giết cả.
Theo Lê Quư Đôn, thể lệ của nhà Trần, dùng người trong tộc họ Trần làm Tể tướng, dẫu nắm công việc trong nước, cũng không được quyền cai quản quân đội, quyền bính trong nước do quan Hành khiển giữ. Vua Nghệ Tông phá lệ, không dùng người họ Trần, phong Hồ Quư Ly làm B́nh chương Phụ chính, lại cai quản cả quân đội, khiến cho quyền Hồ Quư Ly to lớn, mới gây ra họa cướp ngôi.
Triều đại Trần Thiếu Đế.
Năm 1398, Hồ Quư Ly bức vua Thuận Tông nhường ngôi cho Thái tử An, tức vua Trần Thiếu Đế; lúc ấy Thái tử mới có 3 tuổi. C̣n ḿnh tự xưng Khâm đức Hưng liệt Đại vương. Đến năm 1399 lại sai Xa kỵ vệ thượng tướng quân Phạm Khă Vĩnh giết vua Thuận Tông. Ít lâu sau, Thái bảo Trần Nguyên Hăng, Thượng tướng quân Trần Khát Chân cùng Phạm Khả Vĩnh lập mưu giết Quư Ly, sự việc không thành, những người đồng mưu gồm 370 người đều bị giết.
Tháng 6, năm 1399, Quư Ly tự xưng làm Quốc tổ Chương hoàng, vào ở cung Nhân Thọ, điềm nhiên mặc áo vàng, ra vào hoàng cung theo lệ như Hoàng đế, dùng 12 cái lọng vàng. Con thứ là Hán Thương xưng là Nhiếp thái phó, ở bên hữu điện Hoàng Nguyên. Con cả là Nguyên Trừng làm Tư đồ. Bảng văn th́ đề là Phụng Nhiếp chính Quốc tổ Chương hoàng, chỉ xưng là "dư" mà chưa dám xưng "trẫm".
Cướp ngôi vua.
Tháng 2 năm 1400, Quư Ly lúc ấy đă 64 tuổi, bức vua Trần nhường ngôi, buộc các quan và tôn thất ba lần dâng biểu khuyên lên ngôi. Quư Ly giả vờ ba lần từ chối, nói: Ta sắp xuống lỗ rồi, c̣n mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới đất nữa. Rồi tự lập làm vua, đặt niên hiệu Thánh Nguyên, quốc hiệu Đại Ngu, đổi thành họ Hồ.
Chưa được một năm, theo cách nhà Trần, ông nhường ngôi cho con thứ là Hồ Hán Thương, làm Thái thượng hoàng nhưng vẫn tự ḿnh quyết đoán mọi công việc. Về phần Trần Thiếu Đế, do là cháu ngoại nên ông chỉ phế làm Bảo Ninh Đại vương và giam lỏng.
Để ḍ xét ư hai con là Hồ Hán Thương và Hồ Nguyên Trừng, Hồ Quư Ly ra câu đối "Phiến đá kỳ lạ này, có lúc làm mây làm mưa để làm tươi mát cho dân sinh." Nguyên Trừng biết ư phụ hoàng, đối lại "Ba tấc gỗ thông đây, một ngày kia sẽ làm rường làm cột giúp xă tắc.", tỏ ư sẽ hết ḷng pḥ trợ Hán Thuơng. Dù vậy, giữa Hán Thương và Nguyên Trừng vẫn có điều bất hoà. Viên cận thần Nguyễn Ông Kiều biết chuyện, đi nói cho người ngoài nghe, bị Hồ Quư Ly giết chết.
Đến đây không nói thêm về chính sách cai trị của Hồ Quư Ly và việc nhà Hồ bị nhà Minh Trung Quốc đánh bại để Việt Nam rơi vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 4.
Mục đích của bài viết chỉ muốn đề cập đến việc nhà Trần rơi vào tay Hồ Quư Ly cũng chỉ v́ nguyên nhân do Thái Thượng hoàng Trần Nghệ Tông tham quyền cố vị muốn nắm giữ quyền lực nhưng nhu nhược thiếu dũng khí, thiếu sáng suốt, thích nịnh hót, không phải một minh quân để Hồ Quư Ly lộng quyền, tiếm quyền dùng mọi âm mưu thủ đoạn tàn độc để cướp ngôi báu.
(C̣n tiếp).
Nói về quan hệ Ta- Tàu trong giai đoạn lịch sử từ năm 1976 đến nay nó thế nào chỉ cần t́m hiểu về hai ông TBT đó là ông Lê Duẩn, ông Nguyễn Văn Linh, sẽ đặt chúng ta vào t́nh thế khó lư giải.
Những người lănh đạo Việt Nam họ coi trọng cái ǵ hơn, Chủ nghĩa xă hội hay lợi ích dân tộc?
Chủ nghĩa xă hội và lợi ích quốc gia có mâu thuẫn với nhau, có thể cùng tồn tại?
Cho đến nay đảng CS Việt Nam đều coi Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh là “những nhà lănh đạo kiệt xuất” cống hiến cho đất nước, không hề có quan điểm rạch ṛi, ai đúng, ai sai, hay thế nào.
Nếu Lê Duẩn chống Tàu v́ lợi ích, chủ quyền quốc gia th́ Nguyễn Văn Linh và những kẻ bám đuôi Tàu là bán nước.
Ngược lại Lê Duẩn chống Tàu đem đến chiến tranh giữa Ta và Tàu, đẩy đất nước đi đến tụt hậu, chậm phát triển Lê Duẩn phải là tội đồ.
Đường lối không thể lập lờ, lập lờ như thế v́ mục đích ǵ, cần có câu trả lời.
Chống Tàu, hay lệ thuộc Tàu đều có bằng chứng trong lịch sử.
Lệ thuộc Tàu, hữu hảo với Tàu được không bằng mất, đến khi nhận ra bản chất, bộ mặt thật của Tàu chống lại Tàu, chống một cách điên cuồng mất lư trí… cái ṿng luẩn quẩn này diễn ra cũng từ căn bệnh hoang tưởng quyền lực, sợ mất quyền lực, nên sẵn sàng bảo vệ quyền lực bằng mọi giá, đem lợi ích dân tộc, xương máu của nhân dân ra làm công cụ.
-TBT LÊ DUẨN.
Phim tài liệu về Tổng bí thư Lê Duẩn có nêu:
“TBT Lê Duẩn vẫn thường cố gắng cắt nghĩa là tại sao Trung Quốc đô hộ Việt Nam 1.000 năm mà không đồng hóa được ta? Bởi 1.000 năm là quá dài, và người Trung Quốc chưa bao giờ giấu diếm tham vọng ấy suốt những thời kỳ họ cai trị Việt Nam”
Năm 1972, trong một cuộc tṛ chuyện với Chu Ân Lai, nhắc lại về Hiệp định Geneva, ông Lê Duẩn đă không ngần ngại lên án: “Năm đó, người Trung Quốc các anh đă bán đứng chúng tôi trên bàn đàm phán”.
Trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, nhân danh việc chi viện, giúp đỡ chúng ta, rất nhiều lần Trung Quốc lồng ghép vào đó những toan tính riêng của họ. Có lần Trung Quốc đề nghị cho chúng ta 500 chiếc xe vào Trường Sơn với điều kiện kèm lái xe của họ. Nhưng TBT Lê Duẩn không nhận bất cứ một chiếc xe nào.
Có người trong Bộ Chính trị đề nghị “sao ông không nhận một vài chiếc cho người ta vui?”, nhưng TBT Lê Duẩn vẫn kiên quyết giữ lập trường của ḿnh: “Chừng nào tôi c̣n ngồi đây, th́ tôi không cho một kẻ nào nghĩ trong đầu rằng có thể cướp được đất nước Việt Nam này”.
Hiến Pháp 1982 lúc đó Lê Duẩn là TBT đă nêu đích danh “… chống bọn bá quyền Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lănh thổ của ḿnh…”
Lê Duẩn lúc cần giả vờ nhịn Tàu, nhưng tâm địa hận Tàu khi có thời cơ là chống Tàu công khai, quyết liệt.
TBT NGUYỄN VĂN LINH.
TBT Nguyễn Văn Linh kế nhiệm Lê Duẩn sau khi Lê Duẩn chết.
Bản thân TBT Nguyễn Văn Linh lúc đầu đi theo đường lối của Lê Duẩn dẫn đến quan hệ Ta - Tàu trở thành thù địch.
Chiến tranh 10 năm, bị thế giới cô lập, kinh tế suy kiệt, nhưng Nguyễn Văn Linh vẫn thủ cựu bám giữ con đường XHCN quyết tâm chống Mỹ, không đi theo con đường phát triển tư bản.
Sau khi Liên Xô tan ră, Chủ nghĩa xă Đông Âu sụp đổ, không c̣n chỗ dựa Nguyễn Văn Linh từ bỏ quan điểm chống Tàu quyết liệt của Lê Duẩn quay lại quỹ đạo Trung Quốc một cách luồn cúi nhất.
Sau đây xin trích Hồi kư của Lư Gia Trung , cựu đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam về con đường Nguyễn Văn Linh đi đến ngả vào ḷng Trung Quốc, mà theo như ông Nguyễn Cơ Thạch “bắt đầu đưa nước ta vào thời kỳ Bắc thuộc một lần nữa”
Thông qua Cay-xỏn Phôm-vi-hản (Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng kiêm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Lào) Nguyễn Văn Linh bắn tin đến Đặng Tiểu B́nh.
Cay-xỏn Phôm-vi-hản gặp Đặng Tiểu B́nh thành khẩn thừa nhận trong 10 năm qua mối quan hệ Lào với Trung Quốc ở vào trạng thái không b́nh thường là do chịu “ảnh hưởng từ bên ngoài”, chuyến thăm Trung Quốc lần này sẽ đánh dấu việc hoàn toàn b́nh thường hóa quan hệ hai nước.
Đồng thời Cay-xỏn Phôm-vi-hản c̣n chuyển lời hỏi thăm thân thiết của Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh tới Đặng Tiểu B́nh, nói Việt Nam đă có nhận thức mới đối với t́nh h́nh Trung Quốc, thái độ đối với Trung Quốc cũng có thay đổi, c̣n nói Nguyễn Văn Linh hy vọng Trung Quốc có thể mời ông thăm Trung Quốc.
Đặng Tiểu B́nh cũng mời Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển hộ lời hỏi thăm Nguyễn Văn Linh và nói:
- Tôi quen đồng chí Nguyễn Văn Linh từ lâu, tôi biết đồng chí ấy tư duy linh hoạt, rất có lư trí, công tác rất đắc lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng đồng chí ấy. Tôi mong muốn đồng chí Nguyễn Văn Linh quả quyết giải quyết dứt điểm vấn đề Campuchia. Hiện nay tôi đă già, sắp nghỉ hưu, tôi hy vọng trước khi nghỉ hưu hoặc không lâu sau khi tôi nghỉ hưu, vấn đề Campuchia sẽ có thể được giải quyết, mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam khôi phục b́nh thường, như vậy một nỗi băn khoăn (nguyên văn tâm sự) của tôi sẽ được dẹp bỏ.
Đặng Tiểu B́nh đặc biệt nhấn mạnh Việt Nam phải rút sạch sành sanh quân đội ra khỏi Campuchia. Đặng Tiểu B́nh nhờ Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển những ư kiến đó tới Nguyễn Văn Linh.
Ngoài ra Đặng Tiểu B́nh c̣n nói một câu ư vị sâu sắc : “Nguyễn Cơ Thạch, cái người này thích hoạt động lén lút.” Lúc ấy tôi làm công tác ghi chép tại chỗ, cảm thấy câu này dường như buột miệng nói ra, nhưng trọng lượng rất nặng. Theo tôi hiểu, câu nói ấy muốn bảo Nguyễn Văn Linh rằng Trung Quốc đă mất niềm tin với Nguyễn Cơ Thạch, cho dù là giải quyết vấn đề Campuchia hay thực hiện b́nh thường hóa mối quan hệ Trung – Việt đều không thể hy vọng và dựa vào Nguyễn Cơ Thạch.
Cay-xỏn Phôm-vi-hản trên đường về nước có dừng lại ngắn ngày ở Việt Nam, ông đă kịp thời và toàn diện chuyển tới Nguyễn Văn Linh lời nhắn của Đặng Tiểu B́nh. Nghe xong, Nguyễn Văn Linh rất coi trọng, càng có hiểu biết thiết thân về “hoạt động lén lút” của Nguyễn Cơ Thạch.
Ông hiểu rằng muốn cải thiện quan hệ Việt –Trung trước hết phải giải quyết vấn đề Campuchia, mà giải quyết vấn đề Campuchia như thế nào th́ phải bàn với Trung Quốc. Ông c̣n ư thức được rằng Đặng Tiểu B́nh tuy đă gửi lời nhắn nhưng lại không đưa ra lời mời ḿnh thăm Trung Quốc. Trong t́nh h́nh đó làm cách nào để thực hiện thăm Trung Quốc là vấn đề ông cần gấp rút giải quyết.
Ngày 5-6-1990, qua sự nỗ lực của nhiều bên, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đă hội kiến Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam Trương Đức Duy tại Nhà khách Trung ương ĐCSVN. Trước tiên Nguyễn Văn Linh nhờ Đại sứ Trương chuyển lời hỏi thăm của ông tới các đồng chí lănh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu B́nh, Giang Trạch Dân, Lư Bằng. Nguyễn Văn Linh nói, trong thời kỳ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, ông từng nhiều lần đi Trung Quốc, đă gặp Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai, các đồng chí Đặng Tiểu B́nh v.v… Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai, đồng chí Đặng Tiểu B́nh là người cùng thế hệ với Hồ Chủ tịch; Nguyễn Văn Linh là học tṛ của họ.
Trong thời kỳ cách mạng và kháng chiến cũng như trong nhà tù của kẻ địch, ông luôn luôn học tập và nghiên cứu các trước tác của Mao Chủ tịch bàn về cách mạng dân tộc dân chủ, được lợi không ít.
Trong thời kỳ Việt Nam chống Pháp, chống Mỹ, Trung Quốc đă viện trợ to lớn cho Việt Nam về mọi mặt, cả đến gạo, bánh quy nén, dưa chua, đều do Trung Quốc giúp. Hơn nữa Trung Quốc cũng giúp Việt Nam rất nhiều về chiến lược và tư tưởng chỉ đạo, thí dụ Việt Nam làm chiến tranh nhân dân là học tư tưởng chiến tranh nhân dân của Mao Chủ tịch rồi vận dụng vào thực tiễn Việt Nam. Có thể nói nếu không có sự viện trợ của Trung Quốc th́ Việt Nam không thể đánh bại đế quốc Mỹ.
Nguyễn Văn Linh nói, sau khi kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, toàn quốc thống nhất, Việt Nam lẽ ra nên tập trung lực lượng xây dựng kinh tế, nhưng đă xuất hiện t́nh h́nh khó khăn và phức tạp không ngờ tới, mười mấy năm nay Việt Nam càng gian khổ hơn thời kỳ chống Mỹ, đời sống ngày càng khó khăn, đặc biệt là mối quan hệ Việt –Trung xuất hiện khó khăn. Ông nói rằng Việt Nam đă làm một số việc không tốt với Trung Quốc. Ông luôn chủ trương làm sai th́ phải sửa. Mong các đồng chí Trung Quốc thông cảm và bỏ qua những chuyện về mặt này, chuyện đă qua rồi th́ để nó qua đi thôi. Việc quan trọng hơn trước mắt là làm tốt mối quan hệ giữa hai nước hiện nay và sau này.
Nguyễn Văn Linh nói t́nh h́nh quốc tế đang thay đổi mạnh, t́nh thế ở Đông Âu diễn biến rất phức tạp, t́nh thế Liên Xô cũng rất nghiêm trọng. Bọn đế quốc dốc sức can thiệp, ra sức làm diễn biến ḥa b́nh, mơ tưởng một lần tiêu diệt chủ nghĩa xă hội. Trước kia mọi người nói Liên Xô là thành tŕ của ḥa b́nh thế giới, nhưng hiện nay thành tŕ này đang lung lay. Trung Quốc là một nước lớn, Đảng Trung Quốc là một đảng lớn, lại kiên định đi con đường XHCN. Trong t́nh h́nh hiện nay, Trung Quốc có địa vị và tác dụng đặc biệt quan trọng. Chúng tôi cần Trung Quốc giơ ngọn cờ XHCN. Hai nước Việt Nam – Trung Quốc là láng giềng XHCN. Việt Nam là nước nhỏ, Đảng Việt Nam là đảng nhỏ, rất cần có sự ủng hộ và giúp đỡ của một nước lớn, đảng lớn như Trung Quốc. Nguyễn Văn Linh nói đây là lời thực ḷng của ông.
Nguyễn Văn Linh nói, vấn đề Campuchia dù thế nào cũng phải giải quyết một cách ḥa b́nh, Campuchia trong tương lai không nên thân phương Tây, cũng không được để phương Tây và Liên Hợp Quốc can thiệp quá sâu. Bởi vậy hai phía Việt Nam – Trung Quốc có thể hợp tác với nhau, từ bên trong thúc đẩy Pol Pot, Ieng Sary ḥa giải với Heng Samrin, Hun Sen, đối ngoại vẫn có thể theo con đường thương lượng giữa các bên hiện nay. Ư tưởng gạt bỏ Khmer Đỏ là không thực tế.
Nguyễn Văn Linh tỏ ư ông rất muốn gặp mặt các đồng chí lănh đạo Trung Quốc cao nhất để trao đổi ư kiến một cách thấu triệt, như anh em với nhau, có thể không câu nệ nghi lễ ngoại giao. Ông nói, kinh nghiệm lịch sử cho thấy người lănh đạo cao nhất hai nước trực tiếp nói chuyện với nhau th́ dễ hiểu biết thông cảm lẫn nhau và đạt được nhất trí, cũng có thể giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng. Nguyễn Văn Linh c̣n nói, ông đă nhiều tuổi, muốn trước khi nghỉ hưu có thể bàn bạc cùng với người lănh đạo Trung Quốc giải quyết xong dứt điểm vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ Việt –Trung.
Khi hội kiến, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng có mặt, nhưng nội dung nói chuyện hoàn toàn khác với luận điệu cũ rích chống Trung Quốc của Nguyễn Cơ Thạch. [Tôi] đoán rằng việc bố trí Nguyễn Cơ Thạch dự hội kiến rất có thể có dụng ư là để ông ta mặt đối mặt nghe xem rốt cuộc Tổng Bí thư nói ǵ, cũng có thể lúc ấy [Tổng Bí thư] c̣n có chút hy vọng với ông ta, dành cho ông ta cơ hội thay đổi cách làm việc. Dĩ nhiên cũng chính là do Nguyễn Cơ Thạch có mặt nên Nguyễn Văn Linh chưa nói sâu sắc, thấu triệt hơn.
Sau khi kết thúc cuộc hội kiến, Đại sứ Trương lập tức báo cáo cho bên nhà biết chi tiết nội dung cuộc nói chuyện của Nguyễn Văn Linh và thỉnh thị trong nước có chỉ thị ǵ. Bên nhà nghiên cứu kỹ rồi nhanh chóng trả lời rằng hăy cứ yêu cầu Việt Nam rút nhanh quân đội ra khỏi Campuchia và giải quyết ổn thỏa vấn đề liên hợp hai bên đối lập ở Campuchia sau khi rút quân, tức chính quyền Phnom Penh với ba phái lực lượng chống đối, sau đó sẽ từng bước thu xếp suôn sẻ cuộc gặp cấp cao giữa nhà lănh đạo hai nước. Trong t́nh h́nh đó, làm cách nào để phá vỡ thế bí, thực hiện cuộc gặp với lănh đạo Trung Quốc là vấn đề đ̣i hỏi Nguyễn Văn Linh suy nghĩ rất lung.
Sáng ngày 16-8-1990, một cán bộ họ Hoàng của Viện Khoa học xă hội Việt Nam đến trước cổng Đại sứ quán Trung Quốc. Ông nói với nhân viên tiếp đón của Sứ quán là có việc cần gặp Đại sứ Trương.
Đại sứ đă tiếp ông này tại pḥng khách Sứ quán. V́ Đại sứ Trương thạo tiếng Việt nên hai người nói chuyện không cần phiên dịch.
Hoàng nói nhà ông ở gần nhà Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, tối ngày 13/8 Tổng Bí thư cho xe đón ông đến nhà nói chuyện một giờ đồng hồ. Tổng Bí thư nói ông vốn dĩ muốn một lần nữa hẹn gặp Đại sứ Trương nhưng Bộ Ngoại giao ngăn cản, nói là không cần thiết. V́ vậy Tổng Bí thư nhờ Hoàng nhắn miệng tới Đại sứ Trương.
Nói đoạn, Hoàng lấy từ túi áo ra một mảnh giấy viết thư gập lại rất nhỏ và giải thích đây là những điều ông ghi lại lời của Tổng Bí thư, đă được Tổng Bí thư soát lại không có ǵ sai. Trong đó có đoạn nói :
“Tháng 10 năm ngoái, đồng chí Cay-xỏn chuyển tới tôi lời hỏi thăm của đồng chí Đặng Tiểu B́nh và lời nhắn miệng nói đồng chí hy vọng trong những năm c̣n sống được thấy quan hệ Trung Quốc – Việt Nam b́nh thường hóa, tôi rất hoan nghênh những điều đó. Cũng vậy, tôi tha thiết mong muốn trong nhiệm kỳ tôi chủ tŕ Trung ương ĐCSVN khóa VI có thể khôi phục quan hệ Việt Nam – Trung Quốc để từ Đại hội VII sắp họp sẽ bắt đầu một giai đoạn mới trong quan hệ giữa hai nước. Làm được việc này tôi mới xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân Việt Nam và đảng viên ĐCSVN dành cho tôi.”
“Sở dĩ vấn đề Campuchia – trở ngại ấy căi nhau măi chưa thể giải quyết là do Nguyễn Cơ Thạch luôn luôn làm chệch hướng việc này. Tôi cho rằng hiện nay người lănh đạo hai nước cần phải bàn bạc trực tiếp và đi sâu, nhằm thanh toán hết mọi hiểu lầm và loại bỏ sự can thiệp của Bộ Ngoại giao Việt Nam. Tôi tin rằng những người cộng sản chân chính của hai nước đều xuất phát từ hy vọng tha thiết bảo vệ CNXH và khôi phục t́nh hữu nghị trong sáng chân thành giữa hai nước để tiến hành gặp gỡ, vấn đề Campuchia nhất định có thể nhanh chóng được giải quyết. Nếu các đồng chí Trung Quốc cũng có quan điểm như vậy th́ đề nghị gửi lời mời nội bộ, tôi sẽ lập tức bí mật đi Trung Quốc.”
“Để việc thảo luận tiến hành được chắc chắn tin cậy, để sau khi về nước tôi có thể thuyết phục có hiệu quả tập thể Ban Chấp hành trung ương và Bộ Chính trị ĐCSVN, tốt nhất nên có hai đồng chí Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng cùng tôi đi Trung Quốc.”
“Điểm xuất phát tôi yêu cầu đi thăm Trung Quốc nội bộ là để đích thân thâm nhập nghe ư kiến của các đồng chí Giang Trạch Dân, Đặng Tiểu B́nh, Lư Bằng, cũng là để các đồng chí lănh đạo Trung Quốc đích thân thâm nhập hiểu rơ cá nhân tôi. Hai bên cùng nhau thành khẩn t́m ra phương án giải quyết tốt nhất một loạt vấn đề, trước hết là vấn đề Campuchia. Trước mắt tôi có khó khăn nhất định nhưng tôi có niềm tin.”
“Nếu được các đồng chí Trung Quốc ủng hộ và giúp đỡ, tôi sẽ đi theo đường lối của Hồ Chủ tịch, thuận lợi tiến chắc tới mục tiêu trên phương diện xây dựng t́nh hữu nghị Việt-Trung tốt đẹp, bảo vệ CNXH và lợi ích cách mạng chung.”
Đỗ Mười mà Nguyễn Văn Linh nhắc tới là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) Việt Nam, Phạm Văn Đồng là cựu Thủ tướng Việt Nam, bấy giờ làm Cố vấn Trung ương Đảng.
Hoàng giải thích, ông hiểu ư của Tổng Bí thư là: do Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch ngấm ngầm gây bế tắc, tiến tŕnh Việt Nam – Trung Quốc giải quyết vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ hai nước bị cản trở, bởi thế Tổng Bí thư muốn đi ṿng qua Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ấy nắm, lănh đạo cao nhất hai nước trực tiếp gặp nhau, sau khi bàn bạc quyết định vấn đề rồi có thể ra lệnh cho Bộ Ngoại giao quán triệt chấp hành.
Tiễn đưa Hoàng xong, việc đầu tiên Đại sứ Trương vội làm là lập tức báo cáo trong nước biết các ư kiến Nguyễn Văn Linh nhờ Hoàng chuyển giúp. Nhưng đồng thời [Đại sứ] cần xem xét một vấn đề là Đại Sứ quán có nên đề xuất với trong nước quan điểm và kiến nghị của ḿnh hay không. Chỗ khó là bên nhà vừa mới trả lời rơ ràng yêu cầu đi thăm nội bộ Trung Quốc do Nguyễn Văn Linh đề ra hôm mồng 5 tháng 6, tức đ̣i phía Việt Nam trước tiên phải giải quyết vấn đề rút quân khỏi Campuchia và xúc tiến việc thành lập sự liên hợp hai bên đối lập ở Campuchia, rồi mới thu xếp cuộc gặp người lănh đạo hai nước. Trong t́nh h́nh này, nếu lặp lại ư kiến của bên nhà th́ coi như không nêu ra kiến nghị nữa; nhưng nếu đưa ra kiến nghị khác với ư kiến bên nhà th́ liệu có bị hiểu nhầm là chủ trương ngược lại với trong nước chăng?
V́ việc đó, chiều hôm ấy khi vừa bắt đầu giờ làm việc, Đại sứ Trương gọi tôi và hai Bí thư thứ nhất cùng bàn bạc. Qua thảo luận, Đại sứ Trương và chúng tôi nhất trí cho rằng chức trách của Đại Sứ quán là đứng gác cho trong nước, làm tốt nhiệm vụ tham mưu. Phúc đáp lần trước của trong nước rơ ràng là đúng, nhưng hiện giờ xuất hiện t́nh h́nh mới, Nguyễn Văn Linh quyết kế đi ṿng qua Nguyễn Cơ Thạch để tiến hành bàn bạc chân thành có tính thực chất với người lănh đạo nước ta; v́ vậy Đại Sứ quán nên căn cứ t́nh h́nh mới, mạnh dạn nêu ra kiến nghị mới. Thế là Sứ quán trịnh trọng kiến nghị bên nhà tích cực xem xét việc Nguyễn Văn Linh một lần nữa nêu yêu cầu thăm Trung Quốc nội bộ.
Đêm 19 tháng 8, Sứ quán nhận được trả lời của trong nước. Bên nhà chỉ thị Đại sứ Trương t́m cách tránh Bộ Ngoại giao Việt Nam, gặp người tin cậy ở bên cạnh Nguyễn Văn Linh đề xuất Đại sứ muốn sớm gặp riêng Tổng Bí thư để trực diện t́m hiểu ư đồ thật sự của Tổng Bí thư; có kết quả ǵ lập tức báo cáo trong nước. Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, đối với Đại sứ, đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu và vượt trên tất cả mọi nhiệm vụ khác, nhưng chẳng nói cũng rơ mức độ khó khăn của công việc này.
8 giờ sáng ngày 20, Đại sứ Trương triệu tập cuộc họp mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên cứu cách thực hiện chỉ thị của trong nước, nhưng chẳng ai đề ra được kế sách hay nào. Mọi người đều rơ, trong suốt những năm 80, Việt Nam luôn luôn coi Trung Quốc là “kẻ địch trực tiếp nhất, nguy hiểm nhất”, các phương tiện truyền thông như báo chí, đài phát thanh truyền h́nh đều phát đi những nội dung chống Trung Quốc; trong các buổi chiêu đăi và mọi nghi thức ngoại giao, bất cứ quan chức Việt Nam nào cũng không dám nói chuyện với quan chức ngoại giao Trung Quốc. Trong t́nh h́nh như vậy, chưa nói việc chẳng có cách nào t́m gặp được người tin cậy ở bên Nguyễn Văn Linh mà ngay cả chuyện ai là người tin cậy ở bên Tổng Bí thư, cũng không ai biết.
Trong t́nh h́nh t́m không ra manh mối nào, mọi người không hẹn mà cùng nhớ tới một chuyện. Đó là ngày 6 tháng 6, tức sau hôm Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ Trương, Đại tướng Lê Đức Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Quốc pḥng Việt Nam có gặp riêng và mời cơm Đại sứ Trương. Ngoài việc giải thích thêm tinh thần câu chuyện Nguyễn Văn Linh nói hôm mồng 5 ra, Lê Đức Anh c̣n nói không ít những lời hữu nghị với Trung Quốc. Thế là Đại sứ Trương quyết định thử dùng kênh thông qua Bộ Quốc pḥng và Lê Đức Anh xem sao; ông chỉ thị Tùy viên quân sự Sứ quán là Thượng tá Triệu Nhuệ lập tức hành động.
Quả nhiên Đại tướng Lê Đức Anh rất vui ḷng gặp Đại sứ Trương. Tám giờ sáng ngày 21, Đại sứ Trương đi một chiếc xe con không cắm quốc kỳ đến Bộ Quốc pḥng Việt Nam. Lê Đức Anh thân mật bắt tay, ôm vai Đại sứ Trương và nói Đại sứ muốn gặp ông lúc nào ông đều hoan nghênh cả. Đại sứ Trương đi thẳng ngay vào vấn đề, tóm tắt kể lại một lượt việc hôm trước Hoàng Nhật Tân chuyển tới Đại sứ những lời của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, ngỏ ư bản thân Đại sứ rất muốn trực diện nghe ư kiến của Tổng Bí thư, hy vọng Lê Đức Anh liên hệ giúp. Lê tỏ ư sẽ lập tức làm ngay việc này.
Chiều hôm ấy Cục trưởng Cục Đối ngoại Bộ Quốc pḥng Việt Nam Vũ Xuân Vinh khẩn cấp hẹn gặp Tùy viên quân sự Sứ quán Trung Quốc Triệu Nhuệ và báo cho biết: Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh sẽ hội kiến Đại sứ Trương vào 7 giờ 30 tối ngày 22 tại Nhà khách Bộ Quốc pḥng, hai bên đều không mang theo phiên dịch viên, kiến nghị Đại sứ Trương đi xe khác, không cắm quốc kỳ. Vũ c̣n nói việc này chỉ có ông và Trưởng pḥng Vũ Tần của Cục Đối ngoại Bộ Quốc pḥng Việt Nam biết, những người khác đều không biết. Sau khi về Sứ quán, Tùy viên Triệu lập tức báo cáo Đại sứ Trương.
Có những sự việc không hẹn mà gặp nhau. Vợ chồng Đại sứ Trương vốn dĩ đă ấn định 6 giờ 30 tối ngày 22 mời cơm vợ chồng Đại sứ Malaysia, trước đó đă gửi thiếp mời. Để không thất lễ mà lại có thể bảo đảm đúng giờ đi gặp Nguyễn Văn Linh, Đại sứ quyết định giả vờ ốm, để tôi và phu nhân Đại sứ tiếp khách dùng cơm. Tối hôm ấy vợ chồng Đại sứ Malaysia đúng giờ đến Đại Sứ quán. Sau khi vào pḥng khách, họ thấy Đại sứ Trương vẻ thiểu năo đang ngồi trên ghế được người phiên dịch và nhân viên tiếp tân d́u đứng dậy, mệt nhọc nói : “Xin chào Đại sứ và phu nhân. Rất xin lỗi các ngài là cái bệnh Meniere của tôi lại tái phát, làm cho tôi bị nhức đầu buồn nôn, v́ thế tôi chỉ có thể tiếp các ngài được một lúc thôi ạ. Ông Lư, Tham tán Chính trị của Đại Sứ quán và phu nhân của tôi sẽ tiếp ngài Đại sứ và phu nhân dùng cơm.” Nghe nói vậy, Đại sứ Malaysia rất cảm động, ông nói : “Ngài Đại sứ đang đau ốm mà vẫn ra đón khách, chúng tôi thật không phải với ngài. Xin mời Đại sứ về nghỉ ngơi, chúc ngài sớm b́nh phục.” Nói đoạn, ông thân chinh d́u Đại sứ Trương đứng dậy, hai người bắt tay tạm biệt. Vừa ra khỏi pḥng khách, Đại sứ Trương rảo bước đi tới chiếc xe đang chờ sẵn trong sân. Chiếc Toyota màu đen phóng ngay tới Bộ Quốc pḥng Việt Nam.
Khi gặp Đại sứ Trương, trước tiên Nguyễn Văn Linh khẳng định ông đă nhờ Hoàng Nhật Tân là con trai Hoàng Văn Hoan chuyển lời nhắn tới Đại sứ Trương, nội dung cũng chính xác không có ǵ sai cả.
Nguyễn Văn Linh nói bản thân ông trước nay đều cho rằng Việt Nam nên giữ quan hệ tốt với Trung Quốc.
Năm 1976, tại Đại hội IV ĐCSVN, v́ không đồng ư với một số biện pháp làm xấu mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc của chính quyền hồi ấy mà ông bị lên án là “hữu khuynh”.
Năm 1982 tại Đại hội V ĐCSVN lại v́ ông chủ trương trong giai đoạn hiện nay Việt Nam nên cho phép đồng thời tồn tại nhiều thành phần kinh tế và không đồng ư với chính sách chống Trung Quốc mà bị chèn ép ra khỏi Bộ Chính trị. Hồi ấy ông rất khó hiểu tại sao lại áp dụng thái độ như vậy với Trung Quốc. Nếu Bác Hồ c̣n th́ nhất định sẽ không xuất hiện những chuyện kỳ quặc như thế.
Nguyễn Văn Linh c̣n nói, chính sách của Việt Nam đối với Hoa kiều và người Hoa cũng sai lầm. Hoa kiều và người Hoa có đóng góp quư giá cho cách mạng Việt Nam, sau khi chiến thắng, Việt Nam lại kỳ thị họ, xua đuổi họ, thật là không có t́nh có lư.
Nguyễn Văn Linh nói, năm 1986, sau khi nhận nhiệm vụ Tổng Bí thư ĐCSVN ông quyết tâm vượt qua mọi sức cản, từng bước uốn nắn các sai lầm trước đây, khôi phục mối quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. Trước hết là thuyết phục Trung ương ĐCSVN kiến nghị Quốc hội xóa bỏ các nội dung có liên quan chống Trung Quốc viết trong Hiến pháp. Tiếp đó lại làm các công việc trên nhiều mặt, cuối cùng ra được quyết định rút quân khỏi Campuchia. Nguyễn Văn Linh nói, trong t́nh h́nh quốc tế hiện nay, đối với Việt Nam, việc xây dựng, phát triển t́nh đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với Trung Quốc, trung tâm XHCN kiên cường này, rơ ràng là một nhiệm vụ càng quan trọng và bức thiết. Bởi vậy, ông có một nguyện vọng lớn nhất là thực hiện được việc b́nh thường hóa mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc vào trước Đại hội VII ĐCSVN năm 1991. Đây sẽ là một việc lớn làm phấn chấn ḷng người đối với toàn đảng và toàn dân Việt Nam.
Về vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh nói ông hiểu rơ tính chất quan trọng và bức thiết của việc giải quyết vấn đề này. Lẽ ra hai bên Việt Nam và Trung Quốc thông qua con đường ngoại giao để bàn bạc giải quyết vấn đề này là tốt nhất và suôn sẻ nhất. Nhưng do Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ta nắm có ư đồ gây rối, hiện nay con đường này rất khó đi. V́ vậy ông nghĩ bản thân ông phải đi Bắc Kinh trực tiếp hội đàm với Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lư Bằng, cùng bàn bạc phương án giải quyết tốt nhất. Nguyễn Văn Linh nói, trên vấn đề Campuchia, Nguyễn Cơ Thạch có quan điểm không nhất trí với phần lớn các Ủy viên Bộ Chính trị, ông ta luôn luôn làm sai lệch công việc. Nguyễn Văn Linh c̣n nói, những cuộc gặp cá nhân như cuộc gặp Đại sứ Trương hôm nay không nên quá nhiều. Nếu Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lư Bằng mời ông và Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi Trung Quốc th́ đề nghị Đại sứ Trương trực tiếp đề xuất với Bộ Ngoại giao Việt Nam ư định đồng thời gặp Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, và Chủ tịch Nhà nước Vơ Chí Công, trực diện chuyển ư kiến của người lănh đạo Trung Quốc, làm như vậy sẽ ổn thỏa hơn.
Đại sứ Trương cảm ơn Nguyễn Văn Linh đă tiếp và tỏ ư sẽ lập tức báo cáo trong nước biết nội dung cuộc nói chuyện của ông.
Gặp gỡ bí mật Thành Đô
Chiều 28 tháng 8 năm 1990, Sứ quán nhận được chỉ thị của trong nước, đề nghị Đại sứ Trương chuyển lời tới Nguyễn Văn Linh: Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lư Bằng hoan nghênh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười tiến hành thăm nội bộ Trung Quốc từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9, cũng hoan nghênh Cố vấn Trung ương ĐCSVN Phạm Văn Đồng đồng thời cùng đi. Hiện nay thời cơ giải quyết chính trị vấn đề Campuchia đă chín muồi, hai phía Trung Quốc – Việt Nam cần cùng nhau cố gắng xúc tiến giải quyết thật nhanh vấn đề này và sớm thực hiện b́nh thường hóa quan hệ Trung – Việt. Do Á Vận Hội sắp sửa tiến hành tại Bắc Kinh, v́ để tiện giữ bí mật, địa điểm hội đàm sẽ thu xếp tại Thành Đô, Tứ Xuyên.
Đại sứ Trương Đức Duy lập tức họp hội nghị mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên cứu t́m cách nhanh chóng nhất chuyển thông tin quan trọng của trong nước tới Nguyễn Văn Linh. Nhờ đă có kinh nghiệm lần trước nên lần này mọi người ít nhiều đă có chút vững tâm, quyết định vẫn cứ để Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ liên hệ với Bộ Quốc pḥng Việt Nam. Thế là 8 giờ sáng ngày 29, một lần nữa Đại sứ Trương gặp Lê Đức Anh, đề nghị ông giúp đỡ thu xếp để Đại sứ Trương trực tiếp báo cáo Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh biết thông tin quan trọng đến từ Bắc Kinh.
Một tiếng đồng hồ sau, Trưởng pḥng Vũ Tần thuộc Cục Đối ngoại Bộ Quốc pḥng Việt Nam hẹn gặp Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ, chuyển đạt lời nhắn miệng của Lê Đức Anh nói Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ấn định 4 giờ chiều hôm ấy sẽ cùng Chủ tịch Đỗ Mười tiếp Đại sứ Trương. Để thể hiện cuộc hội kiến này được liên hệ qua kênh chính thức, Tổng Bí thư kiến nghị Đại sứ quán Trung Quốc chính thức nêu yêu cầu với Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, nói rằng Đại sứ Trương có việc khẩn cấp hy vọng được hội kiến Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và các đồng chí lănh đạo Việt Nam khác trong cùng ngày. Căn cứ theo sự gợi ư của Nguyễn Văn Linh, 1 giờ chiều hôm đó Đại sứ Trương đến gặp Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Trịnh Ngọc Thái nêu ra yêu cầu nói trên.
Qua sự bố trí của Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, 4 giờ chiều Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười hội kiến Đại sứ Trương tại Pḥng khách Trung ương ĐCSVN.
Đại sứ Trương chuyển tới Nguyễn và Đỗ ư kiến của Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lư Bằng mời hai đồng chí thăm Trung Quốc nội bộ.
Nguyễn và Đỗ đều rất vui mừng nhận lời mời, đồng ư với thời gian và địa điểm cuộc gặp do phía Trung Quốc đề xuất và nói sẽ lập tức báo cáo Bộ Chính trị Trung ương ĐCSVN, nhanh chóng xác định danh sách nhân viên đi theo và bắt tay làm công tác chuẩn bị.
Nguyễn Văn Linh c̣n nói, nếu t́nh h́nh sức khỏe cho phép th́ đồng chí Phạm Văn Đồng cũng sẽ nhất định nhận lời mời cùng đi. Sau khi về Sứ quán, Đại sứ Trương lập tức báo cáo trong nước biết t́nh h́nh cuộc gặp chiều nay.
Ngày 30, trong nước thông báo cho Sứ quán biết thu xếp lịch tŕnh đại thể của lần gặp gỡ này, đó là: sáng ngày 3 tháng 9, chuyên cơ Việt Nam rời Hà Nội, 1 giờ trưa đến Thành Đô, buổi chiều lănh đạo hai bên hội đàm, buổi tối phía Trung Quốc mở tiệc chiêu đăi. Sáng ngày 4 tháng 9 tiếp tục hội đàm, buổi chiều chuyên cơ Việt Nam rời Thành Đô về nước. Sau khi thỉnh thị và được trong nước đồng ư, Đại sứ Trương sẽ cùng đáp chuyến chuyên cơ Việt Nam đi Thành Đô và tham gia hội đàm.
Sáng ngày 3, tôi đi xe của Đại sứ Trương đến sân bay quốc tế Nội Bài Hà Nội, vừa để tiễn Đại sứ Trương vừa cũng là để tiễn đoàn Nguyễn Văn Linh.
Phía Việt Nam tất cả có 15 người đi chuyến này, ngoài Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng ra, các nhân viên chủ yếu cùng đi c̣n có Chánh Văn pḥng Trung ương ĐCSVN Hồng Hà (Ủy viên Trung ương Đảng), Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Hoàng Bích Sơn (Uỷ viên Trung ương Đảng), Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Đinh Nho Liêm (Uỷ viên Trung ương Đảng), c̣n lại là các nhân viên công tác.
Khi xe của Đại sứ Trương tới gần sân bay th́ thấy một xe con kiểu b́nh thường màu đen chạy sau xe chúng tôi, ngoảnh lại nh́n, v́ xe không treo màn cửa nên có thể thấy rơ người ngồi bên trong là Nguyễn Văn Linh, bên cạnh người lái xe có một cán bộ bảo vệ. Có thể thấy Nguyễn Văn Linh vẫn giữ tác phong giản dị như thế của Hồ Chí Minh. Xe chúng tôi lập tức chạy chậm lại nhường đường cho xe Nguyễn Văn Linh. Tại sân bay không làm bất kỳ nghi lễ tiễn đưa nào, đoàn Nguyễn Văn Linh và Đại sứ Trương lên máy bay xong, chuyên cơ liền cất cánh.
Sau khi từ Thành Đô trở về, Đại sứ Trương cho chúng tôi biết cuộc gặp lănh đạo hai nước chủ yếu thảo luận cách giải quyết chính trị vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ b́nh thường Trung Quốc – Việt Nam. Về vấn đề Campuchia, hai bên chú trọng bàn về thành viên Ủy ban Tối cao cơ quan quyền lực lâm thời Campuchia [SNC], tức phương án phân phối quyền lực sau khi Việt Nam rút quân. Phía Trung Quốc đề xuất Ủy ban này gồm 13 thành viên, ngoài Sihanouk làm Chủ tịch ra, chính quyền Phnompenh cử 6 đại biểu, phía lực lượng chống đối gồm ba phái Campuchia Dân chủ (tức Khmer Đỏ), Ranaridh và Son Sann mỗi phái 2 đại biểu, tổng cộng 6 đại biểu.
Nguyễn Văn Linh tỏ ư có thể tiếp thu phương án này của phía Trung Quốc; Đỗ Mười cho rằng bản thân Sihanouk cũng thuộc lực lượng chống đối, như vậy tỷ lệ hai bên là 6 so với 7, phía lực lượng chống đối nhiều hơn 1 ghế, dự đoán phía chính quyền Phnom Penh khó tiếp thu phương án này; Phạm Văn Đồng th́ nói phương án của phía Trung Quốc đă không công bằng lại cũng không hợp lư. Cuối cùng phía Việt Nam đồng ư dựa vào phương án của phía Trung Quốc để làm công tác thuyết phục phía Phnom Penh.
Về mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, hai bên đều có thái độ nh́n về phía trước, không rà lại các món nợ cũ. Lănh đạo hai nước đều đồng ư dựa theo tinh thần “Kết thúc quá khứ, mở ra tương lai” viết một chương mới trong mối quan hệ Trung – Việt. Khi kết thúc cuộc gặp, lănh đạo hai nước đă kư kết “Biên bản Hội đàm”.
Tổng Bí thư Giang Trạch Dân c̣n ư vị sâu xa trích dẫn hai câu thơ của Giang Vĩnh, nhà thơ đời Thanh: “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, tương kiến nhất tiếu mẫn ân cừu [tạm dịch : Qua kiếp nạn, anh em c̣n đó. Gặp nhau cười, hết sạch ơn thù]”. Tối hôm ấy Nguyễn Văn Linh xúc động viết bốn câu thơ: “Huynh đệ chi giao số đại truyền, oán hận khoảnh khắc hóa vân yên, tái tương phùng thời tiếu nhan khai, thiên tải t́nh nghị hựu trùng kiến.”
Để bảo đảm cuộc gặp thành công, Tỉnh ủy Tứ Xuyên và Văn pḥng Đối ngoại đă làm rất nhiều công việc tổ chức và chuẩn bị. Nghe nói họ đă phải đưa đi nơi khác tất cả các khách trọ ở nhà khách Kim Ngưu, để dành nơi này đón các vị khách Việt Nam ở trong hai ngày hội đàm. Đồng thời hai bên Trung Quốc – Việt Nam thương lượng giữ bí mật về cuộc hội đàm này, không phát bất cứ tin tức nào ra bên ngoài.
16 chữ vàng của mối quan hệ Trung Quốc –Việt Nam
Một năm sau cuộc gặp Thành Đô, tháng 11 năm 1991, tân Tổng Bí thư ĐCSVN Đỗ Mười và tân Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Vơ Văn Kiệt thăm Trung Quốc. Lănh đạo hai nước ra Thông cáo chung, tuyên bố thực hiện b́nh thường hóa quan hệ Trung Quốc – Việt Nam.
Tháng 2-1999 lănh đạo Trung Quốc – Việt Nam ra “Tuyên bố chung” xác định bộ khung phát triển mối quan hệ hai nước trong thế kỷ mới, nói tóm tắt là 16 chữ “Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện”. Các quan chức và học giả Việt Nam nói đây là “16 chữ vàng”.
Tháng 7 và tháng 11 năm 2005, lănh đạo cấp cao hai nước Trung Quốc – Việt Nam đi thăm lẫn nhau, làm phong phú hơn nữa nội hàm của “16 chữ”, không ngừng nâng cao mối quan hệ láng giềng hữu hảo và hợp tác toàn diện lên mức độ mới, khiến cho hai quốc gia và nhân dân hai nước măi măi làm láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, đánh dấu mối quan hệ ngoại giao hữu hảo Trung Quốc – Việt Nam được đẩy lên một chặng đường mới.
PHẦN 7.
TẠI SAO PHẢI GIẤU DIẾM, BẺ CONG, BÓP MÉO LỊCH SỬ?
Sau khi nhà Hồ bị diệt vong, Hồ Quư Ly bị di lư sang Bắc Kinh rồi chết tại đây, Việt Nam rơi vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư.
Tạm dừng lần theo ḍng chảy lịch sử, một câu hỏi được đặt ra, tại sao những bị kịch nồi da xáo thịt, tranh dành quyền lực trong các triều đại phong kiến Việt Nam không được đưa vào sách giáo khoa, hay tuyên truyền trên báo chí?
Kể từ khi những người cộng sản cầm quyền năm 1945, bắt đầu với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xă hội ở Miền Bắc, sau đó trên toàn cơi Việt Nam năm 1975, mấy thế hệ con người Việt Nam được dạy dỗ lịch sử là những trang hào hùng đánh thắng hết thế lực thù địch này, ngoại xâm kia, các ông vua từ đời Đinh, Lê, Lư, Trần… đều anh minh tài giỏi… hiếm khi nh́n nhận mặt trái của các sự kiện, nhân vật lịch sử.
Đây có phải là vấn đề tự tôn dân tộc, hay cố t́nh che giấu thậm chí bóp méo lịch sử cho những mục đích vụ lợi, phục vụ cho mục đích chính trị?
Những kẻ độc tài, những chế độ chuyên chế, chuyên quyền họ rất giỏi dùng lịch sử làm công cụ tuyên truyền, cai trị.
Cái ǵ có lợi th́ xấu cũng thành tốt, cái ǵ có hại th́ tốt cũng thành đổ bỏ đi. Bất chấp những nguyên tắc trật tự và tiến bộ, văn minh và luật pháp.
Ai đă từng xem phim Thuỷ Hử một bộ do Hồng Kông, một bộ do Trung Quốc đại lục sản xuất sẽ thấy cùng cốt truyện nhưng khi lên phim đều có sự cài cắm thông điệp riêng của ḿnh.
Trong khi phim Hongkong nặng về tính giải trí, ca ngợi khí phách, tinh thần thượng vơ, anh hùng hảo hán của các nhân vật …
Th́ phim Thuỷ Hử do đài truyền h́nh Bắc Kinh sản xuất lại cố gắng chính trị hoá truyền đi một thông điệp hoàng thượng là anh minh, chống lại triều đ́nh là chết, dụng ư tuyên truyền, cảnh báo cho bất cứ kẻ nào, thế lực nào chống lại nhà cầm quyền, và sự kiện đàn áp thanh niên, sinh viên ở Thiên An Môn năm 1989 là một minh chứng về sự tàn bạo của các chế độ chuyên quyền dù nó ở bất cứ ở h́nh thức, thể chế xă hội nào.
Chống tham nhũng ở Trung Quốc, hay ở ta cũng có những đặc điểm giống nhau, trong thực tế hay trong phim ảnh dù được tuyên truyền “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” nhưng thực tế h́nh ảnh đồng chí bí thư bao giờ cũng xuất hiện đúng lúc, anh minh, sáng xuất chỉ đạo kịp thời tháo gỡ ng̣i nổ, cũng như lănh đạo cấp cao của đảng được tô h́nh vẽ bóng chẳng khác ǵ thánh nhân.
Chế độ hiện thời có khác ǵ triều đại phong kiến ngày trước, có khác chỉ là cái áo khoác ngoài, theo một màu sắc mới.
Chẳng nói đâu xa, chương tŕnh Táo quân vào đêm 30 Tết phản ánh một hiện thực, giữa một thời đại mà họ nói đến chính phủ điện tử, thời đại công nghệ này nọ mà vẫn phải núp bóng chuyện trên trời để cho dân có một miếng ăn dân chủ do họ tạo dựng.
Ngọc Hoàng là ai? Ngọc Hoàng anh minh, mỗi lời nói của Ngọc Hoàng đều là khuôn vàng thước ngọc - dối trá, giả tạo, thần thánh hoá lănh đạo một cách trơ trẽn sống sượng. Ngụy biện, bao che cho đường lối, chính sách phục vụ cho mục đích cướp và vét của một lũ quan trường hủ lậu, tàn ác, đạo đức giả.
Sở dĩ họ muốn che giấu mặt trái của lịch sử v́ đấy chính là mặt trái của chế độ mà họ đang cầm quyền.
Họ muốn tạo ra một ảo tưởng cho dân chúng về vinh quang và thắng lợi, về tương lai và tiền đồ, để cho người dân ảo tưởng về con đường mà họ dẫn dắt, định hướng mà không nh́n nhận ra từ thực tế lịch sử, đó chỉ là bịp bợm.
Tất cả những kẻ cố bám giữ quyền lực là những kẻ v́ tham quyền cố vị đều tàn ác, mưu mô và thủ đoạn như nhau, lịch sử đă chứng minh điều này.
Đây chính là nguyên nhân họ không đưa vào sách giáo khoa lịch sử, để cho các thế hệ qua đó nh́n thấy chân tướng thật, bản chất thật của một chế độ chuyên quyền.
Mở cửa, nhiều người Việt Nam biết đến nước Mỹ “bằng da bằng thịt” không phải trên báo chí tuyên truyền.
Những năm chiến tranh báo Nhân dân có chụp một bức ảnh trên đường phố ở New York có đặt những trạm ô xi để người dân chui vào đó hít thở v́ không khí ở đó bị ô nhiễm nặng nề, với tiêu đề “Nước Mỹ trong cơn hấp hối”
Dân ta lúc ấy ai cũng tin là thật, thực tế đấy là những bốt điện thoại công cộng.
Đến thủ đô Washington thăm đài tưởng niệm những người lính Mỹ chết trong chiến tranh mới hiểu tại sao nước Mỹ là một siêu cường dẫn dắt thế giới.
Đài tưởng niệm gồm 3 phần nối tiếp với nhau.
Ở giữa tại cốt không (mặt đất) là lá cờ nước Mỹ và tượng đài người mẹ với người lính, phía trên cao là quả đồi có đài tưởng niệm Abraham Lincoln.
Phía bên này của lá cờ là phần đi dưới ḷng đất, ở đây ghi tên những người lính chết trong các trận chiến ở Việt Nam.
Đài tưởng niệm này muốn truyền đi thông điệp, nước Mỹ hiện tại (nơi có lá cờ) được h́nh thành từ cả thắng lợi vinh quang, thất bại và nhục nhă. Nhưng tất cả chính là nước Mỹ có tự do mà người khởi xướng là Abraham Lincoln.
Lịch sử ở nước Mỹ được phản ánh trung thực như vậy, chính điều này đă tạo ra nước Mỹ vĩ đại.
(C̣n tiếp)
PHẦN 8.
TẠI SAO PHẢI GIẤU GIẾM, BẺ CONG, BÓP MÉO LỊCH SỬ?
Hoàng Thành Thăng Long được khai quật, di tích của đời sau đè lên đời trước, hiện vật để lại cho thấy có một Thăng Long tráng lệ và Việt Nam đă từng là một quốc gia hùng cường trong khu vực châu Á nhưng tranh giành quyền lực giữa các triều đại đă tàn phá, hủy hoại nó.
Không những Thăng Long mà cả Hội An, Huế… đều trong hoàn cảnh tương tự.
Khi cầm quyền lực trong tay, dù có anh minh tài giỏi đến đâu, có công lao dựng xây như thế nào nhưng cố bám giữ quyền lực cuối cùng cũng đi đến kết cục bi thảm.
Càng cố th́ càng phải ác, để hận thù chồng chất nên kẻ tiếm quyền dùng mọi hành động tàn ác để trả thù, diệt tận gốc chốc tận rễ chém giết không ghê tay và phá hủy các công tŕnh … đây như là một nguyên tắc sống c̣n để bảo vệ triều đại và chế độ, khiến nước ta đă từng là nước phát triển, rồi trở thành nước chậm phát triển, việc này cứ lặp đi lặp lại trong suốt chiều dài lịch sử và đến hiện tại.
Điều tai hại nhất của những người cầm quyền là họ không dám nh́n nhận vào sự thật lịch sử như một bài học mà c̣n giấu nhẹm, bẻ cong lịch sử cho các mục đích chính trị và tham vọng quyền lực.
Trong các giáo tŕnh và các sách đương đại họ lư giải kinh thành Thăng Long bị tàn phá là do người Pháp phá hủy khi tấn công và chiếm đóng, với mục đích để tố cáo tội ác của chế độ phong kiến, thực dân, đế quốc, khẳng định con đường của cách mạng vô sản là đánh đổ, đào huyệt chôn chế độ tư bản có tính sống c̣n cho phát triển đất nước.
Việc di tích Hoàng thành Thăng Long được khai quật cùng với những sử liệu gần đây được công bố từ nhiều nguồn đă chứng minh thậm chí đảo ngược những luận điểm lịch sử bị bóp méo.
Hoàng thành Thăng Long, cùng với Hội An, cố đô Huế bị tàn phá chính từ những cuộc tranh giành quyền lực trong nội bộ và đến khi người Pháp chiếm được nó chỉ c̣n những phế tích bên trên, c̣n hoàng cung tráng lệ đă nằm sâu trong đất.
Về sự tồn tại của thành Thăng Long, sách Đại Việt sử kư toàn thư bản kỷ tục biên– Thế tôn Nghị Hoàng đế kỷ cho biết: từ thời nhà Mạc, thành Thăng Long đă được tu sửa, nhưng đến khi nhà Mạc bị diệt th́ thành đă bị thiêu hủy vào năm Quang Hưng thứ 15 (1592) . Sách chép:
“Quan quân thừa thắng đuổi tràn đến tận sông. Phóng lửa đốt cung điện và nhà cửa trong thành, khói lửa kín trời.” (H1 tờ 29a).
Trên Tạp chí Xưa và Nay số 80B tháng 10 năm 2000 có bài viết “Dấu ấn Thăng Long Hà Nội (những năm đầu đến giữa thế kỷ XIX) của tác giả Đinh Xuân Lâm, trong bài viết có đoạn:
“Nhằm mục đích hạ thấp vai tṛ kinh đô cũ, để làm mất tư cách “quốc đô” lâu đời của Thăng Long, năm 1805 triều Nguyễn ra lệnh phá hủy khu hoàng thành cũ được xây dựng từ đời nhà Lê và cho xây một ṭa thành mới quy mô nhỏ hẹp hơn nhiều ngay trên vị trí thành cũ…”(tlđd, tr. 10).
Năm 1514, Lê Tương Dực mở rộng Hoàng thành thêm mấy ngh́n trượng (mỗi trượng là 3,6m) bao bọc cả điện Tường Quang, quán Trấn Vũ và chùa Kim Cổ Thiên Hoa.
Từ năm 1516-1527 là năm nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, kinh thành Thăng Long ch́m trong loạn lạc. Hầu hết các cung điện kho tàng đền chùa cũng như phường phố bị thiêu đốt tàn phá nhiều lần.
Trong nửa cuối thế kỷ 16, cục diện Nam Bắc triều với một bên là nhà Mạc và một bên là Lê-Trịnh diễn ra quyết liệt với ưu thế ngày càng thuộc về phe Nam triều. Họ Trịnh lần lượt chiếm được nhiều tỉnh phía Bắc như Ninh B́nh, Hà Nam, Bắc Ninh... và đánh đến tận Thăng Long. Nhà Mạc phải rời bỏ kinh thành chạy lánh nạn nơi này, nơi khác. Thăng Long ngày một điêu tàn.
Đến năm 1585, không chịu nổi kiếp sống lưu vong trường kỳ như vậy, Mạc Mậu Hợp quyết định trở lại Thăng Long. Một đợt xây dựng đại quy mô được khởi động. Từ đó về sau cũng không có lần nào Hoàng thành được xây dựng quy mô như thế nữa.
Năm 1599 Trịnh Tùng đuổi được nhà Mạc lên Cao Bằng tiến về tiếp quản Thăng Long. Hoàng thành được tu sửa trong một tháng để đón vua Lê ra. Rồi từ ấy trở đi, những cung điện mới xây đều nằm trong phủ Chúa. Hoàng thành bị bỏ hoang phế nhiều.
Thành Hà Nội từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20
Sự chuyển đổi từ kinh thành Thăng Long sang tỉnh thành Hà Nội
Năm 1788, Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị đem đại quân 290.000 người sang chiếm Thăng Long không tốn một ḥn tên mũi đạn. Dựa thế quân Thanh, Lê Chiêu Thống điên cuồng trả thù họ Trịnh. Phủ chúa bị Lê Chiêu Thống đốt trụi, cháy ṛng ră một tuần mới hết. Tất cả những ǵ liên quan đến chúa Trịnh ở Thăng Long bị phá sạch. Kinh thành lại một lần nữa ra tro.
Đồng thời, những ǵ c̣n sót lại của Hoàng thành sau những trận đại hủy diệt cuối thế kỷ 18 cũng lần lượt bị các đời vua nhà Nguyễn chuyển nốt vào Phú Xuân phục vụ cho công cuộc xây dựng kinh thành mới. Chỉ duy có điện Kính Thiên và Hậu Lâu được giữ lại làm hành cung cho các vua Nguyễn mỗi khi ngự giá Bắc thành.
Năm 1805, Gia Long cho phá bỏ tường của Hoàng thành cũ v́ cho rằng đây chỉ c̣n là Trấn Bắc thành mà Hoàng thành Thăng Long th́ rộng lớn quá. Gia Long cho xây dựng thành mới theo kiểu Vô-băng của Pháp. Về quy mô th́ nhỏ hơn thành cũ nhiều.
Năm 1831, trong cuộc cải cách hành chính lớn Minh Mạng đă cho đổi tên Thăng Long thành tỉnh Hà Nội.
Đến năm thứ nhất đời Tự Đức 1848, lại hạ lệnh phá dỡ những vật liệu thuộc cung điện cũ của nhà Hậu Lê ở trong thành, mang hết các đồ chạm trỗ mỹ thuật bằng gỗ và bằng đá về Huế để trang trí các cung điện trong đó, các di tích xây dựng của các triều đại trước, v́ vậy mất mát gần hết, chỉ c̣n sót lại đôi rồng đá trước thềm điện Kính Thiên”(tlđd, tr. 11).
Năm 1888 khi nhà Nguyễn chính thức nhượng hẳn Hà Nội cho Pháp. Người Pháp đổi tỉnh Hà Nội thành thành phố Hà Nội.
(C̣n tiếp)
PHẦN 9.
TẠI SAO PHẢI GIẤU GIẾM, BẺ CONG, BÓP MÉO LỊCH SỬ?
Trước năm 1975 Sài G̣n có đường Gia Long và đường Nguyễn Huệ, đây là hai nhân vật lịch sử không đội trời chung với nhau.
Chính quyền Việt Nam Cộng hoà có vẻ nh́n nhận lịch sử khách quan tuy Gia Long và Nguyễn Huệ trên một khía cạnh nào đó đều có những vết đen trong lịch sử.
Đây mới là việc làm đúng đắn tôn trọng lịch sử phán xét một cách tích cực, công bằng.
Khen cho ai khéo lấy hai con đường một cách h́nh tượng để nói lên thân phận của Gia Long và Nguyễn Huệ.
Đường Nguyễn Huệ tuy to, nhưng ngắn, như số phận của vị anh hùng đánh đông dẹp bắc, công tích rực rỡ mà tuổi thọ ngắn ngủi.
Đường Gia Long tuy hẹp nhưng dài, bây giờ là đường Lư Tự Trọng. Ở phía đầu đường Gia Long là nhóm những vị khai quốc công thần của ông, đó là đường Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám), đấy là đường Vơ Tánh (Nguyễn Trăi Quận 1), Ngô Tùng Châu (nay là Lê Thị Riêng), quân sư Đặng Đức Siêu (đổi tên thành đường Nam Quốc Cang).
Trong khi đó ở Miền Bắc xă hội chủ nghĩa Gia Long theo sách giáo khoa lịch sử bị coi là kẻ bán nước, đại diện cho một triều đại phong kiến tàn bạo, sau năm 1975 đường Gia Long bị xoá tên.
Nguyễn Huệ được coi là anh hùng dân tộc, người có nhiều cải cách sau khi nắm vương quyền.
Đâu là sự thật lịch sử? Và thực chất câu chuyện về Nhà Tây Sơn như thế nào, lịch sử bị bóp méo v́ mục đích ǵ?
Giai cấp vô sản lên nắm chính quyền, thành phần công nông trở thành giai cấp lănh đạo, những ǵ thuộc về thực dân, phong kiến phải đào tận gốc trốc tận rễ.
Gia Long dĩ nhiên không thể được tôn vinh, một tên vua phong kiến cần phải bài trừ lôi ra đấu tố, vạch mặt.
Nguyễn Huệ xuất thân từ tầng lớp nông dân trở thành người anh hùng áo vải, tượng trưng cho sự quật khởi của một cuộc cách mạng chống áp bức bọc lột, biểu tượng trí tuệ và sức mạnh của quần chúng - Ai dám nói nông dân là thành phần vô học, thành phần dưới đáy xă hội? Ai dám dè bỉu giai cấp công nông không thể làm lănh đạo?
Và họ muốn thông qua Nguyễn Huệ đế chứng minh giai cấp công nông xứng đáng là giai cấp lănh đạo.
Lịch sử không phủ nhận công lao của Nguyễn Huệ về việc đánh thắng quân Thanh xâm lược, nhưng ca ngợi Nguyễn Huệ như một nhà chính trị, quân sự kiệt xuất với những công lao đưa nước ta trở thành hùng mạnh, thậm chí thêu dệt như một con người có nhân cách vĩ đại, một hoàng đế anh minh, nhân từ cần phải xem xét lại, đặt Nguyễn Huệ đúng vào những ǵ vốn có.
Nghiên cứu tư liệu sử từ nhiều nguồn một cách khách quan cho thấy Gia Long không hẳn như những ǵ họ ném vào sọt rác lịch sử, Nguyễn Huệ cũng có những mặt trái đáng ghê sợ, nhân cách cũng chưa vượt qua được sự cám dỗ của quyền lực, thậm chí Nguyễn Huệ mắc căn bệnh quyền lực đến mức đáng sợ làm bất kỳ điều ǵ tàn ác để chiếm đoạt quyền lực, bảo vệ quyền lực, và kết cục bị thất bại, nở cũng nhanh và tàn cũng nhanh.
Cũng như bất kỳ một cuộc khởi nghĩa, hay một cuộc cách mạng nào, ban đầu nhà Tây Sơn rất được ḷng dân chúng, họ hi vọng một cuộc đổi đời nên dốc ḷng ủng hộ, điều này chứng minh những chiến thắng vang dội của nhà Tây Sơn.
Nhưng đến khi nhà Tây Sơn muốn lấy thiên hạ th́ tất cả những ǵ của căn bệnh quyền lực bắt đầu xuất hiện.
Trong nội bộ nhà Tây Sơn anh em bất hoà, Nguyễn Huệ đem quân đánh vào thành Quy Nhơn của anh cả Nguyễn Nhạc đây là tội bất trung, bất nghĩa….
Sự thất bại của quân Tây Sơn trước nhà Nguyễn thường được cho là v́ cái chết của vua Quang Trung. Tuy nhiên, nh́n lại lịch sử, tại sao Nguyễn Phúc Ánh bao nhiêu lần tay trắng bại vong lại vẫn nhận được sự ủng hộ của người dân? Nhà Tây Sơn đă làm những điều ǵ để mất ḷng dân đến như vậy?
NHỮNG TỘI ÁC CỦA NHÀ TÂY SƠN.
- PHÁ HUỶ THƯƠNG CÀNG HỘI AN.
Khi nhà Tây Sơn cùng với chúa Trịnh đàng ngoài liên minh đánh nhà Nguyễn họ đă đốt phá thương càng Hội An, một thương cảng giao thương hàng đầu châu Á.
Từ thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Hội An được xây dựng và phát triển trở thành thương cảng tiêu biểu của châu Á và nổi tiếng khắp thế giới. Rất nhiều thương nhân từ Nhật Bản, Trung Quốc, châu Âu đến đây giao thương, biến Hội An thành hải cảng quốc tế tiêu biểu ở châu Á. Hội An là đô thị rất trù phú, được nhiều nơi trên thế giới biết đến, có rất nhiều khu phố dành cho thương gia nước ngoài.
Một người Ư là Christoforo Borri cư trú ở Hội An vào năm 1618 đă mô tả rằng:
“Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam”.
“Người Hoa và Nhật Bản là những thương nhân chủ yếu của chợ phiên, năm nào cũng mở và kéo dài trong bốn tháng. Người Nhật thường đem lại 4, 5 vạn nén bạc, người Trung Hoa th́ đi một thứ thuyền buồm đem lại nhiều tơ lụa tốt và sản vật đặc biệt của họ”
“Do chợ này mà Quốc vương thu được số tiền thuế lớn, toàn quốc nhờ vậy cũng được nhiều lợi ích”.
Thế nhưng quân chúa Trịnh và quân Tây Sơn sau khi chiếm Quảng Nam đă tàn phá tất cả Hội An. Không chỉ sử liệu thời nhà Nguyễn mà nhiều thương gia phương Tây cũng chứng kiến ghi nhận cảnh này.
Vào thời điểm 1774-1775 là giai đoạn mà quân Trịnh tiến đánh Phú Xuân (Huế), chúa Nguyễn phải chạy về Quảng Nam, lại bị quân Tây Sơn đánh ra uy hiếp. Một bức thư năm 1775 của Halbout đă ghi nhận:
“Quân nổi loạn đă cướp bóc, cướp phá chẳng nương tay, đến nổi các tỉnh Cham cứ 20 người th́ có 19 người chết v́ bị đầy đọa khổ sở. Các giáo khu ở Hàn và Cầu Né đều không c̣n… Năm ngoái, ở Bầu Nghé từ tháng 4 đến tháng 9 âm lịch số giáo dân bị giết đến sáu trăm người… Ở một nơi khác cũng thời gian ấy, ít nhất có đến 1500 giáo dân bị giết. Suốt hai năm ṛng gần như quanh tôi lúc nào cũng có người chết và hấp hối…”
Một người Anh Charles Chapman phải thốt lên rằng:
“Khi tới Hội An, thành phố lớn này chẳng c̣n lại là bao những khu phố được quy hoạch quy củ với những ngôi nhà xây bằng gạch, đường lát đá mà chỉ thấy một cảnh hoang tàn làm cho ta cảm thấy xót xa. Trời ơi, những công tŕnh ấy bây giờ chỉ c̣n đọng lại trong kư ức mà thôi”
Sau này thành phố Hội An đă được xây dựng lại nhưng không thể được như trước nữa, những khu phố sầm uất đă không c̣n, nhiều thương gia chứng kiến cảnh tàn phá cướp bóc cũng sợ hăi mà không dám quay lại.
Nhà nghiên cứu Tạ chí Đại Trường dẫn lời Linh mục Labartette miêu tả:
“Ở Cửa Hàn (Đà Nẵng) không c̣n một con heo, gà, vịt, đường cát trước kia sản xuất rất nhiều nay biến mất, tiền mất giá một quan c̣n giá trị độ một đồng, t́nh trạng đói khổ ăn xin xuất hiện phổ biến trong xứ.”
Lê Quư Đôn cũng ghi nhận trong thảm cảnh ở Quảng Nam trong “Phủ biên tạp lục” như sau:
“…quá đỗi đói khổ cùng khốn, họ chỉ ngóng trông quân nhà vua đến giải cứu cho họ…”
- CÙ LAO PHỐ, TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI SẦM UẤT NHẤT NAM BỘ BỊ TÀN PHÁ
Trung tâm thương mại ở Nam Bộ là cù lao Phố nằm bên sông Đồng Nai thuộc xă Hiệp Ḥa, Biên Ḥa ngày nay. Nguồn gốc của nó là do một số tướng lĩnh nhà Minh do không quy phục nhà Thanh nên đến xin chúa Nguyễn được làm con dân Đại Việt và được cho phép khai phá vùng đất này.
Thời ấy thương nghiệp phát triển dẫn đến các nghề thủ công như dệt chiếu, tơ lụa, gốm, đúc đồng, nấu đường, làm bột, đồ gỗ gia dụng, chạm khắc gỗ, đóng thuyền, làm pháo v.v.. rất phát triển. Nơi đây thuận tiện giao thông thủy bộ, buôn bán tấp nập, nên bắt đầu phồn thịnh và nhanh chóng trở thành trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế của cả vùng Nam Bộ.
Sách “Đại Nam nhất thống chí” mô tả rằng Nông Nại đại phố lúc đầu do Trần Thượng Xuyên (tức Trần Thắng Tài – từng là tổng binh ba châu Cao – Lôi – Liêm dưới triều Minh) khai phá, ông “chiêu nạp được người buôn nước Tàu, xây dựng đường phố, lầu quá đôi từng rực rỡ trên bờ sông, liền lạc năm dặm và phân hoạch ra ba nhai lộ: nhai lớn giữa phố lót đá trắng, nhai ngang lót đá ong, nhai nhỏ lót đá xanh, đường rộng bằng phẳng, người buôn tụ tập đông đúc, tàu biển, ghe sông đến đậu chen lấn nhau, c̣n những nhà buôn to ở đây th́ nhiều hơn hết, lập thành một đại đô hội…”
Trịnh Hoài Đức mô tả trong “Gia Định thành thông chí” của ḿnh như sau:
“Các thuyền ngoại quốc tới nơi này (cù lao Phố) bỏ neo, mướn nhà ở, rồi kê khai các số hàng trong chuyến ấy cho các hiệu buôn trên đất liền biết. Các hiệu buôn này định giá hàng, tốt lẫn xấu, rồi bao mua tất cả, không để một món hàng nào ứ động. Đến ngày trở buồm về, gọi là ‘hồi đường’, chủ thuyền cần mua món hàng ǵ, cũng phải làm sẵn hóa đơn đặt hàng trước nhờ mua dùm. Như thế, khách chủ đều được tiện lợi và sổ sách phân minh. Khách chỉ việc đàn hát vui chơi, đă có nước ngọt đầy đủ, lại khỏi lo ván thuyền bị hà ăn, khi về lại chở đầy thứ hàng khác rất là thuận lợi…”.
Khi quân Tây Sơn đánh vào Nam bộ, lịch sử ghi nhận rằng cù lao Phố bị tàn phá, người Hoa kiều bị tàn sát. Quân Tây Sơn cướp bóc của cải chở về Quy Nhơn, những ǵ c̣n lại đều bị đốt sạch. Các cơ sở thủ công bị phá, dân chúng bị tàn sát, nước đỏ ngầu v́ máu. Những người Hoa may mắn sống sót chạy về Bến Nghé, sau này thành lập lại trung tâm thương mại ở vùng Chợ Lớn.
Trịnh Hoài Đức mô tả sự việc này trong “Gia Định thành thông chí” rằng từ khi bị Tây Sơn tàn phá, “nơi đây biến thành g̣ hoang, sau khi trung hưng người ta tuy có trở về nhưng dân số không được một phần trăm lúc trước”.
Sau khi chợ búa cùng phố xá bị tàn phá nặng nề, các thương gia người Hoa rủ nhau xuống vùng Chợ Lớn, sinh sống và lập những cơ sở thương măi khác cho đến nay. Kể từ đó, vùng cù lao Phố đánh mất vai tṛ là trung tâm thương mại của Đàng Trong mà thay vào đó là Chợ Lớn và Mỹ Tho.
- MỸ THO: VÙNG KINH TẾ HƯNG THỊNH BỊ TÀN PHÁ.
Vào năm 1679, một nhóm khoảng ba ngàn người Minh Hương được Chúa Nguyễn cho định cư vùng đất mới này. Trong nhóm có Dương Ngạn Địch đứng ra lập Mỹ Tho đại phố ở làng Mỹ Chánh, huyện Kiến Ḥa. Khu đại phố này kéo dài đến Cầu Vĩ, G̣ Cát, tức khu vực xă Mỹ Phong hiện nay. Rất nhiều làng xă mọc lên xung quanh khu vực Mỹ Tho: Thái Trấn lập làng An Hoà (sau đổi là Thạnh Trị), Nguyễn Văn Trước lập làng Điều Ḥa (khu vực đường Nguyễn Hùynh Đức bây giờ ).
Vào thế kỷ 17, Mỹ Tho đă trở thành một trong hai trung tâm thương mại lớn nhất Nam Bộ lúc bấy giờ (trung tâm c̣n lại là cù lao Phố). Sự hưng thịnh của phố chợ Mỹ Tho cho thấy nền sản xuất nông – ngư nghiệp và kinh tế hàng hóa địa phương ở thời điểm đó đă có những bước phát triển đáng kể, đặc biệt là đối với ngành thương mại.
Tuy nhiên quân Tây Sơn đă tàn phá vùng kinh tế hưng thịnh này một cách không thương tiếc. Nhà nghiên cứu Sơn Nam đă mô tả trong “Lịch sử khẩn hoang miền Nam” rằng:
“Chợ phố lớn Mỹ Tho, nhà ngói cột chàm, đ́nh cao chùa rộng, ghe thuyền ở các ngả sông biển đến đậu đông đúc làm một đại đô hội rất phồn hoa huyên náo. Từ khi Tây Sơn chiếm cứ, đổi làm chiến trường, đốt phá gần hết, từ năm 1788 trở lại đây, người ta lần trở về, tuy nói trù mật nhưng đối với lúc xưa chưa được phân nửa”.
Thậm chí người ta đă coi quân Tây Sơn như cường đạo. Tại Vĩnh Thanh, trong lúc Tây Sơn vào chiếm cứ th́ dân chúng “đều chôn cất của cải không dám phơi bày ra, cho nên bọn cường đạo không cướp lấy được vật ǵ”.
- THẢM SÁT NGƯỜI HOA Ở CHỢ LỚN.
Từ khi cù lao Phố bị phá hủy th́ các hoạt động thương mại phải di dời tập trung về Chợ Lớn.
Năm 1782 Nguyễn Nhạc đến “18 thôn vườn trầu” th́ bị phục kích thua trận. Nhận ra quân phục kích là đạo binh Ḥa Nghĩa gồm nhiều người Hoa ủng hộ Nguyễn Phúc Ánh, Nguyễn Nhạc đă thực hiện một cuộc thảm sát đối với người Hoa.
“Nhạc bèn giận lây, phàm người Tàu không kể mới cũ đều giết cả hơn 10.000 người. Từ Bến Nghé đến sông Sài G̣n, tử thi quăng bỏ xuống sông làm nước không chảy được nữa. Cách 2, 3 tháng người ta không dám ăn cá tôm dưới sông. C̣n như sô, lụa, chè, thuốc, hương, giấy, nhất thiết các đồ Tàu mà nhà ai đă dùng cũng đều đem quăng xuống sông, chẳng ai dám lấy. Qua năm sau, thứ trà xấu một cân giá bán lên đến 8 quan, 1 cây kim bán 1 quan tiền, c̣n các loại vật khác cũng đều cao giá, nhân dân cực kỳ khổ sở”.
Ngoài việc trả thù riêng người Tàu, Nguyễn Nhạc c̣n có dụng tâm tiêu diệt đầu năo kinh tế của miền Nam, nơi chúa Nguyễn nắm được nhân tâm từ lâu.
Sự thật là quân Tây Sơn đă tàn sát bao nhiêu người? Linh mục Andre Tôn trong bức thư viết ngày 1/7/1784 mô tả số người chết trong cuộc thảm sát này là 10.000 đến 11.000 người, trong đó phần lớn là người Hoa. Linh mục Castuera, người đă có mặt ở Chợ Quán ngày 7/7/1782, ghi nhận có 4000 người Hoa bị giết. Số nạn nhân thật sự trong những cuộc thành trừng của Tây Sơn là không thể biết chính xác, nhưng một bầu không khí khủng bố đối với người Hoa ở đây là có thật.
- PHÁ LĂNG TẨM VÀ ĐÀO MẢ NHÀ NGUYỄN.
Sách Đại Nam thực lục có ghi chép rằng:
Trước kia giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ tham bạo vô lễ, nghe nói chỗ đất phía sau lăng Kim Ngọc (tức lăng Trường Mậu) [lăng của chúa Ninh Nguyễn Phúc Thái] rất tốt, định đem hài cốt vợ táng ở đó. Hôm đào huyệt, bỗng có hai con cọp ở bụi rậm nhảy ra, gầm thét vồ cắn, quân giặc sợ chạy. Huệ ghét, không muốn chôn nữa.
Sau Huệ đánh trận hay thua, người ta đều nói các lăng liệt thánh [các chúa Nguyễn] khí tốt nghi ngút, nghiệp đế tất dấy.
Huệ bực tức, sai đồ đảng đào các lăng, mở lấy hài cốt quăng xuống vực. Lăng Hoàng Khảo ở Cư Hóa [lăng Cơ Thánh của Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long] Huệ cũng sai Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ đào vứt hài cốt xuống vực ở trước lăng.
Nhà Ngũ ở xă Kim Long bỗng phát hỏa. Ngũ trông thấy ngọn lửa chạy về. Người xă Cư Hóa là Nguyễn Ngọc Huyên cùng với con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài ban đêm lặn xuống nước lấy vụng hài cốt ấy đem giấu một nơi.”
Như vậy là vua Quang Trung đă làm hai việc:
Phá lăng tẩm 8 đời chúa Nguyễn và quật mộ của thân sinh vua Gia Long. Tám đời chúa Nguyễn không hề có hận thù ǵ với anh em Tây Sơn, hơn nữa lại có công rất lớn đối với dân tộc và đất nước. Vậy mà bị vua Quang Trung đối xử tàn tệ. Không lạ ǵ khi vua Gia Long đối xử tàn tệ với hài cốt của Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc cùng con cháu và tướng tá thuộc hạ của Nguyễn Huệ.
Nhà viết sử Trần Gia Phụng có b́nh trong “Việt Sử Đại Cương” về hành động trả thù của vua Gia Long sau này rằng:
“Không kể cá nhân ông bị quân đội Tây Sơn truy đuổi nhiều lần suưt chết, vua Gia Long thâm thù nhà Tây Sơn v́ ba việc chính:
thứ nhất, năm 1777 Định Vương Nguyễn Phúc Thuần [chú ruột vua Gia Long], Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương [em chú bác ruột] và Nguyễn Phúc Đồng [anh ruột] bị quân Tây Sơn bắt giết ở Gia Định.
Thứ nh́, hai người em [ruột] của Gia Long là Nguyễn Phúc Mân và Nguyễn Phúc Thiển bị chết về tay quân Tây Sơn năm 1783. Thứ ba, vua Quang Trung cho quật mộ của Nguyễn Phúc Côn (phụ thân của Gia Long), đem hài cốt đổ xuống sông năm 1790.”
*******
Bản thân tổ tiên lựa chọn đổi từ họ Hồ sang họ Nguyễn, hưởng phúc nhờ công mở mang bờ cơi của 8 đời chúa Nguyễn, vậy mà quân Tây Sơn không có thâm thù đại hận lại quật lăng quật mả nhà Nguyễn, vứt hài cốt xuống sông. Khẩu hiệu pḥ chúa Nguyễn, nhưng khi tới Gia Định nhà Tây Sơn lại muốn tận diệt hoàng tộc nhà Nguyễn. Đi kèm với đó là những cuộc tàn phá và thảm sát của quân Tây Sơn đối với người dân Đàng Trong. Tất cả đă cho thấy lư do tại sao nhà Tây Sơn thảm bại.
(C̣n tiếp)
PHẦN 10.
TẠI SAO PHẢI GIẤU GIẾM, BẺ CONG, BÓP MÉO LỊCH SỬ?
Đánh giá Lịch sử không phải là đánh giá một bức tranh, người ta vẽ như thế nào th́ b́nh như thế.
Lịch sử gắn với hiện thực, những nhân vật và sự kiện lịch sử đă qua đi nhưng chúng ta vẫn sống trong di sản văn hoá ấy, đất đai, công tŕnh, đền đài, miếu mạo… từ ngh́n xưa để lại.
Nó không đơn thuần là chứng tích của các cuộc tranh dành đất đai, quyền lực bằng các cuộc chiến đẫm máu trong lịch sử, mà cả trong hiện tại khi quyền lực vẫn c̣n độc quyền trong tay những kẻ tự cho ḿnh có quyền cướp đoạt đất đai, tài nguyên, tài sản của người khác.
Nghiên cứu lịch sử là nghiên cứu xă hội, thực chất là nghiên cứu bản chất con người, nghiên cứu về động cơ, dục vọng trong con người mà tham vọng quyền lực là điểm mấu chốt.
Ở phương Tây khoa học lịch sử đă soi đường cho sự phát triển chính là chỗ họ lấy bài học của lịch sử để xây dựng một h́nh thái nhà nước có thể kiểm soát được quyền lực, và không ai khác, chỉ khi nào quyền lực thuộc về nhân dân nạn binh đao mới chấm dứt.
Nh́n vào cách chuyển giao quyền lực ở Phương Tây đặc biệt là ở Anh, Thụy Điển, Hà Lan, Đan Mạch… những nước được coi là h́nh mẫu của “chủ nghĩa xă hội hiện thực”, sẽ là một thực tế để sáng tỏ.
Sự chuyển giao này không phải chỉ là đạo đức giả, bánh vẽ, bằng một nhà nước giả hiệu, nó có sự kế thừa, có sự chia sẻ và có cùng trách nhiệm, có sự tôn trọng cái văn minh tiến bộ, cái tinh hoa, và trên hết là nền tảng một xă hội có Hiến pháp, pháp luật- Pháp luật trên tất cả.
Chế độ vương quyền ở các quốc gia đó đă tồn tại hàng trăm năm, thậm chí theo ngh́n năm, họ đại diện cho tầng lớp trên có ăn, có học, có địa vị, có tài sản được tích tụ, tích lũy qua nhiều đời… dĩ nhiên họ phải thuộc giới tính hoa cao quư, thực sự là rường cột tinh thần, linh hồn quốc gia.
Họ nhận ra bài học lịch sử, có thể nói tự họ phải chấp nhận chuyển giao quyền lực để tồn tại - Đấy chính là đẳng cấp của họ.
Nhân dân cầm quyền lực không có chỗ dựa tinh thần, không được dẫn dắt bởi những con người tinh hoa th́ cũng chẳng khác nào một đám đông ô hợp tự đạp nhau mà chết.
Sự thỏa hiệp giai cấp để cùng nhau tồn tại hoà b́nh và thịnh vượng đă đem đến kết quả bằng một Hiến pháp, Luật pháp công bằng, tôn trọng các giá trị con người từ tự do dân chủ cho đến quyền sở hữu tài sản và trí tuệ…
Đến đây thoáng qua chúng ta liên tưởng đến hệ tư tưởng của Mác- Lê Nin về việc đánh đổ quyền lực của giai cấp tư bản bằng chuyên chính (bạo lực) cướp chính quyền có phải là một tư tưởng tiến bộ, hay cũng chỉ là của những kẻ hoang tưởng quyền lực đầy khát máu?
Những kẻ, những triều đại, chế độ đốt sách, đập phá di tích lịch sử, diệt tận gốc những ai được cho là kẻ thù của ḿnh đều không có tương lai tốt đẹp cho họ và cho dân tộc, tại sao vậy?
V́ chính họ không biết lịch sử là một bài học, say sưa với chiến thắng, tự huyễn hoặc quyền lực, họ lại đi vào vết xe đổ bằng cách giấu nhẹm lịch sử, bóp méo lịch sử, xoá sạch lịch sử…
Họ che giấu tham vọng quyền lực bằng một nhà nước bịp bợm, bằng đạo đức giả và bằng những thủ đoạn đê tiện, và cả tội ác.
Họ tưởng họ lấp liếm, bịp bợm được người dân, nhưng họ đang tạo ra hận thù, và hận thù là con đường ngắn nhất đưa họ xuống địa ngục, đất nước loạn lạc.
Quay lại câu chuyện lịch sử về Nguyễn Huệ và Gia Long cho thấy chúng ta đang mất lịch sự theo cái cách bị các toan tính chính trị chi phối.
Chế độ Việt Nam cộng hoà trước đây họ đặt tên đường Nguyễn Huệ, và đường Gia Long đều có ư nghĩa của nó.
Và những người lănh đạo cộng sản họ xoá tên đường Gia Long và thay đặt tên Nguyễn Huệ bằng tên Quang Trung cũng có ư đồ của ḿnh.
Nguyễn Huệ là tên cha sinh mẹ đẻ, việc VNCH đặt tên đường theo nguồn gốc thiếu thời chứng tỏ họ đánh giá Nguyễn Huệ không xứng đáng là một ông vua.
Họ chỉ ghi nhận Nguyễn Huệ là một nhân vật lịch sử.
Gia Long là niên hiệu sau khi Nguyễn Phúc Ánh thống nhất đất nước đổi từ triều đại chúa Nguyễn sang vua của nước Việt Nam.
Nguyễn Huệ năm 1788 trên đường ra Bắc đánh quân Thanh lúc này thế lực đă mạnh quyết lấy thiên hạ với lư do vua Lê Chiêu Thống bán nước đă bỏ khẩu hiệu “phù Lê diệt Trịnh” tự phong ḿnh là Hoàng đế xưng hiệu là Quang Trung năm thứ nhất.
Trong khi VNCH công nhận Nguyễn phúc Ánh làm vua nên đặt tên là đường Gia Long.
Miền Bắc cộng sản không công nhận Nguyễn Phúc Ánh làm vua, coi Nguyễn Huệ là vua nên đặt tên đường là Quang Trung.
Kẻ thù của nhau, khác nhau về tư tưởng nhận thức cũng là chuyện b́nh thường, bây giờ giang sơn đă về một mối, nh́n nhận hai nhân vật này như thế nào để có sự thống nhất và hơn hết có sự công bằng khách quan, có giá trị giáo dục và bài học để cho ḷng người không c̣n chia rẽ, chỗ nào cũng thấy thế lực thù địch.
Ai xứng đáng làm vua cần phải có câu trả lời thấu đáo, họ giúp ǵ cho phát triển đất nước, có những chính sách ǵ để quốc thái, dân an, có những tư tưởng tiến bộ ǵ dẫn dắt … cần sáng tỏ.
Hay đơn thuần chỉ v́ mục đích chính trị đă biến một kẻ cướp, với những thủ đoạn dối trá, tàn ác gian hùng được nặn thành anh hùng dân tộc bằng kỹ xảo tuyên truyền để xây dựng h́nh tượng ảo, qua đó bao biện cho những hành động kẻ cướp của ḿnh?
(C̣n tiếp).
PHẦN 11.
TẠI SAO PHẢI GIẤU GIẾM, BẺ CONG, BÓP MÉO LỊCH SỬ?
Từ khi những người cộng sản cầm quyền, Việt Nam không có Chính sử và cả Dă Sử, dù rằng họ có cả một hệ thống nghiên cứu và giảng dạy lịch sử.
Họ có Viện Sử học, các Bộ, các ngành, các địa phương đều có bộ phận nghiên cứu lịch sử cho ḿnh.
Một số trường đại học có khoa giảng dạy lịch sử, ở bậc phổ thông đều có sách giáo khoa lịch sử. Số lượng Giáo sư, phó giáo sư đi cùng với học vị tiến sĩ trong ngành sử học cũng không phải ít.
Cơ sở vật chất liên quan đến lịch sử bao gồm các Viện bảo tàng cũng khá quy mô. Ngoài Bảo tảng Lịch sử quốc gia, c̣n có Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Bảo tàng Quân đội… ngành nào, bộ nào, hội nào, đoàn thể nào đều có bảo tàng của riêng ḿnh, ngoài ra c̣n có bảo tàng, khu di tích lịch sử cho lănh tụ, lănh đạo đất nước như Bảo tàng Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng, Trần Phú…có thể nói ngân sách nhà nước để xây dựng và nuôi sống bảo tảng khá lớn.
Mục đích của họ cho mọi người dân Việt Nam hiện tại và về sau luôn ghi nhớ về một thời đại vàng son nhất trong lịch sử.
Kỷ niệm 70 năm ngày thành lập đảng cộng sản Việt Nam khẩu hiệu “70 năm rạng rỡ 4000 năm” treo khắp hang cùng ngơ hẻm cho thấy họ coi lịch sử Việt Nam về trước chỉ là những trang đen tối?
Thực tế trả lời không phải như họ mong muốn, môn lịch sử trở thành bị ghét bỏ nhất trong thế hệ trẻ.
Báo Công An nhân dân đưa ra thông tin:
Nhiều trường ĐH có trên 98% bài thi môn sử dưới điểm trung b́nh. Thậm chí có trường chỉ một thí sinh đạt điểm trung b́nh môn sử.
Báo Thanh niên nêu một thực tại bi hài:
Trường ĐH Tiền Giang, hơn 98% thí sinh có điểm thi môn sử dưới trung b́nh. Trường có 253 thí sinh dự thi khối C nhưng chỉ có năm thí sinh đạt điểm từ 5 trở lên, chiếm 1,97%. Trong số đó, cần nói rơ thêm điểm cao nhất chỉ là 5,25 điểm, thế nhưng có đến 47 thí sinh có điểm 0. Trường ĐH Quảng Nam, có đến 99% thí sinh có điểm thi môn sử dưới trung b́nh. Trong số 900 thí sinh dự thi khối C, số thí sinh có điểm 5 chưa đếm đủ 10 đầu ngón tay (9 thí sinh).
Trong gần 1 triệu thí sinh dự thi tốt nghiệp THPT 2014 sáng 2.6 trên cả nước, chỉ có 11,52% chọn thi môn sử. Nhiều người ngạc nhiên khi biết nhiều trường chỉ có... một thí sinh thi môn sử. Ở vài nơi khác, câu chuyện được bàn tán là cả hội đồng thi mấy chục người, lập ra chỉ để phục vụ 2 thí sinh chọn môn thi này.
Trước t́nh trạng này Trung tướng Nguyễn Quốc Thước phải thốt lên "Tôi suy nghĩ về sự tồn vong của dân tộc. Quên lịch sử là quên dân tộc và mất nước".
Trung tướng Lê Hữu Đức bức xúc khi nghe bộ trưởng bộ GD – ĐT Phùng Quang Nhạ biện minh đó là “b́nh thường”:
Nhiều điểm 0 môn lịch sử là b́nh thường th́ tôi thật sự không hiểu và không đồng ư. B́nh thường là b́nh thường thế nào? Chả lẽ để đến khi nhổ toẹt vào lịch sử th́ mới là không b́nh thường? Sai th́ sửa chứ sao lại phải ngoan cố như thế?
Thanh niên là tương lai của đất nước, quên lịch sử mà bảo là b́nh thường th́ không thể chấp nhận được!
Hàng trăm cuộc hội thảo, diễn đàn, họp hành từ Bộ chính trị, Bộ Văn hoá, Bộ giáo dục và đào tạo… diễn ra đi t́m câu trả lời TẠI SAO MÔN SỬ BỊ THẾ HỆ TRẺ THỜ Ơ, GHÉT BỎ?
Nhiều nguyên nhân được đưa ra, nhưng không ai dám nói thẳng thừng những thứ mà họ gọi là lịch sử thực chất là chỉ mượn lịch sử để nhồi nhét chính trị, ca ngợi sự tài t́nh sáng suốt, công lao trời bể của đảng, lănh tụ đưa dân tộc đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Là bản liệt kê những con số khô khan về xác chết, thiệt hại của kẻ thù, về những tấm gương của những con người như thần như thánh ngớ ngẩn một cách nực cười…
Lịch sử trở thành môn học chính trị, đă cài cắm chính trị lịch sử dĩ nhiên bị bóp méo, bị xuyên tạc và giấu giếm, thậm trí c̣n bị ngụy tạo.
Lịch sử Đảng là lịch sử quốc gia th́ lịch sử chỉ có một phía màu hồng và phía kia là một màu đen tối, và xă hội cũng từ đó mà chia ra thành hai- kẻ thắng trận và bên thất bại.
H́nh ảnh cánh cửa Dinh Độc Lập bị húc, xe tăng nào vào trước trong chiến dịch Hồ Chí Minh, ai là người thực hiện?
Phạm Tuân có bắn rơi B52 thật không?
Đó chỉ là ngụy tạo.
Từ xa xưa lịch sử được phân chia ra hai loại: Chính sử, và Dă sử cùng tồn tại.
Chính sử là sử sách do cơ quan chính thức của nhà nước biên soạn thường gọi là Quốc sử do các viên chức khoa bảng được chỉ dịnh đứng ra sưu tập tài liệu và biên soạn lịch sử các triều đại hay các biến cố của quốc gia. Nó c̣n được gọi là sử chính thống.
Tuy nói là Quốc sử vẫn không thể khẳng định hoàn toàn nó không bị cài cắm ư thức chủ quan của người viết, của yêu ghét và mục đích chính trị nhưng sự kiện, nhân vật và bối cảnh phải chính xác, không thể ngụy tạo.
Một đặc điểm của Quốc sử là qua mỗi một giai đoạn nó được điều chỉnh, bổ sung, làm rơ khi những điều chưa làm rơ, c̣n trong màn nghi vấn được khám phá sẽ được thay thế vào, và những ǵ bị gạt ra được đưa vào ghi chú đề đối chiếu mà không bị bỏ đi.
Mục đích của Quốc sử là phản ảnh khách quan, trung thực nó không phục vụ cho đảng, phái, thành phần, giai cấp nào, nó phục vụ cho quốc gia dân tộc.
Dă sử chỉ là cách phân biệt vị trí xă hội của những cá nhân viết lịch sử tự do, nhưng Quốc sử sẽ khó làm đúng sứ mệnh của ḿnh nếu không có Dă sử.
Những chuyện thâm cung bí sử, bị bóp méo, giấu nhẹm mà Quốc sử v́ lư do này hay lư do khác phạm phải sẽ được ánh sáng của Dă sử soi vào, bởi những nhà viết sử tự do họ chính là những người trong cuộc.
Hồi kư của những người thuộc diện liên quan đến lịch sử là một dạng Dă sử.
Khi đại tướng Vơ Nguyên Giáp từ “Cây đa Tân Trào về cây đa Nhà ḅ” từ “đại tướng cầm quân thành đại tướng cầm quần chị em”
Theo chính sử của Đảng đấy chỉ là việc phân công nhiệm vụ, nhưng sự thật là một cuộc hạ bệ lẫn nhau nếu không có những cá nhân trong vai tṛ của người yêu lịch sử, dùng lịch sử để soi rơ sự thật như hồi kư “Bên thắng cuộc” của Huy Đức th́ làm sao biết được những mặt trái của vinh quang,thắng lợi, văn minh trí tuệ.
Hỏi tại sao học sinh, người trẻ tuổi không thắm thiết với lịch sử nước nhà, tại sao bảo tàng ít có ai lai bóng v́ thực chất lịch sử đă bị lạm dụng vào mục đích chính trị.
Việc viết lại lịch sử, hay đóng góp một số nhận định, phân tích về các đề tài lịch sử luôn luôn là vấn đề cần thiết nhất là góp ư vạch trần chính sách lợi dụng bộ môn sử học để tuyên truyền ru ngủ quần chúng đặc biệt những giới b́nh dân ít học, hoặc lợi dụng lịch sử để xây dựng những biểu tượng dối trá, tôn sùng thần thánh hóa cá nhân.
(c̣n tiếp)
PHẦN 12.
TẠI SAO PHẢI GIẤU GIẾM, BẺ CONG, BÓP MÉO LỊCH SỬ?
Lịch sử được cấu thành từ chính sử và dă sử là chưa đủ, lịch sử c̣n được tạo ra từ dân gian.
Lịch sử dân gian thông qua truyền miệng, qua văn học, thơ, vè để phản ánh một sự kiện, một hiện tượng, một thời nào đó và lan truyền trong xă hội không cần được kiểm chứng, nhưng có tính trung thực tuyệt đối.
Sử dân gian chính là ngọn đèn soi tỏ, là sự kiểm chứng chính xác những ǵ chính sử đưa ra.
Dưới những chế độ chuyên quyền khi tự do báo chí, tự do ngôn luận bị cấm đoán th́ sự thật lịch sử phải đi bằng con đường khác đó là sử dân gian. Người dân thông qua thơ, vè, văn học nói lái, nói bóng, nói gió để nói lên sự thật, dăi bày tư tưởng của ḿnh.
Xe “cố vấn” áo “chuyên da”.
T́nh cảnh nước nhà lâm thế bí.
Nói lên một thực trạng xă hội nghèo khổ là lốp chiếc xe đạp nó nát, sợ nó nổ phải lấy dây chun quấn lại, quần áo không có mà mặc, đồng thời phản ánh một quốc gia lệ thuộc nước ngoài dù có chuyên gia Liên Xô, cố vấn Trung Quốc đất nước vẫn bí bách tối tăm.
- Đầu đội áp suất, chân đi bạt là.
Nh́n xa cứ tưởng là ma, lại gần mơi biết từ Nga mới về.
- Con ǵ trán hói, bụng to?
Đi xe Von ga, hay nói ba hoa, ăn gà Tôn Đản?
- Cá không ăn muối cá ươn, căi lại chính quyền ra đường bơm xe.
- Xe không phanh mời anh đứng lại.
Không đứng lại làm hại người ta.
Mất tí da là ba đồng sáu.
Mất tí máu là sáu đồng tư.
Mất tư gân là gần chục bạc…
- Bắt cởi trần phải cởi trần.
Cho mày ô mới được phần may ô.
- Mỗi người làm việc bằng hai.
Để cho cán bộ mua đài mua xe.
Mỗi người làm việc bằng ba.
Để cho lănh đạo xây sân, xây nhà.
- Huân chương không lấy đâu,
các cụ bảo thịt trâu dễ chia.
Máy bay đằng Đông các cụ bắn đằng Tây.
Hấy dô trên đất này các cụ già cởi chuồng bắn rơi máy bay…hết xăng.
- Ban ngày cả nước lo việc nhà.
Ban đêm cả nhà lo việc nước.
- Trông mặt mà bắt h́nh dong.
Thấy anh tuyên giáo thấy sao - búa- liềm.
- Con ḅ dắt qua Mạc Tư Khoa cũng thành tiến sĩ.
…………………
Một thời kỳ được tuyên truyền là “hào hùng cách mạng” nếu không có ḍng sử dân gian phản ánh một sự thật đằng sau hết sức sinh động một thời khốn nạn th́ thế hệ sau không thể hiểu được, tại sao bây giờ “đểu cáng lên ngôi”.
Qua sử dân gian mọi sự bịp bợm che giấu bị phơi bày, không phải bây giờ họ mới tha hoá biến chất, ngay lúc trong khói lửa chiến tranh họ cũng lo cho bản thân, vun vén cho lợi ích cá nhân.
Xương máu, nỗi khổ nhục của nhân dân mà họ tự phong là một dân tộc vĩ đại, một chế độ sản sinh ra những con người vĩ đại đă bị sử dân gian “lột truồng” là dối trá. Chẳng có nhân dân nào ham hố cái danh hăo, sự mất mát của họ không phải cho danh dự, không phải tự nguyện mà chính từ sự áp bức cường quyền thúc ép bằng cái bánh vẽ hoàn toàn mơ hồ.
Và lịch sử bị che giấu kéo dài đến hiện nay, hậu quả là lũ cướp ngày vẫn c̣n trơ trẽn với những chiến công hiển hách, chúng không cần phải đóng bộ mặt giả nhân giả nghĩa nữa, nên dân gian mới có bài thơ.
Cướp xưa băng nhóm làng nhàng
Cướp nay có đảng có đoàn hẳn hoi
Có con dấu đóng đỏ tươi
Có c̣ng có súng dùi cui nhà tù
Cướp xưa lén lút tù mù
Cướp nay gióng trống phất cờ phóng loa
Con trời bay lả bay la
Cướp trên bàn giấy cướp ra cánh đồng
Dân oan tuôn lệ ṛng ṛng
Mất nhà mất đất nát ḷng miền quê
Tiếng than vang động bốn bề
Cướp từ thôn xóm tiến về thành đô
Ai qua thành phố Bác Hồ
Mà coi cướp đất bên bờ Thủ Thiêm
Bây giờ mẹ phải dặn thêm
Quan tham là cướp cả đêm lẫn ngày.
(C̣n tiếp)
PHẦN 13.
TẠI SAO PHẢI GIẤU GIẾM, BẺ CONG, BÓP MÉO LỊCH SỬ?
Giấu giếm, bẻ cong, bóp méo lịch sử là sự đầu độc, tẩy nạo dân chúng có hệ thống làm cho họ mất phương hướng đi t́m đến sự thật, không nhận ra đâu là phải trái, không phân biệt đâu là nguyên tắc, đâu là luật lệ, che giấu những thủ đoạn dối trá.
Trong các cuộc họp chi bộ, đảng viên thường được nghe chuyện thời sự t́nh h́nh quốc tế, và trong nước.
Về mặt chính thống trong quan hệ quốc tế hiện nay người ta nói nhiều về chính sách đối ngoại của ta là “ngoại giao cây tre” có nghĩa là mềm dẻo, cái ǵ bất lợi th́ khôn khéo không đề cập đến, hoặc đề cập đến th́ chỉ thoáng qua trung lập.
Nhưng bên trong họ vẫn tuyên truyền cho các đảng viên một chiều, lấy vị dụ về cuộc xâm lược của Nga với Ukraine, các diễn giả vẫn được chỉ đạo bao biện cho hành động ăn cướp của Putin.
Putin là người bạn lớn, thực chất vẫn là người đồng chí của ta, nước Nga của Putin vẫn là chiếc ô bảo vệ cho ta, đứng về phía ta, ủng hộ ta khi ta bị Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế ra nghị quyết lên án về vấn đề nhân quyền, vi phạm dân chủ …trừng phạt, cô lập ta,
ai sẽ bảo vệ ta? Nga và Trung Quốc với hai phiếu phủ quyết sẽ bảo vệ ta chứ c̣n nước nào nữa.
Nói là ngoại giao cây tre, làm bạn với thế giới chỉ là bên ngoài, nâng cấp quan hệ với Mỹ, Nhật lên Chiến lược toàn diện nhưng vẫn phải cài “tôn trọng chủ quyền, thể chế chính trị” động đến chuyện này là cạch mặt ngay.
Ta không thể để Putin phật ḷng lư do là như thế.
Các đảng viên phải luôn nhận thức rằng, Putin không xâm lược Ukraine, đây là “Một chiến dịch đặc biệt’ Nga chỉ lấy lại những ǵ đă mất trong lịch sử.
Họ nói rằng, Crimea và Donbass ngày trước là của Nga, khi Nikita Sergeyevich Khrushchyov làm tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô đă đưa hai vùng đất này về nước cộng hoà Ukraine (một thành viên trong Liên bang Xô Viết) v́ Nikita Sergeyevich Khrushchyov là người Ukraine.
Nga lấy lại các vùng đất này là hợp lư, hợp pháp…
Sau này Liên Xô tan ră, Ukraine trở thành quốc gia độc lập lại đưa vào hiến pháp về lộ tŕnh ra nhập NATO, ai cũng biết NATO là liên minh quân sự được thành lập để chống Liên Xô từ thời chiến tranh lạnh, và nước Nga ngày nay, nên Nga phải lấy lại những vùng đất đă mất và ngăn chặn Ukraine ra nhập NATO, EU để ngăn chặn phương Tây áp sát Nga, bảo vệ chủ quyền của ḿnh.
Nhưng họ giấu nhẹm sự thật là Ukraine Mỹ và phương Tây đă quá ngây thơ ảo tưởng về chú gấu Nga đă mất hết năng vuốt sau khi Liên Xô tan ră, chủ nghĩa cộng sản đă tự chôn ḿnh, mà không hiểu rằng chủ nghĩa cộng sản chỉ là một h́nh thái trong các nhà nước chuyên chế và chế độ độc tài.
Trung Quốc, Nga dù ở h́nh thái nhà nước nào, chế độ xă hội nào tính chất bá quyền vẫn luôn tồn tại trong tư tưởng của những người cầm quyền.
Có một sự thật mà các đảng viên không được đề cập đó là Thoả thuận Budapest.
V́ t́m hiểu thỏa thuận Budapest sẽ ḷi ra hai vấn đề.
Vấn đề thứ nhất có phải Liên Xô sụp đổ, đảng cộng sản Liên Xô tan ră là do sự phản bội của Gorbachev như họ tuyên truyền hay những người cộng sản đă tự kết liễu nó?
Vấn đề thứ hai khẳng định việc Putin đưa quân xâm lược Ukraine với cái gọi là “Chiến dịch quân sự đặc biệt” chỉ là dối trá.
Việc không dám lên án Nga chứng minh họ không bao giờ đứng về chính nghĩa, mà họ chỉ chọn bên miễn là bảo vệ cho chế độ của họ tồn tại.
Từ những năm 1986- 1990 trước sức ép đ̣i ly khai của các nước cộng hoà trong Liên bang Xô Viết, và phong trào đ̣i cải cách dân chủ của các nước XHCN ở Đông Âu, Gorbachev đă phải đưa ra Perestroika (/ˌpɛrəˈstrɔɪkə/; tiếng Nga: перестройка) qua đó Hiến pháp Liên Xô có sự cải tổ quan trọng, giảm bớt quyền lực của đảng, trao quyền cho Xô viết tối cao và Xô Viết tại các nước cộng hoà nhiều hơn, và quyền lực điều hành đất nước thuộc về tổng thống do Xô Viết tối cao bầu ra, không phải tổng bí thư những người do các Đảng viên bầu…
Cải tổ của Gorbachev được sự ủng hộ của nhiều tầng lớp và cả các đảng viên cộng sản, nhưng việc cải tổ nhằm mục đích tồn tại Liên bang Xô Viết theo mô h́nh nước Mỹ lại bị các nước cộng hoà và phái bảo thủ phản đối.
Ngay cả cộng hoà liên bang Nga lúc ấy do Yeltsin làm tổng thống cũng không ủng hộ Gorbachev.
Phe bảo thủ trong đảng đảo chính lật đổ Gorbachev ở Matxcova, và Yeltsin cùng với người dân đă đứng ra ngăn chặn đảo chính, bảo vệ Gorbachev với lư do không thể để cho phái bảo thủ trở lại cầm quyền, dù ǵ Gorbachev cũng có những tư tưởng tiến bộ hơn.
Đảo chính của phe bảo thủ thất bại, uy tín của Gorbachev bị mất, vai tṛ của Yeltsin lên cao.
Bộ ba tổng thống của ba nước cộng hoà có tiếng nói lớn nhất trong Liên bang Xô Viết là Ukraine, Belarus, Nga nhóm họp với nhau vào 8/12/1991, tại Belarusia, đó là Leonid Kravchuk, Stanislav Shushkevich, Boris Yeltsin.
Và họ đi đến thống nhất giải tán Liên bang Xô Viết, giải tán đảng cộng sản Liên Xô, các nước cộng hoà trở thành các quốc gia độc lập.
Ba vị tổng thống này ra tối hậu thư cho Gorbachev từ chức, và tuyên bố giải thể Liên bang Xô Viết, đảng cộng sản Liên Xô và ngày 25/12/1991, M. Gorbachev - Tổng thống đầu tiên và cũng là cuối cùng của Liên Xô đă tuyên bố từ chức, tuyên bố giải thể Liên bang Xô Viết, đảng cộng sản Liên Xô.
Sau khi các nước cộng hoà ai về nhà nấy, nhưng 4 nước cộng hoà có vũ khí hạt nhân sẽ giải quyết thế nào?
Các nước phương Tây sẽ phản ứng ra sao, điều này cũng được 3 vị tổng thống thống nhất ngay trong cuộc họp kín mục đích để thông báo cho Mỹ và phương Tây yên tâm và không can thiệp vào âm mưu đảo chính mềm hạ bệ Gorbachev. Theo đó nước Nga sẽ được trao ủy quyền chịu trách nhiệm về quản lư số vũ khí đó.
Và năm 1994 tại Budapest thủ đô Hungary các nhà lănh đạo gồm Anh, Mỹ, Nga, Ukraine đă cùng nhau kư kết thỏa thuận được gọi là Giác thư Budapest với nội dung:
Giác thư này bảo đảm toàn vẹn lănh thổ của Ukraine (gồm Crimea , Donbass…) sau khi họ đồng ư từ bỏ kho vũ khí hạt nhân c̣n lại trên lănh thổ của họ sau sự tan ră của Liên Xô, đổi lại Ukraine và Belarus sẽ nhận được các khoản hỗ trợ kinh tế từ Mỹ và phương Tây, cùng với việc Nga sẽ xoá nợ cho Ukraine, Belarus…
Sau thỏa thuận Budapest Ukraine không c̣n vũ khí hạt nhân, Nga đă gây sức ép chính trị, kinh tế, hỗ trợ cho các nhà độc tài lănh đạo Ukraine và tha hoá họ thành những kẻ tham nhũng đàn áp dân chủ.
Ukraine trở nên rối loạn và nghèo đói dẫn đến cách mạng cam, lúc này Nga sợ mất Ukraine đă tấn công chiến Crimea năm 2014.
Hành động kẻ cướp của Putin khiến Ukraine chỉ c̣n con đường ra nhập NATO bảo vệ chủ quyền.
Ukraine bị Nga cho là đi quá xa, Putin phải chấp nhận một canh bạc nghiệt ngă là tấn công Ukraine, một quốc gia có chủ quyền.
Đến đây chúng ta sẽ thấy một quốc gia không dám đứng ra bảo vệ chính nghĩa, luôn ủng hộ cho những việc làm vi phạm các luật pháp quốc tế th́ quốc gia đó cũng không được quốc tế bảo vệ, không bao giờ đứng, và đi cùng với các quốc gia văn minh, tiến bộ, sẽ là một quốc gia thất bại. Để bảo vệ quyền lực họ sẵn sàng đi theo tiếng nói của quỷ dữ, sẵn sàng giấu giếm, bẻ cong lịch sử.
(C̣n tiếp).
Bùi Giáng, một thi sĩ lạ lùng và kỳ vĩ, từng được thầy Tuệ Sỹ trích dẫn thơ của ông vào tác phẩm Tô Đông Pha, Những Phương Trời Viễn Mộng.
Ngược lại, Bùi Giáng cũng đă từng phân tích, b́nh luận, đánh giá thơ của tri âm tri kỷ ḿnh, thầy Tuệ Sỹ, một Bồ Tát, một trí giả thông tuệ, bậc chân tu lỗi lạc, uyên thâm.
**
Ở trong đời, sao tránh được, dù ḿnh chẳng cố t́nh đâu, vậy mà cũng đôi khi mắc lỗi.
Mắc lỗi, phạm lỗi, ngoài công khai, đường hoàng xin lỗi, ḿnh c̣n có thể sám hối bằng nhiều cách, một trong những kiểu sám hối ấy, là tự ḿnh, kể lại câu chuyện mà ḿnh mắc sai lầm ở trỏng. Tỉ như chuyện này của Bùi Giáng, ông kể hoài kể hủy, khi có dịp.
Bữa nọ, thầy Tuệ Sỹ đọc cho Bùi Giáng nghe hai câu thơ chữ Hán thầy làm:
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Dịch ra là:
Đêm khuya gió thổi đùa bóng nghiệp
Trước mắt làm liễu lạc hoa bay
Rồi thầy nói, làm sao tiếp cho hai câu, để nên một bài tứ tuyệt. Bùi Giáng ghẹo, tôi đề nghị, nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Thầy Tuệ Sỹ nghe xong th́ ngượng nghịu, rầy: đừng nên giỡn đùa như thế.
Thấy vậy, Bùi Giáng năn nỉ, thôi, thầy đừng có bực ḿnh nữa, rồi làm hai câu nối vào:
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải đa tàm trúc loạn ty
Dịch ra là:
Tâm sự lâng lâng, ḍng lệ khổ
Hổ thẹn với biển trí v́ chưa thâu đắc được, rừng trúc rối như tơ.
Chẳng nói chẳng rằng, hai bữa sau, thầy Tuệ Sỹ lại đưa tiếp cho Bùi Giáng, một bài thơ có ba khổ, lúc đưa cho Bùi Giáng xem, bài thơ chưa có tựa đề:
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh măi trên đồi hoang
Phút vội vă bỗng thấy ḿnh du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn.
Bùi Giáng vừa lướt qua đă rụng rời tay chưn, hồn phi phách tán, khiếp vía đến mất ăn mất ngủ.
Phát hoảng, Bùi Giáng nói với thầy: này đại sư, ông mau mà gác hết lại chuyện viết sách của ông đi, rồi làm ơn, làm thơ tiếp nhiều cho. Kẻo nền thi ca Việt Nam này sẽ mất đi một thiên tài như ông th́ uổng của lắm lắm.
**
Cô giáo dạy tôi môn lư luận văn học, vẫn cứ tấm tắc với tôi hoài, không ǵ thích bằng, đọc bài của một nhà thơ cảm nhận về thơ của một nhà thơ khác.
Tôi cũng đồng ư với cô Dư Khánh điều ấy, bởi, nhà lư luận phê b́nh ấy mà, ngoài trái tim, họ c̣n có cái đầu rất bén. Cái đầu ấy, chứa đủ thứ lư luận, chứa đủ mọi lư trí để mà mổ xẻ bén ngót, để mà vạch t́m đến tận các ngơ ngách, các lối dẫn vào thơ, mù mờ hay đóng kín tới đâu. Đọc bài của họ, hay th́ hay rồi đấy, nhưng dù muốn dù không, nó vẫn là cuộc phẫu thuật, thậm chí, cuộc đại phẫu thuật. Người đọc, vốn không quen những bắt bẻ với thơ, những vạch lá t́m sâu với thơ, sẽ cảm thấy mất đi niềm hào hứng.
C̣n nhà thơ đọc thơ của bạn thơ, họ gần như chỉ sử dụng trái tim. Họ phiêu bồng, lăng đăng cùng bài thơ ấy. Thậm chí, họ dựa vào nhau, cùng d́u nhau, chắp cánh vào trời mơ, không cần biết đến tha nhân, không thiết tha ǵ đến những hiện thực cơm áo gạo tiền. Họ thưởng thức thơ bằng chủ quan và trái tim nặng t́nh của họ.
**
Bùi Giáng đọc thơ, ngắt giọng như thế này: Đôi mắt ướt tuổi vàng / cung trời / hội cũ.
Ông nói, ngắt giọng như vậy, mới thấy được cái trang trọng dị thường của hoài niệm. Ông hỏi, hoài niệm ǵ? Rồi trả lời: cung trời hội cũ.
Tiếp theo, ông hỏi tới tấp: Đôi mắt ướt? Đôi mắt của ai? V́ sao ướt? V́ lệ trào hay v́ quá long lanh?
Hỏi xong, chẳng thấy ai trả lời, ông bèn quay ra to nhỏ, thi sĩ xuất chúng ấy mà, họ hay có những phong thái lạ thường lắm, họ nói rất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà lại chẳng thấy ǵ hết. Họ nói cho họ mà như nói cả cho mọi người. Nói cho mọi người mà lại chẳng bận tâm ǵ về chuyện thiên hạ có nghe hay không. Vui buồn của họ chẳng giống với buồn vui của chúng ta. Nên trách họ, sẽ là lệch lạc hết cả.
Ta tưởng họ kiêu ngạo. Ta tưởng họ tàn nhẫn. Ta tưởng họ u sầu. Lầm hết. Bởi v́, đôi mắt họ, tưởng đang nh́n ở ngay đây, nhưng đầu họ, tư tưởng họ, đă miên man trong cơi mộng thần di, hồn dịch.
Quay lại bài thơ, Bùi Giáng giảng tiếp, khi thi sĩ nói không rơ, là bởi v́ họ muốn giữ một khoảng trống phóng nhiệm (nghĩa là tự do, để tùy, không xen vào), vắng lặng cho thơ. Tha hồ cho chúng ta nghĩ hai, ba lối. Có thể là đôi mắt thi nhân. Có thể là đôi mắt giai nhân.
Phóng nhiệm và vắng lặng, là thứ rất cần thiết cho thơ.
**
Bùi Giáng qua câu thứ hai: Áo màu xanh không xanh măi trên đồi hoang.
Vẫn một kiểu thắc mắc tới tấp, y vậy: Áo nào màu xanh? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào xưa kia băng rừng và thi nhân đă ngẫu nhiên một lần nh́n đắm đuối?
Rồi như sợ bạn đọc rầy ḿnh hồ đồ, Bùi Giáng đính chính: Tôi nói không sai sự thật mấy đâu. Tuệ Sỹ xưa kia ở Lào. Cha mẹ ông là kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Mẹ ông thỉnh thoảng về Sài G̣n, đem quà cho ông là đôi dép, chiếc khăn quàng.
Bùi Giáng vẫn cứ hỏi như thế, sau mỗi ḍng thơ: Phút vội vă bỗng thấy ḿnh du thủ / Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn. Ḿnh là thân Bồ Tát, quanh năm kinh kệ trai chay, thế sao bỗng nhiên một phút vội vă lại dám làm thân du thủ? Dám gác bỏ kệ kinh? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn?
Rồi xúc động, rồi lại tự diễn giải bằng giọng cảm thấy ăn năn, hối lỗi, như đă cố t́nh dồn một bậc đức cao vọng trọng vào cái lẽ rất đời thường, phàm tục: Phải có nh́n thấy khuôn mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh hoàng v́ lời nói thăm thẳm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy sâu linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la, rừng núi gió sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh.
**
Mối t́nh rộng, thả suốt biển non im ĺm, lạnh lẽo. Một nếp u uẩn của ḷng ḿnh bơ vơ không gột rửa: Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở / Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan.
Và hỏi: Thi nhân đă mấy phen ngồi ngó trăng tàn? Ngồi trên một đỉnh đá? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh, tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải?
Rồi tự trả lời: Đỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Đỉnh đá quy tụ về, mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất lượng hải hàm của trùng dương. Đó là cái bất tận của tâm t́nh dừng, sững, giữa tuyết nguyệt phiêu du.
Một tiếng “buồn chăng”, lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, d́u về cả một khúc tâm thanh đoạn trường: Cười với nắng một ngày sao chóng thế / Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng.
**
Vừa nhắc đến Kiều, là Bùi Giáng lấy luôn hai câu thơ: sen tàn cúc lại nở hoa / sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân, trong cái đoạn Thúc Sinh về nhà mà nhớ Kiều quá chừng là nhớ, mang ghép vào với hai câu của thầy Tuệ Sỹ trong khổ thơ thứ ba:
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Rồi Bùi Giáng dặn, nhớ ngắt câu thơ khi đọc. Có ngắt, th́ mới thấy được tiết điệu rạc rời như gót mỏi đi quanh: Đếm tóc bạc / tuổi đời / chưa / đủ / Bụi đường dài / gót / mỏi / đi / quanh.
Bày cách ngắt thơ xong, Bùi Giáng hỏi nữa. Là hỏi tác giả, nhưng không chờ tác giả trả lời, Bùi Giáng tự trả lời luôn. Một ḿnh Bùi Giáng đóng hai vai. Bùi Giáng thích thế mà. Nên thơ Bùi Giáng, luôn là thơ mở, thơ đối thoại. Không giống như một số nhà thơ khác, thích làm loại thơ tự sự, độc thoại, một ḿnh, khép kín.
Dạy văn, các bạn biết không, là cũng hỏi tới tấp như thế đó. Dạy văn, không có nghĩa là giảng liên tu bất tận. Tất nhiên là trừ lúc cao hứng quá, giảng đến chỗ mà ḿnh sướng quá, th́ cũng đôi khi. Nhưng thầy giỏi là thầy buộc được tṛ, chúng phải tự giảng cho chúng nghe, bằng một loạt các câu hỏi thiệt hay. Hỏi hay, đỡ mất thời gian. Hỏi hay, như bắn tên vậy, buông ra là trúng hồng tâm, tránh được lan man, tránh lạc ra khỏi đề tài.
Như Bùi Giáng năy giờ vậy đó.
Bùi Giáng hỏi như thế này: Một tuổi đời chưa đủ? Một tuổi xuân chưa vừa? Một tuổi vàng sớm chấm dứt? Một tuổi đá sớm từ giă mọi yêu thương?
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa / ngược nước / xuôi ngàn.
**
Kết thúc, Bùi Giáng viết: Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đêm, lữ thứ khép ḿnh trong bốn bức tường với nhạt nḥa ủ rũ, ngục tù.
Viết như Bùi Giáng ở trên, người ta kêu bằng luận, tức mở rộng vấn đề. Nhưng cũng chỉ mở rộng theo kiểu he hé, gợi ư, đó là h́nh ảnh, là tâm sự của lữ thứ trong bốn bức tường ủ rũ, ngục tù.
Cuối cùng, Bùi Giáng đánh giá: Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đă trùm lấp hết chân trời mới cũ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương.
Nghĩa là, từ đông sang tây, nghĩa là, từ cổ điển đến hiện đại, chỉ bằng mỗi bài thơ này thôi, Tuệ Sỹ đă trùm lấp hết thảy.
Tất nhiên, đây là ư kiến riêng của Bùi Giáng. Qua đó mới thấy, t́nh tri âm tri kỷ của họ có được là bởi, không chỉ kính trọng nhau, ở họ c̣n là ḷng mến mộ nhau rất mực.
Mến mộ nhau rất mực, nghĩa là thương mến, nghĩa là ngưỡng mộ tài hoa nhau, ở mức cao nhứt, có thể!
******
Ngày 24.11.2023, tôi cũng có viết một bài tưởng niệm thầy Tuệ Sỹ khi nghe tin thầy qua đời. Thấm thoát mà đă hơn ba tháng.
KHUNG TRỜI CŨ
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh măi trên đồi hoang
Phút vội vă bỗng thấy ḿnh du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối rừng xa ngược nước xuôi ngàn.
Từ thời c̣n đi học, tôi đă thích lắm bài thơ Khung Trời Cũ. Thích, nhưng thú thực, cũng không rơ ḿnh thích v́ cái ǵ. Kiểu như, đọc lên, nghe êm êm, kiểu như, đọc lên, nghe rất thơ, th́ thích vậy đó.
Khung Trời Cũ là một bài thơ trữ t́nh. Bài thơ là những cảm xúc, những suy tư, tâm t́nh của một vị thiền sư.
******
Giọng thơ, ngay từ đầu, chậm răi, điềm tĩnh: Đôi mắt ướt/ tuổi vàng/ cung trời hội cũ. Đọc lên, dưng không, tôi nhớ đến lời một bài hát của Trịnh Công Sơn, tuổi nào nh́n lá vàng úa chiều nay.
Cái màu vàng của lá, màu vàng của hoàng hôn, màu vàng của bụi đường quan san gió dậy, khi nào cũng dễ làm chúng ta ngậm ngùi. Nó là bằng chứng của tháng ngày nối tiếp nhau qua, như bốn mùa, như tuổi đời đi qua, không sao cản lại được, không cách chi ngăn lại được.
Ở đây cũng xin nói thêm, có bản thơ ghi là “khung” trời hội cũ, nhưng theo thủ bút của thầy để lại, th́ đó là “cung”.
Khung, nghe g̣ bó, hạn hẹp. C̣n cung, tưởng như, ai đang vung cọ, vẽ lên một nửa của ṿng tṛn, bao la, bát ngát trên ṿm trời mênh mông, rộng lớn.
Vậy “hội” là ǵ, “cung trời hội cũ” hiểu như thế nào cho đúng đây?
Thưa, thơ không có đúng sai. Thơ, lại càng không cần phải hiểu cho rốt ráo, cho tỉ mỉ, cho chi tiết, cho đúng với tinh thần ban đầu của người viết. Làm thơ là chuyện của tác giả. Cảm nhận là việc của bạn đọc. Tác giả không có nghĩa vụ giải thích tất cả các thắc mắc của bạn đọc. Đến chỗ này, tôi chợt nhớ đến câu khẳng định của tiểu luận gia Đặng Tiến: Thơ, là quyền uy tối thượng.
“Hội” hiểu là hội ngộ, hiểu là hội tụ, được không? Một dạng của quy tụ, của quay về, của tập hợp những người đồng chí hướng. Và tác giả, trong một ngày bỗng sực nhớ ra. Sực nhớ ra, tuổi ḿnh đang ngày mỗi vàng đi, sực nhớ ra, mỗi ngày ḿnh đang mỗi xa dần những ngày vui thuở nao, thuở c̣n người mến thương người, thuở chung tay nhau, hết ḷng xiển dương chánh đạo, vun đắp nguồn nhơn ái, từ bi.
Và mắt ướt nữa? Mắt ướt v́ cơn gió buốt đầu thu? Mắt ướt v́ lá vườn ai đốt khói? Hay mắt ướt là bởi ḷng hoài vọng cứ măi sóng cuộn dâng?
Chính v́ tuổi rồi sẽ vàng, nên mới, một cảm thán tiếp theo: Áo màu xanh không xanh măi trên đồi hoang.
Làm sao mà xanh hoài được chớ, áo cỏ cây, áo gió mây, áo muông thú, áo con người, áo thiên nhiên. Không xanh măi, đó chính là quy luật.
Biết là quy luật, biết là không thể khác, vậy mà, cũng đă có lúc, đọng ḱa nơi khóe mắt, cũng đă có lúc, thấy ḿnh như gấp gáp: Phút vội vă bỗng thấy ḿnh du thủ.
Để rồi ngay lập tức, nghe ḷng ḿnh ân hận, nên, cần lắm một đêm: Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn.
Tuổi th́ vàng, áo th́ không xanh măi, và, trăng kia sẽ rồi tàn. Tất cả, tất cả, đều là những vô thường, đến rồi đi, có rồi mất. Quy luật.
******
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Núi th́ cứ măi cao vời, đỉnh đầu non giá lạnh. Biển th́ măi trong ḷng, hằng hà sa số muối, chẳng tan. Chúng bền bỉ và kiên gan.
Chỉ mỗi ta, sao chóng thế, cười ngắn, nắng tàn. Và đông hạ, nay mai, đổi thay xoành xoạch.
Sau những thảng thốt ấy, tác giả sững sờ: buồn chăng.
“Buồn chăng” ở đây, là câu hỏi hay câu cảm? Cả hai. Hỏi người, hỏi ta, rồi tự thú - buồn, buồn lắm. Sao mà không buồn cho được, khi, kiếp nhân sinh ngắn ngủi quá, quay đi quay lại, chưa đủ mộng tang bồng, th́, đă tận!
******
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối rừng xa ngược nước xuôi ngàn.
“Đếm tóc bạc” ở đây, là h́nh ảnh tượng trưng, ước lệ. Chưa đủ trăm năm mà tóc trắng đă vầng mây. Mà bụi đường mịt mùng, mà gót mỏi quẩn quanh. Quẩn quanh, bốn vách tường ủ rũ.
Những động từ “đếm, đi, ngó”, những tính từ “bạc, dài, mỏi, ủ rũ”, chúng được xếp cạnh nhau, khiến thơ mang một nhịp đều, một nhịp buồn, vô tận.
Đời chưa đủ. Việc chưa xong. C̣n bao dở dang. C̣n bao ước vọng. Th́, đă: Suối rừng xa ngược nước xuôi ngàn.
Muôn con nước đă hội tụ về, chờ xuôi ngàn - cung trời hội cũ!
******
Bài thơ thiệt buồn. Đọc lên thôi, nghe cũng đă buồn, huống hồ phân tích, diễn giải, nỗi buồn nghe lại càng nhiều hơn lên.
Bài thơ cho ta hiểu thêm về thầy Tuệ Sỹ, một đời không của nả tư riêng, không màng quyền cao chức trọng, lại càng không màng cái gọi là chùa lớn, chùa to. Chỉ với chiếc áo lam màu cũ kỹ, trong sạch, thanh cao, chỉ với căn pḥng nhỏ, miệt mài viết sách, miệt mài suy tư, làm sao cho non nước, quê hương đặng thái b́nh, làm sao cho chúng sanh bớt khổ.
Cuộc đời thầy, một cuộc đời của hiến tặng, cho đi.
Tôi viết bài này lúc kim đồng hồ chỉ nhích hơn bốn giờ chiều nay, lúc đọc đầu tiên trên trang anh Trần Triết, và Vũ, nhẹ nhàng những câu chia xa. Biết là thầy Tuệ Sỹ đă viên tịch.
Vậy mà, vẫn cảm giác như, đâu đây, thấp thoáng - đôi mắt ướt, tuổi vàng, cung trời hội cũ!
Sài G̣n 02.03.2024
Phạm Hiền Mây
Từ năm 1907 Phan Châu Trinh đă chỉ ra "10 điều bi ai của dân tộc Việt":
1. Trong khi người nước ngoài có chí cao, dám chết v́ việc nghĩa, v́ lợi dân ích nước; th́ người nước ḿnh tham sống sợ chết, chịu kiếp sống nhục nhă đoạ đày.
2. Trong khi người ta dẫu sang hay hèn, nam hay nữ ai cũng lo học lấy một nghề; th́ người ḿnh chỉ biết ngồi không ăn bám.
3. Trong khi họ có óc phiêu lưu mạo hiểm, dám đi khắp thế giới mở mang trí óc; th́ ta suốt đời chỉ loanh quanh xó bếp, hú hí với vợ con.
4. Trong khi họ có tinh thần đùm bọc, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau; th́ ta lại chỉ quen thói giành giật, lừa đảo nhau v́ chữ lợi.
5. Trong khi họ biết bỏ vốn lớn, giữ vững chữ tín trong kinh doanh làm cho tiền bạc lưu thông, đất nước ngày càng giàu có; th́ ta quen thói bất nhân bất tín, cho vay cắt cổ, ăn quỵt vỗ nợ, để tiền bạc đất đai trở thành vô dụng.
6. Trong khi họ biết tiết kiệm tang lễ, cư xử hợp nghĩa với người chết; th́ ta lo làm ma chay cho lớn, đến nỗi nhiều gia đ́nh bán hết ruộng hết trâu.
7. Trong khi họ ra sức cải tiến phát minh, máy móc ngày càng tinh xảo; th́ ta đầu óc thủ cựu, ếch ngồi đáy giếng, không có gan đua chen thực nghiệp.
8. Trong khi họ giỏi tổ chức công việc, sắp xếp giờ nghỉ giờ làm hợp lư, th́ ta chỉ biết chơi bời, rượu chè cờ bạc, bỏ bê công việc.
9. Trong khi họ biết gắng gỏi tự lực tự cường, tin ở bản thân; th́ ta chỉ mê tín nơi mồ mả, tướng số, việc ǵ cũng cầu trời khấn Phật.
10.Trong khi họ làm việc quan cốt ích nước lợi dân, đúng là "đầy tớ" của dân, được dân tín nhiệm; th́ ta lo xoay xở chức quan để no ấm gia đ́nh, vênh vang hoang phí, vơ vét áp bức dân chúng, v.v...
PHẦN 14.
CHÚNG TA ĐANG ĐI VỀ ĐÂU?
Lịch sử xă hội loài người trải qua 4 thời kỳ, mỗi một thời kỳ h́nh thành một kiểu nhà nước đó là nhà nước nông nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, nhà nước xă hội chủ nghĩa, vậy trong tương lai sẽ là kiểu nhà nước ǵ?
Theo quy luật phát triển nhà nước sau tiến bộ hơn nhà nước trước, điểm tiến bộ quan trọng nhất là quyền lực nhà nước ngày càng bị kiểm soát của nhân dân được cụ thể hoá trong hiến pháp và pháp luật bằng các QUYỀN, tính độc lập, và cân bằng quyền lực trong thế tam quyền.
Và Nhà nước Tư sản là h́nh mẫu kiểm soát quyền lực tốt nhất trong hiện tại.
Hai cuộc cách mạng vô sản và tư sản đă đánh đổ thành tŕ nhà nước phong kiến tồn tại hàng ngh́n năm, nhưng lại đi theo hai hướng khác nhau và đối đầu nhau.
Sự khác biệt của Nhà nước Tư sản và nhà nước Xă hội chủ nghĩa cũng chỉ khác nhau ở QUYỀN SỞ HỮU, QUYỀN CON NGƯỜI.
Cách mạng Tư sản đă thay nhà nước phong kiến bằng một nhà nước dân chủ hơn, quyền lực nhà nước không tập trung trong tay một cá nhân, tổ chức, chính đảng nào.
Bộ máy nhà nước do người dân thông qua bỏ phiếu chọn lựa mà h́nh thành từ cơ cấu, đến nhân sự.
Cách mạng tư sản đánh đổ nhà nước phong kiến nhưng không cướp đoạt, chiếm đoạt tài sản của các vua chúa, địa chủ, giới chủ.
Nhà nước tư sản tôn trọng và bảo vệ các quyền sở hữu tài sản của các thành phần trong xă hội. Sự công bằng xă hội theo nghĩa công bằng về quyền lợi chính trị, công bằng về các giá trị con người không phải công bằng về các giá trị vật chất.
Ai tài giỏi hơn, trí tuệ hơn, vốn liếng tài sản nhiều hơn dĩ nhiên phải giàu có hơn, hưởng thụ cao hơn miễn không vi phạm pháp luật đấy là sự công bằng tuyệt đối.
Cách mạng Vô sản th́ ngược lại, đánh đổ nhà nước phong kiến họ chiếm đoạt, tước đoạt tài sản của những kẻ họ cho là bóc lột.
Thế nào là bóc lột? Đơn giản đối với họ nếu có đất đai, nhà máy đồn điền.. có người làm thuê là bóc lột.
Chiếm đoạt tài sản chưa đủ, họ bắt những người này phải học tập, cải tạo lao động, họ lập ra đội cải cách để đấu tố xử tội, và tử h́nh rất nhiều người.
Họ cấm tiệt sở hữu tư nhân về đất đai, tài nguyên, khoáng sản, trí tuệ…
Tài sản thu được, chiếm đoạt được họ đưa vào công hữu, hiến pháp họ đưa vào nhà nước là công cụ quản lư xă hội, và Đảng của giai cấp vô sản là người lănh đạo nhà nước.
Bộ máy nhà nước được h́nh thành theo nghị quyết của đảng, các cá nhân trong bộ máy nhà nước do đảng phân vai thông qua các cuộc bầu cử giả hiệu “đảng cử dân bầu”.
Trong nhà nước xă hội chủ nghĩa sự công bằng được thể hiện bằng công bằng vật chất, không có kẻ giàu người nghèo, nhưng các giá trị và các quyền con người như biểu t́nh, tự do ngôn luận báo chí, tự do lập hội, lập đảng, tự do tranh cử, bầu cử … lại bị cấm tiệt.
Nghĩa công bằng theo họ đó là sự cân bằng, thực ra cân bằng chỉ là sự công bằng tương đối, có tính chất tạm thời, trong một thời điểm ngắn hạn nhất định.
Đấu tranh, thậm chí tranh dành sự công bằng vật chất trong một chế độ công hữu, lấy làm chủ tập thể ra làm thước đo cống hiến đă biến con người trở thành ác thú với nhau.
Từ việc nhỏ phân chia một bánh xà pḥng, một cái lốp xe đạp, đến việc lớn như phân nhà, chế độ xe cộ… đă biến đồng chí, đồng nghiệp phải đấu tố nhau thông qua các cuộc b́nh bầu, rồi chạy vạy, nhờ vả lănh đạo, làm cho tiếng nói của đồng chí bí thư này, chủ tịch kia dần trở thành thứ quyền lực thực sự, không phải chỉ trên giấy.
Thứ quyền lực gắn với vật chất, có quyền lực là có vật chất, có quyền lực có quyền sinh, quyền sát đă làm hư hỏng đảng cầm quyền là điều không tránh khỏi.
Một nhà nước công hữu về tư liệu sản xuất, tư hữu về quyền lực sẽ biến những kẻ cầm quyền lực trong tay ngày càng biến chất t́m mọi cách, thủ đoạn chuyển hóa tài sản công, tài sản nhà nước về tay ḿnh đây là một quy luật tất yếu.
Họ xây dựng một nhà nước bằng quyền lực độc tôn, tin rằng với quyền lực tập trung, dẫn dắt người dân bằng bả vật chất, kèm theo sự cai quản hà khắc sẽ tạo ra một “động lực đám đông” có thể rời non, lấp biển tạo ra một chế độ thiên đường trong tương lai.
Sự hoang tưởng quyền lực lớn nhất của những kẻ cầm trong chế độ chuyên quyền chính là họ tin tưởng vào sức mạnh quần chúng, sức mạnh tập thể sẽ “biến cái không thể thành cái có thể”, cho nên nhân dân trở thành nạn nhân chăn dắt như bầy đàn, không con nào được tách ra, không con nào được đi ngược hướng.
(C̣n tiếp).
PHẦN 15.
NHÂN DÂN THẤT BẠI TOÀN TẬP.
Ta phân biệt án tham nhũng và án lừa đảo chiếm đoạt tài sản thành hai cho dễ hiểu.
Án tham nhũng chủ thể bị cáo là các quan chức trong đảng và nhà nước lợi dụng chức vụ để chiếm đoạt tài sản.
Án lừa đảo chủ thể liên quan đến các đại gia thuộc các tập đoàn kinh tế tư nhân.
Tách ra như vậy, nhưng khi đi vào bản chất sâu xa của hai vụ án này sẽ thấy có một điểm chung, đứng đằng sau nó là những ông trùm điều khiển và bảo kê.
Những ông trùm này có quyền lực lũng đoạn hệ thống, có kim bài miễn tử, động đến những ông trùm này hệ thống quyền lực sẽ sụp đổ.
Lấy hai vụ án Việt Á và Chuyến bay giải cứu ra làm ví dụ, đây là hai vụ án liên quan đến các quan chức tham nhũng, quy mô của nó có thể xác định những kẻ cầm đầu trực tiếp trong vụ án không đủ khả năng lũng đoạn hệ thống.
Chu Ngọc Anh chỉ là quan đô trưởng, Nguyễn Thanh Long là bộ trưởng một ngành không thể chỉ đạo và liên kết hệ thống giữa các ngành, các địa phương trong toàn quốc.
Dù không công bố công khai cụ thể về trách nhiệm liên quan nhưng ông Nguyễn Xuân Phúc (Chủ tịch nước), ông Vũ Đức Đam (phó thủ tướng) được kim bài miễn tử đă về vườn an hưởng tuổi già, đây có phải là những ông trùm thực sự?
Vụ Chuyến bay giải cứu cũng tương tự, làm sao mấy quan chức thuộc hạng làng nhàng thứ trưởng, cục trưởng giữa đại dịch trầm trọng, thiết quân luật như trong chiến tranh có thể huy động, vận hành cả hệ thống bộ máy nhà nước từ Hàng không, Bộ y tế, Bộ công an, Bộ Quốc pḥng, Bộ công thương, Bộ giao thông, truyền thông... điều này khiến công luận nghi ngờ, liên tưởng đến vai tṛ của những ông trùm hoàn toàn không vô lư, và ông Nguyễn Xuân Phúc, ông Phạm B́nh Minh là hai cái tên bị nghi vấn, và cũng không bất ngờ sẽ có những cái tên khủng được xướng lên.
Đến đây lại chợt nhớ đến việc kỷ luật đồng chí X, khiến mọi người nhận ra rằng, không có vùng cấm, không có ngoại lệ là chưa đủ, nguyên tắc của pháp luật, của nhà nước pháp quyền đó là minh bạch, công khai, công bằng không được thực thi sẽ không giải quyết được gốc vấn đề, biến nó trở thành thứ khẩu hiệu tuyên truyền.
Vẫn có những vùng cấm đặc biệt, nếu liên quan đến sự tồn vong chế độ sẽ tuyệt đối không được động vào, phải vuốt ve, phải thỏa hiệp không thể để vỡ trận.
Và sự tồn tại của các ông trùm, không bị pháp luật sờ gáy đấy chính là nguyên nhân tham nhũng, tiêu cực sẽ không bao giờ hết, chứng minh luận điểm ta đánh ta chỉ là một sự an ủi cho những người dân bị chăn dắt, móc túi.
Các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản liên quan đến các đại gia trong các tập đoàn kinh tế tư nhân như Trương Mỹ Lan SCB, Trịnh Văn Quyết FLC, … gây hậu quả khủng khiếp trong một thời gian dài đều có bóng dáng của các ông trùm đứng đằng sau.
Trương Thị Mỹ Lan gắn với mối quan hệ đến Lê Thanh Hải (Uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư thành ủy Hồ chí Minh)…
Trịnh Văn Quyết gắn với cái tên Trịnh Đ́nh Dũng (Phó thủ tướng) cùng quê Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc.
Lê Thanh Hải củi gộc ḷ không đủ công suất để đốt cháy vẫn b́nh chân như vại, Trịnh Đ́nh Dũng nhẹ nhàng nhận kỷ luật khiển trách.
Hai kẻ này chưa thuộc diện “kim bài miễn tử” nhưng mối quan hệ và sự ràng buộc đă biến họ thành những đại thần lũng đoạn được triều chính. Và trong cung đ́nh toàn những kẻ cơ hội, mỗi kẻ một mảng, một miếng, ràng buộc lẫn nhau, rất khó cái gọi là nghiêm minh, công chính tồn tại.
Có một điểm chung của tất cả các vụ án đă nêu ở trên là gây hậu quả rất nghiêm trọng trong một thời gian dài, quy mô rất rộng, hoàn tất một cách trót lọt, tài sản, tiền bạc đă được tẩu tán, chia chác nhau mà không hề bị ngăn chặn, phát hiện… khiến công luận không những đặt nghi vấn về vai tṛ của các ông trùm, c̣n cho thấy sự thất bại của cả một hệ thống quản lư, giám sát của nhà nước…
Và cho thấy tính liêm chính của tất cả các quan chức nhà nước liên quan công tác bảo vệ pháp luật đều đáng nghi ngờ.
Họ cũng tranh thủ “đục nước béo c̣” nhúng chàm, bao che… và họ chỉ hành động khi đến thời điểm “người đi săn phải biết ăn thịt chó”, hay được ẩn dụ bằng thành ngữ “nuôi béo để thịt”, cuộc chơi chỉ dừng lại khi đi quá xa sẽ mất chế độ.
Nhiều người nghĩ để các đại án này xảy ra là thất bại của quản lư nhà nước, sự tê liệt của hệ thống các cơ quan thực thi pháp luật - về nguyên lư vận hành th́ đúng như vậy, khi Nhà nước chỉ đóng vai tṛ quản lư hành chính.
Nhưng khi nhà nước đóng cả vai tṛ quản lư, sở hữu tài sản, nguồn lực quốc gia th́ thất bại của nhà nước thực sự là thất bại của nhân dân. V́ tài sản nhà nước, nguồn lực quốc gia là công sức của người dân tạo dựng, từ các cuộc chiếm đoạt mà h́nh thành sau khi họ nắm chính quyền và dùng quyền lực để quốc hữu hoá…
Họ đă dùng quyền lực xây dựng chính sách, tạo chính sách để sân sau, sân trước, cho đàn em, đệ tử biến tài sản công thành của riêng đặc biệt là đất đai…
Bảo kê cho các doanh nghiệp tháo túng thị trường chứng khoán, vàng, thuốc chữa bệnh, thiết bị y tế, thao túng ngân hàng…
Nói đến nhà nước là nói về hệ thống bộ máy, nhưng để vận hành bộ máy lại do các quan chức, và đứng đằng sau là những ông trùm điều khiển, các ông trùm này bàn tay che lấp mặt trời th́ nhà nước chỉ là cái b́nh phong cho họ mưu mô thực hiện cho lợi ích cá nhân.
Các đại gia là công cụ để cho các ông trùm mượn tay để chiếm đoạt tài sản nhà nước, nhân dân.
Nhà nước bị các ông trùm lũng đoạn, các quan chức bộ máy bảo vệ pháp luật lợi dụng cơ hội bằng cách ăn hối lộ, bảo kê, tống tiền.
Đại gia ở ta chỉ là những kẻ đầu sai, do các ông trùm tạo dựng, họ là thủ phạm nhưng cũng là nạn nhân của chế độ.
Các đại gia được bật đèn xanh, được bảo kê mới lừa đảo được khách hàng, nhà đầu tư… vơ được đống tiền lúc ấy là đến ngày bị trảm. Tiền, tài sản chiếm đoạt đă chia năm, cống bẩy cho các ông trùm, cho các đại ca.
Và trong ṿng quay của một thể chế như thế người thất bại toàn tập chính là nhân dân không phải ai khác.
(C̣n tiếp)
PHẦN 16
ĐEO CÙM VÀO CỔ DÂN.
Không đất nước nào trên thế giới như ta, lấy cam kết như một h́nh thức quản lư xă hội.
Cam kết không lấn chiếm vỉa hè, cam kết thực hiện xây dựng gia đ́nh văn hoá mới, cam kết tu dưỡng rèn luyện phấn đấu, cam kết không có tranh chấp, khiếu nại về ranh giới đất đai… Đoàn thanh niên cam kết “nói không với thuốc lá, thuốc lá điện tử” cam kết ứng xử văn minh trên không gian mạng….
Chính quyền và các tổ chức xă hội hàng năm lại nhét cho từng gia đ́nh, cá nhân một đống cam kết theo tờ mẫu in sẵn, người dân chỉ việc kư vào.
Họ nghĩ rằng nếu không cam kết người dân sẽ không tự giác thực hiện những thứ họ đă quy định, kư vào sẽ như cái cùm không thoát ra được, cái cớ để họ gọt đầu.
Và họ, chính quyền cũng đưa ra nhiều cam kết với nhân dân, cam kết về tiến độ dự án, cam kết về cải cách thủ tục hành chính, đưa ra các mốc năm này, năm nọ đất nước trở thành công nghiệp hoá, có thu nhập cao… bằng các nghị quyết…
Các doanh nghiệp cam kết với người tiêu dùng về chất lượng dịch vụ, chất lượng hàng hoá, tiến độ giao hàng…
Cả xă hội xây dựng ḷng tin với nhau bằng cam kết, lấy cam kết như một h́nh thức quản lư xă hội.
Cam kết được hiểu là một thỏa thuận có sự thống nhất của hai bên nhiều bên cũng giống như hợp đồng trên nguyên tắc tự nguyện, đúng pháp luật và có tính khả thi.
Dù ở ta cam kết có mặt khắp nơi, trong mọi hoạt động cuộc sống nhưng thực sự không đem lại hiệu quả như những ǵ người ta kư vào, hay đưa vào nghị quyết.
THỨ NHẤT.
Nó vi phạm vào nguyên tắc tự nguyện.
Chính quyền dúi vào tay người dân bắt họ phải cam kết xây dựng gia đ́nh văn hoá mới theo những tiêu chuẩn đặt ra.
Tại sao bắt công dân phải cam kết rèn luyện, tu dưỡng, phấn đấu theo những tấm gương này nọ? Kết quả càng học càng hư, càng hỏng là sao.
Cái này có vi phạm các quyền công dân được lựa chọn định đoạt văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng sở thích của riêng ḿnh? Như hiến pháp quy định.
THỨ HAI
Là không b́nh đẳng, riêng chuyện người dân không kư vào bản cam kết đă như mắc tội không thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và nước, khi đă kư vào bất luận sai phạm những ǵ cam kết là vi phạm pháp luật không thể biện minh cho khách quan, đổ lỗi cho hoàn cảnh là bằng chứng để chính quyền xử lư không cần toà án, không cần xét xử… có cớ hành dân.
Nhưng những cam kết của chính quyền được pháp lư hoá bằng nghị quyết, hay quy định không thực hiện đúng với dân đến lời xin lỗi c̣n không có, phê phán hay phản ứng lôi thôi c̣n bị quy vào tội chống đối đảng, nhà nước.
Cái giá của cam kết mà chính quyền đưa ra là tính mạng, tài sản, tiền bạc của người dân.
Lấy ví dụ cái đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông chính phủ cam kết tiến độ hết lần này đến lần khác, nhưng chẳng ai chịu trách nhiệm, đội vốn lên nhiều lần, giao thông ách tắc, gây ra nhiều tai nạn chết người.
Cam kết có thể tạo ra sự chịu đựng. Thậm chí, chính hệ thống cũng phải chịu đựng một lực lượng các công chức “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về” và việc làm thế nào để tinh giản biên chế, hay nói đúng hơn là đuổi những người vô dụng này đi là một vấn đề nan giải.
Tất nhiên là người dân cũng phải chịu đựng những người này ngay cả khi họ không làm việc. Họ có “biên chế” kia mà. Nếu cán bộ hành chính ở địa phương mà “đi ăn sáng” đến 9h30 bắt người dân ngồi chờ hoặc ngày nào cũng “đi họp” đến tận 16h30 (nghĩa là hết giờ làm việc) và hỏng việc của dân th́ cách duy nhất người ta có thể làm là... chịu đựng. Dù công chức, viên chức, đảng viên đều đăng kư thực hiện học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
THỨ BA.
Không có tính khả thi.
Bắt người dân cam kết không lấn chiếm vỉa hè, nhưng hạ tầng không mở mang, quản lư xă hội yếu kém.
Vỉa hè thiết kế cho một thành phố vài chục vạn dân, nay lên đến hàng triệu dân không đè lên nhau mà sống là chuyện lạ, kư cam kết bắt dân kư th́ phải kư nhưng năm này năm khác cái bản cam kết thành cái cớ để quan chức thu hồ, nộp hồ là xong. Vỉa hè vẫn ngang nhiên bị lấn chiếm, cam kết như một bảo bối của chính quyền để bịt miệng sự phản kháng của người dân.
THỨ TƯ.
Bản cam kết nó chứng minh một xă hội không đề cao pháp luật, không lấy tính tuân thủ pháp luật là điều kiện cao nhất xử lư các vi phạm pháp luật.
Bản cam kết là một công cụ trói buộc theo luật riêng của các sai nha địa phương, dùng nó để dọa dân, khống chế dân tác oai, tác quái chặt chém dân. Trong một giới hạn nào đó nó được sử dụng như luật rừng, thay thế các quy định chính tắc.
Nó cũng phản ánh xă hội nước ta là một xă hội vô pháp, không lấy luật pháp làm công cụ điều chỉnh hành vi, luật pháp là sự thỏa thuận giữa các thành phần trong xă hội, th́ chân lư sẽ thuộc về những kẻ mạnh.
THỨ 5.
Là vấn đề đạo đức và tính tự giác.
Nếu người viên chức ở địa phương không cam kết với “biên chế”, với “tổ chức”, mà cam kết với cuộc sống của những người dân, anh ta sẽ có mặt ở cơ quan lúc 8h và hẳn làm việc rất nghiêm túc.
Nếu người lănh đạo không cam kết với “nhiệm kỳ”, “nhiệm vụ”, “nghị quyết” mà cam kết với di sản của ḿnh - việc ḿnh được nhớ đến trong ḷng nhân dân thế nào - chắc những quyết sách sẽ được cân nhắc cẩn thận hơn.
Nếu tất cả các quan chức đều nghĩ rằng, luật pháp là công cụ điều chỉnh hành vi xă hội, họ sẽ củng cố hoàn thiện chính sách, tận tâm với công việc, không ràng buộc, quản lư xă hội bằng những cam kết để đổ tội hết cho dân, trói dân bằng thứ công cụ chỉ trên những nguyên tắc đúng ra chỉ là những thỏa thuận.
PHẦN 17.
SỰ THẬT CỦA ĐẠO ĐỨC, VĂN MINH.
Tính từ năm 1945 cho đến nay, họ đă cầm quyền được 79 năm, muốn thấy rơ sự thật của đạo đức văn minh như thế nào chỉ cần xem xét một thứ đó là lịch sử của các lần sửa đổi Hiến pháp.
Nghiên cứu lịch sử Hiến pháp của hai nước có nền kinh tế phát triển và được cho là xă hội văn minh nhất thế giới là Nhật Bản và Mỹ cho thấy vai tṛ của Hiến pháp đă thay đổi số phận dân tộc họ như thế nào.
Trước năm 1945 Nhật Bản có Hiến pháp Minh Trị 1889, đây là bản Hiến pháp đầu tiên của Châu Á, mục đích đưa Nhật Bản trở thành một đế quốc hùng mạnh.
Để soạn thảo Hiến pháp, năm 1882 Thiên Hoàng Minh Trị đă cử một phái đoàn do Ito Hỉobumi sang châu Âu tham khảo hiến pháp của các gia này. Cuối cùng họ đă chọn hiến pháp của đế quốc Phổ làm khuôn mẫu.
Theo đó Thiên Hoàng Minh Trị là người bạn bố Hiến pháp Minh Trị. Lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản Hiến pháp quy định rơ giới hạn quyền hành pháp của Thiên Hoàng, dù Thiên Hoàng là biểu tượng tuyệt đối bất khả xâm phạm, nhưng không phải là ông vua phong kiến.
Hiến Pháp đồng thời quy định cơ quan tư pháp độc lập với cơ quan hành pháp và lập pháp.
Cùng với cải cách sâu rộng, và với bản Hiến pháp mang tính dân chủ hơn Nhật Bản đă phát triển như vũ băo, trở thành một đế quốc hùng mạnh.
Nhưng Hiến pháp Minh Trị vẫn chưa triệt để, quyền lực vẫn nằm trong tay Thiên Hoàng đă biến nước Nhật trở thành một đế quốc xâm lược, lấy chủ nghĩa bá quyền để mở rộng bờ cơi chiếm đoạt tài nguyên của các quốc gia lân bang đă khiến Nhật Bản phải chịu một thất bại cay đắng trước Mỹ trong chiến tranh thế giới thứ hai.
Năm 1946 sau khi Nhật Bản đầu hàng đồng minh để thực hiện việc dân chủ hoá Nhật Bản theo tinh thần hội nghị Potsdam Nhật Bản tiến hành sửa đổi Hiến pháp, nhưng Mỹ cho là “b́nh mới nhưng vẫn rượu cũ pha lại”.
Và Douglas MacArthur đă ra lệnh cho văn pḥng của ḿnh tự soạn thảo Hiến pháp mới cho Nhật Bản.
Trong bản Hiến pháp do Mỹ đưa ra Nhật Hoàng được coi là biểu tượng của nhà nước và sự đoàn kết toàn dân, song bị tước bỏ thực quyền.
Một cấu trúc lập pháp lưỡng viện h́nh thành giống như ở Mỹ, đặc biệt trong Chương II chỉ vẻn vẹn có một điều khoản Điều 9 - chỉ rơ nhân dân Nhật Bản “Vĩnh viễn từ bỏ chiến tranh khỏi chủ quyền quốc gia, Vĩnh viễn không sử dụng vũ lực hay đe dọa bằng vũ lực khi giải quyết các tranh chấp quốc tế”.
Mùa thu 1946 đại đa số nhân dân Nhật Bản đă bỏ phiếu ủng hộ bản Hiến pháp mới.
Trải qua đúng gần 80 năm bản Hiến pháp này vẫn gần như giữ nguyên tính toàn vẹn của nó.
Với Hiến pháp của nước Mỹ, nó ra đời c̣n lâu hơn vào năm 1788 và có hiệu lực vào năm 1789, tức là đă hơn 300 năm và là bản Hiến pháp duy nhất tồn tại đến bây giờ c̣n giữ nguyên được những giá trị cốt lơi, không bị sưa đổi đó là cấu trúc “tam quyền phân lập giữa ba nhánh lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Tổng thống), tư pháp (Toà án).
Trong Hiến pháp của Mỹ không có một ḍng nào ghi “Quyền lực thuộc về nhân dân” nhưng ghi rất cụ thể về các quyền cơ bản của con người.
Dù đă hơn 300 năm bản Hiến pháp này mới được tu chính 27 lần trong đó có 10 lần tu chính về các quyền tự do cơ bản của công dân ngày càng mở rộng được đề xuất vào cùng một ngày là ngày 25/9/1789.
Và cho đến nay nó là bản Hiến pháp ít bị sửa đổi nhất trên thế giới.
Ở Việt Nam th́ sao?
Theo ḍng lịch sử lập hiến của nước ta, kể từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng ḥa đến nay, nước ta đă có 05 bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001), Hiến pháp năm 2013.
Cùng với sự sửa đổi Hiến pháp 5 lần chỉ trong ṿng gần 80 năm Luật đất đai theo nó cũng phải sửa đổi liên tục.
Không kể giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1987 Luật đất đai chưa ra đời, tính từ năm 1988 đến năm 1993:
Thực hiện theo Luật Đất đai 87; Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2003: Thực hiện theo Luật Đất đai 93; Luật Đất đai 2003, Luật đất đai 2013 và sắp tới thực hiện Luật đất đai 2023.
Họ sửa đổi những nội dung ǵ trong Hiến Pháp mà sửa đổi nhiều thế?
Lần theo các bản Hiến pháp sửa đổi qua các thời kỳ th́ nội dung quan trọng nhất liên quan đến quyền lực và đất đai bị sửa đổi nhiều nhất.
Về quyền lực của nhân dân ngày càng bị thu hẹp, quyền lực của đảng ngày càng tăng lên.
Hiến Pháp 1946 tuyệt nhiên không nói đến quyền lực của đảng.
Điều 4 trong Hiến pháp 1959 ghi quyền lực thuộc về nhân dân.
Bắt đầu từ Hiến pháp 1980 và các bản Hiến pháp sau điều 4 trong Hiến pháp 1959 được thay thế bằng cụm từ “Đảng cộng sản là lực duy nhất lănh đạo nhà nước, lănh đạo xă hội…”
Về vấn đề đất đai:
- Hiến pháp 1946, Điều 12 “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm..”
Lúc ấy đất đai của tư nhân vẫn chưa bị quốc hữu hoá.
- Hiến pháp 1959, mặc dù ghi:
Điều 11:
Ở nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trong thời kỳ quá độ, các h́nh thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất hiện nay là: h́nh thức sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân, h́nh thức sở hữu của hợp tác xă tức là h́nh thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, h́nh thức sở hữu của người lao động riêng lẻ, và h́nh thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc.
Điều 12:
Kinh tế quốc doanh thuộc h́nh thức sở hữu của toàn dân, giữ vai tṛ lănh đạo trong nền kinh tế quốc dân và được Nhà nước bảo đảm phát triển ưu tiên.
Các hầm mỏ, sông ng̣i, và những rừng cây, đất hoang, tài nguyên khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu của toàn dân.
Thực tế cải cách ruộng đất 1953- 1956 đất đai của địa chủ, tư sản đă bị tịch thu chia cho dân nghèo, nhưng nhà nước lại thu lại để đưa vào hợp tác xă, nông trường…
Nhưng chưa đặt vấn đề đất đai do nhà nước làm chủ sở hữu, quản lư.
- Hiến pháp 1980:
4 h́nh thức sở hữu đất đai (sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu của người lao động riêng lẻ, sở hữu của nhà tư sản dân tộc) ở Hiến pháp 1959 được gộp làm một, đó là sở hữu toàn dân (Điều 19) do Nhà nước thống nhất quản lư.
Căn cứ vào Hiến pháp 1980, năm 1987 Luật đất đai đầu tiên ra đời và từ đó sửa đổi 6 lần nhưng vẫn trên nguyên tắc tại điều 19 của Hiến pháp 1980 cho đến nay.
KẾT LUẬN:
Trong khi Mỹ và Nhật Bản không phải sửa đổi Hiến pháp nhiều lần, và có sửa đổi th́ theo hướng bảo vệ, tăng cường, củng cố các quyền công dân, quyền lực nhà nước bị nhân dân giám sát thông qua xă hội được dân chủ hoá cụ thể bằng các quyền biểu t́nh, tự do ngôn luận, báo chí, bằng tranh cử, bầu cử… các quyền sở hữu tài sản, đất đai của mọi thành phần, tầng lớp trong xă hội được bảo vệ, th́ ở Việt Nam đang càng ngày càng ngược lại.
Hỏi đạo đức văn minh nó ở chỗ nào, Hiến pháp được cụ thể hoá bằng Luật cho ai?
Dân giàu, nước mạnh vẫn chỉ là khẩu hiệu, và măi măi chỉ là thứ bánh vẽ không bao giờ thành hiện thực.
(C̣n tiếp)
PHẦN 18.
BI KỊCH TRONG CHỐN QUAN TRƯỜNG.
Quá tŕnh cải cách mở cửa đă tạo ra những tỉnh, thành phố phát triển vượt lên.
B́nh Dương, Khánh Hoà, Bắc Ninh, Vĩnh phúc, Hải Dương, Quảng Ninh, Hải pḥng… trở thành những trung tâm kinh tế trọng điểm nhưng bóng ma của tội ác và bi kịch cũng d́m các quan chức hàng đầu vào ṿng lao lư của chế độ mà họ suốt đời tự hào là những kẻ trung thành tuyệt đối.
Nguyên nhân nào đă đẩy 100% các quan chức hàng đầu của các địa phương đi đến bi kịch này?
Sự trung thành tuyệt đối được thể hiện rất rơ, rất cụ thể với chế độ kể từ khi họ chập chững bước chân vào môi trường quyền lực.
Và trong môi trường quyền lực họ đă không trưởng thành như những ǵ họ đă tuyên thề, không những thế đă biến họ thành những kẻ cặn bạ.
Có phải môi trường quyền lực chứa đựng đầy những thứ rác rưởi của sự dối trá, đạo đức giả đă d́u dắt họ đến bi kịch từ chính những đồng chí của ḿnh - Địa vị càng cao, càng dối trá, đạo đức giả - dối trá đạo đức giả là b́nh phong để thực hiện những tham vọng quyền lực, bịp bợm mục đích cuối cùng cũng chỉ thu vén cho cá nhân.
Trong một nhà nước chuyên quyền, khi cấp trên giao quyền lực chính là giao tiền, giao tài sản, đất đai của quốc gia cho anh và người kiểm soát anh cũng là những đồng chí trao cho anh quyền lực.
Những đồng chí này đă tin tưởng anh, lựa chọn anh theo những quy tŕnh rất bài bản, chu đáo, chỉ đạo tỉ mỉ, chặt chẽ; tiến hành nghiêm túc, thận trọng; làm đến đâu chắc đến đó, tại sao xác suất lọt lưới đến 100% như thế.
Họ giao tiền, giao tài sản, đất đai cho anh nhưng họ kiểm soát anh bằng một thứ luật pháp do họ kiểm soát nốt.
Thứ luật pháp chỉ duy nhất họ có quyền được ban bố, điều chỉnh, sửa đổi - nó lỏng lẻo như một thứ cạm bẫy đánh vào ḷng tham của các anh để các anh phải gặm vào. Bi kịch của các anh chính là thấy nó ngon quá, tin tưởng vào tổ chức, t́nh đồng chí cao cả.
Các anh chỉ thấy nó lỏng lẻo là cơ hội, không hề nghĩ nó là cạm bẫy.
T́nh đồng chí cao cả không thể để có chuyện các anh ăn ngập mồm, ngập miệng, ngang nhiên xây dựng biệt phủ, ăn chơi lộng hành như thế, rồi mới thịt.
Không thể để đồng chí của ḿnh tự diễn biến, tự chuyển hoá thành thứ cặn bạ rồi vứt vào ḷ thiêu đốt - Đây có phải là đạo đức, và nhân văn?
Các anh tin tưởng vào cái ǵ mà dám ngang nhiên xây biệt phủ, ăn chơi xa đọa, do pháp luật lỏng lẻo? Điều này hoàn toàn không đúng, có anh nào thoát được đâu mà bảo là lỏng lẻo.
Cái các anh tin là sự có đi có lại, nó được gắn chặt bởi những thứ nghĩa vụ vật chất với cấp trên, lănh đạo, không phải thứ t́nh đồng chí cao cả v́ nước v́ dân như tuyên thệ.
Đạo đức giả, dối trá chính là những kẻ ném đá giấu tay, là lá mặt lá trái với nhau, đó chính là thứ bi kịch của một tổ chức có quyền lực tuyệt đối rồi giả hiệu vẽ lên một thiên đường không tưởng, tự hể hả chia trác quyền lợi với nhau bằng một thứ chủ thuyết đầy tính mơ hồ ràng buộc nhau, và khi ḷng tham không thể kiềm soát sẽ đến dùng mọi thủ đoạn cắn xé nhau.
Người ta nói “phải nhốt quyền lực trong cái lồng” nói thế để tỏ ra có lư luận, thực chất ḷng tham là thứ cần được kiểm soát, khi ḷng tham không bị kiểm soát vẫn ngang nhiên tồn tại, th́ đấy chính là sự tha hoá quyền lực. V́ thế mới có câu “quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến tha hoá tuyệt đối”
Sự tha hoá tuyệt đối chính là dối trá, đạo đức giả, nó đang thể hiện một cách công khai bằng những bài thuyết giáo dài dằng dặc, đọc ê a khiến người ta phải tởm lợm.
Dối trá đạo đức giả với chính đồng chí của ḿnh.
Salami là một loại xúc xích làm bằng thịt ḅ hay heo được cắt thành những lát mỏng để ăn. Khi dùng trong chính trị học, “Chiến Thuật Xúc Xích” (Salami Tactics) là một chiến thuật nhằm chẻ mỏng đối phương để dễ bề lần lượt tiêu diệt toàn bộ.
Chiến thuật này được các đảng Cộng sản (CS) áp dụng trong các giai đoạn tranh chấp chính trị tại Ba Lan và Hungary sau Thế Chiến Thứ Hai, trong đó các đảng CS Đông Âu dưới sự ủng hộ tích cực của Liên Xô đă từng bước loại các thành phần không CS ra khỏi guồng máy lănh đạo quốc gia.
Thuật ngữ chính trị “Chiến Thuật Xúc Xích” (Salami Tactics) đầu tiên được lănh tụ CS Hungary Mátyás Rákosi dùng để mô tả cách ông ta loại bỏ các thành phần không CS cuối thập niên 1940.
Tuy nhiên, Rákosi không phải là người đầu tiên áp dụng “Chiến Thuật Xúc Xích” mà trước đó, Hitler đă áp dụng tại Châu Âu để từng bước chiếm đoạt những vùng chiến lược và quốc gia đầu cầu quan trọng trước khi phát động Thế Chiến Thứ Hai.
Đặng Tiểu B́nh và các lănh tụ Trung Cộng tránh đương đầu trực tiếp với các cường quốc, nhất là Mỹ, nên đă áp dụng "Chiến Thuật Xúc Xích" để từng bước gặm nhắm hết Biển Đông của Việt Nam bằng các phương pháp dă man, hèn hạ và bẩn thỉu.
Gạc Ma, Vành Khăn, Chữ Thập, Tư Chính chỉ là một điểm nhỏ khác trong tiến tŕnh thực hiện chính sách bành trướng của Tập Cận B́nh trên toàn bộ Biển Đông.
Tiến tŕnh bành trướng của Trung Cộng trên lănh thổ Việt Nam từ các vùng phía Bắc như Nam Quan, Bản Giốc, Lăo Sơn đến Biển Đông được đáp ứng bằng một chuỗi dài im lặng của đảng CSVN và các lănh đạo thế giới.
Lịch sử nhân loại chứng minh, ch́m trong đáy hồ sâu im lặng của các lănh đạo các nước tự do là máu của hàng trăm triệu người vô tội, trong đó có nhiều triệu người Việt cả hai miền Nam Bắc.
Đọc lại bài học của Hitler để nhận ra bản chất của Tập Cận B́nh.
Sách vở về Thế Chiến Thứ Hai c̣n đang nằm trên giá sách của Barnes & Noble.
- Tháng 3-1935, Hitler vi phạm hiệp ước Versailles khi đơn phương xóa bỏ “status quo” (t́nh trạng hiện hữu) của vùng kỹ nghệ Saar Basin đang trực thuộc quyền cai quản của Anh Pháp và sáp nhập lănh thổ này vào Đức. Anh Pháp coi như không biết.
- Tháng 3-1936, Hitler đưa quân chiếm đóng khu phi quân sự Rhineland. Anh và Pháp có quyền được quy định trong hiệp ước Versailles để giải giới hay đánh bật quân Hitler ra khỏi vùng Rhineland. Anh Pháp ngồi yên.
- Tháng 3-1938, bằng những xúi giục chính trị từ bên trong Áo và áp lực quân sự bên ngoài biên giới Áo, Hitler đă hoàn thành dự tính chiếm Áo mà y đă viết trong Mein Kampf 1925 không tốn một viên đạn. Anh Pháp làm ngơ.
- Tháng 9-1938, Hitler công khai bày tỏ ư định sáp nhập vùng Sudetenland có đông dân Đức, có nguồn dự trữ nguyên liệu lớn của Tiệp Khắc và dùng khu vực giàu có này làm bàn đạp thôn tính toàn bộ Tiệp Khắc. Anh Pháp nhân nhượng.
- Tháng 3-1939 lợi dụng sự suy yếu trầm trọng của chính phủ Tiệp và đất nước này bị các nước Ba Lan, Hung xâm lấn, Hitler xua quân chiếm toàn bộ nước Cộng Ḥa Tiệp Khắc vốn là một cường quốc của châu Âu. Anh Pháp buông xuôi.
Nếu bất cứ vi phạm nào trong các vi phạm vừa nêu trên của Hitler, hai liên minh Anh-Pháp và Pháp-Tiệp phản ứng một cách quyết liệt, hàng trăm triệu người đă không chết.
Nhưng Pháp đă không giữ cam kết với người bạn lâu năm Tiệp Khắc (Treaty of Alliance 1924 giữa Pháp và Tiệp có giá trị không giới hạn thời gian) và Anh lẫn Pháp đều làm ngơ khi Hitler ráo riết tái vũ trang.
Giả thiết tham vọng của Hitler không điên cuồng mà có giới hạn và biết dừng chân sau mỗi lần chinh phục. Thay v́ tấn công Ba Lan để đẩy thế giới vào ḷ lửa Thế Chiến Thứ Hai vào đầu tháng 9-1939, Hitler sau khi thu lại cả vốn lẫn lời về lănh thổ Đức bị tước đoạt trong hiệp ước Versailles, chọn dừng lại mười năm để củng cố đế quốc Đức mới mênh mông, xóa bỏ mọi tàn tích văn hóa lịch sử của các dân tộc bị chiếm, tăng cường kỹ nghệ quốc pḥng và kỹ thuật chiến tranh th́ khuôn mặt thế giới sẽ ra sao vào mười năm sau, tức năm 1949?
Thế Chiến Thứ Hai vẫn có thể bùng nổ mười năm sau đó nhưng đồng minh sẽ không chỉ cần sáu năm để chiếm Berlin, mà có thể rất lâu và nhân loại không chỉ chết 85 triệu hay 3% trong tổng số 2,3 tỉ người, mà có thể vài trăm triệu mới đánh bại được Đế Quốc Đức.
Nhân loại đang đối phó với một Hitler khác, lần này ở Á châu và có tên là Tập Cận B́nh.
Adolf Hitler và Tập Cận B́nh có những điểm giống nhau về tham vọng lănh thổ, độc quyền toàn trị, dă man, tôn thờ cá nhân, tuyên truyền và khủng bố.
Điểm khác duy nhất giữa Hitler và các lănh tụ CS Trung Quốc là cách áp dụng chính sách bành trướng.
Thay v́ chiếm toàn bộ Trường Sa như Hitler đă làm đối với Áo và Tiệp, Trung Cộng gặm nhấm từng phần của quần đảo giàu tài nguyên thiên nhiên này cho đến hết.
Thay v́ quốc hữu hóa toàn bộ Biển Đông một cách nhanh chóng như Hitler đă làm đối với hai khu kỹ nghệ Saar Basin và Rhineland, Tập Cận B́nh vẫn để cho tàu bè các nước qua lại nhưng cùng lúc quân sự hóa từng khu vực qua việc xây dựng ít nhất bảy đảo nhân tạo trên Biển Đông.
Tâp Cận B́nh tin rằng, đến một thời điểm thuận tiện, hải quân Trung Cộng đóng cửa và Biển Đông sẽ là một Venice của Trung Cộng.
Câu hỏi được đặt ra, Trường Sa của Việt Nam là chặng dừng chân nào trong bản đồ chinh phục đầy tham vọng của Tập? Là Saar Basin? Là Rhineland? Là Áo? Là Sudetenland? Là Tiệp Khắc? Là Ba Lan?
Biết chặng đường nào rất cần thiết v́ qua đó đo lường phản ứng của quốc tế. Có chặng họ sẽ làm ngơ. Có chặng họ sẽ nhượng bộ. Có chặng họ sẽ buông xuôi và có chặng buộc quốc tế phải can thiệp vơ trang.
Tranh chấp quốc tế cũng đơn giản như nấu một nồi nước. Những mâu thuẫn giữa Mỹ và đồng minh của Mỹ với Trung Cộng vẫn c̣n trong giai đoạn đầu và c̣n lâu để nồi nước Biển Đông sôi sục.
Trong giai đoạn từ năm 1933 đến khi thế chiến thứ hai bùng nổ, liên minh Anh, Pháp, Tiệp cũng nhiều lần biểu dương lực lượng qua các cuộc điều binh và tăng cường pḥng thủ. Tuy nhiên, những hành động đó chỉ để hỗ trợ cho đàm phán chứ không phải để tấn công. Hitler biết rơ điều đó và tiếp tục chính sách bành trướng bằng quân sự.
Lịch sử đang tái diễn. Những căng thẳng ở Biển Đông sẽ ngày càng tăng cường độ nhưng c̣n lâu mũi tên mới rời khỏi dây cung của Mỹ.
Số phận Trường Sa của Việt Nam hôm nay, v́ thế, có thể sẽ giống như các lănh thổ, các quốc gia bị Hitler và Stalin chiếm đoạt trước tháng 9-1939.
Học các bài học thế giới để thấy, cuối cùng, sẽ không ai cứu Việt Nam ngoài chính người Việt Nam.
PHẦN 19
VĂN HOÁ QUAN TRƯỜNG.
Văn hoá quyết định số phận dân tộc.
Chế độ nào văn hoá ấy.
Trong chế độ chuyên quyền, chuyên chế dù là một kẻ độc tài nắm quyền lực, hay nhóm người nắm quyền lực thông qua một tổ chức đều xây dựng hệ thống quyền lực do các quan lại đại diện cho từng ngành, địa phương quản lư và quyết định các hoạt động của xă hội, từ đó văn hoá quan trường sẽ điều khiển dẫn dắt văn hoá quốc gia, dân tộc.
Các cuộc cách mạng tư sản đánh đổ giai cấp chuyên chế, (các nhà nước phong kiến) xây dựng nhà nước dân chủ, văn hoá trở về với nhân dân, nhân dân ở đây bao gồm cả các hoàng gia.
Các hoàng gia bị tước bỏ quyền lực nhưng để kế thừa văn hoá truyền thống, họ vẫn để các hoàng gia tồn tại đại diện với tính chất nghi lễ quốc gia- Hoàng gia không c̣n quyền lực nhưng văn hoá hoàng gia vẫn được coi là văn hoá tinh hoa để người dân lấy đấy là tấm gương - Nhà nước Quân chủ Lập hiến h́nh thành.
Đại diện cho các gia “Quân chủ lập hiến” có thể kể đến nước Anh, Nhật Bản, Bắc Âu… nơi chế độ phong kiến đă tồn tại hàng ngh́n năm.
Ở Mỹ lại theo một hướng khác.
Nước Mỹ trước năm 1492 khi Cristoforo Colombo chưa khám phá ra mảnh đất của những bộ tộc bản địa sinh sống, văn hoá c̣n rất sơ khai, chưa h́nh thành nhà nước nên văn hoá quan trường vẫn chưa h́nh thành.
Các quốc gia phong kiến ở châu Âu đến Mỹ và biến nước Mỹ thành thuộc địa.
Nước Anh có vẻ nhanh chân hơn nước Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan…
Vào thập niên 1770, Mười ba thuộc địa Anh thuộc có đến 2 triệu rưỡi người sinh sống.
Các thuộc địa này thịnh vượng và phát triển nhanh chóng, phát triển các hệ thống pháp lư và chính trị tự chủ của chính ḿnh.
Nghị viện Anh Quốc áp đặt quyền lực của ḿnh đối với các thuộc địa này bằng cách đặt ra các thứ thuế mới mà người Mỹ cho rằng là vi hiến bởi v́ họ không có đại diện của ḿnh trong nghị viện.
Các cuộc xung đột ngày càng nhiều đă biến thành cuộc chiến tranh toàn lực, bắt đầu vào tháng 4 năm 1775. Ngày 4 tháng 7 năm 1776, các thuộc địa tuyên bố độc lập khỏi Vương quốc Anh bằng một văn kiện do Thomas Jefferson viết ra và trở thành Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Cho nên nhà nước Hoa Kỳ không thể h́nh thành theo h́nh thức “quân chủ lập hiến”.
Một nước Mỹ hợp chủng quốc bao gồm người bản địa, người nhập cư từ các quốc gia đến Mỹ khai thác thuộc địa h́nh thành.
Văn hoá Mỹ được h́nh thành từ Tôn giáo quốc dân, không bị dẫn dắt bởi thứ văn hoá tinh hoa truyền thống của các chế độ quân chủ từ ngh́n năm như ở các gia Tây Âu, Bắc Âu, Nhật Bản…
Cách mạng Mỹ là nguồn động lực chính của tôn giáo quốc dân Mỹ không chia giáo phái mà đă tạo h́nh cho chủ nghĩa yêu nước, kư ức và ư nghĩa ngày sinh của quốc gia kể từ đó.
Các trận chiến không phải là trọng tâm nhưng đúng hơn là các sự kiện và con người đă được chào mừng như những biểu tượng của một số đức tin nào đó.
Các sử gia đă ghi nhận, cuộc cách mạng Mỹ đă sản sinh ra một lănh tụ được ví như là Moses (George Washington), các nhà tiên tri (Thomas Jefferson, Tom Paine) và các thánh tử đạo (Boston Massacre, Nathan Hale) cũng như những ác quỷ (Benedict Arnold), những nơi thiêng liêng (Valley Forge, Bunker Hill), giáo lư (Tiệc trà Boston), biểu trưng (lá cờ mới), ngày lễ thiêng liêng (4 tháng 7) và một cuốn kinh thánh mà mỗi câu được nghiên cứu và áp dụng cẩn thận vào các trường hợp pháp lư hiện thời (bản Tuyên ngôn Độc lập, Hiến pháp và Đạo luật Nhân quyền).
Nước Mỹ vĩ đại v́ văn hoá Mỹ không bị ảnh hưởng của văn hoá quan trường, linh hồn dẫn dắt văn hoá Mỹ chính là tôn giáo sự cống hiến… với một hiến pháp được lấy từ lời thề trong kinh thánh được soạn ra.
Sự sụp đổ của các nhà nước chuyên chế là quy luật tất yếu sau các cuộc cách mạng:
Trong khi các cuộc cách mạng ở phương Tây được dẫn dắt và lănh đạo bởi giới tư sản những người đại diện cho một h́nh thức “Quan hệ xă hội” mới tiên tiến, nhưng cũng đồng thời là người cầm “lực lượng sản xuất” thành lập, nên các nhà nước dân chủ với hệ thống “tam quyền phân lực” quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thông qua lá phiếu.
Văn hoá của các gia này vẫn được giữ nguyên như truyền thống khi các tôn giáo, và hoàng gia vẫn được hiến pháp bảo vệ theo nguyên trạng.
Các quan lại với tư cách là các quan chức trong chính phủ đúng nghĩa với tư cách là “đầy tớ nhân dân” sống với văn hoá của nhân dân, nên văn hoá quan trường đă bị loại trong ngôn ngữ xă hội, không c̣n tồn tại nữa.
Phần c̣n lại, các cuộc cách mạng đánh đổ thành tŕ của nhà nước phong kiến được lănh đạo bởi giai cấp vô sản - Những kẻ đại diện cho tầng lớp dưới trắng tay, với lực lượng sản xuất bằng con số không, trang bị bằng một học thuyết cách mạng lấy bạo lực giải quyết tất cả các quan hệ xă hội, tiêu diệt sạch các giá trị về tôn giáo, văn hoá có liên quan đến chế độ cũ, cướp đoạt, chiếm đoạt tài sản của của các địa chủ, nhà tư sản…
Họ xoá sạch để xây dựng nhà nước công nông với một h́nh thái nhà nước mới, quyền lực nhà nước rơi vào tay một chính đảng duy nhất độc tôn lănh đạo.
Và cũng từ đây họ xây dựng một nền văn hoá mới phục vụ cho chế độ.
Một chính đảng dẫn dắt th́ “văn hoá đảng” sẽ trở thành chính thống, và đảng viên cầm quyền theo văn hoá đảng sẽ tạo ra một thứ văn hoá quan trường mang tính đảng dẫn dắt dân tộc. Và thuật ngữ “Văn hoá quan trường” với đầy đủ tính chất của nó ra đời từ các quốc gia này.
Bản chất và tính chất nguy hiểm của văn hoá quan trường ảnh hưởng đến vận mệnh quốc gia như thế nào xin đọc tiếp ở các phần sau.
(C̣n tiếp).
PHẦN 20
VĂN HOÁ QUAN TRƯỜNG.
Các chức sắc trong chính quyền do người dân lựa chọn có hai nguyên tắc để anh tồn tại.
Nếu anh làm việc không đúng những ǵ đă hứa, người dân đă nâng anh lên, th́ cũng hạ được anh xuống.
Và cách c̣n lại tự anh được quyết định đó là từ chức.
Cho nên “văn hoá từ chức” là thứ văn hoá được đề cao nhất của những người trong chốn quan trường.
Văn hoá từ chức trở thành một nếp sống b́nh thường ở các nước dân chủ, anh là một quan chức nhưng cũng là một con người, sai phải biết xin lỗi, không làm được việc phải tự rút lui, để cho người dân kéo cổ xuống dĩ nhiên là một điều xỉ nhục.
C̣n những quốc gia chuyên quyền văn hoá từ chức trở thành điều xa xỉ, từ chức bị cho là thất bại, và thất bại trong chốn quan trường được coi là sự nhục nhă- là nguyên nhân cho họ cố sống cố chết bám ghế quyền lực.
Và thứ văn hoá “ngồi thối ghế” trở thành thứ đặc sản của những quốc gia này. Chức vụ càng cao càng tham quyền cố vị.
Ở Liên Xô tuổi các Uỷ Viên Bộ chính trị có tuổi trung b́nh trên 70 vào thời kỳ Leonid Brezhnev làm Tổng bí thư (1964) sau khi đưa điều 25 vào điều lệ đảng “Trong việc bầu cử tất cả các cơ sở đảng, từ tổ chức đảng sơ cấp đến Ban Chấp hành Trung ương phải tuân thủ nguyên tắc thay thế nhân sự một một cách có hệ thống và tính liên tục của vai tṛ lănh đạo” .
Điều 25 vẫn không thay đổi dưới sự lănh đạo kế tiếp của của các tổng bí thư Yury Andropov, Konstantin Chernenko và hai ông này vẫn nắm quyền cho đến khi chết.
Mỗi lần họp Bộ chính trị không khác ǵ một bệnh viện. Xung quanh pḥng họp là các pḥng cấp cứu, pḥng hồi sức với các máy móc thiết bị y tế cùng một đám bác sĩ, nhân viên y tế túc trực.
Sự tham quyền cố vị này là một trong những nguyên nhân để Liên Xô rơi vào tŕ trệ dẫn đến sự sụp đổ.
Căn bệnh tham quyền cố vị trở thành một đặc trưng của các chế độ cộng sản cầm quyền, Mao Trạch Đông, Phidel Castro, Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành… đều giữ các chức vụ cao nhất trong đảng, nhà nước đến khi qua đời.
Văn hoá tham quyền cố vị từ những lănh đạo cao nhất trở thành tấm gương học tập cho các cán bộ Đảng viên cấp dưới, không ai dạy bảo được ai, cấp trên không thể kỷ luật được cấp dưới.
Hỏi tại sao phải cố bám ghế quyền lực, v́ ngoài chiếc ghế quan trường, chủ nghĩa cộng sản không có động lực nào tạo ra cho con người có thể giàu có, thịnh vượng.
Quyền lực đi đôi với quyền lợi chính trị, quyền lợi vật chất.
Có quyền lực là có quyền phân chia, quyền chiếm hữu, quyền định đoạt, quyền sở hữu.
Muốn bước chân vào hệ thống quyền lực trước tiên phải trở thành một đảng viên.
Là đảng viên phải phục tùng tổ chức, phục vụ lănh đạo.
Một đảng cầm quyền lực trong tay và duy nhất lănh đạo văn hoá quan trường sẽ trở thành thứ văn hoá quyền lực.
Văn hoá quyền lực là văn hoá ứng xử của cấp trên với cấp dưới đó là mảnh đất màu mỡ cho văn hoá mệnh lệnh, văn hoá ban ơn, văn hoá xu nịnh, văn hoá lá mặt lá trái… phát triển.
Ông bí thư, ông chủ tịch thích cầu lông, hay bóng bàn, bóng chuyền… các quan chức trong cả tỉnh cùng a dua chơi cầu lông, bóng bàn… tỉnh nghèo dân đói vẫn bỏ tiền xây nhà thi đấu cho các quan chức tránh nắng, tránh mưa ra sân để đàn đúm thể hiện sự đoàn kết nhất trí, trung thành… anh nào ốm cũng phải vác mặt đến.
Văn hoá xu nịnh trở thành đặc trưng, thuộc tính - bằng cấp ǵ cũng không ăn thua nếu thiếu cái “bằng ḷng” trở thành văn hoá sống trong bộ máy quan trường.
Khổ nhất là sếp thích uống rượu, theo hầu sếp uống rượu thâu đêm suốt sáng, cho chó ăn chè, nuốt không trôi vẫn cố mà nuốt.
Đàn em học theo sếp nhà b́nh to, b́nh nhỏ, con ǵ, cây ǵ quư trên rừng dưới bể ngâm hết, uống tuốt, khoe nhau, tặng nhau, biếu nhau … thể hiện quyền lực, sành điệu…
Không những trở thành lũ nát rượu, quan lớn quan bé trở thành những tấm gương, tiếp tay cho việc tuyệt chủng động vật hoang dă quư hiếm… và cuối cùng đưa nhau xuống hố càng nhanh của bệnh tật.
Trong chốn quan trường không có xu nịnh suông, nó đội lốt văn hoá truyền thống che mắt thiên hạ để đút lót, hối lộ.
Ma chay, đám cưới, đám giỗ, sinh nhật, khánh thành… thậm chí ŕnh sếp có cái ǵ mới đàn em đệ tử có cớ để mừng, để chia sẻ nỗi buồn với sếp bằng phong bao, quà tặng.
Nhà sếp có việc, đệ tử, đối tác ṿng trong ṿng ngoài xếp hàng ngóng chờ nhau để được gặp mặt sếp… mâm trên, mâm dưới đầy tiếng xu nịnh, tâng bốc lẫn nhau nhân danh đạo lư, đạo đức, văn hoá truyền thống để tụ tập biểu dương lực lượng, khoe giàu, khoe sang, khoe thành đạt, khoe quyền lực, hợm hĩnh với thiên hạ.
“Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh.
Rụng rời khủng cửa, tan tành khói mây.
Đồ tế nhuyễn của Giang Tây.
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham..”
Nguyễn Du phán rằng, 300 năm nữa người đời sẽ nhớ đến ông, quả là một tiên tri thiên tài, lịch sử của một thời “đầu trâu mặt ngựa, ào ào như sôi” đă quay trở lại.
(C̣n tiếp)
PHẦN 21.
CÁCH MẠNG HAY LÀ CƯỚP CÓ TỔ CHỨC?
Họ tự nhận ḿnh duy nhất là một chính đảng định hướng dẫn dắt xă hội, nhưng chính họ như kẻ mù đang cầm gậy ḍ đường.
Họ đă biến xă hội thành một pḥng LAP khổng lồ để thực hành các thí nghiệm qua một vài cuốn sách của một kẻ hoang tưởng để t́m công thức tạo ra một xă hội thiên đường.
Công thức nào, kết quả đến đâu không quan trọng miễn là phải bảo vệ bằng được sự tồn vong của chế độ.
Đúng là họ bế tắc đường lối, nhưng họ lại dối trá bằng cách đưa ra hết mốc thời gian này đến thời gian khác để hoàn thiện.
Thực ra họ cũng thừa biết, chẳng có con đường nào khác theo quy luật của các gia phát triển trên thế giới, nhưng họ cứ đánh trống múa rối loè bịp, càng kéo dài, câu giờ họ càng vơ vét được thêm, ăn trên ngồi chốc ngày nào hay ngày ấy.
113 năm kể từ khi những người vô sản đầu tiên cầm quyền ở nước Nga, từ các pḥng thí nghiệm đặt trên ở hầu hết các câu châu lục, họ tin tưởng với công thức “quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động” sẽ tạo ra một xă hội không có người bóc lột người, làm bùa bả dẫn dắt, định hướng.
Cùng một công thức nhưng lại tạo ra nhiều biến thái, cái th́ chết yểu như Liên Xô, các quốc gia đông Âu.
Cuba cố gắng giữ được h́nh hài theo công thức “Quyền làm chủ tập thể” nhưng teo tóp của đứa trẻ càng nuôi càng suy dinh dưỡng.
Triều Tiên 🇰🇵 nhà nước vẫn của nhân dân, nhân dân làm chủ theo ngón tay chỉ đạo của bố con nhà Kim, hung hăng trong nỗi thống khổ đến tận cùng như súc vật.
Trung Quốc, Việt Nam từ phiên bản gốc “quyền làm chủ tập thể” được pha trộn thêm những phụ gia mới, mỗi lần điều chỉnh th́ h́nh hài càng gần với xă hội của bọn tư bản giăy chết.
Sau khi Liên Xô tan ră, các nhà sử học đă đánh giá Đảng cộng sản Liên Xô là một băng cướp, chỉ khác rằng chúng không chia tài sản cho nhau mà cùng một ư chí dùng chung để trở thành giai cấp thống trị, tạo ra một nhà nước ăn cướp bằng pháp luật với chuyên chính bằng bạo lực.
Và các nông trang, nông trường, công trường khổng lồ với bánh vẽ “quyền làm chủ tập thể” theo thời gian biến thành những chuồng ḅ mục ruỗng, thối nát không thể ngửi được dưới những bộ năo lănh đạo của những kẻ chuyên quyền, nát rượu, bản chất tư hữu, ăn cắp, chính họ cũng không chịu đựng được nữa.
Và cải tổ là cách gọi mĩ miều, giải pháp cuối cùng để cùng nhau vơ vét, vĩnh biệt quá khứ một thời kỳ lừa đảo bất thành.
Về mặt chính trị cải tổ chỉ là vỏ bọc để tránh xung đột lợi ích của đại bộ phận dân chúng được khoác lên chiếc áo “quyền làm chủ tập thể” nhưng thực chất thông qua cái gọi là “Cổ phần hoá” bọn cướp dưới vỏ bọc lănh đạo vô sản đă lộ nguyên h́nh trở thành những “tư bản đỏ” đưa nước Nga quay về 113 năm trước với một Sa hoàng mới là Putin.
Những kẻ cầm quyền trong nhà nước cộng sản có ba bảo bối cai trị.
Bảo bối chuyên chính bằng bạo lực được tuyệt đối hoá, hết sức độc ác và tàn bạo.
Bảo bối bánh vẽ “quyền làm chủ tập thể”
Bảo bối thế lực thù địch của nhà nước, nhân dân.
Bảo bối thế lực thù địch thực chất là một h́nh thức ngụy biện dối trá để lấp liếm những hành động tội ác, và bao biện cho những sai lầm khách quan, và chủ quan do họ tạo dựng, lấy cớ để đàn áp, thủ tiêu các lực lượng đối kháng.
Họ vẽ ra những bóng ma thù địch, cả bên trong, lẫn bên ngoài.
Tất cả những quốc gia chuyên quyền đều coi Mỹ là con ngáo ộp, đặc biệt là Triều Tiên và Cuba, kể cả người Nga.
Từ đó họ xây dựng lên một kẻ thù không đội trời chung luôn t́m cách hủy hoại, thôn tính đất nước và từ đó mọi người dân không có ư thức bảo vệ đất nước, không thực hiện các chính sách bảo vệ chủ quyền quốc gia và lấy cớ có thể bị xử tội.
Trong nước họ xây dựng các chính sách, các quy định hà khắc, lấy cớ v́ lợi ích nhà nước, nhân dân để đàn áp ngăn cấm các ư kiến trái chiều, phản biện xă hội…
Trong hoàn cảnh không thể ngụy biện cho các yếu tố con người, họ đổ tội cho khách quan, cho thiên tai, địch họa, cho biến động chính trị quốc tế, cho biến đổi của khí hậu, thời tiết.
Ở những quốc gia của bọn kẻ cướp cầm quyền với vẻ ổn định chính trị bên ngoài, không có biểu t́nh, không có chống đối, nhưng các quan hệ kinh tế bất b́nh đẳng, phân hoá giàu nghèo, vấn nạn xă hội, ô nhiễm môi trường, phá hoại tài nguyên… đang dần đẩy nó đến kết cục - họ sẽ cướp đoạt, chiếm đoạt, thậm chí chém giết lẫn nhau, và cái kết theo quy luật lịch sử sẽ là một xă hội đại loạn đưa đất nước quay về một chu kỳ đen tối.
Các nhà nghiên cứu chính trị nhận định, không có thế lực nào bên ngoài có thể tiêu diệt được các chế độ chuyên quyền cộng sản, chỉ có những người cộng sản cầm quyền mới đủ sức tàn ác để cầm dao giết chết đồng chí của ḿnh, và họ sẽ tự diệt lẫn nhau, hoặc t́m một lối thoát văn minh hơn bằng cách tự giải thoát “lột quần, lột áo” với một h́nh hài thật của những kẻ cướp đă được hợp thức hoá giống như ở Liên Xô trước đây.
(C̣n tiếp).
PHẦN 22.
HỒNG PHÚC DÂN TỘC.
Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, là liên minh chính trị cánh tả mang danh nghĩa dân tộc chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập ngày 19 tháng 5 năm 1941.
Lịch sử bị chia rẽ về sự ra đời của Việt Minh, một bên cho sự thành lập của Việt Minh là sách lược tập hợp các lực lượng chính trị ở Việt Nam vào thời kỳ 1941 đến 1946 của Hồ Chí Minh.
Phía ngược lại cho rằng đây là một sự lừa đảo, dẫn đến nội chiến, chia rẽ dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử từ khi cướp được chính quyền năm 1945 cho đến nay, dẫn đến độc tài chính trị của đảng cộng sản Việt Nam.
Năm 1936 Măt trận B́nh dân thắng lợi ở nước Pháp, mặt trận thành lập chính phủ do Léon Blum đứng đầu. Chính phủ này đă thi hành một số chính sách đối nội và đối ngoại có tính chất giải phóng hơn cho các thuộc địa.
Việt Nam cũng được thừa hưởng thắng lợi này, chính quyền thuộc địa cho phép các đảng phái chính trị được thành lập, tự do báo chí, ngôn luận… hoạt động công khai.
Đại Việt Quốc gia Xă hội Đảng, Đại Việt Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội… được thành lập cùng với Quốc Dân đảng và một số đảng phái khác bao gồm đảng cộng sản Đông Dương được thành lập trước đó.
Năm 1938 Nguyễn Ái Quốc quay lại Trung Quốc lần 3, Trong vai thiếu tá Bát Lộ quân Hồ Quang, Nguyễn Ái Quốc đến công tác tại văn pḥng Bát Lộ quân Quế Lâm, sau đó đi Quư Dương, Côn Minh rồi đến Diên An, căn cứ đầu năo của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân Trung Quốc vào mùa đông 1938. Khi này đang là thời ḱ Quốc – Cộng hợp tác trong cuộc kháng chiến chống Nhật, Tưởng Giới Thạch có đề nghị Đảng Cộng sản Trung Quốc cử một đoàn cán bộ đi hướng dẫn cho Quốc Dân Đảng về kỹ thuật chiến đấu du kích. Tổng phụ trách đoàn là Diệp Kiếm Anh. Từ tháng 6 năm 1939, Hồ Quang được gửi tới phái đoàn này làm người phụ trách chính trị. Trên thực tế, ban lănh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương lúc này cũng mất liên lạc với ông tới tháng 1 năm 1940 (thời ḱ này lấy bí danh là Trần).
Nguyễn Ái Quốc trở thành thiếu tá Hồ Quang như thế nào?
Hiện nay vẫn chưa được giải mă, có lẽ chỉ những người đồng chí Trung Quốc mới biết rơ điều này.
Hà Khải Quân (Trung Quốc), người phụ trách Pḥng Cứu vong lúc đó có một đoạn hồi kư như sau:
“Hồi đó, Người mang tên Hồ Quang, tiếng nói pha giọng Quảng Đông. Pḥng Cứu vong chúng tôi giống như câu lạc bộ nhưng không hoàn toàn là câu lạc bộ, bởi v́ Pḥng c̣n có nhiệm vụ giáo dục chính trị và văn hóa. Pḥng có nhiều ủy viên như ủy viên kinh tế tài chính, ủy viên y tế, ủy viên văn thể, ủy viên bích báo... Hồ Quang là Ủy viên y tế kiêm Ủy viên bích báo, v́ vậy cũng là một thành viên lănh đạo Pḥng. Tôi c̣n nhớ Hồ Quang từng phụ trách kiểm tra vệ sinh, làm việc rất chu đáo, yêu cầu rất nghiêm khắc... Hồ Quang c̣n phụ trách biên tập tờ Sinh hoạt tiểu báo, một tờ báo nhỏ truyền tay nhau đọc trong nội bộ cơ quan chúng tôi. Bản thảo được chép lại bằng bút lông rồi đóng thành tập. B́a báo do Hồ Quang tŕnh bày, tên báo cũng do đồng chí ấy viết. Nội dung phần lớn là những sinh hoạt trong cơ quan, có biểu dương, có phê b́nh, khoảng 10 ngày ra một số. Ngoài công việc biên tập và chép lại, Hồ Quang c̣n viết rất nhiều bài, có lúc làm cả những bài thơ nho nhỏ theo thể thơ cổ của Trung Quốc”
Ngoài ra THÊM BỐN NGUỒN TIN TỪ 2007 ĐẾN 2014 XÁC NHẬN “Thiếu tá HỒ QUANG (1938-1940), trong đơn vị Tập đoàn quân 18 , Đệ Bát Lộ quân, Giải phóng quân Trung Quốc(PLA) chính là Hồ Chí Minh.” …
BỐN NGUỒN TIN TỪ 2007 ĐẾN 2014:
1- Trên blog “vhqdnvt” của “trường văn hóa quân đội Nguyễn Văn Trỗi” từ 3-8-2007 đă xác nhận :
“Thiếu tá Hồ Quang PLA Trung Quốc( 1938-1940) chính là Hồ Chí Minh”
Từ 1955 về sau nhiều đoàn phái đoàn csVN đă đến viếng “đất thánh QUẾ LÂM” để tỏ ḷng tri ân Trung Quốc đă chứa chấp họ Hồ trước khi về VN “cướp chính quyền 19-8-1945” trong bài : “BÁC HỒ VỚI THÀNH PHỐ QUẾ LÂM” Kháng Chiến – Kiến Quốc.
[TRÍCH]:
“Trong gian bảo tàng, tại vị trí trang trọng có treo ảnh Bác Hồ, phía dưới có ghi: ‘Đồng chí Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, đă làm việc tại ngôi nhà này từ 1938 đến 1940, với bí danh là Hồ Quang, thiếu tá Bát Lộ Quân. Đồng chí đă có những đóng góp cho sự nghiệp kháng Nhật cuả nhân dân Trung Quốc’”.
[HẾT TRÍCH]
2- Trong tập Khảo luận “Hồ Chí Minh sinh b́nh khảo” (T́m hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh, Người dịch: Thái Văn )
“Hồ Chí Minh sinh b́nh khảo” do Giáo sư Hồ Tuấn Hùng, một người đă tốt nghiệp khoa Lịch sử của Trường Đại Học Quốc Lập Đài Loan dành nhiều công sức nghiên cứu trong những năm qua, được Nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa ấn hành tại Đài Loan vào ngày 01/11/2008 (mă số ISBN: 9789866820779) đă viết :
“Hồ Chí Minh nửa đời về sau (1933 – 1969) là Hồ Tập Chương, người Đài Loan. Tuy nhiên, sự kiện động trời này chưa từng được lịch sử biết đến, khiến các cho các chuyên gia nghiên cứu hoặc độc giả có hứng thú với nhân vật Hồ Chí Minh vừa sững sờ vừa nghi vấn.”
Đoạn sau đây Giáo sư Hồ Tuấn Hùng nói về “thiếu tá Hồ Quang chính là Hồ Chí Minh”:
[TRÍCH]:
“Vào năm 1939, Hồ Chí Minh ở Ban huấn luyện cán bộ du kích Nam Nhạc, có đầy đủ chứng cứ ghi trong cuốn sách “Thông tin về đồng môn”, đă đưa công khai lư lịch của ông qua phần phụ lục dưới đây:
Tên họ: Hồ Quang. Chức vụ: Thiếu tá. Tuổi: 38. Quê quán: Quảng Đông.
Đơn vi: Tập đoàn quân 18. Tốt nghiệp trường nào?: Lĩnh Nam đại học.
Từng làm công tác ǵ?: Giáo viên trung học, hiệu trưởng trường ngoại ngữ.
Tên họ: Hồ Quang. Hồ Quang chính là bí danh Hồ Chí Minh từ năm 1939 đến 1942, sau khi từ Mạc Tư Khoa về Trung Quốc. Bí danh của Hồ Chí Minh ở Liên Xô là P.C.Lin (Lin là phiên âm của chữ “Lâm”, cũng là họ bên vợ của Hồ Tập Chương tại Đài Loan Lâm Quế muội. “P.C” th́ không rơ có dụng ư ǵ, nhưng chữ “Quang” trong “Hồ Quang” th́ chính là tên người con trai duy nhất của th́ chính là tên người con trai duy nhất của ông [Hồ Tập Chương] ở Đài Loan “Hồ Thự Quang”
3- Trên website “baolamdong.vn” Cơ quan của đảng cộng sản Việt nam tỉnh Lâm đồng ,Nguyễn Hoàng Bích trong bài “Những năm tháng Bác Hồ ở Quế Lâm” đăng ngày 23-4-2014 cũng xác nhận : “Thiếu tá Hồ Quang trong PLA Trung cộng (1938-1940) chính là Hồ Chí Minh”
Những năm tháng Bác Hồ ở Quế Lâm.
[ TRÍCH ]:
“Khi đoàn cựu giáo viên và học sinh Việt Nam tại Trung Quốc về thăm lại trường xưa, các bạn Trung Quốc ở Đại học Sư phạm Quảng Tây toạ lạc trong thành cổ Quế Lâm đă ưu tiên đưa chúng tôi đi thăm nhà 96 Trung Sơn Bắc mà Quốc vụ viện Trung Quốc vừa quyết định công nhận là Di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia. Cả đoàn đă xúc động khi nh́n thấy chân dung Bác Hồ kính yêu treo tại một vị trí trang trọng, phía dưới có ḍng chữ:
“Đồng chí Hồ Chí Minh – Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trong thời gian 1938-1940 với bí danh Hồ Quang là Thiếu tá Bát lộ quân đă làm việc tại ngôi nhà này. Đồng chí đă có những đóng góp quư báu cho sự nghiệp kháng Nhật của nhân dân Trung Quốc”.
[HẾT TRÍCH]
4- Sơ yếu lư lịch của Hồ Quang (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh)
“CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH – NGƯỜI XÂY ĐẮP NỀN MÓNG QUAN HỆ HỮU NGHỊ VIỆT NAM – TRUNG QUỐC (TRƯỚC NĂM 1945)”
Nguồn: Lưu trữ Trung Quốc:
Sơ yếu lư lịch của Hồ Quang (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh) tại Lớp huấn luyện Nam Nhạc thuộc tỉnh Hồ Nam.
Năm 1939, Hồ Quang – Phụ trách điện đài – 38 tuổi – Quảng Đông – Thiếu tá – tốt nghiệp Đại học Lĩnh Nam – Giáo viên trường Trung học. Biết ngoại ngữ, quốc ngữ.
Như vậy Nguyễn Ái Quốc đă từng là thiếu tá Hồ Quang trong quân đội giải phóng Trung Quốc (PLA) là sự thật, nhưng ông chỉ đóng vai dưới một cái tên giả, hay sự thật ông là một người Trung Quốc?
Và Trung Quốc tung ra thông tin này có đúng không, hay là ngụy tạo? Có dụng ư ǵ cần làm được sáng tỏ.
(C̣n tiếp)
PHẦN 23.
HỒNG PHÚC DÂN TỘC.
Tháng 1 năm 1941 thiếu tá Bát lộ quân Hồ Quang trở về Việt Nam.
Lúc đó tổ chức cộng sản ở trong nước bị đàn áp rất mạnh, chỉ tính từ năm 1939 đến năm 1941 có ba Tổng bí thư bị Pháp bắt và sau đó bị tử h́nh, hoặc chết trong nhà tù đó là Lê Hồng Phong (1942), Hà Huy Tập (1941), Nguyễn Văn Cừ (1941), lúc này Trường Chinh là quyền Tổng Bí thư.
Trong t́nh h́nh bị mất mất phương hướng, mất liên lạc với quốc tế cộng sản, Trường Chính cử Hoàng Văn Thụ sang Trung Quốc để móc nối, và gặp được thiếu tá Hồ Quang, người trước đó có tên hoạt động công khai là Nguyễn Ái Quốc.
Phong trào cộng sản trong nước kể từ khi đảng Cộng Sản Đông Dương thành lập năm 1930 đến năm 1940 bị đàn áp nhưng phát triển rất sâu rộng phải rút vào hoạt động bí mật. Sự phát triển này không hề có bóng dáng công lao của Nguyễn Ái Quốc.
Trong những năm 1931–1935, Nguyễn Ái Quốc bị Trần Phú và sau đó là Hà Huy Tập phê phán về đường lối cải lương "liên minh với tư sản và địa chủ vừa và nhỏ", không đúng đường lối đấu tranh giai cấp của Đệ Tam Quốc.
Trong một bức thư gửi cho tổ chức Đệ Tam Quốc tế vào tháng 3 năm 1935 với nội dung kể về phong trào cách mạng tại Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc đă bị phê phán nặng nề.
Bức thư này có ghi nhận về "tàn dư của tư tưởng dân tộc cách mạng pha trộn với chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa duy tâm của đảng của các đồng chí Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và của đồng chí Nguyễn Ái Quốc".
Trong thư này cũng có đoạn:
“Những tàn dư ấy rất mạnh và tạo thành một chướng ngại nghiêm trọng cho sự phát triển chủ nghĩa cộng sản. Cuộc tranh đấu không nhân nhượng chống những học thuyết cơ hội này của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và của Đảng Thanh niên là rất cần thiết (...). Chúng tôi đề nghị đồng chí Lin viết một cuốn sách để tự phê b́nh những khuyết điểm đă qua" (Lin là bí danh của Nguyễn Ái Quốc tại Liên Xô)
Sau này đảng cộng sản Việt Nam giải thích:
Sở dĩ có việc phê phán này là do bất đồng giữa Nguyễn Ái Quốc và một số đồng chí của ông về các lực lượng tham gia, cần tranh thủ trong hoạt động cách mạng, dẫn đến suy nghĩ cho rằng Nguyễn Ái Quốc ưu tiên giải phóng dân tộc hơn là đấu tranh giai cấp. Vào thời điểm đó, Quốc tế Cộng sản dưới sự lănh đạo của Stalin, đặt đấu tranh giải phóng dân tộc đi cùng với đấu tranh giai cấp.
Liệu lời giải thích này có đúng hay không? Chúng ta sẽ lần theo ḍng sự kiện lịch sử để t́m ra sự thật.
Cũng thời gian này, Nguyễn Ái Quốc bị Ban Lănh đạo Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương viết thư gửi Quốc tế Cộng sản kết tội phải chịu trách nhiệm chính về việc hơn 100 đảng viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên bị bắt, do việc ông biết Lâm Đức Thụ trước đây là kẻ phản bội mà vẫn tiếp tục sử dụng.
Ông bị buộc phải ở Liên Xô cho đến năm 1938, bị giam lỏng v́ nghi ngờ lư do ông được nhà cầm quyền Hồng Kông trả tự do.
Về chuyện này t́nh tiết thế nào, cũng cần phải được sáng tỏ, cần câu trả lời của sử học.
Vậy những năm từ 1938- 1940 Thiếu tá Hồ Quang đă làm những ǵ, và dưới sự chỉ đạo của ai? Việt Minh thực chất là như thế nào?
Cần phải biết rằng, Trung Quốc từ năm 1912 đến năm 1949 là nhà nước có tên là Trung Hoa dân Quốc do do đảng Quốc Dân cầm quyền hay c̣n gọi là Quốc dân Đảng, với Tưởng Giới Thạch làm lănh tụ.
Quốc dân Đảng với Đảng cộng sản Trung Quốc có lúc hợp tác, có lúc là kẻ thù.
Khi Nhật chưa thôn tính Trung Quốc, đảng Cộng sản Trung Quốc bị nhà nước Trung Hoa dân Quốc liệt vào đảng phái hoạt động ngoài ṿng pháp luật, bị trấn áp.
Đến khi Nhật đánh Trung Quốc hai đảng này bắt tay với nhau gọi là Liên minh Quốc Cộng.
Sở dĩ có liên minh này là do sức ép từ phía Liên Xô với Tưởng Giới Thạch để nhận được vũ khí và hậu cần đánh Phát xít Nhật. Qua đó Liên Xô muốn phong trào cộng sản quốc tế dưới sự dẫn dắt của Liên Xô có cơ hội phát triển ở Trung Quốc.
Trong hoàn cảnh Nguyễn Ái Quốc bị thất thế do bị nghi ngờ của cả phong trào trong nước, và quốc tế cộng sản ông ta đă trở thành thiếu tá Hồ Quang với danh nghĩa một người chống phát xít và bắt đầu chuyển hướng lấy Trung Quốc vừa là địa bàn hoạt động, móc nối với những đảng phái của người Việt Nam chống Pháp không phải là cộng sản đang hoạt động công khai ở Trung Quốc và được Tưởng Giới Thạch bảo vệ.
Về phía đảng Cộng sản Trung Quốc lúc ấy đă nhận thấy tiềm năng của Nguyễn Ái Quốc và muốn tận dụng Nguyễn Ái Quốc trong hoàn cảnh bị dồn vào thế bí để mưu tính lâu dài.
Và trong vỏ bọc thiếu tá Hồ Quang đă được tiếp cận công khai và tạo uy tín với các đảng phái khác của người Việt Nam.
Liên minh Quốc Cộng đánh Nhật là cơ hội để những người cộng sản được hoạt động công khai ở Trung Quốc.
Đảng cộng sản Đông Dương bị đàn áp trong nước, và việc củng cố lại lực lượng đă thúc ép họ phải liên minh, hợp tác với các đảng phái khác và dẫn đến sự ra đời của Việt Minh.
(C̣n tiếp).
PHẦN 24.
HỒNG PHÚC DÂN TỘC.
Phong trào chống Pháp t́m con đường độc lập cho Việt Nam không chỉ có những người cộng sản thực hiện, rất nhiều đảng phái và các hội được thành lập hoạt động rất mạnh trong suốt hơn 80 năm người Pháp đô hộ.
Trong đó phải kể đến hai đảng, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội (gọi tắt Việt Cách -VC) và Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ; chữ Hán: 越南國民黨) (gọi tắt là Việt Quốc - VQ). Đây là hai đảng có tổ chức phát triển rất mạnh lấy đấu tranh bạo lực và được sự giúp đỡ của Tưởng Giới Thạch nên có vũ khí tiến hành các cuộc khởi nghĩa vũ trang rất sớm.
Ngày 10 tháng 2 năm 1930 Việt Nam Quốc dân Đảng tổ chức cuộc tổng khởi nghĩa tại nhiều nơi ở miền Bắc Việt Nam như Yên Bái, Lâm Thao, Hưng Hóa, Hà Nội, Đáp Cầu, Phả Lại, Kiến An, Phụ Dực, Vĩnh Bảo, Thái B́nh,... Tuy nhiên, do tin tức bị lộ, nên cuộc tổng khởi nghĩa chỉ xảy ở Yên Bái, Hưng Hóa, Lâm Thao, Phụ Dực, Vĩnh Bảo. Mặt khác, v́ do thiếu vũ khí và phương tiện liên lạc yếu kém, nên lực lượng khởi nghĩa không cố thủ được lâu dài ở các nơi họ đă đánh chiếm, dẫn đến thất bại.
Trong khi Đảng của những người cộng sản phát triển mạnh ở vùng nông thôn và chủ yếu lôi kéo được giới cần lao đặc biệt là nông dân.
C̣n Việt Quốc và Việt Cách lại phát triển mạnh ở các vùng thành thị, được giới trí thức, và thành phần trung lưu như các địa chủ, tư sản tham gia ủng hộ.
Sau các cuộc khởi nghĩa vũ trang, tiến hành các hoạt động ám sát các quan chức Pháp với đỉnh điểm là cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân Đảng do lănh tụ Nguyễn Thái Học cầm đầu, cùng với Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh do những người Cộng sản phát động bị Pháp đàn áp đi đến thất bại… các đảng phái chống Pháp hầu hết đều chạy sang Trung Quốc lánh nạn và xây dựng lại lực lượng được chính phủ của Tưởng Giới Thạch bao che, ủng hộ, nuôi dưỡng.
Riêng những người cộng sản phải bám trụ ở Việt Nam v́ Tưởng Giới Thạch là người chống cộng sản, nên bị Pháp đàn áp đă trở nên suy yếu đặc biệt là cuối những năm 1939 và đến đầu năm 1941 các lănh đạo đầu năo đều bị bắt và bị hành quyết… Một số khác chạy lên rừng, sang Trung Quốc nhưng phải thay tên, đổi dạng…
Trong t́nh h́nh như vậy, thiếu tá Hồ Quang đă nhận nhiệm vụ phải tiếp xúc, thâm nhập vào các đảng phái của Việt Cách, Việt Quốc để liên kết với họ tạo điều kiện cho những người cộng sản hoạt động ở Trung Quốc một cách công khai và nhiều toan tính khác từ ban lănh đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc.
Không phải tự nhiên mà cái tên Nguyễn Ái Quốc bị biến mất và có thông tin Nguyễn Ái Quốc bị chết trong tù do bệnh lao được tung ra vào năm 1932.
Bởi v́ vai tṛ của Nguyễn Ái Quốc chỉ có uy tín từ những năm 1932 về trước.
Sau khi ông được chính quyền Hồng Kông thả, ông quay về Thượng Hải rồi t́m đường sang Liên Xô và ở lại Liên Xô từ năm 1934- 1938, ông không được Liên Xô tin tưởng v́ họ nghi ngờ không biết khoảng trống từ năm 1932- 1934 Nguyễn Ái Quốc làm ǵ ở Trung Quốc sau khi được thả?
Có thể nói cái tên Nguyễn Ái Quốc đă không c̣n có giá trị trong mục đích hoạt động vào thời điểm sau năm 1932 khi ông ra khỏi nhà tù ở Hồng Kông.
Cho nên việc sử sách vẫn nêu đồng chí Nguyễn Ái Quốc đi đến chỗ này, làm những việc kia, gặp gỡ tham gia chỉ đạo phong trào từ những năm 1938 về sau này là hoàn toàn không phù hợp và không chính xác.
Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô năm 1934 dưới cái tên P.C Lin rồi quay trở về Trung Quốc tham gia Bát Lộ Quân với thân phận mới là thiếu tá Hồ Quang càng khẳng định cái tên Nguyễn Ái Quốc là một bất lợi cho con đường hoạt động của ông.
Việc tung tin Nguyễn Ái Quốc đă chết có lẽ để xóa sạch vết tích, tránh việc nghi ngờ thiếu tá Hồ Quang chính là ông?
Đây có thể là một chuyển biến trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc về phương pháp cách mạng, nhưng nó cũng nằm trong mọi toan tính của những người lănh đạo cộng sản Trung Quốc khi sử dụng ông trong vai tṛ thiếu tá Hồ Quang thông qua cái gọi là sự chỉ đạo của quốc tế cộng sản. Quốc tế cộng sản không phải do Stalin của Liên Xô lănh đạo mà chính là âm mưu của Mao Trạch Đông trong tư tưởng bá quyền.
Họ toan tính như thế nào xin đọc tiếp ở các phần sau.
(C̣n tiếp).
PHẦN 25.
HỒNG PHÚC DÂN TỘC.
Thiếu tá Hồ Quang làm việc cho Bát Lộ Quân, vậy Bát Lộ Quân là ǵ?
Để đi đến hợp tác, liên minh chống Nhật, “Hồng quân công nông” do Đảng cộng sản lănh đạo phải cải cách biên chế theo mô h́nh quân đội của Trung Hoa dân Quốc do Tưởng Giới Thạch là tổng chỉ huy thống lĩnh cả hai lực lượng này.
Bát lộ quân là một h́nh thức biên chế quân sự của Quốc dân Cách mệnh Quân (Trung Quốc) từ 1929 đến 1937, gồm các quân đoàn, sư đoàn hoặc lữ đoàn độc lập hợp thành.
Trong điều kiện như vậy thiếu tá Hồ Quang có thể đi lại hợp pháp một cách dễ dàng và có thể tiếp xúc với các sĩ quan và quan chức trong bộ máy của nhà nước Trung Hoa dân Quốc thông qua đó xác lập ḷng tin với những đảng phái của Việt Nam chống Pháp đang hoạt động tại Trung Quốc đặc biệt là hai đảng mạnh nhất là Việt Cách và Việt Quốc.
Vào mùa hoa quế năm 1938, thiếu tá Hồ Quang từ căn cứ Diên An - "Thánh địa của cách mạng Trung Quốc" đến Quế Lâm. Theo sự sắp xếp của những đồng chí Trung Quốc.
Bát lộ quân ở Quế Lâm do Chu Đức làm tư lệnh, Diệp Kiếm Anh làm tham mưu trưởng. Họ đă bố trí Hồ Quang làm việc tại Cơ quan đại diện của Bát lộ quân thời kỳ Quốc Cộng hợp tác lần thứ hai cùng nhau chống phát xít Nhật xâm lược, đóng tại nhà số 96 đường Trung Sơn Bắc, nội thành Quế Lâm.
Cần biết thêm rằng, tuy chỉ là một thiếu tá trong Bát Lộ Quân, nhưng Hồ Quang và Chu Ân Lai là những người bạn và biết nhau hơn mười năm về trước khi Hồ Quang hoạt động ở Trung Quốc dưới tên Lư Thụy.
Lúc này Chu Ân Lai đang được Đảng phân công là Bí thư Cục miền Nam và làm công tác Mặt trận thống nhất trong vùng Quốc dân đảng nắm quyền.
Đầu năm 1939, Đảng Cộng sản Trung Quốc đă cử một đoàn giáo quan do tướng Diệp Kiếm Anh dẫn đầu tới Hồ Nam mở lớp huấn luyện về chiến tranh du kích và Hồ Quang đă được đích danh những người lănh đạo đảng cộng sản Trung Quốc điều đến đó.
Sau khởi nghĩa Yên Bái (1930) Pháp ra tay đàn áp, các đảng phái chống Pháp chạy tán tác sang Trung Quốc.
Được sự hỗ trợ và khuyến khích của Trung Hoa Quốc Dân Đảng, từ 15 đến 24 tháng 7 năm 1932, tại Nam Kinh, các nhóm hải ngoại đă họp hội nghị hợp nhất, thành lập một tổ chức chung mang tên Việt Nam Quốc dân Đảng Hải ngoại Biện sự xứ (Bureau d’Outre – Mer du Việt Nam Quốc dân Đảng),
Hàng loạt các đảng phái Quốc dân ra đời, mạnh nhất là Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội do Nguyễn Hải Thần sáng lập năm 1936. Đại Việt Quốc dân đảng do Trương Tử Anh sáng lập 1938. Đại Việt Dân chính Đảng do Nguyễn Tường Tam sáng lập năm 1938. Một lần nữa, Chính phủ Trung Hoa Quốc Dân Đảng đă khuyến cáo và hỗ trợ cho các đảng phái Quốc dân liên minh với nhau để tạo lợi thế chính trị sau này.
Thiếu tá Hồ Quang làm việc tại cơ quan đại diện của Bát Lộ Quân đă có điều kiện tiếp xúc với Lư Tề Thâm, Chủ nhiệm Hành dinh khu Tây Nam Trung Hoa Quốc dân Đảng.
Thông qua Lư Tề Thâm, Hồ Quang đă gặp gỡ được Hồ Ngọc Lăm, Nguyễn Hải Thần và những lănh đạo khác của các đảng phái người Việt chống Pháp lưu vong bên Trung Quốc.
Với tinh thần liên minh tập hợp các đảng phái chống Pháp và chống phát xít, và trong vai tṛ của một người cộng sản Việt Nam đang làm việc cho Bát Lộ Quân nên thiếu tá Hồ Quang được các đảng phái nhiệt liệt đón tiếp.
Họ đơn thuần nghĩ rằng, phong trào cách mạng giành độc lập cho Việt Nam có thêm những người cộng sản với sự hậu thuẫn của Mao và đảng CS Trung Quốc sẽ càng lớn mạnh, phù hợp với xu thế liên minh Quốc - Cộng lúc đó.
Việc đầu tiên Hồ Quang đặt vấn đề để cho những người cộng sản Việt Nam hoạt động trên danh nghĩa “Mặt trận Phản đế”. Người sáng lập “Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội” là Nguyễn Hải Thần tuy không đồng ư nhưng vẫn sẵn sàng hợp tác với những người cộng sản.
Đến đây chúng ta cần t́m hiểu thêm Hồ Ngọc Lăm, Nguyễn Hải Thần và tổ chức “Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội” để thấy thực chất vai tṛ của thiếu tá Hồ Quang lúc đó trong tổ chức này. Từ đó sẽ sáng tỏ, tại sao họ hợp tác với nhau rồi trở thành kẻ thù của nhau khi Việt Nam dành được độc lập (2/9/1945) lúc đó thiếu tá Hồ Quang đă đổi tên thành Hồ Chí Minh.
(C̣n tiếp)
PHẦN 26.
HỒNG PHÚC DÂN TỘC.
HỒ HỌC LĂM (1884-1943)
Hồ Học Lăm tên khai sinh là Hồ Xuân Lan quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Bác ruột Hồ Học Lăm là Hồ Bá Ôn (Án sát tỉnh Nam Định, hy sinh năm 1883 trong trận đánh với Pháp giữ thành Nam Định); và ông là chú họ gần với nhà cách mạng Hồ Tùng Mậu- Hồ Tùng Mậu là cháu đích tôn của Hồ Bá Ôn.
Cha mất sớm v́ bị thực dân Pháp giết hại năm 1886, Hồ Học Lăm lúc này mới được 2 tuổi và người anh là Hồ Xuân Kiêm sống với mẹ. Bà vốn là con gái Tiến sĩ Trần Hữu Dực.
V́ bà thường sắm vai buôn lụa để hoạt động nên có tên là "bà Lụa". Bà cũng là mẹ đỡ đầu của cô Chiêu Thanh (tức Nguyễn Thị Thanh, chị ruột của Nguyễn Tất Thành).
Năm 1908, hưởng ứng phong trào Đông Du, ông sang Nhật học tập.
Ông được Phan Bội Châu cử đi học cùng một số học sinh khác tại Trường vơ bị “Chấn Vũ” tại Tokyo (Nhật Bản). Tại đây ông lấy tên là Hồ Hinh Sơn và học cùng lớp với Tưởng Giới Thạch.
Khi các du học sinh Việt Nam ở Nhật bị trục xuất, ông sang ngụ ở Bắc Kinh (Trung Quốc), rồi xin vào học trường Vơ bị Bắc Kinh, Trường Sĩ quan Bảo Định – Hà Nam, tiếp tục cùng khóa với Tưởng Giới Thạch. Hồ Học Lăm tốt nghiệp năm 1911.
Tốt nghiệp, ông trở thành một sĩ quan cao cấp trong quân đội Trung Quốc, nhưng trong ḷng ông vẫn hướng về tổ quốc. Ông tham gia cuộc cách mạng Tân Hợi – 1911 do Tôn Trung Sơn, lănh tụ Quốc dân Đảng lănh đạo.
Sau ngày Tổng thống Tôn Trung Sơn qua đời (1925), Tưởng Giới Thạch làm binh biến (1927) thay đổi đường lối chính trị, ông vẫn được nể trọng, trở thành một sĩ quan cao cấp của quân đội Tưởng, được điều công tác về Bộ Tổng Tham mưu tại Nam Kinh – Giang Tô.
Khi Hồ Tùng Mậu và các đồng chí thành lập An Nam Cộng sản Đảng tại Hồng Kông, Hồ Học Lăm được mời tham gia nhưng ông đă từ chối v́ ông làm việc cho Quốc dân đảng Trung Quốc.
Năm 1936, ông tham gia tổ chức Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội của Kỳ Ngoại hầu Cường Để và dùng tiền riêng để ra một tờ tạp chí nhỏ bằng chữ Hán lấy tên là Việt Thanh. Nhưng tổ chức này chỉ hoạt động được trong một thời gian ngắn. Tờ Việt Thanh chỉ ra được 3 - 4 số th́ đ́nh bản v́ hết kinh phí.
Năm 1940, ông ốm nặng, phải nằm bệnh viện tại Quế Lâm (Trung Quốc).
Hồ Học Lăm bị suy tim, hen suyễn nặng, mất tại Quế Lâm ngày 8 tháng 3 năm Quư Mùi, tức ngày 12 tháng 4 năm 1943, hưởng thọ 60 tuổi, được rất nhiều sĩ phu thương tiếc.
NGUYỄN HẢI THẦN (1869-1959)
Nguyễn Hải Thần (chữ Hán: 阮海臣; 1869 – 1959), người sáng lập và lănh đạo Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội.
Nguyễn Hải Thần có nguyên danh Vơ Hải Thu (武海秋), bí danh Nguyễn Cẩm Giang, Nguyễn Bá Tú, sinh quán làng Đại Từ, thời Pháp thuộc là xă Đại Từ tổng Khương Đ́nh huyện Thanh Tŕ tỉnh Hà Đông.
Thuở nhỏ ông học chữ Hán. Đỗ Tú tài (sách Khoa cử Việt Nam: Tú tài triều Nguyễn), ông tên thật là Nguyễn Cẩm Giang, tên khác là Vũ Hải Thu thường gọi "ông Tú Đại Từ” (sách Khoa cử Việt Nam: Tú tài triều Nguyễn).
Hưởng ứng phong trào Đông du ông theo Phan Bội Châu sang Nhật Bản hoạt động chống Pháp, hoạt động trong Việt Nam Quang phục Hội (1912-1924). Ông đă học tại trường Chấn Vũ (Tokyo, Nhật Bản).
Khoảng năm 1912–1913, Nguyễn Hải Thần về nước mưu sát Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut nhưng không thành, ông quay trở lại Trung Quốc.
Ngày 13 tháng 3 năm 1915, Nguyễn Hải Thần cùng Hoàng Trọng Mậu và Phan Sào Nam mộ quân từ Quảng Tây (Trung Quốc) đánh đồn Tà Lùng, Cao Bằng. Sự việc cũng thất bại.
Từ năm 1924- 1927 Nguyễn Hải Thần trở thành giảng viên môn chính trị tại trường vơ bị Hoàng Phố (Học viện quân sự đào tạo sĩ quan lục quân của Trung Hoa Dân Quốc hoạt động từ năm 1924-1927. Cơ sở học viện được đặt tại đảo Trường Châu, khu Hoàng Phố, thành phố Quảng Châu. Đảo này c̣n có tên là đảo Hoàng Phố, v́ vậy học viện này có tên gọi như trên.
Nguyễn Hải Thần c̣n nổi tiếng với nghề thầy bói.
Năm 1927, Nguyễn Hải Thần lănh đạo đảng "Việt Nam toàn quốc cách mạng" ở Quảng Đông (Trung Quốc).
Năm 1936, Nguyễn Hải Thần được Hồ Học Lăm, một nhà yêu nước đang làm vơ quan trong quân đội Tưởng Giới Thạch, mời lên Nam Kinh tham gia thành lập Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội, hay c̣n gọi là Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội.
Năm 1940, ông cộng tác với lực lượng Việt Nam Kiến quốc quân của Trần Trung Lập tấn công Pháp ở Đồng Đăng, Lạng Sơn gần biên giới Trung–Việt.
Khoảng năm 1940 ông cùng Lư Đông A lập Đảng Duy dân. Năm 1941, Nguyễn Hải Thần hoạt động ở Tĩnh Tây, (Quảng Tây, Trung Quốc).
Tháng 10 năm 1942 tại Liễu Châu (Trung Hoa), Nguyễn Hải Thần cùng với Nghiêm Kế Tổ, Vũ Hồng Khanh, Nông Kinh Du,... sáng lập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, gọi tắt là Việt Cách.
Ngày 20/8/1945, Việt Cách về nước theo 200.000 quân Trung Hoa Dân quốc do tướng Lư Hán chỉ huy sang với danh nghĩa giải giới quân đội Nhật.
Sau ngày 2/9/1945 khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà được thành lập Nguyễn Hải Thần là Phó chủ tịch nước trong chính phủ Liên hiệp lâm thời.
Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa được thành lập vào ngày 28 tháng 8 năm 1945, đây là một chính phủ tạm thời gồm có 4 thành phần:
- Đảng Cộng sản Đông Dương
- Đảng Dân chủ Việt Nam
- Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội (Gọi tắt là Việt Cách, Nguyễn Hải Thần là chủ tịch đảng)
- Không đảng phái
Hồ Chí làm Chủ tịch chính phủ, Nguyễn Hải Thần là Phó Chủ tịch chính phủ.
Gọi là chính phủ lâm thời v́ các đảng phái Việt Nam thống nhất với nhau sẽ có một chính phủ chính thức đại diện cho nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà sau kết quả tổng tuyển cử năm 1946.
Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa được thành lập trong sự ấm ức của các đảng phái khác đặc biệt là Việt Quốc không có người trong thành phần chính phủ, và Việt Cách của Nguyễn Hải Thần cũng lên án sự độc tài của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Đông Dương khi họ chiếm hết các vị trí chủ chốt trong chính phủ lâm thời.
Hồ Chí Minh là chủ tịch kiêm Bộ trưởng Bộ ngoại giao, Chu Văn Tấn (Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng), Vơ Nguyên Giáp (Bộ trưởng Bộ Nội vụ, kiêm thứ trưởng Bộ Quốc pḥng)…
Mâu thuẫn giữa các đảng phái sau khi Việt Nam dành được độc lập diễn ra như thế nào, và số phận của Nguyễn Hải Thần cùng các nhân vật chính trị liên quan đến cuộc thanh trừng đẫm máu của Hồ Chí Minh để những người cộng sản độc tài quyền lực ra sao, xin đọc tiếp ở các phần sau.
(C̣n tiếp)
PHẦN 27.
HỒNG PHÚC DÂN TỘC.
Thời kỳ những năm 1938- 1943 là những năm tháng êm đẹp thuận hoà nhất của các đảng phái hoạt động chống Pháp dành độc lập cho Việt Nam có quan điểm, đường lối và ư thức hệ khác nhau.
Liên minh đảng phái xuất hiện và những người cộng sản được hưởng lợi nhất khi họ móc nối được với nhau sau thời kỳ bị Pháp đàn áp tan tác.
Vào thời điểm ấy những người cộng sản biết không thể một ḿnh đứng ra chống Pháp, nếu tiếp tục hoạt động công khai, đứng độc lập sẽ trở nên cô lập.
Và Thiếu tá Hồ Quang đă được đảng cộng sản Trung Quốc giao cho nhiệm vụ thâm nhập vào các tổ chức, đảng phái này.
Một câu hỏi được đặt ra, thiếu tá Hồ Quang khi tiếp cận với các đảng phái khác họ có biết ông là Nguyễn Ái Quốc hay không?
Theo như tổng hợp từ các nguồn sử sách viết lại, Thiếu tá Hồ Quang chỉ là một con người giả với lư lịch do đảng cộng sản Trung Quốc tạo dựng là đáng tin cậy nhất, c̣n thực chất ông chính là Nguyễn Ái Quốc.
Và trong lư lịch này Hồ Quang là Tên họ: Hồ Quang. Chức vụ: Thiếu tá. Tuổi: 38. Quê quán: Quảng Đông.
Đơn vi: Tập đoàn quân 18. Tốt nghiệp trường: Đại học Lĩnh Nam.
Hồ Học Lăm, Nguyễn Hải Thần chắc chắn biết Thiếu tá Hồ Quang là Nguyễn Ái Quốc, c̣n những thành phần khác có thể không biết v́ họ là những người đi sau và hoàn toàn không có quan hệ với những người cộng sản.
Hơn nữa Nguyễn Ái Quốc là một nhà cách mạng nổi tiếng trong quốc tế cộng sản, cơ quan t́nh báo Liên Xô nắm rơ lai lịch, ngoại h́nh, tính cách của Nguyễn Ái Quốc cho nên sau này khi ông là Hồ Chí Minh nếu là kẻ đội lốt họ đă không để cho ông tồn tại và cộng tác với danh nghĩa chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà.
Mặt khác việc Nguyễn Ái Quốc trong cái tên giả thiếu tá Hồ Quang cũng được Hồ Học Lăm, Nguyễn Hải Thần cho là b́nh thường trong hoạt động khi Nguyễn Ái Quốc đă bị chính quyền Tưởng Giới Thạch trục xuất và cấm hoạt động ở Trung Quốc.
Năm 1932 Nguyễn Ái Quốc được nhà cầm quyền Hồng Kông thả và trục xuất lúc ấy ông bị bệnh lao rất nặng cận kề với cái chết. Theo lịch sử đảng cộng sản Việt Nam, ông đến Thượng Hải và bí mật sang Liên Xô vào năm 1934.
Khi sang Liên Xô ông mang bí danh là F.C Lin có vẻ rất khỏe mạnh.
Khả năng rất lớn ông được các đồng chí Trung Quốc bí mật đưa đi chữa bệnh, thời gian này có thể đă có chuyển biến trong nhận thức của ông về phong trào quốc tế cộng sản do Stalin cầm đầu ở Liên Xô không lấy việc giải phóng các nước thuộc địa là mục tiêu tranh đấu, mà gắn với đấu tranh giai cấp.
Hai năm mất tung tích, cùng với những đánh giá không tốt về ông của Trần Phú và Nguyễn văn Cừ gửi cho Liên Xô, nên khi Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô từ năm 1934- 1938 ông được đưa đi học như một h́nh thức quản thúc.
Thế chiến thứ hai xảy ra liên minh giữa những người cộng sản với những nước trong trục chống phát xít h́nh thành đă tạo cơ hội cho Nguyễn Ái Quốc trong cái tên giả thiếu tá Hồ Quang quay lại hoạt động, nhưng dưới sự bảo trợ và theo sách lược chỉ đạo trực tiếp từ những người đồng chí Trung Quốc.
Đây có thể là lư giải hợp lư nhất, để có thể kết luận thiếu tá Hồ Quang chính là Nguyễn Ái Quốc.
Trong xu thế chung, những đảng phái chống Pháp của người Việt Nam tụ tập ở Trung Quốc cũng liên minh với nhau, nhưng không hẳn đă tin nhau hoàn toàn.
Nói đến Việt Cách mà không nói đến Việt Quốc là một khiếm khuyết lớn.
Việt Quốc (Việt Nam Quốc dân Đảng) thực sự mới là đảng phái có sức mạnh về vũ trang và tập hợp được lực lượng chống Pháp sớm nhất.
Việt Quốc được khởi xướng bởi một nhóm những nhà cách mạng trẻ tại Hà Nội, những người bắt đầu xuất bản tài liệu cách mạng vào giữa những năm 1920.
Năm 1927, sau khi nhà xuất bản bị đóng cửa do sự quấy rối và kiểm duyệt của Pháp, Việt Nam Quốc dân Đảng được thành lập dưới sự lănh đạo của Nguyễn Thái Học bằng cách mô phỏng theo Trung Quốc Quốc dân Đảng của Chính phủ Trung Hoa dân Quốc, và được Trung Hoa dân Quốc bảo trợ.
Đảng chính trị này cũng có xu hướng bài cộng sản và không hợp tác với những tổ chức do những người cộng sản thành lập.
Đây mới là đối tượng nguy hiểm nhất với những người cộng sản sau này.
Cần phân biệt, trong khi Việt Quốc là một đảng chính trị, c̣n Việt Cách là một Tổ chức chính trị liên minh giữa các đảng chính trị và Nguyễn Hải Thần được bầu là chủ tịch hội.
Đại hội thành lập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội được triệu tập tại Liễu Châu, Trung Quốc, gồm các đại biểu của nhiều đảng phái như Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội... nhằm tập hợp lực lượng thành một tổ chức thống nhất. Đại hội khai mạc ngày 1 tháng 10 năm 1942 và ngày này được coi là ngày thành lập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội.
Hội thành lập dưới bảo trợ của tướng Trung Hoa Quốc dân Đảng Trương Phát Khuê. Đại biểu Việt Minh và đảng cộng sản bị loại trừ.
Lúc đầu Việt Cách có xu hướng mềm dẻo hơn, cộng tác với những người cộng sản, nhưng vẫn từ chối không cho những người cộng sản tham gia vào tổ chức.
Đến Tháng Ba năm 1944 Nguyễn Hải Thần chủ tŕ Hội nghị các nhóm cách mạng hải ngoại của đồng minh hội, thành lập ủy ban hành chính, trong đó có ba đại biểu đảng cộng sản là Lê Tùng Sơn, Phạm Văn Đồng, và Hồ Chí Minh.
Nhưng giữa năm 1944 Hồ Chí Minh trở lại Việt Nam, Vũ Hồng Khanh va chạm với Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam. Do đó liên minh này giải tán, Nguyễn Hải Thần vẫn lănh đạo Việt Cách.
Sở dĩ có sự tan ră này chính là do phản đối của Việt Quốc với Nguyễn Hải Thần (Chủ tịch hội) đă bắt tay với những người cộng sản.
(C̣n tiếp)
PHẦN 28.
HỒNG PHÚC DÂN TỘC.
Nguyễn Ái Quốc trong vai thiếu tá Hồ Quang đă dùng uy tín của ḿnh để thuyết phục các đảng phái khác cho những người cộng sản tham gia vào liên minh Việt Nam độc lập vận động đồng minh hội bất thành.
Tuy vậy, ông cũng được sự giúp đỡ của họ đặc biệt là Nguyễn Hải Thần và Hồ Học Lăm để móc nối với các đồng chí của ḿnh ở trong nước.
Ngày 28/01/1941 ông trở về nước sau 30 năm bôn ba ở hải ngoại trong vai tṛ người của Quốc tế cộng sản.
Nhưng phải hiểu bản chất Quốc tế cộng sản lúc này theo nghĩa hẹp đó là trên danh nghĩa, c̣n thực chất ông theo đường lối và được chỉ đạo trực tiếp của Đảng cộng sản Trung Quốc.
Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông đều có mưu đồ sử dụng các đảng phái Việt Nam cho mục đích lâu dài.
Một Việt Nam độc lập sẽ đứng về bên nào trong ṿng cương tỏa của Trung Quốc sau này là mục đích của họ.
Chính v́ vậy Trung Hoa dân Quốc ra sức ủng hộ và bảo trợ cho Việt Quốc, Việt Cách.
Mao Trạch Đông và đảng cộng sản Trung Quốc tất nhiên phải nuôi dưỡng những người cộng sản Việt Nam.
Sự phát triển và liên minh của những đảng phái thân Trung Hoa dân Quốc khiến Mao rất lo lắng, thúc đẩy những người cộng sản phải có hành động quyết liệt hơn.
Và thiếu tá Hồ Quang đă vứt bỏ bộ quân phục Bát Lộ Quân hiện nguyên h́nh là Nguyễn Ái Quốc và đổi tên thành Hồ Chí Minh trở về Việt Nam trực tiếp lănh đạo phong trào trong nước.
Cần nhắc lại, trước khi Hồ Chí Minh về nước phong trào cộng sản ở Việt Nam bị Pháp đàn áp, và trở nên mất liên lạc và mất phương hướng, nên khi họ móc nối được với nhau và dưới sự bảo trợ của các đồng chí Trung Quốc thông qua Nguyễn Ái Quốc một người trong Quốc tế cộng sản khiến uy tín của Nguyễn Ái Quốc rất cao trước các đồng chí của ḿnh ở trong nước.
Hồ Chí Minh về đến Cao Bằng năm ấy ông 51 tuổi, để râu dài nh́n già hơn tuổi, Trường Chinh quyền Tổng bí thư lúc đó 34 tuổi, Vơ Nguyên Giáp 30 tuổi, Phạm Văn Đồng 35 tuổi, Hoàng Văn Thụ 35 … đều rất trẻ, và hầu hết không được đào tạo cơ bản như các tổng bí thư Trần Phú, Lê Hồng Phong… đều qua Liên Xô học ở đại học Đông Phương.
Họ hầu như chỉ hoạt động trong nước và có rất ít kinh nghiệm trong lănh đạo phong trào cách mạng, và không biết nhiều về Nguyễn Ái Quốc, nên mọi chỉ đạo của Hồ Chí Minh, một người của Quốc tế cộng sản họ đều răm rắp thực hiện.
Tất cả họ đều kính trọng Hồ Chí Minh và gọi ông là bác Hồ, và từ đấy “bác Hồ” đă trở thành tên gọi của những người cộng sản đối với Hồ Chí Minh, và họ nhân rộng ra trong công tác tuyên truyền để xây dựng thần tượng Hồ Chí Minh trong xă hội, và nhân dân cũng từ đó tất thảy già, trẻ, trai, gái, mọi thành phần, giai cấp đều gọi Hồ Chí Minh là bác Hồ.
Ở Cao Bằng Hồ Chí Minh sống ở Pác Bó
Pác Bó nằm ngay sát biên giới Việt - Trung, chỉ cách một quả núi là đất Trung Quốc.
Hồ Chí Minh chọn địa điểm này cho hai mục đích, an ninh và đi lại. Có động một bước là chạy sang Trung Quốc, và tiện cho việc giao thông khi ông đi nhận chỉ đạo từ các đồng chí Trung Quốc.
Việc đầu tiên Hồ Chí Minh chỉ đạo cho Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Vơ Nguyên Giáp… là đảng phải rút vào hoạt động bí mật, xây dựng một liên minh tập hợp tất cả các thành phần, đảng phái, giai cấp trong xă hội …
Những quan điểm từ lư luận đấu tranh giai cấp, xoá bỏ giai cấp bóc lột… không được dùng trong công tác tuyên truyền vận động…
Ông yêu cầu gấp rút chuẩn bị hội nghị trung ương 8 để tập hợp lực lượng và quyết định những chủ trương, sách lược trong giai đoạn mới.
(c̣n tiếp)
PHẦN 29.
HỒNG PHÚC DÂN TỘC.
Trước ngày 2/9/1945 ở Việt Nam loạn các đảng phái.
Trên con đường t́m kiếm độc lập những người yêu nước t́m đến các quốc gia bảo trợ theo cách riêng của họ.
Phan Bội Châu tiếp cận với Nhật Bản lập ra Việt Nam Quang phục hội.
Việt Quốc, Việt Cách nương nhờ hy vọng sự giúp đỡ của Trung Hoa dân Quốc.
Những người cộng sản lấy Quốc tế cộng sản do Liên Xô lănh đạo với học thuyết mác xít c̣n đi xa hơn không những dành độc lập c̣n chủ trương xây dựng một nhà nước cộng sản, đánh đổ cả thực dân và phong kiến.
Ngoài những hội và đảng chính trị lớn như đă nêu ở trên, c̣n có đến hàng chục Đảng phái của đủ các thành phần được tạo ra, nói chính xác họ chỉ là những nhóm, những tổ chức tự phát có nhiệt huyết, nhưng không có tôn chỉ, và tổ chức chặt chẽ.
Không ít các nhóm đảng phái này chỉ là “chân gỗ” do các đảng chính trị lớn đứng đằng sau thành lập để tạo ra hiệu ứng lôi kéo các thành phần trong xă hội và dễ lũng đoạn thao túng.
Đến năm 1945 có thể kể đến những cái tên:
- Phục quốc Hội, Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội (1939) của Cường Để - Tan ră năm 1945.
- Đảng Đại Việt Quốc xă (1936) của Nguyễn Xuân Tiếu - Bị chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa giải tán và tan ră năm 1946.
- Đại Việt Dân chính Đảng (1938) của Nguyễn Tường Tam, sáp nhập với Việt Nam Quốc dân Đảng tháng 5 năm 1945.
- Đảng Nhân dân Cách mạng (1940) của Trần Văn
Ân, tan ră năm 1941, sáp nhập hoàn toàn với Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng tháng 5 năm 1945.
-Đại Việt Quốc dân đảng (1939) của Trương Tử Anh - Tan ră năm 1965, tái lập năm 1972, tan ră lần thứ 2 năm 1975, tái lập lần thứ 2 năm 1995. Hiện tại h́nh thành nhiều hệ phái khác nhau.
- Đại Việt Phục hưng Hội (1942) của Ngô Đ́nh Diệm- Tan ră năm 1945.
- Đảng Đại Việt Duy dân (1943) của Lư Đông A - Tự giải tán năm 1946
- Đảng Dân chủ Việt Nam (1944) của Dương Đức Hiền do những người cộng sản tạo ra - Giải thể 1988.
…………….
Trong hoàn cảnh như vậy, việc lôi kéo các đảng phái khác tập hợp vào lực lượng chính trị của ḿnh hoặc đánh phá, phân hoá các đảng phái chính trị đối lập đă được những người cộng sản Việt Nam thực hiện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các đồng chí Trung Quốc được Hồ Chí Minh thực hiện một cách hoàn hảo, theo một mưu kế bài bản kể từ khi ông trong vai thiếu tá Hồ Quang xâm nhập vào.
Đây là một mũi tên bắn đi với nhiều mục đích.
Thứ nhất, thông qua Hồ Học Lăm, Nguyễn Hải Thần mà tên tuổi Hồ Chí Minh sẽ được số đông người Việt Nam biết đến rất có lợi cho h́nh ảnh Hồ Chí Minh như một người yêu nước có thể tập hợp được các lực lượng.
Thứ hai, việc Nguyễn Hải Thần, Hồ Học Lăm cộng tác với Nguyễn Ái Quốc một người Cộng sản đă khiến cho các đảng phái khác trong liên minh nghi ngờ và đi đến chia rẽ.
Tính cách lănh tụ, hào hiệp, quảng đại của Nguyễn Hải Thần đă bị lợi dụng và hủy hoại sự nghiệp chính trị của ông.
Ngay sau khi về nước, tháng 5/1941 Hồ Chí Minh triệu tập hội nghị trung ương 8 bàn về thành lập một mặt trận tập hợp các thành phần, giai cấp, đảng phái trong xă hội liên minh chống Pháp, và cũng đề cập đến phương thức đấu tranh vũ trang cướp chính quyền.
Và mặt trận này được đặt tên là ǵ? Đă được ông và các đồng chí tính toán rất kỹ.
Trước đó tổ chức Việt Nam Quang phục Hội hầu như tan ră thành các nhóm hoạt động riêng rẽ. Một bộ phận h́nh thành nên tổ chức Tâm Tâm Xă, sau đó chuyển thành Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.
Măi đến giữa thập niên 1930, với sự giúp đỡ của Matsui Iwane, một tướng lĩnh cao cấp Lục quân Đế quốc Nhật Bản, Hoàng thân Cường Để nhiều lần từ Nhật Bản sang Trung Quốc để liên lạc lại với các nhóm Quang phục Hội, nhằm tái lập lại tổ chức.
Từ năm 1936, tổ chức hoạt động trở lại với tên Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội (chữ Nho: 越南獨立運動同盟會) đến năm 1938 th́ mật thám Pháp ở Nam Kỳ phát hiện sự hoạt động của Hội dưới tên Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội.
Tuy nhiên măi đến ngày 12 tháng 3 năm 1939 ở Thượng Hải, Trung Hoa dưới sự lănh đạo của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và sự ủng hộ của Nhật Bản Hội mới chính thức ra mắt. Tổ chức này phát triển mạnh ở Nam Kỳ, nhất là trong cộng đồng Cao Đài nên một vị chức sắc Cao Đài là Trần Quang Vinh được bầu là phó hội trưởng. Những tên tuổi khác tham gia trong Hội là Trần Phúc An (Trần Hy Thánh), Hoàng Lương (Đỗ Văn Tuân), Đoàn Kiểm Điểm. Ban Chấp hành Trung ương của Hội có:
Ủy viên Tổ chức: Vũ Hải Thu (Nguyễn Hải Thần)
Ủy viên Tài chánh: Trần Hữu Công (Nguyễn Thức Canh tức Trần Trọng Khắc)
Ủy viên Tuyên truyền: Trương Anh Mẫn (Nguyễn Thượng Hiền)
Ủy viên Ngoại giao: Trần Hy Thánh (Trần Văn An, c̣n có tên tiếng Nhật là Shibata)
Ủy viên Huấn luyện: Hồ Học Lăm
Ủy viên Nội vụ và Nghiên cứu: Hoàng Nam Hùng
Tổng Thư kư: Đặng Nguyên Hùng.
Hoàng Nam Hùng được bổ nhiệm tập hợp nhân sự ở Trung Hoa; Mai Văn Thông ở Xiêm; Trần Quang Vinh và Trần Văn Ân ở Nam Kỳ; Ngô Đ́nh Diệm và Phan Thúc Ngô ở Trung Kỳ; Dương Bá Trạc, Nguyễn Xuân Chữ và Lê Toàn ở Bắc Kỳ.
Có thể thấy, Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh hội có hai cái tên Hồ Học Lăm, Nguyễn Hải Thần trong tổ chức và tập hợp được rất nhiều nhân sĩ, trí thức của Việt Nam lúc đó.
Như một kiểu “đánh lận con đen”, ngày 19/5/1941 tổ chức “Việt Nam Độc lập Đồng minh hội” hay c̣n gọi là Việt Minh do những người cộng sản thành lập ra đời và Hồ Chí Minh là Chủ tịch.
Theo Hoàng Văn Hoan, Hồ Chí Minh đă mập mờ khi đặt tên để mọi người dễ nhầm lẫn giữa “Việt Nam Độc lập Đồng minh hội” và “Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội” cao thủ hơn Hồ Chí Minh đă mời Hồ Học Lăm tham gia nhưng ông từ chối.
(C̣n tiếp).
PHẦN 30.
Ngày 19/5/1941 “Việt Nam độc lập đồng minh hội” được những người cộng sản thành lập, trước t́nh h́nh như vậy các đảng phái khác cũng nhóm họp dưới sự bảo trợ của Trung Hoa dân Quốc dể thành lập một liên minh mới thay thế cho liên minh “Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh hội” được thành lập năm 1936.
Ngày 1/10/1942 các đảng phái nhóm họp tại Liễu Châu, Trung Quốc bao gồm: Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại Việt và các đảng nhỏ khác…
“Việt Nam độc lập đồng minh” của những người cộng sản, theo như trong lịch sử đảng cộng sản Việt Nam viết có cử người đến tham gia là Phạm Văn Đồng, Vơ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan…
Trên thực tế thông tin này không có ǵ được kiểm chứng.
Chỉ biết rằng Hồ Chí Minh vào sát thời điểm này quay lại Trung Quốc và bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt vào ngày 18/8/1942 tức là chỉ trước hơn một tháng các đảng phái khác nhóm họp ở Liễu Châu, Trung Quốc.
Vậy Hồ Chí Minh sang Trung Quốc làm ǵ?
Đến bây giờ vẫn chưa có câu trả lời chính xác của chính quyền cộng sản Việt Nam và những nhà nghiên cứu về Hồ Chí Minh trong nằm trong hệ thống quản lư của họ đưa ra giải thích như sau:
“Nguyên nhân sâu xa là do chính quyền Tưởng từng biết Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc, đồng thời rất lo sợ sự hợp tác giữa Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam với Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhất là khi biết Người có mối quan hệ khá mật thiết với Chu Ân Lai. Một lư do nữa là chính quyền Tưởng bắt giam Hồ Chí Minh nhằm ḱm hăm bước tiến của cách mạng Việt Nam, ḥng tạo cho các tổ chức của phía Tưởng có thêm thời gian phát triển lực lượng để thực hiện kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”, đồng thời tạo thêm sức ép với các bên liên quan, trực tiếp là Đảng Cộng sản Trung Quốc. C̣n yếu tố trực tiếp, có tính chất nguyên cớ chính là giấy tờ tuỳ thân quá hạn nên Người bị t́nh nghi là gián điệp”.
Và họ cũng giải thích thêm:
Cuối tháng 8/1942, Người đi Trung Quốc nhằm gây dựng, phát triển quan hệ và t́m sự ủng hộ của Đồng minh, tạo thêm sức mạnh cho cách mạng nước nhà. Trong hành trang của người có:
- Danh thiếp mang tên Người là Hồ chí Minh, dưới tên là hàng chữ "Kư giả Thông tấn xă Quốc tế”.
- Giấy giới thiệu của Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội (Việt Minh) và giấy giới thiệu của “Phân hội Việt Nam quốc tế chống xâm lược”….
Qua hai chi tiết này cho thấy như sau:
Như vậy tên Hồ Chí Minh trong danh thiếp cũng như giấy đi đường là do chính quyền Tưởng Giới Thạch cấp đă có từ trước lúc ông về nước năm 1941, vậy tổ chức nào đă đứng ra bảo lănh hoặc làm thủ tục cho việc ông xin cấp giấy thông hành khi hoạt động bên Trung Quốc dưới tên Hồ Chí Minh?
Mục đích của việc Hồ Chí Minh t́m sự ủng hộ của đồng minh thực chất là ông muốn đến Liễu Châu tham ra vào hội nghị với tư cách chủ tịch của “Việt Nam Độc lập Đồng minh hội” để có vị trí lănh đạo và tiếng nói trong tổ chức này.
Việc chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt và cho ông ngồi tù hơn một năm (8/1942- 9/1943) v́ t́nh nghi là gián điệp, đặt ra một câu hỏi Hồ Chí Minh làm gián điệp cho ai?
Tất nhiên kẻ thù của Tưởng Giới Thạch là đảng cộng sản Trung Quốc là Mao Trạch Đông th́ Hồ Chí Minh là gián điệp phải cho họ, chứ c̣n ai nữa.
Và hơn nữa, Nguyễn Ái Quốc thành Thiếu tá Hồ Quang rồi đến Hồ Chí Minh là một hành tŕnh được tính toán kỹ lưỡng và chuẩn bị rất chu đáo của những người cộng sản với vai tṛ chỉ đạo của những đồng chí Trung Quốc cho một chiến lược, âm mưu lâu dài.
Việc chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt Nguyễn Ái Quốc trước thời điểm các đảng phái không phải cộng sản được bảo trợ của Trung Hoa dân Quốc nhóm họp hơn một tháng, mục đích nhằm ngăn chặn Hồ Chí Minh có mặt và tham gia vào tổ chức này như một điệp viên của đảng cộng sản Trung Quốc cài cắm vào để “ném đá” hội nghị.
Đại hội thành lập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội được triệu tập tại Liễu Châu, Trung Quốc, gồm các đại biểu của nhiều đảng phái như Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội... nhằm tập hợp lực lượng thành một tổ chức thống nhất. Đại hội khai mạc ngày 1 tháng 10 năm 1942 và ngày này được coi là ngày thành lập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Hội thành lập dưới bảo trợ của tướng Trung Hoa Quốc dân Đảng Trương Phát Khuê. Đại biểu Việt Minh và đảng cộng sản bị loại trừ.
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm bảy người là:
Trương Bội Công,
Nguyễn Hải Thần,
Vũ Hồng Khanh,
Nghiêm Kế Tổ,
Trần Báo,
Nông Kinh Du,
Trương Trung Phụng.
Các ủy viên thường vụ là Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, nhưng có thế lực nhất v́ được chính phủ Trùng Khánh hậu thuẫn là Vũ Hồng Khanh và Nghiêm Kế Tổ.
Cờ của Hội là nền đỏ, góc tư trên màu lam với ba vạch trắng.
Và âm mưu của những người cộng sản về việc làm sao Việt Cách phải nhập vào Việt Minh để trở thành một tổ chức thống nhất dưới sự lănh đạo của họ đă được Nghị quyết Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (họp từ ngày 25 đến 28 tháng 12 năm 1943) viết:
“Đó là một bước tiến của việc vận động cách mạng Việt Nam ở nước ngoài. Tuy quan niệm của đoàn thể này lộn xộn, nhưng họ cũng chủ trương chống Nhật - Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập. Trong cuộc cách mạng dân tộc giải phóng này, việc đoàn kết các lực lượng cách mạng to nhỏ và trong ngoài là một việc rất cần thiết. Vậy Đảng ta phải hết sức vận động cho Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội và Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội hợp lại làm một, đặng mau tập trung lực lượng cách mạng Việt Nam đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp."
(C̣n tiếp)
PHẦN 31.
Hồ Chí Minh được chính quyền Tưởng Giới Thạch thả vào tháng 9/1943, quay trở về Việt Nam trong t́nh h́nh thế giới bắt đầu có chuyển biến khi phe đồng minh có những chiến thắng quan trọng trước trục phát xít trên khắp các mặt trận từ Châu Âu đến Châu Á - Thái B́nh Dương, chuyển sang phản công, xu thế bại trận của trục phát xít bắt đầu xuất hiện.
Phe Đồng Minh phía Tây đă giải phóng toàn bộ Pháp và Bỉ và đang chiến đấu ở biên giới phía tây của Đức. Ở phía đông, quân Xô viết chỉ cách Berlin 65 km, sau khi đẩy lùi quân Phát xít khỏi Ba Lan, Romania, và Bulgaria. Sự thất bại của Đức gần như đă ngă ngũ. Vấn đề c̣n lại là cục diện hậu chiến của châu Âu
Đầu mùa Xuân năm 1945 khi biết số phận của trục phát xít sắp đến hồi kết thúc, ba nguyên thủ của Anh, Mỹ, Liên Xô nhóm họp ở Hội nghị Yalta, c̣n gọi là Hội nghị Crimea với tên mă Argonaut, diễn ra ngày từ 4 đến ngày 11 tháng 2 năm 1945.
Tại Yalta, họ đă thỏa thuận phân chia lại thế giới sau khi thế chiến thứ hai kết thúc.
Ba cường quốc thống nhất mục đích là tiêu diệt tận gốc Chủ nghĩa Phát xít Đức và Chủ nghĩa quân phiệt Nhật.
Cụ thể:
- Liên Xô sẽ tham gia chiến tranh chống Nhật tại Châu Á sau khi chiến tranh ở châu Âu kết thúc.
- Ba cường quốc thống nhất sẽ thành lập một tổ chức để giữ ǵn ḥa b́nh và an ninh thế giới (mà sau này là Liên Hợp Quốc).
- Hội nghị đă thông qua các quyết định quan trọng về việc phân chia ảnh hưởng của 2 cường quốc Liên Xô và Hoa Kỳ.
Theo đó, Liên Xô duy tŕ ảnh hưởng Đông Âu, Đông Đức, Đông Berlin, quần đảo Kuril, Bắc Triều Tiên, Đông Bắc Trung Quốc và Mông Cổ;
Hoa Kỳ cũng duy tŕ ảnh hưởng ở phần c̣n lại của châu Âu (Tây Âu), Tây Đức, Tây Berlin, Nam Triều Tiên, phần c̣n lại của Nhật Bản, ở bán đảo Triều Tiên, quân đội Liên Xô chiếm đóng miền Bắc, quân đội Mỹ chiếm đóng miền Nam lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới quân sự, nhằm tạo cơ sở cho việc ǵn giữ trật tự thế giới sau khi chiến tranh kết thúc.
Anh, Pháp được khôi phục khu vực ảnh hưởng cũ.
Áo và Phần Lan trở thành nước trung lập. Vùng Măn Châu, đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ được trao trả lại cho Trung Quốc.
Như vậy là đă rơ, theo sự phân chia này Bán đảo Đông Dương vẫn thuộc về nước Pháp quản lư theo thỏa thuận Yalta sau khi thế chiến thứ hai kết thúc.
Nhưng thực tế việc này phức tạp hơn rất nhiều.
Bán đảo Đông Dương từ năm 1940 về trước là thuộc địa của Pháp, nhưng khi nước Pháp bại trận trước phát xít Đức,ngày 22.6.1940, Pháp kư thỏa thuận ngừng bắn với Đức Quốc Xă, Chính phủ Vichy được thành lập, thừa kế hầu hết các vùng lănh thổ hải ngoại của Pháp, bao gồm cả Đông Dương.
Thực chất chính phủ này chẳng có quyền hành và lực lượng, nó chỉ là chính phủ bù nh́n của người Đức.
Và bán đảo Đông Dương trở thành mồi ngon cho phát xít Nhật, khi lực lượng quân sự của Pháp ở Đông Dương bị cô lập và không c̣n chỗ dựa từ chính quốc.
Nhật bắt đầu tiến hành thôn tính Đông Dương.
Ngày 18/6/1940, Nhật gửi cho Toàn quyền Catơru yêu cầu Pháp đóng cửa biên giới Việt-Trung, đ́nh chỉ việc vận chuyển xăng dầu, phương tiện chiến tranh cho Tưởng Giới Thạch theo đường Hải Pḥng-Vân Nam.
Tiếp đó, ngày 2/8/1940, Nhật yêu cầu Pháp cho Nhật vào Đông Dương, sử dụng các sân bay để tiến công miền Nam Trung Quốc, đặt nền kinh tế Đông Dương phục vụ cho guồng máy chiến tranh của Nhật.
Ngày 30/8/1940, Pháp và Nhật kí Hiệp định chính trị Tô-ki-ô, trong đó Pháp chấp nhận hầu hết các yêu cầu của Nhật.
Theo đó ngày 22/9/1940, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương chấp nhận các điều khoản đă kư kết. Song, ngày 23/9/1940 quân Nhật vẫn vượt qua biên giới Việt-Trung đánh chiếm Lạng Sơn, ném bom Hải Pḥng, đổ bộ lên Đồ Sơn. Trước nguy cơ Nhật tràn vào Đông Dương, Pháp đă bố trí lực lượng khá mạnh ở Lạng Sơn, nhưng chỉ trong 3 ngày từ 22 đến 25/9/1940, quân Pháp đă bị thất bại nặng nề.
Phát xít Nhật thay Pháp chi phối Đông Dương.
Sau khi vào Đông Dương, Nhật liên tục ép Pháp nhượng bộ, kư kết các hiệp ước có lợi cho Nhật trên tất cả các mặt kinh tế, quân sự, văn hóa tư tư tưởng, trên cơ sở đó từng bước chi phối Đông Dương.
Về kinh tế:
Hiệp định Tô-ki-ô, ngày 6/5/1941, phía Pháp thừa nhận địa vị đặc biệt ưu đăi của Nhật trong các quan hệ kinh tế với Đông Dương, từng bước thực hiện âm mưu độc chiếm Đông Dương.
Theo đó Nhật được sử dụng mọi phương tiện giao thông, kiểm soát hệ thống đường sắt, tàu biển tại các cảng ở Đông Dương với trọng tải 200.000 tấn.
Từ năm 1940 đến 1945 chính quyền thực dân Pháp phải đóng cho Nhật Bản một số tiền là 723.786.000 đồng. Ngoài ra, Nhật Bản cũng yêu cầu chính quyền Pháp phải để 50% giá trị nhập khẩu và 15% giá trị xuất khẩu của Đông Dương cho các công ty thương mại của Nhật. Chính v́ vậy, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu của Đông Dương trong hai năm 1942-1943 như than, kẽm, cao su, xi măng đều được xuất sang Nhật. Tính đến năm 1941 các ngành khai khoáng chính ở Đông Dương như: măng-gan, sắt, phốt-phát, quặng crôm…, tư bản Nhật chiếm gần 50% số vốn đầu tư của các công ty nước ngoài.
Về quân sự:
Pháp buộc phải kí với Nhật từ hiệp định quân sự này đến hiệp ước quân sự khác.
Hiệp định ngày 29/7/1941 với danh nghĩa “pḥng thủ chung Đông Dương”, Nhật được tự do đi lại trên khắp lănh thổ Đông Dương không hạn chế về số lượng.
Tiếp đến là hiệp định quân sự ngày 8/12/1941 nêu rơ chính quyền thực dân Pháp phải cung cấp các phương tiện chiến tranh thiết lập các cơ sở quân sự, cung cấp vật chất cho quân đội Nhật. Chính quyền thực dân Pháp cam kết đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Dương, bảo đảm an ninh cho quân Nhật. Về phía thực dân Pháp v́ không đủ sức phản kháng nên đă chấp nhận các yêu sách của Nhật, đồng thời Pháp cũng dựa hơi Nhật để đàn áp phong trào đấu tranh dành độc lập.
Về chính trị:
Nhật giữ nguyên bộ máy cai trị của Pháp trên toàn Đông Dương, quản lư hành chính vẫn do người Pháp cai quản.
Nhật cho phục hồi các tổ chức thân Nhật ở Việt Nam nhưng bị Pháp đàn áp trong những năm 1940-1941 như Hội Phục Quốc, Cao Đài, Ḥa Hảo… giúp đỡ các nhóm Đại Việt dân chính, Đại Việt quốc xă, Đảng Việt Nam ái quốc…với mục đích khi thời cơ đến sẽ dùng lực lượng này để lật đổ Pháp.
Xă hội Việt Nam từ những năm 1940 đến năm 1946 như một mớ ḅng bong trong toàn tính của các nước lớn.
Người Việt bị chia rẽ, các đảng phái được thành lập hỗn loạn dưới sự bảo trợ của các nước lớn hy vọng dựa vào họ để dành độc lập từ tay Pháp.
Thật là ấu trĩ, chẳng có nền độc lập thực sự nào khi phải núp dưới bóng ngoại bang.
Cho dù Đảng phái nào cướp được chính quyền, tuyên bố dành độc lập cho đất nước cũng chỉ là giả hiệu.
Một Việt Nam độc lập trong một t́nh thế như thế không lệ thuộc nước lớn này cũng lệ thuộc nước lớn khác.
Lần mở từng trang lịch sử sẽ cho chúng ta thấy nỗi đau của dân tộc Việt Nam c̣n kéo dài măi cho đến bây giờ.
(C̣n tiếp).
Tháng 2/1945 thỏa thuận Yalta được kư kết giữa ba nước Anh, Mỹ, Liên Xô lúc này nước Pháp đă được giải phóng khỏi Đức Quốc xă (8/1944) dù rằng Pháp không được mời tham gia hội nghị, nhưng ba nước này cũng vẫn thỏa thuận để Pháp vẫn có quyền lợi tại các thuộc địa do Pháp cai trị.
Ngay sau đó người Nhật đă quyết định thay đổi, phá bỏ các hiệp định đă kư với Pháp như đă nêu trong phần 31.
Nhật muốn trực tiếp cai quản Đông Dương và xây dựng một chính phủ của người Việt thân Nhật trong lâu dài dù thế chiến thứ hai có thể kết thúc như thế nào, và tương lai nước Nhật ra làm sao.
Tháng 3/1945 Nhật tấn công Pháp trên khắp Đông Dương, về tương quan lực lượng hai bên không chênh nhau là mấy, nhưng quân Nhật dĩ nhiên là thiện chiến hơn đặc biệt là lục quân v́ họ có kinh nghiệm trận mạc.
Phía Pháp không có bất kỳ sự kháng cự nào, quân Nhật nhanh chóng chiếm được Phủ Toàn quyền Đông Dương, giam giữ Toàn quyền Đông Dương và hầu hết các quan chức cao cấp của thực dân Pháp.
Đến chiều ngày 10 tháng 3, quân Pháp đầu hàng, phát xít Nhật làm chủ các vùng đô thị lớn như Hà Nội, Hải Pḥng, Huế, Sài G̣n và nhiều tỉnh lỵ,… Những đơn vị quân Pháp c̣n cố thủ ở Cà Mau, Biển Hồ (Campuchia), một số vùng ở Bắc Đông Dương cũng lần lượt bị thất thủ, chỉ c̣n một số tàn quân chạy qua biên giới Việt–Trung.
Với sự kiện này, lực lượng quân sự Pháp hoàn toàn tan ră, bộ máy thống trị của thực dân Pháp đầu hàng, bị cầm tù hoặc làm việc cho phát xít Nhật. Toàn bộ Đông Dương đă trở thành thuộc địa của phát xít Nhật.
Người Pháp có vẻ khôn ngoan và họ hiểu t́nh h́nh theo những suy nghĩ chiến lược, khi biết trục phát xít sẽ chỉ tồn tại theo tháng không phải theo năm.
Người Pháp hạ súng đầu hàng tránh một cuộc đổ máu không cần thiết và toan tính cho một kế hoạch có tính thực tế được sự bảo trợ của Anh, Mỹ, Liên Xô.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương, người Nhật tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố Đế quốc Việt Nam độc lập với sự cộng tác với Đế quốc Nhật Bản.
Ngày 11 Tháng Ba năm 1945, vua Bảo Đại gặp mặt Cố vấn tối cao của Nhật là đại sứ Yokoyama Masayuki tại điện Kiến Trung để kư bản Tuyên cáo Việt Nam độc lập.
Cùng đi với Yokoyama là Tổng lănh sự Konagaya Akira và Lănh sự Watanabe Taizo.
Bản tuyên cáo đó có chữ kư của sáu vị Thượng thư trong Cơ mật Viện là Phạm Quỳnh, Hồ Đắc Khải, Ưng Úy, Bùi Bằng Đoàn, Trần Thanh Đạt và Trương Như Đính, nguyên văn chiếu chỉ đề ngày 27 Tháng Giêng ta năm thứ 20 niên hiệu Bảo Đại:
“Cứ theo t́nh h́nh thế giới nói chung và hiện t́nh Á Châu, chính phủ Việt Nam long trọng công bố rằng: Kể từ ngày hôm nay, Ḥa ước Bảo hộ kư kết với nước Pháp được hủy bỏ và vô hiệu hóa. Việt Nam thu hồi hoàn toàn chủ quyền của một Quốc gia Độc lập.”
Theo đó triều đ́nh Huế tuyên bố hủy bỏ Ḥa ước Patenôtre kư với Pháp năm 1884 vốn áp đặt nền bảo hộ của Pháp lên toàn cơi nước Việt Nam.
Tuy nhiên, do văn bản được Nhật Bản soạn thảo nên đoạn sau của Tuyên cáo được cài thêm khẩu hiệu về Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á, cũng như vai tṛ lănh đạo và quyền trưng dụng mọi tài sản của Việt Nam sẽ thuộc về Đế quốc Nhật Bản:
“Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung.
Vậy Chính phủ Việt Nam một ḷng tin cậy ḷng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.
Chính phủ Đế Quốc Việt Nam hoạt động như thế nào, và cái gọi là cách mạng tháng 8 cướp chính quyền và thành lập nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà vào 2/9/1945 diễn biến và thực chất ra làm sao, xin đọc tiếp ở các phần sau.
(C̣n tiếp).
Hồ chí Minh bị chính phủ Tưởng giới Thạch bắt và giam giữ từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943.
Về nguyên nhân tại sao ông bị bắt đă được nêu trong phần 30, nhưng lư do ǵ ông được được thả ra?
Theo tư liệu công bố nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam được trích dẫn như sau:
- Khi nhận được tin Bác bị bắt, nhân danh các đoàn thể cứu quốc, Trung ương Đảng ta lập tức viết một loạt kiến nghị bằng chữ Hán và chữ Pháp, gửi tới chính quyền Tưởng Giới Thạch, các cơ quan quốc tế ở Trùng Khánh như Sứ quán Mỹ, Đoàn cố vấn Liên Xô, các cơ quan thông tấn báo chí... phát động chiến dịch đ̣i thả Hồ Chí Minh, đại biểu của phong trào cách mạng Việt Nam bị bắt nhầm.
Những kiến nghị đó đă phát huy tác dụng.
A.Patti, Thiếu tá, Trưởng pḥng Đông Dương thuộc Cơ quan T́nh báo chiến lược Mỹ (OSS) thừa nhận, Sứ quán Mỹ ở Trùng Khánh chuyển về Washington các bản kiến nghị trên.
C̣n Phân xă TASS ở Trùng Khánh đă điện thúc giục Chính phủ Tưởng Giới Thạch trả tự do cho Hồ Chí Minh... Nhận được kiến nghị, Viện trưởng Viện Lập pháp (Quốc hội) Tôn Khoa đă chuyển tới Ngô Thiết Thành, Chánh văn pḥng Trung ương Quốc dân đảng. Ngô Thiết Thành đă gửi điện cho Tỉnh trưởng Quảng Tây, chỉ thị: “Xét rơ rồi phóng thích”. Nhưng khi đó, Bác đang bị giải trên đường nên lệnh trên không thực hiện được.
Biết tin đồng chí Hồ Chí Minh bị giam cầm, Đảng Cộng sản Trung Quốc cử Chu Ân Lai bàn bạc với Chính phủ Quốc dân đảng.
Thay mặt lănh đạo đảng, Chu Ân Lai t́m gặp Phùng Ngọc Tường, viên tướng của quân đội Tưởng Giới Thạch có khuynh hướng thân Cộng sản, đề nghị ông ta t́m cách cứu Hồ Chí Minh. Trong khi đó, đoàn cố vấn Liên Xô ở Trùng Khánh cũng nhờ tướng Phùng Ngọc Tường t́m cách khuyên Tưởng Giới Thạch trả tự do cho Bác. Phùng Ngọc Tường gặp và chất vấn Tưởng Giới Thạch:
“Hồ Chí Minh là Cộng sản hay không tạm chưa bàn đến. Mà dù có là Cộng sản Việt Nam, liệu chúng ta có cần và có quyền bắt giam người của Đảng Cộng sản ngoại quốc hay không?
Thành viên trong đoàn cố vấn Liên Xô ở Trùng Khánh chẳng phải là Cộng sản đó sao, tại sao chúng ta không bắt giữ họ? Việt Nam ủng hộ Trung Quốc kháng chiến. Vậy, coi Hồ Chí Minh là bạn chứ tại sao lại là tội phạm?...”.
Ông ta yêu cầu Tưởng Giới Thạch trả tự do cho Hồ Chí Minh với tư cách là người bạn của nước Đồng minh.
Qua nhiều thông tin, tướng Trương Phát Khuê, Tư lệnh Đệ tứ chiến khu đóng tại Liễu Châu biết được Hồ Chí Minh là lănh tụ hết sức có uy tín với phong trào cách mạng Việt Nam. Ông ta muốn tranh thủ được sự ủng hộ của các đoàn thể ở Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Nhật nên muốn trả tự do cho Hồ Chí Minh.
Đầu tháng 9/1943, nhân dịp Hầu, Chủ nhiệm Cục Chính trị của Đệ tứ chiến khu về Trùng Khánh họp, Trương Phát Khuê giao Hầu báo cáo ư kiến của ông lên nhà đương cục tối cao. Lúc này, Tưởng Giới Thạch đă nhận được nhiều thông tin về việc bắt giam Hồ Chí Minh, lại đang chịu nhiều áp lực về sự việc trên nên khi nghe Hầu báo cáo, ông ta lệnh cho Đệ tứ chiến khu trả tự do cho Bác.
Từ Trùng Khánh trở về, Hầu chủ nhiệm thực hiện mệnh lệnh, đưa Hồ Chí Minh ra khỏi trại giam, nhưng lưu lại Cục Chính trị “để xem xét cảm hóa”.
Ngày 10/9/1943, sau 1 năm 14 ngày bị giam giữ, “tự do trở lại” với Bác.
Có bao nhiêu phần trăm sự thật trong tư liệu này cần có thêm bằng chứng xác thực từ nhiều nguồn.
Nhưng có một lư do chính để chính quyền Tưởng Giới Thạch thả Hồ Chí Minh chính là từ sự tác động của người Mỹ, khi Hồ Chí Minh đă đồng ư cộng tác với họ.
Chính v́ vậy khi được thả ra, trở về nước thông qua thiếu tá Archimedes L.A Patti, Trưởng pḥng Đông Dương thuộc Cơ quan T́nh báo chiến lược Mỹ (OSS) Hồ Chí Minh cố gắng thuyết phục Mỹ tiếp tục chính sách chống thực dân của Mỹ đối với Đông Dương.
Ông t́m cách làm Mỹ tin rằng, ông không phải là một phái viên của Quốc tế Cộng sản mà là một người Quốc gia - Xă hội mong muốn giải thoát đất nước khỏi ách đô hộ của ngoại bang.
Thông qua OSS, Hồ Chí Minh gửi một bức điện cho Tổng thống Mỹ Truman yêu cầu Mỹ đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ Lâm thời đồng thời Mỹ và Chính phủ Lâm thời sẽ có đại diện trong Ủy ban Liên tịch các nước Đồng Minh giải quyết các vấn đề liên quan đến Việt Nam.
Việt Minh hy vọng tranh thủ được sự có mặt của Mỹ trong cuộc thương lượng giữa Trung Quốc và Pháp về Đông Dương v́ hai nước này có thể làm nguy hại đến nền độc lập và toàn vẹn lănh thổ của Việt Nam đồng thời khuyến khích các nước Đồng Minh công nhận Chính phủ Lâm thời là đại diện duy nhất và hợp pháp của Việt Nam trong các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam.
Việt Minh lo ngại việc không được các nước Đồng Minh công nhận sẽ làm suy yếu địa vị lănh đạo của họ và có lợi cho Việt Cách, Việt Quốc trong việc thành lập chính phủ của các lực lượng này.
Hồ Chí Minh nói với chỉ huy OSS tại miền Bắc, Archimedes L.A Patti, rằng ông theo chủ nghĩa Lenin, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp và xin gia nhập Đệ Tam Quốc tế v́ đây là những cá nhân và tổ chức duy nhất quan tâm đến vấn đề thuộc địa.
Ông không thấy có sự lựa chọn nào khác. Nhưng trong nhiều năm sau đó những tổ chức này cũng không có hành động ǵ v́ nền độc lập của các dân tộc thuộc địa. Trước mắt, ông đặt nhiều tin tưởng vào sự giúp đỡ của Mỹ trước khi có thể hy vọng vào sự giúp đỡ của Liên Xô.
Người Mỹ muốn sử dụng các tổ chức người Việt vào các hoạt động quân sự chống Nhật tại Việt Nam, Hồ Chí Minh đă thiết lập mối quan hệ với các cơ quan t́nh báo Hoa Kỳ đồng thời chỉ thị cho Việt Minh làm tất cả để giải cứu các phi công gặp nạn trong chiến tranh với Nhật Bản, cung cấp các tin tức t́nh báo cho OSS (Cơ quan T́nh báo chiến lược Hoa Kỳ), tiến hành một số hoạt động tuyên truyền cho Trung Hoa Dân quốc và Văn pḥng Thông tin Chiến tranh Hoa Kỳ (OWI). Đổi lại, cơ quan t́nh báo Hoa Kỳ OSS (U.S Office of Strategic Services) cung cấp vũ khí, phương tiện liên lạc, giúp đỡ y tế, cố vấn và huấn luyện quân đội quy mô nhỏ cho Việt Minh.
Ngày 16 tháng 7 năm 1945, nhóm Con Nai thuộc cơ quan t́nh báo Mỹ OSS do Thiếu tá Allison K. Thomas chỉ huy nhảy dù xuống vùng lân cận làng Kim Lung cách Tuyên Quang 20 dặm về phía đông. Nhóm t́nh báo Con Nai được lực lượng Việt Minh tại Tuyên Quang gồm khoảng 200 người đón tiếp. Trong ṿng một tháng, nhóm Con Nai đă huấn luyện cho lực lượng Việt Minh cách sử dụng những vũ khí Mỹ và chiến thuật du kích.
Nhưng người Mỹ có con mắt tinh đời, sau khi phát hiện tính hai mặt và bản chất cộng sản trong con người Hồ Chí Minh, Mỹ không đáp lại nguyện vọng của Hồ Chí Minh. Cuối tháng 9 năm 1946, Mỹ rút tất cả các nhân viên t́nh báo tại Việt Nam về nước, chấm dứt liên hệ với chính phủ Hồ Chí Minh.
(C̣n tiếp)
PHẦN 34.
Nhà nước Đế Quốc Việt Nam được thành lập theo mô h́nh nhà nước quân chủ lập hiến của Nhật Bản, và tại sao người Nhật lại chọn Bảo Đại làm vua và Trần Trọng Kim là thủ tướng?
Sử sách, truyền thông sau này ít nhắc đến một nhân vật đó là Kỳ Ngoại hầu - Cường Để (chữ Hán: 畿外侯•彊㭽; 1882 – 1951) là Hoàng thân nhà Nguyễn (cháu 4 đời của Nguyễn Phúc Cảnh), và là một nhà cách mạng Việt Nam vào đầu thế kỷ 20.
V́ là ḍng dơi chính thống trong Hoàng tộc nên nhiều nhà ái quốc như Phan Đ́nh Phùng, Phan Bội Châu đă có kế hoạch liên lạc với gia đ́nh ông để lập lại ngôi vua, thay cho vua Khải Định v́ vị vua này hợp tác với thực dân Pháp. Tuy nhiên v́ lư do tuổi già, cha ông từ chối, nhưng giới thiệu ông thay mặt gia đ́nh tham gia phong trào. Biệt danh Nguyễn Trung Hưng (阮中興) của ông có từ đó. Khi Phan Đ́nh Phùng mất, khả năng đấu tranh bằng lực lượng vũ trang cũng không c̣n, ông chuyển sang hoạt động chính trị.
Năm 1906, ông trốn sang Nhật và cùng với Phan Bội Châu cổ động phong trào Đông Du. Là một Hoàng thân nhà Nguyễn, ông có tư tưởng quân chủ lập hiến và nhận làm người lănh đạo Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội. Địa bàn ảnh hưởng của ông mạnh nhất trong giới giáo dân Cao Đài. Thời gian ở Nhật ông giả dạng là người Tàu hoặc Nhật và dùng một số bí danh như Lâm Đức Thuận (chữ Hán: 林徳順, Hayashi Tokujun), Nam Nhất Hùng (chữ Hán: 南一雄, Minami Kazuo) để tránh sự theo dơi của nhà chức trách Nhật và Pháp.
Năm 1910, người Nhật do muốn vay 300 triệu franc từ chính phủ Pháp nên chấp thuận yêu sách của Pháp trục xuất ông và Phan Bội Châu, cũng như các học viên thuộc phong trào Duy Tân tại Nhật. Ông phải rời bỏ Nhật sang Trung Quốc và lưu lạc một thời gian ở Xiêm và sang cả Âu Châu. Các học viên của phong trào Duy Tân cũng theo ông sang Trung Quốc tiếp tục hoạt động phản kháng Pháp, đa số sau này không trở về Việt Nam mà trở thành công chức trong bộ máy chính quyền ở Trung Quốc, hoặc làm quan nhỏ như quan huyện ở địa phương.
Năm 1915 ông trở về Nhật Bản, cư ngụ ở phường Ômori, Tokyo, giao du với những chính khách Nhật như Inukai Tsuyoshi, Kashiwabara Buntaro, và Matsui Iwane. Những nhân vật này cũng tham gia hiệp hội Kissaragi-Kai với chủ trương ủng hộ tinh thần và tài chính cho Cường Để.
V́ trông cậy vào người Nhật, ông ủng hộ quân đội Đế quốc Nhật Bản đưa quân vào Việt Nam thời Chiến tranh thế giới thứ hai v́ nghĩ họ có thể giải phóng đất nước khỏi tay thực dân Pháp.
Tuy nhiên sau đó v́ thấy Nhật Bản không thật t́nh muốn giúp người Việt mà chỉ muốn tranh giành ảnh hưởng với các cường quốc Tây phương tại Á Đông, ông đă thất vọng.
Năm 1925, Phan Bội Châu bị bắt, bị an trí ở Bến Ngự. Cường Để tiếp tục làm Hội chủ Việt Nam Quang phục Hội cho đến năm 1939, và Quang Phục Hội được cải tổ thành Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội, thường được gọi tắt là Việt Nam Phục Quốc hội.
Tại Việt Nam, những người đấu tranh cho độc lập dân tộc đă h́nh thành nên phong trào Cường Để vào những năm 1940 chủ yếu hoạt động ở miền Trung gồm có cựu Thượng thư Bộ Lại Ngô Đ́nh Diệm, Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, Bác sĩ Lê Toàn, Vũ Đ́nh Di, Kỹ sư Vũ Văn An.
Thời cuộc đă không ủng hộ Cường Để khi Nhật bắt tay với Pháp, bỏ rơi Kiến quốc quân khiến Trần Trung Lập hy sinh ngày 26/12/1940 tại Lục B́nh, Lạng Sơn. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, ai cũng tưởng Nhật đưa Cường Để về làm vua nhưng Nhật lại dùng lá bài Bảo Đại nên phong trào Cường Để dần suy tàn.
Ông mất ngày 6 tháng 4 năm 1951, tại Tokyo, Nhật Bản, do bệnh ung thư gan. Tên ông từng được đặt cho một con đường tại Quận 1, Sài G̣n dưới thời Việt Nam Cộng ḥa. Sau năm 1975, đại lộ Cường Để trở thành một phần đường Đinh Tiên Hoàng, đến năm 1980 lại được cắt phần lớn sang đường Tôn Đức Thắng.
Việc lựa chọn nội các cho nhà nước Đế Quốc Việt Nam được người Nhật đưa ra nhiều phương án.
Và Hoàng thân Cường Đề lúc đầu được đặt vào vị trí nhà vua cùng với ông Ngô Đ́nh Diệm giữ chức thủ tướng.
Nhưng sau đó bị loại bỏ, Hoàng thân Cường Đề tuy hợp tác và muốn nước Nhật Bản bảo trợ để chống Pháp nhưng ông có phẩm chất của một nhà cách mạng kiên cường, thực sự v́ dân tộc tất nhiên sẽ khó bị điều khiển hơn.
Mặt khác nếu đặt Hoàng thân Cường Đề lên làm vua sẽ có nhiều xáo trộn đặc biệt là tính chính danh của ông, v́ Bảo Đại đang thực sự là vua với đầy đủ tư cách theo truyền thống và pháp lư, về con người Bảo Đại cũng dễ bị uốn nắn và đă quen làm một ông vua bù nh́n.
Lựa chọn Bảo Đại người Nhật muốn cho người dân Việt Nam thấy, trao trả độc lập cho Việt Nam một cách thực tâm, không can thiệp vào vẫn đề nội bộ, giữ nguyên trạng hệ thống đang hoạt động.
Chính v́ vậy phương án đưa Hoàng thân Cường Đề lên làm vua bị loại bỏ.
Nhà nước quân chủ lập hiến thực quyền nằm trong tay thủ tướng, đây chính là điều người Nhật quan tâm.
Họ muốn chọn một thủ tướng thực tài để xây dựng nội các và có khả năng điều hành bộ máy chính phủ.
Huỳnh Thúc Kháng là một nhân vật quan trọng trong phong trào Duy Tân, được Nhật mời đầu tiên, nhưng ông đă từ chối v́ không muốn phục vụ cho quân đội nước ngoài đang chiếm đóng nước ḿnh. Trước đó, năm 1943, nhà yêu nước Nguyễn An Ninh đang bị cầm tù ở Côn Đảo, được một viên tướng Nhật ra đảo mời hợp tác nhưng ông cũng kiên quyết từ chối.
Sau này tên được người Nhật lựa chọn, theo tác giả Daniel Grandcléme, có quan đại thần Phạm Quỳnh được chỉ định tạm quyền nhưng ông này quá thân Pháp, ngoài ra ông ta thấy ngay "nền độc lập" của Đế quốc Việt Nam có những giới hạn khắt khe giống như hồi c̣n chế độ bảo hộ Pháp: Không được tự chủ về ngoại giao, không có quân đội, không có độc lập tài chính... Do vậy, quân Nhật quyết định không bổ nhiệm Phạm Quỳnh và chọn một nhân vật ôn hoà hơn và gần gũi với Nhật Bản.
Vua Bảo Đại muốn giới thiệu Ngô Đ́nh Diệm vào vị trí này nhưng người Nhật cũng không tán thành v́ trước đó họ có đặt phương án Hoàng thân Cường Đề làm vua và Ngô Đ́nh Diệm làm thủ tướng rồi loại bỏ.
Người Nhật tính toán không thể để vị trí thủ tướng lại do vua chỉ định, họ muốn tách ra độc lập.
Ngô Đ́nh Diệm đă từng làm Thượng thư Bộ Lại trong triều đ́nh nhà Nguyễn dưới thời vua Bảo Đại nên không thể được ngồi vào ghế thủ tướng là điều dễ hiểu.
Người Nhật đă vạch ra phương án và lựa chọn nó, đó là Vua Bảo Đại cùng đi với nội các do Trần Trọng Kim làm thủ tướng.
Trần Trọng Kim là ai? Chính phủ của ông ta sẽ hoạt động như thế nào? Xin đọc tiếp ở các phần sau.
(C̣n tiếp).
PHẦN 35.
HỒNG PHÚC DÂN TỘC.
Trần Trọng Kim (1883- 1953) là một giáo học, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu sử học, văn học, tôn giáo Việt Nam, bút hiệu Lệ Thần.
Ông là tác giả của nhiều cuốn sách về lịch sử, văn hóa như Việt Nam sử lược, Việt Nam văn phạm, Nho giáo,...
Trần Trọng Kim.
Trần Trọng Kim, sinh năm 1883 (Quư Mùi) tại làng Kiều Lĩnh, xă Đan Phố (nay là xă Xuân Phổ), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Cha ông là Trần Bá Huân (1838-1894), đă từng tham gia từ rất sớm phong trào Cần Vương do Phan Đ́nh Phùng lănh đạo.
Vào năm 1897, ông theo học tại Trường Pháp-Việt Nam Định và học chữ Pháp.
Năm 1900, ông thi đỗ vào Trường Thông ngôn và đến năm 1903 th́ tốt nghiệp.
Năm 1904, ông làm Thông sự ở Ninh B́nh.
Năm 1905, v́ hiếu học nên ông qua Pháp học trường Thương mại ở Lyon.
Năm 1906, nhân có Hội chợ đấu xảo tại Marseille, Pháp, ông xin làm một chân thợ khảm để được đi với Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) sang dự.
Sau hội chợ, ông xin ở lại để học thêm tại các trường ở Ardèche, Lyon rồi tiếp tục học ở Trường thuộc địa. Năm 1909, ông vào học trường Sư phạm Melun (École Normale dinstituteurs de Melun, đă đóng cửa năm 2015 sau 135 năm hoạt động) và tốt nghiệp ngày 31 tháng 7 năm 1911 rồi về nước.
Ông lần lượt dạy Trường trung học Bảo hộ (c̣n gọi là Trường Bưởi, nay là Trường Chu Văn An - Hà Nội), Trường Hậu bổ và Trường nam Sư phạm.
Ông là nhà sư phạm mẫu mực, có uy tín trong xă hội, giữ nhiều chức vụ trong ngành giáo dục thời Pháp thuộc như:
Thanh tra Tiểu học (1921)
Trưởng ban Soạn thảo Sách Giáo khoa Tiểu học (1924), dạy Trường Sư phạm thực hành 1931
Giám đốc các trường nam tiểu học tại Hà Nội (1939)
Từ thập niên 1910 đến thập niên 1940, ông cũng viết nhiều sách về sư phạm và lịch sử.
Ngoài ra ông c̣n tham gia các hoạt động xă hội. Ông là Phó trưởng ban Ban Văn học của Hội Khai trí Tiến Đức, Nghị viên Viện Dân biểu Bắc Kỳ, Trưởng ban nghiên cứu Phật học của Hội Bắc kỳ Phật giáo.
Chính quyền Cộng sản gán cho ông là một nhà hoạt động chính trị (Họ cho ông là đảng viên của đảng chính trị Đại Việt Quốc gia Xă hội Đảng) nhưng không hiểu biết về chính trị, một thủ tướng của một nhà nước bù nh́n và c̣n nặng lời hơn nói ông là tay sai, Việt gian phản quốc, quyết tâm phục vụ quan thầy Nhật Bản….
Thực sự ông có phải là người như thế, và chính quyền cộng sản gán cho ông nhiều điều xấu xa, thậm chí cả tội ác có liên quan đến nạn đói năm 1945 có mục đích ǵ, đâu là sự thật?
Lần theo những ǵ tư liệu c̣n lại và góc nh́n khách quan từ nhiều phía, sẽ thấy đây là một âm mưu có tính chủ đích, và bị bóp méo của bộ máy tuyên truyền.
Trong hồi kư của “Một cơn gió bụi” ông có viết:
“Tôi là một người nước Việt Nam, lẽ nào ḷng tôi lại không rung động theo với dịp rung động của những người ái quốc trong nước? Nhưng v́ hoàn cảnh khó khăn, ḷng người ly tán, nhiều người lại muốn lợi dụng cái tiếng ái quốc để làm cái mối tư lợi cho ḿnh, v́ vậy mà tôi chán nản không dự vào đảng phái nào cả, mà cũng không hành động về phương diện chính trị. Ngoài những lúc làm những công việc hàng ngày phải làm, khi rỗi răi gặp những bạn thân, nói đến chuyện thiên hạ sự và việc nước nhà, th́ tôi cũng nói chuyện phiếm và mong cho nước nhà chóng được giải phóng”.
Cho nên họ nói ông là một nhà chính trị chuyên nghiệp, có tham gia vào các hoạt động và là đảng viên của một đảng chính trị là không đúng sự thật.
Vậy tại sao ông lại trở thành thủ tướng của Đế Quốc Việt Nam?
Người Nhật muốn Việt Nam nằm trong vùng ảnh hưởng của họ xét về quy luật của tự nhiên“Cá lớn nuốt cá bé” không dưới h́nh thức này cũng dưới h́nh thức khác là một quy luật bất biến của xă hội loài người chẳng có ǵ là xấu.
Việt Nam lúc đó chẳng cứ ǵ Nhật Bản, c̣n có người Pháp, người Tàu, người Mỹ, người Nga sau này đều có ư đồ kéo Việt Nam vào ảnh hưởng của họ.
Những người cộng sản họ lên án sự xâm lược của nước ngoài, nhưng sử sách tuyên truyền họ vẫn ca ngợi các triều đại, các ông vua phong kiến “Mở mang bờ cơi” đi lấy đất của Chăm Pa, Chân Lạp…
Xâm lược là xấu, hay tốt cũng chỉ là do cái lưỡi mà ra, nh́n nhận bản chất của xâm lược theo góc độ giải phóng, hay thôn tính phải theo những quan điểm cụ thể… chính v́ thế Liên Hợp Quốc sau này mới phải đưa vào hiến chương định nghĩa thế nào là xâm lược để có thể phán xét theo nguyên tắc thống nhất và ứng xử theo luật pháp quốc tế.
Không thể để lẫn lộn, nhầm lẫn về đánh giá các xung đột và lợi dụng xung đột.
Họ lên án nhà Nguyễn để mất đất, là nhà nước bù nh́n, tay sai cho người Pháp.
Nhưng khi họ dành được độc lập và sau trận chiến Điện Biên Phủ kết thúc bằng Hiệp định Genevo 1954 tự họ cũng nhận thấy nền độc lập của Việt Nam đă không được như họ tuyên truyền, và Việt Nam rơi vào quỹ đạo Liên Xô, Trung Quốc trong tham vọng bành trướng của chủ nghĩa cộng sản…
Lê Duẩn TBT đảng CS Việt Nam đă từng cay đắng nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc” và măi đến sau này mới dám nói lên sự thật với người Trung Quốc “Các ông đă bán đứng chúng tôi ở hội nghị Genevo”
Lê Duẩn mạnh mồm như vậy v́ lúc ấy Việt Nam nấp dưới cái ô bảo trợ của Liên Xô thông qua Hiệp ước Hữu nghị Xô - Việt năm 1978, trong đó tại điều 6 có ghi:
“Trong trường hợp một trong các bên trở thành đối tượng của một cuộc tấn công hoặc đe dọa tấn công, các bên kư kết sẽ ngay lập tức bắt đầu tham vấn lẫn nhau để loại bỏ mối đe doạ đó và thực hiện các biện pháp pháp hiệu quả phù hợp đảm bảo hoà b́nh và an ninh cho quốc gia của hai bên”
Dân tộc Việt Nam nói cụ thể hơn là người Việt Nam có khao khát độc lập mănh liệt, hơn 80 năm người Pháp đô hộ những người Việt Nam yêu nước hết lớp này đến lớp khác, đủ các loại thành phần đi t́m nền độc lập cho Việt Nam, xương máu của các cuộc khởi nghĩa vũ trang không đem lại kết quả v́ vũ khí lạc hậu, đường lối bế tắc…
Người Việt Nam có thừa ư trí, ḷng can đảm nhưng không có nhà tư tưởng.
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có văn hoá, nhưng văn hoá Việt Nam không dựa trên một nền giáo dục mở mang, không dạy con người có ư thức tự chủ, tư tưởng tự do phóng khoáng, không dạy con người về vận động bằng các kiến thức khoa học… giáo dục của Việt Nam chủ yếu dạy con người đối xử theo các mối quan hệ trên dưới, nặng về ư thức ứng xử một cách nghi lễ, nặng về h́nh thức, không chú trọng đến mặt chủ động, chỉ quan tâm đến khuôn phép…
Một dân tộc với nền tảng giáo dục như vậy, phải dám đương đầu với sự thật để cùng nhau sửa đổi, không phải để lợi dụng cắn xé, bới móc lẫn nhau, cuối cùng thế hệ sau lại đi vào vết xe đổ của thế hệ trước.
Điều này dẫn đến hậu quả tất yếu, dân tộc Việt Nam có độc lập và rồi lại mất độc lập, có nhà nước nhưng nhà nước nào cũng không bền vững, triều đại nào kéo dài thực chất là chấp nhận dưới sự bảo trợ, lệ thuộc của quốc gia khác.
Sự lệ thuộc vào nước láng giềng phương Bắc, có vẻ b́nh yên, thái b́nh, nhưng để phát triển có sức mạnh tự cường, xa rời sự lệ thuộc lại là điều không thể…. Và dần đi đến suy tàn…
Trong hoàn cảnh nước Việt Nam như vậy, những người yêu nước Việt Nam t́m cách sự bảo trợ của các thế lực bên ngoài để đánh đổ thực dân Pháp t́m độc lập cho Việt Nam là điều tất yếu.
Người t́m sự hỗ trợ về sức mạnh vũ khí, người đi t́m đường lối để học hỏi, người th́ đi cầu viện ngoại bang đem quân đến giải phóng…
Với phương pháp như vậy, ranh giới giữa người yêu nước có tính thần dân tộc và với những người được cho là tay sai, bù nh́n, kẻ liếm gót khó có thể phân định và thực tế lịch sử đă trở lời, những kẻ nào to mồm nhất, vỗ ngực nói về tính tự lực, tự cường, nói về độc lập tự do chính là những kẻ lệ thuộc, bám đít ngoại bang, bán đứng chứ không phải bán rẻ dân tộc một cách có hệ thống nhất.
Bối cảnh một nước Việt Nam như vậy, không đơn giản và cực kỳ nguy hiểm chỉ là sự bới móc, lấy lịch sử ra chứng minh ai là kẻ bù nh́n, ai là kẻ liếm gót.
Vai tṛ của nghiên cứu lịch sử là t́m nguyên nhân để thấy bản chất, phê phán sự sai lầm, mục đích không phải là lên án mà là bài học kinh nghiệm, sự phán xét cuối cùng thuộc về nhân dân, thuộc về quy luật nhân quả.
(C̣n tiếp).
Ngày 17/6/1940 nước Pháp rơi vào tay phát xít Đức.
Một ngày sau tức ngày 18/6/1940 quân Nhật nhảy vào Đông Dương tấn công quân Pháp.
Người Pháp chống đối yếu ớt sau đó phải chấp nhận kư Hiệp ước Tokyo như đă đề cập trong phần 31.
Lúc đó trục phát xít đang trong thế áp đảo, làm mưa làm gió ở châu Âu, châu Phi, châu Á.
Tại Đông Dương người Nhật bắt người Pháp khai thác tài nguyên cống nạp cho họ, và bóc lột người bản xứ thông qua sưu thuế, cho nên họ giữ nguyên cơ cấu chính quyền do người pháp tạo dựng là hợp lư.
Đến cuối những năm 1943 trên các mặt trận gió đă đổi chiều, quân đồng minh chuyển sang phản công, người Nhật bắt đầu có ư nghĩ phải trực tiếp cai quản Đông Dương không chỉ đơn thuần chỉ v́ mục đích kinh tế c̣n phải gây ảnh hưởng về chính trị và họ đă mưu tính cần phải hất cẳng Pháp ra khỏi Đông Dương xây dựng một nhà nước thân Nhật.
Tháng 8/1944 nước Pháp được giải phóng, trước t́nh h́nh người Pháp dựa vào sức mạnh của đồng minh sẽ quay trở lại phản công ở Đông Dương.
Kế hoạch đảo chính Pháp và xây dựng một nhà nước Việt Nam độc lập thân Nhật được người Nhật gấp rút xúc tiến.
Ngày 9/3/1945 Nhật tấn công Pháp trên toàn Đông Dương, người Pháp đă khôn khéo đầu hàng nhanh chóng tránh một cuộc đổ máu vô ích v́ họ đă tiên lượng được ngày sụp đổ của nước Nhật.
Sau khi chiếm được Đông Dương, người Nhật tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam, và nhà nước mang tên Đế Quốc Việt Nam ra đời như đă đề cập trong phần 32.
Đến đây một câu hỏi được đặt ra, tại sao người Nhật không chọn ai khác mà chọn Trần Trọng Kim làm thủ tướng?
Việc người Nhật giữ Bảo Đại làm vua đă được phân tích ở phần 32 cho nên không đề cập đến nữa.
Sử sách của chế độ cộng sản cứ động đến tư bản, đế quốc, thực dân, phong kiến là rêu rao chẳng có ǵ tốt đẹp, tất cả chỉ là dă tâm độc ác, áp bức và bóc lột.
Những người Việt Nam làm việc, cộng tác với các thành phần này đều là tay sai, bù nh́n, liếm gót, phản nước hại dân…
Nhưng chẳng có kẻ nào trong chính quyền cộng sản trả lời chính xác câu hỏi: Tại sao thực dân, đế quốc xấu xa như thế họ lại giàu mạnh? Tại sao tất cả những người yêu nước Việt Nam phải ra nước ngoài, đến châu Âu, Nhật Bản, Mỹ để học hỏi, khẩn cầu sự hỗ trợ t́m con đường độc lập cho Việt Nam, trong đó có Hồ Chí Minh?
Người Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam có bao nhiêu % mưu đồ biến Việt Nam thành lệ thuộc và bao nhiêu % họ có thành ư muốn nhà nước Đế Quốc Việt Nam có một chính phủ hoạt động hiệu quả, với các cá nhân có đầy đủ năng lực, phẩm chất điều hành quốc gia?
Lần theo các tư liệu lịch sử, bối cảnh quốc tế và xă hội Việt Nam lúc đó chúng ta sẽ càng ngày, càng t́m ra sự thật, và càng thấy thật đau thương khi dân tộc Việt Nam có cơ hội để thành quốc gia phát triển hội nhập với thế giới, cuối cùng đến phút chót lại đánh rơi cơ hội ngh́n năm có một đế quay về ngh́n năm Bắc thuộc.
Nước Nhật trở thành đế quốc hùng mạnh sau thời kỳ Minh trị, cởi bỏ những giáo lư, giáo điều phương Đông hướng đến các giá trị tư tưởng và giáo dục từ phương Tây, xây dựng một nhà nước quân chủ với một hiến pháp mới…
Họ bê nguyên mẫu h́nh thái nhà nước Nhật Bản áp dụng cho nhà nước Đế Quốc Việt Nam đấy là điều tất nhiên và là hướng đi đúng đắn.
Chính v́ vậy, việc giữ nguyên ngôi báu cho Bảo Đại là một tính toán hợp lư và có thiện ư.
Trong t́nh h́nh xă hội Việt Nam đang loạn các đảng phái, hầu hết bị ảnh hưởng và nương cậy vào Trung Hoa dân Quốc, cùng với việc du nhập chủ nghĩa cộng sản từ Liên Xô, những người được cho là thành phần trí thức vẫn không thoát nhận thức từ nền giáo dục Nho giáo, một số khác do người Pháp đào tạo lại không tin vào người Pháp sẽ đem đến độc lập cho Việt Nam, họ chấp nhận làm việc cho người Pháp để mưu sinh… hỏi trong đám người theo đảng này, đảng kia, giữa các đảng lại đấu đá với nhau về đường lối… người Nhật sẽ chọn ai làm thủ tướng?
Rơ ràng người Nhật sẽ không t́m những kẻ có tiếng tăm trong số các đảng phái hiện có lúc ấy là hoàn toàn có lư.
Dù là một chính phủ bù nh́n hay ǵ đi nữa, với tính cách của người Nhật họ cần những người có thực lực về tŕnh độ, có phẩm chất cống hiến, tự trọng, có kỹ năng quản trị, được đào tạo theo Tây học để điều hành chính phủ.
Và Trần Trọng Kim là người Nhật t́m ra và nhắm tới.
Trần Trọng Kim có đầy đủ yếu tố hội tụ theo tiêu chí của người Nhật, ông không theo một đảng phái nào, là một người nghiên cứu lịch sử ông ủng hộ một nhà nước quân chủ v́ cho đấy là một nhà nước phù hợp nhất, không phải như nhà cầm quyền cộng sản bêu riếu ông là người có đầu óc nô lệ muốn duy tŕ một xă hội phong kiến lỗi thời…
Trong phần nói về tiểu sử thân thế Trần Trọng Kim ở phần 35 đă xác nhận tính logic để trả lời câu hỏi: Tại sao người Nhật chọn ông làm thủ tướng của nhà nước Đế Quốc Việt Nam.
(C̣n tiếp)
PHẦN 37.
HỒNG PHÚC DÂN TỘC.
Người Nhật nhắm đích đến Trần Trọng Kim và tiếp cận ông một cách khéo léo v́ họ không muốn ông hiểu lầm mà từ chối sự lựa chọn của họ.
Sau Hiệp ước Tokyo trên danh nghĩa người Pháp vẫn cai quản Đông Dương quản lư hành chính. Mật thám Pháp vẫn theo dơi các cá nhân và đảng phái chính trị có tư tưởng chống Pháp. Những người có quan hệ với người Nhật cũng nằm trong số đó.
Tuy nhiên những người này cũng được tự do hơn, và mật thám Pháp chỉ gây khó dễ khi dựa vào các nguyên cớ khác tránh sự can thiệp của Nhật.
Trần Trọng Kim là nhà sư phạm mẫu mực, có uy tín trong xă hội, giữ nhiều chức vụ trong ngành giáo dục thời Pháp thuộc như: Thanh tra Tiểu học (1921)
Trưởng ban Soạn thảo Sách Giáo khoa Tiểu học (1924), dạy Trường Sư phạm thực hành 1931
Giám đốc các trường nam tiểu học tại Hà Nội (1939)
Từ thập niên 1910 đến thập niên 1940, ông cũng viết nhiều sách về sư phạm và lịch sử. Ngoài ra ông c̣n tham gia các hoạt động xă hội. Ông là Phó trưởng ban Ban Văn học của Hội Khai trí Tiến Đức, Nghị viên Viện Dân biểu Bắc Kỳ, Trưởng ban nghiên cứu Phật học của Hội Bắc kỳ Phật giáo…
Vị trí xă hội và công việc cho nên ông tiếp xúc nhiều với khách quốc tế nghiên cứu về lịch sử, văn hoá, giáo dục trong đó có cả người Nhật cho nên mật thám Pháp vẫn bí mật theo dơi ông.
Tháng 10/ 1943 Hiến binh Nhật gặp Trần Trọng Kim nói, người Pháp có ư định bắt ông và khuyên ông nên lánh sang nơi Hiến binh Nhật đóng.
Tại đây ông gặp Dương Bá Trạc.
Theo như trong cuốn “Một cơn gió bụi” Trần Trọng Kim có viết:
Ông Dương Bá Trạc là một nhà văn học, đỗ cử nhân từ thủa mới 16 tuổi, v́ t́nh nước mà bỏ không ra làm quan, theo ông Phan Bội Châu đi làm cách mệnh, đă từng phải đày ra Côn Lôn và phải cưỡng bách lưu trú mấy năm ở nam kỳ. Ông cùng với tôi là bạn làm bộ Việt Nam Tự Điển ở ban văn học hội Khai Trí Tiến Đức.
Tôi trông thấy ông Dương, cười bảo:
- Sao bác lại vào đây?.
Ông Dương nói:
- Ḿnh đi ra ngoài đường định lui về quê, bị bọn hiến binh Nhật mời lên xe đưa vào đây. Nghe đâu ở ngoài phố họ bắt lung tung cả, chưa biết rơ những ai.
Sau một lúc chuyện tṛ về t́nh cảnh của nhau, ông Dương nói:
- Bây giờ chúng ta lâm vào cảnh này thật là khó quá. Dù rồi ra chúng ta có về nhà nữa, người Pháp cũng chẳng để yên. Chi bằng chúng ta nói với hiến binh Nhật cho chúng ta ra ngoài để gặp ông Cường Để, ta sẽ bàn cách làm việc ǵ có ích lợi cho tương lai nước nhà.
- Ông Cường Để th́ chỉ có bác quen mà thôi, và nghe nói ông ấy đă ủy quyền cho ông Ngô Đ́nh Diệm và Huỳnh Thúc Kháng tổ chức mọi việc, tôi chạy theo ông ấy th́ có ích ǵ?
- Ông Cường Để là người chính phủ Nhật Bản đă giúp đỡ, ta ra cùng làm việc với ông ấy, rồi xin cùng người Nhật cho cả ông Huỳnh Thúc Kháng và ông Ngô Đ́nh Diệm ra nữa, ta sẽ lập thành một cơ quan ở hải ngoại, thu thập hết thảy những nhà cách mệnh đă ở ngoài về một chổ th́ sự hành động của ta sẽ có ư nghĩa lắm. Chẳng hơn là cứ lẩn nấp ở trong nước, để cho người Pháp chực bắt bớ.
Tôi nghe ông Dương nói cũng bùi tai, liền bàn nhau viết thư xin người Nhật giúp chúng tôi ra ngoài.
Cách mấy hôm, viên thiếu tá hiến binh Nhật ở Hà Nội đến thăm chúng tôi và nói:
- Việc các ông xin ra ngoài là rất phải, để tôi vào Sài g̣n hỏi ư kiến tư lệnh bộ trong ấy, lệnh trên định thế nào, tôi sẽ nói cho các ông biết.
Chúng tôi đợi ở khách sạn đến gần ba tuần lễ, viên thiếu tá mới trở về và đến nói cho chúng tôi biết:
- Tư lệnh bộ cho hay các ông đi đâu bây giờ cũng không tiện, chỉ có ra Chiêu Nam Đảo (Bây giờ là Singapore) là yên ổn hơn cả. Các ông ra đấy rồi ông Cường Để cũng sắp về đấy cùng các người khác nữa sẽ họp nhau làm việc, rất là thuận tiện.
Chúng tôi nghĩ miễn là ḿnh thoát ra khỏi cái cảnh eo hẹp này là được, vậy có ra Chiêu Nam Đảo cũng chả sao. Chúng tôi nhận đi.
Rơ ràng là người Nhật đă có tính toán và xây dựng kịch bản để lôi kéo Trần Trọng Kim và Dương Bá Trạc làm việc cho họ và chuẩn bị nhân sự cho nội các của nhà nước Đế Quốc Việt Nam sau khi họ tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam.
Thông qua Dương Bá Trạc người Nhật đă thành công kéo Trần Trọng Kim hợp tác và làm việc với họ.
Về phần Trần Trọng Kim trong cái gọi bước đường cùng vào một thời điểm t́nh trạng xă hội Việt Nam phức tạp như thế, ông miễn cưỡng hợp tác với người Nhật, hy vọng mong manh vào sự biến đổi của thời cuộc.
Hỏi ông có thực sự tin tưởng vào nền độc lập của Việt Nam một cách hoàn toàn dựa trên sự bảo trợ của Pháp, người Nhật hay người Tàu … ông nói thẳng chẳng bao giờ có điều đó, nó chỉ là ảo tưởng.
Nhưng có cơ hội Việt Nam trở thành nước có độc lập dù trên danh nghĩa cũng phải tận dụng cơ hội này.
Ông viết:
Trong khi nước Pháp đang bị cái nạn chiến tranh, người Pháp đối với người Việt Nam không đổi thái độ chút nào, mà người Nhật th́ lại muốn lợi dụng ḷng ái quốc của người Việt Nam để quyến dụ người ta theo ḿnh.
Người Việt Nam không phải là không hiểu cái tâm địa người Nhật, song có nhiều người muốn thừa cái cơ hội hiện tại mà phá vỡ cái khuôn khổ bé hẹp nó ràng buộc ḿnh đă bao lâu để gây ra cái không khí mới, rồi sau thế nào cũng t́m cách đối phó.
Phần nhiều người trí thức trong nước đều có cái quan niệm ấy, nhưng v́ thế lực không đủ, cho nên không ai hành động ǵ cả, trừ một bọn người hoặc v́ ḷng nóng nảy, hoặc v́ ḷng ham danh lợi chạy theo người Nhật.
Nước Nhật Bản trước vốn là một nước đồng văn đồng hóa ở Á Đông, nhưng về sau đă theo Âu Hóa, dùng những phương pháp quỉ quyệt để mở rộng chủ nghĩa đế quốc của họ, trước đă thôn tính Cao Ly và Măn Châu, sau lại muốn xâm lược nước Tàu và các nước khác ở Á Đông đă bị người Âu Châu chiếm giữ.
Người Nhật tuy dùng khẩu hiệu đồng minh cộng nhục và lấy danh nghĩa giải phóng các dân tộc bị hà hiếp, nhưng thâm ư là muốn thu hết quyền lợi về ḿnh.
Bởi vậy chính sách của họ thấy đầy những sự trái ngược, nói một đàng làm một nẻo. Cái chính sách ấy là chính sách bá đạo rất thịnh hành ở thế giới ngày nay. Dùng lời nhân nghĩa để nhử người ta vào cḥng của ḿnh mà thống trị cho dễ, chứ sự thực th́ chỉ v́ lợi mà thôi, không có ǵ là danh nghĩa cả.
Trong hoàn cảnh khó khăn ấy tôi phải nén ḿnh ngồi yên. Song ḿnh muốn ngồi yên mà người ta không để cho yên. Hết người này đến nói chuyện lập hội này, người khác đến nói chuyện lập đảng nọ. Đảng với hội ǵ mà tinh thần không có, sự tổ chức chẳng đâu ra đâu th́ càng nhiều đảng và hội bao nhiêu lại càng thêm rối việc bấy nhiêu, chứ có ích ǵ? Bởi vậy đối với ai, tôi cũng lấy ḷng ngay thẳng mà đáp lại, nhưng không đồng ư với ai cả.
(C̣n tiếp)
PHẦN 38.
HỒNG PHÚC DÂN TỘC.
Ngày 1/1/1944 Trần Trọng Kim và Dương Bá Trạc rời Sài G̣n đi Singapore.
Tại Singapore Dương Bá Trạc ốm và chết.
Trần Trọng Kim rời Singapore về Việt Nam ngày 16/1/1945 theo đường tàu hỏa, qua Malaysia đến Băng Cốc, Thái Lan ở lại đó và về Sài G̣n bằng máy bay ngày 29/3/1945.
Trong thời gian ông lưu lại Băng Cốc chính là thời điểm Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945).
Khi Trần Trọng Kim về đến Sài G̣n người Nhật thông báo cho ông về việc trao trả độc lập cho Việt Nam, và thành lập chính phủ của nhà nước Đế Quốc Việt Nam.
Họ đưa cho ông xem danh sách những người được Bảo Đại mời về Huế yết kiến bao gồm: Hoàng Trọng Phu, Vũ Ngọc Oánh, Trịnh Bá Bích, Hoàng Xuân Hăn, Cao Xuân Cẩm và Trần Trọng Kim.
Điều làm ông ngạc nhiên trong danh sách này không có Ngô Đ́nh Diệm mà có tên ông.
Ông nói với viên trung tướng tham mưu trưởng của bộ tư lệnh Nhật:
- Tôi không có hoạt động ǵ, và không có phe đảng nào cả. Gọi tôi về Huế không có ích lợi ǵ. Xin cho tôi ra Hà Nội thăm nhà và uống thuốc.
Trung tướng nói:
- Đó là ư của vua Bảo Đại muốn hỏi ông về việc lập chính phủ mới, ông cứ ra Huế rồi sẽ biết.
Người Nhật rất cẩn thận trong kế hoạch đưa Trần Trọng Kim lên làm thủ tướng, để cho ông yên tâm làm việc họ đă đưa vợ con ông từ Hà Nội vào Huế mà không nói ǵ với ông. Khi ông ra Huế yết kiến Bảo Đại ông đă gặp gia đ́nh ở đó.
Mọi việc ở Huế cũng được người Nhật và Bảo Đại chuẩn bị kỹ lưỡng cho các sinh hoạt riêng của ông. Gia đ́nh ông được bố trí ở ngay trong hoàng cung, nơi ở trước đây của một sĩ quan quân đội Pháp.
Trần Trọng Kim chưa bao giờ gặp Bảo Đại, chỉ biết đến Bảo Đại như một kẻ chán nản với quốc sự không làm ǵ cả, chỉ săn bắn và tập thể thao.
Ngày 7/4/1945 Trần Trọng Kim vào yết kiến Bảo Đại.
Bảo Đại nói:
- Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đă không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên bộ thượng thư đă tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải đứng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ để đối phó với mọi việc.
Ông tâu rằng:
- Việc lập chính phủ, ngài nên dùng những người đă dự định từ trước, như Ngô Đ́nh Diệm chẳng hạn, để có tổ chức sẵn sàng. Tôi nay th́ phần già yếu bệnh tật, phần th́ không có đảng phái và không hoạt động về chính trị, tôi xin ngài cho tôi về nghỉ.
Bảo Đại nói:
- Trẫm có điện thoại gọi cả Ngô Đ́nh Diệm về, sao không thấy về.
Ông tâu:
- Khi tôi qua Sài g̣n, có gặp Ngô Đ́nh Diệm và ông ấy bảo không thấy người Nhật nói ǵ cả. Vậy hoặc có sự ǵ sai lạc chăng. Ngài cho điện lần nữa gọi ông ấy về. C̣n tôi th́ xin ngài cho ra Bắc.
Bảo Đại nói:
- Vậy ông hăy ở đây nghỉ ít lâu, xem thế nào rồi hăy ra Bắc.
Trần Trọng Kim chờ gần mười ngày để đợi thông tin về Ngô Đ́nh Diệm
Người Nhật nói chưa biết ông Diệm ở đâu, lúc nói ông Diệm đau chưa về được.
Sau này người nói Ngô Đ́nh Diệm đánh giá t́nh h́nh nhà nước Đế Quốc Việt Nam chẳng thể tồn tại nên đă lảng tránh, người th́ bảo người Nhật cản trở không muốn Ngô Đ́nh Diệm ngồi vào vị trí thủ tướng.
Nhưng xem ra với việc người Nhật có kế hoạch bài bản với Trần Trọng Kim từ năm 1943 nên Ngô Đ́nh Diệm không được họ lựa chọn và họ ngăn cản một cách khéo léo để không bị mang tiếng can thiệp quá sâu vào công việc nội bộ.
Vua Bảo Đại thấy t́nh thế kéo dài măi cũng sốt ruột, triệu Trần Trọng Kim vào bảo lập chính phủ mới.
Bảo Đại nói:
- Trước kia người ḿnh chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng ḿnh cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ th́ người Nhật bảo ḿnh bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên v́ nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.
Trần Trọng Kim thấy vua Bảo Đại thông minh và am hiểu t́nh thế, liền tâu rằng:
- Nếu v́ quyền lợi riêng tôi không dám nhận chức ǵ cả, xong ngài nói v́ nghĩa vụ đối với nước, th́ dù sao tôi cũng cố hết sức. Vậy xin ngài cho tôi vài ngày để tôi t́m người, hễ có thể được tôi xin tâu lại. Tôi ra bàn với ông Hoàng Xuân Hăn để t́m người xứng đáng làm bộ trưởng. Nguyên tắc của tôi định trước là lựa chọn những người có đủ hai điều kiện. Một: phải có đủ học thức và tư tưởng về mặt chính trị, hai: phải có đức hạnh chắc chắn để dân chúng kính phục.
Theo Trần Trọng Kim cách lựa chọn như thế cũng khó, v́ từ lâu nay chỉ có những người mềm lưng khéo thù phụng mới được ngôi cao, quyền cả, c̣n những người ngay chính ẩn nấp ở đâu đâu, ít khi biết được. Người xu danh trục lợi th́ rất nhiều, nhưng không phải là người đương nổi những việc trong thời kỳ khó khăn như ngày hôm nay.
Có một điều Trần Trọng Kim có nhắc đến:
Trong khi tôi chọn người lập chính phủ lúc ấy, người Nhật Bản không bao giờ hỏi tôi chọn người này người kia. Tôi được hoàn toàn tự chủ t́m lấy người mà làm việc. Và tôi đă định từ trước rằng nếu người Nhật can thiệp vào việc trong nước th́ tôi thôi ngay, không làm nữa.
Đến ngày cuối cùng tôi chọn được đủ người rồi kê rơ danh sách các bộ trưởng như sau:
Trần Trọng Kim, giáo sư, Nội Các Tổng Trưởng Trần Đ́nh Nam, y sĩ, Nội Vụ Bộ Trưởng Trần Văn Chương, luật sư, Ngoại Giao Bộ Trưởng Trịnh Đ́nh Thảo, luật sư, Tư Pháp Bộ Trưởng Hoàng Xuân Hăn, toán học thạc sĩ, Giáo Dục và Mỹ Nghệ Bộ Trưởng Vũ Văn Hiền, luật sư, Tài Chánh Bộ Trưởng Phan Anh, luật sư, Thanh Niên Bộ Trưởng Lưu Văn Lang, kỹ sư, Công Chính Bộ Trưởng Vũ Ngọc Anh, y khoa bác sĩ, Y Tế Bộ Trưởng Hồ Bá Khanh, y khoa bác sĩ, Kinh Tế Bộ Trưởng Nguyễn Hữu Thi, cựu y sĩ, Tiếp Tế Bộ Trưởng.
Chừng mười giờ sáng ngày 17 tháng tư năm 1945, Trần Trọng Kim đem danh sách ấy vào tŕnh vua Bảo Đại.
Vào đến nơi, ông thấy có Yokohama, tối cao cố vấn Nhật, đă ngồi ở đó.
Yokohama thấy liền hỏi ông:
- Cụ đă lập thành chính phủ rồi à?.
Ông nói:
- Vâng, hôm nay tôi đem danh sách các bộ trưởng vào tâu tŕnh hoàng thượng để ngài chuẩn y.
Ông đệ tŕnh, vua Bảo Đại xem xong phán rằng:
- Được.
Khi ấy Yokohama nói:
- Xin cho tôi xem là những ai.
Ông ta xem rồi, trả lại Trần Trọng Kim và nói:
- Tôi chúc mừng cụ đă chọn được người rất đứng đắn.
Sự thực là thế, chứ không như người ta đă tưởng tượng là người Nhật Bản bắt tôi phải dùng những người của họ đă định trước.
(C̣n tiếp).
PHẦN 39.
Nhà nước Đế Quốc Việt Nam được thành lập ngày 11/3/1945 và tuyên bố giải thể ngày 24/8/1945.
Nội các chính phủ do Trần Trọng Kim làm thủ tướng chính thức có hiệu lực sau khi Bảo Đại phê chuẩn nhân sự ngày 17/4/1945 cũng giải tán sau khi vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị.
Như vậy chính phủ của Trần Trọng Kim tồn tại hơn 4 tháng, đây là nhà nước cùng với chính phủ của nó có tuổi thọ ngắn thứ hai trong lịch sử thế giới (Somaliland là quốc gia sở hữu thời gian tồn tại ngắn nhất lịch sử chỉ trong 5 ngày).
Trần Trọng Kim nhận chức thủ tướng khi ấy ông 52 tuổi và chết năm 1953 hưởng thọ 60 tuổi.
Cũng cần biết thêm rằng, vào thời kỳ này tuổi thọ trung b́nh của người Việt Nam là 38 th́ Trần Trọng Kim lên làm thủ tướng có thể được coi là người có tuổi và sức khỏe của ông không tốt, việc ông nhận làm thủ tướng không phải tham vọng cá nhân mà chính v́ trọng trách của một người yêu đất nước ông đă nhận lời.
Về phán xét lịch sử, theo sử liệu chính thống của nhà nước do chính quyền cộng sản công bố về Nhà nước Đế Quốc Việt Nam và chính phủ của Trần Trọng Kim có mấy điểm chính như sau:
- Đế quốc Việt Nam chưa thể trở thành một nhà nước chính danh, một người đại diện hợp pháp của nhân dân Việt Nam v́ không thông qua tổng tuyển cử không có hiến pháp và quân đội…
- V́ lẽ đó Nhà nước Đế Quốc Việt Nam không phải là Nhà nước Quân chủ lập hiến mà vẫn là nhà nước phong kiến chuyên chế.
- Nhà nước Đế Quốc Việt Nam là tay sai, bù nh́n do Nhật Bản dưng lên, thậm chí chính phủ Trần Trọng Kim phải chịu trách nhiệm về nạn đói khiến gần hai triêu người bị chết, và Trần Trọng Kim bị lên án là “quyết tâm phục vụ quan thầy Nhật đến cùng”
Vậy đâu là sự thật lịch sử?
Lịch sử không phải là kẻ phán xét, lịch sử là ánh sáng soi rơ các sự kiện, và nhân vật trong tổng thể của một giai đoạn, một thời kỳ với những bối cảnh bị chi phối có quan hệ ràng buộc … có chủ quan, khách quan để mọi người nh́n nhận, đánh giá đúng bản chất…
Vấn đề thuộc địa là một tồn tại của lịch sử nó là yếu tố khách quan trong sự phát triển của xă hội loài người, khi các quốc gia phương Tây đă có những tiến bộ vượt bậc trong các cuộc cách mạng khoa học trở thành những đế quốc hùng mạnh. Việc t́m kiếm các nguồn tài nguyên, mở rộng thị trường dẫn đến các cuộc chinh phạt và ra đời các nước thuộc địa.
Tại các nước thuộc địa tất cả các nhà nước sở tại đều dưới sự bảo hộ của chính quốc, điều này nghiễm nhiên tồn tại hàng trăm năm và đến năm 1960 Liên Hợp Quốc mới có TUYÊN BỐ VỀ TRAO TRẢ ĐỘC LẬP CHO CÁC NƯỚC VÀ CÁC DÂN TỘC THUỘC ĐỊA, 1960.
Xin nhắc lại chiến tranh thế giới thứ hai sắp kết thúc các nước đồng minh chủ chốt là Mỹ, Anh, Liên Xô nhóm họp với nhau tại Posdam ngày 21/7/1945 đă bàn đến chuyện phân chia lại thế giới, không hề đả động đến việc trao trả độc lập cho các nước thuộc địa, thêm vào đó nhiều quốc gia có chủ quyền bị xoá sổ và sát nhập …
Bối cảnh Việt Nam lúc đó đ̣i dành độc lập chỉ là câu chuyện hoang tưởng sau này nghĩ ra.
Và lịch sử đă chứng minh, khi nhà nước Đế Quốc Việt Nam giải thể, nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà ra đời nhưng người Pháp cũng chỉ công nhận nền độc lập của Việt Nam theo những quy định do họ áp đặt trong Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946), tiếp theo là Hội nghị Fontainebleau thuộc tỉnh Seine-et-Marne, Pháp từ ngày 6 tháng 7 năm 1946 cho đến trung tuần tháng 9, 1946.
Và kết thúc bằng Tạm ước Việt – Pháp hay Thỏa hiệp Việt – Pháp được kư ngày 14 tháng 9 năm 1946.
Dù có những sự cởi mở và nới lỏng về quyền tự chủ cho nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà, qua mấy ṿng đàm phán cuối cùng Hồ Chí Minh chấp nhận kư Tạm ước đồng ư Việt Nam trong khối Liên hợp Pháp và không đả động ǵ đến việc người Pháp trả lại Nam Kỳ cho Việt Nam.
Sau khi kư Tạm ước 1946 Hồ Chí Minh đă thốt lên : "Tôi vừa mới kư một bản án tử h́nh của tôi!"
Ông không dám lên máy bay từ Pháp về Việt Nam mà xuống Toulouse đi tàu biển và hơn một tháng sau mới về đến Hà Nội.
Hồ Chí Minh biết không thể có độc lập từ Pháp, và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà không được nước nào công nhận ngay cả Liên Xô cũng làm ngơ, ông xé Tạm ước kéo quân lên rừng kháng chiến.
(C̣n tiếp)
Nội các của Trần Trọng Kim tập hợp được những trí thức có tiếng lúc bấy giờ, thành phần nội các ra mắt ngày 19 tháng 4, trong đó có:
Bác sĩ Trần Đ́nh Nam - Bộ trưởng Bộ Nội vụ
Luật sư Trịnh Đ́nh Thảo - Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Kỹ sư Lưu Văn Lang - Bộ trưởng Công chính
Bác sĩ Hồ Tá Khanh - Bộ trưởng Bộ Kinh tế
Luật sư Phan Anh - Bộ trưởng Bộ Thanh niên
Thạc sĩ Hoàng Xuân Hăn - Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ nghệ
Cựu Tổng đốc tỉnh Thái B́nh là Phan Kế Toại được bổ làm Khâm sai Bắc Kỳ c̣n Nguyễn Văn Sâm làm Khâm sai Nam Kỳ đại diện cho triều đ́nh Huế ở ngoài Bắc và trong Nam. Tại Hà Nội, Phan Kế Toại tiếp thu phủ Thống sứ và Trần Văn Lai nhậm chức ở ṭa Đô chính trước đám đông dân chúng đến chứng kiến việc thu hồi độc lập trên danh nghĩa.
Nh́n vào danh sách các Bộ trưởng trong nội các của chính phủ Trần Trọng Kim dễ nhận thấy, họ được đào tạo rất bài bản trong những ngành nghề trụ cột của xă hội hiện đại: Kỹ sư, bác sĩ, luật sư, giáo học… Có thể nói đây là một chính phủ có tŕnh độ, liêm chính và phẩm chất nhất từ trước đến ngày nay.
Một đặc điểm nổi bật là các thành viên chính phủ không phải là đảng viên của bất kỳ đảng phái nào, Trần Trọng Kim không muốn một nội các mâu thuẫn v́ có các đảng phái nằm trong đó.
Ông muốn những người có tài, nhiệt huyết và hết ḷng phụng sự quốc gia một cách tự nguyện mà không bị ràng buộc vào cương lĩnh chính trị, tôn chỉ của đảng phái nào cho thêm rối rắm phức tạp…
T́nh thế lúc ấy với mục tiêu do chính phủ Trần Trọng Kim đề ra thành phần nội các này là hợp lư, v́ mục đích của ông cần có những con người có khả năng kỹ trị giải quyết được các công việc cụ thể, không phải những nhà chính trị với nhiệt huyệt suông trong mớ lư luận rối rắm và không có kiến thức, không có học vấn…
Xét về thế và lực các lực lượng chính trị của Việt Nam tại thời điểm ấy không đủ sức dành độc lập cho Việt Nam.
Người Nhật hất cẳng người Pháp trong cơn tuyệt vọng sắp bại trận đă đưa món quà “Độc lập” cho Việt Nam theo toan tính của họ, lấy người Việt để chống lại người Pháp thông qua một nhà nước do họ dựng lên, đây là một cơ hội, dù rằng chưa thế độc lập hoàn toàn.
Bảo Đại và Trần Trọng Kim có biết điều này không? Họ biết điều này, họ trao độc lập cho th́ ta cứ nhận, trên danh nghĩa có độc lập sẽ đ̣i hỏi các quyền lợi một cách từ từ, trước mắt chính phủ phải giải quyết được các công việc cụ thể phải làm:
Trước hết Chính phủ trung ương phải kết nối hệ thống tất cả những cơ quan quan hệ đến chính trị chung cả nước như quốc pḥng, ngoại giao, tài chánh, giáo dục v...v... C̣n về đường cai trị th́ chia nước ra mấy địa phương, đại khái như Bắc Bộ Địa Phương, Trung Bộ Địa Phương và Nam Bộ Địa Phương.
Mỗi địa phương được quyền tự trị về phương diện cai trị và kinh tế. Các cơ quan hành chính các địa phương do chính phủ trung ương chọn người bản xứ cử ra và có các nhân vật hội nghị kiểm duyệt.
Khi c̣n chờ có hiến pháp và sự tuyển cử phân minh, các cơ quan hành chính ở các địa phương hăy tạm cử những nhân vật xứng đáng ra xung chức địa phương tư vấn nghị viên. Chính sách địa phương tự trị như thế có nhiều điều tiện lợi và hợp với t́nh thế từng xứ về đường cai trị và đường kinh tế, mà không hại ǵ cho sự thống nhất của nước nhà.
Người Nhật tuy trao trả độc lập cho Việt Nam, họ chỉ
trả đất bắc bộ, nhưng vẫn giữ những thành thị Hà Nội, Hải Pḥng, Đà Nẵng và xứ nam bộ. Nhật lại giữ hết những cơ quan trọng yếu như sở công an, sở tuyên truyền và các công sở thuộc phủ toàn quyền cũ của Pháp, như nha học chính, nha tư pháp, sở bưu điện, sở công chánh, sở tài chính v...v... và việc phải điều đ́nh với người Nhật để thu lại những lănh thổ nước nhà là trọng tâm được Trần Trọng Kim đặt ra giải quyết.
Nạn đói năm 1945 thêm một gánh nặng với chính phủ Trần Trọng Kim.
Dù phạm vi hoạt động có giới hạn, chính phủ Trần Trọng Kim cố gắng để vận chuyển gạo chống nạn đói.
Bộ trưởng Tiếp tế Nguyễn Hữu Thí được gửi vào Sài G̣n sắp xếp việc vận chuyển gạo từ Nam ra Trung Bộ và Bắc Bộ.
Các hải cảng xa Sài G̣n được dùng làm điểm khởi hành để tránh Mỹ oanh tạc. Tư nhân được phép tự do chuyên chở và mua bán gạo. Để ngăn hành vi gian dối, chính phủ ra lệnh kiểm soát giá cả và tồn kho lúa gạo.
Người vi phạm có thể bị tử h́nh hoặc tịch thu tài sản. Ty Liêm phóng Kinh tế Bắc Bộ, do Nguyễn Duy Quế đứng đầu, thành lập để ngăn chặn việc buôn lậu.
Vào cuối tháng 3, tất cả các hội cứu tế miền Bắc tập hợp lại thành Tổng Hội Cứu tế do Nguyễn Văn Tố cầm đầu, và đẩy mạnh lạc quyên cũng như chẩn tế.
Từ tháng 3 tới tháng 5, Tổng Hội quyên được 783.403 đồng. Tại Nam Bộ, trong tháng 5 hơn 20 hội chẩn tế ra đời, và trong ṿng một tháng các tổ chức trên quyên được 1.677.886 đồng, kể cả 481.570 đồng để mua và chuyên chở 1.592 tấn gạo.
Riêng việc chưa xây dựng Hiến pháp và không có Bộ Quốc pḥng điều mà sau này bị nhà nước cộng sản chỉ trích như ở phần trên đề cập hoàn toàn vô căn cứ trong t́nh thế lúc ấy, và nó đă được chính phủ Trần Trọng Kim toan tính hợp lư nhất phù hợp với hoàn cảnh.
Hiến pháp tất nhiên phải do quốc hội phê chuẩn, không phải do chính phủ nên cần phải có tổng tuyển cử.
Hỏi rằng trong 4 tháng cầm quyền có kịp làm được không? Và có đúng tŕnh tự của một quốc gia dân chủ?
C̣n tại sao nội các chính phủ không có Bộ Quốc pḥng?
Đế quốc Việt Nam không thành lập Bộ quốc pḥng để tránh bị Nhật Bản lôi kéo tham gia chiến tranh thế giới thứ hai với tư cách đồng minh của Nhật Bản.
Không có quân đội người Nhật sẽ không có cớ ép tham gia chiến tranh, bị đẩy vào các cuộc đàn áp chống lại phong trào yêu nước … đây là một sách lược đúng đắn, nếu yêu cầu người Nhật trang bị vũ khí thành lập quân đội sẽ vừa ảo tưởng, vừa sai lầm.
Trên thực tế chẳng có kẻ đô hộ nào trang bị quốc pḥng, xây dựng quân đội cho nước thuộc địa để chống lại ḿnh.
Người Pháp khi đô hộ ngay ở kinh thành Huế cũng chỉ có hơn một trăm lính bảo an trang bị vũ khí cá nhân, mỗi một tỉnh cũng chỉ có vài chục lính lệ.
(C̣n tiếp).
Theo như Trần Trọng Kim viết lại, tháng 10/1942 các đảng phái chính trị Việt Nam được bảo trợ của Trung Hoa dân Quốc như Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội... và một số nhân vật không đảng phái như Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần, Trần Báo, Trương Trung Phụng … nhóm họp ở Liễu Châu, Trung Quốc thành lập ra Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội.
Nông Kính Du,Hồ Chí Minh được cử làm hậu bổ ủy viên và Trần Báo làm tổng cán sự.
Điều này không chính xác v́ Hồ Chí Minh đang bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam giữ từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943 mới được thả.
Có một câu hỏi cần được giải đáp là:
Cái tên Hồ Chí Minh có từ bao giờ?
Hồ Chí Minh từ Việt Nam quay lại Trung Quốc vào tháng 8/1942 bị bắt v́ lư do giấy tờ tuỳ thân do chính quyền Tưởng Giới Thạch cấp đều có tên Hồ Chí Minh vào năm 1940 đă hết hạn sử dụng.
Với kế hoạch quay trở về Việt Nam (28/1/1941) thiếu tá Bát Lộ Quân Hồ Quang (Nguyễn Ái Quốc) đă được các đồng chí Trung Quốc đưa sang một cái tên mới, và họ đă làm giấy tờ cho Hồ Quang thành Hồ Chí Minh để dễ đi lại.
Và tên Hồ Chí Minh chính thức có vào năm 1940 là câu trả lời hợp lư.
Như phần trước đă đề cập Hồ Chí Minh được chính quyền Tưởng Giới Thạch thả chủ yếu là do tác động của người Mỹ, khi Hồ Chí Minh đồng ư cộng tác với người Mỹ, mục đích của người Mỹ là tận dụng lực lượng của Việt Minh làm hậu cứ, t́nh báo, nếu quân đội Mỹ nhảy vào Đông Dương đánh Nhật. Thực chất người Mỹ lúc này biết Hồ Chí Minh là một người cộng sản nhưng họ nghĩ đấy chỉ là cách thức để Hồ Chí Minh t́m con đường độc lập cho Việt Nam.
Và Hồ Chí Minh sau khi được thả ra, ông và các đồng chí của ḿnh đă khai thác triệt để sự kiện này để tuyên truyền Việt Minh có sự ủng hộ của Mỹ và Đồng minh, khiến cho nhiều thành phần dân chúng và các đảng phái khác càng tin tưởng vào Việt Minh là một tổ chức có sự hậu thuẫn và được Mỹ cùng đồng minh công nhận.
Với chủ trương Việt Cách sẽ trở thành một đồng minh trong việc chống lại quân Nhật tại Đông Dương, tướng Trương Phát Khuê (Trung Hoa Dân quốc) phái tướng Tiêu Văn triệu tập một cuộc đại hội để chỉnh đốn Việt Cách bằng cách đưa một số người mới vào ban lănh đạo.
Hồ Chí Minh sau khi cộng tác với người Mỹ, cộng với việc ông chỉ đạo Việt Minh tuyên truyền: Việt Minh không phải là đảng cộng sản, chỉ là một mặt trận gồm tất cả các đảng phái lấy lại độc lập cho nước nhà, vậy nên từ bắc chí nam đâu cũng có người theo.
Chính v́ vậy, Trương Phát Khuê đă giới thiệu Hồ Chí Minh vào tổ chức Việt Nam cách mạng đồng minh hội.
Tiêu Văn đă trao đổi với Hồ Chí Minh, lúc này mới được chính quyền Tưởng Giới Thạch trả tự do th́ Hồ Chí Minh nói rằng hiện nay các thành viên của hội Việt Cách đều là người ở hải ngoại, chưa có đại biểu trong nước; như vậy, gọi là họp đại hội không ổn, có lẽ chỉ nên gọi là hội nghị đại biểu các đoàn thể của Việt Cách ở hải ngoại, th́ thích hợp hơn.
Hội nghị đại biểu họp tại Liễu Châu từ ngày 25 đến ngày 28 tháng 3 năm 1944, gồm 15 đại biểu các đoàn thể chưa phải là thành viên Việt Cách, trong đó có đại biểu Hội giải phóng ở Vân Nam là Lê Tùng Sơn vốn đă theo Việt Minh, đại biểu Biệt động quân ở Nam Ninh là Nguyễn Thanh Đồng cũng là Việt Minh, đại biểu Đảng Đại Việt là Nguyễn Tường Tam và đại biểu Phân hội phản xâm lược đồng minh Việt Nam là Hồ Chí Minh.
Tại hội nghị này, ba người cũ trong Ban Chấp hành trung ương bị thay ra và ở trong Ban giám sát là Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nông Kinh Du, c̣n ba người mới được thay vào là Lê Tùng Sơn, Bồ Xuân Luật và Trần Đ́nh Xuyên. Hồ Chí Minh và Nguyễn Tường Tam được bầu làm Ủy viên Trung ương dự khuyết. Sau một thời gian Trần Đ́nh Xuyên bị gạt ra, Hồ Chí Minh được trở thành Ủy viên Trung ương chính thức.
Như vậy, Hồ Chí Minh đă đi được một bước dài vào trong tổ chức của Việt Nam Cách mạng đồng minh hội.
Điều này được Việt Minh tuyên truyền rộng khắp và mọi người càng lầm tưởng Việt Minh đại diện cho tất cả đảng phái, các thành phần yêu nước của Việt Nam và Hồ Chí Minh là người đứng đầu, nên tên tuổi Hồ Chí Minh bắt đầu được nhân rộng.
Có một thực tế không thể phủ nhận, mà như Trần Trọng Kim đă nhận xét:
“Đảng Việt Minh cộng sản có tổ chức rất chu mật và theo đúng phương pháp khoa học. Trong khi ông Hồ Chí Minh ở bên Tàu để chờ đợi thời cơ, ở trong nước đâu đâu cũng có cán bộ, ngấm ngầm hành động và tuyên truyền rất khôn khéo. Họ lợi dụng ḷng ái quốc của dân chúng mà tuyên truyền Việt Minh không phải là đảng cộng sản, chỉ là một mặt trận gồm tất cả các đảng phái lấy lại độc lập cho nước nhà, vậy nên từ bắc chí nam đâu cũng có người theo.
Cách hành động của họ th́ bất cứ công sở hay tư sở, hễ đâu có một tổ chức làm việc là có người của họ chen lấn vào, hoặc để tuyên truyền, hoặc để hoạt động theo chủ nghĩa họ. Đảng viên cộng sản lại biết giữ kỷ luật rất nghiêm và rất chịu khó làm việc. Xem như Hội Truyền Bá Quốc Ngữ khi mới thành lập ở Hà Nội là có ngay những người cộng sản vào hội rồi, và những người nhận việc đi dạy học rất chăm, không quản công lao ǵ cả. Một tổ chức có kỷ luật và chịu khó làm việc như thế, làm ǵ mà không mạnh”
(C̣n tiếp)
PHẦN 43.
Sau hội nghị tại Liễu Châu, Hồ Chí Minh trở về Việt Nam. Có thể nói ông đă biến nguy thành cơ bằng cách đồng ư cộng tác với người Mỹ để đạt được mục đích chui sâu vào các đảng phái có sự bảo trợ của Trung Hoa dân Quốc và bài cộng sản.
Tưởng Giới Thạch một phần cũng muốn lôi kéo Việt Minh trong âm mưu đưa Việt Nam vào quỹ đạo Trung Quốc sau này nên đă giới thiệu Hồ Chí Minh tham gia vào tổ chức Việt Nam cách mạng đồng minh hội thông qua tướng Trương Phát Khuê.
Mặt khác Nguyễn Hải Thần cũng ủng hộ Hồ Chí Minh nên Hồ chí Minh trở thành Uỷ viên trung ương của Việt Cách thuận lợi hơn.
Việc Hồ Chí Minh đứng vào tổ chức Việt Nam cách mạng đồng minh hội cũng tạo ra sự chia rẽ trong tổ chức này, v́ một số thành viên không muốn có người của cộng sản tham gia, và sau này những nghi ngờ về tính hai mặt của Hồ Chí Minh của họ hoàn toàn có cơ sở.
Về nước trên danh nghĩa là người của Việt Cách, ông đă thúc giục Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh hội) ra sức tuyên truyền Việt Minh là một mặt trận bên cạnh Việt Cách không phải là tổ chức của những người cộng sản để có sự ủng hộ của mọi tầng lớp trong xă hội.
Người của Việt Minh thực chất là những người cộng sản đă nằm ở khắp mọi nơi, không như các đảng phái khác chủ yếu vẫn nằm bên Trung Quốc đợi thời, nên tiếng nói của Việt Minh với lá cờ đỏ sao vàng đă trở nên gần gũi và quen thuộc với đại bộ phận dân chúng.
Cương lĩnh chính trị của Việt Minh đưa ra đẹp như một bức tranh thiên đường, có sức hấp dẫn và quyến rũ đặc biệt với tầng lớp nông dân và dân nghèo:
Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập.
Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do.
Công nhân: Ngày làm tám giờ, định lương tối thiểu, công việc như nhau th́ tiền lương ngang nhau. Cứu tế thất nghiệp xă hội, bảo hiểm, cấm đánh dập, chửi mắng thợ, thủ tiêu giấy giao kèo giữa chủ và thợ, công nhân già có lương hưu trí.
Nông dân ai cũng có ruộng đất để cày cấy, giảm địa tô, cứu tế nông dân trong những nǎm mất mùa.
Binh nhân: Hậu đăi những người có công giữ ǵn Tổ quốc phụ cấp cho gia đ́nh họ được đầy đủ.
Học sinh: Bỏ học phí, bỏ giấy khai sinh, hạn tuổi, giúp đỡ học sinh nghèo.
Phụ nữ: Đàn bà được b́nh đẳng với đàn ông về mọi phương diện kinh tế, chính trị, xă hội, vǎn hóa.
Thương nhân: Bỏ ba tǎng môn bài và các thứ thuế khác do Pháp đặt ra.
Viên chức: Hậu đăi cho xứng đáng với công học tập.
Những người già và tàn tật được chính phủ chǎm nom cấp dưỡng.
Nhi đồng được chính phủ chǎm nom về trí dục và thể dục.
Đối với Hoa kiều được chính phủ bảo đảm tài sản và coi như tối huệ quốc.
Việt Minh c̣n tuyên truyền tổ chức của họ được các nước đồng minh công nhận, và Hồ Chí Minh được hậu thuẫn của người Mỹ thông qua việc ông hợp tác với cơ quan t́nh báo Mỹ OSS.
Việc Hồ Chí Minh được tướng Chennault tiếp kiến, Việt Minh tuyên truyền là một sự công nhận chính thức của Mỹ, là bằng chứng cho các đảng phái Quốc gia thấy Mỹ ủng hộ Việt Minh. Người Mỹ xem đây chỉ là một mưu mẹo của Hồ Chí Minh nhưng ông cũng đă đạt được kết quả, nên uy tín của Hồ Chí Minh ngày càng nhân rộng.
Về tổ chức, Việt Minh có một cơ chế riêng, khác hẳn với cơ chế tổ chức của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Hệ thống tổ chức, ở các xă có Ban Chấp hành Việt Minh do các đoàn thể Việt Minh ở làng hay xă cử ra;
Tổng, huyện (hay phủ, châu, quận), tỉnh, ḱ có Ban Chấp ủy Việt Minh cấp ấy;
Việt Minh toàn quốc có Tổng bộ.
Ngoài những đoàn thể cứu quốc có tính chất chính trị, cách mạng rơ rệt (như Hội Công nhân Cứu quốc, Hội Nông dân Cứu quốc, Hội Phụ nữ Cứu quốc, Hội Thanh niên Cứu quốc,...) c̣n có những đoàn thể không có điều lệ, hoạt động công khai và bán công khai như Hội Cứu tế Thất nghiệp, Hội Tương tế, Hội Hiếu hỉ, nhóm học Quốc ngữ, nhóm đọc sách, xem báo,...
Để không lộ rơ sự chỉ đạo đằng sau của những người cộng sản, ngay từ những năm 1941 khi Việt Minh mới thành lập, Hồ Chí Minh đă ra chỉ thị”
“Cần phải chú ư không nên dùng phương pháp Đảng mà tổ chức quần chúng, v́ Đảng là một tổ chức gồm những phần tử giác ngộ nhất, hăng hái, trung thành nhất, hoạt động nhất của vô sản giai cấp. Tổ chức của Đảng cần phải chặt chẽ và nghiêm ngặt. C̣n những tổ chức quần chúng phải rộng răi, nhẹ nhàng".
Nói Việt Minh là một tổ chức tập hợp lực lượng, nhưng Tổng bộ Việt Minh không hề có một người nào thuộc các đảng phái khác tham gia, ngoài những cái tên: Hồ Chí Minh, Vơ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Trường Chinh và Hồ Tùng Mậu.
(C̣n tiếp).
Liên minh Quốc - Cộng lần hai để chống Nhật đă kết nối Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch và giữa họ đă thống nhất một kế hoạch: Cần liên kết các đảng phái Việt Nam thành một lực lượng thống nhất và sử dụng như một đội quân trở về Việt Nam đánh Nhật.
Để làm yên ḷng những người Việt Nam tháng 11 năm 1943, tức là trước 4 tháng khi các đảng phái Việt Nam được triệu tập ở Liễu Châu (tháng 3/1944) tại Hội nghị Khải La, Tưởng Giới Thạch tuyên bố:
- Trung Quốc không có tham vọng cai trị lănh thổ Annam và đề xuất "sau chiến tranh sẽ làm cho Annam độc lập. Như vậy, hoạt động cách mạng Việt Nam trên đất Trung Quốc sẽ trở nên sôi động hơn. Phần chiến khu, huấn luyện quân sự, chủ ư đào tạo tổ chức chính trị, đại diện các đảng phái chính trị khác nhau ở Việt Nam từ bỏ định kiến, thành lập một tổ chức thống nhất liên minh"
Và Hồ Chí Minh cùng với tổ chức Việt Minh được cả Mao và Tưởng lôi kéo, đây cũng là một lư do giải thích tại sao Tưởng Giới Thạch đồng ư thả tự do cho Hồ Chí Minh vào năm 1943.
Nhưng các đảng phái Việt Nam lúc ấy với nhau mâu thuẫn về tư tưởng đường lối và phương pháp - Việt Minh là những người cộng sản được bảo trợ của Mao, Việt Quốc, Việt cách lại được Tưởng hậu thuẫn.
Trong xu thế các đảng phái Việt Nam do Tưởng bảo trợ có lực lượng áp đảo ở Trung Quốc và Việt Minh cần có tiếng nói và sự công nhận của quốc tế, nên Mao đă thông qua Chu Ân Lai chỉ đạo Hồ Chí Minh cần phải có những phương pháp khôn khéo hơn đề thâm nhập và có chân trong tổ chức này, cho một âm mưu lâu dài.
Về phần Tưởng Giới Thạch sau khi ra lệnh thả Hồ Chí Minh đă giao cho tướng Trương Phát Khuê tiếp cận với Hồ Chí Minh.
Trương Phát Khuê đau đầu, bất lực, khi ông chăm chỉ và chú ư yêu cầu các lực lượng hòa giải, chính Hồ Chí Minh cũng không thể hiện sự khiêm tốn và chân thành, tưởng hòa giải được nhưng không đơn giản, bởi đấu đá v́ lợi ích nhóm, quên đi quyền lợi thành lập quốc gia Việt Nam.
Nhưng theo một cách nào đó, có lẽ Hồ Chí Minh đă được các đồng chí Trung Quốc chỉ đạo, nên khi gặp trực tiếp Hồ Chí Minh ông đă thấy Hồ Chí Minh quay ngoắt lại với lập trường trước đây.
Trương Phát Khuê gặp Hồ Chí Minh, hỏi:
− Làm thế nào để thực hiện công việc cách mạng;
Hồ Chí Minh đáp:
− Thành lập một căn cứ du kích tại biên giới Việt Nam, thực hiện tuyên truyền là chính, c̣n vũ trang làm việc sau, tuy nhiên có kế hoạch:
(a) Truyền đạt cho nhân dân Việt Nam biết chính phủ Quốc Dân Trung Hoa và xác định lập trường độc lập của Việt Nam.
(b) Phát triển các tổ chức Liên minh cách mạng Việt Nam và lực lượng.
(c) Thông đồng Đồng Minh quân sự đă sẵn sàng để nhập cảnh vào Việt Nam.
(d) Đấu tranh cho đến khi hoàn toàn độc lập và tự do cho Việt Nam
Trương Phát Khuê hỏi tiếp:
− Tôi biết những lực lượng vũ trang của Mao Trạch Đông trong hàng ngũ của ông có hiệu năng không, và hỗ trợ thế nào?
Hồ Chí Minh:
− Chủ tịch Mao cho chúng tôi nhiều kinh nghiệm chiến đấu, và hỗ trợ nhiều vật chất lẫn tinh thần, tôi rất ngưỡng mộ chủ tịch Mao kể cả Thống Tướng Tưởng Giới Thạch.
Trước khi đến Liễu Châu tham dự Hội Nghị Trương Phát Khuê gặp Hồ Chí Minh một lần nữa để thăm ḍ ư đồ của Hồ Chí Minh và được Hồ Chí minh cam kết:
"Tôi là thành viên cộng sản, nhưng hiện nay tôi đang làm việc sự độc lập cho Việt Nam, bây giờ tôi đang làm việc không v́ cộng sản. Tôi có thể bảo đảm đặc biệt này đối với Ngài, và Việt Nam sẽ không được thực hiện chủ nghĩa cộng sản trong 50 năm".
Trương Phát Khuê cảm thấy yên tâm lấy uy tín cá nhân, tạo điều kiện thuyết phục, hướng dẫn các đại diện Liên minh cách mạng ngồi lại thảo luận việc độc lập Việt Nam, thành lập "Ủy ban trù bị Ḥa giải" khắc phục mọi dị biệt, Trương Phát Khuê chủ trương Hồ Chí Minh vẫn là người đứng đầu "Ủy ban trù bị Ḥa giải".
Hồ Chí Minh ứng cử được bầu vào Ban chấp hành, tên chính thức Hồ Chí Minh xuất hiện.
Trong tháng 8, chi nhánh Liên đoàn Vân Nam đề cử ba thành viên vào tổ chức Việt Minh , Hồ Chí Minh đạt được thắng lợi chính trị tại hải ngoại.
Không những thế, Quốc Dân Đảng Trung Quốc gặp khó khăn nhất, vẫn phải hỗ trợ cho hàng ngàn người Việt Nam hoạt động cách mạng yêu nước. Cung cấp, tài trợ từng tháng một. Riêng tháng 3 năm 1945 tài trợ cho Việt Minh "năm triệu nhân dân tệ" (5 triệu), và tài trợ tương đương cho nhóm quân đội "Việt Nam cách mạng vũ trang". Tháng năm đó, Trung Tá Quốc Dân Đảng Dương Thanh Văn mở khóa đào tạo năng khiếu cho một trăm thành viên cách mạng Việt Nam.
Sau này, Trương Phát Khuê bị những người ở Đài Loan lên án là đă có những sai lầm trong việc sử dụng Hồ Chí minh, kết quả để Hồ Chí Minh lợi dụng và đưa Việt nam trở thành một quốc gia cộng sản.
Về vấn đề này, Trương Phát Khuê nhấn mạnh rằng:
− Vấn đề, nằm ở người Việt Nam nếu là cộng sản không thể đủ khả năng để cạnh tranh với tôi, và xin giải thích với ông, Việt Nam chăm chỉ tranh đấu tốt, tôi đă nói, đó là hàng loạt người Việt Nam ở Quảng Tây trở về quê hương, tôi cảm thông người Việt Nam, và thông cảm cho các bên khác, do đó, không lo lắng về viện trợ cho Hồ Chí Minh nó sẽ không gây ra bất kỳ hậu quả xấu nào, cũng như chính phủ của Hồ sẽ không ủng hộ Mao Trạch Đông, ông đang t́m kiếm sự hỗ trợ của chúng tôi".
Cho đến năm 1967, tại Hồng Kông, Trương Phát Khuê và Hạ Liên Anh tiết lộ:
"Gần như mọi người chỉ trích tôi hỗ trợ cho Hồ Chí Minh, và nhiều người khác nói: Hồ Chí Minh leo lên trên đầu của chế độ Cộng sản và ngự trị trên ngôi vua tại Bắc Việt Nam bởi v́ tôi chống đỡ. Nhưng tôi tin chắc rằng tôi theo đuổi trong suốt chính sách Việt Nam là chính xác, dù đôi khi liên quan xung đột giữa người Việt Nam, tôi tin rằng câu nói cũ ở Trung Quốc: "trái tim của những người trên thế giới". Nếu Hồ Chí Minh là cộng sản xă hội chủ nghĩa, tất nhiên Hồ không thể thoát được khỏi xiềng xích của Đảng cộng sản của ông, và bây giờ Hồ đang dẫn đầu bởi mũi tên đi tới sau lưng của Hồ, có thể người khác giành chiến thắng".
(C̣n tiếp)
“Hội nghị hoà giải” các đảng phái ở Liễu Châu kết thúc, Hồ Chí Minh đạt được thắng lợi chính trị quan trọng quay trở về Việt Nam.
Hồ Chí Minh về Bách Sắc để trù liệu kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”.
Theo Trần Trọng Kim viết trong “Một cơn gió bụi”:
“… Việt Nam cách mạng đồng minh hội cho ông Hồ Chí Minh cùng 22 đảng viên phần nhiều là người trong đảng Phục Quốc về nước để khởi sự hành động. Trong số 22 người ấy có một nữ đảng viên tên là Đỗ Thị Lạc là người sau có đứa con gái với Hồ Chí Minh. Về sau thấy người ta nói khi về đến địa hạt Bắc Giang, có ba đảng viên trong 22 người ấy bị giết v́ không chịu theo cộng sản.
Lúc đầu bọn ông Hồ Chí Minh chia ra làm hai đoàn. Một đoàn có ông Đặng Văn Ư, cựu trung úy trong quân đội Pháp trước về Lạng Sơn đánh lấy đồn Bảo Lạc, thuộc Hà Giang. Một đoàn đi với Hồ Chí Minh có Vũ Nam Long, sau thường gọi là tướng Nam Long, đánh lấy đồn Đồng Mu ở Sóc Giang thuộc Cao Bằng. Việc ấy xảy ra vào khoảng tháng hai năm 1945.
Từ đó bọn ông Hồ Chí Minh bỏ danh hiệu Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội mà dùng danh hiệu cũ là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, tức Việt Minh, và dùng cờ đỏ sao vàng của cộng sản. Rồi đến quăng đầu tháng ba năm 1945 th́ về đến vùng Văn Lăng, thuộc Thái Nguyên giáp Tuyên Quang và lập trụ sở bí mật ở đó…”
Qua đoạn viết trên và các thông tin khác cho thấy:
Ngay sau khi về nước Hồ Chí Minh cho thành lập đội “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” vào ngày 22/12/1944 mục đích để cho Tưởng Giới Thạch và trực tiếp là Trương Phát Khuê, và người Mỹ tin tưởng Việt Minh có thực lực về tổ chức để nhận vũ khí, tiền bạc.
Mặc dù lúc ấy đội “Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân” chỉ có 34 người với vũ khí thô sơ, họ đă tiến hành hai trận đánh đồn là Phai Khắt và Nà Ngần để lấy tiếng vang.
Động thái thành lập đội “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” c̣n liên quan đến một sự kiện Hồ Chí Minh đang giữ một viên công Mỹ, để khi gặp người Mỹ trao trả viên phi công, ông muốn người Mỹ sẽ cung cấp vũ khí, hậu cần, đào tạo cho đội quân này.
Cuối năm 1944, Hồ Chí Minh vội vàng quay lại Côn Minh, Trung Quốc để giao viên phi công cho Mỹ, đây là cơ hội có một không hai cho Hồ Chí Minh xây dựng uy tín với người Mỹ và củng cố ảnh hưởng của Việt Minh trên Quốc tế và trong nước.
Tháng 10 năm 1944, chiếc B25 của không quân Mỹ do trung uư William Shaw điều khiển bị quân đội Nhật Bản bắn rơi tại vùng trời Nước Hai (Hoà An, Cao Bằng).
Shaw nhảy dù, thoát chết, nhưng anh ta hết sức lo sợ, bởi trước khi cất cánh anh biết đó là vùng có cả cộng sản và cả phát xít Nhật kiểm soát.
Nỗi lo sợ càng tăng khi thấy những người mà anh đoán đó là "du kích cộng sản" tay lăm lăm các loại vũ khí thô sơ chĩa vào ḿnh.
Quá sợ hăi, Shaw vội rút tiền, nhẫn vàng đưa cho họ, nhưng họ lắc đầu và dẫn anh đến nơi khác.
Tại đó, Shaw được cho ăn và chỉ chỗ ngủ, nhưng anh vẫn chưa hết sợ, bởi không biết người ta sẽ làm ǵ, trong khi không ai hiểu những lời anh nói.
Biết tin du kích bắt được phi công Mỹ, Hồ Chí Minh lúc đó ở Pác Bó chỉ thị phải chăm sóc thật chu đáo và dẫn lên gặp ông.
Sau nhiều ngày xuyên rừng, khi th́ phải ẩn náu để tránh quân Nhật, lúc th́ nghỉ lại những nơi có "du kích cộng sản" tập luyện, họ đưa Shaw đến gặp một "Ông Cụ", khi ông ta đang chuẩn bị đi đâu đó, nhưng thấy anh, Cụ liền ở lại, tươi cười bắt tay và hỏi:
- Anh ở bang nào của nước Mỹ.
Shaw hết sức ngạc nhiên, bởi ở nơi núi rừng này lại có người nói tiếng Anh chuẩn đến thế, nụ cười rạng rỡ, Shaw đáp:
- Thưa ông, tôi ở bang Texas.
- Anh đă có vợ chưa?
- Thưa ông, tôi đă có vợ.
- Anh có muốn về Mỹ gặp lại vợ không?
- Thưa ông, nếu được như vậy, không chỉ là niềm vinh hạnh với tôi và là cả gia đ́nh tôi. Chúng tôi sẽ hết sức mang ơn ông.
- Anh không cần nói như vậy, chúng tôi sẽ giúp anh, bởi chúng tôi là những người cùng Đồng Minh chống phát xít. Chúng tôi sẽ trao trả ông cho lực lượng không quân Mỹ tại Trung Quốc
Shaw cảm thấy nhẹ cả người, anh đặt niềm tin vào "Ông Cụ" và tin tưởng ḿnh đă thoát khỏi nguy hiểm.
Anh được lo chỗ ăn nghỉ hết sức cho đáo. Shaw hết lời ca ngợi "Ông Cụ": Ông ấy nói tiếng Anh giỏi quá, lại đối xử thân mật như cha tôi vậy". Mấy ngày sau, Shaw lại được "Ông Cụ" tặng mảnh lụa trắng, thêu chữ "Greeting". Đó là tặng phẩm mà Hồ Chí Minh bảo các cô gái địa phương làm để tặng Shaw. Shaw không ngờ nơi núi rừng heo hút anh lại được đối xử văn minh đến thế và anh cũng không hiểu tại sao "Ông Cụ" này đă đến nước Mỹ khi anh chưa được sinh ra trên cơi đời này...
Sau gần hai tháng ở nơi núi rừng Pác Bó, cuối năm 1944, Shaw cùng Hồ Chí Minh và một số người trong mặt trận Việt Minh lên đường đi Trung Quốc. Để tránh sự lùng sục của quân Nhật, đảm bảo an toàn cho viên phi công, đoàn đi chia làm hai tốp, Shaw đi tốp khác, nhưng được Hồ Chí Minh nhường cho con ngựa, c̣n ḿnh và các đồng chí đi bộ, trên đường đi Hồ Chí Minh luôn dặn ḍ phải bảo đảm an toàn cho viên phi công.
Khi qua biên giới Việt Trung, Hồ Chí Minh gặp lại Shaw. Sau năm ngày được đi cùng Hồ Chí Minh trên đất Trung Hoa, Shaw được sỹ quan của quân đội Trung Hoa dân quốc tiếp nhận, họ hứa với Hồ Chí Minh sẽ đưa viên phi công này về đến Bộ Tư lệnh không quân Mỹ tại Côn Minh. Chia tay Hồ Chí Minh Shaw hết sức bùi ngùi, mong có ngày gặp lại và hứa sẽ chuyển thư của Hồ Chí Minh đến cấp cao nhất.
Tại Côn Minh, Hồ Chí Minh thông qua trung gian Trung úy Hải quân Charles Fenn, công tác tại cơ quan Cứu trợ mặt đất của Mỹ ở Trung Hoa (AGAS) cũng là một điệp viên để được gặp Claire Lee Chennault - tướng hai sao, Tư lệnh Tập đoàn không quân 14 của Mỹ với biệt danh "Hổ Bay" tại Hoa Nam Trung Quốc, cũng là người dại diện cao nhất của quân Đồng Minh tại khu vực.
Sau mấy lần trao đổi qua thư kư, ngày 23/3/1945, Hồ Chí Minh và Tư lệnh trưởng Bộ tư lệnh không quân 14 của Mỹ gặp nhau tại tổng hành dinh của ông ta.
Cuộc gặp gỡ hết sức cởi mở. Viên tướng Mỹ cảm ơn Hồ Chí Minh và Việt Minh đă cứu giúp, chăm sóc phi công họ hết sức tử tế.
Hồ Chí Minh nói đó là bổn phận của người Việt Nam chống phát xít và khẳng định làm tất cả mọi việc trong khả năng có thể để giúp Đồng Minh.
Hồ Chí Minh hỏi về trung uư Shaw, Chennault trả lời:
- "Shaw đă về Mỹ, trước khi lên máy bay anh ta c̣n gửi lời cảm ơn Ngài". Chennault trao cho Hồ Chí Minh khá nhiều thuốc chữa bệnh và tiền để tặng những người đă cứu giúp phi công họ.
Hồ Chí Minh chỉ nhận thuốc, c̣n tiền trả lại, ông nói, rằng cứu giúp phi công là trách nhiệm của những người Việt Nam yêu nước bởi họ cũng đang đứng về phái Đồng Minh để đánh lại phát xít Nhật.
Chennault trao cho Hồ khá nhiều thuốc chữa bệnh và tiền để tặng những người đă cứu giúp phi công họ.
Mấy ngày sau, cuộc gặp gỡ lần thứ hai giữa Hồ Chí Minh và viên Tư lệnh lại diễn ra.
Hai bên đă nhất trí, phía Việt Minh sẽ lập một trạm cứu giúp các phi công Đồng Minh bị nạn ở Đông Dương.
Trong bữa tiệc sau đó, những người chỉ huy không quân Mỹ hết sức ngạc nhiên trước sự am hiểu sâu sắc về lịch sử và các chính khách nước Mỹ của vị "đại diện Việt Minh".
Có một chi tiết rất thú vị, Hồ Chí Minh xin tướng Chennault mấy bức ảnh chụp của ông ta, Chennault đồng ư và Hồ Chí Minh đề nghị ông ta kư tên vào đấy. Hồ Chí Minh sau này cho mọi người biết, đây là bằng chứng Mỹ và đồng minh đă công nhận tổ chức Việt Minh như đại diện hợp pháp của người Việt Nam.
Chia tay Chennault lệnh cho máy bay L5 đưa Hồ Chí Minh và phái đoàn đến Liễu Châu để dự Đại hội quốc tế chống xâm lược.
Khi nhắc về câu chuyện giữa Hồ và viên phi công Mỹ, Archimedes L.A Patti, tác giả cuốn Why Vietnam? đă viết: "Đây là một dịp thuận lợi để Ông Hồ đề cao phong trào cách mạng với người Mỹ và làm cho họ phải chính thức công nhận phong trào của Ông"
Và Hồ Chí Minh đă đạt được mục đích của ḿnh.
Về phía Mỹ Tháng 5/1945, đội SO (Special Operation) số 13, mang bí danh Con Nai với 6 thành viên, dưới sự chỉ huy của thiếu tá Allison K. Thomas, đă mang theo vũ khí, điện đài nhảy dù xuống Tân Trào.
Ngay sau khi đón tiếp biệt đội và vũ khí, Hồ Chí Minh đă ra lệnh thành lập Đại đội Việt - Mỹ do Đàm Quang Trung làm Đại đội trưởng, quân số khoảng 200 người, thiếu tá Thomas làm tham mưu trưởng.
Chỉ tính riêng ba chuyến máy bay Dakota thả dù trang thiết bị, vũ khí cho lực lượng ở Tân Trào là 1 đại liên, 2 súng cối 60mm, 4 súng chống tăng Bazoka, 8 trung liên Bren, 20 tiểu liên Thompson, 60 súng carbin, 20 súng ngắn Colt, một số ống nḥm và các tài liệu huấn luyện của Lục quân Mỹ về chiến tranh du kích… Ngoài ra c̣n có các bộ điện đài đủ cho Hồ Chí Minh quyết định thành lập 3 trạm điện đài ở Hà Giang, Lạng Sơn và Cao Bằng...
Tổng thời gian nhóm O.S.S dành để huấn luyện người Việt kéo dài vài tuần trong tháng 7 và tháng 8.
Ngoài Vơ Nguyên Giáp, nhóm c̣n huấn luyện kỹ năng chỉ huy cho ít nhất hai chỉ huy quân sự cấp cao khác, trong đó có Đàm Quang Trung (sau là Thượng tướng, Tư lệnh Quân khu 1).
Về phía Trung Hoa Dân Quốc họ đă Đổi lại, cơ quan t́nh báo Hoa Kỳ OSS (U.S Office of Strategic Services) cung cấp vũ khí, phương tiện liên lạc, giúp đỡ y tế, cố vấn và huấn luyện quân đội quy mô nhỏ cho Việt Minh.
Một đơn vị nhỏ OSS nhảy dù phía sau đường ranh giới Nhật Bản ở Việt Nam để tham gia tác chiến cùng Việt Minh, và thấy Hồ Chí Minh trong t́nh trạng sốt rét nặng. OSS gửi thông điệp đến trụ sở quân Mỹ ở Trung Quốc để yêu cầu cung cấp thuốc men sớm nhất có thể. Hai tuần sau đó, bác sĩ quân y tên là Paul Hogland đă đến. Những người Mỹ đă ở lại đó trong ṿng hai tháng và có thể thuốc men của họ đă cứu sống ông.
(C̣n tiếp)
Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp, chính thức hất cẳng Pháp ra khỏi Đông Dương, đúng thời điểm Hồ Chí Minh đang ở Côn Minh, Trung Quốc để gặp Tướng Claire Lee Chennault như phần 46 đă đề cập.
Thực chất ban đầu tướng Tướng Chennault không muốn gặp Hồ Chí Minh mà chỉ thông qua trung uư OSS Charles Fenn gửi quà, tiền để cảm ơn Việt Minh và Hồ Chí Minh đă cứu viên phi công Mỹ WILLIAM SHAW, Chennault không muốn tiếp xúc với một người cộng sản đang chống Pháp, điều này có thể rầy rà v́ nguyên tắc quân đội đứng ngoài chính trị.
Sự việc Nhật đảo chính Pháp đă làm Tướng Claire Lee Chennault thay đổi quyết định và quyết định gặp Hồ Chí Minh (23/3/1945) với mục đích Việt Minh sẽ trở thành một lực lượng bản xứ nằm vùng giúp Mỹ đánh Nhật.
Sau buổi bàn bạc với Chenault, Giám đốc Cơ quan T́nh báo Chiến lược Hoa Kỳ, Thiếu tướng William J. Donovan, đă "bật đèn xanh" cho các chiến dịch của OSS và GBT tại Đông Dương. Trung úy OSS Charles Fenn được giao nhiệm vụ duy tŕ liên lạc từ Côn Minh tới Việt Minh. Hồ Chí Minh nhanh chóng trở thành một đặc vụ dưới quyền của Fenn, có mật danh Lucius, và có nhiệm vụ cung cấp các thông tin t́nh báo ở Bắc Kỳ cho GBT và OSS thông qua Fenn.
Tháng 4 năm 1945, Hồ Chí Minh, Mac Shin và Frankie Tan được máy bay quân sự Mỹ đưa từ Côn Minh đến biên giới Trung Quốc - Việt Nam phía bắc Cao Bằng. Từ đó, cùng với các thành viên Việt Minh được chọn để huấn luyện t́nh báo và một nhóm nhân viên bảo vệ, họ bí mật vượt qua biên giới về Pắc Bó, căn cứ địa cách mạng. Để giữ bí mật, Frank Tan mang bí danh là Tam Xinh Shan và Mac Shin mang bí danh là Nguyễn Tư Tác. Sau đó, cả nhóm tiếp tục xuyên qua núi rừng Việt Bắc, tránh các đội tuần tra của quân Nhật, bám theo các cơ sở cách mạng, và tháng 5 năm 1945 tới căn cứ địa Tân Trào.
Ngày 16 tháng 5 năm 1945, một đội SO (Special Operation), có bí danh Con Nai, được thành lập dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Allison K. Thomas. Đội Con Nai bao gồm bảy thành viên:
Thiếu tá Allison K. Thomas - chỉ huy trưởng
Trung úy René J. Defourneux - phó chỉ huy trưởng
Thượng sĩ William F. Zielski - điện đài viên
Trung sĩ Tham mưu Lawrence R. Vogt - chuyên viên vũ khí
Trung sĩ Aaron Squires - chuyên viên vũ khí, nhiếp ảnh gia
Binh nhất Henry A. Prunier - thông dịch viên
Binh nhất Paul Hoagland - quân y
Nhiệm vụ hàng đầu của Đội Nai là ngăn chặn các tuyến liên lạc của Nhật, đặc biệt là đường sắt và hệ thống đường bộ của Pháp trong khu vực Hà Nội - Nam Ninh. Nhiệm vụ thứ yếu là "hoạt động với du kích quân" và "báo hiệu mục tiêu cho lực lượng không quân." Ngày 16 tháng 7, Thomas nhảy dù xuống khu vực lân cận làng Tân Trào, Kim Lũng cùng hai thành viên đầu tiên của Đội Nai là Binh nhất Henry Prunier và Thượng sĩ William Zielski. Nhảy dù cùng với các thành viên Đội Nai là ba phái viên người Pháp - một sĩ quan cấp Trung úy tên là Montfort, và hai "đại diện" của quân đội Pháp, Trung sĩ Logos, một người Pháp lai Á và Trung sĩ Phác, một người Pháp gốc Việt.
OSS ban đầu định để cho Đội Con Nai hành quân trên quăng đường bộ dài 300 dặm (gần 483 km) tới Tân Trào, nơi dự định đặt các trại huấn luyện của Việt Minh.
Nhưng phía Trung Quốc cảnh báo OSS rằng quân Nhật đang chờ sẵn ở biên giới để ngăn chặn mọi lực lượng của phía Đồng minh.
V́ vậy, thay v́ đi bộ, từng thành viên của Đội được vận chuyển bằng máy bay Piper Cub tới thị trấn Po Sah, cách biên giới Việt Trung khoảng 50 dặm (80 km), nơi đóng vai tṛ đầu mối liên lạc giữa Côn Minh và Tân Trào.
Một buổi sáng ngày 16 tháng 7 năm 1945, sáu thành viên Đội Con Nai lên một chiếc máy bay C-47 Dakota, nhưng khi tới nơi viên phi công không thể nh́n thấy những chiếc khăn trắng làm ám hiệu cho biết mặt đất bên dưới là khu vực an toàn.
Cuối cùng, Thomas và những thành viên khác đều đánh liều nhảy xuống. Tới mặt đất, trong khi đang thu xếp dù, họ nh́n thấy vài chục người tiến đến, không rơ là người Trung Quốc hay Việt Nam. Đa số là các thiếu niên, ngoại trừ một người thấp hơn, mặc áo vải lanh màu trắng, đi giày đen, đội mũ phớt màu đen, được mọi người gọi là “Anh Văn.” Sau này các thành viên Nhóm Con Nai mới được rằng biết tên thật của ông là Vơ Nguyên Giáp.
“Đầu tiên chúng tôi đi dưới lối đi có mái ṿm bằng tre bên trên có một biển hiệu
“Chào mừng những người bạn Mỹ của chúng ta."Sau đó chúng tôi gặp Mr. Ho - nhà lănh đạo của Việt Minh.
Ông đă đón tiếp chúng tôi rất thân mật. Người ta đă mổ một con ḅ để tỏ ḷng trân trọng chúng tôi và tặng cho chúng tôi một thùng bia Hà Nội thu được sau cuộc tấn công bất ngờ vào một đoàn hộ tống Nhật. Chúng tôi đă đánh một giấc ngon lành trong căn lều tiện lợi bằng tre trong khu rừng trên một quả đồi.
Trong khi người Mỹ được đối xử tử tế th́ những người Pháp đi cùng đoàn lại không được như vậy.
Dù được cảnh báo trước về "mối căm thù của Việt Minh với người Pháp," Thomas vẫn chấp nhận cho người Pháp nhảy dù cùng đội của ông xuống Tân Trào.
Khi Đội Nai vừa chạm đất, ba người Pháp đă nhanh chóng bị phát hiện.
Montfort bị một cán bộ Việt Minh, người đă phục vụ dưới quyền anh ta trong quân đội thuộc địa Pháp, nhận ra; Phác bị nhận diện trước tiên như một người ủng hộ Pháp và sau đó là "thành viên của một đảng thân Tàu, Việt Nam Quốc dân Đảng." Do đó, khi Thomas, Prunier và Zielski được hộ tống qua lối đi có mái ṿm bằng tre th́ ba người kia bị Việt Minh quây chặt, buộc Frank Tan phải can thiệp.
Tuy Hồ Chí Minh nói thông thạo tiếng Pháp, nhưng ông không chấp nhận nói ngôn ngữ này, thay vào đó chỉ nói chuyện với các thành viên Con Nai bằng tiếng Anh và tiếng Việt.
Do Hồ Chí Minh và Vơ Nguyên Giáp tỏ sự không tin tưởng các sĩ quan người Pháp và người Pháp gốc Việt trong nhóm, Thomas quyết định cho ba người rời khỏi đội của ông.
Ngày 30 tháng 7, Montfort, Phác và Logos rời Tân Trào và trà trộn vào một nhóm người Pháp tị nạn về Tam Đảo để được đưa về Trung Quốc.
Ngày 29 tháng 7, đợt thả quân bổ sung thứ hai được tiến hành, bao gồm Trung úy Rene Defourneux, Trung sĩ Tham mưu Lawrence Vogt, Trung sĩ Aaron Squires, Binh nhất quân y Paul Hoagland.
Lần này Hồ Chí Minh không thể có mặt để chào đón họ v́ ông đang mắc những căn bệnh nhiệt đới như lỵ và sốt rét, nhưng ông vẫn cố gắng tranh thủ sự kiện họ đến nơi.
Nằm trên giường bệnh, ông đề nghị nhân dân địa phương đến khoảng rừng thưa và chờ đợi những người Mỹ "rơi từ trên trời xuống."
Khi các thành viên Đội Nai tiếp đất an toàn, họ được Tan, Phelan, Zielski và Vơ Nguyên Giáp, chào đón. Không một ai bị thương, và những người Mỹ một lần nữa lại được hộ tống đi trên lối đi dưới mái ṿm tre có khẩu hiệu "Chào đón những người bạn Mỹ của chúng ta." Cả đội không được gặp Thomas và Prunier cho tới đêm hôm sau; hai người Mỹ này lúc đó đi trinh sát vị trí pḥng thủ của Nhật tại Chợ Chu, nơi Thomas muốn lập kế hoạch tẩn công nhưng chiến tranh đă kết thúc trước khi ông có cơ hội làm điều.
Trong những ngày đầu ở doanh trại, các thành viên mới của Đội Nai đă gặp gỡ nhiều cán bộ Việt Minh và một vài người dân ở khu vực xung quanh.
Tuy nhiên, một người đáng quan tâm là Hồ Chí Minh th́ lại vắng mặt. Hôm cả đội đổ bộ, Vơ Nguyên Giáp đă xin lỗi v́ sự vắng mặt của Hồ Chí Minh, ông nói với những người Mỹ mới đến là "chỉ huy" của họ bị ốm.
Đến ngày 3 tháng 8, Hồ Chí Minh vẫn không xuất hiện. Một vài thành viên trong đội, gồm Défourneaux và Paul Hoagland, quyết định đi vào ngôi làng gần đó để gặp Hồ Chí Minh và xem ông có cần giúp đỡ ǵ không.
Khác với mô tả của những sĩ quan t́nh báo Pháp về người đàn ông "tàn nhẫn" và "nguy hiểm," các thành viên Đội Nai rất ngạc nhiên về diện mạo của Hồ Chí Minh. Thay v́ một con người gớm guốc, họ chỉ thấy dường như đây là một người ốm yếu, gầy dơ xương đang lơ lửng gần cái chết. Nhờ sự cứu chữa của Hoagland, Hồ Chí Minh đă khỏe lại sau khoảng mười ngày, và có thể đứng lên đi lại b́nh thường.
Một đội SO thứ hai, mang bí danh Con Mèo (Cat Team), bao gồm ba thành viên: Đại úy Charles M. Holland, Trung sĩ John Burrowes và điện đài viên - Trung sĩ John L. Stoyka. Họ nhảy dù xuống khu trại của Việt Minh tại Tân Trào vào ngày 29 tháng 7 cùng với đợt đổ quân thứ hai của Đội Nai. Do có nhiệm vụ riêng biệt với Đội Con Nai, nên sau cuộc gặp gỡ với các cán bộ Việt Minh, họ lập tức di chuyển vào rừng, lập trại riêng và thực hiện nhiệm vụ của ḿnh.
Nhóm Con Mèo bị quân Nhật bắt sống vào giữa tháng 8 năm 1945. Stoyka, vốn là một cựu binh từng hoạt động ở sau pḥng tuyến quân đội Đức Quốc Xă tại Pháp, đă trốn thoát được. Những người dân làng Việt Nam đă cứu giúp anh và đưa anh về trại của Đội Con Nai. Holland và Burrowes may mắn sống sót qua chiến tranh và được người Nhật thả tự do tại Hà Nội vào ngày 31 tháng 8 năm 1945. Tại đó, họ được Hồ Chí Minh đă chào đón nồng nhiệt với tư cách là những người đại diện của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
(C̣n tiếp).
Tại Hội nghị Nguyên thủ quốc gia 3 nước Anh, Pháp và Mỹ diễn ra tại Casablanca (Maroc) vào đầu năm 1943, Pháp và Anh bày tỏ muốn duy tŕ chủ nghĩa thuộc địa, riêng Pháp hi vọng các nước Đồng Minh sẽ trả lại thuộc địa cho Pháp ngay sau khi các thuộc địa này được giải phóng. Trước yêu cầu của Pháp, Tổng thống Mỹ đă phê phán thái độ của Pháp là kém thông minh.
Cũng tại Hội nghị Cairo (Ai Cập) diễn ra sau đó, Tổng thống Mỹ Roosevelt tuyên bố thẳng thừng là chủ nghĩa thực dân nên bị thủ tiêu càng sớm càng tốt. Ông khẳng định nhiều nhất Pháp chỉ có thể tạm thời được ủy trị các thuộc địa cũ của ḿnh trước khi trao trả độc lập cho các thuộc địa này.
Tháng 1 năm 1944, Roosevelt viết cho Ngoại trưởng Hull là Mỹ nên ủng hộ việc đặt Đông Dương dưới sự ủy trị quốc tế. Ông viết: “Pháp đă có đất nước này trong gần một trăm năm và người dân ở nơi đây trở nên nghèo đói hơn khi mới bị Pháp chiếm. Nước Pháp đă vắt cạn kiệt đất nước này trong suốt một trăm năm. Người dân Đông Dương được quyền hưởng điều tốt đẹp hơn như vậy”.
Những tin tức tốt đẹp này có thể đă đến với Hồ Chí Minh và việc người Mỹ cử đội "Con Nai" cùng với việc cung cấp vũ khí, hậu cần và huấn luyện cho quân đội Việt Minh đă đem đến hy vọng dành độc lập cho Việt Nam nhờ sự bảo trợ của Mỹ.
Đối với Người Mỹ ban đầu việc trợ giúp cho Việt Minh chỉ đơn thuần để có lực lượng bản xứ tham gia đánh Nhật, nhưng việc Nhật đầu hàng nhanh chóng đă thay đổi chính sách của họ.
Với việc không muốn thay đổi quanh điểm với người Pháp về vấn đề Đông Dương nên tại Hội Nghị Posdam các nước Đồng Minh đă vạch ra vĩ tuyến 16 để phía Bắc Việt Nam do quân đội của Tưởng Giới Thạch vào giải giáp quân Nhật, phía Nam là người Anh, như vậy người Pháp đă bị gạt ra ngoài.
Cũng tại hội nghị Posdam cũng đưa ra việc giải quyết với các khu vực và các quốc gia được giải phóng khỏi trục Phát xít sẽ tiến hành tổng tuyển cử tự do để chọn ra chính phủ và nhà nước của ḿnh.
Trên thực tế những quốc gia bị Liên Xô chiếm đóng sau chiến tranh, và những quốc gia có phong trào chống phát xít dưới sự lănh đạo của những người cộng sản đă không thực hiện những cam kết này.
Không có một cuộc tổng tuyển cử tự do nào diễn ra, nhà nước Cộng sản được thành lập trong họng súng của Liên Xô, và sự đàn áp, thanh trừng của những người cộng sản với các đảng phái khác từ đó h́nh thành hệ thống nhà nước Xă hội Chủ nghĩa trên thế giới do những người cộng sản nắm quyền.
Để việc h́nh thành ra hệ thống các nhà nước cộng sản trên thế giới được nh́n nhận là do những sai lầm của tổng thống Mỹ Roosevelt.
Cuối năm 1943, thời điểm rơ ràng cho thấy rằng, Đồng minh cuối cùng sẽ đánh bại hoặc ít nhất ḱm chế được Đức Quốc xă. Mỗi ngày càng cho thấy những quyết định chính trị cấp cao càng trở nên quan trọng đối với diễn biến của cuộc chiến và tương lai của châu Âu thời hậu chiến.
Roosevelt họp mặt với Churchill và lănh tụ Trung Quốc Quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch tại Hội nghị Cairo vào tháng 11 năm 1943, và rồi sau đó đến Tehran để bàn thảo với Churchill và Stalin.
Trong lúc Churchill xem Stalin là một bạo chúa khi ông cảnh báo về một mối thống trị tiềm năng độc tài của Stalin đối với châu Âu th́ Roosevelt đáp lời bằng một lời tuyên bố tóm tắt lư lẽ quan hệ của ông đối với Stalin như sau:
"Tôi th́ có một linh cảm rằng Stalin không phải là hạng người như thế.... Tôi nghĩ rằng nếu tôi cho ông ta mọi thứ mà tôi có thể cho và không đ̣i hỏi ông ta cho lại cái ǵ, theo nghĩa vụ quư phái, ông ta sẽ không t́m cách thôn tính bất cứ mọi thứ và sẽ làm việc với tôi v́ một thế giới dân chủ và ḥa b́nh."
Tại Hội nghị Tehran, Roosevelt và Churchill nói với Stalin về kế hoạch xâm chiếm nước Pháp năm 1944. Roosevelt cũng thảo luận các kế hoạch của ông nhằm thành lập một tổ chức quốc tế thời hậu chiến.
Về phần ḿnh, Stalin cứ khăng khăng đ̣i vẽ lại các ranh giới của Ba Lan. Stalin ủng hộ kế hoạch của Roosevelt về việc thành lập Liên Hợp Quốc và hứa tham chiến chống Nhật Bản 90 ngày sau khi Đức bị đánh bại.
Tuy nhiên vào đầu năm 1945, khi quân đội Đồng minh tiến vào Đức và lực lượng Xô Viết kiểm soát được Ba Lan, các vấn đề phải được đem ra thảo luận minh bạch.
Tháng 2 năm 1945, mặc dù sức khỏe sa sút trầm trọng, Roosevelt vẫn đi đến Yalta, vùng Krym của Liên Xô, để họp bàn với Stalin và Churchill.
Trong khi Roosevelt vẫn tự tin rằng Stalin sẽ giữ lời hứa cho phép các cuộc bầu cử tự do tại Đông Âu, một tháng sau khi Hội nghị Yalta kết thúc th́ Đại sứ của Roosevelt tại Liên Xô là Averill Harriman điện tín cho Roosevelt biết rằng:
"chúng ta phải thừa nhận rơ ràng rằng chương tŕnh của Liên Xô là thiết lập chủ nghĩa toàn trị, chấm dứt tự do cá nhân và dân chủ như chúng ta đă biết."
Hai ngày sau, Roosevelt bắt đầu thừa nhận rằng quan điểm của ông về Stalin là quá lạc quan và rằng "Averell đă nói đúng."
Người Mỹ gốc Đông Âu chỉ trích Hội nghị Yalta v́ đă thất bại trong việc ngăn chặn sự thành lập Khối Đông Âu.
Ngay sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, thủ tướng Anh Churchill đă nhận thấy hiểm họa của chủ nghĩa cộng sản trên toàn cầu, ông bay đến Mỹ để gặp tổng thống Mỹ lúc ấy là Truman người vừa thay thế Roosevelt (Chết v́ bệnh ngày 12/4/1945) để mở một mặt trận tấn công Liên Xô.
Churchill chỉ vào tấm bản đồ thế giới, nói:
"Chủ Nghĩa Phát xít vừa bị tiêu diệt, nhưng nơi nào có lá cờ đỏ búa liềm mọc lên là nơi đó mọc lên nhà tù của nhân loại, v́ vậy tranh thủ lúc Liên Xô bị tàn phá suy yếu sau chiến tranh Mỹ và đồng minh phương Tây sẽ mở ngay cuộc tấn công Liên Xô giải phóng hoàn toàn châu Âu"
Truman lắng nghe, và đặt ra một vấn đề với Churchill:
- Ngài có nghĩ đến cuộc bầu cử ở nước Anh đă quá gần hay không? Đây là một việc hệ trọng, tôi đồng ư với ư kiến của ngài, nhưng chúng ta sẽ bàn chi tiết sau cuộc bầu cử diễn ra.
Đến đây Churchill giật ḿnh, ông nghĩ Truman đă nói đúng, và cuộc bầu cử cũng chẳng c̣n bao lâu, trong khi ông tin chắc ḿnh sẽ đắc cử và nghe lời Truman quay về Anh.
Không như Churchill suy tính kỳ bầu cử lần ấy ông đă thất bại nên mưu tính của ông với Truman bị khép lại.
4 năm sau Churchill lại ra tranh cử và ông thắng cử, nhưng lúc ấy t́nh thế đă khác, Liên Xô đă chế tạo được bom nguyên tử.
Và hệ thống các nước cộng sản ở Châu Âu 45 năm sau mới sụp đổ trong cái chết của hàng chục triệu người và hàng trăm triệu người khác bị giam cầm trong "nhà tù quốc gia" của chế độ cộng sản".
(C̣n tiếp)
Mặc dù có những tuyên bố của tổng thống Mỹ Roosevelt “chủ nghĩa thực dân nên bị thủ tiêu càng sớm càng tốt” không có nghĩa con đường dành độc lập cho Việt Nam trở nên suôn sẻ.
Yếu tố người Nhật đă bị loại bỏ, khi ngày bại trận của họ đă đến rất gần. Nhưng Đông Dương vẫn là con mồi thèm khát của Pháp và Trung Hoa.
Người Pháp không muốn bị bỏ quên trên chiến trường Thái B́nh Dương và hy vọng chiếm lại chủ quyền ở Đông Dương, người Pháp đă dồn dập yêu cầu các Chính phủ Washington và London cho họ tham gia vào các kế hoạch quân sự ở Viễn Đông.
Về sau việc tham gia chính thức của Pháp càng trở nên phức tạp khi Pháp đ̣i có quyền xúc tiến các hoạt động bí mật “chuẩn bị tác chiến” ngay trên đất Đông Dương.
Việc đó đă đến tai cả Roosevelt và Churchill.
Churchill không phản đối ư đồ của Pháp nhưng lại không muốn công khai bác bỏ lập trường đă được công bố của Roosevelt cho rằng người Pháp không được chiếm lại Đông Dương bằng vơ lực. Vấn đề được đưa ra bàn bạc rộng răi và đă là đầu đề cho hàng đống giấy tờ và công văn ngoại giao trao đổi trong nội vụ và giữa các Bộ Ngoại giao Mỹ - Anh.
Roosevelt rất bực bội trước những đ̣i hỏi khăng khăng của Pháp, Anh và đă chỉ thị cho Hull “không được làm ǵ cả đối với các nhóm kháng chiến hay bất cứ cái ǵ khác có liên quan đến Đông Dương...”. Và như thế là câu chuyện đă được chấm dứt vào ngày 16-10-1944, nhất là đối với các hoạt dộng của Pháp như Roosevelt đă có ư nói. Nhưng vấn đề cũng đă lại chấm dứt với cả các “nhóm kháng chiến”.
Về sau, điểm này đă được làm sáng tỏ vào mùa xuân 1945, khi các nhà cầm quyền Mỹ cuối cùng đă phải cho phép chỉ giúp đỡ cho các nhóm nào đă chuẩn bị đánh Nhật.
Về phía Trung Hoa dân Quốc đă nhiều lần tuyên bố rằng, mặc dầu Trung Quốc mong muốn thấy Đông Dương được trả lại cho Pháp nhưng lại không muốn điều đó được thực hiện mà không có một số các điều bảo đảm nhằm ngăn chặn Pháp dùng Đông Dương vào những hoạt động không thân thiện đối với quyền lợi của người Trung Hoa sau này. Nói tóm tắt là tương lai của Đông Dương sẽ không được định đoạt nếu như không có mặt người Trung Hoa trên bàn Hội nghị Hoà b́nh.
Điều này dẫn đến sự thay đổi chiến thuật của Hồ Chí Minh.
Vào tháng 8-1944, qua các sĩ quan OSS và OWI ở Côn Minh, Đông Dương Độc lập Đồng minh Hội đă gửi một bức thu đến Đại sứ Mỹ. Tác giả bức thư yêu cầu Mỹ giúp đỡ công cuộc đấu tranh giành độc lập của họ và cho họ được cơ hội chiến đấu chống Nhật bên cạnh các nước Đồng minh.
Ngày 18-8, một sĩ quan OSS tŕnh bức thư cho Langdon, kèm theo b́nh luận: “Những người cách mạng An Nam... hiện nay tinh thần rất cao... [và] họ mong việc yêu cầu Mỹ giúp đỡ được chấp nhận”. Và người sĩ quan đó phán đoán: “Sau chiến tranh, sẽ có rối loạn lớn ở Đông Dương, nếu như không có ít nhất một biện pháp sớm bảo đảm quyền tự trị thực sự cho đất nước này”.
Ngày 8-9, được OSS khuyến khích, Langdon đă gặp các tác giả bức thư. Theo lời kể lại của Langdon, ông Phạm Viết Tự, được coi như là người phát ngôn của họ, đă nói rằng họ “đến để tranh thủ cảm t́nh... của nước Mỹ”. Langdon đă đáp lại như sau:
“Họ hoàn toàn đúng khi làm cho người đại diện nước Mỹ biết đến những quan điểm và nguyện vọng của dân tộc Việt Nam trong khi mà người phát ngôn cấp cao nhất của chính phủ Mỹ đă nhiều lần tuyên bố bảo đảm sự quan tâm của chính phủ Mỹ đối với chính sách v́ phồn vinh và tiến bộ của các dân tộc bị trị ở phương Đông, trong đó nhân dân Việt Nam cũng có thể tự coi như có ḿnh”.
Và Langdon đă hứa với những người đối thoại rằng những ư kiến của họ sẽ được ông ta chuyển tới Chính phủ Mỹ. Nhưng Langdon lại nói tiếp:
“Người Việt Nam là công dân của nước Pháp, mà nước Pháp lại đang sát cánh cùng Mỹ đấu tranh... chống lại phe Trục. Thực không c̣n nghĩa lư ǵ nếu như một mặt Mỹ đă phải bỏ ra những chi phí rất lớn về người và của để chi viện và giải phóng nước Pháp khỏi ách nô lệ của người Đức mà mặt khác Mỹ lại đục khoét đế quốc Pháp”.
Phạm Viết Tự đă đáp trả:
“Người An Nam rất biết về t́nh h́nh hữu nghị lâu đời giữa Pháp và Mỹ, và Đồng minh Hội chúng tôi không có ư đồ đấu tranh chống lại Pháp mà chỉ muốn cho các hội viên của ḿnh được đứng về phía Đồng minh đánh Nhật. V́ thế Hội đă có kế hoạch hành động theo hướng đó nếu như Mỹ bằng ḷng cung cấp vũ khí và tiếp tế cho chúng tôi”.
Đến đây Langdon ngắt lời và nói rằng đó là một vấn đề quân sự nên Đồng minh Hội phải trực tiếp thảo luận với Bộ chỉ huy quân sự của Đồng minh.
Phạm Viết Tự nói lại ông chỉ muốn hạn chế ư kiến của ḿnh ở khía cạnh chính trị của vấn đề và yêu cầu Langdon đề đạt rơ với Chính phủ Mỹ là ở đây chỉ nhấn mạnh đến vấn đề tự trị cho nhân dân Việt Nam.
Một lần nữa Langdon lại kéo dài câu chuyện và nói rằng ông hy vọng Đồng minh Hội xem xét lại lời yêu cầu trên với một lập trường thực tế hơn và cũng nên thấy rằng trong đó có bao hàm một sự ép buộc có thể đối với Đồng minh Pháp.
Langdon nói thêm là người An Nam có ǵ phải kêu ca đối với người Pháp th́ họ nên theo con đường thông thường mà nói chuyện thẳng với người Pháp.
Phạm Viết Tự đáp lại rằng về lư thuyết mà nói th́ đó là một cách giải quyết chính đáng “nhưng bênh vực cho điều đó trong trường hợp của Đông Dương là ngu ngốc, không nhận thấy thực tế của t́nh h́nh, v́ ở đó chỉ có áp bức, không có dân chủ”.
Một lần nữa Langdon lại đả vào các người khách của ḿnh: “Dân An Nam không nên nh́n tiền đồ của ḿnh một cách quá bi quan. Tháng 7 vừa qua, tướng De Gaulle đă có công bố với báo chí Washington rằng chính sách của Pháp là nhằm dẫn dắt mọi dân tộc trong đế quốc Pháp tiến tới tự trị...”.
Cuộc nói chuyện đă tiếp diễn theo cái kiểu đó để rồi dẫn đến một kết thúc tất nhiên không tránh khỏi.
Khi Phạm Viết Tự và các bạn của ông báo cáo lại cho ông Hồ, họ đă tỏ ra thất vọng và chỉ có thể nói rằng họ đă được tiếp đón thân mật nhưng không được một lời hứa hẹn ủng hộ về chính trị nào. Điều tốt nhất mà họ hy vọng có thể đạt được chỉ là một sự giúp đỡ hạn chế về quân sự và cũng có thể chỉ được trả công các dịch vụ đă tiến hành. Nhưng ông Hồ không thất vọng, trái lại ông tỏ ra hoan hỉ, trước sự ngạc nhiên của mọi người kể cả các sĩ quan OSS...
“Đồng minh Hội” của ông đă tranh thủ được sự công nhận của một quan chức trong Chính phủ Mỹ và đă giành được lời hứa hẹn sẽ làm cho các nhà cầm quyền cao cấp nhất ở Washington, có thể cả đến “Tổng thống Roosevelt vĩ đại”, phải quan tâm đến sự nghiệp chính nghĩa của Hội.
Trong cuốn: Why Vietnam? Thiếu tá Patty nhận xét về Hồ Chí Minh:
“Nhờ có đầu óc phân tích, bản chất thực dụng và một sự thông hiểu sâu sắc t́nh h́nh chính trị thế giới, ông Hồ đă rất sớm rút ra kết luận phải tranh thủ cảm t́nh của nước Mỹ. Ông đă xác định được không thể coi Trung Quốc như là một Đồng minh và thậm chí c̣n hơn thế nữa, có thể trở thành đối kháng. Ông đoán trước sẽ không có một sự ủng hộ tích cực về phía nước Nga “anh dũng” đối với kế hoạch giành độc lập của ông, bởi ngay sau khi thắng trận họ đă bị kiệt sức v́ chiến tranh. Trong khối Đồng minh phương Tây, các nước thục dân như Anh, Pháp và cả Hà Lan - sẽ nhất tề không thể nào khác được trong việc chống lại cuộc vận động chống chủ nghĩa thực dân của ông.
Đối với những nước này th́ chỉ có việc đẩy mạnh công cuộc đề kháng.
Trong suy nghĩ của ông, nhất định là khi có cơ hội, Pháp sẽ đ̣i lại Đông Dương làm thuộc địa.
Chỉ c̣n có Mỹ, một khả năng cuối cùng của ông. Nhưng đồng thời Mỹ cũng là một điều bí ẩn đối vối tâm t́nh của một con người đă được đào luyện chính trị ở Matxcơva. Ông Hồ đă phải vắt óc suy nghĩ để t́m ra những điều khá lạ lùng để dung hoà những đ̣i hỏi về lư thuyết và thực hành của ông.
Ông cảm thấy người Mỹ rơ ràng là chống thực dân, bối cảnh lịch sử, thành tích trước kia và những lời tuyên bố mới đây, tất cả đều chứng minh điều đó. Nhưng Mỹ cũng vẫn là tư bản. Những cải cách kinh tế xă hội của họ chưa thực sự “dân chủ”. Vô sản của họ thật chưa được “tự do” và được “giải phóng” như ở Nga. Nhưng chỉ c̣n có người Mỹ có lẽ mới chịu nghe và giúp đỡ phong trào của ông một cách có thiện cảm”.
(C̣n tiếp).
Sự khôn khéo của Hồ Chí Minh trong việc nhờ vả người Mỹ chính là ở chỗ không lộ rơ mưu đồ quá mức việc chống người Pháp quyết liệt bằng vũ trang v́ muốn ǵ quan hệ Mỹ - Pháp vẫn là đồng minh.
Trong thâm tâm Hồ Chí Minh không hề muốn cộng tác với nhóm Quốc dân đảng và các nhóm người Việt khác, dù các nhóm này đă tập hợp trong một mặt trận thống nhất lấy tên là “Việt Nam cách mạng đồng minh hội” mà Hồ Chí Minh là một thành viên trong ban lănh đạo. Ông luôn tỏ ra, Việt Minh do ông thành lập trong nước chỉ là một chi nhánh của Việt Cách để không bị Tưởng Giới Thạch nghi ngờ sẽ tác động đến sự can thiệp với người Mỹ.
Sự cộng tác của Việt Minh với Mỹ bắt đầu bằng một báo cáo t́nh báo thú vị của Hồ Chí Minh, cùng với hai bài viết chính trị gửi cho phái đoàn Mỹ ở hội nghị Liên Hợp Quốc.
Thiếu tá Patty đă đưa hai bài ấy cho Whitaker, ông ta quyết định chuyển tiếp cho Đại sứ quán Mỹ; một bài gửi cho giới lănh đạo Mỹ, Trung Quốc, Anh và Liên Xô, và bài kia là một bức thư ngỏ cho Liên Hợp Quốc(Cả hai bài đều kêu gọi ủng hộ nền độc lập của Việt Nam)
Những văn kiện ấy đều kư tên “Quốc dân đảng Đông Dương (Annam)”. Cái tên ấy có nghĩa là một chi nhánh của Quốc dân đảng (Trung Quốc); dù nguồn gốc thật sự của nó là Việt Minh.
V́ những văn kiện ấy là từ ông Hồ gửi đến, nên Patty không nghi ngờ ǵ rằng ông đă dùng cái tên cũ để không lộ ra chân tướng của Việt Minh. Ngay cả trong bản viết bằng tiếng Anh, đường lối của đảng ông đă được tŕnh bày mạnh mẽ và rơ ràng.
Bản báo cáo t́nh báo kèm theo những bài viết gồm một số trang đánh máy có pha thêm những mẩu chuyện về những mối liên hệ thân thiện Pháp - Nhật và sự đau khổ của người Việt Nam v́ cả hai đều làm cho họ thất vọng; tất cả những điều đó đều trừ hao đi v́ những lư do chính trị.
Tuy nhiên, nó cũng cho một thông tin có ích để nhận biết một vài đơn vị của sư đoàn Nhật Bản 37, chỗ đóng quân của nó chỉ mới cách đây vài ngày và tên của một vài sĩ quan cao cấp. Mở đầu như thế không phải là xấu, Pḥng tác chiến của Patty đă xác nhận một phần của nó và c̣n tỏ ra muốn chấp nhận những điều c̣n lại.
Mấy ngày sau đó, Patty nhận được qua đường dây một bản báo cáo thứ hai của ông Hồ với nhiều tin tức quân sự hơn. Lần này báo cáo đă cung cấp những chi tiết về việc xây dựng công sự mới của Nhật và những cải tiến công sự hiện có do Pháp xây dựng ở vùng Cao Bằng và trên đường về Hà Nội. Việc xác định lần đầu tiên những đơn vị của Quân đoàn 38 của Nhật và đặc biệt những đơn vị của Sư đoàn 32 ở vùng biên giới Cao Bằng đă gây nên một hứng thú to lớn ở pḥng tác chiến của Mỹ cũng như ở cấp Chiến trường.
Ông Hồ đă gắn một mảnh giấy nhỏ viết bằng tiếng Anh hỏi xem hai văn kiện chính trị có đáng gửi đi San Francisco không. Patty nói với người mang thư đến, rằng những văn kiện ấy đă được gửi đến các nhà chức trách hữu quan ở Trùng Khánh, nhưng không thể chắc chắn là chúng đến được với phái đoàn ở San Francisco. Về sau, Patty đă có thể xác định rằng đó là lần đầu tiên ông Hồ có ư định đưa sự nghiệp của ḿnh tới sự chú ư của Liên Hợp Quốc.
Trong tuần lễ đầu tháng 6, Hồ Chí Minh đă cho Patty biết tin ông đă chuẩn bị sẵn sàng hơn 1.000 quân du kích “được huấn luyện tốt” để phục vụ cho bất kỳ kế hoạch nào chống lại Nhật.
Số du kích này đă được tập trung ở một địa điểm trong khu vực chợ Chu, Định Hóa, và Patty đă báo tin cho ông Hồ biết là Patty cám ơn ông về đề nghị nói trên và sẽ chú ư xem xét vấn đề này một cách nghiêm chỉnh.
Đề nghị của ông Hồ đă đến đúng vào một lúc thuận lợi, khi mà đội quân Pháp dưới quyền của Courthelac (được thành lập để chuẩn bị cho trận đánh nhằm cắt đứt đường giao thông liên lạc Trấn Nam Quan - Hà Nội) đă từ chối không chịu tham gia huấn luyện và không nhận nhiệm vụ đă được đề ra.
Helliwell, Wampler và Patty đă bắt buộc phải đi đến kết luận là người Pháp tham gia vào các hoạt động của OSS một cách rất chậm chạp và mang theo đầy những chủ trương phá rối.
Wampler và Patty tán thành thay thế người Pháp bởi người Việt trong hoạt động phá hoại này nhưng Helliwell vẫn c̣n ngần ngại.
Kế hoạch đầu tiên cho nhiệm vụ này đă định để cho toán “Con Mèo” do Holland chỉ huy và toán “Con Nai” do Thomas chỉ huy, mỗi toán được tiếp nhận và huấn luyện 50 binh sĩ Pháp ở Tŕnh Tây.
Helliwell lo ngại về những ảnh hưởng chính trị nếu người Mỹ sử dụng du kích Việt Nam để thay thế cho Pháp và ông cũng không muốn phải thu lại những vũ khí và trang bị đă sẵn sàng cung cấp cho đội quân Pháp để chuyển cho người Việt Nam.
Patty đưa ra lư do là nếu chúng ta sử dụng đơn vị của ông Hồ ở chợ Chu th́ sẽ loại bỏ được việc phải cho đi bộ hoặc chuyên chở người Pháp một quăng đường 25 dặm đến biên giới, cộng thêm 150 dặm nữa để đi tới Hà Nội.
Với những đường ṃn trong rừng hiện nay th́ cự ly đó sẽ là gần 250 dặm, nghĩa là 10 đến 15 ngày đi đường. Ngoài ra c̣n phải kể đến những điều thuận lợi quan trọng khác trong việc sử dụng căn cứ và người của Việt Minh cho hoạt động này, như chúng ta sẽ được sự ủng hộ của dân chúng địa phương và có địa h́nh che chở cực kỳ thuận lợi. Những lợi ích thực tiễn này đă có sức nặng và cuối cùng Helliwell đă đồng ư. Đội quân Pháp của Courthelac đă không bao gị được sử dụng nữa.
Trong lúc này, nhóm GBT cũng có một nhân vật chủ chốt của họ Frankie Tan, ở tại bản doanh của ông Hồ, làm nhiệm vụ thu thập t́nh báo về Nhật và đồng thời cùng với AGAS triển khai mạng lưới giúp giải thoát người của người Mỹ.
Frankie Tan cũng đang t́m kiếm những người Mỹ bị bắt đă chạy thoát trong khu tam giác Tuyên Quang - Thái Nguyên - Bắc Cạn, nơi trung tâm các hoạt động chống Nhật của ông Hồ.
AGAS đă lập được một mạng luới vô tuyến trên suốt đất nước, từ Hà Nội đến Sài G̣n, thống nhất theo kế hoạch của OSS.
Patty đề nghị với Wichtrich của AGAS cùng nhau hợp tác với Hồ Chí Minh và tiến hành những hoạt động độc lập đối với người Pháp. Wichtrich đồng ư và chỉ định một trung úy trẻ tuổi tên là Phelan gánh vác nhiệm vụ của AGAS và làm liên lạc giữa OSS và Việt Minh cho đến khi toán “Con Mèo” và toán “Con Nai” của Patty đến căn cứ của ông Hồ.
Sau khi Sainteny đă ra lệnh đ́nh chỉ hoàn toàn cộng tác của người Pháp với OSS và sau khi điện đài ở Pakhoi im tiếng, Patty mới yêu cầu Trương Quốc Anh, một trong số các đầu mối tiếp xúc với Việt Minh báo cho ông Hồ biết rằng Patty rất quan tâm đến đề nghị của ông và đồng ư là sẽ có một toán người Mỹ, do một sĩ quan cao cấp đứng đầu, sẽ được thả dù xuống vùng Tuyên Quang.
Trong khi nói chuyện, ông Hồ báo cho Patty biết là thiếu tá Sainteny đă kết giao với Nguyễn Tường Tam.
Patty thấy khó mà nghĩ được rằng Sainteny lại đi giao thiệp với một phần tử quốc gia cực hữu, và chí ít cũng là lănh tụ của một phong trào cách mạng do Trung Quốc đỡ đầu. Nhưng 3 tuần sau, sự việc nói trên đă được một nhân viên Pháp Việt trong toán “Con Nai” xác định là đúng.
Ngày 30-6, Patty nhận được trả lời của ông Hồ đồng ư tiếp nhận toán của Patty và yêu cầu được biết khi nào th́ người Mỹ có thể đến. Trong tḥi gian đó Phelan đă được thả xuống khu vực Tuyên Quang và đă gặp được Frankie Tan.
- CƠ HỘI ĐĂ ĐẾN
Vào ngày 6-8- 1945 sự kiện “Hiroshima” đă báo trước kết thúc của cuộc chiến tranh. Trước t́nh h́nh đó, ông Hồ chưa thực sẵn sằng; nhưng khi ông được Thomas cho biết sự sụp đổ của Nhật, ông đă hành động một cách kiên quyết và nhanh chóng v́ ông phải bảo đảm chiếm được một chỗ đứng chân vững chắc ở nơi ông muốn như Hà Nội, Huế và Sài G̣n.
Ông Hồ biết rằng ông phải làm cho mọi người thấy rơ được cả tính chất hợp pháp lẫn sức mạnh để giữ được vai tṛ lănh đạo và đà phát triển của phong trào. Mặc dù c̣n rất yếu sau một cơn sốt rét và nhiều bệnh tật khác, ông cũng cho triệu tập một cuộc hội nghị các đại biểu Đảng và các lănh tụ chính trị Việt Minh.
Ngày 13-8- 1945 các đại biểu bắt đầu tới Tân Trào. Tất cả không phải đều đă có thiện ư đối với ông. Nhiều người thắc mắc về địa vị đứng đầu mặc nhiên của ông trong phong trào quốc gia. Một số lại hơi ngại về những tin đồn ông được Đồng minh ủng hộ. Một số khác khao khát địa vị lănh đạo cho bản thân ḿnh.
Mặc dù sức khỏe rất kém, ông Hồ vẫn tỏ ra tự tin, tươi vui, phấn khởi, tự thân đón chào một cách nồng nhiệt từng người mới đến.
Ông đi lại giữa mọi người, trao đổi tin tức, quan điểm và ôn lại các câu chuyện cũ. Trong cái “cơ quan và hành dinh” hỗn hợp của ông Hồ trưng bày nhiều tranh ảnh trong đó có Lênin, Mao và tướng Chennault với đủ các giải băng, sao, phù hiệu cấp bậc. Nhiều người tham dự hội nghị đă hỏi xem người sĩ quan ngoại quốc này là ai vậy và ông Hồ đă vui vẻ giải thích cho họ.
Đến chiều th́ một số lớn đại biểu đă đến hội nghị. Họ đại diện cho các cơ quan của Đảng từ ba vùng Bắc, Trung và Nam của Việt Nam, và cũng có một số đại biểu từ ngoài nước trở về. Mưa to và đường sá đi lại khó khăn đă làm cho một số đại biểu phải vắng mặt, một số th́ chắc không nhận được giấy triệu tập.
Công việc đầu tiên phải làm là quyết định về vấn đề khởi nghĩa.
Vào buổi tối ngày 13-8, một Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc được thành lập. Ủy ban nhận định là thời điểm cho một cuộc tổng nổi dậy và toàn dân đứng lên cầm vũ khí đă đến. Chính trong đêm đó, Ủy ban đă phát bản Quân lệnh số 1, ra lệnh phát động cuộc tổng khởi nghĩa.
Ngày hôm sau, Tổng bộ Việt Minh ra một bản kêu gọi nhân dân nổi dậy đấu tranh giành độc lập. Cũng trong ngày hôm đó, Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc thảo ra bản Kế hoạch hành động dựa trên 4 phương châm cơ bản:
kết hợp mọi hành động quân sự và chính trị, tập trung toàn bộ lực lượng dưới quyền một chỉ huy thống nhất, củng cố hàng ngũ cán bộ quân sự, dân sự và giữ vững liên lạc với lănh đạo. Bản kế hoạch hành động đă hướng dẫn tỉ mỉ việc vận dụng vào thực tế các phương châm công tác nói trên.
Liền ngay sau cuộc hội nghị của Đảng, Quốc dân đại hội đầu tiên đă được triệu tập họp vào ngày 16-8. Dưới quyền chủ toạ của Hồ Chí Minh, Đại hội gồm hơn 60 đại biểu đại diện cho nhiều đảng phái chính trị trong Mặt trận Việt Minh, các tổ chức quần chúng, các dân tộc (thiểu số), các cộng đồng tôn giáo ở Đông Dương và hải ngoại.
V́ Đại hội họp ở Tân Trào nên các đại biểu cũng loáng thoáng thấy được một cách kín đáo một số bộ đội mặc đồng phục, được trang bị tốt và rất có kỷ luật đi qua lại trong khu vực hội họp.
Người ta đă nhận ra ngay đó là những người Việt Nam và là đội viên của Giải phóng quân. Trang bị và vũ khí Mỹ của họ c̣n mới, cùng một kiểu và cỡ thống nhất. Ông Hồ vẫn yên lặng một cách khiên tốn nhưng hài ḷng về sự ṭ ṃ và quan tâm của các đại biểu. Với bức ảnh có kèm theo chữ kư của Chennault trong lều của ông Hồ cùng với những du kích quân trang bị tốt như thế, dư luận lan truyền là Việt Minh và đặc biệt là “Cụ Hồ” đă được Đồng Minh “bí mật ủng hộ”. Trong thâm tâm, chắc ông Hồ đă vui miệng khi thấy toán “Con Nai” đă đến thực đúng lúc, và bằng cách trải loăng nó ra th́ lại thấy h́nh như nhiều hơn lên so với t́nh h́nh thực trạng của nó.
Đại hội đă tán thành nghị quyết về một Cuộc tổng khỏi nghĩa và thông qua Quân lệnh số 1. Trong một phiên họp 2 ngày, Đại hội đă chấp nhận một chương tŕnh 10 điểm, một quốc kỳ có ngôi sao vàng 5 cánh nằm giữa một nền đỏ và một bài quốc ca, bầu ra Ủy ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam, đứng đầu là Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, hoạt động như một chính phủ lâm thời trong quá tŕnh thưa có Tổng tuyển cử toàn quốc.
Ông Hồ, luôn luôn thực dụng, đă lái Đại hội đi tới chỗ tán thành một chính sách thực tế “giành lấy chính quyền từ tay người Nhật và Chính phủ bù nh́n trước khi quân đội Đồng minh vào Đông Dương và như thế với danh nghĩa là những người chủ của đất nước, chúng ta hoan nghênh đón quân đội đó đến để giải giáp quân Nhật”. Nghị quyết này của Đại hội đă thể hiện sự lo lắng của ông Hồ trước mưu toan t́m kiếm lợi ích của Pháp và Trung Quốc, mối đe doạ mà mọi người đều biết, đối với sự nghiệp của ông do việc khối Pháp, Anh, Hà Lan muốn thu hồi trọn vẹn các thuộc địa cũ của họ. Ông Hồ đă nhận thức được Đồng minh không phải là đồng minh trong thực tế, mà đó chỉ là một sự liên kết với nhau nhằm mở rộng việc bảo vệ các quyền lợi thực dân ở Đông Nam Á. Căn cứ vào kinh nghiệm trước đây, ông Hồ đă thấy trước một cách rất sáng suốt là Trung Quốc sẽ không dễ dàng bỏ qua một cơ hội tốt nào để bóc lột Việt Nam.
Khi kết thúc Đại hội đáng ghi nhớ này, ông Hồ đă đưa ra một lời kêu gọi hùng hồn với toàn thể nhân dân Việt Nam, trong đó có đoạn ghi:
“Giờ quyết định số phận đất nước chúnlg ta đă điểm. Toàn dân trong nước hăy nổi dậy, dùng sức mạnh của bản thân chúng ta đế giải phóng cho chúng ta. Các dân tộc trên thế giới đang nô nức thi đua để tiến lên giành lấy độc lập. Chúng ta không cam chịu ở lại đàng sau...
Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ của Việt Minh, nhân dân ta hăy anh dũng tiến lên phía trước”.
Ông Hồ đă kư vào bản kêu gọi với cái tên mà trước đây ông đă dùng khi bắt đầu cuộc đời đấu tranh cách mạng của ông - Nguyễn Ái Quốc. Lời kêu gọi đánh vào tinh thần yêu nước của người Việt Nam và ông muốn cho họ biết ông vốn là “Nguyễn, người coi t́nh yêu Tổ quốc là đạo đức tối cao”.
Ngày thứ nhất của Đại hội cũng là ngày xuất phát của toán “Con Nai”. Theo chỉ thị của Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc, một đơn vị dưới quyền chỉ huy của Vơ Nguyên Giáp (được toán “Con Nai” huấn luyện trước) đă rời Tân Trào tiến đánh trại lính Nhật ở Thái Nguyên để mở đường tiến về Hà Nội ở phía Nam. Khi mọi việc chuẩn bị đă sẵn sàng, ông Hồ, vị Chủ tịch mới, đă mời tất cả đại biểu các đảng phái và quan khách đến để quan sát đơn vị Việt Nam hành quân tiến ra ngoài doanh trại, có toán “Con Nai” đi cùng.
Thiếu tá Thomas là một sĩ quan trẻ tuổi, giỏi, nhưng chất phác một cách dễ hiểu trong lĩnh vực đấu tranh giữa các cường quốc thế giới. Thomas và toán của ông cùng với những người Mỹ được rải ra trên khắp Trung Quốc và Đông Dương đă chán ngán và không hài ḷng khi họ thấy bị chính sách của Bộ chỉ huy Chiến trường cấm không được đ̣i hỏi quân Nhật ở địa phương ḿnh hoạt động đầu hàng, hoặc nếu có việc họ muốn xin hàng th́ cũng không được tiếp nhận. Như Thomas đă nêu: “điều đó đă làm cho tôi chán ngán đến cực độ khi tất cả chúng tôi cảm thấy chúng tôi đă phải liều cả tính mạng ḿnh để đến đây nhưng đến nay, khi công việc đă chạy tốt rồi th́ chẳng c̣n ai đếm xỉa đến chúng tôi nữa...” vân vân và vân vân. Một số toán t́nh báo này, hoạt động ở cách xa mọi sự chỉ huy của cơ quan quân sự đến hàng trăm dặm, đă làm ầm ĩ lên hơn thế nữa và đă không tuân theo mệnh lệnh của Chiến trường.
Trong trường hợp của toán “Con Nai”, họ đă làm dịu bớt sự bất măn của ḿnh bằng cách đi theo cùng với bộ đội Việt Minh suốt trên đường về Hà Nội, nhưng chỉ với tư cách là những quan sát viên. Có thể họ đă hoàn toàn lăng quên mất cái ấn tượng họ đă tạo ra được cho ông Hồ một cách chắc chắn là ông đă có được sự ủng hộ “bí mật” của Đồng minh. Nhưng c̣n các đại biểu th́ sau khi Đại hội kết thúc, họ phân tán trở về địa phương, họ lại mang theo cái ấn tượng nói trên cùng với họ đi khắp đất nước.
Ghi chú: Đây là tư liệu lấy trong cuốn WHY VIETNAM?
(C̣n tiếp).
Ngày 15/8/1945 Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng Minh, nhưng văn kiện đầu hàng vẫn chưa được kư kết chính thức.
Nước Nhật bại trận đă rơ ràng, nhưng điều Nhật Hoàng quan tâm là nước Nhật có bị đồng minh chiếm đóng, hoàng gia Nhật có bị giải tán, nước Nhật sẽ có một thể chế nhà nước và hiến pháp như thế nào…?
Dù tuyên bố đầu hàng, nhưng lệnh vẫn đưa ra, quân đội Nhật án binh bất động và tại các lănh thổ do người Nhật cai quản các hoạt động vẫn diễn ra b́nh thường, đợi đồng minh vào giải giáp vũ khí và tiếp quản.
Tại Đông Dương lúc này một khoảng lặng diễn ra ngắn ngủi khi quân Nhật đang đợi đồng minh vào giải giáp, báo hiệu một cơn băo táp lôi kéo nền chính trị ở đây vào một giai đoạn phức tạp, kéo dài nhất trong lịch sử thế giới.
Khoảng lặng này đă tạo ra cho Việt Minh cơ hội hoạt động công khai mà không bị người Nhật đàn áp.
Tại Hà Nội.
Ước vọng của chính phủ Trần Trọng Kim yêu cầu người Nhật trao trả nốt Nam Kỳ cho Việt Nam thành sự thật.
Trần Trọng Kim ra Hà Nội gặp Tsuchi-Hashi Yuitsu, tổng tư lệnh nhật, quyền chức toàn quyền của Pháp ở Đông Dương.
Trần Trọng Kim nói:
- Quân đội Nhật đă đánh quân đội Pháp và công nhiên hứa hẹn trả quyền tự chủ cho nước Việt Nam. Bởi vậy tôi không quản tuổi già và sự khó khăn của hoàn cảnh mà đứng ra lập chính phủ. Tôi làm việc một ḷng giúp nước tôi, cũng như các ông lo việc giúp nước Nhật, thế mà thấy nhiều người nói nọ nói kia rất khó chịu. Nếu các ông cho tôi là người làm việc cho nước Nhật, việc ấy không phải là phận sự của tôi, tôi sẵn ḷng xin lui.
Tổng tư lệnh Nhật nói:
- Bao giờ người Nhật cũng giữ lời hứa hẹn nên những việc nội trị trong nước Việt Nam là không can thiệp đến. C̣n những việc chưa giải quyết được là v́ cần phải có th́ giờ để thu xếp cho ổn thỏa. Cụ đừng nghe người Nhật hay người Việt Nam nói nhảm không có căn cứ ǵ. Vả tôi phụng mệnh Thiên Hoàng sang đây, việc ǵ cũng trách cứ ở tôi, cụ đừng ngại.
- Ngài đă nói thế, phận sự của chính phủ chúng tôi là phải thu lại mấy thành thị Hà Nội, Hải Pḥng, Đà Nẵng và toàn hạt đất Nam Bộ cho nước Việt Nam. Nếu việc ấy không xong, th́ chúng tôi đối với quốc dân không có nghĩa lư ǵ cả.
- Chúng tôi bao giờ cũng định trả lại các lănh thổ Việt Nam cho chính phủ Việt Nam. Nhưng v́ sợ các ông chưa xếp đặt được sẵn sàng, nên c̣n tŕ hoăn lại ít lâu.
- Chúng tôi vẫn sẵn sàng về việc ấy, chỉ c̣n đợi sự quyết định của các ông mà thôi. - Vậy th́ cụ định bao giờ lấy lại ba thành thị kia?
- Nếu ngài bằng ḷng, th́ tôi xin lấy ngay tự bây giờ.
Viên tổng tư lệnh Nhật nghĩ một lúc rồi nói:
- Vậy xin để đến sáng ngày kia, vào 11 giờ cụ cho làm lễ thu nhận ba thành thị ấy. C̣n Nam Bộ th́ có nước Cao Miên c̣n lôi thôi về mấy tỉnh ở biên giới.
Trần Trọng Kim nói:
- Việc ấy hiện bây giờ không thành vấn đề được, v́ địa giới Nam Bộ ngày nay với địa giới Nam Bộ ngày trước không có ǵ thay đổi. Vậy phận sự chúng tôi là phải lấy lại toàn lănh thổ của tổ quốc. C̣n như Cao Miên có muốn nói chuyện ǵ về việc ấy, th́ sẽ nói chuyện với chúng tôi về sau. Vả theo ư tôi, th́ nước Cao Miên muốn thừa cơ chiếm lấy một ít đất của nam bộ, như thế làm mất cái tinh thần thân thiện của hai nước lân bang, và không đời nào dân Việt Nam chịu.
Tổng tư lệnh Nhật cứ viện hết lư do nọ đến lư do kia, thành ra cứ bàn căi đến một ngày mới chịu nhận lời trả lại nam bộ. Có một điều nên biết, là từ ngày Trần Trọng Kim ra Hà Nội, người Nhật nói chuyện rất ḥa nhă và có vẻ cung kính, chứ không có điều ǵ trịch thượng hay gai ngạnh.
Khi họ đă nhận lời trả lại đất nam bộ, có hỏi Trần Trọng Kim rằng:
- Bao giờ cụ định vào nhận lấy đất nam bộ, hay cụ định cho ai đi thay cụ.
Trần Trọng Kim nghĩ trong cái việc khó khăn này, ḿnh phải đi mới được, và nói:
- Tôi về Huế vài ngày để tâu bày mọi việc với hoàng thượng, rồi độ chừng ngày mùng 8 tháng tám là tôi đă ở Sài g̣n rồi.
Tổng tư lệnh Nhật nói:
- Cụ định vào th́ hôm ấy tôi cũng vào, để xếp đặt mọi chuyện cho chóng xong.
Việc lấy lại toàn lănh thổ Việt Nam như thế là quyết định xong.
Được tin người Nhật ưng thuận, và lúc ấy có ông Nguyễn Văn Sâm lănh tụ đảng Quảng Xă, vừa ở Sài G̣n ra Huế. Trần Trọng Kim vào tâu vua Bảo Đại, xin cử ông Sâm làm Nam Bộ Khâm Sai. Ngày 14 tháng tám năm 1945, ông Sâm được sắc chỉ bổ vào Nam.
Theo như Trần Trọng Kim thuật lại:
Đảng Việt Minh lúc ấy rất hoạt động, đánh huyện này, phá phủ kia. Lính bảo an ở các nơi phần nhiều bị Việt Minh tuyên truyền, tuy chưa theo hẳn, nhưng không chống cự nữa. Dân gian bấy giờ rất hoang mang, một đường có chính phủ quốc gia, nhưng v́ thời gian eo hẹp, chưa kịp sắp đặt ǵ cả. Công việc thấy có nhiều sự khốn khó mà thường nghe sự tuyên truyền của Việt Minh, nói họ đă có các nước Đồng Minh giúp đỡ cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập. Dân ta từ khi bị người Pháp sang cai trị, cứ khao khát độc lập, nay nghe Việt Minh nói thế, lại nghe nói đảng Việt Minh lên cầm quyền, dân không phải đóng thuế nữa, được hoàn toàn tự do và có nhiều hạnh phúc, thành ra ai cũng tin theo. Ngay những đạo thanh niên tiền tuyến do bộ Thanh Niên lập ra, cũng có ư ngă về Việt Minh.
Tôi thấy t́nh thế ấy, tôi bảo ông Phan Kế Toại đi t́m một vài người Việt Minh đến nói chuyện, v́ lúc ấy tôi c̣n tưởng đảng Việt Minh dù theo chủ nghĩa cộng sản, nhưng chắc cũng nghĩ đến tương lai nước nhà. Hôm sau ông Toại đưa một thiếu niên Việt Minh đến, tôi nói:
- Chúng tôi ra làm việc chỉ v́ nước mà thôi, chứ không có ư cầu danh lợi ǵ cả, tôi chắc đảng các ông cũng v́ nước mà hành động.
Nếu vậy chúng ta tuy đi con đường khác nhau, nhưng cũng một mục đích như nhau, các ông thử xem ta có thể hợp tác với nhau, kẻ ở trong người ở ngoài, để cứu nước được không?.
Người ấy nói:
- Sự hành động của chúng tôi đă có chủ nghĩa riêng và có chương tŕnh nhất định để đem nước đến chỗ hoàn toàn độc lập. Chúng tôi có thể làm lấy được.
- Sự mưu cầu cho nước được độc lập cũng là mục đích của chúng tôi, nhưng v́ đi đường thẳng có nhiều sự khó khăn nên chúng tôi phải uyển khúc mà đi từ từ có lẽ chắc chắn hơn.
- Chúng tôi chỉ có một con đường thẳng đi đến hoàn toàn độc lập chứ không có hai.
- Theo như ư các ông như thế, tôi sợ rất hại cho dân, mà chưa chắc đă thành công được.
- Chúng tôi chắc thế nào cũng thành công. Nếu có hại cũng không cần, có hại rồi mới có lợi. Dù người trong nước mười phần chết mất chín, chúng tôi sẽ lập một xă hội mới với một thành phần c̣n lại, c̣n hơn với chín phần kia.
Rồi người ấy ngồi đọc một bài h́nh như đă thuộc ḷng để kể những công việc của đảng Việt Minh. Tôi thấy thái độ người ấy như thế, tôi biết không thể lấy nghĩa lư nói chuyện được.
Tôi nói:
- Nếu các ông chắc lấy được quyền độc lập cho nước nhà, các ông không vào chính phủ làm việc, cần ǵ phải đánh phá cho khổ dân?
- Chúng tôi sẽ cướp lấy quyền để tỏ cho các nước Đồng Minh biết chúng tôi mạnh, chứ không chịu để ai nhường.
- Các ông chắc là các nước Đồng Minh tin ở sức mạnh của các ông không?
- Chắc lắm. Chắc trăm phần trăm. Tương lai c̣n dài, các ông nhận lấy trách nhiệm đối với quốc dân và lịch sử.
Xong việc ấy rồi cách hai hôm sau chúng tôi về Huế.
Trần Trọng Kim đi rồi, mọi việc giao tiếp với người Nhật và Việt Minh giao cho Khâm sai Phan Kế Toại đảm nhiệm.
Trần Trọng Kim có nhận xét về Phan Kế Toại như sau:
“Giá lúc ấy có một người làm khâm sai ở bắc bộ cương quyết và hiểu việc, th́ các việc tổ chức có thể mau chóng hơn, nhưng ông Phan Kế Toại là người chuyên làm việc trong thời bảo hộ của Pháp, tuy trong sạch hơn cả, song chỉ là một ông quan biết thừa hành mệnh lệnh, chứ về đường chính trị th́ không thông thạo lắm, và tính lại nhát. Ông thấy một đường th́ người Nhật làm khó dễ, một đường th́ bọn Việt Minh bạo động, nay đánh chỗ này, mai đánh chỗ nọ, ông sợ hăi và chán nản, chỉ nói chuyện xin từ chức.
Phàm những người cầm quyền bính trong tay mà có những người tế nhị tài giỏi, biết quyền biến, giúp việc th́ dù việc dở cũng hóa hay, mà không th́ việc hay cũng hóa dở. Đó là điều các nhà làm chính trị nên chú ư.
Trước tôi thấy cách làm việc của ông Toại rất lộn xộn, tôi đă muốn t́m người thay, nhưng t́m aỉ Người nói giỏi th́ nhiều, mà người làm được việc th́ ít. Nếu ở trong quan trường cũ có người tài cán và hiểu việc th́ hơn, v́ chức khâm sai là một chức kiêm cả việc chính trị và cai trị. Việc cai trị không có lịch duyệt không làm được. Ông Toại là người làm quan có tiếng hơn cả mà c̣n như thế, huống người khác rồi ra sao. V́ thế nên tôi cứ trù trừ măi. Sau ông Toại cứ nài. Tôi nghe nói ông Nguyễn Tường Long là người biết chính trị và có nghị lực hơn cả, nhưng lúc ấy ông đang bị bệnh thương hàn. Tôi nghĩ đến ông Nguyễn Xuân Chữ là người trong Việt Nam Ái Quốc Đảng, có tính cương quyết và đứng đắn. Tôi gặp ông Chữ nói chuyện, ông đă nhận lời, nhưng hôm sau ông về bàn tính thế nào lại đổi ư, nói xin để thong thả.
Tôi th́ vội về mà người th́ không có. Tôi phải bảo ông Toại phải cố ở lại mà làm việc cho đến khi tôi thu xong đất nam bộ, tôi sẽ t́m người thay. Ông Toại nể tôi mà ở lại”
(C̣n tiếp)
Trần Trọng Kim quay vào Huế, Khâm sai Phan Kế Toại thấy Việt Minh hoạt động rất mạnh và có ư định gặp gỡ các đại diện Việt Minh.
Chiều 15/8/1945 khi có tin Nhật chính thức đầu hàng Đồng Minh, Trần Tử B́nh và Nguyễn Khang, hai đại diện của Xứ ủy Bắc Kỳ được giao nhiệm vụ ở lại Hà Nội, đă cấp tốc bàn bạc và đi tới quyết định thành lập Uỷ ban Quân sự Cách mạng Hà Nội (Ủy ban khởi nghĩa) của Mặt trận Việt Minh - do Nguyễn Khang làm chủ tịch và bốn ủy viên: Trần Quang Huy, Nguyễn Duy Thân, Lê Trọng Nghĩa và Nguyễn Quyết cùng cố vấn Trần Đ́nh Long - để gấp rút chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền.
Khâm sai Phan Kế Toại đă gặp Nguyễn Khang, người do Xứ Ủy Bắc Kỳ cử đến. Ông đề nghị Việt Minh tham gia Chính phủ Đế quốc Việt Nam và ngừng các hoạt động chống Nhật nhưng Nguyễn Khang bác bỏ.
Ngay sau đó, chính quyền thân Nhật Đế quốc Việt Nam thành lập Uỷ ban Chính trị để đàm phán với Việt Minh. Ủy ban này đề nghị Việt Minh: "Đằng nào các ông cũng thắng, nhưng để điều đ́nh với Đồng Minh sẽ vào Đông Dương giải giáp quân Nhật, đề nghị vùng nông thôn cách thành phố 15km là thuộc quyền các ông, c̣n thành phố cần có nhân sĩ, trí thức đứng ra giao dịch với Đồng Minh". Đại biểu Việt Minh đă trả lời dứt khoát: "giao dịch với Đồng Minh lúc này, ngoài Việt Minh không ai có thể có lực lượng và danh nghĩa cả".
Hai ngày sau, khi Nhật tuyên bố đầu hàng, những người cách mạng ở Hà Nội vẫn không nhận được mệnh lệnh ở Tân Trào. Họ lại họp và quyết định hành động trên cơ sở chỉ thị ngày 12-3 của Thường vụ ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương “cho phát động tổng khởi nghĩa khi có hoàn cảnh thuận lợi”. Họ cho đó là một sự phê chuẩn đầy đủ để hành dộng và Nguyễn Khang trong đêm ấy đă phổ biến quyết định cho những người cách mạng ở Hà Nội.
Những lănh đạo Việt Minh ở Hà Nội sau đó nhận được lệnh của Tân Trào cho phép phát động tổng khởi nghĩa, nhưng bản thảo luận họ lại thấy chưa được chuẩn bị sẵn sàng. Họ thấy cần phải phát động được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân và tiến hành một cuộc biểu dương lực lượng, nhưng cũng chưa biết phải làm thế nào.
Để đối phó với một cuộc chiếm đóng của Trung Quốc, hoặc cũng có thể của cả Pháp, các nhà chức trách Nhật ở Bắc Kỳ đă bày ra cách bàn giao cho viên Khâm sai bộ máy hành chính địa phương, sở Bảo an binh, sở Mật thám trung ương, sở Kiểm duyệt và một số công sở ít quan trọng khác.
Hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ, trong một cố gắng cuối cùng nhằm duy tŕ quyền lực cho Chính phủ Trần Trọng Kim đă bí mật họp ngày 16-8 ở Phủ Thống sứ và quyết định sẽ tiến hành một cuộc mít tinh tại Nhà hát lớn chào mừng sự kiện thu hồi được chủ quyền Nam Bộ và thống nhất đất nước từ tay người Nhật.
Qua đó tuyên bố tập họp quần chúng đi theo Bảo Đại, né tránh những người Cộng sản quốc gia, và hoăn không thời hạn rồi giải tán.
Biết được thông tin về cuộc mít tinh này, Thành ủy Việt Minh cho rằng, đây là một vận may hiếm có - đối phương đă tạo cho họ một cơ hội tuyệt vời.
Nắm ngay lấy cơ hội trời cho này, Thành ủy Hà Nội quyết định một cách táo bạo: bung phong trào Việt Minh ra công khai bằng cách phá vỡ cuộc mít tinh và chuyển nó thành một cuộc biểu dương lực lượng của Việt Minh.
Ngày 17/8/1945 cuộc mít tinh diễn ra.
Hàng vạn người đứng đầy đường Paulbert (nay là phố Tràng Tiền), người đi xem rất đông, trên bao lơn nhà hát lớn, cờ quẻ ly được kéo lên, mọi người hát vang bài Tiếng Gọi Thanh Niên và hoan hô chính phủ Trần Trọng Kim thu hồi độc lập, họ hô to "Việt Nam độc lập muôn năm".
Đúng lúc này, các đội viên đội Tuyên truyền Giải phóng quân cũng trương cờ đỏ sao vàng và hô to "Ủng hộ Việt Minh".
Họ tạo ra một sự hỗn loạn cực độ phá vỡ chương tŕnh tổ chức. Ban tổ chức cố gắng lập lại trật tự nhưng không thể nào kiểm soát nổi t́nh h́nh.
Theo một tín hiệu đă định trước, nhiều đội viên đội Danh dự của Việt Minh (chuyên ám sát các đối thủ chính trị của Việt Minh) nhảy lên khán đài với súng ngắn trong tay dồn các viên chức Đế quốc Việt Nam vào một góc, hạ cờ Đế quốc Việt Nam xuống, trương cờ đỏ sao vàng lên.
Các cán bộ tuyên truyền Việt Minh chuyển sang vừa hô khẩu hiệu vừa kêu gọi quần chúng ủng hộ họ nhưng không có kết quả. Quần chúng không muốn tiếp tục cuộc mít tinh, sự náo động bắt đầu xảy ra.
Cuối cùng Nguyễn Khang phát biểu kêu gọi nhân dân ủng hộ Việt Minh với lập luận Việt Nam đă giành độc lập từ tay người Nhật chứ không phải từ tay Pháp, nay Nhật đă bị đánh bại và Việt Nam được tự do, đồng thời kết tội Chính phủ Trần Trọng Kim của Đế quốc Việt Nam phục vụ quyền lợi nước ngoài và kêu gọi dân chúng ủng hộ Việt Minh đánh đổ chính quyền tay sai, đấu tranh cho độc lập dân tộc.
Cuộc mít tinh sau đó đă biến thành cuộc tuần hành thị uy của quần chúng cách mạng do Việt Minh điều khiển. Nhiều lính bảo an cũng khoát súng đi theo. Sau cuộc biểu t́nh Việt Minh phân phát cờ đỏ cho dân chúng để đón quân giải phóng sắp ở chiến khu về. Hàng trăm, hàng ngàn người vào Bắc bộ phủ hô đả đảo phát xít, hoan hô giải phóng, hô hào dân chúng đi chiếm các công sở.
Được quần chúng vững vàng ủng hộ, Nguyễn Khang yêu cầu họ sắp thành hàng và diễu hành tới dinh Toàn quyền để biểu thị t́nh đoàn kết và sức mạnh của ḿnh.
Lúc đó là một thời điểm khá gay cấn v́ không một ai biết được Nhật và lính Bảo an sẽ làm ǵ. Nhưng họ đă không hành động để can thiệp.
Khi cuộc diễu hành bắt đầu, binh lính Bảo an bồng súng và đi vào hàng cùng với những người biểu t́nh - một thắng lợi cực kỳ to lớn cho Việt Minh. Dọc đường, một số lớn những người ngoài cuộc cũng ùa đi theo cho nên một trận mưa trút nước lúc đó cũng chẳng làm dịu bớt tinh thần quần chúng. Cuộc biểu t́nh là một thắng lợi hết sức to lớn. Ngoài một sự xô đẩy nhỏ trên bục diễn giả, th́ ở đây không có bạo lực và đổ máu.
Cuộc mít tinh quần chúng đă thể hiện như là một sự xuất hiện công khai và không có đối lập đầu tiên của Việt Minh coi như là một lực lượng chính trị, và điều đó đă phát động được sự phấn khởi của quần chúng tiến hành nhiều cuộc diễu hành và diễn thuyết đầy những lời ca tụng suốt trong ba hôm.
Ngay tối hôm đó, Thành ủy họp một phiên chiến lược và kết luận đúng là đă đến thời điểm phải tiến lên. Họ lư luận rằng chính quyền Trần Trọng Kim đă không dám đương đầu với họ, trong khi đó th́ lực lượng an ninh và cảnh sát sẽ đi theo họ cùng với vũ khí và tất cả.
Họ thấy không có dấu hiệu là quân bại trận Nhật sẽ có hành động chống lại. Ngay cả đến đám thị dân vô chính trị cũng tỏ ra có cảm t́nh với chính nghĩa của họ.
Một sự tŕ hoăn có thể trở nên nguy hiểm. Người Nhật cũng có thể thay đổi ư định của họ. Đám Quốc dân đảng thù địch như Đại Việt, và Phục Quốc đă có những đơn vị vũ trang cũng có thể tổ chức chống đối. C̣n quần chúng cũng có thể trở thành thờ ơ. Do đó Thành ủy đă có quyết định lịch sử ra lệnh khởi nghĩa vào ngày 19-8.
Lại bắt đầu một cuộc chuẩn bị sôi sục. Một ủy ban Quân sự cách mạng vạch kế hoạch tiến hành trong ngày, bắt đầu là một cuộc tập hợp quần chúng to lớn, sau chuyển thành một cuộc diễu hành khổng lồ tiến về dinh Toàn quyền, dinh Thống sứ, sở Mật thám, trại Bảo an binh, chợ và các mục tiêu khác gặp trên đường đi.
Sáng tinh mơ 19-8, một ngày chủ nhật, các đội viên Đội vơ trang tuyên truyền tản ra các vùng ngoại ô và làng xóm chung quanh kêu gọi dân chúng đến tham gia vào cuộc tập trung ở trước cửa Nhà hát lớn. Đến 9 giờ, nhiều ḍng người đi bộ hoặc xe đạp, theo từng nhóm gia đ́nh hoặc láng giềng, lũ lượt phấn khởi kéo vào thành phố. Một số mặc lễ phục hoặc y phục địa phương. Họ được phát cờ Việt Minh hoặc các biểu ngữ mới được làm từ hôm trước và được tập dượt một cách vội vàng hoan hô hoặc hát mỗi khi có lệnh. Hầu hết mọi người đều gấp rút học lời và điệu bài quốc ca tương lai “Tiến quân ca”.
Họ từ mọi phía kéo về quảng trường trước cửa Nhà hát lớn, tràn vào các đường phố trong khu vực, h́nh thành một cảnh tượng đáng kinh sợ, một biển người đội trên đầu hàng ngàn cờ đỏ. Không có ǵ quá đáng trong sự diễn tả và các ảnh chụp lúc đó của những người Pháp được chứng kiến. Dẫn đầu các ḍng người là những đơn vị tự vệ được trang bị bằng tất cả mọi thứ vũ khí, từ khẩu súng tối tân Nhật cho đến khẩu mousqueton của Pháp, súng kíp cổ lỗ và súng săn.
Đến giữa trưa, lực lượng của cuộc mít tinh lớn này được tổ chức lại thành các đội xung kích và tiến về hai hướng khác nhau. Một cánh tiến thẳng về phía dinh Thống sứ, chung quanh có hàng rào sắt cao che, có lính Nhật và lính Bảo an cùng gác. Những người biểu t́nh lao về phía hàng rào và kêu gọi binh lính hạ súng đầu hàng. Lính gác ngập ngừng, trong khi đó th́ nhiều tự vệ đă leo vọt qua được hàng rào. Thấy thế, binh lính chỉ c̣n cách vứt súng xuống đất trước mắt họ và lặng lẽ rút lui. Những người biểu t́nh đă lọt vào trong và mở cổng. Dinh Thống sứ đă “bị chiếm”. Người ta phát hiện ra ngay viên Khâm sai và đám tùy tùng đă trốn đi từ trước. Đội tự vệ chiếm lĩnh ṭa nhà, trương cờ Việt Minh lên thay vào chỗ cờ của nhà vua và đặt canh gác.
Đó là một thắng lợi cụ thể đầu tiên của Việt Minh và nó đă có tác dụng tượng trưng vô cùng to lớn. Chỉ trong một đ̣n và không phải bắn một phát súng, khái niệm về chế độ thực dân bị tan vỡ và toàn bộ chính quyền bù nh́n Bảo Đại công khai bị lật đổ.
Đội tự vệ Việt Minh đă t́m được một chỗ cất giấu lớn đầy vũ khí mới và đạn dược trong kho dinh Thống sứ. Có vũ khí mới, lại được một số Bảo an đào ngũ tăng cường thêm, đội tự vệ tiến về các công sở khác và đă chiếm được một cách dễ dàng.
Cánh thứ hai ào tới trại Bảo an binh. Viên chỉ huy trại, vốn là một người cảm t́nh bí mật của Việt Minh, đă nhanh nhẹn mở cổng vào trao nộp ch́a khóa kho vũ khí. Việt Minh chiếm được nhiều vũ khí hiện đại, nhưng chỉ sau đó vài phút, họ đă phải đương đầu ngay với nhiều xe tăng cùng với nhiều xe vận tải đầy bộ binh Nhật được điều tới. Đây là một khó khăn. Những vũ khí mới cũng không giúp ǵ cho những người nổi loạn v́ họ không biết sử dụng và Nhật cũng hay được điều đó.
Dù sao th́ khi nh́n thấy những vũ khí của Việt Minh, người Nhật cũng phải suy nghĩ. Trong lúc đó họ c̣n đang do dự th́ Lê Trọng Nghĩa đă lên tiếng một vài lời và tác động mạnh đến họ bằng cách khéo léo chỉ ra cho họ biết là người Nhật đă bị bại trận và sắp tới họ sẽ được hồi hương. Người Việt Nam, Nghĩa nói, không c̣n coi họ là kẻ thù của ḿnh nữa và nếu như họ không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, Nghĩa sẽ bảo đảm an ninh cho họ. Đến đó viên chỉ huy Nhật liền rút lui, để lại khu vực cho Việt Minh.
Đến chiều th́ toàn bộ thành phố, trừ nhà Ngân hàng Đông Dương, Phủ Toàn quyền và các doanh trại Nhật, đă thuộc quyền kiểm soát của Việt Minh hay chính xác hơn, của Thành ủy Hà Nội.
Trong nhiều năm, nhiều câu chuyện huyền thoại đă lan truyền chung quanh việc “chiếm” Hà Nội. Đây không phải là một cuộc đảo chính, không có đổ máu, không có khủng bố trả thù, không có chống cự của người Pháp, không có âm mưu bí mật hoặc điều đ́nh thông đồng với Nhật và ngay cả đến một sự giúp đỡ to lớn của người Việt Nam ở bên ngoài Hà Nội cũng không có.
Bốn ngày sau khi xảy ra sự kiện, tướng Giáp và đơn vị bộ đội thiện chiến của ông, cùng với thiếu tá Thomas và toán “Con Nai” vẫn c̣n đang đánh nhau với Nhật ở Thái Nguyên, cách xa Hà Nội khoảng 40 dặm và Hồ Chí Minh vẫn c̣n đang ở Tân Trào cũng bất ngờ với những ǵ diễn ra nhanh chóng ở Hà Nội.
Hà Nội, thủ phủ của Bắc Kỳ, trung tâm quyền lực thực dân Pháp ở bắc Đông Dương, đă tự giải phóng lấy ḿnh và đặt ra một khuôn mẫu cho việc giải phóng phần lớn khu vực c̣n lại của đất nước.
(C̣n tiếp).
- CƠ HỘI ĐẾN…
Cuộc Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội như ng̣i nổ kích hoạt lan rộng ra toàn Việt Nam. Việt Minh giành được chính quyền trên cả nước chỉ trong khoảng mười ngày.
Nguyên nhân thành công được sau này đúc kết như sau:
Về thiên thời, đây là thời điểm Đông Dương bị rơi vào khoảng lặng, giao thời chuyển giao quyền lực từ người Nhật cho đồng minh và người Nhật án binh bất động đợi đồng minh vào giải giáp.
Người Pháp lực lượng sau cuộc đảo chính của Nhật vào 9/3/1945 một phần bị Nhật bắt làm tù binh, phần lớn chạy sang Trung Quốc.
Chính phủ của Nhà nước Đế Quốc Việt Nam do Bảo Đại làm Quốc trưởng và Trần Trọng Kim làm thủ tướng không có lực lượng quốc pḥng cho nên Việt Minh rảnh tay hoạt động.
Về địa lợi Việt Minh đă có tổ chức rộng lớn trên toàn quốc, có căn cứ địa của riêng ḿnh, và từ đó họ có thể tổ chức phái người đi khắp nơi theo một sự chỉ đạo thống nhất.
Việt Minh có sách lược rơ ràng, có đối sách riêng với Mỹ, với Nhật, với Pháp, với Trung Quốc và các lực lượng đối lập trong nước.
Người của Việt Minh có lập trường tư tưởng vững vàng, có quyết tâm và ư chí sắt đá, đoàn kết…
Hơn nữa họ có hạt nhân lănh đạo là Hồ Chí Minh rất mưu mẹo và thao lược.
Mặc dù về lực lượng quân sự Việt Minh c̣n non trẻ và yếu ớt, nhưng họ rất giỏi làm công tác tuyên truyền, xây dựng h́nh ảnh, tạo ra cái na ná như thật thành cái có thật, đánh vào tâm lư của người dân bằng những lời hứa hẹn đầy cám dỗ…
Kết quả là người dân Việt Nam tin rằng, chỉ có Việt Minh là lực lượng có sức mạnh, có sự ủng hộ của các nước đồng minh đặc biệt là Mỹ mới có thể dành độc lập thực sự cho Việt Nam.
Như thế là Việt Minh đă tạo ra nhân hoà.
Theo các nhà nghiên cứu nạn đói năm 1945 cũng là một yếu tố rất quan trọng để Tổng khởi nghĩa 1945 thành công.
Dưới sự cai trị của Nhật, từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945, nạn đói khủng khiếp diễn ra làm 2 triệu người chết. Đây là thời cơ để Việt Minh xây dựng lực lượng lớn khắp cả nước, họ tập hợp nhân dân phá các kho thóc Nhật để lấy gạo phát cho dân đói.
Giáo sư kinh tế Đặng Phong đánh giá việc giải quyết được nạn đói là lư do giải thích tại sao tuyệt đại đa số dân chúng đă tin và đi theo Việt Minh.
Cơ hội đến với Việt Minh và họ đă thành công trong việc xây dựng một nhà nước của người Việt Nam từ tay các thế lực nước ngoài.
Nhưng nền độc lập của Việt Nam có thành sự thật như những ǵ Hồ Chí Minh đă tuyên bố khi thành lập Việt Minh có đến với dân Việt Nam hay không?
Các phần sau sẽ tiếp tục đưa chúng ta đi t́m câu trả lời.
(C̣n tiếp).
Ngày 15/8/1945 Nhật tuyên bố đầu hàng đồng minh, lúc ấy Trần Trọng Kim nhận định: Nhật ở Đông Dương khéo léo lắm cũng chỉ tồn tại được vài tháng.
Việc lấy lại đất Nam Bộ xong, Trần Trọng Kim vào tâu vua Bảo Đại, xin cho từ chức.
Bảo Đại nói:
- Ông đang làm được việc, sao lại xin thôi, và ông thôi lấy ai thay?
Như vậy là Bảo Đại có ư đồng ư cho Trần Trọng Kim thôi, nên Trần Trọng Kim có tiến cử một số người thay ḿnh.
Ông gửi điện mời đến Ngô Đ́nh Diệm, Nguyễn Xuân Chữ, Lê Toàn, Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu Tường, Đặng Thái Mai v...v... đă có tiếng hoạt động về chính trị, để vào lập nội các mới.
Trần Trọng Kim điện đi các nơi mời những người ấy vào Huế, nhưng sợ điện không được rơ, cử Phan Anh ra Bắc và Hồ Tá Khanh vào nam gặp mọi người và nói chuyện cho rơ đuôi đầu.
Nhưng Phan Anh ra đến vùng Phủ Diễn bị quân Việt Minh bắt giữ lại, Hồ Tá Khanh vào đến Quảng Ngăi cũng bị giữ,
Đang lúc ấy được tin nước Nhật Bản bị bom nguyên tử không chịu nổi phải xin hàng.
Bảo Đại gọi Trần Trọng Kim vào nói:
- Trong lúc rối loạn như thế này, các ông hăy lập ra lâm thời chính phủ để đợi xem t́nh thế biến đổi ra sao đă.
Trần Trọng Kim bất đắc dĩ phải tạm ở lại.
Lâm thời chính phủ vừa làm việc mấy ngày, Phan Kế Toại điện vào xin từ chức.
Lúc ấy Nguyễn Xuân Chữ, Trần Văn Lai xin lập Ủy Ban Cứu Quốc. Chính phủ nhận lời.
Đến khi Việt Minh tổng khởi nghĩa những người này vội vàng chạy vào Huế, thế là Uỷ ban cứu quốc tan ră.
Tin tức của cuộc Tổng khởi nghĩa dồn dập về hoàng cung, và ngày 23/8/1945 nó lan đến Huế.
Trong t́nh thế nguy ngập như thế, Trần Trọng Kim liền gọi trung úy Phan Tử Lăng người đứng coi đoàn thanh niên tiền tuyến ở Huế, hỏi xem có thể trông cậy được không. Trung úy Trương Tử Lăng nói:
- Tôi có thể nói riêng về phần tôi th́ được. C̣n về phần các thanh niên tôi không dám chắc.
Trần Trọng Kim thấy, bọn thanh niên tiền tuyến trước rất nhiệt thành nay c̣n thế, huống chi những lính bảo an và lính hộ thành tất cả độ vài trăm người; những lính để canh giữ công sở, súng ống không ra ǵ, đạn dược không đủ, c̣n làm ǵ được, cũng bị Việt Minh tuyên truyền xiêu ḷng hết cả rồi. Lúc ấy chỉ c̣n cách lui đi là phải hơn cả.
Trần Trọng Kim vào tâu vua Bảo Đại:
- Xin ngài đừng nghe người ta bàn ra bàn vào. Việc đă nguy cấp lắm rồi, ngài nên xem lịch sử của vua Louis XVI bên Pháp và vua Nicholas II bên Nga mà thoái vị ngay là phải hơn cả. V́ dân ta đă bị bọn Việt Minh tuyên truyền và đang hăng hái về việc cách mệnh như nước đang lên mạnh, ḿnh ngăn lại th́ vỡ lở hết cả. Ḿnh thế lực đă không có, bọn Việt Minh lại có dân chúng ủng hộ, nên để cho họ nhận lấy trách nhiệm bảo vệ nền độc lập của nước.
Bảo Đại là ông vua thông minh, hiểu ngay và nói:
- Trẫm có thiết ǵ ngôi vua đâu, miễn là bọn Việt Minh giữ được nền tự chủ của nước nhà là đủ. Trẫm muốn là người dân của một nước độc lập c̣n hơn làm vua một nước nô lệ.
Trần Trọng Kim cho rằng, Bảo Đại có tư tưởng quảng đại nên có tờ chiếu thoái vị.
Khi tờ chiếu ấy tuyên bố ra, nhân dân có nhiều người ngậm ngùi cảm động, nhưng lúc ấy phần t́nh thế nguy ngập, phần sợ hăi, c̣n ai dám nói năng ǵ nữa. Đến bọn thanh niên tiền tuyến, người chính phủ tin cậy cũng bỏ theo Việt Minh, bọn lính hộ thành của nhà vua cũng không nghĩ đến nữa.
C̣n các quan cũ lẫn nấp đâu mất cả. Thật là t́nh cảnh rất tiều tụy. Nếu không mau tay lui đi, tính mệnh nhà vua và hoàng gia chưa biết ra thế nào.
Lúc bấy giờ người Nhật có đến bảo Trần Trọng Kim:
- Quân đội Nhật c̣n trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân Đồng Minh đến thay. Nếu chính phủ Việt Nam công nhiên có lời mời quân Nhật giúp, quân Nhật c̣n có thể giữ trật tự.
Trần Trọng Kim nghĩ:
“… quân Nhật đă đầu hàng, quân Đồng Minh sắp đến, ḿnh nhờ quân Nhật đánh người ḿnh c̣n nghĩa lư ǵ nữa, và lại mang tiếng cơng rắn cắn gà nhà, từ chối không nhận.
Sau thấy những người ở ngoài không biết rơ t́nh thế nói: lúc ấy giá chính phủ không lui vội, t́m cách chống cự lại, Việt Minh không làm ǵ được, v́ họ không có binh lực ǵ cả.
Về đường binh lực, lúc ấy Việt Minh không không có ǵ thật. Nhưng cái phương lược của họ đánh bằng tuyên truyền, bằng lối quỉ quyệt lừa dối để lôi kéo dân chúng đi theo, chứ không đánh bằng binh khí. Sự tuyên truyền của họ đă có ngấm ngầm từ lâu trước khi quân Nhật đảo chính chứ không phải bây giờ mới có. Ḿnh đem một vài trăm người trông cậy được ra chống với mấy vạn người toàn thanh niên thuyền thợ và đàn bà trẻ con, lại có những người Việt Minh táo tợn đứng sau lưng xui khiến, chống sao được?
Chẳng qua chỉ gây một cuộc đổ máu vô ích, cốt chỉ bảo cho Việt Minh chớ có cướp phá. Ḿnh đă mở cửa mời họ c̣n đánh phá ǵ nữa. Lúc bấy giờ chúng tôi nghĩ: họ đă thắng thế, dù sao họ cũng lo đến sự kiến thiết của nước nhà, nên chúng tôi mong ít có sự phá hại”
Việt Minh lên cầm quyền, vua Bảo Đại đă thoái vị, Trần Trọng Kim ra ở nhà đă thuê từ trước tại làng Vĩ Dạ gần Huế.
Được mấy ngày, Việt Minh vào đưa vua Bảo Đại, bấy giờ gọi là công dân Vĩnh Thụy, ra làm Tối Cao Cố Vấn ở Hà Nội để dễ quản thúc.
Xem ra những lời lẽ của Trần Trọng Kim về việc không nhờ cậy người Nhật đánh Việt Minh là một sự sáng suốt, hết sức chân thật.
Bởi người Nhật họ chỉ gợi ư để tỏ ra không bỏ rơi nhà nước Đế Quốc Việt Nam, c̣n thực t́nh họ c̣n đang lo cho họ c̣n chưa xong. Điều người Nhật nói chỉ trên một nghĩa hẹp là bảo vệ sự an toàn cho các cá nhân trong chính quyền của Bảo Đại.
Trần Trọng Kim không phải ấu trĩ đến mức không hiểu được điều đó, dù có tâm huyết với đất nước, hay cực đoan đến đâu ông cũng nhận thấy đây là ngày tàn của nhà nước Đế Quốc Việt Nam cùng với mặt trời của nước Nhật đă tắt.
Việc nghĩ rằng, Trần Trọng Kim nếu đề nghị người Nhật dẹp loạn Việt Minh th́ thời thế đă khác, lịch sử Việt Nam không phải huynh đệ tương tàn mấy chục năm sau và đổ tội lên đầu ông ấy là hèn nhát hoàn toàn không có cơ sở, và oan uổng cho ông ấy.
Bảo Đại thoái vị, chính phủ Trần Trọng Kim tuyên bố giải tán, như vậy trong nền chính trị Việt Nam một lực lượng cản trở đến tính chính danh của Việt Minh bị triệt hạ, và thời cơ để Việt Minh ra mắt một nhà nước mới đại diện cho nhân dân Việt Nam được h́nh thành.
(C̣n tiếp).
Việt Minh chiếm được Hà Nội và nhiều địa phương khác trong cao trào tổng khởi nghĩa bằng sức mạnh cuồng nhiệt của dân chúng.
Hồ Chí Minh và ban lănh đạo Việt Minh lập tức lên kế hoạch về Hà Nội thành lập nhà nước mới.
Để mở đường, ngày 20/8/1945 Vơ guyên Giáp đi tiền trạm đánh quân Nhật ở Thái Nguyên.
Cùng đi với đội quân của Vơ Nguyên Giáp có Đội “Con nai” của Mỹ do thiếu tá Thomas cầm đầu.
Ngay lập tức Báo chí đă đăng tin Thomas đến đây và được gán cho việc dẫn đầu đạo quân của ông Hồ, điều đó báo hiệu là sẽ có một cuộc biểu t́nh lớn chống Pháp.
Cho rằng những cuộc biểu t́nh này đôi khi có thể trở thành những cuộc tàn sát, nên người Mỹ vội vàng ra lệnh cho Đội Con nai và các nhóm khác ngay lập tức phải tách ra khỏi Việt Minh để tránh chuyện đứng về phía Việt Minh chống người Pháp.
Theo thiếu tá A. Patti viết lại trong: Why Vietnam?
Khi nhận được thông tin cuộc Tổng khởi nghĩa diễn ra, thiếu tá A.Patti điện cho Côn Minh về bài báo, nhấn mạnh tầm quan trọng phải thuyết phục toán “Con Nai” phải tách khỏi lực lượng Việt Minh và rời Hà Nội trở về Côn Minh bằng đường hàng không.
Patti cũng báo trước là rối loạn thật sự có thể nổ ra nếu một quân nhân Pháp phát hiện trên đường phố của bất cứ thành phố nào ở Bắc Kỳ và yêu cầu bằng những lời lẽ kiên quyết nhất cho rút 3 toán biệt kích (SO) đang hoạt động dọc biên giới phía Bắc, trở lại Côn Minh, trước khi cho họ đáp máy bay đi Hà Nội, nhưng không được để những đồng nghiệp người Pháp của họ đi cùng.
Bằng cách này sẽ tách được tất cả người Mỹ ra khỏi hoạt động của Việt Minh cũng như của người Pháp. Nhưng các toán biệt kích rất ngang bướng. Mệnh lệnh cho họ đến Côn Minh không có hiệu lực.
Giải thích việc tại sao thiếu tá Thomas chống lại mệnh lệnh và tham gia Việt Minh đánh Nhật ở Thái Nguyên, đưa Hồ Chí Minh về Hà Nội như thế nào, cho đến nay vẫn chưa t́m thấy tư liệu nào đề cập đến quyết định khó hiểu này của thiếu tá Thomas.
Nhưng trong các báo cáo của Thomas gửi về sở chỉ huy ở Côn Minh, Thomas luôn khẳng định Việt Minh không phải là tổ chức của những người cộng sản, Việt Minh chỉ là một tổ chức có tinh thần dân tộc chống sự đô hộ của Pháp và dành độc lập cho Việt Nam… Có lẽ đây là lí do Thomas ủng hộ Việt Minh-
Điều này chứng tỏ Hồ Chí Minh đă ngụy trang rất giỏi không để lộ ra Việt Minh do những người Cộng sản cầm đầu, và Thomas đă rất bực tức khi luôn bị ḍ hỏi về bản chất thật của Việt Minh, đây có thể là lư giải cho việc Thomas đă bị Hồ Chí Minh thuyết phục làm việc cho Việt Minh.
Trận đánh Nhật ở Thái Nguyên với sự tham gia của Đội Con nai diễn ra từ ngày 20 đến ngày 25/8/1945 và toán của Vơ Nguyên Giáp hợp nhất với toán của Hồ Chí Minh cùng với Đội Con nai hộ tống kéo về Hà Nội càng làm cho thanh thế của Việt Minh tăng lên.
Tối 25.8, Hồ Chí Minh vào nội thành, ở tầng 2 của căn nhà số 48 Hàng Ngang.
Tại đây Hồ Chí Minh chuẩn bị cho việc thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà.
Cùng lúc này, ngày 22/8/194 tại Hà Nội cũng có sự xuất hiện của hai nhân vật rất đặc biệt đó là Thiếu tá Archimedes Patti, đi cùng Patti là một người Pháp có tên Jean Sainteny.
Patti, va Sainteny đến Hà Nội với nhiệm vụ ǵ?
Và mối quan hệ tay năm nhằng nhịt giữa Việt Minh, người Nhật, người Pháp, người Mỹ, người Trung Quốc diễn ra như thế nào và đẩy đến mọi ư đồ và mong muốn của Hồ Chí Minh đi vào ngơ cụt - chỉ sau hơn một năm ông về Hà Nội rồi lại quay về nơi xuất phát là núi rừng Việt Bắc để tuyên bố một cuộc kháng chiến trường kỳ, xin xem tiếp ở các phần sau.
(C̣n tiếp).
Ngày 12 tháng 4 năm 1945:
Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt qua đời. Harry S. Truman trở thành tổng thống.
Ngày 30 tháng 4 năm 1945:
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đă thông qua một văn bản chính sách nêu rơ rằng Hoa Kỳ sẽ không phản đối việc khôi phục chủ quyền của Pháp ở Đông Dương, nhưng sẽ t́m cách đảm bảo rằng người Pháp sẽ cho phép người dân Đông Dương có nhiều quyền tự trị hơn. Chính sách mới này là một bước tiến lớn so với sự phản đối trước đây của Roosevelt đối với người Pháp, nhưng, ngoại trừ các chuyên gia châu Á trong Bộ Ngoại giao, có rất ít sự ủng hộ từ chính phủ Hoa Kỳ trong việc tiếp tục tuân theo chính sách của Roosevelt.
Việc Mỹ thay đổi chính sách ủng hộ Pháp quay lại Đông Dương là do sức ép của Pháp và Anh, Hai nước này không muốn mất quyền lợi quá lớn mà họ có tại các thuộc địa. Một mặt De Gaulle đă hứa là Pháp sẽ để cho Đông Dương được hưởng một mức độ tự trị sau chiến tranh đă làm người Mỹ siêu ḷng,
26 tháng 7 năm 1945:
Hội nghị Potsdam của các đồng minh chiến thắng đă quyết định rằng người Anh sẽ chấp nhận sự đầu hàng của quân Nhật ở Đông Dương ở phía nam vĩ tuyến 16 và Trung Quốc sẽ chấp nhận sự đầu hàng của họ ở phía bắc vĩ tuyến 16.
Việc người Pháp không được tham dự hội nghị Postdam và bị tước quyền vào giải giáp Nhật ở Đông Dương đă làm cho hộ hết sức giận dữ.
Jean Daridan, đại biện lâm thời sứ quán Pháp, đă gặp Wedemeyer để yêu cầu cho người Pháp tham gia vào việc chiếm đóng lại Đông Dương và việc chuyên chở bằng đường không cho quân đội Alessandri. Đó là một vấn đề quân sự. Wedemeyer đă thảo luận với tướng Alessandri nhưng đă báo cho ông ta biết là máy bay và xăng dầu không c̣n đủ để chi viện.
Ông nói điều tốt nhất ông có thể làm được chỉ là cho phép một phi cơ của Pháp hoạt động giữa sân bay Mông Tự - Côn Minh và Hà Nội để chở những nhân vật quan trọng của Pháp và ông đồng ư là sẽ hỏi ư kiến Tưởng Giới Thạch về các vấn đề khác.
Wedemeyer không ở trong tư thế có thể bác bỏ mệnh lệnh của Tưởng. Đối với người Pháp, điều này cũng tương đương như đă bị làm tê liệt ở Trung Quốc, trong khi Trung Hoa một ḿnh chiếm đóng Đông Dương.
Thấy bị thất thế với giới quân sự, Darian liền t́m đến Fllis O. Briggs, cố vấn Đại sứ quán của Mỹ.
Darian nói với Briggs rằng ông đă thảo luận về vấn đề địa vị của Pháp với bác sĩ KC. Wu, quyền Bộ trưởng Ngoại giao Trung Hoa Dân Quốc và nhận mạnh tới việc t́nh h́nh có thể sẽ có một “hiệu quả hết sức xấu” và gây thiệt hại nghiêm trọng cho mối quan hệ Pháp - Hoa nếu như quân đội Pháp không được phép tiến vào Đông Dương. Đồng thời ông cũng báo trước là sẽ có “rối loạn nghiêm trọng” nếu như chỉ có quân đội Trung Quốc tiến vào đó một ḿnh.
Để tăng thêm sức nặng cho lập luận của Pháp, Darian đă nhắc cho Brigss nhớ là c̣n có chừng 1 vạn tù binh chiến tranh người Pháp ở Đông Dương và quân đội của Alessandri có thể sẽ là những người giúp việc chăm lo đến các nhu cầu của số này.
Trả lời của Briggs là chiếu theo các điều kiện đầu hàng th́ người Nhật phải chịu trách nhiệm chuyên chở một cách an toàn các tù binh chiến tranh tới các địa điểm do Bộ chỉ huy Đồng minh quy định.
Darian rút lui, mất tinh thần và thất vọng.
Trong lúc đó, đă có hai sư đoàn Trung Quốc ở gần Nam Ninh được dự kiến chuyển vận vào Đông Dương để thực hiện việc giải giáp, hồi hương và tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật.
Đại sứ Mỹ Hurley, lường trước một cuộc xung đột tiềm tàng trong t́nh h́nh đó, đă khuyến cáo với Bộ Ngoại giao (Mỹ) như sau:
“…Pháp mong muốn gấp rút khôi phục chủ quyền trọn vẹn của ḿnh ở Đông Dương vào một thời điểm sớm nhất có thể được và nh́n một cách không có thiện cảm bất kỳ đội quân Trung Quốc nào tiến vào Đông Dương.
…Người Pháp muốn gỡ thể diện bằng việc chính họ phải được tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật (ở Đông Dương)”.
Đó là một điều không thể được v́ đă có chỉ thị và vấn đề này đang được thi hành, và như Hurley nhận xét, ông cũng như Wedemeyer chẳng ai có quyền ǵ để thay đổi các điều khoản về đầu hàng đă được qui định.
Nếu không có Bộ ngoại giao hướng dẫn th́ Hurley đă gợi ư cho Tưởng Giới Thạch nên có những cuộc thương lượng trực tiếp giữa hai Chính phủ Trung Quốc và Pháp để cho phép đại diện của Pháp tham gia vào việc tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật ở Đông Dương.
Và người Pháp và Trung Hoa Dân Quốc đă ngầm thỏa thuận với nhau - Để cho t́nh h́nh không trở nên phức tạp, quân đội Tưởng Giới Thạch vẫn vào giải giáp Nhật như kế hoạch của đồng minh, sau đó quân đội Tưởng Giới Thạch sẽ rời khỏi Đông Dương để cho người Pháp vào tiếp quản, đổi lại Pháp phải chấp nhận những yêu sách của Tưởng Giới Thạch về các vấn đề khác như vấn đề tô giới ở Thượng Hải, trong lĩnh vục đặc quyền về buôn bán, bến cảng v.v...
(c̣n tiếp)
Một câu hỏi được đặt ra, Đông Dương sẽ như thế nào sau khi kết thúc việc giải giáp quân Nhật?
Các quân cờ bắt đầu di động.
Người Mỹ không phản đối Pháp quay lại Đông Dương, họ chỉ đưa ra một giải pháp yêu cầu Pháp trao nhiều quyền tự trị nhiều hơn cho Đông Dương, c̣n cụ thể như thế nào chẳng bên nào nói tới. Để không gây ra xáo trộn và đảm bảo những ǵ đă thống nhất trong Hội nghị Potsdam Mỹ yêu cầu Pháp án binh bất động trong quá tŕnh giải giáp quân Nhật, không được vội vă đưa quân trở lại, tất cả phải theo sự chỉ đạo của quân Tưởng Giới Thạch.
Điều Mỹ quan tâm là vấn đề tù binh bị giam giữ ở Đông Dương, đây là vấn đề nhân đạo, sớm đưa họ về nước. Người Mỹ lo lắng các tù binh bao gồm cả người Mỹ, người Anh, người Pháp, người Nhật... sẽ bị các bên lợi dụng hoặc có thể bị trả thù, cho nên họ tiến hành lập ngay một phái bộ và cử người đến để điều phối và giám sát cuộc giải giáp như một trọng tài.
Và OSS đă nhận được chỉ thị phải chuẩn bị kế hoạch cho một chiến dịch cứu trợ và đến cuối tháng Bảy, họ tổ chức ra một số toán kiểu biệt kích được gọi chung là các toán “Mercy”. Nhiệm vụ của các toán này là nhảy dù xuống các trại tù binh chiến tranh trước khi cuộc xung đột kết thúc, đảm bảo an ninh cho tù binh, ngăn chặn mọi sự hành hạ và thu dọn các sân bay ở gần đó để nhanh chóng chuyên chở tù binh đi bằng đường không. Đối với OSS th́ các toán này cũng sẽ tạo cơ hội thuận tiện để theo dơi các mục tiêu t́nh báo và hoạt động chiến tranh chính trị sau khi địch đầu hàng.
Chưa ai có thể đoán trước được phản ứng của Nhật ra sao, nên hoạt động cứu trợ này đă được ấn định tiến hành theo 5 bước: trước hết là bắt liên lạc với các trại đă được lựa chọn để xác định số lượng và t́nh h́nh thể lực của tù binh, bước thứ hai là đơn vị Mountbatten cho in những truyền đơn để thả xuống báo cho Nhật biết là một toán OSS sẽ tới v́ mục đích nhân đạo, sau đó các toán sẽ được thả dù xuống các nơi có trại giam, kèm theo việc thả dù các đồ tiếp tế, cuối cùng là tù binh hoặc các người bị giam sẽ nhanh chóng được sơ tán đi.
Khi có tin Nhật đầu hàng th́ OSS cũng đă sẵn sàng. Đội Không quân thứ 14 đă cung cấp máy bay và mọi thứ cần thiết cho 4 đợt xuất kích từ Hsian (San) vào Bắc Kinh, Weihsien, Harbin và Mukden. Ngày 15-8, 3 trong số 4 toán Mercy đă được tung đi, nhưng chuyến bay về Harbin phải huỷ bỏ v́ chúng ta không giải thích nổi điều đó cho người Nga rơ. Toán hạ xuống Mukden đă được người Nhật báo cho biết là những cuộc đổ bộ sau này phải đuợc thu xếp trước với họ. Suốt trong 7 ngày sau, lại có thêm 3 toán bổ sung nữa được gửi đến Thương Hải, đảo Hải Nam và Hà Nội. A.Patti được giao chỉ huy nhóm Mercy sẽ bay đi Hà Nội.
Người Pháp rất sốt ruột muốn vào Đông Dương sớm.
Để làm việc đó, Chính phủ Pháp đă chỉ định một “Ủy ban” ba người: Sainteny, với tư cách là thủ trưởng DGER/Côn Minh; Tổng thanh tra các thuộc địa; giám đốc công dân vụ Pierre Mesmer, lúc đó ở Calcutta, đang chờ được đưa tới Trung Quốc. Họ sẽ đến ngay Hà Nội để tiếp xúc với các lănh tụ Việt Nam ở địa phương và điều đ́nh với họ theo những “điều khoản có lợi cho người Đông Dương”.
Và lập trường của người Mỹ đă cản trở Jean Sainteny đến Hà Nội, ông ta phải yêu cầu sự giúp đỡ của thiếu tá Patti, trưởng nhóm Mercy để có thể bay cùng đến Hà Nội.
J.Saintely thuyết phục A.Patty rằng “Họ sẽ đến ngay Hà Nội để tiếp xúc với các lănh tụ Việt Nam ở địa phương và điều đ́nh với họ theo những “điều khoản có lợi cho người Đông Dương”.
Theo Sainteny th́ “Ủy ban” được trao quyền thương lượng và cam kết thay cho Chính phủ Pháp. Những điều đạt được và những điều khuyến cáo của Ủy ban sẽ được chuyển tới De Gaulle, các Bộ trưởng ngoại giao và thuộc địa và cho Chính phủ Pháp. Ông đă được “bảo đảm” là các điều cam kết của Ủy ban sẽ được chính phủ Pháp tôn trọng, hoặc nếu cần th́ có sửa đổi chút ít.
J.Saintely cũng nói toạc ra người Mỹ, người Anh không màng đến Đông Dương nếu ngăn cản người Pháp ở đây và để cho người Trung Quốc nhảy vào sẽ thành một cuộc hỗn loạn v́ người Việt Nam sẽ không chấp nhận sự hiện diện lâu dài của quân đội Tưởng Giới Thạch và đẩy người Pháp vào thế bất lợi khi phải đàm phán với Tưởng Giới Thạch về vấn đề Đông Dương và các quyền lợi khác ...
A.Patti một phần không đủ trọng trách quyết định việc đưa J.Saintely đi theo, một phần không có thiện cảm đă từ chối và nói xin ư kiến cấp trên.
Và theo một cách nào đó, người Mỹ đă đồng ư cho nhóm người Pháp do J.Saintely bay theo nhóm Mercy của A.Patti đến Hà Nội.
(C̣n tiếp)
A.Patti và J.Sainteny bay đi Hà Nội vào 11 giờ 35 ngày 22-8-1945, sau những trục trặc về địa điểm hạ cánh (lúc đầu dự định là sân bay Bạch Mai sau phải xuống sân bay Gia lâm) họ được quân đội Nhật đón tiếp khá chu đáo.
Trong căn nhà, họ gặp một thiếu tá Nhật, có thể là người sĩ quan cao cấp nhất ở đây, cùng với một số tùy tùng. Hai nhân viên của A.Patti đứng canh ngoài cửa, bên cạnh hai người gác Nhật.
Gần như là một điều phi lư, nhưng họ đă được mời dùng bia lạnh, kem. Một chút ít lịch sự đă thành tập quán sinh hoạt trong bầu không khí nóng nực của mùa thu Hà Nội... Người Nhật th́ đúng mức trong cách cư xử và rất tháo vát.
A.Patti yêu cầu nhanh chóng được gặp Tổng tư lệnh của họ nhưng được trả lời là tướng Yuitsu Tsuchihashi đang ở Huế và chỉ trở về vào khuya tối hôm đó. Viên thiếu tá gợi ư là nhóm Mercy được sống thoải mái trong thành phố và được phép đi lại tự do. Nhưng ông ta lại ngần ngại về việc các sĩ quan Pháp ở lại đó và nêu ư kiến là tốt hơn hết họ nên quay về Trung Quốc.
Sainteny bị xúc động mạnh và A.Patti đă nghĩ ngay rằng ch́ v́ Sainteny và người của ông ta không có quy chế chính thức ở đây nên có nguy cơ bị giữ lại. Với ư nghĩ đó, A.Patti thông báo cho người Nhật biết là người Pháp thuộc quyền kiểm soát của Mỹ, nhiệm vụ của họ là điều tra t́nh h́nh các tù binh Pháp và họ ở lại trong nhóm của A.Patti. Thiếu tá Nhật báo cho A.Patti biết về tinh thần chống Pháp ở Hà Nội, và nói rằng h́nh ảnh các bộ quân phục Pháp trong đoàn sẽ chỉ gây rối loạn.
A.Patti phản công lại và nhắc ông ta rằng Đồng minh trao cho các nhà chức trách Nhật nhiệm vụ duy tŕ trật tự công cộng và an ninh của nhóm bao gồm cả người Pháp, thuộc trách nhiệm cá nhân của tư lệnh Nhật tại địa phương. Người sĩ quan Nhật vội gạt bỏ lập trường của ḿnh và thu xếp chuyển nhóm Mercy và J.Sainteny vào thành phố.
Nhiều sĩ quan và binh lính Nhật đến cùng với nhiều xe có mui kín và đoàn của A.Patti thành một đoàn có 1 xe tăng nhỏ đi trước. Patti ở xe đầu với Sainteny và sĩ quan tùy tùng Nhật. Grelecki, Feeback và các sĩ quan Pháp ngồi trong hai xe có mui kín. C̣n những người lính biệt kích th́ đi trên xe riêng. Nhiều xe tải chở binh lính Nhật đi sau cùng... Đoàn xe qua cầu, đi về phía Tây, qua trước Thành, đến dinh Toàn quyền, một dinh thự đẹp, chung quanh có nhiều băi cỏ và vườn hoa.
Ở đây, Patti gặp một sĩ quan Nhật và ông ta cũng hỏi về mục đích của nhóm người Pháp ở Hà Nội. Patti để cho Sainteny trả lời, hy vọng ông sẽ theo phương hướng mà Patti đă chỉ ra ở sân bay.
Nhưng sự thật lại khác. Sainteny bắt đầu nói về cạnh khía nhân đạo trong nhiệm vụ của ông ta và người sĩ quan Nhật tỏ ra chịu nghe trước khi Sainteny đ̣i người Nhật cung cấp cho ông ta những thuận lợi ở Đài phát thanh Bạch Mai để phát đi một “chương tŕnh tin tức địa phương” cho người Pháp ở Đông Dương và thông tin với bản doanh của ông ta ở Trung Quốc và Ấn Độ. Người Nhật không phản đối nhưng thoáng thấy biến đổi sắc mặt và báo cho nhóm của Patti biết là nhà ở đă được chuẩn bị sẵn sàng ở khách sạn Métropole thuộc khu buôn bán của Hà Nội và chúng tôi nên đi đến thẳng nơi đó.
Một lần nữa nhóm của Patti lại lên xe. Xe đưa họ đi quanh khu vực phía Bắc thành phố qua những nơi dân cũ thưa thớt, ở đó rơ ràng không có người Pháp, chỉ thấy những tốp nhỏ người Việt chuyện tṛ sôi nổi.
Họ có chú ư đến đoàn xe nhưng lại tỏ ra không phấn khởi ǵ về sự có mặt của của những người nước ngoài. Dinh thự và nhà cửa dọc theo con đường đều phất phới đầy rẫy những cờ Việt Minh. Các phố tiếp theo, Puginier và Borgnis Desborder, có bộ mặt hoàn toàn khác hẳn. Công chúng tập trung dày đặc và có nhiều biểu ngữ tiếng Anh, Pháp, Việt chăng qua đường từ bao lơn này qua bao lơn khác, hoan hô Việt Nam độc lập, người Pháp phải chết, hoan nghênh Đồng minh. Chẳng thấy một bóng cờ Pháp. Chỉ độc có cờ đỏ với ngôi sao vàng năm cánh.
Sainteny rơ ràng đang lo âu. Ông ta nh́n cḥng chọc, mất tin tưởng. Patti cũng ngạc nhiên khi thấy phố xá tràn đầy cờ Việt Minh phất phới cùng với những biểu ngữ thù địch và đă nghĩ rằng có thể có Hồ Chí Minh đă về thành phố (nhưng đúng là chưa về) và rất bực với cái tṛ chơi kiểu này của Nhật. Sainteny quay sang phía Patti và hỏi xem có biết ǵ về kế hoạch của ông Hồ không. Patti nhắc lại đă phát biểu ở Côn Minh là ông Hồ đă có một “Chính phủ” đang tồn tại và chỉ có vấn đề thời gian và hoàn cảnh do Chính phủ đó của ông cầm quyền. Lúc đó Patti đă không đoán ra được những sự tiến bộ của Việt Minh trong việc giành chính quyền. Sainteny yên lặng một cách chán nản.
Rơ ràng là Việt Minh đă có chuẩn bị chu đáo, chứng minh sự thân thiện với đồng minh đặc biệt là Mỹ, thể hiện thái độ chống Pháp một cách không khoan nhưỡng. Và người Nhật thực sự đă để cho Việt Minh tự do trong các hành động của ḿnh mà không hề can thiệp.
Đám quần chúng trở nên huyên náo và thù địch hơn khi thấy đoàn của Patti ghé vào khách sạn Métropole. Họ đă biết là “người Pháp đă đến” bằng một máy bay Mỹ và được người Mỹ che chở. Lính Nhật súng cắm lê, dọc theo con đường từ hồ Hoàn Kiếm đến khách sạn, phải khó khăn lắm mới ngăn chặn được số quần chúng đang ào ào tới.
Từ khách sạn, một nhóm đông người Âu, phần lớn là Pháp, ùa ra chào đón đoàn của Patti và Sainteny.
Một số bắt đầu xô đẩy với những người Việt đă vượt qua hàng rào bảo vệ nhưng đă bị lính Nhật và Bảo an đẩy lùi về phía hành lang. Thật là hỗn loạn. Người ta mừng chảy nước mắt mà ôm hôn nhau không dứt giữa những tiếng kêu la của người Việt chống lại sự đối xử tàn tệ của Nhật. Người Pháp ở trong t́nh trạng bị kích động gây gổ cao độ c̣n Nhật th́ duy tŕ trật tự một cách khá lạnh lùng...
Nhiều pḥng trên tầng hai khách sạn đă để trống dành cho họ. Patti được chỉ tới một pḥng lớn có góc nhà nh́n thẳng ra một vườn hoa nhỏ và “Résidence Supérieure” với một lá cờ Việt Minh lớn đang phấp phới bay.
Được khoảng 5 phút th́ Grélecki và một nữ nhân viên trong khách sạn đưa tới một người Việt Nam trông cứng cỏi nhưng dễ thương, một Lê Trọng Nghĩa nào đó, đại diện cho Thành ủy Hà Nội.
Nghĩa không nói tiếng Pháp và dùng người phục vụ gái làm thông ngôn. Theo Nghĩa th́ ủy ban đă được ủy ban Trung ương Côn Minh báo cho biết là Patti sẽ tới nên đă cử một phái đoàn đến Bạch Mai để đón và đưa về thành phố, nhưng khi máy bay không đỗ xuống Bạch Mai th́ họ đă trở về Hà Nội.
Ngay sau khi biết tin nhóm của Patti hạ cánh xuống Gia Lâm, Nghĩa được Thành ủy Hà Nội cử tới để nghênh đón người Mỹ tới Việt Nam, bày tỏ sự quư khách của thành phố và đảm bảo về an ninh của Chính phủ Lâm thời Việt Nam.
Patti cảm ơn và mời Nghĩa uống một chút mà nhà hàng đang mang tới.
Patti hỏi thẳng Nghĩa về việc quần chúng tập trung bên ngoài với thái độ rơ ràng đối địch là thế nào.
Nghĩa trả lời là quần chúng không chống đối với Đồng minh mà chống lại người Pháp quay trở lại. Nhưng Nghĩa cũng mau mắn đảm bảo với Patti rằng sẽ không có ǵ làm nguy hại cho họ nếu như họ không đưa quân đội đến hoặc cố t́nh can thiệp vào công việc điều hành của Chính phủ lâm thời.
Patti báo cho Nghĩa biết nhiệm vụ của ḿnh là trông coi số tù binh Đông minh và sơ bộ chuẩn bị việc tiếp nhận đầu hàng của người Nhật, và cũng chỉ có 5 người Pháp đi cùng tôi để làm công tác nhân đạo là coi sóc số tù binh ở trong Thành.
Patti đảm bảo với Nghĩa là tôi không làm ǵ để chuẩn bị cho quân đội Pháp tới và đúng là sẽ chỉ có thêm một số ít người Mỹ sắp đến, là Patti đă gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và không có vấn đề nước Mỹ ủng hộ chủ nghĩa thực dân.
Có tiếng gơ cửa và người ta báo có trung úy Nhật Ogoshi muốn được gặp Patti. Nghĩa xin rút lui và nói thêm là Thành ủy sẵn sàng để làm việc cùng Patti và người liên lạc với họ trong lúc này là cô nhân viên phiên dịch.
Trung úy Ogoshi quân phục chỉnh tề, mang gươm vơ sĩ đạo, báo cho Patti biết rằng những người Pháp trong đoàn đă gây là một vấn đề nghiêm trọng và sự có mặt của họ tại khách sạn sẽ dễ dàng đẩy tới một cuộc xung đột. Bộ Tổng tham mưu Nhật cảm thấy có thể không có đủ sức đảm nhiệm trách nhiệm bảo vệ an toàn cho phái đoàn nếu như người Pháp cứ cố nài cho họ ở lại khách sạn. Vậy ư kiến Patti về việc này phải làm ǵ?
Patti đáp lại rằng tôi không thể chấp nhận lập trường của các nhà chức trách Nhật là không thể duy tŕ được trật tự công cộng hoặc đảm bảo an ninh cho phái đoàn Đồng minh, trong đó có người Pháp tham dự.
Thứ là Patti hành động theo chủ trương đề ra trong mệnh lệnh chung số 1 của Tổng tư lệnh tối cao các lực lượng Đồng minh, mà người đại diện là Thống chế Tưởng Giới Thạch, yêu cầu các nhà chức trách quân sự Nhật ở Đông Dương chấp nhận thỏa thuận đă đạt được ở Trung Quốc với đại diện Hoàng gia Nhật.
H́nh như trung úy Ogashi đă tỏ vẻ xúc động khi nghe nói đến “đại diện Hoàng gia”, ông liền đề nghị cho chuyển những người Pháp đến đóng ở Phủ Toàn quyền, v́ ở đó họ có thể được bảo vệ chu đáo và ngăn chặn được sự xô xát với quần chúng. Patti nói sẽ biết ư kiến sau. Ogoshi chào và ra đi với một vẻ ít quan trọng hơn khi tới.
Ở hành lang, cảnh tượng vô chung náo nhiệt, ồn ào. Tin quân Pháp đă đến và c̣n sẽ đến nhiều nữa loang ra nhanh chóng. Phải khó khăn lắm Saiteny mới gỡ ḿnh ra được để đến gặp Patti và được báo cho biết là sẽ tốt cho mọi người nếu họ ở riêng ra một nơi.
Sainteny chớp ngay ư đó và đề nghị được sử dụng dinh Toàn quyền.
Patti liền hỏi ư kiến viên sĩ quan cao cấp Nhật có mặt tại chỗ. Sau khi xin chỉ thị cấp trên, ông mỉm cười lễ phép báo cho biết cấp trên ông ta đă đồng ư, sẽ cấp một toán bảo vệ riêng và đảm bảo an ninh 48 giờ cho người Pháp ở dinh Toàn quyền. Sainteny vui vẻ ra mặt và Patti cũng rất bằng ḷng...
Khi ra đi, người Nhật lại phản đối v́ người Pháp muốn kéo một số dân thường đi cùng. Người Nhật nói thêm rằng, cho đến khi Patti gặp Bộ Tổng tư lệnh và quy chế của nhóm được chính thúc hóa th́ toán Mercy của Đồng minh phải tự coi như “đặt dưới sự bảo vệ và quản lư” của Nhật.
Patti phản đối, có Sainteny ủng hộ, nhưng người Nhật vẫn kiên quyết bác bỏ, nên Patti cũng chẳng làm ǵ được khác hơn là phải nhă nhặn ưng thuận. Nhưng cũng chẳng ai ngăn trở không cho nhóm của Patti giữ vũ khí và phương tiện thông tin để giữ liên lạc với hành dinh ở Trung Quốc, và nhóm của Patti được tự do tiếp khách. Măi đến tận khuya, Sainteny cùng với 4 người bạn của ông mới rời khách sạn với toán lính gác Nhật.
Theo Patti, quyết định của Sainteny tới đóng tại dinh Toàn quyền cũ là một sai lầm nghiêm trọng. Việc biến ḿnh thành một quan chức thực dân chỉ làm cho Sainteny bị tách rời khỏi ḍng các sự kiện đang sôi sục diễn ra ở Hà Nội. Tính kiêu căng và sự tham lam cao độ của người Pháp đang chờ đợi ở Sainteny đến giải thoát cho họ đă thể hiện quá rơ người Pháp là một nguồn khiêu khích đối với Nhật và nhà chức trách Việt Nam. Do đó đoàn Sainteny đă bị quản thúc một cách chặt chẽ hơn... Sainteny đă không kiềm chế được thói huênh hoang của đám dân Pháp nhưng nếu khôn ngoan ra th́ Sainteny đă cứ tự hạn chế ḿnh trong quy chế của phái đoàn patti hơn là đă vượt ra ngoài. Sainteny đă yêu cầu Patti giúp sửa lại t́nh h́nh khó xử của ông ta, nhưng đâu có phải Patti đến đây để sửa sai cho người Pháp cũng như người Việt.
Patti trở lại trụ sở trong khi các nhân viên trong đoàn bận rộn và đám dân Pháp nghe ngóng tin tức. Hiệu thính viên Eide Và Rodzvvicz lên lầu để đặt trạm thông tin. Phi công đă trở về Trung Quốc ngay sau khi nhóm Patty rời sân bay và chắc đă báo cho Helliwell biết họ đến nơi an toàn.
C̣n Grelecki và Feebach nhanh chóng tổ chức các tổ chức bảo vệ, tổ t́nh báo và thông tin liên lạc... Ai cũng làm việc cật lực để chuẩn bị cho các hoạt động ngày mai.
Vào khoảng nửa đêm, một sĩ quan Bộ Tổng Tham mưu Nhật đến báo cho Patti biết là tướng Tsuchihashi đă về và mong gặp, nhưng để tùy Patti quyết định. Cuộc gặp của Patti với tướng Tsuchihashi sẽ được thu xếp vào 8 giờ sáng hôm sau.
(C̣n tiếp)
PHẦN 59.
CƠ HỘI BỊ BỎ LỠ.
CƠ HỘI ĐẾN RỒI ĐI (6).
Trong khi Sainteny cùng với 4 người Pháp sống trong Phủ toàn quyền bị hiến binh Nhật không cho đi lại, giống như bị quản thúc th́ Patti được đi lại tự do trở thành nhân vật trung tâm mà các bên cùng ve văn, cho thấy Mỹ đúng là ông anh cả của thế giới, chiếm vị trí phán quyết.
Đầu tiên là Sainteny muốn gặp Patti, ông ta rất bực tức khi báo đưa tin “Việt Minh đă chiến đấu cùng với quân Mỹ ở Bắc Kỳ, sẽ nhanh chóng kéo về để đánh đuổi nhũng kẻ áp bức ngươi Pháp là thủ phạm đă làm cho 2 triệu người chết đói năm ngoái”.
Bài báo c̣n làm Sainteny choáng váng v́ đă nêu đích danh thiếu tá Thomas.
Nhưng khi biết thông tin có nhiều người Việt Nam rất vui mừng khi quân đội Tưởng Giới Thạch sắp vào Việt Nam để giải giáp quân Nhật, trên đường phố nhiều cờ Trung Hoa và biểu ngữ hoàn nghênh đón họ bằng tiếng Hoa được treo lên, Sainteny cho rằng như vậy là có lợi cho người Pháp v́ nó cho thấy là Việt Minh không kiểm soát được toàn bộ dân bản xứ. Sainteny quả quyết nói người Pháp không thể cho phép người “Annam” tự do cầm cương nẩy mực trên đất nước này được.
Sainteny nhờ Patti gửi bức điện đến tướng Alessandri với nội dung:
“Tất cả quân nhân Pháp dưới quyền thiếu tá Sainteny đang bị giam giữ tại tầng một dinh Toàn quyền. Họ không được phép đi quá đường biên quy định và cũng không được phép gặp người đến thăm, trừ Patti”.
Đến đây Patti nhận ra người Pháp không bao giờ từ bỏ Đông Dương và họ có thể đưa quân vào bất cứ lúc nào lấy cớ giải cứu người của họ v́ cho rằng người Mỹ đă ngoảnh mặt với họ, khả năng có nhiều đụng độ nguy hiểm.
Patti vội vàng điện cho Côn Minh về bài báo, nhấn mạnh tầm quan trọng phải thuyết phục toán “Con Nai” của tách khỏi lực lượng Việt Minh và rời Hà Nội trở về Côn Minh bằng đường hàng không. Patti cũng báo trước là rối loạn thật sự có thể nổ ra nếu một quân nhân Pháp quất hiện trên đường phố của bất cứ thành phố nào ở Bắc Kỳ và yêu cầu bằng những lời lẽ kiên quyết nhất cho rút 3 toán biệt kích (SO) đang hoạt động dọc biên giới phía Bắc, trở lại Côn Minh, trước khi cho họ đáp máy bay đi Hà Nội, nhưng không được để những đồng nghiệp người Pháp của họ đi cùng. Patti hy vọng bằng cách này sẽ tách được tất cả người Mỹ chúng tôi ra khỏi hoạt động của Việt Minh cũng như của người Pháp.
Theo như hẹn 8h sáng ngày 25/8/1945 tức là ngày thứ 3 Patti đến Hà Nội, một đại úy Nhật nói tiếng Anh đến gặp và cũng trở thành một cận vệ phiên dịch cho Patti.
Ông cho biết tướng Tsuchihashi đă để một xe con cùng với người lái cho Patti sử dụng và ông được chỉ định làm sĩ quan liên lạc của Bộ Tổng tham mưu về mọi việc có liên quan giữa Patti và người Nhật.
Họ chỉ đi một quăng ngắn để đến Tổng Hành dinh quân Nhật, ở bên bờ sông và gần bảo tàng Louis Fiinot. Viên đại úy dẫn Patti vào dinh qua hai người lính gác và có một người ra mở hai lần cửa lớn.
Sau một bàn ở cuối pḥng, Patti thấy một người nhỏ nhắn ngồi, đằng sau có treo ảnh Nhật hoàng Hirohito và cờ mặt trời mọc. Bên phải có một dăy độ 10 hay 12 sĩ quan cao cấp đứng nghiêm. Giữa pḥng có một bàn họp lớn, có sẵn mỗi bên một ghế và một chiếc thứ ba đặt ở đằng sau gần cửa ra vào.
Khi Patti tới, viên tướng đứng dậy và hơi nghiêng đầu. Các sĩ quan cũng làm theo, cúi đầu sâu hơn.
Patti chào lại theo kiểu quân sự và người đại úy giới thiệu với viên tướng, rồi đến các sĩ quan tham mưu. Trung tướng Yuitsu Tsuchihashi tuổi hạ ngũ tuần, thấp (khoảng 5 bộ 5 hoặc 6), mặt trong vẻ nghiêm nghị, rắn rỏi. Đầu trọc hoàn toàn.
Theo lời mời, Patti ngồi xuống một ghế, viên tướng cũng ngồi xuống ghế đối diện, c̣n người đại diện phiên dịch ở ghế thứ ba phía trong. Các sĩ quan khác vẫn đứng cạnh viên tướng, vẻ mặt kín đáo, rất khó đoán định nhưng rơ ràng là không thân thiện.
Patti chủ động nói trước là Chính phủ Nhật đă đầu hàng Đồng minh không điều kiện ngày 10-8 và được Thống chế Tưởng Giới Thạch ủy quyền cho đến xem xét t́nh h́nh và điều kiện các tù binh chiến tranh Đồng minh ở bắc Đông Dương, và quyết định cho họ hồi hương càng sớm càng tốt.
Patti cũng thông báo là người trung gian đầu tiên để tổ chức việc tiếp thu đầu hàng của quân đội Nhật cho Đồng minh ở Đông Dương.
Viên tướng không công nhận việc đầu hàng của Nhật mà chỉ nói là ngày 17-8 ông đă nhận được lệnh của Cụm Tập đoàn quân Nam ra lệnh ngừng chiến trong ṿng 5 ngày. Ngày 18-8, ông đă ra lệnh cho Tập đoàn quân 38 ngừng bắn vào 8 giờ sáng ngày 21-8. Nhưng c̣n về “nhiệm vụ” của Patti ông sẽ xin chỉ thị của Tokyo. Trong khi chờ đợi, người Mỹ được tự do đi lại trong phạm vi thành phố Hà Nội.
Patti nêu vấn đề đến thăm các tù binh Đồng minh. Về nguyên tắc, ông đồng ư, nhưng nói phải chờ chỉ thị của Tokyo mà theo ông th́ sẽ nhận được trong ṿng 48 giờ.
Patti nêu việc tiếp theo là vấn dề trật tự và an ninh công cộng. Tsuchihashi đáp lại ngay rằng “trong điều kiện hiện tại” và theo chỉ thị của Tokyo, ông đă trao dần quyền lực và nhiệm vụ cai trị cho nhà cầm quyền “Việt Nam địa phương”.
Mặc dù không được sự hướng dẫn về điểm này, Patti báo cho Tsuchihashi biết là vấn đề trật tự và an ninh công cộng thuộc trách nhiệm của nhà chức trách Nhật cho đến khi Đồng minh đến trực tiếp tiếp nhận. Điều đó đă không được từ viên tướng cho đến các sĩ quan ở đó tiếp thu, lần đầu tiên họ phá vỡ sự im lặng và x́ xào với nhau.
Cho rằng đă khẳng định được quy chế chính thức của người Mỹ xác lập về sự gánh vác tránh nhiệm về trật tự công cộng của người Nhật, Patti cho là đă đến lúc kết thúc cuộc gặp gỡ. Patti đứng dậy và nói sẽ báo cáo với Trùng Khánh về cuộc gặp sáng nay và sẽ thông báo cho viên tướng sau. Tsuchihashi cũng đứng lên và nghiêng ḿnh. Patti chào và lui ra cùng với người đại úy theo sau như một cái bóng.
Ngày 25/8/1945 Hồ Chí Minh cũng từ Tân Trào về đến Hà Nội, việc đầu tiên mà ông Hồ quan tâm đó là gặp được Patti.
Cuộc gặp gỡ diễn ra thế nào xin đọc tiếp ở phần sau.
(C̣n tiếp).
PHẦN 60.
CƠ HỘI BỊ BỎ LỠ.
- CƠ HỘI ĐẾN RỒI ĐI (6)
(Ảnh Vơ Nguyên Giáp và Patti trong buổi lễ gặp mặt vào ngày 26/8/1945)
Ngày 25/8/1945 Hồ chí Minh từ Tân Trào về đến Hà Nội, mục đích tối cao của ông là nhanh chóng phải tuyên bố được Việt Nam là một nước độc lập, tổ chức ngày lễ chính thức cho toàn dân và thế giới biết trước khi quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật.
Hồ Chí Minh lo lắng, quân Pháp có thể theo quân Anh và quân Trung Hoa Dân Quốc, cùng với các tổ chức đảng phái người Việt đi theo sẽ tạo thế bất lợi.
Để tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ, dù chỉ qua một đại diện người Mỹ là thiếu tá Patti, người chẳng có vai tṛ ǵ trong việc công nhận chính phủ của Hồ Chí Minh, nhưng có thể đóng vai tṛ h́nh ảnh của nước Mỹ như một sự bảo trợ cho Việt Minh ít nhất là vấn đề an ninh, dù ǵ Patti là người Mỹ có quyền lực nhất tại Hà Nội lúc này.
Ngày 26/8/1945 Hồ Chí Minh đă cử Vơ Nguyên Giáp đi gặp Patti, và Vơ Nguyên Giáp đă xây dựng một kịch bản làm Patti ngỡ ngàng.
Hôm đó là chủ nhật đầu tiên Patti ở Hà Nội, Patti đang chờ đợi một ngày yên tĩnh và kéo dài bữa ăn sáng th́ nghe thấy ngoài cửa có tiếng ồn ào, tiếng kèn trống.
“Đây là một cuộc biểu t́nh nữa”, Grélecki vừa nói vừa cùng với Bernique chạy ra cửa quan sát. Ngay ở thềm cửa trước nhà đă có bốn quư ông Việt Nam chờ hỏi trưởng phái bộ Mỹ.
Họ là đoàn đại biểu của Ủy ban Giải phóng Dân tộc (của Việt Minh), tức Chính phủ lâm thời mới, đến để chào mừng Đồng minh.
Bernique mời họ vào pḥng khách lớn. Patti nhận ra ngay Vũ Văn Minh và ông ta giới thiệu người cầm đầu phái đoàn là Vơ Nguyên Giáp, đại diện cho Hồ Chủ tịch. Tiếp đó Giáp giới thiệu Dương Đức Hiền và Khuất Duy Tiến. Họ đều mặc đồ trắng, thắt cà vạt, trừ Giáp mang một áo khoác cũ và mũ cát trắng.
Bằng tiếng Pháp hoàn hảo, Giáp chuyển lời hoan nghênh của cá nhân Hồ Chủ tịch và của bản thân ông. Hỏi chúng tôi có được dễ chịu không? Có cần ǵ không? Nói Patti hăy cứ tự coi ḿnh như là khách quư của Chính phủ Việt Nam. Họ mong rằng người Mỹ sẽ ở lại đây lâu và sẽ thấy thú vị.
Patti nhờ Giáp cảm ơn Hồ Chí Minh và mong rằng sẽ sớm được gặp ông.
Hai người giúp việc Việt Nam bưng cà phê vào mời khách và Hiền đă thân mật chuyện tṛ với một trong hai người.
Patti ít nhiều ngạc nhiên khi biết Phát, một người giúp việc, trước đây là một sinh viên trong phong trào thanh niên của Hiền và phong trào này đă đi theo đội quân Giải phóng của Giáp. Sau, Phát đă được chỉ thị gia nhập vào đơn vị Bảo an thân Nhật để hoạt động cho Việt Minh.
Tuy ngạc nhiên nhưng người Mỹ cũng chẳng có ǵ phải lo ngại v́ đă thường xuyên duy tŕ được một chế độ bảo mật chặt chẽ trong sinh hoạt...
Sau những lời hoan nghênh và xă giao chính thức, Giáp thưởng thức ly cà phê và đi vào câu chuyện nghiêm chỉnh.
Theo Giáp, Hồ Chủ tịch rất mừng khi biết người Mỹ tới Hà Nội, nhưng lại lo việc về các sĩ quan Pháp đi theo cùng. Giáp muốn cho biết thế nào mà người Pháp lại có thể tới Hà Nội trước được người Trung Quốc? Hay là Đồng minh đă thay đổi kế hoạch? Hoặc người Pháp đă được phép chiếm lại Việt Nam?
Patti bảo đảm với Giáp rằng kế hoạch của Đồng minh không có ǵ thay đổi. Ở Potsdam, người Trung Quốc đă được chỉ định tạm thời chiếm đóng Đông Dương từ bắc vĩ tuyến 16 để tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật và hồi hương quân Nhật bại trận.
Quân đội Pháp ở Trung Quốc sẽ chỉ được phép di chuyển dần từng bộ phận về phía nam sau khi Đồng minh đă tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật. Patti giải thích cả người Trung Quốc và người Mỹ đều không có kế hoạch giúp Pháp quay trở lại Đông Dương bằng vũ lực.
Thế c̣n nhóm đi cùng trên máy bay với Patti? Tại sao Patti lại đưa họ đi theo? Giáp không hiểu nổi như thế là thế nào.
Patti cũng thấy được sự bối rối của họ.
Người đứng đầu cơ quan T́nh báo Pháp ở Trung Quốc (Sainteny) hiện đă có mặt ở tại Hà Nội nhờ có sự giúp đỡ của Đồng minh, và họ lại c̣n được người Nhật cho trú ở Dinh Toàn quyền Pháp... Người Mỹ là những người đầu tiên vào Đông Dương, nhưng họ lại tuyên bố họ chỉ có nhiệm vụ quan sát việc giải giáp quân Nhật và giao cho người Trung Quốc gánh vác mọi trách nhiệm.
Trong suy nghĩ của Giáp th́ t́nh h́nh thực là rối rắm.
Patti nói rơ với Giáp:
- Theo chỗ tôi biết, cho đến nay Mỹ không có ư định giúp người Pháp quay trở lại Đông Dương chống lại nguyện vọng của nhân dân Việt Nam, và sau này chắc cũng sẽ như vậy. Nhưng tất cả chúng tôi đều hiểu rằng Pháp đă là một nước đồng minh, đă bị thiệt hại nặng nề trong cuộc chiến tranh chống Đức, giống như Anh và Liên Xô, Pháp không thể bị khước từ về t́nh hữu nghị của chúng tôi, mặc dù chúng tôi có thể không đồng t́nh với các chính sách thực dân của Pháp.
Trong vấn đề này chúng tôi không hoàn toàn nhất trí với cách làm của người Anh. Phái đoàn chúng tôi đă để cho toán nhỏ 5 người Pháp đi theo, trên cơ sở thống nhất với nhau rằng họ sẽ chỉ hạn chế vào việc làm công tác nhân đạo đối với tù binh và thường dân Pháp. Hơn nữa, ngay cả việc đó họ cũng chưa được phép làm.
Khi Patti nói tới Liên Xô, Giáp và Tiến đă tỏ ra chú ư đặc biệt.
Cả hai đều muốn phát biểu, nhưng Giáp đă nói muốn biết tại sao Liên Xô lại không có đại diện ở Đông Nam Á.
Patti đáp lại một cách dễ dàng; Nguyên soái Xtalin ở Potsdam đă đồng ư để cho Tổng tư lệnh tối cao các nước Đồng minh được cử các đại diện Đồng minh để tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật và chỉ định nơi tổ chức cuộc đầu hàng. Thống chế Tưởng đă được chỉ định cho miền Bắc Đông Dương, trong khi mà Liên Xô tỏ ra không muốn giành quyền ưu đăi đối với vùng này.
Hiển nhiên là Giáp và Tiến chẳng khi nào nghĩ tới khả năng có thể Nguyên soái Xtalin lại không muốn để cho ḿnh bị dính líu trực tiếp vào vấn đề Việt Nam đang rối rắm. Họ ngừng hỏi và cũng có thể ngại hỏi để rồi lại phải nghe thêm những điều chẳng thích thú lắm.
Giáp lên tiếng cừời, một điều ít khi thấy, và nói “Công chúng đang mong được đón chào ông và các bạn Mỹ của chúng ta. V́ vậy, xin mời ông và cả đoàn hăy vui ḷng ra phía cổng trước”.
Qua những tiếng ồn ào, Patti biết ngay đây là một buổi lễ ở ngoài trời. Bernique tập hợp cả toán lại trước cái sân nhỏ, c̣n người Mỹ cũng thu xếp, Giáp và Patti dẫn đầu, theo sau là các vị đại biểu Việt Nam rồi đến những người c̣n lại trong toán OSS.
Họ tiến đến các bệ ở cạnh cổng ra vào, giữa một cảnh tượng đẹp mắt, và ấn tượng.
Một dàn quân nhạc khoảng 50 người đă đứng dàn ngang trên đường, phía trước mặt.
Phất phới trong gió 5 lá cờ lớn của Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa. Bên trái là một đơn vị bộ đội 100 người đứng ở tư thế “nghiêm chào”.
Họ trông thật giống đội quân mà Thomas trong toán “Con Nai”, với mũ cát, có áo cộc tay, quần soóc kaki, mang vũ khí Mỹ và Anh.
Bên phải là các toán thanh niên của Hiền, mặc đồ trắng.
Chung quanh bên trong là các ṿm cây điểm hoa của khu phố
Beauchamp... Giáp chỉ và nói một cách tự hào: “Bộ đội của chúng tôi vừa mới từ rừng núi về”.
Thoáng một cái, các cờ được kéo xuống, trừ cờ Mỹ, quốc thiều Mỹ nổi lên, rồi các cờ lại được kéo lên. Sau đó, cứ tiếp tục như vậy cho cờ mỗi nước, lần lượt đến Liên Xô, rồi Trung Quốc và cuối cùng là Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.
Sau khi Patti tỏ lời cảm ơn đoàn đại biểu, viên chỉ huy bộ đội, đội quân nhạc, các đơn vị bắt đầu diễu hành... Có cả một hàng dài thường dân, có nhiều cờ và biển dẫn đầu ghi lời chào mừng phái đoàn Mỹ và các khẩu hiệu chính trị.
Nhiều thiếu nữ và thiếu niên vừa đi vừa hát bài quốc ca mới. Khi qua chỗ người Mỹ, họ đều “nh́n thẳng” và giơ cao tay phải lên chào.
Đến tận gần trưa cuộc diễu hành mới kết thúc và đoàn đại biểu cũng ra về.
Trong lúc chia tay, Giáp, với một vẻ xúc động, đă quay lại nói với Patti:
- “Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà cờ nước chúng tôi được trương lên trong một buổi lễ quốc tế và quốc ca chúng tôi được cử hành để chào mừng một vị khách nước ngoài. Tôi sẽ măi măi không quên cơ hội này”.
Khúc dạo đầu cho một ngày lễ tuyên bố độc lập chính thức sắp diễn ra với sự hiện diện của người Mỹ trong một buổi lễ trang trọng có diễu hành, có chào cờ... sẽ gửi thông điệp cho quốc dân, và những đảng phái đối lập “Việt Minh có sự ủng hộ của người Mỹ và đồng minh” và dường như Giáp đă rất khôn khéo thành công, và ông đă không quên gửi lời mời của Hồ chí Minh xin được gặp Patti vào ngày hôm sau.
(C̣n tiếp)
Trong sử liệu có ghi, vua Bảo Đại sau khi thoái vị trở thành công dân Vĩnh Thụy, có được gắn huy hiệu công dân của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà.
Vậy ai là người gắn huy hiệu cho vua Bảo Đại?
Cho đến nay, có 3 nguồn tư liệu cho thấy có 3 người gắn huy hiệu cho vua Bảo Đại, tức công dân Vĩnh Thụy ngay sau lễ thoái vị ngày 30.8.1945.
Trong hồi kư in trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 18 (tháng 9.1960), ông Trần Huy Liệu viết: “Quay lại Vĩnh Thụy (Bảo Đại) tôi gắn cho hắn một cái huy hiệu của người công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa”.
Năm 1983, trong hồi kư Từ triều đ́nh Huế đến chiến khu Việt Bắc, ông Phạm Khắc Ḥe, nguyên là Đổng lư Ngự tiền Văn pḥng của vua Bảo Đại, viết: “Ông Nguyễn Lương Bằng cài huy hiệu lên ngực Bảo Đại, từ nay trở thành người công dân Vĩnh Thụy”.
Ông Cù Huy Cận viết trong Hồi kư song đôi (NXB Hội Nhà văn, tập 2, 2012): “Sau khi trao đổi ư kiến với anh Liệu, anh Bằng, tôi lấy một huy hiệu cờ đỏ sao vàng (mà UBND cách mạng Huế đă gài vào áo chúng tôi) gài cho vua Bảo Đại...”.
Một chiếc huy hiệu mà có ba người gắn, biết tin vào sử liệu nào?
Trần Huy Liệu lúc ấy là Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền trong chính phủ lâm thời của Việt Minh làm trưởng đoàn, đại diện cho chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà.
Nguyễn Lương Bằng đại diện cho Mặt trận Việt Minh.
Cù Huy Cận là thành viên.
Trần Huy Liệu gắn huy hiệu cho Bảo Đại là đúng? v́ hồi kư của ông viết từ năm 1960 khi hai ông Nguyễn Lương Bằng, Cù Huy Cận c̣n sống không thể nói dối được?
C̣n ông Phạm Khắc Hoè năm 1983 mới đưa ra thông tin th́ ông Trần Huy Liệu đă chết (1969) và ông Nguyễn Lương Bằng sau này làm phó Chủ tịch nước.
Ông Phạm khắc Hoè là người khó tin, từng là thượng thư trong triều của vua Bảo Đại, sau này lại cộng tác và làm việc cho chính phủ Hồ Chí Minh.
Phạm Khắc Hoè muốn “ghi điểm” với chế độ và lănh đạo?
Nên viết càn như thế?
Cù Huy Cận đến năm 2012 mới ra hồi kư bảo ḿnh là người gắn huy hiệu cho Bảo Đại khi các ông Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Phạm Khắc Hoè đă chết, c̣n ai dám bác bỏ nữa.
Vua Bảo Đại và những người khác lúc ấy chẳng biết ba ông này là ai, những người biết chẳng để lại sử sách ǵ này đă chết th́ biết đâu mà lần?
May c̣n cụ Tôn Thất Tương người viết gia phả cho ḍng họ nhà vua, và chứng kiến buổi thoái vị trao ấn kiếm của Bảo Đại th́ ông Phạm Khắc Hoè viết sai sự thật trong hồi kư “Từ triều đ́nh Huế đến chiến khu” Bảo Đại không hề tự tay dâng ấn kiếm mà người khác, sau khi Bảo Đại sờ vào làm phép nghi lễ, và người cài huy hiệu cho Bảo Đại là Cù Huy Cận.
Nếu đúng thế Cù Huy Cận cũng chỉ là kẻ ngậm miệng ăn tiền, không dám nói lên sự thật, không dám phản bác khi mấy người kia c̣n sống.
Chỉ có cái chuyện gắn huy hiệu cho Bải Đại mà họ tranh giành nhau, bóp méo lịch sử th́ những việc khác, sự kiện khác biết tin thế nào?
THÊM THÔNG TIN VỀ TRẦN HUY LIỆU.
Trong bài viết đăng trên tạp chí Xưa và Nay số ra tháng 10 (năm 2009), giáo sư sử học Phan Huy Lê nói rằng ông đă được ông Trần Huy Liệu, Viện trưởng Viện sử học và cũng là Bộ trưởng Tuyên truyền hồi thập niên 1940 kể cho nghe nhân vật Lê Văn Tám là do ông Liệu dựng lên để cổ vũ tinh thần chiến đấu của người Việt. Ông Phan Huy Lê cũng nói rằng ông Trần Huy Liệu đă nói với ông và hai người khác trong một cuộc gặp: Sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học, nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không c̣n nữa.
Chứng tỏ ông Trần Huy Liệu khi sống chẳng có chút thật thà, đáng tin cậy nào.
Buổi chiều chủ nhật 26/8/1945 lái xe được Hồ Chí Minh phái đến có tên là Lê Xuân đón Patti.
Lê Xuân điều khiển cái xe cũ kỹ một cách khá thông thạo, vừa tránh người tản bộ ngày chủ nhật, vừa tránh các luồng xe đạp và lách trong ḍng đủ các xe cộ.
xe đi hết đường này đến đường khác, cứ như là đi ṿng tṛn. Patti cho rằng người lái xe đă cố để cho không bị theo dơi.
Cuối cùng, họ dừng lại trước một ngôi nhà hai tầng b́nh thường trong khu thành phố cũ có tên là phố Hàng Ngang. Không có bóng một người Âu hoặc người Nhật.
Một thanh niên đứng đón Patti ở cửa, trao đổi một vài câu với Xuân, rồi dẫn Patti vào nhà và bật đèn.
Khi Patti lên đến buồng gác, một bóng nhỏ nhắn tiến lại gần và giang rộng hai tay đón chào thân mật.
Patti rất vui được gặp lại Hồ Chí Minh nhưng cũng rất sửng sốt.
Hồ chỉ c̣n là một cái bóng của con người mà 4 tháng trước đây Patti đă gặp ở Tĩnh Tây, Quảng Tây, Trung Quốc.
Patti cầm lấy tay ông nhưng h́nh như tay ông hơi run. Trên đôi chân đi dép, thân h́nh xương xẩu trái ngược với cái trán khá rộng với nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt. Trang phục của ông, một tấm áo nâu sẫm và quần rộng, lại càng làm đậm thêm một vẻ hoang tàn.
Patti xin lỗi v́ đến chậm, nhưng ông Hồ không chú ư và nói đó không phải lỗi tại Patti và nh́n về phía Giáp mỉm cười.
Patti thấy Giáp ở đây, mặc dù trước đó ông ta vẫn lặng thinh chẳng nói ǵ với Patti về bữa cơm.
Đưa Patti về phía những người c̣n đứng yên ở một góc, ông Hồ giới thiệu, “người bạn Mỹ từ Washington của chúng ta”.
Patti hơi lúng túng và không muốn để bị hiểu lầm sửa lại “xin lỗi, từ Côn Minh tới”, mọi người cười x̣a, và ông Hồ cũng nhắc lại “từ Côn Minh tới”.
Patti hỏi thăm về t́nh h́nh sức khỏe, ông Hồ cho biết có bị sốt nhẹ và đau bụng, nhưng ông gạt chuyện đó sang bên và hỏi Patti về những tin tức ở Côn Minh và Washington.
Câu chuyện bị cắt ngang Lê Xuân bưng vào một cái khay với vài cái cốc và một chai Vermouth. Lê Xuân rót rượu và ông Hồ mời Patti đầu tiên. Hai người chúc sức khỏe nhau bằng tiếng Pháp.
Ông Hồ mời Patti sang pḥng bên, ở đó đă có bày bàn cơm (ngoài Hồ Chí Minh và Patti có Giáp, Trường Chinh và Nguyễn Khang).
Patti ngồi chỗ bên phải ông Hồ và là chỗ duy nhất bày đồ dùng theo kiểu Âu Châu, đồ Trung Quốc và bằng bạc. Đó là một sự trọng vọng, nhưng Patti sử dụng khá thành thạo bát đũa nên đă hỏi xem có thể có bát đũa được không. Mọi người thích thú và bát đũa được đưa tới ngay.
Không khí chan ḥa. Ai cũng thoải mái.
Câu chuyện diễn ra bằng tiếng Pháp, thỉnh thoảng có xen lẫn tiếng Anh. Patti thấy chỉ ḿnh ông Hồ biết tiếng Anh, nên ít sử dụng để giữ cho mọi người đều có thể tham gia câu chuyện.
Hồ Chí Minh nhắc sơ lại việc nhân dân ông đă cộng tác với AGAS, GBT, OWI và tất nhiên là cả OSS khi ông nói tới việc người Mỹ đă có ư định tuyển mộ ông làm việc cho OWI ở San Francisco năm 1944-1945.
Theo ông nói th́ ông đă hy vọng là nếu như người Mỹ thực hiện điều đó th́ ông đă có thể gặp được đại diện Liên Hợp Quốc để tŕnh bày nguyện vọng độc lập của nhân dân ông. Nh́n lại, ông nói, chắc cũng không thể thành công hơn việc đă làm ở Versailles vào 1919.
Cơm xong, họ chuyển ra ban công để dùng cà phê, bốn người kia rút lui và chỉ c̣n lại ông Hồ và Patti.
Mở đầu câu chuyện, ông Hồ cảm ơn Patti đă có nhă ư nhận lời mời và mong rằng sẽ được cùng nhau nhận định về t́nh h́nh hiện tại.
Patti cho rằng điều đó thực là bổ ích nhưng phải xác nhận rằng địa vị của ḿnh rất bị hạn chế bởi các chỉ thị của cấp trên và không được phép để cho dính líu vào các vấn đề chính trị Việt - Pháp.
Ông Hồ lắc đầu nhiều lần, giơ tay và cười nói: “Tôi hiểu! Có thể sau này, chứ bây giờ tôi không yêu cầu ǵ cả. C̣n hôm nay chúng ta có thể nói chuyện với nhau như những người bạn, chứ không phải là những nhà ngoại giao”.
Patti cũng cười đáp lại: “Đúng! Và như thế là ông không nghĩ rằng tôi sẽ báo cáo nội dung câu chuyện của chúng ta cho Côn Minh?”.
“Không!”, ông Hồ nói, “cho tới khi cả người Pháp lẫn người Trung Quốc cũng không hay biết ǵ về tôi”.
Trong hai giờ liền sau đó, hai người đă soát lại một số sự kiện và các vấn đề đặt ra từ khi có cuộc gặp gỡ với toán “Con Nai” cho tới các “Cuộc khởi nghĩa” ở Sài G̣n và Hà Nội. Ông Hồ rất nóng ḷng muốn cho Patti biết hết những t́nh h́nh mới nhất và Patti cũng rất muốn nắm trọn được mọi t́nh huống.
Khi nhắc lại một cách buồn cười sự việc của Montfort, ông Hồ hỏi tại sao người Pháp lại bỏ qua những đề nghị gặp gỡ của ông Hồ dạo tháng 7. Đặc biệt trong lúc bấy giờ, ông rất chú ư không những đến việc làm sáng tỏ bản tuyên bố mơ hồ ngày 23-4 của Pháp (mà c̣n việc mở ra các cuộc thương lượng với các nhà chức trách Pháp tại Trung Quốc).
Patti thú thực không biết ǵ về ư đồ của Pháp (Hoặc lảng tránh), ngoài việc OSS đă nhờ AGAS chuyển những bức điện của ông cho họ.
Ông Hồ thất vọng và cảm thấy bị xúc phạm bởi sự kiêu căng của Pháp khi ông phê phán cuộc vận động chống Việt Nam của Pháp tại Trung Quốc.
Ông đặc biệt tức giận đối với Sainteny và nhấn mạnh là chẳng ai c̣n lạ ǵ “Sainteny, trưởng đoàn M.5, là người đại diện của De Gaulle”. Theo ông th́ phái đoàn Sainteny chống đối với người Việt Nam và do đó sẽ gây ra nhiều vấn đề cho Chính phủ Lâm thời.
Về “kíp người” ở dinh Toàn quyền, ông Hồ hỏi “Họ hy vọng làm được ǵ nhỉ? Không biết có lúc nào họ nghĩ rằng họ lại có thể ngăn chặn được sự tiến triển của lịch sử Việt Nam không?”.
Patti không thể trả lời thay cho người Pháp và chỉ có thể giải thích rằng người Mỹ đă để họ đi theo là nhằm để giúp đỡ trông nom số khá lớn tù binh Pháp và do đó đă hạn chế chỉ để cho họ có 5 người.
Ông Hồ rất mực không tin. “Đó có thể là mục đích của các ông nhưng chắc chắn không phải mục đích của họ”.
Để ông bớt lo ngại, Patti gợi ư xem có thể lợi dụng nhóm Sainteny làm cái cầu để sớm bắt liên lạc với người Pháp được không, thậm chí cũng có thể thử dẫn dắt họ tới việc phải công nhận trên thực tế việc Việt Minh đă nắm chính quyền.
Ông Hồ không nghĩ như vậy. Trong lúc này, ông không sẵn sàng thương lượng. T́nh h́nh sau này cũng có thể sẽ thay đổi khi người Pháp nhận thức được họ không thể giữ măi được những tham vọng của họ trước. Nhưng cho đến lúc đó th́ họ vẫn cứ phải ở tại Dinh và cần phải được canh giữ.
Patti gợi ư một lần nữa về một cuộc đối thoại với Sainteny nhưng ông Hồ vẫn khăng khăng không chịu và cho rằng không được kết quả ǵ tích cực. Song, nói nước đôi về vấn đề này, Patti có thể tùy ư quyết định.
Theo ông Hồ không phải chỉ lo lắng về người Pháp không thôi, ông c̣n gặp khó khăn đối với những mưu toan của người Anh và Trung Quốc.
Ông nói một cách thông thạo về sự hợp tác Pháp - Anh ở Lào, Kampuchia và Nam Bộ.
Trong các khu vực này, rơ ràng quyền lợi của Anh trùng hợp với các mục tiêu của Pháp với mục đích lâu dài nhằm khôi phục lại khu vực thuộc địa trước chiến tranh của họ ở Đông Nam Á.
C̣n đối với người Trung Quốc, ông Hồ xác định lợi ích của họ chính là những vụ “trấn lột về chính trị”. Có tin từ Trùng Khánh cho biết, Quốc dân Đảng (Trung Quốc) đang xúc tiến thương lượng với Chính phủ Paris về nhiều vấn đề đặc quyền ở Đông Dương và ông Hồ tin chắc rằng hoạt động của các cường quốc Pháp, Anh, Trung Quốc sẽ gây nguy hại cho sự toàn vẹn của phong trào giải phóng dân tộc.
Câu chuyện trở nên chán ngán.
Patti chuyển sang hỏi về mối quan hệ giữa Nhật và Chính phủ Lâm thời.
Ông Hồ khẳng định là Nhật không can thiệp và đă có thái độ hợp tác tốt từ sau cuộc “khởi nghĩa” ở Hà Nội, đă có một sự thông cảm ngầm không qua những mối quan hệ chính thức hoạt động thương lượng.
Người Nhật đă rút lui một cách có trật tự và Việt Minh tiếp quản dần từng ngành chính quyền. Nhưng ông không biết phải chờ đợi ǵ ở Đồng minh sau khi Nhật rút đi và ông cũng chẳng rơ ai thay thế họ.
Patti nhắc lại là người Trung Quốc như đă thỏa thuận ở Potsdam. Ông Hồ không ngạc nhiên v́ ông cũng đă nghĩ là t́nh h́nh cũng có thể sẽ như thế nhưng chưa chắc chắn lắm. Patti ngầm tự hỏi không rơ ông có hy vọng ǵ vào việc Mỹ chiếm đóng không.
Ông Hồ rất khó chịu về việc người Việt Nam phải tiếp đón quân đội Trung Quốc và cho rằng việc một số lớn người Trung Quốc tràn vào Việt Nam, cộng với số quân Nhật ở đây sẽ làm cho tài nguyên đất nước khánh kiệt một cách ghê gớm.
Một cách tinh vi, ông đă liên tưởng đến những rối loạn mà quân đội chiếm đóng Tưởng có thể gây ra nếu họ cướp bóc lan tràn và lộng hành đối với dân chúng. Ông muốn Patti báo trước cho Đồng minh về những khả năng này, và Patti đă hứa sẽ làm đầy đủ.
Đó là một số vấn đề đă ám ảnh ông Hồ, đều là những vấn đề giải quyết không dễ dàng và Patti cũng chỉ có thể tác động tới được rất ít.
Không kể đối với một số ít người thân cận và một số người Trung Quốc, tên tuổi và con người Hồ Chí Minh c̣n được ít người Việt Nam biết đến, và đối với các lănh tụ thế giới đang chia cắt Đông Nam Á th́ lại càng không biết tới.
Những cố gắng trước đây của ông để tranh thủ sự công nhận của Mỹ đă không đi tới đâu. Ông Hồ cảm thấy khẩn thiết phải t́m được cách làm cho Đồng minh chú ư đến chính phủ của ông trước khi quân đội chiếm đóng của họ tới.
Ông đă xem bản kêu gọi công nhận nền độc lập Việt Nam của Bảo Đại gửi cho những người cầm đầu các nước Đồng minh mấy ngày trước. Điều đó làm cho ông lo lắng v́ lời kêu gọi đă tăng cường địa vị hợp pháp là người đứng đầu quốc gia của Bảo Đại và không nói ǵ đến sự tồn tại của Chính phủ Lâm thời. Ông phải nhanh chóng hành động để sửa lại điều sai trái này.
Theo ông Hồ th́ Bảo Đại đă không cầm quyền từ lâu. Chính phủ duy nhất hợp pháp lúc bấy giờ là Chính phủ Lâm thời của ông.
Patti không thảo luận ư kiến có liên quan tới Hà Nội và ngay cả Bắc Bộ nhưng nêu vấn đề là đối với cả nước th́ Bảo Đại vẫn là người đứng đầu quốc gia.
Với nụ cười quen thuộc, ông Hồ báo cho Patti biết rằng đúng vào lúc đó, một phái đoàn Chính phủ đă lên đường đi Huế để tiếp nhận sự thoái vị của Bảo Đại. Và khi việc thoái vị xong, ông dự định sẽ công bố một bản Tuyên ngôn độc lập, thành lập một nội các, đưa ra một chính phủ hoàn chỉnh, và tranh thủ cho được sự công nhận của quốc tế.
Với một giọng tự nhiên, ông Hồ hỏi: “Mỹ sẽ làm ǵ nhỉ?”.
Dĩ nhiên Patti không thể phát biểu thay cho chính phủ nhưng đưa ra ư kiến riêng là Mỹ sẽ xem xét lại t́nh h́nh dưới ánh sáng các sự kiện sắp diễn ra. Ông Hồ tỏ vẻ thất vọng nhưng cũng không nài ép ǵ thêm.
Điều quan trọng đối với ông Hồ là Mỹ tiếp tục chính sách chống thực dân của Mỹ đối với Đông Dương.
Ông cũng t́m cách để xua tan điều “hiểu lầm” cho ông là “một phái viên của Quốc tế Cộng sản” hay là một người Cộng sản. Mối quan tâm sốt sắng của Patti đă tạo cho ông con đường duy nhất có giá trị để đặt quan hệ với Washington. Và ông đă cố tận dụng điều thuận lợi đó.
Ông công nhận một cách thẳng thắn ông là một người Xă hội, ông đă cộng tác và làm việc với những người Cộng sản Pháp, Trung Quốc và Việt Nam, nhưng nói thêm “Các ông ở đây nữa cũng thế phải không?”.
Ông Hồ tự gán cho ḿnh nhăn hiệu là một người “Quốc gia - Xă hội - Cấp tiến”, có một sự mong muốn mănh liệt muốn giải thoát đất nước khỏi ách đô hộ của nước ngoài. Ông nói một cách lưu loát không điệu bộ, nhưng với một vẻ thành thật, quyết tâm và lạc quan.
Vào khoảng 3 giờ 30, có người tới và nói với ông Hồ điều ǵ. Ông xoa tay vui vẻ và quay lại phía Patti, với nụ cười rạng rỡ, ông báo cho biết: “Viên Khâm sai ở Nam Kỳ vừa điện cho Triều đ́nh xin từ chức. Ông ta đă chính thức đặt chính quyền miền Nam vào trong tay Ủy ban Hành chính Nam Bộ”.
Patti không ngạc nhiên lắm v́ hôm trước đă được nghe nói Việt Minh do Trần Văn Giàu lănh đạo đă nắm quyền kiểm soát ở đó. Ông Hồ giải thích là Bảo Đại chỉ mới tuyên bố có “ư định” thoái vị. Nhưng người cuối cùng trong số 3 viên Khâm sai cũng đă rút lui th́ không c̣n có trở ngại chính thức ǵ cho việc thoái vị hiện nay của ông ta nữa. Rơ ràng đó là một điều hân hoan đối với ông Hồ…
Patti cho rằng các khách của ông Hồ đang chờ để gặp ông, nên xin rút lui.
Ông Hồ tiễn Patti ra tận cửa và nói ông sẽ không bao giờ quên buổi chiều vui vẻ này và tỏ ư mong rằng Patti sẽ vui ḷng giữ quan hệ mật thiết với ông.
Patti đáp lại xin sẵn sàng gặp ông sớm.
Việc Patti có mặt tại Hà Nội hai tuần trước quân đội của chính quyền Tưởng Giới Thạch đă khiến nhiều người nghĩ rằng Hoa Kỳ đóng vai tṛ lănh đạo trong lực lượng Đồng minh vào giải giáp quân Nhật.
Mặc dù chỉ là một thiếu tá nhưng Patti đă tận dụng các cơ hội thể hiện vai tṛ “cấp cao” của ḿnh mỗi khi tham gia các sự kiện được tổ chức công khai ở Hà Nội.
Trong các cuộc gặp gỡ với báo chí VN những từ ngữ bày tỏ đồng cảm của Patti được Hồ Chí Minh coi như hàm ư chính quyền Mỹ phản đối Pháp quay lại Đông Dương và ủng hộ sự độc lập của Việt Nam.
Sự hợp tác nho nhỏ này giữa VN và Hoa Kỳ trong chống phát xít Nhật đă tạo cho Việt Minh một cơ hội quảng bá h́nh ảnh của ḿnh.
Hồ Chí Minh đă gặp Patti ở miền nam Trung Quốc, từng liên tục chất vấn Patti về chính sách của Hoa Kỳ đối với Đông Dương. Khi báo cáo cấp trên về các thông tin liên quan đến vấn đề này, Patti đă bị phê b́nh v́ đă vượt qua giới hạn. Thay v́ chỉ được phép cung cấp thông tin tóm lược.
Nhưng một sự thật dù Patti có thiện cảm với Hồ Chí Minh đến đâu, th́ người Mỹ cũng đă dần hiểu rơ bản chất con người Hồ Chí Minh và Việt Minh thông qua các nguồn thông tin khác đặc biệt là những sự kiện diễn ra tiếp theo vào những năm 1946.
(C̣n tiếp)
Trong khi Hồ Chí Minh khẩn trương tiến hành ngày lễ độc lập dự tính vào ngày 2/9/1945 và đi t́m đối tác ủng hộ chính phủ của ông đang bế tắc, con đường ngoại giao đến các nước đồng minh và thế giới đều bị đóng cửa. Thông qua Patti một kẻ chẳng có quyền hành ǵ, với cảm nhận nhạy cảm Hồ Chí Minh đă lờ mờ nhận ra mỗi bên đều có suy tính cho lợi ích của ḿnh. Lúc th́ ông nghi ngờ người Trung Hoa có dụng ư ở lại lâu dài Việt Nam và sẽ dàn dựng một chính phủ thân Trung Quốc, khi th́ ông nghi ngờ người Anh cấu kết với người Pháp chiếm đóng lại Đông Dương, mọi hy vọng của ông đều hướng về người Mỹ…
Nỗi thất vọng nhất của Hồ Chí Minh chính là Liên xô và các đồng chí cộng sản Trung Quốc trong thời khắc nước sôi lửa bỏng chẳng làm ǵ để ủng hộ cho phong trào Việt Minh. Ông gửi thư cho Stalin cũng biệt vô âm tín, các đồng chí Trung Quốc đang phải đương đầu với Tưởng Giới Thạch trong cuộc tranh giành quyền lực ở đất nước đông dân nhất thế giới này.
Hồ Chí minh đă sử dụng hết tài nghệ ngoại giao và các mánh lới để chứng minh cho người Mỹ về sự bóc lột tàn bạo của người Pháp, sự lầm than của người Đông Dương để người Mỹ mủi ḷng, ông cố gắng t́m những lời tốt đẹp nhất để ca ngợi nước Mỹ, coi nước Mỹ là nước có nền dân chủ nhất thế giới, đồng thời ông luôn phủ nhận không lấy hệ tư tưởng cộng sản để xây dựng một nhà nước cộng sản theo mô h́nh Liên Xô, việc ông tham gia và là thành viên của đảng cộng sản chỉ là phương tiện trong quá tŕnh đi t́m độc lập cho Việt Nam, ông mong muốn một nước Việt Nam mới dân chủ, tự do…
Nhưng các đảng phái đối lập và trong liên minh chống Pháp luôn tố cáo ông phá hoại chia rẽ, và muốn gạt họ ra khỏi chính phủ của một nhà nước mới…
Cuộc khởi nghĩa tháng 8/1945 diễn ra chẳng khác nào bản sao cuộc cướp chính quyền của giai cấp vô sản Nga năm 1917, sự bạo lực tàn bạo với các thành phần khác đă không che giấu được tham vọng của Việt Minh về việc không chia sẻ quyền lực sẽ tất yếu dẫn đến h́nh thành một nhà nước cộng sản… Điều này đă được các thông tin t́nh báo đưa về Mỹ theo nhiều nguồn, thậm chí cả từ Patti- Ai dám khẳng định Patti hoàn toàn ủng hộ Hồ Chí Minh, Một sỹ quan t́nh báo đi tiền trạm không thể dễ mở ḷng như thế.
Sự chậm chễ trong việc triển khai quân Đồng minh vào giải giáp Nhật ở Đông Dương khiến t́nh h́nh ở Đông Dương trở nên phức tạp khi Việt Minh đă tranh thủ khoảng lặng này để phát động cuộc khởi nghĩa với sự tham gia đông đảo của tầng lớp nghèo khổ trở thành một lực lượng hậu thuẫn vững chắc cho Việt Minh mà không có lực lượng nào ngăn cản là nguyên nhân để Hồ Chí Minh có thể cứng rắn trong các cuộc đàm phán thương lượng với Người Pháp… Các nhà nghiên cứu lịch sử đă cho rằng, sai lầm này thuộc về Douglas MacArthur Tư lệnh Tối cao, Khu vực Tây Nam Thái B́nh Dương trong việc lùng nhùng triển khai các lực lượng giải giáp.
Trước khi quân Tưởng Giới Thạch vào Việt Nam, người Pháp và Trung Hoa Dân quốc đă đi ngầm với nhau và đàm phán chia chác quyền lợi.
Việc này đă diễn ra bắt đầu khi ngay sau khi Hội nghị Potsdam kết thúc vào tháng 7/1945.
Mọi thông tin về cuộc đàm phán người Mỹ đều biết, một báo cáo của OSS gửi về Mỹ có đoạn viết “… một sự thỏa thuận giữa Pháp và Trung Quốc, việc chiếm đóng của Trung Quốc chỉ được sử dụng như một phương sách để đưa người Pháp đến chỗ đồng ư với nhiều vấn đề quốc tế hiện nay. Nếu đạt được sự thỏa thuận th́ người Trung Quốc sẽ rút lui nhường chỗ cho người Pháp chiếm lại Đông Dương”.
Một báo cáo c̣n chi tiết hơn ghi: Lực lượng Trung Quốc ở Đông Dương cho phép bộ chỉ huy Pháp đảm nhận trách nhiệm canh gác tù nhân Nhật Bản , duy tŕ ḥa b́nh và trật tự, và bảo vệ các công dân Trung Quốc ở phía bắc vĩ độ 16 độ Bắc và rút quân Trung Quốc không muộn hơn ngày 31 tháng 3 năm 1946.
Một bản tin của Vụ Hoa kiều Hải ngoại (Quốc dân Đảng Trung Quốc) trong đó có nói:
“Đông Dương không phải chỉ không c̣n giữ được vai tṛ của một nước trung lập, mà đă trở thành một căn cứ chủ yếu cho Nhật xâm chiếm Trung Quốc từ phía nam, do đó đă gây thiệt hại nặng nề cho Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc không hề có mưu đồ ǵ về đất đai đối với Đông Dương, trừ việc đến đó để nhận sự đầu hàng của quân đội Nhật ở miền bắc xứ này”.
Đấy là mánh lới ngh́n năm của người Trung Quốc, khi họ luôn nói một đằng làm một nẻo.
Họ tranh thủ việc được vào giải giáp quân Nhật làm áp lực để người Pháp phải chấp nhận những yêu sách của họ về các vấn đề khác như vấn đề tô giới ở Thượng Hải, trong lĩnh vục đặc quyền về buôn bán, bến cảng v.v...
Và sự thật đă diễn ra ngày 28/2/1946 Hiệp ước Hoa – Pháp được kư kết chính thức, tức là chỉ 6 tháng sau khi quân đội Tưởng Giới Thạch vào Đông dương giải giáp quân Nhật, và 4 tháng sau (ngày 15/6/1946) người lính cuối cùng của Tưởng Giới Thạch rời khỏi Việt Nam, cho quân đội Pháp quay trở lại.
C̣n người Anh đă giúp người Pháp quyết tâm trở lại Đông Dương như thế nào? Xin đọc tiếp ở phần sau.
(C̣n tiếp)
Cuộc Tổng khởi nghĩa diễn ra ở phía Bắc đến Huế do Việt Minh với ṇng cốt lănh đạo là những người cộng sản diễn ra thuận lợi, nhưng ở Nam Kỳ và Sài G̣n không được suôn sẻ và những cuộc đổ máu đă diễn ra.
Tại các tỉnh phía Bắc và Hà Nội Việt Minh trong thế lực áp đảo, trong khi Nam kỳ ngoài Việt minh cộng sản c̣n các đảng phái vũ trang khác chống Pháp như Cao Đài, Ḥa Hảo, B́nh Xuyên,Troskism…
Giữa những người Việt Minh cộng sản do Trần Văn Giàu lúc ấy lănh đạo với các đảng phái khác có mâu thuẫn rất lớn về đường lối, đặc biệt nhóm Troskism (Trotskyist theo tiếng Anh) bị Việt Minh cộng sản của Hồ Chí Minh cho là kẻ thù nguy hiểm nhất.
Vào ngày 21 tháng 8, Mặt trận Dân tộc Thống nhất đă tổ chức một cuộc biểu t́nh quân sự lớn ở Sài G̣n, quy tụ Cao Đài, Ḥa Hảo và phong trào Trotskyist mạnh mẽ của thành phố. Đây là sự thể hiện sức mạnh của những người chỉ trích chính sách cộng sản.
Vào ngày 25 tháng 8, Việt Minh đă tổ chức cuộc biểu t́nh lớn hơn của riêng họ và cùng ngày đó đă thành lập Ủy ban Miền Nam với tư cách là một chính phủ cách mạng. Ủy ban do nhà lănh đạo cộng sản Trần Văn Giàu đứng đầu đă cố gắng thiết lập quyền kiểm soát Sài G̣n và mở rộng ảnh hưởng của ḿnh trên khắp phần c̣n lại của miền Nam. Hiện tại, lập luận của cộng sản rằng có thể đạt được thành công mà không cần đối đầu với quân Đồng minh, nhưng có nhiều người không bị thuyết phục.
Đến đây chúng ta cần t́m hiểu Trotsky là ai, chủ nghĩa Trotskyist là ǵ? Và tại sao Việt Minh cộng sản lại coi nhóm Trotskyist là kẻ thù nguy hiểm và t́m cách tiêu diệt - qua đó sẽ thấy Việt Minh và Hồ Chí Minh đă triệt để theo đường lối Stalin từ khi Stalin lên cầm quyền nhà nước Xô Viết sau khi Lê Nin chết, và việc Hồ Chí Minh nói, ông ta chỉ coi chủ nghĩa cộng sản như một công cụ t́m độc lập cho Việt Minh là một phương cách che giấu bản chất cộng sản để lấy sự ủng hộ của Mỹ và Đồng Minh nhằm hất cẳng Pháp.
Khi Patti có sự không hiểu về nhóm Trotskyist trong buổi gặp Hồ Chí minh và Trần Huy Liệu, Liệu đă giảng giải:
Là cả hai về căn bản đều thống nhất với khái niệm độc lập dân tộc, nhưng đối lập nhau hoàn toàn trong việc xác định các ưu tiên để hoàn thành giai đoạn “dân chủ - xă hội chủ nghĩa”.
Nhóm Trotskyist chủ trương vũ trang quần chúng, xoá bỏ mọi tàn dư của nền thống trị ngoại quốc, chống lại các cố gắng của Đồng minh nhằm phục hồi chủ quyền của Pháp và cho thi hành ngay các cải cách xă hội. C̣n Việt Minh th́ ít cực đoan hơn, vẫn ít nhiều chấp nhận cơ cấu chính quyền cũ, và sẵn sàng thương lượng với Đồng minh. Việt Minh ủng hộ một sự chuyển tiếp từng bước - từ chế độ dân chủ cộng hoà sang xă hội chủ nghĩa tiến bộ rồi chủ nghĩa cộng sản, v́ thế tránh được va chạm của một sự thay đổi đột ngột về kinh tế xă hội và cuộc đấu tranh giai cấp gắn liền với nó.
Thực chất những lời giảng giải này không phải là lư do xảy ra mâu thuẫn giữa Việt Minh và nhóm Trotskyist, mâu thuẫn này đă xảy ra từ những năm 1931 do ảnh hưởng của cuộc tranh giành quyền lực ở Liên Xô, khi Stalin muốn trừ khử Trotsky người có vị trí quyền lực thứ hai sau Lenin để trở thành kẻ độc tài trong đảng.
Khi Lenin c̣n sống giữa ông ta và Trotsky có những mâu thuẫn nhưng vẫn luôn là đồng chí và các mâu thuẫn này cũng v́ thế mà giải quyết ổn thỏa trên tinh thần lợi ích của nhà nước Xô Viết.
Trong bộ ba quyền lực của nhà nước Xô Viết là Lenin, Trotsky, Stalin luôn có những mâu thuẫn và Lenin khi c̣n sống và minh mẫn vẫn hóa giải được.
Mối thâm thù giữa Stalin và Trotsky bắt đầu từ những năm 1920 và kết cục họ trở thành những kẻ thù không đội trời chung.
Giữa tháng 8 năm 1920, quân Ba Lan đă đẩy lùi cuộc tiến công của Nga, và Stalin quay về Moskva để hội kiến với Bộ Chính trị.
Ở Moskva, Lenin và Trotsky khiển trách thái độ của ông trong cuộc chiến với Ba Lan. Stalin cảm thấy ḿnh bị xem thường và tủi nhục; vào ngày 17 tháng 8, ông xin từ chức quân ngũ, được chấp thuận vào ngày 1 tháng 9.
Tại Hội nghị Bolshevik lần thứ 9 giữa tháng 9, Trotsky cáo buộc Stalin đă mắc phải "sai sót chiến lược" trong việc quản lí trận địa, Trotsky cho rằng Stalin đă gây tổn hại đến chiến dịch do không tuân lệnh chuyển quân Lenin đồng t́nh với Trotsky, và không một ai trong cuộc họp đứng ra bảo vệ Stalin. Do vậy, ông cảm thấy bị thất sủng và ngày càng thù ghét Trotsky.
Sau khi cuộc Nội chiến Nga kết thúc, các cuộc đ́nh công của công nhân và các cuộc khởi nghĩa nông dân bùng nổ xuyên khắp Nga, hầu hết là để phản đối lệnh trưng thu lương thực của Sovnarkom; do vậy mà Lenin đành thông qua Chính sách kinh tế mới (NEP) vào năm 1921. Lục đục cũng bắt đầu biểu hiện bên trong Đảng Cộng sản Nga, bắt nguồn từ việc Trotsky muốn băi bỏ các công đoàn; Lenin phản đối điều này, dẫn đến việc Stalin phải giúp thành lập một bè phái chống Trotsky bên trong Đảng
Cuối năm 1921 sức khoẻ của Lenin xấu đi, ông không có mặt ở Moscow trong những thời gian dài, và cuối cùng bị ba cơn đột quỵ trong khoảng từ ngày 26 tháng 3 năm 1922 tới ngày 10 tháng 3 năm 1923, khiến ông bị liệt, không nói được và cuối cùng mất ngày 21 tháng 1 năm 1924.
Với việc Lenin dần bị gạt ra ŕa trong suốt năm 1922, Stalin (đă thăng tiến lên chức vụ mới được thành lập trong Ủy ban Trung ương là Tổng thư kư từ đầu năm đó), Zinoviev và Lev Kamenev h́nh thành một troika (chế độ tam hùng) để đảm bảo rằng Trotsky, trên thực tế là người đứng vị trí số hai trong nước và là người kế vị Lenin, sẽ không được kế tục Lenin.
Vào giữa tháng 7 năm 1922, Kamenev viết một bức thư cho Lenin, khi ấy đang dưỡng bệnh "(Ủy ban Trung ương) đang loại bỏ hay sẵn sàng loại bỏ một khẩu pháo tốt ra khỏi tàu", Lenin cảm thấy sốc và đă trả lời:
- Loại bỏ Trotsky - chắc chắn anh đang nói tới việc đó, bởi không thể nghĩ tới điều ǵ khác - là sự ngu dốt lớn nhất. Nếu anh không coi tôi là một kẻ đă hoàn toàn bỏ đi, làm sao anh có thể nghĩ tới điều ấy????
Từ đó cho tới lần đột quỵ cuối cùng, Lenin đă dành hầu hết thời gian để t́m cách ngăn chặn sự chia rẽ bên trong giới lănh đạo Đảng Cộng sản, điều này được phản ánh trong Di chúc Lenin.
Như một phần của nỗ lực đó, ngày 11 tháng 9 năm 1922 Lenin đă để nghị để Trotsky làm phó cho ḿnh tại Sovnarkom. Bộ chính trị đồng ư với đề xuất này, nhưng Trotsky "thẳng thừng từ chối".
Tháng 5 năm 1922, Lenin đột quỵ, tê liệt một phần thân. Do phải dưỡng bệnh ở dacha Gorki, Lenin liên lạc với Sovnarkom thông qua Stalin, người thường xuyên đến thăm ông. Lenin từng hai lần hỏi Stalin cho ông thuốc độc để tự tử, song bị từ chối.
Bất chấp t́nh đồng chí giữa hai người, Lenin không thích cách xử sự "Á Châu" của Stalin, từng nói với em gái Maria rằng Stalin "không sáng suốt"
Về chính sách, Lenin và Stalin mâu thuẫn về vấn đề ngoại thương; Lenin tin rằng nhà nước Xô viết nên giữ độc quyền về ngoại thương, c̣n Stalin ủng hộ lập trường của Grigori Sokolnikov rằng làm vậy là chưa thiết thực ở thời điểm hiện tạ.
Một tranh căi khác nảy sinh giữa hai người trong Sự vụ Gruzia, theo đó Lenin ủng hộ nguyện vọng thành lập Cộng ḥa Xô viết Gruzia của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Gruzia, hơn là ư kiến của Stalin nhằm thành lập một Liên bang Ngoại Kavkaz.
Lenin và Stalin cũng bất đồng với nhau về bản chất của nhà nước Xô viết. Lenin kêu gọi thành lập "Liên bang các Cộng ḥa Xô viết của Châu Âu và Châu Á", phản ánh mong muốn của ông nhằm lan rộng tầm ảnh hưởng của Xô viết ra hai châu lục và khuyên Nga Xô nên tham gia liên bang này với tư cách b́nh đẳng như các Cộng ḥa khác.
Stalin tin rằng điều này sẽ khiến các dân tộc phi-Nga muốn độc lập hơn, vậy nên ông đề nghị các dân tộc thiểu số gia nhập Nga Xô với tư cách "cộng ḥa tự trị". Lenin phê phán Stalin v́ "tư tưởng sô vanh Đại Nga", c̣n Stalin vu cáo Lenin có "tư tưởng tự do tư sản dân tộc". Rốt cuộc hai người họ đi đến thỏa hiệp, đổi tên liên bang mới thành "Liên bang Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Xô viết" (Liên Xô).Sự khai sinh của Liên Xô được chính thức phê chuẩn vào tháng 12 năm 1922; tuy là một nhà nước liên bang trên danh nghĩa, tất cả các quyết định quan trọng đều phải được chuẩn y bởi Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô ở Moskva.
Lenin và Stalin cũng nảy sinh xích mích trong đời tư; Lenin đă rất tức giận khi hay tin Stalin xỉ mắng Krupskaya qua một cuộc điện thoại. Vào năm cuối đời của Lenin, Krupskaya đă tŕnh bày cái gọi là "Di chúc Lenin" cho một số nhân vật cấp cao, trong đó có chỉ trích thái độ thô lỗ và chuyên quyền của Stalin, đồng thời khuyến nghị miễn nhiệm chức Tổng Bí thư của ông.
Lúc đầu Lenin đều tin cậy Trotsky và Stalin như nhau, nhưng sau này Lenin nhận ra Stalin là kẻ có tâm địa và rất ham hố quyền lực nên trong di chúc của ḿnh ông đă viết “Stalin là kẻ không có t́nh đồng chí” và không thể để Stalin thay thế Lenin làm lănh tụ đảng.
Lenin trút hơi thở cuối cùng vào tháng 1 năm 1924. Stalin cáng đáng tang sự cho vị lănh tụ; tại tang lễ, ông là một trong những người đứng ra khiêng tiễn linh cữu của Lenin;
Trái với nguyện vọng của bà Krupskaya, Bộ Chính trị quyết định bảo quản và lưu giữ thi hài của Lenin trong lăng Quảng trường Đỏ ở Moskva. Điều này dần trở thành một phần của tục sùng bái cá nhân Lenin ở Liên Xô; Petrograd được đổi tên thành "Leningrad" cùng năm. Nhằm xây dựng h́nh ảnh của ḿnh như một người Leninist tận tụy, Stalin thuyết giảng chín bài giảng mang tên "Các nền tảng của chủ nghĩa Lenin" tại Đại học Sverdlov, sau được xuất bản dưới dạng sách.
Nhưng Stalin lúc ấy đă t́m cách giấu diếm và không đưa ra bức thư ra đọc tại Bộ chính trị. Và hơn một năm sau, tại Đại hội XIII Đảng Cộng sản Nga vào tháng 5 năm 1924, "Di chúc Lenin" được đọc trước các đại biểu, khi ông ta tin rằng ḿnh đă khống chế được các đảng viên chủ chốt trong đảng.
Bằng một sự giả tạo với những ǵ Lenin nói về ḿnh trong di chúc, Stalin xin từ chức Tổng Bí thư; hành động này đă cứu văn thể diện của ông ta, và Bộ Chính trị nhất trí để Stalin tiếp tục đảm đương chức nhiệm.
Với cái chết của Lenin, Stalin coi Trotsky là trở ngại chính đối với quyền lực của ḿnh bên trong Đảng. Trên thực tế, trong những năm tháng Lenin ốm đau bệnh tật, Stalin đă xây dựng một bè phái chống Trotsky cùng Kamenev và Zinoviev.Tuy Zinoviev quan ngại về uy thế manh nha của Stalin, ông vẫn đứng sau ủng hộ Stalin làm đối trọng với Trotsky ở Đại hội Đảng lần thứ XIII. Phe Đối lập cánh Tả do Trotsky lập ra cho rằng NEP đang nhượng bộ quá nhiều cho chủ nghĩa tư bản; Stalin bị gán mác "hữu khuynh" v́ ủng hộ chính sách này.
Đáp lại, Stalin bắt đầu gây dựng một nhóm ủy viên ủng hộ ḿnh trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng, c̣n phe Đối lập cánh Tả dần bị gạt khỏi quyền lực. Ông chiêu mộ được Bukharin về phe ḿnh, người mà giống Stalin, cũng tin rằng các đề xuất của phe Đối lập cánh Tả sẽ khiến Liên Xô trở nên bất ổn.
Cuối năm 1924, Stalin chĩa mũi dùi vào Kamenev và Zinoviev, loại bỏ đồng minh của họ khỏi các vị trí chủ chốt. Năm 1925, Kamenev và Zinoviev trả đũa chống lại Stalin và Bukharin. Tại Đại hội Đảng lần thứ XIV vào tháng 12, hai người họ công kích bất thành bè cánh của Stalin. Đáp lại, Stalin cáo buộc Kamenev và Zinoviev chia bè kết phái ḥng làm rối loạn nội bộ Đảng.
Giữa năm 1926, hai người họ hợp lực cùng những người ủng hộ Trotsky để thành lập nhóm Đối lập thống nhất chống Stalin. Tháng 10 cùng năm, phái này buộc phải giải tán do lo sợ bị khai trừ khỏi Đảng, về sau phải công khai rút lại phát ngôn dưới sức ép của Stalin. Các cuộc tranh luận bè phái tiếp diễn, khiến Stalin phải đe dọa từ chức vào tháng 10, tháng 12 năm 1926 và tháng 12 năm 1927.
Tháng 10 năm 1927, Zinoviev và Trotsky bị loại khỏi Ban Chấp hành Trung ương. Trotsky bị phát lưu tới Kazakhstan, rồi ra hẳn ngoại quốc vào năm 1929. Một số ủy viên thuộc nhóm Đối lập thống nhất sau khi thừa nhận lỗi lầm, ăn năn hối cải, được khôi phục đảng tịch và chức vụ.
(C̣n tiếp)
Trotsky bị trục xuất khỏi Liên bang Xô viết tháng 2 năm 1929. Trạm dừng chân đầu tiên trong chặng đường lưu vong của ông là tại Büyükada ngoài khơi Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ nơi ông ở trong bốn năm. Có nhiều cựu sĩ quan Bạch vệ tại Istanbul, điều này khiến cuộc sống của Trotsky gặp nguy hiểm, nhưng một số người ủng hộ Trotsky ở châu Âu t́nh nguyện làm vệ sĩ cho ông.
Năm 1933 Trotsky được trao quyền tị nạn tại Pháp bởi Daladier. Đầu tiên ông ở tại Royan, sau đó tại Barbizon. Ông không được phép tới thăm Paris. Năm 1935 ông được biết ḿnh sẽ không được tiếp tục đón chào ở Pháp nữa. Sau khi cân nhắc các khả năng, ông chuyển tới Na Uy. Với giấy phép của Bộ trưởng Tư pháp lúc ấy là Trygve Lie để vào Na Uy, Trotsky trở thành khách của Konrad Knudsen gần Oslo.
Sau hai năm – được cho là dưới ảnh hưởng từ Liên Xô – ông bị quản thúc tại gia. Việc ông tới tới México trên một chiếc máy bay chở hàng đă được sắp xếp sau các cuộc tư vấn với các quan chức Na Uy. Tổng thống Mexico Lázaro Cárdenas chào đón ông nồng nhiệt, thậm chí c̣n sắp xếp một chuyến tàu đặc biệt để đưa ông tới Mexico City từ cảng Tampico.
Tại Mexico, Trotsky có thời điểm sống tại nhà họa sĩ Diego Rivera, và một thời điểm khác tại nhà vợ và bạn của Rivera.
Trong cảnh lưu đày, ông vẫn là một người viết rất nhiều, viết ra nhiều tác phẩm quan trọng, gồm Lịch sử Cách mạng Nga (1930) và Cuộc Cách mạng bị Phản bội (1936), một sự chỉ trích Liên bang Xô viết dưới quyền Stalin. Trotsky cho rằng nhà nước Xô viết đă trở thành một nhà nước mất phẩm chất của công nhân bị kiểm soát bởi một chế độ quan liêu phi dân chủ, cuối cùng hoặc sẽ bị lật đổ qua cách mạng dân chủ để thành lập nên chế độ dân chủ của công nhân, hay mất phẩm chất nữa để trở thành một tầng lớp tư bản.
Khi ở Mexico, Trotsky cũng làm việc gần gũi với James P. Cannon, Joseph Hansen, và Farrell Dobbs của Đảng Công nhân Xă hội Hoa Kỳ, và những người ủng hộ khác.
Cannon, một thành viên lănh đạo từ lâu của phong trào cộng sản Mỹ, đă ủng hộ Trotsky trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa Stalin từ khi ông lần đầu đọc những lời chỉ trích Liên Xô của Trotsky năm 1928.
Sự chỉ trích chế độ Stalin của Trotsky, dù bị ngăn cấm, vẫn được phân phát tới các lănh đạo Quốc tế Cộng sản. Trong số những người ủng hộ ông có Trần Độc Tú, người sáng lập và là Tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Stalin lo sợ việc Trotsky bôi nhọ và tố cáo các hành vi tội ác của ḿnh trước thế giới đă mở một phiên ṭa đầu tiên vào tháng 8 năm 1936, gọi là "Trung tâm Khủng bố Trotskyite-Zinovievite" trước cử toạ quốc tế.
Trong vụ xử, Zinoviev, Kamenev và 14 người khác bị buộc tội, đa số họ là những người Bolshevik Cũ nổi tiếng, thú nhận đă âm mưu cùng Trotsky để giết Stalin và các thành viên khác của ban lănh đạo Xô viết. Toà án xác nhận tất cả mọi người đều có tội và tuyên án các bị đơn tội tử h́nh, Trotsky tử h́nh vắng mặt.
Cuộc xử án thứ hai chống lại Trotsky với các bị cáo là Karl Radek, Grigory Sokolnikov, Yuri Pyatakov và 14 người khác diễn ra tháng 1 năm 1937, thậm chí với nhiều cái gọi là âm mưu và tội ác hơn. Tháng 4 năm 1937, một "Ủy ban Điều tra" độc lập về các cáo buộc chống lại Trotsky và những người khác tại "Các vụ xử án Moscow" được tổ chức tại Coyoacan, với John Dewey là chủ tịch.
Vào năm 1938 tại Pháp Trotsky và những người ủng hộ ông, những người tin rằng Quốc tế Cộng sản đă bị phe Stalin kiểm soát hoàn toàn, và không c̣n khả năng lănh đạo giai cấp công nhân quốc tế giành lấy chính quyền.
V́ vậy, họ đă thành lập "Đệ Tứ Quốc tế" như một tổ chức đối trọng. Nhiều nhà hoạt động của tổ chức này bị mật vụ NKDV truy lùng. Những người ủng hộ Liên Xô cáo buộc Đệ Tứ Quốc tế là một tổ chức phản động.
Khi tự xưng là Đệ Tứ Quốc tế (hoặc "Thế giới Cách mạng Xă hội Đảng"), phe Trotsky nhấn mạnh họ kế thừa truyền thống cách mạng từ Quốc tế Cộng sản và những tổ chức tiền thân, nhưng chỉ công nhận 4 kỳ đại hội đầu tiên của Quốc tế Cộng Sản, và cho rằng tổ chức đă đến hồi thoái trào. Phe Trotsky tin rằng Đệ Nhị Quốc tế và Quốc tế Cộng sản không c̣n khả năng hoạt động như những tổ chức cách mạng vô sản thế giới theo các nguyên tắc cách mạng xă hội chủ nghĩa và chủ nghĩa quốc tế. Trotsky viết rằng Đệ Tứ Quốc tế có nhiệm vụ "ngăn chặn chiến tranh; lật đổ chế độ nô lệ của giai cấp tư sản; vạch trần bản chất xảo trá của Đệ Nhị, Đệ Tam và Amsterdam" Đệ Tứ Quốc tế bị chia rẽ lần đầu tiên vào năm 1940, đến năm 1953 th́ chia rẽ lần hai. Dù năm 1963 có tái hợp một phần, nhưng nhiều nhóm vẫn tuyên bố ḿnh chính là người kế thừa chính trị hợp pháp của Đệ Tứ Quốc tế.
Tới cuối năm 1939 Trotsky đồng ư tới Hoa Kỳ để xuất hiện như một người làm chứng trước Ủy ban Dies của Hạ viện, một tiền thân của House Un-American Activities Committee. Người đại diện Martin Dies, Chủ tịch uỷ ban, đă yêu cầu ông làm chứng sự đàn áp Đảng Cộng sản. Trotsky dự định sử dụng diễn đàn để phơi bày các hành động của NKVD chống lại ông và những người ủng hộ. Ông cũng nói rơ rằng ông cũng dự định tranh luận chống lại sự đàn áp Đảng Cộng sản Mỹ, và sử dụng uỷ ban như một diễn đàn cho một lời kêu gọi chuyển đổi chiến tranh thế giới trở thành cách mạng thế giới. Nhiều người lên tiếng phản đối sự xuất hiện này. Khi uỷ ban biết được tính chất của bản tuyên bố Trotsky dự định tŕnh bày, họ từ chối nghe ông, và ông bị khước từ visa vào Mỹ. Khi nghe về điều này, những người theo Stalin nhanh chóng buộc tội Trotsky nhận tiền của các trùm dầu mỏ và FBI.
Năm 1939 Trotsky về nhà riêng tại Coyoacán, một vùng phụ cận của Mexico City. Ông ốm, và bị cao huyết áp, và sợ rằng sẽ bị xuất huyết năo. Thậm chí ông c̣n chuẩn bị cho ḿnh một khả năng chấm dứt cuộc đời bằng cách tự sát.
Ngày 27 tháng 2 năm 1940, Trotsky viết một tài liệu được gọi là "Di chúc của Trotsky", trong đó ông thể hiện những suy nghĩ và cảm giác cuối cùng của ḿnh cho thế hệ sau. Sau khi mạnh mẽ bác bỏ những buộc tội của Stalin rằng ông đă phản bội lại tầng lớp lao động, ông cảm ơn những người bạn, và trên tất cả người vợ và những người đồng chí thân thiết, Natalia Sedova, về sự hỗ trợ trung thành của họ.
Ngày 24 tháng 5 năm 1940, Trotsky sống sót sau một vụ tấn công vào nhà ông bởi những kẻ ám sát của Stalin do mật vụ GPU Iosif Grigulevich, họa sĩ và người theo chủ nghĩa Stalin người Mexico David Alfaro Siqueiros, và Vittorio Vidale chỉ huy.
Ngày 20 tháng 8 năm 1940, Trotsky bị tấn công tại nhà ở México bởi một mật vụ của NKVD, Ramón Mercader, ông bị Mercader dùng một chiếc ŕu băng chém ngập vào sọ.
Nhát đánh không chuẩn xác lắm và không giết chết Trotsky ngay lập tức như Mercader dự tính. Các nhân chứng nói rằng Trotsky đă nhổ vào Mercader và đánh nhau dữ dội với anh ta. Nghe tiếng động, các vệ sĩ của Trotsky lao vào pḥng và hầu như giết Mercader, nhưng Trotsky ngăn họ, nhắc lại nhiều lần rằng cần để anh ta sống để trả lời các câu hỏi. Trotsky được đưa tới bệnh viện, tiến hành phẫu thuật, và sống được trong hơn một ngày nữa, chết khi 60 tuổi ngày 21 tháng 8 năm 1940 v́ năo bị tổn thương nghiêm trọng. Mercader sau này nói tại toà:
Tôi đặt chiếc áo mưa lên bàn sao cho có thể lấy được chiếc ŕu băng trong túi ra. Tôi quyết định không bỏ lỡ cơ hội tuyệt vời đang có. Thời điểm Trotsky bắt đầu đọc bài viết, cơ hội của tôi đă đến; tôi rút chiếc ŕu ra khỏi túi áo, nắm chặt trong tay, nhắm mắt lại, giáng cho ông một cú chết người vào đầu.
Theo James P. Cannon, thư kư của Đảng Công nhân Xă hội (Hoa Kỳ), những lời cuối cùng của Trotsky là "Tôi không sống nổi sau vụ này đâu. Stalin cuối cùng đă hoàn thành nhiệm vụ mà ông ta từng không thành công trước đây.
Ngôi nhà của Trotsky tại Coyoacán được giữ ǵn nguyên trạng như ngày diễn ra vụ ám sát và hiện là một bảo tàng do một ban quản lư gồm cả cháu ông là Esteban Volkov điều hành. Giám đốc hiện tại của bảo tàng là tiến sĩ Carlos Ramirez Sandoval dưới sự giám sát của ông bảo tàng đă được nâng cấp nhiều sau nhiều năm bị sao lăng. Mộ của Trotsky nằm trong khu đất của ngôi nhà này.
Trotsky không bao giờ được chính phủ Xô viết chính thức phục hồi, dù trong giai đoạn Cải tổ hầu hết những người Bolshevik Cũ bị giết hại trong cuộc Đại Thanh trừng đă được phục hồi. Nhưng vào năm 1987, dưới thời Tổng thống Gorbachev, Trotsky đă được gọi là "một anh hùng và liệt sĩ", và được in h́nh lên một con tem bưu chính tưởng niệm. Con trai ông, Sergei Sedov, bị giết năm 1937, đă được phục hồi năm 1988, cũng như Nikolai Bukharin. Trên tất cả, bắt đầu từ năm 1989, những cuốn sách của Trotsky, bị cấm cho đến năm 1987, cuối cùng đă được xuất bản ở Liên Xô.
Đến đây câu hỏi vậy thực chất của Chủ nghĩa Trotskyist là ǵ?
Chẳng có Chủ nghĩa Trotskyist nào cả, đấy chỉ là cách nâng quan điểm của cuộc thanh trừng do Stalin đưa ra để loại trừ Trotsky một cách công khai trong đảng.
Thực chất các mâu thuẫn giữa Trotsky với Lenin và Stalin đă có từ những năm 1920, nó chỉ là mâu thuẫn về phương pháp tiến hành cách mạng đặc biệt trong đối ngoại và đă được giải quyết.
Trotsky tự coi ḿnh là một người "Bolshevik-Leninist", kêu gọi việc thành lập một đảng tiên phong. Ông coi ḿnh là một người ủng hộ học chủ nghĩa Mác chính thống. Chính trị của ông khác biệt ở nhiều mặt với chính trị của Stalin hay Mao, quan trọng nhất là sự phản đối học thuyết Chủ nghĩa xă hội trong Một Quốc gia và ông tuyên bố sự cần thiết phải có một cuộc "cách mạng thường trực" trên b́nh diện quốc tế.
Cái gọi là “Cách mạng thường trực” hay “Chủ Nghĩa xă hội trong một quốc gia” chẳng có trong cương lĩnh, hay học thuyết nào của đảng cộng sản Liên Xô, nó chỉ là cách gọi của giới phân tích chính trị. Nó xuất phát từ những quan điểm trái chiều mà đặc trưng của nó thể hiện trong hai sự kiện.
Sự kiện thứ nhất:
Năm 1917 được gọi là năm bản lề của chiến tranh: Tại mặt trận phía tây, liên quân chuyển sang tấn công. Chiến tranh tàu ngầm không hạn chế trên biển, Hoa Kỳ tham chiến chống Đức. Cách mạng tại Nga làm nước này rời bỏ chiến tranh. Lợi thế đă nghiêng sang phía Anh-Pháp-Nga ba bên, ṿng vây trên biển siết chặt kinh tế Đức của Hải quân Hoàng gia Anh đă cho thấy các kết quả. Liên quân Pháp-Anh liên tục mở các cuộc tấn công lớn trên tất cả các mặt trận.
Điều này khiến Chính phủ Đức đồng ư với đề xuất là họ nên ủng hộ Đảng Cộng sản đối lập ở Nga (những người Bolshevik), những người ủng hộ việc Nga rút khỏi chiến tranh. Do đó, vào tháng 4/1917, Đức đă đưa lănh tụ Bolshevik là Vladimir Lenin và 31 người ủng hộ trong một chuyến tàu kín từ nơi lưu đày ở Thụy Sĩ đến Ga Phần Lan, Petrograd.
Sau khi dành được chính quyền Việc Nga có tiếp tục tham gia chiến tranh nữa hay không đă trở nên chia rẽ trong chính phủ xô Viết.
Những người Cộng sản cánh Tả, đứng đầu là Nikolai Bukharin, tiếp tục tin rằng không thể có hoà b́nh giữa một nước Cộng hoà Xô viết và một quốc gia tư bản và rằng chỉ một cuộc chiến tranh cách mạng dẫn tới một nước cộng hoà Xô viết toàn châu Âu mới mang lại hoà b́nh bền vững.
Họ chỉ ra những thành công của Hồng quân cách mạng mới được thành lập (ngày 15 tháng 1 năm 1918) trước các lực lượng Ba Lan của Tướng Józef Dowbor-Muśnicki tại Belarus, các lực lượng Bạch vệ tại vùng Don, và các lực lượng độc lập của Ukraina như một bằng chứng cho thấy Hồng quân có thể đẩy lùi các lực lượng Đức, đặc biệt nếu việc tuyên truyền và chiến tranh không cân xứng được sử dụng.
Họ không coi việc đàm phán với người Đức như biện pháp thể hiện các tham vọng đế quốc của Đức (lănh thổ, bồi thường, vân vân) với hy vọng đẩy nhanh cuộc cách mạng Xô viết sang phương Tây, nhưng họ kiên quyết phản đối việc kư bất kỳ hiệp ước hoà b́nh nào.
Trong trường hợp một tối hậu thư của Đức, họ ủng hộ việc tuyên bố một cuộc chiến tranh cách mạng chống Đức nhằm tạo cảm hứng cho những người công nhân Nga và châu Âu đứng lên chiến đấu cho chủ nghĩa xă hội.
Ư tưởng này được Những người xă hội chủ nghĩa cách mạng cánh Tả ủng hộ, khi ấy lực lượng này là đối tác chính của những người Bolshevik trong chính phủ liên minh. Và Trotsky đứng về những người Cộng sản cánh Tả.
Lenin, người lúc đầu từng hy vọng một cuộc cách mạng Xô viết nhanh chóng tại Đức và các vùng khác của châu Âu, nhanh chóng quyết định rằng chính phủ đế quốc Đức vẫn nắm quyền kiểm soát chặt chẽ và rằng, nếu không có một đội quân Nga hùng mạnh, một cuộc xung đột quân sự với Đức sẽ dẫn tới sự sụp đổ của chính phủ Xô viết tại Nga.
Ông đồng ư với những người Cộng sản cánh Tả rằng chỉ một cuộc cách mạng Xô viết toàn châu Âu mới giải quyết được mọi vấn đề, nhung tới lúc đó những người Bolshevik phải nắm quyền lực. Lenin không lưu ư tới việc kéo dài quá tŕnh đàm phán để đạt hiệu quả tuyên truyền tối đa, mà, từ tháng 1 năm 1918 trở về sau, ủng hộ việc kư kết một hiệp ước hoà b́nh riêng rẽ nếu phải đối mặt với tối hậu thư của Đức.
Trotsky có phần giống như Lenin, ông cho rằng quân đội Nga cũ kỹ, được thừa hưởng từ nền quân chủ và Chính phủ Lâm thời và đang ở trong giai đoạn tan ră, không đủ khả năng chiến đấu.
Rằng chúng ta không thể chiến đấu nữa là điều rơ ràng với tôi và rằng Hồng binh và các chi đội Hồng quân mới được thành lập quá nhỏ và không được huấn luyện đủ để chống với người Đức.
Nhưng ông đồng ư với những người Cộng sản cánh Tả rằng một hiệp ước hoà b́nh riêng rẽ với một cường quốc đế quốc sẽ là một cú đấm mạnh về tinh thần và vật chất với chính phủ Xô viết, phủ định mọi thắng lợi quân sự và chính trị của giai đoạn 1917 và 1918, làm phục hồi lại sự kháng cự từ bên trong.
Ông cho rằng bất kỳ một tối hậu thư nào của Đức cũng cần phải bị bác bỏ, và rằng điều này có thể dẫn tới một cuộc nổi dậy tại Đức, hay ít nhất khiến những binh lính Đức nảy sinh ư tưởng bất tuân lệnh các sĩ quan tới bất kỳ cuộc tấn công nào của ĐỨc sẽ là một h́nh thức tước đoạt lănh thổ rơ ràng. Ông đă viết năm 1925:
- Chúng tôi bắt đầu các cuộc đàm phán hoà b́nh với hy vọng khuấy động đảng công nhân của Đức và Áo-Hung cũng như các nước Đồng minh khác. V́ lư do này chúng tôi buộc phải tŕ hoăn các cuộc đàm phán càng lâu càng tốt để mang lại thời gian cho công nhân hiểu được thực tế chính của chính cuộc cách mạng Xô viết và đặc biệt là chính sách hoà b́nh của nó.
Nhưng có một câu hỏi khác:
- Liệu người Đức vẫn có thể chiến đấu? Liệu họ có ở lập trường để khởi động một cuộc tấn công vào cách mạng sẽ giải thích sự chấm dứt của chiến tranh? Làm cách nào chúng ta biết được tư tưởng của những người lính Đức, làm cách nào để t́m hiểu nó?
Trong suốt tháng 1 và tháng 2 năm 1918, quan điểm của Lenin được ủng hộ bởi 7 thành viên Ủy ban Trung ương Bolshevik và lập trường của Bukharin được 4 người ủng hộ. Trotsky có 4 phiếu (ông, Felix Dzerzhinsky, Nikolai Krestinsky và Adolph Joffe) và, bởi ông giữ sự cân bằng quyền lực, ông có thể theo đuổi chính sách của ḿnh tại Brest-Litovsk. Khi ông không thể tŕ hoăn các cuộc đàm phán được nữa, ông rút khỏi những cuộc đàm phán ngày 10 tháng 2 năm 1918, từ chối kư kết những điều khoản khe khắt của Đức.
Sau một giai đoạn ngắt quăng ngắn, các Cường quốc phe Trục cảnh báo chính phủ Xô viết rằng họ sẽ không duy tŕ thời gian ngừng bắn sau ngày 17 tháng 2.
Tại thời điểm này Lenin một lần nữa cho rằng chính phủ Xô viết đă làm mọi việc có thể để giải thích lập trường của ḿnh với công nhân phương Tây và rằng đây là thời điểm để chấp nhận các điều khoản. Trotsky từ chối ủng hộ Lenin bởi ông đang đợi xem liệu các công nhân Đức có nổi dậy không và liệu các binh sĩ Đức có từ chối tuân lệnh không.
Đức tái thực hiện các chiến dịch quân sự ngày 18 tháng 2. Trong ṿng một ngày, mọi thứ trở nên rơ ràng rằng quân đội Đức có khả năng tiến hành các chiến dịch tấn công và rằng các chi đội Hồng quân, c̣n khá nhỏ, được tổ chức và chỉ huy kém, không thể đương đầu với họ.
Buổi chiều ngày 18 tháng 2, Trotsky và những người ủng hộ ông trong uỷ ban bỏ phiếu trắng và đề nghị của Lenin được chấp nhận với tỷ lệ 7-4. Chính phủ Xô viết gửi một điện tín tới phía Đức chấp nhận các điều khoản cuối cùng của hiệp ước hoà b́nh Brest-Litovsk.
Đức không trả lời trong ba ngày, và tiếp tục tấn công mà không gặp phải nhiều kháng cự.
Câu trả lời của họ đến vào ngày 21 tháng 2, nhưng những điều khoản đề xuất quá nặng nề khiến thậm chí Lenin cũng có một thời gian ngắn cho rằng chính phủ Xô viết không c̣n lựa chọn nào khác là chiến đấu.
Nhưng cuối cùng uỷ ban một lần nữa bỏ phiếu với tỷ lệ 7-4 ngày 23 tháng 2 năm 1918; Hiệp ước Brest-Litovsk được kư ngày 3 tháng 3 và được phê chuẩn ngày 15 tháng 3 năm 1918. Bởi quá gắn bó với chính sách của phái đoàn Xô viết trước kia tại Brest-Litovsk, Trotsky từ chức Dân uỷ Ngoại giao để loại bỏ trở ngại có thể có với chính sách mới.
Sự kiện thứ hai:
Đầu năm 1920 những căng thẳng giữa Liên Xô và Ba Lan cuối cùng đă dẫn tới cuộc Chiến tranh Ba Lan-Xô viết. Trong thời gian chuẩn bị và trong cuộc chiến, Trotsky đă cho rằng, Hồng quân đă kiệt sức và chính phủ Xô viết phải kư một hiệp ước hoà b́nh với Ba Lan càng sớm càng tốt. Ông cũng không tin rằng Hồng quân có thể có sự ủng hộ từ bên trong Ba Lan. Lenin và những người lănh đạo Bolshevik khác cho rằng những thắng lợi của Hồng quân trong cuộc Nội chiến Nga và trước người Ba Lan có nghĩa rằng, như Lenin đă nói sau này:
Giai đoạn pḥng thủ của cuộc chiến với chủ nghĩa đế quốc trên toàn thế giới đă qua, và chúng ta có thể, và phải, lợi dụng vị thế quân sự để tung ra một cuộc chiến tranh tấn công.
Nhưng cuộc tấn công của Hồng quân đă bị đẩy lui trong Trận Warsaw tháng 8 năm 1920, một phần bởi thất bại của Stalin trong việc thực hiện các chỉ thị của Trotsky trong thời kỳ chuẩn bị cho trận đánh có ư nghĩa quyết định. Quay trở về Moskva, Trotsky một lần nữa đề nghị một hiệp ước hoà b́nh và lần này đă thành công.
Qua hai sự kiện cho thấy, Trotsky khi th́ phản đối kư hiệp ước ḥa b́nh với Đức, lúc lại ủng hộ kư hiệp ước ḥa b́nh với Ba Lan cho thấy "cách mạng thường trực” chỉ là cách tô vẽ của Stalin sau này để gán tội cho Trotsky, coi ông như kẻ có mưu đồ chống Lenin có hệ thống, đối lập với học thuyết “Chủ nghĩa xă hội trong một quốc gia” và lấy cớ thanh trừng Trotsky và những kẻ nào theo đường lối của Trotsky là không phải cộng sản.
Stalin bên ngoài ủng hộ “Chủ nghĩa xă hội trong một quốc gia” nhưng ông ta là một con người dối trá. Ngay sau khi thâu tóm quyền lực ông ta đă tiến hành thanh trừng tất cả những ai đă cản bước chân của ḿnh, và bắt đầu suy tôn ḿnh thành lănh tụ của các đảng cộng sản trên toàn thế giới và tuyên truyền về giải phóng dân tộc tại các nước thuộc địa luôn gắn với chủ nghĩa cộng sản quốc tế… mục đích biến Liên Xô trở thành một bá quyền cộng sản.
Chính v́ vậy những người cộng sản Việt nam được đào tạo ở Liên Xô trong thời kỳ này đă bị Stalin nhồi sọ, và những kẻ nào theo chủ nghĩa Trotskyits là kẻ thù của cách mạng, và điều đó dẫn đến sự đối kháng lẫn nhau giữa những người cộng sản theo Stalin, và theo Trotsky một cách mù quáng.
Đệ tứ quốc tế hay đệ nhất, đệ nhị, đệ tam quốc tế là cách gọi do các nhóm cộng sản quốc tế mâu thuẫn nhau thành các phái và được đặt tên như thế.
Kết cục chẳng có “đệ” nào giải phóng được giai cấp vô sản, và chủ nghĩa cộng sản vẫn là giấc mơ và đem đến vô vàn tội ác trong những nhà nước cộng sản.
Thực chất Đệ tứ quốc tế do Trotsky lập nên cũng không có ǵ tư tưởng ghê gớm hay ho hơn các Đệ kia, nó là một liên minh chống lại stalin bằng cách tố cáo Stalin là kẻ độc tài, với những chính sách tàn bạo và phản động… Và những người Cộng sản phản đối Stalin cần có một mặt trận riêng để tiến hành cách mạng.
(C̣n tiếp)
PHẦN 65.
CƠ HỘI BỊ BỎ LỠ.
- CƠ HỘI ĐẾN RỒI ĐI (11).
Sau khi nhận được tin Hà Nội khởi nghĩa thắng lợi, ngay sáng ngày 20 tháng 8, hội nghị Chợ Đệm lần thứ hai tiếp tục bàn việc khởi nghĩa, dự định sẽ khởi nghĩa ngay chiều hôm đó. Tuy nhiên, vẫn có đại biểu có ư e ngại việc quân Nhật vẫn c̣n một lực lượng có thể trấn áp tại Sài G̣n, Trần Văn Giàu lúc ấy là Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ đề nghị chọn Tân An làm thí điểm khởi nghĩa và cử đại biểu trở về tỉnh phát động khởi nghĩa.
Khởi nghĩa ở Tân An thành công tối ngày 22 tháng 8. Hội nghị Chợ Đệm lần thứ ba tối ngày 23 tháng 8 đă lập tức chỉ định lập Ủy ban Hành chính lâm thời cho toàn Nam Bộ, gọi tắt là Lâm ủy Nam Bộ, với Trần Văn Giàu làm Chủ tịch.
Chiều 24 tháng 8, lực lượng Thanh niên Tiền phong vũ trang dưới quyền lănh đạo của Xứ ủy Nam Kỳ ở Tân An, Biên Ḥa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh khởi nghĩa giành chính quyền và sau đó dồn về Sài G̣n. Ngày 25 tháng 8, đến lượt Sài G̣n nổ ra cuộc biểu t́nh lớn và hầu hết các cơ sở quản trị lọt vào quyền kiểm soát của Lâm ủy Nam Bộ.
Trên cương vị Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, trong hoàn cảnh không liên lạc được với Trung ương ngoài Bắc, không hay biết việc Nguyễn Ái Quốc đă về nước, triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ 8 và thành lập Việt Minh, Trần Văn Giàu "Không đành chịu ngồi chờ, bất đắc dĩ bọn tôi phải tự vạch ra một đường lối cách mạng" cho Nam Kỳ. Trong một thời gian ngắn, Giàu cùng các đồng chí của ḿnh tích cực hoạt động xây dựng cơ sở, nhằm có thể tập hợp lực lượng lớn chớp thời cơ đă được nhận định gần kề.
Trần Văn Giàu chủ trương: "Ta phải mạnh hơn tất cả các chánh đảng và giáo phái thân Nhật cộng lại th́ mới mong đem chính quyền về tay nhân dân được”
Trần Văn Giàu rất lo các đảng phái, các lực lượng vũ trang theo tôn giáo như nhóm Trotskyits, Cao Đài, Hỏa Hảo, B́nh Xuyên … không cộng tác và chống phá.
Những người cộng sản theo trường phái Stalin do Trần Văn giàu đứng đầu tuyên truyền:
“Các nhóm này manh động, không biết người biết ta, lấy chủ trương đối đầu với Đồng minh quyết tâm giành độc lập bằng vũ trang, trong khi họ chủ trương ḥa hoăn, đàm phán, tranh thủ sự ủng hộ Đồng Minh đặc biệt là Mỹ và Anh để đẩy Pháp ra khỏi Đông Dương. Họ cũng cho rằng nhóm Trotskyits do Tạ Thu Thâu cầm đầu là nhóm nguy hiểm nhất”
Vậy đâu là sự thật, và chủ trương của nhóm cộng sản theo trường phái Stalin có thật sự như vậy không? Hay chỉ là cái cớ để thanh trừng, mục đích độc quyền trở thành kẻ lănh đạo duy nhất sau khi dành độc lập? Và chủ trương ḥa hoăn, đàm phán với Đồng Minh có phải là sách lược đúng đắn, hay chỉ là ảo tưởng, hay là một âm mưu tŕ hoăn khi lực lượng của Việt Minh chưa thể đủ sức mạnh đối đầu với Đồng Minh đang đưa người Pháp quay trở lại?
Muốn làm rơ điều này, trước tiên cần phải t́m hiểu Trần Văn Giàu, và Tạ Thu Thâu là ai? Và tại sao Trần Văn Giàu quyết tâm tiêu diệt nhóm Trotskyist do Tạ Thu Thâu cầm đầu.
Trần Văn Giàu sinh ngày 6 tháng 9 năm 1911, quê quán tại xă An Lục Long, huyện Châu Thành, tỉnh Tân An (nay là tỉnh Long An), sinh trưởng trong một gia đ́nh điền chủ giàu có. Trong gia đ́nh có tên là Mười Kư, tuy nhiên nhiều người biết với tên Sáu Giàu.
Do gia đ́nh có điều kiện, nên vào năm 1926, Trần Văn giàu lên Sài G̣n, theo học tại trường Chasseloup Laubat. Năm 1928, sau khi tốt nghiệp Tú tài được gia đ́nh cho sang Pháp du học tại Đại học Toulouse với lời hứa "mang về hai bằng tiến sĩ.
Tháng 3 năm 1929, Trần Văn Giàu trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Pháp và tham gia tích cực các phong trào công nhân và phong trào đấu tranh của du học sinh và công nhân người Việt ở thành phố Toulouse. Tháng 5 năm 1930, Giàu được công nhân và du học sinh Việt Nam ở Toulouse cử làm đại biểu lên Paris tham gia biểu t́nh trước dinh tổng thống Pháp đ̣i hủy án tử h́nh đối với các thủ lĩnh cuộc Khởi nghĩa Yên Bái. Do việc này, Giàu bị cảnh sát bắt giam tại nhà tù Loa Roquillis, sau đó ông bị Chính phủ Pháp trục xuất về nước.
Trở về Sài G̣n, Giàu dạy học tại Trường tư thục Huỳnh Công Phát, đồng thời tham gia hoạt động cách mạng ở Sài G̣n – Chợ Lớn. Trong thời gian này, Giàu được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, được tổ chức phân công cùng Hải Triều phụ trách Ban Học sinh và Ban Phản đế của Xứ ủy Nam Kỳ.
Sau cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, giữa năm 1931, Giàu được tổ chức đưa sang Liên Xô học tại Trường Đại học Đông Phương Moskva cùng với Nguyễn Văn Trân (Bảy Trân) và Mười Giáo. Năm 1933, ông bảo vệ thành công đề tài tốt nghiệp "Vấn đề ruộng đất ở Đông Dương", sau đó rời Moskva về nước.
Đây là thời điểm Stalin đă thâu tóm quyền lực trong đảng Cộng sản Liên Xô và mở chiến dịch thanh trừng nhóm theo Trotsky, và chiến dịch này đă coi tất cả những nhóm Trotskyits hoạt động ở các nước cần phải bị loại bỏ, và chủ trương này được truyền đạt tới các đảng viên cộng sản người nước ngoài đang học tập ở Liên Xô, và Trần Văn Giàu là một người trong số đó.
Trên phương diện này, “người anh lớn” Liên Xô đă đặt ra một tiền lệ đáng “noi theo” cho tất cả các “chư hầu” khác trong khối “xă hội chủ nghĩa” trong suốt quá tŕnh tồn tại Liên Xô.
Tạ Thu Thâu sinh năm ngày 5-5-1906 tại Tân B́nh (Long Xuyên), là con thứ tư trong một gia đ́nh đông con và nghèo khó. Từ năm 11 tuổi, sau khi thân mẫu qua đời, ông đă vừa học vừa phụ việc cho cha để nuôi sáu miệng ăn. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, ông dạy học ở Sài G̣n và tham gia những tổ nhóm thanh niên yêu nước, trong đó có đảng Annam trẻ (Jeune Annam) năm 1925, sau này bị chính phủ thực dân giải tán. Tạ Thu Thâu coi giai đoạn này trong đời ông là “giấc mộng liều mạng của tuổi trẻ”.
Năm 1926, Tạ Thu Thâu tham gia nhiều cuộc biểu t́nh phản đối chính phủ Pháp, đ̣i các quyền tự do, dân chủ cho dân Việt. Qua Pháp tháng 7-1927 khi mới 21 tuổi, theo học ban Khoa học (Đại học Paris), ông gia nhập đảng Việt Nam Độc lập (PAI) của nhà yêu nước Nguyễn Thế Truyền và đảm nhiệm điều khiển đảng này năm 1928 sau khi Nguyễn Thế Truyền về nước.
Năm 1929, sau một thời gian hoạt động tích cực chống thực dân trên lập trường một người quốc gia, ông tiếp xúc với Tả đối lập Pháp và được Alfred Rosmer – một người bạn, người đồng chí, học tṛ của Trotsky – giới thiệu vào tổ chức này. Từ đó trở đi, ông trở thành lănh tụ trốt-kít Việt Nam đầu tiên, cùng các đồng chí của ông là Huỳnh Văn Phương và Phan Văn Chánh.
Ngày 20-5-1930, Tạ Thu Thâu cùng một số kiều dân Việt ở Pháp tham gia cuộc biểu t́nh trước điện Elysée (dinh Tổng thống Pháp), phản đối việc thực dân Pháp xử tử các chiến sĩ yêu nước Việt Nam Quốc dân đảng ở Yên Bái. Sau đó, ông bị bắt cùng 18 Việt kiều khác và bị trục xuất về Việt Nam vào cuối tháng 5.
Trong ṿng 15 năm kể từ khi về nước đến khi bị ám hại vào năm 1945, Tạ Thu Thâu là một lănh tụ ái quốc lừng danh ở Việt Nam. Là người tổ chức và lănh đạo phong trào Tả đối lập trốt-kít, sau đổi thành Đông Dương Cộng sản đảng, ông hoạt động cách mạng bằng mọi phương tiện như xuất bản tờ Vô sản (tháng 5-1932), làm báo Pháp ngữ La Lutte (Tranh đấu; tháng 4-1933), ứng cử Hội đồng thành phố Sài G̣n (tháng 5-1933, tranh cử Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, tháng 4-1938)… Từ năm 1932 đến 1940, Tạ Thu Thâu bị bắt 6 lần và bị kết án 5 lần, tổng cộng 13 năm tù và 10 năm biệt xứ.
Cuối năm 1944, sau khi được phóng thích từ Côn Đảo, ông dự định thành lập đảng Xă hội Thợ thuyền. Ư định ấy đă không thành v́ đầu tháng 9-1945, trên đường về Nam sau khi đă bắt liên lạc với một số đồng chí ở Bắc Bộ nhằm xuất bản tờ Chiến đấu, cơ quan ngôn luận của đảng Xă hội Thợ thuyền miền Bắc, ông bị Việt Minh đón đường và sát hại trên một cánh đồng dương liễu bên bờ biển Mỹ Khê (tỉnh Quảng Ngăi) khi mới 39 tuổi.
Chẳng những là một nhà cách mạng kiên cường, Tạ Thu Thâu c̣n là một cây bút sắc bén (ông có tài viết Việt văn cũng như Pháp văn), một diễn giả xuất sắc, một trí thức có uy tín, tính t́nh ôn ḥa, nhă nhặn. Những người từng biết ông, sau này đều nhắc đến ông với lời lẽ kính trọng. Tên ông đă được đặt cho một con đường ở gần chợ Bến Thành, Sài G̣n: 10 năm sau ngày “giải phóng miền Nam”, con đường ấy mới bị đổi tên.
Năm 1989, nhân dịp kỷ niệm 200 năm cách mạng Pháp, "Ủy ban nước Pháp của di dân, nước Pháp của tự do" (France Des Immigrés, France Des Libertés) chọn đăng ảnh và tiểu sử họ Tạ trong một cuộc triển lăm tại Grande Arche tại khu La Défense, Paris.
Vào nửa cuối năm 1945, khi chính quyền Việt Minh c̣n đang trong cảnh “trứng nước” và khi những người Trotskyits yêu nước bị coi là “tay sai đế quốc”, “tay sai cho phát-xít quốc tế”…, phải “triệt ngay” và “trừng trị đích đáng”, th́ quyết định ám sát Tạ Thu Thâu và các lănh tụ Trotskyits khác hẳn phải được coi là một “nghị quyết quan trọng”.
Theo những ngồn tư liệu đáng tin cậy (sẽ có ở phần tiếp theo) Tạ Thu Thâu đă bị chính Trần Văn Giàu chỉ đạo sát hại vào đầu tháng 9 năm 1945, sau một thời gian dài từ năm 1931 đến năm 1946 giữa hai phái cộng sản, một theo chủ nghĩa Stalin, một theo chủ nghĩa Trotskiyts đối đầu với nhau theo sự giật dây của các thế lực nước ngoài.
(C̣n tiếp)
Ngày 20-8, Xứ ủy Nam Kỳ nhận được tin khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội, th́ ngay sáng ngày 21-8, Xứ ủy triệu tập gấp Hội nghị mở rộng.
Lo lắng v́ sợ sự can thiệp của Nhật (Vẫn đang bảo vệ trật tự, an ninh đợi quân đồng minh vào giải giáp)
Phạm Ngọc Thạch gặp Thống chế Nhật Tê-ra-u-chi tại Tổng hành dinh Đông Nam Á của quân Nhật ở Sài G̣n, Tê-ra-u-chi hứa sẽ không can thiệp.
Vào đêm 22 rạng ngày 23-8, Việt Minh quyết định Sài G̣n và các tỉnh c̣n lại sẽ khởi nghĩa. Họ đề ra cách thức khởi nghĩa ở thành phố, dự kiến việc huy động lực lượng quần chúng ở ngoại thành Sài G̣n (c̣n gọi là Vành đai đỏ) vũ trang kéo vào thành phố và dự kiến thành phần chính quyền cách mạng lâm thời Nam Bộ...
Sáng 23-8-1945, sau khi khởi nghĩa ở Tân An thắng lợi, Hội nghị Xứ ủy mở rộng được triệu tập gấp, quyết định tối ngày 24-8 sẽ khởi nghĩa ở Sài G̣n.
Cuộc khởi nghĩa đă diễn ra theo đúng kế hoạch. Các lực lượng gồm khoảng 40.000 đội viên Xung phong được phân công đánh chiếm các mục tiêu quan trọng trong thành phố, hoàn thành nhiệm vụ nhanh gọn, không có đổ máu, trong khoảng thời gian 3 giờ (từ 19 đến 22 giờ), trừ một vài nơi như Ngân hàng Đông Dương, sân bay và một phần Quân cảng.
Cũng ngay trong đêm 24-8, hàng chục vạn người ở ngoại thành Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Biên Ḥa, Thủ Dầu Một kéo vào nội thành Sài G̣n, với đủ mọi loại vũ khí trong tay như: súng, súng săn, giáo mác, tầm vông, mũi chĩa... Ngoài ra, để bảo đảm cho việc tuyên truyền của cách mạng được tốt, một hệ thống loa truyền thanh gấp rút được thiết lập trên các đại lộ, đường phố chính của Sài G̣n.
Sáng ngày 25-8, một cuộc mít tinh, tuần hành vũ trang đông tới triệu người đă diễn ra với băng cờ và các khẩu hiệu được giăng, mắc khắp nơi và cầm tay, nội dung chính là: đánh đổ thực dân;Việt Nam hoàn toàn độc lập; độc lập hay là chết; đánh đổ Bảo Đại;Chính quyền về tay Việt Minh... Đến 10 giờ, các bài nhạc Quốc tế ca,Thanh niên hành khúc được tấu lên (lúc đó trong Nam chưa biết có bài Tiến quân ca của nhạc sĩ Văn Cao); Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa đọc diễn văn, thông báo khởi nghĩa đă giành được thắng lợi ở Hà Nội ngày 19-8, Huế ngày 23-8 và hôm nay là ở Sài G̣n; đồng thời, kêu gọi quần chúng hy sinh v́ độc lập, tự do, cảnh giác với âm mưu của bọn phản động. Khẩu hiệu “Độc lập hay là chết” được viết bằng 4 thứ tiếng: Việt, Anh, Pháp, Hoa, treo lên xung quanh lễ đài dựng ở phía sau Nhà thờ lớn, trên đại lộ Nô-rô-đôm.
Cuộc diễu hành của hàng chục vạn người đă diễn ra ngay sau diễn văn, trong tiếng nhạc của bài Lên đàng, kéo đến Dinh Đốc Lư.
Từ trên lan can của Dinh Đốc Lư, Phạm Ngọc Thạch thay mặt Mặt trận Việt Minh thông báo danh sách Ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ. Nguyễn Văn Nguyễn, thay mặt Xứ ủy Nam Kỳ, kêu gọi nhân dân quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng. Đại diện Tổng Công đoàn kêu gọi công nhân viên chức tham gia chính quyền của nhân dân, đem sức ḿnh cống hiến cho đất nước độc lập, thịnh vượng. Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 ở Sài G̣n và Nam Bộ tuy nổ ra có muộn hơn so với cả nước, nhưng đă giành thắng lợi trọn vẹn trong ḥa b́nh, không có đổ máu.
Vào ngày 2 tháng 9, một cuộc biểu t́nh lớn khác ở Sài G̣n đă chứng kiến một vụ nổ súng khiến 5 người Pháp và một số người Việt Nam thiệt mạng. Một số nghi phạm người Pháp bị Việt Minh bắt nhưng sau đó được thả theo yêu cầu của Ủy ban miền Nam. Những người cộng sản quyết tâm tránh bất cứ điều ǵ có thể khiến quân Đồng minh chống lại họ. Thay v́ chuẩn bị chiến đấu với quân Anh đang trên đường chiếm Sài G̣n, họ lại hy vọng có thể hợp tác cùng quân Anh.
Vụ bạo động này khiến t́nh h́nh trở nên rối ren, Ai là kẻ đứng sau vụ thảm sát này?
Hồ Chí Minh và Giáp ở Hà Nội rất đau đầu khi nhận thông tin về cuộc tấn công vào người Pháp ở Sài G̣n v́ đây sẽ cái cớ để người Pháp cấu kết với người Anh đánh Việt Minh. Vậy Người Pháp, hay các nhóm Trotskyits, Cao Đài, Ḥa Hảo, B́nh Xuyên… đứng sau cuộc bạo động này?
Sau khi phân tích Hồ chí Minh và Giáp nhận định nhóm Trotskyits đứng sau vụ này, và bí mật lệnh cho Trần Văn Giàu phải tiêu diệt nhóm Trotskyits của Tạ Thu Thâu bằng mọi giá và kết quả Tạ Thu Thâu bị Việt Minh giết chết ngay vào mấy ngày sau, cùng với các phần tử đứng đầu nhóm này.
Dù đến nay chưa có bạch hóa nào về cái chết của Tạ Thu Thâu, nhưng sự việc ông bị Trần Văn Giàu chỉ đạo giết chết đă mặc nhiên được công nhận.
Để làm rơ sự việc này, xin dẫn bài viết của tác giả Tấn Đức đăng trên “Lịch sử Việt Nam” vào 7/9/2015:
… Đảng Cộng sản Việt Nam, trong các văn kiện chính thức, đều cho rằng việc triệt hạ nhóm Trotskyits là một “thắng lợi lớn” của đảng. Nhưng, trong khi không tiếc lời xuyên tạc và phỉ báng hoạt động ái quốc của các tổ chức Trotskyits, dường như không bao giờ họ đả động đến việc “thắng lợi lớn” ấy đă được thực hiện trong thực tế như thế nào. Một bài báo mang tính tổng kết những “thắng lợi oanh liệt” trong năm 1945 của đảng Cộng sản Việt Nam trong việc đàn áp và tiêu diệt các tổ chức Trotskyits, cũng chỉ nói rất chung chung: “Báo chí của ta đă nghiêm khắc lên án bọn Trotskyits . Nhân dân ta đă vạch trần bộ mặt phản động của chúng, chính quyền nhân dân đă trừng trị đích đáng bọn trốt-kít… Cách mạng tháng Tám năm 1945 đă cuốn đi số lớn phần tử Trotskyits thối nát”. Không hề có một chữ về những chủ nhân của “thắng lợi oanh liệt” đó!
Lần theo dấu sự thật, sử gia Daniel Hémery, một cựu đảng viên cộng sản Pháp, là người có những cố gắng lớn trong việc tái tạo sự thật về cái chết của Tạ Thu Thâu và các đồng chí của ông.
Là một nhà nghiên cứu sử chuyên về đề tài Việt Nam, ông đă viết rất nhiều sách vở về lịch sử Việt Nam; luận án tiến sĩ của ông cũng lấy đề tài về Tạ Thu Thâu và nhóm Trotskyits ở Việt Nam. Tuy nhiên, do gặp nhiều trở ngại về tư liệu và bằng chứng cụ thể (nhất là sự giấu diếm của đảng Cộng sản Việt Nam), trong những năm của thập kỷ 70, ông mới có thể đưa ra các “giả thuyết” và suy luận xem “giả thuyết” nào hợp lư hơn cả.
Trong số các tư liệu Việt ngữ, phải đặc biệt nhấn mạnh những t́m ṭi của nhóm Trotskyits Việt Nam tại Pháp, dựa trên các sự kiện mới, các văn bản mới được phanh phui, “bạch hóa”, dựa trên lời thuật lại của một số người Trotskyits cựu trào c̣n sống sót.
Những t́m ṭi ấy được ông Hoàng Khoa Khôi, người đứng đầu nhóm, tổng kết lại trong bài viết Ai đă ám sát Tạ Thu Thâu và những người Trotskyits Việt Nam? đăng trên Hồ sơ về phong trào Đệ tứ Việt Nam.
Trong bài viết này, ông Hoàng Khoa Khôi đă lần lượt điểm qua ba “giả thuyết” của sử gia Daniel Hémery về người chủ mưu ám sát Tạ Thu Thâu:
1. Tướng Nguyễn B́nh, chỉ huy quân đội miền Nam.
2. Trần Văn Giàu và Dương Bạch Mai, hai lănh tụ công khai của đảng Cộng sản Việt Nam ở Sài G̣n, đồng thời là những người xta-lin-nít khét tiếng.
3. Chính ông Hồ Chí Minh, lănh tụ tối cao của đảng.
Với những lập luận và bằng cớ sắc sảo và đầy tính thuyết phục, tác giả bài viết loại trừ hai khả năng đầu và thiên về khả năng thứ ba v́ theo ông, chính ông Hồ Chí Minh là “người cha tinh thần” của tất cả những cuộc thanh trừng, khủng bố các tổ chức Trotskyits Việt Nam, kể từ khi ông c̣n lưu lạc ở nước ngoài và hoạt động dưới sự điều khiển của Đệ tam Quốc tế.
Chúng ta cũng được biết rằng sáu năm trước khi Việt Minh tổ chức vụ đại thảm sát toàn bộ các chiến sĩ trốt-kít yêu nước, sáu năm trước khi bài Phải triệt ngay bọn Trotskyits! được đưa ra chính thức trên tờ Cờ giải phóng của đảng Cộng sản Việt Nam như một lời hô hào chém giết khát máu, th́ ông Hồ Chí Minh, ở nước ngoài, đă dùng những lời lẽ hết sức kích động để kêu gọi “tiêu diệt” những người Trotskyits, “tay sai của phát-xít”, “bất lương”, “chó săn”, “bán rẻ tổ quốc”…
Như thế, ông Hồ Chí Minh và những người nối nghiệp ông sẽ phải trả lời ra sao khi trong một cuộc hội kiến diễn ra vào năm 1946 với nhà văn Pháp Daniel Guérin, người bạn và đồng chí cũ của Tạ Thu Thâu trong Tả đối lập Pháp, ông đă tuyên bố: “Tạ Thu Thâu là người yêu nước tầm cỡ lớn. Tôi khóc cái chết của ông ấy” (Tạ Thu Thâu était un grand patriote, nous le pleurons)? Nhưng ngay sau đó, ông Hồ Chí Minh đă bồi thêm: “Nhưng tất cả những ai không đi theo đường lối do tôi vạch ra sẽ đều bị bẻ gẫy”.
Vụ ám sát Tạ Thu Thâu đă được diễn ra như thế nào?
Ông Hoàng Khoa Khôi, trong bài báo nói trên, đă có một nhận định xác đáng: “… người cầm dao hay nổ súng chỉ là người thừa hành, không phải thủ phạm chính. Thủ phạm chính phải t́m trong đám người lănh đạo đảng Cộng sản Việt Nam, kể cả Hồ Chí Minh. […] Thủ phạm chính là kẻ đă mài dao, lắp đạn cho đao thủ phủ”.
Tuy nhiên, để lịch sử được rạch ṛi, cũng nên t́m hiểu hoàn cảnh Tạ Thu Thâu bị sát hại và “vạch mặt chỉ tên” cả những kẻ đao phủ trực tiếp này.
Trong vấn đề này, nguồn tư liệu mà chúng tôi hiện có cũng hết sức hạn chế. Sau khi đặt câu hỏi “ở Việt Nam, ai đă hạ sát Tạ Thu Thâu và các đồng chí [của ông]?”, ông Hoàng Khoa Khôi cho biết: “Sau khi điều tra, chúng tôi biết được ba thủ phạm. Họ đều là những người cộng sản. Người thứ nhất là Kiều Đắc Thắng, trách nhiệm Nghiệp đoàn. Người thứ hai là Nguyễn Văn Trấn, đă từng được đi học tập ở Moscow. Người thứ ba tên là Nguyễn Văn Tây, cựu bộ trưởng chính phủ Trần Văn Giàu”.
Cần nói thêm rằng nhân vật Nguyễn Văn Trấn được nhắc đến ở đây chính là ông Nguyễn Văn Trấn đă mất ít lâu nay, một người cộng sản “phản tỉnh”, tác giả cuốn Viết cho Mẹ và Quốc hội được nhiều người ưa thích trong đó ông vẫn dùng nhiều từ ngữ và luận điệu thô thiển, thậm chí bất nhă, khi nhắc đến Tạ Thu Thâu và những người yêu nước trốt-kít ở Việt Nam.
Trong cuốn sách Việt Nam 1920 – 1945 (Cách mạng và phản cách mạng dưới thời thuộc địa) của ông Ngô Văn, một người Trotskyits cựu trào, từng là đồng chí của Tạ Thu Thâu ở Việt Nam, tác giả cũng chỉ viết một cách rất sơ lược: “… Thâu lên đường trở về Nam. […] Dân chúng kể lại khác nhau về những ǵ xảy ra sau đó. Chúng ta không biết đích xác nơi Thâu bị bắt, nhưng mọi người đều nói là ở Quảng Ngăi và gán cho Việt Minh chịu trách nhiệm. Họ cũng nói về sự nghi ngại của các vệ quân được lệnh bắn [Tạ Thu Thâu], khi nghe anh tự bảo vệ trong một vụ gọi là xét xử: anh đă biện minh về cuộc đời cách mạng của ḿnh. Lệnh hô bắn ba lần, cả ba lần các tay súng đều hạ xuống, lúc đó viên “thẩm phán” đă kết thúc bằng một phát súng lục vào lưng (người hạ sát tên là Tư Ty). Đó là vào một ngày đầu tháng Chín năm 1945”.
Tác giả Trần Ngươn Phiêu trong bài viết Những nhân chứng cuối cùng cho biết thêm “… ông [Tạ Thu Thâu] bị bắt khi đi ngang qua Quảng Ngăi ngày 18 tháng Tám năm 1945, bị giam ở đ́nh Xuân Phổ và sau đó bị giết ở cánh đồng Dương, bờ biển Mỹ Khê”.
Trong số những tư liệu trong tay chúng tôi, riêng chỉ có bài báo nhan đề Tôi thấy Tạ Thu Thâu chết của một người kư tên là Nguyễn Văn Thiệt, đăng trên tờ tuần báo Hồn nước của “Tập đoàn công binh Việt Nam” (Rassemblement des travailleurs vietnamiens) vùng Paris trong hai số 7 (ngày 30-7) và số 8 (ngày 7-8) năm 1949, là thuật lại một cách chi tiết và kỹ lưỡng về cái chết của Tạ Thu Thâu.
Bài báo này đă được đăng lại trong công tŕnh sử học Người Việt ở Pháp 1940 – 1954 của ông Đặng Văn Long, một người Trotskyits cựu trào sống ở Pháp. Trong một số cuộc điện đàm với tác giả cuốn sách, chúng tôi được ông cho biết: theo ông, đa phần những thông tin trong bài báo có thể coi là trung thực. Cũng theo lời ông, cách đây vài ba năm, dường như có người c̣n gặp thủ phạm hạ sát Tạ Thu Thâu ở Việt Nam.
Chúng tôi xin dẫn nguyên văn bài báo để bạn đọc tham khảo:
“Ai đi ngang Quảng Ngăi vào khoảng tháng 9 năm 1945, cũng biết đến không khí hăi hùng của cái thành phố tự cho ḿnh có tinh thần cách mạng cao ấy. Các tín đồ Cao Đài, các nhà trí thức, các nhà phú hộ, các nhà cách mạng quốc gia, tất cả những hạng người ấy cùng với vợ, con, anh em họ được Việt Minh cẩn thận chém giết, chôn sống, thiêu cháy, mổ bụng v.v… mỗi ngày theo chính sách “Tru di tam tộc để trừ hậu họa”. Người chết nhiều đến nỗi độ ấy ở Hà Nội, tờ báo “Gió mới” của Tổng hội sinh viên, một tờ báo rất thiên Việt Minh đă phải lên tiếng rằng ở Quảng Ngăi, ngày ngày đầu người rụng như sung.
Anh Lê Xán, bạn tôi, một đồ đệ của cụ Phan Bội Châu, bị Pháp đày Lao Bảo, vừa được thả ra th́ bị Việt Minh Quảng Ngăi bắt lại.
V́ sự t́nh cờ của chiếc xe lửa ngừng lại nghỉ đêm ở Quảng Ngăi (độ ấy đường xe lửa Sài G̣n – Hà Nội bị hư nhiều nơi, xe lửa chạy rất chậm và hay nghỉ dọc đường) nên bắt buộc tôi phải xuống xe định kiếm một quán trọ ở cạnh ga mà nghỉ đêm.
Trong lúc ngồi uống nước, sực nhớ đến Lê Xán, tôi ṭ ṃ hỏi bà chủ quán tin tức về bạn tôi. Lập tức tôi bị một trinh sát viên mặc áo nâu, đi chân không, đang đứng vớ vẩn ở cửa tóm lấy buộc tôi là đồng lơa với tội nhân và điệu tôi về Sở Công an.
Bị giam ở Sở Công an hai hôm, nhốt trong một xà-lim cũ của Pháp, tôi ḍ hỏi th́ được biết tin bạn tôi đă bị xử tử rồi. Nhưng tôi cũng lại biết thêm rằng người ta buộc tôi về tội định đến Quảng Ngăi giải vây cho Lê Xán và ngày hôm ấy tôi bị mang đi để giam ở một nơi xa…
Tôi đang lo sợ một nơi xa ấy là cơi âm ti th́ chiếc xe ngựa chở tôi và một người lính gác, tay cầm một con dao dài, một quả lựu đạn buộc ṭng teng vào giây nịt bằng một sợi lạt, từ từ rẽ vào con đường đi về Phú Thọ. Tôi hết lo bị chém liền v́ tôi biết rằng ở làng Phú Thọ, Ủy ban vừa dựng một nhà lao to để chứa cho đủ tội nhân xa thành phố sợ có chuyện bất trắc chăng. Nhưng tôi lại sợ quả lựu đạn đứt giây buộc nên cứ xem hoài.
Nhà lao Phú Thọ xây trên một khoảng đất rộng, trong cùng là một nhà ngang, hai bên hai dăy nhà dọc, giữa sân trường một cột cờ. Mỗi sáng, mỗi chiều đều có tu-huưt thổi để chào cờ, và lính cũng như phạm nhân đều phải đứng dậy, nắm tay phải đưa lên ngang đầu, sẵn sàng hễ ông sếp lao hô ViệtNam Dân chủ Cộng ḥa! th́ tất cả đồng hô: Muôn năm! và Hồ Chí Minh!, th́ tất cả Muôn năm!
Pḥng giam tôi vuông vức mỗi bề độ hai thước và cùng giam chung với tôi c̣n có mười sáu người nữa. Tứ bề bít kín, chỉ có một cái cửa để thông với ngoài, nhưng song cửa lại làm bằng mấy cây gỗ lim to quá, gần như khít với nhau, nên khó thở vô cùng.
Trong những bạn đồng cảnh ngộ với tôi, tôi c̣n nhớ có tên Bùi Trọng Lệ trước làm mật thám cho Pháp (sau này y bị xử tám năm tù), và ba người con trai của Tổng đốc Nguyễn Hy. Ba người này bị bắt v́ tội trong thời kỳ cách mạng toàn dân mà trong nhà chứa đờn và bài ca ủy mị, và đă bị xử tử một tuần lễ sau khi tôi đến.
Một buổi sáng, tôi đang đứng dựa vào cửa cố thiu thiu ngủ th́ bỗng giật ḿnh v́ những tiếng các bạn tôi kêu lên: Tạ Thu Thâu! Tạ Thu Thâu! Tôi tỉnh hẳn người. Tạ Thu Thâu? Trời ơi! Trong bao lâu, khi tôi c̣n đi học, tôi đă nghe đến tên Người, đă bị mê hoặc v́ cái oai hùng của đời Người, dệt toàn bằng tranh đấu, hy sinh và đau khổ. Dưới thời Pháp thuộc, trong lúc các nhà cách mạng khác trốn ở hải ngoại th́ Tạ Thu Thâu dám về trong nước hoạt động chánh trị ngay trong nước và chịu tù, chịu tội.
Cái tên Tạ Thu Thâu tự bao nhiêu lâu và ngay cả đến bây giờ, luôn luôn gợi ra trong óc tôi h́nh ảnh của một người ngang tàng khí phách, coi sự tù tội, sự h́nh phạt về xác thịt như một sứ mệnh thiêng liêng mà Người phải riêng chịu đựng lấy, để giải thoát cho đồng bào. Trên đời mỗi khi thất bại v́ một bất trắc ǵ, tôi thường hay nghĩ tới Người để t́m nguồn an ủi và lư do phấn khởi cho ḷng ḿnh.
Các bạn tù của tôi tranh nhau nh́n qua cửa. Từ một pḥng giam phía bên kia sân, độ bảy, tám người dân quân mang súng, gươm, lựu đạn và ông chủ tịch làng – vừa là sếp lao th́ phải – kéo ra một người đàn ông ốm lỏng khỏng mà tôi nh́n ra ngay là ông Tạ Thu Thâu. Ông mặc một sơ-mi cụt tay có hai túi trên ngực, một cái quần Tây dài, chân đi giày vàng. Áo quần trắng đă bàu nhàu và bẩn thỉu, dây do những vết đen đỏ c̣n đọng, dấu tích của những sự tra tấn vừa qua.
Râu tóc của ông Thâu rối beng, mặt mày hốc hác, nhưng cặp mắt vẫn b́nh tĩnh nh́n mọi người, mọi vật – không biết tôi có lầm chăng – miệng ông hơi nhếch một nụ cười.
Các bạn tôi lao xao:
– Lần này th́ Tạ Thu Thâu phải chết.
Một người nào đó nói nhỏ:
– Quân khốn nạn!
Tôi gián một con mắt vào khoảng hở giữa hai song cửa, hai tay muốn tét ra cho rộng để nh́n cho rơ đám người hùng hổ đi với ông chủ tịch luôn mồm la hét, nạt người này, cho lệnh kẻ kia và ở giữa, một bóng trắng chập choạng, khập khiễng đi đi… để biến sau mộr rặng cây mà ở đó tôi biết có một khoảnh đất trống gọi là pháp trường.
Tôi bàng hoàng quá đỗi, không c̣n biết ḿnh tỉnh hay mê.
Tôi biết Tạ Thu Thâu bị Pháp bắt vừa mới ở tù ra, thân thể bị tiêm thuốc cho chết xuội đi một bên, nếu không có Chánh phủ Trần Trọng Kim th́ ông đă chết trong khám rồi. Một người như Người suốt đời hy sinh cho dân tộc Việt Nam, bị tật nguyền v́ dân tộc Việt Nam, th́ c̣n có thể phạm tội ǵ với quốc gia mà đến nỗi khi Việt Nam vừa mới có ít chủ quyền th́ dân Việt Nam liền bắt bớ, đọa đày và xử tử.
Các bạn tôi nói là Tạ Thu Thâu bị buộc về tội phản cách mạng và âm mưu lật đổ chánh quyền, nhưng tra tấn bao nhiêu ông ta cũng đếch thèm khai. Bùi Trọng Lệ, đứng cạnh tôi, nói một cách nghiêm nghị quá đến nỗi tôi không cho là một lời mỉa mai:
– Tội Tạ Thu Thâu nặng hơn nữa nhiều. Ông phạm cái tội rất lớn là được dân chúng thương yêu.
Nhưng anh lính gác trước cửa pḥng chúng tôi (không hiểu v́ sao anh ta lại có cảm t́nh với tôi và thường hay nói chuyện cùng tôi) anh ta lại nói khác.
Theo anh ta th́ Ủy ban tỉnh Quảng Ngăi cũng không biết ông Tạ Thu Thâu bị bắt v́ tội ǵ. Chỉ được điện tín của Trần Văn Giầu đánh ra cho các tỉnh, ra lệnh hễ ai gặp Tạ Thu Thâu th́ bắt lại. Sau khi Ủy ban tỉnh đánh điện cho Sài G̣n biết là ḿnh đă bắt và giam Tạ Thu Thâu th́ liền được lệnh trả lời là phải giết ngay lập tức.
Nhưng khi đem ra pháp trường th́ ông Tạ Thu Thâu diễn thuyết cho mấy người lính, ông nói hay quá với lại đúng quá nên ai nấy đều bỏ súng buông lơ, có anh khóc, không ai dám bắn. Nên lại đem ông về lao và Ủy ban lại đánh giây thép vào Sài G̣n hỏi nữa sợ có giết lầm chăng. Và đă hai lần như thế rồi, Trần Văn Giầu đánh giây thép ra biểu phải giết, Tạ Thu Thâu đứng trước mũi súng lại diễn thuyết kêu gọi một mảy may lương tâm c̣n sót lại của đám người chỉ biết có vâng lệnh trên, rồi không ai nỡ bắn. Không dám bắn th́ đúng hơn, rồi lại mang về, rồi lại đem đi.
– Hôm nay th́ chắc Tạ Thu Thâu phải chết! Các bạn tôi và cả anh lính cũng bảo thế, v́ vừa được lệnh riêng của Cụ Hồ ở Hà Nội điện vô khiển trách Ủy ban bất tuân thượng lệnh.
Tôi bàng hoàng lo sợ, ngồi bệt xuống đất, hồi hộp đợi chờ, trong cái im lặng rợn người, một tiếng đoành.
Bỗng người lính gác kêu lên:
– Châu cha! Tạ Thu Thâu lại về!
Tất cả đều nhao nhao. Quả Tạ Thu Thâu về thiệt. Đám người đi qua rặng cây và đang tiến về phía trái. Nước mắt tôi trào lên, sung sướng khi thấy cái bóng trắng khấp khểnh kia có vẻ vững chắc hơn và trên môi lạt tôi tưởng tượng thoáng thấy một nụ cười ngạo mạn.
Sự sung sướng của tôi không được lâu. Đám người đi vừa đến gần cổng lao th́ một người trai trẻ mặc áo nâu quần sọc trắng ra vẻ học tṛ, tuổi lối mười bảy, mười tám đang đứng ở cạnh cổng, hung hăng nhảy ra, rút cây dao găm dắt ở lưng đâm vào vai Tạ Thu Thâu, miệng vừa hét:
– Đồ Việt gian phản động!
Rồi đạp Tạ Thu Thâu vào bụng cho ngă quay ra đất, đoạn đấm, đá túi bụi. Câu chuyện xảy ra rất mau, kể lại th́ xem ra lâu quá. Thêm chỗ tôi đứng và chỗ tấn kịch rùng rợn đang diễn ra hơi xa nhau, mắt tôi lại đẫm lệ nên không thấy được tường tận. Tôi chỉ c̣n nhớ h́nh ảnh của một đám người bao quanh một bóng trắng đang quằn quại giữa vũng máu. Và từ đó, một giọng the thé rất trong của người thiếu niên vang lên:
– Các đồng chí hèn quá, một thằng Việt gian cũng không dám giết!
Đến nay, bao nhiêu ngày tháng đă trôi qua rồi mà không mấy đêm nằm ngủ tôi không thấy trước mắt cái bóng người quằn quại kia và nghe cái giọng nói the thé ấy.
Viết bài này tôi chỉ mong làm tṛn một bổn phận với Người mà tuy rằng không cùng một quan niệm chánh trị với tôi, tôi vẫn phụng thờ ư chí hy sinh và tâm hồn cao quí. Những kẻ khốn nạn đă v́ đảng phái mà ám sát Người cũng như bao nhiêu kẻ xấu số khác, rồi đây khi ḥa b́nh trở lại Việt Nam, họ sẽ ra trước ṭa án quốc dân mà đền tội ác của họ. Chỉ lúc đó thù của Tạ Thu Thâu, quốc dân Việt Nam mới trả được.”
Tṛn nửa thế kỷ kể từ ngày bài báo nói trên ra đời, dường như “quốc dân Việt Nam” vẫn chưa đáp ứng được nguyện vọng tha thiết của người viết bài báo trên, là “trả được cái thù của Tạ Thu Thâu”: đưa những thủ phạm trực tiếp và gián tiếp ra trước ṭa án quốc dân.
Ở vào thời điểm mà “ḥa giải ḥa hợp” đang là một khẩu hiệu được nhiều người tán thưởng, nhắc lại sự thực của một số sự kiện lịch sử xảy ra đă lâu cũng chỉ nhằm mục đích gột rửa những nhơ nhớp trong quá khứ, phục hồi danh dự cho những người ái quốc đă bị thảm sát oan uổng. “Sự thật, chỉ nói sự thật!”, khẩu hiệu rất hay được nhắc đến trong thời cải tổ ở Liên Xô mươi năm trước đây, có thể là một “phép màu” cho một nước Việt Nam tự do, dân chủ trước thiên niên kỷ thứ ba này.
Người viết xin cám ơn các thành viên của nhóm Đệ tứ Việt Nam ở Pháp đă cho phép sử dụng một số tư liệu, công tŕnh nghiên cứu của nhóm.
(C̣n tiếp)
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa nhanh bất ngờ, chỉ trong hơn 10 ngày Việt Minh đă kiểm soát trên danh nghĩa toàn bộ Việt Nam, quả là một giấc mơ thần kỳ đối với họ, thắng lợi không đổ máu chỉ bằng sức mạnh của quần chúng đă làm động lực cho Hồ Chí Minh tin tưởng đi đến mục đích cuối cùng là dành độc lập cho Việt Nam và điều quan trọng nhất là Việt minh sẽ là tổ chức duy nhất với ṇng cốt là những người cộng sản sẽ xây dựng một nhà nước xă hội chủ nghĩa theo mô h́nh của Liên Xô… Dù trên thực tế ông luôn nhắc các đồng chí của ḿnh phải khôn khéo và che giấu nó.
Điều quan tâm nhất của Hồ Chí Minh trong thời điểm gấp rút này là việc ra mắt và công bố cho quốc dân, và thế giới chính thức biết về nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa dự kiến vào ngày 2/9/1945 (Chỉ đúng một tuần khi ông từ Tân trào về Hà Nội) trước khi quân đội Tưởng Giới Thạch và các đảng phái người Việt được Tưởng bảo trợ đi theo vào giải giáp quân Nhật. “Danh có chính, ngôn mới thuận” cho thấy ông đă có bước đi đúng đắn.
Ngày 2/9 ông sẽ có bài phát biểu quan trọng tuyên bố nền độc lập của việt Nam, Vậy bản Tuyên ngôn độc lập sẽ được viết như thế nào? Là một người cộng sản theo học thuyết Mác xít ông đă không trích dẫn một câu chữ nào trong Tuyên ngôn đảng Cộng sản v́ như thế chẳng khác nào tự sát.
Liên Xô quá xa và đang kiệt quệ sau thế chiến thứ 2, chỉ có nước Mỹ mới có thể đảm bảo cho tính chính danh của chính phủ Việt Minh.
Soạn thảo xong Bản Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh mời Patti đến gặp.
Trên tờ danh thiếp cá nhân, ông Hồ ghi nguệch ngoạc mấy chữ ngắn gọn nhưng có vẻ thúc ép: “Nếu có thể được, cần đến gặp chúng tôi trước 12 giờ hôm nay. Hồ”. Patti không nghĩ ra được ông muốn gặp về vấn đề ǵ.
Patti là người Mỹ có chức vụ cao nhất ở Hà Nội lúc ấy, con đường trực tiếp ngắn nhất để Hồ Chí Minh gửi thông điệp của ông đến chính phủ Mỹ.
Patti là một nhân viên t́nh báo của OSS đây có thể là con dao hai lưỡi, nhiều khi họ phải tỏ ra “hai mặt”, đây là cách thức họ xây dựng ḷng tin để bảo vệ cho sự sống c̣n của ḿnh. Hồ Chí Minh có thể biết điều này và cũng tương kế, tựu kế sử dụng Patti cho các mục đích của ḿnh.
Ông Hồ đă cho một xe đón Patti đến ngôi nhà Hàng Ngang vào lúc 10 giờ 30. Trường Chinh dẫn Patti đến chỗ ông Hồ, ở đó thấy có nhiều người ra vào với một vẻ rất hân hoan và bận rộn tấp nập. Ông Hồ vào, vẫn ung dung và mỉm cười, ông giơ bàn tay gầy g̣ ra bắt chặt tay Patti và nói:
- “Tôi sợ có khi ông không nhận được thư của tôi. Tôi rất muốn trao đổi với ông về một số chủ trương và các kế hoạch tương lai của chúng tôi”.
Trường Chinh kéo mấy cái ghế lại gần bàn và họ ngồi xuống đó. Ngoài cái dáng mảnh khảnh, ông Hồ có vẻ hoàn toàn mạnh khỏe, sôi nổi và thích nói nên đă kể ngay cho Patti nghe những tin tức mới về Huế.
Bảo Đại đă đọc bản Tuyên bố trước công chúng và trao ấn kiếm nhà vua cho phái đoàn của Chính phủ Lâm thời. Ông Hồ rất phấn khởi. Ông coi hành động cuối cùng này của nhà vua cũng là tàn dư cuối cùng của chủ nghĩa thực dân và mở đầu cho một thời đại mới. Nhưng ông nói thêm, như tự nói với ḿnh, có thể cuộc đấu tranh chưa phải đă hoàn toàn kết thúc, người Trung Quốc đang tới và người Pháp đă ở sẵn đây.
“Ô, đúng, người Trung Quốc”, ông nhắc lại. Đă có báo cáo nói có xung đột nhỏ giữa người Trung Quốc và dân chúng ở Lào Cai và Hà Giang. Điều đó có thể cho ông biết được con đường mà người Trung Quốc sẽ đi chăng?
Ông sẽ phái các đại diện của Chính phủ đến đón trước các đoàn quân Trung Quốc đang tiến để kiềm chế dân chúng địa phương nếu người Trung Quốc “ngỗ ngược” hay “quá hăm hở” để thu vét chiến lợi phẩm.
Patti nói với ông là người Nhật đă được báo tin và đă chất vấn các nhà chức trách Trung Quốc nhưng họ chưa trả lời và nhận được tin ǵ mới sẽ vui ḷng chuyển cho ông Hồ ngay.
“Thế bao giờ th́ Trương Phát Khuê tới?”, ông Hồ hỏi. “Tôi không rơ”, Patti đáp, “Trương đă phái tướng Tiêu Văn đi cùng với quân đội Quốc dân Đảng, nhưng người chỉ huy cao cấp nhất lại là tướng Lư Hán và ông này sẽ tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật”.
Ông Hồ không tỏ vẻ ǵ là ngạc nhiên, và sau một lúc trầm ngâm, ông cười nói, “Đây chỉ là một thủ đoạn của Tưởng Giới Thạch muốn điệu hổ ly sơn thôi. Không có quân đội của Lư Hán ở Vân Nam th́ Long Vân sẽ dễ dàng bị quật đổ”.
Với một vẻ suy tư, ông tỏ ra lo lắng về việc quân Vân Nam kéo vào sẽ gây ra nhiều vấn đề không thể khắc phục được. Chúng không phải là một đội quân có kỷ luật như của Trương và ông Hồ phán đoán là sẽ có rối loạn.
Ông Hồ cũng có nói về những Việt kiều sẽ được Quốc dân Đảng kéo theo. Ông cho họ là bọn “quốc gia giả hiệu”, “đầy tớ Quốc dân Đảng”, không mảy may có liên hệ với nhân dân Việt Nam.
Bàn về ảnh hưởng của những người này có thể có đối với Chính phủ Lâm thời, ông tả họ như là những người không có tổ chức, một nhóm cơ hội tranh giành nhau, tàn dư của các đảng quốc gia cũ, không có chương tŕnh hành động cơ bản nhưng lại có quá nhiều lănh tụ.
Theo ư ông th́ điều nguy hiểm là ở cho họ có thể gây ra một sự hỗn loạn nếu như người Trung Quốc áp đặt họ lên đầu người Việt Nam như là một chính phủ bù nh́n, một khả năng mà ông không thể gạt bỏ một cách nhẹ nhàng.
Ông Hồ nhắc cho Patti hay động cơ của Trung Quốc đối với nền độc lập của Việt Nam chẳng có ǵ thật thà và mang tính chất vị tha. Tuy có lời tuyên bố “cao thượng” của Tưởng “không có yêu sách về đất đai ở Đông Dương”, và sự ủng hộ “rộng răi” của ông ta đối với các phong trào quốc gia Việt Nam ở Trung Quốc; ư đồ của họ rơ ràng không phải là tốt nhất cho người Việt Nam.
Theo quan niệm của ông Hồ th́ Quốc dân Đảng muốn làm thất bại ư đồ của Pháp định khôi phục lại địa vị ở Đông Dương và muốn ngăn chặn sự liên minh của người Việt Nam với các lực lượng Cộng sản Trung Quốc trong phạm vi quyền lợi của Trung Quốc.
Để nói rơ ư ḿnh, ông Hồ nhận xét Quốc dân Đảng đă chọn Lư Hán và Tiêu Văn thay mặt cho Long Vân và Trương Phát Khuê.
Những người này rất có ư nghĩa đối với ông Hồ. Trong 15 năm qua, tuy Thống đốc Long Vân và Lư Hán, cháu ông ta, đă chứa chấp những người Việt Nam Quốc gia thân Nhật và thân Trung Quốc trong tỉnh của họ, nhưng ông Hồ coi cả hai như là những tên tướng cướp, đă bỏ tù và giết hại nhiều người Việt Nam vô tội để che đậy cho việc buôn bán bất chính của họ ở biên giới Đông Dương.
Đối với Trương Phát Khuê và Tiêu Văn, ông Hồ tỏ ra có độ lượng hơn. Họ không thô bỉ bằng người Vân Nam nhưng cũng rất ích kỷ.
Trương tiêu biểu cho tinh thần chống Cộng của Quốc dân Đảng và ông Hồ c̣n nhớ sâu sắc những đau khổ, nhục nhă đă phải chịu đựng suốt 15 tháng trong nhà tù Quảng Tây của Trương.
Nhưng ông Hồ cũng nhớ đến thế lực của Tiêu Văn trong việc giải thoát cho ông khỏi tù đày và đă mang lại cho ông một địa vị quan trọng trong mặt trận quốc gia những người Quốc dân Đảng chống Pháp ở Trung Quốc.
Sự cộng tác nhất thời này không phải do v́ Trương và Tiêu có cảm t́nh đối với ông Hồ hay phong trào của ông, mà chính là họ hy vọng có thể lợi dụng và kiểm soát được ông và tổ chức của ông.
Song lại chính ông Hồ và Việt Minh đă tận dụng được sự cộng tác ngắn ngủi đó.
Nhưng ông Hồ cho biết ông mời Patti đến không phải để bàn luận chuyện người Trung Quốc, ông muốn cho Patti hay về những kế hoạch hoạt động trong những ngày sắp tới của ông.
Ông Hồ muốn Patti là người đầu tiên được biết. Lúc đầu Patti hơi nghi ngại nên cứ nghe và không b́nh luận.
Ông Hồ kể nội các của ông đă họp phiên đầu tiên ngày 27-8 ở Bắc Bộ phủ, đă có quyết định chính thức hoá Chính phủ Lâm thời và lấy ngày 2-9 là Ngày Độc lập. Trong dịp này, ông sẽ công bố nền độc lập của dân tộc, sẽ giới thiệu các thành viên trong Chính phủ Lâm thời với nhân dân và sẽ vạch ra chương tŕnh hoạt động của Chính phủ cho mọi người dều biết.
Đă có một uỷ ban để soạn thảo lời tuyên thệ nhận chức của ông và các bộ trưởng, nhưng bản thảo bản Tuyên ngôn Độc lập c̣n cần phải được làm xong gấp.
Theo ông, chính đó là một trong những lư do ông muốn gặp Patti.
Ông gọi một người ở buồng bên mang bản thảo tới và đưa cho Patti với một dáng thoả măn. Rơ ràng trong việc khởi thảo bản này ông là tác giả.
Bản tài liệu đánh máy bằng tiếng Việt Nam, có nhiều chữ bị xoá đi và được viết đè lên bằng bút mực, với nhiều ghi chú bên lề.
Patti ngay ra, và ông Hồ thấy ngay là Patti không thể đọc được. Ông Hồ cho gọi một người trẻ tuổi vào để dịch.
Trong mấy câu đầu, người phiên dịch đă nói lên một số danh từ rất đỗi quen thuộc và giống lạ lùng như bản Tuyên ngôn của Mỹ.
Câu tiếp sau là “Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ”.
Patti chặn người phiên dịch lại, kinh ngạc quay sang hỏi ông Hồ có thực ông có ư định sử dụng câu đó trong bản Tuyên ngôn của ông không.
Ông Hồ ngồi dựa vào ghế, hai tay úp vào nhau, ngón tay sát vào môi một cách nhẹ nhàng và đang như suy tưởng. Với một nụ cười nhă nhặn, ông hỏi lại Patti “Tôi không thể dùng được câu ấy à?”.
Patti cảm thấy ngượng ngập và lúng túng. “Tất nhiên, tại sao lại không?”.
B́nh tĩnh lại, Patti nói người phiên dịch đọc lại đoạn đó từ đầu một lần nữa. Anh ta đọc, “Tất cả mọi người sinh ra đều b́nh đẳng. Họ đă được Tạo hoá trao cho những quyền không thể chuyển nhượng lại được; trong đó có quyền tự do, quyền sống và được hưởng hạnh phúc”.
Cố sức nhớ lại, Patti mới thấy các danh từ đă được chuyển vị và nhận xét là trật tự các chữ “quyền tự do” (Liberty) và “quyền sống” (Life) đă bị thay đổi.
Ông Hồ nắm ngay lấy và nói: “Đúng! Không thể có tự do mà không có quyền sống, cũng như không thể có hạnh phúc mà không có tự do”.
Ông muốn nài Patti phát biểu thêm.
Patti đă phải tŕnh bày là không biết ǵ hơn và cũng cảm thấy bất tiện khi nhận thấy ḿnh đă tham gia - dù rằng rất ít - vào việc đưa ra công thức cho một thực thể chính trị và cũng không muốn tạo ra một cái cảm giác là có ḿnh tham gia vào đó.
(C̣n tiếp)
Ngày 2/9/1945 Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc Lập tại quảng trưởng Ba Đ́nh, tuyên bố nền độc lập của Việt Nam.
Đây cũng là thời điểm đánh dấu những ngày tươi đẹp, an b́nh ngắn ngủi của Việt Minh đă kết thúc.
Những dự đoán t́nh h́nh của Hồ Chí Minh không c̣n trên giả định, mọi việc diễn ra ngay sau những ngày kế cận.
Ngày 9/9/1945 Quân Tưởng do tướng Tiêu Văn dẫn đầu đă vào Hà Nội.
Lính Anh đến Sài G̣n vào ngày 6 tháng 9 và sau đó quân số được tăng cường trong nhiều tuần. Gracey và các nhân viên đến để nắm quyền kiểm soát vào ngày 13 tháng 9. Ủy ban miền Nam (của Trần Văn Giàu) ngay lập tức tiếp cận Gracey, nhưng Gracey từ chối thực hiện bất kỳ giao dịch nào với họ. Gracy chỉ quan tâm đến việc đối phó với chính quyền quân sự Nhật Bản và giúp người Pháp.
T́nh h́nh ở Hà Nội có vẻ êm ả hơn trong những ngày đợi quân Tưởng vào, nhưng thực tế cả người Pháp, người Tàu sống ở đây đều đă có mưu toan tính toán trước.
Tại sao Trương Phát Khuê lại cử Lư Hán làm tổng tư lệnh và Tiêu Văn làm phó trong lực lượng quân Tưởng vào giải giáp Nhật ở phía Bắc?
Trương Phát Khuê đă từng kết nối Hồ Chí Minh với các đảng phái Việt Nam do Tưởng hậu thuẫn để tạo ra Đồng Minh Hội, mục đích thống nhất thành một tổ chức cho việc gây ảnh hưởng của Trung Hoa Dân Quốc đến Việt Nam sau này để chống lại sự ảnh hưởng và quay lại của Pháp tại Đông Dương mà chính Mỹ dưới thời TT Franklin Roosevelt đă bật đèn xanh.
Sự việc đă thay đổi khi Pháp và Anh hai nước có thuộc địa lớn nhất đă gây sức ép lên tân tổng thống Truman người thay thế Roosevelt mới qua đời (12/4/1945).
Và Truman đă đưa ra một giải pháp thỏa hiệp, theo đó tốt nhất là để người Trung Hoa và người Pháp đàm phán với nhau về vấn đề Đông Dương, nhưng việc quân Tưởng vào phía Bắc Việt Nam theo Hội nghị Potsdam không được thay đổi.
Người Pháp với người Trung Hoa đàm phán với nhau đều được Trương Phát khuê nắm được mục đích, Trung Hoa chỉ đ̣i hỏi quyền lợi kinh tế, và không có ư định hất cẳng người Pháp.
Để tránh những phiền hà, rắc rối với các lực lượng kháng chiến người Việt chống Pháp, Trương Phát Khuê đă cử Lư Hán một kẻ chẳng liên quan ǵ đến Hồ Chí Minh và các tổ chức đảng phái trong Đồng Minh Hội, và Tiêu Văn một kẻ cơ hội dẫn quân vào Việt Nam, một mặt giải giáp quân Nhật, mặt khác gây sức ép lên Pháp trong đàm phán, khi nào các thỏa thuận kết thúc sẽ rút quân để người Pháp vào thế chân, mặt khác cũng tranh thủ o ép, tống tiền Việt Minh.
Với mưu tính của Trương Phát Khuê như vậy, nên các đảng phái đối lập với Việt Minh về thực chất không c̣n chỗ bám víu vào người Trung Hoa, kết quả sau này khi quân Tưởng rút đi Việt Minh đă tổ chức tấn công không thương tiếc và tàn sát các lực lượng này trước sự làm ngơ của quân Pháp vào thay thế quân Tưởng.
Qua những ǵ Hồ Chí Minh đă nói chuyện với Patti trong cuộc gặp nói về bản Tuyên Ngôn Độc Lập, chứng tỏ ông không nắm được cụ thể t́nh h́nh việc Pháp và Trung Hoa đang đi đêm với nhau, hoặc có biết nhưng không nắm được chính xác về việc Trung Hoa không có ư định ở lại lâu dài Việt Nam, đúng như lời Tưởng Giới Thạch đă cam kết “không có yêu sách về đất đai ở Đông Dương”.
Với lập trường tin tưởng người Trung Hoa sẽ t́m cách thay thế Pháp ở Đông Dương ông đă mắc sai lầm trong đối sách mà không hề nghĩ rằng, Pháp và Trung Hoa vẫn có mối quan hệ đồng minh họ có thể mâu thuẫn về quyền lợi những để xảy ra xung đột bằng vũ lực khó có thể xảy ra, hơn nữa vai tṛ nhạc trưởng của Mỹ sẽ điều khiển tất cả.
Tại Trung Quốc mâu thuẫn đối kháng tranh giành quyền cai trị giữa Tưởng Giới Thạch và Mao Cộng sản khiến Tưởng Giới Thạch phải hướng mục đích chính vào đó, họ cần các đồng minh khác trong đó có Pháp. Một thỏa hiệp quyền lợi để hóa giải mâu thuẫn là cách tốt đẹp nhất cho cả người Pháp và Trung Hoa.
Trong trường hợp Hồ Chí Minh nắm được đầy đủ thông tin về cuộc mua, bán Đông Dương của Pháp và người Trung Hoa, trong đó người Pháp sẽ chắc chắn đưa quân đội quay lại ông sẽ đi trước một bước thỏa hiệp với người Pháp, việc mà ông đă từ chối không đàm phán với người Pháp và yêu cầu người Mỹ can thiệp trước và sau khi cuộc tổng khởi nghĩa thành công, để cuối cùng khi quân đội Tưởng rút đi, Việt minh vẫn phải ngồi đàm phán với người Pháp và kết quả không tránh được một cuộc chiến tranh với người Pháp.
Một điều tệ hại nữa xảy ra, v́ tin tưởng người Trung Hoa sẽ muốn đặt nền cai trị ở Đông Dương nên ông cho các đảng phái độc lập là kẻ thù tiềm tàng cần phải tiêu diệt đă làm suy yếu chính nội lực của người Việt Nam trong pḥng trào chống Pháp.
Khi người Trung Hoa đă thỏa thuận trao quyền cai trị Đông Dương cho người Pháp tất nhiên những phe phái đối lập với Việt Minh sẽ mất chỗ dựa vào Tưởng Giới Thạch họ sẽ thay đổi lập trường của ḿnh và hợp tác với Việt Minh một cách thật ḷng.
Trong t́nh thế Việt Minh c̣n yếu ớt cả về lực lượng, kinh tế… dường như Việt Minh lại quá lắm kẻ thù đă khiến họ lâm vào bế tắc, và rối trận.
Từ chỗ nhất định không đàm phán với Pháp mà người đại diện là Jean Sainteny , lúc quân Tưởng vào ông đă bố trí cho Tiêu Văn vào ở Phù Toàn Quyền để đuổi Sainteny ra, sau đó Hồ Chí Minh lại phải thỏa hiệp với người Pháp đưa quân quay lại để đuổi người Trung Hoa trong câu chuyện đă rồi, khi Tưởng và Pháp đă kư Hiệp ước Hoa- Pháp trước đó/
(C̣n tiếp)
Trước khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa cũng được thành lập vào ngày 28 tháng 8 năm 1945 (danh sách đăng trên các báo ngày 29/8, ra mắt quốc dân ngày 2 tháng 9, và họp phiên chính thức đầu tiên vào ngày hôm sau, tức ngày 3 tháng 9 năm 1945)
Thành phần Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa được báo chí công bố với danh sách dưới đây:
Chủ tịch chính phủ, kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao: Hồ Chí Minh (Việt Minh, cộng sản)
Bộ trưởng Tuyên truyền: Trần Huy Liệu (Cộng sản)
Bộ trưởng Quân chính: Chu Văn Tấn (Việt Minh,cộng sản)
Bộ trưởng Thanh niên: Dương Đức Hiền (Dân chủ do Việt Minh cộng sản đứng đằng sau thành lập)
Bộ trưởng Kinh tế: Nguyễn Mạnh Hà (Dân chủ do Việt Minh cộng sản đứng đằng sau thành lập)
Bộ trưởng Cứu tế: Nguyễn Văn Tố (nhân sĩ, không đảng phái, có cảm t́nh với Việt Minh được Hồ Chí Minh mời tham gia)
Bộ trưởng Tư pháp: Vũ Trọng Khánh (Dân chủ do Việt minh cộng sản đứng ra thành lập)
Bộ trưởng Y tế: Phạm Ngọc Thạch (Việt Minh, cộng sản)
Bộ trưởng Giao thông: Đào Trọng Kim (nhân sĩ, không đảng phái, có cảm t́nh với Việt Minh và được Hồ Chí Minh đưa vào)
Bộ trưởng Lao động: Lê Văn Hiến (Việt Minh, cộng sản)
Bộ trưởng Giáo dục: Vũ Đ́nh Ḥe (Dân chủ do Việt Minh cộng sản đứng thành lập)
Bộ trưởng Canh nông: Cù Huy Cận (Dân chủ, Việt Minh, cộng sản)
Bộ trưởng không bộ: Nguyễn Văn Xuân (Việt Minh, cộng sản)
Bộ trưởng Quân huấn: Trương Trung Phụng).
Nội các Chính phủ Lâm thời Cách mạng được Hồ Chí Minh cho là đă tập hợp đủ đại diện các thành phần đảng phái, tầng lớp ưu tú nhất của Việt Nam, nhưng nh́n vào danh sách cho thấy nó chỉ là chính phủ của những người cộng sản trong vỏ bọc Việt Minh.
Lấy ví dụ về trường hợp của Bộ trưởng Thanh niên Dương Đức Hiền, Tổng bí thư đầu tiên của Viêt Nam Dân chủ Đảng.
Dương Đức Hiền (1916-1963), lúc đầu hoạt động cho Việt Nam Quốc dân Đảng. Sau khi Đại Việt được thành lập năm 1941, Hiền với Nguyễn Tường Tam và em là Nguyễn Tường Long cùng tham gia lănh đạo. Là một trí thức, lănh tụ sinh viên, Hiền được bầu làm Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Việt Nam tại Hà Nội. Tháng 6-1944, Hiền tập hợp một số lớn sinh viên lập ra Việt Nam Dân chủ Đảng và trở thành Tổng bí thư đầu tiên. Chịu ảnh hưởng của bạn thân là Vơ Nguyên Giáp, Hiền sát nhập đảng Dân chủ vào Mặt trận Việt Minh, vừa là chỗ ngụy trang cho các đảng viên Công sản trong những lúc bị khủ bố, vừa đóng vai tṛ một thiểu số trung thành trong Việt Minh. Tại Đại hội Tân Trào, Hiền được cử vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc và sau đó làm Bộ trường Thanh niên trong nội các đầu tiên của ông Hồ.
Thành phần chính phủ này lập tức bị các đảng phái đối lập đặc biệt là Việt Quốc và Việt cách phản đối, cho đến khi quân Tưởng của Tướng Lư Hán và Tiêu Văn vào Hà Nội gây sức ép với Hồ Chí Minh phải đưa các thành phần khác không phải Việt Minh cộng sản vào nội các nên có một số thay đổi.
Tại phiên họp ngày 27 tháng 9 năm 1945, sau khi có sự thương lượng giữa Việt Minh với Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội (Việt Cách), Chính phủ Cách mạng lâm thời có thành phần nội các như sau:
- Chủ tịch, Kiêm chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao:
Hồ Chí minh (Cộng sản)
- Phó Chủ tịch Chính phủ lâm thời:
Nguyễn Hải Thần (Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội)
- Cố vấn Chính phủ:
Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (Triều Nguyễn, không đảng phái)
Tađêô Lê Hữu Từ (Giám mục, Không đảng phái)
- Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng:
Chu Văn Tấn (Đảng Cộng sản Đông Dương)
- Bộ trưởng Bộ Nội vụ:
Vơ Nguyên Giáp (Đảng Cộng sản Đông Dương)
Kiêm chức Thứ trưởng Bộ Quốc pḥng (Việt Nam)
- Bộ trưởng Bộ Thông tin, Tuyên truyền
Trần Huy Liệu (Đảng Cộng sản Đông Dương)
- Bộ trưởng Bộ Thanh niên:
Dương Đức Hiền (Đảng Dân chủ Việt Nam, Chủ tịch Đảng Dân chủ Việt Nam)
- Bộ trưởng Bộ Kinh tế Quốc dân:
Nguyễn Mạnh Hà (Không đảng phái)
- Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục:
Vũ Đ́nh Ḥe (Đảng Dân chủ Việt Nam)
- Bộ trưởng Bộ Tư pháp:
Vũ Trọng Khánh (Đảng Dân chủ Việt Nam)
- Bộ trưởng Bộ Y tế:
Phạm Ngọc Thạch (Đảng Cộng sản Đông Dương)
- Bộ trưởng Bộ Giao thông Công chính:
Đào Trọng Kim (Không đảng phái)
- Bộ trưởng Bộ Lao động:
Lê Văn Hiến (Đảng Cộng sản Đông Dương)
- Bộ trưởng Bộ Tài chính:
Phạm Văn Đồng (Đảng Cộng sản Đông Dương)
- Bộ trưởng Bộ Cứu tế Xă hội:
Nguyễn Văn Tố (Không đảng phái)
- Bộ trưởng không Bộ:
Cù Huy Cận (Cộng sản và Đảng Dân chủ Việt Nam)
Nguyễn Văn Xuân (Cộng sản)
Chính phủ mới thành lập không có một đồng xu nào, Bảo Đại khi thoái vị chỉ trao ấn, kiếm. Chính phủ Trần Trọng Kim giải tán cũng tay trắng v́ Nhật Bản vẫn cai quản tài chính. Nhật Bản tuyên bố đầu hàng Đồng Minh chứ đâu có công nhận Việt Minh cho nên họ chỉ để Việt Minh tiếp quản các công sở có tính chất duy tŕ các hoạt động thiết yếu c̣n Kho bạc và Ngân hàng họ vẫn cho quân đội bảo vệ và quản lư. Và đến nay cũng không biết ở trong đó có bao nhiêu tiền, bao nhiêu vàng bạc… người Nhật sau này bàn giao cho Pháp, hay Trung Hoa, hay lẳng lặng đem về nước?
Trước t́nh thế đó ngày 4/9/1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Vơ Nguyên Giáp thay mặt Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, kư ban hành Sắc lệnh số 4 lập "Quỹ độc lập" với mục đích "để thu nhận các món tiền và đồ vật của nhân dân sẵn ḷng quyên giúp Chính phủ để ủng hộ nền độc lập của Quốc gia".
Tiếp sau đó, cũng trong khuôn khổ Quỹ độc lập, Chính phủ đă đề ra biện pháp tổ chức "Tuần lễ Vàng" từ ngày 17 đến ngày 24/9/1945.
Hồ Chí Minh đă gửi thư cho nhân dân toàn quốc nhân dịp "Tuần lễ Vàng", nêu rơ mục đích của việc lập quỹ là "thu góp số vàng trong nhân dân và nhất là của các nhà giàu có để dùng vào việc cần cấp và quan trọng nhất của chúng ta lúc này là việc quốc pḥng". Chính phủ đă huy động được tổng cộng 20 triệu đồng và 370 kg vàng.
Ngân quỹ quốc gia đă có hàng trăm triệu đồng. Riêng tại Hà Nội, trong "Tuần lễ vàng" nhân dân đă góp được 2.201 lạng vàng, 920 tạ thóc cùng tiền bạc và các hiện vật khác, tổng trị giá lên 7 triệu đồng Đông Dương.
Có thể kể đến ông Trịnh Văn Bô là một doanh nhân gia đ́nh ông đă ủng hộ 5.147 lượng vàng… và cũng là chủ ngôi nhà 48 phố Hàng Ngang nơi Hồ Chí Minh đă sống ở đó vào những ngày khởi nghĩa năm 1945.
Số tiền này được giải thích dùng để mua vũ khí của quân đội Nhật bị quân đội Trung hoa Dân quốc tịch thu và để hối lộ cho các tướng lĩnh Trung Hoa đang đóng quân tại miền Bắc Việt Nam.
Thực tế sau này các đảng phái đối lập tố cáo chủ yếu là để nuôi quân đội của Tưởng Giới Thạch và đút lót cho các tướng lĩnh sĩ quan của quân Tưởng, đặc biệt là Lư Hán và Tiêu Văn đổi lấy cho việc quân Tưởng không bảo vệ và ủng hộ các đảng phái đối lập.
(C̣n tiếp)
Phía Bắc quân Tưởng đang ngấp nghé tiến vào, phía Nam quân Anh do tướng Gracey ngoài nhiệm vụ giải giáp quân Nhật họ không hề giấu giếm về việc bảo vệ các quyền lợi cho người Pháp và sẵn sàng một cuộc “dọn dẹp” những kẻ đang phát động một cuộc chiến đánh đuổi người Pháp dù bất kỳ thuộc đảng phái nào.
Báo chí Pháp đă tiết lộ nhiều chi tiết về cuộc điều đ́nh giữa Anh và Pháp và đại sứ Mỹ Caffery đă báo cho Washington biết đó là vấn đề một “Bộ máy cai trị dân sự Pháp” được xem như là chính quyền duy nhất ở phía nam vĩ tuyến 16 của Đông Dương.
Nhưng vai tṛ của người Mỹ có thật sự là trung gian trong các mối quan hệ lằng nhằng giữa Trung Quốc- Pháp, Pháp-Việt Minh, Trung Quốc- Anh… Một câu hỏi cho đến nay vẫn chưa được sáng tỏ, thực sự người Mỹ có ư đồ nhảy vào Đông Dương từ thời điểm nào? Dù đă có nhiều tranh luận.
Người Pháp đă gây sức ép với người Mỹ bằng câu hỏi:
-Tại sao hội nghị Potsdam Đồng Minh lấy vĩ tuyến 16 ra để chia quyền ảnh hưởng cho cả Trung quốc và Anh mà không hề hỏi ư kiến Pháp? Có phải người Mỹ đă đẩy các mối quan hệ chở nên rối rắm về quyền lợi giữa các bên để tạo ra xung đột, sau đó như kẻ “cầm cân nảy mực” sẽ can thiệp?
Những sự kiện sau này ở Bán đảo Triều Tiên, cuộc chiến tranh Liên Triều kết thúc bằng sự chia cắt nước này ở Vĩ tuyến 38, và Chiến tranh Đông Dương ở Vĩ tuyến 17 có vẻ như Mỹ rất quen với kịch bản này – Một kịch bản về một cuộc chiến không bao giờ có hồi kết, luôn xảy ra mâu thuẫn lằng nhằng giữa các bên khiến Mỹ bất kỳ lúc nào cũng có thể phải “ra tay” trong vai tṛ “sen đầm”?
Tại Sài G̣n Cộng sản Đệ Tam (stalin) do Trần Văn Giàu lănh đạo, ở Hà Nội Việt Minh của Hồ Chí Minh cũng như Việt Quốc, Việt Cách.. không phân tích và nhận định đúng t́nh h́nh dẫn đến sai lầm về sách lược và tạo ra mâu thuẫn trong nội bộ chém giết lẫn nhau. Đây là một nỗi đau dân tộc, nếu tất cả họ đoàn kết thống nhất với nhau trong cuộc chiến đấu chống Pháp và quân Anh, cùng xây dựng một nước Việt Nam tự do, dân chủ th́ chắc chắn Việt Nam không rơi vào cuộc chiến tranh kéo dài hơn 30 năm nữa.
Việt Minh muốn tranh thủ Mỹ, dùng Mỹ tạo sức ép lúc đầu để đàm phán với Tưởng, nhưng lại gạt Việt Quốc, Việt Cách v́ như thế sẽ bị chia sẻ quyền lực. Sau khi biết Trung Hoa Dân Quốc đă đồng ư để Pháp quay lại Đông Dương Hồ Chí Minh vẫn ảo tưởng về vai tṛ của Mỹ thậm chí của cả Liên Xô, cùng với khí thế cách mạng của quần chúng ông tin tưởng các cuộc đàm phán với Pháp sẽ đẩy người Pháp phải chấp nhận các điều kiện có lợi cho Việt Minh.
Các nhóm Việt Quốc, Việt Cách… không cộng sản lại c̣n u mê hơn, họ tin Tưởng Giới Thạch khi đă đưa quân đội vào Đông Dương theo ủy quyền của Đồng Minh sẽ trao độc lập cho Việt Nam bằng cách xây dựng một nhà nước không cộng sản thân Trung Quốc.
Việt Minh cộng sản và các nhóm khác của Việt Nam chống Pháp đều bị ám ảnh về cái gọi là “Hoa quân nhập Việt” do chính Việt Minh nghĩ ra sau khi Hội nghị Potsdam kết thúc.
Theo sử sách của nhà nước Việt Nam ngày nay viết: quân Trung Quốc có âm mưu "Diệt Cộng cầm Hồ" tức là "Diệt Cộng sản, bắt Hồ Chí Minh", lật đổ chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.
Thực tế khi quân Tưởng vào chẳng có cuộc tấn công nào vào Việt Minh, và dù có nhiều đ̣i hỏi và ép buộc Hồ Chí Minh nhiều điều kiện nhưng cũng chỉ là mục đích kinh tế và gây sức ép vào vấn đề nhân sự trong nội các của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa trên tinh thần ḥa b́nh… Và Hồ Chí Minh vẫn trên vai tṛ của chủ tịch nước được họ công nhận.
Cái gọi là “Diệt cộng sản, bắt Hồ Chí Minh” có thể là luận điệu tuyên truyền của Việt quốc, Việt Cách thực tế cũng chỉ là lời hù dọa không có trọng lượng, nhưng có thể đây là lời giải thích của nhà nước Việt Nam trước lịch sử về việc thanh trừng, tàn sát đẫm máu của Việt Minh với các đảng phái đối lập sau khi quân Tưởng rút khỏi Đông Dương.
(C̣n tiếp)
Quân Tưởng vào vào Bắc Việt Nam từ 9/9/1945 và rời đi vào 15/6/1946. Hăy lưu ư về mốc thời gian để thấy rơ các sự kiện xảy ra trong giai đoạn này, sẽ được nêu ra dưới đây.
Có thực sự Tưởng có ư đồ dựng lên một nhà nước Việt Nam thân Trung Quốc với ṇng cốt là Việt Quốc, Việt Cách?
Ngay sau khi bộ phận tiền trạm của Trung Quốc đến Hà Nội th́ tướng Tiêu Văn, một bộ hạ tin cậy của Trương Phát Khuê cũng tới. Tiêu mang ba chức vụ: phó tư lệnh của Lư Hán, Tư lệnh tập đoàn quân 62 Quảng Tây và Thủ trưởng Pḥng chính trị Ban Công tác hải ngoại. Nhưng lúc đó ông ta c̣n có một nhiệm vụ khác nữa, nhiệm vụ bí mật bảo vệ các quyền lợi của Trương ở phía Nam biên giới Trung Quốc.
Ngày 10/91945 Hồ Chí Minh mở tiệc chiêu đăi chào mừng Tiêu Văn.
Và cuộc gặp gỡ này đă được Patti thuật lại trong Why Vietnam (Patti cũng được mời tham dự):
Sau bữa tiệc, ông Hồ mở đầu bằng một lời phát biểu hoan nghênh ngắn bằng tiếng Trung Quốc, rồi giới thiệu Chu Văn Tấn.
Hướng về phía Tiêu Văn, Bộ trưởng Tấn nói tiếng Việt ca ngợi sự hợp tác và giúp đỡ của các lực lượng Đồng minh trong việc giải giáp quân Nhật và duy tŕ trật tự công cộng.
Tấn đề nghị cho đặt liên lạc ngay giữa Bộ chỉ huy Trung Quốc và “Lực lượng vơ trang Việt Nam” để cho vai tṛ mỗi đơn vị được phục vụ một cách có hiệu quả hơn. (Tôi chỉ biết ngạc nhiên không hiểu Tấn đào đâu ra được “Lực lượng vơ trang Việt Nam”).
Tấn tỏ biểu hiện hào phóng trong việc “phân phối” lương thực và đồ tiếp tế mà họ có, nhưng lại chua xót nhận xét là các lănh đạo Việt Nam chẳng c̣n ǵ trong tay. Sau ít lời nhận xét chung, Tấn mời Tiêu Văn phát biểu.
Tiêu chậm răi đứng lên, tay đặt vào đốc gươm chỉ huy bên sườn, một cử chỉ của người chúa tể mà người Việt không bỏ qua, và mỉm cười một cách hạ cố.
Bằng tiếng Trung Quốc, Tiêu cám ơn ông Hồ về sự hiếu khách và thông hiểu lẫn nhau và cảm tạ đối với đề nghị giúp đỡ của Tấn.
Tiêu nói rơ một cách thẳng thừng rằng người Trung Quốc đă được trang bị rất tốt để hoàn thành nhiệm vụ của họ trong việc đối xử với người Nhật.
Về vấn đề an ninh công cộng, Tiêu nói, trong lúc này người Trung Quốc dựa vào “cảnh sát địa phương”; rồi sau đó sẽ tuỳ tướng Lư Hán quyết định.
Đối với vấn đề lương thực và nơi đóng quân cho “Quân đội Đồng minh”, Tiêu tuyên bố Bộ chỉ huy Trung Quốc sẽ tiếp tế những thứ cần thiết từ nền kinh tế địa phương theo một chế độ trưng thu lương thực và dịch vụ, và tất nhiên là các chủ nhân và người bán hàng được chính phủ Trung Quốc trả tiền theo giá thị trường thoả thuận và hợp lư.
Tiêu cũng gợi ư trực tiếp với ông Hồ một cách rất ngoại giao là trong buổi đầu này nếu ở mỗi Bộ trong Chính phủ của ông Hồ mà đặt một sĩ quan chuyên môn người Trung Quốc để làm liên lạc th́ thật là thích đáng; v́ như thế người Việt thông hiểu hơn những nhu cầu và cách làm của người Trung Quốc.
Khi những nhận xét của Tiêu được dịch sang tiếng Việt th́ những nụ cười thân thiện tắt ngấm ở ông Hồ và các cộng sự của ông, nhưng họ chẳng bộc lộ ra có ǵ là bị bất ngờ và thất vọng. Mặt họ trở nên lạnh lùng và không khí im lặng chống đối bao trùm. Giọng của Tiêu gay gắt và rất đáng ngại. Nghe những lời tuyên bố chính thức của Trung Quốc âm vang trong gian pḥng lớn Bắc Bộ phủ, ai cũng phải kinh ngạc.
Bất chợt, Tiêu làm như một diễn viên và nhà ngoại giao bậc thầy, đă xua tan bầu không khí căng thẳng bằng một câu nói đùa ǵ đó mà tôi không hiểu nhưng rơ ràng là được mọi người tán thưởng. Ông ta lớn tiếng cười khi đánh giá cao sự đón tiếp “nồng nhiệt” của người Việt Nam chống phát xít đối với người Trung Quốc mới tới.
Ông ta hứa hẹn một cách hùng hồn rằng chính phủ Trung Quốc sẽ không quên sự đối xử thân mật của người Việt Nam đối với những người đồng bào ở nước ngoài của ông trong 6 tháng bị Nhật hành hạ vừa qua.
Tôi thực sự không hiểu nổi lời hứa đó như thế nào, theo tôi th́ chẳng có sự ưu ái nào đă bị mất đi giữa những người Trung Quốc “thoả hiệp” (với Nhật) và những người Việt
Viên tướng đă kết thúc lời phát biểu bằng việc ca tụng “t́nh hữu nghị bất diệt”…, “cùng chung một mục đích…và kiên tŕ đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc bên ngoài” và vân vân… Tôi có cảm giác mạnh mẽ rằng Tiêu đă cố gắng để có một giọng nói nhân đức mặc dù vẫn rất quan cách, ít ra th́ cũng cho đến khi người Trung Quốc đă sẵn sàng để điều đ́nh những vấn đề quan trọng hơn.
Ông Hồ hướng cho những người tham gia cuộc họp hoan hô và sau đó đă mời Tiêu sang pḥng bên cạnh để nói chuyện riêng.
Liệu, Giám, Tấn và Giáp ở lại uống nước và chuyện tṛ, qua phiên dịch, với các sĩ quan đă cùng tới với Tiêu cho đến khi Tiêu và ông Hồ trở lại, miệng mỉm cười. Mấy phút sau, người Trung Quốc cáo lui sau khi đă chào theo kiểu quân sự, ôm, bắt tay thân mật… Một công tác ngoại giao theo kiểu Á Đông tuyệt vời.
……………………………………… …….
Tôi cũng đă định xin rút lui, nhưng ông Hồ nói tôi ở lại uống trà với ông nên chúng tôi đă ngồi lại trên các ghế bành thoải mái ngay trong pḥng mà ông Hồ và Tiêu đă nói chuyện.
Ông Hồ hỏi tôi có biết rơ Tiêu Văn không.
Tôi nói đây là lần đầu tôi gặp Tiêu nhưng đă được nghe nói về vai tṛ của ông ta trong các công tác giữa người Hoa và Việt ở Trung Quốc.
Ông cười và trách tôi một cách rất tự nhiên, “ông có thể nói cho tôi biết; nhưng thực tế, tôi cũng đă rơ ông ta mới được cử làm Trưởng Ban Mật vụ Chính trị ở Hà Nội đấy”.
Tôi không biết và cũng đă không nghĩ tới điều đó. Tôi có biết vai tṛ của Tiêu là một sĩ quan chính trị, nhưng tôi không mong muốn cho ông ta dính líu vào các mưu đồ của người Trung Quốc. Tôi cũng chẳng muốn tiết lộ cho ông Hồ hay về việc OSS đă làm ǵ để giúp ông thoát khỏi sự cầm tù của Trương Phát Khuê năm 1944 và việc Tiêu có liên quan đến vấn đề này.
Nhưng về phía ông Hồ, ông cũng không đặc biệt muốn ám chỉ đến sự hợp tác trước đây của ông với Tiêu, tuy ông đă kể lại những cố gắng của ông nhằm hoà hợp các người quốc gia Việt Nam hải ngoại ở Liễu Châu năm 1943 và sự ủng hộ của Tiêu đối với ông lúc đó.
Ông Hồ nói riêng với tôi là ông vừa mới yêu cầu Tiêu đứng làm trung gian môi giới giữa Quốc dân Đảng (Trung Quốc) và Việt Nam. Nghĩ cho kỹ, theo ông nói, th́ đó cũng không phải là một hành động khôn ngoan.
Ông đă hy vọng rằng Tưởng, đi theo chính sách đă được công bố “không có tham vọng đất đai ở Việt Nam” sẽ sử dụng ảnh hưởng của ḿnh đối với các cường quốc Đồng minh để ngăn chặn các nhà quân sự Pháp không cho lật đổ Chính phủ Lâm thời.
Tiêu dă gợi ư ngay là Quốc dân đảng và các nước Đồng minh sẽ có thái độ thân thiện hơn đối với chế độ của ông Hồ nếu ông chịu mở rộng cơ sở chính trị của Chính phủ bằng cách chẳng hạn như để Đồng minh Hội tham gia.
Đi nước cờ cuối cùng, ông Hồ đă nói cho Tiêu biết là ông đă có ư định “dân chủ hoá” Chính phủ, nhưng cũng cần có thời gian, có thể phải sau cuộc bầu cử tháng Chạp.
Ngoài mặt, Tiêu tỏ ra thoả măn với câu trả lời của ông Hồ; ông ta khẳng định lại chính sách láng giềng tốt của Tưởng và hân hoan mong muốn sẽ có những cuộc thương lượng hai bên cùng có lợi, trong đó Trung Quốc sẽ coi Việt Nam là một nước được hưởng chế độ ưu đăi về thương mại và sử dụng các bến cảng ở Đông Nam Á.
Mặc dù sau buổi họp riêng, họ đều cười, nhưng tôi cho là ông Hồ đă không đạt được điểm nào đối với Tiêu Văn. Trước khi chúng tôi ra về, ông Hồ phàn nàn là t́nh h́nh sẽ rất khó khăn và có chiều hướng hoàn toàn xấu.
Nhưng ông Hồ nói cuối cùng th́ Việt Nam cũng sẽ được giải phóng khỏi người Pháp, Trung Quốc hay bất kỳ nước ngoài nào khác.
Ông nói tiếp: “Tôi biết Tiêu Văn đă cho đưa hai tên Việt Nam bù nh́n về cùng để tổ chức một chính phủ do Quốc dân đảng đỡ đầu vào lúc thuận tiện - nhưng Tiêu đă không nói trắng điều đó ra với tôi. Những tên này cũng không có đến cả lương tri là phải ẩn đi cho khuất mắt. Nếu họ bị một số thanh niên chúng tôi nhận được mặt, th́ tôi cũng biết sẽ xảy ra chuyện ǵ đây”.
Trong một phút linh cảm trước, ông Hồ đă nhận xét là sẽ có đổ máu trong tương lai.
Nếu người Trung Quốc thực sự chống đối lại nền độc lập của Việt Nam, nhân dân ông nhất định sẽ kháng cự lại bằng vũ khí.
Nếu bọn bù nh́n của Trung Quốc đánh vào Việt Minh, nhất định sẽ có nội chiến. Và nếu sự đe doạ của Pháp trở thành hiện thực th́ sẽ có cuộc chiến tranh toàn diện. Bất kỳ t́nh huống nào đă nói trên xảy ra th́ cũng đều sẽ được “phán quyết bằng máu”.
Để có thể trả lời một cách rơ ràng về ư đồ của Tưởng Giới Thạch với vấn đề Đông Dương, xin đọc tiếp ở phần sau.
(C̣n tiếp)
Tiêu Văn đến Hà nội vào ngày 9/9/1945.
14/9/1945 Tư lệnh quân Tưởng Giới Thạch vào Miền Bắc giải giáp Nhật là Lư Hán cũng có mặt ở Hà Nội.
Trái với dự đoán chung của mọi người cho rằng Lư Hán tới sẽ được đón tiếp một cách long trọng ầm ĩ, ông ta và Bộ tham mưu vẫn đóng kín đáo trong dinh Toàn quyền. Do đó đă lan tràn nhiều tin đồn đại về việc sắp sửa thi hành thiết quân luật, thực hiện chế độ quân quản, các đội hành quyết, lệnh giới nghiêm v.v… Nhưng chẳng có ǵ như thế đă xảy ra trong thời kỳ Trung Quốc chiếm đóng
Ngày 16/9/1945 Hồ Chí Minh đến Phủ Toàn Quyền gặp Lư Hán.
Trong buổi gặp gỡ này Ông Hồ đă phải chấp nhận và nhượng bộ nhiều sự chèn ép của Lư Hán chủ yếu về vấn đề kinh tế và giải quyết những yêu sách của người Hoa đang sinh sống ở Việt nam, nhưng ông cũng thở phào nhẹ nhơm khi Lư Hán lấy một giọng điệu hoà giải hơn và tuyên bố rằng sự có mặt của Trung Quốc ở Đông Dương là vấn đề “thuần tuư quân sự và nhằm đáp ứng lại yêu cầu của các cường quốc Đồng minh để giải giáp và hồi hương quân Nhật”. Thực hiện xong điều đó, nhiệm vụ của Trung Quốc ở Việt Nam sẽ kết thúc.
Tuy vậy, cuộc chiếm đóng của 15 vạn quân Tưởng (đây là con số của Trung Hoa Dân Quốc gửi cho Pháp để lấy chi phí nuôi đạo quân này và các lợi ích kinh tế khác theo Hiệp ước Pháp- Hoa, đổi lấy việc Trung Hoa dân Quốc đồng ư cho Pháp thế chân ở Đông Dương) vẫn là một thời kỳ tai hại, gây tổn hại cho người Việt Nam trong lúc nạn đói đang hoành hành, và chính phủ của Hồ Chí Minh ngân khố hoàn toàn trống rỗng.
Chính v́ vậy ngay sau khi gặp Lư Hán ông Hồ đă gửi thư cho người dân cả nước phát động “Tuần lễ VÀNG”. Trong thư, ông nêu rơ ư nghĩa kêu gọi mọi người, nhất là các nhà giàu có, tích cực quyên góp vàng để phụng sự quốc gia, nhưng thực chất một phần lớn lượng vàng, đồ trang sức và tiền xu đă được dùng để trả cho quân Trung Quốc đang chiếm đóng miền Bắc Việt Nam. Gạo sang Nam Kỳ của người Pháp tháng 10/1945 được Hồ Chí Minh chia, miền Bắc chỉ nhận được 1/3 trong khi quân Trung Quốc được 2/3. Hồ Chí Minh tặng dụng cụ hút thuốc bằng vàng và một tẩu thuốc phiện bằng vàng cho Lư Hán sau tuần lễ vàng và mua vũ khí bằng số tiền c̣n lại….
Quân Tưởng tràn vào mang theo đồng quan kim (tiền Trung Quốc) đang mất giá và Lư Hán “yêu cầu” với ông Hồ là giá hối đoái được ổn định ở mức 14 quan kim ăn 1 đồng bạc, ông Hồ liền yêu cầu nên để vấn đề này lại cho tới khi thành lập một uỷ ban tài chính. Nhưng chỉ mấy ngày sau, không có thảo luận ǵ thêm, Lư Hán ấn định một cách chính thức và một chiều giá hối đoái là 14 ăn 1. Tỷ lệ này đối với đồng quan kim mất giá, cùng với các thủ đoạn tài chính khác, đă đặt khuôn khổ cho một hoạt động chợ đen đồ sộ thực sự đă tàn phá nền kinh tế Việt Nam.
Với những đồng quan kim mà ở Trung Quốc phải có hàng tấn mới có giá trị, các sĩ quan Trung Quốc ở Việt Nam có những quan hệ kinh doanh riêng, đă kết hợp chặt chẽ với con buôn, chủ nhà băng, và thầu khoán để mua bằng một giá rẻ mạt mọi công cuộc kinh doanh có lợi mà họ thấy ở Việt Nam. Số này hoạt động không chỉ trong cơ cấu tổ chức quân sự Trung Quốc mà c̣n qua hệ thống của Đoàn Cố vấn Việt Nam do Quốc dân Đảng ở Trùng Khánh đỡ đầu.
Các công ty và trust nhanh chóng được thành lập để nắm quyền làm chủ hoặc kiểm soát các lợi ích ở Việt Nam hoặc các đồn điền của chủ Pháp, các trang trại, dinh thự, nhà máy, hầm mỏ, bến cảng và phương tiện giao thông vận tải… Nhà ở tư nhân, nhà hát, tiệm nhảy, khách sạn, cửa hàng và các nhân viên phục vụ đều được các ông chủ trả theo một giá rất thấp. Nếu họ phản đối hoặc dám bác bỏ đề nghị của các hiệp hội th́ giới quân sự đă có cách để cưỡng ép họ…
Ở Hải Pḥng, quân Trung Quốc đă cưỡng ép các nhà buôn địa phương khi họ từ chối không nhận tiền quan kim v́ đă được định theo một giá hối đoái không thực tế. Ở Tuyên Quang, các nhà chức trách quân sự Trung Quốc đă quy định (ít ra cũng là tạm thời) giá 1 quan kim ăn 20 đồng bạc Đông Dương. Tại Hà Nội, các nhà buôn Hoa kiều lại đổi 1 quan kim ăn 1 đồng bạc.
Lư Hán yêu cầu Hồ Chí Minh phải tiến hành sửa chữa ngay một số đường liên lạc điện tín điện thoại bị phá hoại dẫn tới Hà Nội, Hải Pḥng để quân đội của ông ta kịp thời chuyển tới. Ông Hồ nói lại là cần phải có thời gian nếu như quân đội Trung Quốc không đảm nhận lấy việc này, nhưng Lư Hán kiên quyết không chịu nên ông Hồ phải đồng ư nhận cung cấp nhân công nếu như được Trung Quốc giúp đỡ về vật liệu.
Biết tin quân Tưởng chuẩn bị vào các nhà buôn đă thay đổi mặt hàng ngay từ ban đêm. Chỉ những ǵ ế ẩm mới được trưng ra và với giá đă được tăng lên rất cao. Các cửa và cửa sổ hướng ra thành phố đều bị đóng khoá chặt. Ngay giữa ban ngày, không có người phụ nữ Việt Nam và Âu nào dám đi ra phố mà không có nam giới đi cùng…
Nhưng cộng đồng người Hoa ở Hà Nội là một ngoại lệ.
Ban đầu họ xô ra đường để đón chào các đồng hương của họ. Nhưng sau khi đoàn hậu quân đă tới th́ sự phấn khởi của dân địa phương cũng tan biến đi. Hơn nữa, v́ lo cho tương lai, các nhà lănh đạo cộng đồng người Hoa ở đây muốn được có an ninh nên đă yêu cầu phái đoàn Mỹ (nhóm OSS của Patti) chuyển cho Lư Hán bức điện sau đây:
“Hoa kiều ở Hà Nội xin gửi đến ngài những lời chào mừng nhiệt liệt và sự kính trọng sâu sắc nhất trước sự nghiệp sáng láng của ngài trong cuộc chiến thắng cuối cùng và chuẩn bị đón mừng một cách nồng nhiệt nhất ngày ngài tới Đông Dương”.
Vào thời kỳ đó, dân chúng Hoa kiều ở toàn Đông Dương có khoảng 50 vạn người. Tuyệt đại bộ phận họ tập trung tại Chợ Lớn, thành phố toàn người Hoa sát với Sài G̣n và tại Pnom Penh, thủ đô Kampuchia. Một số đáng kể sống ở Sài G̣n, Hải Pḥng và Hà Nội. Họ giữ một vai tṛ có ưu thế trong đời sống kinh tế của đất nước, kiểm soát rộng răi về tài chính các ngành thương mại và buôn bán. Những người Hoa ở Việt Nam hợp thành một tập đoàn dân tộc cần cù có những mối quan hệ gia đ́nh và chính trị khá chặt chẽ với Trung Quốc, nơi mà họ bày tỏ ḷng trung thành duy nhất với đất nước của họ…
Hoa kiều ở đây không sống riêng biệt mà quây quần với nhau trong những khu vực của lớp người trung gian được gọi là các “bang”.
Hiệp ước Nam Kinh 1935 đă coi những Hoa kiều này như là những “người ngoại quốc có quy chế ưu đăi”, phải tuân theo pháp luật của Pháp và đóng thuế cho người đại diện cho mỗi “bang”. Theo quy định đó th́ họ chẳng có ǵ phải ngại đối với người Việt cũng như người Âu hay Nhật.
Những người Hoa kiều này hy vọng Lư Hán, với toàn quyền cai trị nhân danh Tưởng, sẽ giải thoát họ khỏi sự thống trị của người Pháp, khỏi cái mà họ coi như một quy chế tốn kém và phụ thuộc.
Chỉ hai ngày sau khi tới Hà Nội, Lư Hán đă chỉ thị cho Chính phủ Lâm thời Việt Nam băi bỏ “chế độ các bang” trong việc đối xử với cộng đồng người Hoa ở Đông Dương. Đó là một thủ đoạn tạo nền móng cho người Hoa ở Việt Nam về kinh tế sau khi họ rút đi và Pháp quay trở lại.
(C̣n tiếp).
Đến phần này cần t́m hiểu thêm về tướng Lư Hán, Tại sao Lư Hán lại được Tưởng cử làm Tổng tư lệnh các lực lượng của Trung Quốc sang giải giáp Nhật mà không phải là Trương Phát Khuê, trong khi trước đó Trương Phát Khuê được giao nhiệm vụ tập hợp các đảng phái chống Pháp của người Việt Nam thành một mặt trận thống nhất (Đồng Minh Hội) để có kế hoạch gây ảnh hưởng của Trung Quốc vào nền chính trị của Đông Dương, trước mắt là để chống Nhật, và lâu dài sẽ bành trướng xuống phía Nam?
Tại Vân Nam Trung Quốc một tỉnh có biên giới với Việt Nam.
Năm 1927, tướng Long Vân lên thay nắm quyền cai trị Vân Nam hơn 20 năm cho đến khi Chính phủ Trung ương Quốc dân đảng bổ nhiệm tướng Đỗ Duật Minh thay thế vào năm 1945. Đỗ Duật Minh thay thế Long Vân trong thời gian ngắn, sau đó em họ của Long Vân là Lư Hán lên nắm quyền.
Lư Hán là người như thế nào?
Lư Hán vốn xuất thân trong một gia đ́nh đại địa chủ vùng Viêm Sơn, là em họ của Long Vân.
Tháng 7 năm 1937 nổ ra cuộc chiến chống Nhật, Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch và Đảng Cộng sản của Mao Trạch Đông cùng đứng về một chiến tuyến chống Nhật (Gọi là Liên minh Quốc – Cộng). Trong lần biên chế lại Lục quân Lư Hán được giao chức quân đoàn trưởng quân đoàn 60. Năm 1938, quân đoàn 60 nhận nhiệm vụ tham gia chiến dịch Đài Nhi Trang ở Từ Châu, quân Vân Nam chết đến quá nửa.
Quân Vân Nam sau đó c̣n tham gia hội chiến ở Vũ Hán, quân đoàn số 58 của Long Vân và quân đoàn 3 cùng tham gia mặt trận chống Nhật ở Hàng Châu và gộp với quân đoàn 60 thành quân đoàn 30, Lư Hán nhậm chức Tư lệnh quân đoàn. Năm 1940 quân Nhật chiếm Việt Nam, biên giới Việt Nam và Vân Nam khá căng thẳng, Long Vân điều hai sư là 182 và 184 về coi giữ và giao cho Lư Hán làm tổng tư lệnh.
Nhật đầu hàng Đồng minh, Quân đội Quốc dân đảng do Lư Hán Tư lệnh quân Vân Nam điều động 4 quân đoàn gồm 18 vạn quân từ Vân Nam và Quảng Tây kéo vào miền Bắc Việt Nam giải giáp Quân đội Nhật.
Tháng 5 năm 1946 Lư Hán đưa quân quay về Vân Nam và đảm nhiệm các chức: Chủ tịch tỉnh Vân Nam, Tư lệnh An Ninh tỉnh kiêm Hiệu trưởng Học viện quân sự Xương Nghi. Tháng 7 năm 1948, Lư Hán hạ lệnh trấn áp học sinh Côn Minh tạo ra sự kiện thảm sát 15 tháng 7. Năm 1949, Lư Hán c̣n tạo ra vết nhơ trọng vụ thảm sát 21 người vô tội trên đường phố Nam B́nh.
Long Vân bị Tưởng cách chức Tổng đốc Vân Nam và triệu hồi về thủ đô Nam Kinh v́ nghi ngờ Long Vân cộng tác quá sâu với Mao cộng sản. Tưởng phong cho Long Vân chức vụ bù nh́n là Phó Ủy viên trưởng "Ủy ban Cố vấn Chiếc lược" và giam lỏng tại đó. Cuối năm 1948, Long Vân bỏ trốn sang Hồng Kông và tham gia Ủy ban Cách mạng Quốc Dân Đảng.
Năm 1948 Long Vân và Hoàng Thiệu Hoành mở cuộc cách mạng chống lại Tưởng ở Hồng Kông. Sau chiến thắng của Đảng Cộng sản, Long Vân được mời tham gia Chính phủ Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa và trở thành Phó Chủ tịch Ủy ban Quốc pḥng Quốc gia và Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính miền Hoa Nam. Ông cũng giữ chức Phó Chủ tịch của Ủy ban Cách mạng Quốc Dân Đảng. Năm 1957, Long Vân được chính phủ Trung Hoa xem như là một nhà chính trị theo khuynh hướng hữu khuynh.
Lư Hán sau khi từ Việt Nam trở về chính thức tạo phản, chạy theo Mao cộng sản, dưới sự chỉ đạo của TW DCS TQ và Ủy ban Công hội tỉnh Vân Nam và sự chi viên của quân giải phóng nhân dân (Quân đội của Mao), Lư Hán cùng chiến đấu ở Vùng biên giới giữ Vân Nam và Quư Châu. Và đến ngày 9.12.1949 đă nổ ra khởi nghĩa Côn Minh, Tỉnh Vân Nam tuyên bố giải phóng trong ḥa b́nh.
Sau năm 1950, Lư Hán lần lượt đảm nhiệm các chức Chủ tịch quân ủy Vân Nam, phó chủ tịch quân ủy Tây Nam, ủy viên thường vụ quốc hội, thường vụ ủy ban chính - hiệp (giống như MTTQ) Trung quốc, ủy viên bộ quốc pḥng, phó chủ nhiệm UBTDTT, thường vụ TƯ UB dân cách vv…
Từ đây có thể thấy, sở dĩ Tưởng Giới Thạch không để Trương Phát Khuê làm Tổng tư lệnh quân giải giáp Nhật sang Việt Nam mà là tướng Lư Hán v́ hai lư do chính:
- Khi biết nhóm Long Vân và Lư Hán có mưu đồ tạo phản, Tưởng phải tách ra một mặt cách chức Long Vân không cho làm Chủ tịch Vân Nam (Chức vụ hành chính) và triệu hồi về Nam Kinh giam lỏng. C̣n Lư Hán (nắm quân đội) bị đày sang Việt Nam (Phần tiếp theo sẽ nói rơ lư do).
- Sau Hội nghị Potsdam t́nh h́nh quốc tế đă thay đổi, cùng với cái chết của tổng thống Mỹ Franklin Delano Roosevelt (12/4/1945), tân tổng thống Mỹ Truman đă bị Anh và Pháp gây sức ép về vấn đề thuộc địa đă bật đèn xanh cho Pháp quay lại Đông Dương.
Tưởng Giới Thạch đang đau đầu về việc Cộng Sản Mao được hậu thuẫn của Liên Xô tiến hành cuộc tranh dành quyền lực nắm quyền lănh đạo đất nước với Tưởng, nên cần có sự giúp đỡ của đồng minh ngoài Mỹ ra c̣n có Anh, Pháp… Cho nên Tưởng phải thay đổi ư đồ tranh dành ảnh hưởng với Pháp tại Đông Dương, Bởi vậy Tưởng phải chấp nhận bỏ rơi “bạn cũ” -các lực lượng người Việt chống Pháp.
(C̣n tiếp)
Tưởng Giới Thạch từ bỏ âm mưu gây ảnh hưởng ở Đông Dương cũng không phải là hành động tử tế, tốt đẹp ǵ, v́ Tưởng lượng sức không thể cạnh tranh với Pháp, khi thấy quyết tâm của Pháp bằng mọi giá giữ lại mảnh thuộc địa giàu có mà họ đă hơn 80 năm thống trị. Điều tốt nhất là đàm phán với Pháp đổi lại lấy các quyền lợi kinh tế, và sự ủng hộ của Pháp để chống lại Mao cộng sản.
Trong mối quan hệ nhằng nhịt và mâu thuẫn phức tạp từ quá khứ và hiện tại bắt buộc Tưởng phải có giải pháp để đạt được mục đích có lợi nhất, biết mất cái ǵ và đạt được cái ǵ.
Trong quá tŕnh đàm phán với Pháp, Tưởng muốn chứng minh không có ư đồ chiếm đóng Đông Dương để rộng cửa cho Pháp. Về phía người Pháp họ ở trong t́nh thế bất lợi v́ lực lượng quân sự Pháp đă không c̣n đóng ở Đông Dương sau cuộc đảo chính tháng 3/1944 khi Nhật hất cẳng Pháp.
Về mặt danh chính ngôn thuận các nước Đồng Minh lại ủy quyền cho quân đội Tưởng Giới Thạch vào giải giáp Nhật nên Tưởng Giới Thạch sẽ có lợi thế hơn trong đàm phán với Pháp về vấn đề Đông Dương.
Tuy vậy, mục đích của hai bên trên tổng thế như thế là thuận lợi, vấn đề chỉ là xác định ḷng tin, trong chính trị ḷng tin được xây dựng bền vững nhất chính là sự ràng buộc và cả hai bên đều đạt lợi ích để ra, không có ḷng tin nào được xác lập từ một phía, kẻ yếu mà tin vào kẻ mạnh là thứ chính trị ngây thơ và khờ dại nhất.
Chính v́ vậy Tưởng đă cử Lư Hán là Tổng tư lệnh đến Đông Dương để giải giáp quân Nhật tạo ḷng tin cho Pháp mà không phải Trương Phát Khuê.
Lư Hán không hề có quan hệ liên quan và chẳng hiểu biết ǵ về các lực lượng, đảng phái người Việt chống Pháp, tạo cho Pháp ḷng tin Tưởng không hề có ư định xây dựng một nhà nước thân Trung Quốc.
Mặt khác Tưởng cũng không muốn mất mặt, mang tiếng bán đứng những lực lượng người Việt chống Pháp đă được Tưởng hỗ trợ và hậu thuẫn và cũng làm lợi thế trong đàm phán về đ̣i hỏi quyền lợi với Pháp, Tưởng đă cử Tiêu Văn làm phó Cho Lư Hán như để răn đe Pháp nếu không đạt được lợi ích ǵ sẽ sẵn sàng trở mặt.
Tiêu Văn đă rất bất măn về quyết định này của Tưởng Giới Thạch.
Theo Tiêu Văn, nếu không có sự chỉ đạo tích cực của Trương Phát Khuê Trung Quốc không thể hy vọng thiết lập được những quan hệ thân thiện với Việt Nam sau thời kỳ chiến tranh. Tiêu Văn vẫn giữ ư kiến này cho đến cuối 1947, việc chọn Lư Hán để chỉ huy cuộc chiếm đóng là một việc tồi tệ nhất.
Tiêu cho Lư Hán không biết ǵ về “vấn đề” ở Việt Nam, có nhăn quan rất hạn chế, hẹp ḥi và chỉ huy những đội quân hoàn toàn không thích đáng với nhiệm vụ chiếm đóng.
Trương và Tiêu đă từ lâu có công xây dựng nền móng cho một sự thân thiện Việt - Hoa có hiệu lực mà trong đó Tiêu đă giúp “đạt được ít nhiều thắng lợi”. Việc thay đổi đột ngột nhằm phái Trương và đội quân tinh nhuệ nhất của ông ta tới Quảng Đông thay v́ cho Hà Nội có nguy cơ làm mất Đông Dương vào tay người Pháp và theo ư Tiêu, đó là một quyết định tai hại.
Nhưng vị trí và địa vị của Tiêu khiến cho ông ta có tầm nh́n ngắn hạn mà không hề biết sự toan tính ở tầm cao hơn của Tưởng Giới Thạch.
Biết thông tin quân đội Tưởng vào Việt , những đảng phái người Việt lưu vong ở Trung Quốc kéo về nước. Họ mang theo cao vọng là sẽ nắm trọn quyền lănh đạo đất nước nhưng lại quá kém về tổ chức và không có được một chương tŕnh hành động ra hồn.
Họ đă sống tập trung nhiều năm ở Quảng Tây dưới sự che chở của Trương Phát Khuê và ngẫu nhiên trở nên chống Pháp. Họ hy vọng dựng lên một nước Việt Nam độc lập với sự giúp đỡ của Trung Quốc. Khi chiến tranh kết thúc, ai cũng đinh ninh là việc chiếm đóng Đông Dương sẽ được trao cho Trương, nên việc chuyển nhiệm vụ đó vào phút chót cho Lư Hán, đă làm cho người lưu vong vô cùng bối rối.
Liên minh Đồng minh Hội đầy tham vọng và rạn nứt, đă bị lạc lơng. Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt cũng tách khỏi liên minh và t́m cách giành cho ḿnh quyền lănh đạo.
Sự tan vỡ đă làm cho những người lưu vong được Trung Quốc nâng đỡ mất hết hiệu lực, và họ phải chia làm hai phe. Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt đi theo viên tướng Vân Nam Lư Hán, những người c̣n lại của Đồng minh Hội th́ ở lại dưới quyền lănh đạo của Tiêu Văn, phục vu cho Trương Phát Khuê và Quốc dân Đảng (Trung Quốc). Sự chia rẽ đă làm lợi cho Việt Minh suốt trong 6 tháng, là thời cơ để Việt Minh thẳng tay đàn áp những người Quốc gia thân Trung Quốc.
Vào cuối tháng 8, quân đội Trung Quốc đă vượt qua biên giới theo hai cánh. Các tập đoàn quân 62 và 53 dưới quyền chỉ huy của tướng Tiêu Văn, tiến từ Quảng Tây vào chiếm Cao Bằng, Lạng Sơn và các cứ điểm chủ chốt dọc bờ biển Đông Bắc đến Hải Pḥng. C̣n các tập đoàn quân 93 và 60 của Lư Hán từ Vân Nam tiến vào Lào Cai và đi dọc theo thung lũng sông Hồng tới Hả Nội - Vinh - Đà Nẵng.
Dưới sự lănh đạo của Nguyễn Hải Thần, Đồng minh Hội đi theo quân Quảng Tây vào Cao Bằng và Móng Cái. V́ muốn giành cho ḿnh một địa vị lănh đạo trong chính phủ, Nguyễn Hải Thần cho rằng Trung Quốc có thể dựng lên ở Hà Nội, nên đă lao đi trước quân đội để về thủ đô gặp người đỡ đầu là tướng Tiêu Văn. Khi Thần đang trên đường về Hà Nội th́ Vũ Kim Thành, một phụ tá tin cậy của Thần đă từng tập hợp được một đội quân vài trăm người cho Đồng minh Hội, đă thành lập một “Chính phủ Quốc gia Việt Nam Lâm thời” ở Móng Cái và “bầu” Thần làm thủ tướng. Trong khi Thần vắng mặt th́ Thành nắm quyền thay.
Ngày 13-9, Thần tới Lạng Sơn với một số quân do Nông Quốc Long dẫn đầu. Quân Đồng minh Hội hạ cờ Việt Minh và kéo cờ của họ thay vào đó. Thần cho họp mít tinh quần chúng có khoảng 3 hay 4 trăm người và nói với quần chúng “rằng họ phải theo sự lănh đạo và chính sách của Trung Quốc ngay cả khi phải trả giá bằng nền độc lập của ḿnh”. Nghe thấy thế, “quần chúng” liền bỏ đi, kéo cờ Đồng minh Hội xuống và trương cờ Việt Minh lên. Chắc chắn là đă có cán bộ Việt Minh lănh đạo quần chúng trong cuộc loạn đả sau đó.
Quần chúng được đội tự vệ hỗ trợ, đă tấn công vào đám bộ hạ của Thần cho tới khi quân Trung Quốc đến lập lại trật tự.
Thần liền rút khỏi Lạng Sơn về Kỳ Lừa và ra lệnh cho “quân đội” của Vũ Kim Thành xúc tiến một cuộc hành quân trừng phạt trong vùng từ Lạng Sơn tới Chữ, ở phía bắc Kép.
Cùng ngày đó, tất cả dân chúng Việt Nam dọc đường xe lửa từ Lạng Sơn tới Kép đă phải bỏ nhà cửa, ruộng đất ra đi sau những ngày bị binh lính Tập đoàn quân 62 và bọn “thổ phỉ” tay chân của Tiêu Văn cướp phá.
Bọn thổ phỉ này chính là quân của Vũ Kim Thành. Đây không phải là một bước đầu đă làm được cho “quần chúng nhân dân” “quư chuộng” các lănh tụ đă xuất ngoại và cái chính phủ ma ở Móng Cái chỉ tồn tại được tới cuối tháng 10, khi Tiêu Văn ép được Nguyễn Hải Thần hợp tác với chính phủ ông Hồ trong một mặt trận thống nhất chống Pháp.
(C̣n tiếp)
Cuộc Tổng khởi nghĩa, hay c̣n được gọi là “Cướp chính quyền” diễn ra thuận lợi gần như không đổ máu trong ṿng 10 ngày và Việt Minh cộng sản của Hồ Chí Minh tuyên bố ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa về mặt quốc tế hầu như không được các quốc gia nào trên thế giới đếm xỉa, người Nhật làm ngơ, quân đội Nhật đóng ở Việt Nam đợi ngày bị giải giáp, họ chỉ bảo vệ kho bạc, các binh lính đồn trú án binh bất động để cho Việt Minh và dân chúng tha hồ hành động.
Việc giành được chính quyền với khí thế của quần chúng ào ào ủng hộ Việt Minh và h́nh ảnh Hồ Chí Minh đă bắt đầu trở nên như một thần tượng đă tạo ra cho những người lănh đạo cộng sản một ảo tưởng về một cuộc cách mạng giống như Cách mạng tháng 10 ở nước Nga Xô viết, họ tin tưởng vào học thuyết Mác – Lenin là một hiện thực, cẩm nang đường lối, tư tưởng dẫn dắt h́nh thành một nước Việt Nam Xă hội chủ nghĩa, họ tin tưởng tuyệt đối chỉ những người cộng sản mới đủ tài đức, trí tuệ lănh đạo dân tộc.
Những người Cộng sản họ cũng đề cao vấn đề dân tộc, họ cũng cho vấn đề dân tộc là trung tâm, cốt lơi trong đường lối xuyên suất của cái gọi là Cách mạng Việt Nam. Nhưng vấn đề dân tộc họ lại đặt ra một nguyên tắc bất di bất dịch là không chia sẻ quyền lực và họ là đảng phái duy nhất có quyền lănh đạo dẫn dắt dân tộc. Đối với họ yêu nước phải gắn với yêu Chủ nghĩa xă hội, và yêu bác Hồ.
Trong 80 năm người Pháp đô hộ, người Việt yêu nước đă liên tục đấu tranh để thoát khỏi ách đô hộ đó, những cuộc khởi nghĩa chống Pháp nổ ra liên miên trên khắp đất nước bị Pháp đàn áp rất tàn khốc và thất bại.
Thất bại chủ yếu là không liên kết được với nhau, trang bị vũ khí lạc hậu, không có chủ thuyết mạch lạc… Đây là hậu quả tất yếu của một dân tộc theo chiều dài lịch sử luôn thỏa hiệp và đánh rơi cơ hội, một dân tộc mà những người nắm quyền cai trị đất nước tận dụng triệt để xương máu của người dân trong đấu tranh dành độc lập nhưng sau đó lại phản bội lại lợi ích của nhân dân chỉ biết lo sự tồn tại của vương triều lấy chính sách ngu dân để trị… và sẵn sàng đàn áp không thương tiếc…
Một dân tộc như thế nhất định và có lẽ không bao giờ định h́nh được một tư tưởng trong dân chúng về vấn đề dân tộc mà chỉ là tập hợp những con người đói th́ kêu ăn, khổ th́ gào thét, đau đớn th́ quằn lên, hờn căm th́ phá phách giết chóc, và bị lạm dụng trong cuộc tranh giành quyền lực của các nhóm lợi ích và điều này được lặp đi lặp lại từ vương triều này đến vương khác, từ chế độ này đến chế độ khác…
Một dân tộc được cho là sản sinh ra rất nhiều anh hùng, các chí sỹ yêu nước qua các thời đại nhưng đó chỉ là giọt nước mắt cá sấu của những trang sử do bọn bồi bút nặn ra. Những người được nêu gương như thế được dựng lên khi xương thịt của họ ḥa vào ḷng đất chỉ để chăm bón cho cái cây chế độ là tấm gương cho sự trung thành với chế độ, với vương triều…
Một dân tộc lấy sự trung thành, sự ngu trung ra làm quốc giáo cho giáo dục từ thế hệ này đến thế hệ khác sẽ măi chỉ là dân tộc nô lệ- Nhà cầm quyền th́ nô lệ cho ngoại bang, dân chúng làm nô lệ cho kẻ cầm quyền… Và khi các xung đột lợi ích theo một chu kỳ suy thịnh diễn ra lại lâm vào cảnh đầu rơi máu chảy.
Một dân tộc không t́m ra triết lư của riêng ḿnh cho lợi ích cộng đồng, không có tư tưởng được đúc kết trả lời cho câu hỏi tại sao nhân dân rất anh hùng, lại là nạn nhân cho các chế độ cầm quyền? Một dân tộc luôn vùng lên chống áp bức và nô lệ nhưng không thoát khỏi áp bức và nô lệ? Một dân tộc hướng ngoại nhưng không biết chọn lọc tinh hoa tư tưởng, cũng như triết lư tinh hoa của thế giới, toàn đi chọn những thứ chủ nghĩa đồi bại mang về để nhằm mục đích ǵ?
Một dân tộc mất niềm tin vào mọi thứ, mất niềm tin vào chính “Đồng bào, đồng chí” sẽ dẫn dẫn đến nghi kỵ lẫn nhau và đấy chính là là gót chân “Asin” bị các thế lực nước ngoài, và nhà cầm quyền dùng biện pháp “Chia để trị” một cách có hiệu quả.
Thời kỳ 1945- 1946 của lịch sử Việt Nam là một đỉnh điểm tái hiện lại quá khứ của một dân tộc Việt Nam đă từng như thế.
Bắt đầu từ phần này chúng ta sẽ lần theo các sự kiện diễn ra trong thời kỳ 1945-1946 khi đi t́m hiểu về các đảng phái chính trị ở Việt Nam để thấy rơ các luận điểm có tính khái quát ở phần viết bên trên/
(C̣n tiếp)
vBulletin® v3.8.9, Copyright ©2000-2025, vBulletin Solutions, Inc.