VietBF
Page 4 of 4 123 4

VietBF (https://www.vietbf.com/forum/index.php)
-   Breaking News | Tin Sốt (https://www.vietbf.com/forum/forumdisplay.php?f=40)
-   -   Sự hoang tưởng quyền lực (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=1877367)

Gibbs 05-07-2024 04:20

Theo như Trần Trọng Kim viết lại, tháng 10/1942 các đảng phái chính trị Việt Nam được bảo trợ của Trung Hoa dân Quốc như Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội... và một số nhân vật không đảng phái như Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần, Trần Báo, Trương Trung Phụng … nhóm họp ở Liễu Châu, Trung Quốc thành lập ra Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội.
Nông Kính Du,Hồ Chí Minh được cử làm hậu bổ ủy viên và Trần Báo làm tổng cán sự.
Điều này không chính xác v́ Hồ Chí Minh đang bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam giữ từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943 mới được thả.
Có một câu hỏi cần được giải đáp là:
Cái tên Hồ Chí Minh có từ bao giờ?
Hồ Chí Minh từ Việt Nam quay lại Trung Quốc vào tháng 8/1942 bị bắt v́ lư do giấy tờ tuỳ thân do chính quyền Tưởng Giới Thạch cấp đều có tên Hồ Chí Minh vào năm 1940 đă hết hạn sử dụng.
Với kế hoạch quay trở về Việt Nam (28/1/1941) thiếu tá Bát Lộ Quân Hồ Quang (Nguyễn Ái Quốc) đă được các đồng chí Trung Quốc đưa sang một cái tên mới, và họ đă làm giấy tờ cho Hồ Quang thành Hồ Chí Minh để dễ đi lại.
Và tên Hồ Chí Minh chính thức có vào năm 1940 là câu trả lời hợp lư.
Như phần trước đă đề cập Hồ Chí Minh được chính quyền Tưởng Giới Thạch thả chủ yếu là do tác động của người Mỹ, khi Hồ Chí Minh đồng ư cộng tác với người Mỹ, mục đích của người Mỹ là tận dụng lực lượng của Việt Minh làm hậu cứ, t́nh báo, nếu quân đội Mỹ nhảy vào Đông Dương đánh Nhật. Thực chất người Mỹ lúc này biết Hồ Chí Minh là một người cộng sản nhưng họ nghĩ đấy chỉ là cách thức để Hồ Chí Minh t́m con đường độc lập cho Việt Nam.
Và Hồ Chí Minh sau khi được thả ra, ông và các đồng chí của ḿnh đă khai thác triệt để sự kiện này để tuyên truyền Việt Minh có sự ủng hộ của Mỹ và Đồng minh, khiến cho nhiều thành phần dân chúng và các đảng phái khác càng tin tưởng vào Việt Minh là một tổ chức có sự hậu thuẫn và được Mỹ cùng đồng minh công nhận.
Với chủ trương Việt Cách sẽ trở thành một đồng minh trong việc chống lại quân Nhật tại Đông Dương, tướng Trương Phát Khuê (Trung Hoa Dân quốc) phái tướng Tiêu Văn triệu tập một cuộc đại hội để chỉnh đốn Việt Cách bằng cách đưa một số người mới vào ban lănh đạo.
Hồ Chí Minh sau khi cộng tác với người Mỹ, cộng với việc ông chỉ đạo Việt Minh tuyên truyền: Việt Minh không phải là đảng cộng sản, chỉ là một mặt trận gồm tất cả các đảng phái lấy lại độc lập cho nước nhà, vậy nên từ bắc chí nam đâu cũng có người theo.
Chính v́ vậy, Trương Phát Khuê đă giới thiệu Hồ Chí Minh vào tổ chức Việt Nam cách mạng đồng minh hội.
Tiêu Văn đă trao đổi với Hồ Chí Minh, lúc này mới được chính quyền Tưởng Giới Thạch trả tự do th́ Hồ Chí Minh nói rằng hiện nay các thành viên của hội Việt Cách đều là người ở hải ngoại, chưa có đại biểu trong nước; như vậy, gọi là họp đại hội không ổn, có lẽ chỉ nên gọi là hội nghị đại biểu các đoàn thể của Việt Cách ở hải ngoại, th́ thích hợp hơn.
Hội nghị đại biểu họp tại Liễu Châu từ ngày 25 đến ngày 28 tháng 3 năm 1944, gồm 15 đại biểu các đoàn thể chưa phải là thành viên Việt Cách, trong đó có đại biểu Hội giải phóng ở Vân Nam là Lê Tùng Sơn vốn đă theo Việt Minh, đại biểu Biệt động quân ở Nam Ninh là Nguyễn Thanh Đồng cũng là Việt Minh, đại biểu Đảng Đại Việt là Nguyễn Tường Tam và đại biểu Phân hội phản xâm lược đồng minh Việt Nam là Hồ Chí Minh.
Tại hội nghị này, ba người cũ trong Ban Chấp hành trung ương bị thay ra và ở trong Ban giám sát là Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nông Kinh Du, c̣n ba người mới được thay vào là Lê Tùng Sơn, Bồ Xuân Luật và Trần Đ́nh Xuyên. Hồ Chí Minh và Nguyễn Tường Tam được bầu làm Ủy viên Trung ương dự khuyết. Sau một thời gian Trần Đ́nh Xuyên bị gạt ra, Hồ Chí Minh được trở thành Ủy viên Trung ương chính thức.
Như vậy, Hồ Chí Minh đă đi được một bước dài vào trong tổ chức của Việt Nam Cách mạng đồng minh hội.
Điều này được Việt Minh tuyên truyền rộng khắp và mọi người càng lầm tưởng Việt Minh đại diện cho tất cả đảng phái, các thành phần yêu nước của Việt Nam và Hồ Chí Minh là người đứng đầu, nên tên tuổi Hồ Chí Minh bắt đầu được nhân rộng.
Có một thực tế không thể phủ nhận, mà như Trần Trọng Kim đă nhận xét:
“Đảng Việt Minh cộng sản có tổ chức rất chu mật và theo đúng phương pháp khoa học. Trong khi ông Hồ Chí Minh ở bên Tàu để chờ đợi thời cơ, ở trong nước đâu đâu cũng có cán bộ, ngấm ngầm hành động và tuyên truyền rất khôn khéo. Họ lợi dụng ḷng ái quốc của dân chúng mà tuyên truyền Việt Minh không phải là đảng cộng sản, chỉ là một mặt trận gồm tất cả các đảng phái lấy lại độc lập cho nước nhà, vậy nên từ bắc chí nam đâu cũng có người theo.
Cách hành động của họ th́ bất cứ công sở hay tư sở, hễ đâu có một tổ chức làm việc là có người của họ chen lấn vào, hoặc để tuyên truyền, hoặc để hoạt động theo chủ nghĩa họ. Đảng viên cộng sản lại biết giữ kỷ luật rất nghiêm và rất chịu khó làm việc. Xem như Hội Truyền Bá Quốc Ngữ khi mới thành lập ở Hà Nội là có ngay những người cộng sản vào hội rồi, và những người nhận việc đi dạy học rất chăm, không quản công lao ǵ cả. Một tổ chức có kỷ luật và chịu khó làm việc như thế, làm ǵ mà không mạnh”
(C̣n tiếp)

Gibbs 05-10-2024 02:36

PHẦN 43.
Sau hội nghị tại Liễu Châu, Hồ Chí Minh trở về Việt Nam. Có thể nói ông đă biến nguy thành cơ bằng cách đồng ư cộng tác với người Mỹ để đạt được mục đích chui sâu vào các đảng phái có sự bảo trợ của Trung Hoa dân Quốc và bài cộng sản.
Tưởng Giới Thạch một phần cũng muốn lôi kéo Việt Minh trong âm mưu đưa Việt Nam vào quỹ đạo Trung Quốc sau này nên đă giới thiệu Hồ Chí Minh tham gia vào tổ chức Việt Nam cách mạng đồng minh hội thông qua tướng Trương Phát Khuê.
Mặt khác Nguyễn Hải Thần cũng ủng hộ Hồ Chí Minh nên Hồ chí Minh trở thành Uỷ viên trung ương của Việt Cách thuận lợi hơn.
Việc Hồ Chí Minh đứng vào tổ chức Việt Nam cách mạng đồng minh hội cũng tạo ra sự chia rẽ trong tổ chức này, v́ một số thành viên không muốn có người của cộng sản tham gia, và sau này những nghi ngờ về tính hai mặt của Hồ Chí Minh của họ hoàn toàn có cơ sở.
Về nước trên danh nghĩa là người của Việt Cách, ông đă thúc giục Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh hội) ra sức tuyên truyền Việt Minh là một mặt trận bên cạnh Việt Cách không phải là tổ chức của những người cộng sản để có sự ủng hộ của mọi tầng lớp trong xă hội.
Người của Việt Minh thực chất là những người cộng sản đă nằm ở khắp mọi nơi, không như các đảng phái khác chủ yếu vẫn nằm bên Trung Quốc đợi thời, nên tiếng nói của Việt Minh với lá cờ đỏ sao vàng đă trở nên gần gũi và quen thuộc với đại bộ phận dân chúng.
Cương lĩnh chính trị của Việt Minh đưa ra đẹp như một bức tranh thiên đường, có sức hấp dẫn và quyến rũ đặc biệt với tầng lớp nông dân và dân nghèo:
Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập.
Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do.
Công nhân: Ngày làm tám giờ, định lương tối thiểu, công việc như nhau th́ tiền lương ngang nhau. Cứu tế thất nghiệp xă hội, bảo hiểm, cấm đánh dập, chửi mắng thợ, thủ tiêu giấy giao kèo giữa chủ và thợ, công nhân già có lương hưu trí.
Nông dân ai cũng có ruộng đất để cày cấy, giảm địa tô, cứu tế nông dân trong những nǎm mất mùa.
Binh nhân: Hậu đăi những người có công giữ ǵn Tổ quốc phụ cấp cho gia đ́nh họ được đầy đủ.
Học sinh: Bỏ học phí, bỏ giấy khai sinh, hạn tuổi, giúp đỡ học sinh nghèo.
Phụ nữ: Đàn bà được b́nh đẳng với đàn ông về mọi phương diện kinh tế, chính trị, xă hội, vǎn hóa.
Thương nhân: Bỏ ba tǎng môn bài và các thứ thuế khác do Pháp đặt ra.
Viên chức: Hậu đăi cho xứng đáng với công học tập.
Những người già và tàn tật được chính phủ chǎm nom cấp dưỡng.
Nhi đồng được chính phủ chǎm nom về trí dục và thể dục.
Đối với Hoa kiều được chính phủ bảo đảm tài sản và coi như tối huệ quốc.
Việt Minh c̣n tuyên truyền tổ chức của họ được các nước đồng minh công nhận, và Hồ Chí Minh được hậu thuẫn của người Mỹ thông qua việc ông hợp tác với cơ quan t́nh báo Mỹ OSS.
Việc Hồ Chí Minh được tướng Chennault tiếp kiến, Việt Minh tuyên truyền là một sự công nhận chính thức của Mỹ, là bằng chứng cho các đảng phái Quốc gia thấy Mỹ ủng hộ Việt Minh. Người Mỹ xem đây chỉ là một mưu mẹo của Hồ Chí Minh nhưng ông cũng đă đạt được kết quả, nên uy tín của Hồ Chí Minh ngày càng nhân rộng.
Về tổ chức, Việt Minh có một cơ chế riêng, khác hẳn với cơ chế tổ chức của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Hệ thống tổ chức, ở các xă có Ban Chấp hành Việt Minh do các đoàn thể Việt Minh ở làng hay xă cử ra;
Tổng, huyện (hay phủ, châu, quận), tỉnh, ḱ có Ban Chấp ủy Việt Minh cấp ấy;
Việt Minh toàn quốc có Tổng bộ.
Ngoài những đoàn thể cứu quốc có tính chất chính trị, cách mạng rơ rệt (như Hội Công nhân Cứu quốc, Hội Nông dân Cứu quốc, Hội Phụ nữ Cứu quốc, Hội Thanh niên Cứu quốc,...) c̣n có những đoàn thể không có điều lệ, hoạt động công khai và bán công khai như Hội Cứu tế Thất nghiệp, Hội Tương tế, Hội Hiếu hỉ, nhóm học Quốc ngữ, nhóm đọc sách, xem báo,...
Để không lộ rơ sự chỉ đạo đằng sau của những người cộng sản, ngay từ những năm 1941 khi Việt Minh mới thành lập, Hồ Chí Minh đă ra chỉ thị”
“Cần phải chú ư không nên dùng phương pháp Đảng mà tổ chức quần chúng, v́ Đảng là một tổ chức gồm những phần tử giác ngộ nhất, hăng hái, trung thành nhất, hoạt động nhất của vô sản giai cấp. Tổ chức của Đảng cần phải chặt chẽ và nghiêm ngặt. C̣n những tổ chức quần chúng phải rộng răi, nhẹ nhàng".
Nói Việt Minh là một tổ chức tập hợp lực lượng, nhưng Tổng bộ Việt Minh không hề có một người nào thuộc các đảng phái khác tham gia, ngoài những cái tên: Hồ Chí Minh, Vơ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Trường Chinh và Hồ Tùng Mậu.
(C̣n tiếp).

Gibbs 05-13-2024 01:45

Liên minh Quốc - Cộng lần hai để chống Nhật đă kết nối Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch và giữa họ đă thống nhất một kế hoạch: Cần liên kết các đảng phái Việt Nam thành một lực lượng thống nhất và sử dụng như một đội quân trở về Việt Nam đánh Nhật.
Để làm yên ḷng những người Việt Nam tháng 11 năm 1943, tức là trước 4 tháng khi các đảng phái Việt Nam được triệu tập ở Liễu Châu (tháng 3/1944) tại Hội nghị Khải La, Tưởng Giới Thạch tuyên bố:
- Trung Quốc không có tham vọng cai trị lănh thổ Annam và đề xuất "sau chiến tranh sẽ làm cho Annam độc lập. Như vậy, hoạt động cách mạng Việt Nam trên đất Trung Quốc sẽ trở nên sôi động hơn. Phần chiến khu, huấn luyện quân sự, chủ ư đào tạo tổ chức chính trị, đại diện các đảng phái chính trị khác nhau ở Việt Nam từ bỏ định kiến, thành lập một tổ chức thống nhất liên minh"
Và Hồ Chí Minh cùng với tổ chức Việt Minh được cả Mao và Tưởng lôi kéo, đây cũng là một lư do giải thích tại sao Tưởng Giới Thạch đồng ư thả tự do cho Hồ Chí Minh vào năm 1943.
Nhưng các đảng phái Việt Nam lúc ấy với nhau mâu thuẫn về tư tưởng đường lối và phương pháp - Việt Minh là những người cộng sản được bảo trợ của Mao, Việt Quốc, Việt cách lại được Tưởng hậu thuẫn.
Trong xu thế các đảng phái Việt Nam do Tưởng bảo trợ có lực lượng áp đảo ở Trung Quốc và Việt Minh cần có tiếng nói và sự công nhận của quốc tế, nên Mao đă thông qua Chu Ân Lai chỉ đạo Hồ Chí Minh cần phải có những phương pháp khôn khéo hơn đề thâm nhập và có chân trong tổ chức này, cho một âm mưu lâu dài.
Về phần Tưởng Giới Thạch sau khi ra lệnh thả Hồ Chí Minh đă giao cho tướng Trương Phát Khuê tiếp cận với Hồ Chí Minh.
Trương Phát Khuê đau đầu, bất lực, khi ông chăm chỉ và chú ư yêu cầu các lực lượng hòa giải, chính Hồ Chí Minh cũng không thể hiện sự khiêm tốn và chân thành, tưởng hòa giải được nhưng không đơn giản, bởi đấu đá v́ lợi ích nhóm, quên đi quyền lợi thành lập quốc gia Việt Nam.
Nhưng theo một cách nào đó, có lẽ Hồ Chí Minh đă được các đồng chí Trung Quốc chỉ đạo, nên khi gặp trực tiếp Hồ Chí Minh ông đă thấy Hồ Chí Minh quay ngoắt lại với lập trường trước đây.
Trương Phát Khuê gặp Hồ Chí Minh, hỏi:
− Làm thế nào để thực hiện công việc cách mạng;
Hồ Chí Minh đáp:
− Thành lập một căn cứ du kích tại biên giới Việt Nam, thực hiện tuyên truyền là chính, c̣n vũ trang làm việc sau, tuy nhiên có kế hoạch:
(a) Truyền đạt cho nhân dân Việt Nam biết chính phủ Quốc Dân Trung Hoa và xác định lập trường độc lập của Việt Nam.
(b) Phát triển các tổ chức Liên minh cách mạng Việt Nam và lực lượng.
(c) Thông đồng Đồng Minh quân sự đă sẵn sàng để nhập cảnh vào Việt Nam.
(d) Đấu tranh cho đến khi hoàn toàn độc lập và tự do cho Việt Nam
Trương Phát Khuê hỏi tiếp:
− Tôi biết những lực lượng vũ trang của Mao Trạch Đông trong hàng ngũ của ông có hiệu năng không, và hỗ trợ thế nào?
Hồ Chí Minh:
− Chủ tịch Mao cho chúng tôi nhiều kinh nghiệm chiến đấu, và hỗ trợ nhiều vật chất lẫn tinh thần, tôi rất ngưỡng mộ chủ tịch Mao kể cả Thống Tướng Tưởng Giới Thạch.
Trước khi đến Liễu Châu tham dự Hội Nghị Trương Phát Khuê gặp Hồ Chí Minh một lần nữa để thăm ḍ ư đồ của Hồ Chí Minh và được Hồ Chí minh cam kết:
"Tôi là thành viên cộng sản, nhưng hiện nay tôi đang làm việc sự độc lập cho Việt Nam, bây giờ tôi đang làm việc không v́ cộng sản. Tôi có thể bảo đảm đặc biệt này đối với Ngài, và Việt Nam sẽ không được thực hiện chủ nghĩa cộng sản trong 50 năm".
Trương Phát Khuê cảm thấy yên tâm lấy uy tín cá nhân, tạo điều kiện thuyết phục, hướng dẫn các đại diện Liên minh cách mạng ngồi lại thảo luận việc độc lập Việt Nam, thành lập "Ủy ban trù bị Ḥa giải" khắc phục mọi dị biệt, Trương Phát Khuê chủ trương Hồ Chí Minh vẫn là người đứng đầu "Ủy ban trù bị Ḥa giải".
Hồ Chí Minh ứng cử được bầu vào Ban chấp hành, tên chính thức Hồ Chí Minh xuất hiện.
Trong tháng 8, chi nhánh Liên đoàn Vân Nam đề cử ba thành viên vào tổ chức Việt Minh , Hồ Chí Minh đạt được thắng lợi chính trị tại hải ngoại.
Không những thế, Quốc Dân Đảng Trung Quốc gặp khó khăn nhất, vẫn phải hỗ trợ cho hàng ngàn người Việt Nam hoạt động cách mạng yêu nước. Cung cấp, tài trợ từng tháng một. Riêng tháng 3 năm 1945 tài trợ cho Việt Minh "năm triệu nhân dân tệ" (5 triệu), và tài trợ tương đương cho nhóm quân đội "Việt Nam cách mạng vũ trang". Tháng năm đó, Trung Tá Quốc Dân Đảng Dương Thanh Văn mở khóa đào tạo năng khiếu cho một trăm thành viên cách mạng Việt Nam.
Sau này, Trương Phát Khuê bị những người ở Đài Loan lên án là đă có những sai lầm trong việc sử dụng Hồ Chí minh, kết quả để Hồ Chí Minh lợi dụng và đưa Việt nam trở thành một quốc gia cộng sản.
Về vấn đề này, Trương Phát Khuê nhấn mạnh rằng:
− Vấn đề, nằm ở người Việt Nam nếu là cộng sản không thể đủ khả năng để cạnh tranh với tôi, và xin giải thích với ông, Việt Nam chăm chỉ tranh đấu tốt, tôi đă nói, đó là hàng loạt người Việt Nam ở Quảng Tây trở về quê hương, tôi cảm thông người Việt Nam, và thông cảm cho các bên khác, do đó, không lo lắng về viện trợ cho Hồ Chí Minh nó sẽ không gây ra bất kỳ hậu quả xấu nào, cũng như chính phủ của Hồ sẽ không ủng hộ Mao Trạch Đông, ông đang t́m kiếm sự hỗ trợ của chúng tôi".
Cho đến năm 1967, tại Hồng Kông, Trương Phát Khuê và Hạ Liên Anh tiết lộ:
"Gần như mọi người chỉ trích tôi hỗ trợ cho Hồ Chí Minh, và nhiều người khác nói: Hồ Chí Minh leo lên trên đầu của chế độ Cộng sản và ngự trị trên ngôi vua tại Bắc Việt Nam bởi v́ tôi chống đỡ. Nhưng tôi tin chắc rằng tôi theo đuổi trong suốt chính sách Việt Nam là chính xác, dù đôi khi liên quan xung đột giữa người Việt Nam, tôi tin rằng câu nói cũ ở Trung Quốc: "trái tim của những người trên thế giới". Nếu Hồ Chí Minh là cộng sản xă hội chủ nghĩa, tất nhiên Hồ không thể thoát được khỏi xiềng xích của Đảng cộng sản của ông, và bây giờ Hồ đang dẫn đầu bởi mũi tên đi tới sau lưng của Hồ, có thể người khác giành chiến thắng".
(C̣n tiếp)

Gibbs 05-15-2024 17:17

“Hội nghị hoà giải” các đảng phái ở Liễu Châu kết thúc, Hồ Chí Minh đạt được thắng lợi chính trị quan trọng quay trở về Việt Nam.
Hồ Chí Minh về Bách Sắc để trù liệu kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”.
Theo Trần Trọng Kim viết trong “Một cơn gió bụi”:
“… Việt Nam cách mạng đồng minh hội cho ông Hồ Chí Minh cùng 22 đảng viên phần nhiều là người trong đảng Phục Quốc về nước để khởi sự hành động. Trong số 22 người ấy có một nữ đảng viên tên là Đỗ Thị Lạc là người sau có đứa con gái với Hồ Chí Minh. Về sau thấy người ta nói khi về đến địa hạt Bắc Giang, có ba đảng viên trong 22 người ấy bị giết v́ không chịu theo cộng sản.
Lúc đầu bọn ông Hồ Chí Minh chia ra làm hai đoàn. Một đoàn có ông Đặng Văn Ư, cựu trung úy trong quân đội Pháp trước về Lạng Sơn đánh lấy đồn Bảo Lạc, thuộc Hà Giang. Một đoàn đi với Hồ Chí Minh có Vũ Nam Long, sau thường gọi là tướng Nam Long, đánh lấy đồn Đồng Mu ở Sóc Giang thuộc Cao Bằng. Việc ấy xảy ra vào khoảng tháng hai năm 1945.
Từ đó bọn ông Hồ Chí Minh bỏ danh hiệu Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội mà dùng danh hiệu cũ là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, tức Việt Minh, và dùng cờ đỏ sao vàng của cộng sản. Rồi đến quăng đầu tháng ba năm 1945 th́ về đến vùng Văn Lăng, thuộc Thái Nguyên giáp Tuyên Quang và lập trụ sở bí mật ở đó…”
Qua đoạn viết trên và các thông tin khác cho thấy:
Ngay sau khi về nước Hồ Chí Minh cho thành lập đội “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” vào ngày 22/12/1944 mục đích để cho Tưởng Giới Thạch và trực tiếp là Trương Phát Khuê, và người Mỹ tin tưởng Việt Minh có thực lực về tổ chức để nhận vũ khí, tiền bạc.
Mặc dù lúc ấy đội “Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân” chỉ có 34 người với vũ khí thô sơ, họ đă tiến hành hai trận đánh đồn là Phai Khắt và Nà Ngần để lấy tiếng vang.
Động thái thành lập đội “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” c̣n liên quan đến một sự kiện Hồ Chí Minh đang giữ một viên công Mỹ, để khi gặp người Mỹ trao trả viên phi công, ông muốn người Mỹ sẽ cung cấp vũ khí, hậu cần, đào tạo cho đội quân này.
Cuối năm 1944, Hồ Chí Minh vội vàng quay lại Côn Minh, Trung Quốc để giao viên phi công cho Mỹ, đây là cơ hội có một không hai cho Hồ Chí Minh xây dựng uy tín với người Mỹ và củng cố ảnh hưởng của Việt Minh trên Quốc tế và trong nước.
Tháng 10 năm 1944, chiếc B25 của không quân Mỹ do trung uư William Shaw điều khiển bị quân đội Nhật Bản bắn rơi tại vùng trời Nước Hai (Hoà An, Cao Bằng).
Shaw nhảy dù, thoát chết, nhưng anh ta hết sức lo sợ, bởi trước khi cất cánh anh biết đó là vùng có cả cộng sản và cả phát xít Nhật kiểm soát.
Nỗi lo sợ càng tăng khi thấy những người mà anh đoán đó là "du kích cộng sản" tay lăm lăm các loại vũ khí thô sơ chĩa vào ḿnh.
Quá sợ hăi, Shaw vội rút tiền, nhẫn vàng đưa cho họ, nhưng họ lắc đầu và dẫn anh đến nơi khác.
Tại đó, Shaw được cho ăn và chỉ chỗ ngủ, nhưng anh vẫn chưa hết sợ, bởi không biết người ta sẽ làm ǵ, trong khi không ai hiểu những lời anh nói.
Biết tin du kích bắt được phi công Mỹ, Hồ Chí Minh lúc đó ở Pác Bó chỉ thị phải chăm sóc thật chu đáo và dẫn lên gặp ông.
Sau nhiều ngày xuyên rừng, khi th́ phải ẩn náu để tránh quân Nhật, lúc th́ nghỉ lại những nơi có "du kích cộng sản" tập luyện, họ đưa Shaw đến gặp một "Ông Cụ", khi ông ta đang chuẩn bị đi đâu đó, nhưng thấy anh, Cụ liền ở lại, tươi cười bắt tay và hỏi:
- Anh ở bang nào của nước Mỹ.
Shaw hết sức ngạc nhiên, bởi ở nơi núi rừng này lại có người nói tiếng Anh chuẩn đến thế, nụ cười rạng rỡ, Shaw đáp:
- Thưa ông, tôi ở bang Texas.
- Anh đă có vợ chưa?
- Thưa ông, tôi đă có vợ.
- Anh có muốn về Mỹ gặp lại vợ không?
- Thưa ông, nếu được như vậy, không chỉ là niềm vinh hạnh với tôi và là cả gia đ́nh tôi. Chúng tôi sẽ hết sức mang ơn ông.
- Anh không cần nói như vậy, chúng tôi sẽ giúp anh, bởi chúng tôi là những người cùng Đồng Minh chống phát xít. Chúng tôi sẽ trao trả ông cho lực lượng không quân Mỹ tại Trung Quốc
Shaw cảm thấy nhẹ cả người, anh đặt niềm tin vào "Ông Cụ" và tin tưởng ḿnh đă thoát khỏi nguy hiểm.
Anh được lo chỗ ăn nghỉ hết sức cho đáo. Shaw hết lời ca ngợi "Ông Cụ": Ông ấy nói tiếng Anh giỏi quá, lại đối xử thân mật như cha tôi vậy". Mấy ngày sau, Shaw lại được "Ông Cụ" tặng mảnh lụa trắng, thêu chữ "Greeting". Đó là tặng phẩm mà Hồ Chí Minh bảo các cô gái địa phương làm để tặng Shaw. Shaw không ngờ nơi núi rừng heo hút anh lại được đối xử văn minh đến thế và anh cũng không hiểu tại sao "Ông Cụ" này đă đến nước Mỹ khi anh chưa được sinh ra trên cơi đời này...
Sau gần hai tháng ở nơi núi rừng Pác Bó, cuối năm 1944, Shaw cùng Hồ Chí Minh và một số người trong mặt trận Việt Minh lên đường đi Trung Quốc. Để tránh sự lùng sục của quân Nhật, đảm bảo an toàn cho viên phi công, đoàn đi chia làm hai tốp, Shaw đi tốp khác, nhưng được Hồ Chí Minh nhường cho con ngựa, c̣n ḿnh và các đồng chí đi bộ, trên đường đi Hồ Chí Minh luôn dặn ḍ phải bảo đảm an toàn cho viên phi công.
Khi qua biên giới Việt Trung, Hồ Chí Minh gặp lại Shaw. Sau năm ngày được đi cùng Hồ Chí Minh trên đất Trung Hoa, Shaw được sỹ quan của quân đội Trung Hoa dân quốc tiếp nhận, họ hứa với Hồ Chí Minh sẽ đưa viên phi công này về đến Bộ Tư lệnh không quân Mỹ tại Côn Minh. Chia tay Hồ Chí Minh Shaw hết sức bùi ngùi, mong có ngày gặp lại và hứa sẽ chuyển thư của Hồ Chí Minh đến cấp cao nhất.
Tại Côn Minh, Hồ Chí Minh thông qua trung gian Trung úy Hải quân Charles Fenn, công tác tại cơ quan Cứu trợ mặt đất của Mỹ ở Trung Hoa (AGAS) cũng là một điệp viên để được gặp Claire Lee Chennault - tướng hai sao, Tư lệnh Tập đoàn không quân 14 của Mỹ với biệt danh "Hổ Bay" tại Hoa Nam Trung Quốc, cũng là người dại diện cao nhất của quân Đồng Minh tại khu vực.
Sau mấy lần trao đổi qua thư kư, ngày 23/3/1945, Hồ Chí Minh và Tư lệnh trưởng Bộ tư lệnh không quân 14 của Mỹ gặp nhau tại tổng hành dinh của ông ta.
Cuộc gặp gỡ hết sức cởi mở. Viên tướng Mỹ cảm ơn Hồ Chí Minh và Việt Minh đă cứu giúp, chăm sóc phi công họ hết sức tử tế.
Hồ Chí Minh nói đó là bổn phận của người Việt Nam chống phát xít và khẳng định làm tất cả mọi việc trong khả năng có thể để giúp Đồng Minh.
Hồ Chí Minh hỏi về trung uư Shaw, Chennault trả lời:
- "Shaw đă về Mỹ, trước khi lên máy bay anh ta c̣n gửi lời cảm ơn Ngài". Chennault trao cho Hồ Chí Minh khá nhiều thuốc chữa bệnh và tiền để tặng những người đă cứu giúp phi công họ.
Hồ Chí Minh chỉ nhận thuốc, c̣n tiền trả lại, ông nói, rằng cứu giúp phi công là trách nhiệm của những người Việt Nam yêu nước bởi họ cũng đang đứng về phái Đồng Minh để đánh lại phát xít Nhật.
Chennault trao cho Hồ khá nhiều thuốc chữa bệnh và tiền để tặng những người đă cứu giúp phi công họ.
Mấy ngày sau, cuộc gặp gỡ lần thứ hai giữa Hồ Chí Minh và viên Tư lệnh lại diễn ra.
Hai bên đă nhất trí, phía Việt Minh sẽ lập một trạm cứu giúp các phi công Đồng Minh bị nạn ở Đông Dương.
Trong bữa tiệc sau đó, những người chỉ huy không quân Mỹ hết sức ngạc nhiên trước sự am hiểu sâu sắc về lịch sử và các chính khách nước Mỹ của vị "đại diện Việt Minh".
Có một chi tiết rất thú vị, Hồ Chí Minh xin tướng Chennault mấy bức ảnh chụp của ông ta, Chennault đồng ư và Hồ Chí Minh đề nghị ông ta kư tên vào đấy. Hồ Chí Minh sau này cho mọi người biết, đây là bằng chứng Mỹ và đồng minh đă công nhận tổ chức Việt Minh như đại diện hợp pháp của người Việt Nam.
Chia tay Chennault lệnh cho máy bay L5 đưa Hồ Chí Minh và phái đoàn đến Liễu Châu để dự Đại hội quốc tế chống xâm lược.
Khi nhắc về câu chuyện giữa Hồ và viên phi công Mỹ, Archimedes L.A Patti, tác giả cuốn Why Vietnam? đă viết: "Đây là một dịp thuận lợi để Ông Hồ đề cao phong trào cách mạng với người Mỹ và làm cho họ phải chính thức công nhận phong trào của Ông"
Và Hồ Chí Minh đă đạt được mục đích của ḿnh.
Về phía Mỹ Tháng 5/1945, đội SO (Special Operation) số 13, mang bí danh Con Nai với 6 thành viên, dưới sự chỉ huy của thiếu tá Allison K. Thomas, đă mang theo vũ khí, điện đài nhảy dù xuống Tân Trào.
Ngay sau khi đón tiếp biệt đội và vũ khí, Hồ Chí Minh đă ra lệnh thành lập Đại đội Việt - Mỹ do Đàm Quang Trung làm Đại đội trưởng, quân số khoảng 200 người, thiếu tá Thomas làm tham mưu trưởng.
Chỉ tính riêng ba chuyến máy bay Dakota thả dù trang thiết bị, vũ khí cho lực lượng ở Tân Trào là 1 đại liên, 2 súng cối 60mm, 4 súng chống tăng Bazoka, 8 trung liên Bren, 20 tiểu liên Thompson, 60 súng carbin, 20 súng ngắn Colt, một số ống nḥm và các tài liệu huấn luyện của Lục quân Mỹ về chiến tranh du kích… Ngoài ra c̣n có các bộ điện đài đủ cho Hồ Chí Minh quyết định thành lập 3 trạm điện đài ở Hà Giang, Lạng Sơn và Cao Bằng...
Tổng thời gian nhóm O.S.S dành để huấn luyện người Việt kéo dài vài tuần trong tháng 7 và tháng 8.
Ngoài Vơ Nguyên Giáp, nhóm c̣n huấn luyện kỹ năng chỉ huy cho ít nhất hai chỉ huy quân sự cấp cao khác, trong đó có Đàm Quang Trung (sau là Thượng tướng, Tư lệnh Quân khu 1).
Về phía Trung Hoa Dân Quốc họ đă Đổi lại, cơ quan t́nh báo Hoa Kỳ OSS (U.S Office of Strategic Services) cung cấp vũ khí, phương tiện liên lạc, giúp đỡ y tế, cố vấn và huấn luyện quân đội quy mô nhỏ cho Việt Minh.
Một đơn vị nhỏ OSS nhảy dù phía sau đường ranh giới Nhật Bản ở Việt Nam để tham gia tác chiến cùng Việt Minh, và thấy Hồ Chí Minh trong t́nh trạng sốt rét nặng. OSS gửi thông điệp đến trụ sở quân Mỹ ở Trung Quốc để yêu cầu cung cấp thuốc men sớm nhất có thể. Hai tuần sau đó, bác sĩ quân y tên là Paul Hogland đă đến. Những người Mỹ đă ở lại đó trong ṿng hai tháng và có thể thuốc men của họ đă cứu sống ông.
(C̣n tiếp)

Gibbs 05-18-2024 09:54

Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp, chính thức hất cẳng Pháp ra khỏi Đông Dương, đúng thời điểm Hồ Chí Minh đang ở Côn Minh, Trung Quốc để gặp Tướng Claire Lee Chennault như phần 46 đă đề cập.
Thực chất ban đầu tướng Tướng Chennault không muốn gặp Hồ Chí Minh mà chỉ thông qua trung uư OSS Charles Fenn gửi quà, tiền để cảm ơn Việt Minh và Hồ Chí Minh đă cứu viên phi công Mỹ WILLIAM SHAW, Chennault không muốn tiếp xúc với một người cộng sản đang chống Pháp, điều này có thể rầy rà v́ nguyên tắc quân đội đứng ngoài chính trị.
Sự việc Nhật đảo chính Pháp đă làm Tướng Claire Lee Chennault thay đổi quyết định và quyết định gặp Hồ Chí Minh (23/3/1945) với mục đích Việt Minh sẽ trở thành một lực lượng bản xứ nằm vùng giúp Mỹ đánh Nhật.
Sau buổi bàn bạc với Chenault, Giám đốc Cơ quan T́nh báo Chiến lược Hoa Kỳ, Thiếu tướng William J. Donovan, đă "bật đèn xanh" cho các chiến dịch của OSS và GBT tại Đông Dương. Trung úy OSS Charles Fenn được giao nhiệm vụ duy tŕ liên lạc từ Côn Minh tới Việt Minh. Hồ Chí Minh nhanh chóng trở thành một đặc vụ dưới quyền của Fenn, có mật danh Lucius, và có nhiệm vụ cung cấp các thông tin t́nh báo ở Bắc Kỳ cho GBT và OSS thông qua Fenn.
Tháng 4 năm 1945, Hồ Chí Minh, Mac Shin và Frankie Tan được máy bay quân sự Mỹ đưa từ Côn Minh đến biên giới Trung Quốc - Việt Nam phía bắc Cao Bằng. Từ đó, cùng với các thành viên Việt Minh được chọn để huấn luyện t́nh báo và một nhóm nhân viên bảo vệ, họ bí mật vượt qua biên giới về Pắc Bó, căn cứ địa cách mạng. Để giữ bí mật, Frank Tan mang bí danh là Tam Xinh Shan và Mac Shin mang bí danh là Nguyễn Tư Tác. Sau đó, cả nhóm tiếp tục xuyên qua núi rừng Việt Bắc, tránh các đội tuần tra của quân Nhật, bám theo các cơ sở cách mạng, và tháng 5 năm 1945 tới căn cứ địa Tân Trào.
Ngày 16 tháng 5 năm 1945, một đội SO (Special Operation), có bí danh Con Nai, được thành lập dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Allison K. Thomas. Đội Con Nai bao gồm bảy thành viên:
Thiếu tá Allison K. Thomas - chỉ huy trưởng
Trung úy René J. Defourneux - phó chỉ huy trưởng
Thượng sĩ William F. Zielski - điện đài viên
Trung sĩ Tham mưu Lawrence R. Vogt - chuyên viên vũ khí
Trung sĩ Aaron Squires - chuyên viên vũ khí, nhiếp ảnh gia
Binh nhất Henry A. Prunier - thông dịch viên
Binh nhất Paul Hoagland - quân y
Nhiệm vụ hàng đầu của Đội Nai là ngăn chặn các tuyến liên lạc của Nhật, đặc biệt là đường sắt và hệ thống đường bộ của Pháp trong khu vực Hà Nội - Nam Ninh. Nhiệm vụ thứ yếu là "hoạt động với du kích quân" và "báo hiệu mục tiêu cho lực lượng không quân." Ngày 16 tháng 7, Thomas nhảy dù xuống khu vực lân cận làng Tân Trào, Kim Lũng cùng hai thành viên đầu tiên của Đội Nai là Binh nhất Henry Prunier và Thượng sĩ William Zielski. Nhảy dù cùng với các thành viên Đội Nai là ba phái viên người Pháp - một sĩ quan cấp Trung úy tên là Montfort, và hai "đại diện" của quân đội Pháp, Trung sĩ Logos, một người Pháp lai Á và Trung sĩ Phác, một người Pháp gốc Việt.
OSS ban đầu định để cho Đội Con Nai hành quân trên quăng đường bộ dài 300 dặm (gần 483 km) tới Tân Trào, nơi dự định đặt các trại huấn luyện của Việt Minh.
Nhưng phía Trung Quốc cảnh báo OSS rằng quân Nhật đang chờ sẵn ở biên giới để ngăn chặn mọi lực lượng của phía Đồng minh.
V́ vậy, thay v́ đi bộ, từng thành viên của Đội được vận chuyển bằng máy bay Piper Cub tới thị trấn Po Sah, cách biên giới Việt Trung khoảng 50 dặm (80 km), nơi đóng vai tṛ đầu mối liên lạc giữa Côn Minh và Tân Trào.
Một buổi sáng ngày 16 tháng 7 năm 1945, sáu thành viên Đội Con Nai lên một chiếc máy bay C-47 Dakota, nhưng khi tới nơi viên phi công không thể nh́n thấy những chiếc khăn trắng làm ám hiệu cho biết mặt đất bên dưới là khu vực an toàn.
Cuối cùng, Thomas và những thành viên khác đều đánh liều nhảy xuống. Tới mặt đất, trong khi đang thu xếp dù, họ nh́n thấy vài chục người tiến đến, không rơ là người Trung Quốc hay Việt Nam. Đa số là các thiếu niên, ngoại trừ một người thấp hơn, mặc áo vải lanh màu trắng, đi giày đen, đội mũ phớt màu đen, được mọi người gọi là “Anh Văn.” Sau này các thành viên Nhóm Con Nai mới được rằng biết tên thật của ông là Vơ Nguyên Giáp.
“Đầu tiên chúng tôi đi dưới lối đi có mái ṿm bằng tre bên trên có một biển hiệu
“Chào mừng những người bạn Mỹ của chúng ta."Sau đó chúng tôi gặp Mr. Ho - nhà lănh đạo của Việt Minh.
Ông đă đón tiếp chúng tôi rất thân mật. Người ta đă mổ một con ḅ để tỏ ḷng trân trọng chúng tôi và tặng cho chúng tôi một thùng bia Hà Nội thu được sau cuộc tấn công bất ngờ vào một đoàn hộ tống Nhật. Chúng tôi đă đánh một giấc ngon lành trong căn lều tiện lợi bằng tre trong khu rừng trên một quả đồi.
Trong khi người Mỹ được đối xử tử tế th́ những người Pháp đi cùng đoàn lại không được như vậy.
Dù được cảnh báo trước về "mối căm thù của Việt Minh với người Pháp," Thomas vẫn chấp nhận cho người Pháp nhảy dù cùng đội của ông xuống Tân Trào.
Khi Đội Nai vừa chạm đất, ba người Pháp đă nhanh chóng bị phát hiện.
Montfort bị một cán bộ Việt Minh, người đă phục vụ dưới quyền anh ta trong quân đội thuộc địa Pháp, nhận ra; Phác bị nhận diện trước tiên như một người ủng hộ Pháp và sau đó là "thành viên của một đảng thân Tàu, Việt Nam Quốc dân Đảng." Do đó, khi Thomas, Prunier và Zielski được hộ tống qua lối đi có mái ṿm bằng tre th́ ba người kia bị Việt Minh quây chặt, buộc Frank Tan phải can thiệp.
Tuy Hồ Chí Minh nói thông thạo tiếng Pháp, nhưng ông không chấp nhận nói ngôn ngữ này, thay vào đó chỉ nói chuyện với các thành viên Con Nai bằng tiếng Anh và tiếng Việt.
Do Hồ Chí Minh và Vơ Nguyên Giáp tỏ sự không tin tưởng các sĩ quan người Pháp và người Pháp gốc Việt trong nhóm, Thomas quyết định cho ba người rời khỏi đội của ông.
Ngày 30 tháng 7, Montfort, Phác và Logos rời Tân Trào và trà trộn vào một nhóm người Pháp tị nạn về Tam Đảo để được đưa về Trung Quốc.
Ngày 29 tháng 7, đợt thả quân bổ sung thứ hai được tiến hành, bao gồm Trung úy Rene Defourneux, Trung sĩ Tham mưu Lawrence Vogt, Trung sĩ Aaron Squires, Binh nhất quân y Paul Hoagland.
Lần này Hồ Chí Minh không thể có mặt để chào đón họ v́ ông đang mắc những căn bệnh nhiệt đới như lỵ và sốt rét, nhưng ông vẫn cố gắng tranh thủ sự kiện họ đến nơi.
Nằm trên giường bệnh, ông đề nghị nhân dân địa phương đến khoảng rừng thưa và chờ đợi những người Mỹ "rơi từ trên trời xuống."
Khi các thành viên Đội Nai tiếp đất an toàn, họ được Tan, Phelan, Zielski và Vơ Nguyên Giáp, chào đón. Không một ai bị thương, và những người Mỹ một lần nữa lại được hộ tống đi trên lối đi dưới mái ṿm tre có khẩu hiệu "Chào đón những người bạn Mỹ của chúng ta." Cả đội không được gặp Thomas và Prunier cho tới đêm hôm sau; hai người Mỹ này lúc đó đi trinh sát vị trí pḥng thủ của Nhật tại Chợ Chu, nơi Thomas muốn lập kế hoạch tẩn công nhưng chiến tranh đă kết thúc trước khi ông có cơ hội làm điều.
Trong những ngày đầu ở doanh trại, các thành viên mới của Đội Nai đă gặp gỡ nhiều cán bộ Việt Minh và một vài người dân ở khu vực xung quanh.
Tuy nhiên, một người đáng quan tâm là Hồ Chí Minh th́ lại vắng mặt. Hôm cả đội đổ bộ, Vơ Nguyên Giáp đă xin lỗi v́ sự vắng mặt của Hồ Chí Minh, ông nói với những người Mỹ mới đến là "chỉ huy" của họ bị ốm.
Đến ngày 3 tháng 8, Hồ Chí Minh vẫn không xuất hiện. Một vài thành viên trong đội, gồm Défourneaux và Paul Hoagland, quyết định đi vào ngôi làng gần đó để gặp Hồ Chí Minh và xem ông có cần giúp đỡ ǵ không.
Khác với mô tả của những sĩ quan t́nh báo Pháp về người đàn ông "tàn nhẫn" và "nguy hiểm," các thành viên Đội Nai rất ngạc nhiên về diện mạo của Hồ Chí Minh. Thay v́ một con người gớm guốc, họ chỉ thấy dường như đây là một người ốm yếu, gầy dơ xương đang lơ lửng gần cái chết. Nhờ sự cứu chữa của Hoagland, Hồ Chí Minh đă khỏe lại sau khoảng mười ngày, và có thể đứng lên đi lại b́nh thường.
Một đội SO thứ hai, mang bí danh Con Mèo (Cat Team), bao gồm ba thành viên: Đại úy Charles M. Holland, Trung sĩ John Burrowes và điện đài viên - Trung sĩ John L. Stoyka. Họ nhảy dù xuống khu trại của Việt Minh tại Tân Trào vào ngày 29 tháng 7 cùng với đợt đổ quân thứ hai của Đội Nai. Do có nhiệm vụ riêng biệt với Đội Con Nai, nên sau cuộc gặp gỡ với các cán bộ Việt Minh, họ lập tức di chuyển vào rừng, lập trại riêng và thực hiện nhiệm vụ của ḿnh.
Nhóm Con Mèo bị quân Nhật bắt sống vào giữa tháng 8 năm 1945. Stoyka, vốn là một cựu binh từng hoạt động ở sau pḥng tuyến quân đội Đức Quốc Xă tại Pháp, đă trốn thoát được. Những người dân làng Việt Nam đă cứu giúp anh và đưa anh về trại của Đội Con Nai. Holland và Burrowes may mắn sống sót qua chiến tranh và được người Nhật thả tự do tại Hà Nội vào ngày 31 tháng 8 năm 1945. Tại đó, họ được Hồ Chí Minh đă chào đón nồng nhiệt với tư cách là những người đại diện của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
(C̣n tiếp).

Gibbs 05-19-2024 17:47

Tại Hội nghị Nguyên thủ quốc gia 3 nước Anh, Pháp và Mỹ diễn ra tại Casablanca (Maroc) vào đầu năm 1943, Pháp và Anh bày tỏ muốn duy tŕ chủ nghĩa thuộc địa, riêng Pháp hi vọng các nước Đồng Minh sẽ trả lại thuộc địa cho Pháp ngay sau khi các thuộc địa này được giải phóng. Trước yêu cầu của Pháp, Tổng thống Mỹ đă phê phán thái độ của Pháp là kém thông minh.
Cũng tại Hội nghị Cairo (Ai Cập) diễn ra sau đó, Tổng thống Mỹ Roosevelt tuyên bố thẳng thừng là chủ nghĩa thực dân nên bị thủ tiêu càng sớm càng tốt. Ông khẳng định nhiều nhất Pháp chỉ có thể tạm thời được ủy trị các thuộc địa cũ của ḿnh trước khi trao trả độc lập cho các thuộc địa này.
Tháng 1 năm 1944, Roosevelt viết cho Ngoại trưởng Hull là Mỹ nên ủng hộ việc đặt Đông Dương dưới sự ủy trị quốc tế. Ông viết: “Pháp đă có đất nước này trong gần một trăm năm và người dân ở nơi đây trở nên nghèo đói hơn khi mới bị Pháp chiếm. Nước Pháp đă vắt cạn kiệt đất nước này trong suốt một trăm năm. Người dân Đông Dương được quyền hưởng điều tốt đẹp hơn như vậy”.
Những tin tức tốt đẹp này có thể đă đến với Hồ Chí Minh và việc người Mỹ cử đội "Con Nai" cùng với việc cung cấp vũ khí, hậu cần và huấn luyện cho quân đội Việt Minh đă đem đến hy vọng dành độc lập cho Việt Nam nhờ sự bảo trợ của Mỹ.
Đối với Người Mỹ ban đầu việc trợ giúp cho Việt Minh chỉ đơn thuần để có lực lượng bản xứ tham gia đánh Nhật, nhưng việc Nhật đầu hàng nhanh chóng đă thay đổi chính sách của họ.
Với việc không muốn thay đổi quanh điểm với người Pháp về vấn đề Đông Dương nên tại Hội Nghị Posdam các nước Đồng Minh đă vạch ra vĩ tuyến 16 để phía Bắc Việt Nam do quân đội của Tưởng Giới Thạch vào giải giáp quân Nhật, phía Nam là người Anh, như vậy người Pháp đă bị gạt ra ngoài.
Cũng tại hội nghị Posdam cũng đưa ra việc giải quyết với các khu vực và các quốc gia được giải phóng khỏi trục Phát xít sẽ tiến hành tổng tuyển cử tự do để chọn ra chính phủ và nhà nước của ḿnh.
Trên thực tế những quốc gia bị Liên Xô chiếm đóng sau chiến tranh, và những quốc gia có phong trào chống phát xít dưới sự lănh đạo của những người cộng sản đă không thực hiện những cam kết này.
Không có một cuộc tổng tuyển cử tự do nào diễn ra, nhà nước Cộng sản được thành lập trong họng súng của Liên Xô, và sự đàn áp, thanh trừng của những người cộng sản với các đảng phái khác từ đó h́nh thành hệ thống nhà nước Xă hội Chủ nghĩa trên thế giới do những người cộng sản nắm quyền.
Để việc h́nh thành ra hệ thống các nhà nước cộng sản trên thế giới được nh́n nhận là do những sai lầm của tổng thống Mỹ Roosevelt.
Cuối năm 1943, thời điểm rơ ràng cho thấy rằng, Đồng minh cuối cùng sẽ đánh bại hoặc ít nhất ḱm chế được Đức Quốc xă. Mỗi ngày càng cho thấy những quyết định chính trị cấp cao càng trở nên quan trọng đối với diễn biến của cuộc chiến và tương lai của châu Âu thời hậu chiến.
Roosevelt họp mặt với Churchill và lănh tụ Trung Quốc Quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch tại Hội nghị Cairo vào tháng 11 năm 1943, và rồi sau đó đến Tehran để bàn thảo với Churchill và Stalin.
Trong lúc Churchill xem Stalin là một bạo chúa khi ông cảnh báo về một mối thống trị tiềm năng độc tài của Stalin đối với châu Âu th́ Roosevelt đáp lời bằng một lời tuyên bố tóm tắt lư lẽ quan hệ của ông đối với Stalin như sau:
"Tôi th́ có một linh cảm rằng Stalin không phải là hạng người như thế.... Tôi nghĩ rằng nếu tôi cho ông ta mọi thứ mà tôi có thể cho và không đ̣i hỏi ông ta cho lại cái ǵ, theo nghĩa vụ quư phái, ông ta sẽ không t́m cách thôn tính bất cứ mọi thứ và sẽ làm việc với tôi v́ một thế giới dân chủ và ḥa b́nh."
Tại Hội nghị Tehran, Roosevelt và Churchill nói với Stalin về kế hoạch xâm chiếm nước Pháp năm 1944. Roosevelt cũng thảo luận các kế hoạch của ông nhằm thành lập một tổ chức quốc tế thời hậu chiến.
Về phần ḿnh, Stalin cứ khăng khăng đ̣i vẽ lại các ranh giới của Ba Lan. Stalin ủng hộ kế hoạch của Roosevelt về việc thành lập Liên Hợp Quốc và hứa tham chiến chống Nhật Bản 90 ngày sau khi Đức bị đánh bại.
Tuy nhiên vào đầu năm 1945, khi quân đội Đồng minh tiến vào Đức và lực lượng Xô Viết kiểm soát được Ba Lan, các vấn đề phải được đem ra thảo luận minh bạch.
Tháng 2 năm 1945, mặc dù sức khỏe sa sút trầm trọng, Roosevelt vẫn đi đến Yalta, vùng Krym của Liên Xô, để họp bàn với Stalin và Churchill.
Trong khi Roosevelt vẫn tự tin rằng Stalin sẽ giữ lời hứa cho phép các cuộc bầu cử tự do tại Đông Âu, một tháng sau khi Hội nghị Yalta kết thúc th́ Đại sứ của Roosevelt tại Liên Xô là Averill Harriman điện tín cho Roosevelt biết rằng:
"chúng ta phải thừa nhận rơ ràng rằng chương tŕnh của Liên Xô là thiết lập chủ nghĩa toàn trị, chấm dứt tự do cá nhân và dân chủ như chúng ta đă biết."
Hai ngày sau, Roosevelt bắt đầu thừa nhận rằng quan điểm của ông về Stalin là quá lạc quan và rằng "Averell đă nói đúng."
Người Mỹ gốc Đông Âu chỉ trích Hội nghị Yalta v́ đă thất bại trong việc ngăn chặn sự thành lập Khối Đông Âu.
Ngay sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, thủ tướng Anh Churchill đă nhận thấy hiểm họa của chủ nghĩa cộng sản trên toàn cầu, ông bay đến Mỹ để gặp tổng thống Mỹ lúc ấy là Truman người vừa thay thế Roosevelt (Chết v́ bệnh ngày 12/4/1945) để mở một mặt trận tấn công Liên Xô.
Churchill chỉ vào tấm bản đồ thế giới, nói:
"Chủ Nghĩa Phát xít vừa bị tiêu diệt, nhưng nơi nào có lá cờ đỏ búa liềm mọc lên là nơi đó mọc lên nhà tù của nhân loại, v́ vậy tranh thủ lúc Liên Xô bị tàn phá suy yếu sau chiến tranh Mỹ và đồng minh phương Tây sẽ mở ngay cuộc tấn công Liên Xô giải phóng hoàn toàn châu Âu"
Truman lắng nghe, và đặt ra một vấn đề với Churchill:
- Ngài có nghĩ đến cuộc bầu cử ở nước Anh đă quá gần hay không? Đây là một việc hệ trọng, tôi đồng ư với ư kiến của ngài, nhưng chúng ta sẽ bàn chi tiết sau cuộc bầu cử diễn ra.
Đến đây Churchill giật ḿnh, ông nghĩ Truman đă nói đúng, và cuộc bầu cử cũng chẳng c̣n bao lâu, trong khi ông tin chắc ḿnh sẽ đắc cử và nghe lời Truman quay về Anh.
Không như Churchill suy tính kỳ bầu cử lần ấy ông đă thất bại nên mưu tính của ông với Truman bị khép lại.
4 năm sau Churchill lại ra tranh cử và ông thắng cử, nhưng lúc ấy t́nh thế đă khác, Liên Xô đă chế tạo được bom nguyên tử.
Và hệ thống các nước cộng sản ở Châu Âu 45 năm sau mới sụp đổ trong cái chết của hàng chục triệu người và hàng trăm triệu người khác bị giam cầm trong "nhà tù quốc gia" của chế độ cộng sản".
(C̣n tiếp)

Gibbs 05-23-2024 01:31

Mặc dù có những tuyên bố của tổng thống Mỹ Roosevelt “chủ nghĩa thực dân nên bị thủ tiêu càng sớm càng tốt” không có nghĩa con đường dành độc lập cho Việt Nam trở nên suôn sẻ.
Yếu tố người Nhật đă bị loại bỏ, khi ngày bại trận của họ đă đến rất gần. Nhưng Đông Dương vẫn là con mồi thèm khát của Pháp và Trung Hoa.
Người Pháp không muốn bị bỏ quên trên chiến trường Thái B́nh Dương và hy vọng chiếm lại chủ quyền ở Đông Dương, người Pháp đă dồn dập yêu cầu các Chính phủ Washington và London cho họ tham gia vào các kế hoạch quân sự ở Viễn Đông.
Về sau việc tham gia chính thức của Pháp càng trở nên phức tạp khi Pháp đ̣i có quyền xúc tiến các hoạt động bí mật “chuẩn bị tác chiến” ngay trên đất Đông Dương.
Việc đó đă đến tai cả Roosevelt và Churchill.
Churchill không phản đối ư đồ của Pháp nhưng lại không muốn công khai bác bỏ lập trường đă được công bố của Roosevelt cho rằng người Pháp không được chiếm lại Đông Dương bằng vơ lực. Vấn đề được đưa ra bàn bạc rộng răi và đă là đầu đề cho hàng đống giấy tờ và công văn ngoại giao trao đổi trong nội vụ và giữa các Bộ Ngoại giao Mỹ - Anh.
Roosevelt rất bực bội trước những đ̣i hỏi khăng khăng của Pháp, Anh và đă chỉ thị cho Hull “không được làm ǵ cả đối với các nhóm kháng chiến hay bất cứ cái ǵ khác có liên quan đến Đông Dương...”. Và như thế là câu chuyện đă được chấm dứt vào ngày 16-10-1944, nhất là đối với các hoạt dộng của Pháp như Roosevelt đă có ư nói. Nhưng vấn đề cũng đă lại chấm dứt với cả các “nhóm kháng chiến”.
Về sau, điểm này đă được làm sáng tỏ vào mùa xuân 1945, khi các nhà cầm quyền Mỹ cuối cùng đă phải cho phép chỉ giúp đỡ cho các nhóm nào đă chuẩn bị đánh Nhật.
Về phía Trung Hoa dân Quốc đă nhiều lần tuyên bố rằng, mặc dầu Trung Quốc mong muốn thấy Đông Dương được trả lại cho Pháp nhưng lại không muốn điều đó được thực hiện mà không có một số các điều bảo đảm nhằm ngăn chặn Pháp dùng Đông Dương vào những hoạt động không thân thiện đối với quyền lợi của người Trung Hoa sau này. Nói tóm tắt là tương lai của Đông Dương sẽ không được định đoạt nếu như không có mặt người Trung Hoa trên bàn Hội nghị Hoà b́nh.
Điều này dẫn đến sự thay đổi chiến thuật của Hồ Chí Minh.
Vào tháng 8-1944, qua các sĩ quan OSS và OWI ở Côn Minh, Đông Dương Độc lập Đồng minh Hội đă gửi một bức thu đến Đại sứ Mỹ. Tác giả bức thư yêu cầu Mỹ giúp đỡ công cuộc đấu tranh giành độc lập của họ và cho họ được cơ hội chiến đấu chống Nhật bên cạnh các nước Đồng minh.
Ngày 18-8, một sĩ quan OSS tŕnh bức thư cho Langdon, kèm theo b́nh luận: “Những người cách mạng An Nam... hiện nay tinh thần rất cao... [và] họ mong việc yêu cầu Mỹ giúp đỡ được chấp nhận”. Và người sĩ quan đó phán đoán: “Sau chiến tranh, sẽ có rối loạn lớn ở Đông Dương, nếu như không có ít nhất một biện pháp sớm bảo đảm quyền tự trị thực sự cho đất nước này”.
Ngày 8-9, được OSS khuyến khích, Langdon đă gặp các tác giả bức thư. Theo lời kể lại của Langdon, ông Phạm Viết Tự, được coi như là người phát ngôn của họ, đă nói rằng họ “đến để tranh thủ cảm t́nh... của nước Mỹ”. Langdon đă đáp lại như sau:
“Họ hoàn toàn đúng khi làm cho người đại diện nước Mỹ biết đến những quan điểm và nguyện vọng của dân tộc Việt Nam trong khi mà người phát ngôn cấp cao nhất của chính phủ Mỹ đă nhiều lần tuyên bố bảo đảm sự quan tâm của chính phủ Mỹ đối với chính sách v́ phồn vinh và tiến bộ của các dân tộc bị trị ở phương Đông, trong đó nhân dân Việt Nam cũng có thể tự coi như có ḿnh”.
Và Langdon đă hứa với những người đối thoại rằng những ư kiến của họ sẽ được ông ta chuyển tới Chính phủ Mỹ. Nhưng Langdon lại nói tiếp:
“Người Việt Nam là công dân của nước Pháp, mà nước Pháp lại đang sát cánh cùng Mỹ đấu tranh... chống lại phe Trục. Thực không c̣n nghĩa lư ǵ nếu như một mặt Mỹ đă phải bỏ ra những chi phí rất lớn về người và của để chi viện và giải phóng nước Pháp khỏi ách nô lệ của người Đức mà mặt khác Mỹ lại đục khoét đế quốc Pháp”.
Phạm Viết Tự đă đáp trả:
“Người An Nam rất biết về t́nh h́nh hữu nghị lâu đời giữa Pháp và Mỹ, và Đồng minh Hội chúng tôi không có ư đồ đấu tranh chống lại Pháp mà chỉ muốn cho các hội viên của ḿnh được đứng về phía Đồng minh đánh Nhật. V́ thế Hội đă có kế hoạch hành động theo hướng đó nếu như Mỹ bằng ḷng cung cấp vũ khí và tiếp tế cho chúng tôi”.
Đến đây Langdon ngắt lời và nói rằng đó là một vấn đề quân sự nên Đồng minh Hội phải trực tiếp thảo luận với Bộ chỉ huy quân sự của Đồng minh.
Phạm Viết Tự nói lại ông chỉ muốn hạn chế ư kiến của ḿnh ở khía cạnh chính trị của vấn đề và yêu cầu Langdon đề đạt rơ với Chính phủ Mỹ là ở đây chỉ nhấn mạnh đến vấn đề tự trị cho nhân dân Việt Nam.
Một lần nữa Langdon lại kéo dài câu chuyện và nói rằng ông hy vọng Đồng minh Hội xem xét lại lời yêu cầu trên với một lập trường thực tế hơn và cũng nên thấy rằng trong đó có bao hàm một sự ép buộc có thể đối với Đồng minh Pháp.
Langdon nói thêm là người An Nam có ǵ phải kêu ca đối với người Pháp th́ họ nên theo con đường thông thường mà nói chuyện thẳng với người Pháp.
Phạm Viết Tự đáp lại rằng về lư thuyết mà nói th́ đó là một cách giải quyết chính đáng “nhưng bênh vực cho điều đó trong trường hợp của Đông Dương là ngu ngốc, không nhận thấy thực tế của t́nh h́nh, v́ ở đó chỉ có áp bức, không có dân chủ”.
Một lần nữa Langdon lại đả vào các người khách của ḿnh: “Dân An Nam không nên nh́n tiền đồ của ḿnh một cách quá bi quan. Tháng 7 vừa qua, tướng De Gaulle đă có công bố với báo chí Washington rằng chính sách của Pháp là nhằm dẫn dắt mọi dân tộc trong đế quốc Pháp tiến tới tự trị...”.
Cuộc nói chuyện đă tiếp diễn theo cái kiểu đó để rồi dẫn đến một kết thúc tất nhiên không tránh khỏi.
Khi Phạm Viết Tự và các bạn của ông báo cáo lại cho ông Hồ, họ đă tỏ ra thất vọng và chỉ có thể nói rằng họ đă được tiếp đón thân mật nhưng không được một lời hứa hẹn ủng hộ về chính trị nào. Điều tốt nhất mà họ hy vọng có thể đạt được chỉ là một sự giúp đỡ hạn chế về quân sự và cũng có thể chỉ được trả công các dịch vụ đă tiến hành. Nhưng ông Hồ không thất vọng, trái lại ông tỏ ra hoan hỉ, trước sự ngạc nhiên của mọi người kể cả các sĩ quan OSS...
“Đồng minh Hội” của ông đă tranh thủ được sự công nhận của một quan chức trong Chính phủ Mỹ và đă giành được lời hứa hẹn sẽ làm cho các nhà cầm quyền cao cấp nhất ở Washington, có thể cả đến “Tổng thống Roosevelt vĩ đại”, phải quan tâm đến sự nghiệp chính nghĩa của Hội.
Trong cuốn: Why Vietnam? Thiếu tá Patty nhận xét về Hồ Chí Minh:
“Nhờ có đầu óc phân tích, bản chất thực dụng và một sự thông hiểu sâu sắc t́nh h́nh chính trị thế giới, ông Hồ đă rất sớm rút ra kết luận phải tranh thủ cảm t́nh của nước Mỹ. Ông đă xác định được không thể coi Trung Quốc như là một Đồng minh và thậm chí c̣n hơn thế nữa, có thể trở thành đối kháng. Ông đoán trước sẽ không có một sự ủng hộ tích cực về phía nước Nga “anh dũng” đối với kế hoạch giành độc lập của ông, bởi ngay sau khi thắng trận họ đă bị kiệt sức v́ chiến tranh. Trong khối Đồng minh phương Tây, các nước thục dân như Anh, Pháp và cả Hà Lan - sẽ nhất tề không thể nào khác được trong việc chống lại cuộc vận động chống chủ nghĩa thực dân của ông.
Đối với những nước này th́ chỉ có việc đẩy mạnh công cuộc đề kháng.
Trong suy nghĩ của ông, nhất định là khi có cơ hội, Pháp sẽ đ̣i lại Đông Dương làm thuộc địa.
Chỉ c̣n có Mỹ, một khả năng cuối cùng của ông. Nhưng đồng thời Mỹ cũng là một điều bí ẩn đối vối tâm t́nh của một con người đă được đào luyện chính trị ở Matxcơva. Ông Hồ đă phải vắt óc suy nghĩ để t́m ra những điều khá lạ lùng để dung hoà những đ̣i hỏi về lư thuyết và thực hành của ông.
Ông cảm thấy người Mỹ rơ ràng là chống thực dân, bối cảnh lịch sử, thành tích trước kia và những lời tuyên bố mới đây, tất cả đều chứng minh điều đó. Nhưng Mỹ cũng vẫn là tư bản. Những cải cách kinh tế xă hội của họ chưa thực sự “dân chủ”. Vô sản của họ thật chưa được “tự do” và được “giải phóng” như ở Nga. Nhưng chỉ c̣n có người Mỹ có lẽ mới chịu nghe và giúp đỡ phong trào của ông một cách có thiện cảm”.
(C̣n tiếp).

Gibbs 05-25-2024 16:55

Sự khôn khéo của Hồ Chí Minh trong việc nhờ vả người Mỹ chính là ở chỗ không lộ rơ mưu đồ quá mức việc chống người Pháp quyết liệt bằng vũ trang v́ muốn ǵ quan hệ Mỹ - Pháp vẫn là đồng minh.
Trong thâm tâm Hồ Chí Minh không hề muốn cộng tác với nhóm Quốc dân đảng và các nhóm người Việt khác, dù các nhóm này đă tập hợp trong một mặt trận thống nhất lấy tên là “Việt Nam cách mạng đồng minh hội” mà Hồ Chí Minh là một thành viên trong ban lănh đạo. Ông luôn tỏ ra, Việt Minh do ông thành lập trong nước chỉ là một chi nhánh của Việt Cách để không bị Tưởng Giới Thạch nghi ngờ sẽ tác động đến sự can thiệp với người Mỹ.
Sự cộng tác của Việt Minh với Mỹ bắt đầu bằng một báo cáo t́nh báo thú vị của Hồ Chí Minh, cùng với hai bài viết chính trị gửi cho phái đoàn Mỹ ở hội nghị Liên Hợp Quốc.
Thiếu tá Patty đă đưa hai bài ấy cho Whitaker, ông ta quyết định chuyển tiếp cho Đại sứ quán Mỹ; một bài gửi cho giới lănh đạo Mỹ, Trung Quốc, Anh và Liên Xô, và bài kia là một bức thư ngỏ cho Liên Hợp Quốc(Cả hai bài đều kêu gọi ủng hộ nền độc lập của Việt Nam)
Những văn kiện ấy đều kư tên “Quốc dân đảng Đông Dương (Annam)”. Cái tên ấy có nghĩa là một chi nhánh của Quốc dân đảng (Trung Quốc); dù nguồn gốc thật sự của nó là Việt Minh.
V́ những văn kiện ấy là từ ông Hồ gửi đến, nên Patty không nghi ngờ ǵ rằng ông đă dùng cái tên cũ để không lộ ra chân tướng của Việt Minh. Ngay cả trong bản viết bằng tiếng Anh, đường lối của đảng ông đă được tŕnh bày mạnh mẽ và rơ ràng.
Bản báo cáo t́nh báo kèm theo những bài viết gồm một số trang đánh máy có pha thêm những mẩu chuyện về những mối liên hệ thân thiện Pháp - Nhật và sự đau khổ của người Việt Nam v́ cả hai đều làm cho họ thất vọng; tất cả những điều đó đều trừ hao đi v́ những lư do chính trị.
Tuy nhiên, nó cũng cho một thông tin có ích để nhận biết một vài đơn vị của sư đoàn Nhật Bản 37, chỗ đóng quân của nó chỉ mới cách đây vài ngày và tên của một vài sĩ quan cao cấp. Mở đầu như thế không phải là xấu, Pḥng tác chiến của Patty đă xác nhận một phần của nó và c̣n tỏ ra muốn chấp nhận những điều c̣n lại.
Mấy ngày sau đó, Patty nhận được qua đường dây một bản báo cáo thứ hai của ông Hồ với nhiều tin tức quân sự hơn. Lần này báo cáo đă cung cấp những chi tiết về việc xây dựng công sự mới của Nhật và những cải tiến công sự hiện có do Pháp xây dựng ở vùng Cao Bằng và trên đường về Hà Nội. Việc xác định lần đầu tiên những đơn vị của Quân đoàn 38 của Nhật và đặc biệt những đơn vị của Sư đoàn 32 ở vùng biên giới Cao Bằng đă gây nên một hứng thú to lớn ở pḥng tác chiến của Mỹ cũng như ở cấp Chiến trường.
Ông Hồ đă gắn một mảnh giấy nhỏ viết bằng tiếng Anh hỏi xem hai văn kiện chính trị có đáng gửi đi San Francisco không. Patty nói với người mang thư đến, rằng những văn kiện ấy đă được gửi đến các nhà chức trách hữu quan ở Trùng Khánh, nhưng không thể chắc chắn là chúng đến được với phái đoàn ở San Francisco. Về sau, Patty đă có thể xác định rằng đó là lần đầu tiên ông Hồ có ư định đưa sự nghiệp của ḿnh tới sự chú ư của Liên Hợp Quốc.
Trong tuần lễ đầu tháng 6, Hồ Chí Minh đă cho Patty biết tin ông đă chuẩn bị sẵn sàng hơn 1.000 quân du kích “được huấn luyện tốt” để phục vụ cho bất kỳ kế hoạch nào chống lại Nhật.
Số du kích này đă được tập trung ở một địa điểm trong khu vực chợ Chu, Định Hóa, và Patty đă báo tin cho ông Hồ biết là Patty cám ơn ông về đề nghị nói trên và sẽ chú ư xem xét vấn đề này một cách nghiêm chỉnh.
Đề nghị của ông Hồ đă đến đúng vào một lúc thuận lợi, khi mà đội quân Pháp dưới quyền của Courthelac (được thành lập để chuẩn bị cho trận đánh nhằm cắt đứt đường giao thông liên lạc Trấn Nam Quan - Hà Nội) đă từ chối không chịu tham gia huấn luyện và không nhận nhiệm vụ đă được đề ra.
Helliwell, Wampler và Patty đă bắt buộc phải đi đến kết luận là người Pháp tham gia vào các hoạt động của OSS một cách rất chậm chạp và mang theo đầy những chủ trương phá rối.
Wampler và Patty tán thành thay thế người Pháp bởi người Việt trong hoạt động phá hoại này nhưng Helliwell vẫn c̣n ngần ngại.
Kế hoạch đầu tiên cho nhiệm vụ này đă định để cho toán “Con Mèo” do Holland chỉ huy và toán “Con Nai” do Thomas chỉ huy, mỗi toán được tiếp nhận và huấn luyện 50 binh sĩ Pháp ở Tŕnh Tây.
Helliwell lo ngại về những ảnh hưởng chính trị nếu người Mỹ sử dụng du kích Việt Nam để thay thế cho Pháp và ông cũng không muốn phải thu lại những vũ khí và trang bị đă sẵn sàng cung cấp cho đội quân Pháp để chuyển cho người Việt Nam.
Patty đưa ra lư do là nếu chúng ta sử dụng đơn vị của ông Hồ ở chợ Chu th́ sẽ loại bỏ được việc phải cho đi bộ hoặc chuyên chở người Pháp một quăng đường 25 dặm đến biên giới, cộng thêm 150 dặm nữa để đi tới Hà Nội.
Với những đường ṃn trong rừng hiện nay th́ cự ly đó sẽ là gần 250 dặm, nghĩa là 10 đến 15 ngày đi đường. Ngoài ra c̣n phải kể đến những điều thuận lợi quan trọng khác trong việc sử dụng căn cứ và người của Việt Minh cho hoạt động này, như chúng ta sẽ được sự ủng hộ của dân chúng địa phương và có địa h́nh che chở cực kỳ thuận lợi. Những lợi ích thực tiễn này đă có sức nặng và cuối cùng Helliwell đă đồng ư. Đội quân Pháp của Courthelac đă không bao gị được sử dụng nữa.
Trong lúc này, nhóm GBT cũng có một nhân vật chủ chốt của họ Frankie Tan, ở tại bản doanh của ông Hồ, làm nhiệm vụ thu thập t́nh báo về Nhật và đồng thời cùng với AGAS triển khai mạng lưới giúp giải thoát người của người Mỹ.
Frankie Tan cũng đang t́m kiếm những người Mỹ bị bắt đă chạy thoát trong khu tam giác Tuyên Quang - Thái Nguyên - Bắc Cạn, nơi trung tâm các hoạt động chống Nhật của ông Hồ.
AGAS đă lập được một mạng luới vô tuyến trên suốt đất nước, từ Hà Nội đến Sài G̣n, thống nhất theo kế hoạch của OSS.
Patty đề nghị với Wichtrich của AGAS cùng nhau hợp tác với Hồ Chí Minh và tiến hành những hoạt động độc lập đối với người Pháp. Wichtrich đồng ư và chỉ định một trung úy trẻ tuổi tên là Phelan gánh vác nhiệm vụ của AGAS và làm liên lạc giữa OSS và Việt Minh cho đến khi toán “Con Mèo” và toán “Con Nai” của Patty đến căn cứ của ông Hồ.
Sau khi Sainteny đă ra lệnh đ́nh chỉ hoàn toàn cộng tác của người Pháp với OSS và sau khi điện đài ở Pakhoi im tiếng, Patty mới yêu cầu Trương Quốc Anh, một trong số các đầu mối tiếp xúc với Việt Minh báo cho ông Hồ biết rằng Patty rất quan tâm đến đề nghị của ông và đồng ư là sẽ có một toán người Mỹ, do một sĩ quan cao cấp đứng đầu, sẽ được thả dù xuống vùng Tuyên Quang.
Trong khi nói chuyện, ông Hồ báo cho Patty biết là thiếu tá Sainteny đă kết giao với Nguyễn Tường Tam.
Patty thấy khó mà nghĩ được rằng Sainteny lại đi giao thiệp với một phần tử quốc gia cực hữu, và chí ít cũng là lănh tụ của một phong trào cách mạng do Trung Quốc đỡ đầu. Nhưng 3 tuần sau, sự việc nói trên đă được một nhân viên Pháp Việt trong toán “Con Nai” xác định là đúng.
Ngày 30-6, Patty nhận được trả lời của ông Hồ đồng ư tiếp nhận toán của Patty và yêu cầu được biết khi nào th́ người Mỹ có thể đến. Trong tḥi gian đó Phelan đă được thả xuống khu vực Tuyên Quang và đă gặp được Frankie Tan.
- CƠ HỘI ĐĂ ĐẾN
Vào ngày 6-8- 1945 sự kiện “Hiroshima” đă báo trước kết thúc của cuộc chiến tranh. Trước t́nh h́nh đó, ông Hồ chưa thực sẵn sằng; nhưng khi ông được Thomas cho biết sự sụp đổ của Nhật, ông đă hành động một cách kiên quyết và nhanh chóng v́ ông phải bảo đảm chiếm được một chỗ đứng chân vững chắc ở nơi ông muốn như Hà Nội, Huế và Sài G̣n.
Ông Hồ biết rằng ông phải làm cho mọi người thấy rơ được cả tính chất hợp pháp lẫn sức mạnh để giữ được vai tṛ lănh đạo và đà phát triển của phong trào. Mặc dù c̣n rất yếu sau một cơn sốt rét và nhiều bệnh tật khác, ông cũng cho triệu tập một cuộc hội nghị các đại biểu Đảng và các lănh tụ chính trị Việt Minh.
Ngày 13-8- 1945 các đại biểu bắt đầu tới Tân Trào. Tất cả không phải đều đă có thiện ư đối với ông. Nhiều người thắc mắc về địa vị đứng đầu mặc nhiên của ông trong phong trào quốc gia. Một số lại hơi ngại về những tin đồn ông được Đồng minh ủng hộ. Một số khác khao khát địa vị lănh đạo cho bản thân ḿnh.
Mặc dù sức khỏe rất kém, ông Hồ vẫn tỏ ra tự tin, tươi vui, phấn khởi, tự thân đón chào một cách nồng nhiệt từng người mới đến.
Ông đi lại giữa mọi người, trao đổi tin tức, quan điểm và ôn lại các câu chuyện cũ. Trong cái “cơ quan và hành dinh” hỗn hợp của ông Hồ trưng bày nhiều tranh ảnh trong đó có Lênin, Mao và tướng Chennault với đủ các giải băng, sao, phù hiệu cấp bậc. Nhiều người tham dự hội nghị đă hỏi xem người sĩ quan ngoại quốc này là ai vậy và ông Hồ đă vui vẻ giải thích cho họ.
Đến chiều th́ một số lớn đại biểu đă đến hội nghị. Họ đại diện cho các cơ quan của Đảng từ ba vùng Bắc, Trung và Nam của Việt Nam, và cũng có một số đại biểu từ ngoài nước trở về. Mưa to và đường sá đi lại khó khăn đă làm cho một số đại biểu phải vắng mặt, một số th́ chắc không nhận được giấy triệu tập.
Công việc đầu tiên phải làm là quyết định về vấn đề khởi nghĩa.
Vào buổi tối ngày 13-8, một Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc được thành lập. Ủy ban nhận định là thời điểm cho một cuộc tổng nổi dậy và toàn dân đứng lên cầm vũ khí đă đến. Chính trong đêm đó, Ủy ban đă phát bản Quân lệnh số 1, ra lệnh phát động cuộc tổng khởi nghĩa.
Ngày hôm sau, Tổng bộ Việt Minh ra một bản kêu gọi nhân dân nổi dậy đấu tranh giành độc lập. Cũng trong ngày hôm đó, Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc thảo ra bản Kế hoạch hành động dựa trên 4 phương châm cơ bản:
kết hợp mọi hành động quân sự và chính trị, tập trung toàn bộ lực lượng dưới quyền một chỉ huy thống nhất, củng cố hàng ngũ cán bộ quân sự, dân sự và giữ vững liên lạc với lănh đạo. Bản kế hoạch hành động đă hướng dẫn tỉ mỉ việc vận dụng vào thực tế các phương châm công tác nói trên.
Liền ngay sau cuộc hội nghị của Đảng, Quốc dân đại hội đầu tiên đă được triệu tập họp vào ngày 16-8. Dưới quyền chủ toạ của Hồ Chí Minh, Đại hội gồm hơn 60 đại biểu đại diện cho nhiều đảng phái chính trị trong Mặt trận Việt Minh, các tổ chức quần chúng, các dân tộc (thiểu số), các cộng đồng tôn giáo ở Đông Dương và hải ngoại.
V́ Đại hội họp ở Tân Trào nên các đại biểu cũng loáng thoáng thấy được một cách kín đáo một số bộ đội mặc đồng phục, được trang bị tốt và rất có kỷ luật đi qua lại trong khu vực hội họp.
Người ta đă nhận ra ngay đó là những người Việt Nam và là đội viên của Giải phóng quân. Trang bị và vũ khí Mỹ của họ c̣n mới, cùng một kiểu và cỡ thống nhất. Ông Hồ vẫn yên lặng một cách khiên tốn nhưng hài ḷng về sự ṭ ṃ và quan tâm của các đại biểu. Với bức ảnh có kèm theo chữ kư của Chennault trong lều của ông Hồ cùng với những du kích quân trang bị tốt như thế, dư luận lan truyền là Việt Minh và đặc biệt là “Cụ Hồ” đă được Đồng Minh “bí mật ủng hộ”. Trong thâm tâm, chắc ông Hồ đă vui miệng khi thấy toán “Con Nai” đă đến thực đúng lúc, và bằng cách trải loăng nó ra th́ lại thấy h́nh như nhiều hơn lên so với t́nh h́nh thực trạng của nó.
Đại hội đă tán thành nghị quyết về một Cuộc tổng khỏi nghĩa và thông qua Quân lệnh số 1. Trong một phiên họp 2 ngày, Đại hội đă chấp nhận một chương tŕnh 10 điểm, một quốc kỳ có ngôi sao vàng 5 cánh nằm giữa một nền đỏ và một bài quốc ca, bầu ra Ủy ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam, đứng đầu là Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, hoạt động như một chính phủ lâm thời trong quá tŕnh thưa có Tổng tuyển cử toàn quốc.
Ông Hồ, luôn luôn thực dụng, đă lái Đại hội đi tới chỗ tán thành một chính sách thực tế “giành lấy chính quyền từ tay người Nhật và Chính phủ bù nh́n trước khi quân đội Đồng minh vào Đông Dương và như thế với danh nghĩa là những người chủ của đất nước, chúng ta hoan nghênh đón quân đội đó đến để giải giáp quân Nhật”. Nghị quyết này của Đại hội đă thể hiện sự lo lắng của ông Hồ trước mưu toan t́m kiếm lợi ích của Pháp và Trung Quốc, mối đe doạ mà mọi người đều biết, đối với sự nghiệp của ông do việc khối Pháp, Anh, Hà Lan muốn thu hồi trọn vẹn các thuộc địa cũ của họ. Ông Hồ đă nhận thức được Đồng minh không phải là đồng minh trong thực tế, mà đó chỉ là một sự liên kết với nhau nhằm mở rộng việc bảo vệ các quyền lợi thực dân ở Đông Nam Á. Căn cứ vào kinh nghiệm trước đây, ông Hồ đă thấy trước một cách rất sáng suốt là Trung Quốc sẽ không dễ dàng bỏ qua một cơ hội tốt nào để bóc lột Việt Nam.
Khi kết thúc Đại hội đáng ghi nhớ này, ông Hồ đă đưa ra một lời kêu gọi hùng hồn với toàn thể nhân dân Việt Nam, trong đó có đoạn ghi:
“Giờ quyết định số phận đất nước chúnlg ta đă điểm. Toàn dân trong nước hăy nổi dậy, dùng sức mạnh của bản thân chúng ta đế giải phóng cho chúng ta. Các dân tộc trên thế giới đang nô nức thi đua để tiến lên giành lấy độc lập. Chúng ta không cam chịu ở lại đàng sau...
Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ của Việt Minh, nhân dân ta hăy anh dũng tiến lên phía trước”.
Ông Hồ đă kư vào bản kêu gọi với cái tên mà trước đây ông đă dùng khi bắt đầu cuộc đời đấu tranh cách mạng của ông - Nguyễn Ái Quốc. Lời kêu gọi đánh vào tinh thần yêu nước của người Việt Nam và ông muốn cho họ biết ông vốn là “Nguyễn, người coi t́nh yêu Tổ quốc là đạo đức tối cao”.
Ngày thứ nhất của Đại hội cũng là ngày xuất phát của toán “Con Nai”. Theo chỉ thị của Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc, một đơn vị dưới quyền chỉ huy của Vơ Nguyên Giáp (được toán “Con Nai” huấn luyện trước) đă rời Tân Trào tiến đánh trại lính Nhật ở Thái Nguyên để mở đường tiến về Hà Nội ở phía Nam. Khi mọi việc chuẩn bị đă sẵn sàng, ông Hồ, vị Chủ tịch mới, đă mời tất cả đại biểu các đảng phái và quan khách đến để quan sát đơn vị Việt Nam hành quân tiến ra ngoài doanh trại, có toán “Con Nai” đi cùng.
Thiếu tá Thomas là một sĩ quan trẻ tuổi, giỏi, nhưng chất phác một cách dễ hiểu trong lĩnh vực đấu tranh giữa các cường quốc thế giới. Thomas và toán của ông cùng với những người Mỹ được rải ra trên khắp Trung Quốc và Đông Dương đă chán ngán và không hài ḷng khi họ thấy bị chính sách của Bộ chỉ huy Chiến trường cấm không được đ̣i hỏi quân Nhật ở địa phương ḿnh hoạt động đầu hàng, hoặc nếu có việc họ muốn xin hàng th́ cũng không được tiếp nhận. Như Thomas đă nêu: “điều đó đă làm cho tôi chán ngán đến cực độ khi tất cả chúng tôi cảm thấy chúng tôi đă phải liều cả tính mạng ḿnh để đến đây nhưng đến nay, khi công việc đă chạy tốt rồi th́ chẳng c̣n ai đếm xỉa đến chúng tôi nữa...” vân vân và vân vân. Một số toán t́nh báo này, hoạt động ở cách xa mọi sự chỉ huy của cơ quan quân sự đến hàng trăm dặm, đă làm ầm ĩ lên hơn thế nữa và đă không tuân theo mệnh lệnh của Chiến trường.
Trong trường hợp của toán “Con Nai”, họ đă làm dịu bớt sự bất măn của ḿnh bằng cách đi theo cùng với bộ đội Việt Minh suốt trên đường về Hà Nội, nhưng chỉ với tư cách là những quan sát viên. Có thể họ đă hoàn toàn lăng quên mất cái ấn tượng họ đă tạo ra được cho ông Hồ một cách chắc chắn là ông đă có được sự ủng hộ “bí mật” của Đồng minh. Nhưng c̣n các đại biểu th́ sau khi Đại hội kết thúc, họ phân tán trở về địa phương, họ lại mang theo cái ấn tượng nói trên cùng với họ đi khắp đất nước.
Ghi chú: Đây là tư liệu lấy trong cuốn WHY VIETNAM?
(C̣n tiếp).

Gibbs 05-29-2024 15:57

Ngày 15/8/1945 Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng Minh, nhưng văn kiện đầu hàng vẫn chưa được kư kết chính thức.
Nước Nhật bại trận đă rơ ràng, nhưng điều Nhật Hoàng quan tâm là nước Nhật có bị đồng minh chiếm đóng, hoàng gia Nhật có bị giải tán, nước Nhật sẽ có một thể chế nhà nước và hiến pháp như thế nào…?
Dù tuyên bố đầu hàng, nhưng lệnh vẫn đưa ra, quân đội Nhật án binh bất động và tại các lănh thổ do người Nhật cai quản các hoạt động vẫn diễn ra b́nh thường, đợi đồng minh vào giải giáp vũ khí và tiếp quản.
Tại Đông Dương lúc này một khoảng lặng diễn ra ngắn ngủi khi quân Nhật đang đợi đồng minh vào giải giáp, báo hiệu một cơn băo táp lôi kéo nền chính trị ở đây vào một giai đoạn phức tạp, kéo dài nhất trong lịch sử thế giới.
Khoảng lặng này đă tạo ra cho Việt Minh cơ hội hoạt động công khai mà không bị người Nhật đàn áp.
Tại Hà Nội.
Ước vọng của chính phủ Trần Trọng Kim yêu cầu người Nhật trao trả nốt Nam Kỳ cho Việt Nam thành sự thật.
Trần Trọng Kim ra Hà Nội gặp Tsuchi-Hashi Yuitsu, tổng tư lệnh nhật, quyền chức toàn quyền của Pháp ở Đông Dương.
Trần Trọng Kim nói:
- Quân đội Nhật đă đánh quân đội Pháp và công nhiên hứa hẹn trả quyền tự chủ cho nước Việt Nam. Bởi vậy tôi không quản tuổi già và sự khó khăn của hoàn cảnh mà đứng ra lập chính phủ. Tôi làm việc một ḷng giúp nước tôi, cũng như các ông lo việc giúp nước Nhật, thế mà thấy nhiều người nói nọ nói kia rất khó chịu. Nếu các ông cho tôi là người làm việc cho nước Nhật, việc ấy không phải là phận sự của tôi, tôi sẵn ḷng xin lui.
Tổng tư lệnh Nhật nói:
- Bao giờ người Nhật cũng giữ lời hứa hẹn nên những việc nội trị trong nước Việt Nam là không can thiệp đến. C̣n những việc chưa giải quyết được là v́ cần phải có th́ giờ để thu xếp cho ổn thỏa. Cụ đừng nghe người Nhật hay người Việt Nam nói nhảm không có căn cứ ǵ. Vả tôi phụng mệnh Thiên Hoàng sang đây, việc ǵ cũng trách cứ ở tôi, cụ đừng ngại.
- Ngài đă nói thế, phận sự của chính phủ chúng tôi là phải thu lại mấy thành thị Hà Nội, Hải Pḥng, Đà Nẵng và toàn hạt đất Nam Bộ cho nước Việt Nam. Nếu việc ấy không xong, th́ chúng tôi đối với quốc dân không có nghĩa lư ǵ cả.
- Chúng tôi bao giờ cũng định trả lại các lănh thổ Việt Nam cho chính phủ Việt Nam. Nhưng v́ sợ các ông chưa xếp đặt được sẵn sàng, nên c̣n tŕ hoăn lại ít lâu.
- Chúng tôi vẫn sẵn sàng về việc ấy, chỉ c̣n đợi sự quyết định của các ông mà thôi. - Vậy th́ cụ định bao giờ lấy lại ba thành thị kia?
- Nếu ngài bằng ḷng, th́ tôi xin lấy ngay tự bây giờ.
Viên tổng tư lệnh Nhật nghĩ một lúc rồi nói:
- Vậy xin để đến sáng ngày kia, vào 11 giờ cụ cho làm lễ thu nhận ba thành thị ấy. C̣n Nam Bộ th́ có nước Cao Miên c̣n lôi thôi về mấy tỉnh ở biên giới.
Trần Trọng Kim nói:
- Việc ấy hiện bây giờ không thành vấn đề được, v́ địa giới Nam Bộ ngày nay với địa giới Nam Bộ ngày trước không có ǵ thay đổi. Vậy phận sự chúng tôi là phải lấy lại toàn lănh thổ của tổ quốc. C̣n như Cao Miên có muốn nói chuyện ǵ về việc ấy, th́ sẽ nói chuyện với chúng tôi về sau. Vả theo ư tôi, th́ nước Cao Miên muốn thừa cơ chiếm lấy một ít đất của nam bộ, như thế làm mất cái tinh thần thân thiện của hai nước lân bang, và không đời nào dân Việt Nam chịu.
Tổng tư lệnh Nhật cứ viện hết lư do nọ đến lư do kia, thành ra cứ bàn căi đến một ngày mới chịu nhận lời trả lại nam bộ. Có một điều nên biết, là từ ngày Trần Trọng Kim ra Hà Nội, người Nhật nói chuyện rất ḥa nhă và có vẻ cung kính, chứ không có điều ǵ trịch thượng hay gai ngạnh.
Khi họ đă nhận lời trả lại đất nam bộ, có hỏi Trần Trọng Kim rằng:
- Bao giờ cụ định vào nhận lấy đất nam bộ, hay cụ định cho ai đi thay cụ.
Trần Trọng Kim nghĩ trong cái việc khó khăn này, ḿnh phải đi mới được, và nói:
- Tôi về Huế vài ngày để tâu bày mọi việc với hoàng thượng, rồi độ chừng ngày mùng 8 tháng tám là tôi đă ở Sài g̣n rồi.
Tổng tư lệnh Nhật nói:
- Cụ định vào th́ hôm ấy tôi cũng vào, để xếp đặt mọi chuyện cho chóng xong.
Việc lấy lại toàn lănh thổ Việt Nam như thế là quyết định xong.
Được tin người Nhật ưng thuận, và lúc ấy có ông Nguyễn Văn Sâm lănh tụ đảng Quảng Xă, vừa ở Sài G̣n ra Huế. Trần Trọng Kim vào tâu vua Bảo Đại, xin cử ông Sâm làm Nam Bộ Khâm Sai. Ngày 14 tháng tám năm 1945, ông Sâm được sắc chỉ bổ vào Nam.
Theo như Trần Trọng Kim thuật lại:
Đảng Việt Minh lúc ấy rất hoạt động, đánh huyện này, phá phủ kia. Lính bảo an ở các nơi phần nhiều bị Việt Minh tuyên truyền, tuy chưa theo hẳn, nhưng không chống cự nữa. Dân gian bấy giờ rất hoang mang, một đường có chính phủ quốc gia, nhưng v́ thời gian eo hẹp, chưa kịp sắp đặt ǵ cả. Công việc thấy có nhiều sự khốn khó mà thường nghe sự tuyên truyền của Việt Minh, nói họ đă có các nước Đồng Minh giúp đỡ cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập. Dân ta từ khi bị người Pháp sang cai trị, cứ khao khát độc lập, nay nghe Việt Minh nói thế, lại nghe nói đảng Việt Minh lên cầm quyền, dân không phải đóng thuế nữa, được hoàn toàn tự do và có nhiều hạnh phúc, thành ra ai cũng tin theo. Ngay những đạo thanh niên tiền tuyến do bộ Thanh Niên lập ra, cũng có ư ngă về Việt Minh.
Tôi thấy t́nh thế ấy, tôi bảo ông Phan Kế Toại đi t́m một vài người Việt Minh đến nói chuyện, v́ lúc ấy tôi c̣n tưởng đảng Việt Minh dù theo chủ nghĩa cộng sản, nhưng chắc cũng nghĩ đến tương lai nước nhà. Hôm sau ông Toại đưa một thiếu niên Việt Minh đến, tôi nói:
- Chúng tôi ra làm việc chỉ v́ nước mà thôi, chứ không có ư cầu danh lợi ǵ cả, tôi chắc đảng các ông cũng v́ nước mà hành động.
Nếu vậy chúng ta tuy đi con đường khác nhau, nhưng cũng một mục đích như nhau, các ông thử xem ta có thể hợp tác với nhau, kẻ ở trong người ở ngoài, để cứu nước được không?.
Người ấy nói:
- Sự hành động của chúng tôi đă có chủ nghĩa riêng và có chương tŕnh nhất định để đem nước đến chỗ hoàn toàn độc lập. Chúng tôi có thể làm lấy được.
- Sự mưu cầu cho nước được độc lập cũng là mục đích của chúng tôi, nhưng v́ đi đường thẳng có nhiều sự khó khăn nên chúng tôi phải uyển khúc mà đi từ từ có lẽ chắc chắn hơn.
- Chúng tôi chỉ có một con đường thẳng đi đến hoàn toàn độc lập chứ không có hai.
- Theo như ư các ông như thế, tôi sợ rất hại cho dân, mà chưa chắc đă thành công được.
- Chúng tôi chắc thế nào cũng thành công. Nếu có hại cũng không cần, có hại rồi mới có lợi. Dù người trong nước mười phần chết mất chín, chúng tôi sẽ lập một xă hội mới với một thành phần c̣n lại, c̣n hơn với chín phần kia.
Rồi người ấy ngồi đọc một bài h́nh như đă thuộc ḷng để kể những công việc của đảng Việt Minh. Tôi thấy thái độ người ấy như thế, tôi biết không thể lấy nghĩa lư nói chuyện được.
Tôi nói:
- Nếu các ông chắc lấy được quyền độc lập cho nước nhà, các ông không vào chính phủ làm việc, cần ǵ phải đánh phá cho khổ dân?
- Chúng tôi sẽ cướp lấy quyền để tỏ cho các nước Đồng Minh biết chúng tôi mạnh, chứ không chịu để ai nhường.
- Các ông chắc là các nước Đồng Minh tin ở sức mạnh của các ông không?
- Chắc lắm. Chắc trăm phần trăm. Tương lai c̣n dài, các ông nhận lấy trách nhiệm đối với quốc dân và lịch sử.
Xong việc ấy rồi cách hai hôm sau chúng tôi về Huế.
Trần Trọng Kim đi rồi, mọi việc giao tiếp với người Nhật và Việt Minh giao cho Khâm sai Phan Kế Toại đảm nhiệm.
Trần Trọng Kim có nhận xét về Phan Kế Toại như sau:
“Giá lúc ấy có một người làm khâm sai ở bắc bộ cương quyết và hiểu việc, th́ các việc tổ chức có thể mau chóng hơn, nhưng ông Phan Kế Toại là người chuyên làm việc trong thời bảo hộ của Pháp, tuy trong sạch hơn cả, song chỉ là một ông quan biết thừa hành mệnh lệnh, chứ về đường chính trị th́ không thông thạo lắm, và tính lại nhát. Ông thấy một đường th́ người Nhật làm khó dễ, một đường th́ bọn Việt Minh bạo động, nay đánh chỗ này, mai đánh chỗ nọ, ông sợ hăi và chán nản, chỉ nói chuyện xin từ chức.
Phàm những người cầm quyền bính trong tay mà có những người tế nhị tài giỏi, biết quyền biến, giúp việc th́ dù việc dở cũng hóa hay, mà không th́ việc hay cũng hóa dở. Đó là điều các nhà làm chính trị nên chú ư.
Trước tôi thấy cách làm việc của ông Toại rất lộn xộn, tôi đă muốn t́m người thay, nhưng t́m aỉ Người nói giỏi th́ nhiều, mà người làm được việc th́ ít. Nếu ở trong quan trường cũ có người tài cán và hiểu việc th́ hơn, v́ chức khâm sai là một chức kiêm cả việc chính trị và cai trị. Việc cai trị không có lịch duyệt không làm được. Ông Toại là người làm quan có tiếng hơn cả mà c̣n như thế, huống người khác rồi ra sao. V́ thế nên tôi cứ trù trừ măi. Sau ông Toại cứ nài. Tôi nghe nói ông Nguyễn Tường Long là người biết chính trị và có nghị lực hơn cả, nhưng lúc ấy ông đang bị bệnh thương hàn. Tôi nghĩ đến ông Nguyễn Xuân Chữ là người trong Việt Nam Ái Quốc Đảng, có tính cương quyết và đứng đắn. Tôi gặp ông Chữ nói chuyện, ông đă nhận lời, nhưng hôm sau ông về bàn tính thế nào lại đổi ư, nói xin để thong thả.
Tôi th́ vội về mà người th́ không có. Tôi phải bảo ông Toại phải cố ở lại mà làm việc cho đến khi tôi thu xong đất nam bộ, tôi sẽ t́m người thay. Ông Toại nể tôi mà ở lại”
(C̣n tiếp)


All times are GMT. The time now is 01:03.
Page 4 of 4 123 4

VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2006 - 2024
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2024 DragonByte Technologies Ltd.

Page generated in 0.10579 seconds with 8 queries