View Full Version : Trang của lính
laongoandong
12-25-2018, 15:03
« người lính VNCH xưa của anh với nhiệm vụ chưa hoàn thành th́ nay anh cho đời 2 bác sỉ đó cũng được rồi như vậy sứ mạng của người đời của anh cũng hoàn tất vậy..
Nghe nói chí lư ḿnh cũng lên tinh thần và lấy lại nụ cười và cầu chúc đến các bạn Lính của ḿnh đang chu du trên khắp nẽo đường thế giới và các ACE ở trang lính nầy Một Đêm Giáng Sinh Vui Vẻ ,B́nh An và nhiều May Mắn Hy Vọng tốt đẹp.
Cùng một hoàn cảnh và có khi c̣n tệ hơn bạn v́ bạn c̣n vợ con kề bên. Rất mừng t́m được những cựu chiến hữu. Chúc mừng bạn và đại gia đ́nh VBF một Giáng sinh vui vẻ thân hữu và an lành bên nhau. Mong mọi điều tốt lành đến với tất cả mọi gia đ́nh VBF
wonderful
12-25-2018, 20:26
Wonderful và niềm tin Mùa Giáng Sinh
Cũng tháng Mười Hai nầy năm 1975, Sài G̣n không có cây thông, đèn ngôi sao, hang đá, không có Ông Già Noel! Gia đ́nh miền Nam nào cũng không c̣n nguyên vẹn, sum họp như những mùa Đông năm trước. Khi được hỏi v́ sao năm nay không có Ông Già Noel, người mẹ trả lời các con:
– Ông Già Noel đi cải tạo rồi, Ông không đang lội bùn trong tại tù ở Kà Tum,Trảng Lớn, Suối Máu th́ cũng cuốc đất ở Long Giao, Tiên Phước hay A.20 (là trại giam tù tàn độc nhất ở miền trung của CSVN).!
Chẳng qua v́ ông bị gán cho là sản phẩm của Mỹ Nguỵ, với bộ áo quần màu đỏ viền trắng, thắt lưng da đen, đội chiếc nón đỏ, cứ nh́n cái má phúng phính, mái tóc bạc dầy, với cḥm râu dài trắng, mang đôi ủng cao, với cái túi quà tư hữu chất nặng những thứ đồ chơi dành cho bọn tư sản. Trông ông chẳng giống một chút h́nh ảnh nào với công nông, với thành phần vô sản. H́nh ảnh của vô sản phải là một ông già đội nón cối, răng hô, râu lưa thưa, gầy đét, trán vồ, mắt cáo, chân đi dép lốp, cần lội suối th́ cái quần cháo ḷng lăn lên tận bẹn, với một cái gậy trong tay.
Những đứa trẻ đi ngủ với cái bụng đói và với nỗi buồn năm nay không có Ông Già Noel mang quà đến, cũng như bóng người cha trong gia đ́nh bỗng dưng biến mất. Mẹ chúng ngồi bên cái ḷ nấu khoai luộc,liếc sơ qua hủ gạo vơi gấn đụng đáy, mặt buồn rười rượi, đôi khi c̣n kéo vạt áo chấm nước mắt.
Cả một thế giới, những mơ ước sụp đổ trong một ngày. Ngoài đường, h́nh như người ta đi lại bất thường, phố xá đỏ rực với những lá cờ lạ, với những khuôn mặt như trên rừng mới xuống và tiếng nói không quen. Người ta không c̣n những chiếc áo mới, những bộ y phục màu sắc. Thế giới nhuộm một mầu đen tối thê thảm. Người ta giấu đi ư nghĩ, che chắn lời nói, và nuốt những giọt lệ vào ḷng.
Trong khi bọn trẻ thấy Ông Già Noel biến mất, cùng với ánh sáng và đèn ngũ sắc lấp lánh, gian nhà đầy bóng tối với nỗi buồn và không khí lạnh lẽo, th́ người lớn hụt hẫng bởi điều vô lư của cuộc đời, không lẽ kẻ gian tà lại được ân phước, trong khi người ngay thẳng lại bị oan khiên. Vinh danh Thiên Chúa trên Trời không biết có c̣n không, nhưng b́nh an dưới thế quả là một điều không c̣n hiện hữu!
Năm nay những đứa trẻ không c̣n giấc mơ mùa Giáng Sinh, không có h́nh ảnh Ông Già Noel trong trí tưởng, nhưng những người lớn lạc lơng giữa một cuộc đời xáo trộn, đổ vỡ không bao giờ nghĩ đến.
Mùa Giáng Sinh lại về, ví thử trên thế giới này, không có Ông Già Noel hay Ông Già Noel đă chết, th́ niềm vui của trẻ thơ cũng chết theo, niềm vui chết th́ niềm tin cũng không c̣n, và con người vắng niềm tin th́ cũng như con người đă chết!
“Ông già Noel có thật không?” Câu hỏi này đă khiến không biết bao nhiêu đứa trẻ trên thế giới này thắc mắc. Tờ The Sun ở thành phố New York, ấn hành cách đây hơn 100 năm (1897), đă có một bài báo nổi tiếng với tựa đề “Có ông già Noel không?”
Năm ấy, một cô bé tên là Virginia O’Hanlon đă viết thư cho ṭa soạn The Sun để hỏi rằng ông già Noel có thật hay không. Biên tập viên Francis Church, một phóng viên chiến trường thời Nội chiến Mỹ – người đă chứng kiến trong thời đại ấy nhiều người đă mất niềm tin và cả hy vọng, đă trả lời câu hỏi này:
“Virginia, các bạn của em đă sai rồi. Họ đă bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa hoài nghi trong một thời đại hoài nghi. Họ không tin nếu họ không tự nh́n thấy. Họ nghĩ rằng những thứ mà tâm hồn hạn hẹp của họ không tiếp nhận được, th́ nó không thể tồn tại… Ông già Noel là có thật, Virginia ạ! Ông tồn tại hiển nhiên như là t́nh yêu, sự rộng lượng và sự thành tâm…”
Không ai cho rằng nói dối là điều tốt, nhưng có những lời nói dối không hề hại ai và nhiều sự thật cũng không nhất thiết phải nói ra, đặc biệt là với thế giới của trẻ em. Những đứa trẻ luôn tin tưởng vào những phép mầu nhiệm mà những người lớn như chúng ta không hề có. Trẻ em tin rằng nếu chúng ngoan ngoăn, biết vâng lời cha mẹ, biết làm điều tốt th́ sẽ nhận được món quà từ ông già Noel. Thế giới ngày nay xẩy ra bao nhiêu điều lừa lọc, gian trá v́ con người không tin vào sự trừng phạt hay khen thưởng của một đấng vô h́nh không nh́n thấy!
Sao chúng ta nỡ bóp chết niềm tim trong trái tim non nớt của trẻ thơ. Cách đây không lâu báo chí đưa tin, một cô giáo ở New Jersey (Mỹ) đă nói với một nhóm học sinh lớp 1 của cô rằng ông già Noel không có thật. Trẻ em trong lớp học này trở về nhà với gương mặt ủ rũ thất vọng, v́ Ông Già Noel sẽ không c̣n để đi phát quà cho các em vào đêm Giáng Sinh năm nay. Ngay sau đó, hiệu trưởng trường tiểu học Montville đă gửi thư xin lỗi phụ huynh v́ hành động thiếu suy nghĩ của nữ giáo viên này. Cô giáo đă được cho nghỉ việc, và có lẽ nên đi t́m một nghề khác.
Một bà mẹ ở Anh Quốc cũng đă nổi giận thật sự khi nhà trường nói với học sinh “Làm ǵ có Ông Già Noel!” Bà cho rằng, bà có quyền giữ cho con bà có niềm tin là Ông Già Noel có thật, v́ đó là lựa chọn của bà, và không ai có quyền tước bỏ niềm tin đó!
Khi chúng ta ở tuổi thơ ấu, chúng ta tin rằng có Ông Già Noel. Khi trưởng thành chúng ta hiểu biết nhiều hơn, nhưng chúng ta vẫn nói với những đứa bé rằng Ông Già Noel là có thật, như thời thơ ấu chúng ta đă nghĩ như vậy!
Cuộc đời sẽ đi đến chỗ trần trụi, thô sơ và vô vọng khi chúng ta không có niềm tin.
KHÔNG CÓ NIỀM TIN TH̀ CHÚNG TA SỐNG BẰNG G̀ HỞI BẠN ?
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1319113&d=1545769523http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1319115&d=1545769565
Thật đúng vậy ḿnh vẫn tạo h́nh ảnh Ông già Noel cho 2 con ḿnh từ hồi nhỏ...tới bây giờ chúng nó vẫn nói "cha là Ông gíà Noel suốt đời của tụi con và có cha là có Noel ".Và ḿnh cũng bắt buộc và khuyên tụi nó rằng " Các con cũng phải lấy tài năng học hỏi và kinh nghiệm để hằng ngày làm Ông già Noel đem đến nụ cười xóa tang niếm đau thể xác và đem nhiều hy vọng đến cho bệnh nhân của tụi con nha."...
Và bây giờ là chuyện vui của bà xả ḿnh khi có lần hỏi "anh ơi nếu Ông già Noel mà cởi bỏ râu ,tóc giả trắng ra và mắt kiếng nửa và bộ đồ đỏ ḷm th́ sẽ như thế nào hả anh ??
Và ḿnh trả lời " th́ em thấy anh như thế nào và tất cả đàn ông..bạn lính VNCH của anh đều đẹp trai hết và sexy nửa nha em,tất cả đều đáng yêu hết và nhớ một điều là được làm vợ của anh lính VNCH là môt niềm hảnh diện lớn lao trong đời đó nha em".Và vợ ḿnh cười và nói " kiếp sau em cũng sẽ kiếm anh để làm vợ nguời lính VNCH đó..
Las Vegas 25 December 2018.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1319121&d=1545772545http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1319122&d=1545772576
Tôi xin chúc các ban những người lính VNCH và các bạn trong Forum sức khỏe , vui vẻ🍾🍾🍾
laongoandong
12-26-2018, 00:05
Mày có khoái "đả kích" tao hay không th́ tao cũng éo có care.... nhưng tao sẽ tiếp tục vạch trần những cái ô nhục, cái đốn mạt, cái đần dộn, cái ngu xuẩn cuả một cái-gọi-là "tổ quốc" mà éo có chu toàn trách nhiệm của ḿnh..... Để rồi bây giờ... "ăn mày quá khứ" kể chuyện "tào lao xích đế".... Mẹ kiếp! Chỉ nghĩ tới thôi mà máu tao đă sôi lên rồi....
Buồn thay cho văn hóa của CS. Chỉ dùng những từ ngữ thô tục hạ cấp. Chuyên dùng những lời lẻ của kẻ hiếu chiến, của đám giang hồ xó chợ. Dốt th́ dựa cột mà nghe không biết ǵ về lich sử chỉ nghe nói một chiều.
laongoandong
12-26-2018, 00:22
Lâu lắm mới được đọc những bài viết thế này để tưởng nhớ những ǵ ḿnh trăi qua. Và biết thêm được những khía cạnh của người lính năm xưa. Thêm vào đó là những t́nh cảm của huynh đệ trong trang này gắn kết với nhau v́ bổn phận năm xưa. Cám ơn người đă mở trang này hoanglan22
hoanglan22
12-26-2018, 03:48
Uo4IfXMyyjM
cha12 ba
12-27-2018, 01:43
bài thơ ngắn đầy ư nghĩa.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1319573&stc=1&d=1545874989
hoanglan22
12-27-2018, 04:04
Chúc tất cả các bác và ACE vui vẻ trong năm mới sắp đến . Chuyện cũ bỏ qua , chuyện mới :handshake: chào đón
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1319702&stc=1&d=1545883418
cha12 ba
12-28-2018, 02:27
Lính vui Xuân,
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1320011&stc=1&d=1545964022
hoanglan22
12-28-2018, 15:33
Câu chuyện này thật ra không dính dáng ǵ đến Trang lính , chỉ nói đến người dân sống dưới chế độ CS và t́m cách vượt biên . nên mượn vài ḍng post lại câu chuyện đọc cho qua ngày tháng mà chúng ta đă từng vượt biên
HL22
BÍ MẬT CỦA MỘT CÂU KINH PHẬT
Vừa rồi, chúng tôi, những người bạn chí thân từ thời c̣n đi học ở Việt Nam trước 1975, rủ nhau qua Canada thăm mấy ông bạn khác. Chúng tôi đến thành phố Montreal vào mùa hè nên không lạnh lắm. Ở Mỹ hay Canada, nhà cửa, cách sinh hoạt không khác nhau mấy. Và việc đi thăm bạn bè th́ cũng chẳng có ǵ đáng kể ra đây nếu không có một câu chuyện, mà nếu bạn nghe được, chắc cũng sẽ ngạc nhiên, đặt nhiều câu hỏi.
Chuyện hơi dài ḍng, xin bạn kiên nhẫn.
Chúng tôi gồm ba cặp vợ chồng, được gia đ́nh người bạn tiếp đón rất thân t́nh. Ông ta c̣n gọi các bạn khác ở gần đó, kéo đến, nên buổi họp mặt thật đông vui.
Khi bữa cơm gia đ́nh đă măn, các bà lo dọn dẹp chén bát để pha trà và các ông đang chuyện tṛ sôi nổi, th́ ông bạn chủ nhà đổi đề tài: “Có một chuyện thực, xảy ra ở Việt Nam, khoảng năm 1982. Một chuyện kỳ lạ mà bà chị tôi vừa là người trong cuộc vừa là nhân chứng. Lúc c̣n ở Việt Nam, chị tôi dấu kín v́ sợ đến tai công an th́ sẽ bị tra hỏi, có thể bị tù cũng nên. Nay chị tôi đến xứ tự do, sẽ kể thoải mái. Trong câu chuyện, có ǵ thắc mắc, xin cứ hỏi chị tôi”.
Người chị của chủ nhà, đang ngồi với các bà, được yêu cầu kể chuyện. Chị ta xin phép vài phút để lên lầu, lát sau đi xuống, tay cầm một phong b́ đặt trước mặt và bắt đầu kể. Mọi người yên lặng, lắng nghe.
- Gia đ́nh tôi, sau bảy lăm (1975), chỉ c̣n đàn bà v́ đàn ông đều vô tù cải tạo hết cả. Khoảng năm tám mươi (1980), chúng tôi được móc nối để vượt biên nhưng vẫn phải chờ ít nhất một người đàn ông đi tù cải tạo về mới quyết định được. Năm đó, cậu em tôi được thả về, chúng tôi báo cho người tổ chức, họ bảo, có một chuyến, phải đi ngay. Từ Sài G̣n chúng tôi đón xe về Cà Mau dự đám cưới. Đám cưới thật nhưng ăn cưới chỉ là cái cớ. Dân địa phương thấy người lạ từ Sài G̣n về ăn cưới th́ biết ngay, nhưng ŕnh bắt là công việc của công an. Thế nên, ai cũng chờ đợi màn thứ hai là khuya nay, công an sẽ phục ở băi đáp để tóm gọn quí vị quan khách nầy. Tṛ nầy xảy ra thường xuyên, nhưng họ không biết rằng vụ vượt biên nầy lại do chính công an địa phương đứng ra tổ chức, nên tối đó quí vị công an với các viên chức xă ấp có nhiệm vụ phải nốc rượu cho thật say, để sáng ra, ai cũng không biết ǵ cả !
Khuya đó, chúng tôi bị gọi dậy, cấp tốc lên đường. Từ nhà ra biển chỉ vài cây số. Trời quá tối. Chúng tôi âm thầm theo người trước mặt, đi ṿng vèo trên các con đường đất. Trong bóng đêm tối đen, thỉnh thoảng, bên đường lại có một toán chui ra nhập bọn, tôi đoán, cả đoàn chúng tôi, ít ra cũng hơn trăm người. Mặc dù đă được dặn trước là khi xuống thuyền phải tuyệt đối yên lặng và trật tự, không được chen lấn căi cọ, nhưng khi thấy mấy chiếc tắc xi (thuyền nhỏ đưa ra thuyền lớn), người ta ùa nhau lội xuống nước, tranh nhau leo lên thuyền. Cậu em tôi đi trước, tay bồng hai đứa con, vợ nó níu lưng đi sau, tôi níu áo cô ta để khỏi lạc nhau. Chỗ băi đó toàn śnh, ngập đến đầu gối khiến ai nấy b́ bơm măi mà chưa đến thuyền. Cậu em tôi phải kéo hai người đàn bà chúng tôi phía sau nên càng vướng víu, chậm chạp. Mọi người như những bóng ma âm thầm, chen nhau leo lên thuyền.
Khi cậu em tôi bỏ được hai đứa nhỏ lên thuyền, đẩy được vợ nó lên, đến lượt tôi th́ bỗng có tiếng súng, tiếng la hét :
- Tất cả đứng yên ! Đưa hai tay lên. Ai bỏ chạy sẽ bị bắn bỏ.
Tôi thấy ánh đèn pin loang loáng cách chỗ chúng tôi vài trăm thước. Chủ thuyền vội đẩy thuyền ra. Cậu em tôi chỉ kịp níu lấy be thuyền, người vẫn c̣n ở dưới nước. Tôi và khoảng vài chục người đành đứng nh́n mấy chiếc thuyền lẫn vào bóng tối, mờ dần ngoài biển khơi. Lúc đó tiếng súng và tiếng hô hoán “Đứng yên! Bỏ chạy bắn bỏ” càng như gần hơn khiến mọi người vội chạy ngược về phía bờ. Như đă dặn trước:
- Khi bị bể, phải chạy tránh xa ánh đèn của công an, trốn cho kỹ, chờ vài hôm, yên tĩnh mới t́m cách ra lộ đón xe về.
Vậy là mạnh ai nấy chạy. Tôi bương đại lên bờ, chạy ngược hướng tiếng súng. Vừa chạy vừa run, miệng niệm: “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát”. Cứ nhắm mắt, nhắm mũi chạy đại, vấp mô đất hay gốc cây té xuống th́ vùng dậy chạy tiếp. Lúc đầu h́nh như có người cùng chạy với tôi, quay lại th́ không thấy ai cả! Tôi chạy độ nửa tiếng, thấy đă xa, vừa hoàn hồn th́ hai chân ră rời, nhấc không lên. Tôi ngồi đại xuống đất, thở dốc. Lúc đó khoảng một giờ sáng. Tôi nh́n quanh. Một bên là biển đen ś, ŕ rào tiếng sóng, một bên là bờ rừng, với hàng cây là những khối đen, cao hơn đầu người, trông như những con ác thú đang chờ mồi. Tôi đoán, có lẽ công an ŕnh bắt một vụ vượt biên khác, cách chúng tôi vài ba trăm mét, chủ thuyền tưởng bị bể, nên bỏ chạy, v́ thế mọi người mới chạy thoát.
Từ lúc lên xe ở Sài G̣n đến khi về Cà Mau, tôi hoàn toàn không biết ḿnh đang ở đâu? Bây giờ ngồi bơ vơ giữa đồng không mông quạnh, chung quanh tối mù, tôi tự hỏi ḿnh sẽ làm ǵ, hay phải ngồi như thế nầy cho đến sáng? Lúc năy, chạy, người toát mồ hôi, bây giờ, gió biển thổi vào, tôi lạnh run cầm cập. Tôi thầm ước cho công an đến bắt ḿnh, có người cùng bị bắt với nhau cũng yên tâm, rồi sau đó muốn ra sao th́ ra ! Cái xách nhỏ trên vai tôi vẫn c̣n. Tôi t́m chai nước lạnh, uống mấy ngụm. Trong xách chỉ có vài chai nước lạnh, mấy viên thuốc say sóng, mấy hộp sữa đặc, cái khăn nhỏ, một mớ đô la và vàng cùng quyển kinh Phật. Không hiểu sao, trong lúc hoảng loạn mà tôi c̣n giữ được cái xách ?
Đang ngồi rầu rĩ, bỗng nhiên, tôi thấy từ xa, có ánh đèn thấp thoáng, có lẽ là đèn dầu hôi, loại thường thấy ở thôn quê, cách tôi hơn một cây số. Tôi mừng rỡ, quên cả mệt, đứng lên, nhắm ánh đèn mà đi. Tôi đi như chạy, té lên, té xuống, mà không thấy đau, cứ nhắm ánh đèn bương tới, v́ sợ người ta tắt đèn th́ không biết làm sao t́m đến. Độ nửa giờ sau, tôi đến nơi. Đó là một nhà lá, cửa mở, một cây đèn băo (loại đèn để đi trong gió mà không sợ tắt), đặt trên một chiếc ghế nhỏ, để ngay trước cửa, nhờ vậy mà từ hướng bên trái ngôi nhà, tôi vẫn thấy được.
Khi đến trước cửa, tôi kêu lên :
- Có ai trong nhà không ? Cho tôi vào với.
Có tiếng đàn ông nói lớn :
- Vào đi ! Đừng sợ !
Khi bước vô cửa tôi mới nhận ra là có một người đàn ông đang ngồi hút thuốc lào, cạnh một cái bàn để giữa nhà. Người đàn ông đứng lên, ra đem cây đèn băo và chiếc ghế vào. Nghe giọng lơ lớ, với cách dùng chữ, tôi đoán ông ta là người Bắc giả giọng Nam. Tôi bước vào nhà. Nhà không rộng lắm nhưng đặt ba nơi ba chiếc giường rộng, có trải chiếu tươm tất. Ông ta chỉ chiếc ghế:
- Ngồi đấy đi !
Tôi nói cám ơn, v́ áo quần dính śnh, không dám ngồi, sợ dơ ghế. Ông ta bảo, giọng b́nh thản như việc nầy đă từng xảy ra nhiều lần:
- Thế th́ đi tắm đi! Tôi có sẵn áo quần của bà xă tôi, thay tạm. Áo quần bẩn th́ giặt đi, phơi ra ngoài gió, sáng mai khô ngay, thay trả lại cho tôi, rồi tôi sẽ đưa ra bến xe, đón xe về Sài G̣n.
Nghe nói sáng mai đón xe về Sài G̣n, tôi mừng quính, không ngờ ḿnh may mắn gặp được cứu tinh. Tôi thấy có cảm t́nh với người đàn ông tử tế đó, định nói lời cám ơn, nhưng nh́n thấy hai con mắt của ông ta, tôi rùng ḿnh khiếp sợ. Ông ta khoảng năm mươi tuổi, dáng người tầm thước, mặt sạm nắng, hai g̣ má cao, tóc ngắn, chân tay gân guốc... nghĩa là ông ta đúng là một nông dân, chỉ đôi mắt là khủng khiếp. Tuy đèn dầu tù mù nhưng đôi mắt vẫn ánh lên những tia sáng lạnh lẽo, vừa uy quyền, tàn nhẫn vừa như giễu cợt. Tôi sợ quá, cảm tưởng như ḿnh là con chuột đă bị con mèo chộp được trong móng vuốt nhưng vẫn giữ đấy chờ con mồi chết khiếp mới từ từ thưởng thức. Thấy tôi đứng bất động v́ sợ, ông ta cười, giọng dịu dàng nhưng vẫn uy quyền, như ra lệnh :
- Tôi không hại cô đâu. Cô đừng sợ. Tôi nghe tiếng súng nổ là biết ngay vượt biên bị bể nên thắp đèn lên để ai chạy thoát th́ đến đây tá túc, sáng mai tôi lấy thuyền đưa ra bến xe về nhà. Tôi đă cứu hàng mấy trăm người rồi. Ai cũng về nhà an toàn. Đừng sợ. Để tôi lấy áo quần cho cô thay tạm. Hôm nay vợ tôi ra chợ thăm đứa con gái, sáng mai, tôi đưa đi, nhân tiện đón vợ tôi về. Đói bụng th́ có cơm nguội trong nồi với con cá khô trong bếp, lấy ra mà ăn.
Ông ta nói nhỏ nhẹ, từ tốn nhưng tôi vẫn sợ, răm rắp theo lệnh. Ông ta vào buồng đem ra một bộ đồ đàn bà màu đen, trao cho tôi rồi thắp một cây đèn cầy, chỉ lối đi ra sau chái nhà:
- Có cái pḥng tắm sau kia. Sẵn nước với khăn lau. Tắm xong, mặc tạm, c̣n bộ đồ bẩn th́ giặt đi, phơi lên, sáng mai khô, mặc vào, trả lại bộ đồ cho vợ tôi.
Tôi riu ríu cầm áo quần và cây đèn cầy, ra nhà sau, vào pḥng tắm, đóng cửa lại, gắn cây đèn sáp lên bệ, xây lưng về phía đèn, cởi đồ ra, dội nước. Tôi làm một cách vô thức, như bị thôi miên bởi cặp mắt của ông ta, tôi đoán, đang nh́n tôi qua khe hở của vách pḥng. Tôi tắm qua loa, mặc áo quần vào. C̣n nửa thùng nước, tôi đổ ra cái thau nhỏ sẵn đó, ṿ bộ đồ dính śnh rồi treo lên một sợi dây kẽm trong pḥng tắm. Khi tôi lên nhà trên th́ ông ta chỉ cái giường, có giăng sẵn mùng:
- Cô ngủ trên giường nầy. Tôi ngủ trong pḥng. Ngủ đi cho khỏe, đừng sợ mà thao thức. Mai đi sớm.
Tôi nói:
- Dạ. Cám ơn ! Rồi chui vô mùng. Ông ta tắt đèn, đi vào buồng.
Tôi nằm trên giường, mắt mở thao láo, không dám ngủ. Có chiếc mền mỏng, tôi lấy quấn chặt quanh người rồi nằm lắng nghe, không biết chuyện ǵ sẽ xảy ra? Tôi chỉ mong được ông ta tịch thu hết số đô la và vàng tôi mang theo rồi tha cho tôi về nhà. Tôi cứ lẩm nhẩm niệm Quán Thế Âm, cầu Phật Bà cứu khổ cứu nạn. Trong đêm tối, tất cả im lặng, chỉ có tiếng sóng biển ŕ rầm nghe như tiếng xe chạy rất xa. Bấy giờ tôi mới thấy người ră rời, vừa mỏi vừa đau ê ẩm khắp nơi, nhất là những chỗ bị mô đất hay gốc cây đập mạnh vào khi tôi chạy bị ngă. Suy nghĩ miên man, tôi ch́m vào giấc ngủ lúc nào không hay.
Khi tôi tỉnh dậy th́ trời đă sáng. Vừa xếp mùng, mền xong th́ ông ta từ trong buồng bước ra.
- Ngủ có được không?
- Dạ. Đi mệt quá nên ngủ say một giấc đến sáng.
Tôi nói mà không dám nh́n ông ta, sợ thấy đôi mắt kinh khiếp đó.
- Cô thay đồ rồi chúng ta đi ngay. Tôi chở cô ra bến xe ngoài chợ, họ sẽ đưa cô lên bến xe tỉnh, đón xe về Sài G̣n. Cô viết vào miếng giấy trên bàn kia, tên họ địa chỉ của cô. Tôi cần biết về cô để sau nầy dễ xác nhận.
Tôi ra sau nhà, thay đồ, đem bộ đồ của vợ ông ta để trên giường, đến chỗ cái bàn, viết tên họ, địa chỉ vào miếng giấy. Ông ta chỉ cái xách nhỏ của tôi “Đừng quên cái xách tay”. Tôi thấy quyển kinh của tôi để ra ngoài nhưng không dám lấy bỏ vào xách, mà làm như không thấy, chỉ vơ vội cái xách, cầm đi theo ông ta. Ra ngoài sân, tôi mới biết, trước nhà là một con sông rất rộng, có lẽ là cửa sông, c̣n biển th́ nằm bên trái căn nhà, cách một cây số. Nhà ông ta nằm giữa một vùng hoàn toàn hoang vắng, chung quanh là śnh lầy với cây đước, vẹt, sú ǵ đó mọc mênh mông, chạy đến mút mắt. Tôi không hiểu v́ sao vợ chồng ông ta lại đem nhau ra ở chỗ nầy? Không ruộng vườn, không thuyền bè đánh cá, không có người chung quanh, ngay đến con chim cũng không thấy bay qua. Có chăng là mấy con cua c̣ng ǵ đó nằm trên mặt śnh dương mắt nh́n tôi. Con đường từ nhà ra bến sông được đắp cao, có lẽ là lối duy nhất đưa ông ta ra chiếc thuyền, đến với xă hội loài người.
Ông ta xuống thuyền, tôi bước theo. Nhờ mấy miếng bê tông làm thành tam cấp nên tôi xuống thuyền không khó khăn lắm. Chiếc thuyền nhỏ, dài khoảng sáu, bảy mét, rộng hơn hai mét, gắn máy đuôi tôm. Ông ta tháo dây cột thuyền, giật máy, đưa thuyền ra giữa gịng sông.
Chiếc thuyền chạy giữa hai bờ rừng vắng vẻ, hoang vu. Một lúc thật lâu th́ xa xa thấp thoáng mấy mái nhà sau hàng dừa nước, rồi vài chiếc thuyền xuất hiện, chạy ngược chiều. Thuyền ghé vào một bến đ̣, có nhà cửa, quán ăn, một chợ thôn quê nhỏ và một bến xe lam (xe Lambretta, ba bánh dùng chở khách). Ông ta cột thuyền, ra dấu cho tôi cùng lên bờ. Mọi người thấy ông ta th́ cúi đầu chào vẻ kính cẩn và sợ hăi. Ông ta không thèm nh́n ai, đi thẳng đến chiếc xe lam, nói ǵ đấy với người chủ xe. Người chủ xe khúm núm gật đầu, miệng dạ nhịp, rồi đến nói với tôi:
- Mời cô lên xe. Xe chạy ngay bây giờ.
Ông ân nhân không để ư đến lời cám ơn của tôi, cũng không nói với ai tiếng nào, xuống thuyền, giật máy, quay thuyền ra giữa gịng. Khi ngồi trong xe lam, tôi thấy mọi người đang ṭ ṃ nh́n tôi với vẻ sợ hăi rồi th́ thầm với nhau ǵ đấy. Ông xe lam nổ máy, chở một ḿnh tôi, ṿng vèo trên đường đất trong xóm rồi đưa xe ra đường lớn, chạy vào thành phố. Ông ta chạy thẳng đến bến xe khách, ngừng cạnh một xe đầy khách, mời tôi xuống, đưa tôi đến ông tài xế, th́ thầm với ông ta. Ông tài xế mời tôi lên ngồi ghế trước. Tôi lục trong xách nhỏ, thấy gói đô la và vàng c̣n nguyên, lấy ra một mớ tiền Việt đưa trả cho hai người, nhưng ai cũng khoát tay.
- Anh Năm dặn rơ là ảnh sẽ trả tiền xe cho cô, chúng tôi đâu dám nhận.
Chiều hôm đó, tôi về đến nhà. Khoảng một tháng sau, người tổ chức đến gặp tôi, báo tin là mọi người đến đảo an toàn, thân nhân sẽ gửi thư sau. Ông ta hỏi tôi rất tỉ mỉ về vụ những người không kịp lên thuyền, tôi kể lại sự việc. Ông ta bảo những người kẹt lại đă bị công an bắt, chỉ thiếu hai gia đ́nh, gồm bốn người, không có tin tức. Hai gia đ́nh nầy th́ tôi biết, họ là thương gia xuất nhập cảng trước bảy lăm, rất giàu. Trước khi đi, họ đă bán nhà, v́ tin chắc sẽ đi lọt, như vậy, họ ôm của cải theo (vàng và đô la), phải nhiều lắm.
Chuyến vượt biển lần đó khiến tôi sợ quá, không dám nghĩ đến, ai rủ đi cũng lắc đầu.
Khoảng một năm sau, tôi nhận được một lá thư, tên người gửi lạ hoắc. Tôi hoàn toàn không biết ai đă gửi đến - Chị ta cầm lá thư đưa lên - Mấy năm sau, chồng tôi đi tù về. Chúng tôi qua Mỹ theo diện H O. Vợ chồng tôi qua Canada ở chơi với gia đ́nh cậu em. Gần mười năm mà tôi vẫn c̣n giữ lá thư nầy. Để tôi đọc cho quí vị nghe:
“Gửi bà H. (là tên tôi). Bà c̣n nhớ, lần vượt biển ở Cà Mau, bị bể và bà được tôi cho trọ qua đêm, hôm sau đưa ra bến xe, về thành phố Hồ Chí Minh. Tôi biết bà thắc mắc. Tôi là ai? Tại sao lại ở nơi vắng vẻ? Tôi sinh sống bằng cách nào?
Tôi cho bà rơ. Tôi là công an, có nhiệm vụ ở đó để đón lơng những người vượt biên bị bể chạy thoát được. Công an chúng tôi làm nhà cách nhau một vài cây số, dọc bờ biển, nơi thường có bến băi vượt biên, có thuyền con đón ra thuyền lớn. Như vậy, khi công an đến bắt vượt biên, người nào chạy thoát cũng chỉ quanh quẩn đâu đấy, thấy đèn là t́m đến, thế là nộp mạng cho chúng tôi. Tôi bảo rằng có vợ ở chung nhưng thật ra, vợ con tôi đều ở ngoài Bắc, tôi vào đây công tác đă được bốn năm, khi nào ổn định sẽ đưa gia đ́nh vào thành phố Hồ Chí Minh, v́ chẳng ai có thể ở nơi hoang vắng nầy.
Mỗi công an chúng tôi đă chuẩn bị sẵn các tiện nghi, nước nôi, lương thực, giường chiếu để đón những người vượt biên t́m đến nhờ cứu giúp. Tôi cho ăn uống, ngủ lại, sáng hôm sau, cho họ xuống thuyền, nói là chở ra bến xe để họ về nhà, nhưng kỳ thực, thuyền đi được nửa đường là bị công an chận bắt. Tôi cũng bị bắt để không ai nghi ngờ.
Thông thường, nếu nhiều người t́m đến th́ tôi bảo họ, có ǵ đem theo nên kê rơ, nhất là tiền bạc, quí kim, để tránh chuyện lấy cắp của nhau. Nếu chỉ một người th́ tôi chờ lúc người đó đi tắm sẽ lục xách tay, kiểm tra những ǵ đem theo. Tôi c̣n ŕnh nh́n lúc họ đi tắm, cởi đồ ra, sẽ thấy những ǵ họ lận theo người?
Tôi không bao giờ lấy của ai bất cứ ǵ, nên khi giải giao họ (đưa lên thuyền để bị công an chận bắt), công an chấp pháp lấy lời khai, sẽ thấy rằng tôi rất trong sạch. Tôi từng được công an tỉnh và trung ương biểu dương nhiều lần về thành tích chận bắt người vượt biên cũng như tinh thần chí công vô tư, không tơ hào đến của cải, vật chất của người bị bắt. Nhưng không ai biết rằng, hễ người nào đem nhiều đô la, vàng ngọc, hột xoàn là tôi thủ tiêu, chôn xác trong rừng. Tôi đào sẵn những cái hố, muốn giết ai, khuya đó, tôi lận súng trong người, bảo họ đi theo tôi để tôi chỉ đường mà đi ra đường chính đón xe về. Vào rừng, tôi bắn chết, đạp xuống hố, hôm sau ra lấp đất lại. Không người nào thoát khỏi tay tôi, v́ chung quanh toàn śnh lầy, có bỏ chạy một quăng là ngập người dưới śnh, tôi chỉ rọi đèn pin, đi t́m và bắn họ rất dễ dàng.
Tôi có nói bao nhiêu người bị tôi thủ tiêu với bà cũng chỉ làm bà kinh hoàng chứ chẳng ích lợi ǵ. Tất cả của cải cướp được, tôi đưa cho vợ tôi đem về quê chôn giấu. Hột xoàn, đô la, vàng ngọc, châu báu... Nghĩa là vợ chồng tôi rất giàu. Vợ tôi bảo, có thể bỏ vốn lập những công ty, mua máy móc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu hoặc mua nhà cửa ở Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh cũng không hết của. Dĩ nhiên gia đ́nh tôi ngoài Bắc vẫn sống đạm bạc như bao nhiêu người khác, để tránh bị nghi ngờ.
Tôi dự định sẽ làm thêm vài năm, kiếm một số tiền vàng nữa rồi xin ra khỏi ngành.
Tính ra, tôi ở đó đă được bốn năm, cho đến cái đêm bà t́m đến nạp mạng cho tôi.
Như mọi khi, lúc bà đi tắm, tôi ŕnh xem bà cởi đồ (để biết của cải lận theo người) rồi lên kiểm tra xách tay của bà. Tôi thấy trong xách có nhiều vàng và đô la. Như vậy, số phận của bà đă được tôi quyết định. Bà sẽ bị tôi thủ tiêu. Trong lúc lục xét xách tay tôi thấy có một quyển kinh, khổ lớn hơn những quyển kinh khác, mà những người vượt biên khác thường đem theo. Quyển kinh lớn đó khiến tôi ṭ ṃ. Theo thông lệ, tất cả kinh Phật của những người vượt biên, tôi giữ lại, khi nào lên tỉnh, tôi tặng cho người bạn đang trụ tŕ một ngôi chùa lớn, gần chợ. Anh ta là công an, đi tu là công tác, vẫn lănh lương công an. Tôi tặng các quyển kinh Phật cho chùa để ai đến lễ chùa mà “thỉnh” những kinh đó th́ biết ngay, người đó sẽ vượt biên và chúng tôi theo dơi. V́ ṭ ṃ và v́ nghiệp vụ, tôi mở quyển kinh của bà ra, để sát ngọn đèn cho dễ đọc. Tôi đọc một cách t́nh cờ, một câu kinh nằm ngay giữa trang kinh. Chỉ một câu thôi. Câu duy nhất đó khiến tôi lạnh toát người v́ kinh sợ. Tôi sợ đến choáng váng, muốn té xỉu, đến độ ngồi chết lặng một lúc thật lâu. Tối đó, tôi không ngủ được .
Hiện nay tôi đă ra khỏi ngành công an. Tôi đă đi tu ở một vùng núi miền Tây Nguyên, rất hẻo lánh, xa hẳn phố phường, làng xóm. Ngôi chùa nhỏ được cất bên góc núi. Rất xa, dưới chân núi, cách nơi tôi ở, thấp thoáng những nhà sàn của những người thuộc sắc tộc thiểu số. Mỗi buổi sáng, tôi lạy Phật, tụng kinh, rồi lên đồi cuốc đất, trồng khoai sắn, rau quả. Buổi tối tôi lại tụng kinh và suy ngẫm lời Phật dạy. Tôi bảo với vợ tôi là tôi làm nhiệm vụ trên giao, không nên gặp nhau nhiều, thỉnh thoảng lên tiếp tế lương thực mà thôi. Của cải mà tôi kiếm được (vợ tôi đang giữ), tôi dặn, nên trích ra một phần, khi nào có thiên tai băo lụt th́ đem cứu giúp người hoạn nạn, giúp bà con, bạn bè khi họ cần, giúp các người già lăo, bịnh tật, không nơi nương tựa, giúp các trại mồ côi, các trại cùi hủi...
Tôi viết để bà rơ, nay tôi đă chọn con đường khác. Tôi chỉ muốn biến mất trên thế gian, nhưng c̣n các con tôi? Chúng là nguồn sống của tôi. Tôi lo sợ cho chúng...
Nếu bà là một Phật tử, xin bà đến chùa, cùng góp lời cầu xin Phật Tổ cho tôi sớm t́m được con đường giải thoát.
Chúc bà sức khỏe”.
Chị đàn bà giơ lá thư lên và nói:
- Thư chỉ viết thế thôi.
Chúng tôi hỏi:
- Chị có nhớ ḿnh mang theo quyển kinh Phật tên ǵ không?
- Đúng ra, lúc nào tôi cũng để sẵn quyển kinh “Quán Thế Âm Bồ Tát” trên bàn thờ, hễ hô “đi!” là tôi chỉ việc bỏ vô xách tay và lên đường. Hôm đó, cô em dâu tôi đây, lại lấy quyển kinh đó trước, tôi vội quá, mở tủ kinh Phật của ba tôi để gần đó, vơ đại một quyển, nghĩ rằng “Phật nào cũng là Phật, vị nào cũng phù hộ, độ tŕ cho chúng sinh tai qua nạn khỏi”. Ba tôi, khi c̣n sinh thời, tu tại gia, nghiên cứu kinh Phật. Ngoài chữ Việt, ông cụ c̣n biết chữ Hán, chữ Nôm nên thỉnh rất nhiều kinh về nghiên cứu. Thế nên, đến bây giờ tôi cũng không biết ḿnh đă mang theo quyển kinh nào khi vượt biên. Điều tôi tin chắc rằng. Chính quyển kinh đó đă cứu mạng tôi và câu kinh trong đó, như một lời phán của Đức Phật hoặc đấng Hộ Pháp, bảo thẳng với kẻ ác hăy ngừng tay lại. Lời phán đó phải có uy lực mạnh mẽ đến nỗi một kẻ giết người phải khiếp đảm”.
Trong bọn chúng tôi, chẳng ai là đệ tử nhà Phật mặc dầu, thỉnh thoảng có đi chùa lạy Phật, tụng kinh trong những ngày lễ, tết. Chúng tôi hỏi nhau rồi phán đoán đủ thứ. Câu “buông đao thành Phật” quá tầm thường, chẳng làm ai động tâm. Muốn biết bí mật của câu kinh đó, chỉ c̣n cách đi hỏi các nhà sư th́ họa may.
V́ bị câu chuyện trên ám ảnh, nên trên đường từ Canada về lại miền Đông Bắc nước Mỹ, chúng tôi quyết định, ghé vào một ngôi chùa của sư PT để thăm và hỏi cho ra lẽ. Sư trạc tuổi chúng tôi, là chỗ quen biết nên rất thân t́nh. Sư PT xuất gia từ lúc mười một tuổi tại chùa Diệu Đế ở Huế. Vượt biên qua Mỹ, sư học và tốt nghiệp tiến sĩ Phật học. Tuy c̣n trẻ, nhưng sư PT thông hiểu Phật pháp và có một cuộc sống rất đạo hạnh.
Trưa hôm đó, chúng tôi được sư khoản đăi cơm chay. Trong lúc thọ trai, chúng tôi kể lại câu chuyện trên cho sư nghe và hỏi sư có biết câu kinh nào đă khiến một người vô thần phải buông đao giết người và đi tu không? Nhà sư suy nghĩ một lúc và nói:
- Nếu lư luận theo Phật pháp thuần túy ở đây th́ không thích hợp với một người cộng sản. Họ đă được dạy căm thù và được huấn luyện cách giết người, nên dù có cả một bầy quỉ dữ từ địa ngục chui lên, hay hàng ngh́n Đức Phật hiện ra thuyết pháp, chưa chắc ông công an nầy phải sợ mà ngưng tay. Ông ta chẳng thù hận ǵ những người vượt biên, nhưng giết họ để cướp của, ông ta làm thản nhiên như người đồ tể giết heo, giết ḅ. Mục đích là để có nhiều tiền của cho con cái được sung sướng. Cán bộ cộng sản thường bảo nhau: “Hi sinh đời bố, cũng cố đời con” là thế. Kinh Phật chỉ nói về cái nghiệp và cái quả. Ai làm nấy chịu. Nhưng người Việt ḿnh lại có câu “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Cha mẹ thương con cháu th́ ăn ở nhân đức, để phước cho chúng. Con cháu, nhớ ơn đó mà thờ phụng các vị một cách thành tâm. Đó là “Đạo Thờ Ông Bà”. Ông công an cộng sản nầy th́ làm ngược lại, nên ông ta bị ám ảnh bởi việc ác của ḿnh, “quả báo nhăn tiền”, con cháu sẽ lănh đủ. Có thể, con cái ông ta bị đâm chém hay bị giết chóc sao đó, khiến ông ta nghĩ rằng “Ḿnh giết người ta th́ con ḿnh bị người ta giết” nên ông ta sợ. “Nhưng Phật đâu có dạy về chuyện quả báo cho đời con cháu mà ông ta, khi đọc một câu nào đó trong kinh Phật lại sợ hăi đến nỗi phải bỏ nghề, đi tu?”
“Đa số những người vượt biên đều đem theo người là kinh A Di Đà hoặc Bạch Y Thần Chú, coi như có Thần Phật hộ tŕ bên cạnh. Khi gặp chuyện hiểm nguy th́ niệm “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát” chỉ đọc tới đọc lui câu đó thôi, coi như tiếng kêu cứu, các vị Bồ Tát sẽ ra tay tế độ, giúp cho tai qua nạn khỏi. Những quyển kinh mà ông ta tịch thu, không nhất thiết đều giống nhau. Có thể người đàn bà kia đă mang một quyển kinh khác. Hơn nữa ở một nơi hoàn toàn vắng vẻ, không có ǵ giải trí ngoài việc đọc các quyển kinh Phật, quả thật, ông ta đang bước về hướng của giải thoát. Chính cái ư niệm muốn giải thoát khiến ông ta bỏ nghề, và câu kinh Phật kia chỉ như vật xúc tác, như cái nút điện mà ông ta đang ṃ mẫm trong bóng tối, đă bật sáng, cho ông ta thấy được con đường phải đi. Mỗi người là Phật chưa thành là vậy. Con người dù độc ác, mê muội đến đâu, cũng c̣n le lói một chút ánh sáng của lương tri. Đúng ra, phải gọi ông ta là “ông đạo” chứ không phải là “ông sư”. V́ ngoài việc nghiên cứu, tụng niệm kinh Phật, sư, săi phải có thầy giảng giải, hướng dẫn trên đường tu tập. “Giả dụ như ông công an đó đến xin thọ giáo với thầy. Thầy sẽ giảng những ǵ cho một người vô thần như ông ta hiểu về Phật pháp?”.
Nhà sư cười:
- Thoát được “tham, sân, si” là tự giải thoát rồi.
Chính tôi phải học ông ta, làm cách nào đă bỏ được chữ “tham”? Chữ “tham” đơn giản, thường t́nh thôi, không cần phải triết lư xa vời. Tiền của vô tay dồi dào, dễ dàng như vậy mà lại bỏ hết, mấy ai làm được ?
C̣n hai chữ “sân, si”, bản thân tôi như đang nằm trong cái rọ, không biết bao giờ mới thoát ra! Ông ta là thầy tôi mới đúng.
- Thầy có thể đoán được câu kinh nào nằm trong quyển kinh nào, đă khiến ông ta phải sợ mà đi tu không?
Nhà sư lắc đầu:
- Chỉ riêng ông ta biết được mà thôi. Có thể chỉ một câu t́nh cờ, b́nh thường nào đó ông ta đọc được nhưng giải thích đúng những băn khoăn, thắc mắc, sợ hăi bấy lâu của ông ta, nó đánh động lương tâm ông ta, hướng dẫn ông ta t́m con đường giải thoát. Xưa kia, lục tổ Huệ năng chỉ nghe một câu trong kinh Kim Cang liền ngộ được đạo.
- Nhưng nhất định phải có một câu kinh nào đó. Thầy thử nhớ xem sao?
Nhà sư lắc đầu:
- Bị hỏi th́nh ĺnh, tôi không nhớ ra ngay. Hay là thế nầy. Bây giờ mời quí vị ra vườn sau chùa uống trà, ngắm hoa. Tôi xin được ít phút tập trung tư tưởng, họa may sẽ nhớ được điều ǵ chăng? Mục đích không phải t́m hiểu mà chỉ như tṛ chuyện cho vui vậy thôi. Tôi không đủ tŕnh độ để giải thích câu chuyện kỳ lạ nầy.
Nhà sư lên chánh điện. Chúng tôi ra sau chùa, vừa chuyện tṛ vừa lang thang ngắm hoa cảnh.
Có tiếng chuông ngân vang từ chánh điện, rồi tất cả yên lặng. Có lẽ nhà sư đang lễ Phật và trầm tư...
Độ một giờ sau, nhà sư xuất hiện ở ngưỡng cửa với nụ cười. Sư tiến đến, ngồi xuống với chúng tôi ở một bàn nhỏ dưới gốc cây. Chúng tôi vội hỏi:
- T́m được câu kinh nào chưa thầy?
Sư lắc đầu và cười:
- Kinh Phật chẳng có câu nào hăm dọa người ta, bắt người ta phải đi tu cả! Để nói về cái nghiệp báo th́ kinh Thủy Sám Pháp có nói nhiều, nhưng tôi chỉ nhớ chính xác được vài câu ở các quyển kinh khác, chẳng hạn, trong kinh Đề Bà Đạt Ma (Devadata-suta) có câu :
“Những việc ác mà ngươi đă phạm, không phải là tại cha ngươi, không phải tại mẹ ngươi, không phải tại thầy, chủ ngươi. Chính một ḿnh ngươi đă phạm, và một ḿnh ngươi phải chịu quả báo”.
Trong kinh Pháp Cú (Damma-pada) cũng có câu:
“Dẫu rằng ngươi chạy lên trời cao, ẩn dưới biển sâu, trốn trong núi thẳm, không có nơi nào mà ngươi tránh khỏi cái quả ghê gớm về tội ác của ngươi”...
Nói xong nhà sư lộ vẻ bối rối.
- Rất tiếc, v́ sự vô minh của tôi mà câu kinh đó vẫn c̣n là một bí ẩn. Xin lỗi đă làm quí vị thất vọng. Theo tôi nghĩ, sự thống hối của ông ta quá thành khẩn, đă cảm động đến đức Phật, và Ngài đă ra tay tế độ, đă khai ngộ cho ông ta.
Nhưng phải là người thật thành khẩn th́ đức Phật mới làm được việc đó.
Phạm Thành Châu
cha12 ba
12-29-2018, 05:25
Bông Hồng Mùa Xuân
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1320601&stc=1&d=1546061360
- Bán cho tôi một bông hồng đi cô bé,
Đóa nào tươi c̣n búp nụ mịn màng.
Tôi ngước lên: - "Xin ông chờ tôi lựa,
Một bông hồng vừa ư nghĩa vừa sang".
Khách mỉm cười: - "Cô thật tài quảng cáo,
Thế... hoa hồng mang ư nghĩa sao cô?"
Tôi bối rối: - "H́nh như người ta bảo
Nó tượng trưng t́nh nồng thắm vô bờ."
"- Cám ơn cô! Giá bao nhiêu đấy nhỉ?"
Tôi lắc đầu: - "Thôi xin biếu ông không,
Một đóa không bao nhiêu ông ạ,
Rất mong ông làm người đẹp vừa ḷng."
Khách bỗng nh́n tôi mắt như xoáy lốc,
- "Cô bé lầm! Tôi không tặng người yêu,
Thằng bạn thân tuần qua vừa ngă gục,
Một bông hồng cho nó bớt quạnh hiu.
Nhưng cô phải nhận tiền tôi chứ!
Hoa cho không, rồi mẹ mắng làm sao?"
Tôi cúi mặt: - "Xin gửi người xấu số,
Chuyện của ông làm tôi bỗng nghẹn ngào."
Khách quay đi áo hoa rừng đă bạc,
Dáng cao gầy khuất hẳn bóng chiều nghiêng.
Tôi bất chợt đưa tay làm dấu thánh,
(Mẹ giữ ǵn cho người ấy b́nh yên).
***
Trời đầu xuân c̣n vương vương sắc lạnh,
Nắng vàng mơ má con gái thêm hồng.
Tôi bâng khuâng nhớ đến người khách lạ,
(Ḿnh nhớ người, người có nhớ ḿnh không?)
Chiều 29 phố phường sao tấp nập,
Người ta vui từng cặp đẹp bên nhau.
Mắt tôi lạc... rồi bỗng dưng bừng sáng,
Phải anh không người khách của hôm nào,
Tim đập mạnh sau áo hàng lụa mỏng
Anh đến gần, lời nói cũng reo vui:
- "Sao cô bé... hàng hôm nay đắt chứ?
Có nhớ tôi... hay cô đă quên rồi!
Hành quân xong tôi về hậu cứ,
Ghé ngang đây xin cô một bông hồng,
và mong cô cho tôi xin lời chúc:
Rất mong ông làm người đẹp vừa ḷng".
Tôi bỗng nghe như tim ḿnh thắt lại,
Gượng t́m hoa, rồi trao tận tay người,
Khách nh́n tôi và bỗng dưng dịu xuống,
Đầy đăm chiêu và nghiêm lại nụ cười:
- "Xin lỗi cô nếu lời tôi đường đột,
Nhưng thật t́nh tôi không thể nào quên,
Người con gái trong một lần gặp gỡ,
Nhớ thật nhiều dù chưa được biết tên,
Một bông hồng, như hôm nào cô nói
Là tượng trưng 't́nh nồng thắm' vô bờ."
Tôi run tay nhận hoa hồng người tặng,
Sự thật rồi mà ngỡ đang mơ.
Tác giả: Lư Thụy Ư
Happy New Year 2019, Chúc Hoanglan22 và những người lính già VNCH trong forum cùng gia quyến một Năm mới vui khỏe.........
hoanglan22
12-29-2018, 15:10
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1320732&stc=1&d=1546095941
Tôi gặp chị trong buổi họp mặt của các anh Khóa 17 Vơ Bị Đà Lạt, được tổ chức tại một nhà hàng ở thành phố Westminster, Nam Cali, nhằm kỹ niệm 55 năm ngày măn khóa. Vợ chồng tôi có chút cơ duyên được xếp ngồi cùng bàn với chị. Qua đôi lời chào hỏi đầu tiên, chúng tôi biết chị từ Việt Nam mới sang theo lời mời của Ban Tổ Chức, muốn dành cho chị một ân t́nh đặc biệt để có cơ hội gặp lại những người bạn cùng khóa Lê Lai với phu quân của chị, Cố SVSQ Đoàn Đ́nh Thiệu.
Sau nghi thức chào quốc kỳ là một lễ tưởng niệm những vị đồng môn đă hy sinh trong không khí rất trang trọng, cảm động và mang nhiều ư nghĩa. Trên bàn thờ, phía sau những ngọn nến lung linh là h́nh phóng lớn của tấm bia đá tưởng niệm có khắc đậm tên 79 vị sĩ quan Khóa 17 đă lẫm liệt hy sinh trong cuộc chiến. Tấm bia này là một kỳ công được các cựu SVSQ Khóa 17 thực hiện và dựng tại Công viên Victor Memorial Veterans Park, thuộc Thành phố Greer, Tiểu Bang South Carolina, Hoa Kỳ từ tháng 6 năm 2008.
Khi chị Thiệu cùng một số cô nhi quả phụ khác của Khóa 17 được mời lên thắp hương trước bàn thờ tử sĩ và nhận món quà lưu niệm của Khóa, qua lời giới thiệu của người điều khiển chương tŕnh, chúng tôi được biết nhiều hơn về chị. Và trong số những cô nhi quả phụ cùng đứng chung với chị chúng tôi c̣n nhận ra cháu Vơ Hải, trưởng nam của Đại Tá Vơ Toàn, vị đại tá duy nhất của Khóa, đă hy sinh cũng vào giờ thứ 25 khi Quân Đoàn I di tản, đến bây giờ chưa biết thân xác nằm ở nơi đâu; và phu nhân của Trung Tá Vơ Vàng, một cấp chỉ huy nổi tiếng trong Binh chủng Biệt Động Quân, đă bị kẻ thù sát hại dă man tại trại tù Kỳ Sơn – Quảng Nam, sau 1975.
Thiếu Tá Đoàn Đ́nh Thiệu tử trận tại Phú Lâm vào khoảng 12giờ 30 trưa ngày 30.4.75, hơn một giờ sau lệnh “buông súng” của Tướng Dương Văn Minh. Khi ấy anh là Tiểu Đoàn Phó của Tiểu Đoàn 86 BĐQ mà Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Trần Tiễn San, một niên đệ Khóa 19 Vơ Bị của anh.
Trước khi ra đơn vị này, Thiếu tá Thiệu phục vụ nhiều năm tại TTHL Biệt Động Quân Dục Mỹ với chức vụ Trưởng Khối Yểm Trợ. Do quyết định của Tướng Đỗ Kế Giai, Chỉ Huy Trưởng Binh chủng Biệt Động Quân, một số sĩ quan phục vụ lâu năm tại quân trường hay giữ những phần hành tham mưu được điều động hoán chuyển ra các đơn vị tác chiến. Cuối năm 1974, đúng vào lúc Thiếu Tá Thiệu nhận lệnh hoán chuyển, tại TTHL/BĐQ đang có Liên Đoàn 8/BĐQ vừa mới được thành lập với đa phần quân số từ các Tiểu Đoàn 7, 9, 11 Quân Cảnh giải tán bổ sung cho Binh chủng Biệt Động Quân, nên nhân tiện, ông xin ra phục vụ ở đơn vị tân lập này. V́ ở quân trường và đảm trách một phần hành tham mưu khá lâu, nên khi ra đơn vị tác chiến, ông không thể đảm nhận một chức vụ chỉ huy ngay trong thời gian ban đầu, do đó ông t́m gặp Thiếu Tá Trần Tiễn San, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 86 và ngỏ ư muốn được về làm Tiểu Đoàn Phó cho Thiếu Tá San, một niên đệ Khóa 19, mà lúc c̣n trong trường Vơ Bị Đà Lạt, ông có trách nhiệm hướng dẫn, dạy dỗ với tư cách niên trưởng. Biết ông là niên trưởng lại có thâm niên cấp bậc hơn ḿnh, Thiếu Tá San muốn giúp đỡ, nhưng rất e ngại nên đề nghị ông phải làm đơn gởi lên Thiếu Tướng CHT/BĐQ để tŕnh bày nguyện vọng của ḿnh. Cuối cùng ông được toại nguyện. Để nhận Thiếu Tá Thiệu về làm Tiểu Đoàn Phó cho ḿnh, Thiếu Tá Trần Tiễn San c̣n phải giải quyết một vài khó khăn tế nhị khác. V́ lúc ấy Tiểu Đoàn đă có Tiểu Đoàn Phó là Đại Úy Phan Trí Viễn. Thiếu Tá San đă năn nỉ Đại Úy Viễn sang làm Trưởng Ban 3 Tiểu Đoàn và xin Liên Đoàn nhận anh Đại Úy Trưởng Ban 3 cũ về giữ một chức vụ tại BCH/ Liên Đoàn. Thông cảm cho anh, tất cả đều vui vẻ chấp nhận sự sắp xếp của anh.
Kính nể một niên trưởng có tư cách, Thiếu Tá San đă dành cho vị Tiểu Đoàn Phó nhiều ưu ái đặc biệt. Có điều đúng vào thời điểm Thiếu Tá Thiệu ra đơn vị, cuộc chiến đang ở giai đoạn khốc liệt nhất. Sau khi Mỹ bất chấp những phản đối của VNCH, đă tự cho ḿnh ngồi ngang hàng với Cộng Sản Bắc Việt và đơn phương nhượng bộ quá nhiều điều trong Hiệp Định Paris kư kết ngày 27.1.1973, chứng tỏ ư định sớm bỏ rơi đồng minh, phủi tay cuộc chiến. Lợi dụng điều này, Cộng quân đă ồ ạt tung nhiều sư đoàn với lực lượng chiến xa, từ miền Bắc và Lào, theo đường ṃn Hồ Chí Minh xâm nhập Nam Việt Nam, đồng loạt mở các cuộc tấn công qui mô vào các đơn vị pḥng thủ của ta. Phước Long là tỉnh đầu tiên bị thất thủ vào ngày 6 tháng 1/1975 nhưng không có bất cứ dấu hiệu nào từ phía Hoa Kỳ can thiệp hay phản đối CSBV vi phạm hiệp định,. Điều này đă báo hiệu cho số phận của VNCH.
Liên Đoàn 8 BĐQ ban đầu đặt dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Vũ Phi Hùng, với ba vị tiểu đoàn trưởng đều là niên đệ Vơ Bị của Thiếu Tá Đoàn Đ́nh Thiệu. Thiếu Tá Nguyễn Văn Nam (K.20) TĐT/TĐ 84, Thiếu Tá Trần Tiễn San (K.19) TĐT/TĐ 86, và Thiếu Tá Nguyễn Hữu Mạnh (K.20) TĐT/TĐ 87. Thiếu Tá Thiệu chọn về làm Tiểu Đoàn Phó cho một niên đệ Khóa 19, là khóa đàn em có nhiều gắn bó và xem như học tṛ của Khóa 17 thời họ c̣n là những sinh viên sĩ quan.
Dù chưa được trang bị và huấn luyện đầy đủ, Liên Đoàn nhận lệnh của Bộ TTM di chuyển về Sài g̣n để giữ an ninh trong dịp Tết nguyên đán. Liên Đoàn đặc trách pḥng thủ khu vực từ QL 1 đến QL 4, ngoại trừ TĐ 84 đặc trách một khu vực kế cận. Vào những ngày đầu tháng 4/75, Liên Đoàn 8 BĐQ thường phối họp cùng Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù tân lập mở các cuộc hành quân vào Mật khu Lư Văn Mạnh và đă phát giác có sự hiện diện của nhiều đơn vị chính quy Bắc Việt đang hoạt động, ém quân tại đây.
Để đề pḥng cho trường hợp bị tấn công bởi các đại đơn vị này của địch, Đại tá Vũ Phi Hùng, Liên Đoàn Trưởng bàn bạc với các Tiểu Đoàn Trưởng, vạch ra một kế hoạch ứng phó khi t́nh h́nh trở nên nguy ngập, được gọi là kế hoạch “Bravo”: Các tiểu đoàn tự rút về Giáo xứ Tân Phú của Linh Mục Đinh Xuân Hải để tái phối trí và tiếp tục chiến đấu tại đây.
Khoảng hai tuần lễ sau đó, Sư Đoàn 106 BĐQ được thành lập, với vị Tư Lệnh là Đại Tá Nguyễn Văn Lộc. Đại Tá Vũ Phi Hùng, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 8 BĐQ được chỉ định giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng, và bàn giao Liên Đoàn cho Trung Tá Chung Thanh Ṭng từ BĐQ Vùng I di tản.
Ngày 27/4/75 Cộng quân mở các cuộc tấn công liên tục vào tuyến pḥng thủ của Tiểu Đoàn 84 và 87. Hai vị Tiểu Đoàn Trưởng xuất sắc cùng xuất thân Khóa 20 VB đă anh dũng điều quân chiến đấu, yểm trợ cho nhau để giữ vững pḥng tuyến. Lực lượng địch quá đông và có chiến xa T 54 hỗ trợ, trong khi bên ta đă có nhiều binh sĩ thương vong, đạn dược cạn dần. Đến tối ngày 29/4/75 t́nh trạng trở nên tồi tệ hơn nên các đơn vị đề nghị thực hiện kế hoạch “Bravo”, rút về Giáo xứ Tân Phú lập tuyến pḥng thủ mới như đă dự trù. Nhưng Đại Tá Vũ Phi Hùng từ BTL/SĐ 106 cho biết kế hoạch này không thể thực hiện được nữa, v́ nhiều đơn vị Cộng quân đă thâm nhập vào Sài g̣n từ các hướng khác.
Trong t́nh huống này, vẫn không có cách nào khác hơn, sáng sớm ngày 30/4 Liên Đoàn ra lệnh bằng mọi giá phải mở đường máu lui binh về hướng Sài g̣n. Tiểu Đoàn 84 của Thiếu Tá Nguyễn Văn Nam lúc ấy đang bố trí dọc theo xa lộ Đại Hàn, bị áp lực nặng nề nhất do nhiều chiến xa của địch bao vây tấn công liên tục. Tiểu Đoàn 87 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Mạnh rút ra từ Mật Khu Lư Văn Mạnh, mở đường cho BCH/ Liên Đoàn và Tiểu Đoàn 86 của Thiếu Tá Trần Tiễn San vừa rút ra sau cùng, vừa làm lực lượng án ngữ bọc hậu. Cuộc lui binh rất khó khăn trong lúc bị địch quân bao vây, tấn công từ mọi phía.
Thiếu Tá San ra lệnh cho Tiểu Đoàn Phó Đoàn Đ́nh Thiệu thu nhặt hết số súng thặng dư bỏ vào ụ súng cối 81 ly để thiêu hủy. Pháo Đội Pháo Binh trong căn cứ BCH/ Liên Đoàn có bốn khẩu đại bác 105 ly, nhưng mỗi khẩu chỉ c̣n một quả đạn trong ṇng. Thiếu Tá San cho lệnh bắn trực xạ vào những điểm địch quân tấn công mạnh nhất, sau đó phá hủy súng, và yêu cầu Pháo Đội rút theo BCH/ Liên Đoàn. Tiểu Đoàn phải mở đường máu để có thể thoát ra khỏi ṿng vây của địch, nên tất cả thương binh đành phải bỏ lại phía sau. Trong lúc vừa điều quân vừa chiến đấu, Thiếu tá San bị thương ở mặt, phải ḅ đến một mô đất tạm ẩn nấp để tự băng bó. Đúng lúc ấy, Trung Úy Đoàn Ngọc Lợi (K.26VB), Đại Đội Trưởng ĐĐCH chạy đến báo cáo là Niên trưởng Đoàn Đ́nh Thiệu vừa mới hy sinh bên bờ ruộng. Ông bị bắn đứt động mạch ở chân. Mấy người lính trung thành ngỏ ư cơng ông theo, nhưng ông khoác tay, bảo “chạy gấp đi, anh không thể sống được!” Trung Úy Lợi c̣n cho biết, trước khi nhắm mắt ông hỏi Lợi: “Moa chết rồi ai sẽ nuôi vợ con đây?” Lúc ấy khoảng 12 giờ 30 trưa ngày 30/4, sau đúng một giờ Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng!
Sau đó Thiếu Tá San cùng nhiều cấp chỉ huy khác bị bắt đưa vào làng. V́ bị thương ở đầu, máu ra nhiều, nên anh được cho về, gia đ́nh đưa vào điều trị tại Bệnh viện Triều Châu. Một ông chú nghe tin vào thăm, biếu anh 30.000 đồng. Anh cho người nhà t́m gặp gia đ́nh Thiếu Tá Đoàn Đ́nh Thiệu báo tin về cái chết của người niên trưởng. Chị Thiệu t́m đến thăm anh và hỏi kỹ địa điểm anh Thiệu đang nằm để đi t́m. Anh San chỉ dẫn, chia buồn và biếu chị Thiệu 30.000 đồng mà ông chú vừa mới cho anh.
Theo lời kể của chị Thiệu, v́ t́nh h́nh lúc ấy rất hỗn loạn, tiếng súng vẫn c̣n nổ khắp nơi, nhiều đơn vị của ta không chịu buông súng và vẫn tiếp chiến đấu, nên chị không dám đi t́m anh Thiệu, hơn nữa chị cũng không rành đường sá ở đây, đành phải nhờ cậu em trai, dùng xe Honda len lỏi t́m đến vị trí mà Thiếu Tá San chỉ dẫn. Cậu em t́m được xác anh Thiệu, nhưng không thể t́m được bất cứ một phương tiện nào để chuyên chở, và cũng không biết sẽ chở về đâu, trong t́nh thế lúc này. Cuối cùng, rất may mắn, một anh tài xế xe rác nặng tấm ḷng với QLVNCH, đă vui vẻ nhận lời giúp đỡ. Sau khi đổ hết rác trên xe xuống vệ đường, theo sự hướng dẫn của cậu em chị Thiệu, nhưng cũng rất nhiều khó khăn, anh tài xế mới đưa xe đến được vị trí, nơi anh Thiệu nằm. Sau một lúc thảo luận, cuối cùng hai anh chở xác Thiếu Tá Thiệu đến Nhà Thờ Bùi Phát để nhờ giúp đỡ. Và cũng rất may mắn, đă gặp đúng một vị linh mục nhân từ. Cha Trần Quốc Phú vui vẻ nhận lời, đứng ra tẩm liệm và chôn cất Thiếu tá Thiệu ngay trong khu đất của nhà thờ.
Chị Thiệu thường xuyên đưa các con đến đây thăm viếng và xây lại ngôi mộ cho chồng. Mấy năm sau, chị xin hỏa táng, và mang tro cốt anh về thờ tại tư gia ở Mỹ Tho. Lúc Thiếu Tá Thiệu mất, anh chị có ba con, hai trai 9 và 7 tuổi, cô con gái út chưa tṛn 12 tháng. Sau này, cháu trai lớn mất, cháu gái định cư ở Úc. Hiện nay chị sống với cậu con trai thứ tại Mỹ Tho, quê hương của chị. Điều đáng ngưỡng mộ hơn, khi chồng hy sinh, chị c̣n khá trẻ, nổi tiếng có nhan sắc, nhưng không hề bước thêm một bước nào nữa, ở vậy nuôi dạy các con trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, nghiệt ngă. Cả hai cháu đều nên người, thành đạt, hiếu thảo và luôn sống với niềm tự hào về người cha Vơ Bị, từng sống rất tư cách và chết hiên ngang.
Cuộc chiến Việt Nam đă gây ra biết bao đau thương tang tóc. Vào giờ thứ 25 của cuộc chiến có biết bao nhiêu người đàn bà trở thành góa phụ, biết bao đứa con thơ trở thành cô nhi, nhiều cháu chưa hề biết mặt cha ḿnh. Không những không được hưởng bất cứ một ân sũng nào của quôc gia khi chồng, cha hy sinh cho Tổ Quốc mà họ c̣n bị kẻ thù phân biệt đối xử, nhục mạ và phải đương đầu với muôn vàn khó khăn trong cuộc sống. Những người như chị Đoàn Đ́nh Thiệu rất xứng đáng để chúng ta biết ơn và ngợi ca. Sự hy sinh nào của những người lính, hay vợ con của lính, cũng đều tiềm ẩn những ư nghĩa cao quư, cho dù những cái chết vô danh, không được truy thăng hay chôn cất theo lễ nghi quân cách. Với Tổ Quốc và lịch sử dân tộc, những hy sinh dù trong âm thầm, vẫn măi măi là điều bất diệt.
Viết những ḍng này, xin được thay bó hoa hồng tươi thắm nhất, gởi đến Chị Đoàn Đ́nh Thiệu và các cháu cũng như những cô nhi quả phụ khác của giờ thứ 25, ḷng tri ân và ngưỡng mộ của những người một thời từng là đồng đội, là huynh đệ của phu quân các chị, người cha đáng kính của các cháu. Và xin cầu chúc những điều tốt đẹp nhất cho những người đă sẵn sàng chấp nhận những số phận nghiệt ngă, hy sinh, nhưng vẫn luôn hănh diện có chồng, cha là lính chiến VNCH, đă dám chết cho quê hương, dân tộc.
Phạm Tín An Ninh
wonderful
12-29-2018, 20:43
Đọc bài "Người Góa Phụ Giờ Thứ 25 " của Phạm Tín An Ninh tôi rất cảm động.
Và với ḍng thời gian trôi qua rất nhanh,tôi xin đốt nén nhan ḷng và xin cầu chúc những điều tốt đẹp nhất cho những người đă sẵn sàng chấp nhận những số phận nghiệt ngă, hy sinh, nhưng vẫn luôn hănh diện có chồng, cha là người lính QLVNCH, đă dám chết cho quê hương, dân tộc.... San Jose 29 december 2018.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1320745&d=1546116147
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1320746&d=1546116178
hoanglan22
12-29-2018, 21:15
Đọc bài "Người Góa Phụ Giờ Thứ 25 " của Phạm Tín An Ninh tôi rất cảm động.
Và với ḍng thời gian trôi qua rất nhanh,tôi xin đốt nén nhan ḷng và xin cầu chúc những điều tốt đẹp nhất cho những người đă sẵn sàng chấp nhận những số phận nghiệt ngă, hy sinh, nhưng vẫn luôn hănh diện có chồng, cha là người lính QLVNCH, đă dám chết cho quê hương, dân tộc.... San Jose 29 december 2018.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1320745&d=1546116147
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1320746&d=1546116178
Tôi cũng có ư nghĩ như bác . H́nh như tui với bác lúc nào cũng chung xuồng . Nếu có ch́m xuồng đừng bỏ tui lại một ḿnh:handshake::hand shake::thankyou:
hoanglan22
12-29-2018, 21:22
(Hồi trước năm 75, VNCH có những đơn vị Quân đội mà hễ nhắc đến là lính CS e dè, tránh được th́ tránh. Những đơn vị này (Tổng Trừ Bị) chưa kịp ngồi nóng đít ở hậu phương lại có lệnh nhảy trở vô rừng để giải tỏa, hạ áp lực hoặc truy đuổi. Chuyện thường nhà binh !
Trước khi gia nhập lính Tổng Trừ Bị nhiều khi chỉ là một anh học tṛ cân nặng trong ngoài chưa quá bốn mươi lăm kư, đi bộ chừng nửa cây số đă thở hồng hộc, vậy mà ra đơn vị khoác lên ḿnh đồ bông mấy cha từ Sĩ quan tới Binh nh́ bỗng trở thành những con cọp rừng, cọp biển hoặc thiên thần. Họ biến đổi hoàn toàn như vậy bởi màu cờ sắc áo, t́nh đồng đội. Đụng trận chỉ biết thằng trước mặt, đằng sau và hai bên, quên hết cha mẹ vợ con. Chung quanh toàn đám liều th́ ḿnh có nhát gan cũng chẳng làm sao khác được. Thằng Năm xung phong liệng lựu đạn vào hầm VC lượm hai AK th́ thằng Bẩy cũng đâu có ngán. Mầy dớt AK tao chụp B40 thằng nào cũng có phần.
Thành ra đụng với lính xanh cỏ đỏ ngực, VC tránh voi chẳng xấu mặt nào.
Không phải VC thiếu lính liều, nhưng đa số là con nhà nông suốt đời sống ở đồng ruộng, mới đẻ ra đă thấy ảnh Hồ Chí Minh và những tấm “băng rôn” rực máu. Mẹ nhai cơm đút cho chưa kịp cảm ơn mẹ đă phải cảm ơn Bác và Đảng trước. Đám này mới trên dưới mười bảy đă t́nh nguyện ra trận để giết sạch Mỹ Ngụy, thỏa măn căm thù mà lănh đạo đă tốn bao nhiêu công sức nhồi nhét vào đầu. Khi ra trận chúng cũng húc như những con trâu điên, kiểu tấn công biển người học lóm từ đàn anh Tàu Cộng, kết quả phơi thây như rác khắp chiến trường. Một bên người lớn chín chắn, Không quân Pháo binh yểm trợ đầy đủ, chiến thuật chiến lược học hành đàng hoàng đánh nhau với một đám con nít điên cuồng cứ xông lên phía trước nhờ thuốc Tàu Hùng Tâm th́ bên nào sẽ thắng ?
Rất nhiều tác giả viết về lính chính quy hay Tổng Trừ Bị của VNCH, nhưng cũng có vài đơn vị khác mà mỗi lần đụng trận VC rất rầu rĩ. Họ là lính ” phân nửa ” (bán chính quy), nhưng đụng vào thế nào cũng bị u đầu sứt trán.
Ở phía Bắc Sài G̣n có một đơn vị như vậy. Hồi nằm trại giam tôi gặp sáu anh em Nghĩa Quân đóng chung một đồn. Chúng tôi nói chuyện nhiều với nhau mới biết lư do tại sao VC thù các anh em hơn lính Nhảy Dù. Nghĩa Quân có cái triết lư rất đơn giản nầy : đất của ḿnh, cha mẹ vợ con họ hàng thân thuộc của ḿnh, để tụi nó chiếm được nó giết hết. Ḿnh là đàn ông con trai, cầm nổi cây súng th́ cũng phải bảo vệ tài sản vô giá đó bằng bất cứ giá nào.
Nhiều khi bị tấn công anh em cũng rất nao núng v́ địch đông hơn và vũ khí ngon lành hơn, nhưng buông súng đầu hàng là tự sát, chi bằng cứ chống cự biết đâu trong cái chết c̣n t́m ra sự sống. Hầu như lần nào bị công đồn triết lư này vẫn đúng.
Thành ra dù với phương tiện vũ khí thô sơ, lực lượng lớn của VC cũng rất khó ḷng dứt được đồn bót của anh em. Chỉ có hai mươi tám anh em với nhau nhưng khi đụng chuyện lực lượng trở thành gần một Đại đội đủ, “Nghĩa Quân” vợ tiếp tay súng với chồng, “Nghĩa Quân” con cái lo vận tải đạn dược. Ba lần VC tấn công ba lần thất bại, để lại nhiều xác đồng bọn.
Hồi xưa nếu VNCH đầu tư nhiều vào Nghĩa Quân, tiếp tế đầy đủ cho họ chắc VC hết đất sống. Thiếu thốn phương tiện Nghĩa Quân vận dụng mưu trí và gài bẫy, du kích địa phương kể cả chính quy BV dính chấu bỏ mạng đều đều.
Một đơn vị khác mà sau Mậu Thân mới được thành lập, nhưng cũng ít nhiều gây thiệt hại và khó chịu cho VC là Nhân Dân Tự Vệ (NDTV). Họ chỉ được trang bị thô thiển như Nghĩa Quân nhưng trở thành những tay súng trợ thủ đắc lực một khi chạm địch hoặc tạo ra nhiều khó khăn cho VC trên đường chuyển vận.
NDTV ở những vùng ven đô đă tạo nhiều thành tích chiến công rất đáng tuyên dương. Họ không có lương nhưng biết rất rơ nhiệm vụ của ḿnh, nhất là ở những xóm Đạo hoặc chiến khu của các giáo phái.
Như lực lượng NDTV khu vực Hố Nai Gia Kiệm, với Carbine M2 thời WWII của Quân đội Mỹ đối đầu trực diện trước AK47, B40 thậm chí xe tăng (30/4/1975). Họ chiến đấu như lính chính quy bởi v́ nhiều vị chỉ huy là những cựu chiến binh giải ngũ đầy đủ kinh nghiệm và luôn sẵn sàng trong trường hợp có biến.
Một câu chuyện khác về Thiếu Sinh Quân. Những cậu nhỏ t́nh nguyện vào môi trường Quân đội và được rèn luyện đầy đủ từ Văn hóa tới Quân sự để trở thành chiến binh kiểu mẫu sau này. Khi các cậu ra trường, sẵn sàng nhận lănh trách nhiệm Quân đội giao phó nối bước cha ông. TSQ đi trước vào Quân đội người nào cũng mang vẻ vang về cho trường Mẹ.
Vị “Anh Cả” là Thống Tướng Lê văn Tỵ, Tướng năm sao đầu tiên và duy nhất của cả nước. TSQ đối xử với nhau như anh em ruột, ông Niên trưởng dạn dày chiến trận chăm sóc d́u dắt “thằng em” vừa rời ghế nhà trường. Ai chưa biết câu chuyện của Trung Sĩ TSQ Vũ Thế Quang (đàn em) với Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn (Niên trưởng) trong những ngày cuối cùng khi cả hai bị bắt ở hầm chỉ huy nên vào Google để đọc chuyện này, bởi v́ những hùng sử như thế không dễ ǵ bị quên lăng
Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn là Anh Hùng của VNCH, của chúng ta. Dân miền Nam ngưỡng mộ kính trọng ông v́ tinh thần Tổ Quốc, Dân Tộc, đồng thời bởi những lời khẳng khái với quân thù, thể hiện rơ tính nhân bản của Quân Lực VNCH .
(” Nếu chúng tôi chiến thắng, chúng tôi sẽ không đối xử với các anh như những ǵ các anh đang làm với chúng tôi “)
Một vị cựu TSQ khác cũng rất nổi tiếng là Đại Tá Đặng Phương Thành, người chỉ huy trận đánh thắng hai Trung đoàn VC nổi tiếng ở Long An. Đại Tá Thành được ân thưởng Đệ Tứ đẳng Bảo Quốc Huân Chương, v́ thế sau này VC đă trả thù ông đến chết bằng cách tra tấn. Anh hùng trong TSQ không ít bởi v́ họ đă được tôi luyện bảy năm trời trong trường Mẹ từ khi c̣n thiếu niên do đó tŕnh độ Quân sự Chính trị của họ có thể nói dày dạn hơn những người lính b́nh thường.
Trận chiến cuối cùng ở Vũng Tàu là một bằng chứng. Dù không c̣n Sĩ quan hướng dẫn, chỉ huy, như rắn mất đầu, nhưng đàn anh lớp trên đă điều động những chú nhỏ ở các lớp dưới tiếp tục chiến đấu. Cuộc chống trả đơn độc của họ chận đứng hẳn bước tiến quân làm thiệt hại đáng kể đối phương. Lần đầu tiên TSQ đánh nhau với địch, buộc chúng phải bỏ mạng một số trên chiến trường trong giờ phút chúng đă cầm chắc chiến thắng trong tay.
Đâu phải chỉ đánh cho VC sưng đầu bể trán, TSQ c̣n buộc địch phải chấp hành điều kiện đầu hàng của ḿnh. Điều kiện như thế nào ?
“Để chúng tôi nghiêm chỉnh chào Quốc Kỳ lần chót và sẽ đội ngũ chỉnh tề ra về ”. C̣n nếu ” Các anh không chịu th́ chúng tôi sẽ chiến đấu tới cùng” Có Quân đội thất trận nào làm được điều đó ?
Lính CS chắc không dám lấy thân ḿnh đền nợ nước nếu họ thua trận. Cứ nhớ đến đàn anh Vơ Nguyên Giáp bị hạ nhục từ Bộ trưởng Quốc pḥng giáng xuống chức Bộ trưởng pḥng chống thai th́ đủ biết khí phách của lính VC ra sao. Tướng c̣n như thế, đàn em làm được cái ǵ ?
Thành ra vào miền Nam đi ăn cướp, lính VC không chỉ gặp những chiến binh đúng nghĩa, họ cũng rầu thúi ruột trước vài lực lượng mà vũ khí và nhân lực không thể coi là một đơn vị Quân sự thực thụ. Nghĩa Quân, Nhân Dân Tự Vệ, Thiếu Sinh Quân với Carbine M1, M2, Garant M1, M3 A1 thời Eisenhower vẫn sẵn sàng đối đầu và trong nhiều trường hợp đă thắng trận bởi v́ : “Ḿnh thua nó (VC) là ḿnh (bao gồm gia đ́nh, hàng xóm láng giềng) CHẾT !! ”
Bọn cuồng Đảng, cuồng Hồ sẽ đặt câu hỏi : “Nếu thế tại sao lính VNCH thua trận ?”. Trả lời :
- Trong chiến tranh VN Hoa Kỳ là nguồn tài trợ chính, VNCH không thể gây dựng một nền Công nghệ Quốc pḥng
- Tại sao ?
- CSBV đă khởi động một cuộc chiến tranh xâm lược, phá hoại chế độ Cộng Ḥa. Để tự bảo vệ ḿnh VNCH đă huy động mọi nguồn tài, nhân vật lực vào cuộc chiến, không c̣n thành phần trừ bị. (hết vốn).
Tại sao nhận Viện trợ từ người Mỹ ?
- Bởi v́ ngoài họ ra không ai đủ giàu có để đưa tay giúp đỡ VNCH chống lại xâm lược.
Tại sao lại có những h́nh ảnh lính VNCH đu càng máy bay để thoát ra khỏi chiến trường ?
- Đó là chuyện b́nh thường trong mọi cuộc chiến tranh trên thế giới. Bị tràn ngập, bị tàn sát vài cá nhân hoảng hốt (VC cũng tranh nhau chạy trốn trước hỏa lực phi pháo khủng khiếp của Mỹ và VNCH).
Tuy nhiên không thể dựa vào đó để đánh giá một Quân đội :
- Nếu QLVNCH yếu kém (và dân VNCH yêu VC như chúng tuyên truyền hoang tưởng) Sài G̣n đă thất thủ ngay từ những ngày tết Mậu Thân (không đợi đến 1975).
- Nếu QLVNCH yếu kém, An Lộc đă mất từ những ngày đầu bị vây hăm, các vị chỉ huy Quân sự đă không trụ lại, trấn giữ, và bảo vệ thành công một Thị trấn tan nát v́ đạn pháo của VC. (cần nhớ người bắn cháy chiếc tăng T54 đầu tiên ở An Lộc LÀ MỘT LAO CÔNG ĐÀO BINH !!)
- Nếu QLVNCH yếu kém th́ VC đă làm gỏi đất nước nầy ngay từ sau khi TT Ngô Đ́nh Diệm và các bào đệ bị giết chết và t́nh trạng chính trị hỗn loạn nhiễu nhương ở khắp mọi nơi.
Vậy tại sao cuối cùng rồi VNCH cũng chịu thua.?
- Trong chiến tranh ai nhận yểm trợ đầy đủ dồi dào người đó cầm chắc cái thắng. CSBV ngày càng được khối anh em dồn mọi nỗ lực tiếp tế để tận diệt VNCH đang bị Mỹ cắt hết quân viện. QLVNCH không thể ra chiến trường đánh nhau với địch bằng giàn thun hoặc tầm vông vạc nhọn. Đưa đến thua trận không phải là do tinh thần chiến đấu suy sụp trong Quân đội mà bởi thiếu hụt quân khí và sự hoảng loạn của giới lănh đạo.
Nếu được chỉ huy tốt lính VNCH chiến đấu dũng mănh như đă chứng minh ở Long Khánh. Nhờ vào tinh thần của Tướng Lê Minh Đảo, Tướng Trần Quang Khôi, Sư đoàn 18 và các đơn vị tháp tùng đă đánh VC một trận để đời và làm chùng hẳn bước tiến của chúng, (nhiều đơn vị 81 BCND, ND… vẫn tiếp tục chiến đấu ngay giữa thủ đô Sài G̣n trước và sau khi nhận lệnh đầu hàng của ông DVM).
Phần viết thêm :
Dùng vũ khí để giết hại dân lành đàn bà trẻ em không thể được coi là Quân nhân, như trường hợp của Caley ở Mỹ Lai.
Thành tích VC ngon hơn nhiều :
- Tàn sát gần ba trăm đồng bào Thượng ở Dakson bằng cách thiêu sống.
- Tàn sát gần sáu ngàn dân vô tội ở Huế.
- Và ghê tởm nhất pháo binh VC nă đại bác trực tiếp vào đoàn dân chạy loạn trên Đại Lộ Kinh Hoàng Quảng Trị.
ISIS ở Mosul (Iraq) cũng triệt để áp dụng chiến thuật này : bắn sẻ, nổ bom, giật ḿn dân tị nạn bất kể đàn bà con nít.
Hai thằng (VC và ISIS) có cùng một thầy chăng ?
nguoiviettudo
hoanglan22
12-30-2018, 03:31
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1321004&stc=1&d=1546140175
Chúng ta đă sinh ra lầm thế kỷ
Nước mắt, nụ cười gian dối gạt lừa nhau.
Và hạt cát cũng căng đầy thù hận
Tri kỷ ǵ thứ t́nh nghĩa đă chia ly…?!
"Văn Chương Miệt Vườn" thành danh, thành điển tích như Cụ Đồ Chiểu đă hoa gấm đi vào Văn Học Sử thênh thang rất đáng kính cẩn và trân trọng... c̣n thứ “văn tri chướng, cà chớn hạng” của tôi đọc “dễ hiểu” chỉ để tiêu khiển “một vài trống canh”, lại có đôi chút “gút mắc” với một số “nhân vật chí” hiện thân, hiện thời đang sinh hoạt ch́m nổi tại xứ người tự do, hành sự khuất tất phía sau hậu trường “cung đ́nh Đỏ” rối như mớ ḅng bong… quả thật là không đơn thuần giản dị chút nào, là thật sự “khó tiêu” và đáng tiếc vô song! V́ “cánh màng nhung” của vở bi hài kịch có vô số thân xác, máu xương, da thịt người Việt làm “phân bón” cho loài “cây” gian độc rúc rỉa sinh sống, đơm hoa kết trái vật chất, tiền tài, tích sản là thành quả của trí “khôn” gian trá vô lượng đă “biết” thức thời vụ với “đại âm mưu” là “đại biện chứng” mà thành “gian nhân hiệp đảng” mặc t́nh lấy cường bạo thịnh thời vung tay bẩn mà che cao xanh, lấy vải ác độc mà bịt nhân đức… hỏi được bao lâu “con rắn hồng lột xác” vẫn chưa xong và chưa chung cuộc hư trường… như tôi viết ở khoảng không du du bỉ phương và thiên vơng khôi khôi sơ nhi bất thất… giữa hai hàng chữ không giản dị chút nào và đáng tiếc…?! Mong quí Độc Giả độ lượng tha thứ.
“Bên thắng cuộc” hay thực sự bị thua cuộc? Thắng trận hay thua trận, nay đă trở thành một “mặt trận” văn chương chữ nghĩa trong cộng đồng người Việt Tự Do tị nạn Cộng Sản tại hải ngoại và cũng tự tranh biện, bênh và chống mà “cái” hay, tốt đẹp của Hoa Tự Do được đơm hoa, kết trái ở trú xứ Tự Do đưọc thể hiện và minh chứng với tiến tŕnh lịch sử loài người tiến hoá không ngừng cho đến nay… và mai hậu làn gió Tự Do - Dân Chủ sẽ thổi vào Việt Nam thành băo lửa là qui luật chính trị: “nơi nào có áp bức, nơi đó có đấu tranh”… và thứ “văn hoá theo lề phải” là thứ đứng lại, nghịch triều lưu sẽ bị nhận ch́m và chết tiệt! Tôi đọc riết rồi bị động năo, mang tâm bịnh nhớ dai, càng nhớ dai càng thêm khổ lụy cho bản thân ḿnh...! Nghĩ cho cùng “kẻ thiệt” chính là “ta” cưu mang thành nặng gánh u hoài!
Thôi hăy gấp lại những bài vở mang mang và những trang sách đă rách “giữ lấy lề” nệ cổ của Thư Cưu thời quá văng… đành viết chuyện "Tôi Bị Gạt" góp “mặt” với làng Văn có lẽ bằng hữu và độc giả đọc không vui cũng lượng thứ?
.Bị Gạt:
Ngày 30-4-75 là ngày đă ngă ngũ thắng hay thua? Một lằn ranh của kẻ thắng trận và Người bại trận đă được chế độ mới vạch ra rơ ràng bằng mực đỏ! Kẻ thắng trận tiểu nhân đắc chí hoạch định sách lược cường quyền “xử lư”: bắt bớ, giam cầm, đày đoạ, trả thù, nô lệ hoá toàn thể Quân Dân miền Nam là Người bại trận.... trong những Người bại trận đó có tôi và đương nhiên với “mệnh Nước vận Nhà” đành câm nín, âm thầm nhẫn chịu, ta thán có ích ǵ …! Nhưng có điều chua xót đớn đau phải ghi tâm khắc cốt... Đó là tôi bị gạt để đời, môn học mà trường lớp thời niên thiếu với Thầy, Cô ḷng son và phấn bảng không dạy bao giờ. “Nó” chỉ có ở trường đời biển lận mà thôi!
.Bị Gạt Lần Thứ Nhất:
Sau 30- 04-1975, tan hàng…! Phút chốc công danh sự nghiệp trở thành mây khói, nhà cửa “tài sản” chỉ c̣n lại vài bộ áo quần dân sự... thắng về nội thối về ngoại, Tôi dắt díu vợ con tá túc nhà ngoại, tâm trạng như kẻ mất hồn, chạy đầu này t́m người này, chạy đầu nọ t́m người kia… họ cũng như tôi tâm trạng rối bởi chẳng khác ǵ nhau! Nghe tin tức trên đài phát thanh: "Tất cả sĩ quan cấp Úy trở lên tŕnh diện học tập cải tạo... nhớ mang theo tiền ăn cho 10 ngày ...". Tưởng bở tôi từ giă vợ con với lời nhắn nhủ: “Em gắng chờ Anh về... ḿnh sẽ về Mỹ Tho xin Ông Nội vài sào đất, cất một cái cḥi, trồng trọt nuôi con ăn học nhé...”!
Sau 10 ngày ở trại “giam” Hốc Môn (Thành Ông Năm) với các bữa ăn do các nhà hàng nổi tiếng ở Chợ Lớn như: Đồng Khánh, Bát Đạt, Soái Kinh Lâm... cung cấp và chờ đợi rồi dần sau đó cũng bắt đầu với những bữa ăn “thanh đạm” với rau muống, rau lang luộc cùng đậu hủ trắng… cho đến tháng thứ ba, quản giáo xuống “khối” của tôi gọi tên ba người và ra lệnh: "Các Anh chuẩn bị đồ đạc để về với gia đ́nh... Đại Úy Bác Sĩ Trương Th́n, Thiếu Tá Bác Sĩ Trần Đông A, Đại Úy Bác Sĩ Trần Văn Thành"... và c̣n nhiều nữa… Cả trại xôn xao trong nỗi mừng vui khôn xiết v́ tưởng rằng rồi nay mai cũng sẽ tới phiên ḿnh…!!! Nhưng tất cả đều bị gạt. Những người được “tha” về đều nằm trong danh sách đặc biệt của “bên thắng trận”. Rồi thời gian bị giam cầm chầm chậm trôi qua trong chờ đợi ṃn mơi của tù nhân…! Những chứng bịnh như: phù thủng, đau ruột, đau gan, đau bao tử… xuất hiện, không thuốc thang chữa trị …! Tôi bắt đầu bẫy chuột, chuột ǵ cũng bắt hết ráo trọi, chuột chù, chuột cống, chuột nhắt… dưới bàn tay “tài hoa ngự thiện pḥng” chế biến món ăn của tôi đă trở thành “cao lương mỹ vị”, và tôi c̣n thu lượm những cọng rau muốn già đă được nhà bếp vất đi, chẻ ra từng sợi nhỏ rồi chế biến thành “thượng phẩm”, giúp cho những người thiếu chất đạm đang bị phù thủng ăn cho có chất dinh dưỡng. Ban đầu họ lợm giọng không dám ăn! Nhưng rồi v́ muốn được khoẻ mạnh đành phải ăn để sống, sau dần dà họ cám ơn những tên tù bất kham như tôi đă “khổ” công thức đêm ŕnh ṃ bẩy chuột, cung cấp cho họ món ăn “thuốc” thịt chuột “nguồn” bổ dưỡng cứu sống mạng người đang vật vă v́ bệnh tật trong trại giam… Nên đêm đêm nằm kế bên nhau, họ ngâm khe khẻ cho Tôi nghe bài thơ “Hổ Nhớ Rừng - Thế Lữ” nghe qua sao ḷng quặn thắt đớn đau như thọc mũi dao nhọn vào nách con chuột, moi cục hạch hôi ra và thân đau tê tái “Hổ” nhớ rừng gặm nhấm mối hờn trong cũi sắt, rồi nhớ thuở tung hoành hiên ngang tang bồng hồ thuỷ trong khắp Bốn Vùng Chiến Thuật với tay súng dài XM18, súng ngắn Colt 45 dẫn quân lên Slick trực thăng ầm ĩ tiếng cánh quạt phành phạch xé gió của những hoa tiêu “Bảo Quốc Trấn Không” không bỏ anh em, không bỏ bạn bè bay xông vào trận mạc với hai hàng Gunship hùng hổ hộ tống sẵn sàng khạc từng tràng đạn và phóng nện rocket như thiên lôi giáng vào đầu quân địch… Nhưng nay thân đành thúc thủ, bị giam cầm, bẫy chuột, nhặt rau thừa độ nhật cho qua ngày đoạn tháng kéo lê lết một năm tù… cho đến khoảnh khắc quyết định sinh tử: “tự do hay chết”? Chứ ở tù như hiện tại không biết đến ngày nào được thả ra và “cái” chết đều đồng nghĩa như nhau! Tôi đă đánh cuộc với định mệnh lấy cái chết của ḿnh để t́m tự do, Tôi vượt ngục đào thoát được khỏi nhà tù nhỏ và bây giờ bị sống trong nhà tù lớn VC bủa vây…! Tôi đi về đâu? Về thành chăng? “Hổ” phải về rừng cớ sao lại phải về thành và về thành rồi sẽ không chóng th́ chầy cũng bị bầy lang sói khát máu tươi đang chực chờ cấu xé phanh thây Người chiến bại từng ngày, từng giờ, từng giây phút… thiên la, địa vơng thần chết quỉ đỏ bủa vây, phủ chụp xuống thân phận Quân - Dân hiền hoà miền Nam trong tuyệt vọng thế cô…! Kinh qua những “quốc sách” bọn quỉ đỏ Việt Cộng (VC) đă “xử lư” người dân Việt tại miền Bắc trước 1954 và Quân - Dân miền Nam Việt Nam sau 30-04-1975 đă nói lên tính chất khác biệt với toàn thể Dân Việt có nền tảng Văn Hiến giàu ḷng Nhân Ái ở mọi mặt, luôn cả đối xử tử tế độ lượng với giặc thù ngă ngựa thua trận bị khuất phục trong lịch sử thời qua, và ngay cả trong cuộc chiến Quốc - Cộng 21 năm dài, chúng ta luôn đối xử Nhân Đạo với cán binh VC bị thương hay bắt giữ tại chiến trường, có luật lệ và toà án xét xử nghiêm túc… và với Quốc Sách Chiêu Hồi ban hành để cải thiện, giúp người cán binh VC có cơ hội sinh sống b́nh đẳng mưu cầu hạnh phúc trong thể chế tự do miền Nam. Những ai là Quân - Dân miền Nam lạm sát tù binh VC hoặc thân nhân của họ sẽ bị pháp luật trừng trị rơ ràng nghiêm chỉnh… Tôi quyết định về rừng và bị gạt lần thứ hai.
.Bị Gạt Lần Thứ Hai:
Thoát được nhà tù nhỏ, Tôi đang bươn chải sống trong nhà tù lớn. Ở nhà tù lớn cái ǵ cũng: “Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân”... mà “dân” chỉ là tầng lớp nô lệ bị “Bắc Bộ Phủ” đô hộ cai trị c̣n khắc nghiệt hơn bọn rợ nhà Chu (Zhou Ye) tàn sát và cai trị nhà Thương (Shang Yin) 1040 BC, triều đại Tần Thuỷ Hoàng (259 BC) đốt sách chôn học tṛ, Thành Cát Tư Hăn (Genghis Khan 1162) rợ Mông Cổ với:”Vó ngựa của Đại Hăn đi tới đâu nơi đó không c̣n cỏ mọc”… có tàn bạo như thế nào đi nữa cũng chỉ là đối xử với người khác chủng tộc và ở thời đại con người chưa được mấy văn minh… và “từ vượn lên người phải mấy triệu năm”? Ngày nay đương thời đồ đểu VC ác độc ngự trị “từ Người xuống vượn chỉ cần một vài năm” thôi…! Bọn cán bộ có quyền thế trong tay đang tiến nhanh, tiến mạnh chụp giật, vơ vét chiến lợi phẩm không chỉ là của cải, tài sản, xe cộ, vàng ngọc, đôla (dollar), bất động sản mà c̣n là thân thể phụ nữ xinh đẹp là vợ con của tù nhân Quân - Dân miền Nam… mà cả đời mơ ước của tên cán cuội bần nông quanh năm, suốt tháng phải trốn chui, trốn nhũi lẫn tránh trong xó rừng âm u cây lá thiếu ánh sáng mặt trời triền miên, đói cơm, sốt rét ngă nước thiếu thuốc và thèm khát hơi hám đàn bà lâu năm mà thành chứng bệnh “cà hước” di căn mang về thành trả thù trên thân thể phụ nữ đă chiếm đoạt…!!! Thành tŕ Ngũ Luân đạo lư của dân miền Nam đang bị thách đố và có cơ huỷ hoại! Người dân hiền hoà miền Nam bị bao vây kinh tế, cuộc mưu sinh khốn khó để sống c̣n tất tả như vật vă bơi lội trong cơn hồng thuỷ… nên giả dối, tráo trở, gạt lừa đă có “mặt” trong gia đ́nh, xă hội, học đường và khắp cùng mọi lănh vực đời sống là thể hiện “Thiên Đường Xă Hội Chủ Nghĩa Cộng Sản”… từ đám quyền bính chóp bu “Bắc Bộ Phủ” chí cho đến bọn “cán ngố lư trưởng” quê một cục tha hồ lập mưu gian “qui định” để giết người cướp của là Cộng tài Sản của dân lành miền Nam vào kho của cải thủ đắc của chúng… Trong bối cảnh này, tôi phải luôn cảnh giác, không dám tiếp xúc với bất cứ ai ngay cả vợ con ḿnh, sống lang thang không cửa không nhà, không một hào dính túi…! “Hổ” sút móng lang thang đầu đường xó chợ, chạnh thân nhớ nhà, thèm bữa cơm no ḷng đầm ấm đoàn viên…! Phố xá quanh đây mà ta sao trơ trọi, hiểm nguy ŕnh rập không lường, rừng đâu mà nhớ…?! Tôi đánh bạo t́m cách liên lạc với Cha Mẹ đang sinh sống trên mănh vườn cằn cỗi ở ngă ba Trung Lương, Mỹ Tho xin tiếp tế. Cha Mẹ tôi có năm đứa con “đi quân đội đă lâu rồi”… Sau ngày 30-4-1975, Bà như chết đi nửa đời người c̣n lại, khóc cạn nước mắt rồi kham nhẫn chịu đựng đau khổ cầu Trời, khấn Phật xin gia hộ cho tất cả năm đứa con đang thân bị giam cầm tù tội được b́nh yên… Nghe tin tôi vượt ngục Bà hối thúc Cha tôi phải t́m gặp “thằng Út” cho bằng được, và thế là tôi được dấu diếm tá túc ở nhà, dưới sự che chở của Cha Mẹ. Tôi đào một cái hầm dưới đáy tủ quần áo, pḥng khi công an hay du kích xă Đạo Thạnh khám xét nhà th́ tôi tức khắc chui vào tủ, rúc xuống hầm ẩn trốn. Trước kia ở thời Việt Nam Cộng Hoà th́ bọn VC chui rúc xuống hầm hố nguỵ trang trốn tránh. Nay thời của quỉ đỏ th́ tôi lại là kẻ trốn tránh… ôi thôi thế sự thật bồng bềnh khéo trêu người!
Vài ngày sau đó, người Cậu thứ Tư tên Trương Văn Thân nguyên trước đây là Trưởng Ty Nông Nghiệp Tỉnh Định Tường ghé nhà thăm qua sự sắp xếp của Cha tôi, Ông nói:
- Con yên tâm tịnh dưỡng sức khoẻ, mọi việc đă có Cậu và Cậu Năm (Trương Văn Phước) lo liệu… Đây là quyết định của cấp trên, Cậu giao lại cho con…?
Quyết Định của cấp trên là một tờ giấy đánh máy, bổ nhiệm cho tôi giữ chức vụ Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn II Sư Đoàn Tiền Giang với ám danh UBL45, ấn kư của Trung Tướng Ngô Quang Truởng Tư Lệnh Quân Đội Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà... Trời hởi ?!!! Cậu Tư của tôi chỉ là một công chức hành chánh mà nay là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Tiền Giang, Cậu Năm của tôi vốn là một Y Tá đỡ đẻ nay đang là Quận Trưởng Quận Châu Thành, Mỹ Tho..?!!! Chết rồi, tôi không biết Cha ḿnh đang giữ chức vụ ǵ đây, Mẹ tôi là giao liên cấp độ nào trong cái “Tổ Chức Kháng Cộng” này… không khéo là chết hết cả nhà…? Tôi rơi vào t́nh trạng tiến thối lưỡng nan, làm thinh chịu trận…! Trung Đoàn Trưởng mà chẳng có thằng lính nào trong tay, lại phải móc nối t́m kiếm ba “ông” Tiểu Đoàn Trưởng c̣n đang trốn chui trốn nhũi như Việt Cộng khi xưa nghe lính Cộng Ḥa hành quân bố ráp. Bố khỉ!!!
Rồi chuyện ǵ tới phải tới... Vào một đêm tối trời vào khoảng 5 giờ sáng, tất cả đều bị Công An Chấp Pháp Mỹ Tho vây bắt không sót một móng nào, chỉ có ḿnh tôi nhờ cái hầm dưới đáy tủ quần áo mà thoát nạn. Cậu Tư bị án xử tử h́nh, Cậu chết trong thời gian bị VC tra tấn cực h́nh để khai thác thêm những người liên hệ, Cậu Năm bị tù 20 năm khổ sai, Cha Mẹ tôi già cả yếu đuối, cũng may v́ không nhận chức vụ ǵ nên bị thẩm vấn liên tục rồi bị xử quản thúc tại gia, c̣n hằng trăm người khác trong “tổ chức” bị bắt số phận của họ như thế nào dưới chế độ VC “thà giết lầm hơn bỏ xót” chúng ta đă có nghe và biết qua rồi…! Riêng tên Tư Lệnh Sư Đoàn Tiền Giang là một cựu Trung Sĩ Nhất của Tiểu Đoàn 11 Nhẩy Dù, nhận chỉ thị từ quan thầy Ty Công An Chấp Pháp Mỹ Tho , bủa một mẻ lưới gom tất cả trọn cả bầy cá ngát ngây thơ muốn vượt “Vũ Môn” bất thành để rồi bị xử bắn thân xác vùi dập bụi bờ hoang dại đâu đó hay đă thả trôi theo ḍng chảy của nhánh Tiền Giang cuồng nộ xuôi về biển Đông và dưới ḍng nước phù sa trộn mầu đỏ thắm có lẫn máu tươi của Đồng Bào sinh trưởng và lớn theo con sông Tiền, sông Hậu… nghe buồn năo nuột! (Đây là chuyện thật, người thật, việc thật. Nếu quí Độc Giả muốn biết rơ tường tận chi tiết xin hỏi cựu Dân Biểu Lê Tấn Trạng đang sống ở San Diego, California USA và người con trai của Cậu Tư của tôi).
Ḥ… lơ…Sông Cửu Long xuôi ḍng rẽ nhánh
Thành sông Tiền, sông Hậu có trước có sau
Mặc cho thuỷ triều lên xuống, gợn sóng lao xao
T́nh người Mỹ Tho sâu thẳm như đáy sông…ơ… ḥ
Ḥ… lơ…Em mua lúa Hồng Đào bán ra chợ Gạo
Ven sông tần tảo nuôi bậu học hành
Bậu mần quan mần Trạng
Rạng danh thành “Dân Biểu Bến Tranh”…ơ…ḥ
Ḥ…lơ…ai ngờ vận nước tanh bành…!
Trạng manh tâm đưa bạn lên đàng chết oan …ơ …ḥ
Con chim Uyên Ương lẻ bạn
Con chim Nhạn lạc bầy đàn
Ai bày, ai vẽ nên Sư Đoàn Tiền Giang …ơ…ḥ ?
Ḥ…lơ…nước phù sa Tiền Giang đỏ thắm!
V́ có máu người Trung Lương pha lẫn nước sông
Ḍng Tiền Giang cuồng nộ, làm sạt lở đôi bờ…
Chứa bao nhiêu xương trắng sông Tiền lạnh không…ơ …ḥ !
(Câu Ḥ Tiền Giang)
Như vậy là tôi đă bị gạt lần thứ hai sau ngày “bên thắng cuộc” cai trị đất nước Việt Nam, và không phải chỉ có riêng tôi, mà c̣n bao nhiêu oan hồn uổng tử cùng với gia đ́nh họ chịu trăm ngàn đắng cay bên phía “người thua cuộc” bị lừa gạt để tróc nă, đào tận gốc bốc tận rễ và giết hại…! Không biết phải dùng ngôn từ ǵ để diễn tả “quốc sách” phi dân tộc như thế…! Bao nhiêu giấy mực để phải viết ra đây phân trần, than thân trách phận ư …? Hay nung nấu một nỗi căm hờn nghiến cả hai hàm răng để khỏi bật ra tiếng khóc ai oán tang thương…!
.Bị Gạt Lần Thứ Ba:
Bị gạt lần thứ hai, thoát được thân cũng do số trời định đoạt, nào tôi có muốn như vậy đâu? V́ kháng chiến chống chế độ VC đương quyền là một tṛ đùa với tử thần, biết như vậy nhưng lúc đó tôi chẳng có một sự chọn lựa nào khác, cứ mặc kệ đời trôi nổi tới đâu hay tới đó… Cũng may hôm đó chúng không xét nhà, chỉ bắt và dẫn Cha Mẹ cùng đứa em trai của tôi về chấp pháp. Tôi chờ măi đến tối ngày hôm sau, chị Tư của tôi nḥm trước, ngó sau canh chừng động tĩnh an toàn cho tôi rời khỏi nhà, ra đến quốc lộ 4 đón xe về Sài G̣n, với một ít tiền độ đường mà chị tôi vừa khóc vừa dúi vào túi áo! “Hổ” lại trở về thành. Thành phố SàiG̣n rực một màu đỏ, trên dưới xa gần, nhà cửa, phố xá, xe cộ, cột điện... đều màu đỏ của máu tươi! Xuống bến xe cảng miền tây, nhảy đại lên một chiếc xe lam sắp rời bến không biết điểm đến nơi nao, xe ngừng ở ngă ba Trần Quốc Toản và Nguyễn Thiện Thuật, tôi nhảy vội xuống xe, đi lang thang với những bước chân vô định, cứ đi, muốn đi thẳng th́ đi, muốn quẹo trái, quẹo phải th́ quẹo, muốn tới đâu th́ tới... tới sân đá banh Cộng Ḥa gần nhà một người bạn rất thân cùng Khoá 22 Vơ Bị Đà Lạt (Trong truyện ngắn này, tôi không thể viết chi tiết và danh tánh v́ có liên hệ đến rất nhiều bằng hữu c̣n đang sống tại Việt Nam và Mỹ! Nhưng Họ măi là nhân chứng sống cho câu chuyện “Bị Gạt” của tôi). Kéo cái mũ xùm xụp xuống gần mí mắt, tôi gơ cửa nhà, “bà Chị”(vợ của người bạn thân cùng khóa ) mở cửa, sau phút định thần, với đôi mắt gần như trợn trừng ngạc nhiên Chị thảng thốt: “Ôi… Trời ơi!... Anh... Anh... hả ?!!!"
Chị không dám gọi tên tôi v́ đă biết mọi chuyện. Chồng chị đă hy sinh trong mặt trận Quảng Trị, chị ở vậy với một đứa con gái nuôi vài ba tuổi và có một người anh họ trước 1975 làm thư kư trong ṭa Đại Sứ Mỹ, Ông không muốn đi Mỹ, dù có tên trong danh sách di tản sang Mỹ. Chờ khóa cửa xong, chị hỏi thăm năm ba điều rồi dặn ḍ: “Ngày mai, đúng 9 giờ sáng, anh tới quán cà phê vĩa hè đối diện với nhà thờ Huyện Sĩ, tôi có nhiều chuyện cần nói với anh!“. Lại tiếp tục lang thang, đêm đó tôi ngủ trên chiếc chiếu thuê ở bến xe An Đông.
Đến 8 giờ sáng hôm sau, tôi t́m chỗ khuất sau cây dù của quầy pha cà phê vỉa hè đối diện nhà thờ Huyện Sĩ, chờ đến 9 giờ cũng chưa thấy chị, tới 9 giờ 45, một người đàn ông xa lạ bước đến kéo cái ghế thấp ngồi kế bên tôi và kêu một ly cà phê sữa nóng xong gật đầu chào xă giao và hỏi :
- Anh Út hả?
Một cơn chấn động ớn lạnh dữ dội chạy khắp thân thể gần như không c̣n giữ được b́nh tỉnh, hai bàn tay nắm chặt vào nhau và để lên bàn, không dám nh́n thẳng vào mặt ông ta, tôi nói:
- Vâng thưa anh! Nếu anh là công an theo dơi tôi… th́ tay tôi đây, anh cứ c̣ng…!
Ông ta dáng người nhỏ tầm thước, gương mặt b́nh thản không có một chút sát khí nào, móc túi lấy bao thuốc Samit, châm lửa rồi đưa sang cho tôi xong ông nói một cách chậm răi:
- Tôi tên H là anh của bà A. Tôi đến đây để giúp anh và anh phải đi ngay… ! Anh sẽ đến một nơi tôi nghĩ sẽ thích hợp và an toàn cho anh hơn, tin hay không tùy anh.
Tin hay không? Chỉ có Thượng Đế mới có thể giúp cho tôi lúc này để trả lời tin hay không! Không tin th́ tôi phải làm ǵ và nói ǵ trong lúc này? Tin th́ tôi phải đến nơi nào do ông ta quyết định? Sao định mệnh cứ măi đưa đẩy thân tôi vào những canh bạc thắng thua bằng chính mạng sống của ḿnh?! …và rồi đến 2 giờ chiều cùng ngày tôi được thu xếp lên chuyến xe đ̣ đi Long Khánh với lời căn dặn: ”cho đến khi nào anh lơ xe vỗ vai ra dấu th́ anh xuống xe…”. Xe chuyển bánh lên đường chạy b́nh yên cho đến khi đậu lại ven đường, anh lơ xe la lớn: ”Bà con cô bác ai muốn đi tiểu tiện hay mua cà phê nước uống th́ xuống xe, chúng ta sẽ nghĩ 10 phút...” … cùng với cái vỗ nhẹ vào vai tôi. Tôi xuống xe và nơi đây là Ấp Bảo B́nh, Xă Bảo Liệt, Huyện Thống Nhất, Tỉnh Long Khánh. Cái quán bên vệ đường là một trạm “giao liên” của tổ chức ”kháng chiến” mà họ đưa tôi lên đây. Tôi chỉ biết theo lời hướng dẫn của họ. Người chủ quán pha cho tôi một ly cà phê đá và nói nhỏ: ”chờ xe chạy có người nói chuyện với anh sau ...”. “người” Z20 là ám danh của một cựu Trung Sĩ Pháo Binh thuộc Tiểu Khu Phước Tuy, mà cũng là chỉ huy trưởng đơn vị kháng chiến hiện tại mang tên: ”Trung Đoàn Cơ Động Tỉnh Long Khánh”. Tôi được bổ nhiệm làm Trung Đoàn Phó cho anh ta (thằng đang giăng câu). Mẹ kiếp…! Thôi cũng đành nhắm mắt đưa chân, tôi cố ngậm miệng để không bật ra tiếng chửi thề. Suốt đêm đó di hành gần 15 cây số vào tới mật khu Mây Tào của VC trước kia, xa xa nữa là núi Chứa Chan… Khi trời vừa hừng sáng, Z20 ra “lệnh” cho tôi nghỉ ngơi, chờ đến 2 giờ trưa sẽ giới thiệu đơn vị. Thôi th́ cũng một chút niềm vui len lén vào hồn, kháng chiến hay khiến chán cũng là một nơi tạm dung thân ít ra “Hổ” cũng được về rừng…! Buổi trưa, Z20 giới thiệu với tất cả “kháng chiến quân” hiện diện, hắn chỉ định tôi là Z21 Chỉ Huy Phó của Trung Đoàn (?), sau đó giới thiệu vài người thân cận sẽ làm việc bên cạnh tôi, rồi nói sơ qua cho biết: ”Hiện nay Đại Tướng Ngô Quang Trưởng đang là Tổng Tư Lệnh Quân Đội Giải Phóng Việt Nam (TTLQĐGPVN), Trung Tướng Bùi Thế Lân Tư Lệnh Thuỷ Quân Lục Chiến (TQLC) đang ở núi Chứa Chan, Đại Tá Lê Văn Mễ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù (TLLĐND) ở núi Bà Rá… Anh ta nói liên miên không ngượng miệng, không có bản đồ, cũng chẳng có một chứng từ ǵ để trao lại cho Trung Đoàn Phó của anh ta tức là tôi (sic)…!!! Nghe tới đây tôi rởn tóc gáy, chợt nghĩ đến chỉ trong một đêm cả Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Tiền Giang bị VC hốt trọn ổ…?! Chỉ có thế, rồi anh ta rời “mật khu kháng chiến” vội vă trở ra cái quán bên vệ đường Quốc Lộ1 với lư do đi liên lạc với cấp trên để cho tôi toàn quyền quyết định mọi việc…!!! Quyết định cái ǵ? “Trung Đoàn” chỉ có 67 “nhơn” mạng: 63 nam, 4 nữ, hầu hết không quá 30 tuổi và một số là dân phạm pháp trốn vào “bưng”, vũ khí chỉ có 7 súng M16, mỗi khẩu có một băng đạn không tới 20 viên đạn, không bản đồ, không máy truyền tin, t́nh h́nh “địch” và “bạn” chung quanh vài cây số cũng mù tịt, không có thuốc men khi bệnh hoạn hay ngộ độc th́ sẽ làm sao cứu chữa…? Ẩm thực mỗi ngày, mỗi người chỉ ăn được hai bữa vài ba chén cháo với cá khô...! Kháng chiến kiểu này là tự sát theo thời gian! Tôi đâm ra khiến chán, và những mối nghi ngờ càng ngày càng tích lũy âm thầm trong ḷng càng gia tăng. Bài học mới đây với Sư Đoàn Tiền Giang, Sư Đoàn Rạch Giá, vụ án nhà thờ Vinh Sơn chưa ráo mực, chắc chắn rồi ḿnh lại bị gạt rơ ràng như hai cộng với hai là bốn. Cố giữ b́nh thản dấu đi ánh mắt và những lời nói vô t́nh làm lộ ư nghĩ trong đầu. Ba ngày trôi qua không có mặt của tên đầu sỏ Z20, đêm đến tôi không ngủ chỗ của ḿnh mà ôm tấm chăn chui vào bụi rậm gần đó, nửa thức, nửa ngủ chờ sáng… Đến ngày thứ tư, tôi ra lệnh cho Tập và Quang (hai người này đang sinh sống tại Mỹ) theo tôi thám sát chung quanh vùng, nhưng thật sự là để ḍ t́m con đường an toàn trở ra QL1. Ngày hôm sau tôi âm thầm lặng lẽ rời bỏ họ. Tôi vẫn ngậm ngùi nghĩ tới họ, nhất là bốn cô gái chỉ vừa tuổi đôi mươi, những “ chiến hữu” bất đắc dĩ nầy không biết rơ v́ hoàn cảnh nào đưa đẩy họ vào đây…? Nhưng chắc chắn là họ không thể sống b́nh thường với gia đ́nh nơi sinh ra và lớn lên, và chắc chắn hơn nữa họ không có một khái niệm sơ đẳng nào về việc họ đang làm rất nguy hiểm sẽ đưa đến cái chết oan uổng khi bị VC bắt và xử bắn. Thật tội nghiệp cho họ! Nhưng biết làm sao hơn, v́ ngay cả bản thân của tôi cũng đă và đang lâm nguy như cá nằm trong rọ chờ giờ bị tóm cổ! Tôi âm thầm lặng lẽ rời bỏ họ trên đường trốn chạy tử thần, trong khi họ tin tưởng và hy vọng ở nơi tôi, một cựu Đại Úy Nhẩy Dù tác chiến thứ thiệt, và chắc chắn là chỉ huy kháng chiến “thứ thiệt” v́ do cấp trên bổ nhiệm. Tôi bây giờ như con cua bị bẻ hết càng, thân bất độ, độ chi tha nhân, chắc ǵ cứu lấy được ḿnh, nào dám hé môi nửa lời cứu lấy thân họ, lại nữa biết ai giả ai thật, trí trá vàng thau lẫn lộn, tai vách mạch rừng… đành để họ buông theo số mệnh an bài cho những người “Bạn” trẻ ngây thơ như nai tơ trước đàn sài lang hung dữ, ác độc thèm máu tươi và “năng nổ” lập công, thành tích để trồi đạp lên nhau mà tiến thân rồi mặc sức tha hồ giết người cướp của, thời điểm hưng thịnh bạo ngược là “b́nh minh cộng sản” (không viết Hoa)...! Rồi từ đó về sau tôi không biết tin tức ǵ của họ nữa, măi đến năm 1987 tức 11 năm sau chị A từ Boston gọi điện thoại cho tôi biết anh H vừa sang Mỹ định cư ở Richmond, Virginia. Tôi tức tốc đến thăm gia đ́nh anh, rồi được anh kể lại cho tôi nghe với những giọt nước mắt lưng tṛng:
- Sau khi anh Út đi khỏi “chiến khu” rồi, chỉ vài tuần sau đó VC kéo cả một Tiểu Đoàn Bộ Đội và Thiết Giáp càn quét vào đó, tất cả những người đang ở trong “chiến khu” bị giết hoặc bị bắt đi, chỉ có vài ba người trốn thoát được v́ đang ở Bảo B́nh chờ nhận tiếp tế...! Tôi đă bị VC gạt và kéo anh vào cuộc bị gạt luôn với 60 sinh mạng bị bắn giết ở tuổi ngây thơ chưa biết ǵ về sự tàn ác của VC...!
Đêm đó tôi thức suốt đêm với anh H, uống hết chai beer này đến chai beer khác, beer trộn lẫn với nước mắt nuốt vào cổ họng nghẹn ngào bi thương… làm sao quên được những đôi mắt ngây thơ tin yêu có chút lăng mạn chuyện đội đá vá trời của những “kháng chiến quân” trong mật khu Mây Tàu bị “gài độ” và giờ đây thân xác của họ bị vùi lấp đâu đó nơi xó rừng hoang vu lạnh lẽo…nào ai biết, nào ai hay để thắp vài nén hương sưởi ấm oan hồn…! Đêm đă gần sáng mà những câu chuyện bị gạt bi thương, đau đớn gần như bất tận…!
.Bị Gạt Lần Thứ Tư:
Nay “Hổ” trốn chui trở lại về “thành Hồ” và đă bị sứt móng, như mèo bị cắt tai hoặc thành “cái” con chi chi cũng mặc… gặp ai nói, ai bảo ǵ cũng đành phải dạ thưa để t́m chỗ dung thân…! Ấy vậy mà vẫn c̣n bị gạt dài… dài…! Giấc mơ “Hổ Nhớ Rừng” tự hứa từ đây sẽ chôn xuống gốc cây bụi cỏ nào đó cùng với lư lịch “oan khiên” Út Bạch Lan (danh hiệu truyền tin gần như huyền thoại mà cấp Chỉ Huy và bạn bè thân thương “ban” tặng như pháo, càng nổ to tiếng th́ tan tành xác pháo thôi) rồi bắt đầu chuyển hướng t́m phương cách vượt biên. “Vượt Biên” là ngôn ngữ thời thượng trong khoảng thời gian từ năm 1977 - 1980, nhà nhà vượt biên, người người vượt biên… các hũ vàng chôn dưới nền nhà, chôn dưới cây khế sau nhà, dưới nền chuồng heo, chuồng gà lần lượt được moi móc lên để dâng cúng cho những tay trùm quỷ đỏ qua trung gian của không biết bao nhiêu kẻ chạy c̣, móc nối gian manh lường gạt ngay cả thân nhân ruột thịt của ḿnh…! Gia đ́nh tôi là một trong những gia đ́nh nạn nhân trong “quốc sách” bán băi thu vàng, dollar, tịch thu tài sản của người vượt biên đó! Cả gia đ́nh người Cô ruột của tôi gồm 16 nhân mạng đă ch́m sâu dưới gịng sông Cát Lái sau khi đă gom góp tất cả tài sản để đánh đổi với hai chữ “Tự Do”, mà chính họ cùng lơ mơ không hiểu “Tự Do” là ǵ khi chiếc xà lan nổ tung d́m thân xác họ xuống ḷng sông là chứng nhân vô t́nh, nước vẫn chảy xuôi ḍng, cát vẫn trôi lăn vô định… c̣n lại bao tiếc thương của những thân nhân họ hàng rơi lệ dầm bâu rồi lại lăng xăng lục lạo t́m đường vượt biên…! Năm 1979, một chiếc xà lan chứa cả hơn ngàn nhân mạng được tàu VC kéo ra khơi vượt biên sau đó trôi dạt vào Pulau Bidong chỉ c̣n vài chục xác chết! Không biết những giây phút cuối cùng cận tử có ai không trong số đồng bào vượt biên phát giác âm mưu gian trá của quỉ đỏ giết người cướp của mà gào thét: “bọn quỉ đỏ đă lừa gạt đồng bào”…và c̣n nhớ đă chung bao nhiêu cây vàng cho đám công an tổ chức..?!.
Giấc mơ “Hổ Nhớ Rừng” nay mồ đă xanh cỏ, giấc mơ vượt biên như ở đâu đó c̣n xa xăm ngoài tầm tay với. Đường bộ ngă Châu Đốc qua Campuchia cũng phải chung vàng, bán chính thức giá mỗi đầu người bốn cây, đi chui th́ tệ lắm cũng hai cây. Mở miệng ra nói tới chuyện vượt biên là cây với cây…! Với ba lần bị gạt như kính cung chi điểu, con chim bị tên thấy cành cây cong đă hoảng sợ, bây giờ nghe nói đến cây cây là c̣n lo sợ hơn…! Bài tính tích phân với ba bốn con ngỗng của Thầy Nguyễn Khắc Thuận (VBDL) cứ nhẩy múa trong đầu và t́m đâu ra đáp số Cha Mẹ ơi, Thầy ơi! Đang trong khi vợ con c̣n ăn uống chưa no bụng th́ làm sao mà có vàng để vượt biên? Một buổi trưa đang lang thang ở chợ trời Tân Định, tôi bị một cái vỗ vai thật mạnh gần chúi nhủi, ngó lại th́ là chị Mai vợ của anh Nguyễn Văn Chộ (F21). Anh Chộ tướng đô con, trắng trẻo, đẹp trai, ra trường vào Không Quân, chị Mai là Tiếp Viên Hàng Không của Air Việt Nam, nổi tiếng đẹp nhất trong số các “Phu Nhân” của Vơ Bị Đà Lạt. Chị gọi tôi:
- Anh Út,... lại đây... lại đây!
Chị kéo tôi đến cái sạp bán quần áo cũ của chị. Nét đẹp diễm kiều và quí phái không thay đổi nhiều nhưng phảng phất có đôi chút phong trần.
- Anh uống cà phê không, cà phê cứt chồn ngon lắm?
Không đợi tôi trả lời, chị nhờ cô bé chạy hàng rong gọi hai ly cà phê sữa đá thêm chút bơ. Chị nói huyên thiên chuyện gia đ́nh, chuyện anh Chộ và cuối cùng:
- Tôi nghe bà xă của anh kể lại chuyện về anh…Thật không ngờ gặp được anh ở đây. Thôi tóm tắt như thế nầy...
Nghe qua, tôi được biết người t́nh hờ của chị là một người Hoa có hai ḷ đường ở Củ Chi, đang tổ chức một chuyến vượt biên ở Sa Đéc, có tay trong là tên tài công từ ngoài Bắc vô, đang là thuyền trưởng một trong những tàu đánh cá quốc doanh Phú Quốc… Chị nói tiếp: ”Tên tài công này đồng ư đưa ḿnh đi, nhưng hắn muốn có một ít tiền để lại cho gia đ́nh ở Ninh B́nh, điều kiện là hai cây đầu người... nếu anh kiếm được 10 người th́ anh sẽ được đi không tốn tiền..”. Nghe qua hấp dẫn vô cùng và tự khoái chí: “ờ há chỉ có con đường này may ra...”!!! Sau này biết ḿnh bị gạt, tôi tự đấm vào đầu và tự nhủ: ”Sao mầy có thể ngu đần như vậy, không nghĩ “thằng” tổ chức là ai, “nó” chính là “đầu năo” quyết định “thằng tài công từ ngoài Bắc” vào… và cũng chỉ v́ giấc mộng vượt biên mà u mê đến độ không suy nghĩ đắn đo phân hư thật cứ lao đầu vào sự lường gạt…”! Sau vài lần tiếp xúc, tôi dần dần tin tưởng ở chị Mai, mỗi lần gặp chị bảo tôi ngồi ở phía sau cái sạp bán quần áo cũ của chị nh́n ông đi qua bà đi lại, lắm khi chị giao sạp cho tôi trông coi, c̣n chị chạy ṿng ṿng đâu đó mua bán trao đổi quấn áo cũ, khi trở về chị mua cho tôi đĩa cơm tấm sườn. Sự tin tưởng nơi chị gia tăng tới mức tôi nhờ chị liên lạc với gia đ́nh. Một ngày, người đàn ông lạ mặt xuất hiện, chị giới thiệu là anh Chín ông chủ ḷ đường ở Củ Chi, không nói tôi cũng biết là người t́nh hờ của chị, nhưng nào phải chuyện của ḿnh thắc mắc làm ǵ, họ trao đổi ǵ với nhau tôi cũng làm ngơ, nhưng thoang thoáng cũng biết được chuyện tiền nong cho chuyến vượt biên sắp tới. Chờ cho người đàn ông đi rồi, chập sau chị mới nói với tôi:
- Anh Út à! Tôi phải năn nỉ hết lời ông ấy mới thuận, tôi nói với ổng anh là anh em cột chèo với anh Chộ, nên ổng đồng ư cho anh đi, nhưng cũng phải đưa trước hai cây.
“Phải năn nĩ hết lời” mà phải đưa trước hai cây ?!... Sao lúc đó tôi ngu ngơ khờ khạo đến nỗi không nghĩ ra cái mâu thuẩn hắc bạch phân minh này ?!... Ngu nên bị gạt là đáng kiếp! Trông cậy và nhờ vả vào ai đây để đào ra hai cây vàng giao cho họ, cũng đồng nghĩa giao tính mạng ḿnh cho họ? Nếu là một người dân b́nh thường có hộ khẩu, có gia đ́nh, đi lại b́nh thường may ra c̣n có thể xoay sở được, nếu thoát được th́ nói ǵ, c̣n nếu bị “dính cựa” th́ cũng c̣n mái ấm gia đ́nh mong ngày trở về… C̣n tôi chỉ có đường đi tới, không trở lui được là thế bối thủy. Như một kẻ đă bị dồn vào chân tường, giống như ngày c̣n cầm quân nơi trận địa rơi vào hoàn cảnh chống cũng chết mà hàng cũng chết…! Lại nữa tôi tin ở chị Mai cũng như tôi tin ở chị A v́ chỗ thân quen thân, ân t́nh nghĩa lụy với nhau trong những tháng năm c̣n tại ngũ. Tôi nghĩ đến Mẹ tôi. Người Mẹ chỉ biết chắt chiu dành dụm từng đồng và ăn chay trường từ ngày sinh người con thứ tám. Hy vọng mong manh may ra thoát được cái thiên la địa vơng cô nghiệt này. Tôi viết một bức thư kín đáo cho Mẹ tôi và không quên dặn ḍ cách thức gặp gỡ. Đúng ngày, đúng giờ, đúng địa điểm chị Tư của tôi dẫn hai đứa con lang thang trong sở thú Sài G̣n, tôi nh́n theo dơi ở xa… xa… chưa dám tiếp xúc, rồi sau cùng nhận thấy khá an toàn tôi giả vờ như người chăm sóc cây kiểng đến gần gặp chị. Chị lo âu vội vă nói: “Trong cái túi giấy có ổ bánh ḿ, cá nục kho của Má làm cho em sáng nay, một cái bọc văi và cái thư của Má… Thôi chị đi...”. Chị vội vàng quay đi với hai đứa cháu và gương mặt đầm đ́a nước mắt…! Tôi t́m chỗ kín đáo mở “quà” và đọc thơ của Mẹ tôi viết: “Con của Má, Má có bao nhiêu gom hết cho con, có phần phụ thêm của chị Hai và chị Tư... Con nên bảo trọng lấy thân, Ba Má vẫn đọc kinh cầu nguyện Phật Trời phù hộ cho con và anh em của con hằng đêm…”. Trong bọc vải có một sợi giây chuyền, ba chiếc nhẫn, một tấm lắc đeo tay, một cái kiềng đeo tay, một đôi bông tai, một ṿng cẩm thạch màu tím thẫm, tất cả đều là vàng y. Tôi nào biết định giá nó là bao nhiêu, tương đương với mấy cây cũng không biết…! Với niềm hy vọng và tin tưởng không một chút thắc mắc nào, tôi giao hết cho chị Mai ngay buổi chiều ngày hôm đó. Tôi đă giao cho chị Mai tất cả huyết lệ của Mẹ và chị tôi, đă cần kiệm để dành chút vốn của cải cất dấu cả đời người tần tảo nay đem cho hết những mong tôi sẽ được vựợt biên b́nh an suôn sẻ! Cứ mỗi ngày theo lời dặn của chị Mai, tôi ghé gánh cơm “xích lô phu khuân vác” xeo xéo sạp quần áo của chị để chờ tin. Thời gian và đợi chờ là hai khắc tinh “nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” ngày qua tháng lại chỉ chờ... chờ... chờ cho đến một hôm kinh hoàng như bị thiên lôi giáng một búa xuống đầu ḿnh, miệng há hốc mà không thốt ra được một lời, thân chết đứng …khi nghe chị Mai thông báo:
- Tôi đă giao hết cái của anh cho anh Chín ḷ đường, cả mấy tuần nay tôi nhắn hoài mà không thấy anh ấy liên lạc, mới vừa nghe tin anh ấy đă cùng gia đ́nh vượt biên rồi… Bây giờ ḿnh chỉ c̣n nước đi thưa với công an mà thôi …”!
“Thưa Công An”? Tôi đă rơi vào bẫy sập với cái giá mồ hôi và nước mắt của Mẹ và chị tôi. Nỗi uất nghẹn từ trong tim trào dâng, ngăn gịng lệ không ứa tuôn ra ngoài mà phải ém để chảy ngược vào bên trong tâm tan nát…! Tôi lầm lũi bước đi với những bước chân vô hồn, bên tai vẫn c̣n nghe tiếng bà Ba gánh cơm xích lô: ”bữa nay có thịt kho tàu với dưa chua, dưa giá…” và dư âm lời của chị Mai: ”…ḿnh chỉ c̣n nước đi thưa Công An mà thôi”! Tôi tự hỏi chị Mai hay thằng Ba Tàu chủ ḷ đường kiêm người t́nh “30 tháng tư” của chị manh tâm gạt tôi ?! Những ngày sau tôi lén trở lại sạp vải thấy tên Chín ḷ đường vẫn ngồi với chị Mai sau cái sập bán quần áo cũ... và họ hiên ngang chờ tôi đến để “đi thưa Công An”... Tôi âm thầm gạt lệ, có nỗi xót xa đau đớn nào hơn hoàn cảnh này hởi Trời…?!
.Bị Gạt Lần Thứ Năm:
Trời cao không phụ ḷng người, sau cùng tôi vượt biên thành công. Một tháng rưỡi ở trại tỵ nạn Pulau Bidong, sáu tháng ở GaLang II chờ học ESL rồi cuối cùng cũng được đặt chân lên đất nước Mỹ tháng 12 năm 1982, Tôi phải đối diện với cuộc sống mới, làm lại từ khởi đầu với hai bàn tay trắng và mớ vốn kiến thức nửa nạc nửa mỡ, nửa thầy nửa thợ, bỏ lại sau lưng những nhục nhằn của cái thiên đường xạo hết chỗ nói (xă hội chủ nghĩa) chỉ có mánh mung và lường gạt! Khi c̣n ở trại tỵ nạn, vài nhân viên người nước ngoài trong phái đoàn phỏng vấn hỏi tôi:
- Anh có dự tính sang Mỹ sẽ làm ǵ hay không?
Tôi trả lời ngay không do dự:
- Lái taxi.
Khi sang đến Mỹ, bạn bè khuyến khích tôi nên đi học trở lại trong khi đang hưởng trợ cấp xă hội. Tôi cười:
- Trời đất... bao năm chinh chiến chỉ biết cắc bùm, nhiều năm trốn chui trốn nhủi, sách vở văn chương chữ nghĩa đă trả lại cho Thầy, lại nữa tiếng Anh tiếng U nói bằng tay múa bằng chân th́ học cái ǵ… ?
Họ trấn an:
- Tụi Tao học được th́ mày cũng học được, học không bổ bề dọc cũng bổ bề ngang...
Thế là tôi cũng phải đi học mong kiếm tờ giấy “bằng cấp” lộn lận lưng để đi xin việc làm.
30-4-1983 Ngày Đại Hội Chính Nghĩa của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam - Hoàng Cơ Minh tại Thủ Đô Washington:
Người Bạn thân của tôi là Cựu Đại Úy Quân Y Nhẩy Dù Trần Công Hoàng (Florida) đang là Xứ Bộ Trưởng X202 của Mặt Trận vùng Đông Bắc Mỹ, Cựu Trung Tá Bác Sĩ Quân Y Sư Đoàn Nhẩy Dù Trần Đức Tường (France) đang là Đại Diện cho Khu Bộ Âu Châu của Mặt Trận ... giới thiệu tôi với Đề Đốc Hoàng Cơ Minh (HCM) qua thành tích trốn trại và tham gia “kháng chiến” ở VN trước khi qua Mỹ. Trong căn pḥng nhỏ hẹp vùng Maryland, bên ngoài được canh pḥng an ninh chặt chẽ, BS Trần Đức Tường nghiêm chỉnh tŕnh diện Chủ Tịch Hoàng Cơ Minh rồi dơng dạc giới thiệu:
- Xin trân trọng giới thiệu với Đề Đốc... đây là Đại Úy Trương Văn Út tự là ÚtBạchLan... mà tôi đă tŕnh bày với Đề Đốc cùng Đại Tá (PVL) hai ngày hôm trước.
BS Tường bước ra ngoài. đóng cửa, trong pḥng riêng th́ chỉ c̣n có ba người với ánh sáng lờ mờ chỉ có ánh đèn bật sáng trên một bản đồ khá lớn đang trải rộng trên bàn. Ông HCM cũng biết tôi vừa từ VN đến Mỹ vài tháng qua nên ân cần:
- Anh Út,... tốt lắm! Tôi và Đại Tá Liễu được BS Tường kể hết thành tích (?) của anh... Sẵn đây, anh có thể cho chúng tôi biết khái quát về t́nh h́nh ở VN qua phóng đồ hành quân này và cho chúng tôi biết nhận định của anh.
Trên bản đồ, những chấm xanh đánh dấu vị trí các đơn vị của MTQGTNGPVN - HCM, chấm đỏ là các đơn vị trú pḥng của QĐNDVC... Liếc qua vùng IV của ḿnh ngày xưa, rồi vùng bắc, đông bắc Saigon với chấm xanh chấm đỏ chen lẫn chằng chịt… khiến tôi chóng mặt…?! Tất cả lực lượng của MT đang dưới quyền “Tư Lệnh” Trung Tá Lê Hồng (truớc 1975 là Lữ Đoàn Phó LĐIND) nay đang mang cấp bậc Thiếu Tướng là “Thiếu Tướng Đặng Quốc Hiền”… !!! Cả hai “Ông” đều im lặng trong khi tôi quan sát trên bản đồ và cũng im lặng… Chợt nhớ tới những lời của tên Z20 ở Long Khánh trước đây… và tôi cố giữ b́nh tĩnh để tiếng “xạo” không thoát ra cửa miệng. Một lúc lâu Ông HCM hỏi thúc:
- Anh thấy sao? Tôi thực t́nh trả lời:
- Thưa Đề Đốc, tôi chỉ biết vào khoảng năm 1976 ở Mỹ Tho có Sư Đoàn Tiền Giang nhưng không có quân...! Ở Long Khánh có một nhóm khoảng trên dưới 60 người lại không có cấp chỉ huy! Tôi chỉ biết có thế.
- Thôi được, bây giờ anh đang làm ǵ?
- Dạ, tôi đang đi học.
- Tôi có bàn với anh Bẩy (TVL) là kết nạp anh ngay và sẽ đưa anh sang Thái Lan để giúp cho anh Chính Tư Lệnh Lực Lượng Vơ Trang (TT/ĐQH tức TrT/ LH) hoặc ở lại đây vừa đi học vừa giúp chúng tôi thành lập Biệt Đội Công Tác Đặc Biệt (tiền thân của K9 sau này)... Anh nghĩ sao cho chúng tôi biết ngay bây giờ?
Tôi rơi ngay vào tâm trạng bối rối v́ những cái chấm xanh chấm đỏ trên bản đồ. Thật xạo hết chỗ nói (XHCN) lại bị gạt nữa hay sao? Ba lần bốn lượt bị gạt c̣n chưa tởn hay sao mà nay lại c̣n ngần ngừ muốn bị gạt nữa chăng? Không gật đầu cũng không lắc đầu tôi từ tốn lịch sự trả lời:
- Thưa ĐĐ và ĐT... Tôi đă ghi danh đi học, thời gian chưa biết bao lâu, xin cho tôi thời gian suy nghĩ, khi nghe và nói được tiếng Anh lưu loát hơn tôi sẽ trả lời sau. Dù thế nào việc trở về VN lật đổ CSVN vẫn là giấc mơ chẳng phải của riêng tôi mà là của hầu hết mọi người Việt trong và ngoài nước.
- Vậy cũng được... anh Bảy sẽ chỉ thị trực tiếp cho X202 (TCH) giúp đỡ cho anh trong thời gian đi học, liên lạc thường xuyên với X202, cần ǵ th́ nói với X202 và báo cáo thẳng cho tôi hoặc anh Bảy. Trong thời gian này nếu có thể được, anh liên lạc với GS Cao Thế Dung nhận một ít tài liệu về đọc và nghiên cứu để hiểu biết thêm t́nh h́nh chính trị hiện nay...
Tịnh Hô (cận vệ của Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan trước 1975) lái xe đưa tôi trở về nhà “anh Đại” Trung Tá Phán (TQLC). Nơi đây đă “tập họp” trên 20 người ăn nhậu và đấu khẩu ỏm tỏi… H́nh như họ đă biết chuyện tôi gặp gỡ HCM chiều nay cho nên khi bước vào nhà, Tịnh Hô la lớn tiếng:
- ÚtBạchLan về tới... sau khi được phong chức Công Công!!!
Mọi người cười ồ…!!! Họ là những Sĩ Quan cấp Tá, đàn anh của tôi trong giới “giang hồ” ăn chơi ở SaiGon trước 1975. Họ tụ tập về đây tham dự Đại Hội Chính Nghĩa của HCM. Họ không phải là cán bộ hay thành viên, đoàn viên của MT mà chỉ v́ ṭ ṃ về đây để “ xem sự thể như thế nào” thế thôi!!!
Tôi mới đặt chân lên đất Mỹ vài ba tháng (1983) trong khi họ đă đến đây từ 1975. Sự am tường hiểu biết của tôi so với họ chỉ là con số không và họ đă được ông HCM chiếu cố vận dụng, chiêu mộ trước tôi xa lắc xa lơ… Ba người trong số của Họ là cựu TrT/ TQLC Nguyễn Văn Phán , cựu TrT/ HQ Trần Đức Cử, cựu TrT/BĐQ Nguyễn Thừa Dzu nói với tôi:
- Mầy mới qua nên lo đi học rồi kiếm việc làm, ba cái chuyện này để mấy thằng anh mày lo, bao nhiêu cặm bẩy trùng trùng lớp lớp trước mặt, lỡ bước sang ngang con đ̣ lật úp th́ không ai cứu mày được…. ĐHCN của HCM hôm nay là dấu hiệu kết thúc đó, tụi tao không cần giải thích nhiều! Nên nghe lời “Qua” đi em!
Ngay sau đó với sự vận động của “anh Đại” Phán, mọi người đóng góp tại chỗ được 3800 dollars để cho tôi mua chiếc xe Nissan Sentra 1983 hai cửa mới toanh để đi học, và sau này cũng chính Anh Phán là người t́m việc làm cho tôi…!!!. Đứng giữa hai sự chọn lựa, một là “danh vọng, địa vị” với MTHCM, hai là tấm thạnh t́nh của những đàn Anh chí t́nh chân thật…? Lần nầy bởi nh́n được thấu đáo sự thật và nhiệt t́nh giúp đỡ của quí Anh trưởng thượng… tôi né tránh được bị gạt lần thứ năm. Tôi từ chối những tấm check vài ba trăm hằng tháng của X202 nói rằng từ trung ương gửi cho tôi. Tôi biện giải khéo v́ đă có Wellfare và Foodstamp đủ để đi học rồi và dứt khoát bỏ ngoài tai những mật ngọt vẫn tiếp tục gọi hằng ngày cùng những lời tâng bốc của các bạn cùng truờng. Họ là những đoàn viên trung kiên của MT trong đó có rất nhiều cựu SVSQVB với bộ đồng phục quần xám, áo nâu hoạt động quên cả ăn học…! Tội Nghiệp! Tôi vẫn âm thầm tiếp tục việc học và cũng may, nếu v́ “nổ” và hám danh, háo vị… th́ thân xác tôi giờ đây đă ră mục oan uổng đâu đó trong vùng thâm lâm Thái Lào cùng với Chủ Tịch HCM hoặc bị vùi dập dưới gốc tre buội chuối nào đó bênh cạnh “Trại Kháng Chiến Quân” cùng “Thiếu Tướng Tư Lệnh Đặng Quốc Hiền”, hay như GS Cao Thế Dung phải sống trong lo âu sợ hăi khi ly khai và lột mặt nạ gia đ́nh đầu nậu “kháng chiến Phở Ḅ” họ Hoàng…?!
Lần bị gạt này sở dĩ mà “né” được là nhờ kinh nghiệm những lần bị gạt trước kia và sự nhiệt t́nh cảnh báo của một đa số “đàn Anh” đến Mỹ năm 1975… Trong khi đó không biết bao nhiêu bạn bè thân thiết của tôi thân bại danh liệt, tán gia bại sản v́ cái danh vị và quyền lợi nhất thời này… lẽ nhiên tôi không dám nói tới những “Anh Hùng” thực sự có hùng tâm với đất nước nhưng thiểu trí đă thực sự tin tưởng và dấn thân trong “Mặt Trận Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh” những mong quang phục nước nhà… Tôi thành kính phân ưu! Xét cho cùng ai gạt ai và ai bị gạt...? Hạ hồi phân giải.
.Lần Thứ Mấy Rồi Hỡi Em?
Rồi chuyện bút nghiên nhắm mắt qua cầu cũng xong cùng lúc với Phạm Quảng Thành và Dương Hiển Ṭng. Đúng như lời Dương Hiển Ṭng đă nói: ”Học không bổ bề dọc cũng bổ bề ngang”. Ra trường có việc làm như ai, lai rai kiếm tiền bắt đầu gửi trả báo đền những ân t́nh với ân nhân ngày trước. Thời gian cuối 1984 đầu 1985 là thời gian “an cư lạc nghiệp” của tôi: đi làm chỉ mong cuối tuần để gặp Nguyễn Như Lâm, Lạc Minh Châu, Nguyễn Hữu Cầu, Mai Vĩnh Phu, Đỗ Đức Thắng...không Washington DC th́ Maryland, không Philadelphia th́ NewYork... Mong đầu tháng hay giữa tháng lănh cái check chạy vội ra tiệm vải của người VN mua một thùng trị giá 200 dollars cho vợ con, một thùng 200 dollars cho Cha Mẹ, chỉ biết trả tiền hàng hoá do tiệm đóng thùng gởi về VN với hoá đơn đàng hoàng, trên đường lái xe về nhà ḷng thơi thới hân hoan vui sướng v́ nghĩ Cha Mẹ, vợ con sẽ mừng rỡ khui thùng hàng nhận được quà là những xấp vải, mấy cái quần Jean Levis thứ thiệt, mấy hũ thuốc trị bịnh phổi cho Cha, chỉ thiếu trầu cau cho Mẹ nữa thôi…!!! Tôi biết Mẹ chỉ cần tin tôi đă thật sự thoát ra khỏi địa ngục VC và đang sống trên thiên đàng tự do Mỹ quốc là Bà mừng vui không có niềm vui nào hơn thế nữa ...!!! Một hôm tôi nhận được thư vợ: “Anh à, em nói anh đừng nổi nóng nghe! Anh xem lại, anh nói thùng quà trị giá $200USD mà thật ra chỉ trị giá khoảng $50 mà thôi…v́ hàng “dzơm” không hà! Ba Má nhờ em thanh toán dùm, có bao nhiêu em giao lại cho Ba Má bấy nhiêu, bây giờ em lại mang tiếng là: “con dâu ăn chận”…”!
Tôi chửi thề: ”mẹ kiếp lại bị gạt”…!!! Cái này th́ ai gạt ai đây? Thằng chủ tiệm vải hay vợ tôi trong vụ mánh mung này? Tôi mang mấy chục cái hóa đơn ra hỏi thằng chủ tiệm vải th́ nó chứng minh rành mạch rơ ràng: “…theo đơn đặc hàng... 100$ là như thế này, 200$ là như thế này và 500$ là như thế này... giá cả ở Mỹ là thế này, c̣n cái giá ở VN làm sao tôi biết được” ? Tôi quíu lưỡi! Đi thưa kiện nó à? Con kiến đi kiện củ khoai đành ngậm bồ ḥn lủi thủi về nhà ḷng buồn rười rượi!.. Cũng may bên cạnh c̣n có Trần Thị Thanh Hà người vợ chưa bao giờ cưới mới vừa “kư giao kèo” sống chung, sống vui, sống không càm ràm với tôi khoảng một năm nay... gọi cho chị Mai vợ Nguyễn Như Lâm tâm sự “khúc nôi” được chị cho biết: ”Trời ơi,… Tôi biết thằng khốn nạn đó mà, nhiều người bị nó gạt 1001 kiểu, không kiểu nào giống kiểu nào…? Ông Út bị nó gạt là phải rồi, nói với ông Út đừng gửi theo kiểu thùng quà nữa mà gửi xe Honda Cup chắc ăn và có lời hơn…”.
Xe Cup hay Cub ǵ đó ông cố nội tôi cũng không biết là cái giống ǵ, giá cả $1225USD? Khi người nhận ở VN chiếc xe này trị giá khoảng từ 5 đến 7 cây vàng... lời chán. Tôi bỏ cái vụ thùng quà, gom góp tiền dành dụm được ba tháng đem “nộp mạng” (?) cho một văn pḥng đại diện hảng Honda Nhật Bản vùng Maryland, giấy tờ kư xong xuôi tổng cộng hóa đơn là $1287USD. Trong ṿng một tháng hàng sẽ chuyển từ Nhật về đến VN, như vậy gia đ́nh tôi sẽ có ít nhất là 5 cây. “Vợ nhỏ” đánh điện tín cho “vợ lớn” báo tin và nhắn: “Chị nhớ lời anh Út dặn: khi nhận được xe trao đổi có tiền phải đi t́m mua ngay cái kiềng vàng cho Má, đó là cái kiềng vàng đính hôn của Má, mà Má đă cho Anh Út để đóng tiền vượt biên...”.
Chờ một rồi hai ba tháng chẳng thấy tin từc ǵ, “vợ lớn” ở Sài G̣n đi vay nợ sống lất lây qua ngày tháng để chờ cái chiếc xe mắc dịch này tới bến và chắc có lẽ cái tàu chở chiếc xe Cub của tôi bị ch́m mẹ nó ở biển khơi hay bị hải tặc cướp mất rồi…! Lại mất toi hơn ngàn bạc bằng mồ hôi nước mắt của ḿnh đem giao cho bọn gian thương lường gạt. Tôi đến văn pḥng đại diện của hảng Honda hỏi sự t́nh và được biết “Văn Pḥng” đă đóng cửa, không ai biết “nó” đă đi về đâu?! Thật là thiệt tḥi mà! Không có cái ngu nào giống cái ngu nào! Tôi “bị” ngu đủ kiểu biết trách ai bây giờ…?! Cho nên tương lai c̣n bị gạt dài dài…! Ḿnh ngu và đần th́ cứ nhận là ngu như… như vậy! Lần ngu và bị gạt này gây tai hại tinh thần cho gia đ́nh tôi c̣n nặng nề hơn gắp trăm lần cái ngu và bị gạt mấy lần trước…! Sự ngờ vực và nghi kỵ lẫn nhau trong thân tộc nội ngoại ở VN cũng chỉ v́ đồng dollar của “khúc ruột ngàn dặm” mà tan vỡ thành từng mănh vụn…! Bao nhiêu giấy mực để có thể phát họa một bức tranh cho con cháu ḿnh hiểu được sự băng hoại của một xă hội không c̣n nhân luân cương thường chỉ v́ đồng tiền mà nên nông nỗi: Cha Mẹ chồng nh́n con dâu với bao nỗi ngờ vực, chị em dâu vay qua mượn lại không ṣng phẳng để anh em cơm ai nấy ăn, nhà ai nấy ở, có gặp nhau cũng ơ thờ nhạt như bát nước ốc… ! Cha Mẹ mong đợi tin tức của tôi, cả nhà reo vui như chợ tết mỗi khi nhận được điện tín của thằng Sáu, nhưng bên cạnh lại có những giọt lệ tủi thân âm thầm v́ kẻ có người không, kẻ nhiều người ít cũng chỉ v́ cái “xe Cup” không bao giờ cập bến để người nhận chờ hoài đi vay tiền trả lăi xài trước, rồi mang nợ… Vậy th́ ai gạt ai đây? Gạt có hệ thống, gạt giây chuyền hàng dọc, hàng ngang, nhưng khổ nỗi v́ thống khổ biết bị gạt mà lau những giọt lệ chấp nhận bị gạt như hằng vạn cô gái thanh xuân từ những thôn vườn rời bỏ Mẹ Cha, Anh Em làng xóm hân hoan lên máy bay chấp nhận kiếp sống của “nàng Kiều” trước mắt là một khoảng trời vô định, hạnh phúc ở tận chân mây…!
Vào cuối năm 1984... Một hôm cánh tay trái của tôi bổng đau buốt tê rần, vài ngày đầu cứ tưởng trái gió trở trời nên vậy, uống thuốc Advil không bớt nên phải đi bác sĩ khám bệnh. Bác sĩ là một người bạn không thân nhưng quen biết rất nhiều, anh ta là một BS/ TQLC (PNV) vừa mới tốt nghiệp và mở pḥng mạch tư ở FairFax, VA. Chồng làm BS, vợ tính tiền, không hiểu sao hể cái ǵ nói đến tiền là dính ngay đến cái vụ gạt! Check in... bà ta hỏi tôi:
- Anh có bảo hiểm sức khỏe không?
- Dạ có,... hai cái lận, một là American Express hai là Blue Cross - Blue Shield...
- Tốt... tốt lắm!
Bước vào pḥng khám bệnh, chờ khoảng 10 phút th́ hắn bước vào bắt tay hỏi lia chia chuyện bá vơ rồi bắt đầu hỏi bệnh. Nắn bóp tay chân trái, rồi gắn mấy cái cục cao su vào ngực tôi với giây nhợ ḷng tḥng (EKG) trong có vẽ là một pḥng khám bệnh “hại điện” rồi hắn bắt đầu mở máy “nổ” giải thích bệnh trạng của tôi với nửa tiếng Việt nửa tiếng Anh với âm điệu Khờme nghe điếc con rái…!!! Và với một hũ thuốc Tylenon về nhà, tay vẫn c̣n y nguyên đau nhức dữ dội! Tôi phải xin nghĩ việc vài hôm rồi gắng đi làm trở lại, v́ gắng quá sức nên một hôm tôi phải vào bệnh viện cấp cứu v́ cánh tay trái không c̣n cử động được nữa! Vào bệnh viện FairFax. được Bác Sĩ Mỹ chẩn bệnh xong, Ông kư rẹt rẹt năm ba tờ giấy ǵ đó, hai tiếng đồng hồ sau y tá đẩy giường bệnh của tôi đi làm Scan Xray đốt xương sống C7. Tôi vào pḥng mổ sáng ngày hôm sau. Cuối cùng mọi sự an toàn và tôi trở lại làm việc b́nh thường một tuần sau đó.
Một tháng sau nhận được cái bill $3897 USD từ Blue Cross Blue Sield đă thanh toán cho văn pḥng thằng “bác sĩ” PNV miệt vườn ăn lường nói gạt, (không phải của Bệnh Viện Mỹ) lại thêm một cái bill tôi phải trả riêng cho “nó” thêm $450USD. Tức cành hông, tôi ngây thơ gọi điện thoại gọi cho văn pḥng “bác sĩ” PNV khiếu nại và được vợ “nó” trả lời: “ Vâng thưa Ông,... Đúng đó là chi phí cho lần khám bệnh của Ông vừa rồi”. Mẹ kiếp “nó” chỉ có rờ tay rờ chân, làm cái test EKG mà gần 5000 dollars mất không tới 15 phút, Tôi tức giận gọi điện thoại cho văn pḥng Bác Sĩ Louis check lại và được trả lời:
- Vâng thưa Ông,... ca mổ của Ông đă được thanh toán tốt đẹp. Không có ǵ Ông phải quan tâm.
Bác Sĩ Việt Nam như tên PNV trị bệnh, tiền mất tật vẫn mang!
Bác Sĩ Mỹ... Tiền chưa mất đă hết bệnh …!!!
Trong văn hóa Việt Nam, Cụ Trương Vĩnh Kư có viết: “Người Việt Nam ta cái ǵ cũng cười...”!!! Nếu bây giờ Cụ sống lại chắc có lẽ Cụ phải sửa lại là: ”Người Việt Nam ta ngày nay cái ǵ cũng gạt cũng lừa...”! Từ một tên tiểu thương bán vải quần áo, đến một “đại gia” với những công ty liên hành tinh, đến một “bác sĩ” cũng gạt người...! Vậy th́: Luật Sư, Trí Thức, Khoa Bảng, Công Hầu KhanhTướng, Đảng Phái, Đảng Bè, Chính Khách, Chính Phủ: Đào Minh Quân, Nguyễn Hữu Chánh, Lê Minh Đảo, Nguyễn Xuân Vinh, Nguyễn Ngọc Bích, hai ba cái Cộng Đồng NVQG vũ trụ... liệu có gạt người hay lại bị gạt hay không? Cho nên tôi bị gạt cũng chỉ là lẽ b́nh thường và rất thường…!!! Mỗi lầm lỡ là thêm lần đau khổ! Biết vậy làm sao và làm thế nào khi trí khôn của “người” có giới hạn… Ngoài thế giới rộng lớn kia có biết bao nhiêu “Đại Nhân” với “Đại Trí” là “Yếu Nhân Đối Trọng” vẫn bị tang thương bi thảm v́ bị gạt đến nước mất nhà tan…! Khi cần chống và ngăn chận khối Cộng Sản phát động cuộc cách mạng như làn sóng đỏ đang bành trướng trên thế giới…”Ngựi Mỹ” đă “chọn” Việt Nam làm chiến trường để “Gạt” và phân hoá Nga - Tàu, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm là nhân tuyển được “Thế” của Mỹ đưa về Việt Nam rồi tạo “Lực” thành lập Chính Phủ nền Đệ Nhất Cộng Hoà để thi hành kế sách đă được hoạch định. Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm bị thảm sát! Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu với nền Đệ Nhị Cộng Hoà là giai đoạn tiếp nối. Hồ Chí Minh với Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Bắc Việt đă “năng nổ” tận sức lực xua hằng triệu thanh niên “sinh Bắc tử Nam” đă “Giúp” cho “Uncle Sam” mau chóng thu hoạch thành quả trước thời gian qui định và cuộc “Bàn Giao” miền Nam cho “Khối Cộng Sản” qua tay Bắc Việt đă thực hiện đúng theo qui tŕnh bài bản và cuộc tháo chạy có dự mưu thành công mỹ măn, “trang sử Việt Nam đă được giỡ qua”, Kissinger lẻo mép: ”nước Mỹ c̣n nợ Việt Nam một cơ hội thịnh vượng” và “ sao chúng không chết ngay cho rồi” …! Hollywood Part 2: Thắng thế, được đà… Con “gấu Nga” được “Nữ Thần Tự Do” tiếp móng vuốt sắc bén hung hăng cắn xé từng mảng từ Nam Mỹ Châu đến Trung Á chí cho đến Phi Châu… và sau những thực tế phũ phàng giấc mộng “Đại Nga” đă tan tành theo mây khói, Soviet Union đă ră ra từng mảnh co lại như miếng da lừa ! Thế giới Tây Phương bị gạt, Thiên Triều Roma bị gạt…! Nay con “sư tử Hán” cũng được “nhà đen” sau lưng “Nhà Trắng” gắn móng vuốt sắc bén nên “hùng cường” hồ hởi cúc cung vắt kiệt sức lao động rẻ tiền của con dân với nền “kỹ nghệ dân dụng” biến thành mật thành hoa, thành chỉ tệ, thành dollar… cống hiến cho “Nữ Thần” quơ đuốc chỉ nhà Bank “hảo lớ…hảo lớ” kư thác và đi hia bẩy dậm đưa “thuyền buồm” lấn chiếm biển Đông… Những diễn tiến chính trị có khác chi luật tắc và hệ nhân quả ở trường thiên thời gian và trớ trêu thay bánh xe sau đi vào vết xe trước… là định mệnh do “Nữ Thần Quơ Đuốc” chỉ đường chăng? Phúc và Hoạ thật không lường! Trên đỉnh cao của Kim Tự Tháp là điểm hội tụ của Trí Tuệ có thể phóng viễn kiến vào vũ trụ để t́m kiếm ǵ khi nhân loại tưởng là thật văn minh mà vẫn c̣n “ăn thịt” nhau, tân kỳ nhưng man rợ… các đấng giáo chủ đă “trăn trối” nhiều lời “chân lư” mà sao con người hôm nay như đang “mùa” khủng hoảng đức tin, mọi giá trị tốt đẹp xây dựng con người đang phải xét lại và bị thách đố trước phù hoa vật chất… c̣n phải có bao nhiêu cuộc cách mạng nữa để con Người sống hạnh phúc hài hoà với nhau…? Như vậy, cả thế giới nầy bị gạt… Th́ xá ǵ tôi bị gạt, nhỏ quá nhầm nḥ ǵ ba cái lẻ tẻ mà hèn mọn một đời người, thế giới nầy có lắm người đại trí, c̣n riêng tôi phải biết nói năng ǵ:
Chúng ta từ đâu đến cuộc đời nầy?
Như côn trùng hoang thiếu cánh…!
Bưới móc kiếm ăn trong niềm vinh, nỗi nhục!
T́m được ǵ năm tháng rớt quanh đây?
Buổi chiều nh́n nắng vàng qua cửa
Phút thanh xuân thoáng đă tà huy.
(TGĐ)
Tôi tự nhủ thầm: ”Kệ mẹ, ai nói chi th́ nói, ḿnh cứ để cho bị gạt... chỉ mong được nhảy ra khỏi đáy giếng không c̣n là con ếch nữa mà trở thành con ǵ cũng được, miễn sao không là “ếch ngồi đáy giếng là được”... Cái “ngu” triệt để của tôi là ở chỗ đó có khác người không? Đáng tiếc!
.Trương Văn Út (MũĐỏÚtbạchlan)
hoanglan22
12-30-2018, 03:37
Không biết các bác nhớ cái này không ??? Một thời để yêu và một thời để nhớ http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1321017&stc=1&d=1546141024
Đôla Trăm
12-30-2018, 06:26
Trong văn hóa Việt Nam, Cụ Trương Vĩnh Kư có viết: “Người Việt Nam ta cái ǵ cũng cười...”
Nếu ḿnh nhớ không lầm th́ câu này của cụ Nguyễn Văn Vĩnh th́ phải .
Không biết các bác nhớ cái này không ??? Một thời để yêu và một thời để nhớ http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1321017&stc=1&d=1546141024
:eek: Một thời để nhớ ....
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1321077&stc=1&d=1546150733http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1321078&stc=1&d=1546150733http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1321080&stc=1&d=1546150733http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1321081&stc=1&d=1546150733
hoanglan22
12-30-2018, 13:36
Trong văn hóa Việt Nam, Cụ Trương Vĩnh Kư có viết: “Người Việt Nam ta cái ǵ cũng cười...”
[QUOTE=Đôla Trăm;3569545]Nếu ḿnh nhớ không lầm th́ câu này của cụ Nguyễn Văn Vĩnh th́ phải .
Đúng rồi ông bạn ...Học giả Nguyễn Văn Vĩnh từng viết bài nghị luận “Xét tật ḿnh” đăng trong Đông Dương tạp chí trong đó có phần nói về cái tật “Ǵ cũng cười”: “An Nam ta có một thói lạ là ǵ cũng cười. Người ta khen cũng cười, chê cũng cười ....
laongoandong
12-30-2018, 22:44
Bà mẹ nó, đang đọc lại nghe mùi thum thủm. Ông ước ǵ có nó bên cạnh, sẽ ngọt nào rút chốt trái cà na M67 rồi nhét vào cái mỏm thúi của nó. Chuyện ǵ sẽ xảy nhỉ? hehehehehehehe .....
Lăo hửu đừng cho nó ăn trái cà na th́ nó chết nhanh và sường. Nó chết th́ nó banh cái xác thối cho bọn ḿnh ngửi à. Ngày xưa lăo nạp để cho bọn tù ch́nh qui trong trại giam Phú quốc khi vượt rào trốn trại bị ḿn ở hàng rào vào ban đêm. Lăo ra lệnh chờ tới sáng mới lôi nó ra khỏi hàng rào thay v́ cứu ngay chúng sẽ ưu tiên được chiếc C130 chuyển về saigon. Để chúng một đêm cho biết mùi đau khổ và làm gương cho bọn khác có ư định trốn trại
laongoandong
12-30-2018, 23:32
Tao dốt, nhưng rất ghét lũ nào nói tào lao xích đế, nên phải "mở miệng" để cho thế hệ sau không bị "tuyên truyền" 1 chiều cái đần độn, cái ngu ngốc, cái bất lực của 1 chế độ chỉ biết tranh giành quyên lực với nhau, khi đất nước có chuyện th́ thằng nào thằng nấy chạy đến quên mặc.... xà lỏn...
Với tao, sự thất bại, cái sự cố đào ngũ trước địch quân của lũ ba-que là 1 nỗi ô nhục vạn kiếp. Thế hệ sau phải hiểu rơ điều đó nên không thể "vinh danh" những sự hèn mạt, những cái không có. "Sai chỗ nào phải biết đứng lên chỗ đó"... Dẹp đi lối sống trong "mộng tưởng"... Những.. lối NẾU MÀ...những TẠI.. những BỊ....
Đă nhận là dốt th́ rất đúng v́ khỉ trường sơn có ăn học bao giờ, ăn nói thô tục của những tên cặn bả của xă hội chù nghĩa. Cai câu nói tào lao xích đế, tuyên truyền đần độn ngu ngốc là tự nói về cái chế độ VN hiện tại, tranh giành quyền lực, bao nhiêu củi bị thằng trọng lú đốt vẩn chưa hết. Đừng nói ngu xuẩn vơ đủa cả nắm, ai cũng đào ngũ. V́ theo lệnh phải rút vê nam chứ nếu không th́ bọn khỉ trường sơn sẽ chết như năm 1968. Bao nhiêu chiến sỉ ở lại sau 30/4 để nh́n thấy bầy khỉ đói vào miền nam cướp của vơ vét chở bao nhiêu của cải miền nam về bắc. Bao nhiêu đưa ngỡ ngàng mới biết ḿnh bị lừa. rồi dân miền nam bị lột hết tài sản. Sau 43 năm bây giờ ai cũng nhận ra bộ mặt thật của CS thế mà vẩn c̣n có kẻ đần độn vẩn c̣n tin vào giáo điều của cái xác phơi thây ở nhà xí ba đ́nh. Đừng có mộng tưởng là thắng ..và đừng có nghĩ ai cũng đào ngũ. Không phải là dân VN nên không biết cờ vàng ba sọc đỏ là ǵ chỉ biết cờ máu "tháng" thôi. Sau 30/4 nhiều giai thọai kể về những bộ đội ngố vào nam tưởng đă hết rồi sao bây giờ c̣n sót lại một đại ngố thời hiện đại
cha12 ba
12-31-2018, 05:40
http://www.inewyearwishes.c om/images/new-year-gifs/happy-new-year-gif.gif
wonderful
12-31-2018, 14:07
Wonderful xin chúc các bạn lính QLVNCH của ḿnh và các người yêu và là vợ của lính cùng gia đ́nh một năm mới đong đầy niềm vui, an lành hạnh phúc và sức khỏe thịnh vượng.Và các ACE trong forum nầy Một năm rất tuyệt vời, Chúc mừng năm mới 2019
San Jose 31 December 2018
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1321728&d=1546265217http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1321729&d=1546265663
hoanglan22
12-31-2018, 15:09
Năm 1984 sau 3 năm cày bừa vất vả nơi xứ người, tôi mua chiếc xe hơi mới đi cho sướng, coi cái bàn tọa nó êm tới cỡ nào. Bạn bè cứ khuyên tôi hăy lấy tiền đó trả bớt tiền nợ mua nhà mà ḿnh vay của ngân hàng. Nó sẽ giảm tiền lời ḿnh phải trả hàng tháng cho họ nhiều lắm. Tôi để ngoài tai, hưởng thụ trước đă!
Tôi đăng báo bán cái xe cũ vẫn c̣n rất tốt đă theo tôi cày cuốc bấy lâu nay. Người khách đầu tiên điện thoại cho tôi đến nhà coi xe là anh Bắc kỳ 75. Trông anh có vẻ đẹp trai, ăn nói lễ độ. Điều làm tôi ngạc nhiên là làm sao anh có mặt trên xứ sở Úc châu này? Tôi không dám hỏi, chỉ lẳng lặng quan sát anh.
Anh đi một ṿng coi xe rồi nói: anh ơi! Em mới qua được dăm (vài) tháng, cần xe đi làm, em không biết coi máy, em nghĩ anh là người Bắc năm tư (54) nên em tin anh. Em không giả (trả) giá, nếu anh "đảm bảo" máy tốt em sẽ chồng tiền mặt lấy xe ngay.
Tôi nói đùa cố ư chọc anh chút cho bơ ghét: nhà cụ cứ nhắm mắt vào mà mua, nhà em cưỡi nó mấy năm nay rồi, tốt lắm. Cơ khí đảm bảo, chất lượng cao, không khi nào bị đột xuất nằm đường. Mua về, nhà cụ không phải tốn tiền bảo quản thêm, cứ việc xử lư vô tư...ư ...ư... Hơn nữa nhà cụ làm sao kiếm ra cái xe hoành tráng mà giá cực kỳ rẻ như xe này của nhà em được cơ chứ ???
Anh hiền từ nh́n tôi cười thoải mái, đồng ư mua ngay. Tôi mời anh vào nhà làm giấy tờ sang tên. Anh năn nỉ tôi đi với anh ra nha lộ vận v́ anh không biết tiếng Anh. Tánh tôi hay thương người (cha mẹ "dzợ" tôi đông lắm chứ không chỉ có 2) nên tôi đồng ư.
Công việc xong xuôi, anh mời tôi đi ăn phở. Thấy anh ăn mặc đúng là người mới tới Úc, tôi không nỡ "ăn" tiền của anh bèn mời anh về nhà tôi uống cà phê.
Anh cho tôi biết cái xe của tôi là cái thứ 10 anh đi coi v́ thấy giá rẻ. Anh mới nh́n xe của tôi là anh "kết" rồi. Đẹp, sạch sẽ từ trong ra ngoài. Cái điều làm anh mua ngay là lối nói chuyện của tôi, có vẻ không tha thiết để bán cho bằng được như những người kia. Điều đó làm anh tin tưởng xe c̣n tốt.
Nghe anh nói tôi mới biết anh cũng thuộc loại dân buôn bán thứ thiệt khiến tôi càng ṭ ṃ đời tư anh nhiều hơn. Qua cách nói chuyện của anh, tôi biết anh muốn làm thân với tôi. Tự nhiên anh khai ra cuộc sống của gia đ́nh anh trước.
Anh là dân Ḥn Gai tỉnh Quảng Ninh ngoài Bắc. Năm 1974 tới tuổi đi lính, anh phải gia nhập bộ đội. Đầu năm sau đơn vị anh được điều động vào Nam "giải phóng" cuộc sống "lầm than đói rách" của nhân dân đang bị "Mỹ Ngụy" kềm kẹp 20 năm nay!!! Câu này đứa bé con 6 tuổi ở làng anh vào lớp 1, đă phải học thuộc ḷng ....
Trong bộ đội các chính trị viên lên lớp luôn nói rằng dân miền Nam không có cái bát ăn cơm, phải ăn bằng gáo dừa. Dép không có mà đi. Con cái sanh ra không được đi học. Lớn lên thành ăn trộm, ăn cắp, đĩ điếm. Lính "Mỹ Ngụy" đi tới đâu là hiếp dâm đàn bà con gái tới đó. C̣n "thằng Diệm" "nó" lê máy chém khắp miền Nam...v...v...
Anh thầm nghĩ, cuộc sống ngoài Bắc này đă cực khổ lâu nay, chỉ mong cho quân đội miền Nam ra giải phóng miền Bắc. Bây giờ trong đó họ c̣n khổ hơn ḿnh nữa th́ c̣n trông mong ǵ... Năm trước B52 oanh tạc miền Bắc, mọi người đang mong cho Đảng đầu hàng để đổi đời. Đùng một cái Mỹ ngưng ngang, tức muốn chết. Chỉ cần oanh tạc thêm vài ngày nữa thôi là Đảng hả họng rồi!
Anh vượt đường Trường sơn với tâm trạng chán chường. Từ giă cha mẹ trong nước mắt vắn dài, khóc thương cho sự chia ly, cằm chắc cái chết trước mắt. Quê anh bao nhiêu thanh niên "hồ hởi phấn khởi" theo lời Bác vào Nam, giờ này cũng chưa thấy ai có tin tức ǵ!
Lội suối băng rừng ngày đêm anh sợ sệt, hồi hộp, chim teo hết, chứ không "hân hoan" như cái loa phóng thanh treo trước nhà anh, ngày đêm ra rả một luận điệu giống nhau. Sau này anh mới biết, v́ cuộc chiến gần tàn, Mỹ đă rút nên trên đường vào Nam anh không được hân hạnh thưởng thức mùi bom của B52.
Sáng 30/4/75 đơn vị anh được lệnh sửa soạn cấp tốc tiến vào Saigon th́ đơn vị mở "đài" cho mọi người nghe "cái tên" Tổng thống miền Nam Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng. Anh mừng đến chảy nước mắt, ôm bạn bè nhảy múa ăn mừng. Anh thầm cám ơn tổ tiên đă cho anh c̣n sống sót.
Chỉ cần một tháng sau anh đă thực sự "mở mắt". Những lời Bác, Đảng nói với anh khi xưa đều ngược lại. Thành phố Saigon bây giờ dù c̣n đang bầy hầy, ngổn ngang sau ngày dân đua nhau t́m đường chạy ra nước ngoài, trông vẫn c̣n sự sang trọng, "phồn vinh thật" chứ không "giả tạo. Họ vội vă ra đi với hai bàn tay trắng giống như năm 54, bỏ lại tất cả nhà cửa, tài sản. Dân Saigon ăn nói hiền ḥa, dễ thương. Tầm hiểu biết của họ vượt ngoài sự tưởng tượng của anh bấy lâu nay.
Anh không hiểu nổi tại sao bộ đội của anh làm ngơ cho cái đám nhố nhăng mặt mày bậm trợn, đeo băng đỏ vào cánh tay quậy tung đường phố. Lần đầu tiên trong đời anh mới thấy cái TV, tủ lạnh, nhất là cái đồng hồ đeo tay có cửa sổ lại không người lái (đồng hồ tự động có ngày). Cái ǵ cũng lạ với anh kể cả cách ăn mặc của dân miền Nam, trông hấp dẫn đẹp mắt vô cùng. Anh bắt đầu hoang mang, chán nản, hết c̣n tin tưởng những lời được Đảng nhồi nhét trong đầu anh, từ ngày anh có trí khôn. Chỉ toàn lừa dối, láo khoét!
Trong những lần học tập chính trị , giảng viên có lên lớp nói với anh: " Nói láo là một việc xấu, nhưng nói láo cho Bác và Đảng th́ không sao..."
Anh thèm muốn , mơ ước có được những đồ đạc tiện nghi vật chất ở Saigon này mà trong túi lại không có tiền. Anh bắt đầu ŕnh ṃ ăn cắp bất cứ cái ǵ trong trại lính của anh đem bán. Các cơ quan của "Mỹ ngụy" mà đơn vị anh vào tiếp quản đầy dăy đồ đạc, cái ǵ cũng lạ mắt, anh chưa từng thấy bao giờ. Để kín anh ŕnh, để hở anh rinh. Ngày anh có tiền mua được cái "đài con" anh sung sướng ôm ấp nó suốt ngày.
Mấy năm sau anh t́m đủ mọi cách để xin "phục viên" làm dân thường, kiếm đường đi buôn lậu. Anh vào Nam mua radio đồng hồ, quạt máy đem ra Bắc bán, mua 1 bán 10 , tiền vào đầy túi.
Thời gian đi buôn, anh thấy phong trào vượt biên trong Nam rầm rộ quá nên anh cũng tính đường bỏ Bác Đảng để ôm chân "đế quốc" Mỹ cho nó ấm thân. Anh không biết xă hội Tây phương nó sướng cỡ nào nhưng anh thấy cái "gương" đời sống tại Saigon, anh biết chắc nó hơn xa "Xă Hội Chủ Nghĩa".
Năm 1980 anh ra sức móc nối với bạn bè tổ chức ra đi bằng "thuyền buồm". Anh đem theo vợ với 2 con. Ghe căng buồm ra khơi, chạy dọc theo bờ biển từ quê anh qua Hongkong. Hễ hết nước, lương thực, anh lại ghé vào đất Trung cộng mua. Lênh đênh hơn 3 tháng mới tới nơi. Tại trại tị nạn anh lại biết thêm một điều: người dân miền Bắc từ bỏ cái "thiên đường XHCN" như anh rất nhiều. Anh ở trại tỵ nạn gần 3 năm th́ được phái đoàn Úc chấp nhận cho đi định cư .
Tới Sydney anh ở tại khu Marrickville gần trung tâm thành phố. Đa số dân tỵ nạn gốc Bắc 75 quây quần sống trong khu này. Họ sống khép kín , không giao tiếp rộng. Vấn đề an sinh xă hội của Úc thời đó lỏng lẻo nên họ toàn lănh tiền phụ cấp thất nghiệp, đi làm lậu. Có người c̣n khai 2, 3 tên khác nhau lănh tiền, chính phủ chẳng hay biết v́ Úc không có giấy tờ dán h́nh.
Tôi hỏi anh nghĩ thế nào về ông Hồ. Anh cười: em luôn cám ơn Bác. Không có Bác làm sao em được sống sung sướng ở "nước ngoài" như vầy chứ! Em đang theo chân Bác cũng t́m đường "kíu nước" đây.....!
Từ đó về sau anh kết thân với tôi. Thỉnh thoảng anh đem bánh cuốn làm bằng nồi hơi với chả mực cho tôi. Ăn rất ngon. Bố mẹ anh chỉ cho anh nghề này. Bây giờ anh làm, bán "chui" cho bạn bè quen biết nên cũng dư tiền đi chợ.
Gia đ́nh anh có 1 vợ 2 con, chính phủ cho tiền trợ cấp c̣n nhiều hơn anh đi làm. Anh cứ tà tà ăn tiền chính phủ, hai vợ chồng lănh quần áo về nhà may lậu, lấy tiền mặt, không khai thuế. Tôi phải công nhận những người sống ngoài Bắc họ chịu cày thật. Có lẽ cái khẩu hiệu "cày ngày không đủ tranh thủ cày đêm" nó đeo dính trước ngực họ rồi...
Vợ chồng anh làm nhiều, ăn tiêu rất cần kiệm, không đi chơi đâu. Sáng tinh mơ hai vợ chồng ngồi vào bàn máy may. Trưa ăn tạm tô ḿ gói rồi làm tiếp tới tối . Bữa cơm chiều ăn qua loa , tiếp tục làm tới hơn nửa đêm mới nghỉ . Coi như mỗi ngày anh chỉ ngủ chừng 4 tiếng thôi. Thế mà anh cũng có th́ giờ "h́ hục đục đẽo" ra thêm cái "hĩm" nữa, tất cả nhà anh có 3 "con cua", con cua lớn nữa là 4. Anh rất muốn vợ anh sinh cho anh thằng Cu nối dơi tông đường. Dụ ngọt măi chị mới có bầu, anh mừng "hết lớn", hy vọng kỳ này có con Chim. Ai ngờ chị lại phọt ra cái Bướm. Anh chán quá, bèn cho chị nghỉ khỏe 3 tháng là anh ḥ hét chị tiếp tục ngồi bàn máy may trở lại. Anh thuộc dân "bộ đội" ít học, trước mỗi câu nói anh phải xổ nho Đ.M, anh mới ăn cơm ngon. Vợ anh nghe riết, quen tai đâm ghiền...
Hơn 3 năm sau anh mua nhà trả tiền mặt làm tôi ngạc nhiên , phục anh sát đất. Coi như mỗi năm anh kiếm hơn 100 ngàn, trong khi công nhân cu li một năm có 20 ngàn thôi ! Anh mời tôi ăn tân gia. Tôi tưởng anh mời bạn bè đông, cốt để khoe khoang v́ 10 thằng Bắc kỳ hết 9 thằng nổ, nên tôi ăn mặc chỉnh tề (sợ dân nổ họ chê ḿnh nghèo). Tới nơi tôi mới biết chỉ có vợ chồng tôi thôi. Th́ ra anh là 1 thằng Bắc kỳ c̣n lại không giống ai. Tôi càng mến anh hơn. Anh có trở ngại ǵ về giấy tờ hay đi đâu thông dịch dùm cho anh, tôi đều sốt sắng giúp đỡ .
Nửa năm sau anh tới nhờ tôi điền vào cái form của nhà thương đồng ư cho vợ anh mổ. Anh cho biết vợ anh có cục bướu to bằng nắm tay trong ngực. Bác sĩ nói đây là cuộc đại giải phẩu. Xẻ hết 1 bên hông, nâng nguyên cả cánh tay với mảng hông lên rồi mới lóc cục bướu đó ra. Trời c̣n thương chị. Chỉ 6 tháng sau, chị khỏe lại, hùng hục cày tiếp...
Cày cuốc thêm 1 năm nữa th́ tới phiên anh bệnh. Anh cứ hay ho khan về đêm. Bác sĩ cho đi chụp h́nh phổi mới ḷi ra anh bị ho lao. Tôi đi theo anh vô nhà thương. Khi làm giấy tờ nhập viện bác sĩ thắc mắc không biết tại sao anh bị bệnh này. Họ không nghĩ anh bị lây nhiễm. Họ cũng không nghĩ anh cày cuốc trong hăng nhiều quá sanh bệnh v́ từ khi tới Úc tới giờ hơn 5 năm, anh toàn lănh tiền thất nghiệp thôi. Họ hỏi anh có lo nghĩ ǵ không, có buồn bă điều ǵ khiến anh khó ngủ không ?
Anh phịa rằng anh nhớ cha nhớ mẹ, lo cho con cái ăn học, nên không ăn ngủ được. Bác sĩ nghe tôi thông dịch với phần phụ họa thêm tay chân mà họ cứ lắc đầu, vỗ về an ủi anh. Tôi cứ phải nín cười khi nh́n anh đóng kịch. Mặt anh buồn vời vợi, hai mắt xa xăm chỉ muốn khóc... cái đầu cứ lắc qua lắc lại , mồm chỉ phát ra câu độc nhất:
Vé ri bét... zu nâu...!!! (very bad , you know)
Họ cấp cho anh 6 tháng thuốc đem về nhà uống và hẹn ngày anh chụp h́nh tái khám. Mỗi ngày bác sĩ cho uống cả 15 viên thuốc đủ loại. Anh cứ uống 1 ngày nghỉ 1 ngày. Đem một nửa số thuốc được cấp, đóng thùng gởi về cho bố mẹ anh ở Ḥn gai . Vậy là anh chỉ uống có một nửa dose thôi, trong khi anh vẫn thức đêm thức hôm cày cấy... tưng bừng!
Ngày anh đi tái khám ,sau khi chụp lại h́nh phổi của anh , bác sĩ ṿ đầu bứt tóc không hiểu tại sao bệnh anh không thuyên giảm bao nhiêu. Họ hỏi anh tùm lum để t́m ra nguyên nhân. Thông dịch cho anh tôi cũng muốn khùng theo họ luôn. Cuối cùng họ nghĩ thế nào mà không cho anh đem thuốc về nhà nữa. Mỗi buổi sáng anh phải tới nhà thương uống thuốc trước mặt y tá. Bây giờ anh nhận đồ ít đi, làm sơ sơ, chờ khỏi bệnh tính sau, chỉ sợ ḷi ra anh may lậu th́ chết cả đám.
Trong lúc có th́ giờ nghỉ khỏe, anh nghĩ cách giả bộ ly dị vợ anh. Vợ anh giữ 2 con, anh giữ 1 đứa v́ bộ xă hội cấp tiền cho dân "single parent" nhiều lắm. Khi trước 2 vợ chồng "ṭ te" dưới một mái nhà được lănh hơn $500/1 tuần. Bây giờ tách ra "kèn" ai nấy thổi , mỗi người được lănh gần $450, nghĩa là thu nhập gần gấp đôi, chưa kể tiền may lậu. Vợ anh ở nhà trước, anh dọn ra ở khúc sau.
Anh phải uống thuốc thêm gần 9 tháng nữa mới thực sự khỏi bệnh. Anh bắt đầu xả hết ga may tiếp. Làm thêm 1 năm nữa, anh đi mua căn nhà thứ 2. Căn kia khi ly dị, anh sang tên cho vợ anh.
Tôi hỏi anh có biết ăn thất nghiệp là anh ăn tiền của người đi làm đóng thuế không? Anh nói tỉnh bơ: úi giời ơi, chúng em sống XHCN quen rồi. Cái khó nó bó cái khôn, mỡ tới mơm mèo ngu ǵ không đớp chứ. Cái ǵ đớp được cứ việc đớp, ḿnh không đớp th́ thằng khác cũng đớp thôi... Tôi hết ư kiến....
Bây giờ vợ anh ở 1 căn, anh ở 1 căn, vẫn tiếp tục may ngày may đêm. Qua năm sau tự nhiên anh thấy cứ ngồi may lâu là đau thốn vùng bụng, ăn no lại đau dữ dội hơn. Bác sĩ cho anh đi soi bụng mới ḷi ra anh bị loét bao tử, có thể bị ung thư. Anh phải vào nhà thương giải phẩu cắt phần loét đó đi, may nhỏ lại. Anh không c̣n ăn nhiều được nữa, mỗi bữa chưa được 1 chén cơm. Anh kiệt sức từ từ, chán quá anh bỏ nghề may luôn.
Vợ anh là người "hồ hởi" nhất, ngày ngày theo bạn bè cùng quê của chị đi chơi đó đây. Chị cũng đua đ̣i học nhảy đầm. Chị kêu anh đi học nhảy cho vui. Anh "Đ..ị..T" cho 1 hồi, nhất quyết không chịu lại c̣n cấm chị đi nữa.
Chị bỏ ngoài tai v́ chị đang say sưa hưởng thụ. Ly dị rồi chị đâu có care. Hơn nữa trong đám nhảy đầm có một chàng "sĩ quan Ngụy" hay mời chị nhảy, ăn nói có duyên làm ḷng chị cũng thổn thức. Trong khi chồng chị mở mồm là xổ nho ăn nói dùi đục mắm tôm c̣n chàng này nói năng từ tốn lịch sự nhẹ nhàng như ru hồn người... Chị cảm thấy ḿnh đẹp, hănh diện, hạnh phúc v́ có người đàn ông tôn trọng chị, tâng bốc, khen ngợi chị đủ điều.
Thực sự chị vẫn c̣n đẹp gái dù rằng chị đă qua 3 lần "rặn đẻ"...
Chị thỉnh thoảng gặp tôi nhờ tôi khuyên anh đừng xổ nho nữa, chịu khó theo chị đi nhảy đầm cho khỏe. Anh nhất định không nghe. Tôi hỏi măi anh mới nói: em có biết nghe nhạc đâu mà nhảy đầm với nhảy đ́a, chỉ nhảy "nái" thôi...
Anh không chịu nhảy th́ chị đi nhảy ḿnh ên. Tuy nhiên chị chỉ nhảy với chàng "sĩ quan Ngụy về chiều" nhưng rất lịch sự, hào hoa. C̣n anh buồn quá, lai rai may lại kiếm tí tiền c̣m, sống cho qua nỗi buồn mất vợ.
Lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy. Gịng máu XHCN của chị không c̣n nữa. Nó chuyển sang gịng máu tư bản từ khi chị quen chàng "Ngụy". Ḷng chị đă quên lời Đảng bắt phải hy sinh t́nh nhà, đặt t́nh yêu XHCN trên hết.
Tâm hồn chị đang hạnh phúc hưởng thụ mật ngọt của t́nh yêu lứa đôi đầy tính nhân bản của con người. Đêm đêm chị nằm trên giường một ḿnh, nhung nhớ h́nh bóng người thương mà tiếc cho cả cuộc đời chị, chỉ biết cày với cuốc...
Hai đứa con gái đầu của chị đă trưởng thành. Anh chị không ai để mắt tới tụi nó. Anh chị thuộc dân " i...tờ " chưa hết tiểu học, tŕnh độ đâu mà kềm cặp chuyện học hành của chúng. Anh chị chỉ cầu Trời cho chúng học hành tới nơi tới chốn mà thôi. Ông Trời lại phụ ḷng anh chị, chúng hưởng thụ nhiều hơn chị nữa, lại c̣n dám bỏ nhà theo trai, chơi chán mới ṃ về nhà.
Anh chị la rầy măi cũng chán, không thèm nói nữa. Anh bắt đầu chỉa mũi dùi qua la chị. Chị tức ḿnh cắt đứt đường tơ ḷng... tḥng với anh, chính thức xách Bướm XHCN của chị... theo tiếng gọi con tim... về nâng Chim "Ngụy".
Chị tâm sự với tôi bây giờ chị mới thực sự biết yêu, biết thế nào là hạnh phúc của t́nh yêu. Khi xưa chị căm thù thằng "Ngụy" bao nhiêu th́ bây giờ chị nâng niu, o bế con Chim "Ngụy... quá nửa chừng xuân" của chị bấy nhiêu. Chàng đi làm nuôi chị. Cuộc sống đạm bạc mà tràn đầy niềm yêu thương vợ chồng!
Mặc dù tôi thấy thương hại cho chồng chị nhưng ḷng tôi cũng thấy khoái v́ tôi cũng là "Ngụy". Sau ngày mất nước tôi bị những thằng bộ đội như chồng chị hành hạ nhục nhă trong trại cải tạo, đôi khi chỉ muốn chết cho xong. Bây giờ chứng kiến "t́nh Nam duyên Bắc" làm sao tôi không "đă" cho được...
Từ ngày "vợ anh cuốn chiếu theo trai" không lời giă từ, anh đâm ra "hận đời đen như mơm chó", tối ngày thơ thẩn như người mất hồn. Trong tay anh có 2 căn nhà , bán đi cũng hơn 1 triệu. Tất cả không c̣n ư nghĩa ǵ với anh hết .
Anh chẳng c̣n tha thiết chuyện ăn uống nữa, thân thể càng ngày càng yếu đi. Một năm sau anh kiệt lực, té xỉu khi đi shop. Xe ambulance chở anh vào nhà thương mới phát hiện ra anh bị ung thư thời kỳ cuối .
Tôi vào thăm anh. Nh́n anh nằm trên giường, gương mặt hốc hác mà tôi thấy tội nghiệp. Anh tâm sự với tôi rất nhiều. Anh nói vợ anh coi vậy mà sáng suốt hơn anh, biết t́m cái hạnh phúc cuối của cuộc đời. Tuy hơi muộn màng nhưng có chết chị cũng không hối tiếc như anh.
Cuộc đời anh cứ bị ám ảnh cái chân lư "lao động là vinh quang" của Bác, cứ lo cày bừa túi bụi, tới khi tàn hơi mới chực nhớ ra rằng ḿnh chưa có hưởng thụ được ǵ hết. Anh nói: ở ngoài Bắc cứ "lao động" không thôi th́ chỉ đủ cơm cà dưa muối, muốn có "vinh quang" th́ phải mánh mung. Dân XHCN 10 người, máu "mánh mung" hết cả mười...
Anh nhờ tôi khuyên vợ anh vào nhà thương cho anh được gặp mặt lần cuối. Con anh đă thông báo cho mẹ nó mà vẫn chưa thấy chị tới.
Tôi điện thoại cho chị lần thứ 3 mới nghe chị trả lời. Chị cho biết cái tổ "Bướm Bắc Chim Nam" của chị mới đi oversea về. Hôm qua nghe con chị nói anh bệnh là chàng "Ngụy" chở chị cấp tốc vào nhà thương thăm anh ngay. Kể từ hôm nay chàng "Ngụy" sẽ chở chị tới, để chị một ḿnh chơi với anh trong những ngày cuối đời. Khi nào muốn về chị cứ điện thoại cho chàng tới rước. Tuy nhiên chị ở chơi với anh tới tối, nhà thương không cho thăm nuôi nữa, chị mới về.
Sở dĩ chàng để chị đi một ḿnh v́ chàng không chịu được ánh mắt buồn tủi hối hận của người sắp đi vào cơi chết. Hơn nữa chàng cũng muốn gia đ́nh con cái chị t́m lại những giây phút đầm ấm cuối cùng!!!
Anh trăn trối nhờ chàng chăm sóc cho các con anh, cố đem lại t́nh thương cho chúng. Anh nh́n chàng cười buồn: khi xưa chúng ḿnh thấy nhau chắc có thằng chết rồi. Trốn Bác qua đây hai đứa ḿnh vẫn là địch thủ của nhau. Thắng trên chiến trường chẳng có ích ǵ, thắng trên t́nh trường mới quan trọng. Nói xong mắt anh rướm lệ .
Chàng "Ngụy" vỗ về anh: niềm đau mất nước đă qua đi theo ngày tháng, tôi không hận thù anh ǵ cả. Tôi đến với vợ anh v́ chị đă ly dị. Tôi mến tâm hồn mộc mạc đơn sơ của chị. Tôi xin lỗi anh...
Chị kể cho tôi nghe trong tiếng nấc nghẹn ngào. Có lẽ cuộc đời chị đều yêu thương cả hai người chăng???
Tôi chưa thấy mặt chàng "Ngụy" của chị ra sao. Chỉ nghe chị nói như thế tôi đă cảm phục tư cách, tính t́nh của chàng rồi. Nhà thương hỏi chị có muốn đưa anh về nhà chờ chết không ? Chị hỏi ư kiến chàng "Ngụy". Chàng đồng ư ngay, bèn đi làm thủ tục giấy tờ, đích thân chàng chở anh về nhà. Chàng vẫn tế nhị vắng mặt để gia đ́nh con cái chị quây quần bên anh. Tôi thỉnh thoảng tới thăm anh, nói bá láp cho anh cười .
Hai tuần sau, anh xuôi tay nhắm mắt... Chấm dứt một kiếp người gương mẫu XHCN, suốt đời chỉ nghĩ tới hai chữ: Mánh Mung
KHẢM rỗ
Lăo hửu đừng cho nó ăn trái cà na th́ nó chết nhanh và sường. Nó chết th́ nó banh cái xác thối cho bọn ḿnh ngửi à. Ngày xưa lăo nạp để cho bọn tù ch́nh qui trong trại giam Phú quốc khi vượt rào trốn trại bị ḿn ở hàng rào vào ban đêm. Lăo ra lệnh chờ tới sáng mới lôi nó ra khỏi hàng rào thay v́ cứu ngay chúng sẽ ưu tiên được chiếc C130 chuyển về saigon. Để chúng một đêm cho biết mùi đau khổ và làm gương cho bọn khác có ư định trốn trại
:hafppy::hafppy::haf ppy::hafppy:
luyenchuong3000
12-31-2018, 22:10
Chúc Mừng năm mớihttps://scontent.ftpa1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/49339610_57462844634 2474_314289957076205 568_n.jpg?_nc_cat=11 0&_nc_eui2=AeHw7KTwwu9 1O8-_rxkROn0591C5AiB0-7Tg1jMdtEAEU_69MKsop lbnNWVwfNTpKftrxAnmX 7TwV0sNu8cy9L1ZHSq0G fD0dlWA8pAaSHFLcg&_nc_ht=scontent.ftpa 1-1.fna&oh=9ddbe696d5528ba20 5f8fbe21f9960e9&oe=5CCA4773
(https://www.facebook.com/photo.php?fbid=57462 8443009141&set=gm.2763125267063 237&type=3&eid=ARA3mN4l3epXXTJ-K1KpeQj9rySmCniidT7U tEbVrxb42vmxjGesVDcp VyHdympMmjaI5az1aUw3 MqFV)
[/URL] (https://www.facebook.com/ufi/reaction/profile/browser/?ft_ent_identifier=Z mVlZGJhY2s6Mjc2MzEyN TI2NzA2MzIzNw%3D%3D&av=100002065992382)[URL="https://www.facebook.com/ufi/reaction/profile/browser/?ft_ent_identifier=Z mVlZGJhY2s6Mjc2MzEyN TI2NzA2MzIzNw%3D%3D&av=100002065992382"]
cha12 ba
01-01-2019, 00:22
Chúc Mừng năm mới
Bác LC3000 là BC nhảy dù????
luyenchuong3000
01-01-2019, 00:41
Bác LC3000 là BC nhảy dù????
khong phai .moi 37 thoi, may bat o tren. con phai goi cha chu khong do, .sorry ,chu khong dau ,mong may bat thong cam
nammoi vui ve :thankyou:12 ba
hoanglan22
01-01-2019, 14:42
Xin kính chúc các ACE một năm mới đầy vui vẻ
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1322249&stc=1&d=1546353727
laongoandong
01-02-2019, 00:09
Xin kính chúc các ACE một năm mới đầy vui vẻ
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1322249&stc=1&d=1546353727
Cám ơn hoanglan22 nhe. Xin chúc các quí huynh VBF imột năm mới nhiều niềm vui. Lăo nạp tuy cắm dùi từ năm 2007 nhưng ít khi vào v́ không biết có những bạn hiền như thế này. Nhờ hoanglan22 mở trang lính, laongoan này đọc và thấy có một cái ǵ gần gủi với các huynh đệ nên thích vào thường xuyên hơn. Tuy nhiên hoanglan22 đừng kéo lăo đi trực thăng v́ ngày xưa lăo nạp quen ở dưới đất để giử an ninh trật tự rồi. Những thằng nằm vùng, du kích trà trộn trong dân như kiểu mấy thằng daibac, lăo nạp đem đi thiến hết rồi, không hiểu sao c̣n sót lại thằng này. Dú sao cũng có nó để chúng ḿnh có dịp chửi cho đở tức v́ đă lâu bị ức chế không biết bung ra ở đâu
hoanglan22
01-02-2019, 02:54
Cám ơn hoanglan22 nhe. Xin chúc các quí huynh VBF imột năm mới nhiều niềm vui. Lăo nạp tuy cắm dùi từ năm 2007 nhưng ít khi vào v́ không biết có những bạn hiền như thế này. Nhờ hoanglan22 mở trang lính, laongoan này đọc và thấy có một cái ǵ gần gủi với các huynh đệ nên thích vào thường xuyên hơn. Tuy nhiên hoanglan22 đừng kéo lăo đi trực thăng v́ ngày xưa lăo nạp quen ở dưới đất để giử an ninh trật tự rồi. Những thằng nằm vùng, du kích trà trộn trong dân như kiểu mấy thằng daibac, lăo nạp đem đi thiến hết rồi, không hiểu sao c̣n sót lại thằng này. Dú sao cũng có nó để chúng ḿnh có dịp chửi cho đở tức v́ đă lâu bị ức chế không biết bung ra ở đâu
Tôi biết lăo từ lâu rồi , trong đây cũng c̣n mấy bạn hữu nữa thuộc Lữ đoàn 1 nhảy dù , vài bạn thuộc binh chủng TQLC , Cha 12 ba chắc GƠ MỌT ...CẰm CÂY AN TEN NẮN CHO THẲNG ...chắc cũng được khoảng 6 bà , ngày chủ nhật nghĩ xă hơi .,wonderful thuộc binh chủng nào th́ không biết , dola tram cũng vậy . Nhưng mấy cha này M̉ GÁI hay lắm , tán em nào là dính NGAY em đó . Cho nên bây giờ chắc cũng khổ .
Ngoài ra c̣n nhiều bạn hữu ở nhiều binh chủng trong forum này ...có lẽ ít lên tiếng
Chúc vui đến tất cả :handshake::handshak e::handshake:
hoanglan22
01-02-2019, 03:39
Cám ơn hoanglan22 nhe. Xin chúc các quí huynh VBF imột năm mới nhiều niềm vui. Lăo nạp tuy cắm dùi từ năm 2007 nhưng ít khi vào .....Tuy nhiên hoanglan22 đừng kéo lăo đi trực thăng v́ ngày xưa lăo nạp quen ở dưới đất để giử an ninh trật tự rồi. ...v́ đă lâu bị ức chế không biết bung ra ở đâu
Vậy th́ bà nhà sướng nhĩ ...có 2 XE JEEP giữ an ninh thằng nhỏ cứ tiến vào http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1322418&stc=1&d=1546400337
laongoandong
01-02-2019, 19:44
Originally Posted by hoanglan22 View Post
như cha 12 ba nói đă hết . Ông ấy thuộc dân Thủ đức , tính theo tuổi có lẽ ông ta ở khóa 18 -20 . Trước khi về Thủ đức phải qua Quang trung học huấn luyện căn bản quân sư , sau đó về Thủ đức học 38 tuần chia làm 2 gian đoạn theo tui nhớ mang máng
giai đoạn đầu học về cơ bản bộ binh học xử dụng các loại súng , học địa h́nh , học về bản đồ và những kiến thức đại cương về quân sự
Giai đoạn kế học về điều hành chỉ huy nguyên tắc căn bản chỉ huy trung đội trưởng ngoài ra cũng học thêm đường lối chính sách của VNCH trong đó có phần nhỏ về tâm lư chiến etc ...
sau đó làm lễ ra trường các binh chủng xuống nhận người . Ai đậu Thủ khoa th́ được quyền chọn binh chủng .C̣n những ai trước đăng vào binh chủng nào họ sẽ tới nhận về , số c̣n lại các binh chủng thiếu người xuống lấy .
Điều đặc biệt Trường Thủ đức không có Hải quân và Không quân bởi v́ 2 quân chủng này có trường đào tạo riêng
Ḿnh bổ túc thêm là trong khóa 14...15..16 c̣n có thi trắc nghiệm tâm lư để sắp xếp chọn đi binh chủng (do cấp trên chọn) Ḿnh chỉ biết trong phạm vi 3 khóa BBTD này thôi. Lúc đó Đại tá Lam Sơn làm chỉ huy trưởng trường. Các bạn c̣n nhớ là quá hay. Lăo nạp khóa 15 Thủ Đức có tên là khóa Cách mạng mản khóa ngày 27/11/63
cha12 ba
01-02-2019, 20:11
Originally Posted by hoanglan22 View Post
như cha 12 ba nói đă hết . Ông ấy thuộc dân Thủ đức , tính theo tuổi có lẽ ông ta ở khóa 18 -20 . Trước khi về Thủ đức phải qua Quang trung học huấn luyện căn bản quân sư , sau đó về Thủ đức học 38 tuần chia làm 2 gian đoạn theo tui nhớ mang máng
giai đoạn đầu học về cơ bản bộ binh học xử dụng các loại súng , học địa h́nh , học về bản đồ và những kiến thức đại cương về quân sự
Giai đoạn kế học về điều hành chỉ huy nguyên tắc căn bản chỉ huy trung đội trưởng ngoài ra cũng học thêm đường lối chính sách của VNCH trong đó có phần nhỏ về tâm lư chiến etc ...
sau đó làm lễ ra trường các binh chủng xuống nhận người . Ai đậu Thủ khoa th́ được quyền chọn binh chủng .C̣n những ai trước đăng vào binh chủng nào họ sẽ tới nhận về , số c̣n lại các binh chủng thiếu người xuống lấy .
Điều đặc biệt Trường Thủ đức không có Hải quân và Không quân bởi v́ 2 quân chủng này có trường đào tạo riêng
Ḿnh bổ túc thêm là trong khóa 14...15..16 c̣n có thi trắc nghiệm tâm lư để sắp xếp chọn đi binh chủng (do cấp trên chọn) Ḿnh chỉ biết trong phạm vi 3 khóa BBTD này thôi. Lúc đó Đại tá Lam Sơn làm chỉ huy trưởng trường. Các bạn c̣n nhớ là quá hay. Lăo nạp khóa 15 Thủ Đức có tên là khóa Cách mạng mản khóa ngày 27/11/63
:hafppy::hafppy::haf ppy::thankyou::hands hake:
Chúc Mừng Lăo Huynh c̣n sức khỏe vui vẻ :handshake::handshak e:
laongoandong
01-02-2019, 22:14
Vậy th́ bà nhà sướng nhĩ ...có 2 XE JEEP giữ an ninh thằng nhỏ cứ tiến vào http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1322418&stc=1&d=1546400337
xe jeep lùn thôi. Ngày trước các vị đơn vị tác chiến gọi binh chủng của lăo nạp là dân Quét Chợ.
laongoandong
01-02-2019, 22:27
:hafppy::hafppy::haf ppy::thankyou::hands hake:
Chúc Mừng Lăo Huynh c̣n sức khỏe vui vẻ :handshake::handshak e:
Rát hân hạnh được kết thân với các huynh và đọc những lời tâm sự có thể nói đầy hào khí pha ít nhiều ngậm ngùi làm lăo nhớ lại phần nào cuộc đời lính năm xưa của ḿnh mà cứ tưởng sẽ không có dịp nhớ lại và chôn sâu vào tiềm thức đến cuối cuộc đời
Đôla Trăm
01-03-2019, 00:38
Ngày lễ ,ngày tết ....sao vẫn .....
bfMn3iaYJ0M
tbTf_zXeW1s
cha12 ba
01-03-2019, 04:45
Đi Viếng Tro Cốt Tướng Nguyễn Khoa Nam
Nguyễn Thanh Khiết
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1322822&stc=1&d=1546490681
Đă 5 năm qua, năm nào cũng vậy, cứ mỗi cuối tháng 4, sau khi đă như chết rồi trong tiếng reo ḥ chiến thắng, tiếng pháo mừng đ́ đùng của giặc, tôi lui cui chuẩn bị ra khỏi nhà vào buổi chiều, đi lên phía G̣ Vấp, trên đường Lê Quang Định, một trong số những con đường may mắn chưa bị đổi tên suốt 35 năm nhục nhằn của thành phố Sài G̣n từ sau ngày 30 tháng 4, 1975 tang thương cũ.
Chùa Già Lam, một cái tên dễ gọi nhưng thật khó. Năm năm về trước, tôi mày ṃ trên mạng, vào một trang web, một ai đó ghi hàng thông tin “… theo nguồn tin của gia đ́nh tướng Nguyễn Khoa Nam, hài cốt ông được đưa về ‘chùa Gia-Lâm’ đường Lê Quang Định, G̣ Vấp.” Tôi bỏ ra 3 ngày đi nát con đường nầy, Lê Quang Định không dài, chỉ là con đường cũ từ trước cửa chợ Bà Chiểu thẳng một mạch lên G̣ Vấp và kết thúc tại khu nổi tiếng là ngă năm chuồng chó. Vậy mà tôi đi miết 3 ngày, hỏi cả trăm người cái “chùa Già Lâm” ai cũng lắc đầu chẳng biết nó ở đâu. Buổi chiều cuối cùng, với thất vọng và mệt mỏi, tôi ghé vào trạm xăng bên đường, định đổ đầy một b́nh rồi lên xe về.
Chiều xuống thành phố chật chội bụi xe, người ngựa dân đi làm từ các công sở ùa ra đường phố, đường nào cũng chật, cũng kẹt xe, tôi cố mà không băng qua được bên kia đường cho đúng chiều. Chán nản, tôi dắt con ngựa sắt phong trần, bung bửng, mất vè, đi dọc về phía chợ Bà Chiểu. Ngừng ở một ngă ba, châm điếu thuốc, tự thưởng chuyến hành hương bất thành.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1322821&stc=1&d=1546490681
Tôi ngước lên phà khói, bất thần tôi nh́n thấy ba chữ “chùa Già Lam.” Tôi chợt hiểu, cái trang mạng mắc dịch nào đó, một đương sự, không biết tiếng Việt nào đó, một cu cậu không cài phần mềm bỏ dấu tiếng mẹ đẻ nào đó, đă lỡ tay gơ trên thông tin hai chữ “Gia-Lam,” rồi một ông cốt đột nào đó (chắc chắn không phải là cư dân G̣ Vấp) đă quá tay dịch từ tiếng Việt sang… tiếng Việt là “Gia-Lâm” báo hại tôi lội 3 ngày trên con đường không hơn 5 cây số này.
Tôi thở ra một cái, tự thưởng cho cái thông minh quá muộn màng của ḿnh, sau khi đă đẫm mồ hôi tới 3 cái áo. Tôi lên xe đi theo hướng mũi tên trên biển báo, lại một phen ngất ngư v́ hẻm Sài G̣n. Từ mặt lộ, vào chưa tới 50 mét, con hẻm chia ra hai hẻm nhỏ, mỗi con hẻm có tới hai ngôi chùa tên nghe lạ hoắc, tôi phải lộn ngược ra ngoài hỏi thăm thật cặn kẽ rồi mới an tâm vào bên trong.
Già Lam là một ngôi cổ tự, nằm tận cùng trong con hẻm, ngôi chùa rộng, có khoảng sân ngoài lát đá thật khang trang, qua khỏi cổng là cái sân trồng hoa, một số cội mai lớn sắp hàng trên lối vào chánh điện.
Bên trái là địa tạng đường, xây đơn giản, gồm hai tầng với một cầu thang bằng xi măng vừa đủ cho một người đi lên. Tôi hỏi thăm người giữ xe ở cổng, một cảnh sát trước năm 1975, vóc dáng gầy g̣, nhưng nhiệt t́nh. Khi biết tôi muốn thăm và thắp nhang cho tướng Nguyễn Khoa Nam, ông nắm tay tôi kéo lên cầu thang và giới thiệu tôi với một tăng nhân trạc hơn 30 tuổi có nhiệm vụ trông coi địa tạng đường.
Quả thật, cũng khó mà t́m ra nơi đặt hài cốt, nếu không có người hướng dẫn và sơ đồ chỉ rơ. Trong địa tạng đường, nếu tôi không nhầm, có gần mấy ngàn tro cốt chứa trong các lọ nhỏ lớn đủ kiểu, đủ dáng, đặt trong những tủ kính nằm dọc và dài bằng bức tường pḥng.
Có bốn hàng tủ như vậy với hai lối đi nhỏ dọc theo chiều dài, mỗi tủ cao bằng trần nhà nên luôn có một cái ghế gỗ cao cho thân nhân dùng leo lên đối với những hài cốt nằm phía trên cùng.
Hũ tro cốt của thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam có lẽ do một duyên may nào đó hoặc do vị trụ tŕ chùa này, một thượng toạ đă viên tịch sau lần cầu siêu cho tướng Nam vào ngày bốc cốt và gởi vào chùa, là người có giao t́nh với gia đ́nh của thiếu tướng. Hũ tro cốt của tướng Nam được đặt vào ngăn thứ 5 trong tủ kính nhỏ kê sát bức tượng Địa Tạng Vương trên bàn thờ giữa pḥng.
Khác những năm trước, chiều nay tôi vào thăm ông từ lúc 1 giờ trưa, địa tạng đường khóa ngoài, người trông coi vắng mặt. Tôi trở ra quán cà phê Dương Cầm nằm trên con đường nhỏ gối đầu Lê Quang Định, tôi không chờ, không đợi ai, và tôi biết ngày hôm nay tôi chỉ có một việc: Bước vào địa tạng đường, thắp một nén hương cho một vị anh hùng đă tuẫn tiết theo thành khi nước mất nhà tan, bằng khí tiết của một tướng tư lệnh.
Ông tự kết liễu đời ḿnh vào ngày + N, sau khi đă vào thăm các binh sĩ của ḿnh trên con đường giữ nước không may thương tật đang được nằm điều trị trong bệnh viện Phan Thanh Giản. Ông vô cùng can đảm khi phó tướng của ông, chuẩn tướng Lê Văn Hưng đă đi trước ông một bước. Tướng Hưng đă tự sát bằng chính cây súng lệnh của ḿnh khi giặc tràn vào bộ tư lệnh và khi kế hoạch phản công của tướng Nam cùng ông với những đặc lệnh truyền tin đủ chuẩn bị cho cuộc kháng cự “cố thủ miền Tây” dù Sài G̣n đă thực sự buông súng để rơi vào tay Bắc quân.
Một kế hoạch dựa vào kinh nghiệm chiến đấu trên sông rạch của hai ông bị một đại tá có nhiệm vụ thi hành đă nhẫn tâm ném nó vào sọt rác và ra đi theo đoàn người di tản, để lại một hậu quả tang thương cho vùng IV sông ng̣i.
Ly cà phê nhỏ những giọt chậm, buồn hơn mọi ngày. Trong cái sánh đen của màu cà phê, tôi c̣n như thấy được hạt máu những anh hùng bất tử đă đổ xuống cho quê hương nầy như năm tướng Lê Nguyên Vỹ, Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng và Nguyễn Khoa Nam.
Uống ly cà phê tôi c̣n nghe vẳng đâu đó một bản nhạc buồn “Anh hỡi anh ở lại Charlie, anh hỡi anh giă từ vũ khí.”
Tôi trở lại chùa Già Lam lúc 6 giờ chiều, và đúng chiều nay sau khi uống ly cà phê suốt 4 giờ.
Người giữ cửa vẫn chưa tới. Tôi bước thẳng vào trong khi thấy lấp ló một tăng nhân trong đó, tôi tŕnh bày ngắn gọn và được giúp đỡ tận t́nh. Ông đưa cho tôi xâu ch́a khoá, chỉ cho tôi cái ch́a để mở cửa pḥng chứa tro cốt của tướng Nguyễn Khoa Nam. “Ông biết chỗ rồi phải không? Hay để tôi chỉ cho ông?” Tôi cám ơn vị tăng nhân và cầm ch́a khoá đi thẳng lên tầng trên.
Địa tạng đường tối âm u, cái u uất thường cảm nhận ở những nơi như vầy. Chiều đă hết, bây giờ là thời gian của âm khí, cái âm khí rợn dọc sống lưng, giống như một băi tha ma. Theo lời chỉ dẫn của tăng nhân khi năy, tôi kéo cầu dao bật điện, mở cửa bước vào pḥng.
Bức tượng Địa Tạng Vương bồ tát to lớn đặt giữa pḥng, cái lư hương trống trơn không một que nhang tàn trong đó. Tôi thật sự xúc động. Hôm nay ngày giỗ của ông, th́ tại nơi này, nơi đặt lọ tro cốt của ông, chút thân xác hóa tro đó, anh linh của một thời hiển hách đó, nhang tàn khói lạnh. Không ai, quả thực không ai buồn thắp nén nhang cho ấm ḷng.
Tôi lấy cái quẹt ga để sẵn trên bàn thờ và lựa ba nén nhang, loại nhang thường nhất, nhỏ nhất và ngắn nhất thắp lên bàn thờ bồ tát. Tôi đứng nghiêm trước di ảnh tướng Nam, chụm chân chào ông theo kiểu nhà binh mà tôi học lóm được trong bộ đồ dân sự, trong tính cách một thường dân Nam Bộ. Tôi chào viên tư lệnh vùng IV đă tuẫn tiết theo thành vào lúc 7 giờ 30 sáng ngày 1 tháng 5 của 35 năm về trước với tất cả ḷng kính trọng và một chút ngậm ngùi. Khi nh́n quanh, chỉ có ḿnh tôi trong chiều xuống giữa địa tạng đường âm u với duy nhất 3 nén nhang thường.
Tôi nhớ trong ḷng, 5 năm qua, những lần tôi đến đây, hôm nay ngày tôi buồn nhất. Trước khi ra về, tôi nói nhỏ với di ảnh của người, tôi xin ông cho tôi ghi lại bức ảnh của một tư lệnh, trong chân dung người lính ngày mới ra trường, dù nó không đánh dấu tính oai nghiêm của một danh tướng, nhưng nó là tất cả cái cao thượng, thanh liêm và chất phác của một người đă nằm xuống thực sự hiến dâng cho đất nước.
Bước xuống trả xâu ch́a khoá trên bàn vị tăng nhân đă cho tôi mượn, sau khi kéo cầu dao trả lại bóng tối cho những người đă chết, tôi bước ra sân ghé cái quán lá của người lính cũ giữ xe ngoài cổng, tôi mua bao thuốc. Chưa kịp chào, ông đă nhận ra tôi với nhiều lần lui tới, ông trầm giọng cho vừa đủ nghe: “Ba năm nay, ngày này sao không thấy ai đến đốt nhang cho thiếu tướng, chỉ có ḿnh ông thôi hả?” Tôi cười như mếu quay mặt bước đi, tôi lẩm bẩm một ḿnh:
“Hôm nay ngày 1 tháng 5, ba mươi lăm năm rồi. Và ba năm qua chưa có ai nhớ mà về đốt cho tướng Nguyễn Khoa Nam một nén nhang”
Nguồn: Việt Herald
laongoandong
01-03-2019, 10:33
Ngày lễ ,ngày tết ....sao vẫn .....
bfMn3iaYJ0M
tbTf_zXeW1s
Những bài ca của Nhật Trường ḿnh rất thích v́ chẳng những nhạc hay mà c̣n nói lên tinh thần hào húng của người chiến sĩ VNCH
hoanglan22
01-03-2019, 13:36
Originally Posted by hoanglan22 View Post
như cha 12 ba nói đă hết . Ông ấy thuộc dân Thủ đức , tính theo tuổi có lẽ ông ta ở khóa 18 -20 . Trước khi về Thủ đức phải qua Quang trung học huấn luyện căn bản quân sư , sau đó về Thủ đức học 38 tuần chia làm 2 gian đoạn theo tui nhớ mang máng
giai đoạn đầu học về cơ bản bộ binh học xử dụng các loại súng , học địa h́nh , học về bản đồ và những kiến thức đại cương về quân sự
Giai đoạn kế học về điều hành chỉ huy nguyên tắc căn bản chỉ huy trung đội trưởng ngoài ra cũng học thêm đường lối chính sách của VNCH trong đó có phần nhỏ về tâm lư chiến etc ...
sau đó làm lễ ra trường các binh chủng xuống nhận người . Ai đậu Thủ khoa th́ được quyền chọn binh chủng .C̣n những ai trước đăng vào binh chủng nào họ sẽ tới nhận về , số c̣n lại các binh chủng thiếu người xuống lấy .
Điều đặc biệt Trường Thủ đức không có Hải quân và Không quân bởi v́ 2 quân chủng này có trường đào tạo riêng
Ḿnh bổ túc thêm là trong khóa 14...15..16 c̣n có thi trắc nghiệm tâm lư để sắp xếp chọn đi binh chủng (do cấp trên chọn) Ḿnh chỉ biết trong phạm vi 3 khóa BBTD này thôi. Lúc đó Đại tá Lam Sơn làm chỉ huy trưởng trường. Các bạn c̣n nhớ là quá hay. Lăo nạp khóa 15 Thủ Đức có tên là khóa Cách mạng mản khóa ngày 27/11/63
Chúc thọ đến lăo nạp được đầy đủ sức khỏe:handshake::hand shake::handshake:
hoanglan22
01-03-2019, 13:39
xe jeep lùn thôi. Ngày trước các vị đơn vị tác chiến gọi binh chủng của lăo nạp là dân Quét Chợ.
Nói vậy chứ gặp QC mà chú nào DÙ nhẩy rào cũng né .:handshake::handsha ke:
hoanglan22
01-03-2019, 13:49
:thankyou: cha 12 ba với bài Đi Viếng Tro Cốt Tướng Nguyễn Khoa Nam
Đọc xong c̣n ngậm ngùi nhớ vị Tướng Nguyễn khoa Nam và c̣n nhiều vị nữa không kể tướng .
Các Anh không bao giờ chết , vẫn ở trong ḷng người dân và các chiến sĩ đă cùng sát cánh với nhau .Một nén hương đến các Anh
laongoandong
01-03-2019, 14:38
Nói vậy chứ gặp QC mà chú nào DÙ nhẩy rào cũng né .:handshake::handsha ke:
Nhảy rào trốn trại nói chung là không phép hoặc quân phục nhếch nhác th́ né chứ các ông tác chiến đâu có sợ QC này. Ḿnh cũng nghỉ là các lính này cực khổ và chịu nhiều nguy hiễm nơi chiến trường bây giờ bù lại những giây phút ấy th́ cũng cho qua những vi phạm nho nhỏ của người lính trận. Các ổng chỉ sợ QC của binh chủng các ổng thôi Như 204 QC dù, 202 TQLC v..v..Có lần lăo già này đang ngồi ở dancing Olympia th́ một toán BDQ cả SQ và lính ồn ào nhậu nhẹt thấy lăo. Họ gọi đúng tên và cấp bậc của lăo. Tại sao họ biết lăo? V́ lăo từng bắt giam tài xế của họ và họ đến xin thả người. Từ chối lời mời hổng được đành phải gia nhập vài ly và trước rút lui lăo dặn họ đừng làm ồn và quậy phá. Không biết các huynh ở đơn vị tác chiến bây giờ có c̣n ghét lăo mỗ không nhỉ ?? Nêu có th́ bây giờ cho lăo bắt tay nhe v́ lăo chỉ thi hanh bổn phận thôi. Hi..Hi.
laongoandong
01-03-2019, 14:52
“Hôm nay ngày 1 tháng 5, ba mươi lăm năm rồi. Và ba năm qua chưa có ai nhớ mà về đốt cho tướng Nguyễn Khoa Nam một nén nhang” Trích trong bài Viếng tro cốt của Tướng Nguyễn Khoa Nam do cha12ba đăng
Ba năm qua có người không nhớ nhưng có thể có người nhớ nhưng v́ hoàn cảnh không về được hay họ đă đi theo vị tướng anh hùng này và c̣n biết bao nhiêu kẻ ngưỡng mộ vị anh hùng này măi đến ngày nay được đọc và biết và xin trân trọng kính cẩn nghiêng ḿnh chào người gương mẫu anh hùng cho thế hệ mai sau
hoanglan22
01-03-2019, 15:21
Nhảy rào trốn trại nói chung là không phép hoặc quân phục nhếch nhác th́ né chứ các ông tác chiến đâu có sợ QC này. Ḿnh cũng nghỉ là các lính này cực khổ và chịu nhiều nguy hiễm nơi chiến trường bây giờ bù lại những giây phút ấy th́ cũng cho qua những vi phạm nho nhỏ của người lính trận. Các ổng chỉ sợ QC của binh chủng các ổng thôi Như 204 QC dù, 202 TQLC v..v..Có lần lăo già này đang ngồi ở dancing Olympia th́ một toán BDQ cả SQ và lính ồn ào nhậu nhẹt thấy lăo. Họ gọi đúng tên và cấp bậc của lăo. Tại sao họ biết lăo? V́ lăo từng bắt giam tài xế của họ và họ đến xin thả người. Từ chối lời mời hổng được đành phải gia nhập vài ly và trước rút lui lăo dặn họ đừng làm ồn và quậy phá. Không biết các huynh ở đơn vị tác chiến bây giờ có c̣n ghét lăo mỗ không nhỉ ?? Nêu có th́ bây giờ cho lăo bắt tay nhe v́ lăo chỉ thi hanh bổn phận thôi. Hi..Hi.
Lăo huynh nghĩ sao chứ ,,,,,,,,QC trực thuộc BTTM thực thi quân luật của Quân đội . Nếu không có ngành này là Quân đội sẽ có những KIÊU KINH không coi ai ra ǵ . Nhờ ngành này mà Quân đội giảm bớt đi . Tay tác chiến nào mà ngang tàng gặp QC cũng te tau . Ở saigo2n th́ đưa về Quân vụ thị trấn chở đơn vị đến rước về . ( chẳng may bị kư củ là coi xong cái lon chỉ biết ngó ...trời )
Ngày xưa lính tác chiến về hậu phương hay quậy nhất là , Dù , TQLC , Biệt động quân , Lôi hổ , BCD .Cái lư do nhiều hơn là họ ghét khi thấy nhiều thanh niên nhan nhăn ngoài đường ăn chơi rồi lập băng đảng đánh nhau etc ...( những người lính từng chiến đấu sống chết , sao lại c̣n có những thành phần thanh niên quậy phá này ) đó là những cảm nghĩ của ḿnh khi trước trong lúc về phép :hafppy::hafppy:
cha12 ba
01-03-2019, 17:35
xe jeep lùn thôi. Ngày trước các vị đơn vị tác chiến gọi binh chủng của lăo nạp là dân Quét Chợ.
:thankyou::thankyou: :handshake:
gởi tặng lăo huynh QC vài bức h́nh
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1323025&stc=1&d=1546536829
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1323026&stc=1&d=1546536829
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1323027&stc=1&d=1546536829
cha12 ba
01-03-2019, 17:39
:thankyou: cha 12 ba với bài Đi Viếng Tro Cốt Tướng Nguyễn Khoa Nam
Đọc xong c̣n ngậm ngùi nhớ vị Tướng Nguyễn khoa Nam và c̣n nhiều vị nữa không kể tướng .
Các Anh không bao giờ chết , vẫn ở trong ḷng người dân và các chiến sĩ đă cùng sát cánh với nhau .Một nén hương đến các Anh
:thankyou::handshake ::112::112::112:
laongoandong
01-03-2019, 23:43
:thankyou::thankyou: :handshake:
gởi tặng lăo huynh QC vài bức h́nh
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1323025&stc=1&d=1546536829
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1323026&stc=1&d=1546536829
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1323027&stc=1&d=1546536829
Cái ông này sao lại có những bức ảnh quí thế này. Cám ơn lăo huynh. Nh́n lại trường QC làm ḿnh nhớ lại những năm cuối chiếc cuộc,nơi ḿnh vừa cầm súng vừa đứng trên bục giảng hơn 2 năm huấn luyện đủ các QC quân binh chủng về học bồi dưỡng. Khoảng vài tháng trước 30/4 lăo nạp dẩn gần tiểu đoàn học viên tu nghiệp của trường về sài gon theo lệnh TTM tăng cường thủ đô. Nhiều chuyện thương tâm, dở khóc dở cười tại sai gon. Chứng kiến biến cố lịch sử. Nh́n bao nhiêu đoàn người ồ ạt bỏ trốn bọn quỷ đỏ, bằng mọi phương tiện đi đến những nơi từ cảng Newport rồi bến Bạch Đằng rồi phi trường TSN rồi cổng ṭa Đại sứ Mỹ. (QC phải có mặt những nơi này.) Ḿnh đêm đêm nằm trên băi cỏ trước rạp REX (BCH của lực lượng QC duy nhất và sau cùng), đầu gối lên cái nón sắt mắt nh́n lên bầu trời dơi theo những chuyến trực thăng hối hả từ hướng ṭa ĐS Mỷ(sân thượng} ra hướng biển (hạm đội 7 của Mỹ ngoài khơi xa lắc.Các báo cáo vọng từ hê thống liên lạc của các xe tuần tiểu khắp thủ đô, của các trạm kiểm soát chung quanh sai gon, gia dinh ven biên. Một xe tuần tiểu bị bọn VC trá hàng cướp định đánh chiếm đài phát thanh v..v.. những thước phim quá khứ lần lượt quay trở lại trong đầu. Sức người có hạn không thể làm ǵ hơn.
hoanglan22
01-04-2019, 20:26
Cho tôi xin ngậm ngùi
Bao người đă nằm xuống
Cho tôi xin khóc thương
Những dân ḿnh ra biển
Cho tôi xin nụ cười
Huynh đệ vẫn bên nhau
Cho tôi xin mảnh đất
Quê hương đă không c̣n
Cho tôi xin màu cờ
Tổ quốc vẫn c̣n đây
Cho tôi xin nằm cạnh
những chiến hữu của tôi
HL22
hoanglan22
01-04-2019, 20:41
Ghi chú HL22
Phan văn Huấn là chỉ huy trưởng của Liên Đoàn 81 BCD ( gồm 3 chiến đoàn . 1 , 2 và 3 . V́ cấp số thuộc Liên đoàn nên vị chỉ huy không có cấp bậc Tướng , ngoại trừ thành lập Sư Đoàn )
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1323457&stc=1&d=1546634397
Mỗi Quân nhân đều tự hào với màu cờ sắc áo của đơn vị ḿnh. Binh chủng Nhảy Dù (ND) với chiếc Mũ Đỏ, Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Mũ Xanh màu nước biển, Biệt Động Quân (BĐQ) Mũ Nâu, Thiết Giáp (TG) Mũ Đen, và Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB) hănh diện với chiếc Mũ Xanh màu lá cây rừng (Green Beret), v.v... Đối với các đơn vị tác chiến, nhất là các đơn vị Tổng trừ bị th́ niềm kiêu hănh này đă là chất xúc tác mạnh mẽ nâng cao tinh thần chiến đấu của đơn vị. Sau đây là câu chuyện của chiếc mũ mầu Xanh lá cây rừng (The Green Beret) LLĐBVN.
Ngày 22/4/57, tôi vào tŕnh diện BTTM để nhận lệnh mới th́ được đưa đến tạm trú tại dăy nhà ở đường Hiền Vương, gần Câu lạc bộ Sĩ quan An Đông, Chợ Lớn để đợi lệnh. Sau hơn một tháng chờ đợi, hơn 20 anh em mới được đưa ra Vũng Tàu để học lớp Truyền tin đặc biệt, đại úy Bùi Thế Minh được chỉ định làm trưởng lớp, Đại úy Tống Hồ Hàm làm phó. Một buổi sáng nọ, được nghỉ học để nghe thượng cấp nói chuyện, chúng tôi lên xe ra thẳng băi sau Vũng Tàu, nơi đây đă được cảnh sát canh gác cẩn thận, không một người dân nào được lai văng gần nơi đó. Trên một bàn dài kê sẵn, thượng cấp gồm có Thiếu tướng Trần Văn Đôn, Trung tá Lê Quang Tung, và vài ba vị cố vấn Mỹ. Tôi nhớ lời Tr/tá Tung nói : ”Các anh là ṇng cốt của một Binh chủng mới, đó là Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB). Sau 3 tháng học lớp Truyền tin xong, các anh sẽ học nhảy dù rồi học lớp LLĐB. Sau lớp LLĐB các anh sẽ chính thức hành quân đặc biệt là nhảy vào hậu phương địch để hoạt động, các anh nhớ là khi nhảy dù xuống hậu phương địch th́ đă có người của ḿnh đón tiếp và giúp các anh hoàn thành công tác giao phó”.
Sau một tháng học nhảy dù, chúng tôi di chuyển ra Nha Trang, học lớp LLĐB tại trường Biệt Động Đội ở Đồng Đế do một toán LLĐB Mỹ từ Okinawa đến huấn luyện. Đại úy Cramer là trưởng toán, lớp học được hơn một tháng th́ trong một cuộc thực tập phục kích gần đèo Rù Ŕ, Đại úy Cramer, một Thượng sĩ Cố vấn và Trung úy Phan Thanh Đàn tử thương v́ sơ ư trong việc xử dụng chất nổ ! Lớp học vẫn tiếp tục trong sự luyến tiếc những người đă nằm xuống và sự ngờ vực của người Mỹ. Một toán điều tra của Mỹ từ Saigon ra t́m hiểu sự thật một thời gian ngắn và kết luận là cố vấn Mỹ chết v́ tai nạn chứ không phải v́ một âm mưu phá hoại nào. Mặc dù đă được xác định như thế nhưng chúng tôi đi thực tập, chỉ được mang súng, không được mang đạn dược và chất nổ theo.
Sau 4 tháng gian khổ học tập, khóa A đầu tiên của Binh chủng LLĐB măn khóa vào tháng 12/57. Các khóa B, C, D sau đó vẫn tiếp tục huấn luyện tại trường Biệt Động Đội Đồng Đế Nha Trang và Huấn luyện viên của các khóa sau này đều do khóa A đảm trách. V́ tính cách quan trọng của việc thành lập Binh chủng LLĐB. Đại úy Phạm Văn Phú (Thiếu tướng) và Trung úy Trần Hữu Tác (Trung tá) là khóa sinh khóa B cũng như nhiều khóa sinh ưu tú khác nhập học. Sau khóa D măn khóa th́ có cuộc hành quân thực tập, nhảy dù xuống vùng Xuyên Mộc, Đất Đỏ thuộc tỉnh B́nh Tuy chừng 2 tuần, cuộc hành quân này gồm nhiều toán A, mỗi toán 15 người, toán tôi th́ có Tr/úy Lê Tất Biên toán phó, Thượng sĩ Kalani làm cố vấn. Toán tôi đóng quân trong mật khu Lang Ma của Cộng sản. Tại đây, một kỷ niệm mà tôi c̣n nhớ măi là khi Tr/úy Biên cùng 2 người nữa mang súng Garant đi sâu vào rừng (Tr/úy Biên thích đi săn lắm), hôm đó Trung uư Biên đội đèn trên đầu tay cầm súng Carbine. Một giờ sau, th́ tiếng súng nổ ran như đang giao tranh với Việt cộng. Tôi vội vă tập họp toán lại để đi tiếp cứu th́ thấy toán Trung uư Biên hổn hển chạy về ! Trung úy Biên nói : "Tôi đang đi theo đường xe be giữa rừng cây um tùm th́ hết thấy lối đi nhưng chiếu đèn trên cao, đột nhiên thấy nhiều con mắt của thú rừng như sao trên trời ! Nh́n kỹ th́ đó là những đôi mắt của một đàn voi đang chắn lối đi ! Thế là cả 3 người đồng loạt nổ súng và chạy lui” Đàn voi bị tấn công bất ngờ, chạy tán loạn. Đêm đó chúng hú gọi nhau vang cả khu rừng làm anh em chúng tôi không dám ngủ, sẵn sàng tư thế chống trả.
Sau khi khóa A măn khóa th́ được mang danh hiệu là Liên Đội Quan Sát Số 1 (LĐQSS1), Đại úy Bùi Thế Minh làm chỉ huy trưởng và Đại úy Tống Hồ Hàm, Chỉ huy phó. Nhưng đến khóa B th́ Thiếu tá Đàm Văn Quư thay thế làm Chỉ huy trưởng và được đội Mũ Đỏ như Nhảy Dù. Đến ngày 11 tháng 11 năm 1960, Liên Đoàn Nhảy Dù do Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Tr/tá Vương Văn Đông, và Tr/tá Nguyễn Triệu Hồng chỉ huy làm cuộc đảo chánh Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm nhưng bất thành, phải bỏ trốn sang Campuchia. LĐQSS1 tức tốc vào Saigon cứu giá, đoàn xe GMC chở LĐQSS1 đi lên Ban Mê Thuột rồi thẳng về Đồng Xoài, B́nh Dương và vượt sông Saigon bằng phà ở Thủ Thiêm để đến dinh Độc Lập (v́ cầu B́nh Lợi đă bị phá sập). LĐQSS1 chưa đến dinh Độc Lập th́ trật tự đă được văn hồi trước đó hai hôm ! Dù toàn bộ LĐQSS1 chưa vào đến Saigon nhưng đă có một toán 12 người của LĐQSS1 do Tr/úy Nguyễn Lộc chỉ huy đă từ Sở Liên Lạc tiến lên đến ngă tư Hồng Thập Tự và Bà Huyện Thanh Quan th́ đụng phải Th/tá Phan Trọng Chinh (Thiếu tướng) và Nhảy Dù đang bao vây dinh, cuộc chạm súng ngắn ngủi đă xảy ra, bên LĐQSS1 có Tr/úy Trần Khắc Nghiêm bị thương ở đầu. Tr/úy Nguyễn Lộc là người đầu tiên của LĐQSS1 được vinh thăng Đại úy sau cuộc chạm súng thập phần nguy hiểm đó.
Sau chính biến, toàn bộ LĐQSS1 di chuyển vào đóng quân ở trại Hùng Vương, cạnh trường đua ngựa Phú Thọ. Thiếu tá Đàm Văn Quí được lệnh về làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 nhảy dù đóng ở ngă tư Bảy Hiền và Đ/úy Tống Hồ Hàm làm Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 6 nhảy dù đóng ở Vũng Tàu, và một lần nữa Th/tá Phạm Văn Phú về làm Chỉ huy trưởng Liên Đoàn 77.
LĐQSS1 đổi danh thành Liên Đoàn 77 do nghị định số 1183/QP/NĐ của Bộ Quốc Pḥng ngày 3/10/61, rồi LĐ77 đổi danh thành LD301 do nghị định 1409/QP/NĐ ngày 24/7/64, và giải tán do nghị định 284/QP/NĐ ngày 9/6/65. Liên Đoàn 31 do Đ/úy Phạm Duy Tất làm Chỉ huy trưởng, không rơ Liên Đoàn 31 thành lập năm nào, có lẽ năm 62, nhưng chỉ biết LĐ31 đổi danh thành LĐ111 do nghị định số 1409/QP/NĐ ngày 24/7/64 và giải tán do nghị định số 0284/QP/NĐ ngày 19/6/65. Quân số 2 Liên Đoàn 301 và 111 giải tán để sắp xếp lại và chính thức gọi là Binh chủng LLĐB vào tháng 4/63, gồm có một Bộ Tư Lệnh, một Đại đội Tổng Hành Dinh, một Trung tâm huấn luyện, và 4 bộ chỉ huy C ở 4 vùng Chiến thuật, mỗi C có một số B và mỗi B có một số toán A tùy theo t́nh h́nh địa phương, mỗi toán A quân số vào khoảng 12 người, tổng cộng quân số LLĐB vào khoảng trên dưới 5,000 cho đến khi giải tán vào năm 70.
Từ năm 1961, LLĐB bắt đầu kế hoạch mở các trại Biệt Kích Biên Pḥng (BKBP) (CIDG) dọc theo biên giới Việt Miên Lào để ngăn chặn việt cộng xâm nhập vào lănh thổ VNCH, tùy theo t́nh h́nh, mỗi trại quân số BKBP có từ một Tiểu đoàn hoặc nhiều hơn. Cho đến ngày BKBP đổi danh thành Biệt Động Quân Biên Pḥng khi LLĐB giải tán vào năm 70 th́ quân số đă lên đến trên 50 ngàn quân với gần 50 trại. Cũng từ năm 61 th́ LLĐB bắt đầu thành lập các đại đội Biệt Cách Nhảy Dù (BCND) biệt lập rồi đến năm 1964 th́ sát nhập lại thành lập Tiểu đoàn 91 BCND, Thiếu tá Trần Minh Huy làm Tiểu đoàn trưởng đầu tiên, đến ngày 1/4/68 đổi danh thành Tiểu đoàn 81/BCND. Cũng trong năm 64 này th́ LLĐB lập thêm một đơn vị nữa, lấy tên là Trung Tâm Huấn Luyện Hành Quân Delta (TTHL/HQ/Delta) gồm có 12 toán Thám Sát, mỗi toán 6 người, và 12 toán Thám Kích Tiền Phong (TKTP) là Biệt Kích Quân lấy từ các trại do Mỹ trả lương. Đại úy Nguyễn Văn Khách là Chỉ huy trưởng Delta đầu tiên. Bộ Tư Lệnh LLĐB chính thức thành lập vào tháng 4/63 do Đ/tá Lê Quang Tung làm tư lệnh, lần này Mũ Đỏ lại đổi thành Mũ Đen của Binh chủng LLĐB cho đến đầu năm 64 di chuyển ra NhaTrang vẫn c̣n đội Mũ Đen, rồi chẳng bao lâu sau, Mũ Đen đổi thành Mũ Xanh cho đến khi LLĐB giải tán vào tháng 8/70.
Đại tá Lê Quang Tung kể như làm tư lệnh LLĐB từ ngày thành lập cho đến ngày 1/11/63 th́ bị thảm sát. Trung tướng Lê Văn Nghiêm từ 63 đến 64. Chuẩn tướng Lam Sơn từ 64 đến cuối 64. Chuẩn tướng Đoàn Văn Quảng từ 64 đến 69, sau đó C/tướng Lam Sơn trở lại năm 69, T/tướng Phạm Văn Phú năm 70, và cuối cùng là Đ/tá Hồ Tiêu.
LLĐB là Binh chủng đầu tiên thi hành những nhiệm vụ vô cùng bí mật đó là thả các toán Biệt Kích ra Bắc hoạt động. Khởi đầu thả vào năm 61 và chuyển giao nhiệm vụ này cho Nha Kỷ Thuật vào năm 64 để từ đó LLĐB chỉ lo hoạt động ở nội địa mà thôi.
LLĐB đă tham dự các trận đánh quyết liệt từ Khe Sanh, Lao Bảo, Làng Vei, Ashau, Alưới, Tà Bạt, Dapek, Dakto, Ben Het, Pleime, Đức Cơ, Vũng Rô, Đức Phong, Đồng Xoài, B́nh Long, An Lộc, Tống Lê Chân, Thiện Ngôn, Trại Bí, Đức Ḥa, Đức Huệ, Đôn Phục, Cái Cái, cho đến Biệt Khu Hải Yến, Côtô, v.v... Đa số các trận đánh này đều nằm dọc theo biên giới Việt Miên Lào để ngăn chặn việt cộng xâm nhập vào lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH). (V́ thiếu tài liệu tham khảo, chỉ kể theo trí nhớ của tôi và nhiều bạn khác, nếu có điều ǵ cần bổ khuyết th́ xin được các bạn chỉ giáo cho).
Không có cái buồn nào bằng cái buồn Binh chủng LLĐB bị giải tán vào tháng 8/70 ! Anh em LLĐB phân tán đi nhiều Binh chủng nhưng đa số là chuyển qua BĐQ và NKT; một số ít qua Bộ binh, hoặc các Trung tâm huấn luyện, nha sở, v.v... Duy chỉ có TTHL/HQ/Delta và Tiểu đoàn 81/BCND là không giải tán mà sát nhập lại để lập nên Liên Đoàn 81/BCND (LĐ81/BCND) do tôi làm Chỉ huy trưởng, Tr/tá Trần Phương Quế làm chỉ huy phó, Đại úy Nguyễn văn Lân làm Sĩ quan phụ tá đặc trách về huấn luyện. LĐ81/BCND trở thành lực lượng tổng trừ bị trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu (BTTM). LĐ81/BCND phải đau xót cắt bớt 2 Đại đội cho Sư đoàn Nhảy Dù để trở thành 2 Đại đội trinh sát của Sư đoàn Mũ Đỏ ! V́ vậy quân số của LĐ81/BCND đáng lư ra là 1200 quân, nhưng nay bị cắt mất 2 Đại đội, nên chỉ c̣n chưa đến 900, nghĩa là chỉ bằng một Tiểu đoàn. Nhiều anh em hỏi tôi là tại sao khi Thiếu tướng Phạm Văn Phú đi họp tại BTTM bàn về việc giải tán LLĐB mà lại không chịu tranh đấu cho anh em mũ Xanh ? Điều này th́ chắc chỉ có cố Thiếu tướng biết mà thôi v́ t́nh h́nh lúc đó rất là khó khăn và phức tạp.
Ngày 25/12/70, toàn bộ LĐ81/BCND di chuyển vào đóng quân tại trại Bắc Tiến, cạnh Trung tâm huấn luyện Quang Trung. Sau khi đă ổn định nơi đồn trú, tôi được lệnh lên tŕnh diện Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng QLVNCH. Trước khi vào tŕnh diện Đại tướng, tôi đi thăm các pḥng của Bộ Tổng Tham Mưu để t́m hiểu xem ư kiến của BTTM đối với Liên Đoàn ḿnh như thế nào. Ư tôi muốn cứ giữ nguyên MÀU CỜ SẮC ÁO của binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt nhưng khi đề cập đến vấn đề đó th́ tất cả Sĩ quan cao cấp của BTTM đều cho biết là khó thể Đại tướng chấp nhận yêu cầu này. Cái lư do rất dễ hiểu là LLĐB đă giải tán nghĩa là trong Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa không c̣n có binh chủng LLĐB nữa, Liên Đoàn 81 làm sao có thể xin giữ nguyên MÀU CỜ SẮC ÁO của Binh chủng LLĐB được ? Liên Đoàn sẽ có phù hiệu riêng, c̣n mũ th́ tất cả các đơn vị có NHẢY DÙ đều đội MŨ ĐỎ để cho quân đội được ĐỒNG NHẤT như Sư Đoàn Nhảy Dù, Nha Kỷ Thuật, và Đại Đội Gấp Dù của Quân Nhu.
Sau khi nghe ư kiến chung của đại đa số sĩ quan cao cấp thuộc BTTM, tôi buồn bă nghĩ đến chiếc Mũ Xanh và phù hiệu cọp bay của LLĐB sẽ biến mất trong nay mai. Ôi cái Mũ Xanh và phù hiệu LLĐB là niềm hănh diện của anh em chúng ta nay không c̣n nữa ! Không, nhất định tôi phải tranh đấu cho chiếc Mũ Xanh và phù hiệu LLĐB được duy tŕ trong QLVNCH. Biết bao nhiêu xương máu của anh em chúng ta đă đổ ra dưới màu cờ sắc áo này, nay phải thay đổi th́ làm sao mà không buồn được ! Với quyết tâm đó, cho nên khi vào tŕnh diện Đại tướng, tôi đă có sẵn những lư do vững chắc để xin giữ lấy chiếc Mũ Xanh và phù hiệu LLĐB. Sau những lời hỏi han về t́nh h́nh quân số, nơi ăn chốn ở, tinh thần quân sĩ của Liên đoàn, cuối cùng Đại tướng liền hỏi tôi có đề nghị ǵ không ? Đây là lúc tôi phải đem hết tài hùng biện ra để xin Đại tướng cho Liên Đoàn được duy tŕ chiếc Mũ Xanh và phù hiệu LLĐB như cũ. Tôi nói :
"Kính thưa Đại tướng, tinh thần chiến đấu của bất cứ đơn vị nào phần lớn đều dựa vào sự tự hào trên MÀU CỜ SẮC ÁO, như Sư đoàn Nhảy Dù với chiếc Mũ Đỏ, Thủy Quân Lục Chiến th́ có mũ Xanh, Biệt Động Quân có Mũ Nâu, và anh em LLĐB th́ hănh diện với chiếc Mũ Xanh màu lá cây rừng. Anh em chúng tôi qua bao gian khổ đă tạo được nhiều chiến công ở chiến trường, một phần lớn cũng nhờ niềm kiêu hănh đó. Nay LLĐB không c̣n nữa, nếu anh em chúng tôi không c̣n tiếp tục được đội chiếc Mũ Xanh và mang phù hiệu LLĐB th́ không rơ tôi có đủ khả năng để duy tŕ tinh thần chiến đấu như cũ được không ? Kính xin Đại tướng minh xét cho điều lo lắng của tôi”.
Đại tướng Viên ngồi yên lặng một lúc rồi nh́n tôi và nói :
- "Được rồi, để giữ vững tinh thần chiến đấu như khi c̣n LLĐB, tạm cho phép Liên Đoàn được đội Mũ Xanh và mang phù hiệu LLĐB cho đến khi có lệnh mới"
Đây là lần đầu tiên được đối diện với Đại tướng, nên tôi không dám nói ǵ nhiều, không dám phàn nàn về việc bị cắt mất 2 Đại đội để đưa sang ND, việc Đại tướng chấp thuận cho được tiếp tục duy tŕ chiếc Mũ Xanh và phù hiệu LLĐB đă là mừng lắm rồi, mặc dù đó chỉ là tạm thời, nhưng tôi không dám mong mỏi ǵ hơn lúc này mà chỉ biết cám ơn Đại tướng và ra về.
Trở về Liên Đoàn, ḷng buồn lo lẫn lộn, tôi không biết lệnh tạm thời này sẽ chấm dứt lúc nào để LĐ lại phải tuân lệnh cấp trên đội chiếc Mũ Đỏ cho QLVNCH được đồng nhất. Tôi tự nghĩ, nếu những ngày sắp đến, LĐ81 không tạo nên được những chiến thắng đáng kể th́ chắc chắn lệnh tạm thời kia sẽ chấm dứt ! Không c̣n cách ǵ có thể duy tŕ chiếc Mũ Xanh và phù hiệu LLĐB mà anh em ḿnh đă từng hănh diện mang nó từ nhiều năm nay. Sau khi tiếp xúc với nhiều giới chức ở BTTM và Tr/tướng Dư Quốc Đống, Tư lệnh Sư đoàn ND th́ được biết như sau : BTTM giao LĐ81 cho ND th́ Tr/tướng Đống không nhận mà chỉ xin lấy 2 Đại đội làm 2 Đại đội trinh sát cho sư đoàn mà thôi. Bất đắc dĩ, BTTM phải tạm thời duy tŕ LĐ làm đơn vị tổng trừ bị, dù với quân số chỉ bằng một Tiểu đoàn để xem tinh thần chiến đấu của LĐ81 có đáng được duy tŕ hay không rồi sẽ tính sau. Khi biết được tin này, tôi thật chán nản và muốn từ chức. Tôi là một Sĩ quan của chiến trường, đă được nhiều vị Tư lệnh biết đến, tôi rất nhiều hy vọng nhận được chức vụ xứng đáng ở đơn vị mới nhưng nghĩ lại, nếu tôi từ chức th́ chắc chắn LĐ81 sẽ sát nhập vào Sư đoàn ND, rồi sẽ bị phân tán và bổ sung quân số cho các tiểu đoàn đang thiếu hụt. Sở dĩ tr/tướng Đống không nhận LĐ81 v́ không biết xử sự với tôi như thế nào, chả lẽ đưa tôi về làm Tiểu đoàn trưởng hoặc thay thế một Lữ đoàn nào đó, nay tôi từ chức th́ việc sát nhập vào ND để Sư đoàn ND có được thêm quân số th́ không ǵ quí bằng. Nghĩ vậy nên tôi nhất quyết ở lại với anh em, quyết tâm cùng anh em tạo nên những chiến thắng đáng kể dù cho tính mạng của tôi có bị hy sinh cũng chấp nhận, đó là lư do mà hể các anh em đồng đội có chạm súng với địch th́ tôi đă có mặt tôi trên trời để điều động và yểm trợ, và nếu cần, tôi vẫn cho trực thăng chỉ huy đáp xuống để cứu toán hoặc Đại đội như tôi đă làm. Tôi chưa bao giờ vắng mặt trong bất cứ một trận đánh lớn nhỏ nào kể cả chiến trường An Lộc. Tôi chấp nhận hy sinh, đă nhiều lần ḅ sát đến từng vị trí pḥng thủ để an ủi khuyến khích anh em chứ không chịu ngồi dưới hầm sâu để ra lệnh, do đó tôi nghĩ v́ thế mà tinh thần chiến đấu của LĐ81 mỗi ngày mỗi lên cao.
Tôi rất hănh diện được chỉ huy một đơn vị mà ở mặt trận nào, LĐ81 cũng làm rạng danh những người chiến sĩ QLVNCH, đặc biệt nhất là ở chiến trường An Lộc năm 72, với 2 câu thơ cảm đề của cô giáo Pha đă lưu truyền tiếng tăm của BCD đến cho mọi người :
“An lộc địa sử ghi chiến tích,
Biệt Cách Dù vị quốc vong thân”
Quân dân ở An Lộc gọi chúng tôi là Biệt Cách Dù Cọp Bay (V́ chúng tôi được mang phù hiệu BCD ở tay trái và LLĐB ở tay phải) nhưng đa số gọi chúng tôi là Biệt Cách Dù Lực Lượng Đặc Biệt (BCDLLĐB).
Sau trận An Lộc, tôi được Đại tướng gọi lên tŕnh diện, Đại tướng thật vồn vă, niềm nỡ, không nghiêm nghị như lần tŕnh diện đầu tiên, Đại tướng nói :
- "Từ nay LĐ81 chính thức được phép đội Mũ Xanh và mang phù hiệu LLĐB. LĐ81 xứng đáng được hưởng những Huy chương mà trước đây LLĐB đă nhận lănh."
Tôi rất đỗi vui mừng và thấy đây là lúc nêu lên vấn đề quân số của LĐ81 và 4 chữ BIỆT CÁCH NHẢY DÙ đă bị BTTM cắt mất khi ban hành bản cấp số cho LĐ81. Đ/tướng cũng chấp thuận cho phục hồi lại 4 chữ BCND và sau này LĐ81 đă có bảng cấp số mới, quân số lên đến 3000 gồm có một Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn, 1 Đại Đội Chỉ Huy Yểm Trợ và 3 Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật (BCH/CT), mỗi BCH/CT có 4 Biệt Đội (BĐ), mỗi BĐ có 200 quân. Điều may mắn nhất là LĐ81 được hưởng các Huy chương của LLĐB để đủ số huy chương ấn định cho việc mang dây biểu chương màu đỏ BẢO QUỐC HUÂN CHƯƠNG, nếu không được số huy chương của LLĐB th́ LĐ81 c̣n phải nhiều năm và phải tốn biết bao nhiêu xương máu nữa mới đạt được dù rằng số huy chương của LLĐB cũng do công đóng góp của BCD và Delta không nhỏ.
Sau cuộc tổng công kích tết Mậu Thân năm 68, Việt cộng bị thảm hại nặng nề, nên chúng tạm ngưng hoạt động để chỉnh đốn lại hàng ngũ. Trong thời gian này, toàn lănh thổ VNCH kể như được tạm thời lắng dịu, ít có những trận đánh lớn mà chỉ có những trận đánh nhỏ của các đơn vị du kích địa phương mà thôi. Rồi đến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 72, nghĩa là sau 4 năm chỉnh đốn lại hàng ngũ, Việt cộng đồng loạt mở các cuộc tổng tấn công vào 3 thành phố lớn của VNCH đó là An Lộc, Kontum, và Quảng Trị với cấp quân số lên đến cỡ Quân Đoàn. Lại một lần nữa Việt cộng bị đánh cho tan nát khắp nơi mặc dầu chúng đă đưa vào những vủ khí mới tối tân hơn lần đầu tiên được đem ra xử dụng tại chiến trường miền Nam như chiến xa T54, T59, PT76,AT3 chống chiến xa, SA7 cầm tay chống phi cơ, cao xạ pḥng không 37 ly và 75 ly, v.v... Ngoài ra, Việt cộng c̣n dùng chiến thuật đặc công, chỉ dùng một số ít quân số, mang súng nhỏ, c̣n phần lớn đều trang bị kềm cắt dây kẻm gai và chất nổ, lợi dụng đêm tối, đặc công cắt hàng rào đột nhập vào vị trí đóng quân của ta tấn công bằng chất nổ đă gây nhiều tổn thất nặng nề cho ta. Ngoài chiến thuật đặc công quỉ quái này, chúng c̣n áp dụng chiến thuật đóng chốt và đóng kiền cũng không kém phần nguy hiểm ! Chỉ với quân số cấp trung đoàn mà địch đă đóng chốt cầm chân cả Sư đoàn 21 Bộ Binh và lực lượng Dù của ta trên quốc lộ 13 ở suối Tàu Ô khi tiến vào giải tỏa An Lộc cả gần một tháng trời vẫn không vượt qua được ! Lúc này LĐ81 đang tử thủ trong thành phố An Lộc nên đă không được cùng các đơn vị bạn “nhổ chốt, phá kiềng” cho VC nể mặt. Cho nên năm 1973 khi chúng vào đóng chốt ở Bến Thế thuộc tỉnh B́nh Dương, Sư đoàn 5 đưa lực lượng đến giải tỏa nhiều ngày không được, nên LĐ81 đang hành quân ở chiến khu D (Sau khi tham dự hành quân tái chiếm Quảng Trị trở về) liền được lệnh thay thế Sư đoàn 5 để “phá chốt ” ở Bến Thế. Chỉ sau hai đêm hành quân đă lấy lại Bến Thế mà không cần đến pháo binh hoặc không quân yểm trợ, Quân đoàn III thấy LĐ81 nhổ chốt phá kiền dễ dàng quá nên hễ nơi nào đơn vị bạn gặp khó khăn th́ LĐ81 được ưu ái gọi đến. Hết Bến Thế lại đến Trảng Bàng, đặc biệt là tại Tha La xóm đạo sau ngày đă kư kết hiệp định đ́nh chiến vào đúng tết năm 73, khi tiểu khu Hậu Nghĩa cho 1 Tiểu đoàn Địa Phương Quân đến giải tỏa nhiều ngày không được th́ LĐ81 lại được gởi đến, tại đây cũng chỉ cần 2 đêm hành quân, không cần đến pháo binh hoặc không quân yểm trợ đă tái chiếm lại được Tha La xóm đạo với rất ít tổn thất nhưng nhà cửa và tài sản của dân chúng không bị hư hao. Hết Bến Thế, Tha La xóm đạo, rồi năm 1974 tại Tân Phú Trung thuộc quận Củ Chi, chỉ cách Saigon không bao xa, Việt cộng vào đóng chốt tại đây, ngăn chận lưu thông trên Quốc lộ I từ Tây Ninh về Saigon ! Tất cả xe hàng từ Tây Ninh muốn chạy về Saig̣n phải chạy ṿng lên B́nh Dương mới về Saig̣n được. Sư đoàn 25 gặp vài khó khăn để bứng VC ra khỏi những “chốt kiềng” v́ chúng đă đưa Tiểu đoàn 9, tinh nhuệ nhất của Tr/đoàn 172 thuộc Sư đoàn 7 Việt cộng đến đóng chốt tại đây. Chốt này thật quá kiên cố, cộng sản đă đưa đến cả súng cối 82 ly và một hệ thống điện thoại chằng chịt qua nhiều chốt nhỏ khắp xă Tân Phú Trung, nên LĐ81 đă được gửi tới và dù “chốt kiềng” của địch vững chắc như thế nhưng chỉ với 1 ngày và 2 đêm giao chiến ác liệt, không cần cả đến sự yểm trợ của pháo binh hay không quân dể tránh gây thiệt hại cho dân chúng cũng như dùng chiến thuật du kích chiến để “Gậy ông lại đập lưng ông” mà nhổ chốt với một số tổn thất của ta tương đối chấp nhận được.
Qua những chiến thuật mà LĐ81 đă áp dụng để tạo nên những kỳ công, BTTM đă lấy những chiến thắng của LĐ81 làm tài liệu phổ biến Kinh Nghiệm Chiếạn Trường gởi đến cho QLVCNCH để rút kinh nghiệm. Qua nhiều lần gặp mặt Đ/tướng Viên và nhiều giới chức có thẩm quyền ở BTTM th́ được biết tất cả nhận thấy LĐ81 có 3 cái khả năng đáng kể mà ít có đơn vị nào có được, đó là :
* Có thể tách ra thành từng toán nhỏ để thả sâu vào hoạt động nhiều ngày ở hậu tuyến địch.
* Có thể đánh đêm bằng du kích chiến được.
* Có thể tập trung lại để đánh trận địa chiến như các đơn vị khác được.
Nếu không có ngày 30 tháng 4 năm 1975 th́ chắc chắn LĐ81 sẽ c̣n lớn mạnh hơn nữa nhưng than ôi Liên Đoàn đă phải uất hận cùng toàn thể Quân lực miền Nam buông súng vào giờ phút cuối của cuộc chiến để rồi nhiều chiến hữu đă phải trải qua bao nhục nhă đắng cay trong các nhà tù cải tạo của Cộng sản. Tuy thất trận, nhưng LĐ81 cũng đă làm cho Cộng sản phải nể phục với tinh thần kỷ luật của một đơn vị Anh hùng trong hàng ngũ chỉnh tề cho đến giây phút cuối cùng khi buông súng.
Trại tù Nam Hà có gần 1,000 tù cải tạo vào năm 78, trong số đó có vài trăm cấp Đại tá không đi lao động suốt nhiều tháng, được nghỉ ở trại để viết về đề tài CUỘC ĐỜI TÔI nghĩa là kê khai tất cả chi tiết từ nhiều đời, đến khi vào quân đội cho đến ngày 30/4/75. Suốt ngày ngồi viết dưới sự trông coi của cán bộ, chiều đến th́ nạp bài để đêm đến họ kiểm soát lại xem ḿnh có viết đúng như họ hướng dẩn không. Sáng hôm sau th́ họ kêu những người không viết theo hướng dẫn lên để xỉ vả ! Cán bộ th́ ngồi trên ghế, người bị kêu lên ngồi dưới đất để nghe những lời hạch hỏi thiếu văn hóa của kẻ thắng trận. tôi nh́n cảnh đó quá uất hận, rồi nghĩ nếu chẳng may đến lượt ḿnh th́ có chịu đựng được không ? Nhất là khi Danh dự của chiếc Mũ Xanh bị tổn thương, lúc đó chắc tôi khó mà kềm chế được sự tức giận để rồi sự thể có ra sao cũng đành cam chịu. Điều bất hạnh là tôi bị kêu lên thật, tên Tr/úy Quốc là Cán bộ văn hóa của trại với giọng nói cục cằn đă xỉ vả tôi “Anh viết tắt thế này (tôi viết tắt chữ Biệt Cách Nhảy Dù thành BCND).th́ khi gởi thư, bố mẹ anh làm sao đọc được ? "Không kềm chế được ! Máu uất nổi lên, tôi đứng phắt dậy, dằn mạnh tập giấy đang viết xuống bàn và la lên cốt cho tất cả mọi người cùng nghe". Nếu tôi có tội th́ cứ giết tôi, c̣n cha mẹ tôi không có tội, cán bộ đừng đụng đến cha mẹ tôi”. Bị tôi phản ứng bất ngờ, tên Quốc giận tím mặt, ngồi yên lặng một lúc rồi đứng dậy đến bắt tay tôi và xin lỗi. Tôi liếc nh́n anh em đại tá đang ngồi, thấy anh em hoảng hốt, sợ tánh mạng tôi sẽ bị nguy hại v́ sự nóng giận đó, sau đó mới thấy tôi tuy quá uất hận nhưng cũng rất khôn ngoan đă lợi dụng cái lỗi của nó đụng chạm đến cha mẹ tôi để làm lớn chuyện mà tên Quốc không làm ǵ tôi được lúc đó nhưng tôi biết chắc chắn tôi sẽ bị trả đũa sau này. Từ sau ngày đó, tôi thấy bọn chúng bớt hống hách hơn với anh em Đại tá.
Viết xong CUỘC ĐỜI TÔI th́ tiếp đến viết về đề tài CÁC TƯỚNG NGỤY, viết tất cả những Tướng nào mà ḿnh biết, tôi chỉ viết các Tướng tư lệnh LLĐB đă chỉ huy trực tiếp tôi mà thôi, tôi vẫn lập luận là cấp Tướng th́ đương nhiên phải giỏi hơn tôi, tôi làm sao giỏi hơn để phê b́nh họ được ? Tôi chỉ nói sơ lược cách hành xử của các Tướng tư lệnh mà không một phê b́nh nào về đúng hay sai nên cán bộ bực tôi lắm ! Cũng thành thực mà nói trong số mấy trăm Đại tá cũng có một hai người phê b́nh cấp Tướng chỉ huy của ḿnh, anh em nói nhỏ với nhau là tên đó không được ông Tướng chỉ huy nâng đỡ nên bây giờ là có dịp để trả thù ! Một buổi sáng nọ, tất cả lên Hội trường để nghe cán bộ ở Bộ nội vụ về nói chuyện, khi đă ngồi yên vị, cán bộ liền nói "Hôm nay là buổi họp mặt để phê b́nh những khai báo của các anh trong mấy tháng qua, có 3 anh đáng được đưa ra để anh em phê b́nh xây dựng, đó là anh Phan Văn Huấn, anh Tạ Thành Long, và anh Lư Văn Minh đă có những tư tưởng không tốt như anh Huấn chẳng hạn, anh Huấn viết là : "Tôi chưa bao giờ nói dối với các con tôi, ngày đi tŕnh diện học tập cải tạo, tôi đă nói Chính phủ Cách mạng chỉ bắt đi học tập cải tạo một tháng rồi ba sẽ trở về với các con, nay đă 3 năm rồi không thấy về nhưng tôi không biết giải thích với các con tôi như thế nào, vậy xin Cán bộ chỉ giùm cho, các anh cho biết những thắc mắc của anh Huấn như thế có đúng không ?” Cán bộ nói xong liền cho anh em nghĩ 10 phút để suy nghĩ và góp ư phê b́nh. Trong thời gian đó, tôi thấy nhiều Cán bộ gọi nhiều người ngồi riêng để nói chuyện nhỏ to ǵ đó, tôi biết chắc là cán bộ khuyên dụ anh em phải phê b́nh tôi không biết ơn Cách mạng đă tha tội chết cho mà c̣n đặt những câu hỏi làm mất uy tín Cách mạng. Đến giờ vào họp lại th́ lần lược các anh Cao Văn Ủy, Phạm Bá Hoa, Phan Thông Tràng, và nhiều anh em khác lần lược đứng lên phát biểu ư kiến, tôi biết chắc một điều là cộng sản chỉ cần một anh phê b́nh tôi là lập tức tôi bị cùm và dẩn đi kiên giam ở một nơi khác để dằn mặt các Đại tá. Như T/tá Hàng, Trưởng ty cảnh sát tỉnh Quảng Tín v́ chủ mưu trong việc mua Radio của một Cán bộ để nghe lén đài BBC nên bị đưa đi kiên giam, chỉ hôm sau là đă thấy tù h́nh sự khiêng xác đi chôn, Tr/tá Nguyễn văn An, LLĐB trốn trại hai lần bị bắt lại liền bị đưa ra trại Mễ kiên giam, ít lâu sau th́ cũng khiêng xác ra nghĩa địa ! Đội 20 lao động chống đối lao động liền bị đưa đi giam ở trại Mễ, chỉ ít lâu sau th́ có sáu bảy người nó nghi là xách động cũng đều bị khiêng xác ra nghĩa địa. Bây giờ số phận tôi nằm trong danh dự của các anh em Đại tá, thôi ta chấp nhận chết, đây cũng như là tử trận ở chiến trường mà ta đă chấp nhận từ lâu. Điều hănh diện hết sức là anh em cứ nói ṿng vo Tam Quốc, không đâu vào đâu hết khiến cho các Cán bộ bực tức mà chẳng biết làm ǵ hơn được.
Năm 1988, tôi và một số lớn tù được tha về vào mấy ngày trước Tết, về tới nhà tôi rất đau ḷng khi thấy vợ và 7 con đang sống trong cảnh nghèo nàn xơ xác, nhưng tôi cũng tự an ủi là ḿnh c̣n may mắn hơn nhiều anh em khác, khi về nhà đến nhà th́ không c̣n đủ vợ con. Ngày 18/3/93 vợ chồng tôi và 3 con được ra đi đến định cư tại California theo diện nhân đạo HO, tại đây đă có hội Thân Hửu Lực Lượng Đặc Biệt thành lập từ năm 1987 và đang ngưng hoạt động, do đó anh em đă đề nghị tôi đứng ra thành lập hội Gia Đ́nh 81 BCND/LLĐB để đại diện đầy đủ hơn cho các chiến hữu của cả hai Binh chủng BCD, LLĐB cũng như anh em Delta, và hội đă được thành lập ngày 04 tháng 7 năm 1993.
Kể từ ngày thành lập đến nay GĐ81/BCD/LLĐB đă liên lạc được trên 500 anh em Delta (kể cả BKQ), BCD và LLĐB, đă gây quỹ T̀NH THƯƠNG để tương trợ cho các gia đ́nh thương binh tử sĩ và anh em BCD/LLĐB nghèo khổ ở quê nhà, số tiền tương trợ đă lên tới trên 50,000 và đă được báo cáo chi tiết trên 28 bản tin nội bộ. Tuy GĐ81 là một hội riêng nhưng công việc làm đều được thực hiện dưới danh nghĩa chung cho cả hai đơn vị BCND và LLĐB v́ DANH DỰ của “Mầu cờ sắc áo”, và của chiếc nón màu Xanh lá cây rừng DŨNG CẢM.
Phan Văn Huấn
hoanglan22
01-04-2019, 22:36
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1323483&stc=1&d=1546641297
Lời giới thiệu: Giờ thứ 25 của ngày 30 tháng 4-1975, có một hạ sĩ quan Quân Cảnh của đại đội 1 tại Tổng Tham Mưu đă tự sát dưới chân cột cờ trước ṭa lầu chính. Một Quân Cảnh c̣n sống đến hôm nay sẽ kể lại câu chuyện. Nhưng trước đó xin quư vị nghe qua về cuộc đời của chính tác giả: Anh Huỳnh Hồng Hiệp gốc Kiến Ḥa, sinh sống tại Sài G̣n đă đầu quân vào binh chủng Quân Cảnh từ cấp binh nh́. Sau đó anh lên binh nhất rồi đi học lớp Hạ Sĩ Quan căn bản, trải qua lớp chuyên môn binh chủng rồi phục vụ tại Phú Quốc. Hàng ngày những hạ sĩ quan Quân Cảnh VNCH phải đối diện với 40,000 chiến binh cộng sản trong các trại giam. Đây là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn phức tạp và hiểm nghèo. Sau khi hiệp định Paris kư kết, trại tù binh giải tán, các tiểu đoàn Quân Cảnh của Phú Quốc trở về đất liền tham dự các buổi hành quân tảo thanh và b́nh định. Chiến dịch chấm dứt. Một số tiểu đoàn giải tán, binh sĩ chuyển qua Biệt Động Quân. Các hạ sĩ quan Quân Cảnh trong đó có thanh niên Kiến Ḥa Huỳnh Hồng Hiệp phải vào Dục Mỹ huấn nhục. Vừa vất vả, vừa bị các quân nhân đơn vị bạn ghét Quân Cảnh nên kỳ thị phá phách. Nhưng rồi mọi thứ cũng trôi qua và ở trong câu chuyện cuối tháng Tư sau đây, xin mời quư vị theo chân người hạ sĩ quan Quân Cảnh gian truân của chúng ta trên đường từ Dục Mỹ về Sài G̣n cho đến ngày cuối tại Bộ Tổng Tham Mưu.
Sau cơn hồng thủy 75, anh Huỳnh đă ở lại Sài G̣n rồi sau này mới vượt biên. V́ năm 75 chợt thấy ḿnh yêu nước nên ở lại. Chuyến vượt biên những năm sau là thảm kịch gia đ́nh. Nhưng đây lại là một câu chuyện khác. Hôm nay chúng ta chỉ nghe câu chuyện chấm dứt dưới chân cờ.
Riêng đối với các quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa đă chạy được qua ngả Tân Sơn Nhất vào tuần lễ cuối cùng. Nếu đi ngang qua cổng trại Trần Hưng Đạo của Bộ Tổng Tham Mưu th́ sẽ thấy Trung sĩ Huỳnh đứng giữ trật tự. Suốt tuần lễ dài như cả trăm năm, anh vẫn đứng gác cho đến giờ phút cuối để các cấp trên di tản theo hệ thống quân giai. Bởi v́ người trai Hiến Ḥa đă không biết tại sao trong những giờ phút đó, anh lại chợt thấy ḿnh yêu nước, yêu quân đội. Mà quân đội đối xử với anh có đẹp đẽ ǵ đâu?
Giao Chỉ San Jose.
* * *
Vào khoảng 8 giờ sáng, ngày 29 tháng 3-1975, tôi với một vài người bạn ra chợ Dục Mỹ để uống cà phê và cũng để nghe ngóng t́nh h́nh chiến sự. Tin tức từ những quân nhân hướng Khánh Dương chạy về cho biết là pḥng tuyến này do các chiến sĩ Nhảy Dù ngăn chận Cộng quân đă đổ vỡ. Chúng tôi lập tức trở về TTHL Dục Mỹ th́ quang cảnh quân trường đă thay đổi hẳn. Các khóa sinh và cơ hữu của trung tâm ra các giao thông hào trong tư thế sẵn sàng tác chiến. Biến động này làm cho nhóm 17 khóa sinh gốc Quân Cảnh chúng tôi lại thêm hoang mang. Số là nhóm chúng tôi đă thụ huấn xong khóa cuối Rừng Núi Śnh Lầy và có danh sách được trở về binh chủng Quân Cảnh. Khóa học đă măn hơn 10 ngày rồi mà chưa có Sự Vụ Lệnh để tŕnh diện đơn vị. Chúng tôi cử một đại diện có cấp bậc cao nhất trong nhóm là Thượng Sĩ lên tŕnh diện Đại Tá CHT/TTHL Dục Mỹ sau khi đă qua các văn pḥng theo hệ thống quân giai. Đại tá Đại rất bận rộn nhưng ông vẫn cho gặp. Ông ngạc nhiên về trường hợp chậm trễ. Tuy nhiên sau cùng, ông lục ở ngăn kéo nơi làm việc t́m ra được Sự Vụ Lệnh mà ông đă kư rồi và đưa ra trao cho trưởng toán chúng tôi. Khi nhận được Sự Vụ Lệnh th́ Quân Trường Dục Mỹ không thể cung cấp phương tiện đến Nha Trang. Chúng tôi đành tự túc mạnh ai nấy đi. Đến chiều khoảng 1 giờ, chúng tôi gặp nhau tại ở Nha Trang với hy vọng t́m được máy bay về Sài G̣n. Tôi và vài bạn nữa đi ngang qua Bộ Tư Lệnh QĐ II th́ lá cờ tướng đă hạ xuống, Quân Cảnh gác cổng không c̣n. Đi quan Bộ Chỉ Huy BĐQ QK II th́ cũng vườn hoang nhà trống. Súng M16 cả đống nên mỗi anh em nhặt một cây để pḥng thân. Không có phương tiện của quân đội nên chúng tôi mạnh ai nấy đi bằng cách đổ ra ngả Ba Thành và leo xe nhà binh t́m đường xuôi Nam. Lúc bấy giờ có Quân Cảnh Hiệp, người lớn tuổi hơn tôi nên bạn bè gọi là Hiệp Già. Anh có một vợ 5 con, đơn vị gốc là Tiểu đoàn 8 Quân Cảnh, cùng học chung với tôi mấy khóa ở Trường Quân Cảnh và Trường HSQ Đồng Đế. Suốt đêm hôm đó và đến khoảng 3 giờ chiều hôm sau, đoàn xe di tản đến thị xă Phan Thiết. Khi xe ra khỏi Phan Thiết một đỗi chúng tôi gặp một số quân nhân chạy ngược lại, được biết Việt cộng phục kích và có giao tranh ở ngả ba B́nh Tuy (Rừng Lá). Tin này làm chúng tôi chùn chân v́ tôi biết chắc với đám quân không có chỉ huy nếu gặp Việt cộng th́ chỉ có chết. Sở dĩ tôi nghĩ như thế là v́ suốt từ nhiều ngày qua đă có lúc giành mấy củ khoai ở cổng Ba Làng Cam Ranh mà bắn nhau chết. Thị xă Phan Thiết đang yên lành th́ bị cướp, bị phá cửa sắt lấy bia, nước đá, thực phẩm tạo ra sự giành giựt rồi giết nhau. Điều này ai có đi khoảng thời gian đó đều biết. Với máu Quân Cảnh trong người, tôi rất bất măn nhưng không thể làm ǵ được. Sau cùng, tôi bàn với anh Hiệp già là nên trở lại Phan Thiết t́m ghe hoặc tàu bè về Vũng Tàu chắc ăn hơn. Anh Hiệp không đồng ư nên chúng tôi chia tay. Sau cùng tôi cũng t́m đường thủy về Sài G̣n qua ngả Vũng Tàu. Tŕnh diện ở trại đường Tô Hiến Thành xong, được lệnh trả tôi về binh chủng. Tôi bắt thăm trúng được Tiểu đoàn 5 Quân Cảnh. Nỗi vui mừng thật lớn, coi như thoát được nạn trong mấy ngày vừa qua. Hơn sáu năm đi lính, lần đầu tiên bắt thăm được trúng đơn vị ở gần nhà. Biết bao là mừng vui. Tại Ban Nhân Viên Tiểu Đoàn tôi được lệnh tăng phái cho Đại đội 1 Quân Cảnh tại Bộ TTM. Thật t́nh mà nói, tôi chỉ được nghe tên vị Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu tá Hưng hay Trung tá Hưng (không rơ), c̣n các Đại Đội Trưởng và Trung Đội Trưởng của tôi tôi chưa kịp gặp mặt, hoàn toàn không biết là ai. Cứ nhận lệnh đi tăng phái đă. Tôi không nhớ chính xác bao nhiêu quân nhân từ Tiểu đoàn 5 Quân Cảnh tới tăng cường cho Đại Đội 1 Quân Cảnh, h́nh như khoảng 15 anh em ǵ đó. Nhiệm vụ chúng tôi đứng các nút chặn ngả ba Chú Ía, ngả tư Vơ Duy Nguy Vơ Tánh, Vơ Tánh gần Bệnh Viện III Dă Chiến Hoa Kỳ, và Vơ Tánh gần ngả ba Trương Quốc Dung. Có một ngày, vào khoảng 15 tháng 4-1975, tôi gặp lại một bạn Quân Cảnh cùng chạy ở Dục Mỹ hỏi thăm anh Hiệp Già và được biết anh bị một viên đạn bắn sẻ của Việt cộng trúng ngay giữa tam tinh gần ngả ba Rừng Lá. Tôi bần thần về tin này cả tuần. Trong thời gian tăng phái cho TTM, ngày đứng đường, đêm về các điểm pḥng thủ trong Tổng Tham Mưu. Có một đêm tôi nằm dưới thềm Tổng Cục Tiếp Vận coi TV thấy Tổng thống Thiệu đọc diễn văn chửi Mỹ. Mắt coi TV, tai nghe đạn pháo kích ḷng dạ sao xuyến tan nát. Cường độ pháo của cộng quân càng tăng. Trước 3 trái th́ 2 trái vô Tân Sơn Nhất c̣n trái vô TTM. Sau 2 trái th́ 1 trái vô Tân Sơn Nhất và 1 trái vô TTM. Nghe quen, tôi cũng bắt chước số anh em khác mà đoán tầm gần xa, lúc nào sắp nổ. Tôi vẫn ở TTM nhưng phạm vi hoạt động rút lại gần hơn và chịu pháo nhiều hơn. Trong thời gian này, bên gia đ́nh vợ tôi có đường chạy ra ngoại quốc. Nếu muốn đi th́ chắc chắn chúng tôi sẽ ra đi b́nh yên. Tôi là hạ sĩ quan với sắc phục Quân Cảnh. Đi đâu cũng gặp toàn bạn bè cùng binh chủng. Không những đi dễ dàng mà c̣n lo cho được cả gia đ́nh họ hàng. Nhưng không biết tại sao vào những giây phút đó tôi lại thấy ḿnh yêu nước. Bỏ đi không đành. Đó là tấm ḷng thành thực, nghĩ sao th́ nói vậy. Sau này vợ tôi cứ nói măi về vụ di tản. Bây giờ bả không c̣n nữa nhưng tôi vẫn c̣n nghe như tiếng nói than thở bên tai.
Sáng ngày 30 tháng 4-1975: Tôi được lệnh tăng cường cho cổng 1 TTM. Lúc bấy giờ cộng quân gia tăng cường độ pháo kích dữ dội. Các Quân Cảnh cơ hữu của Đại Đội 1 Quân Cảnh rất bận rộn. Có tin cổng 4 có một số sĩ quan TTM phá rào chui ra đến nỗi Quân Cảnh Đại Đội 1 TTM phải dùng hàng rào người mà cản lại. Cũng có một số sĩ quan cấp Trung và Đại Tá tự kư Sự Vụ Lệnh ra cổng. Chưa đến nỗi hỗn loạn nhưng Quân Cảnh khá mệt nhọc vất vả mới giữa được trật tự. Lệnh Tướng Hạnh là nội bất xuất, ngoại bất nhập. Chúng tôi th́ chỉ có nhiệm vụ yểm trợ cho Đại Đội 1 Quân Cảnh mà thôi. Tôi quan sát tại điếm canh cổng số 1 có anh Quân Cảnh làm việc thật tích cực và hiệu quả. Nh́n kỹ ra là anh Minh người cao lớn. Tôi thật t́nh quên mất họ của Minh là Trần hay Nguyễn. Nhưng có thể là Trần Văn Minh. Minh cùng chung một khóa với tôi ở Trường HSQ Đồng Đế. Đó là khóa 1/71 Đặc Biệt HSQ hiện dịch, lúc đó tướng Linh Quang Viên làm Chỉ Huy Trưởng. Sau đó chúng tôi gặp lại nhau tại Trường Quân Cảnh một hai lần nữa. Giờ đây, rơ ràng là Minh đang ở Đại Đội 1 Quân Cảnh TM. Giơ tay chào nhau, nói vài câu, rồi ai làm việc nấy. Lúc đó tôi ở cổng chánh khoảng 100 mét về hướng ṭa nhà chánh.
11 giờ 30 ngày 30 tháng 4-1975: Lúc 11 giờ 30, từ cổng 1 TTM tôi nghe súng nổ dữ dội ở phía Bệnh Viện Dă Chiến Hoa Kỳ, th́ ra các anh em LĐ 81 BCND đang bắn xe tăng Việt cộng. Khi chiếc xe T54 của Việt cộng có treo cờ GPMN hướng về cổng 1 TTM th́ tất cả chúng tôi lái xe Jeep rút về văn pḥng Đại Đội 1 Quân Cảnh v́ xe cộ đồ đạc tất cả đều để đây. Khi xe ngừng, Minh bước xuống và nước mắt đă đầm đ́a. Tôi nh́n Minh mà lo cho thân ḿnh nên vội vàng cột ba lô mang súng ống, rồ xe Mobylette phóng chạy. Cái cảnh lúc đó thật là hoảng loạn, mạnh ai nấy lo, giành đường thoát ra.
11 giờ 40 ngày 30 tháng 4-1975: Sau lưng tôi, Minh khóc và nói một ḿnh “Thôi rồi, mất nước rồi.” Nói xong anh Minh bước tới gần cột cờ, nghiêm chỉnh đưa tay lên, chào xong móc khẩu Colt 45 bên hông kê lên màng tang. Một tiếng nổ đơn độc vang lên. Tôi chắc tiếng nổ đó đă ḥa tan trong tiếng máy của hàng trăm chiếc xe Honda, Vespa, Suzuki. Minh ngă xuống. Trung sĩ I Trần Văn Minh đă trả xong nợ nước vào giờ thứ hai mươi lăm. Tôi là một người sợ chết nên nh́n Minh một lần chót, nén xúc động và chạy thoát thân với hàng đoàn người kia. Giờ đây Minh họ Nguyễn hay Trần tôi không biết chắc. Anh đă chết thật hay chỉ bị thương cũng không biết chắc. Có điều Minh đă làm một việc thật là đáng để tôi quỳ xuống mà lạy anh. Tất cả các đoạn trên tôi viết dông dài chỉ nhằm mục đích kể lại đoạn cuối về cái chết của một Quân Cảnh tại Bộ Tổng Tham Mưu. Chúng tôi là binh chủng lo về quân kỷ của quân đội. Xin các anh em chiến hữu hiểu rằng chúng tôi cũng sống chết với quân đội như anh em. Và trong hàng ngũ hạ sĩ quan chúng tôi cũng có người tự vẫn dưới ngọn cờ Tổng Tham Mưu vào giờ thứ 25. Gần 30 năm qua, ngồi cố nhớ mà viết lại chắc có nhiều chi tiết thiếu sót, ước mong các chiến hữu bổ khuyết dùm cho.
Quân Cảnh Huỳnh Hồng Hiệp, San Jose
hoanglan22
01-04-2019, 22:53
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1323484&stc=1&d=1546642094
Hải Quân Đại Tá Hà Văn Ngạc
Đôi lời trước khi viết
Đă 25 năm kể từ ngày tôi tham-dự trận hải-chiến Hoàng-Sa, tôi chưa từng tŕnh bầy hay viết mô-tả lại về trận đánh này, ngay cả có nhiều lần tôi đă thất hứa với các bậc tiên-sinh yêu-cầu tôi thuật lại chi-tiết của cuộc đụng-độ. Dù thắng hay bại, chỉ có một điều duy-nhứt không thể chối căi được là các chiến-hữu các cấp của Hải-quân Việt-Nam Cộng-Ḥa trong trận hải-chiến đă anh-dũng chiến-đấu bằng phương-tiện và kinh-nghiệm có trong tay để chống lại một kẻ xâm-lăng truyền-kiếp của dân-tộc hầu bảo-vệ lănh-thổ của Tổ-quốc. Trước một thù-địch có sức mạnh gấp bội, dù cuộc-chiến có hạn-chế hay kéo dài hoặc mở rộng, phần cuối là chúng ta vẫn phải tạm lùi bước trước các cuộc cường-tập của đối-phương để t́m-kiếm một cơ-hội thuận-tiện khác hầu khôi-phục lại phần đất đă bị cưỡng-chiếm.
Hôm nay nhân ngày Tết Kỷ-Măo, tôi viết những gịng này để tưởng-niệm anh-linh các liệt-sĩ đă hy-sinh khi cùng tôi chiến-đấu chống kẻ xâm-lăng trên các mảnh đất xa vời của Quốc-Tổ, một số đă vĩnh-viễn nằm lại trong ḷng biển Hoàng-Sa như để thêm một chứng-tích lịch-sử của chủ-quyền quốc-gia, một số khác đă bỏ ḿnh trên biển cả khi t́m đường thoát khỏi sự tàn-bạo của người phương bắc.
Có nhiều chiến-hữu Hải-quân đă từng hăng-say viết lại một trang-sử oai-hùng của Hải-quân và toàn Quân-lực Việt-Nam của nền Đệ-Nhị Cộng-Ḥa, nhưng đă thiếu-xót nhiều chi-tiết chính-xác mà vào những năm trước 1975 chưa được phép phổ-biến, và cũng v́ phải lưu-lạc khắp thế-giới tự-do nên các chiến-hữu đó đă không thể liên-lạc để tham-khảo cùng tôi.
Nhiều chi-tiết về giờ-giấc và về vị-trí bạn và địch, cũng như tên họ của các cấp có liên-hệ tới biến cố, v́ không có tài-liệu truy-lục, nên chỉ có thể viết vào khoảng gần đúng nhất. Tôi chỉ tường-thuật trung-thực những chi-tiết theo khía-cạnh của một người chỉ-huy chiến-thuật được biết và cũng mong-mỏi các chiến-hữu nào c̣n có thể nhớ chắc-chắn các chi-tiết quan-trọng khác, tôi sẽ sẵn-sàng tiếp-nhận qua ṭa-soạn này, để sửa lại tài-liệu này cho đúng.
Hà-Văn-Ngạc
“Tân xuân Giáp-Dần Hoàng-Sa-chiến
Nam-ngư hải-ngoại huyết lưu hồng”
Hai câu thơ với lối hành-văn vận theo sấm Trạng-Tŕnh đă được truyền-khẩu rất nhanh khi Hải-đội Đặc-nhiệm Hoàng-Sa trở về tới Đà-nẵng vào sáng sớm ngày 20 tháng 4 năm 1974. Và câu thơ này do chính Hải-quân Đại-Tá Nguyễn-Viết-Tân (thủ-khoa Khóa 5 của tôi) lúc đó đang giữ chức-vự Chỉ-huy-trưởng Sở Pḥng-Vệ Duyên-hải, đọc cho tôi nghe. Từ ngày đó tới nay đă đúng 25 năm, và do sự khuyến-khích của các bậc thượng-trưởng của Hải-quân Việt-Nam, những chi-tiết về diễn-tiến chưa tùng tiết-lộ của trận hải-chiến cần được ghi lại để làm chứng-liệu lịch-sử.
Sau trận hải-chiến, những ưu và khuyết điểm về chiến-thuật và chiến-lược của Hải-quân Việt-Nam Cộng-Ḥa đến nay nếu nêu ra th́ sẽ không c̣n một giá-trị thực-tiễn nào để có thể làm những bài học cho những biến-cố kế-tiếp. V́ vậy một vài điều nếu có nêu ra tại đây th́ chỉ để ghi lại t́nh-trạng và khả-năng khi Hải-quân Việt-Nam Cộng-Ḥa khi đă phải đương đàu với Trung-cộng, là một quốc-gia vào thời-điểm đó, đă sẵn có một lực-lượng hùng-hậu về hải-lục-không-quân gấp bội của Việt-Nam Cộng-Ḥa.
Một điểm hănh-diện cho Hải-quân Việt-Nam Cộng-Ḥa lúc bấy giờ là đă không những phải sát-cánh với lực-lượng bạn chống lại kẻ nội-thù là cộng-sản miền bắc trong nội-địa, lại vừa phải bảo-vệ những hải-đảo xa-xôi, mà lại c̣n phải chiến-đấu chống kẻ xâm-lăng, đă từng biết bao lần dầy xéo đất nước trong suốt lịch-sử lập-quốc và dành quyền độc-lập của xứ sở.
So-sánh với các cuộc hành-quân ngoại-biên vào các năm 1970-71 của Quân-lực VNCH sang đất Kampuchia va Hạ-Lào, th́ quân-lực ta chỉ chiến đẵu ngang ngửa vơi cộng-sản Việt-Nam ẩn náu trên đất nước láng-giềng mà thôi. Phải thành-khẩn mà nhận rằng Hải-quân Việt-Nam Cộng-Ḥa ngoài nội-thù c̣n phải chống ngoại-xâm mà đă rất khó tiên-liệu để chuẩn-bị một cuộc chiến chống lại một lực-lượng hải-quân Trung-cộng tương-đối dồi-đào hơn cả chúng ta về phẩm cũng như lượng. Hải-quân Việt-Nam ta đă có những gánh nặng về hành-quân để yểm-trợ lực-lượng bạn và hành-quân ngăn-chận các vụ chuyển-quân lén-lút của Việt-cộng qua biên-giới Miên-Việt trong vùng sông ng̣i cũng như các vụ tiếp-tế quân-dụng của chúng vào vùng duyên-hải.
Trước khi đi vào chi-tiết của trận hải-chiến lịch-sử này, chúng ta thử nhắc sơ-lược lại cấu-trúc nhân-sự
của thượng-tầng chỉ-huy và của các đơn-vị tham-chiến của Hải-quân vào lúc biến-cố:
Tư-lệnh Hải-quân: Đề-Đốc Trần-văn-Chơn
Tư-lệnh-phó Hải-quân: Phó Đề-Đốc Lâm-ngươn-Tánh
Tham-mưu-Trưởng Hải-quân: Phó Đề-Đốc Diệp-quang-Thủy
Tư-lệnh Hạm-đội: HQ Đại-tá Nguyễn-xuân-Sơn
Tư-lệnh HQ Vùng 1 Duyên-hải: Phó Đề-Đốc Hồ-văn Kỳ-Thoại
Chỉ-huy-trưởng Hải-đội tuần-dương: HQ Đại-tá Hà-văn-Ngạc, (Hải-đội 3) và là Sĩ-quan chỉ-huy chiến-thuật trận hải-chiến.
Hạm-trưởng Khu-trục-hạm HQ4: HQ Trung-Tá Vũ-hữu-San
Hạm-trưởng Tuần-dương-hạm HQ5: HQ Trung-Tá Phạm -trọng- Quỳnh
Hạm-trưởng Tuần-dương-hạm HQ16: HQ Trung-Tá Lê-văn-Thự
Hạm-trưởng Hộ-tống-hạm HQ10: HQ Thiếu-Tá Ngụy-văn-Thà (truy-thăng HQ Trung-Tá)
Trưởng toán Hải-kích đổ-bộ: HQ Đại-Úy Nguyễn-minh-Cảnh.
Diễn tiến trận hải chiến ngày 19/01/1974
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1323485&stc=1&d=1546642094
Sơ đồ điều quân của trận hải chiến Hoàng Sa quanh hai đảo Duy Mộng và Quang Hoà Đông .Sơ đồ này dựa theo các vị trí trong Phúc tŕnh Hành Quân Hoàng Sa của Soái hạm HQ 5 có chữ kư và đóng dấu của HQ Trung Tá Pham Trọng Quỳnh .
Lư-do tôi đă có mặt tại Hoàng-Sa
Rất nhiều chiến-hữu trong Hải-quân đă không rơ nguyên-cớ nào mà tôi đă có mặt để đích-thân chỉ-huy tại chỗ trận hải-chiến Hoàng-Sa. Sự có mặt của tôi bắt nguồn từ khi tôi được Hội-đồng Đô-đốc chỉ-định tôi tăng-phái cho Vùng I duyên-hải khoảng từ cuối năm 72 đầu 1973. Lư do tăng-phái của tôi đến Vùng I duyên-hải tôi không được biết trước cho đến khi tôi tới Quân-Khu 1, tôi mới được biết nhiệm-vụ chính của tôi là chuẩn-bị một trận thư-hùng giữa Hải-quân VNCH và hải-quân Bắc-Việt mà lúc đó, tin t́nh-báo xác-nhận là cộng-sản đă được viện-trợ các cao-tốc-đĩnh loại Komar của Nga-sô trang-bị hỏa-tiễn hải-hải (surface to surface). Vào thời-gian đó Hải-quân VNCH chỉ có khả-năng chống-đỡ thụ-động loại vũ-khí này. Cuộc hải-chiến tiên-liệu có thể xẩy ra khi lực-lượng hải-quân cộng-sản tràn xuống để hỗ-trợ cho quân-bộ của chúng khi chúng muốn tái-diễn cuộc cường-tập xuất-phát từ phía bắc sông Bến-Hải như vào ngày cuối tháng 3 năm 1972 để khởi phát các cuộc tấn-công suốt mùa hè đỏ lửa 1972.
Tôi lưu lại Vùng I duyên-hải chừng hai tuần lễ hầu nghiên-cứu để thiết-kế. Kế-hoạch chính của cuộc hải-chiến này là xử-dụng nhiều chiến-hạm và chiến-đỉnh (WPB và PCF) để giảm bớt sự thiệt-hại bằng cách trải nhiều mục-tiêu trên mặt biển cùng một lúc. Song-song với việc này là các chiến-hạm và chiến-đĩnh phải xử-dụng đạn chiếu-sáng và hỏa-pháo cầm-tay như là một cách chống hỏa-tiễn thụ-động. Ngoài ra Hải-quân cũng cần đặt ra sự yểm-trợ của pháo-binh của Quân-đoàn I để tác-xạ ngăn-chặn và tiêu-diệt lực-lượng hải-quân cộng-sản tại phía bắc Cửa Việt trước khi họ tràn xuống phía nam để đủ tầm phóng hỏa-tiễn.
Sau khi đă thuyết-tŕnh tại Bộ-Tư-Lệnh Hải-quân Vùng I duyên-hải cùng các Chỉ-huy-trưởng các đơn-vị duyên-pḥng và duyên-đoàn, Tư-lệnh HQ Vùng I duyên-hải chấp-thuận kế-hoạch và đưa kế-hoạch lên thuyết-tŕnh tai Bộ-Tư-Lệnh Quân-đoàn I và Quân-Khu I. Buổi thuyết-tŕnh tại BTL/Quân-đoàn I do đích-thân Trung-Tướng Ngô-quang-Trưởng chủ-tọa, ngoài Tư-lệnh HQ Vùng I duyên-hải c̣n có Đại-Tá Hà-mai-Việt Trưởng Pḥng 3 Quân-đoàn, Đại-tá Khiêu-hữu-Diêu, Đại-Tá Nguyễn-văn-Chung Chỉ-huy-trưởng pháo-binh Quân-đoàn và một số rất ít các sĩ-quan phụ-tá. Nhu-cầu yểm-trợ pháo-binh cho cuộc hải-chiến được chấp-thuận ngay và Chỉ-huy-trưởng pháo-binh quân-đoàn hứa sẽ phối-trí pháo-binh, đặc-biệt là pháo-binh 175 ly để thỏa-măn kế-hoạch của Hải-quân, khi được yêu-cầu.
Kể từ khi được chỉ-định tăng-phái, tôi thường có mặt tai Vùng I duyên-hải mỗi tháng chừng hai tuần tùy theo công-việc của tôi tại Hải-đội, nhưng chưa lần nào Bộ-Tư-lệnh HQ, Bộ-Tư-lệnh Hạm-đội hoặc Vùng I Duyên-hải chỉ-thị tôi phải có mặt trong vùng. Khi có mặt tại vùng tôi thường t́m-hiểu t́nh-h́nh tổng-quát tại Quân-Khu I cũng như đi hoặc tháp-tùng Tư-lệnh HQ vùng I duyên-hải thăm-viếng các đơn-vị lục-quân bạn cấp sư-đoàn, lữ-đoàn hay trung-đoàn.
Trở lại trận hải-chiến Hoàng-Sa, vào khoảng ngày 11 tháng giêng năm 1974, chỉ khoảng vài ngày sau khi Ngoại-trưởng Hoa-Kỳ Kissinger rời Trung-cộng, th́ đột-nhiên Ngoại-trưởng Trung-cộng lại một lần nữa tuyên-bố về chủ-quyền của họ trên các quần-đảo Hoàng và Trường-Sa. Tôi rất lưu-ư tin này v́ tôi đă chỉ-huy công-cuộc đặt quân trú-pḥng đầu tiên trên đảo Nam-Yết vùng Trường-Sa vào cuối mùa hè 1973. Vài ngày sau, v́ Ngoại-trưởng VNCH Vương-văn-Bắc c̣n bận công-cán ngoại-quốc, th́ phát-ngôn-viên Bộ Ngoại-giao VNCH bác-bỏ luận-cứ của Trung-cộng và tái xác-nhận một lần nữa chủ-quyền của VNCH trên các quần-đảo đó.
Ngày 16 tháng giêng năm 1974, tôi từ Sàig̣n đi Vũng-Tầu để chủ-tọa lễ trao-quyền chỉ-huy Tuần-dương-hạm HQ5 Trần-b́nh-Trọng đang neo tại chỗ, cho tân-hạm-trưởng là Hải-quân Trung-tá Phạm-trong-Quỳnh (tôi không c̣n nhớ tên cựu hạm-trưởng). Khi trở về Sàig̣n, lúc theo dơi bản tin-tức hàng ngày của đài truyền-h́nh th́ thấy Ngoại-trưởng Vương-văn-Bắc hùng-hồn và nghiêm-trọng khi tuyên-bố chủ-quyền của VNCH trên 2 quần-đảo Hoàng và Trường-Sa. Tôi thấy có chuyện bất-ổn có thể xẩy ra tại Vùng I duyên-hải nhất là Việt-cộng có lẽ được Trung-cộng hỗ-trợ tạo ra t́nh-thế rắc-rối ngoài hải-đảo để thu-hút lực-lượng của Hải-quân Việt-Nam, và đương nhiên cộng-sản sẽ lợi-dụng để tràn-xuống dưới vĩ-tuyến 17 như đă dự-liệu.
Nên sáng sớm ngày 17, không kịp thông-báo đến Tư-lệnh Hạm-đội; tôi lên phi-trưởng Tân-sơn-Nhứt và đến thẳng ngay Trạm hàng-không quân-sự. Tôi gặp ngay một vị Thượng-sĩ không-quân trưởng-trạm và nói là tôi cần đi gắp ra Đà-nẵng. Vị Thượng-sĩ tŕnh với tôi là danh-sách hành-khách đă đầy-đủ cho chuyến bay và giới-thiệu tôi gặp vị Trung-úy phi-công-trưởng phi-cơ C130. Sau khi tŕnh-bầy lư-do khẩn-cấp đi Đà-nẵng của tôi, vị phi-công-trưởng trang-trọng mời tôi lên phi-cơ ngồi vào ghế phụ trong pḥng phi-công.
Đến Đà-nẵng khoảng 9:00 sáng, tôi mới kêu điện-thoại cho HQ Đại-tá Nguyễn-hữu-Xuân, Tư-lệnh-phó Vùng cho xe đón tôi tại phi-trường. Đến BTL/HQ Vùng I duyên-hải tôi mới được biết chi-tiết những ǵ đang xẩy ra tại Hoàng-Sa, và được biết thêm là chiếc tuần-dương-hạm HQ5, mà tôi vừa chủ-tọa trao quyền chỉ-huy ngày hôm qua tại Vũng-Tàu sẽ có mặt tại quân-cảng vào buổi chiều tối cùng với biệt-đội hải-kích.
Tư-lệnh HQ vùng I duyên-hải cũng cho tôi hay và giơ một tờ giấy nhỏ nói là ông có thủ-bút của Tổng-thống vừa tới thăm bản-doanh trước đây, nhưng tôi không hỏi về chi-tiết cũng như xin xem thủ-bút v́ tôi nghĩ đó là chỉ-thị riêng tư giữa Tổng-Thống và một vị Tướng-lănh. Vị Tư-lệnh này c̣n cho tôi hai chọn-lựa: một là chỉ-huy các chiến-hạm ngay tại Bộ-Tư-lệnh Vùng, hai là đích-thân trên chiến-hạm. Tôi đáp tŕnh ngay là: Tôi sẽ đi theo các đơn-vị của tôi. Từ ngày được thuyên-chuyển về Hạm-đội, không như các vị tiền-nhiệm, tôi thường xa Bộ-chỉ-huy để đi theo các chiến-hạm trong công-tác tuần-dương. Mỗi chuyến công-tác, sự hiện-diện của tôi đă mang lại cho nhân-viên chiến-hạm niềm phấn-khởi sau nhiều ngày phải xa căn-cứ. Tôi thường lưu ư các vị hạm-trưởng đến việc huấn-huyện nội-bộ hoặc thao-dượt chiến-thuật với chiến-hạm khác khi được phép.
Đến khoảng buổi chiều th́ Tư-lệnh vùng I duyên-hải c̣n hỏi tôi có cần thêm ǵ, tôi tŕnh xin thêm một chiến-hạm nữa v́ cần hai chiếc khi di-chuyển trong trường-hợp bị tấn-công trên hải-tŕnh, chứ không phải v́ số lượng chiến-hạm Trung-cộng đang có mặt tại Hoàng-Sa. Chiếc Hộ-tống-hạm (PCE) HQ10 Nhựt-Tảo đựơc chỉ-định xung vào Hải-đoản đặc-nhiệm, với lư-do chính là chiếc Hộ-tống-hạm này đang tuần-dương ngay khu-vực cửa khẩu Đà-nẵng nên giảm bớt thời-gian di-chuyển, chiến-hạm chỉ có một máy chánh khiển-dụng mà thôi. Ngoài ra vị Tư-lệnh HQ vùng c̣n tăng-phái cho tôi HQ Thiếu-Tá Toàn (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: HQ Thiếu Tá Nguyễn Chí Toàn, Khóa 11 SQHQ/Nha Trang), mà tôi chưa biết khả-năng nên trong suốt thời-gian tăng-phái tôi chỉ trao nhiệm-vụ giữ liên-lạc với các Bộ Tư-lệnh cho vị sĩ-quan này. Tôi dùng cơm chiều gia-đ́nh cùng Tư-lệnh HQ Vùng tại tư-thất trong khi chờ đợi Tuần-dương-hạm HQ5 tới. Sau bữa ăn, Tư-lệnh HQ Vùng đích-thân đi bộ tiễn-chân tôi ra cầu quân-cảng. Sau trận-chiến, vị Đô-đốc này có thổ-lộ cùng tôi là ông đă tưởng đó là bữa cơm cuối cùng của ông với tôi. Như vậy là trận hải-chiến đă dự-liệu là sẽ có thể xẩy ra, và chắc vị Đô-đốc đă mật-tŕnh về Tư-lệnh Hải-quân thường có mặt tại Bộ-Tư-lệnh.
Tuần-dương-hạm HQ5 rời bến khoảng 09:00 tối và tôi trao nhiệm-vụ đi tới Hoàng-Sa cho Hạm-trưởng HQ5 là vị hạm-trưởng thâm-niên hơn (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: HQ5 và HQ10 cùng đi Hoàng Sa, Hạm Trưởng HQ5 là Trung Tá Quỳnh thuộc khóa 11 SQHQ Nha Trang, thâm niên hơn Hạm Trưởng HQ5 là Thiếu Tá Thà thuộc khóa 12 SQHQ Nha Trang). Sự hiện-diện của tôi trên chiến-hạm này đă làm tân-hạm-trưởng, vừa nhậm-chức 2 ngày trước, được vững-tâm hơn v́ chắc tân-hạm-trưởng chưa nắm vững được t́nh-trạng chiến-hạm cũng như nhân-viên thuộc-hạ. Các chiến-hạm đều giữ im-lặng vô-tuyến ngoại trừ các báo-cáo định-kỳ về vị-trí.
Những diễn-tiến ngày hôm trước trận hải-chiến
Khoảng 8 hay 9:00 giờ sáng ngày 18, hai chiến-hạm HQ5 và HQ10 đă đến gần Hoàng-Sa, và trong tầm âm-thoại bằng máy VRC46 (hậu-thân của máy PRC25 nhưng với công-xuất mạnh hơn) để liên-lạc bằng bạch-văn, v́ tầm hữu-hiệu của máy chỉ ở trong vùng Hoàng-Sa mà thôi, tôi nói chuyện với Hạm-trưởng HQ4 HQ Trung-tá Vũ-hữu-San, lúc đó đang là sĩ-quan thâm-niên hiện-diện, để được am-tường thêm t́nh-h́nh cũng như thông-báo về sự hiện-diện của tôi, vừa là Chỉ-huy-trưởng Hải-đội vừa là để thay-thế quyền chỉ-huy mọi hoạt-dộng, theo đúng thủ-tục ghi trong Hải-quy. Sau khi được tŕnh bầy chi-tiết các diễn-tiến, tôi có lời khen ngợi Hạm-trưởng này và chia sẻ những khó-khăn mà vị này đă trải qua trong những ngày trước khi tôi có mặt tại vùng.
Vào khoảng xế trưa, th́ cả 4 chiến-hạm (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: HQ4, HQ5, HQ10 và HQ16) đều tập-trung trong vùng ḷng chảo của quần-đảo Hoàng-Sa và Hải-đoàn đặc-nhiệm được thành h́nh. Nhóm chiến-binh thuộc Tuần-dương-hạm HQ16 và Khu-trục-hạm HQ4 đă đổ-bộ và trương quốc-kỳ VNCH trên các đảo Cam-Tuyền (Robert), Vĩnh-Lạc (Money) và Duy-mộng (Drummond) từ mấy ngày qua vẫn được giữ nguyên vi-trí pḥng-thủ để giữ đảo. Sau khi quan-sát các chiến-hạm Trung-cộng lởn vởn phía bắc đảo Quang-Ḥa (Duncan), tôi quyết-định ngay là hải-đoàn sẽ phô-trương lực-lượng bằng một cuộc thao-diễn chiến-thuật tập-đội để tiến về phía đảo Quang-Ḥa với hy-vọng là có thể đổ-bộ hải-kích như các chiến-hạm ta đă làm trước đây. Lúc này trời quang-đăng, gió nhẹ và biển êm. Tất cả chiến-hạm đều phải vào nhiệm-sở tác-chiến, nhưng các dàn hải-pháo và vủ-khí đại-liên phải ở trong thế thao-diễn. Khởi hành từ nam đảo Hoàng-Sa để tiến về đảo Quang-Ḥa, 4 chiến-hạm vào đội-h́nh hàng dọc, dẫn đầu là Khu-trục-hạm HQ4, theo sau là tuần-dương-hạm HQ5 làm chuẩn-hạm đă có trương hiệu-kỳ hải-đội, thứ ba là tuần-dương-hạm HQ16 và sau cùng là Hộ-tống-hạm HQ10, tốc-độ chừng 6 gút, khoảng cách giữa các chiến-hạm là hai lần khoảng cách tiêu-chuẩn (tức 1000 yard), phương-tiện truyền-tin là kỳ-hiệu và quang-hiệu, và âm-thoại bằng VRC46 hoặc PRC25 chỉ xử-dụng để tránh hiểu-lầm ám-hiệu vận-chuyển chiến-thuật mà thôi.
Chừng nửa giờ sau khi hải-đoàn vận-chuyển vào đội-h́nh hướng về phía đảo Quang-Ḥa th́ hai chiến-hạm Trung-cộng loại Kronstad mang số-hiệu 271 và 274 bắt đầu phản-ứng bằng cách vận-chuyển chặn trước hướng đi của hải-đoàn, nhưng hải-đoàn vẫn giữ nguyên tốc-độ, trong khi đó th́ hai chiếc chiến-hạm khác nhỏ hơn mang số 389 và 396 (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: đây là hai trục lôi hạm tức là tầu vớt ḿn loại T43) cùng 2 chiếc ngư-thuyền ngụy-trang 402 và 407 (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: ngư thuyền số 402 mang tên Nam Ngư) của họ vẫn nằm nguyên vị-trí sát bờ bắc đảo Quang-Ḥa. Tôi đă không chú-tâm đến 2 chiếc chiến-hạm nhỏ của địch v́ cho rằng, hai chiếc này chỉ là loại phụ mà thôi (sau này, khi sưu tầm tài liệu về trận hải chiến Hoàng Sa, HQ Thiếu-Tá Trần-Đỗ-Cẩm truy ra theo số-hiệu là loại trục-lôi-hạm và chắc trang-bị vũ-khí nhẹ hơn) c̣n hai chiếc tầu tiếp-tế ngụy-trang như ngư-thuyền th́ không đáng kể. Hành-động chận đường tiến của chiến-hạm ta đă từng được họ xử-dụng trong mấy ngày trước đây khi các chiến-hạm ta đổ quân lên các đảo Cam-tuyền, Vĩnh-lạc và Duy-mộng để xua quân của Trung-cộng rời đảo. Chiếc Kronstad 271 bắt đầu xin liên-lạc bằng quang-hiệu để xin liên-lạc, Tuần-dương-hạm HQ5 trả lời thuận và nhận công-điện bằng Anh-ngữ: “These islands belong to the People Republic of China (phần này tôi nhớ không chắc-chắn) since Ming dynasty STOP Nobody can deny” (Phần này tôi nhớ rất kỹ v́ tôi có phụ nhận quang-hiệu). Tôi cho gởi ngay một công-điện khái-quát như sau: “Please leave our territorial water immediately”
Công-điện của chiến-hạm Trung-cộng được lập đi lập lại ít nhất 3 lần sau khi họ nhận được công-điện của Hải-đoàn đăc-nhiệm VNCH, và chiến-hạm ta cũng tiếp-tục chuyển lại công-điện yêu-cầu họ rời khỏi lănh-hải của VNCH.
V́ 2 chiến-hạm Kronstad Trung-cộng cố-t́nh chặn đường tiến của Hải-đoàn đặc-chiệm với tốc-độ khá cao, nếu Hải-đoàn tiếp-tục tiến thêm th́ rất có thể gây ra vụ đụng tầu, tôi đưa Hải-đoàn trở về phía nam đảo Hoàng-Sa và vẫn giữ t́nh-trạng ứng-trực cũng như theo dơi các chiến-hạm Trung-cộng, họ cũng lại tiếp-tục giữ vị-trí như cũ tại phía bắc và tây-bắc đảo Quang-Ḥa. Sự xuất-hiện thêm 2 chiến-hạm của Hải-quân Việt-Nam vào trong vùng chắc-chắn đă được chiếc Kronstad 271 của Trung-cộng, được coi như chiến-hạm chỉ-huy, báo cáo về Tổng-hành-dinh của họ, và việc tăng-viện có thể được coi như đă được chuẩn-bị.
Với hành-động quyết-liệt ngăn-chặn ta không tiến được đến đảo Quang-Ḥa, tôi cho rằng họ muốn cố-thủ đảo này. Việc đổ-bộ quân để xua đuổi họ ra khỏi đảo, lúc đó tôi hy-vọng, chỉ có thể phải thực-hiện bất-thần để tránh hành-động ngăn-chặn của họ và có lực-lượng hải-kích với trang-phục người nhái, may ra họ có thể phải nhượng-bộ, như Tuần-dương-hạm HQ16 và Khu-trục-hạm HQ4 đă thành-công trong mấy ngày trước đó. Nếu họ tấn-công thay v́ nhượng-bộ, Hải-đoàn đặc-nhiệm buộc phải sẵn-sàng chống-trả.
Vào khoảng 8 giờ tối, tôi yêu-cầu Tuần-dương-hạm HQ16 chuyển phái-đoàn công-binh của Quân-đoàn I sang Tuần-dương-hạm HQ 5 bằng xuồng. Phái-đoàn công-binh Quân-đoàn I do Thiếu-tá Hồng hướng-dẫn đă vào gặp tôi tại pḥng ăn Sĩ-quan có theo sau Ông Kosh thuộc cơ-quan DAO Hoa-Kỳ tại Đà-nẵng. Tôi cho cả hai hay là t́nh-h́nh sẽ khó tránh khỏi một cuộc đụng-độ nên tôi không muốn các nhân-viên không Hải-quân có mặt trên chiến-hạm và tôi sẽ đưa họ lên đảo. Tôi cũng yêu-cầu Tuần-dương-hạm HQ5 cấp cho tất cả một ít lưong-khô. Riêng ông Kosh th́ tôi yêu-cầu Hạm-trưởng HQ5 đưa cho ông 1 bịch thuốc lá 10 bao Capstan. Tôi tiễn chân tất cả phái-đoàn xuống xuồng và vẫy tay chào họ khi xuồng bắt đầu hướng về đảo Hoàng-Sa. Kể từ giờ phút đó tới nay tôi không có dịp nào gặp lại ông Kosh để thăm hỏi ông và yêu-cầu ông cho trả lại Tuần-dương-hạm HQ5 bịch thuốc lá Capstan v́ thuốc lá này thuộc quân-tiếp-vụ của chiến-hạm xuất ra ứng trước. Riêng Thiếu-tá Hồng th́ tôi đă có dịp thăm hỏi ông tại Los Angeles vào năm 1996, cũng theo lời ông th́ ông đă viết xong vào trước năm 1975, một cuốn kư-sự về thời-gian bị bắt làm tù-binh trong lục-dịa Trung-Hoa nhưng không được Tổng Cục Chiến-tranh Chính-trị cho xuất bản v́ chưa phải lúc thuận-tiện.
Vào khoảng 10 giờ tối, tôi trực-tiếp nói chuyện bằng vô-tuyến với tất cả hạm-trưởng để cho hay là t́nh-h́nh sẽ khó tránh được một cuộc đụng-độ, và yêu-cầu các vị này chuẩn-bị các chiến-hạm và huy-động tinh-thần nhân-viên để sẵn-sàng chiến-đấu. Tôi biết rơ cuộc chiến nếu xẩy ra th́ tất cả nhân-viên đều không đủ kinh-nghiệm cho các cuộc hải-chiến, v́ từ lâu các chiến-hạm chỉ chú-tâm và đă thuần-thuộc trong công-tác tuần-dương ngăn-chặn hoặc yểm-trợ hải-pháo mà thôi, nếu có những nhân-viên đă phục-vụ trong các giang-đoàn tại các vùng sông ng̣i th́ họ chỉ có những kinh-nghiệm về chiến-đấu chống các mục-tiêu trên bờ và với vũ-khí tương-đối nhẹ hơn và dễ-dàng trấn-áp đối-phương bằng hỏa-lực hùng-hậu.
Vào khoảng 11:00 giờ tối ngày 18, một lệnh hành-quân, tôi không c̣n nhớ được xuất-xứ, có thể là của Vùng I duyên-hải, được chuyển mă-hóa trên băng-tần SSB (single side band) (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: đây là công điện Mật/Khẩn chiến dịch mang số 50.356, nhóm ngày giờ 180020H/01/74 do BTL/HQ/V1ZH gửi với tiêu đề: Lệnh Hành Quân Hoàng Sa 1) . Lệnh hành-quân vừa được nhận vừa mă-dịch ngay nên không bị chậm-trễ, và lệnh này ghi rơ quan-niệm hành-quân như sau: tái-chiếm một cách ḥa-b́nh đảo Quang-Ḥa. Lệnh hành-quân cũng không ghi t́nh-h́nh địch và lực-lượng trừ-bị nhưng những kinh-nghiệm từ trước tới nay nhất là trong hai năm tôi đảm-nhận trách-vụ Tham-mưu-phó hành-quân tại BTL/HQ, tôi dự-đoán Trung-cộng, v́ đă thiết-lập một căn-cứ tiền-phưong tại đảo Phú-lâm thuộc nhóm Tuyên-đức nằm về phía đông-bắc đảo Hoàng-Sa sát vĩ-tuyến 17, nên họ đă có thể đă phối-trí tại đây lực-lượng trừ-bị, và hơn nữa trên đảo Hải-Nam c̣n có một căn-cứ Hải-quân rất lớn và một không-lực hùng-hậu với các phi-cơ MIG 19 và 21 với khoảng cách gần hơn là từ Đà-nẵng ra. Việc Trung-cộng lấn-chiếm những đảo không có quân trú-pḥng của ta trong vùng Hoàng-Sa, đă phải được họ chuẩn-bị và thiết-kế chu đáo từ lâu trước khi tái tuyên-bố chủ-quyền. Trong khi đó việc Hải-quân VNCH phát-hiện sự hiện-diện của họ chỉ có từ khi Tuần-dương-hạm HQ16 được lệnh đến thăm-viếng định-kỳ và chở theo phái-đoàn công-binh Quân-đoàn I ra thám-sát đảo để dự-kiến việc thiết-lập một phi-đạo ngắn.
Ngay sau khi hoàn-tất nhận lệnh hành-quân, tôi chia Hải-đoàn thành hai phân-đoàn đặc-nhiệm: Phân-đoàn I là nỗ-lực chính gồm Khu-trục-hạm HQ4 và Tuần-dương-hạm HQ5 do Hạm-trưởng Khu-trục-hạm HQ4 chỉ-huy; Phân-đoàn II là nỗ-lực phụ gồm Tuần-dương-hạm HQ16 và Hộ-tống-hạm HQ10 do Hạm-trưởng Tuần-dương-hạm HQ16 chỉ-huy. Nhiệm-vụ là phân-đoàn II giữ nguyên vị-trí trong ḷng chảo Hoàng-Sa để tiến về đảo Quang-Ḥa vào buổi sáng. Phân-đoàn I khởi hành vào 12:00 đêm đi bọc về phía tây rồi xuống phía nam sẽ có mặt tại nam đảo Quang-Ḥa vào 06:00 sáng ngày hôm sau tức là ngày 19 để đổ-bộ biệt-đội hải-kích. Phân-đoàn I phải đi bọc ra phía tây quần-đảo thay v́ đi thẩng từ đảo Hoàng-Sa xuống đảo Quang-Ḥa là để tránh việc các chiến-hạm Trung-cộng có thể lại vận-chuyển ngăn-chặn đường tiến của chiến-hạm như họ đă làm vào buổi chiều, vả lại việc hải-hành tập-đội về đêm trong vùng có băi cạn và đá ngầm có thể gây trở-ngại cho các chiến-hạm, nhất là Khu-trục-hạm c̣n có bồn SONAR (máy ḍ tiềm-thủy-đĩnh), hy-vọng hải-tŕnh như vậy sẽ tạo được yếu-tố bất ngờ. Hơn nữa về mùa gió đông-bắc, việc đổ-bộ vào phía tây-nam sẽ tránh được sóng biển cho xuồng-bè. Nên ghi-nhận tại điểm này là kể từ năm 1973, toán cố-vấn HQ Hoa-kỳ tại Hạm-đội mà trưởng toán là HQ Đại-tá Hamn (tên họ) đă nhiều lần yêu-cầu tháo gỡ máy Sonar trên các khu-trục-hạm. Phó Đề-đốc Nguyễn-thành-Châu (lúc đó c̣n mang cấp HQ Đại-tá) Tư-lệnh Hạm-đội đă trao nhiệm-vụ cho tôi thuyết-phục họ giữ máy lại để dùng vào việc huấn-luyện. Măi đến khi HQ Đại-tá Nguyễn-xuân-Sơn nhận chức Tư-lệnh Hạm-đội một thời-gian, tôi vẫn tiếp-tục liên-lạc với toán cố-vấn, và sau cùng họ mới bằng ḷng giữ máy lại với tính-cách để huấn-luyện. Thực ra một khu-trục-hạm mà thiếu máy thám-xuất tiềm-thủy-đĩnh th́ khả-năng tuần-thám và tấn-công sẽ giảm đi nhiều.
Diễn-tiến trận hải-chiến ngày 19 tháng giêng năm 1974
Đúng 6:00 sáng ngày 19, trời vừa mờ sáng, Phân-đoàn I đă có mặt tại tây-nam đảo Quang-Ḥa, thủy-triều lớn, tầm quan-sát trong ṿng 1.50 đến non 2.00 hải-lư, trời có ít mây thấp nhưng không mưa, gió đông-bắc thổi nhẹ, biển tương-đối êm tuy có sóng ngầm. Phân-đoàn I tiến sát đảo khoảng hơn 1 hải-lư, Tuần dương-hạm HQ5 nằm gần bờ hơn một chút để thuận-tiện đổ-bộ hải-kích. Hai chiếc Kronstad 271 và 274 bị bất ngờ rơ-rệt nên thấy họ đă vận-chuyển lúng-túng và không thực-hiện được hành-động ngăn-cản như họ đă từng làm vào chiền hôm trước. Tôi cũng bị bất-ngờ là hai chiếc chủ-lực địch lại có mặt cùng một nơi để sẵng-sàng đối đầu mà tôi không phải t́m-kiếm họ, như tôi đă coi họ như là muc-tiêu chính. Họ đă phải luồn ra khỏi khu ḷng chảo vào ban đêm, nhưng không hiểu là họ có theo dơi được đuờng tiến-quân của Phân-đoàn I hay không. Vào giờ này th́ họ đă phải biết rơ là Tuần-dương-hạm HQ5 là chiến-hạm chỉ-huy của ta và cũng đă phải biết được hỏa-lực của chiếc khu-trục-hạm.
Biệt-đội hải-kích do HQ Đại-úy Nguyễn-minh-Cảnh chỉ-huy đă được tôi chỉ-thị là không được nổ súng và lên bờ yên-cầu toán quân của họ rời đảo. Trong biệt-đội này có một chiến-sĩ hải-kích Đỗ-văn-Long và luôn cả HQ Đại-Úy Nguyễn-minh-Cảnh là những chiến-sĩ đă tham-dự cuộc hành-quân đầu-tiên Trần-hưng-Đạo 22 (nếu tôi không lầm) cũng do tôi chỉ-huy để xây-cất doanh-trại và đặt quân trú-pḥng đầu-tiên trên đảo Nam-Yết thuộc quần-đảo Trường-Sa vào cuối mùa hè năm 1973.
Một lần nữa, khi biệt-đội hải-kích xuồng xuồng cao-su, tôi đích-thân ra cầu thang căn-dặn và nhấn mạnh về việc đổ-bộ mà không được nổ súng, và khi bắt liên-lạc được với họ th́ yêu-cầu họ rời khỏi đảo.
Tôi không chắc là cuộc đổ-bộ sẽ thành-công v́ quân Trung-cộng trên đảo đă phải tổ-chức bố-pḥng cẩn-mật tiếp theo sự thất-bại của họ trên các đảo khác đă nói ở trên, trong khi đó biệt-đội hải-kích lại không có được hỏa-lực chuẩn-bị băi đổ-bộ. Một lần nữa tôi lại chỉ-thị cho các hạm-trưởng chuẩn-bị để chiến-đấu. Nếu cuộc đổ-bộ thất-bại th́ với hỏa-lực của 2 khẩu 76 ly tự-động trên Khu-trục-hạm HQ4, một chiến-hạm chủ-lực của Hải-đoàn đăc-nhiệm, sẽ có đủ khả-năng loại ít nhất là hai chiến-hạm chủ-lực Trung-cộng ra khỏi ṿng chiến không mấy khó-khăn, c̣n quân-bộ của Trung-cộng trên-đảo th́ tôi tin chỉ là một mục-tiêu thanh-toán sau cùng. Tôi c̣n có ư-định là sẽ điều-động chiếc khu-trục-hạm vượt vùng hơi cạn trực-chỉ hướng bắc vào thẳng vùng ḷng chảo để tăng-cường cho Phân-đoàn II nếu cần sau khi đă loại xong 2 chiếc Kronstad mà tôi luôn-luôn cho là mục-tiên chính. Tôi rất vững ḷng vào hỏa-lực của chiến-hạm chủ-lực v́ tôi đă được tường-tŕnh đầy-đủ về khả-năng của hải-pháo 76 ly tự-động khi Khu-trục-hạm này yểm-trợ hải-pháo tại vùng Sa-hùynh trong nhiệm-kỳ hạm-trưởng của HQ Trung-Tá Nguyễn-quang-Tộ.
Biệt-đội hải-kích tiến vào đảo bằng 2 xuồng cao-su, từ chiến-hạm ta, việc quan-sát sự bố-pḥng của Trung-cộng trên đảo không được rơ ràng. Các chiến-hạm Trung-cộng cũng không có phản-ứng ǵ đối với xuồng của hải-kích. Theo báo-cáo của Biệt-đội-trưởng hải-kích th́ chiến-sĩ hải-kích Đỗ-văn-Long là người đầu-tiên tiến vào đảo và vừa nổ súng vừa tiến vào trong nên đă bị hỏa-lực trong bờ bắn tử-thương ngay tại băi-biển. HQ Trung-Úy Lê-văn-Đơn (xuất-thân từ bộ-binh) tiến vào để thâu-hồi tử-thi của liệt-sĩ Long cũng lại bị tử-thương ngay gần xuồng nên tử-thi vị sĩ-quan này được thâu-hồi ngay. Việc thất-bại đổ-bộ được báo-cáo ngay về Bộ-Tư-lệnh HQ vùng I duyên-hải và chừng ít phút sau đó (vào khoảng 09:30 sáng) th́ đích thân Tư-lệnh HQ VNCH hay Tư-lệnh Vùng I duyên-hải ra lệnh vắn-tắt có hai chữ: “khai-hỏa” bằng bạch-văn cho Hải-đoàn đặc-nhiệm và không có chi-tiết ǵ khác hơn. Tôi nhận biết được khẩu-lệnh trên băng siêu-tần-số SSB (single side band) không phải là của nhân-viên vô-tuyến mà phải là của cấp Đô-đốc, nhưng từ đó đến nay tôi vẫn tin rằng là của Tư-lệnh Hải-quân mà tôi đă quen-thuộc giọng nói, nên tôi đă không kiểm-chứng thêm về sau. Tôi trở nên yên-tâm hơn v́ khẩu-lệnh khai hỏa đă giải-tỏa trách-nhiệm của tôi ghi trong phần quan-niệm của lệnh hành-quân là tái-chiếm một cách ḥa-b́nh. Tôi đích-thân vào máy siêu-tần-số tŕnh ngay là chưa có thể khai-hỏa được v́ phải chờ triệt-thối Biệt-đội hải-kích về chiến-hạm, họ c̣n trên mặt biển và ở vào vị-thế rất nguy-hiểm. Riêng tử-thi của liệt-sĩ hải-kích Đỗ-văn-Long tôi lệnh không cho vào lấy v́ có thể gây thêm thương-vong. Tôi tin rằng tử-thi của Liệt-sĩ Long sẽ không khó-khăn để thâu-hồi khi toán quân-bộ Trung-cộng được tiêu-diệt sau đợt các chiến-hạm của họ bị loại hoàn-toàn khỏi ṿng chiến.
Vào khoảng gần 10:00 giờ sáng, biệt-đội hải-kích được hoàn-tất thu-hồi về Tuần-dương-hạm HQ5 với HQ Trung-Úy Lê-văn-Đơn tử-thương. Trong khi đó th́ tôi chỉ-thị cho các chiến-hạm chuẩn-bị tấn-công, mỗi chiến-hạm tấn-công một chiến-hạm địch, và bám sát địch trong tầm hải-pháo 40 ly (khoảng 3 cây-số), v́ loại hải-pháo này có nhịp tác-xạ cao, dễ điều-chỉnh và xoay hướng nhanh hơn. Tôi không tin-tưởng nhiều vào hải-pháo 127 ly và khả-năng điều-khiển chính-xác của nhân-viên v́ hải-pháo chỉ có thể tác-xạ từng phát một, nạp đạn nặng-nề và chậm xoay hướng nên tốt hơn là trực-xạ.
Tất cả các chiến-hạm phải cùng khai-hỏa một lúc theo lệnh khai-hỏa của tôi để tạo sự bất ngờ và sẽ gây thiệt-hại trước cho các chiến-hạm Trung-cộng. V́ tầm quan-sát c̣n rất hạn-chế, nên từ Tuần-dương-hạm HQ5 không quan-sát được Tuần-dương-hạm HQ16 và Hộ-tống-hạm HQ10 cũng như hai chiến-hạm khác và hai ngư-thuyền ngụy-trang của Trung-cộng nên tôi không rơ các chiến-hạm này bám-sát các chiến-hạm Trung-cộng được bao nhiêu, nhưng tôi đă tin rằng Phân-đoàn II không có bận tâm về việc đổ-bộ nên có nhiều th́-giờ hơn để thi-hành kế-hoạch tấn-công và sẽ dễ-dàng chế-ngự được hai chiến-hạm phụ của địch cùng hai ngư-thuyền. Riêng Tuần-dương-hạm HQ5 và Khu-trục-hạm HQ4 đă nghiêm-chỉnh thi-hành lệnh. Trước khi ban-hành lệnh khai-hỏa tôi lần nữa hỏi các chiến-hạm đă sẵn-sàng chưa và nhấn-mạnh một lần nữa là phải khai-hỏa đồng-loạt để đạt yếu-tố bất-ngờ. Các hạm-trưởng đích-thân trên máy VRC46 lần-lượt báo-cáo sẵn-sàng. Tôi rất phấn-khởi v́ giờ tấn-công hoàn-toàn do tôi tự-do quyết-định, không phải lệ-thuộc vào lệnh của thượng-cấp và vào ư-đồ chiến-thuật của địch. Địch lúc này đă tỏ ra không có một ư-định ǵ cản-trở hay tấn-công chiến-hạm ta.
Hải-quân Đại-Tá Đỗ-Kiểm, Tham-mưu-phó hành-quân tại Bộ-Tư-lệnh Hải-quân c̣n đặc-biệt cho tôi hay là có chiến-hạm bạn ở gần, nhưng với sự hiểu-biết của tôi, tôi không có một chút tin-tưởng ǵ vào đồng-ḿnh này v́ kể từ tháng 2 năm 1972 khi Hoa-Kỳ và Trung-cộng đă chấm-dứt sự thù-nghịch nên Hải-quân của họ sẽ không một lư do ǵ lại tham-dự vào việc hỗ-trợ Hải-quân Việt-Nam trong vụ tranh-chấp về lănh-thổ. Họa chăng họ có thể cứu-vớt những người sống-sót nếu các chiến-hạm HQVN lâm-nạn. Nhưng thực-tế cho thấy trong suốt cuộc t́m-kiếm những nhân-viên từ Hộ-tống-hạm HQ10 và các toán đă đổ-bộ lên trấn giữ các đảo đă đào-thoát để trở về đất liền, chúng ta không nhận thấy một hành-động nhân-đạo nào từ phía đồng-minh kể cả của phi-cơ không-tuần.
Khoảng 10:24 sáng th́ lệnh khai-hỏa tấn-công được ban-hành và tôi vào trung-tâm chiến-báo trực-tiếp báo cáo bằng máy siêu-tần-số SSB, tôi đă cố ư giữ ống nói sau khi tôi chấm-dứt báo-cáo để tiếng nổ của hải-pháo cũng được truyền đi trên hệ-thống này. Cuộc khai-hỏa tấn-công đă đạt được yếu-tố bất ngờ cho các chiến-hạm địch v́ tôi cho rằng họ vẫn tin là các hành-động của chiến-hạm cũng tương-tự như trong những vài ngày trước, khi Hải-quân Việt-Nam đổ-quân trên các đảo Cam-tuyền, Vĩnh-lạc và Duy-mộng và nhất là cuộc phô-diễn lực-lượng của hải-đoàn đặc-nhiệm ngày hôm trước Hải-quân Việt-Nam đă không có một hành-dộng khiêu-khích nào, mà c̣n chấp-thuận giữ liên-lạc bằng quang-hiệu.
Chiếc Kronstad 271 nằm về hướng tây gần đảo Quang-Ḥa, hướng mũi về phía tây là mục-tiêu của Tuần-dương-hạm HQ5 đang hướng mũi vào bờ tức là phía đông, đặt mục-tiêu về phía tả-hạm (tức là phía bắc). Chiếc này bị trúng đạn ngay từ phút đầu, vận-chuyển rất chậm-chạp nên đă là mục-tiêu rất tốt cho Tuần-dương-hạm HQ5. Hỏa-lực của chiếc Kronstad 271 này không gây nhiều thiệt-hại cho Tuần-dương-hạm HQ5, nhưng có thể đă gây thiệt-hại nặng cho Hộ-tống-hạm HQ10 nằm về phía bắc. Khu-trục-hạm HQ4 nằm về phía tây-nam của Tuần-dương-hạm HQ5 đặt mục-tiêu là chiếc Kronstad 274 nằm về phía bắc tức là tả-hạm của chiến-hạm. Nhưng chẳng may, HQ4 báo cáo bị trở-ngại tác-xạ ngay từ phút đầu-tiên và phải chờ sửa-chữa. Việc này đă làm đảo lộn các dự-tính của tôi và làm tôi bối-rối. Sau vài phút th́ chiến-hạm này xin bắn thử và kết-quả là vẫn bị trở-ngại và cần tiếp-tục sửa chữa thêm, nhưng tôi vẫn c̣n chút hy-vọng. Khu-trục-hạm HQ4 vài phút sau lại xin tác-xạ thử lần thứ ba nhưng vẫn không có kết-quả, tuy-nhiên chiến-hạm này vẫn phải tiếp-tục bám-sát mục-tiêu của ḿnh trong tầm các loại đại-liên nên đă bị thiệt-hại nhiều bởi hỏa-lực của chiếc Kronstad 274, và đại-liên đă không áp-đảo được hỏa-lực của địch.
Trên Tuần-dương-hạm HQ5, tôi xử-dụng chiếc máy PRC 25 trước ghế hạm-trưởng bên hữu-hạm của đài chỉ-huy để liên-lạc với các chiến-hạm, tôi vừa rời ghế để ra ngoài quan-sát hai phía th́ một trái đạn loại nổ mạnh gây một lỗ lủng khoảng nửa thước đường kính và làm nát máy PRC25, nên từ phút này trở đi tôi phải vào tận Trung-tâm chiến-báo để dùng máy VRC46. Hạm-trưởng Tuần-dương-hạm HQ5 đứng cạnh đài chỉ-huy bên tả-hạm với sĩ-quan hải-pháo để dễ quan-sát mục-tiêu được chỉ-định, nên tôi thường nói trực-tiếp với hạm-trưởng tại nơi này. Trung-tâm chiến-báo của chiến-hạm này chỉ quen-thuộc dùng radar vào việc hải-hành, vả lại trời mù, mây thấp, radar có nhiều nhiễu-xạ nên tôi không được rơ về vị-trí của Phân-đoàn II và các chiến-hạm của địch c̣n nằm trong khu ḷng-chảo Hoàng-Sa.
Sau chừng 15 phút th́ Tuần-dương-hạm HQ16 báo-cáo là bị trúng-đạn hầm máy, tầu bị nghiêng nên khả-năng vận-chuyển giảm-sút, buộc phải lui ra ngoài ṿng chiến để sửa-chữa và cũng không c̣n liên-lạc được với Hộ-tống-hạm HQ10, không biết rơ t́nh-trạng và chỉ thấy nhân-viên đang đào-thoát. Tôi nhận thấy một tuần-dương-hạm đă vận-chuyển nặng-nề mà chỉ c̣n một máy và bị nghiêng, nếu tiếp-tục chiến-đấu th́ sẽ là một mục-tiêu tốt cho địch, nên tôi đă không ra phản-lệnh. Ngoài ra, Hạm-trưởng Tuần-dương-hạm HQ16 là một vị sĩ-quan ít tích-cực hơn, nên tôi không mấy tin-tưởng là vị này có thể vượt qua được các khó-khăn kỹ-thuật để cố-gắng tiếp-tục tấn-công. Khu-trục-hạm HQ4 đă bị thiệt-hại nhiều sau khi phải bám-sát chiến-hạm địch trong tầm đại-liên, nên tôi ra lệnh cho Khu-trục-hạm HQ4 phải rút ra khỏi ṿng-chiến ngay và chỉ-thị cho Tuần-dương-hạm HQ5 yểm-trợ cho chiếc này khi tiến ra xa, v́ tất-nhiên Hải-đội đặc-nhiệm không thể để bị thiệt-hại một khu-trục-hạm mà Hải-Quân VNCH chỉ có tổng-cộng 2 chiếc mà thôi.
Khi khu-trục-hạm HQ4 ra khỏi vùng chiến, lại không bị chiếc Kronstad 274 truy-kích hoặc tác-xạ đuổi theo, ngược lại chiếc này của địch có phần rảnh tay hơn để tấn-công Tuần-dương-hạm HQ5 vào phía hữu-hạm hầu giảm-bớt hỏa-lực của chiến-hạm ta như để cứu văn chiếc 271 đang bị tê-liệt. Vào giờ này th́ tin-tức từ Bộ-Tư-lệnh Hải-quân tại Sàig̣n do chính Tham-mưu-phó hành-quân cho hay là một phi-đội khu-trục-cơ F5 đă cất-cánh để yểm-trợ cho Hải-đoàn đặc-nhiệm. Do sự liên-lạc từ trước với Bộ-Tư-lệnh Sư-đoàn I Không-quân tại Đà-nẵng, tôi hiểu là phi-cơ F5 chỉ có thể yểm-trợ trong ṿng 5 tới 15 phút mà thôi v́ khoảng-cách từ Đà-nẵng tới Hoàng-Sa quá xa so với nhiên-liệu dự-trữ. Tôi vẫn tin rằng loan tin việc phi-cơ cất-cánh, Bô-Tư-lệnh Hải-quân đă cho rằng tin này có thể làm cho tôi vững-tâm chiến-đấu. Một điều nữa là từ trước tới giờ phút đó tôi chưa được thấy có cuộc thao-dượt hỗn-hợp nào giữa Không-quân và Hải-quân nên tôi rất lo-âu về sự nhận-dạng của phi-công để phân-biệt giũa chiến-hạm của Hải-quân Việt-Nam và chiến-hạm Trung-cộng, nhất là lúc có mây mù thấp, nên phi-cơ có thể gây tác-xạ nhầm mục-tiêu. Máy VRC 46 trong Trung-tâm chiến-báo phải chuyển sang tần-số không-hải và đích thân tôi dùng danh-hiệu để bắt liên-lạc với phi-cơ. Một viên đạn xuyên-nổ trúng ngay Trung-tâm chiến-báo từ hữu-hạm, sát gần ngay nơi tôi đứng, làm trung-tâm bị phát-hỏa. Các nhân-viên trong trung-tâm c̣n mải núp sau bàn hải-đồ th́ tôi nhanh tay với một b́nh cứu-hỏa gần chỗ tôi đứng dập tắt ngay ngọn lửa. Tôi bị té ngă v́ vấp chân vào bàn hải-đồ, bàn chân trái bị đau mất vài ngày. Tôi vẫn vẫn tiếp-tục liên-lạc với phi-cơ nhưng sau chừng 5 tới 10 phút vẫn không thấy đáp-ứng nên tôi phải ngưng và chuyển tần-số về liên-lạc với các chiến-hạm khác v́ cuộc giao-tranh đă đến độ khốc-liệt hơn. Sau phút này th́ Tuần-dương-hạm HQ5 bị trúng nhiều đạn làm sĩ-quan trưởng-khẩu 127 ly tử-thương và hải-pháo bị bất-khiển-dụng v́ phần điện điều-khiển pháo-tháp tê-liệt, và máy siêu-tần-sớ SSB không c̣n liên-lạc được v́ giây trời bị sập rớt xuống sàn tầu, hiệu-kỳ hải-dội bị rách nát phần đuôi. Tôi ra ngoài quan-sát phía tả-hạm và được nghe báo cáo là hầm-đạm phát-hỏa. Tôi nói ngay với hạm-trưởng là cằn phải làm ngập hầm-đạn. Khẩu hải-pháo 40 ly đơn tả-hạm bị bất khiển-dụng v́ bị trúng đạn vào khối nạp-đạn và khẩu 40 ly hữu-hạm bị hư-hại nhẹ. Tôi yêu-cầu hạm-trưởng là chỉ nên cho tác-xạ từng viên mà thôi, v́ nhu-cầu pḥng-không rất có thể xẩy ra trong một thời-gian ngắn.
Bất thần về phía đông vào khoảng 11:25 sáng cách xa chừng 8 đến 10 hải-lư, xuất hiện một chiến-hạm của Trung-cộng loại có trang bị mỗi bên một dàn phóng kép hỏa-tiễn loại hải-hải (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: đây là loại khinh tốc đĩnh Komar) đang tiến vào vùng giao-tranh với một tốc-độ cao, quan-sát được bằng mắt viễn-kính và không một chiến-hạm nào báo-cáo khám-phá được bằng radar từ xa. Tôi dự-đoán loại chiến-hạm này ít khi được điều-động từng chiếc một, và tin là có thể thêm ít nhất một chiếc theo sau. Với t́nh-trạng của Hải-đội đăc-nhiệm: một hộ-tống-hạm bị loại khỏi ṿng-chiến; một tuần-dương-hạm bị thương nơi hầm máy; một khu-trục-hạm và một tuần-dương-hạm chỉ c̣n hỏa-lực rất hạn-chế; cộng với nguy-cơ bị tấn-công bằng cả hỏa-tiễn hải-hải cũng như bằng phi-cơ rất có thể xẩy ra, nên tôi triệt-thoái phần c̣n lại của lực-lượng là Khu-trục-hạm HQ4 và Tuần-dương-hạm HQ5 ra khỏi vùng Hoàng-Sa tiến hướng đông-nam về phía Subic Bay (Hải-quân công-xưởng của Hoa-Kỳ tại Phi-luật-tân). Tôi cũng cầu-nguyện Đức Thánh Trần, Thánh-Tổ của Hải-quân VNCH ban cho tôi một trận mưa để giảm tầm quan-sát và khả-năng tấn-công của phi-cơ địch. Sau khi hai chiến-hạm c̣n lại rút ra khỏi vùng giao-tranh chừng 10 phút th́ một trận mưa nhẹ đă đổ xuống toàn vùng quần-đảo Hoàng-Sa. Các chiến-hạm ta đă không bị truy-kích và phi-cơ địch cũng chưa xuất-hiện. Mục-đích tôi hướng về phía đông-nam là để tránh bị phục-kích của tiềm-thủy-đĩnh Trung-cộng tại hải-tŕnh Hoàng-Sa Đà-nẵng, và khi ra ngoài xa lănh-hải th́ nếu c̣n bị tấn-công bằng phi-cơ hoặc tiềm-thủy-đĩnh th́ may ra đồng-minh Hải-quân Hoa-Kỳ có thể cấp-cứu chúng tôi dễ-dàng hơn theo tinh-thần cấp-cứu hàng-hải quốc-tế. Nếu chúng tôi không c̣n bị tấn-công th́ việc đến Subic Bay Phi-luật-tân để xin sửa-chữa trước khi hồi-hương là một điều khả-dĩ được thượng-cấp chấp-thuận.
Tuần-dương-hạm HQ5 phải mất gần một giờ mới kéo lên được giây trời khẩn-cấp để tái-lập sự liên-lạc bằng máy siêu-tần-số SSB. Hầm đạn phía mũi của chiến-hạm đă bị làm ngập, mũi bị chúc xuống nên tốc-độ có bị thuyên-giảm. Chính trong thời-gian mất liên-lạc, Bộ Tư-lệnh tại Sàig̣n cũng như tại Đà-nẵng rất bối-rối cho sự an-toàn của hai chiến-hạm và bản-thân tôi. Chính Tư-lệnh Hạm-đội tại Sàig̣n cũng đă đưa tin mất liên-lạc đến với gia-đ́nh tôi.
Vào khoảng 01:00 trưa, hai chiến-hạm HQ4 và HQ5 đă cách Hoàng-Sa chừng 10 hải-lư, trời nắng và quang-đăng. Tư-lệnh Hải-quân đích thân ra lệnh cho cả hai chiến-hạm phải trở lại Hoàng-Sa và đánh ch́m nếu cần, tôi nhận được giọng nói của Đô-đốc. Lệnh đă được thi-hành nghiêm-chỉnh ngay tức khắc. Sau khi liên-lạc vô-tuyến siêu-tần-số được điều-ḥa trở-lại th́ mọi báo-cáo chi-tiết về tổn-thất và t́nh-trạng lúc bấy giờ của các hai chiến-hạm được chuyển đầy-đủ. Trên Tuần-dương-hạm HQ5 tôi cũng được thông-báo về Tuần-dương-hạm HQ16 sẽ được Tuần-dương-hạm HQ6 tới hộ-tống về Căn-cứ Hải-quân Đà-nẵng.
Đến khoảng 02:30 chiều, khi cả hai chiến-hạm đang trở về Hoàng-Sa, quá ngang Ḥn Tri-Tôn, nghĩa là c̣n cách đảo Hoàng-Sa chừng 1 giờ rưỡi hải-hành nữa, th́ hai chiến-hạm được phản-lệnh trở về Đà-nẵng. Lúc này trời đă nắng, mây cao nên rất dễ-dàng cho việc hải-hành. Trong một cuộc đến thăm Tư-lệnh Hải-quân VNCH tại tư-dinh vào khoảng tháng 2 năm 1974, th́ vị Đô-Đốc này đă tiết-lộ rằng nếu biết được sớm t́nh-trạng của Hải-đoàn đặc-nhiệm th́ Tư-lệnh đă cho lệnh trở về căn-cứ trước sớm hơn. Trên đường về, tôi vẫn ra lệnh cho các chiến-hạm giữ nguyên nhiệm-sở tác-chiến và nhất nhất các nhân viên không ở trong nhiệm-sở pḥng máy phải túc-trực trên boong để tránh tổn-thất về nhân-mạng trong trường-hợp bị tiềm-thủy-đĩnh Trung-cộng phục-kích bằng ngư-lôi. Nhưng may-mắn là điều tôi dự-liệu đă không xẩy ra.Các chiến-hạm đă khởi-sự ngay thu-dọn các tổn-thất về vật-liệu và thu-hồi các dư-liệu tác-xạ. Tôi ṭ-ṃ mở đài phát-thanh BBC vào sáng sớm ngày 20, th́ họ chỉ vỏn-vẹn loan tin một trận hải-chiến đă xẩy ra trong vùng quần-đảo Hoàng-Sa giữa Hải-quân Việt-Nam Cộng-Ḥa và Cộng-Ḥa Nhân-dân Trung-Hoa, mỗi bên thiệt-hại 1 chiến-hạm và không thêm một chi-tiết nào khác. Tôi tỏ ra khâm-phục đài nay về sự loan-tin nhanh chóng và xác đáng.
Tôi đă không hút thuốc từ nhiều tháng qua, nhưng tôi muốn hút một vài điếu thuốc cho tinh-thần bớt căng-thẳng sau gần 48 tiếng đồng-hồ liên-tục không được nghỉ-ngơi, tôi yêu cầu Hạm-trưởng dùng hệ-thống liên-hợp để loan-báo xem có nhân-viên nào c̣n thuốc lá cho tôi xin một ít để hút. Tôi không ngờ là các nhân-viên tuần-tự mang đến cho tôi hơn 2 chục bao cả loại trong khẩu-phần C của đồng-minh và các loại thuốc trong thương-trường lúc bấy giờ, tôi lấy làm cảm-động về sự ưu-ái của các nhân-viên trên chiến-hạm này. Vào khoảng 2 giờ đêm tôi soạn-thoản một sơ-đồ hành-quân và các chi-tiết về tổn-thất để chuẩn-bị thuyết-tŕnh khi về tới căn-cứ.
Khoảng 7:00 sáng ngày 20 tháng giêng th́ hai chiến-hạm của Phân-đoàn I về tới căn-cứ an-toàn. Tuần-dương-hạm HQ16 cũng đă về bến trước đó ít lâu. Một điều mà các nhân-viên của các chiến-hạm và riêng tôi rất cảm-động là trên cầu Thương-cảng Đà-nẵng là nơi đă được chỉ-định cho các chiến-hạm cặp bến, đă có sự hiện-diện của các vị Đô-Đốc Tư-lệnh và Tư-lệnh-phó HQ VNCH, Đô-Đốc Tư-lệnh HQ Vùng I Duyên-hải, một số đông sĩ-quan cùng nhân-viên của các đơn-vị HQ vùng Đà-nẵng cùng các trại gia-binh đă túc-trực đón đoàn chiến-hạm trở về với rừng biểu-ngữ :
“Hải-quânViệt-Nam quyết-tâm bảo-vệ lănh-thổ đến giọt máu cuối cùng”.
“Một ư-chí : chống cộng.Một lời thề : bảo-vệ quê-hương”.
“Hoan-hô tinh-thần chiến-đấu anh-dũng của các chiến-sĩ Hải-quân tham-dự Hải-chiến Hoàng-Sa”.
“Hoan-hô tinh-thần bất-khuất của các chiến-sĩ Hải-chiến Hoàng-Sa“.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1323487&stc=1&d=1546642094
Sau khi di-tản các chiến-sĩ thương-vong và tử-vong lên căn-cứ thí chỉ có 3 vị Đô-Đốc cùng HQ Đại-tá Nguyễn-viết-Tân Chỉ-Huy-Trưởng Sở Pḥng-vệ Duyên-hải lên Tuần-dương-hạm HQ5 và vào pḥng-khách của Hạm-trưởng để dự cuộc thuyết-tŕnh về trận đánh. Ba vị Hạm-trưởng đều có mặt để tŕnh bầy chi-tiết về chiến-hạm của ḿnh. Các vị Đô-đốc cũng không hỏi thêm tôi về những yếu-tố đă đưa đến những quyết-định chiến-thuật của tôi, nhất là quyết-định triệt-thoái phần c̣n lại của Hải-đoàn đặc-nhiệm ra khỏi vùng Hoàng-Sa. Sau phần thuyết-tŕnh các vị Đô-Đốc đă đi quan-sát sự thiệt-hại của các chiến-hạm và úy-lạo nhân-viên các cấp. Tôi cũng được nghe Đô-đốc Tư-lệnh-phó đề-nghị với Tư-lệnh HQ là sẽ không có thuyết-tŕnh cho Tư-lệnh Quân-đoàn I.
Sau chừng một giờ th́ Trung-tướng Tư-lệnh Quăn-đoàn I/Quân-Khu I cũng tới thăm-viếng và được hướng-dẫn quan-sát một ṿng các chiến-hạm để nhận-định sự thiệt-hại.
Kết-quả của trận-hải-chiến
Một cách tổng-quát th́ sự thiệt hại của hai đối-thủ được kể như tương-đương trong trận hải-chiến. Mỗi bên bị tổn-thất một chiến-hạm, như đài BBC loan tin vào sáng sớm ngày 20 tháng giêng, phía VNCH là Hộ-tống-hạm HQ10, phía Trung-cộng là chiếc Kronstad 271(được coi là chiến-hạm chỉ-huy) c̣n một số khác th́ chịu một sự hư-hại trung-b́nh hoặc trên trung-b́nh. Hai chiếc nhỏ hơn 389 và 396 cùng hai ngư-thuyền ngụy-trang theo tôi ước-lượng chỉ hư-hỏng hơi nặng mà thôi v́ tầm hỏa-lực của ta trội hơn. Riêng chiếc Kronstad 271 có thể bị tổn-thất nhiều nhân-viên hơn v́ trúng nhiều hải-pháo của Tuần-dương-hạm HQ5 vào thương-tầng kiến-trúc, trong khi đó chiếc 274 th́ tổn-thất được coi là nhẹ hơn cả v́ chỉ bị tấn-công nhiều bằng đại-liên và ít hải-pháo về sau này. Tuy-nhiên trong các trận hải-chiến th́ người ta thường kể về số chiến-hạm bị loại khỏi ṿng chiến hơn là số thương-vong về nhân-mạng. Riêng trên Hộ-tống-ham HQ10, theo các nhân-viên đă đào-thoát về được đất liền, th́ vị Hạm-trưởng và Hạm-phó đều bị thương-nặng, nhưng Hạm-trưởng đă từ-chối di-tản và quyết ở lại tuẫn-tiết cùng chiến-hạm của ḿnh theo truyền-thống của một sĩ-quan hải-quân và một nhà hàng-hải. Hạm-phó được nhân-viên d́u đào-thoát được nhưng đă phải bỏ ḿnh trên mặt biển v́ vết thương quá nặng. Vụ này làm tôi nhớ lại, theo lời kể của các bậc tiên-sinh, th́ khi hải-quân Pháp hành-quân trên sông (nếu không lầm th́ là Sông Đáy) một chiến-hạm loại trợ-chiến-hạm (LSSL) hay Giang-pháo-hạm (LSIL) đă bị trúng đạn đài-chỉ-huy, làm tử-thương cả hai hạm-trưởng và hạm-phó cùng một lúc, sĩ-quan cơ-khí đă phải lên thay thế tiếp-tục chỉ-huy. Sau kinh-nghiệm này, hải-quân Pháp không cho hạm-trưởng và hạm-phó có mặt cùng một nơi khi lâm-trận. Cá-nhân tôi lúc đó đă không có chút th́ giờ để nhớ tới kinh-nghiệm mà các bậc tiên-sinh đă truyền lại tôi mà áp-dụng.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1323486&stc=1&d=1546642094
Hoàng Sa Vị Quốc Vong Thân
Một điều lạ là Trung-cộng có đủ khả-năng tuy khiêm-nhượng, vào lúc cuối trận-chiến, v́ có thêm tăng-viện đến kịp thời, nhưng đă bỏ rơi cơ-hội truy-kích khi lực-lượng ta triệt-thoái, hay xử-dụng hỏa-tiễn hải-hải v́ lực-lượng ta vẫn c̣n nằm trong tầm hữu-hiệu của loại vũ-khí này. Tôi cho rằng có thể họ đă bận-tâm vào việc cứu văn chiếc Kronstad 271 và quân bộ trên đảo Quang-Ḥa, hoặc họ đă không nhận được lệnh tấn-công, và chỉ đương-nhiên chống-trả tự-vệ mà thôi. Tôi nhận rằng ước-tính của tôi về phản-ứng của địch đă cao hơn như thực-tế đă xẩy ra. Việc Hải-quân Viêt-Nam khai-hỏa tấn-công sau khi thất-bại đổ-bộ đă tạo cho Trung-cộng có nguyên-cớ v́ bị tấn-công mà phải hành-động, nên đă dùng cường-lực cưỡng-chiếm các đảo vào ngày sau.
Theo các quân-nhân trú-pḥng trên đảo Hoàng-Sa th́ sáng sớm ngày hôm sau tức là ngày 20 tháng giêng, Trung-cộng đă huy-động một lưc-lượng hùng-hậu kết -hợp hải-lục-không-quân đổ-bộ tấn-chiếm đảo Hoàng-Sa và các đảo kế-cận mà các chiến-binh hải-quân đang chiếm-giữ. Theo kư-giả Lê-Vinh, một cựu sĩ-quan hải-quân, đă từng đảm-trách chức-vụ thư-kư cũa ủy-ban nghiên-cứu trận hải-chiến cho biết, th́ vào thời-gian trận hải-chiến, Hải-quân Hoa-Kỳ đă chuyển cho Hải-quân Việt-Nam một tin-tức về 42 chiến-hạm Trung-cộng với 2 tiềm-thủy-đĩnh đang tiến xuống Hoàng-Sa. Dù nhiều hay ít th́ lực-lượng của họ sễ trội hẳn lực-lượng Hải-quân Việt-Nam có thể điều-động tới. Nếu hai chiến-hạm c̣n lại của Hải-đoàn đặc-nhiệm phải lưu-lại Hoàng-Sa như lệnh ban ra lúc đầu, với khả-năng chiến-đấu đă bị giảm-sút nhiều th́ sự bảo-tồn của hai chiến-hạm này rất mong-manh. Thế cho nên phản-lệnh cho hai chiến-hạm phải trở về căn-cứ được kể như là đúng lúc và sát với thực-tế hơn.
Trung-cộng đă bắt giữ tất cả quân-nhân và dân-chính Việt-Nam trên đảo Hoàng-Sa và toán hải-quân đổ-bộ thuộc Khu-trục-hạm HQ4 trên đảo Vĩnh-Lạc (sát phía nam đảo Hoàng-Sa) mà trưởng toán là HQ Trung-Uư Lê-văn-Dũng (sau được vinh-thăng HQ Đại-Uư tại mặt-trận), làm tù-binh đưa về giam-giữ đầu tiên tại đảo Hải-nam. Riêng ông Kosh là nhân-viên của cơ-quan DAO Hoa-Kỳ tại Đà-nẵng th́ được trao trả cho Hoa-Kỳ sớm nhất tại Hồng-Kông. C̣n các nhân-viên Việt đă bị họ nhồi-sọ về chủ-nghĩa của họ trong suốt thời-gian tại Quảng-Đông, và trao trả về Việt-Nam tại ranh-giới HồngKông và Trung-cộng. Đô-đốc Tư-lệnh-phó HQ đă được đề-cử đích-thân đến HồngKông tiếp-nhận. Các chiến-sĩ từ Trung-cộng hồi-hương đều được đưa vào Tổng-Y-viện Cộng-Ḥa điều-trị về các bệnh-trạng gây ra do các hành-động ngược-đăi trong khi bị giam-cầm trên lục-địa Trung-Hoa.
Thế là cuối cùng th́ Việt-Nam Cộng-Ḥa đă mất nốt nhóm đảo Nguyệt-Thiềm phía nam của cả quần-đảo Hoàng-Sa cho tới ngày hôm nay.
Các chiến-sĩ Hải-quân đào-thoát từ Hoàng-Sa, sau nhiều ngày trôi-dạt trên mặt biển, một số đă được chính các tuần-duyên-đĩnh của Hải-quân cứu vớt, một số đă được các thương-thuyền trên hải-tŕnh Singapore HồngKông bắt gặp. Tất cả các chiến-sĩ thoát-hiểm được đưa về diều-trị tại các Tổng-y-viện Duy-Tân (Đà-nẵng) hay Cộng-Ḥa, và c̣n được Thủ-tướng chính-phủ, các vị Tư-lệnh Quân-đoàn, và các vị Đô-đốc Hải-quân đến thăm hỏi và úy-lạo. Các chiến-sĩ Hải-quân đào-thoát từ Hoàng-Sa, sau nhiều ngày trôi-dạt trên mặt biển, một số đă được chính các tuần-duyên-đĩnh của Hải-quân cứu vớt, một số đă được các thương-thuyền trên hải-tŕnh Singapore HồngKông bắt gặp. Tất cả các chiến-sĩ thoát-hiểm được đưa về diều-trị tại các Tổng-y-viện Duy-Tân (Đà-nẵng) hay Cộng-Ḥa (Sàig̣n), và c̣n được Thủ-tướng chính-phủ, các vị Tư-lệnh Quân-đoàn, và các vị Đô-đốc Hải-quân đến thăm hỏi và úy-lạo..
Công-cuộc chuẩn-bị tái-chiếm Hoàng-Sa
Khi phần thăm-viếng của thượng-cấp kết-thúc, th́ tất cả các chiến-hạm bắt tay ngay vào việc sửa-chữa và tái tiếp tế đan-dược đề chuẩn-bị tấn-kích tái-chiếm Hoàng-Sa. Một toán thợ thượng-thặng của Hải-quân công-xưởng cũng đă được điều-động từ Sàig̣n ra để phụ-lực với chuyên-viên của Thủy-xưởng Đà-nẵng. Riêng Tuần-dương-hạm HQ16, tuy không bị hư-hại nhiều trên thượng-tầng kiến-trúc, nhưng các chuyên-viên đă tháo-gỡ được đần viên đạn đă xuyên lủng hầm máy. Viên đạn này là một loại đạn xuyên-phá và không nổ 127 ly của Tuần-dương-hạm HQ5 bị lạc. Kinh-nghiệm cho thấy là loại đầu đạn không nổ nếu trúng nước th́ đạn-đạo sẽ thay đổi rất nhiều v́ đầu đạn nhọn bị nước làm chuyển hướng đi rất xa. Tin này do đích thân Tư-lệnh phó Hải-quân mang đến cho tôi. Đó là một điều không may-mắn cho Hải-đoàn đặc-nhiệm Hoàng-Sa, nhưng trong bất cứ một cuộc chiến-tranh nào, sự nhầm-lẫn về mục-tiêu, về bạn và địch, về vị-trí tác-xạ đều đă xẩy ra ít nhất là tại chiến-trường Việt-Nam. Hơn nữa trong cuộc hải-chiến này, Tuần-dương-hạm HQ5 đă tác-xạ cả trăm đại-pháo 127 ly, mà chỉ có một viên bị lạc, nên vẫn c̣n là điều may-mắn. Việc chiến-hạm bị trúng 1 viên đạn của bạn cộng với việc hai khẩu hải-pháo 76 ly tự-động trên khu-trục-hạm HQ4 đă bị trở-ngại kỹ-thuật ngay từ phút đầu của cuộc chiến, là hai nhược-điểm chiến-thuật mà Hải-quân VNCH chỉ muốn phổ-biến hạn-chế vào đầu năm 1974 là thời điểm, mà nhiều sự phân-tích đáng tin cho rằng Tổng-Thống Nguyễn-văn-Thiệu đă lợi-dụng biến-cố Hoàng-Sa để tránh-né sự chỉ-trích của các phần-tử đối-lập lúc đó đang rất-mạnh.
Sau ít ngày sửa chữa, th́ Tuần-dương-hạm HQ16 chỉ đủ khả-năng tự hải-hành về quân-cảng Sàig̣n và được đón-tiếp trọng-thể. Khu-trục-hạm HQ4 không sửa chữa tại chỗ được hai khẩu 76 ly tư-động. Tuần-dương-hạm HQ5, sau khi tái tiếp-tế đạn và hàn vá các hư-hại đă cùng HQ6 ra khơi t́m-kiếm các nhân-viên đào-thoát khỏi vùng Hoàng-Sa. Các phi-cơ C130 đă bay lượn trong một vùng duyên-hải hạn-chế để tránh sự hiểu nhầm về hành-động khiêu-khích của Việt-Nam đối với Trung-cộng. Các phi-cơ hướng-dẫn các chiến-hạm xem xét các vật trôi trên mặt biển nhưng vẫn chưa cấp-cứu được nhân-viên nào ngoại trừ vỏ một thùng xăng dự-trữ . Tôi vẫn có mặt trên Tuần-dương-hạm HQ5 để tham-dự cuộc t́m-kiếm. Riêng hộ-tống-hạm HQ10, v́ mất liên-lạc nên tôi đă không biết được t́nh-trạng cuối cùng của chiến-hạm, nhưng chúng tôi vẫn c̣n một hy-vọng tuy mong-manh là chiến-hạm này chưa ch́m hẳn và có thể trôi dạt về phía duyên-hải miền Trung trong mùa gió đông-bắc.
Với Tuần-dương-hạm HQ6 đă có mặt trong vùng và vừa hoàn-tất hộ-tống Tuần-dương-hạm HQ16 từ nửa đường Hoàng-Sa Đà-nẵng về bến, cộng với HQ17 (Hạm-trưởng HQ Trung-Tá Trần-đ́nh-Trụ) điều-động từ Trường-Sa tới tăng-cường đă kết-hợp với Tuần-dương-hạm HQ5 thành một Hải-đoàn đặc-nhiệm mới với nhiệm-vụ chuẩn-bị tái-chiếm Hoàng-Sa. Mặc dầu nhiều sĩ-quan thâm-niên hơn tôi có mặt tại chỗ, nhưng tôi vẫn được chỉ-định tiếp-tục chỉ-huy. Một cuộc thao-dượt chiến-thuật và thực-tập tác-xạ đă diễn ra trong ṿng một ngày tại vùng một đảo nhỏ nằm về phía bắc vùng Cù-lao Chàm phía đông-nam Đà-nẵng. Sau cuộc thao-dượt, tôi tŕnh bầy kết-quả việc huấn-luyện trong các buổi thuyết tŕnh hành-quân tại Bộ-Tư-lệnh Hải-quân vùng, vẫn được Tư-lệnh-phó Hải-quân chủ-tọa.
Nhưng cuối cùng th́ công-cuộc tái-chiếm Hoàng-Sa được hủy-bỏ. Tuy vẫn được tín-nhiệm để chỉ-huy, nhưng tôi tin rằng cuộc phản-kích tái-chiếm sẽ thất-bại ngoại trừ đó là một chiến-thuật thí-quân nằm trong một chiến-lược cao hơn. Với các tuần-dương-hạm cũ-kỹ (WHEC) xử-dụng trong lực-lượng pḥng-vệ duyên-hải Hoa-Kỳ (US Coast guard) từ lâu, được trang-bị vào công-tác tuần-tiễu hơn là để chiến-đấu, vừa chạm-chạp và vận-chuyển nặng-nề, nên khó chống trả lại với các chiến-hạm chiến-đấu tối-tân hơn. Loại này chỉ có một hải-pháo 127 ly, c̣n 2 hải-pháo 40 ly đă được Hải-quân Việt-Nam đặt thêm vào lái tầu là nơi đă được dùng làm sàn đáp trực-thăng.
Trong thời-gian tại căn-cứ, Tư-lệnh-phó HQ ít nhất đă hai lần tập-hợp nhân-viên tất cả các chiến-hạm có mặt tại chỗ để chỉ-thị không được có hành-động kiêu-ngạo về chiến-tích của Hải-quân VNCH. Để làm gương cho tất cả nhân-viên thuộc quyền, tôi đă giữ một thái-độ rất khiêm-nhượng và im-lặng. Tôi chưa bao giờ thảo-luận hoặc tŕnh bày chi-tiết với bất cứ một ai hay một tổ chức nào, về những yếu-tố đă đưa đến các quyết-định chiến-thuật của tôi trong trận đánh.
Tôi lưu-lại Vùng I duyên-hải chừng hơn một tuần-lễ, đă được cùng Phó Đề Đốc Tư-lệnh HQ vùng I Duyên-hải xuất-hiện trên đài chỉ-huy cũng của Tuần-dương-hạm HQ5 để thực-hiện một phóng-sự cho đài truyền-h́nh quân-đội. Sau đó tôi trở về nhiệm-sở chính tại Sàig̣n. Tôi c̣n được đến pḥng thâu-h́nh của quân-đội cùng các vị hạm-trưởng và một vài hạ-sĩ-quan trưởng pháo-khẩu để tŕnh bầy các chiến-tích. Tuy nhiên tôi không đề-cập nhiều chi-tiết và nhường lời lại nhiều hơn cho các hạm-trưởng v́ tôi nghĩ rằng các vị này đáng được đề-cao v́ đă đích-thân huy-động tinh-thần nhân-viên và can-dảm trực-tiếp chiến-đấu. Ít lâu sau tôi phải theo học Khóa Chỉ-huy Tham-mưu đặc-biệt tại Long-B́nh, đặc-biệt v́ khóa gồm nhiều các sĩ-quan đang đảm-trách những vai-tṛ then-chốt của quân-lực và các đại-đơn-vị. Khi Phó-Đề-đốc Phụ-tá hành-quân biển của Tư-lệnh-Hải-quân đến thuyết tŕnh tại trường về tổ-chức của Hải-quân Việt-Nam, th́ một câu hỏi đầu-tiên của khóa-sinh là về hải-chiến Hoàng-Sa. Đô-đốc đă chuyển câu hỏi này cho tôi đang ngồi trong hội-trường, quả thật vị này đă trao cho tôi một trái banh khó đỡ. Tôi đáp lại câu hỏi vỏn-vẹn ngay là: Các quí-vị đă nghiên cứu về trận đánh Ấp-Bắc, th́ trận hải-chiến Hoàng-Sa cũng gần tương-tự. Sau câu trả lời của tôi th́ không một câu hỏi nào về trận Hoàng-Sa được nêu ra thêm. Xin ghi thêm vào nơi này, trận Ấp-Bắc đă làm cho quân-lực bị bất ngờ về chiến-thuật cửa địch, có sự sai lầm về ước-tính t́nh-báo và nhầm-lẫn về chiến-thuật điều-quân.
Vào những năm tháng cuối cùng của cuộc-chiến Việt-Nam tôi được biệt-phái giữ chức-vụ Phụ-Tá Hải-quân cho Trung-tướng Chỉ-Huy-trưởng Trường Chỉ-huy Tham-mưu Liên-quân đồn-trú tại Long-B́nh.
Phần sau trận hải-chiến
Sau trận hải-chiến, Hải-quân được nhiều vinh-danh nhờ trận-chiến đă nêu cao và nối-tiếp được tinh-thần chống bắc-xâm của dân-tộc. Trận hải-chiến được liên-tục ca-ngợi hàng ngày trên các phương-tiện truyền-thông của quân-đội cũng như ngoài dân-sự để thêm vào với: B́nh-long anh-dũng, Kontom kiêu-hùng v.v….
Hoàng-Trường-Sa với Việt-Nam là một
Cũng nhờ trận hải-chiến mà phần đông nhân-dân Việt-Nam mới được biết đến phần lănh-thổ nằm xa vời trong Biển-Đông mà Hải-quân VNCH từ ngày thành-lập đă âm-thần bảo-vệ và tuần-tiễu.
Nói về trận hải-chiến, dù Hải-quân VNCH giả thử có thắng được trận ngày đầu, th́ chúng ta khó lường được sự tổn-thất nếu Hải-quân c̣n ở lại để cố-thủ Hoàng-Sa. Phó Đề-Đốc Chủ-tịch Ủy-Ban nghiên-cứu về trận hải-chiến khi vị này đích thân thăm-viếng Khu-trục-hạm HQ4, khi đang nằm trong ụ lớn sửa chữa đă nói riêng với tôi: thế là vừa đủ, ư của vị này nói là không nên tiếp-tục chiến-đấu thêm ít nhất là vào thời-điểm đó Hải-quân c̣n phải đảm-nhận nhiều công-tác tiễu-trừ cộng-sản trong đất liền. Đó là chưa kể việc tấn-chiếm phần c̣n lại của quần-đảo Hoàng-Sa có thể đă nằm trong các đường lối đi-đêm chiến-lược của các cường-quốc. Tôi nghĩ rằng nếu chiếc khu-trục-hạm HQ4 không bị trở-ngại kỹ-thuật và trận-chiến đă xẩy ra gần như tôi đă dự-liệu và mong-muốn, nghĩa là ta thắng trận đầu, th́ cường-lực hải-lục-không quân của chúng huy-động ngày hôm sau không những đủ sức tràn ngập quân trú-pḥng và lại c̣n đủ sức truy-kích Hải-quân VNCH trong một vùng rộng lớn hơn. Tôi đă tin-tưởng rằng Quân-đoàn I/Quân-khu I đă phải đặt trong t́nh-trạng báo-động đề-pḥng sự tấn-công của Trung-cộng ngay sau khi trận hải-chiến diễn ra. Một phi-tuần chiến-đấu-cơ F5 của Sư-đoàn I Không-quân tại Đà-nẵng đă sẵn-sàng trên phi-đạo nhưng không được lệnh cất cánh từ cấp cao để yểm-trợ cho Hải-quân v́ có thể là e-ngại sẽ châm ng̣i cho một cuộc chiến mới, hoặc chỉ hạn-chế trận-chiến tới mức có thể chấp-nhận được trong một thế chính-trị.
Một lần nữa, giả-dụ rằng ta cứ để Trung-cộng có mặt trên đảo Quang-Ḥa, trận hải chiến đă không xẩy ra th́ chúng ta vẫn có thể tiếp-tục hiện-diện trên đảo Hoàng-Sa, tuy nhiên có thể phải trải thêm quân trên các đảo Cam-Tuyền, Vĩnh-Lạc và Duy-Mộng, để tránh sự lấn-chiếm, cộng thêm là Hải-quân Việt-Nam phải thường-xuyên tuần-tiễu với một hải-đoàn tương-đối mạnh. Nhưng dần dà họ cũng sẽ lấn chiếm theo kế hoạch bành trướng thế lực của họ trong vùng Đông Nam Á. Có thể Trung-cộng đă trả đũa hay dập theo khuôn-mẫu Việt-Nam Cộng-Ḥa khi ta đă đặt quân trú-pḥng trên đảo Nam-Yết và Sơn-Ca nằm phía nam và đông cùng trên một ṿng-đai san-hô với đảo Thái-B́nh, đă bị Trung-Hoa Dân-quốc (Đài-Loan) chiếm-đóng từ khi Nhật-Bản thua trận đệ-nhị thế-chiến. Người Trung-Hoa dù là lục-địa hay hải-đảo, đă từng nhiều lần tuyên-bố là lănh-thổ của họ, không những vùng này mà thôi mà cả toàn vùng Hoàng-Sa Trường-Sa. Phải thành-khẩn mà nhận rằng, khi Việt-Nam Cộng-Ḥa đặt quân trú-pḥng trên các đảo c̣n bỏ trống trong vùng Trường-Sa như Nam-Yết, Sơn-Ca, Song-Tử-đông, Song-Tử-tây, Trường-Sa v.v.., chúng ta đă không gặp một hành-động đối-kháng về quân-sự nào từ phía Trung-Hoa Dân-quốc hoặc Phi-Luạt-Tân hay Mă-Lai-Á.
Một suy-luận nữa là có thể trận hải-chiến là một cuộc điều-chỉnh sự nhường quyền chiếm-giữ từ một nhược-tiểu đến một cường-quốc theo một chiến-lược hoàn-cầu mà vài cường-quốc đă ngầm thỏa-thuận trước. Chúng ta có thể nhớ lại cuộc tấn-công hùng-hậu của Anh-quốc trong cuộc tranh-chấp đảo Falkland (Nam Mỹ-Châu) vào thập-niên 80, mà Á-căn-đ́nh (Argentina) vẫn luôn coi như lănh-thổ của họ. Họ đă chiến-đấu mạnh-mẽ trên mặt ngoại-giao và buộc phải chiến-đấu trên mặt quân-sự sau khi ngoại-giao thất-bại. Về mặt quân-sự, họ biết trước là khó chống lại Anh-quốc với lực-lượng khá dồi-dào, nhưng họ đă phải chiến-đấu trong khả-năng của họ, họ biết tự kiềm-chế cường-độ chiến-tranh để giảm-thiểu tổn-thất. Kết-quả là đảo Falkland đă về tay Anh-quốc. Tuy đảo Falkland rộng lớn hơn về diện-tích và nguồn-lợi cũng như dân-số, quân-lực hai đối-thủ đưa vào cuộc đụng-độ hùng-hậu hơn, mức-độ chiến-tranh nặng hơn, nhưng hai trận Falkland và Hoàng-Sa đă gần tương-tự nhau về tính-chất của một cuộc chiến.
Người Pháp, trong chiến-tranh tại Đông-dương sau 1945, v́ chiến-cuộc gia-tăng tại nội-địa, đă phải bỏ-ngỏ hoàn-toàn nhóm đảo Tuyên-đức phía bắc, và bỏ-ngỏ nhóm Nguyệt-thiềm phía nam trong vài năm. Riêng nhóm Tuyên-đức phía bắc đă do Trung-Hoa Dân-quốc cưỡng-chiếm trong ít lâu, nhưng sau đó họ đă phải rút về v́ sự thất-trận củu họ trong lục-địa. Về sau, hiệp-định Balê 1954 lại đề ra khu phi-quân-sự dọc theo vĩ-tuyến 17, đă làm cho Việt-Nam Cộng-Ḥa đă không thể tích-cực hiện-diện tại nhóm Tuyên-Đức bắc đảo Hoàng-Sa thuộc nhóm Nguyệt-thiềm.
Xét về sự pḥng-thủ, so sánh với đảo Thái-B́nh trong vùng Trường-Sa th́ thế bố-trí trên đảo Hoàng-Sa của VNCH đă thua kém rất xa, và không thể đủ sức để cố-thủ chống lại một cuộc cường-kích thủy-bộ. Trên đảo không có công-sự nặng, chỉ có khỏang một trung-đội địa-phương-quân với vũ-khí cá-nhân và một vài quan-sát viên khí-tượng. Trong khi đó Đảo Thái-B́nh, khi Nhật chiếm-đóng trong đệ-nhị thế-chiến, họ đă xây-cất nhiều công-sự nặng. Sau này khi Trung-Hoa dân-quốc (Đài-Loan) chiếm-đóng, chắc-chắn họ đă tăng-cường mọi cơ-cấu pḥng-thủ, lại có trang-bị các khẩu đại-pháo chống chiến-hạm, đưa quân-số trú-pḥng có thể tới cấp hơn tiểu-đoàn và do một vị Đại-tá Thủy-quân lục-chiến chỉ-huy.
Ngoài ra việc tuyên-bố chủ-quyền của Trung-cộng trên cả hai quần-đăo Hoàng-Sa và Trường-Sa được nhận-xét chỉ diễn ra sau cuộc thăm-viếng Trung-cộng của Ngoại-trưởng Hoa-Kỳ Kissinger. Ít nhất là Hoa-Kỳ và Trung-cộng đă ngầm có nhiều thỏa-thuận về chiến-lược hay ít nhất cũng đồng-ư là Hoa-kỳ sẽ không can-thiệp vào các hành-động của Trung-cộng trong vùng. Đối với Việt-Nam Cộng-Ḥa, Hoa-Kỳ đă không muốn can-dự vào sự bảo-vệ lănh-thổ. Trong ngày hải-chiến th́ các đối-tác-viên tại Bộ-Tổng-Tham-mưu đă khẳng-định đó là công chuyện riêng của Việt-Nam .
Quan-niệm của Hoa-Kỳ trong việc mở-rộng lưc-lượng Hải-quân chỉ là vừa đủ để hành-quân yểm-trợ hỏa-lực và ngăn-chặn trong vùng sông-ng̣i và duyên-hải mà thôi. Cộng-cuộc xây-cất một hệ-thống thám-báo liên-tục từ Bến-Hải đến Vịnh Thái-lan là một công-tác cao, cả về kỹ-thuật lẫn tài-chánh với mục-tiêu duy-nhất là kiểm-soát hữu-hiệu sự xâm-nhập lén-lút bằng đường-biển của cộng-sản Bắc-Việt vào vùng duyên-hải. Việc viện-trợ hai chiếc khu-trục-hạm, v́ là loại tấn-công, nên sau 1973 họ đă nhiều lần đ̣i tháo gỡ máy ḍ tiềm-thủy-đĩnh như đă tŕnh-bầy, làm như vậy là sẽ giảm khả-năng của loại này một nửa. Vũ-khí tấn-công trên mặt biển và trên không của khu-trục-hạm là hai dàn hải-pháo 76 ly tự-động với nhịp tác-xạ khỏang 60 viên một phút. Với hỏa-lực tấn-công mạnh-mẽ như vậy, Hải-quân Hoa-Kỳ, vào những năm cuối của cuộc chiến, song-song với kế-hoạch rút lui, đă không bỏ sót cơ-hội cắt đứt hay ít nhất cũng tŕ-hoăn việc tiếp-tế cơ-phận thay-thế cho loại hải-pháo tối-tân này.
Sau trận hải-chiến, để nêu gương hy-sinh của các chiến-sĩ bỏ ḿnh trên đại-dương, Bộ-Tư-lệnh HQ đă có nghiên-cứu một kiến-trúc dự-định xin phép Đô-thành Saig̣n Chợ-lớn xây cất trong khu-vực cột-cờ Thủ-Ngữ bên sông Sàig̣n. Riêng Hội-đồng Đô-thành đă đồng-ư trên nguyên-tắc là sẽ có một đường-phố mang tên Ngụy-văn-Thà. Một buổi lễ kỷ-niệm lần thứ nhất trận hải-chiến Hoàng-Sa đă được tổ-chức vào ngày 19 tháng giêng năm 1975 do Tư-lệnh Hải-quân, Đề-Đốc Lâm-ngươn-Tánh chủ-tọa nhưng tôi không được thông-báo để đến tham-dự.
Hàng năm cứ mỗi Tết nguyên-đán đến, dù vào tháng giêng hay không, tôi luôn luôn có ít phút tưởng-niệm dành cho các liệt-sĩ đă hy-sinh và cũng tưởng nhớ tới chiến-sĩ đă anh-dũng cùng tôi chiến-đấu trong trận-hải-chiến Hoàng-Sa, mà số đông đang lưu-lạc trong vùng đất tự-do. Họ là những anh-hùng đă xả-thân để bảo-vệ lănh-thổ của tiền-nhân xây-dựng từ bao thế-kỷ. Mong rằng tài-liệu này sẽ mang lại niềm hănh-diện cho toàn-thể các chiến-sĩ Hải-quân đă tham-dự trận đánh mà tôi đă có vinh-dự chỉ-huy.
laongoandong
01-05-2019, 10:19
Cho tôi xin ngậm ngùi
Bao người đă nằm xuống
Cho tôi xin khóc thương
Những dân ḿnh ra biển
Cho tôi xin nụ cười
Huynh đệ vẫn bên nhau
Cho tôi xin mảnh đất
Quê hương đă không c̣n
Cho tôi xin màu cờ
Tổ quốc vẫn c̣n đây
Cho tôi xin nằm cạnh
những chiến hữu của tôi
HL22
Bái thơ ư nghĩa rất thâm sâu và bao quát rộng răi nhiếu vấn đề canh cánh bên ḷng mà người trai VNCH chưa chu tṛn việc nước. Cám ơn bạn đă khơi dậy niềm tự hào là người lính năm xưa và t́nh huynh đệ chi binh.
hoanglan22
01-05-2019, 13:43
svB8ABa--v0
hoanglan22
01-05-2019, 15:02
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1323826&stc=1&d=1546699956
T́nh h́nh vào hạ tuần tháng 4/75 biến chuyển dồn dập. Áp lực địch ở mặt trận phía Đông ngày càng nặng, tôi được Quân Đoàn tăng cường Trung Đoàn 8/SĐ5BB do Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng chỉ huy. Lực lượng địch và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III giằng co dữ dội trên tuyến Hưng Lộc, Ngă Ba Dầu Giây. Tôi buộc phải sử dụng hai quả bom CBU 55 của Không Quân Biên Ḥa để chận đứng địch và giải cứu Chiến Đoàn 52/SĐ18-BB của Đại Tá Dũng khỏi bị tiêu diệt. Ở Sài G̣n có âm mưu lật đổ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, tôi được móc nối đảo chánh nhưng cương quyết từ chối và tuyên bố chống lại. phi trường Biên Ḥa đóng cửahttp://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1323827&stc=1&d=1546699956
Ngày 20/4-75 SĐ18BB của Tướng Lê Minh Đảo rút bỏ Xuân Lộc về Long B́nh. Ngày 21/4/1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức. Ngay ngày hôm sau, tại mặt trận, tôi viết thư cho Trung Tướng Charles Timmes, phụ tá Đại Sứ Martin ở Sài G̣n, đại ư nói: “Thưa Trung tướng, trong khi tôi đang ngăn chận các sư đoàn Cộng Sản ở đây th́ cũng là lúc quốc hội Hoa Kỳ đang thảo luận có nên tiếp tục viện trợ thêm 300 triệu Mỹ kim cho Quân Lực VNCH không? T́nh h́nh gần như tuyệt vọng. Tôi nghĩ rằng cho dù ngay bây giờ quốc hội Hoa Kỳ có chấp thuận viện trợ cho quân lực chúng tôi đi nữa th́ cũng đă quá muộn rồi. Tuy nhiên tôi và toàn thể quân nhân các cấp thuộc quyền tôi nguyện sẽ chiến đấu đến phút cuối cùng. Tôi chỉ xin Trung Tướng giúp cho gia đ́nh tôi được di tản đến một nơi an toàn…”
Sau khi SĐ18BB được nghỉ 5 ngày bổ sung quân số và dưỡng quân, ngày 25/4/1975 Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III điều động đơn vị này lên mặt trận Trảng Bom, Hưng Lộc, Ngă Ba Dầu Giây để thay thế Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III được rút về Biên Ḥa dưỡng quân. Trung Đoàn 9/SĐ5BB được hoàn trả về hậu cứ ở Lai Khê. Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III trở thành lực lượng trừ bị Quân Đoàn.
Về tới Biên Ḥa chưa kịp nghỉ ngơi, ngay chiều ngày 25/4/1975, có tin lực lượng địch chiến trường ???) Thiết Giáp và tiến ra hướng Quốc Lộ 15. Có lệnh Quân Đoàn, tôi liền phái Chiến đoàn 322 tăng cường 1 Tiểu đoàn TQLC do Trung Tá Nguyễn Văn Liên chỉ huy tấn công theo hướng Ngă Ba Long Thành và trường Thiết Giáp. Chiến đoàn vừa rời Quốc Lộ 15 tiến về hướng trường Thiết Giáp, th́ chạm địch nặng và giao tranh dữ dội với chúng đến khuya, bắn cháy 12 chiến xa T-54 buộc chúng phải rút vào bên trong. Chiến thắng này làm nức ḷng toàn dân ở Biên Ḥa. Sau khi kiểm soát kết quả trận đánh, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân đoàn III hứa sẽ thưởng 1,200,000 đồng cho các chiến sĩ có công diệt chiến xa địch, mỗi chiếc hạ được 100,000 đồng.
Ngày 29/4/1975 có lệnh mới của Quân Đoàn. Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III ngoài Liên đoàn 33 BĐQ, được tăng phái thêm: Lữ đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến, Lữ đoàn 4 Nhảy Dù (1 Tiểu đoàn) và Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù, yểm trợ hỏa lực trực tiếp có: Tiểu đoàn 46 PB-155ly và Tiểu đoàn 61 PB-106 ly Quân Đoàn.
12 giờ trưa ngày 29/4/1975, Trung Tướng Toàn triệu tập một phiên họp khẩn cấp tại Bộ Tư Lệnh SĐ18BB ở Long B́nh. Chỉ có Toàn, Đảo và tôi. Anh chỉ tay lên bản đồ ra lệnh cho SĐ18BB của Đảo pḥng thủ khu vực Long B́nh và kiểm soát xa lộ Biên Ḥa, kế đó ra lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III của tôi pḥng thủ bảo vệ thành phố Biên Ḥa và đặt lực lượng Địa Phương Quân (ĐPQ) và Nghĩa Quân (NQ) của Tiểu Khu Biên Ḥa dưới quyền kiểm soát của tôi. Sau này đi tù, tôi mới biết ngay lúc này phía bên khu vực SĐ25BB ở Củ Chi đă bị địch chiếm, SĐ25BB đă bị đánh tan và Tướng Lư Ṭng Bá đă bị địch bắt. Nguyễn Văn Toàn giấu tôi và Lê Minh Đảo tin xấu này. Anh chuẩn bị sắp xếp để bỏ trốn.
Vừa nhận nhiệm vụ xong, tôi chợt thấy xuất hiện Đại Tá Hiếu, Trung đoàn Trưởng Trung đoàn 43/SĐ18BB với giọng run run xúc động, Hiếu báo cáo: quân địch đang tấn công Trảng Bom và Trung đoàn 43BB đang rút quân về hướng Long B́nh, mặt Đảo cau lại, Toàn nổi giận la hét Hiếu bắt Hiếu phải đem quân trở lại vị trí cũ, Hiếu làm như tuân lệnh, chào và lui ra. Trong thâm tâm tôi, tôi biết là mặt trận phía Đông Biên Ḥa ở Trảng Bom của SĐ18BB khó có thể cầm cự nổi v́ SĐ18BB đă bị kiệt sức sau trận đánh lớn ở Xuân Lộc không được bổ sung. Sự sụp đổ chỉ là vấn đề thời gian. Giao nhiệm vụ cho tôi và Đảo xong, Toàn đứng dậy bắt tay hai chúng tôi và nói: “Hai anh cố gắng, tôi sẽ bay về Bộ Tổng Tham Mưu xin yểm trợ cho hai anh.” Xoay qua tôi, anh nói tiếp: C̣n số tiền thưởng 1,200,000, tôi sẽ cho người mang đến Lữ đoàn.” Đấy là những lời nói cuối cùng của Tư Lệnh Quân Đoàn III.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1323828&stc=1&d=1546700092
Về đến Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III, tôi liền họp các Lữ đoàn Trưởng, Liên đoàn Trưởng, Chiến đoàn Trưởng, và các Đơn Vị Yểm Trợ. Tiểu Khu Trưởng và Tiểu Khu Phó Biên Ḥa đă bỏ trốn từ mấy ngày trưc. Trước hết, tôi ban hành lệnh thiết quân luật ở Biên Ḥa kể từ 15 giờ 00 ngày 29/4/1975, chỉ thị cho các đơn vị ĐPQ và NQ chung quanh thị xă Biên Ḥa bố trí tại chỗ, ở đâu ở đó, không được rời vị trí, không được di chuyển. Cảnh sát Biên Ḥa chịu trách nhiệm an ninh bên trong thành phố. Triệt để thi hành nguyên tắc nội bất xuất, ngoại bất nhập. Để pḥng thủ bảo vệ thành phố Biên Ḥa, tôi phối trí Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III như sau:
Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù: Bố trí trong khu phi trường Biên Ḥa, giữ mặt Bắc BTL/Quân đoàn III.
Lữ đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC): 1Tiểu đoàn bảo vệ BTL/Quân đoàn III, 1Tiểu đoàn bố trí pḥng thủ mặt Nam BTL/Quân đoàn III.
Lữ đoàn 4 Nhảy Dù (1Tiểu đoàn): Tổ chức phân tán thành nhiều tiểu đội chiến đấu nhỏ, giữ Cầu Mới và Cầu Sắt Biên Ḥa, và đặt các nút chận trên đường xâm nhập vào thành phố Biên Ḥa.
Chiến đoàn 315: Bố trí án ngữ từ ngă Tư Ḷ Than đến ngă Tư Ḷ Than (gần trại Ngô Văn Sáng).
Chiến đoàn 322: Bố trí án ngữ từ ngă tư Ḷ Than đến cổng phi trường Biên Ḥa (trừ bị 1).
Chiến đoàn 318: Bố trí án ngữ từ cổng phi trường Biên Ḥa đến Cầu Mới Biên Ḥa (trừ bị 2).
Pháo Binh: Kế hoạch yểm trợ hỏa lực.
BTLLĐ3KB/Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III: Đặt tại tư dinh Tư Lệnh Quân Đoàn III.
Vào khoảng 15 giờ 00 ngày 29/4/1975, tôi đang ăn cơm trưa với Bộ Tham Mưu trong tư dinh Tư Lệnh Quân Đoàn, th́ th́nh ĺnh chiếc trực thăng chỉ huy của Tướng Toàn đáp xuống băi đáp trong vườn hoa tư dinh bên cạnh chiếc trực thăng chỉ huy của tôi. ThiếuTá Cơ (phi công) vào chào tôi và báo cáo cho tôi biết. Sau khi rời Long B́nh, Cơ đưa Tướng Toàn và bộ hạ ra Vũng Tàu, nơi đó anh thấy có các Tướng Lăm và Hiệp chờ Tướng Toàn, rồi cả 3 người cùng đi bằng tàu đánh cá ra Hạm Đội Mỹ ở ngoài khơi. Tin Toàn bỏ trốn không làm tôi ngạc nhiên. Anh Cơ xin được ở lại làm việc với tôi. Tôi đồng ư v́ đơn vị trực thăng của anh giờ này không c̣n ở Biên Ḥa nữa.
Lúc 17 giờ 00 ngày 29/4/1975, tôi dùng xe Jeep có hộ tống đi một ṿng quan sát t́nh h́nh trong và chung quanh thành phố Biên Ḥa. T́nh h́nh chung có vẻ yên tĩnh, dân chúng không ra đường, phố xá đóng cửa. Vào khoảng 18 giờ 00, quân cộng sản bắt đầu xâm nhập vào mặt Bắc và Đông Bắc thành phố từ hướng phi trường đụng với quân Biệt Cách Dù và TQLC. Giao tranh bắt đầu, 1 cánh quân BĐQ của Chiến đoàn 315 cũng đụng địch ở gần trại Ngô Văn Sang. Địch bám sát vào tuyến pḥng thủ mặt Bắc và Đông Bắc của quân ta. Hai bên bám trận địa nằm cách nhau 10-15 mét. Cho đến giờ phút này, quân ta chiến đấu vững vàng tự tin. Không có t́nh trạng bỏ ngũ. Dưới sự yểm trợ mạnh mẽ của hỏa lực Thiết Giáp, quân ta đẩy địch ra xa tuyến pḥng thủ.
Lúc 20 giờ 00 tôi gọi trại Phù Đổng ở Sài G̣n. Nơi đây là Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp và là nơi Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III vừa đặt bản doanh. Có trả lời nhưng không một ai có thẩm quyền để nhận báo cáo của tôi hoặc liên lạc với tôi. Tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, không có cách ǵ liên lạc được. Tôi nóng ḷng chờ lệnh của Sài G̣n. Tôi tự hỏi Đại Tướng Dương Văn Minh, tân Tổng Thống, Tổng Tư Lệnh Quân Đội có giải pháp ǵ không? Có lệnh ǵ mới cho chúng tôi không?
Đến 22 giờ 10 có chuông điện thoại reo, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có gọi tôi ở đầu giây: “Tôi là Trung Tướng Có đây, tôi đang ở bên cạnh Đại Tướng, anh cho chúng tôi biết t́nh h́nh ở Biên Ḥa như thế nào?” Thưa Trung Tướng, tôi giữ thị xă Biên Ḥa, Lê Minh Đảo giữ Long B́nh, Toàn đă bỏ chạy, phi trường Biên Ḥa địch chiếm, áp lực địch rất nặng ở hướng Bắc và Đông Biên Ḥa.” 1, 2, 3 phút trôi qua, ở đầu giây, Tướng Có nói tiếp ” “Đại tướng hỏi anh có thể giữ vững Biên Ḥa đến 08 giờ 00 sáng mai, để Đại tướng nói chuyện với bên kia được không?” Tôi trả lời không do dự ” Được, tôi có thể giữ vững Biên Ḥa đến 08 giờ 00 sáng mai.” Trong máy điện thoại, tôi nghe văng vẳng tiếng nói của Tướng Có báo cáo lại với Đại tướng Minh. Cuối cùng Tướng Có nói: “Lệnh của Đại tướng cho anh: Chỉ huy pḥng thủ bảo vệ Biên Ḥa đến 08 giờ 00 sáng ngày 30/4/1975. Chúc anh thành công.” Tôi đáp nhận.
Vào khoảng 23 giờ 45 khuya, địch bắt đầu pháo dữ dội vào thị xă Biên Ḥa, chúng tập trung một lực lượng hỗn hợp bộ binh chiến xa cấp Trung đoàn từ Ngă Ba Hố Nai – Xa Lộ tấn công về hướng Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III. Chiến đoàn 315 của Trung Tá Đỗ Đức Thảo xông ra chận địch. Hỏa lực chiến xa M-48 của ta áp đảo địch. Giao tranh quyết liệt. Một số chiến xa địch bị bắn cháy. Địch rút lui.
Lúc 02 giờ 00 sáng ngày 30/4/1975, Tướng Lê Minh Đảo gọi tôi ở đầu máy PC-25: “Báo anh hay tôi bị quân địch tràn ngập, Long B́nh đă bị chúng chiếm.” Tôi liền hỏi: “Anh hiện giờ ở đâu? Có cần ǵ tôi không?” Đảo đáp: “Tôi hiện ở gần Nghĩa trang Quân Đội, đang rút đi về hướng Thủ Đức.” Tôi cảm thấy đau buồn và tội nghiệp Lê Minh Đảo vô hạn. Những năm cuối cùng của cuộc chiến, tôi và Đảo rất vất vả. Hai chúng tôi có mặt ở khắp các mặt trận, v́ Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III của tôi là lực lượng cơ động số 1, và SĐ18BB của Đảo là lực lượng cơ động số 2 của Quân Đoàn. Trong tù, bọn cán bộ cộng sản rất để ư đến hai chúng tôi v́ đă gây cho chúng rất nhiều tổn thất nghiêm trọng và chúng coi hai chúng tôi là hai tên chống cộng “điên cuồng” nhất.
Vào khoảng 03 giờ 30 sáng, địch lại pháo vào Biên Ḥa, lần này chúng pháo rất mạnh và chính xác. Tôi đoán chúng định tấn công dứt điểm Biên Hoà sau khi đă chiếm được Long B́nh. Tôi chuẩn bị sẽ tung cả 3 Chiến đoàn Thiết Giáp vào trận đánh quyết định, nhưng thật bất ngờ, chúng vừa xuất hiện 1 đoàn chiến xa dẫn đầu, bộ binh theo sau, liền bị Chiến đoàn 315 đánh chận đầu và bọc sườn, chúng bèn rút chạy ngược ra xa lộ. Kể từ đó, thị xă Biên Ḥa trở nên yên tĩnh.
Đúng 08 giờ 00 sáng ngày 30/4/1975, tôi cố gắng gọi về Bộ Tổng Tham Mưu để liên lạc với Trung Tướng Nguyễn Hữu Có nhưng không được. Tôi liền họp các Lữ đoàn Trưởng, Liên đoàn Trưởng, Chiến đoàn Trưởng, và các Đơn vị trưởng Yểm Trợ. Chúng tôi trao đổi tin tức và thảo luận t́nh h́nh ở mặt trận, t́nh h́nh trong thành phố Biên Ḥa. Áp lực địch bên ngoài không c̣n nữa. Chung quanh bên ngoài thị xă, chỉ có hoạt động lẻ tẻ của du kích, bên trong thành phố vắng vẻ. Đặc biệt đêm qua, tôi có cho tăng cường canh giữ nhà giam Biên Ḥa. Không có t́nh trạng dân chúng xuống đường hô hào ủng hộ cộng sản. Tôi sung sướng nhất là thấy tinh thần của chiến sĩ ta rất tốt, không có t́nh trạng đào ngũ. Tuyệt nhiên cũng không có t́nh trạng hăm hiếp cướp bóc trong thành phố, các sĩ quan thi hành quân lệnh nghiêm chỉnh. Trong đêm qua có nhiều tốp lính bạn thuộc SĐ18BB ră ngũ định chạy qua thành phố, tôi ra lệnh chận lại, đuổi họ trở ra, cương quyết không cho vào thành phố đang giới nghiêm v́ sợ có t́nh trạng gây mất tinh thần ră ngũ giây chuyền như đă xảy ra ở miền Trung trước đây.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1323829&stc=1&d=1546700209
Bây giờ là 08 giờ 30 ngày 30/4/1975, tôi kết luận buổi họp: “Biên Ḥa không c̣n là mục tiêu tấn công của địch nữa. Tôi nghĩ rằng giờ này các lực lượng chủ lực cộng sản BV đang tập trung tấn công Sài G̣n. Rơ ràng chúng bỏ Biên Ḥa, dồn lực lượng đánh vào Thủ Đô. Chúng ta mất liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu. Bây giờ tôi quyết định kéo toàn bộ Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III về tiếp cứu Sài G̣n.” Tất cả các Đơn vị trưởng ủng hộ quyết định này của tôi.
Tôi liền ban hành Lệnh Hành Quân và điều động Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III tiến về Sài G̣n theo kế hoạch sau đây: Lấy đường xe lửa Biên Ḥa-Sài G̣n và xa lộ Đại Hàn làm hai trục tiến quân chính.
a) Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù + Lữ đoàn 4 Nhảy Dù (1 Tiểu đoàn) do Đại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy: Tiến bên phải đường sắt hướng Sài G̣n. Đến ngoại ô Bắc Sài G̣n, co cụm lại, bố trí bên phải đường sắt, chờ lệnh.
b) Lữ đoàn 2 TQLC do Trung Tá Liên (TQLC) chỉ huy: Tiến bên trái đường sắt hướng Sài G̣n. Đến ngoại ô Bắc Sài G̣n, co cụm lại, bố trí bên trái đường sắt, chờ lệnh.
c) Lữ đoàn 3 Kỵ Binh + Liên đoàn 33 BĐQ: Bố trí yểm trợ quân BCD, ND, và TQLC rời vị trí pḥng thủ, rút an toàn qua Cầu Mới Biên Ḥa trước. Sau đó, lấy xa lộ Đại Hàn làm trục chính, tiến về Sài G̣n theo thứ tự như sau:
Chiến đoàn 315 do Trung Tá Đỗ Đức Thảo chỉ huy: Đi trước, đến ngoại ô Bắc Sài G̣n, bố trí bên này cầu B́nh Triệu, chờ lệnh.
Chiến đoàn 322 do Trung Tá Nguyễn Văn Liên (TG) chỉ huy: Đi sau CĐ 315, đến ngoại ô Bắc Sài G̣n, bố trí sau CĐ 315, chờ lệnh.
Chiến đoàn 318 do Trung Tá Nguyễn Đức Dưỡng chỉ huy: Đi sau cùng, đến Sài G̣n, bố trí sau BTL và Đơn vị Yểm Trợ, chờ lệnh.
Trước khi lên trực thăng Chỉ Huy, tôi duyệt đoàn quân lần cuối. Quân ta từ từ rời thành phố Biên Ḥa trong ṿng trật tự, quân phục chỉnh tề, tác phong nghiêm chỉnh, không hề nao núng, giống y như những lần hành quân trước đây khi c̣n Đại Tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy xông trận trên chiến trường Campuchia. Lúc này là 09 giờ 00 ngày 30/4/1975.
Tôi lên trực thăng Chỉ Huy của Tướng Toàn do Thiếu Tá Cơ lái, chiếc trực thăng Chỉ Huy thứ hai bay theo sau. Tôi cho trực thăng bay lượn trên thành phố Biên Ḥa, quan sát thấy t́nh h́nh bên dưới vẫn yên tĩnh. Các cánh quân ta vẫn tiến đều đặn về hướng Sài G̣n. Những ổ kháng cự, những chốt của địch dọc trên trục tiến quân của ta bị đè bẹp hoặc bị nhổ nhanh chóng. Tôi đang suy nghĩ và lo lắng. Tôi lo v́ không liên lạc được với SàiG̣n, khi quân ta về đến nơi, sợ quân bạn ở Biệt Khu Thủ Đô bắn lầm. Tôi đang miên man suy nghĩ cách đối phó th́ đột nhiên Thiếu Tá Cơ hỏi tôi: “Thiếu Tướng có muốn ra đi không? Tôi sẽ đưa Thiếu Tướng đi.” Tôi liền hỏi lại: “C̣n anh th́ sao?” “Khi đưa Thiếu Tướng đi xong, tôi sẽ trở về, tôi sẽ ở lại với vợ con c̣n ở Biên Ḥa.” “Cám ơn anh, tôi cũng ở lại với anh em. Tôi đă quyết định việc này từ lâu rồi.”
Chúng tôi bay về hướng G̣ Vấp, tôi biểu Cơ lấy cao độ. Xa xa phía dưới, tôi thấy những đoàn quân xa chở đầy quân, những chiến xa, những pháo kéo của quân CSBV như những con rắn dài trên xa lộ Biên Ḥa và trên Quốc Lộ 13 ḅ vô Sài G̣n. Hai trực thăng của chúng tôi đáp xuống trại Phù Đổng nơi đặt BCH TGB và BTL/Quân đoàn III. Tôi vội đi vào văn pḥng t́m sĩ quan trực. Tôi thấy các nhân viên văn pḥng chạy qua lại nhớn nhác. Tôi không gặp một ai có thẩm quyền, chỉ có 1 Trung úy mang huy hiệu Quân đoàn III, tôi nói tôi muốn sử dụng điện thoại để liên lạc với BTL Biệt Khu Thủ Đô (BKTĐ) báo cho họ biết gấp các cánh quân của tôi sắp về tới cửa ngơ Bắc Sài G̣n để tránh bắn lầm nhau. Tôi gọi nhiều lần, gọi một cách tuyệt vọng, không có ai ở đầu máy trả lời. Rồi tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, cũng không liên lạc được. Lúc bấy giờ tôi nghe nhiều loạt đạn pháo binh địch nổ ở hướng sân bay TSN. Giờ này, các cánh quân Thiết Giáp của tôi cũng vừa đến B́nh Triệu gần khu nhà thờ Fatima.
Trong khi tôi đang lúng túng trong việc liên lạc với BKTĐ và Bộ Tổng Tham Mưu, th́ th́nh ĺnh tôi nghe lời kêu gọi ngưng chiến đấu của Tổng Thống Dương Văn Minh phát ra từ một máy thu thanh đâu đấy. Tôi nh́n đồng hồ tay: 10 giờ 25 phút.
Thế là hết. Kể từ giờ phút này, tôi tự chấm dứt quyền chỉ huy của ḿnh và xem nhiệm vụ của LĐ3KB và Luc Luợng Xung Kích Quân Đoàn III đến đây là kết thúc. Tôi để cho các đơn vị tự động buông vũ khí đầu hàng theo lệnh của Tổng Thống. Tôi không có ǵ để nói thêm, chỉ thầm cám ơn tất cả các chiến hữu đă cùng tôi chiến đấu đến phút cuối cùng của cuộc chiến và cùng tôi giữ tṛn khí tiết của người chiến sĩ đối với Quân Đội và Tổ Quốc.
Quan Điểm và Kết Luận
Sau khi ngưng chiến theo lệnh của Tổng Thống Dương Văn Minh, tôi bị địch bắt, truy vấn, tù đầy 17 năm và sang Mỹ năm 1993 theo diện tỵ nạn chính trị. Mỗi năm cứ đến ngày 30/4, tôi đọc đi đọc lại nhiều bài viết của bên cộng sản cũng như của bên ta về cuộc chiến Việt Nam. Có không ít bài viết lờ mờ hoặc viết sai về một số sự kiện trong cuộc chiến. Đặc biệt khi viết về Biên Ḥa th́ không có bên nào nói đúng. Ai cũng biết Biên Ḥa là vị trí chiến lược số 1 của miền Nam, Việt Nam, phi trường Biên Ḥa c̣n là nơi đặt bản doanh BTL/Quân đoàn III và Vùng III Chiến Thuật, đầu năo của bộ máy quân sự miền Đông. Biên Ḥa là cửa ngơ quan trọng bậc nhất ở phía Bắc thủ đô Sài G̣n. Để mất Biên Ḥa là mất Sài G̣n, mất miền Nam Việt Nam.
Nhưng cho đến bây giờ, tôi chưa thấy một tài liệu nào nói rơ về Biên Ḥa trong những ngày cuối cùng của chiến tranh VN. Thế mà tôi vẫn giữ im lặng cho đến ngày hôm nay, v́ nghĩ rằng cuối cùng rồi sự thật lịch sử cũng được phơi bày. Vả lại khi viết về cuộc chiến tranh mà ḿnh là nhân chứng trực tiếp, không khỏi phải nói nhiều rất nhiều về ḿnh, cái mà tôi không hề thích v́ như Pascal nói: “Cái tôi là đáng ghét” (Le moi est haissable). Nhưng anh Nguyễn Minh Tánh đă viết sai sự thật về Lữ Đoàn 3-Kỵ Binh (LĐ3KB) do tôi chỉ huy, đă xúc phạm đến DANH DỰ của chúng tôi nên tôi có bổn phận với những người đă hy sinh và những người c̣n sống, phải cải chính và nói lại cho rơ để không phụ ḷng những chiến sĩ anh hùng đă cùng tôi chấp nhận ở lại chiến đấu đến cùng.
Những năm đầu trong ngục tù, cán bộ cộng sản luôn truy vấn tôi kịch liệt. Chúng làm tổng kết chiến tranh để rút kinh nghiệm chiến trường, chúng ngạc nhiên trước sức chiến đấu của LĐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III, đặc biệt chúng bắt tôi viết đề tài Những nguyên nhân nào mà LĐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III do tôi chỉ huy không bị tan ră trước sức tấn công của quân đội cách mạng.
Chính miệng chúng nói với tôi: “Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III là đại đơn vị duy nhất của Quân Đội SàiG̣n chiến đấu tới cùng cho đến khi có lệnh ngưng bắn.” Chúng kể ra những thành tích chiến đấu của Chiến đoàn 318 trên chiến trường Campuchia thời Tướng Đỗ Cao Trí của LĐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III mà chúng gọi là những tội ác “Trời không dung Đất không tha” và kết tội tôi đă kéo dài chiến tranh nhiều năm.
Chúng đă chọn và định đưa một số chúng tôi ra Ṭa Án Chiến Tranh của chúng để xét xử như những tội phạm chiến tranh nếu không có áp lực mạnh mẽ của Hoa Kỳ và Cộng Đồng thế giới tự do cũng như của dư luận Quốc Tế lúc bấy giờ.
Tôi không hề ân hận việc ḿnh đă làm, không hề hối tiếc hay than van về những hậu quả mà ḿnh phải gánh chịu sau khi bị bắt. Nếu phải làm lại từ đầu, th́ tôi cũng vẫn làm như thế. Tôi biết rằng làm như thế là tôi mất tất cả, mất tất cả trừ DANH DỰ.
Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi
laongoandong
01-06-2019, 23:27
Xin phép trang chủ HOANGLAN22 và các quí huynh cho phép ḿnh tâm sự với người em cùng binh chũng QC lần đầu mới biết nhờ Trang của lính VBF
Quân Cảnh Huỳnh Hồng Hiệp, San Jose. Hiệp ơi, Cho anh gọi Hiệp là em nhe v́ anh là SQ cùng trong binh chủng QC. Chúng ḿnh là những người lính trong những ngượi lính trụ lại giờ phút cuối cùng của chính thể VNCH. Đọc mẫu chuyện em kể anh không cầm được nước mắt và cảm phục trước tinh thần bất khuât của MINH người trai trong thời loạn, không phân biệt cấp bậc và không phân biệt nhiệm vu dù ở sa trường hay hậu phương
Thời gian em kể cận kề tháng 4 đen là thời gian anh được biệt phái từ ngoài trường QC vủng Tàu về Tiểu Đoàn 6 QC, (em biết Tiểu Doàn 6 QC trách nhiệm thủ đô Sài g̣n rồi) Anh và một vị SQ khác cũng ở trường về tăng cường cho Sài g̣n với nhiệm vụ an ninh tuần tiểu kiểm soát tất cả mọi người kể cả dân (trong thời chiến) Nhưng em biết khoảng thời gian một tuần sau kể từ khi VC tràn vào các tỉnh miền trung, dân bắt đầu di tản ồ ạt th́ mọi việc đều thay đổi. V́ một số cấp trên đă di tản, QC ở Bộ TTM, QC Tiểu đoàn 6 và Ṭa đô chánh SG là đơn vị trực tiếp chi huy của anh đă không thấy đâu. Ngay cả người SQ đi theo anh cũng đă rời đơn vị để về lo di tản gia đ́nh của họ. Nên tất tật mọi vấn đề là anh lo hết. Bộ chỉ huy tạm thời là trước ṭa đô chính thành phố, hay nói đúng hơn là công viên trước rạp hát REX. Lúc đó h́nh như trong đầu không nghỉ là trong tương lai về lâu về dài như thế nào mà chỉ chăm lo giải quyết công việc cấp bách hằng ngày thôi. Đêm đêm nằm gối đầu trên nón sắt nh́n lên nền trời dỏi theo những chiếc trực thăng chở đầy người từ trên nóc nhà ṭa ĐS Mỷ bay ngang thành phố rồi hướng ra hạm đội MỶ ngoài khơi. Lính ḿnh rải rác khắp nơi làm nhiệm vuj chuyên môn. Một số xe tuần tiểu khắp Sài g̣n, Gia định. Các trạm ven biên đô thành vẩn có QC, CS và an ninh nhưng không làm ǵ được v́ dân và lính quá đông di tản qua lại đành chỉ ở đó để quan sát và báo cáo mà thôi. Một số đến tăng cường cổng ṭa ĐS Mỷ. Chổ này rất hổn tạp v́ đủ mọi thành phần chen nhau vào để được lên chiếc trực thăng đậu trên nóc nhà.Xe cộ của người đến đây di tản đậu la liệt hai bên đường. Có người chỉ cần đi thôi họ không màng tới xe của họ nữa. Có một đêm, một chú QC trong đơn vị đến xin anh một chút xăng. Anh hỏi: Để làm ǵ? th́ cậu ta bảo: Có người vừa cho em chiếc xe nhưng hết xăng rồi.Tội nghiệp cậu này đậu xe ngay chổ bùng binh h́ hục múc nước rửa chiếc xe gần như suốt đêm không ngũ. Xe trông cũng khá đẹp và tốt. Tôi kí cho 10 lít xăng. Thế rồi sáng hôm sau thấy mặt cậu ta buồn thiu th́ cậu ấy bảo là chủ xe sáng sớm đến xin lại xe v́ đi không được.
Dù em ở ĐĐ1 trong BTTM hay anh ở ngay ngoài SG đường Nguyễn Huệ chúng ta cùng một nhiệm vụ của binh chủng giao cho hay các quân nhân khác cùng lo chung một nhiệm vụ quá đặc biệt trong lúc nhiễu nhương ấy. Lúc đó chúng ta không biết nhau nhưng giờ đây chúng ta và các huynh đệ may mắn được quen nhau qua trang này. Âu cũng là cái duyên định mệnh để mọi người có thể ôn lại quá khứ dù trong niềm đau mất nước nhưng không hổ thẹn vơi đời sau.
H́nh ảnh Minh tuẩn tiết trước lá cờ tổ quốc nói lên trách nhiệm với tổ quốc là trên hết. Anh không rỏ là Minh có gia đ́nh hay không nhưng có giây phút anh chạnh ḷng nhất vào khoảng thời gian này là ngày 28/4 hay 29/4 ǵ đó, chỉ nhớ là trong đơn vị này có hai ông thượng sĩ thâm niên mà quân đội thường gọi là thượng sĩ già, cùng một lúc đến với tôi, ngay tại cái bùng binh nước gần đó. Hai người lần lượt nói gần như rơi nước mắt. Họ xin một cái phép mà h́nh như hồi đó trong quân ngũ tới giờ anh chưa bao giờ cấp cái loại phép này. Phép từ biệt ra đi không biết bao giờ trở lại. Họ xin về miền trung, bây giờ anh không nhớ là về đâu nữa, về để lo cho gia đ́nh, không biết có gặp được gia đ́nh không nửa,không biết là gia đ́nh đang di tản hay đi về đâu.. Họ vừa xin cấp phép, vừa từ biệt chi huy và đơn vi,vừa kể lể những công trạng bao nhiêu năm trong quân đội từ bên đơn vị tác chiến chuyễn sang QC, giờ đổ ra sông ra biển hết. Nhóm thầy tṛ ngậm ngùi không bút mực nào tả hết. Một hồi lâu anh quyết định sau khi suy nghĩ về các đơn vị khác, các cấp chi huy đă di tản nên cấp cho mỗi người một chiếc jeep đầy xăng và thêm một can xăng phụ để t́m về nhà. Dỉ nhiên là hy vọng rất mong manh nhưng đó là trách nhiệm của mỗi con người đối với gia đ́nh. Trên hai chiếc xe đó trong đơn vị ai muốn theo họ thi đi. Viết những lời này nếu ai là những chiến sỉ anh em trong đơn vị năm xưa c̣n sót và đọc được xin lên tiếng cho ḿnh được thỏa mản kỳ vọng c̣n ngấm măi trong ḷng trong 43 năm nay.
Đến đây cảm xúc dâng đầy anh xin tạm dừng và chúc em và những người thân bên em được mọi điều may mắn để bù lại nhưng tổn thất năm xưa và lúc nào cũng xứng đáng người lính kỷ luật dù không c̣n mang sắc phục QC và quân nhân nữa. Riêng anh đời lính và đời thường cũng đổ nát theo vận mệnh của đất nước và hiện giờ sau cùng anh cũng t́m được bến đổ hạnh phúc cho những ngày c̣n sót lại.
Thân chào em.
Đại đội trưởng ĐĐ3 QC đường Tô Hiến Thành 1964// Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 9 QC ( Phú Quốc) 1971//SQ huấn luyên hoạt động chuyên môn QC tại trường QC Năm 1974
hoanglan22
01-08-2019, 15:09
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1325178&stc=1&d=1546960070
Câu chuyện nầy xảy ra tại trại cải tạo Nam Hà vào khoảng năm 1979-1980 (v́ lâu quá nên tui hổng dám chắc năm nào). Thời gian đầu của đời tù cải tạo th́ những người tù bị đưa lên vùng núi Hoàng Liên Sơn do Bộ đội quản lư. Tới năm 1978 v́ sư phụ Trung Cộng muốn dạy cho đệ tử Việt Cộng một bài học nên đánh tràn qua biên giới Việt-Trung. Do đó tù cải tạo được chuyển giao qua cho Công an quản lư để bộ đội rảnh tay mà tiếp thu bài giảng của thầy. Rất nhiều tù, trong đó có tui, được chuyển về trại Nam Hà vào năm 1978.
Sau vài ngày ổn định mọi thứ th́ các tù binh bắt đầu được lên lớp và sau đó là đi lao động. Về lên lớp, nói chung, th́ các cán bộ Công an cũng nói y hệt như các cán bộ bên Bộ đội. Đại khái như : Mỹ là đế quốc xâm lược; ngụy quyền miền Nam là tay sai bán nước; ngụy quân là công cụ đánh thuê; tất cả các người tù đều là có tội chết nhưng được Đảng khoan hồng tha chết và cho đi cải tạo, lao động để trở thành người lương thiện; lao động là vinh quang chớ hổng phải là đày ải, hành hạ. Chỉ khác một điều duy nhứt là bên Bộ đội th́ không kêu chúng tôi là tù mà cũng cấm chúng tôi không được tự xưng và kêu nhau là tù; c̣n ở trại Nam Hà nầy th́ các cán bộ Công an nói thẳng chúng tôi là tù cải tạo. C̣n về công việc lao động th́ tui đă làm qua nhiều thứ như phụ xây thêm nhà tù, làm ruộng trồng lúa, đào kênh thủy lợi, trồng nấm, đục đá. Mỗi công việc đều có nhiều chuyện để kể nhưng trong phạm vi đề tài của bài nầy tui chỉ kể giới hạn về công việc làm ruộng trồng lúa mà thôi.
Trại Nam-Hà nằm trên một khu đồi cao gần bên một quả núi nhỏ và ngay cạnh con đường đất (nghe nói đường nầy có thể đi tới chùa Hương). Bên phía dưới thấp là vùng đầm lầy ăn liền ra đồng ruộng của hợp tác xă. Công việc làm ruộng được bắt đầu lúc đó là đang mùa Đông. Và ai cũng biết làm ruộng trồng lúa th́ sẽ có những việc như cày, bừa, gieo mạ, cấy lúa, gặt lúa rồi đập và phơi lúa. Đám tù được dẫn ra tới ruộng mới biết công việc cụ thể mà ḿnh phải làm ra sao. Những thửa ruộng đă gặt xong tự hồi nào chỉ c̣n trơ gốc rạ. Ruộng đang ngập nước, đất đă mềm sẳn nên hổng cần cày mà chỉ có bừa. Bừa để nhận những gốc rạ ch́m xuống śnh lấy chỗ cấy lúa. Và xưa nay việc kéo cày hay kéo bừa nếu hổng có máy th́ là do con trâu làm. Người th́ cầm càng đi phía sau điều khiển con trâu. Nhưng khi ra tới ruộng mới biết hổng có máy cày mà cũng hổng thấy con trâu nào dù trại có nuôi một bầy trâu mấy chục con. Té ra là mọi thứ sẽ do người tù làm hết. Tù được chia thành từng nhóm 4 người cho một cái bừa. Trong nhóm thay phiên nhau, ba người kéo bừa đi trước thay con trâu và một người cầm càng đi sau giữ bừa. Mèn ơi ! Trâu th́ hổng xài lại bắt người kéo thế. Cái nầy mà dám nói là vinh quang hổng phải đày ải đây. Theo tui th́ đày ải chỉ một phần, mà phần lớn là muốn hạ nhục người tù. Dĩ nhiên là tất cả mọi người tù đều phải chịu nhục mà làm. Người nầy nh́n người kia cùng nuốt hận để làm. Không hẹn mà nên, những người cầm càng phía sau không ai dám đứng lên cái bừa cho bạn kéo như khi điều khiển trâu mà chỉ lội śnh để cầm càng. Coi vậy chớ kéo cũng nặng lắm v́ lội śnh đă khó đi rồi mà đằng nầy c̣n phải kéo cái bừa nữa. Những bước chân nặng nề dưới ruộng śnh. Những bắp chân tái tím v́ dầm trong nước lạnh buốt. Những thân h́nh co ro, lầm lủi trong gió mùa đông. Hoạt cảnh nầy liệu có nơi nào trên thế giới có được hay không. Làm được một lúc là bắt đầu nghe có tiếng cự nự trong các nhóm kéo bừa. Mấy anh kéo bừa phía trước cự anh cầm càng phía sau: Bộ mắc ông nội mầy hay sao mà đè chi nặng dữ vậy mậy. Đè vừa thôi. Một hồi tới phiên mầy kéo là tao đè lại cho biết.
Th́ ra anh cầm càng mà đè mạnh chừng nào th́ mấy anh phía trước phải kéo nặng chừng nấy. Mà hể đè hổng mạnh th́ gốc rạ hổng chịu ch́m. Nghe nhóm nầy cự rồi tới nhóm kia cự đâm ra thấy tức cười. Mà cười ra nước mắt. Hổng ai có thể tưởng tượng được cuộc đời của ḿnh có lúc lại thê thảm như vầy. Chắc mấy tay cán bộ trên bờ đang hả hê trong bụng lắm. Người nào nghĩ ra được “phương cách” lao động nầy chắc phải được Đảng tuyên dương. Trong đám cán bộ có một người có vẻ là có thớ lắm, đó là Thiếu Úy Lự. Hắn đi ṿng ṿng từ đội tù nầy tới đội tù khác ḍm ngó. Đi tới đâu hắn cũng kêu tập họp tù lại cho hắn lên lớp. Bởi vậy đám tù cũng khoái cho hắn tới chỗ ḿnh mà lên lớp lắm. Hổng phải v́ hắn nói hây nên muốn nghe. V́ hắn nói th́ cũng như con két nói, chỉ toàn lập lại những điều cũ rích. Hắn vừa nói một tiếng là ai cũng biết hắn sẽ nói tiếp cái ǵ. Vậy th́ tại sao tù lại khoái nghe hắn nói ? Thưa hổng phải khoái nghe hắn nói, mà chính là khoái được đứng để nghỉ ngơi khỏi làm trong mươi mười lăm phút. Hắn nói càng dai càng tốt v́ ḿnh được đứng nghỉ càng lâu. Lần đó hắn lại chỗ đội tù của tui để lên lớp. Sau khi nói đă đời, hắn kết luận :
- Các anh cần phải tích cực lao động cho có năng suất cao. Về với gia đ́nh sớm hay muộn là tùy ở chính bản thân các anh. Không phải chỉ làm chiếu lệ cho hết giờ, mà làm cho hết việc và mỗi người cần phải phát huy sáng kiến để gia tăng năng suất.
Nói xong th́ hắn hỏi như thường lệ là ai có ư kiến hoặc thắc mắc ǵ hôn. Thường th́ hổng ai có ư kiến ư c̣ ǵ ráo. Nhưng lần đó có một anh bạn tù đưa tay lên. Hắn chỉ về anh bạn đó và hỏi anh muốn nói ǵ. Anh bạn tù nói :
- Thưa cán bộ, muốn gia tăng năng suất lao động, ở trại có nuôi một bầy trâu mấy chục con sao không xử dụng để kéo bừa ?
Chà ! Câu hỏi nầy có lư quá ha. Ai cũng thấy ư kiến của anh bạn tù nầy cũng chính là ư kiến của ḿnh nên rất hào hứng với câu hỏi nầy. Các bạn có biết Thiếu Úy Lự trả lời ra sao hôn ? Hắn hổng cần suy nghĩ ǵ cho lâu mà phán ngay một câu xanh dờn với một vẻ đắc ư như vừa nghĩ được một câu danh ngôn bất hủ :
- Các anh mới cải tạo chớ con trâu đâu có cải tạo mà bắt nó kéo bừa.
Nói xong hắn gật gù với vẻ mặt hả hê, dương dương tự đắc nh́n từng gương mặt xanh tái của đám tù v́ câu nói xanh dờn của hắn. Mọi người im thin thít và nghẹn họng như vừa bị tạt một gáo nước lạnh vào mặt giữa trời Đông. Đúng là Việt Cộng nói vậy mà hổng phải vậy.
Tui chợt nhớ tới lời của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu “Đừng nghe những ǵ Cộng Sản nói mà hăy nh́n những ǵ Cộng Sản làm”. Tiếc thay khi mà cả miền Nam lẫn miền Bắc Việt Nam đă nh́n thấy được những ǵ Cộng Sản làm th́… quá trễ. Vậy mà tới giờ cũng vẫn c̣n có những người hổng nh́n thấy, hay nh́n mà cố t́nh hổng chịu thấy những ǵ Cộng Sản đă làm.
LHN.
potay.com
hoanglan22
01-09-2019, 03:12
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1325346&stc=1&d=1547003521
Sau khi hay tin 15 Biệt Hải thuộc Tuần Dương Hạm HQ 16 Lư Thường Kiệt được một ngư thuyền cứu vớt tại eo biển Qui Nhơn, cách đảo Cù Lao Xanh (hay c̣n gọi là Mũi Yến) 55 cây số về phía Đông và vẫn c̣n ở ngoài hải phận quốc tế, nhiều phóng viên quân đội đă chạy đôn chạy đáo t́m mọi cách để đến gặp và nh́n tận mắt những người lính biển đầu tiên đă viết những ḍng hải sử chiến đấu chống quân Trung cộng, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam
Chỉ với 15 người lính, các anh đă phải đối đầu với một lực lượng hung hăn địch gấp gần 20 lần hơn trên đảo Vĩnh Lạc. Trong lúc những chiến hạm của Hải Quân Việt Nam c̣n đang giáp chiến với hải quân Trung cộng, tiếng đại bác của hai bên nổ rền mặt đại dương, th́ 15 chiến sĩ Biệt Hải đă kiệt liệt đối súng với hàng trăm lính bộ chiến của Trung cộng trên ḥn đảo nhỏ này. Giữa cơn lửa đạn mù rời, toán Biệt Hải nhận được lệnh rút bỏ Vĩnh Lạc, v́ cấp chỉ huy mặt trận Hoàng Sa không thể hy sinh oan uổng những đoàn viên ưu tú nhất của quân chủng. Không có một chiếc tàu nào đến đón, v́ lúc đó 14 tàu chiến Trung cộng đang vây đánh Tuần Dương Hạm HQ 16 Lư Thường Kiệt, Tuần Dương Hạm HQ 5 Trần B́nh Trọng, Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 và Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ 4. Chiếc xuồng đổ bộ giờ đây đă trở thành chiếc phao cứu sinh duy nhất của toán chiến sĩ lạc loài này. Cuộc hành tŕnh vượt chết trên vùng biển băo tố bắt đầu.
Một toán thám sát Biệt Hải được chiếc HQ 16 Lư Thường Kiệt thả xuống gần đảo Vĩnh Lạc, rồi các anh dùng thuyền nhỏ chèo vào và đổ bộ lên bờ biển. Đảo Vĩnh Lạc (c̣n gọi là đảo Quang Ảnh hay Money) thuộc chủ quyền Việt Nam từ thời triều đ́nh nhà Nguyễn, nhưng đă bị hải quân Đài Loan lợi dụng lúc ra giải giới quân Nhật khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh ngày 21.8.1945, đă ngang ngược chiếm lấy và tuyên bố chủ quyền từ năm 1946. Đến lượt Trung cộng đoạt lấy đảo Vĩnh Lạc cuối năm 1949, sau khi đánh bại quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa ở lục địa. Đảo Vĩnh Lạc, cũng như hầu hết các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa (c̣n gọi là Paracel) có cấu tạo san hô rất kiên cố, nên địa thế rất khó khăn cho tàu bè cặp bến. Đây là đảo có nhiều cây cối và là nơi chim biển đến sinh sống nhiều nhất. Số phân phosphate từ phân chim ước lượng phải gần 1,200,000 tấn. Đó là một trong những lư do tại sao thu hút ḷng tham lam bất chính của cả Đài Loan và Trung cộng.
Trung Úy Lâm Trí Liêm, Trưởng Toán Biệt Hải, khi anh dẫn 15 chiến sĩ đổ bộ lên Vĩnh Lạc, đă khám phá bốn ngôi mộ với bốn cái bia đá do Trung cộng dựng nên để xác nhận chủ quyền của chúng. Những ngôi mộ chẳng biết có bộ xương nào ở dưới hay không, nhưng những tấm bia chỉ là biểu trưng của sự giả trá quỉ quái của bọn cộng sản, với dụng ư chứng tỏ đă có dấu chân của chúng từ lâu. Trung Úy Liêm ra lệnh cho đoàn viên Biệt Hải nhổ những tấm bia đá này chuyển xuống HQ 16 để chuyên viên của ta dịch sang Việt ngữ xem chúng khắc cái quái ǵ trên đó, rồi đem về Sài G̣n. Ngoài nhiệm vụ phá hủy những di chứng giả tạo của Trung cộng, Toán Biệt Hải c̣n có công tác cắm cờ Việt Nam và bảo vệ cờ để xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Ḥa.
Khi Trung Úy Liêm cùng chiến sĩ Biệt Hải của anh đặt chân lên đảo Vĩnh Lạc, ḥn đảo hoàn toàn hoang vắng không một bóng người, chỉ có mỗi bốn nấm mộ nằm chơ vơ giữa vùng trời nước. Quân ta nằm bố trí trên đảo chờ chuyến tiếp tế, nhưng v́ các chiến hạm c̣n đang theo dơi thám sát những hành động của tàu Trung cộng, nên măi đến chiều ngày 17.1.1974 mới có tàu đến đổ xuống một khối lượng lương khô cho 93 ngày, có nghĩa là Bộ Tư Lệnh Mặt Trận Hoàng Sa của Hải Quân Đại Tá Hà Văn Ngạc đă dự định phải giữ đảo ít nhất là ba tháng. Tiếng súng hải chiến bắt đầu nổ trên vùng biển Hoàng Sa ngày 19.1.1974. Lúc đó là 10 giờ 25 sáng. Lúc 10 giờ 22 phút, một hộ tống hạm Trung cộng loại Kronstadt đă hướng mũi tàu đâm thẳng vào Khu Trục Hạm HQ 4 Trần Khánh Dư đang giữ chặt đảo Quang Ḥa. HQ 4 nhận được lệnh khai hỏa từ Bộ Tư Lệnh Hải Quân ở Sài G̣n, quả đại bác đầu tiên được bắn ra sau nhiều ngày sẵn sàng tác chiến đă trúng ngay chiếc tàu giặc. Chiếc Kronstadt bị ch́m xuống đáy biển. Chiếc HQ 4 bị hư hại nhẹ. Với chiến thắng nức ḷng đó, những HQ 5, HQ 10 và HQ16 tuần hành chung quan các đảo Quang Ḥa và Duy Mộng đồng nổ súng đánh đuổi địch. Cả một vùng Hoàng Sa ầm tiếng sấm phẫn nộ của người nước Nam. Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 trúng một chiếc hỏa tiễn Styx từ chiến hạm Trung cộng bị hư hại rất nặng và ch́m dần. Hải Quân Trung Tá Ngụy Văn Thà trúng đạn giặc ở cầu thang chỉ huy, đă anh dũng hy sinh, 32 chiến sĩ trên tàu bị mất liên lạc. Những thủy thủ của HQ 10 bềnh bồng giữa đại dương đến 6 giờ 30 chiều ngày 22.1.1974 th́ được thương thuyền Ḥa Lan KOPIONELLA vớt được 23 người, cách phía Đông Đà Nẵng 287 cây số. Sáng hôm sau, chiến hạm Việt Nam đến tiếp nhận số chiến sĩ lưu lạc này, trong số đó có thân xác của Hải Quân Đại Úy Nguyễn Mạnh Trí, Hạm Phó HQ 10, đă chết và 2 chiến sĩ bị thương.
Những chiến sĩ Biệt Hải nằm trên đảo Vĩnh Lạc nh́n về hướng Duy Mộng và Quang Ḥa cách đảo chừng 34 cây số đă thấy những đốm lửa sáng lóe lên. Đoàn viên truyền tin liên lạc với Đài Khí Tượng th́ được biết một tàu Trung cộng đă bị quân ta bắn trúng đang từ từ ch́m xuống biển cả. Những người lính Biệt Hải reo ḥ vang dậy chào mừng chiến công của đồng đội. Dẫu biết rằng Hải Quân Việt Nam ở thế hạ phong về tàu chiến và vũ khí, nhưng ngay phát súng đầu, HQ 4 Trần Khánh Dư đă nhắc cho giặc Bắc nhớ lại trận hải chiến kinh hoàng ở cửa biển Vân Đồn năm 1287, Tướng Quân Trần Khánh Dư đă đánh ch́m hàng trăm chiến thuyền của tướng Ô Mă Nhi và tên hải tặc Trương Văn Hổ, mà đă đẩy đạo quân 20 vạn của Thoát Hoan trên bộ vào thảm cảnh chết đói và hoàn toàn chiến bại. Giao chiến bằng tàu thường không thắng nỗi bốn chiếc HQ thời Đệ Nhị Thế Chiến của ta, Trung cộng phải hối hả điều thêm những chiến hạm tối tân Komar trang bị hỏa tiễn tầm xạ Dù vậy, các HQ của Hải Quân Việt Nam cũng đă hủy diệt thêm một tàu và làm hư hại hai chiếc khác, trước khi nhận được lệnh rút ra khỏi quần đảo Hoàng Sa sau hai giờ pháo chiến. Một kế hoạch đánh tập kích lực lượng địch vài ngày sau đó của Bộ Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam được phác họa, nhưng đă không được thực hiện v́ nhiều lư do khác nhau.
Cuộc hải hành bằng xuồng cao su trên đại dương
Ba ngày trấn giữ Vĩnh Lạc không thấy có Toán Thám Sát nào đến thay thế, hướng Hoàng Sa đă im tiếng súng mà trên không luôn có nhiều phi cơ rất lạ bay lượn ṿng ṿng, Trung Úy Liêm nhận định rằng t́nh h́nh ngày càng rất bất lợi cho đảo Vĩnh Lạc, với một nhúm chiến sĩ ít ỏi như thế này. Có tin Trung cộng đă điều chiến hạm đến tấn công Cam Tuyền và Vĩnh Lạc. Từng đợt hải pháo của tàu giặc dội ́ đùng xuống một diện tích nhỏ bé của ḥn đảo, rồi bốn chiếc Mig 21 và Mig 23 xuất phát từ đảo Hải Nam bay đến oanh kích dọn băi để lính địch đổ bộ. Con số chiến hạm Trung cộng tham chiến đă lên đến 40 chiếc. Trung Úy Liêm quyết định chờ đêm tối dùng xuồng cao su thoát ra khỏi Vĩnh Lạc. Thật không may mắn cho những người lính cô đơn này, chiếc xuồng cao su lại bị lủng một lỗ nơi miệng cao su lót đáy, không biết có phải là do bởi mảnh pháo địch, nước biển tràn vào, các Biệt Hải xé vải nhét lại. T́nh thế thật bi đát. Các chiến sĩ phải ngồi rải chung quanh thành ca nô, tránh ngồi tập trung ở giữa tránh t́nh trạng quá nặng. Trong khi quân ta âm thầm chèo ra ngoài khơi th́ bỗng có quang hiệu của tàu Trung cộng gọi trở lại, nhưng Trung Úy Liêm ra lệnh cho các chiến sĩ tiếp tục hướng mũi ra biển. Thà chết vinh giữa biển cả, c̣n hơn là sống nhục trong lao tù cộng sản.
Chiếc xuống tiếp tục di chuyển về hướng Tây Nam. Sáu mái chèo thay nhau quạt nước. Một cái mền được dùng làm buồm căng trên một cái cột buồm bằng một cành tre t́m thấy trên đảo. Sức gió đă đẩy chiếc xuồng ọp ẹp đó xa dần đảo Vĩnh Lạc. Thêm một mảnh đất của Việt Nam đă lọt vào tay giặc. T́nh h́nh ngày càng tồi tệ, khi lương thực đem theo đă dần cạn, quân ta phải hạn chế ăn uống, bi đát đến nỗi mỗi người chỉ có 6 muỗng nước mỗi ngày. Đến ngày thứ ba, số nước dự trữ chỉ c̣n có 30 lít, nhưng v́ bị sóng nhồi nên đă bị đổ mất 10 lít, nên đành phải chịu giới hạn đến tối đa. Đến ngày thứ năm cuộc hành tŕnh, chỉ uống nước mà không c̣n thức ăn, chiếc xuồng cao su nhấp nhô trên vùng biển động cấp 5, 6 chỗ bị lủng vẫn luôn luôn là mối đe dọa chết chóc của 15 người lính đă rất yếu sức. Ngày nắng như nung, lượng nước trong cơ thể bốc hơi nhanh chóng tạo ra hiện tượng mất nước (dehydration)., đêm th́ lạnh buốt đến tận xương tủy. Chỉ có sức chịu đựng phi thường của những người lính cứng như thép Biệt Hải mới có thể sống sót qua thử thách này.
Ở giữa trùng khơi mênh mông không thấy đâu là bến bờ, dưới những cơn thịnh nộ của thủy thần đại dương, con người bé nhỏ chỉ có thể nguyện cầu xin được che chở. Thật mầu nhiệm, lời cầu nguyện đó của 15 Biệt Hải dường nhưng đă được nghe nhận từ cơi thiêng liêng. Theo lời kể của Trung Sĩ Nguyễn Trọng Tuấn, nhân viên điện tử, lúc đặt chân xuống thuyền, nhiều Biệt Hài đă khấn nguyện xin cho được an lành trở về với đất liền, với đồng bào và với quân đội để tiếp tục chiến đấu. Phép huyền diệu đó đă bắt đầu hiện ra từ ngày thứ sáu, mà tất cả chiến sĩ trên ca nô đều nhận biết như nhau.
Theo Trung Sĩ Tuấn, khi đến vùng biển động, sóng lượn theo chiều ngang rất nguy hiểm. Kinh nghiệm hải hành cho thấy rằng tàu nào gặp những con sóng ngang kiểu này cũng đều lắc lư rất dễ sợ. Nhưng có một điều kỳ dị rất khó giải thích là chiếc xuống lại lướt rất nhẹ nhàng một cách rất b́nh thản trên đầu ngọn sóng chết người đó. Hơn thế, nó c̣n chạy vo vo một mạch với tốc độ 40 cây số / giờ. Lợi dụng hiện tượng quái lạ này, anh em Biệt Hải gác mái chèo nghỉ xả hơi. Đặc biệt khi gặp sóng cao th́ một lực nào đó giúp hóa giải sức giật ngaỵ Trung Sĩ Tuấn và nhiều Biệt Hải đă thấy một cái ǵ đó không phải thuyền chài, mà nó gần giống như cái kỳ cá nhú lên khỏi mặt biển, mà họ tin là cá voi, hay cá ông, những vị thần cứu mạng trong huyền thoại trên biển Nam Hải của giới thuyền bè qua lại trên vùng biển này. Có những con cá voi bị băo tấp vào bờ chết, đă được dân chài vùng biển chôn và lập đền thờ để nhớ ơn chúng đă cứu giúp ghe thuyền lúc hoạn nạn. Nhiều lúc các chiến sĩ nghe thấy nhiều tiếng lục cục dưới đáy chiếc xuồng ca nô, mái chèo thấy nhẹ hổng. Có lẽ một chú cá voi lạc loài nào đó tránh sóng băo đă tựa lưng vào cùng tồn tại với con người, mà nhờ sức mạnh thần kỳ của nó đă đưa chiếc xuồng vượt qua những con sóng chết. Hay đó có phải là phép nhiệm mầu của tạo hóa xót thương những người lính chân chính của một dân tộc tang thương v́ nạn xâm lược của loài ác quỷ cộng sản. Không ai có thể giải thích được sự kiện nàỵ Nhưng sáu mái chèo kiệt lực không thể nào đưa chiếc xuống đi phom phom 40 cây số giờ như vậy được.
Giữa cơn băo giật, nhóm chiến sĩ Biệt Hải dường như trông thấy h́nh dáng một chiếc thuyền, quân ta vui mừng khấn nguyện cho nó tiến đến gần hơn, th́ th́nh ĺnh nó quày đầu chạy ngược trở lại. Vài chiến sĩ quá nóng ḷng bèn bắn vài phát súng báo động. Nhưng càng nghe tiếng súng th́ chiếc thuyền đó càng phóng dữ. Chẳng mấy chốc nó đă biến mất giữa những con sóng. Nh́n lại đă thấy một dải đất mờ, đối chiếu với hải đồ, th́ có lẽ chiếc xuống đă dạt về đến vùng biển Mũi Cù Lao Ré ngoài hải phận Quảng Nam. Nhưng lưỡi hái của thủy thần vẫn c̣n treo đung đưa trên đầu, thấy đất liền đó mà sóng vẫn kéo chiếc xuồng ra xa dần ngoài khơi, không chèo vào được. Chiến sĩ trên xuồng chắc lưỡi tiếc hùi hụi, nếu đừng bắn súng cho cá ông sợ chạy mất, th́ biết đâu ngài đă đưa anh em vào gần bờ hơn. Như vậy, Toán Biệt Hải đă được cá ông đưa vào hướng Đà Nẵng trọn một đêm dài, nhưng định mệnh vẫn c̣n thử thách chí quật cường của những người lính Hải Quân. Cuộc hành tŕnh về với tổ quốc tiếp diễn.
Chiếc xuống càng lúc càng đến gần hải phận Việt Nam Cộng Ḥa hơn. Qua đến ngày thứ bảy, các chiến sĩ Biệt Hải trông thấy nhiều ghe thuyền xuôi ngược liền bắn súng xin tiếp cứu, nhưng những chiếc tàu này hoặc là không nghe được tiếng nổ, hoặc là do một lư do nào khác đă chạy lảng ra xa. T́nh trạng sức khỏe của những Biệt Hải trên ca nô đă trở nên rất tồi tệ, các anh như những cái xác c̣n cử động là nhờ ở ư chí t́m sống, nước uống trên xuồng đă hết sạch từ lâu. Qua đến ngày thứ chín cuộc hải hành chiến sĩ Biệt Hải đă phải uống nước tiểu của ḿnh. Có lúc xuồng chỉ c̣n cách bờ biển Sa Huỳnh thuộc tỉnh Quảng Ngăi chừng 100 hải lư, nhưng không thể nào chèo vào được, ca nô vẫn bị cuốn trở ra ngoài khơi. Chiếc buồm được điều chỉnh về hướng Đông Bắc để gió có thể thổi tạt các anh về hướng Tây Nam, hy vọng tấp vào được gần bờ hơn. Mỗi đêm các chiến sĩ Biệt Hải có trông thấy nhiều máy bay lượn ṿng thật cao, có lẽ đang hoạt động không ảnh, v́ ánh sáng cứ lóe lên từng hồi chiếu xuống mặt biển. Mặc dù không biết những phi cơ này thuộc quốc tịch nào, nhưng quân ta vẫn bám víu vào một hy vọng mỏng manh, nên đă bắn lên nhiều hỏa hiệu để đánh dấu mục tiêu cùng điểm đứng của chiếc ca nô. Nhưng tất cả đều vô hiệu, có lẽ v́ phi cơ bay với vận tốc nhanh và quá cao nên không thể thấy rơ những trái sáng.
Sự cố gắng đó cuối cùng rồi cũng được đền bù, ngày thứ mười, chiếc xuống đă giạt vào hải phận tỉnh B́nh Định, cách đảo Cù Lao Xanh thuộc xă Phước Ninh, quận Nhơn B́nh chừng 30 hải lư. Với khoảng cách này cái sống đă hiện ra rơ nét, nhưng chiếc xuồng vẫn c̣n nằm ngoài hải phận quốc tế. Trung Úy Lâm Trí Liêm, Trưởng Toán Biệt Hải, là người c̣n có thể đứng vững trong t́nh thế tuyệt vọng nhất, anh thật xứng đáng là một cấp chỉ huy tài ba, mà đă cứu được mạng sống của tất cả đoàn viên. Anh đă trông thấy có ba chiếc ghe đánh cá đang hoạt động gần đó, mừng quá anh bắn mấy phát súng cầu cứu. Hai chiếc ghe đầu tiên hoảng sợ bỏ chạy mất, nhưng chiếc ghe thứ ba, trời ơi, nó đă lừng lững tiến đến. Các chiến sĩ Biệt Hải đă có thể trông thấy những khuôn mặt Việt Nam đen rám v́ nắng gió biển khơi, những ánh mắt xúc cảm và những nụ cười quá thánh thiện. Toán ngư phủ trên ghe vội vă ném dây cột chiếc xuồng cao su kéo về Qui Nhơn. Lúc đó là khoảng 12 giờ 30 trưa ngày 21.1.1974. Những người lính Biệt Hải sẽ nhớ măi cái ngày hồi sinh này.
Trong lúc kéo xuồng cao su trở vào hải cảng Qui Nhơn, th́ các ngư phủ đă giúp chừng phân nửa số chiến sĩ leo lên thuyền của họ, số c̣n lại quá mệt mỏi đành phải nằm nghỉ dưới xuồng. Hạ Sĩ Nhứt Nguyễn Văn Duyên, nhân viên Quản Kho hoàn toàn kiệt sức v́ hiện tượng mất nước và thiếu ăn, anh đă từ từ ch́m vào cơn kích sốc, khi được đưa lên thuyền đánh cá, th́ anh đă nhắm mắt ra đi.
Điều dưỡng tại Quân Y Viện Qui Nhơn
Hải Quân Trung Tá Nguyễn Ngọc Tĩnh, Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn khi hay tin một chiếc ghe đánh cá đă vào gần đến hải cảng Qui Nhơn với 15 chiến sĩ Biệt Hải, đă lập tức cho tàu ra đón tại ngọn hải đăng đưa vào Căn Cứ và chờ phương tiện chở các anh về Quân Y Viện Qui Nhơn. Toán Biệt Hải đă được chở vào và được nằm điều dưỡng trong Trại Nội Thương 9. Bây giờ, các Biệt Hải đă đi đến cuối cuộc hành tŕnh của ḿnh sau hơn mười một ngày đêm tham dự cuộc hải chiến Hoàng Sa lịch sử. Nhiều chiến sĩ mê man nằm thiêm thiếp, mặc dù đă được các nhân viên Quân Y truyền cho loại huyết tương màu vàng để bổ sung nguồn protein, khoáng và nước bị mất. Các anh đă được bón cho những loại thức ăn nhẹ. Nửa căn pḥng của Trại Nội Thương 9 đă được dành riêng cho nhóm 14 chiến sĩ Biệt Hải, dưới sự chăm sóc tận tụy của Quân Y và đồng đội thuộc Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn.
Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Xuân Cẩm, Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện Qui Nhơn đích thân ra lệnh cho nhân viên Quân Y dành cho các Biệt Hải sự chăm sóc đặc biệt, v́ các anh xứng đáng được đối xử như vậy. Mỗi ngày, mỗi chiến sĩ được truyền một chai huyết tương, uống sữa trứng gà ngày hai lần, cam vắt hai lần, uống nước súp xương thịt. Cuộc điều trị sang đến ngày 1.2.1974 th́ các Biệt Hải được ăn cháo nấu với tim và cật, t́nh trạng sức khỏe của các anh đă rất khả quan. Những con người thép mà đă từng vượt qua chương tŕnh huấn luyện “địa ngục” của Người Nhái, chẳng mấy chốc đă có thể ngồi dậy nói chuyện thoải mái và vui vẻ với tất cả những phái đoàn quân và dân tấp nập kéo nhau vào thăm hỏi, tặng quà khích lệ. Đặc biệt, các chiến sĩ Biệt Hải luôn nhớ ơn Bác Sĩ Cẩm Chỉ Huy Trưởng đă túc trực ngày đêm săn sóc các anh.
Phái đoàn đầu tiên đến thăm các chiến sĩ Vĩnh Lạc, Hoàng Sa, do Hải Quân Đại Tá Trịnh Quan Xuân, Tư Lệnh Vùng II Duyên Hải, đă dùng trực thăng đến an ủi và ủy lạo các anh với nhiều tặng vật trong ngày 31.1.1974. Đến 4 giờ chiều cùng ngày, Đại Tá Hoàng Đ́nh Thọ, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng B́nh Định hướng dẫn một phái đoàn khác vào thăm. Sang ngày 1.2.1974, đến lượt Hải Quân Đại Tá Nguyễn Đức Vân, Trưởng Pḥng Kế Hoạch Bộ Tư Lệnh Hải Quân, đại diện Đề Đốc Trần Văn Chơn, Tư Lệnh Hải Quân, đă đến thăm hỏi chiến sĩ trong buổi chiều và trao tặng mỗi anh số tiền 5,000 đồng. Món tiền tuy nhỏ nhưng nói lên cái t́nh giữa chiến hữu huynh đệ với nhau, và nó c̣n bày tỏ ḷng tri ân của người hậu phương dành cho những chiến sĩ ở măi tận ngoài đại dương.
Huy chương trao tặng cho những ân nhân
Một trong những cuộc viếng thăm có ư nghĩa nhất do Phó Đề Đốc Tư Lệnh Phó Hải Quân, hướng dẫn buổi sáng ngày 1.2.1974. Tư Lệnh Phó đă đại diện Tư Lệnh Hải Quân đến thăm hỏi, khích lệ và ủy lạo 14 chiến sĩ Biệt Hải. Tất cả các Biệt Hải đều vinh dự được tuyên dương công trạng, hănh diện nhận mỗi người một huy chương cao quí Anh Dũng Bội Tinh. Pḥng Tổng Quản Trị Hải Quân cũng tŕnh Bộ Tư Lệnh Hải Quân đề nghị Bộ Tổng Tham Mưu thăng cấp đặc cách cho tất cả 14 Biệt Hải. Không quên những người ngư phủ đă cứu sống chiến sĩ Hoàng Sa, phái đoàn của Tư Lệnh Phó dùng tàu nhỏ di chuyển sang Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn để thay mặt chính quyền và Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa bày tỏ ḷng tri ân với năm công dân Việt Nam Cộng Ḥa. Năm vị ân nhân này đă cảm xúc nhận năm chiếc huy chương cao quí của Hải Quân là Hải Vụ Bội Tinh. Buổi lễ tri ân được tổ chức đơn giản nhưng trang trọng. Có thể là năm người ngư dân b́nh thường và vô danh này nghĩ rằng việc cứu sống những người lính Việt Nam Cộng Ḥa là một việc b́nh thường trên biển cả với nhau. Nhưng chính là ở nghĩa cử này đă nói lên được một ư nghĩa cao cả, thắm thiết từ tận đáy ḷng của họ. Đó là T́nh Quân Dân gắn bó mà người lính gian nan của chúng ta qua những năm tháng phơi xương trải thịt chiến đấu bảo vệ đất nước và dân tộc đă chiếm được mối t́nh cảm của đồng bào ở hậu phương. Hải Vụ Bội Tinh vẫn chưa thấy đủ ḷng tri ân, Hải Quân Trung Tá Lê Văn Th́, Trưởng Pḥng Tổng Quản Trị, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, đă làm tờ tŕnh xin Bộ Tổng Tham Mưu ân thưởng cho ông Dư Thanh Long, chủ nhân chiếc thuyền đánh cá mang số 3874, huy chương Nhân Dũng Bội Tinh. Cuộc trao gắn chiếc Bội Tinh sẽ được tổ chức ngay sau khi nhận được Quyết Định của Bộ Tổng Tham Mưu. Ngoài ông Long là chủ nhân chiếc thuyền, c̣n lại là những thủy thủ Dư Thanh Dũng, Nguyễn Tâm, Nguyễn Ngọc, Lư Luông, tất cả đều cảm thấy sung sướng khi chính các anh đă cứu vớt kịp thời các chiến sĩ Biệt Hải. Câu chuyện tàu 3874 t́m thấy chiếc xuồng ca nô mà trên đó 14 chiến sĩ của chúng ta đă gần như kiệt lực đă do chính ông chủ tàu kể lại như sau.
Ông Dư Thanh Long đang lái chiếc thuyền đánh cá ngoài khơi Qui Nhơn, lúc đó khoảng 12 giờ 30 trưa. Ông Long chợt nh́n thấy một điểm đen ngoài xa, cách chiếc thuyền đánh cá của ông độ hai cây số. Lúc đầu ông Long tưởng là dân chài đánh cá gặp tai nạn nên dùng thúng chai chèo vào đảo Cù Lao Xanh, nhưng khi đến gần ông nhận thấy không phải, nên đă gọi những thủy thủ thức dậy để sẵn sàng cứu người, v́ lúc đó anh em đang ngủ. Chiếc tàu đánh cá càng đến gần, th́ nhóm ông Long đă có thể thấy rơ nhiều người ăn mặc rất lôi thôi, nếu không muốn nói là tơi tả, nhiều cánh tay đưa cao lên những khẩu súng. Là một người đánh cá từng trải và gan dạ, ông Long cẩn thận cho tàu của ḿnh cặp sát vào chiếc xuồng cao su, ông đă nhận thấy trong số người lạ mặt này những bộ quân phục quen thuộc, nhưng tất cả kiệt sức nằm rũ riệt trong xuồng. Ông Long nghiêng ḿnh hỏi vói xuống, rằng lại sao lại đến nông nỗi như thế. Trung Úy Liêm c̣n tỉnh nhất đă gào to lên:
– Tụi tôi đánh Hoàng Sa thoát về đây, xin cứu nhanh và đưa về Căn Cứ Hải Quân.
Ông Long phái mấy thủy thủ khỏe mạnh nhất nhảy xuống chiếc ca nô bồng lên từng người, những chiến sĩ nào c̣n có thể leo được th́ tự leo lấy, nhưng phần lớn các anh đều phải nhờ sự giúp sức của các ngư dân. Khi đă leo lên được hết trên tàu, các Biệt Hải chỉ c̣n có thể nằm sải tay ra thở dốc và đ̣i nước như điên. Nhân có ấm nước đang sôi, anh em thuyền chài thi nhau thổi cho nguội bớt và trao cho các Biệt Hải nhấp từng ngụm cầm chừng. Đồng thời, các thủy thủ cũng dùng số thuốc cấp cứu mang theo trên tàu để cho các chiến sĩ dùng tạm. Nhận thấy t́nh trạng các Biệt Hải quá yếu, ông Long gọi bốn thủy thủ đem nồi cháo hồ đổ cho mỗi người nửa chén. Được một lúc, thấy những người lính có vẻ tươi tỉnh hơn, ông lại cho người đổ cháo tiếp, cứ mỗi nửa giờ đút cháo một lần. T́nh h́nh sức khỏe các anh đă khả quan rất nhiều, trong lúc chiếc thuyền chỉ c̣n cách hải cảng Qui Nhơn chừng mười cây số. Ông Long đă rất lấy làm xót xa là đă không cứu được Biệt Hải Nguyễn Văn Duyên, v́ khi anh được khiêng lên tàu, th́ thân thể của anh đă bị tê liệt, anh đang thở những hơi cuối cùng. Chiếc ghe đánh cá đă xả hết tốc lực phóng vào bờ, với một hy vọng mỏng manh chạy đua với thời gian và thần chết, nhưng đă không c̣n kịp nữa rồi. Biệt Hải Nguyễn Văn Duyên đă anh dũng đền nợ nước. Chắc anh linh của anh cũng đă thanh thản bốc lên trên khoảng trời trong xanh và trên mặt sóng của quê hương. Anh đă về đến hải phận Việt Nam và đă ra đi trong những giọt nước mắt nghẹn ngào của anh em.
Một vài khoảnh khắc sau, một chiếc giang đỉnh của Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn đi tuần đă bắt gặp chiếc thuyền, được biết tự sự, đă khẩn cấp gọi về Bộ Chỉ Huy để chuẩn bị phương tiện cấp cứu. Nhiều chiến đỉnh xuôi ra khơi để hộ tống chiếc tàu đánh cá tiến vào Căn Cứ. Cuộc hành tŕnh của 15 Biệt Hải vượt thoát từ mặt trận Hoàng Sa đă chấm dứt. Tuy rằng các anh và những chiến hạm HQ 4 Trần Khánh Dư, HQ 5 Trần B́nh Trọng, HQ 10 Nhật Tảo và HQ 16 Lư Thường Kiệt đă phải đớn đau rút bỏ Hoàng Sa, nhưng ít nhất Hải Quân Trung cộng đă kinh hăi khi phải đối đầu với cơn phẫn nộ của hậu duệ Ngô Vương Quyền, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, dù chúng có tạm thời chiếm được Hoàng Sa nhưng cũng đă phải trả cái giá rất đắt. Hai chiến hạm bị ch́m và hai chiến hạm bị hư hại.
Lịch sử bốn ngàn năm chống giặc ngoại xâm phương Bắc của dân tộc Việt Nam đă chứng minh rằng, chưa từng có đế quốc Hán tộc nào có thể hùng cứ lâu dài trên mảnh đất Hoa Lục mà không bị sụp đổ. Trung cộng không ra ngoài định lư ấy. Nền kinh tế của nó hiện nay đang phụ thuộc rất nặng nề vào tư bản Hoa Kỳ, đó là cái tiền đề để dẫn đến một cuộc sụp đổ không tốn một giọt máu kiểu Liên Sô năm 1989. Trung cộng đang giẫm vào vết xe đổ của Liên Sô qua những cuộc chạy đua vơ trang và không gian với người Mỹ, ấy vậy mà bọn chúng đang rất kiêu hănh đẩy mạnh tốc độ cuộc thi tài. Cũng tốt cho nhân loại. Càng chạy nhanh th́ cái hố địa ngục càng đến gần hơn. Rồi cũng có một ngày quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ trở về với dân tộc Việt Nam. Đến lúc đó, thế hệ con cháu Việt Nam sẽ giở lại những trang sử hào hùng của cuộc hải chiến Hoàng Sa ngày 19.1.1974, và sẽ thêm một lần cúi đầu ngợi ca ông cha của ḿnh đă đánh giặc phương Bắc kiệt liệt đến như thế nào.
Phạm Phong Dinh
hoanglan22
01-09-2019, 03:38
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1325348&stc=1&d=1547004845
Huy hiệu Nghĩa Quân.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1325349&stc=1&d=1547004845
Huy hiệu ĐPQ
Tôi sẽ không kể cho các bạn nghe những trận đánh hào hùng của các binh chủng Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Biệt Cách Dù, hay các Sư Đ̣an Bộ Binh thiện chiến của QLVNCH, tôi muốn kể đến các bạn nghe về cuộc sống của các anh lính chiến Địa Phương Quân và Nghĩa Quân mà tôi là một trong những người lính chiến ấy. Từ trước tới nay, khi nói tới lính chiến đánh giặc hay là nói tới lực lượng trừ bị, mà họ quên rằng những người lính Địa Phương Quân và Nghĩa Quân cũng đổ xương máu của họ cho đất nước Việt Nam và họ cũng chịu đựng gian khổ như người lính Tổng Trừ Bị… mà có khi c̣n cực hơn nửa. Câu chuyện bắt đầu.
Sau khi măn khỏa ở trường Sĩ Quan Thủ Đức với 14 ngày phép và 2 ngày phép tự cấp cho hắn, hắn bắt đầu giă từ cha mẹ, vợ con và lên đường ra đơn vị. Trời tờ mờ sáng là hắn bắt đầu ra bến xe chuẩn bị về Phan Rang, một nơi mà hắn chỉ h́nh dung khi coi phim 1 tuần trước lễ măn khóa. Đây là quê hương của Tổng Thống Nguyển Văn Thiệu. Lúc đó, hắn thấy cảnh chiếu trên ci nê sao mà hấp dẫn, dể thương, và b́nh yên quá! Hắn tự nghĩ chọn về nơi đó có đúng như ư mong muốn của hắn chăng? Mặc dù Chú của hắn là Tổng Thanh Tra Quân Đ̣an 2 đă dặn hắn là chọn về Tiểu Khu Pleiku và chức Trưởng Ban Tổng Quản Trị Tiểu Khu dành cho hắn, như vậy là chữ “thọ” an ṭan như mong ước của cha mẹ hắn. Ngày chọn đơn vị, hắn đậu thứ 112 trên 1080 người, nếu hắn chọn những Tiểu Khu gần hay Pleiku th́ quá dễ, nhưng hắn không chọn, mà hắn lại chọn Phan Rang quê hương của Tổng Thống chỉ v́ cảnh đẹp nên thơ. Ôi! Ư nghĩ của một tân Chuẩn Úy sữa vô tư như vậy đó các bạn, và cuộc sống gian lao bắt đầu.
Tới Phan Rang gần 1 giờ trưa, hắn hỏi thăm dân chúng Tiểu Khu Phan Rang nằm chỗ nào? Hắn gọi xe ôm chở tới tiểu khu Ninh Thuận, và chuẩn bị vô tŕnh diện Đại Úy trưởng pḥng Tổng Quản Trị. Tới tiểu khu, hắn chỉnh lại quân phục đàng ḥang, với lon quai chảo đen trên cổ áo, tay phải mang phù hiệu quân đ̣an 2 trông hắn cũng oai ra phết đấy chứ. (cho ḿnh khen ḿnh chút nhé các bạn) Vào pḥng Tổng Quản Trị sau một màn tŕnh diện Đại úy trưởng pḥng ổng hỏi:
– Tại sau giờ này Chuẩn úy mới tŕnh diện tiểu khu?Hắn viện lư do:
– Thưa Đại Úy, ba tôi bệnh nên tôi nán lại hai ngày lo cho ông.
Ông Đại úy trưởng pḥng nói:
– Tất cả các Chuẩn úy đều tŕnh diện 2 ngày trước rồi và đă ra đơn vị c̣n Chuẩn úy ra sau chỉ c̣n Đại đội 129 Địa Phương Quân ở Bỉnh Nghĩa mà thôi, bây giờ Chuẩn úy đi xuống quận Thanh Hải là có lính Đại đội ra rước về đơn vị.
Hắn cám ơn Đại úy trưởng pḥng và rời khỏi tiểu khu, đón xe ôm đi xuống quận Thanh Hải, tới nơi gần 5 chiều, hắn thấy 1 anh lính Địa Phương Quân đang đứng bên xe ôm chờ hắn, vừa thấy hắn anh lính chạy chào hắn và hỏi
– Có phải Chuẩn úy về Đại đội 129 không? Hắn trả lời
– Phải
Anh lính nói:
– Em tên là Tư ra rước Chẩn úy đây.
Hắn ngồi sau xe ôm anh tư nầy chở hắn đi qua những làng mạc càng lúc chạy dần về phía núi, có những lúc hắn và anh lính nầy phải đi bộ v́ śnh lầy và nước ngập, sau cùng qua 1 làng chàm th́ tói nơi Đại đội hắn đóng quân.
Vào tới cổng trại, hắn thấy 1 Trung úy c̣n trẻ tự giới thiệu tên là Xám, Đại đội trưởng, và 1 Thiếu úy tên Hiển Đại đôi phó, và 1 Chuẩn úy cao ráo đẹp trai tên Minh tự giới thiệu Trung đội trưởng trung đội 1, khóa 12 Đồng Đế, 1 Chẩn úy mang phù hiêu khóa 2/ 73 tên Tính tự giới thiệu Trung đội trưởng trung đội 2, và 1 Thiếu úy tên Độ là Trung đội trưởng vũ khí nặng, c̣n Trung đội 3, và 4 chưa có Trung đội trưởng, chỉ có Trung sĩ nhất xử lư thường vụ trung đội thôi. Sau khi cơm nước xong xuôi, ông Trung úy nói:
– Chuẩn úy về Trung đội 3 bước đầu có ǵ thắc mắc th́ hỏi Trung sỉ nhất Hùng.
Hắn theo Trung sĩ nhất Hùng về Trung đội 3, về tới trung đội hắn thấy lính đă mắc vơng trong hầm cho hắn rồi, tới nơi hắn leo vơng và nằm ngủ thẳng cẳng cho tới sáng, để mặc cho Trung sỉ nhất Hùng bố trí quân canh gát. Ngày đầu tiên của hắn như thế.
Sáng hôm sau thức giấc, Trung sĩ nhất Hùng rủ hắn xuống làng Chàm uống cà phê, làng Chàm Bỉnh Nghĩa cách đồn của Đại đôi 129 ĐPQ khỏang chừng 500m, Trung sĩ Hùng bảo bọn lính Trung đội 3 đi theo vài người mang theo súng đạn cá nhân và sau đó cả bọn đi bộ xuống làng Chàm. Họ dẫn hắn tới ngôi nhà tương đối khang trang nhất làng, họ nói đó là nhà ông trưởng làng làng Chàm. Vô tới quán chỉ có vài ba bàn và mấy cái ghế, chắc có lẻ ít khách thăm viếng! Cả bọn t́m bàn lớn cùng ngồi với nhau, gọi cà phê uống và ăn sáng bằng bánh ḿ óp-la, đang uống cà phê th́ trời mưa lớn, Trung sỉ Hùng, nói với hắn vùng này mỗi lần mưa có lẽ chừng vài ngày luôn. Cà phê được đem ra bởi ông chủ quán, v́ quán nhỏ vá ít khách, ông chủ làng Chàm vừa là chủ vừa là bồi bàn luôn. Bưng ly cà phê lên uống, nước cà phê vừa vô tới cổ họng hắn là hắn muốn mửa ra liền. Trời ơi! cà phê ngoài đường ở Sài g̣n c̣n ngon hơn nhiều. Lúc bấy giờ, hắn cảm thấy những ngày b́nh yên ở Sài g̣n đi học, đi tán gái, coi ci nê, dạo chơi trên đại lộ Tự Do, uống cà phê gần rạp Rex nghe nhạc Trịnh, thật là thần tiên. Bây giờ hắn mới cảm thấy mắc nợ ơn nghĩa của người lính chiến nằm bờ ngủ bụi, đổ xương máu hy sinh hạnh phúc gia đ́nh làm bổn phận một người lính chiến ǵn giữ an b́nh cho nhân dân, bổng nhiên hắn cũng cảm thấy hănh diện lây. Dù sau hắn cũng bắt đầu là một người lính tác chiến đang làm bổn phận của ḿnh mặc dù chỉ là ngày thứ hai ra đơn vị, nh́n thấy bản mặt hắn như vậy, T/sỉ Hùng hỏi:
– Bộ cà phê dở lắm hả Chuẩn úy?
Hắn gật đầu, hắn hỏi:
– Ở tỉnh nầy có chổ nào ca phê ngon không?
T/sỉ hùng trả lời:
– Có quán cà phê Hương của Tr/tá Tiến Tham mưu trưởng Tiểu khu và cà phê Tùng của Tr/ tá Ba là nơi các sĩ quan Tiểu khu thường ra uống, khi nào rảnh Chuẩn úy hỏi chuẩn úy Minh trung đôi 1 là biết.
Thầy tṛ ngồi tán dóc cho tới 11 giờ trưa th́ phải đi về đồn dù rằng trời mưa tầm tả trên đường về đồn. Nếu ai từng ở vùng quê th́ biết cảm giác lầy lội và dơ bẩn của phân ḅ, dê, trâu ỉa ngoài đường và nó hôi thúi như thế nào, đồn hắn th́ gần làng Chàm nên đại đôi hắn hưởng trọn mùi hôi thúi đó. Về tới đồn, Tr/úy Xám mời hắn ăn cơm, nói dùng cơm cho nó oai chứ chỉ có cơm và cá khô nướng. Hắn thấy bọn lính cũng ăn như thế không phải Sĩ quan là ăn uống sướng hơn lính đâu, lính tác chiến là như thế đó, trong bửa ăn Tr/úy Xám nói ổng là sĩ quan Sư đoàn 23 về, c̣n Th/úy Hiển và Th/úy Độ là thuộc ĐPQ, họ mang thẻ quân nhân màu đỏ, c̣n chúng tôi các sĩ quan SĐ th́ mang thẻ màu vàng. Bọn hắn nói chuyện và ăn cơm rất là vui vẻ, sau đó hắn về lại vị trí đóng quân của trung đội 3 của hắn và bắt đầu những ngày tháng gian khổ của người lính chiến ĐPQ…
Sáng thứ sáu đầu tuần của tháng 11 năm 1973 đó là ngày đầu tiên hành quân của một Chuẩn úy sữa không kinh nghiệm chiến trường. Từ sáng sớm, 1 người lính mang súng đạn dùng xe honda chở Thiếu úy Hiển đại đại phó đi tới quận Thanh Hải nhận phóng đồ hành quân, khỏang 10 giờ sáng th́ Thiếu úy Hiển về tới đồn, Trung úy Xám đại đội trưởng kêu các trung đội trưởng lại và mỗi người nhận địa điểm hành quân, đóng chốt… Các trung đôi trưởng về lại chỗ trung đội của ḿnh đóng và bảo mọi người chuẩn bị hành quân, đầu tiên hắn gọi Tr/ sĩ nhất Hùng và chỉ địa điểm trong bản đồ mà trung đội sẽ đi tới địa điểm hành quân. Vừa nh́n địa điểm trong bản đồ Tt/ sĩ nhất Hùng nói:
– Tôi biêt địa điểm này, Chuẩn úy đừng lo.
Hắn nghe nói vậy cũng yên tâm, và sau đó hắn nói Tr/ sĩ nhất Hùng tập họp trung đội 3 lại và hắn kiểm tra lại vũ khí, đạn dược và lương thực cho 3 ngày hành quân. 11 giờ sáng th́ trung đội hắn bắt dầu di chuyển, trung đội hắn có 3 tiểu đội, tiểu đội 1 của Tr/sĩ Thành sẹo chỉ huy gồm 11 người, tiểu đội 2 của Tr/sĩ Lượm cũng được 11 người c̣n tiểu đội 3 của H/sĩ nhất Quản chỉ huy gồm 10 người c̣n hắn th́ có 1 truyền tin mang máy PC 25 tên Giùm, và y tá tên Năm, c̣n thằng tà lọt tên là Tư mang lương thực cho hắn. Hắn nói lần đầu đi hành quân th́ theo thứ tự từng tiểu đối 1,2, 3, sau đó sẽ thay phiên nhau sau những lần hành quân khác, hắn bảo lính đi ngoài đồng trống th́ mỗi người cánh nhau 10 m để tránh pháo kích chết chùm.
Chao ôi ! dùng con mắt thường th́ thấy dăy núi mật khu 19 gần mà sao hắn dẫn trung đội đi gần 2 giờ. Cái khốn nạn cho hắn là hắn lội hành quân ở vùng hai mà lại mang đôi bốt đờ sô từ trong quân trường Thủ Đức cho nên vừa bắt đầu leo lên núi là hắn cứ vấp té măi, làm lính cười quá trời, Tr/sĩ nhất Hùng bảo hắn kỳ sau chuẩn úy nên mua đôi giày map của Mỹ mà đi chứ đi bốt đờ sô lội núi không được đâu. Leo lên nửa đồi hắn, không biết bao nhiêu lần trèo lên lại té tuột xuống làm bộ trây di mới muốn rách luôn, mồ hôi th́ đổ ra mặc dù trời không nóng, khi leo lên tới đỉnh th́ hắn hết xí quách luôn. Có lẽ hắn c̣n chất thư sinh trong người hơi nhiều. Bây giờ th́ hắn thấm thía những bài học hành quân trong quân trường đi bộ vài cây số lèo tèo trên con đường bằng phẳng mà hắn c̣n cảm thấy mệt huống chi là leo núi cao. Sau 1 lúc nghỉ mệt và nh́n địa thế của núi, hắn bắt đầu phân công mỗi tiểu đội một phía pḥng thủ và canh gác, hắn phân công giống như h́nh tam giác c̣n hắn và 3 người tà lọt , y tá , truyền tin th́ ở giữa, hắn dặn mật khẩu cho các tiểu đội, khi ổn định vị trí xong xuôi hắn gọi máy PC 25 báo cáo t́nh h́nh cho Tr/ úy Xám Đại đội trưởng. Trung úy Xám dặn hắn nếu có bị tấn công th́ gọi cho ổng liền, khi vừa tới nơi là thằng tà lọt giăng vơng và nấu cơm liền, cả bọn ăn cơm chung cũng lại cá khô và cơm thôi, họ phải ăn trước khi trời tối v́ trời tối đâu thấy đường vả lại cũng không thể đốt đèn hay dùng đèn pin xoi được v́ đó là điều tối kị nhất. Những bài học trong quân trường mà các ông thầy là những sỉ quan tác chiến từ những đơn vị thiện chiến về đă giảng dạy cho bọn hắn, những thằng SVSQ mặt c̣n non chẹt, hỉ mủi c̣n chưa sạch. Hôm nay hắn nhớ lại và hắn nói với lính hắn không được làm cái ǵ có anh sánh trong đêm tối v́ việt cộng có thể thấy và bọn nó sẻ pháo kích, hắn c̣n hăm nếu tên lính nào mà hắn thấy làm tỏa lộ ánh sáng và nói chuyện th́ biết tay hắn.
Đêm đến nằm trên vơng, hắn thấy ánh sáng mờ xa trước mặt, đó là thành phố đang lên đèn trong rất đẹp v́ trời rất trong, hắn đóan giờ nầy thiên hạ đang đi chơi, nhảy đầm cuối tuần hay chui vào các quán ba nhậu cho say hay vào quán cà phê nghe nhạc và tự dưng hắn nhớ câu nhạc “rừng lá xanh xanh cây phủ đường đi thành phố sau lưng ôm mộng nghĩ ǵ …..giữa rừng già tôi có thấy ǵ đâu, sao không hát cho người giết giặc trên cầu…..“. Hắn cảm thấy lạnh v́ trên núi gió thổi và cái lạnh của núi rừng vùng hai làm buốt thân người của hắn, hắn cố chịu đựng hắn đâu dám than v́ tự ái, sợ những người lính của hắn đánh giá thấp về cấp chỉ huy không biết chịu đựng gian khổ, hắn cảm thấy thèm điếu thuốc Captan cho ḷng bớt lạnh nhưng hắn không dám v́ hắn biết nếu hắn không chịu đựng được mà hút đốt thuốc th́ rất nguy hiểm cho trung đội. Bật hột quẹt lên th́ dễ mà sao tay hắn cảm thấy quá nặng, hắn biết chỉ cần ánh sáng lên là VC sẽ pháo vào chổ hắn và binh sĩ của hắn ngay ( đang ở trong điểm mật khu VC mà).
Hởi những người bạn sống trong thành phố, trong khi các bạn đi chơi, dạo phố, nghe nhạc nhâu nhẹt, ngủ yên ổn không nghe bom đạn có bao giờ các bạn có nghĩ ǵ giờ nầy có những người lính chiến đang nằm trên núi cao, trên đầm lầy śnh đọng, đang thức canh giác giữ vững sự tự do, yên ổn cho các bạn, họ đang chịu đựng sự giá buốt của cái lạnh lẽo, gió thổi cắt da, đỉa đeo hút máu, có người ngập nước v́ trời mưa tầm tả vẩn phải canh gác không dám bỏ vị trí pḥng thủ mà t́m nơi trú mưa hay t́m một chỗ núp nào đó cho riêng họ, v́ họ biết nếu họ bỏ vị trí đó chỉ 1 tít tắt thôi, mọi sự sẽ đổi khác và nhiều sinh mạng sẽ mất.
Tôi không phải là nhà văn nên không có những câu văn hay để diễn tả gian khổ của người lính chiến, tôi chỉ là 1 sĩ quan cấp thấp của binh chủng ĐPQ & NQ, và tôi chỉ biết diễn tả sự gian khổ của các binh sĩ ĐPQ & NQ mà họ đă anh dũng chịu đựng từng giai đọan mà tôi cùng họ chia sẻ sự đổ máu, sự sống c̣n, sự sợ hải và chịu đựng gian khổ cùng nhau không phân biệt giai cấp sĩ quan hay binh sĩ hay binh chủng nào đó và đó là ngày đầu tiên của 1 sự gian khổ bắt đầu của 1 thằng Chuẩn úy sữa của tôi.
Đầu tháng 12 th́ có sự thay đổi về đại đội trưởng “con đỉa ” của đại đội hắn, ( đại đội hắn mang phù hiệu nền xanh và gạch vàng vắt chéo nên hắn gọi đùa là đại đội con đỉa) và người mới về thay là Đ/úy Tôn thất Kỳ mới vừa tốt nghiệp khóa bộ binh cao cấp, ông nầy từng làm trung tâm trưởng trung tâm hành quân tiểu khu và từng là đại đội trưởng đại đội trinh sát Sư đ̣an 23, với những kinh nghiệm như thế hắn không hiểu tại sao ông ta bị điều về làm đại đội trưởng đại đội con đỉa của hắn giống như là bị đ́, ( sau nầy Đ/úy Kỳ làm tiểu đ̣an trưởng 280 thần sói gần 75). Ngày bàn giao đại đội con đỉa giữa Tr/úy Xám và Đ/úy Kỳ chỉ trong buổi sáng, sau đó 1 màn giới thiệu các sĩ quan trung đội trưởng với Đại úy Kỳ, rồi các sĩ quan trung đội lại về chổ đóng của trung đội họ.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1325350&stc=1&d=1547004987
3 ngày sau, đại đội con đỉa phải hành quân ở quán thẻ thuộc quận An Phước, nhiệm vụ là bảo vệ trung đội pháo binh diện địa, đại đội hắn phải bảo vệ ṿng ngoài cho pháo binh của Trung úy Minh ( trung đội PB), đóng ở trong rừng gần chiến khu đông mật khu nên ai nấy phải cẩn thận canh gác mặc dù trời mưa tầm tả không ngớt từ ngày di chuyển cho tới nay gần 1 tuần đă có 4 nguời lính thuộc đại đội hắn phải chở đi bịnh viện quân đội ở tiểu khu v́ bị sốt rét. Lần đầu tiên hắn thấy lính bị sốt rét mặt mày xanh dờn, môi tím, mắt lờ đờ, luôn kêu lạnh quá, mặc dù đắp nhiều chân vào mà vẩn kêu lạnh, miệng th́ run cằm cập, nếu người lính bịnh 2 ngày th́ phải di chuyển hay sốt cao y tá đại đội tiêm thuốc vẫn không hết th́ chở đi binh viện ngay không th́ họ sẽ chết (cái cực nhất là phải khiên người bịnh từ trong rừng ra tới quốc lộ 1 v́ xe cứu thương chỉ tải thương ở quốc lộ 1, họ không thể lái xe vô rừng tải bịnh nhân, lúc nầy là mùa mưa nên trời mưa tầm tả, 2 người khiên cáng 1 người lạnh thấy mẹ, và người th́ ướt át, thân thể th́ hôi ŕnh, sĩ quan, lính tráng đều như nhau, họ là lính ĐPQ & NQ nên họ không có trực thăng tải thương như sư đ̣an. Mọi thứ đều là khiêng cáng cứu thương, bạn thử tưởng tưởng là 2 người lính vai mang vũ khí khiêng cáng cứu thương và thêm vài người lính đi bảo vệ gần hết tiểu đội, họ phải đi dưới trời mưa tầm tả đi lầm lủi 7-10 cây số trong rừng đi khỏang gần 2 giờ, đôi khi trược lên té xuống v́ đường đi trong rừng vùng có nơi cao, nơi thấp… tải thương xong rồi lại phải lội bộ vô rừng lại) những cái cực khổ nầy không phải là lính chiến th́ không bao giờ h́nh dung ra sự cực khổ như vậy.
Đóng quân ở trong rừng gần quán thẻ được 1 tuần th́ ban đêm hắn nghe tiếng “cà ùm” của cọp, bà mẹ nó từ nhỏ tới lớn ở thành phố Sài-g̣n sướng quá trời, có thấy ông 30 ở sở thú trong chuồng, chứ ai nghe tiếng ông cọp ở ngoài bao giờ. Nếu có nghe th́ sợ vải đái ra quần luôn, hắn cũng vậy, nằm trên vơng nghe tiếng “cà ùm” rất gần, từ lính tới quan ai cũng sợ cả, mặc dù ban đêm kéo hàng rào kẻm gai pḥng thủ ở ngoài mỗi trung đội nhưng ai nấy cũng sợ v́ nghe con cọp nó chạy ṿng chung quanh mà ớn. Hắn sợ nên niệm bồ tát quan thế âm luôn miệng mà đêm th́ không dám ngủ. Sáng hôm sau, hắn dắt trung đội 3 đi tuần, ra tới ngoài hàng rào kẻm gai bà mẹ ơi hắn và lính đều thấy nhiều dấu chân cọp, nh́n dấu cọp thầy tṛ hắn xanh mặt, VC th́ không sợ v́ c̣n thấy và có thể bắn nhau, c̣n cọp biết nó ở chung quanh mà không thấy nó cái đó mới đáng sợ, v́ không biết lúc nào nó nhảy ra vồ lấy ḿnh, nội tưởng tượng như vậy mà thầy tṛ hắn xanh mặt phải không các bạn. Hắn cũng vậy 1 tuần lễ trôi qua tối nào cũng nghe tiếng “cà ùm” như vậy cả đại đội hắn ăn ngủ không yên, cả quan lẩn lính đều cầu mong lịnh hành quân mau hủy bỏ.
Lúc đầu cả đại đội cứ tưởng cọp có 1 con, nhưng mấy người lính lâu năm nói vùng nầy có 2 con cọp lận. 1 con c̣n sợ thấy mồ nghe nói 2 con làm hắn và bọn lính c̣n sợ hơn, hắn hỏi Đ/úy ĐĐT làm sao bây giờ, ổng nói tối lâu lâu bắn vài tiếng súng, để cho cọp nó sợ, ổng nói khi bắn phải báo trước để khỏi lộn chạm địch. Có 1 hôm hắn dắt lính đi tuần về phía núi th́ nghe mùi thúi xông lên giống như có con vật hay người bị chết, lần theo mùi thúi, hắn và lính thấy 1 con ḅ bị cọp ăn thịt c̣n dang giỡ, Trung/ sĩ Thành sẹo nói như vậy là có cách giết cọp rồi, ổng nói cọp ăn thịt ḅ không hết thường đi lại ăn lần nửa. Nghe thế, bọn hắn gài min claymore, và vài chục trái lựu đạn gần con ḅ chết, nếu con cọp lại ăn ḅ chết lần nửa chỉ cần vướng ḿn hay lựu đạn nổ tung ra là cọn cọp sẽ dính máu ngay. Quả nhiên tối hôm đó, cả đại đại nghe tiếng nổ vang dội của lựu đạn và ḿn, cả bọn biết là cọp trúng ḿn rồi, nhưng v́ trời tối không có ai dám đi tới chổ con ḅ nên phải chờ đến sáng. Sáng sớm, hắn dắt trung đội đi kiểm soát, quả nhiên thấy con cọp bị thương nằm gần đó nhưng chưa chết v́ 4 chân của nó và thân ḿnh đều trúng miểng nên con cọp không nhảy trốn được. Trung /sĩ Thành sẹo dùng súng M16 nă vài viên vào đâu cọp làm nó chết luôn. Hắn bảo thằng tà lọt lấy cái nanh cọp và 2 móng cọp cho hắn, thằng tà lọt dùng lưỡi lê đục móng cọp hoài mà không ra, chỉ lấy được 2 móng cọp hắn cất trong ba lô định khi nào vế phép Sàig̣n sẽ làm đồ trang sức cho con hắn đeo. Ngay trong ngày đó, TK biết Đại đội hắn giết được con cọp, Đ/tá TKT cho xe GMC vào vùng mật khu chở xác cọp về TK (đời chó đểu thiệt, lính bị bịnh gần chết th́ khiêng ra tận quốc lộ 1 mới có tải thương, c̣n cọp chết th́ có nguyên chiếc GMC vô mật khu chở xác cọp). Trên đường chở xác cọp về TK, lính cứ nghe hai bên hông rừng tiếng con cọp cái chạy theo rống “cà ùm” hoài, làm tóan lính sợ thấy mẹ.
Ở rừng gần 2 tháng th́ hắn được Đ/úy cho 2 ngày phép miệng ra tỉnh chơi, hắn bảo 1 tiểu đội mở đường theo hắn ra gần Quán Thẻ rồi hắn đón xe đ̣ vào thành phố, tới TK lơn tơn đi bộ th́ thấy 2 tên sĩ quan mang phù hiệu Thần Long bảng tên cùng khóa với hắn hóa ra thằng Ướt, và thằng Linh cùng ở chung TĐ 373 Thần Long ở Song Pha. Cả bọn vào cà phê Hương của Tr/tá T. Tham mưu trưởng TK uống cà phê, hắn thấy quán ṭan là sĩ quan và quán đối diện là của Tr/ tá T. Tiểu khu phó cũng đông khách lắm và ṭan là sĩ quan tiểu khu. Hóa ra là 2 phe, nhưng quán cà phê Hương th́ có 3 cô con gái của Trung tá T. cô Hương chị lớn 19t, mới cặp bồ với Ch/úy Minh đại đội hắn, cô thứ hai 18t th́ cặp bồ với Ch/úy Phước TĐ Thần Hổ 231, c̣n cô út là tên Tâm 17t th́ Ch/úy Dũng 2/73 thuộc đại đội hắn muốn tán cô nàng nhưng cô nàng chưa chịu. Ngồi nói chuyện th́ thằng Ướt nói cùng khóa có mấy thằng về Đại Đội đóng ở phi trường như Quư 35 (942) Duy Minh 32 (944). Cả bọn đều ở xa nhà nên uống cà phê ban ngày, tối th́ nhâu tại quán xong th́ về KS Kim Sơn ngủ. Chiều ngày hôm sau, hắn đón xe đ̣ về Quán Thẻ vô rừng tiếp, c̣n bọn thằngƯớt, Linh… th́ đón xe đ̣ về Song Pha. Đó là lần đầu tiên hắn được đi phép.
Về tới trung đội, nằm trên vơng hắn cứ nghĩ về cà phê Hương, phải nói cà phê ngon thiệt, nhạc cũng hay và dàn amp-li th́ hết xảy không thua ǵ những quán nhạc Sài g̣n. Hán thấy h́nh như cô bé Tâm 17t có vẻ thích hắn, đang nghĩ lung tung th́ có lịnh hành quân khẩn cấp. Cấp trên cho 1 tiếng chuẩn bị trung đôi 3 ( tới phiên xoay ṿng) đi phục kích ở làng chài Thái An. Có xe sẽ chở xuống duyên đ̣an 27 và đổ bộ 3 giờ sáng v́ có tin mật báo du kích VC về thu thuế và kiếm lương thực thêm. Xe đổ trung đội hắn xuống duyên đ̣an 27 vào nửa đêm theo kế họach, trung đội hắn lên hải thuyền vào lúc 1 giờ sáng tới điểm đổ quân là 3g, phục kíck là 4g, nhưng kế họach bị trật đường rầy v́ hải thuyền chở trung đội hắn tới điểm hẹn là 5 g sáng, ở trên biển 5 g sáng th́ sáng như ngày v́ mặt trời mọc, tới nơi hắn cho tiểu đội 1 đổ trước, tàu vừa tiến vào băi cát, lính vừa nhảy xuống nước lội vô bờ th́ bị CKC súng bắn sẻ tử trên núi bắn xuống, làm tóan Tr/sĩ Lượm bị thương 3 mạng, bị bắn sẻ Hải thuyền liền lui thuyền ra biển lại, trưởng toán hải thuyền Trung sĩ Hải quân hỏi ư hắn tính sau, hắn nói trên 2 chiếc hải thuyền có 4 khẩu đại liên 50, hắn nhờ Hải quân đổ bộ vào bờ biển lần nửa và trong lúc 2 tiểu đội c̣n lại đổ độ th́ Hải quân cứ dùng súng đại liên bắn vào đỉnh núi phía CKC vừa bắn để bọn hắn đổ bộ. Trong lúc đó, súng đại liên mặc dù không thấy rơ VC nhưng Hải quân họ vẩn bắn về phía đỉnh núi như mưa rào, nhờ vậy tóan đổ bộ sau vào bờ an toàn. Vào tới bờ xong th́ tàu Hải quân lui ra và quay về duyên đ̣an 27 luôn, c̣n trung đội hắn th́ đổ quân vào rừng dừa gần làng, hắn bảo y tá năm băng bó vết thương cho 3 người lính của tóan Tr/sĩ Lượm. Họ chỉ bị thương nhẹ ở tay và chân, 1 người không đi được phải làm cáng khiêng, rồi hắn gọi máy báo cáo t́nh trạng tổn thương cho Đ/úy Kỳ và hắn bảo Tr/sĩ Lượm ở lại cùng T/đội, c̣n hắn dắt 2 tiểu đội c̣n lại lên núi lục xoát. Lục xoát gần 2 g nhưng không thấy VC, hắn bảo binh sỉ nấu ăn rồi nằm chờ ở đó gần tối rồi di chuyển. Hắn gọi máy báo cáo xin lịnh rút quân, bỏ cuộc phục kích v́ bị lộ rồi, Đại úy Kỳ bảo hắn cứ dàn quân ở đó chờ ổng hỏi lại Chiến đ̣an 1 của Thiếu tá Quang coi làm sau. Hắn đợi gần nửa tiếng th́ có lịnh cho rút bằng đường bộ về Bỉnh Nghĩa, sáng ra sẽ có quân xa chở về Quán Thẻ lại ( rút về Bỉnh Nghĩa là con đường gần nhứt cở 10 Km). Gần 8 g tối hắn mới cho lịnh trung đội rút v́ rút ban ngày sẽ bị bắn sẻ v́ phải qua 1 băi biền bằng cát, không có nhà cửa và cây cối để ẩn núp. Lúc trung đội hắn rút vế th́ trời lại mưa tầm tả làm cho bọn hắn đă cực, mệt nhọc lại mệt nhoài thêm, đất cát ngấm mưa bám vào thân thể bọn hắn, không có áo mưa thầy tṛ lầm lủi đi như những bóng ma trong đêm, sao tang thương quá ! Ai bảo lính ĐPQ + NQ là sướng, đi bộ gần 2 g sáng mới về tới Bỉnh Nghĩa, khi rút về bằng đường bộ hắn phải liên lạc bằng máy P25 liên lạc các đơn vị bạn, báo cáo trung đội hắn sẽ di chuyển qua vùng họ nếu có gài ḿn bẩy làm ơn gở ra, nếu không báo cáo như vậy đơn vị bạn cứ tưởng VC di chuyển mà gọi pháo binh hay họ bắn nhằm là bỏ mẹ cả đám, chết lảng xẹt. Hắn dắt trung đội đi về qua băi biển cát giống như là đi trên xa mạc Sahara. Bà mẹ nó hành quân ǵ mà không tiên liệu bao lâu tới nơi gió thổi ngược tàu đi sẽ chậm, 3 giờ sáng trời vẩn tối và 5 g sáng trên biển khác nhau sáng trưng như ban ngày may là bị thương có 3 mạng , nếu bị chết vụ nầy mới lảng xẹt, đă vậy vụ lội bộ mới là khốn nạn, đi mệt bỏ mẹ đi được 5km hắn thấy cây M16 và 2 cấp số đạn và 10 trái lựu đạn cá nhân sau nặng quá trời luôn ( nếu có ai từng đi trên cát cở 10 cây số họ sẽ thấy cặp gị của họ rời thân thể họ như trung đội hắn vậy) giờ nầy nghĩ lại mà tôi c̣n thấy oải…
BK Nguyễn Văn Quan
hoanglan22
01-09-2019, 03:48
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1325351&stc=1&d=1547005631
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1325352&stc=1&d=1547005631
Trung tá CSQG Nguyễn Văn Long tuẫn tiết dưới chân tượng đài Thủy Quân Lục Chiến (trước tiền sảnh Hạ Nghị Viện VNCH) sau khi Dương Văn Minh đầu hàng CS.
Cộng Sản chiếm được Miền Nam đă mười năm rồi mà tôi vẫn c̣n tiếp tục bị chúng kêu lên, kêu xuống hỏi cung. Tuy thế, nhờ những thời gian đợi đi “làm việc” như thế tại các trại giam như ThanhLiệt ở Hà Nội; Kho Đạn, Hội An, và Ḥa Sơn ở Quảng Nam mà tôi có dịp gặp nhiều cán bộ Việt Cộng cấp cao bị bắt về tội “kinh tế” hoặc “tham ô” và cả “bạo loạn” nữa. Cũng như đồng bào nhiều giới phạm tội “phản động hiện hành”, vượt biên, vượt biển, đưa hối lộ, xâm phạm hoặc phá hoại tài sản xă hội chủ nghĩa v..v… , nên tôi biết nhiều và biết sớm những biến cố xảy ra bên ngoài thế giới “cải tạo” hơn đa số anh chị em khác trong tù.
Tôi đă nghe tin trung tá Nguyễn Văn Long tự tử từ lâu. Nhưng v́ có những trường hợp sự thật khác với tin đồn. Biết đâu đó không là một người khác mà lại trùng tên với người mà tôi thân thương; hơn nữa, anh Nguyễn Văn Long của tôi là một tín đồ Ky Tô Giáo, lẽ nào lại tự hủy ḿnh. Do đó, tôi vừa âm thầm đau khổ về hoàn cảnh chung, vừa bán tín bán nghi về phần anh Long. Đến khi tôi được nghe thêm hai viên “thủ trưởng”, một thuộc Cục Xuất-Nhập Khẩu 2 tại “thành phố Hồ Chí Minh”, một thuộc Ban Hậu Cần Quân Khu 5, khẳng định là họ có nghe đề cập trong nội bộ cơ quan rằng, ngoài một số tướng lĩnh miền Nam đă tự sát chứ không chịu đầu hàng hay trốn chạy ra nước ngoài, có một trung-tá Cảnh-Sát tên Nguyễn Văn Long, từ Đà Nẵng di tản vào, đă tự tử chết phía trước trụ sở Quốc Hội Việt-Nam Cộng-Ḥa, tôi mới tin chắc đó chính là anh Nguyễn Văn Long.
Anh Long vĩnh biệt cơi đời giữa cảnh lửa bỏng dầu sôi, bạn bè nói riêng và đồng bào nói chung th́ c̣n bận lo tự cứu lấy ḿnh, trong khi kẻ thù th́ càng thù hận anh thêm, lấy đâu có những ṿng hoa và những nén nhang cùng những ḍng lệ thương tiếc tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng.
Năm 1982, tại trại bí mật Thanh Liệt, thuộc Huyện Thanh Tŕ, Hà-Nội, là nơi giam cứu các phần tử quan trọng nhất, mà đa số là cán bộ Đảng, nhà nước và bộ đội ở cấp trung uơng, do bộ Nội-Vụ trực tiếp quản lư, tôi mới được một “bạn tù” cho biết thêm một chi tiết quư báu về cái chết hùng vinh của trung tá Nguyễn Văn Long. Đó là Phạm Trung Linh, một trung tá bộ đội Bắc Việt, nguyên trưởng Tiểu Ban Thanh Tra & Xét Khiếu Tố thuộc Trung Ương Cục Miền Nam (tổng thư kư của một tổ chức đảo chính quân sự dự định hành động vào đêm 24 rạng ngày Nô-En năm 1979 nhưng bất thành nên bị bắt cùng với một số tướng tá và cán bộ cao cấp khác) xác nhận rằng gă đă có trông thấy bức ảnh chụp cảnh trung tá Nguyễn Văn Long mặc cảnh phục chỉnh tề nằm chết trước một tượng đài Chiến Sĩ Quốc Gia phía trước trụ sở Quốc Hội Việt Nam Cộng Ḥa, in trên b́a trước của một tạp chí Hoa Kỳ, trong kho sách báo ngoại quốc mà Việt Cộng ở một số cấp cao đă sưu tầm để nghiên cứu những ǵ có liên quan đến Việt Nam.
Thế là từ đó không những tôi nguôi tủi sầu mà trái lại c̣n cảm thấy ḷng ḿnh vui thỏa cho anh Long; báo Mỹ mà đă đăng lên th́ khắp thế giới đều biết. Anh, cùng với những vị anh hùng tuẫn quốc khác trong biến cố lịch sử 30-4-1975, đă nói lên được hùng hồn và cụ thể tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam yêu chuộng Tự Do trước quyền lực của cộng sản bạo tàn.
Thuở ấy, vào khoảng 1950, miền Trung có hai hệ thống an ninh: một bên là Pháp với cơ quan Su^reté fédérale (Liêm Phóng Liên Bang) và Police franc,aise (Cảnh Sát Pháp), một bên là Việt Nam với cơ quan Công An & Cảnh Sát Quốc Gia. Anh Nguyễn Văn Long tùng sự bên Su^reté Fédérale (chính trị) của Pháp, trong số vài người phụ trách nội ô Thần Kinh; c̣n tôi th́ bên Cảnh Sát (h́nh sự) của Việt Nam. Tôi kiêm cả việc sáng tác, ra báo, và dựng kịch cho sở làm, và cho riêng ḿnh.
Chúng tôi thường uống cà phê ở quán Lạc Sơn, nhà hàng lộ thiên trên lề đại lộ Trần Hưng Đạo, quay lưng vào chợ Đông Ba. Dạo ấy, tôi viết cuốn truyện “Trai Thời Loạn” chống Pháp xâm lược và Bảo Đại bù nh́n, nên bị bắt giam; sau nhờ phái đoàn của các nhân sĩ Cao Văn Tường, Cao Văn Chiểu, cùng với nhà báo Phạm Bá Nguyên và cả Giám Đốc Thông Tin Lê Tảo can thiệp với Thủ Hiến Phan Văn Giáo, tôi mới được trả tự do. Ra tù, tự nhiên tôi được thiện cảm của nhiều người hơn.
Sau đó, anh Long đă chuyển qua Công An Việt Nam; và Vân Sơn Phan Mỹ Trúc cũng như Như Trị Bùi Chánh Thời th́ vào Sài G̣n; kẻ thành kư giả tên tuổi, người nên luật sư tài danh. Sau khi gia nhập vào đúng hàng ngũ thích hợp để phụng thờ Chính Nghĩa Quốc Gia, trải qua mấy chục năm trời gắn bó với Lực Lượng Cảnh Sát & Công An Việt Nam Cộng Ḥa, anh Nguyễn Văn Long tận tụy phục vụ, và đă nổi tiếng là một trong số những cấp chỉ huy tích cực, cương trực và liêm khiết nhất trong ngành.
Về mặt tư pháp, trung-tá Nguyễn Văn Long đă thực hiện đúng khẩu hiệu “pháp bất vị thân”. Ngay đối với chính đồng nghiệp, bất cứ nhân viên Cảnh Sát nào mà phạm tội h́nh sự là anh truy tố ra Ṭa thẳng tay; anh nói, để lành mạnh hóa nội bộ, và nêu gương thượng tôn luật pháp cho người dân. Bởi thế, anh bị nhiều người gọi bằng cái tên “Long Lư”, ư nói anh chỉ biết chiếu lư chứ không vị t́nh.
Sau hiệp định Paris 1973, t́nh h́nh xă hội miền Nam thật là rối ren. Bên ngoài th́ Cộng Sản Bắc Việt công khai ồ ạt đổ thêm quân và chiến cụ, vũ khí vào tấn công ta; bên trong th́ các tổ chức xưng danh đối lập và lợi dụng tự do quá khích, tiếp tay với các phần tử nằm vùng, ngày càng gia tăng mức độ và cường- độ gây hỗn loạn trật tự và làm suy thoái tinh thần các lực lượng Quốc Gia. Về mặt chính trị, CSQG vừa phải đối phó với các bộ phận đảng, mặt trận, nhà nước và nhân dân của CSXL và “Việt-Cộng”, vừa phải chống đỡ các phần tử, phe nhóm chủ bại và nội ứng cho kẻ thù.
Về mặt tệ đoan xă hội, ung nhọt tràn lan khắp nơi. Riêng về nạn dịch nhũng nhiễu tham lam, công tác đương đầu đă gặp quá nhiều khó khăn. Hầu như kẻ nào làm bậy cũng đều nấp dưới danh nghĩa của một chính đảng, t́m sự che chở của một đoàn- thể hay một số cấp lănh đạo nào đó trong chính quyền. Đụng vào họ, dù họ là kẻ phạm pháp, có thể là tự rước lấy tai họa vào ḿnh. Thế mà anh Long đă dám xúc tiến điều tra, lập hồ sơ truy tố nhiều nhân vật đáng sợ.
Với tôi, anh Long đă chịu nhượng bộ: nếu gặp nhân viên đặc cảnh liên can đến các vụ h́nh, anh để tùy tôi xét trước, để tránh oan ức, trở ngại cho công tác ch́m. Ấy là nhờ anh hiểu rơ phương thức t́nh báo và đặt nhu cầu chống cộng lên hàng ưu tiên. Đó là quyết định linh động duy nhất trong cương vị chánh sở pháp cảnh của anh Long.
Kỷ niệm đậm nét nhất trong đời tôi về anh Long là vụ rút lui ra khỏi Đà Nẵng, thành lũy cuối cùng của Quân Khu I Việt Nam Cộng Ḥa.
Lúc ấy vào khoảng 10 giờ tối ngày 28-3-1975. Trên máy vô tuyến truyền tin thuộc hệ Cảnh Sát sắc phục nội thành Đà Nẵng, tôi nghe một đài gọi đài trung ương, nhưng không có ai trả lời. Lát sau, có một đài khác cất tiếng: “Đừng gọi vô ích, bọn chúng chạy hết cả rồi!” Tôi bèn hỏi đài hồi năy, th́ được báo cáo là có nhiều người ăn mặc lộn xộn, vũ khí cầm tay, đang nép hai bên lề đường từ hướng Ḥa Cường tiến vào.
Tôi dùng làn sóng của hệ đặc cảnh ra lệnh cho Sở tác vụ vùng và Sở đặc cảnh sở tại đối phó, đồng thời gọi máy điện thoại cho đại tá Nguyễn Xuân Lộc, Tư Lệnh Cảnh Lực Vùng I, lúc ấy đang cùng có mặt với các Chánh sở vùng và một số chỉ huy cảnh lực tỉnh tập trung tại đây.
Lát sau, anh Long đến ngồi tại pḥng truyền tin của ngành đặc cảnh vùng, nơi đây có máy âm thoại của cả 2 hệ nổi ch́m địa phương lẫn hệ toàn quốc, và máy điện thoại bưu điện, điện thoại quân sự, cách dăm mười phút lại gọi hỏi tôi t́nh h́nh thế nào. Khoảng sau 11 giờ đêm, từ đài đặc cảnh Vùng I trung tá Long gọi tôi. Lần nầy tôi nghe giọng anh run lên, lời lẽ trịnh trọng khác thường: “Tôi xin mời ông Phụ Tá đến ngay để tổ chức pḥng tuyến và chỉ huy đội ngũ tử thủ cùng với anh em chúng tôi!” (Tử-thủ là lời cam kết của trung tướng Ngô Quang Trưởng đọc trên đài phá thanh Đà Nẵng suốt chiều hôm nay).
Anh Long kể lại với tôi là anh được lệnh, cùng với mọi người có mặt tại trụ sở Vùng, Chánh sở các sở, chỉ huy của một số tỉnh, có cả mấy viên đại tá quân đội, theo đại tá Lộc xuống bến Giang Cảnh, lên tàu Giang Cảnh, rời bến hướng ra biển Đông. Anh hỏi đi đâu th́ đại tá Lộc trả lời: “Chúng ta di tản vào Nam!” Anh thấy máu uất xông lên đỉnh đầu, la lên: “Giặc chưa tấn công, thuộc viên vẫn c̣n ở lại, mà cấp chỉ huy đă lén lút bỏ đi như thế này là hèn!” Lộc cố giải thích: “Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn đă rút đi rồi. Trong t́nh huống này chúng ta đành phải phụ ḷng anh em mà thôi!” Long bèn rút súng, nh́n thẳng vào mặt từng người với vẻ khinh thường, và bảo tàu ghé vào bờ cho anh trở lui. Và anh đă về trụ sở, để cùng chiến đấu, sống chết có nhau với anh em.
Tôi tin tưởng và kính phục anh Long vô cùng; nhưng tôi thấy rơ là nếu đến sở th́ sẽ dính kẹt ở đó, khó ḷng điều động hoạt động bên ngoài, nên nói là tôi bận họp. Anh xin mượn tôi một máy vô tuyến cầm tay, và đ̣i đến họp với tôi. Anh Long đă đến nhà tôi, hỏi tôi ở đâu, tôi đáp là đến Đặc Khu, nhưng tôi đến Bộ Tư Lệnh Quân-Đoàn; nơi đây vắng hoe. Anh hỏi, tôi đáp là vào phi trường, nhưng tôi đến Sở An Ninh Quân Đội; nơi đây cũng chẳng c̣n ai. Anh không gặp tôi, lại hỏi; và tôi lại dối, tránh anh. Cứ thế mà tôi đến khắp các nơi vốn là chỗ dựa cho niềm tin của dân nhân.
Đến sau nửa đêm th́ cả thành phố đổ dồn qua cầu Trịnh Minh Thế để qua bến cảng, băi biển quận III, để mong chạy vào SàiG̣n. Tôi cùng Tác Vụ, thám sát đặc biệt, quan sát xong t́nh h́nh bên đó, len lách trở về th́ thoáng dưới ánh đèn pha thấy rơ h́nh dáng của anh, mặc cảnh chiến phục, gác khẩu M-16 ngang đùi, mặt mày đỏ gay, tức uất nhưng đầy cương nghị, lái xe vụt qua. Đó là h́nh ảnh cuối cùng của trung-tá Nguyễn Văn Long, măi măi hằn sâu trong kư ức tôi.
Gần sáng ngày 29-3-1975, Việt Cộng pháo kích hải cảng, phi trường. Mờ sáng, đặc công từ hướng núi Non Nước bắt đầu tấn công vào. Đến trưa, tôi gọi máy về cho đại-úy Nguyễn Văn Tuyên, Chánh sở nghiên kế, lúc đó c̣n ngồi tại chỗ, ra lệnh giải tán Trung Tâm Hành Quân của Đặc Cảnh Vùng I, là bộ phận sau rốt của chính quyền VNCH c̣n hoạt động đến phút cuối cùng, và cho phép thuộc viên tự t́m phương tiện thoát thân. Xế chiều, tôi mới kiếm được chiếc thúng, rời bờ, liều lĩnh trước các làn đạn pháo kích của địch và trực xạ của chính bạn ḿnh. Và tôi không c̣n gặp lại anh Long.
Cái chết của trung tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long làm tôi suy nghĩ rất nhiều. Anh đă phục vụ dưới nhiều chế độ khác nhau, đảm trách công tác ở nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng vẫn giữ ḿnh trung chính khiết liêm. Anh tuy lớn tuổi nhưng vẫn trẻ trung trong lối sống và trong công việc, không bị lứa trẻ sau này vượt qua.
Trong lúc nước nhà đang bị cộng sản xâm lăng, anh ư thức được chúng là kẻ thù số một của toàn dân, sự nghiệp chống Cộng phải là ưu tiên số một của mọi người yêu quư Tự Do, nên anh phải góp phần vào. Thành quả chống cộng của CSQG nói chung, là đă có lúc hạ được nhiều tên cộng tặc hơn cả con số chúng bị thiệt hại trên chiến trường, do đó, anh tự nhận lănh vào bản thân ḿnh một phần trách nhiệm đối với đối phương về những tổn thất mà chúng hứng chịu nặng nề. Nhưng trên tất cả là sự sụp đổ thảm khốc của Việt Nam Cộng Ḥa, mà đối với Tổ Quốc, Dân Tộc, Lịch Sử, và Thế Giới, th́ cái trách nhiệm vô cùng lớn lao ấy nhất định là của mọi người, trong đó có anh. Nên anh tự xử, cũng như các anh hùng Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn v..v…, để tạ tội với tiền nhân và quốc dân, và để nói lên tinh thần bất khuất của người chiến sĩ Tự Do, không chịu hạ ḿnh đầu hàng kẻ thù.
Cái chết của anh Long làm tôi hănh-diện vô cùng. Tuy người chết không mong được đời nhắc đến, nhưng bổn-phận của người sống là phải phát huy những tấm gương trí dũng ngời sáng ấy, để nhờ đó mà ḿnh tin tưởng và phấn khởi tiếp tục lo toan sự nghiệp chung.
Bây giờ, đối với toàn dân, Nguyễn Văn Long không c̣n là một trung tá, là một Chánh sở tư pháp, là một viên chức an ninh, là những ǵ ǵ khác nữa …. mà anh đă và vẫn c̣n là đại diện cho bất cứ chiến hữu ưu tú nào, không phân biệt cấp bậc, chức vụ, ngành nghề, h́nh sự hay phản gián, phái mạnh hay phái đẹp. Anh đă vinh quang đi vào lịch sử với tư cách một anh hùng của Dân Tộc Việt Nam nói chung và Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia nói riêng.
Lê Xuân Nhuận
hoanglan22
01-10-2019, 04:51
Một bài thơ khá hay xin post để đọc và ngẫm nghĩ
Thức dậy đi em
Sao ngủ vùi lâu vậy?
Biển Đông kia, giặc đă cướp lấy Hoàng Trường Sa...
Thức dậy đi em
Bọn tham quan đă thâu đất, lấy nhà
Đừng để mẹ ôm ngoại già than khóc.
Thức dậy đi em
Dân chúng ḿnh đă bị hóa thân nô bộc
Cho lũ phản bội Quê Hương, tâng bốc ngoại xâm
Hăy mau thức dậy đi em, đời chúng ta nay đă bị giam cầm
Kể từ dạo ấy, 30 tháng Tư 75 nô cộng.
Thức dậy đi em để đứng lên giành cuộc sống
Đất mẹ 40 năm?
Nay như đống tro tàn
Thức dậy đi em, gia đ́nh ḿnh giờ khốn khổ lầm than
Mau thức dậy, kẻo muộn màng nô lệ.
Thức dậy đi và nghe anh kể
Chúng ta giờ đây phận giun dế thấp hèn
Đảng đă biến chúng ta thành khối dân đen
Để cho chúng dễ chèn dễ trị.
Hăy thức dậy cùng anh rèn Tinh Thần Vô Úy
Ta cùng nhau nung chí chống ngoại xâm
Dân tộc giờ đây?
Hàng hàng lớp lớp đă bị giam cầm
Để làm nô bộc cho giặc ngoại xâm tặc Hán.
Mau thức dậy em ơi cùng anh em bè bạn
Mau vươn vai súng đạn lên đường
Đừng ngủ vùi trên thống khổ của dân tộc của Quê Hương
Hăy thức dậy và can trường chiến đấu.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1325717&stc=1&d=1547095813
Thức dậy đi anh
Thức dậy đi anh mai lên đường chinh chiến
Phận làm trai phải dâng hiến cho non sông
Dân Tộc
Quê Hương?
Nh́n tan nát cơi ḷng
Mẹ rướm lệ chờ mong con cứu nước.
Hỡi những mảnh đời lầm than xuôi ngược
40 năm dài, hỏi dân được ǵ chăng?
Khố rách, áo ôm, cơ cực, nhọc nhằn...
Mà cuộc sống vẫn khó khăn tiếp nối.
Thức dậy đi anh, cùng anh em đồng đội
Cùng toàn dân mở lối thoát đọa đày
Trùng điệp đau thương khắp chốn bủa vây
Vận mệnh đất nước?
Trong tay anh, tay chị.
Ngọc bất trác th́ ngọc kia nào quí
Là thanh niên, ư chí nhẽ lăng quên?
Nợ nước, con dân, há chẳng phải đáp đền?
Vai u thịt bắp...ngại lằn tên mũi đạn?.
Thức dây đi anh, chớ ngủ vùi năm tháng
2020 giặc Hán chiếm non sông
"Mật Nghị Thành Đô", đảng đă đồng ḷng
Đẩy dân tộc vào cùm gông nô lệ.
Nhẽ cúi mặt chịu qui hàng đồ tể?
Há sinh ra làm giun dế phận hèn?
Lẽ nào ṃ mẫm măi trong tăm tối đêm đen?
Kiếp trâu ngựa...dần quen cuộc sống!.
Hăy thức dậy dẹp Hán ô phản động
Noi gương cha ông diệt Hán Tống Mông Nguyên
Vùng lên đấu tranh hỡi trai gái khắp ba miền
Xóa bỏ cộng sản, đem b́nh yên cho đất mẹ.
Mau thức dậy và đứng lên anh nhé
Là thanh niên chớ là kẻ cúi đầu
Việt tộc kiêu hùng, chẳng là ngựa, chẳng là trâu
Há chấp nhận kiếp nô hầu nhục nhă?.
Hăy thức dậy để giữ ǵn non sông biển cả
Thức dậy đi và vội vă tiến lên đường
Góp bàn tay để ǵn giữ Quê Hương
Dựng nước Việt trên con đường Dân Chủ.
Mai thanh b́nh hương hoa đơm nụ
Đă sạch tan bóng cờ rũ mưa sa
Cứu lấy Việt Nam, ǵn giữ sơn hà
Khắp đất nước vang lời ca chiến thắng.
Nguyên Thạch
hoanglan22
01-11-2019, 04:15
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1326089&stc=1&d=1547179301
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1326090&stc=1&d=1547179301
Vị trí và địa h́nh cứ điểm Charlie trên bản đồ quân sự
Quả t́nh nếu không có trận chiến mùa Hè năm 1972, th́ cũng chẳng ai biết đến Charlie, v́ đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum.
Charlie, “Cải Cách,” hay “C,” đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Pô-Kơ và Đường 14, đông-bắc là Tân Cảnh với mười hai cây số đường chim bay, đông-nam là Kontum, thị trấn cực bắc vùng Tây Nguyên.
Từ xa xưa cho đến khi ngọn đồi này bị tràn-ngập. Nó vốn không hề có tên. Charlie chỉ là một check point trên bản đồ quân-sự cho các cuộc hành-quân hoặc một chiến-dịch. Và cái tên Charlie cũng chỉ là nhất thời, nó cũng như những check point khác như Delta, Yankee, Metro . . . chỉ được sử-dụng trong một giai-đoạn có thể là rất ngắn cho đến khi hết cuộc hành-quân hoặc chiến-dịch mà thôi. Qua đến chiến-dịch hoặc cuộc hành-quân khác, những check point cũ sẽ không c̣n được sử-dụng nữa. Chúng có thể sẽ được sử-dụng bởi những tên mới khác.
Charlie cái tên được đặt đầu mùa 1972 cho một ngọn đồi để tiếp nhận định mệnh tàn khốc trong cuộc chiến trùng trùng.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1326092&stc=1&d=1547179405
Người ở lại Charlie, Cố Đại tá Nguyễn Đ́nh Bảo (phải),
Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn Song Kiếm Trấn Ải 11 Dù (với Đ/U Dù Đoàn Phương Hải. trái)
Tháng 4 năm 1972 Sư đoàn 320 Bắc Việt bao vây cứ điểm Charlie. Những cơn mưa pháo kinh khiếp, tàn nhẫn đạt tới “ điểm đứt hơi, điểm vỡ của chiến trận”(chữ dùng của PNN) phủ chụp xuống đồi Charlie, nối tiếp những đợt cường tập biển người của Cộng quân. Ngày 12 tháng 4 hỏa tiễn 122 mm pháo trúng hầm chỉ huy, Trung tá Nguyễn Đ́nh Bảo (Tiểu Đoàn Trưởng ) tử trận. Một trong những con sói đầu đàn của binh chủng Nhảy Dù sau mười hai năm ngang dọc chiến trận đă chấm hết phút đó trên cao độ 1020 trông về bốn hướng chập chùng đồi cao tiếp núi thẩm. Trường Sơn ác độc nhận thêm một h́nh hài !
Thiếu tá Lê Văn Mễ lên thay thế và tiếp tục cuộc “thánh chiến” tử thủ Charlie.http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1326093&stc=1&d=1547179463
Sau 7 ngày giao chiến không được tiếp tế, hết thực phẩm nước uống, cạn đạn dược. Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù được lệnh bỏ cứ điểm. Trong màn đêm họ rút về hướng Đông Bắc. Một số binh sĩ bị thương quá nặng đă t́nh nguyện ở lại cầm chân địch quân để đồng đội an toàn rời tử địa. Tiểu đoàn rút khỏi đỉnh đồi gần nửa cây số những cơn địa chấn dội xuống từ pháo đài bay B-52 san bằng Charlie, Cứ Điểm Thép của 11 Nhảy Dù cháy hừng hực trong cơn băo lửa, trong vụn vỡ nát tan của núi rừng hoang dă Tây Nguyên, chẳng c̣n ǵ nguyên vẹn ngoại trừ hồn phách của những người lính Nhảy Dù can trường của Tiểu Đoàn Song Kiếm Trấn Ải !http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1326095&stc=1&d=1547179592
Nửa ngày ở Dakto
Sớm mai bắn súng lên trời
Chào cô gái Thượng mang đời trên lưng
Buổi trưa xuống, phố tưng bừng
Chào nhau, Mũ Đỏ không mừng không lo.
Vào Charlie
Trăm con chim lạ về rừng
Cờ treo hai ngọn, lẫy lừng chiến khu
Kontum gió núi, sương mù
Theo quân vào cuộc, sinh, từ, quê hương
Ba lô, súng trận, sa trường
Tiếng quân reo, dấy biên cương ngút ngàn
Điệu sầu nửa phím tơ loan
Áo phong sương đă mấy lần tả tơi
Xung phong vũ khúc lên đồi
Bom rơi, pháo nổ, thây người ngả nghiêng
Tóc tai phủ mặt đêm đen
Đầy trời khói lửa Tam Biên, bảo bùng
Một thời ngang dọc kiêu hùng
Charlie gẩy cánh thiên thần. Tiếc Thương
Cánh dù lộng gió muôn phương
Vào ḷng đất mẹ, máu xương ngậm ngùi
Tay khô đốt sáng đỉnh trời
Lập loè đốm lửa, thắp đời quạnh hiu.
Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập
Để kính nhớ cố Đại Tá Nguyễn Đ́nh Bảo, Tiểu đoàn trưởng 11 Dù, và đồng đội tôi. Để tưởng nhớ đề lô Tiểu đoàn 2 Pháo Binh Nhảy Dù, Trung úy Nguyễn Văn Khánh, Chuẩn Úy Sơn, ‘ và 10 đệ tử trong đó có hai đệ tử chúng tôi là Hạ sĩ Hạnh, Binh nh́ Nhỏ c̣n ở lại Charlie… Để tưởng nhớ anh em Không Quân đă hy sinh để bảo vệ chúng tôi suốt trận đánh lịch sử này…
CHARLIE bây giờ
Ngày hôm nay, khi chúng tôi lại một lần nữa đến viếng ngọn đồi đă lừng-danh này. Cũng là ngôi mộ mang tên Charlie chôn kín niên-trưởng Cố Đại-tá Nguyễn-Đ́nh-Bảo, Tiểu-đoàn Trưởng Tiểu-đoàn 11 – Song Kiếm Trấn Ải con sói đầu đàn của Sư-đoàn Nhảy Dù. Cùng bao chiến-sĩ Dù thuộc cấp của Ông.Từ một người phụ-nữ lam-lũ với đồng-áng, nương, rẫy. Đến những người hành-nghề Honda ôm tại Pleiku, Kontum nói chung, ở Sa-châu nói riêng v.v… tất thảy họ đều biết ngọn đồi Charlie. Họ sẽ chỉ-dẫn rất tận-t́nh và rơ-ràng những chi-tiết cho những ai muốn đến nơi đó.
Một ngày nào đó, khi non-sông gấm-vóc của chúng ta được tươi-sáng lại, những trang sử hào hùng đẫm máu và nước mắt của người lính VNCH trên “địa linh” CHARLIE sẽ được hồi sinh cho thế hệ con cháu đời sau chiêm ngưỡng.
Nếu không có sự hy-sinh của Tiểu-đoàn Song Kiếm Trấn Ải Hè Đỏ Lửa 1972. Hẳn trong dân-chúng miền Tây-nguyên đă không bao giờ biết đến nó, nhớ đến nó. Cố Đại-tá Nguyễn-Đ́nh-Bảo và các chiến-hữu của Ông đă định danh cho nó rồi : Đồi CHARLIE.
Nếu trên Ql 14, tại Dakto chúng ta sẽ phải rẽ trái (hướng Tây). Rồi mất thêm 49 cây số nữa mới tới được Charlie tại thị-trấn Sa-châu.
Nhưng khởi-hành từ Kontum chúng ta đi, th́ tới ngă ba Trung-chính chúng ta rẽ trái (hướng Tây) và chỉ mất hơn 20 cây số là đến Charlie (Sa-châu) mà thôi. Như vậy, nếu ta lấy 3 điểm Kontum, Dakto và Charlie, th́ chúng sẽ tạo ra một h́nh tam-giác mà Charlie là đỉnh có cạnh đáy là Kontum và Dakto.
Đồi Charlie và khu dân-cư Sa-châu, được nh́n từ Sa-b́nh cách Sa-châu 9 cây số.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1326097&stc=1&d=1547179689
http://vietbf.com/forum/attachment.php?
Lối vào dễ-dàng nhất và gần nhất để đến Charlie.
attachmentid=1326098&stc=1&d=1547179689http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1326099&stc=1&d=1547179689
Charlie, Ngọn Đồi Quyết Tửhttp://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1326106&stc=1&d=1547179978
Đại Tá Nguyễn Đ́nh Bảo
Tất cả ám danh đàm thoại truyền tin của Pháo binh Nhảy Dù đều bằng 4 con số, thí dụ như pháo kích gọi là 3113, bắn hiệu quả gọi là 3134, và tên các giới chức gọi bằng 3 con số, thí dụ như tên chúng tôi gọi là 314, mọi tần số truyền tin đều chuyển qua hệ thống của đề lô cho dể tác xạ, và bài này sử dụng bạch văn cho độc giả dể hiểu.( Tiếng động cơ trưc thăng hoặc tiếng phi cơ vận tải dồn dập rồi đáp xuống). Những ngày gần cuối tháng 3 năm 1972, Tiểu đoàn 2 Pháo binh theo Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù đi hấp tại Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp ở Phước Tuy, giửa chương tŕnh huấn luyện có một cuộc hành quân nhảy dù và có phi pháo yễm trợ bằng đạn thật. Cũng như những lần tập trước đây, bải đáp là một cánh đồng trống với nhiều bụi tre lúp xúp, khi toàn bộ Tiểu đoàn 7 và một Pháo đội Dù với 6 cây đại bác 105 ly kiểu M102 được trang bị vũ khí đầy đủ nhảy từ phi cơ 123 an toàn đáp xuống đất, là mở đầu ngay cuộc tấn công mục tiêu bằng đạn thật vào một khu rừng sát chân núi ( tiếng đạn nổ trên mục tiêu). Cũng vào thời gian này Pháo binh Nhảy Dù vừa mới được trang bị loại đạn cay CS 105 ly nên Tiểu đoàn của chúng tôi được lệnh phải bắn thử loại đạn này, tôi cùng một Tiền Sát Viên h́nh như là Trung úy Đỗ Trọng Dụng được lệnh đeo mặt nạ ngồi dưới hầm gọi tác xạ bắn ngay trên đầu để thử công hiệu.
Cuộc bắn thử này có nhiều giới chức quân sự cao cấp đứng trên một khán đài ở xa để quan sát. Tôi vừa hồi hộp vừa tự trấn an, ai bảo đi pháo binh, sinh nghề tử nghiệp mà, nếu điều chỉnh xa mục tiêu th́ mất mặt KBC 4522, c̣n nếu bắn ngay trên đầu th́ chiếc mặt nạ thổ tả này có chịu nổi hàng chục trái đạn cay hay không. Tôi chưa kịp lo ra th́ Tiểu đoàn thông báo cho tôi xuống pháo đội lảnh hai đề lô đi tiền sát cho Tiểu đoàn 9 Dù. Một chiếc xe Dodge đưa ngược chúng tôi về Saigon, thầy tṛ vừa xuống xe vào tŕnh diện Ban 3 Tiểu đoàn 9 th́ lại được một công điện về tŕnh diện Tiểu đoàn 11 của Trung Tá Nguyễn Đ́nh Bảo để đi Kontum.
Những bất thường trong đời lính làm cho tôi không thấy có điều ǵ bất tường cả trong lệnh điều động này. Đầu năm 1972, chiến sự đă trở nên sôi động nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến được gọi là chiến tranh ư thức hệ này cũng chẳng được giới sĩ quan trẻ như chúng tôi để ư nhiều, chỉ quan niệm đơn giản đến tuổi là phải đi lính để bảo vệ quốc gia. Mới đổi về Nhảy Dù đúng một năm mà đă tham dự hàng chục cuộc hành quân lớn nhỏ, cái chết lúc nào cũng cận kề làm tôi chẳng c̣n ư niệm ǵ về những cuộc ra đi của bạn bè về vùng 5 da ngựa bọc thây. V́ ở đâu, Nhảy Dù có đụng là đụng thứ thiệt, chơi thật sự với đại pháo 130 ly, với xe tăng T54, và biển người cỏ rác nhất định sinh Bắc tử Nam để thực hiện cho bằng được mộng làm tôi đ̣i cho cộng sản quốc tế của Bắc Bộ Phủ, ở đâu, chúng tôi cũng phải một đánh ba là thường xuyên, c̣n nếu không Bộ Tổng Tham Mưu chẳng bao giờ chịu sử dụng cả. Nhưng ở đây, Charlie, chúng tôi phải một đánh mười, Mặt trận B3 của cộng quân với Sư đoàn Thép 320, Sư đoàn 968, chưa kể các Trung đoàn pháo và pḥng không dầy đặc đă sẳn sàng đợi Tiểu đoàn “Song Kiếm Trấn Ải ” danh hiệu 11 Dù hai cây đèn cầy.
Phi cơ bay ra Pleiku ở một đêm, rồi hôm sau theo đường bộ ra Kontum, rồi đi Tân Cảnh theo Quốc lộ 14, dọc đường nhiều quán thịt rừng mọc lên làm tôi nhớ lại Saigon, những bửa c̣n tiền th́ đấu với đại vơ sĩ Rémy Martin hoặc cạn túi th́ chơi với vơ sĩ hạng lông rượu rắn tại Quán thịt rừng Tân Vạn, gần hậu cứ Nguyễn Huệ. Xe qua Căn cứ B5 rồi Diên B́nh, những người lính Địa Phương Quân đứng trên cầu vẫy tay cười cười, cái khung cảnh b́nh yên này chỉ trong thời gian ngắn nửa thôi là có chuyện lớn xảy ra, đó là cái bất tường của đời lính. Tại Bộ Chỉ Huy Lữ đoàn 2 Nhảy Dù ở Vơ Định, tôi nhận bản đồ hành quân từ Tiểu đoàn 1 Pháo binh Dù của Thiếu Tá Bùi Đức Lạc (hiện ở San Jose), là vị Tiểu Đoàn Trưởng tiền nhiệm của Tiểu đoàn tôi, và chuẩn bị nhảy vào Charlie. Sĩ Quan Liên Lạc Pháo Binh Tiểu đoàn 11 Dù tức đề lô chúa là Trung úy Lưu Văn Đúng danh hiệu 310, một đàn anh chưa bao giờ chịu học nhảy dù, đă triệu tập chúng tôi lại phân chia và thông báo nhiệm vụ, Trung úy Nguyễn Văn Khánh danh hiệu 311, cũng là bạn cùng khóa với tôi là đề lô Đại đội 111 của Trung úy Thinh. Chuẩn Úy Sơn danh hiệu 312, đề lô Đại đội 112 của Đại Úy Hùng móm. Chuẩn Úy Trưng danh hiệu 313, đề lô Đại đội 113 của Đại Úy Hùng mập. Trung úy Nguyễn Văn Lập danh hiệu 314, đề lô Đại đội 114 của Trung úy Phan Cảnh Cho (hiện nay ở Quận Cam). Đại đội 110 của Đại Úy Nho đóng chung với Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 11. Pháo binh từ Căn cứ 5 danh hiệu 415, Pháo binh Căn cứ 6 danh hiệu 416, Căn cứ Yankee của Pháo đội D1 ở hướng bắc danh hiệu 417, và Pháo đội C1 danh hiệu 418 với 1 trung đội 155 ly C 220 danh hiệu 419 ở hướng Nam yễm trợ trực tiếp hoặc tăng cường cho chúng tôi theo yêu cầu. Nh́n một dọc các căn cứ hỏa lực yễm trợ cho Tiểu đoàn 11, tôi nhận thấy ngay t́nh h́nh rất là nghiêm trọng, một cuộc tapi khốc liệt sẻ diễn ra trên ngọn đồi vô danh nào đó nằm sâu trong dảy Trường Sơn.
Sáng ngày 25 tháng 3 năm 1972, Tiểu đoàn 11 được trực thăng vận bốc vào vùng hành quân, phi cơ bay ngang Tân Cảnh nơi đúng một năm trước đây, sau Hạ Lào, một số đơn vị của Sư đoàn Nhảy Dù từ Quăng Trị bay thẳng về đây giải tỏa Căn cứ 5 và Căn cứ 6. Cuộc hành quân ngoạn mục nhảy ngay trên đầu địch làm cho chúng bất ngờ và nhiều trăm tên bị tan xác tại đây, lúc này cuộc hành quân đang đi vào giai đoạn chót, tôi từ Tiểu đoàn 183 Pháo binh dă chiến Long Khánh về tŕnh diện Thiếu Tá Lạc tại vùng hành quân và được vị Tiểu đoàn trưởng chịu chơi cho 4 ngày phép về Saigon coi như một đặc ân về Pháo Binh Nhảy Dù, đồng thời xù luôn 4 ngày trọng cấm mà Trung úy Toàn, Chỉ huy hậu cứ ( hiện ở tại San Jose) tặng cho tôi về tội dám căi lại quan anh ngay lúc tôi c̣n mặc bộ đồ xanh bộ binh về tŕnh diện Dù. Từ trên trực thăng nh́n xuống, ở xa về hướng nam, con sông Poko màu bạc uốn khúc theo dẩy Trường Sơn rồi đổ ra cắt ngang quốc lộ 14, đẹp như một nét chấm phá của thiên nhiên, và dẩy Trường Sơn ở hướng Tây trùng điệp những đồi núi ngút ngàn với hầu hết là những ngọn đồi trọc lá trơ cành, giơ những cánh tay khẳng khiu lên không như cầu nguyện cho một thiên đường vừa đổ vở. Hai chiếc Cobra bay phía trước hộ tống cho những chiếc chuồn chuồn UH1B đáp xuống căn cứ Charlie, không có màn bắn dọn bải đáp v́ đă có quân ta đáp xuống trước, những người lính dù nhảy xuống trực thăng rồi tản ra hai bên gh́m súng pḥng thủ sát giao thông hào, và tôi đă có mặt tại ngọn đồi vô danh mà sau này đă đi vào chiến sử Nhảy Dù như một địa danh bất khuất không thể nào quên của người lính quốc gia, cũng như làm cho tất cả quân dân cả Miền Nam biết đến qua bản nhạc “Người Ở Lại Charlie” của Trần Thiện Thanh.
Theo sự bố trí, Đại đội 113 nằm phía bắc dưới chân đỉnh Yankee, cách Tiểu đoàn gần 3 cây số. Đại đội 111 thủ Charlie cao độ trên 1000 mét. C̣n lại Bộ chỉ huy Tiểu đoàn và các Đại đội 110, 112, và 114 đóng quân tại căn cứ C2 cùng dẩy núi thoai thoải nhưng cao hơn và cách Charlie gần nửa cây số. Nh́n trên bản đồ th́ tất cả các đơn vị của Tiểu đoàn 11 Dù đóng quân trên một trục Nam Bắc khá thẳng để dể quan sát về hướng Tây giáp với Kampuchia, nơi đường ṃn Hồ Chí Minh rẻ ra các ngả vào ba biên giới Việt Miên Lào ở phía Tây Bắc, c̣n Căn cứ biên pḥng Benhet th́ nằm sâu gần biên giới hơn. Suốt trận chiến Charlie nổi tiếng trong quân sử, Benhet vẫn b́nh yên v́ cộng quân dồn mọi nổ lực để nhổ cái gai Charlie nằm chận cuống họng xâm nhập vào Tỉnh Kontum qua ngả Dakto. Charlie là một căn cứ hỏa lực nhỏ của Mỹ bỏ đă lâu giờ trông rất hoang tàn, khi Tiểu đoàn 11 đổ quân xuống, sửa sang lại giao thông hào và giăng lại kẽm gai cho tiện việc pḥng thủ. Bao quanh Charlie là những ngọn núi cao thấp với cao độ trên một cây số. Phía Tây dưới chân Charlie có một con suối nhỏ dốc đứng rất khó lên xuống nhưng nguồn tiếp tế nước uống và tắm rửa cũng từ con suối này. Trận chiến diễn ra ác liệt tại quanh khu vực này nên gọi chung là trận Charlie.
Đại đội 114 đóng ṿng cung phía Nam chịu trách nhiệm nặng nhất v́ địa thế thoai thoải dể đánh lên , và ngoài pḥng tuyến cở 50 mét có nhiều cây cao rất dể cho cộng quân nấp vào đó mà tấn công, và trận chiến bắt đầu cũng từ hướng này trước. Chưa bao giờ tôi thấy một Đại đội trưởng cho đào một cái hầm trú ẩn h́nh chử nhật to và kiên cố đến như vậy với nắp hầm vừa thân cây vừa bao cát cao đến gần 1 mét, Trung úy Cho bảo tôi ra gần ngoài tuyến t́m chổ đào hầm, tôi nói tôi yễm trợ cho Trung úy, nếu Trung úy nằm đâu th́ tôi nằm đó. Trung úy Cho đành để tôi ở chung trong hầm, nhờ vậy sau này tôi thoát chết dưới làn pháo khủng khiếp của cộng quân. Tôi bảo hai đệ tử Hạnh và Nhỏ ra gần ngoài tuyến t́m chổ đào hầm, c̣n máy PRC 25 th́ đưa cho tôi, và thỉnh thoảng chạy vào xem tôi có cần ǵ không. Chiều xuống, như thường lệ khi đi trận, tôi gọi 417 tác xạ pḥng thủ lập một số tuyến cản theo h́nh ṿng cung ngoài ṿng vị trí khoảng 100 mét ( có tiếng pháo binh bắn điều chỉnh), xong yêu cầu gửi yếu tố tác xạ đến các căn cứ khác để bắn theo yêu cầu khi cần. Nhờ những tuyến cản này mà chúng tôi đă giử được phía Nam C2 cho đến ngày Charlie thất thủ. Đêm đầu tiên, tôi ngủ không được v́ những tiếng ŕ ŕ của xe cơ giới chạy suốt đêm, từng đoàn xe Molotova và có cả tiếng xe tank chạy trong dảy Trường Sơn, hướng Tây và Tây Nam cách căn cứ Charlie không xa, quân xa cộng quân mở đèn chạy công khai như xa lộ không người. Tôi chấm một số điểm đâu đó trong rừng t́nh nghi là đường ṃn theo hướng xe chạy để bắn quấy rối ( harrasing fire), khi pháo binh ta bắn, quân xa địch tắt đèn ngưng chạy, hết loạt đạn, chúng mở đèn chạy tiếp, đêm nào cũng thế, ngoài tầm bắn của pháo binh ta nên bọn chúng gần như công khai di chuyển. Chắn chắn chúng đang mở chiến dịch lớn lắm nên mới ồn ào điều quân như thế này, và Quân đoàn II cũng biết như thế nhưng không hiểu tại sao không cho B52 dập.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1326107&stc=1&d=1547180054
Thiếu Tá Lê Văn Mễ
Ngày hôm sau 26/3/1972, tôi theo Thiếu Tá Lê Văn Mễ, Tiểu đoàn phó danh hiệu Mê Linh (hiện nay ở San Jose), dẫn hai đại đội 112 và 114 đi đánh giải vây cho một đơn vị Tiểu đoàn 2 Dù ở hướng Nam. Mục tiêu là một đỉnh đồi cách Charlie khoảng gần 1 cây số, cộng quân thuộc Trung đoàn 3/ 320 đă chiếm ngọn đồi này và xác một Chuẩn Úy của ta vẫn c̣n đó. Gần đến nơi, Thiếu Tá Mễ gọi tôi bắn dọn đường xong chuyển xạ bằng một quả khói lên ngay trên đỉnh đồi cho phi cơ nhận diện đánh bom, rồi pháo binh làm tiếp .
-418 đây 314 xin tác xạ. Hết.
-314 đây 418 xin tác xạ. Hết.
-Lệ Hằng phải 1.5 lên 2.3. Một khói nổ chạm. Bắn khi sẳn sàng. Hết.
-Lệ Hằng phải 1.5 lên 2.3. Một khói. Hết.
Độ hai phút sau.
-Bắn. Trả lời.
-Bắn. Hết. (tiếng pháo nổ)
Thiếu Tá Mễ liên lạc với đứa con đi đầu, xong xin điều chỉnh tác xạ
-Hướng 800. Gần lại 100. Một khói . Hết.
-Hướng 800. Gần lại 100. Hết.
Đến quả đạn khói thứ hai th́ điều chỉnh vào đúng mục tiêu, dứt trái khói, Mê Linh nói tiếng Anh như gió liên lạc thẳng với phi cơ Phantom Mỹ nhào xuống thả bom, rừng núi rung chuyển như cơn địa chấn v́ mục tiêu cách chúng tôi chỉ hơn 100 mét ( tiếng bom nổ). Khi phi đội rời mục tiêu, tôi xin pháo đội bắn hiệu quả 10 tràng vừa đạn nổ vừa delay để phá hầm, khẩu 3 (đang điều chỉnh) bắn trước một quả (mổi pháo đội có 6 đại bác tức là bắn 60 quả). Mê Linh dặn tôi khi dứt loạt đạn này là xung phong. Tôi tŕnh Mê Linh để tôi chuyển xạ ra phía sau thành một tuyến lửa không cho tụi nó chạy, phải chấp nhận giao chiến với ḿnh. Mê Linh OK. Dứt loạt đạn hiệu quả, pháo đội chuyển xạ thành một tuyến phía sau. Trung đội đầu tiến dè dặt v́ địa h́nh không cho phép và đạn AK từ phía trên đỉnh đồi bắn xuống xối xả không xung phong được. Từng khinh binh Dù tiến lên theo thế chân vạc. Đạn AK và M16 thi nhau nă từng loạt (tiếng súng nổ rời rạc). Dù len từng gốc cây, người này bắn che cho người khác tiến, và cuối cùng lên được triền đồi. Toán đầu tiên báo cáo sơ khởi dứt được hai vịt con (tức Việt cộng) tịch thu được 1AK, 1 CKC, và t́m được xác viên Chuẩn úy Tiểu đoàn 2 Dù cùng một binh sỉ. Mê Linh bảo ráng lên đến đỉnh xem có ǵ không. Vừa dứt lời th́ tiếng depart đại bác từ phía Tây bắn tới cắt ngang hông Dù. Xịt oành, Xịt oành. Tiếng đại bác này là sơn pháo 75 ly không giật có sơ tốc độ cao nên vừa nghe tiếng depart là nổ liền. Dù bị đánh ngang hông, vừa dứt loạt pháo là bộ binh địch tràn lên cũng từ phía Tây. Mê Linh cho toán đi đầu lùi lại tránh pháo, kết quả ta chết một, bỏ lại một M16. Lúc này th́ địch đă ngưng pháo chỉ dùng súng nhỏ. Mê Linh cho rút toàn bộ về nhập lại một v́ sợ địch cắt đôi. Địch vẫn tiếp tục bắn theo. Mê Linh bảo tôi bắn chận.
-418 đây 314. Mục tiêu. Hướng 1000. Gần lại 200. Một nổ. Bắn khi sẳn sàng. Hết.
Lúc này Pháo đội C1 đă biết chúng tôi bị đánh ngang hông nên đă sẳn sàng bắn chận. Oành. Một tiếng nổ lớn như tiếng sét đánh ngay trên đầu, mănh đạn bay túa túa, tiếng cành cây bị chém gảy rớt xuống đất nghe rào rào, xong hoàn toàn im lặng, có thể nói một tiếng thở kế bên cũng nghe rỏ. Chiến trường hoàn toàn im tiếng súng. Tôi biết đạn đạo chạm cành cây nên nổ trên không thay v́ rớt xuống đất mới nổ, v́ gấp rút quá nên tôi không cho bắn đầu nổ cao, mặc dù tôi đă trừ hao yếu tố nhưng đường tên đạn đạo chạm nổ trên cành, và đă vô t́nh ngăn chận địch không dám liều lĩnh truy nă. Tôi tŕnh với Mê Linh:
-Thiếu Tá hỏi xem con cái ḿnh có bị ǵ không, c̣n tụi vịt con tôi đoán thế nào cũng lănh đủ trái này, ḿnh giử nguyên yếu tố này, nếu tụi nó lên, ḿnh dứt nó liền. Lúc này th́ Cobra cũng lên vùng nhưng chưa bắn. Tiểu đoàn trừ cũng dừng lại dàn hàng ngang đề pḥng địch xung phong. Một lúc sau, tôi nghe nói Trung úy Lạc, Đại đội 112 là người bạn cùng Khóa 27 Thủ Đức với tôi bị mănh đạn chém ngay đầu bị thương nặng. Tôi ḅ lại thấy Lạc nằm gần đó mở đôi mắt lờ đờ, đầu quấn băng, máu tuôn xối xă. Tôi nằm xuống ghé sát tai Lạc nói:
– Tao xin lổi, tao bắn đó, chỉ có ḿnh mày lănh trái này, c̣n tụi nó không dám tấn công nửa nên chưa biết thế nào, mày mà chết tao ân hận lắm, phải bắn chận nếu không tụi nó tràn lên.
Lạc chỉ mĩm cười héo hắt, c̣n tôi th́ hết sức buồn bả hỏi tiếp:
-Mày thấy thế nào.
-Đau, không c̣n căm giác ǵ hết. Thấy Lạc tỉnh táo như thế tôi càng lo hơn v́ người bị thương nặng trước khi chết thường rất b́nh tỉnh như thế. Tôi lại nói với Lạc như nói với một người sắp chết:
-Một lần nửa, tao xin lổi mày. Nói xong tôi ḅ lại phía Thiếu Tá Mễ. Nhờ quả đạn đại bác này mà địch không dám đuổi theo. Trời đă gần chiều nên có lệnh trở về căn cứ, Lạc cũng được trực thăng di tăn. Trong lúc hai đệ tử lo ăn uống c̣n tôi xuống suối tắm. Tại đây tôi gặp Trung Tá Bảo cũng vừa đi xuống tắm, thân h́nh ông cao lớn và nụ cười rất dể thương, nhưng tôi thấy lạ một điều là ông mặc áo giáp khi đi tắm, và chỉ có ông là duy nhất mặc áo giáp mà thôi. Điềm ǵ đây, hay là ông đă linh căm được điều ǵ.
Sáng ngày 27/4/1972, trong lúc tôi ăn cơm th́ có một người lính chạy vào nói Thiếu Tá Mễ gọi. Tôi xách máy chạy ra ngoài tuyến giửa Đại đội 112 và 114 th́ thấy Thiếu Tá Mễ và Thiếu Tá Duffy, cố vấn Mỹ đang ngồi sát gốc cây nh́n về phía trước mặt chỉ chỉ. Lính gác phát giác địch xuất hiện phía bên kia triền đồi hướng Tây Nam căn cứ Charlie, bọn chúng đang đi lên đồi như đi chợ. Thiếu Tá Mễ hối tôi :
– Bắn nhanh lên không tụi nó đi hết.
Địch xuất hiện khá xa cở bảy tám trăm mét đường chim bay, tôi quay sang Thiếu Tá Duffy hỏi có đem theo ống ḍm cho tôi mượn, xa quá mắt thường bắn không chính xác, Thiếu Tá Duffy chạy vội về hầm rồi trở lại đưa ống ḍm cho tôi. Tôi giở bản đồ và địa bàn ra nhắm mục tiêu, xong chấm điểm địch xuất hiện rồi mở máy gọi 417 ở Yankee xin bắn, và gọi thêm 415 tăng cường. Quả đạn nổ đầu tiên cách mục tiêu khoảng 200 mét, điều chỉnh một lúc vào đúng mục tiêu, xong vạch một tuyến dài cở 300 mét trên bản đồ xin 417 và 415 chia nhau bắn, vừa gọi bắn tôi vừa nói
-Bảo đảm thế nào tụi nó cũng khiêng đó Thiếu Tá.
Thiếu Tá Mễ lại hối:
– Nếu trúng rồi bắn hiệu quả luôn.
Sau loạt đạn cuối cùng độ 10 phút, quả nhiên địch cứ hai thằng d́u một thằng bị thương đi ngược xuống đồi, tôi đưa ống ḍm tŕnh lại với Mê Linh:
-Trúng rồi, Thiếu Tá nh́n xem tụi nó khiêng xuống đồi ḱa. Thiếu Tá Mễ xem xong đưa máy cho Thiếu Tá Duffy rồi lại hối tôi bắn hiệu quả ( fire for effect). Tôi đề nghị:
-Đề nghị Mê Linh cho tụi nó d́u em xuống đồi, đồi cao như vậy thế nào tụi nó cũng phải tập trung dưới chân đồi băng bó và nghỉ mệt một lát rồi mới di chuyển, đợi tụi nó tập trung đông, ḿnh làm một lần đưa em vào hạ, dứt cội da. Thiếu Tá Mễ ph́ cười nói OK. C̣n Thiếu Tá Duffy không hiểu tiếng Việt cũng nhe răng cười theo nói OK đô.
Tôi gọi xin chuẩn bị bắn T.O.T ( time on taget ) tức là các vị trí pháo binh xa gần bắn trước sau nhưng cùng lúc đạn nổ trên mục tiêu, đợi 20 phút sau khi địch không c̣n khiêng quân xuống đồi nửa, tôi cho lệnh tác xạ. Lúc này th́ họ nhà pháo cũng đă biết tin nên đích thân Bùi Đức Lạc cho bắn tối đa, tiếng đại bác từ các căn cứ thi nhau rót vào mục tiêu, c̣n Mông Cổ nhà ta ( anh em đùa vui Nhảy Dù dũng mănh như quân Mông Cổ) th́ đứng dọc theo chiến hào quan sát như là một chuyện thường t́nh (tiếng đạn pháo nổ tới tấp). Dứt loạt đạn tôi hỏi xem ḿnh có lục soát không, Thiếu Tá Mễ nói để Trinh Sát làm chuyện này. Đến trưa th́ một loạt đạn pháo binh của địch từ dẩy đồi hướng tây đối diện và chỉ cách khoảng hơn một cây số với Đại đội 112 bắn qua, tiếng depart cũng giống như đă bắn hôm qua, vậy là tụi nó đưa 75 ly nhắm qua thằng 312 để trả lể rồi, tiếp loạt đạn này là những trái đạn 105 ly rồi hỏa tiển 122 ly thi nhau rót xuống Charlie mở đầu cho trận chiến khốc liệt nhất tại Quân khu 2 từ trước đến nay, và từ đó Charlie không một phút nào b́nh yên.
Trừ 75 ly không giật bắn thẳng trúng mục tiêu th́ những loạt đạn khác rơi đâu đó ngoài căn cứ Charlie, như vậy là tụi nó không có đề lô, anh em đề lô chúng tôi thay nhau đo hướng và phản pháo, khi chúng tôi phản pháo th́ địch im tiếng súng, dứt loạt pháo là bọn chúng trả lễ. Các cuộc đấu pháo diễn ra như cơm bửa, và là lần lần th́ những loạt pháo binh tầm xa của địch rơi trúng căn cứ, đến ngày 29/4/1972 th́ chúng đă điều chỉnh pháo binh được toàn bộ Charlie mà nặng nhất là vào C2. Chúng tôi biết đề lô của địch đă áp sát được căn cứ và điều chỉnh được mục tiêu. Tôi nói với Trung úy Cho:
– Tôi nghỉ mấy ngày đầu tụi nó pháo thăm ḍ khả năng ḿnh, sau đó mới kéo 130 ly đến gần để bắn chính xác hơn và cũng ngoài tầm phản pháo của ta ( đại bác 130 ly của địch bắn xa 32 cây số, c̣n 155 của ta th́ 15 cây số, và 105 ly của ta th́ chỉ gần 11 cây số mà thôi ), chổ ḿnh dể lên hơn cả, thế nào tụi nó cũng đánh hướng ḿnh.
Sau đó tôi cũng chia xẻ mối âu lo này cho Trung úy Đúng:
– Tụi nó chắc chắn sẻ tapi tôi sau màn pháo kích dữ dội, những yếu tố tác xạ tôi đă điều chỉnh xin 310 gọi bắn phụ nếu tôi bắn không kịp. Trung Úy Đúng nói
– Tôi cũng nghỉ như vậy, chổ của 314 dể lên lắm.
– Tôi thấy khói xịt từ ngọn đồi ngay trước mặt thằng 312 bắn qua, có lẻ 75 ly hoặc 57 của tụi nó trực xạ rớt qua luôn bên tôi sao không thấy thằng 312 gáy ( xin bắn).
-314 quan sát được bắn luôn đi, khỏi nhờ 312. Hết.
Dứt chử “hết” tôi hiểu ngay Chuẩn Úy Sơn đề lô Đại đội 112 bị pháo kích đă tử trận. Tôi vẽ thêm tuyến pháo binh cận pḥng trùm lên thêm hướng Tây Nam để bắn che cho Đại đội 112. Lợi dụng pháo binh tầm xa pháo kích, 75 ly của địch bắn thẳng từng vị trí của ta mà không sợ phản pháo v́ chúng tôi phải chui vào hầm tránh pháo. Dứt loạt pháo tôi chạy vội ra tuyến điều chỉnh pháo binh bắn cấm chỉ ( tức là bắn rời rạc thỉnh thoảng từng quả không cho địch hoạt động) vào vị trí pháo trực xạ của địch, nhưng không hề hấn ǵ, chắc tụi nó khoét hầm trong núi, mổi lần pháo tầm xa pháo kích th́ chúng kéo súng ra bắn theo để khỏi lộ vị trí. Tôi gọi 310 xin mổi lần tôi bị xơi pháo th́ cứ gọi Phở ḅ (pháo binh) nào của ta rảnh th́ bắn cấm chỉ không cho tụi nó kéo pháo ra trực xạ.
Từ ngày này trở về sau, toàn bộ Charlie bị pháo kích thật nặng, mổi ngày cở ngàn quả mà nhiều nhất là 130 ly, rồi đến đại bác 122 ly, và cả hỏa tiển 122 ly mà tôi nghe được tiếng hú. 310 báo lên Thiếu Tá Lạc tụi tôi bị ăn 130 ly, ngoài tầm không phản pháo được, chẳng lẽ phải nằm đây lănh pháo? Lúc này Đại Tá Trần Quốc Lịch, Lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn II Dù ở Căn cứ Vơ Định cũng đă tŕnh lên cấp trên xin cho 11 Dù rút ra ngoài căn cứ, Nhảy Dù mà nằm đưa đầu ra lănh pháo như thế này th́ phản chiến thuật quá, nhưng Trung Tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Đoàn II vẫn lặng thinh, và Cố Vấn John Paul Van chẳng biết mẹ ǵ chiến thuật và pháo binh, vẫn kiên tŕ áp lực…tử thủ, chắc là định dùng 11 Dù nhử cho địch lên tapi như Đại Đội 2 Trinh Sát Dù tử thủ ở Đồi C1 dứt gần hết cả Tiểu đoàn cộng quân nằm phơi xác ở đồi C1, v́ trận này mà cộng sản đă lên án tử h́nh Đại úy Trương Văn Út, Đại đội trưởng Trinh Sát 2 Dù và thề tiêu diệt đại đội này. Quân đoàn II c̣n lệnh cho 11 Dù ra hố pháo t́m chứng tích của đầu nổ130 ly mới cho B52 dập. Quân đoàn cũng chẳng màng gần một phần ba quân số 11 Dù bị loại ra ngoài ṿng chiến v́ đạn pháo và chưa đươc di tản. Cái hào quang chiến thắng của thượng cấp ngoài binh chủng đo bằng máu của Dù thật quá đắt, và quả thật nếu không bị pháo kích từng phút một, chúng tôi có thể ra hố đạn đo hướng bắn và bới t́m đầu nổ, nhưng làm sao gửi ra cho các bộ óc đặc sệt chỉ thị đây. Hằng trăm thương binh, mấy chục binh sỉ tử thương v́ pháo c̣n chưa di tản được nằm đầy các giao thông hào, không có chiếc trực thăng tản thương nào vào được cách C2 500 mét th́ nói ǵ đáp xuống tăi thương hoặc tiếp tế. Chỉ có một pass B52 đánh về hướng Nam gần Charlie th́ nhằm nḥ ǵ, pháo của chúng đặt về hướng Tây và Tây Bắc cách Charlie ít nhất 15 đến 20 cây số th́ không dập. Mổi lần bị pháo kích xong, phi cơ lên vùng, pháo địch im, phi cơ bay ra khỏi vùng, lại bị pháo tiếp, tôi chỉ c̣n biết ước lượng vị trí pháo địch gửi về các pháo đội tùy nghi phản pháo nếu có thể. T́nh h́nh hết sức khẩn trương, nếu không có lệnh rút, chắn chết hết v́ pháo.
Sáng sớm ngày 01/4/72, đúng như chúng tôi dự đoán, sau màn điểm tâm đại pháo các loại, địch bắt đầu tấn công từ hướng Nam Charlie trực diện Đại đội 114. Địch đông như kiến bám theo các thân cây cổ thụ dùng đủ các loại súng bắn thẳng vào vị trí Dù, trong lúc đó, đề lô địch cũng chuyển xạ vào các vị trí pháo binh của ta để cấm chỉ không cho yễm trợ. Lúc này đă lộ rỏ ư định của địch, mấy hôm nay, chúng chỉ pháo kích Charlie chứ không pháo vị trí pháo binh của ta, để ta lầm tưởng chúng chỉ pháo kích Tiểu đoàn 11 chứ không đánh, rồi ta chỉ lo phản pháo mà quên đi bộ binh của chúng đang im lặng tiếp cận ta. Như vậy có thể Charlie bị bao vây rồi. Cũng may việc giương đông kích tây này mà các pháo đội của ta không bị pháo binh địch điều chỉnh chính xác, cho nên c̣n rảnh tay yễm trợ được cho tôi. Trước mặt chúng tôi tôi là đơn vị tinh nhuệ nhất của cộng sản Bắc Việt, Sư đoàn 320 có một Trung đoàn có biệt danh là quả đấm thép đang dàn hàng ngang trước mặt chúng tôi ồ ạt xông lên bất kể phi pháo, Đại đội 114 anh dũng bắn trả, Đại đội 112 cũng tiếp ứng, những người lính Dù thiện chiến nhất của quân lực Việt Nam Cộng Ḥa đứng thẳng từ các chiến hào đan một lưới lửa ra ngoài pḥng tuyến, và tất cả hệ thống tác xạ pháo binh đều chuyển qua hết tần số của tôi, sẳn sàng gom bi.
-415, 416, 417 đây 314 xin tác xạ, địch tấn công, trường ca L1, L2, L3 (các hỏa tập pháo binh làm thành những tuyến cản). Một quả. Bắn khi sẳn sàng. Hết.
Không cần tôi xin tác xạ. Các pháo đội đạn đă lên ṇng khi biết tôi bị tấn công, nên khi nghe được tiếng tôi gọi bắn th́ đă nghe tiếng depart, những tiếng hú rợn người lướt qua đầu, đất tung mù mịt trước mắt.
– Các trường ca. 5 tràng. Bắn hiệu quả. Hết.
Đạn túa túa hú gọi mục tiêu, những cây cổ thụ bật gốc ngoài pḥng tuyến, bụi tung mù mịt, cứ hể dứt loạt đạn pháo của ta th́ địch cũng nhỏm dậy bắn vào, chúng đă đào các hố núp ngoài vị trí nên liều lỉnh bắn che cho tốp khác từ hướng tây nam tiến lên, bất kể đạn pháo, những con thiêu thân dàn hàng xung phong lên đồi. Lúc này th́ phi cơ đă lên vùng sẳn sàng thả bom, Trung úy Cho nói với tôi:
-Nếu tụi nó vượt được hàng rào th́ bắn ngay sát tuyến của ḿnh. Tôi trả lời :
-Trung úy bảo các con đội nón sắt và mang luôn ba lô luôn che phía sau lưng, lở có trái nào lọt vào tuyến th́ phải chịu, nếu chịu tôi mới dám bắn.
Trung úy Cho nói OK, và tôi gọi các vị trí bắn gần lại từng chục mét cho đến khi sát tuyến. Những loạt đạn cận pḥng này rất có hiệu quả và không biết có quả nào lọt vô luôn trong pḥng tuyến hay không v́ đạn pháo của cả hai bên lúc này bắn dử quá. Sau mổi loạt pháo tôi lại nhỏm dậy nh́n ra ngoài, xác địch đầy ngoài tuyến nhưng chúng vẫn bám chắc không chịu rút lui. Tiếng súng lúc này đă rời rạc, có thể chúng chỉ lui lại để làm một cái ǵ đó. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 11 bảo ngưng tác xạ để tụi Tây (tức phi cơ Mỹ) nó làm việc, những chiếc phóng pháo cơ vào vùng nảy giờ gầm thét ngang trời thả những loạt bom ngoài ṿng rào, chỉ cách vị trí cở 50 mét, những núi lữa bốc lên cao sau mổi tiếng nổ. Lần đầu tiên trong đời lính, tôi thấy Nhảy Dù chịu chơi dám thả bom gần như vậy và bắn pháo binh cách ḿnh hai ba chục mét ( hiệu quả sát hại của pháo binh 105 ly là từ 50 đến 100m, bắn cách ḿnh cở hai ba chục mét là rất liều lĩnh và hết sức nguy hiểm). Con cháu bác và đảng cũng không ngờ những người lính Dù chịu đựng dưới mưa pháo khủng khiếp nhiều ngày, pḥng tuyến bể hết mà vẫn gan dạ tử thủ như thế.
Bên tai tôi có tiếng gọi của Thiếu Tá Lạc, ông bảo tôi có cần ǵ th́ tất cả đều sẳn sàng, và tôi trả lời nếu gà ḿnh c̣n gáy ( tức pháo binh c̣n bắn ), th́ không có tên răng đen mă tấu nào nào có thể bước qua 114 được. Sở dỉ tôi dám khẳng định như vậy là nhờ tinh thần chiến đấu dũng mảnh của anh em 114 Dù cho tôi sự an toàn trong lúc gọi pháo, nếu không th́ bể tuyến lâu rồi. C̣n Trung úy Đúng th́ rất tế nhị không xen vào hệ thống tác xạ, để dành hết thời gian cho tôi gọi các pháo đội bắn, 310 cũng dặn tôi cẩn thận, tụi nó tạm yên là có vấn đề mới, nhớ canh chừng thêm phía thằng 112. Vừa lúc đó th́ hàng loạt tiếng depart từ trong núi vọng về, thôi rồi, lần nầy chúng tập trung tất cả các loại pháo chứ không riêng ǵ 130 ly rót tới tấp vào vị trí ta, ít nhất cũng 5 vị trí pháo của chúng bắn đồng thời vào C2, đây là một kiểu bắn T.O.T giống như của ta, C2 rung lên dưới những cơn địa chấn, tôi chạy vội vào hầm, tất cả các vị trí tác chiến và pháo binh của ta đều bị pháo, tiếng các pháo đội gọi báo cáo ồn hẳn lên trên hệ thống rồi im lặng vô tuyến, có vị trí trúng pháo nhưng không trúng hầm đạn nên không có tiếng nổ phụ. Tụi nó mà điều chỉnh được các vị trí pháo của ḿnh th́ bỏ bú, vừa lo sợ tôi cũng vừa t́m những ngôn từ dễ thương như thế để trấn áp nổi hồi hộp, sau loạt pháo này là chúng mày sẻ tràn biển người lên lấy thịt đè người, Nhảy Dù cố gắng, Nhảy Dù cố gắng, tôi lẩm bẩm bốn chử đơn giản này, binh chủng chúng tôi không có những khẩu hiệu đao to búa lớn, rất đơn giản như một sự cố gắng, anh em chúng tôi hết thế hệ này đến thế hệ khác cố gắng làm cho máu đồng bào bớt đổ bằng chính máu của chúng tôi. Trong tiếng pháo nổ vang trời, tôi nhấc máy gọi 310:
-310 có nghi tụi đề lô nó áp sát ḿnh không, nghi tụi nó ở đâu th́ con gà nào của ḿnh “quởn” cho gáy đại vài tiếng dằn mặt tụi nó cho biết thế nào là lễ độ, chứ chơi như vậy hiếp quá. Nhưng 310 vẫn im lặng. Một sự im lặng rợn người v́ tất cả im lặng chờ đợi.
Dứt loạt pháo bắn T.O.T này, quả nhiên địch hô xung phong, nhưng tiếng hô xung phong càng lúc càng yếu, chúng tôi đă quen thuộc kiểu này, chúng mày chém vè ai mà không biết, chắc chắn chúng mày bị thiệt hại rất nặng nếu không th́ đă là nhào lên tiếp để…lănh đạn rồi. Những tiếng pháo thưa dần tại C2 nhưng các vị trí pháo của ta vẫn c̣n bị cấm chỉ, tôi nh́n ta phía Yankee, những cột khói bốc lên, rồi căn cứ 5 và căn cứ 6 cũng thế, tụi nó đang điều chỉnh pháo binh. Thấy mẹ rồi.
Chiều đang xuống dần, những người lính cũng vội vă sửa lại hầm hố, đào giao thông hào cho sâu thêm, người chết và thương binh tăng thêm làm nặng thêm mối âu lo của Tiểu đoàn, tôi chạy vội ra phía hai đệ tử đang ngồi chong mắt nh́n ra ngoài tuyến, trên tay hai đứa có hai cây M16 và dây đạn từ lúc nào ( hai đệ tử pháo binh mang máy cho ông thầy thường không đem theo súng).
– Khỏi cần nấu cơm, tao ăn cơm sấy được rồi, có ǵ nhớ kiếm tao. Hai đệ tử nh́n tôi, lo lắng, tôi hất mặt về hướng đông căn cứ không nói, nhưng chúng cũng hiểu tôi nói ǵ.
Một đơn vị tổng trừ bị cơ động vào bậc nhất của quân đội bị chôn chân làm vật tế thần, đóng quân ở Charlie ngày ngày ăn pháo không khác nào con dê bị trói vào cột đợi ngày hiến tế, Việt cộng quá nóng ḷng đánh gấp để lấy tiếng trên bàn Hội nghị Paris là đă tiêu diệt được một đơn vị Nhảy dù, chứ nếu chúng khôn ngoan một chút th́ chỉ cần pháo thôi là cũng đủ tiêu tùng hết. Tiểu đoàn xin rút, Lử đoàn xin rút, Quân đoàn cũng không cho, có một âm mưu ǵ muốn chúng tôi thân bại danh liệt tại ngọn đồi vô danh này, họ muốn biến những người lính 11 Dù thành những chiến sỉ “L’enfer Des Hommes” tức là những người ra đi không về trên ngọn đồi quyết tử trong bộ phim vừa chiếu ở Saigon hay sao, nếu là những đơn vị khác th́ đă rút đi lâu rồi. Thật oan nghiệt cho những người lính mang danh những đứa con của Thần Chiến Thắng Micae ( Tổng Lănh Thiên Thần Micae là Thánh bổn mạng của binh chủng Dù Việt Nam Cộng Ḥa).
Những ngày hôm sau địch tiếp tục pháo căn cứ, và sau loạt pháo là mon men đánh thăm ḍ tiếp Đại đội 114. Liên tiếp trên một tuần, 114 bị tấn công nhưng mức độ chỉ vừa phải, và không lần nào địch vào được sát tuyến, sau mổi lần tấn công thất bại, đêm về là chúng ḅ lên lấy xác, và Đại đội 114 cũng không buồn ḅ ra ngoài thu chiến lợi phẩm. Sau mổi đợt pháo kích, căn cứ càng xơ xác không c̣n nh́n ra h́nh dáng nửa, từng tấc đất bị xới lên, mùi thuốc súng nồng nặc khắp nơi, cây cối bị khói ám đen thui và bị mănh đạn pháo chém ngang dọc ngả nghiêng, hầm hố tanh banh, tôi có căm tưởng một con kiến cũng không sống được, những cuộn băng vết thương văng tung tóe dính trắng xóa trên các ngọn cây, địch đă điều chỉnh được toàn bộ căn cứ C2, pháo vô là trúng phóc. Những hàng dây kẽm gai cao ngang ống chân ngoài tuyến Đại đội 114 giờ biến đâu mất dưới cả hai làn pháo của ta và địch, có thể nói là nằm lăn xuống đồi cũng không c̣n vướng một cộng kẽm nào. Những ngày đầu chúng chỉ bắn bằng đạn nổ, những ngày sau th́ xen vào đạn delay tức là đạn chui vào ḷng đất hơn một mét rồi mới nổ, không có hầm hố nào chịu nổi cả, thế mà ngoài pḥng tuyến anh em Dù vẫn sống, vẫn thở, những người chết và bị thương th́ vẫn nằm chung với anh em dưới chiến hào, mùi thuốc súng và đạn pháo đánh át đi mùi tử khí, nội hơn một trăm anh em bị thương không được di tản cũng là gánh nặng tâm lư đè lên tinh thần chiến đấu của người lính. Nhưng đây là Nhảy Dù, một dân chơi thứ thiệt, dám cân hồ tất cả giới giang hồ khét tiếng sinh Bắc tử Nam th́ c̣n coi cái chết vào đâu…Là dân pháo binh nhưng tôi cũng ngán kỷ luật chiến đấu của Nhảy Dù, về Saigon chịu chơi tới đâu th́ chịu, chứ ra trận th́ có lệnh là phải tiến, không có lệnh lui th́…mẹ kiếp, trận này nằm đây chịu chết để vinh quang cho những tên không biết mẹ ǵ là chiến thuật đă trói tay chúng tôi, tận diệt.
Ngày 6/4/1972, địch tấn công căn cứ Delta của Tiểu đoàn 2 Dù ở phía Nam nhưng bị đánh bật ra để lại hằng trăm xác, không chừng Tiểu đoàn 11 Dù cũng được lệnh phải đợi địch đánh để làm giống như vậy chăng, tụi nó đánh Đại đội 114 cả tuần rồi mà, chết quá trời mà đâu có lên được. Địch lại pháo kích, nằm dưới hầm nghe đạn pháo, có những trái đạn delay rơi sát hầm, nổ tung dưới ḷng đất kêu ục ục, đất chuồi xuống, cái chết đang từ từ đến với tôi với tất cả nổi phẩn nộ, đúng là sinh nghề tử nghiệp, pháo nó th́ chết v́ nó pháo là công bằng sao, tôi đang bị trói tay mà. Sau dứt mổi loạt pháo, tôi chạy vội ra tuyến quan sát, những người lính vừa tu bổ cộng sự chiến đấu vừa đưa mắt nh́n tôi ḍ hỏi, như khẩn khoản tôi nói một lời ǵ, tôi biết họ muốn hỏi ǵ nên cũng chỉ biết hất mặt về hướng đông, đường ra quốc lộ 14, nếu bị địch tràn ngập. Ngay lúc đó th́ có một người lính dơ tay ngoắc tôi, xong chỉ về ngọn đồi xéo về hướng đông nam, tôi cúi ḿnh chạy đến, cách đó khoảng 500 mét đường chim bay, bóng một tên lính Bắc Việt in trên nền trời với tất cả thách thức, như vậy là cả ba hướng Đông, Tây, và Nam đều bị địch bao vây, vậy c̣n hướng Bắc, gần nhất với ngọn đồi Charlie của Đại đội 111, chưa biết thế nào, không đánh được thằng 114, tụi nó dám chơi thằng 111 sao, chỉ có phía Tây mới có thể đánh lên 111 mà lại là là dốc đứng nửa…Tôi gọi Hạnh chạy vào hầm báo cho Trung Úy Cho biết và xách máy PRC 25 gọi 415 bắn, điều chỉnh trúng mục tiêu rồi cũng chả ăn nhằm ǵ, dứt loạt đạn lại thấy nó đứng lên chống nạnh, như vậy là tụi nó đă khoét núi nằm sâu trong đó rồi, đâu có móc ra được. Không chừng thằng này là đề lô, tôi chỉ c̣n biết xin 415 bắn cấm chỉ khi có thể.
Những ngày kế tiếp, lương thực cạn dần, có dấu hiệu địch sẻ đánh Charlie v́ Đại đội 111 nằm riêng rẻ, c̣n thằng 113 th́ nằm kế bên pháo binh khó đánh, và chúng tôi cũng không c̣n xuống dưới chân 111 lấy nước được. Hai Trung đoàn địch quân số gấp 8 lần, luân xa chiến, tiền pháo hậu xung gần nửa tháng cũng không chơi được Đại đội 114, nên thế nào tụi nó cũng t́m hướng khác và mục tiêu th́ chỉ có Charlie của 111. Ngày 9/4/1972, địch pháo dử dội Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 11 và mưa pháo xuống Charlie xong bắt đầu tấn công 111. Đại đội 111 chống trả quyết liệt, xác địch đầy sườn đồi. Khu trục rồi trực thăng vơ trang vào vùng trút xuống hằng tấn bom đạn quanh căn cứ. Sau nhiều đợt xung phong không thành, địch lại rút lui để lại hằng trăm xác chết.
Lúc này th́ địch đă công khai di chuyển quân xa ban ngày, tiếng xích sắt xe tăng, tiếng xe Molotova có thể nghe thấy sau những loạt pháo. Bằng mọi giá chúng phải nhổ cái gai Charlie dầu có hy sinh cả hai Trung đoàn này th́ c̣n những Trung đoàn khác sẳn sàng vào trận để lấy tiếng trên bàn hội nghị. Không chơi được Song Kiếm Trấn Ải th́ c̣n ǵ là danh hiệu hai Sư đoàn của chúng đây. Vừa đánh chúng vừa điều quân, phía đông tức là đường rút của11 Dù, tôi đă quan sát được vị trí bọn chúng đă đặt hai cây pḥng không, một cây 12 ly 7 và một cây 37 ly. Hướng đông địch đă công khai để lộ vị trí để bắn máy bay và uy hiếp tinh thần 110. Máy bay yễm trợ cho Charlie th́ phải bay từ hướng Bắc hoặc hướng Nam rồi đánh một ṿng về hướng Tây để thả bom, xong phải chúc mủi về hướng Đông ra thẳng quốc lộ 14, địch đă đặt hai cây pḥng không tại đây chặn đầu khiến cho máy bay không dám xuống thấp, thỉnh thoảng chúng c̣n nhắm xuống Charlie trực xạ. Mổi lần máy bay vào vùng là tiếng pḥng không từ các hướng nổ đầy trời, và ít nhất cũng cả chục cây pḥng không giờ đây đă dàn trận. Pháo binh của ta th́ gần như bị tê liệt v́ bị pháo cấm chỉ của địch, cả Tiểu đoàn 11 cũng thấy được nhiều chiếc Chinook từ Phi trường Phượng Hoàng tải đạn pháo binh vừa đến Yankee th́ bị pháo và pḥng không từ hướng đông bắn qua phải trở lui, ngưng tiếng pháo th́ lại bay vào rồi lại bị bắn không đáp xuống được, cứ như vậy cả ngày. Tôi đă gọi các vị trí pháo bắn hai cây pḥng không này hoài mà cũng chẳng ăn thua ǵ. Cả nửa tháng nay chúng đă đào hầm trong núi đợi giờ quyết tử dứt điểm 11 Dù, dầu có bắn trúng cây này th́ chúng cũng sẻ điều cây khác đến. Mấy chiếc khu trục đă trúng đạn pḥng không, c̣n trực thăng vơ trang của ta hay Cobra của Mỹ là miếng mồi dể lănh đạn pḥng không nhất nên khó có thể vào vùng.
Đến giờ phút này th́ đả rỏ thế nào bọn chúng cũng dứt điểm Charlie, sáng ngày hôm sau, Đại đội 111 bị pháo thật nặng nề, dứt dợt pháo, bộ binh địch tràn lên, pháo binh của ta cũng bị cấm chỉ không yễm trợ được, định mệnh đă dành sẳn cho 111, bị tràn ngập nhưng thiệt hại vừa phải, 111 phải rút về nhập chung Bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Độ nửa tiếng sau, Trung Úy Thinh Đại đội trưởng 111 chạy vào hầm chúng tôi, Trung úy Cho hỏi, Thinh kể lại :
-Việt cộng tràn lên là lo kiếm mấy cái ba lô của ta, chúng chụp được ba lô của tôi, tôi buông ba lô chạy, tụi nó không đuổi theo, có lẻ tụi nó đói lắm nên lên được là lo kiếm ăn, chúng lục ba lô của ta, khui đồ hộp ra ăn tại cho (thường là khi rút lui, ta mang theo ba lô trên lưng đề pḥng bị bắn phía sau). Ngay lúc đó th́ Trung Úy Khánh cũng chạy vào hầm, tôi hỏi th́ Khánh cũng nói bị y như t́nh trạng của Thinh. Tôi hỏi tiếp vậy súng của mày đâu. Khánh kéo cái địa bàn M1 đeo nơi cổ ra nói tao chỉ c̣n có cái này. Tôi ôm bụng cười ngặt nghẻo làm mọi người cũng cười theo. Nửa tháng nay, tôi không thể nở nổi một nụ cười, giờ này ôm bụng cười ra nước mắt về cái chuyện tiếu lâm có thực này thật thoải mái. Việt cộng ngoài việc bị bỏ đói phải liều lĩnh hy sinh tính mạng kiếm từng lon đồ hộp của ta, chúng c̣n bị ép uống thuốc “Hùng Tâm” tức là một loại thuốc kích thích uống vào là hăng máu lên xung phong chẳng coi việc sống chết ra sao cả, chiến thuật biển người của chúng thường kèm với liệu pháp hùng tâm này. Cứ xem ảnh xác Việt cộng bị xích trên xe tank th́ mới biết cấp chỉ huy của chúng dă man như thế nào.Sáng ngày 11/4/1972, Đại đội 112 được điều xuống chiếm lại Charlie đem theo cả Đại bác 90 ly trang bị riêng cho Nhảy Dù để bắn xe tank hoặc phá hầm, máy bay Mỹ lại vào vùng thả bom, bay thấp th́ sợ pḥng không, nhưng bay cao quá khó trúng mục tiêu, nên những phi đội sau, Tiểu đoàn 11 xin thả bom napalm, c̣n pháo binh vị trí nào của ta không bị cấm chỉ th́ pháo xuống phụ họa sau khi các phi tuần bay ra, hết đợt này đến đợt khác, từng phi tuần của không quân Việt Nam vào vùng trải những thảm lửa xuống Charlie, thả bom napalm phải bay thật thấp nên rất chính xác, từng trái bom rơi trúng mục tiêu, nhưng Việt cộng quyết cắt đôi 11 Dù nên cố thủ trong các hầm hố của ta bỏ lại. Bất kể pḥng không, một chiếc phi cơ nóng ḷng bay thật thấp xuống mục tiêu, thả một quả bom napalm, lúc ngóc đầu bay lên th́ cánh bên phải vướng vào ngọn cây trên ngọn đồi phía đông kế bên chổ hai cây pḥng không, bị gảy cánh rồi rớt xuống đồi nổ tung, viên đại úy phi công Việt Nam đă oanh liệt hy sinh. Chiếc c̣n lại bay ṿng ṿng t́m đồng đội, sau khi xác định được vị trí , bèn quay trở lại Charlie, giận dử trút xuống những trái bom lửa c̣n lại . Lửa thiêu cháy Charlie, thiêu luôn cả những con thiêu thân đợi ngày giải thoát.
Ngày 12/4/72, để trả thù cho đồng bọn bị lửa bom đốt sạch tại Charlie, địch tăng cường pháo kích thật mạnh lên đồi C2, từng tấc đất bị cầy lên như địa ngục có thật, tôi ngồi trong hầm lại nghe cái chết đến từ từ, ước lượng có đến cở gần 10,000 quả đạn đại bác các loại rơi xuống C2 kể từ ngày tử chiến, ngoài hầm bê tông cốt sắt ra chứ hầm hố như thế này th́ làm sao chịu nổi, bất cứ đơn vị nào mà trấn thủ nơi đây chắc là phải tự động rút từ lâu rồi, tôi không dám nghỉ đến một điều xấu nhất dành cho ḿnh, không biết nhà tôi và đứa con đầu ḷng đang mang trong người giờ này ra sao, mổi lần tôi đi trận, nhà tôi đều dặn cầu nguyện Đức Mẹ che chở, giờ tôi đang làm điều này…Chợt thấy Trung úy Cho nhổm dậy cầm lấy máy nghe rồi lo lắng, tôi cũng qua tần số Trung úy Đúng hỏi, Trung Tá Bảo, Tiểu Đoàn Trưởng Song Kiếm Trấn Ải đă gẩy cánh thiên thần sau loạt pháo kích vừa rồi, một quả 130 ly trúng hầm, Trung tá Bảo hy sinh c̣n Thiếu Tá Duffy và Thiếu Tá Mễ ở hầm khác chỉ bị thương nhẹ. Thiếu Tá Mễ lên thay. Suốt ngày hôm đó, địch tiếp tục pháo kích C2 và bắn cấm chỉ các vị trí pháo binh của ta. Một bịch gạo xấy cả tuần nay tôi nuốt không hết, miệng thật đắng c̣n nước uống th́ đo bằng từng nắp bi đông, riêng việc vệ sinh th́ giải quyết ngay ngoài miệng hầm. Pháo dử quá nên tôi cũng giới hạn bớt chạy ta ngoài tuyến quan sát. Trên tấm bản đồ, tôi ghi chi chít những vị trí nghi ngờ pháo của địch báo cho Trung úy Đúng và Trung úy Đúng cũng chẳng làm được ǵ khác hơn, gần tối địch ngưng pháo kích, tôi thiếp đi lúc nào không biết cho đến khi Hạnh chạy vào lay chân tôi dậy hỏi cần ǵ không, tôi lắc đầu.
Sáng ngày 13/4/1972, Đại đội 113 được lệnh đi lên phía Bắc t́m bải đáp, c̣n Đại đội 111 lên ngọn đồi phía Đông xem có chổ nào tải thương được không. Khi Khánh chui vào hầm tôi, tôi thấy mặt có vẽ nghiêm trọng, không c̣n cái giọng Nha Trang đơ đớ Quăng Ngăi nửa, không thấy có vẽ đùa cợt hàng ngày như lúc c̣n ở hậu cứ, tôi bảo Khánh chạy theo tôi ra ngoài tuyến và chỉ về ngọn đồi mục tiêu trước mặt, theo hướng tôi chỉ, bóng tên Việt cộng đứng gác vẫn c̣n đó, tôi lại chỉ Khánh chổ vị trí hai cây pḥng không cách đó không xa và nói:
– Tụi nó đầy ở trên đó, tao bắn hoài cũng chả ăn thua ǵ, mày hết sức cẩn thận, nếu muốn bắn mở đường tao bắn cho, khi lên coi chừng pḥng không tụi nó trực xạ. Khánh trở lại 111 bàn với Trung Úy Thinh và cũng không thấy xin bắn mở đường, chắc là muốn giử im lặng.
Độ nửa tiếng sau, súng nổ vang dội từ triền đồi bên kia, 111 lên được gần đến đỉnh đồi th́ địch khai hỏa, bằng luôn cả pḥng không trực xạ. Không thấy Khánh xin tác xạ, tôi muốn bắn phụ lắm, nhưng giờ này không biết nó ở chổ nào. Súng vẫn nổ, một chốc tôi nghe tiếng Khánh trong máy, Trung Úy Thinh, Đại đội trưởng 111 đă tử trận, Khánh lên thay. Rồi một chốc lại nghe tin Trung sĩ Lung gọi máy, tôi biết Khánh cũng đă nằm xuống…cánh dù lộng gió muôn phương – vào ḷng đất mẹ, máu xương ngậm ngùi. Đại đội 111 thêm lần nửa tan hàng. Một số c̣n lại rút về được căn cứ. Cả ngày đó địch vẫn tiếp tục giử mức độ pháo kích khủng khiếp, lương thực và đạn dược lại cạn dần, lại thêm người chết và bị thương. Đêm dần xuống, tôi nằm trong hầm buồn lắm, Trung Tá Bảo ra đi hôm qua, Chuẩn Úy Sơn đề lô ra đi trong loạt pháo đầu tiên, Khánh vừa đi sáng nay, Lạc bị thương nặng chưa biết ra sao, c̣n những người khác th́ nằm đầy ngoài chiến hào, bao giờ th́ rút đây, không phải tôi bi quan, mà tức v́ cái lệnh tử thủ quái ác từ đâu đâu, chết như vậy thật uổng mạng.
Ngày 14/4/1972, Tiểu đoàn 11 Dù tự quyết định rút lui vào ban đêm, nhưng vào buổi trưa sau những đợt pháo kích dử dội, địch xung phong lên từ phía Đại đội 114 đồng thời pháo luôn các vị trí pháo của ta, tôi gọi măi mà không con gà nào chịu gáy, ngoài tuyến, không c̣n sợ pháo binh ta bắn cản, địch nhào lên đông như kiến cỏ, Đại đội 114 chống cự không lại phải rút về dàn hàng ngang với Bộ chỉ huy Tiểu đoàn, máy bay cũng đă lên vùng bỏ bom ngay trên tuyến 114, hai bên giành nhau từng hầm hố, từng giao thông hào. Pháo binh ta coi như bị tê liệt, tôi đứng dưới giao thông hào sát với Thiếu Tá Mễ, và Thiếu Tá Đoàn Phương Hải Trưởng ban 3 giờ kiêm Tiểu đoàn phó, Trung Úy Đúng đứng kế bên, cạnh đấy là Bác sĩ Tô Phạm Liệu, một Bác sĩ Nhảy Dù mê đánh trận c̣n hơn cầm ống chích, lưng đeo khẩu Colt 45, tay cầm súng M 16 giơ lên, miệng hét binh sĩ ráng giử vững vị trí, tôi nghỉ thầm trong bụng nói cha nội này đi quân y uổng quá, phải cầm quân đánh nhau mới đúng. Thỉnh thoảng tôi lại gọi máy, khản cổ họng nhưng pháo binh của ta im lặng vô tuyến v́ vẫn c̣n bị pháo kích. Lúc này mặc dù chiếm được gần một nửa C2 nhưng địch vẫn chưa dám nhào tới cận chiến nên pḥng tuyến thứ hai của ta vẫn giử được. Chổ tôi đứng, xác một binh sĩ Dù nằm trên chiến hào ngay trước mặt, chết đă nhiều ngày, xác trương lên nhưng không thấy mùi hôi v́ đầy thuốc súng, c̣n trên ḿnh mang thêm nhiều mănh đạn pháo sau đó, có lẽ chết hai ba lần. Bổng Hạ sỉ Hạnh chạy tới chổ tôi nói:
– Em kiếm Trung úy nảy giờ, Thằng Nhỏ bị thương muốn gặp Trung Úy.
Tôi cúi đầu xuống chạy dọc ra ngoài tuyến, gặp Nhỏ đang nằm dưới giao thông hào, bụng bị mảnh pháo phá nát, ruột đổ ra ngoài dính đầy bụi đất. Tôi cúi xuống, Nhỏ th́ thào bên tai:
– Em khát nước quá, Trung úy đái cho em uống.
Giửa tiếng đạn bay, tôi muốn khóc mà không rơi được giọt lệ, đệ tử tôi đến giờ phút hấp hối c̣n nghỉ đến ông thầy. Tôi nghẹn ngào nói với Nhỏ:
– Em c̣n điều ǵ muốn nói th́ nói cho Hạnh biết, anh c̣n phải coi xem c̣n bắn được hay không.
Nói xong tôi đưa bi đông nước c̣n lại một chút cho Hạnh để cho Nhỏ uống rồi gạt nước mắt định chạy về chổ Thiếu Tá Mễ. Ngay lúc đó có nhiều tiếng đạn AK bắn xéo trên đầu tôi, khói súng mù mịt không thấy rỏ phía triền đồi, tôi rút quả lựu đạn M26 ném xuống dưới chân đồi. Đây là quả lựu đạn đầu tiên trong đời lính tôi sử dụng để ngăn địch. Không cần quan sát hiệu quả lưu đạn vừa rồi, tôi chạy lại phía Thiếu Tá Mễ. Giờ phút này địch đă lên được hơn nửa đồi C2 và từ hướng Nam cùng với hướng Tây đánh lên, cả Tiểu đoàn 11 chuẩn bị một màn cận chiến, bổng một viên đạn AK bắn trúng b́nh khói cay E8 của ta đặt trước mặt Thiếu Tá Mễ cở chục mét. Tôi thấy rỏ gió thổi ngược khiến cho khói cay màu vàng bay ngược về hướng Tiểu đoàn, những người lính la lên địch pháo khói cay rồi rút về phía Tiểu đoàn, và Tiểu đoàn 11 chính thức rời bỏ Charlie vào lúc này, nếu không bị b́nh khói cay th́ không biết thế nào, đây có lẽ trời khiến cho 11 Dù không bị tràn ngập trên đồi C2.Cũng may địch sợ ta dùng chiến thuật “đồng ư quy tận” tức là gọi pháo binh bắn ngay trên đầu cùng chết với địch nên không dám duổi theo, nhờ vậy chúng tôi xuống đến chân đồi không có phát súng nào bắn theo. Trời hơi tối, địch cũng không dám pháo kích nửa sợ lộ vị trí, vă lại chúng đă lên đầy trên C2 và giờ đây có lẽ đang lục hầm kiếm thức ăn, nên pháo binh của ta hoạt động lại được bắn chận không cho địch truy kích. Rút theo hướng đông nam độ vài trăm mét th́ nghe nhiều tiếng rít xé trời, bom B52 rơi xuống Charlie cày nát thành b́nh địa. Đại đội 113 ở hướng Bắc hầu như c̣n nguyên vẹn từ ngày đầu đến giờ không bị đánh cũng như không thiệt hại v́ pháo kích, nên được lệnh đi ngược xuống Yankee t́m đường ra PZ (tức bải bốc, tiếng Anh là Picking Zone), trên bản đồ cách Charlie khoảng gần 4 cây số. Trời tối, đồi cao, rất khó đi, máy bay lên vùng thả hỏa châu soi sáng, những dây đạn M 79 từ phi cơ OV10 rót đều phía sau chận hậu, nổ tụp tụp bum bum nghe như một điệp khúc buồn nản của chiến tranh. Binh sĩ c̣n khỏe d́u những người bị thương nhẹ, thật không thể tưởng tượng được có người bị thương ở chân phải đi bằng cả hai tay ở những đoạn dốc khó đi không thể d́u được, bản năng sinh tồn của con người nhất là của người lính chiến th́ không có ǵ có thể diễn tả ra hết được. Cạn hết lương thực, đạn dược, thuốc men, và dưới những cơn mưa pháo khủng khiếp nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, hơn một trăm con người c̣n lại này chia đều mổi người đă lănh cở gần 100 trái đại bác, thử hỏi c̣n có ai chịu đựng được như thế không. Tôi chợt nhớ đă đọc đâu đó một câu nói của danh tướng My,ơ Mac Authur ” Tôi thương những người lính bộ binh hằng ngày 24 giờ phải đối diện cái chết trên chiến trường, lại c̣n phải gánh chịu những bất công của thượng cấp”. Nghỉ lại hoàn cảnh của 11 Dù c̣n tệ hại hơn thế nửa, bị trói tay để đánh.
Đến gần sáng th́ ra đến bải bốc giống như một cái thung lũng cạnh một con suối, đây là một khoảng trống đầy lau sậy, Tiểu đoàn 11 kiểm tra lại quân số và chia khu vực pḥng thủ đợi trực thăng bốc về Vơ Định. Tôi và đệ tử Hạnh được cắt lên slick trực thăng sau cùng của Đại đội 114. Thông thường khi đi hành quân trực thăng vận, đề lô phải nhảy theo toán đầu tiên và khi rút th́ đi sau hết, để có thể gọi pháo binh bắn bất cứ lúc nào.
Ngày 15/4/1972, trời sáng dần, khi ánh nắng mặt trời đầu tiên trong ngày vừa sáng hẳn lên từ phương đông th́ có tiếng trực thăng bay đến, dẫn đầu là hai chiếc Cobra và phía sau là một đoàn Trực thăng UH1B của Mỹ, hai chiếc Cobra có trang bị rocket bay một ṿng quanh bải bốc quan sát, một trái khói màu vàng được thả ra đánh dấu chổ trực thăng đáp xuống, chiếc UH1B thứ nhất vừa xà xà xuống mặt đất th́ có tiếng đạn cối rơi xuống nổ ngay chóc bải đáp rồi hằng chục tiếng pháo cối 82 ly tiếp tục rơi xuống, những chiếc trực thăng vội vàng bay thẳng lên không bốc được toán nào. Dứt loạt cối, Việt cộng từ hai bên triền đồi xuất hiện như mọi da đỏ dàn hàng ngang xung phong y hệt trong phim cao bồi viễn tây, v́ đồi lau sậy thưa thớt nên rất dể thấy chúng không thổi kèn xung phong mà vừa chạy, vừa bắn, vừa hô “hàng sống chống chết” vang trời. Tiểu đoàn 11 Dù đang bị nguyên một Trung đoàn Việt cộng phục kích, Trung đoàn này được lệnh đi đánh phi trường Phượng Hoàng đêm trước, khi Tiểu đoàn 11 Dù rút lui khỏi Charlie, chỉ huy của chúng đoán được ta sẻ bốc quân tại đây nên cho lệnh Trung đoàn này lui trở lại để phục kích định hốt gọn 11 Dù, bọn chúng tưởng khi pháo ở giửa tất nhiên ta sẻ bung chạy tản ra chung quanh, bọn chúng đă phục kích sẳn sẻ hốt gọn, nhưng không ngờ khi chúng tràn xuống, th́ Nhảy dù cũng bung ra chống lại mănh liệt. Trận chiến lúc này như một cái nia đựng đậu đen và đậu trắng sàng qua sàng lại lẫn lộn như đang đánh xáp lá cà, chổ nào cũng có tiếng AK47 và M16 nổ lẫn lộn c̣n hơn pháo Tết, coi như cả Tiểu đoàn 11 trừ cùng bắn nhau một lúc với một Trung đoàn Việt cộng, hai bên chạy qua chạy lại thấy đâu bắn đó như xinê, làm Cobra bay trên đầu cũng không biết bắn vào đâu, một chiếc trực thăng liều chết đáp xuống đất, tôi thấy một số người chạy tới leo lên, những chiếc sau vừa xà xuống th́ Việt Cộng cũng rượt gần đến nơi, xạ thủ đại liên Nguyễn Tấn Vinh (hiện ở Houston) dừng lại ôm Đại liên 60 ria hết luôn một dây đạn c̣n lại, Việt cộng ngả rạp xuống đồi rụng như sung, viên đạn đại liên cuối cùng vừa ra khỏi ṇng là mấy cây AK đă chỉa vô đầu Vinh, có lẽ v́ căm phục tinh thần anh dũng của người lính Nhảy Dù này mà chúng không giết để trả thù cho đồng bọn, chỉ bắt sống. Nhờ ḷng quả căm của người xạ thủ đại liên này mà một slick duy nhất 4 chiếc trực thăng đă bốc được Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn 11, Sĩ quan liên lạc pháo binh, và cố vấn Duffy, nhưng Thiếu Tá Đoàn Phương Hải Trưởng ban 3 (hiện ở San Jose) th́ bị một viên đạn AK bắn xuyên bàn chân từ dưới đất lên, rớt xuống máy bay, may nhờ Thiếu Tá Duffy gan dạ quay trực thăng trở lại kéo lên.
Đạn hai bên vẫn nổ tới tấp, thêm một cặp Cobra và một slick trực thăng khác vào vùng bay ṿng ṿng trên trời. Việt cộng chỉ bất ngờ đi phục kích nên không đem theo pḥng không cho nên trực thăng của Mỷ mới hoạt động được nhưng chỉ bốc chứ không dám bắn v́ sợ trúng quân bạn. Chiến trường lần lần bớt đi tiếng súng, nhưng tiếng kêu hàng vẫn c̣n nghe văng vẳng, tiếng trực thăng vẫn c̣n nghe vần vũ trên đầu. Lúc này tôi đang sát dưới bờ suối với ba bốn người lính nh́n lên khá rỏ nên bảo họ chạy theo tôi ra băi may ra trực thăng thấy được rỏ đồ rằn ri so với đồ vàng bụi đất của Việt cộng mà bốc chúng tôi lên. Những người lính nghe theo tôi chạy lên triền đồi, đang chạy, tôi thấy một chiếc Cobra bay phía bên trái ngược hướng tôi chạy lên, chừng quay lại phía sau thấy nó ṿng lại nghiêng cánh, kinh nghiệm chiến trường đă cứu tôi thoát chết, Cobra mà nghiêng cánh về phía nào là nó bắn rocket về phía ấy, chắc là trực thăng nó thấy Việt cộng rượt theo chúng tôi nên bắn, tôi chỉ kịp hô:
– Dạt ra một bên, trực thắng bắn.
Tôi vừa nhào đại qua một bên th́ một tiếng rocket nổ như trời giáng cách tôi cở vài mét không c̣n nhớ rỏ phía bên nào, tôi thấy ḿnh văng lên rồi rớt lăn trở xuống triền đồi, cây súng colt 45 cầm trtên tay văng đâu mất, cái địa bàn đeo trên cổ và tấm bản đồ nhờ bỏ trong áo nên c̣n lại, may mắn tôi chỉ bị chấn động nhẹ, nhưng không hiểu những người kia có sao không. Tôi đứng dậy chạy ngược xuống bờ suối th́ gặp một tốp Dù, trong đó có Chuẩn úy Linh đang chạy theo bên bờ suối về hướng Bắc, thấy tôi họ mừng lắm, cả tôi cũng thế, chưa kịp hỏi th́ tiếng súng đuổi theo cũng nghe kế bên, lẫn tiếng kêu đầu hàng, tôi chỉ hướng chạy qua bên kia bờ suối, vừa vượt qua bờ suối th́ một người chạy sau bị bắn rớt xuống suối, tôi thúc anh em chạy tiếp, chạy khoảng 50 mét không nghe tiếng rượt theo, chúng tôi dừng lại để thở. Tôi nói vội với anh em:
– Tuyệt đối không đầu hàng, đi theo tôi, nếu người nào bị bắn mà bị thương, kể cả tôi, th́ phải bỏ lại, chạy thoát thân, chứ không được đầu hàng. Mọi người tuân lệnh. Vừa đi tôi vừa xem bản đồ. Vơ Định cách khoảng 8 cây số, chỉ băng theo hướng đông bắc là đến nhưng thế nào cũng gặp Việt cộng, tụi nó dứt Charlie rồi tất phải đánh phi trường Phượng Hoàng, vô đó là lănh đủ (về sau đúng như vậy v́ bọn chúng đang diều quân đánh căn cứ Vơ Định). Cho nên tôi quyết định đi thẳng lên hướng bắc khoảng một cây số đánh lạc hướng địch rồi ṿng lại hướng đông nam ra Diên B́nh, cách đó khoảng mười mấy cây số. Vừa đói, vừa mệt, 10 người mà chỉ c̣n có 3 cây M16, mổi cây chỉ có một băng đạn, không biết lúc đụng trận nửa th́ thế nào, tôi lại nhớ đến Hạnh, người đệ tử nhỏ con nhưng rất tháo vát, lên hạ sĩ thường được ở lại pháo đội học bắn, nhưng không hiểu khoái tôi cái nổi ǵ đ̣i theo tôi đi đề lô cho khổ tấm thân, bây giờ không biết ra sao. Đi gần nửa ngày, đồi cao cả ngàn mét, đói lă người, nửa tháng nay không đêm nào ngủ được vài tiếng. Bổng người đi đầu giơ tay ra hiệu dừng lại, khu rừng tre trước mặt có tiếng động, quan sát một hồi thấy được một toán Dù thất lạc, chúng tôi ra thủ hiệu nhận diện rồi nhập chung, tới chiều th́ gặp thêm một toán nửa, thêm hai Chuẩn úy và mấy Hạ sĩ quan. Quân số bây giờ là 26 người với 10 cây M16, có vài người bị thương nhẹ nơi chân và tay, mọi người đều đói quá, không ai c̣n miếng gạo sấy nào, chỉ c̣n một lon thịt ba lát, anh em khui ra đưa cho tôi, tôi cắn một miếng rồi trả lại nói mặn quá, cả tuần nay chẳng nuốt ǵ được để từ từ rồi ăn. Biết được Chuẩn Úy Linh lớn tuổi và thâm niên hơn hai Chuẩn úy kia nên tôi kêu Linh riêng ra và nói:
– Lính của anh, anh dể chỉ huy hơn, c̣n tôi th́ dẫn đường ra thôi.
Chuẫn Úy Linh trả lời:
– Trung Úy lớn nhất ở đây, chỉ huy, dẫn đi dâu chúng tôi theo lệnh Trung úy.
Tôi trở lại nói với anh em:
– Như vậy tôi ra lệnh, nếu gặp địch đông th́ bỏ chạy, nếu địch ít th́ đánh, ai bị thương kể cả tôi cũng phải bỏ lại, tuyệt đối không được đầu hàng, tôi có niềm tin tôn giáo, Đức Mẹ sẻ che chở chúng ta. Mọi người tuân lệnh. Tôi cho tất cả mọi người c̣n vũ khí đi đầu, ba Chuẩn úy chia ra xen kẻ, c̣n lại không có vũ khí th́ đi sau. Tôi cũng dặn ḍ kỷ hướng ra Quốc lộ 14, trên đường sẻ gặp những ǵ trên bản đồ. Nếu có thất lạc v́ đụng trận th́ theo hướng đó mà ra. Không phải tôi sợ anh em đụng trận, tôi chỉ muốn làm tṛn bổn phận người anh, lở tôi có bề ǵ th́ biết đường ra cho sớm, trể một ngày là có thể chết v́ đói.
Tối đó, tôi dặn Chuẩn Úy Linh cắt gác xong chia nhau đi ngủ. Sau một đêm nghỉ thật ngon kể từ nửa tháng nay, tôi đánh thức mọi người dậy thật sớm để leo núi đở mệt hơn. Đến trưa, theo bản đồ chúng tôi đến một làng Thượng đă bỏ hoang, không có ǵ để ăn, chỉ có một cây xoài thật cao toàn trái xanh, đói gần chết mà chơi thứ này vô c̣n tịch sớm hơn nửa. Một người lính bổng thấy một cây điều rừng trong bụi cây trước mặt, có rất ít trái nhỏ màu vàng cở ngón tay, tôi nói để tôi thử coi, bứt một trái không dám đưa hẳn vào trong miệng để nhai, tôi nhây nhây ngoài răng cửa, hơi có vị ngọt chát, tới chừng nuốt vô vừa đến cuống họng th́ nghe thật rát, tôi vội vàng nhổ ra, nguyên cổ họng tôi bị ngứa tàn bạo, và một chốc sau th́ đôi môi bị sưng lên, tránh vơ dưa gặp vỏ dừa, may mà không nuốt vô, nếu không dám toi mạng lắm. Chúng tôi tiếp tục đi một lúc th́ lên một ngọn đồi dài mà đỉnh của nó thật bằng phẳng như ai đă san bằng. Ngọn đồi rất đẹp, cây cối rậm rạp, chúng tôi dừng lại ngồi nghỉ th́ nghe tiếng trực thăng bay từng đoàn về hướng Nam, có lẽ trực thăng đổ quân, tôi cho anh em rút xuống triền đồi bên này, sợ trực thăng dọn bải hay pháo binh bắn ghép bải lở trúng th́ xui tận mạng. Thật đúng như phép lạ, trực thăng dọn bải phía bên kia đồi, đạn bạn vút qua trên đỉnh mà chúng tôi vừa rút xuống. Hú hồn. Sau đó nghe tiếng trực thăng đáp xuống. Đúng là đổ quân nhưng không biết đơn vị nào đây (sau này tôi biết được Tiểu đoàn 9 Dù đổ quân). Sợ ngộ nhận, tôi quyết định đi tiếp, đến gần chiều th́ dừng quân nghỉ đêm. Đôi môi tôi giờ này sưng vù lên và thâm đen phía ngoài, c̣n trong cổ th́ ngứa vô cùng, chỉ muốn đưa cả nguyên bàn tay vào miệng mà cào cho đă ngứa, không biết tôi có ra kịp quốc lộ không, nếu bỏ mạng lăng xẹt như thế này v́ ăn bậy th́ đau quá. Trong lúc dừng quân, chúng tôi kiếm được đâu đó ít rau tàu bay, luộc lên với nước suối cầm hơi. Đêm đó nh́n lên bản đồ, tôi c̣n cách sông PoKo độ 2 cây số nửa, qua sông này được th́ chiều tối đến xă Diên B́nh. Nhưng con sông rộng và nước chảy thật xiết như thế và người nào cũng đuối sức hết th́ làm sao mà qua đây. Trưa hôm sau, chúng tôi đến sông PoKo đúng y tọa độ. Tôi cho mọi người ngồi nghỉ trong các lùm cây trên bờ. Ngay lúc đó, một chiến trực thăng từ hướng quốc lộ 14 bay thẳng vô núi, chúng tôi chạy ra bờ sông cởi áo giơ tay vẩy vẩy. Từ xa trực thăng thấy được nhưng không dám bay lại gần, nó chỉ bay ṿng ṿng quan sát chúng tôi một hồi rồi xong cũng giơ tay vẫy vẫy rồi bay luôn. Tôi nghỉ trong bụng, chắc là trực thăng đi kiếm chúng tôi, thấy chúng tôi gần ra đến nơi rồi nên bay vào t́m những người c̣n kẹt lại trong sâu hơn, nhưng thế nào cũng báo về Lữ đoàn để báo cho đồn Điạ phương quân biết đừng bắn lầm. Tôi xem lại bản đồ, đây là đầu một cái ấp, thế nào họ cũng có ghe để qua sông, tôi cho người đi dọc bờ sông khoảng một trăm mét th́ thấy có một cái ghe nhỏ và một người đă t́nh nguyện bơi qua bên kia bờ lấy ghe, rồi lần lượt đưa chúng tôi qua sông. Có lẽ bề trên đă an bài, một cái ấp bỏ hoang như thế này lại có một chiếc ghe của ai đó bỏ lại để đưa chúng tôi qua sông, như một phép lạ. Mọi người đều kiệt sức nên tôi quyết định cho anh em đi ngang qua rẩy dân và cố t́nh nói chuyện lớn tiếng, để nếu có lính nghỉa quân ở đây th́ nhận ra giọng miền Nam chứ không phải giọng Bắc con cháu giặc hồ mà không bắn lầm, đồng thời cũng vớt vát chút đỉnh củ khoai trái bắp ǵ đó trên đường đi. Đây là một quyết định có lẽ lạ đời nhất và phản chiến thuật nhất của một sĩ quan. Cứ như vậy mà đi, có lúc những người lính c̣n ca lên mấy câu vọng cổ hoặc mấy bài hát của miền Nam nửa, chẳng có ǵ ăn trên đường qua rẩy v́ rẩy cũng bị bỏ hoang lâu rồi, th́ lót ḷng bằng tiếng ca ngọt ngào hương lúa miền Nam quê hương vậy.
Chúng tôi từ địa ngục trở về đâu có c̣n ngán cái địa ngục nào nửa đâu, ba cái thằng du kích xă dám xuất hiện ngăn chúng tôi sao? Tôi lấy cái lư của kẻ lỳ cho anh em tự do ca hát nói chuyện cho đến khi gần đến Xă Diên B́nh th́ dừng lại. Sợ ṃ vào ban đêm bị vướng ḿn tự động hay lựu đạn gài nên tôi cho dàn quân lại pḥng thủ ngủ đến sáng mới vô, và dặn ḍ hết sức cẩn thận, không chết dưới chục ngàn quả đạn pháo mà chết v́ đạp ḿn địa phương quân th́ lảng xẹt. Tôi vừa đi một ṿng kiểm soát lại mọi người th́ Chuẩn Úy Linh tiến lại nói có hai thằng ṃ vào liên lạc được bên trong rồi, họ mở cổng cho ḿnh vào. Tôi nói tào thiệt, sau đó tôi đi vào đồn chào vị Đại úy Tiểu đoàn Trưởng Địa phương quân và tŕnh bày lư do, viên Đại úy nói hồi chiều tôi đă được biết trước anh em sẻ về đúng nơi đây đêm nay, nên đă chuẩn bị các thứ để giúp anh em Nhảy dù. Tôi mượn máy liên lạc với Tiểu đoàn 1 Pháo binh Dù và nhờ chuyển qua báo cho Tiểu đoàn 11 biết chúng tôi đă ra đến nơi, xong nói tôi có một số người bị thương, xin Đại úy săn sóc dùm, viên Đại úy cho người dẩn anh em bị thương lại một tu viện gần đó, tôi đi theo. Những vết thương được các seour rửa ráy hết sức cẫn thận, ḍi con nào con nấy to bằng đầu đủa ḅ ra từ trong tủy xương tay mà anh em không căm thấy đau đớn chi cả, có những nổi đau c̣n lớn hơn trong ḷng mọi người và không ai dám nói ra vào lúc này v́ nói ra chúng tôi sẻ khóc. Giọt lệ anh hùng phải rơi đúng lúc và đúng chổ. Các soeur cũng cho tôi vài viên thuốc ǵ đó uống cho khỏi làm độc, tôi cám ơn rồi về gọi Chuẩn Úy Linh đến để giao lại nhiệm vụ chỉ huy anh em. Viên Đại Úy hỏi tôi muốn ăn ǵ, tôi chỉ xin một tô cháo, và một chổ nằm.
Trong lúc chờ đợi, tôi bước ra khỏi hầm, bước lên cầu Diên B́nh nh́n về dẩy Trường Sơn âm u phía Tây, ánh hỏa châu lung linh trong đêm tối như canh giấc ngh́n thu cho đồng đội tôi đời đời an nghỉ, hay c̣n tiếp tục đâu đó cuộc chơi tốn nhiều xương máu v́ hai chử tự do, những người đi không về đêm nay, có Hạnh, có Sơn, có Khánh h́nh như đang bay theo những đốm lửa nổ bộp trên không, rồi tan vở từ từ thành h́nh một cánh dù trên đồi máu, tôi thấy ḿnh nắm lấy hai dây thượng thăng, chạy băng xuống đồi, cánh dù từ từ lộng gió lên cao, bên tai tôi c̣n nghe tiếng kêu khát nước của Cho, tiếng đạn hú rợn người trên non, và tôi đi vào cơn mơ lúc nào không biết…
Tiểu đoàn 11 Dù, Song Kiếm Trấn Ải Charlie đă để lại nơi đây người anh cả Nguyễn Đ́nh Bảo cùng ba trăm đồng đội , và Tiểu đoàn về được tới Vơ Định trước sau chỉ có mấy chục người, chưa được một Đại đội. Sau Hiệp định Paris, Đại Úy Hùng mập, Đại đội trưởng 113 được trao trả. Xạ thủ đại liên Nguyễn Tấn Vinh dọc đường dẫn ra Bắc, nhiều lần bọn cán binh Việt cộng đ̣i giết để trả thù cho đồng bọn nhưng cấp chỉ huy của chúng không cho v́ nhu cầu trao trả, anh hiện ở tại Houston. Người đệ tử tôi, Hạ sĩ Hạnh và nhiều anh em khác th́ nằm lại tại một trại tù binh nào đó tại vùng Thượng du Bắc Việt v́ bị sốt rét và đói khát. Trung úy Lạc giải ngủ sau trận này, không chết, nhưng vết thương trên đầu khi thở ra hít vào th́ da đầu cũng phập phồng theo, trông rất ghê, nên lúc nào cũng phải đội nón bảo hộ. Đại Úy Hùng móm và Chuẩn Úy Trưng đề lô bị bắt sống nhưng đă trốn thoát được sau đó, và chỉ vài tháng sau th́ Đại Úy Hùng móm đă nằm xuống trên đường tái chiếm Cổ Thành Quăng Trị, chỉ cách ngôi nhà củ của ḿnh có 100 mét. Sau trận Charlie, tôi được Thiếu Tá Mễ chạy cho một cái Nhành dương liễu, đợi măi không thấy, hỏi lại th́ được biết Bộ Tổng Tham Mưu cúp hết huy chương của Quân Khu 2 sau trận này.Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù đă đánh hai trận lẫy lừng nhất trong quân sử Việt Nam Cộng Ḥa, Trận Charlie lănh cở 10,000 quă đạn đại bác đủ loại trên một căn cứ nhỏ xíu, chưa có trận nào mà một đơn vị của quân đội ta bị pháo khủng khiếp đến như thế. Tiểu đoàn 11 Dù bị mất hơn 4 đại đội, nhưng đă tiêu diệt được ít nhất cũng một Trung đoàn cộng quân của Sư đoàn 320 quả đấm thép, một đổi bốn. Sau chỉ một tháng bổ xung quân số rồi ra tái chiếm Quăng Trị, chỉ trong một đêm đến sáng của một ngày tháng 6 năm 1972, Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù và đề lô pháo binh đă bắn cháy 26 xe tăng địch gần bờ sông Mỹ Chánh, có lẽ quân sử thế giới cũng chưa có một đơn vị nào lập được một kỳ công như thế trong không đầy 12 tiếng đồng hồ, và cũng chính nhờ Tiểu đoàn 11 đă dùng hỏa tiển TOW bắn cháy một xe tăng T54 của địch định khóa đuôi Đại đội 1 Trinh Sát Dù của Thiếu Tá Dũng, Đại đội trưởng, mà tôi đă thoát chết được khi đi đề lô cho Đại đội này ngay sát bờ Nam sông Mỹ Chánh, Hải Lăng, Quăng Trị cuối tháng 6 năm 1972.
Nguyễn Văn Lập
hoanglan22
01-11-2019, 16:06
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1326261&stc=1&d=1547222652
Lời nói đầu: Khi chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) non trẻ của Miền Nam Việt Nam bị sụp đổ bởi sự phản bội của nước bạn đồng minh. Quân cộng miền Bắc tiến chiếm Miền Nam, trên thế giới đă có một nhận định cho rằng: sẽ có cuộc tắm máu xảy ra.Nhưng không, rút kinh nghiệm của các nước cộng sản anh em và của chính Cộng Sản Việt Nam (CSVN) qua những lần tắm máu, sau khi cướp được chính quyền, bị thế giới lên án nặng nề. Lần này, sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, CSVN không áp dụng thủ đoạn tắm máu mà thi hành chính sách KHÔ MÁU! Đối với Quân Dân Cán Chính VNCH.Bài viết sau đây, tôi kể lại một chuyện thật, không hư cấu, một trong trăm ngàn sự thật về chính sách đối xử tàn độc của chế độ CSVN với nhân dân Miền Nam Việt Nam! Đề tài khô khan, mong người đọc thông cảm.
Phản Kháng Của Tù Cải Tạo Trong Đêm Noel 1978
Sau ba năm lao động khổ sai trên vùng rừng núi cao nguyên Lambiang (Lâm Viên) cuối dăy Trường Sơn. Những sĩ quan QLVNCH, người tù chính trị không án, được ngụy trang dưới mỹ từ “cải tạo”, do các đơn vị bộ đội quản lư từ sau ngày 30 tháng Tư năm 1975. Nay v́ nhu cầu cuộc chiến xâm chiếm nước láng giềng Cambodia vào cuối năm 1978, bộ đội đă chuyễn chúng tôi trở về trại Suối Máu, Biên Ḥa, giao qua ngành công an quản lư.
Tùy t́nh thân giữa bạn tù với nhau, trong các ngày lễ lớn của bất cứ tôn giáo nào, hay những ngày lễ Quốc Gia, ngày tết Dương Lịch, tết Nguyên Đán, chúng tôi từng nhóm tụ năm tụ bảy hàn huyên tâm sự. Chiều hôm 24 tháng 12 năm 1978, từng nhóm bạn gom góp mỗi người một ít đường, gạo nếp, đốt lửa đó đây dọc theo hè nhà, nấu chè lạc để có bửa ăn chung đón mừng ngày Chúa Giáng Sinh. Trên vọng gác, công an trông thấy dấu hiệu lạ trong các khu giam tù từ K1, đên các khu K2, K3. Khoảng 7 giờ tối, từng toán công an vơ trang vào bên trong tuần tra, hỏi chúng tôi chuyện ǵ mà tụ tập, chúng tôi giải thích. Toán tuần tra răo quanh một ṿng rồi trở ra ngoài.
Đến 8 giờ tối, hầu hết các K vang lên tiếng cười cùng tiếng vỗ tay. Khu K1 nơi giam tù sĩ quan cấp Thiếu và Trung úy, tuổi chừng 20 đến 30 rất trẻ, c̣n tràn đầy sinh khí, ồn ào náo động nhất, họ hát Thánh ca, t́nh ca với những chiếc đàn guitar tự chế.
Các toán công an vơ trang trở vào, ra lệnh “cải tạo viên “ giải tán vào bên trong láng (nhà). Chưa đến 10 giờ đêm, giờ ngủ theo quy định của trại, họ cưỡng lệnh không chịu vào. Có tiếng súng nổ, công an vơ trang bắt đi ba người tù đem ra ngoài khu giam.
Lập tức, toàn thể tù nhân khu K1 gọi nhau tập trung ở sân trước đối diện với cửa ra vào Ban giám thị trại. Họ dùng tay làm loa che miệng, đồng thanh kêu gọi Giám thị trại thả người trở vào, cũng hướng về các khu K2 giam tù cấp Tá, khu K3 cấp Đại úy để thông báo t́nh h́nh và xin tiếp tay yểm trợ, bằng cách tất cả tù nhân ra khỏi láng, làm theo những ǵ bạn tù K1 yêu cầu với Giám thị trại.
Bên ngoài, Giám thị trại vẫn im ĺm, bên trong âm thanh ḥ reo của tù nhân vang dội toàn khu trại tù Suối Máu. Ngay lúc này, tại K2 các bạn tù cấp Tá, nhanh chóng thành lập Ủy Ban Hành Động (UBHĐ). Thiếu tá Không Quân Lê Thanh Hồng Vân vóc người to cao, làm Trưởng UBHĐ (hiện nay anh đang định cư tại Florida). Thiếu tá Pháo binh Lê Văn Sanh làm Phó Trưởng Ban (nay anh định cư tại Texas) và nhiều thành viên cho từng bộ phận, như bộ phận Hành Động, bộ phận An Ninh, bộ phận Kế Hoạch. Một số thành viên trong UBHĐ chui hàng rào kẻm gai, sang K1 hổ trợ và bàn kế hoạch. Hàng rào kẽm gai ngăn giữa các K trước đấy rất kiên cố, nhưng sau ba năm do bộ đội quản lư, cán binh bộ đội nhổ bớt cọc sắt ấp chiến lược và tháo lấy kẽm gai để làm việc riêng tư, nên nay hàng rào thưa trống, người chui qua lại rất dễ dàng.
Đă giữa khuya, Giám thị trại vẫn không động tỉnh. Bước đầu UBHĐ kêu gọi nhau hát các bản Thánh ca, trong đó bản HANG BELEM :
Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đờiChúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa.Trong hang bê-lem ánh sáng tỏa lan tưng bừng . . .
là bản nhạc dễ hát nhất, hầu như ai cũng hát được, không phân biệt tôn giáo, các bạn tù Ki Tô Hữu hát lớn mọi người cùng hát theo, lặp đi lặp lại liên hồi, chen lẫn với tiếng vổ tay, tiếng kêu gọi thả tù. Trời về khuya tỉnh mịch, âm thanh vang dội đến tận vùng dân cư nhà thờ Hố Nai, Biên Ḥa.
Có tiếng động cộc cạch từ những loa phóng thanh đặt sẳn trong các K giam tù, để Giám thị trại thông báo chỉ thị, mở đài (radio) phát thanh Hà Nội, đài Saig̣n giải phóng cho tù nhân nghe tin tức vào mỗi sáng sớm và chiều tối. Giám thị trại lên tiếng:
“Yêu cầu tất cả “trại viên cải tạo” trong các K giải tán trở vào láng để ngủ, sau đó Ban giám thị sẽ cho ba trại viên trở vào.”
Không ai bảo ai mọi người đồng loạt trả lời:
“ Phải thả người vào trước đă”.
Hai bên, lời qua tiếng lại giằng co măi, lồng trong tiếng hát Thánh ca mỗi lúc một vang dội hơn, mặc dù đêm đông giá lạnh nhưng mọi người vẫn kiên tŕ ngồi dưới sương khuya.
Từ xa vọng lại tiếng động cơ nổ rầm ŕ, rồi dần dần nghe rơ tiếng xích sắt của xe tăng nghiền trên mặt đường nhựa, từ hướng nhà thờ Hố Nai tiến về trại tù Suối Máu. Bọn cai tù lượng định t́nh thế, kéo dài thời gian xin chỉ thị cấp trên, điều động xe tăng đến mặt trước của trại tù để thị oai. Không nao núng, UBHĐ đưa ra quyết định, gọi lớn ra bên ngoài:
” Nếu ban giám thị trại không thả người vào, đêm nay tất cả trại viên cải tạo sẽ không vào ngủ”.
Tiếng gầm gừ của máy nổ, tiếng xích sắt của tăng nghiền trên mặt đường mỗi lúc nghe ác liệt hơn, rồi từng loạt đại liên trên tăng thay nhau nổ ḍn, đạn hú xé không gian, xẹt ánh lửa vèo vèo ngang qua các nóc nhà trại giam.
Trước t́nh huống đă cởi lưng cọp không thể lùi, UBHĐ họp bàn quyết định, thông báo cho Giám thị trại:
”Ngày mai toàn thể trại viên cải tạo sẽ TUYỆT THỰC nếu trại không thả người vào”.
Đồng thời loan báo đến các K:
“Yêu cầu tất cả các toán anh nuôi, sáng ngày mai KHÔNG ĐƯỢC RA BỘ CHỈ HUY LĂNH GẠO VÀ THỰC PHẨM, cho đến khi Ban giám thị trại thả người vào.”
Tiếng hát Thánh ca tiếng vỗ tay, tiếng gọi thả tù vẫn tiếp tục vang vang trong đêm khuya. UBHĐ kêu gọi các bạn tù lớn tuổi vào láng để nghĩ trước, nhưng không một ai chịu rời chỗ. Biện pháp TUYỆT THỰC của tù nhân là sự việc bất ngờ đối với Giám thị trại. Phần chủ động của quyết định này thuộc về phía tù nhân. Không một toán anh nuôi nào có thể cưỡng lại, không chấp hành, nếu họ muốn sống c̣n.
Thấy t́nh thế không thuyết phục được đám tù nhân nếu không thả tù. Giám thị trại Bằng lên tiếng yêu cầu toàn thể trại viên cải tạo giải tán vào ngủ. Ba trại viên sẽ trở vào khi làm xong kiểm điểm trong một thời gian ngắn.
Cùng lúc ấy tiếng máy nổ của xe tăng xa dần khu trại tù Suối Máu.
Khuya lắm rồi, tù nhân vẫn ngồi hát Thánh ca. Bổng có tiếng dây xích sắt lỏn c̣n va chạm vào trụ cổng K1, cửa mở ba bạn tù bước vào bên trong. Tiêng hoan hô, reo ḥ gọi tên ba bạn tù. UBHĐ thông báo đến mọi người trở vào láng và bỏ lệnh tuyệt thực, để ngày mai các toán anh nuôi tiếp tục làm nhiệm vụ cơm nước.
ĐƯỜNG VÀO ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN
Noel, 24 tháng 12 năm 1978, đă là ngày 25 tháng 11 năm Mậu Ngọ, chỉ c̣n đúng một tháng đến tết Kỷ Mùi 1979. Thời gian này, nước lớn đàn anh Trung Cộng dạy cho bọn đàn em CSVN một bài học ở địa đầu giới tuyến. Không khí trong trại tù sôi sục về thời sự nghe được qua loa phóng thanh của trại.
Sau đêm tù cải tạo phản kháng, chúng tôi nghĩ sẽ có sự trừng phạt đến với một số người. Nhưng không, Giám thị trại, những con cáo già không biểu lộ một thái độ hằn học nào. Ngược lại cục trại giam đưa cán bộ tuyên huấn đến trại nói chuyện về t́nh h́nh biên giới Việt Trung, tuyên truyền, đề cao bộ đội cộng sản ở tuyến đầu chống trả quân bành trướng Trung Quốc v.v…
Giám thị trưởng trại tỏ ra thân thiện vui vẽ, liên tiếp vào trại tập họp “trại viên cải tạo” nói chuyện về chánh sách cải tạo khoan hồng của đảng, nhà nước và nhân dân . . . Ngoài ra, giám thị trại bàn đến ngày tết truyền thống, tết Kỷ Mùi, đề ra kế hoạch thi đua, mừng đón Xuân. Mục đích đánh lạc hướng kế hoạch đ̣n thù mà chúng sẽ áp dụng.
Sau những ngày tết Kỷ Mùi, đầu tháng 2-1979, bửa cơm chiều vừa xong, tù nhân cấp Tá ở K2 chúng tôi, có lệnh tập trung lên hội trường làm việc. Lệnh tập họp bất thường vào chiều tối, mọi người đă đoán có điều bất thường sẽ đến. Quanh hội trường công an vơ trang canh gác. Trên bục, giám thị trưởng đọc “lệnh chuyễn trại”.
Trong đời người tù cải tạo, chuyễn trại là cả một cực h́nh, một nỗi kinh hoàng không kể xiết. Danh sách đen, hơn 350 tù cấp Thiếu, Trung và Đại tá chúng tôi, lần lược được gọi tên, tách riêng, ra sân xếp thành từng đội 30 người. Lệnh cho chúng tôi trở về láng thu xếp tù trang rồi đi ngủ.
Khi có lệnh tất cả tập họp lên sân trại. Chúng tôi được phát một khúc bánh ḿ bột bo bo kẹp chút thịt heo mỡ. Đúng 4 giờ sáng tiếng ́ ầm của đoàn xe Molotova tiến vào trước cổng trại.
Đoàn xe tù lên đường c̣n trong đếm tối, măi đến lúc b́nh minh ló dạng, chúng tôi mới biết đoàn xe đang chạy trên Quốc lộ I, đi về hướng Bắc. Mỗi xe tù có một công an vơ trang đi theo, nhưng họ ngôi cùng tài xế ở trước xe, do vậy ở phía sau chúng tôi bàn tán với nhau, đoán già đoán non đủ thứ. Đến trưa đoàn xe tù vào thành phố Phan Rang, đoàn xe ngừng lại ở đầu thành phố. Tài xế vào phố ăn trưa, mỗi chúng tôi cầm khúc bánh ḿ bo bo ngao ngán.
Người bán hàng rong trong phố, thấy có đoàn xe vừa dừng ở bên ngoài, họ kéo nhau chạy ra, phụ nữ già trẻ có, các cháu nam nữ tuổi rất nhỏ, quần áo bạc màu, rạn rách. Trên tay mỗi người một cái mẹt, một chiếc rổ rá đựng ít củ khoai lang, củ ḿ (sắn) luộc, mớ trái cây, các loại bánh gói lá chuối. Ra đến nơi, ban đầu họ không biết xe chở khách ǵ, họ chạy ùa đến rao bán mớ hàng trên tay. Có sự đồng ư của công an vơ trang, một số anh em tù chúng tôi đứng lên trong xe, ch́a tiền mua thức ăn. Bất chợt một phụ nữ lớn tuổi trong nhóm, nh́n thấy chữ CẢI TẠO thật to, dấu đóng trên lưng áo, trên quần tù nhân. Bà ta la lớn lên gần như gào thét:
“Các chú CẢI TẠO tụi bay ơi, các chú cải tạo tụi bay ơi, đưa lên cho các chú đi đừng lấy tiền của các chú, đưa lẹ lên ”.
Cả nhóm nghe theo lời bà. Chúng tôi cầm tiền, cúi gập người xuống năn nĩ các cháu nhỏ lấy tiền, nhưng chúng lắt đầu lia lịa, chúng chia nhau chạy khắp đoàn xe tù, ném đồ ăn lên xe. Một vài cháu lớn tuổi khỏe hơn, chạy thật nhanh vào trong phố gọi thêm các bạn mang hàng ra cho, ra đến nơi đoàn xe tù đă nổ máy chuyễn đi, họ ném theo lên xe tù những ǵ họ có trên rổ rá và đứng nh́n theo cho đến khi đoàn xe khuất xa – Mắt tôi cay cay nhỏ lệ, không phải chỉ lúc đó mà chính lúc này, tôi đang kể lại kư ức khó quên trong đời tù cải tạo, sau 30 tháng Tư-1975 – Xin nói rơ, trong giai đoạn đầu vào trại tù, bộ đội quản lư, không thu giữ tiền bạc và đồng hồ, nhẩn vàng.
Đoàn xe tù tiếp tục lăn bánh về hướng bắc Quốc lộ I, chúng tôi không đoán được sẽ đi về đâu. Khoảng 4 giờ chiều đoàn xe qua cầu đập Đồng Cam, rồi qua khỏi thị xă Tuy Ḥa, Phú Yên đến quận Tuy An, đoàn xe rẽ trái, băng qua thiết lộ hỏa xa, dẫn vào quận Đồng Xuân. Lúc này tôi nhận ra địa danh v́ tôi đă từng hành quân trên Khu 22 Chiến Thuật này gồm ba tỉnh: B́nh Định, Phú Yên và Phú Bổn.
Trồi lên hụp xuống trên một độc đạo tung bụi đỏ mịt mù, đoàn xe mang chúng tôi vào một thung lũng rọ heo xa hun hút, dưới khí trời vàng vàng mờ ảo trong ánh nắng chiều. Đoàn xe dừng lại trước cổng một trại giam, tứ bề ṿng rào lưới B40 và kẽm gai kiên cố. Trại cải tạo XUÂN PHƯỚC quận Đồng Xuân tỉnh Phú Yên, trại tù mang bí số A20. Những trại tù có mang bí số, trực thuộc Cục Quản Lư Trại Giam Trung Ương điều hành, là những trại tù nổi tiếng khắc nghiệt đối với tù nhân
CẢNH ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN
Trước khi vào đến trại giam A20, đoàn xe vượt qua một đoạn đường, bên phải là sườn đồi đất đỏ sỏi đá, bên trái là một cánh đông đất sét với những thửa rộng lúa cháy vàng bởi nắng hạn. Một cảnh tượng hải hung, thoạt đầu chúng tôi không ai hiểu nổi là h́nh ảnh ǵ, mặc dù chúng tôi cũng trong thân phận người tù!
Trên những thửa ruộng khô, đất đai nứt nẻ, lố nhố những toán người không áo không mũ nón, vỏn vẹn chỉ chiếc quần cụt, để lộ đôi ống xương chân khẳng khiu, thân h́nh da bọc xương với chiếc đầu lâu sậm màu! H́nh ảnh ma quái này, ngày nay nếu sống ở Mỹ chúng ta có thể tưởng tượng được. Vào dịp lễ Halloween 31 tháng 10 mỗi năm, trong các của tiệm bán đồ trang trí lễ ma, chưng bày những bộ xương người, đầu lâu trắng hếu, trông ghê rợn, th́ cảnh tượng trên cánh đồng khô, người tù đang lao động giống y chang như vậy.
Ở đây những bộ xương ma quái kia biết cử động, đôi tay xương xẩu, nặng nề mệt nhọc nâng cây cuốc đưa lên thả xuống, đang đào xới thửa ruộng đất khô cằn chai cứng!
Trước cổng trại, chúng tôi được lùa xuống sắp hàng trên một sân gạch rộng lớn. Trời đă chiều, từ nhiều hướng các đội tù lao động lần lượt kéo về, sắp hàng chờ khám xét nhập trại. Chúng tôi sửng sờ, tận mắt nh́n rơ những bộ áo quần tù, xám tro bạc màu, rách tả tơi, bay phất phơ trên những bộ xương với có chiếc đầu lâu mà chúng tôi đă nh́n thấy trên cánh đồng trước đó. Những người tù đă cởi bỏ áo quần để không cho thấm ướt mồ hôi, hầu giữ ấm được thân thể khi về trại.
Thành phần tù ǵ? Họ là ai? Họ là tù h́nh sự. Phần lớn là con cháu của quân nhân, công chức VNCH. Tuổi chừng 15 đến 30, vào tù cải tạo v́ không chịu thi hành nghĩa vụ quân sự, không muốn đem thân bỏ mạng nơi chiến trường Cambodia. Không thi hành nghĩa vụ lao động, theo chính sách cưỡng bức lao động cá nhân, hay buộc phải đi lao động thay thế cho thân nhân già yếu trong gia đ́nh. Công tác lao động thường là công tŕnh thủy lợi, đào kênh dẫn nước, vào núi chẻ đá, khuân vác đất đá, đốn gỗ, xây đập ngăn nước. Một thành phần nữa, là con cháu các gia đ́nh “ngụy quân, ngụy quyền và ngụy dân” bị chính quyền địa phương đẩy đi vùng “kinh tế mới”, cuộc sống thiếu thốn quá khổ, bỏ trốn về các thành phố, mua lén bán chui, kiếm sống, giúp đỡ mẹ, anh em, trong khi ông, cha đang trong tù cải tạo! Chỉ có dưới chế độ cộng sản, mới có chuyện ba thế hệ gặp nhau trong nhà TÙ!
Chúng tôi tù chính trị, được nhốt chung với tù h́nh sự trong trại giam Xuân Phước, nhưng ở riêng một khu, cách nhau một sân rộng và nhà hội trường. Trại cấm chúng tôi “liên hệ” với tù h́nh sự, nhưng rồi đó đây chúng tôi cũng tiếp xúc được.
Dăy nhà tôi ở mang số 8, gọi là láng 8, dài chừng 50 met, nơi tôi ở, sát cạnh một “trạm xá”, ngôi nhà nhỏ diện tích độ 10 x 5 mét, mái tranh vách đất, chỉ một cửa nhỏ ra vào . Nói là trạm xá nhưng nhiều ngày, chẳng thấy y tá hay y sĩ văng lai, cũng không thấy khám bệnh. Th́ ra nơi đó, các cháu bị bệnh lao phổi đến thời kỳ quá nặng, cán bộ trại đưa vào cách ly, nằm chờ chết. Tiếng ho sùng sục bên trong liên hồi vọng ra.
Những cháu c̣n chút sức, lê thân ra ngoài hóng nắng, mở nút áo để lộ thân h́nh da bọc xương, đầu trọc không c̣n chút tóc, người co quắp, thở hỗn hễn, đứt đoạn từng hơi! Dăy nhà 8 nằm cuối cùng, sát hàng rào trại, nên họ ngăn một đoạn ngay đầu nhà, chừng 5 met làm thành một pḥng nhỏ, pḥng xác! Do vậy, bọn tù ở láng 8 chúng tôi, nh́n qua khe cửa, mỗi ngày chứng kiến ít nhất có từ 2 đến 3 xác chết, quấn bằng manh chiếu hay mền. Trên đầu chiếc giường tre, ngọn đèn dầu leo lắc, một chén cơm có cắm đôi đủa. Họ đưa xác vào đó ban đêm sau 7 giờ tối, khi chúng tôi đă vào bên trong láng ngủ và cửa khóa chặt. Ngày hôm sau, lúc chúng tôi xuất trại đi lao động bên ngoài, cán bộ trại cho đội tù h́nh sự, có tên Đội Tự Giác, dùng xe cải tiến, loại xe thùng có 2 bánh sắt, chở xác chết ra chôn ở một ven rừng đất đỏ, nghĩa địa của trại.
Những lần đi lao động ngang qua đây, chúng tôi đă thấy nhiều nấm mộ lắm rồi.
Tù cải tạo thuộc diện tù chính trị như chúng tôi, thời kỳ do bộ đội quản lư, mặc dù lao động khổ sai trong vùng rừng núi Trường Sơn, nhưng khi làm lao động có thể đi lại đó đây, t́m kiếm rau lá, bẩy chuột, bắt rắn cóc nhái . . . cải thiện bửa ăn, phụ thêm mớ thực phẫm, do vợ con thân nhân, cực khổ gồng gánh, vượt vạn dặm thăm nuôi. Thân xác chúng tôi cũng đă kiệt quệ, nhưng chưa đến nổi nào.
Đến lúc vào tay ngành công an quản lư, tại trại tù A20 này, quy chế đời sống chúng tôi không khác ǵ so với các cháu tù h́nh sự. Phần ăn mỗi bửa đều giống nhau. Nấu bếp làm cơm do tù h́nh sự phụ trách. Bửa ăn sáng trước giờ đi đồng lao động, mỗi phần ăn độ 4, 5 lát “sâm”. gọi là sâm cho vui, cũng để đánh lừa cái miệng, thực ra nó là những lát ḿ (củ sắn).
Ḿ do tù nhân trồng trọt, đến mùa thu hoach (bới lấy củ), cán bộ trại bắt tù nhân ngồi giữa đồi trọc, mỗi người một khúc gỗ, một con dao lớn, chặt củ sắn thành nhiều lát, có bề dày bằng nữa đầu lóng tay, những lát ḿ tung ra phơi nắng ngay tại chỗ, trên nền đất cát đỏ, qua nhiều ngày đêm, bất kể nắng mưa sương gió, cát bụi bám đầy. Đến lúc lát ḿ khô đă đổi sang màu sậm, được đưa vào các kho chứa, bao bọc bởi những mành tre thưa mỏng, không đủ sức che mưa gió. Những lát ḿ đóng lại thành cục, lên men trắng, men vàng rồi men đỏ, lát ḿ không c̣n lên men được nữa, trở thành những lát Sâm Cao Ly màu đen lánh!
Phần cơm trưa và cơm chiều giống nhau. Chén cơm chỉ là một chén sâm, cỏng lưa thưa một vài hạt cơm! Thức ăn là tô canh rau xanh, rau do tù trồng, được bón loại phân XANH, tức phân người trộn với lá cây xanh, phân lấy từ cầu tiêu nổi có thùng chứa. Những lúc trời nắng hạn, không sản xuất đủ rau xanh, thay canh bằng lưng nửa chén mắm thối!. Cai tù thầu mua tất cả các loại cá do ngư dân đánh bắt, không đủ phương tiện ướp lạnh, không đủ muối ướp mặn, đă ươn śnh, thối rữa. Lâu lâu, xe tải chở cá vào trại, đă nghe mùi hôi tanh. Chúng đổ cá vào hồ làm mắm, hồ xây bằng xi măng rất lớn, tường cao 2 mét, chia thành bốn ngăn khoản 3×2 mét, mặt trên bịt kín, chừa một nắp đậy vuông.
Cá không ăn muối cá ươn, ở đây cá đă ươn śnh, đưa vào hồ làm mắn, đổ thêm nước lă, lại không bỏ đủ muối, cá lên men mục nát rất nhanh, trở thành nước mắn. Màu nước mắm đen ngồm, tựa nước ống cống chợ cầu ông Lănh, Saigon! Những khi toán anh nuôi mở nắp hầm lấy mắm, mùi thối xông lên nồng nặc, tỏa đi khắp khu trại giam, đến nín thở. Cầm chén mắm, không cách nào tôi đưa chén mắm lên miệng được, cho dù dùng mấy ngón tay cố bóp kín lỗ mũi.
Tôi không ăn được mắm thối, nhưng cũng không đổ bỏ đi. Đại tá bác sĩ Nguyễn Văn Khái cựu Chỉ huy trưởng Tổng Y Viện Cộng Ḥa Saigon, khuyên tôi:
“Anh không ăn được anh cho người khác, tuy mắm thối nhưng nó có chất đạm, rất cần cho cơ thể hiện nay”.
Tôi đă đưa mắm cho người bạn, Đại tá Nguyễn Văn Luật, cùng đội lao động với tôi.
Người tù chính trị trong ngục tù cải tạo, có được sự sống c̣n, phải nhắc đến công lao vô bờ bến của những người vợ. Măi măi tôi ghi nhớ công ơn vợ tôi. Nhờ vợ, hơn một năm tôi thoát khỏi cảnh ăn mắm thối. Trước tết Kỹ Mùi-1979, từ Đà Nẵng vợ tôi lặn lội vào trại tù Suối Máu, Biên Ḥa thăm nuôi. Khi ngang qua vùng Nha Trang, vợ tôi mua được 12 con mực khô lớn, loại xuất khẩu, họ đem bán chui.
Ngày đầu mới chuyễn đến trại tù A20 này, công an cán bộ khám xét tù trang, tất cả thức ăn do gia đ́nh tiếp tế đều bị tịch thu, tiền bạc đồng hồ, nhẫn vàng bị thu giữ. May mắn cho tôi, tên công an cán bộ lo xốc xáo quần áo, chăm chú lục t́m những thứ mà chúng có thể bỏ túi luôn được.
Chiếc bao cát tôi đựng mấy con mực và gói muối bột, rơi ra một bên nằm cạnh chân tôi. Lẹ chân tôi hất nhẹ vào đống đồ đă khám xong, nhờ vậy tôi giữ được bao thức ăn vợ tôi vừa tiếp tế. Hàng tuần, trại cho tù xuống bếp hâm đồ ăn một lần vào buổi trưa. Tôi cắt một đoạn mực, chừng một lóng tay, xé thật nhỏ cho vào lon ghi-gô thêm chút muối bột, đun sôi làm thành nước mắm, ăn tằn tiện thoát nổi khổ húp mắn thối mỗi bửa!
CHẾT TẬP THỂ TRONG TRẠI TÙ CẢI TẠO
Từ môi trường sống đó, ngoài bệnh lao như đă kể trên, hầu hết là ở các cháu tù h́nh sự. Nhiều thứ bệnh khác thi nhau hoành hành trên thân xác người tù, nhất là bệnh kiết lỵ, loại bệnh dễ lây lan, nguy hiễm, tử vong cao.
Người bệnh, bụng đau nhói ruột co thắt, hậu môn luôn bị thúc dục đi tiêu liên tục, nhưng rất khó khăn, chỉ tiêu ra chút ít đờm giăi lẫn lộn máu tươi. Không thuốc men chửa trị, nhiều bệnh nhân kiệt sức không lê ra được khỏi nơi nằm, tiểu tiện tại chỗ, mùi hôi tanh xông lên, từng đàn ruồi nhặng vù vù bay lượn, trông phát khiếp!
Địa ngục trần gian, đại học máu, những ngôn từ dành để chỉ “ Trại Cải Tạo” dưới chế độ cộng sản, không sai chút nào! Cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm được Miền Nam, chia người dân Miền Nam ra ba thành phần: Ngụy quân, ngụy quyền và ngụy dân, điều tôi không bịa đặt, mà lời nói ra từ cửa miệng bọn cán bộ tuyên huấn, trong những lần tiếp xúc với tù nhân.
Một trong những đ̣n phép tàn độc cộng sản Hà Nội dùng để trả thù nhân dân Miền Nam là: chính sách Bao Tử. Dùng bao tử để hành hạ thân xác con người, bỏ ĐÓI con người, làm cho con người mất hết lư trí, tiêu tan ư chí kháng cự. Nhưng chúng đă lầm!
Nói đến đói trong trại tù cải tạo, thú thật, tôi viết lên điều này, xin người đọc đừng cho tôi chê trách ai đó. Nếu ai chưa chịu đựng qua cái đói trong ngục tù cải tạo, khi nghe nói đến đói, không thể có cảm nhận như người tù cải tạo đă ĐÓI! họ đơn thuần thấy cái bao tử thiếu thiếu v́ lỡ một bửa cơm, hay một vài ngày phải nhịn ăn để trị bệnh. Đói trong trại cải tạo là một đ̣n thù ác nghiệt, có tính toán của cộng sản.
Bao tử người tù cải tạo, lúc nào cũng trống trơn, cơ trắng bao tử chà xát vào nhau, một cảm giác đau đớn không biết diễn tả thế nào cho đúng. Ăn rồi cũng như chưa ăn!, khổ cho cái bao tử cứ bị đánh lừa triền miên. Sau bửa cơm, tôi buồn t́nh dùng đũa, gơ vào miệng chén, ngâm nga:
Ḿnh ngỡ những chưa ăn, ai ngờ đă ăn rồi.
Ḿnh ngỡ những chưa ăn,ai ngờ đă ăn xong! Ôi tấm thân tù tội …
Khi viết bài này tôi mới biết, vô t́nh tôi đă đổi lời một đoạn ngắn trong bản nhạc của một nhạc sĩ ăn cơm Quốc Gia thờ ma cộng sản, nhạc sĩ Trịnh CS, bài “ T́nh Nhớ “ (T́nh ngỡ đă quên đi, như ḷng cố lạnh lùng…). Lời tôi đổi, nói lên được tính dă man của con người cộng sản, mà Trịnh CS là một.
Các cháu tù h́nh sự, không c̣n lối thoát với cơn đói hoành hành thân xác. Trong những giờ làm lao động bên ngoài, các cháu vớ được bất cứ con trùng ǵ, như dế, châu chấu, cào cào, bọ ngựa hay cả con trùn, các cháu chỉ cần ngắt chân, lặt cánh, phủi phủi rồi đưa vào miệng ăn sống ngon lành! Gặp bửa, có cháu bắt được nhiều mồi hơn ăn tại chỗ không hết, dấu cán bộ, nhắt vào lai ống quần, tay áo, đem về trại đến đêm lén lút ăn tiếp. Ăn để mà sống qua ngày, đa số ngả bịnh, chết lai rai mỗi ngày.
Trại có một đội lao động gọi là Đội tự giác, nhân số khoảng 40, tất cả đều là các cháu tù h́nh sự. Được tuyển chọn từ những cháu học tập cải tạo “có tiến bộ”, sinh hoạt “có thành tích”!
Đội tự giác xử dụng khoảng 20 chiếc xe cải tiến, xe thùng có hai bánh niềng sắt. Nhận công việc làm từ cán bộ trại và được tự do ra vào trại để thi hành công tác, có công an Quản giáo giám thị, nhưng không có công an vơ trang theo canh giữ. Sức khỏe các cháu Đội tự giác có phần khá hơn, nhờ những lúc chuyên chở thực phẩm từ Bộ chỉ huy trại vào khu giam tù, các cháu có cơ hội ḅn tỉa được vài chút thức ăn, tuy vậy cũng không thấm đủ vào đâu, đói vẫn hoàn đói!
Những ngày không có công tác chuyên chở, đội tự giác cũng phải lao động cuốc đất trên các ruộng rẫy, nhưng các cháu Đội tự giác được đi lại dễ dăi hơn. Từ đó các cháu cử hai người đi t́m các loại rau cỏ có thể ăn được, dùng chiếc thùng lớn nấu nước để uống trong lúc làm lao động. Gần cuối giờ, cho rau vào thùng nấu chín, mang về trại chia nhau ăn, phụ thêm cho bửa cơm tù chẳng đủ vào đâu!
Mùa hè, miền rừng núi nắng cháy, rau cỏ dại không c̣n. Lâu lâu, gặp một vài cơn mưa giông, các vườn trồng cây ḿ (sắn) được bón phân xanh, gặp mưa rào đâm chồi nhanh hơn loại cây cỏ khác. Các cháu Đội tự giác vào vườn ḿ, hái đọt ḿ cho vào thùng nấu làm canh. Khoảng giữa tháng 5 năm 1981, đêm khuya đang ngủ, cửa nhà giam số 8 của chúng tôi có tiếng động mở khóa, cán bộ trực trại rọi đèn pin, bước vào gọi lớn:
“Anh Khái, anh Nhu, mau theo tôi “ (tức đại tá bác sĩ Nguyễn Văn Khái và đại tá bác sĩ Phạm Văn Nhu)
Cán bộ trực trại dẫn 2 bác sĩ qua khu tù h́nh sự. Chừng 15 phút sau, hai vị bác sĩ quay trở về nhà giam số 8, vào trong cửa nói lớn:
“Các cháu Đội tự giác ăn canh đọt ḿ, trúng độc t́nh trạng rất nguy kịch, xin các bạn ai c̣n đường, c̣n đậu xanh, vui ḷng nhín cho một ít để chúng tôi cấp tốc cứu các cháu”
Gom góp được một ít đường đậu, hai bác sĩ vội vă quay nhanh trở lại khu giam tù h́nh sự. Hơn một tiếng đồng hồ sau, hai bác sĩ trở về láng, trầm buồn nói nho nhỏ:
“Cả đội tự giác chết hết rồi ! cháu Sơn ( đội trưởng) to khỏe như vậy cũng đă chết ngay, may ra c̣n sống được hai em, nhờ đương bị bịnh, ăn ít hơn!”
Đây đó có tiếng sụt sùi v́ qúa xúc động, cảm thương cho các cháu! Tôi thực sự lại khóc khi viết đến đây.
Thật vô nhân, tàn ác, giam tù bỏ đói, bệnh hoạn không thuốc men. Gặp lúc nguy ngập như vầy, không phương tiện cứu chữa. Bác sĩ “ngụy quân” đem giam tù đă 6 năm, hai bàn tay trắng, tài nào cứu được mạng người sắp chết. Vậy mà bọn chúng cũng trơ mặt, há mồm lên tiếng kêu, cứu người.
Xế chiều ngày hôm sau, đội tù chúng tôi đang cuốc đất trên thửa ruộng cạnh ven rừng. Xa xa về hướng trại giam, chúng tôi thấy một đoàn xe cải tiến chừng hơn 15 chiếc, các cháu tù h́nh sự, một đứa kéo, hai đứa đẩy phía sau xe, h́ hục kéo qua con đường đất đỏ dưới chân đồi. Chúng tôi đoán biết đó là đoàn xe chở thi hài 37 cháu trong Đội tự giác đă chết tối hôm qua,
Khi đoàn xe gần đến sau lưng chúng tôi, không ai bảo ai, chúng tôi tự động quay mặt về đoàn xe chở xác, bỏ cuốc xẽm xuống đất, tay dở nón mũ áp vào ngực, đứng cúi đầu. Hai công an vơ trang canh gác, đứng trên bờ ruộng, ngạc nhiên hét lớn:
– Các anh làm ǵ vậy, làm ǵ vậy, tất cả làm việc đi, làm việc đi.
Mặc cho tên công an vơ trang quát tháo, chúng tôi cứ tiếp tục đứng im, chờ cho đoàn xe đưa ma qua hết, chúng tôi mới trở lại làm việc. Không có lấy một chiếc quan tài, thi hài của các cháu được bó trong những chiếc chiếu, chăn mền mà các cháu đă dùng để ngủ! Hai ba thi hài chất lên một xe, đưa ra chôn ở một triền đồi, nơi đă có nhiều mộ của các cháu tù h́nh sự chết lai rai trước đó, tù nhân chính trị chúng tôi cũng đă có người vĩnh viễn nằm đó.
Đến nay, nghĩa địa này đă nằm sâu dưới đáy đập nước thủy điện Xuân Phước, Phú Yên!
Viết để Tưởng Niệm các bạn tù chính trị, các cháu tù h́nh sự đă bỏ ḿnh trong ngục tù Xuân Phước. Chắc các bạn, các cháu đă siêu thoát về một thế giới Vĩnh Hằng.
Cầu xin các bạn, các cháu hộ tŕ lại cho Đất Nước Việt, Dân Tộc Việt sớm thoát khỏi chế độ cộng sản tàn bạo, vô nhân!
Chế Văn Thức
@ Trúc-Lâm Yên-Tử
hoanglan22
01-11-2019, 16:39
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1326267&stc=1&d=1547224590
Đây là huy hiệu cũ của Sư Đoàn 3 Bộ Binh được thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1971 tại Quảng Trị nên trên huy hiệu có chữ Bến Hải do cựu Tướng Vũ Văn Giai chỉ huy và đă tan hàng vào ngày 2 tháng 4 năm 1972 sau 6 tháng thành lập
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1326268&stc=1&d=1547224590
Ngày 9 tháng 6 năm 1972, đơn vị được đưa về tái phối trí tại Quảng Nam, nhận bàn giao lại căn cứ Ḥa Khánh và do cựu Tướng Nguyễn Duy Hinh làm tư lệnh. Sư đoàn 3 Bộ Binh mang huy hiệu mới
Tưởng cũng phải nói ngay rằng: Khi cuộc lui quân để tái phối trí này xảy ra, tôi đang làm việc tại Ban Nghiên Cứu và Kế hoạch Đặc Biệt, dưới quyền Tr/Tá Phạm Đức Lợi (1) thuộc Phân Khối Không Ảnh/ Pḥng 2/ Bộ Tổng Tham Mưu . Nhiệm vụ của chúng tôi là ghi nhận tất cả mọi diễn biến, mọi đổi thay trên toàn lănh thổ Miền Bắc và các hoạt động địch trên Đường Ṃn HCM . Trung b́nh mỗi tuần, chúng tôi có 2 hoặc 3 nhiệm ảnh do Hoa Kỳ cung cấp . Chúng tôi khẳng định là TT Thiệu, Thủ tướng Khiêm và Đại Tướng Viên nắm rất rơ t́nh h́nh và biết chắc rằng VC sẽ tấn công qua vùng Phi quân sự . Ba vị lănh đạo cao nhất đă được chúng tôi đệ tŕnh những tấm Slides được phóng lớn với đầy đủ chi tiết từ cuối năm 1971 cho đến ngày xảy ra trận chiến vào cuối tháng 3/72 v́ từ mùa thu 1971, VC đă ráo riết đưa hàng ngàn xe ủi đất và dân công để làm một lộ tŕnh mới từ đường ṃn HCM đi về hướng đông nam đến tận vùng Phi Quân Sự .Con đường này đă được hoàn tất vào khoảng tháng 1/72 . Những tin tức t́nh báo kỹ thuật cũng xác sự kiện đó . VC c̣n thiết lập các vị trí hỏa tiễn SAM, pháo 130 ly và hỏa tiễn 122 ly ngay cạnh vùng Bắc PQS . Điều đó có nghĩa là các căn cứ hỏa lực của ta tại vùng Nam Bến Hải đều nằm trong tầm pháo của VC . Mỗi chiều thứ sáu, Đại tá Phạm Ngọc Thiệp, Trưởng P2/TTM đều thuyết tŕnh trước ba vị lănh đạo quân sự cao nhất của VNCH về t́nh h́nh QS tại ṭa nhà chính Bộ TTM, nhưng những hoạt động địch tại phía Bắc vùng PQS vẫn tiếp tục . Hơn thế nữa, khi VC làm tiếp đoạn đường này xuyên qua sông Bến Hải vào tận vùng Phi Quân Sự mà vẫn không thấy bên ta động tĩnh ǵ, mặc dù nhiều lần chúng tôi đă xin Không Quân HK oanh kích . Sự bỏ ngơ và thái độ khó hiểu của các giới chức Việt / Mỹ lúc đó đă làm cho chúng tôi hết sức kinh ngạc
I/ Mạn đàm với Chuẩn tướng Vũ văn Giai, Cựu Tư Lệnh SĐ3BB
Cuộc chuyện tṛ với các chiến hữu SĐ3 khiến tôi nghĩ đến việc t́m hiểu thêm để viết về những điều đă khiến tôi bận tâm và băn khoăn từ mấy chục năm qua . Bởi vậy, tôi ngỏ ư muốn gặp Tướng Giai để hiểu biết thêm về những điều mà tôi nghĩ rằng chỉ có ông mới trả lời chính xác được . Bốn ngày sau, vào trung tuần tháng 7/2010, tôi đến gặp Tướng Giai tại tư gia của ông cũng ở Nam California . Đi cùng với tôi là Tr/tá Nguyễn Tri Tấn, cựu Tr/đoàn phó Trung đoàn 2/SĐ3 . Khi VC tấn công qua sông Bến Hải, ông Tấn là Tiểu đoàn trưởng TĐ3/2/SĐ3 . Ông là người rất gần gũi với Tướng Giai v́ đă cùng tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào trước đây
V́ làm việc chung với Mỹ nên chúng tôi thường sử dụng các tên ngoại quốc mà người Mỹ đă đặt cho các căn cứ hỏa lực tại vùng nam vĩ tuyến 17 . Do đó, chúng tôi muốn biết là khi VC tấn công, các căn cứ này do Hoa Kỳ hay VN trấn giữ th́ Tướng Giai cho hay là hoàn toàn do VNCH trách nhiệm .
Về việc VC sửa soạn tấn công, Tướng Giai tiết lộ rằng ông đă được cố vấn Mỹ báo trước, nhưng trong cương vị của ḿnh, ông không thể làm ǵ hơn được . Khi cuộc chiến xảy ra, các cố vấn Mỹ khuyên ông lui quân để pḥng thủ ở tuyến sau, v́ theo họ, lực lượng trú pḥng của ta không thể đương cự được . Được hỏi về dư luận cho rằng Tướng Hoàng Xuân Lăm ra khẩu lệnh cho ông rút quân, nhưng sau đó Tướng Lăm đă phủ nhận để tránh trách nhiệm; Tướng Giai trả lời rằng điều đó không đúng . Ngược lại, ông Lăm muốn SĐ3B giữ nguyên vị trí, dù áp lực và các trận địa pháo của địch đă phá vỡ nhiều pḥng tuyến khiến các đơn vị pḥng thủ hoang mang và vô cùng hoảng hốt .
Tướng Giai cũng cho chúng tôi biết thêm là ngay từ đầu, HK đă chống lại việc thành lập SĐ3 v́ họ đă chuẩn bị cho việc rút quân Mỹ ra khỏi VN và không chấp nhận việc tăng quân viện cho VNCH . SĐ3/BB ra đời hoàn toàn do quyết định của Bộ TTM/QLVNCH . Do đó, Mỹ hầu như bỏ mặc cho phía VN xoay trở với những khó khăn tại vùng địa đầu giới tuyến do SĐ này đảm trách . Sự kiện trên khiến tôi liên tưởng tới cái chết của Đại Tá Lê Đức Đạt, TL/SĐ23 v́ ông này không được cảm t́nh của John Paul Vaunn, người Cố vấn Mỹ ” rất đặc biệt ” tại Quân Đoàn 2 lúc đó
Trả lời câu hỏi là trước khi VC mở cuộc tấn công và với t́nh h́nh sôi động như vậy, SĐ3 có được tăng cường đặc biệt bằng các đơn vị tổng trừ bị hay không; Tướng Giai xác nhận là các đơn vị TQLC và BĐQ th́ đă được tăng phái cho SĐ3 từ khá lâu . Riêng trong những ngày trước khi cuộc đánh đẫm máu xảy ra th́ không có thêm lực lượng nào khác .
Ngoài ra, Cựu TL/SĐ3 c̣n cho chúng tôi hay rằng: Trước đó một tháng, Tướng Lavelle, Tư Lệnh Không Quân Mỹ tại Thái B́nh Dương v́ ra lệnh cho KQ Mỹ bắn cháy một số xe tăng của VC nên ông ta đă bị Mỹ cách chức, lột lon và truy tố !
Cũng trong cuộc mạn đàm này, chúng tôi được biết thêm là song song với những biến chuyển của t́nh h́nh Quảng Trị, Mỹ và VC vẫn tiếp tục gặp gỡ nhau trên bàn Hội Nghị Paris và từ trước năm 1971, hai bên đă thỏa thuận về việc cấm mọi hoạt động của các phi cơ quân sự Việt – Mỹ tại vùng Bắc sông Bến Hải . Sự kiện này khiến chúng tôi hiểu tại sao những bản ” Đề nghị mục tiêu oanh kích ” mà chúng tôi gửi cho BTL/MACV của Mỹ ở Saigon, vào thời điểm đó, đă không được thực hiện . Đấy cũng là lư do khiến KQ/VNCH từ Đà Nẵng không được phép tấn công và phá hủy ngay từ khi VC bắt đầu mở lộ tŕnh mới từ đường ṃn HCM dẫn đến vùng Bến Hải hầu tiếp cận các căn cứ hỏa lực và các đơn vị pḥng thủ của VNCH tại phía nam của vùng PQS . Rơ ràng là HK đă dọn đường và dành mọi điều kiện thuận lợi cho VC tấn công VNCH mà trước đó họ vẫn ca tụng là ” Tiền đồn chống Cộng ” của Thế Giới Tự Do . Tổng thống Thiệu, Đ.T. Viên dư biết các sự kiện đó, nhưng tại sao các ông không t́m một biện pháp nào tương xứng để pḥng bị hoặc đối phó ? Phải chăng VNCH đă được lănh đạo bởi những người không đủ đảm lược và tầm vóc ?
Tướng Giai c̣n cho chúng tôi hay rằng cũng vào thời điểm này, TT Thiệu tuyên bố ngụ ư rằng đây sẽ là mồ chôn của VC .
Chúng tôi hỏi là: Về tương quan lực lượng giữa ta và địch trước khi VC tấn công vào vùng hỏa tuyến, niên trưởng có nghĩ rằng việc sử dụng một sư đoàn tân lập với một quân số phức tạp như SĐ3BB để đương đầu với một lực lượng VC có một quân số nhiều lần lớn hơn và được tăng, pháo yểm trợ mạnh mẽ là một sai lầm nghiêm trọng của Bộ TTM ở Saigon hay không ?
Tướng Giai không trả lời, ông mỉm cười, một nụ cười héo hon, chua xót khiến chúng tôi chạnh ḷng và xúc động . Những thắc mắc của chúng tôi hầu như đă được giải tỏa . Hơn nữa, chúng tôi không muốn khơi lại vết thương ḷng của một vị tướng vừa được vinh thăng tại mặt trận, nhưng chỉ ít lâu sau đó bị tước đoạt binh quyền và khi VC chiếm được miền Nam, ông lại bị Cộng sản đọa đầy thêm 13 năm nữa . Ông hiện sống âm thầm, ẩn dật và khép kín trong một chung cư dành cho người già cùng người vợ yếu đau và chính ông, sức khỏe cũng không được khả quan lắm
Có lẽ v́ định mệnh, khi BTL/SĐ3BB di chuyển về căn cứ Ḥa Khánh tại phía nam đèo Hải Vân, gần Ngă Ba Huế; tôi được thuyên chuyển từ Saigon ra tăng cường cho P2/SĐ3 . Ngay sau khi tŕnh diện Ch/Tướng Hinh TL/SĐ3, tôi được gửi ra BTL Tiền phương đóng tại Hương An và đi bay với các toán trực thăng Mỹ trong các cuộc hành quân ” lấn đất giành dân ” trước khi bản Hiệp Định Paris được kư kết vào ngày 27/1/1973 . Trong gần 3 năm, tôi đă chứng kiến điều kiện chiến đấu khó khăn của các đơn vị tiền đồn và tôi hiểu rằng Miền Nam sẽ mất vào bất cứ lúc nào .
Tiếp liệu và đạn dược bị hạn chế tối đa . Một viên đạn bắn đi là kho đạn trung ương hao đi một ít v́ không được bổ sung . Nguyên tắc ” một đổi một ” được quy định trong HĐ Paris không được phía HK thực hiện . Điều đó có nghĩa là : VNCH là một con bệnh mắc chứng nan y nằm chờ chết ! Chiến đấu trong hoàn cảnh đó là chiến đấu trong nỗi tuyệt vọng . Ai chịu trách nhiệm về việc này ?
Tại Ngă Ba Huế, tôi chứng kiến cảnh dân quân VNCH từ Huế vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng trong những ngày 21 & 22/3/75 . Đúng một tuần lễ sau, lúc 00 giờ 20 ngày 29/3/75, tôi cũng là một trong những người sau cùng rời căn cứ Ḥa Khánh bằng đường bộ sau khi Tướng Hinh và một số sĩ quan cao cấp nhất có mặt tại BTL/SĐ3 lên trực thăng bay ra tàu Mỹ đậu ngoài khơi gần Đà Nẵng . Hai mươi mốt ngày sau, tôi t́m về được với gia đ́nh và người thân ở Saigon đúng 10 ngày trước khi thủ đô của VNCH rơi vào tay CS
II/ Phân tích và nhận định về cuộc lui quân để tái phối trí của SĐ3BB khỏi Quảng Trị năm 1972:
Chúng tôi không nhắc lại chi tiết của các trận đánh v́ trong suốt mấy chục năm qua, nhiều tác giả tham dự trong biến cố này đă viết khá đầy đủ . Hơn nữa, đó cũng không phải là chủ đích của bài viết này .
Theo quan niệm của chúng tôi th́ sự thành công hay thất bại, dù huy hoàng hay chua xót tới đâu, chúng ta cũng có thể phân tích và nhận định một cách khách quan để từ đấy rút ra những kinh nghiệm hữu ích cho các thế hệ tương lai, nhất là những thất bại, để con cháu chúng ta không rơi vào vết xe đau thương và bẽ bàng của ông cha chúng .
Để nh́n vấn đề một cách trung thực và chính xác hơn, chúng ta phải nh́n từ ” góc cạnh chính trị ” của cuộc chiến VN vào thời điểm đó . Tuy nhiên, trên b́nh diện thuần túy quân sự, qua việc thất bại ấy, chúng ta ghi nhận những khuyết điểm sau :
1. Thành phần :
Thành phần chủ lực của SĐ3 là Tr/đoàn 2 lấy ra từ SĐ1 . Đặc biệt, Tr/đoàn này có tới 5 tiểu đoàn . Khi được chuyển qua SĐ3 th́ 3 tiểu đoàn ở lại với Tr/Đ2 . Đây là một đơn vị dạn dày tác chiến và nổi danh từ lâu tại vùng giới tuyến . Nhưng hai trung đoàn 56 và 57 th́ mỗi Trung đoàn có một tiểu đoàn c̣n lại của Tr/ Đ2 trước kia và một tiểu đoàn lấy ra từ SĐ2BBB; số c̣n lại là các tân binh quân dịch, địa phương quân, nghĩa quân và lao công đào binh chưa có kinh nghiệm chiến trường mà đột nhiên phải đối mặt với một trận đánh bốc lửa có cả tăng, pháo và các loại vũ khí nặng của VC đánh phủ đầu th́ việc thất trận không làm ai ngạc nhiên . Vả lại, chúng ta đừng quên rằng SĐ3 và các đơn vị tăng phái đă phải đối đầu với một lực lượng địch đông gấp 3 lần về quân số và chiến trường đă được VC sửa soạn kỹ từ nhiều tháng trước
2. Tinh thần và khả năng chiến đấu:
Chỉ 3 ngày sau khi VC mở trận đánh, căn cứ Holcomb của TĐ8/TQLC đă bị VC tràn ngập . Ngay sau đó, việc đầu hàng của Tr/tá Đính, Tr/đoàn trưởng Tr/đoàn 56 tại căn cứ Tân Lâm cùng 1500 binh sĩ dưới quyền đă làm chấn động tinh thần quân nhân các cấp khiến nó trở thành một phản ứng dây chuyền trong những tuần lễ tiếp theo đối với các đơn vị khác . Hiện tượng này đă được lập lại trong cuộc di tản ồ ạt vào cuối tháng 3 và đầu tháng 4/75 tại Miền Trung trước khi mất nước .
Tóm lại, với một tương quan lực lượng như thế và với t́nh h́nh phức tạp từ trung ương đến địa phương như đă tŕnh bày ở trên, chúng ta có thể kết luận rằng bất cứ một tướng lănh nào, dù tài giỏi đến mấy, cũng khó có thể thay đổi được t́nh thế bởi nó đă vượt ngoài tầm kiểm soát của các cấp chỉ huy . Các đơn vị tăng phái nhiều khi nhận lệnh theo hệ thống hàng dọc từ đơn vị ḿnh chứ không hoàn toàn nằm dưới sự điều động của Tướng Giai . Với quân số như thế, cuộc hành quân này trở thành một cuộc hành quân cấp quân đoàn, vượt khỏi khả năng của Tướng Giai vừa được vinh thăng Chuẩn tướng sau cuộc hành quân Hạ Lào 1971, nhất là nó lại xảy ra đúng vào lúc mà tinh thần quân nhân các cấp đang bị hoang mang, giao động hết mức .
3. Các yếu tố chính trị liên quan đến chiến cuộc tại Miền Nam:
Trước t́nh h́nh hết sức xáo trộn tại Miền Nam sau ngay QĐ đảo chính lật đổ chính phủ Đệ Nhất Cộng Ḥa, người Mỹ đến VN gọi là để giúp VNCH trong cuộc chiến đấu chống Cộng và họ hy vọng rằng chiến tranh sẽ chấm dứt trong một thời gian ngắn bởi họ tin tưởng hầu như tuyệt đối vào hiệu năng của vơ khí . QĐ Mỹ đă chiến thắng hai cuộc Đại Chiến Thế Giới và đă thắng trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, đè bẹp đạo quân Trung Cộng và Bắc Hàn năm 1953 nên người Mỹ nghĩ rằng sẽ dễ dàng giải quyết cuộc chiến tại VN . Những người làm sách lược và chỉ huy QĐ Hoa Kỳ không hiểu được bản chất và sách lược của cuộc chiến tranh du kích là kéo dài thời gian làm cho đối phương mất kiên nhẫn, mệt mỏi, chán nản và căng thẳng thần kinh khiến đối thủ phải bỏ cuộc . Với phương thức đánh lén, đánh trộm, họ có thể tấn công đối thủ vào những lúc bất ngờ và thuận lợi nhất nên dễ đạt được kết quả mà chỉ cần rất ít người tham chiến . Giả dụ, nếu thua họ sẽ dễ dàng trà trộn vào đám đông, quần chúng hay trốn vào rừng hoặc chạy qua biên giới các nước bên cạnh . Qua h́nh thái chiến tranh ấy, VC đă làm cho người Mỹ chán nản v́ bị thiệt hại khá nhiều về sinh mạng cũng như về ngân sách mà kết quả đạt được không như dự tính
Bản chất của người Mỹ là mau chán, tiết kiệm thời gian . Làm việc ǵ họ cũng đặt nặng vấn đề thời gian và năng suất, bởi vậy cuối nặm 1964 họ đổ quân vào VN và cuối năm 1967 họ đă nghĩ đến việc rút quân . Việc QĐ Hoa Kỳ án binh bất động khi VC tấn công QL/VNCH trong những ngày đầu của Tết Mậu Thân 1968 đă một phần chứng minh điều đó . Cá nhân chúng tôi không tin rằng các cơ quan t́nh báo Mỹ không biết ǵ về cuộc Tổng công kích này trước khi nó xảy ra . Là một nước cổ súy cho tự do và dân chủ, nhưng những người lănh đạo Hoa Kỳ ít quan tâm đến tâm lư, lịch sử, truyền thống và văn hóa của người bản xứ . Người Mỹ cũng không muốn hiểu rằng sự có mặt của QĐ Mỹ ở VN đă tạo cơ hội cho khối CSQT mở rộng mặt trận tuyên truyền lừa gạt dư luận thế giới rằng VC đánh VNCH và Mỹ là để giải phóng Miền Nam; dù thực chất đó là cuộc xâm lăng nhằm mở rộng Khối CSQT v́ cuộc chiến VN đă bắt đầu 7 năm trước khi QĐ Mỹ đến VN . Mỗi năm CSQT đă chi ra hàng trăm triệu Mỹ kim về lănh vực đó và kết quả là dư luận thế giới nghiêng về phía VC . Các cuộc biểu t́nh chống Mỹ xảy ra tại khắp nơi trên thế giới và ngay tại nước Mỹ do các thành phần phản chiến và thiên tả Mỹ chủ trương . Điều đó mặc nhiên bất lợi cho cả Mỹ lẫn VNCH .
Nước Mỹ mỗi tháng tiếp nhận hàng trăm quan tài, hàng ngàn thương binh trở về từ một nước xa xôi, không liên hệ ǵ đến đời sống hàng ngày của họ trong khi chi phí quốc pḥng mỗi năm một tăng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân . Đă thế, họ c̣n bị cả thế giới lên án th́ việc chống chiến tranh cũng là một phản ứng dễ hiểu và tự nhiên . Hơn nữa, phe đối lập tại Thượng và Hạ viện Mỹ đả kích chính phủ để kiểm phiếu trong các mùa bầu cử cũng là một yếu tố khiến Mỹ muốn rút khỏi VN . Được sự viện trợ và thúc đẩy của CSQT, VC ngày càng mở những trận đánh quy mô hơn và tổn thất của mỗi bên ngày một lớn . Sinh mạng con người đối với CS chẳng nghĩa lư ǵ, nhưng sinh mạng người lính Mỹ khiến gia đ́nh họ phải lo lắng nên họ đ̣i chính phủ HK phải chấm dứt chiến tranh bằng mọi giá để chồng con của họ được lành lặn trở về trước khi trở thành quá trễ
4. Mục tiêu của chính phủ HK khi tham chiến tại VN:
Là một quốc gia giàu mạnh với tất cả các cơ cấu hạ tầng vĩ đại và tối tân, do đó không bao giờ HK muốn chiến tranh xảy ra ngay trên lănh thổ của ḿnh v́ sự thiệt hại về tài sản cũng như về nhân mạng sẽ vô cùng to lớn . Đó là lư do khiến HK tham dự vào 2 cuộc chiến ở phía bên kia bán cầu và ở Cao Ly .
Sau Thế chiến thứ 2, khối CSQT lớn mạnh và chủ trương phát động cuộc chiến tranh xâm lấn khiến HK phải áp dụng sách lược bao vây để chận đứng . Với cương vị đứng đầu phe tư bản và thế giới tự do, Mỹ viện trợ cho các nước có chiến tranh bằng chính ngân sách của ḿnh để phe thân Mỹ thắng hoặc nắm được ưu thế, chứ không nhằm biến các nước này thành thuộc địa như Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đă làm từ cuối thế kỷ 19 . Riêng tại VN, trong cuộc chiến vừa qua, HK muốn dùng VNCH như một bức tường để ngăn chận CSQT bành trướng về phía ĐNA v́ theo quan điểm của Mỹ lúc ấy, họ cho rằng nếu VNCH sụp đổ th́ các nước lân bang của VN sẽ dần dần rơi vào quỹ đạo của CS . VNCH không c̣n một lựa chọn nào khác . Tuy nhiên, việc HK gửi quân sang VN là một điều thất sách như đă được nói đến ở trên .
5. Lư do khiến Mỹ muốn rút quân ra khỏi VN:
Ngoài nguyên nhân là phản ứng bất lợi của quần chúng, chính phủ Mỹ c̣n nghĩ rằng nếu dùng ưu thế về vơ khí để thắng trong cuộc chiến VN th́ Mỹ lại phải đương đầu trực tiếp với Trung Cộng . Lúc ấy điểm nóng của chiến tranh sẽ là vùng biên giới Việt – Trung . Điều đó nhất định không phải là điều HK mong muốn . Hơn nữa, hơn ai hết, bằng những h́nh ảnh chụp bằng phi cơ U2 bay trên thượng tầng khí quyển và không ảnh chụp từ vệ tinh, HK biết rất rơ ràng tại biên giới giữa Liên bang Xô Viết và Trung Cộng, mỗi bên đều dàn hơn 20 sư đoàn sẵn sàng tác chiến v́ sự xung đột về ư thức hệ và v́ cả hai đều muốn cầm đầu khối CSQT . Đấy cũng là động lực thúc đẩy Mỹ làm thân với TC và mượn tay TC ngăn chận Nga mở rộng ảnh hưởng về phía nam v́ vào thời điểm ấy, tiềm lực quân sự của TC chưa thể là đối thủ và là mối bận tâm hàng đầu của Mỹ . Qua chiến lược đó, VNCH bắt buộc trở thành vật hy sinh để tế thần, cùng chung số phận với Đài Loan bị đẩy ra khỏi các tổ chức Quốc tế . Đó là kết quả của chính sách ” ngoại giao bóng bàn ” của Henry Kissenger va Richard Nixon . T́nh nghĩa đồng minh với VNCH và Đài Loan chấm dứt ! VNCH bị bức tử .
Hai mươi năm sau, Liên Bang Xô Viết và khối CS Đông Âu sụp đổ . Trung Cộng mỗi ngày một lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự và qua những biến cố về Biển Đông từ hơn 10 năm qua, trở thành mối lo hàng đầu của Mỹ . Trong bối cảnh ấy, HK lại t́m cách để làm thân với VC để t́m một chỗ đứng tại vùng Đông Nam Á châu, hầu cân bằng thế lực tại khu vực này của thế giới
III/ Kết luận:
Nhiều người trách Mỹ phản bội VNCH . Họ có thể đúng nếu trên lănh vực bang giao QT buộc tất cả các nước trên thế giới hành sử theo nguyên tắc: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín . Tiếc rằng, điều đó sẽ không bao giờ trở thành sự thật như một quy ước bắt mọi người phải tôn trọng, nên mỗi quốc gia đều làm những ǵ có lợi nhất cho ḿnh . Hơn ai hết, HK đă từ lâu theo đuổi chủ trương ấy . Tôi không nhớ tên một nhà lănh đạo nào đó của HK đă thẳng thắn xác định ngụ ư rằng HK không có Bạn, cũng không có Thù, chỉ có quyền lợi của HK là trên hết . Cuộc chiến VN đă kết thúc một cách đau thương, đầy nước mắt và cuộc lui quân của SĐ3BB tại Vùng Hỏa Tuyến năm 1972 là bước khởi đầu cho nỗi đắng cay và đọa đầy chung của cả dân tộc
Khi chính trị chen vào bất cứ lănh vực nào th́ mọi lư lẽ và đạo đức phải đội nón ra đi !
Xin một phút mặc niệm cho tất cả những người đă nằm xuống v́ LƯ TƯỞNG TỰ DO và chúng tôi nghiêng ḿnh trước nỗi thống khổ của những chiến hữu đă bị đọa đầy, khổ nhục sau cuộc chiến đấu ” oan khiên nhưng hào hùng và gian khổ ” để bảo vệ Đất Nước
THẾ HUY
Ghi chú:
(1) Trung tá Phạm Đức Lợi tức nhà thơ Mạc Ly Châu trong Hội Văn Nghệ QĐ đă tự sát tại nhà riêng ngày 30/4/75 khi VNCH rơi vào tay CS
hoanglan22
01-11-2019, 22:13
Tài khập khễnh trên chiếc nạng gỗ hối hả về nhà. Đă từ hơn mười năm nay, ngày nào cũng vậy, dù đắt hay ế, cứ ngoài 5 giờ chiều là chàng lo ba chân bốn cẳng chạy về. Chẳng phải v́ có người yêu hay vợ con chờ đợi mà v́ chàng c̣n một Mẹ già đă ngoài bẩy mươi, bị liệt đôi chân đă mười năm nay. Mỗi sáng trước khi cầm xấp vé số đi bán, chàng đều cẩn thận đặt bên cạnh mẹ tô cơm và ít đồ ăn mà chàng đă dậy từ lúc gà gáy sáng để nấu, rồi chàng cũng đánh một bụng cho no, để đi bán cho tới chiều. Từ ngày chị chàng cùng người chồng đi vượt biên vào đầu năm 80 mất tin tức, nhà chỉ c̣n có hai mẹ con. Trước đây khi bà c̣n khỏe mạnh đi lại được th́ chàng cũng đỡ vất vả, nhưng từ ngày mẹ yếu chàng phải đảm đương mọi việc kể cả việc chăm sóc vệ sinh cho mẹ. Công việc đối với một người b́nh thường khỏe khoắn lành lặn cũng đă là khá vất vả, huống chi là đối với chàng một thương binh nặng, quả là cực kỳ khó khăn, nhưng chẳng bao giờ chàng có một lời than văn. Mẹ chàng nhiều khi thấy con quá khổ không cầm được nước mắt, đă mấy lần bà nói với chàng :
– Tài à, con tàn tật lo cho thân con c̣n chưa xong, bây giờ lại thêm mẹ nữa, con làm sao kham nổi. Hay là con để cho mẹ chết có phải hay hơn không. Mẹ cũng đă già, đau khổ cũng nhiều rồi, mẹ có chết đi đó cũng là giải thoát cho cả hai mẹ con ḿnh.
Nghe mẹ nói thế chàng chỉ ôn tồn nói với bà :
– Con có thấy ǵ là vất vả đâu. Sao lúc con bị thương mang thân xác tàn tật trở về con muốn chết đi th́ mẹ lại bảo đừng có dại dột, dầu sao th́ cũng c̣n có mẹ. Thôi mẹ đừng có suy nghĩ lung tung.
0-0-0-0-0
Ngày đó, vào khoảng gần cuối năm 1974, lúc vừa tṛn 18 tuổi, chàng đă lén mẹ để t́nh nguyện đăng lính Biệt Động Quân. Sau ba tháng thụ huấn tại Trung Tâm Dục Mỹ, chàng được đưa về Tiểu Đoàn 86 thuộc LĐ 8 BĐQ, đang được thành lập tại Dục Mỹ. Rồi ngày 30 tháng 4, trong trận đánh cuối cùng của đơn vị tại Bà Hom chàng bị thương nặng. Sau đó được dân chúng bỏ lên xe lam chở vào bệnh viện Triều Châu. Khi tỉnh dậy chàng mới hay rằng chàng đă mất một con mắt và cụt một chân trên đầu gối. Ít ngày sau, dù vết thương c̣n đang chẩy máu, nhưng sợ bị làm khó dễ, chàng đă lén lút xuất viện rồi nhờ sự giúp đỡ của một số người hảo tâm, chàng đă t́m về được với gia đ́nh ở tận phường Thanh B́nh Đà Nẵng. Gặp lại mẹ và chị, chàng vui mừng khôn xiết, chàng xin lỗi mẹ v́ chàng đă lén đi lính để ra nông nỗi như bây giờ. Nhưng mẹ chàng tuy có xót xa v́ tấm thân tàn phế của con, nhưng bà không trách chàng lấy một tiếng, mà ngược lại c̣n an ủi khiến cho chàng cũng nguôi ngoai:
– Mẹ nghĩ con đă làm đúng. Nếu bố con c̣n sống ông cũng hài ḷng về việc làm của con. Thôi th́ tuy rằng nước đă mất, nhưng con cũng đă làm tṛn bổn phận con dân nước Việt.
Đà Nẵng bị thất thủ sớm, nên ngay từ những ngày đầu tháng tư, cả thành phố như phủ một màu đen tang tóc. Dân chúng đi lại thưa thớt, bất đắc dĩ phải ra đường th́ đi thật hối hả, mặt cúi gầm xuống như sợ người khác nhận diện, gặp người quen cũng không dám đứng lại hỏi chuyện, người người nh́n nhau bằng con mắt nghi kỵ. Nỗi ám ảnh của một Mậu Thân ngoài Huế vẫn c̣n in sâu trong tâm trí người dân Đà Nẵng. Nhiều gia đ́nh v́ sợ sẽ bị tố là tư sản nên đồ đạc quư giá trong nhà đem ra bán tống bán tháo. Hầu hết kẻ mua lúc bấy giờ là đám Việt cộng miền Bắc. Thậm chí có người mang chiếc xe honda c̣n khá mới để đổi lấy chiếc xe đạp v́ sợ không có xăng để chạy. Những chiếc áo dài tha thướt đă đột nhiên biến mất ngay ngày đầu tiên khi giặc Cộng vào chiếm thành phố. Cũng không hiểu từ đâu mà những bộ quần áo xám, xanh, đen, được may bằng nhưng loại vải thô cứng đă xuất hiện như một mốt thời trang nhan nhản trên đường phố. Nhiều người c̣n tỏ ra là ḿnh đă giác ngộ cách mạng một cách triệt để bằng cách đeo những miếng vải đỏ tham gia đội ngũ đám cách mạng 30 đi chỉ điểm nhà của những công chức cao cấp hay sĩ quan cho bọn ủy ban quân quản – Trong đám cách mạng 30 này, không ít những thằng du thủ du thực, đầu trộm đuôi cướp.
Mấy ngày đầu khi mới trở về v́ vết thương c̣n quá đau nhức, nên Tài c̣n nằm nhà. Ít tuần sau khi sức khỏe khả quan hơn, chàng thử lết một ṿng quanh phường xem t́nh h́nh thế nào, để c̣n phải tính chuyện làm ăn. Một vài người quen nhận ra chàng, nhưng ai cũng chỉ hỏi thăm vài câu tỏ vẻ ái ngại cho chàng rồi họ t́m cách lảng tránh. Tài cũng biết không phải v́ họ hờ hững mà v́ họ sợ, nói chung là họ sợ đủ thứ, sợ bất cứ cái ǵ liên quan đến chế độ mà chỉ ít ngày trước đây họ đă tận lực phục vụ. Những ông sĩ quan và các công chức cũng đang lục tục đi tŕnh diện “học tập cải tạo”. Trong khi đó th́ đám cán bộ Việt Cộng từ Bắc vào cũng đang chia nhau đi “tịch thu chiến lợi phẩm của bọn Mỹ Ngụy ác ôn để lại”. Chúng ngang nhiên chiếm cứ những căn nhà mà chủ nhà đă đi nước ngoài hay di tản vào sâu trong các tỉnh Miền Nam chưa kịp trở về.
Trong những ngày này, trên con đường Quốc lộ 1 từ Nam ra Bắc, người ta thấy từng đoàn xe vận tải Kama3 phủ bạt nối đuôi nhau liên tục ngày đêm chở “chiến lợi phẩm”, hay nói đúng hơn là tài sản của chế độ Việt Nam Cộng Ḥa cũng như của dân chúng bị Việt Cộng cướp giữa ban ngày, theo chủ trương cào bằng để Miền Nam phải nghèo bằng hoặc phải nghèo hơn miền Bắc Xă Hội Chủ Nghĩa. Những năm tháng đầu, mẹ con chàng cũng đi phát nương làm rẫy trồng khoai sắn, quá cực nhọc mà cũng không đủ ăn, dù chỉ là ăn độn. Được vài năm th́ Tài xin được một việc phụ lưới đánh bắt dọc theo ven biển, c̣n mẹ chàng th́ nhận vá lưới cho các ghe cào, nên cũng tạm đắp đỗi qua ngày. Cho đến đầu những năm 80, lúc đó phong trào xổ số nổi lên khắp nơi, không tỉnh thành nào là không có công ty phát hành vé số, người dân qua hai đợt đổi tiền và đợt đánh tư sản mại bản đă trở nên cùng kiệt, họ đổ xô vào đánh bạc với nhà nước cũng như với số đề, để hy vọng thoát khỏi kiếp nghèo.
Cũng như nhiều người khác, Tài chuyển sang đi bán vé số dạo, tuy cũng chẳng khá hơn, nhưng đỡ nguy hiểm. Lúc này cũng đă có một số sĩ quan đi tù về, họ làm đủ thứ nghề như đạp xích lô, chạy xe ba gác chở hàng mướn, bán kem, bán vé số dạo v..v.. Trong số này có ông đại úy Bảy, Tài không biết trước ông ta ở đơn vị nào, nhưng sau khi ở tù về được hơn tháng th́ thấy ông ta ra một sạp bán vé số có ghi số đề, lại có thêm thùng thuốc lá để bên trên. Ngoài ra ông c̣n đặt thêm cục gạch để bán xăng lậu, quả thật đây là một cơ ngơi buôn bán có tầm cỡ vào lúc bấy giờ mà đám anh em tù cải tạo về nằm mơ cũng chẳng có. Nhiều anh em đi ngang nh́n vào tỏ ư thèm thuồng. Lúc đầu ông c̣n nh́n anh em với ánh mắt thân thiện, nhưng rồi chỉ ít ngày sau nó đă bắt đầu vênh váo. Chẳng qua là v́ việc ghi số đề lén và bán xăng lậu của ông đă được chiếc ô dù là tên công an khu vực bao che, không những thế mà đám công an và đám ủy ban phường cũng thường ghé đổ xăng cũng như mua thuốc lá. Đôi khi ông c̣n được ngồi uống cà phê với bọn họ nói cười có vẻ tâm đắc lắm. Tên công an khu vực cũng lui tới nhà ông thường hơn. Nó dắt vợ ông đi bắt mánh làm ăn.
Trước kia chị vợ c̣n ra trông hàng phụ ông, nhưng những ngày sau này th́ chị chỉ mang cơm cho ông vào những buổi trưa rồi lấy cớ bận lo chuyện làm ăn mánh mung riêng. Hàng xóm đă biết chuyện chị vợ cặp kè với tên công an khu vực từ ngày ông c̣n ở tù, nhưng không ai muốn bị vạ miệng. Hơn nữa thấy thái độ vênh váo của ông Bảy, nên cũng chẳng ai dỗi hơi bắn tiếng cho ông biết. Chuyện ǵ chứ cái chuyện vợ đi ngủ với trai th́ chỉ có những thằng đàn ông đần độn ngu không c̣n để ai ngu hơn mới không biết. Huống hồ là chị ta có cần ăn vụng đâu mà phải chùi mép. Chúng nó ngồi bàn ăn uống phủ phê là đằng khác. Nên một hôm khi tên công an chở chị vợ mang cơm ra th́ ông Bảy bắt đầu nói xa nói gần
– Dạo này tôi thấy em hơi khang khác. Bộ cái anh công an khu vực không phải đi làm sao mà tôi thấy ảnh đi với ḿnh hoài. Không phải tôi ghen tuông đâu, nhưng dù ǵ ḿnh cũng đă từng là…….
Không để cho anh chồng hết lời , chị vợ tươm tướp cướp lời, chị vừa nói vừa xỉa cái bàn tay với những cái móng đỏ chót vào mặt ông Bảy :
– Này đừng có mà ghen bóng ghen gió. Tôi đi với người ta là v́ công chuyện làm ăn. Cái quầy vé số ông có đây cũng là nhờ người ta cả đấy. Ông thấy có thằng tù nào về mà được như ông không. Sáng nào cũng cà phê cà pháo, hút thuốc có cán lại c̣n được ngồi với các anh trong ủy ban phường. Ông tưởng ông là ai mà ông bảo dù ǵ ḿnh cũng từng là….là cái ǵ? Mà tôi cũng chẳng cần dấu ông làm ǵ,,, Ừ th́ tôi ngủ với nó đấy. Hóa ra bây giờ ông mới biết à!
Dứt lời chị vơ ngúng ngoa ngúng nguẩy thót lên cái yên sau chiếc xe honda 67 của thằng công an từ năy đến giờ vẫn nổ máy đậu phía bên kia đường dọt đi mất dạng. Vài người hiếu kỳ từ năy đến giờ chứng kiến cái cảnh trên cũng ái ngại cho ông chồng. Nhưng cũng có người v́ đă chứng kiến thái độ của ông chồng khi ngồi chung với đám việt cộng nên cũng chẳng ngại ǵ mà không buông ra vài câu xa gần cho bơ ghét:
– Đù mẹ cho đáng đời thằng chả. Cái thứ ngọn cỏ đuôi chồn đó bị vợ cặm sừng là đáng lắm rồi. C̣n con mụ vợ lúc nó thót lên cái yên xe trông xốn con mắt. Thứ này phải để cho ngựa mới đă, thật đúng là đồ đĩ ngựa.
Thế rồi câu chuyện đó cũng chẵng c̣n ai nhắc đến, v́ ai nấy cũng c̣n quá nhiều điều phải lo. Cuộc sống cứ ́ ạch trôi, c̣n con người th́ có kẻ mánh mung chụp giựt, quơ quào về cho ḿnh bất chấp đạo lư luân thường. Nhưng cũng có người sống như lục b́nh trôi, như sống trong một hành tinh xa la, bởi lẽ sống của họ đă mất từ sau ngày 30 tháng 4. Cuộc sống của hai mẹ con Tài ngày một khó khăn hơn, cũng như đất nước mỗi ngày một suy xụp. Để cứu đảng, họ bắt đầu phải “hé cửa” ra với thế giới bên ngoài. Đă bắt đầu có “Việt Kiều” về thăm quê. Rồi đến đầu năm 90, những người đi tù cải tạo lần lượt đi Mỹ. Vợ chồng ông Bảy cũng lũ lượt theo đoàn người xuất cảnh. Nhưng bà cũng không quên hứa hẹn với tên công an là sau khi ổn định bà sẽ lại về thăm quê hương, hay nói đúng ra là về để nối tiếp dan díu cho thỏa măn sự dâm dật của bà.
Vào giữa năm 1995, Mẹ Tài sau một cơn bạo bệnh nằm liệt giường mất mấy tháng, từ đó đôi chân của bà đi lại rất khó khăn và dần dần bị liệt. Đă hơn một lần Tài ao ước có một người vợ để có người chăm sóc cho mẹ. Nhưng nghĩ đến cảnh vợ chồng ông Bảy khiến chàng ngao ngán, vả lại cũng khó t́m người nào có đủ can đảm để làm vợ một người đui mù què cụt như chàng. Từ đó không bao giờ chàng c̣n có ư tưởng đó nữa. Kể từ ngày “hé cửa”, thành phố cũng có phần thay da đổi thịt. Bọn cán bộ lại càng có cơ hội vơ vét, tham nhũng nhiều hơn. Chúng xây những biệt thự nguy nga tráng lệ, đi những loại xe hơi mắc tiền. Con cái bọn chúng các “cô chiêu cậu ấm” th́ xe gắn máy phân khối lớn, thuốc lắc nhẩy đầm từ tối đến sáng, vung tiền qua cửa sổ hàng đêm vài trăm đô là thừơng. Nhiều gia đ́nh có thân nhân ở nước ngoài cũng đă bắt đầu sửa chữa nhà cửa cho khang trang để đón “Việt Kiêù”. Người khá hơn th́ xây nhà mới ba hoặc bốn tấm (ba hay bốn tầng lầu đúc). Nhà cửa và điều kiện cuộc sống đi lên th́ đạo đức luân thường lại đi xuống. Các quán cà phê ôm, bia ôm, hớt tóc ôm v..v, mọc lên như nấm. Thậm chí c̣n có cả một số chị em ta bán vé số ôm. Các loại dịch vụ ôm này đă cuốn hút hàng ngàn thiếu nữ trong các vùng nông thôn nghèo đổ dồn về thành phố hoạt động. Nếu ngày xưa trong chiến tranh, bọn VC vẫn thường rêu rao là chế độ Miền Nam xấu xa, đă có gần một trăm ngàn gái điếm (không biết bọn chúng thống kê bằng cách nào), th́ ngày hôm nay trong những năm đầu của thiên niên kỷ thứ ba, chỉ riêng Đà Nẵng đă gần đuổi kịp con số một trăm ngàn chị em hành nghề không vốn. Anh em thương phế binh bán vé số bị giới vé số ôm này cạnh tranh, nên cũng đă nhiều anh em phải bất đắc dĩ chuyển sang nghề hành khất, đàn hát tại các bến xe, các chợ búa hay nơi đông người qua lại.
Những năm gần đây trong đám “việt kiều yêu nuớc, khúc ruột thừa ngàn dặm” về thăm quê hay về quê ăn tết đă thấy xuất hiện nhiều ông HO “áo gấm về làng”. Có những ông gần đất xa trời gom góp dành dụm ít tiền già cũng ráng về quê để hưởng thú”trâu già gặm cỏ non” với những cô gái tuổi chỉ đáng cháu nội cũng anh anh em em không biết nguợng mồm. Cũng có ông vợ bỏ hoặc bỏ vợ già về quê lấy vợ tuổi chưa bằng đứa con gái út. Bọn này khi trở về Mỹ khoe toáng lên nào là Việt Nam bây giờ đổi mới rồi, nhà hàng khách sạn năm sao mọc lên như nấm, các tụ điểm ăn chơi không góc phố nào là không có. Không biết có ăn phải bả Việt cộng không mà có ông c̣n nổ hơn tạc đạn, nào là ở Việt Nam ngay cả chị bán xôi, anh phu xích lô cũng xử dụng “c̣m píu tờ”, rồi nào là về VN chơi đă lắm, đủ loại đủ kiểu v..v và v..v Một hôm vào buổi chiều, cầm xấp vé số c̣n quá nhiều trên tay, Tài vừa đi vừa cầu xin cho gặp được nguời khách xộp mua hết cho v́ đă sắp đến giờ phải trả lại cho đại lư số vé c̣n lại. Mấy hôm nay chàng trả lại hơi nhiều nên họ đă dọa không giao vé cho chàng bán nữa, đang lo âu th́ có tiếng gọi mua vé số từ trong một quán bia ôm khiến Tài giật ḿnh, v́ chưa bao giờ chàng bán được lấy một tấm trong các hàng quán lọai này. Một lần chàng c̣n bị một tên công an đang ngồi trong quán dọa xé hết vé và quăng ra ngoài, nên từ đó không bao giờ chàng mời những ông khách loại này mua vé số nữa. Tài đứng lại nh́n vào th́ thấy một ông tuổi chừng 60, trắng da, dài tóc ra dáng Việt kiều đang ôm một cô tuổi chừng ngoài hai mươi ngồi trên đùi giơ tay ngoắc Tài :
-Ê vô đây cho người đẹp lựa ít tấm coi.
Tài khập khiễng bước vào ch́a xấp vé số cho cô gái lựa, bỗng chàng nhận ra người đàn ông không ai xa lạ chính là ông đại úy Bảy. Chàng chợt nhớ ra mấy năm trước người ta đồn là sau khi sang Mỹ không được bao lâu th́ bà vợ ông ngựa quen đường cũ, khi đang đi làm rửa chén cho một nhà hàng bà đă chài mồi thằng cha chủ đê mê đến nỗi cả hai đứa cùng hẹn nhau ra ṭa, gă ly dị vợ ả đá đít chồng rồi cả hai cùng sáp lại với nhau. Mụ trở thành bà chủ một nhà hàng lớn. Tiền bạc dư dả mụ bắt đầu lấy lư do về thăm mẹ ở Việt Nam hàng năm, để đú đởn với thằng kép công an trẻ. C̣n ông Bảy th́ sau khi bị vợ đá đít, ông giả điên giả khùng rồi chạy chọt với đám nhân viên sở xă hội người Việt để hưởng tiền an sinh xă hội với lư do ở tù cộng sản lâu nên bị hội chứng thần kinh thương nhớ. Sau đó, ông c̣n sống già nhân ngăi non vợ chồng với một bà hơn ông chừng sáu tuổi đă hưởng trợ cấp tiền già. Bà này dành dụm được đồng nào đều bị ông ngon ngọt dụ dỗ lấy hết sạch. Mấy năm nay, năm nào ông cũng về VN ăn chơi xả láng một hai tháng.
Nh́n cái mặt khả ố mày trơ trán bóng của ông Bảy đang ngồi đú đởn với cô gái tiếp viên bia ôm trước mặt, chàng giận tím mặt giật phắt những tấm vé số trên tay cô gái rồi chỉ tay thẳng vào mặt ông Bảy lắp bắp chửi :
– Đù mẹ, không có bán buôn ǵ hết. Chỉ v́ có những sĩ quan hèn hạ như ông nên mới mất nước, đồ phản bội.
Dứt lời chàng rời khỏi quán, v́ sợ nấn ná thêm không dằn được chàng dám cho ông một nạng. Từ khi có chương tŕnh cho các ông sĩ quan ở tù về được đi Mỹ, chàng luôn đặt niềm tin rằng họ sang Mỹ sẽ có điều kiện để tiếp tục đấu tranh giành lại quê hương, cũng như ngày xưa chàng đă đặt trọn niềm tin vào các cấp chỉ huy trực tiếp, tin vào lư tưởng chiến đấu Bảo Quốc An Dân của người lính VNCH, chàng đă hăng say lao vào lửa đạn, đă hy sinh gần nửa phần thân thể không một chút tiếc nuối, đă bị kẻ thù lăng nhục vùi dập đến đáy địa ngục nhưng chàng vẫn cao ngạo ngẩng cao đầu. Đang chống nạng rảo bước, Tài nghe có tiếng gọi của nguời con gái chen lẫn với tiếng chân dồn dập phía sau nên dừng lại.
– Chú ơi ! Con có chuyện muốn nói với chú……. Chú làm con nhớ ba con quá. Ba con mất mấy năm rồi. Con nghe má con nói ngày xưa ba con là lính nhẩy dù, ổng xông pha khắp các mặt trận bị thương thẹo cùng ḿnh. Những năm sau này mỗi khi có vài ly rượu ông lại mang cái nón đỏ ông vẫn giữ ra mân mê trên tay miệng th́ lẩm bẩm những chữ ǵ như U Minh, Đambe, Đức Cơ, Đồng Xoài, B́nh Giả v…v . Con nghe mà hổng biết ổng nói ǵ. Sau má cho con biết là ba đang nhớ về dĩ văng, đang nhớ lại những nơi đă từng hành quân qua. Đôi lúc con thấy nước mắt ba chảy xuống chắc là ba đang nhớ đến những bạn bè đă chết. Hồi năy nghe chú x́ nẹc cái ông già đó con thấy ổng hèn quá con quăng cái tờ 100 đô lại vào mặt ổng. Ổng muốn con đi ngủ với ổng đêm nay nhưng nh́n vào mặt ổng lúc đó sao con muốn ói quá. Từ ngày mai, mỗi ngày chú đi ngang con sẽ mua giúp chú ít vé. Biết đâu Trời ngó xuống cho ḿnh trúng một cái để thoát cái kiếp sống nhơ nhớp này ?????????. Nói đoạn cô gái dúi vào tay Tài một nắm giấy bạc rồi liến thoắng tiếp:
– Hôm nay con mua nhưng tặng lại cho chú. Nếu trúng nhớ đến con, mai con chờ chú đó. Không để cho Tài kịp trả lại tiền, nàng thoăn thoắt đi trở lại quán. Tài không có phản ứng ǵ, một giọt nước mắt từ trong cái hốc của con mắt đă bị múc đi hơn 30 mươi năm đang lăn dài xuống má. Chàng mặc cho nó cứ tiếp tục rỉ ra. Đă từ lâu chàng vẫn nghĩ rằng chàng sẽ không bao giờ c̣n nước mắt để khóc. Cuộc đời cay đắng đă vắt chàng cạn kiệt từ tâm hồn đến thể xác. Chàng hằng cầu xin Trời Phật hăy giữ lại cho chàng một giọt để dành cho ngày mẹ nằm xuống.
Thời gian càng làm cho cô gái tên Mỹ và Tài thêm thân thiện như người trong gia đ́nh. Những ngày nghỉ nàng thường ghé thăm và giúp đỡ dọn dẹp, vệ sinh cho mẹ Tài mà nàng gọi là bà nội. Nàng cảm thương cho số phận của Tài, đôi khi nàng muốn giúp anh một ít tiền nhưng đều bị anh từ chối.
– Chú tàn nhưng không phế đâu con. Con hăy dành dụm gởi về giúp má con và mấy anh chị. Con cũng c̣n phải lo cho con nữa chứ. Liệu sớm thoát cái cuộc sống đó đi con à. Con giúp chú và bà nội như vậy là quá nhiều rồi. Mấy hôm nay đài phát thanh đưa tin cơn băo Shansheng số 6 sắp sửa đổ vào Đà Nẵng. Phường ra lệnh cho mọi gia đ́nh phải di tản sâu về phía trong núi để tránh băo. V́ thân tàn tật chàng lên phường xin giúp di tản mẹ, nhưng họ trả lời là họ đang c̣n phải lo cho các gia đ́nh chính sách,. Đang loay hoay không biết xoay sở thế nào th́ Mỹ đến bằng một chiếc xe du lịch. Nàng hối hả dục Tài nhặt nhạnh ít đồ dùng cần thiết rồi cùng người tài xế khiêng bà cụ ra xe. Sau khi đă đến được nơi tuơng đối an toàn nàng bảo người tài xế mang xe về không quên gởi lời cám ơn đến tên thủ trưởng của anh ta, rồi nàng quay sang Tài cười ngặt ngẽo:
– Chú biết không, mấy thằng cán bộ lớn chỉ giỏi hách dịch với dân, nhưng khi trốn vợ đi cải thiện linh tinh là bị tụi con quay như quay dế. Hồi năy con dọa nó không đưa xe cho con mượn th́ con sẽ đến nhà nó để tránh băo. Con c̣n nhá cho nó thấy mấy tấm h́nh đă được chụp lén. Lăo sợ quá vội lệnh cho tài xế chở con đi liền. Thủ đoạn này con học ở bọn chúng nó đó chú. Con dùng mấy tấm h́nh này như cái ṿng kim cô để bắt chúng phải ngoan ngoăn chi đẹp. Con cũng biết rất nguy hiểm v́ bọn chúng rất tàn ác. Nhưng đă leo lên lưng cọp rồi, cùi đâu sợ lở nữa chú.
Đêm hôm đó mây đen vần vũ, gió rít lên từng cơn, sấm sét đầy trời. Những mảnh vụn gạch đá bị gió cuốn bay đi đến tận chỗ đoàn người lánh nạn. Cũng may ba bà cháu cùng một số người nằm trú dưới hiên của một căn nhà lầu đúc kiên cố, nên an toàn, nhưng cái lạnh làm mọi người run lên lập cập. Mẹ chàng nói là cả đời bà sống ở Đà nẵng nhưng chưa bao giờ có một trận băo mạnh như lần này. Măi đến trưa ngày hôm sau khi băo đă hết chỉ c̣n mưa nặng hột kéo dài, chàng dặn Mỹ canh chừng bà nội để chàng về qua nhà xem sao. Một cảnh tượng hoang tàn đổ nát không thể nào tưởng tượng nổi. Hầu hết các ngôi nhà đều bị xập hoặc trốc mái. Chỉ có những căn nhà lầu đúc là c̣n đứng vững chỉ bị bể cửa kiếng v́ bị gạch đá văng vào. Những nhà này hầu hết là của đám cán bộ hay những gia đ́nh có thân nhân ở nuớc ngoài. Đứng nh́n ngôi nhà mẹ con chàng chui rúc mấy chục năm nay chỉ c̣n là đống gạch vụn, chiếc chân c̣n lại như muốn khụy xuống may nhờ c̣n cặp nạng chống cho người chàng không đổ xuống. Cái tủ dùng làm bàn thờ cha và cái giường duy nhất để mẹ nằm đă găy nát. Rồi đây biết ăn vào đâu biết ở vào đâu. Cả buổi chiều chàng cứ thẫn thờ hết đứng lại ngồi giữa đống gạch vụn. Sự đau khổ đă đến tột cùng của sức chịu đựng,. Thân xác chàng như tê cứng. Hai tay bưng lấy mặt chàng muốn gào lên thật to “Chúa ơi! Phật ơi! Mẹ con con có làm chi nên tội mà các Ngài nỡ đày đọa mẹ con con đến nỗi này.” Trời đă xụp tối và đă thấm lạnh v́ nước mưa thấm qua chiếc áo tơi, Tài quay về nơi tạm trú không hé một lời. Thấy nét mặt nặng trĩu của Tài, Mỹ cũng đoán được, nên nàng cũng không hỏi v́ sợ bà nội biết sẽ có ảnh hưởng xấu cho sức khỏe.
Ngày hôm sau mọi người dân chạy tránh băo lại lục tục kéo nhau về. Tài cũng gọi một chiếc xích lô để mẹ ngồi c̣n ḿnh và Mỹ th́ lội bộ theo sau. Về đến nhà sau khi dọn dẹp lấy một khoảnh trống để trải được chiếc chiếu cho mẹ có chỗ ngả lưng, bấy giờ bà cụ mới gọi Tài và Mỹ lại gần rồi bà lần vào cái ruột tượng quấn ngang lưng lôi ra hai cái nhẫn vàng đưa cho Tài:
– Mẹ giữ cặp nhẫn cưới của bố mẹ định để khi nào mẹ chết th́ con dùng nó để lo liệu cho mẹ, nhưng bây giờ th́ con hăy dùng nó để mua cái ǵ dựng tạm chỗ che mưa nắng rồi sau này định liệu sau.
– Mẹ cứ cất đi, khi nào cần con sẽ xin mẹ, con cũng có ít tiền của bà con ở nước ngoài gởi về giúp hai lần được một trăm đô, con c̣n dành đó để khi nào ngặt lắm mới sài. Nhưng Tài đă ngăn lại
Quả thật khi nhận được số tiền này chàng vô cùng mừng rỡ. Mối lo lớn nhất của chàng là khi mẹ nằm xuống biết lo liệu làm sao, nên khi có số tiền này chàng đă luôn cất kỹ bên ḿnh và cũng hứa với ḷng là chỉ dùng nó cho việc hậu sự của mẹ. Tài dặn Mỹ ở nhà với bà rồi tất tuởi đi. Đầu tiên chàng đi gặp vài ba nguời hàng xóm để thăm hỏi và xin họ giúp dựng cái lều, ai nấy cũng đều sẵn ḷng. Chàng đi t́m mua được một miếng bạt vừa đủ chỗ che mưa nắng cho hai mẹ con. Chàng mua thêm được mấy miếng ván kê lên làm chỗ ngả lưng cho mẹ.
Từ hôm băo đến nay đă hơn mười ngày chàng cũng chưa đi bán vé số lại, cũng chẳng trông chờ ǵ vào sự giúp đỡ của chính quyền này được. Hôm qua họ thông báo lên phường lănh gạo. Sau khi sắp hàng ngồi chờ hơn hai tiếng đồng hồ th́ xe gạo mới đến, nhưng rồi tên trưởng đồn công an yêu cầu “ngụy quân ngụy quyền” đứng riêng sang một bên để ưu tiên cho các gia đ́nh cán bộ, gia đ́nh chính sách, nhân dân …. Trước thái độ phân biệt đối xử, nhiều anh em bất măn buông tiếng chửi thề bỏ ra về. Tài cũng uể oải đứng dậy theo anh em. Chàng ngẫm nghĩ, chúng nó kêu gọi nguời Việt hải ngoại ḥa hợp ḥa giải, xóa bỏ quá khứ để mang tiền về làm giàu cho chúng chứ nó có ḥa hợp vói ai, vậy mà cũng có nhiều thằng ngu đem tiền về làm ăn rồi bị nó lột sạch. Ba muơi mốt năm nay tuy là tầng lớp thống trị nhưng chúng nó có bao giờ xóa bỏ hận thù với những người không c̣n một tấc sắt trong tay, thậm chí cả với những thương phế binh như chàng. Mấy hôm nay chính quyền trung ương tuyên bố sẽ trợ giúp một triệu đồng cho các nhà bị tốc mái và năm triệu cho các nhà bị xập hoàn toàn. Nhưng chẳng mấy ai tin tưởng v́ đă bao năm nay, mỗi lần có thiên tai th́ y rằng sau đó nhiều ngôi nhà ba bốn tấm lộng lẫy lại mọc lên, nhưng chủ của nó không c̣n là những người cũ, v́ họ không có tiền dựng lại nên đành phải bán đất lại cho đám cán bộ có chức có quyền, chúng chia nhau lấy tiền trợ cấp đó để làm nhà. Chúng c̣n dùng thủ đoạn “quy hoạch, giải tỏa, khoanh vùng” đuổi dân đi, nhưng bồi thường không tuơng xứng, để trắng trợn cướp nhà cướp đất của đồng bào, hành động bất nhân này đang xảy ra trên phạm vi cả nước, tiếng dân oan khiếu kiện đă thấu trời xanh???.
………….. Thưa anh cuộc sống của anh em thương phế binh chúng em như vậy đó. Chúng em vẫn chiến đấu dù kẻ thù dùng mọi thủ đoạn để đày đọa nhục mạ chúng em. Chúng em vẫn kiên quyết ngẩng cao đầu. Điều làm chúng em ghê tởm nhất là sự phản bội của đồng đội, của các cấp chỉ huy. Sự phản bội của ông Kỳ đă làm vết thương của chúng em mưng mủ trở lại. Nhưng điều đó không làm chúng em nhụt chí, lời thề Biệt Động Quân V́ Dân Quyết Chiến dưới chân bức tượng đồng đen chúng em vẫn hằng ghi nhớ. Em vẫn tin tưởng và trông chờ nơi các anh không phải là số tiền các anh gởi cho, mà là sự đấu tranh của các anh cùng toàn thể đồng bào trong và ngoài nước, để sớm có một ngày quang vinh cho toàn dân tộc, để mọi người dân được huởng quyền tự do căn bản, để chị em phụ nữ không c̣n phải đi làm dâu hay bán thân cho Đài Loan, Hàn Quốc, để thanh niên không c̣n phải đi lao động nô lệ xứ người, và để chúng em một lần nữa được nói với mọi người rằng: “Chúng tôi rất hănh diện đă hy sinh một phần thân thể, đă đóng góp máu xương bảo vệ tự do và dân chủ cho mảnh đất quê hương yêu quư này”. Đó chính là đoạn kết chuyện buồn của những thương phế binh vẫn c̣n nặng ḷng với quê hương đất nước, vẫn kiên tŕ đấu tranh để mong có ngày đất nước hồi sinh . . . . . .
Thương Phế Binh Biệt Động Quân Phan Thanh Tài
Đọc xong lá thơ của Tài, Trung vô cùng xúc động trước nỗi bất hạnh dồn dập xẩy đến với Tài. H́nh hài của mẹ cha ban cho đă bị bom đạn cướp mất một phần từ năm mười chín tuổi. Ở cái tuổi mà nhiều người c̣n đang cắp sách đến trường, đang mộng mị yêu đương, để rồi từ ngày ấy Tài đă phải chôn kín những ước vọng chính đáng nhất của một con nguời, đó là yêu và được người yêu. Cái đáng quư của anh em TPB là dù bị xă hội bỏ rơi, chính quyền Việt cộng chà đạp, nhưng anh em vẫn kiên quyết vươn lên. Ḷng trung kiên gắn bó với chế độ VNCH mà anh em đă phục vụ được thể hiện ở chỗ hầu hết các anh em vẫn giữ và trân quư những giấy tờ cá nhân mà đối với chính quyền Việt cộng th́ nó có thể c̣n mang tai họa đến cho bản thân và gia đ́nh. C̣n chúng ta có bao nhiêu sĩ quan đang sống ở hải ngoại c̣n giữ được cái bằng tốt nghiệp hay cái quyết định thăng thưởng – Có bao nhiêu người c̣n ư chí đấu tranh giành lại quê hương một cách tích cực hay không, hay đă cho rằng được sang Mỹ sống có nhà to, có xe đẹp là măn nguyện rồi, là quên đi trách nhiệm, là quên mất lời thề, thậm chí có kẻ c̣n mỉa mai những anh em đang tranh đấu là”bọn ăn cơm nhà vác ngà voi”, “những kẻ chống cộng về chiều”. Đối với đám phản bội này th́ Trung đă khinh bỉ bọn chúng từ lâu.
Thật may mắn, lá thơ của Tài đến thật đúng lúc, Trung vừa tổ chức bữa cơm gây quỹ cứu trợ Thương Phế Binh nạn lụt miền Trung tại thành phố nhỏ này. Số tiền thu được vừa đủ giúp cho sáu mươi anh em, đang điền phiếu gởi tiền th́ lại có tin cơn băo số 7 sắp sửa đổ vào các tỉnh miền Trung. Chẳng lẽ cứ “phước bất trùng lai họa vô đơn chí” giáng xuống đầu dân lành vô tội măi sao… “Trời cao có mắt, xin Ngài hăy xuống tay đối với đám cộng đảng chóp bu để dân tộc con thoát khỏi cảnh lầm than, sống không đặng mà chết cũng chẳng xong”.
Mũ Nâu Đoàn Trọng Hiếu
cha12 ba
01-14-2019, 01:01
Thêm một câu chuyện về Thiếu Sinh Quân VNCH Vũng Tàu
Hà Việt Hùng
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1327106&stc=1&d=1547427590
Khóa sinh trường Thiếu Sinh Quân VNCH
Xế trưa ngày 29 tháng Tư, 1975, theo lệnh Chỉ Huy Trưởng, toàn thể Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam[1] di chuyển ra bến tàu, gần trung tâm huấn luyện Cảnh Sát Quốc Gia ở Cát Lở, cách ngă tư Bến Đ́nh khoảng một cây số để lên tàu di tản. Từ Trường, tôi đi bộ qua đường Lê Lợi, về nhà ở trại Cô Giang, Phường Thắng Tam. Tôi chỉ kịp trao đổi với mẹ tôi vài lời. Năm đó mẹ tôi đă 55 tuổi, người ốm yếu, c̣n tôi là SQ trẻ, chưa lập gia đ́nh. Sau khi bị thương lần thứ hai tại Trà Ôn, tôi nhận giấy thuyên chuyển về Trường TSQVN. Tại đây, tôi tạm thời được sắp xếp dạy Anh Văn, khi vết thương ở chân trái chưa lành.
- Mẹ chuẩn bị nhanh lên. Ḿnh phải đi ngay bây giờ.
- Đi đâu? Mẹ tôi hỏi.
- Ḿnh theo Trường ra tầu, đi Phú Quốc hay Guam, rồi sau qua Mỹ.
- Qua Mỹ lạnh lắm. Mẹ không chịu nổi đâu.
Nghe mẹ hỏi, tôi trả lời đại như vậy. Sự thực đầu óc tôi đang khô đặc, quưnh quáng, đợi Chỉ Huy Trưởng quyết định, chứ c̣n biết đi đâu. Đó là mẩu đối thoại ngắn gọn giữa hai mẹ con tôi. Sau khi mẹ tôi xếp vội vài bộ quần áo bỏ vào vali, tôi cột chặt vào sau chiếc Honda Dame. Xong, tôi lấy cây Carbin trong tủ, đeo vào vai, đội nón sắt, dắt xe ra khỏi nhà sau khi đă khóa cửa cẩn thận, rồi chở mẹ tôi nhập vào đoàn người chạy ra bến tàu.
Bên ngoài, dọc theo con đường dẫn ra bến tàu, khoảng gần 400 em TSQ[2] di chuyển chỉnh tề, cộng với các gia đ́nh binh sĩ, hạ sĩ quan và sĩ quan nối đuôi nhau. Một số nhà dân ở hai bên đường, thấy chúng tôi di chuyển, đă hiếu kỳ ra đứng nh́n theo. Chỉ Huy Trưởng ngồi trên xe díp có tài xế lái, dẫn đầu “đoàn quân”. Có vài người đi xe gắn máy. C̣n lại đều đi bộ. Chỉ Huy Trưởng lúc bấy giờ là Trung Tá Ngô Văn Dzoanh, người đă thay thế Đại Tá Hồ Nhựt Quan (Cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 9) cách đó hơn một năm.
Tôi chở mẹ tôi chạy chậm, khoảng gần cuối đoàn người. Không ai nói với ai một lời. Tôi để ư, không thấy một vị Sĩ quan quen biết nào ở Ban Văn Hóa cả. Lúc đó, tôi không nhớ đầu óc ḿnh đă suy nghĩ ǵ. Khi đến gần Rạnh Dừa, bỗng nhiên đoàn người dừng lại, nhốn nháo. Tôi không thấy Trung Tá Ngô Văn Dzoanh đâu. Nghe nói ông đang nói chuyện với các sĩ quan chỉ huy một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến đang chiếm giữ bến tàu.
Đến khi có lệnh tất cả mọi người phải quay về Trường, tôi cũng về theo. Có người cho là t́nh trạng bến tàu lúc bấy giờ có thể không được an ninh. Nếu Trường TSQ lên tàu, sẽ tạo ra một t́nh trạng hết sức lộn xộn, chậm trễ. Việt Cộng từ phiá Bà Rịa có thể pháo kích lên tàu bất cứ lúc nào. Tôi kể lại chuyện này với tất cả sự dè dặt, v́ sự thực, tôi không được nghe nội dung câu chuyện giữa các sĩ quan TQLC và Trung Tá Ngô văn Dzoanh. Ngoài ra, v́ đi gần cuối, tôi không hề thấy một người lính hay Sĩ quan TQLC nào, cũng chưa thấy chiếc tàu của Hải Quân đâu cả, và cũng không biết nó mang tên ǵ.
Thế là đoàn người quay đầu lại, di chuyển về Trường trong nỗi thất vọng.
Về đến nhà, thấy cửa nẻo vẫn được khóa kỹ lưỡng. Tôi dắt xe vào nhà với cái vali đằng sau, nói mẹ tôi chờ, rồi đi bộ qua Trường.
Ngay trước cột cờ, khoảng gần 400 em TSQ mặc đồ vàng, đă nghiêm chỉnh xếp hàng đôi từ nhỏ đến lớn, lặng lẽ chờ đợi.
Tôi đứng cạnh Pḥng Sĩ Quan Trực gần cổng ngoài cùng với một số người khác. Thấy loáng thoáng có Thiếu tá Nguyễn Văn Thương, Trưởng Khối Quân Huấn; Đại Úy Hoàng, Liên Đoàn Trưởng LĐ /TSQ; Đại Úy Lê Viết Đắc, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ Hùng Vương; Trung Úy Lê Văn (?) Tuất, An Ninh; Chuẩn Úy Hà Văn Cúc, An Ninh; Chuẩn Úy Lâm A Mạ, Chuẩn Úy Khôi… Nếu tôi không lầm, các Sĩ quan này đều là Cựu TSQ (AET). Xin mở một dấu ngoặc ở đây. Khoảng tháng 1, 1975 Trung Úy Tuất là Đại Đội Trưởng Đ Đ Tác Chiến của trường TSQ. Tôi là Trung Đội Trưởng TĐ 1, Chuẩn Úy Mạ là TĐT/TĐ 2, và một C/U (quên tên) là TĐT/TĐ3. Cứ cách 3 đêm, các TĐ thay phiên nhau lên ngọn núi phía sau trường TSQ, gần đài vi ba, nằm trực chiến.
Lúc bấy giờ Trung Tá Ngô Văn Dzoanh không ngồi trong văn pḥng của ông. Ông đứng phía trước Pḥng Sĩ Quan Trực. Tôi được biết Trường có kế hoạch di tản ra hạm đội, và đang chờ trực thăng đáp xuống.
Tôi nghĩ đến mẹ tôi đang chờ ở Trại Cô Giang, nhưng tôi đă tự trấn an ḿnh ngay. Nhà tôi ở trong Trại Cô Giang, căn số 2, dăy thứ nhất, đối diện với Trường, chỉ cách bề ngang đường Lê Lợi. Nếu gần đến lượt, tôi chạy về đưa mẹ tôi qua Trường, cũng vẫn c̣n kịp lên trực thăng.
Khoảng một tiếng sau, một chiếc trực thăng đáp xuống sân Trường. Sáu hay bảy em TSQ nhỏ đứng đầu bước lên. Sau đó, tôi thấy có một người đàn ông Mỹ. Trước đó tôi đă gặp ông này vài lần, nhưng không nhớ ở đâu. H́nh như ông ta là Kỹ Sư Cố Vấn. Ông ta leo lên cùng với cô vợ người Việt Nam và đứa con gái nhỏ. Tôi c̣n thấy hai ông Trung Sĩ Chỉnh và Ngộ (con trai bà giáo Thảo sản xuất và bán mắm ruốc nổi tiếng ở VT) nữa. Hai người này là Hạ Sĩ Quan An Ninh, không biết họ từ đâu chạy ra chỗ trực thăng đang đậu, rồi leo lên. Tôi thấy tất cả đều im lặng. Lúc đó, tôi không nhận thấy ḿnh ngây thơ, khờ khạo. Thử làm một bài tính đơn giản. Mỗi chuyến trực thăng có thể chở được 20 người ngồi cả trên sàn. Cộng chung các em TSQ với các cán bộ nhà Trường và gia đ́nh họ, tối thiểu khoảng 7-8 trăm người. Nếu chỉ có một chiếc trực thăng, để chở hết, phải mất 40 chuyến. Không ai biết tàu đang đậu ở đâu ngoài khơi, nhưng thử ước lượng mỗi chuyến mất độ 30 phút cho thời gian bay đi, bay về, lên, xuống. Vậy là, phải mất 20 tiếng! Một chuyện không thể nào thực hiện được khi Cộng quân đă tới Bà Rịa.
Ngay sau đó trực thăng bay đi. Chúng tôi im lặng chờ chuyến thứ hai đáp xuống.
Chúng tôi cứ đứng chờ như thế đến 2-3 tiếng. Sau cùng, Trung Tá Ngô Văn Dzoanh xuất hiện. Ông buồn bă xem đồng hồ, rồi nói với những người đang đứng trước Pḥng Sĩ Quan Trực:
- Đến giờ phút này moi hoàn toàn thất vọng rồi. Trực thăng không xuống nữa đâu. Thôi, các toi hăy về nhà tự lo cho gia đ́nh.
Ông chỉ nói có bấy nhiêu. V́ đứng gần ông nên tôi nghe rất rơ. Dường như tiếng nói của ông bị đứt đoạn, uất ức, nghẹn ngào. Có vài em TSQ đứng gần đấy, thấy chúng tôi tan hàng, đă khóc theo. T́nh cảnh này có thể ví như một đàn gà. Đàn gà con đang đi theo mẹ, nhởn nhơ bắt sâu, bỗng từ trên trời xuất hiện một bầy diều hâu hung ác. Đàn gà con chạy vội núp vào cánh mẹ. Bầy diều hâu bay xà xuống. Đàn gà náo loạn, tan tác.
Tôi về nhà. Trại Cô Giang vắng ngắt. Nhà bà y tá bên phải và nhà Thiếu Úy Ḥa bên trái đóng chặt cửa. Không biết họ có ở trong nhà không. Một lúc sau tôi thấy Đại Úy Trần Đ́nh Ân, Trưởng Ban Văn Hóa[3], mặc quân phục, đội mũ bê rê màu xanh đậm, chở vợ bằng xe Suzuki chạy ra đường cái, ngang qua nhà tôi. Vợ chồng Đ/U Ân thấy tôi đang đứng trước cửa nhà, không nói ǵ, chỉ có ánh mắt, nhưng khi ấy tôi lại không hiểu được. Tôi biết họ đang vội.
Gần như Trại Cô Giang không c̣n ai. Tôi bàn với mẹ tôi chạy tới tá túc nhà anh An ở khu chợ mới, Phường Thắng Nh́. Bà cô ruột của anh An là bạn thân của mẹ tôi khi c̣n đi học ngày nhỏ. Bỗng nhiên, Thiếu Úy Từ Hữu Mỹ[4] bước qua nhà tôi. Th/U Mỹ ở cách nhà tôi vài căn. Gia đ́nh của Th/U Mỹ ở Chương Thiện, mới lấy vợ được vài tháng. Quê vợ ở B́nh Dương. Hai người bị kẹt lại Vũng Tàu. Th/U Mỹ ngỏ ư “xin” đi theo tôi v́ không biết đi đâu cả. Có thể ngày mai Việt Cộng sẽ tới đây.
Một lần nữa, tôi lại khóa cửa nhà. Tôi chở mẹ tôi bằng xe Honda Dame, Th/U Mỹ chở vợ bằng xe đạp mini chạy bên cạnh. Cả hai chúng tôi vẫn mặc bộ đồ trận và “lon lá” đầy đủ. Ra đến đường, một em TSQ chặn tôi lại. Em đưa cho tôi trái lựu đạn M26.
- Thầy giữ “cái này” xài.
Có thể em là TSQ lớp 11 hay 12. V́ thời giờ gấp rút, tôi không kịp hỏi tên em, chỉ nhớ là đă cám ơn. Tôi biết khi chúng tôi đi rồi, em lại quay về Trường, v́ c̣n biết đi đâu.
Lúc đó chúng tôi được trang bị gần như đầy đủ: quân phục tác chiến, nón sắt, súng carbin, băng đạn, thẻ bài. Riêng tôi c̣n có thêm trái lựu đạn trước ngực.
Chúng tôi chạy xe dọc theo con đường phía bên ngoài, song song với Trường TSQ. Trường nằm bên phải, buồn bă, lạnh lùng. Ngang khu Liên Đoàn, tôi c̣n thấy vài ba bộ đồ vàng lảng vảng ở ngoài hành lang, hay dưới cột cờ. Không biết các em đang làm ǵ. Thôi nhé, vĩnh biệt các em. V́ vận nước đổi thay, thầy tṛ chúng ta phải chia tay nhau. Chúng tôi đă làm bổn phận, mặc dù chưa xong, của những người thầy đối với các em, nhưng chúng tôi đă không chu tất bổn phận của những người mẹ. Chúng tôi biết, những thứ các em thực sự cần có lúc bấy giờ là mái ấm gia đ́nh, ở đó tràn ngập t́nh thương yêu của những người mẹ, người cha hay người anh, người chị.
Khu Văn Hoá vắng ngắt. Kiến trúc có hai cầu thang bằng đá và xi măng ở hai bên. Có những lớp học ở tầng dưới và ở trên lầu. Có những giáo sư đă cùng dạy học với tôi ở đó. Đại Úy Nguyễn Văn Thi (về từ Vơ Bị Đàlạt, dậy Toán), Trung Úy Trần Trị Chi, Trung Úy Nguyễn Văn Minh, Trung Úy Lê Văn (?) Thiện (dậy Vạn Vật), Trung Úy Lâm Quang Đạt (dậy Pháp Văn), Thiếu Úy Phạm Quang Tuyên (dậy Anh Văn), Thiếu Úy Phạm Việt Hùng (dậy Văn), Thiếu Úy La Hoa Hùng (dậy Toán), Thiếu Úy Trần Quang (?) Huy (dậy Triết), và một vài người nữa mới thuyên chuyển về tôi không kịp biết tên. Ở trường TSQ, chúng tôi quen gọi các Sĩ Quan Văn Hoá là Giáo Sư, phần lớn những người này đều tốt nghiệp Đại học, và có nhiều người dậy cả ở trường tư Vùng Tầu.
Đối diện với Trường TSQ, có một dăy tường dài màu trắng. Ở đó, bây giờ tôi c̣n thấy viết một câu nói nổi tiếng của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng tin những ǵ Cộng Sản nói. Hăy nh́n kỹ những ǵ Cộng Sản làm.” Vào giờ phút ấy, tôi vẫn c̣n thấy câu nói đó rất đúng; nó như một thách đố, nhưng lại nghẹn ngào, uất hận.
Trên đường, chúng tôi thấy mọi nhà đều đóng cửa. Phố xá vắng lặng như chiều 30 Tết. Không một người qua lại.
Chúng tôi rẽ trái để tới nhà anh An ở khu chợ mới, Phường Thắng Nh́, vào khoảng 4 giờ chiều. Cửa đóng kín. Tôi gơ cửa. Bất ngờ thấy chúng tôi tới, anh An lo sợ ra mặt. Chắc anh không muốn có chuyện ǵ phiền phức đến gia đ́nh ḿnh. Nhưng chị An không nói ǵ.
Nh́n thấy chúng tôi đùm đề súng đạn, anh An cuống lên:
- Trời ơi, đến giờ này mà các chú c̣n súng đạn như thế này. “Chúng nó” tới sát bên rồi.
Rồi quay qua thằng cháu, anh giục:
- Khánh. Mày mang những thứ này vứt qua hàng rào. Nhanh lên.
Khánh là lính Nhảy Dù từ Vùng 1, Vùng 2 mới di tản về.
Chúng tôi lặng lẽ cởi bỏ súng đạn, kể cả thẻ bài, đưa cho Khánh. Khánh đi ra phía sau, vứt những thứ đó qua bên kia hàng rào. Chúng tôi vào nhà, lột được cái áo, nhưng chưa kịp thay. Hai đứa c̣n mặc quần lính trận. Lúc đó Việt Cộng đă tới sát bên. Chúng tràn ngập khu nghĩa địa cách nhà anh An chỉ vài trăm thước. Không có tiếng súng nào.
Chúng tôi ngồi trong nhà, chờ xem động tĩnh. Đêm đó, đầu óc tôi căng thẳng, không sao ngủ được. Măi gần sáng tôi mới thiếp đi.
Sáng sớm hôm sau, 30 tháng Tư, tôi choàng tỉnh dậy v́ có những tiếng động ở bên ngoài. Từ trong nhà, tôi nh́n qua lỗ khóa. Khoảng một tiểu đội Việt Cộng đang đứng lố nhố trước cửa nhà anh An, chỉ cách tôi 4-5 thước, qua một cánh cửa gỗ. Chúng đang x́ xào bàn tán những ǵ tôi nghe không rơ. Tôi nh́n thấy những chiếc nón cối bạc màu, những đôi dép râu bao quanh những đôi chân cáu bẩn, và những đôi giầy vải màu nâu bạc phếch. Nào là vũ khí, máy truyền tin. Cạnh chỗ chúng đang đứng, có một miếng gỗ đóng xơ xài trên cái cột, với hàng chữ nguệch ngoạc “TÙ HÀNG BINH ĐI LỐI NÀY”, và ở dưới có một h́nh mũi tên chỉ về hướng đài vi ba, Phường Thắng Tam. Ngoài ra, c̣n có một tấm bảng khác với hàng chữ “HÀNG SỐNG, CHỐNG CHẾT” được đóng ngay đó.
Đến khoảng 8 giờ sáng, tôi lại nh́n qua lỗ khóa một lần nữa. Rơ mồn một. Bọn Việt Cộng vẫn c̣n đứng lố nhố trước cửa nhà anh An. Vài phút sau, tôi không c̣n tin vào mắt ḿnh được nữa. Tay Nhiều[5], Nghị viên (NV) Thành phố Vũng Tàu được một tên đệ tử c̣n trẻ chở tới bằng xe Honda 67 màu đen. Cả hai đều mặc áo trắng. Tên trẻ tuổi đeo băng đỏ ở cánh tay. Chiếc xe dừng lại, được chống càng nghiêng qua một bên, NV Nhiều bước xuống, nét mặt nghiêm trọng, nói chuyện với tên Việt Cộng đeo K.54, h́nh như là cấp chỉ huy. NV Nhiều nói ǵ với tên Việt Cộng, tôi nghe không rơ, chỉ thấy tên Việt Cộng nh́n NV Nhiều, thỉnh thoảng lại gật gù. Tôi đoán họ đă gặp và “thông tin” với nhau vài lần rồi, v́ khi tôi thấy, hai người có vẻ biết nhau từ trước.
Tôi bàng hoàng, tự nhiên cảm thấy lạnh người. Tôi ngoắc Th/U Từ Hữu Mỹ lại, nói nhỏ:
- Thằng cha Nhiều là Việt Cộng Nằm Vùng. Vậy mà lâu nay tụi ḿnh không biết.
- Đâu, tôi coi?
Th/U Mỹ nh́n qua lỗ khoá một chập, rồi quay qua tôi:
- Đ.M. Anh tính sao?
Th/U Mỹ chửi thề nho nhỏ, không nói ǵ thêm. Tôi cũng im lặng. Thực ra, ngay lúc đó tôi không cảm thấy sợ hăi chút nào. Tôi chỉ thấy hoang mang. Sự việc xảy ra quá sức bất ngờ, ngoài sự tưởng tượng của ḿnh. Tại sao giờ này thằng cha Nhiều c̣n đứng kia? Anh ta là NV Thành Phố cơ mà? Tại sao anh ta không di tản? Anh ta không muốn đi, hay không đi được? Anh ta định làm ǵ? Chuyện ǵ đă xảy ra cho Đại Tá Thị Trưởng Vũ Duy Tạo? Nếu NV Nhiều biết có Th/U Mỹ và tôi đang đứng phiá sau cánh cửa này, quan sát anh ta qua lỗ khóa, không biết anh ta sẽ phản ứng ra sao, anh ta có “báo cáo cán bộ” có hai tên “Sĩ quan ngụy” đang ở sau cánh cửa, và không biết chuyện ǵ sẽ xảy ra cho hai chúng tôi. Hàng trăm câu hỏi cứ xoáy trong đầu tôi lúc bấy giờ.
Khi tôi mới thuyên chuyển về Trường TSQ, NV Nhiều c̣n là Trung Úy, dạy Toán. Tôi chưa có dịp nào nói chuyện trực tiếp với anh ta, ngoài trừ vài lần gặp anh ta trên đường dẫn vào khu Văn Hoá, cả hai cười cười, gật đầu. Anh ta thân với Đại Úy Hồ Công Tâm[6], Cựu Trưởng Ban Văn Hoá. Về sau, anh ta ra ứng cử chức vụ NV Thành Phố. Đ/U Tâm nhờ nhóm Sĩ Quan trẻ chúng tôi vận động cho anh ta. Chính tôi đă cầm cả trăm cái business cards của anh ta, đi giới thiệu với mọi người quen biết, nào là ở tư gia, ở quán cà phê, ở tiệm cơm…những nơi bọn chúng tôi hay la cà, tán gẫu. Kết quả, anh ta đắc cử một cách vẻ vang. H́nh như anh ta có số phiếu cao thứ nh́. Sau vụ này, chúng tôi vẫn không có được một lời cám ơn, một cái bắt tay, hay một ly cà phê. Mấy tháng sau, anh ta xin giải ngũ. Cuộc sống huy hoàng, thảnh thơi và quyền lực của một Nghị viên Thành phố bắt đầu. Mấy gia đ́nh giầu và tai mắt ở Vũng Tàu, có con gái lớn, vồn vă anh ta ra mặt. Anh ta dựa dẫm Đại Tá Vũ Duy Tạo. Có lần anh ta theo Đại Tá Tạo đi “tham quan” Trường TSQ, không quên dắt theo mấy cô ả mặc áo dài. Tội nghiệp, lần đó cả Trường TSQ phải đứng dàn chào. Tôi biết anh ta muốn lợi dụng những dịp này để “lấy le” với chúng tôi. Chỉ có vậy thôi.
Vậy mà bây giờ anh ta đứng kia, áo sơ mi trắng, bộ điệu khúm núm, xum xoe, không đúng phong độ hay tư cách của một Nghị viên tí nào.
Tôi chán ngán quay vào. Tôi nói với anh An là tôi và Th/U Mỹ thấy NV Nhiều đứng ngoài đường, đang “báo cáo” với tên chỉ huy VC. Anh An có vẻ ngao ngán.
Trưa hôm đó, tôi chở mẹ tôi về lại Trại Cô Giang. Cửa đằng trước vẫn có ổ khoá nằm đấy, nhưng cửa sau đă bị ai đó phá hỏng và bên trong bị xáo trộn, một ít đồ bị mất. Nhưng không có ǵ quan trọng cả. Những ngày tháng sắp tới, nào biết cuộc đời sẽ trôi giạt về đâu, vậy th́, có ǵ để tiếc nuối đâu. Tôi chỉ thấy chán ngán và chấp nhận.
Tôi nh́n qua Trường TSQ, tất cả đều vắng vẻ, lạnh lùng, ngoại trừ cái cổng sắt to lớn bị hư hại. Đó là dấu tích của trái đạn B.40 do Việt Cộng bắn vào khi tấn công Trường, và đó cũng là trận chiến đơn độc, trận thử lửa đầu tiên, nhưng rất hào hùng của các em TSQ bé nhỏ, c̣n trong độ tuổi thơ ngây. Trận đánh này đă xảy ra từ buổi sáng đến buổi trưa ngày 30 tháng Tư khi tôi đang ở nhà anh An ở Phường Thắng Nh́[7].
Cũng trưa hôm đó, qua làn sóng Đài Phát Thanh Saigon, Tổng Thống Dương Văn Minh ban lệnh đầu hàng. Thế là hết.
Sáng ngày 1 tháng Năm, tôi ra “tŕnh diện” sơ khởi ở Phường Thắng Tam. Tŕnh diện xong, tôi xách xe Honda chạy lung tung quanh Vũng Tàu như một người mất trí.
Buổi tối hôm đó, tôi lại buồn t́nh xách xe chạy ra băi trước. Đang đứng nh́n ra biển, tôi gặp Đại Úy Hoàng, Cán bộ Liên Đoàn Trưởng TSQ. Hai chúng tôi nh́n nhau, chỉ nhè nhẹ lắc đầu, không nói ǵ với nhau cả. Có vài chiếc tàu neo ở ngoài khơi, thật xa, thật xa.
Vài ngày sau, từ Trại Cô Giang, tôi nh́n thấy những chiếc xe tải quân đội Molotova chạy vào trường TSQ, chất đầy đồ đạc và giường sắt (loại giường của quân đội Mỹ), chở về đâu không biết. Trường TSQ có khoảng 2 ngàn chiếc giường như vậy, để cho các em TSQ sử dụng. Những chiếc xe Molotova chạy ra chạy vào nhiều chuyến để chở “chiến lợi phẩm”. Lúc đó, không c̣n một em TSQ nào trong Trường. Chỉ cần nửa ngày, trường TSQ đă được “dọn” sạch sẽ. “Tàn dư Mỹ Ngụy” được phân tán nhanh chóng, có thể ra cả tới miền Bắc.
Mấy ngày sau, tôi gặp Chuẩn Úy Lâm A Mạ (AET) mua cuốc xẻng ở tiệm làm đồ sắt của anh An ở ngă tư Bến Đ́nh. Ch/U Mạ đang chuẩn bị cho những ngày tháng mới và những công việc mới. C̣n Chuẩn Úy Khôi (cũng là AET) đang chăm sóc cái quán Mưa Rừng với bà vợ thứ hai ở gần Trường TSQ.
Qua ngày hôm sau, có hai ba tên Việt Cộng, đội nón cối, vác AK đến nhà tôi, “ra lệnh” tôi chỉ được ở trong Trại Cô Giang vài ngày nữa, rồi phải dọn đi, trả nhà cho “Cách mạng”.
Sau khi nghe tin Cầu Cỏ May đă được sửa lại, Th/U Mỹ và vợ đă từ giă mẹ con tôi về B́nh Dương, gửi lại chiếc xe đạp mini. Hai hôm sau, bà mẹ vợ đă đến lấy về.
Trại Cô Giang ngày càng vắng vẻ. Tôi chần chừ ít ngày nữa. Sau cùng, mướn một chiếc xe tải nhỏ, dọn về Sàig̣n. Tôi đưa mẹ tôi về “tạm giữ” căn biệt thự nhỏ trong Cư xá Phủ Tổng Thống cạnh cầu Sàig̣n. Căn biệt thự này làm chưa xong. Nền nhà chưa được lót gạch. Cửa sổ chưa có, ngay cả cửa chính cũng chưa có khoá. Sân vườn toang hoác. Chồng của bà chị họ tôi là Đ/U Nha sĩ Phủ Tổng Thống, mua đất ở đây xây biệt thự. Xây chưa xong, Việt Cộng ập tới. Trong khi tôi và mẹ tôi không có chỗ trú ngụ, nên nhận làm “quản gia” thật đúng lúc.
Căn biệt thự tôi ở gần ngă tư. Bên trái là biệt thự của một Trung Tá Nha Quân Pháp (quên tên). Đối diện có một ngôi chùa nhỏ. Khoảng một trung đội VC đóng trong ngôi chùa này. Chúng đặt trạm gác, kiểm soát người qua lại. Trong căn biệt thự “không có cửa nẻo”, tôi vội vă đốt hết mọi giấy tờ và h́nh ảnh. Chỉ giữ lại cái Thẻ Sinh Viên Luật Khoa năm I có hiện lực đến cuối năm. Không ngờ đó lại là bùa hộ mạng của tôi.
Từ bên chùa, sáng nào cũng có 3-4 tên qua nhà tôi chơi. Chúng cứ nghĩ tôi là sinh viên. Mấy ngày đầu tôi pha cà phê mời tụi nó uống “xă giao”. Tụi nó cứ khua tay “thôi, thôi”. Nhưng vẫn uống t́ t́. Mấy ngày sau tụi nó “quen mui, thấy mùi…” qua nhà tôi hoài, nhưng tôi lại hết cà phê, hết sữa. Tụi nó quay qua hỏi muợn tôi chiếc Honda Dame chạy chơi quanh cư xá. Một hai lần sau tôi cũng kiếm cách từ chối, nói là hết xăng.
Ông anh tôi c̣n xây cái pḥng vệ sinh đằng sau sân đậu xe. Pḥng vệ sinh cũng chưa có cửa. Buổi sáng vài ba đứa nhăn nhó chạy vội qua nhà tôi, làm tùm lum. Mẹ tôi lại phải vất vả kỳ cọ, đến nỗi bà phải viết lên tường hàng chữ “người lịch sự nhớ dội nước”. Có đứa qua nhà tôi quát “Thím nói ai?”. Mẹ tôi tỉnh bơ trả lời “Nói người nào bất lịch sự đó.”
Sau 2-3 lần “tẽn ṭ”, đến cuối tháng Sáu, 1975, tôi từ giă mẹ tôi, lên đường “đi học”. V́ lỡ tŕnh diện ở Vũng Tàu nên tôi phải ra đấy để đợi “đi học”, mặc dù tôi đă về Sàig̣n. Thoạt đầu, tôi được đưa đến Long Thành, ở trong doanh trại của một đơn vị Công Binh cũ, cách Suối Tre khoảng một tiếng đi bộ. Tại đây, tôi lại bị kinh ngạc một lần nữa khi gặp NV Nhiều. Chắc hẳn anh ta đă bị Việt Cộng “sa thải”, không c̣n được tin dùng nữa. Khi trái chanh đă được vắt kiệt, bây giờ chỉ c̣n việc vứt vào thùng rác, không thương tiếc.
Lần đầu gặp tôi tại đây, có lẽ thấy tôi quen quen, anh ta nhe răng cười. Tôi phớt lờ. Tôi nhớ chỉ gặp anh ta 2-3 lần, v́ ở hai C khác nhau. Rồi sau đó, qua những lần chuyển trại, không biết anh ta ra sao, về đâu.
Cuối năm 1993, tôi và gia đ́nh qua Mỹ theo diện HO. Một hôm đi khám răng ở LB, ông bố cô Nha sĩ, kiếm mối cho con, đến chở gia đ́nh tôi, sau khi biết tôi ở trường TSQ, hỏi tôi có biết NV Nhiều không. Ông nói ông là anh em cột chèo với NV Nhiều, hiện NV Nhiều cũng đang ở L.B. cùng với bà vợ Nha Sĩ (?). Tôi giật ḿnh và quá sức ngạc nhiên. Vậy là anh ta đă sang Mỹ sớm hơn ai hết. Không biết anh ta đă bị “ở tù” bao lâu? Không biết anh ta sang Mỹ theo diện ǵ? (HO, ODP, vượt biên, con lai, hay bảo lănh). Ông ta nói với NV Nhiều là tôi và gia đ́nh mới qua, và nói là NV Nhiều sẽ ra mừng chúng tôi. Hôm sau, ông ta nói với tôi là NV Nhiều xin lỗi, v́ bận việc, không đến mừng gia đ́nh tôi được. Tôi chắc chắn không bao giờ NV Nhiều muốn (hay dám) giáp mặt bất cứ ai ở Trường TSQ cũ, v́ tự nhiên cứ thấy lương tâm ḿnh hổ thẹn, mặc dù vẫn tưởng việc làm của ḿnh không ai biết. Nhưng anh ta phải biết là dưới gầm trời này, không có chuyện ǵ bí mật cả, nhất là khi ḿnh có tội. Tôi định kể chuyện cho ông ta nghe, nhưng lại thôi.
Mấy năm sau, một lần vô t́nh tôi gặp NV Nhiều ở VVH. Trong khi chờ “ông thầy” massage tới, anh ta lấy sách ra đọc ngay bên cạnh tôi. Có thể anh ta không nhận ra tôi (?). Tôi hỏi anh ta có c̣n nhớ ai ở Trường TSQ không, c̣n nhớ Đ/U Hồ Công Tâm không. Anh ta lắc đầu, trả lời yếu ớt: “Tôi quên rồi”.
Đă gần 40 năm trôi qua, chúng ta vẫn không thể quên được ngày Cộng quân cướp miền Nam, không thể quên được ngày chúng ta phải chịu nhận sự trả thù cay độc của chúng ở những trại tù, trong Nam cũng như ngoài Bắc. Có những chuyện dường như mới xảy ra ngày hôm qua, ngày hôm nay, hay mới tức thời. Làm sao quên được. Bây giờ, có những đêm ngủ, chúng ta c̣n bị những cơn ác mộng ám ảnh, có khi vẫn thảng thốt ngồi dậy, nh́n quanh, căm phẫn, bàng hoàng.
Tuyệt nhiên tôi không có một hiềm khích hay tư thù cá nhân nào đối với NV Nhiều. Nhưng xét ra, anh ta đă bôi lọ thanh danh cao quư của người lính Việt Nam Cộng Ḥa, đă “đâm sau lưng các chiến sĩ”, đă “ăn cơm Quốc Gia, thờ ma Cộng Sản”, đă cúi đầu làm tay sai chỉ điểm cho bọn Việt Cộng khi chúng xua quân cưỡng chiếm miền Nam.
Có thể anh ta là Việt Cộng nằm vùng, và cũng có thể anh ta chỉ là thứ 30 tháng Tư tép riu đón gió trở cờ. Sau khi cháy nhà, đă có những con chuột xấu xí ra mặt. Những con chuột đă làm náo loạn, và gây kinh hoàng cho mọi người một thời gian lâu dài.
Những kẻ phản bội, nhất là phản bội tổ quốc, vẫn thường có nhiều thủ đoạn tráo trở, lừa bịp, luồn cúi, hèn hạ. Phải nói ra để nhận diện, tẩy chay.
Đă gần 40 năm qua, tôi định không kể chuyện này. Nhưng nếu vậy, lịch sử dân tộc sẽ mất đi sự công bằng. Trong khi bao nhiêu người con thân yêu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đă hy sinh mạng sống của ḿnh để bảo vệ chính nghĩa tự do trên từng tấc đất, có kẻ đă lợi dụng, sống ích kỷ, phè phỡn, bon chen, lúc nào cũng muốn đè đầu đè cổ người khác. Đến khi đất nước gặp nạn, những kẻ đó lại đang tâm làm ngơ, phủi tay, phản bội, và trốn chạy trước hơn ai hết. Phải nói ra để lương tâm được ngủ yên, mặc dù đă quá muộn màng.
Hà Việt Hùng
Đôla Trăm
01-14-2019, 02:53
Đi dạo 1 ṿng đọc thấy vài bài đăng trên fb ,không biết là chính xác hay không ,nên post lên đây ,để mọi người nếu ai có thông tin ǵ khác ,th́ đính chính dùm .
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1327220&stc=1&d=1547433873http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1327221&stc=1&d=1547433873
Nguyễn Tuấn Hoàng
11 tháng 1 lúc 17:44
Các Chiến Sĩ TĐ.1.Nhảy Dù.Đă Tử Trận Trong Ngày
Cuối Cùng Tại Vũng Tàu,Những Ǵ C̣n Lại Sau 36 Năm
Các Anh Đă Được Trở Về Với Người Thân ,
Trong cuộc chiến vừa qua,dù rằng đă hơn 36 năm nhưng những chuyện kể về sự chiến đấu kiêu hùng của những người Lính,vẫn c̣n được nhắc đến qua lời kể của người Dân sở tại và đây là câu chuyện về những người Lính Nhẩy Dù đă chiến đấu đến giờ phút cuối cùng của cuộc chiến. Mời Quư Vị theo dơi…
T́m…
Những ai đă từng sống tại Thị Xă BàRịa_Vũng Tàu hoặc có dịp đi qua con đừơng này, đối diện Nghĩa Trang Liệt Sĩ Bà Rịa_Vũng tàu, có 04 ngôi mộ (không có bia) trong vườn nhà ông Hai Ĺ,đă có mặt từ ngày 01-05-1975 cho đến nay…
Từ nguồn tin của người dân ở Thị Xă Bà Rịa-Vũng Tàu nói về sự linh ứng của 04 ngôi mộ này,theo họ cho biết đó là những Ông Lính bận đồ rằn ri,chiến đấu cho đến trưa ngày 01-05-1975 rồi cùng nhau tự sát… cũng v́ thế để t́m hiểu thực hư,sau gợi ư của Hùng Bảy Lổ (Canada) với sự bàn thảo của Anh Lâm Viên 20,chúng tôi với sự dẫn dắt,giới thiệu của MĐ Vẽ 91 lên đường đến tận nơi 04 ngôi mộ,chúng tôi gồm có MĐ Đẹp 83(TPB cụt môt chân),MĐ Thành 31,MĐ 93 và MĐ 90.
Ḱa… vườn nhà ông Hai Ĺ nơi có 04 ngôi mộ,theo lời MĐ Vẽ nói về ông Hai Ĺ rất dữ dằn,khó chịu (Dân Cách Mạng) nên chúng tôi hơi chùn ḷng,sợ bị làm khó dễ. Điều linh ứng đầu tiên mà chúng tôi cảm nhận được là sau lời vái của MĐ Đẹp;”Xin vái với Các ANH sống khôn,thác thiêng hăy tạo thuận lợi cho chúng tôi là những đồng đội cũ, t́m đến để đưa Các Anh về chùa nhang khói,hy vọng những thân nhân của Các Anh sẽ sớm nhận được tin này”.
Khi bước vào vườn nhà, tức th́ ông Hai Ĺ xuất hiện với nụ cười trên môi,niềm nở tiếp đón anh em chúng tôi(không hề có sự khó khăn nào) và h́nh như ông ấy đă biết rỏ ư định của chúng tôi là xin bốc 04 ngôi mộ (v́ lúc đó MĐ Đẹp bận quần trận Hoa Rừng) ông Hai Ĺ nói: “ Tôi đă chôn cất mấy Ông này từ ngày 01-05-75, hơn 36 năm ,tôi chờ đợi thân nhân mấy Ông này nhưng không thấy,hằng năm tôi vẫn thừơng nhang khói,đắp mộ cho mấy Ông này,nay các anh là đồng đội t́m đến ,tôi rất vui và tôi hứa sẽ tạo mọi điều kiện cho các anh bốc mộ,đừng ngại ǵ cả”.
Được lời như mở tấm ḷng,chúng tôi xin ông vui ḷng kể lại sự việc,v́ sao có 04 ngôi mộ này.
Theo lời Ông Hai Ĺ kể:”Tôi là dân Gia Đ́nh Cách Mạng, mấy Ông Rằn Ri này gan ĺ lắm,mấy Ổng chống đến cùng dù có lệnh đầu hành của Tổng Thống Dương Văn Minh 30-04-1975,mấy Ổng chiến đấu cho đến trưa 01-05-1975 rồi cùng nhau tự sát và chính tôi là người chôn cất mấy Ổng,giấy tờ từng Ông tôi bỏ vào một cái hộp chôn theo các Ông”.
Ngừng một lát, ông Hai Ĺ kể tiếp với giọng nói pha chút thán phục:”Mấy Ổng linh lắm,nhiều năm trước thỉnh thoảng có những người đến mộ cầu xin,đều được linh ứng nên mọi người quanh đây rất kiêng nể. Có những kẻ “vô ư thức” khi đi ngang qua đây,chỉ trỏ,bi bô với giọng điệu chế nhạo “mả mấy thằng lính Ngụy’’ đều bị báo ứng như té xe, tông cột đèn,trầy tay,trẹo chân…v́ thế,ngày nay có mấy anh đến thăm và di dời mấy Ổng về chùa,tôi sẽ đứng ra chịu trách nhiệm cho các anh,các anh cứ làm, đừng ngại ǵ cả,tôi sẽ giúp với tất cả tấm ḷng.
Chúng tôi cùng lặng người khi nghe kể về Các Anh,kính phục các Anh đă TẬN TRUNG BẢO QUỐC. Những Anh Hùng v́ nước quên thân,khí hùng tử Anh Hùng nào tử. Khi sống, chiến đấu hiên ngang cho đến khi khí tàn,sức kiệt chọn cái chết để bảo toàn Danh Dự và khi tử tiết đă hiển linh cho mọi người cùng thấy và chúng tôi nguyện với ḷng sẽ đem các Anh về nơi yên b́nh ,sớm hôm nghe Kinh Phật ngơ hầu linh hồn Các Anh được siêu thoát khỏi cơi đời ô trọc này.
Xin nguyện cầu Anh Linh Các Anh dẫn lối đưa đường để những người thân yêu của Các Anh sớm t́m gặp lại Các Anh. Chúng tôi những người Đồng Đội cũ,đến đây với Các Anh với tấm chân t́nh,huynh đệ chi binh…ngày nay chúng ta đă mất tất cả nhưng không bao giờ mất được T́nh Đồng Đội…hơn 36 năm nằm đây,các Anh là những Chiến Sỹ Vô Danh nhưng từ hôm nay các Anh sẽ được Vinh Danh trong Quân Sử,những ANH HÙng trong QLVNCH nói chung và làm rạng danh THIÊN THẦN của Binh Chủng,một tay cũng đánh,một cánh cũng bay…
Gặp Lại…
Nơi các Anh nằm xuống(trong vườn nhà của Ông Hai Ĺ) đối diện là Khu Nhà Đá của Pháp để lại(bây giờ là NTLS tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) cách Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp khoảng vài trăm mét, nay là Phường Long Tâm,TX Bà Rịa -Vũng Tàu có một toán lính Nhẩy Dù đă kháng cự mănh liệt cho đến tận trưa ngày 01-05-1975 rồi cùng gục ngă bất chấp lời kêu gọi đầu hàng của TT Dương Văn Minh vào trưa 30-04-1975,chính sự chiến đấu kiêu hùng đó đă làm cho Ông Hai Ĺ thán phục,tinh thần V́ Nước Quên Thân và sự hy sinh cao cả của Các Anh đă xóa mờ lằn ranh thù hận và cũng chính Ông là người đă chôn cất 04 mộ phần này trong khu vườn của Ông và giữ ǵn cho đến ngày hôm nay.
chúng tôi xin chân thành cám ơn Ông đă chăm sóc những Đồng Đội của chúng tôi, ông Hai Ĺ là một người tốt đă tạo điều kiện dễ dàng để chúng tôi t́m gặp Các Anh và thuận lợi thứ hai là khi nói chuyện với Vị Sư Trụ Tŕ gần đó,sau khi nghe kể rơ mọi sự t́nh như nói ở trên,Ngài Sư Trụ Tŕ hứa sẽ chấp nhận cho các Anh vào Chùa mà không đ̣i hỏi khoản chi phí nào và hứa khi thân nhân các Anh t́m gặp sẽ tạo mọi thuận lợi cho các thân nhân của các Anh tùy nghi đem về hoặc để lại Chùa nhang khói cũng được. Mọi việc coi như êm xuôi,chỉ c̣n chờ ngày tốt để đem các Anh vào Chùa.
Cuộc chiến đă trôi qua hơn 36 năm… những đắng cay, tủi nhục mà thân chiến bại từng nếm trải,ṿng lao lư,kiếp gian truân,gian nan cực nhọc trên nẽo đường mưu sinh,người sống c̣n nhọc nhằn như thế huống ǵ người nằm xuống nơi chân trời, góc bể tưởng như đă bị quên lăng theo thời gian…ngày nay kiếm t́m được Đồng Đội ngă xuống nơi này là cả một công sức của những người có tâm huyết v́ Đồng Đội,không một chút tư lợi, không chút lợi danh mà chỉ muốn đưa Các Anh về với gia đ́nh ngừơi thân,hơn thế nửa Vinh Danh các Anh những ANH HÙNG trong cuộc chiến bi hùng này.
Người ngoài cuộc c̣n biết thán phục ,biết vị nể,c̣n có tấm ḷng huống chi chúng ta là những người từng đội chung màu Nón Đỏ,lẽ nào làm ngơ!!! Xin hăy chung tay giúp sức cho những Đồng Đội c̣n ở Quê Nhà có điều kiện thăm hỏi,an ủi nhau lúc ốm đau,bệnh tật,lúc tuổi già bóng xế, những TPB c̣n lây lắt,mưu sinh giữa ḍng đời nghiệt ngă,những người mà máu xương của họ đă tô thắm dăi đất này.
Xin thắp nén nhang, kính cẩn dâng lên các hương hồn những Chiến Sỹ đă hy sinh v́ Tổ Quốc. Những Anh Hùng đă âm thầm ngă xuống cho Quê Hương,xin măi măi tưởng nhớ và Vinh Danh Các Anh những Chiến Binh can trường ,lẫm liệt,lấy cái chết để bảo toàn Danh Dự.
Những Anh Hùng…
Trời tờ mờ sáng(19-08-2011)chúng tôi rời Saigon trực chỉ Bà Rịa- Vũng Tàu,đến nơi Các Anh yên nghĩ trong khu vườn nhà của Ông Hai Ĺ thuộc Thị Xă Bà Rịa-Vũng Tàu ,tỉnh BàRịa- Vũng Tàu.Đến nơi, mọi người trong Nhóm Bốc Mộ đă hiện hiện đầy đủ, nghi thức cúng vái,cầu xin mọi việc được suông sẻ do Sư Trụ Tŕ Chùa đảm trách.
Công việc bốc mộ được tiến hành,tất cả mọi người cùng hồi hộp chờ đợi từ nhát cuốc đầu tiên chạm vào ngôi mộ,sau đó hé lộ dần những h́nh hài của Các Anh đă chôn vùi nơi đây hơn 36 năm dài đằng đẳng…không Quan Tài,mà cũng chẳng có PONCHO bọc xác,chẳng c̣n ǵ với cát bụi thời gian, ngoài những mảnh xương tàn,quần áo đă mục nát …chúng tôi cố t́m những mảnh giấy tờ đă được chôn theo Các Anh sau khi đă lượm lặt từng khúc xương c̣n xót lại,rồi cho vào từng hủ sành,ghi tên Các Anh,gởi vào Chùa và cầu xin cho Các Anh được siêu thoát khỏi chốn dương trần đầy khổ đau,tủi nhục này và điều mong muốn mănh liệt nhất là thân nhân Các Anh sớm t́m gặp lại Các Anh sau bao năm dài vẳng bặt tin tức…
Trong lúc bốc mộ cũng có một số người dân đến xem tỏ ư thán phục trước tinh thần quả cảm,chiến đấu anh dũng của Các Anh nên đă t́nh nguyện phụ giúp lúc bốc mộ và Ông Hai Ĺ cũng xúc động trước tinh thần Đồng Đội của Nhóm Bốc Mộ chúng tôi, sau bao nhiêu năm vẫn c̣n giữ được t́nh cảm này,không bao giờ quên nhau,không ngại đường xá xa xôi, khi nhận được tin đă hết ḷng lo cho nhau. Sự chân thành của ông làm chúng tôi cũng hănh diện phần nào v́ Các Anh,những Anh Hùng đă ngă xuống cho Quê Hương…nhưng thế Nước,vận Trời đă làm cho chúng ta ly biệt và măi đến nay mới có cơ hội được Vinh Danh Các Anh.
Tất cả mọi người cùng ứa lệ mừng vui khi t́m được những tấm thẻ bài, giấy tờ, tên tuổi Các Anh …và đây là những vị Anh Hùng của chúng ta:
-Ngôi mộ thứ nhất: Có Thẻ Bài tên TRƯƠNG VI CỬ SQ: 75/115.815 LM:O Nón Sắt,đầu Bút Nịt.
- Ngôi Mộ thứ hai: có Thẻ Bài tên VƠ QUANG HẰNG SQ: 68/123.320 LM:B Nón Sắt, dây nịt.
- Ngôi Mộ thứ ba: (gồm có 02 người) trong đó Một Vô Danh không Thẻ Bài và có Nón Sắt.
** Người thứ hai tên là: có Thẻ Bài tên: TRẦN VĂN HÀ SQ: 67/824.827 LM:O Nón Sắt
Và Một số giấy tờ như: Chứng Chỉ Tốt Nghiệp Nhẩy Dù Khóa 298, măn khóa ngày 21-04-1973.
02 Quyết Định Thăng Cấp của Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù/Ban 1: do Tr/tá Lê Hồng kư và Th/tá Châu kư.
01 Chứng Chỉ đă học khóa Pḥng Hỏa do Trung Tâm Tiếp Vận Vùng 3 kư, cùng một số H́nh Ảnh (đă phai mờ theo thời gian)nhưng cũng tạm xem được,có h́nh đội nón Đỏ,áo Nhẩy Dù.
Những di vật này c̣n tồn tại là nhờ Ông Hai Ĺ,đă cẩn thận bọc thêm nhiều lớp bao Nylon và nhét vào một ống nhựa khi chôn,nhờ sự chu đáo của Ông mà hôm nay chúng ta mới đọc được những ḍng chử này và chứng tỏ các Anh nằm tại đây là Lính Nhẩy Dù..
cha12 ba
01-14-2019, 04:11
Các Chiến Sĩ TĐ.1.Nhảy Dù.Đă Tử Trận Trong Ngày
Cuối Cùng Tại Vũng Tàu,Những Ǵ C̣n Lại Sau 36 Năm
Các Anh Đă Được Trở Về Với Người Thân ,
.
:thankyou::112::112:
Cám ơn Ban ĐL Trăm, tôi thật sự xúc động:handshake:
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1327271&stc=1&d=1547439062
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1327272&stc=1&d=1547439062
wonderful
01-14-2019, 11:19
Wonderful vô cùng thương tiếc các Anh.
Đọc lại chuyện ngày đó..nước mắt tôi c̣n rơi...
Các anh ơi...các anh mất đi, nhưng tên tuổi và sự hy sinh cao cả của các anh vẫn c̣n sống, tổ quốc ghi công, toàn dân Việt Nam nhớ ơn các anh và lịch sử sẽ lưu dấu son hồng những người con anh hùng của dân tộc. Cầu xin các anh sớm được siêu thoát, bây giờ chắc các anh đang mĩm cười v́ đă gặp được những đồng đội thân thương cùng chiến đấu bên nhau ngày cũ...
C̣n gia đ́nh cha mẹ,vợ con và các cháu của các anh bây giờ trong ḷng họ vẫn c̣n tê tái khôn nguôi............... ....Một nén nhang ḷng SJ January 2019.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1327415&d=1547464654
wonderful
01-14-2019, 13:36
Và Wonderful quyết tâm kể tiếp câu chuyện nầy hầu mong các bạn lính của QLVNCH ngày đó biết thương cảm và ghi ơn cho những anh hùng đă hy sinh ngày đó nằm xuống cho chúng ta vui hưởng cái đang có của ngày hôm nay...
Ai là thân nhân của TSI Nguyễn Văn Bảy, số quân 59/182638, thuộc Trung Đội 2, ĐĐ15, Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù?
Trong những ngày cuối cùng của trận chiến, Tháng Tư 1975, trong khi Cộng Sản tràn ngập mặt trận Bà Rịa, cắt đường từ Saigon ra Vũng Tàu với chiến xa yểm trợ, những người lính Nhảy Dù thuộc Trung Đội 2-Trung Đội 15 thuộc Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù vẫn c̣n cố thủ để cho đơn vị rút đi. Toàn trung đội đă hy sinh vào những phút cuối cùng của cuộc chiến, trong đó có người lính Dù linh hiển mang tên Nguyễn Văn Bảy, nằm lại trong khu vực gần cầu Cỏ May.
Theo lời kể của một người lính Dù hiện nay sinh sống tại Bà Rịa mang danh hiệu MĐ.90, thân xác người thất trận nằm chơ vơ, lạnh lẽo, thỉnh thoảng vài người chăn ḅ và dân chúng qua lại xót thương đắp đổi cho anh vài nắm đất, qua thời gian, nơi anh nằm xuống trở thành một ụ đất cao. Sau
trận chiến người chiến sĩ xả thân v́ đất nước nằm lại, không một manh chiếu, một mảnh poncho, chỉ được vùi bằng đất cát quê hương.
Măi đến năm 1995, theo phong trào đưa dân phía Bắc di dân vào Nam làm ăn sinh sống rầm rộ, một người lính Bắc Việt giải ngũ là anh Phạm Văn Kiên, cùng gia đ́nh vào Bà Rịa, mua lại một mảnh đất hoang dă giữa rừng cây tràm, cây cừ, cỏ dại, có ụ đất cao, mà một người dân địa phương là ông Hai Ĺ cho biết đó là nấm mộ chôn một người lính Dù không rơ họ tên từ năm 1975.
Những điều linh hiển.
Cám cảnh cho thân người chiến sĩ bị vùi thân nơi này, và cũng để dọn dẹp lại nơi canh tác, năm 1996, vợ chồng anh Phạm Văn Kiên quyết định cải táng hài cốt người lính miền Nam vào một góc vườn và lập trang thờ để hương khói.
Về việc cải táng này, anh Phạm Văn Kiên đă bàn bạc cùng với một vài anh em lối xóm, cũng là bộ đội giải ngũ từ ngoài Bắc vào đây sinh sống một đợt, là sẽ tiến hành vào ngày mai. Bỗng dưng tối hôm đó vào khoảng 10 giờ đêm, cô em gái của anh Kiên mới ngoài Bắc vào thăm, đang ngủ, ngồi bật dậy chỉ mặt vào anh Kiên nói:
- Ngày mai mà mày đào, mày sẽ chết!
Nói xong câu đó, cô em lại nằm xuống ngủ b́nh thường. Gia đ́nh anh Kiên cũng không hiểu sao cô em gái anh lại có thái độ hỗn hào như thế? Tại sao phải chết khi đào ụ đất?
Trời sáng, hai vợ chồng người lối xóm đến phụ giúp việc cải táng, bỗng dưng cô em gái của anh Kiên mặt mày đỏ gay, tay cầm một nhánh cây chỉ mặt anh Kiên nói với một giọng khác thường:
- Coi chừng chết nhé!
Nói xong cô ấy cầm nhánh cây cắm xuống chỗ gần ụ đất và sau đó té xuống bất tỉnh. Mười phút sau, cô tỉnh dậy mà cũng không biết ḿnh đă nói ǵ. Hồ nghi, anh Phạm Văn Kiên đến chỗ nhánh cây, nơi cô em gái vừa cắm xuống, nhẹ nhàng dùng cái bay thợ hồ cào nhè nhẹ trên lớp đất th́ thấy một trái M79 hiện ra. Nếu không có sự cảnh báo của cô em, có thể với nhát cuốc đụng trái đạn, sẽ phát nổ và gây chết chóc cho những người đứng gần.
Rất nhẹ nhàng, cẩn thận, anh Kiên cào đi những phần đất trên ụ đất cao, t́m thấy thân h́nh của một người lính, thân xác và quân phục đă ră mục, di cốt chỉ c̣n lại 2 ống xương đùi, một sọ người, vài đốt xương nằm vương văi. Lẫn lộn với xương cốt là một dây đạn M16 đă bị hoen rỉ, 4 trái đạn M.79, 2 trái lựu đạn M26, một dây kim khí màu trắng có h́nh thánh giá, một ít đạn M16, đôi giày đă mục nát nhưng c̣n đôi vớ, và một ít đồ lặt vặt, và quí nhất là một thẻ bài có khắc tên: Nguyễn Văn Bảy, SQ: 59/182638 - LM: B.
Anh Phạm Văn Kiên đă bỏ tất cả vào một cái lu nhỏ và chôn ở góc vườn. Trước khi chôn xuống, anh Kiên đă cẩn thận ghi lại những chi tiết về tên họ, số quân và loại máu B trên thẻ bài vào cuốn sổ gia phả của gia đ́nh ḿnh.
Trong cuộc nói chuyện với anh Phạm Văn Kiên qua điện thoại vào tối Thứ Sáu 11 Tháng Giêng từ Mỹ, anh Phạm Văn Kiên, người lính Bắc Việt giải ngũ, gốc gác Đồ Sơn, Thanh Hóa đă cho chúng tôi biết, anh nguyên là bộ đội, đă tham gia trận đánh năm 1979 với Trung Quốc và sau khi giải ngũ, vào Nam lập nghiệp năm 1989. Anh Kiên cho biết năm 1998, khi gia đ́nh làm ăn khấm khá, vợ chồng anh Kiên bàn bạc xây lại căn nhà lớn hơn để ở. Trong ngày chở gạch cát, xi măng về để khởi công xây dựng, th́ buổi tối cả hai vợ chồng đều thấy trong giấc mơ, một người lính to cao, đen, bận đồ rằn ri về nói:
- Hai vợ chồng chú thím tính xây lại nhà th́ nhớ xây nhà cho tôi với nhé! Tôi là Bảy đang ở góc vườn nhà chú thím đây!
V́ vậy, vợ chồng anh Kiên sau đó, xây nấm cho ngôi mộ và bàn trang để thắp nhang. Mỗi năm vào ngày lễ, Tết, giỗ Chạp gia đ́nh đều cúng bái thắp hương cho anh Bảy như là một thành viên trong gia tộc.
Những tấm ḷng chiến hữu
Cho măi đến ngày 19 Tháng Tám 2011, qua những câu chuyện, và sự t́m ṭi, nhóm “bốc mộ” của anh em Nhảy Dù đă t́m được 4 quân nhân hy sinh tại vườn nhà ông Hai Ĺ. Từ đó, nhóm t́m mộ mới biết câu chuyện hài cốt của anh Nguyễn Văn Bảy chôn trong vườn gia đ́nh ông Phạm Văn Kiên. Về cấp bậc TSI của anh Kiên là do một đồng đội của anh cùng trung đội cho biết.
Nhiều anh em trong gia đ́nh Mũ Đỏ đă có dịp ghé lại nhà anh Phạm Văn Kiên đều được anh Kiên cho xem tấm thẻ bài cũng như những ḍng chữ anh đă ghi rơ trong gia phả của ḍng họ anh. Bà con lối xóm đều tin vào sự linh hiển nên thường vẫn hương khói cho anh Nguyễn Văn Bảy. Anh Phạm Văn Kiên cũng cho biết khi xây ngôi mộ cho anh Bảy, gia đ́nh anh cũng bị đàm tiếu là “xây mộ, thắp nhang cho lính Ngụy!”
Nhóm anh em Nhảy Dù đă đến thăm và cảm ơn vợ chồng anh Kiên đă cải táng, xây mộ cho TSI Nguyễn Văn Bảy, và ngỏ ư muốn đem anh Bảy về nhà thờ giáo xứ Long Hương v́ theo lời kể, người ta t́m thấy giây thánh giá bên cạnh hài cốt của anh Bảy.
Sự cải táng không thể tiến hành ngay v́ sự quyến luyến của gia đ́nh anh Phạm Văn Kiên là người đă chăm sóc ngôi mộ này hơn 20 năm. Trong thời gian này, các chiến hữu Mũ Đỏ c̣n ở lại trong nước hay đă ra nước ngoài như Mỹ, Canada có ḷng đều tạo cơ hội thăm viếng, giúp đỡ hai gia đ́nh của ông Hai Ĺ cũng như Phạm Văn Kiên. Một Mũ Đỏ ở Canada đă tài trợ cho chuyến thăm viếng của anh em đến Bà Rịa và một chiến hữu BĐQ khác đă có ḷng chịu lo toàn bộ chi phí để cải táng và đem anh Bảy về nhà thờ Long Hương, mà trong trang báo này, anh em không muốn nêu rơ danh tánh.
Cho đến ngày 28 Tháng Mười Hai 2012 gia đ́nh Mũ Đỏ mới cải táng di cốt của anh Nguyễn Văn Bảy từ một chiếc lu đă chôn trước đây qua một chiếc quách nhỏ vào nhà hài cốt giáo xứ Long Hương (Bà Rịa).
Hiện nay trong 4 hài cốt gởi tại chùa Bửu Thiền, một hài cốt đă được người thân nhận đem về quê là TSI Vơ Quang Hàng, c̣n lại 3 quân nhân là: Trần Văn Hà, Trương Vi Cử và một Vô Danh. Nếu quư vị nào có ḷng nhang khói cho các anh gởi tại đây xin vui ḷng liên lạc với Đại Đức Thích Trung Thông, chùa Bửu Thiền, đường Lư Thái Tông, khu Cầu Xéo, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
Hài cốt của TSI Nguyễn Văn Bảy hiện để tại giáo xứ Long Hương, liên lạc qua Linh Mục Phạm Minh Tân, giáo xứ Long Hương, thành phố Bà Rịa, Vũng Tàu.
Chúng tôi, người viết bài này mong mỏi bản tin được phổ biến, để gia đ́nh các chiến hữu Nguyễn Văn Bảy, Trần Văn Hà, Trương Vi Cử... thuộc TĐ 1ND có thể nhận ra thân nhân của ḿnh.
Chúng tôi xin ghi số điện thoại của những người trong cuộc để gia đ́nh các tử sĩ có thể liên lạc t́m thân nhân hoặc giúp đỡ:
- Phạm Văn Kiên Tổ 1, khu phố 1, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Số Phone: 01666496797, người đă có công cải táng, xây mộ và chăm sóc mộ phần của TSI Nguyễn Văn Bảy trong suốt hơn 20 năm.
- Anh Hai Ĺ, nhân chứng tại địa phương 0984748392.
- Anh Viên, danh hiệu MĐ.90, người kể chuyện 0903721529.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1327464&d=1547472936 http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1327465&d=1547472956
Xương cốt và thẻ bài của TSI Nhảy Dù Nguyễn Văn Bảy..Ngôi mộ người lính Nhảy Dù trong khu vườn người lính Bắc Việt giải ngũ.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1327466&d=1547472976
Ngôi mộ của Anh Bảy đựơc xây cất chu đáo v́ c̣n nhiều người đến viếng thăm và cầu nguyện.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1327471&d=1547475329
Đến bức tượng TIẾC THƯƠNG ở Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa mà bọn cộng sản bắc việt cũng không tha....
Đầu tháng 05-1975, tượng TIẾC THƯƠNG nơi cổng vào Nghĩa Trang bị giật sập, tượng chỏng ngược đầu xuống đất, cẳng lên trời, cận lề xa lộ, khiến cho những khách qua đường cảm động, âm thầm nhỏ lệ xót thương “anh lính đồng đen”, một khối vật chất nhưng rất có hồn và mang nhiều huyền thoại....của những người bạn lính VNCH của tôi.
Rót ra ly rượu, rót đầy
Một trăm phần nhé, ôi mây với trời
Tay run đổ hết rượu rồi
Cái ly vỡ nát, bia người c̣n nguyên
Wonder ful ngó quanh ḿnh
Khom lưng lượm miểng ḷng tràn tiếc thương.
cha12 ba
01-15-2019, 17:44
Cây Mai Rừng Của Người Lính Trận
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1327951&stc=1&d=1547574225
Ông Thành xuất thân là một quân nhân, nhập ngũ từ năm mới hai mươi tuổi. Đất nước chiến tranh tuổi thanh niên đa số dấn thân vào con đường binh nghiệp, dù chẳng ham ǵ cảnh cốt nhục tương tàn, nhưng khổ thay cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng. Muốn ḥa b́nh phải có chiến tranh, định mệnh đưa đẩy khiến toàn dân đều chịu chung số phận nghiệt ngă của một đất nước bị phân chia kéo dài 20 năm đằng đẵng.
Hơn mười năm lính, bao lần xông pha trận mạc, trôi nổi sống chết với đồng đội chiến hữu của ḿnh trên khắp các chiến trường miền Đông, rồi lại chuyển qua miền Tây. Mỗi nơi mỗi vẻ, nhưng in đậm trong trí nhớ của ông Thành là chiến trường miền đông, vùng chiến địa đôi khi lại là một cánh rừng thưa mà mỗi độ Xuân về, mai rừng nở hoa bát ngát mênh mông một màu vàng rực rỡ. Ông Trời trớ trêu đem cái đẹp của rừng mai lúc sang Xuân, lồng vào nỗi buồn ray rứt của khói lửa binh đao, khiến ḷng người lính trận thắt lại mênh mang khi ngắm hoa nở trên đầu súng.
Những năm xa gia đ́nh, ăn Tết trên rừng với hoa mai vàng óng ả đă ghi đậm trong ḷng ông Thành một bức tranh tuyệt vời trong đời quân ngũ. Tết trên rừng nơi vùng hành quân nào có ǵ , nếu không nhờ những cánh mai vàng hồn nhiên rung rinh hé nở trong nắng sớm, và chút se sắt của gió Xuân làm thổn thức con tim người lính trận. Xa vợ con, xa gia đ́nh, xa phố thị b́nh yên, những buổi chiều nơi vùng trú quân năm nào im tiếng súng, thân phận người lính trận có ǵ vui khi được lai rai ly rượu đế, món thịt rừng và con khô nướng, để nhớ về không khí ấm cúng của gia đ́nh, và những buổi chiều Xuân nhộn nhịp, an b́nh nơi thành phố. Ông Thành đă có nhiều năm ăn Tết ở đơn vị với chiến hữu, đă quen dần với những mùa Xuân xa nhà, cho đến năm ấy sau một lần hành quân đụng nặng cấp tiểu đoàn, ông bị thương nặng ngất đi v́ mảnh đạn pháo dập đứt ĺa một chân, và bao nhiêu mảnh nhỏ ghim vào thân thể.
Thế là giă từ vũ khí, giă từ nếp sống nhà binh rày đây mai đó, ông làm người phế binh an phận bên lề cuộc chiến, đời sống tương đối được ổn định nhờ người vợ hiền tần tảo buôn bán nuôi con. Lúc nghĩ đến chuyện mua một căn nhà để có một chỗ ở cố định, ông Thành chống nạng đi lang thang khắp hang cùng ngơ hẻm, măi mới ưng ư một dẻo đất gần bờ sông, uốn cong theo thế đất để đi vào một con rạch nhỏ. Ông tính toán thú điền viên cho ḿnh ở cái tuổi chưa già nhưng xem như đă phế thải với cuộc đời, thôi th́ một căn nhà tôn vách ván, sân trước sân sau cũng rộng răi thoáng mát, nuôi con heo con gà quanh quẩn với vườn rau, bù vào đồng lương khiêm nhượng của một thương phế binh, cộng thêm bà vợ tần tảo chăm làm đời sống cũng không đến nỗi.
Tuy giă từ vũ khí, chấp nhận đời sống êm ả của một cảnh đời tàn phế v́ chiến tranh, ông Thành thường nhiều lần trở lại trong mơ quăng đời của người lính trận, mỗi lần ngồi tần ngần nh́n ḍng nước chảy ông miên man nhớ lại những khuôn mặt bạn bè, chiến hữu một thời của ḿnh với nỗi nhớ nhung, thương yêu đằm thắm. Tuy đă xa rồi chiến trường xưa, bạn bè thời quân ngũ nhưng trong ḷng ông vẫn vọng về những kỷ niệm in hằn trong trí nhớ, nhớ nôn nao chén rượu cay, con khô nướng, ly bia sủi bọt trong cái quán cóc ven đường có cô hàng xinh xinh ở vùng hậu cứ , tiếng cười ngất ngưởng của những Kinh Kha thời đại. Có đi vào chiến tranh, có chia xẻ tận t́nh với nhau những lần sống chết mới thấm thía được nỗi nhớ ấy như thế nào. Chẳng những thế c̣n in đậm trong ông nỗi nhớ cánh rừng mai vùng chiến địa năm xưa, khiến ông quyết định mua một dẻo đất vuông vức khá đẹp trong Xóm Hoa Mai để cất một căn nhà làm chỗ an cư lạc nghiệp.
Vậy là may lắm rồi, khi c̣n biết bao nhiêu người vợ lính ẵm con thơ chạy theo chồng từng bước trên các nẻo đường chinh chiến với đồng lương cố định ít ỏi, những năm ấy ông rong ruổi một ḿnh như con chiến mă trên dải đường xa, để một ḿnh bà vợ lo toan nuôi đám con ăn học . Chẳng biết cái tên Xóm Hoa Mai có tự bao giờ, nhưng đặc điểm của xóm là nhà nào cũng trồng một, hai cây hoa mai ở sân trước, bên hiên nhà lẫn trong bóng của cây mận, cây dừa. V́ thế khi xuân về từ đầu xóm đến cuối xóm, nhà nào cũng có hoa mai vàng rực rỡ trên cây và thảm hoa rụng đầy trên mặt đất. Ông Thành đi kiếm đất cất nhà vào mùa Xuân năm ấy bỗng như lạc vào rừng hoa mai ở chiến trường xưa thuở nào.
Người chủ đất biết được cái thích của ông Thành nên v́ thế miếng đất khá cao giá hơn chỗ khác, ông cũng biết vậy nhưng nếu so với cái hạnh phúc của người t́m được điều ḿnh thích th́ giá ấy chưa phải là đắt.
Khi cất xong ngôi nhà đơn sơ với số tiền do bà vợ đảm đang dành dụm trong nhiều năm buôn tần bán tảo, cả nhà cảm thấy đă an cư lạc nghiệp. Trên mảnh đất ấy đă có sẵn vài cây dừa và hai cây mận, đủ làm bóng mát ban đầu cho căn nhà ven sông thêm thơ mộng, và ở vườn sau thả thêm một đàn gà, nuôi hai con heo, cộng thêm vài con vịt xiêm ồn ào đi đi lại lại rồi nhảy xuống mương lặn lội cũng vui vui. Việc đầu tiên là ông Thành đi lùng mua một gốc mai quư để trồng ở sân trước. Chưa t́m được th́ một sáng kia, đang loay hoay với cái hàng rào bông bụt trước sân ông nghe có tiếng gọi quen quen:
- Ông thầy!
Ông ngửng lên nh́n nhưng đôi mắt v́ chói ánh mặt trời nên nh́n chưa rơ, để rồi khi nh́n ra, ông suưt làm rơi cái nạng xuống đất, mừng rỡ nhận ra tiếng nói quen thuộc của người lính đàn em cùng đơn vị năm xưa. Đôi con mắt nh́n nhau rươm rướm lệ, nh́n người đàn em về phép với bộ chinh y c̣n bám bụi đường xa, khuôn mặt hằn lên những gian khổ chiến trường khiến ông chỉ muốn khóc. Ông hỏi, ngỡ ngàng biết bao khi thốt lên mấy tiếng thân thương của một người đàn anh cùng đơn vị thuở nào:
- Ôi! Chú mày! Sao biết anh ở đây mà t́m?
Người lính trẻ toác miệng cười vô tư:
- Em hỏi thăm th́ biết. Sẵn dịp về phép, ghé thăm ông Thầy và mang về một món quà ở chiến trường xưa. Ông thầy có nhớ khu rừng mai hồi xưa ḿnh đụng lớn ở đó không? Vừa rồi đi qua đó, thấy có loài mai quư em vội bứng cây mai này để dành tặng ông Thầy làm kỷ niệm. Cây này khỏe, xem nhỏ vậy nhưng cũng già rồi, em chăm nó kỹ lưỡng đợi khi có phép mới mang về được đây. Ông thầy chịu khó chăm nó độ mùa Xuân năm sau là hy vọng có bông chưng Tết.
Ông Thành cảm động nói không nên lời, ôi t́nh huynh đệ chi binh tưởng chỉ có được thời gian c̣n tại ngũ, trong sách vở và mấy bản nhạc bốc thơm đời lính, hóa ra nó không phải là những lời hoa mỹ trên đầu môi chót lưỡi, uốn éo trên môi miệng nhũng cô ca sĩ. Chẳng có ǵ quư hơn khi ḿnh tặng cho người khác món quà mà người ta đang mơ ước, mong đợi, cây mai rừng của người lính trẻ đối với ông Thành quư c̣n hơn vàng bạc. Lúc khề khà ly bia sủi bọt với người lính cũ, anh ta ngà ngà say chỉ vào dúm đất ôm lấy gốc mai xanh mướt, nói với ông Thành:
- Cái nhúm đất ở gốc mai này có khi cũng đă nhuộm máu binh lửa đó ông thầy à. Hổng biết sao chứ em mơ hồ là nó sẽ gắn liền với ông thầy hết cuộc đời trong cái mảnh sân và căn nhà này đó. Hễ ngày nào đó thấy mai nở, ông thầy sẽ nhớ đến em, cho dù em c̣n sống hay chết…
Ông Thành mắng yêu người lính trẻ mà đôi mắt ông sao ướt nḥa như trời mưa:
- Bậy nà! Khi nào về phép nhớ ghé thăm anh nghe …
Người lính trẻ giă từ ông thầy cũ của ḿnh rồi trở ra đơn vị, để lại cây mai quư mọc lên từ cánh rừng khói lửa miền Đông. Cây mai cứ thế lớn nhanh như thổi, v́ ông Thành chăm sóc nó c̣n hơn mẹ chăm con mọn. Không biết sao từ đấy, những lúc vui, buồn quanh quẩn bên cây mai với đôi nạng gỗ, ông Thành dường như thấy ḷng ḿnh ấm hẳn lại. Ông gửi lại chiến trường một phần thân thể của ḿnh, có khi chính những ḍng máu của ông và bao người lính đă loang chảy và thấm sâu xuống ḷng đất ấy, để hội tụ vào những gốc mai trong cánh rừng thưa nở hoa vàng mỗi độ Xuân về, gom lại thành một thứ t́nh đồng đội khó nguôi ngoai.
Những sớm mai khi thức dậy, những buổi chiều gió hiu hiu từ bến sông phả vào khu vườn nhỏ tiếng lá reo, đă thấy bóng ông lom khom với đôi nạng gỗ bên cây mai, lắm khi cao hứng ông c̣n hát một ḿnh :
- Người về, người về nay đă cụt chân Máu đào, máu đào đă thấm trên thây bao nhiêu quân thù …u ù, một ngày chinh chiến mùa thu…
Cây mai lớn nhanh theo cái t́nh đằm thắm thương yêu của người thương phế binh đă một thời xả thân trên chiến trường cũ.
Nó chẳng phụ công ông chăm sóc nên mùa Xuân năm sau cây đă đơm những bông hoa đầu tiên, tám cánh vàng tươi rung rung trong nắng sớm, khác nào nụ cười xinh xinh của các cô em gái hậu phương thuở ấy. Không có ng̣i bút nào diễn tả hết được nỗi vui của người thương binh chống nạng đứng ngẩng nh́n những đóa mai vàng tám cánh rung rinh trong nắng sớm, nh́n nó ông Thành lại nghĩ đến h́nh ảnh người đàn em có cái miệng cười thật tươi khi đến thăm ông lần về phép năm trước.
Để rồi vô t́nh có ngày ông Thành bỗng phát hiện ra mọi buồn, vui trong đời ông h́nh như đă được cây mai báo trước mà sau khi chuyện xảy ra, ông mới thấy được sự kỳ lạ ấy. Hai năm sau, một đêm mùa hè ông Thành không ngủ được, trời đêm ấy có trăng nhưng lặng gió, ông quanh quẩn thả ra gốc mai rồi lại quay vào ngồi trước hiên nhà hút thuốc.
Đêm khuya rồi mà vẫn khó ngủ, ông vào nhà ghé ḿnh lên chiếc phản gỗ nhưng vừa đặt ḿnh xuống và lơ mơ đi vào giấc ngủ, ông nghe như từ cây mai có tiếng chuyển động của những bước chân, y hệt tiếng xê dịch của những gót giày nhà binh mỗi lần chuyển quân. Từ chỗ gốc mai tự nhiên gió nổi lên lồng lộng khiến cây lá ŕ rào, th́ thào với nhau giữa canh trường. Không biết thức hay ngủ giữa cơn mộng mị, ông Thành nhác thấy người lính trẻ đàn em tặng ḿnh cây mai năm nào đang đứng tựa cành mai, dưới ánh trăng mờ anh ta toác miệng cười với ông, nụ cười thân thương của người đàn em khiến ông mừng quá quơ đôi nạng định chạy ra ôm lấy người chiến hữu của ḿnh. Ngay khi ấy ông chợt tỉnh, th́ ra đấy chỉ là một giấc mộng. . .
Ông Thành tỉnh hẳn rồi không ngủ lại được, hoặc có ngủ th́ cũng chỉ chập chờn nửa tỉnh nửa mê chờ sáng. Linh tính cho ông biết có chuyện ǵ …xảy đến với thằng đàn em dễ thương của ḿnh, như câu dặn ḍ của hắn trước khi chia tay, trong lúc ngà ngà men rượu:
- Một ngày nào đó mai nở, ông thầy sẽ nhớ đến em, dù em c̣n sống hay đă chết…
Từ hôm ấy sau giấc mộng kỳ lạ giữa đêm trăng, bóng h́nh người lính trẻ cứ măi chập chờn trong tâm hồn người đàn anh khiến ông Thành khắc khoải một nỗi mong đợi khôn nguôi. Không chịu được nỗi buồn u uẩn đó, ông Thành viết thư thăm người bạn cũ cùng đơn vị năm xưa, hỏi thăm đàn em mới biết tin người lính trẻ tặng ông cây mai quư đă biền biệt ra đi đúng vào khoảng đêm trăng mùa hè hôm ấy.
Từ ngày ấy người trong nhà thấy khi trời nhập nhoạng chiều, gió se sắt thổi từ bờ sông phả vào sân trước là ông Thành lặng lẽ cặm ba cây nhang dưới chân cội mai, nơi cái nhúm đất con con mà người lính đă mang về từ chiến trường xưa dưới gốc cây, đôi mắt ông đau đáu một nỗi buồn dịu vợi....
Hôm đầu tiên nghe tin người đàn em đă tử trận, ông Thành ngơ ngẩn suốt buổi chiều cạnh gốc mai lá xanh mươn mướt, lúc nào ông cũng chỉ muốn khóc. Khi cặm những cây nhang xuống đất, ông bật lên khóc rưng rức, rồi vu vơ mắng yêu vào cái khoảng không trống trải của hư vô:
- Mồ tổ bây, c̣n trẻ vậy mà sao đi vội thế!
Mùa Xuân tiếp nối mùa Xuân, người thương binh giờ đây già đi với mái tóc muối tiêu và khi gió trở mùa, những vết thương cũ ê ẩm làm ông khó ngủ hơn. Vẫn chỉ có cây mai làm bạn để ông hát vu vơ bản nhạc cũ:
Người về, người về nay đă bị thương
Nhưng ḷng vẫn nhớ, người ơi biên cương xa vời, ơ hờ
Người về nay đă bị thương….
Cây mai bây giờ đă thành cội, tính theo tuổi đời kể từ ngày người lính đem về tặng ông đến nay th́ nó đă được sáu tuổi, mỗi độ Xuân về hương sắc càng rực rỡ theo tuổi dậy th́ của cô con gái ông Thành đang bước vào tuổi mộng mơ.
Ông Thành có thêm niềm vui lúc Xuân sang, một lũ bạn học cùng lớp của con gái ríu rít chen nhau đứng chụp h́nh dưới gốc mai, cô nào cũng khoe nụ cười hàm tiếu. Chuyện ấy làm ông liên tưởng đến mỗi lần hành quân về thành phố, người hậu phương đến thăm lính trận từ chiến trường xa mới về choàng ṿng hoa chiến thắng. Mấy thằng đàn em của ông khi xung trận ĺ lợm ghê, vậy mà khi đứng trước giai nhân, lúng túng vụng về chỉ biết nhe răng ra cười, đúng là ” chí lớn trong thiên hạ, không đựng đầy đôi mắt giai nhân”.
Mùa Xuân năm ấy ông Thành vẫn lắng nghe trong đêm tiếng đại bác ́ ầm từ xa vọng về thành phố, ánh hỏa châu lơ lửng giữa đêm đen, chiếc máy bay trực thăng bắn ra những tia lửa đỏ rực ở vùng ngoại ô, và bản tin mỗi ngày đọc sao nghe nặng nề hơn trong ḷng người lính cũ. Ông thầm nghĩ, ḿnh an phận rồi dù có gửi lại chiến trường cái chân và những mảnh đạn ghim vào người vẫn c̣n ê ẩm lạ, nhưng sao chưa thấy năm nào mùa Xuân sắp đến mà trời đất lại buồn như năm nay. Trước Tết ông Thành đă chọn ngày lặt lá mai, pha mấy chậu nước ấm tưới vào gốc mai để thúc cho hoa nở đúng kỳ hạn. Chẳng bao giờ ông Thành cắt một cành mai để chưng trong nhà hay tặng cho bằng hữu anh em dù thân t́nh cách mấy.
Ông quan niệm phải giữ trọn vẹn tất cả những ǵ của cành mai, như lúc nào ông cũng trân trọng linh hồn của người đàn em, mà chẳng những thế cả cái nhúm đất con con mang theo gốc mai của người lính trẻ đă chết đem về, ông cũng muốn nó c̣n tồn tại măi trong mảnh sân này, chỉ ở mảnh sân này mà thôi . . .
Cũng như mọi năm cây mai ra nụ rất nhiều, nụ lớn nụ bé chen nhau trên cành chỉ c̣n thưa thớt ít lá đẹp làm màu xanh cho cây, cả nhà ai cũng tấm tắc mong đợi khi chiều ba mươi Tết các nụ hoa đă mơn mởn lên chúm chím chờ hé nhụy. H́nh như đối với ông Thành th́ chỉ có cây mai này mới hoàn toàn đem mùa Xuân đến cho ông, với một nỗi niềm riêng gửi gấm vào đó mà không cần ai hiểu, chiều ba mươi Tết cây mai vẫn hứa hẹn một vẻ đẹp măn khai cho ngày đầu Xuân đầy hy vọng.
Nhưng không thể ngờ, định mệnh như một bàn tay tai quái thổi cơn gió hung tàn vào cái đêm cuối cùng của một Năm, giờ giao thừa đă qua mà gió ở đâu ào ào thổi qua vườn làm ông Thành lo lắng thắc thỏm không yên. Chẳng lẽ không khí chiến tranh hiện diện trong nỗi thống khổ của dân tộc, đă hơn hai mươi năm lại gom thành cơn gió oan nghiệt thổi thốc vào cây mai báo hiệu một mùa Xuân Khổ chia xa , trong gia đ́nh đang b́nh yên của ông. Cả nhà đă yên giấc khi nửa đêm về sáng, ông Thành lại trằn trọc hồi tưởng đến mùa Xuân trên cánh rừng miền Đông khi ông c̣n là lính trận, chợt tiếng xào xạc của cây mai sân trước bị gió xoáy vào trong đêm trừ tịch, nghe như âm vang của từng bước chuyển quân năm xưa làm ông rùng ḿnh.
Chợt nhớ đến khuôn mặt của người đàn em hiện về trong giấc chiêm bao, cũng đêm đó gió ở đâu lồng lộng quay cuồng nơi gốc mai sân trước, ông Thành h́nh dung ra một sự đổ vỡ mà không định nghĩa được là cho ḿnh hay cho ai. . .
Sáng hôm sau ông dậy sớm, vợ ông đă sửa soạn bữa cơm cúng đầu năm trên bàn thờ ông bà tổ tiên, khói hương nghi ngút và trầm trầm một sự tưởng nhớ rất thiêng liêng. Ông Thành đốt mấy nén nhang cắm trên bàn thờ ông bà, rồi đốt thêm ba nén nhang đem ra cây mai để gọi là mừng tuổi đất trời và để tưởng nhớ bạn bè, gọi thầm những h́nh xưa bóng cũ.
Từ trong nhà bà Thành nghe có tiếng rơi của chiếc nạng gỗ và tiếng kêu thảng thốt như tiếng khóc khô khốc của ông Thành vọng lên trong buổi sáng đầu Xuân c̣n mờ hơi sương:
- Trời ơi!
Bà Thành chạy ra sân rồi không tin vào mắt ḿnh. Bao nhiêu nụ và hoa đều rụng xuống tả tơi như một tấm thảm trên mặt sân lát gạch đỏ, c̣n ông Thành th́ ngă lăn ra dưới gốc cây lịm đi như một xác chết. Mùa Xuân ấy là mùa xuân năm một chín bảy lăm ./.
Nguyên Nhung
wonderful
01-15-2019, 20:55
Cây Mai Rừng Của Người Lính Trận
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1327971&d=1547585689
Đôla Trăm
01-17-2019, 01:48
Cố Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1328480&stc=1&d=1547689289
Ông Lê Anh Tuấn sinh ngày 12 tháng 12 năm 1943; xuất thân trường trung học Chu Văn An. Ông học hết năm thứ ba Đại Học Luật Khoa th́ gia nhập khóa 14 sĩ quan Hải Quân Nha Trang.
Là người em út của một vị Tướng đầy uy quyền – Trung Tướng Lê Nguyên Khang – nhưng ông Lê Anh Tuấn không xin về những đơn vị ít nguy hiểm mà ông lại t́nh nguyện về các đơn vị tác chiến. Đơn vị cuối cùng do ông chỉ huy là Giang Đoàn 43 Ngăn Chận, hậu cứ tại Tuyên Nhơn.
Ngày 26 tháng 04 năm 1975, Cộng Sản Việt Nam dốc toàn lực tấn công Tuyên Nhơn, với chủ tâm muốn san bằng Căn Cứ Tuyên Nhơn.
Không phá vỡ được pḥng tuyến Tuyên Nhơn, Trung Đoàn E1 của Cộng Sản Việt Nam phong tỏa pḥng tuyến Tuyên Nhơn bằng hệ thống pḥng không dày đặc và thả thủy lôi trên mọi hải tŕnh dẫn đến Tuyên Nhơn.
Tối 29 tháng 04 năm 1975, từ Đồng Tâm, Tư Lệnh Phó Lực Lượng Trung Ương – Hải Quân đại tá Vũ Xuân An – liên lạc truyền tin và ra lệnh cho thiếu tá Tuấn, bằng mọi cách, phải đưa đơn vị rời Tuyên Nhơn.
Trên giang tŕnh Giang Đoàn 43 Ngăn Chận mở đường máu để về Bến Lức c̣n có Giang Đoàn 64 Tuần Thám tháp tùng. Cả hai đơn vị đều bị Cộng Sản Việt Nam tấn công rất tàn bạo.
Tối 30 tháng 04 năm 1975, thấy đoàn giang đỉnh vừa chống trả vừa di chuyển chứ không dừng, xe tăng của Cộng Sản Việt Nam hạ ṇng súng bắn trực xạ, gây nhiều thương vong!
Giữa lúc nguy nan như thế, trên tầu có rất nhiều đàn bà và trẻ con, nếu liều ra th́ chết hết nên vào khoảng giữa trưa, Thiếu Tá Lê Anh Tuấn đă ra lệnh cho tất cả các chiến hữu đáp tầu vào bờ và đầu hàng. Khi tầu cập bến, sau khi cho dân chúng lên bờ an toàn, một ḿnh ở lại tầu, Thiếu Tá Tuấn đă dùng súng colt tự bắn vào đầu ḿnh vào chiều 30/4/1975, lúc 17 giờ 20 phút, sau khi Dương Văn Mình tuyên bố đầu hàng vào buổi trưa .
21 năm sau (1996), gia đ́nh anh và những người bạn khóa 14 HQ đă từ Mỹ đă về đến bờ sông Vàm Cỏ Tây t́m mộ anh, thấy ngôi mộ đă được dân chúng tự động xây cất tử tế. Đào lên th́ thấy giấy tờ bọc trong bao plastic (Thẻ căn cước quân nhân, thẻ Sinh Viên Năm thứ tư Luật Khoa và thẻ bài Quân Đội) vẫn c̣n nguyên vẹn. Hài cốt anh đă được hoả thiêu và đem về Mỹ để tại chùa Giác Minh - Palo Alto, California.
Gia đ́nh Hải Quân đă làm lễ tiếp đón và truy điệu rất trang trọng. Nhiều bạn bè CVA, đại diện các đoàn thể đă đến nghiêng ḿnh trước di ảnh để chào vĩnh biệt một cựu học sinh CVA quả cảm, một quân nhân bất khuất cuả Hải Quân Việt Nam, và trên tất cả là một người anh hùng thà chết chứ không đầu hàng giặc
Bà cụ thân mẫu cuả anh, năm nay đă 96 tuỗi, vẫn ngày ngày cầu nguyện cho người con trai ra đi khi chưa lập gia đ́nh .
florida80
01-17-2019, 02:33
Cây Mai Rừng Của Người Lính Trận
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1327971&d=1547585689
So beautiful @Cây Mai Rừng :thankyou:
Đôla Trăm
01-17-2019, 02:38
Wonderful vô cùng thương tiếc các Anh.
Đọc lại chuyện ngày đó..nước mắt tôi c̣n rơi...
Các anh ơi...các anh mất đi, nhưng tên tuổi và sự hy sinh cao cả của các anh vẫn c̣n sống, tổ quốc ghi công, toàn dân Việt Nam nhớ ơn các anh và lịch sử sẽ lưu dấu son hồng những người con anh hùng của dân tộc. Cầu xin các anh sớm được siêu thoát, bây giờ chắc các anh đang mĩm cười v́ đă gặp được những đồng đội thân thương cùng chiến đấu bên nhau ngày cũ...
C̣n gia đ́nh cha mẹ,vợ con và các cháu của các anh bây giờ trong ḷng họ vẫn c̣n tê tái khôn nguôi............... ....Một nén nhang ḷng SJ January 2019.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1327415&d=1547464654
:handshake::thankyou :
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1328495&stc=1&d=1547691527
Bà quả phụ Huỳnh Thị Sinh vợ cố trung tá Ngụy Văn Thà (hạm trưởng hộ tống hạm Nhật Tảo HQ10 .)đă hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974 .
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1328496&stc=1&d=1547691527
Bà quả phụ Ngô Thị Kim Thanh vợ cố thiếu tá Nguyễn Thành Trí (hạm phó hộ tống hạm Nhật Tảo HQ10 ) đă hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974 , khi đó bà 28 tuổi đang mang thai đứa con thứ 2 .
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1328497&stc=1&d=1547691527
Thư báo tử do đề đốc Trần Văn Chơn kư gửi cho bà quả phụ Lê Kim Chiêu ,báo tin chồng bà : cố HQ đại úy Huỳnh Duy Thạch đă hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974 .
laongoandong
01-21-2019, 19:32
Cây Mai Rừng Của Người Lính Trận
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1327971&d=1547585689
Xuân đă về nhưng vẫn không quên nhiệm vụ. H́nh ảnh thân thương trong những người lính như chúng ḿnh
wonderful
01-21-2019, 22:04
Huynh Đệ Chi Binh là ǵ đó anh hai ...là ...
Ḿnh cùng chung đời lính thương nhau khác chi nhân t́nh...
Và c̣n một cái t́nh nửa là t́nh Huynh Đệ ANH EM..
Và tôi xin kể câu chuyện cảm động đó..
Đôi Bàn Tay Nguyện Cầu.
Chuyện kể rằng vào thế kỷ thứ 15, tại một ngôi làng nhỏ gần thành phố Nuremberg của nước Đức có một gia đ́nh nghèo khó và rất đông con. Trụ cột trong gia đ́nh – người cha là một thợ kim hoàn có tiếng thuộc ḍng họ Albrecht. Ông phải làm việc quần quật suốt 18 tiếng một ngày, từ sáng sớm đến tối khuya trong nhà xưởng và đi làm thuê làm mướn bất cứ công việc ǵ cho người dân trong vùng để nuôi đàn con khôn lớn.
Mặc dù sống trong gia cảnh nghèo khó, nhưng hai cậu con trai đầu ḷng nhà Albrecht luôn ấp ủ một ước mơ trở thành một nghệ sĩ tài ba. Tuy vậy chúng cũng hiểu rằng cha ḿnh chẳng bao giờ có đủ tiền để chu cấp cho một trong hai đứa tới học tại trường nghệ thuật ở Nuremberg.
Sau nhiều đêm bàn bạc trên chiếc gường chật chội của ḿnh, hai anh em cuối cùng cũng đă thỏa thuận được rằng: chúng sẽ tung đồng xu để phân định và người thua cuộc sẽ phải nghỉ học, đi làm thuê trong các hầm mỏ để kiếm tiền nuôi người kia ăn học thành tài. Người thắng sẽ hoàn thành việc học tập trong ṿng 4 năm và sau đó quay trở lại kiếm tiền để nuôi người anh em c̣n lại của ḿnh đi học bằng việc bán những bức tranh hay thậm chí là đi làm thuê trong các hầm mỏ.
Vậy là sự việc tung đồng xu định mệnh của anh em nhà Albrecht đă được diễn ra vào một buổi sáng chủ nhật nọ, ngay phía sau nhà thờ.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1330367&d=1548108223
Cuối cùng th́ người anh – Durer Albrecht đă thắng cuộc và tới Nuremberg học mỹ thuật; c̣n người em – Albert phải nghỉ học và đi làm thuê trong những hầm mỏ, ṛng ră suốt 4 năm trời vô cùng cực nhọc để kiếm tiền nuôi anh ăn học.
Người anh nhanh chóng trở thành một học tṛ xuất sắc ở trường. Những tác phẩm tranh vẽ, tranh khắc gỗ và tranh sơn dầu của anh thậm chí c̣n đẹp hơn hẳn những bức tranh khác của các bậc thầy dạy.
Như một lẽ đương nhiên, ngay khi vừa tốt nghiệp, Durer Albrecht đă bắt đầu kiếm được rất nhiều tiền từ các tác phẩm của ḿnh.
Chàng trai trẻ trở về nhà trong niềm vui sướng hân hoan của cả gia đ́nh. Buổi tối hôm đó, nhà Albrecht tổ chức một bữa tiệc ăn mừng lớn. Buổi tiệc tràn đầy tiếng nhạc và những lời chúc tụng. Durer Albrecht rời bàn ăn tiến tới bên người em trai yêu dấu đă bao năm vất vả lam lũ nuôi ḿnh ăn học để nói lời biết ơn và cùng nâng cốc chúc mừng.
Đến cuối tiệc, Durer Albrecht dơng dạc tuyên bố:
– Này Albert! Em trai yêu quư của anh. Đă đến lúc anh chăm lo cho em được rồi. Em hăy tới Nuremberg để theo đuổi ước mơ của ḿnh đi, anh sẽ trang trải mọi việc và luôn ở bên cạnh em.
Mọi ánh mắt đều dơi nh́n về phía cuối bàn ăn nơi Albert đứng, với niềm xúc động khôn cùng.
Nhưng người em vẫn đứng đó cúi đầu trong im lặng. Những giọt nước mắt lăn dài xuống hơm má gầy g̣ xanh xao của ḿnh… và Albert nấc lên trong thổn thức:
– Không, không… không!
Cuối cùng, Albert ngẩng đầu lên và lau những giọt nước mắt trên đôi g̣ má hốc hác, anh nh́n mọi người khắp một lượt, rồi run rẩy áp đôi bàn tay của ḿnh lên bên má phải và nghẹn ngào nói:
– Anh Durer! Anh ơi, em không thể! Em không thể tới học ở Nuremberg, đă quá muộn rồi anh ạ. Anh nh́n đôi tay em này, anh ơi! Ôi, bốn năm qua làm việc trong các hầm mỏ, nó đă làm ǵ đôi bàn tay em! Ngón tay nào của em cũng không c̣n nguyên vẹn, gần đây em luôn bị dày ṿ bởi bệnh đau khớp ở tay phải, nó đau đến nỗi, em thậm chí c̣n không thể nâng ly chúc mừng anh, thế th́ sao mà em có thể vẽ nên những bức tranh tinh tế trên giấy bằng ch́ và cọ hả anh? Thôi anh ơi, tất cả đă muộn rồi!
Cả pḥng tiệc ch́m đi trong im lặng. Rất nhiều người lặng lẽ rút khăn tay lau nước mắt. Durer Albrecht ôm choàng lấy em trai Albert gầy g̣ tội nghiệp mà không thốt lên lời!…
Hơn 400 năm đă trôi qua, giờ đây hàng trăm kiệt tác của Durer Albrecht vẫn được treo khắp các viện bảo tàng nổi tiếng trên toàn thế giới. Những bức chân dung, những bức phác họa, tranh màu nước, những bức tranh vẽ bằng ch́ than, những bản tranh khắc gỗ, khắc đồng của ông… đều trở thành kiệt tác nghệ thuật được bảo tồn, đấu giá, sao lưu và triển lăm khắp nơi.
Nhưng có một bức họa được coi là ‘kiệt tác trong những kiệt tác’ của Durer Albrecht được những người yêu hội họa toàn cầu biết tới đó chính là bức tranh mà người danh họa này vẽ bằng cả tài năng, ḷng trân trọng và biết ơn của ḿnh đối với sự hy sinh thầm lặng của người em trai Albert:
Nhiều đêm thâu, Durer Albrecht đă miệt mài vẽ bức tranh về đôi bàn tay không c̣n lành lặn của người em trai yêu dấu, với những ngón tay b́nh dị, khắc khổ chụm vào nhau hướng lên bầu trời. Ông đơn giản chỉ đặt tên cho bức họa là: “Đôi bàn tay”, nhưng hết thảy công chúng khi chiêm ngưỡng tuyệt tác này và được nghe câu chuyện cảm động về t́nh anh em của nhà Albrecht th́ đều xúc động và gọi đó là bức họa: “Đôi bàn tay nguyện cầu”. Ryan et Jacky SJ January 2019.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1330368&d=1548108239
cha12 ba
01-22-2019, 20:30
Gia đ́nh Hải Quân đă làm lễ tiếp đón và truy điệu rất trang trọng. Nhiều bạn bè CVA, đại diện các đoàn thể đă đến nghiêng ḿnh trước di ảnh để chào vĩnh biệt một cựu học sinh CVA quả cảm, một quân nhân bất khuất cuả Hải Quân Việt Nam, và trên tất cả là một người anh hùng thà chết chứ không đầu hàng giặc
Bà cụ thân mẫu cuả anh, năm nay đă 96 tuỗi, vẫn ngày ngày cầu nguyện cho người con trai ra đi khi chưa lập gia đ́nh .
:thankyou::handshake :
:112::112::112:
[B]Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
laongoandong
01-23-2019, 10:51
Tôi tự nhủ thầm: ”Kệ mẹ, ai nói chi th́ nói, ḿnh cứ để cho bị gạt... chỉ mong được nhảy ra khỏi đáy giếng không c̣n là con ếch nữa mà trở thành con ǵ cũng được, miễn sao không là “ếch ngồi đáy giếng là được”... Cái “ngu” triệt để của tôi là ở chỗ đó có khác người không? Đáng tiếc!
(MũĐỏÚtbạchlan)
Ông bạn già bị gạt vô số lần không nhớ nổi mà vẫn khẳng khái sống. Ḿnh chỉ bị gạt một lần thôi mà tàn lụi cuộc đời. Tan cửa nát nhà nhưng bù lại được biết thêm thế nào là chế độ ưu việt. Hiểu rỏ hơn câu châm ngôn nhớ đời " Đừng nghe những ǵ cs nói mà hảy nh́n những ǵ cs làm " Được sống và học tập theo gương " Cáo vỉ đại " từ vùng Hoàng Liên Sơn (ngă ba Nghĩa Lô.) Rồi đến Yên Bái. Rồi được mở thêm tằm mắt ở Nghệ Tĩnh.( Trại Đầm Đùng Cây Mít) được tham quan và sống ở đó. Học được nghề đập đá. Rồi dần chuyễn về nam trại Hàm Tân Z30.
Trong suốt quảng thời gian đó được tiếp xúc lén lút qua những lần giao thương cứu đói. Đổi một bộ đồ cải tạo lấy một lon guigoz đường..gặp những người sỏ nhầm giày ( đi lính thời Pháp ) kín đáo cho biết là họ không được về quê mà phải định cư tại đây luôn. Nói chung là được biết thế nào là chết đói, khát, bệnh tật, nhục nhả. Được nghe lên lớp những bài giảng dốt nát, phản khoa học mà cán bộ cứ tưởng là hay không chổ nào chê. Được nh́n các cán ngố trên bục cao ngồi theo kiểu nước lụt, có cán bộ thỉnh thoảng vẩn không bỏ nón cối. Ngồi ở dưới nh́n lên ḿnh thấy giống như mấy cái bia ngày xưa ở quân trường.
Một số bạn may mắn không được sống thực tế trong thiên đường XHCN nhưng chắc cũng được đọc và nghe kể những chuyện dài không dứt
hoanglan22
01-25-2019, 16:22
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1331914&stc=1&d=1548433243
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1331915&stc=1&d=1548433243
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1331916&stc=1&d=1548433243
Cảnh Sát Dă Chiến (CSDC) là một lực lượng vơ trang thuộc Cảnh Sát Quốc Gia (CSQG) Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH). Ngoài việc trang bị vũ khí để tiêu diệt hạ tầng cơ sở Cộng sản, Cảnh Sát Dă Chiến c̣n được trang bị thêm các dụng cụ cần thiết khác để trấn áp các cuộc bạo động và nhiễu loạn dân sự. Để đạt được kết qủa tốt trong hai nhiệm vụ chính yếu đó, tất cả các sĩ quan Cảnh Sát Dă Chiến sau khi tốt nghiệp tại Học Viện CSQG, c̣n được gởi theo học trọn khóa huấn luyện sĩ quan tại trường Bộ Binh Thủ Đức. Ngoài ra, sĩ quan và hạ sĩ quan Cảnh Sát Dă Chiến cũng c̣n lần lượt được gỡi đi thụ huấn các khóa về trấn áp bạo động, tác chiến rừng rậm, và t́nh báo tác chiến tại Mă Lai và Phi Luật Tân.
Đối với nhân viên Cảnh Sát Dă Chiến, sau khi tốt nghiệp khóa Cảnh Sát Căn Bản tại Rạch Dừa, Vũng Tàu c̣n được huấn luyện thêm về quân sự và chuyên môn Cảnh Sát Dă Chiến tại Trung Tâm Huấn Luyện Cảnh Sát Dă Chiến Đà Lạt. Đây là trung tâm huấn luyện lớn nhất, chuyên huấn luyện phần căn bản Cảnh Sát Dă Chiến cho nhân viên cảnh sát sắc phục được chuyển sang Cảnh Sát Dă Chiến và huấn luyện tập thể cấp trung đội cho tất cả các đơn vị Cảnh Sát Dă Chiến trên toàn quốc. Cảnh Sát Dă Chiến là thành viên chính yếu trong chiến dịch Phượng Hoàng. Với cấp số lư thuyết là 16,500 quân, Cảnh Sát Dă Chiến được phối trí hoạt động từ thành thị cho tới nông thôn.
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TẠI TRUNG ƯƠNG
Tại Sài G̣n có Bộ Chỉ Huy Khối Cảnh Sát Dă Chiến trực thuộc Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia. Do nhu cầu cải tổ để phù hợp với t́nh h́nh an ninh chung, Khối Cảnh Sát Dă Chiến nhiều lần đă được đổi tên. Năm 1969, Khối Cảnh Sát Dă Chiến được đổi tên là Khối Yểm Trợ Vơ Trang. Khối này có trách nhiệm quản trị và điều hành theo hệ thống dọc hai lực lượng dưới quyền: lực lượng Cảnh Sát Dă Chiến, lực lượng Giang Cảng. Năm 1972, Khối Yễm Trợ Vơ Trang một lần nữa được đổi tên thành Khối Điều Hành. Lúc nầy Khối Điều Hành có 3 lực lượng vơ trang dưới quyền, đó là lực lượng Cảnh Sát Dă Chiến, lực lượng Giang Cảnh và lực lượng Thám Sát tỉnh. Đến năm 1973, Khối Điều Hành được đổi tên thành Khối Hành Quân.
Khối Cảnh Sát Dă Chiến nguyên thủy ngoài các pḥng chuyên môn c̣n có Đại Đội Tổng Hành Dinh và một Chi Đội Thiết Giáp gồm 8 chiến xa AM8. Chi Đội nầy phụ trách an ninh Ngân Hàng Quốc Gia và an ninh ṿng đai Bộ Tư Lệnh CSQG. Bên cạnh đó có hai biệt đoàn. Biệt Đoàn 5 CSDC có 12 đại đội tác chiến, được phối trí hoạt động trong khắp các quận của đô thành Sài G̣n và tỉnh Gia Định. Biệt Đoàn 222 CSDC là biệt đoàn tổng trừ bị của Bộ Tư Lệnh CSQG. Biệt đoàn này sẵn sàng tăng cường yểm trợ hoạt động cho tất cả các Bộ Chỉ Huy CSQG địa phương trên khắp lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa.
Tổng số quân số của 2 biệt đoàn này có trên 5,000 người. Những thành tích quan trọng và khó quên được đó là hoạt động của hai biệt đoàn trong trận chiến Tết Mậu Thân năm 1968. Các trận đánh của Biệt Đoàn 5 tại nhà thờ Cha Tam, nhà thờ Bảy Vàng, bến Phạm Thế Hiển, Đồng Ông Cộ (Gia Định). Trận đánh tái chiếm đài phát thanh Sài G̣n do Thiếu Tá N.T.X. (chỉ huy phó Biệt Đoàn 222) chỉ huy. Vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975, chúng ta cũng thấy các trận đánh dữ dội của Biệt Đoàn 222 do Thiếu Tá N.V.T. chỉ huy tại Kư Thu Ôn, Quận 8 Sài G̣n. Ngoài ra, Biệt Đoàn 222 cũng từng được điều động tăng cường yểm trợ để vây bắt đảng cướp “Cua Vàng” tại ranh giới hai tỉnh Kiến Phong và Châu Đốc.
Những người lính Cảnh Sát Dă Chiến trên đường phố Saigon. Họ vẫn chưa tan hàng, và tiếp tục chống trả mănh liệt để bảo vệ thủ đô đến giờ phút cuối. H́nh chụp tại Sài G̣n ngày 29 tháng 4/1975. (H̀NH ẢNH: sưu tầm)
Biệt Đoàn 222 cũng từng được tăng phái Bộ Chỉ Huy tỉnh Biên Ḥa để bao vây, bắt trọn tổ chức kinh tài của Cộng Sản trong Làng Cô Nhi Long Thành. Với nhiệm vụ truy lùng các tổ chức hạ tầng cơ sở Cộng Sản, Cảnh Sát Dă Chiến đă hành động hết sức chính xác. Sau 30 tháng 4 năm 1975, trong lúc chúng tôi bị tập trung vào làng Cô Nhi Long Thành, chúng tôi đă gặp lại một cán bộ Việt Cộng nằm vùng đă từng bị Cảnh Sát Dă Chiến bắt giữ trước đây. Nay anh ta trở lại làng này để tiếp tục kinh tài cho Việt Cộng. qua việc bán chuối, tương, chao, đậu phọng, cho khoảng 3,000 viên chức các cấp của chính quyền miền Nam đang bị tập trung cải tạo tại trại tù này.
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TẠI ĐỊA PHƯƠNG
Kể từ năm 1968 trở về trước, các tỉnh và thị xă biệt lập có 5 quận hành chánh trở xuống được thành lập một Đại Đội Cảnh Sát Dă Chiến với 4 trung đội tác chiến và một Ban Chỉ Huy Đại Đội. tỉnh và thị xă biệt lập nào có từ 6 quận trở lên được thành lập 2 đại đội Cảnh Sát Dă Chiến. Kể từ năm 1969 trở về sau, do nhu cầu yểm trợ chiến dịch Phượng Hoàng, Cảnh Sát Dă Chiến ở các tỉnh trên toàn quốc được tổ chức lại. Mỗi tỉnh và thị xă biệt lập chỉ c̣n lại một ban chỉ huy đại đội và một trung đội trừ bị đóng tại hậu cứ đại đội. Tất cả các trung đội được đưa xuống hoạt động ở khắp các quận hành chánh của tỉnh liên hệ. Mỗi quận được bố trí một trung đội Cảnh Sát Dă Chiến.
Do đó, một đại đội Cảnh Sát Dă Chiến ở cấp tỉnh được thành lập với nhiều hay ít trung đội là tùy thuộc vào số quận hành chánh của tỉnh địa phương. Thí dụ Đại Đội Cảnh Sát Dă Chiến có nhiều Trung đội nhất là Đại Đội 102-Cảnh Sát Dă Chiến Thừa Thiên. Đại Đội này có đến 13 trung đội, v́ tỉnh Thừa Thiên có thêm 3 quận hành chánh của thị xă Huế. Trong khi đó một đại đội ở các biệt đoàn Cảnh Sát Dă Chiến chỉ có 4 trung đội như nhau.
Những thành quả quan trọng trong nhiệm vụ là tiêu diệt hạ tầng cơ sở Cộng Sản. Cảnh Sát Dă Chiến đă đạt được rất nhiều, tỉnh nào cũng có, quận nào cũng có. Dưới đây là một số kết qủa điển h́nh mà đến hôm nay chúng tôi vẫn c̣n nhớ măi.
Trong một đêm vào cuối năm 1972, môt tiểu đội của Đại Đội 401 CSDC Định Tường (Mỹ Tho ) tổ chức một cuộc phục kích bên một bờ kênh nhỏ có cầu tre bắt qua. Trong trận này, họ bắn hạ 11 cán binh Việt Cộng, tịch thu được 10 súng AK và một súng nhỏ.
Đại Đội 410 CSDC Phong Dinh (Cần Thơ) trong một lần phục kích đêm tại rạch Bến Bạ, Cần Thơ, đă tiêu diệt một toán Cộng Sản, tịch thu một số vũ khí quan trọng khi đối phương dùng xuồng vận chuyển vũ khí qua sông.
Tại mặt trận Quảng Trị và B́nh Long, Cảnh Sát Dă Chiến cũng làm tṛn trọng trách của ḿnh, cũng ở hầm, cũng đánh giặc, cũng gian khổ như các đơn vị khác. Nói tới mặt trận B́nh Long (trận chiến tại thị xa An Lộc) th́ cũng phải nói tới công của N.V.K.là đại đội đrưởng của Đại Đội 302 Cảnh Sát Dă Chiến B́nh Long thời đó. Cảnh Sát Dă Chiến cũng tử thủ tai An Lộc.
Khi được lệnh đến thăm BCH/CSQG B́nh Long, tôi và Trung Tá D.T.Y được Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB đóng tại Lai Khê giúp đỡ để được đi cùng trực thăng tải thương đến phi trường Xa Cam An Lộc. Chúng tôi đă được Trung tá L.V.T. (chỉ huy trưởng của Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh B́nh Long) và Thiếu Tá L.V.Đ. (chỉ huy phó) ra đón bằng hai xe Honda 67, v́ thành phố đỗ nát không c̣n nhà cửa, đường sá không c̣n sử dụng xe Jeep được. Vả lại lúc đó Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh B́nh Long cũng không c̣n xe Jeep nào để đi.
Chúng tôi đă có dịp lưu lại một đêm tại bộ chỉ huy này để được chứng kiến những gian khổ của anh em Cảnh Sát Quốc Gia nói chung và của Cảnh Sát Dă Chiến nói riêng. Sau hơn một tháng ở dưới hầm, toàn đơn vị thiếu thốn đủ mọi thứ, từ thức ăn cho đến nước uống và cả sự liên lạc với gia đ́nh cũng bị gián đoạn.
Vai tṛ của một sĩ quan Cảnh Sát Dă Chiến hết sức phức tạp, không những phải am tường về luật pháp mà c̣n phải quán triệt về quân sự. Tiêu diệt cơ sở hạ tầng Cộng Sản th́ chỉ cần biết tin tức t́nh báo từ Cảnh Sát Đặc Biệt (CSĐB) hoặc các cơ quan bạn để Cảnh Sát Dă Chiến có thể thi hành nhiệm vụ. C̣n đối với các cuộc biểu t́nh và nhiễu loạn dân sự th́ Cảnh Sát Dă Chiến phải khéo léo, tế nhị hơn và nhất là phải biết rơ quyền hạn và trách nhiệm của ḿnh.
Thật vậy, với nhiệm vụ thứ hai này, Cảnh Sát Dă Chiến luôn luôn thi hành đúng mức và đúng luật. Bằng chứng là vào giữa năm 1973, Linh Mục Trần Hữu Thanh từ Sài G̣n ra Quảng Ngăi xúi giục học sinh và dân chúng địa phương biểu t́nh chống chính quyền. V́ số người xuống đường quá đông nên ngoài Cảnh Sát Dă Chiến ra, vị tỉnh Trưởng c̣n điều động thêm quân đội địa phương đến hỗ trợ.
Kết quả của cuộc giải tỏa đám biểu t́nh này là đă làm một học sinh bị trúng đạn ở chân. Cha mẹ của học sinh bị nạn gởi đơn kiện Cảnh Sát Dă Chiến đă bắn vào con họ. Nhưng qua cuộc điều tra mới biết rằng Cảnh Sát Dă Chiến chỉ sử dụng các dụng cụ chuyên môn sẳn có như lăng khiên, đoản côn, lựu đạn khói cay, ṿi phun nước. Vă lại tầm mức bạo động ở đây luật pháp chưa cho phép Cảnh Sát Dă Chiến phải dùng đến vũ khí. Thêm nữa, giảo nghiệm đầu đạn bắn là đạn của súng Colt 45 mà Cảnh Sát Dă Chiến không được trang bị loại súng này. Do đó mà Cảnh Sát Dă Chiến đă thoát khỏi bị qui trách làm sai luật pháp.
Rất tiếc trách nhiệm của Cảnh Sát Dă Chiến chưa hoàn thành th́ tháng 4 năm 1975 lại đến. Những ước vọng cải tổ, sửa đổi để biến lực lượng Cảnh Sát Dă Chiến trở thành một lực lượng vơ trang lớn mạnh nhất trong thời b́nh đă bị tan vỡ. Cảnh Sát Dă Chiến cũng như các đơn vị khác được lệnh ở đâu trở về đó để tan hàng.
Thông thường th́ ở các trung tâm huấn luyện hay ở bất cứ đơn vị Cảnh Sát Dă Chiến nào, trước khi được lệnh “tan hàng” đều hô to hai tiếng “cố gắng,” rồi sau đó 5 hay 10 phút đơn vị sẽ được tập họp trở lại để tiếp tục huấn luyện hay được phân chia công tác mới. Thế nhưng lần “tan hàng” này anh em Cảnh Sát Dă Chiến không có hô to hai tiếng “cố gắng” nữa. Các chiến sĩ cảnh phục “hoa màu đất” của Biệt Đoàn 222 Cảnh Sát Dă Chiến đang đánh nhau với Việt Cộng tại Kư Thu Ôn (Quận 8 Sài G̣n) đă được lệnh trở về hậu cứ biệt đoàn, để rồi tự buông súng trước sân cờ và giải tán từ đó.
Sau một tháng kể từ ngày thua trận trở về nhà, các sĩ quan và hạ sĩ quan Cảnh Sát Dă Chiến cũng cùng số phận với các viên chức khác của chính phủ VNCH, phải tŕnh diện để được đưa vào các trại tù Cộng Sản. Thông báo trên báo chí và đài phát thanh của Cộng Sản, yêu cầu mọi người tŕnh diện “học tập cải tạo” chỉ cần mang theo thực phẩm, quần áo và tiền bạc đủ dùng trong ṿng mười ngày hoặc một tháng. Thế rồi qua nhiều năm tháng , thân phận của những người tù trong đó có nhiều chiến sĩ Cảnh Sát Dă Chiến đă bị lưu đày qua biết bao trại tù từ Nam ra Bắc, rồi từ Bắc vào Nam.
Trải qua những năm tháng gian khổ, đói rét, thiếu thốn đủ thứ, và tinh thần luôn luôn bị đe dọa, một số chiến hữu Cảnh Sát Dă Chiến đă ra đi vĩnh viễn, một số may mắn hơn sau khi ra tù đă vượt biên t́m đến bến bờ tự do hiện đang định cư ở nhiều nước trên thế giới, một số đông sau cùng đă được ra đi theo diện H.O. hiện đang cư trú rải rác trên các Tiểu bang của Hoa Kỳ.
Ngày nay người chiến sĩ Cảnh Sát Dă Chiến sống xa quê hương ít có cơ hội để gặp nhau theo định kỳ hoặc trong các chuyến công tác tại các đơn vị từ Quảng Trị cho tới Cà Mau như ngày nào. Cuộc sống nơi xứ người làm chúng ta không có nhiều thời giờ để liên lạc, tṛ chuyện, tâm t́nh khi xa xứ. Những thành qủa đạt được trong quá khứ nay chỉ c̣n là kỷ niệm. Dù thời gian có lâu bao nhiêu đi chăng nữa cũng không làm phôi phai đi t́nh nghĩa đồng đội Cảnh Sát Dă Chiến. Chúng ta luôn luôn kính trọng các bậc đàn anh, thương mến đàn em.
“Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm” luôn luôn được chúng ta ǵn giữ và tôn trọng. Khi không c̣n ở đơn vị nữa, th́ dù ở bất cứ nơi nào, hoàn cảnh nào, người Cảnh Sát Dă Chiến cũng luôn luôn tự hào là không bao giờ để mất đi danh dự cao quư của ḿnh.
*Nguyễn Văn Linh*
hoanglan22
01-25-2019, 16:50
Ôn Cố... để cho con cháu nó biết chơi...
Cấp bậc Quân lực Việt Nam Cộng ḥa được đặt ra ngay sau khi thành lập nền Đệ nhất Cộng ḥa Việt Nam (1955), khởi thủy bằng cách chuyển đổi tương đương cấp bậc của quân đội Pháp. Cấp bậc sĩ quan lục quân có 3 cấp Thiếu - Trung - Đại, nhận diện bằng bông mai vàng (úy), bông mai bạc cộng thêm một gạch (tá) và sao (tướng). Khi nền Đệ nhị Cộng ḥa Việt Nam thành lập, hệ thống cấp bậc được điều chỉnh theo hệ thống cấp bậc quân đội Mỹ và các nuớc đồng minh. Sửa đổi quan trọng nhất là bổ sung cấp bậc chuẩn tướng; trong hải quân, đặt ra cấp bậc Phó Đề đốc (Commodore) và Đề đốc (Rear Admiral) để thay cho cấp bậc Chuẩn đô đốc; và đặt ra cấp bậc danh dự Thống tướng Lục quân, Không quân và Đô đốc Hạm đội.
LỤC QUÂN
Trước 1964 http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1331919&stc=1&d=1548434447
Sau 1964 http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1331920&stc=1&d=1548434447
KHÔNG QUÂN
Trước 1964 http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1331921&stc=1&d=1548434580
Sau 1964 http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1331922&stc=1&d=1548435092
HẢI QUÂN
Trước 1964 http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1331923&stc=1&d=1548434727
Sau 1964 http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1331924&stc=1&d=1548434727
THUỶ QUÂN LỤC CHIẾN
Trước 1964 http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1331926&stc=1&d=1548434884
Sau 1964 http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1331927&stc=1&d=1548434884
Để phân biệt giữa bông mai vàng và bông mai bạc, sĩ quan cấp tá thêm một gạch xem h́nh ảnh dưới đây:
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1331928&stc=1&d=1548434884
hoanglan22
01-27-2019, 00:53
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332378&stc=1&d=1548550030
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332379&stc=1&d=1548550110
Đ-518 với danh hiệu Phi Long thuộc Sư Đoàn III-KQ (SĐIIIKQ) ở Biên Ḥa, được trang bị loại phi cơ cánh quạt Skyraiders có khả năng chở 4000 cân (lbs) bom, hỏa tiễn và 800 viên đại bác 20ly. Hầu hết các phi vụ là yểm trợ tiếp cận cho quân bạn do sự chính xác, khả dụng trong thời tiết xấu và thời gian ở lâu trên vùng làm việc.
Vào đầu tháng tư năm 1972, nếu tôi nhớ không nhầm đó là ngày 4-4-1972. Mọi sinh hoạt của phi đoàn được coi là b́nh thường cho đến 9:30 giờ sáng, tiếng gọi họp khẩn cấp của vị Phi đoàn Trưởng (PĐT), Thiếu tá Hùng, c̣n gọi là “Hùng râu” được loan đi. Cái không khí ồn ào, hoang mang lẫn nghiêm trọng bắt đầu đến trong pḥng hành quân của phi đoàn. Những người hiện diện bắt đầu liên lạc người vắng mặt, kể cả các phi công nghỉ trong ngày. Tất cả các phi công có mặt tập họp ở pḥng họp của phi đoàn ngay sau đó. Buổi họp chỉ kéo dài năm phút. Thiếu tá Hùng tiếp: PĐ-518 được lệnh đem phi cơ và tăng phái cho Đà Nẵng một tuần. Tất cả Phi Long có hai tiếng đồng hồ để chuẩn bị.
Thiếu tá T, PĐ Phó (PĐP), sắp xếp các phi tuần bay ra Đà Nẵng. Phi đoàn chia làm năm phi tuần và mỗi phi tuần bốn chiếc khu trục.
Tất cả rời pḥng họp. Tôi phóng nhanh để liên lạc người em vợ trong căn cứ và nhờ nó chuyển tin đi biệt phái về nhà tôi. Tôi trở về pḥng để lấy những ǵ cần thiết cho bảy ngày tăng phái, rồi ghé qua câu lạc bộ và ăn vội một dĩa cơm trưa truớc khi trở lại phi đoàn. Tất cả phi công có mặt lần lượt ra phi cơ và cất cánh đi Đà Nẵng.
Đây là lần đầu cả phi đoàn được biệt phái xa. Không ai biết cái nguyên nhân của chuyến đi. Nhưng mọi người đều liên tưởng đến cái nhu cầu khẩn thiết về hỏa lực hùng hậu của phi đoàn và khả năng tác chiến của phi công và phi cơ. Tôi thoáng nghĩ rồi đây người dân lành vô tội phải trả một giá khá đắt cho cuộc chiến mà CS gọi là “giải phóng miền Nam.” Chúng không ngần ngại chui trốn trong dân, dùng dân làm bia đỡ đạn và rồi tuyên truyền những ǵ bất lợi cho phía Quốc gia. CS đến đâu gieo tang tóc đến đó!
Cái không khí mát mẻ trên một cao độ b́nh phi xoa dịu cái nóng chói chang trên băi đậu phi cơ và làm khô đi cái lưng tẩm ướt mồ hôi. Những áng mây trắng bồng bềnh dưới đôi cánh nhẹ nhàng trôi qua trên nền xanh biếc của biển Đông. Dăy trường sơn Tây im ĺm nhấp nhô núi đồi. Ôi, miền Nam tươi đẹp!
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332380&stc=1&d=1548550203
Phi tuần bắt đầu giảm cao độ, hợp đoàn sát cánh của bốn chiếc khu trục trông thật hùng hồn như được đơn vị địa đầu giới tuyến chào mừng. Sau ba tiếng rưỡi, tất cả phi cơ đến nơi an toàn vào lúc 4:00 giờ chiều. Chúng tôi được chuyển đến hai căn nhà di động (trailers) gần băi đậu phi cơ, đó là chỗ tạm trú cho phi đoàn trong mấy ngày tới.
Hai chiếc pick-up trucks màu xanh chở chúng tôi đến một nhà ăn trong căn cứ cho bữa cơm chiều lúc 6:00giờ. Đây là bữa cơm vui nhộn nhất từ trước đến giờ với sự họp mặt của tất cả các Phi Long. Không ai nghĩ đến chuyện không may sẽ xảy đến, nhưng rồi đây một vài người trong chúng tôi sẽ ra đi vĩnh viễn trong mấy ngày tới. Trong khi chờ đợi thức ăn chúng tôi thưởng thức những ly trà đá sau một ngày thiếu nước. Kẻ nói người nghe trong bầu không khí ồn ào của nhà ăn. Vinh hay đùa để trấn an đồng đội trước những phi vụ nguy hiểm với câu: “Nghĩ đến đạn bắn lên làm ǵ? Chưa chi đă rét th́ c̣n đánh đấm thế quái nào được?”
Sau bữa cơm chiều, chúng tôi họp tại pḥng hành quân để nghe thuyết tŕnh về t́nh h́nh chiến sự, thời tiết và địa thế vào lúc 8:00 giờ tối. Đây là mùa thời tiết xấu trong năm mà CSBV dùng nó để mở đầu cho cuộc Tổng Tấn Công nhằm mục đích chiếm trọn vùng I. Bọn chúng vượt vĩ tuyến 17 với nhiều chiến xa T-54, PT-76 và quân xa, cùng nhiều Sư Đoàn chính huy đánh chiếm các căn cứ ở phía Bắc và Tây-Bắc Thị xă Đông Hà (phía Tây-Bắc Quảng Trị) trong mấy ngày qua. Đoàn chiến xa đang hướng về Đông Hà trên Quốc lộ 1 như chỗ không người. Sư Đoàn I/KQ (SĐIKQ) không thể sử dụng phi cơ phản lực A-37 v́ thời tiết xấu. Buổi họp kết thúc lúc 9:00 giờ tối, một ngày tăng phái trôi qua.
Ngày thứ hai đă làm cho CSBV biết thế nào là hỏa lực của KQ/PĐ-518. Bọn chúng không c̣n được ưu đăi với thời tiết xấu như mấy ngày qua, hay định mệnh đă an bài cho kẻ xâm lăng. Vào lúc ba giờ chiều thời tiết bắt đầu tốt từ Đà Nẵng đến Đông Hà. Những đám mây trắng nhỏ ở cao độ năm ngàn bộ. Tất cả phi cơ A-1 được điều động cất cánh. Phi tuần do tôi hướng dẫn là phi tuần thứ nhất trên mục tiêu với hai chiếc AD-6, được trang bị 12 trái 500 cân (lbs). Sau khi liên lạc phi cơ quan sát (L-19) trên vùng để nhận tin về mục tiêu, phi tuần cách thị xă Đông Hà năm dặm. Đông Hà nằm về hướng Bắc sông Miêu Giang. Một chiếc cầu đúc bắt qua sông Miêu Giang trên quốc lộ 1 hướng về Quảng Trị. Tôi nhận ngay mục tiêu là một đoàn xe hơn 100 chiếc nối sát nhau dài khoảng 3 cây số về phía Tây Bắc Đông Hà. Chiếc T-54 dẫn đầu cách đầu cầu 300 thước. Tôi quẹo trái về hướng Tây để điều chỉnh ṿng đánh theo trục Tây Bắc-Đông Nam dọc theo Quốc lộ 1 và quẹo trái sau khi thả bom. Tôi đánh 10 chiếc xe tăng đầu trong khi phi cơ số hai đánh những chiếc tăng kế tiếp. Sau lần thả thứ hai, đang lúc kéo phi cơ lên, một tiếng nổ long trời, chiếc phi cơ của tôi bị nảy lên. Tôi hốt hoảng không biết chuyện ǵ, nhưng nghĩ ngay là chiếc cầu Đông Hà đă được quân bạn cho ḿn nổ sập. Tôi thấy pḥng không từ đoàn xe và những cụm khói đen của 37 ly trên bầu trời. Chúng tôi thả hết bom lên đoạn đầu của đoàn xe và rời mục tiêu để bảy phi tuần A-1 kế tiếp vào đánh suốt buổi chiều hôm đó. Chiến xa BV t́m đường tẩu thoát ra hai bên quốc lộ một cách chậm chạp và khó khăn do sự cản trở lưu thông, phía Đông và Tây của quốc lộ hầu hết là ruộng lúa, trừ đoạn đầu của đoàn xe. Tất cả các phi công đă hoàn tất nhiệm vụ giao phó trong tinh thần hăng say, bất chấp pḥng không và trở về đáp an toàn.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332381&stc=1&d=1548550203
Ngày thứ ba 6-4-72, thời tiết trên vùng rất tốt. Sau một đêm CSBV mất hết tinh thần và cố t́m đường tránh không tập, các chiến xa ẩn núp dưới những tàng cây to, nhưng không che dấu được cặp mắt của phi công quan sát. Phi tuần của tôi có mặt trên mục tiêu vào lúc 8:30 giờ sáng cho hai mục tiêu gồm bốn chiến xa dưới một tàng cây gần bờ sông ở hướng Đông Quốc lộ 1, và một chiến xa ở hướng Tây. Phi tuần phá hủy hai mục tiêu dễ dàng. Phi cơ tôi bị trúng một viên pḥng không 12.7 ly ở phần che bánh đáp bên phải được t́m thấy lúc vào băi đậu. Nhiều phi tuần kế tiếp thanh toán các chiến xa ở hướng Tây và Tây Bắc Đông Hà. Thiếu tá Hùng oanh kích nhiều chiến xa ở 6 cây số về phía Tây Bắc Đông Hà. Phi cơ của anh bị trúng đạn pḥng không, anh cố lái phi cơ ra khỏi mục tiêu, phi cơ mất dần cao độ và cuối cùng bị cháy. Anh nhảy dù và lái chiếc dù về phía Nam Đông Hà. CS bắn theo chiếc dù nhưng may cho anh và cuối cùng anh được quân bạn tiếp cứ
Ngày thứ tư 7-4-72 CSBV tiếp tục di chuyển về hướng Tây Đông Hà trong rừng cây cao để t́m đường vào mạn Nam sông Miêu Giang. Các phi tuần khu trục tiếp tục truy kích địch về hướng Tây Đông Hà. Đại úy Phan Quang Tuấn sau khi hạ nhiều chiến xa và không may cho anh, chiếc phi cơ bị pḥng không địch bắn rớt, không bóng dáng của chiếc dù, không một lời giă biệt, anh đă ra đi và để lại bao thương tiếc. Tôi được lệnh đi lấy một chiếc khu trục đáp khẩn cấp ở Quảng Ngăi v́ lư do kỹ thuật nên mất một phi vụ hành quân.
Thời tiết bắt đầu xấu trở lại, không một phi vụ nào được thực hiện trong ngày 8-4-72. Sáng ngày 9-4-72, các chiến xa đă di chuyển xuống hướng Nam sông Miêu Giang gần chân núi và tiến về hướng Đông, đồng thời uy hiếp một căn cứ QLVNCH nằm về hướng Tây Nam của Đông Hà khoảng 7 cây số. Phi tuần của tôi gồm hai chiếc A-1 được trang bị 12 trái 500 cân (bls) cũng là phi tuần đầu tiên được điều động cất cánh lúc 9:00 giờ sáng. Thời tiết rất xấu bắt đầu từ Huế, phi tuần hạ dần cao độ và bay dọc theo bờ biển với cao độ thật thấp vừa đủ thấy bờ biển trong lúc xuyên qua một đám mưa. Thật nguy hiểm! Thông thường phi vụ này phải được hủy bỏ v́ thời tiết, nhưng v́ nhu cầu khẩn thiết của quân bạn, sự nhiệt tâm của phi công, tôi tiếp tục hướng về mục tiêu. Sau ba phút phi tuần ra khỏi mưa, tôi lấy cao độ và sắp đến Đông Hà. Tôi liên lạc phi cơ quan sát và nhận rơ mục tiêu là 20 chiến xa đang dàn hàng ngang về hướng Tây và cách căn cứ 200 thước. Trần mây dầy đặc ở cao độ 1900 bộ (ft) đă làm cho vũ khí mang theo không mấy thích ứng với mục tiêu v́ phi tuần cần có một độ cao tối thiểu để thả bom cho chính xác, nếu được trang bị hỏa tiễn (rocket) chống chiến xa th́ tốt hơn. Phi tuần vừa đến mục tiêu th́ các chiến xa xả khói đen chạy về hướng Tây. Chúng tôi vào thả hết bom ngay tức khắc trước khi chúng chạy vào b́a rừng, phi tuần xuyên qua một màn lưới pḥng không của địch. Khi kéo phi cơ lên, cả hai chúng tôi đều bị chui vào mây nhưng đă gỡ ra được. Phi tuần kế tiếp do Đại úy C hướng dẫn cũng báo cáo pḥng không của địch bắn lên rất mạnh. Anh nói chưa bao giờ thấy pḥng không bắn nhiều như vậy trong cuộc đời bay bổng của anh và tưởng sẽ bị rớt trong phi vụ này. Phi tuần thứ ba do Đại úy Trần Thế Vinh dẫn, tiếp tục thanh toán mục tiêu, sau khi đánh hết bom anh c̣n dùng đến đại bác 20ly. Không may cho anh, đây là Phi Vụ Cuối Cùng trong nghiệp bay của anh. Phi đoàn mất thêm một Phi Long tài ba lỗi lạc trong chuyến tăng phái này.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1332382&stc=1&d=1548550203
Ngày mai là ngày đổi phi hành đoàn, PĐ Khu truc cánh quạt 514 từ Biên Ḥa ra thay chúng tôi, đây cũng là lần tăng phái cuối cùng. Tôi cũng được biết một số anh em trong PĐ-514 kể lại là CSBV rất lo sợ mỗi khi có phi cơ khu trục đến mục tiêu. Một phái đoàn Mỹ từ hạm đội đến thăm viếng PĐ Khu trục, họ rất ngạc nhiên trước những phi vụ mà phi công A-1 đă thực hiện trong thời tiết rất xấu và gọi các phi công là những người làm xiệc trên không. Lực lượng xâm lăng của CSBV đă bị QLVNCH dập nát và không c̣n khả năng chiếm vùng I trong cuộc Tổng tấn công. Do bản thống kê của pḥng Quân báo, Đại úy Trần Thế Vinh hạ 21 chiến xa, tôi, Đại úy L hạ 17 chiến xa, và Đại úy Trương Phùng hạ 16 chiến xa… (Trương Phùng đă hy sinh cho Tổ Quốc rạng sáng 29-4-75 tại phi trường Tân Sơn Nhất). Tôi được chọn và đại diện cho KQ để tham dự lễ chiến thắng tại Sài G̣
Về phía ta BTL/KQ đă quyết định đúng lúc và kịp thời gởi hai PĐ Khu trục để tăng cường hỏa lực cho vùng địa đầu giới tuyến và đối phó với thời tiết xấu trên mục tiêu v́ phản lực cơ A-37 ở Đà Nẵng không thể sử dụng được. Với kinh nghiệm của phi công và tầm chính xác của Khu trục cơ A-1 đă gây thiệt hại nặng nề cho CSBV. Một khuyết điểm nhỏ là vũ khí mang đến mục tiêu đôi khi không thích ứng với thời tiết trên mục tiêu. PĐ-518 thực hiện 52 phi xuất và thả 78 tấn bom trong chuyến tăng phái. Hai phi công của PĐ-518 đă hy sinh cho Tổ Quốc và ba chiếc A-1 bị bắn rớt.
Về phía CSBV họ đă thua trận, hàng chục chiến xa bị đánh tan nát hoặc hư hại, cùng với sự thiệt hại nặng nề về nhân mạng. Họ trốn chạy khi thấy phi cơ xuất hiện, điều này cho thấy tinh thần chiến đấu của họ bị sa sút. Vị tướng chỉ huy của họ không có kế hoạch an toàn cho đoàn xe hơn trăm chiếc khi thời tiết bắt đầu tốt, dĩ nhiên là đoàn xe đă bị một trận mưa bom trong ngày đầu ở gần Đông Hà. Tôi có cảm tưởng như trận Trân Châu Cảng khi quân Nhật đánh bom vào hạm đội Mỹ ở Hạ Uy Di. CS thiếu khả năng và yếu kém về chiến thuật để làm vô hiệu việc đặt ḿn và phá sập cầu Đông Hà của quân ta, trong khi CS cần chiếc cầu này để đoàn xe đi qua. Với chiến thuật “rừng” của các tướng lănh đă đưa CSBV đi vào chỗ chết và thảm bại.
Tuy thời gian trôi qua theo năm tháng nhưng ḷng tôi không quên sự chiến đấu oai hùng, dũng cảm và hy sinh của người lính Cộng Ḥa để bảo vệ tự do và an lành cho người dân miền Nam. Chúng ta xin thắp nến hương ḷng và nguyện cầu cho hương linh người quá cố sớm siêu thoát. Người lính Không quân cho dù mai một bao giờ cũng thể hiện tinh thần “không bỏ anh em, không bỏ bạn bè”.
lanhnguyen
Phi Long 31
* Cựu PĐ Trưởng Trung tá L.Q. Hùng hiện ở Hawaii sau hơn 13 năm tù cải tạo.
* Cựu PĐ Phó và 21 Phi Long hiện sống rải rác trên các tiểu bang Hoa Ky
Lăo huynh nghĩ sao chứ ,,,,,,,,QC trực thuộc BTTM thực thi quân luật của Quân đội . Nếu không có ngành này là Quân đội sẽ có những KIÊU KINH không coi ai ra ǵ . Nhờ ngành này mà Quân đội giảm bớt đi . Tay tác chiến nào mà ngang tàng gặp QC cũng te tau . Ở saigo2n th́ đưa về Quân vụ thị trấn chở đơn vị đến rước về . ( chẳng may bị kư củ là coi xong cái lon chỉ biết ngó ...trời )
Ngày xưa lính tác chiến về hậu phương hay quậy nhất là , Dù , TQLC , Biệt động quân , Lôi hổ , BCD .Cái lư do nhiều hơn là họ ghét khi thấy nhiều thanh niên nhan nhăn ngoài đường ăn chơi rồi lập băng đảng đánh nhau etc ...( những người lính từng chiến đấu sống chết , sao lại c̣n có những thành phần thanh niên quậy phá này ) đó là những cảm nghĩ của ḿnh khi trước trong lúc về phép :hafppy::hafppy:
Cho tbbt hỏi cái. H́nh như An Ninh Quân Đội more powerful hơn Quân Cảnh phải hông? trốn quân dịch hay trốn trại về không có phép th́ QC bắt giử. Chớ lính hay sĩ quan có giấy phép đàng hoàng về nhà ăn nhậu quậy phá th́ QC chịu thua không dám bắt giử mà chỉ có ANQĐ mới có quyền bắt giử phải vậy không? Hai nghành nầy khác biệt hay liên quan với nhau và mỗi ngành có nhiệm vụ ǵ? Cám ơn hoanglan22 nói rỏ cho tbbt học hỏi thêm về lính VNCH.:handshake:
hoanglan22
01-29-2019, 04:09
Cho tbbt hỏi cái. H́nh như An Ninh Quân Đội more powerful hơn Quân Cảnh phải hông? trốn quân dịch hay trốn trại về không có phép th́ QC bắt giử. Chớ lính hay sĩ quan có giấy phép đàng hoàng về nhà ăn nhậu quậy phá th́ QC chịu thua không dám bắt giử mà chỉ có ANQĐ mới có quyền bắt giử phải vậy không? Hai nghành nầy khác biệt hay liên quan với nhau và mỗi ngành có nhiệm vụ ǵ? Cám ơn hoanglan22 nói rỏ cho tbbt học hỏi thêm về lính VNCH.:handshake:
QC và An ninh quân đội 2 ngành này khác nhau .QC th́ Lăo ngoan đồng rành rẽ hơn . Riêng về An ninh quân đội theo sự hiểu biết của tui trước kia ngành này trực thuộc BTTM , sau này trực thuộc Tổng cục chiến tranh chính trị . về nhiệm vụ và trách nhiệm của họ tui không biết rành chỉ biết là Hải , Lục không đều có cục an ninh quân đội . Bộ chỉ huy tiền phương hay là cấp tiểu đoàn đều có các ban này thường gọi là ban 2
Quân nhân nào được an ninh quân đội đến thăm hỏi sức khỏe coi như là số con RỆP rùi .
C̣n về chuyện sĩ quan hay lính có giấy phép về nhà ăn nhậu quậy phá , thường là QC tới giải quyết nhiều hơn .:handshake:
Nhớ lại câu chuyện một thời lúc ở tù , gặp lại thằng bạn ở chung xóm , nó bên Hải Quân Giang đoàn 22 xung phong đóng ở nhà bè . Tụi này đi chặt cây tre rồi lấy mây về làm trại ngày chỉ cho ăn bo bo hoặc khoai ḿ độn gạo tính ra chỉ khoảng 3 chén cơm . Nó ngồi kể chuyện có bài bản là hồi xưa nó thường dẫn đám đàn em đi tuần tiểu và nó ủi tàu vào một chỗ và bán dầu cho dân sau đó quay trở về ăn nhậu ...nó kể mấy món ăn , chơi gái ... làm cái bao tử ḿnh đói thêm ...mẹ kiếp thằng này chơi ác thật , trong bọn đứa nào đứa nấy cũng khổ v́ nó kể chuyện về ăn uống .Sau này nó chuyển sang đội khác và bị kỷ luật v́ chửi thằng ḅ vàng .Không biết giờ này nó c̣n sống hay chết . ... Đi đêm có ngày gặp ma ...không biết sao an ninh quan đội mời nó lên làm việc với không ảnh ,h́nh chiếc tàu có số hiệu ..ngày , giờ tháng . Thế là nó lănh đủ bị kỷ luật
florida80
01-31-2019, 22:40
Gặp gỡ Thiếu Tá Hải Quân Hoa Kỳ người Mỹ gốc Việt - Diana Trần-Yu
https://youtu.be/EBtmY17ksmw
hoanglan22
02-01-2019, 03:06
[QUOTE=florida80;3589 546]Gặp gỡ Thiếu Tá Hải Quân Hoa Kỳ người Mỹ gốc Việt - Diana Trần-Yu
EBtmY17ksmw
Cô này giỏi quá . Ngay tiếng việt cũng quá rành :thankyou: florida80
hoanglan22
02-02-2019, 02:40
Để tưởng nhớ toán Viễn thám 74 Anh hùng, Trinh sát 2, Sư đoàn 2, QLVNCH.
Hai toán Viễn thám, một Mỹ một Việt, lên đường cùng lúc vào sáng sớm. Sương mù mờ ảo như che khuất đồi núi chung quanh căn cứ Bronco. Cánh quạt trực thăng khởi động quay nhanh thổi tung những bụi đá dăm hắc ín trên mặt Helipad làm những khuôn mặt những người lính c̣n ngái ngủ đứng đây đó, vai quằn với súng đạn Quân dụng, bỗng bừng tỉnh hẳn. Bốn trực thăng Vơ trang Shark và hai trực thăng chuyển quân của 174th aviation co. Đưa những cặp mắt và đôi tai của Trung đoàn 4, Sư đoàn 2 Bộ binh và Lữ đoàn 11th Sư đoàn Americal vào hai đỉnh cao chớn chở Tây tây Nam của Chi khu Minh Long, Quảng Ngăi để ḍ t́m một Trung đoàn quân chính quy Bắc Việt (CQBV) đang lẩn khuất trong khu vực.
Ngón tay cái của hoa tiêu đưa lên, trực thăng lead từ từ bốc lên, mũi tàu hơi chúc xuống lấy đà, sà dọc theo phi đạo và bốc lên cao. Ánh đèn Strobe light đỏ xoay xoay trên Turbo xa dần xa dần mút mắt những người nh́n theo. “Oregon xuống mục tiêu an toàn,” tiếng hoa tiêu trực thăng nghe nhanh qua loa khuếch đại trong Trung tâm hành quân (TOC). Hai mươi phút sau, “74 xuống mục tiêu an toàn,” Tiếng người Âm thoại viên nghe nhẹ và căng thẳng; toán 74 phải xuống điểm đổ bằng dây Thụy Sĩ v́ tàn lá rừng quá dầy che khuất điểm xuống nằm giữa sườn ngọn núi cao nhất trong cḥm núi Tây Nam của Minh Long.
N. hất đầu ra dấu cho L., hiệu thính viên, và M., người phiên dịch theo sát; bàn tay trái của N. vạch ṿng tṛn thủ hiệu bố trí cho cả toán. Cỏ lau dầy, cao ngọn, cạnh lá sắt, như nuốt gọn bảy người lính Việt Nam; những người lính Viễn thám của Đại đội 2 Trinh sát, Sư đoàn 2 Bộ binh. Im lặng, nghe ngóng. 15 phút trôi qua. Rừng trước mặt xanh khô dầy đặc không thấy lối ra vào, không nghe tiếng chim, rừng im ĺm như ngầm đe dọa. N. định vị trí trên bản đồ chớp nhoáng, quay sang P. đang mọp người lắng nghe phía trước ra dấu di chuyển. P. huưt sáo nho nhỏ, những khuôn mặt ngụy trang xanh đen chui ra từ chung quanh lần lượt nhẹ nhàng tiến qua mặt N. Rà ngón tay chỉ lên những ṿng cao độ thu gọn đến đỉnh, nơi 74 sẽ đặt đài quan sát, N. gật đầu như ra hiệu cho P. nhắm hướng đi lên.
Có tiếng động cơ máy bay Trinh sát OV-10 đâu đó vi vu trên đầu. L. nhỏ giọng gọi danh hiệu liên lạc " Nghe các anh 5/5 "Hoa tiêu trả lời. Tiếng Âm thoại viên của toán Relay vang lên, “74 đây là Charlie Alpha, nghe rơ trả lời. Và tiếp theo là máy của Oregon. Giọng trung tá X.nghe xa lắc nhưng không mất chữ, “74 đây là Anh Dũng…” Hệ thống liên lạc tạm ổn, N. thở ra hài ḷng; hai ngón tay N. làm dấu biểu diễn đang cầm ống liên hợp và nh́n đồng đội gật đầu.
Toán của N. nhảy vào điểm nóng của chiến trường xa ngoài tầm yểm trợ của pháo binh Mỹ, ngoài tầm sóng liên lạc với bộ chỉ huy trung đoàn 4. Mọi liên lạc sẽ qua máy bay thám thính L.20 và OV-10 có mặt 24/24 trên bầu trời gần đó và qua toán truyền tin tiếp sóng nằm giữa và sau lưng hai toán viễn thám Oregon (Mỹ) và 74 (Việt Nam). Đây là lần đầu tiên toán viễn thám của N. được bộ chỉ huy hỗn hợp 4/11 (Trung đoàn 4 VN và Lữ đoàn 11 Mỹ) tung xa như thế.
“Ngoài ấy các anh sẽ tự xoay xở, hỏa lực của Mỹ không thể yểm trợ kịp lúc với biến chuyển ngoài đó. Chúc may mắn.” N. nhớ lời dặn ḍ như cảnh báo của trung tá X. trưởng pḥng 2 Sư đoàn sau buổi họp chiến thuật với bộ chỉ huy quân bạn. Trong chuyến đi nầy, M. phiên dịch Lữ đoàn 11 sẽ theo toán của N. làm nhiệm vụ chuyển tải những tin tức trinh sát ghi nhận và những ước đoán về t́nh h́nh khu vực của người toán trưởng Viễn thám được các cấp chỉ huy liên hệ đánh giá là tài giỏi nhất của Sư đoàn.
Sương mù dần che khuất tầm nh́n, hơi sương li ti vô hiệu hóa ống kính quan sát, đỉnh cao trở lạnh, bảy người lính chia nhau thiết lập vành đai pḥng thủ xong âm thầm chuẩn bị bữa ăn lạnh với thức ăn sấy khô quen tên. N. xoa xoa kem chống côn trùng lên mặt nhỏ giọng phân công, nhắc lại, “không hút thuốc, giảm thiểu tiếng động.” Từng người riêng co người, poncho liner trùm kín, yên lặng nhai thức ăn, tai nghe ngóng, đầu váng vất những chuyện không đâu; đâu đấy có tiếng thú rừng gọi đêm, tiếng muỗi… bóng đêm xám… cả bảy người chỉ cầu mong đêm qua nhanh.
“Tụi nó,” P. giật tay N. Qua ống kính quan sát, những tên địch ngụy trang cành lá kín lưng đang di chuyển ngang một con suối nhỏ. Cành lá đan nhau vàng rực ở khoảng giữa tầm quan sát nhưng chừa khoảng hở từ trên cao nh́n xuống như đóng khung cảnh tượng từng tên, từng tên địch bước vội qua khoảng trống ấy. “Tụi nầy…” máu nóng dậy lên mặt, “Lên tần số khẩn cấp và báo trung đoàn” N. ra lệnh. Tiếng Combine bóp nhả x́ xào, tiếng L. chuyển tin nghe hồi hộp. “Không cho thằng trên trời đến gần, nhắc lại, không cho thằng OV-10 đến gần quan sát kẻo chúng ta bị phát giác,” N. nói từng chữ mắt tưởng dính với ống kính WL nghiêng qua nghiêng lại như soi qua màu vàng mờ ảo nhuốm trong mặt kính quan sát. “Chuẩn bị di chuyển xuống thấp cho rơ hơn; xuống rừng hoa vàng,” N. thở qua tai P.
Ngay ở ṿng lượn thứ nhất trên độ cao 5.000 feet, mắt N. đă nh́n ra địa thế rừng hoa vàng so với bản đồ tỷ lệ 1/50.000 trên tay. Gió tạt mạnh vào mặt làm mắt anh nheo lại nhưng bên tai nghe rơ tiếng nói như hét của trung tá X. trưởng pḥng hai sư đoàn “Từ điểm trên yên ngựa theo hướng 120 độ kẻ thẳng là đường về Tiger.” N. gật gật đầu trong lúc tiếng X. cứ chói chang nghe như át tiếng gió giật,” Tụi mười một sẽ đón các anh ở chỗ nầy,” bàn tay cầm bút ch́ mở của X.. vạch một ṿng tṛn rồi một ṿng tṛn xác định như một lời hứa “Ngày G. tôi sẽ đích thân đi cùng với tụi nó đón các anh” X. nh́n sang người toán trưởng và lập lại trước khi bấm nút cáp truyền tin nội bộ đề nghị hoa tiêu trực thăng quay đầu về căn cứ hỏa lực 4/11.
Cả toán nối nhau lần xuống thấp, xuống thấp lưng chừng và lọt vào rừng hoa mai gần trụi lá đang độ nở hoa vàng rực. Mai rừng chen lẩn cây xanh cao thấp chạy dài xuống thung lũng lượn ṿng. Chỉ một tiếng đồng hồ chuyển vị trí, khoảng trống quan sát trước mặt như mở ra trước mắt N. Những cặp mắt của toán viễn thám bắt lại ḍng suối nhỏ chảy từ tây qua nam đang bận rộn bung bọt nước v́ nhiều bước chân địch bước lội qua. Nh́n đồng hồ tay, địch vẫn di chuyển từng tốp, có vũ khí cộng đồng, từ hai giờ trưa đến giờ. Chưa lần nào N. nh́n được số quân địch đông như thế, những tên lính mặc kaki Nam Định vẫn lẩn khuất trong các khu rừng dày vẫn là mối thách thức các phương tiện ḍ t́m của Mỹ từ mấy tháng qua. Dưới mắt toán 74 đúng là một mũi di chuyển của Trung đoàn 274 CQBV đang hiện nguyên h́nh dưới kia. Chắc phải hơn tiểu đoàn, P. th́ thầm. 4 giờ 30 chiều, tụi nó sẽ nằm lại đêm khoảng chỗ nầy, dưới chân chúng ta,” ngón tay N. xoáy vào một điểm như khẳng định. Không gian tưởng ngưng đọng v́ diễn biến dưới kia. “L. gọi X., các bạn tạm nghỉ,” N. dựa ba-lô vào gốc mai nhắm mắt. H́nh như những giọt mồ hôi vô h́nh đang chảy xuống mặt bảy người. Gió rừng thoảng nhẹ làm mấy cánh hoa vàng rụng rơi.
Chợ hoa Nguyễn Huệ chắc tụ sớm hơn mọi năm, N. để suy nghĩ bay bổng. Năm nào cũng vậy, mai vàng từ mọi nơi được chủ nhà vườn Thủ Đức, Long Khánh, Hóc Môn, miền tây và thương lái mang tụ về đây. Màu vàng thanh của hàng trăm cành mai như bừng sắc trên chợ hoa. Từ ba năm qua, hễ đến thời điểm chợ hoa nhóm lại N. được về phép. Mười mấy ngày êm đềm với không khí gia đ́nh, bên ba mẹ anh em, chừng như rũ gần sạch những vất vả của chiến trường. Trong N. có hai thế giới; ở ngoài đó, ngày ngày gắn liền với công tác, huấn luyện kỹ thuật mới, gắn liền với cây súng và chiến hữu, gắn liền với hiểm nguy chết chóc, quen mắt với rừng núi, điểm nhảy, bay trinh sát mục tiêu và đi lại trong ḷng địch… ở đây, khu N. ở có nhiều thân quen; chả cá Như Hải, bánh xèo Đinh Công Tráng, ḿ vịt tiềm Tân Định, bánh cuốn Thanh Tŕ, cà phê Văn Hoa…những thứ đó dường như đă thấm vào da thịt N. từ ngày bắt đầu lớn. Và đôi mắt ai thoang thoáng bên rèm cửa nhà đối diện. “Chỉ mấy ngày nữa,” N. thoáng nghĩ.
Nắng chiều yếu vất vưởng trên lưng áo L. đang bận rộn mă hóa bản văn gửi về 4/11; chi tiết về lực lượng địch, quân số, điểm tập trung đêm và xin lệnh xuống núi hoàn tất cuộc trinh sát. “Thằng Oregon cuốn rồi, tôi nghe tụi relay nói với mấy thằng trực thăng. Thằng OV-10 cũng kết thúc phi vụ.” M. báo qua hơi thở vội. N. thoáng bần thần, nghe mơ hồ như có tiếng trực thăng vu vu đâu đó bên sườn núi bên kia. 4 giờ 50 chiều ngày 29 tết, N. nh́n đồng hồ tay… chi tiết buổi thuyết tŕnh chiến thuật chiều hôm trước như quay lại trong đầu; lời trung tá X. văng vẳng, “từ tại các khu vực có các cây nhiệt đới, từ máy bay trinh sát có trang bị máy ḍ hơi nóng, từ kết quả theo đuôi của các toán trinh sát Lực Lượng Đặc Biệt, và tin ghi nhận từ hai chi khu quân sự Minh Long và Ba Tơ, tụi 11 cho rằng 274 sẽ ṃ ngang chỗ nầy chỗ nầy, ráng t́m cho ra tụi vịt, báo về và cuốn ngay. Phần c̣n lại tụi 11 lo.”. “L. check lại với X. và 4/11 rồi cuốn,” N. nói với mọi người.
Cuốn nhanh khỏi chỗ đó trong ṿng ba giờ. B. sẽ làm cỏ đúng 8:00. Tiếng Trung tá X. nghe hấp tấp, giọng căng xé như âm thanh đàn điện.‘Cha nầy ít khi phấn khích như vậy. Ok cuốn gấp về ăn Tết thôi các bạn ơi,” N. dứt khoát trong lúc mắt không rời bản đồ được soi sáng lên bằng cây đèn bút.“Th́ ra là như vậy,” N. nghĩ ra, quân Mỹ chỉ cần biết đường đi qủi quái và tọa độ tập trung của 274 là gọi B.52 thanh toán. Mạch máu thái dương N. nhoi nhói, thế là tụi nó rút trước và cho thời hạn toán của N. rút sau. N. thở mạnh, đứng lên, rừng núi phía xa xa ngả màu tối dần, những cụm màu đen xám mờ phủ lên những ngọn núi chạy dài xa tít tắp; Minh Long, Trà Bồng, Sơn Hà, Ba Tơ, Gia Vực, thung lũng 515… ở những địa danh đó toán 74 của N. đă hơn một lần đi qua, đă biết độ dày lá mục trong rừng già, đă chịu đựng những con vắt rừng đói máu người sau những cơn mưa lay lá, đă bị đói và rét sau những lần lẩn tránh chạm mặt với địch gấp mười quân số, đă mấy lần đu đưa trên dây cấp cứu của trực thăng và hú hồn nh́n xuống những lằn đạn bay vút lên do bọn săn đuổi bắn vớt, đă đôi lần liều chết phản kích để kéo chiến hữu bị thương; “Viễn thám không bỏ rơi bạn bè”… chiến trường diễn ra trong rừng rậm, trong những trăng tranh dầy, trên những ngọn đồi đá sắc, đối với toán 74 không khác ǵ tṛ cút bắt với địch, không khác ǵ những tiếng cười xót xa pha nước mắt bên xác đồng đội.
“Chúng ta tuôn xuống bằng đường nầy,” N. rà ngón tay theo triền dốc Đông đông Bắc, “Chậm nhất là 1/2 giờ, từ đây thẳng về 4/11 vào hừng sáng nếu gặp may. Check lại các điểm gặp nhau khi bất trắc xảy ra. Ai hỏi ǵ không ?” N. nh́n các đồng đội : L. (Long Khánh), H. (Biên Ḥa), T. (Qui Nhơn), P. (Đà Nẵng), V. (Quảng Trị), M. là đồng hương với N. (Sàig̣n), ngoại trừ M. (phiên dịch) năm khuôn mặt ngụy trang đen xanh đang nh́n chờ N. là những chiến binh dày dạn, sát cánh sống chết với N. suốt gần hai năm qua trên từng cánh rừng, từng đỉnh cao, từng chuyến trinh sát nguy hiểm, từng chia nhau những niềm vui chất ngất núi rừng, từng nắm chắc tay súng kề bên những sợ hăi ngạt thở.
Ánh lân tinh trong địa bàn loang loáng, mùi khói từ cành khô gợi mũi từng người, lách qua lách lại chậm chạp né cành lá, bóng tối làm mờ mắt người đi sau chăm chú vào miếng Panel trên lưng người đi trước… di chuyển đêm, điều cấm kỵ của Trinh sát. Ầm, tiếng B.40 nổ chớp ḷa trên cḥm cây trước mặt. Tiếng A.K lắc cắc nổ rền, đạn xé lá những cây hoa vàng. Tiếng bụp của một trái hỏa châu vọt lên, tích tắc, mặt người được soi sáng chập chờn. Mặt N. vàng trắng dưới ánh hỏa châu. “không bắn trả,” N. nghiến lời. Tiếng súng A.K tiếp tục nổ, đạn lửa vạch tia sáng bay thẳng về chỗ 7 người lính đang nép người sau các gốc mai rừng. B. 40 nổ sau lưng, trước mặt, bên trái…khói thuốc nổ khét lẹt, có lẽ tiếng động trong lúc len lỏi qua rừng mai đă vô t́nh phát giác vị trí của 74 và những tên địch đang di chuyển lên đối mặt đă nổ súng. Rút qua trái lần xuống trảng tranh, N. nói gấp. Súng nổ rát mặt. L. ḅ ngược lại chỗ N. và P. “tụi nó phía trước.”
“Anh Dũng cho vơ trang lên yểm trợ rút lui.” tiếng L. gọi kêu cứu đanh gọn.“Mục tiêu dành cho B., không thể đưa lên trời bất cứ yêu cầu nào,” tiếng trả lời nhanh như ra lệnh chết, như cạnh lưỡi lê sắc lạnh sắp đưa ngang cổ.
Một tiếng nổ lớn chớp ḷa mắt… miểng đạn phang rào rào, khói TNT cay nồng như ép lồng ngực… L. bị trúng đạn gục xuống; ánh hỏa châu thoáng thoáng soi L. nằm úp, máy truyền tin vỡ tung bốc khói trên lưng. N. b́nh tĩnh giật tấm thẻ bài khỏi cổ L. nhét vào cổ giày trận, đạn vẫn rải như mưa, tiếng ḥ la vang chung quanh “Hàng sống chống chết”.
P. đưa M. đi trước, H.,V.. T và tôi bọc hậu mang thằng L theo. Có ǵ gặp nhau ở Alpha. “Đi”, N. cắm càng ḿn Claymore, giọng hối thúc. H. kéo ống phóng M.72, V. xốc lại túi lựu đạn, T. nạp lại đạn M.79 cận chiến. “Ầmm” ba trái đạn B.40 lần lượt nổ tóe lửa trên đầu, đạn A.K tiếp theo cày dọc mặt đất khô cứng trong mấy mươi giây cắt đội h́nh 74 làm hai. P. và M. nhoài người phía trước, ngộp thở… phía sau lưng N. và T. bật ngược nhưng vẫn cố kéo xác L. theo. Hơi nổ che khuất V. và H. đâu mất !
Tiếng ḿn nổ, tiếng M.16 nổ tràng 3 viên; N. và các bạn đang đánh trả. Tiếng ḿn nổ, tiếng lựu đạn, tiếng M.16 nổ liên thanh nghe cương quyết lẫn trong tiếng A.K, B.40.
4 người lính Viễn thám và xác đồng đội nằm giữa ṿng vây của địch siết dần. Đất rừng đêm cuối năm phủ màu tối đen không nhận chút ánh sáng sao khuếch đại để mở đường máu cho những người lính can trường. Tiếng súng vẫn nổ trong ánh hỏa châu vàng úa.
“Đứng lại, hàng sống chống chết,” những bóng đen lố nhố như dưới đất chui lên trong ánh hỏa châu sôi réo vàng vọt, P. quét gần hết băng đạn về phía trước mặt và kéo ngang M. xuống hố. Cả hai lướt trượt lăn tṛn trên những chồi cây nhỏ, nghe rách sướt ở lưng ở vai ở mặt… đạn địch từ trên văi xuống… Chính lúc đó những tiếng nổ lớn như dây chuyền chạy từ xa đến gần. Ầm ́ mặt đất rung chuyển như đang trong cơn địa chấn, ánh chớp lóe đỏ ḷa như lửa địa ngục phà lên không gian. P. và M. bị hơi nổ vật xuống đất rồi tung lên, vật xuống tung lên.. máu trong người tự ộc ra miệng, ngực tức thở, mắt bị ánh sáng ḷa che phủ… ai có thể đứng nổi trong bán kính tiếng nổ của những quả bom 500 cân rơi xuống từ pháo đài bay B.52.
Toán tiền sát 4/11 nhặt P. và M. gần đường vào mục tiêu của B.52. Hai người lính c̣n thở nằm bất động với tro đen phủ kín, trong khi tất cả những người dự trận đêm qua, đêm 30 Tết, bị bom rải thảm vùi sâu dưới ḷng đất rừng mai vàng Minh Long.
Chuyến bay xác định mức độ tàn phá trên mục tiêu có mặt tư lệnh Sư đoàn. Ông muốn chính mắt nh́n thấy nơi những người lính dưới quyền đă chiến đấu hơn những anh hùng. Trận tử chiến lịch sử ấy đă thu hút lực lượng địch làm mồi sống cho B.52, đă mang lại kết quả ngoài dự liệu dành cho phía Mỹ, nhưng sư đoàn bị tổn thất nặng: toán Viễn thám 74 đă không trở về nguyên vẹn; trong đó có N. đứa con cưng của Trinh sát 2 !
Cánh quạt ồn ào giần giật như chẻ gió phía trên, mắt P. nḥa nước mắt; những ḍng nước mắt vẽ vệt ngắn dài xanh đen như ghi lại những đau đớn tơi tả sau trận đụng độ đẫm máu với quân thù trên ngọn đồi hoa vàng. Chiếc tàu đảo thêm một ṿng, ṿng thứ năm trên mục tiêu tàn rụi. Mặt đất đầy hố bom cách khoảng, những hố bom chạy ngang dọc kéo từ mé đỉnh cao của toán Oregon chạy tỏa ngang rừng hoa vàng và gần đến điểm đứng cũ của 74. Hố bom sâu như những huyệt mả chôn vùi hết những sinh vật trong đường kính tọa độ oanh tạc; chôn vùi những Viễn thám viên anh hùng và những tên địch của Trung đoàn 274 CQBV.
Chẳng c̣n ǵ để thấy, để nhận ra. Cây cối rạp ngă, bụi đất tro xám xịt bay là đà trong nắng trưa héo hon chết chóc. Tai P. chợt thảng thốt nghe như có tiếng N. và đồng đội kêu gọi tên ḿnh vẳng lên từ phía dưới mặt đất lướt nhanh. N. ơi, H. ơi T. ơi … P. nghe ḿnh gọi nghẹn tiếng từng tên đồng đội. “M. nói giùm nó ṿng lại lần nữa,” P. kêu lớn như hoảng hốt. M. quay lưng hét với hoa tiêu trái, h́nh như hoa tiêu Mỹ lắc lắc đầu trong lúc ngón tay đeo găng bay chỉ chỉ vào dẫy đồng hồ phi cụ. “Quay lại ngay. Tao thấy tụi bạn tao phía dưới. Tao không đùa. Ê, đ.m tụi bây muốn chết phải không,” P. nhỏm người quắc mắt vỗ vai hoa tiêu chính đang điều khiển cần lái trong cockpit. M. b́nh tĩnh kéo P. lại ghế ngồi, khẩu CAR-15 va mạnh vào thân ghế như cảnh báo. Mặt tư lệnh như đóng băng. Ok Ok, hoa tiêu chính thở qua VCR, “Tao xuống đây, tao xuống đây… chuẩn bị quan sát.”
Rừng mai đâu c̣n, chỉ là những hố bom sâu hơn huyệt mả thay vào ! Thân người P. mọp nhoài thẳng dây an toàn mong sao nhận được một nhúc nhích nào đó trên mặt bụi tro bị hơi trực thăng hút xoáy. Đó đây, mắt người Viễn thám sống sót c̣n thoáng nhận những gốc mai bật rể nằm dọc ngang trên miệng những hố bom vô t́nh như những cánh tay vẫy chào chiếc tàu lướt nhanh qua. Chẳng c̣n ǵ ngoài những cánh tay khô đen vạch đất chào vĩnh biệt. Nước mắt lại mặn miệng. P. tuyệt vọng ngă người trên thân tàu, tức tưởi, nức nở,“Các bạn ơi sao nỡ bỏ tôi !”
Anh Đức
cha12 ba
02-03-2019, 23:18
https://i.imgur.com/0HQjbHk.gif
http://1.bp.blogspot.com/-oCz1Wx9hjfo/VmOu8K90R7I/AAAAAAAA1XQ/FIGiiRFHMHo/s1600/Thiep%2Bchuc%2BTet%2 BBo%2Bchi%2Bhuy%2BB1 4%2BLuc%2B%2Bluong%2 Bdac%2BBiet.%2BTVQ%2 BCollection.JPG
wonderful
02-04-2019, 00:32
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1335818&d=1549240257
hoanglan22
02-04-2019, 03:30
Cuối Đông 1980, nơi trại tù khổ sai Tân Lập, Vĩnh Phú, sau 6 tháng bặt tin nhà, không nhận được tiếp tế lại thêm bịnh nhược, tưởng chừng đi đứt, theo chân Đại tá Của, Tỉnh trưởng B́nh Dương thượng đồi chè nghĩ khỏe, an giấc ngh́n thu. Một buổi trưa đi lao động về, được thông báo lên Hội trường nhận quà từ gia đ́nh gởi. Ôi ! Thôi mừng như hết lớn.
Nào, xem cái ǵ đây! À, tới 2 bịch thuốc Lào ba số 8. Mấy tháng rồi thiếu thuốc, chạy đôn chạy đáo chớ bộ ít sao? Bụng đói, kéo vô e té mất, nhưng mà làm sao nhịn được, bèn xoe một bi nho nhỏ, kéo vô thiệt đă ! C̣n lon guigoz ǵ hấp dẫn thế nầy ? Ra là thịt kho mặn, thượng phẩm nhất trần đời. Nhéo một miếng bỏ vô chén “sắn dui” là sơn hào, hải vị nhất bên Tàu. Đang khi tơ lơ mơ v́ bi thuốc lào thứ hai th́ nghe kẻng tập hợp đi lao động.
Mọi bữa, sắp hàng xong là ra cổng. Bửa nay sao lại dềnh dàng ? Hóa ra đợi nghe đích thân Trại trưởng tuyên đọc …Lệnh Tha nhân dịp Tết Nguyên Đán sắp tới !!!
Cả mười mấy đội, sáu bảy trăm nhân mạng đều nhốn nháo. Tiếng là Thiếu tá mà coi bộ đọc chữ không rành. Trong khi thiên hạ nhấp nha, nhấp nhổm, ông ê a đánh vần thật là sốt ruột. Tiếng ông th́ nhỏ mà gă tù tui th́ điếc lác sợ không nghe được nên mới nhờ anh bạn đứng kế bên nhắc chừng dùm. Quả nhiên lát sau bỗng thấy anh bạn nắm áo vừa giật vừa hô: có tên rồi ḱa !!!
Tôi nghe rồi ngẩn ngơ như lạc vào trong mơ! Ở đời người ta thường nói : “Phước bất trùng lai”. Vậy mà gă khù khờ tui mới rồi vừa được phước lớn, giờ tiếp liền đại phước trong đời, thật là hi hữu !
Ngơ ngẩn hồi lâu mới giật ḿnh, tỉnh lại bèn chạy u về pḥng giam lo thu xếp đồ đạc. Bao nhiêu đồ dồn vô sac marin, chiếc thùng sắt để lại cho Thiếu tá Huấn, Chánh sở Tạo tác NQS như đă hứa.
Thiếu tá Tú, Thường trực thi đua mới hướng dẫn qua Khu B tạm trú qua đêm. Buổi cơm chiều mới thật là hào hứng. Trại khoản đải giả biệt bằng cơm trắng thay sắn dui. Lại gặp Anh Nguyễn Mỹ, Trưởng ty Thuế vụ Biên Ḥa cùng được thả. Hai anh em chén cơm trắng thịt kho thả cửa. Nôn nao, không sao ngủ được bèn làm đêm không ngủ. Bịch thuốc lào tới sáng đă khuyết một phần tư !
Đêm dài rồi cũng lại trôi qua. Sáng lại đă thấy cán bộ tới làm thủ tục ra tù. Lần cuối cùng lăn tay, nhận lănh giấy ra tù. Cầm tấm giấy vàng úa mà nâng niu như lịnh thiên tào tha mạng! Rồi c̣n được lănh lại 12 đồng đă kư gởi khi từ Miền Nam ra. Lại c̣n cho thêm túi gạo vài kư để ăn đường.
Bước lên chiếc xe cam nhông Decapotable, mui trần tự chúc ḿnh thượng lộ b́nh an.
Lần nầy, xe không chạy ra Bến Ngọc mà lại chạy băng qua Suối A Mai về phía Sông Thao. Chạy một đổi ngang qua chiếc quán nhỏ bên đường, xe dừng lại cho đám tù măn án sẳn tiền đó mua chút thức ăn đở dạ. Phong bánh khảo nhưn khoai lang mà tới hai đồng. Cái bánh chưng nhỏ xíu giá cũng như vậy. Thiếm xực thêm mấyđiếu Đồ Sơn hạng bét là chẳn năm đồng.
Xe xuống chiếc phà ọp ẹp trẩy Sông Thao vào lúc xế chiều. Đường ra Hà Nội chừng như c̣n xa lắm! Nhưng măi rồi Cầu Thăng Long cũng thấp thoáng xa xa. Chiếc cầu mới v́ chuyên viên Tàu cộng rút về trước cuộc chiến 1979 nên việc xây dựng c̣n dang dở. Xe cam nhông tù thả chen chúc cùng xe đạp cả người gồng gánh vượt cầu phao vào buổi chiều tà. Từ nơi rừng núi mới ra nơi nhộn nhịp ḷng cũng thấy vui. Nhưng xe không vào Hà Nội mà lại chạy về hướng Tây Nam. Ủa xe chạy đi đâu vậy cà? Tối mịt xe mới dừng lại trước cổng đèn điện sáng choang, biển đề rơ ràng:Trại Cải Tạo Hà Tây. Ḷng thầm hỏi : có lẽ nào cái “giấy ra trại” nầy lại là đồ dỗm !?
Phân vân bước vào cổng trại, tới trước dăy pḥng giam mới tinh xem “hoành tráng”. Trại kiểu mẫu sát cạnh Thủ đô xă nghĩa do Đội trưởng Đội tù xây dựng, cựu Tướng Nguyễn Hữu Có thực hiện xem ra có khác! Người mang thùng nước chè xanh tiếp đải “khách” mới tới Hilton Hà Tây lại là Trung tá LLĐB Trần Hoàng cũng từ Tân Lập “thuyên chuyển” ra đây năm ngoái mới kề tai bỏ nhỏ : Cứ yên chí ! Chỉ trọ ở đây một đêm thôi, rồi mai ra ga Hàng Cỏ xuôi Nam. Mừng cho bạn từ âm ty trở về dương thế !
Sáng hôm sau được lịnh lên đường, đến Ga xe lửa Hàng Cỏ vào lúc 9 giờ, ḷng mừng khắp khởi.
Mới từ trên xe phóc xuống đă thấy ai đó níu áo hỏi : “Cái “Giắc kết” nầy năm choạc, bán không?” Năm chục đồng khi ấy là lớn lắm v́ lương công nhân mỗi tháng chỉ có $40. Gă cựu tù mới một ngày toan phát măi, may anh bạn đi bên cạnh chận lại bảo chờ giá. Quả nhiên giá tăng gấp đôi tút suỵt, tiền trao cháo múc liền một khi! Vậy là dư sức ăn đường, lẫn cà phê, thuốc lá.
Có sẳn tiền mới tính t́m cà phê uống. Nghe nói cà phê Hợp tác xă chỉ có năm hào một tách nhưng mà nhạt như trà xanh, lại phải đứng xếp hàng mua. Dzụ nầy coi bộ không khá nên mới ngó dáo dác t́m cà phê chui. Bước lần vào ngỏ hẽm bên kia đường là thấy ngay căn phố hẹp, vừa đủ kê hai chiếc bàn thấp nhỏ xíu. Mới hừng sáng mà đă thấy bàn bên kia hai trự chắc là đại gia nên trước mặt có hai lon bia Heineken và… một gói ba số 555 vàng chóe. Gă tân thường dân thấy bắt ngợp mới rụt rè hỏi bà hàng cà phê bao nhiêu một tách. Bà cười bảo: Chỉ một đồng năm hào thôi! Thây kệ, cứ thỉnh một tách cho ngon lành. Lại thêm một điếu ba số cho nó giông giống sáu năm về trước.
Chợ Đồng Xuân chỉ cách Ga Hàng Cỏ vài trăm thước mà nghe nói cũng “phức tạp” lắm nên chẩng dám lại xem, bèn trở lại ga chực chờ cho chắc bụng. Cả ngày trôi qua suông sẻ nhưng đến khoản bảy giờ tối, cái bụng bắt đầu trở chứng, đau mướt mồ hôi. Hồi ở trong tù cùng đường nên không biết sợ, giờ sắp thượng tàu hỏa qui hồi cố quận nên thật là sợ lắm. Thầm nghĩ : Chẳng lẽ số xui tận mạng vậy sao ?! Anh bạn ngồi bên thấy vậy cũng thương nên mới dúi cho hai viên thuốc, lại c̣n cho thêm hai ống thuốc Atropine, cẩn thận dặn: Đây là thuốc chích, tôi chắt chiu từ bấy đến nay. Chỉ khi nào đối đế lắm mới uống đại thử coi !
Đau quá nên đâu biết đă chín giờ tối, có lệnh lên tàu hỏa. Tay kéo lê chiếc sac marin, bước thấp, bước cao lê lết lên tàu. Điều kỳ lạ là mới vừa ngồi xuống, thở phào, chợt nghe cơn đau dịu xuống, rồi vong bặt. V́ quá vui mừng nên vậy chăng?
Xe lửa vừa ph́ pḥ lăn bánh, đă thấy anh Thiếu úy CSQG con nhà Nước Mía Viễn Đông lần theo các dăy ghế t́m gặp mặt anh em. Chẳng là anh nầy mắc nợ anh em đồng đội cũng nhiều. Anh khiên gỗ trên núi, té vẹo cột sống, mỗi khi đứng lên là thân ḿnh cứ bật ngửa ra phía sau. Từ đó mà đi, mỗi khi đi lại đều phải có anh em d́u đở. Ngay trong chuyến hồi hương nầy, mỗi khi lên xuống xe đều phải có người cơng. Vậy mà giờ đây, sau một ngày được thân nhân (đặc biệt được thông báo ra Hà Nội chờ đón) đón về khách sạn săn sóc cho chỉ có một ngày là có thể tự ḿnh lần đi được mới kỳ !Người ta thường bảo : Con người khi lâm nguy hoặc quá vui mừng thường nẫy sinh thần lực, có khi là như vậy chăng ?
Trăng mười bảy tháng chạp trên bầu trời đất Bắc mờ hơi sương, vàng vọt mà trong tâm tưởng vẫn thấy huy hoàng sáng chói. Từ 1975 đến 1981, đây có lẽ là đợt thả tù đông đảo nhất bởi v́ ngang qua mỗi tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, mỗi nơi đều có rước một nhóm tù được thả.
Sau một ngày, hai đêm, xế chiều ngày thứ hai th́ tàu đến Ga Phan Thiết. Biết rằng phải vài ba tiếng nữa mới tới Biên Ḥa, nhà ta mà vẫn cứ ràng buộc đồ đạt sẳn sàng. Xe vừa tới Trảng Bôm bỗng nghe loa phát thanh loan báo: V́ quá trễ, xe sẽ không dừng lại ở ga Biên Ḥa. Vậy là tiu nghỉu, thất vọng mới bàn với ông năm Huệ, Đại úy Quân cảnh: Khi tới Ga Biên Ḥa, thế nào xe cũng chạy chậm lại, ḿnh nhảy đại xuống được không? Ông năm Huệ lắc đầu, biểu: Không được đâu! Ḿnh yếu rồi. Nhảy như vậy nguy hiểm lắm. Chi bằng để tới B́nh Triệu, đi xe Lam về hay hơn.
Nói là nói vậy nhưng khi xe ngang qua ngả ba Vườn Mít là đă thủ thế. Khi thấy hàng bực cấp dẫn lên dăy phố, nơi mái ấm sáu năm về trước là không ḱm ḷng được: Hấp một cái, cái bồng thảy trước. Người nhảy vọt liền theo, bất kể hàng rào kẻm gai Úc chờn vờn trước mặt. Thân ḿnh lăn long lóc vào hàng rào phải liều mạng nắm đại vào dây kẻm gai gượng dừng lại. Mặc cho bàn tay máu tuôn, vẫn hiên ngang đứng lên, ôm cái bồng đi bươn lên bực cấp. Chỉ thấy con đường vào nhà ta trước mặt, bất cần chuyện chi khác!
Vừa quẹo vô hẽm, đă thấy người vợ yêu lầm lủi đẩy chiếc xe đạp cũ đi ra. Gă liệng đại cái bồng xuống chạy a lại. Cô giáo nhà ta chẳng biết chuyện ǵ. Chừng ngó lại thấy ông chồng đứng đó! Cả hai nh́n nhau như trong giấc chiêm bao.
Tỉnh hồn lại liền bảo : Mau vô nhà, bàn tay bị thương chảy máu. Bà xă buồn bả nói: Nhà ở dâu mà vô ? “Mất dạy”người ta lấy căn phố lại rồi ! May, tui lại dọn dẹp trả nhà mới gặp ông đây! Thôi mau về căn cḥi của ḿnh đi. Nó ở kế bên nhà Ông Một, phía sau Trường Ngô Quyền đó.
Tưởng rằng bà vợ nói ví von cho đở tức nhưng nh́n kỷ lại đúng là sự thật: Mái cḥi nhà ta nửa thiếc, nửa tôn. Vách xọc xệch, nửa ván nửa cà tăng. Nhưng dẫu vậy vẫn là nhà của ta.
Vừa mở cửa rào bà xă vừa hô: Trí ơi, ba mầy đă về đó! Đây là đứa trai út, mười bốn tuổi, mới theo mẹ ra Bắc thăm ba hồi năm ngoái nên không thấy lạ. Mới hỏi gái Chi đâu th́ đă nghe tiếng kêu từ phía trước nhà: Từ dưới bàu rau muống bước lên cô gái nhỏ, quần vải đen , ống thấp, ống cao. Ngày ra đi, con tôi là bé gái xinh đẹp vừa chín tuổi. Giờ đây, trước mặt là cô gái nhỏ cao kều tuổi mười lăm, giống hệt cô thiếu nữ tay lấm, chân bùn ở Làng quê Bưng Cầu thuở trước. Măi mới thấy cậu ba Lễ đi học nghề thợ máy ở Saigon đạp xe về tới. Chàng nầy là đứa vóc dáng thấp nhỏ nhất nhà, nay đă là thanh niên mười bảy xem ra cũng tu mi, nam tử. Cuối cùng là cậu cả Nghĩa, măi đi giang hồ vụn rồi cũng về tới: Ôi thôi! Nh́n không ra ! Chàng thanh niên tuổi mười chín cao trên thước tám. Đúng là vai năm tấc rộng, thân mười thước cao, oai hùng như Từ Hải.
Niềm vui sum họp đơn sơ mà thắm thiết, chỉ như vậy là đủ, mặc cho sự thế xoay vần ra sao !?
QUE SERA SERA ! WHAT WILL BE WILL BE !
Nguyễn Thành Nhơn
cha12 ba
02-05-2019, 16:56
Xuân và Người Lính
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1336689&stc=1&d=1549385751
Về phép
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1336688&stc=1&d=1549385751
laongoandong
02-05-2019, 23:18
Chúc mừng chiến hữu, có một kết thúc có hậu dù tương lai chưa biết sẽ ra sao? C̣n hơn những người từ cỏi chết trở về th́ không thấy vợ và con. V́ vợ đă dẩn con đi vượt biên với người khác rồi.....
hoanglan22
02-06-2019, 14:48
22tAYFdQvjw
Fgcko7vUWUE
hoanglan22
02-07-2019, 04:37
Tân ngồi vắt vẻo trên chiếc xích lô ngước nh́n những tảng mây trắng lững lờ trôi trên nền trời xanh thẫm, ḷng bâng khuâng nhớ tới những ngày tháng cũ. Lúc ấy vào khoảng mười giờ sáng. Từ khi đạp xe ra khỏi nhà sáng sớm tới giờ anh vẫn chưa kiếm được một “cuốc” nào. Nếu đến trưa vẫn không có khách th́ coi như mất toi nửa ngày tiền thuê xe và tất nhiên phải nhịn ăn luôn bữa trưa.
Chỗ Tân đậu xe góc đường Lê Lợi ố Tự Do, anh cho là rất “địa lợi”, v́ phía chéo bên kia đường là khách sạn Đại Lục, nơi có nhiều khách ngoại quốc tới ở. Họ thường bao luôn cả xe ngày để đi “tham quan” khắp Saigon Chợ Lớn. Đồng thời nơi này cũng là nơi có nhiều kỷ niệm với Tân - những ngày tháng cũ trước 75 - anh đă gặp “người yêu lư tưởng” của ḿnh và sau đó cưới làm vợ. Cuộc sống lứa đôi tràn ngập hạnh phúc cho tới ngày 30 tháng 4 đen tối sầu thảm. Tân móc túi lấy gói thuốc rê vấn một điếu. Vừa phập phèo mấy hơi để dĩ văng tan theo khói thuốc, th́ anh nghe tiếng gọi xích lô bên kia đường. Tân vội quay nh́n. Một người đàn bà đưa tay vẫy gọi. Tân vứt vội mẩu thuốc hút dở, rời khỏi nệm xe, nhẩy phóc lên yên xích lô đạp nhanh tới bên kia vệ đường (v́ chỗ này thuộc phạm vi “lănh thổ” của khách sạn nên họ cấm xích lô đậu. Anh em xích lô chỉ có thể “đột kích” đón khách rồi phóng đi ngay).
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1337378&stc=1&d=1549513933
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1337379&stc=1&d=1549513933
Cô muốn đi đâu?” Tân hỏi bằng tiếng Anh giọng rất chuẩn, rất Mỹ làm cô khách ngạc nhiên. Cô đặt ḿnh lên xe thong thả nói:
”Anh muốn chở tôi đi đâu cũng được. Chạy chậm chậm thôi nhé!”
Tân hỏi lại: “Nghĩa là cô muốn mở một cuộc du lịch bỏ túi trong thành phố?”
“Đúng!”
Trước khi cho xe chuyển bánh, Tân nói: “Cô chưa cho biết sẽ trả tôi bao nhiêu tiền. Chúng ta nên ṣng phẳng dứt khoát trước khi bắt đầu.
” Cô khách đáp: ”Tôi sẽ trả anh như đă trả cho những người trước anh.”
“Nghĩa là...?”
“Nghĩa là mỗi giờ tôi trả anh hai đô la.”
“Cô trả vậy hơi nhiều đấy!”
Cô khách nhắc lại câu hỏi của tôi khi năy:
“Nghĩa là...?”
“Tôi tính cô một đô la một giờ thôi.”
Cô khách một lần nữa tỏ ra ngạc nhiên nhưng không nói ǵ.
Hôm qua cô trả cho anh xích lô đúng như giá anh ta đ̣i, thế mà khi trả tiền c̣n nằn ń xin thêm. C̣n anh xích lô này th́ lại xin bớt. Con người xứ sở này có vẻ phức tạp, khó hiểu thật.
Tân từ từ đạp xe về phía chợ Bến Thành. Tới nơi, anh hỏi khách:
”Cô đă biết chợ Bến Thành này chưa?” Và không chờ khách khách trả lời, anh nói tiếp:
“Đây là ngôi chợ lớn nhất của thành phố Saigon và có một bề dầy lịch sử.”
Cô khách mỉm cười. Từ lúc lên xe tới giờ. Tân mới thấy khách cười:
“Tôi biết. Hôm trước một người bạn Việt-Nam đă dẫn tôi vào trong chợ ăn món bún thịt nướng, lạ miệng và ngon lắm! Nhất là cái món nước “sốt” mặn mặn với ngọt ngọt và hơi cay.
“Cô ăn được cả nước mắm?”
“Cũng hơi... khó chịu một chút lúc đầu.”
Thấy sự trao đổi nói năng có vẻ thân mật cởi mở, Tân hỏi:
“Tôi hơi ṭ ṃ, xin lỗi trước. Cô tới Saigon du lịch hay làm việc?”
“Tôi tới Saigon có chút việc riêng, tiện thể làm chuyến du lịch luôn.”
“Cô tới đây lần đầu?”
Khách khẽ gật và đôi mắt xanh biếc của cô chớp chớp. Bây giờ Tân mới có dịp quan sát người đẹp. Cô khoảng dưới ba mươi tuổi, thân h́nh thon thả dong dỏng cao bó gọn trong chiếc áo pull trắng và chiếc quần gin mầu xanh đậm. Mớ tóc vàng óng ả của cô chẩy dài buông xơa xuống cái lưng ong. Nước da cô trắng hồng mịn màng. Những sợi lông tơ trên hai cánh tay trần tṛn lẳn gợi cảm. Tân cũng đă có dịp vuốt ve những cánh tay như thế, nhưng xa xôi lắm rồi. Theo sự nhận xét sơ khởi của tân th́ nhan sắc cô nàng ở mức trung b́nh nhưng khá quyến rũ ố h́nh như cô có cái duyên ngầm của các cô gái phương Đông.
“Cô mới từ Mỹ tới?” Tân hỏi.
Khách khẽ gật.
“Tôi đoán cô là người miền Đông nước Mỹ, Nếu không ở Washington DC. th́ cũng bang nào vùng đó.”
Lần này cô nàng ngoái hẳn ḿnh về phía sau nh́n Tân:
“Anh căn cứ vào đâu mà đoán tôi là người miền Đông?”
Tân hóm hỉnh cười:
“Giọng nói của cô và nhất là nước da của cô. Chỉ có những người sinh sống ở xứ lạnh mới có nước da trắng hồng như cô.” Tân nói nịnh thêm. “Đúng là nước da lư tưởng các cô gái mơ ước.”
Cô khách càng thêm ngạc nhiên. Một anh đạp xích lô, tức thuộc giới lao động b́nh dân thất học, mà lại có vẻ hiểu biết những sự việc ngoài tấm mắt của anh ta. Rồi c̣n biết cả nịnh đầm ố món “vơ” của bọn đàn ông có học. Cô cười nhẹ trả lời Tân:
“Anh đoán giỏi đấy! Tôi sinh ra ở thành phố Charlotte bang North Carolina. Lớn lên đi học đi học và sống ở Washington DC.”
Tới chợ bến Thành cô bảo anh ngừng xe để cô vào chợ mua một món ǵ đó. Cô hỏi anh có đợi được không. Anh gật đầu. Mươi phút sau cô trở ra trên tay cầm một cái gói bọc giấy nhỏ.
“Bây giờ cô muốn tôi chở cô đi đâu?”
“Tùy anh.” Tân suy nghĩ một chút:
“Cô đă vào Chợ Lớn chưa?”
“Hay đấy! Tôi nghe bạn bè nói Chợ Lớn là thành phố của người Hoa như ở Hồng Kông vậy. Nên đi coi cho biết.”
“Cô đă đến Hồng Kông?”
“Tôi đến đó hồi c̣n là con nhóc đi với bố mẹ.”
Tân có vẻ ngập ngừng trước khi nói:
“Xin lỗi, cô đă lập gia đ́nh?”
“Phải, tôi đă lập gia đ́nh gần mười năm. Vợ chồng tôi có một con gái.”
Nói xong, cô khẽ thở dài, mặt thoáng buồn, đôi mắt xanh biếc đăm đăm như nh́n vào cơi xa xăm mơ hồ nào đó. Tân thấy vậy không hỏi nữa. Anh lặng lẽ đạp xe trên đường Trần Hưng Đạo rộng dài, dưới trời nắng bắt đầu gay gắt. Những chiếc xe gắn máy của bọn trẻ gầm rú phóng vùn vụt, đôi lúc cô khách sợ hăi kêu lên v́ tưởng nó đâm nhào vào ḿnh. Từ đường Đồng Khánh, cô bỏ Tân ngừng xe trước một tiệm tạp hóa. Lúc trở ra cô khoe với Tân một vật nhỏ:
”Anh thấy đẹp đấy chứ?” Tân thốt lên:
“Tưởng ǵ, cái này bên Mỹ đâu thiếu.”
“Phải, bên Mỹ không thiếu, nhưng đây là thứ tôi mua ở Chợ Lớn Việt Nam làm kỷ niệm, đồng thời làm quà tặng con gái tôi.”
Dứt lời cô khách lên xe ngồi, Tân đạp tiếp. Chợt cô quay lại hỏi Tân:
“À, tôi quên hỏi anh. Sao anh biết thứ tôi vừa mua bên Mỹ có nhiều?”
“V́ tôi đă ở bên đó và có mua nước tặng người yêu. Cái cô vừa mua là do người Tàu Chợ Lớn làm nhái theo đồ của Mỹ.”
“Ồ, anh đă ở bên Mỹ?” “Đi du lịch hay du học?”
“Tôi đi học.”
Cô lại thốt lên tiếng kêu ngạc nhiên và nhắc lại:
“Đi học? Th́ ra anh sang Mỹ du học!”
“Không phải! Tôi đi lính được tuyển sang Mỹ học lái máy bay. Tôi sang Mỹ với tư cách sinh viên sỹ quan Không Quân!”
Cô khách người Mỹ đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Cô có vẻ thích thú nghe những điều Tân nói. Cái con người lam lũ nghèo khổ đạp xích lô này đă từng là sỹ quan Không Quân và đă sang Mỹ học? Cô nửa tin nửa ngờ, ḍ đường:
“Anh sống ở Mỹ lâu không? Bang nào nhỉ?”
Tân đưa tay quệt mồ hôi trên trán. Chiếc áo cũ mỏng mầu đen nhiều miếng vá anh mặc ướt đẫm mồ hôi. Tân cảm thấy bắt đầu mệt và khát nước. Chén xôi bắp nhỏ ăn từ sáng sớm, giờ đă tiêu hết. Anh trả lời khách không mấy hào hứng sốt sắng như lúc đầu:
“Tôi học lái máy bay tại Pensacola bang Louisiana vào năm 1967. Thời gian huấn luyện khoảng năm rưỡi. Tới năm 1972 tôi lại có dịp đi tu nghiệp ở Texas hơn tám tháng.”
“Anh c̣n nhớ tên khóa huấn luyện?”
“Khóa 67A. Khóa này tôi được huấn luyện cùng với bọn Pilot Hải Quân Mỹ.”
Sau khi thảng thốt kêu lên tiếng “ô”, cô ngưng hỏi và im lặng một lúc lâu.
Tân cũng chẳng quan tâm đến sự im lặng của cô khách. Anh đang mải lo đối phó với những xe cộ chạy hỗn độn, vô trật tự trên đường phố. Chỉ cần sơ ư một chút, có thể gây ra tai nạn thương tích cho người ngồi trên xe. Hai bên lề đường Đồng Khánh, người người đi lại tấp nập. Hàng hóa của các tiệm bầy tràn ra cả lề đường. Rồi những gánh hàng quà rong, những xe bán nước ngọt, trái cây, tạo nên một cảnh hoạt náo vui mắt. Cô khách có lẽ vui lây với không khí nhộn nhịp này, nhất là nh́n những người đàn bà Hoa mặc những bộ quần áo mỏng, giản dị. Cô hỏi Tân:
“Họ chắc không phải là người Việt?”
“Vâng, họ là người Hoa. Thành phố này là thành phố của người Hoa dù dưới thời Việt Nam Cộng Ḥa hay thời Cộng sản cai trị cũng vẫn thế. Khó mà thay đổi được họ!”
“Không phải riêng nước anh. Ở bên Mỹ cũng vậy. Một thời gian nào đó, người Hoa sẽ cai trị thế giới.”
Ngưng chút cô nói tiếp: “Cả về chính trị và kinh tế. V́ thời đại chúng ta, kinh tế đang chi phối thống lĩnh toàn cầu!” Tân căi:
“Tôi không đồng ư với cô. Người ta đă dùng kinh tế để làm cái roi cai trị, nhưng theo tôi nhất định Cộng sản sẽ thất bại cả về chính trị lẫn kinh tế.”
“Tôi nghĩ với Cộng sản th́ chỉ có thể dùng vũ lực.”
“Dùng vũ lực, Mỹ đă thất bại ở Cuba trước đây. Chỉ có Cộng sản mới triệt được Cộng sản thôi. Sức tác động bên ngoài không đủ mạnh bằng sự tự hủy hoại từ bên trong.”
Cả buổi trưa hôm đó, cô khách người Mỹ và anh xích lô đạp mải mê tranh luận về nhiều vấn đề thời sự, chính trị, học thuyết, triết lư, chiến tranh, ḥa b́nh, cộng sản, tư bản... quên cả đường phố chật chội xe cộ chen lấn bừa băi. Năm đó là năm 1985, thành phố Saigon c̣n nhiều xe đạp, xe gắn máy, ít xe hơi. Riêng anh đạp xích lô quên cả mệt và đói. Anh đang hào hứng. Đă lâu lắm anh không hề dám nói năng thảo luận với bất cứ ai những vấn đề húy kỵ trên. Nói với cô khác lạ này không sợ báo cáo, không sợ xuyên tạc, chụp mũ. Tân yên tâm tự nhủ ḿnh như vậy nên anh “phát ngôn mạnh bạo xả ga”. Gần xế chiều, Tân đạp xích lô chở cô khách Mỹ về khách sạn Đại Lục. Bước xuống khỏi xe khách mới hỏi:
“Năy giờ tôi cứ thắc mắc măi. Anh là sỹ quan Không Quân từng sang Mỹ học lái máy bay, sao lại... lại đi đạp xích lô?”
Tân ph́ cười trước câu hỏi này. Đúng là một người Mỹ ngây ngô, chẳng biết ǵ về làn sóng đỏ đang tràn ngập tràn phá hủy hoại khốc liệt cả miền Nam. Anh trả lời:
“V́ tôi bị Cộng sản bắt đi tù.”
“À, ra thế!” “Anh bị tù có lâu không?”
“Gần mười năm.”
“Trời! Anh được tha lâu chưa?”
“Mới sáu tháng.”
“Ô là! Ở tù Cộng sản chắc là khổ lắm?”
“Tất nhiên. Chúng tôi đă trải qua những năm tháng sống thời Trung Cổ.”
“Tại sao các anh không vùng lên phản kháng, chống đối? Dân tộc anh là một dân tộc có cả một lịch sử oai hùng về ư chí quật cường, về truyền thống tranh đấu...”
Tân cười nửa miệng:
“Đồng thời dân tộc tôi cũng có truyền thống nhẫn nhục chịu đựng gian khổ.”
Cô khách người Mỹ mở bóp lấy hai tờ giấy năm đô la đưa cho Tân và hẹn sáng mai tới đón cô đi chơi tiếp. Tân cầm hai tờ giấy bạc ngần ngừ. Anh định đưa trả lại một tờ th́ cô khách Mỹ đă bước vào trong khách sạn.
Sáng hôm sau đúng chín giờ, Tân đạp xe tới góc đường Lê Lợi - Tự Do đă nh́n thấy cô khách đứng chờ. Cô giơ tay vẫy chào anh rồi bước lại ngồi lên xe.
“Hôm nay cô muốn đi đâu?”
“Đi đâu cũng được. Tôi muốn có nhiều th́ giờ để tṛ chuyện với anh.”
“Hôm qua cô trả tôi nhiều tiền quá. Công của tôi chỉ đáng nửa số tiền ấy thôi! Thế là hậu hĩnh lắm rồi. Hôm nay tôi sẽ đạp để trừ vào số tiền cô trả dư hôm qua.”
Cô khách Mỹ chỉ cười và chớp chớp đôi mắt xanh biếc không có ư kiến ǵ, nhưng trong đầu cô nẩy một câu hỏi: sao lại có anh chàng gàn dở thế nhỉ? Đă nghèo khổ mà lại c̣n chê tiền?
C̣n Tân bây giờ mới nh́n thấy đôi mắt xanh mầu ngọc bích và trong sáng như mắt mèo đẹp tuyệt vời của cô. Trong đôi mắt ấy anh đọc thấy nhiều thứ lắm: hiền ḥa, dịu dàng, nhân bản và cả nỗi đau tiềm tàng ẩn sâu. Đúng, đôi mắt là linh hồn của con người. Các cụ ḿnh xưa nhận xét thật tài t́nh tinh vi. Xe chạy ra bờ sông Saigon trước khách sạn Majectic. Cô khách ngỏ ư muốn ngồi chơi nơi vườn hoa. Tân nói đùa:
“Tuy ngồi chơi, tôi vẫn tính tiền cô theo giờ đạp xe đấy!”
“Tốt thôi, không có ǵ đáng phải bàn căi!”
Để an toàn, khỏi lo lắng, Tân đặt chiếc xích lô ngay cạnh chỗ ghế ngồi và khóa bánh xe lại bằng dây xích. Anh nói với cô khách Mỹ:
“Cho chắc ăn!”
Cô khách cười: “Xe để sát bên cạnh anh, c̣n kẻ nào dám cả gan lấy cắp!”
“Bần cùng sinh đạo tặc cô ạ! Dân Việt Nam chúng tôi có câu thành ngữ này. Mà bây giờ th́ cả nước đều “bần cùng” nên bất cứ việc ǵ cũng có thể “sinh đạo tặc”. Họ không ăn cắp nữa mà là ăn cướp. Đă tới mức ăn cướp th́ họ đâu c̣n sợ cái ǵ. Lăo Lê-Nin nói đúng đấy, nếu mất, họ chỉ mất cái cùm thôi!”
Cả hai cùng cất tiếng cười vui vẻ. Bờ sông Saigon lúc nào cũng tụ tập đông người. Thấy khách ngoại quốc, bọn trẻ nhỏ chuyên bán những đồ lặt vặt rẻ tiền cho du khách, xúm lại vây quanh hai người mời mọc, gạ gẫm, nài nỉ. Chúng nói những câu tiếng Mỹ bồi ngây ngô ngộ nghĩnh. Rồi đám bán hàng rong xúm xít như ruồi bu. Tân khó chịu lắm, luôn tay xua đuổi th́ bị mắng trả tục tĩu. C̣n cô khách Mỹ cứ cười cười lấy làm vui thích hoạt cảnh này. Cô mua một gói đậu phụng rang cho ḿnh, một gói cho Tân và mỗi người một chai côca -cola. Lâu lắm Tân mới uống lại thứ nước ngọt của “đế quốc Mỹ” này. Sao mà ngon ngọt đến thế. Mười mấy năm trời khi ở trong tù và cả lúc về ngoài đời anh chưa một lần được uống lại. Tiền ăn c̣n lo chưa nổi lấy đâu tiền uống côca -cola. Khi bóc gói đậu phụng, anh thất vọng. Nó đă bị hư từ lâu, nhưng người ta vẫn đem bán. Cô khách nói:
“Nếu ở bên Mỹ, nhà sản xuất bị kiện sặc gạch đấy!”
Vứt hai gói đậu phụng hư xuống sông xong, hai người ngồi nh́n trời đất. Một lúc lâu cô khách chợt hỏi:
“Trong khi ở Mỹ, anh có quen thân người bạn Mỹ nào không?”
“Có chứ! Bạn cùng khóa th́ nhiều lắm, nhưng thân thiết th́ chỉ một hai người.”
“Anh c̣n nhớ tên?”
“Nhớ chứ. Một anh tên là Tom Hamilton Một anh tên là Edward Carter. Không biết anh chàng này có họ hàng ǵ với lăo Tổng Thống Jimmy Carter không!”
Cô khách Mỹ nói nhanh: “Edward Carter! Anh có nhớ sai tên không? Anh ta người ra sao?”
Tân vỗ vỗ trán như gọi những h́nh bóng cũ trở về:
“Anh ta cao lớn hơn tôi một chút và cũng tuổi tôi, năm nay được ba mươi sáu tuổi. Anh em cùng khóa thường nói đùa nếu cái mũi tôi cao một chút, dài hơn một chút, và nước da trắng th́ đúng là anh em sinh đôi với Edward Carter.
” Cô khách Mỹ chăm chăm nh́n thẳng vào mặt Tân như quan sát, như ḍ xét. Rồi cô không giấu được một cái thở dài. Tân ngạc nhiên hỏi:
“Sao, nếu tôi đoán không lầm th́ có thể cô quen biết hoặc có họ hàng với anh chàng Edward Carter này.
” Cô khách không trả lời. Cô lơ đăng nh́n sang phía bên kia bờ sông. Miệng cô lầm bầm mấy tiếng ǵ đó, Tân nghe không rơ. Tân móc túi lấy gói thuốc rê vấn hút.
“Anh hút thuốc ǵ mà có mùi khét thế?” Cô khách Mỹ hỏi.
“Đây là thuốc rê. Thứ thuốc rẻ tiền nhất của người Việt Nam. Lúc ở trong tù, đối với chúng tôi thuốc này là loại quư đấy cô ạ! Chúng tôi c̣n hút cả lá chuối khô và rễ cây nữa ḱa!”
“Khổ cực vậy, thiếu thốn vậy mà các anh chịu đựng được để c̣n giữ được mạng sống trở về đời, tài thật!”
“Không ai, kể cả chúng tôi cũng không tin là ḿnh sống nổi. Nhưng như vừa nói với cô đấy. Dân tộc tôi có sức chịu đựng gian khổ, bền bỉ dẻo dai. Hơn trăm năm nay chưa lúc nào dân tộc sống trong thanh b́nh yên ổn, trong no ấm sung sướng. Chiến tranh cứ tiếp diễn liên miên, hết ngoại xâm lại tới nội chiến, rồi cả nước chịu ảnh tù đầy đói rách nhục nhă. Nếu như người Mỹ của cô th́ ít ra cũng chết nửa nước.”
“Sao anh không lái máy bay chạy ra ngoại quốc như một số người đă làm?”
“Tôi c̣n cha mẹ già. Cha mẹ tôi nhất định không chịu rời bỏ quê hương. Biết rằng ở lại sẽ phải chịu cảnh tù đầy và có thể bị giết chết nữa, nhưng tôi không thể bỏ mặc cha mẹ. Hơn nữa tôi c̣n con nhỏ mới sinh.”
“Bây giờ chắc con anh đă khá lớn. Thế c̣n vợ anh? Chị ấy vẫn một ḷng đợi anh về? Tôi đọc sách báo thấy họ hết lời ca ngợi người đàn bà Á-Đông lúc nào cũng giữ trọn vẹn t́nh nghĩa vợ chồng. Dù chồng chết, c̣n trẻ vẫn ở vậy thờ chồng nuôi con.
” Tân lắc đầu thở dài, vứt mẩu thuốc xuống đất: “Tôi không có cái diễm phúc ấy. Sau khi tôi bị tù, vợ tôi để lại con cho cha mẹ tôi nuôi, đi lấy chồng khác.”
“Ồ, tôi xin lỗi. Tôi không có ư khơi lại sự đau buồn của anh. Nhưng tôi hơi ṭ ṃ, thế anh có oán hận người vợ không?”
“Cô ấy c̣n trẻ nên phải lấy chồng khác, đó là sự thường, có ǵ mà oán hận. Chỉ có điều hơi buồn là cô ấy lấy kẻ thù của chúng tôi.
” Đôi mắt xanh biếc của cô khách Mỹ chớp chớp. Cô có vẻ xúc động về chuyện riêng tư của Tân.
“C̣n cha mẹ anh?”
Tới lượt Tân thở dài nuốt nước bọt như cố nén nỗi đau buồn xuống đáy ḷng:
“Cha mẹ tôi đều mất khi tôi c̣n ở trong tù!”
Cô khách Mỹ kêu lên: “Thế c̣n đứa nhỏ?”
“May mắn cho nó được ông bà ngoại thương xót đem về nuôi, mặc dù ông bà cũng rất nghèo khổ. Ít ra th́ cũng c̣n có những đốm lửa trong đêm tối phải không? “.
Và lần này chính Tân ngạc nhiên trố mắt nh́n cô khách Mỹ. Cô lấy khăn giấy chậm nước mắt. Cô khóc. Rồi cô đưa đôi mắt xanh biếc đẫm nước mắt nh́n Tân nói:
“Tôi tên Jacqueline Hunter. C̣n anh?”
“Tôi là Tân, Đỗ Tân, cựu đại úy phi công Việt Nam Cộng Ḥa. Rất hân hạnh được quen biết cô.”
Sau một lúc suy nghĩ đắn đo, Jacqueline nói:
“Anh có thể cho tôi địa chỉ để khi về Mỹ may ra t́m được mấy người bạn cũ của anh. Biết đâu họ chẳng hết ḷng lo giúp đỡ can thiệp cho anh.”
“Cám ơn Jacqueline. Tôi ở số nhà.... Hẻm... Đường.... Thành phố Saigon.”
Họ c̣n ngồi nói chuyện với nhau rất lâu. Jacqueline có ư mời Tân đi dùng bữa trưa, nhưng anh từ chối, mặc dù bụng đang đói. Xuống xe cô móc bóp rút ra tờ giấy một trăm đô đưa Tân, nói:
“Anh cầm lấy để chi dùng. Rất tiếc tôi không thể giúp anh hơn.
” Tân từ chối ngay: “Cám ơn Jacqueline. Tôi cũng rất tiếc không thể nhận số tiền này. Tôi không muốn nhận một sự thương hại, hay một sự bố thí.”
”Không, đây là một tấm ḷng. Anh hăy nhận lấy ở đây một tấm ḷng.” Dứt lời Jacqueline nhét tờ giấy bạc một trăm đô vào tay Tân và bước nhanh vào trong khách sạn. Trước khi khuất hẳn, cô quay lại nói với Tân:
“Tạm biệt Tân, người bạn mời quư mến của tôi.”
Tân nh́n tờ giấy bạc một trăm đô nằm trong tay sững sờ. Một số tiền quá lớn và quá bất ngờ đối với anh. Chừng như định thần lại được, Tân phóng ḿnh bước nhanh như chạy vào khách sạn, miệng gọi lớn: “Jacqueline! Jacqueline! Tôi không thể! Tôi không nhận số tiền này. Tôi xin trả lại cô!”
Nhưng Jacqueline đă mất hút. Anh bảo vệ khách sạn thấy gă xích lô chạy xồng xộc vào trong khách sạn miệng la lối ầm ĩ liền chặn Tân lại, nói lớn, giọng hách dịch:
Anh kia! Ra khỏi đây lập tức!”
Tân giơ tờ giấy một trăm đô nói:
“Tôi đưa tiền trả cô khách Mỹ!”
“Cái ǵ?ạ Cô ta đánh rơi tiền à?”
“Không, cô ấy trả tiền cuốc xe cho tôi một trăm đô, trong khi giá chỉ có năm đô.”
Anh bảo vệ ngẩn người ra nói:
“Lạ nhỉ? Đi cuốc xe có năm đô mà trả một trăm đô? Có khi là đô giả đấy! Đưa đây tôi coi nào!”
Nhưng Tân không đưa làm anh bảo vệ khách sạn nổi giận:
“Thôi, cút cha anh đi. Một trăm đô mà chê à? Anh đạp xe cả năm liệu có kiếm được nổi số tiền này không? Gặp con mụ Mỹ điên khùng vớ món bở th́ hăy chuồn mau đi, không nó đổi ư ra đ̣i lại, th́ chỉ có nước ăn cám, anh bạn ạ!”
Tân cầm tờ giấy bạc một trăm đô chậm răi bước ra khỏi khách sạn. Một trăm đô, đúng là số tiền không nhỏ, nhưng công sức của anh bỏ ra đâu có xứng đáng để nhận sồ tiền này. Thôi sáng mai tới trả cô ta vậy. Cả đêm đó Tân không ngủ được. Anh cứ trằn trọc “đánh vật” măi với tờ giấy bạc một trăm đô. Tại sao lại có thể như thế nhỉ? Đi cuốc xe áng giá năm đô, cô ta trả một trăm đô. Chẳng lẽ là bạc giả như anh chàng bảo vệ khách sạn nói? Không! Nhất định không phải rồi! Cần ǵ cô ta phải làm cái việc lươn lẹo dối trá, Vậy tại sao cô ta trả cho ḿnh cả một trăm đô? Thương hại? Bố thí? Một tấm ḷng? Dù có là ǵ đi chăng nữa th́ sáng mai cũng vẫn phải trả lại tiền cho cô ấy.
Tân thở dài. Tắt đèn. Bật đèn. Vuốt ve ngắm nghía tờ giấy bạc một trăm đô. Tờ giấy mầu xanh lá cây như sáng rực trong đêm. Một trăm đô đâu có nhỏ. Có khác ǵ tiền từ trên trời rơi xuống. Nhưng nhất định ngày mai phải trả lại cô ta, cô Jacqueline quư hóa: Tôi rất trân trọng tấm ḷng của cô nhưng tôi không thể nhận số tiền này. Chúng ta chỉ mới có hai ngày quen biết, đâu đă có ân t́nh nghĩa trọng ǵ. Cám ơn ḷng tốt của cô. Cám ơn người đàn bà ở phương trời xa đến. Nghĩ tới những người cùng chung ṇi giống sống quanh tôi, cô làm tôi thấy đau đớn tủi nhục.
Hôm sau mới tám giờ sáng, Tân đă đạp xe tới chỗ cũ để đợi Jacqueline, mặc cho một người khách Tây phương đang vẫy tay gọi xe bên kia đường. Anh sốt ruột chờ, đốt hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, thỉnh thoảng thọc tay vào túi quần để yên trí tờ giấy bạc một trăm đô vẫn c̣n nằm trong đó. Chín giờ đă tới. Rồi chín giờ mười phút. Chín giờ mười lăm phút. Không thấy bóng dáng Jacqueline đâu cả. Chín giờ hai mươi phút. Tân thấy anh bảo vệ khách sạn hôm qua bước lại phía anh. Chẳng lẽ tên này gặp ḿnh kiếm cớ gây sự để đoạt tờ giấy một trăm đô? Tiền bạc làm con người mờ mắt dễ trở thành bất lương. Anh bảo vệ khách sạn tới bên Tân dừng lại và hỏi vẫn giọng hách dịch:
“Có phải anh là người hôm qua chở cô khách Mỹ?”
Tân gật. Anh ta đưa Tân một mảnh giấy:
”Này cầm lấy! Thư của cô ta đấy!” Dứt lời anh ta bước về khách sạn.
Thư là một mảnh giấy nhỏ có in tiêu đề khách sạn. Jacqueline viết bằng tiếng Anh:
“Tân mến! Hôm nay tôi có việc bất thần phải đáp máy bay đi Hà Nội. Chúc vui khỏe. Hẹn gặp lại.”
Cô kư tên một chữ tắt “J”.
2
Những ngày và cả những tháng sau đó Tân vẫn thường đậu xe góc đường Lê Lợi - Tự Do có ư chờ người đẹp Mỹ Quốc bất thần xuất hiện. Anh biết vô vọng nhưng vẫn cứ mong, cứ đợi. Rồi Tân tự an ủi đó là một giấc mơ, một giấc mơ đẹp có thật và sẽ không bao giờ hiện ra lần nữa. Anh chợt nhớ hai câu thơ của nhà văn Duyên Anh mà anh được nghe trong trại tù: “Đời rất hiếm hoi lần Bụt hiện. Cho nên đoạn kết thảm vô cùng.” Đời ḿnh chưa đến đoạn kết, nhưng đến nước này th́ đúng là “thảm vô cùng” rồi, c̣n chờ c̣n mong ǵ nữa “lần Bụt hiện”. Rồi anh lại lẩn thẩn nghĩ tới bốn chữ “Hồn Bướm Mơ Tiên” - tên một cuốn truyện của nhà văn Khái Hưng. Hồn Bướm Đỗ Tân đang mơ tới nàng tiên Jacqueline Hunter. Tiên đă về vùng đất Thiên đường của Hạ giới, c̣n bướm th́ vẫn mơ màng nơi chốn địa ngục trần gian. Buổi tối, lúc ấy gần mười hai giờ đêm Tân mới về tới nhà. Hôm nay xui xẻo chỉ chạy được ba “cuốc” xe ngắn, vừa đủ tiền chi cho hai bữa ăn. Tới trước cửa nhà Tân thấy chị chủ nhà đứng ngay trước cửa có vẻ đợi anh. Tân hơi chột dạ. Hôm nay là ngày mùng năm đầu tháng nhưng anh vẫn chưa có tiền trả tiền thuê buồng. Bà ta đợi ḿnh về để đ̣i đây. Số tiền Jacqueline cho anh đă tiêu hết, “tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống”. Tân định cất tiếng xin khất ít ngày th́ chị chủ nhà đă tươi cười đưa anh một tờ giấy, nói:
“Chú Tân có tin vui nè!” Tân cười nhạt:
“Tin vui? Tôi làm ǵ có tin vui. Giỡn làm chi chị Tư?” Chị cho tôi nợ tiền thuê buồng mấy ngày nữa nghe!”
Chị chủ nhà vẫn cười cười nói:
“Tôi nói thiệt mà! Giấy gọi chú lên Tân Sơn Nhứt lănh quà từ Mỹ gửi.”
Tân sửng sốt: “Quà ở Mỹ gửi? Lạ nhỉ?” Từ ngày ra tù về Tân chưa hề nhận được một lá thư nào từ ngoại quốc gửi về, nói chi đến việc nhận quà! Anh có nghe tin cánh Không Quân bên Mỹ tổ chức quyên góp tiền bạc cứu trợ, nhưng chưa tới tay anh. Có lẽ v́ anh chưa liên lạc được với họ. Tân khấp khởi mừng thầm yên trí đây là quà của “các bạn ta” gửi. Anh cầm tờ giấy báo tin vui bước vào nhà đến bên ngọn đèn điện vàng vọt yếu ớt. Chị chủ nhà bước theo sau luôn miệng hỏi:
“Sao? Quà của ai gửi vậy?”
Bỗng Tân đưa tay trái đặt lên ngực. Tim anh đập nhanh, dồn dập. Anh coi lại tờ giấy báo tin lần nữa Thật bất ngờ ngoài cả sức tưởng tượng của Tân. Người gửi quà là Jacqueline. Số quà nặng tới hai mươi kư. Ngày hôm sau Tân phải chạy vạy mới mượn được đủ tiền dự phỏng để đóng thuế. Tất nhiên trong số tiền này có cả tiền của chị chủ nhà. Chị cứ luôn miệng lẩm bẩm:
“Trời đâu có phụ kẻ hiền lành.”
3
Washington DC. ngày... tháng... năm....
Tân thân mến,
Khi nhận được thư này tôi hy vọng Tân đă nhận được gói quà tôi gửi. Chắc Tân ngạc nhiên lắm? Những quần áo, vật dụng, radio, cassette không phải của ḿnh tôi đâu mà c̣n là của một số bạn bè phi công cùng khóa với Tân gửi đấy! Khi ở Hà Nội về nước, tôi liền liên lạc ngay với Trung Tâm Huấn Luyện Fort Worth ở Dallas nên có được một số địa chỉ các bạn đồng khóa với Tân. Biết tin anh họ mừng lắm. Sau khi nghe tôi kể hiện cảnh của anh, họ buồn rầu khổ sở và tức tốc hè nhau góp gửi cho anh một số tiền cũng như vật dụng quần áo. Về tiền được hơn một ngàn đô. Tôi đang t́m cách gửi sao cho sớm đến tay anh mà không bị mất. Tôi mong anh sẽ hài ḷng về số quà tặng “đó là những tấm ḷng của bạn bè” chứ không phải “sự thương hại hay bố thí” như một lần anh đă hiểu lầm. Sở dĩ chúng tôi gửi tiền và mua những món đồ cho anh là do một người bạn Việt Nam chỉ dẫn. Anh ta bảo những thứ này ở Việt Nam đang bán được giá cao. Bây giờ tôi xin nói một chút về tôi chắc anh sẵn ḷng nghe? Tôi đến Việt Nam không phải để du lịch. Tôi đến Việt Nam với mục đích duy nhất t́m kiếm tung tích chồng tôi. Chồng tôi chính là Đại Úy Phi Công Edward Carter thuộc Lực Lượng Hải Quân Hoa Kỳ, người học cùng khóa và là bạn thân của anh.”
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1337380&stc=1&d=1549513933
Coi tới đây Tân ngừng lại. Bất ngờ quá! Anh cố h́nh dung lại người bạn phi công cùng khóa Edward Carter. Sau khi măn khóa về nước, Tân có thư từ qua lại với anh ta, nhưng chỉ được hai năm sau đó mất liên lạc. Anh nhớ mang máng là Edward Carter được thuyên chuyển tới Đệ Thất Hạm Đội ở Thái B́nh Dương. Lúc học ở Mỹ, Tân và Edward Carter có nhiều kỷ niệm, nhất là những buổi cuối tuần được nghỉ đi kiếm bồ bịch, mải vui quá ngày phép, hai người bị kỷ luật. Tân thở dài. Mới đó đă mười mấy năm trôi qua. Tân coi tiếp thư:
“Trong một phi vụ oanh tạc vùng Thanh Hóa, máy bay của chồng tôi bị bắn hạ. Anh được báo cáo mất tích.” Tân lại ngưng coi và đặt lá thư xuống cái bàn gỗ nhỏ cũ kỹ đặt nơi đầu giường. Anh chống tay lên cằm, suy nghĩ trong xúc động. Edward bị bắt sống hay bị chết? Nếu bị bắt sống th́ nhất định Jacqueline đă biết tin, v́ tất cả tù binh Mỹ đều bị nhốt trong “khách sạn Hilton ” ở Hà Nội. Tân cầm thư coi tiếp:
“Tôi không tin thông báo của chính phủ. Bản danh sách quân nhân Mỹ mất tích c̣n quá dài. Tôi phải tự đi t́m chồng tôi v́ tôi tin chồng tôi chưa chết. Chúng tôi mới lập gia đ́nh có một đứa con gái. Khi chồng tôi mất tích nó được hai tuổi.
Tôi đến Việt Nam lần vừa rồi là lần thứ hai. Lần trước tôi đến Hà Nội và đi nhiều nơi, kể cả Thanh Hóa. Mất hơn một tháng chẳng kiếm được tin tức ǵ. Một người bạn viết thư cho tôi biết ở Saigon có một “tuy-ô” cung cấp người Mỹ mất tích rất đáng tin cậy. Thế là chẳng cần đắn đo suy nghĩ, tôi vội vă book vé bay sang Việt Nam liền. Tôi đă bị lừa nhưng được gặp anh. Đúng như người bạn Mỹ của anh nhận xét. Nếu cái mũi cao thêm một chút, dài thêm một chút, và nước da trắng th́ anh đúng là bản sao của chồng tôi. Sao lại có thể có hai người giống nhau như thế và sao lại có sự t́nh cờ gặp gỡ giữa tôi và anh như thế nhỉ? Hôm đầu tiên ngồi trên chiếc xích lô của anh, tôi ngoái lại nh́n anh, không khỏi giật ḿnh sửng sốt. Suưt chút nữa th́ tôi kêu tên chồng. Anh có biết không, trong lúc liên lạc với Trung Tâm Huấn Luyện Fort Worth tôi mới biết thêm anh là người đạt số điểm cao nhất ở khóa đó. Ông chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện già đă về hưu vẫn c̣n nhớ tới anh và không ngớt lời ca ngợi anh một thanh niên thông minh giầu nghị lực, một phi công đầy triển vọng tài ba. Nói để anh mừng nhé. Các bạn người Mỹ của anh đang vận động với chính phủ can thiệp cho anh sang Mỹ định cư đấy. Công việc này tất nhiên rất khó khăn và nhiều trở ngại, nhưng ai có quyền cấm người ta hy vọng nhỉ, có phải thế không? Từ nay tôi sẽ liên lạc thường xuyên với anh qua thư từ. Anh cần những ǵ có thể cho tôi biết để tôi và các bạn anh cố gắng giúp. Dưới đây là một số địa chỉ các bạn cùng khóa với anh. Anh nhớ viết thư cho họ nhé. Có mấy người mang cấp bậc Đại Tá rồi đấy. Họ sẽ có thư cho anh, nếu không có ǵ trở ngại về phía anh.
Chúc anh vui khỏe.
J.
Ít ngày sau, đúng như thư Jacqueline viết, có một người lạ đem đến cho Tân hơn một ngàn đô. Tân cầm số tiền trong tay mà vẫn ngỡ như ḿnh nằm chiêm bao. Anh không nén được xúc động, tay cầm cây bút run run khi viết mấy chữ biên nhận tiền. Rồi anh thấy đôi mắt ḿnh cay cay... Anh đă không cầm được nước mắt. Đêm đó Tâm nằm mơ thấy ḿnh chở Jacqueline trên xe xích lô. Tới một quăng vắng vẻ Jacqueline bảo anh ngừng xe lại rồi nàng rời khỏi xe, bất thần ôm chầm lấy anh hôn thắm thiết. Khi Tân giật ḿnh thức giấc anh cảm thấy như mùi nước hoa, mùi da thịt của nàng c̣n phảng phất đâu đây.
4
Tân đi tù khoảng hơn năm th́ vợ anh đi lấy chồng khác, một cán bộ ngoài Bắc vào. Chính chị đă dẫn người này lên tận trại tù ép buộc Tân kư giấy ly dị với hứa hẹn sẽ can thiệp cho anh về sớm. Tân chẳng tin vào cái sự hứa hẹn này nhưng với một người vợ sớm thay ḷng đổi dạ như vậy, anh không c̣n ǵ để lưu luyến cầm giữ. Anh chỉ lo ngại cho đứa con nhỏ mới ba tuổi. Nhưng anh yên tâm phần nào khi biết con ḿnh được ông bà ngoại đem về nhà nuôi. Khi Tân từ trại tù vùng cao nguyên trở về Saigon, anh tới ngay nhà ông bà già vợ. Con gái anh đă hơn mười tuổi, gầy và hơi xanh. Nó ôm chầm lấy bố khóc như mưa. Tân định ở nhờ ông bà già vợ ít ngày nhưng căn pḥng quá nhỏ hẹp mà lại chứa những năm người: ông bà già vợ, vợ chồng người em vợ và con gái Tân nên không c̣n chỗ cho anh. Sau bữa cơm đạm bạc chỉ có rau muống muối mè (để đăi mừng chàng rể ở tù về), Tân phải kiếm cớ đi chỗ khác ngủ, mặc dù ông bà già vợ cố giữ lại “ăn hết nhiều chứ ở hết bao nhiêu”. Đêm đó, đêm đầu tiên được sống tự do ngoài đời, Tân đă phải nằm ngủ trong mái hiên của một ngôi chùa nhỏ ở ngoại ô và phải chen chúc với đám ăn mày, x́ ke ma túy. Sáng dậy gói quần áo nhỏ Tân mang từ trại tù về cũng bị “chôm” mất. Tân đi kiếm nhà một người bạn tù về trước anh và được người này giới thiệu việc làm: rửa chén đĩa một tiệm phở. Làm được mấy ngày chưa kịp lănh lương tuần Tân bị thôi việc. Anh đă làm sứt mẻ và vỡ quá nhiều chén đĩa trong khi rửa.
Măi Tân mới kiếm được một việc tương đối “độc lập tự do” và hợp với “khả năng” của đa số tù cải tạo về: đạp xích lô. Tuy “lao động” vất vả cực nhọc lại không ”vinh quang” chút nào Tân cũng kiếm được đủ ngày hai bữa ăn và thuê một cái buồng nhỏ trong xóm nhà lá để đêm về có chỗ ngủ. Hôm nào chạy được khá tiền một chút, anh mời cả gia đ́nh bố mẹ vợ và cô con gái đi làm một chầu phở b́nh dân. Cuộc sống khó khăn chật vật nhưng Tân vẫn lấy làm hài ḷng v́ dù sao vẫn c̣n hơn gấp trăm lần trong trại tù cải tạo, có làm không có ăn. Tân cho rằng khi con người đă trải qua cuộc sống trong tù cải tạo của cộng sản rồi th́ tất cả mọi sự trên cơi đời này đều... nhẹ như lông hồng! http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1337381&stc=1&d=1549513933
Có được số tiền “ngoại viện” Tân đem một nửa “phân phối” cho bố mẹ vợ, bạn bè và cả chị chủ nhà. Riêng cô con gái Tân dẫn đi may một lúc mấy bộ quần áo và mua cho chiếc xe đạp để đi học. Tân viết thư gửi Jacqueline bầy tỏ ḷng biết ơn. Với các bạn bè người Mỹ cũng vậy. Và cứ thế mỗi tháng Tân nhận được một lá thư của Jaqueline cùng một số tiền hoặc hàng hóa, có lần có cả đồ hộp thức ăn, sữa. Tạm thời qua cơn bĩ cực nhưng Tân vẫn không chịu rời chiếc xích lô. Hàng ngày anh vẫn đạp xe ra phố, không phải để chở khách như trước mà là phương tiện để anh đi đó đây thăm bạn bè ăn nhậu. Thỉnh thoảng anh đạp xe tới góc phố Lê Lợi - Tự Do tưởng nhớ tới Jacqueline và những ngày đầu gặp gỡ. Đôi mắt xanh biếc và mái tóc vàng óng ả chẩy dài xuống lưng của Jacqueline h́nh như lúc nào cũng hiển hiện trước mắt Tân. Có lư nào cô nàng yêu ḿnh? Tân băn khoăn, thắc mắc, khắc khoải măi với câu hỏi này. Và đôi lúc anh thấy nhoi nhói nơi tim khi nghĩ rằng chẳng qua cô nàng thương hại ḿnh thôi. Trong những lá thư gửi Jacqueline, Tân đă bóng gió viết về t́nh cảm của ḿnh đối với nàng, nhưng có lẽ nàng không hiểu sự tế nhị này của người Á Đông. Trong thư hồi âm, Jacqueline vẫn viết nhiều về những ngày ở Việt Nam và hỏi Tân về lịch sử, phong tục, tập quán, phong cảnh và những món ăn của người Việt. Rồi cô hỏi Tân thích nhất món ăn ǵ của Mỹ và nếu được sang Mỹ định cư thích sống ở đâu. Mỗi lần nhận được thư Jacqueline là buổi tối hôm đó Tân nằm mơ thấy ḿnh sống trên đất Mỹ. Lúc th́ lái máy bay, có lúc th́ đi hộp đêm với bạn bè người Mỹ nhẩy đầm nhậu nhẹt say khướt. Nhưng nhiều nhất vẫn vẫn là mơ thấy sóng đôi với Jacqueline, hết đi ngắm tuyết ở vùng đồi trắng xóa miền Đông, tới shopping ở các chợ miền Nam Cali nắng ấm. Khi thức giấc Tân thấy tiếc và muốn giấc mơ cứ thế kéo dài măi.
Buổi sáng hôm đó Tân sửa soạn đạp xích lô đi “tiếu ngạo giang hồ” có một anh công an t́m gặp. Anh ta trố mắt ngạc nhiên khi thấy người ḿnh đi t́m gặp lại là một anh đạp xích lô. Anh ta hỏi đi hỏi lại măi có đúng tên là Đỗ Tân không rồi mới cho biết lư do. Có ông dân biểu Mỹ muốn gặp. Tân choáng người. Một dân biểu Mỹ muốn gặp anh? Rồi trực giác bén nhậy của Tân cho biết đây là một tin lành. Tân đạp xích lô theo anh công an đến khách sạn Đại Lục nơi trước đây Jacqueline ở. Mọi người làm trong khách sạn đều nh́n Tân với cặp mắt nghi ngờ và kiêng nể. Th́ ra ông dân biểu Mỹ là cựu phi công học cùng khóa với Tân. Máy bay của ông bị bắn trong một phi vụ oanh tạc miền Bắc và bị nhốt “khách sạn Hilton ” hơn năm năm th́ được thả. Về Mỹ ông ứng cử và đắc cử dân biểu. Jacqueline đă gặp ông tŕnh bầy hoàn cảnh Tân và nhờ ông can thiệp với chính phủ cộng sản Việt Nam. Ông sang đây với một phái đoàn bàn thảo chương tŕnh viện trợ nhân đạo cho Việt Nam, trong đó có “chút việc riêng tư” là can thiệp cho Tân sang Mỹ định cư. Trước khi gặp nhà chức trách, ông muốn gặp Tân để “nhận diện” người bạn đồng khóa năm xưa.
5
Anh Hoàng thân quư,
Sau khi chia tay anh ở phi trường Tân Sơn Nhất. thấm thoát thế mà đă hơn ba tháng trôi qua. Sở dĩ hôm nay mới viết thư cho anh v́ khi đặt chân tới đất Mỹ, khỏi kể nhiều anh cũng thừa biết là tôi bận lắm. Sau khi nghỉ ngơi cho tỉnh người, đồng thời cũng là để gột sạch “bụi bậm xă hội chủ nghĩa” (c̣n bám chút đỉnh nơi thân thể), tôi và Jacqueline lo tổ chức lễ cưới. Rồi chúng tôi đi Washington DC tới bức tường đá đen ghi tên các chiến sĩ Hoa Kỳ hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam.Chúng tôi dành ít phút cúi đầu tưởng niệm dưới hàng chữ ghi tên Carter.Sau đó chúng tôi đi hưởng tuần trăng mật ở Honolulu. Tiếp theo chúng tôi đi thăm chỗ tôi học lái máy bay năm xưa ở hai bang Lousiana, Texas và các bạn phi công cùng khóa. Ông bạn cựu phi công đương kim dân biểu đă giới thiệu cho tôi một job hợp với khả năng: lái máy bay cho một đồn điền. C̣n Jacqueline vẫn tiếp tục nghề cũ y tá bệnh viện. Con gái tôi được Jacqueline và con gái cô quư mến lắm. Hai đứa ngoài giờ học cứ quấn quưt bên nhau như hai chị em ruột. Như anh biết đấy, khi ra đi tôi đă mang theo chiếc xích lô mà tôi phải mua lại với một giá mắc người chủ mới chịu bán. Cứ chủ nhật hoặc những ngày nghỉ lễ, tôi đạp xích lô chở Jacqueline và hai đứa nhỏ chạy ḷng ṿng trên các đường nhỏ trong thành phố. Đây là một chiếc xe độc đáo duy nhất có ở thành phố này, nên đạp tới đâu cũng được người Mỹ vui vẻ ngắm nghía và trầm trồ giơ tay chào. Có nhiều người bắt tôi xuống xe để cho họ đạp thử và suưt nữa th́ làm lật cả xe. Lâu dần người Mỹ quen mắt với chiếc xe xích lô của tôi. Chúng tôi đặt chiếc xích lô ngay trong pḥng khách. Nhờ nó, tôi và Jacqueline thành duyên chồng vợ nên chúng tôi vô cùng quư và trân trọng giữ ǵn nó.
Hiện tại chúng tôi đang sống tràn trề hạnh phúc. Mùa xuân của cuộc đời tuy đến muộn nhưng chúng tôi bằng ḷng lắm với những ǵ ḿnh đang có, đang sống. Thiên đường có thật anh Hoàng ạ! Và chúng tôi đang tắm trong suối nguồn tươi mát của Thiên Đường.
Xin chúc anh và gia đ́nh mọi điều tốt đẹp. Thỉnh thoảng rảnh rỗi anh nhớ viết thư cho tôi nhé.
Quư mến,
Đỗ Tân.
hoanglan22
02-07-2019, 04:54
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1337386&stc=1&d=1549515135
Dàn ăng ten trời vượt cao hơn những thân cây chung quanh. Hai dăy lều màu xanh nằm dọc theo bờ con kinh không có tên. Lô cốt. Hầm núp to nhỏ xen lẫn và chen chúc với nhau. Dây kẽm gai chằng chịt. Những trái lựu đạn M26 treo lủng lẳng. Ḿn claymore nhô lên khỏi mặt đất đen đũi. Lính Mỹ ở trần. Quân phục dơ dáy. Giày trận bê bết bùn. Đó là khung cảnh của căn cứ mọc lên giữa vùng Đồng Tháp Mười hiu quạnh vào tháng 3 năm 1968. Trà Cú. Tên một căn cứ của Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ nằm bên bờ phía nam của sông Vàm Cỏ Đông. Bờ bắc của sông và cách chừng mươi cây số đường chim bay về hướng tây bắc là quận Đức Huệ. Ở đây cũng có một trại lực lượng đặc biệt Mỹ và một đơn vị của sư đoàn 25 bộ binh thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Chiếc Alpha 12 từ từ rẽ vào con kinh rộng hơn hai ba chục thước. Nước trong một màu hơi vàng và bốc mùi ngai ngái. Mùi cỏ mục. Mùi phèn. Hiệu nói với Đạt đang ngồi lái tàu: “Mày ủi vào chỗ đó…”
Hiệu chỉ vào băi đất trống đối diện với cái hầm trú ẩn phân nửa ch́m sâu dưới đất. Năm bảy cây ăng teng trời cao ngất. Thằng Tóc Đỏ nhảy lên bờ đi thẳng vào dăy nhà tiền chế. Thằng Tóc Đỏ là danh từ mà lính của Giang Đoàn 71 Thủy Bộ dùng để gọi những người lính Mỹ cố vấn của đơn vị. Không ai biết danh từ này xuất phát từ đâu và lúc nào, tuy nhiên kể từ khi về đơn vị Hiệu đă nghe lính gọi như vậy. Dĩ nhiên các cố vấn Mỹ có người tóc vàng, tóc đen, tóc đỏ hay tóc trắng song đều được lính gọi bằng một cái tên chung Thằng Tóc Đỏ.
“Anh tới đây lần nào chưa? “. Đạt hỏi Hiệu. Lấy gói Lucky ra khỏi túi áo Hiệu rút một điếu xong ch́a gói thuốc sang Đạt.
“Cám ơn anh… Tôi không hút thuốc…”
Bật cái hộp quẹt zippo Hiệu cười nói với người thủy thủ vừa học xong khóa chuyên nghiệp và mới xuống tàu của ḿnh được ba ngày: “Tao ăn dầm nằm dề ở đây mấy tháng rồi. Nó là căn cứ của tụi Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ. Bây giờ thêm hải quân…”
Nh́n thấy một chiếc tàu đang đậu kế bên cách chừng hai ba chục mét Đạt hỏi “Chiếc tàu ǵ vậy anh? ”
“Tao không biết tên. Nghe nói là tàu cao su. Khi nó chạy thời cái phần cao su ở dưới phồng lên cao và chạy nhanh lắm…”
Hít hơi thuốc Hiệu nhả khói từ từ. Khói thuốc tan thật nhanh trong gió.
“Mấy thằng tóc đỏ đi kích bằng cái xuồng đó…”
” Đi phục kích Việt Cộng hả? “. Đạt hỏi với giọng ngạc nhiên. Hiệu gật đầu.
“Ừ… Mấy thằng mũi lơ ngu hơn ḅ. Tụi nó đem cái tàu chạy ầm ầm như vậy mà đi kích để bắt Việt Cộng…”
“Rồi nó có bắt được thằng nào không? ”
Hít hơi thuốc nữa Hiệu cười hực: “Được… Được cái củ… của tao…”
Tiếng cười của Bảng từ trong ụ súng đại liên 12 ly 7 phát ra nghe sằng sặc.
“Anh Hiệu kể cho nó nghe vụ hai trung đội thuộc sư đoàn 25 Mẽo đi kích chưa…”
Hít hơi thuốc thật dài xong búng tàn thuốc bay xuống nước Hiệu cười khặc khặc.
“Thôi để hôm nào nhậu tao mới có hứng… Bây giờ tao phải phụ thằng Cam sửa máy tàu. Lỡ tối hôm nay đi tuần mà đề máy không nổ là bỏ mẹ…”
Vừa bước được ba bước Hiệu dừng lại hỏi Đạt: “Mày bao nhiêu tuổi rồi? ”
” Dạ 18…”
“Mày có chơi bời lần nào chưa? ”
Bảng chúm chiếm cười khi thấy người lính trẻ mới xuống tàu đỏ mặt. Thật lâu Đạt mới nói nhỏ: “Chưa…”
“Mày có bồ bịch không? ”
“Có…”
Bảng xen vào bằng câu hỏi thẳng thừng: “Nó có cho mầy chấm mút hay sơ múi ǵ chưa? ”
Đạt lại đỏ mặt khi hiểu được ẩn ư trong câu hỏi của Bảng.
“Chưa… Nó mới có 17 tuổi mà… ”
Hai người lính thủy thâm niên nh́n nhau cười cười.
Cười ha hả Hiệu và Bảng đi ra sau lái tàu để một ḿnh Đạt đứng tần ngần nh́n ḍng kinh nước trong một màu vàng của phèn. Người lính trẻ mới đổi về đơn vị tác chiến của hải quân chợt thở dài. Đầu óc của anh vẫn c̣n vương vấn h́nh ảnh của Ánh, cô nữ sinh trường trung học G̣ Công. Mái tóc huyền thả buông. Nụ cười e ấp. Đôi mắt long lanh. Tà áo dài trắng. Hai đứa mới quen nhau ba tháng trước khi anh ra Cam Ranh học khóa tân binh. T́nh cảm chỉ vừa chín tới độ để cho đôi trai gái hẹn ḥ nhau trong vội vả. Những cái nắm tay rụt rè. Những cái hôn trộm lên má. T́nh yêu của họ vẫn c̣n nhiều thơ ngây và mộng mơ của tuổi trẻ ở một tỉnh lỵ nghèo xa Sài G̣n. Những lá thư được anh viết ở quân trường. Anh nâng niu mấy lá thư của Ánh như là một món quà tinh thần quư giá nhất. Mấy tháng ở Nha Trang qua nhanh. Ḷng người lính trẻ rộn ràng khi cầm tờ giấy phép về thăm nhà bảy ngày sau khi măn khóa học chuyên nghiệp.
” Đi ăn… ” Câu nói và cái vỗ vai của Hiệu khiến cho Đạt giật ḿnh. Nh́n thấy bốn nhân viên dưới tàu và Thằng Tóc Đỏ đang đứng nơi mũi tàu Đạt cười.
” Ḿnh chưa nấu cơm mà anh…”
Hiệu lắc đầu.
” Đi ăn đồ Mỹ… Mấy thằng mũi lơ nấu cho ḿnh ăn…”
Hiệu nhảy xuống đất trước nhất. Kế đó là John, Bảng, Minh, Cam và Đạt.
“Đồ ăn Mỹ ngon không anh Cam? ” Đạt hỏi nhỏ.
Cam trả lời nhát gừng: “Ngon mà dở… Ở cái trại Trà Cú này thời đồ hộp nhiều hơn. Được cái ḿnh khỏi phải nấu cơm. Công tác ở đây thằng Minh chịu lắm… ”
Mọi người xếp hàng chờ đợi. Bữa ăn lâu chừng hai mươi phút. Cả bọn kéo về tàu. Uống cạn ly cà phê Hiệu hỏi John. ” Ḿnh đi tuần tối nay phải không? ”
Tuy anh hỏi bằng tiếng Việt nhưng John hiểu. Cười gật đầu nó trả lời bằng tiếng Việt lơ lớ.
“Phải… Ḿnh sẽ đi tuần tối nay… ”
“Khúc nào?”
Lần này thời John trả lời câu hỏi của Hiệu bằng tiếng Anh xen lẫn tiếng Việt: ” Hiệp Ḥa… Đúng bảy giờ we re going…”
Đạt xen vào: “Bộ nó biết tiếng Việt hả anh Hiệu? ”
“Ừ… Nó rành tiếng Việt lắm… Có một lần tao sùng tao chửi nó ngu như ḅ. Nó mở miệng nói liền “Anh đừng có chửi tôi ngu như ḅ. Chính anh mới ngu như ḅ”.
Đạt cười sặc sụa. Đốt thêm điếu thuốc Hiệu cười tiếp.
“Từ đó về sau tao không dám nói hành nó nữa. Chỉ chửi lén thôi phải không John? ”
Thằng Tóc Đỏ cười h́ h́.
“Chửi lén xấu lắm… Nói lén xấu lắm… ”
Cười hà hà Hiệu vổ vai người lính cố vấn Mỹ quen thuộc với ḿnh hơn nửa năm.
“Ok… Tao không nói lén nữa… Bây giờ ḿnh phải coi lại súng đạn… ”
John cười gật đầu cặm cụi lau chùi khẩu súng cá nhân của ḿnh. Đó là khẩu M14 có gắn starlight scope. Hiệu cũng im lặng chỉ huy bốn nhân viên của ḿnh làm việc.
Nắng chiều c̣n le lói sau hàng cây tràm khi chiếc Alpha 12 bắt đầu rời căn cứ. Vùng trách nhiệm của nó là khúc sông Vàm Cỏ Đông từ ḷ đường Hiệp Ḥa dài xuống tới Lương Ḥa. Thường thường phải có hai chiếc tàu đi chung với nhau, tuy nhiên v́ t́nh trạng thiếu hụt tàu bè nên chỉ có một ḿnh chiếc Alph 12 phụ trách tuần tiễu khúc sông dài gần ba mươi cây số này.
“Ḿnh quẹo mặt hả anh? ”
Hiệu gật đầu trả lời câu hỏi của Đạt v́ đang bận liên lạc với bộ chỉ huy giang đoàn ở Bến Lức.
“Mày quẹo mặt, chạy tới Lương Ḥa Thượng xong quẹo trở lại tới ḷ đường Hiệp Ḥa đoạn quẹo trở lại Lương Ḥa và cứ chạy như vậy…”
Bảng lên tiếng trong lúc leo vào ổ súng đại liên nơi mũi tàu. Đạt hỏi tiếp.
“Ḿnh chạy như vậy suốt đêm hả anh Bảng? ”
“Ngu sao chạy suốt đêm mậy… Lệnh của pḥng hành quân bảo ḿnh phải chạy suốt đêm nhưng chạy tới khuya là ḿnh lủi vào chỗ nào kin kín để kích…”
” Kích? ”
Đạt hỏi lại với giọng ngạc nhiên và Bảng cười cười.
“Ḿnh kiếm chỗ ngáo… Hơi sức đâu mà chạy suốt đêm… ”
Người lính thủy trẻ tuổi gật đầu mỉm cười. Anh học khôn được một chút. Trời chập choạng tối. Khung cảnh hoang vắng và tiêu điều. Cây rừng chết trơ cành khô đen đủi v́ thuốc khai quang cũng có mà v́ bom đạn của cả hai bên cũng có. Nhiều thân cây lớn ngă xuống de ra khỏi bờ sông. Hai bên bờ và sâu vào trong mấy cây số không có nhà hoặc ánh đèn le lói. Đây là vùng tác xạ tự do v́ không có dân cư ngụ. Ngay cả tiếng chim kêu vượn hú cũng vắng hẳn. Đây là vùng đất chết. Đạt nghĩ thầm như thế trong lúc ngồi ôm tay lái tàu. V́ là lính mới do đó anh được dành cho cái hân hạnh lái tàu. Hiệu đă nói với các cựu nhân viên là ” để nó lái cho quen “. Không ai giành với Đạt cũng như không ai cải lệnh của thuyền trưởng về chuyện đó. Là lính cũ, nếu không bị bắt buộc phải lái tàu, họ có quyền làm những việc riêng tư trong lúc tàu giang hành như đọc sách, nghe nhạc và chỉ ngồi vào ổ súng khi tàu đi vào vùng nguy hiểm thường hay bị phục kích hoặc bị bắn sẻ.
“Cà phê nè anh Hiệu…”
Cam đưa cho Hiệu ly cà phê đen. Cầm lấy ly cà phê Hiệu cười bảo Đạt.
“Mày nghe máy… Tao đi hút thuốc…”
Có lẽ đă quen cái tật của cấp chỉ huy nên Đạt gật đầu.
“Nếu Việt Cộng bắn thời tôi phải làm sao? ”
Hiệu trả lời gọn.
“Nó không có bắn đâu? ”
Đạt hỏi gặn.
“Sao anh biết? ”
Hiệu cười cười.
“Chưa tới chỗ nó bắn… Chừng nào tới chỗ nó hay núp để bắn tàu tao sẽ chỉ cho mày…”
Hiệu nhảy xuống sàn tàu sau khi dứt câu nói. Bóng tối chụp xuống thật nhanh xóa nḥa cảnh vật hai bên bờ ngoại trừ ḍng sông sáng mờ mờ. Sao hiện ra cao thật cao trên bầu trời đen thẳm. Tiếng máy tàu nổ ŕ rầm. Tiếng máy truyền tin kêu sè sè hoài hủy làm cho Đạt cảm thấy buồn ngủ. Nh́n ra trước mũi tàu nơi ụ 12 ly 7 anh thấy bóng của Bảng mờ mờ ngồi tựa vào thành của ụ súng.
“Alpha 12 đây Bravo…”
Đang ngồi nh́n vào mặt kính của các đồng hồ máy móc nơi pḥng lái Đạt vội cầm lấy ống nói của máy truyền tin.
“Alpha 12 nghe Bravo…”
“Alpha 12, anh đang ở đâu? ”
Đạt ú ớ không trả lời được v́ thực sự anh không biết ḿnh đang ở đâu.
“Đưa đây cho tao…”
Đạt trao ống nói cho người thuyền trưởng của ḿnh.
“Bravo đây 12… Tôi đang ở tọa độ 190374 + 223711… Nghe rơ trả lời…”
“Bravo nghe 12… Anh coi chừng… Tin báo cho biết tụi Vẹm sẽ băng qua sông…”
“Tôi nghe Bravo 5/5…”
Bỏ ống nói xuống Hiệu cầm lấy chiếc starlight scope đưa lên quan sát hai bên bờ sông và luôn cả trên mặt sông rộng sáng mờ mờ của một đêm không trăng nhưng có nhiều sao. Đạt mỉm cười khi nghe Hiệu nói chuyện với Thằng Tóc Đỏ bằng tiếng Anh khá trôi chảy.
“Ê John… Mày coi chừng bờ bên phải của ḿnh… Pḥng hành quân nói là tụi nó có thể băng sông đêm nay…”
Đứng nơi mũi tàu, nơi khoảng trống giữa ụ súng 12 ly 7 và vách pḥng lái, John nói bằng tiếng Anh pha tiếng Việt.
“Yes. I know… Căn cứ Trà Cú cũng đă thông báo là VC về đông lắm…”
Nói xong người cố vấn Mỹ vội khoác lên người cái áo giáp và đội lên đầu cái nón sắt. Hiệu cười lắc đầu khi thấy Thằng Tóc Đỏ c̣n dàn khẩu M60 dưới chân. Chiếc Alpha 12 lầm ĺ xuôi con nước ṛng về Lương Ḥa. Xa xa ánh đèn thấp thoáng, khi hiện ra khi mất theo những khúc quanh co của ḍng sông. Rừng cây đen mờ.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1337387&stc=1&d=1549515135
“Anh học tiếng Anh ở đâu mà nói giỏi vậy? ”
Đạt hỏi người thuyền trưởng của ḿnh. Hiệu trả lời nhát gừng.
“Ở trường…”
“Trường nào? ”
“Hội Việt Mỹ ở Sài G̣n…”
“Hèn chi anh nói tiếng Mỹ giỏi quá…”
Hiện cười lặng lẻ trong bóng tối. Thật lâu anh mới lên tiếng: “Ông anh lớn của tao ở Lực Lượng Đặc Biệt. Ổng mới chết cách đây chừng một năm. Chính ổng dẫn tao đi học tiếng Anh…”
Ngừng lại giây lát Hiệu bắt sang chuyện khác.
“Mày ở tại chợ G̣ Công hả? ”
“Ừ… Nhà ba má tôi ở tại chợ…”
“G̣ Công vui hay buồn? ”
“Vui mà chắc không bằng Sài G̣n…”
Hiệu thở dài. Đạt nghe tiếng thở dài của cấp chỉ huy buồn rầu và u uất.
“Sài G̣n buồn mà vui, vui mà buồn… Lâu lắm rồi tao không có về Sài G̣n…”
“Nhà ba má anh ở Sài G̣n hả? ”
“Ừ…”
“Anh có vợ chưa? ”
“Chưa… Ma nào thèm lấy tao…”
Đạt mỉm cười khi nghe câu trả lời của Hiệu.
“Sao vậy… Anh đẹp trai, ăn nói có duyên, lại thêm học giỏi…”
“Ai nói với mày như vậy? ”
Đạt cười trong bóng tối.
“Tôi nghe trung sĩ Thạnh nói… Ổng bảo anh có bằng tú tài 2 thêm mấy cái chứng chỉ đại học mà không chịu đi sĩ quan…”
Hiệu thở dài.
“Tao đi lính rồi mới học đại học…”
“Sao anh không đi học khóa sĩ quan? ”
“Tại tao làm biếng và ham chơi… Đi học sĩ quan cực lắm…”
Hiệu ngừng lại. Lát sau anh mới nói với giọng khàn v́ hút nhiều thuốc và uống nhiều rượu.
“Tao sợ vào quân trường. Tao thích sống ở giang đoàn… Nhàn và tự do…”
Im lặng hồi lâu Hiệu cười đùa
“Giờ này có chai bia uống mới đă… Hôm nào tao đi với mày về G̣ Công chơi cho biết…”
“Ừ anh về nhà tôi chơi rồi tôi giới thiệu chị bà con của tôi cho anh…”
“Bà chị của mày đẹp lắm hả? ”
“Sao anh biết bả đẹp…”
“Nếu xấu thời chắc mày không giới thiệu cho tao…”
Đạt bật thành tiếng cười. Anh cảm thấy thích thú khi tṛ chuyện với Hiệu. Cởi mở, thân mật, dễ dăi và vui vẻ do đó Hiệu là một thuyền trưởng mà mọi nhân viên đều thương mến và thích lân cận.
“Trung sĩ Thạnh cũng ở G̣ Công như tôi. Ông ta ở Ḥa Đồng…”
“Thạnh cùng khóa tân binh và hạ sĩ quan với tao…”
Đạt cười trong bóng tối.
“Bởi vậy khi nghe tôi nói xuống chiếc Alpha 12 ổng cười nói: ” Em xuống tàu của Hiệu là phải chuẩn bị nhậu nghe chưa…”
Bằng cách nói chuyện không đầu đuôi Hiệu và Đạt nói lan man chuyện này sang chuyện khác.
“Mấy giờ rồi? ”
“9 giờ. Anh không có đồng hồ à? ”
“Có nhưng tao cầm rồi mà chưa có tiền chuộc… Có lẽ tao bỏ luôn…”
“Ḿnh tới đâu rồi? ”
“Lương Ḥa Thượng… Chỗ đèn sang sáng đó… Mày quẹo trở lại…”
Chiếc tàu chậm chạp đánh một ṿng lớn mới quay đầu chạy ngược trở lại. Hiệu đưa starlight scope lên quan sát. Ḍng sông biến thành một vệt lớn màu trắng bạc. Hàng cây hai bên bờ đen mờ mờ. Trăng thượng tuần đổ xuống cảnh vật một màu lung linh huyền ảo.
“Thằng Bảng nó ngủ rồi…”
Hiệu lên tiếng và Đạt hỏi nhanh.
“Sao anh biết? ”
Trong bóng tối mờ mờ người lính thủy trẻ tuổi thấy được nụ cười tinh nghịch của Hiệu.
“Nó không động đậy là nó ngáo rồi… Tao biết nó… Nằm đâu là nó ngủ đó… Nó nói với tao là đứng nó cũng ngủ được…”
Đạt bật cười tiếng ngắn.
“Anh làm tôi nhớ tới thằng bạn thân cùng khóa. Tôi ở G̣ Công c̣n nó ở Mỹ Tho. Nó có thể vừa đi vừa ngủ…”
Hiệu cười hớp ngụm cà phê nguội đoạn càu nhàu.
“Cà phê instant của Mỹ uống chẳng ra cái đám ôn ǵ hết… Tao đi hít vài hơi cho đỡ ghiền… Mày coi chừng…”
Hiệu rời khỏi mui tàu khi chiếc Alpha 12 vừa chạy qua khỏi khu vườn thơm.
2 giờ sáng. Chiếc Alpha 12 ủi vào khoảng đất trống trước mặt có thân cây cao. Ngáp một cái thiếu điều muốn trẹo quai hàm Hiệu nói nhanh.
“Ḿnh nghỉ mệt chừng một tiếng rồi đi tiếp… Đứa nào buồn ngủ cứ việc ngủ…”
Là nhân viên cũ nên Bảng, Cam và Minh vội chui vào giường.
“Tôi thức với anh cho vui…”
Hiệu cười gật đầu. Anh hiểu cái tâm trạng của người lính mới. Đây là lần đầu tiên Đạt thực sự tham dự vào sinh hoạt của người lính thủy thuộc một giang đoàn tác chiến. Do đó nó c̣n háo hức và kích thích. Chừng nửa năm thôi là mọi chuyện sẽ trở nên b́nh thường và quen thuộc với những chuyến công tác, hành quân, biệt phái, tuần tiễu… Con sông Vàm Cỏ Đông từ Bắc Cầu Nổi của tỉnh G̣ Công dài lên tới Bến Đá của tỉnh Tây Ninh là vùng trách nhiệm của giang đoàn 71 thủy bộ mà căn cứ đóng tại Bến Lức. Lương Ḥa Hạ. Lương Ḥa Thượng. Rừng thơm ngút ngàn. Trà Cú.
Đồng Tháp Mười mênh mông vắng ngắt. Đức Huệ. Rừng mía mút mắt bên bờ phía nam. Cẩm Giang. Trảng Bàng. G̣ Dầu Hạ. Quốc lộ 1 đi Nam Vang. Nhà dân chúng cất san sát dọc theo bờ sông. Ḍng sông là sự chia đôi, ngăn cách. Bờ bắc có an ninh do quốc gia kiểm soát cho nên dân cư đông đúc và đời sống khá giả. Bờ nam thuộc Việt Cộng, hoang vắng tiêu điều và hầu như không có dân cư ngụ. Chỉ có ở khu vực gần ḷ đường Hiệp Ḥa mới có dân làng sống bên bờ bắc mà làm việc ở bên bờ nam. Mỗi ngày họ băng qua sông làm rẩy, trồng mía xong chiều lại trở về. Dĩ nhiên là họ phải đóng thuế hoặc có thể phải cộng tác với Việt Cộng cho nên chúng mới để yên cho họ làm ăn. Chính quyền cũng biết nhưng làm ngơ v́ ḷ đường cần có mía để làm ra đường. Vả lại chính quyền không bảo đảm an ninh cho dân nên đành phải để cho dân ” nắng chiều nào che chiều đó “…
“Tao chỉ cho mày xử dụng starlight scope để quan sát khi canh gác…”
Hiệu chỉ dẫn một cách chi tiết về việc dùng ống ḍm xong cười đùa.
“Tao đi hút thuốc… Mày ráng t́m coi có thằng Việt Cộng nào băng qua sông…”
Đạt gật đầu cầm lấy chiếc starlight scope đưa lên quan sát một cách chậm chạp. Ḍng sông lấp lánh sáng một vẻ mông lung huyền ảo. Rừng tràm mờ đen xa tít trong kia. Từ chỗ rừng cây đen mờ tới bờ sông là khoảng đồng trống mênh mông. Xa xa mấy chấm đen hiện lờ mờ, trôi dật dờ trên ḍng sông trắng bạc. Nghe tiếng động Đạt quay lại và thấy Hiệu từ dưới hầm chui lên. Thấy Đạt đang đứng quan sát Hiệu hỏi nhỏ.
“Mày thấy cái ǵ không?
“Tôi không biết… Dường như ở giữa sông có cái ǵ nhúc nhích…”
Giật cái starlight scope trên tay của Đạt, Hiệu chăm chú nh́n rồi ra lệnh cho Đạt.
“Gọi tụi nó dậy…”
Bảng, Minh và Cam vội vàng leo lên ụ súng. Hiệu trao ống ḍm cho John. Chăm chú quan sát xong Thằng Tóc Đỏ hỏi nhỏ.
“Anh nghĩ sao? ”
Hiệu nói với John bằng cái giọng nghiêm nghị để cho nó biết đó là lệnh của thuyền trưởng.
“Ḿnh bắn nó trước rồi mày gọi ” gunship ” sau…”
John gật đầu tuân lệnh. Hiệu ngồi vào tay lái. Bum… Bum… Tiếng máy tàu nổ ṛn ră. Người thuyền trưởng kéo mạnh cần ga vào số de. Chiếc tàu lùi ra giữa sông thật nhanh. Bụp… John dọng liền một lúc hai trái sáng. Dưới ánh hỏa châu vàng vọt mấy chiếc thuyền đang bập bềnh trên sông biến thành mục tiêu cho thủy thủ của chiếc Alpha 12.
“Bắn… Đạt… Bắn M79…” Hiệu hét lớn ra lịnh cho người lính trẻ dùng súng phóng lựu. Ba khẩu 12 ly 7, một khẩu đại bác 20 ly, một khẩu M60 cùng lúc tác xạ. Đạn lửa kéo thành dây dài lê thê trên mặt sông rộng. Khói súng bốc mùi hăng hăng. Đạt say sưa bắn. Lần đầu tiên được bắn vào một mục tiêu có thực nên anh cảm thấy vô cùng hồi hộp và kích thích.
“Ngưng bắn…” Hiệu hét lớn trong lúc cho tàu xả hết tốc lực chạy tới mục tiêu. Lúc này chỉ c̣n có ụ súng đại liên 50 nơi mũi tàu tác xạ mà thôi. Dưới ánh hỏa châu sáng lơ lững trên trời cao mọi người đều thấy rơ đạn lửa của hai khẩu 12 ly 7 vẽ thành đường đỏ rực.
“Gunship s coming…” John hét lớn cho Hiệu biết đồng thời vỗ vai Bảng ra hiệu ngưng bắn. Tiếng trực thăng nghe rơ dần rồi mấy phút sau hai chiếc trực thăng vơ trang xuất hiện. Dưới sự chỉ dẫn của John hai chiếc trực thăng bắn dọc theo hai bên bờ sông. Súng đạn nổ ́ ầm. Tiếng nổ của hỏa tiễn làm lùng bùng lỗ tai. Chừng mươi phút sau hai chiếc trực thăng bỏ đi trong lúc chiếc Alpha 12 lừ lừ tiến tới. Hiệu đảo một ṿng tṛn thật lớn quanh ba chiếc xuồng đang nổi lềnh bềnh trên mặt nước. John và Đạt đều hờm sẵn M16. Mũi súng chỉa vào ba chiếc ghe đề pḥng bất trắc. Minh ngồi vào tay lái thế chỗ cho Hiệu. Bước xuống đứng nơi mũi anh ra hiệu cho Minh cặp tàu vào sát chiếc xuồng lớn nhất. Hai chiếc tam bản đều bị lập úp đưa lườn lên trời. Chỉ riêng có chiếc ghe lớn tuy ngập nước nổi lềnh bềnh nhưng không bị lật úp.
“Có xác chết anh Hiệu…”
Bảng nói lớn. Hiệu gật đầu ra lệnh: “Đạt pha đèn t́m xem có xác nào nữa không? ”
Trong lúc Đạt rọi đèn pha t́m kiếm Hiệu nói với Thằng Tóc Đỏ: “Ê John… Ḿnh vớt xác chết lên tàu…”
Thằng Tóc Đỏ vui vẻ cười nói đùa: “Yes sir… I m in your command sir…”
Hiểu câu nói của John Bảng cũng đùa.
“Chà bữa nay mày lịch sự dữ a…”
Dùng cái sào dài có móc Hiệu kéo chiếc ghe ngập nước vào sát thành tàu. Đạt rọi đèn pha vào ḷng chiếc ghe. Nhờ có ánh đèn mọi người mới thấy rơ không phải một mà tới bốn xác chết nằm trong ḷng ghe. Hiệu ra lệnh: “Cam… Mày nắm tay nó kéo lên. John… Mày nắm chân nó…”
Cam giẫy nẩy.
“Thôi tôi không dám đâu… Rủi nó nắm tay tôi lôi xuống nước rồi làm sao…”
Hiệu cười hực.
“Mày ngu như ḅ… Nó chết ngắt rồi…”
John trợn mắt nh́n Hiệu v́ tưởng Hiệu mắng ḿnh ngu như ḅ. Cười h́ h́ Hiệu chỉ Cam.
“Tao nói nó chứ không có nói mày đâu…”
Dứt lời như để làm gương Hiệu tḥ tay nắm lấy cườm tay của một xác chết gần nhất trong lúc John nắm lấy chân của xác chết.
“One… Two… Three… Go…”
Hiệu và Jonh cùng lúc nhấc xác chết đặt lên sàn tàu. H́ hục hồi lâu cả hai mới kéo hết bốn xác chết mặc bà ba đen lên trên tàu.
“Bảng mày lục túi tụi nó xem có giấy tờ ǵ không?
Trong lúc Bảng lúi húi lục lọi Hiệu nằm sấp trên sàn tàu rồi dùng hai tay ṃ mẫm trong ḷng chiếc xuồng thật lâu.
“Ê John… Mày muốn cái này không? ”
“Wow… Oh my God…” Thằng Tóc Đỏ buột miệng kêu thành tiếng ngạc nhiên lẫn mừng rỡ khi thấy Hiệu đưa cho nó khẩu K54. Đưa tay cho Đạt kéo ḿnh ngồi dậy. Hiệu bật lửa đốt điếu thuốc. Hít hơi dài anh nói với Bảng trong lúc nhả khói: “Mày có thấy giấy tờ ǵ không? ”
Bảng ngập ngừng: “Có một cuốn sổ tay ướt nhẹp và…”
Hít liền mấy hơi thuốc xong Hiệu lại tiếp tục ṃ súng. John cười hể hả nói khi thấy Hiệu t́m được thêm một khẩu súng trường bá đỏ và một khẩu AK47.
“Xếp của tôi thích mấy khẩu súng này lắm…”
Hiệu cười nói trong lúc ṃ mẩm dưới nước.
“Bảo xếp của mày mua cho tao mấy kết bia…”
John cười toe toét.
“Yes sir… I will…”
Đưa tay cho John kéo ḿnh ngồi dậy Hiệu nói.
“Thôi hết rồi… Tao nghĩ chắc không c̣n súng đâu… Mấy giờ rồi Đạt…? ”
Hiệu hỏi và Đạt trả lời nhanh.
“Dạ hơn năm giờ rồi anh…”
Gật đầu Hiệu ra lệnh: “Bây giờ ḿnh kéo chiếc ghe về căn cứ xong ngáo…”
V́ phải kéo thêm chiếc ghe bị ch́m nên tàu chạy thật chậm. Mặt trời ưng ửng đỏ khi chiếc Alpha 12 bắt đầu quẹo vào con kinh nước trong màu phèn.
Chu Sa Lan
hoanglan22
02-09-2019, 20:33
Tôi thường được biệt phái bay C&C với ông Đại-tá Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 11 Biêt-động-Quân đóng tại Quảng-Ngăi, lần cuối cùng chúng tôi bay quần trên bầu trời chi khu Gia-vực suốt cả ngày, cứ đáp lấy xăng, ăn vội rồi lên vùng ngay v́ tiểu đoàn của ông đang bị Cộng quân vây đánh khắp nơi. Cuối cùng tôi nghe ông ban lịnh: "Hủy bỏ các tiền đồn rút về cố thủ tại Chi khu". Tôi về đáp trả ông lại đơn vị và bay đi trong bóng đêm, ḷng cảm thấy thương cảm cho vị chỉ huy và bao chiến hữu, không biết có giữ vững được pḥng tuyến hay không? Chi khu Gia Vực nằm sâu trong dăy Trường Sơn mà phía ngoài là chi khu Minh-Long đă bị Cộng quân chiếm đóng khá lâu nên vào vùng chúng tôi phải bay cao để tránh pḥng không địch
Sau một thời gian khá lâu, Biệt đội chúng tôi đang biệt phái tại căn cứ Chu-Lai, trong khi tất cả đang c̣n say ngủ th́ anh trực máy gọi tôi đến nhận lịnh từ pḥng hành quân chiến cuộc Đà-Nẵng: "Tất cả lấy xăng đầy đủ bay vào đáp phi-trường Quảng-Ngăi gấp“.
Chúng tôi đến phi trường th́ thêm 4 chiếc từ Đà-Nẵng cũng vừa đến nơi đáp vào hợp đoàn dọc theo phi đạo. Loay hoay chưa rời khỏi phi cơ th́ Đại tá Phước KĐT lôi xuống, bảo chạy đến leo lên chiếc O-1 do anh Đại úy Đức bay vào vùng chỉ điểm cho tôi nhận diện mục tiêu. Từ độ cao trên 7,000 bộ tôi nh́n thấy một tấm Penal màu cam đánh dấu trên một ngọn đồi cao nằm sâu vào phía Tây gần biên giới Lào-Việt. Tôi báo anh Đức bay về và qua anh tôi được biết Chi khu đă bị " over run " gần một tháng nay rồi, tất cả máy bay vào vùng đều bị pḥng không bắn nên việc ḍ t́m tung tích những anh em quân nhân thất lạc bị trở ngại rất nhiều. Được biết hầu hết những toán đi ngược ra Quảng-Ngăi đều bị chận đường tiêu diệt gần hết, riêng toán nầy may nhờ được một người Thượng hướng dẫn đi ngược lên núi mới tránh khỏi bị chận đánh và kéo nhau lên núi, lấy penal trải báo hiệu nên máy bay trinh sát trông thấy.
Kế hoạch hành quân cấp cứu là xuất phát thật sớm, lợi dụng lúc mây c̣n che phủ, những khẩu pḥng không địch không trông thấy nên vừa về lại phi trường Quảng Ngăi, tôi liền lên phi cơ hướng dẫn hợp đoàn bay vào mục tiêu trên cao độ 7,000 bộ, gần đến nơi tôi cho phi cơ rơi thật nhanh vào băi đáp. Trên đường bay cận tuyến, trông thấy một tên VC đang ngồi đánh răng cạnh khe suối và một toán đang đánh voley, tôi báo cho 2 chiếc guns thanh toán. Phi cơ vừa đáp th́ toán quân nhân thất lạc trong đó có cả đàn bà và trẻ nhỏ ào ạt trèo lên đầy ắp, phi cơ cất cánh không muốn lên nổi nên tôi phải bay là là sát ngọn cây, nhờ hai chiếc gunships bắn dọn đường trở về. Cả hợp đoàn phía sau cũng được lệnh quay về v́ tất cả đă lên hết trên tàu, tôi đếm lại đến 27 người trên chiếc trực thăng mỏng manh UH-1. Trở lại phi trường, lúc nầy trời đă sáng hẳn và rất đông người trên phi đạo chạy đến bu quanh phi cơ, nhiều người ôm chầm lấy tôi cám ơn rối rích. Chúng tôi cất cánh rời phi trường, nh́n lại hai bên phi đạo, nhiều người đang ḅ lăn kêu gào thảm thiết v́ không thấy có người thân, ḷng ḿnh cũng thấy quặn đau khó tả.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1338662&stc=1&d=1549744364
Phi Đ̣an 253 Pilot Phúc Dù ngồi giửa giơ tay chào
Một tuần sau Quân Đoàn 1 tổ chức buổi lễ vinh danh và tặng huy chương kèm ṿng hoa chiến thắng tại trường Trung học Sao Mai Đà-Nẵng, buổi lễ rất trang nghiêm trong khúc nhạc quân hành “Trong đoàn hùng binh có tôi đi hàng đầu“, các quân nhân lần lượt được các em nữ sinh Sao-Mai xinh như mộng choàng ṿng hoa chiến thắng, trong tràng vỗ tay vang dội cả hội trường. Đặc biệt thay v́ ṿng hoa, tôi được người yêu trang trọng choàng cho một khăng choàng màu tím chính tự tay nàng thêu tặng, và cũng chính chiếc khăn nầy đă cột chặt cuộc đời chúng tôi với nhau suốt 47 năm qua, dù đă phải trăi qua biết bao thăng trầm tù tội. Cũng rất đặc biệt là chiếc khăn nầy luôn được Ly-Lan, người vợ thương yêu của tôi cất giữ nguyên vẹn măi đến ngày nay, nàng thường muốn được tự tay choàng vào cổ mỗi lần tôi mặc áo bay đi dự hội.
KQ Phan-văn-Phúc 219-253
hoanglan22
02-09-2019, 20:49
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1338663&stc=1&d=1549745177
Vào cuối năm 1975, hàng ngàn tù nhân sĩ quan cấp tá của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa từ nhiều trại tập trung cải tạo vùng chung quanh Sài-G̣n đă bị chuyển về nhốt tại trại tù Suối Máu, Tam- Hiệp, Biên- Ḥa.
Một đêm giữa tháng 10, 1975, từ Long Giao, tôi bị chuyển tới đây trên một chiếc Molotova bít bùng kín mít. Tôi bị dẫn vào khu K2. Hai tuần sau có lệnh “biên chế,” tôi lại bị chuyển sang khu K3. K3 chỉ chứa sĩ quan cấp thiếu tá. Tôi bị giam ở đây từ ngày 1 tháng 11, 1975 cho tới ngày lên tàu Sông Hương ra Bắc (tháng 7, 1976.)
Thời gian này, tin tức truyền thanh, truyền h́nh về t́nh h́nh thế giới càng lúc càng xấu đi. Người ta đồn rằng, h́nh như Cộng-Sản Việt-Nam đang trên đường tiến chiếm Thái-Lan. Thế Giới Tự Do như càng lúc càng xa chúng tôi hơn.
Anh em chúng tôi gặp nhau thường ngày, tụ tập từng nhóm, đánh cờ tướng, tán gẫu, bàn chuyện nhà cửa, gia đ́nh, nước non, thời quá khứ. Trong những lúc tụ tập chuyện tṛ, chúng tôi nghe bạn bè rỉ tai rằng, “Chính quyền Giải Phóng” đang nghiên cứu hồ sơ cá nhân của từng người, để xét tha (?) Cũng có tin bi quan, cho rằng chúng tôi sắp bị đưa ra Ṭa án Nhân dân để xử tội. Chúng tôi thực sự hoang mang, chẳng biết tương lai ḿnh sẽ đi về đâu.
Tôi ở Lán 24 thuộc K3 (danh từ VC gọi Lán là nhà, K là Khối.) Mỗi lán chứa khoảng hơn 40 tù nhân, trong Lán 24 đó có vài cựu Sĩ quan Đà Lạt gồm anh Trần Ngọc Dương (K10), Nguyễn Lành (K16), Hoàng Thế B́nh (K18), Tạ Mạnh Huy (K19), khóa 20 có Ngô Văn Niếu và tôi (Vương Mộng Long). Lán tôi cách Lán 17 vài thước. Lán 17 có ba anh Biệt Động Quân K20 Vơ Bị là Nguyễn Cảnh Nguyên, Trịnh Trân, và Quách Thưởng. Trong cảnh đói khát thường xuyên, chúng tôi phải chia nhau từng mớ rau dền, tán đường thẻ, miếng cơm cháy.
Lán 24 lúc nào cũng hôi thối đầy ruồi nhặng, v́ nó nằm trên đường đi ra cầu tiêu, mà bệnh kiết lỵ của tù nhân cải tạo ở đây hầu như bất trị.
Anh trưởng Lán 24 tên Trần Thành Trai, nguyên là Y sĩ Thiếu tá làm việc tại Quân y viện Duy-Tân, Đà-Nẵng. Bác sĩ Trai luôn luôn xác định lập trường của anh là quyết tâm “học tập tốt” để được tha về với vợ con, v́ vậy mỗi lệnh của ban chỉ huy trại đưa xuống, anh luôn luôn t́m cách thi hành đúng đắn.
Thằng Niếu, bạn tôi, được một chân làm bếp, nó ăn uống dưới bếp, nên phần cơm của nó dư, được mang về tiếp tế cho tôi và anh Nguyễn Phong Cảnh, người nằm cạnh tôi.
Vào những ngày cuối năm Ất Mẹo, không khí ở đây trở nên rộn rịp vô cùng. Những người liên lạc được với gia đ́nh th́ có những gói quà nhỏ gởi vào cho ăn Tết, những kẻ ít may mắn hơn th́ đành trông chờ vào những ǵ ban chỉ huy trại ban cho. Thời gian này, các lán gấp rút tập văn nghệ để tŕnh diễn đêm Giao Thừa.
Để khỏi tập ca hát nhảy múa, tôi t́nh nguyện làm công tác tạp dịch, quét tước. Trong khi mọi người ca múa, xả rác, tôi đi lượm rác và xách nước về cho bạn cùng lán rửa mặt rửa tay.
Hai ngày trước Tết, lán tôi phải tập họp đi làm cỏ ngoài rào K3.
Trại Suối Máu vốn dĩ là trại tù Phiến Cộng Tam-Hiệp của Quân Khu 3 Việt-Nam Cộng-Ḥa. Trại có hai khu, hai hệ thống hàng rào. Lớp rào trong nhốt tù, rồi tới khu canh tù, ngoài cùng là rào ḿn pḥng thủ. Trại tù Phiến Cộng này có 6 khối. Mỗi khối cách biệt nhau bởi một khoảng đất trống, có rào ḿn. Từ khối này muốn liên lạc với khối kia chúng tôi phải hét lên mới nghe tiếng nhau.
Ra khỏi hàng rào thứ nhất, tôi chứng kiến vài sự đổi đời.
Cái miếu thờ Thổ Địa trở thành cái chuồng nuôi heo. Nhà Thờ và Niệm Phật Đường của trại tù binh đă thành chuồng gà sản xuất. Sư và Cha, Tuyên úy của trại này, chắc cũng đi tù đâu đây không xa!
Ngoài xa, bên kia hàng rào ḿn là băi cỏ trống rồi tới đường Quốc lộ 1.Trên Quốc lộ, xe Lamb chạy xuôi ngược; người người vội vàng buổi chợ cuối năm. Có vài bàn tay giơ lên ngoắc ngoắc về hướng trại tù, đôi người dân có liên hệ, hoặc ai đó c̣n nhớ tới chúng tôi, những sĩ quan cấp tá của Quân Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa, những người bảo vệ chế độ đến giờ cuối cùng, và những người chậm chân, chạy không kịp, đang bị nhốt ở đây, trong khu nhà tù do chính tay Công-Binh Việt-Nam Cộng-Ḥa xây dựng lên trước đó nhiều năm.
Sáng nay bầu trời màu xanh, không một gợn mây. Từ hướng phi trường Biên-Ḥa, bên kia cánh đồng trồng khoai ḿ, những chiếc F5 thực tập lên, xuống, lượn ṿng…
Đưa tay chỉ những cánh chim sắt đang bay trên trời cao, anh bạn Thiếu tá Không Quân, Trần Chiêu Quân nói với tôi rằng, sau 30 tháng 4, có một số phi công của Việt-Nam Cộng-Ḥa bị trưng dụng để huấn luyện cho phi công Bắc-Việt lái những máy bay chúng ta c̣n để lại.
Những chiếc F5 sáng như bạc đảo lộn trong không gian. Tiếng rít của phi cơ làm cho tâm hồn người cựu chiến binh nao nao.
Làm sao quên được? Lần đầu ra trận (Tháng 2, 1966). Hôm đó, cũng vào một sáng đầu Xuân, đơn vị tôi án binh dưới chân núi Trà-Kiệu (Quảng-Nam) chờ lệnh xuất phát. Tôi ngồi bên bờ Nam sông Thu-Bồn, say sưa nh́n những cánh F-4C, F-5A Hoa Kỳ đan nhau trên vùng trời Bắc. Bên kia sông, vùng trách nhiệm của Trung Đoàn 51 Biệt Lập, khói đạn bom cuồn cuộn…
Rồi tới trận Mậu- Thân (1968) với những chiếc Skyraider dềnh dàng, chậm răi phóng từng trái Napalm dài như chiếc xuồng màu trắng, lướt trên đỉnh 1632 cuối phi đạo Cam-Ly, Đà-Lạt. Khi bom chạm mục tiêu, từ đó, những sợi lửa lân tinh trắng xanh, trông giống như những cái ṿi bạch tuộc, vươn cao…
C̣n nữa…
Nhớ thời chống giữ Pleime, ngày ngày, tôi nghe quen tiếng L19 lè xè của Vơ Ư (K17VB). Chiếc L19 như cánh diều mảnh khảnh, lững lờ quanh đỉnh Chư Gô, hay trên Ia Drang, thung lũng Tử Thần…
Chúng tôi trông chờ đôi lúc trời trong, những phi tuần A-37 theo nhau tuôn bom… chờ những chiếc trực thăng rà sát đọt cây, lướt trên ngọn cột cờ căn cứ. Cơ phi, xạ thủ trên tàu chỉ kịp đạp vội xuống sân trại vài thùng điện tŕ, đạn, gạo sấy, con tàu đă lật bụng đảo một ṿng, thoát chạy về Đông. Pḥng không như lưới, thảy xuống cho nhau được thùng nào, hay thùng nấy! Thảy đồ xong là chạy. Đồ tiếp tế, có thùng c̣n nguyên dạng, có thùng vỡ tan, có thùng bay vào băi ḿn. Như thế cũng quư hóa lắm rồi! Cám ơn anh em Phi đoàn 229 Lạc Long!
Rồi đêm xuống, cứ như “Đúng hẹn lại lên!” Chiếc AC 47 của anh Trần Bạch Thanh (K17) đă có mặt trên vùng.
“Thái Sơn! Đây Hỏa Long gọi!”
Những đóm hỏa châu lập ḷe, vừa trải rộng tầm quan sát cho người trấn giữ tiền đồn, vừa làm cho họ cảm thấy ấm ḷng.
Đă mất rồi, ngày xưa ấy! Giờ này tôi đang đứng nh́n những cánh chim sắt chao lượn trên đầu, người lái không phải là quân bạn.
Tiếng động cơ F5 nghe sao quá xót xa!
o O o
Tôi đang nhổ cỏ th́ thấy một đoàn người từ hướng ban chỉ huy trại ḥ nhau khiêng một cái cổng gỗ rất to vừa đóng xong.
Tấm bảng nền đỏ chữ vàng “Không Có Ǵ Quư Hơn Độc Lập Tự Do” được nâng niu như trứng trên vai những người tù nhễ nhại mồ hôi. Những người tù đang bị sức nặng của cái cổng đè trĩu trên vai. Họ phải lên gân chân mỗi lúc bước tới trước.
Mới vài tháng trước đây họ c̣n là những vị chỉ huy oai phong lẫm liệt. Giờ đây đành cam thân sống cảnh đọa đày, đóng vai những anh thợ mộc bất đắc dĩ không công. Ngày nào họ cũng ra đi rất sớm, chiều tối mới trở về trại. Họ dựng những cái cổng chào. Họ tu sửa, sơn phết những khẩu hiệu trên tường. Họ trồng lại hàng rào trại.
Mọi việc làm này là để chào đón ngày Quốc-Hội Việt-Nam Thống-Nhất ra đời. Những vị sĩ quan cao cấp này đă khởi đầu nghề thợ mộc của họ bằng những cái bảng “Không Có Ǵ Quư…” ở trại tù Tam-Hiệp.
Tôi có quen vài người trong số những “cải tạo viên” hằng ngày xuất trại làm mộc, như vị sĩ quan cựu Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân/ Quân Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa và vị sĩ quan cựu Tiểu Đoàn Phó Nhảy Dù. Cả hai vị đó, sau này nơi đất Bắc, đă thành hai ông đội trưởng nổi tiếng. Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh!
Chỉ chín tháng sau ngày chế độ Cộng-Ḥa sụp đổ, giờ đây tôi đang chứng kiến một hoạt cảnh không ai có thể tưởng tượng nổi: Trên trời, phi công Việt-Cộng đang lái F5; trước cổng trại tù, sĩ quan cấp tá Việt-Nam Cộng-Ḥa đang dựng cổng chào; quanh rào trại tù, sĩ quan cấp tá Việt-Nam Cộng-Ḥa đang làm cỏ. Nơi nơi, người người, chuẩn bị đón Xuân. Mỗi người mang một tâm sự riêng…
Tới trưa, khi nghe tiếng kẻng phát cơm của nhà bếp, chúng tôi được dẫn trở lại trong ṿng rào trại K3. Khi đi ngang qua sân bóng chuyền, tôi thấy người ta đang cá độ nhau trận đấu tay đôi đang diễn, một bên là Thiếu tá Trần Đạo Hàm, cựu vô địch nhảy cao của Quân Đội Việt-Nam Cộng-Ḥa, bên kia là một tay Thiếu tá Không Quân. Anh Lê Hữu Khái (K15) và thằng bạn Nguyễn Bích (K20) của tôi đang nhảy tưng tưng cổ vũ cho anh Hàm v́ anh Hàm là “gà nhà”, Vơ Bị khóa 17! Cái miệng thằng Bích lớn lắm, nó la hét vỗ tay, b́nh luận ào ào. Anh Hàm thật là may mắn, có cái loa phóng thanh cỡ bự Nguyễn Bích cổ vũ nên anh có vẻ như đang dẫn điểm.
Tôi thấy nhiều người đă để ghế “xí” chỗ tốt cho buổi TV văn nghệ tối; ngày nào cũng thế, cứ đến trưa là bà con đem ghế ra đặt sẵn trên sân bóng để “xí” chỗ xem phim TV của đài Sài-G̣n Giải-Phóng. Ai chậm chân th́ không c̣n chỗ tốt. Thời gian này TV Sài-G̣n Giải-Phóng liên tiếp chiếu bộ phim nhiều tập “Trên Từng Cây Số” và “Đại úy Đen” của Ba-Lan.
Trong các lán, có nhiều bạn tụ tập bóc lột nhau bằng những con bài. X́ phé, sập xám và mạt chược là những môn chơi phổ thông khắp nơi trong trại. Tôi đă chứng kiến nhiều anh thua bạc phải bán cả những quà cáp từ gia đ́nh gởi vào, như kem đánh răng, thuốc lào, thuốc tây để trừ nợ.
Sau Tết ít lâu, tôi nghe một câu chuyện đau ḷng ở K3 năm ấy: có một vị Thiếu tá Quận trưởng khi cắt bánh thuốc lào làm đôi để chi cho chủ nợ một nửa, th́ phát hiện ra một bức thư “chui” của người nhà giấu trong ruột bánh thuốc lào. Bức thư vắn tắt đôi lời làm đau ḷng người đọc:
“Chị ấy đă gởi hai đứa con của anh cho bà nội của chúng nuôi. Chị đă đi lấy chồng rồi! Anh đừng buồn, ráng học tập lao động cho tiến bộ để sớm được thả về mà nuôi dạy con anh.”
Cái tin bất ngờ sét đánh ấy đă làm cho ông Quận sững sờ, buông rơi những con bài Cơ, Rô, Chuồn, Bích…
Từ đấy, tôi thấy ông suốt ngày thẫn thờ bên rào, nh́n về phía xa xôi. Đôi lúc tỉnh táo, ông ôm cây Guitar, đàn solo những bài nhạc xưa, buồn đứt ruột.
Tôi bồi hồi nhớ lại lời Tổng thống nói ngày nào:
“Đất nước c̣n, c̣n tất cả. Đất nước mất, mất tất cả!”
Ôi! Lời Tổng thống nói thật là hữu lư!
Tổng thống ơi! Chúng tôi đă cố gắng hết sức ḿnh để giữ nước, nhưng chúng tôi đă không thể giữ nổi. Chúng tôi lấy làm xấu hổ vô cùng! Sao Tổng thống không ở lại giữ nước với chúng tôi? Lúc này chúng tôi đă “mất tất cả” rồi Tổng thống ơi!
Về tới lán, tôi nhận được một vỉ thuốc ho, một nắm xôi đậu xanh, và mười cục đường tán do anh bạn Phan Văn Hải gởi cho.
Tôi, Phan Văn Hải, cùng ba anh bạn khóa 20 Vơ Bị là Phan Độ, Huỳnh Bá An, Trần Hữu Bảo, xuất thân từ trường Nam Tiểu Học Đà-Nẵng. Chúng tôi là học tṛ của cô giáo Phạm Thị Tịnh Hoài, lớp Nhất C.
Phan Văn Hải là sĩ quan khóa Đặc biệt Thủ Đức, anh về phục vụ cùng đơn vị Biệt Động Quân của tôi ở Pleiku. Những ngày cuối của cuộc chiến, Thiếu tá Phan Văn Hải giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 89 Biệt Động Quân. Khi đi tù, bạn tôi không có ai thư từ, tiếp tế, nhưng hắn bài bạc rất giỏi, nên lúc nào cũng sung túc.
Chiều hôm đó, anh lán phó hậu cần, Hải Quân Thiếu tá Bùi Tiết Quư thâu tiền của trại viên trong lán, gởi cán bộ trại mua giùm ḿ gói, tương, chao, x́ dầu và đường tán để ăn bồi bổ thêm trong ba ngày Tết. Tối đến, sau khi đă chia hết phần đường cho người mua, anh Quư cạo được một chén đường chảy dính trong thùng giấy và bao giấy gói đường. Anh ung dung ngồi thưởng thức nồi chè đặc biệt, nấu bằng đường mót được với hột su su và mấy hạt bắp non anh trồng được bên rào. Làm đội phó hậu cần cũng có chút bổng lộc!
Sáng Ba Mươi Tết, lại gặp ngày tổ tôi trực lán, tôi và một số bạn bị chỉ định xuống làm việc tăng cường cho Lán 9 nhà bếp. Tôi phụ việc vo gạo cho thằng Niếu và anh Cung. Những tạ gạo đựng trong bao viền chỉ xanh rất cũ được chuyển về từ bưng biền. Gạo th́ mốc vàng, mốc xanh.
Những tổ sâu gạo to như nắm tay. Khi tôi tách những cái tổ sâu ra từng phần nhỏ th́ những con sâu gạo trắng ngần có khoang, béo núc, to gần bằng đầu đũa và dài cả phân, ngo ngoe, ngo ngoe…
Anh Cung không cho phép tôi vứt bỏ những cái tổ sâu ấy, anh nói rằng nếu vứt bỏ sâu đi th́ hết gạo, “Nếu vứt sâu đi th́ c̣n cái ǵ mà ăn? Cứ nấu tưới đi! Sâu cũng bổ béo, cũng nhiều Prồ-tê-in, sâu gạo chứ có phải là ḍi ở ngoài chuồng xí đâu mà ngán!”
Khi chảo cơm bắt đầu sôi th́ nhiều khách khất thực nước cơm đă cầm ca đứng đợi. Anh Cung cho vài người, mà cũng từ chối đôi người. Người có phần, th́ riu ríu cám ơn, người không có phần tiu nghỉu ra về, miệng lầm bầm, “Đ! M!… Đ!M!..”
Những trại viên nhà bếp gọi đám người chờ xin nước cơm là “Đội quân cầm ca.” Chữ “cầm ca” ở đây không có nghĩa là ca sĩ, ca hát, hay ca kỹ mà có nghĩa đen chỉ sự cầm cái ca U.S dùng để đựng nước uống, cái ca nằm dưới cái bi-đông bộ binh ấy mà!
Dân “cầm ca” phải đứng xếp hàng cả giờ đồng hồ trước cửa ḷ cơm để chờ xin một ly nước cơm. Nước cơm có Vitamin B1 chữa được bệnh phù thủng (?) Chuyện xếp hàng trước, xếp hàng sau, đôi lúc cũng gây ra ẩu đả.
Sau này, khi ở trại tù Phú-Sơn 4, Thái-Nguyên, tôi có đọc một tài liệu nói về cái chất độc của nấm cúc vàng từ gạo mục, gạo mốc. Nấm cúc vàng có chứa một loại chất độc nguyên nhân gây ung thư gan. Nước cơm lại là phần đậm đặc nhất của chất độc nấm cúc vàng từ gạo mốc. Không biết có bao nhiêu nạn nhân của bệnh xơ gan sau này có mặt trong đội quân “cầm ca” ngày ấy?
Chiều Ba Mươi Tết, bữa ăn có thịt heo kho. Thằng Niếu đem thêm về cả phần ḷng heo bồi dưỡng nhà bếp của nó.
Thời buổi khó khăn, thuốc lá bắt đầu khan, những tay nghiền miền Nam bắt đầu nói chuyện thuốc lào.
Những danh từ “điếu cày,” “điếu bát,” “Cái Sắn,” “Hố Nai,” “Vĩnh Phúc,” “Tiên Lăng” nghe măi cũng quen tai.
Anh Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân của tôi, từ bên K4 nhờ ai đó chuyển cho tôi được một bao thuốc lá 555 và một lạng cà phê.
Trong khi thằng Niếu và anh Cảnh lo bếp núc cúng Tất Niên th́ tôi đi ṿng ṿng tán dóc với anh bạn Lưu Văn Ngọc, cựu Sĩ quan Quân Pháp Quân Đoàn II.
o O o
Tối Ba Mươi Tết ở K3 Suối Máu không khí thật là rộn ră tưng bừng. Mọi lán đều đă chuẩn bị sẵn sàng chương tŕnh văn nghệ chào đón Chúa Xuân. Sân khấu văn nghệ được thiết lập giữa sân tập họp. Đèn điện sáng choang. Cờ Mặt Trận Giải- Phóng Miền- Nam che kín cả sân khấu.
Trước giờ văn nghệ, loa phóng thanh truyền đi những bản nhạc từ đài Sài- G̣n Giải- Phóng mà Tô Lan Phương là giọng ca chính. Những nghệ sĩ tù cũng ăn mặc tươm tất để sẵn sàng tŕnh diễn giúp vui. Đàn ghi-ta, trống, sáo đều làm bằng vật liệu lấy từ kho của nhà bếp như tôle, củi, ván gỗ…các nghệ nhân tự đẽo gọt, cắt xén, dán, ghép thành các nhạc cụ.
Tám giờ tối, buổi “Liên hoan văn nghệ” đêm Ba Mươi Tết bắt đầu.
Mở màn chương tŕnh là bài đồng ca “Như có Bác” tôi không nhớ do lán nào tŕnh diễn.
Kế tiếp, cựu Thiếu tá Không Quân Hoàng Đ́nh Ngoạn (K17 VB) lên đài trong tiếng hoan hô vỗ tay của “đồng bọn” tù Vơ Bị.
Anh vừa hát được nửa bài t́nh ca, nhạc vàng “Mùa Xuân Trên Đỉnh B́nh Yên” th́ bị cán bộ Cộng-Sản chặn lại, đuổi xuống đài. Lư do, “Nhạc Ngụy ủy mị!”
Sau đó, chỉ những bài hát “Giải Phóng” mới được phép tŕnh diễn.
Trên sân khấu, tiếng sáo trúc Tô Kiều Ngân lâm ly bài “Mùa Xuân Trên Thành Phố HCM” ḥa ca cùng tiếng sáo miệng của Nguyễn Tuyên Thùy. Tôi cũng nghe vọng lại từ các khu khác, đại để, bạn tù cũng chỉ hát những bài ca eo éo, nghe rợn tóc gáy, như “Cô Gái Vót Chông,” “Tiếng Đàn Ta Lư,” “Năm Anh Em Trên Chiếc Xe Tăng” vân vân…
Khắp 6 khu của trại tù đều sáng rực ánh đèn và vang rền tiếng nhạc…
Năm mới đang từ từ tiến về…
Đến khi màn tŕnh diễn của Lán 24 vừa được giới thiệu, th́ tôi bỏ chạy về lán. Tôi ngồi một ḿnh trong cái nhà tôle vắng tanh. Nỗi đau đớn nhói tim tôi!
Ngoài kia, bạn cùng lán của tôi, không tự nguyện, đang phải đóng vai “Dân quân chống Tầu, chống Tây, chống Mỹ, chống Ngụy” trong một vở trường kịch. Khi họ tập bài bản trong lán, tôi biết họ cũng đau ḷng lắm.
Bạn Vơ Bị của tôi, Tạ Mạnh Huy v́ là Tây lai phải đóng giả làm Tây cho người ta trói. Thằng Niếu phải đóng vai “Biệt Động Quân Ngụy” giơ tay đầu hàng để anh Dương người Bắc, đóng vai bô lăo nông dân Việt Nam “đả đảo”. Mỗi lần tập xong, các bạn tôi đều buồn, họ đề nghị anh lán trưởng Trần Thành Trai cho tập một kịch bản lịch sử “Vua Quang Trung diệt quân Thanh” nhưng anh lán trưởng không đồng ư.
Anh Trai nói, “Ban chỉ huy trại đă ra lệnh” cho anh phải thực hiện cho được trường kịch này để mừng Giao Thừa, v́ nó có tính cách “Lô gích lịch sử” (?)
Và đêm ấy, anh đội trưởng Trần Thành Trai đă thực hiện thành công xuất sắc vở trường kịch “Việt Nam 4000 năm anh hùng.”
Ngay sau khi bế mạc buổi văn nghệ mừng Xuân Bính Th́n, mùa Xuân đầu tiên của nước “Việt Nam Thống Nhất” cũng là mùa Xuân đầu tiên quân và dân Miền Nam mất nước, anh đội trưởng Trần Thành Trai đă được ban chỉ huy trại “tuyên dương công lao” trước trại.
Khi trên sân khấu người diễn kịch bắt đầu hát bài “Tiến Quân Ca” th́ tôi bật khóc.
Một ḿnh, ngồi trong đêm tối, tôi nức nở khóc vùi. Tôi chưa bao giờ thấy cái khóc lại có hiệu lực chữa đau đớn hiệu nghiệm như đêm ấy!
Chợt tôi nghe tiếng chân ai ngoài cửa lán. Rồi tiếng lên đạn súng AK…
Th́nh ĺnh, tia đèn pin chiếu ngay mặt tôi, làm mắt tôi chói lóa.
“Anh kia! làm ǵ ngồi khóc đấy? Sao không đi “rự nễ” mừng Xuân?”
Tên bộ đội đi tuần tra lớn tiếng hỏi.
Tôi lấy tay che mắt, nhưng không nh́n thấy ǵ. Tôi lặng thinh. Tiếng quát lại tiếp:
“Anh có mồm không th́ bảo? Câm à? Sao không giả nhời tôi?”
Tôi vẫn ngồi im. Ánh đèn đảo một ṿng quanh vách lán rồi tắt. Căn pḥng tối om. Tôi nghe tiếng chửi:
“Địt mẹ thằng câm! Mới xa nhà có mấy tháng mà đă nhớ nhà phải khóc. Ông đây xa nhà hai ‘lăm’ rồi mà ông có khóc đâu! Đồ không biết xấu hổ!”
Tôi vẫn lặng thinh.
“Rầm!” Tên bộ đội giận dữ, đóng sập cửa lán.
“Chảng!” Nó c̣n bồi thêm một cái đá cật lực vào vách tôle.
Vài giây sau, tôi nghe tiếng dép râu bước đi xa dần về hướng sân. Tôi nh́n đồng hồ tay (ngày đó chưa có lệnh thu giữ tư trang của tù) đúng lúc này hai cái kim lân tinh vừa chập nhau trên số 12: Giao Thừa!
Ngoài sân tiếng ca hát c̣n đang tiếp tục. Tôi mồi một điếu thuốc 555. Trong trí óc tôi, h́nh ảnh những Giao Thừa đă qua trong đời hiện về, mờ nhạt như từ thế giới nào rất xa…
Ngày xưa, mỗi độ Giao Thừa, cho dù lúc đó tôi đang đi hành quân với một toán Biên Vụ (Viễn Thám) quân số chỉ có 6 người, lần ṃ trên những nhánh của hệ thống “Đường ṃn Hồ Chí Minh” trên đất Lào, hoặc len lỏi trong rừng tre gai Plei-Trap Valley, hay lúc tôi đang chỉ huy cả năm trăm, sáu trăm quân trấn giữ Pleime, hoặc ải địa đầu Bu-Prang miền biên giới Việt Miên, tôi không lần nào quên nghe chương tŕnh Giao Thừa của Đài Phát Thanh Quân-Đội.
Giao Thừa Xuân Bính-Th́n là Giao Thừa đầu tiên trong đời, tôi không t́m thấy lá cờ nước tôi, không nghe được câu hát: “Này công dân ơi! Đứng lên đáp lời sông núi…”
Bài quốc ca này đă đi vào lịch sử. Một thế hệ đă hát nó với cả bầu máu nóng trong tim. Bao nhiêu người thân của tôi, bao nhiêu bạn bè của tôi đă cống hiến tuổi trẻ và cả thân xác ḿnh cho bài ca đó. Một thế hệ đă lớn lên thành người với bài ca đó. Một thế hệ sẽ mang nó theo, xuống tuyền đài…
Chợt tiếng anh lán trưởng Trần Thành Trai vọng lại trên loa phóng thanh:
“Đổi đời đă tới! Cách Mạng đă thành công!”
Tiếng hô lặp lại hai chữ “Thành công!” của trại viên vang dội đêm Trừ Tịch. Tôi cảm thấy tiếng hoan hô đă làm rung những tấm tôle trên mái.
Trời đêm Trừ Tịch tối đen.
Tôi không biết những vạt đen ẩn hiện sau hè, là bóng những bụi rau dền, giàn mùng tơi hay những hồn ma đói cuối năm chập chờn.
Ngoài xa vẳng lại, từ bên K4, ai đó bắt đầu hát bài “Lá Đỏ”…
o O o
Vài năm sau, tôi nghe tin, cựu Y sĩ Thiếu tá Trần Thành Trai của quân y viện Duy-Tân, Đà-Nẵng, đă được tha khỏi trại cải tạo. Bác sĩ Trai đă cùng Bác sĩ Trần Đông A, cựu Y sĩ Thiếu tá Nhảy Dù, nổi tiếng sau những ca mổ tách rời trẻ song sinh ở Sài-G̣n. Tôi cũng đă nghe tin, giờ này, Bác sĩ Trai đang là một “Dân biểu” của Quốc Hội nước Cộng-Ḥa Xă-Hội Chủ Nghĩa Việt-Nam.
Nhân ngày đầu Xuân Ất Dậu (2005), tôi nhớ lại chuyện xưa, ba mươi năm trước. Nhớ những bạn Vơ-Bị, cựu tù Lán 24 Suối Máu, Tam- Hiệp, Biên- Ḥa.
Trong số những người bạn đó, th́ hai người đă qua đời, là Hoàng Thế B́nh và Ngô Văn Niếu. C̣n những bạn khác như Dương, Lành, và Huy th́ đang ở Mỹ, không rơ họ có c̣n nhớ chuyện ngày xưa hay không?
Riêng tôi, cái đêm Giao Thừa ba mươi năm trước ấy đă trở thành không thể nào quên, v́ đó là lần đầu trong đời, tôi đón năm mới với thân phận một người tù mất nước…!!!
VML – K20
Ghi chú thêm
Từ trước tới nay, tôi vẫn tin (hoặc cố tin) rằng những cựu sĩ quan QLVNCH trong thời gian bị tù cải tạo mà “giác ngộ cách mạng” thực ra chỉ là “nín thở qua sông”. Nay đọc bài của NT Vương Mộng Long thấy buồn và thất vọng quá. Th́ ra bằng cấp, kể cả cái bằng bác sĩ cũng không phải "điều kiện ắt có và đủ" của lương tri, tư cách con người!
(Tôi cũng từng đón giao thừa ở Suối Máu, 3 năm sau NT Vương Mộng Long: bị đưa từ Sông Bé về Suối Máu năm 1978, ở K2, sau cuộc nổi loạn (+ uưnh ăng-ten) đêm Giáng Sinh tôi bị chuyển sang K3, đón giao thừa xong bị đưa lên Tống Lê Chân lao động cho tới năm 1981...)
NHT
Tập thể tù ở đâu cũng có những tên anten, làm chó săn !!, nhưng không nhiều ,tuy nhiên theo tôi có lẻ trong tất cả các trại tù th́ các trại mà anh em là thành phần tù binh bị bắt tại mặt trận th́ tinh thần vững vàng ,do hầu hết và gần như đồng nhất là lính tác chiến các binh chủng ,hiếm có các loại lính bàn giấy, yễm trợ...nên ngang tàng quen rồi, tính hào hùng có trong máu.
DQY cũng bị tó trên băi biển Thuận An nên cũng như anh em là thành phần tù binh mà luôn luôn hảnh diện điều đó ,sau này cũng có thập tḥ vài tên anten là bị trừng trị thẳng tay, thậm chí sau 5-6 năm khi trại đọc lịnh tha tên anten gộc không dám ra về v́ anh em bà con chờ sẵn bên ngoài để đập cho chết, hắn phải năn nỉ bộ đội ,năn nỉ anh em nói giùm tha cho hắn ra. DQY thuộc trại tù Cồn Tiên-Ái Tử B́nh Điền mà gốc là khi trước thuộc Đoàn 76 giam giử tù binh thành lập từ trước trận Điện Biên rồi chuyễn vào Nam phía bên kia biên giới Lào trong chiến tranh từ 54 tới 75.Tiếp tục cho tới khi giao lại cho ḅ vàng.
DQY cũng xin kể một lần làm anten theo lịnh cán bộ trại :
- Khoăn năm 1978 vào một đêm đẹp trời, DQY được( hay Bị ) cán bộ kêu lên khung ,vừa đi vừa băn khoăn Mẹ họ lại có tên nào báo cáo cái chi rồi ,tự vấn th́ thấy mâm mô cũng có, từ bài bạc ,mua bán đổi chát, hay phát biểu linh tinh...thôi kệ nó tới đâu th́ tới.Nhưng khi lên th́ thấy thái độ cán bộ vui vẻ ,ôn tồn hỏi han ,À, cái này mới lạ v́ DQY biết bản thân ḿnh thuộc loại không chịu tiến bộ !!, nhưng cán bộ quản giáo cho biết là dạo gần đây thấy DQY có tiến bộ , nhưng theo trên khung nói là chưa đủ cần phải tiến bộ nhiều hơn nữa bằng cách giúp cho anh em trong lán trại cùng tiến bộ ,DQY phải báo cáo những ai có tư tưởng chưa tốt ,c̣n cải thiện linh tinh, c̣n quan hệ dân khi ra ngoài lao động...nói chung là làm anten. Chà kẹt dử đa, lúc đó mà say NO th́ nó oánh chết mẹ, mà làm theo lịnh th́ DQY không làm được, cuối cùng DQY có kế sách thoát thận
Khi về tới lán anh em bu hỏi v́ thấy lạ, mấy lần trước kêu lên xong lúc về là lết, có khi máu me tùm lum v́ được tẩm quất tận t́nh ,DQY bảo đăm khi có dịp kể lại các h́nh phạt đă trải qua, sẽ thấy chuồng cọp Côn Sơn ,tra tấn này nọ không tàn bạo bằng ( DQY bây giờ vẫn c̣n sẹo dài cả gang tay dưới thắt lưng phía sau ngay lá gan kết quả trận đánh hội đồng 4 tên vệ binh theo chỉ thị của tên Tŕnh là Chính ũy trại : Đánh cho nó chết !!!
Sau khi về lán DQY xin anh em chú ư nghe DQY nói: Thưa anh em, cán bộ kêu tôi lên và giao nhiệm vụ là về giúp đở cho anh em tiến bộ, cho nên từ nay khi anh em thấy mặt tôi th́ hạn chế nói năng linh tinh, bớt cải thiện hoặc làm kín đáo hơn.....nói chưa hết th́ thấy tên vệ binh bước vào bảo: Mày lên đây, bước ra khỏi lán là hắn đấm DQY liền, Lên tới khung DQY cứ kêu oan là tôi chỉ làm theo lời cán bộ dặn ḍ. Kết quả là cắt thăm gặp ,bị cách chức anten ngay. Đấy lần làm anten của DQY chưa được tới 5 phút là bị cách chức c̣n bị đấm.
Người ta đi tù th́ ráng khai là gia đ́nh cách mạng, riêng phần DQY th́ anh em nói là mày hả, gia đ́nh liều mạng th́ có ,ông già 13 niên hơn ,ông chú ruột cùng với ông anh bà con 17 niên hơn về cuối cùng ( dân t́nh báo ) anh ruột là giặc lái...cho nên DQY cũng có đi thăm nuôi như người ta, thăm ông già ,ông chú..
cha12 ba
02-09-2019, 22:33
tặng chủ thớt cái h́nh để nhớ ngày xưa
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1338685&stc=1&d=1549751582
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1338686&stc=1&d=1549751582
hoanglan22
02-09-2019, 23:53
tặng chủ thớt cái h́nh để nhớ ngày xưa
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1338685&stc=1&d=1549751582
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1338686&stc=1&d=1549751582
Được như vầy th́ quá đă !!! tiếc rằng tui không có phước thất t́nh vào lính thứ dữ , cầm giấy phép về là tạt ngang chú ía trả thù ...và mỗi lần như vậy phải đến gặp Thày bác sĩ Thứ ở đường Hồ xuân hương săn sóc cho thằng nhỏ ....
florida80
02-10-2019, 03:39
https://youtu.be/6VzVo1_Nvhw
For all the soldiers of New Year
hoanglan22
02-11-2019, 04:46
https://youtu.be/6VzVo1_Nvhw
For all the soldiers of New Year
6VzVo1_Nvhw
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1339359&stc=1&d=1549860333
florida80:handshake: :handshake:
Mến nhiều
hoanglan22
02-11-2019, 05:03
florida80 có chồng chắc cũng là lính chiến hả . Như vậy cùng là huynh đệ
Cháu được mấy nhóc rồi . Vẫn c̣n năm mới chúc cháu và gia đ́nh an khang thịnh vượng
Thân mến
florida80
02-11-2019, 21:59
florida80 có chồng chắc cũng là lính chiến hả . Như vậy cùng là huynh đệ
Cháu được mấy nhóc rồi . Vẫn c̣n năm mới chúc cháu và gia đ́nh an khang thịnh vượng
Thân mến
sự khác nhau giữa gái có chồng và gái chưa chồng
1. Gái chưa chồng nh́n con trai háo hức. Gái có chồng nh́n con trai rồi nh́n đi hướng khác.
2. Gái chưa chồng yêu chim chóc. Gái có chồng yêu gia cầm.
3. Gái chưa chồng thích xem phim t́nh yêu. Gái có chồng thích xem phim h́nh sự.
4. Gặp cướp, gái chưa chồng khóc, c̣n gái có chồng hét: “Thích ǵ th́ cướp đi”.
5. Ban đêm, gặp trộm trong nhà, gái chưa chồng bảo: “Xin đừng giết em”, gái có chồng nói: “Xin đừng lấy nhiều quá”.
6. Gặp tài tử điện ảnh, gái chưa chồng hỏi: “Đóng phim ǵ?”, gái có chồng hỏi: “Đóng phim thu nhập bao nhiêu?”.
7. Khi mặc bikini ra biển, gái chưa chồng để ư có ai nh́n không, c̣n gái có chồng để ư ai nh́n với thái độ ra sao?
8. Vào tiệm ăn, gái chưa chồng nh́n khách xung quanh, gái có chồng nh́n thực đơn và giá tiền.
9. Gái chưa chồng hay cười những tràng dài. Gái có chồng hay cười ngắt quăng.
10. Gái chưa chồng hay bôi nước hoa. Gái có chồng hay bôi kem chống nắng.
11. Gái chưa chồng thích tắm. Gái có chồng thích massage.
12. Khi ngồi trên xe hơi do đàn ông lái, gái chưa chồng để ư những cái ở bên ngoài cửa kính, c̣n gái có chồng để ư cái ở trong xe.
13. Trên giường ngủ, gái chưa chồng để gấu bông, gái có chồng để dầu gió.
14. Đọc tiểu thuyết lăng mạn, gái chưa chồng hay khóc v́ thương chàng trai, gái có chồng hay khóc v́ thương cô gái.
15. Nằm ngủ, gái chưa chồng hay mơ thấy bà tiên, gái có chồng hay mơ thấy bà hàng xóm.
16. Gái chưa chồng vừa tắm vừa hát. Gái có chồng vừa tắm vừa nh́n cục xà bông xem sắp hết chưa.
17. Gái chưa chồng thích ngày T́nh yêu 14/2. Gái có chồng thích ngày 8/3.
18. Đi ngoài đường bị một vật rơi trúng đầu, gái chưa chồng coi đầu ḿnh có sao không, gái có chồng coi vật đó là món ǵ.
19. Khi gặp một vị Thần đèn, gái chưa chồng nói: “Cho ta trở thành công chúa”, gái có chồng nói: “Cho ta trở thành hoàng hậu”.
20. Gặp một chàng trai định tự tử, gái chưa chồng hỏi: “V́ sao anh muốn chết?”, gái có chồng hỏi: “V́ sao anh muốn sống?”.
21. Gặp một chàng trai say rượu, gái chưa chồng nói: “Anh đừng uống nữa”, gái có chồng nói: “Anh đừng về nhà nữa”.
22. Khi về nhà gặp con mèo đang kêu, gái chưa chồng nói: “Mèo muốn ǵ?”, gái có chồng quát: “Mày im đi”.
23. Đọc báo mạng, gái chưa chồng sẽ xem ai sắp cưới, gái có chồng coi xem ai sắp ly dị.
24. Đi xem bóng đá, gái chưa chồng nh́n đùi cầu thủ, gái có chồng nh́n tỷ số.
25. Gái chưa chồng rủ trai ăn cơm tối. Gái có chồng rủ trai ăn cơm trưa.
26. Đọc tạp chí phụ nữ, gái chưa chồng thích các trang đầu, gái có chồng thích các trang cuối.
27. Gái có chồng chưa chắc thích chồng ḿnh. Gái chưa chồng chưa chắc thích chồng người ta.
28. Nghe một bản nhạc buồn, gái chưa chồng khóc, gái có chồng nhăn nhó.
29. Thấy đàn ông đánh nhau, gái chưa chồng xông vào can, gái có chồng đứng chờ xem ai thắng.
30. Bị một con cá voi nuốt vào bụng, gái chưa chồng nghĩ “Ḿnh chết rồi”, gái có chồng nghĩ “Ḿnh chết nó cũng chết”.
31. Soi gương, gái chưa chồng nói: “Đời đẹp quá”, c̣n gái có chồng thốt lên: “Ḿnh đẹp quá”.
32. Thấy một sợi tóc bạc trên đầu, gái chưa chồng kêu lên: “Trời ôi, ta già rồi”, c̣n gái có chồng kêu lên: “Trời ơi, ta trẻ lâu quá”.
33. Thấy một chàng trai béo, gái chưa chồng quay đi, gái có chồng nghĩ “ngày xưa anh ấy đă từng gầy”.
34. Ăn một bữa cơm ngon, gái chưa chồng nghĩ ăn xong sẽ làm ǵ, gái có chồng lo lắng ăn xong ai rửa bát.
35. Nghe tin bạn bè cưới, gái chưa chồng hỏi: “Cậu lấy ai?”, gái có chồng hỏi: “Cậu lấy lần thứ mấy?”.
hoanglan22
02-12-2019, 03:10
sự khác nhau giữa gái có chồng và gái chưa chồng
1. Gái chưa chồng nh́n con trai háo hức. Gái có chồng nh́n con trai rồi nh́n đi hướng khác.
2. Gái chưa chồng yêu chim chóc. Gái có chồng yêu gia cầm.
3. Gái chưa chồng thích xem phim t́nh yêu. Gái có chồng thích xem phim h́nh sự.
4. Gặp cướp, gái chưa chồng khóc, c̣n gái có chồng hét: “Thích ǵ th́ cướp đi”.
5. Ban đêm, gặp trộm trong nhà, gái chưa chồng bảo: “Xin đừng giết em”, gái có chồng nói: “Xin đừng lấy nhiều quá”.
6. Gặp tài tử điện ảnh, gái chưa chồng hỏi: “Đóng phim ǵ?”, gái có chồng hỏi: “Đóng phim thu nhập bao nhiêu?”.
7. Khi mặc bikini ra biển, gái chưa chồng để ư có ai nh́n không, c̣n gái có chồng để ư ai nh́n với thái độ ra sao?
8. Vào tiệm ăn, gái chưa chồng nh́n khách xung quanh, gái có chồng nh́n thực đơn và giá tiền.
9. Gái chưa chồng hay cười những tràng dài. Gái có chồng hay cười ngắt quăng.
10. Gái chưa chồng hay bôi nước hoa. Gái có chồng hay bôi kem chống nắng.
11. Gái chưa chồng thích tắm. Gái có chồng thích massage.
12. Khi ngồi trên xe hơi do đàn ông lái, gái chưa chồng để ư những cái ở bên ngoài cửa kính, c̣n gái có chồng để ư cái ở trong xe.
13. Trên giường ngủ, gái chưa chồng để gấu bông, gái có chồng để dầu gió.
14. Đọc tiểu thuyết lăng mạn, gái chưa chồng hay khóc v́ thương chàng trai, gái có chồng hay khóc v́ thương cô gái.
15. Nằm ngủ, gái chưa chồng hay mơ thấy bà tiên, gái có chồng hay mơ thấy bà hàng xóm.
16. Gái chưa chồng vừa tắm vừa hát. Gái có chồng vừa tắm vừa nh́n cục xà bông xem sắp hết chưa.
17. Gái chưa chồng thích ngày T́nh yêu 14/2. Gái có chồng thích ngày 8/3.
18. Đi ngoài đường bị một vật rơi trúng đầu, gái chưa chồng coi đầu ḿnh có sao không, gái có chồng coi vật đó là món ǵ.
19. Khi gặp một vị Thần đèn, gái chưa chồng nói: “Cho ta trở thành công chúa”, gái có chồng nói: “Cho ta trở thành hoàng hậu”.
20. Gặp một chàng trai định tự tử, gái chưa chồng hỏi: “V́ sao anh muốn chết?”, gái có chồng hỏi: “V́ sao anh muốn sống?”.
21. Gặp một chàng trai say rượu, gái chưa chồng nói: “Anh đừng uống nữa”, gái có chồng nói: “Anh đừng về nhà nữa”.
22. Khi về nhà gặp con mèo đang kêu, gái chưa chồng nói: “Mèo muốn ǵ?”, gái có chồng quát: “Mày im đi”.
23. Đọc báo mạng, gái chưa chồng sẽ xem ai sắp cưới, gái có chồng coi xem ai sắp ly dị.
24. Đi xem bóng đá, gái chưa chồng nh́n đùi cầu thủ, gái có chồng nh́n tỷ số.
25. Gái chưa chồng rủ trai ăn cơm tối. Gái có chồng rủ trai ăn cơm trưa.
26. Đọc tạp chí phụ nữ, gái chưa chồng thích các trang đầu, gái có chồng thích các trang cuối.
27. Gái có chồng chưa chắc thích chồng ḿnh. Gái chưa chồng chưa chắc thích chồng người ta.
28. Nghe một bản nhạc buồn, gái chưa chồng khóc, gái có chồng nhăn nhó.
29. Thấy đàn ông đánh nhau, gái chưa chồng xông vào can, gái có chồng đứng chờ xem ai thắng.
30. Bị một con cá voi nuốt vào bụng, gái chưa chồng nghĩ “Ḿnh chết rồi”, gái có chồng nghĩ “Ḿnh chết nó cũng chết”.
31. Soi gương, gái chưa chồng nói: “Đời đẹp quá”, c̣n gái có chồng thốt lên: “Ḿnh đẹp quá”.
32. Thấy một sợi tóc bạc trên đầu, gái chưa chồng kêu lên: “Trời ôi, ta già rồi”, c̣n gái có chồng kêu lên: “Trời ơi, ta trẻ lâu quá”.
33. Thấy một chàng trai béo, gái chưa chồng quay đi, gái có chồng nghĩ “ngày xưa anh ấy đă từng gầy”.
34. Ăn một bữa cơm ngon, gái chưa chồng nghĩ ăn xong sẽ làm ǵ, gái có chồng lo lắng ăn xong ai rửa bát.
35. Nghe tin bạn bè cưới, gái chưa chồng hỏi: “Cậu lấy ai?”, gái có chồng hỏi: “Cậu lấy lần thứ mấy?”.
C̣n điều 36 là Tẩu Kế .Bỏ của chạy lấy người cho chắc ănhttp://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1339887&stc=1&d=1549940978
laongoandong
02-12-2019, 11:23
Được như vầy th́ quá đă !!! tiếc rằng tui không có phước thất t́nh vào lính thứ dữ , cầm giấy phép về là tạt ngang chú ía trả thù ...và mỗi lần như vậy phải đến gặp Thày bác sĩ Thứ ở đường Hồ xuân hương săn sóc cho thằng nhỏ ....
Mẹ kiếp. Oh, so ghi, xin lỗi. Tính nhà binh trổi dậy. Đồng bệnh tương lân đồng khí tương cầu. Bây giờ mới thông cảm những chiến sĩ vừa phóng lên ngă tư chú ía " trả thù dân tộc" rồi hôm sau có lệnh hành quân thí làm sao nhỉ???
hoanglan22
02-12-2019, 13:59
Mẹ kiếp. Oh, so ghi, xin lỗi. Tính nhà binh trổi dậy. Đồng bệnh tương lân đồng khí tương cầu. Bây giờ mới thông cảm những chiến sĩ vừa phóng lên ngă tư chú ía " trả thù dân tộc" rồi hôm sau có lệnh hành quân thí làm sao nhỉ???
Trường hợp này chưa xảy ra đối với ḿnh , Nhưng nếu có về tŕnh diện gặp BS quân y lthêm tờ giấy nữa là xong:hafppy::hafppy:
cha12 ba
02-12-2019, 16:22
Mẹ kiếp. Oh, so ghi, xin lỗi. Tính nhà binh trổi dậy. Đồng bệnh tương lân đồng khí tương cầu. Bây giờ mới thông cảm những chiến sĩ vừa phóng lên ngă tư chú ía " trả thù dân tộc" rồi hôm sau có lệnh hành quân thí làm sao nhỉ???
:hafppy::hafppy::haf ppy:
h́nh như bác trấn thủ ngă ba giếng nước VT...hahahahhaha
laongoandong
02-12-2019, 17:11
:hafppy::hafppy::haf ppy:
h́nh như bác trấn thủ ngă ba giếng nước VT...hahahahhaha
QC phải có mặt mọi nơi để kiểm soát quân phong quân kỷ nhất là các ông tác chiến. Đôi khi QC bỏ của chạy lấy người đấy huynh ạ
laongoandong
02-12-2019, 17:16
Mong nhà nghiên cứu học cho một bài về đàn ông có vợ và đàn ông chửa vợ nhe. Để già này rút kinh nghiệm dạy mấy đứa cháu....hàng xóm
cha12 ba
02-13-2019, 00:51
Mong nhà nghiên cứu học cho một bài về đàn ông có vợ và đàn ông chửa vợ nhe. Để già này rút kinh nghiệm dạy mấy đứa cháu....hàng xóm
:thankyou:
nghiên kíu kiểu này lộn tiệm rồi bác....
cha12 ba
02-13-2019, 01:39
Cố Chuẩn tướng Trương Hữu Đức
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1340268&stc=1&d=1550021909
Sáng ngày 13 tháng 4 năm 1972, khi đang bay trên Trực thăng để điều động lực lượng hỗn hợp gồm: Thiết giáp, Biệt động quân liên kết với Tiểu đoàn 8 Nhảy dù khai thông Quốc lộ 13 ở Chơn Thành, B́nh Long. Bị trúng đạn của địch quân từ dưới bắn lên, ông bị tử thương hưởng dương 42 tuổi.
Ông được truy thăng cấp bậc Chuẩn tướng và truy tặng Đệ tứ đẳng Bảo quốc Huân chương kèm Anh dũng Bội tinh với nhành dương liễu. Tang lễ được cử hành trọng thể với lễ nghi quân cách của một tướng lănh.
Tên ông được đặt cho khóa 27 trường Vơ bị Quốc gia Đà Lạt (Khóa Trương Hữu Đức 1970-1974).
Huy chương
-Huy chương ngội sao bạc của Hoa Kỳ (ân thưởng)
-Đệ tứ đẳng Bảo quốc Huân chương đệ tứ đẳng (truy tặng)
-Anh dũng Bội tinh với nhành dương liễu (truy tặng)
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1340270&stc=1&d=1550021909
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1340269&stc=1&d=1550021909
florida80
02-13-2019, 01:50
Mong nhà nghiên cứu học cho một bài về đàn ông có vợ và đàn ông chửa vợ nhe. Để già này rút kinh nghiệm dạy mấy đứa cháu....hàng xóm
LẤY VỢ-NỖI KHỔ ĐAU CỦA ĐÀN ÔNG
Bài thơ vui và ai muốn th́ cho cảm nghĩ nhé, tâm sự cả đàn ông, đàn bà luôn...
Thế gian khổ nhất là chi
Ngoài phải lấy vợ c̣n ǵ khổ hơn
Ông trời c̣n biết thiệt hơn
Vợ chiếm một nửa giang sơn yên b́nh
Vợ như ngôn ngữ lập tŕnh
Vợ sai sửa được c̣n ḿnh th́ không
Vợ về vợ lại làm chồng
C̣n chồng làm vợ bất công cuộc đời
Vợ là sấm sét Thiên Lôi
Miệng hét ra lửa c̣n môi tiếp dầu
Vợ là mảnh đất mỡ màu
Cỏ xanh tươi tốt đợi trâu đi cày
Hao cân sút thịt từ đây
Tự nhiên lấy vợ mang dây buộc ḿnh
Vợ là quỷ quái yêu tinh
Lấy rồi mới hiện nguyên h́nh dă man
Vợ là sư tử tách đàn
Người dưng mắc nợ kẻ gian dặt d́u
Vợ là cơm hẩm cháo thiu
Xong đời lăng tử phong lưu kiếp trần
Không vợ giường chiếu lặng câm
Vợ về giường cứ rung ầm cả lên
Vợ đánh hơi được mùi tiền
Lĩnh lương vợ biết vợ liền tịch thu
Vợ ngáy tựa tiếng xe lu
Nói ra lại bảo vợ ru giấc nồng
Gấu này chẳng phải gấu bông
Sư tử xuất xứ Hà Đông mang về
Lấy vợ như đánh lô đề
Vận may th́ được đam mê trọn đời
Đeo gông theo ư ông trời
Để rồi tim cạn t́nh người v́ lo
Yêu quên t́m kiếm thăm ḍ
Ngứa tay vợ đánh chồng cho vui nhà
Vợ là Mỹ chồng là Nga
Vợ là tư sản chồng là công nhân
Vợ là cọc nhọn đá ngầm
Thuyền ta đâu biết lại đâm ngay vào
Loài ǵ mà giỏi cấu cào
Ngoài loài tên vợ loài nào giỏi hơn
https://i.imgur.com/PId6Q16.gif
florida80
02-13-2019, 01:59
Single Man
Lấy vợ xin anh lấy vợ non
Tóc thề mườn mượt xơa eo thon
Mắt sáng môi hồng da tươi thắm
Đỡ tiền mua sắm những phấn son
Lấy vợ anh xin lấy vợ già
Ra đường em biết chuyện gần xa
Lỡ anh đi lạc em c̣n nhắc
Cũng tốt cho anh đấy thôi mà
Lấy vợ anh xin lấy vợ lùn
Áo quần em mặc, vải hay thun
Người cao một bộ em hai bộ
Tiết kiệm cho anh gấp bội phần
Lấy vợ anh xin lấy vợ cao
Chúng ḿnh đùm bọc lẫn cho nhau
Cây trái anh thèm em tay với
Đỡ mất công anh bắc thang trèo
Lấy vợ xin anh lấy vợ ù
Tay em đầy đặn tối em ru
Kê đầu anh ngủ êm hơn gối
Mộng đẹp, hiên ngoài gió vi vu
Lấy vợ anh xin lấy vợ "ṛm"
Bởi v́ vừa đủ một người ôm
Nuôi em c̣n đỡ hơn nuôi kiến
Đỡ tiền ăn vặt đỡ tiền cơm
Lấy vợ anh xin lấy vợ ghen
V́ anh em gác cửa cài then
V́ anh em mới làm như thế
Nên đành phải thức trắng đêm đen
Lấy vợ xin lấy vợ sún răng
Đỡ tiền nha sĩ ngại sâu ăn
Sáng trưa chiều tối em ăn cháo
Khỏi phải mua bàn chải đánh răng
Lấy vợ anh xin lấy vợ hô
Lỡ mà sau có gặp côn đồ
Em cười chúng tưởng Chung Vô Diệm
Hồn xiêu phách lạc cơi hư vô
Lấy vợ xin anh lấy vợ giàu
Mặc người thiên hạ bảo ǵ nhau
Chúng ḿnh có phận nên duyên nợ
Anh đừng nghi kỵ dạ em đau
Lấy vợ anh xin lấy vợ nghèo
V́ nghèo chung thủy mới đi theo
Sáng chiều em phụ lo cơm áo
Anh sẽ v́ em thấy tự hào
Lấy vợ xin lấy vợ ngáy to
Lỡ bề ăn trộm nó hăm ho
Đêm khuya thanh tịnh em ngay ngáy
Chúng tưởng thiên lôi chạy cao gị.
Đọc xong sợ quá đâm ra "ứ thèm lấy vợ đâu":
Bởi v́ lấy vợ như trâu vào chuồng
Như cá vào chậu thật buồn
Tớ không lấy vợ ở suông bởi v́:
Lấy vợ cũng chẳng được ǵ
Để cho thân xác năo nề, héo khô!
Vợ, vốn lạ hoắc lạ huơ
Nhất định không thể bây giờ… chủ ta!
Nhất định không thể làm bà
Vung tay chỉ chỏ làm ta muốn khùng!
Vợ là ai nhỉ?… Người dưng!
Bí, bầu khác “giống” sao chung một giường
Vốn là “người lạ qua đường”
Làm sao ta lại để nường trói ta?
Không cùng mẹ chẳng cùng cha
Cho nên không thể cùng nhà với nhau
Tớ ứ thèm lấy vợ đâu
https://i.imgur.com/YQI648I.gif
wonderful
02-13-2019, 15:49
Wonderful kể một truyện ngắn "dính tới lính rất cảm động....
ALAIN DELAI....
Nhà hắn nằm sau lưng nhà tôi. Hắn là thằng lai Tây, hơn tôi đâu ba tuổi. Hắn sinh năm 1947 th́ phải. Hắn có bố đàng hoàng chứ không phải là thằng con lai hoang. Hắn từng khoe giấy khai sinh làm từ lúc hắn mới sinh, bố hắn là quan ba Pháp, là Capitaine quân đội Pháp. Cũng là thứ dữ chứ chắng phải thường đâu. Sinh ở Hà Nội di cư vào Nam 1954. Mẹ hắn là một phụ nữ đẹp, da bà trắng, mũi cao thon như người Nhật với đôi mắt ướt. Bà lại thường mặc yếm và cái váy đụp như người đàn bà nông dân Bắc bộ nhưng không che hết nhan sắc của bà. Hắn kế thừa nước da trắng, mũi lơ mắt xanh và thân h́nh to lớn của giống Tây, lại hưởng chút nhan sắc của mẹ nên hắn là thằng đàn ông rất đẹp trai. Cả xóm gọi hắn là thằng Lai. Hắn đẹp không thua ǵ tài tử Alain Delon, một diễn viên điện ảnh nổi như cồn thời ấy nên tôi gọi hắn là Alain Delai. Hắn cũng khoái được gọi thế với một niềm hănh diện. Hắn bảo bố hắn bị bắt làm tù binh của Việt minh trong chiến dịch Điện Biên Phủ, sau đó được về cố quốc, bỏ mẹ con hắn lại đi tàu há mồm vào Nam.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1340557&d=1550073562
Alain Delon
Hắn sống cùng mẹ với một ông bố dượng trong căn nhà khá rộng nhưng lúc nào cũng tối om om. Mẹ hắn làm nghề đúc đậu khuôn. Những miếng đậu của bà lúc nào cũng chắc, beo béo. Nhất là những khuôn đậu chiên, vàng ḍn ở bên ngoài, mềm mại ở bên trong. Những miếng đậu nóng hổi vừa mới rời chảo mà chấm với chén nước tương đầy ớt trái th́ ngon rụng rời. Kư ức tuổi nhỏ của tôi ở xóm bến xe Chợ Cồn đầy những bánh đậu khuôn ḍn béo ấy.
Bố dượng hắn đúng phong cách công tử Hà thành, ông chẳng làm ăn ǵ, lại nghiện thuốc phiện. Tôi không quên được cái phong thái vừa lịch lăm vừa phớt đời của ông. Ông cao lắm, chắc phải mét tám, nhưng gầy, vai so ngang của người nghiện thuốc lâu năm. Tôi nhớ măi ông v́ ông giống y chang h́nh nhà văn Vũ Trọng Phụng trong cuốn sách ǵ đó mà lâu quá tôi quên mất. Mà tôi th́ khoái đọc mấy cái phóng sự rất đời của nhà văn này hồi mới vào lớp nhất dù ba tôi cấm triệt, bắt gặp tôi đọc loại sách ấy là đánh đ̣n nặng tay với những chiếc roi mây.
Đó là h́nh ảnh của một người đàn ông với khuôn mặt gầy xương, má hóp, cồ quấn chiếc khăn kẻ ca rô. Khuôn mặt ông bố dượng hắn đấy. Ra ngơ ông đội thêm cái mũ phớt nỉ hoặc chống cây baton lên nước bóng. Hắn có vẻ sợ bố dượng, nhưng trong ánh mắt xanh xanh của hắn có thoáng chút thù hận không nói ra.
Hắn là thằng nghịch phá nhất xóm, h́nh như đứa con lai nào cũng thế. Hắn lớn con, liều lĩnh, chẳng biết sợ ai nên đám trai trẻ quanh vùng đều tránh không dám gây sự với hắn. Xóm tôi ở là xóm bến xe Chợ Cồn, dân du đăng tứ xứ tụ về, dân tài xế, lơ xe toàn là dân giang hồ, thế mà ai cũng sợ hắn. Hắn liều lĩnh, bất chấp, trong mọi cuộc đấm đá, hắn là thằng đi đầu, xông vào trước, luôn hỗ trợ cho mấy thằng yếu thế hơn. Hắn liều, nhưng chơi đẹp, không bao giờ ăn hiếp kẻ thế cô, không bao giờ đánh tán mạng kẻ thù. Đánh gục đối thủ, hắn thường xốc nách chúng lên, cho ngổi dựa vào tường, lấy nước, mang bia cho uống, lấy khăn ướt lau mặt cho.
Bởi thế, những tay hảo hớn bến xe đă từng đụng độ với hắn một lần th́ đâm ra phục hắn, xem hắn như đại ca. Nhưng hắn không muốn làm đại ca, hắn chỉ ra tay khi thấy chuyện bất b́nh. Đám cảnh sát ở ngă tư Chợ Cồn cũng ngán hắn. Có lần tay cảnh sát ức hiếp bà già bán rau ở lề đường, hắn bay từ xa đá vào ngực tay cảnh sát làm y bồ ngửa, hắn bảo không được ức hiếp người nghèo, có giỏi th́ chơi tay đôi với hắn. Xong nó kéo tay tên cảnh sát vào quán bún ḅ bà Hưng ngay nơi ngă tư, kêu bún ḅ xí quách và bia nhậu. Thế là xong.
Khi tôi vào tuổi mới lớn, khoảng mười ba, mười bốn th́ hắn đă là một thanh niên vạm vỡ. Hắn rất thích chơi với tôi, hắn bảo hắn khoái cái kiểu sống của gia đ́nh tôi. Tuy là một thằng rất ba trợn, nhưng hắn lại là một thằng rất t́nh cảm. Hồi đấy, tôi đang tập đàn mandoline, cũng chỉ biết lỏm bỏm thôi, nhưng tối tối không có chuyện đi đâu hắn lại rủ tôi ra đầu ngơ, dưới tàng cây trứng cá, đàn cho hắn nghe. Hắn chỉ thích độc một bài của nhạc sĩ Đặng Thế Phong, bài Giọt mưa thu. Thế mới lạ.
“Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi
Trời lắng u buồn mây hắt hiu ngừng trôi
Nghe gió thoảng mơ hồ trong mưa thu
Ai khóc ai than hờ!
Vài con chim non chiêm chiếp kêu trên cành
như nhủ trời xanh
Gió ngừng đi
mưa buồn chi
cho cơi ḷng lâm ly .
Hồn thu tới nơi đây gieo buồn lây
Ḷng vắng muôn bề không liếp che gió về
Ai nức nở thương đời
chân buông mau
dương thế bao la sầu .
Người mong mây tan cho gió hiu hiu lạnh
mây ngỏ trời xanh
chắc ǵ vui
mưa c̣n rơi
bao kiếp sầu ta nguôi .
Gió xa xôi vẫn về
Mưa giăng mù lê thê
Đến bao năm nữa trời ...
... Vợ chồng Ngâu thôi khóc v́ thu.”
Tôi đàn, hắn hát theo, tôi không ngờ hắn có giọng hát hay thế. Một giọng Bắc chuẩn thật chuẩn, luyến láy đúng điệu, nhịp phách không sai chút nào. Hắn làm tôi khá bất ngờ, bởi tôi biết hắn có chút kiến thức âm nhạc nào đâu.
Giọng hắn thê thiết, buồn, trẩm, có hồn vía ghê lắm. Hắn chỉ hát có một bài đó. Buồn vui chi cũng Giọt mưa thu. Đám cưới, đám ma, sinh nhật, nhậu nhẹt mà có hát là hát Giọt mưa thu. Ṭ ṃ, tôi hỏi hắn th́ mới biết là ngày xưa ở Hà Nội, lúc tuổi mới lớn, mẹ hắn là láng giềng và cũng là người yêu của nhạc sĩ Đặng Thế Phong. Người nhạc sĩ tài hoa yểu mệnh, mẹ hắn v́ thời cuộc cũng long đong. Khi sinh ra hắn, suốt quăng đời trong nôi, mẹ hắn chỉ ru hắn bằng một bài Giọt mưa thu. Bài hát thấm trong máu hắn, nằm măi trong kư ức hắn và đối với hắn, âm nhạc chỉ có ḿnh bài đó thôi.
Hắn rất thương mẹ, mẹ hắn ít nói, nhiều khi chỉ một ánh mắt nh́n, hắn đă líu ríu làm theo những ǵ mẹ hắn muốn. Ra khỏi nhà, hắn là thằng du côn, nhưng ở nhà, hắn là đứa con ngoan. Hắn phụ mẹ hắn xay đậu, ép khuôn, gánh hàng ra chợ. Nh́n hắn quấn quưt bên mẹ, thương lắm. Hắn bảo đời mẹ hắn có lắm nỗi buồn, hắn không muốn làm cho mẹ hắn thêm buồn nữa.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1340570&d=1550073931
Hắn nói thế mà mười tám tuổi, hắn bỏ nhà đi lính sau một trận căi nhau bốc lửa với ông bố dượng. Mẹ hắn buồn ghê lắm, nhưng cũng đành, bên chồng, bên con, biết làm sao?
Hắn đi lính nhảy dù. Ngày gặp lại hắn với bộ đồ rằn ri, cái mũ bê rê đội lệch, tôi thấy hắn đẹp quá. Bộ đồ lính ấy trong thân h́nh thước tám hai, với mấy chiếc lựu đạn mini bên hông, đôi bốt đờ sô dềnh dàng trông nó oai hùng quá. Nh́n hắn chẳng khác chi tay lính Mỹ. Tôi chào hắn như mọi khi: Chào Alain Delai, hắn cũng chào lại như mọi lần gặp nhau: Chào thằng em bô giai.
Hai thằng ôm nhau. Từ đó, sau những đợt hành quân, về hậu cứ là hắn dẫn tôi đi ăn chơi. Tôi vừa mới tuổi mười lăm, cao mét sau lăm, mới đứng ngang nách hắn. Hắn dẫn tôi đi mấy cái bar ở ngă năm. Đó là những nơi tôi chưa từng vào và cũng chưa từng biết. Hắn giúp tôi khám phá thế giới ấy. Thế giới của rượu, bia, thuốc lá và gái. Hăn đi đến đâu, mấy em cave theo đến đấy. Hắn đẹp quá mà. Người đàn bà nào lại không thích trai đẹp, kể cả những người đàn bà làm đĩ. Tôi đi với hắn, ngoan ngoăn như đứa em hưởng sái của thằng anh. Đi đến đâu hắn cũng được các em bao, rượu tràn trề, khói thuốc mờ mịt. Cũng có lần v́ ganh tức mấy em, đám lính không quân gây sự, hắn đánh đấm một trận ra tṛ phải vào bệnh viện c̣n tôi th́ trốn nhủi trong cầu tiêu. Ba tôi biết chuyện, cấm triệt, không cho tôi đi chơi với hắn. Nhưng đôi lúc ngồi đàn cho hắn hát Giọt mưa thu, ba tôi cũng chẳng nói ǵ, có lần khen hắn hát hay. Hắn cũng rất kính Ba tôi, mỗi lần gặp đều khoanh tay thưa ông Đốc rất đàng hoàng.
Năm 1966, lính vùng một của tướng Nguyễn Chánh Thi liên minh với Phật giáo miền Trung ly khai. Tướng Kỳ đem quân ra dẹp. Lực lượng nhảy dù làm ṇng cốt dẹp loạn. Khu vực xóm tôi là trung tâm của cuộc giao tranh. Lính ông Kỳ từ ngă tư Chợ Cồn đánh thẳng đường Ông Ích Khiêm tiến tới chùa Tỉnh hội, trung tâm đầu năo của cuộc đấu tranh. Súng nồ ́ xèo. Lần đầu tiên tôi biết mùi của đạn bom, của chiến tranh. Hai quả M79 rớt ngay sân nhà tôi, tường lủng tứ tung. Cả nhà sợ quá dắt díu nhau chạy vô bàu Thạc Gián. Đêm tá túc nhà người quen, không dám ngủ, nh́n ra trời thấy đạn bay líu ríu, chỉ mong trời mau sáng. Đến sáng th́ êm,khoảng trưa th́ nghe tin hắn bị thương, một viên đạn M79 quét ngang chần hắn, hai chân nát bét phải cưa đến đầu gối, đang nằm ở Tồng y viện Duy Tân, chỗ làm việc của Ba tôi. Mẹ hắn qua gặp Ba tôi, nhờ giúp.
Tôi vào gặp hắn, hắn xanh xao v́ mất nhiều máu, hai chân băng trắng xoá. Tôi chào: Chào Alain Delai. Hắn cầm tay tôi thều thào với nụ cười méo xệch: Chào thằng em bô giai. Hắn bảo hắn không sao, nhưng chỉ thương mẹ hắn, chắc mẹ buồn lắm. Mẹ hắn chỉ biết khóc. Đi chiến đấu bao lần không sao, cuối cùng lại bị thương v́ đạn của phe ḿnh. Hắn chửi đụ mẹ mấy thằng rách việc, bày đặt đấu tranh khiến hắn mất cặp gị. Thà ngoài chiến trường nó không tức. Đây lại tàn phế v́ đồng đội, có khốn nạn không?
Từ đó, hắn trở thành kẻ cụt chân, di chuyển bằng đôi nạng, hắn vẫn đẹp, nhưng vẻ đẹp của kẻ thiếu đôi chân. Hắn vẫn là thằng giang hồ, đấm đá với đôi nạng, tuy không c̣n sức mạnh như xưa nhưng hắn vẫn là ông trùm của khu bến xe Chợ Cồn. Tôi chuẩn bị thi Tú tài, nên cũng ít gặp hắn, thỉnh thoảng lại đàn cho hắn hát Giọt mưa thu, giọng hắn lại buồn hơn.
********
Năm 1968, Mậu Thân, tôi đậu Tú tài hai, đi học xa nhà, đi ta bà thế giới, chẳng có dịp về lại cái xóm bến xe của một thời nên cũng không gặp hắn suốt cả mấy chục năm trời. Thời thế nhiều đổi thay, đời tôi cũng trải nhiều biến cố. Sau 1975, ba mẹ và các em tôi vào hết Sài G̣n, rồi lần lượt phân tán khắp nơi. Tôi chẳng c̣n ai ở Đà Nẵng nên cũng chẳng hẹn về nên chẳng biết tin tức ǵ về hắn.
Năm 1985, trong một dịp công tác, tôi trở về xóm cũ. Thay đổi nhiều, người cũ c̣n lơ thơ, toàn người mới đến. Hỏi thăm mới biết hắn đă đi Pháp theo diện con lai từ năm 1980. Mẹ hắn tự tử chết sau ngày hắn lên phi cơ đến Pháp. Bà tự tử bằng sái thuốc phiện với giấm thanh lấy ra từ cái bàn đèn lưu niên của ông bố dượng hắn. Tôi lại nhớ những miếng đậu khuôn ḍn tan của bà, tôi lại nhớ cái nhan sắc rất Bắc của bà, một nhan sắc lầm lũi. Tôi nhớ đến lần đầu tiên tôi thấy bà mặc chiếc áo dài nhung đen với chuỗi hạt ngọc xanh nơi cổ và chiếc khăn quàng hững hờ trong một dịp Tết năm nào đó. Một h́nh ảnh của người phụ nữ Việt Nam của một thời đă đi qua. Một h́nh ảnh rất đẹp đọng măi trong đầu tôi. Đă nhiều lần tôi muốn vẽ một bức tranh như thế mà vẫn chưa vẽ được v́ cái hồn cốt của nhân vật cũng chưa t́m lại được. Bây giờ bà đi xa rồi. Cầu mong bà yên nghỉ. Cũng xong một đời người.
Tôi cũng cầu xin bạn tôi, Alain Delai của tôi sẽ có một cuộc sống b́nh yên nơi quê nội, chắc là chúng ta sẽ chẳng có dịp để gặp nhau nữa rồi.
*******
Năm 2010, tôi trở lại nước Pháp để hoàn tất một số giấy tờ cho bản thân và gia đ́nh. Chuyến đi dự trù ba tuần lễ, v́ tôi nghĩ thủ tục hành chánh rất khó khăn, nhưng không ngờ chỉ trong một tuần lễ, mọi việc hoàn tất suông sẻ. Rảnh th́ giờ, tôi đi lang thang.
Tôi đến lại những chốn xưa của một thời long đong và cô đơn ở xứ người. Có nhiều nơi chẳng chút đổi thay dù mấy chục năm đă trôi qua. Tôi đứng trên đồi Montmartre, một khu phố của Paris, quả đồi lớn thuộc Quận 18. Nơi đó là nơi tập trung của nhiều họa sĩ nổi tiếng, cộng với nhà thờ nhà thờ Sacré-Cœur, các con phố nhỏ, quán cà phê, nhà hàng... để nhớ những ngày lang thang vẽ chân dung cho du khách kiếm sống dưới những cánh tuyết mùa đông ẩm ướt.
Tôi t́m về khu Quartier Latin Quận 5 thành phố Paris. Nằm ở tả ngạn sông Seine, khu có nhiều trường đại học nồi tiếng thế giới. Ở đây c̣n có Điện Panthéon, cung điện Luxembourg trong vườn Luxembourg, Sorbonne, Bảo tàng Trung Cổ...
Nơi đây đầy khách du lịch bốn phương tụ về. Tôi đi bộ trên phố Huchette nằm cạnh sông Seine, hai bên đầu đại lộ Saint-Michel với các con phố nhỏ, lát đá.. khu này có rất nhiều nhà hàng, quán cà phê, cùng các quán bar và nhiều gallery nghệ thuật. Ngày xưa nghèo, đi ngang mà chẳng dám vô. Bây giờ có đủ tiền để làm thực khách th́ đi một ḿnh, cảm thấy buồn nên cũng chẳng muốn vào.
Lang thang măi cũng chán, tôi đi khám phá các metro ở Paris. Métro Paris là một trong những biểu tượng của thủ đô nước Pháp, đặc trưng bởi mạng lưới các tuyến dày đặc, mật độ sử dụng cao và các bến tàu điện ngầm được trang trí theo phong cách Art nouveau. Tôi làm nghề mỹ thuật nên rất ham tham khảo và chiêm ngưỡng những công tŕnh độc đáo này.
Các bến Métro Paris trang trí theo phong cách Art nouveau, được lựa chọn từ năm 1900. Ngay cả trong những lần tu sửa và mở rộng sau này phong cách đó vẫn được tôn trọng. Các vách và trần bến thông thường được lát bằng các viên gạch sành h́nh vuông hoặc chữ nhật nhỏ màu trắng. Một số bến được trang trí cầu ḱ hoặc có phong cách rất khác biệt.
Tôi ghé Bến Louvre-Rivoli tuyến 1 mang tên phố Rivoli và Bảo tàng Louvre vào buổi sáng, trời chưa có nắng. Bến được trang trí bằng những bản sao các tác phẩm nổi tiếng của Bảo tàng Louvre, trưng bày trong các hốc tường được chiếu sáng rất đẹp. Chán, tôi lại về Bến Arts et Métiers tuyến 11, vốn mang tên của Bảo tàng Kỹ nghệ Paris (Musée des arts et métiers), khu này toàn phú bằng những rănh đồng chạy suốt.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1340571&d=1550073946
Lại định ghé qua Bến Pont Neuf tuyến 7 đặt theo tên cây cầu Pont Neuf. Nằm gần La Monnaie de Paris, chỗ in tiền, nhưng không đến, ngồi nghỉ nh́n đám bồ câu bay.
Loanh quanh toàn thấy quảng cáo. Các tờ quảng cáo được dán trong các ô có viền trang trí và kư hiệu hăng khai thác.
Đang mỏi chân định nghỉ, nhưng rồi lại kêu taxi chạy lăng quăng. Trôi dạt về Gare du Nord. Rổi qua metro Crimée lúc nào không hay.
Không biết sao ḿnh lại giạt về đây, bởi khu này lộn xộn lắm, dễ bị móc túi, người đi lại nhiều lại lắm ăn xin. Nhưng rồi lại tự nhủ, biết muôn mặt của metro Paris cũng là điều thú vị nên dù chân đă mỏi cũng gắng thêm một ṿng. Người nườm nượp, ồn ào. Con đường dẫn xuống hầm chật chội. Hai bên có mấy người ăn xin, người đàn, kẻ hát, tiếng trống bập bùng. Một không khí lạ lùng và cũng độc đáo. Trời về chiều, sương xuống sớm, không khí hơi lành lạnh. Đă cuối đông rồi.
Tôi dừng chân, đốt điếu thuốc, khói thuốc tuôn mờ đục. Bỗng trong mớ âm thanh ồn ă ấy, tôi nghe loáng thoáng một giai điệu của bản nhạc Việt Nam. Thoang thoảng thôi, xa xa gần gần như sương khói. Nhưng chắc chắn là một bài hát Việt.
Tôi đi men theo tiếng hát và bắt gặp nột ông Tây già, râu ria lởm chởm, tóc phủ gáy ngồi trên chiếc xe lăn đưa hai chân cụt đến mỏm gối. Ông nhắm mắt hát say sưa bài Giọt mưa thu, hát đi rồi hát lại. Chiếc mũ trước mặt ông cũng có vài đồng tiền giấy và ít tiền xu. Nghe bài hát tôi h́nh dung ra hắn và tôi đoan chắc chắn là hắn chứ không ai khác. Chỉ có hắn, Alain Dalai mới hát Giọt mưa thu như thế, với giọng như thế và say sưa như thế. Tôi chạy nhanh đến bên lăo và hét lớn Chào Alain Delai. Hắn hé mắt, ngập ngừng, nh́n rất lâu vào khuôn mặt tôi, rồi hắn cũng hét lớn Chào thằng em bô giai. Hai đứa tôi ôm nhau, cả hai đều khóc. Không ngờ c̣n được gặp nhau, mà lại gặp nhau giữa Paris khi tuồi đă già, thời gian chẳng c̣n bao nhiêu nữa.
Tôi bảo hắn kiếm ǵ ăn tối, hắn dẫn tôi vào một quán be bé trong con đường nhỏ lát đá với những hàng cây leo. Quán vắng, kêu mấy món ăn, hai chai bia lạnh, hắn kể một đoạn đời ḿnh.
Hắn qua Pháp trong những đợt đầu tiên của chính phủ Pháp giải quyết con lai c̣n lại ở Việt Nam. Nhờ hắn có giấy khai sinh và một số giấy tờ chứng minh, h́nh ảnh khác nên nó nhờ các tổ chức xă hội t́m lại bố ruột một cách dễ dàng. Một năm sau khi đến Pháp, hắn được gặp bố. Bố hắn đă già, nhưng rất thương yêu hắn, đó là những ngày hạnh phúc nhất của đời hắn ở nước Pháp. Gia đ́nh bố hắn ở Marseille. Đó là một thành phố cảng của nước Pháp, là thành phố lớn thứ hai của Pháp, sau Paris, và là vùng đô thị lớn thứ ba của Pháp. Hạnh phúc được hai năm th́ bố hắn qua đời. Bố hắn có để lại di chúc, có phần thừa kế của hắn. Nhưng hắn lại không đọc được chữ Pháp, nên các anh chị em cùng cha khác mẹ của hắn bảo sao th́ nó nghe vậy. Họ bảo nó không được hưởng thừa kế, không có quyền ǵ trong tài sản bố hắn để lại. Họ giao cho hắn mười ngàn quan, gọi là trợ cấp cho hắn để hắn ra đi. Thân cô thế cô,chữ nghĩa không biết, thân thể què cụt, hắn ngậm đắng nuốt cay, gạt nước mắt rời khỏi nhà làm kẻ lang thang, sống nhờ trợ cấp. Làm kẻ vagabond trôi giạt từ Marseille về đến Paris. Chờ ngày thành tro bụi giữa thành phố hoa lệ này. Mỗi ngày ngồi ở metro hay mấy quăng trường, hát Giọt mưa thu mấy chục năm rồi, để nhớ về mẹ hắn, để nhớ về Việt Nam, một chốn quê không c̣n chỗ để về.
Đêm đó, lúc chia tay, dù đă say khướt, bởi tôi có biết uống đâu, hai đứa tôi ôm nhau ở cửa quán ăn, tôi lè nhè Chào Alain Delai. Hắn siết vào vai tôi Chào thằng em bô giai. Tôi thấy vai ḿnh ướt đẫm nước mắt. Tôi đẩy xe lăn của hắn một đoạn đường trong khi chờ taxi. Hai thằng già vừa đi vừa ngêu ngao bài Giọt mưa thu, tiếng hát hoà trong nước mắt. Những giọt mưa thu Việt Nam nhỏ xuống con phố nhỏ giữa khuya của Paris đang cuối đông. Lúc tôi leo vào taxi, hắn ngoái đầu lại, đưa tay lên và nói nhỏ "Au revoir mon ami".
Hôm sau tôi trở lại Gare du Nord, không thấy bóng dáng hắn đâu. Tôi qua Gare de l’Est, một khu cũng lộn xộn không kém, cũng không thấy hắn. Hắn biến mất tăm. Những ngày c̣n lại ở Paris, tôi đi khắp nơi để t́m hắn, nhưng hắn đă biến mất như cây kim rơi vào đống sắt vụn. Biết đâu t́m.
Alain Delai! Với cái chân cụt đấy, bạn sẽ đi về đâu mà t́m không thấy?
Thôi th́ cũng bắt chước hắn, tôi đến bên con đường lát đá có hàng dây leo tường vi, ngước nh́n lên trời và nói nhỏ "Au revoir mon ami!".
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1340572&d=1550074330
Viết theo Đỗ Duy Ngọc (Paris)........SJ 13-02-2019
Em ước chồng em như giáo viên
"Trả bài" anh nghĩ đến thường xuyên
Đêm về cứ thế không cần nhắc
Cuộc sống vui tươi hết muộn phiền.
Em muốn chồng như bác sỹ cơ
Chả cần văn vẻ, chả làm thơ
Cứ vào là bắt cởi quần áo
Nhanh gọn để em khỏi phải chờ.
Em lại ước chồng giống phi công
Máy bay anh lái cứ như không
Tọa độ chỗ nào anh rơ hết
Khỏi phải ḷ ḍ, đỡ mất công.
Em thích chồng như thợ điện nè
Rất giỏi lần theo những cái khe
Mỗi khi anh cắm vào trong ổ
Máy móc theo nhau chạy phè phè.
Em cũng muốn chồng giống sỹ quan
Súng ống luôn luôn được sẵn sàng
Anh bắn phát nào ra phát đấy
Trăm lần trăm trúng, nghĩ mà ham.
Em thích chồng như một chuyên gia
Chứng khoán kinh doanh rất tài ba
Khi lên, khi xuống, khi trồi sụt
Quy luật anh thông, khỏe đến già.
Em ước chồng như sếp ngân hàng
Luôn nhắc người ta nhớ kỹ càng
Nếu mà rút sớm th́ sẽ thiệt
Lợi ích đôi bên giảm rơ ràng.
Vẫn biết mỗi nghề một hay riêng
Quan trọng chồng em phải thật siêng
Mỗi nghề học lấy vài ưu điểm
Như kể trên này, ắt lên tiên.
hoanglan22
02-15-2019, 20:15
Nhân vội vă bước lên tàu, bên cạnh những hành khách rời cao nguyên đất đỏ leiku, trên chuyến bay C 47 chiều cuối tuần, bên cạnh anh là một cô gái Huế, cô hay nh́n lên bộ áo bay đă ngả màu của anh. Trên hàng ghế dựa hai bên thân tàu, mọi người ai nấy đă vào ghế ngồi, và thắt giây an toàn, con tàu tiến dần ra phi đạo.
Nhân nh́n đồng hồ, như một thói quen mỗi lần tàu cất cánh. Cô gái hỏi anh trong tiếng ồn của máy bay đang bắt đầu tăng tốc độ để cất cánh, chàng không nghe rơ câu hỏi, nhưng nh́n theo cử chỉ của cô gái, chàng trả lời: " 3 giờ 02 phút thưa cô".
Con tàu cố gắng vươn lên để lấy cao độ, hành khách bị lôi theo độ dốc của con tàu, mái tóc thề của cô gái bị gió đưa về phiá sau, che một phần áo bay đă bạc màu của chàng, trông thật dễ thương. Chàng để yên và ngửi thấy mùi thật êm dịu của tóc nàng. Cô gái quay lại xin lỗi, với vẻ thẹn thùng. Nhân mở đầu câu chuyện trong tiếng ồn của máy bay đang rền ở bên ngoài.
- Cô về đâu? ...
Cô gái đáp ngay như đă sẵn sàng từ lâu:
- Dạ em về Huế, thế c̣n anh?...
Tiếng cô gái thật tươi vui, Nhân nh́n kỹ hơn qua vai nàng, đôi mắt tṛn với hàng lông mi đen dài, sóng mủi thon và đặc biệt làn môi như những quả đào đang mùa.
Nhân trả lời:
- Tôi cũng về Huế, nhưng chắc là không c̣n xe để ra Huế, khi tàu về đến Đà Nẵng chiều nay.
Nàng trả lời nho nhỏ:
- Dạ ...
***
Nhân nh́n ra bên ngoài - nghĩ ngợi mông lung. Chàng nghĩ về những ngày ra Pleiku, nơi vùng đất đỏ, có đồi Cù-Hanh, có con phố nhỏ thật dịu hiền. Những chiều trong cơn lạnh của núi đồi cao nguyên, chúng bạn của Nhân thường hay ra phố, để t́m vui bên ly cà phê đen của quán "Dinh Điền", hay đi bách bộ trên con đường dốc đỏ, nh́n theo bóng của các cô gái vùng Tây Nguyên đang tha thướt với những chiếc áo dài. Nhân nghĩ về mấy tháng trước hồi c̣n ở Cần Thơ, phi trường B́nh Thủy, nơi chàng đă sống bốn năm, bên ḍng sông Hậu, với bao nhiêu vui buồn, với những chuyến bay đêm, những sớm mai bay dọc theo những hàng dừa xanh hai bên bờ kinh, băng qua những cánh đồng lúa. Nhân và các bạn của chàng thường cất cánh khi mọi người đang c̣n ngủ yên, để đến những điểm hẹn, trước lúc b́nh minh. Rồi những ngày ghé lại Tô Châu, Hà Tiên, bay dọc theo con kinh Vĩnh Tế. Có lúc ghé về Cà Mau, U-Minh nơi những đầm đầy những cây tràm, cây đước. Có một lần chàng đă thả toán tại mủi Cà Mau; phần đất cuối cùng của dải đất h́nh chử "S". Từ trên trời cao nh́n xuống một màu xanh tươi của vùng đồng bằng với những làn sương mai đang c̣n lảng vảng trên mặt đất.
Trong khung cảnh thanh b́nh đó, cũng đang ẩn dấu những trận chiến khốc liệt, và bao người tranh nhau từng tất đất chiếm ngự.
Chợt cô gái quay lại hỏi:
-Anh đang nghĩ ǵ mà có vẽ đăm chiêu như thế?
Cô ta đang chăm chăm nh́n vào khuôn mặt thiếu vắng nụ cười của Nhân, chàng trả lời:
-Tôi đang nghĩ về những ngày ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Chàng và cô gái thật ngượng ngùng khi chưa biết được tên nhau, rồi chàng lên tiếng:
-Tôi tên Nhân, thế c̣n tên cô?
Cô gái có phần dạn dĩ hơn.
-Dạ em tên Hoá...
Nàng nói tên ḿnh một cách rất tự nhiên và đang theo dơi người đối diện. Có lúc nàng bắt gặp ánh mắt của Nhân nh́n nàng, Hoá tỏ vẻ thẹn thùng, rồi cả hai bắt đầu những mẩu chuyện về ḿnh, Hoá hỏi:
-Anh Nhân mới ra Pleiku?
Chàng trả lời trong niềm luyến tiếc:
-Vâng tôi ra Pleiku đă 3 tháng!... Thế c̣n Hoá?
Hoá cho biết nàng có người anh là một sĩ quan ngành Quân
Cảnh Tư Pháp (QCTP), đang đóng tại Pleiku, anh Trương
Hữu Lạc trưởng pḥng QCTP Pleiku, Hoá nói:
-Em ghé thăm anh chị của em, và ở chơi với họ hơn một tháng; sau khi tan trường ở Huế.
Nhân cũng là học sinh của Huế, sau ngày Mậu Thân, chàng t́nh nguyện vào Quân chủng Không Quân để trở thành một Phi Công.Hoá đă bắt đầu dạn dĩ hơn, và câu chuyện mỗi lúc một vui hơn, rồi nàng quay qua hỏi Nhân:
-Anh Nhân có thường về thăm Huế không?
Nhân lắc đầu không nói, chàng nhớ ra ḿnh đă ít về Huế, hầu như mỗi năm chỉ một lần. Chàng đă về Huế trước khi thuyên chuyễn lên Pleiku, lần này với lư do đặc biệt nên chàng lại được ghé thăm nhà 15 ngày trước khi trở lại đơn vị.
***
Trong tiếng ồn của con tàu chiều nay, Nhân im lặng nghĩ về một chuyến bay hai tuần trước đây (vào trung tuần tháng 6 năm 1974). Ngày đó chàng và Phương, một hoa tiêu về nước sau chàng nhưng đă lên Pleiku sau ngày về nước, c̣n chàng th́ về tŕnh diện Vùng IV, phục vụ nơi vùng đồng bằng sông Cửu Long. Số giờ bay của chàng trội hơn Phương, nhưng v́ mới ra vùng cao nguyên nên Nhân phải ngồi ghế hoa tiêu phụ. Khi bay, Phương ngồi ghế hoa tiêu chính. Phương đă dí dỏm nói với Nhân khi ngồi vào ghế lái:
-Anh hôm nay là IP (huấn luyện viên) của Phương đấy nhé.
Nhân mỉm cười, v́ ghế trái dành cho những IP (Instructor Pilot) của ngày nào tại các trường bay bên Mỹ; mà Phương và chàng đă trải qua trong thời gian huấn luyện hồi 69-70. Hôm ấy Phương và Nhân là phi hành đoàn thứ ba trong phi vụ thả toán. Trời vừa lờ mờ sáng cả đoàn trực thăng bay về đáp tại căn cứ thuộc lực lượng Lôi Hổ cạnh Biển Hồ trên đường đi Chu Pao. Trông nét mặt mọi người, ai nấy đều rất nghiêm trọng, v́ t́nh h́nh hai toán Lôi Hổ vào ḷng địch trước đây đă bị bắt, toán thứ ba vừa hoàn thành nhiệm vụ, th́ bị phát giác, và đang trốn quanh căn cứ của Bộ Tư Lệnh tiền phương của địch; nằm sát biên giới Việt Lào. Phương và Nhân vào pḥng hành quân để tham dự buổi thuyết tŕnh của sĩ quan quân báo. Ai nấy đều im lặng, v́ sứ mạng hôm nay là bằng mọi giá phải bốc cho được toán thám sát thứ ba này. Toán sáu người này, sáng nay đă liên lạc về cho biết là họ đă hoàn thành nhiệm vụ, nhưng suốt đêm qua đă phải ẩn náu quanh các trại của địch quân tiếp cận biên giới.
***
Những tháng cuối năm 1971, Nhân đă có dịp bay những phi vụ với các toán Lôi Hổ từ căn cứ B-15 tại Quăng Lợi. Họ được đưa lên phi trường Lộc Ninh, để thả xuống vùng tiếp cận biên giới Việt Miên. Đây là lần đầu Út và Nhân tham dự vào việc thả toán. Út, một người đàn anh về phi đoàn trước chàng, trước đó Út và Nhân đă cùng bay với hợp đoàn của Mỹ, cho nên hai người không thấy có ǵ nghiêm trọng cả. Họ từng bay chung với một hoả lực hùng hậu, có hai chiếc Cobra, và hợp đoàn hai chiếc UH-1, với một OH-6 mà chàng thường gọi là máy bay hột vịt, đây là một loại máy bay rất hữu dụng trong môi trường, vừa có thể oanh kích và bắt sống. Trên ṿm trời lúc ấy, c̣n có một máy bay điều động C&C và một máy bay thám thính L-19 để đánh trái khói. Út và Nhân thường băng qua biên giới để vào vùng Chipu phiá Bắc của Lộc Ninh hơn 60 dặm. Nhân chẳøng thấy có một chút e ngại nào, có lẽ v́ "điếc nên không sợ súng chăng" ?... Bây giờ Út đă ra đi, c̣n Nhân thuyên chuyển ra Pleiku.
Tuần trước tại căn cứ Lực Lượng Đặc Biệt này, Nhân đă được một anh em biệt kích cho chiếc áo tránh miểng lựu đạn, và chỉ cách lấy bột của lựu đạn cay, bỏ vào hộp đựng phim để pḥng hờ cho việc mưu sinh. Hôm nay trở lại người anh em trong toán trinh sát đó vẫn c̣n đây, và đang chờ đợi cho chuyến nhảy toán kế tiếp. Những người lính thám sát này rất trẻ và vào lứa tuổi của em trai chàng. Trong khi những bạn đồng trang lứa với họ, đang vui sống phè phởn trong các đô thị, c̣n họ th́ lặn lội trong chốn rừng đầy hiểm nguy, và không có dịp để nghĩ về tương lai của chính ḿnh. Họ là những người lính âm thầm hoạt động trong những rừng sâu núi thẳm. Sau vài chuyến nhảy toán, họ được về thành phố sống vội, rồi trở lại căn trại nhỏ hẹp này để chuẩn bị đi vào ḷng đất địch.
***
Hợp đoàn trực thăng cất cánh lên Kontum, chờ đợi phi vụ bay vào vùng biên giới. Ban truyền tin vẫn chưa nhậân được tín hiệu của toán sáu người đang len lỏi trong đám rừng già, nơi địch quân đang trú đóng. Mọi người được lệnh nghĩ để ăn trưa. Vị sĩ quan tiền sát cho biết: "Chắc đến 1 hay 2 giờ nửa mới có kế hoạch bốc, khi toán người này ra đến gần băi đáp." Cả đoàn rủ nhau ra phố để dùng cơm trưa, sau đó Phương rủ anh em vào một quán nước nghèo nàn bên góc phố, uống cà phê để được tỉnh táo. Hôm ấy Phương tâm sự thật nhiều với Nhân, Phương đă tỏ bày những nỗi niềm của anh từ ngày anh xa vắng Sài G̣n, nơi người bạn gái anh hằng thư từ, và giao du trong những chuyến về phép. Phương nói về một mối t́nh của một cô nữ sinh, với anh. Anh cùng cô bạn gái ấy, từng một thuở ở mái trường Đại Học với nhiều lần hẹn ḥ. Giờ đây với nghiệp bay trên vai, anh hẹn với người bạn gái ngày anh thuyên chuyển về lại Thủ Đô. Ngày ấy cũng là lúc em học xong Đại Học Sư Phạm. Họ đă ước hẹn một tương lai thật đẹp với nhau. Lúc ấy, nàng đi dạy học và chàng quay về với nàng sau mỗi chuyến bay. Họ sẽ sống với nhau đầm ấm bên các con của họ. Đó cũng chính là những h́nh ảnh Phương và người bạn gái từng mong đợi. Họ sẽ thực hiện được ước mơ này, trong chuyến đổi về Sài G̣n vào dịp cuối năm này của Phương. Trong phi đoàn, Phương là người có một vóc dáng rất thư sinh, khuôn mặt với nước da trắng và nụ cười trên môi, anh được bạn bè quí mến, và tâm hồn luôn nghĩ về những niềm ước mơ của một nếp sống hạnh phúc thanh nhàn.
Hôm nay Phương và Nhân nhận lănh phi vụ bay vào ḷng địch để bốc toán thám sát sáu người. Đáng lư ra, người bay chiếc số hai của phi vụ này là Huyên, nhưng hồi 1 giờ trưa Huyên đă nhận lệnh cất cánh đi tiếp tế tại một tiền đồn gần biên giới phía Tây Bắc Kontum. Phương và Nhân cùng xem lại các dụng cụ phi hành đem theo: chiếc bản đồ có đánh dấu toạ độ, và chiếc radio cấp cứu. Tuần trước Nhân t́m cách đổi chiếc radio của ḿnh, v́ chỉ chiếc radio cũ chỉ có phát, nhưng không nghe được tín hiệu. Pḥng Tiếp Liệu Cấp Cứu Phi Hành không có radio khác để thay thế, nên anh đă tiếp tục đi bay với radio không nhận được tín hiệu Đúng 3 giờ chiều, khi sĩ quan tiền sát báo cáo là, đă nhận được tin tức toán trinh sát đang trên đường tiến về phiá mục tiêu,
Nhân cất cánh rời phi trường Kontum. Trên ṿm trời ngoài chiếc C&C của Đại Úy Hoàng, c̣n có chiếc U-17 của sĩ quan tiền sát, hai chiếc GunShip, chiếc slick của Trung Úy Minh và Tuấn đi lead, chiếc của Phương và Nhân đi số hai. Nhân rời phi trường Kontum được 15 phút, bay về hướng biên giới Việt Lào, phiá Bắc của tiền đồn Charlie nơi Tr/tá Nguyễn Đ́nh Bảo đă ở lại vào mùa hè đỏ lửøa 1972. Nhân tiến sâu vào những vùng núi cao của dăy Trường Sơn, bên dưới phi cơ là những khu rừng dày đặc. Lâu lâu chàng thoáng thấy vài cánh chim đang bay lượn trên ṿm trời hoang vắng này. Nhân đang tiến dần đến tọa độ điểm hẹn, tiếng của Đại Úy Hoàng gọi trong vô tuyến:
-Số hai, vị trí băi đáp bên phải của anh.
Nhân trả lời:
-Số hai, nghe năm.
Phương bảo Nhân: "Tôi thấy dấu trái khói trên băi đáp bên phải của tôi, bác để tôi đáp cho...", Nhân trao cần lái cho Phương.
Khi con tàu đang hạ dần cao độ, Nhân nghe tiếng đạn AK-47 từ phiá dưới đất bắn lên, Phương báo cáo:
-Có ground fire!...
Bên kia vô tuyến Đ/uư Hoàng đáp lại:
-Số hai, có sao không?... Vào đáp đi!
Phương trả lời:
-Số hai, không sao. ... Nhận lệnh vào đáp.
Tiếng đạn bắn lên đă ngưng, con tàu tiếp tục tiến về hướng trái khói, và giảm dần tốc độ. Băi đáp là một mảnh đất trống nằm lọt trong những rừng cây trên triền núi cao. Nhân thấy thêm một trái khói nữa vừa tung ra trên băi đáp, và lố nhố những người lính thám sát đang đứng cạnh một thân cây mục giữa Băi đáp. Trong suốt đoạn đường vào băi đáp thật yên tĩnh, một thứ yên tĩnh rất đáng lo , v́ lực lượng địch quân đang trú đóng quanh đây, và nơi này cũng là nơi gần bộ chỉ huy của họ. Con tàu chưa chạm đất hẳn, sáu người lính Lôi Hổ vội vàng nhảy lên. Phương đang giữ tàu ở vị thế
Hovering, và tiếp tục cất cánh. Nhân quan sát các đồng hồ, xong nh́n lên những thân cây cao trước con tàu. Đấy là những thân cây cao chừng 30 mét , con tàu cố gắng ngoi lên khỏi đọt cây trong tư thế nhấc thẳng vội vă, Nhân vừa thở xoà khi vừa ra được khỏi băi đáp.
Cùng lúc đó, có tiếng nổ chát chúa của đạn pḥng không đang bắn trực xạ vào tàu, chàng nghe những tiếng bốp bốp bên phiá của Phương ngồi. Nhân thấy một lổ hổng thật lớn nơi cửa kính trước mặt của Phương, con tàu như khựng lại.
Chàng nh́n thấy Phương đă buông cần lái và đầu cúi gục xuống. Nhân chụp vào cần lái như một phản ứng tự nhiên, chàng cố kéo cần lái để nâng mũi chiếc tàu lên. Con tàu không c̣n sức nâng, cần Collective và Cyclic cứng ngắc. Hệ thống Hydraulic chắc đă bị trúng đạn!... Con tàu tiếp tục lao
xuống, Nhân cố kéo cần lái để b́nh phi. Hệ thống thủy điều đă bị phá vở nên cần lái trở nên nặng nề và rất khó điều khiển. Sau khi b́nh phi được rồi, con tàu lại đâm đầu xuống.
Mọi người trên tàu nhốn nháo, ai nấy đều ở trong trạng thái kinh hoàng.
Một thoáng suy nghĩ qua nhanh, Nhân cố gắng đưa con tàu áp vào núi, bề mặt ṿng cánh quạt song song với độ dốc của núi. Con tàu cứ thế lao tới, và trước mặt là một thân cây to cao.
Hai cánh quạt chính chặt vào cây, cánh quạt trước đă nổ tan tành, thân tàu đă xen vào thân cây. Càng đáp bên trái vừa chạm đất, thân tàu bên ghế phải của Phương gác tựa vào thân cây, đồng thời là tiếng hú của máy thật lớn!...
Sáu anh Lôi Hổ vội vàng nhảy ra khỏi tàu, kéo cả Đại (cơ Phi) và Tài (xạ Thủ) theo họ. Phương vẫn ngồi gục đầu trên ghế bay, Nhân tiếp tục lo tắt máy để hy vọng tắt đi tiếng ồn.
Chàng tắt nút xăng và mọi nút khác bật vào vị trí OFF, nhưng tiếng máy vẫn hú vang cả một vùng rừng, nghe ghê rợn như một con thú bị cắt tiết.
Nhân nh́n qua Phương một lần nữa, rồi chàng tháo nịt an toàn bước ra phiá sau, kéo theo cái túi bay. Từ phiá đằng sau ghế ngồi của Phương, chàng chồm lên phía trước Phương, cố gắng tháo dây nịt an toàn cho người bạn của ḿnh. Nhân dùng hai tay xốc nách Phương và rán hết sức để kéo Phương ra, sau mấy lần cố gắng, nhưng không làm sao nhấc Phương ra khỏi chiếc ghế bay được. Nhân nh́n quanh để t́m người giúp, nhưng chung quanh chỉ c̣n lại mỗi ḿnh chàng. Hai người cơ phi và xạ thủ cũng đă vội vàng đi theo các anh Lôi Hổ. Nhân đành bó tay, và có ư nghĩ rằng chính Phương đă không muốn chàng liên lụy trong hoàn cảnh gian nguy này.
Nhân nh́n lại Phương lần cuối, rồi quyết định lui bước ra phiá cửa sau để ra khỏi tàu!...
Khi đă ra khỏi tàu, Nhân quan sát kỹ t́nh trạng của con tàu, chiếc cánh quạt đuôi vẫn c̣n đang quay tít. Một cành cây đă đập vào phần sau máy cạnh ống khói, có lẽ đó là lư do tại sao tàu không tắt máy được. Nh́n ra bờ rừng th́ cây cối dày đặc, tầm nh́n không quá 10 mét. Nhân lần bước tiến lên t́m một lối đi, chợt chàng nh́n thấy một cây súng cá nhân AR-15 không có đạn. Ai đó đă bỏ lại trên lối đi, Nhân cũng không màng lượm lên. Đi được một khoảng thời gian, cái túi bay trên tay chàng trở nên nặng nề, v́ trong túi bay Nhân đă để dây nịt, dao, cây súng cá nhân P-38, cùng nón bay. Để khỏi vướng bận chàng chỉ lấy ra chiếc radio rồi dấu chiếc túi bên lối đi, như trút đi một gánh nặng. Nhân tiếp tục bước lên dốc núi, với đầu trần và chiếc áo bay Nomex hai mảnh trên người. Càng lúc chàng càng bước xa dần tiếng máy hú bên dưới triền dốc. Nhân cố chen qua đám rừng già, leo lên dốc được một khoảng khá xa. Tiếng hú vẫn c̣n ở bên dưới chân núi vọng lên. Chàng len lỏi tiến bước, bỗng thấy trước mặt một khoảng trống thật rộng. Nhân nhận ra một thân cây mục ở giữa trảng, chàng nhớ lại đây chính là băi đáp mà trước đó hơn 20 phút Nhân đă bốc toán Lôi Hổ. Nhận ra vị trí này, Nhân vội nép ḿnh sau một bụi trúc tương đối rậm, và nh́n ra khoảng trống quan sát. Trên ṿm trời có tiếng của chiếc U-17 đang bay trên một độ cao. Chàng chợt nhớ tới cái radio trong túi quần, Nhân lôi nó ra và mở máy liên lạc.
-Mayday, Mayday, Mayday, Lạc-long 389 gọi Thiên-Sứ (danh hiệu của chiếc U-17 trên ṿm trời) - Nếu bạn nghe được tiếng của tôi, xin lắc cánh. ...
Nhân lập lại một lần nữa, th́ thấy chiếc U-17 lắc cánh. Chàng cởi chiếc áo bay, để cởi chiếc áo lót màu trắng có loang vết máu của Phương văng vào người chàng, lúc Phương bị trúng đạn. Nhân vội mặc lại áo bay, vừa kéo chiếc áo lót trải trên một khoảng trống để cho chiếc U-17 định ra vị trí của chàng trên băi vừa đáp. Chiếc U-17 xuống thấp và nhận ra vị trí của chàng. Nhân bắt đầu báo cáo t́nh trạng của chàng dưới đất:
-Phương đă chết trên ghế lái, và xác c̣n ở lại trên tàu - Sáu anh Lôi Hổ đă dẫn theo Đại và Tài, c̣n chỉ một ḿnh tôi đang nằm cạnh băi đáp. Khi chàng vừa nói tới đây th́ thấy bên kia bờ rừng có bóng bốn người bước ra, Nhân vội thâu lại chiếc áo lót vào ngực, vặn nhỏ máy vô tuyến và gọi chiếc U-17:
-Thiên Sứ, yêu cầu bạn rời khỏi vùng để giữ an ninh cho tôi và các người bên dưới.
Gọi xong Nhân tắt máy, chiếc U-17 nghe điều này, vội vă rời khỏi vùng. Bốn người lạ từ bên kia bờ rừng đang tiến dần ra giữa trảng. Họ chia nhau ngồi trên khúc cây khô, rồi bắt đầu tṛ chuyện và chờ đợi. Nhân quan sát từng người trong bọn họ, chàng thấy người nào đầu tóc cũng được húi cao như mái tóc của lính tại Bộ Tư Lệnh, cùng với áo vàng quần xanh vải kaki Nam Định. Trên tay họ đang cầm súng cá nhân AR-15 loại ngắn ṇng, dành cho những người lính Lôi Hổ. Nhân tự nhủ:
" Đám này chính là những người lính Bắc Việt!... " Chàng vội nằm sát xuống đất không động đậy, mắt vẫn theo dơi những bóng người giữa băi đáp. Không c̣n nghe tiếng máy bay ở trên trời nữa, bốn người lạ này vẫn ngồi chờ một hồi lâu. Bỗng dưng hai người trong bọn họ đứng dậy, và đi ngược dốc tiến về bờ cây để lùng t́m. Hai người này vừa đi vừa chĩa mũi súng vào các bụi cây, họ đi cặp theo bià của trảng, và dần đi về hướng bụi trúc nơi Nhân đang núp. Tiếng hú của chiếc máy bay bên dưới đồi vẫn c̣n vọng lên, nghe thật ghê rợn. Hai người lạ này, càng lúc càng tiến tới gần nơi Nhân ẩn núp. Trong tay của Nhân chỉ có chiếc radio cấp cứu!... Chàng không có vũ khí để tự vệ, th́ làm sao để đối phó đây? ... Những ư tưởng vút nhanh trong đầu Nhân:
" Chắc là không c̣n hy vọng gặp lại gia đ́nh nữa rồi!... Hoặc là bị bắn hay bị bắt như số phận của hai toán lính Lôi Hổ kia!... Có ai ngờ rằng chàng nằm lại nơi b́a rừng này!... Chắc là Mẹ chàng sẽ không c̣n nước mắt khi nghe hung tin này, ..." Nhân vẫn không quên mỗi lần về phép, Mẹ chàng thường ngồi tựa cửa sổ nh́n ra sân, như chờ đợi bóng dáng đứa con đầu ḷng của Mẹ. Đôi mắt mẹ chàng nhạt nhoà lệ, đă khóc oà lên khi nh́n thấy chàng từ đầu ngơ. Hai người lính Bắc Việt càng lúc càng tiến gần đến chỗ chàng nằm. Phiá bên kia bụi trúc có tiếng bước chân sột soạt, mỗi lúc một gần. Nhân như điếng cả người, thân thể chàng như dí xuống sát mặt đất, mắt vẫn không rời hai bóng người đang tiến lại gần. Chàng cúi sát mặt xuống nghe ngóng và chờ đợi, bỗng có tiếng từ giữa trảng vọng lên:
-Các đồng chí chờ chúng tôi.
Hai tên lính Bắc Việt quay trở lại trảng phía dưới đồi, để nhập cùng với đồng bọn. Nhân từ từ thở nhẹ, mắt vẫn không rời bốn bóng người đang vội vă hướng về con dốc phía dưới, nơi chiếc UH-1 đang hú lên v́ mất đi đôi cánh. Bọn họ không ngờ rằng, vẫn c̣n có một người đang quan sát họ từng giây, từng phút.
***
Chờ cho bốn người kia đi đă khá xa, chàng đứng dậy và đi ngược lên về phía bên kia đồi. Chàng cảm thấy khát nước, nên với tay kéo các đọt trúc, cắn vào phần non, trắng, của lá tre, nhắp từng giọt nước hiếm hoi trong các đọt tre non này. Một lúc sau, chàng nhắm hướng Đông-Nam (hướng Kontum) tiếp tục đi. Thuở nhỏ Nhân đă học được từ kinh nghiệm Hướng Đạo, “dùng vết rêu trên thân cây để định hướng” bây giờ là lúc chàng áp dụng bài học mưu sinh thoát hiểm đường rừng. Nhân nhớ lại ngày nào tại vùng rừng Savannah bên Mỹ, chàng đă cùng đám bạn học khoá mưu sinh thoát hiểm đường rừng. Kết thúc cuộc thực tập mưu sinh thoát hiểm, mọi người cùng được ăn món cháo rắn do mấy anh Cán bộ đăi, sau một ngày tập dợt mệt nhọc. Rừng ngày đó thưa thớt, tầm mắt có thể thấy xa 50 mét, c̣n rừng Trường-Sơn th́ dày đặc, 10 mét đă không c̣n thấy lối đi!...
Nhân ṃ mẫm qua đến được ngọn đồi thứ hai, bỗng chàng nghe nhiều tiếng lựu đạn nổ về phía con tàu. Chàng chẳng biết chuyện ǵ đang xảy ra cho số phận của Phương?... Nhân lại tiếp tục lội trong đám rừng già. Có những khoảng rừng mây gai góc, Nhân phải tiến bước bằng cách đưa lưng ra phiá trước chịu đựng, để xông qua đám rừng mây phủ khắp lối đi này. Những cây gai hồng trong rừng móc vào mảnh vải Nomex chàng mặc trên người, nhưng chiếc áo bay vẫn dai dẳng chịu đựng như ư chí kiên tŕ của chàng.
Nhân vừa vượt qua khỏi khu rừng mây, th́ thấy ngay trước mặt một bờ rừng thật trống toàn những thân tre. Chàng thấy quá trống trải nếu phải băng qua khu rừng tre này. Nghĩ vậy, Nhân tiếp tục bước cặp theo bờ rừng viền bên ngoài. Bên dưới những gốc tre, không một loại cây con nào có thể mọc, lá tre rụng trắng cả một b́a rừng. trong lúc đang tiến bước Nhân chợt nhận ra một cửa hầm cũ; phủ cây lá um tùm, chàng rụt rè bước qua cửa hầm.
***
Nhân chợt nghe đâu đó có tiếng suối nước chảy. Càng tiến lại gần, chàng nhận thấy những dấu đất đen, dấu vết của một sinh vật nào đó đă chuồi trên các lá tre khô trắng, để lộ ra các lớp đất đen bên dưới. Nhân tiến lên thận trọng hơn, mon men theo những dấu vết này, chàng c̣n nhận ra có một dấu vết, dường như ai vừa chôn một cái ǵ đó cạnh bên lối đi, không được khoả lấp kỹ lưỡng. Càng tiến bước, chàng càng nhận ra có nhiều dấu chân ngay hướng trước mặt ḿnh. Bất chợt, chàng nghe có tiếng sạt sạt phía trước, Nhân vội cúi thấp người xuống vừa ẩn núp vừa quan sát. Chàng nhận thấy có nhiều bóng người thấp thoáng phiá trước. Chàng đếm được tất cả là 7 người, và quan sát những người này từ đầu đến chân. Tất cả bọn họ đầu để tóc dài, và thắt một miếng vải xanh kaki, trên lưng có mang túi ba-lô và nhiều b́nh biđông nước. Nh́n xuống đất, chàng nhận ra các dấu giày của lính Cộng Hoà, Nhân quyết định nằm rạp xuống, và gọi vọng lên phiá trước:
-Các anh Lôi Hổ ơi, ... Trung Úy Nhân đây, chờ tôi đi với. ...
Nhân nghe một loạt tiếng đạn lên ṇng, những bóng người phía trước chàng đều ngồi xuống trong tư thế sẵn sàng tác xạ, mũi súng hướng về phiá chàng, quơ qua, quơ lại. Nếu họ thấy bất cứ một di động nào, là họ sẽ nổ súng ngay. Nhân nằm sát đất, không động đậy, chờ một giây lát, rồi chàng lại lên tiếng gọi một lần nữa:
-Các anh Lôi Hổ. ... Trung Úy Nhân đây, ... chờ tôi đi với.
Trong rừng tiếng bị dội cho nên họ không định hướng được nơi xuất phát của âm thanh. Hai người đi sau cùng của toán là Đại và Tài nhận ra tiếng của Nhân, nên Đại đă la lên:
-Trung Úy Nhân đây rồi, ... Đừng bắn, đừng bắn. ..
Lúc ấy Đại đứng hẳn dậy, trong khi các người khác vẫn gh́m súng hướng về phiá tiếng vọng với tư thế sẵn sàng bóp c̣ nếu có ǵ nguy hiểm.
Nhân cất tiếng gọi lần thứ ba, rồi từ từ đứng lên. Đại và Tài nhận ra Nhân, hai người ùa lại phía chàng và la lên:
-Đừng bắn, đừng bắn. ..
Mọi người hú vía, v́ trong rừng già, bất cứ một vật ǵ nghi ngờ lay động, vật này cũng có thể là mục tiêu để mọi người bóp c̣. Đại và Tài c̣n đeo cây Colt-45 của họ, c̣n Nhân th́ đă để cây súng P-38 của ḿnh trong tuí bay, cái tuí bay này đă nằm lại bên một b́a rừng!....
Trưởng toán Lôi Hổ là một Chuẩn Úy mới ra trường, anh Liêm xuất thân từ trường Sỹ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Gặp Nhân mọi người rất mừng, và tỏ bày ân hận là suưt nữa đă bóp c̣. Người Chuẩn Úy trưởng toán c̣n cho biết đây là chuyến nhảy toán thứ ba của anh từ ngày ra đơn vị, anh lo lắng hỏi Nhân:
-Liệu có ai đến bốc ḿnh không Trung Úy?
Nhân nh́n đồng hồ, đă 5:30 giờ chiều rồi, chàng nói:
-Các anh yên tâm. Ở nhà sẽ t́m cách bốc chúng ta ngay chiều nay.
Nhân nói như một phản ứng tự nhiên, và chàng chẳng biết sự thực sẽ được như vậy hay không?
Người trưởng toán thám sát đưa cho chàng b́nh bi-đông nước và dặn ḍ:
-Trung Úy uống từng ngụm nhỏ, và từ từ thôi, nếu không ông sẽ bị ngất xỉu đó. Chàng nhận b́nh bi-đông nước và làm theo lời của người trưởng toán, chợt Nhân nhớ ra các tiếng nổ lựu đạn, lúc năy chàng nghe khi c̣n ở trong rừng, chàng hỏi:
-Sau lúc tàu rớt khoảng 1 tiếng, tôi nghe nhiều tiếng lựu đạn nổ về phía con tàu đang hú. Các anh có nghe thấy các tiếng nổ này không? Người trưởng toán kể lại:
-Đó là tiếng lựu đạn do tụi em ném. Chúng em được lệnh phải trở lại tàu để t́m bốc Trung Úy, nhưng khi tiến gần tới con tàu, tụi em thấy có bóng bốn người đang đứng cạnh tàu, nên đă tung cả chục trái lựu đạn mini, bởi vậy Trung Úy mới bắt kịp tụi em, chứ không tụi em đă rút ra xa rồi. Nhân buột miệng:
-Th́ ra là thế!...
Mọi người tiếp tục di chuyển băng qua một ngọn đồi đầy những giây leo chằng chịt. Cả bọn cũng khá vất vả, và đang dần đi xuống dốc để đi qua một ngọn đồi khác. Chợt mọi người thấy có một con đường ṃn trước mặt. Tất cả t́m cách băng qua con đường ṃn này, các anh trong toán thám sát chuẩn bị theo lệnh của người trưởng toán, Nhân, Tài và Đại cùng bám sát theo người Chuẩn Úy trẻ tuổi này. Anh Trung Sĩ nằm núp gần con lộ nhất, từ chỗ núp anh chọi một ḥn đá ra giữa đường và chờ đợi. Mọi người đều im thin thít. Nhân quan sát con lộ, đây là một con đường đất đỏ, do
xe Công Binh đă xén núi mở đường, bề ngang con lộ đủ để hai chiếc xe cam-nhông có thể chạy ngược chiều nhau. Một bên bờ vách đất đỏ cao nghệu, c̣n bên kia là vực núi. Sau vài lần chọi đá ḍ dẩm mà không thấy một động tĩnh, cả toán bắt đầu rời chỗ núp, cùng leo lên con đường đất đỏ. Tài và Đại đi theo người thứ ba và thứ tư leo lên đường, Nhân đi theo người trưởng toán cùng người cận vệ. Anh trưởng toán cùng với Nhân leo lên bờ tường đất trước mặt, hai ngón tay Nhân c̣n đeo lủng lẳng cái b́nh bi-đông nước, chàng cố gắng bám vào các rễ cây để leo lên. Leo được 2/3 bức tường đất, Nhân làm tuột mất b́nh bi-đông nước;!... Chiếc bi đông lăn ra ở giữa lộ, phía sau lưng chàng không c̣n ai bên dưới cả. Nhân nh́n qua anh trưởng toán, anh ra dấu, đừng bận tâm nữa, Nhân gật đầu hiểu ư và tiếp tục leo lên theo người trưởng toán và anh cận vệ của anh.
Vượt khỏi bờ tường đất xong cả đoàn lại nhắm hướng Đông-Nam tiến bước. Chưa đầy 10 phút sau cả bọn phải dừng lại v́ cơn mưa lớn đang kéo tới. Mọi người chia nhau ngồi dưới các gốc cây để trú mưa, anh trưởng toán cùng ngồi chung với Nhân dưới một gốc cây to. Cơn mưa trút nước xối xả, cả bọn ngồi co quắp lại cho đỡ ướt và đỡ lạnh. Nhân nh́n những giọt nước mưa chảy dài trên các lá cây trước mặt, chàng nghĩ bâng quơ về các chuyện vừa xảy ra trước đó. Người Chuẩn Úy trưởng toán ngắt điếu thuốc Captain làm hai, trao cho Nhân một nửa và cùng châm lửa hút. Chàng rít một hơi thật dài, như thêm hơi ấm, để chống lại cái rét mướt của núi rừng. Tinh thần chàng cảm thấy sảng khoái, một thứ thú vị mà chàng không thể nào quên. Cơn mưa vẫn dai dẳng trút nước, Nhân co ro t́m hơi ấm qua nửa điếu thuốc được chia sẻ của người bạn đồng hành. Bỗng dưng có tiếng xe đang chạy bên dưới, người trưởng toán ra dấu hiệu cho cả bọn ngồi im, và cố nép sát vào gốc cây để t́m sự che chắn. Bên dưới có một đoàn xe đang chạy, đoàn xe này bỗng dưng dừng lại. Nhân nghe có tiếng súng AK lên đạn, và tiếng người quát lên vọng về phía bức tường đất nơi c̣n để lại các vết giày và chiếc bi-đông lăn ra giữa lộ. Bọn chàng ngồi co rút bên các gốc cây và không rời chỗ núp. Có tiếng AK nổ lên hằng loạt trong cơn mưa vẫn nặng hạt. Điếu thuốc đă tàn từ lúc nào trên tay chàng, Nhân ngồi cạnh người trưởng toán, chàng tin tưởng về sự đối phó của toán người trẻ này. Nhân chỉ biết sơ qua trong thời gian thụ huấn quân sự ở trường, và chưa bao giờ đụng trận để có những kinh nghiệm như các bạn trẻ này. Khi đi rừng họ rất giữ kỷ luật, và rất rành rẽ về bổn phận của ḿnh. Tài và Đại cũng bám sát theo các bạn đồng hành đầy kinh nghiệm này, trong tay thủ sẳn cây Colt-45 của ḿnh. Mười phút sau có tiếng máy xe rú ga hằng loạt súng bắn lên. Rồi đoàn xe lại tiếp tục lăn bánh, may cho bọn Nhân là bọn chúng không leo lên, lần theo dấu vết để lục soát và truy lùng. Anh trưởng toán ra dấu cho cả bọn tiếp tục hành tŕnh trong cơn mưa chiều, nhờ cơn mưa và rừng rậm nên sự di chuyển có phần an toàn hơn. Người trưởng toán đưa chiếc radio cấp cứu của anh cho Nhân và nhờ gọi máy bay, chàng vừa bật nút công tắc lên đă nghe tiếng:
- .....Yêu cầu các bạn lên tiếng nếu không chúng tôi sẽ quay về.
Nhân vội đáp lời:
-Mayday, Mayday, Mayday, Lạc Long 389 nghe bạn rơ.
Mọi người ai nấy mừng rỡ, anh Chuẩn Úy lo lắng hỏi Nhân:
-Liệu họ có bốc ḿnh ngay chiều nay không Trung Úy?...
Chàng gật đầu đáp:
-Hy vọng có chúng tôi ở đây, họ sẽ cố gắng bốc ngay chiều nay.
Chiếc máy bay L-19 đă nghe được tín hiệu của chàng, nên hỏi tiếp:
-Các bạn có thấy chiếc tàu bay nào trên không phận không? Nhân đáp lại:
-Chúng tôi đang ở bên duới, phiá cánh bên phải của anh.Nhân kêu mọi người:
-Mọi người trải các tấm panô vải màu cam lên trên các tàng cây để đánh dấu vị trí của ḿnh. Xong Nhân gọi:
-Bạn có thấy những tấm vải panô màu cam chúng tôi đánh dấu không?
-OK... Chúng tôi đă nhận ra vị trí của bạn.
Chiếc L-19 reo lên trong chiếc radio t́m cứu, Nhân nói tiếp :
-Các bạn trên L-19 cho biết chỉ thị đi!...
Nh́n con tàu như cánh chuồn chuồn trên ṿm trời chiều ảm đạm dưới cơn mưa, Nhân xót xa thương cảm cho những người bạn đang xả thân đi vào vùng binh lửa, để cứu vớt bạn đồng đội ḿnh.
-Lạc Long, yêu cầu các bạn tiến về hướng Tây 50 mét, xong rẽ phải và chờ chỉ thị kế tiếp.Nhân thấy trời sắp tối rồi, nên vội đáp :
-Lạc Long nghe năm. Nhưng tôi yêu cầu bạn bay thấp, và định hướng cho chúng tôi di chuyển th́ nhanh hơn. Bạn nghe rơ trả lời?... Sau vài phút chờ đợi, chiếc L-19 bay thấp qua đầu Nhân để chỉ hướng ra băi bốc. Mọi người cùng chạy vội theo hướng chỉ dẫn này. Băi bốc là một vùng đất khá rộng, chung quanh c̣n thấy các hố bom. Nhân và mọi người lựa một chỗ khá trống trải để làm băi đáp.
-Lạc Long, bạn cho thả trái khói để trực thăng đến bốc các bạn
-Lạc Long, nghe năm trên năm.
Người trưởng toán Lôi hổ nghe theo liền tung ra trái khói đỏ, rồi một người nữa tung thêm một trái khói đỏ khi nghe tiếng trực thăng tiến lại gần.
-L-19, chúng tôi đă đánh dấu khói đỏ tại băi đáp.
-Lạc Long, trực thăng đă thấy băi đáp. Chúc các bạn An Lành trở về.
-L-19, cám ơn sự giúp đỡ của bạn.
Nhân quay lại nh́n những người đồng hành với ḿnh, Đại và Tài bám sát kế bên, trong khi đó toán Lôi Hổ canh gác băi đáp. Nhân nh́n đồng hồ đă 7 giờ 50 tối, chỉ cần 10 phút nữa là trời sẽ tối hẳn, sẽ không c̣n sự an toàn để việc thực hiện việc t́m cứu như thế này. Nhân e ngại nh́n chiếc trực thăng đang tiến vào băi đáp chật hẹp, bên dưới nhiều cây con lô nhô chĩa ngang chĩa dọc. Chiếc trực thăng t́m cứu từ từ hạ xuống, nhưng vẫn giữ ở vị thế hovering, để cả chín người cùng leo lên: Nhân, Tài, Đại và sáu anh lính Lôi Hổ sau cùng đă lên tàu. Các anh em cơ-phi và xạ thủ trên tàu clear chung quanh để tàu cất cánh, và họ cũng không quên bắn hằng loạt đạn M60 vào b́a rừng, để uy hiếp. Nhân nh́n qua ghế lái thấy Trung Úy Nguyễn Đ́nh Minh, trưởng phi cơ và Lâm Minh Tuấn hoa tiêu phó. Khi tàu lấy được cao độ an toàn, Minh báo cáo trên vô tuyến xong rồi trao cần lái cho Tuấn. Minh nh́n mọi người tươi nụ cười hiền ḥa. Minh quay ra sau bắt tay Nhân và Chuẩn Úy Liêm trưởng toán Lôi Hổ đang đứng sau lưng ghế lái. Tàu đổi hướng đi thẳng về Pleiku thay v́ về đáp tại Kontum.
***
Miêng mang trong những kỷ niệm, Nhân quên cả thực tại, thời gian và không gian, quên cả sự hiện hữu của các hành khách trên chuyến C47 chiều nay. Bên cạnh anh cô Hoá vẫn thăm ḍ những cử chỉ và chờ đợi, rồi nàng cất tiếng:
- Anh đang miêng mang chuyện ǵ mà nét mặêt buồn vậy?...Nhân như được đánh thức trở lại với thực tại, và đáp lời cô gái:
- Tôi đă nghĩ về sự mất mát trong chiến tranh, và những chia cách của những người t́nh của “Lính”, và gia-đ́nh của họ qua một phi vụ hai tuần trước đây.
- Anh kể lại cho Hoá nghe với.
Chàng gật đầu như thoả thuận. Chàng hứa hẹn với Hoá là sẽ kể trong những ngày ghé Huế, về những kỷ niệm trong phi vụ ấy, một chuyến bay với bao hiểm nguy, đă mất đi một người bạn - một chiến hữu và một con tàu. Chiếc C47 bắt đầu giảm tốc độ và chuẩn bị để đáp, con tàu sau khi lượn một ṿng qua thành phố đă hạ cánh đáp nhẹ nhàng trên phi đạo, và đang tiến qua taxiway để vào đậu cạnh khu hàng hoá của trạm Hàng Không Quân Sự Đà Nẵng. Hành khách theo nhau xuống tàu, Nhân chợt thấy một chiếc xe pickup màu xanh Không Quân chạy ra, chàng nhận ra Trung Úy Kim, một người bạn cùng khoá 7/68 Không Quân, anh cho xe chạy gần lại. Nhân nói nhỏ với Hoá:
- Hoá chờ một chút, để tôi nhờ anh Kim đưa chúng ḿnh ra phố. Nàng gật đầu, và cố nán lại gần bên chàng thay v́ đi theo những hành khách để đi vào trong. Kim thấy Nhân cùng cô gái nên reo lên chào hỏi:
- Anh Nhân khoá 7/68 KQ đó phải không? Nhân trả lời:
- Nhân đây, Anh khoẻ không?
Kim gật đầu và nói:
- Anh chị đứng đây chờ tôi một chút nghe, để tôi ghé qua nói với phi hành đoàn, đểø cho hành khách lên, và họ sẻ bay trở về lại Sài G̣n ngay.
Nhân ghé qua Hoá nói:
- Anh Kim là bạn cùng nhập ngũ vào Không Quân, và hiện là trưởng trạm Hàng Không Quân Sự của phi trường Đà Nẵng.
Nàng cúi đầu chào:
- Hoá chào anh Kim.
Kim chào và tiến về phiá phi hành đoàn vừa xuống tàu. Nhân hỏi thăm nàng:
- Chiều nay em về đâu?
Hoá trả lời:
- Em định ghé lại nhà người bà con ở đường Phan Thanh Giản, và sáng mai em đón xe ra Huế, c̣n anh?... Chàng trả lời:
- Tôi đi thăm mấy người bạn, và hẹn gặp lại Hoá tại Huế.Hoá viết điạ chỉ của gia-đ́nh ở Huế trên tấm giấy nhỏ và đưa cho chàng:
- Đây là điạ chỉ của em ở Huế, khi anh ra Huế mời anh ghé thăm.Chàng nhận mảnh giấy nhét vào túi áo bay và nói:
- Ngày mốt anh (bổng dưng chàng đổi cách xưng hô) ghé lại được không?
Nàng trả lời:
- Dạ được, em sẽ chờ anh...Chàng hứa hẹn:
- Anh sẽ đưa em đi thăm vùng Kim-Long, Thiên-Mụ và ghé quán bánh bèo bên dưới chân đồi Thiên-Mụ.Nàng cũng không quên nhắc chàng:
- Và nhớ kể lại chuyến phi vụ làm anh buồn nữa nghe, em chờ anh đó.Nhân gật đầu và đưa tay ra – như lối bắt tay của lính – Hoá cũng đưa tay ra bắt và họ ngầm như có một thoả ước. Nhân thấy xe của Kim tiến lại gần chào nói:
- Nhân và chị lên xe, tôi đưa ra phố...
Nhân và Hoá gật đầu cảm ơn, và ngồi vào băng ghế phía trước với Kim, xong chàng lên tiếng hỏi Kim:
- Anh ở lại làm việc trể quá vậy!
Kim đáp lại:
- Anh chị biết không, giờ giấc của chúng tôi bất thường lắm, chúng tôi tùy thuộc vào phương tiện theo các chuyến bay ghé đáp và rời Đà Nẵng, để xếp đặt di chuyễn hàng hóa, quân nhân và gia-đ́nh.Kim nói tiếp:
- Tôi đă liên lạc máy và cho hành khách ra tàu rồi. Nhân thấy một xe buưt chở hành khách tiến về chiếc C47. Kim nán chờ cho đến khi các hành khách lên tàu xong, chiếc C47 đóng cửa và mở máy cất cánh lúc ấy Kim mới cho xe chạy, chàng quay qua:
- Xin lổi Nhân và chị nghe, tôi đă bắt hai người phải chờ, anh chàng cũng dí dỏm:
- Lâu quá hôm nay mới được làm tài xế cho ông bạn phi-công và chị đây!...Nhân xoay qua:
- Anh xong việc chưa? Nếu xong chúng ta ghé ra phố chơi được không anh Kim?...Kim trả lời:
- Tôi sẽ đưa anh chị đi!...
Hoá xen vào:
- Xin anh cho Hoá xuống đường Phan Thanh Giản, để hai anh chuyện tṛ lâu ngày gặp lại!...Nhân cũng phụ hoạ vào:
- Anh Kim, chắc Hoá cũng mệt với chuyến bay vưà rồi, anh chiều theo ư của cô, sau đó chúng ta đi phố.
Kim Tiếp:
- Tiếc quá, mấy khi gặp được Nhân và chị đây!...
Nhân tiếp lời cho Hoá:
- Không sao, c̣n nhiều dịp mà - phải không Hoá?...Kim cho xe rẽ qua đường Phan Thanh Giản, Hoá chỉ một căn phố gần ngă tư, Kim hiểu ư và tấp vào lề; dừng lại trước căn phố. Nàng cất tiếng:
- Hoá chào tạm biệt; hai anh đi chơi vui nghe, Hoá chào anh Kim...
Nhân vói tay qua mở cửa xe, Nàng và Nhân bước xuống. Nàng quay qua Nhân:
- Ngày mốt em chờ anh tại nhà mẹ em ở Huế, anh nhớ nghe?...
Nhân gật đầu, đưa tay ra bắt, cô nàng cũng đưa tay ra bắt và siết nhẹ với đôi mắt long lanh, và nụ cười hiền hoà. Chờ cho cô gái khuất vào trong nhà xong, Nhân lên xe, Kim cho xe chạy ra bến Bạch Đằng và đậu bên một quán cặp bờ nước. Hôm ấy cả hai đă có dịp chuyện tṛ về những buồn vui của đời lính, về thân phận của ḿnh trong từng vị trí hiện hữu, Kim cũng kể lại những cảm nghĩ vui buồn, và nhất là
những mất mát mà anh đă chứng kiến trong những trận pháo kích vào phi trường vào đơn vị của anh. Hôm nay gặp lại bạn cũ họ đă vui tạm qua một chầu rượu, đễ rồi sau đó ai nấy trở lại với thực tại, với bổn phận và trách nhiệm của ḿnh.
***
Trong hơi men Nhân nh́n ra bờ nước nơi những ánh đèn chập chờn, chàng lại đắm vào những miêng mang của phi vụ hiểm nguy trước đây, nh́n qua bóng đêm nơi xa kia là dảy Trường Sơn, phiá xa xa thành phố nhà nhà đă lên đèn. Trên trời cao những v́ sao đă lấp lánh, bên dưới là dăy Trường Sơn, với những bờ rừng âm u đang ch́m khuất trong bóng đêm đen như mực. Nhân vẫn không tưởng tượng được phi vụ hiểm nguy ấy là có thật. Trung Úy Phan Văn Phương đă vĩnh viễn nằm lại dưới cánh rừng âm u kia. Ở Sàig̣n, vào lúc này, vẫn c̣n một cô giáo đang chờ đợi Phương trở về, với lời ước hẹn sẽ cùng xây tổ ấm nơi phố thị vào dịp hoán chuyển cuối năm. Giờ đây người Không quân tác chiến này không bao giờ thực hiện được lời ước hẹn này với cô!... Chiến tranh và số mệnh đă lấy đi tất cả những ước hẹn của Phương và một cô giáo đang mong chờ Phương. Chiến tranh cũng đang thản nhiên lấy đi một người bạn hiền của Nhân, và đang đổ sự tang tóc oan nghiệt đến gia đ́nh Phan Văn Phương!.... Trung uư Phan Văn Phương b́nh thản, xuôi tay trong con tàu của ḿnh, sau một phi vụ không hề biết trước được lúc kết thúc. Phan Văn Phương để lại sinh mạng của ḿnh ở chiến trường Tây Nguyên, như bao anh hùng của thời đại, Nguyễn Đ́nh Bảo, Nguyễn văn Đương, và nhiều người khác nữa ... Những anh hùng không tiếc một điều ǵ cho đất nước, cho dân tộc, cho những chiến tích muôn đời nơi vùng biên giới này. Nguyện cầu cho Phan Văn Phương sẽ hoá thành một loài chim trên ṿm trời xanh thật an b́nh. Nơi vùng trời này sẽ không c̣n hận thù, không c̣n những nổi niềm đau xót về đất nước, về thân phận con người, về số phận quá mong manh trước chiến tranh và bom đạn điêu linh.
Phan Minh
hoanglan22
02-16-2019, 15:07
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1341947&stc=1&d=1550329610
Hiệp định Ba Lê được kư kết vào ngày 27/1/1973. Trước giờ ngưng bắn cả ta và địch đều tung ra những cuộc tấn công để lấn đất. Bộ Tư lệnh Sư đoàn, theo tôi nghĩ, để có yếu tố bất ngờ, các Lữ đoàn đều nằm yên tại chỗ, kể cả các tiểu đoàn, chỉ thành lập một Bộ chỉ huy nhẹ do Đại tá Nguyễn Thành Trí chỉ huy. Hai lực lượng tấn công bằng 4 đại đội Thủy Quân Lục Chiến tùng thiết 2 Thiết đoàn hỗn hợp từ M48 đến M41 và thiết vận xa M113. Pháo tiểu đoàn 3 yểm trợ với 2 pháo đội I và K cùng 4 khẩu 155 ly. Lần đầu tiên pháo binh có cánh A, cánh B. Tôi đích thân chỉ huy cánh A bên cạnh Bộ tư lệnh nhẹ Sư đoàn. Hai pháo đội 1O5ly, xe kéo pháo chạy trên cát không khó khăn, chiếm vị trí khi trời vừa tối. Riêng pháo đội 155 ly sa lầy trên băi cát sát mặt nước, tôi phải mượn một xe M113 mới kéo nổi vào vị trí lúc nửa đêm. Địch quan sát đă nhận ra vị trí chúng tôi, chúng pháo 13O rót xuống, nhưng trái ngắn rơi vào đồi cát, trái dài ra xa ngoài biển cả trăm mét, ngày mai chúng tôi sẽ vớt được cá để ăn. Pháo như đă hết tầm nên tản đạn thật nhiều và chúng tôi vô sự.
Hai quân nhân Mỹ thuộc toán hải pháo tới giúp tôi gọi pháo trận cuối cùng. Theo phóng đồ hỏa tập, hải pháo sẽ tiêu thụ 5 ngàn trái và pháo binh sẽ bắn 1O ngàn trái vừa 1O5 vừa 155 ly. Ngoài ra sẽ có 9 màn B52 đổ xuống vùng Cửa Việt, mục tiêu chính của cuộc hành quân này trước giờ ngưng bắn. Lạng Sơn đă nói riêng với tôi là sẽ xữ dụng pháo tối đa và ít dùng không quân, lư do pháo có thể yểm trợ nhiều cánh quân cùng một lúc. Dùng không quân chỉ đánh một mục tiêu mà pháo phải ngưng tất cả. Tôi được tăng cường hỏa lực của tất cả các pháo đội thưộc tiểu đoàn 1 và 2 pháo binh, trong tầm tác xạ. Ba tiểu đoàn pháo bắn quấy rối dọn đường suốt đêm. Hải pháo của chiến hạm bắn liên hồi, ánh lửa lóe lên hàng chục cây số chiều dài ngoài khơi. Hàng ngàn tiếng vang dội vùng Cửa Việt. Lũ con cháu bác Hồ đêm nay chui sâu xuống cát mà chịu pháo. Xa xa tiếng bom B52 dội xuống vang động một góc trời. Tôi thầm nghĩ, với số bom và pháo thế này, ngày mai quân ta sẽ chiếm Cửa Việt dễ dàng...
Tờ mờ sáng, nghe tiếng máy nổ của đoàn chiến xa, tôi lấy ống nḥm leo lên một đồi cát cao để nh́n cho rơ. Thật đẹp và hùng tráng biết bao ! Hàng mấy chục chiến xa dàn đội h́nh tấn công vừa bắn vừa tiến nhanh, lính Thủy Quân Lục Chiến tùng thiết súng cầm tay, hàng hàng chạy dài, đẹp như phim chiếu bóng. Trong ánh b́nh minh vừa ló dạng, tôi như say v́ mùi khói pháo, v́ tiếng nổ, ánh lửa và cát bụi mịt mù... Chỉ 15 phút sau đoàn chiến xa đă khuất trong những đồi cát, tôi vào trung tâm hành quân theo dơi cuộc tiến quân đă được báo cáo ghi trên bản đồ.
Tin tức cho biết cuộc tấn công diễn ra tốt đẹp, hàng chục chốt bị nhổ, một số hàng binh đang được áp giải về hậu tuyến, cả chục nữ cán bộ Cộng sản bị bắt, rất nhiều vũ khí bị tịch thu... Tôi bỗng nghe tiếng chửi thề trên máy truyền tin:
- Đang bắn sao lại ngưng ?
- Thượng liên nó cản đường tiến quân.
- Bị mưa nặng quá chờ ngớt chút đă.
Tôi vội cầm ống nói:
- Kinh đô, đây Hà Nội, ông làm ơn ra khỏi hầm, bảo chúng nó vào chỗ bắn, mưa kệ nó. Tôi lên thăm ông bây giờ đây.
Hai phút sau, tôi nghe tiếng pháo khởi hành:
- Đạn đi nghe rơ trả lời.
Ra khỏi hầm Trung tâm Hành quân, tôi nh́n về hướng pháo đội, quả đang bị pháo kích. Địch phản pháo dọc theo bờ biển, nhưng hỏa lực thưa thớt không gây tổn thất nhiều. Tôi lên xe đi thăm cả 3 pháo đội. Tất cả sĩ quan và binh sĩ đều như nao nức băn khoăn với cái lệnh ngưng bắn vào 8 giờ sáng ngày mai. Tôi cũng chưa biết những ǵ sẽ xảy ra vào sáng mai, nhưng giờ đây các đơn vị đang chạm súng, hăy lo bắn yểm trợ cho tṛn nhiệm vụ, gọi hậu trạm chở thêm đạn cho đêm nay. Dù cho ngưng bắn vẫn phải có một đơn vị hỏa lực sẵn sàng. Về lại Trung tâm Hành quân, Trung úy Dũng vẫn đang theo dơi các tiền sát trên hệ thống truyền tin:
- Ḿnh có 2 pháo đội mà 4 ông tiền sát yêu cầu tác xạ, chia cho một trung đội chê ít !
- Dũng đi ăn cơm để tôi gọi tiểu đoàn 1 và 2 Pháo binh tăng cường.
Tôi đổi tần số qua gọi Đoàn Trọng Cảo, chỉ huy pháo 1:
- Can Trường, Hà Nội gọi, cho tôi mượn tạm một đứa con ngay đi.
- Hà Nội, tăng cường cho Hà Nội Alpha, nó sẽ qua số nhà Hà Nội nhận lệnh.
Tạm dứt với Can Trường, trở về tần số cũ tôi đă nghe tiếng gọi của pháo đội A:
- Hà Nội, Alpha gọi.
- Alpha đây Hà Nội, bạn xuống 2 để nuôi ăn cho 33, nhận rơ.
- Alpha nhận rơ, sẽ thi hành.
Tôi nhận thấy cuộc tấn công buổi sáng có chiều phấn khởi, th́ trưa Cộng quân đă phản ứng chống trả mănh liệt trên một tuyến rộng, khiến đà tấn công chậm hẵn lại, khó mà chiếm được căn cứ Cửa Việt chiều nay.
Dũng vào cho tôi hay có một số tù binh mới giải về tới, mấy o con gái cười nói, họ coi chuyện bị bắt cũng như đi dạo, không có vẻ ǵ sợ hăi cả. Cho uống coca, chê đồ của Mỹ không uống, đồ hộp cũng không ăn, chỉ ăn chút cơm sấy và uống nước lạnh. Tôi nh́n ra, đúng như lời Dũng nói, đám giặc cái cười đùa với nhau như trêu gan mấy anh Thủy Quân Lục Chiến quá trẻ đang canh giữ họ. Tôi nói với Dũng tôi đi ngủ một lát, có thể đêm nay sẽ phải thức trắng đêm.
Khi tôi thức giấc th́ trời đă tối, tiếng pháo ta bắn đi ầm ầm, cho biết các pháo đội vẫn phải thay nhau bắn yểm trợ. Cả ngày hôm nay phi cơ chỉ xuất trận có vài lần. Bây giờ là lúc pháo binh phải vất vả suốt đêm. Đoàn xe tiếp tế đạn đă vào đến các vị trí pháo đội, đạn đủ bắn cả đêm.
V́ chưa chiếm được đồn Cửa Việt nên có lệnh tấn công. Tất cả các cánh quân đều đánh đêm để yểm trợ cho mũi đánh vào căn cứ Cửa Việt. Phi cơ soi sáng chưa lên vùng, tôi gọi anh Mỹ liên lạc hải pháo yêu cầu bắn đạn soi sáng. Nh́n về phía biển Bắc, những trái hỏa châu xa ngoài khơi cả cây số. Trung úy Dũng lôi anh Mỹ ra ngoài hầm, yêu cầu điều chỉnh. Anh ta “sorry” và nói như căi nhau với ai ngoài chiến hạm.
Đêm nay, hải pháo bắn thật nhiều, đêm cuối cùng nên mấy anh thủy thủ Mỹ bắn hết đạn cho nhẹ tàu. Pháo của Thủy Quân Lục Chiến cũng tác xạ hết mục tiêu này đến mục tiêu khác. Tất cả tiền sát viên tiền tuyến đều yêu cầu tác xạ. Có anh như say khói pháo, mỗi lần xin cả trăm tràng bắn hiệu quả, trăm tràng là 6OO trái, 3 xe GMC mới chở hết ! H́nh như có một cái ǵ thay đổi ở ngày mai, nếu ngưng bắn thực sự th́ cũng nên bắn cho hết đạn, nhưng làm sao tin được Cộng sản ? Ba tiểu đoàn pháo binh 1O5 ly và 12 khẩu 155 ly cùng tác xạ dữ dội, nhưng bắn hết đạn th́ không. Kể từ ngày Cộng sản khởi sự tấn công tràn qua vĩ tuyến, các pháo đội tác xạ luôn luôn có trên 3 đơn vị cấp số đạn đủ loại. Hầu như tất cả các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến đều chạm địch. Ta không đánh lên th́ địch cũng lấn xuống, mà địch lấn xuống nhiều hơn. Ta chỉ có một mục tiêu đồn Cửa Việt mà lúc này vẫn chưa đánh được. Khi ánh b́nh minh vừa ló dạng, nh́n ra cửa hầm mới biết ḿnh thức trắng đêm mà không hay. Giờ tôi mới cảm thấy mệt không mở mắt được nữa. Tôi chỉ nói được câu: “Dũng trực máy, có ǵ gọi tôi dậy”, rồi ngả ḿnh xuống ghế bố thiếp đi.
Tám giờ sáng ngày 28/1/73 giờ ngưng bắn, người gọi tôi dậy là Thiếu tá Hart, cố vấn của tôi. Khi tôi ngồi dậy, nh́n tôi với vẻ mặt thật buồn ông nói:
- Chúng ta phải chia tay bây giờ, 1O phút nữa trực thăng sẽ tới đón tôi và toán hải pháo.
- Chúc bạn về b́nh an.
Tôi nắm chặt tay Hart. Đưa cho tôi con dao Thủy Quân Lục Chiến Hart nói:
- Tôi chỉ có cái này, ông giữ làm kỷ niệm.
Chiếc trực thăng xà xuống bốc Hart và 2 người thuộc toán hải pháo rồi bay nhanh ra biển. Ngoài khơi, hạm đội Hoa Kỳ đă quay mũi về hướng mặt trời mọc. Bây giờ tôi mới nhận thấy sự im lặng trên khắp mặt trận. Các binh sĩ t́m cột để cắm cờ, hàng trăm lá cờ đủ mọi cở mọc lên trên những miệng hầm. Nh́n đồng hồ mới 8 giờ 15, vừa lúc đó Trung úy Dũng gọi tôi. Tiền sát viên xin tác xạ, địch vi phạm lệnh ngưng bắn, đang tăng cường chiến xa đánh vào căn cứ Cửa Việt, quân ta đă phải chạy ra ngoài. Sư đoàn cho lệnh bắn. Chúng tôi mới thực sự ngưng bắn có 2O phút thôi.
Pháo đội K đóng phía Nam báo cáo địch cắm cờ Mặt trận giải phóng cách vị trí có 3OO mét, nhưng địch không khiêu chiến mà giơ tay vẫy chào. Tôi chỉ thị cho Trung úy Vinh hạ 2 khẩu sẵn sàng trực xạ nếu địch nổ súng. Khẩu đại liên 5O cũng hướng về địch chuẩn bị và tăng cường vọng gác.
Khoảng 1O giờ sáng ngày ngưng bắn có hiệu lực, th́ việc lấn đất dành dân của Cộng sản bắt đầu. Bên ta cũng phải đuổi những chốt của Cộng quân nằm sâu sau tuyến pḥng thủ . Phía mặt trận Cửa Việt, các đơn vị Cộng sản cứ từ từ tiến sát tuyến quân ta. Chưa có lệnh nổ súng từ cấp cao, quân ta cứ lùi dần, và không rơ có lệnh chính thức hay chưa, quân ta cũng phải nổ súng không cho địch tiến lại gần. Các tiền sát viên lại thi nhau xin tác xạ. Suốt đêm không ngủ, vừa chợp mắt hơn giờ đồng hồ, pháo thủ lại phải vác đạn nạp vào ṇng. Tiếng pháo bắn đi từ nhiều pháo đội, nhưng tiếng pháo Cộng quân thật là thưa thớt, chắc v́ tiếp vận không kịp. Riêng đạn của chúng tôi c̣n dự trữ hàng mấy chục ngàn trái, bắn cả tháng vẫn không hết.
Địch dồn áp lực thật mạnh phía căn cứ Cửa Việt, buộc quân ta lui dần, nhiều binh sĩ đă về đến vị trí của pháo đội I. Tôi đang tính cho pháo đội I lui về th́ có tiếng gọi xin tác xạ của một sĩ quan tiền sát tiểu đoàn 1 Pháo binh, nh́n trên bản đồ tôi nhận thấy anh đang đứng giữa vùng địch, quân bạn đă lùi về phiá Nam cả cây số. Tôi vội lên máy gọi anh:
- Anh Dũng, đây Hà Nội, bạn bè lui cả rồi sao bạn c̣n ngồi đó ?
- Đ.M tụi nó đông quá, Đại bàng bắn gấp cho tôi, càng nhiều càng tốt.
Tôi không nói ǵ thêm, chú em này hơi mát, đă chửi thề trên máy, chứng tỏ t́nh h́nh nguy hiểm. Tôi ra lệnh cả 3 pháo đội dồn hỏa lực cho anh, nếu không địch tràn lên anh sẽ bị bắt sống. Địch ngừng tại đó, và chỗ đó sau này là làn ranh chia đôi chiến tuyến. Chiều tối, nh́n đoàn chiến xa sáng hôm qua hùng dũng bao nhiêu, tối nay chạy về chiếc nọ kéo chiếc kia, lác đác vài chiếc chạy dọc theo bờ biển, trông thật thảm hại.
Sáng hôm sau, Bộ chỉ huy tiền phương và các pháo đội lùi về phía Nam 5 cây số. Bây giờ pháo đội K ở cao nhất, khó chịu nhất là Cộng sản chỉ cách vài trăm mét với lá cờ Mặt trận giải phóng thật to, to hơn những lá cờ vàng 3 vạch đỏ. Đứng ở đó, tôi nh́n rơ lính Cộng ca hát, vẫy tay chào, có cả vài đứa con gái. Ba hôm sau , được lệnh phải nhổ cái chốt này, pháo đội K đă trực xạ hơn trăm trái. Không biết mấy đứa con gái trẻ đó có chạy kịp không hay lại chôn thây trong những cồn cát trắng cho trọn lời thề “Sinh Bắc Tử Nam” ?
Những trận đánh nhỏ để lấn đất, thực ra để nhổ đi những chốt nằm thế da beo khó pḥng thủ, kéo dài cả tháng sau mới dứt. Sau này tôi được biết đă có những dàn xếp âm thầm giữa ta và địch cho bớt đổ máu.
Trận đánh Cửa Việt coi như trận đánh cuối cùng trong đời pháo thủ của tôi. Tháng giêng năm 1974, tôi về giữ chức vụ chỉ huy Pháo binh Sư đoàn, thay cho Trung tá Nguyễn Văn Trước giải ngũ. Cuối năm đó, bị thất sủng (mượn lời Trung tướng Nguyễn Đức Thắng nói với tôi ngày 29/4/75 tại số 1 đường Bạch Đằng “Ḿnh bị thất sủng, th́ ḿnh đi") tôi về phụ tá cho ông Hai Chùa ở pḥng thanh tra Sư đoàn. Tôi không tham dự những trận đánh cuối cùng của Thủy Quân Lục Chiến.
Tháng 3/75 tiểu đoàn 2 pháo tan hàng cùng Lữ đoàn 147 ở băi biển Thuận An, và ông Đạt chỉ huy trưởng pháo binh, đốt luôn 2 tiểu đoàn 1 và 3 ở Đà Nẵng... Sau 3O/4/75 hầu hết các sĩ quan pháo binh Thủy Quân Lục Chiến đi tù cải tạo, kể cả Đặng Bá Đạt, lẽ ra có thể cùng di tản với Bộ tư lệnh Sư đoàn. May mắn tôi và vài sĩ quan cấp nhỏ đi thoát trên đoàn tàu Hải quân di tản ra Côn Sơn lúc một giờ sáng ngày 3O/4.
Giờ đây nơi xứ người, tôi vẫn nói đùa với các con tôi:
- Bố không thua, trong đời lính của bố, bố chưa thua trận nào cả.
- Không thua sao bố chạy sang Mỹ ?
- Bố không thua v́ trận cuối cùng bố không tham dự.
Thằng cháu ngoại 5 tuổi cũng chen vào nói:
- You win, you never lose.
MX Trần Thiện Hiệu
hoanglan22
02-16-2019, 15:18
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1341948&stc=1&d=1550330233
Thiếu úy Nhảy Dù Lê Anh Thái tử trận khi tái chiếm cổ thành Quảng Trị 1972. Khi được đơn vị giao hoàn xác con, người cha là Lê Anh Tuyến đă t́m thấy một lá thư viết gởi bạn chưa kịp gởi trong những di vật c̣n lại của con. Ông đă phổ lá thư đó thành bài thơ sau đây có tựa đề là : LÁ THƠ PLEIME v́ thiếu úy Lê Anh Thái đă viết từ khi c̣n ở Pleime cho đến khi chuyển quân đến Quảng Trị vẫn chưa kịp gởi.
"Mày nghĩ, tụi ḿnh như cánh gió
Ai đi nhốt gió được bao giờ ! “...
LÁ THƯ PLEIME
Tao được thơ mày cả tháng nay
Hành quân liên tiếp suốt đêm ngày
Lưng không rời giáp, tay rời súng
Liên lạc th́ không có máy bay
Tao vẫn luôn luôn nhớ tụi mày
Nhớ Sài G̣n đẹp nắng vàng hây
Nhớ đường Lê Lợi ngập hoa nắng
Nhớ ngơ Tam Đa tà áo bay
Pleime suốt tháng mưa dầm dề
Mày ơi, thèm quá khói cà phê
Thèm tô phở tái thơm chanh ớt
Thèm rót bọt đầy một cốc bia
Sài G̣n mày vẫn xem phim chưởng?
Băng nhựa c̣n thu nhạc Khánh Ly?
Những chiều thứ bảy c̣n đi nhót?
Hay lén ông già nhậu whisky?
Hôm qua thằng Tiến dẫn quân ngang
Giữa rừng gặp bạn mừng hơn vàng
Ôm nhau, hai đứa cười ha hả
Râu tóc bù xù như cái bang
Mày nghĩ, đă lâu không được tắm
Hành quân liên tiếp giữa rừng già
Ăn th́ gạo sấy nhai qua bữa
Tối ngủ nằm sương lạnh cắt da
Hôm qua địch pháo giữa ban ngày
Tao bị thương xoàng ở bả vai
Mảnh đạn c̣n ghim trong thớ thịt
Mày đừng có nói mẹ tao hay
Mẹ tao chỉ muốn tao quanh quẩn
Lính kiểng châu thành, lính phất phơ
Mày nghĩ, tụi ḿnh như cánh gió
Ai đi nhốt gió được bao giờ?
Những đêm biên cảnh sống xa nhà
Cũng thấy đôi lần nhớ xót xa
Cũng có đôi lần tao muốn khóc
Muốn về thăm mẹ... thế nhưng mà...
Thôi nhé, thư sau tao viết tiếp
Trực thăng đă đáp trong ṿng đai
Tản thương lính đă đưa lên đủ
Tao viết thơ này vội gởi ngay.
Lê Anh Tuyến
hoanglan22
02-16-2019, 16:20
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1341950&stc=1&d=1550333972
Ngồi trên chiếc xe díp tuần pḥng căn cứ, Trung Tá Tựu thấy chiếc C130 bay lướt qua đầu ḿnh đáp xuống phi đạo, anh ra lệnh cho người tài xế ngừng xe lại để quan sát, chiếc phi cơ đang ngừng lại ở cuối phi đạo sát với ṿng đai phi trường. Cửa hậu của phi cơ được mở ra, một đám đông khoảng ba bốn chục người tay mang hành lư tràn qua băi cỏ phóng lên phi cơ. Cửa phi cơ được đóng lại, bốn cánh quạt cùng với hệ thống bán phản lực rít lên, phi cơ lao về phía trước rồi bốc minh rời khỏi phi đạo. Tựu đứng thẳng người, cánh tay giơ lên ra lệnh cho người xạ thủ vào vị thế chờ khi phi cơ vào đúng tầm đạn của khẩu đại liên. Nét mặt người xạ thủ đanh lên, anh cắn chặt môi đến bật máu, trên trán lấm tấm những giọt mồ hôi, ngón tay run run đặt lên c̣ súng sẵn sàng nhả đạn. Phi cơ bay ngang qua đầu nhưng Tựu vẫn đứng bất động, người xạ thủ ngước mắt nh́n “Ông Thầy” đợi lệnh để khai hỏa. Phi cơ bay lên như cố gắng nâng cao độ “climb” rồi từ từ biến ḿnh sau đám mây mù dầy đặc trên bầu trời của quê hương vào lúc những ḍng sử bi hùng của cuộc chiến đang từ khép lại…. Tựu buông một tiếng thở dài, vỗ vai người tài xế nói: “- Thôi ḿnh đi về”.
Sau bao năm theo “Thầy” đi hành quân ngoại biên, anh tài xế hiểu rơ “Ông Thầy” của ḿnh hơn ai hết. Từ những cuộc hành quân vượt đỉnh Trường Sơn, tới những lần xâm nhập mật khu của địch, anh luôn luôn để toát ra một phong độ hào sảng của một tráng sỹ nơi biên cương quan tái chốn xa trường. Cuộc sống của anh là cuộc sống của những người con yêu sẵn sàng hy sinh thân ḿnh cho đại cuộc. Mỗi bước chân của anh in đậm những ḍng thơ đầy tính nhân bản, trên những trang quân sử bi hùng và lăng mạn của dân tộc…Sự quyết định của anh ngày hôm nay có thể là đúng và cũng có thể là sai, nhưng chắc chắn đó không phải là sự quyết định của lư trí mà là sự quyết định của con tim…C130 một cái tên nghe quen thuộc và cũng rất thân thương. Trong những lần làm việc với C130, anh ít tiếp xúc với phi hành đoàn mà chỉ biết họ qua “tần số”. Từ những phi vụ thả toán, đến những phi vụ “bốc” thông điệp và bốc “hàng sống”. anh coi chiếc C130 như một người bạn thân thiết nhất của anh, làm thế nào anh có thể bắn hạ nó, cho dù có phải đánh đổi lấy những h́nh phạt nặng nề nhất của quân đội dành cho anh. Nghĩ như vậy anh thấy ḷng ḿnh thanh thản hơn…Cuộc chiến này rồi cũng có lúc phải kết thúc, kết thúc như thế nào th́ anh chưa biết, lệnh từ Nha Kỹ Thuật là phải bảo vệ sân bay để sẵn sàng cho cuộc triệt thoái toàn bộ của quân đội...
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 miền Nam thất thủ, quân đội miền Bắc tràn qua vĩ tuyến 17 tiếp thu miền Nam và thủ đô SàiG̣n. Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa tự giải thể, nhân dân miền Nam t́m đường thoát ra nước ngoài xin tị nạn chính trị đẻ tránh sự trả thù tàn độc của Cộng Sản …Sau 20 năm nội chiến, một cuộc chiến tàn bạo nhất trong lịch sử chiến tranh của nhân loại ở thế kỷ thứ 20 này. Lằn ranh chia cắt đă được xóa bỏ, và Việt Nam trở thành một nước theo chế độ Cộng Sản. Nhưng cũng kể từ đó người dân miền Nam sống trong cảnh tối tăm , u ám với một tương lai mù mịt…Hàng trăm những trại tù, những vùng kinh tế mới được dựng lên để giam giữ hành hạ và cướp bóc vơ vét tài sản của dân miền Nam. Thảm cảnh vợ con của Nguỵ Quân, Nguỵ Quyền ( tiếng của cộng sản ) bị cưỡng bức bởi những kẻ có quyền thế của chế độ mới đă làm cho người dân miền Nam càng thêm tủi hổ…Vết thương đời ngày đêm rỉ máu. ..Bây giờ th́ đă hơn nửa thế kỷ trôi qua , cuộc nội chiến đầy hận thù tàn bạo cũng đă chấm dứt, không c̣n những tiếng bom nổ đạn bay, những xác người gục ngă giờ đậy cũng đă tan biến vào với cát bụi để biến thành chất tố để vun xới cho rừng cây xanh lá cho những khóm hoa trổ sắc vàng tươi và cái c̣n lại là cái “hào khí” của những anh hùng liệt nữ, những người đă nằm xuống mà không bao giờ được thấy cái thành bại của cuộc chiến ḿnh đă tham dự, cái hào khí đó đang nằm trong những trang “Quân Sử” để tấu lên những “Điệp Khúc” cho bản “Trường Thiên Anh Hùng Ca” bất hủ của dân tộc…
Bây giờ th́ đă hơn nửa thế kỷ trôi qua, những người “Tị Nạn” tham dự cuộc chiến ngày nào cũng đang kề cận với những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời, nhưng mỗi lần lật qua những trang chính sử của dân tộc th́ cái hào khí “Đông A” của những người trai thế hệ “ Mầu Tím Hoa Sim” của một thời chinh chiến ấy lại bùng lên để dệt thành những ḍng sử mới cho thế hệ ngàn sau chiêm ngưỡng…
20 năm sau ngày 30 tháng Tư oan nghiệt, tôi tất bật ngược xuôi làm kiếp chim trời xa tổ trên những nẻo đường xa lạ, tôi có dịp ghé thành phố San José, tôi điện thoại cho Tướng Minh xin được đến thăm ông. Nhận ra tôi ông mừng lắm, ông nói ông rất thích những bài viết của tôi trong mục “Đem tâm t́nh nói chuyện với lịch sử”, rồi ông nói với tôi để ông gọi cho Phan Vũ Điện tổ chức một tiệc rượu bỏ túi và mời một số anh em Không Quân đến nhà Điện để hàn huyên tâm sự…Trong lúc nói chuyện Điện kể lại chuyến bay nghẹt thở trong lúc cất cánh từ phi trường Long Thành, Chiến nói: “ Trong cuộc đời bay bổng, bao nhiêu lần vào sanh ra tử, nhưng chưa bao giờ anh cảm thấy hồi hộp và căng thẳng như lúc bay ngang tầm súng đại liên trên chiếc xe díp pḥng vệ phi trường, lúc bấy giờ toàn thân anh như tê dại, miệng thầm đọc kinh “Đức Mẹ” hằng cứu giúp và “Quan Thế Âm Bồ Tát”…Khi phi cơ lên đến cao độ b́nh phi, thẳng đường lấy hướng đi Singapor anh mới hoàn hồn…Tướng Minh ngồi trầm ngâm nói: “ĐM…Cuộc đời thật là “Vô Thường” không biết đâu mà lường trước được…”
Bẵng đi một khoảng thời gian sau, tôi có dịp gặp lại Tựu, người bạn cũ từ thủa c̣n mài đũng quần trên ghế nhà trường. Chung nhóm với Trịnh Đức Tự, Đào Văn Năng…Chúng tôi cùng xin đầu quân vào Quân Chủng Không Quân. Tôi và Tự qua khỏi ṿng khám tổng quát, được đi tiếp, c̣n Tự và Năng phải ở lại để đi theo con đường “định mệnh “ riêng của đời ḿnh…V́ tính đa năng của Không Quân, thỉnh thoảng tôi vẫn được gặp họ, nhất là Tựu, trong những lần hành quân trên Bắc Thái…Chúng tôi yểm trợ cho Tựu “bốc” những toán Biệt Kích Dù trên đất Bắc…Ngồi nói chuyện trong buổi tiệc cưới của cô cháu gái Thanh Hà, nữ ca sĩ duyên giáng nổi tiếng nhất của cộng đồng người Việt tại hành phố Raleigh, thuộc tiểu bang North Carolina. Sau khi nâng ly mừng cho Cô Dâu và Chú Rể được bay cao và bay xa trong ṿm trời của yêu đương hạnh phúc, Tựu nói với tôi : “- Trong cuộc sống hiện tại, có những chuyện ngày xưa mà bây giờ nghĩ lại tôi vẫn tưởng chừng như mới xẩy ra ngày hôm qua…Gương mặt Tựu chùng xuống ch́m vào một vùng kư ức nhạt nḥa những h́nh ảnh của một thời…Tựu nói :’- Nếu sáng hôm ấy tôi ra lệnh cho người xạ thủ khai hỏa th́ chắc chắn chiếc C130 sẽ bốc cháy và nổ tung trên bầu trời, th́ suốt cuộc đời tôi sẽ không lúc nào được hưởng những giây phút thanh thản như ngày hôm nay…và biết đâu tôi lại chẳng theo hai người bạn trong một tai nạn xẩy ra cho 3 người chúng tôi trong toán kiểm tra chương tŕnh xây cất của tập đoàn “Trump Tower” ở Miami, FL. về một cơi vô h́nh nào đó rồi…Tôi nói với anh :”- Cuộc đời thật là vô thường, nếu nói theo tinh thần “Thập Nhị Nhân Duyên” trong Phật Giáo th́ đó là cái nghiệp của chúng sinh, không ai thoát khỏi…Tôi biết người lái chiếc C130 ngày hôm ấy, anh ta đang định cư ở San José, người đầu sông, kẻ cuối sông, nay bắc nhịp cầu “Ô Thước” để nhâm nhi ly rượu “tri kỷ tương phùng như sương khói…” chắc là sẽ thú vị lắm đấy. Tựu trầm ngâm, giọng nói như tan loăng vào khoảng không vô tận :”- Thôi…cứ để chuyện đó nằm yên trong qúa khứ, nhắc đến chỉ làm cho cuộc sống càng thêm sáo trộn…” Tôi nâng ly ngửa cổ uống cạn ly rượu như cảm thông cùng câu nói đầy chất “thiền” của Tựu.
Trần Ngọc Nguyên Vũ
Đôla Trăm
02-17-2019, 21:09
Ḿnh có ư kiến nhỏ là bác HL nên làm 1 cái mục lục ngay tại trang đầu và update thường xuyên ,để người đọc dễ t́m những bài ḿnh muốn đọc ,hay muốn đọc lại hoặc post bài ḿnh thấy hay mà không sợ bị trùng .Giống như ḿnh khi tính post bài nào ḿnh cũng phải mở lại từ trang đầu ,coi tới trang cuối để biết bài đó bác hay có ai đă post rồi hay chưa .
Thí dụ :
Trận M'Drack của Lữ Đoàn 3 Dù
Một trận chiến 44 năm về trước
Niềm hănh diện và tự hào BCD -Lê Đắc Lực
Tử Thần Trong Cụm Lục B́nh - Nguyễn Đ́nh Sài
http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507
Bán tiểu đội Biệt Kích Dù và trận đánh chớp nhoáng sau lệnh đầu hàng 30.04
An Lộc chiến trường đi không hẹn- Hổ Xám Phạm Châu Tài
http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=3
hoanglan22
02-18-2019, 02:30
Ḿnh có ư kiến nhỏ là bác HL nên làm 1 cái mục lục ngay tại trang đầu và update thường xuyên ,để người đọc dễ t́m những bài ḿnh muốn đọc ,hay muốn đọc lại hoặc post bài ḿnh thấy hay mà không sợ bị trùng .Giống như ḿnh khi tính post bài nào ḿnh cũng phải mở lại từ trang đầu ,coi tới trang cuối để biết bài đó bác hay có ai đă post rồi hay chưa .
Thí dụ :
Trận M'Drack của Lữ Đoàn 3 Dù
Một trận chiến 44 năm về trước
Niềm hănh diện và tự hào BCD -Lê Đắc Lực
Tử Thần Trong Cụm Lục B́nh - Nguyễn Đ́nh Sài
http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507
Bán tiểu đội Biệt Kích Dù và trận đánh chớp nhoáng sau lệnh đầu hàng 30.04
An Lộc chiến trường đi không hẹn- Hổ Xám Phạm Châu Tài
http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=3
:handshake::thankyou : Mấy Bác cho ư kiến hay . Lúc trước ḿnh tính làm mục lục vần A tới Z . chỉ cần nhấn vào thứ tự sẽ nhảy bài đó lên . Nhưng ḿnh thử hoài mà không được Bác nào biết cách chỉ dùm cho ḿnh với:hafppy::hafppy:: hafppy:
Đôla Trăm
02-18-2019, 03:35
:handshake::thankyou : Mấy Bác cho ư kiến hay . Lúc trước ḿnh tính làm mục lục vần A tới Z . chỉ cần nhấn vào thứ tự sẽ nhảy bài đó lên . Nhưng ḿnh thử hoài mà không được Bác nào biết cách chỉ dùm cho ḿnh với:hafppy::hafppy:: hafppy:
Vấn đề ở đây là do một trang có nhiều bài viết ,nên sắp xếp theo thứ tự nó không hoàn hảo như khi mỗi bài viết nằm ở 1 trang hay một bài post riêng rẽ . Bác có thể dùng lịnh list để làm thí dụ như :
B
Bán tiểu đội Biệt Kích Dù và trận đánh chớp nhoáng sau lệnh đầu hàng 30.04 (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=3)
Binh Chung Truyen Tin (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=4)
T
Trận M'Drack của Lữ Đoàn 3 Dù (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507)
Tử Thần Trong Cụm Lục B́nh - Nguyễn Đ́nh Sài (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507)
hoanglan22
02-18-2019, 04:26
Vấn đề ở đây là do một trang có nhiều bài viết ,nên sắp xếp theo thứ tự nó không hoàn hảo như khi mỗi bài viết nằm ở 1 trang hay một bài post riêng rẽ . Bác có thể dùng lịnh list để làm thí dụ như :
B
Bán tiểu đội Biệt Kích Dù và trận đánh chớp nhoáng sau lệnh đầu hàng 30.04 (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=3)
Binh Chung Truyen Tin (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=4)
T
Trận M'Drack của Lữ Đoàn 3 Dù (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507)
Tử Thần Trong Cụm Lục B́nh - Nguyễn Đ́nh Sài (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507)
Bác chỉ rơ một chút cách thức làm . Click vào chỗ nào để làm cái kiểu như của bác
[URL=" rồi tiếp ḿnh cứ copy cái bài mục lục phải không ???
Nói thiệt với bác tui cũng hơi dốt chuyện này , chỉ biết gơ mà thôi:thankyou::thank you:
Đôla Trăm
02-18-2019, 05:05
Bác chỉ rơ một chút cách thức làm . Click vào chỗ nào để làm cái kiểu như của bác
Thí dụ bài Binh chủng truyền tin nếu bác muốn đánh dấu là bài số 2 của những bài mang vần B ,th́ bác ghi số 2 xong ghi địa chỉ của bài viết (url) sau đó tên bài như dưới đây (ḿnh để hai dấu mở [ và đóng ] cách ra để bác thấy rơ .
B
2)[ URL="http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=4" ]Binh Chung Truyen Tin[/URL]
C̣n khi làm th́ hai dấu đó không có khoảng cách để ḿnh có :
2) Binh Chung Truyen Tin (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=4)
hoanglan22
02-18-2019, 05:13
:thankyou:Thí dụ bài Binh chủng truyền tin nếu bác muốn đánh dấu là bài số 2 của những bài mang vần B ,th́ bác ghi số 2 xong ghi địa chỉ của bài viết (url) sau đó tên bài như dưới đây (ḿnh để hai dấu mở [ và đóng ] cách ra để bác thấy rơ .
B
2)[ URL="http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=4" ]Binh Chung Truyen Tin[/URL]
C̣n khi làm th́ hai dấu đó không có khoảng cách để ḿnh có :
2) Binh Chung Truyen Tin (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=4)
:thankyou: Cuối tuần rảnh ḿnh làm thử coi xem sao , nếu không được chắc nhờ bác trợ giúp dùm
Đôla Trăm
02-18-2019, 05:20
:thankyou:
:thankyou: Cuối tuần rảnh ḿnh làm thử coi xem sao , nếu không được chắc nhờ bác trợ giúp dùm
Bác cứ thử làm đi ,nếu có ǵ th́ cứ nói ḿnh sẽ phụ bác .
hoanglan22
02-18-2019, 05:24
thử xem
1)Những Điệp Khúc C̣n Dang Dở (http://vietbf.com/forum/showthread.php?p=359 9495#post3599495&page=38)
:thankyou::handshake : coi bộ làm cũng hơi lâu phải quen tay một thời gian đă .bác giỏi thật về nhửng cái này . ḿnh th́ chịu chết
Không thày đố mày làm nên , hoặc là học thày không tày học bạn ...những câu nói rất chí lư
PS : làm thử cái khác nó lại không work . Nghĩ chắc sắp theo thứ tự của vần rồi kèm số trang dễ hơn
wonderful
02-18-2019, 14:16
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1341948&stc=1&d=1550330233
Thiếu úy Nhảy Dù Lê Anh Thái tử trận khi tái chiếm cổ thành Quảng Trị 1972....
"Mày nghĩ, tụi ḿnh như cánh gió
Ai đi nhốt gió được bao giờ ! “...
LÁ THƯ PLEIME
Pleime suốt tháng mưa dầm dề
Mày ơi, thèm quá khói cà phê
Thèm tô phở tái thơm chanh ớt
Thèm rót bọt đầy một cốc bia
Hôm qua địch pháo giữa ban ngày
Tao bị thương xoàng ở bả vai
Mảnh đạn c̣n ghim trong thớ thịt
Mày đừng có nói mẹ tao hay
Những đêm biên cảnh sống xa nhà
Cũng thấy đôi lần nhớ xót xa
Cũng có đôi lần tao muốn khóc
Muốn về thăm mẹ... thế nhưng mà...
Thôi nhé, thư sau tao viết tiếp
Trực thăng đă đáp trong ṿng đai
Tản thương lính đă đưa lên đủ
Tao viết thơ này vội gởi ngay.
Lê Anh Tuyến
Đọc lại những vấn thơ nấy hay và cảm động quá làm ḿnh chảy nước mắt và ḿnh bồi hồi nhớ lại năm 1972 ḿnh làm ǵ ?Thiếu úy Lê Anh Thái tử trận ở Quảng Trị năm đó.C̣n ḿnh là trung úy đang công tác tài chánh kẹt lại ngót tuần ở An lộc B́nh Long và làm quen thân thiết với 2 thiếu úy Ng. và Ph. lúc đó là "chánh văn pḥng" mà giửa tụi ḿnh đùa với nhau là "tài lọt" của tướng Lê Văn Hưng.Ḿnh th́ ôm túi tiền mặt mà phải chia xẽ gậm nhai cơm xấy và ḿ gói thật là trớ trêu nhưng bù lại ḿnh hiểu được thế nào là huynh đệ chi binh quá đậm đà không bao giờ c̣n dịp có lại đựơc ...
Và bây giờ khi nhắc lại binh chủng Truyền Tin ḿnh c̣n nhớ tới trung úy Lợi rất dể thương ở trường Truyền Tin mà ai cũng phải biết v́ cuối tháng là phải gặp ổng và những kỷ niệm tắm biển ở Vùng Tàu với ông và nay th́ ông đang định cư ở Na uy.
Nhờ Trang Lính nầy làm ḿnh nhớ lại những kỷ niệm vui buồn chan chứa một thời đời lính cúa ḿnh và c̣n nửa....
Cám ơn những lời thơ tâm t́nh c̣n lưu lại xót xa của cố Thiếu Úy Thái làm cho Wonderful đọc và nước mằt c̣n rơi..
Nhờ HoàngLan kiếm được.
Hay quá HoàngLan ơi....... :eek: :eek: :112: :112:
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1346592&d=1551137681
Đôla Trăm
02-19-2019, 03:08
thử xem
1)Những Điệp Khúc C̣n Dang Dở (http://vietbf.com/forum/showthread.php?p=359 9495#post3599495&page=38)
PS : làm thử cái khác nó lại không work . Nghĩ chắc sắp theo thứ tự của vần rồi kèm số trang dễ hơn
Nếu bác không hỏi,th́ ḿnh cũng không t́m ra cách làm ,v́ hồi đó đến giờ ḿnh chưa làm chuyện này bao giờ . Ḿnh chỉ nghĩ nếu có mục lục th́ sẽ đỡ mắc công ,sẽ không có những post trùng . V́ như bác chẳng hạn ,post nhiều quá ,làm sao nhớ ḿnh đă post rồi hay chưa .
Có 1 chút xíu mất công ở đây là mục lục sẽ nằm ở đâu ?Nếu bây giờ ḿnh cho nó vào trang đầu ,th́ các bài post có thể sẽ không c̣n nằm ở vị trí như lúc đầu nữa .Cho nên sau khi để mục lục vô ,ḿnh phải coi lại đường link của bài post ,để sửa lại cho nó đúng .
Ḿnh mới làm 1 phần bác coi thử (trong đó có 2 bài bác post bị trùng ):
A
Alain Delai - Viết theo Đỗ Duy Ngọc (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=35)
An Lộc chiến trường đi không hẹn- Hổ Xám Phạm Châu Tài (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=3)
Anh Về Từ Thung Lũng Tử Thần Ashau - Đinh Văn Tiến Hùng (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=14)
B
Ba trái thúi -Trần Ngọc Toàn (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507)
Bài Viết Về Cuộc Hải Chiến Hoàng Sa 1974 Với HQ16 - Đặng Quốc Tuấn (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=23)
Bán tiểu đội Biệt Kích Dù và trận đánh chớp nhoáng sau lệnh đầu hàng 30.04 (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=3)
Báo Mộng Chương Ngô (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=9)
Bay Cứu Đồng Đội Ở Hạ Lào - Cựu Cơ Phi T/T Thông (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=24)
Bay Trên Lửa Đạn - Kiều Mỹ Duyên (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=15)
Bay trong lửa đạn - KingBeeMan & Lăng Tử (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=5)
Bẫy và Rọ - Trận Tái Chiếm Quảng Trị - Trần Trung Chính (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=8)
Bên Những Bờ Rừng - Phan Minh (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=37)
Biệt Đội Thiên Nga, Nữ Chiến Sĩ T́nh Báo- Tuyết Mai (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=12)
Biệt Hải trên vùng biển băo tố - Phạm Phong Dinh (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=31)
Bí mật của một câu kinh Phật - Phạm Thành Châu (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=26)
Bị Gạt - Trương Văn Út (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=27)
Binh Chủng Truyền Tin (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=4)
Bộ chiêu hồi (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=21)
Bông Hồng Mùa Xuân - Lư Thụy Ư (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=27)
Buồn vương màu áo trận ! - Đồ Sơn (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=15)
Buổi chào cờ không có lá Quốc Kỳ trước một cuộc hành quyết - Bao Chau Kelley (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=23)
Buổi chào cờ không có lá Quốc Kỳ trước một cuộc hành quyết - Bao Chau Kelley (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=31)
N
Những Điệp Khúc C̣n Dang Dở…. Trần Ngọc Nguyên Vũ (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=34)
Những Điệp Khúc C̣n Dang Dở…. Trần Ngọc Nguyên Vũ (http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=38)
hoanglan22
02-19-2019, 04:20
Nếu bác không hỏi,th́ ḿnh cũng không t́m ra cách làm ,v́ hồi đó đến giờ ḿnh chưa làm chuyện này bao giờ . Ḿnh chỉ nghĩ nếu có mục lục th́ sẽ đỡ mắc công ,sẽ không có những post trùng . V́ như bác chẳng hạn ,post nhiều quá ,làm sao nhớ ḿnh đă post rồi hay chưa .
Có 1 chút xíu mất công ở đây là mục lục sẽ nằm ở đâu ?Nếu bây giờ ḿnh cho nó vào trang đầu ,th́ các bài post có thể sẽ không c̣n nằm ở vị trí như lúc đầu nữa .Cho nên sau khi để mục lục vô ,ḿnh phải coi lại đường link của bài post ,để sửa lại cho nó đúng .
Ḿnh mới làm 1 phần bác coi thử (trong đó có 2 bài bác post bị
[/LIST]
Cám ơn Bác rất nhiều , để cuối tuần ḿnh ṃ theo cái của bác và bỏ vào thêm . Ḿnh bỏ vào cái doccument trước sau đó copy và đưa vào trang đầu .
hôm qua ḿnh làm thử nó không work khi copy từ document qua . C̣n nếu gơ trực tiếp vào theo như bác làm vietbf nó work . Nhưng kẹt một cái ḿnh ṃ tới 10 phút để gơ t́m kiếm bài th́ nó lại đá ḿnh ra ngoài ... login trở lại mất hết :mad::mad::mad:
Cho nên ḿnh nghĩ cách này lẹ nhưng không hay như bác làm .
Thí dụ
Xuân đoàn tụ ...http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=35
:hafppy::hafppy::haf ppy:
PS : ḿnh delete bài trùng rồi :thankyou:
wonderful
02-21-2019, 02:34
Chuyến xe buưt và khúc hát người lính mù
Sài g̣n, năm 1980. Lúc đó, cuộc “cách“ cái ”mạng” ngày 30 tháng tư đă năm năm. Nhưng xem ra không khí chiến tranh vẫn c̣n bao phủ. Đời sống càng ngày càng đi vào bế tắc. Hè đường đầy những người đi kinh tề mới trở về hoặc vượt biên mất nhà sinh sống.
Họ trở thành những người không nhà không hộ khẩu sống lây lất trong một thành phố đầy đe dọa. Những trại giam đầy áp người tù, tù chính trị và tù h́nh sự. Đêm đêm là thời gian của kiểm tra hộ khẩu, của bắt người, của đe dọa chập chờn ngoài cánh cửa. Với người dân thường c̣n như vậy. Huống chi những người tù bị gọi là “cải tạo” trở về. Đời sống lại càng bị đe dọa hơn biết bao nhiều. Tôi cũng bị ảnh hưởng trong thời thế ấy. Sống bất hợp pháp trong nhà của ḿnh và trong đầu óc lúc nào cũng chờ đợi một chuyến vượt biển ra đi. Cột đèn mà cũng muốn xuất ngoại, huống chi…
Lúc ấy, phương tiện giao thông đi lại hầu như chỉ có xe buưt ở trong thành phố và xe đ̣ đi xa ngoài thành phố. Ở bến xe, sinh hoạt thật nhộn nhịp. Như ở Xa Cảng Miền Tây lúc nào cũng đầy người mà số đông là những người chờ đợi một chuyến xe. Có người phải ngủ đêm chầu chực nhiều ngày. Nhưng nếu có tiền mua vé chợ đen, th́ được đi ngay. Bao nhiêu con buôn đi hàng ngày mà c̣n chở theo hàng hóa cồng kềnh mà đâu có chờ đợi ǵ đâu. C̣n xe buưt, th́ là chỗ hỗn tạp. Đi xe luôn phải coi chừng, ăn cắp móc túi như ranh. Chỉ một loáng thôi, dù đă giữ ǵn nhưng bị mất mát ngay một cách nhăn tiền. Thời mạt pháp, ai có thân th́ giữ…
Trên một chuyến xe, có hai người lính cũ, một mù một què, dắt díu nhau đi hát để kiếm miếng ăn độ nhật. Người què th́ dẫn đường cho người mù không có mắt để đi lần theo từng hàng ghế. Họ mặc bộ quần áo trận đă rách te tua bạc phếch nhưng vẫn c̣n phảng phất đâu đó h́nh ảnh của người lính thời xưa. Trên tay người lính mù là chiếc dàn mandoline cũ kỹ và anh hát những bản nhạc lính của cuộc chiến ngày cũ đă tàn nhưng c̣n nhiều hậu quả nhức nhối. Những bản nhạc đă vinh danh những anh hùng như “Huyền Sử Ca Một Người Mang Tên Quốc“ hoặc ”Người Ở Lại Charlie”. Khi hát tôi thấy dường như trong đôi mắt đen đục của người lính mù có chút nước mắt. Đi lần qua những hàng ghế, cũng có những người cho tiền, mặc dù họ không phải là những người khá giả trong xă hội này. Và nếu có một vài chú bộ đội phê b́nh nào là nhạc phản động, nào là nhạc vàng bị cấm th́ họ lại bào chữa bảo vệ ”Người ta tàn tật đi kiếm ăn mà c̣n làm khó!”…
Trong không khí đe dọa, họ vẫn cất tiếng hát. H́nh như, họ đang chiến đấu với tiếng hát của ḿnh. Cờ bay, cờ bay trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu…Hay : Anh không chết đâu anh người anh hùng mũ đỏ tên Đương… Hay Anh Quốc ơi từ nay trong gió ra khơi từ nay trên cánh mây trôi có hồn anh trong cơi ḷng tôi. Ơi những tiếng hát nhắc lại một thời binh lửa mà những người bây giờ đang hát đă hiến dâng cho đất nước những phần thân thể của ḿnh. Tự nhiên, tôi cảm thấy ḿnh xúc động quá. Những người lính thời trước chịu bao nhiêu điều thua thiệt mà bây giờ vẫn c̣n cất tiếng hát bất chấp đe dọa bất chấp công an để vẳng lên tâm sự của ḿnh. Và qua từng chuyến xe này qua chuyến xe khác, họ vẫn hát dù có khi bị ḅ vàng bắt hoặc đánh chửi. Những lời hát vẫn cất lên, mặc kệ bạo lực mặc kệ ngục tù.
Có một bài thơ, đă được viết từ cảm xúc đó. Bài thơ ”Chuyến xe bus và khúc hát người lính mù”
Trang lịch sử đă dầy thêm lớp bụi
Ngăn kéo đời vùi kín mộ phần riêng
Và lănh đạm chẳng c̣n người nhắc đến
Người trở về từ cuộc chiến lăng quên
Đôi mắt đục nh́n mỏi ṃn kiếp khác
Đắt d́u nhau khập khiễng chuyến xe đời
Người thua trận phần thịt xương bỏ lại
Trên ruộng đồng sầu quê mẹ ră rời
Chuyến xe vang lời ca nào năm cũ
Nhắc chặng đường binh lửa lúc xa xưa
Khói mịt mù đường chiến tranh bụi phủ
Nghe bàng hoàng giọt nắng hắt giữa trưa
Tiếng thê thiết gọi địa danh quen thuộc
Thưở dọc ngang mê mải ngọn cờ bay
Cuộc thánh chiến gió muộn phiền thổi ngược
Dấu giầy buồn c̣n vết giữa śnh lầy
Ôi tiếng hát nhớ những người gục ngă
Ngồi chuyến xe sao vang vọng nỗi niềm
Âm thanh cao xoáy tṛn tim gỗ đá
Thúc hồn người theo nhịp thở chưa quên
Ôi tiếng hát vinh danh đời lính chiến
Cho máu xương không uổng phí ngày mai
Có sương khói trong mắt đời cầu nguyện
Để lỡ làng không chĩu nặng bờ vai
Người thản nhiên những tia nh́n cú vọ
Đây tàn hơi c̣n sót lại một đời
Đây ngôn ngữ của Việt Nam đổ vỡ
Vẳng không gian chợt héo một nụ cười
Ta nghe rực cuối hồn trăm bó đuốc
Một đời hoài t́m kiếm ánh đèn soi…”
Bài thơ đó tôi viết ở Sài G̣n năm 1980. Bây giờ năm 2010, như vậy đă ba chục năm. Tôi đă rời thành phố thân yêu và cũng đă định cư ở Hoa Kỳ 30 năm. Hôm nay ngồi đọc tin về Đại Nhạc Hội tổ chức ở ngoài trời “Cám Ơn Anh” để gây quỹ cứu giúp thương phế binh của QLVNCH c̣n kẹt lại ở quê nhà bỗng dưngsinh ra nhiều hồi tưởng. Bài thơ dắt tôi trở về những ngày tháng năm năm 1975, khi Cộng sản đă chiếm được đất nước đă thẳng tay dă man đuổi tất cả thương bệnh binh trong quân y viện ra ngoài bất kể t́nh trạng nguy hiểm hay không. Nạn nhân nặng nề nhất ngay lập tức chịu ảnh hưởng thua trận chính là những người thương binh. Biết bao nhiêu là thảm cảnh xảy ra. Không hiểu họ đă xoay sở thế nào để sống c̣n trong hoàn cảnh cực kỳ bi đát ấy.
Chính Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn 4, trước khi quyết định tự sát đă đến thăm thương binh ở quân y viện Cần Thơ lần cuối v́ ông biết số phận đáng thương của những người lính này. Trước khi tử tiết, ông đă đến từng giường bệnh để an ủi những người lính đang điều trị tại đây. Ông đă năo ḷng khi trả lời một câu nói của người lính đang nằm viện : ”Thiếu Tướng đừng bỏ chúng em !”. “Không, Thiếu Tướng không bỏ đâu”. Phải, mặc dù đă đến lúc cờ tàn, ông không c̣n giúp đỡ ǵ được những anh hùng nhưng là nạn nhân của cuộc chiến nhưng tấm ḷng nhân hậu của ông đă là gương sáng cho đời sau.
Gần đây tôi có đọc một lá thư của một người lính bị tàn phế gửi cho một người bạn từ Việt Nam. Bức thư có nhiều đoạn làm tôi suy nghĩ:
“… Các anh ạ! Bây giờ th́ buồn quá! Các anh – những sĩ quan QLVNCH, những người anh của chúng tôi, những Đại Bàng, những Bắc Đẩu, Hắc Báo của ngày nào một thời tung hoành ngang dọc khắp các chiến trường… các anh đă có một thời quang vinh và một thời nhục nhă, giờ đây sau 30 năm vẫn lặng lẽ, các anh cũng nḥa đi h́nh ảnh của ngày xưa?
Các anh đă quên rồi sao? Quên rồi những chiến sĩ thuộc quyền của các anh đă nằm xuống vĩnh viễn trên đất mẹ thiêng liêng quên những đồng đội c̣n sống sót trong một tấm thân tật nguyền đau khổ, sống lây lất ở đầu đường xó chợ. Xin cảm ơn các anh về những đồng đô la mà các anh gửi về cho chúng tôi trong chương tŕnh giúp đỡ thương phế binh QLVNCH. Những đồng tiền đó dù có giúp cho chúng tôi trong một thời gian ngắn, dù có an ủi cho những đớn đau vật chất được đôi phần nhưng cũng không làm sao giúp chúng tôi quên nỗi nhục nhă mất nước! Chúng tôi cần ở các anh những chuyện khác, các anh có thấu hiểu cho chúng tôi hay không? Tôi đă hiểu v́ sao thằng khuân vác ở xóm trên, thằng vá xe đạp ở đầu đường, thằng chống nạng đi bán vé số ở cạnh nhà lại ghét cay ghét đắng đám Việt kiều. Họ là những người lính năm xưa, họ đă từng tuân lệnh những Đại Bàng, Thần Hổ xông pha nơi trận mạc. Họ đă từng chắt chiu từng đồng bạc nghĩa t́nh chung thủy gửi vào tận chốn tù đày thăm các anh. Họ đă từng uống với các anh chung rượu ân t́nh ngày đưa các anh lên phi cơ về vùng đất mới. Họ từng nuôi nấng một hoài vọng, một kỳ vọng ngày về vinh quang của QLVNCH.
Nhưng chính các anh đă làm họ oán ghét đến độ khinh bỉ khi các anh áo gấm về làng, chễnh chệ ngồi giữa nhà hàng khách sạn năm sao tung tiền ra để tỏ rơ một Việt Kiều yêu nước. Các anh có biết không? Từ trong sâu thẳm của cuộc đời, những người lính VNCH đang lê lết ở ngoài cửa nhà hàng mà các anh đang ăn uống vui chơi, đang nh́n các anh với ánh mắt hận thù. Hận thù lớn nhất của người lính là sự bội bạc, là sự phản bội! Không biết khi tôi kết tội các anh là phản bội có quá đáng hay không, nhưng các anh hăy tự suy nghĩ một chút sẽ thấy rơ hơn chúng tôi. Tôi không tin là tất cả các anh đă biến thái thành những tên Việt gian nhưng sự trở về như các anh trong hiện tại là đồng nghĩa với sự phản bội. Các Anh đă phản bội lại Tổ Quốc và rơ ràng nhất các anh đă phản bội lại chúng tôi…”
Đọc lá thư ấy, ḷng tôi như chùng xuống. Mỗi một người đếu có hoàn cảnh cũng như cách chọn lựa riêng nhưng tôi không ngờ rằng trong sâu thẳm của những người lính cũ c̣n có những nỗi niềm như thế. Sự phân cách quá sâu đậm, những con sông chia cách vẫn chưa thể lấp bằng được. Ngẫm suy lại, từ một khía cạnh nh́n ngắm khác nhau, đă có những khác biệt cho từng hành động…
Tới bây giờ, với những người ở hải ngoại đă không quên các anh, những thương phế binh VNCH. Dù có một số ít vô ư thức trở về nước vui chơi trên nỗi nhọc nhằn của dân tộc nhưng phần đông đều hiểu và tri ân những người lính đă mang xương máu và thân thễ hiến dâng cho đất nước. Ở đại nhạc hôi “Cám Ơn Anh”, hàng chục ngàn khán gỉa đi xem không phải chỉ là đơn thuần mua vui mà là biểu lộ tinh thần biết ơn đối với người lính VNCH. Dù số tiền thu được lên tới cả triệu đô-la nhưng cũng không đủ cho nhu cầu của hàng chục ngàn người lính tàn phế cần giúp đỡ. Nhưng của ít t́nh nhiều, điều đó mới là đáng quư. Cũng như, với sự tham dự của cả hơn một trăm ca nhạc nghệ sỹ, cùng với cả trăm người thiện nguyện bỏ công sức và cả tiền của cá nhân, th́ đó phải hiểu là một thành quả to lớn ở hải ngoại của những người dân luôn luôn tương trợ giúp đỡ nhau. Cám ơn anh! Những thương phế binh đă hiến dâng đời ḿnh cho đất nước…
Nguyễn Mạnh Trinh
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1346246&d=1551055494http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1344018&d=1550716411
hoanglan22
02-23-2019, 22:49
Đă gỡ bỏ bài trùng hợp:handshake::thank you:
PS : bài nào có trùng hơp đă post rồi xin báo dùm cho HL hay Thày ba để gỡ bỏ:thankyou:
hoanglan22
02-25-2019, 15:16
H́nh ảnh bài này h́nh số 2 Chuyến xe buưt và khúc hát người lính mù bác thiếu up load thump . Ḿnh bỏ vào lại cho bác
Mến
cha12 ba
02-25-2019, 17:36
Để trả lời một câu hỏi
Thơ Linh Phương
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1346488&stc=1&d=1551116139
Em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời mai mốt anh về
Không bằng chiến trận Plei Me
Hay Đức Cơ – Đồng Xoài – B́nh Giă
Anh trở về hàng cây nghiêng ngả
Anh trở về ḥm gỗ cài hoa
Anh trở về bằng chiếc băng ca
Trên trực thăng sơn màu tang trắng
Mai trở về chiều hoang trốn nắng
Poncho buồn liệm kín hồn anh
Mai trở về bờ tóc em xanh
Vội vă chít khăn sô vĩnh biệt
Mai anh về em sầu thê thiết
Kỷ vật đây viên đạn màu đồng
Cho em làm kỷ niệm sang sông
Đời con gái một lần dang dở
Mai anh về trên đôi nạng gỗ
Bại tướng về làm gă cụt chân
Em ngại ngùng dạo phố mùa xuân
Bên người yêu tật nguyền chai đá
Th́ thôi hăy nh́n nhau xa lạ
Em nh́n anh – ánh mắt chưa quen
Anh nh́n em – anh sẽ cố quên
T́nh nghĩa cũ một lần trăng trối.
Bài thơ này đă được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát Kỷ vật cho em (năm 1970).
Nhà thơ Linh Phương sinh ra và lớn lên tại Sài G̣n, cha người Phong Điền, Thừa Thiên - Huế, mẹ người Cần Thơ. Ông làm thư kư toà soạn tuần san Tinh hoa nữ sinh năm 1967
hoanglan22
03-11-2019, 01:15
Đầu Tháng 11 năm 1969, tôi Tr/Sĩ Nguyễn Thế Thụy và Tr/Sĩ Nguyễn Xuân Hương, nhận lệnh biệt phái mang máy PRC25 làm Âm thoại viên (ATV) cho Đại Bàng Sài G̣n, Đại Tá Tôn Thất Soạn, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 258/TQLC.
Nhận được lệnh hành quân, Hương và tôi mừng vui v́ sẽ thoát khỏi bốn bức tường cao, kín cổng của trại Lê Thánh Tôn, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (BTL/SĐTQLC) sau hơn 2 tháng hết trực ban thường vụ Đại Đội (TVĐĐ), rồi đến trực máy tại Trung Tâm Hành Quân/BTL, hạnh phúc và tuyệt vời hơn tất cả là được mang máy theo chân hành quân của Đại bàng Sài G̣n. Với chúng tôi phục vụ cho Quân Đội th́ việc mang máy làm ATV cho bất cứ ĐB, TQ, Sao Mai, hay gần gũi nhứt là các “Ông thầy Trung đội trưởng” th́ dù ông nào đi chăng nữa vẫn là nhiệm vụ của người lính ATV, tuy nhiên với ĐB Sài G̣n th́ có hơi mừng hơn một chút v́ ông là vị Chỉ huy khả kính, đức độ luôn luôn nhẹ nhàng từng lời nói, hành động, và Chỉ huy mà tất cả anh em chúng tôi ATV rất mong được biệt phái theo ông.
5 giờ sáng ngày N...đoàn xe của Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 258/TQLC xuất phát từ trại Lê Thánh Tôn để đến điểm tập trung là Phú Lâm, cửa ngơ vào Thành phố Saig̣n từ hướng Tây để cùng Tiểu Đoàn 4/TQLC và Tiểu Đoàn 6/TQLC lên đường hành quân.
Một đoàn xe GMC, Doge, Jeep dài ngút ngàn không nh́n thấy được chiếc cuối cùng, chở đầy những người lính Cọp Biển mà một lát nữa đây họ sẽ là những chàng trai xem cái chết nhẹ tựa như lông hồng, xông pha vào nơi hiểm nguy để giữ ǵn bờ cơi cho miền Nam được yên lành, tự do.
Tiếng nói, tiếng cười của những người lính vô tư xen lẫn với âm thanh nổ ầm ́ của đoàn quân xa vang dội trải dài trên Quốc lộ 1 như nóng ḷng mong sớm lăn bánh xông vào vùng chiến trận. Sáng sớm sương đêm vẫn c̣n bao phủ những cánh đồng lúa trải dài mênh mông khiến chúng tôi không biết đâu là chân trời, là bến bờ sẽ phải đến. Những ngừơi dân quê hiền lành sống trong những túp lều tranh bên đồng lúa đă thức dậy từ lúc nào, ông già bà cả cùng các em thiếu nhi th́ ra đứng sát bên vệ đường, c̣n các cô thôn nữ th́ e ấp sau cánh cửa, nhưng tất cả cùng mỉm cười đưa tay vẫy chào đoàn quân ra đi với hy vọng “Ḷng súng nhân đạo cứu người lầm than”, hẳn trong ḷng có cô ước mong được gặp lại ngừơi hùng, nhưng đâu có ai nghĩ rằng trong những chàng “Kinh Kha” của thời đại APOLO lên cung trăng kia, sẽ có người không hẹn ngày về.
Ngồi trên xe Jeep cùng với Sài G̣n ở ghế sau th́ có Đại Úy Nguyễn Đăng Ḥa (Sông Hương) Trưởng Ban 3/LĐ258, Tr/Sĩ 1 Tất cận vệ, và tôi ngồi bên phải sau lưng Sài G̣n trên máng che bánh xe “Wheel cover”. Tôi mang máy hệ thống nội bộ LĐ, c̣n Tr/Sĩ Hương ngồi bên trái mang máy hệ thống đơn vị bạn, chiếc xe Jeep của Sài G̣n chạy ngược, xuôi dọc theo đoàn xe đang đậu để kiểm soát chặt chẻ trước khi xuất phát sau khi có buổi họp ngắn gọn với các TĐT/TĐ4 và TĐ6 là Thiếu Tá Vơ Kỉnh và Thiếu Tá Đỗ Hũu Tùng.
Tại sao tôi lại kể rơ từng chi tiết như thế này ? Là v́ tôi muốn nhắc cho con cháu tôi sau này ít nhiều cũng hiểu thêm được nhiệm vụ của thế hệ đi trước, theo dơi được những bước hành quân năm xưa của của ông, cha... họ đă đi qua. Hơn nữa, những h́nh ảnh hành quân của “Đoàn Cọp Biển Oai Hùng” từ mũi Cà Mau ra tận địa đầu giới tuyến Gio Linh - Quảng Trị, Cao Nguyên xuống đồng bằng và trên mọi miền đất nước luôn luôn in sâu trong kư ức của tôi, nó như hơi thở, như thêm sức mạnh cho tôi vựơt qua những lúc khó khăn, những khi nản chí trên bước đường tỵ nạn. Đồng đội cũ chiến trừơng năm tháng xưa nay c̣n đâu, dù rằng đó là những tháng năm khổ cực, gian truân, hiểm nguy chết chóc của những người trai xả thân đi bảo vệ miền nam Tự Do cần được nhắc lại cho chính bản thân tôi đừng quên dĩ văng, đừng quên đồng đội c̣n nằm lại đâu đó trên rừng sâu núi thẳm và cũng để ước mong những ai từng được hưởng thanh b́nh năm xưa và nay ung dung nơi hải ngoại nên quan tâm đến những bộ xương khô, xương khô dưới các g̣ mối, xương khô phơi trên băi cát Thuận An, Non Nước và “xương khô” đang lê lết trên khắp mọi nẻo đường. Trên không, chiếc đầm già L19 đang bay lượn trên bầu trời xanh biếc để bao vùng, quan sát theo dơi an ninh cho đoàn quân quốc lộ dẫn đến bến phà Mỹ Thuận.
- Bắc B́nh Dương (LĐ 258) đây Thần Điểu 55 ( L19) gọi.
- Bắc B́nh Dương tôi nghe anh Thần Điểu 55
- Thần Điểu 55 đường lên động Thiên Thai tuyệt đẹp chào đón anh (Lộ tŕnh b́nh yên vô sự)
- Bắc B́nh Dương tôi nhận anh 5/5 .
Sau hơn 3 giờ đoàn quân xa chúng tôi đến bến phà Mỹ Thuận, phải hơn 3 giờ chiếc xe cuối cùng mới sang đến bờ sông bên kia, rồi thêm 2 giờ nửa để đến bến phà Cần Thơ. Trưa hôm đó, khoảng 3 giờ chiều, đoàn quân xa chở LĐ 258/TQLC mới hoàn toàn lăn bánh trên đừơng thành phố Cần Thơ. ĐB.Sài G̣n bảo tôi gọi các đơn vị dậm chân tại chỗ một thời gian trong lúc ĐB Sài G̣n đến BTL/QĐ4 họp và nhận chỉ thị .
Cần Thơ của tôi đây, Cần Thơ đi dể khó về, trai đi có vợ, gái thời có con, nơi chôn nhau cắt rốn của tôi từ khi lọt ḷng Mẹ, Mẹ tôi từng gian lao cực khổ nuôi thằng con trai từ lúc đỏ hỏn đề ấp ủ khi lớn lên con sẽ thành người con có hiếu, ngoan ngoăn vâng lời cha mẹ. Nhưng rồi v́ bản tính thích sôi nổi lại thêm một chút giận hờn, tôi đă giă từ mái ấm t́nh thương phụ mẫu để t́nh nguyện đầu quân vào Binh Chủng TQLC, và giờ đây tôi trở lại chốn xưa, chưa phải là về thăm song thân mà là “Hành quân qua thôn xóm”, phố cũ đường xưa.
Ngồi trên xe Jeep của ĐB Sài G̣n đi từ bến phà xe chạy thẳng đến bến xe Cần Thơ rồi quẹo trái nối tiếp trên con đường Nguyển Trăi, con đường đông người nhứt thời bấy giờ, bao nhiêu kỷ niệm của cái thời cắp sách đến trường như sống lại trong tôi. Trong quá khứ, một ngày 4 lần tôi đă đi và về trên con đường này, gần như quen từng gốc cây, sỏi đá, mặt lộ chỗ thấp, chỗ cao. Con đường này nếu đi ngược trở lại từ bến xe 500m quẹo trái vào con lộ có cái tên là Lộ 19, khoảng 300m là có ngôi nhà vách ván lộp ngói, có bà mẹ già mong mơi tin của thằng con không biết vâng lời.
Trong tôi bùng lên một ư nghĩ mà cũng là một ước muốn rất t́nh người là được Sài G̣n cho tôi 5 phút chạy nhanh về thăm mẹ. Nhưng rồi ngại ngùng chưa dám hỏi th́ đoàn xe tiếp tục lăn bánh, quanh tôi, những người lính Mũ Xanh cũng đang cách xa gia đ́nh, có khi c̣n xa c̣n thăm thẳm ngh́n trung hơn tôi nhiều, như có một thứ t́nh cảm đồng cam cộng khổ nào đó khiến tôi dứt khoát không mở lời xin với Saigon, “Con không khóc th́ sao mẹ biết mà cho bú”. Tuy không đựơc nắm tay mẹ mà khoe bộ quân phục rằn ri nhưng cũng đă nhủ thầm :
- “Mẹ nh́n nè, con đă là lính Cọp Biển, con về đây, con về đây với xóm làng của mẹ, phố phường của mẹ yên b́nh là có công của con đó nhé”
Khoảng 4 giờ chiều đoàn quân xa lăn bánh trực chỉ Quận lỵ Cái Răng, từ dốc cầu Cái Răng rẽ phải là hương lộ dẫn đến Quận Phong Điền, chiếc xe đầu vừa đặt bánh trên hương lộ th́ cơn mưa nặng hạt trút xuống, mưa dai, mưa kéo dài từ cầu Cái Răng đến tận cái cầu bắc ngang con sông Trẹm để vào thị trấn Phong Điền, đường dài khoảng chừng hơn 20 cây số, tất cả chúng tôi từ thầy đến tṛ đều ướt sũng, hay nói đúng hơn là cả LĐ từ đầu đến chân đều ướt .
Gần 6 giờ tối, lệnh xuống xe đóng quân đêm dọc theo xóm làng bên ḍng sông Trẹm, bên này sông nh́n sang bên kia sông là thành phố Phong Điền, tuy gần mà xa v́ có ông Quân cảnh 202 đứng tựa đầu cầu nên chẳng có một anh lính áo trận rằn ŕ nào sang được bên kia sông bằng lối đi qua cầu. Cách xa cái đầu cầu chỗ ông QC 202 đứng, không biết có chàng nào gọi đ̣ để sang sông th́ tôi không biết chứ tôi và Hương th́ đành chịu, mang máy cho ĐB. th́ an toàn hơn những anh lính tác chiến, nhưng đă là lính ATV mà đ̣i ham vui chắc là không có chúng tôi, làm ATV cho thầy, chức vụ của thầy càng cao th́ cái sự ham vui càng khó thực hiện.
Bộ chỉ huy LĐ 258/TQLC tạm đóng quân qua đêm tại một căn nhà có cái sân trước rộng thênh thang, trồng nhiều cây cao, cũng nhờ những cây cao đó anh em chúng tôi mắc vỏng làm giường. Vùng đất Phong Điền mà khắp cùng nơi nơi là đất sét, đất nhăo nhẹt khi mưa dầm, mưa dai làm ướt đất, rồi đất trở thành śnh bùn trơn trợt, mỗi khi chúng tôi bước chân đi là đất sét bám chặt vào đôi giày “Saut”, càng đi nhiều th́ càng mang theo nhiều đất sét lên cao hơn mắt cá, càng dẩm lên, khối bùn bám nhiều thêm tưởng chừng không thể nhấc chân lên được. Một điều mà tôi nhớ hoài, nhớ măi không quên là khi đi ngủ, trèo lên được chiếc vơng rồi sau khi an vị với đôi chân c̣n đông đưa mang theo đôi giày dính đất sét, nặng hơn 2 kư lô và khi tháo được đôi giày ra, bỏ nó xuống là cả một công tŕnh đáng được ghi nhớ chuyện lính “tháo giày” thời chiến so với chuyện thầy giáo tháo giầy, “mất dạy” thời XHCN.
Giấc ngủ đến thật nhanh, giấc ngủ thật ngon lành, giấc ngủ quên trời, quên đất sau một ngày di chuyển từ Sài G̣n, chịu nằng, dầm mưa xuống tận nơi đây vùng đất “Miệt Thứ” để tờ mờ sáng ngày hôm sau lệnh di chuyển bằng tàu Hải Quân vùng 4 sông ng̣i, di chuyển đến xă Đông Hưng thuộc U Minh Thượng.
Ngày 6 tháng 11 năm 1969, LĐ 258/TQLC gồm có TĐ 4 và TĐ6/TQLC, pháo đội 105 ly/TQLC, phối hợp cùng lực lượng đặc nhiệm thủy bộ 211 và không quân vùng 4 đă có 1 trận “kịch chiến” với tiểu đoàn Tây Đô Việt Cộng. Sau 2 ngày đêm chiến trận tiểu đoàn Tây Đô đă bị lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ xóa tên .
Sau 2 tháng hành quân vùng U Minh Thượng LĐ258/TQLC rời vùng, chia tay “miệt thứ” để xuất ngoại sang Campuchia, c̣n tôi th́ được đơn vị chọn và gửi đi học khóa xử dụng máy GRC106 quân đội Hoa Kỳ vừa cung cấp tại căn cứ Long B́nh.
***
Khoảng gần cuối năm 1972, tôi đang phục vụ cho BCH/LĐ.147/TQLC đóng quân tại cầu Mỹ Chánh, Quảng Trị, một buổi trưa trong căn lều cá nhân, khi tôi và thằng bạn thân Tr/sĩ 1 Anh tán gẩu chuyện trời trăng, mây nước, chuyện cá nhân, chuyện thiên hạ sự th́ có tiếng gọi ơi ới của anh chàng âm thoại viên Hải trên Trung tâm hành quân (TOC/LĐ.147) đi xuống t́m tôi :
- Anh Tiểu Cần ơi, có Tr/úy Hạnh từ BTL/SĐ/HQ t́m anh.
- Ổng ấy đâu ?
- Ổng đang ngồi trên trung tâm hành quân.
Tôi vội vàng đi theo Hải mà trong ḷng không khỏi hoang mang, ai vậy nè ? Bên Truyền Tin chắc chắn không có Tr/Úy Hạnh, c̣n ở BTL dĩ nhiên tôi không biết ai, càng thắc mắc càng không có câu trả lời. Vào đến TOC th́ gặp ngay ông Tr/Úy Hạnh, sau khi tôi dơ tay chào kính theo quân cách, ông đưa tay bắt và tự giới thiệu sau đó ông vừa nói cũng như vừa ra lệnh :
- Chú có 15 phút thu dọn quân dụng rồi ra băi đáp trực thăng gặp tôi ở đó.
- Dạ, tôi sẽ gặp Tr/U ngoài băi đáp.
Tôi vội vả chạy nhanh về lều cá nhân thu gom gia tài của lính, chỉ đủ thời gian nói lời chia tay với Tr/si 1 Anh rồi chạy ra chỗ hẹn. Ngồi trên trực thăng bay dọc theo quốc lộ trực chỉ Hương Điền mà ḷng tôi nửa lo, nửa thắc mắc, cuộc đời quân ngũ tất cả mọi thứ đều đến và đi không được quyền biết trước “Thi hành trước khiếu nại sau”, hơn nữa là lính Mũ Xanh phải nhanh, gọn, luôn luôn sẳn sàng trong mọi t́nh huống, chấp nhận thương đau mới xứng danh người lính Cọp Biển, đó là bài học đầu đời khi mới bước vào ngưởng cửa Trung tâm huấn luyện Yết Kiều Thủ Đức. Nghĩ vậy nên tôi t́m đựơc b́nh tĩnh, đi đâu, đến đâu rồi lính vẩn là lính, miễn sao là lính Mũ Xanh mà tôi yêu thích từ khi mới tập tểnh vào đời.
Tháng 4 năm 1975, thời gian qua nhanh, mới đó hơn 2 năm từ ngày rời khỏi LĐ147, chia tay Tr/sĩ 1 Anh tôi đă là một ATV cho Tư Lệnh SĐ/TQLC hơn 2 năm. Chiến trận càng ngày càng khốc liệt, vị Tư Lệnh hiện diện ngay tại địa đầu giới tuyến, “Văn pḥng BTL” cũng là “tư dinh”, là một căn hầm bao cát nhiều lớp, dù cho tiện nghi có khác bao nhiêu với hầm bao cát của lính nhưng nó vẫn là căn hầm ngoài tiền tuyến, không phải là “Dinh tư lệnh” ở hậu phương như các vị khác nên ông đến “thăm” các đơn vị trực thuộc mỗi ngày. Bất cứ nơi nào có dấu chân TL đến và đi thăm các đơn vị là có tôi.
Ngồi viết lại kư ức này tôi luôn luôn hănh diện là một người lính mẫu mực trong Quân Đội nói chung, một Cọp Biển Mũ Xanh nói riêng, đem tất cả tâm huyết cùng sự hiểu biết và kinh nghiệm để làm tṛn nhiệm vụ một ATV cho Tư Lệnh. Tôi đă hoàn thành nhiệm vụ giao phó bằng nghiệp vụ mà Quân Đội đă tốn không biết bao nhiêu cơm gạo đào tạo cho tôi.
Sáng 30 tháng 4 năm 1975, tất cả đă đi hết rồi, những người lính cận kề bên TL, người lo cơm nước, người phục vụ cá nhân, người cận vệ, chính tôi là người mang máy PRC25 theo trực thăng đưa họ về căn cứ Sóng Thần vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, bởi bên cạnh cấp Chỉ huy và đồng đội, những người Quân nhân ấy c̣n có gia đ́nh, c̣n vợ con nên các anh ấy đă được Tư Lệnh cho quyền tự quyết định. Ngoài Đại úy Nguyễn quang Đan, chánh văn pḥng TL, Trung úy Tạ Hạnh tùy viên, là 2 Sĩ quan luôn luôn sát cánh bên Ông th́ c̣n có tôi, người lính ATV độc thân nên quyết định chọn lựa đi theo Tư Lệnh dù không biết sẽ đi đâu ?
Sáng sớm hôm đó, tôi c̣n nhớ như in, Đại Dương, Đại Úy Nguyễn Quang Đan, chánh văn pḥng Tư Lệnh đưa cho tôi một số tiền và bảo :
- Tiểu Cần, chú đi chợ mua vài thức ăn để lo cơm cho TL hôm nay .
- Trời ....
Tôi kêu thầm nhưng vẫn đưa tay nhận số tiền và lên xe đi thẳng ra chợ Vũng Tàu. Trên đường đi tôi miên man thầm nghĩ và lo lắng, tôi chỉ là một ATV không hơn không kém, c̣n chuyện nấu nướng này có vẽ lạc tông xa tít rồi, đành rằng tôi cũng có nấu nướng nhưng tôi nấu cho tôi ăn, ngon hay dở cũng ḿnh tôi mà thôi, đàng này hôm nay tôi sẽ nấu cho TL ăn ! Chuyện khó tin nhưng có thật, một vị TL nghiêm nghị ít nói, hiếm cười, mà cả thời gian hơn 2 năm làm việc cận kề bên ông không được thân thiện lắm th́ thử hỏi làm sao tránh khỏi sự lo lắng trong đầu. Thôi th́ một liều hai củng phải liều “Lính mũ xanh trở ngại nào cũng vượt qua”, tất cả bằng một tấm ḷng. Tôi chọn mua một con gà cở trung, một củ gừng “Gà kho gừng” th́ tuyệt lắm đây, chỉ là ư nghĩ thôi, c̣n nấu có tuyệt hay không th́ hảy chờ xem. Tôi mua thêm vài trái dưa leo và một bó rau muống “Người Bắc thích rau muống” tôi nghĩ vậy.
10h 55 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, trong lúc đang trông nồi thịt gà kho gừng sắp sửa xong th́ Đại Dương từ văn pḥng TL chạy xuống gọi tôi :
- Tiểu Cần mang máy ra trực thăng ngay, Tổng Thống ban lệnh đầu hàng rồi.
- Nhận Đại Dương 5/5, tôi sẽ ra ngay.
Mang chiếc máy PRC25 lên lưng, khẩu tiểu liên Tiệp Khắc vào hông, tôi c̣n đang phân vân không biết mang cái ǵ giữa nồi thịt gà kho gừng hay chiếc ba lô cá nhân ? Trong lúc thời gian khẩn cấp, “Bên trọng, bên khinh” làm sao đây ?
- Quyết định ngay đi Tiểu Cần ơi, mi không có thời gian nữa...
Quư đọc giả có đóan được là tôi chọn món nào không ?
Thưa nồi thịt gà kho gừng, c̣n gia tài của một người lính tôi bỏ lại.
Thật t́nh mà nói, sau 37 năm ngồi đây ghi lại nhưng kư ức này tôi cũng không hiểu tại sao tôi chọn nồi thịt gà kho gừng, nếu bảo rằng tôi cố t́nh khoe cái tài nấu nướng của ḿnh th́ hoàn toàn sai v́ đó không phải là cái nghề chính, cuộc đời người lính chiếc ba lô là cả một gia tài. Trong lúc tranh sáng, tranh tối chỉ phản ứng theo sự nhạy cảm, có thể trong cái nhạy cảm đó bắt nguồn từ sáng sớm chuyện nấu cơm cho TL mà đây là lần đầu cũng là lần cuối nên tôi đả bỏ quên cái gia tài của tôi.
Khoảng 2 giờ trưa, tàu đang lênh đênh ngoài cửa biển Vũng Tàu, thấy TL ngồi bó gối vẻ mặt buồn hắt hiu hướng nh́n vào đất liền, tôi đến gần khẽ hỏi :
- Thưa Tư Lệnh có đói không ?
Tư Lệnh vẫn nh́n ra biển khơi, không thèm quay lại nh́n tôi mà vẫn im lặng, chúng tôi cùng buồn, tuy nỗi buồn của mội ngừơi có khác nhau. Tôi đứng lặng yên bên cạnh ông, không dám hé môi, ngước mắt lên trời xanh, những con chim hải âu đang đảo lên đảo xuống, tôi ước ǵ đó là những cánh chim sắt dội bom lên đầu địch... tôi nhận lệnh và truyền lệnh của Tư Lệnh đến các đơn vị... Tôi đang thả hồn về quá khứ.. chợt giật ḿnh dù tiếng hỏi như nghẹn trong cổ họng :
- Thế chú có ǵ ăn không ?
- Dạ, tôi có nồi thịt gà kho gừng, để tôi đi xin Hải Quân một ít cơm..
***
Đời tỵ nạn.
Trong căn lều dă chiến của trại tỵ nạn PENDLETON California, chỉ có Ông và tôi, hai người lính thất trận trong nghiệt ngă, phải làm kiếp lưu vong, một trung niên 43 tuổi, một thanh niên 25 tuổi nằm trên chiếc ghế bố, cách nhau chừng 3 Feet tuy gần mà xa, v́ kỷ luật của Quân Đội hăy c̣n trong máu, trong tim của tôi đâu dể ǵ một ngày, một buổi xóa tan tuy rằng hiện tại ông không c̣n là Tướng, là TL nữa, nhưng đối với tôi, nét hào quang một vị TL của một Binh chủng hào hùng bách chiến bách thắng mà không biết bao nhiêu xương máu của những Cọp Biển anh hùng dựng nên cái hào quang đó, cho nên dù ở đâu, thời gian nào tôi luôn luôn kính trọng như đang kính trọng các Anh, những chiến sĩ “Vị Quốc vong thân”. Ngày ngày thầy tṛ chúng tôi trao đổi với nhau không quá mười lời, Ông theo đuổi ư nghĩ có trong Ông, c̣n tôi theo đuổi ư nghĩ riêng tư của tôi. Với tôi, niềm thương nỗi nhớ quê hương, cha mẹ, người em trai, và thấm thía hơn nữa đồng đội, là chiến hữu của tôi ! Mới ngày nào c̣n chung bước quân hành nay kẻ một nơi người một ngả, nước mất nhà tan, đau ḷng hồn thiêng sông núi...
Trung tuần tháng 6 năm 1975, Tư Lệnh được xuất trại tỵ nạn v́ có người bảo lănh, Ông gọi tôi lại ngồi gần ông và ông nh́n thẳng vào mắt tôi :
- Chú có biết tại sao tôi luôn luôn nghiêm nghị và ít nói không ?
- Dạ thưa Tư Lệnh không.
- Sư Đoàn của chúng ta trên 15,000 quân nhân, với cương vị chỉ huy tôi phải làm như vậy mà thôi.
Ngưng đôi phút rồi Ông tiếp :
- Chứ thật ḷng tôi là con người có nhiều t́nh cảm sâu thẳm trong tim ít ai biết được.
- Cám ơn Tư Lệnh đă bộc lộ tâm t́nh với tôi dù thật ngắn gọn nhưng tôi đă hiểu t́nh cảm của “Ông thầy” từ lâu và sẽ hiểu nhiều thêm nữa măi măi về sau.
Ông đặt tay lên vai tôi bóp nhè nhè, đây là lần đầu tiên trong đời ATV bị Tư Lệnh chạm vào người, nhưng không phải trừng phạt mà là có ư truyền thêm can đảm cho tôi. Ngần ngừ giây lâu như có điều khó nói và cuối cùng Ông nhỏ nhẹ :
- Chút nữa đây, tôi sẻ rời khỏi nơi này, trước sau ǵ chúng ta cũng đều phải như thế, chú ở lại, anh sẽ cố gắng t́m người bảo trợ cho chú hay chính chú có người nhận bảo trợ th́ nhận ngay để ra khỏi những căn lều tù túng này càng sớm càng tốt và sau này sẽ t́m cách liên lạc với nhau.
- Thưa TL tôi sẽ cố gắng t́m cách liên lạc khi ổn định ngoài kia.
- Chú giữ chiếc đồng hồ này (TL cởi ra từ trên tay) tôi tặng chú để làm kỷ niệm t́nh thầy tṛ và 100 Dollars pḥng khi hữu sự.
- Cám ơn TL, kính chúc Thầy đi b́nh yên và đoàn tụ với gia đ́nh.
Trưa hôm đó TL đi rồi chỉ c̣n lại một ḿnh tôi trong căn liều dă chiến, cái cô đơn lạc lơng tưởng chừng như trên hành tinh này chỉ có một ḿnh tôi trơ trọi. Ngồi thừ trên chiếc ghế bố, hai tay áp lên thái dương, mắt mở lớn mà tôi chẳng trông thấy ǵ ngoài màn sương nước mắt và vải lều màu xám xịt. Trong lúc này tôi thấy nhớ đến các anh, những Đồng đội, Chiến hữu của tôi, v́ tôi đang lẻ loi một ḿnh.
Tiểu Cần Nguyển Thế Thụy
hoanglan22
03-11-2019, 13:41
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1348145&stc=1&d=1552311286
Trong số những chiến hạm của Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa, Trợ chiến hạm có lẽ là loại chiến hạm có mặt từ ngày thành lập HQVNCH và tiếp tục hoạt động cho đến ngày VNCH kh6ng c̣n là một quốc gia..Trợ chiến hạm là tên Việt cho các tàu đổ bộ loại LSSL (Landing Ship Support Large) của HQ Hoa Kỳ...
Trong thời kỳ Thế chiến thứ 2, HQ Hoa Kỳ đă sử dụng nhiều loại chiến hạm đổ bộ gọi chung là Landing Ship như LST (Landing Ship Tank), LCT (Landing Craft Tank), LSD (Landing Ship Dock)..sau đó phát triển thêm những loại LCI (L) =Landing Craft Infantry (Large)..Những LCI này được gắn nhiều loại súng khác nhau từ phóng rocket, súng cối, đại liên, đại bác..Và sau cùng được bổ sung và phát triển hơn nữa thành một loại chiến hạm có cấu trúc lớn hơn, trang bị hỏa lực mạnh hơn để trở thành..đúng nghĩa là một chiến hạm LCS (L) với tên phụ là Mighty Midget
Khi Thế chiến 2 chấm dứt 123 chiếc LCS(L) ở trong t́nh trạng c̣n hoạt động được , sau đó do nhu cầu của cuộc Chiến tranh 'lạnh' giữa 2 khối Tự do và Cộng sản.., các LCS(L) được đưa ra tái sử dụng dưới kư danh mới LSSL và Hoa Kỳ đă viện trợ những chiến hạm này cho các quốc gia đồng minh như Pháp, Ư, Nhật, Đài Loan.. qua các Chương tŕnh quân viện như Mutual Defence Assistance, SecurityAssistance..
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1348146&stc=1&d=1552311286
Trợ chiến hạm trong Hải Quân Pháp tại Việt Nam
Trong chiến tranh VN, Pháp đă nhận được quân viện từ Hoa Kỳ và Hải Quân Pháp cũng nhận một số chiên hạm để sử dụng tại chiến trường Đông dương.
Ngày 25 tháng7 năm 1950, 6 chiếc LSSL được bàn giao cho Pháp tại Puget Sound : đó là những chiếc LSSLs 2, 4, 9, 10, 28 và 80. Sau chuyến hải hành vượt Thái b́nh dương, các chiến hạm này cặp bến SàiG̣n vào ngày 17 tháng 9. Lúc đầu HQ Pháp đánh số các chiến hạm này từ 1 đến 6, nhưng sau đó (cuối 1951) đổi thành các số 9021 đến 9026 và đến 1953 dùng tên các vơ khi thời Trung cổ để đặt cho các chiến hạm này.(Trươc đó HQ Pháp đă có 3 chiếc LSSL, với 6 chiếc mới nhận HQ Pháp có được 9 LSSL để sử dụng trên chiến trường Đông dương)
Các chiến hạm của HQ Pháp mang những tên : Arbalete (9021), Arquebuse (9022), Hallebarde (9023), Javeline (9024), Pertuisane (9025), Rapière (9026) và vào 1953 thêm 3 chiếc được Hoa Kỳ chuyển cho Pháp là những chiếc Etendard, Oriflamme và Framée
Các LSSL được dùng để yểm trợ cho các Dinassault (Hải đoàn xung phong) trong các trận đánh chống lại Lực lượng Việt Minh tại những vùng sông rạch Bắc VN như các khu vực Sông Đáy, Sông Hồng. đồg thời hoạt động tuần pḥng ven biển từ Trung ra Bắc và trên sông Cửu Long tại miền Nam..
Trong thời gian từ 1952-1954, các chiến hạm này đă yểm trợ nhiều cuộc hành quân của Lực lượng Liên Hiệp Pháp
Sau khi Hiệp định Geneve được kư kết, phân chia VN thành 2 miền, Chiến hạm Pertuisane đă được dùng để chuyên chở người di cư từ Bắc vào Nam..
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1348147&stc=1&d=1552311286
Trợ chiến hạm của Hải Quân VNCH :
- Các Trợ chiến hạm do Pháp chuyển giao :
Và khi vai tṛ của Pháp chấm dứt, họ đă chuyển một số chiến hạm trong đó có các LSSL cho Việt Nam.
Chiếc Arbalète là Trợ chiến hạm đầu tiên được chuyển giao cho HQVN vào ngày 12 tháng 10 năm 1954 tại Sài G̣n. HQVN đổi tên chiến hạm này thành Nỏ thần HQ 225. Với giai đoạn đầu của tổ chức HQVN chưa đủ nhân lực và c̣n thiếu kinh nghiệm để điều hành nên tuy được chinh thức xem là một chiến hạm của VN nhưng vẫn do Sỉ quan và thủy thủ đoàn (25 người) Pháp kiểm soát và điều hành, thêm vào đó là 30 nhân viên HQVN ..xem như 'học nghề'. Đến khoảng cuối năm 1955 Chiến hạm trở thành 'không thể hải hành' nên được..giải ngũ, chuyển cho Đài loan để phế thải, lấy những cơ phận c̣n dùng được..
Chiếc Arquebuse được chuyển giao vào 1955 và trở thành Linh Kiếm HQ 226.
Chiếc thứ ba được Pháp chuyển lại là chiếc Framée , chuyển vào tháng 3 năm 1956, và thay thế cho chiếc Arbalete phế thải, HQVN vẫn dùng tên Nỏ Thần HQ 225 đặt cho chiếc này.
Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh chống Cộng, các chiến hạm này theo Đ/Tá Đỗ Cẩm ghi lại : 'LSSL là những chiến hạm thật sự..chiến đấu đầu tiên mả HQVN tiếp nhận và là niềm hănh diện cho HQVN. Hỏa lực của chiến hạm thật ghê gơm nhất là khi yểm trợ tiếp cận mục tiêu. Chiến hạm gây kinh hoàng cho VC trong những năm 50-60, và giúp rất nhiều cho các cuộc hành quân tại các vùng sông ng̣i khi khả năng của KQVN và Pháo binh c̣n giới hạn..'
Các Trợ chiến hạm do Mỹ chuyển giao :
Ngoài 3 Trợ chiến hạm kể trên, Hoa Kỳ cũng chuyển giao cho HQVNCH 4 chiếc nữa để tổng số Trợ chiến hạm lên đến 7 chiếc. Từ 1957, HQVNCH đă dùng tên các chiến sĩ HQ hy sinh để đặt cho các Trợ chiến hạm :
HQ 225 Nguyễn văn Trụ
HQ 226 Lê trọng Đàm
HQ 227 Lê văn B́nh
HQ 228 Đoàn ngoc Tảng
HQ 229 Lưu Phú Thọ
HQ 230 Nguyễn ngọc Long
HQ 231 Nguyễn đức Bổng
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1348148&stc=1&d=1552311286
Đặc tính chung của các Trợ chiến hạm :
Trọng tải trung b́nh 250 tân, tối đa 384 tấn
Kích thước : dài 158 ft, rộng 23.7 ft
Vận chuyển : 2 máy diesel, mỗi máy 1600 mă lực
Vận tốc trung b́nh 14 hải lư/giờ, tối đa 16.5 hải lư/giờ
Hỏa lực : 1 đại bác 76.2 mm, 4 khẩu 40 mm, 4 khẩu 20 mm và nhiều đại liên.
Thủy thủ đoàn : 60-70 người
Vai tṛ và Nhiệm vụ cũa Trợ chiến hạm :
Trong những năm 1950, các Trợ chiến hạm thuộc HQ Pháp hoạt động trên chiến trường Đông dương thường được giao những nhiệm vụ như tuần pḥng ven biển, và do hỏa lực trang bị trên tàu khá mạnh nên được dùng vào việc yễm trợ cho các cuộc hành quân thủy bộ. Những dinassaut của Pháp gồm một số chiến đỉnh nhỏ như LCT, LCM và LCVP gắn thêm nhiều đại liên, súng cối để tăng hỏa lực..Khi hành quân thường có thêm một LSIL để dùng làm nơi đặt Bộ Chỉ huy, và khi có mặt của Trợ chiến hạm th́ chiếc này sẽ giữ nhiệm vụ đó. Đài chỉ huy của Trợ chiến hạm khá cao, giúp tăng được tầm quan sát nhưng lại trở thành mục tiêu bị địch quân nhắm bắn..Các nhân viên quan sát trên pháo tháp dễ bị 'băn sẻ' Các Trợ chiến hạm rất hữu hiệu trong công tác bảo vệ các đoàn tàu thuyền cần di chuyển trên những ḍng sông bị CQ phục kích.. Lực lượng Việt Minh trong thời gian này chưa có nhựng vũ khí nặng để gây tổn hại cho các đoàn công-voa trên sông..Nguy hiểm nhất chỉ là ḿn..thả trôi hoặc đặt vào tàu để phá hoại..Một số cuộc đụng độ giữa Lực lượng VM và Pháp trên những vùng sông ng̣i dều đưa đến những tổn thất nặng cho VM như các trận phục kinh trên Sông Đáy (11-1952), trận giải vây Mao Khê (23-3-1951), chiến dịch Phủ Lư-Ninh B́nh (29-5-1951)
giữa các SĐ 308 và 304 VM và Dinassaut 3 của Pháp...
Trong những năm 1953-54, các Trợ chiến hạm Pháp đă đụng độ rất nhiều trận với VM..tại những khu vực Phát Diệm, Bùi chu, Thanh Hóa, Hưng Yên và những tiền đồn dọc Sông Hồng..
Sau Hiệp định Geneve, HQ VN tiếp nhận 2 Trợ chiến hạm từ người Pháp và tiếp tục sử dụng các tàu này..theo kiễu HQ Pháp, nghĩa là tuần ven biển, sông rạch và yễm trợ hành quân thủy bộ..
Từ 5-19 tháng 6, 1955, các giang đoàn xung phong 22, 23 và 25 được sử dụng trong các cuộc hành quân dẹp các lực lượng quân đội Giáo phái Ḥa Hảo trong khu vực Cần Thơ, Long Xuyên. Bộ Chỉ huy chiến dịch được đặt trên Chiến hạm Nỏ Thần..
Về nhiệm vụ tuần duyên, từ tháng 12-55, Nỏ Thần được giao nhiệm vụ tuần tra ven biển từ Vũng Tàu đến Mũi Băi Bùng..
Vai tṛ yểm trợ hỏa lực và tiếp vận cho các tiền đồn xa xôi nơi vùng sông rạch giảm dần khi Không Quân VNCH lớn mạnh, các phi vụ Skyraider và trực thăng vơ trang được sử dụng nhiều hơn..
Trong những tháng đầu năm 1970, các Trợ chiến hạm trỡ thành lực lượng chính bảo vệ các đoàn tàu tiếp tế cho Kampuchea trên thủy lộ Pnnompenh-NeakLuong. Chuyến tiếp vận sau cùng được thực hiện vào ngày 30 tháng Giêng 1975
'Dự án Hải sử' (Vũ hữu San) đă viết về Sự hữu hiệu của Trợ chiến hạm và Giang pháo hạm như sau :
' Trong ṿng 25 năm chiến tranh, loại Trợ chiến hạm LSSL là loại chiến hạm có hỏa lực mạnh nhất trong sông ng̣i VN, kế đó là các Giang phao hạm. Khi hành quân phối hợp với lực lượng bạn, hai loại tàu này thường được dùng như soái hạm lưu động cho CHT hành quân. Với hỏa lực hùng hậu, chiến hạm yểm trợ hải pháo rất đắc lực khi tiến quân..
Tuy vậy đôi khi tại vùng đồng bằng sông Cữu Long, các tàu này đă được sử dụng vào các công tác tuần tiễu sông ng̣i.Lâu lâu cấp chỉ huy c̣n dùng hai loại tàu này thường trực để yểm trợ cho lực lượng diện địa ven sông. Trong công tác này chiến hạm thường đơn độc nên dễ dàng bị địch phục kích khi giang hành và cả khi neo lại nghỉ ngơi..'
Hạm đội HQVNCH được tổ chức thành 3 Hải đội (Tuần duyên, Chuyển vận và Tuần dương). Giang pháo hạm thuộc Hải đội 1, tuần duyên (gồm cả các PGM=Tuần duyên hạm và LSIL=Giang pháo hạm)
Victor Croizant (Đại tá TQLC Hoa Kỳ) trong 'The Brown Water Navy' đă viết một bài'tiêu biểu' về hoạt động của Giang đoản Xung phong 23 trong trận Hàm Luông 4 tháng 10 1965 như sau : 'Chiến hạm HQ 226 được giao nhiệm vụ tuần giang trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong các tháng 9 và 10, 1965. Các báo cáo từ Cố vấn Mỹ ghi nhận chiến hạm đă yểm trợ cho 3 công tác trục vớt các tiểu đỉnh bị ch́m, yểm trợ hải pháo cho 9 cuộc hành quân, cho 2 chuyến tiếp liệu và tuần tra đơn độc 9 chuyến.Hoạt động đặc biệt hữu hiệu nhất của HQ 226 là yẩm trợ cuộc hành quân của Giang đoàn 23 trong cuộc đổ quân cho TĐ 41 BĐQ tại Hàm Luông, Kiến Ḥa ngày 4 và 5 tháng 10. Trong trận này 21 chiến sĩ BĐQ và HQ hy sinh cùng 57 bị thương.. Cuộc hành quân bắt đầu từ 7 giờ sáng, xuất phát tại Bến Tre. BĐQ dùng tàu xuôi ḍng để đổ bộ vào khu vực t́m và diệt một lực lượng VC đă bao vây tấn công một tiền đồn và xă ấp đêm hôm trước. Thời tiết không cho phép dùng trực thăng để đổ quân như dự trù.Lực lượng giang đoàn tiên công lúc 11 giờ sáng, hộ tống bởi một phi cơ quan sát của LQ HK. Phi cơ không ghi nhận được hoạt động của CQ. Lúc 12 giờ , HQ 226 dẫn đầu khởi pháo vào một mục tiêu nghi ngờ, lập tức VC nổ súng dự dội vào đoàn tàu từ bờ bên phải và vào HQ 226 từ bờ trái.Hai LCM chở quân trúng đạn, một ở t́nh trạng gần ch́m phải kéo : cả 2 ủi băi vào bờ trái, BĐQ đổ bộ và tạo một ṿng đai pḥng thủ, các tiểu đỉnh tạm rút chỉ HQ 226 trụ lại để yẩm trợ cho toán BĐQ và phi cơ được gọi đến để oanh kích..Các LCM trở lại đổ thêm quân tiếp viện. HQ 226 ở lại chiến trường suốt đêm..Sáng 5/10, lực lượng VNCH thanh toán chiến trường..'
Lược sử và hoạt dộng của các Trợ chiến hạm
HQ 225 Nguyễn văn Trụ
Chiến hạm được khởi đóng ngày 27 tháng Giêng 1945 tại Cơ xưởng Commercial Iron Works, Portland (Oregon)
Hạ thủy ngày 7 tháng 2, 1945
Nhập HQHK ngày 5 tháng 3, 1945 và nhận kư hiệu USS LCS(L)(3)-105 sử dụng cho Lực lượng trừ bị.
Danh hiệu đổi thành Landing Ship Support Large USS LSSL-105 vào ngày 28 tháng 2, 1949.
Chuyển cho Lực lượng Tuần duyên Ryukyu ngày 12-03-1952
Chuyển cho HQ Pháp ngày 28 tháng 12, 1953 , được đặt tên là RFS Framée.
Chuyển cho HQ VNCH năm 1957, cũng đặt tên là Nỏ Thần (HQ 225) , sau đó năm 1970 đổi tên thành Nguyễn văn Trụ.
(HQ Trung úy Nguyễn văn Trụ, Khóa 2 HQ/VN hy sinh trong một trận đánh thuộc Chiến dịch Nguyễn Huệ tăi Long xuyên vào tháng 12/1955)
Bị đặc công CS đánh ch́m ngày 30 tháng 7 năm 1970
Vài hoạt động của HQ 225 :
(Danh số HQ 225 đă được dùng cho 2 LSSL,chiếc thứ nhất tiền thân là Arbalète..Hoạt động của Nỏ thần (LSSL-2) được tóm lược trong phần trên)
Từ 1956-57, HQ 225 thứ nh́ thay cho chiếc thứ nhất phế thài, vẫn được đặt tên là Nỏ thần, nhận những nhiệm vụ như tuần tra trên sông Cửu Long và dọc duyên hải Nam VN từ Vũng Tàu đến Hà Tiên, bảo vệ các thuyền đánh cá VN trong khu vực Vịnh Thái lan chống các vi phạm của Cambodia.
16 tháng 2-1969 HQ 225 dùng hải pháo giúp đẩy lui cuộc tấn công của VC tại Vĩnh Long và 28 tháng 11 cũng đảy lui cuộc phục kích của VC tại Tam Giang, Đầm dơi.
Từ 1970, HQ 225 được đặt dưới sự chỉ huy của Hải đội tại Căn cứ Năm Căn..
Rạng sáng ngày 30 tháng 7 năm 1970, HQ 225 thả neo, cột giây tại Căn cứ Năm Căn, nơi cửa sông Bồ Đề, và bị đặt ḿn phá hoại, phát nổ lúc 2 giờ sáng. Tàu ch́m nhanh xuống đáy nươc..Hạm trưỡng Nguyễn Ngọc Quyền kể lại : ' Tôi cho lệnh đào thoát, bỏ tàu khi nước ngập 1/3 tàu trong vài phút; một số thủy thủ không thoát kịp v́ lo thu nhặt vật dụng cá nhân' Công cuộc tiếp cứu tuy diễn ra nhanh chóng, tuy nhiên 17 nhân viên thũy thủ đoàn bị mất tích và được xem là hy sinh theo tàu..Do nươc chảy xiết và khu vực kém an toàn nên việc trục vớt chiến hạm không được thực hiện..Điều tra sau đó t́m thấy những sợi dây nylông dài cột theo dây neo và tàu bị ch́m do đặc công 'thủy' VC gài ḿn..
Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng trong 'Năm Căn, vùng xôi đậu' đă kể lại vụ ch́m tàu như sau : 'Đêm thứ hai của một chuyến nghỉ bến sau đó, giữa lúc Hải và Trung sĩ Hoan đang đội mưa đi từ Câu lạc bộ về pḥng, th́ bỗng giật ḿnh v́ hai tiếng nổ liên tiếp kinh hồn xen lẫn với những tiếng sấm chớp ầm ầm của cơn mưa miền nhiệt đới, cả hai chạy vội ra cầu tầu. .Cảnh náo loạn hăi hùng đang diễn ra trước măt mọi người : chiếc LSSL, nằm giữa gịng sông, nghiêng hẵn phía tả hạm; trên boong chinh nhân viên nhôn nháo..cố kiếm cách nhảy xuống..Chiếc PCF trực ứng chiến rà đến. Hải và Hoan cũng vội vă nhảy xuông PCF của ḿnh, gỡ dây, nổ máy phóng ra chiến hạm, chỉ đủ th́ giờ cùng chiếc PCF trực, đón được một số nhân viên và vị hạm trưởng..vẫn c̣n ngơ ngác chưa hoàn hồn v́ chấn động của tiếng nổ..'
HQ 226 Lê trọng Đàm
Khởi đóng ngày 5 tháng 7, 1944 tại George Lawley&Sons Corp. Neponset, MA.
Hạ thủy : 15 tháng 7, 1944
Nhập HQHK ngày 11 tháng 8 1944 , nhận kư hiệu USS LCS(L)(3)-4
Hoạt động trong khu vực Thái b́nh dương trong Thế chiến 2
Đ́nh động sau thế chiến, lưu giữ tại LL Trừ bị (Columbia Reserve Group, Astoria OR
Nhận kư hiệu mới USS LSSL-4 ngày 28 tháng 2, 1949.
Chuyển cho HQ Pháp ngày 15-8-1950 đổi thành RFS LSSL-2 và sau đó thành RFS Arquebuse (L-9022)
Chuyển cho HQVN năm 1955, đổi tên là RVNS Linh Kiếm (HQ-226) và sau đó đổi thành Lê trọng Đàm
Bị đánh ch́m ngày 3 tháng 10, 1970
Vài hoạt động :
HQ 226 Linh Kiếm được giao nhiệm vụ thuộc Hải lực HQVN. Một trong những nhiệm vụ của Lực lượng này là tuần pḥng trên sông và yểm trợ cho các Giang đoàn xung phong trong các cuộc hành quân..
Vai tṛ yểm trợ của Trợ chiến hạm được chứng minh cụ thể trong trận Hàm Luông (4-5 tháng 10, 1965) : Trong trận này Giang đoàn Xung phong 23 được giao nhiệm vụ đổ bộ TĐ 41 BĐQ gần khu vực Bến Tre nơi Sông Hàm Luông (Kiến Ḥa) để t́m và diệt một TĐ Công quân hoạt động tại đây. Chiến hạm Linh Kiếm đă được sử dụng làm hỏa lực yểm trợ, giúp đẩy lui lực lượng Cộng quân đang phục kích đoàn tàu từ cả hai ven bờ..
HQ 226 cũng nhận nhiệm vụ tuần tra trên sông Sài g̣n bảo vệ tàu thuyền di chuyển qua khu vực Rừng sát..
Trong năm 1968, HQ 226 Linh Kiếm luôn luôn 'bận rộn' .Hạm trưởng Lê văn Rạng điều khiển chiến hạm tham dự nhiều cuộc hành quân trong khu vực sông Cửu Long, kể cả yểm trợ bảo vệ các tỉnh, thị xă trong Tết Mậu Thân. Từ 3 đến 5 tháng 2, HQ 226 ngăn chặn các cuộc tấn công của VC vào Vĩnh Long từ ngă sông Cổ Chiên. Riêng trong thời gian từ cuối tháng Giêng đến đầu tháng 3/68 Chiến hạm đă yểm trợ hỏa lực trong 36 vụ đụng độ với CQ.. do những chiến công này Đ/úy Rạng đă được ân thưỡng huy chương Bronze Star with Combat V của TT HK.
Ngày 6 tháng 5, 1968, HQ 226 bị VC phục kích trên sông Cổ Chiên từ cả 2 bên bờ..Chiến hạm phản kích diệt nhiều VC để chỉ bị tổn thất nhẹ với 5 chiến sĩ bị thương.
Ngày 3 tháng 10 năm 1970, HQ 226 trong khi đang thả neo trên sông Cổ chiên, đă bị đặc công thủy VC bơi lặn, thả trôi xuôi gịng từ Cồn Giai, đặt ḿn vào giây neo. Vụ nổ gây một lổ hỏng lơn nơi mủi tàu, gây tử thương cho 2 thủy thủ và làm tảu ch́m sâu dưới 8m..Chiến hạm bị hủy bỏ và không được trục vớt..
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1348149&stc=1&d=1552311286
HQ 227 Lê văn B́nh
Khởi đóng ngày 10 tháng 8, 1944 tại George Lawley & Sons Corp, Neponset, MA
Hạ thủy : 19 tháng 8, 1944
Nhập HQ HK ngày 10 -9- 1944, kư hiệu USS LCS(L)(3)-10 sau đó đưa vào đ́nh động trong Lực lượng HQ Trừ bị thuộc Hạm đội Thái b́nh dương. Kư hiệu được đổi thành USS LSSL-10 ngày 28 tháng 2, 1949.
Đưa ra tái hoạt động và chuyển (cho mượn) cho HQ Pháp ngày 15 tháng 8 năm 1950, đặt tên là RFS Javeline (L-9024)
Pháp trả lại HK vào năm 1955
HK chuyển cho Nhật ngày 7 tháng 5, 1956, đặt tên là JSDFS Hinageshi.
Nhật trả lại HK và HK chuyển cho HQVN ngày 15 tháng 9,1956 và trở thành HQ-227 Lê văn B́nh.
HQ Trung úy Lê văn B́nh, Khóa 10 HQ/Nha trang thuộc GĐ 28 XP, tử trận tại Cà Mau năm 1965 khi chiếc LCM 6 chỡ Pháo binh đi hành quân bị trúng ḿn.
Bị ch́m ngày 2 tháng 10, 1966
Vài hoạt động :
Vào lúc 2 giờ 31 sáng ngày 2 tháng 10, 1966 : HQ 227 thả neo ở khoảng 800 m trên sông, phia Tây Căn cứ Giang đoàn27 ở Mỹ Tho. Chiến hạm đă bị đặc công VC (giả dạng binh sĩ Điạ phương quân đi trên tàu) đặt ḿn phá hoại. 2 quả ḿn phát nổ gây tàu ch́m, nhưng v́ mực nước không sâu nên phần boong c̣n trên mặt nước. Nhân viên cơ khí đă dùng bơm để tháo nước, vá tạm lỗ thủng để đưa tàu lên mặt nước. HQ Trung tá Trần văn Triết, Tư lệnh GĐ 27 đă trực tiếp chỉ huy cuộc trục vớt, sau đó HQ 227 được LCM 8 kéo về Sai Gon để sửa chữa, nhưng v́ tổn thất quá nặng nên đành bị phế thải..
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1348150&stc=1&d=1552311286
HQ 228 Đoàn Ngọc Tảng
Khởi đóng 7-7-1944 tại George Lawley & Sons corp
Hạ thủy : 17-8-1944
Gia nhập HQ HK 6 tháng 9, 1944. Kư hiệu USS LCS(L)(3)-9
Tham dự các cuộc hành quân trong vùng biển Thái b́nh Dương, sau đó được đ́nh động và tồn trữ trong LL Trừ bị.
Kư hiệu đổi thành USS LSSL-9 ngày 28-9-1949
Chuyẻn cho HQ Pháp ngày 15-8-1950, thành RFS Hallebarde (L-9023)
Trả lại HK năm 1955
HK chuyển cho Nhật (7-5-56) đổi tên thành JFDSF Asagao
Nhật trả lại HK để HK chuyển cho HQVN (15-9-56) để trở thành HQ 228 Đoàn ngọc Tảng
Di tản đến Philippines (4-1975), HQ Phi đổi tên thành RPS La-Union (LF-50), dùng lấy cơ phận và phế thải vào năm 1980.
Vài hoạt động :
- 4 tháng 6-1967 , HQ 228 giúp đẩy lui cuộc tấn công của một đại đội VC vào đồn Đức Mỷ, khoảng 26 km phia Nam Vĩnh Long, và ngày 17 tháng 6 , HQ 228 cùng 2 PBR giúp giữ vững tiền đồn Lo Xe bị 2 ĐĐ VC bao vây..
- 25 tháng 2-1970
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1348151&stc=1&d=1552312163
HQ 229 Lưu Phú Thọ
Khởi đóng ngày 6 tháng Giêng,1945 tại Commercial Iron Works, Portland Oregon
Hạ thủy 27-1-45
Nhập HQ HK 13-2-45, kư hiệu USS LCS(L)(3)-101
Đ́nh động và tồn trữ trong LL Trừ bị Astoria OR
Đổi kư hiệu (28-2-49) : USS LSSL-101
Chuyển cho HQ Nhật (30-4-53) thành JDS Tsutsuji
Nhật trả lại HK để chuyển cho HQ VN (28-4-56) trở thành HQ 229 Lưu Phú Thọ (Khóa 10 HQ/NT)
Di tản sang Philippines (4-75), phế thải để lấy cơ phận rời.
Vài hoạt động :
HQ 229 ngoài những nhiệm vụ yểm trợ hành quân, lịch sử chiến hạm c̣n có thêm một 'sự kiện' đặc biệt : Tháng 12, 1966 Hạm trưởng HQ 229..nhận được yêu cầu của một Quận trưỏng (băn thân của Hạm trưởng) chở tiếp liệu đến cho một tiền đồn trong vùng xa xôi nơi VC bao vây cắt cả đường bộ lẫn đường sông. Đây không phải là nhiệm vụ của chiến hạm..Trong chuyến tiếp tế này tàu c̣n chở thêm 1 ḅ đực và 4 ḅ cái để binh sĩ tiền đồn nuôi thêm, làm thực phẩm dự trữ. Chuyến đi gặp trở ngại do sóng gió nên 2 con ḅ sút giây, chạy loạn trong tầu và bị..gẫy chân ; tuy cả 5 con đều đến được tiền đồn nhưng tin bị lộ nên Hạm trưỡng bị truy tố ra Ṭa QS về tội danh 'chở súc vật trái phép'. Hạm trưỡng sau đó được miễn tố nhưng vẫn bị..phạt..https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1348152&stc=1&d=1552312163
HQ 230 Nguyễn ngọc Long
Khởi đóng 18-12-44 tại Commercial Iron Works
Hạ thủy 6-1- 45
Nhập HQ HK 24-1-45 kư hiệu USS LCS(L)(3)-96
Hoạt động tại vùng Thài b́nh dương
Đ́nh đông và đổi kư hiệu (28-2-49) thành USS LSSL-96
Chuyển cho Nhật (30-6-53) thành JDS Shobu
Trả lại HK để chuyển cho VN ngày 28-4-65 trở thành HQ 230 Nguyễn ngọc Long
Di tản đến Philippines (4-75) HQ Phi đổi thành RPS Sulu (LF-49)
HQ 231 Nguyễn đức Bổng
Khởi đóng 5-12-44 tại George Lawley & Sons Corp.
Hạ thủy 13-12-44
Nhập HQ HK 31-12-44 kư hiệu USS LCS(L)(3)-129
Hoạt động trong khu vực Viễn Đông Thái b́nh dương cho đến đầu năm 1946 để đ́nh động và xếp vào LL Trừ bị
Đổi kư hiệu thành USS LSSL-129 (28-2-49)
Chuyển cho Nhật (30-6-53) thành JDS Botan
Trả lại HK 28-4-65 và HK chuyển cho HQVN ngày 19-6-66 để trở thành HQ 231 Nguyễn đức Bổng
(HQ Trung úy Nguyễn Đức Bổng , Khóa 10 HQ/NT hy sinh năm 1965 tại Băi Ngao, Kiến Ḥa)
Di tản sang Phi (4-75) trở thành BRF Camarines Sur (LF-48)
Chuyến hải hành sau cùng của các Trợ chiến hạm :
Trong tổng số 7 Trợ chiến hạm của HQVNCH, ngoài 3 chiếc bị ch́m do đặc công VC đặt ḿn, 4 chiếc c̣n lại đều di tản được sang Philippines.
HQ 228 :
Thàng 4-1975 : HQ 228 Đoàn Ngọc Tảng do HQ Thiếu tá Nguyễn hoàng Be làm hạm trưởng được điều động về công tác tại Vùng 4 Sông ng̣i với nhiệm vụ chính yếu là yểm trợ Hạm đội 21. Chiến hạm thường xuyên hoạt động tại Căn cứ HQ Cần Thơ.
HQ 228 tách bến Cần Thơ lúc 00 giờ 20 ngày 30 tháng 4-75 mang theo Phó Đề đốc Đặng cao Thăng, Tư lệnh Hạm đội 21 cùng Bộ Tham mưu, trên chiến hạm c̣n có Chuẩn tướng Chương Dzềnh Quay, Tham mưu trưởng Quân đoàn 4. Chiến hạm trên đường ra biển dù 'trên máy PRC-46 của tàu vẫn phát lời kêu gọi cũa Tướng Nguyễn Khoa Nam..các quân nhân không được tự ư rời nhiệm sở..' Chiến hạm..giữ im lặng vô tuyến trên suốt thủy lộ đường ra biển. HQ 228 đến điểm tập trung ngoài khơi Côn Sơn và theo đoàn chiến hạm HQVN hải hành đến Subic Bay.
HQ 228 đến Phi mang theo 149 người trong đó có 37 nhân viên thủy thủ đoàn..
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1348153&stc=1&d=1552312163
HQ 229 :
HQ 229 Lưu Phú Thọ do HQ Th/tá Vương thế Tuấn lảm Hạm trưởng rởi VN theo Cửa Tiểu đến Subic Bay ..với 37 người gồm 34 thủy thủ và..3 tỵ nạn (?)
HQ 230 :
Trong những ngày cuối cùng của VNCH, HQ 230 được Bộ tư lệnh Hạm đội biệt phái cho Bộ Tư lệnh Vùng 4 Duyên Hải.cùng 3 chiến hạm khác là các Giang pháo hạm HQ 330 và 331, Tuần duyên hạm HQ 602.
Tư lệnh V4ZH là Đại Tá Nguyễn văn Thiện
Hạm trưởng HQ 230 là Thiếu tá Nguyễn Nguyên
Cuộc di tản ngày 30 tháng 4 của Vùng 4ZH đă được ghi nhận với nhiều điểm trái ngược của những người trong cuộc..
- Đại Tá Thiện trong bài hồi kư '4 Chiến hạm di tản từ đảo Phú Quôc ' (Trang Lưu niệm Khóa 7 Đệ Nhất Thiên Xứng) ghi lại :
Ông đă họp với các Hạm trưởng của 4 Chiến hạm để định điểm hẹn là ngoải khơi cách Ḥn Thơm chừng một hải lư về phía Tây. Ông đă dùng LCM 8 để cùng gia đ́nh rời Bộ Tư lệnh sau khi họp tuyên bố giải tán Vùng 4ZH, đến HQ 230 và di chuyển ngay về Poulo Panjiang. Ông cho biết là 8 giờ sáng ngày 1 tháng 5, một số gần 40 PCF từ Hải đội 5 Duyên Pḥng (Năm Căn) và HĐ 4 DP do ḍ t́m tần số trên máy PRC-25 nghe được sự liên lạc giựa 4 chiến hạm nên đến với đoàn tàu ? và được vớt lên các chiến hạm di tản..Đoàn tảu 4 chiếc do HQ 230 dẫn đầu, theo sau là HQ 330 gịng theo HQ 331 (dùng làm chiến hạm dự trữ) và sau cùng là HQ 602.. hải hành về hướng Singapore..
- Trong bài 'Trong cảnh sông c̣n' phổ biến trên nhiều website hải ngoại và trong tập sách 'Một thuở làm trùm' tác giả Nguyễn Tấn Hưng, Trưởng Pḥng 2 Bộ Tư lệnh V4DZ đă ghi lại nhiều điều khác biệt hơn :
..' Trợ chiến hạm HQ 230 vừa kéo neo, chúng tôi chạy ra vừa kịp lúc. Cho ghe rà lại bên hông định cặp..nhưng bị bắn đuổi..Tôi nh́n lên đài chỉ huy thấy ông hạm trưởng Nguyễn Nguyên..(mơi vài ngày qua dă đich thân lên xin tôi bản đồ vùng TBD)..Tôi tin tưởng ở ḿnh, đưa tay vẫy rồi kêu to : Commandant..cho tụi tôi lên vơi..nhưng bị bắn đuổi..'
-Tác giả Nguyễn Hữu Duyệt trên HQ 330 ghi lại trong' Vùng 4 DH những ngày cuối' (Lướt sóng 40) : 'Sau khi tách bến HQ 330 chạy ṿng quanh phia Nam Phú Quốc để phối trí và đến điểm hẹn là Ḥn Khoai, vớt được khoảng 400 người..HQ 331 bị cháy cả 2 máy, bất khiển dụng , trên tàu có khoăng 300 người nên được HQ 330 kéo theo, dự trù sẽ chuyển số người này khi gặp được một Dương vận hạm...HQ 330 dẩn đầu toán. Kéo theo HQ 331, sau đó là HQ 230 và HQ 602 đi về Singapore.. Sau khi bị Singapore từ chối không cho tỵ nạn..Đoàn tầu quyết định đi về Úc'..Ông viết tiếp : ' Tôi nghĩ chiếc HQ 230 phải là chiếc dẫn đầu v́ có vị TL V4ZH trên đó và ông đă hứa là sẽ dẫn đoàn tàu đến nơi đến chôn với kinh nghiệm của ông..nhưng HQ 330 vẫn được chỉ định dẫn đầu chạy với một chân vịt nhưng lại kéo thêm HQ 331, kế đó là HQ 230 và sau cùng là HQ 602..
- Theo Đ/Tá Thiện : 'Đoàn tảu chúng tôi rời An Thơi với 4 chiến hạm và gần 3000 người, đến Subic bay với 3 tàu và khoản 2500 người tỵ nạn..' Tuy nhiên, trong List of RVNN ships evacuated to the Philippines on April 30, 75 (Hoangsaparacels.blo gspot.com) th́ các con số do HK ghi nhận như sau:
HQ 230 : mang theo 145 người gồm 40 thủy thủ đoàn và 105 người tỵ nạn.
HQ 330/ 331.. không rơ số người nhưng chắc chằn ..không thể có 2500 người trên 2 tàu này..
Con số của Đ/Tá Thiện có lẽ bao gồm cả số người trên Tàu Trường Thành (trên tàu có Tướng Lân TQLC cùng bộ TM) cũng ghé Singapore xin tỵ nạn nhưng sau đó tự t́m đường đi Philippines ?
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1348154&stc=1&d=1552312163
HQ 231 :
Chiến hạm HQ 231 Nguyễn đức Bổng , do HQ Đ/u Nguyễn văn Phước làm Hạm trưởng, trong thời gian tháng 4 năm 1975 được tăng phái cho vùng 2 Duyên hải, giữ nhiệm vụ hộ tống và bảo vệ các Dương vận hạm trong khi làm công tác chuyẻn vận và di tản thường dân và các đơn vị quân đội thoát khỏi các vùng CQ sắp chiếm. Cuối tháng 4, HQ 231 di chuyển về Căn cứ Đồng Tâm và sau đó được giao nhiệm vụ ngược ḍng Mekong về Cù lao An Long (Long Xuyên), biệt phái cho Bộ Chỉ huy Liên giang đoàn án ngữ tại Tân châu. Tối 29-4 , chiến hạm được lệnh về Đồng Tâm, Mỹ Tho..Sáu giờ sáng 30, khi đến Đồng Tâm, căn cứ đă bị CQ nằm vùng khống chế, HQ 231 chạy quanh Mỹ Tho-Đồng Tâm và khi có lệnh 'buông súng' của DVM..chiến hạm chạy ra biển theo đường Cửa Tiễu, rồi đến Côn sơn và sau cùng đi Subic bay. HQ 231 đến Phi với 126 người gồm 58 thủy thủ và 64 người tỵ nạn..
Trần Lư
hoanglan22
03-14-2019, 14:02
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1349942&stc=1&d=1552572070
Kính dâng hương hồn những người lính cuả QLVNCH, những người đă một thời áo trận, giầy sault chiến đấu dũng cảm cho một miền Nam Tự Do
Trong cuộc chiến bảo vệ miền nam tự do, quân lực Việt Nam Cộng Hoà đă mất đi một số tướng lănh tài ba. Một tướng Đỗ cao Trí tư lệnh quân đoàn 3 tử nạn khi chiếc trực thăng cuả ông nổ trên vùng trời Tây Ninh khi ông đang chỉ huy để đánh vào trung ương cục R cuả cái đám được gọi là mặt trận giải phóng miền nam nhưng thực chất là con đẻ cuả cộng sản Bắc Việt, tướng Nguyễn viết Thanh tư lệnh quân đoàn 4 tử nạn khi hai chiếc trực thăng đụng nhau trên lănh thổ quân khu 4 trong lúc ông đang thị sát mặt trận, tướng Trương quang Ân tư lệnh sư đoàn 23 Bộ Binh cùng với chiếc trực thăng nổ tung trên trời khi vừa cất cánh, tướng Pháo Binh Phan đ́nh Soạn cùng chiếc trực thăng rơi xuống biển v́ đụng phải một dàn antena trên một chiến hạm cuả Mỹ thuộc Đệ Thất Hạm Đội khi ông cùng bộ tham mưu đi nghiên cứu để thành lập một đơn vị pháo binh pḥng không cho quân khu1 và c̣n một số các vị tướng lănh khác cũng bị tử nạn v́ máy bay. Nói chung th́ đa số đă tử nạn v́ tai nạn máy bay nhưng không thể phủ nhận những công lao to lớn mà các vị tướng đó đă phục vụ cho tổ quốc và đất nước, do đó mọi người đều thương tiếc, truy điệu và tưởng nhớ đó cũng là một cách tri ân những anh hùng đă vị quốc vong thân.
Tại trung tâm cuả Sài G̣n có một số h́nh ành cuả vài vị tướng đă hy sinh được dựng lên trong các công viên cuả thành phố, như bức chân dung cuả cố Đại Tá Nhẩy Dù Nguyễn đ́nh Bảo được nổi bật hơn hết với trận đánh trên một ngọn đồi Charlie và được gọi là ngựi ở lại một ḿnh, nhưng thực ra ông không ở lại đó một ḿnh mà đă có nhiều người lính mũ đỏ khác cũng vĩnh viễn nằm lại ở đó cùng ông. Phải công nhận rằng ông là một người sĩ quan chỉ huy cuả binh chủng Nhẩy Dù đă tạo nhiều chiến công hiển hách, điển h́nh là trận đánh Damber nhưng với xương máu cuả những người lính mũ đỏ đă tạo nên chiến công vang lừng đó, cho nên thiết nghĩ phải vinh danh tất cả những anh hùng đó.
Xương Máu Tạo Anh Hùng.
Đă có biết bao nhiêu thân xác người lính nằm trong mộ buồn cuả một nghiă trang có tượng đá người chiến binh ngồi gác súng,mắt ngước xa xôi dưới vành nón sắt cuả một buổi chiều hoàng hôn giăng tím làm nổi bật những hàng mộ bia trắng xoá cả một vùng trời với hai hàng liễu buồn ủ rũ chạy dài trong nghiă trang, thinh không vắng lặng, u buồn với tiếng nỉ non cuả những con dế mèn khi màn đêm vừa xuống. Những người lính đă một thời cầm súng giữ ǵn quê hương, đă một thời giầy sault in dấu, áo trận bạc mầu rong ruổi trên khắp nẻo đường quê hương, máu cuả họ đă đổ xuống để cho một phần đất tự do c̣n lại được yên lành, ấm no.
Trong khi đó trong trung tâm thành phố khi màn đêm phủ xuống, thành phố tràn ngập ánh đèn muôn mầu sáng toả lung linh cùng với điệu nhạc quay cuồng từ các vũ trường,pḥng trà đă làm cho những bức chân dung trong công viên trở thành thời thượng, bức chân dung như muốn nhảy nhót theo điệu nhạc, như muốn nhộn nhịp cùng công viên thay v́ những bức chân dung này được đặt trong nghiă trang nơi có hàng ngàn, hàng ngàn ngôi mộ cuả những người lính đă một thời xả thân giữ nước, ôi! cao cả biết bao!
Một chiếc máy bay lâm nạn, không phải chỉ có một ḿnh vị tướng hy sinh mà là có cả một phi hành đoàn, người phi công lái chiếc trực thăng cùng với phi hành đoàn cũng hy sinh, nhưng vị tướng th́ được truy thăng, truy điệu một cách long trọng c̣n những người xấu số không hề được nhắc nhớ và hầu như bị lăng quên,phải chăng đó là sự bất công và bất hạnh cuả kiếp làm Lính, chữ LÍNH được viết đậm nét đúng với ư nghiă cuả nó. Một kiếp lính sống trong nỗi cùng cực cuả chiến tranh đă kéo dài, kéo dài một cách thê thảm cùng với thân phận cuả người lính, một tích tắc có thể người lính ngă xuống trong ngỡ ngàng và bi thảm.
Gian khổ và hiểm nguy hầu như lúc nào cũng vây quanh người lính, trong sự sống và cái chết chỉ là một đường tơ, kẽ tóc. Một cuộc hành quân khai diễn, một bàn tay được xoè ra cuả người tư lệnh trên phóng đồ hành quân, vài ô vuông trên bản đồ nhưng ngoài thực tế người lính đă phải c̣ng lưng với chiếc ba lô,súng đạn trèo đèo vượt suối băng ḿnh trong lửa đạn để tiến đôi khi gục ngă nửa đường, những ngưởi lính c̣n lại có khi phải dẫm qua những vũng máu cuả đồng đội ḿnh để đi đến mục tiêu. Một ngọn đồi chiến lược chiếm được, người sĩ quan chỉ huy cùng với đám đàn em lính sống sót cuả ḿnh ngồi nốc vội bi đông nước c̣n nồng nặc mùi śnh, một bịch gạo xấy lạnh tanh ăn vội vă cho qua cơn đói, chung quanh một hàng dăy poncho quấn tṛn những thân xác bất động, xác cuả những người lính đă gục ngă trong lúc giao tranh.Trong khi đó người đă x̣e năm ngón tay trên tấm bản đồ mở chai sâm banh vang nổ ăn mừng khi được thêm một v́ sao lấp lánh trên aó, công lao đó chính là xương máu cuả những người lính thuộc quyền tạo nên. Thêm một cái huy chương đỏ thẫm trên ngực aó, đỏ như máu cuả người lính, mộ người lính xanh cỏ, đỏ ngực người tư lệnh. Chiến tranh quả thực tàn nhẫn và đau xót.
Người lính ôm súng, mặt cúi xuống xác người đồng đội được quấn trong chiếc poncho, người lính lầm bầm nói:
- Đù mè! tao đă nói rồi, hôm nay đến lượt mày đi khinh binh th́ ráng mà cẩn thận, cây thượng liên cuả địch bắn như mưa mà mày chạy thẳng người trong thế xung phong, ham chi ba cái huy chương lẻ tẻ đó, có lần mày đă nói với tao là cố t́m một cái để về le lói với bạn bè. Đù má, bây giờ mầy toại nguyện rồi đó, cái huy chương th́ không được đeo,cấp bậc th́ không được mang mà để trên bàn thờ cúng giỗ,chung qui chỉ có gia đ́nh mày chịu thiệt tḥi mà thôi! Người lính chết trận chiều qua, ngày mai người đời quên lăng. Thôi! mày hăy yên nghỉ, hăy quên đi chiến tranh hận thù! hăy để hồn thanh thản nơi miền miên viễn đó.
Nước mắt người lính nhỏ lên xác bạn cuả một ngày nắng chói chang trên đỉnh đồi đẫm máu khi bom đạn vẫn nổ chung quanh.
Bóng chiều nghiêng nghiêng đổ nơi nghiă trang, đài tử sĩ với những bậc thang cao vút,bóng người goá phụ với vành khăn tang quấn trên mái tóc đen huyền, cô đơn lạc lơng với những hàng mộ bia trắng, tiếng gió vi vu như réo gọi hồn ai!
Nàng ngồi bên cạnh mộ chồng, lần từng ngón tay trên mộ bia khung h́nh bầu dục như muốn t́m lại một chút da thịt người chồng cuả một thuở mặn nồng.
Lá thư được viết từ chiến trường:
"Đỉnh đồi căn cứ Sarge,ngày...tháng3 năm 1972.
Em yêu dấu,
Ngày hôm nay địch pháo dữ dội quá! những trái đạn 130 rít trên bầu trời nghe đến rợn người như muốn xé nát không gian, những trái đạn pháo nổ lóe sáng trong đêm tối, những mảnh đạn rơi lộp bộp trên nắp hầm trú ẩn, anh thấy cuộc sống mong manh quá! Chiến tranh đă làm mất đi bao nhiêu bạn bè, anh chỉ muốn chiến tranh chấm dứt, để anh trở về với em, với nhưng người thân thương, bạn bè cuả anh để sống lại cuả thuở yêu đương mặn nồng..."
Chiến tranh chưa kết thúc, nhưng lá thư đang viết dở dang, dang dở như số phận người lính với cái chết đến thật bất ngờ và ngỡ ngàng.
Người góa phụ cầm chặt lá thư trong tay bước lần ra cổng nghiă trang giữa hai hàng liễu đong đưa trong tiếng gió u buồn, sau lưng những dăy mộ trắng chạy dài thẳng tắp tận cuối chân trời khi những tia nắng nhạt cuối cùng đang ch́m dần vào tối và xa xa nơi thành phố, những ánh đèn sáng toả muôn mầu. Nơi ấy, có những bức chân dung sáng toả trong công viên.
TQLC Phạm Thành Nhân.
hoanglan22
03-15-2019, 03:31
Trước năm 1975, Hoa Kỳ đă viện trợ cho quân đội VNCH hàng trăm tàu chiến lớn nhỏ. Sau này, qua các tài liệu cả chính thức và không chính thức, ít nhất có 30 chiếc tàu của HQ VNCH đă thoát sang Philippines và được Hoa Kỳ bàn giao cho hải quân nước này. Trong đó, khu trục hạm HQ 01 Trần Hưng Đạo là soái hạm của HQ Philippines.
Trong số hàng trăm tàu chiến HK viện trợ cho Hải quân VNCH , đa số đều là các tàu cỡ nhỏ, số tàu tải trọng lớn c̣n lại, phần lớn là loại tàu tuần của lực lượng bảo vệ bờ biển HK (US COAST GUARD).
Có thể thống kê sơ khởi không dưới 30 tàu chiến các loại mà HQ VNCH đă rời khỏi Việt Nam năm 1975 và Philippines đă trưng dụng cho lực lượng Hải quân của ḿnh, gồm:
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1350298&stc=1&d=1552619892
BRP Rajah Lankandula-PS-4, nguyên là khu trục hạm Trần Hưng Đạo HQ 1
- 1 khu trục hạm Trần Hưng Đạo HQ 1 (chuyển thành soái hạm BRP Rajah Lankandula-PS-4);
- 5 tuần dương hạm (WHEC ) : Trần Quang Khải HQ 2 (thành BRP Diego Silang PS-9); Trần Nhật Duật HQ 3 (tuy được chuyển giao cho HQ Phi nhưng bị phế thải để lấy các cơ phận thay thế dùng sữa chữa cho các chiến hạm khác cùng chủng loại của HQ Phi ); Trần B́nh Trọng HQ 5 (thành BRP Francisco Dagohoy PF-10); Trần Quốc Toản HQ 6 (cùng số phận như HQ 3); Lư Thường Kiệt HQ 16 (thành BRP Andres Bonifacio, PF-7); Ngô Quyền HQ 17 (thành BRP Gregorio del Pilar PF-8);
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1350299&stc=1&d=1552619892
BRP Andres Bonifacio, PF-7, nguyên là Lư Thường Kiệt HQ 16
- 5 Hộ tống hạm (PCE): Đống Đa II HQ 07 (thành BRP Sultan Kudarat PS-22); Chi Lăng II HQ 08 (thành BRP Magat Salamat PS-20); Chí Linh HQ 11 (thành BRP Datu Tupas PS-18); Ngọc Hồi HQ 12 (thành BRP Miguel Malvar PS-19); Vạn Kiếp HQ 14 (thành BRP Datu Marikudo PS-23).
- 5 Dương vận hạm (LST): Cam Ranh HQ 500 (thành BRP Zamboanga Del Sur LT-86); Thị Nại HQ 502 (thành BRP Cotabato Del Sur LT-87); Nha Trang HQ 505 (thành BRP Agusan Del Sur LT-54); Mỹ Tho HQ 800 ( thành BRP Sierra Madre LT-57); Cần Thơ HQ 801 (thành BRP Kalinga Apayao LT-516)
- 1 Cơ Xưởng hạm (ARL): Vĩnh Long HQ 802 (thành BRP Yakal AR-617)
- 3 Hải vận hạm (LSM): Hát giang HQ 400 (thành BRP Western Samar LP-66); Hàn giang HQ 401 (dùng lấy cơ phận); Hương giang HQ 404 (thành BRP Batanes LP-65)
- 3 Trợ chiến hạm (LSSL): Đoàn Ngọc Tảng HQ 228 (thành BRP La Union LF-50); Lưu Phú Thọ HQ 229 (HQ Phi dùng để lấy cơ phận thay thế sử dụng cho các chiến hạm khác); Nguyễn Đức Bổng HQ 231 (thành BRP Camarines Sur LF-48)
- 3 Giang pháo hạm (LSIL): Thiên kích HQ 329; Lưu công HQ 330; Tầm sét HQ 331.
- 2 Hỏa vận hạm (YOG), tức sà lan tự hành để chở dầu: HQ 470 và HQ 471
- 1 Tuần duyên hạm (PGM): Ḥn trọc HQ 618 (thành BRP Basilan PG-60)
Ngoài ra, c̣n một số tàu khác như trợ chiến hạm Nguyễn Ngọc Long HQ 230 BRP Sulu LF-49, HQ 474…
Trong số các tàu chiến lớn có hai tàu khu trục hộ tống lớp lớp Edsall là HQ-1 Trần Hưng Đạo và HQ-4 Trần Khánh Dư. Tàu lớp Edsall có lượng giăn nước 1.590 tấn, dài 93,3m. Tàu trang bị 3 pháo hạm 76mm, 2 pháo pḥng không 40mm, 8 pháo pḥng không 20mm, 3 máy phóng ngư lôi 533mm, và vũ khí chống tiềm thủy đĩnh.
Chiếc HQ-1 được Philippines sửa chữa (bỏ súng 76mm và thay bằng 2 trọng pháo 127mm) và chính thức đưa vào trang bị tháng 7/1976 với cái tên mới BRP Rajah Lakandula (PF-4).
Từ năm 1981-1988, BRP Rajah Lakandula trở thành soái hạm Hải quân Philippines. Con tàu chủ yếu tham gia nhiệm vụ tuần tiễu bảo vệ biển, thực hiện công tác t́m kiếm cứu nạn trên biển.Năm 1988, con tàu bị loại ra khỏi hải quân và được sử dụng như doanh trại nổi tại vịnh Subic cho tới năm 1999 th́ bị phá hủy.
Trong qui chế Hải quân VNCH c̣n có 7 tàu chiến lớp Casco được coi là những tàu lớn nhất. HQ VNCH c̣n gọi nó là “tuần dương hạm”, dù lượng giăn nước chỉ tương đương khinh hạm. Thực tế, trước khi chuyển cho VNCH, 7 tàu Casco từng được dùng cho lực lượng tuần duyên bảo vệ bờ biển Mỹ.
Tàu lớp Casco có lượng giăn nước 2.800 tấn, dài hơn 94m, thủy thủ đoàn gần 200 người. Hệ thống vũ khí hạng nhẹ: pháo 127mm, súng cối 81mm và súng máy. Trong 6 chiếc lớp Casco, Philippines chỉ dùng 4 chiếc c̣n lại 2 chiếc được tháo lấy phụ tùng. Khinh hạm BRP Andres Bonifacio (PF-7) thuộc lớp Casco, tên cũ trong Hải quân VNCH là HQ-16 Lư Thường Kiệt.
Năm 1979, chính quyền Philippines quyết định hiện đại hóa toàn diện hệ thống vũ khí và điện tử và điện tử trên 4 tàu. Tàu lắp thêm súng 20-40mm, thiết kế thêm sân đáp trực thăng ở đuôi tàu.Tới cuối những năm 1980, Hải quân Philippines dự định trang bị thêm hoả tiễn RGM-84 Harpoon nhưng do khủng hoảng kinh tế nên không thực hiện được.
Giai đoạn 1991-1993 và năm 2003, cả bốn tàu này lần lượt bị phá hủy.
Hầu hết các tàu chiến cỡ lớn của VNCH trong Hải quân Philippines đều bị loại bỏ vào những năm 1990 nhưng vẫn có một số ít vẫn c̣n hoạt động tới tận ngày nay. Tính đến năm 2012, chỉ c̣n 7 chiếc trong số này c̣n hoạt động trong hải quân Philippines, gồm:
Dương Vận Hạm LST:
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1350300&stc=1&d=1552619892
Zamboanga Del Sur LT-86, nguyên là LST Cam Ranh HQ 500.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1350301&stc=1&d=1552619892
BRP Cotabato Del Sur LT-87, nguyên là LST Thị Nại HQ502.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1350302&stc=1&d=1552619892
BRP Kalinga Apayao LT-516, nguyên là LST Cần Thơ HQ 801.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1350303&stc=1&d=1552619892
BRP Yakal AR-617, nguyên là Cơ xưởng hạm Vĩnh Long HQ802.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1350308&stc=1&d=1552620429
BRP LT-57 Sierra Madre nguyên là Dương Vận Hạm LST Mỹ Tho HQ-800
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1350309&stc=1&d=1552620429
BRP Magat Salamat PS-20, nguyên là PCE Chi Lăng II HQ 08.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1350310&stc=1&d=1552620429
BRP Miguel Malvar PS-19, nguyên là PCE Ngọc Hồi HQ 12.
Ba con ḱnh ngư một thời anh dũng của Hải quân VNCH tuy nay tuổi đă ngoài 70 nhưng vẫn nêu cao tinh thần bất khuất của những người chủ cũ - những chiến sĩ HQVNCH oai dũng - tiếp tục chiến đấu kiên tŕ cho lư tưởng tự do.
(Tài liệu sưu tầm)
hoanglan22
03-15-2019, 12:18
Với những ḍng này, mong đóng góp chút ít tư liệu về cuộc chiến, và những gương hy sinh của các Sĩ Quan QLVNCH, những anh hùng không tên tuổi đă nằm xuống trong cuộc chiến, để giữ ǵn miền Nam êm ấm thanh b́nh gần 3 thập niên từ sau 1945-1975 ...
…Những ngày cuối tháng 3, trời mưa như trút nước, cả ngày lẫn đêm, như xót thương cho số phận non sông B́nh Định đă rơi vào tay của lũ vô thần. Qua hơn 2 ngày đêm, chúng tôi không có ǵ để ăn, ruột đói cồn cào, quần áo ướt sũng, thật đói và lạnh. Chúng tôi đi ngang qua những đám g̣ trồng đậu phụng, nhổ lên hy vọng kiếm củ ăn cho đỡ đói ḷng, nhưng vào mùa đó cuối tháng 2 Âm Lịch, củ c̣n rất non. Chúng tôi rửa bằng nước mưa, nhai lấy nước mà thôi. Chúng tôi qua những cánh đồng bắp cũng thế , chỉ ngậm lấy nước. Qua ngày thứ 3, cả ba chúng tôi đều bị tiêu chảy, kiệt sức không c̣n đi nổi. Tôi thấy t́nh h́nh như vậy, chắc là số phận tôi không xong rồi, nên nói với hai anh bạn đồng hành:“Tôi không đi nổi nữa rồi, hai anh c̣n sức cứ đi theo hướng Đông ra biển may ra c̣n tàu của hải quân của quốc gia bốc các anh về Sài G̣n.”Thật là cảm động, tuy không cùng đơn vị nhưng hai anh lính nói:
“Đại Uư đi th́ chúng tôi đi, ông ở lại chúng tôi ở lại. Chúng tôi không nỡ bỏ ông ở đây!”
Không c̣n cách nào khác, chúng tôi đành vào làng, may ra xin được thức ăn và dưỡng bệnh sau đó tiếp tục cuộc hành tŕnh. Sau đêm thứ 3, chúng tôi đến một ngôi làng, trước vài thửa ruộng của ngôi làng có một cái cḥi, chúng tôi vào cḥi khoảng 2, 3 giờ sáng. Chúng tôi vắt cho khô quần áo, nằm ngủ đợi trời sáng. Sau những ngày đói lạnh, bệnh tật, chúng tôi nằm thiếp đi cho đến khi mặt trời mọc. Sáng hôm đó chúng tôi vào một nhà dân gần đó, để nhờ họ cho cơm ăn và dưỡng bệnh, để có sức mà đi. Chủ nhà là một người đàn bà nhà quê trông cũng b́nh thường như những bà nông dân khác,không có ǵ phải nghi kỵ. Sau khi nấu cơm cho chúng tôi ăn xong, chủ nhà chỉ cho chúng tôi bộ ván để lên nằm nghĩ lưng. Ôi thật là một bữa cơm ngon nhất trong đời, dầu chỉ có cơm trắng với bầu luộc và mắm ruốc. Nửa giờ sau, du kích đă vào nhà, súng AK chỉa đầu, bắt chúng tôi trói ké dẫn đi. Tâm trạng tôi lúc này chỉ c̣n biết tới đâu hay tới đó mà thôi. Sự sống c̣n phó mặc cho số mệnh. Chúng tôi bị dẫn đi nhiều nơi, đôi khi là trụ sở của làng, đôi khi là trường học, có khi là ngôi đ́nh làng. Dần dần số người bị bắt cứ tăng lên. Nhiều khi một ngôi trường Tiểu học nhỏ, mà nhốt số người lên đến hàng trăm. Đêm đến không có chỗ nằm, chỉ ngồi mà thôi. Ôi thật là những ngày ghê gớm nhất của cuộc đời, không biết c̣n có cảnh khổ nào hơn không?
Chúng tôi không được cho ăn uống chi cả. Tự ai có ǵ nấy ăn mà thôi. Ngày hôm sau, chúng tôi bị dẫn về hướng Tây, không gian vô định, ai biết ḿnh sẽ bị đưa về đâu, và sống c̣n đến ngày nào. Khoảng thời gian này, không có một quy ước hay chính sách ǵ cả, hễ ai bất tuân bọn chúng, th́ coi như bị bắn bỏ. Trong đoàn chúng tôi đi, có một binh sĩ c̣n trẻ, không dè dặt với chúng, đôi khi anh ta đi ngoài hàng một chút th́ bị bọn chúng lôi ra bắn ngay. Thật là dă man! Chúng muốn bắn để khủng bố tinh thần của mọi người. Ôi sinh mạng con người nhỏ hơn là con ong, cái kiến. Dọc đường quốc lộ 19, từ B́nh Khê lên đến chân đèo An Khê, trước kia có lực lượng của SĐ 22 Bộ Binh trấn đóng. Tôi không nhớ rơ là Tiểu Đoàn nào, nhưng thuộc Trung Đoàn 41. Trước đây có một trận đánh thật là ác liệt, hai bên vệ đường tử thi của các chiến sĩ VNCH nằm la liệt, có lẽ đă xẩy ra gần nửa tháng rồi, cơ thể bắt đầu śnh thúi chỉ thấy quân phục và sọ người trắng hếu. Một số tử thi khác th́ c̣n loang lổ một ít tóc trên phần sọ đă rữa. Mùi tử khí xông lên nồng nặc khắp trời. Ôi chiến tranh và thân phận con người, tôi lại nhớ đến mấy câu thơ của bà Đoàn Thị Điểm:
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dơi dơi soi,
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn…..
Vào thời gian này, tôi không c̣n nhớ rơ là ḿnh đă nghĩ ǵ, chỉ có một con đường, chúng muốn đưa ḿnh đi đâu th́ ḿnh theo đó thôi, mặc cho số phận đẩy đưa, cuối cùng cùng là giải thoát kiếp người. Chúng tôi đi đến ngày thứ 3 th́ đến một trại trước kia là mật khu của chúng. Trại này nằm trong rừng sâu, cách đèo An Khê khoảng 50 km từ hướng Bắc. Cả mấy ngày đi, chỉ ăn được một lần, chúng tôi đi ngang 1 địa phương th́ được đồng bào nấu cơm gói sẵn bằng lá chuối phát cho chúng tôi mỗi người một gói không biết là lệnh của họ hay ḷng tự nguyện của đồng bào. Đến gần phạm vi của trại, chúng dừng lại để nghĩ và chuẩn bị cho chúng tôi nhập trại, trong lúc này tôi gặp lại một số anh em binh sĩ trong Pháo Đội, thật mừng và thật tủi cho thân phận những kẻ chiến bại. Thời điểm này chúng bắt giao nộp hết tư trang như đồng hồ, bút máy, nhẫn….Tôi thấy chúng dùng nón để thu, không ghi sở hữu của ai cả. Tôi biết bọn này muốn lấy không rồi, tôi làm dấu cho anh thường vụ Pháo Đội giấu chiếc đồng hồ Boulevard Sport của anh, khi đi đến bờ sông có 1 số người Thượng đứng bán chuối hoặc cơm. Chúng tôi đổi chiếc đồng hồ lấy 1 nắm cơm muối mè gói lá chuối, hai thầy tṛ chia nhau ăn cho qua cơn đói ḷng. Thật là: “Đoạn đường ai có qua cầu mới hay”, vật chất chỉ có giá trị khi thời gian thích hợp. C̣n với thời gian này, vật chất dù cao quáy thế nào cũng không qua nổi một gói muối mè.
Thế là chúng tôi lần lượt vào trại. Sĩ Quan đều bị đem đi cùm, từ Thiếu Úy trở lên là bị cùm. Số lượng SQ bị bắt mỗi ngày một đông, chúng thả cấp nhỏ, cùm cấp lớn. Bắt được Đại Uư cùm Đại Uư thả Thiếu Uư. Cứ như là cấp số cộng. Phải nói bạn nào có thời gian ở trại Vĩnh Thạnh khi đọc ḍng hồi kư này, không thể nào quên được một nơi gọi là ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN đúng nghĩa của nó, không nơi nào ghê sợ hơn. V́ trại nằm trong rừng sâu, lam sơn chướng khí. Tổng số binh sĩ bị bắt vào thời điểm cao nhất ở đây có thể lên đến cả ngàn người, nhưng sau hơn 4 tháng, số tử vong lên đến cả trăm. Sốt rét chết, đói mà chết, bị đánh mà chết. Các đơn vị bộ đội cộng sản ở đây đa số đều là những cán binh CS trở về từ Côn Đảo, ḷng nung nấu thù hận. Họ muốn trả những trận đ̣n thù trên các người lính Cộng Ḥa c̣n chút sĩ khí đă ở lại chiến đấu để bảo vệ quê hương. Có 1 anh Trung Úy người miền Nam trước kia nguyên là giáo sư bị bắt vào trại cùng thời gian với chúng tôi, v́ quá căm phẫn trước sự hành hạ của bọn chúng, nên chạy ra vọng gác giựt súng AK của tên bộ đội đang gác cổng nhưng không thành công v́ cơ thể suy nhược, ăn uống thiếu thốn làm sao khoẻ bằng chúng. Sau khi giựt súng không được, anh ta bị rược chạy ṿng ṿng trong trại. V́ trại quá đông người nên chúng không bắn được. V́ không c̣n đường thoát, anh ta chạy đến bên những chảo nước đang nấu để cho tù uống và nhảy vào chảo! Thật là rùng rợn và thương tâm! Chúng dập tắt lửa, mang anh ta ra ngoài, nhưng anh ta vẫn c̣n sống. Anh ta chửi rủa bọn CS luôn mồn:
“Đả đảo Cộng sản. Quân dă man khát máu”.
Chúng cho khiêng anh vào trạm xá. Thật ra chỉ là một cái nhà nhỏ, vài lọ thuốc, vài lọ cồn mà thôi. Anh ta vẫn chửi liên hồi. Chúng lấy đất sét cho vào miệng, lấy cây dộng cho đến khi hết thở. Ôi! các bạn có h́nh dung được con người hay là ác quỷ nhỉ. Tôi có người bạn ở cùng quê tên Phan Duy Liêm, cấp Tr/Uư ĐĐT/ĐPQ cũg bị bắt vào trại này, tôi không nhớ anh đă làm ǵ phật ư chúng mà buổi chiều hôm đó, tôi chứng kiến tận mắt, 3 tên bộ đội đứng 3 góc đánh anh từ góc này văng sang góc kia, như là người ta chuyền bóng. Là thân phận tù sao dám chống trả chúng. Sau khi anh được thả ra, lục phủ đă bị dập nát, đă bị tổn thương. Mặc dù thời gian sau được gia đ́nh tiếp tế thuốc men chữa chạy, sau hai năm hao tổn, anh đă ĺa đời, bỏ lại một vợ và một con thơ, là bà con họ hàng với gia đ́nh tôi.
Ở đây khí hậu chưa có một nơi nào dễ sợ hơn. Danh từ sơn lam chướng khí thật là đúng nghĩa của nó. Các nhà giam (lán) được cất dưới những tàng cây cổ thụ, suốt ngày ít khi thấy ánh sáng mặt trời, sương buổi sáng rất nặng và dày đặc, 9 hay 10 giờ mới thấy mặt trời, máy bay thám thính cũng chỉ thấy toàn màu xanh của rừng. Khoảng hơn tháng đầu chúng chưa cho đi làm, mỗi ngày chỉ phát hai nắm cơm bằng một bát trung b́nh, vơi chứ không đầy, ḿ khô hết 80%, vài hột gạo có thể đếm được, tất cả chúng tôi đều đói và sốt rét.
Ở đây trung b́nh một tuần sốt rét 3 lần. Sốt th́ nằm, dậy được th́ đi lao động, xuống trạm xá khai bệnh, cặp nhiệt độ 40 độ C, cho vài viên Nivaquine, 39 độ trở lui, th́ chúng cho uống một thứ rễ cây tên là “mật nhân”. Trên đời nà y chưa có thứ nào đắng như thứ này, uống xong quay đi là nôn thốc, nôn tháo, nôn đến mật xanh, mật vàng, lần sau sốt hoặc nằm liệt không dám khai bệnh nữa, hết sốt th́ dậy đi làm. Con người thiếu ăn, thiếu dinh dưỡng, sốt rét triền miên, nên chúng tôi trong như những thây ma c̣n sống. Da mặt th́ vàng bệt, xám ngoét, mắt trũng sâu, chân đi siêu vẹo, quần áo tả tơi. Ôi! chúng tôi thật là tới tận cùng của địa ngục. Chúng tôi nào có tội t́nh ǵ, chỉ biết cầm súng bảo vệ quê hương không có một ư đồ bất chính, không có một tham vọng nào làm tổn thương đến giá trị vật chất hay tinh thần của con người, tại sao chúng tôi lại phải bị trừng phạt một cách khủng khiếp như thế? Có những lúc tuyệt vọng, anh em nói đùa:
“Chúa hay Phật ǵ cũng bỏ chạy hết rồi c̣n đâu mà cầu nguyện.”
Sau hơn 3 tháng tôi bị bắt, gia đ́nh tôi mới được tin tức. Vợ tôi từ Phan Thiết ra B́nh Định đến trại 3 Vĩnh Thạnh để thăm, thật là một chặng đường vất vả. V́ xe cộ không có, vợ tôi phải đi bộ khoảng 50km đường rừng, phải ngủ lại ở trại 2 rồi mới lên trại 3 được. Biết bao nhiêu gian nan và sợ hăi, khi được gặp mặt, vợ chồng tôi nh́n nhau nước mắt lưng tṛng, hỏi thăm vài câu sức khoẻ, đâu c̣n lời nào để nói. Và biết nói ǵ hơn khi mỗi bàn có hai bộ đội ngồi bên cạnh, súng AK lăm lăm, nói được ǵ đây. Về nhà, vợ tôi bị sốt rét chữa trị gần 2 năm mới b́nh phục. Thời gian ấy, vợ tôi phải chuyền sẻrum liên tục, thế mới biết rừng thiêng nước độc đến cỡ nào. Sau đó thân phụ tôi đi thăm một lần, về cũng bị sốt rét liên tục. Từ đó về sau, chỉ có em trai tôi c̣n khoẻ mạnh đi thăm mà thôi.
Có những lúc đói quá, mắt đổ đom đóm vàng khi nh́ thấy các anh em khác có người tiếp tế, có đồ ăn. Muốn quên đi, tôi chỉ c̣n biết ra gốc cây ngồi luyện Yoga cho quên đi nỗi đói khát, bệnh tật. Ai có biết sách lược triệt hạ kẻ thù, không sợ chúng phản kháng là làm cho chúng đói triền miên, không bao giờ cho chúng ăn đủ no. Suốt ngày tư tưởng lẩn quẩn, mong có cái ǵ bỏ vào miệng, vào bụng mà thôi, không c̣n nghĩ được thứ ǵ khác trên đời. Ôi con người có những lúc phải như thế này ư? Tôi có đọc cuốn Tiểu Đoàn Trừng Giới của Erich Maria Remark, nhà văn Đức, tù binh Đức, cũng bỏ vào các trại tập trung cũng đói như chúng tôi, nhưng thời gian ngắn hạn và không bệnh tật. C̣n chúng tôi đói dài hạn và bệnh tật triền miên. Tôi c̣n nhớ vào thời gian c̣ ở quân ngũ, tướng độc nhăn Mó Dayan của Do Thái có qua thăm trường Vơ Bị Đà Lạt, đă nói:
“Muốn chiến thắng Cộng Sản, phải sống với Cộng Sản”.
Xin những ai, có làm chính khách, chưa bao giờ biết ngục tù Cộng Sản, th́ xin nghĩ đến bao nhiêu anh hùng đă hy sinh, bao nhiêu triệu đồng bào c̣n đang sống vất vưởng nơi quê nhà, vật lộn với miếng cơm manh áo hàng ngày v́ phương châm “làm cho tập thể, hưởng theo nhu cầu” của chúng. Và cả một thế hệ chúng tôi tù đày oan khiên, khổ nhọc, th́ chớ nên phụ quá khứ một thời tự do, dân chủ, thanh b́nh của miền Nam Việt Nam.
Ở trại này có những cách giết người rất dă man. Các bạn có biết, một cái nhà cùm kín mít, bên trong là một dăy khóa lại, tất cả việc ăn uống vệ sinh đều tại chỗ, đó là cùm thông thường. Nếu chúng muốn tra tấn ai, cho hai chân vào hai lỗ chéo nhau, chân phải lỗ bên trái, chân trái lỗ bên phải, dưới mông ngồi có một cây đà vuông thông ra ngoài, xuyên qua một cây trụ thẳng đứng khoét một lỗ h́nh chữ nhật, để cây đà vuông có thể di chuyển được từ thấp lên cao, chúng gọi là cùm yên ngựa. Mỗi lần nâng cây đà lên là ống quyển bị ép vào lỗ cùm. Bên ngoài chúng dùng một miếng nêm h́nh tam giác để đóng, mới đầu đóng là tù nhân la thất thanh sau đó im dần…im dần, tù nhân đă hết thở. Ôi địa ngục ở đâu, có lẽ c̣n ít sợ hăi hơn nơi này. Chúng tôi bị nhốt trong một cái lán gần bên nhà cùm. Đêm đêm nghe tiếng la thất thanh xé tâm can, rồi dần , im dần và tắt hẳn… Thế là một người đă ra đi không biết là tốt hay xấu với chúng tôi, biết đâu vài hôm đến lượt ḿnh.
Ở đây có những cái chết rất kỳ lạ, buổi sáng c̣n ngồi chơi nói chuyện, v́ là ngày Chủ Nhật, anh bạn ở cùng quê, Đ/Uư Dậu TĐT/CB, ngồi ngă ra, quay quay như gà mắc toi, đem xuống bệnh xá, chừng 1 giờ đồng hồ sau th́ chết. Khí hậu thật là rùng rợn, sinh mạng con người c̣n thua những loài côn trùng. So với tù binh của Đức Quốc Xă thời Đệ Nhị Thế Chiến đâu có khác ǵ nhau.
Sau một tháng nhốt một chỗ, chúng tôi được chia ra để đi lao động. Những công việc chính là nhổ ḿ, trồng ḿ, và làm cỏ ḿ. Buổi sáng tù tập trung do 1 hoặc 2 tên bộ đội dẫn đi tới những băi ḿ trong núi hoặc trên đồi cao. Chúng tôi dàn hàng ngang, mỗi người một cái cuốc, dùng để cuốc cỏ xung quanh cây ḿ. Cây ḿ mới mọc cao chừng 5cm hay một tấc, rất dễ lẫn lộn với cỏ. Chúng tôi đâu phải nhà nông chuyên nghiệp, từ nhỏ cha mẹ đă hy sinh gian khổ, nuôi con ăn học, mong con sau này thành đạt đâu nghĩ đến việc phải dùng cái cuốc,cái cày. Ôi công lao của cha mẹ lo lắng nuôi con trong thời điểm này h́nh như đă sai đường. Nếu chẳng may chúng tôi cuốc găy cây ḿ chúng thấy được, th́ báng súng AK vào đầu, vào cổ, mũi súng thọc vào sườn, vào bụng.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1350539&stc=1&d=1552652188
Anh bạn tôi là Đ/Uư Dậu có lẽ bị đ̣n thù trong trường hợp này, nên đă mất đi vài tuần sau đó, trong bữa sáng Chủ Nhật mà tôi vừa nói ở trên. Thật là thê thảm, những tù nhân chẳng may mà mất đi, chúng quấn bằng miếng vải ni lông, dùng để làm áo mưa, xung quanh kẹp 7 nẹp tre, quấn lại như một khúc dồi lớn. Hai người khiêng, hai người đào lỗ ngoài rừng rồi lấp đi. Xong chúng cắm một cái bảng nhỏ viết tên tù nhân bằng sơn. Với 2,3 tháng nắng mưa, th́ không c̣n biết ai là ai nằm đó nữa. V́ thế gia đ́nh anh Dậu đă cố gắng nhiều lần, nhưng vẫn không t́m thấy xác anh ở đâu để đem hài cốt của anh về mai táng nơi quê nhà.
Rất may là khoảng tháng thứ 5 chúng tôi chuyển trại, lúc này đại đa số là Quân, Cán, Chính VNCH đă bị bắt hoàn toàn, không c̣n 1 lực lượng nào trong nước có thể đối kháng và phá hoại chúng được. Chúng thành lập những Tổng Trại Tù Binh để quản lư. Một Tổng trại như thế do cấp Trung Đoàn chính quy quản lư do Thủ Tướng Cộng Sản Phạm Văn Đồng kư, mục đích là để trấn an dân chúng và để tŕnh làng với Quốc Tế. Giai đoạn cuối ở địa ngục này, tôi bị sốt rét hành hạ liên tục, có lẽ đă xâm nhập vào gan, lá lách hay thận. Người tôi vàng vọt, xám ngoét, mắt trũng sâu, bụng ỏng, chân th́ dần dần to ra như chân voi bước đi không nổi nữa. Chúng tôi được đưa xuống Tổng trại 4 An Trường. Ôi, thật là một cuộc di chuyển có khác nào như chở heo, chở gà ra chợ để bán! Một chiếc xe Motolova như vậy chở xấp xỉ cả trăm người, người sau phải bám người trước cho chặt, nếu không khi xe quẹo, quán tính của trọng lượng sẽ làm văng những người sau ra ngoài mà chết. Súc vật đem bán cần sống, cần khoẻ chứ chúng tôi th́ không….
Tôi được đưa xuống trại 1 của Tổng Trại 4, nhờ gia đ́nh tiếp tế, thuốc men đầy đủ, và ở trại này, chế độ ăn uống có phần dễ thở hơn, nên tôi đă dần dần hồi phục và giữ được cái mạng c̣m cho đến hôm nay. Phải nói rằng sáu năm tù đày, thời gian ở trại này là tương đối dễ chịu nhất so với các trại khác. Vào thời điểm này, đa số anh em đều tin rằng sau 3 năm rồi th́ thế nào cũng được thả về, nhưng thật sự là một sự lầm lẫn to lớn. Lời nói của chúng như những bó cỏ treo trước đầu con ngựa đang kéo xe, cỏ th́ nh́n thấy đó, nhưng con ngựa có bao giờ ăn được đâu?….Những ngày kêu thẩm vấn, tự khai, ôi thật là khổ sở. Nói thế nào chúng cũng không tin. Hỏi:
“Từ ngày anh tham gia nguỵ quân, ngụy quyền đến giờ giết bao nhiêu cách mạng?”
Tôi trả lời:
“Tôi là đơn vị Pháo Binh yểm trợ, họ yêu cầu tác xạ ở đâu, chúng tôi bắn ở đó. Kết quả do các đơn vị Bộ Binh tham gia họ ghi nhận và báo cáo, chúng tôi đâu có trực tiếp tham dự ”
Hỏi:
“Anh nói anh không giết cách mạng sao họ cho anh mang lon Đ/Uư sớm như vậy?”
Tôi trả lời:
“Theo chế độ đào tạo SQ tại miền Nam, có bằng cấp mới được chọn, 1 năm Chuẩn Uư, được thăng Thiếu Uư, 2 năm Thiếu Uư được thăng Trung Uư. Sau đó khoảng 3 năm đủ điểm th́ lên Đ/Uư.”
Nhưng dù có nói thế nào chúng cũng chẳng tin. Và cứ như thế hết ngày này đến ngày khác, tôi cứ bị kêu liên tục, hỏi hơn cả tháng, chúng cứ xoáy vào một điểm là giết hại bao nhiêu cách mạng. Cuối cùng tôi phải moi một trận yểm trợ nhớ mang máng theo kết quả của Bộ binh báo cáo, là địch quân tổn thất vài chục chúng mới hết hỏi. Ai có ngờ đâu đó là cái giá treo cổ mà ḿnh tự gánh vào, sau này chúng cho là thành phần ác ôn có nợ máu với nhân dân….
Thời gian ở Tổng trại này hơn 1 năm, sau đó có lẽ t́nh h́nh thanh lọc tù nhân giảm dần, chúng tôi chuyển từ tổng trại này sang tổng trại 5 thuộc các đơn vị tỉnh Phú Yên quản lư. Trại này cũng là một trại sắt máu, chúng tôi làm việc như lao động khổ sai, và cơm th́ không bao giờ được ăn no. Có một vài anh em bỏ mạng v́ đốn cây rừng cho chúng, cây đè mà chết hoặc thương tật suốt đời. Các bạn từng xem những phim La Mă thời Caesar, các nô lệ kéo gỗ hay kéo đá, chúng tôi cũng vậy. Một khúc gỗ súc dài 4 hoặc 5 mét, đường kính khoảng 7 tấc, xỏ 4 dây thừng, mỗi bên 4 người khiêng. Đường từ trên núi, leo dốc, xuống ghềnh hiểm trở, nếu rủi ro mà té ngă th́ coi như cái mạng đi đoong. Súng AK th́ lăm lăm, sẳn sàng nhả đạn nếu chúng tôi t́m đường chạy trốn. Ôi, nếu so sánh, chúng tôi và nô lệ thời Trung Cổ của La Mă có khác ǵ nhau đâu.
Tôi c̣n nhớ nằm cạnh tôi có ông bạn già là Tr/Tá ĐN Thanh trước 75 là CHT Quân Cảnh Quân Khu 2, và có thời gian Tr/Tá Thanh đă từng làm Trưởng trại giam tù phiến cộng ở Phú Quốc. Có một ngày họ phân công tôi và bác Thanh là 1 cặp trong toán chặt gỗ làm nhà, chỉ tiêu dài sáu mét, đường kính từ 1.5 đến 2 tấc, phải là gỗ tốt, lá nhỏ, vỏ mỏng. Tôi và bác Thanh phải lên núi cao t́m gỗ v́ dưới thấp không c̣n nữa. Sau khi chặt xong, tôi và bác Thanh khiêng về trại. V́ lúc đó tôi c̣n trẻ nên nghĩ rằng ḿnh khiêng phần gốc để bác Thanh phần ngọn nhẹ hơn. Từ trên triền núi cao, tôi lao xuống dốc v́ nặng quá, không kềm được, nên đă té ngă nhiều lần. Rốt cuộc để khỏi tai nạn, bác Thanh dành khiêng phần gốc v́ thật sự mà nói, bác rất khoẻ và rất đô con. Tối về sinh hoạt kiểm điểm xong, bác nằm và than sao đau lưng và khổ quá. Bên cạnh tôi có anh bạn Luật sư Lê Đ́nh Khang nói nhỏ:
“Bác khổ là v́ hồi đó bác hà tiện quá mà.”
Bác càu nhàu hỏi:
“Hà tiện ǵ?”
Anh bạn Khang nói:
“Nếu hồi đó bác sắm bao tải cho nhiều, cứ mỗi chuyến C130 chở tù phiến cộng từ Sài G̣n ra Côn Đảo, bỏ hết vào bao ném xuống biển, th́ đâu có ngày hôm nay.”
Bác và chúng tôi cùng cười, quên đi nỗi đau đớn nhọc nhằn.
Trong thời gian ở trại này, chúng tôi chứng kiến một cảnh thương tâm. Có một số anh em trốn trại nhưng không thoát được, tôi chỉ nhớ tên 2 người là T/Tá Giang và T/Tá Phước, 2 người c̣n lại tôi không nhớ được. Chúng cho làm mỗi người một cái lều, như lều cắm trại, sát mặt đất, có khung bằng ván để nằm, làm hệ thống cùm dưới chân bằng gỗ, khóa lại suốt ngày đêm, trông giống như những chiếc nhà mồ nằm ngay tại vọng gác trước mặt trại. Chúng tôi ngày nào lao động cũng phải đi ngang qua, trông thật đau xót và thương tâm, nhưng đâu biết làm sao khác hơn….
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1350540&stc=1&d=1552652188
Vào một đêm, bỗng dưng lửa cháy các cḥi, cḥi của T/Tá Giang là nặng nhất. Họ được đưa đi bệnh viện Tuy Ḥa để cấp cứu. T/Tá Giang phải cưa hai chân đến đầu gối. Các bạn khác đều bị phỏng nhưng cũng được lành. Chúng tôi đều nhận định rằng chúng muốn đốt cho chết rồi cho là tai nạn, v́ các cḥi nằm giữa miếng đất trống th́ sao lại có hỏa hoạn.
Khoảng 5 tháng sau, họ thả anh Giang về. Gia đ́nh từ miền Nam phải lo phương tiện di chuyển anh, sau 75 gạo c̣n không đủ ăn, làm sao mà sắm xe lăn. Tôi nghe sau này h́nh như anh đă quyên sinh v́ nghịch cảnh gia đ́nh. Ôi thân phận con người, thân phận của những kẻ chiến bại, dưới nanh vuốt của một lũ bạo tàn nhất trong lịch sử của nhân loại.
Và cuộc đời chúng tôi cứ kéo dài như thế thôi, niềm tin được thả về c̣n xa lắm, chỉ khi nào sức cùng lực kiệt, chúng bảo ǵ nghe đó, sự đối kháng không c̣n nữa, may ra mới được về, lúc đó liệu c̣n sống sót bao nhiêu người đây. Phần cá nhân tôi, có một hôm, tôi bị sưng chân phải đi cà nhắc, xuống trạm xá được cho làm việc nhẹ . Buổi sang 1 tên bộ đội vào kêu chúng tôi đi làm, thấy tôi không chuẩn bị, hắn hỏi tại sao, tôi trả lời đau chân, trạm xá cho làm việc nhẹ. Hắn trừng mắt, giơ súng lên và bắt tôi đi làm với đội. Tôi phải cà nhắc theo đội để đi làm. Đứng cuốc đất suốt ngày bằng 1 chân, ngày hôm sau chân kia sưng phù lên. Thế là tôi phải nằm liệt mấy ngày. Ôi, bạn có h́nh dung được chúng tôi phải chịu đựng như thế không?
Sau hơn 3 năm chúng tôi được chuyển giao cho ngành Công an quản lư. Chúng tôi thuộc loại tù chuyên nghiệp, được chuyển đến trại A30 ở Tuy Ḥa. Trại này tập trung đủ các thành phần, h́nh sự, vượt biên, những người bị bắt năm 78,79 họ gọi là phản động, và chúng tôi từ các tổng trại 5, tổng trại 8, Trại Lam Sơn, Trại Thanh B́nh, v.v….Cảm nghĩ của tôi khi đến trại này là thôi, thế là cuộc đời gắn liền với chữ Tù. Giống như nhân vật Papillon của Henrie Chariere. Ở tù không biết tại sao ḿnh ở tù, ngoại cảnh đưa đến mà ḿnh không tài nào vùng vẫy được. Hay gần giống như nhân vật chính trong tác phảm “Giờ thứ 25″ của một nhà văn Nga tôi không nhớ rơ tên. Hết ở tù bởi quân Đức, rồi đến Nga, rồi đến Đồng Minh, khi ra đi th́ mới lấy vợ, khi về vợ đă 3 con rồi, mỗi quốc gia, một đứa.
Dưới tay Công An quản lư, thật là một sự xảo quyệt của con người, tinh vi đến mức không thể nào diễn tả được. Ở đây cũng thiếu thốn và đói như những trại khác, nhưng ở đây th́ gia đ́nh thăm nuôi, tiếp tế cho nhận thoải mái. Mục đích của chúng, cứ cho người nhà thăm nuôi ăn cho no, làm việc cho chúng vượt chỉ tiêu, th́ đâu có ǵ tốt bằng đâu nào. Các trại khác th́ thân nhân thăm nuôi chỉ cho đem quà, bánh, thức ăn không cho nhận gạo. Ở trại A 30 này, không tiếp tế gạo cho tù nhân là một thiếu sót lớn. Lần thăm ban đầu gia đ́nh tôi không biết, sau mới hiểu ra gạo là chính. Đến A 30, chúng tôi khai phá những cánh đồng ngút ngàn. Tất cả những cánh đầm lầy biến thành ruộng xanh ngút tầm mắt, và những cánh đồng mía chỉ thấy đường chân trời, tầm mắt không thể nh́n hết. Chúng lại lên lớp:
“Ta làm ta hưởng. Lao động là vinh quang.”
Ôi thật là bực lỗ tai. Sao có những con người, chỉ biết nói và không cần thái độ của người nghe. Chúng tôi làm cho họ hưởng, nếu gia đ́nh chúng tôi không nuôi th́ chúng tôi đă chết đói rồi.
Ở đây có một trường hợp, anh Đ/Úy Thức đơn vị Dù, tôi không biết Lữ Đoàn mấy v́ ở khác lán. Buổi chiều đi lao động về, anh gặp tên Tr/Tá Hạnh Công An Giám Thị trưởng Trại A 30 hỏi thăm và nói ǵ đó, sau lên lớp…V́ hắn quá trâng tráo và dối trá nên anh Thức dằn không nỗi nhảy vào đánh tên Giám Thị trại. Công an pḥng vệ đă nhào vô bắt và đán anh Thức, không thể nào diễn tả được. Chỉ biết sau khi đánh xong, chúng bỏ anh vào xe cút kít đẩy vào chỗ biệt giam th́ thấy anh như một đống thịt, máu me đầy ḿnh! Ôi con người đến thế th́ thôi! Tôi nghe sau đó họ đưa anh xuống bệnh viện Tuy Ḥa để điều trị và nghe đâu h́nh như có người bà con làm lớn ở Hà Nội lănh anh đem về nhà. Từ đó đến nay, không c̣n được nghe ǵ hơn nữa, không biết anh có c̣n sống, và nếu như có đọc những ḍng này của tôi, th́ xin anh nghĩ, lúc đó chúng tôi rất căm phẩn chúng nó, và xót thương anh nhưng chúng tôi đành bất lực……
Tôi cũng không biết nói sao, v́ mỗi con người có tŕnh độ nhận thức khác nhau, phải nói rằng nếu nghị lực không đầy đủ th́ sẳn sàng làm tay sai cho chúng. Có một ngày, chúng tôi đang cuốc cỏ th́ tên Công An quản giáo kêu tôi ra giữa đám ḿ, giở tṛ giáo đầu là tôi lao động lấy lệ, sinh hoạt không chịu phát biểu, ù ĺ, là thành phần chống đối ngấm ngầm, như vậy làm sao tiến bộ, cách mạng xét cho các anh về. Tôi muốn bật cười nhưng không dám, v́ nó đă nhàm với chúng tôi. Nghe bao nhiêu năm rồi. Tôi lặng thinh, hắn nói tiếp:
“Bây giờ anh muốn thể hiện cho chúng tôi thấy sự tiến bộ của anh th́ anh phải theo dơi báo cáo tư tưởng của anh nào chống đối cách mạng, ai phát biểu những ǵ bất lợi cho cách mạng. Báo cáo trực tiếp với tôi, hay bỏ vào ḥm thư trước trại.”
Tôi phải trả lời hắn theo sách vở:
“Thưa cán bộ, nhiệm vụ chúng tôi ngoài việc học tập lao động, tôi c̣n phải báo cáo ngay nếu phát hiện được những thành phần nào trốn trại.”
Hắn nói:
“Tôi yêu cầu anh báo cáo những anh nào phát biểu chống đối ḱa.”
Tôi vâng lấy lệ. Khoảng tháng sau, hắn kêu tôi ra lần nữa v́ không thấy báo cáo của tôi, hắn hỏi:
“Tôi không thấy báo cáo nào của anh hết, anh là thành phần ngoan cố, chống đối.”
Tôi nói:
“Tôi có để ư một hai bữa, thấy anh em ai cũng an tâm, đâu có nói ǵ, thành tôi không có ǵ để báo cáo.”
Hắn đơn cử một vài lời nói mỉa mai của vài anh em. Tôi nói:
“Anh em vui miệng nói đùa, tôi không để ư.”
Thế là hắn lôi tôi ra, dùng báng súng đập cho một trận. Tôi mang thương tích và nước mắt căm hờn về trại, cơm nuốt không vào. Không phải đau mà khóc nhưng uất hận làm cho nước mắt tuôn trào. Tối hôm đó một vài anh em mang thuốc giảm đau và dầu xoa bóp cho tôi, thật là an ủi. Dầu sao chúng tôi cũng c̣n có nhiều anh em nghĩa khí và có t́nh người.
Bọn hắn cũng có mắt chọn người lắm. Mỗi ngày chúng tôi đi cuốc đất, cả đội dàn hàng ngang, chỉ tiêu mỗi người 4 mét chiều rộng và 200 mét chiều dài, chúng chọn một tên kêu ra nói nhỏ:
“Anh ráng cuốc 250 mét, kỳ sau gia đ́nh anh lên thăm nuôi tôi sẽ can thiệp với trại để cho anh được gặp gia đ́nh ban đêm.”
Ôi, một sự hứa hẹn tuyệt vời. Tù nhân nào lại không muốn hàn huyên với gia đ́nh sau bao nhiêu năm dài ngăn cách, bao nhiêu biến cố vật đổi sao dời. Có người suy nghĩ chín chắn th́ thấy là chuyện đau khổ thêm cho vợ ḿnh, có người chuộng vật chất th́ cho đó là một đặc ân của Cộng Sản. Thật là một thủ đoạn quá tinh vi. Thế là hôm sau, tên được kêu cuốc vượt trội hơn anh em khác. Tối về họp kiểm điểm chúng nêu ra:
“Anh A cũng như các anh, cùng sức vóc, cùng tiêu chuẩn ăn uống như nhau. Người ta cuốc được 250 mét, các anh cuốc có 200 mét, lại kêu không đủ giờ, chứng tỏ các anh làm cầm chừng, lười lao động. Bao giờ các anh mới tiến bộ đây?”
Bắt đầu từ ngày đó, chỉ tiêu là 250 mét/ngày. Chúng tôi cuốc từ sáng sớm đến chiều tối, tay chân ră rời, tai như bốc khói. Trên đường đi về trại, thân thể ră rời ngất ngưỡng như người mộng du, v́ sức đă cạn rồi. Chúng tôi chửi thầm, ôi những thằng ngu, nào dám chửi thẳng vào mặt, nó mà báo cáo một phát là biệt giam, hai chân vào cùm, làm bạn với gián…..
Ở đây cũng có tổ chức những đêm văn nghệ, diễn viên là các em vượt biên bị bẳt. Các em c̣n rất trẻ, có em đă bị bắt vào đây đến 3 lần, thật đáng thương. Họ cho tập dượt, và cho tŕnh diễn những đêm thứ 7, chủ nhật hay các ngày lễ của chúng. Nội dung h́nh như chúng tôi gần như thuộc ḷng, v́ xem đi xem lại, tháng này qua tháng khác. Khi nào tổ chức văn nghệ là chúng lùa hết ra sân vận động, không được ở lại trong trại. Tôi và anh bạn Thắng đem áo mưa ra để nằm ngủ, chúng bắt gặp. Thế là hôm sau chúng họp kiểm điểm là chúng tôi không chịu tiếp thu văn hóa cách mạng, thành phần bướng bỉnh ù ĺ. Có những tṛ khác, bọn chúng mị dân, mà ngay cả một số gia đ́nh chúng tôi cũng nghĩ chúng là nhân đạo. Thí dụ sau khi cho vợ con thăm nuôi, tiếp tế, tối c̣n cho gặp. Ngày hôm sau, gia đ́nh về, chúng đưa sổ cho thân nhân viết cảm tưởng. Chúng đem tŕnh làng với đồng bào ở ngoài hay các phái đoàn quốc tế viếng thăm. Chúng đem khoe khoang cũng như phổ biến trong trại, thế th́ nhân đạo quá đi chứ, thử hỏi có thân nhân nào dám viết lời không tốt cho chúng đâu.
Ở trại này, trước khi chúng tôi chuyển đến, có nghe kể lại một chuyện thương tâm. Là có số anh em giựt súng tên Công An định bỏ chạy nhưng bị một tên Tr/Tá của ta ôm lại để cho Công An bắn chết 1 hay 2 đồng đội của ta. Cả trại rất căm phẫn và khinh bỉ tên này. Khi chúng tôi đến trại A 30 th́ tên này đă được bọn Cộng Sản cho định cư vùng kinh tế mới Mai Liên do trại quản lư và được đem gia đ́nh đến sinh sống v́ hắn có công với cách mạng. Tên này là Tr/Tá Lập trước kia làm Quận Trưởng quận Vạn Ninh, tôi biết v́ vợ của hắn có chút bà con xa với gia đ́nh tôi. Những năm sau khi được phóng thích về, có một lần tôi ghé thăm gia đ́nh cha mẹ vợ hắn, th́ mới hay việc đời có vay, có trả, thời gian sau vợ hắn đă bỏ hắn, sống với người khác rồi.
Những khổ h́nh ở trại làm sao mà nói cho hết, tôi chỉ ghi lại những điều ḿnh nghe, ḿnh chứng kiến để bạn đọc suy nghĩ thấy cái bạo tàn, quỷ quyệt của chế độ để đem một chút ánh sáng cho những ai v́ một chút quyền lợi riêng tư mà muốn cái gọi là ” hoà hợp ḥa giải với Cộng Sản”. Các bạn có biết, cảnh đời tù tội là đắng cay, khổ nhọc nhưng cũng có lắm chuyện cười ra nước mắt. Chúng tôi là những thành phần gồm sinh viên, giáo chức, cán sự, hay hành chính bị động viên. Dẫu sao, với xă hội miền Nam thời đó chúng tôi cũng là thành phần gọi là trí thức chút ít. Từ nhỏ cha mẹ sinh ra đă hy sinh cho con ăn học những mong cho con ḿnh đỗ đạt, cho cuộc sống vững vàng, chúng tôi nào có quen các cuốc, cái cày. Khi bị bắt vào đây chúng xem bọn tôi như một lũ ăn hại, vô tích sự.
Có một ngày đội chúng tôi đi cày lần đầu, các bạn có biết, trâu ḅ cũng quen với ngôn ngữ địa phương. Ở miền Trung từ B́nh Định trở vào, muốn ḅ quẹo trái th́ gọi Thá, muốn ḅ quẹo phải th́ gọi Dí, muốn chúng dừng lại th́ gọi Ḍ. C̣n ở vùng Quảng Trị muốn quẹo trái th́ gọi Tắc, muốn quẹo phải th́ dùng Rị, và muốn dừng lại th́ dùng Họ. Hôm đó mỗi người được phát một cặp ḅ và 1 cái cày, có một anh người Quảng Trị cầm cày và cầm roi điều khiển ḅ, cứ dùng hết Tắc rồi Rị, ḅ nó không biết đi đâu, nó quẹo lung tung. Ḅ đi măi gần đến bờ rào đụng nhà dân, anh la Họ….Họ….., ḅ vẫn đi, hoảng quá anh la : “Stop, stop, stop”. May có vài anh em ra chận ḅ lại, chúng tôi có dịp cười nghiêng ngửa. Khi anh chàng trở lại chúng tôi nói:
“Ḅ nó đâu có đến trường mà biết tiếng Anh, ông bạn.”
Những kỷ niệm đau khổ cũng như là hạnh phúc của con người đều có giá trị ngang nhau trong tiềm thức, người ta khó mà quên được. Có những ngày chúng tôi đi làm ruộng tại cánh đồng tên là Đầm Sen. Cánh đồng đầm lầy bạt ngàn, bỏ hoang lâu ngày từ thời Pháp thuộc, thật xa xôi và hẻo lánh, bèo lát, điên điển, cỏ dại mọc như rừng, mỗi lần nhảy xuống ruộng, có chỗ śnh ngập lên tới cổ. Và có những đám ruộng nước đĩa ơi là đĩa….lội như bánh canh. Từ nhỏ tôi cũng như nhiều anh em khác, nói chung môi trường sống là thành phố, nên thấy đĩa rất là sợ. Lần đầu tiên nhảy xuống ruộng, thấy nhột nhột nhảy lên, là một vài con bám chân bám đùi, máu chảy tùm lum…..Úi trời ơi, thật là hăi hùng, bắt chúng xong lại nhảy xuống, v́ nhảy lên bờ th́ AK chĩa vào đầu.
Ngày ấy làm ruộng về, mặc dù đói, nhưng cơm nuốt không nổi v́ tinh thần căng thẳng và hăi hùng quá mức. Mấy hôm sau, chúng tôi rút kinh nghiệm, chọn bộ quần áo nào mới nhất, không có chỗ rách, bỏ áo vào trong quần, cột hai ống chân cho chặt, cột quanh lưng, cột hai khuỷu tay, nhờ thế mà khi nhảy xuống ruộng, thấy đĩa bơi quanh người nhưng chúng không bám được, nhưng cũng có những trường hợp ngoại lệ, chúng vào tận chỗ kín để cắn, về nhà máu me tùm lum phát khiếp. Cũng có những chuyện vui đáng nhớ. Số là sau khi khai hoang xong, những đám ruộng bùn quậy lên rất nhiều cá nên anh em tha hồ bắt. Tôi th́ chạm cá rất nhiều, nhưng chẳng bao giờ bắt được cả. Bắt nó lên là nó vuột, bắt một tay cũng vuột, hai tay cũng không xong. Chiều về hỏi mấy anh bạn chuyên nghiệp chỉ giùm cho một chiêu làm sao để bắt mà nó không vuột. Anh bạn cười:
“Bắt cá cũng như đi cua gái vậy, khi đụng nó phải từ từ ṃ từ đuôi lên tới đầu, khi vị trí của đầu nằm trong ḷng bàn tay rồi, th́ dịu dàng nắm lại, thật chặt và thật êm th́ không bao giờ bị mất cả”.
Thế là hôm sau theo cách chỉ dẫn của anh bạn, tôi được mấy bữa bồi dưỡng ngon lành. Có những ngày làm cỏ ở những thửa ruộng cạn, chúng tôi không t́m được thứ ǵ để ăn. Vài ba người, mỗi người vài chú nhái, chiều về cải thiện, 1 vài con không đáng là bao, người nọ dồn cho người kia để ăn cho đủ. Các bạn biết sao không? Cho th́ tiếc, bèn oảnh tù t́ ai thắng th́ ăn hết, ai thua th́ nhịn. Ôi con người khi tới tận cùng đất đen rồi th́ mới nhận chân được giá trị của nó. Chuyện đă 28 năm rồi, nhiều khi tôi nghĩ ḿnh cũng nên quên đi để sống những ngày c̣n lại của cuộc đời. Nhưng thỉnh thoảng quá khứ lại hiện về, không sót một chi tiết nhỏ nào. Có những đêm ác mộng hăi hùng, bị đánh, bị tra tấn và những cơn trốn chạy dưới lằn đạn AK của chúng. Khi tỉnh dậy tinh thần bàng hoàng, đầu óc ngây ngô. Và không biết đến bao giờ tâm trí mới được b́nh yên đây. Đọc qua lịch sử biết bao sự hưng vong của chế độ Đinh, Lư, Trần,Lê….Biết bao nhiêu thi nhân đă tiếc thương một thời quá khứ êm ấm, thanh b́nh…..
Tạo hoá gây chi cuộc hư trường,
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Ngơ cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước c̣n cau mặt với tang thương,
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Hay:
Nhớ nước đau ḷng con quốc quốc.
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia…
(Bà Huyện Thanh Quan)
Hoặc:
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ây hồn Thục Đế thác bao giờ
Năm canh, máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc Xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ
Đêm đêm ṛng ră kêu ai đó
Dục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ
(Nguyễn Khuyến)
Vận nước đă đổi thay, quê nhà ch́m đắm trong cảnh bất công. Giới thống trị th́ vàng son rủng rỉnh, xe pháo dập d́u, người dân c̣n lại phải vật lộn với cuộc sống đầy gian nan mới đủ cơm ngày hai bữa, và c̣n phải lo thuốc thang khi đau yếu. Không hiểu tiền nhân có đau khổ như chúng ta không? Nếu có th́ chỉ có sự thay đổi thể chế xă hội và đau nỗi mất nước, không đến nỗi phải lưu vong như chúng ta, trên 15.000 dặm đường chim bay, xa hơn một nữa ṿng trái đất. Muốn t́m một chút t́nh cảm thân thương nơi cha, nơi mẹ, nơi anh em, nơi bạn bè hay người thân thật là khó vô vàn. Thật là:
Đau ḷng tử biệt sinh ly,
Muốn cho tái ngộ chỉ nhờ mộng trung….
Chúng ta đă may mắn thoát khỏi ách bạo tàn, dung thân ở xứ tự do. Tuy không dễ, nhưng chúng ta có đầy đủ quyền tự do của một con người được pháp luật bảo vệ. Quê nhà c̣n biết bao người thân đang trầm luân với cuộc sống đoạ đầy và bất công, chỉ hy vọng chút tin vui khi có con cái, hay anh em gửi về chút ít quà hay tiền để mạch máu đang chảy không bị cạn….bởi một lũ vô thần, tham lam, ích kỷ và tàn bạo…..
Với những ḍng này, mong đóng góp chút ít tư liệu về cuộc chiến, và những gương hy sinh của các Sĩ Quan QLVNCH, những anh hùng không tên tuổi đă nằm xuống trong cuộc chiến, để giữ ǵn miền Nam êm ấm thanh b́nh gần 3 thập niên từ sau 1945-1975. Và để cho thế hệ sau phân tích sự hy sinh gian khổ của cha ông. Và cũng mong quê hương dân tộc sớm khỏi ách bạo tàn của một lũ người vô thần thống trị,và măi măi thanh b́nh trong chiều hướng tự do dân chủ…..
Vơ Đức Nhuận
(Đây là những nhân vật có thật trong chặng đường chiến đấu cuối cùng, và những trại cải tạo đă đi qua)
hoanglan22
03-15-2019, 15:10
Em là Trần Thị Lệ Hà, quê Cần Thơ, hiện cư ngụ tại San Jose, xin kể lại cho các bác niên trưởng trong quân đội câu chuyện năm 1975. Nếu miền Nam và Saigon gọi ngày 30 tháng Tư 75 là ngày tang của đất nước th́ ngày tang của Trần Thị Lệ Hà đến sớm hơn một ngày.
Đó là ngày 29 tháng 4 năm 1975. Đêm 28 tháng 4 cách đây 34 năm trung úy Quách Văn Sở, vơ bị Đà Lạt khóa 24, từ giă vợ con vào trại Hoàng Hoa Thám sinh hoạt với tân binh nhảy dù. Trung úy mũ đỏ Quách Văn Sở rất có tinh thần trách nhiệm, đă có giấy lên đại úy nhưng c̣n chờ lễ đeo lon. Quá nửa đêm 28 qua sáng 29 th́ Việt cộng pháo kích vào Tân Sơn Nhất và trại Hoàng Hoa Thám. Sáng sớm 29 tháng 4 lính dù chạy về báo tin anh Sở, chồng của Lệ Hà đă chết. Cùng một lúc khu trại gia binh nhảy dù phải di tản. Em lúc đó 25 tuổi, con trai đầu ḷng được 7 tháng. Chẳng có ai thân thuộc. Mẹ con ôm nhau chạy qua nhà ông cậu bên thành Lê Văn Duyệt. Chồng chết ra sao cũng không biết. Đường xá kẹt hết. Chuyện chiến tranh, trận mạc nhà binh từ khi lấy nhau tất cả đều do anh Sở quyết định. Nay bỗng nhiên trời xập, ôm đứa con dại, em ngồi khóc một ḿnh. Không biết xác chồng nằm ở nơi đâu. Chung quanh Sài G̣n náo loạn, ai mà lưu tâm đến người vợ trẻ mất chồng vào cuối tháng 4. Phải mà anh Sở chết sớm hơn một tháng th́ truyền thống lính dù đă đưa xác về tận nhà. Tang lễ uy nghi, có đơn vị trưởng chứng kiến lễ gấp cờ, như em đă thấy tại sân Hoàng Hoa Thám. Nhưng sao anh Sở lại chết vào cuối tháng tư, giờ thứ 25 của cuộc chiến.
Trải qua một đêm dài thảm kịch. Thằng bé Quách Vĩnh Hưng ôm mẹ nằm trên đất lạ. Cả mẹ con đều không thấy tương lai
.
Xác anh, giờ ở phương nào?
Sáng hôm sau, nhờ cậu em họ dẫn đường vào trại Hoàng Hoa Thám để t́m xác anh Quách Văn Sở. Doanh trại đă di tản. Ở một vài nơi quân ta c̣n kháng cự và quân địch chưa tiến vào. Khu bị pháo kích chỉ c̣n di tích đổ nát, thương binh tử sĩ nhảy dù chẳng c̣n thấy nữa. Nghe nói các chiến binh mũ đỏ đă tản thương anh em vào đêm 29 và đưa xác tử sĩ lên nghĩa trang Biên Ḥa.
Trên trời máy bay trực thăng ồn ào chở người di tản suốt ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Sáng 1 tháng 5 năm 1975, Saigon đổi chủ, em chẳng hề quan tâm. Nhờ người gởi con một nơi, lấy xe máy lên t́m chồng tại nghĩa trang Biên Ḥa. Đây là lần đầu tiên em t́m về nơi chôn cất tử sĩ miền Nam. Khu đơn vị chung sự Việt Nam Cộng Ḥa vẫn c̣n đầy xác chết và quan tài đủ loại. Có người phe ta c̣n làm việc nhưng mặc đồ dân sự. Lính cộng sản xuất hiện nhưng xem chừng c̣n ngại ngùng không kiểm soát. Phe ta mạnh ai nấy t́m xác người thân và than khóc. Tử sĩ miền Nam vẫn c̣n đầy đủ quân phục, danh tính cấp bậc. Trên quan tài vẫn c̣n đèn nến và vàng hương. Thân nhân ngồi khóc bên các tử sĩ từ các nơi chở về. Sau cùng em t́m được xác anh Quách Văn Sở, đă được tẩm liệm và cho vào quan tài. Một bác mặc đồ dân sự nói rằng chị yên tâm, tôi sẽ ghi dấu quan tài của ông Trung úy nhảy dù. Tôi cũng là lính Việt Nam Cộng Ḥa. Đă hơn 30 năm rồi, em vẫn c̣n nhớ h́nh dáng của người lính bên ta lo việc mai táng vào lúc mà toàn quân cùng với quốc gia không c̣n nữa. Sau khi thấy rơ tên tuổi di tích của anh Sở nằm đó, em trở về Saigon bắt đầu t́m xe thuê chở xác chồng về quê. Năm xưa, vợ chồng từ Hậu Giang lên Sài G̣n, bây giờ anh đă vĩnh viễn nằm xuống, em nhất định phải chở anh về với gia đ́nh, về nơi anh đă ra đời.
Quê em ở Cần Thơ, quê chồng ở Rạch Giá. Giờ này mẹ và các anh em họ hàng bên anh Sở vẫn chưa biết là anh đă hy sinh. Suốt mấy ngày đầu tháng 5, em t́m mọi cách để thuê xe chở quan tài. Trong những ngày giờ đó, chẳng quen biết ai, làm sao mà thuyết phục được chủ xe chở xác sĩ quan dù về tận Rạch Giá. Sau cùng khi t́m được lại phải cùng với chủ xe đi mua xăng. Tiền bạc không đủ, phải trả cả bằng nữ trang và nhẫn cưới đầy kỷ niệm.
Chuyến xe tang về quê chồng
Đưa xe tải về nhà, dọn những ǵ có thể đem đi được, từ giă cư xá gia binh, chấm dứt đời vợ lính. Mẹ ôm con lên xe trở lại nghĩa trang. Đó là ngày 3 tháng 5 năm 1975. Nghĩa trang đă thay đổi. Tất cả các xác chết đă bị Việt cộng bắt chôn tập thể. Nhưng may thay những quan tài có người nhận từ hôm trước vẫn c̣n. Vàng hương và tên tuổi cấp bậc th́ vứt đống dưới đất. Người lính chung sự Việt Nam Cộng Ḥa mặc đồ dân sự vẫn c̣n đó. Ông nói rằng quan tài này của trung úy dù tôi vẫn ghi dấu là đă có thân nhân đến nhận. Xin thưa với bác là em cũng chẳng biết tên ông lính đó là ai, nhưng ơn nghĩa tử sinh th́ em ghi nhớ suốt đời. Nếu không có ông này, chắc xác anh Sở cũng phải nằm chung trong mồ tập thể. Rồi nhờ mỗi người một tay, quan tài anh Quách Văn Sở được khiêng lên xe hàng. Mẹ con ôm nhau ngồi bên xác anh suốt quăng đường dài. Đó là chuyến xe tang về quê chồng tháng 5 năm 1975.
Bác hỏi em quang cảnh bên đường ra sao. Bác ơi, vợ lính 25 tuổi, ôm thằng bé chưa được một tuổi. Ḷng dạ nào mà nh́n thấy hai bên đường. Mắt em mở nhưng chỉ thấy toàn kỷ niệm quá khứ. Em là nữ sinh Đoàn Thị Điểm, Cần Thơ.
Anh Sở là sinh viên đại học Cần Thơ. Gặp nhau, hẹn ḥ, yêu đương. Từ đại học Cần Thơ anh vào vơ bị khóa 24 học suốt 4 năm. Em ra trường làm công chức, đổi từ Cần Thơ lên Saigon. Bốn năm Đà Lạt, Sài G̣n t́nh yêu thơ mộng biết chừng nào. Ra trường anh đi lính nhảy dù đóng tại trại mũ đỏ Hoàng Hoa Thám, em làm công chức tại văn pḥng phủ thủ tướng. Đâu có quen biết ông lớn nào đâu. Sở công vụ cho đi đâu th́ làm đó. Chiến tranh ở đâu th́ không biết nhưng Saigon, Cần Thơ và Rạch Giá là những miền đất đầy hạnh phúc của một gia đ́nh trẻ với đứa con trai.
Từ đầu tháng tư mẹ em ở Cần Thơ rất lo sợ cho con rể, con gái và cháu ngoại. Mẹ anh Sở ở Rạch Giá cũng đang cầu nguyện cho con trai, con dâu và cháu nội.
Chuyến xe đau thương của em ghé Cần Thơ. Mẹ thấy con gái về bèn ôm cháu ngoại hỏi rằng c̣n thằng Sở đâu. Con gái mẹ kêu khóc mà nói rằng: anh Sở chết rồi. Con đưa xác về đây. Mẹ đi với con qua Rạch Giá. Mẹ già tất tả vừa khóc vừa gói quần áo theo con gái lên xe. Cả xóm tuôn ra nh́n theo, chiếc xe tang về quê chồng lại lên đường. Xe tải chở theo bà xui Cần Thơ đi theo con gái. Nước mắt góa phụ trẻ bây giờ thêm nước mắt mẹ già. Thằng rể quí của bà đi lính nhảy dù mấy năm không chết mà đến ngày cuối cùng lại tử trận.
Người lính mũ đỏ đất Kiên Giang
Năm 1971 có anh sĩ quan nhảy dù xuất thân vơ bị làm đám cưới ở bến Ninh Kiều, Cần Thơ, tiệc bên nhà gái xong là rước dâu về Rạch Giá. Đoàn xe hoa cũng đi theo con đường này. Qua đến năm 1975, xe hàng chở quan tài người lính chiến về lại quê xưa, cũng có bà xui đại diện cho nhà gái trong chuyến đi cuối cùng. Xe về đến Rạch Giá, cả nhà họ Quách ra đón mừng, thấy quan tài con trai út bà mẹ té dài ngay trên bậc cửa.
Mẹ của anh lính dù có hai người con trai. Mấy năm trước người anh tên là Quách Hải đă tử trận. C̣n cậu út nhất định đi vơ bị rồi theo nhảy dù, bà tưởng rằng gởi gấm được ông tướng Dư Quốc Đống vốn là thân quyến th́ cũng đỡ nạn binh đao. Ai ngờ anh sỹ quan nhảy dù chết ngay tại trại Hoàng Hoa Thám vào giờ phút sau cùng của cuộc chiến.
Mặc dù lúc đó cộng sản 30 tháng 4 tại Kiên Giang đă làm khó dễ nhưng người góa phụ trẻ hoàn toàn không có kinh nghiệm trong cuộc sống đă một ḿnh đơn độc đem xác chồng về chôn tại quê nhà. Câu chuyện làm xúc động bà con lối xóm nên đám tang rất đông người dự để tiễn đưa người lính dù cuối cùng của đất Kiên Giang trở về quê mẹ.
Nước non ngàn dặm ra đi
Sau đó em trốn tránh quanh quẩn tại Hậu Giang v́ muốn giấu lư lịch vợ lính dù, lại làm công chức phủ thủ tướng. Qua năm 1979 trở về Cần Thơ vượt biên với má và thằng con trai. Nhờ anh Sở phù hộ, tàu qua Mă Lai bị kéo ra biển nhưng rồi cố lết qua được Indo. Ở bên Nam Dương một năm th́ vào Mỹ, đến ngay San Jose. Mấy năm sau, em gặp ông xă sau này, hai bên lập gia đ́nh và có thêm hai cháu.
Thưa với bác Lộc rơ, em có duyên số với Vơ bị và Rạch Giá. Ông xă hiên nay của em cũng là người quê Rạch Giá, cùng vượt biên năm 1979 trong một chuyến khác. Qua đây mới gặp nhau. Ông ấy ngày xưa cũng dạy trường vơ bị Đà Lạt. Con cái của gia đ́nh em, nói để các bác mừng cho, tất cả đều thành đạt và hạnh phúc. Các cháu cũng đă lập gia đ́nh và có thêm các cháu nội ngoại.
Ông xă em bây giờ hết sức tế nhị và thông cảm. Chính ông đă làm một bàn thờ tại gia để ghi nhớ h́nh ảnh của trung úy nhảy dù Quách Văn Sở ba của cháu Quách Vĩnh Hưng. Năm nay cháu 35 tuổi.
Chút di sản muộn màng, gửi tương lai vĩnh cửu
Đă 34 năm qua, em c̣n lưu giữ hồ sơ của anh Sở. Một tờ khai gia đ́nh của khu gia binh sư đoàn nhảy dù, căn cứ Hoàng Ḥa Thám. Có chữ kư của thượng sỹ Trần Văn Linh, trưởng trại gia binh. Kiến thị bởi trung tá Nguyễn Văn Tư chỉ huy trưởng căn cứ và chữ kư của gia trưởng trung úy Quách Văn Sở. Ngoài ra c̣n giấy chứng nhận bằng nhảy dù, thẻ căn cước dân sự, thẻ căn cước quân nhân, chứng chỉ tại ngũ. Trên các thẻ căn cước, chỗ nào cũng có tên mẹ của anh Sở là Dư Thị Kim Thoa, bà là vai cô của tướng Dư Quốc Đống. Trung úy Sở c̣n tờ giấy nghỉ phép 5 ngày từ 26 tháng 4 đến 30 tháng 4 năm 1975. Cầm giấy phép, nhưng anh Sở không đi phép. V́ lo tân binh Nhẩy dù mất tinh thần nên tối 28 tháng 4 năm 1975 anh vào trại. Trận pháo kích sau cùng đă làm thay đổi vận mệnh của cả gia đ́nh. Người thanh niên Kiên Giang, trải qua 4 năm sinh viên vơ bị Đà Lạt, 5 năm sỹ quan nhẩy dù, từ giă cuộc đời năm 30 tuổi. Anh để lại tấm thẻ bài hai mảnh. Gia đ́nh c̣n giữ suốt 34 năm qua. Nay đă đến lúc chia tay đôi ngả. Một tấm đi theo quân bạ vào viện bảo tàng. C̣n một mảnh xin giữ làm kỷ niệm cho con cháu họ Quách đời sau. Với đầy đủ tên họ, số quân và loại máu.
Tâm nguyện cho tương lai
Thưa bác, kể xong chuyện ma chay cho người chồng chiến binh 34 năm về trước, trao được các di vật cho viện bảo tàng Việt Nam tại San Jose, em rất yên tâm. Xin cảm ơn nhà em ngày nay, nguyên là giáo sư vơ bị ngày xưa đă thông cảm, sẽ thông cảm thêm. Con trai của anh Sở nay đă 35 tuổi, sẽ hiểu biết thêm chuyện gia đ́nh và chiến tranh. Những đứa con sau này ra đời tại San Jose bây giờ mới biết ngày xưa mẹ sống trong trại lính Dù có tên là Hoàng Hoa Thám. Anh em Đà Lạt khóa 24 biết thêm về người con gái miền Tây làm dâu vơ bị hai lần. Người Rạch Giá cũng biết thêm về cô gái Cần Thơ hai lần lấy chồng xứ Kiên Giang.
Và em tạ ơn trời đất c̣n có ngày nay. Trước sau em cũng chỉ là người vợ lính đă từng sống trong trại gia binh.
Em cám ơn các bác đă nghe hết câu chuyện 29 tháng 4 của em 34 năm về trước.
hoanglan22
03-15-2019, 20:58
Chúng tôi bị đưa đến một cái lán nhỏ trong cánh rừng già vào lúc nửa đêm. Ngọn đèn dầu le lói soi những khuôn mặt lo sợ mệt mỏi nằm ngồi ngổn ngang bên những cái ba lô trên những chiếc chiếu trải vội vă trên mặt đất. Những đôi mắt hướng về chốn xa xăm đầy vẻ lo âu và có lẽ họ có cùng suy nghĩ. “Ngày mai cuộc đời ḿnh sẽ ra sao?”. “Bọn Cộng sản sẽ chôn sống ḿnh giống như chúng đă từng làm với dân Huế vào năm Mậu Thân”. “Bọn Cộng sản sẽ đày ải ḿnh suốt đời trong rừng sâu nước độc như bọn Cộng sản Liên Xô đă từng đày ải hàng chục triệu người ở Tây Bá Lợi Á”. Ngoài kia màn đêm đen như bức tranh sơn mài tiếng kêu của thú rừng hỗn loạn man dại.
Bỗng một tiếng kêu thật to “Trót…Bóp…” trên mái lán làm tất cả mọi người giật ḿnh, xa hơn tí nữa có tiếng kêu “Bóp … th́….Bóp” đáp lại. Vài anh nhốn nháo ngồi dậy hỏi “Con ǵ kêu vậy ?” ” Nó kêu Bóp th́ Bóp”. “Không phải. Nó kêu Trót…Bóp”. Tôi buột miệng nói giọng quả quyết ” Nó kêu Trót... Sót. Nó gọi những người c̣n sót lại không chạy thoát được” Không một ai cười theo lời nói đùa của tôi chỉ có những tiếng thở dài năo ruột. Đó là những giây phút u ám sau tháng 4 năm 1975 khi Quân đội Cộng sản Miền Bắc Việt Nam cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam và lùa hàng trăm ngàn Sĩ quan và Viên chức Việt Nam Cộng Ḥa giam vào rừng trên dăy núi Trường Sơn.
Phải đến một thời gian sau tôi mới biết tiếng kêu đêm đó là tiếng gọi nhau của loài chim Từ Qui đi ăn đêm với sự tích ngộ nghĩnh như sau: Hai chị em đang đùa giỡn, người em trai vô t́nh bóp trúng vú chị. Người chị e thẹn ngỡ ngàng run lên. Người em trai không hiểu chuyện ǵ xảy ra cho chị ḿnh lo sợ chạy trốn vào rừng. Người chị hàng đêm t́m em la vang động núi rừng Bóp th́ Bóp không can ǵ cả. Người em trai trả lời đă Trót Bóp nên không dám trở về.
Hôm sau giữa cánh rừng già mênh mông chúng tôi bắt đầu một cuộc đời mới đầy bi thảm. Một vài anh bạn lượm được vài mảnh sắt vụn của những quả bom. Một ḷ rèn thành h́nh để có vài dụng cụ chặt cây dựng trại đón thêm những người bất hạnh mới nhập cuộc. Rừng sâu xa xôi nên thiếu thốn đủ thứ. Anh em lạ nước đau ốm liên miên cũng chẳng có thuốc men. Có anh bị ruột thừa được đưa vào mùng tránh ruồi bu rồi mổ bụng đại ra như mổ bụng heo mặc cho anh ta la khóc. Đêm đến bọn Cán bộ Cộng sản họp từng nhà nói oang oang động viên cần phải khắc phục khó khăn này khắc phục khó khăn khác. Sáng ra tiếng kêu “La Fa La Độ” của một loài chim nào mà chính tôi hiện nay vẫn chưa biết mặt vang động cả núi rừng. Một hôm trong lúc ngồi nghỉ giải lao một anh bạn cho biết trong cuốn sách của bọn Cộng sản có viết về con chim này và gọi tên là “Bắt Cô Trói Cột”. Chúng tôi cho rằng cái tên này nghe quá tàn nhẫn và đổi lại tên cho nó là “Khó Khăn Khắc Phục”.
Tháng ngày dài dằng dặc trôi qua, chúng tôi vào rừng đốn mây chặt cây trồng sắn trồng khoai v.v… để trả món nợ đă lỡ Sanh Lầm Thế Kỷ. Điều khổ nhất trong những năm tháng tù đày là cái đói : Mỗi buổi tờ mờ sáng khi nhận được một ca Quân đội cơm độn sắn ngang miệng ca và chút nước muối tôi thường tính toán chỉ nên ăn một nửa ca và để dành nửa c̣n lại đến trưa ăn chung với phần ăn trưa để có được một bữa no. Tôi thường tự vỗ về ḿnh nên bắt chước người Pháp ăn lót ḷng buổi sáng thật ít cho nhẹ bụng. Nhưng than ôi khi ăn hết nửa ca cơm độn sắn th́ cái đói đă làm tư tưởng tôi thay đổi: Cứ ăn hết rồi trưa sẽ tính sau. Đến trưa khi với phần cơm độn sắn chưa được góc bụng th́ tôi hối hận thầm trách ḿnh ham ăn nên chẳng bao giờ có được một bữa no. Đến tối khi phần cơm chiều đă tiêu hết trong bụng từ lâu tôi lại thèm ăn và đành nếm một chút nước mắm để có được mùi vị ǵ trong miệng. Nhưng mặn miệng th́ phải uống nước nhiều đêm lại mất ngủ v́ phải đi tiểu nhiều và chập chờn thao thức với ước mơ được ngậm trong miệng cục đường nằm dưới bóng mát một gốc cây. Rồi lại kinh hoàng khi nghe tiếng kẻng báo hiệu một ngày lao động nặng nhọc đón chờ nhưng cũng lại rất mừng v́ sắp được ăn sáng.
Những lúc ngồi trước phần cơm đă được vét sạch sành sanh mà bụng c̣n đói meo và miệng vẫn thèm ăn vô hạn tôi mới hiểu được tại sao đại văn hào Constantin Vigil Gheorghiu khi lê lết qua các trại tù đă viết thỉnh nguyện thư để xin chút mỡ và tiếng “La Fa La Độ” của con chim rừng nhỏ bé lúc đó lại trở thành tiếng nói của ḷng tôi với người chung quanh “Cơm c̣n Cho Cục”. Lẫn lộn trong những tiếng chim rừng quanh trại giam tôi c̣n nghe con chim “Tây Về Chưa Hết” hỏi tôi với giọng đùa cay đắng “Cơm C̣n Canh Hết”. Tôi trả lời nho nhỏ trong miệng “Cơm Hết Canh Hết Bụng Đói Meo”. Rồi nh́n ra ngoài hàng rào trại giam nghe rừng cây lao xao những tiếng ŕ rào buồn nhất thế kỷ.
Điều tàn nhẫn nhất của bọn cộng sản là bắt những người bụng đói ấy làm việc quần quật ngày đêm. Trong những mùa thi đua chúng đẩy chúng tôi ra đồng lúc trăng chưa tàn và trở về lúc trăng đă mọc. Lâu lâu chúng lại lôi một anh em trong chúng tôi ra đánh bề hội đồng để dằn mặt những anh thiếu năng nổ và để tăng năng xuất hoặc chúng đem vào rừng bắn chết vài anh để tạo căng thẳng lo sợ cho đám tù (Trại Kỳ Sơn đă bắn chết các anh Thiếu Úy Hà Thúc Long, Trung Tá Vơ Vàng, Trung Tá …Hoàng ). Đêm đến là những cuộc họp từng nhà với những lời phê b́nh đấu tố gắt gao để t́m những sơ hở của anh em trong lời nói trong việc làm để hành hạ trả thù. Ai đă từng đi qua các trại tù Cộng sản chắc chắn sẽ được thấy từng đoàn người da bọc xương đi ra đồng làm việc. Sáu cân gạo cộng thêm chín cân màu và nước muối cùng rau là tiêu chuẩn ăn hàng tháng đă làm cho anh em không có thăm nuôi kiệt sức chết chôn đầy trong những hốc núi. Nhưng không ai biết rằng trong các lùm cây bên đường có tiếng của các Ca sĩ rừng xanh hỏi “Đi Mô Mà Tội Chơ Tề” “Đi Mô Mà Tội Chơ Tề” khi thấy chúng tôi gánh những người chết v́ đói v́ làm đến kiệt sức đi chôn như đang ngạc nhiên về hành động đối xử với nhau của thế giới loài người và như cảm thông với những người tù binh đang bị đày đọa trong rừng sâu thăm thẳm.
Âm nhạc không phải là môn tôi ưa thích. Những lúc nh́n ca sĩ Thái Thanh uốn éo đứng hát tôi thấy mệt trong người, ca sĩ Giao Linh rầu máu rên rỉ tôi đứng dậy đi lơ. Nhất là lúc mấy cậu lính của tôi chụm vào nhau nghe ca sĩ Elvis Phương gào lên thảm thiết “Anh! Anh! Hỡi anh ở lại Charlie” hoặc “Anh không chết đâu anh”. Tôi thường chửi đổng “Đ.m. thằng đó đang trù yểu bọn mày nghe nó hát làm ǵ”. Mà quả đúng như vậy, lúc các anh đang sống đang ngon lành th́ chúng than khóc về những cái chết, lúc các anh từ chết đến ngất ngư th́ chúng chạy đi đâu biệt tăm chỉ c̣n lại tiếng chim rừng đầy thông cảm.
Người ta nói sáo là nữ hoàng trong nhạc cụ bằng gỗ v́ nó phát ra âm thanh thánh thót xoáy vào tai đi thẳng vào tâm hồn. Kèn trumpet là vua trong nhạc cụ bằng đồng v́ nó kéo được cảm xúc con người dài theo tiếng nhạc. Nhưng dù cho nữ hoàng và vua có hợp lực nhau lại cũng không bằng một phần của tiếng chim kêu. Tất cả phát minh nói cho cùng là chỉ là những thứ được bắt chước từ thế giới tự nhiên mà con người dẫu thông minh tới đâu cũng không thể phát minh được những ǵ ngang hàng với phát minh của tạo hóa. Đó là món quà quí báu mà tạo hóa ban cho con người nếu biết thưởng thức. Đó là những nhạc công thực thà nói lên tiếng ḷng bằng những nhạc cụ sống.
Rừng Hiệp Đức, nơi tôi bị giam cầm, không xa Tây Nguyên lắm. Cây trăm năm cao âm u che kín những cuộc đời buồn. Thỉnh thoảng có những khoảng đất trống giữa rừng th́ hoa đủ màu nở bạt ngàn lan cả mọi lối đi, chim rừng tranh nhau ríu rít kiếm ăn trong không gian chật hẹp. Tôi không biết hoa rừng có bao nhiêu thứ, cánh hoa nào đẹp nhất rừng Tây Nguyên. Tôi cũng không biết chim rừng bao nhiêu loại. Trời hé sáng chim rừng ca rộn ràng náo loạn, t́m được miếng ăn chim rừng mừng rỡ hát vang. Lời của chim trong sáng thật thà mang vẻ hoang sơ như thuở thượng đế lập địa khai thiên tạo ra muôn vật. Đôi lúc rảo bước đi qua khu rừng vắng, im nghe nhạc rừng tâm hồn vui phơi phới, tôi cười một ḿnh rồi cất tiếng hát vang cây rừng họa tiếng theo lời ca miên man. Nhạc rừng ồn ào không nhịp không điệu, lúc mới nghe tưởng rằng man rợ chẳng có lớp lang nhưng nghe lâu mới bất chợt t́m ra nét chấm phá tuyệt vời của âm thanh ngoài tầng nhận thức. Nhạc rừng cũng như vũ điệu hùm bà lằng của giới trẻ trong các câu lạc bộ huyên náo qua tiếng nhạc Hip Hop lung tung mới nh́n thấy các vũ công huơ tay múa chân thật là man dại chẳng ra đầu đuôi, nhưng nh́n lâu mới ḷi ra những vũ công đặc sắc. Bên này con chim nho nhỏ hỏi “Sao Không Thấy Về Chi Hết?”, bên kia con Đa Đa nhắc lại kỷ niệm xưa “Giắt Bà Xă Đi Chơi Tà Tà”. Ḱa con chim Khứu nhảy quanh và đang hót trả lời từng tiếng huưt sáo của tôi. Có những chị em chỉ nói được hai tiếng Ô Kê mà đă lấy chồng ngoại quốc và sống với nhau đến răng long đầu bạc. Tôi huưt sáo, chim hót trả lời qua lại hằng giờ lẽ nào chẳng hiểu được nhau.
Năm ấy bọn cộng sản xây dựng đập Phú Ninh, cái đập mà các chuyên viên VNCH chẳng dám rớ tới v́ sợ có ngày nước tràn vỡ đập thổi bay Thành phố Tam Kỳ bên dưới. Chúng dùng sức tù của Trại 2 Kỳ Sơn để phát ḷng hồ. Chúng tôi ngày ngày đi đốn cây vào mùa trứng chim nở. Phần đông anh em đều có được một tổ chim con để trên đầu nằm nuôi cho qua ngày đen tháng bạc. Chiều chiều đi làm về đút mồi cho chim ăn cũng là một thú vị của những người tù, chim há miệng thật to ríu rít đập cánh đ̣i ăn, đút bao nhiêu ăn bấy nhiêu, ăn đầu miệng phọt ra đầu đít rồi vẫn đập cánh đ̣i ăn. Tôi chứng kiến tận mặt các ca sĩ rừng xanh từ lúc mới nở từ trong trứng ra đỏ ỏng cho đến ngày lông cánh xù ra đầy đủ. Mỗi ngày đi làm về anh em đều có một xâu châu chấu làm quà. Chim bay ra tận cổng đậu trên đầu trên vai đám tù binh để ríu rít chào đón giành ăn. Người và vật, một kẻ muốn tư do mà chẳng được, một kẻ có sẵn tự do mà chẳng muốn đi, ồn ào quấn quưt bên nhau trên một đỉnh đồi.
Ngày chúa nhật các anh có nuôi chim tụ họp với nhau vào một góc trại, anh nào cũng đem chim ḿnh… nuôi ra khoe. Con b́m bịp to bự chát nhưng lờ đờ hiền khô. Con chèo bẻo nhỏ xíu dữ dằn ĺ lợm. Có con chim màu xanh không biết tên ǵ chạy tới chạy lui làm con chim nào cũng sợ nhảy tạt ra xa. Một đám người một bầy chim nói cười kêu hót với nhau trong hàng rào trại giam. Mặt trời trôi nhẹ trên cao, thời gian đi ch́m trong tê tái.
Tôi có anh bạn là Trung Úy Hạ Quốc Huy, trước khi trốn thoát trại giam đă năn nỉ nhờ tôi nuôi giùm con chim b́m bịp. Khi đói đ̣i ăn nó nhảy đến bên chỗ nằm ngoạm lấy tóc giựt vài cái kêu tôi dậy. Nó nuốt một cái là xong một con cắc kè, nuốt hai cái là vào trong bụng một con rắn không ai đủ khả năng cung cấp thực phẩm. Thế nhưng khi bọn cộng sản họp chúng tôi lại để lên lớp, chúng phá nát cả đất nước nhưng miệng luôn ca ngợi một cách trơ trẽn những thành quả cách mạng láo khoét th́ con b́m bịp đứng bên thành cửa sổ ngưng rỉa cánh chơ miệng vào lớp học nói “Bịp! Bịp! Bịp!” làm tôi cười khoái trá.
Thế rồi một hôm có tiếng chim gọi đàn rộn ràng trong sớm. Bầy chim được nuôi trong trại tù lần lượt bay theo đàn người như những người t́nh người vợ bỏ người tù ra đi. Người xưa dạy rằng nước mất th́ nhà tan nên lâu lâu có anh được thăm nuôi xách gói quà vào mời anh em ăn một miếng rồi nói nho nhỏ “Vợ tao bỏ tao rồi!” cũng như “Con chim tao nuôi bay mất rồi!”. Thế nhưng cũng có nhiều người vợ chung thủy nuôi con chờ đợi chồng như con chim B́m Bịp to lớn dềnh dàng đi tới đi lui măi trong trại giam không hiểu v́ tính chung thủy không muốn rời xa các tù binh hay tính làm biếng đi kiếm ăn.
Năm ấy chúng tôi lại bị chuyển lên giam ở trại tù An Điềm. Tôi bị giam vào đội quản chế chung cùng các anh Bùi Đ́nh Khai, Hồ văn Ánh, Lê Xuân Nhuận. Những con người một thời hét ra lửa nhưng nay lại trở nên thật khù khờ. Sau này tôi mới biết ai cũng phải đóng vai khù khờ để đi qua ải v́ tên trưởng trại hằng đêm xuống pḥng sử dụng độc chiêu của chúng là phê b́nh và tự phê b́nh cố t́m cho ra sơ hở của người tù để cho vào pḥng kỷ luật.
Pḥng kỷ luật được xây từng ngăn như những cái nhà cầu, người bị giam nằm dài trên mặt nền tḥng hai chân cùm vào một thanh sắt để ngang trên mặt đất. Trung úy Đặng Như An chỉ v́ lấy nước uống đụng rớt thùng thơ chúng gán tội phá hoại bị cùm một năm. Lúc ra khỏi pḥng kỷ luật người nhỏ lại như một bộ xương người biết đi. Anh Trương Thanh Tân v́ nói chuyện đường từ trại qua Lào bao xa, chúng gán tội lập kế hoạch trốn trại bị cùm không có ngày ra, anh phải cắn lưỡi tự tử. Đại Úy Nguyễn Văn Phượng viết vào bản kiểm điểm lao động không vinh quang, chỉ có hưởng thành quả lao động mới là vinh quang bị chúng cùm tới ngày chết v.v… Phần đông người tù bị vào pḥng kỷ luật do những tội không đâu vào đâu, bị bọn cộng sản gán tội lập công hay bị chúng tạo ra tội để làm điển h́nh răn đe những tù nhân khác. Mười anh vào pḥng kỷ luật ra được vài anh, số c̣n lại ra nghĩa địa.
Vào một buổi chiều, anh Vơ Văn Lang, ủy viên Trung ương Quốc Dân Đảng, chửi thằng đội trưởng Nguyễn Đức Lộc, tục gọi là Lộc Hô một tên anten ngầm rất nguy hiểm. Y chạy lên báo cáo cùng bọn cán bộ là Vơ Văn Lang đă chửi nó và ngăn cản anh em lao động. Y ghép tôi đứng cạnh đó có nghe. Tôi nói không có nghe nên bị hai tên Công an đứa đứng trước đứa đứng sau đánh suốt một ngày. Chịu không nổi trận đ̣n thù tôi phải nhận có nghe để can tội bao che cho đồng phạm và bị đẩy vào pḥng kỷ luật. Vào một đêm trong pḥng kỷ luật tôi mê man và thiếp v́ trận đ̣n hằn và cơn đói hành hạ. Tôi nghe tiếng ai hỏi bên tai “Con có no không?” “Con có no không?” Tôi ngồi dậy chẳng thấy ai ngoài tiếng muỗi bay vo vo chung quanh. Câu nói như có luồng sinh khí bơm vào người làm tôi khỏe hẳn ra và được ra khỏi pḥng kỷ luật vài hôm sau. Kỳ lạ thay, tôi nhớ như in măi trong trí tôi âm thanh ngọt ngào dịu dàng đầy t́nh thương kia và tôi biết chắc rằng âm thanh đó không phải là tiếng nói của con người, tiếng nói của con người dù dịu ngọt đến đâu cũng ẩn chứa trong đó những âm thanh man trá tàn ác.
Nếu quả thật có câu chuyện Thiên Chúa sanh ra muôn loài và ông Adam v́ lời nghe con rắn mà ăn trái cấm để bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng th́ chúng ta cần phải cẩn thận khi nghe lời nói của con người, những hậu duệ của ông Adam, v́ trong đó có một phần của ác quỉ. Không phải trong ngẫu nhiên mà loài người hiện nay gọi người cộng sản là con ma cộng sản. Cách tốt nhất là đừng nên nghe những ǵ người Cộng sản nói, cái giá tin vào lời nói của bọn Cộng sản đôi lúc phải trả bằng cả sanh mạng ḿnh.
Hơn 12 năm bị giam trong rừng sâu của dăy núi Trường Sơn, tôi biết được một điều cần nói lại cùng với các em nhỏ: Con người là một sinh vật tàn ác nhất trên thế gian, sự tàn ác càng tăng khi đằng sau con người có những tổ chức và thế lực hậu thuẫn và tôi cũng biết thêm trong những cánh rừng kia có những loài chim đă rơi lệ khi nh́n chúng tôi bị đày đọa. Tôi biết tôi viết ra điều sau này sẽ có vài em nhỏ cho rằng tôi quá tưởng tượng nhưng làm sao em biết bia đá không đau, chim rừng không khóc?
Thế rồi cuộc hành quân Nhân Đạo (Human Operation) đă đưa tôi ra khỏi vùng đất dữ Việt Nam và cho tôi đậu và miền đất lành Hoa Kỳ đă được 21 năm qua. Ngày tháng khó khăn ở vùng đất mới rồi cũng qua đi, các bạn tôi nhờ có sự trợ giúp của con cái, đứa lớn d́u đứa nhỏ, cùng nhau hội nhập và thành công trên miền đất lạ. Quê hương Việt Nam đầy khốn nạn của tôi nằm bên kia trái đất xa vời vợi và mờ dần trong trí óc ngày mỗi già của tôi. Một buổi sáng ngồi đọc báo trên mạng điện toán theo dơi cuộc xử án và cách kết tội hèn hạ của bọn cộng sản đối với bốn thanh niên yêu nước đáng thương: luật sư Lê Công Định, thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung, anh Trần Huỳnh Duy Thức, anh Lê Thăng Long, những người này sẽ bị bọn cộng sản dẫn qua con đường mà tôi đă bị dẫn qua vào 35 năm trước. Tôi bỗng nhớ lại những năm tháng tù đày và viết lại trên bài viết này. Tôi nghĩ người cộng sản cần phải chấm dứt gây thêm những tội ác với Dân tộc Việt Nam. Yêu nước mà không yêu đảng cộng sản, không muốn thực hiện chủ nghĩa cộng sản là quyền của mọi người. Đừng nên dùng bạo lực bắt dân Việt tôn thờ một thứ mà cả thế giới đều đă cho vào thùng rác: chủ nghĩa cộng sản.
Nhất Hướng Nguyễn Kim Anh
hoanglan22
03-15-2019, 21:18
Trại Cải Tạo A-20, Xuân Phước
Đời có gian lao mới rạng danh hào kiệt,
Tù không đày đọa sao rơ mặt anh hùng.
Lê Đồng Vũ (Xú danh Lê Văn Nhừ)
Chuyện là như thế này. Tên phân trại trưởng là Lê Đồng Vũ, người miền núi Thanh Hoá có lẽ thuộc sắc dân Mường. Khuôn mặt y bèn bẹt vô tri vô giác, trên đó có đôi mắt lèm nhèm và cái miệng mỏng dính, thâm ś trông vô cùng nham hiểm. Chúng tôi đặt tên nó là Lê Văn Nhừ. Nó đúng thuộc con cháu ba đời của Chí Phèo, (cha đẻ của Chí Minh), tượng trưng cho loại người hạ đẳng của xă hội, mang đầy mặc cảm thân phận đớn hèn, nên khi có chút quyền thế là ra tay sinh sát thậm tệ với đồng bào đồng loại. Tên này ít nói, vô học đến nỗi đọc lại lời trong trang sách cũng sai bét sai be. Có lần nó đọc đoạn viết về phát triển nhà ở bên Liên sô. thay v́ : “năm nay, có 10,000 căn hộ đủ tiện nghi được đưa vào sử dụng,” nó đọc thành “có 10,000 cán bộ đầy đủ tiện nghi...” Cũng có lần, v́ không biết ngừng đúng nơi dấu chấm câu, nó đă đọc một đoạn văn như sau : “ Nhân dân ta, sau khi chiến thắng đế quốc Mỹ, đă trở thành biểu tượng anh hùng của nhân loại.” thành : “ nhân dân ta sau khi chiến thắng, đế quốc Mỹ đă trở thành biểu tượng anh hùng của nhân loại.”
Thấy không trị nổi đám tù quân đội bướng bỉnh, Lê Đồng Vũ dùng cái ăn để lung lạc. Ban đầu, nó bày ra Ban văn nghệ, hứa hẹn có cháo gà, có chè bồi dưỡng. Ngày đầu tiên, chúng gọi một số anh em có chút máu văn nghệ lên họp, nấu sẵn một nồi lỏng lỏng mấy cục bột khoai ḿ với đường mật gọi là chè. Ngoại trừ vài anh v́ thiếu quyết liệt đă tham gia để có được một tô chè đầy, c̣n đa số đều bỏ về, tẩy chay văn nghệ, trong đó có Ca sĩ Duy Trác và Tăng Ngọc Hiếu. Đội văn nghệ phải lấy chủ lực là đám tù h́nh sự và Việt Nam Thương tín.
Dương Đức Mai, tên Judas Phản Bội.
Khi anh em chúng tôi c̣n ở trong xà lim, phong trào chống đối lên rất cao. Lê văn Nhừ bèn đưa một con chiên ghẻ là cựu Trung tá Dương Đức Mai từ phân trại B ra làm trưởng ban Thi đua trật tự. Người này có một cuộc đời binh nghiệp đầy hào hùng, trên đầu từng đội ba màu nón : màu đỏ của Nhảy dù, màu xanh Lực lượng đặc biệt và màu nâu Biệt động quân. Người này từng làm Quận trưởng Ninh Ḥa, từng làm Liên đoàn trưởng BĐQ. Người này trên cánh tay phải c̣n vết xâm h́nh cánh dù và ḍng chữ SKY WARRIOR. Nhưng người này đă sớm bán linh hồn cho quỷ đỏ.
Hiểu rơ tâm lư và sinh hoạt của anh em, Dương Đức Mai thiết lập một hệ thống ḱm kẹp tinh vi, với những chủ đề thi đua, sắp xếp nội vụ. Mai tổ chức một mạng lưới ăng ten, tuyển lựa bọn người yếu kém tinh thần sẵn sàng v́ miếng ăn và chút ưu đăi mà phản bội anh em. Khi có người phàn nàn rằng bọn trật tự cư xử mất dạy, Dương Đức Mai không ngại ngùng tuyên bố : “đối với các anh, thế vẫn chưa đủ.”
Có thể nói Dương Đức Mai từng bước đă thành công trong việc đàn áp tù nhân. Anh em đành phải thu lại, chỉ âm thầm chịu đựng; v́ rơ ràng ngày tù th́ lê thê, không biết kéo dài bao nhiêu năm, không c̣n tia hy vọng ǵ ở sự hưng phục. C̣n giữ được tinh thần đấu tranh là v́ có chính nghĩa và ḷng căm hận, khinh bỉ đối với kẻ thù, chứ khó mong ngày lật ngược thế cờ. Cũng trong giai đoạn này, tin tức bùng nổ về việc Việt cộng bằng ḷng cho tù nhân cải tạo ra đi do Hoa kỳ tranh đấu và sẵn sàng đón nhận. Đó là niềm hy vọng độc nhất và cao nhất của chúng tôi. Nhưng đó cũng là điều làm cho nhiều anh v́ quá lạc quan mà gây ra những việc làm ngây thơ, để cho Việt cộng có dịp truy ra hết mầm mống chống đối.
Dương Đức Mai đă làm cho không khí trại tù ngột ngạt như tôi vừa nói ở đoạn trên. Anh em không c̣n dám ngồi gần nhau trên hai người. Chẳng ai dám ăn chung với ai, chẳng ai tâm sự với ai. Buổi tối, ở góc pḥng chỗ cửa vào nhà cầu, có một ngọn đèn dầu và bóng dáng một tên ăng ten ngồi ŕnh ṃ. Trong giờ sinh hoạt, có đứa nh́n tận mồm anh em xem thử có hát thiệt hay chỉ mấp máy đôi môi. Một người bị đội trưởng nêu ra là loại xấu, th́ không ai dám bào chữa dùm. Chế độ ăn uống cũng được Dương Đức Mai sáng kiến ra làm 5 thành phần : Loại tích cực 21 kí khoai, loại khá 18 kí, loại trung b́nh 15 kí, loại kém 12 kí, và tù biệt giam chỉ có 9 kí thôi.
Thực tế đă tính luôn vỏ khoai, đất cát mà lại không cân đong đủ như thế. Chiếc bánh bột khoai ḿ gồm cả vỏ, tim, đất cát... nhỏ bằng bao thuốc lá là phần ăn cho loại trung b́nh. Người tích cực được thêm nửa cái, khá được thêm một phần tư; loại kém th́ cái bánh bị cắt đi một góc mà chúng tôi gọi đùa là cây súng lục. Chế độ ăn như thế phần nào có hiệu quả trong việc đàn áp sự chống đối. Có ai ở tù, chịu đói mới thấy miếng ăn nó quan trọng ra sao. Nó hành hạ cơ thể và tâm lư con người đến mức nào. Nó đày con người xuống tận cùng của ḷng tự trọng.
Ngoài những anh có gia đ́nh thăm nuôi đều hoặc gửi bưu kiện hàng tháng, đa số đều ở trong t́nh trạng dân con bà phước, nghĩa là sống nhờ vào chút thực phẩm của trại và ḷng thuơng của anh em khác. V́ thế, nhiều người đă lợi dụng miếng ăn để sai khiến anh em ḿnh, và cũng có kẻ ngày xưa uy quyền nay đă phải hạ ḿnh làm một thứ đầy tớ để đổi lấy miếng đường, chút cơm khô.
T́nh trạng thiếu chất rau thật thậm tệ. Ngoài đồng, anh em trồng đủ loại rau; nào cải bẹ xanh, nào rau muống, củ cải... Nhưng trại chỉ cắt nấu khi rau đă già, cải đă lên ngồng, trổ hoa, chín hạt. Mỗi người đuợc phát ra vài cọng rau muống già. Ngày tết có chút củ cải dai như bao gạo chỉ xanh, nhai mỏi miệng rồi nhổ ra như các bà già ăn trầu nhả bă. Mỗi năm chúng tôi được ăn thịt ba lần, mỗi lần một chút xương có dính tí thịt, nước váng chút mỡ. Họ cắt da ḅ thành từng miếng như lát mứt dừa, nấu lên phát ra cho chúng tôi, ăn vào tưởng như đang nhai vỏ xe đạp. V́ thế, trong khi ra ngoài lao động, anh em phải t́m cách cải thiện. Bất cứ con vật ǵ nhúc nhích, dù nhỏ đến đâu cũng là tí chất tươi cho vào miệng sau khi nướng sơ qua trên than hồng. Có anh ăn cóc, nhái, ểnh ương; có anh ăn sâu đất, bọ. Thậm chí có anh lượm cả bộ ḷng chó mà bọn cán bộ vứt đi đă śnh thối về ăn. Hậu quả là ói tận mật xanh, tưởng đă đi luôn về bên kia thế giới.
Trại qui định mỗi ngày, mỗi đội chỉ được hai người khai bệnh. Trong trại có một trạm thuốc với Bác sĩ Lịch trông coi, nhưng chẳng có thuốc men ǵ ngoài một vườn cỏ cây mà họ gọi là thuốc dân tộc. Bọn cán bộ tịch thu thuốc tây do gia đ́nh gửi vào để xài cho chúng. Anh em ta bệnh ǵ cũng “Giảm thống, xuyên tâm liên”. Sáu năm ở A-20, chúng tôi đă chứng kiến cảnh ra đi đau ḷng của bao nhiêu bè bạn chỉ v́ những chứng bệnh thông thường mà không có sự chăm sóc thuốc men. Những vị từng nổi tiếng như cụ Vơ Văn Hải (nguyên Chánh văn pḥng của cố Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm), Cụ Lê Kiên, bí danh Bùi Lượng (nguyên Tổng thư kư Tổng công đoàn Tự do), cụ Bùi Ngọc Phương (Nhà tỉ phú từng ra tranh cử Tổng thống), Những vị này tuổi trên 70, đáng ra phải được ở nhà giữa sự săn sóc của con cháu trong những ngày cuối đời.
Việt cộng đă giam giữ họ và bắt phải lao động khổ sai mà không thuốc men khi đau ốm. Trước khi chết, con cháu bên ngoài chờ không được vào thăm, cụ Phương thèm một cục đường mà không ai dám cho, v́ cụ bị cách ly, theo dơi. Các cụ khi chết được bỏ vào trong một quan tài đóng bằng mấy miếng ván giường, sơ sài vài chiếc đinh, hở đầu hở chân, chở trên chiếc xe ba gác lọc cọc trên con đường gập ghềnh đến một nấm mồ không bia gỗ, không thân nhân, bạn bè đưa tiễn, không chút khói nhang cho ấm ḷng lúc ra đi về bên thế giới bên kia. Năm 1980, chúng đưa ra xử bắn hai anh sau khi đă biệt giam hàng năm trời. Hai anh như đă chết thật từ lâu, được bạn tù d́u đi như hai bộ xương khô.
Khi những viên đạn thù đâm vào cơ thể, dường như hai anh không có cảm giác ǵ; từ vết đạn chẳng ứa ra nổi một giọt máu. Thiếu Tá cảnh sát Quách Văn Trung cháu gọi chủ tịch nước Nguyễn Hữu Thọ bằng cậu ruột, dù thuộc thành phần ngoan ngoăn trong tù, chết v́ áp huyết cao. Gia đ́nh ra thăm sau đó hai ngày cũng chẳng được thông báo. Họ chỉ biết được nhờ sự linh cảm khi trên đường về đi qua nơi chôn cất, thấy ngôi mồ mới đắp và trong tâm linh rộn lên tiếng thôi thúc huyền bí nào đó. Phân trại B, nơi tôi được chuyển vào cuối năm 1982 cho đến ngày về 1985, có một số quư vị tu sĩ Công giáo, các chức sắc Cao đài, có Thiếu tướng Lê Văn Tất, có nhà báo Nguyễn Tú. Cụ Tú năm đó đă 72 tuổi, râu tóc bạc phơ, nhưng tinh thần vẫn c̣n minh mẫn. Dù không ai thăm nuôi trong cả chục năm tù, cụ vẫn giàu nghị lực chống chỏi cơn đói thèm và giữ ǵn tư cách cao quư. Cộng sản bắt cụ đi lao động khổ sai, nhưng cụ cứ khai bệnh nằm ĺ ở nhà. Sau cùng chúng đưa cụ ra trước toàn trại kiểm điểm. Cụ đă đứng lên nhận lỗi như sau : “Tôi thực có tội, đă già đến bảy mươi hai tuổi đầu mà không biết lao động là vinh quang, không chịu đi lao động khổ sai ...”
Không Nơi Ẩn Nấp.
Ở các trại khác c̣n nghe chuyện tù trốn thoát chứ tại Xuân Phước th́ con kiến cũng không ra lọt. Để pḥng ngừa tù trốn trại, bọn cán bộ cấm ngặt gia đ́nh tiếp tế các thực phẩm khô. Những đội tù gồm quân nhân chế độ cũ chỉ được lao động quanh quẩn gần trại; bao quanh là các đội h́nh sự. Khi xuất trại, dù mưa hay nắng, anh em phải đi chân đất. Mùa hè, cơn nắng miền trung nung cháy con đường đất, bước chân đi như dẵm lên than hồng. Mùa mưa, đường sá ngập bùn lầy lội, trong lúc bọn cán bộ ngồi trong căn nhà lô, ăn uống lu bù, th́ anh em tù vẫn phải làm việc. Bọn Việt cộng dùng sự tắm rửa như một ân huệ cho những ai làm đủ chỉ tiêu trong ngày; dù là tắm vội vàng trong một khúc suối đọng, nước quậy lên đen ngầu toàn rác rưởi pha với phân người. Trước khi ra khỏi trại, các đội phải ngồi chờ đến phiên, là lúc bọn thi đua đảo qua đảo lại kiểm soát xem có ai mang theo thứ ǵ không. Chúng tôi chỉ được mang theo một b́nh nhựa đựng nước uống mà thôi. Khi nhập trại lại một màn lục soát rất kỹ, xem tù có hái trộm rau trái hay mang vào những vật cấm. Việc xét pḥng xảy ra thường xuyên hàng tháng. Tuy vậy trong chúng tôi vẫn có người dấu được con dao, hộp quẹt, giấy mực...
Hóa ra chỗ lộ liễu nhất vẫn là chỗ kín nhất. Có lần tôi để chiếc ḷ than (Chúng cấm nấu nướng trong pḥng) ch́nh ́nh ngay giữa sân mà không tên nào phát hiện. Trốn, th́ cũng nhiều anh trốn, nhưng thoát th́ không. Đa số là bị bắt lại ngay quanh quẩn trong địa phương; V́ dân ở đây họ sẵn sàng báo cho công an để đổi lấy thực phẩm. Đi ra xa th́ không phương kế mưu sinh. Đâu cũng là núi, rừng. Nước th́ độc, trái cây không có, thú rừng cũng không. Rừng phía tây chạy ngút ngàn về hướng Phú bổn; rừng phía Nam dẫn vào trại tù A-30 chẳng kém phần dă man; ra Bắc th́ lọt vào khu căn cứ du kích cũ của chúng, chỉ thấy toàn những khuôn mặt thù nghịch. Năm 1980, có mười bốn anh em thoát khỏi trại, giết một tên chủ tịch xă người thượng, cướp súng đi về Phú bổn; nhưng sau đó bị du kích Thượng truy đuổi và bắn chết hết, chỉ c̣n Lê Thái Chân bị bắt về chịu án 18 năm. Có lần, một anh bên h́nh sự trốn về được gần sáu tháng, trốn lên miệt rừng làm rẫy, cũng bị bắt lại. Trại này có đủ cán bộ và th́ giờ cộng với sự kiên nhẫn, chúng ṃ về tận quê nhà người tù, phục kích hàng tháng trời cho đến khi bắt lại mới thôi.
Nhớ lại những ngày đầu tiên, ngay sau khi Việt cộng cưỡng chiếm miền Nam, chúng cho trưng bày những h́nh ảnh trong trại tù Côn sơn mà chúng gọi là “Tội ác Mỹ Ngụy”. H́nh ảnh người tù bị nhốt trong những chuồng cọp, bị tra tấn đánh đập... Chúng viết những lời lẽ rất khích động về việc ngược đăi tàn nhẫn do chế độ Việt Nam Cộng ḥa hành xử đối với tù phiến cộng. Nh́n kỹ mới thấy những tấm h́nh đó rất cũ, chụp từ thời c̣n mồ ma thực dân Pháp, với những người lính cai tù mặc chiếc quần sọt rộng thùng th́nh, trên đầu đội mũ vải rộng vành của lính viễn chinh. Tất cả những ǵ xấu xa mà chúng có, chúng đều gán cho ta; c̣n dành về phần chúng những ǵ cao quư nhất, tốt đẹp nhất. Thời chiến tranh, chúng ta đă tôn trọng Công ước Geneve về việc đối xử với tù binh. Chúng ta trả chi phí 3 Dollars mỗi ngày cho một người tù binh. Họ tổ chức lấy ban kiểm thực, được quyền từ chối những thực phẩm thiếu chất lượng. Mỗi tuần phải cho họ hai bữa ăn ngọt, hoặc chè, hoặc bánh. Đau ốm th́ có cả Container thuốc tây để điều trị. Tôi nhớ có lần chuyển tù từ Saigon ra Đà Nẵng, người tù Cộng sản được phát bữa trưa gồm bánh ḿ và cá hộp Sumaco hoặc một khoanh chả lụa. Những người này khi được trao trả về Bắc sau Hiệp định Paris có lẽ không dám nói ra sự thực. V́ trong chế độ Cộng sản, ai nói điều tốt cho kẻ địch là phản động. Đối với tù nhân là cán bộ, du kích miền Nam, tuy không được hưởng quy chế tù binh, có thể bị đánh đập ngay khi vừa bị bắt để tra vấn. Nhưng một khi đă chuyển vào nhà giam, nếu không có hành vi phá rối, cũng được đối xử rất nhân đạo.
Án Cải Tạo !
Đúng là ở Xuân Phước không thấy ngày về :
Đến đây th́ ở lại đây,
Đến khi bén rễ xanh cây, chửa về.
Vài vị Linh mục trong nhóm Vinh Sơn, ra Ṭa nhận án 5 năm. Thời gian trôi qua, hết hạn 5 năm, chờ hoài không thấy kêu lên làm thủ tục trả tự do, các vị mới hỏi và được trả lời : “tội các anh lớn lắm, đáng ra phải ra Ṭa nhận thêm án, nhưng cách mạng khoan hồng chuyển qua tập trung cải tạo, khi nào xét thấy tiến bộ sẽ cho về.”
Thế đấy, cái luật pháp Xă hội Chủ nghĩa là thế đấy. Trên một tờ báo Nhân Dân (năm 1983, không nhớ ngày), khi trả lời một câu hỏi về sự khác nhau giữa án tù và tập trung cải tạo, chúng đă giải thích rằng : “Án tập trung cải tạo dành cho những tội mà xét ra chưa đáng phải cho ra Ṭa,” (Có nghĩa là nhẹ lắm ?), chúng liệt kê một số tội như “Làm gián điệp, âm mưu chống đối, lũng đoạn kinh tế...” (Giải thích thế này th́ có trời mà hiểu !). Một thanh niên tên là Nguyễn Văn Phước, bị bắt tháng 5-1975 v́ tội ngủ qua đêm trong nhà người quen, khi Công an đến xét hộ khẩu không có tên, chú bị án tập trung cải tạo 3 năm, măi cho đến năm 1985 mới được tha về. Những thanh niên tù h́nh sự miền Bắc khi vào tù cải tạo đều gây thêm án giết người để được ra toà lănh án 5, 10 năm để c̣n hy vọng có ngày về hơn là chịu án tập trung cải tạo.
Xă hội Chủ nghĩa không có luật pháp. Cộng sản Trung hoa cướp lục địa năm 1949, măi đến năm 1972 mới có bộ h́nh luật. Cộng sản Việt Nam nắm quyền từ năm 1945, đến 1982 mới cho ra đời bản dự thảo h́nh luật. Khi chưa có luật, chúng lên tiếng chỉ trích rằng luật pháp là công cụ của bọn tư bản để áp chế nhân dân. Khi sắp có luật, cũng cái mồm nham nhỡ của chúng lên án quan thầy cũ là Trung cộng (Khi đó là kẻ thù không đội trời chung) đă xử oan ức cho hàng triệu người v́ không có luật trong hàng chục năm dài, trong đó hàng trăm ngàn người bị giết oan ! Lật lọng, lẽo mép vốn là bản chất của Cộng sản.
Trong những năm đầu thập niên 80, một số Cán bộ sau khi ở trong Nam lâu ngày, tiếp xúc được với dân Nam đă phần nào có cái nh́n khác đối với chúng tôi. Họ cảm phục chúng tôi về tŕnh độ, tư cách nên cư xử mềm mỏng hơn. Có cán bộ như anh Ngà, anh Hoà chẳng bao giờ để cho chúng tôi làm việc quá sức. Các anh hàng ngày chạy ngược chạy xuôi kiếm cho chúng tôi giỏ khoai lang, nồi rau muống. Họ muốn tṛ chuyện và học hỏi nơi chúng tôi. Cán bộ Lương, trong lúc nói chuyện quá trớn, tôi đề cập đến vấn đề giai cấp; anh đă chép miệng thở dài : “Giai cấp nghèo khổ vẫn muôn đời nghèo khổ, chỉ có giai cấp lănh đạo là sướng thôi.”
Một chuyện đáng nói về một người mà đa số anh em đă quá dè chừng và nghi ngờ. Cựu trung tá Việt cộng Huỳnh Cự, sau khi ra Hồi chánh với chế độ Cộng ḥa, đă được cử làm phụ tá bộ Chiêu hồi. Anh ở tù cùng trại, cùng nhà với tôi. Oái oăm thay, tên Thân như Yên, trưởng trại, trước đây là thuộc cấp của Cự. Một hôm nhân đứng gần, tôi nghe tên Yên nói với anh Cự : “Từ ngày anh ra theo giặc, bọn chúng tôi khốn đốn v́ anh...” Câu nói này như một bản án nặng nề đè lên cuộc sống tù vô vọng của Cự. Chúng nó cho anh làm đội trưởng, nhà trưởng v́ đoán rằng anh sẽ ra sức lập công - tội anh là tội chết mà. Anh chỉ tích cực trong lao động, và những mặt nổi, như sinh hoạt, học tập. C̣n báo cáo thầm kín th́ không có ai biết được. Lúc mới quen anh, tôi ưa nói chuyện và ít khi cảnh giác. Có lần tôi nói về Hồ chí Minh nhiều điều. Anh khẻ nói vào tai tôi : “ Cẩn thận cái miệng, cái mồm; nói ǵ khác th́ cũng c̣n đường sống, chứ đụng vào lănh tụ, chúng nó đập chết.” Tôi điếng người, mấy tuần lễ như ngồi trên lửa, chờ chúng gọi ra làm việc. Nhưng thời gian qua khá lâu không thấy ǵ xảy ra. Tôi biết anh Cự cũng thâm thù Cộng sản,và anh không khi nào hại người cùng chiến tuyến mà anh đă lựa chọn. Anh hiểu Cộng sản, nên biết chọn cho ḿnh cách cư xử đúng mực nhất để sống qua ngày.
Sáu năm ở trại tù Xuân Phước, thấy anh em lần lượt ra về. Đó là nhờ các phong trào đấu tranh của các hội đoàn, các chính phủ bên trời Tây. Tôi tập cho ḿnh quên đi ngày tháng, thờ ơ với việc đi, ở, hay về. Ba năm sau cùng tôi không tỏ ra mặt chống đối bên ngoài hung hăng như trước nữa, và cũng chẳng thấy nôn nóng mỗi khi sắp đến ngày có đợt tha tù. Qua thư nhà, tôi biết mẹ tôi nhờ chiếc tủ lạnh, hàng ngày bán nước đá cho bà con lối xóm; vợ tôi th́ bán gạo đong từng lít vớt vát qua ngày. Con cái th́ lớn dần trong sự ngược đăi. Có ưu tư về gia đ́nh cũng chẳng giúp giải quyết được ǵ. Bao nhiêu bà vợ, v́ vô vọng, v́ hoàn cảnh cần nơi nương tựa đă đành gạt lệ sang ngang. Tôi c̣n hạnh phúc biết có người vợ vẫn ngày đêm ngóng chồng, như mẹ tôi thủa xa xưa, một ḷng thờ chồng nuôi con khôn lớn. So với cảnh tù không án phạt, cái án tử h́nh e nhẹ nhàng thơ thới hơn nhiều; v́ chết một lần thôi là xong nợ đời. Tù cải tạo cứ dai dẳng nh́n gia đ́nh tan vỡ, nh́n thân xác tiêu hao, ư chí bị bào ṃn, đau đớn lắm.
Nói sao cho hết bao đau thương cùng cực mà Cộng sản đă đổ lên cuộc sống chúng ta. Bao gia đ́nh vĩnh viễn không c̣n thấy mặt người thân mà khi ra đi c̣n hẹn sẽ về sau 15 ngày cải tạo ! Thân phụ tôi bị Việt Minh (Tiền thân của Việt Cộng) bắt đi năm 1948 khi tôi vừa lên hai. Người bị đưa ra Thanh hóa, giam ở trại Lư Bá Sơ cho đến 1954 được thả ra theo quy định của Hiệp định Geneve. Nhưng người không về được đến nhà. Cộng sản đă tổ chức đón đường thủ tiêu ngay tại Vinh những người Quốc gia mà chúng e sợ về sau này. Sống trong trại tù của những năm cuối thế kỷ 20 đă khắc nghiệt như thế, thực ḷng tôi không thể h́nh dung nổi cái dă man và cùng cực mà các cụ phải trải qua trong trại Lư Bá Sơ, Đầm Đùn ba mươi năm trước đó. Nếu có một địa ngục như lời các tôn giáo thường răn đe, th́ chắc hẳn địa ngục đó cũng không sánh được với cái địa ngục mà Cộng sản đă dành cho người Quốc gia và những ai không theo chúng.
Ngày nay đây, hỡi các bạn từng chia sẻ niềm đau thương tủi nhục trong ṿng lao lư; hỡi những ai đang sống trong phồn hoa, sung măn, quư vị nhân danh nhân quyền, tự do, xin hăy hướng ḷng về những đồng chí, những đồng bào đang quằn quại trong các ngục tù Cộng sản v́ sự nghiệp đấu tranh cho dân chủ, dân sinh, xin hăy làm một điều ǵ đó, dù nhỏ nhặt đến đâu, ngơ hầu rút ngắn lại các chế độ phi nhân, giải phóng con người, trả lại cho họ quyền sống xứng đáng lúc cả nhân loại đang sửa soạn bước vào thế kỷ 21 tràn đầy hạnh phúc, thịnh vượng.
Đỗ Văn Phúc
hoanglan22
03-15-2019, 21:23
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1350709&stc=1&d=1552684975
(Lời dẫn nhập : Thượng nghị sĩ John Mc Cain, cựu Đại Tá phi công Hải Quân Hoa Kỳ, đă từng là tù binh chiến tranh của CSVN, phát biểu khi được hỏi về cuộc chiến Việt Nam : "The bad guys won the war.".("Những tên gian ác đă thắng trận.") Câu nói đó có thể dùng làm tiền đề cho hàng ngàn thiên Hồi kư của các nạn nhân Cộng sản khi mô tả về sự ngu dốt và tàn ác mà CSVN đă và đang áp đặt lên trên hàng chục triệu dân quân cả hai miền Nam Bắc Việt Nam.
Trong bài viết nầy, người viết muốn ghi lại một vài dữ kiện trung thực, tự bản thân đă mắt thấy, tai nghe : những kư ức khắc sâu vào tâm năo tại trại tù "Cải tạo A-30," ngơ hầu góp thêm một phần nhỏ sự hiểu biết của ḿnh vào định nghĩa "Thiên đàng Cộng sản."
A-30, tên của một trại giam tù chính trị, đă được CSVN dùng làm thí điểm để xây dựng một Xă hội Chủ nghĩa cho những người "Mới được đi học tập cải tạo." A-30 nằm sát liên tỉnh lộ 7A, phía Nam sông Ba, giữa đập nước Đồng Cam và cầu Đồng Ḅ, thuộc thôn Liên Thạch, xă Thạch Thành, cách thị xă Tuy Ḥa, tỉnh Phú Yên, khoảng 22 cây số.
Nhằm mục đích ghi lại trung thực sự kiện, tất cả tên họ của các nhân vật đều giữ đúng như tại thời điểm xảy ra. Chữ "tôi" rất khó dùng, dễ gây ra ngộ nhận; nhưng "tôi" xin được phép sử dụng trong bài viết mà không hề có ư trau chuốt bóng bẩy dưới làn khói thuốc, hoặc qua hương vị đậm đà của tách cà phê đen trong một căn pḥng vắng, thay vào đó, nó được viết lên từ tấm ḷng của người viết - một kư ức đầy đau thương của một người trong cuộc. "Tôi" được dùng trong bài chính là người viết.)
Những chữ viết tắt :
VNCH : Việt Nam Cộng Ḥa
QLVNCH : Quân Lực VNCH
CSVN : Cộng Sản Việt Nam
VC : Việt Cộng.
Một buổi sáng ngày…tháng 9 năm 1978, hội trường mang tên "2 Tháng 9” nằm trong khuôn viên Trại Cải Tạo A-30, chật ních người ngồi kéo dài luôn ra cả ngoài sân trại. Chúng tôi đă được tập họp từ sáng sớm hôm đó để "được" tham dự một phiên ṭa án nhân dân, một phiên ṭa xử vụ cướp súng để trốn trại : vụ án Nguyễn Minh Trung.
Tên Trung Úy VC lên đứng trước chiếc mi-cro, mắt nh́n về phía chúng tôi và cất giọng :
- Ban Giám Thị yêu cầu tất cả các anh em cải tạo viên được mời tham dự phiên ṭa ngày hôm nay phải tuyệt đối nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, đi đâu phải báo cáo cán bộ, tuyệt đối giữ im lặng. Anh nào vi phạm sẽ bị nghiêm trị, các anh nghe rơ chưa ?
Cả hội trường đồng thanh : "Rơ !"
Tôi không c̣n ngạc nhiên về những lời giáo đầu nầy nữa. Cứ mỗi lần chúng tôi được gọi tập họp chung lại với số người quá đông như vậy, bọn chúng thường lên giọng hăm dọa của kẻ thắng thế để cảnh cáo trước hầu pḥng ngừa những bất trắc có thể xảy ra.
Không khí trở lại yên lặng, nặng nề hơn b́nh thường. Mọi người đâu ngồi đó, không ai nói ai, mắt chỉ dán nh́n lên sân khấu hội trường, trang trí toàn màu đỏ thẫm. Một tấm băng-đơ-rôn nền đỏ in bảy chữ màu vàng: "T̉A ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ KHÁNH" treo trên màn sân khấu. Dưới tấm băng-đơ-rôn đó, một lá cờ đỏ sao vàng mang bức ảnh Hồ Chí Minh trông đầy nét khắc nghiệt. Trước đó là ba cái bàn, một cái để ở giữa, hai cái để hai bên, được trải khăn đỏ phẳng phiu. Bàn giữa có một b́nh bông tươi màu đỏ. Trên mỗi bàn có một cái mi-cro cũ kỹ. Phía dưới sân khấu ngay phía bên phải là "Vành móng ngựa," thật ra đó chỉ là một cái bàn nhỏ, không trải khăn, một chiếc mi-cro khác được dựng kế bên.
Tôi cảm thấy trước mặt, trên sân khấu hội trường kia không phải là ṭa án, mà là một bàn hương án, lạnh lùng không nhang không khói. Một cảm giác rờn rợn chạy dài trên tủy sống. Giây phút chờ đợi đă đến.
Từ ngoài cổng trại, một chiếc xe Mi-cro-bus (Một loại xe VAN) sơn màu xanh đen từ hướng “cơ quan” (Bộ Chỉ Huy của VC) chạy vào. Xe ngừng lại ở cửa hông cạnh sân khấu hội trường.
- Tất cả chú ư: “Nghiêm !” Giọng quát lớn của một tên VC khác nổi lên. Một phút trôi qua.
- Tất cả : “Ngồi !”
Trên sân khấu, ba chiếc ghế trống được ba tên xử án điền vào. Tên thứ nhất ngồi phía bên trái nh́n từ phía dưới lên, lạnh lùng, đanh thép, từ từ đứng lên, tay sửa lại chiếc mi-cro cho vừa tầm, rồi nói :
- Kính thưa Đồng chí chánh án Ṭa Án Nhân Dân Tỉnh Phú Khánh; kính thưa đồng chí giám sát viên; thưa tất cả các đồng chí trong ban giám thị trại; thưa các đồng chí cùng tất cả anh chị em cải tạo viên. Hôm nay là phiên ṭa xử vụ án tên Nguyễn Minh Trung cùng đồng bọn cướp súng cán bộ để trốn trại, sau đây tôi xin giới thiệu ủy ban xử án :
- Thứ nhất, đồng chí… chánh án Ṭa Án Nhân Dân Tỉnh Phú Khánh.Tên ngồi giữa, mang cặp kính đen, dường như muốn che lấp cặp mắt bạo tàn của loài quỷ đỏ, đứng lên khẽ gật đầu tự đắc.
- Thứ hai, đồng chí… giám sát viên, Viện Giám Sát Tỉnh Phú Khánh.Tên bên phải đứng lên, gật đầu, bắn một cái nh́n không thân thiện về phía chúng tôi.
-Thứ ba, tôi …, Thư kư phiên ṭa. Sau đây, tôi xin nhường lời cho đồng chí chánh án.
Tên chánh án đứng lên, kéo chiếc mi-cro lại gần, gơ nhẹ vài cái, chúi đầu đưa sát miệng vào chiếc mi-cro, tằng hắng cất tiếng :
- Nhân danh Chủ Tịch Nhà Nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, tôi xin khai mạc phiên ṭa.
Tên thư kư tiếp lời : “Sau đây xin mời đồng chí giám sát viên đọc lại diễn tiến vụ án.” Tên giám sát viên bắt đầu :
- Vào ngày… tháng 6 năm 1977, tên Nguyễn Minh Trung, một Thiếu Úy Ngụy đă cầm đầu một tổ chức cướp súng cán bộ để trốn trại.
Tên chánh án tiếp lời :
- Mời Nguyễn Minh Trung ra trước ṭa.
Trung và An đă được dẫn vào ngay khi chiếc xe mi-cro-bus đến. Hai chân yếu ớt, Trung đứng dậy với dáng người nho nhỏ nay gầy kḥm đi, trông anh khắc khổ đau thương hơn, dù được chúng khoát lên một bộ đồ tươm tất, quần dài xanh sẫm, áo màu vàng nhạt, đầu được hớt cao, nét mặt anh lộ vẻ trầm tư mặc tưởng nhưng tôi vẫn có thể thấy rơ nét hận thù Cộng sản trong đôi mắt đầy can đảm và nghị lực ấy. Không c̣n dáng dấp nhanh nhẹ như những ngày đầu tôi biết anh ở trại, anh mệt mỏi kéo lê từng bước, chậm chạp tiến đến chiếc mi-cro. Nh́n h́nh ảnh nầy, tôi cảm thấy thương xót và đau ḷng cho người bạn đồng cảnh ngộ. Anh cất tiếng :
- Tôi tên Nguyễn Minh Trung, sinh năm 1948, cấp bậc Thiếu Úy Pháo Binh, Quân đội… (Anh ngập ngừng trong giây lát rồi tiếp) … Quân đội Sài G̣n.
Tôi đoán ngay là anh cố tránh chữ “Ngụy” mà bọn CSVN đă gán cho những người lính Cộng Ḥa chúng tôi. Trung tiếp lời : “Gia cảnh một vợ, một con 3 tuổi.”
Trung lê bước sang một bên, nhường chiếc mi-cro lại cho An theo lời ra lệnh của tên chánh án. An cũng gầy ốm xanh xao không khác ǵ Trung lắm. An là một học sinh tham gia phong trào học sinh, sinh viên phục quốc bị bắt vào cuối năm 1975, bước đến trước mi-cro, đầu hơi ngước lên nh́n tên chánh án, với giọng c̣n non choẹt, An nói :
- Tôi tên Hồ Ngọc An, sinh năm 1957, học sinh, gia cảnh độc thân.
Tên chánh án cao giọng ra lệnh cho hai anh về chỗ ngồi, sau đó tên Cộng sản nạn nhân trong vụ trốn trại được mời ra, hắn ta nhỏ thó người, mặt đanh thép của những thanh niên vừa mới lớn học vẻ hách dịch oai quyền của một người chỉ huy; trong bộ sắc phục công an màu vàng nghệ, hai cầu vai đeo hai bên cùng với uy hiệu trên cổ áo, vẫn không sao che lấp được cái ngu ngơ khờ khạo của hắn. Hắn nói :
- Tôi tên Nguyễn Văn Lẫn, sinh năm 1954, độc thân, đơn vị phục vụ : trại cải tạo A-30, chức vụ : Cán bộ quản giáo đội 13.”
(Đội 13 là đội luôn luôn bị nằm trong căn nhà kỷ luật số 6, mái được lợp cỏ tranh, vách và trần được làm bằng đất sét trộn với miểng ve chai, được vây quanh bởi ba hàng rào kẽm gai rất sắc bén, nằm gần cổng ra vào, dưới tháp canh của bộ đội VC).
Sau khi tên chánh án cám ơn và ra lệnh cho tên Lẫn về chỗ ngồi, tên đóng vai giám sát viên dơng dạc đọc lại diễn tiến vụ án.
Không khí hầu như cô đọng, nặng trĩu. Hàng ngàn cặp mắt tù binh chăm chú theo dơi, hồi hộp đợi chờ. Tôi chắc Trung không sao quên được giờ phút quan trọng nầy. Thảm kịch trốn trại cuồn cuộn sống lại trong đầu óc một số anh em và tôi, từng chi tiết một liên tiếp kéo đến, trong đó các nhân vật then chốt trong thảm kịch gồm có :
- Nguyễn Văn Đức, thường được gọi là Đức Nguyễn (Nhóm hoạt động chống CSVN của Thiếu Tá Đặng Hữu Thân),
- Ngô Bá Tùng và Nguyễn Văn Dũng - cả hai đều là Sĩ quan cấp Úy thuộc Bộ binh QLVNCH,
- Tên công an VC Lẫn, cấp bậc tương đương với cấp Thượng sĩ phía bên QLVNCH,
- Và ba tên khác là cựu Sĩ quan QLVNCH, làm nhân chứng cho VC : Đỗ Văn Đức c̣n gọi là Đức Đỗ (Thiếu Tá bộ binh biệt phái Cảnh sát Dă chiến), Trần Thái Bửu và Đoàn Văn Lập (Cả hai đều mang cấp Trung Tá bộ binh và đă từng nắm chức Quận trưởng.)
Khoảng 2 giờ 30 trưa hôm đó, Tùng rời vị trí lao động để đi uống nước, ngang qua chỗ các bạn anh đang đứng cuốc đất, anh đi chậm răi và nói nhỏ: “Tụi bây sẵn sàng chưa?” Dũng và Đức Nguyễn lần lượt trả lời "Rồi." Tùng vác cuốc đi đến thùng nước uống cách chỗ tên bộ đội VC Lẫn không bao xa, độ chừng bốn mét, anh dừng lại, tay cầm lon nước, tay chống cán cuốc, len lén đưa mắt quan sát một ṿng ngoại cảnh. Trong khi đó Dũng và Đức Nguyễn đang cuốc đất nhưng vẫn luôn theo dơi từng hành động của Tùng để chờ đợi mật hiệu của anh.
Vừa lúc tên VC Lẫn quay lưng, Tùng phóng nhanh tới với tư thế đă chuẩn bị, đập thật mạnh đai cuốc vào ót tên nầy. Tên Lẫn bị đập bất ngờ, mất tư thế, lảo đảo té quỵ xuống. Cách đó không xa, anh Đức Nguyễn đă sẵn sàng nhào tới giựt khẩu AK-47 của tên VC Lẫn, nhưng v́ khẩu AK được đeo choàng chéo qua vai hắn nên súng bị dằn co, không giựt hẳn ra được. Tên Đức Đỗ làm ăng-ten (Tiếng dùng ám chỉ bọn tù cải tạo đă trở cờ, theo VC) cho giặc, đă được VC chỉ định làm đội trưởng cho đội nầy, thấy vậy la lớn lên : “Anh em ơi ! Tụi nó giựt súng Cán bộ.”
Hắn nhào tới đỡ lấy và kềm phụ khẩu súng AK cho tên VC Lẫn. Được sự trợ giúp đắc lực của tên ăng-ten nầy và v́ đai cuốc của Tùng bổ vào chưa trúng nhược điểm nên tên VC lấy lại được b́nh tỉnh.Dũng thấy rơ nguy cơ đă đến cho bạn ḿnh khi có tên ăng-ten Đức Đỗ vào trợ giúp, anh liền chụp lấy cây rựa nhào tới chặt thật mạnh vào gáy tên Đức Đỗ; tuy nhiên, v́ vội vàng, lưỡi rựa chỉ tạt phớt qua màng tang tên Đức nên hắn ta không bị hề hấn ǵ. Bấy giờ, tên VC Lẫn đă ôm gh́ lại được khẩu AK, hắn bóp c̣ báo động, nhưng súng không nổ.Tên Đức Đỗ khôn ngoan và sáng suốt hơn thét to nhắc nhở :
- Mở khóa an toàn ! Mở khóa an toàn đi Cán bộ !
Tên VC Lẫn không c̣n tự chủ được nữa, hắn làm y theo lời thúc giục của tên ăng-ten Đức, mở khóa an toàn. Bóp c̣ ! Hai phát súng nổ báo động toàn trại.
Tùng, Dũng và Đức Nguyễn thấy sự việc không thành vụt chạy xuống bờ sông nơi đă định cách đó chừng 50 mét. Tên Đức Đỗ nhắc nhở và thúc giục tên VC :
- Quỳ xuống bắn chính xác hơn Cán bộ.
Lẫn riu ríu thi hành như một khóa sinh đang tập ở sân bắn Quân trường. Hắn ta quỳ xuống, nâng khẩu AK lên ngang tầm mắt,cẩn thận lấy đường nhắm. Bóp c̣ !
Đùng ! Phát súng nổ vang chát chúa, viên đạn đầu cũng là viên đạn cuối cùng xuyên qua màng sọ của anh Đức Nguyễn - giải thoát anh khỏi lao tù Cộng sản trong khoảnh khắc, nhưng chắc hẳn anh vẫn c̣n uất hận với mối thù giặc cộng chưa trả được. Anh Đức nằm bất động trên băi cát, không có được một cử động giẫy giụa của một người sắp chết - cách tên VC Lẫn không ngoài 20 mét.
Cán binh bộ đội VC được báo động vụt ù chạy lại tiếp cứu.
Lẫn la lớn lên : “C̣n hai thằng chạy xuống bờ sông !”
Tùng đă xuống sát bờ, c̣n Dũng đă đến gần được nửa sông. Ba phát đạn nữa tới tấp từ phía sau bắn tới hướng Tùng. Ba viên đạn của hận thù đă kết liễu đời anh. Tùng gục xuống, không quên quay nh́n lần chót những tên VC bạo tàn và bầy chó săn quái ác.
Dũng thấy không c̣n kịp nữa, cùng lúc có tiếng la : "Đứng lại ! Đứng lại ! Đưa tay lên !" từ sau vọng tới. Anh đứng vụt lại, hai tay đưa lên khỏi đầu, từ từ quay lại.
Đùng ! Viên đạn xuyên qua đùi anh. Dũng nghiến răng uất hận gào thét lên :
- Đả đảo cộng sản ! Đả đảo cộng sản !...
Đùng ! Đùng ! Thêm hai viên đạn nữa, một xuyên qua bụng và một viên làm bay mất nửa phần hàm dưới của Dũng, tiếng thét của anh đă bị viên đạn thứ ba làm lệch giọng.
-Đ..ả...đ..ả..o..c..ộ ..n..g.. s..ả..n..!” Anh vẫn c̣n tỉnh, vẫn c̣n từ từ bước tới hàng rào cán binh VC cách đó khoảng chừng 30 mét, anh như là tấm bia cho bọn VC nă đạn vào.
Đùng ! Viên đạn thứ tư ghim sâu vào ngực Dũng. Máu lần nầy xối xả phun ra từ một trái tim chỉ biết tôn thờ một màu cờ, sắc áo. Anh không c̣n chịu đựng được nữa, thân anh co quặp lại, quỵ xuống trên gịng sông chảy xiết, máu anh ḥa với nước lờ đờ chảy như vẫy chào anh trở về với ḷng đất mẹ thân yêu. Tám viên đạn AK kết liễu ba mạng người một ḷng trung chính không chịu khuất phục sự bạo tàn.
Từ khi hai phát súng báo động nổ, An từ xa chạy đến thấy sự việc không thành, anh khựng lại rồi hối hả chạy đi như không hay biết sự việc.Ngay từ giây phút đầu tiên thảm kịch xảy ra cho đến bây giờ, Trung hoàn toàn không hay biết mưu định của bạn ḿnh. Anh bàng hoàng, ngỡ ngàng hối tiếc trước sự việc không thành của bạn. Quang cảnh lúc bấy giờ hỗn loạn, anh Trung cũng như mọi người chạy tứ tán t́m nơi trú ẩn an toàn, chỉ có những tên ăng-ten c̣n sáng suốt nắm lấy cơ hội để lập công.
Trong sinh hoạt thường ngày của trại, Trung, An và một số đông bạn bè khác bị bọn tay sai lấy điểm với bọn VC theo dơi v́ bộc lộ tư tưởng căm thù cộng sản. Sau khi thảm kịch xảy ra, Trung, An là mục tiêu để bọn chúng chộp lấy trước nhất. Bọn ăng-ten đă nhanh nhẹn đuổi bắt Trung, An và Tâm lại.
Ba anh Trung, An và Tâm bị trói ngay sau đó. Trước khi đưa về bộ chỉ huy, bọn chúng không quên trút hết những cơn hận thù vừa qua bằng hàng loạt báng súng AK vào thân xác gầy c̣m của các anh sau những năm tháng dài làm lao động Xă hội Chủ nghĩa.
Chiều hôm đó cảnh trại lạnh lùng tiêu điều như một Nghĩa trang. Người người đi lại nh́n nhau, không nói, không cười, mỗi người mang một nỗi buồn chua chát. Buồn v́ cái chết đau thương của những bạn ḿnh, buồn cho cuộc sống tù đày mà nhân mạng con người không c̣n nghĩa lư ǵ với loài quỷ đỏ, buồn cho số phận của những kẻ phải chịu cảnh sa cơ thất thế. Tư tưởng chống bạo quyền c̣n đó, căm thù c̣n đây, lại thêm hận thù chồng chất…Cho biết đến bao giờ !
Ba anh Trung, An và Tâm mỗi người được đưa vào một căn nhà khác nhau để cho việc điều tra dễ dàng hơn.
Về phía tên VC Lẫn, sau khi được y sĩ khám vết thương, hắn ta trở lại t́m gặp từng người đang bị cùm (Đó là biện pháp kỷ luật dành cho những tù nhân “ngoan cố”) để hỏi thêm chi tiết, với nét mặt không dấu được nỗi căm thù, hắn lớn tiếng hỏi Trung :
- Anh nghĩ sao mà làm vậy hả anh Trung ?
Trung phủ nhận : “Tôi đâu có dính líu tới vụ đó, Cán bộ !”
Tên VC Lẫn thét to : “Giờ nầy mà anh c̣n ngoan cố hả anh Trung ?”
Trung điềm nhiên trả lời : “Không đâu Cán bộ, tôi không biết ǵ về chuyện đó hết.”
Lẫn hậm hực hỏi tiếp : “Anh có biết tội anh như thế nào không ? Làm tay sai cho Mỹ Ngụy, anh biết chưa ? Án 20 năm của anh c̣n đó anh vẫn chưa sợ à ?”
Trung cắn răng, máu anh như bùng sôi v́ những lời đe dọa hách dịch của tên Lẫn, anh chồm dậy như muốn tung một cú đá thật mạnh vào mặt tên VC nầy. Nhưng than ôi ! C̣n đâu nữa, hai cổ chân nhỏ bé của anh không c̣n di chuyển được v́ một gông cùm nghiệt ngă. Uất hận, tức giận nhấc đầu lên, Trung gằn một tiếng :
- Chớ c̣n ông làm tay sai cho ai ? Khẩu AK do ai chế tạo ? Ông đă dùng súng AK do Nga Sô viện trợ bắn vào ai ? Vào Mỹ hay là vào người Việt Nam ?
Lẫn hậm hực, gằn từng tiếng một :
- Được ! Anh c̣n ngoan cố lắm. Rồi hắn ta bước ra khỏi pḥng.
Tên VC bước ra khỏi pḥng, trả lại không khí yên tỉnh về với Trung. Nhớ lại câu nói vừa rồi của của tên Lẫn : “Làm tay sai cho Mỹ Ngụy,…Án 20 năm của anh c̣n đó anh vẫn chưa sợ à ?” Trung thở dài, duỗi lưng nằm xuống, khẽ nhắm mắt lại. Bây giờ Trung mới nghĩ rằng anh bị bắt ngay khi thảm kịch trốn trại xảy ra chẳng qua v́ Tùng, Đức, Dũng và anh đều nằm trong Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc.
Sau vài ngày cô lập để điều tra, Trung và An được đưa vào xà lim biệt giam để chờ ngày ra ṭa; c̣n Tâm (Bị cùm nằm kế tôi) được trả về với lao động b́nh thường - có lẽ VC đă dựng thêm một cây ăng-ten mới để dùng trong kỹ thuật khổ nhục kế hầu rà thêm manh mối.
Máy đèn hoạt động suốt đêm hôm đó. Bộ đội Công an Vơ trang VC tràn ngập sân trại, và chúng tôi phải tham dự đêm thuyết tŕnh. Theo chỉ thị của bọn giám thị chỉ huy trại, mỗi tù nhân đều phải phát biểu ư kiến về thảm kịch trốn trại, mỗi đội phải lập một bản kiến nghị và mọi người kư tên vào để kết án những người vi phạm - dù sống hay chết.
Sáng hôm sau toàn trại được gọi tập họp tham gia cuộc mít-tinh để lên án những tên “Ngoan cố chống lại Cách mạng, chống lại Nhân dân.” Hơn một ngàn chữ kư đă bị bắt buộc kư vào trừ một số người đang bị cùm trong xà lim.
Đúng ra, từ ngày thảm kịch xảy ra cho đến nay hơn một năm, vụ án mới được đem ra xét xử. Trở lại phiên ṭa, sau khi tên giám sát viên đọc xong biên bản điều tra vụ án, tên chánh án VC tiếp tục :
- V́ đây là một phiên ṭa đặc biệt, không có luật sư biện hộ nên anh Trung được quyền tự biên hộ lấy và anh chỉ được nói khi nào ṭa cho phép. Anh có ǵ nói không anh Trung ?
- Thưa ṭa, không ! Trung đáp lại.
Tên chánh án nói tiếp :
- Anh có nhận thấy rằng biên bản mà giám sát viên vừa đọc là đúng không anh Trung ?
Trung thản nhiên nói :
- Tôi không có nhúng tay vào vụ giựt súng đó ...
Tên chánh án cắt ngang lời nói của Trung :
- Anh đừng chối, anh lợi dụng những tên kia đă chết nên bây giờ anh muốn nói ǵ th́ nói phải không !
Trung vẫn nhẹ nhàng đáp :
- Thưa ṭa, không. Tôi không có dính líu tới vụ đó.
Tên chánh án tiếp lời Trung :
- Anh c̣n nhớ những ǵ anh đă khai với cán bộ chấp pháp (Cán bộ thẩm vấn) ngày hôm đó không anh Trung ?
- Thưa ṭa, nhớ !
Rồi hắn ta cất giọng ra lệnh :
-Anh nói xem !
Trung trả lời rất gọn :
- Khi nghe súng nổ, phản ứng tự nhiên là tôi t́m chỗ núp, tôi không biết ǵ hết.
Tên chánh án tay phải nâng cặp mắt kiếng của hắn lên, chồm nhẹ về phía trước, hậm hực nói :
- Hừ ! Anh lại nói đến phản ứng tự nhiên mà anh chạy à ? Hắn ngừng một chút rồi quả quyết đưa Trung vào việc đă rồi :
- Thôi ! Anh đừng nói nữa, ṭa biết hết rồi, anh nghe rơ chưa anh Trung ?
Nghe đến đây tôi thương xót cho Trung nhiều, tôi biết anh không liên quan ǵ đến vụ giựt súng, nhưng chẳng qua v́ đă mang bản án 20 năm trong vụ tham gia hoạt động của Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc sau ngày 30-4-1975 nên bọn CSVN luôn t́m cách tiêu diệt những mầm mống như Trung từ lâu, và đây là một cơ hội tốt để lấy cớ trừ khử anh Trung. Tên chánh án vụt chuyển sang An, hắn hỏi như ra lệnh :
- Anh Trung vừa nói như vậy có đúng không anh An ?
An như một cái máy, nhanh nhẹn đáp :
- Dạ thưa ṭa, hoàn toàn không đúng.
- Anh tŕnh bày vụ việc đi.
Chúng tôi đă có thể đoán trước những ǵ An sắp nói. An chỉ là một học sinh Trung học đệ Nhị cấp, rải truyền đơn chống Cộng sản rồi bị bắt, chưa hề có bản án nào.Anh c̣n quá trẻ, thiếu kinh nghiệm về cộng sản. Sau nhiều ngày bị tra tấn và nhốt trong xà lim biệt giam, anh không c̣n giữ được ư chí và nghị lực, lại c̣n được Cộng sản chiêu hàng bằng những đ̣n phép “Mẹ ru con ngủ” khiến anh đă trở thành miếng mồi ngon cho Cộng sản sử dụng. An cất tiếng vu cáo :
- Thưa ṭa, lúc Tùng và Đức (Nguyễn) cùng nhau giựt súng, anh Trung và tôi chạy lại định tiếp tay nhưng việc không thành. Trung bỏ chạy và bị bắt lại. Những ǵ anh Trung vừa khai với quư ṭa hoàn toàn không đúng.
Tên chánh án ra lệnh cho An về chỗ ngồi, đoạn tiếp tục :
- Anh Trung ! Anh c̣n nhớ những ǵ anh đă bôi nhọ cách mạng không ? Anh đă sỉ nhục cán bộ quản giáo (Cán bộ phụ trách về “giáo dục”) của anh là dùng súng AK do Liên Sô chi viện bắn vào anh em của anh, có đúng vậy không anh Trung ?
Trung chưa kịp trả lời, tên chánh án quay nh́n Lẫn nói tiếp :
- Có đúng vậy không đồng chí Lẫn ?
- Thưa ṭa ! Đúng. Lẫn vừa ngồi tại chỗ, vừa trả lời. Tên chánh án nói tiếp :
- Mời đồng chí Lẫn ra trước ṭa tŕnh bày vụ việc vừa qua.
Lẫn tiếp tục tŕnh bày y như những ǵ tên giám sát viên vừa đọc. Rồi hắn ta kết luận :
- Bây giờ, mặc dù vết thương đă lành nhưng lúc trở trời th́ tôi thấy hơi khó chịu.
Ngồi xếp bằng dưới hội trường, chăm chú theo dơi cuộc xử án từ đầu đến giờ, tôi mường tượng đây như là một màn bi kịch mà nạn nhân là Trung và những người lính VNCH chúng tôi, chớ không phải là một phiên ṭa. Ngày xảy ra vụ xử án, tôi tin chắc có rất nhiều người thấy và hiểu rơ sự vụ, nhưng không một ai dám ra làm nhân chứng, ngoại trừ ba tên Đức, Bửu và Lập. Cả ba lần lượt được mời ra trước ṭa.
Sau một thời gian được “Nhà nước khoan hồng,” họ lần lượt ra đứng trước chiếc mi-cro và thẳng lời tố cáo, buộc tội Trung chính là người chủ mưu vụ cướp súng đó.
Tên chánh án quay sang xin đề nghị của giám sát viên. Sau một lúc lâu đọc về các điều luật - những điều tôi nghe không quen tai - trong hiến pháp của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa mà nay gọi là Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, tên giám sát viên kết thúc với lời đề nghị bản án :
- Thứ nhất, xét thấy tên Nguyễn Minh Trung là một Thiếu Úy Ngụy, làm tay sai cho đế quốc Mỹ, làm công cụ cho bè lũ bán nước của tên Nguyễn Văn Thiệu, mang trọng tội với Nhân Dân, với Đảng và Nhà Nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Xét thấy tên Nguyễn Minh Trung có một tiền án 20 năm về tội chống phá cách mạng, nay lại c̣n chủ mưu trong vụ cướp súng, mưu toan giết cán bộ là người đại diện cho nhân dân, cho luật pháp nhà nước.
Xét thấy tên Nguyễn Minh Trung c̣n ngoan cố không thể cải tạo được nữa nên Giám Sát đề nghị bản án từ chung thân khổ sai đến tử h́nh.
- Thứ hai là Hồ Ngọc An, biết ăn năn hối cải, c̣n trẻ tuổi, để cho anh c̣n nhiều thời giờ cải tạo để thành nhân dân tốt của nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Giám Sát đề nghị bản án từ 12 năm đến 15 năm cải tạo.
Tên chánh án tiếp lời sau khi cám ơn giám sát viên :
- Các anh Trung và An có nói lời nói cuối cùng ǵ trước khi ṭa nghị án không ?
Trung đứng lên điềm nhiên đáp :
- Thưa ṭa có !
Tên chánh án lên giọng, chồm tới phía trước, ra lệnh :
- Anh nói xem !
Trung vẫn điềm nhiên đáp :
- Thưa ṭa, tôi không phải là người tổ chức và dính líu tới vụ nầy.
Hắn ta kéo chiếc mi-cro kề hơi gần sát miệng, một âm thanh hơi chát v́ thiếu tiếng trầm :
- Anh không phải là người tổ chức nhưng anh có một tiền án 20 năm. Anh rơ chưa anh Trung.
Trung không nói, chua xót gật đầu buông xuôi; chắc anh không c̣n nghe thấy những ǵ chung quanh nữa. Mộng ước phá tan gông cùm cộng sản, diệt lũ bạo tàn để dành lại tự do cho quê hương Việt Nam đành dừng lại nơi đây. Anh c̣n quá trẻ, ư chí phấn đấu và nguồn yêu nước đang c̣n rào rạt dâng cao giờ đây đành phải sụp đổ nơi anh.
Hơn năm phút sau, bức màn đỏ được từ từ kéo ra, tên chánh án trịnh trọng bắt đầu :
- Thứ nhất : xét thấy tên Nguyễn Minh Trung, một Thiếu Úy Ngụy, có một tiền án 20 năm về tội chống phá lại Cách mạng, nay lại c̣n cầm đầu một tổ chức cướp súng Cán bộ là người đại diện cho nhà nước và nhân dân.
Xét thấy tên Nguyễn Minh Trung vẫn con ngoan cố, không c̣n cải tạo được nữa. Ṭa tuyên án Nguyễn Minh Trung : tử h́nh.
- Thứ hai : xét thấy anh Hồ Ngọc An c̣n trẻ tuổi, biết ăn năn hối cải, c̣n đủ thời giờ cải tạo được để trở thành nhân dân tốt. Ṭa tuyên án Hồ Ngọc An : 12 năm cải tạo.
Riêng Nguyễn Minh Trung được quyền chống án lên Chủ Tịch Nhà Nước trong thời gian là ba ngày, sau đó bản án sẽ được thi hành.
Nh́n Trung, tên chánh án tiếp lời với một cử chỉ làm như nhân đạo để cố che lấp sự bạo tàn của hắn :
- Anh có nhắn ǵ lại với vợ con anh không, anh Trung ?
Trung không muốn trả lời nữa, anh đáp gọn : “Không !”
Tên bộ đội công an VC đến sau lưng c̣ng tay Trung lại.Tôi thấy nét mặt anh vẫn điềm tỉnh nhưng có lẽ thâm tâm đang nghĩ đến gia đ́nh một lần cuối, đến vợ con mà đă từ lâu anh không được gặp mặt. Anh Trung đang nghĩ ǵ ? Tôi tin chắc rằng anh chỉ buồn v́ ḿnh chưa làm được ǵ cho Quê hương, cho Quốc gia Việt Nam đang sống oằn oại trong tăm tối.
Trung bước chậm ra cửa hội trường, không quên đứng nh́n lại lần cuối những người bạn cũ của ḿnh như muốn nhắn lại với chúng tôi, đêm tuy dài nhưng ngày mai trời phải sáng.
Tên công an VC thúc báng súng AK sau lưng, Trung nhẹ bước đi dưới mũi súng quân thù. Một hàng rào công an VC với những khẩu AK trong tư thế chiến đấu, bao ṿng quanh chiếc xe Van bít bùng, đang đợi.
Ba người Sĩ quan VNCH được VC ban bổng lộc nghĩ ǵ ? Họ đă ngủ gục trong những giây phút tuyên thệ linh thiêng tại buổi lễ măn khóa của các Quân trường đào tạo; và họ tỉnh giấc lại trong những căn lều lư tưởng tự xây, trên một cánh đồng cỏ tranh xanh bát ngát, ven cạnh rừng, nơi chúng tôi thường lui tới đốn củi. Họ là ai ?
Gia đ́nh Quân đội VNCH không may có những đứa con hoang đàng bất hiếu, nhưng bù lại cũng đă đào tạo được hàng ngàn người con hiền ngoan hiếu thảo, một ḷng một dạ trung thành với Quốc gia Việt Nam.
Anh Trung, mọi người mến anh v́ bản tính hiền ḥa vui vẻ nhưng tôi c̣n thấy nơi anh một sự khiêm nhường bất khuất. Dù cuộc chiến đă tàn, nhưng xin anh một lần cho tôi được làm nhân chứng để viết thêm tên anh vào trang sử sách, những người lính anh hùng của QLVNCH: …,Thiếu Úy Nguyễn Minh Trung.
Ngày tháng trôi qua …, kư ức vẫn không phai tàn.
Thiếu Tá Đặng Hữu Thân, Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân QLVNCH, người anh tôi mến phục. Được quen biết anh trong căn nhà kỷ luật. Cặp mắt và giọng nói đă cho tôi biết anh không phải là một cấp Chỉ huy tầm thường. Anh bị VC kết án tử h́nh v́ đă cầm đầu một tổ chức chống lại CSVN sau khi QLVNCH bị bỏ rơi. Anh thường bị nhốt trong pḥng biệt giam và đưa qua lại căn nhà kỷ luật tùy theo sức khỏe. Thường th́ VC nhốt những người “ngoan cố” trong pḥng biệt giam, chỉ vừa một người nằm, khi nào họ thấy muốn cho trở lại nhà kỷ luật th́ họ cho. Nhà kỷ luật tương đối “thoải mái” hơn, v́ c̣n đi đứng, qua lại được dễ dàng.
Anh cho chúng tôi biết, có bốn Cha Tuyên Úy Công Giáo và quản nhiệm các giáo phận đang nằm bên cạnh. Các vị linh mục luôn bị cô lập nơi các pḥng biệt giam theo chỉ thị của “Đảng,” trong khi các Thầy Tuyên Úy Phật Giáo th́ được “ưu đăi hơn” trong các căn nhà khác, nhưng tôi biết có vài Thầy vẫn ở chung trong nhà kỹ luật. “VC ghét Cha hơn ghét Thầy” chỉ là một đ̣n sơ đẳng trong kỹ thuật ly gián mà chúng áp dụng để chia rẽ tôn giáo. Ma quỷ lúc nào cũng sợ các Đấng Thánh.
Sự liên lạc qua lại giữa các tù nhân thường rất khó khăn, nhất là nhà kỷ luật và những căn pḥng biệt giam. Tất cả đều phải qua sự kiểm soát của cán bộ VC hoặc các anh tù “cải tạo tốt” được chọn làm trật tự. Sống trong cảnh tù đày, dưới cặp mắt “quản giáo” của VC, đôi lúc suy nghĩ và hành động của ḿnh phải trở nên linh động hơn - tùy theo hoàn cảnh mà ứng biến.
Một nơi mà bọn cán bộ VC và các anh trật tự ít dám lui tới trừ khi cần kíp lắm, đó là nhà cầu được xây gần những xà lim biệt giam. Đây là một sự cố ư để tăng thêm h́nh phạt cho các người “ngoan cố.” Mỗi ngày hai lần, sáng sớm và chiều tối, các tù nhân nằm pḥng biệt giam được ra làm vệ sinh cá nhân và vận động chân tay cho thoải mái, cũng như được lănh khẩu phần ăn tiêu chuẩn dưới sự “quản lư” của các anh trật tự.
“Đau bụng quá !” Vừa nói với anh trật tự, tôi vừa phóng nhanh lên cầu khi thấy anh Thân đang lên một cầu kế cận; vội quăng lẹ cho anh vài miếng thuốc rê và ít miếng giấy quấn, rồi ngồi xuống cầu bên cạnh như đang làm một việc khẩn cấp của cá nhân.Tim tôi đang tăng nhịp đập bỗng dưng dịu lại một cách b́nh thường dưới ánh mắt và một nụ cười tràn đầy yêu thương, tŕu mến : một Cha Tuyên Úy đang đứng đợi để lên cầu. Vừa làm xong một việc tự nguyện, tưởng chừng như một ḿnh tôi biết.
Thuốc hút luôn là kẻ thù của sức khỏe nhưng nó cũng là người bạn tri âm của những tâm hồn cô đơn trống vắng như anh Thân. Tôi không dám so sánh hai mươi tám ngày mà tôi đă trải qua với những ǵ anh Thân đang gánh chịu. Nhắc đến đây tôi cảm thấy bùi ngùi.
Buổi sáng, trong khí trời lành lạnh của núi rừng, những hạt sương mù rơi lất phất, vài đám mây đen đang là đà bay càng làm tăng thêm cái vẻ thê lương ảm đạm của cảnh vật chung quanh. Tôi c̣n nhớ rơ tiếng anh : “Tụi VC nó sắp bắn anh !”
Anh Thân ! Em biết Anh đă làm những ǵ mà tất cả mọi người cần phải làm cho quốc gia Việt Nam trong lúc lâm nguy và Anh đă làm tṛn trách nhiệm của người thuyền trưởng trong một chuyến hải hành trên con tàu định mệnh. Thêm một ngôi sao sáng của QLVNCH vừa phụt tắt : Hải Quân Thiếu Tá Đặng Hữu Thân.
_________
Trung Tá Đào (?) Xuân Bé, Sĩ quan Tiếp Vận Vùng 2 Chiến Thuật. Cái tên và dáng dấp của anh đă kết hợp với nhau khi vừa mới sinh để mang một trọng trách mà các cấp Chỉ huy khác không mang nổi. Anh vào pḥng biệt giam v́ đă khai sự thực.
“Nếu anh chịu khai thực tôi sẽ cho anh trở về ở nhà kỷ luật,” đó là câu nói mà tên cán bộ “quản giáo” VC Lẫn thường nói với anh. Mỉa mai thay, anh chấp nhận ở lại pḥng biệt giam v́ đă khai sự thực với tên Lẫn:
- Mấy ông bảo tôi khai sự thật th́ tôi đă khai hết sự thật trong tờ tự khai rồi, không c̣n ǵ để khai nữa.
Tờ tự khai của anh : “… Mỹ Rút, Việt Nam Cộng Ḥa Bị Bỏ Rơi.”
_________
Trung Tá Bùi Quốc Trụ, y sĩ trưởng Sư Đoàn 2 Không Quân QLVNCH, một vị Lương y như từ mẫu. Anh đă tận dụng mọi phương pháp y khoa để cứu chữa cho các bạn tù trong phạm vi quyền hạn của anh. Anh nh́n bệnh nhân đang hấp hối với lương tâm của một người Bác sĩ, biết việc ǵ cần phải làm, nhưng bao giờ cũng phải chờ quyết định của “Bác sĩ cơ quan,” một bác sĩ “Thật giỏi, tốt nghiệp chỉ sau hai năm học tại Liên Sô - sau khi được học xong lớp 10 tại Hà Nội.” Lương tâm và khả năng chuyên nghiệp của anh Trụ vẫn chưa được “Cải tạo và lănh đạo bởi Đảng CSVN.”
_________
Anh Thiếu Úy VC, gốc người Thượng, mà tôi không tiện nói tên ra, một thời gian làm “quản giáo” cho đội. Ngoài tiếng Việt, anh c̣n nói và viết rành tiếng Pháp v́ cha mẹ của anh đă làm quản lư một đồn điền cà-phê cho người Pháp ở Ban Mê Thuột. Anh thường lén dẫn anh em chúng tôi ra chợ làng Thạch Thành mua thịt, cá và rau tươi để “cải thiện” thêm đời sống. Anh là một cán bộ “quản giáo” mà anh em chúng tôi thích nhất trong các buổi học tập về chính trị với những lời anh thường kết luận : “Thôi ! Các anh nghỉ sớm để mai c̣n phải đi lao động nữa !” Phải đi lao động nữa ! Anh hiểu rất rành tiếng Việt.
Chủ thuyết cộng sản Mác-Lê mà Hồ Chí Minh đi học lóm của Nga Tàu chỉ dùng để giết chết thân xác, nhưng không tận diệt được lư trí và lương tâm con người.
___________
Nhớ lại lần cuối tôi bị kêu lên hỏi cung (thẩm vấn), tên Thượng Tá chính trị viên VC, Dư Bính, giọng nói người tỉnh Phú Yên, hỏi :
- Anh làm ǵ cho Mỹ Ngụy ?
- Tôi làm lính.
- Lính mà làm cái ǵ ?
- Làm những ǵ cấp Chỉ huy của tôi ra lệnh.
- Cấp Chỉ huy của anh có bị bắt ở đây không ?
- Tôi không thấy.
Trong căn pḥng chỉ có tôi và hắn, bỗng nghe một âm thanh chát chúa vang lên :
- Nói láo ! Rồi hắn ném một tập hồ sơ rất dầy lên bàn trước mặt tôi và ra lệnh :
- Mầy đọc tội của mầy đi !
Tập hồ sơ quá dầy, tôi không biết phải đọc chỗ nào. Bỗng thấy bàn tay của hắn bỏ ra khỏi báng súng K54, chụp lấy tập hồ sơ, lật ra phần mà hắn muốn tôi đọc :
- Đây nầy ! Đọc tội trạng và án lệnh của mầy thôi !
Tôi dán mắt vào chỗ hắn chỉ, hai hàng chữ viết bằng tay :
Tội trạng : “Quân đội Ngụy - Làm gián điệp cho Mỹ”
Án lệnh : “Tập trung cải tạo”
“Tập trung cải tạo,” một bản án có ư nghĩa rất mơ hồ đối với mọi người, nhưng đầy ư nghĩa đối với bọn CSVN : “Giết, nếu bọn chúng muốn; Tha, nếu cải tạo tốt.” Đang nh́n những hàng chữ “tội” của ḿnh, bỗng nghe tiếng hắn hỏi :
- Có đúng vậy không ?
- Không đúng ! Vừa lắc đầu, tôi vừa trả lời một cách b́nh thường. Một tiếng quát to hơn khi nảy, âm thanh vang cả bốn góc pḥng :
- Nói láo ! Rồi hắn ra lệnh hai tên bộ đội Công an Vơ trang dẫn tôi trở lại nhà giam.
…Một hôm, t́nh cờ tôi gặp lại một người bạn cùng cảnh ngộ đang đứng xếp hàng chờ lănh thực phẩm trong trại chuyển tiếp tại Kuala Lumpur, Mă Lai, để làm thủ tục đi định cư. Tôi được biết thêm, bản án “tập trung cải tạo” của tôi đă được ṭa án nhân dân tỉnh Phú Khánh “nâng cấp” lên “Tử h́nh nếu bắt lại được” và án lệnh đă được đọc lên cho khoảng gần hai ngàn trại viên nghe trong hội trường - nơi bọn chúng dùng để xử án. (Cuối năm 1978, khoảng hơn 800 lính thuộc Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù và các đơn vị khác của QLVNCH bị bỏ rơi tại chiến trường Khánh Dương được chuyển về giam tại đó.)
Ngước mặt nh́n lên, một bầu trời trong xanh thẳm, không một áng mây. Các sinh hoạt chung quanh dường như đang ngưng động, không khí im lặng phút chốc quay trở về căn pḥng biệt giam… Sao không c̣n ngửi thấy mùi xú uế nữa ? Tôi biết ! Tôi đang khóc ! Ơn Trên đă che chở tôi dưới mũi súng quân thù.
Chiều chiều ra đứng bờ ao,
Trông về quê Mẹ ruột đau chín chiều.
Hai câu ca dao tôi nhớ từ thuở c̣n mặc quần đùi cắp sách đến trường. Hơn 30 năm sống trên đất Mỹ, chưa một lần trở về Việt Nam, quê hương mến yêu chỉ c̣n trong kư ức; v́ tôi nghĩ rằng một bước chân vui chơi trên quê hương Việt Nam trong lúc dân tộc chúng ta đang đau khổ dưới gông cùm nghiệt ngă của cộng sản th́ chẳng khác ǵ chính ḿnh sẽ tự dẫm bước lên vong linh các anh hùng dân tộc đă vị quốc vong thân, và cũng chẳng khác ǵ chính ḿnh tự rút súng bắn vào chân ḿnh (You shoot yourself in the foot). Sống trong cộng đồng người Việt hải ngoại một thời gian lâu - qua phim ảnh, sách báo, những nơi tụ tập đông người hoặc ở các buổi tiệc tùng họp mặt - tôi được biết nhiều hơn nữa về người lính. Lần đầu tôi viết, viết những ǵ tôi biết thêm về - Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa Sau Khi Chiến Trường Im Tiếng Súng.
Lê Văn Kim
Viết cho ngày tang thương của đất nước Việt Nam 30 tháng 4, 1975.
nguoikhongten0224
03-17-2019, 12:37
Mỗi người đều có ư nghĩ riêng , Bác đồng ư ngay cả Bác cũng nhiều khi chống lại lệnh của ông này nhưng theo quân lệnh là phải làm theo thi hành trước khiếu nại sau:hafppy::hafppy:: hafppy:
Cháu đừng lo bác không có cái tính tự ái trong ḷng . Xét ḿnh và xét nguồi:hafppy::hafppy ::hafppy:
trang nay tui thich lam
hoanglan22
03-19-2019, 03:23
trang nay tui thich lam:thankyou: Bạn ghé vào đọc cho đỡ buồn
hoanglan22
03-19-2019, 03:34
Để tri ân các chiến sĩ Việt Nam Cộng Ḥa về những hy
sinh cao cả và không bờ bến của họ trong sứ mạng bảo
vệ mầm sống cho một Việt Nam không Cộng Sản.
Khác với những nhà viết sử, những người phê b́nh lịch sử, khi đề cập tới giai đoạn hiện đại trong lịch sử Việt Nam, có thể sẽ phải đồng ư rằng ngày 30 Tháng Tư, 1975, đă đánh dấu cái chết của Miền Nam tự do nhưng đồng thời ngày đó cũng đă khởi đầu cho tiến tŕnh phục sinh đất nước Việt Nam.
Nói cách khác, trong cái chết của Miền Nam tự do đă có sự khởi đầu của mầm sống tương lai cho một đất nước Việt Nam thống nhất và không Cộng Sản.
Hay, quan trọng hơn, biến cố ngày 30 Tháng Tư năm 1975 phải được coi là một kinh nghiệm mang tính “mở mắt” cho toàn thể dân tộc Việt Nam từ Nam chí Bắc. Thật vậy, trong khi sự kiện Cộng Sản Bắc Việt độc tài, đảng trị đánh chiếm được Miền Nam Việt Nam tự do đă khiến cho dân chúng Miền Nam Việt Nam – từ người dân lao động khờ khạo cho tới giới trí thức mơ mộng hăo huyền – phải “sáng mắt ra” trước một chế độ Cộng Sản phi nhân bản và xa rời thực tế th́ sự kiện này cũng làm cho người Cộng Sản Việt Nam – từ giới lănh đạo chóp bu cáo già ở Trung Ương Đảng cho tới người dân quê ngu dốt – phải tỉnh ngộ khi nhận chân được rằng dân chúng Miền Nam Việt Nam, dù dưới chế độ tự do, dân chủ c̣n non trẻ của họ, thật sự đă được sống tự do hơn, no ấm hơn và hạnh phúc hơn rất nhiều so với những kẻ từng vượt đường Trường Sơn từ Miền Bắc xa xôi tới “giải phóng” cho họ, trái ngược hẳn với các tín điều căn bản mà những người Cộng Sản đă tôn sùng từ bao thập niên qua.
Bài viết sau đây có mục đích làm sáng tỏ nhận định rằng, trong khi biến cố ngày 30 Tháng Tư năm 1975 có tầm vóc lịch sử lớn lao, th́ biến cố này cũng c̣n ảnh hưởng sâu đậm tới vận mệnh của dân tộc, bởi v́ nó vừa đánh dấu cái chết của Miền Nam tự do mà cũng vừa đánh dấu khởi điểm của tiến tŕnh phục sinh đất nước Việt Nam. Và trong tiến tŕnh phục sinh đất nước này, người ta không thể không kể đến những hy sinh to lớn của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa qua hơn hai thập niên chiến tranh trong việc bảo vệ chiếc vườn ươm mầm tự do, dân chủ tại Miền Nam để dân tộc có thể lấy đó làm đà tiến lên trên con đường xây dựng một nước Việt Nam thật sự tự do và dân chủ.
Lịch sử coi ngày 30 Tháng Tư năm 1975 là ngày Miền Nam Việt Nam sụp đổ. Những bộ quân sử viết về ngày này coi đây là ngày tan ră của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Dù là sụp đổ hay là tan ră, những từ ngữ này đều nói tới sự chấm dứt của một cuộc sinh tồn, tức là cái chết của một thực thể đang hiện hữu.
Nhưng, đối với người Việt Nam trên cả hai miền đất nước từng lâm vào một cuộc chiến tranh -vẫn thường được mệnh danh là “cuộc chiến tranh ư thức hệ”- trong suốt ba thập niên kể từ năm 1945, những hệ lụy từ cái chết đó mới là điều quan trọng cho ḍng sinh mệnh của dân tộc Việt Nam. Nói cách khác, điều được coi như là chiến thắng của người Cộng Sản Việt Nam lẫn chủ nghĩa Cộng Sản quốc tế không quan trọng mấy so với những hệ lụy từ cái chết của Miền Nam Việt Nam, mà trên thực tế là cái chết của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, trong ngày 30 Tháng Tư năm 1975 định mệnh đó.
Thật vậy, ngày nay, sau ba thập niên hồi tưởng và suy nghiệm về biến cố ngày 30 Tháng Tư năm nào cùng những hậu quả của nó, những người Việt Nam b́nh thường – không bị mù quáng v́ các tư tưởng lệch lạc hay thành kiến bất công – có thể sẽ đi đến nhận định sau cùng rằng “chính những hy sinh lớn lao và cao cả của người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa tại Miền Nam Việt Nam hơn ba thập niên trước đây đă tạo dựng mầm sống cho dân tộc Việt Nam hôm nay.”
Vai tṛ ǵn giữ đất nước và bảo vệ tự do, dân chủ của người lính Cộng Ḥa
Các thành phần sĩ quan Quân Đội và Cảnh Sát của Việt Nam Cộng Ḥa, trong thời gian bị bắt đi “học tập cải tạo” sau ngày Miền Nam Việt Nam mất vào tay Cộng Sản, vẫn thường được các cán bộ chính trị Cộng Sản bảo cho biết rằng Quân Đội cùng các lực lượng Cảnh Sát Miền Nam Việt Nam chỉ là đội ngũ những “lính đánh thuê” cho “Đế Quốc Mỹ” và là những thành phần đă “lầm đường, lạc lối” trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam vừa qua. Thật ra, đó chỉ là lư của kẻ thắng chứ không phải là chân lư.
Điều đau xót là, giờ đây, dưới ánh sáng của lịch sử soi rọi, chính các thành phần trong Quân Đội Nhân Dân Việt Nam của Cộng Sản Bắc Việt trong cuộc “kháng chiến chống Mỹ, cứu nước” vừa rồi mới là những kẻ lầm đường, lạc lối, bởi v́ họ đă bị Đảng Cộng Sản Việt Nam lừa phỉnh, lợi dụng và ép buộc vào chỗ phải đổ máu xương và hy sinh gian khổ cho tham vọng đánh chiếm Miền Nam Việt Nam của họ.
Hậu quả sau cùng của đường lối hiếu chiến và thiển cận này là đưa đẩy Việt Nam – không phải là một nửa nước mà là toàn thể đất nước – tới t́nh trạng suy thoái kinh tế trầm trọng và bế tắc chính trị chưa từng có trước đây, để rồi hiện nay Cộng Sản Việt Nam lại bị buộc phải t́m cách đi vào con đường kinh tế tự do và dân chủ đa nguyên là con đường mà Quốc Gia Việt Nam hồi trước 1954 và Việt Nam Cộng Ḥa từ sau Hiệp Định Genève 1954 đă không ngừng theo đuổi nhưng cứ bị những người Cộng Sản ra sức phá hoại.
Những ǵ mà Cộng Sản đang làm hiện nay trên đất nước Việt Nam là bằng cớ không thể chối căi cho sự sai lầm tai hại của những người Cộng Sản trước đây trong cuộc chiến. Về mặt kinh tế, họ đang tranh thủ chạy theo chế độ kinh tế thị trường đầy lợi nhuận để có thể được tư bản ngoại quốc đổ vốn vào đầu tư, tất cả đều là từ những nước trong hệ thống kinh tế tư bản mà trước khi chiếm được Miền Nam Việt Nam hồi năm 1975 những người Cộng Sản Việt Nam đă không ngừng chê bai và mạt sát. Từ sau khi đổi mới, Cộng Sản Việt Nam đă lần lượt gia nhập hai tổ chức kinh tế tư bản quan trọng, đó là Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) và Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới (WTO), một tổ chức kinh tài quốc tế quan trọng mà Việt Nam chính thức trở nên thành viên thứ 150 vào đầu năm 2007.
Về mặt quân sự, sau khi đă thấm những bài học lịch sử với bậc thầy Trung Quốc qua những vụ như Hoàng Sa, Trường Sa, biên giới phía Bắc, và mới đây là vụ dâng đất, cắt lănh hải cho Trung Quốc, Cộng Sản Việt Nam đang ra sức tiến tới việc hợp tác quân sự với Hoa Kỳ là kẻ thù cũ trong cuộc chiến tranh vừa qua. (1) Về mặt chính trị, những người Cộng Sản Việt Nam đang bị áp lực hết sức nặng nề của những phần tử bất đồng chính kiến và chống đối tại Việt Nam, gồm toàn những nhân vật tên tuổi trong nước và có uy tín quốc tế, đ̣i phải cải tổ hệ thống chính trị độc đảng để đổi sang chế độ dân chủ đa nguyên, y hệt như thể chế chính trị của hầu hết các nước tự do, dân chủ trên thế giới ngày nay vậy. (2)
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1352390&stc=1&d=1552965972
Lực lượng Hải Quân giữ yên lănh hải.
Dù những nhận định và t́nh cảm đối với tập thể quân đội của Miền Nam Việt Nam có khác biệt nhau, dân chúng ở cả hai miền Nam, Bắc có thể sẽ phải đồng ư với sự thật này: quân đội Miền Nam Việt Nam là thực thể chiến đấu cho sự sinh tồn của Miền Nam tự do cho dù thực thể này vẫn nằm trong tập thể gọi là “quân, dân, cán, chính” dưới quyền lănh đạo của chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa. Nói cách khác, quân đội Miền Nam c̣n th́ Miền Nam c̣n, quân đội Miền Nam mất th́ Miền Nam mất. Cộng Sản Bắc Việt hay Mặt Trận (Dân Tộc) Giải Phóng Miền Nam (Việt Nam), trong cuộc chiến tranh đánh chiếm Miền Nam Việt Nam vừa qua, đă không đối đầu với ai khác hơn là quân đội Miền Nam và đă không sợ ai khác hơn là các thành viên thuộc “đảng kaki” của Miền Nam, bởi v́ đó chính là tập thể duy nhất có tổ chức và kỷ luật khả dĩ đối đầu được với Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Vai tṛ của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa – mà trước đó lần lượt được gọi là Quân Đội Quốc Gia Việt Nam và Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa – trong cuộc chiến đấu chống Cộng tại Việt Nam là vai tṛ thực sự lớn lao trong một đất nước đang có chiến tranh. Từ thời Quốc Trưởng Bảo Đại cho đến thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm (của Đệ Nhất Cộng Ḥa) và rồi thời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (của Đệ Nhị Cộng Ḥa), dù mang danh xưng khác nhau, nhưng tập thể quân đội đó vẫn chỉ có chung một sứ mạng là bảo vệ Miền Nam Việt Nam chống lại cuộc xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt, đồng thời giúp xây dựng nền dân chủ cho đất nước, tóm lại là để bảo vệ tự do, dân chủ cho dân chúng Miền Nam Việt Nam.
Dưới thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, từ 1954 đến 1963, những người chiến sĩ của Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa đă là thành phần tiên phong trong sứ mạng đánh dẹp nội loạn và chống Cộng Sản xâm lấn. Dù muốn, dù không, Tổng Thống Diệm và bào đệ là Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu vẫn trông cậy vào những người lính Cộng Ḥa trong sứ mạng bảo quốc, an dân, nghĩa là chiến đấu chống các lực lượng Cộng Sản, dù từ ngoài Bắc xâm nhập vào (tức quân chính quy Cộng Sản Bắc Việt) hay là du kích tại miền Nam (tức quân Mặt Trận Giải Phóng), đang t́m mọi cách lật đổ chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa để áp đặt quyền thống trị của Cộng Sản Việt Nam lên đầu dân chúng Miền Nam Việt Nam.
Đến thời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (và sau đó là các Tổng Thống ngắn ngày Trần Văn Hương và Dương Văn Minh), từ 1966 đến 1975, những người lính Cộng Ḥa lại càng đảm đương thêm nhiều trọng trách hơn trong cuộc chiến đấu chống Cộng Sản mà vào thời điển này đă không hề che giấu ư đồ thôn tính Miền Nam qua một cuộc xâm lấn mà họ vẫn ưa gọi là “cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước” để “giải phóng” Miền Nam Việt Nam khỏi “ách kềm kẹp của Mỹ-Ngụy” nhằm dánh lừa dân chúng ở cả hai miền Nam, Bắc và cộng đồng quốc tế.
Phần này không có mục đích đề cao vai tṛ của quân đội Miền Nam, tức Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, qua các trận đánh lớn hay các chiến tích lịch sử đă tạo nên những thiên anh hùng ca bi tráng trong quân sử của quân đội đó qua Cuộc Chiến Tranh Việt Nam vừa rồi. Phần này cũng không có dụng ư bào chữa cho cuộc thất trận bất ngờ của quân đội Miền Nam trước các lực lượng Cộng Sản từ Miền Bắc tràn xuống để thực hiện cuộc hành quân sau cùng của họ trong chiến dịch được gọi là “Chiến Dịch Hồ Chí Minh lịch sử” vào những ngày đầu của năm 1975. Các đề tài đó nằm trong nhiệm vụ của những nhà phê b́nh, những kẻ viết hồi kư chiến tranh, những học giả và những sử gia.
Phần này chỉ có mục đích nói lên sứ mạng bảo vệ chiếc vườn ươm mầm dân chủ và tự do của quân đội đó trong suốt hơn hai thập niên chiến tranh khốc liệt tại Miền Nam Việt Nam, để rồi khi những người lính Cộng Ḥa kia phải buông súng th́ đó cũng chính là lúc cái mầm dân chủ và tự do tại Miền Nam Việt Nam – mà họ từng xả thân bảo vệ – đă đủ sức mạnh mà đâm chồi, nảy lộc, mọc cành, ra lá để gây muôn vàn khó khăn và, sau cùng, có thể dẫn tới việc giải thể chế độ dộc tài, đảng trị của Cộng Sản Việt Nam trên cả hai miền Nam và Bắc, trước kia từng là hai thực thể chính trị và kinh tế hết sức khác biệt nhau mà các lănh tụ Cộng Sản tại Hà Nội đă ra sức thống nhất làm một sau chiến thắng năm 1975 và gọi hai thực thể này dưới một cái tên chung là nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. (3)
Cộng Sản Việt Nam đổi thịt, thay da
Trong mấy năm gần đây, nếu những người Việt hải ngoại nào có dịp về thăm viếng quê hương Việt Nam th́, không nhiều th́ ít, sẽ phải lấy làm ngạc nhiên trước những đổi thay đáng kể của cảnh vật và sinh hoạt dân chúng so với mấy năm đầu sau khi Miền Nam Việt Nam sụp đổ. Nhà cửa, phố xá, đường lộ và cầu cống tại các thành thị đều được tân trang hoặc xây cất thêm. Những vùng quê cũng thay h́nh, đổi dạng nhờ các công tŕnh xây dựng mới, kể cả việc điện khí hóa nông thôn. Đời sống kinh tế của dân chúng cũng rơ ràng là được cải thiện hơn nhiều với sự phát triển mạnh mẽ của các dịch vụ kinh doanh, buôn bán tư nhân và với việc bành trướng các công-ty, xí nghiệp cũng như các ngành công, kỹ nghệ đa dạng do người Việt Nam làm chủ hay do tư bản ngoại quốc từ các nơi, kể cả Mỹ là kẻ thù cũ, kéo đến đổ vốn đầu tư vào làm ăn tại Việt Nam. Điều nổi bật hơn cả là sự phát triển cùng cực của ngành du lịch với hằng trăm, hằng ngh́n khách sạn và nhà hàng mới được xây dựng tại các thành thị tấp nập hay dọc theo các băi biển đông người. Những ngoại kiều mang quốc tịch Liên Xô, Hung-Ga-Ri, Tiệp Khắc… đều biến đi đâu mất cả mà thay vào đó là những du khách đến từ Mỹ, Anh, Pháp, Ư, Nhật, Nam Hàn, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Mă lai Á, Úc Đại Lợi… (4)
Đó là về mặt h́nh thức và vật chất. Về mặt tinh thần, những cán bộ Cộng Sản từ các cấp chính quyền, các nhân viên công lực từ công an phường tới cảnh sát giao thông đều bớt đi vẻ dữ dằn như từng thấy trước đây, và thậm chí nay c̣n có vẻ thân thiện hơn với du khách và dân chúng địa phương nữa. Sự theo dơi, kềm kẹp dân chúng như từng được thấy trong những ngày đầu Miền Nam mới được “giải phóng” th́ nay hoặc không được nh́n thấy công khai nữa hoặc đang phai nhạt dần. Đời sống tinh thần của dân chúng tại các thành thị và thôn làng xem ra có vẻ thoải mái hơn hai, ba thập niên về trước rất nhiều.
Mặc dù các tổ chức nhân quyền trên thế giới, trong đó có Human Rights Watch (Canh Giữ Nhân Quyền) và Amnesty International (Ân Xá Quốc Tế), vẫn c̣n nhiều điều phải ta thán về chính quyền Cộng Sản Việt Nam trong các vấn đề đàn áp tôn giáo (như bách hại và bỏ tù các tăng, ni, các Phật tử, các linh mục Công Giáo, các tín đồ Tin Lành, Cao Đài, Ḥa Hảo, hay các giáo dân người Thượng trên Cao Nguyên Trung Phần…), mức độ bách hại và đàn áp cũng không đến nỗi quyết liệt và tàn bạo như từng xảy ra đối với giáo dân xứ đạo Bùi Phát ở Phú Nhuận, Gia Định, hay các con chiên ở Nhà Thờ Vinh Sơn thuộc Quận 10, Sài G̣n, trong mấy năm đầu khi Cộng Sản mới chiếm được Miền Nam Việt Nam. Và mặc dù các nhân vật chống đối và những người bất đồng chính kiến, trên diễn đàn hay trên mạng lưới điện toán, vẫn c̣n bị bắt bớ hay giam giữ dài dài, mức độ tù đày và hành hạ các đối tượng này xem ra vẫn không thể nào đem so sánh với chuyện cả trăm ngh́n người thuộc đủ mọi thành phần trong xă hội Miền Nam Việt Nam – từ quân nhân, viên chức chế độ cũ cho tới các nhà tu hay thành viên các đảng phái chính trị – cùng một lúc bị bắt đưa vào giam giữ trong các trại tù khổ sai mệnh danh là “trại cải tạo” trên khắp nước qua hằng chục năm trời mà không hề được ṭa án xét xử.
Cộng Sản Việt Nam có ǵ khác với các nước Cộng Sản c̣n lại kia không?
Những người Quốc Gia lưu vong và những người Việt hải ngoại từng may mắn được hưởng những quyền tự do dân chủ và hấp thụ những kiến thức về văn hóa và khoa học từ báo chí truyền thông hay ngay tại các học đường Âu Mỹ hăy công bằng mà nhận định rằng, so với ba chế độ Cộng Sản khác c̣n lại của thế giới, là các chế độ tại Trung Quốc, Bắc Hàn và Cuba -hai đàn em nhỏ bé của Cộng Sản Việt Nam là Lào và Cambodia không đáng kể – th́ chế độ Cộng Sản tại Việt Nam tương đối “cởi mở” nhất.
Trong thời đại hiện nay, phải nói rằng Cộng Sản Bắc Hàn là một xă hội hết sức nghiệt ngă, bởi v́ quốc gia đó, dưới cả hai triều đại của cha con chủ tịch họ Kim, là một xă hội khép kín đầy những bí mật mà thế giới bên ngoài không hiểu hết được. Đây là một đất nước mà chính quyền sẵn sàng để cho dân chúng chết đói đặng tập trung tài nguyên cho nhà nước sản xuất vũ khí -kể cả phi đạn và vũ khí nguyên tử – nhằm dọa nạt dân chúng trong nước và để thỏa măn tham vọng diệu vơ, dương oai với các nước khác, đặc biệt là Nam Hàn và Nhật Bản là hai quốc gia láng giềng gần gũi nhất.
Bắc Hàn lại là một nước mà chế độ cha truyền, con nối trở nên cực kỳ lộ liễu, với việc Chủ Tịch Kim Nhật Thành chết đi để lại “ngôi báu” cho con là Kim Chánh Nhất. (Trong khi đó, Ông Hồ Chí Minh của Việt Nam muốn làm được như vậy th́ cũng phải cất công chờ đợi tới ba thập niên sau khi ḿnh qua đời, và người con lại phải mang họ khác, tức là họ Nông.) Với một đất nước như vậy, thật chẳng lạ lùng ǵ khi hằng chục ngh́n dân chúng Bắc Hàn hiện nay đang liều mạng sống, dùng đường bộ trốn sang Trung Quốc hay t́m thuyền vượt biển tới Nam Hàn.
Hơn một thập niên sau khi nước đàn anh khổng lồ Liên Xô – chiếc nôi của cuộc cách mạng vô sản thế giới, thành tŕ của chủ nghĩa Cộng Sản – bị xóa tên trên bản đồ thế giới và chủ nghĩa Cộng Sản bị chôn vùi dưới những tảng băng miền Tây Bá Lợi Á, Cộng Sản Cuba, một ḿnh một cơi tại Tây Bán Cầu, vẫn c̣n là một quốc gia độc tài về chính trị và lạc hậu về kinh tế chỉ v́ cái tự ái đặt không đúng chỗ của Chủ Tịch Fidel Castro, cha đẻ của Cộng Sản Cuba. Ngày nay, trong khi những kẻ bất đồng chính kiến tại đảo quốc Cộng Sản này liên tục bị bách hại và tù đày th́ dân chúng Cuba ngày càng nghèo nàn, lạc hậu đến nỗi ngay cả phố phường, nhà cửa tại nhiều nơi trong thủ đô Havana nom cũng loang lổ và tiều tụy, có lẽ v́ không được sơn phết hay sửa sang ǵ kể từ khi cuộc cách mạng vô sản thành công vào năm 1959. Hồi mùa Hè năm 2006, khi Fidel Castro lâm trọng bệnh và không thể cai trị được nữa, nhà độc tài lại trao cho em ruột là Raul Castro – quân hàm Đại Tướng, đang là Bộ Trưởng Quốc Pḥng – làm Quyền Chủ Tịch Cuba, cũng là một một h́nh thức “cha truyền con nối” khác mà chỉ ở các nước Cộng Sản độc tài, độc đảng mới có.
Thông Tấn Xă Reuters mới đây đưa tin rằng nhà nước Cuba, v́ thiếu tiền, đă giành lấy phần lớn số lợi nhuận có được qua dịch vụ du lịch trong nước khiến cho kỹ nghệ du lịch tại Cuba hiện nay không ngóc đầu lên nổi bởi v́ các công – ty du lịch tại đây đă phải đua nhau tăng giá để “bù lỗ” cho những khoản phải cống nạp cho nhà nứơc. Nửa thế kỷ sau khi được “giải phóng” khỏi tay nhà độc tài Batista, mỗi năm vẫn c̣n hằng ngh́n dân chúng Cuba tiếp tục t́m mọi cách bỏ nước ra đi – hầu hết là vượt biển tới Hoa Kỳ – để mong trốn chạy khỏi một chế độ độc tài khác: chế độ Cộng Sản Cuba của hai anh em nhà họ Castro: anh làm chủ tịch nước, em làm bộ trưởng quốc pḥng kiêm tư lệnh quân đội.
Trung Quốc, với chủ nghĩa Cộng Sản “cải lương” dưới quyền đạo diễn của các kép chánh từ Mao Trạch Đông đến Đặng Tiểu B́nh, phải nói là quốc gia đạt được nhiều tiến bộ về kinh tế và kỹ thuật nhất trong số các quốc gia Cộng Sản c̣n sót lại của thế giới ngày nay. Đất nước Trung Hoa bây giờ đă trở nên giàu có qua những “bước nhảy vọt” phi thường từng chuyển đổi Hoa lục từ một nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường. Chỉ mới vài ba thập niên “hiện đại hóa” mà thôi, Trung Quốc đă từ một quốc gia đói, nghèo biến thành một cường quốc có hạng của thế giới trên cả hai lănh vực nguyên tử và không gian. Những tiến bộ về kinh tế và kỹ thuật này của Trung Quốc có thể được giải thích là do ở đầu óc thương mại truyền thống của dân “Ba Tàu” cộng với những mầm mống tự do kinh doanh sẵn có bên trong nước này như Ma Cao, Hồng Kông và ngay sát nách của họ là Đài Loan, hoặc xa hơn nữa là Singapore.
Tuy nhiên, về đời sống chính trị, đất nước của các vị “con Trời” vẫn c̣n là một trong những quốc gia có chế độ đàn áp con người tệ hại nhất, mà hai nạn nhân danh tiếng của họ từ trước tới nay vẫn là phong trào đ̣i tự do, dân chủ của sinh viên, học sinh tại Thiên An Môn năm 1989 và các thành viên của môn phái Pháp Luân Công từng bị đàn áp liên tục từ hồi đầu thập niên 1990 cho tới nay. Các nạn nhân kế tiếp của chế độ này là những nhà báo và những kẻ bất đồng chính kiến mà việc bắt bớ, giam cầm họ đang là mộ sự phỉ nhổ lên các giá trị về dân chủ và nhân quyền của thế giới. (5) Theo báo cáo mới nhất của Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế, trong năm 2005, một ḿnh Trung Quốc không thôi mà đă xử tử đến 80 phần trăm số can phạm bị kêu án tử h́nh toàn cầu, dĩ nhiên một số không nhỏ các tử tội này là những thành phần chống đối nhà cầm quyền Bắc Kinh.
Một điểm tương đồng quan trọng giữa Cộng Sản Trung Quốc và Cộng Sản Việt Nam là cả hai đảng này, v́ lư do sinh tồn, đều đă khôn lanh tới mức dám phản bội ngay cả chủ nghĩa Cộng Sản (Mác-xít Lê-nin-nít) do các ông thầy của ḿnh là Các-Mác (Karl-Marx) và Lê-Nin (Lenin) truyền dạy qua hành động mạnh tay dứt bỏ gần hết các giáo điều chính của chủ nghĩa này và chỉ giữ lại một khoản duy nhất là tính độc đảng chuyên chế đặng có thể độc quyền cai trị đất nước trên căn bản lâu dài. (6) Nếu không làm chuyện bội phản như vậy, làm sao mà Cộng Sản Trung Quốc ngày nay lại trở nên một thành viên của Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới (WTO), một cơ chế kinh tài quốc tế sặc mùi tư bản mà Cộng Sản Việt Nam cũng đă lấy làm vô cùng vinh dự khi được gia nhập, dù là đi sau Trung Quốc tới mấy năm.
Một điều lạ lùng đến độ mỉa mai trong trường hợp của Việt Nam là sau 30 năm ra sức “đánh Tây, đuổi Mỹ,” gây ra không biết bao nhiêu là chết chóc và tàn phá cho dân tộc để triệt hạ cho bằng được cái mà họ vẫn thường gọi là “chủ nghĩa tư bản bóc lột” và thực hiện cho bằng được cái gọi là “xă hội chủ nghĩa giàu mạnh,” những người Cộng Sản Việt Nam ngày nay lại quay ra ôm chầm lấy cái chủ nghĩa tư bản đó, cầu thân và xin xỏ quyền lợi với chính những kẻ thù cũ mà mới cách đó chỉ chừng sáu, bảy năm thôi, họ từng tỏ ra khinh miệt, cay cú và căm thù hầu như đến tận xương tủy. (7)
Thế nghĩa là sao? Cái h́nh ảnh của đất nước Việt Nam ngày nay, từ thành thị đến thôn quê và từ Nam ra tới Bắc, trông thật chẳng khác nào cái h́nh ảnh của Miền Nam Việt Nam thời trước năm 1975, với cảnh tượng đường sá nhộn nhịp, buôn bán tấp nập, và nhà cửa cũng như cơ sở kinh doanh của tư nhân mọc lên khắp nơi giữa tiếng “nhạc vàng” (từng bị cấm tiệt) du dương, réo rắt và tiếng nhạc nhạc disco quằn quại, xập x́nh. Những ǵ mà một xă hội tư bản cỡ Mỹ, Nhật đang có – từ chiếc điện thoại di động cho tới cái thẻ tín dụng – th́ dân chúng Việt Nam ngày nay đều có, và những đồng đô-la Mỹ xanh xanh kia, một thời bị những người Cộng Sản mô tả là đồng tiền “tanh tưởi,” đồng tiền “bóc lột,” nay lại đang được sùng bái khắp nơi. Chưa hết, mới đây thôi, khi tỷ phú Mỹ Bill Gates, Chủ Tịch công ty điện toán Microsoft khổng lồ của thế giới, sang thăm Việt Nam, dù chỉ một ngày, ông đă được từ vị thủ tướng cho tới các sinh viên, học sinh Việt Nam hân hoan đón chào và được hoan nghênh nồng nhiệt từ Hà Nội cho tới Bắc Ninh.
Phải biết rằng, trên đất nước Việt Nam Cộng Sản, chỉ sáu, bảy năm sau khi sách, báo bằng tiếng Anh (và cả tiếng Pháp nữa) đều bị tịch thu và dân chúng hầu như bị cấm học tiếng Anh – thứ ngôn ngữ của bọn “thực dân mới” và bọn đế quốc bóc lột – dân chúng Việt Nam từ Nam chí Bắc, trong đó có đám cán bộ, đảng viên, lại đổ xô nhau đi học tiếng Anh, và các lớp học Anh ngữ tại những Hội Việt-Mỹ lúc nào cũng đông đúc học viên. (8) Rồi trước sức hấp dẫn không thể cưỡng lại được của đồng phật-lăng (franc) – và sau này là đồng euro – thơm tho, Cộng Sản Việt Nam đă hân hoan gia nhập vào khối những quốc gia nói tiếng Pháp (Francophone) do trùm “thực dân cũ” là Pháp cầm đầu, lâu lâu khối này lại chọn Hà Nội để làm nơi tổ chức hội họp, bàn thảo. Thêm vào đó, con cái các cán bộ, đảng viên của Cộng Sản Việt Nam ngày nay lại tấp nập đua nhau đi “tham quan” rồi đi du học tại Mỹ, tại Anh, tại Úc, tại Pháp… vốn là những nơi mà mới cách đó dăm bảy năm người Cộng Sản vẫn cho là những ḷ đào tạo các nền “văn hóa đồi trụy” để phục vụ cho những xă hội bị coi là đầy dẫy những cảnh “người bóc lột người” đáng ghê tởm. Như vậy là thế nào? Dĩ nhiên là chỉ c̣n một vài điều khác biệt là lúc đó – trước khi Cộng Sản chiếm được Miền Nam – Việt Nam đang có chiến tranh, và bây giờ th́ chiến tranh đă chấm dứt rồi nhưng dân chúng Việt Nam th́ vẫn chưa được hưởng những quyền tự do, dân chủ như dân chúng tại Miền Nam Việt Nam trước khi Sài G̣n sụp đổ, bởi v́ chế độ chính trị tại Việt Nam, cho tới giờ phút này, vẫn c̣n là một chế độ độc tài, độc đảng.
Tác nhân của những đổi thay tại Việt Nam ngày nay
Đến đây, một vài câu hỏi cần phải được nêu lên: Do đâu mà có những “đổi mới” và những tiến bộ trong các hoạt động kinh tế lẫn trong đời sống chính trị như vậy tại Cộng Sản Việt Nam ngày nay? Phải chăng chủ nghĩa xă hội tại Việt Nam dưới tay các lănh tụ như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Nông Đức Mạnh… tự nó biết chuyển ḿnh theo thời thế mà kịp thời thực hiện những bước thay đổi về kinh tế và chính trị để cho dân chúng được sung túc hơn, thoải mái hơn, tự do hơn? Câu trả lời sẽ là “không,” tuyệt đối “không,” nếu một tác nhân quan trọng là nếp sống dân chủ và nền kinh tế tự do của Miền Nam Việt Nam từ 1975 trở về trước không ảnh hưởng sâu đậm lên và tác động mạnh mẽ tới nếp suy nghĩ và hành động của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chính quyền của nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Vậy th́, cái tác nhân quan trọng kia trong tiến tŕnh thay da, đổi thịt của chủ nghĩa xă hội (Cộng Sản) tại Việt Nam ngày nay là ǵ? Xin thưa, đó chính là cái mầm mống tự do, dân chủ đă được ươm, cấy và trồng sẵn tại Miền Nam Việt Nam mà khi mới bước vào để “giải phóng” nơi đây th́ những người Cộng Sản Việt Nam – những đảng viên, những chính ủy, những cán bộ, những bộ đội, những dân công, những công an, những tay nằm vùng, vân vân- đă không thể nào tránh khỏi bị nhiễm phải. Cái mầm mống tự do, dân chủ ấy rất da dạng và được t́m thấy nhan nhản trên khắp mọi cơ sở, mọi tụ điểm, mọi nẻo đường, mọi hang cùng, ngơ hẻm của Miền Nam Việt Nam trong những ngày đầu Quốc – Cộng chính thức đối mặt nhau, đó là ngày 30 Tháng Tư năm 1975.
Mầm mống này có thể là nếp sống b́nh dị của người dân “Nam Bộ” tại Xóm Cái Tàu ở An Xuyên (Cà Mau), là cái lễ độ của các em học sinh trường Trung Học Phan Châu Trinh tại Đà Nẵng, là sự uyên bác và tính chuyên nghiệp cao của các quân y sĩ Việt Nam Cộng Ḥa đang bị đưa đi tập trung cải tạo tại Sông Bé (Phước Long), là nét vừa đa t́nh, lăng mạn vừa b́nh dị trong lời nhạc của bản “Duyên Kiếp” do nhạc sĩ Lam Phương sáng tác và được nữ ca sĩ Thanh Tuyền tŕnh bày, là thói quen tự ḿnh bỏ tiền ra mua sắm máy ḍ t́m cá biển để ra khơi đánh cá mà sinh sống của các ngư dân Phan Thiết, hay, cụ thể hơn một chút, là chuyện các vị dân cử tại Hạ Viện Việt Nam Cộng Ḥa, tuy mang tiếng là bọn đào kép diễn tuồng cho “Nhà Hát Tây” ở Sài G̣n nhưng trong số đó vẫn có không ít người từng chống (Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu), chửi (nước bạn đồng minh) Mỹ thẳng thừng mà không hề bị bắt giam hay bách hại…
Chẳng bao lâu sau khi những người Cộng Sản từ Miền Bắc Việt Nam tiến vào làm chủ các căn cứ quân sự, đồn bót, công sở, trường học, xí nghiệp và cơ sở xă hội từ Bến Hải tới Cà Mau, những người dân Miền Nam Việt Nam – từng khờ khạo nghe theo những lời tuyên truyền, dụ gạt đường mật của Cộng Sản mà biểu t́nh, chống đối chính quyền Miền Nam đặng làm suy yếu sức chiến đấu của quân, dân, cán, chính Việt Nam Cộng Ḥa để cho Cộng Sản dễ dàng và mau lẹ thôn tính Miền Nam – đă bắt đầu “sáng mắt ra” khi họ kinh hoàng nhận thấy bộ mặt thật của chủ nghĩa Cộng Sản ngày càng lộ rơ. Những biện pháp độc tài và vô nhân đạo như tập trung cải tạo hằng trăm ngh́n sĩ quan và viên chức cũ của Việt Nam Cộng Ḥa, xua đuổi hằng triệu dân chúng thất nghiệp và nghèo khó từ các thành thị đi khai khẩn đất hoang ở những vùng kinh tế mới khô cằn và đầy bệnh tật, tịch thu tài sản và tiền bạc làm ra từ mồ hôi và nước mắt của đám người bị gọi là bọn “tư sản mại bản” tại Miền Nam… đă được đem ra thi hành để trừ khử cho bằng được cái gọi là “tàn tích của Mỹ -Ngụy” c̣n sót lại tại Miền Nam Việt Nam. “Chủ nghĩa công thần” và phân biệt lư lịch được triệt để áp dụng để loại bỏ những tài năng của đất nước sinh ra từ các gia đ́nh “ngụy quân, ngụy quyền” và đưa lên hàng thượng đẳng một giai cấp thống trị mới trong xă hội là giai cấp cán bộ nhà nước, bộ đội và anh hùng, liệt sĩ cách mạng.
Nhưng điều bất ngờ hơn hết là những ảnh hưởng về xă hội, kinh tế và chính trị trong cuộc tiếp xúc chính thức đầu tiên giữa hai kẻ đối nghịch nhau về ư thức hệ này lại mang tính hỗ tương, nghĩa là nếp sống và văn hóa của người chinh phục cũng bị nếp sống và văn hóa của kẻ bị trị chi phối. Nói cách khác, cách sống dễ dăi, phóng khoáng và tự do, dân chủ của người dân Miền Nam Việt Nam hiền ḥa – hiện là gia cấp bị trị – cũng đă tạo ảnh hưởng mạnh mẽ lên nếp suy nghĩ và hành động đám người thuộc giai cấp cai trị từ Miền Bắc vào. V́ chủ nghĩa Cộng Sản vốn mang tính không tưởng, nghĩa là không thể nào đem ra áp dụng được, cho nên, theo thời gian, những nét đặc thù về kinh tế, văn hóa, xă hội và cả chính trị của Miền Nam Việt Nam bắt đầu tác động ảnh hưởng lên, trước hết là trên đám cán bộ thừa hành từ Bắc Bắc Phủ và sau nữa là trên các đảng viên Cộng Sản trung ương từ Hà Nội được bổ nhiệm vào cai trị trong Nam.
Miền Nam thắng ngược Miền Bắc
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1352391&stc=1&d=1552965972
Skyraider xuất kích giữ không phận và yểm trợ quân bạn dưới đất.
Năm 1985, nhân kỷ niệm 10 năm ngày Cộng Sản chiến thắng tại Việt Nam, lần đầu tiên, các nhà báo Tây phương -trong đó có các phóng viên và kư giả thuộc các đài truyền h́nh và báo chí Mỹ- được mời sang Việt Nam để quan sát những ǵ mà Cộng Sản Việt Nam quảng cáo là những thay đổi và tiến bộ to lớn mà họ đă thực hiện được tại Việt Nam, nhất là tại Miền Nam Việt Nam là vùng đất mà họ đă có công “giải phóng” khỏi tay “thực dân mới” là Mỹ.
Kurt Andrsen, trong bài báo ngày 15 Tháng Tư, 1985, nhan đề “Một Xứ Sở Bị Kềm Kẹp và Bưng Bít”(A Pinched and Hermetic Land) trên tạp chí Time, tường thuật như sau về t́nh h́nh 10 năm sau ngày Cộng Sản chiếm được Miền Nam Việt Nam:
“Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất thế giới… Cuộc khủng hoảng (kinh tế và chính trị) đă buộc nhà cầm quyền phải đưa ra những biện pháp cải cách. Hiện tại, một hệ thống kinh tế tự do có giới hạn đang được áp dụng, cho phép nông dân và ngư dân được bán ra các sản phẩm thặng dư [vượt chỉ tiêu] để kiếm lời. V́ thế, có trường hợp một nhà trồng tỉa giàu óc kinh doanh tại Miền Bắc đă kiếm tiền nhiều gấp năm lần người con trai của bà đang làm công nhân viên nhà nước tại Hà Nội. Năm 1983, sau nhiều năm đói kém, lần đầu tiên Việt Nam có đủ lương thực nuôi sống chính dân ḿnh. Mặc dù tại Hà Nội chuyện nuôi lợn riêng là bất hợp pháp, nhiều cư dân tại thủ đô của Việt Nam vẫn t́m cách chăm sóc một đàn lợn con tại nhà; gia chủ chỉ cần bán ra một con lợn thịt không thôi cũng có thể thu vào lợi tức tương đương với lương cả một năm trời của một công nhân viên cấp cao…”
So sánh cuộc sống của dân chúng Việt Nam ở hai miền Nam, Bắc, Andersen viết:
“Hai miền của Việt Nam được chính thức thống nhất với nhau vào năm 1976, nhưng sự khác biệt vẫn rơ nét. Nh́n chung, cuộc sống tại Miền Bắc dường như bị kềm kẹp nhiều hơn, hàng hóa không có mấy… Đồng thời, thỉnh thoảng vẫn có t́nh cảm ganh tị với Miền Nam đang được sống thoải mái hơn. Tại Thành Phố Hồ Chí Minh (Sài G̣n), nhà cầm quyền đă triệt hạ hầu hết nếp sống say sưa và trụy lạc, nhưng đô thị này vẫn buôn bán cuồng nhiệt… ‘Một đất nước nhưng nằm dưới hai hệ thống cai trị,’ vẫn là lời giải thích đầy nuối tiếc và mang tính tuyên truyền cho những khác biệt Nam-Bắc đó. Ấy vậy mà một số nếp sống Tây phương vẫn xâm nhập được ra tới ngoài Bắc. Các băng nhạc pop của Mỹ được đem chơi khắp nơi. Và điều lạ lùng hơn hết là các du khách người Mỹ hiếm hoi, dù đến bất cứ nơi đâu, cũng đều được dân chúng đối đăi với ḷng kính phục và ngay cả với thiện cảm rơ rệt nữa.”
Một thập niên sau khi cuộc Chiến Tranh Việt Nam chấm dứt, cảm tưởng chung của các nhà báo Tây phương và các du khách sau những chuyến viếng thăm Việt Nam, ngoài những điều khác, là nhận định rằng miền Bắc Việt Nam đă thắng Miền Nam về quân sự, nhưng Miền Nam Việt Nam đă thắng ngược lại Miền Bắc về kinh tế, và không chừng sẽ c̣n thắng luôn về chính trị nữa – ư nói tới phong trào đổi mới tư duy và hành động đang chớm nở tại Cộng Sản Việt Nam vào thời điểm đó.
Trong lịch sử nhân loại, không thiếu ǵ trường hợp mà văn hóa và nếp sống của lớp người bị chinh phục đă làm thay đổi văn hóa và nếp sống của lớp người đến chinh phục. Chẳng cần nh́n đâu cho xa, trên đất nước Trung Hoa thời phong kiến, người Mông Cổ và người Măn Thanh đă bị Hán hóa gần như hoàn toàn khi họ đem binh mă sang chiếm đóng Trung Nguyên và lập ra các triều đại Nguyên và Thanh tại Trung Quốc. Ngày nay, từ Miền Nam Việt Nam ngược trở ra Miền Bắc, chủ nghĩa xă hội tại Việt Nam đă thay h́nh, đổi dạng. Đại Hội Đảng Cộng Sản Việt Nam Lần Thứ Sáu năm 1986 đánh dấu một khúc quanh lịch sử trong tiến tŕnh “đổi mới” của chế độ Cộng Sản tại Việt Nam, một mặt là để theo đuôi phong trào perestroika do Tổng Bí Thư Mikhail Gorbachev đề xướng tại Liên Xô, nhưng mặt khác cũng chính là v́ ảnh hưởng ngày một mạnh của nếp sống tự do, dân chủ mà nhân dân Miền Nam Việt Nam trước đây từng được hưởng. (9)
Hồi mới vào Nam, những người Cộng Sản tuy bề ngoài vẫn lộ vẻ coi thường những người Miền Nam chiến bại, nhưng bên trong họ vẫn thầm thán phục và kính nể nếp sống văn minh và phồn thịnh tại vùng đất mà họ vẫn cho là ḿnh có sứ mạng phải tiến vào “giải phóng” v́ cứ tưởng lầm rằng dân chúng tại đây thật sự đang bị kềm kẹp, bóc lột và khổ đau dữ lắm. (Nhạc sĩ Cộng Sản Huỳnh Minh Siêng, trong nhạc phẩm “Tiến Về Sài G̣n,” chẳng đă mô tả dân chúng tại thủ đô Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ là đang “rên xiết đêm ngày” đó sao?) Đây chính là hậu quả tai hại của hơn hai thập niên tuyên truyền, nhồi sọ và phỉnh gạt con người mà Cộng Sản Việt Nam đă dùng để lừa dối chính ḿnh và kẻ khác, cho nên phần lớn chiến thắng vừa rồi trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam của họ chẳng qua chỉ là do người Cộng Sản đă biết khéo léo tự lừa dối ḿnh và sau đó lừa dối được dân chúng Miền Nam Việt Nam và các đồng minh khờ khạo của Việt Nam Cộng Ḥa trên khắp thế giới.
Hai Ông Bùi Tín và Vũ Thư Hiên, những người Cộng Sản cũ của Việt Nam, có thể là những người biết rơ hơn ai hết cái tác động ghê gớm của những tṛ lừa dối này. Những tên tuổi của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cỡ Bác Sĩ Dương Quỳnh Hoa, Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ và Luật Sư Trương Như Tảng cũng biết rơ điều này. Các chính khách, trí thức và văn nghệ sĩ của Miền Nam Việt Nam trước đây có cảm t́nh với Cộng Sản và mong ước Việt Nam Cộng Ḥa chóng “tiêu diêu” cỡ Trịnh Công Sơn, Đoàn Văn Toại và Linh Mục Chân Tín cùng một số tăng, ni Phật Giáo chuyên chống chính phủ ắt hẳn phải thấm điều này. Ngay như ở bên Mỹ, Joan Baez, và về sau – trong một chừng mực nào đó – là cả Jane Fonda cùng một số cựu chiến binh phản chiến nữa, cũng đă thấy cái đó. Mà nếu không thấy cái đó th́ không thể giải thích được tại sao mà sau năm 1975 hằng triệu người Việt Nam đă phải liều chết ra đi trên những con thuyền gỗ mong manh và lậu nước để mong được tới những bến bờ tự do vừa xa xôi vừa bấp bênh như thế.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1352392&stc=1&d=1552965972
Những chiến sĩ Mũ Đỏ từ trên không đạp xuống đầu giặc
Ai đă mở mắt cho dân chúng Miền Nam Việt Nam? Ai đă mở mắt cho dân chúng Miền Bắc Việt Nam? Ai đă mở mắt cho dân chúng Mỹ, dân chúng Pháp, dân chúng Anh, dân chúng Thụy Điển…? Ai đă mở mắt cho Tổ Chức Khoa Học, Giáo Dục và Văn Hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO)? Và sau cùng, ai đă mở mắt cho Đảng Cộng Sản Việt Nam từ cấp cán bộ quèn cho tới cấp cán bộ Trung Ương Đảng? Xin thưa: kẻ đó chính là nền dân chủ và nếp sống tự do của Miền Nam tự do mà Quân, Dân, Cán, Chính của Việt Nam Cộng Ḥa đă hy sinh biết bao nhiêu xương máu trong suốt gần ba thập niên để ǵn giữ cho tới khi tài nguyên cạn kiệt mới chịu buông xuôi. Mà hễ đă nói đến máu xương, đă nói đến hy sinh này nọ th́ phải nói tới những công lao to lớn và hy sinh cao cả của những người lính Cộng Ḥa, kể cả những người đă để lại danh thơm trong quân sử cũng như những anh hùng không tên tuổi của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Một chút lịch sử: Bước thăng trầm của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa
Từ năm 1950 cho tới năm 1975, Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa và Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă có những thời điểm và giai đoạn lịch sử tưởng chừng như là nguy kịch đến nơi rồi, nhưng họ vẫn đứng vững cho tới năm 1975 để hà hơi, tiếp sức cho cái mầm dân chủ, tự do của đất nước mà giờ đây đang trở thành mầm sống và nguồn hy vọng của dân tộc Việt Nam thống nhất. Hồi năm 1954, sau khi quân đội Liên Hiệp Pháp (trong đó có Quân Đội Quốc Gia Việt Nam) bị bại trận tại Điện Biên Phủ, Quân Đội Quốc Gia Việt Nam đă có nguy cơ bị tan ră nếu Ông Ngô Đ́nh Diệm không kịp thời về chấp chánh, nắm giữ quyền Thủ Tướng chính phủ.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1352393&stc=1&d=1552965972
Thiếp Giáp Binh cùng tùng thiết lùng địch.
Sau Hiệp Định Geneva, trong hai năm 1954 và 1955, Quân Đội Quốc Gia Việt Nam cũng đă gặp phải nguy cơ bị chia năm, xẻ bảy nếu chính quyền Ngô Đ́nh Diệm không đánh dẹp được quân đội riêng của các lực lượng, phe nhóm bất hợp tác khác trong nước mà Thực Dân Pháp đă dung dưỡng nhằm thao túng chính trường Miền Nam sau khi họ phải rút về.
Kể từ cuộc khủng hoảng Phật Giáo vào mùa Hè năm 1962, Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa cũng đă gặp phải nguy cơ suy sụp -nhưng rồi vẫn đứng vững- v́ du kích quân thuộc cái gọi là Mật Trận Giải Phóng Miền Nam đă thừa lúc dân chúng tại các thành thị Miền Nam Việt Nam mải mê xuống đường đánh phá chính phủ Ngô Đ́nh Diệm mà tăng cường những vụ tấn công trực diện vào các tỉnh lỵ, quận lỵ tại Miền Nam, tràn ngập nhiều chi khu và chiếm đóng nhiều quận lỵ trên toàn quốc.
Sau khi Tổng Thống Diệm bị các tướng lănh trong quân đội Miền Nam – có sự giật dây của chính quyền Kennedy v́ Mỹ vẫn đổ lỗi cho chính phủ của Ông Diệm là đă gây ra cuộc khủng hoảng Phật Giáo làm suy yếu cuộc chiến đấu chống Cộng tại Miền Nam Việt Nam – đảo chánh rồi ám sát vào cuối năm 1963, Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa cũng đă thật sự phải đối diện với nguy cơ sụp đổ trước các cuộc tấn công gia tăng ác liệt của Cộng quân. Các bản tin chiến sự cho hay Cộng quân, lợi dụng t́nh trạng hỗn quan, hỗn quân tại Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ, đă gia tăng các cuộc tấn công lấn chiếm trên toàn quốc, khiến cho lănh thổ quốc gia tại Miền Nam Việt Nam ngày càng bị thu hẹp, với nhịp độ thất thủ có lúc lên đến chóng mặt là mỗi tuần mất đi một quân lỵ và mỗi tháng mất đi một tỉnh lỵ.
Nhưng, từ năm 1965 trở đi, sau khi mọi xáo trộn đă qua và kể từ lúc phe quân nhân thực sự nắm giữ quyền chính trị và quân sự tại Miền Nam Việt Nam – với danh xưng mới là Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa – th́ quân đội Miền Nam Việt Nam đă phục hồi lại phần lớn năng lực đă mất để có thể mở các chiến dịch hành quân tảo thanh Việt Cộng và b́nh định nông thôn trên bốn vùng chiến thuật. Cũng trong khoảng thời gian này, Hoa Kỳ đă trực tiếp can dự vào cuộc Chiến Tranh Việt Nam qua việc các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến, không vận, bộ binh, không quân và hải quân Mỹ cùng quân đội các nước đồng minh khác như Đại Hàn Dân Quốc, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan,… tham gia chiến đấu chống lại Cộng quân bên cạnh Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Biến cố Tết Mậu Thân đầu năm 1968 là một đ̣n nữa giáng vào quân đội Miền Nam Việt Nam khi hằng chục sư đoàn Cộng quân gồm quân chính quy Cộng Sản Bắc Việt và quân du kích của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đồng loạt mở cuộc “tổng tấn công, tổng nổi dậy” bất ngờ trong thời gian hưu chiến nhân dịp Tết, đánh vào nhiều tỉnh lỵ và thành phố tại Miền Nam Việt Nam, kể cả thủ đô Sài G̣n và cố đô Huế. Nhưng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă đứng vững và lần lượt tái chiếm hết những phần đất bị Cộng quân tạm chiếm, kể cả cố đô Huế, và xóa tên nhiều đại đơn vị của Cộng quân.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1352394&stc=1&d=1552965972
Chiến đấu từng khu phố để bảo quốc an dân.
Quân đội này lại c̣n hùng mạnh hơn lên khi đồng minh Hoa Kỳ quyết định tăng cường vơ trang các chiến cụ tối tân cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa để họ có thể tự ḿnh chiến đấu bảo vệ Miền Nam Việt Nam đặng quân Mỹ có thể yên ḷng và có thêm chính danh mà rút về nước trong một chiến lược mới được gọi là “kế hoạch Việt Nam Hóa chiến tranh” do Tổng Thống Richard Nixon và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia lúc bấy giờ là Tiến Sĩ Henry Kissinger đề xướng.
Rồi cuộc tổng tấn công Mùa Hè năm 1972 của Cộng quân lại diễn ra sau khi Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam tại Hà Nội quyết định rằng Cộng quân phải lấn cho bằng được càng nhiều đất càng tốt, giành cho bằng được càng nhiều dân càng hay để họ có thể chiếm lợi thế trên bàn hội nghị bốn bên lâm chiến đang diễn ra tại Paris, Pháp, nhằm “chấm dứt chiến tranh, lập lại ḥa b́nh” tại Miền Nam Việt Nam. Dù bị tấn công bất th́nh ĺnh và bước đầu bị mất đi thành phố Quảng Trị tại Vùng 1 Chiến Thuật và quận (chi khu) An Lộc tại Vùng 3 Chiến Thuật, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, một lần nữa, lại cả thắng trong “mùa Hè đỏ lửa” ấy, lấy lại hầu hết những đất đai và dân chúng đă mất vào tay Cộng quân trước đó.
Hội nghị ḥa b́nh tại Paris kết thúc với Hiệp Định Paris (Ba Lê) 1973, theo đó chính quyền Nixon, v́ quá nóng ḷng muốn lấy lại các tù binh đang bị Cộng Sản Bắc Việt giam giữ cũng như để thỏa măn đ̣i hỏi phải chấm dứt chiến tranh và rút quân đội về nước của các nhóm phản chiến đang lên cao tại Mỹ, đă ép buộc chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa phải nhân nhượng nhiều điều hết sức thất lợi cho sự sống c̣n của Miền Nam Việt Nam sau này qua bản văn chung cuộc của Hiệp Định Paris 1973.
Cái chết của Miền Nam Việt Nam và cái chết của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa là hậu quả tất yếu của một cuộc chiến tranh trong đó cả hai bên lâm chiến đều không ai có đủ điều kiện -quân sự và chính trị- một ḿnh đứng ra đảm đương cuộc chiến mà phải nhờ đến các thế lực bên ngoài. Rồi khi một trong hai bên nào đó th́nh ĺnh bị đồng minh bỏ rơi -như trường hợp của Việt Nam Cộng Ḥa- th́ kẻ bị bỏ rơi đương nhiên phải thua trận.
V́ bị Hoa Kỳ bỏ rơi nửa chừng sau khi dân chúng và chính phủ của nước đồng minh này không chịu đựng nổi những tổn thất kéo dài về nhân mạng và tiền bạc trong cuộc chiến, Việt Nam Cộng Ḥa – hay Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa – đành phải chết đi một cách tức tưởi. (Ở đây, người viết thấy cần phải nói lên cảm nghĩ rằng phần đông những người lính Cộng Ḥa cũ, sau nhiều năm suy nghĩ về sự bỏ rơi kia, đă thôi không c̣n oán hận ǵ người bạn chiến đấu Mỹ năm xưa. Đại đa số dân chúng Miền Nam Việt Nam bây giờ đều hiểu rằng một dân tộc giàu có và đáng sống như dân tộc Mỹ mà dám hy sinh cả trên 50,000 mạng người -hầu hết là những thành phần trẻ ưu tú- trong cuộc chiến tranh bảo vệ tự do, dân chủ cho Miền Nam Việt Nam th́ ngần ấy những hy sinh là đă quá đủ rồi. (10)
Lẽ ra, những thanh niên Mỹ kia phải được quyền vui hưởng cuộc đời đầy ắp tương lai xán lạn nơi quê nhà thay v́ phải rời bỏ mái ấm gia đ́nh để rồi bỏ thân trên những chiến trường đèo heo, hút gió trong một cuộc chiến bị phần lớn thế giới v́ lầm mê mà lên án như thế. Hơn nữa, như bức tượng tại đài kỷ niệm chiến binh Việt-Mỹ tại Little Sài G̣n ở Orange County, Miền Nam California, đă cho thấy, chính nhờ những hy sinh xương máu cao cả và sự yểm trợ đắc lực của hằng trăm ngh́n chiến binh Mỹ trong hơn một thập niên dài chiến đấu mà người lính Cộng Ḥa đă có thể giữ vững tay súng đặng bảo vệ cái mầm dân chủ, tự do kia cho được vẹn toàn). Nhưng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa – hay những người lính Cộng Ḥa – khi chết đi, đă để lại một di sản vô giá cho toàn thể dân tộc Việt Nam, đó là mầm mống dân chủ, tự do ngay trong ḷng người dân Việt và trên khắp các ruộng đồng, phố xá, vườn tược, đường sá, cầu cống, chợ búa, nhà thương, học đường, chùa chiền, thánh đường, nhà thờ… tại Miền Nam Việt Nam.
Chính cái nếp sống tự do, dân chủ của dân chúng Miền Nam Việt Nam đă làm cho người dân trong Nam, ngay từ những ngày đầu Sài G̣n sụp đổ, không ngần ngại bác bỏ chủ nghĩa Cộng Sản từ ngoài Bắc đem vào bằng cách hễ ăn gạo th́ nói ăn gạo, ăn bo-bo th́ nói ăn bo-bo, chứ không t́m cách dùng những mỹ từ để che đậy cái đói, cái khổ của ḿnh cho vừa ḷng quân thống trị. Chính cái nền kinh tế thị trường theo kiểu tư bản của Miền Nam Việt Nam đă đánh gục hầu hết những mô thức kinh tế theo kiểu công trường, hợp tác xă, xí nghiệp quốc doanh, bù lỗ, bao cấp… của Cộng Sản Việt Nam. (11) Và, trên một chừng mực nào đó, chính các sinh hoạt tự do, dân chủ đa đảng của Miền Nam Việt Nam từ trước năm 1975 đă dạy cho một số không nhỏ cán bộ, viên chức Cộng Sản Việt Nam dần dần biết thản nhiên từ bỏ Đảng tịch, từ bỏ chức vụ để đứng về phía dân chúng đối kháng chế độ Cộng Sản độc đảng, đ̣i tự do, dân chủ đa nguyên trên cả hai miền Nam, Bắc như hiện nay.
“Mây ngậm ngùi xuống thấp, Hồn kiêu hănh dâng cao.”
Các anh là những người chiến binh “bất tử.”
“Anh không chết đâu Anh” trong ḷng một Việt Nam tự do, dân chủ
Những ǵ sẽ xảy ra nếu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa và tiền thân của quân đội này không hiện hữu hay quân đội này phải bị tan ră ngay từ các thời điểm 1954, 1963, 1965, 1968, hoặc ngay cả vào năm 1972? Điều kỳ diệu là, ngay cả trong những giờ phút khó khăn nhất của Miền Nam Việt Nam khi cuộc chiến tranh xâm lược và phá hoại của Cộng Sản đang lên tới cao điểm với những cuộc tấn công liên tục ngoài chiến trường và những chiến dịch gây xáo trộn cùng bất ổn triền miên trong quần chúng ở hậu phương, dân chúng Miền Nam, dưới sự bảo vệ vững chắc và nhờ những hy sinh vô bờ bến của người lính Cộng Ḥa nơi tuyến đầu khói lửa cũng như trên khắp các mặt trận khác, vẫn có được cái xa xỉ là tiếp tục sinh hoạt b́nh thường, tiếp tục mua bán, kinh doanh làm giàu, và tiếp tục ăn học thành tài để trở thành những chuyên gia rường cột của đất nước mai sau.
Và điều may mắn lớn lao nhất cho dân tộc là sự thể quân đội này đă thoát hiểm và sống c̣n đến trên hai thập niên, cũng vừa đủ thời gian cho mầm tự do, dân chủ đâm chồi và bén rễ trên quê hương Việt Nam khiến cho Cộng Sản Việt Nam ngày nay chỉ c̣n là một cái vỏ trống không, và tất cả những giáo điều cùng lư luận của chủ nghĩa Cộng Sản đều lâm vào ngơ bí khi các vị “thánh tổ” của chủ nghĩa này từ bên trời Âu lần lượt lăn đùng ra chết. Dĩ nhiên là Cộng Sản Việt Nam vẫn c̣n giữ lại một điều duy nhất, đó là nguyên tắc độc đảng, mà nếu họ lại bỏ đi nữa th́ cái câu “trong bụng mỗi người dân An Nam đều có một ông quan” – vốn do một quan chức thực dân Pháp nham hiểm thốt lên từ hồi đầu thế kỷ trước – hóa ra chẳng có ư nghĩa ǵ hết hay sao? (12)
Dẫu sao, ba thập niên sau ngày Việt Nam Cộng Ḥa sụp đổ, khi nghĩ về Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa và cái chết tuy đầy uất ức nhưng cũng đầy hào hùng của quân đội này vào ngày 30 Tháng Tư năm 1975, người ta vẫn thấy rằng cái tinh thần mà quân đội đó mang theo vào mỗi trận đánh, mỗi chiến trường trên khắp các nẻo đường đất nước từ Nam chí Bắc – xin đừng quên những Phạm Phú Quốc, Trần Thế Vinh, Nguyễn Văn Đương, Nguyễn Đ́nh Bảo, Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Nguyễn Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn… – vẫn c̣n sống măi trong ḷng dân tộc và sẽ là mầm phục sinh cho một đất nước và một dân tộc đă trải qua gần hết mọi cuộc bể dâu trong đời. Hay, nói như Nhật Trường Trần Thiện Thanh, một người lính Cộng Ḥa và cũng là một ca, nhạc sĩ tài hoa của nền âm nhạc Việt Nam hiện đại qua nhạc phẩm “Anh Không Chết Đâu Anh”: “Không, anh không chết đâu anh. Chưa, anh chưa chết đâu anh…”
Ghi chú:
(1) Bản tin của thông tín viên Reuters, Paul Eckert, từ Á Châu gởi đi ngày 5 Tháng Sáu, 2006, viết rằng Bộ Trưởng Quốc Pḥng Mỹ Donald Rumsfeld cho hay quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đă đạt tới một “mức độ mới” và rằng hai kẻ thù cũ trên chiến trường sẽ gia tăng những cuộc trao đổi quân sự và huấn luyện.
Ông Rumsfeld và Bộ Trưởng Quốc Pḥng Việt Nam Phạm Văn Trà đă đồng ư gia tăng “những cuộc trao đổi trên mọi cấp bậc quân sự và sẽ tăng cường thêm mối quan hệ quân sự giữa đôi bên qua nhiều cách.” Hai bên cũng đă đồng ư khởi sự việc huấn luyện y tế qua một chương tŕnh quân y do Ngũ Giác Đài đài thọ, và tăng cường hợp tác trong vấn đế tháo gỡ bom ḿn.
Các mối quan hệ quân sự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, 31 năm sau khi cuộc Chiến Tranh Việt Nam chấm dứt và 11 năm sau khi khởi sự b́nh thường hóa quan hệ đôi bên, đă nồng ấm dần dần với những cuộc viếng thăm bến cảng Việt Nam của các chiến hạm Hải Quân Hoa Kỳ. Ông Rumsfeld là vị bộ trưởng quốc pḥng thứ nh́ đến thăm viếng Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản kể từ khi đồng minh Nam Việt Nam sụp đổ vào năm 1975, với lần thăm viếng gần đây nhất của ông là vào năm 1995 tại Hà Nội với tư cách cá nhân. Các cuộc đàm phán quân sự giữa đôi bên diễn ra chưa đầy một tuần sau khi hai nước kư một thỏa hiệp mậu dịch mới dọn đường cho Việt Nam gia nhập Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới (WTO) vào cuối năm 2006.
(2) Các nhân vật bất đồng chính kiến và chống đối Cộng Sản Việt Nam từ sau cuộc thống nhất Nam-Bắc vào năm 1975 bao gồm Viện Trưởng Viện Triết Học Hoàng Minh Chính, Thượng Tọa Thích Quảng Độ, Thượng Tọa Thích Huyền Quang, Linh Mục Chân Tín, Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế, Tướng hồi hưu Trần Độ, nhà văn Dương Thu Hương… Các chức sắc và nhân vật Công Sản Việt Nam bỏ sang hàng ngũ người Việt tự do gồm có cựu Đại Tá Bùi Tín, phó tổng biên tập Báo Nhân Dân của Cộng Sản Việt Nam, Ông Vũ Thư Hiên, con trai của Ông Vũ Đ́nh Huỳnh (từng là bí thư của Chủ Tịch Hồ Chí Minh) và là tác giả Đêm Giữa Ban Ngày, quyển sách tố cáo những sai lầm và bê bối của các nhà lănh đạo Cộng Sản Việt Nam, Luật Sư Trương Như Tảng, cựu bộ trưởng Tư Pháp của chính phủ Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam (Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam) và Ông Vơ Nhân Trí, một nhà kinh tế và xă hội hàng đầu của chế độ Cộng Sản Việt Nam… Thêm vào đó, một số các sĩ quan cao cấp và giới lănh đạo cũ của Cộng Sản, kể cả cựu Tướng Trần Độ và cựu Thủ Tướng Vơ Văn Kiệt cùng các sĩ quan quân đội đă về hưu, hiện đang quay sang chỉ trích các chính sách sai lầm và độc đoán của nhà nước Cộng Sản Việt Nam, hoặc đ̣i hỏi phải có thêm nhiều cải cách sâu rộng hơn nữa trong nước, nhất là về mặt chính trị.
(3) Một điều mà những người Cộng Sản Việt Nam đă không tiên liệu được khi đánh chiếm Miền Nam Việt Nam -và sau đó vội vă thống nhất hai miền Nam-Bắc với nhau bất chấp sự can ngăn của cộng đồng thế giới, nhất là từ phía các chuyên gia kinh tế- là sức phá hoại mạnh mẽ của hệ thống xă hội tư bản tự do ở Miền Nam chống lại hệ thống xă hội theo kiểu Cộng Sản của Miền Bắc. Nói cách khác, chính cái xă hội tự do, cởi mở của Miền Nam -vốn nặng về thực tế vật chất và nhẹ về lư tưởng hay ư thức hệ- đă làm ung thối xă hội Miền Bắc khép kín -vốn nặng về lư tưởng quốc tế viển vông mà nhẹ về thực tế no cơm, ấm áo cho dân tộc ḿnh-rồi sau đó làm ung thối luôn toàn thể cái gọi là “con người xă hội chủ nghĩa” mà Ông Hồ Chí Minh và những kẻ nối nghiệp đă cất công xây dựng và trịnh trọng mang từ Miền Bắc vào Miền Nam, với ư nghĩ là sẽ làm khuôn mẫu cho dân “Nam kỳ” mà bề nào nom cũng có vẻ hiền lành hơn dân “Bắc kỳ.”
Sự thực là Sài G̣n, tiêu biểu cho Miền Nam Việt Nam, là một thành phố “bất trị” trong ư nghĩa nghiêm chỉnh nhất về kinh tế và xă hội. Nhà báo Tim Larimer, trong một bài báo đăng trên Tạp chí Time nhan đề “Sài G̣n Bay Vút” (Saigon Soars), số ra ngày 2 Tháng Sáu năm 1997, viết như sau về sức quật khởi của thành phố mang tên Sài G̣n hơn hai thập niên sau ngày thành phố này bị kẻ chiến thắng đổi tên: “Sau bao nhiêu năm dài, ít nhất cũng có một điều rơ ràng: những kẻ đến đây để ‘thuần hóa’ thành phố mănh hổ này (Sài G̣n) đành kết thúc số phận là để bị nó thuần hóa ḿnh. Và giờ đây, thành phố mănh hổ này đang gầm rống dữ dội với ḷng tự tin, không c̣n kiệt sức và bại trận nơi chiến trường nữa nhưng đă phục hồi sinh lực, giơ cao các móng vuốt lên khỏi những suy thoái và thảm họa đổi đời.”
Để hiểu nếp sống tự do, dân chủ ở Miền Nam Việt Nam đă gây khó khăn như thế nào cho việc phát triển chủ nghĩa xă hội tại Miền Nam, xin hăy đọc Steven Erlanger qua bài báo nhan đề “Việt Nam, Cạn Kiệt v́ Giáo Điều Chủ Nghĩa, Đang Cố “Tổ Chức Lại” Hệ Thống Cai Trị của Ḿnh” (Vietnam, Drained by Dogmatism, Tries a ‘Restructuring’ of Its Own), được đăng tải trên nhật báo The New York Times, số ra ngày 24 Tháng Tư năm 1989:
“Vào lúc Đại Hội Đảng lần thứ 6, hồi cuối năm 1986, đă rơ ràng là các nỗ lực của giới lănh đạo Việt Nam nhằm chuyển đổi nền kinh tế tư bản dựa trên thị trường của Miền Nam sang nền kinh tế cộng sản cổ điển của Miền Bắc đă là một thất bại thê thảm. Cả hai mô thức quốc hữu hóa và tập thể hóa kinh doanh đều đă bị cưỡng chống mạnh mẽ… Và những vi phạm đạo đức của Đảng ngày càng gia tăng khi những cán bộ từ Miền Bắc vào đă bị Miền Nam dụ dỗ làm bậy.”
(4) Seth Mydans, trong một bài báo được đăng trên tờ The New York Times hồi Tháng Năm năm 2000, viết như sau về thành phố Sài G̣n trong lễ kỷ niệm gọi là “25 năm giải phóng miền Nam” lồng trong cảm nghĩ của vài nhân vật từng công khai ủng hộ cuộc chiến tranh được mệnh danh là “kháng chiến chống Mỹ, cứu nước” của Cộng Sản gần ba thập niên trước đây:
“Người ca sĩ đứng tuổi với mớ tóc dài và nhà họa sĩ để râu vừa lắc lắc mấy cục nước đá trong chiếc ly của ḿnh vừa suy gẫm về sự chuyển ḿnh của đất nước họ.
“Cũng như những chiến sĩ dạn dày tuổi lính và các cựu chiến binh từng diễn hành sáng nay với mề-đay trên ngực, hai nhân vật này -các anh hùng chống chiến tranh năm xưa-nói về ḥa b́nh, về những tiến bộ và về tinh thần quốc gia hôm nay vào dịp kỷ niệm năm thứ 25 ngày cuộc Chiến Tranh Việt Nam chấm dứt…
“Tiếng nhạc rốc vang động dội lại từ phía một đại lộ thời Pháp thuộc, trong khi hằng chục ngh́n dân chúng đi dạo chơi nhân ngày nghỉ lễ đă làm nghẽn kẹt các con đường ở trung tâm cái thành phố thay đổi nhanh chóng này, thành phố mà trước kia là Sài G̣n.
“Nhưng hai người bạn đồng chí này, cạnh chai rượu uưt–ki hầu như đă cạn, dường như không thể tách ḿnh ra khỏi một h́nh ảnh vẫn mải ám ảnh họ: h́nh ảnh một Mỹ kiều giàu có đi bộ trên đường phố, tay trong tay cùng với một phụ nữ Việt Nam xinh đẹp.
“Theo lời ca sĩ Trịnh Công Sơn th́, trong thời chiến trước đây, h́nh ảnh đó tiêu biểu cho cái nghèo nàn của đất nước và sự suy đồi trong đạo lư, mặc dù đó vẫn là một h́nh ảnh lăng mạn v́ ông cũng phải nh́n nhận là có thể có t́nh yêu trong đó.
“Nhưng bây giờ, theo lời Trịnh Cung, nhà họa sĩ, đây là ví dụ nổi bật nhất về tính thực tiễn và ham chuộng vật chất hiện đang cấu xé tâm hồn Việt Nam: ‘Lấy tiền, càng nhiều càng tốt, là điều dân chúng mong muốn. Họ muốn có một cuộc đời mới, một cuộc sống mới giàu sang, và thẳng thắn mà nói, họ không cần biết xă hội phê b́nh như thế nào về họ.’” (Seth Mydans. “An Ageless Saigon Basks in Peace” [Một Sài G̣n Chẳng Hề Già Tắm Ḿnh trong Ḥa B́nh]. The New York Times, 1 Tháng Năm, 2000.)
(5) Thông Tấn Xă Reuters, trong bản tin đánh đi ngày 1 Tháng Hai, 2006, cho hay các nhà lập pháp Hoa Kỳ đă nói tại phiên nhóm khởi đầu của khóa họp nhằm cứu xét các luật lệ khống chế bớt các công-ty Mỹ đang hoạt động tại các nước có chế độ đàn áp dân chúng rằng các công-ty đó đă giúp Trung Quốc kiểm duyệt mạng lưới Internet& Uy Hội Nhân Quyền Quốc Hội đă nghe các chuyên gia nói về cách thế những công-ty khổng lồ như Google Inc., Yahoo Inc., Microsoft Corp., và Cisco Systems Inc. đang làm cho công việc canh chừng mọi hoạt động quần chúng của 30,000 cảnh sát Internet tại Trung Quốc trở nên dễ dàng hơn.
Trong một bản tin khác vào ngày 15 Tháng Hai, Hăng Reuters cho biết thêm rằng “từ mấy tháng qua, Yahoo Inc. đă hai lần bị cáo buộc là cung cấp bằng cớ cho nhà cầm quyền (Trung Quốc) bắt bớ và buộc tội chính trị hai khách hàng người Trung Quốc của dịch vụ Internet do công ty Hoa Kỳ này cung cấp.
(6) Cộng Sản Việt Nam, cũng như Cộng Sản Trung Quốc, có thể là v́ tự ái – kiểu Fidel Castro – nên đă không công khai nh́n nhận sự phản bội ư thức hệ này, và dường như họ vẫn cứ muốn dân chúng trong nước tiếp tục tin rằng họ vẫn c̣n trung thành với chủ nghĩa Cộng Sản và thế giới cứ tiếp tục gọi họ là Cộng Sản, chứ không phải bằng một danh hiệu nào khác. Tính thực tiễn cao độ (và không c̣n lư tưởng ǵ nữa) của người Việt Nam và người Trung Hoa thời nay bảo cho họ biết rằng “mèo đen hay mèo trắng, nèo nào cũng vậy thôi, miễn là nó bắt được chuột.”
Một du khách Mỹ từng đến viếng thăm Việt Nam, xưng danh là Jack, viết về chế độ Cộng Sản tại Việt Nam như sau trong một lá thư được đăng trên tờ The Quaker Economist hồi năm 2002: “Chính phủ (Việt Nam) chỉ c̣n là một chính phủ xă hội chủ nghĩa có trên danh xưng -và họ chỉ c̣n giữ lại một điều duy nhất là ‘độc đảng’ mà thôi.” (Jack. “Listening to Vietnam” [Lắng Nghe Việt Nam]. The Quaker Economist, 11 Tháng Mười, 2002.)
(7) Theo các tài liệu lịch sử, Việt Nam nổi tiếng “mê” Mỹ không phải chỉ từ cuộc Chiến Tranh Việt Nam trở đi nhưng là kể từ thời Ông Hồ Chí Minh c̣n cộng tác với t́nh báo Mỹ (Office of Strategic Services, OSS) chống quân chiếm đóng Nhật Bản tại Bắc Việt hồi Thế Chiến Thứ 2, với việc Ông Hồ xin được Mỹ giúp lấy lại độc lập cho Việt Nam từ tay thực dân Pháp -nhưng, rủi thay, lúc đó Mỹ vẫn c̣n “mê” Pháp lắm nên đă làm ngơ- và việc Ông Hồ lấy ư và lời văn từ bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ để lồng vào bài diễn văn đọc trong ngày 2 Tháng Chín năm 1945 là ngày ông và phong trào Việt Minh tuyên bố nền độc lập của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa tại Hà Nội.
Năm 1999, nhân chuyến quân đội Mỹ đến Việt Nam để cứu trợ nạn nhân băo lụt lần đầu tiên kể từ cuộc Chiến Tranh Việt Nam, Đại Sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, là Lê Văn Bằng, có phát biểu như sau: “Hoa Kỳ là nước số một trên thế giới mà chúng tôi (Việt Nam) cần tới để trợ giúp chúng tôi trong các vấn đề an ninh, trong các vấn đề quân sự cũng như trong các vấn đề kinh tế… Nhưng dẫu sao th́ dư âm của cuộc chiến (vừa qua giữa đôi bên) vẫn chưa phai tàn.” (Elizabeth Becker trích dẫn trong “Vietnam Circles Slightly Closer to Military Ties to U.S.” [Việt Nam Nhích Gần Hơn Chút Nữa tới Quan Hệ Quân Sự với Mỹ]. The New York Times, 17 Tháng Tư, 2000.)
Hồi năm 1997, cũng trên tờ The New York Times, có một bài báo của Craig R. Whitney nói về ảnh hưởng áp đảo của nếp sống tư bản tại Miền Nam đối với Miền Bắc, đặc biệt là với Hà Nội:
“Sài G̣n, như hầu hết số 5 triệu dân sinh sống tại đây vẫn c̣n gọi nơi này bằng cái tên đó, theo lẽ th́ đă phải biến thành Hà Nội sau khi những người Cộng Sản Việt Nam thắng cuộc chiến tranh tại Việt Nam hồi năm 1975. Thay vào đó, Hà Nội nay đă trở thành Sài G̣n& Ngoại trừ chuyện không có bóng dáng các chàng GI (lính Mỹ), Hà Nội hiện nay sống và phô bày bộ mặt ḿnh trước toàn thể thế giới y hệt như Sài G̣n ngày xưa vậy -một đô thị cuồng nhiệt, đang biến h́nh và đang được những động lực
mạnh mẽ ngoài ṿng cương tỏa thúc đẩy.” (Craig R. Whitney. “Hanoi Now, Meet Saigon Then” [Hà Nội Bây Giờ Cũng Như Sài G̣n Năm Xưa]. The New York Times, 28 Tháng Mười Hai, 1997.)
(8) Seth Mydans viết trên tờ The New York Times: “Mặc dù những hệ lụy của cuộc chiến, Việt Nam coi bộ vẫn bị thu hút v́ Mỹ quốc. Có lúc, dường như toàn bộ đất nước này đang ra sức học tiếng Anh, thứ ngôn ngữ của giao thương. (Seth Mydans. “Vietnam Finds an Old Foe Has New Allure” [Việt Nam Thấy Kẻ Thù Cũ Có Hấp Lực Mới]. The New York Times, 13 Tháng Tư, 2000.)
(9) Xem lại Craig R. Whitney: “Sài G̣n, như hầu hết số 5 triệu dân sinh sống tại đó vẫn c̣n gọi nơi này bằng cái tên đó, theo lẽ th́ phải biến thành Hà Nội sau khi những người Cộng Sản Việt Nam thắng cuộc chiến tranh tại Việt Nam hồi năm 1975. Thay vào đó, Hà Nội nay đă trở thành Sài G̣n.” (Craig R. Whitney. “Hanoi Now, Meet Saigon Then” [Hà Nội Bây Giờ Cũng Như Sài G̣n Năm Xưa]. The New York Times, 28 Tháng Chạp, 1997. Tài liệu đă dẫn.)
(10) Những tài liệu mới nhất cho biết tổng số quân nhân Mỹ hy sinh trên các chiến trường tại Miền Nam Việt Nam, Miền Bắc Việt Nam, Lào và Cambodia trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam là 58,000. Một số ít các quân nhân khác vẫn c̣n bị coi là mất tích v́ chưa kiểm kê được.
(11) Cũng trong bài báo nhan đề “Việt Nam, Cạn Kiệt v́ Giáo Điều Chủ Nghĩa, Đang Cố ‘Tổ Chức Lại’ Hệ Thống Cai Trị của Ḿnh” (Vietnam, Drained by Dogmatism, Tries a ‘Restructuring’ of Its Own) trên nhật báo The New York Times, số ra ngày 24 Tháng Tư năm 1989, Steven Erlanger lại viết: “Chính sách nông nghiệp mới hiện nay là tái phân phối đất đai đă bị hợp tác hóa trước đây cho từng gia đ́nh riêng rẽ đặt căn bản trên các khế ước mới mang tính lâu dài, với nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước được ấn định sẵn. Chính phủ khuyến khích cá nhân đầu tư vào kinh doanh, và chính phủ cũng hứa hẹn rằng người dân cùng con cái họ có thể tiếp tục quyền sở hữu những ǵ họ đă làm ra.”
Trong một bài báo trên tờ The New York Times hồi năm 2000, Seth Mydans viết: “Dennis de Tray, đại diện cao cấp tại Việt Nam của Quỹ Tiền Tệ Thế Giới (IMF), nói rằng đất nước này (Việt Nam) có kiểu mẫu thành công riêng của họ để phô trương khi họ mở ngỏ nền kinh tế -đó là một quyết định được đưa ra cách nay một thập niên-chấm dứt hợp tác hóa nông nghiệp& Rồi Ông de Tray đưa ra nhận xét: ‘Họ đi từ t́nh trạng suưt chết đói tới vị trí của một nước xuất cảng gạo lớn hàng thứ nh́ trên thế giới hầu như chỉ qua một đêm thôi’.” (Seth Mydans. “Vietnam Finds an Old Foe Has New Allure” [Việt Nam Thấy Kẻ Thù Cũ Có Hấp Lực Mới]. The New York Times, 13 Tháng Tư, 2000. Tài liệu đă dẫn.)
(12) Kẻ được coi là đă đưa ra câu nói “trúng tim đen” của dân Việt Nam kia là Alexandre Varrène, Công Sứ Pháp tại Bắc Kỳ, một quan cai trị thực dân nổi tiếng lỗi lạc v́ thông hiểu cả tiếng Việt lẫn chữ Hán (Nho) và chữ Nôm. Trên cương vị đại diện hành chánh của mẫu quốc tại xứ Bắc Kỳ nằm dưới quyền trực trị của Pháp hồi thập niên 1920, Ông Varrène đă có rất nhiều cơ hội để tiếp xúc và t́m hiểu tâm tư cũng như t́nh cảm của người dân An Nam bị trị tại vùng đất vẫn luôn được coi là chiếc nôi của nền văn hóa Việt Nam. Dĩ nhiên là với cá tính thiên bẩm đó, một người Việt Nam lúc nào cũng tài giỏi tương đương với một người Nhật Bản -mà bây giờ cũng có thể là một người Trung Quốc hay một người Hàn Quốc-nhưng hai người Việt Nam trở lên th́ ta đành chịu thua thiên hạ, đơn giản chỉ là v́ ta thiếu tinh thần đoàn kết -nhất là vào những lúc đang có quyền lợi và không phải đối diện với nguy biến- và chỉ thích làm anh hùng cá nhân mà thôi.
Nguồn người viêt.com
hoanglan22
03-19-2019, 04:22
“Chiều nay có một loài hoa vỡ bên trời
Đợi mùa Xuân sang tô… màu nhớ”https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1352427&stc=1&d=1552968610
Trong hai thập niên (1954-1975) nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông phục vụ trong QLVNCH đă nổi tiếng nhiều ca khúc trữ t́nh, đặc biệt với ảnh người lính giữa thời chinh chiến. Trải qua nhiều thập niên, những t́nh khúc của ông từ lúc sáng tác cho đến nay ở hải ngoại vẫn làm rung động trái tim khi thưởng thức.
Nguyễn Văn Đông là một nhạc sĩ thành danh của ḍng nhạc t́nh ở Sài G̣n trước 1975, tác giả của nhiều ca khúc nổi tiếng. Ông c̣n một vài bút danh khác như Phượng Linh, Phương Hà, Đông Phương Tử, V́ Dân, Hoàng Long Nguyên…
Trong bài viết của Trường Kỳ “Nguyễn Văn Đông: Giữa Binh Nghiệp & Âm Nhạc” đề cập đến cuộc đời binh nghiệp:
“Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông sinh ngày 15 tháng 3 năm 1932 tại quận Nhất, Sài G̣n. Nguyên quán ông bà, cha mẹ ông ở huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Thuở nhỏ ông theo học trường Huỳnh Khương Ninh ở Đa Kao. Khi đất nước gặp phải những biến động lớn lao vào năm 1945, gia đ́nh ông bị liệt vào thành phần địa chủ, cường hào nên lâm vào cảnh khuynh gia bại sản, gia đ́nh ly tán. Do đo, tuổi thơ của ông là người con duy nhất trong gia đ́nh cũng bị vùi dập để cuốn theo thời cuộc lúc bấy giờ.
Sau khi trường Trung Học Hùynh Khương Ninh đóng cửa, ông tự ư xin gia nhập trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Đó cũng là nơi đào tạo nhiều vị tướng lănh tài ba của Quân Đội VNCH. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đă trải qua 5 năm theo học ở ngôi trường này.. Và chính tại đó ông đă được học nhạc và văn hóa với những giáo sư người Pháp có thực tài. Đó là những giảng viên của Viện Âm Nhạc Quốc Gia Pháp được cử về trường Thiếu Sinh Quân giảng dạy. Trong thời gian ông theo học tại trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam, Nguyễn Văn Đông là một thành viên của Ban Quân Nhạc Thiếu Niên, khi mói lên 15 tuổi: “Trường Thiếu Sinh Quân có riêng một đoàn quân nhạc trên 40 người có tầm vóc của người lớn, nhưng lại do chính những em Thiếu Sinh Qưân chưa quá 16 tuổi đời cử hành nhạc và do một giáo sư nhạc trưởng người Pháp chỉ huy. Đoàn quân nhạc của chúng tôi có những nhạc sĩ tí hon có mặt trong những buổi lễ duyệt binh, diễu hành quan trọng một cách đường hoàng như các đoàn quân nhạc chuyên nghiệp người lớn”.
Với đoàn quân nhạc tí hon này, ông sử dụng nhiều nhạc khí như: trompette, clairon, trống, chập chả, vv… Nhưng một cách chuyên nghiệp hơn là ông sử dụng đàn madoline và guitare Hawaiienne trong ban nhạc nhẹ của trường.
Nhờ sống trong một môi trường âm nhạc sôi động như vậy trong trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam, Nguyễn Văn Đông đă có dịp học sáng tác từ những giáo sư người Pháp. Kết quả là ông đă viết được những ca khúc đầu tiên ở tuổi 16 như Thiếu Sinh Quân Hành Khúc, Tạm Biệt Mùa Hè…
Những nhạc phẩm này đă đuợc nhà trường chấp thưận cho phổ biến và được rất nhiều bạn bè ưa thích. Ông cho biết cho đến nay tuy đă gần 60 năm sau, nhưng khi ông gặp lại một số bạn bè, những người này vẫn c̣n thuộc nằm ḷng những ca khúc này và hát lại cho nhau nghe như những kỷ niệm khó quên của thời niên thiếu.
Trong suốt 5 năm theo học ở trường Thiếu Sinh Quân, ông luôn luôn đoạt giải giọng ca hay nhất toàn trường…” (TK).
Ghi chú thêm: Cuối năm 1951, sau khi ra trường Thiếu Sinh Quân, Nguyễn Văn Đông nhập ngũ vào Quân Đội Quốc Gia, mang số quân: 52/120.117, theo học khóa 4 trường Vơ Bị Địa Phương Nam Việt Vũng Tàu (c̣n gọi là Trường Vơ Bị Cap Saint Jacques). Tháng 10 năm 1952, măn khóa tốt nghiệp thủ khoa với cấp bậc Thiếu Úy. Qua năm 1953, được cử đi học khóa huấn luyện Đại Đội Trưởng tại trường Vơ Bị Đà Lạt. Cũng năm này, ông có chân trong ban giám khảo chấm thi khóa Vơ Bị Đà Lạt 1953 do Quốc Trưởng Bảo Đại chủ tọa lễ bế giảng khóa.
Năm 1954, ông được gửi ra Hà Nội theo học khóa Tiểu Đoàn Trưởng tại Trung Tâm Chiến Thuật Hà Nội. Ra trường, ông được giữ chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng TĐ Trọng pháo 553 và là Tiểu Đoàn Trưởng trẻ nhất của Quân Đội Quốc Gia khi mới 22 tuổi. Sau Hiệp định Genève 1954, di chuyển vào Nam, được thăng cấp Trung Úy, phục vụ tại Phân Khu Đồng Tháp Mười với chức vụ Trưởng Pḥng Hành Quân, dưới quyền Đại Tá Nguyễn Văn Là.
Đầu tháng 11 năm 1955, ông chuyển biên chế sang Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa, được cử chức vụ Trưởng Pḥng 3 của Phân Khu Đồng Tháp Mười. Năm 1956 ông tham gia Chiến Dịch Thoại Ngọc Hầu, h́nh ảnh ông được đăng trên b́a báo Chiến Sĩ Cộng Ḥa. Cuối năm 1957, ông được cử đi du học khóa Chỉ Huy Tham Mưu tại tiểu bang Hawaii, Hoa Kỳ. Ngày Quốc khánh Đệ Nhất Cộng Ḥa 26 tháng 10 năm 1959, ông được thăng cấp Đại Úy.
Sau ngày 1/11/1963, ông được thăng cấp Thiếu Tá và được chuyển về Bộ Tổng Tham Mưu phục vụ ở Khối Lănh Thổ. Ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm 1968, ông được thăng cấp Trung Tá phục vụ trong Khối Lănh Thổ. Ngày Quốc Khánh Đệ Nhị Cộng Ḥa 1 tháng 11 năm 1972, ông được thăng cấp Đại Tá làm Chánh Văn Pḥng cho Tổng Tham Mưu Phó. Ông đă ở chức vụ này cho đến cuối tháng 4 năm 1975. (Trung Tướng Nguyễn Văn Là, Tổng Tham Mưu Phó đặc trách B́nh Định & Phát Triển kiêm Tư Lệnh Địa Phương Quân & Nghĩa Quân. V́ vậy Đại Tá Nguyễn Văn Đông coi như người thân tín).
Ông từng được nhận huy chương cao quí nhất của Việt Nam Cộng Ḥa là Bảo Quốc Huân Chương vào giữa thập niên 60…
Trong sinh hoạt văn nghệ, từ năm 1958, Nguyễn Văn Đông là Trưởng ban ca nhạc Tiếng Thời Gian của Đài Phát Thanh Sài G̣n… Năm 1959, Nguyễn Văn Đông là Trưởng ban tổ chức đại hội thi đua Văn Nghệ Toàn Quốc, đă quy tụ trên 40 đoàn văn nghệ đại diện cho cả miền Nam cùng tranh giải suốt 15 ngày đêm tại Sài G̣n. Ông cũng từng nhận giải âm nhạc quốc gia vào cuối thập niên 50.
Tuy phục vụ trong quân ngũ, Nguyễn Văn Đông c̣n là Giám đốc hăng băng đĩa nhạc Continental và Sơn Ca nổi tiếng, cộng tác với những nhạc sĩ tên tuổi như Lê Văn Thiện, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi, Y Vân…. cho ra đời nhiều chương tŕnh ca nhạc, các vở tuồng, cải lương. Chính Nguyễn Văn Đông là người đă tiên phong thực hiện album riêng cho từng ca sĩ mà trước đó chưa từng ai làm. Ông đă thực hiện loạt băng nhạc Sơn Ca nổi tiếng…
Là sĩ quan cao cấp trong Quân Lực Việt Nam Công Ḥa với cấp bậc Đại Tá. Ông đă viết nhiều nhạc phẩm về người lính miền Nam khi đó như Chiều Mưa Biên Giới, Phiên Gác Đêm Xuân, Mấy Dặm Sơn Khê, Khúc T́nh Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Lá Thư Người Lính…
Theo lời tác giả “bản nhạc Chiều Mưa Biên Giới được viết vào năm 1956. Khi ấy tôi là Trung Úy Trưởng pḥng hành quân của chiến khu Đồng Tháp Mười là người có trách nhiệm đề ra những phương án tác chiến. Lần đó tôi dẫn đầu một nhóm biệt kích bí mật đi điều nghiên chiến trường dọc theo biên giới Miên-Việt và Đồng Tháp Mười. Trên đường về, anh em chúng tôi lâm vào cảnh trời chiều gió lộng, mưa gào như vuốt mặt. Giữa cánh đồng hoang vắng tiêu sơ, lối vào tiền đồn th́ xa xôi, thoáng ẩn hiện những nóc tháp canh mờ nhạt ở cuối chân trời. Và từng chập gió buốt kéo về như muới sát vào thịt da. Từ trong cảnh ấy, tận đáy ḷng ḿnh đă nghe nẩy lên những cung bậc rung cảm, những trường canh đầu tiên buồn bă cho bài Chiều Mưa Biên Giới anh đi về đâu…”
Chiều Mưa Biên Giới -Nguyễn Văn Đông -Hà Thanh
23UFgOCE9F8
Sau tháng Tư năm 1975, Nguyễn Văn Đông trải qua 10 năm lao tù và được trả về ngày 01 tháng Giêng, 1985 với lư do: “Đương sự bị bệnh sắp chết, nên cho phép gia đ́nh đem về nhà chôn cất!”
Sau khi ra tù Nguyễn Văn Đông chia sẻ “Khi trở về nhà, tôi mang theo nhiều chứng bệnh trầm trọng, tinh thần và thể xác bị suy sụp…”. Và niềm an ủi khi lập gia đ́nh với người bạn đời - chị Thu trước năm 1975 nhân viên của hăng đĩa Continental do ông làm giám đốc - có một cửa hàng bán bánh ḿ, thịt nguội với nhiều lọai kẹo bánh dưới tên Nhiên Hương ở Phú Nhuận, nguồn thu nhập của hai vợ chồng người nhạc sĩ suốt mấy thập niên qua. Năm 1990, diện H.O cho cựu Tù Nhân Chính Trị định cư tại Hoa Kỳ, Nguyễn Văn Đông không đi với suy nghĩ của ông “Do những căn bệnh ngặt nghèo tưởng như ‘hết thuốc chữa’ và do tinh thần suy sụp đến tột cùng, có lúc tôi đă nghĩ rằng ḿnh không c̣n sống được bao lâu nữa nên chẳng c̣n thiết tha bất cứ chuyện ǵ, chỉ muốn từ bỏ tất cả để được thảnh thơi yên nghỉ ở cuối đời’’. Vẫn theo lời nhạc sĩ “Không hiểu do đâu, mà Trời Phật đă nh́n lại ông và, cho ông sống, dù là một đời sống ‘rất lê lết’ cho đến ngày hôm nay”.
*Ca Khúc Mùa Xuân
* Phiên Gác Đêm Xuân
Phiên Gác Đêm Xuân
RoyJsY_GxX0
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông ghi lại hồi kư thời điểm sáng tác ca khúc nầy:
“Vào năm 1956, đơn vị tôi đóng quân ở Chiến khu Đồng Tháp Mười, được xem là mặt trận tiền tiêu nóng bỏng vào thời bấy giờ. Khi ấy, tôi mang cấp bực Trung Úy, mới 24 tuổi đời, c̣n bạch diện thư sinh. Tuy hồn vẫn c̣n xanh nhưng tâm t́nh đă nung trong lửa chín ở quân trường. Chính tại Đồng Tháp Mười, vùng đất địa linh nhân kiệt, đă gợi hứng cho tôi sáng tác những bản hùng ca như Súng Đàn, Vui Ra Đi, một thuở được hát vang trong chiến dịch Thoại Ngọc Hầu. Rồi tiếp sau đó là các bản nhạc Phiên Gác Đêm Xuân, Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ được ra đời cũng tại vùng đất thiêng này. Khi đi vào vùng hỏa tuyến, là chàng trai trẻ độc thân, với một mối t́nh nho nhỏ thời học sinh mang theo trong ba-lô, tôi bước nhẹ tênh vào cuộc chiến đầu đời.
Ngày đó Đồng Tháp Mười c̣n là đồng không mông quạnh, lau sậy ngút ngàn, dân cư thưa thớt, sống co cụm trên những g̣ đất cao giữa vùng đồng lầy nước nổi quanh năm. Người ở hậu phương lúc bấy giờ nh́n về Đồng Tháp Mười như là vùng đất bí hiểm với những huyền thoại Lúa Ma nuôi quân đánh giặc, về Tổng Đốc Binh Kiều, Thiên Hộ Vương thời chống Pháp qua những trận đánh lẫy lừng ở Găy Cờ Đen, G̣ Tháp mà chiến tích được tạc vào bia đá ở Tháp Mười Tầng c̣n lưu lại đến ngày nay.
Mùa Xuân năm đó, đơn vị tôi đóng trên G̣ Bắc Chiêng, có tên là Mộc Hoá, nằm sát biên giới Việt Nam – Campuchia, sau này là tỉnh lỵ Kiến Tường. Đơn vị của tôi đă có những cuộc giao tranh đẫm máu vào những ngày giáp tết trên những địa danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông B́nh, Cái Cái, Tân Thành. Dù vậy, mùa xuân vẫn có cánh én bay về trên trận địa và hoa sen Tháp Mười vẫn đua nở trong đầm dù bị quần thảo bởi những trận đánh ác liệt. Cứ mỗi độ Xuân về, sông Vàm Cỏ lại mang về từng đàn tôm cá từ Biển Hồ Tông Lê Sáp, vượt vũ môn theo đám lục b́nh trôi về vùng Tam Giác Sắt, như nhắc nhở Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Đồng Tháp Mười lập danh sách cho những người được về quê ăn Tết.
V́ c̣n độc thân nên tên tôi được ưu tiên ghi vào Sổ Nhật Kư Hành Quân và ở lại đơn vị trong những ngày Tết. Dù không ai nghĩ có đánh nhau ngày đầu năm nhưng quân lệnh phải được tuân hành nghiêm chỉnh. Trước ba ngày Tết, tôi được lệnh lên chốt tiền tiêu, tăng cường cho cứ điểm, mang theo chiếc ba-lô với chút hành trang lương khô, cùng tấm ảnh của người em gái hậu phương, cũng là cơ duyên sau đó để tôi viết nên bài t́nh ca Sắc Hoa Màu Nhớ.
Tiền đồn cuối năm, đêm 30 Tết, trời tối đen như mực, phút Giao Thừa lạnh lẽo hắt hiu, không bánh chưng xanh, không hương khói gia đ́nh. Tôi ngồi trên tháp canh quan sát qua đêm tối, chỉ thấy những bóng tháp canh mờ nhạt bao quanh khu yếu điểm như những mái nhà tranh, chập chờn dưới đóm sáng hỏa châu mà mơ màng về mái ấm gia đ́nh đoàn tụ lúc xuân sang. Thay cho lời chúc Tết là tiếng kẻng đánh cầm canh và tiếng hô mật khẩu lên phiên gác.
Vào đúng thời điểm giao thừa, ngọn đèn băo dưới chiến hào thắp sáng lên như đón chào năm mới th́ cũng là lúc những tràng súng liên thanh nổ rền từ chốt tiền tiêu. Khi ấy vào buổi tinh mơ của trời đất giao ḥa, vạn vật như ḥa quyện vào trong tôi, có hồn thiêng của sông núi, có khí phách của tiền nhân.
Tôi nghe tâm hồn nghệ sĩ của ḿnh rộn lên những xúc cảm lạ thường, làm nảy lên những cung bậc đầu tiên của bài Phiên Gác Đêm Xuân:
“Đón giao thừa một phiên gác đêm
Chào Xuân đến súng xa vang rền.
Xác hoa tàn rơi trên báng súng
Ngở rằng pháo tung bay
Ngờ đâu hoa lá rơi…”
Rồi mơ ước rất đời thường:
PK: “Ngồi ngắm mấy nóc cḥi canh
Mơ rằng đây mái nhà tranh
Mà ước chiếc bánh ngày xuân
Cùng hương khói vương niềm thương…
ĐK: Chốn biên thùy này xuân tới chi?
T́nh lính chiến khác chi bao người
Nếu Xuân về tang thương khắp lối
Thương này khó cho vơi, th́ đừng đến Xuân ơi!”
Lúc đó Bộ Thông Tin cấm phát hành v́ cho rằng lời ca mang tính tiêu cực như những ḍng thơ của Chế Lan Viên thời tiền chiến trong bài thơ Chiều Xuân:
“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi Xuân lại gợi thêm sầu?
Với tôi, tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!”
Bài Phiên Gác Đêm Xuân được ra đời trong hoàn cảnh như thế…, đánh dấu một chuỗi sáng tác của tôi về đời lính như Chiều Mưa Biên Giới, Mấy Dặm Sơn Khê, Sắc Hoa Màu Nhớ, Khúc T́nh Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Xin Đừng Trách Anh, Lá Thư Người Lính Chiến, Anh Trước Tôi Sau, Lời Giă Biệt…. Sau ngày 30 tháng Tư năm 75, các bản nhạc này cùng chung số phận tan tác như cuộc đời ch́m nổi của tôi…”.
******
Nhớ Một Chiều Xuân
-r-uopBjG0A
Ca khúc Nhớ Một Chiều Xuân, sáng tác để kỷ niệm chuyện t́nh lăng mạn với một thiếu nữ bản xứ khi đi tu nghiệp Khóa Chỉ Huy & Tham Mưu ở Hawaii năm 1957.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông viết ca khúc nầy để nhớ một người con gái mang quốc tịch Áo.. Họ đă gặp và yêu nhau tại quần đảo Hawaii. Ngày chia tay để trở về Việt Nam, ông đă thề ước là sẽ trở lại và không phụ t́nh cô gái. Nhưng rồi chiến tranh liên miên, ngày càng thêm ác liệt, ông đă không thể thực hiện lời thề hẹn của ḿnh. Cuộc t́nh ấy đă ly tan, với nỗi niềm:
“Chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ một người
Chạnh ḷng tôi khơi… bao niềm nhớ
Người nơi xa xăm phương trời ấy
Người c̣n buồn c̣n thương c̣n nhớ
Nắng phai rồi…. em ơi!
Chiều Xuân có một người ngơ ngác đi t́m
Một t́nh thương nơi… phương trời cũ
Chiều nay hoa Xuân bay nhiều quá
Chiều tàn dần phai trên ngàn lá
T́m đâu bóng… h́nh ai?
ĐK
Người vê c̣n nhớ… khúc hát
Người yêu dấu bên bờ thành Vienne
Ḷng này c̣n quyến… luyến măi
Đêm Xuân dài mà đâu có hay
Chiều nay có một loài hoa vỡ bên trời
Đợi mùa Xuân sang tô… màu nhớ
Dừng chân trông hoa Xuân hồng thắm
Buồn t́m về t́nh ai đằm thắm
Giờ vun vút trời mây!”
Trong ca khúc Mấy Dặm Sơn Khê mang h́nh ảnh nơi núi rừng Tây Nguyên với nỗi buồn:
“Bao ước mơ giữa khung trời phiêu lăng
Chờ mùa Xuân tươi sáng, nhưng mùa thắm chưa sang
Anh đến đây rồi anh như bóng mây
Chốn phương trời ấm lạnh, ḥa chung mái nhà tranh”
Cũng như ca khúc Chiều Mưa Biên Giới, Lá Thư Người Lính Chiến, ca khúc nầy mang h́nh ảnh nơi núi rừng Cao Nguyên với nỗi buồn nên một thời bị Bộ Thông Tin cấm v́ quá ủy mị, có vẻ “phản chiến” làm nhụt nhuệ khí của tinh thần chiến sĩ.
Nguyễn Văn Đông tâm sự: “Ông có những mùa Xuân buồn trong quăng đời thơ ấu, nhiều bất hạnh! Như gia đ́nh lâm cảnh tang thương. Người thân yêu ly tán trong chiến tranh, ông mất mùa Xuân tuổi thơ khi cha mẹ bị tù đày. Lớn lên đi lính, ông lại thường bị ứng trực vào mùa Xuân ở các đơn vị hẻo lánh….”. Hầu hết các ca khúc về Xuân với niềm vui nhưng dĩ văng đau buồn vẫn ám ảnh trong ḷng tác giả nên trang trải qua từng ca khúc.
Gia tộc Nguyễn Văn Đông là điền chủ ở huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Nơi đó có mối thân t́nh xóm giềng với gia đ́nh ông hương Cả. Năm 1945 “Cách Mạng Mùa Thu” bùng nổ, ông Hương Cả bị đưa ra trước ṭa án nhân dân; lănh bản án “cường hào ác bá” rồi bị xử bắn. Xác thả trôi sông. Thuở bé Nguyễn Văn Đông học trường Huỳnh Khương Ninh, phường Đakao, Tân Định, Sài G̣n. Năm 1945, 1946 loạn lạc, trường Huỳnh Khương Ninh đóng cửa. Cha mẹ nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông từ Sài G̣n tản cư về cố hương, bị liệt vào hàng “địa chủ ác ôn”. Ông bà bị bắt làm tù lao công khổ sai. Tịch biên tài sản, sung vào quỹ kháng chiến. Gia đ́nh ly tán. Cửa nhà tan nát. Ông Hương Cả có một cô con gái xinh đẹp. Hai bên gia đ́nh cùng giao ước kết thông gia khi hai trẻ lớn lên. Khi ấy Nguyễn Văn Đông và cô bé kia c̣n vị thành niên nên t́nh cảm trai gái của “thuở ban đầu” ngây thơ… Đôi trẻ trôi giạt, mỗi người một phương. Họ bặt tin nhau!… (Trong ca khúc Về Mái Nhà Xưa, Nguyễn Văn Đông nói lên niềm đau khi trở lại chốn xưa). Nhờ Trường Thiếu Sinh Quân được coi như mái nhà nuôi dưỡng “đứa con lạc loài” để tạo dựng cuộc đời trong quân ngũ và sinh hoạt văn nghệ.
Trong bài viết của Lê Hữu th́: “H́nh tượng người lính chiến, khắc họa qua ḍng nhạc Nguyễn Văn Đông, như được ‘nâng’ lên ở tầm mức cao hơn và đẹp hơn. Lư tưởng của những người trai anh dũng hiến thân v́ tổ quốc như được tô đậm hơn, chính nghĩa của cuộc chiến đấu gian khổ của quân dân miền Nam như được soi sáng hơn. Người đời, qua đó, thấy yêu mến và gần gũi hơn những người lính, thấy cảm kích và ngưỡng phục những hy sinh cao cả và thầm lặng của người chiến binh v́ nước quên ḿnh. Vậy th́ không thể nào không cám ơn ông, cám ơn người nhạc sĩ đă gieo vào ḷng người những mối cảm xúc sâu đậm, những ấn tượng đẹp và sắc nét về người lính và đời lính.
Chiến tranh đă đi qua, những bài nhạc lính như thế ngày nay ít c̣n được nghe hát, thế nhưng dư âm lời ca tiếng nhạc của một mùa chinh chiến ấy và h́nh tượng hào hùng của người lính chiến Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa vẫn c̣n đọng lại măi trong tâm tưởng biết bao người, như câu nói bất hủ của một danh Tướng Hoa Kỳ, Douglas MacArthur: "Những người lính già không bao giờ chết, họ chỉ nhạt mờ đi thôi" (Old soldiers never die, they just fade away).
Sau bao mùa tang thương dâu bể, sau bao nhiêu giông tố dập vùi, ‘người lính già Nguyễn Văn Đông’, vẫn một niềm tin sắt son vào hồn thiêng sông núi, vẫn chưa mất niềm tin vào vận mệnh đất nước, vẫn c̣n nguyên vẹn trái tim chàng lính trẻ Nguyễn Văn Đông nặng trĩu t́nh quê t́nh nước của những ngày đầu bước chân vào đời quân ngũ.
"Non nước ơi, hồn thiêng của núi sông
Kết trong ḷng thế hệ
Ngh́n sau nối ngh́n xưa…”
* Khúc Xuân Ca
Khác với các ca khúc đề cập ở trên, Khúc Xuân Ca như lời t́nh tự với người yêu. Là nhạc sĩ tài hoa, sĩ quan cao cấp trong QLVNCH, không thể nào thiếu bóng hồng “đi qua đời ông” nhưng Nguyễn Văn Đông rất kín tiếng chuyện t́nh yêu. Nhiều nhạc sĩ khi sáng tác ca khúc trữ t́nh thường nói lên h́nh bóng nào đó làm nguồn cảm hứng nhưng Nguyễn Văn Đông th́ ngược lại.
“PK: Em mùa Xuân hồng, gieo trên phím tơ đồng.
Cho đời mơ mộng, thả ư thơ chờ mong.
Em mùa trăng rằm, cho vương áng mây hồng.
Xin đừng thay ḷng, nhạt màu ái ân.
ĐK: Mùa xuân thay áo, hồng trên má hoa đào.
Vườn Xuân xôn xao, câu ái ân thầm trao.
Ḱa trong ánh xuân tươi, nhịp chân bước đôi mươi..
Nàng Xuân hé môi cười, nhạc ḷng nghe chơi vơi.
Em có hay chăng ḷng anh, trọn đời yêu em măi thôi.
PK: Em mùa Xuân hồng, cho anh vương tơ ḷng.
Xin bờ môi hồng, ư thắm chuyện trăm năm.
Xuân mùa tâm đồng, cho đôi lứa yêu thầm.
Tay cầm tay mừng, mùa Xuân ái ân…
Nào d́u nhau đi, mùa Xuân như ư”.
Khi nhạc sĩ “vương tơ ḷng” để “trọn đời yêu em măi măi” cho đến bây giờ vẫn là h́nh ảnh bí ẩn.
Ca khúc Dáng Xuân Xưa cũng mang niềm tâm sự mối t́nh dang dở như bóng dáng mùa Xuân đă đi qua cuộc dời tác giả:
“ĐK: Xuân sang lả lơi chợt thấy hoa cười
Nối duyên chạnh nhớ một người
Từ mùa Xuân trước tới bây giờ c̣n mơ
Xuân nào sánh vai cùng ngắm hoa đào
Ái ân nào chẳng lúc tàn
Vườn em thơm ngát chờ anh bước sang
PK: Xuân nay mang về kỷ niệm ngày xưa thênh thang
Bâng khuâng thấy hoa mỉm cười chạnh nhớ tới người
Đầu cành oanh ăn nói h́nh dáng Xuân xưa
ĐK: Em ơi ước mơ th́ cũng lỡ rồi
Trách nhau th́ cũng xa rồi
Ḷng ta lơ đăng mà Xuân vẫn sang…”
Tuy phục vụ trong quân đội, Nguyễn Văn Đông sáng tác một số ca khúc về người lính nhưng không mang màu sắc tuyên truyền như lối “phanh thây uống máu quân thù” mà chỉ tỏ bày niềm đau, nỗi buồn của người lính nơi tiền đồn, núi rừng… nhưng khi đổi đời “đứa con tinh thần” đó cũng bị hẩm hiu như cuộc đời tác giả. Nguyễn Văn Đông chia sẻ: “Rất tiếc một số bài hát tâm đắc không được nhà nước cho phép. Tôi hy vọng rồi đây theo thời gian mọi việc sẽ tốt đẹp hơn. Đặc biệt trong lănh vực văn hoá, văn nghệ, tôi nghiệm rằng những ǵ có giá trị nghệ thuật, dù bị vùi dập v́ sự ganh tỵ hay hiểu lầm, sẽ có ngày được mang trả lại vị trí đích thực của nó. Tôi chỉ tiếc đời người ngắn ngủi mà tôi đă phí phạm quăng thời gian dài 30 năm. Thật lấy làm tiếc!”.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, qua các bút hiệu khác đă sáng tác khoảng một trăm ca khúc từ tân nhạc đến tân cổ giao duyên. Trong phạm vi bài nầy chỉ đề cập vài ca khúc của ông liên quan đến h́nh ảnh mùa Xuân đă đi vào ḷng người trải qua nhiều thập niên.
QPO-y5NBTKI
hoanglan22
03-22-2019, 03:46
Năm 1981, khi tôi c̣n bị giam trong trại cải tạo Z30C Hàm Tân, Thuận- Hải, cứ vào buổi chiều, tôi cùng vài anh bạn tù lại ngồi quây quần bên nhau trên sạp xi măng, nhâm nhi từng ngụm cà phê chế bằng cơm cháy, ôn lại chuyện đời cho nhau nghe.
Hầu như bữa nào cũng vậy, dù trời tạnh ráo hay mưa băo dầm dề, thế nào chúng tôi cũng được nghe tiếng guitar thánh thót của một nhạc sĩ tay ngang Cựu Thiếu Tá Hồ Văn Hùng, gốc Cảnh-Sát Quốc-Gia và tiếng ca trầm buồn ảo năo của chàng ca sĩ ngang xương Cựu Thiếu Úy Nguyễn Văn Vinh gốc Biệt Cách Nhảy Dù.
Chúng tôi mất nước đă gần chục năm, xa nhà cũng đă gần chục năm, nên những lời buồn thảm, bi ai: “T́m đâu những ngày thơ ấu qua…”- “Những ngày xưa thân ái, xin trả lại cho ai…” vừa cất lên, th́ người đàn, người hát, người nghe cùng chạnh ḷng, nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ vợ, nhớ con, nhớ bạn bè, nhớ xóm giềng, và nhớ quê hương.
Anh nhạc sĩ Hồ Văn Hùng, xưa kia là Cảnh- Sát tỉnh Hậu-Nghĩa; nay bị giam cùng buồng, cùng đội lao động với tôi. Anh thuộc nhiều bài hát lắm. Tôi xin anh chép lại cho tôi trọn bộ lời Pháp của bài “Chanson d’Orphée”
Anh ta chỉ cần dạo nhạc cho tôi đôi lần, là tôi đă thuộc nhập tâm bài hát này ngay. Trong bài ca ấy, tôi thích nhất câu “Le ciel a choisi mon pays. Pour faire un nouveau paradis” (Thượng Đế đă chọn quê hương tôi để dựng lên một Tân Thiên Đường)
Ngày xưa Thượng Đế đă ban cho tôi một Thiên Đường, mà tôi lại vô t́nh không nhận ra, đó là đất nước Việt-Nam Cộng-Ḥa. Năm 1975 Thiên Đường của tôi đă không c̣n nữa.
Một năm sau ngày được thả, đầu Thu 1989 tôi gặp lại Hồ Văn Hùng trước một sạp báo cạnh nhà thương Sùng Chính, Chợ- Lớn. Khu này quy tụ khá nhiều dân gốc “Ngụy”: Một sạp báo do anh cựu nhân viên Phủ Đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo làm chủ, một thợ hớt tóc là cựu Hải quân Thiếu úy, kế đó là một ông già mài dao, mài kéo, xưa kia làm tới Phó Quận xuất thân từ trường Quốc-Gia Hành-Chánh.
Anh chủ sạp báo là bạn tù tôi quen trong thời gian bị giam giữ ở Z 30 D. V́ làm bạn với anh chủ sạp báo, nên dần dà tôi quen “lây” sang hai ông “Ngụy” kế bên. Lâu lâu tôi ghé chơi, thấy tóc tôi dài, ông Hải quân lại đè đầu tôi xuống hớt tóc giùm, không lấy đồng bạc nào.
Thấy yên sau xe đạp của Hùng chất đầy sách vở, tôi hỏi anh làm nghề quái quỷ ǵ mà nhiều sách thế th́ anh vênh mặt lên,
– Tớ đi dạy.
– Dạy nhạc hả?
– Nhạc ǵ?
– Th́ nhạc Việt, tân nhạc… hồi c̣n trong trại tù cậu và thằng Vinh Biệt Cách hay hát cho tớ nghe…
Hùng xua tay, lắc đầu quầy quậy,
– Tớ có biết nhạc với nhiếc con mẹ ǵ đâu? Guitar tớ học lóm, chẳng có thầy bà nào dạy cả! Nhạc lư, nhạc Pháp cũng làng nhàng. Hiện giờ tớ đi dạy Anh Văn!
Tôi nghi ngờ vặn lại,
– Anh Văn của cậu cỡ nào mà dám đi dạy?
Hùng cười h́ h́,
– Ối trời ơi! Sao cậu ngây thơ thế? Bộ suốt đời lính không lúc nào cậu bị ở vào cái thế lang bang, không chức vụ hả? Cứ lang bang không chức vụ là được gởi đi học. Tớ biết khối thằng có đầy bằng cấp chuyên môn chỉ v́ lư do không có chức vụ trong đơn vị nên cứ có lớp là bị tống đi học. Hồi xưa, lúc c̣n lang bang không chức vụ, tớ có dịp được đề cử theo học một khóa Anh Văn, rồi lại bị đưa đi học tu nghiệp ở Mă-Lai. Năm ngoái ra khỏi tù cải tạo, tớ kiếm hoài không ra việc, tưởng là phải chết đói. Ai ngờ gặp đúng lúc đổi đời, nhà nhà học Anh Văn, người người học Anh Văn. Tớ vội ôn lại văn phạm vài ngày là đi dạy kiếm cơm được rồi. Cả khu phố của tớ đều mù, tớ là thằng chột. Xứ mù, thằng chột làm vua! Tớ đếch cần làm vua, chỉ cần gạo thôi…
Tôi không phục cái ngai vàng trên nước mù và chột của người bạn thời đi tù cải tạo này, nhưng tôi thích tiếng đàn guitar của anh, thích giọng ca của Nguyễn Văn Vinh mà tôi đă được nghe trong những chiều buồn nơi lán trại của Z 30 C, Hàm-Tân năm nào.
Tôi kéo Hùng ngồi xuống bên bàn cờ tướng của ông thợ hớt tóc. Tôi giới thiệu Hùng với hai ông bạn “Ngụy” của tôi. Ông Hải quân mời Hùng uống trà; ông Đốc Sự cũng xúm vào góp chuyện. Hùng là người Huế, ông Đốc Sự cũng là dân Huế; chỉ vài phút sau hai ông đă ra chiều tương đắc.
Thấy trên tường có treo cây guitar của ông thợ hớt tóc, bên cạnh là cây đờn c̣ của ông mài dao kéo, giáo sư Hùng gật gù,
– Các cha ở đây có cả Tân, Cổ giao duyên vui quá há?
Nghe Hùng nói, tôi chợt nhớ chuyện xưa, nên cầm tay Hùng tôi khẩn khoản yêu cầu anh hát lại khúc “Những ngày thơ mộng” của Hoàng Thi Thơ cho tôi nghe.
Chiều ư tôi, ông giáo sư Anh Văn bỏ nón xuống bàn cờ tướng, ông uống cạn ly trà móc câu, ôm cây guitar kê lên đùi, so dây, lấy giọng, rồi bắt đầu: “T́m đâu những ngày thơ ấu qua? T́m đâu những ngày xanh như mộng?…
Khi Hùng vừa xuống giọng câu chót: “T́m đâu? Biết t́m đâu? đâu giờ…” th́ anh bắt ngay qua “Matin, fait lever le soleil…” (Buổi sáng, mặt trời lên…) của bài hát tiếng Tây “Chanson d’Orphée”
Hứng chí, ông thợ mài dao ôm cây đờn c̣ “í!a! í!a!…” phụ họa, c̣n ông thợ hớt tóc th́ hai tay thủ hai cái giũa sắt múa “cạch! cạch! cành! cành!…” trên thành cái chậu nhôm chứa nước như một tay trống điêu luyện, lành nghề.
Người qua đường dừng lại mua báo, khách của bác thợ mài dao, khách của bác thợ hớt tóc đứng ngây nghe các bạn tôi đàn hát. Tiếng hát năo nuột, tiếng guitar réo rắt, tiếng trống sắt rộn ràng, và tiếng đờn c̣ nức nở làm cho lá vàng rơi tới tấp trên đường Trần Hưng Đạo một chiều Thu năm 1989. Mấy bé con tan trường từ một lớp tiểu học gần đó x́ xào với nhau: “Nhạc vàng, nhạc ngoại, hay quá trời, lại nghe coi tụi bây ơi!”
Sau khi chấm dứt câu cuối, “Chante chante mon coeur. La chanson du matin. Dans la joie de la vie qui revient…”
(Hát lên, hát lên trái tim tôi. Bài hát của buổi mai. Trong niềm vui vừa trở lại…) th́ Hùng chợt hốt hoảng la toáng lên,
– Ủa chi rứa? Bà con làm chi rứa?
Th́ ra… bà con qua đường tưởng bốn thằng tôi là gánh hát dạo, họ bỏ tiền vào cái nón của giáo sư Hùng, cái nón nằm ngửa trên bàn!… cái nón đầy tiền loại 20 đồng màu tim tím…
Bốn anh cựu quân, cán, chính, Việt-Nam Cộng-Ḥa nh́n nhau, miệng mếu xệch.
Mười bốn năm sau khi Miền Nam sụp đổ, hàng trăm ngàn cựu tù cải tạo đă lẫn vào và như đă biến mất trong cái xă hội hỗn mang, hạ cám thượng vàng. Họ ch́m vào gịng đời dưới những bộ mă khác nhau: Ông Thiếu Úy Hải quân thành ông thợ hớt tóc; ông Thiếu Tá Cảnh Sát thành ông thầy dạy Anh Văn lưu động; ông Phó Quận Hành Chánh thành ông mài dao kéo; nhưng cái giá trị nhân bản tiềm ẩn trong con người họ vẫn c̣n đó. Trái tim họ vẫn không ngủ quên.
Cũng như trăm ngàn đồng ngũ Việt-Nam Cộng-Ḥa khác, ngày về của tôi cũng là ngày đầu một cuộc sống mới, đầy ngỡ ngàng. Sau đó, tôi cũng từ từ lẫn vào, và biến mất trong ḍng chảy của một xă hội hạ cám, thượng vàng. Tôi bắt đầu xây lại cuộc đời với một chiếc xe đạp thồ.
Cái xe đạp thồ của tôi quả là một con ngựa đa năng, đa dụng. Nó chẳng đ̣i ăn, đ̣i uống, nghỉ ngơi, giải trí, chuyện tṛ ǵ. Tôi chất bất cứ vật ǵ lên lưng nó, nó cũng im re, không than van nặng nhọc nửa lời. Nó giúp tôi buổi sớm tinh mơ chuyển hàng cho thân chủ từ Chợ-Lớn về Chợ Bến-Thành. Buổi tối, chở hàng từ Cầu Chữ Y sang đổ nơi bến xe Miền Đông. Trời nắng chang chang, nó chở tôi và một giỏ cá khô từ Sài-G̣n lên Thủ-Đức, len lỏi trong những con hẻm ngoằn ngoèo, để tôi rao bán lẻ từng kư cá khô, tôm khô.
Nó chở vợ chồng tôi từ Sài-G̣n đi Thủ -Đức tới nhà anh bạn Ngô Văn Niếu của tôi để họp mặt anh em cùng khóa 20 Vơ-Bị chào mừng mười cựu sĩ quan khóa 20 Vơ-Bị mới được tha, trong đó có tôi. Dịp này nơi băi cỏ đậu xe trước sân nhà anh Niếu, nó được đứng xếp hàng chung với những chiếc xe Dream, Honda, Vespa của các bạn tôi. Tôi thấy chiếc xe đạp thồ của ḿnh có vẻ “oai phong” không kém ǵ chúng bạn, v́ so chiều ngang, chiều dài, nó đâu có kém ai? Nh́n kỹ, tôi thấy nó c̣n có vẻ “phong trần bạt mạng” hơn mấy chiếc xe máy bóng loáng, kiêu sa, yểu điệu, của các ông bạn tôi nữa đó!
Tôi có anh bạn làm Trung Tá Cảnh Sát. Anh ấy và tôi được thả ra khỏi trại cải tạo cùng giờ, cùng ngày. Nhà anh bạn tôi ở gần Thảo Cầm Viên Sài-G̣n.
Mỗi lần tôi ghé thăm nhà anh, vừa thấy mặt tôi, bà mẹ anh đă đon đả gọi con,
– Bảo ơi! Có “Anh Long Xe Thồ” tới thăm con kia ḱa!
Trung Tá Cảnh Sát Phan Trần Bảo, Trưởng Ty Cảnh Sát tỉnh Phan-Thiết là bạn tôi; mấy chục năm sau anh ấy c̣n nhớ cái tên “Anh Long Xe Thồ” mà mẹ anh ta đă đặt cho tôi.
Trước ngày lên đường đi Mỹ định cư, nếu tôi ra khỏi nhà th́ thế nào con ngựa thồ của tôi cũng đi theo. Chỉ khi nào tôi lên rừng t́m vàng, đào thiếc, tôi mới chịu để nó ở nhà.
“Ngựa nào cũng là ngựa, xe nào cũng là xe!” vợ tôi thường an ủi tôi như thế, mỗi khi thấy tôi có vẻ áy náy mời nàng dời gót ngọc lên yên sau con ngựa thồ để tôi chở đi đây, đi đó. Nàng lúc nào cũng giản dị b́nh thường. Có tôi bên cạnh, vợ tôi hết lo âu, nh́n đời lúc nào cũng đẹp. Sau những chuyến đi dài ngày đào thiếc, t́m vàng trên Cao-Nguyên, tôi trở về Sài-G̣n; vợ chồng tôi lại chở nhau trên lưng con ngựa thồ, lang thang rong chơi quanh phố. Đường phố Sài-G̣n thời 1988-1990 thênh thang. Khu Nguyễn Cảnh Chân có nhiều giáo sư của Trường Trung Học Hưng Đạo, nơi đứa con gái thứ nh́ của tôi đang theo học. Qua những buổi họp phụ huynh học sinh, cô giáo hướng dẫn lớp con tôi đă quen mặt vợ tôi. Bà cũng biết rơ tôi là sĩ quan Việt-Nam Cộng-Ḥa đi tù cải tạo.
Chắc chắn h́nh ảnh chiếc xe đạp thồ của tôi bay lượn trong khu Cao Thắng, Nguyễn Cảnh Chân đă lọt vào những đôi mắt ṭ ṃ. Một hôm, con tôi về nhà sau buổi học, nó cười: “Sáng nay cô giáo hướng dẫn lớp con vừa hỏi con rằng ba của em đă về chưa? Con nói bố em mới về. Lúc đó cô giáo con mới nói cô có thấy một người đàn ông lạ chở má bằng xe đạp đi qua nhà cô.”
Đời sống riêng tư của những bà vợ trẻ của sĩ quan chế độ cũ luôn luôn là mục tiêu theo dơi ḍm ngó của xóm giềng. Những câu hỏi ḍ la, tọc mạch, chận đầu, bắt nọn như thế không thiếu trong xă hội này. Tôi chạnh nghĩ, qua mười mấy năm dài, xă hội đảo điên dưới chế độ mới, giá trị của nếp xưa Khổng Mạnh cũng c̣n là chút ǵ đáng giá cho người ta lưu tâm. Rồi tôi thấy thương vợ vô cùng. Chuyện xe đạp nổ lốp giữa phố đối với cặp uyên ương này là thường xuyên. Lốp xe nổ, th́ vợ chồng nắm tay nhau, dắt xe đi bộ, về nhà, vá lốp xe! Ngựa nào cũng là ngựa, xe nào cũng là xe. Ngày xưa ḿnh đi xe Jeep, ngày nay ḿnh đạp xe thồ; ngựa xe nào cũng dùng làm phương tiện di chuyển có ǵ mà phải kén chọn, quan tâm? Điều quan yếu là: Ngày xưa ḿnh có nhau, ngày nay ḿnh vẫn c̣n có nhau. Mười ba năm, vật đổi, sao dời, ḿnh c̣n nguyên vẹn như thế này là quư lắm rồi!
Một hôm có người mang đến cho cặp vỏ xe mới, mừng ơi là mừng! Anh bạn quư của tôi lúc này đang làm “gác-dan” cổng sau khách sạn Continental. Hắn chắt bóp măi mới được món tiền mua tặng tôi cặp lốp mới. Hắn tên là Lê Văn Chánh, người Huế. Chánh vốn là một cựu sinh viên Dược Khoa Sài G̣n thời 1960s. Hắn có máu đàn ca và đă có lúc viết nhạc bán cho một nhạc sĩ đă thành danh để có tiền đi pḥng trà Anh Vũ mỗi buổi tối. Học hành chật vật măi vẫn chưa thành Dược Sĩ, hắn bị gọi nhập ngũ khóa 15 Sĩ Quan Trừ- Bị Thủ- Đức để cứu nước. Rồi hắn trở thành sĩ quan An- Ninh Quân- Đội.
Tôi và Chánh gặp nhau và thân nhau ở Trại Nam-Hà A. Chúng tôi ăn chung mâm, ngủ cùng sạp một thời gian rồi cùng được thả ra cùng một ngày, sau mười ba năm bị giam giữ, tù đày.
Thời mới đi tù cải tạo về, tôi gặp hắn dễ lắm. Cứ đi ngang qua đường Lê Thánh Tôn, tới cổng sau Khách Sạn Continental là thấy chàng ta ngồi nơi góc.
Những lần về phố, tôi đều ghé thăm Chánh. Gặp nhau, bù khú một lúc, hai đứa lại rủ nhau ra tán dóc với anh thợ vá lốp, sửa xe bên đường Hai Bà Trưng. Anh vá lốp xe máy, sửa xe đạp này thời xưa làm Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Trung -Tâm Huấn- Luyện Chi- Lăng của Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa. Anh ta tên là Hoàng Trai xuất thân khóa 19 Vơ-Bị. Ba chàng ngồi bên nhau, chuyện nổ như pháo. Hai bạn tôi chỉ quanh quẩn ở Sài-G̣n, nên thích nghe tôi kể chuyện đường rừng, mạo hiểm, như chuyện đào vàng, đào thiếc, chuyện bẫy khỉ, giữ lô, chuyện khai thác gỗ quư, săn ngải, t́m trầm…
Chánh kể cho tôi nghe rằng, nó có đứa con gái lớn tên là Lê Lâm Quỳnh Như. Cháu Quỳnh Như lớn hơn đứa con gái đầu của tôi một tuổi. Một ngày từ rừng trở về thành phố, tôi nghe bạn Chánh khoe, con gái anh vừa đứng đầu cuộc thi tuyển lựa ca sĩ của Thành Phố Hồ Chí Minh. Phần thưởng mà con anh nhận được là cái dây chuyền 7 chỉ. Chánh nh́n tôi, cười, miệng xuưt xoa: “Thế là có tiền lo thủ tục hồ sơ đi H.O”
Sau đó khá lâu, gia đ́nh Lê Văn Chánh đi Mỹ theo danh sách H.O 16. Qua tới Mỹ th́ ca sĩ Quỳnh Như đổi tên là Như Quỳnh, danh tiếng nổi như cồn.
Thời gian đầu, khi Chánh c̣n cư ngụ ở Philadelphia th́ tôi và Chánh vẫn thường xuyên liên lạc điện thoại thăm nhau. Bây giờ th́ t́nh h́nh đă đổi thay nhiều. Chỉ có tôi và anh Trai là gặp nhau thường, v́ hai đứa tôi cùng là cư dân Tiểu Bang Washington. Chúng tôi rất khó tiếp xúc với anh bạn cựu tù Lê Văn Chánh ngày xưa. Nghe đâu, cách đây vài năm, Như Quỳnh mua cho bố Chánh một căn nhà ở Cali, khu cư xá giống như một Fortress City, có rào cản, có cameras, hệ thống alarms cao cấp, security tuyệt hảo, phone của Chánh lại chuyển số luôn luôn, nên tôi và anh vá lốp xe đạp không chuyện tṛ với anh được. Lâu ngày không nói chuyện với nhau, chắc anh Chánh quên tôi rồi?
Riêng tôi, không bao giờ tôi quên “Chánh Phăng Si Đa”, anh bạn tù sốt rét kinh niên cùng buồng 16 ở trại Nam-Hà A Phủ- Lư của tôi. Sở dĩ Chánh có biệt hiệu “Chánh Phăng Si Đa” chỉ v́ lúc nào trong túi anh cũng dự trữ sẵn một vỉ thuốc sốt rét cực mạnh mang nhăn hiệu Fansidar. Không rơ bạn tôi có hiểu rằng, trong mấy năm nay, anh chàng đào vàng trên rừng Nắp Bắc Đà-Lạt và anh chàng sửa xe đạp trên đường Hai Bà Trưng Sài- G̣n nhớ nhung anh gác-dan Khách Sạn Continental không nguôi?
Những sự mất mát nhẹ nhàng như thế, những h́nh bóng mờ dần v́ vô t́nh hay cố ư như thế, làm cho tôi thấy thương, thấy quư những giây phút bạn bè khăng khít bên nhau. Bây giờ, những sợi tơ thân thiết cột buộc chúng ta cứ mỏng dần, mỏng dần theo thời gian.
Ôi! Biết t́m đâu? Những ngày xưa thân ái! Biết t́m đâu xứ sở mà Thượng Đế đă chọn làm một Thiên Đường? Biết t́m đâu Việt-Nam Cộng-Ḥa của tôi?
Vương Mộng Long – K20
hoanglan22
03-22-2019, 03:48
BÀI VIẾT CỦA NGUYỄN BẢO TUẤN CON ÚT CỐ ĐẠI TÁ NGUYỄN Đ̀NH BẢO
.
Trên FB tôi thấy đại đa số thường chọn h́nh ḿnh hoặc h́nh con ḿnh để làm avatar, ít hơn một chút th́ lấy h́nh của người yêu, vợ hoặc chồng, hoặc một h́nh ǵ đó mà ḿnh yêu thích. Riêng tôi th́ tôi lại chọn một đối tượng khác mà h́nh như tôi thấy chưa một ai chọn giống như tôi: một người mà đă không giữ lời hứa với mẹ tôi. Tôi sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh đầy phong ba băo táp. Cả nhà 6 người mà chỉ có một chiếc xe đạp thay phiên nhau đi, gạo th́ chạy ăn từng bữa, anh trai tôi ngày ngày cứ 5h sáng phải chạy lên G̣ vấp để lấy bánh đậu xanh về đi bỏ cho các tiệm bánh rồi mới về đi học trong suốt 7 năm trời, từ năm học lớp 11 đến hết năm thứ 6 Y khoa.
.
Khó khăn là vậy nhưng tôi vẫn trưởng thành một cách đầy kiêu hănh. Đôi khi nh́n lại tôi tự hỏi là điều ǵ đă giúp tôi mạnh mẽ mỗi khi đương đầu với những khó khăn? Và câu trả lời là do trong huyết quản tôi vẫn đang mang một ḍng máu nóng trong ḿnh và tôi đă đă chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ người đă cho tôi ḍng máu ấy: một người mà đă không giữ lời hứa với mẹ tôi.
.
Tôi cũng không biết tại sao tôi và người đó chỉ gặp gỡ và tiếp xúc trong có vài chục ngày, chính xác là từ ngày 06/01/1972 đến ngày 25/03/1972, mà tôi lại luôn luôn thương mến, cảm phục, tự hào và luôn lấy người làm tấm gương soi để tôi có đủ nghị lực vượt qua mọi khó khăn. Có lẽ là do cuộc sống của người quá vĩ đại và tôi đă được thừa hưởng một phần của nó. Mặc dù khi ra đi người đă không thực hiện được một lời hứa với mẹ tôi mà cho tới bây giờ tôi vẫn hỏi: “Tại sao?”
.
Charlie, tên nghe quá lạ!
.
“Toàn thể những địa danh nơi hốc núi, đầu rừng, cuối khe suối, tận con đường, tất cả đều bốc cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ…Mùa Hè 1972, trên thôn xóm và thị trấn của ba miền đồng bốc cháy một thứ lửa nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt…
Kinh khiếp hơn Ất Dậu, tàn khốc hơn Mậu Thân, cao hơn băo tố, phá nát hơn hồng thủy. Mùa Hè năm 1972- Mùa Hè máu. Mùa Hè của sự chết và tan vỡ toàn diện.
.
Nếu không có trận chiến mùa Hè năm 1972, th́ cũng chẳng ai biết đến Charlie, v́ đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum.
Charlie, “Cải Cách,” hay “C,” đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Pô-Kơ và Đường 14, đông-bắc là Tân Cảnh với mười hai cây số đường chim bay, đông-nam là Kontum, thị trấn cực bắc vùng Tây Nguyên.”
(Trích trong “Mùa hè đỏ lửa” của Phan Nhật Nam)
.
Charlie bỗng trở thành một địa danh được nhắc nhớ từ sau 4000 quả đạn pháo tới trong một ngày, từ sau người mũ đỏ Nguyễn Đ́nh Bảo nằm lại với Charlie.
(Trích lời giới thiệu trong CD Chiến tranh và ḥa b́nh của Nhật Trường Trần Thiện Thanh)
.
Cho đến bây giờ cũng ít người biết rằng tôi chính là “đứa bé thơ” với “tấm khăn sô bơ vơ ” trong bài hát “Người ở lại Charlie” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Và tôi lớn lên cùng với kư ức về một người Cha hào hùng như vậy.
.
Tôi không thần tượng Cha tôi từ một bài hát viết về người, cũng không thần tượng từ một hai trận đánh trong cuộc đời binh nghiệp của người, mà tôi thần tượng Cha ḿnh từ chính cuộc đời của Người. Trải qua biết bao thăng trầm đời binh nghiệp và cuối cùng người đă được giao làm tiểu đoàn trưởng của tiểu đoàn “Song kiếm trấn ải” (biệt danh của tiểu đoàn 11 nhảy dù), một trong những tiểu đoàn được xem là thiện chiến nhất của quân lực Việt Nam Cộng Ḥa thời bấy giờ.
..
Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc Cha tôi là một người khát máu hung tàn, mà ngược lại hoàn toàn, mọi người đều nhớ về h́nh ảnh Cha tôi như là một vơ sĩ đạo đúng nghĩa : giỏi vơ, dũng cảm và cao thượng. Thời bấy giờ có mấy ai dám đánh một sĩ quan của Mỹ, vậy mà Cha tôi đă làm điều đó khi người sĩ quan đó dám làm nhục một người lính Việt Nam (chuyện này tôi được nghe bác ruột tôi kể lại). Có tiểu đoàn nào trong quân đội mà luôn gọi Tiểu đoàn trưởng bằng tên thân mật “Anh Năm”?, nhất là trong binh chủng Nhảy dù, việc phân chia cấp bậc luôn được tôn trọng và đặt lên hàng đầu. Vậy mà trong tiểu đoàn 11 Nhảy dù, tất cả mọi người từ lính đến sĩ quan chẳng ai gọi Cha tôi là Trung tá cả, mà luôn gọi là Anh Năm, và “Anh Năm” thường hay nói với mọi người trong tiểu đoàn rằng : “Tụi mày th́ chẳng biết mẹ ǵ, nhưng tất cả tụi mày tao đều coi là em tao hết”
.
“Anh Năm,
Ngoài đời Anh sống hào sảng, phóng khoáng và thật “giang hồ” với bằng hữu anh em, c̣n trong quân ngũ, Anh như một cây tùng ngạo nghễ giữa băo táp phong ba, Anh không nịnh cấp trên đè cấp dưới, Anh chia xẻ vinh quang buồn thảm với sĩ quan và binh sĩ thuộc cấp. Anh sống hùng và đẹp như thế mà sao lúc ra đi lại quá phũ phàng!?
.
Tôi về lại vườn Tao Đàn, vẫn những hoa nắng tṛn tṛn xuyên qua khe lá, lấp loáng trên bộ đồ hoa ngụy trang theo mỗi bước chân. Cây vẫn xanh, chim vẫn hót, ông lăo làm vườn vẫn lom khom cầm kéo tỉa những chùm hoa loa kèn, những cụm hoa móng rồng và những bụi hồng đầy mầu sắc. Bên gốc cây cạnh căn lều chỉ huy của Anh hồi tháng trước khi c̣n đóng quân ở đây, tôi thấy có bó hồng nhung đỏ điểm vài cánh hoa loa kèn trắng.
.
Chống đôi nạng gỗ xuống xe, tiếng gơ khô cứng của đôi nạng trên mặt đường khiến ông lăo ngẩng đầu và nhận ra tôi. Xiết chặt tay ông cụ, trong ánh mắt già nua chùng xuống nỗi tiếc thương, cḥm râu bạc lưa thưa phất phơ trước gió. Ông cụ đọc báo, nghe đài phát thanh nên biết Anh đă ra đi, nên sáng nào cũng để một bó hoa tưởng nhớ và tiễn đưa Anh. Cụ mời tôi điếu thuốc Quân Tiếp Vụ, rồi ngồi xuống cạnh gốc cây, tay vuốt nhẹ trên những cánh hồng, sợi khói mỏng manh của điếu thuốc nhà binh quện trong tiếng nói:
.
“- Thuốc lá Ông Quan Năm cho, tôi vẫn c̣n đủ dùng cho đến cuối năm. Mấy chục năm nay tôi mới gặp một ông quan nói chuyện thân mật và tốt bụng với những người dân như tôi. Người tốt mà sao Ông Trời bắt đi sớm như vậy!? “
(Trích trong “Máu lửa Charlie” của Đoàn Phương Hải)
.
Cha tôi đă sống như thế nào mà những người ít ỏi c̣n sống sót trở về sau trận chiến tại đồi Charlie đều nói là họ thật hối tiếc khi không được nằm xuống cùng Cha tôi ở đó.
“Tô Phạm Liệu cảm thấy lẻ loi ở cái đại hội y sĩ có nhiều những người “mặc quần mới áo đẹp” và “ăn to nói lớn”, thích “nhảy đầm” và “xếp hàng để lên hát”… Trong cơn say, anh nói là phải chi trước kia, mười mấy năm trước kia, anh được “ở lại Charlie” với Trung Tá Nguyễn Đ́nh Bảo, với các bạn nhảy dù th́ “sướng hơn nhiều.”
(Trích trong “Tô Phạm Liệu : người trở lại Charlie” của Phạm Anh Dũng)
.
Viên sĩ quan cố vấn Mỹ Duffy cho tới tận bây giờ vẫn c̣n luôn mang trong người những hoài niệm về Cha tôi và trận chiến tại Charlie. Mỗi lần tham gia các cuộc gặp gỡ của hội cựu chiến binh Việt Nam (trong đó có một số hiện đang là tướng lănh cao cấp trong quân đội Mỹ) ông ta đều hỏi mọi người “Tụi mày có từng tham gia trận Charlie không, tụi mày có ai từng chiến đấu cạnh Colonel Bao (Trung tá Bảo) chưa? Thế th́ tụi mày c̣n xoàng lắm. Và hàng năm cứ mỗi lần sinh nhật của ḿnh, ông ta đều đặt một ổ bánh kem làm h́nh một ngọn đồi và ghi chữ Charlie lên đó. (Chuyện này do Chú Đoàn Phương Hải khi về Việt Nam năm 2011 thuật lại cho tôi nghe)
Cha tôi đă sống như thế nào để một người Mỹ phải luôn khắc trong tâm khảm những hoài niệm như vậy?
Tôi chỉ có thể kết luận một câu : “Cuộc đời của Cha thật vĩ đại”
Ngày hôm nay khi viết về Cha, tôi không biết viết ǵ hơn, chỉ xin dâng về hương hồn Cha một vài câu thơ nói về khí phách của Người và nơi mà Cha đă gửi lại thân xác của Người vĩnh viễn cho núi rừng Charlie. Ở đây tôi xin dùng từ “Cởi áo trần gian” v́ tôi tin rằng Cha vẫn đang khoác một chiếc áo khác và vẫn đang nh́n tôi từ một nơi rất xa…
.
Lặng lẽ ngàn năm chẳng danh xưng
Bỗng chốc một hôm hóa lẫy lừng
Charlie gầm thét trong lửa đạn
Gọi măi tên người nước mắt rưng
Trai thời nỗi chết tựa trên lưng
Khí phách hiên ngang bước chẳng dừng
Charlie vẫy gọi người ở lại
Cởi áo trần gian tặng núi rừng
(Kính dâng tặng hương hồn Cha)
.
Sinh nhật mẹ tôi ngày 11/04. Trước khi hành quân vào Charlie ngày 25/03 Cha tôi đă đặt một chiếc bánh sinh nhật cho mẹ với lời hứa là sẽ về dự sinh nhật của mẹ. Đến ngày sinh nhật mẹ đă không tổ chức mà vẫn chờ Cha về, và cho đến tận bây giờ mẹ vẫn chờ…
.
Tuy nhiên Cha đă thất hứa với mẹ v́ ngày 12/04 Cha đă cởi áo trần gian và nằm lại vĩnh viễn với Charlie. C̣n tôi, tôi chỉ biết hỏi là tại sao Cha lại không giữ lời hứa với mẹ tôi? Tại sao và tại sao…?…
Nguyễn Bảo Tuấn
laongoandong
03-22-2019, 13:02
:thankyou: Bạn ghé vào đọc cho đỡ buồn
Vào trang này đọc chẳng những không thấy buồn mà c̣n dấy lên hào khí của người trai xứng đáng làm trai, tiếc rằng không làm nên nghiệp cả v́ vận mênh đất nước và v́ ṿng xoay của quốc tế. Chỉ tiếc trong gốc khuất của nhiều trại cải tạo v́ cơn đói và bệnh tật đă làm cho con người một số đă phản bội huynh đệ, đâm sau lưng chiến sỉ. Hảy quên đi chuyện này.
Nhưng dù chuyện đă qua..cũng nên nhắc những chuyện khác và kể để sự thật được đi vào lich sữ..Tiếc rằng bộ nhớ của ḿnh không c̣n tốt để nói lên cuộc sống thê thảm bi ai của một đời trai, đời lính sinh ra không đúng thời điểm để bị thiệt tḥi..
Chỉ tiếc ta chỉ có một đời để sống mà thôi
laongoandong
03-22-2019, 13:22
Vương Mộng Long – K20 Người bạn cùng trại của ḿnh. Bài viết của bạn quá hay, xúc tích và đầy ư nghĩa. Chiếc xe thồ của bạn chắc cũng giống ḿnh, tự chế để thồ gạo từ bên ngoài tram KS Phú Lâm vào thành phố để kiếm sống qua ngày. Có khi dùng để thồ 2 con gà ṇi (chọi) từ Cái Lậy về Sài G̣n. Sai g̣n-My Tho 70 km + 24 km Mỷ Tho- Cái Lậy. 94 km đạp từ sang sớm tới chiều với thân h́nh " lực lưởng "của dân cải tạo được tha (tạm tha). Đời không ǵ đẹp bang lúc này !!!
hoanglan22
03-23-2019, 13:52
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1354347&stc=1&d=1553349116
Lư Tống, ngoài danh danh hiệu Ó Đen, tên phi đoàn 548 anh phục vụ ở Vùng 2 của Việt Nam Cộng Hoà trước năm 1975. Sau đây là các danh hiệu do báo chí ngoại quốc gọi và đặt cho trong thời gian Lư Tống thi hành các sứ mệnh chống cộng thần sầu sau năm 1975 trên khắp thế giới:
James Bond 007, Papillon, Top Gun, Leaflet Cowboy, Robin Hood, Don Quixote, Folk Hero, True Patriot, Mr. Impossible, The Last Action Hero, Resistance Icon, Freedom Fighter, Mr. Franklin ....nhiều và c̣n nhiều nữa.
Các câu Lư Tống thường nói
Ta cúi đầu, cộng cỡi cổ. Ta đứng dậy, cộng sụp đổ!
Mưu sự tại Lư Tống, Thành sự do Đồng Bào!
Thà bị nhầm lẫn hơn là vô trách nhiệm!
Lư Tống được Sử gia Tiến sĩ Stephen E. Ambrose ví với một vị Tổng Thống vĩ đại của Hoa Kỳ :" Like Eisenhower, a fighter for freedom, a hero from another war ".
Mời qúy vị và các bạn theo dỏi thiên tiểu sử thần kỳ độc đáo của một đứa con Mẹ Việt Nam trong thời nhiểu nhương, " khó sống ".
Tiểu sử Lư Tống
Lư Tống sinh ngày 1 tháng 9 năm 1945 tại Huế, gia nhập Binh chủng Không quân năm 1965, thuộc Khóa 65A, và du học Hoa Kỳ năm 1966. V́ trừng trị một niên trưởng hắc ám, Lư Tống bị kỷ luật, bị sa thải và trở về nước. Lư Tống được tuyển vào hăng Pacific Architech & Engineer và chỉ trong ṿng 3 tháng thực tập ngành Thảo Chương Viên, Lư Tống tự động sửa một program chính của hăng, giảm thiểu nhân số pḥng Phân Tích từ 5 nhân viên xuống c̣n một ḿnh Lư Tống. Do công trạng thần kỳ đó, Lư Tống được Chủ Tịch Hội IBM Chapter Việt Nam đề nghị bầu vào chức Phó Chủ Tịch và cấp học bổng du học ngành Programmer. Nha Động Viên đă gọi Lư Tống nhập ngũ Khoá 4/68 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức trước khi Lư Tống hoàn thành thủ tục nên anh bỏ mất cơ hội du học Hoa Kỳ lần thứ nh́. Lư Tống là người duy nhất bị sa thải v́ kỷ luật được trở lại Không Quân Khoá 33/69 và tốt nghiệp Hoa Tiêu ngành Quan Sát. Năm 1973, Lư Tống được huấn luyện lái phi cơ A.37, trở thành Phi Công Phản Lực Cường Kích. Vốn là người của xứ cố đô ngàn năm văn vật, Lư Tống là một tổng hợp của nhiều con người: Vừa giang hồ lăng tử, vừa nghệ sỹ, businessman, vừa là hoa tiêu gan ĺ gai góc. Đề cập đến các chiến tích lẫy lừng với Danh hiệu TOP GUN của Lư Tống, có câu nhận xét của Phi công cùng Phi Đoàn Ó Đen thường được nhắc nhở đến: “Nếu 4 Vùng Chiến thuật có 4 Lư Tống, VC sẽ không ngóc đầu lên nỗi!“ Sáu trong hàng trăm Phi Vụ “Tử Thần“ của Phi Đoàn 548 có sự tham dự của Lư Tống gồm: (1) Phước Long: Phi vụ đánh tan nhiều mũi tấn công cuả VC vào Tỉnh Phước Long, ngoài huy chương Anh Dũng Bội Tinh về chiến tích, Lư Tống c̣n được tưởng thưởng về giá trị Văn học của Bài Thơ Lư Tống diễn tả lại trận đánh nầy. (2) Tây Nguyên: Phi vụ tiêu diệt toàn bộ hàng trăm xe tiếp tế của VC tại Tây Nguyên. (3) Đèo Phượng Hoàng: Phi vụ ngăn chận đạo quân VC ồ ạt chuyển quân từ Ban Mê Thuột về hướng Đèo Phượng Hoàng. Do say mê bắn xe tăng VC, Lư Tống đă bay xuống thấp đến nỗi phi cơ bị trúng một số mănh phi đạn do ḿnh bắn ra cùng đất đá văng lên làm phi cơ bị phế thải v́ kính pḥng lái và bụng máy bay bị thủng 38 lỗ đạn! (4) Phi Vụ BOB: Bay theo sự hướng dẫn của Radar Đài Kiểm Báo. Trong Phi vụ này, Phi tuần Trưởng không đánh bom, nghĩ rằng Bộ Chỉ Huy chấm nhầm tọa độ v́ chợt phát hiện ṿng đai Phi trường Phù Cát qua lỗ hỗng mây! Lư Tống Phi tuần Phó, tự động bấm bom theo phản xạ khi nghe hiệu lệnh vô tuyến thay v́ theo lệnh Phi tuần Trưởng nên toàn bộ Phi công của Phi đội bay theo sau đă thả bom theo Lư Tống. Kết quả toàn bộ Sư Đoàn 23 Sao Vàng của VC bị tiêu diệt và phải mất một tuần lễ mới chôn hết thi thể địch quân. (5) Cầu Dziên B́nh: Một đầu cầu chiến lược huyết mạch tại ngă ba biên giới Việt- Miên- Lào, do 4 Trung đoàn Pḥng không thiện chiến nhất của VC trấn giữ, được VC dùng để chuyển quân, vũ khí và tiếp liệu ồ ạt vào Tây nguyên. Về đêm, khi pḥng không địch khai hỏa, Dziên B́nh bỗng rực sáng như “Thành phố San Francisco vừa lên đèn!“ Nhóm phi công cảm tử gồm 4 người. Lư Tống là người t́nh nguyện duy nhất đầu tiên và động viên, kêu gọi vài phi công bạn cùng tham gia. Bốn phản lực cơ A 37 cất cánh từ Pleiku, bay đi Kontum để đánh lạc hướng địch, rồi từ Kontum, “bay trên ngọn cỏ, dưới ngọn cây“ men theo sườn đồi, hẻm núi, từ sát mặt đất phóng vụt lên, nhào xuống đánh sập cầu Dziên B́nh bằng Chiến thuật Đột Kích. Theo sự đánh giá của Khối T́nh Báo Chiến Lược, nếu không có phi vụ đánh sập cầu Dziên B́nh của nhóm cảm tử Lư Tống, Miền Nam VN đă rơi vào tay CS năm 1974 thay v́ năm 1975! (6) Phi Vụ Cuối Cùng: Vào phút hấp hối của Quê Mẹ, Lư Tống thi hành phi vụ đánh sập cầu Ba Ng̣i gần Cam Ranh, ngăn chận làn sóng tiến công ồ ạt của Cộng quân vào Phan Rang. Thấy dân chúng đông như kiến, lũ lượt xô đẩy nhau qua cầu chạy giặc, Lư Tống quyết định bay xuống thấp sát mặt đất làm hiệu để dân chạy nạn tránh đi, nhưng ḍng người cứ ào ạt tràn qua cầu. Do trái tim đầy ḷng nhân ái luôn nghĩ đến sự an nguy và tính mạng dân lành vô tội, Lư Tống phải bay thấp đến ṿng thứ ba, nên khi vừa lấy cao độ để thả bom, chiếc phản lực cơ A 37 của phi công Lư Tống bị hỏa tiển SA7 tầm nhiệt VC bắn trúng ở cao độ 100 mét, vở thành nhiều mănh. Lư Tống đă tung cánh dù trong ṿng lửa đạn và bị bắt sau hơn 1 giờ bôn tẩu vào ngày 5 tháng 4 năm 1975. Lư Tống cùng chung số phận với những người tù cải tạo Miền Nam.
Lư Tống trong ngày ra ṭa ở Bangkok “I will go back to serve my country”
Về Danh Hiệu PAPILLON, Lư Tống đă sáu (6) lần vượt ngục, chỉ thua Papillon Pháp, người vượt ngục chín (9) lần. Sự khác biệt giữa Henri Charrièrre và Lư Tống gồm các điểm: * Henri chuyên vượt ngục bằng đường biển, Lư Tống “chuyên trị“ đường bộ.* Henri luôn luôn dùng tiền nhờ người khác giúp đỡ và hợp tác, Lư Tống chỉ trốn một ḿnh và mọi kế họach từ A đến Z đều chính tự ḿnh vạch ra và thực hiện. * Ngoài ra, Henri chỉ chú tâm vượt rào “ra“ v́ sự sống c̣n của bản thân, Lư Tống c̣n 3 lần vượt rào “vào“ các Phi trường (2 lần Phi trường Tân Sơn Nhất và 1 lần Phi trường Ubon Rachathani tại Thái Lan, tức Tổng cộng 9 lần bằng Henri Charrière) để đánh cắp máy bay, thi hành các Điệp vụ v́ sự sống c̣n của Dân tộc VN. Sáu lần vượt ngục xẩy ra lần lượt tại1) Nhà tù Lam Sơn (Tại đây Lư Tống thường được bạn đồng tù nhắc lại câu nói bất hủ: “Bắn đi! Lư Tống này chết đi c̣n có trăm ngàn Lư Tống khác!“ (2) Nhà tù A.30 (Tại đây, Đại Úy Ngọc, bạn tù, thường nhắc lại câu nói của các thanh niên Miền Thùy Dương Cát Trắng ái mộ: “Lư Tống là Thần tượng Tuổi trẻ Nha Trang“; (3) Pḥng giam An ninh tại Nhà ga Nam Vang ; (4) Nhà tù 7708 ở Nam Vang ; (5) Trại Nong Samet tại biên giới Miên-Thái và (6) Nhà tù Xuân Phước tức A.20. Thành tích vượt ngục được Ông Julian, Trưởng Pḥng Phản gián Singapore, đánh giá: “Lư Tống là bậc thầy của Papillon.“ Lần vượt ngục thứ nh́, sau gần 6 năm tù, Lư Tống đă thực hiện đúng câu đă từng tuyên bố: “Các ông có quyền bắt tôi, bỏ tù tôi, nhưng quyền ’tự thả, tự phóng thích’ khỏi nhà tù lúc nào là quyền của tôi!“ Lư Tống trốn thoát Trại tù A.30 tỉnh Phú Khánh ngày 12/7/1980. Ra khỏi chốn tù đày, về đến Sài G̣n, Lư Tống đột nhập phi trường Tân Sơn Nhất 2 lần dự định cướp máy bay ném bom Bộ Chỉ Huy tại Trại A.30 để cứu bạn tù như đă hứa. Mưu sự không thành do toàn bộ phi cơ VNCH bị bộ đội CS “làm thịt’’ bán sắt vụn, tháng 9/1981 Lư Tống rời quê hương t́m tự do bằng đường bộ, xuyên qua 5 quốc gia, dài hơn 3 ngàn cây số, trong thời gian gần 2 năm, trốn thoát 3 nhà tù, cuối cùng bơi qua eo biển Johore Baru từ Mă Lai đến Singapore, và được chính phủ Hoa Kỳ chấp thuận cho đi định cư tại Mỹ vào ngày 1/9/1983. Cuộc hành tŕnh vượt biên t́m tự do của Lư Tống ly kỳ vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị của thế kỷ 20 được Tổng Thống Ronald Reagan vinh danh qua nhận định: “Your courage is an example and inspiration to all who would know the price of freedom“ (Sự can trường bất khuất của Lư Tống là một biểu tượng và nguồn cảm hứng cho những ai muốn biết cái giá của tự do); và được ca tụng bởi những Tờ báo, Tạp chí nổi tiếng nhất thế giới như: Barry Wain của The Wall Street Journal: “Ly Tong is in a class by himself,“ và Anthony Paul của Reader’s Digest: “His flight has become one of the great escape saga of our time.“
Lư Tống đến Hoa Kỳ dừng chân đầu tiên tại Thành phố Boston, đúng ngày sinh nhật 1/9/1984. Lư Tống nộp đơn học trường Harvard nhưng bị từ chối v́ không có “học bạ“ và không đủ khả năng tài chánh trả học phí tại trường học đắc đỏ nhất Mỹ quốc. Lư Tống đă tuyên bố: “Hôm nay tôi xin làm Học Tṛ, Harvard từ chối. Sau này Harvard mời làm Thầy, tôi cũng sẽ từ chối! “Sau khi chu du qua các Tiểu Bang New York, Washington DC, California, Texas... Lư Tống định cư tại New Orleans, Louisiana, làm Quăn lư China Nite Club, lập Đảng “Trừ Gian Diệt Bạo“ đơn thương độc mă “bắn chết“ một tên cướp Mỹ đen ngày 9/7/1984 và sau đó đánh “tắt thở“ một tên anh chị VN.
Sau 9 năm đèn sách, Lư Tống lần lượt đậu các bằng Cử Nhân Khoa Chính Trị và Cử Nhân phụ Khoa Pháp Văn (1988), Thạc sĩ (11/8/1990). Lư Tống được Sử gia Tiến sĩ Stephen E. Ambrose ví với một vị Tổng Thống vĩ đại của Hoa Kỳ:“ Like Eisenhower, a fighter for freedom, a hero from another war.“ Năm 1992 Lư Tống hoàn tất chương tŕnh Tiến sĩ Chính Trị ngành Bang Giao Quốc Tế và chuẩn bị tŕnh Luận án Tiến sĩ tại Đại Học New Orleans về đề tài “Học Thuyết Chất Xúc Tác: Cách Mạng Và Phản Cách Mạng’’ tức “Sức Mạnh Quần Chúng’’ (People’s Power). Nhân sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Lư Tống trở về VN áp dụng học thuyết do ḿnh phát kiến, được nhiều quốc gia áp dụng thành công đă lật đổ 23 Chế Độ độc tài trên thế giới trong 2 thập kỷ qua, để thực hiện cuộc “Cách Mạng Đua Xe’’ bằng cách đột nhập phi trường Ubon Rachathani của Thái Lan đêm 1/9/1992, định đánh cắp phi cơ bay về Sài G̣n dội bom kho xăng Khánh Hội vào dịp Quốc Khánh VC ngày 2/9/1992 để gây bạo loạn và tạo nên Chất Xúc Tác, đốt lên ngọn lửa đấu tranh tại quê mẹ. Điệp vụ bất thành v́ b́nh điện phi cơ yếu, mở máy không nổ, Anh chuyển sang cách thứ 2, khống chế chiếc Air Bus 321-200 cuả Hàng Không VC ngày 4/9/1992 từ Bangkok về Sài G̣n, thả 50 ngàn truyền đơn kêu gọi đồng bào Tổng Nổi Dậy lật đổ chế độ bạo quyền CS. Lư Tống định chun qua cửa sổ hẹp của pḥng lái (cocpit) th́ bị áp suất và gió mạnh hút ra khỏi phi cơ và nhờ dù không mở nên thoát hiểm khỏi hàng trăm họng súng Pḥng Không VC đang gh́m chờ và 2 chiếc MIG bám sát trên Không phận Sài G̣n và sau đó thoát chết nhờ rơi vào giữa ao rau muống. Sau 4 giờ trốn tránh truy nă, Lư Tống bị bắt, bị kết án 20 năm tù và bị đ̣i bồi thường ½ triệu Mỹ Kim v́ làm hư 2 cánh cửa phi cơ khi mở nhảy dù, với câu tuyên bố bất hủ trước Ṭa VC: “Tôi Quốc tịch Việt Nam Cộng Ḥa“ và “Tôi trở về đây nhân danh Tổ quốc, Công lư để lật đổ Chế độ CS. Các ông cũng nhân danh Tổ quốc, Công lư để kết tội tôi. Tại phiên ṭa này các ông là quan ṭa, tôi là bị cáo. Nhưng ngoài phiên ṭa này c̣n có Ṭa án Lịch sử và toàn Dân VN sẽ là những vị quan ṭa công minh nhất, họ sẽ định công, định tội tôi và các ông!“ Lư Tống tuyệt thực 48 ngày tại Khám Chí Ḥa, bị chuyển đến Nhà tù Xuân Lộc nhưng Trại không dám nhận sợ Lư Tống trốn trại Giám Đốc phải vào tù thế chỗ! Khi chuyển ra Nhà tù Xuân Phước, Lư Tống vượt ngục thất bại nên Đầu vụ 5 Nhóm đều bị chuyển ra Miền Bắc, Nhà tù Ba Sao, Nam Hà. Lư Tống đă Tuyệt Thực tổng cộng 6 lần trong 21 năm tù đày: (1) Aran Jail (Thái Lan ) 7 ngày ; (2) Khám Chí Ḥa 48 ngày; Nhà tù Ba Sao, Nam Hà, 1 tháng; Nhà tù Rayong (Thái Lan) 2 lần: Lần đầu 6 tháng và lần nh́ 33 ngày và Trại tù Klong Prem 52 ngày. Tại Nhà tù Ba Sao, Lư Tống tuyệt thực 1 tháng, trong đó có 3 tuần bị cúp nước uống, nhưng kết thúc thắng lợi và Bộ Nội vụ đă chấp thuận 4 Yêu Sách của Lư Tống: 1. Tù Chính trị được ở riêng. 2. Không lao động. 3. Được sinh hoạt b́nh thường. 4. Được đọc sách báo tự do (kể cả sách báo từ Mỹ gữi về). Lư Tống đă từ chối hớt tóc với câu tuyên bố trước mặt Giám Đốc Trại: “Ông có thể cắt đầu tôi nhưng không thể cắt tóc tôi.“ Và khi viết “Thu Hoạch“ học tập Nội Quy, Lư Tống đă đọc bài nầy trước 4 bạn tù cùng Khóa và Quăn giáo câu kết luận: “Tôi trở về đây để thay đổi, sửa đổi Luật pháp chứ không phải để tuân thủ và chấp hành Nội quy, Luật pháp rừng rú nầy!“ “Tôi nguyện sẽ cải tạo đến chừng nào Chế độ CS tốt mới về! ”
Ngày được Thái Lan trả tự do “Nói chung tôi cảm thấy cũng b́nh thường thôi, v́ tôi đă ở tù (nhiều lần) 21 năm nay rồi ”
Cuối cùng, nhờ sự tranh đấu kiên tŕ của Đồng bào Hải ngoại và dưới áp lực của các cường quốc tự do, bạo quyền CS đă phải trả tự do cho Lư Tống và một số tù nhân lương tâm khác sau 6 năm bị giam cầm. Ngày 1/9/1998, đúng ngày Sinh nhật, tai Phi trường San Francisco, trước hàng trăm Đồng bào chào đón “Người từ cơi chết trở về“, Lư Tống tuyên bố: “Chúng ta đă bóp cổ CS đủ mạnh để chúng phải nhả 3 người chúng tôi hôm nay. Chúng ta cần phải bóp cổ CS mạnh hơn nữa để chúng phải nhả hết những tù lương tâm c̣n lại. Và chúng ta cần phải tiếp tục bóp cổ đến khi nào bạo quyền CS hoàn toàn tắt thở!“
Lư Tống đă viết lên trang sử đẹp nhất của đời ḿnh, là niềm kiêu hănh chung của những người con dân Việt. Lư Tống đă xem thường vinh hoa phú quí khi thành tài trên đất người, đă hy sinh mạng sống của ḿnh cho chính nghĩa dân tộc, nói lên khát vọng tự do của con người, thắp lên hàng triệu ánh đuốc sáng rực bầu trời VN. Hành động phi thường quả cảm của Lư Tống đă được đồng bào toàn quốc và thế giới kính phục. Nhà thơ Hà Huyền Chi đă viết:
"Một dũng cảm trên chót thang dũng cảm
Một hy sinh trên cao độ hy sinh.
Lư Tống đi, thế giới nghiêng ḿnh
Chào chính nghĩa, chào Anh hùng dân tộc."
Ngày 1/1/2000, chỉ hơn 1 năm sau ngày trở về từ ngục tù CS, Lư Tống đă thực hiện một phi vụ đầy mạo hiểm khác. Nhân ngày Quốc Khánh thứ 41 của CS Cuba, và là ngày đầu tiên của thiên niên kỷ mới với hiện tượng Y2K có thể đ́nh động mọi máy tính và Radar toàn cầu theo giới chuyên môn, Lư Tống đă bay đến Havana, Cuba, rải 50 ngàn tờ truyền đơn kêu gọi toàn dân đứng lên lật đổ “Con Khủng Long Già Nua Fidel Castro,’’ làm kinh động cả thế giới, tạo thành huyền thoại một “Lưỡng Quốc Anh Hùng.’’ Hành động xả thân v́ đại nghĩa của Lư Tống đă được người Cuba lưu vong, đặc biệt ½ triệu người trong cuộc Diễn Hành Ba Vua, nồng nhiệt vinh danh Anh Hùng và tri ân, do góp công lớn vào sự nghiệp chống Cộng toàn cầu.
Lư Tống dự tính đánh sập Lăng HCM, một biểu tượng và long mạch của Chế độ CSVN, nên nhờ người liên lạc với Tướng Vàng Pao và Kháng Chiến Quân H’Mong để từ Lào bay về Hà Nội dội bom. Điệp vụ bất thành do Tướng Vàng Pao có tang, cắt mọi liên lạc. Nhân chuyến công du VN của Tổng Thống Bill Clinton, Lư Tống chuyển sang phương cách thứ nh́, qua Cam Bốt chuẩn bị phi vụ kế tiếp. Do sự phản bội của người dẫn đường, phi vụ ngày 14/11 bị hủy bỏ, Lư Tống trở về Thái Lan, thuê 1 chiếc máy bay dân sự, dùng 15 ngàn MK tiền mặt và 5 ngàn MK hiện vật thuyết phục HLV người Thái hợp tác, bay đến Sài G̣n lần thứ nh́ ngày 17/11/2000 để rải 50 ngàn tờ truyền đơn kêu gọi dân chúng đứng lên lật đổ ách độc tài áp bức của CSVN. Lư Tống bay trở lại Thái Lan, đáp tại Phi Trường Utapao, và bị bắt giữ v́ âm mưu cấu kết giữa Chính Phủ Thatsin Thái Lan và VC. Trước Ṭa án Rayong, Lư Tống đă từng tuyên bố: “Tội Khinh mạn Ṭa án không nặng bằng tội khinh mạn Công lư, nhất là kẻ coi thường Công lư, Luật pháp lại là Thẩm phán và Công tố viên!“ “Ngày nào tôi chưa đưa được các ông (Thẩm phán, Công tố Thái) vào tù, ngày đó tôi sẽ chết không nhắm mắt!“ “Quốc gia nầy cần một cơn ’Đại Hồng Thủy’ để tiêu diệt hết giống ṇi thối nát, sa đọa. Và Bà Suthathif cần được đưa lên thuyền Noah để sinh ra một dân tộc mới xứng đáng với danh hiệu Vương quốc Thái Lan!“
Trong gần 7 năm bị giam cầm, Lư Tống luôn suy nghĩ t́m biện pháp Giải thể Chế độ CSVN và chống lại bản án Không Tặc sai trái bịa đặt của Ṭa án Thái Lan, cùng áp lực của Bạo quyền CS đ̣i Dẫn Độ Anh về VN xét xử và trừng trị. Với nỗ lực đấu tranh không mệt mỏi của Đồng bào Hải ngoại khắp thế giới, cùng cuộc Đảo Chánh lật đổ Chế Độ độc tài, tham nhũng của Thủ Tướng Thaksin của Nhóm quân nhân Thái, và những Biện Minh Trạng mới hùng hồn dựa trên các bộ Luật Không Tặc, Dẫn Độ, Không Hành, Chicago Convention 1940 và Công pháp Quốc tế mới nhận đựơc, với những bằng chứng và luận điểm chính xác, chặt chẽ, sắc bén đầy tính thuyết phục của Lư Tống, cuối cùng “Chính nghĩa thắng hung tàn,” ngày 3/4/2007 Toà Chung Thẩm Thái Lan đă ra Phán Quyết công nhận Phi vụ Lư Tống là một hành động Chính Trị, và trả tự do cho Lư Tống, đánh dấu bước thắng lợi lớn nỗ lực đấu tranh của Đồng Bào Hải ngoại và sự thất bại nhục nhă của CSVN.
Trong 10 tháng qua, kể từ ngày trở lại Hoa Kỳ, Lư Tống đă đi thăm đồng bào Việt Nam tỵ nạn khắp nơi trên toàn thế giới, từ Hoa Kỳ đến Canada, Úc Châu và Âu Châu với thông điệp kêu gọi đồng bào hải ngoại đoàn kết qua khẩu hiệu:“đoàn kết trong chia rẻ,’’ tŕnh bày kế hoạch Giải Thể Chế Độ Cộng Sản Việt Nam bằng cuộc:“Cách Mạng Đua Xe,’’ và cảm ơn sự yểm trợ, tranh đấu của đồng bào trong thời gian 7 năm tù đày tại Thái Lan. Ngoài ra Lư Tống đă tích cực tham dự các cuộc tranh đấu chống Trung Cộng chiếm Trường Sa-Hoàng Sa, yểm trợ đồng bào tỵ nạn tại Phi Luật Tân, Thương Phế Binh tại Việt Nam, dựng Builboard Linh Mục Nguyễn Văn Lư tại Bắc Cali, yểm trợ các nhà đấu tranh quốc nội, dân oan, và các hoạt động chống Cộng khác tại hải ngoại với tổng số tiền 54.000 Mỹ Kim, đặc biệt bắt đầu tuyệt thực từ 12 giờ trưa ngày 15/2/2008 chống lại Nghị Quyết phản dân chủ của Nghị viên Madison Nguyễn đă vận động bằng những thủ thuật xảo quyệt, gian trá để đ̣i lại tên Little Saigon, trả lại danh dự cho Cộng Đồng và trừng phạt kẻ phản bội bằng h́nh thức truất nhiệm. Cuộc tuyệt thực tự phát đă được đồng bào ở Bắc Cali yểm trợ tích cực bằng sư hiện diện của trên 700 đồng hương đến và kư tên, đồng thời yểm trợ tài chánh hơn 12 ngàn Mỹ Kim tính đến trưa ngày 16/2/08 tức sau đúng 1 ngày tuyệt thực! Song hành với cuộc tuyệt thực, biểu t́nh mỗi Thứ Ba Đen, dùng Luật Sư để sau khiếu kiện, tranh tụng, cuộc tập hợp lực lượng vào ngày 4/3/2008 phải lên đến hàng ngàn, hàng chục ngàn người mới có thể đạt thắng lợi 100%, tiêu diệt âm mưu từng bước “đỏ hoa" Bắc Cali của các thế lực thân Cộng, phản bội lư tưởng Quốc Gia hiện nay.
Ngoài các câu đă trích dẫn, Lư Tống c̣n có các Tuyên bố nổi tiếng sau:
Ta cúi đầu, cộng cỡi cổ. Ta đứng dậy, cộng sụp đổ!
Mưu sự tại Lư Tống, Thành sự tại Đồng Bào!
Thà bị nhầm lẫn hơn là vô trách nhiệm!
Và các câu thiên hạ nhận xét về Lư Tống:
Anh là người đàn ông hướng dẫn được định mạng đời ḿnh (Hạnh Sài G̣n).
He made himself a torch for the whole world to exterminate the Communist (The Orange County Register).
Ly Tong is a great American (Congressman Dana Rohrabacher).
Washington State Senate recognizes the valiant efforts deserve the respect, admiration, and acknowledgment of all. Các Danh hiệu của Lư Tống do báo chí ngoại quốc gọi và đặt ngoài Black Eagle và Kinh Kha thời đại gồm: James Bond 007, Papillon, Top Gun, Leaflet Cowboy, Robin Hood, Don Quixote, Folk Hero, True Patriot, Mr. Impossible, The Last Action Hero, Resistance Icon, Freedom Fighter, Mr. Franklin (v́ trước kia chỉ yểm trợ bằng những tờ giấy bạc 1 trăm Mỹ Kim có h́nh Ông Franklin và sau nầy số tiền yểm trợ tăng lên với đơn vị tối thiểu 1 ngàn Mỹ Kim, như 1 ngàn, 4 ngàn, 8 ngàn, 27 ngàn Mỹ Kim chẳng hạn...)
http://www.thienlybuutoa.or g/Misc/LyTong.htm
NHỮNG ĐIỀU TÔI BIẾT VỀ LƯ TỐNG.
Năm 1975, sĩ quan c̣n ở lại đều phải vào “tù” hay cải tạo, sở dĩ tôi phải đề hai chữ cải tạo và tù v́ cũng trên diễn đàn này, cách đây vài năm tôi đă tranh căi về hai chữ này, và sau đó, một đề tài đăng trên biệt động đă đồng quan điểm với tôi,
v́ vậy tôi viết chữ cải tạo trong những điều tôi biết về Lư Tống, như một người có một thời cải tạo tại tổng trại 6, tổng trại 5 và trại A 30.
Tôi không biết Lư Tống trước nắm 1975, sau năm 1975,
khi vào tổng trại 6 tại trung tâm huấn luyện Lam Sơn, tôi cũng chưa biết Lư Tống là ai.
Tổng trại 6 chia làm nhiều trại, trại cấp tá hay những thành phần cộng sản cho là đối tượng quan trọng vào trại 1, sau đó kế tiếp là 2, 3, 4, 5.
Lư Tống ở trại 4 hay 5,
tôi không chính xác.
Các trại nằm dọc theo đường từ cổng trung tâm huấn luyên Lam Sơn, chạy dài hơn cây số. Mấy tháng đầu bọn cai trại cho thoải mái, hàng ngày lao động nhẹ, chặt củi, chặt lá kè,
lợp nhà, đào giếng nước… hàng ngày, buổi trưa, tới chiều ai có người nhà đều được thăm, tại khu thăm nuôi.
Bỗng có tin từ trại 4, có Lư Tống vượt trại, trong thời kỳ này, thật ra nếu ai muốn đi,
cũng không khó khăn lắm v́ việt cộng c̣n lơi là, nghe tin từ dưới trại 4, tôi biết Lư Tống là pilot A 37, bị bắn rơi tại Phan Rang.
Lư Tống đă lợi dụng lơi lỏng trong quản lư, Tống không biết móc nối hay làm sao mà chui nằm dưới bụng chiếc xe tải, thật ra chỉ nghe nói,
không h́nh dung Tống nằm như thế nào. Xe chạy ngược lên Ban Mê Thuột, tại đèo Phượng Hoàng, Việt cộng bắt Tống, giải giao về trại 4,
khi biết Tống trốn trại.
Tại trại 4, bọn quản chế, bắt Lư Tống qú xuống đất,
Tống không thi hành, và banh ngực ra, nói các anh muốn bắn, cứ bắn, không chịu qú,
câu chuyện này nổi lên và từ đó ai cũng nghe tên Lư Tống, sau này tại trại tôi, cùng tổng trại với Lư Tống, có hai thiếu tá bị tên Sơn Khói gài rủ vượt trại và bị bắn chết, sở dĩ biết bị gài v́ 3 người vượt trại, bọn bảo vệ bắn chết 2, và mang tên Sơn khói, làm bộ nhốt nhà cùm nhưng được ăn uống đầy đủ, và được cho thuốc lá,
nhiều người bị nhốt đều trông thấy.
Khi tên Sơn khói được thả,
về làm đội trưởng đội cấp tá cho tới khi trại này chuyển lên Củng Sôn, Tuy Ḥa, Sơn khói vẫn làm đội trưởng.
Khi tổng trại 6 di chuyển lên tổng trại 5 tại Sơn Ḥa, Củng Sơn, Lư Tống cũng đi theo và ở trại 54.
Tôi theo trại cấp tá, ỡ trong rừng, là trại 53.
Tại đây cải tạo viên vẫn đi làm, nhưng một hôm nghe anh em trại 54, khi ra ngoài chặt cây gặp những người trại 53, Lư Tống không chịu học tập và chống đối, bị cùm, biệt giam. Tống bị nhốt tại một dăy nhà cùm, nằm ngoài ṿng đai của trại 54, nhưng có mấy vọng gác của cảnh vệ.
Một hôm, vào khỏng 5 giờ sáng, anh em tại trại 54 la rất lớn:
“các anh em ơi, tụi việt cộng muốn giết tôi”,
người nghe kể lại, buổi sáng nên ai cũng nghe rất rơ,
nhưng không ai làm ǵ được, trong khi đó Lư Tống vẫn tiếp tục la cho tới sáng, mọi người đều thức dậy, nhưng không nghe tiếng súng, ai cũng hy vọng Lư Tống không bị đánh chết.
Thật ra sau này Lư Tống kể chuyện cho anh em trại 53
(trại tôi) nghe, đêm hôm đó, trời c̣n tối, hai tên cảnh vệ,
tới nhà cùm, nói, anh Tống, trại tha anh rồi, ra khỏi nhà cùm theo tụi tôi về với anh em cải tạo viên, Lư Tống biết, đây chỉ là bọn cảnh vệ dụ Tống ra khỏi nhà cùm là bắn, rồi đổ tội Lư Tống cố t́nh trốn nhà cùm, buổi tối và bắn bỏ.
Lư Tống không ra, và nói với hai tên cảnh vệ, các anh thả tôi, chờ trời sáng, trại viên ngủ dậy, mọi người đầu biết, tôi sẽ theo ra, c̣n bây giờ, tôi không ra khỏi nhà cùm này.
Nói xong, Tống nằm và la làng, Tống nói bị mấy báng súng nhưng vẫn không ra, càng la to.
Mấy ngày sau, Lư Tống bị chuyển trại, lên trại 53, trại cấp tá và thành phần thuộc đối tượng nguy hiểm nhất, trong đó có đại tá Lương,
lữ đoàn trưởng Dù, và Thành khóa 19, tiểu đoàn trưởng Dù, cùng chung trại.
Tôi biết Tống từ đó, v́ chung trại 53, nhưng tôi và Tống không cùng chung lán, tuy vậy hàng ngày nhiều khi đi làm chung,
tôi biết thêm về Tống, Tống nói chung, cao ráo, đẹp trai, trắng và hơi thư sinh, khi nói chuyện, hay khôi hài, nhưng không có ǵ là khác với anh em, tôi hỏi Tống, hồi làm sao mày bị bắt năm 75,
Tống cười, máy bay tao bị bắn, nhảy dù rơi trên một rẫy mía ngút ngàn, tao cuộn dù, dấu trong đám mía, tính theo đám mía chờ tối là đi, không ngờ tụi chăn ḅ, thấy từ trên trời, tao đi đâu, tụi chăn ḅ theo đó,
cuối cùng du kích tới bắt.
Tại trại 53, Tống không có ai thăm nuôi, con bà sơ 100/100, những người khác 3 tháng được thăm một lần, thỉnh thỏang, anh em cũng chia chút đường, chút bánh cho Tống.
Tống ăn rất mạnh, ăn hết phần ḿ của ḿnh, ăn thêm ḿ của anh em, nó để một cái nón nhựa, buổi sáng ai thấy ḿnh dư ḿ,
cứ để vào đó, Tống cặm cụi lấy chày nhào quết thành một trái banh nhỏ và ăn lần.
Qua trại 53, Tống bắt đầu học thổi sáo, ai đă từng nghe tiếng sáo của người mới tập thổi, th́ mới thấy khó chịu ghê gớm,
cứ trưa hè mà nghe tiếng sáo Tống thổi là muốn điên, ai nói sao th́ nói, Tống không giận hờn và tiếp tục…
Vào dịp Tết, mọi người được thăm nuôi, đội nào cũng đi làm, nhưng khi có người nhà,
cảnh vệ sẽ gọi tên cho thăm, Lư Tống được kêu tên, người thăm, nghe nói là anh ruột của Tống, dạy đại học ở Hà Nội, bọn cán bộ trại biết như vậy nên rất sốt sắng, cho người kêu Tống, Tống nói:
“tôi không có bà con, anh em ǵ hết, làm sao ai thăm tôi được. Trại cho tên quản giáo gọi Tống, Tống nhất định không đi,
cuối cùng đành chịu, và anh Lư Tống phải về. Tống có một đặc điểm, không bao giờ đi dép cao su do trại phát mà chỉ đi chân đất, đôi dép quàng trên cổ ṭn ten, phải nói, không dễ ǵ, khi đi rừng, khiêng súc, chặt tre mà không có dép.
Hỏi Tống, sao mày không mang dép Tống, nó trả lời gọn:
“Da Chân ṃn th́ c̣n mọc da khác, dép ṃn ai phát dép mới mà đi “,
Tống là người nổi danh với câu nói:
“Con ǵ nhúc nhích là ăn hết”, cóc nhái, ễnh ương, rắn rít mà gặp Tống, coi như xong, nó lột da cóc, giă thịt cho thật nát,
cho chút muối, nướng ăn ngon lành.
Đặc biệt Tống ít nói về trốn trại hay ư định ǵ, v́ vậy không ai biết Trong đầu Tống nghĩ ǵ, Tống không có bạn thân, nhưng không có người ghét,
một người bề ngoài, không khác ai trong anh em cải tạo.
Trại 53 khi giao lại cho Công An, được di chuyển về Tuy Ḥa,
nằm trên một đồng bằng chung quanh là lúa và rẫy, thuộc ấp Thạch Thành, trại A 30.
Về A 30, tôi khác lán với Tống, nhưng đều bị trong trại, ra vào trại đều phải qua nhà gác của công an, chung quanh hàng rào trại có cḥi canh,
và hàng rào kẽm gai, những đội mộc, đội rau, đội văn nghệ,
gọi là đội tự giác, ở ngoài, hàng ngày vào trại lảnh cơm và nước.
Đội tôi và đội Lư Tống, làm ruộng, sáng phải ra ruộng, chiều tối,
tắm rửa, đếm số, vào trại.
Tuy không chung đội nhưng gặp nhau vẫn chào hỏi, như đă nói, Tống không có bạn Thân.
Hai đội làm ruộng gần nhau,
Tống vẫn không có thăm nuôi, nhưng nghe nói, khi Tống làm đội xay sát gạo, có một cô trong đội văn nghệ rất thích Tống, ai cũng nói đầu dây mối nhợ là do người này báo cho Tống, tôi không tin, v́ tuy hai đội văn nghệ và xay sát gạo gần nhau, nhưng không được tự do nói chuyện.
Một hôm, vào năm 1980, tôi nấu nước cho đội tôi, sau giờ trưa, anh em nghỉ trưa, ra ruộng làm buổi chiều, tôi bắt đầu đi lấy củi để nấu nước cho anh em cải tạo ngày hôm sau,
tôi đi khá xa, vào các rẫy lấy củi, nhờ vậy mà tôi quen nhiều người làm rẫy, trồng mía, tới mùa làm đường, tôi mang hai ba loong gô theo, nhiều cô làm mai xin tiếp đường cho tôi đường non mang về, tôi chia cho mấy bạn thân cùng lán ăn thoải mái, ngày mai xin tiếp (phải nói, lúc này dân chúng thấy rơ cộng sản rồi, nên rất cảm t́nh với người cải tạo), mới có dịp ăn đường non mệt nghỉ.
Mấy cô làm mía, tiếc ǵ một loong gô đường.
Đây nói chuyện Tống, một hôm tôi đi ngang qua mấy bụi chuối trồng theo b́a ruộng, lúc đó anh em đă ra ruộng lúa hết,
tôi thấy Tống, mặc bộ đồ tù sọc đỏ, nằm ngay gốc chuối,
tôi tưởng Tống ngủ quên, tôi lấy chân lay Tống dậy, nói:
-Tống “Đội mày đi làm hết trơn rồi, sao mày nằm đây”,
Tống vẫn nằm, trả lời:
Tao đau đầu quá, tao xin ông Lía (cán bộ quản giáo) đội 9, nghỉ buổi chiều nay, ngủ chút xíu cho đỡ đau đầu , rồi nó hỏi tôi, mày đi lấy củi hả, tôi ừ, rồi nói với Tống, thôi mày nghỉ cho khỏe, tao đi đấy”.
Hôm đó, nếu không lầm là thứ sáu, ngày hôm sau nghỉ lao động.
Hôm sau, theo lệ thường, ngày nghỉ, thường ai có thăm nuôi th́ nấu ăn, không có ǵ th́ chạy qua mấy lán, gặp bạn bè, nói chuyện, ai có cà phê th́ rủ nhau, mấy thằng một ly cà phê, nhâm nhi, nói chuyện đời,
A 30 cho thăm nuôi xả láng, không hạn định bao nhiêu quà bánh, gạo, đường đều được mang, nhiều nhà khá giả mang cả gánh thăm nuôi.
Tụi tôi đang, mỗi người một nơi, trong hàng rào dây thép, th́ khoảng 10 giờ trưa, nghe tiếng kẻng tập họp, ai về nhà nấy, điểm danh. Số là, thường ngày nghỉ, 10 giờ mọi người đều lănh cơm, cơm do người trực của đội gánh từ nhà bếp, tới từng lán chia.
Thường ai không có mặt th́ nhờ bạn nằm gần lănh dùm, hôm đó, lán của Lư Tống, khi chia cơm, người chia cơm thấy không có đồ lănh cơm của Tống, nên kêu inh ỏi, Lư Tống đâu rồi, không lănh cơm, người chia cơm, hỏi Tống có nhờ ai lănh cơm không?, kêu hoài kêu hủy, người đội trưởng Tù, báo cáo cho cḥi canh ngoài cổng, cảnh vệ bèn đánh kẻng kêu tập họp điểm danh từng nhà, ai cũng có mặt, chỉ thiếu Lư Tống, cảnh vệ báo lên trại, lệnh truy nă tù trốn trại bắt đầu. Ai trong anh em, cũng mong cho Tống đừng bị bắt, và trốn được, và quả thật cả tuần, cả tháng, và cả năm, không bao giờ bắt được Tống.
Năm 1981, khi tôi ra khỏi A 30, tôi vẫn mang một câu hỏi trong đầu, Tống ra khỏi trại bằng cách nào, và đi ra sao ?
Tôi không là bạn thân của Tống, nhưng cùng chung trại mấy năm, tôi phục Tống khi nghe và thấy những hành động của Tống, Tống là một người vượt trại giỏi, nhưng tiếc thay, Tống không kết hợp được nhiều người, trước sau vẫn hành động đơn độc, sau này khi nghe, đọc một bài báo Mỹ nói về Tống, tôi thấy Tống phi thường, nếu có bạn nào đi Mă Lai, mỗi chiều thứ Sáu, rời khỏi trại huấn luyện JWS “Jungle Warfare School”, tại Johore bahru, Malaysia, qua chiếc cầu thật dài giữa eo biển Malaysia và Singapore, các bạn mới cảm phục Lư Tống,
không những về ư chí, mà phải thán phục v́ sức khỏe của Tống, khi Tống bơi qua eo biền này, dưới ḍng nước xanh, sóng mạnh,
Tống đă tới ṭa đại sứ Mỹ tại Singapore, bằng một câu tiếng anh trôi chảy:
“Tôi xin gặp đại sứ Mỹ”, tôi là một sĩ quan không quân VNCH, đă đi từ VN qua nhiều nước, và vừa bơi qua eo biển Mă Lai tới đây.
Lư Tống được lệnh từ Mỹ, ra khỏi singapore chỉ sau vài tiếng đồng hồ...
*Phạm Văn Lương K20
wonderful
03-23-2019, 14:44
Cám ơn ,Cám ơn HoàngLan tôi lại khóc......
hoanglan22
03-23-2019, 15:24
Cám ơn ,Cám ơn HoàngLan tôi lại khóc......
Hy vọng phép màu giữ người Anh Lư Tống ở lại
Bệnh viện hiện Lư Tống đang nằm cách nhà ḿnh 6 miles , đang theo dơi t́nh h́nh . Hiện tại bênh viện không thể cho quá nhiều người vào thăm
wonderful
03-23-2019, 15:59
Hy vọng phép màu giữ người Anh Lư Tống ở lại
Bệnh viện hiện Lư Tống đang nằm cách nhà ḿnh 6 miles , đang theo dơi t́nh h́nh . Hiện tại bênh viện không thể cho quá nhiều người vào thăm
Sáng giờ vợ chồng ḿnh đốt đèn cầu nguyện cho ảnh...mong Chúa Mẹ nhậm lời cầu xin...
hoanglan22
03-23-2019, 17:15
Sáng giờ vợ chồng ḿnh đốt đèn cầu nguyện cho ảnh...mong Chúa Mẹ nhậm lời cầu xin...
:thankyou: bạn hiền:handshake::hand shake: chúc tất cả những người lính của tụi ḿnh b́nh an
Đôla Trăm
03-23-2019, 17:37
CIVW7OrSWdM
hoanglan22
03-26-2019, 13:39
Chiến sử của QLVNCH là một chiến sử oanh liệt với biết bao những chiến công lẫy lừng, hiển hách đă từng được quốc tế ca ngợi là một trong những quân lực thiện chiến hàng đầu trên thế giới, và cũng là một quân lực đầy đắng cay, xót xa, tủi nhục, u hờn và bị bức tử đớn đau nhất. Quân Lực VNCH đă chiến đấu anh dũng với những chiến công lừng danh được đương thời và măi măi sau này nhắc đến. QLVNCH đă có những tướng lănh, những cấp chỉ huy tài ba và mưu lược, can trường và đức độ, liêm khiết, được vinh danh. Có những bậc anh hùng vị quốc tuẫn tiết được phụng thờ hương khói trong ḷng dân tộc, và những đơn vị thiện chiến sáng ngời trong quân sử. Những địa danh ,những trận đánh khốc liệt vang dội một thời mà cho đến tận hôm nay, và măi măi về sau, vẫn c̣n âm hưởng.
Thế nhưng, ngậm ngùi thay, c̣n biết bao nhiêu các chiến sỹ vô danh, đă chiến đấu từng khiến quân thù bạt vía, đă âm thầm hy sinh xương máu để bảo vệ Tự do cho Đất nước, và cả những cấp chỉ huy mưu lược và can trường đă bị lăng quên, bị nhận ch́m trong bóng tối của thời gian.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1355863&stc=1&d=1553607455
Cựu Đại Tá VNCH Nguyễn Mạnh Tường (bên trái)
Sự bất công vô t́nh gần như hồn nhiên theo ḍng thời gian ấy giống như ḷng phụ bạc, có phải chăng chỉ v́ họ là những chiến binh được xếp vào hàng thứ yếu so với các lực lượng Tổng Trừ Bị, những sư đoàn Bộ Binh…? Các lực lượng ĐPQ + NQ diện địa, vốn dĩ được trang bị và yểm trợ cũng vào hàng thứ yếu, họ được coi là những đơn vị phụ chiến, nhưng thực tế chính họ lại là những đơn vị ṇng cốt và thiết yếu của chiến trường, ngày đêm trực diện với kẻ thù, không một phút giây thảnh thơi được về dưỡng quân nơi hậu cứ phố thị sau những trận đánh như những đơn vị Tổng Trừ Bị đàn anh, được khao thưởng, được chào mừng nồng hậu…
Tội nghiệp thay, chính họ chứ không ai khác, đă phải ngày đêm căng sức giữ vững từng tấc đất mà quên lăng thân ḿnh, thậm chí họ đă từ chối mọi tưởng thưởng, những phần thưởng tinh thần. Một thí dụ điển h́nh như trường hợp một trung đội trưởng Nghĩa Quân, kiêm nhiệm Xă Trưởng Xă Mỹ Hiệp quận Phù Mỹ, Tỉnh B́nh Định, đă từ chối danh vị chiến binh Anh Hùng vào năm 1973 – Anh đă từ chối phần thưởng được du ngoạn Đài Loan, người Nghĩa Quân ấy năn nỉ với Đại Tá Nguyễn Mạnh Tường để xin được ở lại giữ thôn ấp. Anh nói:
- “Xin Đại Tá cho em được ở lại. Em mà bỏ đi lúc này, xă Mỹ Hiệp sẽ nguy mất!” Phải nói thêm là bọn Du Kích Xă Mỹ Hiệp nổi tiếng là ĺ lợm và hung bạo, “Nhà Thờ Đá” “Dốc Bà Dần” là những địa danh không xa lạ ǵ với nhân dân Tỉnh B́nh Định, lại do chính sự hung bạo lỳ lợm và của xă đội Du Kích Xă Mỹ Hiệp tạo thành.
Một trong những miền đất bị bỏ quên chính là chiến trường B́nh Định và những chiến sỹ của miền đất “Tây Sơn, ÁoVải Cờ Đào “. Và bài viết này xin được coi như lời tạ lỗi muộn màng của một người lính chiến ở chiến trường B́nh Định c̣n sống sót, đang viết những ḍng này.
Chiến trường B́nh Định – không phải măi sau này – mà ngay từ thờ kháng chiến chống Pháp, đă luôn luôn là một chiến trường sôi động. Những địa danh An Khê, Hoài Ân, An Lăo . . . măi măi là dấu ấn kinh hoàng cho những binh đoàn viễn chinh Pháp, một phần v́ địa thế chiến lược của vùng đất này, một phần khác là ḷng người. Thời kháng Pháp, quân đội viễn chinh Pháp, dù đă nhiều phen dồn mọi nỗ lực, vẫn không chế ngự và kiểm soát được, và cũng chính v́ thế, một số không nhỏ những người yêu nước đă bị cộng sản Hà Nội lừa gạt bởi chiêu bài Dân Tộc trá h́nh, đă chiến đấu dũng mănh trong hàng ngũ của họ.
Sau Hiệp định Genève, một số tập kết ra Bắc, một số lớn ở lại âm thầm tạo dựng cơ sở. Dân chúng B́nh Định, với truyền thống yêu nước của vùng đất Quang – Trung, đă bị tuyên truyền bịp bợm về ngọn cờ Dân Tộc trá h́nh, nên một số lớn dân chúng B́nh Định hướng về Hà Nội. Thế nhưng, nét đăc thù của người dân B́nh Định là phân minh, Quốc, Cộng rạch ṛi, chính sự phân định ấy đă đưa đến thảm trạng tương tranh khốc liệt. Biết rơ điều này, Quân khu 5 của Cộng quân luôn coi chiến trường B́nh Định là chiến trường chủ yếu mang tính quyết định, nên họ dồn mọi nỗ lực, tuyên truyền, vận động để đẩy rộng thêm sự chém giết tương tàn, gây hận thù chồng chất.
Chiến trường B́nh Định luôn có mặt những đơn vị cộng sản thiện chiến nhất của Quân khu 5. Khi Chu Huy Mân nắm quyền Tư Lệnh, y điều động Sư đoàn 3 Sao vàng “anh hùng”, với những Tiểu đoàn quyết tử, Tiểu đoàn 405 trinh sát đặc công được trao tặng cờ đỏ, với Trung đoàn Địa phương và các huyện đội tinh nhuệ được đặt dưới quyền điều động của những cán bộ cuồng tín và tàn bạo bậc nhất, chưa kể đến vào những năm 1965, được tăng cường thêm Trung đoàn Địa phương Phú Yên dưới sự chỉ huy của ‘Tướng độc nhủ Nguyễn thị Lành, được mệnh danh là Nữ hung thần bất tử.”
Chiến trường B́nh Định bùng lên mănh liệt vào những tháng đầu năm 1965, giữa lúc mà cuộc diện chính trị VNCH đa ng nổi trôi trong sự bất ổn, những trận đánh ác liệt diễn ra khắp nơi trải dài từ Phù Ly đến tận Bồng sơn với các mặt trận Phù Ly, Đại Thuận, Phù Mỹ, Đèo Nhông, Diêm Tiêu, Vạn Bảo, Phù Cũ . . . đă mở màn dường như cùng một lúc. Chẳng phải bỗng dưng mà tháng 9/1965 sư đoàn Anh Cả Đỏ (SĐ1 Không kỵ ), rồi lần lượt Sư đoàn 101, Lữ đoàn 173rd Dù đều là những đơn vị thiện chiến nhất của Hoa Kỳ đă phải thay nhau có mặt tại B́nh Định , chế ngự An Khê và mật khu Kon Hanùng. Chẳng phải khi không mà sư đoàn Mănh Hổ bậc nhất của quân đội Đại Hàn được giao sứ mạng trải dài bảo vệ quốc lộ 19, nhưng vẫn không chu toàn việc bảo vệ trọn vẹn sinh lộ này.
Tỉnh B́nh Định là tỉnh được coi là rộng nhất trong toàn quốc với diện tích khoảng 10.000km vuông, chiều dài từ đèo Cù Mông đến đèo B́nh Đê là 120km, chiều ngang từ Mũi Phương Mai đến biên giới tỉnh Pleiku là 90 km, với 3/4 là núi rừng trùng điệp, với các mật khu Kon Hanùng phía Bắc quận An Túc, giáp ranh tỉnh Kontum và Quảng Ngải. Mật khu An Lăo , mật khu Vân Canh, mật khu Vĩnh Thạnh, căn cứ địa 226 nằm giữa ba quận đông Vĩnh Thạnh, tây Phù Mỹ và Nam Hoài Ân, mật khu mà chúng gọi là khu tam giác sắt vùng núi non Mỹ Thọ của Quận Phù Mỹ, là nơi mà chúng ém quân và xuất phát những cuộc tấn công ác liệt nhất. Dân số được kiểm kê vào tháng 1/1973 là 996.673 người (đây là con số không được trọn vẹn) được chia làm 14 quận: Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù cát, Tuy Phước, Tam Quan, Vân Canh, Nhơn B́nh, và Nhơn Định. (Sau này Vĩnh Thạnh, Tam Quan, Vân Canh được đổi thành Nha Phái Viên Hành Chánh, riêng An Lăo, nơi diễn ra trận đánh khốc liệt Suối đôi, Đồi Thánh Giá vào năm 1964, An Lăo đă không c̣n kiểm soát được.)
Tính cuối năm 1972 Lực lượng ĐPQ và Nghĩa Quân trực thuộc TK/B́nh Định gồm hai BCH Liên đoàn 271 và 272, 18 Tiểu đoàn ĐPQ, 12 Đại đôi biệt lập, 620 Trung đội Nghĩa Quân (chưa kể đến quân số thuộc Xây Dựng Nông Thôn và Nhân Dân Tự Vệ). Để tăng viện cho t́nh h́nh chiến trường, Sư đoàn 22/BB có 4 Trung đoàn: 40, 41, 42, 47, th́ thường xuyên 2 Trung đoàn 40 và 41 phải trấn ngự tại Bính Định. Quân đoàn 2 chỉ c̣n lại 4 Trung đoàn của Sư đoàn 23 và 2 Trung đoàn của SĐ/22/BB chia đều cho các tỉnh c̣n lại của Quân khu. Ngoài ra, trong giai đoạn sôi động nhất, Liên đoàn 6 và Liên đoàn 4/BĐQ được tăng cường trấn ngự 3 quận bắc B́nh Định. Với một lực lượng lớn như thế, vẫn không đủ để dàn trải, để ổn định.
Vị Tỉnh trưởng dân sự cuối cùng là Ông Bùi Thúc Duyên, đă chuyển tiếp cho các sỹ quan của Quân lực từ cuối năm 1963: Đại Tá Trần Văn Tươi, Đại Tá Nguyễn Thanh Sằng, Thiếu Tá Trần Đ́nh Vọng, Thiếu Tá Thịnh, Trung Tá Lê Trung Tường, Trung Tá Trần Đ́nh Vọng (lần thứ 2), Đại Tá Nguyễn Mộng Hùng, Trung Tá Phan Minh Thọ, Đại Tá Nguyễn Duy Bách, Đại Tá Nguyễn Văn Chức, Đại Tá Hoàng Đ́nh Thọ và vị Tỉnh Trưởng kiêm TK/Trưởng cuối cùng là Đại Tá Trần Đ́nh Vỵ.
Đ/Tá Nguyễn Văn Chức, một sỹ quan cao cấp của ngành Công Binh chuyên nghiệp nhận chức Tỉmh Trưởng kiêm TK/Trưởng vào giữa năm 1971, với Tiểu khu Phó là Đại Tá Hà Mai Việt (Binh chủng Thiết Giáp), Tham mưu trưởng là Trung Tá Nguyễn Văn Cừ của Quân Cụ. Đây là giai đoạn mà các sỹ quan cột trụ không từng là sỹ quan tác chiến lại phải gánh nhận áp lực nặng nề nhất trên chiến trường B́nh Định.
Giữa lúc t́nh h́nh sôi động ấy, các chức vụ then chốt vốn là do các sỹ quan đă từng phục vụ tại Tiểu khu B́nh Định trên dưới 10 năm, trưởng thành qua những kinh nghiệm chiến trường, biết rành rẽ về hiễm địa và nhân sự… lại bị cho là cấp bậc quá thấp (Thiếu Tá), không đủ khả năng chỉ huy và lănh đạo, nên Đại Tá Chức đă xin Bộ TTM bổ nhiệm về B́nh Định 50 Trung Tá để thay thế các sĩ quan cấp bậc Trung Tá về Tiểu khu B́nh Định, gồm đủ mọi thành phần. Bộ TTM gởi ra 16 vị ,và BTL/QĐ2 gởi xuống 14 vị để đáp ứng yêu cầu của Đ/Tá Chức. Đại đa số các vị sĩ quan trung, cao cấp này khi được tăng cường cho Binh Định đều có vẻ ngao ngán với tâm trạng đi đày trong các chức vụ không tương xứng. Người duy nhất, nhận nhiệm vụ bằng cả tấm ḷng, bằng cả trí tuệ và sự nhiệt thành, đó là Trung Tá Nguyễn Mạnh Tường. Ông rời chức vụ Giám đốc Trung tâm Hành quân Quân đoàn 2 về làm Tham mưu Phó Hành quân Tiếp vận dưới trướng Tham mưu Trưởng Nguyễn Văn Cừ, vị Trung Tá Quân cụ, gọi máy PRC25 liên lạc hành quân như gọi điện thoại… May mắn thay, Trung tá Nguyễn Mạnh Tường đă đến, đáo nhiệm một chức vụ quá khiêm tốn với tài năng và một bộ óc quân sự tuyệt vời, cộng với ḷng nhiệt thành và một trái tim trong sáng. Chính vị Trung Tá năng động này đă làm nên chiến thắng oanh liệt, cứu nguy cho sự tan nát của B́nh Định mỗi lúc một gần kề, khi mà Sư đoàn 3 Sao vàng đă chiếm một cách trọn vẹn 3 quận bắc B́nh Định là Tam Quan, Hoài Nhơn, Hoài Ân. Thiếu tá Hồng Bảo Hiền, Quận trưởng Hoài Nhơn tử trận, lực lượng trú pḥng của 3 quận rút chạy bằng đường biển v́ sức mạnh tổng lực của địch. Tinh thần binh sĩ hoang mang, thành phố Qui Nhơn trống vắng, 70% dân chúng tháo chạy về Nam. Cùng lúc ấy, trận chiến bùng nổ khắp nơi, các Trung đoàn thuộc SĐ/22 từ Đệ Đức (Phù Mỹ) bị điều động tăng cường mặt trận Tân Cảnh, tư lệnh SĐ/22 BB Đại Tá Đạt cùng một số sỹ quan tham mưu bị bắt, t́nh thế cực kỳ bối rối, thành Phố Qui Nhơn bị pháo kích. Bộ chỉ huy tiểu khu hầu như không có một kế hoạch khả dĩ nào đủ để ứng phó với t́nh h́nh mỗi lúc một trở thành nghiêm trọng.
Trung tâm hành quân (TTHQ) Tiểu Khu B́nh Định do công binh Hoa Kỳ xây dựng kiên cố như một pháo đài nằm ch́m trong ḷng đất, đầy đủ mọi tiện nghi, dư khả năng chịu đựng được những cuộc pháo kích của địch kể cả không tập, được bảo vệ cẩn mật, vậy mà bị nội tuyến của địch xâm nhập đánh xập. Thiếu Tá Thái Xuân Lư, và 2 sĩ quan (1 Đại Hàn – 1 Mỹ) tử thương, Đại úy Bùi Trọng Thủy bị thương nặng. Trung Tâm Hành Quân hoàn toàn bị phá hủy.
Trước đây,Trung tâm trưởng TTHQ do trưởng pḥng 3 kiêm nhiệm, gồm 1 sĩ quan không trợ kiêm sĩ quan phụ tá , 3 sĩ quan QSV/L 19 và 3 ca trực, mỗi ca trực gồm 1sq+1hsq +1bs. Từ khi TTHQ được xây dựng qui mô, do nhu cầu chiến trừơng, 3 toán cố vấn Mỹ gồm 1 thiếu tá + 3 đại úy +3 hsq + 3 bs chia làm 3 ca trực song song với các toán trực VN, ngoài ra, TTHQ c̣n được tăng cường 1 toán ALO/FAC cuả không quân, 1 sq hải quân và một hệ thống truyền tin tinh xảo với các toán âm thoại viên dầy kinh nghiệm.
Tôi (kẻ viết bài này) đă làm việc tại TTHQ từ thời chuẩn úy Lê Văn Lộc làm trưởng pḥng 3, thiếu úy Hứa làm SQ không trợ, ít lâu sau thiếu úy Hứa thuyên chuyển, tôi được bổ nhiệm thay thế với toán QSV/L19 gồm Tr/u Lía, Th/u Phú, Ch/u Sỹ, Ch/u Tuân. Những ngày ấy, đôi khi Tiểu Khu Trưởng c̣n là Th/Tá, tiểu khu phó có khi là Đ/úy ( Đ/u Nguyễn Bé ) và các TMT như Đ/u Thái Sanh Thâm, Đ/u Trần Ngọc Điền, Đ/u Đỗ Vũ, Đ/u Trịnh Tiếu. Theo ngày tháng, kinh nghiện mỗi ngày một dầy, cấp bậc theo ngày tháng ḅ lên từng nấc, chức vụ vẫn y nguyên…
Cuối năm 1971 Trung tá Nguyễn hữu Thông về làm Giám đốc TTHQ/TKBĐ, khoảng chừng 3 tháng sau, ông được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng Tr/đ42/SĐ 22BB, ( Đại tá Thông đă tự sát tại băi biển Qui Nhơn ngày 31/3/75 khi Trung đoàn 42 từ An Túc rút về tử thủ ở chân đèo An Khê, tại đây, Trung đoàn 42 đă đánh bật sư đoàn F.10 Cộng sản không cho tràn xuống từ đèo An Khê, tiêu diệt 600 địch quân . F.10(SĐ.10) phải bọc qua dẫy Nam Triều tràn xuống chiếm Qui Nhơn, Đại tá Thông kết hợp với Trung đoàn 41 của Đại tá Thiều kéo về giải tỏa thành phố, đánh bật F.10 và các lực lượng địa phương CS, và đă ở lại tử thủ Qui nhơn đến viên đạn cuối cùng.)
Nhắc lại, khi Đại tá Thông ra đi, tôi cũng xin thuyên chuyển về làm ĐĐT/ĐĐ/CTCT B́nh Định, sang đầu năm 1972 v́ t́nh h́nh chiến sự, tôi được gọi trở về lại Trung tâm Hành quân, phụ tá cho Thiếu tá Nguyễn Ngọc Xuân, trưởng pḥng 3 kiêm Trung tâm Trưởng TTHQ. Công việc của TTHQ là theo dơi t́nh h́nh chiến sự, ghi nhận tất cả mọi hoạt động của các lực lượng trú pḥng trong tỉnh, xin hỏa châu soi sáng, xin oanh kích khẩn cấp theo nhu cầu chiến trường, xin tản thương.
Chỉ riêng với lực lượng lănh thổ, với 18 Tiểu đoàn địa phương, 12 Đại đội biệt lập, 620 Trung đội Nghĩa quân, phải nắm vững 3 điểm đóng quân và phục kích cho mỗi trung đội. Như thế có nghĩa là TTHQ phải tiếp nhận báo cáo hàng đêm đă được mă hóa từ các đơn vị trực thuộc, giải mă và ghi chú trên bản đồ “Hoạt động Bạn” với tất cả các diễn tiến mọi cuộc hành quân trong toàn Tỉnh và những tổn thất địch, bạn. Ghi nhận những phi vụ oanh kích khẩn cấp, và dự trù từng chi tiết cho buổi thuyết tŕnh vào sáng sớm ngày hôm sau. Công việc này do sỹ quan trực nhật TTHQ đảm trách và SQ Phụ tá nhận nhiệm vụ thuyết tŕnh phải nắm vững từng chi tiết và phải trả lời một cách chắc chắn mọi sự kiện trong 24 giờ sau. Thậm chí kết quả của những cuộc không tập do Không quân Hoa Kỳ hoặc VN thực hiện, phải kư tên và chịu trách nhiệm hoàn toàn cho mỗi phi vụ oanh kích.
Đó là một thời kỳ đầy sóng gió và phân liệt. Ba vị Thiếu tá Quận trưởng thất trận được điều động về làm 3 SQ trưởng toán trực TTHQ , và những sĩ quan cấp đại úy vốn là các sĩ quan đầy kinh nghiệm và thông suốt nhiệm vụ của ḿnh bị đẩy xuống làm sỹ quan phụ tá trưởng toán. Duy nhất trong 3 vị Thiếu tá này, chỉ có một ḿnh Thiếu tá Thái Xuân Lư và Đại úy Thủy là đảm nhận trách vụ một cách cố gắng và làm tṛn, riêng hai vị Thiếu tá c̣n lại, thường xuyên vắng mặt với những lư do mơ hồ từ tư gia của Đại tá Hà Mai Việt, Tiểu khu phó, và tôi lại phải trực tiếp thay thế các Trưởng toán trực vắng mặt này!
(Sở dĩ tôi phải dài ḍng như thế để tŕnh bày lư do tại sao tôi có đủ điều kiện và tư cách viết về chiến trường B́nh định, và các chiến công của các đơn vị diện địa Nghĩa quân và Địa Phương Quân một cách tương đối chính xác. Và quan trọng hơn, nguyên nhân tôi được may mắn và hănh diện được đặt trực thuộc dưới quyền của Trung tá Nguyễn Mạnh Tường sau này).
Trung Tá Tường được thuyên chuyển về B́nh Định nhận nhiệm vụ mới là Tham mưu phó Hành Quân Tiếp vận kiêm nhiệm Giám đốc TTHQ. Do bản tính năng động và một tinh thần phục vụ vô bờ bến, cộng với tài năng sáng chói đă làm lu mờ các cấp chỉ huy cao hơn, khiến ông bị đày ải: Phải thành lập tức khắc Bộ Chỉ Huy hành quân nhẹ và trú đóng trên đỉnh núi Bà Hỏa tuyệt đường lên xuống, do đó Tr/Tá Tường không có cơ hội điều hành TTHQ thường xuyên. Vậy mà sau khi TTHQ phát nổ, ông đă bị nghi ngờ, bị điều tra. . .
May mắn thay, ông đă thoát được lưỡi gươm sinh tử v́ chỉ đă xuống TTHQ không quá một lần duy nhất, chỉ v́ tại núi Bà Hỏa, ông đă quá bận rộn với trách nhiệm của ḿnh, không chỉ riêng ông, tôi cũng bị nghi ngờ là tên Cộng sản nằm vùng khi Đại tá Đạt, Tư lệnh SĐ22 bị bắt ở mặt trận Tân Cảnh cùng với một số SQ của Bộ Chỉ huy Tiền phương.
Đại Tá Chức vận động để được bổ nhiệm làm Tư lệnh Chiến trường B́nh Định, để muốn có được quyền uy điều động toàn bộ lực lượng theo ư ḿnh, do đó Đại tá Chức thường xuyên có mặt ở Bộ Tư lệnh SĐ22 trú đóng ở Bà Di (cách Qui Nhơn khoảng 15 km đường chim bay, trên một ngọn đồi rộng) như tư thế của một Tư lệnh Sư đoàn đích thực. Hôm đó, vào buổi chiều, Qui Nhơn bị pháo kích, gây cho 3 người dân bị thương, tôi đă phải liên lạc trực tiếp với Đại tá Chức đang có mặt tại TTHQ Sư đoàn. Sau khi tôi báo cáo mọi chi tiết, ông ra lệnh cho tôi qua điện thoại Hot Line của TTHQ/SĐ:
- “Gọi cho Thiếu Tá Sáng, theo lệnh tôi, rút hai Trung đội Nghĩa quân tại núi Han và Vũng chua để pḥng thủ thị xă!”
Bỏ hai vị trí này là để lại cao địa cho cộng sản pháo vào Qui Nhơn. Tôi nghe lệnh ông mà giật bắn người, e rằng ḿnh nghe lầm. Tôi xin ông nhắc lại khẩu lệnh. Một lần nữa Đại tá Chức lập lại lệnh của ông rồi cúp máy. Tôi toát mồ hôi, điện thoại xin gặp Tr/tá Trí(Chí?) hỏi về lệnh cuộc điện đàm vừa rồi, Tr/tá Trí xác nhận là đă đứng cạnh Đ/Tá Chức và nghe rơ mệnh lệnh của Đ/T Chức. Tôi xin Tr/tTrí ghi một cách chi tiết vào sổ trực TTHQ/SĐ, và tôi cũng ghi chi tiết một cách chính xác vào sổ trực TTHQ/TK, đồng thời tôi mời đích thân Th/Tá Sáng xuống TTHQ nhận lệânh, và cùng lúc, tôi yêu cầu Th/tá Sáng liên lạc lần nữa với Đại Tá Chức để xác nhận đầy đủ mọi chi tiết. Sau đó tôi không biết Th/tá Sáng có trực tiếp xác nhận lệnh với Đ/tá Chức về lệnh lạc này hay không, nhưng ngay lập tức tối hôm đó, VC pháo kích vào Qui Nhơn như mưa bấc, vị trí đặt súng của địch chính là Núi Han và Vũng Chua, nơi mà hai Trung Đội Nghĩa Quân trú đóng vừa rút đi theo lệnh của Đại tá Chức. Tôi báo cáo cho Đ/Tá Chức, ông hỏi:
- “Vậy hai Trung Đội Nghĩa Quân ở núi Han và Vũng Chua hiện ở đâu?”
Tôi nhắc lại lệnh của ông vào lúc xế trưa cùng ngày, ông quát trong máy:
- “Tôi không hề ra lệnh cho anh, đó là Việt Cộng đă ra lệnh cho anh!”
Và cúp máy. Không đầy 30 phút sau đó, Trung Tá Điều, Trưởng khu An Ninh Quân Đội đến gặp tôi, và hỏi về điều này, tôi phải tŕnh bầy mọi chi tiết và đưa cho Trung Tá Điều sổ trực TTHQ. Trung Tá Điều phải khẩn cấp lên TTHQ Sư Đoàn so sánh, sau đó, Tr/tá Điều cho tôi biết là Đại Tá Chức xác nhận là đích thân đă ra lệnh ấy, nhưng công việc bận rộn nên quên mất (!)
Đến nay, 30 năm đă trôi qua, tôi luôn luôn ghi nhớ và cảm ơn Tr/Tá TTT/TTHQ/ SĐ22/BB. Tôi không hề có bất sự hiềm khích nào với Đ/T Chức, ngược lại, tôi luôn luôn quư trọng ông, không những thế, tôi c̣n rất cảm phục tài năng chuyên môn của ông thuộc binh chủng công binh. Sở dĩ tôi nhắc đến để độc giả thương cảm rằng Đ/T Chức đă không được xử dụng đúng tài năng của ông và Tr/t Nguyễn Mạnh Tường đă gặp quá nhiều trở ngại trong trách vụ về mọi mặt. May mắn thay, không lâu sau đó, Đại tá Chức được bổ nhiệm làm Cục Trưởng cục Công Binh, và thăng cấp Chuẩn Tướng, cùng với đa số các sĩ quan cấp bậc Tr/tá do Ch/tướng Chức xin về cũng được “giải thoát”.
Trung Tá Tường được bổ nhiệm về làm TMT trường Đại học CCCT, nhưng ông đă xin được ở lại với chiến trường B́nh Định đang cực kỳ sôi động. Đại tá Hoàng Đ́nh Thọ đương kim Tỉnh trưởng Quảng Tín, được thuyên chuyển về nhận chức vụ Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu B́nh Định. Đại tá Thọ là một sĩ quan kiệt xuất trên nhiều lĩnh vực, từ đó, bộ mặt của Tiểu Khu đổi thay hẳn với thành phần dưới ông:
– Tiểu Khu Phó: Trung Tá Nguyễn Mạnh Tường
- Tham Mưu Trưởng: Trung Tá Nguyễn Đức Trung
- Trưởng P1: Thiếu Tá Vơ Đức Tín
- Trưởng P2: Thiếu Tá Kiều Văn Sâm
- Trưởng P3: Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Xuân
- Trưởng P4: Thiếu Tá Dư Văn Hạ
-TMP/ CTCT: Trung Tá Nguyễn Lâm
- Trưởng Pḥng Thông Tin: Thiếu Tá Quỳ
Và TTHQ đă được trả lại những ngày ổn định cũ.
Sau những nỗ lực giải tỏa áp lực địch tại các quần phía Nam, tháng 7/1972, cuộc hàng quân tái chiến Bắc B́nh Định với Sư Đoàn 22/BB làm nỗ lực chính đă đánh bật Cộng quân ra khỏi 3 quận phía Bắc, cùng lúc Sư Đoàn 2/BB thuộc quân khu với sự tham chiến của Biệt Động quân đă đánh bật Cộng Quân ra khỏi cửa khẩu Sa Huỳnh, t́nh h́nh chiến sự đă tương đối lắng dịu. Thế nhưng, với cái nh́n của những nhà quân sự, th́ đây là giai đoạn tĩnh lặng trược giông tố, địch đang phối trí và sửa soạn cho một chiến trường khốc liệt khác. Chính v́ dự đoán như thế, Trung tướng TL/QĐ 2 Nguyễn Văn Toàn đă đặc biệt triệu tập Đại Tá Hoàng Đ́nh Thọ Tỉnh trưởng kiêm TKT và Trung tá Nguyễn Mạnh Tường tiểu khu phó tại biệt thự Hương Cầm tại Qui Nhơn. Sau những quan ngại về những mưu đồ của địch trong tương lai, ông nói (Theo lời Trung tá Tường thuật lại sau này):
- “Quân Đoàn 2 với một vùng trách nhiệm quá rộng lớn, lại là một vùng với áp lực địch luôn luôn rất nặng, vậy mà dưới tay tôi, chỉ có 2 Sư Đoàn 22 và 23, gần 8 Trung Đoàn BB, riêng B́nh Định đă cầm chân thường xuyên 2 Trung Đoàn, với 6 trung đoàn c̣n lại, phải đảm trách một lănh thổ quá rộng, với áp lực địch càng lúc càng gia tăng, tôi xin hai anh giúp tôi, bằng mọi cách cố gắng dùng lực lượng ĐPQ và NQ thay thế phần trách nhiệm của hai “thằng” 40 và 41 { Trung đoàn 40 & 41) để tôi có thêm khả năng đối phó với t́nh h́nh sắp tới, mà tôi tiên đoán rằng, mỗi lúc một ác liệt. Tôi đề nghị anh Thọ giao trách nhiệm quân sự cho anh Tường, tôi đặt hết niềm tin vào các anh!”
Những tháng ngày kế tiếp sau đó, tôi chưa hề thấy Trung tá Tường có lấy một phút nghỉ ngơi, ngay cả khi phu nhân và các con của Trung tá từ Sài g̣n ra Qui Nhơn thăm chồng, bà đă phải chờ đợi suốt cả tuần lễ vẫn chưa được gặp mặt chồng. Người chiến binh tận tụy ấy đă quên cả hạnh phúc cá nhân, quên cả chính thân ḿnh. Ông ăn uống kham khổ cùng với binh sĩ của ông. Ông có mặt khắp nơi, từng đơn vị nhỏ nhất, săn sóc, an ủi, giải quyết những ưu tư của binh sĩ. Ông theo dơi, kiểm tra, lựa chọn, tổ chức, huấn luyện những binh sĩ ĐPQ &NQ, lựa chọn trong số các đơn vị thuộc quyền các chiến binh mà kinh nghiệm cũng như ḷng can trường cùng khả năng chiến đấu để thành lập những đơn vị xung kích và trinh sát bằng những khóa huấn luyện đặc biệt. Binh sĩ, qua lớp huấn luyện có thể đảm đương mọi nhiệm vụ đặc biệt được giao phó, kể cả các chiến thuật Diều hâu bằng Trực thăng vận. Liên đội Trinh sát Tiểu khu với hai Đại đội bao gồm các chiến binh can trường và thiện chiến được đặt dưới quyền chỉ huy của Trung úy Khuynh, một trong những sĩ quan ưu tú của quân lực. Liên đội trinh sát ấy đă làm nên những chiến công hiển hách, không phụ tấm ḷng kỳ vọng của ông.
Nhờ thế, sau một thời gian ngắn, khí thế của lực lượng ĐPQ & NQ B́nh Định đă vươn lên, không hề thua sút bất cứ đơn vị thiện chiến nào. Họ không những bảo vệ an toàn các trục lộ huyết mạch, ngăn chặn một cách hữu hiệu mọi ư đồ của địch, mà c̣n mỗi lúc mở rộng vùng kiểm soát. Đến cuối năm 1972, t́nh h́nh an ninh mỗi lúc một khả quan và tinh thần binh sĩ đă lên cao trông thấy, địch cùng lúc càng bị dồn vào thế co cụm.
Trận đánh giải tỏa Đề Gi
Cứ điểm Đề Gi là một mơm đất, là một cửa biển giáp ranh giữa hai Quận Phù Mỹ và Phù Cát. Nơi này là căn cứ Hải quân quan trọng đặt dưới quyền chỉ huy của Hải quân Thiếu tá Cát. Về phía bắc, qua một lạch nước rộng, thông từ biển vào Đầm Nước Ngọt là Đài Kiểm báo được xây dựng trên một đỉnh núi lẻ. Phía tây của căn cứ là Quốc lộ 1, nối liền với căn cứ từ cầu Phù Ly là tỉnh lộ dài 21km chạy song song với một ḍng sông nhỏ, đổ vào Đầm Nước Ngọt, kẹp giữa sườn phía Bắc dẫy núi Bà (c̣n gọi là Ḥn chung). Đề Gi là một cửa khẩu chiến lược với Đài Kiểm báo được trang bị tối tân, có thể kiểm soát cả một vùng biển Đông bao la. Từ cửa khẩu này tiếp nối với căn cứ địa 226 nằm giữa vùng núi non, tiếp giáp 3 Quận Phù Mỹ, Hoài Ân và Vĩnh Thạnh, mở xuống một vùng đồng bằng rộng lớn phía Nam thuộc các quận B́nh Khê, Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước.
Từ khi cửa khẩu Sa Huỳnh bị Sư đoàn 2 tái chiếm, cắt đứt mọi khả năng vận chuyển lương thực và vũ khí của địch từ biển đông tiếp vận cho nội địa, Sư đoàn 3 Sao vàng cuống cuồng v́ lệnh từ Hà Nội và Quân khu 5 CS, bằng mọi cách phải chiếm được ít nhất một cửa khẩu để dùng làm địa bàn sau khi Hiệp định đ́nh chiến có hiệu lực. Trong khi mọi nỗ lực của Sư đoàn 3 Sao vàng và lực lượng địa phương của chúng hoàn toàn bất lực trong nhiệm vụ nống lấn mở rộng vùng kiểm soát, không những thế, cón bị các lực lượng ĐPQ&NQ đẩy vào thế bị động, luôn luôn bị săn đuổi. Cuối cùng Chu Huy Mân phải chấp nhận kế hoạch Tổng lực do viên Thiếu tá CS là Vơ văn Ứng đệ tŕnh. Chu Huy Mân bổ nhiệm Ứng làm Lữ đoàn trưởng thực hiện kế hoạch (mà Ứng đă đệ tŕnh với sự cam kết chiến thắng), Lữ đoàn bao gồm 7 Tiểu đoàn thiện chiến của Sư đoàn 3 Sao vàng gồm:
5 Tiểu đoàn Bộ chiến
1 Tiểu đoàn Đặc công
1 Tiểu đoàn Pháo
Lực lượng tổng lực của Huyện đội Phù Cát
Với một nghiêm lệnh là bằng mọi giá phải chiếm cho bằng được căn cứ Đề Gi, bất kể Hiệp định đ́nh chiến đă có hiệu lực. Cuộc chiến bùng nổ vào rạng sáng ngày 27/1/1973. Đài Kiểm báo do lực lượng của Duyên đoàn 21 Hải quân trấn giữ, bất thần bị Tiểu đoàn Đặc công địch tràn ngập. Núi Gềnh là một mơm núi thuộc dăy Núi Bà nh́n xuống căn cứ Hải quân, trước đây do một đơn vị của Sư đoàn Mănh Hổ Đại Hàn trú đóng, đă âm thầm rút đi, không thông báo, bỏ trống, không bàn giao lại cho lực lượng Việt Nam, bị Huyện đội cộng sản Phù Cát chiếm giữ.
Lúc 8 giờ sáng ngày 27/1/73, phút đầu tiên của Hiệp định đ́nh chiến có hiệu lực, căn cứ Đề Gi bị tấn công bằng tất cả sức mạnh của Lữ đoàn cộng sản. Hỏa lực địch từ Núi Gềnh, từ Đài Kiểm báo với hàng ngàn trái đạn rót vào căn cứ. Căn cứ được pḥng thủ bởi lực lượng Hải quân đồn trú, quân số chỉ bằng 1/10 lực lượng địch, anh dũng đánh trả và đẩy lui nhiều đợt xung kích, gây nhiều tổn thất về nhân mạng cho địch. Gặp sức kháng cự mănh liệt của lực lượng pḥng thủ, chúng bắc loa kêu gọi đầu hàng. Qua máy, Thiếu tá Cát lên án hành vi vi phạm Hiệp định đ́nh chiến của chúng, Tên Lữ-đoàn trưởng, Thiếu-tá CS Vơ văn Ứng lư luận là theo giờ Hà Nội, lúc này chưa phải đúng giờ đ́nh chiến. Đồng thời y chặt đầu một Nghĩa quân mà chúng bắt được, bỏ cái xác không đầu của người lính tội nghiệp lên xe lam, chở xác người Nghĩa quân đến cổng căn cứ Hải Quân, với những lời đe dọa ” Hàng th́ sống, chống chặt đầu, quyết không bỏ sót!”
Hành động bạo tàn này đă không làm cho những chiến sỹ trú pḥng sợ hăi, ngược lại, càng khiến tăng thêm ư chí quyết chiến đấu trở thành sắt thép hơn, càng quật nát từng đợt tấn công liều chết của địch. Đạn pháo của địch từ hai cao điểm dội xuống như mưa, trực thăng không thể đáp xuống được, cùng lúc, hỏa lực địch từ núi Gềnh và Đài Kiểm báo khống chế toàn vùng biển.
Cuộc tấn công vi phạm Hiệp Định đ́nh chiến của Việt cộng được thông báo cho UB/QT Kiểm soát Đ́nh chiến trú đóng tại TTHL/Phù-cát, và yêu cầu UB/KS/ĐC kư vào biên bản. Trước hành vi bạo ngược của những người Cộng sản anh em, viên trưởng đoàn Ba Lan không thể chối căi, đành phải kư tên vào biên bản (sau này viên trưởng đoàn Ba Lan bị cách chức!!).
Giữa lúc cộng sản dồn mọi nỗ lực nống lấn, chiếm đất, giành dân trước và cả sau giờ đ́nh chiến, các đơn vị diện địa, lực lượng trú pḥng tỉnh B́nh Địng nói riêng và trên toàn quốc nói chung, đă phải dàn trải khắp nơi, ngăn chặn không cho Cộng quân thực hiện mưu đồ của chúng. Chúng đă gặp phải sức chiến đấu quyết liệt của các chiến sỹ ĐPQ &NQ, không những đă không thực hiện được ư định, mà c̣n bị thiệt hại nặng nề trên khắp các mặt trận. Ngay cả những trục lộ giao thông quan trọng : Quốc-lộ 1, từ đèo Cù Mông đến B́nh Đê, Quốc lộ 19 từ Bà Di lên đến đèo Măng Giang, các chiến sỹ ĐPQ&NQ diện địa đă bảo vệ an ninh lưu thông một cách tuyệt đối không ngờ .
Đứng trước t́nh h́nh ấy, Bộ Tổng Tham Mưu/QLVNCH đă khẩn cấp không vận Liên đoàn 7/BĐQ của Trung tá Bùi văn Huấn từ Quân khu 1 vào tăng cường, với chỉ thị xử dụng như một lực lượng trừ bị, không được xử dụng làm nỗ lực tham chiến tiên phong. Quân đoàn 2 đă tổ chức cuộc họp khẩn cấp tại Phi trường Phù Cát để đối phó với t́nh h́nh, gồm có Tư lệnh Quân đoàn, Trung tướng Nguyễn văn Toàn, Tư lệnh Sư đoàn 22/BB với Thiếu tướng Phan Đ́nh Niệm, Tiểu khu trưởng TK/BĐ, Đại tá Hoàng Đ́nh Thọ, TK phó Tiểu khu Trung tá Nguyễn Mạnh Tường, LĐT/BĐQ Trung tá Bùi văn Huấn, Phụ tá Quân trấn trưởng Qui Nhơn, Trung tá Nguyễn văn Thanh, Quận trưởng Phù Cát Trung tá Đoàn văn Bái, Trung tá Khổng Trọng Huy. . . Cuộc họp để hoạch định kế hoạch hành quân giải tỏa và lựa chọn người chỉ huy cho cuộc hành quân. Giữa lúc ấy, công điện hỏa tốc từ Phủ Tổng thống gởi đến. Tổng thống Nguyễn văn Thiệu đă chỉ thị trao quyền chỉ huy tuyệt đối cho Trung tá Nguyễn Mạnh Tường và đ̣i hỏi phải tránh tối đa thiệt hại cho dân chúng trong vùng hành quân.
(Sau này được biết là nhân dân Quận Phù Mỹ và Phù Cát qua đại diện dân cử, đă đệ đơn yêu cầu xin Tổng thống Thiệu trao trách nhiệm hành quân cho Tr/tá Tường v́ lư do: Cuộc hành quân Đại Bàng 800, dân chúng bị tổn thất nặng nề, và sau này lực lượng Đại Hàn hành quân khu vực này, sự tổn thất của dân chúng c̣n bị nặng nề hơn nữa. Riêng Tr/tá Tường, từ khi về B́nh Định, với rất nhiều cuộc hành quân, với nhiều cuộc đụng độ với Cộng sản, nhân dân chưa hề bị tổn hại về sinh mạng lẫn của cải…)
Chính v́ sự tin tưởng của dân chúng B́nh Định, các cuộc hành quân trước đây đều lấy danh hiệu Toàn Thắng. Danh hiệu các cuộc hành quân giải tỏa Đề Gi của Trung tá Nguyễn Mạnh Tường là An Dân. Với tư cách Tư lệnh hành quân, Trung Tá Tường xin phép Trung tướng Tư lệnh QĐ2 được bảo vệ tuyệt mật mọi kế hoạch. (Măi sau này, mọi ư niệm điều quân, Tr/tá Tường luôn luôn bảo vệ một cách tuyệt mật, ngay cả Trung tâm HQ cũng phải giữ im lặng vô tuyến đến tận lúc chiến thắng.)
Việc bảo mật ấy đă thành công trong một chiến thắng lớn khác: Hạ sát tên Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn đặc công 405 Anh hùng, bắt toàn bộ cấp chỉ huy của Tiểu đoàn này, tịch thu rất nhiều vũ khí trong trận đột kích vào sào huyệt của chúng tại ranh giới B́nh Định và Phú Yên, bẻ gẫy mũi dùi chúng đang tiến hành tấn công kho xăng và kho đạn của quân khu II tại Đèo Son B́nh Định.
Cuộc hành quân này, Trung tá Nguyễn Mạnh Tường đặc biệt giữ kín, ngay cả Trung Tâm Hành Quân (TTHQ) cũng không hề biết, không một ai hay, thậm chí lực lượng tham dự là các Nghĩa Quân viên được lựa chọn cho cuộc đột kích cũng chỉ được biết vào phút chót. Cho đến khi đích thân Trung Tá Tường lên máy vào lúc 3 giờ sáng, lệnh cho TTHQ gọi ANQD và Quân Cảnh ra phi trường tiếp nhận tù binh và các chiến lợi phẩm.
Ngay cả đến trận phản công giải tỏa Phi trường Phù Cát vào tháng 5/1974 với mưu toan của cộng quân tiêu diệt căn cứ 60 Không quân, cũng bị Trung Tá Tường dùng kỳ binh bất ngờ đánh cho “Sấm sét không kịp bưng tai” khiến Trung Đoàn 2 của sư Đoàn 3 Sao Vàng tan tác.)
Lời yêu cầu được hoàn toàn chấp thuận, và lực lượng được đặt dưới quyền của Tr/tá Nguyễn Mạnh Tường gồm:
LĐ/7BĐQ. QKI làm lực lượng trừ bị
2 Tiểu Đoàn thuộc TR/Đ 4 1/SĐ 22/BB
1 Tiểu Đoàn thuộc TR/Đ 421/SĐ 22/BB
1 Chi Đoàn thiết quận vận M.113
1 Tiểu Đoàn pháo binh
1 Đại Đội Tr/sát
1 Pháo Đội 115 ly.
1 Tiểu Đoàn/ ĐPQ/ Tuyên Đức.
So sánh Tương quan, giữa ta và địch, ta 3, địch 5, tức 3/5. Một cuộc hành quân tấn công giải tỏa với quân số tham chiến yếu hẳn hơn địch, trong lúc địch đă sẵn sàng chờ đợi một mặt trận đă được họ bố trí và lựa chọn trước, quả là điều không mấy sáng sủa. Mà thời gian lệnh ấn định là trong 7 ngày phải thanh toán xong chiến trường.
Trong lúc mọi người đều cho rằng cuộc hành quân khó ḷng đạt được thành quả tốt đẹp th́ Trung Tá Tường lại tin tưởng sẽ chiến thắng. Với lối đánh bất ngờ, yếu tố bảo mật phải được áp dụng triệt để. Ông xin với Th/tướng Phan Đ́nh Niệm, Tư lệmh SĐ22BB để xin được xử dụng Đại đội trinh sát thuộc SĐ để tốc chiếm Núi Gềnh, và một đại đội thuộc LĐ/7BĐQ chiếm lại Đài Kiểm báo là hai cao điểm do 1 Huyện đội Phù Cát và 1 đơn vị đặc công của SĐ 3 Sao vàng quyết tử chiếm giữ. Th/tướng Niệm đă thoái thác cho rằng Đại đội Trinh sát đang trong thời gian dưỡng quân, khó ḷng có thể đảm nhận tốt được trách nhiệm. Thấy vị T/lệnh Sư Đoàn lo ngại sự tổn thất, Tr/tá Tường vui vẻ, nói rằng ông sẽ dùng 1 Đại-đội ĐPQ thay thế Đại đội Trinh Sát của sư đoàn để thi hành nhiệm vụ vinh dự này.
Không một ai, hay ít ra, trừ viên Tư lệnh Quân đoàn, Tr/tướng Nguyễn văn Toàn, vốn đă biết rơ khă năng điều quân và tài năng của Tr/tá Nguyễn Mạnh Tường, nguyên là Giám đốc Trung tâm Hành Quân/QĐ 2. Th/tướng Niệm tỏ rơ nghi ngờ về khả năng của ĐPQ. Tr/tá Tường khẳng định rằng, một đoàn quân thiện chiến không nhất thiết phải là danh hiệu, mà do được huấn luyện như thế nào, tinh thần binh sỹ ra sao, và cũng c̣n tùy thuộc vào chính cấp chỉ huy của đơn vị ấy nữa. Ông chỉ xin riêng với Tr/tướng tư lệnh Quân đoàn cặp lon Đại úy để thăng cấp tại chỗ cho viên Trung úy Đại đội trưởng Đại đội Địa phương quân này, và Trung tướng Toàn chấp nhận yêu cầu ấy, nếu đạt được chiến thắng.
Ngay sau khi rời khỏi pḥng họp, Tr/tá Tường đă đến Tiểu đoàn 209/ĐPQ do Đ/úy Nguyễn Bá Gạt làm Tiểu đoàn trưởng. Ông gặp riêng Tr/úy Phước, Đại đội trưởng Đ/đội 1/209 và ngỏ ư muốn xử dụng Đại đội này đánh chiếm Núi Gềnh bằng chiến thuật tốc chiến, chỉ xử dụng lựu đạn trong trận đánh, và ông hứa, nếu chiến thắng, ông sẽ tức khắc gắn lon Đại úy ngay tại mặt trận. Tr/úy Phước cũng hứa rằng ông sẽ chiếm Núi Gềnh một cách dễ dàng, không quá 30 phút.
(Trung úy Phước kể rằng, từ thuở nhỏ, ông thường chăn trâu trong khu vực này nên mọi địa thế của Núi Gềnh ông biết rơ hơn ai hết, và lối tấn công bằng lựu đạn là hiệu quả nhất) Tr/Tá Tường bàn thảo việc tiến công với người Sĩ Quan mà ông đă hiểu rơ và đă lựa chọn, duy nhất ông đ̣i hỏi Tr/úy Phước không được tiết lộ bí mật hành quân với bất cứ ai, ngay cả với những người thân cận nhất.
Ngày N1, trước nửa đêm, 1 Đại đội BĐQ được đổ xuống tấn công sấm sét vào Đài Kiểm báo, chưa đầy nửa tiếng, Đại đội Biệt Động Quân đă làm chủ t́nh h́nh, đánh bật lực lượng đặc công của SĐ 3 Sao Vàng ra khỏi mục tiêu, địch để lại nhiều vũ khí cá nhân và xác chết.
Ngày N lúc 5 giờ sáng, ĐĐ1/209 của Trung úy Phước đă tiếp cận mặt trận, bất thần tung hàng trăm trái lựu đạn, chỉ 15 phút sau, Huyện đội Phù Cát lớp chết, lớp bị thương, lớp quăng vũ khí tháo chạy, cuộc chiến thắng của ĐĐ 1/209 trọn vẹn và chớp nhoáng đến nỗi không một ai có thể tin được. Về phía bạn, ĐĐ 1/209 chỉ duy nhất 1 binh sĩ bị thương nhẹ v́ chính mảnh lựu đạn của ḿnh. Cùng thời gian ấy, Tiểu đoàn của Trung đoàn 42 do đại úy Trí (Năm 1975 là Tr/ Tá) làm tiểu đoàn trưởng, đă từ chân phía Nam Núi Bà, vượt đỉnh núi, tràn xuống đánh như băo táp vào sau lưng địch. Cuộc tấn công bất ngờ đến nỗi tên tư lệnh Lữ Đoàn địch quẳng cả “Xắc-cốt” với toàn bộ tài liệu tháo chạy, 2 Tiểu đoàn của Trung đoàn 41 cũng đồng loạt tràn ngập, địch không kịp phản ứng, bỏ chạy tháo thân.
Cũng ngày N, Chi đoàn M.113 thiết quân vận cũng đổ bộ lên băi biển cách phía Nam căn cứ vài Km, nhất loạt tấn công hoàn toàn lực lượng địch đang vây hăm căn cứ Đề Gi, gần như toàn bộ pháo binh của địch quẳng lại, chúng đạp lên xác đồng đội mà tháo thân.
Cuộc hành quân truy kích bắt đầu và chỉ đúng 5 ngày sau ngày N, cuộc hành quân đă hoàn toàn chiến thắng, không một tổn thất về phía đơn vị bạn. Cuộc hành quân An Dân 1/73 hoàn tất bao gồm cả nhiêm vụ và công tác An Dân, công tác An Dân 1 ĐĐ SVSQ/CTCT Đà Lạt đảm trách trong giai đoạn thực tập công tác Dân Sự Vụ trước khi măn khóa khóa 3/SQ/CTCT với 5 ngày vừa chiến thắng, vừa ổn định cuộc sống của nhân dân vùng Phù Mỹ và Phù Cát, không một người dân nào bị thiệt hại về sinh mạng và tài sản, bảo đảm 100% toàn vẹn mệnh lệnh do Phủ Tổng Thống trao phó, xứng đáng với tấm ḷng tin tưởng và ưu ái của nhân dân B́nh Định ủy thác.
Và ngay hôm sau, Tổng Thống Thiệu mời tất cả các Đại Sứ của các nước đến thăm viếng Đề Gi mới được giải tỏa, với tất cả mọi chứng tích về cuộc vi phạm Hiệp Định Đ́nh Chiến của Cộng Sản VN, và Tổng Thống đăi các đại sứ một bữa gỏi cá cơm nổi tiếng ở Đề Gi, miền đất nổi danh của các chiến sĩ âm thầm, các chiến sỹ Địa phương quân và Nghĩa quân B́nh Định…
(Khoảng tháng 6 năm 1973, viên Thiếu tá Vơ văn Ứng bất chợt về hồi chánh. Theo lời khai của y, với trận Đề Gi thất bại, 3/4 lực lượng tham chiến thuộc Lữ đoàn CS bị loại khỏi ṿng chiến, một số lớn tử thương, không kể bị thương và bị bắt. Sư đoàn 3 Sao vàng rúng động, Quân khu 5 CS ngẩn ngơ, Hà Nội tím ruột. Ứng bị giáng cách tuột xuống Chuẩn úy. Khi về hồi chánh, y tha thiết xin được gặp người đă làm cho y thân bại danh liệt: Trung Tá Nguyễn Mạnh Tường).
Vơ văn Ứng quê ở Hoài Nhơn, B́nh Định, một sỹ quan nổi danh của SĐ3 Sao vàng, xuất thân từ hàng ngũ binh sỹ đi lên, chiến trận dạn dày. Trung tá Tường tiếp y với nụ cười ân cần, hiền ḥa và b́nh dị. Y thật ḷng thú nhận là y không thể ngờ được có ngày y bị bại trận một cách nhục nhă đến như thế. Tuy nhiên y rất khâm phục về phương cách điều quân lạ lùng và chớp nhoáng mà y không hề nghĩ tới, duy có một điều y bất phục:
- “Thưa ông, nếu tôi là ông, th́ hai Tiểu-đoàn c̣n lại của tôi sẽ không thể nào chạy thoát, sẽ không c̣n một người nào sống sót, bằng cách xử dụng phi pháo và chặn đánh.”
Trung Tá Tường vẫn nụ cười hiền hậu, đưa phóng đồ hành quân ra và nói:
- “Ông hăy xem đây, tôi đă dự tính hơn những điều ông nói, tuy nhiên, nếu tôi thực hiện điều đó, người dân vô tội sẽ tổn thất không nhỏ về nhân mạng và tài sản. Với tôi, dù nếu để tiêu diệt trọn hai tiểu đoàn tẩu thoát của các ông, đổi lại, chỉ một người dân phải chết oan uổng, tôi nhất quyết không làm!”
Ứng không ngờ là trong đời y, y đă gặp được một danh tài quân sự, mà lại càng không ngờ trong đời chiến trận sinh tử lại có một tấm ḷng nhân ái đến như thế…
Trận đánh giải tỏa phi trường Phù Cát
Sau trận Đề Gi, tiềm năng quân sự của Sư đoàn 3 Sao vàng bị hao hụt trầm trọng, các hoạt động quân sự của địch hầu như suy giảm hẳn. Hai Liên đoàn 4 và 6 Biệt Động tăng cường chế ngự địch tại hai Quận Hoài Nhơn và Tam Quan. Hoài Ân và một phần quận Phù Mỹ do trung đoàn 41 đảm trách. T́nh h́nh an ninh tương đối ổn định. Quốc lộ 1 và 19 thông suốt, do các lực lượng ĐPQ và Nghĩa quân đảm trách. Bọn Cộng sản gửi văn thư tố giác đích danh Trung tá Nguyễn Mạnh Tường là luôn luôn nống lấn, vi phạm Hiệp định đ́nh chiến. Nực cười là lời tố giác nầy lại đứng trước một thực tế mà viên Trưởng đoàn Kiểm soát đ́nh chiến trú đóng tại TTHL/Phù Cát đă phải thừa nhận là chính cộng sản đă vi phạm . Thêm vào đó, các vị đại sứ của các quốc gia đă đích thân đến thăm căn cứ Đề Gi ngay sau khi quân lực ta tái chiếm, đă là những nhân chứng đáng tin cậy nhất. Do đó, văn thư tố giác Trung tá Nguyễn Mạnh Tường rơi vào khoảng không.
Trong suốt thời gian từ tháng 1/1973 cho đến tháng 4/1974 các ấp an ninh từ loại “V” được dần dần nâng lên loại A càng lúc càng nhiều, khu vực vùng đai an ninh thị xă Qui Nhơn mỗi lúc một mở rộng thêm, dù rằng địch cố gắng giành giật nhưng hầu như hoàn toàn thất bại.
Cũng thời gian này, tuy rằng t́nh h́nh quân sự tương đối lắng dịu, lại chính là giai đoạn vất vả nhất đối với Trung tá Tường. Ông thường xuyên có mặt ở khắp nơi, vừa luyện quân, vừa tổ chức, phối trí lại tất cả lực lượng dưới quyền. Một trong những đơn vị mà ông đă bỏ công sức để thành lập, huấn luyện đó là Liên đội Trinh sát của Tiểu khu. Ông đi đến từng các Trung đội ĐPQ và Nghĩa quân, t́m hiểu và lựa chọn đến từng binh sỹ. Ông t́m hiểu hoàn cảnh, đời sống, tâm tư và t́nh cảm của tất cả các chiến binh, lựa chọn các cấp chỉ huy dũng lược để bổ nhiệm vào các chức chỉ huy từ Tiểu đội trưởng trở lên. Trung úy Khuynh được bổ nhiệm làm Liên đội Trưởng Liên đội Trinh Sát Tiểu khu, với quân số khoảng 2 đại đội. Sự lao tâm khổ trí của ông đă được đền bù trong trận đánh giải vây căn cứ 60 KQ/Chiến Thuật của Đại Tá Nguyễn Hồng Tuyền, trú đóng tại phi trường Phù Cát.
Căn Cứ 60 KQ/Chiến Thuật Phù Cát
Phi trường Phù Cát là một phi trường quân sự lớn, do Không lực Hoa kỳ xây dựng vào những năm 1966-1967. Căn cứ nằm giữa ranh ba quận An Nhơn – B́nh Khê và Phù Cát, kéo dài theo hướng Tây Nam – Đông Bắc, chạy dài từ núi Vân Sơn, cạnh ḍng sông Côn, lên đến tận Núi Một, kế cận cầu Phù Ly thuộc quận Phù Cát. Phi trường Phù Cát rộng lớn, hơn cả phi trường Phú Hiệp (Phú Yên). Tất cả các loại phi cơ phản lực có thể lên xuống một cách dễ dàng. Khi quân đội Hoa Kỳ rời khỏi Việt Nam, Đại tá không quân Nguyễn Hồng Tuyền tiếp nhận phi trường và trở thành chỉ huy trưởng căn cứ 60/KQ/CT. Từ căn cứ này xuất phát tất cả mọi loại phi vụ yểm trợ đắc lực nhu cầu chiến trường trong một vùng hoạt động rộng lớn.
Vào một buổi sáng ngày Chủ nhật, tháng 5 năm 1974, Đại tá Hoàng Đ́nh Thọ, Tỉnh trưởng kiêm TKT/TKBĐ đi họp tại SàiG̣n, Tr/Tá Tường xử lư thường vụ chức vụ tiểu khu trưởng trong lúc Đại tá Thọ vắng mặt. Trời c̣n rất sớm, Thượng Sĩ Nguyễn Đ́nh Đốc, một hạ sỹ quan đầy tài năng và kinh nghiệm (hiện Th/Sĩ Đốc đang cư ngụ tại Canoga Park, Nam California) của pḥng 2/Tiểu khu tŕnh cho Trung Tá Tường một bản điện văn của địch đă được giải mă, nội dung vỏn vẹn gồm 10 chữ “Quân Át Chủ Bài đă vào vị trí tập kết”. Nội dung ấy nói lên rằng SĐ 3 Sao Vàng của quân khu 5 sắp khai diễn một cuộc tấn công có tầm mức rất quan trọng, tuy nhiên không rơ được mục tiêu mà chúng đă lựa chọn.
Là người chỉ huy luôn luôn nắm vững mọi t́nh h́nh lực lượng bạn, với một hệ thống t́nh báo riêng, ông c̣n biết rơ địch t́nh, lực lượng và những thói quen, cùng tích nết của các cấp chỉ huy của Sư đoàn 3 Sao Vàng. Ông theo dơi những chuyển dịch của lực lượng địch một cách cập nhật, với sự thận trọng và khách quan, đồng thời loại bỏ từng mục tiêu cùng khả năng chuyển quân của chúng.
Cuối cùng ông đă khẳng quyết rằng: Mục tiêu của con ” Át chủ bài này chính là căn cứ 60 Không Quân chiến thuật. Lập tức ông điện thoại cho Đại tá Nguyễn Hồng Tuyền, chỉ huy trưởng căn cứ, cũng may Đại tá Tuyền c̣n tại nhà (căn cứ 60), và ông cho biết là có một chuyện cực kỳ quan trọng cần thảo luận với Đại tá Tuyền và yêu cầu Đại tá Tuyền ở nhà chờ ông, mà v́ tính chất quan trọng của vấn đề ông không thể nói trên điện thoại được. Đại tá Tuyền đă khẩn cấp đưa trực thăng đón Trung tá Tường ngay tức khắc.
Để giữ bí mật, chỉ có hai người duy nhất trong cuộc họp mật này. Trung tá Tường cho Đại tá Tuyền biết chỉ trong đêm nay Cộng quân sẽ tấn công căn cứ 60/KQ CT. Lực lượng địch “Con át chủ bài” chắc chắn phải là một lực lượng cực kỳ hùng hậu.
Pḥng ngự căn cứ gồm các lực lượng yểm cứ và quân nhân cơ hữu của không quân, ngoài ra từ trước, căn cứ được tăng cường tiểu đoàn 263 ĐPQ do Thiếu tá Phạm Hữu Kỳ làm Tiểu đoàn trưởng với quân số chừng 600 binh sĩ. Tuy nhiên, căn cứ quá rộng, lực lượng pḥng thủ phải phân tán quá mỏng. Đường phi đạo nằm dọc theo chiều Bắc Đông Bắc và Nam Tây Nam, do đó căn cứ cũng phải trải dài theo chiều dài phi đạo.
Sườn phía Đông của căn cứ là khu dân cư dầy đặc của 3 quận An Nhơn, Phù Cát và Tuy Phước, địch không có khả năng che dấu và di chuyển vũ khí nặng, do đó chắc chắn mũi tiến công của cộng sản từ sườn phía Tây của căn cứ, khu vực thưa thốt dân cư, xa xa ở phía Tây là dẫy Núi Vĩnh Thạnh, trùng điệp tiếp giáp với các mật khu của địch, cánh đồng phía Bắc quận B́nh Khê, từ G̣ Đề trở lên là khu đất cằn cỗi, do nước lũ từ triền dẫy Vĩnh Thạnh đổ xuống, năm từng năm xoi ṃn làm thành những con lươn sỏi đá khô cằn, những con lươn này, là một địa thế lư tưởng cho cuộc chuyển quân, ém kín và tiếp cận mục tiêu của địch từ dẫy núi Vĩnh Thạnh chạy sang phía Đông, tiếp giáng Phi Trường Phù Cát.
Sườn phía Tây có hai ngọn đồi cao, một ở phía Bắc Tây Bắc nằm bên trong ṿng đai pḥng thủ là Ngọn đồi 69, do một trung đội thuộc Tiểu đoàn 263 ĐPQ trấn ngự. Một ngọn đồi khác nằm hướng chính Tây mang tên Đồi 151 nằm cách căn cứ chừng 1 km do 1 Trung đội Nghĩa Quân thuộc Chi khu B́nh Khê trú đóng.
Muốn tấn công một mục tiêu rộng lớn và quan trọng như căn cứ 60/KQ/CT Phù Cát, Trung tá Nguyễn Mạnh Tường ứớc tính lực lượng địch phải từ cấp trung đoàn trở lên, được tăng cường lực lượng pḥng không, pháo binh, hỏa tiễn nhằm khống chế các phi cơ của căn cứ, không cho cất cánh, đồng thời phá hủy tất cả những kho đạn và những mục tiêu trọng yếu, mà chắc chắn chúng đă có được sơ đồ chi tiết do bọn nội tuyến cung cấp. Đại tá Chỉ huy trưởng căn cứ ra lệnh cắm trại 100% đồng thời mọi kế hoạch pḥng thủ được âm thầm tiến hành sẵn sàng chờ địch. Đứng trước t́nh h́nh nghiêm trọng ấy, trong tay Trung tá Tường không c̣n bất cứ một lực lượng trừ bị nào ngoài Liên đội Trinh sát Tiểu khu của Trung úy Khuynh với quân số khoảng 250 binh sĩ. Pḥng ngự không để cho địch tràn ngập căn cứ là thiết yếu, nhưng phản công tiêu diệt địch lại là một vấn đề quan trọng hơn.
Giữa lúc ấy, một đoàn xe chở một Tiểu đoàn Biệt động Quân về thụ huấn tại TTHL/Lam Sơn, đang di chuyển ngang qua Tỉnh B́nh Định,Trung Tá Tường, sau rất nhiều khó khăn trong buổi sáng Chủ nhật ấy, mới xin phép được Thiếu tướng Phan Trọng Chinh, để được sử dụng Tiểu đoàn BĐQ này để tăng cường pḥng thủ cho phi trường, tuy nhiên không được sử dụng Tiểu đoàn làm lực lượng tấn công, giải tỏa. Biết chắc chắn là với lực lượng c̣n lại, không đủ khả năng tấn công trực diện địch mà phải sử dụng kỳ binh tốc chiến, tốc thắng, âm thầm đánh vào sườn địch vào giữa lúc bất ngờ nhất, Trung tá Tường đă xin lệnh Quân đoàn được phép xử dụng Chi đoàn Thiết Giáp đang trú đóng tại An Khê để bảo vệ trục lộ cho các đoàn xe tiếp tế từ Qui Nhơn lên Pleiku. Tuy nhiên Trung tướng Toàn, Tư lệnh QĐ2 đă đi họp tại Sàig̣n, Chuẩn Tướng Cẩm, Tư Lệnh Phó không có mặt, Sĩ Quan trực TTHQ cho hay không biết Chuẩn Tướng Cẩm ở đâu trong ngày chủ nhật hôm ấy.
Trước t́nh trạng cấp bách, Trung Tá Tường xử dụng trực thăng do Đại Tá Tuyền biệt phái, đáp xuống An Khê, gặp Trung úy Mỹ, Chi đoàn Trưởng Chi đoàn Thiết Giáp, giả lệnh của Quân đoàn, đặt chi đoàn dưới quyền điều động của ông, đồng thời ông cũng ra lệnh đ́nh hoăn tạm thời các đoàn công voa tiếp tế lên Cao nguyên cho đến khi có lệnh mới. Chi đoàn Thiết Giáp được lệnh đổ đèo An Khê xuống B́nh Khê chờ lệnh.
Ông tŕnh bày kế hoạch tấn công, nhiệm vụ của Chi đoàn và Liên đội thám sát Tiểu khu, có trách nhiệm tấn công sườn phía Nam của địch, tuyến xuất phát từ phía Bắc bờ sông Côn khi có lệnh. Kế hoạch của ông là, Liên đội Thám sát tùng thiết đánh thốc từ phía Nam lên với sức mạnh hỏa lực tối đa, với vận tốc tối đa, không được dừng lại để thu nhặt chiến lợi phẩm mà phải chia cắt nát mặt trận của địch. Trong khi ấy, ông sẽ dùng Tiểu đoàn BĐQ giả làm lực lượng tấn công trực diện, với tất cả hỏa lực và những vũ khí cộng đồng để thu hút địch.
Trung Tá Tường đáp xuống bờ bắc sông Côn, cách Đền thờ Đức Quang Trung khoảng 50m, dẫn Tr/úy Mỹ và Tr/úy Khuynh cùng ông vào điện thờ làm lễ dâng hương, xin anh linh thần dũng của người Anh hùng năm xưa, đă chớp nhoáng đánh tan 20 vạn quân Thanh vào đầu Xuân năm Kỷ-dậu 1789, phù trợ cho các chiến binh hậu duệ của Ngài. Sau đó ông cùng Tr/úy Mỹ và Tr/úy Khuynh lên trực thăng đi thám sát địa thế, bởi v́ địa h́nh khu vực Bắc B́nh Khê, Tây Phù Cát, An Nhơn có nhiều bất lợi cho cuộc tấn công chớp nhoáng bằng thiết giáp, do đó người chỉ huy phải nắm vững địa h́nh một cách chặt chẽ.
Sử dụng 1 Chi đoàn Thiết Giáp với một Liên đội làm mũi nhọn, làm chủ lực tấn công một địch thủ mà quân số và hỏa lực gấp 10 lần là một điều ít ai dám làm, thậm chí không dám nghĩ tới. Thế nhưng trong chiến sử cổ kim và đông tây đă từng xảy ra với các danh tướng đă từng chiến thắng trong mỗi hoàn cảnh với những yếu tố bất ngờ, thần tốc …
Đêm chủ nhật hôm ấy, các chiến binh căn cứ Không Quân/Chiến Thuật trong tư thế sẵn sàng chờ địch. Và quả nhiên, cộng quân mở đầu cuộc tấn công bằng hàng ngàn trái đạn đủ loại. Tiểu đoàn Trinh sát Sao vàng ồ ạt tấn công cao điểm 151 do Trung đội Nghĩa quân thuộc chi khu B́nh Khê trú đóng. Đồi 151 bị địch tràn ngập và chiếm ngự, chúng dùng điểm cao nầy để chế ngự phi trường. Riêng ngọn đồi 69 nằm trong ṿng đai pḥng thủ Bắc Tây Bắc phi trường do một trung đội của Tiểu đoàn 263 tử thủ, đă đẩy lui nhiều đợt tấn công của địch. Trung đoàn 2 Sao Vàng, Trung đoàn được gọi là “con át chủ bài” nghĩ rằng với yếu tố bất ngờ và với hỏa lực ưu thế, chúng sẽ dễ dàng chọc thủng tuyến pḥng ngự và tràn ngập căn cứ một cách dễ dàng. Nhưng chúng không thể ngờ, các chiến sĩ của căn cứ đă chờ đợi chúng và bằng tất cả sức chiến đấu mănh liệt, từng đợt tấn công của cộng quân đă bị đẫy lui.
Trong lúc ấy, tuyến pḥng thủ của Tiểu đoàn BĐQ được trang bị bằng những vũ khí hạng nặng, khai hỏa ào ạt, được ngụy trang như những chiến xa, lôi kéo hỏa lực địch, chúng nghĩ rằng những chiến xa của ta bắt đầu xung kích… Giữa lúc địch tấn công vào căn cứ, cũng là lúc Chi đoàn thiết giáp chuyển các chiến binh của Liên đội Thám sát Tiểu khu bắt đầu vượt tuyến xuất phát, âm thầm xuất kích đánh vào sườn trái của địch. Trong bóng đêm mịt mùng, măi mê v́ bị lôi kéo, ḥng ngăn chặn thiết giáp đánh ra từ căn cứ (do BĐQ ngụy trang), cả Trung đoàn 2 Sao Vàng và các đơn vị tăng cường dồn hết mọi hỏa lực về phia trước. Chúng không ngờ bên sườn trái, tử thần đang từng phút kề cận. Cho đến khi toàn bộ hỏa lực của Chi đội thiết giáp và Liên đội Trinh sát tấn công ào ào như sấm dậy, như sét đánh không kịp bưng tai, nổi kinh hoàng tràn ngập trận tuyến địch, địch không kịp quay súng, từng lớp bị đốn ngă…
Giữa đêm đen, khi đă phát hiện ra lực lượng tập kích sườn trái, từng lưới đạn vẫn ào ào đổ xuống, lớp chết , lớp bị thương, địch bỏ súng tháo chạy, lớp này cuốn theo lớp khác bị bắn hạ. Toàn thể Trung đoàn 2 Sao Vàng “anh hùng” thoắt chốc tan tác, cuống cuồng tháo thân… Tiểu đoàn Trinh sát Sư đoàn 3 Sao Vàng trấn trên đồi 151 không hề hay biết, cho đến lúc một đại đội của liên đội Trinh sát tiểu khu do Trung úy Khuynh chỉ huy, đánh thốc lên từ sau lưng bằng lựu đạn, tên tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Trinh sát Sao Vàng bị đốn ngă ngay từ phút đầu tiên, cả tiểu đoàn buông súng lao xuống sườn đồi tháo chạy, bất kể phương hướng, chúng kinh hoàng bởi sự đột kích hết sức bất ngờ, tử thần đă từ phía sau ập đến… Xác địch ngỗn ngang trên đồi cao, cùng một số thi thể của các chiến sĩ nghĩa quân đă hy sinh lúc khởi đầu chiến trận. Cuộc tháo chạy kinh hoàng, bỏ lại đủ loại vũ khí trên đường tiến quân của ta. Ngược lại, như một sự linh thiêng mầu nhiệm, lực lượng tấn công của ta hoàn toàn vô sự.
Trung úy Khuynh gỡ chiếc “xà cột”trên vai xác tên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Trinh sát Sư đoàn 3 Sao Vàng. Mọi ư đồ của địch được ghi chép trong tài liệu bắt được cho thấy trận đánh này chỉ là bước khởi đầu cho một trận tấn công toàn lănh thổ tỉnh B́nh Định. Ư đồ của chúng bị bẻ gẫy, bị đập tan ngay từ bước khởi đầu. Cùng lúc, những tên c̣n sống sót của Trung đoàn 2 Sư Đoàn 3 Sao vàng cuống cuồng tháo chạy, Chi khu Phù Cát tổ chức cuộc hành quân trực thăng vận khẩn cấp với 2 Trung đội Nghĩa Quân đổ xuống mục tiêu đă được dự trù, tịch thu được 1 khẩu súng “bắn hỏa tiển” loại mới với những trái đạn khổng lồ c̣n lăn lóc (đây là một loại vũ khí mới nhất của Trung Cộng, súng dùng để bắn hỏa tiễn với máy nhắm hiện đại. Máy nhắm này phía Hoa Kỳ đă xin mượn để nghiên cứu, v́ đây là loại súng bắn hỏa tiễn tối tân nhất của Trung cộng, bị tịch thu ở chiến trường miền Nam, với mức độ chính xác gấp nhiều lần so với dàn phóng hỏa tiễn có từ trước). Ngoài ra c̣n tịch thu được:
- 1 súng cối 120 ly
- 4 đại bác 82 ly
- 1 đại bác 122 ly
Số lượng vũ khí cộng đồng, cá nhân và xác địch quân bỏ lại trên chiến địa không đếm xuể, hầu như toàn bộ lực lượng địch tham chiến bị tiêu diệt gần hết. Một điều kỳ diệu là thiệt hại của lực lượng bạn không đáng kể, ngoại trừ trung đội Nghĩa quân của chi khu B́nh Khê trú đóng trên đồi 151 đă hy sinh lúc khởi đầu trận đánh.
Sau chiến thắng, Chuẩn Tướng Cẩm, Tư Lệnh Phó Quân đoàn 2, đề nghị Tướng Toàn phạt Trung tá Nguyễn Mạnh Tường 30 ngày trọng cấm với lư do đă điều động và xử dụng chi đoàn Thiết giáp khi chưa được “ông-tướng-rong-chơi” này cho phép (!!!), trong khi 2 Trung Tá Không Quân thuộc căn cứ 60/KQ/CT được vinh thăng Đại Tá tại mặt trận, một số sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ được thăng cấp rất hạn chế… Điều bất công ấy đă khiến cho Đại Tá Nguyễn Hồng Tuyền và toàn thể Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan và Binh sĩ tham chiến kinh ngạc và phẫn nộ. Ngay cả đến Trung Tướng Tư lệnh Không Quân Nguyễn văn Minh cũng tức giận. Trung tướng Minh ra thăm căn cứ K/Q Chiến Thuật, cho tổ chức tiệc ăn mừng chiến thắng. Tướng Minh đă ca ngợi và giới thiệu Trung Tá Tường với thuộc cấp như vị “ân nhân” của binh chủng Không Quân, lệnh cho binh chủng luôn ghi nhớ công sức của người đă cứu nguy và mang lại chiến thắng cho binh chủng, và sẽ luôn phải ưu tiên thỏa măn cho Tr/tá Tường những nhu cầu công cũng như tư. Đại Tá Tuyền từ đó đă dồn mọi ưu tiên Không Yểm cho Trung Tá Tường trong các yêu cầu tại chiến trường. Cũng v́ thế, Tư Lệnh Sư đoàn 22/BB đă kiện về Bộ Tổng Tham Mưu về sự ưu tiên nầy. Bộ Tổng Tham Mưu đă phái một Đại Tá ra điều tra sự kiện thưa gởi ấy. Đại tá Tuyền đă trả lời một cách minh bạch:
- “Điều ấy dễ hiểu, Trung Tá Nguyễn Mạnh Tường đă giúp chúng tôi một cách tận lực trong lúc nguy nan, cấp cứu và giải thoát cho những phi đoàn của chúng tôi lúc bị bắn hạ một cách mau chóng. Trong khi ấy, Sư đoàn đă không làm ǵ trước những yêu cầu như thế. Do đó, chúng tôi phải tận lực yểm trợ cho Trung Tá Tường là điều đương nhiên!”
Người chỉ huy và mang lại chiến thắng trong trận Phù Cát, Trung Tá Nguyễn Mạnh Tường, bị đối xử như thế, đă khiến Trung Tướng Minh bất b́nh và không thể im lặng, do đó, trong một cuộc họp các Tướng lănh tại Sài g̣n, có mặt Đại Tướng Trần thiện Khiêm, đương kim Thủ Tướng Chính phủ, Trung Tướng Minh đă nêu lên thắc mắc này. Đại Tướng Khiêm đă hỏi Đại Tướng Cao văn Viên về sự kiện ấy, ông Viên tŕnh bày là “đă hết cấp số!”. Đại Tướng Khiêm ra lệnh mang hồ sơ của Trung Tá Nguyễn Mạnh Tường cho ông đích thân cứu xét, và ngay tức khắc Thủ Tướng Đại Tướng Trần Thiện Khiêm đă kư nghị định thăng cấp Đại Tá thực thụ cho Trung Tá Nguyễn Mạnh Tường ngay sau cuộc họp. Đó là vào khoảng tháng 8/1974.
Sau khi được thăng Đại Tá, một tưởng thưởng muộn màng, Đại Tá Tường được thuyên chuyển về làm Phụ tá Hành quân cho Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư đoàn 5BB. Kể từ ngày ấy, tôi không gặp lại Đại Tá Tường, măi cho đến cuối năm 1977 mới gặp lại ông tại Hoàng Liên Sơn trong một lần đi vác nứa. Tôi đă đứng nghiêm kính cẩn chào ông bằng lễ nghi quân cách với những ḍng nước mắt nghẹn ngào. Ông vẫn b́nh thản như ngày xưa, vẫn đôi mắt và nụ cười thuở trước. Dường như sự đày đọa trong tù ngục không ảnh hưởng ǵ đến ông. Người chiến binh già ấy đă từng làm cho tôi kính trọng thuở nào, càng làm cho tôi kính yêu hơn nữa trong cung cách thản nhiên chịu đựng sự nhục mạ, sự đọa đày hèn hạ trong chốn lao tù.
Bẳng đi bảy năm sau đó, 1984, tôi được gặp lại ông tại Z30A Xuân Lộc, ông sống âm thầm trong cuộc sống đày ải như một bậc chân tu. Ông dạy tôi về Thiền, về khí công, về cách điều tức “sâu-dài-êm-đềm-chậm”. Th́ ra chính Thiền công đă khiến ông vượt qua được tất cả, kể cả mọi bệnh tật cũng không xâm nhập được vào cơ thể người chiến binh năm xưa. Thỉnh thoảng ông mới được thăm nuôi, cuộc sống cực kỳ đạm bạc, thế mà ông vẫn chia xẻ những món quà khiêm tốn, ít ỏi cho những anh em đồng tù bất hạnh, không kể thân sơ, chỉ giữ lại cho ḿnh những hủ tương mặn chát. Trong tù, tôi được nghe nhiều người nhắc đến ông trong thời gian ông về làm Phụ tá Hành quân Sư đoàn 5, kể lại cuộc rút quân thần kỳ cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp, cùng những đức tính cao quư, không chỉ những sỹ quan thuộc Sư đoàn 5 mà c̣n rất nhiều người đă sống bên ông trong quăng đời tù đày.
Măi đến năm 1992, tôi mới gặp lại ông tại Sài g̣n. Ông sống một ḿnh trong một con hẻm đường Công Lư. Ngày từng ngày, ông đi chữa bệnh cho những ai cần đến ông. Ông không nhận bất cứ thù lao nào từ những bệnh nhân được ông chữa khỏi. Những lúc rảnh rỗi, ông lên gác chuông chùa Vĩnh nghiêm đọc kinh Phật.
Năm 1993, tôi bị CSVN bắt lại với án tù 12 năm về tội “âm mưu lật đổ chính quyền”, may mắn được Quốc tế can thiệp và được ra khỏi tù cuối năm 1998.
Đầu năm 1999, tôi sang Mỹ theo diện H.O được chiếu cố v́ quá muộn màng. Và vui mừng xiết bao v́ lại được gặp lại ông. Nhân lời yêu cầu của nhóm nhà văn quân đội chủ trương thực hiện tập “Những Trận Đánh Không Tên Trong Quân Sử”, tôi xin phép ông cho phép tôi được viết lại một cách khiêm tốn quăng thời gian ông đă tham dự và chỉ huy các trận đánh ở chiến trường gian khổ B́nh Định, cùng những chiến thắng lẫy lừng của các chiến sỹ Địa phương quân và Nghĩa Quân âm thầm mà ông chính là người đă, với tài trí và đức độ của ḿnh, đưa đến những chiến thắng thần kỳ trong sự hạn chế và ǵn giữ tối đa sinh mạng và tài sản của dân lành vô tội. Ông đă từ chối rất nhiều lần với ư muốn thành khẩn của tôi, khi tôi muốn đưa một tài năng chỉ huy của quân lực vào Quân sử, với lư do là ông đă quên hết trong thế giới của Thiền đạo. Và cũng bởi v́, với kết cuộc thảm khốc của sinh mạng QLVNCH trong tháng Tư đen tối 1975, th́ mọi chiến công đă trở thành tận cùng đau đớn, có nhắc lại chỉ thêm đắng cay, mà mỗi người trong chúng ta chỉ nên âm thầm trong sám hối bỡi những hành vi đă có, đóng góp một phần trong cuộc bại trận này.
Theo ông, có 3 đại họa trong thiên hạ là:
1. Công ít mà bỗng lộc nhiều
2. Tài mọn mà địa vị cao
3. Chí nhỏ mà mưu việc lớn.
Tôi hoàn toàn thẩm thấu được nổi đau ḷng ấy, nhưng tôi thưa với ông là “VNCH của chúng ta bị bức tử v́ nhiều mặt. Tuy nhiên, các chiến-sỹ QLVNCH đă chiến đấu vô cùng anh dũng, biết bao người đă nằm xuống, đă đổ máu xương cho một Việt Nam Tự do, và giờ nầy các chiến binh vô danh cả triệu người đang sống trong tối tăm, trong đọa đày tủi nhục, trong đau đớn ê chề… Vậy th́ hăy cất tiếng nói, HĂY TRẢ LẠI DANH DỰ CHO CÁC CHIẾN BINH ÂM THẦM kia, trả lại cho lịch sử mai hậu về một VNCH và một QLVNCH đă có những đứa con xứng đáng trong bất khuất, anh dũng trong hy sinh, vinh hiển trong máu xương oan khuất. Việc nhắc đến, vinh danh những chiến binh đă chiến đấu, đă nằm xuống như ḍng nước mát, như nén hương thơm cho Quê Hương Việt Nam thống khổ. Và sau cùng, v́ những điều tôi vừa tŕnh bày. Cuối cùng, ông đă đồng ư cho tôi viết những ḍng trả lại vinh quang cho những người lính miền Nam.
Trần Thúc Vũ
Không biết sao t́nh cờ lạc vào trang lính của anh22. Tí không rành cũng không dám quậy trong này... hihih Tí mến chúc những anh lính VNCH luôn dồi dào sức khỏe, hạnh phúc bên gia đ́nh và những người thân yêu.:flowertq4::flow ertq4:
laongoandong
03-28-2019, 10:18
Em hỏi anh bao giờ trở lại,
Xin trả lời mai mốt anh về.
Anh trở về không bằng áo hoa, mũ đỏ,
Anh trở về không bằng huy chương chiến thắng,
Anh trở về trong chiều hoang, chiều nắng
Trong ḥm gỗ hay trên chiếc băng ca,
Anh trở về nằm giữa những ṿng hoa,
Những ṿng hoa chan hoà nước mắt
Anh gửi về cho Em một vài kỷ vật,
Đây chiếc nón sắt xuyên mấy lỗ đạn thù,
Nó đă từng che nắng che mưa,
Đă từng hứng cho anh giọt nước,
Chiều dừng quân nơi địa đầu lạnh buốt,
Nấu vội vàng trong đó nắm cơm khô.
Anh gởi cho Em một tấm poncho
Đă rách nát theo h́nh hài năm tháng,
Lều dă chiến trong chiều hoang cháy nắng,
Che cơn mưa, gió lạnh buổi giao mùa,
Làm chiếc vơng nằm nh́n đời lính đong đưa,
Và… khi anh chết cũng poncho tẩm liệm.
Nay anh gửi cho Em làm kỷ niệm,
Nhận không Em t́nh lính chút này đây,
T́nh lính đơn sơ v́ chinh chiến kéo dài.
Nhưng t́nh lính chỉ lạt phai,
Khi h́nh hài và con tim biến thể.
Nguyễn Hữu Nghị 1969
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1357163&stc=1&d=1553822423
DINH ĐỘC LẬP Tiếng Súng Cuối Cùng
Ba cái ly thủy tinh trong suốt lung lửng rượu vang, chạm nhau kêu lách cách, chúc mừng, chúc mừng ngày bọn ḿnh tái ngộ, tôi nh́n qua khung cửa sổ cảnh ba người đàn ông ngồi bệt dưới đất, bao quanh chai rượu và đĩa mồi, h́nh ảnh quá quen thuộc. Tôi đoán ngay, ngày xưa họ là lính trong Quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Như để xác nhận sự suy đoán của tôi là đúng, người trẻ tuổi nhất trong bọn cất giọng :
-Hai ông có công nhận không? Sư đoàn 18 của bọn ḿnh, lấy một chọi mười, đă đánh một trận oanh oanh liệt liệt. Tôi cho đó là trận đánh cuối cùng, trận đánh để đời của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà.
Người bận áo jacket đen, tay nâng ly rượu ậm ự.
-Tôi biết chứ, chuyện rơ như ban ngày, ḿnh khen ḿnh có khác ǵ mẹ hát con khen hay, hăy quên ḿnh t́m những cái hay cái đẹp của người khác. Chẳng hạn sáng ngày ba mươi tháng tư, khoảng sáu giờ sáng tại ngă tư Bảy Hiền, Biệt Kích 81 vẫn c̣n chiến đấu, tiêu diệt thêm mấy chiếc T54 của vc. Họ chỉ thực sự buông súng khi nghe lịnh kêu gọi đầu hàng trên đài phát thanh Saigon. Biệt Kích 81 bị bức tử và họ đă chết trong hào hùng.
Người già nhất, với gương mặt đầy đặn phúc hậu, cuốn ḿnh trong chiếc áo nỉ dàỵ cộm, uống thêm một hớp rượu rồi mới bắt đầu lên tiếng:
-Mấy anh bạn à, cũng sáng ngày ba mươi tháng tư, nếu tôi nhớ không lầm lực lượng Nhảy Dù đă bắn hạ thêm mấy chiếc T54 tại Lăng Cha Cả trước khi gạt lệ giă từ vũ khí, lột bỏ quân phục để đi vào lịch sử.
Ông ta ngừng nói, lần trong cái bị da nhỏ lấy ra một ít thuốc rời nhồi vô cái tẩu. Ánh lửa của que diêm bùng sáng trong đêm, soi rơ mái tóc dài lấm tấm bạc. Trông ông ta giống như một nghệ sĩ hơn là lính.
Tôi biết rằng ba người nọ, mỗi người nh́n ngày lịch sử ba mươi tháng tư qua góc cạnh của ḿnh. Mỗi người nắm trong tay một mảnh puzzle, vẫn c̣n hàng trăm, hàng ngàn mảnh như vậy nữa đă thất lạc đâu đó. Nếu như ḿnh có đủ, ráp lại, sẽ có được bức tranh toàn mỹ của ngày ba mươi tháng tư.
Tôi nghĩ đến mảnh puzzle trong tay của ḿnh: Dinh Độc Lập với những tiếng súng cuối cùng.
***
Tốt nghiệp trường Bộ Binh Thủ Đức khi vừa hai mươi tuổi, ba lô lên vai, tôi tŕnh diện đơn vị mới: Tiểu khu Darlac.
Suốt thời gian thụ huấn trong quân trường, tôi chỉ mong cho mau đến ngày măn khóa để xin đi Nhảỵ Dù. Thật ḷng mà nói tôi hơi nhát gan, ngại gian khổ và cũng sợ chết, thế nhưng bộ đồ rằn ri, thêm cái mũ nồi màu huyết dụ quá sức hấp dẫn đối với tôi. Ḷng ham muốn vẻ đẹp bên ngoài đă thắng được con thỏ chết nhát trong tôi. Tôi lén mua sẵn bộ đồ dù, giấu tận đáy túi quân trang chỉ chờ ngày măn khoá sẽ t́nh nguyện đi Nhảy Dù. Bộ đồ như một chứng tích của ước mơ, ước mơ không bao giờ thành sự thật v́ khoá của tôi gần hai ngàn sinh viên sĩ quan, Nhảy Dù chỉ chọn mười sáu người. Tôi hơi thấp và nhỏ con, đó có thể là lư do tôi không được chọn.
Tôi đến Ban Mê Thuột trong bộ đồ trận của bộ binh với chiếc mũ lưỡi trai trên đầu. Mặc dù Ban Mê Thuột là thủ phủ của cao nguyên, nhưng tôi vẫn thường nghe người ta nói với nhau rằng, thành phố ǵ mà Buồn Muôn Thuở, mùa nắng Bụi Mù Trời, mùa mưa Bùn Một Tấc. Bước chân xuống phi trường Phụng Dực, tôi được chào đón ngay bằng những cơn gió với cát bụi đỏ trời và cái nóng âm ẩm, oi nồng của tháng tư.
Sau hơn bốn tuần chờ đợi ở Hội quán sĩ quan, tôi nhận được sự vụ lệnh về chi khu LOK.
Trung sĩ Bé pḥng nhân viên của tiểu khu, đưa sự vụ lệnh cho tôi kèm theo câu nói đầy ái ngại:
-Tôi biết, chuẩn úy chẳng có gốc gác ǵ trong quân đội.
-Sao trung sĩ biết ?
-Chỗ của ông sắp đến là địa ngục trần gian, lưu đày biệt xứ, người có gốc ai mà đến đó.
-Chỗ đó có ǵ mà ghê vậy?
-À … nó là một quận lỵ nhỏ xíu với vài chục gia đ́nh người Kinh, bị cô lập hoàn toàn, không có đường bộ để vô ra. Con đường duy nhất để đến LOK là trực thăng của cố vấn Mỹ, nhưng đó không phải là chuyện quan trọng, người ta gọi là đi đày v́ ở đó tuần nào cũng lănh hàng chục trận pháo kích.
-Bộ không có hầm chống pháo kích hay sao?
-Có chứ, súng cối tám mươi hai ly của Việt Cộng không phá nổi hầm chống pháo kích ở LOK, nhưng với sơn pháo th́ thua, trời kêu ai nấy dạ.
-Sơn pháo là súng ǵ?
-Tới nơi ông sẽ rơ, mà thôi, tôi có chuyện này muốn nói riêng với chuẩn úy.
-Chuyện ǵ vậy?
Trung sĩ Bé kê miệng gần tai của tôi:
-Ông đừng tŕnh diện đơn vị liền, ở Ban Mê Thuột chơi năm mười ngày rồi đi, xuống điạ ngục chẳng có ǵ phải gấp gáp, không ai nỡ la mắng, kư củ khi sĩ quan tŕnh diện trễ. Xa mặt trời cũng có cái lợi đó chuẩn úy.
Ngừng lại một chút như đợi cho tôi hiểu rơ vấn đề sau đó trung sĩ Bé thong thả tiếp:
-Ở tiểu khu này người ta thường nói: “Mặt trời không bao giờ rọi tới LOK”, cứ từ từ mà đi. Chúc chuẩn úy lên đường b́nh an.
Theo lời dặn của trung sĩ Bé, tôi lặn một hơi mười ngày, sau đó mới tà tà theo trực thăng của cố vấn Mỹ đến đơn vị.
Trước mặt tôi là Bộ chỉ huy tiểu đoàn. Tôi đi dọc theo dăy nhà tôn vách ván, pḥng nào cũng trống không, tôn lợp mái nhà tấm nào cũng vài chục lỗ thủng do miểng pháo kích. Ánh nắng mặt trời xuyên qua những lỗ thủng, chiếu xuống thành muôn ngàn sợi nắng vàng kẻ song song làm tôi hoa cả mắt. Nh́n quanh không một bóng người thêm vào cái im ắng của buổi trưa hè oi bức, khiến tôi có cảm tưởng là ḿnh đang ở trong một vùng đất chết.
Tôi đi hết dăy nhà, ṿng sang bên hông. Dưới bóng mát của hai gốc cây rừng, một ông chuẩn úy (một trăm phần trăm là huynh trưởng của tôi) mặt mày đen sạm, râu ria xồm xoàm, tóc dài quá mang tai nằm đu đưa trên chiêc vơng, taỵ cầm lon bia Mỹ, dưới đất thêm vài cái lon không nằm lăn lóc.
-Mới ra trường?
Giọng nói nhừa nhựa đầy men bia, câu hỏi trống không nhưng tôi biết dành cho tôi, v́ tôi là người duy nhất đứng trước mặt ông ta.
-Vâng, tôi mới ra trường. Xin hỏi chuẩn úy, Bộ chỉ huy tiểu đoàn ở đâu?
-Tôi là Ḥa, chuẩn úy Ḥa. Hai giờ chiều rồi ai mà làm việc nữa, ngồi xuống đây làm vài lon, bia Mỹ mà không uống, phí cả cuộc đời.
-Ở chốn khỉ ho c̣ gáy này làm sao chuẩn úy có bia Mỹ để uống?
-Cái bọn cố vấn Mỹ, khi có việc cần nhờ vả ǵ ḿnh bọn nó lại vác qua cho vài thùng bia, gọi là có qua có lại ấy mà.
-Thế bọn ḿnh làm ǵ ở đây?
-Làm ǵ tôi cũng chả biết, lính cũng giống như thiên lôi, cấp trên sai đâu ḿnh đánh đó, nói vậy chứ thiên lôi coi bộ c̣n sung sướng hơn bọn ḿnh, chỉ làm việc vào những ngày mưa mà thôi. Lính tráng bọn ḿnh bất kể mưa, nắng, đêm, ngày cày đủ.
Đang nói chuyện ngon lành đột nhiên chuẩn úy Ḥa im bặt, ông ta đứng lên lục lọi khắp mọi túi quần như muốn t́m cái ǵ đó.
Tôi đưa chuẩn úy Ḥa gói thuốc Lucky c̣n non một nửa.
-Ông giữ lấy mà hút, tôi c̣n nguyên một cây trong ba lô.
Chuẩn úy Ḥa vừa đốt thuốc vừa nói.
-Ngày xưa, đây là căn cứ Lực Lượng Đặc Biệt với một tiểu đoàn Biệt Kích Biên Pḥng trấn giữ. Khi Mỹ rút, họ bàn giao căn cứ này cho tiểu khu, thế là tiểu đoàn của ḿnh có công ăn việc làm, nằm cố thủ ở đây đợi pháo kích.
-Cho tôi hỏi ông một câu. Ông để tóc dài như vậy không bị phạt sao?
-Ông này chỉ được cái vớ vẩn, năy giờ ông hỏi tôi bao nhiêu câu rồi? Ở đây có tất cả ba sĩ quan người Kinh, mỗi người một đại đội, nay có thêm ông nữa là bốn, chắc ông sẽ về đại đội một. Tất cả đại đội trưởng của bốn đại đội đều là người Thượng, trong đó có một ông là Fulro đầu thú. Họ chấm tọa độ điểm đứng c̣n chưa xong, hơi đâu mà lo đến quân phong với quân kỷ.
Ngửa cổ nốc cạn lon bia, chuẩn úy Ḥa nói tiếp :
-Chiều rồi, xuống hầm của tôi kiếm chút cơm dằn bụng, xong đâu đấy tôi c̣n phải đi lo chuyện pḥng thủ ban đêm. Ông nên nhớ núi rừng cao nguyên đêm xuống rất lẹ, chưa kịp làm ǵ trời đă tối thui cho mà xem.
-Hầm ở đâu?
-Ngay đây thôi, nguyên tắc căn bản ở đây là, muốn làm ǵ cũng được nhưng luôn luôn cách miệng hầm không quá mười thước.
-Tại sao vậy?
-Khi nghe tiếng đạn pháo đầu tiên của địch đề pa, ḿnh chỉ có tối đa năm giây là phải ở dưới hầm, trễ hơn là bể gáo.
Đưa tay chỉ vào cuối hầm chuẩn úy Ḥa nói:
-Đêm nay ông ngủ tạm nơi chiếc ghế bố đàng kia.
Nh́n vào góc hầm tối thui như cái hũ nút, tôi chợt hiểu, hóa ra “Mặt trời không bao giờ rọi tới LOK” có nghĩa là ở dưới hầm, chỉ có vậy mà trung sĩ Bé c̣n bày đặt chơi chữ. Đang ṃ mẫm đi vào góc hầm chợt tiếng của chuẩn úy Ḥa nhắc tôi :
-Nếu có pháo kích ông nhớ đội nón sắt, mang súng M16 đứng giữ cửa hầm, bất cứ ai chạy trên mặt đất ông cứ bắn thoải mái.
-Làm sao phân biệt được địch và bạn?
-Lính ḿnh chỉ di chuyển dưới giao thông hào, trên mặt đất là vc. Nói vậy thôi chứ ông đùng lo, đó là trường hợp căn cứ bị tràn ngập.
***
Chuẩn úy Trần văn Đạt, số quân ….. tŕnh diện đại úy.
-Ông mới ra trường mà đă bày đặt ba gai phải không? Tới đây từ hôm qua sao hôm nay mới tŕnh diện?
-Thưa đại úy, hôm qua tôi đi qua văn pḥng của Bộ chỉ huy không thấy ai làm việc hết.
-Làm việc ở đó để ăn pháo rồi chết à. Tất cả mọi người ở đây đều ăn, ngủ, làm việc dưới hầm ông hiểu chưa?
-Thưa đại úy tôi có gặp chuẩn úy Ḥa, ông ấy bảo để mai hăy tŕnh diện.
Vung tay đập bàn cái rầm, vị đại úy gằn giọng:
-Tôi là tiểu đoàn trưởng hay chuẩn úy Ḥa là tiểu đoàn trưởng?
-Thưa đại úy, ông là tiểu đoàn trưởng.
-Trung sĩ Kim đâu? Đưa ông chuẩn úy này về đại đội một, mà thôi chở ông ấy ra tiền đồn luôn.
Quay qua nh́n tôi, vị đại úy nói tiếp:
-Ồng ra nằm tiền đồn, một tháng sau tôi sẽ điều ông về đại đội. Ông đi ngay lập tức, tôi không muốn thấy mặt ông ở đây.
Theo chân trung sĩ Kim, tôi rời hầm chỉ huy mà ḷng đầy khoan khoái. Tôi cười thầm trong bụng, lặn một hơi mười ngày không mắng một câu, không kư một củ, không la một tiếng. Trong khi chỉ trễ chút xíu lại đày đi tiền đồn, đă xuống địa ngục rồi tầng đầu hay tầng cuối cũng là địa ngục mà thôi, đang miên man suy nghĩ…
-Chuẩn Úy à, ông làm thằng em kẹt theo rồi.
-Sao vậy?
-Từ đây ra tiền đồn, tám cây số đường rừng quanh co khúc khuỷu với hàng ngàn cái ổ gà, cái nào cái nấy to như cái thúng, không biết mấy ngày qua Việt Cộng có chôn ḿn không? Nếu bọn họ gài ḿn, ông và tôi kể như chết chắc.
-Đại úy Châu vừa mới hù tôi xong, bây giờ đến ông phải không?
-Chuẩn úy mới tới nên không biết đó thôi, trong ṿng một năm, bốn chiếc xe, vừa GMC, vừa Jeep của chi khu bị trúng ḿn, thêm hai xe đ̣ dân sự với hơn năm mươi thường dân vừa Kinh, vừa Thượng, vừa đàn bà, vừa trẻ em bị chết. Từ đó đến nay xe cộ không được phép di chuyển, mà dù có cho cũng chẳng ai dám đi. Đường bộ từ Ban Mê Thuột vào bị đắp mô, đóng chốt, rồi bỏ phế, mỗi khi cần chuyển quân hoặc tiếp tế, phải hành quân mở đường và ḍ ḿn trước đă.
Tôi quẳng cái ba lô lên xe Dodge 4×4 trèo lên ghế trưởng xa mà ḷng đầy ngao ngán, than thầm cho cái số con rệp của ḿnh. Những ǵ trung sĩ Bé ở pḥng nhân viên tiểu khu nói với tôi hầu như là đúng hết, chỉ thiếu một điều ông ta không nói đến là: ḿn.
Tiếng động cơ của xe Dodge nổ gịn, xe lăn bánh chầm chậm ra cổng của căn cứ rồi đột nhiên ngừng lại.
-Chuẩn úy, tôi có chuyện muốn đề nghị với ông.
-Chuyện ǵ?
-Tôi nghi quá, linh tính báo cho tôi biết có sự chẳng lành. Không ḍ ḿn mà đi ra tiền đồn thế nào cũng dính ḿn, mà ḿn chống chiến xa chứ chẳng phải chơi đâu. Xe tăng c̣n nát bét huống hồ ǵ cái xe Dodge nhỏ xíu này.
-Làm như có một ḿnh trung sĩ biết sợ chết, tôi cũng sợ thấy mẹ.
-Hay là để tôi mượn xe Honda chở ông ra tiền đồn, đi xe hai bánh là an toàn trên xa lộ, ḿnh có thể lách được không sợ ổ gà, v́ ổ gà chính là chỗ vc chôn ḿn.
-Sao mày không nói sớm? – V́ mừng quá tôi kêu trung sĩ Kim bằng mày, quên giữ ǵn cách ăn nói lịch sự, xưng hô theo cấp bậc.
***
Tiền đồn nằm trên đỉnh đồi sót, khá cao với hàng chục lớp kẽm gai bao bọc, một con đường ṃn nhỏ cong quẹo, uốn lượn theo sườn đồi dần lên đỉnh.
Đón tôi dưới chân đồi là hai binh sĩ, súng đạn đầy người, họ đứng nghiêm chào tôi rồi nói:
-Bọn em được lịnh xuống đón chuẩn úy.
Theo chân hai người lính, tôi cứ từ từ vừa đi vừa ngắm cảnh, tiện thể quan sát cách pḥng thủ của đồn. Những vỏ lon bia, vỏ lon thịt hộp treo lửng lơ trên những lớp hàng rào kẽm gai, thỉnh thoảng chạm vào nhau kêu lẻng kẻng khi có cơn gió nhẹ thoáng qua, tiếng kêu như nhắc nhở cho tôi biết là ḿnh đang ở trong một tiền đồn nơi biên giới, xa thật là xa, xa lắc xa lơ, xa hẳn xă hội loài người.
Khi lên tới nơi tôi mới giật ḿnh hoảng hốt, mồ hôi ướt như tắm không biết tại leo núi hay v́ sợ. Chỉ có hai binh sĩ đón tôi là người Kinh c̣n tất cả là người Thượng. Quân trường có bao giờ dạy tôi cách chỉ huy người Thượng đâu. Những binh sĩ này trước kia là Biệt Kích Biên Pḥng, lính không có số quân, lănh lương của Mỹ. Khi các trại Lực Lượng Đặc Biệt giải tán, đổi thành Biệt Động Quân biên pḥng, họ đào ngũ gia nhập Địa Phương Quân.
Tôi đang đứng ngay trên đỉnh đồi, nh́n quanh môt ṿng cả một thung lũng bao la bát ngát, xung quanh là núi rừng bao bọc, cây liền cây, núi liền núi, cao ngút từng mây. Bề ngang thung lũng ước chừng năm cây số, bề dài khoảng hai mươi cây số khiến tôi nhớ đến kích thước của thung lũng Điện Biên Phủ. Ngày xưa quân đội Pháp pḥng thủ Điện Biên Phủ với khoảng vài chục ngàn quân, cộng thêm phi cơ, chiến xa và đại bác, đă bị thất thủ. Giờ đây, tôi pḥng thủ cái tiền đồn bé tí ti với độ hơn chục người lính, coi bộ cuộc đời của ḿnh không được khá cho lắm. Tôi đă đi đến tận cùng của trái đất, đă xuống tới tầng chót của địa ngục, từ đỉnh của tiền đồn quay một ṿng ba trăm sáu chục độ không một mái nhà, không một bóng người, đây là khu oanh kích tự do.
Tôi tập họp trung đội, trung sĩ nhất trung đội trưởng báo cáo quân số, chỉ vẻn vẹn hai mươi hai người. Nghe cũng an ủi được phần nào, hai mươi hai người dù sao cũng nhiều hơn con số mà tôi ước đoán. Súng cộng đồng trong đồn gồm có hai đại liên M60, hai súng cối 81 ly, đạn dược đầy đủ nếu không muốn nói là dư thừa. Sau khi t́m hiểu cách bố trí pḥng thủ của tiền đôn, tôi kêu mấy tay xạ thủ súng cối, là người Thượng nhưng họ nói và nghe được tiếng Việt tuy không rành lắm.
-Các ông có thấy cây cổ thụ ở ngoài xa, dưới chân đèo hay không?
-Thấy chớ.
-Điều chỉnh tác xạ, nhắm vào cây cổ thụ bắn cho tôi vài quả.
-Tuân lệnh.
Sau một hồi loay hoay tính toán về khoảng cách, cao độ, thuốc bổi, bốn viên đạn 81 ly thoát ra khỏi ṇng súng hướng về phía cây cổ thụ. Tôi đang dùng ống ḍm quan sát mục tiêu, bất chợt ngựời hạ sĩ truyền tin vác máy PRC25 chạy ào đến, đưa ống liên hợp cho tôi.
-Đại úy tiểu đoàn trưởng trên máy, muốn nói chuyện với chuẩn úy.
-Cải cách, Ủng hộ, Đống đa.
-Ông dẹp mẹ nó mấy cái chữ ngụy hóa tào lao đó đi được không? Đang làm ǵ ngoài đó?
-Thưa đại úy, tôi đang điều chỉnh tác xạ súng cối tám mươi mốt ly.
Tiếng của đại úy tiểu đoàn trưởng gằn giọng trong máy:
-Dạ thưa ông chuẩn úy, ông muốn điều chỉnh tác xạ th́ kệ ông nhưng trước khi bắn ông phải báo cáo về căn cứ, ông có biết tất cả mọi người ở đây khi nghe súng cối đề pa là xuống hầm hết hay không? Họ đang báo động là vc pháo kích. Tôi chỉ tiếc là không c̣n chỗ nào nữa để đưa ông đi, không lẽ lệnh cho ông dẫn vài thằng lính, ôm lựu đạn đi kích ở chân đèo?
Ngừng một chút như để dằn cơn giận (tôi đoán như vậy), đại úy tiểu đoàn trưởng rên rỉ.
-Chuẩn úy ơi là chuẩn úy, ông làm ơn quên cái quân trường của ông được không? Đợi ông tính toán xong xuôi, bắn được một viên đạn súng cối, tụi vc đă tràn ngập mẹ nó cái đồn của ông rồi.
***
Măn hạn trấn thủ lưu đồn, tôi được gọi trở về căn cứ. Chuẩn úy Ḥa đă chuẩn bị sẵn một bữa tiệc thịnh soạn với đủ món ngon để đón người về từ đỉnh núi. Một nồi canh rau muống nấu với tôm khô trong đó có thêm mấy trái cà chua đỏ tươi, cá lóc kho tiêu, một đĩa trứng chiên. Hơn một tháng ở tiền đồn chỉ toàn cá khô, thịt hộp, cơm sấy và rau rừng gồm đủ mọi thứ lá, từ đăng đắng, nhân nhẩn đến chua chua, giờ đây được ăn canh rau muống, quả thật đây là thứ rau ngon nhất trần đời. Cơm nước xong xuôi lại đến màn cà phê phin với sữa đặc có đường hiệu ông Thọ đàng hoàng, mùi cà phê thơm lừng, vị ngọt của đường, chút béo của sữa, ḥa với cái đăng đắng của cà phê mới hớp một ngụm đă thấy sảng khoái cả tâm thần, bao nhiêu là mệt mỏi khổ cực biến đi đâu mất.
Bum..bum..bum.
-Pháo kích, pháo kích.
Tiếng la của ai đó từ bên ngoài vọng vào, âm vang chưa kịp dứt tôi đă nghe.
Ảm..ầm..ầm.
Không biết bao nhiêu là trái đạn súng cối 82 lỵ tới tấp thi nhau nổ, những tiếng nổ liên tiếp kéo dài liên tu bất tận. H́nh như có một trái 82 ly rơi trúng ngay nóc hầm, tôi cảm nhận được sự rung chuyển khác thường của mặt đất, bụi từ trên nóc hầm lă chă rơi xuống mù mịt căn hầm khiến tôi tưởng như ḿnh đang đứng trong một con tàu lắc lư, chao đảo, ngả nghiêng trong cơn băo tố. Lần đầu tiên trong cuộc đời, thật sự với chiến trường, đứng trước mũi tên ḥn đạn, thấy được cái chết sừng sững trước mắt, tôi lặng người đi v́ sợ hăi, hoảng hốt th́ đúng hơn. Khi đạn pháo bắt đầu thưa dần, tôi mới b́nh tỉnh trở lại. Trời đánh tránh bừa ăn, nh́n ly cà phê váng bụi, tiếc của trời tôi bưng lên ực một hơi, cà phê thoang thoảng mùi con gián chết. Tôi vơ vội cây súng M16 cùng với chuẩn úy Ḥa chạy ra giao thông hào.
Lúc này, hai khẩu đại bác 105 ly của căn cứ bắt đầu phản pháo, đạn 105 ly vụt đi, chưa biết có trúng được nơi vc đặt súng hay không nhưng âm thanh của nó nghe thật là phấn chấn, đă cái lỗ tai.
Lại đến đợt pháo thứ hai, lần này ít hơn chỉ độ vài chục trái. Người lính đứng bên cạnh tôi nói:
-Không sao đâu chuẩn úy, ở đây pháo ban ngày, không sợ cái màn “tiền pháo hậu xung” lát nữa lên dọn dẹp là xong chuyện, coi như không có ǵ xảy ra.
-Ha sĩ ở đây bao lâu rồi?
-Gần một năm, lúc đầu khi mới tới đây sợ pháo kích quá sức, riết rồi thành quen đâm ra lờn, có pháo cũng như không. Mà nè, làm một điếu thuốc cho ấm phổi đi chuẩn úy.
-Làm th́ làm, sợ ǵ.
Đang say sưa tán gẫu, tôi bỗng giật ḿnh.
-Chuẩn úy Đạt, có lịnh gọi ông đi tŕnh diện.
Tôi vội vàng đi qua hầm của bộ chỉ huy. Trên đường đi, tôi t́nh cờ gặp một người lính nằm ḅ càn dưới đất, chân mang đôi giày bốt đờ sô to quá khổ so với thân h́nh của ông ta. Ông đang dùng lưỡi lê để đào một trái đạn súng cối 82 ly chưa nổ.. Khi moi được một nhúm đất, ông ta dùng tay gạt nhẹ qua một bên rồi lại đào tiếp, khi đào được phân nửa trái đạn, cái đuôi viên đạn súng cối đă hiện nguyên h́nh, bất ngờ người lính rút hai tay lại xoa vào nhau rôi nói một ḿnh “hăy c̣n nóng”.
-Anh đang làm ǵ vậy? Tôi hỏi.
Quay đầu nh́n tôi, người lính nói:
-Đào đem đi dụt, chuẩn úy.
Giọng nói của người miền Nam chứa đầy chơn chất, thoải mái, nghe sao lạc loài xa lạ, bởi v́ đa phần lính ở cao nguyên thường là dân gốc miền Trung. Tôi đoán là anh ta ở trong toán tháo gỡ đạn dược. Không muốn hỏi nhiều khi anh ta đang thi hành công vụ, tôi lặng lẽ quan sát hiện trường. Nh́n gương mặt của anh ta đỏ gay đỏ gắt, mồ hôi nhễ nhăi chảy dọc theo hai bên thái dương, nh́n trái đạn c̣n nóng hổi, tôi suy nghĩ một chút rồi lẹ làng dọt mau mau cho được việc, đứng đó lạng quạng lỡ trái đạn nổ bất th́nh ĺnh, ḿnh bị chết lây lảng nhách.
Tôi tŕnh diện trung úy đại đội trưởng, ông ta là người Thượng nhưng nói tiếng Kinh khá sơi.
-Chuẩn úy sẽ là trung đội trưởng trung đội một. Ông đi gặp hạ sĩ quan tiếp liệu lănh địa bàn, bản đồ và vật dụng cần thiết. Hôm nay đại đội của…
Ầm…chỉ một tiếng nổ vang lên từ bên ngoài,
Trung úy đại đội trưởng nghiêng đầu như nghe ngóng rồi hỏi.
-Cái ǵ nổ vậy?
-Trung úy có muốn tôi ra coi không?
-Thôi kệ nó đi, hôm nay đại đội của ḿnh đi hành qụân bảy ngày, mục tiêu là lục soát vùng vc đặt súng cối, ông về chuẩn bị.
Trên đường về, tôi thấy mấy người lính quân y bu quanh xác một người lính không đầu với mảnh h́nh hài nhầy nhụa nát tan. Nh́n xuống đôi giày bốt đờ sô to quá khổ, tôi biết anh ta là ai rồi. Mới nói chuyện với tôi đó mà, cuộc sống phù du, sống đó rồi chết đó, dễ dàng như chuyện uống miếng nước, ăn chén cơm, hút điếu thuốc.
***
Trung đội phó báo cáo quân số của trung đội, tôi kiểm soát lại cấp số đạn và bảy ngày lương khô của binh sĩ. Trong lúc tôi đang dùng viết ch́ mỡ khoanh vùng đỉnh núi, chỉ cho trung sĩ nhất trung đội phó mục tiêu của cuộc hành quân.
-Chuẩn úy, em là Năm Thẹo, ông đưa hết đồ đạc cá nhân của ông em mang cho. Từ đây về sau ông thầy cứ yên tâm, mọi chuyện đă có Năm Thẹo lo hết.
Tôi nh́n anh binh nh́ đang đứng trước mặt, trạc tuổi tôi nhưng thân h́nh to lớn kềnh càng, tóc quăn, da mặt ngăm ngăm đen với đôi mắt sáng quắc, thoạt nh́n đă thấy rơ cái ngang tàng ngạo nghễ trong con người của anh ta. Một vết thẹo dài chạy dọc theo bên má trái từ chân mày đến cằm, vết thẹo làm tăng thêm phần ĺ lợm, bụi đời trên gương mặt của Năm Thẹo. Thật sự mà nói nếu không nhờ vào bộ đồ lính với cặp lon chuẩn úy nơi cổ áo, có cho kẹo tôi cũng không dám nh́n anh ta. Tôi lấy gân, gồng ḿnh hỏi:
-Ngày xưa em ở đâu?
-Dạ, Tôn Đản, Khánh Hội ông thầy.
-Có phải du đăng không đó?
Năm Thẹo chắt lưỡi, găi đầu.
-Dạ, cũng có dính líu chút ít.
-Năm Thẹo nè.
-Có ǵ chuẩn úy.
-Mày vén áo lên tao coi, c̣n bốn cái thẹo nữa ở đâu?
-Ông thầy ơi, một cái thẹo trên mặt, thêm hai cái xương sườn găy khi bị du đăng Cầu Muối thanh toán khiến em nằm nhà thương cả tháng trời, nếu lănh thêm bốn cái thẹo nữa chắc em chết từ cái đời nào rồi. Em tên Năm, v́ có cái thẹo trên mặt nên bạn bè gọi là Năm Thẹo, riết rồi chết tên luôn.
Tôi chọn NămThẹo làm đệ tử và biết rằng kể từ đây mạng sống của tôi và Năm Thẹo sẽ buộc chặt lấy nhau. Tôi cần đến sự giúp đỡ của Năm Thẹo trong khi đi hành quân. Ngược lại chưa hẳn Năm Thẹo cần đến sự bao che của tôi.
Sau hai ngày leo núi, tối ngày thứ ba đại đội đóng quân trên đỉnh núi với thế đất h́nh yên ngựa, chuẩn bị sáng hôm sau sẽ lục soát đỉnh núi bên cạnh, nơi vc đặt súng cối.
Suốt đêm, trên đỉnh núi cao vời vợi, tôi nằm một ḿnh trên chiếc vơng nghe gió hú, từng hồi, từng cơn, tiếng gió hú nghe như từ cơi âm vọng về lạnh lùng đến rợn gáy.
Năm Thẹo bất chợt nói với tôi, giọng nói nhỏ như là tiếng muỗi kêu.
-Ông thầy, lần đầu nghe gió hú phải không?
-Ừ, nghe nó rờn rợn làm sao ấy.
-Nghe riết rồi cũng quen thôi ông thầy à, gắng ngủ đi, lấy sức mai c̣n lội tiếp.
Mờ sáng ngày thứ tư, khi sương mù c̣n bao phủ dày đặc trên đỉnh núi, tôi dẫn trung đội một đi đầu tiến đến mục tiêu. Tiểu đội một báo cáo có nhiều đường ṃn, họ tránh không dùng đường ṃn v́ sợ ḿn bẫy. Khi trung đội của tôi đă chiếm đóng mục tiêu, bố trí pḥng thủ xong, ba trung đội c̣n lại lần lượt đến. Lịnh của đại đội trưởng cho các trung đội bung rộng ra để lục soát, t́m nơi chôn giấu súng cối và đạn.
Ầm …ầm..
Hai tiếng nổ liên tục, tôi biết có chuyện chẳng lành. Qua máy PRC 25, trung đội ba báo cáo với đại đội trưởng, hai binh sĩ chết, hai bị thương do ḿn vc gài lại. Cùng lúc đó tôi nhận được lịnh dùng ḿn phá rừng, dọn băi đáp cho trực thăng tải thương.
Sau gần hai tiếng đồng hồ làm việc cật lực, chúng tôi phát quang được một khoảng trống khá rộng đủ chỗ cho trực thăng sà xuống bốc người.
Vẫn biết rằng “Xưa nay chinh chiến mấy ai về”, bài Lương Châu Từ c̣n đó nhưng khi nh́n hai xác chết được cuốn gọn trong tấm poncho, đầu đuôi cột chặt, thêm phiếu tải thương cột bên hông khiến tôi nghĩ đến chuyện da ngựa bọc thây tưởng chỉ có trong điển tích của Tàu, giờ đây nó ngay trước mắt ḿnh. Những ngày đầu vào lính, khi lănh quân trang có thêm cái poncho, tôi chỉ nghĩ là nó dùng để che mưa, không biết được công dụng khác là dùng như tấm da ngựa để bọc thây khi chết. Tôi nói với Năm Thẹo:
-Nếu tao có phải cuộn ḿnh trong tấm poncho, mày làm ơn nhắn lại với ba má của tao là: “Tao thương ông bà”, chỉ có thế thôi.
***
Hai đại đội pḥng thủ căn cứ, hai đại đội hành quân di động tiêu diệt địch ở bên ngoài, có nghĩa là cứ lội mười lăm ngày trong rừng, sau đó về pḥng thủ căn cứ dưỡng quân mười lăm ngày.
Một năm rưỡi trôi qua, một năm rười dăi nắng dầm mưa, hít thở cái lạnh lẽo của cao nguyên, cơm chỉ là gạo sấy thịt hộp, nước có suối cạn trong rừng, đụng độ với địch năm bảy lần, tôi lănh được hai cái huy chương, cộng thêm cái biệt danh “ Đạt Húc”.
Ngày tôi lên chức thiếu úy cũng là lúc thực thụ nắm đại đội trưởng, cũng ăn tục nói phét như điên, chửi thề uống rượu như máy. Tôi là đại đội trưởng sáng giá nhứt của tiểu đoàn, là cánh tay mặt của tiểu đoàn trưởng, ông ta coi tôi như thằng em nhỏ, t́nh thân giữa ông và tôi là cái t́nh nửa nhà binh nửa là người anh lớn lo cho thằng em.
Tôi tưởng rằng cuộc đời của ḿnh sẽ cứ như vậy mà đi qua, không ngờ có một ngày đặc biệt khiến tôi nhớ măi suốt đời, ngày mà cuộc đời lính của tôi bước sang khúc quanh mới. Hôm ấy, tôi với tiểu đoàn trưởng cùng vài người lính trong tiểu đoàn uống rượu tiêu sầu, ở chốn thâm sơn cùng cốc này ngoài rượu ra c̣n có ǵ để mà giải sầu đâu? Sau vài ly xây chừng, tôi hỏi đại úy:
-Ngày mới ra trường khi tŕnh diện, tại sao ông giận dữ đày tôi đi tiền đồn?
-Có ǵ đâu, tao không thích chuẩn úy Ḥa v́ nó đánh đấm chẳng ra cái con mẹ ǵ, đă vậy suốt ngày cứ say sưa. Chú mày mới chân ướt chân ráo đến đây đă có vẻ muốn theo chân chuẩn úy Ḥa, cho nên tao đày đi tiền đồn cho bỏ ghét.
-Nếu lúc đó trên đường ra tiền đồn, xe Dodge bị trúng ḿn nát bét th́ sao?
-Chú mày nhắc tao mới nhớ. Sau khi chú mày đi rồi tao mới hết hồn, trong lúc nóng giận tao quên mất chuyện ḿn gài đầy đường. Đang c̣n bực bội chưa hết, tiếp theo chuyện chú mày lại điều chỉnh tác xạ súng cối khiến tao giận cành hông, vc pháo kích vào căn cứ là chuyện thường t́nh, đàng này phe ta pháo kích phe ḿnh, không giận sao được.
-Đại úy à, tôi c̣n thêm câu hỏi này nữa. Ngày đó tôi c̣n ngơ ngơ ngáo ngáo như con ngỗng đực lại thêm không gốc, không rễ cho nên mới bị đày xuống đây. Đại úy chắc cũng vậy chứ ǵ?
-Chú mày chỉ được cái giỏi là suy bụng ta ra bụng người. Đúng, tao bị đày xuống đây nhưng lư do th́ khác, tao đâu có phải là con ngỗng đực.
Đại úy Châu xé miếng khô nai to bằng bàn tay đưa lên trước mặt, lật qua rồi lật lại, ông nói mà như là than thở
-Cuộc đời của tao nó cũng bầm giập như miếng khô này, bị phơi không biết bao nhiêu là nắng, sấy cho đên lúc khô queo khô quắt, giờ đây lại bị nướng trên lửa than rồi hun khói, cháy đen thui là phải. Chú mày biểu Năm Thẹo xé nhỏ miếng khô này, dầm trong tô nước mắm ớt, chanh đường rồi đem lên đây.
-Đại úy cần ǵ nữa không?
-Không.
Đưa tay với lấy cái zippo có h́nh con cọp nâu nhe hàm răng đủ mười ba cái, đại úy Châu đốt một điếu thuốc Ruby quân tiếp vụ, khói thuốc màu trắng xám chập chờn uốn lượn trong không gian, lan tỏa khắp căn hầm, ông nhắm mắt như muốn thả hồn theo khói thuốc.
-Thiếu tá Nguyễn Văn Tinh Châu, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Biệt Động Quân là tao.
Tôi lặng người đi v́ không ngờ sếp của ḿnh trước kia là thiếu tá, mà lại là thiếu tá tiểu đoàn trưởng của một binh chủng lừng danh.
-Đại úy, ông bị giáng cấp phải không?
Không buồn trả lời câu hỏi của tôi, đại úy Châu nâng ly rượu nốc một hơi, ông uống rượu mà mặt nhăn mày nhíu như là đang uống cạn đắng cay của cuộc đời. Đặt cái ly không xuống bàn, đại úy Châu thong thả nói, giọng nói nghe trầm trầm như âm vang từ quá khứ vọng về.
-Ở một vùng biên giới, chú mày có biết nơi mà gịng sông chảy ngược hay không?
-Đại úy nói ǵ? Nước chảy ngược?
-Ừ, tất cả sông ở miền Trung của Việt Nam đều bắt nguồn từ dăy Trường Sơn chảy về hướng đông, tức là chảy ra biển, riêng khúc sông này nó lại chảy về hướng tây, tức là đổ qua Lào, cho nên người ta gọi nó là sông chảy ngược. Tại đây, một đại đội đi đầu của tao đụng độ nặng với Việt Cộng. Địch quân đông như kiến, hỏa lực hùng hậu, hàng chục khẩu cối tám mươi hai ly pháo như mưa vào cái đám con của tao. Chú mày biết rồi, bên kia biên giới là an toàn khu của Việt Cộng, nơi mà họ dưỡng quân, nghỉ ngơi thiếu điều dựng lều hát chèo, xây sân khấu cho văn công tŕnh diễn văn nghệ cũng chẳng có ai làm ǵ.
Trong lúc đại đội bị nguy khốn cần yểm trợ hỏa lực, tao yêu cầu cố vấn Mỹ xin không yểm, nh́n gương mặt lạnh lùng như cái xác chết của thằng cố vấn, kèm theo giọng nói tĩnh bơ như không phải chuyện của nó “Bên kia biên giới, không quân Mỹ không yểm trợ được v́ vi phạm luật trung lập của Lào”.
Rừng núi bao la, cây cối xanh um, mây trắng ngút ngàn một đường kẻ cong quẹo trên bản đồ, nhỏ như sợi chỉ gọi là đường biên giới nó quá sức mù mờ, đẩy qua phía bên kia dăm ba cây số cũng được, kéo lại bên này vài câỵ số cũng xong, biết đâu là chân lư? Giận thằng cố vấn Mỹ cứng ngắt theo nguyên tắc, nóng ruột v́ của đau con xót, đám con của tao đang khắc khoải đợi chờ yểm trợ từng giây từng phút, cứu binh như cứu lửa, chậm một phút kể như ôm hận ngàn đời. Tao nổi điên rút cây colt 45, lên đạn.
Tôi nghĩ rằng ḿnh biết về sếp của ḿnh nên lanh chanh hớt lời.
-Chỗ này tôi biết, ông bắn chết thằng cố vấn Mỹ chứ ǵ?
-Nói tầm bậy, ai nói với chú mày như vậy?
-Bọn lính vẫn thường thầm th́, to nhỏ với nhau là ngày xưa ông đă từng bắn chết một viên cố vấn Mỹ.
Một thoáng không vừa ḷng hiện ra trong đôi mắt của đại úy Châu, ông chỉ vào cây cột to chần dần giữa hầm.
-Chú mày qua dựa lưng vào cây cột đó rồi nói chuyện cho đở mỏi.
-Tôi c̣n khỏe mạnh, có mệt mỏi ǵ đâu.
-Ông bà ḿnh có nói “Biết th́ thưa thốt, không biết th́ …”
Tôi ngậm câm như thóc rồi tự hứa với ḿnh là phải học hỏi thêm nhiều nơi ông, bỏ đi cái tính nhanh nhẩu đoảng.
Đại úy Châu rót thêm rượu vào cái ly của tôi.
-Thói đời, có ít cứ nới cho nhiều, thêm thắt, vẽ vời cho lắm, có một đồn mười, dám tụi nó đồn tao là hung thần giết người như ngoé cũng nên. Tao chỉ bắn què gị thằng cố vấn Mỹ sau đó phải tự lực cánh sinh, đem mấy đại đội c̣n lại cấp tốc đi đường ṿng đánh thẳng vào nơi đặt súng cối của Việt Cộng, giải vâỵ cho đám con của tao. Tao cứu được đám con đem về bên này biên giới nhưng không cứu được bản thân tao.
Ra ṭa án quân sự v́ tội bắn cố vấn, tao bị lột lon, giáng một cấp và đuổi ra khỏi binh chủng. Tao mang lon đại úy và đi đày ở đây như mày thấy. Đă ba năm qua rồi, giờ này tất cả đă ch́m sâu vào dĩ văng. Tao không bao giờ ân hận về việc làm của ḿnh, cũng như không bao giờ quên binh chủng, máu của cọp mũ nâu vẫn c̣n chảy trong huyết quản của tao. Mỗi khi nhớ tới đơn vị cũ tao lại bận bộ đồ Biệt Động Quân, bận để thương nhớ binh chủng của ḿnh hơn là tiếc cho cái lon thiếu tá.
Nhưng mà thôi, chuyện xưa dẹp qua một bên để dành làm kỷ niệm. Tao có món quà đặc biệt, chú mày sinh quán ở đâu ?
-Đalat.
-Tao chỉ muốn hỏi lại thôi, không có ǵ bàn căi nữa. Đây là công điện từ bộ Tổng Tham Mưu gởi tiểu khu Darlac với nội dung là trường Vơ Bị Đalat cần một sĩ quan tham mưu, tao đă dành chỗ này cho chú mày. Sau khi nhậu xong, qua bên cố vấn Mỹ theo trực thăng về tiểu khu để hoàn tất thủ tục thuyên chuyển. Lẹ lên, không được bỏ lỡ cơ hội, cờ tới tay mà không chịu phất, chần chờ sẽ có đứa khác nó chộp mất.
-Tôi có biết ǵ về tham mưu đâu. Nghề của tôi là húc mà.
-Đừng có lo, trước đây hai năm, có bao giờ chú mày nghĩ rằng chú mày là một thằng đại đội trưởng có hạng haỵ không?
-Ông nói cứ như thiệt, đâu phải điền đơn xong là được thuyên chuyển, trường Vơ Bị Đalat, chỗ đó là nơi mơ ước của không biết bao nhiêu là người.
-Hùm chết để da, người ta chết đế tiếng. Tao đi đày ở đây, coi như là chết rồi nhưng tên tuổi, tiếng tăm của tao vẫn c̣n. Ở cái tiểu khu này có ai mà không biết tao. Khi pḥng nhân viên thấy chữ kư của tao, hồ sơ của chú mày sẽ chạy nhanh như gió, hơn nữa chú mày cũng nên học hỏi chút đỉnh việc đời, dầu ǵ Đại tá Tỉnh trưởng với tao cũng là chỗ thân t́nh, tao với ông ấy vốn là bạn cùng khóa.
Vui buồn lẫn lộn, về quân trường đúng là nơi an toàn cho bản thân, khỏi phải đi hành quân lội suối băng rừng nhưng những ân t́nh của lính cũng như là của tiểu đoàn trưởng đă dành cho ḿnh th́ sao? Tôi c̣n sống cho đến ngày hôm nay là nhờ sự hy sinh của họ, lấy ǵ báo đáp đây?
-Đại úy, tôi có một thỉnh cầu xin đại úy giúp cho.
-Ǵ nữa đây?
-Tôi đi rồi bỏ Năm Thẹo bơ vơ một ḿnh, tội nghiệp nó.
-Tao vẫn thích những đứa thủy chung, có trước có sau như mày. Tao sẽ đem Năm Thẹo về Bộ chỉ huy tiểu đoàn với tao, mày vừa ư chưa?
-Chưa, đại úy à, thằng em đi rồi ông ở với ai ?
-Chú mày khéo lo ḅ trắng răng. Khi nào vc ũi sập cái căn cứ này, lúc đó mày hăy lo.
Ngày rời khỏi địa ngục trần gian, tôi ôm đại úy tiểu đoàn trưởng khóc ṛng.
***
Cổng Nam Quan của trường Vơ Bị Đalat không to lớn, không đồ sộ, trên nóc cổng là ngọn cờ Quốc Gia tung bay phất phới, dưới chân cột cờ là phù hiệu của trường với thanh kiếm bạc chỉ thẳng lên trời, thêm hàng chữ “Tự thắng để chỉ huy” nổi bật trên nền gạch đỏ, nhờ sự phối hợp hài hoà khiến cổng trường trông oai nghiêm, hùng dũng. H́nh ảnh cổng Nam Quan, biểu tượng của trường Vơ Bị Đalat như in sâu vào trong trí nhớ của tôi. Tôi bước chân qua cổng. Bắt đầu từ đây, tôi là sĩ quan cơ hữu của trường.
Theo con đường tráng nhựa sạch bong, không một cọng rác, hai bên vệ đường cỏ mọc xanh ŕ, được cất tỉa gọn gàng, tôi đi thẳng đến pḥng nhân viên. Trên đường đi, tôi chào kính mệt nghỉ, chào mỏi tay. Sau này tôi mới rơ thêm, trường Vơ Bị Đalat là nơi quần anh tụ hội. H́nh như ở đây quan nhiều hơn lính, quan cấp úy đếm không hết, quan cấp tá phải vài chục ông, đă vậy có lúc trong trường c̣n thêm hai ông tướng, Thiếu tướng Chỉ huy trưởng, Chuẩn tướng Chỉ huy phó.
Mang một cái bông mai trụi lũi như tôi, chào kính mỏi tay là phải. Chưa chi tôi đă nản chí anh hùng, muốn hát bài “Hổ nhớ LOK”, một ḿnh một chợ, tha hồ múa gậy vườn hoang, dẫn gần trăm người lính, lội nửa tháng trong rừng nh́n khắp bốn phương, t́m khắp tam hướng chỉ thấy cái bông mai của ḿnh là lớn nhất.
Trường Vơ Bị Đalat xây trên ngọn đồi thấp với cao độ 1500 mét, nằm cách trung tâm thành phố khoảng 5km, được kiến trúc theo kiểu Mỹ gồm nhiều dăy nhà bốn tầng. Dùng làm nơi ở cho sinh viên có bốn doanh trại, mỗi doanh trại có khoảng một trăm pḥng ngủ, pḥng ăn rộng mênh mông bát ngát, đủ sức dọn ăn cho trên một ngàn sinh viên cùng ăn một lượt, thư viện với đầy đủ sách cho sinh viên nghiên cứu, riêng nhà thí nghiệm nặng được xây âm dưới đất. Sân cỏ của vũ đ́nh trường Lê Lợi lúc nào cũng xanh mướt với con đường tráng nhựa bọc quanh, tất cả đều sạch sẽ ngăn nắp. Qua cái nh́n đầy chủ quan của tôi, khó có học viện quân sự nào ở Đông Nam Á có thể sánh bằng.
Điều hành trường gồm có ba khối: Văn hóa, Quân sự và Tham mưu, pḥng làm việc của tôi ở tầng hai ngay cầu thang xoắn ốc của Bộ chỉ huy, đối diện với pḥng của Thiếu tướng Chỉ huy trưởng.
Đang từ một chỗ quanh năm suốt tháng sống dưới những căn hầm chật chội, ẩm thấp đêm cũng như ngày lù mù lờ mờ trong ánh sáng của ngọn đèn dầu hột vịt bé tí tẹo, giờ đây tôi ngồi làm việc trong căn pḥng rộng răi, thoáng mát với tất cả đầy đủ tiện nghi. Hơn mười cái điện thoại trước mặt, gồm hai hot line dùng để liên lạc trực tiếp với pḥng Ba của bộ Tổng Tham Mưu, hai class A liên lạc khắp miền Nam, hai class C liên lạc trong tỉnh và năm điện thoại nội bộ, phải mất cả tháng trường tôi mới tạm quen với công việc.
Có những buổi chiều thu, khi mây xám giăng đầy bầu trời Đalat, từng cơn mưa phùn kéo nhau qua quân trường, mưa nhè nhẹ, từng hạt mưa nhỏ, nhỏ như hạt bụi vướng vào cửa kính, trong pḥng hơi nước phủ mờ mặt gương, thoải mái với không khí ấm cúng của căn pḥng khiến tôi bồi hồi nhớ lại những cơn mưa ở LOK. Nhớ những buổi chiều trên cao nguyên vùng biên giới với bầu trời xám xịt, nằm trên chiếc vơng nh́n từng giọt nước theo sợi dây cột ở đầu vơng rơi tóc tách, âm thanh nghe buồn đến nát ruột, nhớ đến những người lính co ro, run rẩy trong bộ quần áo sũng nước mưa. Nhớ Năm Thẹo vác tôi chạy như bay đến trực thăng tải thương, dưới cơn mưa pháo của vc. Nhớ đại úy tiểu đoàn trưởng quay người bước đi như trốn chạy khi ông ta tiển tôi rời khỏi LOK. Đột nhiên ư tưởng xin trở về LOK hiện ra trong đầu tôi.
Gần năm năm ở trường Vơ Bị Đalat, tôi chưa một lần đụng đến cây súng treo ở góc pḥng. Phải đợi cho đến cuối tháng ba năm 1975, tôi mới cầm lại cây súng M16 cùng với quân nhân cơ hữu và khoảng một ngàn sinh viên sĩ quan trường Vơ Bị Đalat di tản về Long Thành, tạm trú chung với sinh viên sĩ quan của trường Bộ binh Thủ Đức.
Giă từ đồi Tăng Nhơn Phú, sau bảy năm lưu lạc, tôi trở về để t́nh cờ thấy lại h́nh bóng của ḿnh ngày xưa với mồ hôi nhễ nhại, cát bụi lấm lem đầy người, đang thi hành lịnh phạt hai mươi cái bơm dầu, bên cạnh ông huynh trưởng đứng phùng mang trợn mắt huấn luyện đàn em. Trở về đây để thấy thuở c̣n là sinh viên sĩ quan, đang thực tập tác xạ ở sân bắn dưới cái nóng như thiêu đốt của Thủ Đức. Tôi trở về trong lúc đất nước đang ở trong t́nh huống cực kỳ bi thảm. Hai mươi bảy tuổi, cái tuổi lo chưa tới, tôi trở về trường mẹ để rồi phải ngậm ngùi, buồn thấm thía với câu nói của cổ nhân: “Lá rụng về cội”.
***
Khi nghe đọc lời tuyên bố buông súng chờ bàn giao trên đài phát thanh Sàigon, tôi hơi bàng hoàng sửng sốt mặc dù đă chuẩn bị tinh thần từ trước.
Tôi mượn ông cậu của tôi bộ đồ dân sự tṛng vô người, bộ đồ rộng thùng thà thùng th́nh trông chẳng ra làm sao cả, nhưng nhằm nḥ ǵ ba cái chuyện lẻ tẻ. Tôi phóng Honda ra đường, chạy ngang qua trại Hoàng Hoa Thám, nơi tôi đă cùng hai trăm Sinh viên Vơ Bị Đalat về đây học nhảy dù, suốt năm tuần lễ, sáng, trưa, chiều, tối lúc nào cũng vừa chạy vừa đếm nhịp.
Nhảy dù cố gắng
Cố gắng nhảy dù.
Qua Lăng Cha Cả với mấy chiếc tăng T54 cháy đen thui, chứng tích sự kháng cự của Nhảy Dù. Dọc theo đường Công Lư, đây là con đường một chiều, thế nhưng hàng ngàn chiếc Honda cái chạy xuôi, chiếc chạy ngược cứ loạn cả lên, mạnh ai nấy chạy. H́nh như người ta chạy để mà chạy chứ chẳng biết chạy đi đâu. Hai bên lề đường giày bốt đờ sô, nón sắt, súng M16 cùng với những bộ quần áo rằn ri vứt lăn lóc, ḷng tôi chợt quặn đau khi nhớ tới bộ đồ dù, trong đáy túi quân trang của tôi khi c̣n ở quân trường.
Đến trước Dinh Độc Lập tôi hơi rợn người, xe tăng của vc đă đậu khắp trong sân. Bên ngoài cũng tăng và lính Cộng Sàn bố trí khắp công viên, kéo dài qua ṭa Đại sứ Mỹ thẳng về phía Sở Thú, trùng trùng điệp điệp xe tăng và lính Cộng Sản.
Trên nóc Dinh Độc Lập cờ Quốc Gia đă được thay bằng lá cờ hai màu xanh đỏ của Mặt Trận Giải Phóng. Tôi cố nh́n một lần cuối cùng, muốn ghi lại trong trí nhớ của ḿnh h́nh ảnh Dinh Độc Lập trong cảnh dầu sôi lửa bỏng. Trong lúc tất cả mọi chuyện h́nh như đă đặt dưới sự kiểm soát của vc, đột nhiên từ cánh phải bên trong Dinh Độc Lập nhiều loạt đạn M16 thi nhau nổ gịn giă, xé tan cái bầu không khí ngột ngạt, khó thở. Tiếng súng nghe như đầy căm phẩn, xen lẫn với đau thương uất hận, khiến tôi nghĩ đến h́nh ảnh con mănh sư mang thương tích trầm trọng khắp ḿnh, cất tiếng hú bi ai trước giờ tử biệt. Qua kẽ hở hàng rào dinh, tôi thấy lính Cộng Sản rối loạn hẳn lên, người ta chen lấn, đổ dồn về phía hàng rào. Tôi đoán ngay đó là những tiếng súng của Liên Đoàn Pḥng Vệ Tổng Thống Phủ, tiếng súng của những người lính có nhiệm vụ bảo vệ Dinh Độc Lập.
Khoảng năm phút sau từ cánh cửa nhỏ bên hông của dinh, một ông thiếu úy Cảnh Sát Dă Chiến hai tay ôm ṿng ra phía sau đầu bước ra, theo sau ông ta khoảng một trung đội Cảnh Sát Dă Chiến. Không tin vào đôi mắt của ḿnh, Cảnh Sát Dă Chiến lại pḥng thủ Dinh Độc Lập, chuyện khó tin nhưng những bộ đô bông da báo, màu nâu đậm và vàng nhạt, thêm chiếc mũ nồi màu đen đă xác nhận họ là Cảnh Sát Dă Chiến.
Tất cả xếp hàng một dọc theo hàng rào, mặt quay vào tường, quỳ xuống, riêng viên thiếu úy không chịu quỳ, ông ta đang nói ǵ đó với đám lính Cộng Sản. Trong lúc bất ngờ một cán binh vc giáng nguyên cái báng súng AK vô đầu viên thiếu úy, thêm một cái đạp sau bắp chân. Tôi thấy ông ta qụy xuống đất, thân h́nh lao đảo, ngả nghiêng nhưng vẫn cố gắng gượng lại, cuối cùng như một con báo vàng với vết thương đâm ngay tử huyệt, cả thân h́nh của viên thiếu úy đổ dài xuống đất. Ông ta nằm bất động, một ḍng máu tươi chảy dọc theo mang tai, lan dần như một vết dầu loang để rồi cuối cùng nhuộm đỏ cái bông mai vàng nơi cầu vai áo.
Mắt của tôi cay. Môi của tôi mặn, bất lực đứng nh́n, thương cho viên thiếu úy Cảnh Sát Dă Chiến, thương cho ḿnh, thương cho Việt Nam.
***
Bất tuân thượng lệnh khi đối đầu với địch quân sẽ bị đưa ra ṭa án quân sự mặt trận xét xử.
Viên thiếu úy Cảnh Sát Dă Chiến, đứng trước hàng trăm chiếc tăng T54, PT76 với đại bác, đại liên, trước hàng ngàn lính Cộng Sản với đầy đủ AK và B40, ông ta cùng với trung đội của ḿnh đă không chịu buông súng đầu hàng theo lệnh của cấp trên. Có nên đưa ông thiếu úy và trung đội Cảnh Sát Dă Chiến của ông ta ra ṭa án quân sự hay không ?
Câu trả lời xin nhường lại cho quư vị. Phần tôi, tôi chỉ thuật lại những ǵ tôi thấy.
Khi mà tôi biết được bộ đồ bông da báo của Cảnh Sát Dă Chiến cũng đẹp và oai hùng như bộ đồ rằn ri của Nhảy Dù th́ mọi chuyện đă trễ rồi. Đồng hồ đeo tay của tôi chỉ 1 giờ kém 5 trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Dinh Độc Lập từ đây chỉ c̣n trong kư ức.
Huy Văn Trương
DL47 ghi chú:
trích từ baovecovang wordpress
BBT đánh máy lại từ
Tập truyện DINH ĐỘC LẬP TIẾNG SÚNG CUỐI CÙNG
với sự đồng ư của tác giả Huy Văn Trương
(bút hiệu của trung úyTrương Văn Hùng, pḥng hành quân bộ chỉ huy trường VBQGVN) .
Xin chân thành cám ơn tác giả.
hoanglan22
03-29-2019, 03:57
:thankyou:dalat47 . Bạn đă t́m được bài này:handshake:
Mr. hoanglan22 . May i have permission to post the link for the others who interest Vietnam War, It's interesting Both sides telling true in air combat .
https://www.youtube.com/watch?v=5eKFLvQfz1s
Cheer :hafppy:
hoanglan22
03-31-2019, 01:38
Mr. hoanglan22 . May i have permission to post the link for the others who interest Vietnam War, It's interesting Both sides telling true in air combat .
https://www.youtube.com/watch?v=5eKFLvQfz1s
Cheer :hafppy:
:eek:5eKFLvQfz1s
cha12 ba
04-01-2019, 01:08
chú mừng HL22 lên King
https://vietbf.com/forum/images/kinggroupvsn26_resiz e.png
hoanglan22
04-01-2019, 03:04
chú mừng HL22 lên King
https://vietbf.com/forum/images/kinggroupvsn26_resiz e.png
Bây giờ ḿnh mới để ư thấy của Bác và của ḿnh . Bác cơ , ḿnh chuồn . Dầu sao đi nữa tụi ḿnh làm chùa phải không Bác , Tuy nhiên tụi ḿnh coi khu vực này thấy sạch sẽ hổng bị đám cô hồn vào quậy:hafppy::hafppy: :hafppy:::thankyou:: handshake::handshake :
cha12 ba
04-02-2019, 05:21
Bây giờ ḿnh mới để ư thấy của Bác và của ḿnh . Bác cơ , ḿnh chuồn . Dầu sao đi nữa tụi ḿnh làm chùa phải không Bác , Tuy nhiên tụi ḿnh coi khu vực này thấy sạch sẽ hổng bị đám cô hồn vào quậy:hafppy::hafppy: :hafppy:::thankyou:: handshake::handshake :
:handshake::handshak e::handshake:
hoanglan22
04-03-2019, 13:22
Đây là một câu chuyện thật, người viết là Bác sỉ
Là người chồng trong cuộc(câu chuyện)……
Thật quá thương tâm, cảm động. Chắc film
ĐÔI MẮT PHƯỢNG phải hay lắm……
Một câu chuyện rất cảm động và kinh hoàng.Đôi Mắt Phượng.
Tôi là một quân y sĩ ra trường năm 1974; đơn vị đầu tiên, cũng là đơn vị cuối cùng của tôi, là một tiểu đoàn Nhẩy Dù. (Xin bạn đọc cho phép tôi được bất chấp văn phạm, viết hoa hai chữ “Nhẩy Dù”, v́ đó là những chữ tôi thương yêu nhất.)
Tôi lập gia đ́nh năm 22 tuổi, ngày c̣n là một sinh viên quân y. Mẹ tôi bảo “chờ ra trường, có việc làm, có lương nuôi vợ, rồi hẵng cưới vợ.” Tôi biết mẹ tôi có lư, nhưng t́nh yêu cũng không vô lư. T́nh yêu thúc dục tôi cưới Phượng ngay. Nàng quá đẹp; thằng Quỳnh, thằng Khương, thằng Định, những đứa bạn cùng lớp bảo tôi, “Phượng đẹp ngây ngất.”
Phượng là nữ sinh đệ nhất Trưng Vương; nàng cũng yêu tôi nhưng xin một năm đính hôn để học hết trung học. Tôi chờ; một năm dài được chia thành 52 tuần lễ ngắn hơn, đánh dấu bằng 52 ngày chủ nhật chúng tôi gặp nhau.
Không phải là một nhà văn, tôi không mô tả được nét đẹp của Phượng; tôi chỉ biết là Phượng rất đẹp, và nhất là có một sức hút dễ sợ; chỉ cần gặp Phượng một lần là không người đàn ông nào quên được nàng.
Xin đừng hiểu lầm Phượng là “típ” người nở nang, ăn mặc khêu gợi; sức hút của Phượng là sức hút ngầm do duyên dáng, do t́nh ư, chuyển đi từ đôi mắt. Đôi mắt thật là t́nh. Mẹ tôi phán là đôi mắt lẳng lơ; tôi không thích hai chữ này v́ nó làm mất đẹp cặp mắt trữ t́nh của Phượng.
Trước hôn nhân tôi mê mệt với đôi mắt ấy; sau hôn nhân tôi khổ sở, bực bội cũng v́ đôi mắt ấy. Không một người đàn ông nào, dù chỉ gặp Phượng lần đầu, không có cảm tưởng đă yêu nàng và t́nh yêu của họ không bị nàng hất hủi. Ít nhất Phượng cũng không xua đuổi, không vô t́nh với họ. Tôi mất một số bè bạn cũng v́ Phượng. Chỉ một vài lần gặp Phượng, chạm mắt với Phượng cũng đủ để họ thầm nghĩ là tôi đă mọc sừng.
Dĩ nhiên vợ tôi không thể có t́nh ư với tất cả mọi người, nhưng cái khổ là đôi mắt đắm đuối của Phượng không nh́n mọi người một cách thản nhiên như người ta nh́n những vật vô tri quanh ḿnh.
Giờ này, vợ tôi không c̣n trên cơi đời trần tục nữa tôi mới thấm thiá hiểu được một việc rất giản dị, rất tầm thường là không tạo ra đôi mắt của chính ḿnh, Phượng không có trách nhiệm ǵ về những đổ vỡ đôi mắt gây ra. Chỉ có tác giả đôi mắt đó _ông Thợ Tạo_ mới đúng là người tôi phải oán trách.
Đi đôi với cặp mắt t́nh tứ là một đồng tiền rưỡi (một ở bên má trái, và một nửa ở cạnh môi dưới) trên khuôn mặt tươi như hoa, trắng mỏng manh. Cái đồng tiền rưỡi ấy, dù chỉ có đồng rưỡi nhung lai có ma lực giết người. Xin hiểu hai chữ “giết người” theo nghĩa trắng của nó.
Tôi hèn nhát? Có thể; nhưng tôi làm ǵ hơn được? Không chỉ yêu thương vợ, tôi vẫn c̣n say mê vợ tôi sau 3 năm chăn gối.
Mẹ tôi, chị tôi đề quyết vợ tôi đă cho tôi ăn bùa mê, thuốc lú. Tôi hiểu quan điểm những người thân của tôi; tôi hiểu cả định mệnh của tôi, của vợ tôi, và của cả những người say mê vợ tôi nữa.
Tôi vừa nói tôi hiểu định mệnh của vợ tôi. Điều đó cần được giải thích rơ hơn; đôi khi tôi nghĩ Phượng cũng đáng trách, nhưng trong đa số những đổ vỡ quanh nàng, Phượng chỉ thụ động, đáng thương. Phượng sợ và tránh né tất cả mọi gặp gỡ. Những buổi liên hoan của đơn vị tôi, những cuộc họp khóa, họp bạn của tôi, luôn luôn Phượng cáo bệnh hay t́m cớ bận con để không tham dự.
Sở dĩ tôi phải dài lời nói về vợ tôi như vậy, lả để người đọc h́nh dung được cái ray rứt, khổ sở của tôi trong 14 tháng tù khổ sai được cộng sản đánh bóng bằng hai chữ “cải tạo.”
Sau 3 ngày học tập binh sĩ đem loan truyền với chúng tôi cái tin tưởng học tập qua loa, ra về đúng kỳ hạn. Điều đó làm đa số sĩ quan cấp úy chúng tôi yên ḷng khăn gói lên đường với 10 ngày tiền ăn. Nhiều anh lười, không đem theo cả mùng mền, tính ngủ nhờ với bạn bè cũng đủ qua khoảng thời gian 10 ngày ngắn ngủi.
Dĩ nhiên là chúng tôi đă lầm; chỉ ngay sau khi cái bẫy xập xuống đầu chúng tôi, cộng sản trắng trợn vứt bỏ mặt nạ “đại đoàn kết dân tộc, xóa bỏ hận thù.”
Bài học đầu tiên chúng tôi được nghe qua giọng nói hằn học căm hờn của một anh cán bộ quản giáo Bắc Việt. Anh ta oang oang bảo chúng tôi, “Các anh quên hết địa vị xă hội của các anh đi. Kể từ ngày hôm nay, vợ con các anh sẽ ngửa tay xin nhân dân từng hột cơm; và vài tháng sau vợ các anh chỉ c̣n nước đi làm đĩ để sống.”
Chúng tôi thắc mắc về thời gian 10 ngày, hắn cười khẩy, vẻ mặt câng câng, đểu cáng, “Các anh chỉ có 10 ngày ăn thôi ư? Đừng lo, cứ ăn hết 10 ngày đó đi đă; sau đó ăn bám vào sức sản xuất của nhân dân.”
Trước mỗi cửa pḥng giam, cộng sản cắc cớ bắt chúng tôi phải dán lên khẩu hiệu “không có ǵ quư bằng độc lập, tự do.” Cán bộ Việt Cộng c̣n phụ giải “người đi trên sa mạc thấy không có ǵ quư bằng nước uống. Các anh sẽ thấy đối với các anh th́ không có ǵ quư bằng tự do.”
Đề cao cái giá của tự do trong nhà giam quả là việc làm vừa châm biếm, vừa độc ác. Nhưng không phải chỉ trong nhà giam tôi mới thấm thía hiểu tự do là quư. Sau này ra khỏi trại cải tạo, sống trong cái nhà giam lớn hơn là nguyên cả Miền Nam Việt Nam tôi càng thấy rơ không phải chỉ một ḿnh tôi, mà cả 20 triệu người dân Nam Việt đều đang khắc khoải giữa sa mạc thống trị, thèm khát ngụm nước tự do.
Xin trở lại với trại cải tạo và với vợ tôi; tôi bị giam 2 tháng hơn th́ một buổi chiều nghe loa gọi lên văn pḥng. Tôi tái người, nghĩ ngay đến những vụ thủ tiêu, biệt giam, thường xẩy ra đối với những thành phần cộng sản gọi là ngoan cố.
Bản chất hiền lành, tôi không ra mặt chống đối bọn giảng viên, quản ngục. Cái tội của tôi chỉ là không nuốt trôi được mớ lư thuyết rẻ tiền, lẩm cẩm của cộng sản. Nhưng đối với chúng, đó không phải là một khinh tội. Tôi lo lắng chờ đợi một h́nh thức trừng phạt v́ trọng tội trí thức.
Lên đến văn pḥng, tôi được một anh binh ba Bắc Việt, mặt non choẹt, đưa vào pḥng chính ủy. Và tôi đă chết đứng khi thấy Phượng trong đó.
Giọng đầy cải lương, nhân vật số một của trại giam bảo tôi, “Xét thành tích học tập tốt của anh, nhân dân đặc biệt cho anh được nhận sự chăm nuôi của gia đ́nh.”
Tôi học tập tốt? Thật là mai mỉa; những âm thanh giảng huấn chan chát của bọn cán bộ cộng sản đối với tôi không một mảy may khác những tiếng cuốc đất trong giờ lao động sản xuất. Tôi đoán hiểu cái lư do đă khiến “nhân dân đặc biệt cho phép” tôi được nhận sự thăm nuôi của gia đ́nh.
Cặp mắt nẩy lửa v́ giận, tôi nh́n Phượng. Vợ tôi đă đến cái nước đi làm đĩ như bọn cộng sản tiên đoán rồi ư? Phượng cũng nh́n tôi, đôi mắt vẫn t́nh tứ, nhưng buồn thăm thẳm và ướt đẫm. Những giọt lệ lăn dài trên đôi má nhung mịn màng làm ḷng tôi se thắt. Tôi thèm bước tới, ôm Phượng vào ṿng tay, và hôn dài trên đôi mắt đắm đuối ấy. Nhưng dĩ nhiên ngoại cảnh không cho phép tôi làm việc tôi thường làm đó.
Vợ tôi nghẹn ngào, “Bé Mai nhớ anh lắm.”
Bé Mai! Đứa con gái 2 tuổi của tôi, báu vật của vợ chồng tôi! Tôi đứng khựng như trời trồng trước cái h́nh ảnh nhỏ bé, thương yêu mà vợ tôi vừa gợi ra.
Suốt 10 phút gặp gỡ, tôi không nói được một lời nào với Phượng cả. Cổ họng tôi nghẹn cứng; rồi bên tai tôi văng vẳng thật xa có tiếng nói của tên chính ủy: “Thôi, xách đồ ăn về pḥng đi, Tuần sau lại được thăm nuôi nữa.”
Đêm đó tôi không chợp mắt. Tôi h́nh dung những chuyện đă xẩy ra giữa vợ tôi và tên chính ủy cộng sản trước khi tôi được dẫn vào và sau khi tôi bị đưa ra khỏi văn pḥng hắn. Tôi không tin đă có ǵ quá đáng trong pḥng làm việc. Nhưng sau đó hắn có thể đến nhà tôi hay bảo vợ tôi đến một chỗ nào đó.
Tuần sau và những tuần kế tiếp, Phượng đều đều đến thăm tôi, mỗi lần đem theo một món ăn mà trước kia tôi ưa thích. Tôi nuốt những món khoái khẩu mà có cảm tưởng như ḿnh đang ăn rơm khô, không mùi, không vị. Mỗi lần thăm viếng chúng tôi được nói chuyện với nhau 10 phút. Toàn những chuyện bâng quơ. Cả hai đứa chúng tôi đều không dám đả động tới điểm ngờ vực đau xót của tôi.
Có lần Phượng nói với tôi bằng cái giọng thiết tha nhưng nghiêm trọng, “Em chỉ xin ḿnh tuyệt đối tin tưởng là em yêu ḿnh. Suốt đời em, em chỉ yêu có một ḿnh ḿnh. Mặc dù những ǵ đă xẩy ra hay sẽ xẩy ra th́ t́nh em yêu ḿnh vẫn măi măi là sự thật duy nhất.”
Qua tâm linh, tôi biết Phượng nói thật. Tôi muốn quên những việc đáng buồn đă xẩy ra; quên không được, tôi cố gắng bào chữa cho Phượng. Nhưng ghen tương, ích kỷ, cũng không phải là những cảm nghĩ nhỏ trong ḷng người chồng.
Những cuộc thăm viếng kéo dài được 4 tháng th́ một hôm Phượng bảo tôi, “Tuần sau em về Long Xuyên với má; sống ở thành phố không có sinh kế ǵ hết.”
Tôi hăng hái khuyến khích vợ tôi xa ĺa Saigon. Ít nhất về ruộng sống với mẹ Phượng cũng đỡ phải lo 2 bữa ăn hàng ngày, cái lo to lớn của người thị dân sau ngày bị giải phóng.
“Mỗi tuần được gặp em là niềm an ủi lớn cho anh,” tôi bảo vợ. “Nhưng cái nh́n ngờ vực, khó chịu của 2,000 anh em đồng đội, đồng cảnh trước việc anh được uu đăi làm anh khổ sở. Anh muốn chịu chung những đầy ải với họ.”
Tuần sau Phượng không đến thăm tôi nữa. Cuộc sống khổ sai không hạn định trở thành dài hơn v́ thiếu sự chia cắt của những tiêu mốc ngắn hạn. Tôi trở lại vị trí của cái máy người, vô tri giác, không phản ứng, bảo đi th́ đi, bảo học th́ học, bảo lao động th́ lao động. Những bạn nào đă sống trong trại cải tạo của Việt Cộng hẳn đồng ư với tôi là cộng sản đă thành công trong việc làm chúng tôi mất hết tri giác. Không vui, không buồn, không hy vọng, thất vọng, không mong chờ bất cứ một điều ǵ nữa. Cuộc sống hàng ngày như một bộ máy được điều động bằng những tiếng c̣i, những khẩu lệnh. Phần ăn quá đói làm tất cả chúng tôi t́m được cái khôn ngoan của loài vật: không làm một cử động thừa, không nói một câu thừa để không phí phạm bất cứ một phấn thật nhỏ nào cái sinh lực le lói c̣n trong xác người.
Chính trong trạng thái vật vờ của một xác chết chưa chôn ấy, tôi nhận được giấy phóng thích. Cầm tờ giấy chấm dứt cuộc sống tù ngục của ḿnh trong tay, tôi dửng dưng như cầm một tờ truyền đơn học tập. Nói dửng dưng cũng vẫn chưa đúng; tôi không ư thức được những thay đổi tờ giấy mang lại cho tôi. Nhẩn nha nhơi từng hột bắp của bữa ăn trưa đói khổ tôi nghe cơ thể khoan khoái với chút bồi dưỡng ít oi. Trái bắp có trong tay vẫn quư hơn hai chữ “tự do” mới viết trên giấy.
Một cán bộ bảo tôi, “Chiều nay anh khỏi lao động; về sửa soạn nóp, chén trả lại nhà kho.”
Khỏi lao động, một tin mừng khác. Tôi trở về căn pḥng giam hôi hám nhưng mát rượi như một thiên đàng so sánh với cái hỏa ngục lao động sản xuất mà các bạn tôi đang chịu đựng ngoài trời.
Bốn giờ chiều Phượng đón tôi ngoài cổng trại giam. Người vợ đài các của một bác sĩ mặc cái áo bà ba vải bông và cái quần đen, đứng vịn một chiếc xe đạp đàn ông cũ kỹ. Có thể tôi sẽ ít ngỡ ngàng hơn nếu từ trong thế giới tù ngục bước ra được gặp lại thế giới cũ của ḿnh với xe honda, với áo dài. Tôi đang bước vào một thế giới hoàn toàn khác lạ sau chưa đầy 2 năm mất nước.
Thế giới bên ngoài nhà tù không phải ít khe khắt, ít đọa đầy; suốt một năm trời tôi phải sống trong chế độ “quản chế của nhân dân”; tôi xin giải thích những chữ văn hoa này. Chế độ “quản chế của nhân dân” có nghĩa là tôi phải làm mọi không công, phải sợ sệt tất cả mọi người. Bất cứ ai trong phường cũng có quyền phán xét là tôi chưa giác ngộ, cần học tập thêm, là tôi lại đi tù nữa.
Tôi cúi mặt trước tất cả mọi người, dù đó chỉ là một đứa con nít. Tôi vâng dạ, tôi tuân lệnh, không cần biết lệnh đến từ đâu. Một bà hàng x̣m gọi tôi đến coi chứng bệnh cho thằng con tám tuổi. Sau khi quan sát kỹ mọi triệu chứng, tôi bảo bà là con bà bị thương hàn và không có cách nào hay hơn là đưa nó đi bệnh viện. Bà quắc mắt, “Anh đi học tập ra mà con như vậy đó hả? Nhân dân có quá nhiều nhu cầu để bệnh viện thừa chỗ trống cho một đứa con nít nóng lạnh. Anh không biết cách nào khác nữa sao?”
Tôi đề nghị bà đừng cho con ăn ǵ hết để ruột không hư. Bà ta cáu kỉnh nạt, “Lang băm tư bản.”
Sau khi tôi về không hiểu bà có nghe lời tôi khuyến cáo không, nhưng rất may là đứa trẻ lành bệnh. Suốt nửa tháng trời tôi hồi hộp lo sợ: cái chết của đứa trẻ v́ thiếu thuốc, thiếu chăm sóc có thể đưa tôi trở lại trại cải tạo như không.
Nguồn an ủi của tôi là số người thiếu ư thức như bà hàng xóm mà tôi vừa kể tương đối rất ít; đa số dân Saigon sống trong một t́nh đoàn kết ngấm ngầm nhưng khắng khít. Một bà cụ dúi cho tôi gói gạo nhỏ qua câu nói chí t́nh, “Bác sĩ phải ăn thêm mới sống nổi, tôi già rồi, thiếu thốn chút đỉnh cũng không đến nỗi nào.” Bà vợ của một công chức c̣n đang tù tội cho tôi đôi giầy. Ông hàng xóm sát vách cho cái áo.
Nhưng mọi nguồn vui của tôi đến từ Phượng th́ nàng cũng là nguyên nhân của mọi buồn khổ. Phượng làm đĩ ra mặt, không c̣n e dè ǵ tôi nữa cả. Vợ tôi không chỉ tống t́nh cán bộ cộng sản để thăm nuôi tôi nữa, mà xuống đến tận chân thang của xă hội: mỗi ngày vài lần những anh phu xích lô đến gọi Phượng đi khách. Những lần đầu tiên Phượng c̣n ngượng với tôi, nhưng sau quen dần, nàng chỉ bảo tôi, “lát em về.”
Phần tôi, tôi vẫn phải t́nh nguyện xung phong trong mọi công tác nặng nhọc của phường như hốt rác, quét đường, trồng cây, thông cống, … . Tôi xung phong để được chấm điểm, xung phong để khỏi trở lại lao tù cải tạo. Đôi khi nghĩ quẩn tôi cho rằng đi tù mà c̣n tự do hơn chế độ nhân dân quản chế.
Thêm một lần nữa, tôi tuyên dương sự thành công của cộng sản. Chúng đă hoàn toàn đập tan uy thế của giới chỉ huy, giới trí thức miền Nam. Suốt một năm ra khỏi tù, tôi không được phép làm bất cứ một việc ǵ cả. Nói một cách khác, tôi phải ăn bám vào đồng tiền vợ tôi ngày ngày bán thân tạo ra. Sau 31 năm, nghĩ lại tôi vẫn rùng ḿnh khiếp sợ.
Tôi xin độc giả ngưng đọc một phút để h́nh dung cái nhục nhă của tôi, của tất cả giới trí thức miền Nam. Tôi không đủ can đảm để nói bất cứ câu ǵ với vợ tôi về việc làm của nàng; cả hai chúng tôi cúi đầu chịu phép trước guồng máy xă hội mới.
Nếu một ngày tù dài bằng một ngàn năm sống tự do th́ 365 ngày bị trói tay, thất nghiệp, sống đói khổ dưới quyền quản chế của nhân dân, và nh́n vợ đi làm đĩ chắc phải dài hơn sự hiện hữu của cả hệ thống vũ trụ.
Giữa hai vợ chồng tôi nẩy sinh ra một t́nh trạng ngượng ngập khó tả, Ít khi tôi dám nh́n thẳng vào mắt Phượng, và gần như không bao giờ tôi dám nói với nàng chuyện ǵ khác hơn là những câu đối thoại tầm thường quanh sinh hoạt nho nhỏ trong nhà.
Thỉnh thoảng bà mẹ vợ tôi lén lút đem được ít gạo, ít thịt lên cho chúng tôi. Qua những cuộc tiếp tế lậu này, tôi khám phá thêm được một bí mật: vợ tôi không hề về Long Xuyên với mẹ như nàng đă nói với tôi. Phượng đă làm ǵ, ở đâu, trong 7 tháng trời tôi nghĩ nàng về quê sống với mẹ? Cả đến câu hỏi này cũng chưa lần nào tôi dám hỏi Phượng. Tôi trốn chạy một sự thật phũ phàng nào nữa đó sẽ đến, nếu Phượng phải trả lời tôi.
Tối 30 tháng Chín 1978, sau khi theo một anh xích lô “đi khách” về, Phượng kéo tôi vào pḥng trong cùng với bé Mai. Trên bộ ván thay cho cái giường nệm đă đi vào chợ trời từ hai năm trước, Phương mở gói thịt quay ra rồi bảo tôi, “Ḿnh ăn với em.”
Từ sau ngày mất nước đây là lần đầu tiên tôi lại được nh́n thấy miếng thịt quay; Phượng lăng xăng bới cơm, và vợ chồng con cái chúng tôi ăn uống ngon lành như chưa bao giờ được ăn ngon đến như thế.
Những đó không phải là điều ngạc nhiên duy nhất của tôi; ăn uống xong, vợ tôi kéo từ trên đầu tủ xuống một gói giấy: bên trong là một bộ đồng phục thanh niên xung phong. Tay chân run rẩy, Phượng trải bộ quần áo lên mặt bộ ván, rồi giọng nói cũng run rẩy nàng bảo tôi, “8 giờ sáng mai, ḿnh mặc đồng phục này đứng đón tàu ở bến Bạch Đằng.”
“Đón tầu? Để đi đâu?”
Không trả lời câu hỏi của tôi, vợ tôi chỉ lập cập nói, “Em đă đóng đủ 10 cây cho họ rồi.”
Mười cây vàng! Tôi choáng váng với con số lớn khiếp đảm đó.
“Vàng đâu mà em có đến 10 cây?” Câu hỏi buột miệng không nuốt trở vào được nữa, tôi chỉ c̣n biết nh́n vợ tôi, câu xin lỗi ngầm chứa trong ánh mắt. Phượng cũng nh́n tôi, đôi mắt thăm thẳm t́nh tứ trên khuôn mặt vẫn c̣n đẹp dù đă gầy đi và dạn dầy phong trần.
Sau một phút im lặng, nàng nghẹn ngào, “Em không biết ḿnh có tin hay không, nhưng sự thật lúc nào em cũng yêu ḿnh.”
Tôi ôm Phượng vào ḷng; giữa một xă hội thù hận, cái bóng mát yêu thương nhỏ bé thật là vô giá. Mặc dù Phượng chưa nói, nhưng tôi cũng đoán hiểu mục đích vượt thoát của chuyến đi ngày mai, và hiểu 10 lượng vàng, giá của chuyến đi là kết quả của những canh dài Phương đem thể xác ra cho thiên hạ dầy ṿ để góp nhặt từng đồng hầu mua tự do cho tôi.
Cổ nghẹn lại, tôi không nói được một tiếng nào cả; tôi vừa sung sướng trước những bằng chứng hiển nhiên của một mối t́nh to lớn, bền chắc, vừa xấu hổ nhận những hy sinh nhục nhă của vợ.
Phượng bảo tôi, “Em chỉ đủ tiền đóng cho ḿnh; nhưng em với con vẫn đi theo ḿnh.” Nàng giải thích cho tôi hiểu chuyến tầu vượt thoát là tầu thầu việc chuyên chở thanh niên xung phong đi làm rừng ở cửa Cần Giờ. Sáng mai, tôi sẽ cùng với 30 người nữa đội lốt thanh niên xung phong xuống tầu tại bến Bạch Đằng. Đàn bà, trẻ con đi đường bộ xuống ngă ba Đồng Chanh, chờ tại đó và sẽ đổ lên tầu. Họ là những người đi lậu, không đóng vàng.
“Người ta đi lậu nhiều lắm,” Phượng bảo tôi. “Em cũng trà trộn vào đám người đó; không lẽ người ta xô ḿnh xuống sông. Sợ ǵ?”
Tôi sợ. Rùng ḿnh tôi nghĩ đến cảnh “người ta xô vợ con tôi xuống sông”, nhưng có sợ tôi cũng không giải quyết được cái khó không tiền và đành theo mọi xếp đặt của Phượng.
Đêm đó tôi trằn trọc không ngủ, Phượng cũng không ngủ. Vào khoảng gần sáng nàng hỏi tôi, “Ḿnh đă đủ tin vào t́nh em yêu ḿnh để tha thứ hết mọi việc cho em chưa?”
“Anh tin. Anh yêu ḿnh.”
“Em c̣n một tội nữa, chưa thú nhận được với ḿnh.”
Trong bóng đêm, tôi lặng thinh lo lắng. Ngần đó bất hạnh chồng chất vào một cuộc sống ngắn ngủi, cay cực, c̣n chưa đủ nữa hay sao.
Vợ tôi thở dài, “Lúc đó em c̣n khờ quá nên chuyện mới xẩy ra. Em phải nói dối ḿnh là em về Long Xuyên với má. Thật ra em không muốn ḿnh buồn.”
Dù vợ tôi chưa nói ra, nhưng tôi cũng đoán hiểu.
“Em có con?” tôi hỏi.
Rúc đầu vào ngực tôi, vợ tôi thút thít khóc, “Ḿnh tha cho em.”
Đứa con chỉ là hậu quả đương nhiên của những việc làm mà tôi đă nh́n vợ tôi hàng ngày đi theo những bác phu xích lô để làm. Bây giờ tôi lại hiểu mục đích cao cả của việc làm đê tiện đó. Tôi thương Phượng hơn là trách nàng.
“Ngày mai em muốn cho con cùng đi?”
“Nếu ḿnh đồng ư.”
Dĩ nhiên tôi đồng ư; đồng ư đưa những người thân nhất đời ḿnh vào chuyến đi địa ngục, vào ṿng tay tử thần.
Trước 5 giờ sáng hôm sau, trong bộ đồng phục thanh niên xung phong, tôi chở Phượng và bé Mai trên chiếc xe đạp mà mấy tháng trước Phượng đă dùng để đón tôi ra khỏi trại tù cải tạo. Mặc dù giờ hẹn là 8 giờ, nhưng tôi vẫn đi sớm để hàng xóm đừng để ư đến bộ đồng phục của tôi. Hơn nữa, Phượng c̣n ghé Phú Nhuận, nơi nàng gởi nuôi thằng V́nh, đứa trẻ ra đời trong thời gian tôi ở tù.
Mọi việc xuôi lọt, và tương đối dễ dàng: 7 giờ sáng tôi đến điểm hẹn; nhiều người cũng mặc đồng phục như tôi đă có mặt; nh́n thái độ ngỡ ngàng, dè dặt của họ, tôi hiểu họ cũng như tôi, ngoài bộ áo thanh niên xung phong, chúng tôi không xung phong làm ǵ hết.
Phượng bảo tôi, “Ḿnh chờ ở đây, em qua Tân Thuận đón đ̣ máy.”
Nh́n vợ lưng đai một đứa con, chở đứa thứ nh́ trên thanh ngang xe, ra sức đạp chiếc xe cót két, tôi nghe đứt ruột. Nửa tiếng đồng hồ sau tôi xuống tàu, chọn chỗ ngồi ngay bên hông, hy vọng giúp đỡ Phượng đưa con lên. Khoảng 8 giờ 45, tàu đến ngă ba sông Đồng Chanh; bốn chiếc đuôi tôm xáp lại, đàn bà trẻ con ồn ào dành nhau leo lên. Tôi đỡ bé Mai trên tay Phượng, rồi kéo Phượng, tay c̣n bồng thằng Vinh lên theo. Cuộc đổ bộ của khoảng 70 đàn bà, trẻ con lên tàu không những đă công khai mà c̣n ồn ào, hỗn độn, tranh dành, la lối, đính chánh hùng hồn cái huyền thoại gán cho cộng sản một hệ thống an ninh bao trùm và hữu hiệu. Hàng chục khách thương hồ và ít nhất là 4 người tài công đuôi tôm đă chứng kiến và chắc chắn cũng đă biết mục đích của chuyến đi, nhưng cộng sản vẫn không bắt buộc được họ khai báo, phản phúc đồng bào ruột thịt.
Mười rưỡi, tàu ra đến cửa biển Cần Giờ, và trưa hôm đó quê hương thương yêu chỉ c̣n là một vệt dài dậm hơn mầu biển. Đến lúc này các “giới chức” trên tàu mới ḥ hét chửi mắng những người vượt thoát lậu. Họ bảo chỉ dự trù lương thực và nước uống cho những người có ghi tên và có góp vàng. Những người khác sẽ không có khẩu phần.
Phần ăn và nhất là phần nước uống ít oi của tôi được chia làm 4; bao tử trống nhưng tâm tư vợ chồng chúng tôi tràn đầy hạnh phúc. Vợ tôi ngồi sát bên tôi, tay ẵm thằng Vinh, bé Mai nằm gọn trong ḷng tôi; đầu vợ chồng tôi đội chung một cái áo, vừa làm nón cho người lớn, vừa làm mái nhà cho trẻ con.
Ngồi bó rọ trong cái cảnh mà nếu được nh́n thấy, chắc mọi người phải gọi là địa ngục trần gian, vợ chồng tôi bàn chuyện thiên đàng mộng tưởng. Cái thiên đàng của chúng tôi rất giản dị: bất cứ nơi nào cho tôi được đem sức đàn ông ra đi làm, làm bất cứ việc ǵ để nuôi vợ, nuôi con.
Tôi bảo Phượng, “Anh sẽ làm việc, làm ngày, làm đêm, để không bao giờ em và con c̣n phải thiếu thốn khốn khổ nữa.”
“Em thương ḿnh,” Phượng thủ thỉ bên tai tôi. “Không bao giờ em c̣n làm ḿnh buồn nữa.”
Tất cả những cam kết, hứa hẹn, dự tính đẹp như mộng ấy, chúng tôi đem ra làm thức ăn để đánh lừa cơn đói. Khẩu phần của tôi mỗi bữa khoảng 2 chén cơm chỉ vừa đủ cho 2 đưa nhỏ. Phượng và tôi nhắp một đầu đũa để cầm hơi.
Qua đến ngày thứ 3, v́ đói quá, khi đi lănh cơm tôi tḥ tay vào nồi, vừa bốc thêm một nắm cơm vừa nói, “Cho tôi xin thêm chút cơm.”
Một quả đấm bay vào mặt tôi; yếu đuối sau 14 tháng bị giam cầm đói khổ, yếu đuối sau 3 ngày thiếu cơm, thiếu nước, tôi té ngửa dưới sức mạnh của quả đấm trời giáng.
“ĐM quân ăn cướp. Đă đi lậu mà c̣n đ̣i ăn nữa hả.”
Quả đấm tuy đau, nhưng tôi vẫn mừng v́ cà mèn cơm chưa đổ. Bưng cà mèn đầy cơm hơn nhờ bốc thêm được một nắm về mái lều to bằng manh áo, tôi sung sướng nh́n Phượng được ăn thêm miếng cơm thứ nh́. Tôi an ủi vợ, “Ḿnh đi được 3 ngày rồi, nhiều lắm 2 ngày nữa cũng phải đến Thái Lan hay Mă Lai.”
Héo hắt cười, Phượng nh́n tôi. Tôi muốn thuyết phục cho vợ yên ḷng, nhưng chính giọng nói của tôi cũng không vững.
Mũi tàu vẫn hướng về phía Nam, điều làm tôi thắc mắc. Mặc dù không có cả đến một tấm địa đồ nhỏ trong tay, nhưng tôi vẫn mường tượng được vị trí của Thái Lan và Mă Lai so với Việt Nam. Tôi góp ư với những người điều khiển tàu là nên cho mũi tàu chếch thêm về hướng Tây Nam. Tôi chưa nói dứt lời, một ông vạm vỡ nạt ngang, “Anh biết ǵ mà nói.”
Đến ngày thứ 5 của chuyến hải hành, vợ tôi lả đi v́ đói, v́ mệt và say sóng. Phượng dựa vào thành tàu, mắt nhắm nghiền, đầu gục xuống. Tôi van xin ông ngồi cạnh nửa thước khoảng trống để vợ tôi có thể ngả lưng trong thế nằm co quắp. Hai đứa bé không c̣n khóc được nữa; tiếng khóc của chúng trở thành những tiếng rên nho nhỏ.
Tôi ṃ xuống bếp tán tỉnh xin phụ việc. Khoản thù lao tôi mong mỏi chỉ là mỗi bữa một chén nước cơm cho trẻ con uống. Chúng không c̣n sức để nhai và nuốt vật cứng nữa. Một ông “giới chức” hất hàm hỏi tôi, “Trước kia anh làm nghề ǵ?”
Dĩ nhiên việc đi cải tạo không phải là một nghề, mà cũng không phải là việc đem ra khoe được, tôi đành khai, “Thưa ông, tôi làm bác sĩ.”
“Biết chích không?”
“Dạ biết.”
Thế là tôi biến thành thầy Hai chích dạo. Bà vợ ông giới chức bị bệnh đái đường; ông đem theo một xách thuốc cần thiết cho bà, nhưng thiếu thầy Hai chích. Đường lên, bà nằm mê man từ 2 ngày nay. Tôi được đưa vào khoang để chích insuline cho bà. Bữa đó không những có được chén nước cơm, mà trong cà mèn c̣n thêm được một miếng thịt.
Được dinh dưỡng, vợ tôi và 2 đứa trẻ cũng tỉnh táo hơn. Chiều hôm đó tôi lại có thêm một thân chủ: gia đ́nh một người Trung Hoa nhờ tôi chăm sóc cho đứa con bị cảm nắng. Họ tạ thầy một hộp Sumaco, khiến bữa ăn chiều của chúng tôi có thể nói là thịnh soạn.
Cà mên cơm đầy ăn với cá hộp giúp Phượng đủ sức ngồi dậy săn sóc con. Hai đứa trẻ vẫn đuối, nhưng nhờ được uống nước cơm nên không đến nỗi bị lả đi như hôm trước nữa.
Sáng hôm sau tôi trở lại chích thuốc cho bà giới chức; nhờ insuline làm tan đường, bà đă ngồi dậy được, tỉnh táo hơn. Uy tín lang băm của tôi gia tăng nhanh chóng, số thân chủ cũng gia tăng v́ sau 5 ngày ngồi bó rọ phơi nắng, gần như tất cả mọi người đều cảm thấy mệt đuối, đau nhức, nhiều người sốt, cảm, và ho.
Nỗi khổ tâm của tôi là trị bệnh không dược liệu; đem kinh nghiệm 14 tháng giúp bạn tù trị bệnh bằng phương pháp kháng bệnh, tôi chỉ dẫn mọi người cách hô hấp, cánh tập trung tư tưởng để tự kỷ ám thị.
Nhờ hành nghề bác sĩ, khẩu phần của gia đ́nh tôi trở nên sung túc hơn rất nhiều. Mỗi gia đ́nh vượt biển đều có thủ theo một vài thứ thực phẩm khô, họ chia cho tôi một ít để thù lao bác sĩ.
Đến ngày thứ 7, nhờ được ăn no hơn vợ tôi đă b́nh phục và hai đứa trẻ cũng tỉnh táo. Trưa hôm ấy chúng tôi gặp hoạn nạn: chiếc áo mái nhà của tôi bị gió biển cuốn đi, vợ tôi lục giỏ t́m cái áo khác ra căng lều. Lần này tôi có ư cột kỹ tay áo vào thành tầu.
Tối hôm đó, đang gục đầu trong thế ngủ ngồi tôi nghe như một biến chuyển lớn đang xẩy ra. Giật ḿnh tôi thức dậy trong tiếng reo ḥ của mọi người.
“Tới rồi. Thấy đất rồi.”
“Cảm ơn trời phật. Chuyến đi quá dài nhưng rồi cũng đến.”
Giọng quát của một giới chức, “Ngồi cả xuống; chạy tới, chạy lui, mất thăng bằng lật tàu chết cả đám bây giờ.”
Mọi người ngoan ngoăn ngồi trở xuống, nhưng tiếng ồn ào vẫn không ngớt. Người ta bàn tán, “Chắc là Mă Lai.”
“Có lẽ như vậy, v́ nó là ḥn đảo, chứ Thái Lan th́ đă thấy lục địa.
“Không chừng Nam Dương.”
“Rất có thể là Úc.”
Vợ tôi nắm tay tôi bóp mạnh. Tôi nghe như những mừng vui của Phượng đang được chuyền sang tâm hôn tôi mà không cần một lời nói. Mọi người mừng v́ chuyến hải hành 8 ngày đă đến đích. Cuộc hành tŕnh của riêng tôi và Phượng đă kéo dài gần 4 năm, mà mỗi ngày là một cơn ác mộng bất tận cho cả 2 chúng tôi cũng đang chấm dứt với chuyến đi này. Nỗi mừng của chúng tôi, v́ vậy mà to lớn hơn tất cả. Chúng tôi mừng đến không nói được nên lời, không ḥ reo được như mọi người. Tôi ngồi yên, không buồn chồm lên nh́n ḥn đảo mà tàu đang tiến vào nữa. Niềm vui của tôi đă quá đầy từ ngày bước chân xuống tàu rời bỏ quê hương địa ngục, trên những bằng chứng xác nhận t́nh yêu tuyệt vời của Phượng đối với tôi. Không một người bạn đồng thuyền nào thỏa măn bằng tôi.
Ông bạn ngồi cạnh gợi chuyện, “H́nh như ḥn đảo nhỏ quá.”
“Vâng,” tôi lơ đăng đáp.
“Không chắc đă có người trên đảo.”
“Vâng.”
Mũi tàu vẫn hướng vào ḥn đảo cô đơn trong khi niềm lạc quan trên tàu lắng xuống. Khoảng cách thu ngắn dần làm mọi người thấy rơ kích thước nhỏ bé của hải đảo. Nhưng giữa khoảng ngàn trùng của đại dương nhấp nhô ḥn đảo kia vẫn là đất, vẫn bảo đảm vững vàng. Hơn nữa, nó cũng lớn tối thiểu bằng 20 lần con tàu dài 15 thước, rộng 3 thước với 140 người trong ḷng tàu.
Đa số góp ư kiến nên ngừng lại đảo.
“Biết đâu bờ bên kia lại không có một làng chài lưới.”
“Ghé nghỉ ngơi một ngày, đi lại cho dăn gân; ngồi bó gối măi, mỏi quá.”
“Có thể t́m nước ngọt, đánh cá tăng thêm thực phẩm trước khi tiếp tục đi nữa.”
Cuối cùng, những giới chức trên tầu quyết định cho tầu chạy một ṿng quanh đảo để quan sát trước. Và đó là quyết định cuối cùng của họ với tư cách chỉ huy chiếc tiểu hạm tử thần: mới chạy được nửa ṿng đảo, tàu chạm đá ngầm, vỡ đáy, lật nghiêng qua 30 độ.
Phượng văng từ thành tàu bên này sang thành tàu bên kia, thằng Vinh tuột tay mẹ, rơi thẳng xuống biển. Trên đà nghiêng của con tàu, tôi phóng nhanh đến bên Phượng, trao vội bé Mai cho nàng và nhẩy xuống biển để chỉ vừa kịp nắm tay đứa bé chưa đầy năm, theo nó ngụp vào một đợt sóng lớn. Sóng đưa tôi và thằng Vinh vào gần bờ, và do đó tôi trở thành người đầu tiên đặt chân lên ḥn đảo san hô thê lương, sau này biến thành nơi gởi xác của nhiều người trong chúng tôi.
Việc làm đầu tiên của tôi là bồng thằng Vinh đưa lên cao để vợ tôi nh́n thấy mà yên ḷng. Cách bờ khoảng 15 thước, mọi người nhốn nháo; tiếng kêu khóc thật là thê thảm, nhiều người nhẩy xuống nước chạy vào bờ.
Sau khi bị vỡ đáy, con tàu mắc cạn đang từ từ trở lại thế thăng bằng, mặc dù vẫn c̣n hơi nghiêng, nhưng người trên tàu không đến nỗi phải bám cứng vào thành tàu để khỏi rơi xuống biển nữa.
Nhờ người coi chừng thằng Vinh, tôi lội xuống nước trở ra mạn tàu bồng bé Mai, và xách gói hành lư khiêm tốn của chúng tôi, rồi dắt Phượng lên đảo. Nhiều người khác cũng làm như chúng tôi; họ ĺa bỏ con tàu mà không cần biết là đi đâu, nhắm mắt đưa chân, như 8 ngày trước rời bỏ quê hương Việt Nam.
Đó là sai lầm của chúng tôi. Ḥn đảo san hô khô cằn, lởm chởm, không dung nạp chúng tôi. T́m được một chỗ bằng phẳng để ngồi xuống cũng đă khó chứ chưa nói đến việc ngả lưng.
Sau gần một tiếng đồng hồ loay hoay t́m kiếm, tôi chọn được một hốc đá tương đối rộng răi để định cư. Cái áo làm mái nhà đổi vai tṛ trở thành tấm chiếu cho trẻ con ngồi.
“Đau đít quá ba ơi,” bé Mai nhăn nhó nói.
Tôi ẵm con lên, đặt nó ngồi trên bọc quần áo, rồi bảo Phượng, “Em coi chừng con, anh đi quanh t́m xem có con ốc, con ṣ nào không.”
Tôi ngỡ ḿnh là người nhanh chân trong việc đi kiếm ăn, nhưng hơn chục người khác cũng đă lom khom trong các hốc đá t́m kiếm như tôi. Cái may của tôi là trong một kẹt đá nhỏ, tôi chụp được hai vợ chồng một chú tôm hùm khá to, mỗi con khoảng hai kí.
Phượng reo mừng, “đồ biển sẵn thế này là không phải lo đói nữa.”
Phượng lầm, mà tôi cũng lầm. Đồ biển không sẵn như chúng tôi tưởng, hoặc ít ra th́ đó cũng không phải là nguồn thực phẩm đủ cung cấp cho 140 người đói khát.
Tôi đi nhặt rác và rong biển về làm củi nướng tôm; tôi cũng t́m được một mảnh ván nhỏ cho Phượng ngồi. Bữa ăn đầu tiên trên hoang đảo, cách t́m thực phẩm, nướng và ăn bốc theo kiểu thượng cổ, vừa ngon lại vừa vui. Vợ chồng, con cái chỉ ăn hết một con tôm, con thứ nh́ để dành.
“Em chưa thấy con tôm hùm nào lớn đến như vậy,” Phượng vừa chôn vỏ tôm xuống cát vừa bảo tôi.
Mới 6 giờ chiều, mặt trời c̣n cao mà gió biển nghe đă lạnh; tôi lo lắng bảo Phượng, “Có bao nhiêu quần áo em lấy mặc hết cho con. Cả em nữa.”
Gói hành lư được mở ra, tắp hết lên người. Mỗi đứa trẻ mặc 4 áo, 3 quần. Phượng được 3 áo, 2 quần. Tôi mặc thêm cái sơ mi nửa ra ngoài bộ đồng phục chưa thay từ ngày đi.
Gia đ́nh ông hàng xóm sát hốc đá nhà tôi định xuống tầu tránh lạnh nhưng bị đuổi trở lên. Một số thanh niên tổ chức chiếm độc quyền cư ngụ trên tầu. Họ cũng ngưng, không phát thực phẩm như trước nữa.
Đêm hôm đó một người đàn bà chết, có lẽ v́ quá lạnh. Chúng tôi xuống tầu mượn được một cây xà beng và một cái búa để đục đá chôn người xấu số. Đó là người đầu tiên và người cuối cùng được chôn. Lư do thứ nhất khiến chúng tôi không chôn người chết nữa là v́ đục đá làm mồ là một công tŕnh quá khó mà lại không hiệu quả. Lớp đá vụn lấp xác chết không chặt được như đất nên chỉ một ngày sau mùi thối đă xông lên nồng nặc. Lư do thứ nh́ chua chát hơn: người ta không muốn vùi đi mấy chục kí thịt của người chết trong lúc tất cả đều đói.
Xác chết đầu tiên tôi thấy bị xẻ thịt là xác một thiếu nữ trắng trẻo, xinh xắn. Tôi đang đi nhặt ốc th́ nh́n thấy xác cô, khuy áo bị cổi banh ra, chỗ đôi nhũ hoa chỉ c̣n thịt lầy nhầy và mấy rẻo xương lồng ngực. Một tiếng đồng hồ sau, tôi trở lại, cô đă bị lột truồng, bắp vế, bắp chuối bị xẻo mất.
Tôi rùng ḿnh. Suốt 2 năm chinh chiến tôi cũng đă chứng kiến nhiều cái chết ghê rợn do súng đạn gây nên, nhưng quả thật chưa một xác chết nào làm tôi khiếp đảm hơn.
Thượng Đế ơi, người đă sinh ra con người như sinh vật khôn linh hơn mọi sinh vật khác, sao người lại c̣n bày ra những thử thách trớ trêu đó để làm ǵ? Để chứng minh là con người cũng không hơn ǵ loài cầm, loài thú ư?
Tôi trở về hốc đá với khuôn mặt chắc phải vô cùng sầu thảm; nh́n tôi, Phượng bảo, “Ḿnh đuối lắm rồi, để em đi kiếm thực phẩm thay ḿnh.”
“Em không đi đâu hết,” tôi gạt phăng.
Vợ tôi nh́n tôi lo sợ; có thể Phượng thấy phản ứng của tôi không b́nh thường, chưa bao giờ tôi gắt gỏng với nàng, ngay cả những lần nàng theo bác phu xích lô đi khách. Quanh chúng tôi, người ta phát điên, người ta đánh nhau chỉ v́ những chuyện không đâu. T́nh trạng tuyệt vọng, kinh hoàng làm chúng tôi thành hốt hoảng. Có thể Phượng nghĩ tôi cũng đang có những triệu chứng bắt đầu. Tôi an ủi vợ, “Anh không muốn em đi đâu hết. Quanh chúng ta đang có trên 100 người mất tự chủ. Em phải ở cạnh anh.”
Thật ra tôi chỉ muốn tránh cho Phượng khỏi nh́n thấy xác người thiếu nữ không vú, không đùi. Kéo đầu Phượng gục vào vai, tôi vỗ về, “Rồi mọi chuyện sẽ khá hơn; thế nào chẳng có một thương thuyền đi qua đây.”
Tôi nói để mà nói, nhưng tôi nghĩ Phượng không mấy tin, không mấy quan tâm đến những điều tôi nói.
Chúng tôi đă đói khát gần 1 tuần lễ; quanh bờ biển không c̣n một cái vỏ hào nào nguyên vẹn. Người đầu tiên vừa đập vỡ con hào để lấy ruột, th́ chỉ vài phút sau đă có người đến đập lần thứ nh́, hy vọng vớt vát một chút ǵ c̣n xót lại.
Đến tuần thứ nh́ không ai c̣n dấu diếm chuyện ăn thịt người nữa. Gần như tất cả mọi người đều đă ăn thịt đồng loại. Tệ hơn là họ không chờ nạn nhân chết hẳn mới xẻ thịt. Để thịt và ruột gan không lạnh tanh, họ xẻ thịt những người đang thoi thóp, ngắc ngoải. Xương và đầu người chết bị ném xuống biển, cám dỗ hàng bầy cá mập.
Nh́n những con cá hung hăn chồm vào đến tận bờ để chia phần thịt người, tôi bàn với ông hàng xóm phương pháp bẫy cá mập. Chúng tôi đào một vũng cạn, rồi lấy đá be bờ khá cao. Sườn vũng nước nghiêng vào bờ, bên trong sâu hơn bên ngoài bờ biển.
Mượn cái đầu của một bà lăo vừa bị xẻ thịt, chúng tôi thả mồi chờ cá mập; thời gian chờ đợi không lâu hơn 20 phút: theo đà sóng một con cá mập nhỏ, khoảng trên dưới 40 kí, trườn vào bẫy.
Sóng rút ra, cá mập mắc cạn và chết ngay sau vài chục nhát búa và xà beng của chúng tôi. Chúng tôi lôi cá lên cạn xẻ thịt; khoảng vài chục người đến hôi món thịt cá mập. Việc xẻ thịt chưa xong, con cá mập thứ nh́ đă lại trườn vào bẫy trước tiếng reo ḥ mừng vui của hơn 100 con người đói khổ.
Thịt cá mập béo ngậy và tanh ŕnh, nhưng vẫn giúp chúng tôi tránh được ăn thịt người, và cái bẫy cá mập của tôi trở thành nguồn cung cấp thực phẩm khá dồi dào cho những nạn nhân mắc cạn.
Cái khổ của chúng tôi là trên đảo san hô không c̣n một thứ ǵ có thể sử dụng thay củi nữa cả; một vài người liều lĩnh xách búa ra định bửa tầu lấy gỗ, nhưng chỉ cần một phát súng bắn chỉ thiên của nhóm thanh niên khỏe mạnh, ăn uống đầy đủ, lại có vơ khí, đang chiếm giữ con tàu, cũng đủ làm những người liều nhất trở thành khôn ngoan, lui nhanh vào bờ.
Cầm miếng cá sống, vừa xệu xạo cắn, Phượng vừa hỏi tôi, “Ḿnh có c̣n tin được câu người ta thường nói ‘trời xanh có mắt’ nữa không?”
Tôi thở dài. Nếu quả trời có mắt th́ cặp mắt đó đă nhắm lại từ 4 năm nay rồi. Bé Mai chỉ c̣n là một cái xác nhỏ xíu, gầy ốm, thoi thóp níu vào cuộc sống. Thằng Vinh khá hơn đôi chút, nhưng cũng nằm lả, đôi mắt gần như không bao giờ hé mở.
Tôi nhai miếng cá trong miệng đến thành nước rồi cúi xuống mớm cho con. Phượng thút thít khóc. Cũng như tôi, vợ tôi hiểu mạng sống của đứa con gái chúng tôi thương yêu, nâng niu, đang tàn lụi dần và sẽ tắt hẳn, khi gió biển, nắng cháy, và thiếu dinh dưỡng, cướp đi những sinh lực cuối cùng.
Bé Mai bỏ đi tối hôm đó. Ôm con trong tay tôi nghe hơi thở nó yếu dần, yếu dần trước khi tắt hẳn. Cơ thể của đứa con yêu thương vẫn mềm mại nhờ chút hơi ấm của t́nh phụ tử ủ ấp.
Tôi lặng đi ngồi ôm xác con trong gió biển cắt da; khoảng một tiếng đồng hồ sau Phượng hỏi tôi, “Con có khá hơn không ḿnh?”
Tôi hiểu nghĩa câu hỏi này: Phượng muốn biết bé Mai đă chết chưa, nhưng chữ “chết” ghê rợn không phát ra được trên đôi môi người mẹ. Tôi lặng thinh để vợ tôi ngỡ là tôi đă thiếp đi trong ṃn mỏi. Nhưng rồi tôi thiếp đi thật; sức chống đỡ của cơ thể chỉ có giới hạn. Giữa những hoàn cảnh phi lư nhất, thể chất vẫn giữ nguyên những đ̣i hỏi b́nh thường của nó. Ôm xác con trong tay, ngồi giữa một cô đảo Thái B́nh Dương, tôi ngủ ngon lành.
Tôi bị mặt trời nhiệt đới đánh thức; mở mắt dạy trong ánh nắng chói ḷa, tôi hốt hoảng nhận ra là bé Mai không c̣n nằm trong tay tôi nữa. Phượng cũng không thấy đâu cả. Tôi cất tiếng gọi vợ, tiếng sau lớn hơn tiếng trước, những tiếng cuối cùng trở thành tiếng gào kinh hoảng.
Những người chung quanh nh́n tôi; cặp mắt họ không thiện cảm, nhưng cũng không ác cảm, mà chỉ là những cập mắt vô can mất hết khả năng xúc động. Cái khổ đau, bất hạnh của tôi, tôi cứ tự gánh lấy. Phần riêng của họ cũng đă quá lớn, họ không thể chia xẻ thêm với ai chút ǵ nữa cả.
Tay ẵm thằng Vinh, tôi phóng nhanh xuống bờ biển vừa chạy quanh đảo, vừa gọi Phượng. Vợ tôi ngồi xẹp trên một phiến đá, vẻ mặt sầu khổ. Ôm chầm lấy vợ, tôi hỏi, “Em đi t́m con?”
Vợ tôi không nói được một tiếng nào cả.
“Họ đă xẻ thịt bé Mai?” Phượng gật đầu rồi gục vào vai tôi thút thít khóc; tôi lặng đi, tê tái.
Nguyên ngày hôm đó vợ chồng chúng tôi không nói thêm với nhau một câu nào nữa. Trước những đổ vỡ thương đau toàn diện, chúng tôi không c̣n khả năng khóc, than.
Sáng hôm sau, sau một ṿng đi t́m thực phẩm thất bại như từ nhiều ngày nay, tôi trở về hốc đá và t́nh cờ khám phá ra nguyên nhân giúp bé Vinh c̣n tương đối mạnh khỏe: Phượng đang cho con bú. Tôi ngạc nhiên v́ từ trước đến giờ Phượng không hề làm việc đó. Cả bé Mai cũng bú sữa ḅ từ khi mới lọt ḷng.
Phượng bối rối nh́n tôi, trong lúc tôi nh́n bé Vinh: môi đứa bé đỏ ḷm. Tôi kéo vú Phượng ra để thấy một vết cắt c̣n mới trên đầu vú. Tôi t́m thấy nhiều vết cắt khác ở đầu ngón tay, ở cổ tay người mẹ khốn khổ. Thở dài, tôi cúi đầu. Phượng đang trút tàn lực sang để nuôi một mầm sống. Việc làm vô cùng đáng kính phục đó chắc chắn sẽ làm tôi trở thành góa bụa sớm hơn.
Dĩ nhiên tôi không ngăn cản, cũng không phiền trách ǵ Phượng. Điều độc nhất tôi có thể làm là cố gắng hơn nữa trong việc t́m kiếm thực phẩm để nuôi Phượng và bé Vinh, nhưng số người đói khát th́ đông mà số thực phẩm lại giới hạn nên gần như chúng tôi không c̣n t́m ra bất cứ một thứ ǵ, dù chỉ là cỏ, là cây, để nhai trong miệng.
Bốn ngày sau ngày bắt gặp Phượng cho con bú bằng máu, tôi t́m được một con của khá lớn. Phượng ăn gượng gạo rồi lại nằm ngay. Vợ tôi đuối đến mức tôi phải xé từng miếng thịt cua, đút vào miệng cho nàng.
Suốt tuần sau, tôi chỉ t́m được vài con ốc. Nh́n những triệu chứng sắp chết của vợ, tôi nghe đứt ruột. Tôi không dám đi kiếm thực phẩm xa nữa, sợ người ta đến ăn thịt Phượng.
Hai ngày sau, đang nửa mơ, nửa tỉnh, tôi chợt nghe nhiều tiếng súng; tiếp theo là tiếng reo ḥ. Bàng hoàng choàng dậy, tôi nh́n theo hướng nh́n của mọi người và thấy một chiếc tàu đang từ từ tiến lại.
Tim tôi ngừng đập; cuối cùng trời vẫn c̣n có mắt, chúng tôi sắp được cứu sống, và tôi vẫn c̣n Phượng, c̣n người vợ mà trong hoạn nạn tôi thấy t́nh yêu trở thành to lớn hơn, bền chặt hơn. Tôi sẽ lại được mê mệt, được khổ sở với cặp mắt đa t́nh của Phượng.
Trong tiếng reo ḥ của những người đồng cảnh ngộ, tôi cúi xuống thủ thỉ bảo vợ, “Hôm trước em hỏi anh có c̣n tin là ‘trời xanh có mắt nữa không’; bây giờ anh trả lời em là anh tin. Anh tin cuối cùng rồi ông trời vẫn có mắt.”
Nhưng tôi đă lầm. Đối với những kẻ bất hạnh, vô phước như tôi, ông trời (nếu có ổng) đă vĩnh viễn nhắm mắt, quay mặt đi.
Con tầu tôi đang nh́n theo là một ngư thuyền của Đài Loan. Họ neo xa bờ chừng 2 cây số, rồi cho ghe nhỏ vào chở người đại diện của chúng tôi ra thương lượng. Cuộc thương lượng, nói trắng ra chỉ là một cuộc trả giá.
Người đại diện trở về cho chúng tôi biết tầu Trung Hoa đ̣i một số vàng lớn mới chịu cứu chúng tôi. Số người có vàng đề nghị chia số người Trung Hoa đ̣i hỏi trên đầu người; những kẻ trắng tay như tôi ngồi lặng thinh, dự thính.
Chiều hôm ấy người đại diện của chúng tôi trở ra ngư thuyền Trung Hoa với một phản đề nghị. Cuộc trả giá kéo dài cho đến tối, và ông ta ngủ lại trên tầu đánh cá. Sáng hôm sau ông trở lại với 3 người Tầu, và bắt đầu cuộc ghi danh, góp vàng.
Những người có vàng để góp lần lượt được xuống ghe máy để ra tàu trước cặp mắt thèm thuồng của chúng tôi. Khoảng xế chiều việc đưa những người góp vàng ra tàu hoàn thành. Người Trung Hoa chở vào cho chúng tôi một thùng cá và bảo, “Các anh ăn uống tạm tối nay. Sáng mai chúng tôi sẽ vào chở tất cả ra tàu.”
Th́ ra họ chỉ muốn làm khó dễ để lột một số vàng của những người có tài sản. Sáng hôm sau toàn bộ chúng tôi được chở ra tàu; một thủy thủ Trung Hoa giúp tôi bồng bé Vinh, trong lúc tôi bồng Phượng xuống ghe.
Yếu đuối, tôi ngă mấy lần, Phượng mở mắt nh́n tôi, cặp mắt t́nh tứ, đắm đuối ngày xưa, giờ này đă mất thần.
Xuống tầu, tôi xin một ly sữa, đút cho Phượng, nhưng vợ tôi không c̣n nuốt được nữa. Tôi biết cơ thể nàng đă mất hết hydrate; giải pháp độc nhất c̣n lại là nuôi bằng nước biển, nhưng làm ǵ có thứ đó trên một ngư thuyền.
Phượng lịm dần và hơi thở thật sự tắt hẳn vào đêm hôm đó. Xác nàng bị chuồi xuống biển theo h́nh thức thủy táng.
TÔI DỨT CÂU CHUYỆN vào lúc 11 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 2004, rồi bảo thằng Vinh, “Ba hứa ngày con học xong, ba sẽ kể lại câu chuyện về mẹ con cho con nghe; ba đă thực hiện lời ba hứa.”
Nó bước đến trước ghế tôi ngồi, quỳ xuống, gục đầu lên đùi tôi, “Ba đau khổ nhiều quá,” lời nó nghẹn lại. “Con thương ba.”
Tôi vuốt tóc nó, “ba thương con.”
“Con muốn vinh danh mẹ,” thằng Vinh bảo tôi. Năm đó nó 26, vừa ra trường thuốc Austin, và đang tập sự tại nhà thương Memorial Hertman, Houston, nơi tôi làm việc.
“Bằng cách nào?” tôi hỏi nó.
“Con muốn về Việt Nam để cùng bác sĩ Nguyễn Đan Quế tranh đấu giải thể chế độ cộng sản dă man đă giết mẹ con, giết chị Mai, và làm ba buồn khổ suốt cuộc đời.”
“Môi trường tranh đấu tại hải ngoại thuận lợi hơn môi trường quốc nội,” tôi bảo Vinh. “ Tiếng nói của con sẽ lớn hơn, v́ có một đối tượng rộng hơn, quyền hạn hơn.”
Nó nghe lời tôi, và giờ này bác sĩ Trần Phượng Vinh, con của bác sĩ Trần Quang trở lại trường đại học; môn học mới của nó là điện ảnh.
Họa sĩ Thương Thương, hôn thê của nó đă vẽ xong từ năm ngoái bức tranh quảng cáo cuồn phim đầu tay ĐÔI MẮT PHƯỢNG của tài tử kiêm đạo diễn Phượng Vinh.
Nó đóng vai trung úy quân y của Sư Đoàn Nhẩy Dù, trung úy Trần Quang.
Nguyễn Đạt Thịnh
Xuân Lộc 1975
WYEcTrf-HAg
hoanglan22
04-06-2019, 14:53
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1361578&stc=1&d=1554562348
(Tác giả Lê Văn Hưởng)
Đường Đời Dễ Có Mấy Ai?
Thời gian: năm 1994
Địa điểm: Khu Giải Trí Splendid China, Orlando.
Trời nắng chang chang, với cái nóng nung người của tiểu bang Florida vào mùa hè lối 90 độ F (32 độ C).
Trước cửa tiệm bán hàng lưu niệm (Gift Shop) đông người, một ông lăo người Việt Nam đứng bán kem cho du khách. Xe bán kem có h́nh dáng như cái thùng vuông dài, bên ngoài có sơn chữ và h́nh vẽ mấy bịch kem đông lạnh. Khách khá đông, ông tươi cười với mọi người. Cách đó không xa, một du khách Việt Nam khác, đứng tuổi, nh́n ông bán kem một cách chăm chú, nghĩ ḿnh đang gặp lại một người quen biết từ khi c̣n ở quê nhà mấy mươi năm về trước.
Khách lạ bước đến gần xe kem trong khi ông bán hàng đang bận rộn với khách. Nh́n bảng tên gắn trên áo ông lăo bán kem, khách lạ mừng thầm v́ đúng tên người ḿnh quen biết.
- Chà! "Tha hương ngộ cố tri", c̣n ǵ quư cho bằng? ông suy nghĩ.
Đợi đế khi xe kem vắng khách, người khách lạ lên tiếng:
- Xin lỗi ông, có phải khi xưa ông làm tỉnh trưởng tỉnh Cần Thơ không? Ông bán kem giật ḿnh, phản ứng ngay:
- Không phải đâu, chắc ông lầm người rồi!
Người khách lạ "cụt hứng" rồi tự trách:
- Ḿnh hấp tấp quá, không lẽ khi xưa ông làm tỉnh trưởng, giờ nầy lại đứng ở đây? Suy tới suy lui, khách lạ chưa chịu thua, nghĩ thầm:
- Rơ ràng tên ông trên thẻ trước ngực, sao lầm được? Dáng vóc cũng cao ráo như xưa, nét mặt, cũng vậy, tuy phong trần hơn trước? Khách lạ trở lại ông lăo bán kem:
- Thưa ông, tôi không lầm đâu, tôi nhớ ơn ông lắm, nhờ ông mà anh em nhà thầu chúng tôi làm ăn rất thoải mái dưới thời ông về làm đầu tỉnh Cần Thơ.
Thấy người khách lạ quả quyết, ông bán kem mỉm cười:
- Đúng là tôi, nhưng đó là chuyện xa xưa rồi, nhắc làm ǵ?
Từ đó, người khách lạ kết thân với ông bán kem, v́ thương mến một công bộc liêm chính mà giờ này sa cơ thất thế.
Trong mấy lần gặp gỡ sau đó tại tiệm ăn ngoài Splendid China, khách lạ tâm t́nh với ông bán kem:
- Em thường đấu thầu xây cất cho tỉnh, đời mấy ông tỉnh trước, tụi em gặp khó khăn nhiều, nhưng từ khi ông về làm tỉnh trưởng mấy năm 63 tới 65, tụi em dễ thở hơn nhiều, người nào làm đúng luật lệ thi được trúng thầu, tụi em làm ăn thoải mái, bởi vậy, tụi em nhớ ơn ông hoài...
Gặp người tri kỷ, ông lăo bán kem thổ lộ:
- Tôi có giúp ǵ ông đâu, đó chẳng qua là nhiệm vụ của tôi thôi. Tổng Thống tín nhiệm tôi, giao chức vụ tỉnh trưởng là để tôi lo an ninh cho người dân, công tác chánh của tôi là về mặt quân sự, dẹp CS quấy rối đồng bào. Dưới quyền tôi, có ông phó tỉnh trưởng dân sự, mọi việc về hành chánh, tôi giao cho ông phó làm hết, nhưng tôi có đặt tiêu chuẩn làm việc, là phải hết sức liêm chánh, không được ăn lối lộ hay có hành vi tham nhũng, v. v... th́ ta mới được ḷng dân.
Trong thời gian ông bán kem tại khu giải trí SC, cũng có một số du khách người Việt Nam nhận ra ông, tỏ ḷng thương mến, "tội nghiệp" ông. Ông khẳng khái trả lời:
- Cám ơn quư vị đă c̣n nhớ tới tôi, có căm t́nh với tôi nhưng xin quư vị đừng tỏ ra tội nghiệp cho tôi, tôi không thích như thế. Có ǵ đáng phải tội nghiệp đâu ? công sản nhốt tôi, giam cầm mấy mươi năm tù, ra được xứ tự do, làm nghề ǵ đi nữa, miễn chính đáng, vẫn c̣n sướng hơn ở với CS mà! Nhắc đến việc CS giam cầm, ông nhấn mạnh:
- Không nên dùng chữ "tù cải tạo" đối với chúng tôi, nhà tù CS là nơi chúng hành hạ, trả thù, hạ nhục người Quốc Gia, tù là tù chớ không có "cải tạo" ǵ hết.
Ông bán kem trong khu giải trí Splendid China nói trên là cựu Thiếu Tướng Trần Bá Di.
Cựu Thiếu Tướng Trần Bá Di
Vinh danh một bậc đàn anh gương mẫu.
Bài viết ngắn hôm nay chỉ nêu vài sự kiện nổi bật, chớ không thể nói lên hết sự nghiệp to lớn của ông trên chiến trường. Lúc c̣n là tỉnh trưởng Cần Thơ, cấp bực ông là Thiếu Tá, sau lên Trung Tá. Ông nổi tiếng trong các trận đánh như sau:
- Giải tỏa tỉnh Vĩnh Long trong Tết Mậu Thân 1968. Sự việc diễn tiến như dưới đây: Gần Tết Mậu Thân, (tháng 1/1968), hai ông đầu tỉnh là Trung Tá Nguyễn Ngọc Diệp và Phụ Tá đi hành quân. Trên đường về, hai ông bị VC phục kích và bị thương, phải chở vào bệnh viện điều trị. Tỉnh Vĩnh Long như rắn không đầu. Thiếu Tướng Lâm Quang Thi, Tư Lệnh Sư Đoàn 9, chỉ định Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa tạm thời pḥng thủ Vĩnh Long. Khi tiếng súng Tết Mậu Thân bùng nổ, Thiếu Tá Nghĩa đă về Sài G̣n thăm gia đ́nh và bị kẹt lại đó. Tướng Thi chỉ thị Đại Tá Trần Bá Di, đang là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 9, vào Vĩnh Long để nghiên cứu t́nh h́nh và đối phó với Việt Cộng. Vào chiều tối, một ḿnh với máy truyền tin trên lưng, ông được trực thăng chở đi, dự định đáp vào khuôn viên của tỉnh, nhưng trực thăng bị VC bắn rát quá, phải thả ông tại cầu tàu, rồi từ đó, ông chạy bộ vài chục bước vào được dinh tỉnh trưởng.
Tại đây, ông bắt đầu liên lạc với các đơn vị chiến đấu để lo việc pḥng thủ, chỉ dẫn trực thăng, pháo binh... bắn vào các điểm tập trung của VC. Nhưng VC vẫn cầm cự, quyết tâm đánh úp tỉnh lỵ, ông phải xin tướng Thi cho tăng viện, nhờ vậy, mấy ngày sau, một Trung Đoàn của ta mở đường tiến vào căn cứ của tỉnh. Sau cùng, ông chỉ huy phá tan lực lượng VC, chúng bị giết hay đầu hàng gần hết. - Trận đánh vào đất Miên Danh ông càng nổi lên năm 1970, khi ông làm Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh đánh vào mật khu Ba Thu của VC trên đất Miên (tỉnh Tà Keo), phá hủy cơ sở của chúng, tịch thu vô số chiến lợi phẩm... Ngoài ra, quân ta c̣n t́m thấy nhiều nhà in và máy in tiền của Mặt Trận Giải Phóng, tiền này chúng tính đem ra thay thế tiền VNCH nếu chúng thắng Miền Nam năm 1968. Ông được thăng cấp đặc biệt tại mặt trận này.
Anh hùng sa cơ Đến năm 1975, khi VC vào chiếm miền Nam, chúng bắt ông và đày ải vào các trại tù trong hơn 17 năm trời. Hai năm sau khi VC thả, ông qua Mỹ năm 1993 theo diện HO (Humanitarian Operation: Chương tŕnh định cư tại Mỹ dành cho người bị CS giam cầm sau 1975). Ba tháng sau khi hoàn tất thủ tục nhập cư, y tế, bằng lái xe, ông bắt đầu đi làm tại hăng Dobbs, hăng chuyên cung cấp thức ăn cho hành khách trên máy bay. Làm việc tại đây hơn 6 tháng, ông qua khu du lịch Splendid China như có nói trên. Thời gian sau, ông xin vào làm tại Disney World với nhiệm vụ "trưmg bày hàng lên kệ” (floor stacker). Ông làm việc tại đây trong 12 năm trời, từ 1999 đến 2011, chỉ thôi việc v́ bị đau nhức vào tuổi 80. Tổng cộng thời gian làm việc tại Dobbs, Splendid China và Disney World, ông đă đóng thuế Liên Bang Hoa Kỳ 18 năm, quá tiêu chuẩn 10 năm để được tiền hưu. Có lần, một giám thị ở Disney World khuyên ông:
- "You" lớn tuổi rồi, sao "you" không ở nhà nghỉ cho khỏe?
- Tuy tuổi đă cao nhưng sức khỏe c̣n tốt là tôi không nghỉ!- ông đáp ngay. Cũng có người thấy ông cao tuổi, hỏi ông:
- Cụ đi làm chi cho khổ, ở nhà lănh tiền trợ cấp có sướng hơn không? Câu trả lời:
- Tôi không "chơi" mấy thứ đó. Tôi rất tự hào không "ăn" một ngày tiền an sinh xă hội, tiền già, tiền tàn tật... Đối với anh em chúng tôi ở tù CS, người Mỹ dành một chương tŕnh đặc biệt để đem chúng tôi đến xứ tự do, hưởng được cuộc sống an toàn trong công bằng, chừng đó thôi đủ để ḿnh biết ơn chính phủ và nhân dân Hoa kỳ rồi, v́ lẽ đó, tôi không muốn ngồi chơi để lănh tiền cấp dưỡng, tạo thêm gánh nặng xă hội cho đất nước này trong khi tay chân c̣n lành lặn, c̣n đủ sức khỏe để đi làm.
Theo trên, tướng Trần Bá Di là một người rất đặc biệt. Khi c̣n trong Quân Đội, ông là một công bộc liêm chính, một cấp chỉ huy tài ba, gan dạ, b́nh dân, yêu thương lính. Đến tuổi cao niên, ông vẫn giữ khí phách của một người hùng. Thiếu Tá Nguyên Kim Sơn, cựu Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn 9 Bộ Binh, từng làm việc dưới quyền của tướng Trần Bá Di, có viết trong tuyển tập "Cái Chết Của Một Ḍng Sông" như sau: "Thiếu Tướng Trần Bá Di có tấm ḷng hiền ḥa đức độ nên được thuộc cấp kính trọng và thương mến. Ngày ông rời khỏi Sư Đoàn 9 Bộ Binh, quân dân tỉnh Vĩnh Long đă giăng biểu ngữ khắp đường phố trong tỉnh lỵ để tỏ ḷng thương mến và luyến tiếc ông".
Mặt khác, trong phúc tŕnh 6 trang giấy gởi về chánh phủ Ḥa Kỳ ngày 5 tháng 12 năm 1973, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, Graham Martin, có ca ngợi cuộc đời và binh nghiệp của tướng Trần Bá Di trải qua mấy mươi năm chỉ huy các đơn vị tác chiến trên chiến trường miền Nam, từ cấp Trung Đội, Đại Đội, Tiểu Đoàn, Trung Đoàn, đến Sư Đoàn...
hoanglan22
04-06-2019, 15:01
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1361586&stc=1&d=1554562781
Thiếu tướng Trần Bá Di
(1931-2018)
Tưởng niệm Thiếu tướng Trần Bá Di mất ngày 23/3/2018
Mọi việc rồi cũng qua đi. Câu nói quen thuộc dặn ḷng ở những lần chịu đựng trong hoàn cảnh khốn khó. Tất cả là những đổi thay, như mơ ước sẽ có một ngày tốt đẹp trở lại với đời sống chúng ta. Năm xưa nếu không mất nước, không găy đổ tương lai, ắt hẳn không có đời sống lưu vong bây giờ.
Thời gian, moị sự rồi cũng qua đi. Đúng vậy, những bài hát, lời ca từ buổi đầu cấm đoán, giờ đây nó trở thành một sức sống trong giới trẻ, cho người thưởng ngoạn trong t́nh cảm gần gũi, cũ người mới ta. Âm nhạc miền Bắc đi vào Nam đầy sắc máu, bắn giết hận thù, không có t́nh yêu, không có t́nh tự dân tộc. Để rồi tự nó mất đi theo chiếc nón cối, đôi dép râu lỗi thời lạc hậu. Chủ nghĩa chuyên chính vô sản, được thay bằng cuộc sống hưởng thụ ở mỗi cá nhân từ tài sản nhân dân, đất đai chiếm được, đổ đầy vào túi. Họ có đầy bồ không đáy để rút kinh nghiệm, rút măi rút hoài không bao giờ hết, rút cạn tài sản nhà nước, bạc tiền nhân dân làm của riêng, để rồi ung dung nhận khuyết điểm là một đặc ân thay phiên từng người. Tất cả những năm dài làm trật rồi sửa, cho thấy Cộng Sản lấy miền Nam bằng vũ lực nhưng không thể trị v́, không biết làm cho đất nước tốt hơn, bởi guồng máy lănh đạo, những người không có khả năng, không có tŕnh độ văn hoá phù hợp với chức vụ địa vị. Họ chỉ đóng vai tṛ của nhân vật trong vở kịch, tuồng hát, sân khấu chính trị.
Trong hoàn cảnh và tâm trạng chung cùng, chúng tôi có một quá khứ, có một trời dĩ văng để ngậm ngùi ngó lại quăng đời qua, gần gũi ở nỗi buồn chung mất nước. C̣n ở quê nhà sau bốn mươi năm, một thế hệ mới sống dưới chế độ Cộng sản, được rèn luyện trong khuôn khổ thể chế chính trị mù, không thể nói khác những qui định dưới áp bức, nhận chịu sự ban phát lâu ngày trở thành một điều hợp lư tự do cho ḿnh, đâu biết ǵ khác biệt năm xưa, hay thế giới bên ngoài. Cho nên khó mà có sự hiểu biết, cảm thông lẫn nhau ở tuổi trẻ, cùng một thế hệ người Việt trong và ngoài nước.
Thật vậy, không khác ǵ chúng tôi đang sống trong đất nước tự do, tự do nhưng ḷng đau khi thấy chính giới Hoa kỳ, sau khi bỏ rơi miền Nam, tiền đồn chống Cộng. Giờ đây lại tiếp sức nuôi dưỡng chế độ Cộng Sản. Có ǵ để tin tưởng cho tương lai Việt Nam? Có ǵ để tin tưởng những đồng minh năm cũ. Phải chăng chỉ có một ngày tức nước vở bờ. Ḷng dân ḷng người, thời thế đổi thay theo ṿng xoay bất chiến tự nhiên thành. Khác ǵ có ai tin được, ngày nay trên thế giới, quốc gia Việt nam Cộng Ḥa không c̣n.
Người lính năm xưa giờ đây không màng đến súng đạn. Đất nước Việt Nam không c̣n tên bay đạn lạc. Nhưng có điều không thể hiểu là từ buổi giao thời cho đến bây giờ. Hơn bốn mươi năm qua, nhà nước CS Việt Nam vẫn sợ, sợ người chung quanh trong và ngoài nước, sợ lấy bóng ma người lính, chế độ Việt nam Cộng Hoà. Dù rằng tất cả đă mất hết, già cỗi với tuổi đời thời gian. Cơ quan tuyên truyền lúc nào cũng dè chừng, coi t́nh trạng dân trí đ̣i hỏi nhân quyền, chống đối bất công ở xă hội là thành phần phản động chế độ cũ. Cho dù họ không lấy đâu ra, vẽ được h́nh tượng chế độ cũ như thế nào. Nó là sự ám ảnh, sợ hăi bằng cách qui trách để bắt bớ giam cầm. Họ sợ sự thật và ngay cả sự thật cũng không hiểu làm sao họ sợ, khi quyền lực đă gom về một mối đảng trên quốc gia trị.
Tôi đứng lại đây chốn nầy, như năm tháng qua đi dài cơn đứng đợi. Trời đă về chiều tựa vào đời sống tôi, cái tuổi phải nghỉ sau nhiều năm dài vất vả. Cái khoảng cách ở tuổi c̣n đi làm và tuổi về hưu, thấy vậy mà ngắn lắm, ngắn như thời gian c̣n lại để thấy ḿnh không c̣n bao lâu ở một kiếp người. Cảm giác tất bật sáng đi tối về trước đây, giờ sống cho phần đời c̣n lại, mới thấm thiá nghiă t́nh một đời riêng, mới thấy sống gần, nhớ nhiều hơn quăng đời qua lặp lại.
Tôi muốn nhắc đến tư lệnh sư đoàn 9 của tôi. Thiếu tướng Trần Bá Di, người đă bị giam cầm 17 năm sau ngày mất nước. Tôi gọi điện thoại thăm khi ông mới đến định cư. Mừng lắm, có người c̣n nhớ đến, là c̣n nghĩa t́nh. Ông đă dặn ḍ anh em, chỉ muốn gọi ông bằng anh Ba, như danh xưng trong gia đ́nh. Tôi hiểu tâm trạng ông, một người tù lâu năm, chán chường trong nghịch cảnh, khi tất cả đă mất hết. Ông là tư lệnh sư đoàn đầu tiên ở vùng 4, chỉ huy tất cả các đơn vị tăng phái hành quân ngoài lảnh thổ, qua đất nước Kampuchia, năm 70-71. Hồi đó quân đội chúng ta không có quyền qua đất nước bạn, kể cả quân đội Hoa Kỳ. Lợi dung yếu điểm nầy Việt Cộng ở miền Nam hay Cộng Sản Bắc Việt lập căn cứ địa bên đất Miên, thường lui quân về khi bị truy kích. Một lần ở mặt trận Kiến Tường, ông đă ra lệnh miệng cho một tiểu đoàn, tiếp tục truy kích địch qua biên giới, khoảng một hai giờ th́ rút về. Không ngờ tràn qua mật khu Ba Thu lần đó, gần hai ngàn súng đủ loại chưng bày trên giá cây trong căn nhà lá, không cần dấu diếm. Trước chiến lợi phẩm quá lớn với t́nh h́nh nầy, buộc ḷng phải báo cáo về Bộ Tổng tham mưu để xin lệnh.
Có thể do tính cách chiến lược, Bộ Tổng Tham Mưu đă bật đèn xanh, đề ra kế hoạch hành quân qua đất Kampuchia yểm trợ cho chánh phủ Lonnol, đánh thẳng vào hậu cần địch. Tôi c̣n nhớ thời gian nầy (đầu tháng 5 năm 1970) thiếu tướng Nguyễn Viết Thanh tư lệnh Quân đoàn 4 xuống thăm một tiểu đoàn, thuộc sư đoàn 9 đang hành quân ở Kiến Tường (bên phần lảnh thổ Việt Nam.) Khoảng nửa giờ sau, trực thăng đáp xuống bốc Thiếu tướng tư lệnh vùng. Phi cơ vừa cất lên quay đầu chuyển hướng, bất thần một trong hai trực thăng vỏ trang Mỹ, bay ṿng trên không bắn dọn băi, lượn xéo ngang và đụng vào trực thăng của tướng Thanh. Cả hai chiếc bốc cháy và rớt liền.Tất cả đều tử nạn, kể cả đại tá Cố Vấn Mỹ đi theo. Mọi chuyện chỉ xảy ra tích tắc trước mắt binh sĩ tiểu đoàn. Thiếu tướng Nguyễn Viết Thanh là vị tướng tài giỏi thanh liêm trong quân đội. Tên ông được đặt tên cho bản doanh bộ tư lệnh sư đoàn 9 BB tại Vĩnh Long, và được sắc phong thần, tử v́ nước.
Đối với tướng Di, ông là người tôi kính trọng trong đời quân ngủ. Lần đầu tiên ông biết đến tôi khi tôi cùng hai sĩ quan ban 3 viết bài về kinh nghiệm chiến trường nộp cho bộ tổng tham mưu.Thời đó VC thường xử dụng thế đánh chốt, rất mới mẽ. Sau khi bài chuyển về sư đoàn duyệt, tướng Di xuống trung đoàn, và hỏi Đại tá Cẩn, bài “Thế diệt chốt và cầm địch” của ai viết. Tôi được gọi tŕnh diện Tư Lệnh. Ông nói bài nầy ngoài phần nộp về trên, sẽ giao cho trung tâm huấn luyện sư đoàn học tập. Thật ra cũng nhờ tôi có khả năng viết lách trước đây, cộng thêm kinh nghiệm bản thân ở chiến trường, nên được việc.
Ở trung đoàn 15, chúng tôi gọi tướng Di là Ông già trà đá, bởi v́ cách ngày là ông xuống trung đoàn, qua trung tâm hành quân theo dơi t́nh h́nh, một lát ông sang pḥng thuyết tŕnh ngồi đó. Nhà bếp công vụ theo lệ thườnng, biết ư mang lên dĩa bắp nấu hay mấy củ khoai, cùng ly trà đá. Tướng Di không uống rượu hay nhậu nhẹt, hút thuốc. Khi cần tản thương gấp, ông cho mượn máy bay riêng của tư lệnh, (lấy bao vải ghế ngồi có gắn hai ngôi sao ra), sĩ quan trực đi bay bốc thương binh, sau đó cho lính rửa tàu trả lại. Thỉnh thoảng ông ăn cơm buổi trưa chung với sĩ quan trung đoàn.
Cho đến khi tôi trở lại đơn vị sau khóa học Quân Báo (sau tuần đó Đại tá Cẩn đổi đi), buổi trưa ông xuống trung đoàn như lệ thường. Ông hỏi thăm tôi về khóa học. Đêm hôm đó công điện sư đoàn đánh xuống, nội dung tham chiếu khẩu lệnh của thiếu tướng tư lệnh Sư đoàn, chỉ định tôi giử chức vụ trưởng ban 2 trung đoàn (thay thế sĩ quan đại úy vừa bàn giao tuần trước). Sáng hôm sau ông xuống cùng với trung tá Ninh, trưởng pḥng Pḥng 2 sư đoàn, chứng kiến bàn giao. Sự việc thật bất ngờ, v́ không theo thủ tục hệ thống quân giai, đề nghị tŕnh kư trước đây. Đối với tôi, vị trí nào cũng là chỗ làm việc như trước đây tôi đă làm. Hơn ai hết tôi biết ḿnh không có phe đảng, tiền bạc lo liệu ǵ cả. Trước câu hỏi của Đại tá Lăm, phụ tá hành quân sư đoàn đang xử lư thường vụ trung đoàn trưởng. Thiếu tướng Di nói về tôi “Ông ấy làm được, tôi để ư ông ấy lâu rồi.” Sau đó ông bảo tôi vào pḥng gặp riêng, và muốn tôi làm theo ư ông trong việc theo dơi mỗi đơn vị VC bằng một màu viết ch́ mở khác nhau, để biết thói quen di chuyển một tuần, một tháng.
Có điều phải nói là hầu như tất cả sĩ quan trung đoàn, đều không biết Ban 2 làm ǵ, cho đến ngày mất nước. Chỉ thấy hàng ngày tôi thuyết tŕnh, rồi đi bay với trung đoàn trưởng, qua lại trung tâm hành quân thế thôi. Giờ đây chiến tranh không c̣n nữa, tôi muốn chia sẻ với bạn ít điều, trước đây do vấn đề bảo mật không cho phép, gây hiểu lầm trong t́nh anh em.
Công việc theo lệ thường mổi sớm tôi thuyết tŕnh trước tiên về t́nh h́nh địch, tin tức độ mật A1, A2 từ Pḥng 2 quân đoàn, sư đoàn, kế đến là phần ban 3 với kế hoạch hành quân từng tiểu đoàn, hay nếu có trực thăng vận cho một ngày. Thiếu tướng Di xuống trung đoàn thường hay gặp riêng tôi, để nghe báo cáo về tin mà tôi không thuyết tŕnh. Thật ra, không mấy người để ư Ban 2 trung đoàn có một toán kỹ thuật thuộc pḥng 7 Bộ Tổng tham mưu, nhưng mang phù hiệu sư đoàn 9, cả Biệt đội kỹ thuật (cấp đại đội) th́ đặt ở Sư đoàn. (Xin đừng nhầm lẫn với biệt đội tác chiến điện tử, theo tiểu đoàn hành quân cài đặt sensor, thuộc pḥng 3 Sư đoàn). Khi đổi vùng hành quân, có khi toán kỹ thuật có sẵn, có khi tôi phải đi với anh em nầy về Sư đoàn bạn, để chép tay cái code mở khoá, ngày giờ đơn vị địch lên máy chuyển lệnh, khoá mở đánh morse…
Trước đây, các đơn vị hành quân chúng ta thường dùng khoá KDC cấp phát để mă hoá chuyển tin, c̣n ở đây là bản chép tay. Ở Bộ chỉ huy hành quân trung đoàn, toán kỹ thuật nầy dựng lều riêng cách biệt, dựng ăngten riêng với trung tâm hành quân để trực máy bắt tin của địch. Chỗ làm việc nầy không ai được vào, kể cả trung đoàn trưởng (không th́ tắt hệ thống, do qui định bảo mật). Nhân viên bắt được bản tin qua máy, mở xong chuyển tay qua (với bản đánh máy giấy màu vàng có hàng dăy lổ bấm tṛn) cho trưởng ban Ban 2 để phán đoán uớc tính (toán kỹ thuật chỉ làm nhiệm vụ vậy thôi). Ở Ban 2 có đầy đủ tin tức, trận liệt đơn vị địch như ngày giờ xâm nhập, quân số, di chuyển từ đâu đến, đôi khi có cả h́nh C trưởng, D trưởng (tin nhật tu từ Ph 2 Bộ TTM theo hệ thống hàng dọc trong ngành).Tin từ toán kỹ thuật bắt được, tôi chỉ tŕnh miệng với trung đoàn trưởng, không báo qua pḥng 2 Sư đoàn, không qua hệ thống vô tuyến và đốt bỏ, không lưu hồ sơ.
Một ngày nghe tiếng pháo binh trung đoàn tác xạ, không ai bảo ai, đều trở vào Trung tâm hành quân, v́ biết có tiểu đoàn chạm địch. Đại tá Diêu là người nóng ḷng muốn biết về địch. Tôi qua lều bên vào ngồi với anh em, trong lúc máy vẫn mở nghe địch liên lạc điều quân (lúc trận đánh xảy ra địch nói bằng bạch văn), rồi trở qua trung tâm hành quân. Kết quả dĩ nhiên hoàn toàn thuận lợi khi chúng ta biết rỏ vị trí ư đồ của địch. Về phía bộ chỉ huy địch, họ cũng bắt được tần số truyền tin của ḿnh, do cấp tiểu đoàn trên hệ thống máy bị lộ. Do vậy mà nhiều lần cả hai bên đều tung tin giả để gây rối kế hoạch lẫn nhau. Phán đoán đúng sai thiệt giả, hay dở tùy thuộc vào khả năng ước tính, phân tích của sỉ quan Ban 2 trung đoàn. C̣n kế hoạch hành quân cho các tiểu đoàn mỗi ngày? Mỗi tối Ban 2 có nhiệm vụ tŕnh riêng t́nh h́nh địch, với trung đoàn trưởng. Sau đó ông lệnh cho ban 3 vẽ phóng đồ hành quân để sáng hôm sau chuyển lệnh. Bản đồ, th́ do Ban 2 cấp phát, đưa xuống trong hành quân từng tiểu đoàn, hay khi tiếp viện đổi vùng, giải toả, mặt trận nơi khác.
Vấn đề t́nh báo tác chiến, với kỹ thuật như đă nói, chỉ thiết lâp ở tất cả đơn vị trung đoàn thuộc sư đoàn bộ binh, phục vụ cho chiến trường. Các lữ đoàn thiết giáp, liên đoàn, pḥng 2 tiểu khu, hoàn toàn không có phần hành chuyên môn nầy, kể cả các đơn vị khác ngành. Trong trường hợp bặt tin, do địch không lên máy liên lạc, chừng đó qua hệ thống sư đoàn, xin chụp không ảnh vùng hành quân để xác định. Những tiếng nổ ́ ầm trên không nghe được, là lúc máy bay đang chụp, sĩ quan giải đoán không ảnh sẽ phân tích.
Nói chung tin tức t́nh báo, giải đoán chính xác phần lớn bảo vệ sự tổn thất, sinh mạng binh sĩ. Vai tṛ của trưởng ban 2 trung đoàn, giúp trung đoàn trưởng quyết định, gắn liền với chiến công đơn vị. Các vị tư lệnh sư đoàn 21, sư đoàn 7 nơi chúng tôi hành quân qua, đều rất quan tâm đến loại tin tức chúng tôi có được, so với tin tức sư đoàn bạn. Thật ra vấn đề chỉ giản dị là toán kỹ thuật có siêng năng mở máy trực hay không, chịu khó rà theo tần số khi địch thay đổi hay không, bởi công việc của toán nầy chỉ trực tiếp với một ḿnh trưởng ban 2 trung đoàn, không ai kiểm soát, việc làm hoàn toàn biệt lập, chỉ liên lạc khi cần thiết. Nhiều lần ở nửa đêm, họ lay chân tôi dậy đưa bản tin, tôi qua gỏ cửa pḥng ngủ trung đoàn trưởng, cho lệnh báo động, pháo binh trung đoàn bắn tức thời ở điểm chấm sẵn, kịp lúc báo động cho tiểu đoàn biết, địch sắp sửa tấn công, th́ y như rằng mọi việc xảy ra trước năm, mười phút. Tôi có may mắn là toán kỹ thuật trực thuộc trung đoàn rất giỏi, và có tinh thần trách nhiệm.
Năm đầu ở trại cải tạo, quân đội Cộng Sản giam giữ chúng tôi là trung đoàn 95. Họ lên lớp và chửi pháo binh sư đoàn 9 thảm thiết. Ngồi đó không phải là dân pháo nghe cũng khó chịu. Nhưng tôi biết họ nói đúng. Cách tổ chức di chuyển pháo theo hành quân lưu động rất hay, khác với các sư đoàn cố định khu trách nhiệm. Thật ra sư đoàn bộ binh nào trang bị cũng giống nhau. Mỗi sư đoàn có 4 tiểu đoàn pháo binh, chia ra mỗi trung đoàn có một tiểu đoàn pháo binh 105 ly cơ hữu. Khi trung đoàn chúng tôi xuất phát hành quân, chỉ có một pháo đội kéo súng theo Bộ chỉ huy trung đoàn, đóng trên mặt lộ hay căn cứ. Số sĩ quan, binh sĩ pháo binh (thuộc tiểu đoàn pháo binh cơ hữu trung đoàn) được chuyển vận bằng trực thăng đưa người xuống, thay thế các vị trí súng pháo binh diện điạ thuộc quân khu, rồi bốc toán pháo binh đó đi, đổ đạn pháo xuống, điều chỉnh đạn dược trên giấy tờ sau. Nói cho dễ hiểu là hoán chuyển đổi người, chứ không đổi súng (tiểu đoàn pháo không cần kéo súng theo). Cho nên khi vào vùng hành quân, cấp tiểu đoàn trên phóng đồ hành quân, ṿng tṛn pháo yểm là mười khẩu pháo cho một tiểu đoàn, sẵn sàng tác xạ.
Thời gian sau, khi chuẩn tướng Huỳnh Văn Lạc thay thế. Ông chỉ thị cho các tiểu đoàn trưởng bộ binh, qui định nếu không đụng trận, gọi pháo binh bắn trên 500 quả th́ bị phạt, c̣n khi đụng trận, gọi bắn dưới 500 quả cũng bị phạt. Tôi nghĩ sau nầy dù hạn chế đạn dược, nhưng t́nh h́nh cần giải quyết th́ cũng không giới hạn. Bằng chứng cho thấy đến gần tháng 4 năm 75, thiếu tá Thảo tiểu đoàn trưởng 93 pháo binh, báo cáo xin ngưng tác xạ v́ tất cả pháo súng bị nóng ṇng, lư do đă bắn trên 100 ngàn quả. Đại tá Diêu lớn tiếng không muốn ngưng v́ không tin, thiếu tá Thảo chứng minh 10 khẩu bắn một lượt hơn một giờ qua. Điều nầy cho thấy trung đoàn 95 Việt Cộng chửi rủa pháo binh sư đoàn 9 không sai, với mức độ pháo dập dữ dội họ đă chịu đựng.
Tôi ở tiểu đoàn, rồi trung đoàn 15, dưới nhiều thời kỳ trung đoàn trưởng. Mỗi ông để lại trong tôi t́nh cảm riêng biệt khác nhau. Với đại tá Hồ Ngọc Cẩn là người tôi có nhiều kỹ niệm. Trung tá Anh là người hiền lành, quan tâm đến đời sống thuộc cấp gần bên. Trung tá Phan Thế Thường là người thân thiện dễ mến, vẫn liên lạc về sau với tôi khi ông đổi đi (rồi trở lại). Tiếc thay cho đến bây giờ hỏi thăm, không ai biết tin tức sống chết. Riêng với đại tá Khiêu Hữu Diêu, đi với ông tôi mới học khôn, tiếp xúc biết được nhiều chuyện dây mơ rể má trong quân đội, ông giao du liên lạc với nhiều sĩ quan đồng cấp. Cũng qua ông, tôi mới biết cái áo giáp nhảy dù thời quân đội Pháp như thế nào. Nó là một áo vải bố chia ra từng ngăn dọc, trong lót từng thanh thép dầy chống đạn. Ông từ Bộ tổng tham mưu đổi về Quân đoàn 4, rồi đến thay thế trung đoàn trưởng. Đa số các vị đại tá tỉnh trưởng, hay thuộc binh chủng nhảy dù trước đây là đàn em của ông, khi tôi đi với ông ghé qua các tỉnh. Ở vùng hành quân, khi thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam tư lệnh sư đoàn 7BB xuống thăm trung đoàn. Trên trực thăng bước xuống lúc nào thiếu tướng Nam cũng chào trước với câu nói “kính Đại tá”. Đại tá Diêu kể tôi nghe, thời trước dạo ông c̣n làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 Nhảy Dù, lúc đó tướng Nam vừa đi học ở Mỹ về, lên đại úy, làm sĩ quan Ban 3 tiểu đoàn dưới quyền ông. Dù sau nầy cấp bậc tướng Nam đi lên trước, nhưng gặp ông, tôi thấy tướng Nam vẫn chào kính giữ t́nh thầy tṛ. Có điều ở đại tá Diêu, có thể do mang cấp bậc đại tá quá thâm niên, lối cư xử của ông đối với các trung tá, đại tá, tư lệnh phó sư đoàn đơn vị bạn, đôi khi ông có thái độ dửng dưng. Đi theo ông họp hành chứng kiến, đôi lúc tôi thấy cũng ngượng, ngại mất ḷng. Một lần, BCH đóng tại Phụng Hiệp, buổi trưa ông rủ tôi về Cần Thơ đến hội quán tỉnh trưởng ăn cơm Tây. Hôm đó chuẩn tướng Hưng SĐ 21 xuống thăm trung đoàn, nhưng Đại tá Diêu không có mặt. Sau đó tướng Hưng gởi công điện qui định, nếu trung đoàn trưởng đơn vị tăng phái, rời BCH phải thông báo cho Tư lệnh. Lần khác ở trung đoàn nhận điện thoại từ văn pḥng đại tướng Cao văn Viên gọi xuống, muốn ông về gặp. Tư lệnh quân đoàn tướng Nguyễn Vĩnh Nghi cho ông về Sài g̣n 2 ngày. Trở xuống ông nói với tôi, tưởng làm Trưởng pḥng 7 Bộ tổng tham mưu th́ ông nhận, chứ chức Giám Đốc Nha kỹ thuật th́ thôi, ông về chờ. Ông có dù che bao và nhất là sau nầy khi tướng Nam về làm tư lệnh Quân đoàn 4, con đường quả thật trơn tru theo ư ông muốn, dù rằng chỉ được một thời gian trước ngày mất nước. Qua ông tôi biết rất nhiều chuyện, trong đời quân đội trước sau. Tính t́nh đại tá Diêu đối với mọi cấp là vậy, nhưng với thiếu tướng Di, tôi thấy đại tá Diêu rất vị nể kính trọng, khi Thiếu tướng Di thường xuyên xuống trung đoàn.
Nhắc lại những trận đánh, nghĩ lại năm tháng qua, cho đến ngày tan hàng mất nước, làm sao không thấy đau ḷng tủi nhục. Người đứng ngoài cuộc, tuổi trẻ lớn lên, thành phần phản chiến đổ lổi cho người lính VNCH. Họ đâu hiểu sự bỏ rơi, cắt viện trợ và hơn hết là sự quay lưng từ phía Hoa kỳ theo chiến lược thoả thuận giao miền Nam cho Trung Quốc. Trước tiên từ chiến thắng của miền Bắc, sau đó là từng bước một Hán hoá, lảnh thổ hai miền, như chúng ta đă thấy mấy mươi năm qua.
Chiến trận giờ đây đă lụn tàn, dấu tích không c̣n. Nhắc nhớ, chỉ như gíó thoảng chiều hôm, chúng ta chỉ là người công dân b́nh thường, trước sự đă rồi. Chỉ có điều, thỉnh thoảng đọc thấy những bài báo, sách vở thêu dệt, kể cả ta và địch, từ quan quân đến người cầm bút, tạo ra những hoàn cảnh nên thơ, lịch sự ở ḷng tử tế cho phù hợp với nhân bản con người. Với những cường điệu quá lố được thêu dệt trong sáng tác. Không thể tin được chuyện kể bắt tù binh ở chiến trường buổi sáng, mà buổi trưa dẫn ra Huế ăn phở, chiều tối đưa đi coi xinê rồi thả địch về (kết thúc bài viết là hồi sau chiến tranh gặp lại). Hay những câu thơ đi hành quân mà bắn súng khơi khơi lên trời may rủi, chuyện ngồi uống rượu với anh bộ đội Bắc Việt, trong thi ca lúc nào rượu cũng được đề cập đến, kể cả khi đụng trận. Bài viết không trung thực chút nào trong cuộc chiến. Tác giả cho thấy tấm ḷng nhân ái ? Nhưng với tôi, người đọc sẽ cảm thấy quân đội miền Nam vô kỷ luật, không có tinh thần chiến đấu, phản chiến, bạc nhược. Không có cấp chỉ huy nào để người lính tự bắn chơi theo ư ḿnh. Ở đâu quân đội nào cũng có kỷ luật, nhất là ở chiến trường, lại càng khắc khe nghiêm chỉnh hơn hết, chuyện tử sinh, tồn vong thắng bại chính ở tinh thần đồng đội, mệnh lệnh từ cấp chỉ huy. Sống chết c̣n hay mất, chỉ cần thời gian hai mươi phút đầu súng nổ, là biết mệnh số chung cuộc. Biết bao ngàn người lính, biết bao đơn vị chống trả hy sinh cho đến phút cuối cùng.
Hơn thế nữa, những sự thật nói ra cũng nhằm minh chứng cho sự hy sinh ở người nằm xuống, hay những thương binh tàn phế c̣n sống dở chết dở trên phần đất quê nhà. Chiến tranh nào cũng vậy, ngoài chết chóc ly tán gia đ́nh, c̣n có những bất công đầy rẫy trước và sau cuộc chiến. Người thắng kẻ thua, bên nào cũng có thành phần thua thiệt. Kẻ thua thiệt trước tiên là những người lính bị loại ra khỏi ṿng chiến, những thương binh với mức độ tàn phế vĩnh viễn. Không có ǵ đền bù cho một kiếp người khốn khổ, không có bù đấp nào trả lại hạnh phúc gia đ́nh cho kiếp phế nhân, nhất là khi chiến tranh hai miền kết thúc. Thực tế cho thấy thành phần thương phế binh miền Nam, đời sống bị ngược đăi như thế nào.
Trước đây, cầm cuốn sách “Ông tướng sang sông” tôi gởi tặng, có lần tướng Di hỏi người gần bên. Tại sao phải là ông tướng sang sông? Giờ đây không chỉ riêng ông mà người nào cũng qua bến bờ. Trang sử đă lật qua, quá khứ một thời trôi theo sông nước, buông tay theo cuộc đời lưu lạc. Ông là người được đào tạo tốt, trước đây đă theo học khóa Bộ Binh cao cấp tại trường Fort Benning, Georgia hay trường Chỉ huy tham mưu Fort Leavenworth, Kansas Hoa Kỳ sau nầy (1965). Ở sư đoàn, ông tự học lái trực thăng với phi công bên ông, và tự học thêm văn hoá cho chính ḿnh.
Nh́n ông đi bay, và cách ngày xuống các trung đoàn hành quân theo dơi, đủ thấy ông đặt nặng hoạt động hành quân hơn ngồi ở Sư đoàn. Tôi nhớ có lần Bộ Tư lệnh tiền phương sư đoàn đóng tại căn cứ Vĩnh Nhi (gần Cai Lậy) trên quốc lộ 4. Một đêm Việt Công đột nhập từ mặt pḥng thủ của pháo binh. Địch tràn vào sát trung tâm hành quân, tướng Di ngủ lại tại đó khi bị tấn công. Trước đây căn cứ nầy do trung đoàn 15 thiết lập, tôi biết tất cả đều có bờ thành đất, do công binh ủi cao lên khỏi đầu. Mọi đường di chuyển hẹp từ nơi nầy sang nơi khác, đều nằm trong phạm vi rào kẻm gai. Cho nên khi địch tấn công dù có lọt vào trong, không có đường nào để đi ngoài con đường cố định dưới họng súng qua các lổ châu mai pḥng thủ. Chính v́ vậy, dù đă lọt vào địch cũng không xâm nhập vào trong được. Suốt đêm tới sáng đơn vị pḥng thủ chỉ có một đại đội trinh sát đánh chiếm lại từng khu một. Do tư lệnh sư đoàn bị kẹt bên trong, nên lực lượng tiếp viện được nhanh chóng đưa đến. Bên ngoài quốc lộ, thiết đoàn kỵ binh từ Long Định xuống tiếp ứng. Ba giờ sáng, tiểu đoàn tôi tại Chi Lăng, được lệnh chuyển quân xuống Kiến Hoà chận đường rút của địch, ngang qua Bộ Tư lệnh sáng sớm, c̣n mù mịt khói súng.
Tôi nhớ năm đầu Xuân tại căn cứ hành quân chiến đoàn 15, trong pḥng thuyết tŕnh ông khui chai sâm banh chúc Tết đơn vị. Có tiếng nổ, rượu tràn. Cái nắp bần đậy kín bắn thẳng vào khung h́nh treo đầu tường. Có tiếng kính vở, rớt xuống đất. Khung h́nh tổng thống Nguyễn văn Thiệu rơi xuống, như báo hiệu điềm trời. Tất cả mọi người cười gượng, như không có chuyện ǵ ngoài chuyện họp mặt đầu năm. Gần cuối năm đó thiếu tướng Di cho hay sẽ đổi đi Quân đoàn 1 làm Tư lệnh Phó cho trung tướng Ngô Quang Trưởng. Trước ngày ra đi, (tuần cuối tháng 10 năm 1973), ông xuống BCH hành quân của chiến đoàn 15 đang đóng tại Long Mỹ (thuộc Chương Thiện) ngủ lại qua đêm, lúc đó trung đoàn trưởng, trung tá Anh. Đêm đó, trời mưa nhỏ có lựu đạn nổ tại chợ Long Mỹ. Trung tá Anh lệnh cho tôi ra trước xem xét, sau đó thiếu tướng Di và Trung tá Anh ra quan sát. Tưởng là vậy, nhưng chỉ hai ngày sau lệnh thay đổi, thiếu tướng Trần bá Di về làm tư lệnh phó cho tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh quân đoàn 4.
Thiếu tướng Trần Bá Di là người rất am tường chiến trường ở quân khu śnh lầy, ông đă giữ mọi chức vụ từ trung đoàn trưởng, tỉnh trưởng, tham mưu trưởng quân đoàn, cho đến Tư lệnh sư đoàn 9 BB hơn bốn năm. Do thời gian lâu ở một đơn vị, ông xuống thường xuyên các nơi, nên ông biết rỏ khă năng từng người ông tin dùng. Ông không bị mua chuộc hay vị nể bởi những gởi gắm. Đó là trường hợp ở tôi, khi chuẩn tướng tham mưu trưởng quân đoàn muốn cho người thay tôi, lấy lư do tôi có lệnh phạt, thời gian tôi ở tiểu đoàn có lính đào ngũ (đơn vị chíến đấu nào mà không có lính đào ngũ). Thiếu tướng Di phê trên phiếu tŕnh công văn gởi đến. “Tôi là Tư Lệnh Sư đoàn hay ông ấy tư lệnh?” Khoảng 6 tháng sau điệp khúc cũ lập lại, gởi đến tŕnh lên lần nữa. Ông nói “Ngày nào tôi c̣n Tư Lệnh là ngày đó ông Lợi c̣n làm”. Cả hai lần, trung tá Ninh trưởng pḥng 2 sư đoàn đều cho tôi hay. Thật sự tôi không hề biết chuyện tham mưu trưởng quân đoàn “có ḷng quan tâm đến nội bộ đơn vị” xa như vậy. Với tôi Thiếu tướng Di chưa bao giờ nhắc đến chuyện nầy. Mọi việc coi như xếp lại, không có ǵ xảy ra.
Tôi không sống gần gũi bên tư lệnh, không có quan hệ riêng tư nào ở đời sống bên ngoài. Ông chỉ đến trung đoàn gặp tôi qua nhiệm vụ hành quân. Dù do ông cất nhắc ở chức vụ trưởng ban 2 trung đoàn (bước đi lên cho kế tiếp), một chức vụ chỉ huy không có tiền bạc ǵ đem lại cho bản thân, có chăng là có đại đội trinh sát trực thuộc, hàng tháng tôi phải báo cáo lên trên, về t́nh trạng tham chiến quân số, trang bị, hành quân. Công việc tiếp xúc là với địch quân ở chiến trường, đi bay với trung đoàn trưởng đổ quân, vẫn là chốn hành quân, đâu phải là chốn an thân thụ hưởng, tất cả đều là mệnh số nhận chịu. Nhưng cũng chính cớ sự xảy ra nầy, tôi hiểu được sự tranh giành chức phận, qua tiền bạc phe đảng, ở đâu cũng có. Tôi cảm thấy chán và nh́n lại đời sống bản thân, gia đ́nh ḿnh.
Với nghề cầm bút, ở đơn vị tôi không có sáng tác văn học ǵ phục vụ cho báo chí hay phát thanh của sư đoàn. Tôi chỉ có 3 lần ngồi bàn giấy bất đắc dĩ, do có người đề nghị. Lần thứ nhất tôi viết bài Thế Diêt Chốt và Cầm Địch (tôi kư tên, cấp bậc). Bài kế, B́nh Long Anh Dũng (Đại tá Cẩn kư). Bài thứ 3, bài nầy là một tập dầy, trung đoàn trưởng cho nghỉ một tháng lên xuống (hành quân và hậu cứ) để tiếp xúc và t́m hiểu tài liệu các Ban ngành trung đoàn, để viết thành Huấn Thị Điều Hành Căn Bản cấp Trung Đoàn bộ binh (Đại tá Diêu kư) để nộp về Bộ Tổng Tham Mưu theo qui định.
Tôi là người ở đơn vị nầy từ ngày mới ra trường rồi đi lên, nhưng với tướng Di tôi nghĩ ông là con người t́nh cảm, nặng ḷng với Sư đoàn 9 nhiều hơn các vị tư lệnh trước. Dịp tôi thực tập Không trợ 2, ở Trung tâm hành quân không quân và Quân đoàn. Tôi xin gặp ông trong văn pḥng Tư lệnh phó Quân đoàn. Khi nghe tôi muốn xin thuyên chuyển. Ông than một câu nghe chí t́nh “Ông Ǵnh đi rồi, giờ ông cũng đi nữa th́ c̣n ai làm việc cho Trung đoàn”. Nghe ông nói ḷng tôi thấy bồi hồi. Ông đă rời đi nhưng tấm ḷng ông vẫn c̣n ở sư đoàn cũ, biết và nhớ đủ mọi người.
Qua rồi một thời năm cũ, đôi lúc một ḿnh nhớ lại chuyện đời qua, bạn lính bạn tù, t́nh lính, t́nh người, trong tháng ngày c̣n lại nầy, ḷng không khỏi xót thương ngậm ngùi. Những năm tháng nghĩa t́nh bên anh em sống chết, gian nguy cực khổ để rồi cuối cùng là những chung cùng mạt vận, theo phận số đất nước.
Bạn tôi cho hay, mới đi thăm tướng Di về, nghe nói ông đă yếu đi nhiều sau tai nạn xe, tuổi đời đă lớn (ông sinh năm 1931), chắc không đủ sức đi xa cho lần họp mặt. Tôi chợt nao ḷng khi nghĩ đến chuyện năm nào, muốn nói một lời cảm ơn thầm lặng, chưa bao giờ nói, chuyện không mấy người biết. Cho dù hôm nay ông là Anh Ba trong gia đ́nh thuộc cấp, nhưng với tôi ông vẫn là Thiếu tướng Tư Lệnh ngày nào.
Rồi khi mọi chuyện tàn phai, vật đổi sao dời, vẫn là giai đoạn của một thời để nhớ, một đời không quên.
Hoài Duy
hoanglan22
04-06-2019, 18:28
(Để vinh danh những người lính không vũ khí, đă thi hành phi-vụ ngược ḍng thời-gian, trở về với dĩ-văng để đào xới những dấu tích bi hùng của một thời chinh-chiến. Xin thành kính nghiêng ḿnh trước anh linh của : Th/Tá Trương-Phùng Phi-Đoàn 518; Trung/Úy Trang Văn-Thành, Trung/Úy Tào-Thuận, các Trung-Sỹ nhất Phan Quốc-Tuấn, Nguyễn Thái-B́nh cùng toàn thể Phi-Hành-Đoàn Tinh-Long-07 AC119K của Phi-Đoàn 821 trong phi-vụ bảo-vệ thủ-đô SàiG̣n sáng ngáy 29 tháng 4 năm 1975. Tổ-Quốc tri-ân các anh.)
Hơn 33 năm trước đây, vào lúc chập-choạng tối ngày 28 tháng 4 năm 1975, trong khi phi-trường Biên-Ḥa đang bốc cháy và thành phố Sài-G̣n đang quằn-quại trong những giờ phút cuối cùng của một cuộc chiến sắp tàn, th́ một phi-tuần khu trục gồm 2 phi-cơ A1 do Đại-Úy Trần Văn Phúc và Trung-Úy Nguyễn Văn Bá thuộc phi-đoàn Phi-Long 518 đang quần thảo trên bầu trời vần-vũ những đám mây đen…
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1361639&stc=1&d=1554575211
Các anh vừa thi-hành xong phi-vụ hộ-tống đoàn xe của toán EOD thuộc bộ tư-lệnh KT&TV của KQ do Trung Tá Mạnh làm trưởng toán từ Biên-Hoà về Tân-Sơn-Nhất, sau khi đă hoàn thành nhiệm-vụ phá-hủy các pḥng sở và những dụng-cụ điện-tử để khỏi lọt vào tay giặc. Trong pḥng lái của chiếc khu-trục cơ, tiếng Đại-Úy Phúc rổn rảng báo cáo trên tần-số là phi-vụ hộ-tống đă được hoàn tất một cách mỹ măn, và đoàn xe đă an-toàn về đến địa-phận của thành phố, rồi anh cho phi tuần trực chỉ hướng phi-trường Tân-Sơn Nhất. Sau khi chia tay cùng Bá, anh lại ḥa ḿnh vào với ḍng người xuôi nguợc để về với gia-đ́nh. T́nh thế cấp bách của cuộc chiến không cho phép người lính chiến KQ của QLVNCH một phút ngơi nghỉ, để rồi sau bữa cơm tối vội vàng, anh lại phải chia tay với người vợ trẻ cùng đứa con mới sanh để phóng vào pḥng trực của biệt đội…
…Nửa đêm về sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, khi những người phi-công của KLVNCH chưa dỗ xong giấc ngủ chập-chờn sau một ngày làm việc mệt nhọc, đă phải choàng tỉnh đón nhận những luồng đạn tàn-bạo của quân thù đang tới tấp rót vào phi-trường, thành-phố…Nhưng trong cảnh mịt mù khói lửa, lẫn với tiếng đạn bay pháo nổ, người ta đă nghe được những tiếng gầm rú của phi-cơ AC119K, cùng khu-trục cơ A1, những con Mănh Long của KLVNCH đang lầm-lỳ đội pháo, xoải cánh bay vào vùng lửa đạn để tiêu giệt địch quân, bảo vệ mạng sống của đồng bào và đồng đội…
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1361638&stc=1&d=1554575211
Nhưng trận chiến nào cũng có cái gía của nó mà người lính chiến phải trả. Trong số những hiệp-sỹ không-gian của sáng sớm hôm đó, đă có những người hiên-ngang vượt qua ḍng sông định-mệnh, vạch một đường bay muôn thủa sáng ngời cho quân-sử của QLVNCH …Đó là những Phi-Long Trương-Phùng Phi-Đoàn Khu-Trục 518, Tinh-Long Trang Văn Thành, Tinh-Long Tào-Thuận cùng phi-hành-đoàn của chiếc AC119K Tinh-Long07 thuộc Phi-Đoàn 821…Riêng Phi-Long Trần Văn Phúc, người về từ cơi chết, đă đáp an-toàn, nhưng lần này anh không rổn-rảng cất cao giọng báo cáo “phi-vụ hoàn tất” mà đă phải nghẹn-ngào, bậm môi, trợn mắt nh́n những người bạn vừa mới đây cùng anh chia xẻ những nhọc nhằn, nguy-hiểm đă hy-sinh…
Rồi anh cùng các bạn đă cưỡng lại lệnh đầu hàng của tân Tổng-Thống, vượt thoát ra khỏi ṿng tay của kẻ thù để tới vùng đất tự-do. Sau 9 năm 10 tháng sống trong khắc-khoải đợi chờ, vợ con anh cũng đă được cùng anh đoàn-tụ…Nhưng trong tận cùng sâu thẳm của tâm hồn của một người lính, anh vẫn thấy đau nhói với nỗi dằn vặt của con tim, khi những h́nh ảnh hào-hùng của tráng-sỹ chập-chờn hiện ra trước mắt, và bên tai anh vẫn c̣n văng-vẳng lời nhắn nhủ của những người đă khuất năm xưa:
“ – Chúc các bạn ra đi được an-toàn, đă có chúng tôi ở lại để cản đường quân giặc. Nhớ lo chu-toàn đại-cuộc.”
Và trong cuộc sống an-b́nh trên miền đất tự-do này, anh vẫn thấy như ḿnh c̣n thiếu những ai kia một món nợ… Họ là những người lính chiến của QLVNCH đă hy-sinh nằm xuống làm viên gạch lót đường cho các anh tiếp-tục cất bước. Thân xác họ giờ đây đă tan biến vào với ḷng sâu của đất mẹ, nhưng những đống xương tàn và mảnh hồn u-uất chưa tan như c̣n đang lẩn khuất đâu đây để đón nghe những lời kinh cầu siêu-thoát…
Trải qua những tháng năm dài theo cuộc sống, anh đă âm-thầm kết hợp những người cùng một chí hướng, lập một phi-hành-đoàn đặc-biệt để thi hành “phi-vụ ngược ḍng thời gian”, trở về với dĩ-văng, đào xới những dấu tích bi hùng trong cuộc chiến, để trả lại cho cho quân-sử những ḍng sử sáng ngời chính-nghĩa. Trả lại cho gia-đ́nh những người đă khuất di-vật của tử-sỹ, để những vành khăn tang của góa phụ, của đàn con khỏi khắc-khoải đợi chờ, và để cho những anh hồn của tử-sỹ được thăng hoa nơi cơi vĩnh-hằng cao diệu-vợi…
Anh đă t́m được những tri-kỷ ư hợp tâm đầu để cùng nhau lo toan đại cuộc …Sau nhiều lần cùng KQ Raptor âm-thầm bay lượn trên bầu trời quê-hương, Hồn Thiêng Sông Núi đă không phụ ḷng những người chiến sỹ không c̣n mang vũ-khí…Rồi th́ trong một phi-vụ quyết định, qua sự phối-hợp tuyệt-vời với những tên tuổi thân quen của một thời chinh-chiến như: Phi-Long Trần Văn Phúc, Tinh-Long Trương Nguyên-Thuận, Không Quân RAPTOR (bào đệ của anh-hùng không quân Nguyễn Thành Công) KQ Mạc Đ́a, KQ PhiYến 51, KQ Mẫn, KQ Thanh, KQ Hùng Phan, LưuVong, cùng gia đ́nh và thân nhân của cố Th/sỹ Tiềm Em, cố Đ/U Chiến…Hợp với gia-đ́nh, thân nhân, bạn bè, niên-trưởng của “Hồn Tử-Sỹ”, và đặc biệt với khả năng thần-bí của cô Bé Năm, cuộc đào xới đă thành công mỹ-măn. Lần này th́ KQ RAPTOR đă thay anh rổn-rảng báo cáo trên tần-số “Phi vụ đă hoàn-tất, phi-hành đoàn rời vùng về đáp Tân-Sơn-Nhất.”
…Đêm nay từ một khoảng không-gian xa cách, khi ngoài trời những đọt sương mù đang tơi tả rụng xuống phủ kín cảbầu trời, có một người đang trằn trọc trong bóng đêm nghĩ đến những phi-vụ dài nhất của quân sử không-quân, mà một trong những phi-vụ đó là phi-vụ của một phi-công đàn anh lẫy lừng trong thời chiến: Thiếu Tá Trương-Phùng, thuộc phi-đoàn khu-trục Phi-Long 518... Trong sổ phi-lệnh có ghi: “Phi-vụ bảo-vệ thủ-đô, cất cánh khẩn cấp hồi 4 giờ 30 sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975…Về đáp trưa ngày 02 tháng 12 năm 2008.” Rồi anh nghĩ đến những người bạn như Trang Văn-Thành, Tào-Thuận và những người bạn khác, anh thầm gọi: “C̣n Tinh Long 07 đâu sao chưa thấy về đáp, chừng nào th́ bạn mới hạ cánh, bạn c̣n đủ xăng để tiếp-tục bay nữa hay không?” Không có tiếng trả lời…Anh thở dài lẩm bẩm :
“Chắc tụi nó hư vô-tuyến!”
Trần Ngọc Nguyên Vũ
(Tháng Tư oan nghiệt!)
nguoikhongten0224
04-07-2019, 15:14
Lính vui Xuân,
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1320011&stc=1&d=1545964022
chao ban minh dang doc trang cua linh sao gio tim khong ra xin chi gum
hoanglan22
04-08-2019, 02:07
chao ban minh dang doc trang cua linh sao gio tim khong ra xin chi gum
Bạn nói tôi chưa hiểu ư ??? Lính vui xuân chỉ là tấm h́nh của Thày ba post lên chứ không có bài nên không có trong mục lục ở trang đầu . Nếu bạn muốn đọc bài nào th́ vào trang đầu có mục lục nhấn vào bài đó sẽ xuất hiện số trang của bài :thankyou::handshake :
hoanglan22
04-12-2019, 02:29
Thiên Thần Mũ Đỏ Ai C̣n Ai Mất
Tôi vẫn nhớ rơ như mới nh́n thấy hôm qua những khuôn mặt, giọng nói tác phong của những anh em Dù đă cùng tôi vào sinh ra tử. Thiếu Tá Thanh Tiểu đoàn 8 mà đồng đội của người Tiểu Đoàn Trưởng nầy thường gọi là Thành Râu. Anh em chúng tôi có Thiếu Tá Châu Lùn Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1, Thiếu Tá Hạnh, Hào Hoa Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2, Thiếu Tá Trang Trĩ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3, Trung Tá Bùi Quyền, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 nổi nóng mặt đỏ gay, Thiếu Tá Lô Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7, biệt danh là Lô Lọ Rượu. Anh em chúng tôi c̣n có Cậu Út Biên Ḥa hay cậu "Bảy T́nh" Mười Lựu Đạn tức Trung Tá Thành, Tiểu Đoàn 6, Trung Tá Trần Đăng Khôi Lữ Đoàn 2 tài đức song toàn.
Thiếu Tá Đường TĐ9, thích làm thơ t́nh lăng mạn, gọi là Đường Thi Sĩ, anh em chúng tôi có Thiếu tá Hồng Thu, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 16 gọi Cô Thu. Chúng tôi có 2 Ngọc, Ngọc Long Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 và Ngọc Nga, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 4, Làm sao anh em Dù chúng tôi quên được, chúng tôi có 2 người bạn anh hùng, mỗi người chỉ có một mắt. Trung Tá "Bùi Đăng" trong thẻ quân nhân không phải họ "Bùi" cũng chẳng có tên "Đăng", tên anh là Bằng, Anh chỉ có một mắt. Nhưng những chiến sĩ của anh gọi anh một cách âu yếm là Bùi Đăng. Trung Tá Trần Văn Sơn, Lữ Đoàn Phó Lữ Đoàn 2 cũng chỉ có một mắt từ ngày c̣n là Đại Đội Trưởng Tiểu Đoàn 5, anh em Dù gọi là Hiệp sĩ Mù, tội nghiệp Sơn đă hy sinh trong trận chiến sau cùng tại mặt trận Phan Rang. Chúng tôi có Hiệp sĩ mù của chúng tôi, Hiệp sĩ mù của Thiên thần mũ đỏ không xử dụng cùng một loại vũ khí như Hiệp sĩ mù của phim ảnh và tiểu thuyết. Nhưng oai phong người Hiệp sĩ của Quê Hương ta chẳng thua sút sự hào hiệp của người trong truyện. Chúng tôi có Hiệp sĩ mù, chúng tôi có Bố Già. Làm sao quên Bố Già Lương Ruột Ngựa. Đỉnh Tây Lai, Bố già Đại Tá Lê Văn Phát, người tử thủ Khánh Dương, người lính già có mặt hầu hết những trận lớn của Quê Mẹ? Bố Già Lữ Đoàn 3? Đúng, chúng tôi có Bố Già đó.
Tháng 6/1972, sau trận B́nh Long, tôi được trả về Sư Đoàn Dù, ít lau sau SĐ Dù được đưa ra Đà Nẵng để tăng phái cho Quân Đoàn I. Lúc đó tôi là Lữ Đoàn Trưởng LĐ1 Nhảy Dù. Cùng với LĐ1 ra vùng I có LĐ2 và LĐ3. Thời gian nầy, Trung Tướng Dư Quốc Đống là Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù.
Sự phân phối các đơn vị Dù tại Quân Đoàn I lúc ấy như sau: 2 Lữ Đoàn ở phía Nam Đèo Hải Vân. Tháng 9/1972, tôi được bổ nhiệm làm phụ tá hành quân Tư Lệnh Sư đoàn Nhảy Dù. Vào tháng 8 năm đó, Trung Tướng Dư Quốc Đống bị bệnh, Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Tư lệnh phó Sư Đoàn được chỉ định đảm nhận Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, c̣n Đại Tá Bảo, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn th́ vừa tử nạn phi cơ, do đó tôi được đảm nhận trách vụ xử lư thường vụ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù một cách không chính thức. Cuối tháng 8, cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu triệu hồi tôi vào Dinh Độc Lập để làm lễ tăng chức Chuẩn Tướng cho tôi, và sau đó tôi được bổ nhiệm Tư Lệnh phó, xử lư thường vụ chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù đóng tại căn cứ Hiệp Khánh, cây số 17 Bắc Huế. Đến tháng 11/1972, tôi chính thức nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù, thay thế Trung Tướng Đống từ nhiệm v́ lư do sức khỏe. Khoảng thời gian 72 đến 75 ải địa đầu của Tổ Quốc của ta không phải là vùng đất b́nh lặng, Quảng Trị, Thạch Hăn, Chu Lai, Cố Đô Huế. Những danh xưng đủ nói lên những trời giao động. Những người lính chiến được đồng bào gọi một cách âu yếm là "Thiên Thần Mũ Đỏ". Trong suốt thời gian máu lửa đó đă có mặt khắp cùng trên những vùng đất ải địa đầu, cùng anh em quân nhân thuộc các quân binh chủng khác, mang lại cho đồng bào, tuy không phải sự b́nh yên tuyệt đối cũng là một t́nh h́nh khả quan.
Năm 1975, vào những ngày tháng Lịch Sử, chúng tôi đứng vững vùng I. Đập những nhịp tim tin tưởng, anh em chúng tôi, một mặt nh́n bao quát t́nh h́nh chiến trường khắp nước, một mặt theo dơi mọi tiến thoái của các đơn vị đối phương trong vùng, tay cầm súng sẵn, chờ địch quân. Thói quen tiến vào chỗ chết, thói quen chấp nhận trận địa mười thua một ăn mà vẫn chiến đấu oai hùng, làm cho anh em Dù, mặc dù tin tức giao động đến từ bốn phía, vẫn tiếp tục sẵn sàng chiến đấu, tiếp tục cố gắng.
Lệnh của cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gọi Sư Đoàn Dù về SàiG̣n hiện ra với tôi, bởi đó như một chấn động. Tôi chờ đợi mọi thứ trong tư thế sẵn sàng. Đợi đối phương ào ạt vượt sông Thạch Hăn, đợi chiến xa địch đến đây, miền Trung kiêu hănh từ những vùng rừng rậm Nam Lào. Nhưng tôi không chờ đợi được điều đó. Lệnh di chuyển SĐ Dù về SàiG̣n, lệnh không phải chỉ nghe một phía mà từ mọi hướng. Ngày 10.03.1975, Việt Cộng tấn công Ban Mê Thuộc. 11.03.1975 Ban Mê Thuộc thất thủ. Tổng Thống Thiệu gọi Trung Tướng Trưởng vào SàiG̣n nhận chỉ thị. Lệnh khủng khiếp, lệnh làm choáng váng, làm tan nát, đó là "Bỏ vùng I". Dường như muốn cho lệnh tổng quát đó được thi hành chính xác, Tổng Thống Thiệu đ̣i Trung Tướng Trưởng phải tức khắc cho rút Sư Đoàn Dù về SàiG̣n ngay. Cho chắc ăn, SàiG̣n qua lệnh rút Sư Đoàn Dù về, muốn trói tay Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I. "Trói tay" là một h́nh ảnh dễ hiểu nhưng có lẽ không đủ nghĩa. SàiG̣n đă lấy mất thanh gươm và chặt hết một cánh tay, cánh tay cầm gươm của Tướng Trưởng khi đối phương bắt đầu tiến tới.
Chỉ sau vài chục giờ sau khi lệnh Tướng Trưởng trả Dù về SàiG̣n, công điện tối mật của Tổng Tham Mưu do chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu kư gởi cho Tư Lệnh Sư Đoàn Dù hạ lệnh toàn bộ Sư Đoàn Dù rời khỏi miền Trung không chậm trễ. Lúc đó tin Thủy Quân Lục Chiến rút khỏi Quân Đoàn I cũng bắt đầu loan ra.
Ngày 17/03/75, sau khi đă thực hiện đầy đủ những giải pháp kỹ thuật cho các anh em Dù rời miền Trung, chuyển vận, tiếp liệu, an toàn khi ra đi v.v...tôi lên gặp Trung Tướng Trưởng để chào từ giă. Tôi nói với Trung Tướng Trưởng về việc Thủy Quân Lục Chiến cũng sẽ ra đi. Tôi cũng nói lên những lời hàm ư chia sẻ ưu tư của Trung Tướng về sự "Trói tay", sự tước bỏ mọi hỗ trợ trước một trận đánh lớn. Khuôn mặt Tướng Ngô Quang Trưởng, vẫn sẵn ưu tư, càng hiện ra ảm đạm. Ông chỉ cầm tay tôi nói:"Cảm ơn anh và các Anh em Nhảy Dù đă giúp tôi rất nhiều trong những năm qua".
Anh em quân nhân Nhảy Dù nghĩ rằng ḿnh được di chuyển toàn bộ về SàiG̣n. Các Sĩ quan chỉ huy từ Đại Đội cho đến Lữ Đoàn được loan báo là họ được di chuyển về thủ Đô VNCH. Tướng Trưởng được lệnh "trả Sư Đoàn Dù về SàiG̣n". Lệnh tôi nhận được cũng rất rơ rệt: Đưa Sư Đoàn Dù về SàiG̣n.
Có thể những sử học trong tương lai cũng tóm tắt sự di chuyển của anh em chúng tôi bằng những ḍng chữ "Tướng Thiệu, để chặt tay Tướng Trưởng, để gây cho Dân, Quân miền Trung sự kinh hồn tột độ, mở đầu cho tan ră ồ ạt, hạ lệnh rút Sư Đoàn Dù ra khỏi tuyến đầu".
Sự việc không hoàn toàn đơn giản như thế. Lệnh rút Sư Đoàn Dù về SàiG̣n chỉ là một lệnh bề mặt mà chiều sâu là phân tán Sư Đoàn Dù. Ông Thiệu áp dụng kế hoạch "Bẻ bó đũa" làm tan tành một đoàn quân bách chiến, một Binh chủng oai hùng, xô đẩy những Thiên Thần vào hỏa ngục. 12 Tiểu Đoàn Trưởng trên 18 linh hồn của đoan quân Mũ đỏ hoặc gục ngă ở chiến trường sắp đặt, hoặc rơi vào tay địch, có cả một Lữ Đoàn tan thành mây khói, có cả một Lữ Đoàn đánh đoạn hậu bảo vệ cho đồng bào di tản và tới phiên ḿnh quân trải trên một diện tích rộng lớn, chỉ xuống tay được mấy trăm con.
Lệnh tôi nhận được là chia Sư Đoàn Dù ra làm hai nhánh, một đi tàu thủy và một do không vận. Lữ Đoàn 1 và 2 di chuyển bằng phi cơ của Không Lực VNCH. Lữ Đoàn 3 di chuyển bằng tàu HQ-404 của Hải Quân VN. Lữ Đoàn 1 và 2 đến điểm hẹn như ấn định, nhưng Lữ Đoàn 3 không được đưa đến nơi. Khi HQ-404 đến gần Nha Trang th́ Hạm Trưởng nhận được lệnh đổ anh em xuống Nha Trang. Tôi chưa kịp ngạc nhiên, nhưng ư tưởng thắc mắc v́ sao Tổng Thống Thiệu nói đưa toàn bộ Sư Đoàn Dù về SàiG̣n để rồi phân tán một phần đi nơi khác. Dù vậy, không bao giờ tôi quên được khuôn mặt, mắt liếc xéo, nụ cười khoái trá, giọng nói chứa đựng thỏa măn, toàn bộ khuôn mặt toát ra một sự khoan khoái kỳ lạ. Cựu Tổng Thống nh́n tôi với tia mắt kỳ lạ đó với nụ cười ở cuối môi, ông nói: "Theo anh liệu Trung Tướng Trưởng có giữ nổi Quân Đoàn I khi tôi rút Sư Đoàn Dù về đây không?".
Mặc dù lệnh lạc lung tung, bảo về SàiG̣n lại đổ xuống Nha Trang, mặc dù bảo về dưỡng quân lại được ném ra mặt trận, là một quân nhân kỷ luật, ư thức được rằng sức mạnh đến từ kỷ luật sắt thép, anh em Lữ Đoàn 3 xuống Cầu Đá Nha Trang là lên đường đi chiến đấu ngay. Đại Tá Lê Phát, người nắm Lữ Đoàn 3 cũng là người có biệt hiệu "Bố Già" đặt Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn tại Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ. Nhiệm vụ của Lữ Đoàn 3 là nút chặn địch ở Khánh Dương giúp cho các Đơn vị của Quân Đoàn II rút lui an toàn. Biết rơ sự oai hùng của các Thiên Thần Mũ Đỏ của QLVNCH, Văn Tiến Dũng tung 2 Sư Đoàn với quân số 6 lần, là những SĐ 320 và SĐ 10 đánh bọc ngang hông. Lữ Đoàn 3 Dù b́nh tĩnh và oai hùng chiến đấu, quất cho quân địch tổn thất nặng nề. Lữ Đoàn 3 c̣n ở Khánh Dương, địch không thể đi lên một bước. Ngày 28/03, v́ quân số đối phương đông gấp 10 lần, nên không thể ngăn chặn vĩnh viễn, v́ lệnh SàiG̣n hay v́ một lư do nào khác, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đă ra lệnh cho Đại Tá Phát rút Lữ Đoàn 3 từ Nha Trang vào Phan Rang, sau đó lệnh lại được đưa xuống là bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn và các thành phần yểm trợ th́ rút về Phan Rang, c̣n 3 Tiểu Đoàn 2, 5, 6 th́ rút lên núi trấn giữ ở đó. Tại sao lại đưa 3 Tiểu Đoàn Dù lên núi? Nghe tin này tôi vội vă bay ra Phan Rang.
Tư Lệnh Nhảy Dù trên nguyên tắc và bởi định nghĩa là người chỉ huy binh chủng Nhảy Dù. Nếu không được tham dự vào việc hoạch thảo chiến lược, th́ ít nhất trách nhiệm chiến thuật phải được trọn vẹn. Tôi không được Tổng Tham Mưu hay Phủ Tổng Thống tham khảo một lần nào về chiến lược lui quân, kể từ ngày binh chủng Dù được bốc khỏi Vùng I, quyền chỉ huy, chiến thuật binh chủng Dù, quyền xử dụng anh em quân nhân Dù cũng vượt ra khỏi tầm tay của Tư Lệnh Dù. Anh em binh chủng tôi đặt chặt và giao cho người nầy một mảnh, người kia một miếng. Khi nh́n thấy chiến hữu của tôi bị vất vả cùng cực, tôi chạy ngược chạy xuôi đi can thiệp. Trong những giờ chạy đôn chạy đáo, ư tưởng ghê gớm lóe lên trong tôi, "Phải chăng một ác thần đang làm tê liệt hàng vạn tinh binh trước khi mở ra cuộc hỏa thiêu thành La Mă?".
Tôi bay ra Phan Rang gặp ngay Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi lúc đó là Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III, đang chỉ huy Bộ tư Lệnh tiền phương tại đây. Nơi đó tôi cũng gặp Tướng Sang Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân. Tôi yêu cầu cho trực thăng lên núi bốc 3 Tiểu Đoàn 2, 5, 6 về Phan Rang. Tướng Nghi chấp thuận, chỉ thị Tướng Sang cho Không Quân giúp. Anh em trực thăng đă rất nhiệt tâm và can đảm trong việc bốc hơn 1000 người bỗng nhiên bị ném lên một ngọn núi chơ vơ mà không một lư do chiến lược hay chiến thuật nào giải thích được cả. Lữ Đoàn 3 trong tư thế vững vàng, sẵn sàng chiến đấu nghiêm chỉnh trong vị trí đứng đắn. 30.03.1975, tôi tạm yên tâm, bay về SàiG̣n.
Vừa đặt chân đến Thủ Đô, tôi được lệnh Tổng Tham Mưu cho Lữ Đoàn 2 ra Phan Rang thay thế Lữ Đoàn 3, Lữ Đoàn 3 về SàiG̣n tái chỉnh trang Đơn vị. Tôi muốn hét to lên: Tăng cường chớ sao lại thay thế? Mặt trận đang nặng, rút một đập ngăn nước lớn đi, đập mới chưa dựng xong, nước sẽ ùa tới mang lụt lội tàn phá tan tành! SĐ 310 và 320 của đối phương đang di chuyển nhanh về vùng 3 chính vào lúc đầu tháng tu nầy. Sư Đoàn 10 của địch càn quét Nha Trang. Mặt Bắc là Sư Đoàn 10, Nam là các SĐ 310 và 320, tăng chúng ào ào, tù nhân thả ra do bàn tay bí mật từ các khám đường, một số quân nhân của một binh chủng bị mất cấp chỉ huy sinh rối loạn, chính trong biển hỗn loạn và tan vỡ đó, người ta ném Lữ Đoàn 2 Dù, những đứa con thân yêu ruột thịt của tôi, những bằng hữu vào sinh ra tử, nằm gai nếm mật của tôi trọn lượng ném vào khoảng trống, viên ngọc quư ném vào đại dương giông băo. 3 Tiểu Đoàn 3, 7, và 11 của Lữ Đoàn 2 chiến đấu như những con cọp bị vây hăm, dường như sợ cái đại dương hỗn loạn đó chưa đủ làm thành một hỏa ngục rực lửa, người ta không ai c̣n nhớ đến việc tiếp tế cho những Thiên thần Mũ Đỏ từ trời cao đáp thẳng xuống địa ngục A Tỳ. Anh em Lữ Đoàn 2 mặc dù t́nh h́nh rối loạn, mặc dù tin tức giao động từ bốn phía, mất Quân Đoàn I, Quy Nhơn thất thủ, Nha Trang thất thủ, anh em vẫn chiến đấu, cho đến viên đạn cuối cùng. Tiểu Đoàn 6 sau những trận oai hùng được lệnh Tổng Tham Mưu rút khỏi Phan Rang, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân của Đại Tá Biết thay thế. Nhưng Tiểu Đoàn 3 chỉ 100 anh em được trực thăng bốc về Phan Thiết, Tiểu Đoàn 11 mất liên lạc toàn diện. Tôi mất Thiếu Tá Thành, con chim đầu đàn của Tiểu Đoàn 11 và Đại Tá Nguyễn Thu Lương, mà anh em chúng tôi thường gọi một cách thân thương là "Lương Ruột Ngựa", con chim đầu đàn của Lữ Đoàn 2 cũng tại vùng đất lửa này. Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi cũng lọt vào tay địch ở Phan Rang.
Chiếc đũa Lữ Đoàn 2 bị bẻ găy, chiếc đũa Lữ Đoàn 3 bị ném tại Khánh Dương, bốc về Phan Rang, lửa hỏa lực nung nấu mệt nhừ. Ngày 8.4.1975, viên Trung Úy Không Quân tên Trung ném bom Dinh Độc Lập, về mặt dân sự, một số chính khách đối lập bị bắt giữ. Nhưng phản ứng của Tổng Thống Thiệu là đưa "chiếc đũa Lữ Đoàn 1" chiếc đũa c̣n nguyên vẹn của bó đũa bị tách rời từng chiếc, ra tăng phái Quân Đoàn III, dưới quyền chỉ huy của Tướng Nguyễn Văn Toàn. Ư tưởng rơ rệt trong tôi, và cả bây giờ là Tổng Thống Thiệu sợ đảo chánh nên phân tán các đơn vị Nhảy Dù ra các nơi. Tôi là Tư Lệnh Nhảy Dù nhưng tay chân hoàn toàn bị chặt hết.
Ư tưởng làm sống dậy h́nh ảnh, một ngày tại vùng I, ở Cố Đô Huế, tôi nói với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng: "Trung Tướng cứ để anh em tôi về SàiG̣n làm một chuyến, thử xem sao?" Trung Tướng lắng nghe lặng lẽ. Tôi hiểu Tướng Trưởng cũng như anh em chúng tôi là những người lính đơn thuần, chỉ lấy việc bảo vệ Quê Hương làm quan trọng, không màng ǵ tới danh vọng và chính trị, chúng tôi không có thói quen chọn lựa những quyết định không liên quan trực tiếp đến chiến trường. Cựu Tổng Thống Thiệu có nghe phong phanh về những toan tính đó không? Trong mọi trường hợp, lúc đó tôi nghĩ là ông phân tán anh em chúng tôi v́ nghi ngờ. Bây giờ tôi c̣n muốn nghĩ như thế. Trừ khi ông muốn bẻ tan bó đũa v́ lư do khác - Lư do khủng khiếp - Tôi không muốn nghĩ tới lư do đó. Tôi muốn nghĩ đến một sự nghi ngờ. Như một sự xua đuổi ư nghĩ ghê gớm kia.
Lữ Đoàn I ra Quân Đoàn III trấn giữ Xuân Lộc, tăng phái cho Sư Đoàn 18 do Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy. Nhiệm vụ của Lữ Đoàn là chận đứng bước tiến của VC vào SàiG̣n. Anh em Dù của Lữ Đoàn 1 đă oai hùng làm tṛn nhiệm vụ, địch quân không tiến thêm được một tấc đất. Đoàn quân viễn chinh của Vơ Nguyên Giáp, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Văn Tiến Dũng, tiến như thác đổ, bị khựng lại ở ngay cửa ngơ của SàiG̣n. Từng đợt xung phong có chiến xa và pháo binh yểm trợ, tất cả đều bị đánh bật, tiến lên là phải lùi lại, tấc đất đánh được buổi sáng, buổi chiều anh em Dù ngạo nghễ giành lại. Sau nhiều ngày giao tranh, Sư Đoàn 18 được lệnh rút về Biên Ḥa, Lữ Đoàn 1 chiến đấu giữ vững trận tuyến, từ đầu tới cuối. Sau chót đến đêm 28 rạng 29/04, Bộ Đội CS tấn công Lữ Đoàn 1 Dù ở Lăng Can, Bà Rịa đánh đến giờ chót, Lữ Đoàn 1 Dù mới rút ra Vũng Tàu. Tôi được lệnh trực tiếp do Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Dù, mà anh em chúng tôi âu yếm gọi là Đỉnh Tây Lai đứng ở dưới bờ bảo vệ cho những đứa con lên tàu. Người chỉ huy Nhảy Dù có thói quen ở với hiểm nguy cho tới phút cuối cùng, dành sự an toàn cho từng đứa con yêu quư. "Đỉnh Tây Lai" là một trong những Thiên Thần lẫm liệt đó.
Về phần Lữ Đoàn 4, từ Đà Nẵng được rút về SàiG̣n giữa tháng 02/74, biệt phái Biệt Khu Thủ Đô. Chính Lữ Đoàn 4, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Minh Ngọc, mà anh em Dù chúng tôi âu yếm gọi là "Ngọc Nga", đă chận VC ở cửa ngơ Thủ Đô, ngang Xa Lộ Biên Ḥa, trong những giờ khắc SàiG̣n bắt đầu rơi vào rối loạn. Lữ Đoàn 3 của Trung Tá Trần Đăng Khôi (Lữ Đoàn Phó mới thay thế Đại Tá Phát trong chức vụ Lữ Đoàn Tưởng Lữ Đoàn 3 Dù, Trung Tá Bùi Quyền Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5, thay thế Khôi trong chức vụ Lữ Đoàn Phó) từ Phan Rang rút về đóng ở Hoàng Hoa Thám, đánh những trận chót ngay trong ḷng Thủ Đô, mặc dù trăm ngh́n giao động cho tới phút chót. Đến những giây phút cuối cùng, anh em Dù vẫn giữ vững từng tấc đất được giao phó, hoàn thành nhiệm vụ thiêu thân nút chặn để đồng bào ra đi, để được ngă gục trên thân thể của Quê Mẹ ngh́n đời.
Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng
Tư Lệnh Nhảy Dù QLVNCH
hoanglan22
04-12-2019, 02:56
Đây là đoạn hồi kư của tôi trong những ngày Cộng Sản chiếm miền Nam, và 2 lần vượt ngục tù cải tạo trong 3 năm sống với chế độ Cộng Sản. Hồi kư nầy tôi viết tại trại tỵ nạn Mă Lai, Tiểu bang Kelantan, Tỉnh Kotabaru.
Lê Đ́nh An
Mùa Thu, năm 1978.
****************
Dĩ văng hiện lên đầu óc tôi như cơn ác mộng bi thương buồn thảm.!
…Ngày 21-4-75, tôi được báo cho biết có cuộc họp báo nơi pḥng Khánh Tiết (trong Dinh Độc Lập). Nội dung cuộc họp báo tôi chưa được biết, đó cũng là việc làm bảo mật thường ngày của khối Cận Vệ chúng tôi…
Cuộc họp báo lúc 19 giờ đêm 21-4-75.
Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức, bàn giao chức vụ lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương làm Tổng Thống theo Hiến Pháp do Lưỡng Viện Quốc Hội chỉ định.
Trong lúc chiến sự gay go nguy hiểm, Cộng quân đă chiếm toàn miền Trung và đang bao vây Tỉnh Long Khánh. Tin Tổng Thống Thiệu từ chức đă làm cho toàn thể Quân Lực đang chiến đấu với Cộng quân trên khắp các mặt trận bị giao động hoang mang mất hẳn tinh thần …
Đến chiều ngày 28-4-75. Tổng Thống Trần Văn Hương họp báo giao quyền Tổng Thống lại cho Đại Tướng Dương Văn Minh theo yêu cầu của Lưỡng Viện Quốc Hội VNCH.
Ngày 29-4-75. Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh trục xuất người Mỹ phải rời khỏi Việt Nam trong ṿng 24 giờ.
Cảnh tao loạn đă diễn ra khắp nơi trong đô thành, trong khi các phái bộ Hoa Kỳ cấp tốc rời khỏi VN do cuộc không vận khổng lồ từ các căn cứ ở Thái Lan, Phi Luật Tân và Hàng Không Mẫu Hạm Đệ Thất Hạm Đội chờ sẵn ngoài khơi. Trong lúc đó người dân VN cũng được không vận ra đi với các gia đ́nh nhân viên làm việc cho Mỹ, cũng trong số đó có cả quân nhân, công chức cùng thoát đi.
T́nh h́nh chiến sự càng lúc càng thêm nguy ngập, Cộng quân đă cắt hẳn các con đường vào thành phố và đang tập trung quân để bao vây đô thành….
Về phần tôi, sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, 2 ngày sau tôi được lệnh hộ tống đưa Tổng Thống phu nhân lên phi trường để đi Đài Loan.
Anh em Cận Vệ chúng tôi vẫn túc trực ứng chiến 24/24 tại Dinh Độc Lập.
Tôi được biết Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sau khi từ chức vẫn c̣n ở lại trong Dinh Độc Lập cho đến đêm 25-4-75. Phái bộ Hoa kỳ vào Dinh rước đi cùng lúc với thành phần Nội Các chánh phủ của Ông.
Khối Cận Vệ lúc bấy giờ do Trung Tá Vơ Trung Thứ điều hành, và tất cả Cận Vệ Viên từ Sĩ Quan, hạ Sĩ Quan và binh sĩ vẫn c̣n túc trực., v́ nhiệm vụ của khối Cận Vệ là bảo vệ vị nguyên thủ quốc gia . Khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra đi, chúng tôi lại có nhiệm vụ bảo vệ vị nguyên thủ đương nhiệm Tổng Thống Trần Văn Hương và rồi đến Tổng Thống Dương Văn Minh…
Đối với Ông Trần Văn Hương th́ tôi là một trong số những Người Nhái có nhiệm vụ bảo vệ cho Ông từ khi đang giữ chức vụ Thủ Tướng, Đại Tướng Nguyễn Khánh giải nhiệm Ông Trần Văn Hương vào năm 1965. Cộng Sản đă lên 7 bản án tử h́nh, BTL/HQ chỉ thị cho toán Người Nhái bảo vệ an ninh cho Ông.
Ông cụ mỗi đêm thường gọi tôi đến bên Ông ngồi chung trên chiếc vơng đong đưa trong tiền đ́nh của ngôi nhà Santa Maria tại Vũng Tàu..
Ông kể cho tôi nghe những mẩu chuyện trong đời Ông từ thời kháng chiến chống Pháp trong bưng biền và cho đến lúc Ông ra làm Đô Trưởng đô thành Sài G̣n Chợ Lớn, rồi đến chức vụ Thủ Tướng cho đến lúc bị giải nhiệm…Ông thân thiết và thường khuyên bảo tôi như con cháu trong nhà.
Được vài tháng sau tôi và một số NN trở về BTL/HQ để nhận công tác đo nước lập thủy đạo, cập nhật hải đồ các băi đổ bộ cho toàn miền Nam, từ Bến Hải đến Đảo Phú Quốc suốt mấy tháng trường.. Mải đến năm 1971, Ông Trần Văn Hương ứng cử Phó Tổng Thống chung liên danh với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Khối Cận Vệ Phủ Tổng Thống đề cử tôi làm Sĩ Quan trưởng toán Cận Vệ để bảo vệ cho Ông trong suốt thời gian Ông cụ đi vận động tranh cử cho đến khi đắc cử.
Sau lễ Đăng Quang nhậm chức Phó Tổng Thống, toán Cận Vệ chúng tôi trở về nhiệm sở khối Cận Vệ Phủ Tổng Thống, Ông cụ gọi tôi vào và ngỏ ư muốn tôi ở lại làm việc cho Ông, tôi cám ơn Ông cụ và từ chối..V́ nhiệm vụ của toán Cận Vệ chúng tôi là bảo vệ cho Ông cụ và cùng lúc huấn luyện cho toán Vệ Sĩ của Phủ Phó Tổng Thống về các phương pháp bảo vệ an ninh cho yếu nhân do Đại Úy Cương (cháu ruột của Ông cụ) làm Trưởng Toán.
V́ có những liên hệ như trên nên khi Phó Tổng Thống Trần Văn Hương đảm nhiệm chức vụ Tổng Thống VNCH do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bàn giao, tôi lại nhận trách nhiệm Sĩ Quan Cận Vệ cho Ông cụ.
Đến ngày 28-4-75.Đại Tướng Dương Văn Minh nhận chức vụ Tổng Thống VNCH do Lưỡng Viện Quốc Hội yêu cầu Tổng Thống Trần Văn Hương bàn giao..
Đại Úy Trần Bá Huệ (cháu ruột của Tổng Thống Dương Văn Minh) giữ chức vụ Trưởng Pḥng Cận Vệ, lại giao cho tôi và Chuẩn Úy Trang Đức cận sát để bảo vệ cho TT Dương Văn Minh. Đại Úy Huệ biết rơ và tin tưởng khả năng vơ thuật và tác xạ của tôi v́ Đại Úy Huệ phục vụ bên Vơ Pḥng Phủ Tổng Thống lúc trước, nên Đại Úy Huệ thường thao dượt luyện vơ với tôi. cũng v́ vậy mà tôi phải túc trực 24/24 .
Tối đêm 29-4-75. Cộng quân pháo kích vào đô thành khắp nơi, tôi và Thiếu Tá Trần Cchí Đức Trưởng Toán 4 Cận Vệ, đang phân phối điểm gác tại tư dinh số 3 đường Trần Qquư Cáp, Đại Úy Huệ giao cho tôi tấm vải trắng để xé ra đeo trên cánh tay trái để làm ám hiệu, tôi nghi ngờ hỏi Đại Úy Huệ : Tại sao lại dùng vải màu trắng làm ám hiệu ? Đại Úy Huệ không trả lời. Thiếu Tá Trần Chí Đức Trưởng Toán 4 liền lên xe Jeep bỏ đi mất.
Một lúc sau thấy không an toàn v́ pháo kích nên Tổng Thống Minh và Nội Các chánh phủ cùng gia đ́nh vào dinh Độc Lập nghỉ đêm..
Trung Tá Vơ Trung Thứ họp Sĩ Quan chúng tôi lại và rưng rưng nước mắt : Có lệnh cấp trên, các Anh Em hăy nghe tôi..Hăy nghĩ đến gia đ́nh các anh .. mà theo lệnh cấp trên. Buông súng xuống !.Tất cả nhục nhă nầy tôi xin gánh chịu..các anh đừng nên chống lại nữa vô ích…
Trung Tá Thứ c̣n nói nhiều nữa…Nhưng tôi không c̣n nghe ǵ được nữa cả..uất hận tuôn trào.. Tôi cảm thấy chơi vơi..nhục nhă ..đau đớn ê chề.. Tôi nghĩ nếu chúng tôi thật sự chống trả th́ dầu cho Cộng quân có bao vây dinh Độc Lập bằng chiến xa, pháo binh hay tấn công bằng phi cơ, th́ chúng tôi cũng có thể giữ được ít nhứt là nửa tháng…Chúng tôi căm tức nhưng biết ḿnh cũng không xoay sở được ǵ..!
Sau khi suy tính cùng các anh em Cận Vệ, tôi và một số anh em cùng lên xe Jeep chạy đến Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ với hy vọng được rời khỏi Việt Nam trong những chuyến trực thăng di tản cuối cùng, chớ không thể bó tay đầu hàng Cộng Sản được..
Nhưng chúng tôi không thoát được định mạng đă an bài, v́ khi đến Ṭa Đại Sứ Mỹ nh́n thấy dân chúng đang chờ đợi ngoài ṿng rào đông quá, không thể nào trực thăng chở đi hết được v́ đúng 12 giờ đêm 29-4-75 là hết thời hạn di tản. Chúng tôi chờ măi đến 5 giờ sáng ngày 30-4-75…
Thất vọng và chán nản quá.. chúng tôi đành quay trở về dinh Độc Lập ..Đầu óc tôi cứ quay cuồng câu Nước Mất, Nhà Tan .
6 giờ sáng ngày 30-4-75.Chúng tôi hộ tống Tổng Thống Dương Văn Minh qua dinh Thủ Tướng để họp Nội Các. Cộng quân bắt đầu pháo kích mạnh hơn vào thành phố, dân chúng chạy loạn khắp nơi… 9 giờ sáng, 2 chiếc trực thăng dành riêng cho Tổng Thống cất cánh rời khỏi dinh Độc Lập do các Sĩ Quan phi công bỏ đi đúng như dự tính, nhưng v́ tôi không có mặt nên đành lỡ chuyến..Dự đinh của chúng tôi sẽ đi khuya đêm 29-4-75, nhưng sợ cất cánh ban đêm sẽ bị bắn v́ có lịnh giới nghiêm, nên phải đợi đến sáng.
Trung Tá Lân- Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn An Ninh Danh Dự, Thiếu Tá Hậu- Trưởng Khối An Ninh Phủ Thủ Tướng và tôi cùng bàn thảo nên thoát đi bằng cách nào, nhưng vẫn vô kế, v́ đường về miền Đông và miền Tây đều bị cô lập..Chúng tôi nh́n nhau mà ḷng buồn man mác..
Tiếng súng vẫn nổ vang rền trên các đường phố, máy truyền tin bên cạnh chúng tôi vẫn vang lên lời báo cáo khắp nơi về..Cộng quân đang giao chiến tại G̣ Vấp..Ngă Tư Bảy Hiền đă thấy bóng Việt Cộng…Cầu Nhị Thiên Đường đang đánh…Tiểu Đoàn Dù đang đụng độ dọc theo các chốt đóng trên xa lộ..v.v.
10 giờ 30, chúng tôi hộ tống TT Minh về dinh Độc Lập, trên tay chúng tôi khẩu súng đă trở thành vô dụng, v́ không được nổ súng trong mọi trường hợp…Anh em chúng tôi đưa mắt nh́n nhau mà không nói được lời nào…Rồi việc phải đến đă đến..Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, đúng như sự nghi ngờ về ám hiệu màu trắng tôi đă nêu trên..
Đầu hàng.. Đầu hàng à… Trời ơi !!
Chúng tôi phải chịu nhục nhă như vầy sao ??
Tổ Quốc quấn khăn tang, mây che phủ đầu trên thành phố thân yêu…Hàng vạn nhà ra tro ra khói bốc cao trời..
Bài ca “Vuốt Mặt” như vang lên đâu đây…Làm cho tôi tê tái..giọng ca uất hờn..như tiếng nấc nghẹn ngào của Quê hương… VIỆT NAM ƠI !! VIỆT NAM ƠI !!
Thật không c̣n ǵ đau đớn cho bằng việc tôi nh́n thấy cảnh mất nước do một số người ham tranh giành ngôi vị..để rồi giờ đây đứng cúi đầu rước quân thù trên thềm dinh Độc Lập..nơi mà cả thế giới nh́n vào trên bốn ngàn năm lịch sử oai hùng của dân tộc..
***
Bắt đầu các tên Việt Cộng nằm vùng tiềm phục trong các cơ quan lộ mặt trong dinh Độc Lập th́ do tên thợ điện đứng ra tiếp thu rồi giao lại cho đơn vị bộ đội Hương Giang chiếm giữ.
Sau 5 ngày bị quản thúc tại dinh Độc Lập, chúng tôi được thả về để chờ lịnh tập trung cải tạo…Ḷng tôi tan nát không c̣n nghĩ suy ǵ được nữa cả..Tôi lang thang trên đường phố hết ngày nầy sang ngày khác. Từ thuở nhỏ cho đến bây giờ tôi chưa bao giờ rơi nước mắt v́ bị thương tích của thể xác, nhưng sao bây giờ nước mắt tôi cứ tuôn ra không sao cầm lại được..!
Đến ngày chúng gọi tất cả Sĩ Quan đi tŕnh diện học tập cải tạo mà tôi vẫn chưa nghĩ ra được cách nào để hoạt động chống lại bọn Cộng Sản v́ thời gian phải tŕnh diện quá ngắn và c̣n quá rối loạn, nên đành phải đi tŕnh diện học tập, mong nếu chúng giữ lời hứa là Sĩ Quan cấp Úy chỉ đi học tập cải tạo 10 ngày, sau đó mới có cơ hội hoạt động được.
Ngày 28-6-75 là thời hạn cuối cùng, tôi đến tŕnh diện tại trường Sơn Hà (Dakao). Đến 2 giờ sáng ngày 29-6-75, chúng điểm danh và đưa chúng tôi lên xe Molotova bỏ mui bố phủ kín lại trong khi di chuyển. Khoảng 4 giờ sáng đến nơi, có người biết nơi đây là Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 5 Công Binh (Thành Ông Năm) căn cứ nầy c̣n nguyên vẹn. Khoảng 9 giờ sáng bọn chúng ra lịnh chúng tôi đi thâu dọn tất cả đạn dược rơi rải khắp nơi trong trại để giao lại cho chúng. Riêng tôi vẫn nghi ngờ bọn chúng không thật sự giữ lời hứa, nên tôi lén đem giấu 5 trái lựu đạn M 26 nơi đốóng cát trước dăy trại của tôi ở.
Bắt đầu bọn chúng tổ chức chia chúng tôi ra từng khu vực, mỗi khu khoảng 150 người, mỗi đội gồm 5 hoặc 6 tổ, mỗi tổ 12 người. Tổ chức nhà bếp, nhà cầu và đào giếng nước. Tôi càng nghi ngờ hơn về chánh sách của bọn chúng, v́ nếu chỉ đi học tập trong ṿng 10 ngày th́ bọn chúng bắt chúng tôi phải làm tiện nghi có tánh cách dài hạn để làm chi ?.
Đến ngày thứ 3, chúng bắt đầu thâu tiền cơm 10 ngày, bọn chúng cho chúng tôi uống thuốc ngừa sốt rét ?, trong 5 ngày và phải uống trước mặt của chúng nó, tôi không tin v́ nghi ngờ nên chỉ ngậm trong miệng đem ra ngoài bỏ đi.
Lần lựa ngày nầy sang ngày khác, đă đến 10 ngày rồi mà bọn chúng không nói năng chi cả, có người hỏi th́ chúng trả lời các anh chưa học tập bài nào cả nên chưa về được. Rồi một tháng trôi qua chúng vẫn im ĺm..
BẮT ĐẦU NGHIÊN CỨU VÀ TỔ CHỨC VƯỢT TRẠI
Lợi dụng ban ngày c̣n đi qua lại các trại khác được, tôi qua khu trại kế bên để t́m người đồng tâm ư để sắp đặt kế hoạch từ trong trại nầy thoát ra rồi phải làm thế nào v.v.. Khoảng 2 tuần sau, tôi đătổ chức được 2 tổ, mỗi tổ là 2 người, tổ 1 tên Nam và Dũng, Nam là cháu của Giám Đốc Quan Thuế phi cảng Tân Sơn Nhứt, c̣n Dũng th́ có nhà thuốc Tây ở đường Bùi Viện Quận Nh́ Sài G̣n, gia đ́nh của 2 anh có ghe tàu sẵn, đang chờ 2 anh ra để vượt biên.
Tổ 2 Hoàng Trinh, Sĩ Quan Đại Đội Biệt kích Dù đă từng nhảy xuống Hạ Lào, và Nguyễn Hoành, Đại Đội Trưởng Biệt Động Quân. Anh Hoành biết được 2 thứ tiếng Thượng phổ thông. Dự tính tổ 2 khi ra khỏi trại sẽ vượt biên giới qua Thái Lan để t́m đường giây kháng chiến trở về giải phóng đất nước…Trong 2 tổ, tôi thích tổ 2 hơn v́ đồng quan điểm là chúng tôi phải làm ǵ cho quê hương đất nước chớ không thể khoanh tay.. Nhưng vẫn phải chờ cơ hội, v́ các anh đều c̣n hy vọng là được bọn CS thả về rồi mới xoay xở về sau.
Tháng thứ 2 đă trôi qua, bọn chúng bắt đầu cho học tập 10 bài chánh trị trong tháng thứ 3. Nội dung các bài có tánh cách phỉ báng chế độ VNCH, và ngụ ư tất cả người dân miền Nam đều có tội với cách mạng của bọn chúng qua nhiều h́nh thức khác nhau… Tháng thứ 4, sau khi học xong 10 bài, bọn chúng bắt tất cả phải khai tội đối với cách mạng, và dụ dỗ phải khai cho thật, chúng sẽ khoan hồng. v.v.
Tôi rất nóng ḷng v́ biết bọn chúng chẳng bao giờ thả tôi ra. Tôi giấu nhẹm không khai thành tích diệt Cộng Sản khi c̣n ở đơn vị Người Nhái đă từng tiêu diệt VC trong những lần phục kích và đột kích vào mật khu của chúng trong vùng Rừng Sát Nhà Bè, trong suốt mấy tháng hành quân phối hợp cùng với Seal Team Hoa Kỳ .. Nhưng tôi vẫn lo không biết là hồ sơ trong đơn vị c̣n nguyên hay đă được tiêu hủy trước khi chúng vào..
Tôi tổ chức một người bạn ngày trước làm việc tại BTL/HQ/P4. ở gần pḥng tắm của bọn cán bộ để lấy tin tức t́nh h́nh ở ngoài như thế nào, sau mấy tuần tôi được biết ở ngoài đă có biểu t́nh đ̣i chồng con đang đi học tập, và có đụng độ ở Đèo Cheo Reo và Đèo An Khê, Ban Mê Thuột có pháo kích do phần tử ly khai của Quân Đội VNCH thực hiện..
Những tin nầy càng làm cho tôi tin chắc các Sĩ Quan sẽ khó mà được chúng thả về. Tôi đem tin nầy bàn với tổ 1, Nam và Dũng đều không dám vượt rào, tôi đành phải nói xuôi theo là cùng chờ đợi..Tôi bàn với tổ 2 , Hoành và Trinh hơi ngần ngại, nhưng tôi khích động nên 2 anh đồng ư vượt rào, kế hoạch từ trong ra ngoài th́ bên của ai nấy lo, và hẹn điểm gặp nhau ngoài ṿng rào là băi tha ma cách ṿng rào phía Đông chừng 700 thước.
Tôi đem những điều đă nghiên cứu như sau cho Hoành và Trinh biết :
Hệ thống pḥng thủ : Cô lập từng khu; an ninh mật báo từng tổ(v́ thế mà tôi không tổ chức vượt rào trong đội của tôi); giới hạn đi lại qua con đường nhựa; ban đêm có lính gác đôi lưu động có đèn rọi sáng cả con đường nhựa; bờ đê cao 2 thước; 6 lớp Consertina;4 lớp rào kẽm gai, rào đứng, xiêng, ngang và hào chống chiến xa sâu 4 thước, rộng 5 thước; 2 giờ đổi gác 1 lần;ở ngoài ṿng rào khoảng 2 giờ có toán tuần tiễu (đoán theo tiếng chó sủa).
Khi thoát ra đến điểm hẹn ngoài ṿng rào nơi băi tha ma, nếu quá 2 tiếng đồng hồ không gặp nhau th́ tự t́m về Sài G̣n, qua ngày sau sẽ gặp nhau tại điểm hẹn ở xa lộ Biên Ḥa, trễ nhứt là ngày thứ 3 sau khi ra được phải gặp nhau để bàn tính thêm kế hoạch vượt biên giới…Bây giờ chúng tôi chỉ c̣n chờ cơ hội và thời tiết thuận tiện.
Đời sống của các Sĩ Quan VNCH trong các trại giam cầm mà bọn CS gọi danh từ thật hoa mỹ là “Học tập cải tạo” thực ra chỉ để trả thù tập thể Quân Đội VNCH, giết lần ṃn v́ đói thiếu dinh dưỡng, bịnh tật v́ không có thuốc men. Trong tổ của tôi có anh bạn Trần Văn Hồ bị bịnh tiêu chảy suốt 1 tuần lễ mà pḥng Y Tế không cho một giọt thuốc nào cả, đến tuần lễ thứ 2 th́ bịnh biến chuyển qua kiết lỵ, anh em cùng tổ lo cho nhau chớ pḥng Y Tế không ngó ngàng ǵ đến.. Ăn uống quá thiếu dinh dưỡng, chỉ trong ṿng 2 tháng mà trại đă có khoảng 40% bị liệt bại.
Tôi nghi ngờ là bị chúng đầu độc bằng thuốc mà bọn chúng đă cho uống khi mới vào trại, từ khi uống thuốc vào, khoảng chừng 2 tháng rưởi sau, đang đứng mà té lúc nào chẳng hay.
Trong suốt gần 4 tháng mà chúng tôi chỉ ăn được mỗi tháng một lần thịt heo, mỗi người được khoảng 8 gram thịt, mỡ lẩn da . Tôi nghĩ may là trại nầy c̣n được mấy con heo do trại gia binh quân đội VNCH bỏ lại, nên bây giờ chúng tôi mới được ăn thừa của bọn chúng bỏ ra cho.. Thèm thịt, thiếu mỡ, không đường, nên chúng tôi bắt tất cả con ǵ ăn được mà ăn như chim chóc, rắn rết,chuột, ếch, cóc nhái, ảnh ương .v.v.
C̣n về tinh thần anh em Sĩ Quan th́ lụn bại thê thảm, tất cả đều bi quan về cuộc chiến thảm bại vừa qua, ư nghĩ của họ mong mỏi được CS khoan hồng mà thả họ về với gia và đ́nh phục hồi đời sống cũ …Cũng trong trại tôi có gặp 2 người bạn ở trại kế bên , một anh lúc trước chỉ huy toán pḥng không dinh Độc Lập, thuộc Toán 4, khi chiếc phản lực cơ do tên phản nghịch Nguyễn Thành Trung, mang bom dội vào dinh Độc Lập, anh đă kịp thời bắn chận nên lần thứ 2 bom thả đălệch ra ngoài v́ không c̣n chính xác , và anh Trưởng Toán gác dinh Độc Lập. Tôi đem ư định vượt rào th́ anh nào cũng không dám thực hành mà cũng chỉ mong được thả về đoàn tụ với gia đ́nh…
Thời cơ đă đến do việc chúng nó phát động phải tích cực lao động nặng. Tôi suy đoán là chúng nó sắp chuyển chúng tôi đến trại khác xa xôi và làm việc nặng nhọc hơn. Tôi bàn tính với Hoành và Trinh nếu để chúng đưa đi trại khác th́ chúng ta không thể biết được t́nh h́nh nơi đó, nếu muốn vượt trại chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, tôi đề nghị vượt trại vào ngày 16-9 âm lịch là ngày 21-10-75. Hoành và Trinh hỏi tôi tại sao lại chọn ngày trăng tṛn mà ra ? Tôi trả lời :
“Ḿnh chọn ngày đó là v́ yếu tố bất ngờ, bọn chúng nghĩ chúng ta không dám ra trong những đêm có trăng sáng, chúng sẽ chểnh mảng hơn, và kế hoạch tôi là sẽ vượt ra lúc 8 giờ tối, sau 7.30 giờ điểm danh th́ bọn chúng thay vọng gác mà đi tuần dưới đất, và trước 9 giờ giới nghiêm, và giờ đó trăng chưa mọc. C̣n thoát ra th́ 2 anh nghiên cứu như thế nào th́ hăy cố gắng vượt ra, c̣n tôi th́ đă có cách riêng. Chúng ta phải đi riêng rẽ, chúng nó khó phát giác hơn. “
Tôi khích động tinh thần :
“Chúng ta toàn là tay thiện chiến, Biệt Động Quân, Biệt Kích Dù và Người Nhái, chúng ta phải chứng tỏ cho chúng nó biết khả năng của chúng ta”.
Tôi tiếp:
“Tôi nói thật với các anh, nếu ngày mai nầy chúng nó thả tôi ra mà ngày hôm nay có cơ hội tôi cũng thoát ra trước khi chúng nó thả..”
Tôi khích động tinh thần và danh dự Binh Chủng của các anh nên 2 anh đồng ư theo chương tŕnh đă hoạch định cho ngày 21-10-75.
Vượt trại.! Vượt trại !! Tiếp theo có tiếng súng nổ và tiếng kẻng đánh liên hồi…và lịnh tập họp điểm danh lúc 2 giờ khuya đêm 14-10-75. Tập họp điểm danh, báo cáo quân số xong, chúng tôi được biết có 2 Sĩ Quan cấp Đại Úy đă vượt rào bị phát giác và bị bắn chết 1 anh tại hàng rào và 1 anh bị thương nơi chân, chúng kéo lôi anh nầy vào để tại hội trường để cảnh cáo chúng tôi hăy xem đó làm gương…Sáng ngày các anh em bó chiếu xác anh đă chết và chôn tại chỗ, c̣n anh bị thương th́ chúng mang đi đến các trại khác để cảnh cáo.
Sự việc xảy ra đă làm cho Hoành và Trinh mất tinh thần không ít. tôi cố gây niềm tin cho 2 anh, phân tách kỹ những lỗi lầm của nạn nhân cho Hoành và Trinh thấy : Các anh đó chọn thời điểm không đúng, 2 giờ khuya thanh vắng quá, nhằm ngày mồng 9 âm lịch, giờ đó có trăng non, và mặc đồ màu xanh lợt nên dễ bị phát giác, và c̣n nhiều chi tiết mà tôi không biết rơ..
Chúng tôi cùng kiểm soát lại kế hoạch xem coi có cần bổ khuyết hay không ?! Và chúng tôi cương quyết vượt trại giam, với tinh thần bất khuất, bất chấp mọi nguy hiểm sẽ xảy ra cho ḿnh. Tôi rất tin tưởng ḿnh sẽ vượt ra an toàn..Chúng tôi chờ đợi chỉ c̣n đúng 1 tuần là đến ngày quyết định với cảnh giác căng thẳng tột độ..
21-10-75. Ngày, giờ quyết định đă đến, lúc 7giờ tối tôi mang qua trại của 2 anh Hoành và Trinh 3 trái lựu đạn M 26 (tôi đă giấu trong đống cát như đă kể trên) c̣n tôi giữ lại 2 trái. 2 anh ngạc nhiên, tôi giải thích cho 2 anh biết và căn dặn, nếu lỡ bị phát giác khi trốn ra th́ phải hy sinh chớ đừng để chúng nó bắt lại.
.. Chúng tôi cùng kiểm điểm lại lần cuối cùng kế hoạch đào thoát. Hoành là người hoạt bát và nhờ thế nên Hoành đă nhờ cán bộ mua giùm 100 gr café và đường cách nay hơn một tháng, tôi đă dặn Hoành để dành lại cho ngày hôm nay 3 ly café đặc. Chúng tôi vừa uống vừa tính toán, khi xong hết, Hoành nói là cần mang theo mền và mùng v́ đó là kỷ niệm đời binh nghiệp của anh. Tôi không đồng ư nên ngăn cản .
Trong lúc đó lại thấy gió thổi mạnh và mây đen kéo đến làm cho anh em chúng tôi lên tinh thần vô cùng, tôi thầm nhủ “Trời thương anh em chúng con rồi !”.
19giờ 30 là giờ tập họp điểm danh, tôi từ giă Hoành và Trinh hẹn đúng 20 giờ vượt trại và gặp nhau ngoài điểm hẹn tại băi tha ma. Tôi lần ra hàng rào kẽm gai cô lập trở về trại ḿnh. Tôi đă tạo thói quen là cứ đến khoảng 19 giờ là tôi giăng mùng sẵn để các người cùng tổ không để ư tới tôi, hôm nay cũng vậy. Ttôi từ bên trại của Hoành và Trinh về, tập họp điểm danh xong tôi liền vào mùng nằm, chừng 20 phút sau, tôi ra đi tiểu, lúc nầy gió thổi rất mạnh, mưa bắt đầu rơi, trại chúng tôi cũng như trại của vệ binh VC đều lo đóng cửa sổ, thừa lúc lộn xộn đó tôi vội bước qua hàng rào kẽm gai lọt qua khu vực của vệ binh VC, đi nhanh ra bờ đê và lăn nhanh qua bờ đê, tôi nằm im để nghe động tịnh và móc ra 2 miếng cao su, (Tôi lấy ruột xe mà bọn VC bỏ lại khi chúng cắt các vỏ xe máy ủi đất để làm dép, tôi đă cắt lỗ để xỏ mấy ngón tay và đem cất giấu) tôi mang 2 bao tay giă vào và ḅ đến hướng đă định, dùng bao tay giả đó để nâng đỡ kẽm gai, lách ḿnh chui qua, tôi làm rất thận trọng, nhanh nhẹn và chính xác, v́ tôi đă nghiên cứu thật kỹ từ loại kẽm gai và cách thức rào ra sao như rào đứng th́ bợ lách như thế nào, rào xiên th́ phải nâng đẩy và đưa chân nào ra trước, rào thấp ngang mặt đất th́ phải nằm ngửa và đỡ từng sợi kẽm gai, rào consertina phải lách và chun qua làm sao…V́ thế nên vượt qua 10 lớp kẽm gai hàng rào và hào chống chiến xa, chỉ trong ṿng 15 phút đến 20 phút th́ tôi đă có mặt ngoài hàng rào rồi, tôi tiến nhanh vào lũy tre cách hàng rào khoảng 50 thước ẩn ḿnh vào bóng tối của lũy tre để tránh đường chân trời..
Mưa bắt đầu nặng hột, tôi thu ḿnh dưới lũy tre cố giương mắt nh́n về hướng điểm hẹn băi tha ma cách đó khoảng 100 thước, v́ đề pḥng 2 anh bạn bị lộ có thể chỉ điểm cho cán bộ bao vây.
Cơn mưa kéo dài đến khoảng 11 giờ đêm, vẫn không thấy bóng dáng của Hoành và Trinh, c̣n ở trong khu trại giam cũng không nghe báo động. Mưa đă tạnh lần, tôi di chuyển ngược lên hướng đào thoát của Hoành và Trinh để đón cũng không thấy tăm hơi chi cả. Tôi nóng ḷng, suy nghĩ không lẽ 2 anh bạn nầy không dám vượt ra ?. Càng về khuya càng cảm thấy nhiều nguy hiểm ! Nhưng tôi vẫn cố gắng đợi chờ, câu hỏi tại sao, tại sao cứ loanh quanh trong đầu óc của tôi. Cảnh đêm khuya hoang vắng cạnh băi tha ma trong rừng chồi nó âm u làm sao !. Tôi cố chờ măi đến khoảng 2 giờ khuya, bầu trời lại bắt đầu vần vũ, mây đen kéo đến mờ mịt. Biết sắp có trận mưa to, tôi lo ngại quá, v́ điểm hẹn chỉ cách hàng rào trại giam có khoảng 700 thước..Trời mưa mà tôi đổ mồ hôi hột v́ lo cho 2 bạn của ḿnh, tôi không nở bỏ đi. . Nhưng ở lại th́ thập phần nguy hiểm có thể bị chúng bao vây bắt lại..
Tôi đang suy tính bỗng nghe có tiếng nói và tiếng chân người đi tới, tôi cấp tốc nép ḿnh vào bụi cây, ḷng hoang mang hồi hộp chờ đợi.. Khi đoàn người đến gần, tôi lắng nghe tiếng nói chuyện … À ! th́ ra là những người dân trong thôn xóm đang gánh rau cải ra chợ bán.! Ư nghĩ thoáng nhanh trong đầu tôi, ḿnh phải rời khỏi nơi nguy hiểm nầy trước, về Sài G̣n rồi sẽ gặp nhau tại điểm thứ 2 an toàn hơn, v́ địa thế nơi đây tôi không biết nên sẵn dịp nầy tôi nương theo những người gánh hàng để tránh các chốt chận khám xét của VC.
Và tôi đă ra đến chợ Hốc Môn, tôi đón chuyến xe đ̣ sớm nhứt và về đến Sài G̣n lúc 7 giờ sáng. Tôi đến nhà người bà con bên vợ để hỏi thăm tin tức và liên lạc với vợ con , tôi và vợ con gặp lại nhau sau 6 tháng qua người bà con nầy, tôi ở tạm đây vài hôm để liên lạc với Hoành và Trinh, nhưng suốt mấy ngày liền tôi đến điểm hẹn đều không có tin tức của 2 anh. Thế là chương tŕnh dự tính vượt biên giới qua Thái Lan không thành.!
Sau mấy ngày ở tạm nhà người bà con, tôi từ giă và di chuyển qua nhà anh Nguyễn Thành Nhơn ở tạm phía sau để liên lạc lại với các anh em đồng chí hướng.
Trước năm 1975. Anh Nguyễn Thành Nhơn, là Chủ Tịch Tổng Cuộc Phong Trào Thể Dục Thẩm Mỹ Việt Nam và cũng là Chủ Tịch Tổng Cuộc Thám Hiểm và Săn Bắn Cá Dưới Biển VN. Giám Đốc Chương Tŕnh Sức Khỏe Giống Ṇi ,trên Đài truyền h́nh VN.. Đối với tôi, anh Nguyễn Thành Nhơn là người Thầy và cũng là người Anh tinh thần của tôi, v́ trước khi nhập ngủ vào Quân Đội tôi đă được anh huấn luyện trở thành Huấn Luyện Viên của pḥng tập Trung Ương, và tôi cũng là hội viên của Hội Thám Hiểm và Săn Bắn Cá Dưới Biển VN..
Tôi ở ẩn trong nhà anh và thường xuyên liên lạc với các anh em cùng đơn vị (Xin tạm dấu tên v́ các anh em c̣n đang ở VN). đang chờ đợi những đường dây yểm trợ từ ngoài về để cùng nhau hoạt động lật đổ chế độ Cộng Sản bạo tàn nầy..
NGÀY ĐỊNH MẠNG ĐƯA TÔI VÀO TÙ LẦN THỨ NH̀
Ngày 9-4-76-Sau 6 tháng vượt trại tù Thành Ông Năm .
Vào lúc 7 giờ tối, tôi đang đứng chờ vợ tôi làm việc ở ṭa soạn báo Tin Sáng, măn việc ra về, tôi đón nàng để đưa lại chiếc xe velo solex cũ (không có gắn máy) V́ thương con sợ con bị kẹt chân vào bánh xe làm con đau v́ nó đă bị kẹt một lần rồi nên tôi vừa gắn chiếc yên nhỏ để cho vợ tôi chở con tôi..V́ thân phận vượt tù nên tôi phải trốn tránh không thể để cho bà con thân thuộc biết được. Tôi đang đứng chờ đợi ở trước trụ sở Khóm mà tôi không biết v́ chúng không có treo bảng, khoảng chừng 15 phút, tôi thấy 2 tên Công An trong trụ sở đi đến hỏi giấy tờ của tôi, tôi lo sợ nhưng không c̣n tránh né được nữa đành phải đưa giấy tờ ra, chúng giữ giấy tờ của tôi và mời tôi vào trụ sở, tới lúc đó tôi mới biết là đang đứng trước hang cọp. Vừa lúc đó vợ tôi nghỉ việc ra về vừa đi tới, tôi vội trao chiếc xe cho vợ tôi và dặn “Anh đang bị theo dơi em hăy đi nhanh đi..hăy lo cho con..”
Rồi tôi theo Công An vào trụ sở. Sau khi xem giấy tờ tên Công An nghi ngờ giấy tờ của tôi là giả, nên giữ tôi lại để chờ điều tra lại địa chỉ. Ḷng tôi lúc đó như lửa đốt v́ tôi biết sẽ không thoát được, giấy tờ của tôi toàn là giả th́ làm sao chứng minh được?
Tôi nghĩ hậu quả sẽ vô cùng thảm khốc, nên có ư định hạ tên Công An đang canh gác. Tôi xin đi tiểu để xem địa thế. Xung quanh ṭa trụ sở nầy tường cao khoảng 2 thước phía trên đầu tường có gắn miểng chai lại c̣n 1 ṿng kẽm Consertina, phía sau có dăy nhà bếp, pḥng chứa củi và nhà cầu, trên nóc nhà cũng có ṿng kẽm gai Consertina. Tôi vào pḥng tiểu, suy tính chỉ có phía sau là hy vọng nếu nhảy qua được phía bên nhà khác…Tôi nghĩỉ đă đến đường cùng rồi nên quyết định hy sinh nếu không thoát được th́ thôi !. Tôi ra khỏi nhà cầu và bước theo tên Công An bất thần tung ra một quả đấm vào hàm hạ của tên nầy, nhưng rủi thay, tên nầy trước khi bị ngất xỉu đă la lên một tiếng, tôi chạy nhanh lấy đà đạp lên thành tường nhảy lên nóc nhà phía sau, chạy dọc theo đường kẽm gai, trong lúc đó bọn Công An túa ra và bắn theo tôi, tôi vẫn cố chạy trên nóc nhà,dự tính nhảy qua nóc nhà khác, bỗng tôi bị trượt chân v́ miếng ngói tróc xi măng nên đành nhảy trở xuống đất.. Thôi rồi ! Mặc t́nh cho bọn Công An xúm lại c̣ng tay tréo ra sau rồi chúng thi nhau đấm đá vào thân thể tôi, chúng treo tôi lên cửa sắt với chiếc c̣ng sắt, sức nặng của thân h́nh trên 60 kư lô mà bị treo hỏng chân tréo tay như thế, nên tôi không c̣n sức chịu đựng với những trận đ̣n như mưa bấc..Thân ḿnh tôi gục xuống như tàu lá rủ..
Sáng hôm sau chúng đưa tôi lên khẩu cung, Để tránh liên lụy cho anh Nguyễn Thành Nhơn, tôi khai theo lời sắp sẵn là “sĩ quan trốn trại học tập về thăm nhà, nhưng không dám về nhà v́ biết Công An canh chừng nên phải lang thang ngoài chợ trời, đêm đến th́ mướn chiếu ngủ ngoài nhà ga xe lửa. v.v”. Sau đó bọn chúng giải tôi qua pḥng giam Quận Nh́, trên đường đi tôi có ư định nhảy xuống xe nhưng không có cơ hội v́ chúng nó c̣ng tay tôi chung với ông kư giả Trần Hhồng Thu.
Đến Quận Nh́, sau khi làm thủ tục, chúng đem tôi và ông Thu vào pḥng giam…
Nơi đây thật đúng là địa ngục ở trần gian! Chúng vừa mở 2 lớp cửa sắt ra, mùi hôi nồng nặc, chúng xô tôi vào trong rồi khóa cửa lại. Cảm tưởng cửa tôi nơi đây như là nhà thương điên…Trong ánh sáng âm u tôi thấy không biết là bao nhiêu người, thân h́nh gầy guộc trần truồng như nhộng. Lớp th́ bất động miệng thều thào..C̣n những người mạnh hơn th́ bao quanh tôi, xô đẩy nhau dành được đến gần tôi, thật là một cảnh tượng kỳ lạ mà tôi chưa bao giờ thấy. Tên đại diện trại giam phải đánh đập la thét những người nầy mới chịu dang ra khỏi tôi, tên đại diện hỏi tôi có mang theo thuốc lá không ? Tôi trả lời không có v́ tôi không biết hút thuốc. Tốp người vây quanh tôi mới thở dài chán nản. À ! th́ ra các người tưởng tôi mới vào có đem theo thuốc lá nên mới tranh nhau để xin thuốc lá. Tên đại diện trại giam đưa tôi vào trong một pḥng giam phía trong nữa rồi khóa lại. Các người vây quanh hỏi thăm tôi đủ chuyện , tôi chán nản ngồi bó gối không muốn trả lời, v́ biết có trả lời cũng không xuể.
Đời sống trong trại giam nầy chắc không có ai tưởng tượng được, pḥng c̣n để bảng pḥng giam rộng 8 thước vuông , phạm nhân giam chứa tối đa là 40 người, nhưng bọn CS đang giam gần 300 người. Nơi đây nếu người nào đứng lên th́ mất chỗ ngồi, và không đủ không khí để thở, v́ vậy mà đêm ngày ǵ phạm nhân cũng ḿnh mẩy ướt đẫm mồ hôi, ăn uống không có dinh dưỡng, một bữa ăn là 2 chén cơm lường bằng chén nhỏ cho mỗi người, đổ chung vào cái thau nhôm với 4 giá canh rau muống nấu với muối hột, 6 người ăn chung với 3 chiếc muỗng chia nhau múc ăn, v́ tranh ăn nên bữa ăn nào cũng căi vă, đánh đấm nhau , ồn ào suốt ngày đêm..Ban đêm th́ nằm sắp chồng lên nhau, tới lỗ cầu tiêu cũng được nhét giẻ lại để nằm, các song sắt trong hai pḥng giam riêng cũng được chia nhau đeo vào song bằng chiếc áo lót cột ngang lưng để ngủ.
V́ t́nh trạng nêu trên nên những người bị bắt vào đây chỉ trong ṿng 2 tháng là bắt đầu bị ghẻ, loại ghẻ thiếu dinh dưỡng nầy nổi lên thành vành chính giữa th́ lơm sâu và chảy nước vàng. Nước vàng nầy chảy đến đâu th́ ghẻ lở chỗ đó, và sau đó bị liệt bại, ban đêm bị ghẻ lở hành hạ, bịnh nhân la khóc vang trời..Tôi có cảm tưởng như đang ở Địa ngục, thỉnh thoảng có người chết v́ liệt bại, thân xác nạn nhân dược lôi ra khỏi pḥng.
Tôi cố gắng giữ sức khỏe, hàng ngày đều tập thể dục, chạy bộ 400 bước, hít đất 100 cái, tập tay mỗi bên 60 cái. Chịu đựng được đến tháng thứ 5, tôi cảm thấy yếu lần.
Dự tính phá trại giam Quận Nh́
Tôi đă có ư nghĩ phải phá trại giam nầy từ ngày đầu khi đặt chân vào đây nhưng chưa t́m được người thích hợp nên phải chờ đến bây giờ.
Trong thời gian ở đây tôi quen với một ông Trưởng Ty Xă Hội tại Tỉnh ở Cao Nguyên (Xin tạm dấu tên v́ c̣n đang ở Việt Nam) Ông là đảng viên của Đại Việt. Ông thường kể cho nghe về quá tŕnh hoạt động của Đảng và về cá nhân của Ông.
Vào khoảng một tháng nay, tôi để ư theo dơi một người bị bắt về tội tư sản mại bản, v́ tồn trữ 60 tấn café sống mà không khai báo, tên là Hồ Ngọc Ẩn …Nhà ở đường Tự Do ..,Mỗi tuần đều phải lên pḥng Điều Tra lấy khẩu cung , tôi làm quen và hỏi thăm ư định sau nầy của anh, anh cho biết là không thể chịu đựng nổi ở nơi đây, và anh có ư định trốn ..Tôi gợi ư hỏi Ẩn, nếu muốn thoát ra , anh phải làm sao?. Ẩn nói về cách trốn của Ẩn, tôi thỉnh thoảng bổ túc cho Ẩn, tôi thấy Ẩn có vẻ vui mừng..
V́ tôi nóng ḷng t́m người để thực hiện kế hoạch của tôi nên tạm chọn Ẩn, nhưng tôi chưa cho Ẩn biết ư định của tôi. Ngày hôm sau Ẩn được gọi lên lấy khẩu cung lúc 8 giờ sáng th́ khoảng 9 giờ có tiếng gọi tên tôi và Ông Trưởng Ty , khi tôi và Ông vừa ra khỏi pḥng giam th́ đă có tên Cán Bộ Trưởng trại và 2 tên Công An ôm súng AK, tên Cán Bộ ra lịnh c̣ng tay tôi và ông Trưởng Ty rồi day qua chỉ mặt và nói với tôi : “Tao đă biết kế hoạch của chúng mày rồi, dự định chúa nhựt nầy sẽ giết Cán Bộ, cướp vũ khí, phá trại giam”, rồi quay lại bảo 2 tên Công An đem chúng tôi qua trại giam đặc biệt. Pḥng giam đặc biệt bề dài 3 thước, bề ngang rộng 1. thước, nhốt 10 người, tiêu tiểu tại chỗ, lỗ thông hơi để thở th́ vừa lọt bàn tay, và đến giờ cơm được bọn cán bộ đưa vào mỗi tù nhân là một chén cơm đút vào vừa lọt cái lỗ thông hơi..Sự việc xảy ra tôi nghĩ là do tên Hồ Ngọc Ẩn phản bội đă báo cáo với Công An để lập công .
Nhứt nhựt tại tù, thiên thu tại ngoại! Ngày ở trong tù sao mà dài lê thê, ngột ngạt, nặng nề ghê gớm vô cùng…!
Ngồi bó gối, tôi ôn lại những chuỗi ngày trong tù cải tạo lần trước, tôi đă nghe người bạn khác trại kể về một Kha Văn..G.. Sĩ Quan Bộ Binh, sau khi măn khóa trường Sĩ Quan BB Thủ Đức, anh được biệt phái về Bộ Kinh Tế hay Bộ Tài Chánh chi đó! Khi vào trại cải tạo,anh vỡ mộng v́ anh là cháu ruột của 2 tên cán bộ cao cấp, hiện đang giữ chức vụ lớn trong bộ Văn Hóa ở Sài G̣n. Anh ỷ lại vào 2 tên cán bộ cao cấp là chú và bác của ḿnh, và theo lời bác chú nên đi học tập tốt để được chú bác lănh về.. Nào hay đâu 2 tên tập kết chú bác đó chẳng dám đứng ra bảo lănh.. Vỡ mộng, anh đâm ra liều lĩnh, sau 3 tháng cải tạo và học xong 10 bài chính trị, chúng dụ dỗ tất cả phải khai cho thật để được khoan hồng, anh chỉ ghi lên các bài học là ḿnh chẳng có tội ǵ đối với cách mạng cả..Cho đến một buổi chiều, anh được ban quản giáo gọi lên pḥng cán bộ… Và một lúc sau có tiếng súng nổ.. Đến sáng hôm sau, anh em không c̣n thấy anh ở chung trại.. Và khoảng 1 tuần sau, anh em lại thấy một Kha văn .G. thân h́nh tiều tụy đang bị c̣ng tay chân lại bỏ ngồi trước sân cờ, nơi chân anh bị vết đạn lên mủ lở loét, ruồi nhặng bu đen.. Tôi ở xa trại anh nên không hiểu chuyện ǵ.. Và đêm hôm sau tôi được bạn kể lại…Anh tự biết ḿnh không thể sống được, nên đă chửi và nói lên những ẩn ức của anh đối với người thân là Cộng Sản..Trong đêm được gọi lên pḥng quản giáo, anh đă thẳng thắn đấu lư với tên quản giáo và tên quản giáo đuối lư tức giận móc súng ra bắn anh bị thương nơi bắp chân..,rồi giam anh vào pḥng, không đếm xỉa ǵ đến vết thương của anh. Sau vài ngày vết thương lỡ ra và có gịi.. Anh chửi,.. chửi vang vang.. kết quả mà anh mong muốn đă được như ư…Một cách tàn nhẫn phũ phàng.. là anh đă lănh mấy nhát búa đóng đinh đập vào đầu..! Kha văn G….. đă vĩnh viễn nằm yên trong ḷng đất mẹ đầy đau đớn tủi hờn..!!
-Thiếu Úy Trần tấn Mao, Sĩ Quan tiếp liệu Người Nhái đă buồn rầu, khóc thương cho gia đ́nh 14 đứa con đói khổ của ḿnh, tôi thường khuyên và gợi ư vượt trại với anh. Nhưng biết ḿnh già yếu, không đủ can đảm vượt trại..Anh chỉ mong được Cộng Sản giữ lời khoan hồng thả anh về đoàn tụ với gia đ́nh.. Anh khóc măi.. Khóc đến mù đôi mắt..!
Tôi buồn ..Tôi suy tư, những h́nh ảnh sắt máu gớm ghê chẳng bao giờ tôi quên được.! Tôi căm thù, uất hận. Tôi nguyện sẽ đem hết sức ḿnh để làm những ǵ mà tôi có thể làm được, để đóng góp cho ngày lật đổ Cộng Sản, giải phóng quê hương được trở lại ngày tự do tươi sáng..Nước mắt tôi rơi.. Đúng tôi khóc chứ ! tôi khóc v́ căm thù, v́ uất hận, hổ thẹn lớp người chúng tôi đă để mất nước…Việt Nam ơi ! ! Việt Nam ơi !! Chúng con phải làm sao ? phải làm ǵ cho tổ quốc ?!. Rồi bây giờ tôi lại đang sa vào lao lư, biết bao giờ tôi thoát được nơi đây ??!
Sau 10 ngày giam tôi nơi biệt pḥng để chúng điều tra lại, nhưng không ra manh mối, nhưng chúng không dám trả tôi về pḥng giam cũ, chúng chuyển tôi qua pḥng giam Quận Nhứt kiên cố hơn. Tôi vừa vào pḥng giam th́ đă thấy 2 người bị giam bên quận 2 là anh Tiến, Trung úy Cảnh Sát và Ông Trưởng Ty. Chúng tôi chào mừng nhau và với các bạn tù mới, trong pḥng giam nầy có một băng đảng cướp có súng nổi tiếng trước năm 75, là băng đảng Đà Lạt. Trong khoảng thời gian trước năm 75, băng đảng nầy đă từng tranh giành ảnh hưởng khu vực làm ăn của nhau với băng đảng Đại Cathay ở vùng Sài G̣n ..Bằng đại diện cho 4 anh em trong băng đảng, đến gặp tôi chào hỏi và ngỏ lời nhờ tôi đứng ra sắp xếp kế hoạch phá trại giam nầy, Bằng nói : “Tụi em đă nghe tiếng anh đă từng vượt trại tù cải tạo, và vừa rồi lại bị bể kế hoạch phá trại giam ở Quận Nh́ .v.v”. Tôi chỉ cười mà không trả lời.
Mỗi ngày Bằng và các anh em đều đến ngồi chung và tâm sự. Bằng kể lại chuyện xưa và nói : “Chúng em ngày trước chỉ biết ăn chơi du đăng du thực, phá phách .. trốn tránh không chịu đi lính để bây giờ chúng nó chiếm miền Nam tất cả đều đói khổ .Bây giờ tụi em hối hận quá! Mong nếu tụi em ra được lần nầy, tụi em nhứt định phải t́m cách phá tụi nó..”
V́ tôi vừa bị phản bởi tên Ẩn, nên thận trọng hơn, tôi đă nghĩ cách phá chỗ nầy rồi nhưng c̣n giữ kín. Tôi hỏi Bằng và anh em có được thăm nuôi không ? Bằng đáp hàng tuần đều được thăm nuôi, tôi nói với Bằng hăy bảo người thăm nuôi gởi vào một típ kem đánh răng chứa Acid nguyên chất, khi nào có rồi th́ cho tôi hay và tôi dặn Bằng đừng hỏi tại sao, Bằng thấy tôi đă chịu giúp th́ rất vui mừng, hứa sẽ làm theo lời dặn của tôi.
Sắp đặt kế hoạch phá trại giam Quận Nhứt.
Nhưng đêm 4-10-76, cán bộ vào thông báo ngày mai tôi và một số người sẽ chuyển trại trong đó có ông Trưởng Ty và Tiến. Tin nầy làm cho Bằng và các anh em trong băng đảng lo buồn, Bằng nói : “Anh rời khỏi nơi đây tụi em không biết làm sao!”. Tôi bèn họp các anh em Bằng lại và nói : “Trước khi tôi đi, tôi sẽ chỉ kế hoạch lại cho các anh, bây giờ các anh em cho tôi biết trong pḥng giam nầy chỗ nào yếu nhứt ?”. Anh em Bằng nói : “Tụi em ở đây gần một năm rồi mà vẫn không nghĩ ra v́ tường dầy 2 tấc, song sắt to bằng cườm tay, nóc và nền đúc xi măng, cửa sắt phải 2 người mở, đóng mới nổi..” Tôi nói : “Tất cả đều kiên cố, các anh thấy cánh cửa sắt dầy và nặng nhưng 2 cái bản lề là chỗ yếu nhứt, các anh em vẫn chưa hiểu?” .Tôi bắt đầu chỉ kế hoạch dự tính phá trại giam nầy. Khi có típ acid nguyên chất rồi th́ mới lo các phần khác như dưới đây :
• Chọn ngày giờ cho thích hợp
• Chuẩn bị một người giỏi vơ .
• Một chiếc xe đậu sẵn vào giờ đó tại đường gần nghĩa địa Mạc Đỉnh Chi.
Bắt đầu vào kế hoạch :
- Chọn đêm Chúa nhựt, lúc 1 giờ khuya (chúng đổi gác lúc 12 giờ khuya , chọn 1 giờ khuya là lúc tên gác buồn ngủ.)
Đúng giờ đă định, đem típ acid nguyên chất đổ vào 2 bản lề cửa sắt, khoảng 15 phút sau, 2 người khiên cánh cửa sắt qua một bên, người giỏi vơ chạy nhanh ra hạ tên lính gác cướp lấy súng, cách pḥng giam 2 tấm vách tường, trong lúc đó tất cả các anh em đồng chạy lên pḥng trực, hạ sát 3 tên đang ngủ và lấy súng đạn rồi chạy xuống đánh thức tất cả tù nhân cho họ hay là Phục Quốc Qquân đến giải vây và chỉ cho tất cả chạy ra cổng chánh, c̣n các anh em th́ phải vượt tường rào phía nghĩa địa Mạc Đỉnh Chi để lên xe đậu sẵn nơi điểm hẹn .
Điểm quan trọng là phải nhanh lẹ chính xác và cố gắng làm thật im lặng và đừng nổ súng nếu thấy không cần thiết. V́ khi đó mà bị náo động th́ rất nguy hiểm, các điểm gác khác sẽ báo động, các anh em sẽ khó thoát thân.. Các anh em phải xem lại thật kỹ để biết rơ nhiệm vụ của mỗi người mà làm cho thật gọn..Các anh em phải nghĩtrong đầu ḿnh là chỉ được thành công chớ không được thất bại..
Sau khi nghe tôi tŕnh bày sắp xếp kế hoạch, anh em của Bằng rất vui mừng, ôm vai tôi tỏ ḷng biết ơn…
Sáng sớm hôm sau, chúng tôi- những người có tên trong danh sách chuyển trại- chúng c̣ng tay chúng tôi lại với nhau đưa lên xe Molotova phủ mui bố xuống, xe chạy đưa chúng tôi lên Gia Định (BCH/Tiểu khu VNCH cũ) để tập trung tù nhân trong 14 Quận của Thành Phố tại đây , sau đó đoàn xe trực chỉ ra ngoại ô, v́ xe bỏ mui bố che lại hết nên chúng tôi không biết bọn chúng chở đi đâu, khoảng 4 giờ di chuyển xe ngừng lại, chúng tôi lần lượt xuống xe. Tôi vươn ḿnh hít dài một hơi thở không khí trong lành của vùng rừng núi cho thoải mái, v́ suốt 6 tháng bị giam, tôi chưa được thấy ánh sáng mặt trời và thở được không khí trong lành..
Chúng tôi đang ở trên một ngọn đồi, san sát các dăy nhà tole và có rất đông bọn Công An.. Các người bị nhốt ở đây cho chúng tôi biết nơi đây là đồi là Phượng Vĩ căn cứ của Trung Đoàn 52, thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh, tại Ngă 3 Ông Đồn, dưới chân núi Chứa Chan..
Tập họp điểm danh, 120 người chúng tôi được đưa vào 2 dăy nhà lợp tole vách ván , trong tổng số 20 dăy, xung quanh các dăy trại gồm có nhiều lớp kẽm gai bao bọc có gắn lon thiếc. Tất cả 120 người “tù phản động” nầy hầu hết đều liệt bại nên phải khiêng vào..Vừa yên chỗ, một tên cán bộ quản giáo vào “sinh hoạt” cho biết đây là Trường K3 . .Hôm nay các anh đến đây là ngày thứ nhứt của 3 năm học tập cải tạo..v.v. Nơi đây các anh được liên lạc về gia đ́nh để thăm nuôi, mỗi lần thăm nuôi15 phút. Các anh hăy nhớ viết thơ thế nào mà có lợi cho cách mạng, cho gia đ́nh và cho bản thân các anh th́ các anh viết.. Tên cán bộ quản giáo tuyên truyền một lúc rồi kết thúc : V́ các anh mới nhập trại nên ban quản giáo cho các anh được nghỉ “Bồi Dưỡng” vài hôm. Chúng tôi đều hiểu, v́ tất cả bị liệt bại nên chúng nó để cho chúng tôi hồi phục rồi mới bắt đầu mang cày vào cổ chớ có tốt lành ǵ đâu.
Nghiên cứu kế hoạch vượt trại tù lần thứ 2 tại đây trong ṿng 20 ngày.
Một đêm ngủ thoải mái với không khí trong lành của miền rừng núi Chứa Chan, tỉnh Long Khánh.
Ngày hôm sau tôi đi ṿng quanh các dăy trại, tôi gặp anh Dũng Mặt đỏ của pḥng An Ninh Đặc Tra Phủ Tổng Thống. Tôi gặp Dũng sau giờ lao động, anh mừng rỡ chạy lại ôm tôi, tôi dặn nhỏ Dũng đừng nói với ai v́ tôi không có khai thật là Sĩ Quan Cận Vệ. Tôi hỏi thăm Dũng t́nh h́nh nơi đây và tại sao Dũng không vượt trại ? Dũng cho biết hiện giờ đội công tác của anh đă được bọn chúng tin tưởng nên cho đi làm xa tận trong rừng để cưa cây gỗ. C̣n trốn th́ Dũng không dám v́ sợ bị bắt lại và sợ về không có chỗ an thân.
Dũng cho tôi biết: Dũng bị đưa lên đây từ ngày đầu, chúng lấy trại nầy dự định chỉ giam thành phần tŕnh diện học tập thuộc đơn vị tỉnh Biên Ḥa. Sau một thời gian chúng bố pḥng chắc chắn hơn, chúng đưa thêm về đây các tù “phản động” gồm nhiều thành phần từ cấp Tá đến binh sĩ và tù chính trị luôn cả phụ nữ phản động. Phụ nữ th́ chúng ngăn riêng khu vực, và nguy hiểm nhứt là dọc theo triền đồi, trong các lớp kẽm gai có chôn ḿn 3 râu (loại ḿn chống cá nhân có 3 ng̣i nổ) hiện giờ thỉnh thoảng gió thổi lay động cây dại ḿn cũng nổ, v́ vậy mà suốt 16 tháng rồi mà không có ai dám vượt trại trốn ra.!
• Tôi gặp anh Thiếu Úy Hoa, Cảnh Sát Dă Chiến Biệt Đoàn 222, Vơ sư Thái Cực Đạo, Huấn luyện viên của Đại Đội Đặc Nhiệm bảo vệ Phủ Tổng Thống. Hoa cho biết anh đă tổ chức trong đội anh được gần 20 người ở đội 16 của anh.
• Anh Thượng Sĩ Truyền Tin Vơ Pḥng phủ Tổng Thống là anh Quốc, anh bị bắt v́ hoạt động trong lực lượng Dân Quân Phục Quốc, anh cũng đă tổ chức ở đội 15 gần 20 người.
• Anh Ba Hương, là vệ sĩ cho Ông Đại Sứ Nguyễn Văn Kiểu (Anh ruột của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu) anh Ba Hương thuộc toán Bảo Vệ yếu nhân của Cảnh Sát, anh cũng cho biết có tổ chức ở đội 17, gần 20 người.
Tôi được biết Đại Tá Nguyễn văn .P… Tỉnh Trưởng Long Khánh, bị bắt ngoài mặt trận trước ngày 30-4-75 đang bị nhốt ở đây. Tôi nhờ anh Tiến, trước năm 75, Tiến là đệ tử của Đại Tá .P..liên lạc với ông để biết thêm tin tức, th́ được Đ/T P.. cho biết, ông vẫn thường xuyên l/l với Lực lượng Phục Quốc ở bên ngoài. Tôi đề nghị với Đ/T qua anh Tiến . Nếu Đ/T thấy cần đánh phá trại giam nầy th́ tôi xin trách nhiệm một lực lượng xung kích khoảng 50 người giỏi vơ thuật. Anh Tiến chuyển lời tôi đến Đ/T, sau đó Tiến cho tôi biết Đ/T bảo đừng lo, v́ ông đă được lực lượng bên ngoài cho biết sẽ giải thoát trại giam trong tuần nầy hoặc tuần tới ? Nhưng đă qua hơn tuần mà không thấy động tịnh ǵ cả , Tiến hỏi lại Đ/T th́ tôi được biết là trong tuần nầy ?. Tôi cảm thấy bất ổn v́ tôi đă nghe tin nầy đă xầm x́ trong một vài trại, tôi nghi ngờ tin nầy đă bị lộ.! V́ tôi đă theo dơi trong mỗi đội tù đều có nhiều an ninh ch́m của Công An. Tôi nghĩ hậu quả rất ghê gớm, nhưng tại sao chúng biết mà vẫn làm ngơ ? Có lẽ chúng đă có chuẩn bị rồi.Trong đêm thỉnh thoảng chúng thực tập báo động – Chúng thổi c̣i và đánh kẻng báo hiệu, trong ṿng 10 phút tất cả 20 dăy trại đều bị phong tỏa-. Mỗi dăy trại đều có 1 tiểu đội cầm AK 47, trung liên Tiệp Khắc và B 40, chỉa thẳng vào trại…
Tôi lo chọn trong số những người trong trại để tính việc đào thoát, v́ tôi không tin tưởng khả năng của LL phục Quốc do Đ/T P… cho biết.
Trong số các anh em quen thân đều ngại vượt tù, chỉ mong được CS tha tội trở về sống với gia đ́nh, tôi chỉ chọn được một người là :
* Trung Úy Kỹ sư Điện Tử Trần Quang, đặc trách Đài Radar Phú Lâm. Can đảm chịu đựng, bị bắt do tên Hạ Sĩ Quan dưới quyền điềm chỉ, Quang vẫn cương quyết không nhận làm lại cho CS để được tha tội. Quang cũng thường ngỏ ư với tôi nếu có tổ chức th́ xin cho anh tham gia, và anh hứa sẽ làm bất cứ việc ǵ do tôi sắp đặt, v́ đă nghe tôi đă có thành tích tổ chức vượt tù.
Tôi chọn anh Trần Quang là v́ thích hợp cho kế hoạch của tôi và cùng ở chung dăy với tôi, khổ người của anh nhỏ nhắn, trầm tĩnh nhưng linh hoạt…
Tôi quyết định theo kế hoạch trù liệu để vượt trại. Tôi và Quang mỗi sáng thức dậy và đi “viếng lăng bác Hồ”, tiếng lóng để chỉ việc giải quyết vệ sinh. Vừa đi vừa bàn tính, tôi cho Quang biết ư định vượt rào và dặn Quang chỉ làm theo những ǵ tôi cần chớ đừng hỏi tại sao và phải ngăn cách đừng tỏ ra thân thiện để chúng không nghi ngờ, Quang đồng ư v́ Quang tin tưởng nơi thành tích của tôi.
Sau 2 tuần lễ, tôi đă thâu thập hệ thống pḥng thủ và nghiên cứu thận trọng như sau :
• 20 dăy tole, vách ván, mỗi miếng chiều dài 3 thước có đóng nẹp chận đầu.
• Sau khi điểm danh, 18.giờ 30, tất cả các cửa sổ, cửa chánh đều khóa lại.
. Bên ngoài pḥng, Hàng rào 4 lớp kẽm gai cao 2 thước có treo lon, nhiều hàng rào kẽm gai dọc theo triền đồi, có khoảng 3 lớp consettina cuối cùng dưới chân đồi.
• Băi Ḿn do Trung Đoàn 52, Sư Đoàn 18 Bộ Binh VNCH thiếp lập lẩn trong các lớp hàng rào, Trung Tá Đức Chỉ Huy Trưởng Hậu cứ của Trung Đoàn 52 hiện đang bị giam tại đây, xác nhận là đúng.
. Quân số canh gác và phân công dẫn tù đi lao động là khoảng 200 tên công an.
. 4 vọng gác cao 5 thước, khoảng 2 giờ đổi phiên 24/24, ban đêm khoảng giữa phiên đổi gác, có toán tuần tra vơ trang lẻn vào nghe lén từng dăy trại.
Hệ thống bố pḥng xung quanh đồi
Trung Đoàn Bộ Đội đóng quân toàn diện từ hướng Đông qua Nam đến hướng Tây. Nằm sâu trong rừng và đặc trách núi Chứa Chan, ước tính chiều dầy khoảng chừng 3 cây số, bao trùm mặt tiền của trại giam. Mặt hậu từ hướng Tây Bắc đến Bắc qua Đông, do cán bộ, thanh niên xung phong và khu kinh tế mới, cán bộ nằm vùng lẫn lộn có thể Trung Đoàn Bộ Đội cũng đảm trách vùng nầy. Nh́n chung mặt nầy có vẽ lỏng lẻo nhưng là tử địa v́ khi thoát ra mặt nầy th́ chỉ có thể đi về phía rừng lá, không c̣n đường trốn.
. Hệ thống an ninh ch́m là nguy hiểm nhứt, riêng đội 18 của tôi 60 người đă có 5 tên ch́m đội lớp tù, (do sự điều tra của Quang), chúng kiểm soát từ lời nói và hành động của mỗi người, khi ăn,khi ngủ, khi đi lao động v.v.
Bây giờ tôi chỉ c̣n chờ chúng đưa đi lao động ở ngoài để quan sát và t́m hướng đi…
Sau hai tuần nghỉ dưỡng sức, các người bị liệt bại đă khá hơn. Tối Chúa Nhựt, trước giờ điểm danh, cán bộ đem xuống một danh sách biên chế chỉ định tôi làm đội trưởng 18 K, đúng như suy đoán của tôi, v́ chúng muốn kiểm soát tôi chặt chẽ, sắp xếp đánh số chỗ ngủ, không được ngủ khác chỗ. Tôi phải chịu trách nhiệm mọi sự xảy ra trong đội, báo cáo quân số trước khi đi và khi về, lao động, nghỉ bịnh, công tác nhẹ, và trước khi đi ngủ, tối đến sau khi điểm danh tôi phải điều hành sinh hoạt, phê b́nh, sửa sai, đề nghị, đọc báo và văn nghệ.. Mục đích của chúng là làm cho tôi phải bận rộn trong công việc và an ninh ch́m của chúng dễ theo dơi tôi.(Tôi đă đề pḥng việc nầy nên đă chọn Quang giúp tôi trong việc đào thoát, v́ chúng không để ư đến Quang). Xung quanh các dăy trại đều đóng ván chiều dài 3 thước và đóng chận nẹp. Tôi giao cho Quang một miếng sắt mỏng nhỏ và dẫn Quang đi ngang qua chỗ miếng ván thiếu chiều dài, chúng thêm vào một miếng ngắn mà không có đóng chận nẹp, tôi chỉ cho Quang và dặn mỗi đêm đi tiểu, Quang ḅ xuống dưới sàn ngủ, đến chỗ đó long đinh, từ bây giờ cho đến thứ sáu phải xong nghĩa là ḿnh có thể đẩy ra nhẹ nhàng không bị động, sau khi xong báo cho tôi hay. Quang nhận lời…
Ông Trưởng Ty T.. và tôi vẫn thường ngày lănh cơm và ăn chung, tôi rất mến ông là người học thức qua tư cách, rất trầm tĩnh. trong tuần lễ vừa qua ông có thăm nuôi, ông được người cháu ruột đem đồ ăn, gồm muối sả, café, sữa đặc, đường và vài trăm gram thịt kho. Được gia đ́nh báo cho biết, trước ngày đi thăm ông, có người anh bà con của ông tập kết về cấp Trung Tá VC . Người nầy coi đồ thăm nuôi đă rầy là gởi đồ thăm nuôi cho tù nhân ăn ngon sẽ bị đưa ra Bắc v́ trại nầy là trại phản động ! Tôi nh́n thấy ông có vẻ lo buồn, nhưng tôi vẫn chưa cho ông biết tôi đă chuẩn bị vượt trại mà trong đó có ông..
Hôm nay là tuần lễ thứ ba, đội 18K của chúng tôi bắt đầu mang cày vào cổ, đội chúng tôi dẫy cỏ và nhổ cây bắp khô.. Đến chiều hết giờ lao động, chúng tôi đến ao tưới rau để tắm, nước ao tù nầy do nước mưa đọng lại gồm cả nước phân do ban trồng hoa màu phụ gánh từ trong trại tưới, nước phân chảy xuống ao. V́ thế đêm đó đội chúng tôi bị ngứa găi muốn rách da..
Ngày thứ ba, vun vồng trồng khoai. Ngày thứ tư, khiêng đá đắp đập ngăn ḍng suối. Ngày thứ năm , tiếp tục khiêng đá đắp đập..đến 11 giờ. Nghỉ việc, tất cả tập họp điểm danh về trại ăn trưa. Khi điểm danh thiếu mất người, tôi vội báo cáo cho tên cán bộ, tên nầy b́nh tĩnh đưa súng AK lên bắn chỉ thiên 3 phát một, và khoảng 1 phút sau có tiếng súng AK đáp lại khắp nơi.. (Cũng nhờ việc nầy xảy ra nên tôi biết được hướng các chốt bọn chúng đang đóng dọc theo b́a rừng từ hướng Tây qua đến hướng Bắc..) Tên cán bộ ra lịnh cho tôi dẫn tù nhân về trại, trên đường về chúng tôi đi ngang qua các chốt của bọn công an, chúng chĩa súng vào đội chúng tôi và chửi nhiều câu thô tục… Tôi căm hận dẫn đội ḿnh về trại. Khoảng 1 tiếng đồng hồ sau, chúng bắt lại được tên trốn và đem về nhốt bên dăy trại của chúng. Tên phó thủ trưởng gọi tôi lên lấy khẩu cung cùng với vài người trong đội. Tôi được biết tên trốn là an ninh ch́m, do Quang báo lại cho tôi, buổi chiều hôm trước tên Hậu nầy đă đứng nói chuyện với cán bộ ở gần hàng rào…, tôi nghỉ đây là màn dàn cảnh để cảnh cáo chúng tôi..
Sáng ngày thứ sáu, Chúng tập họp tất cả 20 dăy trại. Tên phó thủ trưởng đọc bản án và đem tŕnh diện tên Hậu. Tiếp theo chúng cảnh cáo chúng tôi “hăy yên tâm học tập cải tạo. Ngày mà các anh đặt chân đến đây là ngày thứ nhứt của 3 năm. Các anh đừng mong trốn thoát nơi đây, dù một con kiến cũng thể rời khỏi nơi nầy ?..Bằng chứng là suốt 16 tháng qua chẳng ai có ư nghĩ đó. Anh Hậu v́ mới đến nên chưa hiểu, nên anh sẽ lănh phạt 15 ngày quản chế nơi hầm tối…”
Hôm nay đội tôi được lịnh tháo kẽm gai ṿng rào tiền đồn h́nh tam giác án ngữ căn cứ của Trung Đoàn 52/18. Tôi mừng thầm v́ hướng đào thoát của chúng tôi sẽ ở chỗ nầy.. Tôi đôn đốc anh em tháo gỡ cho nhanh kịp trong ngày thứ bảy., v́ tối chúa nhựt là ngày, giờ quyết định.
Trong giờ cơm, bắt đầu tôi báo cho ông Trưởng Ty biết để chuẩn bị thoát khỏi chỗ nầy, ông ngạc nhiên hỏi lại, tôi nói :
“Bác hăy chuẩn bị sẵn bộ đồ đen để mặc khi rời khỏi nơi đây, và một bộ đồ khác bỏ vào túi nylon rồi bỏ vào bao cát để đem theo”.
Tôi nói tiếp:
“Bác phải rời khỏi nơi nầy nếu không Bác sẽ bị đưa ra Bắc”.
Tôi nói tránh v́ ông thường ngày ngồi ăn cơm với tôi, nếu ông không đi ông sẽ bị liên lụy. Tôi nh́n thấy nét mặt đăm chiêu của ông, tôi hơi lo ngại, ông hỏi :
“An tính chừng nào ?”.
Tôi đáp :
“Có thể đêm mai, nếu thời tiết tốt”.
Ông hỏi tiếp :
“Làm sao ra từ đây?”.
Tôi đáp :
“Sẽ chun ra dưới gầm chỗ của bác nằm đó!”
Ông giựt ḿnh :
“Sao ? ở dưới chỗ tôi nằm à ?”
Tôi đáp :
“Dạ phải, miếng ván dưới chỗ bác nằm tôi đă long đinh rồi ! V́ chỉ có chỗ nằm của Bác là có lối ra thôi”.
Tôi kể rơ kế hoạch cho ông nghe :
“Sau khi từ đây chun ra, tôi chạy nhanh ra hàng rào treo lon, tôi ngồi xuống, Quang sẽ chạy ra và leo lên vai tôi, tôi đứng lên, Quang bước qua phía bên kia hàng rào và đứng chờ, Bác chạy ra bước lên vai tôi, tôi đứng lên, bác bước qua vai của Quang ,Quang ngồi xuống để Bác xuống đất.. và tiếp tục đến hết các hàng rào treo lon, và sau đó Bác và Quang phải theo bên tôi, đừng bước sai nguy hiểm..v́ Băi Ḿn dọc theo triền đồi.
Ông lo lắng hỏi :
” An có chắc ḿnh sẽ thoát được Băi Ḿn hay không ?”
Tôi đáp :
“Bác đừng lo, tôi đă t́m ra điểm chuẩn của Băi Ḿn rồi!”
Tôi nói để cho ông an ḷng, và kể rơ hướng đi của kế hoạch.
Nghiên cứu cách thức vượt Băi Ḿn
Về phần Băi Ḿn tôi đă suy nghĩ nhiều ngày đêm, tôi đem ra so sánh các cách gài ḿn bẫy của Người Nhái chúng tôi và của Việt Cộng, mà vẫn chưa t́m ra manh mối.. (V́ lúc phối hợp công tác với Người Nhái Hoa Kỳ, tôi đă từng tháo gỡ ḿn bẫy của VC).
V́ chuyên viên Ḿn Bẫy khi gài Băi Ḿn th́ chỉ có đơn vị trưởng và người gài biết sơ đồ mà thôi..
Sau cùng , tôi suy ra từ 2 chữ Pḥng Thủ . Tôi lập sa bàn để định vị trí, các hàng rào cách khoảng với nhau đều đặn, và các trụ cột th́ đều đặt so le hay nói cách khác là h́nh chữ Z. Vậy PḥngThủ th́ khi chuyên viên đặt ḿn bẫy phải đặt Ḿn ở chỗ an toàn cho các trụ cột hàng rào, để khi ḿn nổ không làm sụp đổ các hàng rào để c̣n giữ được phần nào các kẽm gai, v́ hàng rào pḥng thủ mục đích là chống xâm nhập chiến thuật biển người của VC..Theo sa bàn, tôi sẽ vượt ra theo h́nh chi (Z) theo hướng các trụ cột, tránh các khoảng trống mà tôi nghĩ là có đặt Ḿn, và sẽ lần ra gần pḥng trực cổng chánh của bọn công an, v́ trụ cột chuẩn tôi chọn gần cổng chánh, chính xác hơn mấy trụ cột ở khoảng giữa… Tôi đă xem xét rất kỹ giữa khoảng cách 2 hàng rào, chỉ rào kẽm gai chạy dọc, song song với các hàng rào khác và từ hàng nầy qua hàng kia bằng các đường kẽm gai giăng ngang với 2 đường chéo góc, c̣n phía cuối chân đồi có 3 ṿng rào loại Consertina, báo hiệu là đă hết băi Ḿn. (V́ rào loại Consertina cuốn ṿng tṛn, không thể rào trong vùng có ḿn bẫy, v́ có thể bị gió thổi rung động mà chạm ng̣i nổ, v́ loại ḿn chống cá nhân có 3 ng̣i nổ rất nhạy thường gọi là Ḿn 3 râu.).
Tôi vui mừng lẫn lo âu mặc dầu không dám tin chính xác 100/100. Nhưng tôi đă quyết ḷng t́m cái Sống trong cái Chết , bất chấp mọi hiểm nguy..
Đêm thứ bảy 24-10-76 khoảng 8 giờ tối, trời mưa thật lớn, kéo dài đến 2 giờ khuya, tôi thầm cầu nguyện cho đêm mai cũng có mưa to th́ sẽ là giờ quyết định đào thoát của chúng tôi, v́ theo kinh nghiệm của tôi, nếu hôm nay có mưa th́ ngày hôm sau cũng sẽ có mưa trễ hơn hôm nay, và sẽ mưa liên tiếp vài hôm, (Lần trước tôi đào thoát trại tù Thành Ông Năm, cũng có mưa giống như ngày hôm nay ở đây).
Ngày Chúa Nhựt, từ sáng đến 5 giờ chiều, vợ con tôi mới gặp được tôi sau 6 tháng tù, tôi hàn huyên với vợ con trong 15 phút. Vợ tôi đem đồ ăn thăm nuôi, tôi chỉ lấy café, đường, sữa đặc và mấy đ̣n bánh tét nhỏ,và túi trái cây, c̣n các thức ăn khác tôi đưa lại để vợ tôi đem về, v́ tôi biết vợ con của tôi rất thiếu thốn, khi đi thăm nuôi chắc lại phải bán bớt vật dụng trong nhà. V́ có tên công an ḍm ngó, tôi chờ khi vợ tôi cúi xuống gần tôi khẽ nói : “Đêm nào trời mưa th́ cầu nguyện cho anh”. Vợ tôi nghe tôi nói giựt ḿnh lo sợ, v́ vợ tôi hiểu ư câu nói của tôi… Hết giờ thăm nuôi, vợ con tôi phải rời khỏi trại thăm nuôi để đến nhà ga Gia Rây, đón xe lửa về Sài G̣n. C̣n tôi và đoàn tù được thăm nuôi trở lại trại giam..
Cũng như thường lệ, tên cán bộ điểm danh xong, chúng lo khóa lại các cửa cẩn thận. Khoảng 8 giờ tối, mây đen kéo đến và trận mưa bắt đầu đổ hột lúc 9 giờ, Tôi đă cho Quang biết chuẩn bị các chi tiết như ông Trưởng Ty, dặn Quang lược café lấy nước đậm pha với sữa, đường, rồi cất vào b́nh nylon nhựa, chung với các đ̣n bánh tét, c̣n café nước nh́ th́ đăi các anh em không có gia đ́nh thăm nuôi, với chút ít bánh trái .. v́ sợ các anh em uống café đậm sẽ khó ngủ, sẽ tạo khó khăn cho chúng tôi..
Tôi và Quang b́nh tĩnh chờ đợi, tôi chỉ lo cho ông Trưởng Ty, v́ sau khi nghe tôi thông báo vượt trại, tôi thấy ông không ngủ mà ngồi hút thuốc suốt đêm qua. Tôi mến ông v́ đă ở chung qua nhiều lần chuyển trại, và cùng ăn cơm chung..
Mưa càng lúc càng to, 9 giờ tắt đèn, tất cả đều về chỗ nằm, nhưng v́ hôm nay có thăm nuôi, họ thức th́ thầm kể chuyện gia đ́nh cho nhau nghe trong bóng đêm.
11 giờ đêm, tôi cố giương mắt thật to nh́n qua kẻ vách theo dơi 4 chiếc bóng đen mặc áo mưa đi đổi vọng gác qua các lằn ánh sáng của sấm chớp.-Khoảng 1/2 giờ sau, 1 tiểu đội tuần tra mang vũ khí đi kiểm soát 20 dăy trại rồi chúng trở ra pḥng trực ở cổng chánh. .
Giờ đào thoát đă đến..
Tôi nhẹ nhàng rời khỏi chỗ nằm đến chỗ Quang bấm nhẹ. Quang bước theo tôi trong bóng đêm dến chỗ ông Trưởng Ty nằm tôi kéo nhẹ ông xuống đất nhưng ông không chịu xuống, ông kéo tôi sát lại và khẽ nói:
“Xung quanh họ c̣n thức!”.
Tôi trả lời :
“Không sao đâu bác, bác cứ chun xuống gầm sàn là xong”
Ông không chịu, bảo tôi phải chờ cho ông 1 tiếng đồng hồ nữa.
Tôi sợ động mấy người nằm gần nên đành lui về với Quang trở lại đầu dăy trại để tiếp tục theo dơi các toán lính gác qua kẽ hở. Quang nóng ḷng th́ thầm qua tai tôi : “Ông làm như vậy là chết ḿnh rồi anh.” Tôi cố trấn tĩnh Quang: “Không sao.” .Nhưng ḷng tôi như lửa đốt. khoảng nửa giờ sau, bên ngoài bớt mưa.
Tôi quyết định kéo nhẹ Quang đến chỗ ông. Tôi kéo hẳn ông xuống đất và đẩy ông chun xuống gầm sàn dưới chỗ ông nằm ông ta cứ dùng dằng không chịu chun, Quang chun vào trước đẩy nhẹ miếng ván đă long đinh và chun ra ngoài, tôi liền đẩy ông chun ra tiếp, ông không chịu lại đẩy tôi ra, trong lúc dằn co đó làm cho người nằm kế bên ông lên tiếng : “Không biết cái ǵ kêu lụp cụp vậy ?”. Liền lúc đó nghe có tiếng diêm quẹt, tôi cấp tốc chun ra ngoài, nh́n lại không thấy ông chun theo, Quang kéo tôi thúc giục :” Đi anh để chết đó!”. Tôi cố rướn ḿnh lên nh́n vào trong không thấy được v́ tối. Tôi chạy nhanh theo Quang và ngồi xuống cho Quang leo lên vai, tôi đứng lên Quang bước qua bên kia rào tuột xuống đất chờ .Tôi dặn Quang chờ tôi một chút, v́ lúc đó tôi vẫn c̣n nghĩ đến ông. Tôi nhanh nhẹn chạy trở lại lỗ trống hy vọng ông đă chun ra, nhưng tôi không thấy, tôi dán mắt vào kẽ hở, qua diêm quẹt mồi đèn, bóng ông ta đang ngồi bó gối hút thuốc lá trên sàn nơi chỗ ông nằm. Thôi rồi !!…Tôi không c̣n hy vọng ǵ để cứu ông được nữa..!! Tôi chạy thật nhanh trở ra hàng rào kẽm gai, không thấy bóng của Quang, tôi vội trèo qua 4 lớp hàng rào kẽm gai mà vẫn không thấy bóng của Quang đâu cả , tôi cúi rạp người xuống nh́n theo đường chân trời , bổng thấy bụi cây bên phải của tôi lay động, tôi vội ḅ ngay lại đó gặp Quang, th́ ra Quang không dám chờ tôi tại chỗ v́ là đường đi tuần của bọn lính gác. Tôi nắm tay Quang : “Đi theo tôi!”
Tôi dẫn Quang ḅ đến trụ hàng rào điểm chuẩn, gần trạm canh cổng chánh. tôi nhắm theo các trụ cột hàng rào và ḅ lách kẽm gai, thận trọng theo h́nh chữ Z Quang ḅ theo sát tôi, độ chừng 15 phút, tôi và Quang đă xuống tới dưới triền đồi thoát khỏi Băi Ḿn, chúng tôi khom người chạy nhanh qua khoảng đất trống, băng qua tiền đồn h́nh tam giác, nơi đó là chỗ đội của tôi vừa tháo hết kẽm gai hôm thứ bảy, nên tôi và Quang đă vượt qua chỗ nầy dễ dàng, chạy thêm một đoạn thẳng vào b́a rừng , chúng tôi lọt vào vùng gai mắc cỡ tây cao phủ đầu, chúng tôi bị gai đâm vào ḿnh không biết bao nhiêu mà kể, chúng tôi đang vạch gai để t́m đường đi, bỗng chúng tôi bị lọt xuống ḍng suối, tôi rất mừng v́ trong dự tính kế hoạch của tôi không biết có ḍng suối nầy, tôi biết chắc chắn theo con suối nầy sẽ xuống được nhà ga Gia Rây,(v́ tôi đă nh́n thấy từ trên trại giam chiếc cầu xe lửa gần chợ Gia Rây). Tôi bảo Quang tắm cho sạch và đồng thời di chuyển theo ḍng suối, khi đến gần nhà ga Gia Rây, tôi kéo Quang ḅ lên cầu để vào hướng núi Chứa Chan, nhưng khi qua ngang đường rầy xe lửa, bổng tôi nghĩ ra một phương pháp vội kéo Quang đứng lên đường rầy, mỗi người một bên, tôi quàng tay qua vai Quang và Quang làm ngược lại, bây giờ tôi và Quang đă vững trên đường rầy, chúng tôi bắt đầu chạy trên đường rầy dễ dàng không sợ vấp ngă, chúng tôi tiếp tục chạy khoảng 2 giờ đồng hồ nữa rồi ngồi trên đường rầy mà nghỉ mệt, v́ chúng tôi biết là đă thoát ṿng kiểm soát của khu vực trại giam khá xa…
Tôi đang nghỉ đến Ông Trưởng Ty, có lẻ ông biết ḿnh già yếu không c̣n đủ sức chạy bộ, ông lo sẽ làm vướng bận chúng tôi nên đành ở lại?. Khi c̣n ở quận 2, ông có tặng một bài thơ cho tôi và bảo tôi học thuộc ḷng bài thơ như sau :
Tự Thán!
Đời là chi ?
Ta là ǵ ?
Ḍng đời vẫn chảy,
Ta cứ mải đi !
Ta là một cội thông hiu quạnh
Đứng chọc trời xanh dưới nắng tà
Sớm chiều vi vút tiếng thông reo
Ẻo lă cành theo ngọn gió vèo
Giông tố bao lần lay lá cội
Sớm chiều vẫn vút tiếng thông reo
Tiếng thông reo, tiếng thông reo
Trải bao giông tố vẫn reo gió chiều.
Nguyễn văn T? …
Vừa ngồi nghỉ mệt trên đường rầy xe lửa vừa ăn bánh tét và thưởng thức café sữa ngon lành…Quang quàng tay qua vai tôi giọng cảm động :
“Anh An, anh là người cứu mạng của tôi, nên tôi xin nói thật cho anh biết, – giọng Quang trầm lại – Tôi là đảng viên của Trung Hoa Quốc Dân Đảng, tôi tên thật là Lai Minh Quang, cháu ruột của Trung Tướng Lai Minh Kiên, hiện bác tôi đang ở Đài Loan, tôi có nhiệm vụ nằm trong Quân Đội VNCH, và tên Trần Quang là tên giả, tôi học và tốt nghiệp Kỹ sư Điện Tử tại Okinawa Nhật Bản. Khi về Việt Nam, tôi phụ trách Trưởng Đài Radar Phú Lâm, mục đích là để theo dơi bên Trung Cộng, các máy bay bên Trung Cộng cất cánh th́ ở Đài Radar Phú Lâm đều nhận biết… .Khi miền Nam sụp đổ , tôi đă được báo trước nên đă cho vợ con rời khỏi Việt Nam hiện đang ở Tân Gia Ba, v́ tôi c̣n công tác nên phải ở lại Việt Nam .. Bây giờ việc trước mắt là về Sài g̣n, tôi bắt liên lạc với các điểm rồi chúng ḿnh cùng t́m đường qua Đài Loan, khi ra được ngoại quốc rồi sẽ tính sau..”
Chúng tôi tiếp tục chạy , khi đến nhà ga Bảo Chánh th́ trời gần sáng. Chúng tôi vào rừng chồi thay bộ đồ khô mang theo trong bao nylon bỏ trong bao cát, nhờ lọt xuống suối nên chúng tôi đă tắm sạch đất đỏ, bây giờ thay bộ đồ khô vào trông cũng sạch sẽ. Chúng tôi vẫn tiếp tục chạy trên đường sắt hướng về Long Khánh cho kịp chuyến xe lửa từ Nha Trang vào. Khi tới những nơi có người ở th́ chúng tôi đi bộ, c̣n những chỗ không người th́ chạy tiếp. Những dân cư ở dọc theo con đường xe lửa từ nhà ga Bảo Chánh vào đến Long Khánh chúng tôi thấy phần nhiều là người Thượng. Khi đến nhà ga Long khánh khoảng 8 giờ sáng, con đường dài 35 cây số. Tôi lấy trong lai quần ra 5 đồng tiền VC (V́ đă có kinh nghiệm vượt tù lần trước.) tôi đă dấu từ lúc mới bị bắt, tôi đưa tiền cho Quang vào mua vé, được trạm bán vé cho biết 9 giờ xe lửa tới, tôi và Quang vào quán café gần đó ngồi uống café và bàn chuyện về Sài G̣n mua hột giống để đem về vùng kinh tế mới trồng trọt .v.v . Trong quán cũng có vài tên cán bộ công an VC đang ngồi uống Café.
Tiếng c̣i hú từ xa của chuyến xe lửa từ Nha Trang vào Sài G̣n đă gần đến , tôi và Quang đều cảnh giác. Chúng tôi chia nhau mỗi người một đầu toa để tránh sự theo dơi của bọn công an. Và chúng tôi đă về đến Sài G̣n lúc 12 giờ trưa, nhưng Quang lại bị sưng vù cả 2 chân không đi được nữa,(v́ Quang chưa bao giờ chạy xa như vậy, c̣n đối với tôi đă được huấn luyện qua khóa Người Nhái th́ chạy bộ 35 cây số không có ǵ trở ngại.), tôi gọi xe xích lô đạp chở chúng tôi về Chợ Lớn, nhưng khi đi ngang qua quán phở 79, đường vơ Tánh, chúng tôi cảm thấy thèm quá nên xuống xe vào tiệm gọi phở ăn một bữa thật ngon. V́ thấy chúng tôi nước da sạm đen ông chủ tiệm phở hỏi : “Các anh ở đâu về mà đen quá vậy.?”. Tôi trả lời là chúng tôi từ vùng Kinh Tế mới về Sài G̣n để mua hột giống trồng trọt … Sau đó chúng tôi gọi xe xích lô chở Quang đến một địa điểm riêng của Quang. Chúng tôi từ giă và hẹn gặp lại tại một quán café ở ngả 7 Chợ lớn, nhưng tôi đă đến điểm hẹn liên tiếp mấy ngày mà không gặp Quang. Tôi nghỉ có thể điểm liên lạc của Quang không muốn tiếp xúc với tôi v́ sợ bị lộ, và tôi mất liên lạc với Quang từ đó..!
Tôi đến thăm anh Nguyễn Thành Nhơn trong đêm mới trở về Sài G̣n, tôi nhảy rào vào nhà gặp anh chị. Anh chị rất vui mừng. Tôi kể chuyện lại cho anh chị nghe . Anh Nhơn cho tôi hay là pḥng tập Thể Dục của anh đă bị bọn công an phường tịch thâu rồi, anh bảo tôi ở lại ngủ một đêm rồi sáng mai sẽ đi, tôi cám ơn anh chị và từ giă trước v́ sáng sớm tôi đă rời khỏi nhà của anh chị..
Tôi cố liên lạc lại với các bạn thân ngày trước, nhưng có người thấy tôi từ xa th́ đă vội vào nhà khóa cửa lánh mặt..Cũng may được một người bạn cho mượn chiếc xe đạp, và nhờ đó tôi di chuyển khắp nơi trong thành phố, dự định t́m vào các lực lượng kháng chiến trong rừng. Tôi gặp một đại diện của một giáo phái (xin tạm giấu tên) sau một tháng, ông gặp lại cho và cho hay :
“Chắc em không có phần vào trong với anh em, là v́ tôi đă liên lạc và ở trong đă gởi 3 lần liên lạc viên ra để đưa em vào nhưng đều đổ bể cả.. Và ở trong đă quyết định hủy bỏ công tác đón em rồi!..”
Thêm một lần thoát nạn..
Người bạn thân Mai Văn Lương (hiện đang sống tại Cali) cùng đơn vị phủ Tổng Thống, đă giúp tôi thật nhiều trong lúc cùng cực. Anh đăgiúp tôi liên lạc với một lực lượng vùng Hậu giang, có cơ sở mua bán phân bón, văn pḥng tại đường Trần Hưng Đạo, đối diện với Tổng Nha Công An thành phố. Đêm đó tôi ở lại ngủ tại cơ sở suốt đêm tṛ chuyện cùng anh Hoàng (Hoàng cấp bậc Đại Úy Sĩ Quan Đà Lạt trốn tŕnh diện đi tù cải tạo.) cho biết cơ sở nầy được quyền giữ 20 nhân viên ngủ lại đêm, anh khuyên tôi yên tâm ở lại đây để chờ liên lạc viên từ Hậu Giang lên đón tôi… Sáng sớm hôm sau tôi và anh Hoàng ra ăn sáng ở tại quán café vỉa hè gần đó, Lương cũng vừa tới. Ttrong quán có rất đông bọn Công An đang uống café. Tôi có linh cảm như có việc ǵ sắp xảy ra nên sau khi ăn sáng xong tôi nói với Lương đưa tôi về chỗ ẩn trú của tôi và khi nào có liên lạc viên ở Hậu Giang lên th́ đến đón tôi, v́ ở đây tôi cảm thấy có nhiều nguy hiểm. Lương đồng ư và đưa tôi về chỗ ẩn rồi ra đi.. Nhưng khoảng 12 giờ trưa, Lương trở lại kiếm tôi và cho hay tất cả cơ sở đó đă bị Công An thành phố hốt hết rồi..! Thật may cho tôi, tôi chỉ thoát trong đường tơ kẽ tóc.
Có nhiều ngày tôi lang thang đạp xe từ 6 giờ sáng khắp nơi trong thành phố cho tới 9 giờ tối mà tôi chưa biết đêm nay phải ngủ ở đâu ?.. Có hôm tôi chỉ ăn vài trái chuối qua ngày v́ không tiền. Có nhiều hôm được tin bọn công an bố ráp ở các bến xe đ̣ Xa Cảng Miền Tây, nhà ga xe lửa là những nơi tôi thường mướn chiếu để ngủ nên phải t́m vào nhà các bạn để trốn..
Tôi bị bắt hụt lần thứ 2..
Có lần tôi đang ẩn trong nhà một người bạn ở quận 11, Sài G̣n, khoảng 1 giờ khuya, bọn Công An Phường tông cửa ập vào nhà, tên Công An trưởng ra lệnh tất cả phải đứng yên tại chỗ và cho biết là chúng được tin trong nhà bạn tôi có làm ḷ nướng bánh ḿ lậu . Chúng bắt đầu lục soát..T rong lúc đó tôi đang ở trong pḥng ngủ của bà mẹ anh bạn v́ bà về thăm quê ở Thốt Nốt, nên anh bạn cho tôi ngủ tạm, v́ tôi cũng đề pḥng trường hợp nầy có thể xảy ra nên tôi không nằm ngủ trên giường mà chỉ trải tấm mền lót để nằm dưới đất, c̣n trên giường th́ mùng,mền, nệm gối đều xếp ngay ngắn, cửa pḥng khi vào tôi đă khóa lại phía trong, khi nghe tiếng bọn Công An vào tôi liền kéo tấm mền đẩy vào gầm giường rồi chung vào trốn trong tủ áo v́ quá cấp tốc nên tôi không c̣n đường nào để thoát..
Tiếng tên Công An trưởng hỏi bạn tôi :
“Ai ở trong pḥng nầy?”
Bạn tôi trả lời :
“Đây là pḥng ngủ của má tôi hôm nay bà đă về quê ở Thốt Nốt thăm bà con, không có ai ở trong đó hết”
Tên Công An ra lệnh bạn tôi lấy ch́a khóa mở cửa pḥng để chúng khám xét. Tôi lo sợ nghĩ rằng lần nầy hết phương thoát khỏi. Sau khi cửa pḥng đă mở tôi nghe tiếng chân của tên Công An bước vào pḥng, tôi hé nh́n kẹt cửa tủ áo thấy tên nầy ngó dáo dác trên giường rồi bước đến bàn đèn chộp lấy chiếc đồng hồ đeo tay của tôi đang để trên bàn rồi vội bước ra và ra lệnh cho mấy tên khác lên gác lục soát để t́m tang vật về việc làm bánh ḿ lậu như bột ḿ, bàn cân bột .v.v. Khi bọn Công An lên gác anh bạn vội mở cửa sau cho tôi tẩu thoát. Tôi thoát nạn lần nầy là nhờ vào chiếc đồng hồ “Hai cửa sổ, ba người lái” (Tiếng của bộ đội CS khi mới vào Nam) của tôi, v́ tên Công An lấy được nên vội bỏ đi ra ngay…
Lần thứ 3 bị bắt hụt.
Trong gần dịp lễ Giáng Sinh năm 1977, được tin bọn Công An sẽ bố ráp ở các nơi công cộng, bến xe đ̣, nhà ga xe lửa, nên tôi đến xin bạn tôi cho ngủ nhờ.. Khoảng 12 giờ khuya có tiếng đập cửa và tiếng bọn Công An kêu gọi mở cửa phía trước lẫn phía sau.. Trong lúc bạn tôi đi mở cửa, tôi chạy lên gác lầu và mở cửa sổ leo lên nóc nhà và ḅ rạp ḿnh theo bóng tối qua 2-3 nóc nhà và nằm nép ḿnh xuống máng xối giữa 2 mái nhà của pḥng bán thực phẩm do cán bộ VC quản lư. Chúng lục xét khắp nơi rồi lên gác mở cửa sổ nơi tôi vừa thoát ra.. Chúng nh́n qua mấy nóc nhà nhưng v́ tối quá nên chúng nó không thấy tôi nên chúng xuống lầu rồi bỏ đi… Kể từ đó anh bạn tôi không c̣n muốn thấy mặt tôi nữa v́ anh đă quá sợ. C̣n về phần tôi th́ cũng ngại ngùng không muốn liên lụy đến anh bạn nữa nên tôi tránh xa khu nhà của anh..!
Tôi được một anh bạn khác giới thiệu cho tôi gặp một người đại diện cho một tổ chức kháng chiến chống Cộng ở miền Tây,(xin được giữ kín) lúc đó tôi cũng có trách nhiệm cố vấn tham mưu, đại diện cho một lực lượng tại đô thành Sài G̣n gồm nhiều thành phần hỗn hợp, tôn giáo, quân nhân, công chức của Việt Nam Cộng Hoà . V́ lúc nầy tất cả Sĩ Quan đều bị đi tù cải tạo. .c̣n lại thành phần quân nhân từ Hạ Sĩ Quan trở xuống . Anh bạn Người Nhái của chúng tôi cấp bậc là Thượng Sĩ đă họp cùng một số anh em quân nhân và vài đoàn thể Tôn Giáo khác tổ chức ra một lực lượng trong đô thành. Khi anh gặp được tôi trốn trại lần thứ 2 , anh ngỏ ư nhờ tôi giúp trong phần điều hành nhân sự v́ trong tổ chức nhân sự đă vượt quá khả năng Hạ Sĩ Quan của anh .Tôi cũng cho anh biết là khả năng của tôi cũng hạn hẹp. Không thể lộ mặt được v́ đang lẩn trốn, tạm thời tôi xin nhận phần Ch́m đại diện cho tổ chức để t́m các tổ chức khác để kết hợp.v.v. Trong phần vụ đó tôi đă dấn thân cùng với một tổ chức khác đi về miền Tây để liên lạc với các cánh quân ly khai vùng Sóc Trăng và Cờ Đỏ.., và sau buổi họp tại khách sạn ở Cần Thơ, tôi đă bí mật mang về Sài G̣n những số nhà của các địa điểm cần được phối kiểm để tiếp tế khi cần. Nhưng chỉ vài tuần sau th́ tổ chức tôi đang hơp tác bị bể.. Chúng tôi đành phải nằm yên..
Nhờ người bạn thân giới thiệu tôi với một đại diện một cánh quân ở Miền Tây, tổ chức của anh đang bị động ở miền Tây nên anh lánh về Sài G̣n..Tôi và anh bàn thảo trong tinh thần cởi mở thân mật v́ chúng tôi đều đang đi t́m những đường dây tiếp tế thật sự từ ngoại quốc về và hứa sẽ giúp đỡ cho nhau khi cần với khả năng mà ḿnh có..
Sắp đến Tết Nguyên Đán ở đô thành lại bị bố ráp, tôi đến gặp anh Trần (xin tạm gọi là anh Trần…) nhờ anh giúp đưa tôi tạm lánh nạn về miền Tây ở vùng Cái Răng..Anh giới thiệu tôi là người Tàu lai ở Chợ Lớn đi t́m việc làm với ông chủ vườn cây ăn trái và nhờ ông giúp đỡ.. Ông chủ vườn đưa tôi vào vườn cây của ông cách mặt lộ khoảng 3 cây số.. V́ là vùng đất Bưng (đất sét đen) nên chỉ đi bằng chân không, v́ bùn śnh lún sâu không thể mang giày dép được .Tôi ở chung với vợ chồng người cháu. Tôi tạm gọi là anh Ba, anh là HSQ Truyền Tin, anh tự làm cho mù mắt để được miễn dịch, sau khi VC chiếm miền Nam, vợ chồng anh bần khổ nên về đây ở tạm. Anh cũng thường tự trách ḿnh mỗi khi tâm sự với tôi là ngày trước anh đă hèn nhát, đă tự hủy hoại thân thể để cầu an..bây giờ VC vào rồi anh mới thấy hối hận.. Anh cũng hỏi thăm ḍ tôi thuộc thành phần nào nhưng tôi giấu nhẹm chỉ cho anh biết tôi là người Tàu lai tên là Hứa Gia Ân..
Vườn cây ăn trái có khoảng 300 gốc, ban ngày tôi tưới nước và lặn xuống ḍng rạch để móc śnh non lên vun gốc. Ban đêm khi chiều xuống , tôi và anh Ba chèo xuồng đi giăng câu ở những nơi hoang vắng để tránh tai mắt bọn Công An vùng.. Có nhiều đêm mưa tầm tă chúng tôi quần áo ướt sũng co ro trên xuồng, hoặc t́m vào các ngôi miễu hoang mà trú ẩn cho qua cơn mưa, gần sáng chúng tôi mới chèo xuồng về. Vợ anh Ba, chị đem cá câu được đem ra chợ Cái Răng bán và mua lại gạo muối về dùng..Thỉnh thoảng một vài tuần anh Trần vào thăm tôi và tiếp tế chút ít tiền đưa cho anh chị Ba lo giúp phần ăn uống cho tôi v́ ông chủ vườn cũng không có dư dả nên vợ chồng anh Ba và tôi điều phải tự túc..
Thoát nạn lần thứ 4.
Tôi ở đây gần 3 tuần, tôi đă gặp NN Nguyễn Văn Cao chung khóa 2 NN với tôi,trong lúc tôi ra mặt lộ để hớt tóc. Cao gặp tôi vui mừng, tôi vội kéo Cao ra ngoài để tránh mọi người để ư và cho anh Cao biết là tôi đang lẩn trốn v́ đă vượt tù cải tạo hiện giờ thân phận tôi là người Tàu lai ở Chợ Lớn thất nghiệp nên xuống đây làm vườn để sống….Cao khẽ nói với tôi :
“Chú Ba T..(Ông chủ vườn) ngày xưa đă tiếp tế VC. Nếu anh ở nhà ông th́ tạm là an toàn v́ Công An phường khóm đều quen biết ông.”
.Nhưng vài hôm sau ông chủ vườn cho tôi hay là Công An nói giấy tờ của tôi đă gần hết hạn và muốn gặp mặt tôi vào ngày mai. Tôi cảm thấy nguy hiểm nên khoảng 3 giờ sáng sớm hôm sau tôi lén rời khỏi Cái Răng đi xe đ̣ trở về Sài G̣n…
Sau đó có lúc tôi ở Cai Lậy, Cần Thơ, Cái Răng, Ḅ Ót, Ô Môn, Thất Sơn, Châu Đốc…Tôi cố t́m vào các nơi bưng biền, nhưng khi biết ra th́ các anh em chỉ có ngọn mà không có gốc. Tôi đành phải vượt biên, sau khi đă bị VC bắt hụt mấy lần. Cuối cùng tôi được một người bạn thân giúp cho tôi đem vợ và đứa con trai vừa hơn 3 tuổi.
NGÀY VƯỢT BIÊN
Ngày lễ Thanh Minh là ngày vượt biên! Chúng tôi xuống ghe tại bến Ninh Kiều Cần Thơ rồi chạy ra cửa biển Tranh Đề, được chiếc ghe đánh cá Kiên Giang mang số KG- 0660 đón lên ghe và khởi hành ra cửa biển, nhưng khi vừa ra tới cửa biển chiếc ghe lại leo lên cồn cát, tất cả trên ghe là 59 người kể cả lớn nhỏ, đều nhốn nháo lên, v́ trên ghe có người đă vượt biên 5 lần 7 lượt mà vẫn không thoát, lần nầy ghe lại mắc cạn, nên mọi người đều lo sợ.
Tôi đứng ra kêu gọi tất cả hăy b́nh tĩnh, và tổ chức lại, chia ra nhiều tổ, mỗi tổ 2 người, bắt đầu xuống nước tính từ ghe chia ra tổ nào đi theo hướng nấy và khi nào t́m được chỗ nước sâu tới ngực th́ kêu lên. Tất cả đều làm theo lời của tôi, một lúc sau ở hướng bên trái kêu lên có chỗ sâu, tất cả đều cùng xúm lại đẩy ghe về hướng đó, ghe lại khởi hành, nhưng ghe chạy chỉ được chừng vài trăm thước th́ máy bơm nước từ trong ra ngoài bị bể. Tôi liền tổ chức chia thành 3 toán thay phiên nhau tát nước trong ghe ra ngoài. Tôi chọn 3 người lớn tuổi làm trưởng toán có trách nhiệm sắp đặt thay phiên nhau.
Tôi nghi ngờ anh tài công nầy, tôi lên pḥng lái hỏi anh tài công : “Anh chở theo bao nhiêu lít dầu ?”
Tài công trả lời : “400 lít”.
Tôi hỏi :” Ghe nầy chạy bao nhiêu cây số giờ ?”
Tài công : “không biết!”
Tôi hỏi: “Bây giờ anh đang chạy đi đâu ?”
Tài công : “Cứ chạy rồi sáng vô Ḥn Khoai tính lại”
Tôi biết tên tài công nầy có mưu đồ, tôi tức giận thét lớn lên :
“Anh rời khỏi pḥng lái ngay, kể từ bây giờ tôi lái chiếc ghe nầy!”
Tôi kéo cổ tên tài công ra khỏi pḥng lái và dặn các anh trưởng toán coi chừng tên tài công, c̣n tôi vào pḥng lái, lấy hướng 180 độ trên la bàn là hướng giữa Côn Sơn và Ḥn Khoai mà lái đi suốt đêm cho đến 7 giờ sáng. Tôi nh́n về hướng bên trái ghe thấy dạng núi Côn Sơn, biết là đúng hướng rồi, tôi lái thêm ba giờ nữa để ghe ra tới hải phận quốc tế.
Tôi được các người trên ghe cho biết tên tài công không có ư định vượt biên, nên vợ con anh ta để lại Việt Nam. C̣n ghe th́ không có tu bổ hay sửa chữa chi hết, nên nước đă vào theo kẽ hở tróc chai rồi lại hư luôn máy bơm nước, c̣n máy cũng hư, chỉ c̣n máy tiến mà không có máy lùi. Trên ghe đi biển vượt biên mà không có hải đồ, chỉ vỏn vẹn một la bàn trong pḥng lái mà thôi. Tôi đem tấm bản đồ giới thiệu đường hàng không của Mả Lai, tỷ lệ 1/40.triệu, nh́n vào bản đồ thấy nước Việt Nam bằng đầu ngón tay út, dùng bản đồ đó và địa bàn Bộ Binh,(Tôi đem theo tấm bản đồ và địa bàn nầy trong ḿnh là dự tính vượt biên bằng đường bộ.) tôi đo và xoay theo hướng độ, tôi kẻ đường thẳng đến thị trấn Kotabaru,của Mă Lai, giáp biên giới của Thái Lan, là hướng 240 độ.
Tôi lái ghe đổi hướng trực chỉ.. chúng tôi đă đi 2 đêm 2 ngày, mỗi ngày tôi đều thay dầu vào lúc 4 giờ chiều, rồi lại đi tiếp. Bỗg thấy có chiếc tàu từ xa chạy cùng chiều , chiếc tàu chạy tốc độ rất nhanh khi đến gần chúng tôi mới biết là tàu đánh cá Thái Lan. Chiếc tàu vượt qua ghe rồi ngừng lại, ra dấu cho chúng tôi cập vào, v́ ghe không có máy lùi nên kêu tất cả thanh niên khoảng gần 30 người đứng dàn hàng trên ghe để khi cập vào th́ đỡ lại, và tôi lái góc 90 độ mũi ghe chỉa thẳng vào hông tàu của Thái Lan dự tính khi đến gần sẽ lấy mũi lại song song với tàu, nhưng tàu Thái Lan hoảng sợ vội vọt mạnh về phía trước, làm cho một tên Thái rớt xuống biển. Tôi ṿng ghe lại vớt tên nầy lên, tên thủy thủ lên ghe chúng tôi mà có vẻ sợ sệt, chiếc tàu Thái Lan ṿng lại và ra dấu thả tên Thái đó và ra dấu sẽ tiếp tế thực phẩm cho chúng tôi. Tôi ra dấu cho tên Thái Lan nhảy xuống lội về tàu, chúng tôi được tàu Thái câu bỏ xuống 2 bao gạo và 2 thùng bằng nylon chứa nước ngọt, (v́ khi ghe bị mắc cạn chúng tôi đă đổ bớt nước ngọt đem theo để cho ghe được nhẹ bớt nên thiếu nước ngọt.) Sau đó tàu Thái Lan trở hướng chạy ngược lại, c̣n chúng tôi tiếp tục đi. Bà con trên ghe bàn tán, có lẻ tàu Thái Lan đó là hải tặc, nhưng khi thấy trên ghe đông thanh niên đứng dàn hàng nên chúng nó sợ chúng tôi cướp lại tàu của chúng nó nên chúng đành bỏ đi..?!
Đến chiều ngày hôm đó tôi họp với 3 anh trưởng toán lại và cho các anh biết là t́nh trạng chiếc ghe không c̣n an toàn nữa, v́ chất chai trét đă bị tróc nước vô nhiều, hy vọng có tàu lớn đi ngang cứu giúp. Tất cả đều lo lắng.. Khoảng 6 giờ chiều, bổng thấy ánh sáng chớp lên thật xa, tôi xem kỷ biết là Hải Tiêu, tôi báo cho tất cả trên ghe hay tin đều vui mừng, tôi lái theo hướng Hải Tiêu cho tới 12 giờ đêm mới vào được tới cửa sông, khi tôi ủi ghe lên bờ vừa chạm cồn cát, chiếc ghe ră ra và ch́m xuống nước, 59 người lớn và trẻ em trên ghe đều bồng bế nhau nhảy xuống biển, nước sâu tới cổ, và tất cả mọi người đều an toàn đến bến bờ đất nước Mă Lai..
Chiếc ghe đánh cá Kiên Giang mang số KG – 0660 đă làm tṛn trách nhiệm của ḿnh đưa người tới bến bờ TỰ DO và đătrở về với ḷng Đại Dương ngàn đời.!.C̣n Chúng ta ..những đứa con v́ 2 chữ TỰ DO đă bỏ nước ra đi đang lang thang nơi đất lạ khắp năm châu.. Biết đến bao giờ những đứa con nầy mang 2 chữ TỰ DO về cho đất mẹ ?..!!
NN Lê Đ́nh An
Mă Lai, Mùa thu 1978.
hoanglan22
04-12-2019, 03:00
Tiểu Đoàn đang hành quân ở Ngân Sơn th́ có lệnh kéo ra quốc lộ để di chuyển khẩn cấp. Đám lính tráng buồn thiu. V́ vùng này rất nổi tiếng có nhiều cô gái quê làn da nơn nà xinh đẹp, mà mỗi lần đơn vị ghé lại đây, thế nào cũng có vài chàng lính trẻ chấm dứt cuộc đời độc thân vui tính. Lần này đơn vị đi xa, nên trên các chiếc xe GMC thấp thoáng bóng vài cô con gái mặc áo lính. Thông cảm cho các đôi vợ chồng mới, ông Tiểu Đoàn Trưởng bảo các sĩ quan lơ đi, để cho các cô dâu được đi theo. Khi đến bờ biển Tuy Ḥa, Tiểu Đoàn tiếp nhận một Chi Đoàn Thiết Quân Vận M-113 tăng phái, rồi tất cả xuống tàu Hải Quân ra biển. Sau hai ngày đêm hải hành lênh đênh, chúng tôi được lệnh đổ bộ lên bờ biển Phan Thiết, ngay phía trước một Phật đài đang xây dang dở, nằm không xa phía dưới phi trường và Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch.
Tiểu Đoàn chúng tôi, một đơn vị lưu động, đặt dưới sự điều động trực tiếp của Quân Đoàn, có nhiệm vụ khai thông Quốc Lộ số 1 từ B́nh Thuận ra đến Khánh Ḥa, đặc biệt quăng đường dài hơn 50 cây số chạy dọc theo mật khu Lê Hồng Phong, địch quân đang kiểm soát, đồng thời truy diệt mọi lực lượng địch trong vùng, giúp các Tiểu Khu b́nh định lănh thổ. Sau một ngày dưỡng quân, nhận tiếp tế lương thực và đạn dược, chúng tôi bắt đầu cuộc hành quân dài hạn từ tuyến xuất phát Phú Long. Quốc Lộ số 1 là trục tiến quân chính. Tiểu Đoàn (-) mở rộng đội h́nh hai bên quốc lộ, một đại đội tùng thiết và Chi Đoàn Thiết Quân Vận vừa làm lực lượng xung kích, vừa làm lực lượng yểm trợ hỏa lực di động cho các cánh quân c̣n lại. Ra đến làng Tùy Ḥa th́ đụng địch. Chúng tôi nhận lệnh khai triển đội h́nh. Chi Đoàn Thiết Quân Vận vượt lên đánh một trận thần tốc tiêu diệt một lực lượng địa phương của địch cố thủ ở làng Sara, các cánh quân c̣n lại nhanh chóng tiêu diệt mọi lực lượng địch trong vùng để tiến chiếm mục tiêu Núi Tà Dôm, một cao điểm trọng yếu, lập đài tiếp vận truyền tin, giao lại cho một đơn vị Địa Phương Quân trấn giữ trước khi tiếp tục lộ tŕnh.
Lần đầu tiên bất ngờ đụng độ với một lực lương chủ lực quân hùng mạnh, địch quân - mà đa số là đám lính địa phương và du kích - bị đánh tan tác khắp nơi. Đơn vị chúng tôi dễ dàng làm chủ t́nh h́nh. Giao trách nhiệm cao điểm Tà Dôm cho Tiểu Khu B́nh Thuận, chúng tôi nhận lệnh tiếp tục di chuyển thêm hơn năm cây số về hướng Bắc đến đóng quân tại xă Long Hoa, giữ an ninh cho một đơn vị công binh thiết lập căn cứ Nora trên một đỉnh đồi nằm gần Quốc Lộ, để trung đội Pháo Binh 105 ly di chuyển từ Phan Thiết đến căn cứ này trực tiếp yểm trợ cuộc hành quân.
Đại Đội tôi trách nhiệm đi đầu. Nhưng vừa xuống chân núi Tà Dôm, qua khỏi cầu Ông Tầm vài trăm thước, tôi nhận lệnh ông Tiểu Đoàn Trưởng dắt đại đội rẽ về bên phải chiếm lại một khu làng hiện do địch kiểm soát. Sau đó đóng quân tại đây để cơ quan Tỉnh thiết lập lại chính quyền. Khi cùng đoàn quân vượt lên để đến Long Hoa, ông Tiểu Đoàn Trưởng dặn ḍ tôi phải hết sức cẩn thận, v́ mục tiêu nằm sát mật khu lớn của địch, số lượng du kích trong làng khá đông và hầu hết những gia đ́nh ở đây đều có thân nhân theo VC. Sau khi nghiên cứu địa h́nh, tôi cho ba trung đội tiến vào khu làng bằng ba hướng khác nhau, tạo thành ba mũi giáp công. Dù chờ đợi, nhưng không hề có sự kháng cự nào. Tôi nghĩ đám du kích đă biết cuộc hành quân qui mô này, nên đă kịp chạy ra khỏi làng, nhưng nhất định chúng đang ẩn nấp đâu đó ŕnh ṃ chờ những sơ hở của chúng tôi.
Khu làng nằm cách quốc lộ chừng 500 mét. Dọc theo con đường đất dẫn vào làng là một hàng me cao. Chỉ có chừng một trăm nóc gia, lưa thưa vài căn nhà ngói cổ, c̣n hầu hết là nhà tranh. Phía sau làng là một con suối khá lớn, bên kia là khu rừng tiếp giáp với mật khu Lê Hùng Phong của địch. Bất cứ ai cũng đoán được là đám du kích đang ẩn trốn trong khu rừng ấy, v́ tương đối an toàn cho chúng, và nếu bị truy kích sẽ chạy thoát vào mật khu rộng lớn. Tôi cho một trung đội khá nhất thường xuyên hoạt đông bên ấy, và chấm sẵn các điểm tác xạ tiên liệu Pháo Binh, để trường hợp có đụng độ, sẽ kịp thời yểm trợ, đề pḥng lực lượng địa phương của địch có thể từ mật khu kéo ra tăng cường cho đám du kích.
Sau khi đi một ṿng kiểm soát kỹ lưỡng, tôi chọn khu vườn của một ngôi nhà ngói cổ nằm giữa làng, có nhiều cây cối chung quanh, làm nơi đóng quân cho ban chỉ huy đại đội. Cũng như nhiều nhà khác ở đây, trong nhà này cũng có một bàn thờ nghi ngút khói hương. Trên bàn thờ là tấm ảnh chân dung của một người đàn ông trẻ. Chủ nhà là một bà già khoảng 60, sống với một chị đàn bà trẻ là mẹ của một đứa con trai chừng 7, 8 tuổi. Hai mẹ con đều để tang trên ngực áo bằng một miếng vải trắng. Chúng tôi hỏi th́ được bà già cho biết người con trai của bà là một nghĩa quân bị tử trận hơn 6 tháng. Bà đang sống với người con dâu trẻ góa bụa và thằng cháu nội đích tôn. Bà c̣n đưa cho tôi xem tờ khai gia đ́nh của chính quyền cấp đă lâu. Đọc qua tôi thấy tên bà là Lê Thị Đúng và người con trai là Nguyễn Cho được gạch ngang và ghi chú với nét chữ vụng về: tử trận.
Cả nhà rất tốt với chúng tôi. Ngày nào cũng mang củi về cho chúng tôi nấu cơm. Nước đổ đầy các chum đất cho chúng tôi dùng. Lúc nào cũng tỏ ra vui vẻ. Tôi luôn nhắc nhở lính tráng phải cẩn thận, đặc biệt khi dùng nước uống, cảnh giác, theo dơi mọi hành động, nhưng phải đối xử tốt với họ, đừng lộ ra điều ǵ để họ biết là nghi ngờ họ. Thằng bé rất thích mấy anh lính. Một vài chú lính có con nhỏ nhưng lâu lắm chưa gặp, nên thấy thằng bé thật thà cũng thương. Được cho các hộp trái cây lương khô, có khi cả tiền nữa, nên thằng bé lúc nào cũng lân la bên các chú lính. Cứ mỗi lần thấy con ḿnh gần gũi với lính, bà mẹ thường canh chừng, lâu lâu gọi thằng con ra xa dặn ḍ điều ǵ đó. Một hôm ngồi xem anh lính lau chùi khẩu súng tiểu liên, thằng bé xin được mang thử và ra điều thích thú lắm. Rồi bất ngờ buột miệng:
- Ba cháu cũng có khẩu súng, nhưng dài quá, cháu mang không vừa và không đẹp bằng khẩu súng này của chú.
Nói vừa xong, thằng bé biết lỡ lời, nên vội đưa tay lên bụm miệng.
Được báo cáo, tôi bảo anh lính tiếp tục khai thác thằng bé. Và cuối cùng chúng tôi biết được cha nó là trưởng mũi công tác, chỉ huy hơn 30 tay du kích trong làng này. Cùng lúc tôi nhận được báo cáo của anh trung đội trưởng đóng ở b́a làng, cho biết là cứ mỗi buổi chiều, bà già chủ nhà tôi ở đi kiếm củi dọc mé suối, nhưng thỉnh thoảng hướng về phía bên kia rừng nói lớn: “Thằng Hai ơi! Cứ cho trâu ăn bên ấy, bên này hết cỏ rồi!”.Tôi gọi máy báo cáo cho ông Tiểu Đoàn Trưởng và đề nghị một kế hoạch “Điệu Hổ Ly Sơn”. Tôi được ông chấp thuận.
Trưa hôm sau, tôi t́m vị trí thật kín đáo cho một trung đội ngụy trang nằm mai phục bên bờ suối cùng lúc rút trung đội bên kia suối về làng, và cho lệnh đại đội di chuyển ra khỏi làng, bảo lính tráng nói lời cám ơn chia tay dân chúng, để lại biếu họ một số gạo vừa mới được tiếp tế. Chúng tôi rời khỏi làng đi dọc theo Quốc Lộ tiến về hướng Nora và nhanh chóng ẩn trong b́a rừng bên khúc quanh của đường quốc lộ, trong tư thế sẵn sàng tiếp ứng. Đúng như dự đoán, khi trời sắp tối, nghe tiếng ḿn Claymore và nhiều tiếng súng nổ trong làng, tôi được anh trung đội trưởng báo cáo đă tiêu diệt toàn bộ toán du kích, từ bên kia rừng lội suối về làng. V́ tưởng tất cả chúng tôi đă di chuyển đi nơi khác, nên đă lọt ổ phục kích. Tôi báo cáo cho Ông Tiểu Đoàn Trưởng và ra lệnh cho đại đội nhanh chóng quay trở lại làng, nhưng thay đổi các vị trí pḥng thủ. Lần này tôi chọn một khu vườn bên bờ suối làm nơi đóng quân cho ban chỉ huy đại đội và trung đội vũ khí nặng, nhằm đối phó và yểm trợ kịp thời, nếu địch kéo từ mật khu ra phục hận.
Sáng hôm sau, một số cán bộ chính quyền đến nơi để xác nhận và giải quyết các tử thi. Anh cảnh sát cho tôi biết, trong số người chết có tên trưởng mũi công tác, con trai của bà Lê Thị Đúng, chủ nhà tôi đóng quân hôm trước.
Nghe mấy chú lính thám sát t́nh h́nh cho biết, ban đầu bà không nhận người ấy là con bà, nhưng không khí trong nhà buồn thảm lắm, nhất là chị vợ lúc nào cũng giấu nước mắt. Chỉ có thằng con trai th́ vẫn cứ vô tư chơi đùa. Dường như không ai nói với nó điều ǵ đă xảy ra.
Buổi chiều, chính quyền thông báo nếu tử thi nào không có người nhận, họ sẽ chôn cất, nhưng v́ không biết tên nên không thể làm bia. Lúc ấy bà chủ nhà mới chịu đứng ra nhận lănh, và với sự giúp đỡ của chính quyền, bà và cô con dâu lo xong mai táng. Dù người chết là kẻ thù, nhưng trong hoàn cảnh này, nhất là vừa đóng quân trong vườn nhà họ hai hôm nay, chúng tôi ai cũng động ḷng tội nghiệp cho người vợ trẻ và nhất là đứa con trai vừa mới mất cha. Chúng tôi góp được một ít tiền, cho một anh lính thân t́nh với thằng bé nhất, mang lại biếu họ. Tôi h́nh dung tới cái bàn thờ hôm trước, bây giờ đă trở thành bàn thờ thực sự. Hai hôm sau, Đại Đội tôi được lệnh bàn giao làng lại cho chính quyền với một trung đội nghĩa quân mới tới.
Cuộc hành quân tiếp diễn về hướng Bắc và chỉ hai ngày sau, chúng tôi đă đến Sông Lũy, bắt tay với Trại Biệt Kích Lương Sơn do một số sĩ quan LLĐB chỉ huy. Giai đoạn 1 của cuộc hành quân hoàn tất, cả Tiểu Đoàn được lệnh tập trung dưỡng quân tại Sông Mao. Bản doanh Sư Đoàn 5 BB của ông Ṿng A Sáng bỏ lại, sau khi di chuyển toàn bộ vào Vùng 3 CT. Bây giờ doanh trại trở thành một trung tâm huấn luyện Địa Phương Quân.
Tôi đă từng tham dự nhiều cuộc hành quân, đơn vị tôi từng giết nhiều quân địch, nhưng cuộc hành quân lần này làm tôi khó quên, ngay cả cái tên của gả du kích Nguyễn Cho và bà mẹ Lê Thị Đúng, mà tôi đă đóng quân ngay trong vườn nhà bà vỏn vẹn chỉ bốn ngày.
***
Hơn bảy năm sau, chiến tranh đến thời kỳ ác liệt nhất. Ngay sau khi Bộ Tư Lệnh Tiền Phương SĐ 22 BB bị Cộng quân tràn ngập tại Tân Cảnh, lần đầu tiên một vị Tư Lệnh Sư Đoàn khí phách và liêm sỉ chấp nhận vùi thây nơi chiến địa, từ chối lên trực thăng thoát thân cùng với đám cố vấn Mỹ, đơn vị chúng tôi được không vận khẩn cấp lên Kontum, bây giờ là mục tiêu tiến chiếm của đại quân Cộng Sản đang tràn xuống từ hướng Bắc. Lúc này tôi đă được điều về Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn. Đơn vị chúng tôi đă chiến thắng oanh liệt, giữ vững được Kontum và trở thành tuyến đầu của trận chiến Cao Nguyên trong suốt mùa hè đỏ lửa.
Chiến thắng ngày ấy dù có vinh quang nhưng chúng tôi cũng đă phải trả một cái giá không nhỏ. Trong năm 1972 riêng đơn vị tôi đă có hơn 300 đồng đội hy sinh. Số tân binh từ các Trung Tâm Huấn Luyện không đủ bổ sung, nên Bộ Tổng Tham Mưu ban hành lệnh đôn quân khẩn cấp. Đầu năm 1973, chúng tôi tiếp nhận một số khá đông những người lính Địa Phương Quân từ các Tiểu Khu chuyển tới. Đại Đội Trinh Sát là một đơn vị thiện chiến, lập được nhiều chiến công hiển hách, luôn được dùng làm lực lượng xung kích cho Chiến Đoàn, đảm nhân các công tác hiểm nguy và sẵn sàng tăng cường cho các điểm trọng yếu. V́ vậy đơn vị này cần được ưu tiên bổ sung một số lính trẻ, thiện chiến.
Chúng tôi đă từng hành quân chung với các đơn vị đia phương quân Tiểu Khu B́nh Thuận, và biết họ cũng được tôi luyện trong chiến tranh tại lănh thổ địa phương, luôn phải đối đầu với một lực lượng địch đáng kể. Số lượng đôn quân từ Tiểu Khu này khá nhiều so với các Tiểu Khu khác trong Vùng 2. Vị Chiến Đoàn Trưởng ra lệnh ưu tiên chọn các anh lính trẻ B́nh Thuận bổ sung cho Đại Đội Trinh Sát.
Được sự hướng dẫn của vị đại đội trưởng và các sĩ quan trẻ, nổi tiếng đánh đấm trên chiến trường, cùng học hỏi kinh nghiệm, noi gương gan dạ từ những người trinh sát cũ đă dạn dày chiến trận, một số lính địa phương quân được bổ sung cho đại đội Trinh Sát, sớm trở thành các chiến sĩ thiện chiến trên trận mạc. Trong số này có một anh rất trẻ, đă lập khá nhiều chiến công lẫm liệt, luôn được vị đại đội trưởng đề nghị cấp trên khen thưởng sau mỗi cuộc hành quân. Thành tích xuất sắc nhất là khi anh t́nh nguyện một ḿnh ôm lựu đạn ḅ vào tiêu diệt cái chốt của địch gồm nhiều ổ súng pḥng không, nằm trong một hốc đá kiên cố trên đỉnh núi Chu Pao. Chính cái chốt quỷ quái này đă gây cho các đơn vị ta nhiều thiệt hại và đe dọa không nhỏ đối với các phi cơ đổ quân và chiến đấu hoạt động trong vùng.
Tôi đă gặp anh lính trẻ này vài lần và rất quí mến cậu ta. Không ngờ với một khuôn mặt hiền hậu, khôi ngô mà lại là một chiến sĩ can trường, dũng cảm. Có lần anh thú nhận với tôi là đă làm khai sanh tăng thêm ba tuổi để xin đầu quân. Một đôi lần, tôi móc túi cho cậu ít tiền để uống cà phê, khi nghe nói hằng tháng phải gởi tiền về nuôi mẹ. Ngược lại, sau mỗi cuộc hành quân, cậu cũng t́m đến thăm tôi, kể lại cho tôi những ǵ xảy ra trong trận đánh, và chăm chú ngồi nghe tôi nhận định. Đôi mắt cậu lúc nào cũng sáng lên niềm kiêu hănh về các cấp chỉ huy, cùng đơn vị mà cậu ta đang phục vụ.
Vào khoảng cuối năm 1973, Đại Đội Trinh Sát được trực thăng vận đổ xuống giữa một trân chiến đang mịt mù lửa đạn để giải cứu cho một đơn vị BĐQ Biên Pḥng đang bị vây hăm v́ đă cạn đạn dược sau hơn hai ngày kiên cường chiến đấu, mà không thể nhận được tiếp tế. Một cuộc chiến khốc liệt, đẫm máu, mà các chiến sĩ trinh sát phải đánh cận chiến bằng lưỡi lê và lựu đạn, tạo thời cơ cho các chiến sĩ BĐQ/BP bên trong phá ṿng vây, dũng cảm xông ra. Địch quân bị tiêu diệt trong thế gọng kềm. Chiến trường kết thúc mau lẹ, đám địch c̣n sống sót, một số bị bắt, một số tháo chạy bị các trực thăng vơ trang của Phi Đoàn 235 Sơn Dương truy kích.
Anh trung úy đại đội trưởng Trinh Sát bị thương nhẹ, nhưng vẫn tiếp tục điều quân chiến đấu. Ngay sau khi vừa được tản thương về QYV Pleiku, anh được Ông Tướng Tư Lệnh Phó Quân Đoàn, nguyên là Chỉ Huy Trưởng Binh Chủng BĐQ, đến gắn cấp bậc đại úy và anh dũng bội tinh với nhành dương liễu. Khi ấy anh vừa đúng 25 tuồi.
Tôi tháp tùng ông Chiến Đoàn Trưởng đến thành Dak Pha dự lễ Tuyên Dương Công Trạng toàn thể Đại Đội Trinh Sát, và trao gắn cấp bậc, huy chương cho những chiến sĩ có chiến công xuất sắc trong trận chiến hào hùng này. Buổi lễ dưới sự chủ tọa của ông Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn. Đại Đội được tŕnh diện bởi anh trung úy Đại Đội Phó, xử lư thường vụ thay anh Đại Đội Trưởng c̣n đang điều trị trong QYV. Sau khi quân kỳ của Đại Đội được vị Tướng Chủ Tọa trịnh trọng choàng giây biểu chương màu Tam Hợp, các chiến sĩ xuất sắc được xướng danh ra tŕnh diện trước thượng cấp.
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi không nghe tên và cũng không thấy mặt người lính trẻ có tiếng can trường đôn quân từ Tiểu Khu B́nh Thuận trong số những người được tưởng thưởng. Chờ buổi lễ chấm dứt, tôi hỏi anh đại đội phó. Tôi ngẩn người khi anh cho biết là cậu lính trẻ ấy đă hy sinh khi t́nh nguyện xông vào diệt ổ đại liên cản đường, để cả đại đôi tiến lên. Anh đă gục ngă ngay trên nắp hầm địch cùng lúc tiêu diệt toàn bộ tổ đại liên của địch. V́ không có phương tiện đưa thi hài anh về nguyên quán, hơn nữa anh chết không toàn thây, không muốn cho thân nhân quá đau đớn khi nh́n thấy, nên đơn vị đă làm lễ truy thăng và chôn cất anh tại nghĩa địa Kontum. Tôi hỏi kỹ vị trí ngôi mộ và dặn ḷng sẽ đến thăm nơi an nghỉ của người lính trẻ can trường đáng mến này. Bỗng một hôm, thấy anh đại đội phó đưa một người đàn bà đến Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn để làm hồ sơ tử tuất. Tôi hỏi, mới biết ngươi đàn bà này là mẹ của người lính trẻ vừa mới hy sinh. Anh đại đội phó c̣n cho biết là sau khi làm hồ sơ xong, anh và vị Thiếu tá CTCT của Chiến Đoàn sẽ đưa bà ra thăm lại mộ con lần chót trước khi về quê. Tôi bảo anh đại đội phó là tôi sẽ tháp tùng. Tôi muốn một lần đưa tay chào vĩnh biệt người lính trẻ mà tôi hằng mến mộ.
Khi cùng với người mẹ đứng trước mộ, tôi ngạc nhiên khi thấy trên tấm bia, dưới tên của anh có ghi nơi sinh quán: Làng Long Giang– Xă Long Hoa - B́nh Thuận. Tôi nhớ tới khu làng quê có hàng me cao nằm bên quốc lộ, mà tám năm trước có lần đại đội tôi đă đóng quân, và tiêu diệt tất cả đám du kích có tiếng của làng này. Chờ cho người mẹ thắp hương và bớt xúc động, tôi hỏi nhỏ: - Ở làng Long Giang, chị có biết bà Lê Thị Đúng, có người con chỉ huy du kích, bị chết cách nay khoảng tám năm?
Người mẹ ngạc nhiên nh́n tôi, thoáng ḍ xét rồi cúi xuống, nói thật nhỏ chỉ đủ tôi nghe:
- Bà là mẹ chồng tôi, và con tôi đây là đích tôn, cháu nội duy nhất của bà. Vừa nói chị vừa đưa tay chỉ vào nấm mồ mới toanh trước mặt.
Khi về lại đơn vị, tôi xin Ban Tài Chánh ứng trước nửa tháng lương. Trích ra một phần, bỏ vào b́ thơ, tôi t́m đến đại đội trinh sát gặp và biếu cho bà mẹ của người lính trẻ vừa mới lẫm liệt hy sinh. Bà thoáng một chút xúc động ngạc nhiên nhin tôi nói lời cám ơn.Tôi nghĩ là bà không nhận ra tôi, người đă chỉ huy cuộc hành quân năm xưa, và từng đóng quân ngay trong vườn của nhà bà. Chia tay bà, trên đường trở về Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn, tôi suy nghĩ mông lung. Trong cuộc chiến này, quả thật, có những điều mà người ta không thể nào hiểu được.
Phạm Tín An Ninh
hoanglan22
04-12-2019, 03:06
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1364733&stc=1&d=1555038446
Tháng 8- 1974, một trận đánh lớn xẩy ra tại Thường Đức giữa hai Lữ đoàn Nhẩy Dù của Quân lực VNCH và 3 Sư Đoàn quân Bắc Việt, trận chiến rất khốc liệt, sau 3 tháng quần thảo, số tổn thất của hai bên rất to lớn. Tháng 8 năm nay 2009, trận chiến đă trôi qua 35 năm, nhưng những người lính Nhẩy Dù năm xưa vẫn không quên âm vang của trận đánh và những đồng đội đă nằm xuống. Xin mời đọc câu chuyện của một người Đại Đội Trưởng Nhẩy Dù tham dự trong trận đánh này tại Thường Đức.
Tâm Anh bước những bước nhẹ trên hè đường Tự Do, cơn gió lạnh cuối năm khiến nàng khoanh hai tay lại suưt xoa, những chiếc lá me khô lăn tṛn như điệu nhạc luân vũ dưới chân nàng, Sài g̣n năm nay được hưởng một cái lạnh khác thường, gần Noel rồi c̣n ǵ, ngang qua Brodard, nhiều cặp mắt trong đó nh́n nàng, c̣n anh trong đó nữa đâu, vậy là anh vĩnh viễn xa em rồi, phải chi anh đừng mê đời lính, phải chi anh đừng mê súng đạn th́ giờ này em đâu có cô đơn như thế này. Tâm Anh nhớ lại, cũng là Broadard này một ngày nào đó, ngày hai người c̣n quấn quưt bên nhau, khi đang ngồi uống nước, ngắm thiên hạ qua lại, bất chợt Chương nắm tay nàng:
- Em, anh đă suy nghĩ kỹ rồi, anh sẽ nhập ngũ, vào Vơ Bị Đà Lạt.
Cái ống hút rời khỏi đôi môi xinh xắn, nàng không ngạc nhiên nhưng có bàng hoàng, Tâm Anh chờ đợi ngày này sẽ đến và bây giờ nó đến, vậy mà vẫn không tránh được, nàng hiểu tính Chương, thời gian gần đây, Chương luôn than phiền về một cái ǵ đó, không rơ ràng, có lúc Chương bảo sao chàng thấy thành phố này ngột ngạt quá, chỉ muốn xa khỏi đây, có lúc Chương đứng sững nh́n một người lính phía bên kia đường, lẩm bẩm: " vậy mà Trung nó chết cũng được nửa năm rồi", Trung là một trong ba người bạn thân của chàng, cùng đang học Đại học, rồi cả ba bỏ đi lính, khi măn khóa, Trung chọn binh chủng Nhẩy dù, hai người kia chọn bộ binh và đổi đi xa, chỉ có Trung thỉnh thoảng về phép, rủ Chương và nàng đi chơi như ngày xưa, ngày mấy người c̣n vui chơi với nhau chung một nhóm, Trung đen hơn nhưng rắn rỏi, mỗi lần về, Trung say sưa kể về một trận đánh nào đó mà anh tham dự, nàng bắt gặp ánh mắt Chương rực sáng khi nghe Trung nói chuyện, thế rồi Trung không c̣n dịp về nữa để kể chuyện chiến trường cho Chương nghe, anh đă hy sinh trong một trận đánh ở đâu đó, nàng không nghĩ Chương lại nối gót theo mấy người kia sớm tới như thế.
Nàng bất chợt hỏi Chương:
- Anh bỏ đi như vậy, c̣n t́nh yêu chúng ḿnh, c̣n em th́ sao?
- Th́ t́nh yêu ḿnh cũng vẫn c̣n đấy chứ em, biết đâu sự xa cách này chẳng là một thử thách cho đôi ta, nếu ḿnh vẫn giữ vững được, nếu ḿnh vẫn chỉ nghĩ đến nhau th́ cuộc hôn nhân mới thực bền vững.
Chương gặp Tâm Anh trong dịp sinh nhật đứa em họ tên Dung, Tâm Anh và Dung học chung một lớp, Première ở Marie Curie, mấy năm trước hồi c̣n lớp dưới, Dung học cũng thường thường thôi, nhưng năm lên đệ nhị, Dung khá hẳn lên, Tâm Anh hỏi lư do, Dung cho biết nhờ ông anh họ kèm toán, ông đang học ở Kiến Trúc.
- À, Kiến Trúc th́ giỏi toán rồi, mày nói ông ấy dạy kèm tao với được không! - Được, để tao nói xem sao, nhưng đẹp như mày th́ chẳng phải nhờ mà khối người t́nh nguyện dạy cho mày, sinh nhật tao sắp tới, tao sẽ mời ông ấy cho mày làm quen, à quên, để ông ấy quen mày. & nbsp; Tâm Anh là hoa khôi của lớp nhưng trong buổi tiệc Chương chú ư nhất là nụ cười của nàng, chàng thấy chung quanh như rực sáng lên theo cùng nụ cười, sau này, khi hai người đă yêu nhau Chương mới nói:
- Em đẹp, ai cũng biết, nhưng hôm đó anh chú ư đến em không phải v́ cái bộ mặt kiêu căng thấy ghét, anh chỉ thích nụ cười của em, mỗi lần em cười, anh thấy cái ly trong tay em nó cũng cười, cái bàn trước mặt em nó cũng cười, thế rồi anh biết là đến mê em mất thôi.
- Chỉ khéo nịnh, hôm đó anh thấy ghét , cứ nh́n người ta chằm chằm, em bị nhiều người nh́n em như thế rồi nhưng sao ánh mắt anh làm em luống cuống, em đă phải la thầm em: cái con nhỏ này, sao vậy, rồi em bảo cái ông này mà dạy kèm ḿnh, thế nào ông ấy cũng dê ḿnh thôi.
- Không phải dê, em nói tiếng Việt lộn xộn quá, phải nói là ông ấy thế nào cũng mê ḿnh thôi, em vẫn học thêm chương tŕnh Việt văn đấy chứ.
- Vẫn, anh có muốn em đọc Chinh phụ ngâm cho anh nghe không.
Câu nói vô t́nh thế mà giờ lại là sự thật, tại sao ḿnh lại chỉ thuộc cuốn Chinh phụ Ngâm thôi, đấy, cho đáng, giờ ráng mà: ḷng thiếp tựa bóng trăng theo dơi. Ôi cô Tiểu thư khuê các giờ ṿ vơ tấm thân theo măi bóng ai đi.
Tâm Anh là con nhà giầu, bố mẹ có cửa hàng xuất nhập cảng len sợi ở đường Gia Long, xét theo vậy, nàng có cả một tương lai tươi sáng trước mặt, nàng c̣n có một giọng hát rất hay, luôn được mời gọi trong các buổi party, bao kẻ theo đuổi nhưng nàng dửng dưng trước những lời tán tỉnh, cho đến khi gặp Chương, cái tánh tàng tàng lạ lùng của chàng khiến Tâm Anh chú ư, khi Chương kèm toán cho nàng một thời gian, một hôm Tâm Anh hỏi Chương về việc gửi chàng học phí, Chương không trả lời, nh́n nàng bằng một ánh mắt khó hiểu, Dung hốt hoảng khi nghe Tâm Anh nói điều đó, đợi Chương về, Dung nói như gắt:
- Con gà tồ này, sao không hỏi tao mà tự nhiên phát ngôn bừa băi!
- Gà tồ là cái ǵ, tao nhờ ông ấy dạy kèm th́ tao phải trả tiền cho ông ấy chứ.
- Thật là gà tồ, mày không biết rằng mày là ưu tiên số một, trên hết mọi người khác không!
Nào Tâm Anh hiểu được ḿnh là ưu tiên số một như Dung nói, rồi những lần đi chơi, cử chỉ của Chương săn sóc nàng th́ Tâm Anh hiểu thế nào là ưu tiên số một, t́nh yêu đến nhẹ nhàng như sương, như khói, và bây giờ, khi đang ngụp lặn trong đắm say th́ Chương đ̣i bỏ đi Đà Lạt.
Ngày mai Chương đi, tối đó, hai người đi chơi với nhau lần cuối, Chương đưa nàng vào Tự Do, pḥng trà mà nhiều lần họ từng vào đây, bước qua cửa vừa lúc Strawberry Four đang hát bài Hey Jude, một bản nhạc nổi tiếng của Beetles, tới khuya, Chương đưa nàng về, cả hai đi bộ về nhà nàng ở đường Gia Long, cũng gần đấy, nhiều lần trong những lúc đi chơi khuya về, dưới bóng tối cây me che khuất ánh đèn đường, Tâm Anh kiễng chân hôn Chương trước cửa nhà với lời th́ thầm: " bonne nuit" rồi quay vào.
Tối nay th́ khác, vẫn là yên lặng, vẫn dưới bóng cây me, Tâm Anh không kiễng chân hôn Chương như mọi lần, nàng ôm Chương thật lâu, khi Chương nói: thôi vào đi em, anh về, th́ Tâm Anh lắc đầu, nàng ôm chặt Chương hơn, một lúc, Tâm Anh nói trong nước mắt:
- Em không vào, tối nay em muốn đi với anh, c̣n lâu lắm chúng ta mới gặp lại nhau, anh tập cho em quen có anh ở bên cạnh, anh dạy cho em thế nào là nỗi nhớ thương, giờ anh đùng đùng bỏ em đi, đi anh, hăy đưa em đi bất cứ đâu, miễn là có anh bên em, bố mẹ em đi vắng không có nhà, có phải bề trên đă sắp xếp cho chúng ta được bên nhau tối cuối cùng này không.
Tối đó, Tâm Anh đă cho Chương tất cả, t́nh yêu không làm nàng suy tính thiệt hơn, sự tuyệt vời của đụng chạm xác thịt nam, nữ mà lần đầu nàng được biết càng làm nàng yêu Chương nhiều hơn.
Chương nhập học khóa 25 Vơ Bị Đà Lạt cuối năm 1968, thời gian đầu hết sức vất vả, nhất là tám tuần sơ khởi:" Ai có dí súng sau lưng các anh bắt các anh vô đây đâu, giờ than than thở thở, kêu ca cả với thợ giặt, bộ họ cứu các anh được hả."
Đúng thế, chẳng có ai bắt ḿnh vô đây cả, tự ḿnh thôi, ngay cả Tâm Anh khóc lóc nhưng giọt nước mắt ấy có giữ được chân ḿnh đâu, khi con đại bàng đă muốn tung bay, giọt nước mắt đó chỉ là những sợi tơ trời, tơ trời cùng lắm giữ được con ruồi, con muỗi chứ sao giữ được cánh chim khao khát gió mưa.
Bốn năm thụ huấn, những dịp hè, Tâm Anh lên thăm Chương, chàng trông mạnh khỏe ,có hơi đen đi một chút, khi Chương ra trường cuối năm 72, Tâm Anh đang học năm thứ hai Dược, theo bước Trung, người bạn năm xưa, Chương chọn Nhẩy Dù, một binh chủng nổi danh với những trận đánh khốc liệt.
Cuối năm 1972, chiến trường đă qua đi những trận đánh lớn, tháng giêng 1973, Hiệp định Paris được kư kết đúng với sự mong đợi của Hoa Kỳ và VC, về phía Hoa Kỳ, có người bảo nhiệm vụ của họ đă xong, tức chiến lược toàn cầu của họ đă hoàn tất, giờ Mỹ có thể rút hết quân về nước, để hai bên VN giải quyết với nhau, đúng ra phải nói là để miền Bắc giải quyết miền Nam v́ Mỹ không giữ lời cam kết là sẽ yểm trợ chính phủ VNCH, trong khi miền Nam đơn độc chiến đấu thiếu cả về vũ khí lẫn viện trợ kinh tế th́ CS Bắc Việt lại được sự yểm trợ to tát của toàn khối CS.
Về phía Bắc Việt, kư kết Hiệp định Paris là cơ hội để họ xâm chiếm miền Nam, khi người Mỹ bắt đầu rút quân th́ cũng là lúc CS đem quân ồ ạt vượt qua vĩ tuyến 17, chúng hoàn thành con đường đông Trường Sơn để chuyển quân và vũ khí được nhanh hơn, xe cộ và bộ đội rầm rộ chuyển vào như chỗ không người, trước đây chúng không dám ngang nhiên như vậy v́ sợ B52 và quân ta phục kích. Hiệp ước Paris qui định ai ở đâu th́ yên đó nhưng với VC, có khi nào ta tin được chúng, kinh nghiệm cái Tết Mậu thân c̣n đó. Tuy quân VC gia tăng nỗ lực chuẩn bị cho cuộc chiến nhưng chúng vẫn chưa nắm vững không biết người Mỹ có quay trở lại hay không nếu chúng mở các cuộc tấn công lớn. Qua nhiều cuộc lấn chiếm thăm ḍ, Mỹ vẫn giữ thái độ im lặng, chúng quyết định mở một cuộc tấn công và nơi chúng lựa chọn cho cuộc thử thách này là Thường Đức, nếu chúng thắng cuộc chiến ở đây, chúng sẽ đưa quân thẳng ra biển, chia cắt miền Nam làm hai và sự sụp đổ của VNCH chỉ đếm từng ngày.
Thường Đức là một quận nhỏ thuộc tỉnh Quảng Nam, được tách ra từ Quận Đức Dục, nằm phía Tây Đà Nẵng trên liên tỉnh lộ 4, cách Quốc lộ 1 khoảng 40 cây số. Đây là một điểm chiến lược quan trọng, coi như tiền đồn của của Đà nẵng. Thường Đức trước kia là một trại LLĐB Mỹ, xây dựng kiên cố với những hầm ngầm bê tông cốt sắt.
Quân trú pḥng tại Thường Đức có 2 ĐĐ Địa phương quân, 14 Trung đội Nghĩa quân, tháng 6, 1974, tin tức t́nh báo cho biết VC đang chuẩn bị lực lượng có thể tấn công Thường Đức, Tiểu Đoàn 79 BĐQ được tăng cường thêm cho Chi khu này, gọi là Chi khu nhưng nó có tính cách chiến lược hơn là yếu tố kinh tế, dân th́ toàn là gia đ́nh của binh sĩ trú đóng tại đây, đất đai khô cằn sỏi đá, ba hướng bao quanh là núi cao dốc đứng, chỉ có hướng Đông để ra QL1 là bằng phẳng.
VC tấn công Thường Đức với SĐ 304( SĐ Điện Biên ), SĐ 324 và nhiều Trg Đoàn tăng cường cùng các đơn vị Pháo và xe tăng, quân trú pḥng chống cự mănh liệt, TĐ 79 BĐQ chiến đấu dũng cảm, gây thiệt hại to lớn cho quân tấn công, phía trú pḥng cũng bị thiệt hại, Trung Tá Quân Trưởng bị thương nặng, Th/T TĐT /79 BĐQ cũng bị thương và gọi pháo bắn ngay trên đầu, sau gần 10 ngày chống cự, với quân số địch quá đông và các họng pháo ở những ngọn đồi chung quanh bắn trực xạ vào Thường Đức, Quận bị thất thủ.
Lo sợ cho Đà Nẵng, Tướng Trưởng xin Bộ TTM cho SĐ Dù tham chiến, Lữ đoàn 1 gồm 3 TĐ: 1,7 và 9 được không vận từ SG bằng C130 xuống Đại Lộc.
Trung Úy Nguyễn thanh Chương, khóa 25 VB Đà Lạt lúc này là ĐĐT của TĐ 1 Nhẩy Dù tham dự cuộc hành quân tái chiếm Thường Đức, Lữ Đoàn 3 Nhẩy Dù cũng chuẩn bị vào vùng từ Huế.
Đường vào Thường Đức rất bất lợi cho quân giải tỏa, chỉ có một con đường độc đạo là liên tỉnh lộ 4 từ ngoài Đại Lộc tới Thường Đức mà hai bên đường có nhiều ngọn đồi mà VC đă chiếm, thiết lập công sự pḥng thủ kiên cố trong vách đá, trong đó có ngọn đồi 1062, từ đây chúng có thể kiểm soát mọi sự di chuyển trên LTL4, VC đă chiếm ngọn núi này trước khi chúng tấn công Thường Đức v́ chúng biết thế nào phía ta cũng đem quân giải cứu Quận lỵ này.
Lữ đoàn 1 dàn quân xuất phát mà ưu tiên phải chiếm được ngọn đồi 1062, họ biết là quân VC đă sẵn sàng đợi họ ở đây. Tiểu Đoàn 1 của Chương được chỉ định chiếm ngọn đồi này, đường tiến quân rất khó khăn vất vả, phải băng qua những khoảng trống mà pháo của chúng đă có tọa độ sẵn, rồi các đồi đá phải vượt qua,bứng những chốt Cộng quân cài chung quanh để cầm chân bước tiến của quân Dù. Khi gần tới được gần 1062, TĐ1 đă bị một số tổn thất nhưng nhiệm vụ trước mắt vẫn là làm sao phải chiếm cho được ngọn đồi này để kiểm soát con đường nằm phía dưới dẫn vào Thường Đức.
TĐ1 dàn quân dưới chân đồi 1062, một cái lưng yên ngựa phải vượt qua trước khi tới sát được dưới chân đồi, địch từ trên cao có lợi thế hơn và hầm hố chúng xây dựng trong hốc đá kiên cố với nhưng cây cổ thụ to được chúng cưa làm nóc hầm. Cả hai Đại Đội Dù được pháo binh yểm trợ xung phong chiếm mục tiêu nhưng gặp sức kháng cự mănh liệt của địch, cối 120 ly và hỏa tiễn 122 ly được địch bắn xối xả vào vị trí quân Dù, những mục tiêu tác xạ chúng đă tiên liệu trước và tiền sát của chúng từ những ngọn đồi chung quanh gọi pháo chính xác, suốt một ngày, Dù bị cầm chân, Đại Đội Chương mất mất một Th/U Trung đội trưởng và 5 binh sĩ cùng khoảng một chục bị thương.
Lệnh từ TĐ cho ĐĐ Chương lùi lại, bố trí tuyến pḥng thủ đêm lấy sức cho cuộc tấn công ngày hôm sau, rạng sáng, ĐĐ Chương, bọc qua hướng khác, nơi có nhiều dốc đá thẳng đứng, hướng này địch có lơ là v́ không nghĩ Dù sẽ chọn để tấn công, pháo ta dồn dập đổ xuống đỉnh đồi, địch co cụm trong hầm hố tránh pháo, lính Dù bám từng hốc đá âm thầm leo lên ,khi gần tới đỉnh đồi, họ đồng loạt khai hỏa xung phong, Dù dùng lựu đạn ném xuống hầm, bị bất ngờ, chúng hốt hoảng bung hầm chạy, ĐĐ Chương chiếm được đồi 1062 nhưng ngay lập tức, địch pháo kích dữ dội với đủ loại pháo từ những ngọn đồi chung quanh, lính Dù nhờ có hầm hố kiên cố sẵn của bọn chúng, tránh được nhiều thiệt hại, ĐĐ Chương được lệnh bố trí giữ ngọn đồi, sáng hôm sau sẽ có một ĐĐ bạn lên tăng cường nhưng tối đó, Chương không thể giữ được ngọn đồi mà suốt ngày hôm nay đă đổ bao xương máu mới chiếm được, mới chập tối, địch pháo tàn sát ngọn đồi rồi cho nguyên một Trung đoàn xung phong tái chiếm, ở tuyến pḥng thủ phía Tây, Th/U Thành, một Trung đội trưởng xuất sắc của Chương gọi máy cho biết địch rất đông, đang tràn ngập mục tiêu, Thành xin pháo binh bắn ngay trên đầu, TĐ cho lệnh Chương rút xuống, Chương gọi máy cho lệnh, không có tiếng Thành trả lời, tuyến của Thành bị tràn ngập, Thành bị nguyên một băng AK nát hết người, khi lính của ĐĐ rút hết, Chương xuống sau cùng, chàng gọi pháo dập xuống đỉnh 1062, lúc Chương đang lao xuống gần chân đồi, một trái pháo nổ ngay cạnh Chương, không biết của ta hay của địch, Chương thấy tối tăm mẵt mũi và rồi không biết ǵ nữa.
Ngày hôm sau, một ĐĐ khác được lệnh tấn công tái chiếm ngọn đồi, họ gặp Chương nằm trên vũng máu, người lính mang máy và cận vệ của anh nằm chết bên cạnh, Chương bị thương rất nặng, pháo cắt đứt một chân anh, mặt phủ đầy máu, Chương được tải thương ngay lập tức, suốt mấy ngày ở bệnh viện, Chương ở trong biên giới giữa cái sống và cái chết.
Cuối cùng, người ta đă cứu được Chương thoát lưỡi hái của tử thần nhưng không cứu được cái chân của anh, và khuôn mặt, một mảnh pháo chém sạt một bên má. Khi tỉnh lại, Chương biết ḿnh bị thương nặng lắm, cái đầu cuốn trong băng trắng xóa và đau nhức khủng khiếp, Chương cũng biết ḿnh mất mất một chân, các Bác Sĩ khi thấy Chương đă đủ khỏe, họ cho anh biết sự thực về khuôn mặt, họ nói sẽ cố gắng đắp vá cho anh nhưng không thể nào có được h́nh hài như xưa.
TĐ cho một người lính thân cận của Chương ở hẳn Bệnh viện để chăm sóc anh cùng với chiếc xe jeep, Đầy, người Hạ sĩ theo Chương từ ngày Chương gia nhập Nhẩy Dù, Đầy là người lo cho anh từ cái ăn, cái ngủ như người mẹ hiền, giờ vẫn cạnh ông thầy khi ông thầy bị thương quá nặng, vẫn chăm sóc anh từng li, từng tí, Chương không cho Đầy báo ǵ Tâm Anh biết, cho đến một ngày, Chương dặn ḍ Đầy đến cho Tâm Anh biết tin nhưng là một cái tin Đầy thấy khó khăn để nói.
Gần hai tháng nay, Tâm Anh không nhận được thư từ hay tin tức ǵ của Chương cả, nàng có nghe về những trận đánh xẩy ra với đơn vị Nhẩy Dù ở đâu đó, một buổi trưa, một cái xe jeep đỗ xịch trước cửa nhà, nàng thấy Đầy bước xuống, Tâm Anh chạy vội ra:
- Chú Đầy, Trung Úy không về hả, có thư không vậy chú ?
Đầy không nói ǵ cả, anh bước vào trong nhà, tay cầm chiếc mũ béret đỏ xoay xoay trong tay.
Nh́n cử chỉ khác thường của Đầy, Tâm Anh biến sắc, nàng đưa tay lên ngực: ǵ thế này, có chuyện ǵ xẩy ra cho Chương rồi sao, đừng nói ǵ không may nghe chú Đầy, sao mặt chú lại buồn thế kia, đừng, chắc không có ǵ đâu, có ǵ nói đi, nói đi chú Đầy.
Sau một chút ngập ngừng, Đầy lên tiếng:
- Xin cô b́nh tĩnh, mời cô ngồi xuống, Trung Úy Chương đă hy sinh, ở mặt trận Thường Đức, quân địch tràn ngập mục tiêu, chúng tôi không lấy được xác Trung Úy, Trung Úy đă chiến đấu dũng cảm nhưng địch đông quá....
Tâm Anh choáng váng mặt mày, nàng buông rơi ḿnh trên ghế, không c̣n nghe những ǵ Đầy đang nói tiếp, thế đấy anh ơi, sao giản dị quá: Trung Úy đă hy sinh, câu nói thật đơn giản mà như đất trời sụp đổ, bao nhiêu người đă được nghe những câu đơn giản như thế này, bao nhiêu cơi đời tan nát?
Hạ sĩ Đầy đă hoàn thành nhiệm vụ được Chương trao phó, một nhiệm vụ khác thường trong bao nhiêu việc Chương đă bảo anh làm trước đây, công việc chút nữa đă không hoàn thành khi Đầy nh́n thấy sự đau khổ tột cùng trên gương mặt Tâm Anh, nhờ là một người lính tác chiến sắt đá nên đă kềm chế được ḿnh v́ anh hiểu những ǵ ông thầy ḿnh muốn cho quăng đời c̣n lại của ông ấy và nhất là cho Tâm Anh, Đầy cũng thương ông Trung Úy của ḿnh không kém ǵ Tâm Anh, có điều hai t́nh thương khác nhau, với Đầy, Chương là một cấp chỉ huy gương mẫu, can đảm và thương yêu binh sĩ hơn cả t́nh đồng đội, những ngày ở Bệnh viện, đă bao lần Đầy ngăn nước mắt khi nh́n Chương trong h́nh hài không c̣n nguyên vẹn.
Tâm Anh bỏ ngang việc học, nàng không c̣n tâm trí để nghĩ đến sách vở, nàng đi hát để t́m quên, nhờ làn hơi thiên phú, chỉ trong thời gian ngắn, tiếng ca nàng vút cao trong nền ca nhạc ở Sài G̣n, nhiều nơi săn đón mời nàng hát cho pḥng trà của ḿnh, Tâm Anh chọn chỉ hát độc quyền cho Tự Do, một pḥng trà mà lúc c̣n sống Chương rất thích, ở đây, nàng như thấy Chương của một ngày nào: Hey Jude, don't let me down, ngày hai người quấn quưt bên nhau với tiếng hát của Billy Shane, của Strawberry Four. Nàng cũng thuộc ḷng câu thơ Chương làm cho nàng trong một lần lên Đà Lạt thăm Chương về:
Anh cứ sợ rồi ḿnh sẽ quên nhau
như con đường nơi đó
như ngày nao trên thềm phố chợ
sáng Chủ Nhật
em chờ anh
vẫn trên cao là những nhánh thông xanh
và dưới thấp là mặt hồ yên lặng
có phải mùa Thu làm mắt em xa vắng
rồi ḿnh sẽ quên nhau
Tâm Anh rưng rưng nước mắt, đấy, anh ơi, đang yêu nhau mà anh cứ nghĩ đến chuyện cách chia, giờ ta xa nhau thật rồi, xa nhau vĩnh viễn, em giờ đây như rừng thu...Anh đang yên nằm ở đâu, sao người ta không đem anh về cho em, Tâm Anh vẫn buốt ḷng mỗi khi nghĩ tới Chương.
Chương ở trên một căn gác nhỏ, có Đầy lo cho mọi chuyện, thời gian đầu khi c̣n phải tới lui bệnh viện cho các Bác sĩ tái tạo lại khuôn mặt, Đầy vẫn lái xe chở Chương trên cái xe jeep mà TĐ cung cấp, khuôn mặt chỉ làm đỡ được phần nào trong sự tàn phá của trái pháo, khi soi gương, Chương cũng không nhận ra ḿnh, chiến tranh ghê gớm quá.
Cứ mỗi tối, đúng 10 giờ, Tâm Anh xuất hiện trên sân khấu Tự Do, sau lời giới thiệu, nàng bước ra trong chiếc áo dài lộng lẫy, Tâm Anh cúi chào khán giả, mái tóc ngang vai xơa xuống che khuôn mặt u buồn, nàng hất mái tóc ra phía sau, giọng hát cất lên, nàng hát như gửi hồn vào một thời nào đó, có lúc nức nở như gửi tiếc thương cho một ai ở nơi xa xôi.
Xong bài hát, người bồi mang lại mảnh giấy nhỏ đưa cho Tâm Anh, nàng liếc nhanh:" Người đi qua đời tôi, cám ơn." Quái lạ, mấy tuần nay, cứ đúng thứ bẩy, nàng lại nhận được mảnh giấy yêu cầu bài hát Người đi qua đời tôi, chắc vẫn là người khách này. Tiếng hát cất lên : người đi qua đời tôi, trong những chiều đông sầu... Giọng Tâm Anh như nức nở : anh đi qua đời em, có nhớ ǵ không anh ?
Hết phần tŕnh diễn của ḿnh, Tâm Anh ra về, nàng ngập ngừng trước cửa : vị khách kia chắc có một tâm sự buồn lắm, cùng tâm trạng như ḿnh, nàng đưa tay nh́n đồng hồ, để hôm nào ḿnh phải gặp vị khách đó để thăm hỏi xem sao.
Một lúc sau, một chiếc xe jeep chạy tới, đậu gần nơi cửa, Đầy xuống xe bước vào pḥng trà, cũng sắp hết giờ, anh tiến lại phía chiếc cột khuất trong bóng tối, nghiêng xuống nói với một người ngồi ở đấy : Trung Úy để em đỡ ra xe. Chương chống tay xuống bàn, đứng dậy, Đầy d́u ông thầy ra xe, gió đêm thổi làm Chương thấy bớt ngột ngạt.
Sáu tháng sau, Tâm Anh lấy chồng, cũng một người trong Quân đội, trong căn gác nhỏ, Chương nghĩ thôi thế cũng xong, ḿnh đă chẳng từng cầu mong Tâm Anh được hạnh phúc hay sao, ngày rồi cũng lụi tàn, ḿnh coi như đă chết trong Tâm Anh và nàng coi như đă xa khỏi đời ḿnh- Chương bật cười- như cái chân nó cũng xa khỏi đời ḿnh. Chương nhớ đồng đội khôn tả, nhớ những lúc băng ḿnh trong lửa đạn, nhớ tiếng reo ḥ xung phong chiếm mục tiêu.
Rồi t́nh h́nh chiến sự trong những ngày kế tiếp hết sức khẩn trương, Ban mê Thuột có thể thất thủ, Chương theo dơi báo chí và tin tức trên đài phát thanh, Đầy chạy đi chạy về hậu cứ Tiểu Đoàn cho Chương biết TĐ hiện đang ở đâu, làm ǵ, t́nh h́nh càng ngày càng xấu đi, Lữ Đoàn đang chống giữ tại Khánh Dương, rồi đang đánh nhau ở Long Khánh, Chương giật ḿnh, Long Khánh à, vậy là gần quá rồi, sao mà lại nhanh như vậy, mới đây thôi, ḿnh c̣n làm cho chúng tan hoang ở Thường Đức mà.
29 tháng Tư, Đầy chạy vội lên căn gác:
- Ông thầy, Tiểu Đoàn ḿnh đang giữ cầu xa lộ, VC với xe tăng đang tiến từ biên Ḥa xuống, chắc sẽ đụng lớn ở đây.
Chương nhỏm dậy, với tay lấy bộ quần áo hoa dù mặc vào người, dắt theo khẩu colt hấp tấp hỏi Đầy:
- Có đúng Tiểu đoàn đang ờ cầu xa lộ không?
- Đúng ông thầy, em mới gặp thằng Tư Đen nó nói vậy.
- Chú lái xe đưa tôi ra đó ngay, đi, nhanh lên.
Chiếc xe Đầy lái chạy như bay qua ngă ba Hàng Xanh, quẹo theo hướng xa lộ, dọc đường, Chương thấy dân chúng nhốn nháo, có người sách cả đồ đạc như chạy loạn, chiếc xe chạy tới giữa cầu th́ ngừng lại, lính Dù bố trí dọc theo hai bên thành cầu, có pháo rớt chung quanh. Chương chống nạng tới chỗ có mấy cái cần ăng ten, Trung Tá TĐT Tiểu đoàn Dù mà Chương phục vụ trước đây đang nói chuyện trên máy, Chương bước tới đứng nghiêm chào vị TĐT, người cách đây mấy tháng đă cùng anh xông pha trong lửa đạn ở Thường Đức.
- Trời ơi Chương, cậu tới đây làm ǵ, lui xuống dưới kia, tụi nó sắp tới, có cả tăng nữa, lui xuống.
- Không đích thân, đích thân cho tôi được chiến đấu với anh em lần cuối, Nhẩy Dù cố gắng mà đích thân.
Vị Tiểu Đoàn Trưỏng Dù nh́n Chương trừng trừng, môi ông run run, một người vào sinh ra tử cả bao nhiêu trận, bỗng dưng thấy ḷng chùng xuống, ông chào Chương, một thượng cấp chào thuộc cấp, chưa bao giờ Chương gặp trường hợp như vậy, chàng lọc cọc chống nạng bước đi, cúi nhặt khẩu M16 của ai vứt cạnh đó cùng sợi dây ba chạc, có tiếng Đầy:
- Ông thầy chờ em, em đi cùng với ông thầy.
Hai thầy tṛ xách 2 cây súng, ngồi dựa vào thành cầu, những người lính Dù đang nhắm súng vào hướng địch, có tiếng súng nổ từ hướng bên kia đầu cầu, tiếng đạn AK mà cả hai đă từng nghe quen, Chương lẩm bẩm: bài hát sao mà đúng thế, tai nghe quen đạn thù, chàng cao giọng:
- Nhẩy Dù cố gắng nghe Đầy.
- Dạ, Nhẩy Dù cố gắng ông thầy.
Tiểu Đoàn Dù đă thiết lập được hai lô cốt tạm ở đầu cầu hướng về phía nhà máy xi măng Hà Tiên, bộ binh địch bắt đầu xông lên nhưng chạm phải Dù bắn trả, chúng lùi lại rồi xốc tới, một lần rôi hai lần, chúng bị chặn lại, chưa bao giờ đánh nhau mà không được một sự yểm trợ nào cả như lần này, từ pháo binh tới phi cơ, Chương và Đầy nhắm vào toán VC gần chân cầu, lâu rồi Chương mới cầm khẩu M16 mà bắn như vậy, không c̣n lệnh lạc, không c̣n chỉ huy, chỉ c̣n nhắm quân thù mà bắn.
Buổi tối, địch thôi tấn công, đêm yên lặng, thỉnh thoảng nghe tiếng pháo kích hướng Tân sơn Nhất và những tràng đạn nổ ở đâu xa nghe như pháo tết, Đầy kiếm được bịch gạo sấy và hộp thịt ba lát, Chương không ăn, hai thầy tṛ nằm cạnh nhau, trời trong và đẹp, những v́ sao trên cao không sáng bằng sao ở Thường Đức, Đầy kể cho Chương nghe về những người người lính trong Đại Đội đă hy sinh ở đấy, về những người bạn ĐĐT và Trung đội Trưởng đă nằm xuống, Chương nhớ vô cùng những người lính trong ĐĐ trước đây, mỗi lần nói chuyện với họ, Chương luôn thấy ấm áp và một sự khoan khoái trong ḷng, những người mà mới chuyện tṛ với họ hôm qua, hôm nay đă hy sinh, chịu đựng gian khổ và hiểm nguy, để được ǵ ngoài t́nh yêu quê hương.
Đêm mấy tháng trước ở đó đâu có yên lặng như thế này, mà chắc cũng không yên được lâu đâu, chúng đang chuẩn bị đấy, khi chúng im lặng là chúng đang chuẩn bị cho cuộc tấn công tiếp theo.Không biết cả hai thiếp đi được bao lâu, có tiếng súng nổ ran từ phía đấu cầu, trời mờ sáng, chúng bắt đầu tấn công, Chương và Đầy gom mấy dây đạn lại, chúng xuấy hiện ngay dưới chân cầu, những người lính Dù chuyển đổi vị trí ẩn nấp, có tiếng ́ ́ từ xa, xe tăng địch tới, chẳng c̣n ǵ ở đây cả, chỉ c̣n ít cây M72, mấy ngày nay, Dù vừa di tản vừa phải chiến đấu, đạn dược, lương thực đă cạn, chưa được tiếp tế, hai chiếc xe tăng địch đi đầu khai hỏa, địa thế trống trải, chúng bắn dọc theo cầu, pháo tăng nổ cấp tập trên mặt cầu, quân Dù rút dần về phía đầu bên này, một viên đạn pháo xe tăng nổ ngay chỗ Đầy nằm cách Chương mấy thước, Chương ḅ tới, Đầy bị trái pháo nát bấy người, nh́n thấy Chương, anh chỉ kịp thều thào:Trung Úy rồi ra đi, Chương nắm tay Đầy, vuốt mắt cho người lính thương yêu, người đă sống chết với anh bao lâu nay nơi chiến trường và săn sóc Chương trong những ngày đau đớn, chiến tranh chưa ngưng, c̣n tàn hại tới giây phút cuối cùng, chàng nắm cây M16 nghiến răng bắn một loạt về phía mấy tên VC đi đầu, tiếng tăng mỗi lúc mỗi gần, Chương tuyệt vọng, mấy tháng trước ḿnh đă không chết ở Thường Đức, giờ ḿnh chết ở đây, cũng không sao, Chương rút khẩu colt, lên đạn, tiếng xe tăng nghe càng rơ dần, nh́n Đầy nằm bên cạnh, anh th́ thầm: thầy tṛ ḿnh có nhau, Đầy ạ. Một tiếng vang lên, không phải Chương đang lao xuống từ ngọn đồi 1062, anh đang lao xuống một vực sâu, sâu lắm.
Trưa 30 tháng Tư, sau khi Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng, dân chúng xuôi ngược trên cầu xa lộ nh́n thấy xác hai người lính Nhẩy Dù, trong đó có một người cụt mất một chân và tay họ nắm chặt lấy nhau.
VIẾT THÊM CHO LỜI KẾT - Trận Thường Đức có thể nói là trận đánh lớn nhất của SĐ Nhẩy Dù, hơn 3 tháng quần thảo với hai SĐ cộng quân là SĐ 304 và 324, thêm nhiều Trung đoàn tăng cuờng cùng các Trung đoàn pháo, Cộng quân rút khỏi Thường Đức, ngọn đồi 1062 trước xanh tươi, giờ trơ trụi cây cối,được chiếm đi chiếm lại nhiều lần của hai bên, số thiệt hại như sau :
- Sư Đoàn Dù có 2 Lữ Đoàn 1 và 3 tham dự với 7 TĐ thay phiên nhau xa luân chiến, 500 tử thương , khoảng hơn 2000 bị thương, số tổn thất bằng 50% quân số.
- Cộng quân, ba Trung đoàn 24, 26, 66 coi như xóa sổ, hơn 2000 bị chết, 5000 bị thương.
Trong số những người hy sinh của SĐ Dù, có nhiều ĐĐT và Trung đội trưởng, Đại Úy Ngụy văn Đàng, một ĐĐT của TĐ 3 Dù đă phải gọi pháo binh và phi cơ dội ngay trên đầu ḿnh v́ địch quá đông, tràn ngập điên cuồng trong chiến thuật biển người, khi t́m được xác anh, ĐU Đàng chết trong thế ngồi, mắt mở trừng trừng, người đầy vết đạn, anh chết mà chúng vẫn tiếp tục bắn vào anh, người bạn thân cùng khóa 25 Vơ Bị với Chương là Đại Úy Vơ Thiện Thư, Đại Đội trưởng ĐĐ34 cùng Trung Úy Tô văn Nhị khóa 26 lên tiếp cứu cho Đàng cũng đă chiến đấu dũng mănh, địch xử dụng 1 Trung đoàn, cuồn cuộn biển người, cuối cùng, cũng như Đàng, Thư đă gọi pháo binh bắn ngay lên đầu khi bị địch tràn ngập, cả hai hy sinh. Khóa 26 VB về Nhẩy Dù 10 Sĩ Quan th́ nội trong trận Thường Đức cũng đă hy sinh 5 người. Các Sĩ quan tốt nghiệp Trường Vơ Bị Đà Lạt phải trải qua một hành tŕnh 12 năm ở Tiểu học và Trung học, 4 năm tại Trường Vơ Bị, tổng cộng 16 năm, tốt nghiệp cấp bậc Thiếu Úy, những người sẽ là rường cột của Quân Đội sau này, nhưng chỉ cần một viên đạn, ngay trận đánh đầu tiên, đă hy sinh, có uổng phí không? không, người Sĩ Quan Hiện dịch là như vậy, cần được tôi luyện trong khói lửa.
Hơn 5 tháng sau trận đánh tàn khốc này, miền Nam rơi vào tay Cộng Sản. Một sự thật đau ḷng bởi sự phản bội của người Mỹ, cả một Quân đội hùng mạnh bị trói chân, trói tay trong cuộc chiến tuyệt vọng. Ở Thường Đức, Nhẩy Dù đă anh hùng chiến đấu giữ vững được bờ cơi, những năm tháng trước đó, ở Quảng Trị, B́nh Long, Kontum, Qưân lực VNCH đă chiến đấu dũng cảm, rồi bao trận đánh oai hùng năm xưa. Khi người Mỹ đă xong công việc, họ gọi là cuộc rút quân trong danh dự, thật ra đây là cuộc rút quân nhục nhă, cuộc rút quân phản bội, chỉ tội nghiệp, ta đă hy sinh uổng phí, mấy trăm ngàn người chết để đổi lấy một kết cuộc bi thảm.
Bây giờ bỗng dưng nổi lên có những người mà năm xưa khi khói lửa chiến tranh, họ c̣n nhỏ, chưa phải cầm cây súng, chưa biết thế nào là chết chóc, chưa có cảm giác khi đồng đội ngă xuống bởi đạn thù, tóm lại, họ chẳng phải hy sinh ǵ hết, giờ họ lớn tiếng hỏi các Tướng lănh( Quân Đội ) đă xin lỗi nhân dân chưa? câu hỏi thật lạ, chính họ phải xin lỗi những người đă nằm xuống v́ đất nước, v́ sự an toàn cho họ, họ phải xin lỗi v́ sự nhởn nhơ ngoài ṿng chiến mà bao người khác đă chết thay cho họ, những Don Quichotte thời đại cầm kiếm múa may, họ nghĩ rằng Quân Đội phải chịu trách nhiệm trong việc miền Nam bị mất mà họ th́ không chăng?
Một Don Quichotte khác lớn tiếng thóa mạ các Tướng Lănh hèn nhát, làm mất nước, lạ một điều, những người này chưa hề cầm súng chống lại quân thù trong cuộc chiến vừa qua, những người này khi đất nước ch́m trong lửa đạn, họ vắt mũi chưa sạch, nhưng giờ họ làm như thể nếu họ chỉ huy th́ ta sẽ không thua, các Tướng có hèn nhát không? Tướng Nguyễn viết Thanh, Tướng Đỗ cao Trí, Trương quang Ân ... đă hy sinh tại mặt trận, 5 vị Tướng đă tuẫn tiết không đầu hàng giặc, c̣n bao nhiêu Sĩ Quan khác nữa mà họ là những anh hùng trong bóng tối, họ có hèn không?
Chương, cho đến khi dành viên đạn cuối cùng cho ḿnh, nằm xuống mà vẫn không hiểu tại sao miền Nam lại mất, bao nhiêu bạn bè, đồng đội anh cũng đă nằm xuống mà không biết ḿnh bị phản bội, giá biết được, liệu họ có liều hy sinh cho một điều vô lư như thế? Họ là những người lính, mà người lính lúc nào cũng nghĩ tới nhiệm vụ và thi hành lệnh. Xin kính chào những người lính Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa đă nằm xuống cho quê hương.
TRẦN NHƯ XUYÊN
Người Anh Hùng Mũ Đỏ
Tôi c̣n nhớ ngày nầy năm tháng cũ .
Nơi quê hương lá đổ cuối mùa Thu .
Anh dừng bước giữa biên thùy gío hú .
Súng gh́m tay anh cố chận quân thù.
Trời hôm đó đêm về mưa lạnh lắm .
Pháo từng cơn , lửa cháy nát rừng xanh .
Địch tràn lên t́nh thế thật mong manh .
Anh thà chết chứ không hàng quân giặc .
Địch bao quanh , bảo anh hàng sẽ sống !.
Anh trả lời , sống nhục , có đáng không ?.
Rồi đưa súng, bắn vào đoàn quân Cộng.
Viên cuối cùng, anh trả nợ núi sông !.
Người anh Hùng , người chiến sĩ trận vong.
Anh vẫn sống , muôn đời anh vẫn sống .
Sống trong em và trong cả muôn ḷng .
Bác sĩ N T T
NGƯỜI BẠN TÙ LƯ TỐNG.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1365057&stc=1&d=1555124408
Posted on April 8, 2019
Phạm Văn Lương
Chuyện Bên Đường 4-2-19
CBĐ bắt đầu bằng lời cầu chúc người bạn tù Lư Tống ,sớm về yên vui bên nước Chúa, một tôn giáo, Tống đă chọn trước khi ĺa đời.
CBĐ chia xẻ cùng các bạn một vài tin tức khi Lư Tống ở tù tại trại Lam Sơn (tổng trại 6 của Việt Cộng ) , sau này chuyển tới tổng trại 4, tổng trại 5 tại Cùng SơnTuy Ḥa , và cuối cùng trại A30 Tuy Ḥa, tại đây, Lư Tống vượt trại. Thật t́nh , nếu không đi tù 1975, tôi sẽ chẳng bao giờ biết Lư Tống ( Lê Văn Tống ) là ai, v́ cả hai, Tôi và Tống đi lính khác đợt tuổi, khác quân chủng, Tống Không Quân, tôi Biệt Động Quân. Một điểm nữa, nếu Tống không có một đời tù sôi nổi và nhiều biến cố do ḿnh lựa chọn, có lẽ tôi cũng chẳng bao giờ biết Lư Tống là ai.
Chuyện Tù bắt đầu.
Khoảng giữa tháng 5 năm 1975, tôi và vợ con trên đường từ Sài G̣n về Nha Trang, chiếc xe đ̣ của tôi bị hai tên du kích chận tại Cam Ranh, tụi nó xét giấy tờ từng người, khi biết tôi là sĩ quan VNCH, chúng bắt tôi nhốt tại Cam Ranh, khoảng 10 ngày sau, chở tôi tới Trung Tân huấn luyện Lam Sơn cũ tại Dục Mỹ. Tại đây, chúng chia thành nhiều trại nhỏ, tùy theo cấp bậc, tôi ở chung với sĩ quan lơn cấp, chúng gọi là tổng trại 6.
Những ngày đấu tại trại tù, chúng chia thành từng nhóm 3, 4 chục người, gọi là Lán. Khoảng hai ba tuần, chẳng làm ǵ, ngoài những giờ học chính trị. Hơn một tháng, tụi tôi bắt đầu phải ra khỏi trại để chặt củi, chặt lá kè, trồng khoai ḿ. Lúc này tôi mới biết, sống chung với tụi tôi, c̣n rất nhiều sĩ quan, từ Tá, tới thiếu úy.
Một hôm, khi đi chặt cây ngoài trại, bọn tôi nghe chuyện một người Tù của trại khác, nghe phong phanh, một Trung Úy không quân, trốn trại , và bị bắt lại, trói mang về , v́ bị bắt tại Khánh Dương, trên đèo Ban Mê Thuột. Nếu chỉ là trốn trại , bị bắt, có lẽ tin đồn không nhanh như thế, suốt mấy ngày, ai cũng nói, cũng rỉ tai với nhau, và cái tên Lư Tống là người vượt trại bị bắt.
Tin nhiều người ngưỡng mộ nhất chính là khi bị bắt về tới Lam Sơn, hai tên cảnh vệ bắt Lư Tống quỳ, Tống không quỳ, c̣n phanh ngực thách thức, mấy anh có bắn th́ bắn, tôi không quỳ lạy ai cả, và Tống c̣n hiên ngang, mấy anh giết một Lư Tống, hàng ngàn Tống khác sẽ đứng lên, nghe nói, hai tên cảnh vệ đánh mấy bang súng, cho vào cùm.
Tất nhiên, tôi chỉ nghe nói lại, chứ không chứng kiến tận mắt, nhưng tin này càng ngày càng được đồn ra, và càng ngày càng được kiểm chứng là tin thật. Ai trong trại, cũng kể cho nhau nghe, tôi thật ngưỡng mộ Lư Tống, nhưng chẳng bao giờ có dịp gặp mặt từ ngày ấy.
Tổng trại 6, hàng ngày, Tù vẫn đi lao động, tối về từng lán, từng trại, chẳng bao giờ tôi biết Tống là ai, chỉ nghe mấy người trại dưới nói, Tống vui vẻ, nói giọng Huế, cao khoảng 1.7, trắng trẻo, đẹp trai. Chuyện Tống tại Lam Sơn thêm một vài thành tích như đào trộm ḿ, thả, rồi nhốt vài ngày, không đáng kể.
Khoảng gần một năm sau, tất cả tù phải chuyển lên Sơn Ḥa, Củng Sơn, thuộc Tuy Ḥa. Tôi tới trại 53, ở trại này có đại tá Lương, Lữ đoàn trưởng Dù, và một số TDT Dù như Thành, tđ phó tđ 11 Dù ( K19). Tống ở trại 54, và nhiều sĩ quan cấp nhỏ khác, được chia ra thành nhiều trại khác nhau. Hằng ngày, tụi tôi các người khác ra ngoài lao động. Tôi cũng chưa thấy mặt Tống, nhưng vẫn nghe, những biến động do anh em đi làm gặp nhau kể lại, cũng vẫn Tống, căi cán bộ, bị cùm, rồi thả, rồi cùm.
Một hôm, khi ra ngoài làm, một vài người trại tôi gặp vài người cùng trại với Lư Tống , kể chuyện động trời, đêm qua, Lư Tống , khi đang trong cùm , th́ đột nhiên, khoảng 4 giờ sáng, trời c̣n tối chưa thấy rơ mặt người, Lư Tống la rất lớn “ Anh em tù ơi, tụi Việt cộng đánh và tính giết tôi. Cả trại 4 ở trong hàng rào cây kiên cố, trại cùm Tống ở ngoài hàng rào, mọi người đều nghe, nhưng tụi bảo vệ không cho ai ra ngoài. Cả trại 4 lo lắng, không biết Tống ra sao? Mọi người chỉ cầu mong bọn cai tù đừng bắn Tống. Họ ngồi chờ sáng, mong nghe tin của Tống.
Trời sáng, Tù được lệnh tiếp tục đi làm, chẳng biết ra sao, nhưng chắc chắn chưa chết, v́ không nghe tiếng súng nào cả. Tin tức Tống la ó chửi rủa bọn cảnh vệ loan nhanh tới mọi người. Cả trại 53 nơi tôi ở, mọi người đều biết tin. Riêng tôi, tuy chẳng quen biết ǵ Tống, nhưng trong bụng , luôn mến mộ Tống, ḷng ṭ ṃ, muốn thấy Tống , và nói chuyện với Tống, dù chỉ một lần. Sau biến cố này khoảng một tuần, một buổi chiều, mọi người đă ăn cơm xong, người th́ đánh cờ, người đi tắm, người nằm vơng ṭn ten.
Hôm đó, khi mặt trời chưa lặn, trời c̣n sáng, một tin như điện đưa ra, ai cũng nói với nhau, Lư Tống bị chuyển trại từ 54 tới trại tôi, mới bị cảnh vệ nhốt trong cùm. Tôi không thấy, nhưng những người khác quả quyết Lư Tống trăm phần trăm. Tôi mừng thầm, cuối cùng chuyện ǵ đến đă đến, sớm muộn ǵ , tôi sẽ gặp Tống, v́ tôi đă biết nhiều tù trước tới nay, tù bị chuyển tới trại tôi, sẽ được vào hàng rào , đi lao động chung với anh em khác. Như dự đoán, một hôm, một tên tù, dáng người cao ráo, trắng trẻo, bề ngoài trông hiền lành, đẹp trai đi theo hai cảnh vệ vào trại tôi, khỏi cần đoán non, đóan già, ai cũng biết đó là Lư Tống, Tống ở lán 7, gần lán 8, và lán 9 tôi ở.
Mấy ngày quen trại đă qua, Tống băt đầu đi làm ngoài trại. Tống được ḷng anh em, không phải v́ thành tích chống đối, tù trong tù, cùm trong tù, nhưng v́ Tống rất hoạt bát, nói chuyện tiếu lâm, nói chung , rất vui vẻ. Hồi đó, thứ bẩy, trại cho đá banh, đánh bóng bàn tôi và Tống cùng phe, tôi và Tống, cùng trang lứa, tôi hơn Tống hai tuổi. Đi làm chung, hay nghỉ trong trại, tôi bắt đầu hỏi chuyện Tống, Tống kể với giọng Huế, hơi nặng.
Chuyện bắt đầu Tống kể tên tại sao là Lư Tống, không phải họ Lư mà tên thật là Lê Văn Tống, nhưng có một thời Tống làm quản lư tại câu lạc bộ không quân Huỳnh hữu Bạc tại Tân Sơn Nhất, v́ vậy Không Quân đặt nick name Lư Tống (Tống quản lư). Phi vụ cuối cùng, tại Phan Rang, Tống lái A 37, bị hỏa tiễn tầm nhiệt bắn rơi, giải đi nhiều trại, v́ lúc đó VC chưa chiếm được Saigon. Tôi hỏi, khi bị bắn rơi, sao mày không trốn, Tống nói, tụi chặn ḅ thấy tao, đi theo , bị lộ nên bị bắt .
Tôi ở với Tống cả năm, Tống có những cá tính khác người, tuy không phải lập dị, dễ ghét, chẳng hạn Tống không bao giờ mang dép râu, kể cả khi đi khiêng súc ( cây lớn, ngoài trại về cho tủ xẻ thành ván). Lúc nào đôi dép cũng treo trên cổ, ngang hai bả vai, luôn đi chân đất, và ăn rất khỏe. Tống ăn mọi con vật, ễnh ương, cóc, nhái, rắn. Tống thường khôi hài “ Con ǵ nhúc nhích là ăn hết “. Buổi chia cơm, Tống luôn để một nón nhựa riêng, ai không ăn hết phần khoai ḿ, cứ việc bỏ vào chiếc nón. Tống bắt đầu giă, nhồi, cho chút muối, và vài miếng ớt, vài cọng rau thơm, nhồi thành quả banh nhỏ nhỏ, Tống ăn hết. Tôi tưởng tượng, phải hai ngày, tôi mới ăn hết một trái banh của Tống.
Trong tù, cứ 3 tháng, một người có gia đ́nh, được thăm nuôi một lần. Tống là loại mồ côi, chẳng ai thăm. Có một cái Tết, Tống được một người anh, nghe nói làm công chức cho VC ở ngoài Bắc, tới thăm. Ông này mang cho Tống mấy quyển sách, khuyên Tống cải tạo tốt. Đó là lần đầu tiên Tống được người nhà thăm, khoảng 6 tháng sau, lần thứi hai, Tống được gọi ra thăm riêng. Tống từ chối, cán bộ trại hỏi tại sao?. Tống trả lời. Tôi không bà con với người đó. Trong trại, Tống tập thổi sáo, nhiều quư vị đă h́nh dung tiếng sáo của người mới tập như thế nào rồi, ai cũng muốn điên, nhưng nói ǵ th́ nói, cứ mỗi buổi trưa, lại nghe tiếng sáo giết người này, tiếng sáo cho tới ngày chuyển trại về A30, cũng vẫn đinh tai nhức óc, chẳng bao giờ dịu được chút nào.
Tại trại 53, không có biến cố ǵ đối với Tống. Khoảng năm 1980, tụi tôi và Tống chuyển trại về A30. Tôi và Tống ở khác nhà, nhưng vẫn trong hàng rào. Tôi và Tống, tuy ở khác nhà, nhưng lại chuyên về trồng lúa. Tôi may mắn, được nấu nước cho đội, c̣n Tống ở lẫn lộn với nhóm h́nh sự. Một hôm, trưa thứ Sáu, tôi mang gánh đi lấy củi, chuẩn bị cho ngày hôm sau.
Tôi thấy Tống nằm dưới một bụi chuối, ở đây chuối hằng hà sao số. Tống mặc bộ quần áo Tù, loại sọc đen, đỏ gụ, loại này nghe nói, trước đây của tù người Mỹ tại trại tù Hilton thường mặc. Tôi tưởng Tống ngủ quên, tôi nhắc, Tống, đội mày ăn trưa xong đi làm hết rối, sao mày c̣n nằm đây. Tống trả lời, tao đau đầu, xin ông Lía (Lía là cán bộ quản giáo của Tống ), nghỉ buổi chiều, tao đau đầu quá. Hai anh em chỉ nói thế, tôi tiếp tục vào rừng kiếm củi.
Hôm sau, thứ bẩy, mọi người đều nghỉ lao động, ở trong rào trại, thường tù đi thăm nhau, nói chuyện gẫu, hay nấu những món lượm lặt được khi làm việc ở ngoài. Mọi người nghe tiếng kẻng, ai nấy phải về nhà để điểm danh, cuối cùng, cả trại chỉ thiếu một người, Lư Tống, Tống trốn trại.Từ xưa tới nay, trại A 30 rất nhiều tù trốn trại, nhưng đi được vài ngày, mươi ngày lại bị bắt, c̣ng về nhốt cùm. Lần này Tống trốn trại, nhưng chẳng bao giờ bị c̣ng tay trở lại. Đối với tù từng ở Lam Sơn, ai cũng biết Tống, ai cũng cầu mong Tống thoát, đừng bao giờ trở lại. Tống thoát thật, mười ngày, một tháng, hai tháng, cuối cùng mọi người TÙ được thả, chẳng ai biết tin tức ǵ về Tống.
Riêng tôi, sống ở ngoài đời cả chục năm, trước khi đi Mỹ ( 10/1992) , thỉnh thoảng, vẫn nhớ tới Tống, vẫn thắc mắc, không biết Tống có thoát thật không, hay đă bị bắt lại, hay bị chết trên đường chạy trốn. Trốn trại không phải xa lạ tại A 30, nhưng riêng Tống, mồ côi, không thăm nuôi, mà đi, chẳng bao giờ trở lại, thật là một kỳ công.
Cuối năm, 1992, qua MỸ, sau những ngày đi làm, tôi thường t́m đọc và hỏi những người tới Mỹ trước tôi, một hôm tôi đọc được một trang báo dài, tờ báo viết về Lư Tống, người đă tŕnh diện ṭa đại sứ Mỹ tại Singapore, sau khi bơi qua eo biển Johore, đoạn biển và chiếc cầu này, tôi qua lại hàng tuần năm 1967 khi học khóa JMS tại Johore Bahru, trung tâm huấn luyện này nằm bên bờ phía Bắc , thuộc Malaysia, muốn qua Singapore, phải qua chiếc cầu dài để tŕnh passport. Cuối tuần , tụi tôi qua Singapore mua hàng, chuẩn bị, mang về Việt nam khi măn khóa.
Bài báo dẫn lời nói của Tổng Thống Reagan, gọi Lư Tống là người anh hùng, người t́m tự do bằng chân dài nhất thế giới. Tôi rất mừng v́ biết chắc Lư Tống đă ở bến bờ Tự Do, sau này Tống đă làm nhiều việc, theo tôi nghĩ, không ai làm được, trừ một người cỡ Papillon, nổi tiếng về thành tích vượt nhiều ngục tại thuộc địa của Pháp, người đă viết quyển tự thuật nổi tiếng Papillon.
Kết luận. Sau bài viết này, kể chuyện thật một đoạn đường của Tống. Tôi sẽ không bao giờ đọc và đánh giá bất cứ việc ǵ, mọi người nghĩ, phê b́nh, thán phục, hay chê trách Lư Tống. Đối với tôi, lịch sử quân đội VNCH, và ngay cả thế giới, sẽ không c̣n một mẫu chuyện nào có thể hơn chuyện về Lư Tống nữa, Lư Tống huyền thoại. Hăy nghe Tống trả lời một phóng viên báo chí nước ngoài “Tôi phải giải phóng Việt Nam, đây là nhiệm vụ của tôi, sĩ quan QLVNCH. Tôi không thể nào sống thoải mái cho cá nhân tôi, khi nước Việt Nam, dân Việt Nam của tôi c̣n trong lao tù của Cộng Sản.
Phạm Văn Lương
CBĐ
hoanglan22
04-13-2019, 14:01
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1365224&stc=1&d=1555163986
(Th/U Lưu Đức Linh (Pḥng TLC) đứng b́a trái, kế đó là 3 MX không rơ tên, đứng bên b́a phải là Th/U Đặng Phạm Hùng, Pḥng ANQĐ/SĐ)
Đây là bài ghi lại nguyên văn câu chuyện do em gái cố Th/U Lưu Đức Linh, pḥng Tâm Lư Chiến Sư Đoàn TQLC thuật lại.
Th/U Lưu Đức Linh, khóa 3/72 Trừ bị Thủ Đức, đầu tiên được bổ sung về TĐ 9 Mănh Hổ, sau đó thuyên chuyển về phục vụ tại Pḥng Tâm Lư Chiến SĐ. Tháng Ba năm 1975 anh mất tích ở Đà Nẵng khi SĐ/TQLC triệt thoái về Nam. Ba mươi hai năm sau, các em anh về lại VN t́m được di cốt và cải táng, đưa anh về nằm bên cạnh mồ mẹ.
Cuối tháng Ba 1975, ở Sài G̣n khi nghe tin toàn bộ Sư đoàn TQLC ở Đà Nẵng di tản về Vũng Tàu bằng đường thủy Ba em có ra đó để đón anh Linh. Chờ hoài không thấy, Ba em hỏi thăm những người về, có người th́ nói thấy anh Linh em bơi ra biển nhưng bị chết ch́m, người th́ nói anh Linh bị chân vịt của tàu chém vào chân nên bị ch́m … Oái oăm là có người bà con phía bên Ba em nói chính mắt ông thấy anh Linh chết trên biển. Nghe tin như vậy xong, Ba em trở về SG đi thẳng vào tiệm hớt tóc cạo đầu trước rồi mới về nhà. Đến nhà Ba nói với Má em thằng Linh chết rồi xong ông đi thẳng lên lầu. Má em ̣a lên khóc vật vă làm cả nhà náo loạn, chúng em c̣n quá nhỏ cũng chỉ biết ngồi bên cạnh ôm Má khóc theo, không giúp được ǵ. Cả nhà ch́m trong đau thương, dù Ba Má em trong thâm tâm vẫn tin (hay vẫn ước mong?) rằng anh Linh c̣n sống và thế nào rồi cũng sẽ về với gia đ́nh.
Qua tháng Tư 1975 khi làm sóng di tản ở Sài G̣n bắt đầu ồ ạt, gia đ́nh em cũng có tên trong danh sách đi Mỹ bằng phi cơ qua phi trường Tân Sơn Nhất nhưng Ba em quyết định chờ xem anh Linh có về không. Và ngày 30/4 đến. Thế là xong.
Sau ngày 30/4/1975 Ba Má và chúng em vẫn tiếp tục chờ, nhưng ngày này sang tháng nọ anh vẫn biệt tăm. Đến năm 1976 th́ Má em có lẽ đă tuyệt vọng nên cuối tháng Ba 1976 bà làm mâm cơm cúng rồi bảo tụi em “tụi bay cúng anh Linh bay đi”. Thế nhưng chúng em không cúng và căi lại “anh Linh chết hồi nào mà Má kêu tụi con quỳ cúng”. Mặc cho Má khóc tụi em nhất định không cúng!
(Cũng trong năm 1976, một hôm có một anh tới nhà nói với Má em rằng “con là bạn của Linh, cùng bị bắt chung. Chúng con có giao với nhau ai trốn thoát về được th́ ghé nhà người kia báo tin. Con vừa trốn về được nên ghé đây báo ngay”. Khi tụi em đưa 2 tấm h́nh, 1 của anh Linh, 1 của anh Tư em ra, anh đó chỉ đúng h́nh anh Linh. Má em mừng lắm, hỏi “ con có thể chỉ giùm bác chỗ giam để bác đi thăm Linh không?” . Anh ấy nói để ghé về Đà Lạt thăm gia đ́nh rồi sẽ quay trở lại cho biết tin chi tiết nhưng rồi từ đó hoàn toàn bặt tin, gia đ́nh em không hề gặp lại. Em không biết tên anh đó là ǵ.
Có người nữa th́ nói với chúng em là trước đó có biết anh Linh (từng cùng nhau đi nhậu ở Huế), khi mất Đà Nẵng th́ gặp anh Linh cũng bị bắt tập trung tại 1 trường học, sau đó phân tán mất tin.
Tháng Tám 1978 chị Ba em sinh bé trai đầu ḷng. Được vài tuần, một tối chị nằm mơ thấy anh Linh về. Chị hỏi “ anh đi đây đây?” th́ anh trả lời “ Tao nghe mày sanh nên về thăm, nhưng thôi để tao lên lầu thăm Ba Má đă”. Sau đó anh trở xuống nắm tay chị Ba em kéo đi. Chị Ba em không biết ǵ cứ theo anh Linh, đi, đi măi. Một lúc sau anh Linh dắt chị Ba em rẽ vào một lùm cỏ tranh, anh đi trước hai tay vẹt cỏ tranh, chị Ba em theo sau. Đi một đoạn th́ thấy ngôi mộ có bia đề tên “Lưu Đức Linh”, ngay trước mặt có con suối nhỏ. Rồi chị Ba em tỉnh giấc, kêu cả nhà dậy và kể lại đầu đuôi câu chuyện. Ai cũng nghĩ “nếu đúng vậy th́ anh Hai em đă chết trong rừng nhưng biết anh chết ở tỉnh nào, nơi nào mà đi t́m?” Chúng em rất phân vân v́ nhớ đến trước đó có nhiều người nói anh Linh em đă chết ngoài biển, mà nay linh hồn anh lại về báo mộng là chết ở đất liền? Sau đó chị Ba em đi coi bói, đưa tấm h́nh của anh Linh th́ người coi nói liền “anh này chết rồi, chết trên đồi núi cao, không chết sông chết biển …”
Thế rồi sau đó trong năm 1978, Má em cố gắng xoay sở cho chúng em lần lượt từng đứa vượt biển. Chuyện này dài gịng, em xin bỏ qua, v́ nghĩ chắc mấy anh cũng hiểu, sau khi đến được bến bờ tự do, chúng em, như mọi người, cũng lo bương chải, vật lộn với cuộc sống nên quên mất việc t́m kiếm tin tức người anh xấu số của ḿnh. (Viết tới đây mà em không cầm được nước mắt v́ thấy ân hận đă quá có lỗi với linh hồn anh Linh em!)
*
Bẵng đi một thời gian, đến năm 2006, em Việt gửi thư cho trang web Tổng Hội TQLC nhắn tin nhờ tất cả các bạn của anh Linh hay các anh trong TQLC t́m giúp tin tức về anh. Có một vài anh cùng khóa liên lạc lại và nói để hỏi thăm t́m kiếm, nhưng rồi … cũng chẳng có tin ǵ. Chúng em buồn vô cùng, v́ như vậy, chính các anh cũng không biết tin ǵ về anh Linh hết.
Đầu năm 2007 chúng em họp lại, bàn bạc và thưa với Ba em xin phép về Việt Nam đi t́m tung tích anh Linh. Ba em gạt đi bảo rằng cát bụi trở về cát bụi, đi t́m làm ǵ nữa. Chúng em đồng phản đối, thưa với Ba rằng Ba Má cho tụi con qua đây, nay tụi con được sống sung sướng tại sao không quay về t́m cho được xem anh nằm ở đâu để đưa xương cốt anh về chứ tội nghiệp anh nằm bơ vơ xa gia đ́nh đă 32 năm rồi; và mặc cho Ba nói ǵ th́ nói, tụi em quyết định với nhau là phải làm cho được chuyện này.
(Trước đó năm 2006 có người cùng quê với Ba em là chú Lan từng về Đồng Hới, tỉnh Quảng B́nh nhờ được 1 ông thầy tâm linh tên là thầy Quưt giúp đă t́m được cốt người mẹ vợ của ông trước kia chết v́ bị Pháp bắn và chôn sống. Chú Lan liên lạc hứa sẽ giúp đưa chúng em đến t́m ông thầy Quưt để nhờ t́m anh). Chúng em nhờ người bà con ở Huế ra Đồng Hới trước, t́m gặp ông thầy Quưt, đưa ngày tháng năm sanh của anh Linh cho ông ấy xem. Vừa xem xong ông ấy nói ngay “anh này chết rồi”. Hỏi làm sao chết th́ ông ấy nói “anh ấy là lính bên kia, đang lao động làm cỏ th́ có người rủ đi trốn nhưng 5 người trốn th́ bị bắt lại 3…” Nghe vậy chúng em háo hức vô cùng mong từng ngày cho đến lúc về đi t́m anh Linh. Khi chúng em lên đường, lúc đó Ba mới nói các con đi kiếm được anh Linh rồi th́ thiêu đem về đây cho Ba ôm nó một chút, Ba nhớ nó lắm.
*
Lần đầu về Việt Nam
Tháng Hai năm 2007, 3 chị em gái tụi em cùng về Việt Nam. Nghỉ 1 đêm ở nhà trọ, hôm sau chúng em lên thăm mộ bà nội và má rồi bay ra Huế. Phi cơ đáp xuống Phú Bài lúc gần 5 giờ chiều, chúng em lên taxi đi ngay ra Đồng Hới.
Tới Đồng Hới th́ trời đă tối khuya nên chúng em thuê pḥng khách sạn ngủ qua đêm để sáng hôm sau sẽ đến nhà thầy Quưt. (Đêm đó cả 3 đứa chập chờn, trằn trọc không ngủ được, mới 2 giờ sáng đă lồm cồm dậy hết ngồi bó gối mong cho trời mau sáng!) 9 giờ sáng chúng em t́m đến nhà thầy Quưt, đến nơi ông đang xem cho 2 gia đ́nh khác nên chúng em phải ngồi chờ. Đến lượt chúng em, đợi chị Ba em thắp nhang trước bàn thờ Phật bà Quan Âm xong thầy Quưt nói “t́m ǵ nữa đây? Bữa trước tôi có mách cho người tới đây t́m anh ấy rồi mà”. Tụi em thưa “ Dạ đúng, tụi con có nhờ người bà con tới hỏi nhưng nghĩ lại nếu đích thân tới hỏi Thầy th́ chính xác hơn”. Rồi tụi em đưa h́nh anh Linh cùng ngày tháng năm sinh của anh và xin thầy “chỉ vẽ giúp anh con c̣n sống hay chết và chết th́ chết ở đâu”.
Bàn tay của thầy bỗng run lên , thầy lấy tấm giấy vẽ bản đồ và nói “anh ấy chết rồi, chết trong trại học tập”.
Thầy vẽ h́nh “con đường đi lên núi, chú thích con đường rất hẹp, tới đó có 1 miếng đất h́nh vuông, đi vào trong th́ có nhiều nấm mộ mới của những người mới chết, có bia xong mới tới mộ của anh Linh, kế bên có 1 cái mộ đă bốc đi rồi , c̣n lại mộ anh và mộ 1 người khác nằm gần ngay đó”. (Anh có biết ngôi mộ đă bốc đi là mộ của anh Lê Đ́nh Lời, TQLC không? Người bạn tù chôn anh Lời khi được về đă chỉ cho gia đ́nh anh biết để ra bốc mộ anh).
Thầy nói với tụi em “ anh muốn về nhà lắm rồi 32 năm rồi linh hồn của anh vẫn ở giữ cái mộ đó không đi đâu hết, tội nghiệp anh lắm, đưa anh về đi” Thầy cũng nói rơ là “ mộ trên trại B́nh Điền, chung quanh có lính gác” và nói thêm “ sẽ có 2 người giúp đỡ, 1 người khoảng 70 tuổi và 1 người cụt tay”…
Quay về Huế , sáng hôm sau chúng em nhờ 1 người quen ở Huế cùng đi dẫn lên trại B́nh Điền, cô L. này có 1 người bạn học cũ thời Trung học, bây giờ làm Trại phó trại B́nh Điền. Cô L. gọi điện thoại cho hắn th́ hắn bảo tới chợ B́nh Điền th́ ngồi chờ gọi hắn sẽ xuống. Tuy nhiên tới chợ B́nh Điền ngồi chờ 1 lúc lâu hắn lại kêu chúng em lên thẳng Trại. Chúng em thuê honda ôm , 2 người 1 xe, đến cổng đi bộ vào văn pḥng gặp hắn. Bấy giờ hắn bảo sẽ c̣n phải lục t́m hồ sơ xem có tên Lưu Đức Linh không đă, rồi lấy xe chở đưa chúng em lên núi đến khu nghĩa trang chỉ cho xem nhưng thấy trong đó toàn là mộ có bia của những người mới chết. (Trong thâm tâm em nghĩ nhờ anh Linh phù hộ nên hắn có vẻ dễ chịu với chúng em). Hắn cho xe đưa chúng em xuống núi, bằng con đường khác để t́m hỏi một số người dân lúc trước 1975 sống tại khu vực trại B́nh Điền này. Em gặp 1 gia đ́nh sống ở đó đă rất lâu. Chị chủ nhà nói “hồi các anh lính Cộng Ḥa bị bắt học tập, mỗi lần các anh bị đi lao động ngang nhà, tui thường luộc sắn và khoai lang để sẵn ở 1 góc nào đó cho các anh”. Em gởi chị này ít tiền, nhờ chị hôm sau lên khu nghĩa trang phát cỏ tranh v́ thấy cỏ quá cao. Người CA quen với cô L. chở tiếp chúng em tới 1 khu trại nữa cùng khu vực này nhưng lúc đó đang giải tỏa làm đường, hắn nói là sẽ mang tất cả hài cốt của lính Cộng Ḥa và cả bộ đội VC chôn ở đó sang nơi khác, bởi thế không vào được. Trên đường ra hắn đưa chúng em ghé nhà 1 người cai tù cũ ở trại 4 B́nh Điền tên là B́nh, hỏi có biết ai ở đó từng là cai tù ở trại 1 hay không. Người tên B́nh nói “ tất cả đều đă về hưu, đa số là về Quảng Trị, chỉ có mỗi ḿnh tôi (B́nh) sau khi về hưu xin ở lại B́nh Điền” rồi chỉ cho chúng em cách đi t́m mấy người cai tù (của trại 1) nay sống ở Quảng Trị.
Về lại Huế nghỉ một đêm, sáng hôm sau chúng em chia làm 2 toán, 1 đi ra Quảng Trị t́m nhà mấy người cai tù cũ như được chỉ, 1 toán th́ trở lại B́nh Điền. Khi tới chợ B́nh Điền cô L. lại gọi điện thoại cho viên CA trại phó nhờ giúp th́ hắn bảo “ cứ ghé nhà chú B́nh chú ấy sẽ đưa đi”. Ông ta dẫn chúng em đi theo 1 con đường hẹp và dốc khá đứng (y như lời thầy Quưt chỉ!). Từ chân núi đi lên chúng em vừa đi vừa thở, vừa than thầm Trời ơi! Từ nhỏ tới lớn có bao giờ đi thế này, bây giờ nghĩ mới thấy thương các anh ngày xưa leo đèo, leo núi hành quân cực khổ ra sao …Thật là mệt gần chết! Lên tới nơi, ngay chỗ nghĩa trang mà chúng em đă tới hôm trước, mấy đứa chúng em đốt bó nhang lớn chia nhau thắp khắp nơi, vừa cắm vừa van vái thầm anh Linh khôn thiêng chỉ cho chúng em t́m ra mộ phần của anh… Bỗng dưng có tiếng chim rất lạ kêu lên, không hiểu sao em nghe thấy tiếng kêu thật thảm thiết và sợ run người . Chúng em lần ṃ đạp lên đám cỏ tranh (đă nhờ người cắt) len lỏi đi qua khu mộ mới có bia, tới khu trong đường đi khúc khuỷu, khó khăn, lên dốc, xuống đồi , có chỗ phải len lỏi như đang đi xuống vực. Chị Ba của em trượt chân té , cả người chị tuột xuống dốc, chị hoảng hốt đưa tay chụp đám dây leo chằng chịt, nhằm bụi gai bị đâm chảy máu tay ṛng ṛng … Chúng em tự nhủ “không lẽ đây là máu mủ t́nh thâm, anh Linh chỉ cho chúng em thấy chỗ chôn rồi hay sao?” Thế nhưng nơi chị Ba em té xuống là đất bằng phẳng , không có dấu vết của ngôi mộ nào hết, đi xuống phía dưới một chút thấy có ḍng suối nhỏ . Quanh quẩn măi đến chiều mà không t́m thấy ǵ cả, chúng em phần thất vọng, phần mỏi mệt quá nên đành quay về Huế.
Người em họ của em ra Quảng Trị quay về cho hay không t́m được tung tích của những người cai tù trại 1 cũ như được chỉ v́ kẻ th́ đă chết, người th́ đi vào vùng kinh tế mới làm nương rẫy cả rồi … Đêm hôm đó mấy đứa em không ngủ được ngồi bàn với nhau lấy tấm họa đồ thầy Quưt đă vẽ ra xem th́ thấy“con đường đi lên núi nhỏ hẹp th́ đúng rồi, đi vào đám cỏ tranh, ngang qua khu các mộ mới có bia cũng đúng mà đi xuống nữa th́ có thấy ngôi mộ nào đă được bốc đi như ông thầy vẽ đâu?” Loay hoay tụi em cứ nghĩ hoài mà không ra và lại thêm một đêm mất ngủ ( hầu như mấy đêm liền tụi em chẳng đêm nào ngủ được, cứ chừng 2, 3 giờ sáng là mấy chị em lại thức dậy cùng nhau bàn, nghĩ ngợi rồi thở dài!)
Sáng dậy em quyết định trở ra Đồng Hới t́m thầy Quưt. Mấy đứa em quỳ hết xuống năn nỉ thầy cùng đi để t́m giúp mộ anh Linh. Thầy Quưt nói “nếu như anh chết nằm ngoài CôngAn quản lư th́ tôi đi với các anh chị”. Chúng em nghe vậy th́ thở dài (chứ biết nói ǵ) Thầy lại nói “ Lúc trước tôi đă đi t́m mộ cho cả 2 bên, t́m được cả ngàn ngôi mộ rồi, tôi là đảng viên, cấp trên thấy vậy tước quyền Đảng viên của tôi, sau này tôi t́m được mộ cán bộ cao cấp hắn đến nói trả lại Đảng viên cho tôi. Nhưng tôi trả lời, tôi không cần nữa, tôi làm việc t́m mộ này là v́ lương tâm đạo đức thôi chứ tôi không cằn Đảng nữa đâu, mấy ông lấy đem về đi”. Rồi một lần nữa thầy lấy giấy ra vẽ lại sơ đồ giống y lần trước, thầy c̣n nằm dài xuống nền gạch, nói “anh nằm đây nè, ở ngay phía dưới là con suối chảy”. Đứng dậy, thầy vỗ 2 tay lên đầu , nói “ anh muốn về với gia đ́nh lắm rồi”. Chúng em chẳng biết nói ǵ hơn đành đứng lên cám ơn để về Huế. Trước khi đi chúng em nhờ thầy coi giùm Ba em ra sao, thầy nói “Ba đang đau đầu đó, đưa anh về đi. Đưa anh về là Ba hết đau đầu liền”. Chúng em nh́n nhau, không biết nói ǵ mà ḷng th́ khâm phục thầy (bởi v́ trước khi tụi em về Việt Nam 2 tuần Ba bị bệnh đau đầu, mà đau ghê lắm, phải đưa đi Bác sĩ, tới ngày tụi em đi Ba mới đỡ đau đôi chút!)
Trở lại Huế, bữa sau tụi em quyết định trở ra Quảng Trị lần nữa để t́m người cai tù (trại 1) hôm trước người em họ chưa tới được, không ngờ lần này tụi em lại gặp và thấy ông này … bị cụt tay (!). Tụi em nói rơ là đi t́m mộ anh Hai và nhờ giúp. Ông ta kể là về làm ở trại B́nh Điền năm 1977 và nói muốn dẫn tụi em tới 1 ông thầy ở Quảng Trị cũng “hay lắm” để nhờ gọi hồn xem. Tụi em bàn nhau nên đi để xem ông này nói có ăn khớp với thầy Quưt ở Đồng Hới không. Bữa đó ông thầy này không tiếp, hẹn sáng sớm ngày mai quay lại. Tụi em về Huế , sáng hôm sau ra Quảng Trị sớm.
*
Sáng hôm sau đến nhà ông thầy Quảng Trị sớm lắm, chúng em vào cúng, đưa tên tuổi anh Hai cho thầy. Chờ một lúc thầy thắp nhang, khấn vái rồi nói “ anh đây bị đưa đi tất cả 3 trại tù, trại thứ nhất là Phong Điền, (trại thứ hai tên ǵ bây giờ em không nhớ), rồi trại thứ ba là B́nh Điền, anh tù , đói và bệnh nên chết”. Rồi ông chỉ cô em thứ chín của em nói “anh về sẽ vào người cô này nè”. Em Chín của em ngồi im không nhúc nhích hồi lâu rồi cứ lạy bàn thờ và lạy thầy. Thầy nói “ bây giờ anh mở miệng nói đi, người nhà đi t́m anh về đó” . Chúng em ngồi chung quanh mới hỏi “ Anh chết ở đâu, nói cho chúng em biết để tụi em đưa anh về nằm gần Má. Má thương nhớ anh lắm nên Má mới chết, c̣n Ba nữa, Ba cũng nhớ anh lắm và đang đau đầu nặng lắm.. anh nói đi, nếu anh không nói được th́ anh viết ra cho tụi em biết …”. Em lấy cây viết và tờ giấy đưa cho “anh”. “Anh” viết từng nét một, có nét dài, nét ngắn, rốt cuộc đọc ra chữ Điền, xong buông viết xuống khóc một cách tức tối … Thầy nói “có chuyện ǵ uất ức th́ nói ra đi, mở miệng ra nói đi ..” nhưng “anh” không nói mà chỉ khóc và khóc hoài thôi . Em mới hỏi “anh có biết em là ai không” th́ không trả lời mà gật đầu, rồi ngả đầu trên vai em và lại khóc nữa. Chúng em cũng khóc và nói “tụi em xin lỗi anh, xin anh đừng giận nữa, 32 năm chúng em muốn nhưng không biết anh ở đâu mà t́m, hơn nữa thời điểm đó chúng em đều c̣n nhỏ quá, mà Ba có đi Vũng Tàu rồi lại ra Đà Nẵng t́m anh mà t́m không ra …”. Chúng em đứa nào cũng xin lỗi, xin “anh” tha thứ mà “anh” không mở miệng được. Thầy mới nói với anh “ thôi chuyện đă lỡ rồi, đừng buồn nữa, thôi mời các anh chị đây uống bia đi”. “Anh” bèn nín khóc và đưa tay ra mời “uống bia”. Trước khi tụi em rời nhà thầy, “anh” có quỳ lạy bàn thờ.
Tới B́nh Điền, tụi em cùng ông B́nh đi lên núi theo con đường xe hơi chạy được. Tới ngay nơi bữa trước đă ghé, em gái em nhảy liền xuống xe, đi tới sát bờ vực, tụi em phải giữ chặt sợ em té. Em đứng ngó một hồi rồi qauy lại đi ṿng ṿng … tụi em đi theo mà chẳng thấy có dấu hiệu ǵ của một ngôi mộ nào hết . Em Chín ngồi xuống bưng mặt khóc rưng rức một hồi, rồi nói ngộp thở quá, ngộp thở quá và xỉu. Tụi em phải đổ nước cho em tỉnh dậy rồi rủ nhau về Huế. Lúc đó tụi em thất vọng vô cùng, đứa nào cũng rầu rĩ v́ nghĩ chẳng lẽ ḿnh đành bó tay? Đêm đó tụi em lại ngồi suốt đêm bàn tính và quyết định sáng bữa sau lên B́nh Điền lần nữa.
*
Lần này tụi em cũng mang theo họa đồ , nhang đèn, trái cây và bông hoa. Nhưng trên mặt đất (chắc v́ bao năm mưa đổ kéo theo đất đá trên cao xuống lấp hết dấu ) nên không biết đâu là mộ anh hết. Tụi em đi xuống phía dưới chút nữa th́ có con suối nhỏ (vậy là đúng như thẩy Quưt diễn tả). Quay trở lại th́ quả thiệt, tụi em t́m được dấu của ngôi mộ đă bốc đi và cục đá mà thầy Quưt nói giống cái nấm rơm và nh́n thật kỹ th́ đúng là như có ai chặt chém ǵ trên cục đá đó. Tụi em bày hoa quả nhang đèn ra cúng (oái oăm là tụi em ngồi cúng ngay trên đầu mộ anh mà không biết !) rồi về lại Huế.
Đêm đó cậu em họ của em bày hôm sau tới nhà 1 ông thầy tên Sinh ở Vỹ Dạ thỉnh ông đi theo cúng th́ mới mong t́m ra mộ. Lúc đó tụi em nghe ai có ư kiến ǵ cũng đồng ư v́ có lẽ bối rối quá không biết níu vô đâu. 3 giờ sáng tụi em mới đi nằm, mà cứ trằn trọc hoài. 6 giờ sáng cậu em họ chạy qua đập cửa, miệng ú ớ kêu tụi em qua pḥng nó . Tới cửa pḥng hắn chỉ tay lên cánh cửa th́ thấy 1 con bướm màu nâu đen lớn lắm, bằng nguyên bàn tay ḿnh x̣e ra, em chưa thấy con bướm lớn như vậy bao giờ. Cậu em nói hay là anh Linh về?
Tụi em ghé mời thầy Sinh cùng đi lên núi và thầy đồng ư. Khi ra xe, anh biết em thấy ǵ không? Một con bướm đen cũng lớn bằng con bướm đă thấy hồi năy bay theo vào trong xe. Và đi cùng chúng em lên núi. (lúc này th́ đứa nào cũng tin là vong linh của anh Hai đă về cùng đi theo tụi em).
Tới nơi thầy Sinh cúng, khấn vái Sơn thần, Thổ địa xin cho phép gặp thân nhân (ông đọc tên tuổi của anh Linh em). Thầy nói thứ tiếng ǵ tụi em nghe chẳng hiểu ǵ hết (nghe như tiếng Tàu mà không phải tiếng Tàu). Thầy cầm cây nhang đi ṿng quanh, tới 1 gốc cây quơ tay như tóm lấy một vật ǵ trong không khí và lấy tờ giấy đỏ gói lại. Thầy chỉ một chỗ dưới đất nói đó là nơi mộ của anh và dặn đi đâu cũng phải mang anh theo (tức gói giấy đỏ này). Chúng em đưa thầy về Vỹ Dạ, tạ ơn rồi quay về khách sạn. Lần này th́ tụi em quyết định bữa sau nhờ cô L. gặp tên CA Trại phó xin hắn cho đào ngay chứ trễ quá rồi (tụi em xin nghỉ phép về VN được có 2 tuần, mà bữa đó đă là ngày thứ 10).
Gặp viên CA tụi em tŕnh bày là có coi thầy Sinh và được chỉ cho chỗ để đào. Hắn nói, theo họa đồ như thầy Quưt vẽ th́ có tới 2 mộ gần nhau, nên bắt tụi em phải sắm 2 cái quách, và nếu đào lên có 2 cốt th́ phải chôn lại 1 chỗ, chờ khi nào họ t́m và liên lạc được với thân nhân người kia mới cho đem về! (Em rủa thầm trong bụng trời ơi, chết mà vẫn không yên, vẫn c̣n bị nó quản lư!) Nhưng làm sao được? Hắn cũng buộc điều kiện phải để cho tù nhân trong trại ra đào, tụi em đồng ư liền, nên hắn cho đưa 5 người tù ra đào.
Em nhờ chia làm 2 toán, 1 đào ở trên, phía bên trái –nơi viên cai tù cụt tay ở Quảng Trị nói năm 1977 ông ta về đó đă thấy có 2 ngôi mộ) , c̣n toán kia đào ở dưới, phía bên phải. Đất đai gồ ghề , khó đào lắm, họ đào mỗi bên sâu xuống 1 thước mà chẳng thấy ǵ. Loay hoay măi cũng không thấy ǵ, hết giờ CA đ̣i đưa mấy người tù về trại.
Đêm đó tụi em nhờ cậu em họ và người cháu ở Huế bữa sau tiếp tục lên coi sóc việc t́m kiếm, c̣n tụi em phải về Sài g̣n để thu xếp ngày mốt về lại Mỹ .
Rời Huế mà đứa nào cũng ḷng th́ tan nát, c̣n người th́ mệt nhoài v́ suốt 10 ngày hết đi ra đi vào, cứ lên núi xuống núi mà không thấy được dấu tích ǵ hứa hẹn cả.
*
Về tới Sài G̣n tụi em ră rời, tuyệt vọng như người khHCMn, nghĩ tới lúc về Mỹ mà ngao ngán. Không ngờ sáng bữa sau người cháu họ điện thoại vào báo mừng rỡ “D́ ơi tụi con t́m thấy Cậu rồi.” (Em không biết tâm trạng của người trúng số độc đắc ra sao, chứ em lúc đó th́ rơ ràng là mừng hết lớn!). Người cháu kể, trước khi đào có gọi điện thoại hỏi lại thầy Sinh, thầy bảo cứ từ phía dưới chân dốc núi bên phải nơi có con suối đào ngược lên, tới gần gốc cây, dưới gốc cây thấy có tảng đá th́ đúng chỗ. Đào theo lời thầy chỉ, sâu gần 1 thước, ba con nhảy xuống rờ thấy đất ươn ướt. Đào sâu hơn nữa, ba con rờ và gơ trên mặt đất thấy hơi gồ lên th́ nghĩ đó là cái sọ… nên lấy tay cào cào đất ra th́ thấy là tấm poncho …kéo hết tấm poncho ra th́ tất cả mọi người đều thấy rơ 1 người nằm nghiêng, co rúm như người bệnh, nhưng chỉ trong tích tắc, bóng người tan đi, xương ră thành bột trắng hết …Công An kêu hốt bỏ hết vô quách, đem lên phía trên núi chôn lại làm dấu chờ quyết định … Con thấy mây đen kéo tới như sắp mưa nên nhảy cuống theo hốt bỏ vô quách, vừa hốt vừa thừa lúc CA ngó lơ bốc một nắm bột bỏ vô túi để đem về cho D́ …” (v́ em đă dặn cháu nhớ hốt dùm em một nhúm bột xương để đem về Mỹ thử DNA ). Nghe xong em mừng tới run hết chân tay, nhưng vẫn thấy buồn quá, v́ qua bữa sau nữa là em quay về Mỹ lại rồi mà di cốt của anh th́ vẫn c̣n bỏ lại ngoài đó!
Rồi tụi em đi lên Chùa cầu siêu cho anh (tụi em đă có đặt sẵn bài vị cho anh Linh). Hôm sau khi người em họ bay từ Huế vô đưa cho gói bột, chúng em chia hai, một nhúm để lại chùa, một nhúm mang về Mỹ.
*
Một tháng sau khi về Mỹ, chúng em liên lạc được 1 pḥng Lab ở Arizona, họ nhận phân tích và thử DNA. Gủi đi xong, hơn 3 tuần sau liên lạc lại, họ cho biết trong phần bột xương gửi tới, chỉ có 0,5% là tro xương, c̣n lại 99,5% là đất! Và cho hay chỉ có thể xác nhận kết quả là 10%. (Th́ ra người cháu của em, khi hốt vội nắm tro đă bốc lộn nhiều phần đất cát trong đó). Thế nhưng chúng em vẫn tin tưởng rằng đó chính là tro cốt của anh ḿnh v́ nhiều lư do, em sẽ kể sau.
Mấy chị em tụi em ngày nào cũng bàn bạc băn khoăn, không biết là tháng 10/2007 sẽ về bốc cốt cải táng hay để sang năm 2008 . Chưa kịp quyết định th́ một bữa, người cháu em ở Huế gọi sang báo “nói chuyện với thầy Sinh ở Vỹ Dạ th́ thầy mới cho biết anh Linh về báo mộng cho thầy, nói rằng nhờ thầy giữa giùm ngôi mộ v́ các em sắp về cải táng! Vậy là tụi em quyết định tháng 10/2007 về bốc mộ anh cho xong. Chúng em nhờ người em họ ở Saigon ra Huế t́m gặp tên CA giữ danh sách những người tù trại B́nh Điền nộp đơn xin bốc mộ. Hắn xem đơn xong nói rằng “không có tên Lưu Đức Linh trong danh sách học tập, và lần trước khi đào lên th́ chỉ có nắm bột, muốn bốc phải viết đơn rằng xin bốc chiếc quách trong có nắm đất và áo quần rách mới được” (Anh nghĩ xem nghe vậy có đau ḷng không?)
Tháng Tám 2007 ba em trở bịnh nặng phải nằm nhà thương. Chúng em quyết định xin phép Ba để 1 cô em gái ở lại chăm sóc, c̣n chúng em tháng 10/2007 về cải táng cho anh.
Về VN lần thứ nh́
Tuần lễ thứ nh́ tháng 10/2007 chúng em về đến Saigon. Sau khi thăm mộ Nội Ngoại và má em chúng em đi Huế. Lúc ấy đang mùa mưa, trời Huế mưa dầm u ám vô cùng năo nuột.
Tới Huế, chúng em về tận quê Ba cầu xin ông bà tổ tiên phù hộ, sau đó quyết định ra Đồng Hới gặp thầy Quưt, xin ông cùng đi bốc mộ để phối kiểm cho chắc chắn (v́ lúc bốc lên không có mặt chúng em, và kết quả thử DNA chỉ có 10% nên nói thiệt tụi em cũng có chỗ bán tín bán nghi!). Lần đầu ông từ chối. Sáng hôm sau đến sớm, định năn nỉ lần nữa th́ bất ngờ ông nói liền “ ra xe, tui đi với các anh chị. Đêm qua en về kêu tui đi t́m mộ en. Tui thấy en ở trần, mặc mỗi quần đùi kể với tui là chết v́ bị bệnh và đói. Vậy nên tui phải đi với các anh chị!” Em nghe xong vừa mừng, vừa thương anh phải quay đi chùi nước mắt!
Thầy Quưt nói thêm phải ghé nhà một ông già cùng quê nhờ đi cùng để pḥng khi anh Linh không nhập vào chúng em được th́ sẽ nhập vào ông đó. Gặp ông ta chúng em nhờ đi t́m người thân, ông lặng lẽ lên xe cùng đi. (Nhắc lại cho anh nhớ rằng, lần đầu tiên gặp thầy Quưt ông có nói là có 2 người sẽ giúp chúng em t́m được mộ anh Linh, 1 là viên Công An già về hưu tên Nguyễn Thanh B́nh ở B́nh Điền đó- và 1 người cụt tay)
Xe tới B́nh Điền, chúng em lại nhờ người tên B́nh giúp đưa lên núi. Lúc đó trời đă bớt mưa, chỉ c̣n lác đác. Bước vào lùm cỏ tranh, bàn tay và đầu thầy Quưt cứ lắc lư không ngừng, tới ngôi mộ thầy ngừng lại nói “đây rồi, mộ en đây rồi”. Ông B́nh nói không phải, cái này là mộ mới chôn, phải đi xuống phía dưới vực kia mới có”. Thầy Quưt lắc đầu , dậm chân và nói không đi đâu nữa. Lúc đó trờ tạnh hẳn, thầy kêu bày đồ ra cúng và phải thật nhanh v́ nếu trời đổ mưa là không tốt cho anh.
Chúng em bày nhang đèn hoa quả ra, thầy thắp nhang, ngồi xổm khấn vái một hồi và kêu chị Ba em ngồi xuống bên cạnh để xem anh Linh có nhập vào không. Một lúc lâu, không thấy ǵ, thầy Quưt lại kêu đứa em trai ngồi xuống, cầm một cây nhang vái theo thầy. Cũng chẳng xong, thầy bèn nói ông già đi theo cùng ngồi xuống. Ông này mới ngồi chỉ 2, 3 giây th́ cây tre treo tấm phướn trắng thầy Quưt đă viết tên họ anh Linh trên đó bỗng dưng bật lên và mảnh vải bay phần phật như là cờ gặp gió mạnh! Bất ngờ ông già đứng bật dậy, mắt nhắm nghiền khiến phản ứng của tụi em là lùi hết về phái sau. Thầy Quưt nói với ông già đi mà nhận người thân đi! Ông đi ṿng ṿng, tới vỗ vai chị Ba, rồi đến cậu em trai cũng vỗ lên vai nó. Em đang đứng gần cậu em họ, bèn hơi lùi về phái sau th́ ông ta đi qua người em họ đến vỗ vai em mấy cái!
Vỗ xong, ông quay lại đi tới chỗ tên B́nh (từng là cai tù trưởng trại 4 B́nh Điền) và đập túi bụi lên người hắn ta. Tên B́nh lùi lại và nói thôi thôi, được rồi. (Lúc đó em bỗng có linh tính , hay là ngày xưa tên này hành hạ tù nhân và cả anh Linh nữa nên hồn anh về mới đập hắn ta thay v́ vỗ về như đă làm với chúng em?) .
Sau khi đập thằng cha này xong, ông già đi về phía chị Ba, nắm tay chị, dắt tới đầu ngôi mộ (mới) đưa tay chỉ và nói “tụi bay chôn tao xéo rồi thấy không?”
Thầy Quưt nói với ông già rằng Thôi nhận vậy đủ rồi, ra đi, không th́ mệt người ta”. Nghe vậy, ông già lắc lắc mấy cái rồi mở mắt ra, một lúc sau th́ trở lại b́nh thường.
Thầy Quưt lại khấn vái lầm thầm nữa, bỗng dưng thầy kêu lên như đang nói chuyện với ai đó. “Cái ǵ, đi theo làm ǵ, ở lại đây đi, cho en đi về với gia đ́nh en, khó khăn lắm mới đưa được en về , đừng theo níu kéo nữa. Sao, tên ǵ? Họ Phan hả? Nhà ở đâu, cũng ở Sài g̣n à?” Và thầy giải thích cho chúng em hiểu rằng có 1 cái vong chết cạnh anh Linh, quyến luyến nên cứ muốn giữ anh ở lại!
Thầy Quưt khấn vái thêm một chút rồi gieo quẻ và nói “vậy th́ xin anh ở lại chơi 1 đêm rồi sáng mai anh về nghe?” Quẻ ra là được, thầy kêu chị Ba em gieo thêm một quẻ nữa, khấn y như vậy và cũng được, tức anh Linh chịu ở lại 1 đêm. Thầy Quưt cầm chai rượu rót xuống đất nói Rượu đây, en đi mời bạn bè uống đi để mai về. Xong, thầy kêu thu xếp xuống núi, và ngay lúc đó trời lại tối sầm, xuống khỏi núi th́ trờ đổ mưa trở lại (anh thấy có lạ không?) Thầy Quưt dặn sáng hôm sau khi đào mộ đem quách đi phải tránh không để trúng một giọt nước mưa nào hết.
Trên đường về ông già đi theo lúc đó mới quay lại hỏi tụi em là ǵ của người chết. Như thế khi bắt đầu đi, ông ta chẳng biết ǵ về tụi em hết, vậy mà đến vỗ chính xác từng người, trừ cậu em họ ra. Anh thấy có linh thiêng không?
Về tới Huế, chúng em tạ ơn thầy Quưt và ông già, rồi về khách sạn gọi điện thoại cho tên CA trại phó, xin hắn ngày hôm sau lên bốc mộ. Hắn đồng ư nhưng dặn phải lên sớm nếu không hắn đi họp th́ không được đào.
Đêm ấy trời mưa lớn, em mệt quá nên lên giường ngay, trùm mền đi ngủ lấy sức để sáng hôm sau dậy sớm. Đang nằm lơ mơ chưa ngủ th́ nghe tiếng gơ cửa. Em nghĩ bụng chắc 2 đứa em trai và em họ ra ngoài chơi quên không đem ch́a khóa nên dậy mở cửa. Ai dè mở ra không thấy ai. Em rủa thầm 2 thằng quỷ phá đám, đi ra t́m. Đi hết cầu thang xuống dưới nhà cũng chẳng thấy ai, không khí vắng vẻ làm em rùng ḿnh chạy về pḥng đóng cửa. 15 phút sau lại có tiếng gơ cửa, chị Ba em dậy mở cửa th́ 2 thằng em kéo vào. Em la chúng nó tại sao chơi tṛ gơ cửa rồi đi trốn th́ 2 đứa trợn mắt ngạc nhiên nói rằng tụi nó mới vừa ở ngoài phố về! Nghe mà lạnh người. Trong khi đó trời đổ mưa tầm tă như trút làm tụi em đâm lo, mưa như vậy sáng hôm sau làm sao bốc anh được? Cả bọn ngao ngán nằm xuống mà không tài nào ngủ được, trằn trọc suốt đêm!
5 giờ sáng chúng em đă dậy chuẩn bị đi. Trời vẫn c̣n mưa nên xe không dám chạy nhanh . Sau khi mua trái cây hoa quả, tụi em ghé thầy Sinh ở Vỹ Dạ nhờ thầy đi theo để cúng.
Lên tới B́nh Điền, nhờ tên B́nh đi theo lên gặp tên Trại phó. Hắn mắng tụi em như tát nước v́ phải chờ lâu, sau đó hăn cho 1 tên CA dặt lên núi. Tới nơi tên này nói “các anh chị bốc ǵ th́ bốc cho nhanh rồi đi xống, ông Trại trưởng đi họp nên mới cho các anh chị bốc, chứ có ông ấy ở nhà là không được đâu”. Rồi hắn bỏ đi, để mặc tụi em lại.
Lúc này th́ trời bắt đầu tạnh mưa hẳn nhưng chúng em cũng lấy tấm bạt nylon mang theo căng ra đề pḥng mưa bất tử. Chúng em đào rất nhanh, bốc chiếc quách lên, làm dấu đầu đuôi xong bọc vào tấm nylon và vội vă xuống núi. Lúc đó thầy Sinh đang chờ ở dưới chân núi v́ ông tưởng tụi em vào gặp CA sẽ quay xuống đón ông.
Người tái xế của xe hơi tụi em thuê nhất định không chịu chở chiếc quách nên chúng em phải nhờ xe ôm chở 1 người đưa xuống, c̣n tất cả lội bộ. Xuống gặp thầy Sinh ông kêu đem tới chỗ ngă ba đường để ông cúng
Và làm phép để đưa về Saigon. Tới ngă ba, đến khúc rất vắng vẻ, thầy Sinh bảo rẽ vào con đương ṃn cho khuất. Thầy Sinh thắp nhang đèn khấn vái rồi làm phép bắt vong hồn anh Linh vào cây nhang để tụi em cần theo, và tiếp tục khấn vái. Bỗng dưng thầy Sinh lên tiếng quát như nói chuyện với người vô ́nh (như thầy Quưt hôm qua). Thầy nói “thôi đưa anh tới đây được rồi, về lại trên núi đi, để anh theo người thân về nhà” Rồi thầy lại hỏi Họ ǵ? Họ La hả” Nhà ở đâu, ở Bà Rịa à? Được rồi, nhớ rối, về đi”.
Xong thầy lấy 3 cây nhang vẽ bùa ǵ đó lên tấm vải trắng , rồi đâp chiếc quách, trút mớ cốt vào tấm vải, cột lại giao cho chúng em xách.
Chúng em vẫn thuê 3 chiếc gắn máy , 1 chiếc chở 1 người em ôm quách, 2 chiếc kia chạy kè theo, c̣n đám đàn bà th́ lên xe hơi . Và như lúc tụi em bắt đầu đi, lúc này trờ lại đổ mưa!
Về tới Huế chúng em bàn với nhau là phải đi bằng xe lửa chứ không dám đi máy bay sợ tụi nó scan túi xách thấy gói cốt sẽ làm khó dễ. Thế nhưng khi hỏi thuê được 1 chiếc xe van chịu chở vào Saigon với giá 7 triệu đồng, chúng em mừng quá ngay chiếu hôm đó rời Huế ngay!
Xe chạy suốt đêm, chúng em rù ŕ nói chuyện chứ không ngủ được, khi tới Phan Rang chúng em ghé quán cơm bán khuya ăn cơm rồi đi tiếp. Gần 3 hay 4 g sáng cậu em họ buồn ngủ nên em kêu ra băng sau nằm ngủ cho khỏe. Mới chừng nửa tiếng nó chồm dậy nói “em nằm mơ thấy có người đi theo ḿnh, nh́n không rơ mặt, chỉ thấy mặc quần áo lính màu xanh mà có rằn rằn màu đen ( Năm 1975 hắn c̣n rất nhỏ nên không biết chuyện lính tráng đâu, nhưng nghe nó diễn tả em biết ngay đó là áo lính TQLC.)
Trên đừmg về Saigon, chúng em gọi điện thoại trước liên lạc với ông thầy tu trong ngôi chùa nhỏ tại nghĩa trang (do Hội tương tế mời thầy về tu và coi sóc) nhờ thầy mua hộ trước chiếc quách mới.
Chúng em đi thẳng về nghĩa trang, về đến nơi th́ trời đă trưa. Cả bọn để hành lư trên xe, đưa gói cốt anh vào chùa ngay.
Chúng em chuyển gói cốt vào chiếc quách mới và rũ miếng poncho cùng manh vải đă sờn rách, mỏng tang để gấp lại, Ngờ đâu có 2 chiếc đinh mục rơi ra, chúng em chẳng hiều đó là đinh ở đâu? Hay là mấy chiếc đinh của cái ḥm chôn anh Linh đă bị mục nát thành đất? Chúng em thắp nhang, gửi cốt anh lại cho thầy và xin sáng hôm sau lên làm lễ hạ huyệt.
*
Buổi lễ hạ huyệt này có rất đông bà con họ hàng và người quen với gia đ́nh em đến dự, như một tang lễ b́nh thường. Chúng em bỏ theo quách manh poncho và miếng vải áo tù rách để cùng chôn cho anh. Sau đó lấp đất và tráng xi măng để hôm sau xây mộ. Mộ anh nằm ngay bên cạnh Má.
Hôm sau cậu em họ đến kể em nghe ngay đêm đó,nằm mơ thấy anh Linh về, mặc quần áo đàng hoàng. Anh vào nhà ngồi ngay vào ghế, mặt tươi tỉnh. Cậu em hỏi, anh đi đâu đây th́ anh Linh trả lời, tao về xây nhà chứ đi đâu!
Liên tiếp mấy ngày sau đó, bữa nào chúng em cũng lên xem việc xây mộ để xong là về lại Mỹ ngay ( v́ Ba em giục xong th́ về liền v́ Ba cảm thấy trong người không ổn).
Xây mộ xong, chúng em lên cúng , viếng mộ hai bên Nội Ngoại, Má và anh Linh rồi trở về Mỹ.
Buổi trưa ngày em về tới nhà th́ sáng hôm đó Ba em nói với em Chín đưa Ba rời bệnh viện về nhà v́ Ba đỡ rồi. Mặt mũi Ba tươi tỉnh, vui vẻ và cho hay là đă hết nhức đầu!
Anh có nhớ là trước khi tụi em về VN lần đầu t́m mộ Ba em đau đầu dữ dội lắm, đau tới nỗi Ba nói muốn đập đầu vào tường cho bớt! Thầy Quưt ngay lần đó đă nói :t́m đưa anh về th́ Ba hết đau ngay. Lúc đó em nghĩ rằng à th́ ra thầy nói là như thế.
Không ngờ sau khi em về lại Mỹ được 2 tuần, một buổi chiều đi làm về thấy Ba c̣n ngủ chưa dậy. Em vô thăm th́ Ba mở mắt, em nói thôi Ba dậy đi, trời chiều quá rồi. Con đi nấu cơm xong Ba ra ăn nghe. Nói xong em về pḥng thay đồ, chưa xong th́ nghe tiếng Ba kêu, em lật đật chạy trở lại th́ thấy Ba đang cầm ống thuốc quang xuống đất và miệng đang nói một thứ tiếng ǵ nghe lạ lắm, như đang nói chuyện với người khuất mặt nào đó. Em gọi mấy chị em rồi lật đật chở Ba vào lại bệnh viện ngay. Ba nằm bệnh viện thêm một đêm một ngày nữa th́ ra đi. Lúc ấy em mới hiểu câu nói của thầy Quưt.
Chúng em buồn quá v́ Má mất đă 23 năm ( từ năm 1984) chỉ có Ba ở với tụi em, nay Ba cũng đi theo Má , và theo anh Linh em sau 32 năm xa cách. Rơ ràng cốt nhục t́nh thâm, Ba em chờ cho đến khi đưa được anh về mới ra đi.
*
Em có nói rằng dù kết quả thử DNA chỉ có 10% em vẫn tin đó chính là cốt của anh Linh em. V́ những điều trùng hợp với nhau quá rơ ràng, từ những giấc mơ của chị Ba em (2 tháng sau khi sanh đứa con đầu ḷng), thấy anh về thăm, dẫn chị đi tới một vùng cỏ tranh, pohia1 dưới có con suối nhỏ, rồi h́nh ảnh trong mơ của chị Ba, cũng như của thầy Quưt đều thấy anh Linh cởi trần mặc mỗi chiếc quần đùi –dù tụi em không kể ǵ cho thầy hết- Rồi chuyện thầy Quưt cho hay là phải có 2 người giúp mới t́m ra mộ, một là người Công An già tên B́nh ở B́nh Điền, người kia cụt tay, tức viên Công An tên Phú ở Quảng Trị.
Như vậy rơ ràng anh Linh em đă chết trong oan khuất nên linh thiêng quanh quẩn giữ ngôi mộ của ḿnh rồi về báo mộng cho người nhà máu mủ ruột thịt đi t́m.
Anh ơi, cần nói thêm là anh có biết phần mộ của anh Linh em nằm trong nghĩa trang sát gần căn cứ Sóng Thần TQLC hay không? Năm xưa bà con ḍng họ bên Ba em hùn nhau mua 1 miếng đất để làm nghĩa trang đồng hương và trồng cây ăn trái, nhưng không ngờ lại nằm ngay sát bên căn cứ Sóng Thần. Miếng đất nghĩa trang quá rộng nên bên căn cứ Sóng Thần lúc đó mới qua bên nghĩa trang mượn đất để làm sân tập … Họ có làm giấy mượn đến khi nào nghĩa trang cần đất th́ sẽ trả lại … Năm 1975 Cộng sản vô, tịch thu miếng đất đă cho mượn đó luôn ... để rồi sau 32 năm anh Linh em lại được về nằm gần ngay căn cứ Sóng Thần ...
Ghi chú của người ghi lại câu chuyện này
Đêm Đại hội TQLC 2008 tổ chức ở Nam California, mấy người em của Th/U Lưu Đức Linh đến t́m vài người bạn cùng khóa của anh để mời đến nhà nghe chuyện đi t́m anh ḿnh. Nhân dịp này, Thiếu Tá Lâm Tài Thạnh, ngay lúc đó t́nh cờ có mặt, nghe nói Linh đầu tiên được bổ nhiệm về TĐ 9 nên ông nhân danh TĐT cuối cùng của TĐ 9, thay mặt tất cả anh em trong TĐ cũ chia buồn cùng gia đ́nh. Vài ngày sau đó, số bạn cũ của Linh đă đến nhà để thắp một nén nhang tiễn biệt và nguyện cầu cho anh linh bạn ḿnh văng sinh nơi chốn vĩnh hằng. Nhân đó, mọi người cũng được nghe các em Linh kể đầu đuôi chi tiết cuộc đi t́m hài cốt của anh để đưa anh về nhà, về với Mẹ và về với binh chủng!
(Trần Như Hùng)
hoanglan22
04-13-2019, 14:46
Tháng Tư, trời Nam, Biệt Cách Dù
Sa cơ, ngă gục, thật liệt oanh
Ai từng ghé qua Việt Nam Palace vùng Đông Bắc Mỹ đều biết bà Hà, là Giám Đốc điều hành nhà hàng. Tuy nhiên, ít người biết đến ông Hà v́ ông không trực tiếp đứng ra quản lư và ít khi có mặt. Bà Hà tướng cao người đôn hậu, nhưng ông Hà th́ ngược hẳn. Vóc dáng ông gầy và nhỏ con so với kích thước trung b́nh của người đàn ông Việt Nam.
Năm 1990 khi đến định cư ở thành phố này, lớp trẻ chúng tôi hay lai văng tới nhà hàng Việt Nam Palace vào những ngày cuối tuần hay dịp lễ. Thấy bà Hà đứng ở quầy tính tiền hay lay hoay phía sau nhà bếp phụ giúp. C̣n ông Hà thường ngồi một ḿnh đăm chiêu ở một góc bàn. Lâu lâu viết lách ǵ đó? Ông ít nói và giọng ôn tồn nhỏ nhẹ của người miền Trung. Đôi lần thấy ông chào khách quen hay mĩm cười xă giao lấy lệ.
Một lần ai đó cho biết ông Hà từng là cựu sĩ quan Nhảy Dù của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa? Nhưng đây không tin cho lắm. Người này nói thêm là trước 75, tướng ông mập mạp và cao ráo hơn? Rồi bẵng đi một thời gian, chúng tôi không c̣n lui tới nhà hàng Việt Nam Palace thường xuyên và đôi lần đến th́ lại không gặp ông nữa.
Câu chuyện ngày đó tưởng chừng như đi vào quên lăng…
Một ngày đẹp trời mới đây, t́nh cờ gặp lại “cố nhân” đi bộ trên phố.
- Chào chú!
- Chào cháu!
Xă giao qua loa bất chợt nhớ lại:
- Cháu có một thắc mắc …xin phép hỏi chú?
- Được.
Nghe nói chú là cựu sĩ quan Nhảy Dù của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa ngày trước?
- Không! Chú thuộc Lực Lượng 81 Biệt Cách Nhảy Dù.
Ông khẳng khái trả lời làm đây ngạc nhiên v́ người lính Biệt Kích Dù thường trang bị nặng nề súng đạn, lựu đạn, ḿn, dao găm, bidon nước, lương thực và đồ dùng cá nhân cho mỗi lần đi toán. Có toán viên phải đeo theo máy truyền tin liên lạc, địa bàn, đèn pin và hỏa hiệu. Trọng lượng tính ra khoảng 35 - 40 lbs(20 kilo)? Cỡ ông ta làm sao mang nổi? Nhưng lỡ hỏi rồi th́ phải tiếp tục như thể ḿnh cũng là lính vậy.
Cháu được biết Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù là Đại Tá Phan Văn Huấn. Người hùng mặt trận An Lộc là Thiếu Tá Phạm Châu Tài và cũng là Chiến Đoàn Trưởng bộ chỉ huy 3 chiến thuật bảo vệ thủ đô Sài G̣n ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Ư nói ra xem phản ứng của ông thế nào? Có phải ông là “thứ dữ” của binh chủng này ngày xưa không? Đồng thời nhắc tên vài cựu sĩ quan thuộc Sở Công Tác Nha Kỹ Thuật/Bộ Tổng Tham Mưu ở địa Phương và hiện cư ngụ ở Nam California th́ thấy ông cũng biết họ.
Trước khi chia tay ông tâm sự về mẫu truyện ngắn “Núi Vẫn Xanh” (1). Nói về số phận của một toán thám sát Biệt Cách Dù gồm sáu người đi thi hành nhiệm vụ vào giờ thứ 25 trước ngày 30 tháng 4 năm 1975. Toán đụng nặng với một tiểu đoàn Việt Cộng đang tiến về Sài G̣n. Toán trưởng gọi phản lực cơ oanh tạc đám con cháu Bác tơi bời. Nhưng riêng toán đă phải trả giá đắt. Bốn toán viên bị thiệt mạng nằm lại trên đồi cùng chung với xác địch. Hai người sống sót c̣n lại phải băng rừng lội suối về đến quận Tân Uyên, tỉnh Biên Ḥa để rồi biết được miền Nam rơi vào tay cộng sản đă hơn 5 ngày sau...
“Núi Vẫn Xanh” là một sáng tác của Hà Kỳ Lam. Một tác phẩm b́nh dị nói lên nỗi cô đơn cùng cực, “mănh hổ nan địch quần hồ” và sự can trường của người lính miền Nam đă coi nhiệm vụ trao phó hơn cả tính mạng bản thân.
Thực tế câu chuyện người lính Mũ Xanh, chẳng được sự đăi ngộ khoan hồng của “cách mệnh” khi buông súng đầu hàng ở quận Tân Uyên (trước thuộc tỉnh Biên Ḥa) vào ngày mồng 5 tháng 5 năm 1975, như chính sách “lèo” của chúng rao rêu. Các anh bị bắt giam, bỏ đói và cuối cùng mang đi xử bắn một cách tàn nhẫn rồi thả xác trôi sông Đồng Nai. Tất cả là 17 người lính miền Nam bị hy sinh oan uổng sau khi chiến cuộc đă kết thúc (2). Một toán viên may mắn sống sót được một cặp vợ chồng già trong làng cứu vớt và che dấu. Trong nhóm bị sát hại có người sĩ quan tên là Tuấn, ngẫu nhiên trùng tên với nhân vật chính trong truyện của Hà Kỳ Lam?
Hành động tiểu nhân của Việt Cộng với dă tâm trả thù đê hèn người lính miền Nam thuộc đơn vị ưu tú, thiện chiến nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa thật bỉ ổi. Trong thời chiến, cứ hai tên bộ đội cộng sản mà “chọi” với một người lính Biệt Cách Dù là chúng bị đi đứt. Không tài nào chúng địch nổi binh chủng thiện chiến Biệt Cách Dù với đầy đủ hỏa lực, nên giờ đây các anh hùng bị sa cơ th́ chúng ra tay hành quyết cho bỏ ghét.
Những tên du kích Việt Cộng “giết người” tháng 5 năm 1975, giờ bây có lẽ là những tên bí thư, huyện ủy và cán bộ chức quyền của huyện Tân Uyên (nay thuộc tỉnh B́nh Dương), nơi các anh hùng Mũ Xanh Việt Nam Cộng Ḥa âm thầm nghiệt ngă nằm xuống? Lịch sử sẽ phê phán ai “ác ôn” hơn?
Giả sử ngày mai Trung Cộng(miễn dùng danh từ Trung Quốc) áp đặt cai trị Việt Nam như Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam, th́ cán bộ Việt Cộng sẽ mất hết quyền lực? Tài sản tham nhũng bóc lột của dân bị tước đoạt. Thậm chí c̣n bị tù đầy như họ đă từng đối xử với quân dân cán chính miền Nam. Nếu Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa Nguyễn Văn Thiệu có câu nói để đời, “đất nước mất, mất tất cả…”, th́ bánh xe lịch sử sẽ ứng nghiệm với cộng sản Việt Nam trong tương lai. Tiếc thay! Chỉ tội cho dân tộc Việt Nam măi ch́m trong bể “khổ”.
Việt Cộng là phường “xảo trá”, không bao giờ họ tự “giải thể” v́ quốc gia dân tộc. Chỉ khi nào toàn dân đứng lên “lật đổ” th́ mới hy vọng xóa bỏ chế độ độc tài. Lúc đó “đảng ta” sẽ giống số phận hẩm hiu như lănh tụ cộng sản Nicolae Ceauşescu của nước Romania. Hay bị truất phế như độc tài Hosni Mubarak của Ai Cập vậy.
Cho dù chế độ cộng sản có tồn tại thêm một thời gian nữa, th́ chúng cũng sẽ bị khởi tố lên Liên Hiệp Quốc về danh sách tù “cải tạo” bị sát hại. Vụ hành quyết các chiến sĩ cộng ḥa sa cơ không bản án? Diễn tiến luật pháp chẳng khác ǵ Trung Cộng, Bắc Hàn và Nam Hàn từng kiện chính phủ Nhật tự do về vụ Quân Phiệt Nhật, đă bắt phụ nữ họ phục dịch nô lệ “t́nh dục” trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Việt Cộng có lối chơi thủ tục đầu tiên, th́ người Mỹ hay thích kiện kẻ có tóc, “hẹn gặp ở ṭa, ok!”
Xin mời quư vị độc giả trở lại câu chuyện lính Biệt Cách Nhảy Dù ngày 30 tháng Tư…
Ngày 27 và 28 tháng 4 năm 1975, người viết lúc đó tuy c̣n nhỏ, nhưng đă chứng kiến những người lính trẻ Biệt Cách Dù mặc quân phục rằn ri đầu đội beret xanh đứng gác gần bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, quanh các góc đường Vơ Tánh & Công Lư, Nguyễn Minh Chiếu và Thoại Ngọc Hầu(*). Cứ 3 hay 4 người một tổ. Lưng đeo M16 hay M18 và mang nhiều lựu đạn. Mỗi tổ được phân phát khoảng 4-5 khẩu M72 diệt tăng, để dựa vào chân cột đèn hay ngả trên ba lô. Vài tổ lại có một cấp chỉ huy Thiếu Úy đi cùng với người lính mang máy truyền tin. Mọi địa điểm trọng yếu ở ngă tư chính thấy có một hay hai chiếc xe jeep lùn đậu bên lề đường. Người lính nào nh́n cũng nghiêm. Họ tuân theo kỷ luật quân đội với nhiệm vụ bảo vệ thủ đô Sài G̣n. Có anh đứng hút thuốc lá và có anh th́ tṛ chuyện nho nhỏ với đồng đội. Họ trông rất b́nh thản như đang đợi “chiến tranh” đến với ḿnh. Trong khi đó, các tướng tá phe ta và gia đ́nh đang binh kế “tẩu vi” cao bay xa chạy. Xe Jeep và xe hơi chạy ngang vùn vụt trước mặt về hướng phi trường Tân Sơn Nhất càng nhanh càng tốt.
Mồng 1 tháng 5, một ngày sau khi miền Nam mất. Dân chúng cư ngụ gần bộ Tổng Tham Mưu thấy 4 “cua sắt T-54” bị bắn cháy ngay ngă ba Lăng Cha Cả. Hai xe tăng T-54 sau này kéo về nằm ụ ở khoảng đất trống đối diện cổng Phi Long (phi trường Tân Sơn Nhất). C̣n hai chiếc khác được kéo đi đâu để giải tỏa lưu thông th́ không biết? Hay có lẽ Việt Cộng ngại tâm lư dân chúng biết được số lượng thiệt hại của chúng? Trong khi đó Biệt đội 817 của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù chỉ có ít M72 để chống trả? Người viết nh́n thấy màu thép xe tăng c̣n mới. Ṭa cao ốc 6 tầng sơn màu trắng của quân đội Mỹ để lại (đối diện bộ Tổng Tham Mưu) bị bắn cháy đen một mảng lớn. Có lẽ lính Biệt Cách Dù đứng trên sân thượng phóng M72 xuống và tăng Việt Cộng bắn lên làm hư hại cao ốc trong lúc giao tranh sáng ngày 30? Sau khi ngưng chiến, dân chúng chứng kiến quân trang quân dụng của lính giục bỏ đầy đường, nhưng không thấy xác người. Không biết những người lính trẻ Biệt Cách Dù đó đi về đâu? Chỉ thấy nhiều anh lính mặc áo thun hay cởi trần đi chân đất, lầm lũi bước về hướng chợ Ông Tạ. Vài người trong xóm cho quần áo dân sự hay dúi vào tay ít tiền, để các anh làm lệ phí về quê. T́nh cảnh thật bùi ngùi cảm động!
Gợi lại h́nh ảnh tháng tư xưa mà thấy thương cho thân phận người lính thấp hèn. Quê của các anh có lẽ ở tận Cao Nguyên, miền Trung hay Long Khánh? Các vùng đất xa xôi đă mất vào tay giặc cuối tháng Ba hay giữa tháng Tư năm 1975? Đáng lư các anh có thể bỏ đơn vị và trở về xum hợp với gia đ́nh, nhưng t́nh nguyện ở lại để thi hành nhiệm vụ cuối cùng của đời chiến binh.
Thi hành nhiệm vụ hay là chết. Người Lính không quyết định được thắng bại trên chiến trường mà chỉ biết tuân lệnh. Đúng thế! Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa ngày cuối tháng Tư, 75 vẫn c̣n nặng nợ với quê hương và đồng bào, dù biết ḿnh bị phản bội từ mọi phía. Thực tế phũ phàng từ các cấp lănh đạo của đất nước. Vết dao đâm sau lưng chịu sao thấu!
Miền Nam mất. Người dân sống trong chế độ cộng sản sau 75 đă thấm nỗi đau khổ. Ai cấu kết, nuôi dưỡng và che dấu Việt Cộng nằm vùng năm xưa? Nay nhiều người là nạn nhân, bị chúng chiếm đất chiếm nhà. Giờ mới thấy người lính và chế độ nào tốt hơn?
Nếu được cơ hội, có lẽ họ sẽ chọn lại người lính cộng ḥa? Tuy h́nh ảnh và sắc lính của các anh đă qua đi, nhưng người dân miền Nam vẫn luyến tiếc. Họ nhắc lính qua thơ văn, ca nhạc DVD, trên các diễn đàn websites hải ngoại và vài bài viết của cựu chiến binh miền Nam c̣n trong nước.
Riêng lớp trẻ chúng tôi lớn lên sau cuộc chiến tàn, xin được nói với Người Lính Miền Nam một câu ngậm ngùi rơi lệ: “Cảm ơn Anh, người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa!”
Tướng Lê Minh Đảo, cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh và là người hùng mặt trận Xuân Lộc tháng tư, 1975 có lần nói: “nếu có kiếp sau, xin được tiếp tục làm người Lính Việt Nam Cộng Ḥa”. Mạn phép cùng Thiếu Tướng: “Hăy cho chúng tôi được đầu quân làm người Lính Việt Nam Cộng Ḥa, chung với ông nhé…!”
Darren Thăng
************
Tài liệu tham khảo:
(1) Núi Vẫn Xanh của Hà Kỳ Lam.
(2) Số phận của 6 toán thám sát của LĐ81/BCND trong chiến khu D(LĐ 81/BCND và Những Ngày Tháng Tư).
Tài liệu Kiểm Chứng:
Biệt Đội 817, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù của Thiếu Uư Minh Cui, khóa 28 Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt.
Chú Thích:
(*) Đường Vơ Tánh trước 75 (nay là Hoàng Văn Thụ), Công Lư(đối diện Bộ Tổng Tham Mưu) (nay là Nguyễn Văn Trỗi), Nguyễn Minh Chiếu(nay là Nguyễn Trọng Tuyển) và Thoại Ngọc Hầu(nay là Phạm Văn Hai).
Vài hàng về tác giả:
Darren Thăng c̣n có bút hiệu là DD-2nd. Quốc nạn năm 1975, anh chỉ là một thiếu niên. Anh khởi sự sáng tác từ năm 2007. V́ đam mê đời lính chiến từ khi c̣n nhỏ, nên anh sáng tác rất mạnh về QLVNCH. Anh có hơn 10 tác phẩm nói về người lính Việt Nam Cộng Ḥa và thương cảm số phận người Kháng Chiến Quân Việt Nam.
Hl được bổ xung về toán 2 khi mặt trận tây ninh vừa xong .Lúc đó đang trấn giữ ngă tư bảy hiền ( góc đường Nguyễn văn Thoại dẫn lên Trại Hoàng hoa Thám đối diện là xứ Tân việt ) Gặp Toán của T/U Minh và phối hợp rút về gần BTTM , ḿnh hay gọi ổng là Minh GỒ , ổng hiện ở Sanjose , Ca. nghĩ ngày đó tụi này vẫn b́nh thản chờ so tài cao thấp giữa BCD và cộng quân
Dân ồ ạt th́ khăn gói chạy vào phi trường tấp nập rồi lại quay trở ra chạy tiếp không biết về đâu
Biệt đội 817 mới thành lập sau này
hoanglan22
04-13-2019, 14:51
“…Thua, tôi chấp nhận mọi hậu quả, không than van, không than trời trách đất, không đổ thừa cho đồng minh bỏ chạy…”
Thiếu Tá Nguyễn Văn Sơn là bạn tù của tôi ở trại Lam Sơn, một Trung tâm huấn luyện của quân đội VNCH tại Dục Mỹ, quận Ninh Hoà, được bộ đội miền Bắc chiến thắng trong cuộc chiến tranh Bắc Nam 1955-1975 tạm thiết lập làm trại tù.
Anh Sơn nguyên là thiếu tá lực lượng Lôi Hổ. Thời gian anh Sơn và tôi ở tù chung một trại không dài nhưng anh đă để lại cho tôi một ấn tượng khó quên. Một mẫu người có phong cách kỳ lạ.
H́nh ảnh và tiếng kêu của anh Sơn vẫn c̣n văng vẳng bên tai tôi suốt 35 năm qua sau ngày chúng tôi chia tay nhau.
Anh được chuyển ra khỏi trại Lam Sơn để bước vào ṿng thứ nh́ của hệ thống địa ngục lao tù cộng sản. Khi chiếc xe GMC chở tù chuyển trại chạy qua khu trại tôi vào một ngày nóng bức cuối tháng 7 năm 1975 anh Sơn kêu to để báo cho tôi biết anh rời trại. Tôi chỉ kịp nh́n thấy chiếc xe tù chạy qua, cánh tay anh Sơn đưa cao vẫy. Tôi vẫy lại. Rồi biệt vô âm tín.
Thế mà đă ba mươi lăm năm!
Cuối tháng 3 năm 1975 sau khi bộ đội cộng sản vào thành phố Nha Trang tôi bị kẹt lại. Tháng 6 đang đêm công an đến nhà bắt tôi về tội không ra tŕnh diện.
Thật ra tôi có tŕnh diện, nhưng trễ. Biết ḿnh đă nằm trong rọ, tôi cẩn thận theo dơi các thông cáo của Uỷ ban quân quản (cơ cấu chính quyền mới ngay sau khi chiếm thị xă Nha Trang) về việc tŕnh diện. Lúc đó tôi là dân biểu thị xă Nha Trang. Gốc sĩ quan Hải quân, nhưng tôi đă giải ngũ từ năm 1971 và không có chân trong bất cứ một đảng chính trị nào tôi đặt ḿnh vào diện “dân cử” và chờ gọi dân cử ra tŕnh diện để thi hành. Không thấy có thông cáo nào gọi dân cử, tôi nằm nhà chờ. Tuy nhiên v́ thận trọng, một thời gian sau tôi ra phường Lộc Thọ tŕnh diện. Lấy cớ không ra tŕnh diện, công an thị xă ra lệnh bắt.
Đang đêm đại uư công an Nguyễn Văn Linh (trùng tên với ông Tổng bí thư đảng cộng sản sau 1986) trưởng ty công an Nha Trang dùng xe Jeep dẫn một đoàn du kích đến bắt tôi. Khi đại uư Linh giải thích lư do, tôi tŕnh giấy tŕnh diện. Đại uư Linh hơi lúng túng. Nhưng đoán biết công an đă quyết định bắt tôi, tŕnh diện hay không chỉ là cái cớ, tôi nói sẵn sàng về đồn để cơ quan an ninh làm những thủ tục cần thiết. Cảm thấy thoải mái đại uư Linh bảo tôi mang đồ lề cá nhân lên xe công an đậu chờ xế cổng nhà. Tôi ngồi băng sau không bị c̣ng tay, bên cạnh là một anh công an mang súng dài. Đại uư Linh ngồi băng trước, súng lục ngang hông với tài xế. Đoàn du kích bao vây quanh nhà tản mác vào đêm tối.
Công an đưa tôi về ty công an thị xă Nha Trang đóng nơi nhà ông giám đốc chi nhánh Nha Trang của Ngân hàng Việt Nam Thương Tín nằm trên đường Duy Tân chạy dọc theo bờ biển Nha Trang. Từ đó công an chuyển tôi lên trại Lam Sơn. Tại đây tôi ở chung trong một trại nhỏ, giống như một căn nhà, với Thiếu Tá Nguyễn Văn Sơn. Trong tổng trại Lam Sơn có hằng mấy trăm căn nhà như vậy.
Từ trại Lam Sơn đang đêm tôi cùng một số tù nhân khác được chuyển về nhà tù Chợ Đầm của tỉnh Khánh Hoà. Sau vài tuần lễ được chuyển về giam tại trại giam tù chính trị cũ (của VNCH) xây phía sau Trung Tâm Huấn Luyện Công chức, cũng nằm trên đường Duy Tân. Hai ngày đầu tôi bị nhốt vào xà lim trước khi chuyển qua nhốt chung với hơn 80 anh em tù nhân trong một căn pḥng chỉ có khả năng chứa khoảng 30 người nằm ngồi. Tại đây tôi gặp ông Khác Chánh Văn Pḥng của đại tá Lư Bá Phẩm, tỉnh trưởng Khánh Hoà kiêm thị trưởng thị xă Nha Trang và ông Nghi, trưởng ty hành chánh Thị Xă Nha Trang. Qua hai ông Khác và Nghi tôi được biết đại tá Phẩm cũng đang bị giam riêng trong trại để điều tra cùng với Thiếu Tá bác sĩ Dù Trần Đoàn.
Từ trung tâm này tôi được chuyển lên trại Đồng Găng trong rừng sâu của tỉnh Khánh Hoà. Tôi được trả tự do từ trại Đồng Găng.
Trở lại chuyện Thiếu Tá Sơn. Tôi không quen biết Thiếu Tá Sơn trước khi đến trại Lam Sơn. Chúng tôi chỉ ở chung nhà với nhau vài tuần lễ trước khi tôi được chuyển qua nhà khác và sau đó Sơn được chuyển ra khỏi trại Lam Sơn .
Chỉ mấy tuần thôi, chúng tôi quen nhau, thân nhau, tin cậy nhau. Câu chuyện tôi thuật lại ở đây hoặc do Thiếu Tá Sơn kể lại hoặc xảy ra trong mấy tuần lễ ngắn ngủi đó.
Trước ngày 31/3/1975 (ngày quân đội cộng sản chiếm tỉnh Khánh Hoà), trại Lam Sơn là một Trung Tâm Huấn Luyện cấp sư đoàn của quân đoàn 2, có khả năng chứa hàng ngàn tân binh hoặc binh sĩ về tái huấn luyện. Các binh sĩ này tạm trú trong những mái nhà tranh đơn sơ dựng cạnh nhau có phên che gió và giường ngủ chồng lên nhau. Lực lượng cộng sản quản lư trại dùng các căn nhà này sau khi đă tháo phên che và giường chồng bên trong (để dễ kiểm soát) gọi là “Nhà”, Nhà số 1, Nhà số 2 v.v. để cho các cựu sĩ quan và công chức miền Nam vừa bại trận trú ngụ trong thời gian học tập. Sĩ quan ở riêng. Công chức ở riêng.
Nhà số 10 dành cho một trung đội Dù bị bắt tại đèo Phượng Hoàng thuộc quận Khánh Dương trên quốc lộ nối liền Ban Mê Thuột với Nha Trang qua quận lỵ Ninh Hoà. Đặc biệt nhà số 10 sĩ quan ít mà nhiều lính Dù. Trung đội Dù này đă quần thảo với quân chính quy Bắc Việt trên đèo Phượng Hoàng cho đến phút chót. Trong nhà 10 chỉ có một Trung uư và một Thiếu uư Dù, c̣n lại là hạ sĩ quan và binh sĩ, và một sĩ quan Lôi Hổ: Thiếu Tá Nguyễn Văn Sơn.
Tôi bị bắt trễ nên khi lên Lam Sơn các dăy nhà đều đầy người, họ nhét tôi vào nhà 10. Tôi nhận thấy hai người sĩ quan Dù rất b́nh thản và các người lính Dù có vẻ thoải mái như đang được nghỉ ngơi sau các cuộc hành quân. Họ giúp các sĩ quan đào giếng lấy nước, trồng cà chua, ớt, bầu bí v.v., nơi đám đất bỏ hoang trước nhà. Thiếu Tá Sơn suốt ngày hút thuốc và kể chuyện tiếu lâm.
Thời biểu chính của tù nhân là hằng ngày lên lớp nghe cán bộ giảng 9 bài căn bản. Tôi c̣n nhớ một số đề tài như “Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”, “Chiến tranh giới hạn”… và học những bài hát “cách mạng” như “Tiếng chày trên sóc Mambo”, “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”, “Giải Phóng Miền Nam”, “Chiến thắng Điện Biên”…
Tôi không hiểu làm sao và lúc nào tôi và Thiếu Tá Sơn trở nên thân nhau. H́nh như Lôi Hổ và Dù không có gạch nối nên hai sĩ quan Dù ít nói chuyện với Thiếu Tá Sơn. Lính Dù th́ vẫn giữ khoảng cách với sĩ quan. Có lẽ c̣n do tính t́nh. Hai sĩ quan Dù ít nói, trong khi Thiếu Tá Sơn sống để ruột ngoài da. Anh Sơn không quan tâm đến hoàn cảnh. Ông vui sống trong cảnh tù tội và sẵn sàng đón chờ mọi chuyện.
Thời gian đó không khí trong trại Lam Sơn c̣n rất dễ chịu. Người cộng sản có sách vở để xử lư phe địch. Họ áp dụng phương pháp “bảy tầng địa ngục”. Họ không đưa người tù vào ngay tầng dịa ngục cuối cùng. Họ đưa vào tầng nhẹ nhàng nhất ở ngoài và dần dần đưa người tù vào các tầng bên trong khắc nghiệt hơn từng bậc để người tù thích ứng dần và mất ư chí phản kháng.
Trại Lam Sơn, nơi tù nhân học 9 bài căn bản là ṿng đầu của địa ngục. Sau giờ lên lớp tù nhân trở về nhà giam tự do thoải mái tṛ chuyện với nhau, nấu nướng linh tinh ǵ cũng được, có thể đi thăm bạn tù ở các nhà khác và chỉ phải tôn trọng giờ đi ngủ và giờ thức dậy. Trước cổng trại Lam Sơn ban quản trại cho họp chợ bán thức ăn và mọi thứ cần dùng cho tù nhân. Vợ con tù nhân đến thăm bao nhiều lần một tuần cũng được và tù nhân có tiền (lúc đó tiền VNCH vẫn c̣n lưu dụng) có thể tiêu xài thoải mái.
Học xong 9 bài là thời kỳ 2 tuần lễ để viết bản “thu hoạch”, nghĩa là mỗi tù nhân viết bản khai lư lịch, khai báo quá tŕnh làm việc và mọi tư tưởng riêng tư. Trong thời kỳ này ban quản trại mỗi ngày tập họp tù nhân toàn trại một lần động viên tù nhân “thành thật khai báo” để được khoan hồng về với gia đ́nh. Ban quản trại phỉnh các tù nhân rằng họ có hồ sơ từng người không cần khai báo họ cũng đă biết. Thu hoạch chỉ là để đo sự tin tưởng của tù nhân vào “cách mạng”. Thời kỳ khai báo họ để cho tù nhân nhiều tự do hơn và đa số tù nhân tưởng rằng (trừ các sĩ quan và viên chức ở trong ngành an ninh t́nh báo) sau khi viết xong bản thu hoạch họ sẽ được trả tự do. Tâm lư này làm đa số tù nhân viết rất thật, không giấu giếm ngay cả những ǵ nghĩ là sai trái ḿnh đă làm, cũng như các công tác quan trọng ḿnh đă thi hành. An ninh cộng sản chỉ cần có thế để phân loại tù nhân đưa vào những tầng trong thích hợp cho từng đối tượng của bảy tầng địa ngục.
Bản thu hoạch của tôi tương đối đơn gỉản nên chỉ cần vài hôm là tôi viết xong. Tôi ở trong quân ngũ 16 năm. Hai năm tại trường đào tạo kỹ sư hải quân của hải quân Pháp, một năm phục vụ trên chiến hạm như một cơ khí trưởng và 13 năm tại Trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang như một huấn luyên viên và sĩ quan điều hành công tác đào tạo sĩ quan hải quân, trước khi đắc cử dân biểu thị xă Nha Trang và giải ngũ. Thời gian trên chiếm hạm, chiến tranh bắc nam chưa bùng nổ lớn nên chiến hạm của tôi chỉ đi làm các công tác tiếp tế nhỏ. Một chuyến đi tiếp tế địa phương quân canh gát đài khí tượng trên đảo Hoàng Sa, một chuyến tiếp tế cho trại tù Côn Sơn.
Thiếu Tá Sơn cũng không viết ǵ nhiều. Tôi hỏi, Sơn nói: “Họ nói họ đă biết hết rồi th́ c̣n ǵ để viết. Tôi viết ngắn gọn rằng tôi là sĩ quan Lôi Hổ, một đội quân được huấn luyện để làm các công tác đột kích vào mật khu Việt Cộng, và tôi đă từng giết nhiều cán bộ cao cấp trong các cuộc đột kích. Tôi sẵn sàng trả giá của người chiến bại theo tinh thần thượng vơ, không có ǵ để nói chuyện khoan hồng khai báo lôi thôi”.
Cung cách của Thiếu Tá Sơn là vậy. Hiên ngang như đời sống phóng khoáng của anh. Anh kể rằng anh thuộc một gia đ́nh công giáo sung túc. Bố mẹ muốn anh trở thành linh mục. Anh đă vào đại chủng viện, nhưng chịu không nổi khuôn phép của Giáo Hội để trở thành linh mục, anh rời chủng viện bất chấp sự bất măn của bố mẹ. Tránh phiền toái và trách móc của gia đ́nh anh thi vào trường sĩ quan Đà Lạt. Ra trường anh chọn binh chủng Lôi Hổ để thoả chí phiêu lưu.
Thiếu Tá Sơn cho biết anh có vợ và 2 con. Chuyện lấy vợ của anh ly kỳ không kém đời anh. Nó là một t́nh sử của thời chiến tranh. Trách Sơn cũng được mà thông cảm Sơn cũng được.
Chuyện Sơn kể rằng: Sau những ngày đánh trận, anh thường lang thang nơi thành phố Nha Trang. Một nữ sinh ở Xóm Bóng lọt vào mắt xanh của anh. Hai người tha thiết yêu nhau và anh quyết định cưới người yêu.
Bố mẹ cô nữ sinh không thuận cuộc hôn nhân v́ không muốn con gái ở goá trong thời chinh chiến. Lư do khác là khác biệt tôn giáo. Sơn đến nhà cô gái cho bố mẹ cô gái biết anh không có th́ giờ chờ đợi và anh không buộc vợ rửa tội theo đạo Chúa. Anh nói anh đă sắp xếp với nhà thờ và trong vài hôm sẽ mang sính lễ tới xin cưới trước khi đi hành quân. Anh đă thuê một căn nhà trong thành phố cho vợ ở khi anh vắng nhà.
Ngày hẹn, anh đến nhà cô gái với sính lễ đầy đủ trên hai chiếc xe Jeep. Anh dùng một xe có tài xế. Xe thứ hai dành cho hai sĩ quan bạn và mấy quân nhân Lôi Hổ tháp tùng. Một đại uư đóng vai đại diện nhà trai làm chủ hôn. Một trung uư đóng vai phụ rể. Anh Sơn mặc đại lễ trung uư Lôi Hổ, lưng đeo súng ngắn, ngực đầy huy chương.
Biết bố mẹ vợ tương lai sẽ từ chối cuộc rước dâu, anh cho quân nhân mang sính lễ vào nhà như không có chuyện ǵ sẽ xảy ra. Anh Sơn và hai sĩ quan bạn theo sau. Thấy quân nhân trang trọng vào nhà, bố mẹ cô dâu buộc phải ra tiếp (thời chiến tranh, không ai muốn cưỡng lại nhà binh!). Ông bố b́nh tĩnh hỏi quư vị đến nhà có việc ǵ. Ông đại uư chủ hôn tŕnh bày lư do. Ông bố tuyên bố ông chưa bao giờ chấp thuận hôn lễ. Đă tính trước, ông đại uư xin được mời cô dâu ra để hỏi ư kiến. Từ trong pḥng cô dâu trang phục sẵn sàng bước ra trước sự ngạc nhiên của bố mẹ.
Ông đại uư chủ hôn hỏi, và cô dâu xác nhận biết hôm nay là ngày hôn lễ của cô với trung uư Nguyễn Văn Sơn. Bố mẹ cô dâu nén giận nhưng đành phải để cho con lên xe hoa. Trung uư Sơn giành tay lái, người yêu khóc sướt mướt ngồi bên cạnh. Khóc v́ lấy được người yêu hay khóc v́ đă làm buồn ḷng cha mẹ? Ghế sau hai quân nhân bồng súng ngồi ở thế tác chiến. Sĩ quan chủ hôn và phù rể lái theo sau. Đám cưới không có phù dâu.
Sau lễ cưới độc đáo của thời chiến tranh, trung uư Sơn chiến trận liên miên. Chị Sơn ở nhà lo tổ ấm. Sau vài năm anh chị Sơn có được hai cháu, một trai một gái kháu khỉnh. Thấy con gái có hạnh phúc với t́nh yêu chân thật, bố mẹ chị Sơn tha lỗi cho con gái, nhận rể và cho phép con gái và cháu ngoại về ở chung để con gái tránh đơn độc trong những lúc anh Sơn hành quân vắng nhà.
Biến cố Tháng Tư đến và trung uư Sơn, lúc này là thiếu tá bị bắt tại mặt trận và đưa vào trại Lam Sơn. Câu chuyện giữa anh Sơn và tôi bắt đầu từ đó.
Cán bộ hướng dẫn nhà 10 của chúng tôi là một hạ sĩ quan quê Bắc Ninh. Anh ta hiền lành và không hống hách như các cán bộ khác. Anh thưộc một đơn vị chính quy quân đội Bắc Việt từng tham dự trận đánh An Lộc trong những ngày đầu của trận chiến sau cùng. Mỗi ngày anh đến nhà chúng tôi làm nhiệm vụ hướng dẫn và thường ngồi xổm trên đất, tay vấn thuốc lá ph́ phèo hút và kể đủ thứ chuyện về “ngoài Bắc ta” và chuyện chiến trận anh đă trải qua. Anh không tô điểm đời sống “ngoài Bắc ta cái ǵ cũng có” như các cán bộ khác và kể lại các trận đánh anh không theo luận điệu của trại là “trận nào quân ta cũng thắng”. Chúng tôi trong nhà 10 có nhiều thiện cảm với anh, và trở nên bạo dạn trong những trao đổi với anh.
Một hôm tôi ngồi cạnh Thiếu Tá Sơn nghe anh nói chuyện với anh trung sĩ cán bộ. Thuật lại một trận đánh để giành một vị trí gần Lộc Ninh, viên trung sĩ nói đơn vị anh, mặc dù với quân số áp đảo, đă gặp sự kháng cự mănh liệt của một đơn vi quân đội VNCH cho nên dù chấp nhận mọi tổn thất nhân mạng đơn vị anh vẫn không chiếm được vị trí. Thiếu Tá Sơn cho biết tiểu đoàn của anh đă được phái đến tăng cường trong trận đánh đó. Sơn nói:
“Đánh đấm với các anh chán bỏ mẹ. Quân lính các anh cỡ tuổi 14 hay 15, trông như con nít, không biết ǵ khác ngoài việc xông tới, hết lớp này đến lớp khác. Chúng tôi bắn chết, thây chồng chất lên nhau trông vừa thương tâm vừa kinh tởm và có lúc tôi đă ra lệnh cho lính tạm ngừng bắn dù biết chậm một giây là đơn vị có thể bị tràn ngập”.
Viên trung sĩ cán bộ nghe và không trả lời. Anh ta chỉ cười nho nhỏ. Vẫn giữ thế ngồi xổm anh xê dịch kiếm lửa châm điếu thuốc đang hút dở vừa tắt. H́nh như anh ta chán nản một điều ǵ.
Chiều hôm đó tôi nói với Sơn: “Chúng ta là kẻ chiến bại. Những ǵ anh nói với viên trung sĩ cán bộ có thể được báo cáo và người cộng sản có thể thủ tiêu anh. Khích hay làm nhục kẻ chiến thắng không phải là một cách hành xử không ngoan”.
Sơn cười chua chát: “Tôi biết họ và họ biết rơ tôi. Trước sau họ cũng sẽ giết tôi. Tôi nói để họ biết người chiến sĩ VNCH không hèn nhát. Thua, tôi chấp nhận mọi hậu quả, không than van, không than trời trách đất, không đổ thừa cho đồng minh bỏ chạy”.
Thiếu Tá Sơn rất ít nói đến gia đ́nh dù tôi biết anh nghĩ tới và âu lo từng phút từng giây. Có lẽ anh đang dọn ḿnh cho đời sống ở một thế giới khác cùng với người vợ và cũng là người t́nh duy nhất của anh. Trong khi thân nhân của các sĩ quan và công chức bị bắt tại Nha Trang và các vùng lân cận đến thăm th́ không một thân nhân nào của anh Sơn đến thăm anh. Tôi hỏi, anh Sơn nói anh không biết và cũng không muốn đoán biết. Anh nói anh xem như đời anh đă chấm dứt sau khi đơn vị anh đầu hàng và anh không thể tự vẫn v́ anh là một tín đồ theo đạo Chúa.
Một thời gian vài tuần sau khi mọi tù nhân viết xong bản “kiểm điểm ” nộp ban quản trại, tôi được chuyển sang một nhà khác giam chung với các công chức trong thị xă . Họ đă xếp loại và cho tôi vào thành phần “ngụy quyền”.
Bây giờ không c̣n chợ trời trước cổng trại Lam Sơn, không c̣n những buổi thăm viếng tự do. Nhân một tù nhân lợi dụng giờ ra chợ trốn trại về Nha Trang bị bắt lại, ban quản trại không cho họp chợ nữa. Nhưng bên trong trại các tù nhân vẫn c̣n được đi lại từ nhà này qua nhà khác thăm viếng hàn huyên. Tôi vẫn thường đến thăm Thiếu Tá Sơn vào những buổi chiều trước giờ cơm chiều. Cơm c̣n đủ để ăn no với cá vụn và canh rau.
Một buổi chiều đang ngồi trong trại, cạnh con đường đất dùng để xe tuần chạy quanh các khu nhà, tôi nghe tiếng kêu từ một chiếc xe GMC chạy qua nhà tôi: “Anh Sơn ơi, tôi đi đây, vĩnh biệt anh”. Nh́n nhanh ra đường tôi thấy một chiếc xe GMC mui trần chở đầy tù nhân chạy qua. Một người lính cầm súng đứng gác phía sau. Thấp thoáng tôi thấy bóng dáng Sơn đưa tay vẫy, miệng không ngừng kêu “Anh Sơn! Vĩnh biệt anh!”
Anh Sơn bị chuyển trại. Và đó là h́nh ảnh cuối cùng của Sơn.
Tôi ra trại, vượt biên, và trong suốt hơn 30 năm ở nước ngoài tôi vẫn ngóng trông tin Sơn. Tôi không nghĩ anh Sơn đă bị giết hay chết trong một trại tù nào đó ngoài miền Bắc. Một người giàu ư chí như Thiếu Tá Sơn không thể chết dễ dàng như vậy. Tôi tin anh vẫn sống và đă ổn định tại một góc trời nào đó trên trái đất này. Nhiều sĩ quan rơi vào những trường hợp nghiêm trọng hơn anh đă được ra nước ngoài theo diện HO.
Tôi tin anh Nguyễn Văn Sơn vẫn sống. Hy vọng lớn nhất của tôi là đoản văn này lọt vào mắt của anh Sơn hay bạn bè anh Sơn trong quân ngũ hay ngoài đời sống dân sự. Xin nhắn với Thiếu Tá Sơn rằng người bạn tù Trần Văn Sơn tại trại Lam Sơn vẫn c̣n đây và chờ nghe tin lành của anh và gia đ́nh. E-mail liên lạc: binhnam@sbcglobal.ne t.
Trần B́nh Nam
Ponchos Buồn
Bảo Định
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1365704&stc=1&d=1555283490
Không biết từ bao giờ, chiếc áo poncho đă trở thành chiếc áo đi mưa của người lính VNCH. Thời chiến tranh Việt-Pháp, người lính Pháp dùng áo đi mưa b́nh thường như ta vẫn dùng, nhưng màu sắc là màu kaki. Bộ đội Việt Minh th́ dùng “tơi” làm bằng lá cọ, rất bất tiện. Về sau họ được trang bị bằng tấm vải nylon được lén lút mua từ vùng “Tề”. Trong những món quân trang được cấp phát cho người lính, có tấm poncho màu ô liu, dùng để làm áo đi mưa. Ư nghĩ đầu tiên của người lính giản dị chỉ có thế.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1365705&stc=1&d=1555283491
Nhưng khi vượt sông, người lính được chỉ cách dùng tấm poncho, gói tất cả ba lô, quân trang quân dụng, cột túm lại để trở thành cái phao mà vượt qua ḍng nước. Khi đi hành quân, với hai tấm ponchos nối lại với nhau, một sợi dây căng dùng làm đ̣n dong, người lính đă có một “túp lều lư tưởng của anh và của em”, của ba người lính, hay ba chàng “ngự lâm pháo thủ”. V́ cần thêm một người lính nữa chung vào, tấm poncho thứ ba làm tấm drap trải nền. Người lính đi hành quân dài ngày, ngoài ba lô quân dụng, phải mang một cấp số rưỡi đạn dược, nhiều trái lựu đạn, hành trang thường nặng trên 20 ki lô, nên ít ai mang theo chăn mền. Do đó tấm poncho thứ ba, khi đêm khuya lạnh lẽo giữa nơi núi non, hay vùng đồng không mông quạnh, đă trở thành chiếc mền cho ba người lính đắp chung. Ba người lính cùng dựng “túp lều lư tưởng”, cũng là tổ “Tam Tam” trong cơ chế quân đội, là đơn vị nhỏ nhất: Tổ Tam Tam, Tiểu đội, Phân đội, Trung đội, Đại đội…
Khi đi vào những vùng khan hiếm nước, hay không có nước như mật khu Hắc Dịch thuộc tỉnh Phước Tuy chẳng hạn, người lính đào một cái hố cạn, phủ poncho lên trên, tạo thành một cái giếng cạn để hứng những giọt sương đêm, hay gặp may, có một cơn mưa nào bất ngờ chợt đến để hứng nước. Sau cùng, khi người lính hy sinh nơi chiến địa, tấm poncho đă trở thành chiếc áo quan “phủ kín thân xác của người chiến sĩ”.
Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, Tiểu đoàn 2/43 cùng Đại đơn vị Sư đoàn 18 BB nhảy vào An lộc thay thế Sư đoàn 5BB, trấn giữ Thị xă này của “B́nh Long Anh Dũng”.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1365707&stc=1&d=1555283491
Ngày 12 tháng 6 năm 1972, khi lá cờ vàng ba sọc đỏ phất phới tung bay trên đỉnh đồi Đồng Long, người hùng An Lộc, Tướng Lê Văn Hưng tuyên bố với phái viên VTVN: “Thành phố An Lộc đă được hoàn toàn giải tỏa”.
Sau hơn hai tháng giao tranh, lực lượng tấn công cộng sản xâm lăng Bắc Việt với quân số đông gấp 4 lần lực lượng của QLVNCH, nhưng quân trú pḥng đă gây cho chúng thiệt hại ít nhất là 30 ngàn quân trong tổng số 4 sư đoàn quân CSBV. Tổn thất về phía QLVNCH cũng khá nặng nề. Nhưng điều quan trọng là họ đă giữ vững được thị xă. Mặc dù An lộc đă trở thành một địa ngục của trần gian! Mưu đồ của CSBV mong chiếm được An Lộc để đặt làm Thủ đô của cái gọi là “Chính phủ Lâm thời Cộng ḥa miền Nam Việt Nam”, con đẻ của Hànội, và làm bàn đạp tiến đánh thủ đô Sàig̣n hoàn toàn bị bẻ găy. Cuối cùng bọn đầu lĩnh Bắc Bộ Phủ đành phải chọn Lộc Ninh, một quận nhỏ của tỉnh B́nh Long, nằm cách biên giới Việt-Miên vài cây số để làm thủ đô! Thật là khôi hài!
An Lộc đứng vững là nhờ sức chịu đựng, tinh thần chiến đấu dũng cảm, và ḷng hy sinh vô bờ bến của người lính VNCH. Họ là những chiến sĩ Nghĩa Quân, Địa Phương Quân tỉnh B́nh Long của Đại Tá Trần Văn Nhựt, Sư Đoàn 5 BB của Tướng Lê Văn Hưng, vài đơn vị của Sư Đoàn 9, Sư Đoàn 18, Sư Đoàn 21, Biệt Động Quân, và lực lượng Nhảy Dù. Hai câu thơ của một cô giáo An Lộc, được viết lên trên một tấm gỗ của thùng đạn pháo binh, cắm trước Nghĩa trang Biệt Cách Dù, ngay giữa khu phố chợ B́nh Long:
“An Lộc Địa, sử ghi chiến tích,
Biệt Cách Dù, vị quốc vong thân”
Đă nói lên ḷng biết ơn sâu xa của người dân địa phương đối với sự hy sinh cao cả của người lính VNCH.
An Lộc đă đứng vững, các ngọn đồi chung quanh như Đồi Đồng Long, Đồi Gió, Đồi 169… đă được tái chiếm. Quân CSBV bị thua nặng, bị kiệt quệ, nên thôi mở những cuộc tấn công thiêu thân. Nhưng ṿng vây bao quanh thị xă vẫn siết chặt. Không đủ khả năng hay không c̣n dám mở những cuộc tấn công bằng bộ chiến, chúng tấn công bằng trận địa pháo. Những trận mưa pháo liên tục trút lên thị xă nhỏ bé, ngày cũng như đêm. Những người lính VNCH tử trận không có phương tiện để mang về hậu cứ trong hoàn cảnh súng pḥng không dày đặc, đường bộ th́ bị cắt tại Tàu Ô trên QL13, đành phải “vùi nông một nấm” tại chỗ. Nhưng mỗi tấc đất của An Lộc là một tấc lănh đạn pháo của địch. Do đó chuyện “người chết hai lần, thịt xương nát tan” chuyện thường t́nh. Tại An Lộc, Tiểu Đoàn 2/43 đă có những người lính chết ba lần, bốn lần, thậm chí năm lần! Thử hỏi thịt xương c̣n ǵ? Không chỉ là nát tan!
Sư Đoàn 18BB của Đại Tá Lê Minh Đảo, sau khi nhảy vào An Lộc, để cùng với Trung Đoàn 52 và một tiểu đoàn của Trung Đoàn 48 tăng phái cho Sư Đoàn 5, đă có mặt tại đây ngay từ những ngày đầu của trận chiến, liền cấp tốc mở những cuộc hành quân tái chiếm những vùng đất bị mất, nới rộng ṿng đai pḥng thủ, hầu giảm thiểu những trận mưa pháo của địch. Phi trường Quản Lợi nằm cách xa thị xă An Lộc lối 10 cây số về hướng Đông Bắc. Trong thời kỳ quân đội đồng minh c̣n tham chiến ở Việt Nam, nơi đây là căn cứ của một Lữ Đoàn Quân Đội Hoa Kỳ. Người bạn đồng minh đă xây dựng tại đây những pháo đài, những bunkers rất là kiên cố để bảo vệ sân bay. Khi trận chiến An Lộc xảy ra, đây là địa điểm tốt để đặt sở chỉ huy của chúng, nhất là những dàn đại pháo để bắn vào An Lộc. Do đó, Tư lệnh Mặt trận Lê Minh Đảo quyết định bằng mọi giá, phải tái chiếm Phi trường Quản Lợi.
Vào một ngày đầu Thu năm 1972, Sư đoàn 18 BB đă mở cuộc hành quân cấp Trung Đoàn để tái chiếm phi trường Quản Lợi. Đây là vùng đồn điền cao su Đất Đỏ (Terre Rouge) của người Pháp. Từ An Lộc đi về hướng Đông theo con đường 303. Trước khi đến phi trường, phải vượt qua một thung lũng hẹp. Đây là thung lũng mà những người lính của tiểu đoàn 2/43 gọi là “Thung lũng Tử thần”. Chính cái thung lũng nhỏ hẹp này đă cướp mất biết bao nhiêu là sinh mạng của các chiến sĩ Tiểu Đoàn 2/43.
Từ sáng sớm, những phi cơ chiến đấu thay nhau trút bom đạn lên đầu giặc; tiếp theo là những tràng đạn pháo 105ly, 155ly. Những khẩu pháo này đă hoạt động liên tục trong suốt trận chiến, ṇng súng bị nở rộng, đường khương tuyến bị ṃn, nên bây giờ tác xạ không c̣n chính xác. Độ sai số có thể lên đến 500 mét! Sau những đợt mưa bom và đạn pháo, Tiểu Đoàn 2/43 của Đại Úy Nguyễn Hữu Chế, khóa 13 Vơ khoa Thủ Đức, và Tiểu Đoàn 3/43 của Thiếu Tá Lê Thanh Quang, khóa 16 Vơ bị Đàlạt, bắt đầu mở cuộc tấn công.
Trước khi mặt trời lặn, hai tiểu đoàn đă tiến chiếm được một đầu phi đạo. Trận chiến diễn ra rất ác liệt, sự thiệt hại của cả hai bên đều khá cao! Nhưng quân bạn đă lập được đầu cầu, xua quân địch về bên kia và về cuối phi đạo! Cuộc hành quân chỉ tiến đến được ngang đó. Bên kia phi đạo là một dăy pháo đài và bunkers kiên cố của quân đội Mỹ để lại. Sức chống trả của địch thật mănh liệt, quân bạn không thể tiến xa hơn. Sau nhiều ngày tạm nghỉ ngơi, một trận đánh quyết liệt đă diễn ra mà nỗ lực chính là Tiểu Đoàn 2/43 để giải quyết trận địa.
Tiểu đoàn được tăng phái Đại Đội Trinh Sát 43 của Đại Úy Nguyễn Tấn Chi, khóa 12 Vơ khoa Thủ Đức. Từ sáng sớm, bom và đạn pháo thay nhau trút xuống mục tiêu. Thời gian của cơn mưa bom đạn kéo dài gần suốt ngày. Trước khi tấn công, một màn khói nhân tạo, do những trái đạn khói pháo binh tạo thành, dày đặc, làm màng che cho bộ binh tiến lên. Trận đánh kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ để vượt qua một phi đạo không rộng lắm. Nhưng quân bạn không thể nào chiếm được những pháo đài và bunkers. Cộng quân với các khẩu súng cộng đồng 12ly7, đại liên, trung liên, SKZ, B40, B41 đă chống trả quyết liệt. Một vài toán quân tiến được qua bên kia phi đạo, nhưng không thể nào xâm nhập vào bên trong, đành phải bỏ cuộc, rút lui. Con số thương vong khá cao. Trời vừa tối, trước mặt vị Tiểu Đoàn Trưởng là 19 chiến sĩ QLVNCH nằm ngay hàng với tấm poncho phủ kín.
C̣n nỗi buồn nào hơn nỗi buồn này. Chỉ trong một cuộc tấn công ngắn ngủi, con số thiệt hại đă lên quá cao! Nhiệm vụ chưa hoàn thành. Mục tiêu vẫn chưa bị thanh toán. Bóng đêm đến nhanh. Ta và địch đều phải bận rộn lo việc tản thương và tiếp tế. Địch bên kia phi đạo. Ta ở bên này, mặt đối mặt, tất cả đều mệt mỏi ră rời! Không ai buồn bắn pháo vào nhau.
Một đêm yên tĩnh trôi qua. Trời thu ảm đạm, mây đen vần vũ. Cơn mưa chợt đến. Gió núi từng cơn thổi qua. Người lính VNCH áo quần ướt nhẹp, co ro trong cái lạnh đầu mùa. Nhưng súng không rời tay, mắt đăm đăm nh́n về hướng địch đang cố bám bên kia phi đạo, để theo dơi động tĩnh của đối phương.
Ngày hôm sau, trận đánh lại tiếp tục. Nhưng lần này tiểu đoàn được tăng cường Trung Đội Hỏa tiễn TOW của Chuẩn Úy Phương, vị sĩ quan tốt nghiệp trường Fort Benning bên Mỹ. Khi đưa Trung Đội Hỏa tiễn TOW vào, Tư Lệnh cho biết mỗi trái đạn trị giá 7 triệu đồng (vàng lúc đó là 20 ngàn/lượng). Hỏa tiễn TOW là loại vũ khí chống xe tăng ra đời vào khoảng năm 1945. Nhưng h́nh như chưa được tung ra mặt trận th́ cuộc Đại chiến Thế giới lần thứ hai chấm dứt. Không biết trong trận chiến tranh Cao Ly, quân đội đồng minh đă có dịp sử dụng loại hỏa tiễn này chưa?
Trong chiến tranh Việt Nam, loại hỏa tiễn này chỉ mới trang bị cho QLVNCH từ hồi Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, và chỉ mới xuống đến cấp Trung Đoàn Bộ Binh. Mỗi trung đoàn có một trung đội gồm hai khẩu, gắn trên xe jeep. Tầm bắn của viên đạn là 3,000 mét. Khi viên đạn rời ṇng súng, nó kéo theo một sợi dây kim tuyến. Chính nhờ sợi dây kim tuyến này mà ta có thể điều khiển viên đạn đến mục tiêu theo ư muốn. Trên ống nhắm có một chữ thập. Ta chỉ cần đưa chữ thập vào mục tiêu th́ nhất định viên đạn phải trúng mục tiêu. Khi nổ, sức nóng tỏa ra trên 3000 độ. Đặc biệt viên đạn có thể luồn lách qua những hàng cây như cây cao su. Đây là loại vũ khí chống xe tăng rất hữu hiệu. Chỉ tiếc rằng người bạn đồng minh đă viện trợ cho ta quá trễ!
“Mất ḅ rồi mới làm chuồng!” Cũng giống như hồi Tết Mậu Thân năm 1968, khi quân CSBV xâm lăng sử dụng AK47 để tấn công trên toàn cơi VNCH th́ người bạn đồng minh mới cung cấp cho ta súng M16. Sau này khi bộ đội CSBV sử dụng xe tăng T-54, ta mới được ông bạn quư nhượng lại cho M48, do họ rời chiến trường VN, nặng quá không tiện mang theo! Có lẽ ông bạn Mỹ không muốn ta thắng VC, chỉ muốn ta thủ huề! Họ sợ ta thừa thắng rồi mở cuộc Bắc tiến! làm mất thế cân bằng toàn cầu của họ. Ôi! Thương thay cho thân phận người lính của một nước nhược tiểu.
Vị Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/43 hân hạnh được bắn phát đạn đầu tiên. Viên đạn chạm trúng mục tiêu, vị trí của khẩu thượng liên 12ly7. Viên đạn nổ, khẩu súng câm họng ngay. Hàng mấy chục tên bộ đội bỏ chạy tán loạn. Chúng t́m cách nhào xuống triền đồi, lủi nhanh vào rừng sâu. Thêm hai viên đạn nữa rời ṇng súng. Những ổ kháng cự mạnh nhất của cộng quân bị vỡ. Tiểu đoàn trưởng cho lệnh tấn công. Chỉ trong một khoảnh khắc, toàn bộ trận địa của địch đă bị quân bạn chiếm lĩnh.
Xác địch nằm la liệt. Nhiều tên bị xiềng vào chân súng, vào bunkers. Nhiều tiếng rên, nhiều tiếng khóc la. Nào là “Bác ơi! Đảng ơi! Con chết mất”. Tuyệt nhiên không có tiếng “Bố ơi! Mẹ ơi!” hay “Trời ơi! Phật ơi!” như ta vẫn thường thốt lên mỗi khi đau đớn hay gặp cơn nguy biến. Khói súng, và mùi da thịt cháy khét lẹt của giặc tỏa ra cả một vùng. Súng cá nhân, súng cộng đồng vất bỏ ngổn ngang. Kết quả ta thu được 1 súng thượng liên 12ly7, 1 súng cối 82ly, 2 khẩu 61 ly, nhiều AK, B40 và B41. Bên ta hoàn toàn vô sự! Phi trường Quản Lợi đă được tái chiếm.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1365706&stc=1&d=1555283491
Nhưng chiến thắng này tiểu đoàn đă phải trả cái giá quá đắc! Đó là mười chín sinh mạng của các Chiến sĩ Tiểu Đoàn 2/43. Những người lính dũng cảm, ra đi không hẹn ngày về. Họ đă nằm lại trên mảnh đất quê hương, đă hy sinh thân xác để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam được Độc Lập, Tự Do, và mang lại Hạnh Phúc, Ấm No cho toàn dân.
Họ đă hy sinh thân xác để chống lại làn sóng đỏ tràn vào từ phương Bắc. Nhưng cuối cùng, v́ sự ngu dốt của bọn người “ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản”, bọn người ngây thơ và nhẹ dạ, và v́ sự phản bội của đồng minh; sự hy sinh của những người lính Việt Nam Cộng Ḥa xem ra có vẻ oan uổng! Họ đă bỏ phí đời trai trẻ. Khi nằm xuống, những tấm ponchos đă phủ kín đời họ. Là những chiếc áo quan buồn, ra đi giữa vùng lửa đạn. Nhưng cũng là cái may! Họ đă chết vinh quang! Họ không phải sống nhục sau ngày 30 tháng 4, 1975, để phải chứng kiến cảnh “nước mất nhà tan”. Chỉ có những người c̣n lại là phải sống nhục, sống trong nỗi đau triền miên!
Bảo Định
(Michigan, ngày cận Xuân)
Nhạc Sĩ Dzũng Chinh, Tác Giả “Những Đồi Hoa Sim”,
Chết Trên Đồi Hoa Sim
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1365860&stc=1&d=1555300650
GHI CHÚ: Đă có một vài bài viết nói về cái chết của nhạc sĩ Dzũng Chinh, nhưng tiếc là không chính xác. Bài viết này nhằm mục đích làm rơ cái chết của ông, một nhạc sĩ trẻ được nhiều người biết đến qua nhạc phẩm “Những Đồi Hoa Sim”. Người viết bài này đă ở cùng một đơn vị với ông khi ông tử trận.
Phạm Tín An Ninh
Nhạc sĩ Dzũng Chinh không có nhiều sáng tác, nhưng nhạc phẩm “Những Đồi Hoa Sim” đă làm nên tên tuổi ông. Bài hát được phổ biến trong những năm đầu thập niên 1960, thời điểm chiến tranh Việt Nam bắt đầu khốc liệt, hàng hàng lớp lớp thanh niên miền Nam, hầu hết là những học sinh, sinh viên tạm gác bút nghiên, lên đường ṭng quân bảo vệ giang sơn. Bài hát “Những Đồi Hoa Sim” (viết theo ư bài thơ Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan, một nhà thơ sống ở miền Bắc) được phổ biến rất rộng răi và nhanh chóng được quần chúng đón nhận khá nồng nhiệt, đặc biệt trong hàng ngũ lính chiến miền Nam Việt Nam.
Nhạc sĩ Dzũng Chinh cũng là một người lính chiến thực thụ. Tên thật là Nguyễn Bá Chính, sinh ngày 18/12/1941, quê quán ở B́nh Can – Vơ Cạnh – Nha Trang. Trước khi theo học khóa sĩ quan đặc biệt ở Đồng Đế Nha Trang, anh là hạ sĩ quan phục vụ tại Tiểu Đoàn 2/14 Sư Đoàn 9 Bộ Binh thuộc Vùng IV Chiến Thuất. Cuối năm 1968, sau khi tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy, anh chọn đơn vị Sư Đoàn 23 Bộ Binh và xin được phuc vụ tại Trung Đoàn 44 (trú đóng tại Sông Mao, Phan Thiết).
Thời điểm này, Sư Đoàn 23 Bộ Binh đặt bản doanh tại Ban Mê Thuột, đặc trách hành quân trong lănh thổ Khu 23 Chiến Thuật. Sư Đoàn có 3 trung đoàn cơ hữu. Trung Đoàn 45 Bộ Binh trú đóng tại Ban Mê Thuột, nơi có Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, phụ tránh hành quân an ninh tại các tỉnh Đắc Lắc, Phú Bổn. Trung Đoàn 53 Bộ Binh đồn trú tại Di Linh (Lâm Đồng), trách nhiệm các tỉnh Lâm Đồng, Tuyên Đức, Quảng Đức. Riêng Trung Đoàn 44 Bộ Binh trú đóng tại Sông Mao, B́nh Thuận, đảm trách các tỉnh miền duyên hải gồm B́nh Thuận, Ninh Thuận, Khánh Ḥa.
Trung Đoàn 44 Bộ Binh đồn trú tại trại Lư Thường Kiệt, Sông Mao, một doanh trại rộng lớn của Sư Đoàn 5 Bộ Binh, thời Đại tá Vọng A Sáng, bàn giao lại để di chuyển vào Vùng 3 Chiến Thuật. Sông Mao là một thị trấn nhỏ thuộc quận Hải Ninh, nằm phía Bắc Phan Thiết khoảng 60 cây số, cách Quốc Lộ 1 gần 2 cây số. Hầu hết dân chúng ở đây là người Nùng, đă theo chân Đại tá Vọng A Sáng và Sư Đoàn 3 Dă Chiến (tiền thân của Sư Đoàn 5 Bộ Binh) từ vùng Mống Cái, Bắc Việt di cư vào đây tháng 8 năm 1954. Phía dưới là quận Phan Lư Chàm (Chợ Lầu). Dân chúng đa số là người Chàm. Có cả dinh cơ của bà công chúa cuối cùng của Vương quốc Chiêm Thành, với đền thờ vua, cờ xí, long bào và ấn tín. Cách đó không xa là mật khu Lê Hồng Phong nổi danh của Việt Cộng.
Nhắc đến địa danh Sông Mao và mật khu Lê Hồng Phong, người ta nhớ tới mấy câu thơ nổi tiếng hào sảng của nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn:
Mai ta đụng trận ta c̣n sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui
Đêm nằm ngủ vơng trên đồi cát
Nghe súng rừng xa nổ cắc cù
Chợt thấy trong ḷng ḿnh bát ngát
Nỗi buồn sương khói của mùa thu
Chuẩn úy Nguyễn Bá Chính xin về Trung Đoàn 44 Bộ Binh nhằm được gần quê quán. Anh được bổ sung về Đại Đội 1 thuộc Tiểu Đoàn 2/44. Đại Đội Trưởng là Trung úy Nguyễn Văn Chánh và Tiểu Đoàn Trưởng là Đại úy Ngô Văn Xuân (đến tháng 5 năm 1972 ông là Trung tá Trung Đoàn Trưởng). Một tháng sau khi về đơn vị, anh được vị sĩ quan trưởng khối Chiến Tranh Chính Trị Trung Đoàn biết anh là nhạc sĩ Dzũng Chinh nên xin biệt phái anh về Khối CTCT, tạm thời đảm trách Ban Văn Nghệ, mới được thành lập. Vốn mang tính nghệ sĩ và sống phóng khoáng, nên anh thường (dù) về Phan Thiết chơi với bạn bè, nhiều lần vắng mặt tại đơn vị, nên bị trả lại Tiểu Đoàn, tiếp tục giữ chức vụ trung đội trưởng tác chiến.
Cuối tháng 2 năm 1969, Tiểu Đoàn 2/44 di chuyển ra hành quân tại khu vực quận Ninh Phước thuộc Tiểu Khu Ninh Thuận. Đại Đội 1/2 đảm trách an ninh tại Văn Lâm, một làng của người Chàm, nằm phía Đông Nam tỉnh lỵ Phan Rang khoảng 25 cấy số. Nhận tin tức của Pḥng Nh́ Tiểu Khu, cho biết có một mũi công tác của Việt Cộng từ mật khu núi Chà Bang (tiếng Chàm: Chơk Chabbang) sẽ về Văn Lâm thu thuế và thực phẩm, Tiểu Đoàn ra lệnh Đại Đội 1 cho một trung đội đến án ngữ dưới chân núi Chà Bang để phục kích toán quân Việt Cộng khi chúng trên đường ra Văn Lâm. Trung Đội của Chuẩn úy Nguyễn Bá Chính tức Dzũng Chinh nhận lănh trách nhiệm đặc biệt này.
Đến địa điểm phục kích khoảng 7 giờ tối, Chuẩn úy Chính cho tiểu đội của Trung sĩ Luận ra nằm tiền đồn phía trước, bên con đường ṃn dưới chân núi, cách trung đội chừng 500 mét, vừa theo dơi báo cáo bằng tín hiệu riêng khi địch quân xuất hiện, vừa làm nút chặn, khi đám địch bị trung đội tấn công, chạy ngược lại phía sau.
Khoảng 11 giờ tối, một toán người xuất hiện và lên tiếng: “Luận về đây”. Chuẩn úy Chính tưởng là Trung sĩ Luận đă dắt tiểu đội về, nên hỏi lại: “Sao Luận về sớm vậy?” Một tràng súng nổ tức th́. Chinh ngă xuống.
Th́ ra có một trùng hợp kỳ lạ, quái ác, đă đưa đến cái chết tức tưởi của Dzũng Chinh. “Luận về đây”” lại là mật khẩu của địch, trong đó cũng có tên Luận trùng với tên Trung sĩ Luận, người tiểu đội trưởng của Chính có nhiệm vụ tiền đồn. Địch quân sợ bị phục kích nên đă chia làm hai toán, sử dụng lộ tŕnh khác, không đi theo con đường ṃn, nên tiểu đội tiền đồn của Trung sĩ Luận không phát hiện được. Chính v́ sự ngộ nhận đáng tiếc này làm Dzũng Chinh đă hứng trọn một tràng đạn AK của địch.
Đại Đội cho bắn trái sáng, kịp thời bao vây và truy kích tiêu diệt đám địch quân. Chuẩn úy Chính bị thương khá nặng. Được trực thăng của Mỹ tản thương về Bệnh viện Ninh Thuận (Phan Rang). nhưng v́ vết thương quá nặng ở vùng bụng và ngực, nên Dzũng Chinh qua đời (tối ngày 01 tháng 3-1969).
Cái chết oan uổng của Dzũng Chinh đă được bạn bè cùng đơn vị bàn tán khá nhiều với vài sự kiện mà mọi người cho là những điềm gỡ báo trước:
Ngày xưa lương lính thường không đủ xài, nhất là những khi được về thành phố, nên trước cuộc hành quân, Dzũng Chinh đến Ban Tài Chánh Trung Đoàn xin mượn lương trước. Vị sĩ quan tài chánh ngần ngừ, bảo sao mượn lương sớm thế. mới đầu tháng đă mượn, hơi khó xử cho ông. Dzũng Chinh găi đầu năn nỉ:
– Th́ cứ xem như Đại úy ứng trước tiền tử tuất cho tôi thôi mà.
Vị Đại úy tài chánh cho mượn, nhưng rầy anh:
– Cậu chớ nói điều gở, không nên!
Sau đó, anh rủ hai người lính về thành phố Phan Thiết chơi. Không hiểu nhóm anh đụng chạm thế nào với một nhóm lính thuộc đơn vị khác. Trước ngày đi hành quân, anh nhận giấy báo của Quân Cảnh Tư Pháp Phan Thiết, gọi tŕnh diện. Anh kể cho đám bạn bè trong một buổi nhậu rồi nói:
– Kỳ này tao đi luôn, xem thử lấy ai mà tŕnh diện!
Không ngờ anh đă đi luôn thật.
Dưới chân núi Chà Bang, nơi Dzũng Chinh ngă xuống là một vùng đầy hoa sim. Tác giả nhạc phẩm “Những Đồi Hoa Sim” cuối cùng cũng đă nằm xuống trên ngọn đồi bạt ngàn hoa sim tím. Anh được an táng tại Nghĩa trang Mả Thánh (Phương Sài, Nha Trang), sau này bị chính quyền cộng sản giải tỏa, không biết đă được di dời về đâu.
Sau khi chính quyền cộng sản giải tỏa khu nghĩa trang này để lập chợ mới Phương Sài, gia đ́nh đă hỏa táng và mang tro cốt (kim tĩnh) về thờ tại Khu Tượng Kim Thân Phật Tổ, thuộc Chùa Phật Giáo Tỉnh Hội Khánh Ḥa (Chùa Long Sơn?)
Cái chết của Chuẩn úy Nguyễn Bá Chính, một Trung đội trưởng Bộ Binh, cũng lặng lẽ như hàng vạn chiến sĩ vô danh khác đă anh dũng hy sinh trong cuộc chiến khốc liệt để bảo vệ quê hương, nhưng tên tuổi Dzũng Chinh được nhiều người tiếc thương, nhắc nhở, bởi v́ anh là một nhạc sĩ trẻ tuổi, đă tạo nên một tác phẩm đi vào ḷng người, và măi ở lại với thiên thu.
PTAN
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1365861&stc=1&d=1555300650
hoanglan22
04-17-2019, 13:40
U_NHcRiS2U0
hoanglan22
04-17-2019, 13:49
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1367272&stc=1&d=1555508895
Sự Trả Thù Đê Hèn Và Dă Man
Cái chết của Cố Thiếu Tá BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ
Mũ Nâu Thiên Lôi kể lại
Trong quân sử của cuộc chiến Quốc Cộng kéo dài từ 1954-1975, có khá nhiều những chiến công hiển hách của những đơn vị QLVNCH hay của từng cá nhân, người lính VNCH từ cấp Chỉ huy đến hàng binh sĩ. Hai mươi mốt năm, cuộc chiến đấu của người Miền Nam chống trả và ngăn chặn từng đợt xâm lăng từ miền Bắc Việt Nam, người anh em cùng chung huyết thống, cùng mang ḍng máu Lạc Hồng, nhưng đă đánh mất t́nh người. – U mê với chủ thuyết không tưởng Cộng Sản, bằng vỏ khoác “thế giới Đại Đồng”, thực ra là sự tàn bạo, dă man và đê tiện mới chính là điều căn bản của bọn người man rợ đó. Và, đau đớn biết bao , từ thế hệ này đến thế hệ khác thanh niên Miền Nam cùng nhau gia nhập quân ngũ, dắt d́u nhau đi vào nơi lửa đạn, để truy diệt kẻ xâm lược.
Từng gia đ́nh từng cá nhân mặc nhiên chấp nhận mọi thua thiệt, mọi thương đau để đem sức ḿnh đóng góp vào cuộc chiến ngăn chặn ấy. Những mong có một ngày những kẻ gieo rắc tai ương cho dân tộc sẽ nhận ra sự phi lư, nhận ra thân phận ḿnh đang dùng súng đạn để tương tàn, nhận ch́m tổ quốc, dân tộc vào vũng lầy của máu, của thịt da chính ḿnh và lúc đó họ cũng sẽ nhận ra được chính cuộc chiến tranh đă hủy hoại tàn nhẫn quê hương, chung quy cũng chỉ là ước muốn áp đặt một chủ nghĩa chính trị không giống ai và chính cuộc chiến chỉ là phục vụ cho thế lực và mưu đồ của ngoại nhân. Và, lúc đó họ sẽ từ bỏ giấc mộng điên cuồng, hoặc cả hai bên cùng gác súng, trở về với chính ḿnh, cùng chung lo gây dựng lại những đổ nát, hoang tàn, chữa trị những vết thương đang hoá ḍi trên thân thể Mẹ Già Việt Nam.
Thật phủ phàng và cay đắng, tất cả đă trở thành ác mộng, đă thắt cổ chết treo cho mọi mơ ước, mọi cầu mong của dân Việt. Cuộc chiến cũng chấm dứt. Tiếng súng đă thôi không c̣n vang vọng bên tai mọi người, nhưng chính ngay sau lúc tiếng súng vừa im lặng trên lănh thổ, th́ cũng là lúc bạo tàn, tủi nhục và nước mắt được đong đầy, ngập khắp lănh thổ Miền Nam, đâu đâu cũng chỉ c̣n là tiếng than tiếng khóc, nỗi thống khổ nặng như đá tảng đè trên thân xác mỗi người , lù lù trong mỗi gia đ́nh như một tiền oan nghiệp chướng. Những người lính VNCH phải buông súng trong tức tưởi, nghẹn uất, có người c̣n ngơ ngác tự hỏi : Lẽ nào ta lại quy hàng? Trong tất cả những bài học quân sự, tất cả mọi binh thư, binh thuyết và những huấn lệnh của thượng cấp, người lính chưa hề được nghe một lời nào nhắc đến sự quy hàng – Thế mà bây giờ họ laị được lệnh gác súng – người lính không ngẩn ngơ, đau uất sao được. - Tôi muốn dùng chữ LÍNH ở đây để chỉ chung cho QLVNCH, không dành cho riêng một thứ cấp nào của quân đội chúng ta.
Trong sự ngỡ ngàng, sự uất nghẹn ấy, đă có rất nhiều quân nhân VNCH tuẫn tiết, chẳng riêng năm vị tướng, thậm chí cả những người lính cũng chọn cái chết để tạ lỗi với quê hương, với dân tộc v́ họ cảm nhận ḿnh đă không tṛn trách nhiệm, không tṛn bổn phận của người bảo vệ tự do và độc lập, như trường hợp của một Hạ Sĩ Biệt Động Quân nhất định không cởi bỏ binh phục, đă cho nổ trái lựu đạn, để thân xác ḿnh tan nát, trước sự bàng hoàng, kinh hăi và kính phục của hai người đồng đội và dân chúng trước cửa tiệm phở gà đường Trương Tấn Bửu; hay câu chuyện đầy nước mắt và bi hùng của năm người lính Nhảy Dù, sau khi nhận được lệnh buông súng, họ đă bàn với nhau, uống những giọt cà-phê cuối đựng trong bi-đông, hút điếu thuốc Quân Tiếp Vụ chót, ai nấy xé bao thuốc lấy cái h́nh người lính trong tư thế tác chiến, dưới bóng quốc kỳ, bỏ vào túi áo ngực ḿnh.
Sau chót, họ – năm người chiến binh Mũ Đỏ - dơng dạc nói với những người dân cư ngụ chung quanh khu Hồ Tắm Cộng Hoà, ngă ba Ông Tạ: “Xin vĩnh biệt bà con, chúc tất cả bà con ở lại mạnh khoẻ và may mắn – xin bà con dang xa chúng thôi để tránh sự nguy hiểm”. Mọi người c̣n đang ngơ ngác, cứ tưởng anh em Mũ Đỏ nói họ tránh ra để không bị nguy hiểm do đạn giao tranh. Chẳng dè, năm người lính Dù đă ngồi xuống thành ṿng tṛn, lấy từ ba lô ra lá Quốc Kỳ VNCH, trải trên mặt đất. Cả năm người cùng dang rộng ṿng tay, rút chốt trái lựu đạn, bỏ trên mặt lá cờ và cùng nhau gục xuống để cho tiếng nổ đanh gọn, kết thúc cuộc sống của họ – Thịt da tan nát cùng lá cờ. Nơi họ tự ải chỉ cách nhà mẹ tôi khoảng chừng 150 mét. Người dân đă khóc thưong họ, nhưng chỉ dám khóc thầm, lúc nầy kẻ thù đă ngự trị toàn Miền Nam.
Đồng một lúc với sự đầu hàng ép buộc sự buông súng không thuận ư, cũng là lúc kẻ thù – Cộng quân – bắt đầu sự trả thù, khởi sự báo oán trên sinh mệnh người lính VNCH và trên sự an toàn, hạnh phúc của dân chúng Miền Nam. Tội ác của Cộng Sản Việt Nam sổ sách nào ghi cho đủ, kể lại bao lâu cho hết; cũng như gương bất khuất của người lính, nhắc lại cho nhau nghe, giương danh tên tuổi họ cho mai hậu, tưởng chẳng bao giờ thừa dư, mà chúng ta cần phải nêu lại để tự nhắc với ḷng ḿnh niềm oán hận, nỗi thù c̣n hằn c̣n nguyên một khối kết đặc trong hồn chúng ta, khó ḷng xoá nhoà, gột bỏ v́ kẻ thù ta c̣n đấy, vẫn đang hàng ngày phủ chụp bàn tay vô luân của chúng trên quê hương, trên từng ly vuông da thịt người dân. Gưong anh dũng hy sinh, thà chết nhất định không hàng giặc trong những ngày cuối cùng của Miền Nam tự do, diễn ra khắp nơi, trên bốn vùng chiến thuật và trong tất cả mọi quân binh chủng chủ lực quân, lực lượng bán quân sự, thậm chí ngay cả anh Nhân Dân Tự Vệ sinh sống ở Cống Bà Xếp (Hoà Hưng) đă treo cổ chết nơi sau nhà để khỏi bị giặc hành hạ.
Ở đây trong bài viết này, tôi chỉ xin được đơn cử một gương can đảm bất khuất của một quân nhân BĐQ, đồng thời cũng chính anh hứng chịu sự trả thù, và, ngay cả gia đ́nh anh – cha mẹ, vợ con anh cũng không thoát, đă bị hành hạ tinh thần liên tục và đê tiện. Sự trả thù đáng được đem ra gọi là điển h́nh theo quan niệm của giặc Cộng . Anh là Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 38 – Liên Đoàn 32 BĐQ (Liên Đoàn 5 BĐQ trước kia). Trước khi kể lại sự hy sinh của chiến hữu BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ, xin cho phép tôi được ngưọc về dĩ văng để viết vài điều tôi được biết về anh theo lời thuật của thân mẫu anh.
Trần Đ́nh Tự, sinh năm 1943 ở Hà Nội, thuở nhỏ học Tiểu học Ngô Sĩ Liên (phố Hàm Long), nhà lại ở khá xa, măi tận phố hàng Than, nhưng anh rất chịu khó lẽo đẽo đi bộ đến trường không cần ai phải đưa đón. Thân phụ Tự là công chức, làm việc trong Toà Thị Chính thành phố. Thân mẫu là giáo viên, bà dạy tại trường Tiểu học ngoại ô Hà Nội, và có lẽ cuộc đời, sinh hoạt hàng ngày của Trần Đ́nh Tự là do sự giáo dục, ảnh hưởng sâu đậm của mẹ ḿnh. Trầm lặng và ngăn nắp là bản tính của Tự. 1954 được 11 tuổi, Tự được cha mẹ đem vào Miền Nam theo cuộc di cư vĩ đại. Tại Sàig̣n, tự học Trung học nơi ngôi trường có truyền thống giáo dục tốt đẹp và kỹ lưỡng v́ trước đó trường thuộc hệ thống quản trị và chương tŕnh dạy dỗ do Giáo Hội Công Giáo Việt Nam: Trường Hồ Ngọc Cẩn.
Cũng theo thân mẫu anh nói lại, ngay từ lúc mới biết làm toán, Tự đă tỏ ra khá giỏi và mỗi năm mỗi lớp, ở môn toán, Tự là số 1 không ai tranh được. Các môn học khác, Tự rất dốt, đủ đỉểm trung b́nh là may. Cả ngày chỉ cặm cụi làm toán, ngoài ra các môn khác học để đủ điểm mà thôi. Sau khi tốt nghiệp bậc Trung học, đậu bằng Tú Tài toàn phần ban toán, lẽ ra Tự sẽ tiếp tục ở Đại học nào đó do anh chọn và v́ những lư do chưa đến tuổi nhập ngũ, trong gia đ́nh đă có hai người anh đang phục vụ trong những cơ quan trực thuộc quy chế quân đội, dù có đến tuổi, Tự vẫn c̣n được huởng trường hợp hoăn dịch để trau dồi học vấn. Thế nhưng, Trần Đ́nh Tự đă làm đơn, đem đến Bộ Quốc Pḥng để nộp xin t́nh nguyện được gia nhập quân đội. Anh xin đi học khoá 14 Sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức. Điều này đă tạo ra không khí trầm uất, phiền ḷng trong gia đ́nh Tự, thời gian hai ba tháng. Cha mẹ Tự mong mỏi ít ra Tự cũng phải đến Đại học vài năm, sau đó sẽ tính nhưng Trần Đ́nh Tự đă làm ngược lại.
Măn khoá, Trần Đ́nh Tự được bổ sung tài nguyên sĩ quan cho Trung Tâm Huấn Luyện Chi Lăng ở miền Tây Nam phần. Sau sáu tháng Tự lại một lần nữa ít nhiều gây ưu phiền cho gia đ́nh. Anh làm đơn xin t́nh nguyện được phục vụ trong binh chủng BĐQ. Anh được toại nguyện. Ngày tôi về tŕnh diện TĐ 33 BĐQ ở Biên Hoà, Tự đă có mặt tại đơn vị này từ bao giờ, v́ tôi nhập ngũ sau Tự ba khoá. Tôi học khoá 17 STQB/TĐ. Thật ra, những ngày đầu về đơn vị, cũng là đầu đời nữa, đơn vị tác chiến của một binh chủng, dường như có nhiều người cảm thấy e ngại khi nhắc đến. Cuộc sống của binh chủng quá nhiều vất vả, hiểm nguy. Tôi cũng thấy rụt rè, lo âu, thái độ luôn luôn băn khoăn tự hỏi ḿnh sẽ phải làm ǵ ở những ngày sắp tới, chẳng những âm thầm quan sát từng cử chỉ, đi đứng của anh em HSQ, binh sĩ nhất là mọi động tác của các vị sĩ quan, tôi đều ghi nhận để học lóm hầu có thể xài cho ḿnh sau này.
Lần đầu tôi gặp Trần Đ́nh Tự, tôi chào anh theo quân cách, Tự không đáp lại, mặt nghênh nghênh và cổ th́ quẹo qua một bên. Tôi tức uất người, nhủ thầm : tên Thiếu Úy này lối, nghênh ngang và cao ngạo. Tôi gh́m trong đầu và luôn luôn quẩn quanh với thành kiến Trần Đ́nh Tự khinh người, dĩ nhiên, tôi cũng cảm thấy không ưa Tự…
Tôi đem chuyện này kể lại với Thiếu Úy Lê Kỳ Ngộ, vị sĩ quan đàn anh và là thầy dạy tôi trong trường SQTB/TĐ, nay cũng phục vụ trong binh chủng BĐQ, anh ở ĐĐ3/33. Tôi than phiền với anh Ngộ về thái độ ngạo mạn của Tự. Anh Ngộ cười ngất : “Đ. ơi, tội nghiệp nó, không phải Tự nó nghênh hay kênh ǵ đâu, niễng niễng là có tật đấy, có lẽ hồi c̣n nhỏ nó bị gió máy làm vẹo cổ. Bản tính Tự trầm lặng chứ không phải nó ngạo mạn. Tôi biết rơ tính nết hắn nhiều lắm.” Anh Ngộ c̣n khuyên tôi: “Ráng hoà nhập với đời sống quân ngũ, lâu rồi sẽ quen. Có thể Tự và Đ. sẽ thân nhau hơn người khác không chừng”.
Thời gian lần lượt qua đi từng tháng, từng năm, chúng tôi sống phục vụ trong cùng đơn vị lần lượt đă đến vị chỉ huy thứ tư. Ông Tiểu đoàn trưởng thứ tư của chúng tôi ở TĐ33/BĐQ là Thiếu Tá Tử Thần. Có nhiều đổi thay trong đơn vị, nhiều sĩ quan đồng đội đă ra đi, người th́ sau chuyến hành quân đă không chịu về với anh em, người th́ chuyển đến đơn vị mới. Lúc này Tự là ĐĐT/ĐĐ33BĐQ và tôi coi ĐĐ4. Hai đứa chúng tôi đă là bạn thân, đă cùng nhau dong ruổi trên các miền lửa đạn. Và, năm 1971 trong chiến dịch hành quân ngoại biên, QLVNCH mở những cuộc hành quân sang Campuchia truy diệt và tiêu hủy những căn cứ Cộng Sản VN. Tháng 2-1971, trong cuộc hành quân trực thăng vận xuống căn cứ của SĐ7CS, trong lúc giao tranh Tự bị trúng mảnh đạn pháo vào đầu, anh được chuyển về Tổng Y Viện Cộng Hoà, rời khỏi TĐ33BĐQ từ đó.
Mùa hè 1972, Cộng Sản Bắc Việt ồ ạt dùng đại quân, đại pháo tấn công cường tập trên khắp các mặt trận, nặng nhất lúc đó là mặt trận Quảng Trị, hàng chục Sư đoàn chính quy vượt sông Bến Hải, vượt biên giới Việt Lào, đồng loạt tấn công thế như cuồng lưu, như biển động. Do đó Bộ TTM/QLVNCH đă điều động LĐ5BĐQ không vận ra tăng cường cho mặt trận QK1. Cũng lại tháng 2-1972, SĐ308 Tổng Trừ Bị CS, xe tăng, đại pháo tấn công điên cuồng LĐ5BĐQ, sự chênh lệch quá đáng về lực lượng đă khiến LĐ5BĐQ phải vừa đánh vừa lui dần về phía sau để chờ sự tăng viện, nhưng đến khu vực cầu Trường Phước, đoạn Quốc Lộ I cũ, LĐ5BĐQ bị lọt ổ phục kích của một Trung đoàn VC tăng cường đơn vị pháo. TĐ38 BĐQ do Thiếu Tá Vũ Đ́nh Khang chỉ huy, Trần Đ́nh Tự – sĩ quan Hành quân (Trưởng ban 3) nhận lệnh của Trung Tá Liên Đoàn Trưởng Ngô Minh Hồng phải đánh cản hậu, bằng mọi cách phải chặn đứng sức tiến cuồng bạo của địch để LĐ rút qua sông (gồm TĐ30, TĐ33 và BCH/LĐ). Tiểu đoàn 38BĐQ đă hoàn thành nhiệm vụ, riêng hai vị Sĩ quan đầu đàn của đơn vị cũng hoàn thành trách nhiệm là ở lại sau cùng để “con cái” qua sông an toàn và cuối cùng chính hai ông thẩm quyền: Vũ Đ́nh Khang, Trần Đ́nh Tự lọt vào tay giặc trở thành tù binh. Lư do lăng xẹt : cả hai không biết bơi, loay hoay cùng mấy người hộ tống đang “nghĩ kế” để vượt con rắn lục th́ bị giặc đến cơng qua sông Bến Hải đem về trại tù Lạng Sơn.
1973 – Hiệp định Paris – ngưng bắn da beo, da cọp . Trao đổi tù binh, Trần Đ́nh Tự lại trở về với gia đ́nh Mũ Nâu, gắn bó đời ḿnh với binh chủng BĐQ. Anh được thăng cấp Thiếu Tá và được cử làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ33BĐQ thay thế vị chỉ huy cũ, được điều động đi chỉ huy một đơn vị khác. Những ngày băo lửa, cuồng lưu của bom đạn đă qua. Hiệp định đ́nh chiến đă kư kết, nhưng vẫn chưa có hoà b́nh. Giao tranh vẫn liên tục nơi này nơi kia. Liên đoàn 5BĐQ đă cải danh thành LĐ32BĐQ, cũng đă và đang cùng các LĐ/BĐQ khác bảo vệ tỉnh B́nh Long. Mặt trận An Lộc, vẫn nặng nề trong âm mưu xâm lược.
Tháng 3-1975, trên toàn lănh thổ VNCH tự nhiên vỡ ra từng mảng sau khi Ban Mê Thuột thất thủ. Hết nơi này “di tản chiến thuật” lại đến chỗ kia “tái phối trí”. LĐ32BĐQ lại một lần nữa theo lệnh, rời bỏ An Lộc để về tại phối trí, thiết lập tuyến pḥng thủ bảo vệ tầm xa cho thủ đô Sàig̣n, tuyến bố trí kéo dài một ṿng cung từ Khiêm Hanh (Bầu Đồn) Tây Ninh kéo dài qua con Suối Cao-G̣ Dầu, tạo thành một cái đê chặn đứng cơn nước lũ Cộng Săn từ các mật khu Dương Minh Châu, Bời Lời, Bến Cát (Tam Giác Sắt) không cho con lũ này chảy về Sàig̣n. Áp lực có nặng nề, cường độ giao tranh ngày càng cao, đạn pháo giă gạo trên đầu mỗi giờ mỗi tăng. Những người lính Mũ Nâu LĐ32BĐQ dưới sự chỉ huy điềm tĩnh và gan ĺ của Thuận Thiên (Trung Tá Lê Bảo Toàn) vẫn giữ vững pḥng tuyến, chưa có khúc ruột nào bị cắt đứt hay chọc thủng và dĩ nhiên TĐ38 cùng các đơn vị bạn TĐ30, TĐ33, Đại Đội Trinh Sát 5BĐQ (do Cường Dương Tướng Quân Đỗ Minh Hưng chỉ huy – không hiểu tôi nhớ có chính xác không, nếu sai xin tha thứ). Hàng ngày, vẫn chia nhau “luộc” những con cua đồng, bộ binh chúng lần ṃ vào hàng rào pḥng thủ th́ năm yên tại đấy, không trở ra được nữa v́ đă ăn no kẹo đồng.
Thế nhưng vận nước đă đến lúc phải chịu đau thương, thân phận người lính VNCH có chiến đấu dũng mănh như sư tử đến lúc bị bức bách phải quy hàng, cũng đành phải nhẫn nhục buông súng. 11 giờ ngày 30 tháng 4 1975 tại Trung Tâm Hành Quân của Liên Đoàn, Thuận Thiên nhận được lệnh từ cấp chỉ huy Quân Đoàn :”Hăy ngưng bắn ngay lập tức, ở yên tại chỗ để đợi phía bên kia đến bàn giao khu vực”. Trung Tá Lê Bảo Toàn chết sững, buông cái ống liên hợp máy truyền tin rớt xuống đầu người lính đang ngồi dưới chân. Ông đổ vật xuống chiếc ghế như cây chuối bị đốn ngang. Hai mươi năm phục vụ quân ngũ – 19 năm dong ruổi vào ra vùng đạn bom, 5 lần bị thương lần nào cũng thập tử nhất sinh, nhưng chưa bao giờ ông thấy đau như lúc này. Ông nghẹt thở, buốt trong óc tưởng như ai đang đóng ngập cái đinh 10 phân vào đầu, có lẽ lấy kéo cắt ruột cũng chỉ đau đến thế.
Ông lịm đi, người sĩ quan Hành quân phải gọi khẽ :”Trung Tá!” . Ông gượng đau để lấy lại bản lănh. Sau cú “sốc”, Trung Tá Lê Bảo Toàn đă điềm tỉnh trở lại. Ông cầm máy gọi lần lượt từng Trưởng : TĐ30 Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Khoản, TĐ33 Thiếu Tá Đinh Trọng Cường, TĐ38 Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự. Cả ba đă đáp nhận . Trung Tá Toàn chậm răi, ông cố giữ cho tiếng nói của ḿnh, với âm lượng đều đặn như mọi ngày:
- Các anh vặn nhỏ máy, tôi thông báo lệnh quan trọng.- Im lặng một giây, ông nói tiếp- Các anh ra lệnh cho “con cái” buông súng – Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng rồi. Sẽ có đại diện của “phe họ” đến để bàn giao. Cám ơn các anh, các vị Tiểu Đoàn Trưởng, các Sĩ Quan trong Liên Đoàn. Tôi cũng đặc biệt cám ơn các anh em Hạ Sĩ Quan, binh sĩ. Chúng ta đă bấy lâu công tác, sống chết với nhau. Nay, nhiệm vụ của tôi kể như đă chấm dứt, tôi không c̣n trách nhiệm với Liên Đoàn nữa. Thân chào tất cả anh em trong Liên Đoàn, lời cuối cùng của tôi trong cương vị Liên Đoàn Trưởng là yêu cầu các anh b́nh tĩnh và chúc tất cả may mắn.
Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong đời Trần Đ́nh Tự đă cưỡng lệnh cấp chỉ huy. Sau khi nhận lệnh buông súng và lời chào của Trung Tá LĐT, anh quay qua Đại Úy Xườong – Tiểu Đoàn Phó TĐ38BĐQ
- Anh Xường, tôi vừa nhận lệnh ḿnh phải buông súng đầu hàng. Đây là lần chót, tôi yêu cầu và cũng là lệnh: anh nói lại cho các Đại Đội Trưởng và thay tôi dẫn đơn vị ra điểm tập trung. Tôi sẽ ở lại, đánh nữa, tôi không đầu hàng, anh hiểu cho. Tôi không khi nào để chịu lọt vào tay tụi nó lần nữa.
Tiếp đó, anh cho tập trung BCH, Trung đội Thám Báo nói với họ là đă có lệnh quy hàng, các anh em sẽ theo lệnh Đại Úy Tiểu Đoàn Phó, c̣n ai muốn ở lại chiến đấu với anh đến giờ chót th́ đứng riêng một bên. Lần lượt số người tách khỏi hàng được gần 40 chiến sĩ. Trần Đ́nh Tự đưa tay chào Đại Úy Xường và các quân nhân dưới quyền, rồi dẫn những người quyết tử tiến vào khu vực vườn khoai ḿ để tiếp tục “ăn thua” với địch. Kết cục, cuộc chiến đấu cũng phải chấm dứt. Tự và anh em hết đạn, địch tràn ngập, bắt tất cả những người c̣n sống (9 người ) giải về sân trường Tiểu Học gần đấy.
Tên chỉ huy của giặc Cộng tiến về phía Tự lớn tiếng lăng nhục QLVNCH và chỉ ngay mặt Tự thoá mạ thậm tệ, rồi bắt anh cởi áo quần (lon Thiếu Tá may dính trên cổ áo). Tự đứng yên nhất định không chịu, tên VC rít lên: “đến lúc này mà mày c̣n bướng hả, lũ uống máu, bọn tay sai, những thằng ác ôn. Mày có làm theo lệnh của ông không th́ bảo. Nhân danh cách mạng ông ra lệnh cho mày cởi áo quần ngụy và nằm xuống. Chúng mày đă đầu hàng, nghe rơ chưa!”
Tự cười đểu :
- Ai đầu hàng, nhưng tao th́ không. Mày nghe đây. Chúng mày mới là lũ ác ôn, chúng mày mới đích thực là lũ tay sai, lũ vong thân chó má. Bọn mày là những tên tội đồ của dân tộc VN, hiểu không? Một lũ đê tiện!
Tên chỉ huy VC mắt nổi gân máu, tiến đến sát mặt Tự, giơ tay giật mạnh, bung hai hàng nút từ cổ xuống đến bụng. Tên giặc Cộng rút luôn con dao găm Tự đeo bên hông. Nó đâm thật mạnh vào bụng Trần Đ́nh Tự, rọc mạnh xuống phía dưới. Ruột Tự ḷi tuột ra ngoài. Chưa hả cơn, nó c̣n ngoáy mạnh mũi dao vào tận trong bụng Tự. Anh hét tiếng bi ai và nghẹn uất, đổ sụm xuống , oằn ḿnh giật từng cơn trong vũng máu.
Đồng thời với hành động dă thú ấy, tên giặc nghiêng đầu nh́n Tự rồi nói gọn: “Đem những thằng này bắn hết đi! Toàn là ác ôn cả đấy!”
Tám quân nhân c̣n lại, bị dẫn ra phía sau trường để được bắn xối xả mấy loạt AK47. Xác họ bị quăng xuống các đ́a gần đó. Bọn VC dẫn nhau bỏ đi.
Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự, bị giặc Cộng mổ bụng chết được hơn một tuần, gia đ́nh ở Sàig̣n nhận được tin. Vợ anh t́m đến nơi anh bị hành h́nh để xin xác chồng. Đau đớn cho chị, xác chồng đă chẳng thấy, lại c̣n bị những tên VC tại địa phương lớn tiếng sỉ nhục vong linh chồng ḿnh. Chị đă quay về Sàig̣n sau câu trả lời gọn lỏn của chúng: “Chồng chị là tên ngụy ác ôn, đàn áp bóc lột nhân dân, nợ máu quá nhiều, nhân dân nổi giận trừng trị. Cách mạng rất khoan dung không trả thù như vậy. Chị đi t́m nhân dân mà xin các anh ấy!”
Chưa hết. Sự trả thù đê hèn vẫn đeo đuổi theo từng cá nhân người lính VNCH, từng gia đ́nh mỗi người. Năm 1985, tôi được thả về từ trại tù VC. Sau vài tháng tôi đến nhà Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự ở đường Dương Công Trừng (Thị Nghè) thăm ba mẹ Tự. Đến nơi được biết thân phụ anh phần uất hận, phần thương con – tất cả con trai của cụ, hai người anh Tự cũng bị tập trung vào trại tù Cộng Sản, Cụ đă lâm trọng bệnh qua đời năm 1975. Mẹ của Tự, bà cụ ở lại chịu đủ điều cay đắng, thương con Cụ lập bàn thờ Trần Đ́nh Tự bên cạnh bàn thờ chồng. Tấm ảnh thờ Tự chụp lúc vừa được vinh thăng Thiếu Tá, nên anh mặc quân phục. Chính v́ tấm ảnh thờ mà cách vài ngày mấy tên Cộng Sản địa phưong như Công An, Ủy Ban Nhân Dân ḷ ṃ đến để buông những lời lẽ mất dạy, vô luân, đốn mạt nhưng lại cao giọng đạo đức rẻ tiền.
- Cách mạng rất phân minh, rành rẽ mọi điều, t́nh tự dân tộc đều đâu ra đấy. Tội ai người ấy chịu. Bà thờ chồng, thờ con trai điều này đáng biểu dương, nhưng tấm ảnh tên ác ôn kia th́ không được để đấy, bà phải cất đi, lấy ảnh khác mà để.
Thân mẫu Tự cố dằn cơn tức uất:
- Các ông thông cảm, Ở đâu th́ theo đó, con tôi đă chết thảm, xác không có để mang về. Nó chẳng c̣n cái ảnh nào, chỉ có một, các ông để cho tôi thờ nó. Hàng ngày được nh́n thấy chồng, con vẫn ở bên ḿnh.
Tên VC trả lời:
- Nếu không có cái khác th́ cất đi hoặc để linh động, Cách Mạng nhất trí cho bà để cái ảnh nhưng lấy mực bôi cái lon lá và bộ quần áo ngụy đi.
Mẹ Tự nhất định không chịu, cứ để tấm ảnh trên bàn thờ cho đến một lần, chúng nó đem bà cụ ra tổ dân phố để “đấu tranh xây dựng”. Bà cụ nổi doá nói tướng lên:
- “Cách mạng khoan hồng”, “Cách mạng độ lượng” cái ǵ ? HCM có chỉ dạy các anh ép người dân đến mức này không? Hai năm liền chồng chết, con chết thảm, con đi tù, các ông muốn tôi phải thế nào hay là các ông giúp tôi chết phứt đi cho rồi. Tôi theo chồng theo con là khỏi khổ!”
Có lẽ v́ thấy ép quá, không có lợi khi sự việc đă gây xầm x́ trong khu vực, bọn VC địa phương lờ dần đi, không ghé nhà Tự để mè nheo, quấy rầy bà cụ nữa. Tự được yên thân trên bàn thờ, nhưng mẹ ḿnh laị vĩnh viễn không được thấy con, dù là nh́n tấm ảnh: Cụ đă bị mù loà, sống lủi thủi trong bóng đêm của quảng đời c̣n lại với mấy đứa cháu nội.
THAY LỜI KẾT:
Câu chuyện về sự trả thù đê hèn và dă man của bè lũ Cộng Sản Việt Nam là hoàn toàn sự thật. Và dĩ nhiên sự trả thù, cung cách đối xử của Cộng Sản dành cho Quân nhân QLVNCH và gia đ́nh hoàn toàn do chính sách, kế hoạch đă được chỉ thị từ Trung Ương xuống, nhưng nếu có ai hỏi đến chúng nó lại bỏ mép đổ vấy cho địa phưong, cho nhân dân, cho cá nhân nào đó nóng giận gây ra.
Sự đền nợ nước của Trần Đ́nh Tự tôi kể lại hôm nay là do lời thuật lại của Đại Úy Xường – Tiểu Đoàn Phó TĐ38BĐQ. Anh cũng đă hy sinh trong trại tù CS Nghệ Tĩnh năm 1979. Tôi gặp Xường ở trại 8 Yên Báy năm 1977. Anh bị VC bóp cổ chết trong ngục thất v́ sau nhiều lần trốn trại anh đều bị bắt. Xường xuất thân từ khoá 22A Vơ Bị QGVN.
Người thứ hai thuật lại những giờ phút sau cùng của Cố Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự là người lính Mũ Nâu mang máy truyền tin cho Tự. Cùng bị tàn sát sáng 30-4-1975 một lượt với Tự và các anh em khác. May mắn, Đức Trọc – tên anh ta – bị thương giả chết chờ cho VC đi xa rồi ráng ḅ vào nhà dân, được dấu diếm băng bó, rồi thuê xe lam chở về Sàig̣n.
Thoáng đấy mà đă 25 năm, dân Việt Nam sống trong ḱm kẹp, đè nén của Cộng Sản. Người lính VNCH ở quê nhà chịu biết bao nỗi ê chề, cay đắng. Tự chết 25 năm, thân mẫu của anh có c̣n để giữ tấm ảnh của anh trên bàn thờ ? Vợ con anh nay ở phương nào? V́ năm 1976 vợ đem con về nương náu bên ngoại.
Xin cho Thiếu Tá BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ một nén hương truy niệm
wonderful
04-17-2019, 20:35
Cám ơn Hoàng Lan post bài nầy hay và cảm động quá ḿnh đọc mà khóc luôn.
hoanglan22
04-18-2019, 02:34
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1367478&stc=1&d=1555554769
Chiến binh Nhảy Dù Hoàng Ngọc Bảo sinh và sống tại thành phố Đà Lạt, từ nhỏ đến lớn Bảo đă học tại trường Ḍng A’ Dran (Tabert), sau đó đăng vô lính từ năm 1964, (khi mới vừa 18 tuổi), và ở trong Lữ-đoàn III Nhảy Dù. Mặc dù Bảo bị cha mẹ, và cô bồ xinh xinh phản đối kịch liệt, Bảo vẫn biết mạng sống con người rất qúy trọng và cần thiết. Chiến trường th́ nguy hiểm gian khổ dường bao. Nhưng Bảo vẫn hân hoan vui vẻ lao mình đến với đồng đội. Bảo được chuyển qua Tiểu-đoàn Tác-chiến Hữu-cơ, trực thuộc Đại-đội 3 Nhảy Dù, và thỉnh thoảng Bảo đổi đi nhiều nơi khác trong toàn miền Nam Việt Nam.
Bảo từng bị thương ba lần: Lần đầu tiên vào năm Mậu Thân khi Bảo đang nhảy từ trên trời xuống mục tiêu tại miền Trung, th́ Bảo bị bắn lủng ruột, bị mỗ, Bảo được cứu thương nằm trong bệnh viện Cộng Hoà ba tháng. Hai năm sau, lần thứ nh́ từ trên cao nhảy xuống đất Bảo bị bắn xuyên qua phổi, may mà không vào chỗ hiểm. Bảo lại được cấp cứu vào bệnh viện nằm trị liệu mấy tháng. Rồi Bảo lại trở ra đơn vị Nhảy Dù, tiếp tục sống cuộc đời giang hồ phong sương qua bốn bể “nhảy”, do Bảo vẫn yêu mến binh chủng: “Nơi nào cần, Nhảy Dù có. Nơi nào khó, có Nhảy Dù”:
Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ư Chúa,
làm chân tay cho những người què cụt,
làm đôi mắt cho ai phải đui mù,
làm lỗ tai cho những người bị điếc,
làm miệng lưỡi cho người không nói được,
làm tiếng kêu cho người chịu bất công.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đồng lúa,
để đem cơm cho người đói đang chờ,
và đem nước cho người họng đang khô,
đem thuốc thang cho người đang đau ốm
đem áo quần cho người đang trần trụi,
đem mền đắp cho người rét đang run. (1*)
Lần sau Bảo cùng đơn vị oai dũng đă ra đánh chiếm nhà Ga Quảng Trị. Có nhiều đêm Bảo cùng bạn nằm ĺ tại Cầu Ḷn, họ lần ṃ đi trong đêm khuya, qua nghĩa điạ Trí Bưu u ám hoang tàn hắt hiu. Bảo lom khom cúi đầu đi dưới đường Duy Tân, rồi lính Nhảy Dù phối hợp cùng anh em lính Thuỷ-quân Lục-chiến oai dũng hào hùng đánh chiếm đại thắng cổ thành Đinh Công Tráng ở Quảng Trị ngày 6-6-1972. Trong trận nầy, đây là lần thứ nh́ Bảo bị đạn ghim vào bao tử, khi đại đội 3 Nhảy Dù tiến nhanh về Phá Tam Giang. Trước khi Bảo bị đau đớn ngất xỉu, Bảo đă nh́n sửng ngọn cờ vàng ba sọc đỏ phất phới lồng lộng trong gió tung bay trên nền trời xanh bao la. V́ đất nước quê hương và dân tộc con rồng cháu tiên, Bảo cũng như đồng bạn tận tụy hết ḷng hy sinh v́ Tổ Quốc, quyết bám lấy quê hương chiến đấu đến giờ phút cuối cùng.
Tôi cũng đôi khi nếm được
chút dư vị của chiến tranh
tôi gặp cả thương binh
từ hai phía
kẻ chống nạng, người ngồi xe lăn
kẻ mất tay, người sẹo đầu, vẹo cổ
họ buồn tủi v́ phải sống đời nghèo khổ
nhưng không thấy ai lên tiếng oán hờn
với họ, giữa chiến trường
“chuyện thường t́nh mũi tên ḥn đạn” (2*)
Do lần tham chiến cuối cùng, Bảo bị thương khá nặng, đạn lại ghim tứ tung và bị cụt một bàn chân bên phải, cụt lên gần tới dưới đầu gối, cộng với những vết thương cũ bị nhiễm trùng, toàn thân đầy vết thẹo, đau nhức bệnh tật liên miên… Bảo phải vào nằm ở bệnh viện Cộng Hoà và được các bạn đồng đội chia máu hoài, vẫn chưa thể khá. Bạn và Bảo bị chiến tranh vùi dập tan hoang, và đời tàn ác bỏ quên, hất hủi Bảo trong cơn hấp hối tột cùng đau. Biệt nghiệp nầy há chẳng qua Bảo vay của Đời quá nhiều, mà Đời trả chẳng là bao!!?
Thế rồi Bảo bị ném ra đường giữa ngày 1 tháng 5 năm 1975. Bảo lấm lét len lén chôm được sự sống lấp ló bên nghĩa trang Phú Thọ Ḥa. Người sống và kẻ chết -không phân biệt đối xử- đều san bằng, khai quật như nhau. Người sống nằm ngủ bên hố mồ kẻ chết bị kẻ đói móc lên t́m kiếm lấy quần áo (nếu có ṿng vàng!!!). Bất động. Có khác chăng ở chỗ là: Thương binh ấy c̣n có đôi mắt và trái tim rực lửa, luôn bị chao đảo ray rứt, dày ṿ, khi Bảo nh́n ông già, phụ nữ, trẻ con, bị tập trung đi bóp phân người, chân đạp cứt, vai gánh phân đi tưới rau xanh trên nông trường, mong lợi tức tăng gia, nhờ phân bón đặc biệt, thu hoạch mùa màng có cái ăn tươi tốt, để mừng thắng lợi chào đón dâng Bác và Đảng.
Trong khi Bảo và bạn chẳng khác chi:
Các anh, những người chiến thắng
súng dí sau lưng
đẩy tôi vào trại tập trung
rồi bằng những lời dối trá
trái tim vô t́nh
tia nh́n thù hận
các anh cướp mất của tôi
những tháng năm đẹp nhất cuộc đời
tôi có người bạn
đói ḷng moi mấy củ khoai
các anh đập nát xương bàn tay
măi măi mang thương tật
một người khác
lâu ngày thèm thịt
chụp vội con nhái bên đường
bỏ vào mồm nuốt chửng
báng súng AK
các anh lao vào ngực, vào bụng
cho đến khi con nhái pḥi ra
con nhái lúc vào màu xanh
lúc ra thành màu đỏ
tôi trở về trên đôi nạng gỗ (2*)
* * *
Ngọn đèn lù mù vàng vọt tỏa ánh sáng yếu ớt bên vệ đường cũ bao ngày cô liêu, cùng hàng cây khuynh diệp xác xơ dường như rụng hết lá. Ngoài ra, cảnh tiêu điều hoang phế xưa ở khu C, thuộc Ấp Dân Thắng, Thành Ông Năm nầy vẫn như cũ. Hầu hết trẻ con trong xóm tôi đều thất học, trẻ con đang đứng chênh vênh bên bờ vực thẳm của sự tăm tối mù lòa chữ nghĩa. Và sự đói khát, nghèo hèn rách rưới, suy dinh dưỡng càng gia tăng. Thỉnh thoảng Bảo từ trên khu nghĩa trang Phú Thọ Ḥa xuống Thành Ông Năm thăm chúng tôi. Các con tôi rất qúy anh họ của chúng, Bé Tu mừng rỡ ôm chầm lấy anh, vui vẻ nói:
- Anh có khỏe không?
- Nh́n anh, th́ em biết rồi.
- Chân cẵng ruột và bao tử của anh, ra sao rùi?
- Chân cụt nè. Lũng ruột nè. Bao tử đau liên miên. Em c̣n muốn hỏi ǵ nữa?
- Thật khổ thân anh. Đó là cái đại nạn của anh.
- Đời mà em.
- Anh bỏ hút thuốc đi, là vừa!
- Sao vậy?
- Hại sức khỏe lắm.
- Em nói chuyện đến hay. Chỉ vài hơi thuốc lào, mà bệnh sao?
- Anh sẽ ho lao, giảm tuổi thọ nữa.
- Sống chết có số. Anh chẳng c̣n tin gì.
- Đau ốm đủ thứ như anh, phải uống sâm cao ly, mới kéo dài tuổi thọ à.
- Chuyện! Vậy chớ đứa con nít mới sanh, chẳng may nó ngoẽo, chắc tại nó ưa hút thuốc lào, và không uống sâm i,́ ha em?
- Anh nầy thiệt á.
Bé Tồ bu vào lưng, bắt anh cơng:
- Nhà giàu họ uống sâm đầy ra đó. Anh Bảo.
- Vậy họ có thoát chết không nà?
- Anh thèm thuốc lào, nên nói tào lao vậy mà.
- À há! Bây chừ anh c̣n chi để thèm hơn, là thèm hít. Anh mừng khi các em đã có ít hành trang: vào đời đắng cay, chua xót. Em cứ mạnh dạn tỏ bày. Có thể anh sẽ nghe lời khuyên hữu ích.
- Anh phải nghe, không th́ anh chết là cái chắc!
- C̣n ǵ nữa đâu em, anh chả c̣n ǵ để luyến tiếc với đời!
Nghe mà nghẹn đắng xót xa chua chát cơi ḷng tôi. Thỉnh thoảng Bảo cũng như tôi, có lên Sài G̣n gia nhập vào đám “Thương-Binh Du ca da cu bè” của các anh lính què cụt (của nhiều binh chủng đơn vị hợp thành). Ông bà cô bác đi chợ thường ghé lại coi chúng tôi trình diễn. Họ vui đùa có ngụ ư gọi chúng tôi là: “Thương phế Binh Ngũ Linh”, hoặc nhóm “Bè da cu du ca”. Cái tên ấy do dân đặt ra, vậy mà nghe thật là chí lý! Bây giờ những thương binh ấy chỉ c̣n da bọc xương, trên răng dưới dái, thân thể là nơi tập họp những thứ tật nguyền: mù chột, cụt tay, cụt chân, lũng ruột, c̣n băng đầy máu. Họ bị quăng ra khỏi y-viện, chỉ có trên răng rụng dưới teo tóp... th́, chả còn da với cu là gì! chả c̣n ǵ. Thật chẳng c̣n ǵ! Lính chiến trận trở về sau ngày mất nước không t́m thấy gia đ́nh, không thân nhân, mất tin tức không liên lạc, mọi người tan tác trên mọi ngă đường, th́ lính lê lết chống gậy đi t́m họ từ các vùng khỉ ho c̣ gáy, nơi thâm u cùng cốc: chỉ có muỗi, ruồi trâu, vắt, đĩa, hút máu người, và luôn truyền cho bệnh cấp tính sốt rét da vàng cao độ, ho lao, thổ tả, kiết lỵ triền miên. Cho đến lúc tàn hơi mà toi mạng cùi! Họ phải lê lết hành khất từ vùng kinh tế mới nơi chó ăn đá, gà ăn muối, bò lê bò la rị mọ lặc lìa lặc lọi về tới thành phố. Nào ngờ họ lại lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, ăn xin ở ngoài đầu đường, ngủ ở xó chợ! Những thương binh ấy đã bỏ lại một bàn chân, một cánh tay, một hai con mắt trên vùng giao chiến hung tàn. Họ trở về dưới mái nhà xưa thì biếng nói, không cười, sống lặng lẽ âm thầm, dày ṿ, đớn đau mà nghiến chạt hai hàm răng nức nở, suốt ngày họ lầm lì đăm chiêu suy tư trong dòng sông chảy xiết riêng ḿnh mệt lã và phiền muộn.
Nhưng có anh lính nào may mắn c̣n gia đ́nh, th́ các bà mẹ, bà chị, vợ con của họ thế nào họ cũng vui mừng, hớn hở lăng xăng quanh thằng con trai tật nguyền cùng khắp. Bà mẹ mủi ḷng mừng con trở về và vui hơn bắt được ngọc ngà. Lính què cụt đui mù phải đùm túm nương tựa vai vợ con, với cha mẹ già, thương mến an ủi nhau mà lây lất sống. Ngày trước họ đi lính, do chiến tranh tàn nhẫn gậm nhấm hết cơ thể. Nay th́ người lính chột đi đạp xích lô. Người cụt bán bánh ḿ, bán vé số, người mù đi xin ăn. Họ vừa rao, vừa đánh đàn, thổi sáo, gỏ trống hát dạo.
Tao cụt một chân, mất một tay
Nhưng c̣n một tay
Để viết thơ dùm cho thằng mù hai mắt
Nghe nói ở xứ người chúng mày "cày" như trâu
Nhưng không quên đồng đội
Chia đô-la cho chúng tao, như chia máu ngày nào...
Tao cũng sớt cho mấy thằng bạn: phế binh Việt Cộng!
Chúng cũng què đui sứt mẻ như nhau
Bởi Đảng của chúng bây giờ là lũ đầu trâu... (3*)
Họ đã bầu tôi: Trong đám mù-chột nầy, thì chỉ có chị là có vẻ “dễ nh́n” hơn hết; mong chị làm vua cho đám “lu xu bu” kia nha. Chị Mười!
- Các anh ơi! Các anh nào biết, tôi đă mang bệnh trầm-kha bất khả tri-luận, c̣n đau đớn gấp trăm lần phế binh nữa ấy, các anh à.
Chúng tôi ca toàn những bản “nhạc vàng”, hay nhạc “đồi trụy”, nhạc tù. (khi không thấy bóng dáng bọn “công an áo vàng”). Thật tức cười, nhạc mà cũng có màu sắc vàng, đỏ, xanh, nữa há? Thật ra mấy anh kia ca bè rất hay. Càng hay tiền càng nhiều “bổng lộc” do dân thương mà giúp. Có những lần nhóm tôi đang hát nhạc tiền chiến, nhạc tù ca, th́ thấy công an đi trờ tới, (công an có lệnh diệt tận gốc: “Trí, phú, địa, hào” mà)! Anh thương binh Mẫn có bàn tay thật trong chiếc găng tay da, rất nhạy bén nhanh miệng, anh liền chuyển tông qua bài hát tếu hài ngay. Mẫn vừa khua tay múa kiếm làm tṛ, thật vui tai, vui mắt, ai nghe cũng nực cười:
- Bác Hồoo… cho em cây viết. Em vẽ con dao găm, em đâm thằng lính Mỹ. Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra, con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó, con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi Thanh Niên Xung Phen. Em theo chủ nghĩa siêu Việt phồn vinh cuả Móc-Cu Ra Đớp ở Liên Xô. Hỡi..oi ơi… đồng bào! Hăy đi Thanh niên xung pheng. Tùng Tùng Tùng!!! Bảo vệ tổ quốc! Bèng béng bèng!!! Từng tứng tưng… tằng tắng tăng...
- Ủa! Cổ động viên! Hoổ…ong có ai dỗ tay cả hé?
Thương binh Bảo nhanh nhẫu chế-biến câu ca tiếng Việt liền tiếng Pháp, vì hồi nhỏ đến lớn khôn, Bảo đã học ở trường dòng A’ Dran tại Đà Lạt, nên nói tiếng Tây pha tiếng Việt; nghe như gió thật.
- À Á a Le moi sensibe = cái tôi tình cảm. Ám sát tinh thần = assasitnat moral. Đời! C’est la vie! T́nh tinh tang! C’est la mour. Thầy chùa sans cheveux. Bà xơ sans cooc xê, end sans xi-níp!! Ha ha ha!!!
Bảo còn kêu tên các ca sĩ nổi danh ở thập niên 70 ra “ca” có âm điệu và khảy đờn trống rùm beng… từng tứng tưng…, bùm búm bum... bèn béng beng…:
- Johnny Halliday… O oh ho… Sylvie Vartant… É é é… Francoise Hardy. Vicky Leandros nổi tiếng L’amour c’est pour rien… từng tứng tưng… Oh! Mon Amour. Ối ối a… Poupée de cire poupée de son. Bùm búm bum… Adieu jolie Candy…. Là lá la… Aline. Christophe. tằng tắng tăng… La vie c’est une histoire d’amour… chát chát chát… tùng tùng tung… phèng phéng phèng…
Thiệt là tầm bậy tầm bạ, ngố ngáo ngu ngơ vớ vẩn hết sức ba xàm ba láp! Thế mà khán giả b́nh dân thích thú, khoái trá cười rõ to nghe "rất đễu"..., nụ cười bằng mười thang thuốc bổ mà. Họ vổ tay rần rần… rầm rầm rầm… bụp bụp bụp! Họ hể hả bỏ tiền lẻ vô chiếc mũ vải. Cứ thế, chúng tôi cúi đầu lạy tạ, san sẻ, bù qua sớt lại cho nhau, mà sống trong đậm đà tình nghĩa thành thật mến thương hèn mọn. Tôi có bổn phận vừa “ca-bè” vừa cầm mũ vải đi xin tiền quư vị khách thập phương hảo tâm. Có người nhận ra ḿnh:
- Oai Oái! Không ngờ bà ấy ngày xưa lừng danh là một hoa hậu, giàu sang và tri thức. Nay bà ta lê lết làm kẻ ăn mày, coi ḱa!
Thực ra, bây giờ trong chế độ nầy, tôi đang ch́a nón đưa tay ra lạy ông đi qua, lạy bà đi lại, ngỏ hầu xin tiền bố thí, thì có hơn ǵ ả ăn mày nào! So sánh phận hèn tôi ở xă hội nầy, có cái ǵ khiến tôi mủi lòng, se se từng cơn quặn thắt nghẽn đắng trong lồng ngực cuồng quay. Có cái ǵ đau đau, cay cay xót xót đắng nghét trên bờ mi tôi vụng dại? Sao ông Trời nỡ đi chơi đâu vắng, không cúi xuống nh́n đời chút xíu, sao tôi không lột xác, không biếng dạng méo mó ít nhiều, cho ḿnh đỡ xấu hổ ha? Tôi và nhóm thương binh chế độ cũ bị Đời quên lãng vẫn âm thầm lặng lẽ, nhẫn nhịn âm thầm chịu nhục mà ḅ lê trên đường cần cù kiếm sống.
Cho đến ngày 6 tháng 2 năm 1985, tôi đang làm cỏ ngoài ruộng, th́ Bảo leo xe đ̣ xuống Thành Ông Năm cho biết tin: tại chợ Bà Chiểu đă diễn ra trận đấu đá kinh hoàng giữa “công an và phế binh đỏ”, (phế binh đỏ, chứ không phải phế binh “du ca da cu bè”). Công an đă bắt đám đờn ca “phế binh đỏ”. V́ “đỏ” mà họ chuyên hát toàn nhạc “vàng”, hát nhạc vàng mới ăn khách, tức là “Ngụy” rùi! Thành thật mà nói th́ “nhóm đỏ” kia họ có tài khảy đờn ca hát giọng Bắc nghe cũng hay. Đồng bào đứng ngồi tám lớp ṿng trong ṿng ngoài, say mê thèm khát nghe “nhạc vàng”. Công an như ṿng siết của Kremlin, luôn vươn tỏa ṿi bạch tuột ra, quấn lấy “nhóm phế binh đỏ” và rượt người dân ngu khu đen chạy té khói. Họ có đủ quyền hành để thao túng, dân có chạy đi đâu vẫn không thoát. Ấy là tôi đang nói từ những thập niên 75- 85 í nha. Công an là ông trời con, ưa tùy tiện bắt giam, khảo xét, lục soát bất kỳ nơi đâu họ muốn. Dính dáng tới họ, chỉ có nước đi tới đường cùng, chết treo trong cùm, hoặc mất tích mất tang thân thể.
Trong Điều 7 của Đạo Luật Rome đă định nghĩa: “Tội thủ tiêu mất tích Người” (Enforced Disappearance of Persons) như sau: Thủ tiêu mất tích người có nghĩa là: bắt giữ, giam giữ hay bắt cóc người ta với sự cho phép, sự hỗ trợ hoặc sự chấp thuận của một quốc gia, hoặc một tổ chức chính trị. Sau đó không nh́n nhận sự tước đoạt tự do của người ta, cũng không thông báo tin tức về số phận hoặc nơi giam giữ, với chủ tâm tước đi quyền được luật pháp bảo vệ của những người này trong một thời gian lâu dài. (Enforced disappearance of persons means the arrest, detention or abduction of persons by, or with the authorization, support or acquiescence of a State or a political organization, followed by a refusal to acknowledge that deprivation of freedom or to give information on the fate or whereabouts of those persons, with the intention of removing them from the protection of the law for a prolonged period of time.)
Thế là từ đó nhóm “Bè du ca da cu” của chúng tôi mất đất sống, tan hàng rã đám, biệt tích giang hồ! Khổ …khổ hết biết! Khi nạn cướp bóc giựt dọc luôn xảy ra tại các khu thị tứ, các trạm xe bus. Người ta bị cướp trắng trợn, giật sạch, mất trắng tay chẳng c̣n ǵ. Ai có la làng, khóc lóc, có nhảy tưng tưng, thì cũng huề cả làng. Đôi khi công an đi qua đó cũng ghé lại, làm biên bản lấy lệ. Người bị cướp đứng xớ rớ, công an điệu về bót cung khai lư lịch, rồi xù x́ bỏ đi. Bù trớt (chính tôi đă từng bị mất sạch).
Đồng thời lúc nầy nạn thanh niên nam nữ ốm đói nghiện x́ ke, chích ma túy công khai trên các con hẽm ở Bàn Cờ, bên khu G̣ Vấp, Khánh Hội... ôi thôi không thể đếm hết. Có vài lần t́nh cờ đi qua khu nhà Phùng, tôi đă trông thấy nơi góc hẽm vào một sáng sớm có ba bốn thanh niên đang dùng chung một ống chích. Tên con trai cầm cây kim tiêm thuốc xong, đưa cho một tên bạn đã ngồi bệt xuống đất, hắn lấy sợi dây lưng quần cột chặt cánh tay trái, và chụp nơi tay thằng đang cầm cây kim, và tự nó lụi vào tay ḿnh, máu từ mũi cây kim tuông ra thành một ḍng dài trên cánh tay hắn, không có bông g̣n và thuốc sát trùng sát triết chi. Một tên khác h́nh như thiếu thuốc, hay đến cơn ghiền dữ dội, đă nằm vật ra bên lề đường, hắn sùi bọt mép, tay chân co giật. Tôi hoảng hồn mất vía, lo sợ tột cùng, vội vàng lủi đi thật nhanh.
Từ khi chộn rộn sau năm 1975 bỗng đâu lại sinh ra nhiều bọn dé dé choai choai đi đứng le te, ỏng ẹo, giọng nói ồ ồ, râu ria lởm chởm, nhưng chúng lại mặc đồ đàn bà, mặc xú chiên giả nhồi độn ở ngực hai quả bóng nhựa. Chúng thoa son dồi phấn, kẽ lông mày, trông bọn nhỏ cũng xinh xắn. Bọn “bóng lại cái” nầy đa số là con nhà khá giả, thỉnh thoảng tập trung ở B́nh Triệu, chẳng hiểu sao chưng diện rất đẹp ưa giả dạng “nữ nhi đào tặc”, để trốn không đi Thanh Niên Xung Phong, hoặc bị bắt đi Nghĩa Vụ Quân Sự. Thế là nạn đồng tính luyến ái rần rần xảy ra, lan từ thành phố Sài G̣n về tận các miền quê. Mới đầu con trai tôi tưởng bọn họ là con gái mặt hoa da phấn phè phỡn thật, (khi có đoàn hát trên Sài G̣n về trong Xă, thường có mấy en “Gay”) con tôi cũng xề lại rù rì hủ hỉ ríu ra ríu rít chuyện trò vanh vách, thân mật da diết! Nhưng khi con trai tôi bị mấy tển là “bê-đê” cao lêu khêu đúng là “đực rựa”, tối đến khi tan văn nghệ, chúng cùng con tôi ngủ chung pḥng, (con tôi lúc đó vừa đi học lớp 12, vừa đi bán bánh ḅ, đi làm thuê dỡ nhà, dỡ tôn với chủ, đ xây nhà do chủ thầu mướn, con cũng đi đờn hát cho ban văn nghệ, kiếm sống) th́ nửa khuya đang say ngủ con bị một tên đẹp nhất trong bọn cạy miệng nút lưỡi, ṃ cu tới tấp. Con trai tôi hoăng sợ, la hét tung mùng ôm quần áo chạy chạy chạy... có cờ. Nhưng, cũng thật thà mà nói có nhiều “ẻm” trông yểu điệu thục nữ, mảnh mai, duyên dáng, xinh đẹp và ca hát, múa đèn, vũ múa điệu Thái, điệu Lào rất hay. Giọng ca các “en” nức nở trữ t́nh nghe khá tuyệt!
* * *
Ở trên cõi đời ô trọc nầy Bảo luôn bị những căn bệnh cũ hành hạ thân xác càng đau đớn và điêu đứng. Nay hoà b́nh về, dòng sông tình được thuyền đời trôi đi. Nhưng rồi cũng có khi thuyền bất ngờ bị sóng vùi dập, và lật úp thuyền! Bảo thật sự chới với khi bạn bè thân thuộc chiến đấu tri kỷ chỉ còn lác đác mấy người trên đầu ngón tay? Bảo không biết thổ lộ tâm sự cùng ai thông cảm, Bảo rất đau buồn! Có thêm cơn bệnh trầm kha ẩn dưới đôi lông mày khiến Bảo luôn nhíu lại... mà không có thuốc chữa.
Chuyện hồi xưa và ngày nay, Bảo vẫn c̣n mang trong trái tim cuồng nhiệt xót xa và thổn thức. Bảo biết đói khổ, đau đớn từng giờ, từng ngày. Nỗi đắng cay oan nghiệt, rền rĩ siết chặt giữa hai hàm răng khát khao nghiến lại. Sự đớn đau luôn cào xé dày ṿ tâm trí và thân thể Hoàng Ngọc Bảo, người lính trung thành với chính phủ Việt-Nam Cộng Hoà, đă không e dè đem thân xác ḿnh làm bục kê, làm bàn đạp, để người khác dẫm lên. Chiến sĩ ấy âm thầm lấy lưng đỡ đạn, cùng đồng đội quyết chí ở lại trên chiến tuyến, đến giờ phút quê hương lâm chung, mà van lơn người đă ra đi:
Hăy gửi về cho chúng tao vũ khí
Thằng cụt tay sẽ chỉ cho thằng mù mắt bấm c̣
Thằng c̣n chân sẽ cơng thằng què quặt
Trận chiến sau cùng này sẽ không có Dương Văn Minh (3*)
Dù tật nguyền cùng khắp Bảo vẫn còn đẹp trai, ăn nói duyên dáng, nhất là Bảo có tài kể chuyện đời lính “hùng hồn và mất hồn” đó đây rất hấp dẫn. Bảo kể chuyện tiếu lâm khá duyên dáng khiến người nghe say sưa. Nên ai ai cũng mến thương Bảo. Tôi vẫn gánh hai thùng phân thối um, trĩu nặng, cố lê từng bước trên con đê gập ghềnh. Nắng chói chang, tôi ra sức kiên nhẫn chịu đựng “tăng gia lao động tốt”, hầu mong chồng ở trong trại tập trung tù tội sớm được thả về, như Đảng đă hứa. Nhưng nghiệt ngă thay, chờ người người ở nơi đâu vẫn biệt tăm! Nhiều lần lội xuống hố phân người, chúng tôi đứng chưa vững, phải bám chặt lấy nhau cho khỏi ngă. Bùn và phân đặc sệt, ngập tới bắp chân, mọi người ngửa mặt lên trời, há hốc miệng mà thở. Hơi bùn, hơi phân tươi xông lên nồng nặc, trời nắng chang chang muốn ngộp thở, hôi thúi kinh khủng. Nước mắt tôi không trào ra mi, mồ hôi không thấm qua làn áo thô cứng sột soạt như mo cau, mà dội ngược vào tim, tạo thành chuỗi uất-hận dâng cao ngút.
Những tháng ngày khổ sở nghèo khó mỏi mệt như thế nầy, tôi đă xa Bảo, Bảo về Phan Rang rồi, tôi lại càng nhớ đến cháu Bảo thân yêu vô cùng! Sau năm 1998 Cuộc sống gia đình Bảo rất đạm bạc, bần hàn, nếu không nói là quá nghèo khổ nơi xứ chó ăn đá gà ăn muối. Bảo dựng tạm một căn cḥi bé nhỏ ngay sát khu nghĩa địa tại Phan Rang, một góc nhà bên hướng phải đã kê lên mấy ngôi cổ mộ. Chung quanh nhà Bảo toàn là mồ và mã. Ấy thế mà Bảo và vợ con họ không hề sợ ma. Có phải chăng từ khi đổi đời thì họ “sống” giữa “người chết”, coi bộ “âm ty địa tào” còn hiền lành hơn trên trần thế?! Hay là bởi tự cái số kiếp oái uăm, bắt Bảo phải sống “tử thủ” với mồ mă ông bà cha cố người đă chết!?
Bảo lui về quê vợ ở Phan Rang, sống ẩn dật (măi về sau nầy khi gia đình tôi đi Mỹ, tôi có chuyển cho Bảo vài ngàn, nên Bảo đã mua một chiếc xe cúp, Bảo làm nghề “xe ôm” bằng một chân giả, một chân thật, cộng với một mắt thật trông chừng con mắt giả, để nh́n rơ đời không giả tạo thêm)!!! Năm 2005 Bảo lâm trọng bệnh, gia đình Bảo có em trai ở Mỹ liên tục chuyển tiền hậu hỉ về nhà, để thân nhân đem Bảo đi ra đi vô Sài Gòn - Phan Rang không biết bao nhiêu lần. Căn bệnh trầm kha ấy đã gậm nhấm đào xới bào ṃn tướt đoạt đi của Bảo nhiều miếng thịt trong phổi trong tim, lây lan khắp thân thể Bảo, nó hoành hành ăn tươi nuốt sống Bảo mất rồi. Bảo bị mù cả hai mắt, không còn nhìn thấy Đời. Toàn thân và tay chân Bảo sưng phù, nhớt nhau nước nhờn chảy ra trên lưng đứa em ruột tên Toàn vẫn cơng Bảo đi ra đi vô bệnh viện.
Thế mà Bảo lặng lẽ không hề oán trách số phận quá tàn ác! Bảo đã không thể chịu đựng cơn đau đớn hành hạ thể xác lẫn tinh thần hơn, Bảo từ trần vào mùa Thu năm 2005. Trước khi lìa đời, trong cơn đớn đau kinh hoàng chới với mê săng, Bảo vẫn luôn miệng nhắc tới tên những vị chỉ huy, những đồng bạn vì tổ quốc và quê hương đã ra đi khỏi tầm mắt của Bảo. Nhưng họ không ra khỏi lòng Bảo, dù một giây phút nào; dù đôi mắt Bảo mù ḷa vĩnh viễn khép lại từ lâu, và lòng Bảo đã đóng chặt cửa. Nhất là Bảo chẳng khi nào có ý ngoảnh mặt phản bội quê hương, mà đi ra khỏi lãnh thổ Việt Nam có hình chữ S dấu yêu. Quê hương đã ôm trọn Hoàng Ngọc Bảo vào lòng. Đất mẹ không từ bỏ hất hủi Bảo bao giờ (khi mộng ước của Hoàng Ngọc Bảo đă không thành!) như Nguyễn Trường Tộ đă nói:
“Nhất thất túc thành thiên cổ hận.
Tái hồi đầu thị bách niên thân” .
(Một bước lỡ để ngh́n năm mang hận.
Ngoảnh đầu trông lại đă trăm năm). (*)
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hăn thanh. (**)
(*) Bảo dư biết ư đó nghĩa là: Từ xưa đến nay hỏi rằng ai không chết? Hăy để ḷng son chiếu sử xanh. Đây là hai câu Thơ tiếng Hán của một tướng lănh Trung Hoa, tên Văn Thiên Tường).
(**) Hai câu thơ sau của Nguyễn Công Trứ. Hoàng Ngọc Bảo cũng biết ư tác giả là: “người ta chưa chắc ai hơn ai, mà chỉ biết ai anh hùng, sau khi thời thế đă xảy ra”. Giống như bài thơ “Chiến Mă Ca” của anh tù “học tập cải tạo” Lê XuânN trầm uất ai oán; được anh tù “cải tạo” TrầnLViệt phổ thành nhạc rất tuyệt vời, (v́ có mấy lần Bảo đă về Hốc Môn ở lại nhà tôi cả tháng, Bảo nghe nhóm “Tù ca Xuân Lộc Z 30 A” của bạn chồng tôi đàn ca:
Vàng phai trên thanh gươm. Người mái tóc điểm sương.
Ngựa tung vó trong mưa buồn trên quê hương sầu thương.
Đường mây vỡ tan thành mộng cô đơn c̣n mơ sa trường.
Bóng xô nghiêng hoàng hôn.
Mài gươm trong cô đơn người nuốt những hờn căm.
Ngựa nuôi móng non thay bờm trên quê hương cuồng phong.
Đường xa dẫu xa muôn trùng trong đêm nay
Ngựa phi sa trường bóng dơi bóng quê hương.
Chiến mă tiến đến sát ḍng sông
đêm quê hương mênh mông
sao chưa hừng đông?
Chiến mă rất khát nước trong
trên quê hương tang thương.
Ai qua trường giang !!! ??? (4*)
* * *
(1*) TP
(2*) Phạm Đức Nh́
(3*) Nguyễn Cung Thương
(4*) Trần Lê V & Lê XuâN...
_ _ _ _ _
TtTm: Gửi vong linh cháu ruột: Dominico Hoàng Ngọc Bảo
Lính Nhảy Dù thuộc Lữ Đoàn III –
* * *
thh
hoanglan22
04-19-2019, 02:23
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1368136&stc=1&d=1555640550
Trung Tá Lục Quân Hoa Kỳ: Phạm Phan Lang
Người Việt hải ngoại, có lẽ ít ai được biết: Người phụ nữ Mỹ gốc Việt mang cấp bậc Trung Tá đầu tiên của Quân Lực Hoa Kỳ, là phu nhân của một cựu Thiếu Tá Hải Quân VNCH, di tản sang Mỹ cùng chồng và ba đứa con vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam : Trung Tá Lục Quân Lang Phan Phạm (đă nhận thông báo sẽ thăng cấp Đại Tá, trước khi xin về hưu).
Phạm Phan Lang sinh ra và cả một thời tuổi thơ sống cùng gia đ́nh ở Nha Trang, theo học tại trường Nữ Trung Học và Vơ Tánh. Nha Trang là thành phố biển thơ mộng, nơi có hai quân trường nổi tiếng: Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân và Hải Quân, với những chàng trai hào hoa theo nghiệp kiếm cung, chọn cuộc đời bay bổng và hải hành. Những chàng trai này đă một thời khốn khổ trái tim bởi bao nhiêu người đẹp của Nha Trang. Thời ấy, dường như những cặp t́nh nhân SVSQ Hải Quân và Nữ Sinh Trung Học Nha Trang là những đôi t́nh nhân làm đẹp phố phường nhất. Trong số đó có đôi uyên ương Phạm văn Diên và Phan Thị Lang. Ngày ấy Lang là một cô bé khá xinh, tính t́nh hiền dịu dễ thương, nên mới học Đệ lục là đă làm mê mệt chàng SVSQ họ Phạm. Cuộc t́nh kéo dài măi đến khi Lang đậu xong tú tài 2 (năm1969) hai người mới làm đám cưới.
Anh Phạm văn Diên tốt nghiệp khóa 14 HQ (Đệ Nhị Kim Ngưu), trước ngày 30/4/75, mang cấp bậc Thiếu Tá và chỉ huy một chiến hạm PGM615 (loại nhỏ). Vào nửa đêm 29.4.75, Thiếu Tá Diên đưa chiến hạm rời khỏi Việt Nam, mang theo vợ, 3 đứa con nhỏ, 1, 3 và 5 tuổi, cùng cha mẹ già trên tuổi 70 và cậu em vợ, đang theo học đại học Luật Khoa Sài G̣n. Ngoài gia đ́nh, trên tàu c̣n có thủy thủ đoàn và khoảng hơn 150 người tị nạn khác. Chiến hạm của Thiếu Tá Diên vừa tham dự các cuộc hành quân tàn khốc cuối cùng tại Huế, Quảng Trị,Vùng I, chưa kịp sửa chữa, bảo tŕ, nên lúc ra khơi bị hư hỏng và nước tràn vào, nhưng may mắn đă được cứu bởi một tàu HQ khác mà Thiếu Tá Diên đă liên lạc được. Cũng trên chuyến đi này, gia đ́nh bị mất hết tư trang, vàng bạc mang theo, nên lúc lên bờ chỉ c̣n hai bàn tay trắng.
Cũng như nhiều gia đ́nh khác, thời gian đầu đến Mỹ rất vất vả, vợ chồng Thiếu Tá Diên phải làm đủ nghề để sống: thợ mộc,thợ hồ, rửa bát đĩa cho nhà hàng, tiệm ăn, dạy Anh ngữ cho trẻ em Việt Nam ở một trường Tiểu Học, nhổ cỏ trong những cánh đồng cà, hái trái cây, trông nom một trại gà với hơn 60.000 con. Với tính kiên nhẫn và nghị lực, cả hai vợ chồng và cậu em vừa làm vừa theo học chương tŕnh đại học tại University of Maryland, Eastern Shore.
Đường Vào Binh Nghiệp
Năm 1980, chị Phạm Phan Lang đậu được cùng lúc hai bằng Cử nhân, trong đó có bằng Nutrition and Dietetics (Dinh Dưỡng Học). Muốn làm việc trong ngành này, cần phải qua một khóa Thực Tập Dinh Dưỡng ( Dietetic Internship). Chị Phạm Phan Lang đă nộp đơn xin thực tập ở một số trường đại học, trong đó có cả Chương Tŕnh Thực Tập Dinh Dưỡng của Lục Quân Hoa Kỳ (US Army Dietetic Internship).
Lúc bấy giờ, chương tŕnh Thực Tập Dinh Dưỡng của Army đ̣i hỏi khá nhiều điều kiện khó khăn: điểm trung b́nh tối thiểu là 3.5, phải là công dân Hoa Kỳ, phải dưới 30 tuổi, phải có ít nhất là 3 lá thư giới thiệu, cùng một số điều kiện khác. Trong số những điều kiện này, ít nhất có hai điều chị Phạm Phan Lang không có, đó là quốc tịch Hoa Kỳ và đă trên tuổi 30. Tuy nhiên, do trường hợp khá đặc biệt và có lẽ do thán phục nghị lực và khả năng của một người đàn bà tị nạn, cuối cùng chị đă được chấp nhận vào chương tŕnh này. Đây là một trường hợp ngoại lệ đặc biệt mà theo chị, măi đến sau này, vị Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng của Army Dietetic Internship đă cho chị biết.
Mặc dù lúc ấy, chị Phạm Phan Lang cũng được nhận vào thực tập ở một số trường đại học khác, nhưng chị đă chọn Chương Tŕnh Army này. Chị cho biết, chị chọn Army không phải v́ chị yêu đời lính, hay “muốn đi lính”, mà chỉ v́ những lư do rất đơn giản: chương tŕnh thực tập rất tốt, nổi tiếng, dễ dàng t́m việc làm sau khi rời quân đội, cả gia đ́nh được hưởng quyền lợi, và nhất là chỉ phải “đội mũ lính và mang lon” có 3 năm. Sau đó, nếu muốn, có thể xin giải ngũ. Đă có hơn một trăm đơn xin vào chương tŕnh này, nhưng cuối cùng chị nằm trong số 10 người được chọn. Chị khiêm nhường cho là may mắn, nhưng tất nhiên điều quyết định vẫn là do khả năng, kết quả bao năm kiên nhẫn học hành của chị.
Chị Phạm Phan Lang bắt đầu binh nghiệp bằng cấp bậc Thiếu Úy. Hai tháng đầu tiên được thực tập quân sự tại quân trường Fort Sam Houston (FSH), San Antonio, Texas. V́ là ngành Quân Y, nên những thực tập quân sự rất nhẹ so với những binh chủng khác. Tuy nhiên, chị cũng phải tập bắn các loại súng, trèo đồi, lội suối, tập trận, hành quân, đọc bản đồ, sử dụng địa bàn một ḿnh giữa rừng sâu.
Sau một năm thực tập Dinh Dưỡng tại Brooks Army Medical Center (BAMC), FSH, San Antonio, TX, chị tốt ngiệp, được thăng cấp Trung Úy và nhận nhiệm sở đầu tiên tại Moncrief Army Medical Activity, Fort Jackson, Columbia, SC. Và cũng tại đây một biến cố lớn đă xảy ra mang đến điều bất hạnh lớn lao nhất cho cuộc đời của chị sau này… Columbia là thủ phủ của Tiểu Bang South Carolina, có khoảng 300-400 người Việt định cư lúc bấy giờ. Thời ấy người Việt sống rải rác trong thành phố Columbia và các thành phố phụ cận như Greenville, Charleston, Myrtle Beach, Charlotte, Atlanta… Mọi người đều cố gắng làm việc để hội nhập và thích nghi với đời sống mới, nên chẳng ai quen biết, tiếp xúc nhiều với ai. Vợ chồng anh chị Phạm văn Diên & Phạm Phan Lang đă cùng một số thân hữu tích cực vận động thành lập Hội Ái Hữu Người Việt đầu tiên ở Columbia, mở trường dạy Việt Ngữ, tổ chức những ngày lễ hội truyền thống như Giỗ Tổ Hùng Vương, Tết Trung Thu, Tết Nguyên Đán v.v.., gây quỹ cứu trợ thuyền nhân, tranh đấu cho nhân quyền, tự do ở Việt Nam. Cựu Thiếu Tá Diên hoạt động rất hăng say (chị Phạm Phan Lang chỉ hỗ trợ tích cực sau lưng, v́ Quân Đội Hoa Kỳ không cho phép quân nhân tham gia vào bất cứ hoạt động chính trị nào). Phu quân của chị, anh Diên, đi khắp các thành phố lân cận, giao kết bằng hữu, giúp thành lập các Hội Ái Hữu địa phương, nêu cao tinh thần chống Cộng…
Biến Cố Lớn Trong Đời
Hôm đó là ngày lễ Độc Lập Hoa Kỳ, July 4, 1985. Lúc này chị Phạm Phan Lang đang ở trong Quân Đội Hoa Kỳ được gần 5 năm và mang cấp bậc Đại Úy. Khi nhận được Sự Vụ Lệnh thuyên chuyển về lại BAMC, FSH, TX, chị dự định đây sẽ là nhiệm sở cuối cùng của chị. Sau khi chấm dứt quân vụ ở nhiệm sở này, chị sẽ xin giải ngũ. Mấy ngày trước Lễ July 4, gia đ́nh anh chị rất bận rộn tham dự tiệc tùng do các bạn hữu ở Columbia và các thành phố lân cận tổ chức tiễn đưa, hơn nữa chị đang trong thời kỳ học thi tốt ngiệp Thạc sĩ (Master Degree), nên chị khá mệt mỏi. Nhưng v́ nể lời mời của một người bạn, cựu Trung Tá HQ ở Charleston, SC, vợ chồng anh chị nhận lời tham dự một buổi tiệc picnic ở bờ biển Foley Beach, SC. Chỗ này cách Columbia, nơi gia đ́nh anh chị ở, khoảng 3 giờ đồng hồ lái xe. Cùng với gia đ́nh anh chị 5 người, c̣n có 4 gia đ́nh khác. Tổng cộng có 5 cặp vợ chồng và 13 đứa trẻ con, tuổi từ 9-15. Lúc ấy trời c̣n sớm, khoảng 8 giờ sáng, trên biển không một bóng người, ngoại trừ họ. Và tại nơi đây tại nạn đă xảy ra.
Mười ba đứa trẻ con vừa thấy biển đă nao nức chạy ùa ra bơi lội. Nước bên bờ biển lúc ấy mới cao bằng đầu gối. Các ông bố cũng vội vàng theo mấy đứa nhỏ, vừa để trông chừng vừa sửa soạn mắc mồi câu cua. Đàn bà th́ lê mê khiêng thức ăn, nước uống từ trên xe xuống. Bỗng có tiếng kêu cấp cứu từ biển vọng vào, chị hoảng hốt nh́n ra, th́ hỡi ôi, 13 đứa trẻ đă bị sóng ngầm (undertow) cuốn ra xa, và mấy ông bố đang vội vàng bơi ra để cứu con. Chị Lang không biết bơi, nên vội vă chạy ngược vào bờ một quăng khá dài, kêu cứu. Nhưng trời c̣n sớm quá, và khu này v́ nổi tiếng nguy hiểm sóng ngầm (sau này mọi người mới biết) nên chẳng có ai ra biển. Kêu cứu một lúc không được, chị vội chạy trở lại biển. Lúc ấy một vài đứa trẻ lớn tuổi hơn đă bơi vào hoặc được mấy ông bố đưa vào bờ. Đang lúc dáo dác t́m kiếm mấy đứa con, chị thấy một người đàn bà Mỹ, không biết ra biển lúc nào, đang h́ hục kéo anh Diên, chồng chị, lên bờ. Hai mắt anh nhắm chặt, mặt tái nhợt, môi tím ngắt và dường như không c̣n thở nữa. Dù kinh hoàng, đớn đau và sợ hăi, nhưng với những kinh nghiệm và b́nh tĩnh của một người lính, chị đă cố gắng làm hô hấp nhân tạo cho anh, được một người bạn bác sĩ trong nhóm phụ giúp, nhưng phu quân của chị vẫn không hồi tỉnh. Khi đưa vào bệnh viện Charlerston, vị bác sĩ cấp cứu, sau khi khám và thử nghiệm EEG (electroencephalogra m), đă buồn bă cho chị biết : “Ông nhà đă bị ch́m xuống biển khá lâu, trên 10 phút, nên năo bộ không c̣n làm việc nữa (irreversible brain damage), xin chị đừng nuôi hy vọng”.
Một tháng sau, anh Diên đă trút hơi thở cuối cùng tại bệnh viên quân sự nơi chị làm việc ở Fort Jackson, SC. Anh ra đi để cho đứa con gái út, lúc ấy 11 tuổi, và hai đứa bé nữa, 9 và 12 tuổi, được sống. Nếu chỉ muốn cứu một ḿnh đứa con gái của ḿnh, anh đă có thể làm được, nhưng anh không nỡ ḷng bỏ cả bốn đứa bé đang cố bám víu vào nhau để khỏi bị sóng đánh trôi đi. Anh đă cố cầm cự đưa bốn đứa bé vào gần bờ, nhưng bị các em ôm chặt lấy anh, v́ uống nước quá nhiều và sợ hăi đến cùng cực, không chịu buông tay chân anh ra. Cuối cùng, không chống chọi được, anh từ từ ch́m xuống ḷng biển trước đôi mắt đớn đau kinh hoàng của đứa con gái. Và v́ không c̣n chỗ để bám víu, nên một đứa bé gái khác, 11 tuổi, bị sóng biển đánh dạt ra xa, măi đến mấy tiếng đồng hồ sau mới t́m thấy xác.
Báo chí đă ca tụng, mọi người đều ngậm ngùi ngưỡng mộ anh như một anh hùng. Thượng Nghị Sĩ South Carolina lúc bấy giờ, ông Strom Thurmond, đă ban bằng tưởng thưởng. Nhưng tất cả những thứ ấy đều vô nghĩa đối với chị Lang, bởi chị đă mất vĩnh viễn người chồng yêu quí của chị, ba đứa con trong tuổi dại khờ của chị đă không c̣n người cha thương yêu gương mẫu. Không có điều ǵ có thể thay thế được.
Một khúc quanh trong binh nghiệp
Chị đă xin hủy bỏ Lệnh Thuyên Chuyển về Texas và xin ở lại Fort Jackson thêm một năm nữa để có thể sớm hôm lui tới mộ chồng. Trong quân đội Hoa Kỳ, kể cả ngành Quân Y, thông thường th́ cứ mỗi 3 năm, một Sĩ Quan được chuyển đến nhiệm sở mới. Chị được ở lại Fort Jackson đến 5 năm. Đây cũng là một trường hợp ngoại lệ đặc biệt khác. Chị cũng bỏ ư định giă từ quân ngũ. V́ bây giờ, quân đội là nhà của chị, đă che chở và cưu mang chị, cho chị phương tiện tài chánh để nuôi các con ăn học nên người. Quân đội cũng đă rèn luyện chị trở thành một người có can đảm và nghị lực hơn để chống chọi với bao nhiêu thử thách của cuộc đời mà chị vừa mới trải qua cũng như đang chờ trước mặt.
Thời gian thấm thoát trôi qua, chị đă phục vụ trong ngành Quân Y Lục Quân Hoa Kỳ được 22 năm. Trong khoảng thời gian này chị đă thay đổi nhiệm sở 7 lần, Ngoài Fort Sam Houston, TX, và Fort Jackson, SC, chị đă đổi về các bệnh viện ở Fort Gordon,GA; Fort Huachuca,AZ; Fort Ord,CA; Madigan Army Medical Center, WA; Landstuhl Regional Medical Command, Germany; và cuối cùng là Tripler Army Medical Center ở Hawaii. Tại đây, công việc của chị là điều hành Phân Khoa Dinh Dưỡng (Director, Nutrition Care Division) với trên 100 nhân viên dưới quyền, vừa sĩ quan, hạ sĩ quan và dân sự. Ngoài ra, chị c̣n có nhiệm vụ Cố Vấn và Giám Sát những phần hành Dinh Dưỡng trong các đơn vị Lục Quân trú đóng ở Thái B́nh Dương, đặc biệt là Nhật Bản và Nam Hàn ( Nutrition Consultant, Pacific Region). Và cũng ở nhiệm sở này, năm 2002, chị Phạm Phan Lang nhận được Thông Báo sẽ thăng cấp Đại Tá. Thông thường thời gian từ lúc nhận Thông Báo đến lúc được thực sự “ gắn lon” cho cấp bậc Đại tá trong ngành Quân Y là khoảng từ 6 tháng đến 1 năm. Đến lúc ấy chị đă làm việc tại nhiệm sở Hawaii được 3 năm, nên đă đến lúc phải thuyên chuyển đến một nhiệm sở mới, mà chị biết sẽ là Hoa Thịnh Đốn.
Trung tá Phạm Phan Lang không muốn phải về Hoa Thịnh Đốn, cũng chẳng muốn rời khỏi Hawaii. Bởi ở Hawaii có cây xoài, cây mít, cây mảng cầu, khế, ổi, nhăn lồng…Hawaii cũng có những hàng dừa xanh, biển ấm quanh năm và cư dân rất hiền ḥa, hiếu khách. Hawaii đă cho chị sống lại với những h́nh ảnh yêu dấu của Nha Trang, nơi chôn nhau cắt rốn, cũng là nơi chị đă gặp, yêu và làm vợ người lính biển lăng mạn nhưng can đảm hào hùng Phạm văn Diên. Cuối cùng chị đă không chọn cấp bậc đại tá, mà chọn Hawaii với biển ấm t́nh nồng, mang bóng dáng miền quê hương thùy dương cát trắng của chị..
Những Chuyện Bên Lề về Tuổi Thơ, T́nh Yêu và Cuộc Đời của Cô Nữ Sinh Trường Nữ Trung Học và Vơ Tánh Nha Trang
Phan Thị Lang chào đời vào một buổi sáng mùa thu năm 1950 tại thành phố Nha Trang. Cha mẹ và đặc biệt là bà nội rất đỗi vui mừng, v́ đây là đứa con gái đầu tiên của gia đ́nh và cũng là đứa cháu gái đầu tiên của gịng tộc họ Phan. Cha mẹ muốn đặt tên cho con gái ḿnh là Linh Lan, tên một loài hoa mà ông bà rất thích, nhưng bà nội không chịu, v́ bà tin rằng, đặt tên cho con gái bằng tên một loài hoa là không tốt, v́ hoa sẽ “ sớm nở tối tàn”, cho nên bà nội bắt phải đổi tên Linh Lan thành Lang, để biến nghĩa thành cũ khoai… lang. Như vậy đời cô cháu gái sẽ tốt hơn.
Cha mẹ Lang sinh tất cả là 7 người con,nhưng mấy ông anh đầu đă mất đi trong chiến tranh loạn lạc, sau cùng chỉ c̣n lại ba anh em, người anh là Phan Ngọc Châu, cựu học sinh Vơ Tánh ( 1B2/VT 63-64), rất chăm chỉ và học giỏi, sau này vào trường Sĩ Quan Thủ Đức và tử trận năm 1968 tại B́nh Dương. Anh Phan Ngọc Châu có một chuyện t́nh thật buồn với một người đẹp ở trường Nữ Trung Học, quê cũng ở Vạn Giă, Hai người không lấy nhau được do một trắc trở về chuyện họ hàng. Anh Châu sống những ngày u buồn và khi chết đi đă mang theo mối u t́nh này xuống ḷng huyệt mộ. Người em trai, Phan Hà, sau khi học xong ở Vơ Tánh, theo vợ chồng Lang vào Sài g̣n học luật, rồi cùng di tản sang Mỹ vào đêm 29.4.1975. Hiện Hà đang sống ở Columbia, SC.
Ba má Lang là người Vạn Giă. vào Nha Trang làm ăn sinh sống từ thuở thiếu thời, nối nghiệp xây cất của ông nội, rồi làm nghề thầu khoán. Sau này ông trở thành nhà thầu nổi tiếng ở Nha Trang, từng xây nhà cho các tướng Đỗ Mậu, Tôn Thất Đính, và nhiều ngôi biệt thự sang trọng khác trên đường Biệt Thự, Duy Tân.
Cô bé Lang lớn lên trong sự cưng chiều của cả gia đ́nh, nhất là bà nội, nên cô bé rất “hư”, nhơng nhẽo và lười học.Trong nhà, cô bé chỉ sợ có mỗi anh Châu, v́ lúc nào anh ấy cũng trầm tĩnh, nghiêm nghị, ít nói và rất chăm học. Cô bé thường cố t́nh lẫn tránh, v́ hễ mỗi lần bắt gặp cô em gái, là anh bắt phải học, một điều mà lúc c̣n ở tiểu học, cô bé thấy như là một cực h́nh. V́ lười học, nên năm lớp Nh́ ở trường tiểu học Sinh Trung, cô bé bị ở lại lớp. Cả một năm ở lại lớp Nh́ ấy, cô bé thật ê chề và xấu hổ.V́ hễ có một đứa học tṛ nào lười biếng là cô giáo lại đem Lang ra làm ví dụ. Nhờ vậy mà từ đó, Lang quyết tâm học cho giỏi. Mùa hè đến, Lang theo anh Châu về quê nội ở Vạn Giă, để được ông anh dạy kèm cùng với mấy đứa con ông chú, bà cô, đặc biệt các môn toán đố, h́nh học.
Sau hè, trở lại trường, Lang được lên lớp Nhất.Và suốt cả năm lớp Nhất, tháng nào Lang cũng được lănh Bảng Danh Dự, và cuối năm khi thi vào lớp Đệ Thất trường Nữ Trung Học, cô bé đậu hạng thứ 10 trong số rất đông thí sinh ở Nha Trang và từ các nơi khác về dự thí. Lang vào Đệ Thất năm 12 tuổi. Lên Đệ Tam chọn Ban C. Năm 1968, Lang đỗ Tú Tài I hạng B́nh Thứ. Anh Châu từ chiến trường xa xôi, nghe tin, vội vă xin phép về thăm gia đ́nh và chúc mừng cô em gái. Không ngờ đó lại là lần cuối cùng hai anh em nh́n thấy mặt nhau. Anh Châu đă tử trận đúng một tuần sau khi trở về đơn vị. Năm Đệ Nhất C, Lang phải chuyển sang học bên trường Vơ Tánh, v́ trường Nữ Trung Học không đủ lớp. Sau khi đậu Tú Tài II năm 1969, Lang là người đầu tiên trong đám bạn bè cùng lớp “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Anh Châu, người anh duy nhất và rất thương mến Lang, không c̣n nữa để dự đám cưới của em ḿnh. Đó là sự mất mát và hụt hẫng to lớn của Lang trong ngày bước theo chồng.
Phạm Phan Lang
Lang gặp anh Diên, Phạm văn Diên, lần đầu tiên vào ngày mồng 6 Tết Âm Lịch, lúc Lang chỉ mới tṛn 13 tuổi , đang học lớp Đệ Lục. Hôm đó là ngày Thứ Bảy, nên phố xá đầy dẫy những anh chàng SVSQ Hải Quân và Không Quân. Không hiểu sao lúc ấy Lang “không ưa” Hải Quân, nên khi bị hai anh chàng HQ đi kèm hai bên Lang và một cô bạn, trong lúc dạo phố mua hàng, tán tỉnh, Lang vừa sợ vừa mắc cỡ, vừa ghét nữa, nên không mở miệng nói một lời. Anh Diên đi bên cạnh, biết Lang sợ và e thẹn, nên ôn tồn nhỏ nhẹ gợi chuyện. Anh Diên nói tiếng Bắc, gọi Lang bằng “bé”. Theo Lang về gần đến nhà cô bạn cùng đi, cũng là một tiệm ăn, Diên đă hỏi Lang : “ Bé ơi, đường nào ra biển, hở bé”. Nghe hỏi, Lang bỗng ph́ cười. Hải Quân mà hỏi đường nào ra biển. Nào ai có biết, đó lại là câu nói định mệnh của đời Diên sau này.
Kể từ hôm ấy, cứ mỗi lần “đi bờ” là anh Diên đến ngồi ở quán của cô bạn, chờ bé Lang đạp xe đi qua. V́ quán ăn nằm ngay góc đường đến nhà Lang. Cứ như thế cho măi đến năm 1965, anh Diên tốt nghiệp Khóa 14 HQ/ Đệ Nhị Kim Ngưu. Một hôm, Diên ngỏ ư xin phép Lang được đến nhà thăm ba má và ông anh, làm cô bé Lang hoảng sợ đến muốn khóc, lắc đầu lia lịa, v́ nghĩ tới sự nghiêm khắc của cha mẹ, đặc biệt là anh Châu của ḿnh, nên bảo là “Anh mà tới nhà, chắc thế nào Lang cũng bị đ̣n, không được đâu!” Nghe nói thế, Diên chỉ âu yếm nh́n Lang mỉm cười và bảo là “bé đừng sợ”. Cuối tuần sau, Diên đến nhà thật, gặp ba má và anh Châu của Lang. Và chẳng biết làm thế nào mà Diên thuyết phục được ông anh khó tính của Lang, để được “chính thức” tới thăm gia đ́nh Lang . Dù vậy, Diên cũng chỉ dám tới nhà mỗi tháng một lần và cũng hiếm khi được ngồi riêng để nói chuyện với Lang. Hôm trước ngày tốt nghiệp ra trường, Diên đến thăm để từ giă gia đ́nh Lang. Sau khi nói chuyện với ba má và anh Châu, Diên xin phép được lên lầu để từ giă Lang. Lúc ấy cô bé đang ngồi đan áo trên sân thượng, dưới giàn nho đầy quả chín. Lần đầu tiên, Diên nắm lấy tay Lang, nh́n thật sâu vào mắt Lang, dịu dàng nói “Bé ơi, anh rất yêu bé và muốn cưới bé làm vợ, nhưng bé hăy c̣n nhỏ quá, nên anh phải đợi cho bé lớn lên. Ngày mai anh đi rồi, không biết bao giờ mới về thăm bé được, nhưng anh sẽ viết cho Bé mỗi ngày một lá thư. Bé ráng đợi anh nghe!”. Nói xong, Diên cúi xuống, nhẹ nhàng hôn lên đôi bàn tay run rẩy và ướt đẫm nước mắt của Lang.
Và chàng đă giữ đúng lời hứa, mỗi ngày một lá thư gởi về cho Lang đều đặn, và chờ Lang lớn lên. Họ đă làm đám cưới vào mùa Thu 1969, sau khi Lang đỗ Tú Tài II. Lúc ấy Lang vừa 19 và Diên đă 27 tuổi đời. Hành trang về nhà chồng của Lang, ngoài một số áo quần, c̣n lại là một vali chứa đầy những lá thư của Diên.
Hơn mười năm, sau ngày cả nhà di tản sang Mỹ, anh Diên mất đi trong một tai nạn bi thảm, để lại cho Lang ba đứa con dại tuổi chỉ từ 11 đến 15. Lang đă chọn ở lại quân đội để có điều kiện lo lắng cho các con. Sau này cả ba cháu đều thành đạt. Cô gái út, ngày rời Việt Nam vừa đúng 1 năm 1 tháng tuổi. Năm 11 tuổi tận mắt chứng kiến cái chết đau đớn của cha ḿnh. Sau này được vào Stanford University, một đại học nổi tiếng của Hoa Kỳ, và được bầu làm Chủ Tịch Hội Sinh Viên Việt Nam của trường. Sau khi đậu bằng Thạc sĩ ngành Kinh Tế/Phát Triển Điều Luật Quốc Tế (Economics/International Policy Development) năm 1997, cháu lấy thêm bằng Thạc Sĩ Quản Trị Thương Mại (Master of Business Administration) ở University of California at Berkeley (Haas School of Business). Hiện nay là Senior Product Marketing Manager của Google.
Năm 2002, sau khi chu toàn trách nhiệm của một người mẹ với các con, một sĩ quan cao cấp đối với Quân Lực Hoa kỳ, đúng một ngày sau khi về hưu, Phạm Phan Lang làm đám cưới với người chồng mới. Anh là môt người Mỹ, lớn hơn Lang 7 tuổi. Là một người hiền lành, thật thà và độ lương. Trước kia là một Sĩ Quan Không Quân trong Quân Lực Hoa Kỳ. Rời quân ngũ, anh đi học lại và lấy bằng Ph.D rồi dạy tại trường University of Hawaii, và sau này đă làm việc cho US Navy/Submarine, Pearl Harbor Hawaii trong hơn 30 năm với chức vụ Oceanographer/Technical Director cho đến ngày về hưu, cách đây hai năm.
Phạm Phan Lang cùng chồng đang sống những ngày tháng êm đềm ở thành phố Kaneohe trên ḥn đảo Oahu / Hawaii thần tiên. Mỗi ngày, trong nắng ấm, nh́n biển trời, nghe sóng biển ŕ rào, Lang da diết nhớ về Nha Trang, về những ngày tuổi thơ cùng với gia đ́nh, thầy bạn, và hồi tưởng về một quá khứ với biết bao thăng trầm biến đổi của quê hương, của gia đ́nh và của cả một đời người.
(Ghi chú của người viết : Khi liên lạc với Phạm Phan Lang để viết bài này, bất ngờ người viết nhận ra Lang chính là cô em gái của Phan Ngọc Châu, người bạn thân cùng quê Vạn Giă, cùng lớp ở trường Văn Hóa Nha Trang, trong những năm đầu trung học.Cứ mỗi mùa hè, người viết lại gặp hai anh em, dắt díu nhau về thăm quê nội. Khi ấy Lang mới chỉ học lớp Nh́, nhưng đă là một cô bé rất thông minh và thật xinh xắn dễ thương)
Phạm Tín An Ninh
(Viết theo lời tâm t́nh của Phạm Phan Lang)
Đôla Trăm
04-19-2019, 04:28
Thế mà Bảo lặng lẽ không hề oán trách số phận quá tàn ác! Bảo đã không thể chịu đựng cơn đau đớn hành hạ thể xác lẫn tinh thần hơn, Bảo từ trần vào mùa Thu năm 2005. Trước khi lìa đời, trong cơn đớn đau kinh hoàng chới với mê săng, Bảo vẫn luôn miệng nhắc tới tên những vị chỉ huy, những đồng bạn vì tổ quốc và quê hương đã ra đi khỏi tầm mắt của Bảo. Nhưng họ không ra khỏi lòng Bảo, dù một giây phút nào; dù đôi mắt Bảo mù ḷa vĩnh viễn khép lại từ lâu, và lòng Bảo đã đóng chặt cửa. Nhất là Bảo chẳng khi nào có ý ngoảnh mặt phản bội quê hương, mà đi ra khỏi lãnh thổ Việt Nam có hình chữ S dấu yêu. Quê hương đã ôm trọn Hoàng Ngọc Bảo vào lòng. Đất mẹ không từ bỏ hất hủi Bảo bao giờ (khi mộng ước của Hoàng Ngọc Bảo đă không thành!) như Nguyễn Trường Tộ đă nói:
“Nhất thất túc thành thiên cổ hận.
Tái hồi đầu thị bách niên thân” .
(Một bước lỡ để ngh́n năm mang hận.
Ngoảnh đầu trông lại đă trăm năm). (*)
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hăn thanh. (**)
(*) Bảo dư biết ư đó nghĩa là: Từ xưa đến nay hỏi rằng ai không chết? Hăy để ḷng son chiếu sử xanh. Đây là hai câu Thơ tiếng Hán của một tướng lănh Trung Hoa, tên Văn Thiên Tường).
(**) Hai câu thơ sau của Nguyễn Công Trứ. Hoàng Ngọc Bảo cũng biết ư tác giả là: “người ta chưa chắc ai hơn ai, mà chỉ biết ai anh hùng, sau khi thời thế đă xảy ra”.
Ḿnh có đọc bài này ở 2 nơi khác những năm trước .Ḿnh thấy cũng như bài bác post ở đây có một chút ǵ hơi thiếu .Ḿnh không biết do tác giả ghi thiếu ,hay do khi chuyển tới người post lên hồi đó post thiếu .
Theo ḿnh nghĩ có thể (đây là ḿnh nghĩ như vậy thôi ) đoạn này phải ghi là :
Đất mẹ không từ bỏ hất hủi Bảo bao giờ (khi mộng ước của Hoàng Ngọc Bảo đă không thành!) như Nguyễn Trường Tộ đă nói:
“Nhất thất túc thành thiên cổ hận.
Tái hồi đầu thị bách niên thân” .
(Một bước lỡ để ngh́n năm mang hận.
Ngoảnh đầu trông lại đă trăm năm).
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hăn thanh. (*)
Đă chắc rằng ai nhục ai vinh,
Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ. (**)
(4 câu nằm trong bài thơ :Chí làm trai của cụ Nguyễn Công Trứ )
(*) Bảo dư biết ư đó nghĩa là: Từ xưa đến nay hỏi rằng ai không chết? Hăy để ḷng son chiếu sử xanh. Đây là hai câu Thơ tiếng Hán của một tướng lănh Trung Hoa, tên Văn Thiên Tường).
(**) Hai câu thơ sau của Nguyễn Công Trứ. Hoàng Ngọc Bảo cũng biết ư tác giả là: “người ta chưa chắc ai hơn ai, mà chỉ biết ai anh hùng, sau khi thời thế đă xảy ra”.
hoanglan22
04-19-2019, 04:29
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1368186&stc=1&d=1555647979
Ḍng thời gian âm thầm lặng lẽ trôi qua từng giây phút, chảy xuôi một chiều cố định bất di bất dịch theo quy luật của tạo hóa, thời gian cũng vụt thoáng qua rất nhanh, đâu có ai biết được dưới mặt của ḍng thời gian phẳng lặng, hiền ḥa đó có biết bao nhiêu biến cố lịch sử, bao nhiêu thảm họa v́ chiến tranh, bao nhiêu thăng trầm của một đời người.
Ḍng thời gian hững hờ trôi chảy măi, khi ta ngoảnh lại nh́n th́ dù là một khoảnh khắc vừa thoáng qua hay xa mờ cuối ḍng tiềm thức, ta khẽ gọi đó là dĩ văng. Dĩ văng của một thời để nhớ "từ khi anh thôi học là từ khi anh khoác áo treillis ..." ; Dĩ văng của một thời để thương trên bước đường quân hành nh́n quê hương "đẹp tựa trong tranh, gót bùn lầy cho lúa thêm xanh ..." ; Dĩ văng của một thời để đau từ "một ngày bảy lăm, con bỏ hết giang san ..." !
Nhân dịp Lễ Chiến Sĩ Trận Vong của Hoa Kỳ, tôi viết những ḍng chữ này để tri ân 58,000 chiến binh Hoa Kỳ, các chiến sĩ đồng minh Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Đại Hàn .v..vvv đă hy sinh trên chiến trường Việt Nam ; 350,000 chiến sĩ QLVNCH và những người đă nằm xuống cho hai chữ tự do của Miền Nam Việt Nam. Tôi cũng trân trọng viết về một "Người Lính" trẻ nhất nhưng lại là một "Người Lính" đặc biệt nhất của QLVNCH.
"Người Lính" đó không có số quân, không có cấp bậc, không có chức vụ, anh đă khoác vào ḿnh bộ quân phục của QLVNCH với đầy đủ quân trang, quân dụng từ lúc mới vừa chào đời vào năm 1966 ; Anh cũng không xuất thân từ bất cứ một quân trường nào, anh được đào tạo và hiện diện với quê hương vào cuối năm 1966, bởi đôi bàn tay khéo léo của Đại úy Nguyễn Thanh Thu (*). Đến năm 1968, "Người Lính" được tân trang lại và vinh dự được tổng thống Nguyễn Văn Thiệu kiêm tổng tư lệnh tối cao của QLVNCH chủ tọa buổi lễ khánh thành cùng với sự hiện diện của hầu hết các giới chức cao cấp trong ba ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp, các vị tướng lănh cùng một số đông quân nhân các cấp và đồng bào từ thủ đô và các tỉnh lân cận về tham dự. Buổi lễ khánh thành long trọng chào đón "Người Lính" được nghiêm trang tổ chức vào ngày 01.11.1968 với đầy đủ lễ nghi quân cách. "Người Lính" đặc biệt đó mang tên "Thương Tiếc" thuộc đơn vị "Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa".
"Người Lính" ngồi lặng yên với một tư thế b́nh thản, bất động dưới nắng mưa chứng kiến những thăng trầm lịch sử ; "Người Lính" là chứng nhân của những mất mát, đau thương, tang tóc trên mảnh đất miền Nam bởi lũ cộng sản khát máu gây nên ; "Người Lính" với khuôn mặt ưu tư, ánh mắt đượm một nỗi u buồn xa vắng nh́n quê hương mịt mờ trong khói lửa, nh́n từng cụm khói bốc lên từ một chiến trường nào đó trên quê hương, nơi mà các chiến hữu, các người bạn đồng đội đang xông pha trong lằn tên, mũi đạn đánh đuổi quân thù, bảo vệ từng tấc đất của quê hương.
Hằng đêm "Người Lính" ngồi lặng yên nh́n hỏa châu soi sáng một góc trời, nơi đang xảy ra trận giao tranh ác liệt giữa những người con yêu của tổ quốc đang đánh đuổi những kẻ mang đôi dép râu cuồng vọng từ phương Bắc vào xâm lăng, gây cảnh tóc tang trên mảnh đất mẹ thân yêu ; Những đêm khuya, "Người Lính" nghe tiếng đại bác của quân thù vọng về thành phố, phá tan sự tĩnh lặng của không gian, tạo nên nỗi lo âu hiện lên khuôn mặt c̣n ngáy ngủ của người dân hậu phương.
"Người Lính" mang linh hồn của trên 18,000 anh hùng QLVNCH tại nghĩa trang Quân Đội Biên Ḥa và trên 350,000 anh linh QLVNCH trên khắp bốn vùng chiến thuật đă xong nợ xương máu không trở về ! "Người Lính" đă chứng kiến bao nhiêu cặp mắt nhạt nḥa của những "lá vàng khóc lá xanh rơi" ; Bao nhiêu vành tang trắng của những góa phụ ngây thơ đang gục đầu bên ḥm gỗ cài hoa ; Bao nhiêu vành tang trắng phủ lên đầu những trẻ thơ vô tội c̣n đang bập bẹ chưa biết gọi tiếng cha, đang ngơ ngác nh́n mọi người đang gục đầu tuôn rơi những ḍng lệ tiễn đưa những đứa con yêu của Tổ Quốc trong một chuyến quân hành cuối cùng không bao giờ trở lại đơn vị !
Trong những đêm khuya âm u vắng lặng, thỉnh thoảng vài cơn gió rít trong không gian tạo cho khung cảnh nghĩa trang thêm huyền bí và rợn người, những hạt sương đêm vô t́nh đọng vương nơi khóe mắt "Người Lính", long lanh dưới ánh đèn đêm mờ ảo, đă tạo nên bao huyền thoại về "Người Lính". Những chuyến xe đ̣ về trể trong đêm, khi chạy ngang qua nghĩa trang Quân Đội Biên Ḥa, thỉnh thoảng thấy một người lính đứng đón xe bên vệ đường, xe dừng lại ... "Người Lính" thanh thản bước lên xe một cách b́nh thường như bao hành khách khác, xe chạy được một quảng ... người lơ xe quay lại định hỏi chuyện "Người Lính", nhưng không thấy bóng dáng "Người Lính" đâu cả, người lơ xe trố mắt kinh ngạc dáo dác t́m chung quanh rồi bất chợt hỏi một câu làm vài người và sau đó là cả xe đều tỉnh ngủ và rùng ḿnh ... "Ủa ... Anh lính đâu mất rồi ....?". Hành khách trên những chuyến xe xuôi ngược trên tuyến đường này và người dân địa phương rùng ḿnh không phải v́ sợ bóng ma hay oan hồn của "Người Lính" mà là sự linh thiêng của những người đă can đảm đem cái chết của ḿnh để đánh đổi sự sống cho quê hương và 17 triệu người dân miền Nam.
Ngày 30/04/1975, QLVNCH đau đớn nhận một quân lệnh "bức tử" phải bước ra khỏi đoạn đường chiến binh c̣n đang dang dở, một đoạn đường dài 20 năm đă vùi lấp trên 350,000 anh hùng "Vị Quốc Vong Thân", 150,000 người đă bỏ lại một phần thân thể trên đoạn đường xương máu này để bảo vệ hai chữ "Tự Do" cho quê hương, dân tộc.
Sau ngày 30/04/1975, "Người Lính" không bị lũ cộng sản tập trung vào các trại tù khổ sai khắc nghiệt nhưng lũ người cộng sản không tim óc đó đă hèn hạ trả thù bằng cách giật sập và phá hủy thân anh, lũ cộng sản đê tiện không tánh người đă trả thù ngay cả trên một pho tượng đồng vô tri nhưng có linh hồn. "Người Lính" bây giờ không c̣n ngồi nơi chốn cũ nữa, "Người Lính" đă quyện vào lá cờ hồn thiêng sông núi, "Người Lính" hiện diện trong trái tim của tất cả Quân Dân Cán Chính VNCH đang lưu vong biệt xứ hay đang lê lết trên quê hương đổ nát.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă từng nói "Quốc Gia thắng, tất cả c̣n ; Cộng sản thắng, mất tất cả". Một câu nói thật đúng, nhưng Người Lính VNCH không mất tất cả, Người Lính VNCH vẫn c̣n một bảo vật, đó là lá Quốc Kỳ đang tung bay phất phới ở bất cứ một quốc gia tự do nào trên thế giới có bóng dáng Người Lính VNCH. Lá cờ vàng ba sọc đỏ là hồn thiêng sông núi, là Tổ Quốc của Người Lính VNCH, là niềm tin mănh liệt cho một ngày quang phục lại Giang san, trang trọng dựng xây lại pho tượng "Người Lính" "THƯƠNG TIẾC" để Vinh Danh_Tưởng Niệm và Tri Ân những anh hùng QLVNCH "Vị Quốc Vong Thân"./.
Người Lính VNCH "Hoàng Nhật Thơ"
*Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, cấp bậc sau cùng là Thiếu Tá thuộc Cục Chiến Tranh Chính Trị.
hoanglan22
04-19-2019, 04:33
Ḿnh có đọc bài này ở 2 nơi khác những năm trước .Ḿnh thấy cũng như bài bác post ở đây có một chút ǵ hơi thiếu .Ḿnh không biết do tác giả ghi thiếu ,hay do khi chuyển tới người post lên hồi đó post thiếu .
Theo ḿnh nghĩ có thể (đây là ḿnh nghĩ như vậy thôi ) đoạn này phải ghi là :
Đất mẹ không từ bỏ hất hủi Bảo bao giờ (khi mộng ước của Hoàng Ngọc Bảo đă không thành!) như Nguyễn Trường Tộ đă nói:
“Nhất thất túc thành thiên cổ hận.
Tái hồi đầu thị bách niên thân” .
(Một bước lỡ để ngh́n năm mang hận.
Ngoảnh đầu trông lại đă trăm năm).
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hăn thanh. (*)
Đă chắc rằng ai nhục ai vinh,
Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ. (**)
(4 câu nằm trong bài thơ :Chí làm trai của cụ Nguyễn Công Trứ )
(*) Bảo dư biết ư đó nghĩa là: Từ xưa đến nay hỏi rằng ai không chết? Hăy để ḷng son chiếu sử xanh. Đây là hai câu Thơ tiếng Hán của một tướng lănh Trung Hoa, tên Văn Thiên Tường).
(**) Hai câu thơ sau của Nguyễn Công Trứ. Hoàng Ngọc Bảo cũng biết ư tác giả là: “người ta chưa chắc ai hơn ai, mà chỉ biết ai anh hùng, sau khi thời thế đă xảy ra”.
:thankyou: bác bổ túc thêm chi tiết:handshake::hand shake:
cha12 ba
04-20-2019, 20:47
Vợ Lính thời Chinh chiến...
Thứ Bảy, 20 tháng Tư năm 2019 10:33
Tác Giả: Thôn Nữ Bàu Trai
Lời Giới Thiệu: Tác giả bài viết này là một phụ nữ sinh trưởng ở Bàu Trai, miền Đông Nam Phần. Đây là một địa danh mà các quân nhân từng hành quân ở vùng 3 chiến thuật đều quen biết. Từ câu chuyện t́nh đơn sơ, một thiếu nữ hiền lành trở thành người vợ lính thời chiến. Đời sống gia binh, người chồng chuẩn bị đi hành quân, tiếng khóc của góa phụ nhà kế bên, tiếng xe Jeep của chàng trở về chạy trên sân sỏi, tiếng súng đêm đêm vọng lại, những lần từ biệt vội vàng, các chuyến về thăm nhà bất chợt giữa các trận đánh.
Người vợ lính với 20 năm khắc khoải, hạnh phúc đếm từng ngày để đến lúc tan hàng lại tiếp tục lo cho chồng đi tù "cải tạo". Chúng ta đă từng đọc các trang sử chiến tranh của nam nhi thời binh lửa. Bây giờ xin một lần đọc để thông cảm cho những giọt lệ của phụ nữ VN trong vai tṛ vợ lính thời chinh chiến.
Trong các chị em gái của gia đ́nh, tôi là đứa con gái nhút nhát nhất. Tôi không thích xem phim chiến tranh, sợ nghe tiếng súng nổ, nên tôi không mong muốn lấy chồng nhà binh như phần đông các cô gái khác thích những chàng trai trong bộ quân phục oai hùng. Có lẽ tôi chịu ảnh hưởng của Ba tôi. Ba tôi là viên chức hành chánh, ông thường than phiền một số sĩ quan trẻ ngang tàng và lái xe ẩu.
Một đêm khuya sau Tết Mậu Thân năm 1968, chúng tôi nghe tiếng gơ cửa, Ba tôi cẩn thận đuổi chị em tôi vào pḥng, đóng cửa kỹ lại. Ông bỏ cây súng nhỏ vào túi quần và ra mở cửa. Một sĩ quan trẻ tuổi mặc rằn ri vào xin cho binh sĩ đóng quân trong khu vườn nhà tôi và cho cấp chỉ huy của họ ở tạm trong pḥng khách. Lúc đó Ba tôi mới yên tâm biết là đơn vị đi hành quân về đến đây t́m chỗ nghỉ quân.
Lính ở đầy trong khu vườn nhà tôi nhưng không phá phách ǵ như một số người đồn đại. Riêng vị sĩ quan ở trong pḥng khách nhà tôi với cái ghế bố nhà binh nhỏ bé, nằm khiêm nhượng ở một góc pḥng. Cuộc sống gia đ́nh tôi không có ǵ thay đổi khi có mặt vị sĩ quan này. Chúng tôi lịch sự không đi tới lui trong pḥng khách. Ban đêm thỉnh thoảng chúng tôi nghe những câu hát vu vơ hoặc vài câu vọng cổ của các người lính trẻ than thở nhớ gia đ́nh và người yêu. Chúng tôi thông cảm và thương mến họ hơn.
Dần dần ba mẹ tôi có cảm t́nh với vị sĩ quan chỉ huy. Những lúc rảnh rỗi, ông đến nói chuyện hoặc được ba tôi mời ăn cơm gia đ́nh. Ông sĩ quan này mượn pḥng khách để làm nơi hội họp của bộ chỉ huy, nhờ thế gia đ́nh tôi quen biết thêm vài sĩ quan nữa. Câu "quân dân như cá nước" là đúng, chúng tôi thân t́nh rất mau, có những bữa ăn hoặc những buổi tối ngồi chung để xem ti vi thật vui vẻ. Quan niệm không tốt về nhà binh, cảm giác sợ sệt những người lính chiến trong bộ quân phục rằn ri không c̣n nữa.
Cũng nhờ dịp đơn vị dừng quân, tôi đă gặp nhà tôi sau này. Anh là một trong các sĩ quan trẻ của đơn vị. Chúng tôi biết nhau qua sự giới thiệu của vị sĩ quan quen thân với gia đ́nh như đă kể trên. Một thời gian sau chúng tôi thương nhau và anh xin làm đám hỏi sớm để c̣n lên đường đi hành quân. Có lần anh nói, gia đ́nh hối thúc cưới vợ, nhưng "Đời lính tác chiến xa nhà, ra đi không chắc có ngày trở lại, cưới vợ chỉ làm khổ cho người đàn bà." Và anh không muốn vướng bận thê nhi trong thời ly loạn. Sau đó anh đi hành quân liên tục, thỉnh thoảng tôi chỉ nhận được thư. Hơn một năm sau đơn vị anh về đóng quân tại Biên Ḥa gần Sài G̣n, đây là dịp tiện lợi để chúng tôi tổ chức đám cưới.
Tôi theo chồng về ở căn nhà trong trại quân đội. Bây giờ tôi cảm thấy hạnh phúc nhất, ngoài gia đ́nh cha mẹ thương yêu, tôi c̣n có người chồng tính t́nh trầm tĩnh, ḥa nhă với mọi người. Sau những ngày nghỉ phép cưới vợ, anh trở lại cuộc sống nay đây mai đó, anh đi ba bốn tháng mới về một lần hoặc lâu hơn tùy t́nh h́nh chiến sự.
Khi anh chuẩn bị đi hành quân tôi không hề biết trước nhưng dễ nhận ra ngay. Tôi thấy những binh sĩ làm việc với anh lăng xăng dọn dẹp chuẩn bị quân trang. Nhưng tôi vẫn mong ḿnh nghĩ lầm. Anh trở về nhà gương mặt đượm nét quan trọng, ít nói với tôi hơn. Bận rộn với giấy tờ, điện thoại và dặn ḍ người này người kia liên tục. Tôi hiểu anh không có th́ giờ để nghĩ đến gia đ́nh. Tôi không quấy rầy anh, tôi luôn luôn nhớ lời dạy bảo của ba tôi trước khi tôi đi theo chồng: "Con đừng bao giờ xen vào công việc của chồng con." Ăn cơm tối xong anh tiếp tục chuẩn bị tài liệu. Tôi buồn v́ sắp phải xa chồng, không biết làm ǵ hơn là ngồi sau lưng anh, áp má vào sau lưng anh im lặng. Anh làm việc đến gần nửa đêm, xong anh kêu tôi lại ghế salon ngồi, anh dặn ḍ mọi việc ở trong nhà, có buồn trở về nhà cha mẹ chơi, nhất là phải cất kỹ tờ giấy hôn thú. Tôi hiểu anh muốn ám chỉ điều ǵ, tôi nghe ḷng tê tái. Tôi có bao giờ nghĩ đến mười hai tháng lương tử tuất để thành góa phụ! Không, tôi chỉ cần chồng tôi. Sau đó chúng tôi chỉ ngủ được vài giờ. Ba giờ sáng trong sân trại rầm rộ tiếng xe, tiếng nói ồn ào của lính. Trong cảnh lờ mờ tối, tôi nh́n ra sân thấy những người lính, lưng đeo ba lô nặng nề, đầu đội nón sắt. Trong số đó sẽ có người không trở lại. Quang cảnh này trái hẳn với những ngày đại lễ, những người lính trong bộ quân phục thẳng nếp, tay cầm súng đi diễn hành rất đẹp.
Khi chồng tôi bắt đầu mặc áo giáp, đeo súng ngang hông, ḷng tôi tê tái, có một cái ǵ đó làm cho tôi bất động, chỉ biết nh́n anh và im lặng. Sau cùng anh đội nón sắt và đưa tay vỗ vào má tôi nói: "Thôi anh đi". Anh không có những cử chỉ âu yếm hơn, những lời từ giă nhiều hơn như những lần anh đi làm việc b́nh thường hay đi ăn cơm với bạn bè. Anh sợ làm tôi khóc. Tôi muốn nói anh cố sớm trở về với em, nhưng càng dặn ḍ càng đau ḷng trong buổi chia tay. Tôi cố gắng không cho nước mắt trào ra. Tôi nh́n anh thật kỹ, để h́nh ảnh anh in sâu măi trong ḷng tôi. Tôi thầm nghĩ, không biết lần này anh có c̣n trở về không? Không thể chờ xe anh khuất bóng, tôi chạy vội vào giường khóc nức nở. Cảnh này cứ diễn đi diễn lại trong cuộc đời làm vợ lính của tôi. Có lần tôi nói với anh, khi đi hành quân cho em biết trước để em chuẩn bị tư tưởng cho đỡ sợ. Nhưng có lẽ v́ bí mật quân sự hoặc cuộc hành quân gấp rút, anh chẳng bao giờ chiều tôi chuyện đó.
Mỗi lần nghe có tin đơn vị anh đụng độ lớn tôi chỉ biết vào pḥng âm thầm cầu nguyện, lo sợ gặp những sĩ quan đến báo tin buồn. Có lúc anh về thăm tôi th́nh ĺnh. Mừng rỡ không được kéo dài bao lâu lại nghẹn ngào v́ anh ra đi sớm hơn lời hứa. Một buổi chiều anh về và nói chiều mai mới đi. Tôi vui mừng v́ trưa mai vợ chồng tôi sẽ có chung bữa cơm với nhau. Nhưng đến tối có tiếng điện thoại, anh nghe xong nói với tôi sáng sớm mai anh phải đi. Thế là mất một đêm hạnh phúc, chỉ có tiếng than thở và tiếng nức nở của tôi.
Khi tôi có thai được sáu tháng, lúc đó anh đóng quân tại Bến Tre, anh biết gia đ́nh tôi có quen thân với ông bà bác sĩ tại Mỹ Tho. Anh hẹn gặp tôi tại đó để anh đến thăm v́ từ Bến Tre chỉ qua một cái phà là đến Mỹ Tho. Anh cho biết sẽ ở chơi từ trưa đến chiều mới đi. Sáng ngày ấy ba tôi chở tôi xuống Mỹ Tho, sẵn ba tôi thăm lại người bạn cũ. Tôi gặp anh ngượng ngùng mắc cỡ với cái áo bầu khoác ngoài. Tuy là vợ chồng nhưng ít khi sống gần gũi nhau nên đối với anh đôi khi tôi vẫn c̣n e thẹn. Sau khi chúng tôi hàn huyên được nửa giờ, chúng tôi dùng cơm trưa, tuy có mặt ba tôi và hai ông bà bác sĩ nhưng tôi cũng cảm thấy hạnh phúc lắm. Bữa cơm chưa xong, chồng tôi có máy truyền tin gọi trở về đơn vị, vậy là anh lại đi ngay. Tôi tiếp tục dùng cơm, nhưng món ăn trở nên lạt lẽo, dầu bà bác sĩ nấu rất ngon. Thương con, ba tôi cáo biệt về Sài G̣n sau buổi cơm. Trên xe ông nh́n tôi và vuốt tóc thông cảm.
Một đêm tôi đang ngủ bỗng giật ḿnh thức giấc bởi tiếng khóc thảm thiết của bà hàng xóm, tôi vội đến cửa sổ nh́n ra ngoài để xem chuyện ǵ xẩy ra. Bên ngoài đêm tối yên tĩnh bị đánh tan bởi tiếng khóc của người vợ trẻ vừa được tin chồng tử trận ngoài chiến trường, cùng đi hành quân chung đơn vị với chồng tôi. Chị khóc lóc, kêu gào, gọi tên chồng nhưng chồng chị sẽ măi măi không trở về nữa. Tôi trở lại giường nằm nhưng không ngủ được, tôi thương cho người đàn bà góa phụ kia và lo sợ cho bản thân ḿnh. Sáng hôm sau người vợ trẻ đầu phủ khăn tang, gương mặt xanh xao cùng với bà mẹ già đi lănh xác chồng theo sau hai đứa con khoảng ba, bốn tuổi, đầu chít khăn trắng. Chúng nó vô tư không biết ǵ, thật ra ba chúng đi hành quân luôn, ít khi ở nhà. Bây giờ không có lời an ủi nào làm chị vơi được nỗi buồn, chỉ mong thời gian sẽ hàn gắn vết thương ḷng của chị mà thôi. Sau này chị kể, chị nghe tiếng chim cú kêu chiều hôm đó, chị nghĩ có điều xui rồi. Tôi không bao giờ tin dị đoan, tôi không xem bói v́ thầy bói nói vui tôi không tin, nói buồn tôi phải bận tâm lo lắng, nhưng bây giờ tôi lại sợ tiếng cú kêu.
Một chị bạn quen, chồng cũng là bạn thân với chồng tôi, nhà ở trong cư xá đối diện, với ba đứa con nhỏ. Chồng đi hành quân không chắc có ngày về, tinh thần của chị ngày càng suy nhược, cộng thêm những lần thay mặt gia đ́nh đi dự đám tang qúa nhiều bạn bè thân thiết bị tử trận. Tinh thần đă sẵn yếu, ngày càng trở nên suy sụp. Lúc ở Việt Nam, bác sĩ phải cho uống thuốc an thần. Sau này may mắn được di tản qua sống ở Mỹ nhưng rồi cũng không tránh khỏi bệnh nan y Alzheimer, chị hoàn toàn mất trí, thể xác trông cậy vào người chồng thủy chung, ngày xưa là người chỉ huy chiến trận tài ba, bay giờ biến thành người y tá tận tụy và hy sinh nhẫn nại cho người vợ tao khang, quen biết từ thuở c̣n niên thiếu.
Ngày tôi sanh cháu bé, chồng tôi được nghỉ phép, anh ở hẳn trong nhà thương với tôi, mặc cho những lời dị nghị của các cô bác theo xưa cho như vậy là không tốt là bị "mắc phong long". Mấy ngày sau tôi rời nhà thương, anh được lệnh đi hành quân tại Campuchia. Nh́n anh đi tôi khóc măi v́ nghe tin đồn ở Campuchia thường bị "Cáp duồn". Mẹ tôi khuyên "Con mới sanh khóc như thế không tốt đâu". Nhưng tôi đâu nào nghĩ đến sức khoẻ của tôi, tôi lo cho anh và không muốn con tôi mất cha. Hàng ngày bận bịu nuôi con, nghĩ đến anh tôi chỉ biết cầu nguyện.
Đến năm 1973 chồng tôi chuyển sang làm việc hành chánh, mặc dù ở đâu cũng là phục vụ cho nước nhà, nhưng anh không thích lắm. Riêng tôi vui vẻ hơn v́ đây là dịp mẹ con tôi được sống với anh hàng ngày. Tại đây anh vẫn phải đi xuống thăm các quận thường xuyên. Đă có các sĩ quan thỉnh thoảng bị chết v́ địch phục kích dọc đường, cho nên tôi vẫn tiếp tục lo lắng cho anh. Ngày này qua ngày khác, mỗi buổi chiều tôi nghe chiếc xe lăn bánh trên con đường đá sỏi vào cổng là tôi biết anh đă b́nh yên trở về. Có những chiều anh về rất muộn, tôi không yên tâm được, vào pḥng ngồi bất động âm thầm cầu nguyện. T́nh thương đă khiến tôi rất thính tai, tiếng cổng mở cửa từ xa tôi đă nghe được, lúc đó tôi mới thở phào nhẹ nhơm, đi ra ôm lấy con và cùng nhau ra đón ba nó.
Có những đêm pháo kích tôi sợ quá, một tay ôm choàng lấy con, một tay nắm chặt tay anh, nhưng sau khi đợt pháo kích đầu tiên đă chấm dứt, anh phải vội vă từ giă mẹ con tôi để băng qua cửa hông nhà đi xuống hầm trung tâm hành quân, hầu tiện việc chỉ huy yểm trợ các đơn vị đồn trú địa phương. Muốn cho chồng luôn được b́nh yên và tôi bớt đi nỗi lo âu để yên tâm làm việc nội trợ, một hôm tôi đưa cho anh xâu chuỗi mà vị linh mục đỡ đầu đă cho anh ngày rửa tội. Tôi nói "Anh nhớ luôn bỏ xâu chuỗi này vào túi áo mỗi ngày anh đi làm việc, để có Chúa phù hộ anh và em đỡ lo lắng cho anh." Tôi biết đàn ông tánh không chu đáo lắm nên tôi nói thêm "Anh thương em hăy nhớ lời em dặn."
Ngày tháng cứ thế trôi qua, chiến sự càng ngày càng sôi động, cho đến một ngày mẹ con tôi từ giă anh, trở về ở với ngoại, để anh không phải bận tâm gia đ́nh. Chúng tôi từ giă đời sống gia binh. Lần này tôi cũng nh́n anh rất kỹ và niềm hy vọng gặp lại anh ít hơn.
Khi cuộc sống của người vợ lính thời chiến chấm dứt th́ những ngày nghiệt ngă mới lại bắt đầu. 30/04/75 đă chấm dứt cuộc đời binh nghiệp của chồng tôi và anh đi tù với mười ba năm "cải tạo". Riêng tôi, ngoài trách nhiệm nuôi chồng, nuôi con, nỗi lo âu vẫn c̣n và sự mong đợi chồng về mỏi ṃn hơn.
Sau cùng, nhờ ơn trên, nhà tôi đă trở về. Anh vẫn c̣n giữ xâu chuỗi ngày xưa đă cùng anh sống trong ngục tù với những chỗ bị đứt đă nối lại và rơi mất một hạt.
Hơn hai mươi năm làm vợ lính thời chiến, 13 năm vợ tù "cải tạo" của thời b́nh, là người con gái ở miền quê Bàu Trai, tôi có làm ǵ đâu mà suốt đời chỉ sống với nước mắt.
Chiến tranh đă cướp mất tuổi thanh xuân của bao nhiêu người vợ trẻ. Chỉ c̣n lại Việt Nam, một quê hương điêu linh, một dân tộc bất hạnh triền miên trong chiến tranh và nghèo khó.
nguồn saigonecho
hoanglan22
04-27-2019, 00:09
nhạc nghe để nhớ lại
hu7E9Szp8E0
Độc tấu
zTlhqyLzdbE
hoanglan22
04-28-2019, 01:45
Tháng Tư lại về, kư ức đau thương của người dân miền Nam lại gợi nhớ những chết chóc tang thương do cuộc chiến phi nghĩa của cộng sản Bắc Việt tạo ra. Một trời đau thương cho góa phụ khi chồng tử trận mà h́nh ảnh gây xúc động mănh liệt được ghi lại qua bài hát “Tưởng Như C̣n Người Yêu” phổ từ thơ của Lê Thị Ư. Bài hát rất phổ biến vào cuối thập niên 70.
Xin giới thiệu bài viết của LS. Anh Thư về buổi tṛ chuyện với nhà thơ Lê Thị Ư tại Virginia.
Thời tiết Virgina đang ấm áp như nụ cười luôn nở trên môi người t́nh muôn thuở của lính, cô Lê Thị Ư – tác giả bài thơ bất hủ “Thương Ca 1” mà nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành bài
“Tưởng Như C̣n Người Yêu”. Mắt cô ánh lên một cách nồng nàn “con tim và đôi mắt của tôi lúc nào cũng hướng về người lính.” Đó là lời mở đầu cho buổi tṛ chuyện mà tôi hân hạnh được gặp cô Lê Thị Ư tại Saigon Quán trên đường Hechinger ở Virginia.
Tôi có dịp thăm Virginia khi vùng đất này chuẩn bị đón chào mùa hoa anh đào. Dịp gặp gỡ và tṛ chuyện với những người thân quen và gia đ́nh họ hàng của tôi là ông Nguyễn Minh Nữu và hiền thê của ông, bà Mai, đă mở ra cơ duyên cho tôi được gặp cô Lê Thị Ư.
Đó là khi tôi vừa nghêu ngao hát bài “Tưởng Như C̣n Người Yêu” và bày tỏ sự thán phục của ḿnh về cách dùng từ đầy cảm xúc của cô Lê Thị Ư với ông Nguyễn Minh Nữu, thế là ông nói ngay: “Nhà thơ Lê Thị Ư với tụi này thân thiết lắm. Anh Thư có muốn gặp không?” Tôi mừng rỡ nhờ ông liên lạc với cô ngay. Bên cạnh đó, anh Vơ Thành Nhân, trưởng Hướng Đạo và là người làm việc trong giới truyền thông, cũng ngỏ lời giới thiệu thêm với cô mà tôi đă được cô Lê Thị Ư nhận lời đi ăn trưa.
Lê Thị Ư sinh tại miền Bắc, xuất thân trong một gia đ́nh văn nghệ, là em ruột nhà thơ Vương Đức Lệ (tên thật là Lê Đức Vượng), người chị lớn là nhà văn Kiều Phương và em gái là nhà văn Lê Thị Nhị. Bà làm thơ rất sớm từ khi c̣n học trung học.
Tác phẩm:
– Thơ Ư (Sài G̣n, 1967)
– Thương ca (1970)
– Cuộc t́nh và chân dung tôi (Sài G̣n, 1972)
– Quê hương và người t́nh (Hoa Kỳ, 1992)
– Vùng trời dấu yêu (Hoa Kỳ, 2000)
Với dáng người nhỏ nhắn, nước da trắng ngần và một khuôn mặt phúc hậu, rạng ngời, cô Lê Thị Ư vui vẻ ngay khi tôi tiến ra cửa để đón chào cô vào nhà hàng. Cô tặng cho tôi tờ nguyệt san Kỷ Nguyên Mới của gia đ́nh cô và thân hữu của Câu Lạc Bộ Văn Học & Nghệ Thuật vùng Hoa Thịnh Đốn thực hiện. Sau khi gọi vài món ăn Bắc như bún chả Hà Nội, bún đậu mắm tôm, chúng tôi rôm rả tṛ chuyện.
Tôi hỏi cô Lê Thị Ư làm sao mà dù cô chưa bao giờ lập gia đ́nh hay có con, nhưng cô lại có thể cảm nhận được sự mất mát khốc liệt để có thể lột tả được nỗi đau của chiến tranh qua những bài thơ của cô. Với lối nói chuyện lôi cuốn, chân t́nh và dí dỏm, cô đă dẫn tôi vào một khoảng trời kư ức của cô và giúp cho tôi hiểu rơ hơn về tâm t́nh của một người từng sống qua sự điêu linh, bởi chiến tranh, nhất là của những phụ nữ có chồng tử trận.
Sau khi từ Bắc Ninh di cư vào Nam, cô Lê Thị Ư sống với gia đ́nh ở Pleiku 5 năm trời gần nhà quàn của lính. Cô cũng từng có người t́nh là lính bị tử trận và từ đó nảy sinh những cảm xúc và ư tưởng để cô viết bài thơ “Thương Ca 1”. Tuy nhiên, cô nhấn mạnh, cả cuộc đời cô chỉ “thoang thoảng” những mối t́nh chứ không hề có một mối t́nh nào quá đậm sâu. Cô giải thích rằng có 2 loại t́nh cảm khác nhau. Đối với cô “người bồ” th́ chỉ để đi chơi thôi, nhưng “người t́nh” mới là đặc biệt v́ người t́nh là người ḿnh thật sự yêu say đắm trong trái tim dù t́nh yêu đó câm nín, lặng lẽ, không cần phải bày tỏ. Cô mỉm cười nhẹ nhàng tiếp lời: “Nếu tưởng tượng một t́nh yêu đẹp th́ tôi vẫn thích nhất là người yêu lính nhưng thực sự tôi cũng chưa bao giờ có được một t́nh yêu trọn vẹn, đúng nghĩa.”
Nguồn gốc của bài hát “Tưởng Như C̣n Người Yêu” mà nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc được cô Lê Thị Ư giải thích rằng cô viết rất nhiều bài thơ, trong một lần cụ Nguyễn Đức Quỳnh đọc thơ cô, cụ thích bài thơ “Thương Ca 1” quá rồi chuyển ngay cho nhạc sĩ Phạm Duy. Nhạc sĩ Phạm Duy đă hoàn tất bài nhạc phổ thơ trong ṿng 15 phút. Ca sĩ Duy Quang là người đầu tiên tŕnh bày bài hát này. Cô giải thích rằng cô chấp nhận nhạc sĩ Phạm Duy bỏ đi 2 câu thơ “Chiếc quan tài phủ cờ màu. Hằn lên ba vạch đỏ au phũ phàng…” trong bài thơ của cô cho bài hát được nhẹ nhàng hơn dù nó không thật sự đúng ư cô, v́ cô muốn phân biệt rơ ràng đây là h́nh ảnh không lẫn vào đâu được của người quả phụ Việt Nam Cộng Ḥa.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1373189&stc=1&d=1556415762
Nhà thơ Lê Thị Ư (bên trái) và nhà văn Nguyễn Minh Nữu
Cô Lê Thị Ư chia sẻ cô bắt đầu sinh hoạt với nhóm Văn Bút từ năm 1970 khi cô theo gia đ́nh từ Pleiku về sống ở Sài G̣n. Đặc biệt, v́ cô luôn bị ám ảnh bởi thời cuộc khi cô c̣n ở Việt Nam nên thơ của cô thường là viết về chiến tranh và về lính. Tôi hỏi cô sáng tác nào cô tâm đắc nhất, cô nhoẻn miệng cười bảo rằng ở lứa tuổi bát tuần, cô không c̣n nhớ nhiều nhưng cô luôn nặng ḷng với quê hương và cô xót xa nhắc đến “quê hương hai t́ vết”, sông Gianh (chia cắt đất nước trong thời Trịnh – Nguyễn phân tranh) và sông Bến Hải (đất nước lại một lần nữa bị chia cắt giữa Quốc Gia và Cộng Sản), nên cô có làm bài thơ “Ṿng Tay Mẹ” về đứa bé thơ bị bom đạn giết chết hai lần. Trong bài thơ này, cô diễn tả sự nghiệt ngă của chiến tranh qua h́nh ảnh người mẹ trẻ đang thương khóc ôm đứa con ḿnh đă chết trên tay th́ đạn bom dội về một lần nữa giết chết cả hai mẹ con.
Tôi hỏi cô Lê Thị Ư bí quyết ǵ giúp cô luôn lạc quan và yêu đời. Cô lại mỉm cười bảo: “Cái ǵ đối với tôi cũng nhẹ nhàng. Nhưng cũng có lẽ v́ bản chất thơ trong tôi mà chuyện ǵ tôi cũng không ‘serious’ nên không làm được việc ǵ lớn. Tôi sống tự nhiên theo bản năng, không g̣ bó chính ḿnh và cũng không bắt bẻ, chấp nê hay phê phán nhiều quá. Ḿnh phải yêu người trước, rồi người ta sẽ yêu ḿnh. Và khi chứng kiến những đau thương, khốn khó chung quanh ḿnh th́ tôi lại càng cảm thấy ḿnh yêu đời và yêu người hơn.”
Tôi không tránh được ṭ ṃ và hỏi cô về những hối hận hay nuối tiếc ǵ cô có trong cuộc đời th́ cô chân thật trả lời: “Tôi hối hận là đă không lập gia đ́nh và có con. Nhưng bên cạnh đó tôi rất yêu và gần gũi gia đ́nh lớn của ḿnh. Tôi yêu các cháu đến đỗi tôi có cảm giác như không cần có con cái riêng của ḿnh. Và ngược lại các cháu và anh chị em chung quanh cũng rất thương yêu, chăm sóc tôi nên tôi không bao giờ cảm thấy buồn hay tủi thân.”
Năm 1981, cô Lê Thị Ư vượt biên sang trại tị nạn Songkhla, Thái Lan. Sáu tháng sau cô sang định cư ở Maryland, USA. Khi về hưu cô dọn về sống với gia đ́nh người em ở Virginia. Cô dí dỏm kể thêm rằng khi cô sang Mỹ th́ cô đă bốn mươi mấy tuổi, nhưng cô thấy rằng ḿnh thích hợp với cuộc sống ở Mỹ ngay và ḿnh phải ở Mỹ thôi v́ khi ở Việt Nam cô không biết chạy xe đạp hay xe gắn máy. Cô nói khi sang Mỹ cô phải đi học lại, làm work study trong trường, và đi bán hàng. Dù cuộc sống bắt đầu với hai bàn tay trắng ở xứ người nhưng vật chất và tiền bạc không bao giờ làm cô lo lắng v́ sau nhiều thăng trầm của cuộc đời, cô thấy rằng cái ǵ cũng vượt qua được, ngoại trừ thiếu t́nh yêu và cô may mắn là cô có được nhiều t́nh yêu trong cuộc đời cũng như t́nh yêu của những người trong gia đ́nh lớn của ḿnh.
Ngoài việc viết lách, cô Lê Thị Ư có những thú vui đơn giản hằng ngày như xem video clips tiếng Việt trên Youtube, gặp gỡ một số ít bạn bè trong giới văn/thi sĩ. Cô so sánh t́nh cảm nam nữ mà cô xem trong phim của Việt Nam trên Youtube th́ “họ gọi nhau là ‘mày/tao’, rồi xắn quần xắn áo lên đi đánh nhau, không c̣n ǵ lăng mạn nữa.” Trong khi đó, thời của cô chỉ có một cái nắm tay đă run “lẩy bẩy”, và t́nh cảm nam nữ thời ấy đầy chất “thơ”. Và món ăn mà cô thích là món cà ri nhưng cô tự hào rằng ḿnh nấu ngon nhất là món bún riêu.Tôi hỏi cô có muốn nhắn nhủ ǵ với độc giả báo Trẻ trước khi kết thúc buổi tṛ chuyện không. Với nụ cười hiền lành, cô nh́n mông lung rồi lấp lửng bảo: “Bỏ bớt…”
Tôi sánh bước cùng cô Lê Thị Ư ra khỏi Sài G̣n Quán trong một buổi trưa giao mùa vùng Virginia mà ḷng bỗng thấy lâng lâng, thanh thản. Mái tóc ngắn đen tuyền ôm gọn khuôn mặt sinh động, nhân hậu của cô. Đôi mắt long lanh, sáng ngời mỗi khi nhắc về người lính Việt Nam Cộng Ḥa như một t́nh yêu đoan chắc cô dành riêng cho người t́nh trong mộng của ḿnh. Bóng dáng nhỏ nhắn, thanh mảnh trong bộ Âu phục trang nhă màu đen của cô trải dài nghiêng nghiêng trong ánh nắng rực rỡ. Tiếng hát của Ư Lan nghẹn ngào lại vang lên trong tim tôi: “Dài hơi hát khúc thương ca. Thân côi khép kín trong tà áo đen...”
Arlington, TX. Tháng Tư, 2019
Thương Ca 1
“Ngày mai đi nhận xác chồng
Say đi để thấy ḿnh không là ḿnh
Say đi cho rơ người t́nh
Cuồng si độ ấy hiển linh bây giờ
Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ
Như môi thiếu phụ nhạt mờ dấu son
T́nh ta không thể vuông tṛn
Say đi mà tưởng như c̣n người yêu
Phi cơ đáp xuống một chiều
Khung mây bàng bạc mang nhiều xót xa
Dài hơi hát khúc thương ca
Thân côi khép kín trong tà áo đen
Chao ơi thèm nụ hôn quen
Đêm đêm hẹn sẽ chong đèn chờ nhau
Chiếc quan tài phủ cờ màu
Hằn lên ba vạch đỏ au phũ phàng
Em không thấy được xác chàng
Ai thêm lon giữa hai hàng nến chong?
Mùi hương cứ tưởng hơi chồng
Nghĩa trang mà ngỡ như pḥng riêng ai.”
Tưởng Như C̣n Người Yêu – Ư Lan
xqOUlPruOho
Đôla Trăm
04-28-2019, 03:15
Thương Ca 1
“Ngày mai đi nhận xác chồng
Say đi để thấy ḿnh không là ḿnh
Say đi cho rơ người t́nh
Cuồng si độ ấy hiển linh bây giờ
Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ
Như môi thiếu phụ nhạt mờ dấu son
T́nh ta không thể vuông tṛn
Say đi mà tưởng như c̣n người yêu
Phi cơ đáp xuống một chiều
Khung mây bàng bạc mang nhiều xót xa
Dài hơi hát khúc thương ca
Thân côi khép kín trong tà áo đen ........
Trong những người hát bài này mà ḿnh đă nghe như : Thanh Lan ,Hương Lan ,Ư Lan ,Thanh Thúy ,Julie Quang , Diễm Liên và Khánh Ly .Nói chung th́ mỗi người một giọng tùy theo người thích .Hầu hết đều hát là "như môi góa phụ nhạt màu phấn son" ,chỉ Khánh Ly là hát "như môi thiếu phụ nhạt màu phấn son " .Trong đó Diễm Liên hát sai lời bài hát nhiều nhất .
Ḿnh giới thiệu thêm một bài do ca sĩ Thanh Thúy tŕnh bày ,đó là nhạc phẩm : Tấm thẻ bài nhạc và lời của nhạc sĩ Huyền Anh .
Sau cuộc chiến này c̣n chi không anh?
C̣n chi không anh?
Hay chỉ c̣n lại tấm thẻ bài
Đă mờ mờ mang tên anh.
Giọt máu nào là của mẹ
Niềm tin nào là của em
Ôi trên tấm thẻ bài này
Tấm thẻ bài này đă từng chuyên chở giấc mộng yêu đương
Mộng yêu đương không bao giờ đến
Không bao giờ đến nữa v́ anh
Không c̣n mang tấm thẻ bài
Trở về bên em
Anh đă đi đă đi vào vùng miên viễn đời người
Anh ngủ yên, ngủ yên như cỏ úa
Anh ơi sau cuộc chiến này
Có c̣n chi để lại
Hay chỉ c̣n tấm thẻ bài mang tên anh
Tấm thẻ bài phân loại máu anh
Máu Việt Nam mang t́nh của mẹ
T́nh của mẹ không bao giờ hận thù
Anh, anh có biết
Tấm thẻ bài của anh để lại
Cuộc chiến này vẫn c̣n đó không thôi
Cuộc chiến này vẫn c̣n đó anh ơi
Sau cuộc chiến này c̣n chi không anh?
C̣n chi không anh?
Hay chỉ c̣n lại tấm thẻ bài
Đang lạnh lùng trên tay em
Giọt máu nào là của mẹ
Niềm tin nào là của em
Ôi trên tấm thẻ bài này
Tấm thẻ bài này, đă từng
Ấp ủ tất cả giấc mộng yêu đương.
Mộng yêu đương không bao giờ đến
Không bao giờ đến nữa v́ anh
Không c̣n mang tấm thẻ bài
Trở về bên em.
zsuGv1eUcZ0
hoanglan22
04-28-2019, 03:23
:thankyou: bác Đôla Trăm giọng ca liêu trai thuở nào:handshake::hands hake::handshake:
wonderful
04-29-2019, 13:40
Cám ơn bạn HongThai đă cho tấm h́nh nầy.Thật cảm đông quá nhân ngày 30-04-2019 .. :thankyou: :thankyou:
https://oi1201.photobucket.c om/albums/bb352/HongThaibucket/0220sm_zpsdvtrusqu.g if
wonderful
04-30-2019, 10:05
Nhớ ngày nào ra quán lính gọi 2 ly càphê đen và bao thuốc Bastos (44 năm rồi các bạn lính ạ).:eek:
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1374486&d=1556618683
cha12 ba
04-30-2019, 16:54
Nhớ ngày nào ra quán lính gọi 2 ly càphê đen và bao thuốc Bastos (44 năm rồi các bạn lính ạ).:eek:
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1374486&d=1556618683
tôi nghỉ đây là quán cà phê lính ở Hà nội Phố Hàng buồm, th́ chỗ này sao có Bastos xanh. Nếu thấy nó mà nhớ th́ OK
cha12 ba
04-30-2019, 16:56
1 bức ảnh thay lời muốn nói
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1374636&stc=1&d=1556643344
wonderful
04-30-2019, 18:18
tôi nghỉ đây là quán cà phê lính ở Hà nội Phố Hàng buồm, th́ chỗ này sao có Bastos xanh. Nếu thấy nó mà nhớ th́ OK
Tôi thấy có chữ 'LÍNH' là ḷng tôi bồi hồi xao xuyến trong ḷng ,đă 44 năm rồi c̣n ǵ xót lại kỷ niệm thời đó đâu tụi nó đă xóa bỏ hết rồi,bây giờ chỉ c̣n lại 2 ông già Bác và tôi c̣n làm chứng nhân ngó lại chuyện xưa chơi chút đỉnh chứ tương lai cũng không xa cũng không c̣n đứa nào c̣n sống coi như xoá sạch toàn bộ.... :eek: :eek: :112: :112:
cha12 ba
05-01-2019, 00:52
Tôi thấy có chữ 'LÍNH' là ḷng tôi bồi hồi xao xuyến trong ḷng ,đă 44 năm rồi c̣n ǵ xót lại kỷ niệm thời đó đâu tụi nó đă xóa bỏ hết rồi,bây giờ chỉ c̣n lại 2 ông già Bác và tôi c̣n làm chứng nhân ngó lại chuyện xưa chơi chút đỉnh chứ tương lai cũng không xa cũng không c̣n đứa nào c̣n sống coi như xoá sạch toàn bộ.... :eek: :eek: :112: :112:
tôi biết có 1 quán cà phê lính ở SJ cái này mới là lính thiệt nè bác
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1374720&stc=1&d=1556671909
hoanglan22
05-01-2019, 01:21
Tôi thấy có chữ 'LÍNH' là ḷng tôi bồi hồi xao xuyến trong ḷng ,đă 44 năm rồi c̣n ǵ xót lại kỷ niệm thời đó đâu tụi nó đă xóa bỏ hết rồi,bây giờ chỉ c̣n lại 2 ông già Bác và tôi c̣n làm chứng nhân ngó lại chuyện xưa chơi chút đỉnh chứ tương lai cũng không xa cũng không c̣n đứa nào c̣n sống coi như xoá sạch toàn bộ.... :eek: :eek: :112: :112:
Nhanh th́ 10 năm thôi bác ạ , c̣n bác nào sống thọ một chút th́ tui + thêm 5 năm . Trở về cát bụi mà bác .:eek::eek:
Đôla Trăm
05-01-2019, 02:40
Nhạc âm thanh không hay ,h́nh chụp không đẹp nhưng....
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1374787&stc=1&d=1556677992
https://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1374788&stc=1&d=1556677992
MSMNQkIOU18
hoanglan22
05-06-2019, 02:45
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1377872&stc=1&d=1557110656
Nhân mùa Quốc Hận và trong nỗi xót xa, chúng tôi xin chia sẻ cùng quư vị bài thơ “Món Quà”, nói về thân phận người thiếu nữ, là con gái của một cán bộ Cộng Sản do cháu Hạnh Vy (tức Nancy Nguyễn) sáng tác và gởi tặng. Cùng nhạc phẩm “Hăy Thắp Cho Nhau Một Ngọn Đèn”, nhạc và lời của Nguyễn Đ́nh Toàn. Bài hát diễn tả hoàn cảnh của những người tù trong các trại “cải tạo” của CSVN. (Nam Lộc)
Món Quà
Chiến tranh vừa tàn mẹ bồng con tựa cửa:
“Kháng chiến thành công! Con ơi! Độc lập rồi!
Mười mấy năm du kích! Mẹ trông ngày này thôi…
Trên đầu con là bầu trời thống nhất,
Dưới chân con, cả dải đất tự do!”
Niềm hạnh phúc ngời lên đôi mắt đỏ
Mẹ vui mừng khóc ướt cả má con…
Ba mươi tháng Tư con c̣n đỏ hỏn
Mắt nhắm nghiền trên tay mẹ ngủ ngoan
Con đâu biết ḷng mẹ rất hân hoan
Quà của mẹ: tặng con đời Giải Phóng!
Hai mươi năm sau, con trăng tṛn tuổi ngọc
Từ giă mẹ hiền sang xứ “lạ” làm dâu
Quà cưới con, những sáu ngh́n đô! Có ít đâu!
Đủ để mẹ sửa căn nhà ḿnh đă cũ…
Dáng mẹ gầy khuất sau bờ tre rũ
Và quê ḿnh cũng mất dưới chân mây…
Mẹ ơi mẹ!
Qua đến tận bên đây
Con mới biết “chồng” con là nhà thổ!
Đoạ đày xác con!
Trăm đường nhục khổ!
Con giấu hết để mẹ được an ḷng…
Hai mươi năm nữa là bốn mươi đợi mong
Con vẫn không về … dối mẹ … “nhà chồng khó…”
Chứ con về với thân xác đó,
Mẹ nh́n con sẽ khóc hết một đời!
Bốn mươi tuổi, đâu c̣n khách làng chơi
Để có tiền … con bán đi nội tạng
Lúc cha mất, mẹ nhớ không tiền mai táng?
Quà của con: tặng mẹ cha quả thận cuối cùng…
(Hạnh Vy)
hoanglan22
05-06-2019, 02:47
cvu4KY3dsfk
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Dù mịt mùng xa xăm
Một ngọn đèn trong đêm mờ ám
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Dù chẳng c̣n hơi ấm
Cho lạnh lùng thấm qua ḷng anh
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Một ngọn đèn trăm năm
Rồi thả đèn trôi trên ḍng sông
Như tháng giêng trong đêm nguyệt rằm
Người thả đèn trôi sông
Cầu nguyện cho những ai trầm luân
Đêm quê hương
Đêm treo trên một cành ngang
Chôn nhau xong làm dấu nhớ chỗ ai nằm
Cơn mưa giông
Đêm qua đông trời lạnh lắm
Gió khắp bốn bể cây rừng
Núi run h́nh bóng
Mai rạng đông
Đến lượt ai đem chôn
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Dù t́nh đời mong manh
Ḷng chẳng c̣n trong mong ǵ nữa
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
T́nh c̣n là t́nh nhắn
Chẳng c̣n đèn sẽ soi ngày không
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Để một ḿnh trong đêm
Anh tưởng nh́n ra em c̣n hơn
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Một ngọn đèn tai biến
Một ngọn đèn tang tóc dửng dưng
II.
Cố thắp cho em một ngọn đèn
Bằng lửa sầu tim anh
Một ngọn đèn lênh đênh ngày tháng
Cố thắp cho em một ngọn đèn
Dù mệt nhoài trông ngóng
Để nhủ ḷng gắn nuôi niềm tin
Cố thắp cho em một ngọn đèn
Một ngọn đèn đau thương
Đă nhạt nḥa hơn hơi t́nh duyên
Cố thắp cho em một ngọn đèn
Bằng nhọc nhằn cay đắng
Bằng h́nh hài ră trong trại giam
Ôi đêm đen
Đêm mang trăm niềm ai oán
Đêm chôn ta từng canh vắng
Đêm âm thầm
Đêm thê lương
Đêm không mong trời sẽ sáng
Đêm nghe xương rời ră buồn
Ngón tay bẽ đôi
Như ngày xanh
Gẫy từ em qua anh
Cố thắp cho em một ngọn đèn
Dù lửa tàn trong anh
Không c̣n đủ khêu thêm đèn sáng
Cố thắp cho em một ngọn đèn
Để dù trong tăm tối
Có mộng c̣n biết nơi t́m sang
Cố thắp cho em một ngọn đèn
Rồi thả hồn bay lên
Nơi hẹn ḥ không tên gặp em
Cố thắp cho em một ngọn đèn
Để dù trong xa vắng
Em c̣n được cháy trong ḷng anh
Nam Lộc
5/5/19
Tượng Ngày Về cao 4m, bằng bê-tông cốt thép, giải nhất điêu khắc, giải Văn Học Nghệ Thuật 1963 (giải Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm). Tượng triển lăm tại công viên đống Đa.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1377929&stc=1&d=1557112821
Trong các tác phẩm điêu khắc của Nguyễn Thanh Thu, người lính VNCH là đề tài gây cho ông nhiều cảm xúc. Khi nhắc tới tác phẩm của ông người ta thường nói nhiều tới tượng Thương Tiếc nhưng với ông tác phẩm Ngày Về lại đem cho ông niềm vinh dự lớn nhất. Đó là bước ngoặc lớn trong sự nghiệp điêu khắc vào tuổi 29.
Tác phẩm Ngày Về là một bức tượng bằng bê-tông cốt thép, cao 4m, nặng 1.5 tấn. Tượng diễn tả cuộc đoàn tụ cảm động giữa người lính VNCH trở về vinh quang từ mặt trận vừa im tiếng súng và người yêu ở hậu phương ngày đêm ṃn mỏi chờ mong. Cuộc chiến quá khốc liệt, cả hai có lúc nghĩ về cuộc đoàn tụ ch́m trong khói lửa. Ôm người yêu trong ṿng tay, người lính ngữa mặt lên trời như chơi vơi giữa thực và mộng, giữa bom đạn và nước mắt người yêu. Cô gái kịp ngă vào ḷng người lính sau khi choàng lên cổ chàng một ṿng hoa chiến thắng. Với cô thế giới bây giờ chỉ có hai người và khúc nhạc:
Ḱa đoàn quân chiến thắng trở về dưới nắng hồng
Cùng nhau ḥa câu hát thành công
Lớp áo xanh phai mầu
Thấy phất phơ ngang đầu
Ngọn cờ tung bay cuối phố…
(Bài ca chiến thắng- Minh Duy http://trankimsabr.com/trao-vong-hoa-chien-thang-cho-chien-si-qlvnch-tai-trung-tam-hlqg-van-kiep-phuoc-tuy-1971/)
Để tạo nên một sự xúc động cao nhất, ĐKG Thu đă dùng thủ pháp phi tỷ lệ cho tác phẩm Ngày Về. Hai nhân vật trong tác phẩm như ḥa vào một và vươn hẳn lên bầu trời cao khiến cho người xem phải ngước nh́n hạnh phúc của họ trong ngày về chiến thắng.
Tượng Ngày Về là một tác phẩm dự thi giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc (giải tổng thống Ngô Đ́nh Diệm). Có 7 tác phẩm điêu khắc xuất sắc được chọn cho cuộc triển lăm kéo dài trong 1 tháng tại công viên trước Ṭa Đô Chánh. Hội đồng đă quyết định trao giải nhất với phần thưởng 35,000 Đồng cho tác phẩm Ngày Về nhân ngày Quốc Khánh 26 tháng 10 năm 1963.
Ông Thu ngậm ngùi kể rằng ngày 29 tháng 10 năm 1963, trung tướng Trần Văn Đôn đă đưa ông vào yết kiến Ngô Tổng Thống th́ ba ngày sau xăy ra cuộc đảo chánh và đó là lần cuối ông Thu gặp Ngài.
Tác phẩm Ngày Về cùng giải thưởng danh giá đă đánh dấu một giai đoạn vàng với hàng loạt tác phẩm để đời sau đó. Tuy nhiên cũng chính tượng Ngày Về (và tượng Thương Tiếc sau đó) đă làm cho ông phải gánh chịu bao tủi nhục trong tám năm trường trong ngục tối ở trại tập trung Hàm Tân.
Sau khi được trả tự do, ông không có một Ngày Về chiến thắng như ông đă vẽ ra 25 năm trước đó. Thật buồn. Tất cả đều tan nát, từ gia đ́nh cho đến các bức tượng trong sân nhà. Cũng an ủi cho ông, tượng Ngày Về, nhờ che khuất bởi giàn dây leo, vẫn c̣n sót lại sau một cuộc đập phá điên loạn vào những ngày đầu khi Sài G̣n thất thủ.
Giờ đây “Ngày Về” là kỷ vật vô giá duy nhất c̣n nguyên vẹn về một đề tài mang lại cho ông nhiều cảm xúc nhất: người lính VNCH.
Nguyễn Tuấn Khoa
hoanglan22
05-10-2019, 16:14
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1381191&stc=1&d=1557504609
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1381192&stc=1&d=1557504609
LIÊN ĐOÀN 81 BIỆT CÁCH DÙ THAM CHIẾN
Đến ngày 16 tháng 04 năm 1972, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, được tăng viện cho An Lộc, và khởi phát cuộc phản công tái chiếm lại ½ lănh thổ phía Bắc An Lộc.
Từng đoàn trực thăng HU1D cất cánh từ căn cứ Lai Khê vào trưa ngày 16 tháng 04 năm 1972 đưa 550 Biệt Cách Nhảy Dù đến chiến trường An Lộc một cách an toàn.
Băi đổ quân được chọn trên một khoảng ruộng trống, về phía Tây, Tỉnh lộ 245, cách Đồi Gíó 1 cây số về phía Đông Bắc.
Hợp đoàn trực thăng từng đợt 30 chiếc HU1D cho mỗi đợt đổ quân, có 4 trực thăng vơ trang hộ tống bao vùng. Đợt đầu thả Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn, do Trung Tá Phan Văn Huấn chỉ huy và 4 toán trinh sát của Liên Đoàn 81 Biệt Cách, do Trung Úy Lê Văn Lợi chỉ huy, cùng Đại Đội 1 do Đại Úy Nguyễn Ích Đoàn chỉ huy và Đại Đội 2 do Đại Úy Nguyễn Sơn chỉ huy; Chuyến thứ nh́ gồm có Liên Đoàn Phó, Thiếu Tá Nguyễn văn Lân, cùng Đại Đội 3 do Đại Úy Phạm Châu Tài (có biệt danh là Hổ Xám) chỉ huy, và Đại Đội 4 do Đại Úy Đào Minh Hùng chỉ huy.
Sau khi được an toàn nhảy xuống trận địa, kiểm điểm quân đầy đủ, Trung Tá Huấn liền cho lệnh các đơn vị di chuyển đến chiếm cứ Ấp Srok G̣n, cận kề bên băi đổ quân, bố trí xong xuôi, Trung Tá Huấn mở tần số truyến tin, liên lạc được với Tướng Hưng (Bộ Chỉ Huy Mặt Trận) và Đại Tá Lưỡng (Lực Lượng Dù) ở phía Nam để được hướng dẫn lộ tŕnh an toàn cũng như tránh ngộ nhận giữa quân bạn trước khi tiến quân vào thành phố.
Trên đường tiến quân vào chiếm Ấp Srok G̣n, đơn vị Biệt Cách đi đầu, báo cáo về Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn, gặp được hai người Thượng, đang ṃ mẫm trở về Ấp, để t́m các con B̉ của dân làng đă bỏ chạy ra khỏi Ấp c̣n để lại từ hơn tuần qua, khi Cộng quân đến chiếm cứ. Với nhiều vết tích hầm hố, giao thông hào chiến đấu, c̣n nguyên vẹn, hai người dân Thượng c̣n cho biết, quân Cộng Sản cũng vừa mới rút đi, c̣n chưa kịp lấp lại hầm hố, đào xới tứ tung.
Chiếu theo tài liệu của nhân chứng sống Biệt Cách Dù, Thiếu Tá Phạm Châu Tài, trong tác phẩm “AN LỘC CHIẾN TRƯỜNG ĐI KHÔNG HẸN”, đoạn “Theo chân đoàn quân ma” có đoạn tường thuật như sau:
“Theo kế hoạch giải vây,hai đơn vị thiện chiến được sử dụng đến là Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù.
Cả hai đơn vị nầy đều nhảy thẳng vào An Lộc với hai nhiệm vụ khác nhau, một phía trong và một phía ngoài thị xă.
Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù sẽ quét sạch hành lang vây khốn bên ngoài chu vi pḥng thủ và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù mở đường máu đánh thẳng vào An Lộc tiếp tay với quân trú pḥng bên trong, chiếm lại phân nửa thành phố đă mất.
Người ta suy nghĩ, kế hoạch này là một ván cờ liều, một kế hoạch đánh xả láng “thí chốt để lấy xe” , và những đơn vị thi hành sẽ là những con thiêu thân bay vào ánh lửa. Đúng vậy, họ là những con chốt của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, những con chốt đă sang sông, đă nhập cung,và đă trở thành một pháo đài sừng sững trước mặt quân thù.
Ngày 14 tháng 04 năm 1972, từ Quận Chân Thành, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù và một pháo đội được trực thăng vận vào một địa điểm cách An Lộc 04 cây số về phía Đông Nam.
Từ Ấp Srock Ton Cui, Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù chiếm lĩnh cao điểm 169, c̣n được gọi là Đồi Gió, đặt 06 khẩu 105 ly, để yểm trợ cho Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn cùng Tiểu đoàn 5 và 8 Nhảy Dù tiến vào An Lộc.
Linh động và bất ngờ là hai yếu trong binh pháp, được Lữ Đoàn 1 Dù khai thác triệt để trong cuộc hành quân nầy.
Cộng quân bao vây An Lộc bị cú bất ngờ khi thấy lính Nhảy Dù xuất hiện phía sau, yếu tố bất ngờ đă làm địch quân hốt hoảng, trận đánh đẫm máu nổ ra và Nhảy Dù đă chiếm ưu thế, mở được một khoảng trống trong ṿng vây kín mít từ phía Đông Nam hướng về An Lộc.
Cùng ngày 14 tháng 04 năm 1972 khi Lữ đoàn 1 Nhảy dù được trực thăng vận vào An Lộc, th́ từ những khu rừng già vùng Tây Nam Xa Mát dọc theo biên giới Việt- Miên, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù đang hành quân, được lệnh triệt xuất để trở về căn cứ Trảng Lớn thuộc Tỉnh Tây Ninh.
Sáng ngày 16 tháng 04 năm 1972 Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù được vận chuyển qua Lai Khê bằng trực thăng Chinook CH-46.
12 giờ trưa cùng ngày, khi kho đạn Lai Khê bị đặc công Cộng Sản phá hoại nổ tung, là lúc toàn bộ 550 quân cảm tử của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù sẵn sang tại phi trường Lai Khê để được trực thăng vào An Lộc.
Nắng hè chói chang oi bức, ánh nắng lung linh theo cánh quạt của trực thăng tiễn đưa đoàn quân Ma đi vào vùng đất cấm. Địa điểm đổ quân là những đám ruộng khô cằn, nứt nẻ phía Tây tỉnh lộ 245, chung quanh là những cánh rừng thưa trải dài theo hướng Tây Bắc, khoảng cách 1 cây số đi về phía Đồi Gió.
Phải một hợp đoàn 45 chiếc trực thăng đa dụng HU-1D với hai đợt đổ quân mới thực hiện xong cuộc chuyển quân, và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù đă vào vùng hành quân lúc 04 giờ chiều ngày 16 tháng 04 năm 1972. Mở tần số liên lạc với Tướng Lê Văn Hưng trong An Lộc và liên lạc với Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù để biết vị trí quân bạn, sau đó nhanh chóng khai triển đội h́nh chiến đấu di chuyển về hướng Tây, len lỏi theo đường thông thủy giữa hai ngọn đối Gió và 169 âm thầm ngậm tăm mà đi.
Một sự kiện bất ngờ không may xảy đến khi đoàn quân đang di chuyển, một quả bom của Không quân Hoa Kỳ định đánh vào vị trí của Cộng Quân lại rơi ngay vào đội h́nh đang di chuyển của Biệt Cách Dù, gây thương vong cho một vài binh sĩ, trong đó có Thiếu Úy Lê Đ́nh Chiếu Thiện. Lập tức trái khói vàng được bốc lên cao giữa đoàn quân để phi công nhận diện phía dưới là quân bạn.
Phải mất một thời gian ngắn cho việc tản thương, hai cố vấn Mỹ; Đại Úy Huggings và Thượng sĩ Yearta nhanh chóng liên lạc với Lữ Đoàn 7 Kỵ Binh Không vận Hoa Kỳ yêu cầu trực thăng cấp cứu và được thỏa măn ngay. Đây là hai cố vấn thuộc lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ c̣n chiến đấu bên cạnh Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù khi quân bộ chiến Mỹ đă rút lui ra khỏi chiến trường Việt Nam theo kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh được thi hành vào năm 1970.
Sự kiện thứ hai xảy đến là sự xuất hiện của 47 quân nhân thuộc Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân từ đối 169 chạy tuôn xuống, mặt mày hốc hác v́ mệt mỏi và thiếu ăn, bị thất lạc và phải trốn trong rừng. Họ đi theo Biệt Cách Dù để trở lại đơn vị gốc trong An Lộc.
Vài tiếng súng AK ṛn ră ở phía Đông, có lẽ địch bắn báo động. Tiếp tục di chuyển vế hướng Tây Bắc để vào rừng cao su Phú Ḥa. Tiếng súng nổ liên hồi, đứt khoảng phía trước, Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đang chạm địch. Gặp Tiểu Đoàn Trưởng Nhảy dù- Trung Tá Hiếu cười méo miệng, nói như phân trần ” tụi nó đông như kiến và bám sát tụi moi như bày đỉa đói”.
“ Tụi nó đông như kiến” đă nói lên thực trạng chênh lệch lực lượng quân sự đôi bên mà ưu thế vế phía Việt cộng. Nhưng đă là lính th́ phải cố gắng cho đến lúc tàn hơi, đă là một Biệt Cách Dù th́ phải chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh cho màu cờ sắc áo của đơn vị.
Hoàng hôn phủ xuống thật nhanh, bóng tối lần lần bao trùm cảnh vật chung quanh. Súng vẫn nổ rải rác từng đợt, từng hồi trong rừng thẳm. Biệt Cách Dù chiếm ấp Srok G̣n trong im lặng và an toàn v́ địch vừa rút ra khỏi đây. Lục soát, bố trí và dừng quân chung quanh ấp trong những công sự chiến đấu đă có sẵn của Việt Cộng.
Bóng đêm dày đặc, im vắng xa xa về hướng An Lộc- đạn pháo ́ ầm nổ như tiếng trống cầm canh.
Sự đổ quân tăng viện ồ ạt của Việt Nam Cộng Ḥa về phía Đông Nam cách An Lộc 4 km, đồng nhịp với các phi vụ đánh bom B52 tàn khốc về phía Nam của thành phố, đă làm cho Cộng quân hoang mang hốt hoảng. Lữ Đoàn 1 Dù là lực lượng đối kháng ṿng ngoài để thu hút địch quân đồng thời tạo một lỗ hổng cho Biệt Cách Dù thâm nhập vào thành phố.
Sáng ngày 17 tháng 04 năm 1972, cùng một thời điểm Tiểu Đoàn 8 Dù tiếp cận ngoại vi tuyến pḥng thủ của Thị Xă vế phía Nam, cạnh Quốc Lộ 13.
Cộng quân không ngờ Biệt Cách Dù đă lọt được vào Thị xă tiếp hơi cho quân tử thủ và mở cuộc tấn công ngay trong đêm đó vào các khu phố mặt Bắc…
Nói về liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy dù, mặc dù chỉ có 550 chiến sĩ được đổ quân vào An Lộc nhưng khả năng tác chiến có thể bằng hay hơn 2000 quân bộ chiến ( cấp Trung đoàn ) của các Công trường quân Cộng sản Bắc Việt, bởi chiến pháp linh động và bất ngờ, uyển chuyển theo t́nh h́nh, biết tùy theo thời tiết và địa thế, khi tấn công th́ như vũ băo, sấm sét giáng lên đầu quân địch, khiến chúng không kịp trở tay, xuất hiện bất ngờ như những thiên thần trên trận mạc, đánh cận chiến tuyệt kỹ trên các hầm hố giao thông hào vào ban đêm, chui tường, đục lỗ tác chiến trong thành phố, cả ngày lẫn đêm rất điêu luyện ( lấy ít đánh nhiều, sát hại địch nhiều mà thương vong lại ít), đột kích bất ngờ thu dọn chiến trường nhanh chóng đă làm kinh tâm khiếp đảm địch quân trên tận dăy Trường Sơn heo hút gió ngàn, và trong thành phố tại ngă ba Cây Thị kỳ TẾT Mậu Thân 1968 tại Sài G̣n.
Thật là một đơn vị Biệt Kích = Commando thiện chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, hơn hẳn các đơn vị “đặc công” thiện chiến của Cộng Quân, và không thua bất cứ đơn vị Commando nào của các Quân Đội trên Thế Giới.
Theo như lời khai báo của hai dân Thượng, th́ đơn vị trú quân tại Ấp Srok G̣n là Trung Đoàn 141 Cộng Sản Bắc Việt, đă vội vàng rút đi trong đêm 13 rạng ngày 14 tháng 04 năm 1972, đến bảo vệ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn Cộng Sản Bắc Việt cũng như Cục R. Điểm đáng lưu ư là Đơn vị Biệt Cách Dù đă tránh được một cuộc chạm súng với đơn vị Trung Đoàn 141 của Công Quân, có quân số đông hơn Biệt Cách Dù đến 5 lần, và Địch được ưu thế pḥng không và có công sự chiến đấu. Nhất là khi chuyến đầu đổ quân, không sao tránh khỏi đụng trận, các chiến binh Biệt Cách Dù kể cả các trực thăng đổ quân chắc chắn phải bị hao hụt ít nhiều, không c̣n được nguyên vẹn quân số, để tiếp tục làm tṛn sứ mạng tiếp sức với Trung Đoàn 8 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh, chiếm lại ½ diện địa phía Bắc, trong những ngày kế tiếp sau đó.
Trung Đoàn 141 thuộc Công Trường 7 của Cộng quân, thật sự đă ẩn phục tại Ấp Srok G̣n từ hơn tuần qua, và mới nhận được lệnh điều động rời khỏi vị trí, di chuyển về vùng Phi Trường Quản Lợi. V́ bị trúng kế “Điệu Hổ Ly Sơn”, đúng theo sự thiết kế của Bộ Tư lệnh Quân Đoàn 3 Việt Nam Cộng Hoà.
Câu chuyện này, cho đến nay vẫn có rất ít người biết, kể cả đơn vị Biệt Cách Dù cũng không biết được là nguyên do nào mà đơn vị ḿnh được đổ quân ngay vào ḷng Địch, mà vẫn được an toàn tiến quân vào tiếp cứu quân Bạn đánh bại Quân Đoàn xăm lăng quân Cộng Sản Bắc Việt, một cách oanh oanh liệt liệt như thế.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1381193&stc=1&d=1557504609
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1381194&stc=1&d=1557504609
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1381195&stc=1&d=1557504609
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1381200&stc=1&d=1557505304
hoanglan22
05-17-2019, 03:43
(Trong số những Trại Dân Sự Chiến Đấu do Lực lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ thiết lập tại Việt Nam trong những năm 60-70, có những Trại đă trở thành rất nổi tiếng với các trận đánh khốc liệt như Pleime, Tống Lê Chơn, Đức Huệ ... Căn cứ Thiện Ngôn, tuy ít được biết đến, nhưng cũng cũng là một vị trí khá quan trọng .. Bài này xin được viết về Căn cứ này cùng Tiểu đoàn 87 BĐQ Biên Pḥng là đơn vị đă được thành lập từ các dân sự chiến đấu tại Thiện Ngôn chuyển sang )
Căn cứ Thiện Ngôn hay tên ban đầu là Trại Dân Sự Chiến Đấu Thiện Ngôn là một trại DSCD được xây dựng từ Trại Bi , Trại đầu tiên mà LLĐB Hoa Kỳ (SF), toán A-323, thiết lập trong khu vực Chiến khu C của CQ (25 tháng 6 năm 1966). Trại Bi nằm sâu khoảng 6 cây số bên trong CK C ,, phía Tây núi Bà Đen, và từng là nơi xẩy ra các cuộc đụng độ giữa CQ và TĐ 35 BĐQ, mỗi khi TĐ tăng viện cho Trại. Trại Bi nằm trên QL 22 cách Tây Ninh khoảng 23 km về phía Bắc Tây-Bắc và 20 km phía Tây-Bắc núi Bà Đen , chặn
đường chuyển vận của CQ trong khu vực.. Trại liên tục bị pháo kích và tấn công phá rối trong suốt năm 1967. SF đă quyết định xây dựng một Căn cứ mới vững chắc và rộng răi hơn tại Thiện Ngôn. Trại mới này do TĐ 588 Công Binh HK xây cất và CQ đă tấn công khu vực này nhiều lần ngay khi trại chưa hoàn thành ! Trại Thiện Ngôn hoàn tất và chính thức hoạt động ngày 22 tháng 2 năm 1968 với nhân sự từ Trại Bi chuyển sang Thiện Ngôn trở thành một khu vực chiến lược bao gồm một trại SF, một trại DSCĐ có sân bay trực thăng bên trong trại, một sân bay bay nhỏ ngoài trại và một căn cứ hỏa lực riêng biệt.
Trại DSCĐ cách trại SF khoảng 1 km và cả hai cách Tây Ninh chừng 34-35 km về phía Bắc Tây-Bắc , cách Katum 25 km về phía Tây Tây-Nam , cách biên giới Việt-Miên 7 km về phía Nam. Phi trường có phi đạo đắp đất cách Trại chửng 5 km và dài chừng 900 m đủ để phi cơ Caribou C-7 và C-123 có thể lên-xuống..
Về phương diện hành chánh , Thiện Ngôn nằm trong Quận Phước Ninh, Tỉnh Tây Ninh Trại được xây dựng khá kiên cố, h́nh ngôi sao 5 cánh do Toán A-323 SF và một toán A LLĐB VN điều hành. Trại có một lực lượng DSCĐ khoảng 350 người chia thành 5 đại đội ( 3 Thượng và 2 Miên) trú đóng, trang bị thêm 2 khẩu cối 81 và 2 khẩu 4 inch 2 (do SF sử dụng). Các trận đụng độ giữa CIDG và CQ tại Thiện Ngôn. Căn cứ Thiện Ngôn gây trở ngại khá nhiều cho việc di chuyển của CQ nên họ thường tấn công và pháo kích vào Căn cứ....
Sau đây là vài trận đánh tiêu biểu (dựa theo quân sử của 5th SF và tập sách Green Beret at War của Shelby Stanton ):
- 1 tháng 9 năm 1968 : CQ pháo kích Trại bằng 20 quả 122 và 60 quả 82 . Trại phản pháo bằng súng nặng cơ hữu và có Spooky không yểm. 6 CIDG tử trận.
- 27 tháng 9 năm 1968 : Hai TĐ của SĐ9 BV đă mở cuộc tấn công vào Căn cứ . Trại bị pháo kích bằng hỏa tiễn và súng cối, mức độ gia tăng cho đến 10 giờ đêm. Sau đó CQ mở 3 đợt tấn kích , từ nửa đêm đến sáng, sau mỗi đợt pháo kích là đặc công tiến đánh dùng bộc lôi phá rào, nhưng đều bị đẩy lui do sự chống cự của lực lượng trú pḥng được pháo binh và không quân yểm trợ. Trong trận này 5 DSCĐ tử trận, 4 LLĐB và 8 DSCĐ bị thương. CQ để lại 140 xác và 3 bị bắt.
- 9 tháng 11 năm 1968 : Hai đại đội DSCĐ đă mở cuộc hành quân vào một khu vực cách Căn cứ khoảng 10 km về hướng Tây-Bắc, có 4 LLĐB VN và 4 SF cùng tham dự. Toán quân đi đầu bị phục kích, các toán sau rút chạy bỏ lại 10 quân gốc Miên..Các SF cố quay lại và nhờ sự có mặt của Trung tá Harry Hillings, chỉ huy trưởng B-32 (Toán chỉ huy của A-323) và Sĩ quan LLĐB VN đối tác là Thiếu tá Lê văn Hạnh , trên trực thăng chỉ huy bay trên khu vực nên đă giúp thay đổi t́nh thế : một đơn vị tăng viện đă được đưa ngay vào vùng để giúp giải cứu được 6 quân c̣n sống và đem 4 xác tử trận về căn cứ. Sau đó trong các tháng 1 và 6 năm 1969, tuy Trại có tổ chức thêm vài cuộc hành quân nhưng hầu như không đạt hiệu quả , phần lớn do tinh thần chiến đấu rất thụ động và khả năng yếu kém của CIDG. Các cuộc hành quân chỉ dự trù kéo dài tối đa 3 ngày và CQ qua nội tuyến biết khá rơ về kế hoạch nên thường tránh đụng độ.
Căn cứ Thiện Ngôn đóng vai tṛ quan trọng trong cuộc Hành quân Vượt biên của Liên quân Việt-Mỹ sang Miên tháng 4-1970. Thiện Ngôn đă là điểm tập trung quân để tiền theo QL 22 vả tiến đến Kà Tum và từ đây tấn công vào đất Miên. Trong kế hoạch rút quân của Mỹ, Căn cứ Thiện Ngôn được chuyển giao cho VNCH vào ngày 1 tháng 7 năm 1970 (theo tài liệu của BĐQ VN, nhưng tài liệu tổ chức của Mỹ lại ghi 30 tháng 9 , 1970) . Quân số lúc bàn giao được ghi là 333 người và được chuyển thành TĐ 73 BĐQ Biên Pḥng.
Trên nguyên tắc TĐ 73 BĐQ BP sẽ là đơn vị trú đóng tại Thiện Ngôn như TĐ 92 tại Tống Lê Chơn, 62 tại Lệ Khánh, 90 tại Dak Seang ... nhưng theo nhu cầu chiến trường Thiện Ngôn đă được giao cho Trung đoàn 49 SĐ 25 BB VNCH trấn giữ. Pḥng tuyến Tân Biên-Thiện Ngôn-Xa mát đă bị CQ tấn công nghi binh cầm chân SĐ 25 trong trận An Lộc..
Khu vực Thiện Ngôn-Xa mát có vai tṛ rất quan trọng với CQ nên họ đă biến đổi khu vực thành một căn cứ địa chính trị và kinh tế lâu dài; Trung Ương Cục Miền Nam của CQ đang đặt tại vùng đất Miên đối diện. Qua năm thứ nh́ của Hiệp định Paris , khu vực Ḷ G̣- Thiện Ngôn -Xa mát và Katum đă trở thành một vùng chiến lược nơi CQ tập trung các bộ chỉ huy quân sự và tiếp vận Trong thời gian này CQ vẫn tiếp tục vây hăm Căn cứ Tống Lê Chơn , phản ứng của VNCH chỉ là những cuộc không kích của KQVN, tập trung vào Xa mát :
Báo cáo của DAO ghi lại :
Hoạt động của KQVNCH trong thời gian các tháng 10-12 năm 1973 :
- Cuối tháng 10 : Oanh kích Xa mát; phá hủy 60 cơ sở, kho hàng gây tử thương cho 60 người (các con số do nguồn t́nh báo cung cấp)
- 8-10 tháng 11 : Oanh kích Ḷ G̣ : phá hủy nhiều cơ sở hậu cần, kho gạo, kho xăng dầu .. gây tử thương cho nhiều cán binh và chuyên viên tiếp vận.. KQVNCH đă dùng 34 phi cơ trong các cuộc không kích.
- 12 tháng 11 : Oanh kích Thiện Ngôn. KQVN dùng 53 phi cơ tấn công các cấu trúc quân sự, ổ pḥng không, pháo binh.. kết quả phối kiểm bằng không ảnh.
-23 tháng 11 : KQVN dùng 68 Skyraiders và 44 F-5 tấn công tập trung phá hủy 69 cấu trúc, 5 tụ điểm nhiên liệu, xe cộ, 6 vị trí pḥng không, 17 pháo đài nổi..
* TĐ 73 BĐQ Biên Pḥng :
Sau khi được chuyển thành BĐQ BP , các quân nhân DSCĐ được tự quyết định, nếu chọn ở lại BĐQ sẽ được gửi đi huấn luyện tại các Trung tâm huấn luyện của BĐQ, các nhân viên đại đội trưởng sẻ có cấp bực chuẩn úy nếu đủ điểm khi măn khóa huấn luyện. BĐQ Nguyễn Phát (sĩ quan TĐ 73) ghi lại : " vào thời điểm 1972 BĐQ Quân đoàn 3 gồm 2 Liên đoàn tiếp ứng 3 và 5 cùng 9 TĐ Biên pḥng trong đó có 73.. Tây Ninh là nơi có nhiều TĐ BP nhất 65, 73, 84 và 91 nhưng lúc đó 3 TĐ 65, 73 và 84 đă tập trung thành Chiến đoàn Sông Bé tham chiến tại An Lộc. Các TĐ 65 và 84 quân số hao hụt nhiều phải đưa ra Dục Mỹ tái bổ xung và trở thành lưu động đi tăng phái cho các quân khu như 73 . Tây Ninh không c̣n 87 nữa..'
TĐ 73 sau khi huấn luyện đă về căn cứ Trảng Sụp v́ Thiện Ngôn đă bị lấn chiềm, TĐ trở thành lưu động..TĐ lúc này do Th tá Nguyễn Công Triệu chỉ huy (Th tá Triệu sau đó thăng Tr tá và chỉ huy Biệt đoàn 222 Cảnh sát Dă chiến). Năm 1974 , khi LĐ 8 BĐQ được thành lập , gồm 3 TĐ 84, 86 và 87. LĐ Trưởng lúc thành lập là Đ Tá Vũ Phi Hùng và TĐ trưởng 87 là Th tá Nguyễn Hữu Mạnh. Sau đó Đ/tá Hùng về lảm TMT SĐ 106 BĐQ (tân lập), LĐ 8 được giao cho Tr tá Nguyễn Thanh Ṭng.. Trong những ngày cuối của cuộc chiến TĐ 87 được giao nhiệm vụ trấn giữ khu vườn thơm Lư văn Mạnh và Kinh Xáng. 9 giờ sáng 30 tháng 4 TĐ vẫn chiến đấu và trước áp lực của CQ đă phải lùi dần về Sài G̣n và cuối cùng tan hàng sau lệnh buông súng của DVM..
Trần Lư (2019)
Tài liệu sử dụng :
- Green Berets at War (Shelby Stanton)
- VietNam : From Cease fire to Capitulation (William LeGro)
- Các bài về An Lộc của nhiều tác giả Việt-Mỹ
- Các tài liệu về BĐQ của Mũ nâu Vũ Đ́nh Hiếu
- Các tài liệu về TĐ 87 BĐQ của các Mũ nâu Đỗ Như Quyên, Thiên Nga..
đặc biệt là các email của BĐQ Nguyễn Hữu Phát (Belgique)
hoanglan22
05-23-2019, 02:59
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1388048&stc=1&d=1558579915
Phan Rang thất thủ ngày 16.4.1975. Lúc bấy giờ chiến hạm tôi đang hoạt động trong khu vực chiến đấu cùng với nhiều tàu chiến khác ở vùng biển thuộc vịnh Cà Ná Mũi Dinh, Phan Rang trong nhiều tuần lễ qua để cứu vớt quân cán chính và đồng bào đang đổ xô ra biển bằng ghe chạy tị nạn cộng sản. Chiến hạm tôi cùng với những chiến hạm khác trong vùng c̣n có nhiệm vụ chận đứng hoặc giảm thiểu tối đa áp lực tấn công của cộng quân hướng vào Phan Thiết.
Trước ngày 18.4.1975, khi những chiến hạm HQ02, HQ05 và HQ17 chưa đến tăng viện chiến trường Phan Rang th́ Hạm trưởng HQ503 có cấp bậc thâm niên nhất tại vùng nhận quyền chỉ huy. Vào đêm 17.4.1975 chúng tôi nh́n thấy trên quốc lộ 1 nằm sát bờ biển có rất nhiều ánh sáng di động cách nhau từ khoảng 50m đến 70m từ Phan Rang hướng về Phan Thiết. Tức thời Hạm trưởng HQ503, HQ Trung tá Nguyễn Văn Lộc chỉ thị cho những Giang Pháo Hạm, Hộ Tống Hạm cũng như nhiều loại chiến đỉnh khác dùng hoả lực chận đứng sự di chuyển của cọng quân bằng các loại xe chở bộ đội hướng về Phan Thiết vào ban đêm trên quốc lộ 1 sát biển. Sáng sớm hôm sau, lúc tôi đang đi phiên và hiện diện trên đài chỉ huy th́ HT của tôi chỉ thị Hộ Tống Hạm HQ 11 vào gần bờ để quan sát t́nh h́nh và báo cáo cho biết kết quả chận đứng sự di chuyển của địch quân trong đêm qua. Qua vô tuyến tôi nghe Hạm trưởng HQ11 nói với Hạm trưởng HQ 503 rằng: “Commander ơi, tội nghiệp quá, đêm hôm qua chúng ta bắn vào xe đồng bào ta di chuyển về hướng Phan Thiết! Sáng hôm nay chiến hạm vào gần bờ thấy hầu hết là những xe dân sự bịt bùng di chuyển về hướng Phan Thiết mà thôi…”.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1388053&stc=1&d=1558579915
Ngày xưa, và bây giờ: Nguyễn Văn Phảy 2012
Trên đài chỉ huy HQ503 tôi cũng thấy Hộ Tống Hạm HQ 11 cùng một vài chiến hạm khác đang tiến vào gần bờ. Khi HQ11 gần tới bờ th́ chiến hạm quay mũi về hướng bắc, chạy dọc theo quốc lộ 1 để quan sát t́nh h́nh. Sau khi báo cáo của Hạm trưởng HQ11 vừa dứt th́ chúng tôi nghe rất nhiều loạt đạn súng nhỏ, không phải đại pháo, từ bờ bắn ra hướng về chiến hạm HQ11. Sau đó được Hạm trưởng HQ11 cho biết rằng địch quân trên bờ bắn ra chiến hạm. Chiến hạm HQ11 đă bị trúng đạn làm cho 1 hạ sĩ tử thương và 1 thưọng sĩ bị thương. Thế là HT HQ503 cho lệnh tất cả chiến hạm phải rút ra xa khỏi quốc lộ, không được đến gần bờ. Chiến hạm HQ503 cũng vậy. Chiến hạm tôi chạy hướng lên gần Mũi Dinh để tiếp tục cứu vớt quân cán chính muốn ra chiến hạm.
Thế mới càng rơ hơn, cọng quân dùng cả xe dân sự lẫn quân sự để chuyển quân vào Phan Thiết sau khi Phan Rang lọt vào tay cộng quân.
Kể từ ngày 18.4.1975 chiến hạm HQ02 / HQ05 (?) đến tăng viện và nhận quyền chỉ huy.
Song vào đó chiến hạm tôi có lệnh phải cứu Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi đang lẩn tránh trong núi và t́m cách lên tàu. Lúc bấy giờ ông dùng biệt hiệu là Vương Hồng và liên lạc qua hệ thống truyền tin (vô tuyến) với chiến hạm của tôi sau khi Phan Rang thất thủ.
Trong suốt thời gian liên lạc với biệt danh Vương Hồng th́ thấy trên bờ núi ở mũi Dinh có tín hiệu bằng gương phản chiếu ánh sáng mặt trời chiếu ra. Chiến hạm di chuyển đến gần bờ hơn để nhờ các ghe nhỏ chạy ngang qua vào cứu ruớc và trả tiền hoặc đưa dầu Diesel cho họ như mấy ngày hôm trước đă làm. Khi chiến hạm vào gần bờ giữa Mũi Cà Ná và Mũi Dinh th́ đă cứu vớt thêm một số quân Biệt Kích từ trong bờ đi ghe nhỏ ra chiến hạm. Số Biệt Kích cho biết trong bờ c̣n có bạn bè đồng đội nữa. V́ vậy mà chiến hạm tôi di chuyển chậm chạp gần bờ để chờ ghe chở quân nhân ra chiến hạm.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1388050&stc=1&d=1558579915
Bản đồ Vùng Cà Ná, Mũi Dinh
Khoảng 16:50 giờ chúng tôi, tất cả sĩ quan trên chiến hạm gồm có Hạm trưởng, Hạm phó, sĩ quan đệ nhất cho tới sĩ quan kém thâm niên nhất trên chiến hạm ngoại trừ các sĩ quan đương phiên đều hiện diện trong Carre sĩ quan để dùng cơm chiều. Thông thường như mọi ngày, sau khi ăn cơm xong, sĩ quan nào có nhiệm vụ đi ca (đi phiên) th́ rời khỏi pḥng để chuẩn bị lên thay thế ca đương nhiệm trên đài chỉ huy. Số sĩ quan c̣n lại th́ ngồi tṛ chuyện trong pḥng ăn sĩ quan hoặc tự do.
Trong lúc vừa ăn vừa tṛ chuyện th́ cơ khí trưởng HQ Đại Uư Hà (SQ HHTT) cho biết hệ thống nước ngọt của chiến hạm bị hư đang được sửa chữa. Cơ khí trưởng Hà xin phép Hạm trưởng và đề nghị HQ Trung Uư Trần Ngọc Điệp (K1 SQOCS) đang trưởng phiên cho tắt máy trong chốc lác để sửa chữa tiếp tục. Đuợc Hạm trưởng chấp thuận, Đại Uư Hà rời pḥng ăn sĩ quan đi xuống hầm máy. Sau đó HQ Đại Uư Hà liên lạc với Trưởng phiên đương nhiệm là HQ Trung Uư Điệp và cho ngưng cả 2 máy tả và hữu của chiến hạm. Riêng tôi và vài sĩ quan khác cũng sắp sửa rời pḥng ăn để chuẩn bị lên đài chỉ huy đổi phiên lúc 17:30 giờ.
Trong lúc chiến hạm đang tắt máy và xuôi theo gịng nước khoảng 17:15 giờ, mũi chiến hạm hướng về phía nam, trong vùng Cà Ná gần bờ biển Mũi Dinh, cách bờ khoảng 5-7 cây số th́ pháo của địch từ bờ bắn ra. Thế là nhiệm sở tác chiến được ban ra từ đài chỉ huy khi quả đạn đầu tiên của địch quân rơi gần tàu. Hạm trưởng rời pḥng ăn tức tốc chạy lên đài chỉ huy. Tất cả thuỷ thủ và sĩ quan trên tàu đều nhanh chóng đến vị trí nhiệm sở tác chiến của ḿnh.
Tôi vội chạy vào pḥng ngủ để lấy nón sắt chạy đến nhiệm sở. Pḥng ngủ của tôi ở dưới sân thượng và bên phải của chiến hạm. Lúc đó pḥng ngủ của tôi nằm hướng bên bờ. Khi tôi vừa rời pḥng trong giây lác th́ một quả đạn rơi trúng ngay pḥng tôi nổ tung. Một mảnh đạn bắn xiên lên pḥng truyền tin nằm ở chính giữa gần đó làm chết HQ Trung uư Nguyễn Anh Kỳ (K21 SQHQNT), trưởng ban Truyền Tin. Phước lớn cho tôi.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1388052&stc=1&d=1558580193
Tàu Hải Quân HQ 503
Một quả đạn rơi gần khẩu đại bác 40 ly đôi ở phía sau lái của chiến hạm. HQ Trung Uư PN Vụ bị thương. May mắn cho HQ Trung uư Phạm Nghĩa Vụ (K20 SQHQNT), trưởng khẩu, thoát khỏi lưởi hái của tử thần.
Loạt đạn pháo kế tiếp của cọng quân được bắn, chiến hạm tôi tiếp tục bị trúng đạn. Một quả pháo 105 ly rơi vào đài chỉ huy, gặp phải ghế ngồi của hạm trưởng, nỗ tung làm cho 3 sĩ quan là HQ Trung uư Trần Ngọc Điệp (K1 SQOCS), HQ Trung uư Độ (tương đương K21 SQHQNT) và HQ Thiếu uư Trần Thanh Nghị (K23 SQHQNT) cùng 2 nhân viên giám lộ đương phiên bị tử trận. (Mời xem thêm phần giải thích ).
Hạm trưởng HQ Trung tá Nguyễn văn Lộc (K11 SQHQNT) đang đứng ngay ở ống liên lạc trước đài chỉ huy xuống pḥng lái điện ở tầng dưới đài chỉ huy để ra lệnh, th́ bị những mảnh kiếng của đài chỉ huy vở bể cũng như mảnh đạn nổ văng trúng vào cổ, vào vai, vào đầu người của Hạm trưởng. Hạm trưởng bị thương, máu chảy ra rất nhiều. May mắn cho Hạm trưởng, đă thoát chết.
HQ Trung tá Nguyễn Văn Lộc vừa được thuyên chuyển lên HQ503 thay thế HQ Trung tá Dương Bá Thế (K10 SQHQNT), nhận quyền chỉ huy và là tân Hạm trưởng HQ503 đi chuyến công tác đầu tiên.
Đài chỉ huy của chiến hạm bị hư hại nặng. Hệ thống điện bị trở ngại. Tay lái điện bất khiển dụng. Hạm phó là HQ Đại uư Hùng (K16 SQHQNT), chạy lên pḥng lái thay thế Hạm trưởng để hướng dẫn tàu di chuyển ra khỏi tầm đạn pháo. Lúc bấy giờ chiến hạm phải sử dụng lái tay rất khó khăn khi điều chỉnh mủi chiến hạm hướng ra khơi để xa bờ. Mặc dù Hạm trưởng bị thương nặng nhưng vẫn cố gắng cùng Hạm phó để chỉ huy thuỷ thủ đoàn đưa chiến hạm thoát khỏi vùng nguy hiểm.
Đồng thời, những quả đại bác 127 ly của chiếc WHEC HQ17 và từ các chiếc WHEC khác (?) đang ở ngoài khơi, cùng những quả đại bác 76,2 ly của Hộ Tống Hạm trong vùng tiếp cứu cũng được nả trả đủa vào vị trí đại pháo của cộng quân.
Những tiếng nỗ chát chúa khắp nơi xung quanh chiến hạm HQ 503 dường như liên tục. Chiến hạm vừa to lớn, cồng kềnh mà hệ thống điện bị hư hại nên di chuyển rất khó khăn. Tưởng rằng chiến hạm khó có thể ra khỏi vùng bị pháo. Mỗi khi chiến hạm bị trúng đại pháo của cọng quân th́ khắp nơi trên chiến hạm rung chuyển. Những mảnh đạn trúng vào thành tàu, khung tàu, phát ra những âm thanh vang dội và tưởng rằng chiến hạm có thể bị ch́m.
Trong lúc chiến hạm chúng tôi mủi đang hướng vào bờ v́ lái tay dưới hầm máy rất khó khăn khi khiển dụng th́ bị loạt đạn kế tiếp của cọng quân pháo tới. Nhưng có lẽ xạ thủ của cộng quân tính sai nên nguyên loạt đạn quá tầm. Tất cả rơi ra khơi, rớt xa chiến hạm. Rồi sau đó ngừng hẳn. Có lẽ đại pháo của địch bị trúng đạn của ta nên không c̣n khiển dụng được.
Sau khoảng 2 giờ giao tranh th́ cộng quân không c̣n bắn đại pháo vào chiến hạm tôi nữa, mặc dù chiến hạm tôi vẫn c̣n nằm trong tầm pháo của cọng quân. Chiến hạm đă bị trúng tổng cọng trên 10 quả pháo. Số lượng đạn cộng quân bắn ra chiến hạm HQ503 khoảng 40 quả hoặc nhiều hơn. Hầu hết đạn pháo của cộng quân rơi xung quanh chiến hạm. Một số trúng phía sau lái của chiến hạm, từ đài chỉ huy trở về sau. Chỉ có một vài quả đạn trúng bên hông giữa chiến hạm. Nhưng rất may là không quả đạn nào trúng lườn chiến hạm ở dưới mặt nước cả. Chiến hạm không bị vô nước. Trên chiến hạm chở khoảng 350 đồng bào chạy tị nạn gồm các quân dân cán chính đă được cứu vớt trước đó mấy ngày nhưng không ai bị thương v́ họ tạm trú ở phía trước của boong chiến hạm.
Sau khi kiểm soát th́ thấy những mảnh đạn 105 và 155 ly. Có thể đó là những khẩu đại pháo 105 và 155 ly của quân lực VNCH bị Cộng sản tịch thâu được và chúng di chuyển đến bờ biển mũi Dinh, đặt và nguỵ trang tại đó để bắn thẳng vào chiến hạm chúng tôi – Dương Vận Hạm Vũng Tàu HQ503.
Tất cả thuỷ thủ đoàn và quân dân cán chính trên chiến hạm rất đau buồn và thương tiếc 4 sĩ quan và 2 nhân viên của chiến hạm đă hy sinh. Thêm vào đó có 18 thuỷ thủ của chiến hạm bị thương. Máu me lai loáng ở pḥng ăn sĩ quan – dùng làm nơi để băng bó vết thương cho thương binh, pḥng truyền tin và nhiều nơi khác trên chiến hạm.
Mặc dù t́nh h́nh chiến hạm như vậy, sau khi ngưng tiếng sung, đến vùng an toàn, Hạm trưởng Nguyễn Văn Lộc đă chỉ thị cho nhà bếp nấu cháo cho các em bé và người già có ăn. Thật là một vị hạm trưởng nhân hậu.
Chiến hạm dần dần ra khỏi vùng chiến đấu và được lệnh trở về Sài g̣n. Vào ngày 25.4.1975, khi chiến hạm về đến Bộ Tự Lệnh Hạm Đội Sài G̣n th́ được lệnh sửa chữa khẩn cấp. Trên chiến hạm thiếu sĩ quan. Tôi được điều động thay thế và trực nhiều ngày ở dưới chiến hạm để chuẩn bị cho chuyến hải hành viễn dương vô thời hạn. Chỉ trong ṿng 3 ngày, ban ẩm thực trên chiến hạm đă mua sắm đầy đủ thực phẩm dùng cho 3 tháng. Thuỷ thủ đoàn được thông báo chuẩn bị đi công tác dài hạn.
Trong 2 ngày phép về thăm gia đ́nh vào ngày 28 và 29 tháng 4 năm 1975, tôi đă cùng với vợ chuẩn bị hành trang để sẵn sàng theo chiến hạm ra đi. Sáng ngày 30.4.1975, hết phép, tôi xuống lại chiến hạm đang đậu tại Bộ Tư Lệnh Hạm Đội Hải Quân Sài G̣n th́ mới biết hầu hết những chiến hạm khác đă ra khơi. V́ chiến hạm tôi bất khiển dụng nên không rời hải cảng được. Thế là thuỷ thủ đoàn của chiến hạm hầu hết bị kẹt ở lại. Những sĩ quan bị bắt đi tù với mỹ từ „học tập cải tạo“…
Ngày sau đó sẽ ra sao? Mời xem “Tị Nạn và Cuộc Đời – Lần Vượt Biên sau cùng”.
Nguyễn Văn Phảy
(Đệ Nhị Song Ngư)
hoanglan22
05-23-2019, 03:02
Cát trưa hè thật nóng, khói hăy c̣n lung linh, băi tranh nơi ấy đầy ḿn. Anh dẫn lính đi vào. Anh và lính giao linh hồn cho thần tử.
Nhiệm vụ vượt băi tranh bám vào sườn đồi chiếm lại cứ điểm 83. Nắng miền Trung nắng gắt, mưa miền Trung mưa dai dẳng không nguôi, rét miền Trung rét cào da xé thịt. Bom đạn miền Trung, bom đạn rất vô t́nh. Những viên đạn vang rền bất kể ngày năm tháng. Tháng đó cũng tháng năm bắt đầu vào tháng sáu, những tháng mà mặt trận tiếng AK nở rộ mở đường cho những chuổi xâm lăng cuồng ngạo tấn xuống miền Nam của loài ma quỷ. Những tham lam ngập đầy.
Anh đi vào cơi chết để miền Nam c̣n hấp hối. Anh bước những bước nhẹ vào băi tranh tử thần để vợ và năm con nơi hậu cứ c̣n hơi thở từng ngày.
Anh quê người Mỹ Tho. Vợ anh, chị Diệu quê người Mỹ Tho. Con anh năm đứa, tuổi c̣n tạt lon sữa ḅ, c̣n ḥ nhau chơi đánh đũa, tóc c̣n cột dây thun. Vợ con theo anh ra ngoài đơn vị xa quê ngàn cây số. Lon anh lon Trung Sĩ, chức anh, anh chỉ huy mười sáu người. Nhiệm vụ anh, nhiệm vụ chận đứng loài ma quỷ.
Anh bước vào trảng tranh, anh bước vào vùng đất chết, như những vùng đất chết anh đă bước qua và bước ra lành lặn. Nay anh lại bước vào, có thể mai anh lại bước ra. Vùng đất oan nghiệt nằm ngay trên bước tiến bản đồ. Lệnh trên phải lấy lại cứ điểm 83. Đạn vẫn rền vang. Trên là đạn rít, dưới là ma, giữa là người chịu đựng. Anh chịu đựng hơn 13 năm ṛng ră. Anh bước vô và ra khỏi quyển sổ tử thần 13 năm nay từng phút giây một. Tấm thẻ bài của anh vẫn c̣n dính vào thân thể, đâu đă tháo rời đưa lại bàn tay run run đón nhận trong tiếng khóc xé ḷng.
Anh và lính tách rời nhau đi xa xa từng người một. Ông tử thần cầm bút gọi từng số quân. Chiến thuật băng băi ḿn là gọi pháo binh bắn dọn đường tạo khoảng an toàn. Nhưng cấp số đạn pháo binh bị hạn chế v́ người đồng minh bỏ cuộc, bán cuộc chiến lại cho những thân thể hao ṃn dù tinh thần vẫn c̣n oanh liệt. Trong khi phe quỷ vẫn c̣n hầm hừ hung hăng, có vũ khí của Nga Sô mọi rợ, có bộ binh tăng cường lính Trung Quốc giả dạng bộ đội bác Hồ. Tầu phù đă âm mưu thôn tính Việt Nam bằng dân số khổng lồ, bằng chiến thuật biển người đạp lên xác đồng đội mà xâm lăng. Những số tử miền Bắc, dân Tàu hơn phân nữa. Xác chết rồi đâu c̣n lật miệng hỏi mầy từ đâu, Bắc Kạn hay Quảng Đông hoặc Tiều?
Chỉ biết quê Sài G̣n chết cũng nhiều, Long Khánh, Kiên Giang An Cựu Cần Thơ ...những xác mang về gịng giống Lạc Việt tử trận giữ đất Nam, mảnh c̣n lại phân nữa của chữ S. Tụi Bắc Việt cơng con rắn dữ về giết gà trong một nhà.
Đạn vẫn vang rền nơi đất núi. Lầm lủi anh đi, khẩu M16 đeo trên vai mủi chỉa xuống, mắt trợn trừng nh́n từng kẽ hở giữa đám tranh. Tiếng ầm lớn lắm, anh đạp ngay quả ḿn, ḿn cắt đôi chân anh ngay nơi bụng. Tôi băng đồng chạy qua, ngày đầu ra đơn vị tôi theo anh học kinh nghiệm hành quân. Tôi phải chạy qua nh́n anh lần cuối v́ anh chính là người lần đầu tôi gặp gỡ, v́ anh chính là người lần đầu rủ tôi về nhà ăn cơm chị Diệu vợ anh nấu món Nam, canh chua cá Ngừ nơi Quảng Ngăi. Tôi biết con anh, những đứa trẻ, tôi có cho tụi nó kẹo mè. Tôi có ăn ở nơi đó những ngày dưỡng quân.
Băng rừng tranh chạy qua, tôi bất kể ḿn ma ǵ quái nữa, tôi không cần nh́n tử thần có ngó tấm thẻ bài tôi. Tôi thấy anh đừng nên chết khi con c̣n nhỏ.
Nhưng người anh nám đen, đôi chân anh không c̣n đó, máu đậm đỏ nám theo mùi thuốc nổ. Tôi gối đầu anh lên đùi, mồi anh điếu thuốc, tôi rít một hơi thật dài, nuốt thật sâu vào tận phổi, giữ thật chặt những tủi hờn đang tiết ra. Tôi bần thần đưa điếu thuốc vào môi anh, anh bập bập vài hơi, anh nh́n tôi nhưng tôi biết anh nh́n về vợ con anh, về quê hương có gịng sông chảy, có đồng ruộng reo, có một thuở thanh b́nh. Anh nấc lên, anh về lại đó bằng linh hồn của người tử sĩ. Anh để lại đây một thân xác kiêu hùng. Anh Trung Sĩ Lang.
Thương mến vô cùng. Ngày Chiến Sĩ Trận Vong, anh Lang ơi!
Kiến Hôi
hoanglan22
05-23-2019, 03:07
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1388063&stc=1&d=1558580770
(Bài nầy riêng cho những ai tham dự, đặc biệt Lữ Đoàn-1 Đặc nhiệm và Thiên Thần Mủ đỏ, ai không tham dự sẽ cho là chuyện không-tưởng)
Đêm 26, February 1971 … qua chưa mà trời sao lại sáng – trong đôi mắt nhắm nghiền v́ quá mệt mỏi suy-tư cho số phận của 2 đoàn viên H-34 đang bị kẹt trong Đồi-31 không biết sống chết như thế nào, Tôi bổng giựt ḿnh choàng mỡ to đôi mắt v́ một tràng đại bác bắn quấy rối (neutralization) ǵ đó cho quân bạn của Mỹ, tiếng cũa đạn đại bác175ly Long Tom không chác chúa bằng 8 inch đang mỗi lúc càng thêm ác liệt. Giữa tờ mờ sáng trong sương mù, 42 khẩu đại bác nầy ở đây, Mỹ yểm trợ cho ai!? Đồi-31 đă bị quân BV tràn ngập vào chiều hôm qua, làm sao họ hiểu nổi cái nhóm “phản chiến và phản t́nh báo đả cho Tướng Giáp biết mọi chi tiết của cuộc hành quân, v́ Tướng Giáp là một thành viên OSS kết nạp 1945 tại mật khu Pat-Pó, [h́nh giải mật của Allan Squiers, trong khi Cụ Hồ mặc quần xà-lỏn dơ 2 cái ống quyển xương xỏ teo ngắt, lúc nầy Vỏ nguyên Giáp đang ở trong rừng là Trung đội trưởng Vỏ trang tuyên truyền, nhưng cũng phải mặc áo trắng thắt cà vạt đoàn hoàn để mừng lễ được gia nhập OSS 1945 qua sự kết nạp của Điệp-viên số 19 Lucius và Hạ-sĩ quan Huấn Luyện viên OSS]
Trung đoàn trưởng 24B/Sư-đoàn 304BV đă áp lực Đại tá Thọ thông báo về Khe Sanh là Đồi-31 đă rơi vào tay quân đội BV, lúc 16 giờ 05 phút, ngày 25 February theo như đồng hồ của tôi: Mấy ngày qua, 2 chiếc H.34 của Phi-đoàn 219, đă bị hạ trên Đồi 31, họ là những Phi hành đoàn tài ba và gan dạ nhất của Không-quân VN, khi phải nói đến Phi-hành-đoàn Queen-Bee th́ người Mỹ phải nghiêng ḿnh khâm phục, Trung-úy Khôi, rước Toán Delta bị 88 lỗ đạn, nhưng vẫn đem cả Toán SOG về được, phải tranh giành Toán từ trong tay địch, Trung-úy Hùng “râu-kẽm”cũng 66 lỗ, nhưng cũng tha mồi về được…Những Toán viên Biệt-kích Mỹ SOG được cứu sống không bao giờ quên được Phi-hành-đoàn Queen-Bee đă cứu họ. Lời Thiếu-Tá Ban-3/SOG, Scotty Crerar: “Neither impossible ground fire nor unflyable-weather stopped Cowboy and Mutachio; dozen of SOG men survived purely because “can’t” was not in these Queenbee-pilots .vocabularies they were absolutely fearless!
Trưa ngày 23 February, tôi sắp đến tọa độ hành quân cách Đồi-31 chừng vài cây số ở hướng Đông Nam và cũng đang nóng ḷng hướng dẫn cho hai đại đội Trinh-sát thuộc Tiểu-đoàn-8 Dù di chuyển tiếp cứu Đồi-31, được bắt tay với một Lực-lượng của Tiểu đoàn-3 Dù đang trấn đóng trên đỉnh Đồi-31 từ phía Nam. Hai đại đội Dù đang dung rủi cặp theo gịng suối giữa đường thông thủy, tôi và Trung úy Lưu phải bay trên đầu Dù bằng những ṿng lượn tṛn quẹo gắt, thỉnh thoảng phải bắn chụp vào những bụi Tre khă nghi trước mặt để cho Dù tiến lên. Trên cao xa về hai đầu cánh quạt hai bên tôi đă khám phá ra những bụi cát đỏ tung toé từ những hầm miệng ếch trên sườn đồi giả xuống, nhưng chúng tôi cương quyết vẩn giữ ở trên đầu Dù, và chịu chấp nhận cùng chung với Dù những cột khói dựng đứng của đạn pháo BV bắn xuống để yễm trợ cho trung đoàn 24B thuộc Sư đoàn 308 và bên kia là một trung đoàn 27 cơ động.
Chúng âm mưu lấy thịt đè người, c̣n như chiến xa T-54 có PT-76 yễm trợ th́ chàng ràng lên xuống bọc hai bên sườn đồi trọc. Chúng không thể nào bịt mắt chúng tôi bằng để lại phía sau hai hàng song song với đất đỏ c̣n tươi rói; Nếu như tôi không có lệnh yểm trợ cho Dù th́ cũng phải cùng chúng tranh tài cao thấp xem những xạ thủ trên PT-76 có dám chường mặt chạm tráng với Minigun hay không, chúng đang núp phục kích trên đường 92, vây bọc hai bên vệ đường nơi khúc cong đáng sợ, nằm im-ĺm trong bụi Tre che khuất. Th́nh ĺnh FAC/OV-10 Bronco có tiếng người Việt hối giục chúng tôi phải rời vùng tức khắc để cho 42 khẩu đại pháo của Mỹ bắn yểm trợ cho Tiểu đoàn 8 Dù, Chúng tôi về lại trên đầu Tiểu đoàn-1 Dù trên vùng A-Luối, nh́n lại phía sau từng tràng các đám khói dựng đứng lên như nấm rơm đang trở nụ.
Tôi lại nghe tiếng người Việt cho biết chúng tôi không được rời A-Luối v́ 5 phút nữa B-52 Arc-Light sẽ trải thăm để tiêu diệt 2 trung đoàn BV đang toan tấn công hai đại đội Trinh Sát TĐ/8Dù. Nữa giờ sau, tôi trở lại yễm trợ cho 2 Đại đội Trinh Sát Dù, th́ mới phát hiện được B-52 trăi thăm quá chính xác hai bên sườn núi cách quân Dù vào khoảng 300 thước; Chúng chết lềnh khênh chụm lại từng đống tóp người, thân thể bầm nát, thật đáng tội nghiệp cho số kiếp sanh Bắc tử Nam.
Sương lam chiều không đủ sức che đậy không gian, đó đây khói Bom đạn vẫn c̣n luyến tiếc núi rừng, đâu đâu cũng toàn là màu khói ám chướng mờ ảo. Tôi không dạy ǵ bay trong những cụm bông g̣n của pḥng không 37 và 57 ly nổ lưng trời đang rượt theo những phi cơ chiến thuật, mà cũng không phải thế ‘độn-thổ’ mà nên gọi là ‘độn-rừng’ chăng? không phải vậy mà là “ngụy âm thanh” làm cho địch thủ không biết chúng tôi từ đâu đến bằng xa xa âm thanh lớn dần của cánh quạt điên cuồng chém gió, rồi trận mưa đạn gầm thét khiếp đảm đương nhiên tự động địch phải kiếm chỗ núp khi chúng tôi bay áp đảo trên đầu chúng, dựa vào ưu điểm cường tập của các hung thần xạ-thủ có tẩm trực xạ áp-đảo trải rộng từ trước ra sau khác hẳn phi cơ t́m-kích kể cả trực thăng Cobra.
Dù rằng nơi đây mùi cháy khét của cây rừng không át nổi mùi śnh thối của xác chết; “đây quả thật là một bầu trời đầy kinh hoàng” Nh́n về hướng Đồi-31, nơi mà trước đó vài ngày, 2 chiếc H.34 đang uốn ḿnh sà xuống như con Đại-bàng đớp mồi: Chiếc đầu tiên của Trung-úy Giang tuông xuống như chiếc lá trong cơn gió lóc và chiếc của Trung-úy Bửu xuất hiện bất thần, sau khi rà xát rạt trên các ngọn cây giữa trận địa pháo của BV đă điều chỉnh rất chính xác, đáng sợ nhứt là súng cối 120ly; CSBV chỉ giă vào ngay khi nghe tiếng máy nổ của trực thăng vào Căn-cừ Hỏa-lực; Dù rằng phi công Queenbee có tài ba trong mọi chiêu thức để đáp nhưng khi chui vào lưới tạc đạn dầy dặt như thế nầy th́ chỉ như là những con thiêu thân mà thôi.
Thử hỏi đoàn viên Kingstar-4 của TPC Thiếu Phúc có dám nhảy phóc lên chiếc thứ 2 của Trung úy Đạt đang đáp chờ đoàn viên bị nạn. Bụi mănh đạn như thế nào chắc đoàn viên 4 người nầy đều am hiểu và chỉ trong nháy mắt anh xạ thủ chiếc 2 trúng mảnh đạn ngay. Dỉ nhiên ngướ không dự trận th́ thật khó mà tin!? Là chứng nhân trong cơn bảo lữa, đích thân Trung úy Bửu, chiếc Lead ra lệnh chiếc thứ 2 của Trung-úy Yên … “đừng xuống!”: Queenbee dù thần thánh đến đâu nhưng khi phi cơ gần đến mặt đất sẽ bị các mảnh tạc đạn chạm-nổ vun-rải vào cơ phận cánh quạt đuôi làm cho phi cơ mất phương hướng điều khiển và sẽ bị vùi dập xuống mặt đất khi chưa toan đáp xuống băi đáp (undershoot) Trường hợp Tr/úy Giang, phi cơ gảy đuôi v́ trúng mảnh đạn phát hỏa nơi phần xăng ít ỏi c̣n lại cũa 2 b́nh xăng giữa và sau đă hết trống từ lâu và chiếc của Trung úy Bửu th́ bị các mănh đạn chạm nổ xoấy rải vào làm tê liệt bộ phận điều khiển cũa cánh quạt đuôi buộc rơi xuống tại chỗ, trong vị thế counter-clockwise, với cường độ trận địa pháo cùng cả ngàn tạc-đạn như mưa rải xuống các căn cứ hỏa lực nầy th́ chẳng bao lâu các chiếc trực thăng nầy đều lại trúng đạn thêm một lần nữa và phát hơa hủy diệt, để lại bằng các cột khói đen x́ lên cao ngất trời như chiếc của Tr/úy Đạt và Thiếu Phúc ở Căn Cứ Hồng Hà-2 và ở Đồi-31 của Trung úy Giang, và Đồi-30 là của Thiếu úy Lộc. Bạn có thể tưởng tượng con kiếng nơi đây cũng phải chết, c̣n Ḿn Claymore cho L/Đ/1Dù trực thăng vừa thả xuống là trúng đạn nỗ tan tành như xác pháo ngay. Điều nầy các chiến sĩ văn pḥng chắc khó tin!?
Lúc nầy, cả Căn-cứ 31 đang quằn ḿnh chịu những loạt trận địa pháo; dù rằng Tiểu đoàn-6 Dù đă được trực thăng vận xuống Tây Bắc của Đồi-31, nhưng lại bị đụng trận dữ-dội, rồi bị một trận địa pháo khiếp đăm, coi như TĐ/6 bị bễ, 28 chết, 49 bi thương, và 23 mất tích; Trung-úy Châu yễm trợ quyết liệt đă chận đứng nhiều đợt xung phong của trung đoàn-9, vẩn luôn giữ cao độ trên đầu quân Dù và chỉ chấp nhận AK-47 qua những đợt xung phong biển người của trung đoàn-9/308. Quả thật Trung úy Châu đă bị các AK-47 chụm lại bắn thẳng xuyên qua Burble vào Chicken-plate mănh dội văng vào cổ, bắp tay máu ra lênh láng, chúng tôi bỏ Đại đội trinh sát qua yễm trợ TĐ-6. Tôi ra lệnh chiếc Wing hướng dẩn Medivac Trung úy Châu về Khe Sanh liền: “Trời ơi cuộc chiến mới có hơn 2 tuần mà sự thiệt hại quá sức tưởng tượng của tôi.
Hai đoàn viên UH1-H bị bắn tan xác trên không, dưới Đồi-31 cũng 2 đoàn viên đang kẹt ở dưới không biết sống chết như thế nào …rồi Trung úy Châu một Top Gun lỗi lạc của Phi Đoàn 213, Tôi như con chó điên, thề phải chết trước khi con em ḿnh phải gục ngă thêm để bảo vệ an toàn cho toà Lâu-đài LĐ51TC. Qua lời nguyền nầy, Tôi bắt đầu điên tiết tự đưa tôi vào những chuyến bay oanh kích liều lĩnh, quá đáng, đôi khi có thể nói vượt ra khơi kỷ cương của cấp lảnh đạo. Từ đây trỡ đi những viên đạn 7ly62 của xạ thủ phải xuyên phá vào mục tiêu không quá 75 thước trên đầu địch, có nghĩa là trục-tiến-sát “độn-rừng.” Tôi không cho phép bắn xuống như phi cơ vận tải hay Cobra mà là sát thủ như đă bắn tàn sát trên chiếc tàu cận duyên ở Mỹ Thủy, Hương Điền, Quảng Trị, với tham vọng sẽ không c̣n phi hành đoàn nào lâm nạn [xin chờ xem giấc mơ ở đoạn kết]
. Địa thế nơi đây, phản t́nh báo Mỹ [WIB] đă cho Tướng Giáp biết trước lúc tháng 10, 1970 và cũng là ngày thành lập Quân đoàn 70B, và Trung đoàn 24B nầy là giử an ninh hậu cần cho Đoàn 559 tại đây và cũng là thỗ địa tai mắt dẩn đường cho các sư đoàn 304, 308, và 320 cùng Trung-đoàn chiến xa 202 nữa. Chúng tôi yễm trợ hỏa lực hết ḿnh để mong TĐ/8 ở đông nam từ A-Luối tiến lên và TĐ/6 ở tây bắc mau mau tiếp cứu Đồi-31, nhưng hoàn toàn thất vọng, v́ các trung đoàn BV đang chiếm các cao điểm quen thuộc để không chế hai T/Đoàn Dù tiếp cứu đang c̣n xa lạ với địa h́nh.
C̣n trung đoàn 9 và 66 mới vượt từ bắc DMZ ngày 9 February qua đây, sau khi biết chắc QLVNCH không Bắc-tiến mà thực sự qua Lào. Ngày 23 February đặc công BV đă đột nhập vào pḥng tuyến hướng Tây, nhưng Tiểu đoàn-3 Dù đă tiêu diệt ngay ṿng rào 15 tên chết tại chỗ. Từ lúc chiếc H-34 của Trung úy Giang bị bắn hạ trên đồi nầy đến nay không có chuyến tiếp tế và tải thương nào vào đây cấp cứu cả
Giờ phút nguy-biến đă điễm: từ 11 giờ ngày 25 February, một trận địa pháo rất chính xác, khiếp đăm, kinh hoàng v́ đă tiền điều-chỉnh từ lâu, đại bác 152ly xuyên phá hầm hố, 130ly tàn phá diện địa, súng cối 120ly khắc tinh khống chế trực thăng, và tất cả hoả tiển 122, 107ly, riêng 100ly trực xạ của T-54, không leo lên được th́ bắn hù doạ từ dưới chân đồi cho PT-76 leo lên với bộ binh tùng thiết theo sau.
Đúng 13 giờ Đại đội/1/3 Dù báo cáo tiếng chiến xa đang gầm thét [đoàn chiến xa nầy bị chúng tôi bắn đứt xích chiếc đi đầu, cách phía nam 4 cây số trên đường 92, nhưng chúng lại xem thường chúng tôi không phải đối thủ nên không thèm bắn trả mà lại hấp tấp né một bên, rồi tiếp tục bôn tập về Đồi-31] Lúc đầu, tôi c̣n thấy Căn-cứ lờ mờ dưới lớp khói pháo kích, lần lần Tôi không c̣n thấy ǵ nữa cả, mà chỉ c̣n là những lớp khói cứ chồng chất dầy thêm lên “Làm sao tôi hiểu được 2 chiếc H-34 đang bị cả ngàn mănh đạn đại pháo chạm nổ đang vung vải như bảo cát trên mặt đất bao trùm trên băi đáp! Và bộ phận cánh quạt đuôi trúng mănh, hoàn toàn bị tê liệt không điều khiển được”
Tôi cũng không biết số phận của 2 chiếc H.34 đă cất cánh được chưa trong hai ngày qua bao trùm sự tuyệt vọng, hay đă loay hoay v́ quân bạn đang bấn loạn kinh hoàng tràn ngập leo lên đến độ quá nặng không thể nhúc-nhíc được, chớ nói chi cất cánh. Cách đó không xa, về hướng Bắc của Đồi-31, quan sát cơ OV.10 đang hướng dẫn F-4 .Phantom thả xuống sát mặt đất bằng những trái Bom lửa Napal, nhờ ở đầu 2 cánh chém gió, tạo ra 2 vệt trắng, tôi mới phát hiện đang lướt qua ở trước mặt. Tôi mở tần số Guard (khẩn cấp) gọi Queen-Bees cả chục lần mà không thấy trả lời “tôi bắt đầu quặn đau, xót-xa lo-lắng cho số phận của 2 Phi hành đoàn gan dạ nầy”
Trước đó, ngày 23/2/71, Trung-úy Thục, một lead gunship sừng sỏ của Biệt-đội Gunship PĐ-213 được lệnh bảo vệ Trung úy Chung Tử Bửu bay vào cấp cứu phi hành đoàn lâm nạn của Trung-úy Giang; Trên đường vào có chuyên chở những sensor-detector đặc biệt. Họp đoàn Gunship của Trung úy Phạm Vương-Thục đang ôm sát trên đám rừng già chờ đợi yểm trợ cho Trung úy Bửu. Nhưng làm sao tránh khỏi lưới đạn cầu ṿng chụp xuống như đă tiền điều chỉnh sẳn, một lưới lửa vô tận từ căn cứ hậu cần 611 với 67.000 tấn đạn đủ loại. Thế nên cơn hấp hối của ngọn đồi oan-nghiệt đang bắt đầu xảy ra. Bắt đầu vào khoảng 4 giờ chiều ngày 25/2/1971: Khi 3 trung-đoàn CSBV đang cố tràn ngập trên đỉnh đồi 31, nơi đây chỉ đơn độc có duy nhứt một Tiểu đoàn-3 Dù [trừ] 300 chiến binh và Bộ tham mưu trấn giữ.
Đợt xung phong đầu tiên của CSBV bằng 2 PT-76 tùng thiết với vô số bộ đội chính quy ở phía sau, v́ không có súng chống chiến xa như M-72, nên Dù phải dùng đại bác hạ ṇng trực xạ. Kết quả thổi bay hai chiếc PT.76 và một số lớn tùng thiết. Để trả giá cho sự chiến thắng nầy, nhiều thiên thần mủ đỏ TĐ/3 đă nằm xuống vắt ngang trên những khẩu pháo của ḿnh; Có phải Pháo-đội-trưởng Nguyễn Văn Đương, người hy sinh đă là niềm hứng khởi cho một nhạc phẫm nổi tiếng sau đó! CSBV chuẩn bị đợt xung phong lần thứ hai cũng lập lại bằng hai chiếc PT-76 khác tùng thiết với bộ đội; Nhưng lần nầy, quan sát cơ OV-10 Bronco do quan sát viên người Việt hướng dẩn hai F-4 Phantom phá hủy chúng trước khi ḅ lên tới lần ranh pḥng thủ cũa Bộ Chỉ Huy Dù.
Cho đến 14 giờ, thật khốn nạn không có chiếc FAC cũa Mỹ nào trên Đồi-31, Quân BV bắt đầu xung phong từ bốn hướng. 2 PT-76 đến được bải đáp phía nam pḥng tuyến dưới, bất ngờ chiếc FAC/OV-10 Bronco đến, yên trí có người Việt ngồi phía sau. Sau 2 pass 2 chiếc PT-76 bay lên rớt xuống nằm lật ngữa bao trùm khói đen. BV quyết tâm tràn ngập Đồi-31 với khoảng 20 PT-76 xung phong 2 hướng đồi thoi-thỏi hướng Đông và Tây Bắc. Th́nh ĺnh một chiếc Phantom F-4 trúng đạn pḥng không 37ly xịt khói phi công nhảy dù ra khỏi phi cơ. Lúc nầy chẳng anh Mỹ nào chịu ngó ngàn đến Đồi-31, mà họ dồn hết nổ lực để câp cứu người của họ người Việt ngồi sau FAC đành phải bó tay ngậm ngùi cho định mệnh của ngọn Đồi oan nghiệt nầy.
15 giờ 20 trên ngọn đồi nầy chĩ c̣n trơ-trọi chiếc UH1-H của tôi là C&C với Sĩ-quan Tham mưu Tiền-phương Dù đang vần-vũ trên Đồi-31; Dù rằng 2 khẩu M-60 và vài cây M-18 nhưng chúng tôi cứ bắn xuống yễm trợ trong tuyệt vọng, Trung-úy Tiến Top-Gun đang vần vũ trên đầu TĐ-8 Dù chờ lệnh tôi bay vào cứu bạn, trong lúc Pháo đội từ Đồi-30 và Aluối vẫn dồn dập tác xạ yểm trợ.
45 phút sau, Căn cứ bị tràn ngập quân BV, khốn nạn nhứt là từ nảy đến giờ không có FAC có nghĩa là không có không yểm. Hậu qua Đại tá Thọ bị quân BV bắt cầm tù đúng vào lúc 16giờ ngày 25/February/1971, Tôi đang se thắc v́ đoán ṃ rằng, tiếng đại liên M-60 trên trực thăng là nguyên do chính khiến 2 đoàn viên H-34 dưới đó quyết đóng trụ tại đây để chờ chúng tôi sẽ xuống cứu bạn. Có một đại đội đang toan thoát ṿng vây chạy về Đồi-30, trong đó có Không-quân Đại úy Nghĩa, Sĩ quan Điều không Tiền tuyến đang chạy thoát cùng với quân Dù; Ngày mai tôi sẽ liên lạc t́m cách đón họ, may ra có đoàn viên H-34? [Sau vài ngày tôi biết được 2 chết, 4 bị bắt đem ra Bắc trong sự đau xót có lẽ v́ tiếng M-60 trên C&C?]
Dù rằng tiếng trực thăng nóng ḷng cứu bạn từ đôi mắt và khối óc thần sầu quỷ khóc của người Phi-đội-trưởng Queenbee đầu tiên do Lực-lượng Seal-Delta-Force dày công trắc-nghiệm để tuyển chọn, vẩn c̣n đang vần-vủ trên nền trời chờ đợi cơ may nào đến…bên cạnh cùng phụ họa tiếng động cơ H-34 … nhưng trong tuyệt vọng v́ làm sao có thể chui vào lưới đạn cầu ṿng chụp xuống răi thăm như không bao giờ ngừng nghỉ … trong nửa khối cây số không gian bao chụp trên căn cứ Đồi-31 như đang ch́m đấm trong bảo lửa, dù có một vật nhỏ tư hon nào chui vào được bên trong, nhưng khi vật ấy hạ thấp c̣n chục thước th́ làm sao thoát khỏi hàng trăm ngàn mảnh sắt vung-vải xoáy cuồn như trận bảo cát trong sa-mạc…và dĩ nhiên vật nhỏ nầy sẽ bị gục ngả không lay động ngay trên mảnh đất nầy…thôi đành ngậm-ngùi nhỏ lệ bỏ lại vỉnh-viển nơi ngọn đồi vô danh nầy, 2 chiến hửu Queebees [Giang cùng Em] và các thiên thần Tiểu đoàn/3 Dù cùng 4 Queenbees khác [Bửu, Khánh, Sơn, On] đang bị bọn CSBV cột chung với nhau bắng giây điện thoại bôn tẩu về Bắc qua con lộ 92B v́ sợ B-52 sẽ bay đến cường tập liền sau đó.
Địa h́nh hiểm trở nơi Hạ Lào với đồi núi chập chùng và rừng cây rậm rạp đúng ra không thích hợp với chiến thuật càn lướt căn bản trong việc xử dụng chiến xa, nhưng đối với Trực thăng vỏ trang có xạ trường tự do cho người xạ thủ trổ tài cao thấp. Đối với Phi-Đội 213 đây là khung trời lư tưởng dễ tung-hoành ẩn hiện trên các chướng ngại vật thiên nhiên - Ngược lại, tại các trường Kỵ Binh nổi tiếng trên thế giới như Saumur (Pháp), Saint Cyr (Pháp), Sandhurst (Anh), Fort Knox (Hoa Kỳ) v.v… các chiến lược gia thường giảng dạy phương pháp xử dụng chiến xa trên sa mạc, vùng đất rộng lớn hay trên địa h́nh bằng phẳng.
Những trận xa chiến lớn và nổi tiếng trong quân sử thế giới cũng thường diễn ra trong sa mạc hay vùng b́nh nguyên, chẳng hạn như những trận đánh của con "cáo Sa mạc" Rommel thuộc đoàn Panzer của Đức tại Phi Châu, hoặc tướng Patton Hoa Kỳ xử dụng chiến xa thần tốc trong trận "Battle of the Bulge" tại vùng đồng bằng sông Rhin trong lănh thổ Đức vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến. Gần đây hơn, những trận xa chiến lớn giữa Do Thái và khối Ả Rập cũng xảy ra tại vùng sa mạc Sinai trong trận chiến 1967 và trận đánh 7 ngày. Trong chiến dịch Desert Storm năm 1991, và trận chiến tại Iraq mới đây, quân đội Hoa Kỳ cũng dùng chiến xa tại sa mạc để càn lướt tốc chiến tiêu diệt lực lượng Iraq, tiến chiến thủ đô Bagdagh trong một thời gian kỷ lục;
Những trận đụng độ chiến xa nổi tiếng này đều có đáp số, đó là địa h́nh bằng phẳng, tiếp vận dư thừa và hỏa lực yểm trợ đầy đủ. Để đi vào kết luận cụ thể như chứng minh trong quá khứ, đặc biệt nơi trận mạc rừng rú 719, Trực thăng vỏ trang Phi Đoàn 213 phải chắc chắn là khắc-tinh đối với các chiến xa như T-54 trở nên kịch kợm mà là những con cua sẳn sàng để lên ḷ nướng của các Top Gun 213. [làm sao ai hiểu được cuộc đụng độ chiến xa với chiến xa mà phía VNCH toàn thắng không bị thiệt hại …th́ có lẽ nhân chứng chính phải là các chiến hữu Thiết đoàn 11 và Chi đoàn 17, c̣n báo chí Mỹ ca ngợi, đến nỗi xạ thủ trên PT-76 phải bỏ chạy để cho quân Dù tới chiếm đoạt c̣n nguyên vẹn … đó là công của ai? cũng như chiếc tàu cận duyên bị TQLC chiếm đoạt tại bờ biển Mỹ Thủy, Phong Điền 1972 … Quân-sử sẽ phải nói sự thật]
Khi chuẩn bị kế hoạch hành quân Lam Sơn 719 nhằm đánh vào Hạ Lào để cắt đứt đường tiếp vận của Cộng quân, tin t́nh báo [nhóm phản chiến WIB Bones cố t́nh lừa gạc] cho biết Cộng quân không có chiến xa tại vùng hành quân. Do đó, những chiến xa thuộc LĐ1/TK vào Hạ Lào coi như không có đối thủ, nhưng khi nhập vùng hành quân, ngoài địa thế xa lạ, khó khăn, chỉ sau vài cuộc đụng độ, thực tế đă cho thấy trái ngược hẳn với dự đoán. Cộng quân chẳng những có cả một Trung Đoàn Thiết Giáp mang bí số 202, mà c̣n có cả chiến xa hạng trung loại T-54 với thiết giáp dầy hơn và đại bác 100 ly có hỏa lực trội hơn chiến xa hạng nhẹ M-41 chỉ được trang bị đại bác 76 ly của QLVNCH. Theo tài liệu Cộng quân, bí số 202 bắt nguồn từ khi mới thành lập Trung Đoàn thiết giáp đầu tiên này của Cộng quân gồm có 202 người được huấn luyện tại Nga Sô và Trung Cộng.
Quân BV có cả một Trung Đoàn 202 chiến xa tại Hạ Lào là một sự thật hiển nhiên ai cũng công nhận, nhất là sau các trận đánh tại CCHL 31 và CCHL 30 do quân LĐ3 Dù trấn giữ. Nhưng việc Cộng quân có chiến xa hạng trung loại T-54 hay không lại có nhiều người đặt thành nghi vấn. Nhưng đối với Top-gun 213 th́ hiểu rỏ chúng chỉ là nhửng tên khổng lồ có đôi chân đất sét, sự thật chúng chỉ quanh quẩn di chuyển trên những mặt đường tương đối bằng phẳng như dọc theo đường-9, thường vào các ngả băng qua đường 9, đường 92, 92B, 914, 913, 922… và lại dựa dẫm vào các PT-76 dể càn bướng trên mọi thế đất.
Nhưng chúng cũng chỉ tung-hoành bên triền Tây của các dảy núi v́ sợ bắt chợt 42 khẩu đại pháo của Mỹ bắn qua hên xui như chim mỗ lở trúng th́ nguy, cũng kẹt, và "Thật ra, trong Trận Hạ Lào, Cộng Sản Bắc Việt chỉ sử dụng loại chiến tăng PT-76, ngang bằng với chiến xa M-41 của ta là cũng phiền cho ta lắm rồi". Trực thăng vỏ trang 213 buộc vào thử thách thế trận mới trên đường rút lui: Vào khoảng 8 giờ sáng khi mới rời A Lưới được chừng 4 cây số, toán thiết giáp bị sa vào một ổ phục kích khi băng qua môt con suối nhỏ. Cộng quân từ triền núi cao bắn xuống dữ dội khiến chiến xa đi đầu bị bắn cháy, trong lúc 4 chiếc khác và 18 GMC chở đồ tiếp liệu c̣n chưa qua được gịng suối.
V́ đây là con đường độc đạo nên các xe khác theo sau không thể lách qua những chiếc xe bị hư hại để đi qua được, lợi dụng thế đất nầy làm nơi phục kích. Một số quân Dù tùng thiết nhảy xuống khỏi chiến xa để nghênh địch, trận phục kích kéo dài chừng 3 tiếng đồng hồ; Khi địch quân bị đẩy lui, tổng kết cho biết có 4 chiến xa M-41, 3 M-113 và toàn thể 18 GMC chở đồ tiếp liệu bị hư hại nặng bắt buộc phải bỏ lại. LĐ1/TK sau đó tiếp tục di chuyển về biên giới, nhưng v́ địa thế quá hiểm trở rất khó di chuyển, gần 20 xe thiết giáp trước đây được kéo theo từ A Lưới đều bị bỏ lại để các chiến xa khiển dụng có thể di chuyển nhanh và chiến đấu hữu hiệu hơn; Sau đó, OV-10 không thám cho biết một số chiến xa PT-76 và bộ binh địch tràn vào địa điểm phục kích quân BV leo lên các chiến xa bị hư hại của QLVNCH ở phía trước, dùng súng trên xe bắn lên máy bay; cuối cùng, phi cơ được gọi đến để dội bom phá hủy hết các chiến xa bị hư hại này.
Trực thăng vơ trang tiếp tục hộ tống đoàn xe trong tầm súng đại pháo 130, 152ly của BV thỉnh thoảng chụp xuống. Tuy vượt qua được tuyến phục kích đầu tiên, nhưng toán Thiết Giáp vẫn c̣n gặp rất nhiều trở ngại, đặc biệt những “lủng củng nội bộ” giữa toán quân Dù tùng thiết và Thiết Giáp đă có trước đây nơi Đồi-31, giờ nầy càng thêm trầm trọng. Có dư luận cho biềt bên Thiết Giáp than phiền quân Dù không chịu đi sâu vào hai bên lộ tŕnh để mở đường và phát hiện những ổ phục kích phía trước; Sự lũng cũng nầy theo sư nhận xét của tôi là Đại-tá Lưởng giao banh cho Đại tá Luật bằng câu “Tôi luôn luôn muốn được thi hành những nhiệm vụ được giao phó” Nhưng rất tiếc Đại Tá Luật đă không ra lệnh, không có những quyết định và xử dụng quyền hạn như một vị Tư Lệnh khi chỉ huy một lực lượng quan trọng gồm những đơn vị Thiết Giáp và Nhảy Dù dưới quyền” Thiết tưởng, nếu những nhận xét này là chính xác, đă ít nhiều nói lên được một số những khó khăn của Đại Tá Luật trong lúc chỉ huy. Kết quả, Đại tá Luật được TT Thiệu đem về giao chức hành chánh …xem như Đại-tá Luật là một chén kiểu quư giá không nên xài măi có ngày sẽ bị bể mà chỉ nên để chưn-diện trong tủ kín cho mọi người chiêm ngưởng
[Trích một đoạn nhỏ trong sách THE NEW LEGION của VINH TRUONG: During a visit to Vietnam, General Haig had strewn a certain amount of Chaos in his Wake: At forward XXIV Corps on 18 March General Haig told General Sutherland that “Washington would like to see ARVN stay in Laos through April,” The following day he visited II Field Force and told General Commander there “his tentative conclusion is that the time has come for an orderly close-out of the ground operations in Laos.” Both field commanders dutifully reported these Haig observation to Abrams, who must have been somewhat bemused. I thought all U.S generals were totally bemused by all the activity around them due to operation’s objective that was blow-out and kill all two crucial-opponents for Hanoi regime taking over Saigon be not a real blood-bath and Saigon not a “Pebble-Capital”]
TTVT/213 v́ những khó khăn về địa thế, yểm trợ cũng như chỉ huy: Con chim đầu đàn bị PT-76 bắn hạ, PHĐ bị xây xác v́ flexiglass, Tư lệnh SĐ1KQ cho Đại úy Trần Duy Kỳ thế nhưng ông bướng bỉnh không chịu về R&R … để rồi phải mất tới 2 ngày, những chiến xa và các TĐ/7 và 8 Dù tùng thiết mới từ A Lưới về được đến CCHL Alpha, một đoạn đường dài chừng 12 cây số vào ngày 20 tháng 3. Trong lúc đoàn thiết giáp lui về biên giới, các pháo đội đại bác cơ giới của Hoa Kỳ cũng triệt thoái khỏi Lao Bảo và Khe Sanh về Đông Hà v́ TT Thiệu phá bỉnh kế hoặch đă quyết định 18/1/1971 của Tướng Haig, NSC, Pentagon. Đó là lư do Tướng Haig bất măn nên phần lớn hỏa lực của không quân Hoa Kỳ được dùng để bảo vệ cho riêng lực lượng của họ mà thôi, do đó LĐ1/TK lại gặp thêm trở ngại v́ thiếu pháo và không yểm khi về gần tới biên giới.
Hành động can đăm nầy của TT Thiệu khiến nhiều báo chí Mỹ ca ngợi TT Thiệu c̣n có quyền định đoạt chuyện nội bộ của nước ḿnh, trong khi TT Johnson đáng ghét, không làm được chức trách Tổng tư lệnh tối cao quân đội như là sự đề nghị hửu lư theo hệ thống quân giai: Tư lệnh chiến trường Westmoreland đề nghị lên Tổng tham mưu trưởng Liên quân chỉ cho quân lực VNCH được phép hợp lư đánh đuổi quân thù ra khỏi biên giới Lào/Việt mà có được với người Số-3 trong vị thế ở Bộ Ngoại giao là William Averell Harriman, v́ Harriman là thủ lảnh của War Industries Board. TT Johnson v́ liêm sĩ và không dẹp nổi bọn WIB nầy, nên đành tuyên bố trên TV quyết định sẽ không tái ứng cử kỳ 2, một hiện tượng hiếm hoi trong lịch sữ Hoa Kỳ; Cũng vào lúc Bộ Trưởng Tư Pháp Robert Kennedy bị ám sát y chang người anh TT Kennedy; Đệ nhứt phu nhân Johnson quá sợ hải bèn chêm thêm một câu “dù ai đó có tha thiết đề nghị!” Sự thật 1964 TT Johnson đă kư OK nhưng Harriman không khán kư [xem trong sách The New Legion để rỏ thêm] th́ làm ǵ có cuộc Hành Quân Lam Son 719 nầy! Tại sao người anh em phía bên kia có cơ hội hoà hợp ḥa giải dân tộc mà đổi lại trả thù đày-ải chúng tôi, không chịu hiểu được chúng ta đều là tay sai của ngoại nhân?
Với một nhúm Trực thăng vỏ trang của Phi đoàn 213 chỉ có yểm trợ cho Dù, bây giờ phải cán-đán công việc yểm trợ cuộc hành quân lui binh bay dưới sự đe doạ thường xuyên của Pháo binh BV bắn chụp xuống. Chúng tôi đặt trọng tâm cover về Khe Sanh càng nhanh càng tốt, để BV không kịp đuổi theo … chúng tôi bắn xuyên phá trước mặt đoàn convoy từ 50 đến 100 thước vào những bụi Tre gai đáng nghi và bất chấp pháo binh BV rà đuổi theo.
Tuy rằng, đoạn đường ngắn từ CCHL Alpha đến CCHL Bravo không xảy ra biến cố quan trọng nào; Nhưng khoảng 5 cây số c̣n lại là một quăng đường dài như vô tận đối với các chiến xa của LĐ1/TK, khi về gần đến biên giới, đoàn thiết giáp lại bị phục kích lần nữa. Lúc nầy chúng tôi cùng TTVT Cobra phối hợp yểm trợ cuộc lui binh; Mỗi buổi sáng hợp hành quân tôi luôn gặp Đại tá Cockerham Tư lệnh Lữ-đoàn 1 Không Kỵ. Chúng tôi thường ăn sáng tại Mess-Tentshelter và thường gặp phi công thuộc Đại đội C/7/7/1 Air-Cacalry/Cobra để bàn [briefing] chuyện yễm trợ trong ngày - Trên đường về, chúng tôi 3 chiếc Gun đang đổ xăng và tái trang bị hỏa lực để tiếp tục công tác ngay. V́ bay cả ngày, đêm không ngủ được, tiếng đại bác yểm trợ cứ luân hồi tác xạ, nên tôi chĩ bay copilot ngồi bên trái vào vị trí chiếc wing-2 hoặc-3. Trên đường thay thế air cover cho LĐ1ĐN - Lúc nầy, Đại úy phi công Farrell thuộc Đại-đội C/7/17 Không Kỵ Hoa Kỳ đang hùng dũng oanh kích quân BV,.chiếc trực thăng vơ trang Cobra cùng với một viên phi công Warrant Officer gan dạ khác. Chiếc Cobra thứ nh́ do hai viên phi công Lancaster và Jim Manthel điều khiển. Hai chiếc trực thăng vơ trang Cobra đang lao vào vùng rừng núi Hạ Lào.
Vừa qua khỏi biên giới không xa, họ đă nh́n thấy đoàn thiết giáp đang bị chận đứng tại một khúc đường cong về hướng Nam nh́n trên không giống h́nh chiếc móng ngựa; Bên trong khúc quanh là một khu rừng rậm rạp âm u trông giống miệng rắn đang hả to ma quái. Đoạn đầu của đoàn thiết giáp đang bị chận đánh dữ dội ở khúc cong phía đông, để lại phía sau gồm các chiến xa chỉ huy c̣n đang ở khúc cong phía tây bị rừng cây che khuất; Trong khi các chiến xa đi đầu c̣n đang lúng túng chưa khai hỏa được v́ sợ bắn trúng chiến xa bạn ở khúc quanh bên kia, may mắn Chiến-đoàn trưởng Dù, Trung tá Ngọc dùng Anh ngữ hướng dẫn các trực thăng vơ trang Cobra vào trận. Từ trên không, Đại Úy Farrell nh́n thấy rơ một toán quân BV ẩn nấp tại sườn đồi phía bắc đang dùng súng B-40 và B-41 nă đạn xối xả vào đoàn xe. Chúng tôi vừa tới nh́n thấy những làn khói trắng từ đuôi đạn tuôn ra trúng vào một chiến xa và một thiết vận xa khác, xăng và đạn trong hai chiếc thiết giáp này bốc cháy dữ dội, pháo tháp của chiến xa M-41 không c̣n kiểm soát được quay qua quay lại như đầu Lân trong đám lửa khói và đạn nổ.
Chúng tôi không khỏi ngạc nhiên thầm nhủ: “Trời! Với tằm mắt điên-tiết hiếu chiến của tôi, cảnh tượng hệt như trong phim chiến tranh thời thế chiến-2” Chiếc Cobra của phi công Lancaster nhào xuống trước; Đại Úy Farrell bay sát phía sau để yểm trợ theo đúng chiến thuật, bắn đại liên, phóng lựu và hỏa tiễn vào khu đồi dọc theo hướng từ nam lên bắc. Đột nhiên, ba vị trí pḥng không 12 ly 7 của Cộng quân đồng loạt khai hỏa từ khu rừng cây phía dưới. Đây là thế bắn mà Tam trùng Phạm Xuân Ẩn đă nói và thách thức sự hiểu biết của tôi trên [khi quá giang] chiếc C-119; Trong thế liên hoàn ba gốc hỏa lực của tam giác cân mà lúc phi cơ xạ kích đang kéo đầu lên sau khi nhủi xuống xạ kích.
Những lằn đạn chỉ đỏ rực theo đường bay sát hai chiếc Cobra, gần đến nỗi tôi tưởng chừng chỉ với tay ra là có thể nắm được! Farry vội liên lạc vô tuyến báo cho phi công Lancaster về ba họng súng pḥng không nguy hiểm đang khạc lửa từ khu rừng cây phía dưới. Hai chiếc Cobra vội bay tạt ra xa rồi dùng tất cả hỏa lực salvo vào các ổ pḥng không. Sau ba ṿng oanh kích, chỉ c̣n một ổ pḥng không hoạt động, Trực thăng của Đại Úy Farrell cũng đă bắn hết các hỏa tiễn mang theo nên thông báo cho chiếc Cobra dẫn đầu biết cần về Khe Sanh để tái vũ trang. Phi công Lancaster cho biết ḿnh cũng chỉ c̣n vài trái hỏa tiễn và sẽ nhào xuống lần nữa để tiêu diệt nốt ổ pḥng không cuối cùng; Đại Úy Farrell cố thuyết phục Lancaster đừng làm như vậy v́ oanh kích không có đồng đội bắn yểm trợ sẽ rất nguy hiểm, nhưng chiếc trực thăng kia vẫn ngoan cố lao xuống mục tiêu.
Gần như cùng một lúc với những trái hỏa tiễn nổ tung tại vị trí địch, một loạt đạn pḥng không bắn trúng vào chiếc Cobra, Lancaster thông báo bị trúng đạn vào cánh quạt sau đuôi rồi yêu cầu Lead Farrell yểm trợ cho anh đáp khẩn cấp. Farrell vội hướng dẫn chiếc trực thăng bạn bay xa hơn về hướng Nam, nơi có một băi cỏ tranh khá rậm. Phi công Lancaster vừa ráng bay theo vừa cố giữ cho phi cơ thăng bằng. Nhưng chiếc trực thăng v́ cánh quạt đuôi đă bị hư hại nên mât thăng bằng, rung chuyển tăng dần high frequency dữ dội, bắt đầu đảo lộn rồi rơi xuống đất; Khi phi cơ tản thương Dusk stuff tới được nơi chiếc Cobra lâm nạn, họ t́m thấy xác hai viên phi công đă chết v́ bị gẫy cổ khi trực thăng rơi counter clockwise xuống đất.
Nhờ vào kinh nghiệm chứng kiến và địa h́nh trước mặt, nảy giờ chúng tôi làm ṿng chờ khuất tằm quan sát của địch, ở sau đồi trọc và có đám rừng cây, trên đầu quân bạn, Chúng tôi chưa chắc đả ngán họ, nhưng mục tiêu chính là làm cách nào cho đoàn quân xa được an toàn rút lẹ về Khe Sanh để khỏi bị các “Chốt-chận” cấp Tiểu đoàn hay tệ hại hơn là cấp trung đoàn, v́ theo tin tù binh chúng có hai trung đoàn toan làm chốt chận và quyết tử với quân bạn có chiến xa yễm trợ; T-54 đối với chúng tôi như là những người khổng lồ với đôi chân đất sét chậm chạp đáng thương hại, nhưng đối với quân bạn là một trở ngại chính. Như các T-54 đă cố làm nút chận không cho chiến xa ta tiến đến tiếp viện cho Đồi-31; Bây giờ đội h́nh tác chiến của phi đội 213 có nhiều thay đổi về mặt chiến thuật; Hoàn toàn không c̣n ngụy hóa âm thanh như lần yểm trợ cho Đại đội trinh sát Dù.
Chúng tôi dùng chiến thuật 90 độ ngược lại đoàn xe. Đội h́nh tác chiến luân phiên yểm trợ che kín, 3 chiếc h́nh than bên trái [Left-Echelon] Trung úy Tiến Lead, Tôi wing-1 và Trung úy Lưu wing-2; Chúng tôi dùng chiến thuật “Độn rừng” núp sau sườn đồi móng ngựa. Khi vừa ló dạng khỏi sườn đồi, Lead Tiến ra lệnh đồng loạt tác xạ; Các xạ thủ chồm hẳn ra ngoài dí đầu súng 6 ṇng quay tích, một bầu lữa đỏ trước mũi phun ra 4000 viên phút xuống rừng Tre gai, bụi rậm, bên cạnh lưng sườn đồi là các hầm hố quân BV đang phục kích theo như con mắt cú-vọ kinh nghiệm chiến trường của các xạ thủ mà tôi nhớ lại lời nói của Nả Phá Luân “Les sous officiers font l’armeé” [Các Hạ sỉ quan nầy là kẻ quyết định chiến trường] 6 anh không những gan dạ đứng xỏng lưng chiến đấu mà c̣n kinh nghiệm tác xạ, nên những cây minigun nổ đều với nhịp điệu khi nương khi mạnh; Khi chúng tôi trên đầu quân BV 50 thước; Thật điều quái lạ không nghe một tiếng súng nào bắn trả? Khác hẳn mọi khi có tiếng lóc cóc, hoặc nổ như bắp rang của AK-47 mỗi lúc mỗi gần hơn.
Nhưng chả lẽ chúng chết hết!? Không phải vậy đâu đừng ham! V́ tiếng mưa bảo của đạn đạo từ 6 cây minigun quá ghê gớm nên họ đành tạm thời núp trước rồi tính sau; Quân BV nầy có kinh nghiệm, v́ họ thừa hiểu muốn chường mặt ra để đối chọi với chúng tôi th́ đă bị gục ngă vài giây dưới cơn mưa đạn tàn sát trước mũi trực thăng và không có dịp mở mắt nh́n thấy sát-thủ vừa bay qua.. Dựa vào thế thượng phong nầy, Chiếc Lead của Tiến quẹo gắt qua Phải lấy chút cao độ quan sát và làm C&C cho đội h́nh xạ kích, Tôi quẹo gắt qua Trái lead 4 minigun bao vùng trên điểm phục kích bắn xối xả vào luôn chiến xa bạn v́ quân BV vẩn c̣n ở trong đó. Cho đến lúc nầy trên cao độ 75 thước ṿng tṛn chúng tôi vẩn cảm thấy không một tiếng súng nào bắn lên.
Tôi cho lệnh tất cả chiến xa kể cả bạn và địch nằm phía trước đoàn quân xa đều phải tiêu diệt, Tiều đoàn 8/Dù cho lệnh như vậy; Chiếc Lead bắn hết rockets xuống làm trail cho chiếc 3; Tôi lấy cao độ và tiếp tục phá hủy các chiến xa c̣n lại, trong khi luôn luôn 4 khẩu minigun vẩn tiếp tục cover 2000 viên phút; Nhưng có lẽ v́ quá mệt mỏi, nên những chiếc rockets của tôi bắn ra đều gởi thiên gỡi địa hết. Tôi bảo đăm đoàn convoy nên mau tiếp tục di chuyển với phần hoả lực c̣n lại của chúng tôi; Trong khi đó, đoàn thiết giáp của LĐI/TK đă củng cố được đội h́nh và đang bắn trả dữ dội; Phi cơ phản lực được gọi tới để dội bom vào các vị trí phục kích của Cộng quân, nhưng không may một trái bom Napalm lại đánh lầm vào quân bạn khiến 12 người chết và gần 100 người khác bị thương! Tôi điên tiết, liền vặn qua UHF 233.7 “Stop held it Charlie …Mother fucker you pissed Goddamn wrong place…”
Chiếc A-6 Intruder vẩn c̣n rán chơi một pass nữa mới chịu ngừng rồi bay ra biễn. Làm sao tôi không điên tiết cho được, cũng trục lộ nầy, cũng Tiểu đoàn-8 Dù nầy trong những ngày đầu Skyspot đă “cố t́nh thúc đít” quân bạn bằng Bôm Bi CBU-24, bây giờ lại “Vô t́nh thả lạc” làm chết và bị thương một số cũng Dù và Thiết Giáp trong đó có Tiểu đoàn Phó TĐ-8, con người lổi lạc nầy chưa kịp nhập trận th́ đă bị thương. Hai đại đội Trinh Sát TĐ-8 Dù xuất sắc nầy đă chiến đấu cùng chúng tôi như môi với răng. Tiểu đội mũi nhọn tiên phuông phải choàng panel Vàng-Cam nơi lưng kẹp vào nón sắt để chúng tôi cover từ 50 đến 100 thước, trước các buị Tre gai thường có hầm trú ẩn trên đường tiến sát, thỉnh thoảng nơi bụi Tre lại có một tiếng nổ phụ làm kinh hoang tiểu đội xung kích. Lỗi thả bom lầm nầy do FAC Mỹ Việt thiếu phối hợp. Cuối cùng, địch quân cũng bị đẩy lui, nhưng có thêm 6 xe thiết giáp bị cháy.
Đại Tá Luật phải tập trung các xe c̣n lại để củng cố đội h́nh di chuyển. Cung từ của tù binh bị bắt trong trận phục kích cho biết c̣n có khoảng 2 Trung Đoàn địch đang phục kích sẵn ở phía trước chờ tiêu diệt đoàn xe, Đại Tá Luật vội thông báo tin này về BCH/SĐ Dù và yêu cầu cho quân mở đường. Tướng Đống lập tức đáp ứng bằng cách điều động một đơn vị quân Dù khai thông đoạn đường c̣n lại để giữ an ninh lộ tŕnh cho đoàn thiết giáp. Nhưng theo tôi, không rơ v́ sơ sót hay v́ lư do nào khác giữa sự lũng cũng của Dù và Thiết giáp. SĐ/Dù không thông báo cho biết lộ tŕnh đă được giữ an ninh. V́ vậy, Đại Tá Luật đă ra lệnh cho toán thiết giáp rời đường số 9, băng rừng về hướng Tây Nam tương đối bằng phẳng để tránh các ổ phục kích.
Thật sự, nếu Đại Tá Luật cứ xử dụng đường số 9 như dự trù, có lẽ các chiến xa c̣n lại sẽ về tới phần đất Việt Nam an toàn hơn. Quyết định “băng rừng” quan trọng này của Đại Tá Luật không biết đúng hay sai, hoặc lỗi phải vế ai, nhưng đă gây nhiều khó khăn và tổn thất cho đoàn thiết giáp. Di chuyển trên đường số 9 đă khó, khi xử dụng đường rừng lại càng gian-nan hơn, cây cối rậm rạp, đất-đai ẩm thấp lại nhiều khe suối nên dễ bị lún; Hơn nữa, v́ phải tự mở đường đi trong rừng xe cộ chẳng c̣n giữ được đội h́nh nên di chuyển rất hỗn loạn, nhiếu khi bị địch quân bắn cũng không phản pháo tiếp cứu được nhau. Trong khi đó, các đơn vị Dù tùng thiết vẫn tiếp tục rút theo trục lộ đường số 9 có sự yễm trợ đáng tin cậy của P/Đ213 như Tướng Đống đặt hết niềm tin nơi tôi trước khi xung trận tại cứ điễm Fuller, Đông Hà.. Cảnh hỗn độn như vậy, việc phối hợp yểm trợ với không quân và pháo binh hầu như không thể nào thực hiện được
Kết quả thiệt hại của Sư-đoàn 101 Không Kỵ và Liên Đoàn 51 Tác chiến: S/Đ 101: 215 chết, 38 mất tích. Phi cơ: 618 trúng đạn; 82 rớt bên Lào, 26 nội địa VN. LĐ51TC: 10 chết, 4 mất tích, 11 bị thương (phần nhiều đoàn viên gunship) Hầu hết phi cơ đều trúng đạn ít nhứt một lần. Bên Lào, 4 chiếc bắn rơi trên không; Tại các Đồi-31: 2 H-34 + 2 UH1-H; -Đồi-30: 3 UH1-H, -A-Luối 1 UH1-H, -Hồng-Hà-2 UH1H, và 1 Gunship nội địa
LĐT51TC: TRƯƠNG VĂN VINH
hoanglan22
05-29-2019, 02:02
AcyyOmnE2_k
hoanglan22
06-13-2019, 04:15
1Fs2oV8OlzM
Lời Trước Nghĩa Trang
O8t-v0JKTpo
hoanglan22
06-15-2019, 01:11
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1400906&stc=1&d=1560560930
Cuối năm 1973, khi đó tôi c̣n rất trẻ và đang học lớp tám ở Saigon. Chiến tranh th́ như đang ở xa xôi đâu đó trên vùng rừng núi, cách biệt với ngôi trường Trung - Tiểu học xinh xắn của chúng tôi ở vùng ngọai ô yên tĩnh. Thỉnh thoảng, cuộc chiến khốc liệt nhắc nhở đến sự có mặt của nó bằng những chiếc xe nhà binh xanh xám chạy vụt qua con đường trước cổng trường. Hay khi chúng tôi băng qua cầu Thị nghè lên quận một đi ngang trại lính với những bức tường có các lô cốt to, kiên cố quấn những ṿng dây kẽm gai sắc chạy dài từ bờ rạch lên ngă tư Nguyễn B́nh Khiêm. Với tôi cuộc sống thật yên b́nh trong tâm băo. Những buổi đến trường và chơi đùa với các bạn dưới bóng ngôi giáo đường uy nghi bên bóng cây cây phượng vĩ to cao, thường nở rất nhiều hoa rực rở khi mùa hè đến.
Thứ năm là ngày đặc biệt được chúng tôi yêu thích v́ buổi sáng hôm đó chỉ học có hai tiếng đầu, sau đó được nghỉ để vui chơi tùy ư. Chúng tôi thường chơi đá cầu, ném banh … trong sân trường rộng tênh.
Nhưng những buổi hào hứng nhất là tôi và những đứa bạn thân trong lớp rủ nhau cuốc bộ ra trung tâm Saigon. Năm sáu đứa chúng tôi đi ngang qua sở thú, dạo quanh hồ Con Rùa, đến Nhà thờ Đức Bà nghểnh cổ nh́n lên nóc giáo đường cao tít. Rồi mọi người hăng hái vào Bưu điện Saigon ṭ ṃ xem người lớn viết và gửi thư giữa quang cảnh lao xao tấp nập, đôi mắt ngạc nhiên với không gian rộng lớn bên trong ṭa nhà. Xuôi ra đường Tự do, đến đại lộ Nguyễn Huệ, Lê Lợi đi tha thẩn bên các kiosque, hàng quán, rồi loanh quanh bên chợ Bến Thành ḥa vào ḍng người mua bán tấp nập.
Saigon thời đó mang một bộ mặt rất đẹp và văn minh, người dân và lính tráng ăn mặc rất lịch lăm phong cách.
Thời điểm này, người Mỹ đang âm thầm rút ra khỏi cuộc chiến. Miền Nam Việt Nam bị đồng minh bỏ rơi nên phải chiến đấu lẻ loi trong giai đoạn đầy cam go, thiếu thốn … Nhiều chàng trai trẻ Saigon phải xếp sách vỡ, bút nghiêng để trở thành những người lính cầm súng ra trận. Đa số chúng tôi c̣n quá trẻ nên chưa phải phải gia nhập quân đội để bảo vệ đất nước. Dù thời cuộc đang thay đổi nhưng cuộc sống hằng ngày vẫn là những buổi cắp sách đến trường, vui đùa với bạn bè. Trên bầu trời Saigon bắt đầu xuất hiện những bóng mây u ám bay lởn vởn. Người lớn th́ tỏ ra lo lắng, c̣n với tâm hồn non nớt đang tuổi học sinh, chúng tôi vẩn vô tư, ngây ngô như mọi ngày.
Gần cuối năm học đó, bóng dáng của cuộc chiến rồi cũng len lỏi vào sân trường.
Anh là bạn học cùng lớp với tôi, nhưng lớn hơn tôi phải vài ba tuổi. So với vóc dáng của chúng tôi lúc đó c̣n là những chú thiếu niên mảnh khảnh, thấp người, anh có một h́nh hài quá khổ, cao hơn bạn bè cùng lớp cả “một cái đầu”. Thêm vào đó trên khuôn mặt của anh râu ria mọc lởm chởm, trong lúc đa số chúng tôi trông vẩn c̣n “nhí”, với hàng ria mép lờ mờ. Tiếng nói của anh ồ ề như một đại hán trong chuyện chưởng Tầu, động tác đôi lúc lóng ngóng v́ tay chân dài và to quá cở. Tuy tướng tá trông dử dội như vậy nhưng tính t́nh anh hiền lành chậm chạp. Anh cũng vui chơi với tất cả bạn bè, nhưng do h́nh dáng khác lạ của ḿnh, nhiều đứa bạn học rắn mắt hay chọc phá, trêu ghẹo … c̣n anh vẫn im lặng không tỏ ư giận hờn. Chỉ khi có đứa nào giỡn quá tay mới thấy anh nổi giận. Việc học hành của anh cũng chậm như vậy, nhiều năm phải ở lại lớp, nên khi lên đến cuối lớp tám, anh đă gần đến tuổi đi lính.
Vào một ngày gần cuối niên học, thầy hướng dẩn im lặng nh́n xuống cả lớp với nét mặt thoáng buồn. Thầy thông báo lớp chúng tôi có một bạn sắp phải nghỉ học để nhập ngũ. Tất cả chúng tôi lúc đầu hơi bở ngở, nhưng mọi người chóng hiểu ra và quay đầu về chổ anh ngồi ở góc gần cuối lớp. Khuôn mặt anh lúc ấy buồn so, đôi mắt như long lanh những giọt lệ. Không khí cả lớp như trầm hẳn xuống trong buổi học cuối cùng đó với anh.
Ngày nhập ngũ anh lặng lẽ lên đường một ḿnh, chúng tôi c̣n nhỏ nên không ai tiển chân anh.
Rồi cuối năm học, mùa hè lại đến. Đó là những giây phút thần tiên đối với tôi và những bạn thân cùng lớp. Có quá nhiều niềm vui ở vùng ngoại ô Thị nghè, Gia định. Những buổi lên Thanh đa tắm sông, câu cá, hái trộm cây trái trong vườn , đi xúc cá lia thia, bẩy màu … Sôi nổi hơn cả là lúc chúng tôi ra trung tâm Saigon đi quanh khắp các con đường lớn nhỏ. Tôi và những người bạn bị những thú vui mùa hè lôi cuốn, hầu như quên lăng người bạn học cùng lớp đó. Khi đó có lẽ anh đă trở thành người lính đang cầm súng chiến đấu ở đâu đó trên chiến trường để bảo vệ quê hương miền nam tự do.
Năm học kế tiếp, chúng tôi vào lớp 9, niềm vui lớn khi gặp lại bạn bè cũ và mới. Thời gian làm cho chúng tôi lớn lên thêm một chút, nhưng vẩn là những cậu thiếu niên vô tư bên sách vở và lớp học, vẩn thích chơi đùa dưới bóng ngôi giáo đường và cây phượng già cổi. Nhưng thỉnh thoảng chúng tôi dừng lại lắng nghe tiếng bom đạn ́ ầm vọng về từ đâu đó rất xa. Những âm thanh vang dội trong không khí làm chúng tôi đôi lúc ngập ngừng nh́n nhau như tự hỏi, nó từ đâu đến …
Vào một ngày đột nhiên, tôi và các bạn nhận được tin anh bị thương trên chiến trường. Những cái đầu nhỏ và những trái tim vô tư lự ngưng đập trong giây lát để nghe ngóng. Những nét sợ hải và suy tư v́ chiến tranh ghi dấu ấn đầu tiên vào tuổi học tṛ ngây ngô. Những ngày sau chúng tôi loáng thoáng nghe vài bạn nữ sinh và cô giáo đến quân y viện để thăm anh. Và rồi sự hồn nhiên, vô tư lại lôi kéo tôi và các bạn quay về với những tṛ đùa vui hàng ngày. Tôi đâu biết đó là những giây phút rong chơi dưới bầu trời không c̣n yên b́nh của Saigon.
Rồi ngày 30-4 tang tóc đó xảy đến cho cuộc sống Miền Nam tự do. Mọi thứ thay đổi hoàn toàn khi cộng sản miền bắc tiến vào thủ đô. Saigon mất đi dáng vẻ yêu kiều ngày nào và phố xá th́ buồn hiu hắt.
Năm học lại mới đến, tất cả đều lên lớp 10, tôi và một số bạn cũ vẫn cắp sách đến trường. Vẫn c̣n đó bóng ngôi giáo đường uy nghi và cây phượng già trổ hoa đỏ rực, nhưng ngôi trường cũ th́ đă bị đổi tên. Một thoáng buồn khi tôi nhớ lại những ngày tháng tràn đầy kỷ niệm cũ.
Như có sự sắp xếp của định mệnh, một ngày tôi và các bạn của ḿnh t́nh cờ gặp lại người bạn học cũ đă từng là lính VNCH. Anh bây giờ đă là một thương binh c̣n rất trẻ. Chúng tôi im lặng nghe anh nói về đời lính chiến của ḿnh, về trận chiến đă lấy đi một con mắt và làm bị thương một cánh tay của anh. Lời anh kể đượm nổi buồn chiến tranh của một người trai trẻ bị thương tật, và của một người lính bị mất mát một cái ǵ đó rất quí giá. Có lẻ đó là mất Miền Nam tự do, và tôi cũng mang nổi buồn đó như anh. Nhưng anh không hề than trách số phận hay cuộc đời ḿnh.
Cuộc sống đi qua trong khó khăn và lo âu sau ngày cộng sản xâm chiếm Miền Nam và Saigon. Tôi và các bạn lớn lên, phải lao ḿnh vào cuộc sống đầy sóng gió, mịt mù dưới chính sách của chính quyền cộng sản. Tôi cũng không có dịp gặp lại anh. Một người lính trẻ bị tàn tật như anh không biết sẽ sống ra sao trong xă hội cùng khổ, khi mà những thanh niên khỏe mạnh, được học hành nhiều hơn anh c̣n thấy vất vă, khó khăn. Đôi lúc tôi nghe vài người bạn nói gặp anh bán vé số dạo trên đường để kiếm sống …
Sau nhiều rất nhiều năm vắng tin, đột nhiên năm 1998, tôi lại gặp anh ở trung tâm Saigon. Hôm đó tôi chạy xe đến cửa hàng Tax ở góc Lê Lợi – Nguyễn Huệ, quận 1 để gặp người nhà. Phóng chiếc xe gắn máy lên phía lề đường nơi có khoảng 6 – 7 chiếc xe đang đậu, tôi gửi vào đó rồi vào cửa hàng cho nhanh, v́ gửi ở băi th́ lội bộ đến đây khá xa. Bất ngờ người đàn ông đang trông giử xe ở đó là anh. Tôi ngạc nhiên, vui mừng và thân mật gọi tên anh. Sau một lúc săm soi nh́n tôi, nghe tôi nói tên, anh cũng nhận ra và mừng rở, chào tôi cũng bằng giọng ồ ề, nhưng dáng đi đă chậm chạp hơn ngày xưa. Tôi hỏi thăm anh đôi chút về nơi ở và công việc rồi nói vào cửa hàng chút xíu sẽ ra. Khi xong công việc, tôi quay lại chổ cũ để lấy xe, suy nghĩ không biết làm được ǵ hơn cho anh, móc bóp đưa cho anh tờ mười ngàn đồng, anh cầm nó và nói để lấy tiền lẻ thối lại v́ giử xe lúc đó khoảng 500đ – 1000đ/ lần, tôi lắc đầu nói thôi anh hăy giử hết. Tay cầm tờ giấy bạc, anh nh́n tôi khá lâu và nói nhỏ cám ơn, nét mặt đượm buồn và trong đôi mắt chỉ c̣n một bên nguyên vẹn, tôi thấy long lanh ḍng nước mắt …
Những lần sau có công việc tôi chạy xe đến đó để gửi, nhưng không bao giờ c̣n gặp lại anh. Mổi khi có dịp gặp những người bạn khác ngoài đường, tôi hỏi thăm tin về anh, nhưng không ai biết bây giờ anh ra sao.
Cho đến bây giờ tôi thấy ḿnh vẩn nợ anh và đồng đội của anh một lời cám ơn, v́ những ngày đó anh đă chiến đấu và hy sinh một phần thân thể để bảo vệ Miền Nam tự do, cho tôi và các bạn của anh có những ngày yên vui đến trường.
Trong tim tôi, anh là một người lính trẻ anh hùng, và tôi muốn viết những ḍng này để cám ơn anh.
Vũ Gia Phan
hoanglan22
06-28-2019, 16:02
Thắp nén hương lòng tưởng nhớ cố Trung Tá Nguyễn Tấn Minh
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1408822&stc=1&d=1561737395
- Alo! Tôi nghe đây.
- Cháu là Thư đây chú.
- Chào cháu. Có gì gọi cho chú đây?
- Chú ơi! Bác Minh mất rồi.
- Bác Minh nào vậy cháu?
- Bác Minh ở El Monte đó chú.
- Trời ơi! Cháu có biết Bác Minh chết bao giờ không?
- Bác chết hôm nay. Con gái của Bác Minh vừa gọi cho cháu biết.
- Cảm ơn cháu, để chú gọi báo tin cho bạn bè biết.
Tôi gọi cho bạn bè ở xa cũng như ở gần báo tin anh Minh đã qua đời. Có đứa nói biết rồi, có đứa nói chưa biết. Tôi gục đầu xuống bàn suy nghĩ mông lung. Cách đây ba tuần tôi có nhận được hồi báo của anh Minh, anh sẽ đi dự đám cưới của con gái tôi. Hôm đám cưới con gái không thấy anh đi dự, tôi hỏi Nguyễn Anh Tuấn mới biết anh Minh đã vào bệnh viện. Tôi nghĩ, tuổi già thường hay đau ốm vào nằm bệnh viện chắc cũng không có gì trầm trọng. Không ngờ, bây giờ anh lại vĩnh viễn “ra đi” không về.
Tôi buồn thở dài. Tháng 10 trời đã vào thu. Những chiếc lá vàng từ từ rơi rụng trước hiên nhà. Nhìn lá vàng rơi, tôi liên tưởng con người tuổi về già rồi cũng thế. Sinh lão bệnh tử là lẽ thường tình không ai tránh khỏi. Tôi cũng đã thường nói với anh em bạn bè, là lớp tuổi già như anh em chúng mình, tuổi đời đã leo lên tới đỉnh, đi xuống dốc bên kia như chiếc lá úa vàng dính trên cành cây. Một cơn gió nhè nhẹ đi qua, những chiếc lá úa vàng sẽ từ từ rơi rụng. Sự ra đi của anh Nguyễn Tấn Minh cũng không ai ngờ. Mới ngày nào đây, anh còn đi dự Họp mặt Hè của Đồng hương và Thân hữu Quảng Ngãi tại nhà hàng Majesty ở đường Edinger, anh vui vẻ, mạnh khỏe đùa dỡn cùng anh em bạn bè. Tôi cứ tưởng anh Minh sẽ còn sinh hoạt với anh em bạn bè chúng tôi dài dài. Và cũng mới ngày nào, anh hứa là anh sẽ đi uống rượu mừng khi con gái tôi đi lấy chồng. Nhưng rồi, mọi việc nó xảy ra thật bất ngờ không như mình tưởng.
Anh Nguyễn Tấn Minh sinh năm 1931, mất năm 2017, hưởng thượng thọ 86 tuổi. Quảng đường thật dài mà anh đã đi qua không phải bằng phẳng dễ đi mà phải vượt qua nhiều chông gai khó khăn gian khổ. Anh sinh ra tại quận Sơn Tịnh Quảng Ngãi và lớn lên trong thời kỳ đất nước chìm trong cảnh chiến tranh chống Pháp 1945-1954. Quảng Ngãi hồi này nghèo khổ lắm vì nằm trong vùng kháng chiến chống Pháp Liên khu 5 của Việt Minh gọi là Nam Ngãi Bình Phú (tức Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên) bị máy bay của Pháp đánh phá liên tục. Ngày 20 Tháng 7 năm 1954 Hiệp định Genève ký kết giữa Việt Minh (tức cộng sản ngày nay) và thực dân Pháp. Đất nước Việt Nam bị chia đôi lấy vĩ tuyến 17 chia cắt đôi bờ Bắc Nam. Nước Việt Nam cộng hòa ra đời ở miền Nam và có tên trên bản đồ thế giới sau ngày Hiệp định Genève ký kết.
Buổi giao thời của nước Việt Nam cộng hòa mới được thành lập, anh Nguyễn Tấn Minh, người thanh niên 24 tuổi ý thức được bổn phận của người trai đối với đất nước, anh tình nguyện gia nhập Quân đội Quốc gia Việt Nam năm 1955, ra đi bảo vệ Quê hương Tổ quốc. Vào Quân trường phải vượt qua bao nhiêu khổ cực thử thách. Tập bắn súng, tập chiến thuật, tập bò hỏa lực, tập vượt qua các đoạn đường chiến binh, di hành dã trại...Ôi! Ở quân trường biết bao nhiêu là thứ phải tập. Người tân binh phải cố gắng rèn luyện vì “Thao trường đổ mồ hôi, Chiến trường bớt đổ máu”. Sống khắc khe theo kỷ luật của Quân đội, người chiến binh luôn giải nắng dầm mưa, học tập và rèn luyện bản thn. Ngày nào cũng thế. Lần đầu tiên xa gia đình bước chân vào đời quân ngũ, anh thấy nhớ nhà, nhớ cha nhớ mẹ, nhớ người yêu. Nhưng rồi anh phấn đấu với bản thân để làm tròn bổn phận người lính, chờ ngày ra trường sẽ có phép về thăm. Tình “Huynh đệ chi binh” sống trong quân trường, anh cảm thấy như anh em trong một đại gia đình. Anh quyết tâm rèn luyện bản thân, vui vẻ sống đời lính xa nhà.
Mãn khóa học ra trường anh là người lính Binh nhì. Lần theo thời gian anh cố gắng rèn luyện bản thân, học hỏi để tiến thân trên đường binh nghiệp. Anh xin đi học khóa Hạ Sĩ Quan Đồng Đế. Mấy năm sau anh lại làm đơn xin đi học khóa Sĩ Quan đặc biệt. Anh trở thành người Sĩ Quan trong Quân lực Việt Nam cộng hòa.
Hai mươi năm trên đường binh nghiệp, từ Binh nhì anh lên Hạ Sĩ, Trung Sĩ rồi Chuẩn uý, Thiếu úy và cấp bậc cuối cùng là Trung Tá. Anh nắm giữ những chức vụ quan trọng trong Quân đội. Làm Trưởng ban An ninh Tỉnh đoàn Địa Phương Quân Quảng Ngãi, Chỉ huy Lực lượng Thám Sát Tỉnh Quảng Nam, Tỉnh đoàn trưởng Xây dựng Nông thôn Quảng Nam và cuối cùng là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 121 ĐPQ Tiểu Khu Quảng Trị. Anh phục vụ trên phắp vùng I chiến thuật thuộc Quân khu I từ Quảng Ngãi ra đến Quảng Trị.
Anh là người Sĩ Quan tận tụy làm việc, luôn luôn hoàn thành nhiệm vụ khi làm việc ở văn phòng. Khi ra đơn vị tác chiến, anh luôn luôn gần gũi với lính, thương yêu lính và đối xử với thuộc hạ như anh em một nhà. Khi ra chiến trường anh là người chỉ huy giỏi, lính trong đơn vị đều nể phục, nhất là khi anh làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 121 đóng ở vùng địa đầu giới tuyến Quảng Trị. Tiểu đoàn anh ngày đêm luôn đối diện với giặc thù xua quân xâm lược miền Nam trong những năm chiến trường dầu sôi lửa bỏng cho đến ngày mất nước 30 tháng 4 năm 1975.
Là người Sĩ Quan luôn luôn đặt “Tổ Quốc Danh Dự Trách Nhiệm” lên trên hết. Dù ở cương vị nào anh cũng hoàn thành nhiệm vụ, vì thế anh được Quân đội ban thưởng nhiều huy chương, trong đó có Bảo Quốc Huân chương, là huân chương cao quý của Quân đội dành ban thưởng cho những người đóng góp nhiều công sức lớn lao, hoàn thành nhiệm vụ trong công cuộc bảo vệ, phục vụ đất nước.
Vận nước không may, “Đồng minh tháo chạy” bỏ ta một mình, Quân đội Việt Nam cộng hòa bị “Gãy sũng” nửa đường, nước mất nhà tan. Sau ngày oan nghiệt 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam bị công sản cưỡng chiếm, anh Nguyễn Tấn Minh bị cộng sản bắt và đưa đi tù. Vợ anh, chị Minh một mình lặn lội tảo tần nuôi đàn con nhỏ ở quê nhà, chờ chồng đi ở tù trở về. Chị Minh cũng như bao chị em phụ nữ khác có chồng là lính bị cộng sản bắt đi tù, phải gánh chịu bao cảnh đời đắng cay, bất hạnh nghiệt ngã. Các chị đã trở thành những người vợ oan nghiệt nhất của thời đại ngày nay mà cộng sản luôn luôn ức chế và kỳ thị gọi là vợ của “ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn”.
Sau bao nhiêu lần dời trại, đi từ trại tù này sang trại tù khác, cuối cùng tôi và anh Minh cũng ở tù chung một trại, đó là trại tù ác nghiệt Tiên Lãnh thuộc Tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng. Cùng là anh em trong một đại gia đình Quân đội VNCH, gặp cảnh quốc biến gia vong đi vào chốn lao tù, nên anh em thương nhau nhiều lắm. Ở trại tù ác nghiệt Tiên Lãnh, tôi với anh Minh, tuy cùng chung một trại tù nhưng không cùng ở chung một nhà. Anh em chỉ gặp nhau lúc đi lao động ở ngoài đồng ruộng hay đi phát rẫy để trồng mì trồng lang, tỉa bắp, tỉa lúa trên núi hay đi lên núi vác củi về trại cho nhà bếp nấu ăn phục vụ cho anh em tù.
Gặp nhau anh em mừng lắm. Anh tâm sự với tôi: “Cố gắng giữ gìn sức khỏe để về với gia đình nghe em. Thấy tụi em còn trẻ anh thương lắm “. Trong trại tù, anh Minh rất thương anh em. Dù đói rách thiếu ăn thiếu mặc, anh vẫn giữ tư cách của một vị Sĩ Quan cao cấp của Quân đội Việt Nam cộng hòa, không bon chen, không hạ mình khi đứng trước bọn cai tù. Lao động khổ sai, lần theo năm tháng, anh em tù càng ngày càng ốm, xanh xao, anh thường nhường cơm xẻ áo, giúp đỡ anh em khi ốm khi đau.
Đã mấy ngày qua không thấy anh Minh đi lao động và cũng không thấy bóng anh lảng vảng quanh quẩn trong sân trại tù. Một hôm đi lao động gặp người tù cùng nhà với anh Minh, tôi hỏi: “ Mấy ngày nay sao không thấy anh Nguyễn Tấn Minh đi lao động? “ Người đó trả lời thật nhanh rồi bỏ đi: “ Anh Minh đi trại Đồng Mộ rồi.” Trại Đồng Mộ là nơi biệt giam những người tù mà bọn cai tù cho là nguy hiểm. Ở trong trại tù cấm những người tù ở khác nhà quan hệ với nhau. Nếu bắt gặp thì bị kỷ luật. Vì thế nghe người bạn tù trả lời, tôi chỉ biết vậy thôi, rồi mỗi người đi mỗi ngả. Tôi không hỏi gì thêm.
Ở trại tù Tiên Lãnh dù có đói rách nhưng đi lao động cũng bắt được con rắn, bắt được con cua, con nhái, hái được cộng rau ăn cho đỡ đói, cũng thấy được anh em tù, cũng nhìn được bầu trời, cũng nhìn thấy được ánh sáng, cũng hít được cái không khí trong lành hơn là bị nhốt trong nhà tù biệt giam tối tăm ngột ngạc. Nghĩ thương anh Minh vào nhà biệt giam, khổ gấp trăm ngàn lần ở ngoài đi lao động. Đói khát bệnh tật. Khi mãn hạn biệt giam được ra ngoài, anh em tù xanh như tàu lá vì thiếu ánh sáng, thiếu dinh dưỡng, đi đứng không được vì đôi chân bị cùm, đôi chân bị tê bại. Phải mất thời gian dài lâu với thuốc men chửa trị, bồi dưỡng cơ thể mới mong đi đứng bình thường. Anh em tù ở trong hoàn cảnh này thật đắng cay, thật tội nghiệp.
Năm 1983 tôi được ra trại về đoàn tụ với gia đình. Kể từ năm ấy tôi không biết anh Minh như thế nào. Tôi về Quê hương bị quản chế 5 năm và không có cơ hội đi đây đi đó, nên không biết tin tức gì về anh Minh, cũng như những anh em cùng ở chung trại tù Tiên Lãnh. Hơn 10 năm sau, năm 1994 tôi và gia đình đi định cư tại Hoa Kỳ, ở Nam California mới gặp anh Minh nhân ngày Họp mặt Đồng hương và Thân hữu Quảng Ngãi vào dịp Xuân về. Hai anh em ôm nhau thật lâu, mừng vui mà nước mắt rưng rưng. Anh ra tù năm 1988. Như thế là anh ở trong lao tù cộng sản 13 năm. 13 năm với bao xương máu mồ hôi và nước mắt đổ ra, ăn không đủ no, bệnh không có thuốc chửa, lấy thân xác người tù thay thế cho con trâu con bò trong lao động sản xuất khổ sai mới cầm được miếng giấy về đoàn tụ với gia đình, với vợ với con.
Giờ đây anh và tôi cùng bạn bè trong chốn lao tù năm xưa như đàn chim sổ lồng tung cánh bay xa trên bầu trời Tự do nơi đất khách quê người. Từ đó anh em chúng tôi thường gặp nhau vào những lúc sinh hoạt của Hội Đồng hương và Thân hữu Quảng Ngãi, những lúc Họp mặt Xuân, Họp mặt Hè và Hội Cựu tù nhân Chính trị Quảng Nam Đà Nẵng trong những lần sinh hoạt và Hội ngộ của Cựu Tù nhân Chính trị Quảng Nam Đà Nẵng tại miền Nam California.
Anh là cố vấn của Hội Đồng hương và Thân hữu Quảng Ngãi và Hội Cựu tù nhân Chính trị Quảng Nam Đà Nẵng. Anh đã hăng hái đóng góp nhiều công sức và tiền bạc xây dựng Hội Đồng hương và Thân hữu Quảng Ngãi cũng như Hội Cựu tù nhân Chính trị Quảng Nam Đà Nẵng trong thời gian lâu dài. Hồi tôi còn làm Trưởng ban giúp đỡ Thương Phế Binh VNCH của HĐH & TH Quảng Ngãi, anh Minh là người rất tích cực, cùng với tôi vận động anh em cùng bà con Đồng hương đóng góp tiền bạc, góp bàn tay giúp đỡ cho anh em Thương phế binh VNCH đang sống cuộc đời khốn khổ bất hạnh ở Quê nhà
Anh Minh thật xứng đáng là người anh cả trong gia đình Đồng hương và Thân hữu Quảng Ngãi và trong gia đình Cựu tù nhân Chính trị Quảng Nam Đà Nẵng. Anh là người anh gương mẫu của anh em chúng tôi trên bước đường lưu vong tị nạn. Anh Minh đã được Hội Đồng hương và Thân hữu Quang Ngãi vinh danh, là người đã đóng góp nhiều công sức và tiền bạc xây dựng Hội và giúp đỡ TPB/VNCH trong ngày Họp mặt Xuân Đinh Dậu 2017.
Vợ anh Minh đã ra đi về cõi Vĩnh hằng mấy năm rồi, giờ tới lược anh Minh cũng đã ra đi. Ngày 30 tháng 9 năm 2017 được tin sét đánh, anh Nguyễn Tấn Minh qua đời. Tin không vui đến thật bất ngờ, tôi bàng hoàng xúc động. Ôi! Thế là một người anh kính mến, một người bạn tù, một chiến hữu hết lòng phục vụ Tổ Quốc nữa đã vĩnh viễn ra đi.
Sự ra đi của anh Nguyễn Tấn Minh không những là sự mất mát to lớn của các con, các cháu của anh, của tang quyến và của bà con thân thuộc mà còn là sự mất mát lớn lao của Hội Đồng hương và Thân hữu Quảng Ngãi và của Hội Cựu tù nhân chính trị Quảng Nam Đà Nẵng cũng như của những anh em chiến hữu trong Hội Đồng Đế, Hội cựu tù nhân Chính trị Los Angeles.
Với quá trình 20 năm trong đời quân ngũ, sự đóng góp to lớn của anh Minh cho đất nước trong công cuộc chống cộng sản xâm lược bảo vệ đất nước, để rồi anh phải lãnh án 13 năm tù khổ sai trong lao tù ác nghiệt có một không hai Tiên Lãnh và Đồng Mộ sau ngày mất nước 30 tháng 4 năm 1975. Ở Hải ngoại, ngoài sự đóng góp công sức và tiền bạc xây dựng cho các Hội đoàn, giúp đỡ anh em Thương Phế binh khốn khổ bất hạnh nơi quê nhà, anh còn góp bàn tay cùng người Việt tị nạn cộng sản tranh đấu cho Tự do Dân chủ Nhân quyền Việt Nam. Vì vậy một số anh em chiến hữu các Hội đoàn họp lại với nhau, đã đồng ý phủ cờ VNCH cho anh. Hai giờ chiều ngày 20 tháng 10 năm 2017 làm lễ phủ cờ cho cố Trung Tá Nguyễn Tấn Minh do anh em trong Hội Đồng Đế phụ trách.
Rất tiếc là anh Nguyễn Tấn Minh không còn có cơ hội về thăm lại cố hương, dù chỉ một lần để nhìn thấy lại đất nước Việt Nam mình được Tự do không còn cộng sản. Vận nước không may, bao nhiêu khổ đau nghiệt ngã đè nặng lên đất nước và dân tộc Việt Nam sau ngày đau thương oan nghiệt 30 Tháng Tư năm 1975, anh Minh ngậm ngùi, uất hận mang theo nỗi buồn mất nước ra đi...
Buổi phủ cờ rất trang nghiêm và cảm động. Ngoài gia đình tang quyến, bà con thân thuộc, có rất nhiều anh em trong Hội ĐH &TH/ QN và Hội CTNCT/QNĐN. Đặc biệt có sự tham dự của Cựu Đại tá Lê Bá Khiếu, nguyên là Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Quảng Ngãi và Cựu Đại tá Nguyễn Văn Quý. Sau phần phủ cờ, anh Nguyễn Tấn Đồng đọc tiểu sử của cố Trung Tá Nguyễn Tấn Minh. Tiếp theo là phát biểu cảm tưởng của các vị quan khách, trong đó có cựu Đại tá Lê Bá Khiếu. Là người đã quen biết cố Trung Tá Nguyễn Tấn Minh hồi còn ở trong Quân đội VNCH trước năm 1975, Đại Tá Lê Bá Khiếu trình bày rất chi tiết về cố Trung Tá Nguyễn Tấn Minh trong cuộc đời quân ngũ phục vụ đất nước, hoàn thành trách nhiệm của người Sĩ quan VNCH. Đồng thời ông cũng chia xẻ nỗi đau thương mất mát lớn lao và chia buồn cùng gia đình tang quyến.
Buổi sáng hôm sau 21 tháng 10 năm 2017, gia đình và hàng trăm chiến hữu cùng bạn bè đến để tiễn anh Minh đi về cõi Vĩnh hằng. Mùa thu trời se lạnh, hàng cây hai bên đường lá úa vàng âm thầm rơi, từng chiếc từng chiếc. Quang cảnh thật buồn. Đoàn người im lặng, cúi đầu lặng lẽ đưa tiễn anh Minh đi đến nhà hỏa táng. Những vành khăn tang trắng của các con, các cháu theo sau quan tài với dòng nước mắt lăn dài trên đôi má, khóc thương Cha, khóc thương ông Nội, ông Ngoại, cùng với những giòng nước mắt của bạn bè, của người thân tiễn anh Minh ra đi không trở về. Lát nữa đây, anh Nguyễn Tấn Minh sẽ vào lò hỏa thiêu. Anh từ biệt dương thế để đi về thế giới bên kia. Thế là hết một đời người.
Cố Trung Tá Nguyễn Tấn Minh với 86 tuổi đời, 20 năm ra đi phục vụ Tổ quốc chống cộng sản xâm lược bảo vệ đất nước VNCH, bảo vệ Tự do. 13 năm ở trong chốn lao tù khổ sai ác nghiệt cộng sản. 26 năm bỏ Quê hương Tổ quốc ra đi tỵ nạn cộng sản. Giờ đây, anh gởi lại thân xác trên đất nước Hoa Kỳ, Quê hương thứ hai của anh bằng một nắm tro tàn. “Ta nay ở trọ trần gian, Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời”. Xin vĩnh biệt anh. Vĩnh biệt cố Trung Tá Nguyễn Tấn Minh, người anh muôn đời kính mến. Vĩnh biệt.
Những ngày cuối của mùa lễ Tạ Ơn trời lành lạnh, sương khuya rơi nhiều. Hồi tưởng lại một thời đã đi qua, biết bao nhiêu chuyện xảy ra trong cuộc đời. Anh em chúng ta là những người, một thời chinh chiến, một thời lao tù, tưởng chừng như chết đi rồi sống lại, để rồi ngày hôm nay lại trở thành người lưu vong tỵ nạn, nhận đất nước Hoa Kỳ làm Quê hương thứ hai của mình. Xin Tạ ơn Trời Phật, Tạ ơn Đời, Tạ ơn Người. Tạ ơn đất nước VNCH, Tạ ơn người lính VNCH đã hy sinh trong cuộc chiến để cho chúng ta được sống, để cho miền Nam được Tự do mãi mãi, nhưng rồi ý nguyện không thành. Tạ ơn người TPB/VNCH đã hy sinh một phần thân thể cho đất nước VNCH đang sống cuộc đời bất hạnh nơi Quê nhà. Hãy làm một việc gì đó dù nhỏ để giúp đỡ, để nhớ ơn người TPB/VNCH. Và chúng ta cũng nên góp một bàn tay dù là bàn tay nhỏ, làm một việc hữu ích cho đất nước, cùng với đồng bào tị nạn tranh đấu cho Việt Nam được tự do nhân quyền chờ ngày quang phục Quê hương. Và cũng xin Tạ ơn nước Mỹ đã cưu mang, đã mở rộng vòng tay, giúp đỡ chúng ta xây dựng lại cuộc đời.
Tôi ngồi viết những dòng này giữa đêm khuya để nhớ về anh Minh, nhớ về cố Trung Tá Nguyễn Tấn Minh. Ngày lễ Tạ Ơn lại càng đến gần. Nhìn qua cửa sổ, ngoài trời sương khuya trĩu nặng lá vàng. Ánh đèn vàng nhòa sương, lặng lẽ cúi đầu, đứng im lìm trong không gian tĩnh lặng, im vắng. Mảnh trăng thượng tuần bị che khuất trong màn sương trắng đục. Tiếng còi xe hú trong đêm khuya nghe rợn người, thì ra người hàng xóm bị bệnh gọi xe cấp cứu bấm số 911. Lại có người vào bệnh viện. Gió se lạnh nhè nhẹ thổi qua rung rinh cành lá làm sương rơi lốp đốp trên khung cửa sổ trước hiên nhà như tiếng ai gõ cửa. Anh đi rồi, buồn quá anh Minh ơi!
Những chuyện xảy ra trong cuộc đời, sinh lão bệnh tử, anh em bạn bè lần lược ra đi, chắc chắn rồi cũng sẽ đến phiên mình. Đời là vô thường, ai biết trước việc gì sẽ xảy ra. Anh em bạn bè chúng tôi giờ cũng đã trên dưới tám mươi. Tuổi già sức yếu, thoáng chốc rồi cũng sẽ ra đi. Nói thế có người cho là quá đáng và bi quan, nhưng sự thật là như thế. Anh Minh ra đi, một tháng sau, anh Nguyễn Văn Sang ở San José cũng đã ra đi. Và mới đây, anh Trần Văn Chi cũng lại ra đi. Chỉ hơn hai tháng thôi, đã có ba người bạn già ra đi về miền miên viễn. Tôi biết còn nhiều bạn nữa đang nằm trong bệnh viện, có lẽ rồi cũng sắp ra đi. Buồn ơi là buồn.
Cụ Nguyễn Công Trứ đã nói: “Thoạt sinh ra miệng đà khóc chóe, Trần có vui sao chẳng cười khì.” Quả thật đời là không vui. Ta sinh ra với hai bàn tay trắng, khi ta chết cũng hai bàn trắng tay, ta cũng chẳng đem theo được thứ gì. Sống ở trên đời này, dù ai giàu sang phú quý, quây đi ngoảnh lại, rồi cũng thấy một trời phù vân. Vì thế sống trên đời này ta phải biết yêu thương mình và yêu thương mọi người, phải có tấm lòng bao dung và vị tha, sống cho mình và cũng sống cho mọi người. Không nên tranh dành hơn thua. Hơn thua để làm gì, để rồi phải mất đi người thân, phải mất đi người bạn, phải mất đi tình yêu thương. Người ta thường nói: “Đời là một cánh hoa rơi, Hơn thua nhau rồi cũng về với đất “và” Đừng nên cứ mãi tranh dành, Trở về cát bụi cũng thành khói mây”. Hãy yêu thương và đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau.
Sống trên đời này, giàu sang phú quý, công danh sự nghiệp có đó rồi lại không. Như ta đã biết “Mấy ai giàu bằng Vương Khải Thạch Sùng, Cũng có lúc tường xiêu ngói đổ “và“ Phú quý vinh hoa như mộng ảo, Sắc tài danh lợi tựa phù du”. Suy cho cùng, chỉ có đạo đức và tình thương yêu mới tồn tại và mới ở lại với chúng ta. “Điều quan trọng không phải là những gì ta nhận được mà là những gì ta đã cho đi”. Sống được như vậy, cuộc sống của mình mới có ý nghĩa, ta sẽ đem lại niềm vui và tình yêu thương đến cho mình, cho mọi người và cho đời, lòng ta sẽ thấy an vui thanh thản và hạnh phúc. “Yêu thương xin nở nụ cười, Vị tha là để lòng người thanh cao”
“Ngỡ chỉ là một cuộc chơi, Ngoái lại sau thấy một trời phù vân”. Xin “Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy, Ta có thêm ngày nữa để yêu thương”.
Anh Minh ra đi để lại cho anh em bạn bè chúng tôi nhiều thương tiếc, đã gắn bó với nhau dài lâu khó quên. Ngoài tình thương của một người anh, của một người bạn, còn có tình thương của một chiến hữu có cùng chung một lý tưởng trong thời bình cũng như trong thời khói lửa điêu linh, có cùng chung một cảnh ngộ đắng cay nghiệt ngã sau ngày bị “ Gãy súng “ nửa đường 30 tháng 4 năm 1975 đi vào chốn lao tù ác nghiệt và có cùng chung một ước nguyện chưa thành mang nặng trong lòng từ ngày anh bỏ Quê hương Tổ Quốc để ra đi lưu vong tỵ nạn, đó là ước nguyện ngày trở về Quê hương Việt Nam khi không còn cộng sản. Anh đành phái uất hận mang theo về miền miên viễn khi anh nằm xuống.
Anh Minh ơi!
Thôi rồi! vĩnh biệt ngàn thu,
Anh đi về chốn Thiên thu Vĩnh hằng.
Thế là,
“Đường về khép bóng trần gian,
Lợi danh gói một hành trang vô thường.”
Anh ra đi bình an và thanh thản nhé.
Mãi mãi nhớ anh...
Em: Phạm Thọ
CTNCT/QNĐN
hoanglan22
07-05-2019, 04:21
Lời mở đầu
Hôm nay mới được đọc bài của anh . Không biết anh c̣n nhớ đến người bạn Hoàng này không ? khi cùng ở bên đất phi vùng 5 . sau này được biết tin anh về TX , houston . th́ ḿnh về ở TX nhưng khác thành phố , rồi lại trở về Houston nhưng v́ cuộc sống khó khăn như chạy loạn nên đi nhiều chỗ và quên đi rất nhiều tên bạn bè nay đọc bài này bên một web là một sự t́nh cờ .Mong nhận được tin anh . Ḿnh cũng đă nhắn tin bên đó rồi
Chúc anh và gia đ́nh vẫn mạnh khỏe
Hoanglan22
Trước nay tôi rất ít khi viết về đời lính. Thứ nhất, v́ không tránh được cái tôi (đáng ghét). Thứ hai, v́ tôi chỉ là lính con so (10 tháng quân trường, 8 tháng chiến trường), là cấp chỉ huy thấp nhất (Chuẩn úy) ở binh chủng "mạt" nhất (Địa Phương Quân), công trận chưa có ǵ để hănh diện. Tôi vẫn nghĩ rằng, muốn viết về lính, tác giả nên là một Quân nhân có binh nghiệp lớn (cao cấp, thâm niên), xuất thân từ những Binh chủng oai hùng (Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân), vào sinh ra tử (Biệt Kích), bay bướm (Không Quân) hay pha chút lăng mạn (Hải Quân). Tác phẩm nên đề cập những mặt trận lớn (Hạ Lào, B́nh long, Xuân lộc, Dakto), những địa điểm danh tiếng (Khe Sanh, Charlie).
Trong gần hai mươi năm ở hải ngoại, tôi đọc nhiều sách viết về người lính Việt Nam, biết thêm những chiến tích hào hùng, sự làm việc cần mẫn tận tụy và sự hi sinh anh dũng của nhiều chiến hữu lớp trước, với ḷng ngưỡng phục và biết ơn tác giả. Tuy nhiên, bên cạnh đó, tôi vẫn thấy thiếu thiếu một cái ǵ nhỏ bé nhưng gần gũi và thân thuộc. Gần đây, đọc bài của Nguyễn Văn Thông trên Làng Văn số 166, tôi nh́n ra sự thiếu vắng ấỵ Đó là chưa có, hay hiếm có, sách vở viết về đời sống nhọc nhằn và sự hi sinh âm thầm của người lính Nghĩa Quân, Địa Phương Quân (mà họ chua chát gọi tắt là Nghĩa Địa).
Riêng tôi, trong mấy tháng ngắn ngủi ngoài chiến địa, tôi có đầy ắp kỷ niệm với họ, đă chứng kiến họ sống và chiến đấu, đă nh́n thấy họ dũng cảm hi sinh như những anh hùng. Nhân ngày 19 tháng 6, tôi xin ghi nhận sơ khởi một vài nét về sắc lính Địa Phương Quân mà tôi đă trực tiếp dự phần, như một cách bù đắp cho họ trong muôn một. Mong rằng bài viết này sẽ là một gợi ư nhỏ bé để có thêm nhiều người khác cùng viết, giúp điểm xuyết cho bức tranh Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) được đầy đủ hơn.
Như trên đă nói, kiến thức quân sự của tôi chỉ là những ǵ thu thập được ở quân trường, và qua thực tế hạn hẹp của một đơn vị nhỏ ở một tỉnh. Tôi ước mong đón nhận những ư kiến xây dựng, những chỉ bảo cần thiết để bổ túc, sửa chữa đoạn bài viết về sắc lính này...
Lần đầu tiên ra nhận đơn vị, đứng trước hàng quân, tôi hơi ngỡ ngàng. Trước mặt tôi là Trung Đội 1, Đại Đội 1, Tiểu Đoàn Bạch Hổ 401, chủ lực Địa Phương Quân thuộc Tiểu khu Kiến ḥa, tập hợp ở một góc sân cờ ở trại gia binh, hậu cứ Tiểu đoàn. Trừ những người nghỉ bệnh, bị thương, đi phép, trễ phép, nằm quân lao, c̣n lại tất cả 16 người lính tuổi từ mười tám tới ngoài năm mươi và hai Hạ sĩ quan. Ai nấy mắt hơi lạc thần v́ mệt mỏi, thân thể hầu hết gầy g̣, quần áo rách rưới, tóc tai bờm xờm, có người râu dài lưa thưa, có người mặt mày dớn dác như sợ hăi, có người lầm ĺ dữ tợn.
Tôi đứng trước họ, có cảm tưởng đứng trước những "anh hùng" Lương Sơn Bạc, vừa hơi e dè, vừa hơi ngại ngùng và vừa hơi thất vọng. Họ cũng hơi thất vọng và phân vân. Sự phân vân trước một cấp chỉ huy trực tiếp mới ra trường, không một chút kinh nghiệm lănh đạo chỉ huy và tác chiến. May mà năm đó tôi đă 22 tuổi tây, "già" hơn vài tuổi so với phần lớn các chuẩn úy mới ra trường. Trừ đầu tóc hớt ngắn và bộ quân phục c̣n khá mới với dấu alpha ở bâu và dấu hiệu "Cư An Tư Nguy" của Trường Bộ Binh Thủ Đức bên vaị. Mặt mày tôi cũng có vẻ phong sương chút chút nhờ nắng gió quân trường.
Một cách vắn tắt, tôi giới thiệu vài điều về tôi: gốc thầy giáo, t́nh nguyện nhập ngũ, tuổi tác, vợ con. Tôi yêu cầu họ lần lượt xưng tên, và tôi bắt tay từng ngườị. Tay họ phần lớn chai sạn và khô như củị. Có người nắm chặt tay tôi như sắp sửa đấu vật, có người đưa tay cho tôi nắm. Mắt họ nh́n vào khoảng không hay nh́n xuống đất. Có người cười cười, nụ cười lợt lạt, có người mím chặt môi như bị tra tấn.
Tôi nói với họ vài điều sơ sài về t́nh h́nh đất nước, Hiệp Định Đ́nh Chiến Paris đă kư, về ngưng bắn tại chỗ, ngưng bắn da beo, về việc Cộng sản Bắc Việt (CSBV) và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) vi phạm lệnh ngưng bắn hàng ngày, luôn luôn giành dân lấn đất để mong chiếm ưu thế nông thôn, lấy nông thôn bao vây thành thị...
Gió chiều hiu hắt thổi, tôi thấy những chiến hữu của tôi lim dim chống lại cơn buồn ngủ. Tôi biết họ không quan tâm những điều tôi nóị. Là quân nhân, họ chờ lệnh, tuân lệnh và thi hành lệnh. Đối tượng của họ là Việt Cộng (VC). Đời họ là sự tiếp nối của những cuộc hành quân càn quét, truy kích, đột kích, giải vây, tiếp tế đồn bót, giữ cầu, giữ đường. Họ không cần biết những chuyện cao xa hơn lệnh lạc trực tiếp: tập hợp, tan hàng, cấm trại hay xả trại, nếu xả trại th́ được đi bao lâu, một ngày hai ngày, nếu cấm trại th́ có thể chui rào trốn ra trong mấy giờ?
Tôi không phải là sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị, tôi là sĩ quan tác chiến, tôi không nên bắt họ nghe chuyện chính trị, mà nên cho họ tan hàng, nghỉ ngơi hay vui chơi trong khi chờ lệnh hành quân. Tôi hiểụ Tôi vắn tắt hơn, yêu cầu họ thực ḷng hợp tác với tôi trong những ngày sắp tới, hăy coi tôi như anh em, giúp đỡ lẫn nhaụ. Tôi nhắc họ giữ đúng quân kỷ, thi hành lệnh một cách đầy đủ và nghiêm chỉnh. Tôi tiết lộ cho họ biết tôi từng là Sinh Viên Sĩ Quan (SVSQ) Kỷ Luật Đại Đội ở quân trường, tôi từng... hét ra lửa và họ có thể kiểm chứng điều này với mấy ông chuẩn úy học cùng đại đội với tôi ở quân trường và nay cùng về đơn vị với tôị. Vài phút sau khi tan hàng, một ông lính tới bá vai tôi, cười cười:
Tôi thấy ông hiền quá, đúng là thầy giáo, chắc ông không chỉ huy được đâu!
Đó là những giây phút đầu của tôi ở một đơn vị Địa Phương Quân.
Sự thất vọng của tôi qua mau khi tôi sống với họ qua một vài ngày ngoài chiến trường. Sự già dặn của họ về kinh nghiệm chiến đấu, sự gan dạ của họ khi đối diện với địch quân và nhất là sự chịu đựng của họ trước nghịch cảnh khiến tôi cảm thấy nhỏ bé và non dại trước họ hơn bao giờ hết. Mặc cảm này cũng phôi pha nhanh trong tôi, một phần nhờ sự độ lượng và tinh thần đồng đội của họ.
Họ sung sướng chỉ cho tôi cách chạy qua một cái cầu khỉ cong queo, không tay vịn, gập ghềnh có khi dài mười mấy thước và ghê gớm hơn hết là nhớp nháp bùn śnh, trơn như thoa mỡ. Họ nhắc cho tôi khi nào phải bắt đầu nấu nước sôi ngâm bọc gạo sấy để nó kịp nở trước khi ăn.
Thấy tôi lóng cóng nhóm lửa theo kiểu hướng đạo sinh, họ mỉm cười sẻ cho tôi một ít nước sôị Thấy tôi ăn cơm với muối vừng, họ mời tôi những thức tươi nóng mà họ t́m được đâu đó trong lúc di chuyển. Họ chỉ cho tôi những dấu vết t́nh nghi của ḿn bẫy, trái nổ Việt Cộng (VC) cài khắp nơi trong vườn tược, chỗ lên mương xuống mương, bếp núc, cầu đường. Tôi đă học kỹ điều này trong quân trường, nhưng thực tế ngoài chiến trường c̣n phong phú và phức tạp gấp trăm lần.
Họ bày cho tôi cách căng vơng sao cho khỏi sương mưa, tránh bớt đường đạn bắn sẻ, tránh tầm lựu đạn. Họ dạy cho tôi khi ngủ súng ống, dây mang đạn để đâu; khi ngủ lúc nào th́ phải bỏ vơng nhảy xuống hố cá nhân sũng nước, khi nào th́ cứ tỉnh bơ dù nghe tiếng "đề pa" của súng cối Việt Cộng. Họ bày cho tôi cách giữ súng cho khỏi hóc, khỏi ướt khi qua sông, qua suốị. Họ truyền kinh nghiệm tháo súng chùi súng cấp thời ngoài chiến trường, để khi cần, có thể ráp lại được trong ṿng 15 giây.
Họ hướng dẫn cho tôi cả cách... đi đại tiện sao cho an toàn, tránh gây hôi thối chỗ đóng quân mà không phải đi xa ra ngoài vọng gác, vừa nguy hiểm vừa làm lộ vị trí đóng quân. Họ biết đủ thứ, hơn tôi đủ thứ và sung sướng dạy bảo tôi về mọi thứ! Tôi chỉ hơn họ có mỗi cái bằng trung đội trưởng, cái bản đồ kèm phóng đồ hành quân và cái máy truyền tin để nhận lệnh từ thượng cấp.
Họ thường ngập ngừng hỏi tôi với sự nể nang:
- C̣n bao xa nữa Chuẩn úy?
- Liệu tối nay ḿnh ngủ đâu Chuẩn úy?
- Chừng bao lâu th́ ḿnh bắt tay được cánh quân bạn?
- Liệu đụng lớn không?
Tất nhiên đó là những câu hỏi thuộc bí mật quân sự, tôi chỉ có thể trả lời lơ mơ rằng: "gần tới rồi," "c̣n xa," "chưa biết," "có thể lắm!" v.v. Các chiến hữu của tôi chỉ chấp nhận tôi hoàn toàn sau hai tháng hành quân, khi thấy tôi định điểm đứng chính xác, điều chỉnh tác xạ cho pháo binh một cách hữu hiệu, không sợ sệt khi nghe Việt Cộng hô xung phong cả ba mặt, và c̣n cười đùa được khi dàn hàng ngang trên tuyến xung phong. Họ chấp nhận vị trí đóng quân do tôi định, đào hầm hố đúng chỗ tôi bảo và khi trung đội đi tiền đồn, cách xa đơn vị lớn có khi hàng cây số, họ tỏ ra yên tâm.
Tôi đă thực sự vào đời lính, hănh diện trở thành một Địa Phương Quân khi các chiến hữu của tôi không c̣n gọi tôi là "chim uyên" (ngụy thoại của Chuẩn úy), mà đổi thành "thẩm quyền", một danh từ riêng có tính cách nể nang hơn...
Địa Phương Quân, Lực Lượng Chủ Lực Tỉnh.
Tôi không ở một đơn vị tham mưu nên không biết ǵ về cách tổ chức Địa Phương Quân trên toàn quốc. Theo cách sắp xếp tiểu khu Kiến Ḥa, nơi tôi phục vụ, mà suy đoán, th́ mỗi tiểu khu có một số tiểu đoàn Địa Phương Quân (một số lưu động, một số đóng đồn). Ngoài ra có một Đại đội Trinh sát, tất cả do pḥng 3 (Hành quân) của Tiểu Khu điều động. Đơn vị của tôi là Tiểu Đoàn Bạch Hổ 401, lực lượng chủ lực trong số 11 tiểu đoàn Địa Phương Quân thuộc tỉnh Kiến ḥa, dưới quyền chỉ huy của Đại tá Kim, Tiểu Khu Trưởng, gốc Sư Đoàn 7.
Tất cả những ǵ tôi viết trong bài này, căn cứ vào cơ cấu tổ chức của đơn vị nơi tùng sự từ ngày ra trường đến ngày Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng. V́ Địa Phương Quân trực thuộc các tiểu khu (tỉnh), nên tùy t́nh h́nh, phương tiện và nhân sự địa phương, cách tổ chức có thể được các tiểu khu linh động thay đổi nên khác nhau ít nhiềụ. Tiểu đoàn trưởng đầu tiên tôi làm việc với là Trung tá Sáng (sau khi tôi về đơn vị được vài tuần th́ ông tử trận, được vinh thăng đại tá). Các tiểu đoàn trưởng kế tiếp cao nhất ở cấp thiếu tá, c̣n là đại úỵ. Chỉ trong tám tháng, đơn vị tôi thay tiểu đoàn trưởng tới bốn lần, một chết, một bị thương.
Mỗi tiểu đoàn có năm đại đội gồm bốn đại đội tác chiến và một đại đội chỉ huỵ. Mỗi đại đội có bốn trung đội, gồm một trung đội đại liên và ba trung đội vũ khí nhẹ. Quân số mỗi đại đội, trên cấp số là 108 người, nhưng trên thực tế có mặt ngoài chiến trường chỉ vào khoảng 50 ngườị. Số c̣n lại lớp nghỉ bệnh, lớp đi phép, lớp bị thương, lớp tử trận chưa kịp bổ sung (tôi không thấy có dấu hiệu lính ma, lính kiểng ở đơn vị tôi). Quân số hành quân của tiểu đoàn tôi trung b́nh khoảng 300, lúc thấp nhất dưới 200; nhưng so với một tiểu đoàn Việt Cộng th́ đông gấp đôi.
Tôi không biết các tiểu đoàn Việt Cộng ở vùng I, vùng II đông cỡ nào, khi họ tới Vĩnh B́nh, Kiến Ḥa, thực lực của họ chỉ c̣n bấy nhiêu, v́ rất khó bổ sung quân số hao hụt. Cho nên khi muốn bao vây tấn công tiểu đoàn tôi, như trận phục kích xe ở Trúc Giang, Trung Tá Sáng tử trận, Việt Cộng phải tập trung ít nhất hai trung đoàn.
Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, ngoài tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó c̣n có các sĩ quan Ban 1 (Quân Số), Ban 2 (An Ninh), Ban 3 (Hành Quân), Ban 4 (Tiếp Liệu), Ban 5 (Chiến Tranh Chính Trị), Pháo Binh và Quân Ỵ. Trừ Ban 1, Ban 4 và Ban 5, các Ban khác đều đi theo đơn vị khi hành quân. Đó là cách tổ chức của đơn vị tôi, các tiểu đoàn khác có thể không được hùng hậu như vậy.
Tôi không thấy đơn vị tôi có ban Truyền Tin riêng, nhưng máy PRC-25 được trang bị đầy đủ, do chính các binh sĩ trong tiểu đoàn đảm trách. Tiểu đoàn trưởng có hai hiệu thính viên đi theo, một máy liên lạc với Tiểu Khu, Chi Khu và đơn vị bạn. Một máy liên lạc 5 đại đội và tiểu đoàn phó (đi theo đại đội trực nhật). Mỗi đại đội trưởng cũng có hai hiệu thính viên, một liên lạc với tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó cùng các đại đội bạn, và một liên lạc với các trung độị. Mỗi trung đội trưởng chỉ có một hiệu thính viên để liên lạc với đại độị. Đại đội phó không có máy riêng, mà dùng máy của trung đội trực nhật.
Trong Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn có sĩ quan Trợ Y, thuộc cấp số đơn vị, có đơn vị gia cư trong hậu cứ. Mỗi đại đội có một hạ sĩ quan làm y tá đại đội. Sĩ quan Pháo Binh không thuộc cấp số đơn vị, chỉ khi nào tiểu đoàn đi hành quân, sĩ quan Pháo Binh mới có mặt. Hành quân xong, ông ta trở về căn cứ Pháo Binh. Sĩ quan Pháo Binh có hiệu thính viên riêng để liên lạc trực tiếp với Pháo Binh yểm trợ. Trong trường hợp cần Không yểm, tiểu đoàn phải liên lạc qua tiểu khu, và tiểu khu liên lạc với căn cứ Không Quân Cần Thơ.
Mỗi tiểu khu có một số tiểu đoàn lưu động, một số có hậu cứ, số c̣n lại sau những ngày hành quân, kéo ra đóng dài theo các trục lộ, vừa dưỡng quân vừa giữ an ninh khu vực. Các tiểu đoàn cố định khác chịu trách nhiệm hẳn một vùng, coi đồn, giữ cầu đường hay đóng chốt trên các trục chuyển quân của Việt Cộng. Tôi sẽ đề cập nhiệm vụ đóng chốt ở phần sau, phần này tŕnh bày về các đơn vị lưu động.
Gọi là "lưu động" v́ các tiểu đoàn này không chịu trách nhiệm một quận hạt nào, mà cần đâu đánh đó, bao tất cả các quận trong tỉnh, kể cả Trúc Giang, B́nh Đại, Ba Tri, Giồng Trôm, Mỏ Cày, Hàm Long, Thạnh Phú, Hương Mỹ... Mỗi cuộc hành quân của đơn vị ngắn là ba ngày, lâu nhất có khi hàng sáu tuần. Giữa hai cuộc hành quân, đơn vị được về hậu cứ nghỉ ngơi vài ngàỵ. Ở hậu cứ có trại gia binh, quân nhân có vợ con mỗi người được một đơn vị gia cư tường gạch, nền đất, lợp tôn. Quân nhân độc thân sống chung với nhau trong một khu. Trong hậu cứ có quán bi da, quán nhậu, tiệm tạp hóa.
Đơn vị nào có trại gia binh, binh lính được dưỡng quân ở hậu cứ, "vù" về thăm nhà nửa buổi, một ngày; hay chơi với vợ con trong trại, tụ họp nhậu nhẹt, tán dóc, chơi bi da giải trí, tu bổ, sửa chữa vũ khí trong khi chờ lệnh hành quân. Thương cho những tiểu đoàn lưu động không hậu cứ. Sau mỗi cuộc hành quân, họ đóng vất vưởng dọc theo các trục lộ giao thông, vừa dưỡng quân vừa giữ đường sá.
Mỗi lần lính kéo ra là một đạo binh thân nhân từ đâu phục sẵn, kéo tới đông nghịt, phần lớn là các bà vợ trẻ đèo theo con mọn. Họ đi bằng xe đ̣, xe lam, xe lôi và nhất là xe "ôm". Họ mang theo gạo sấy, cá khô và muối ớt, muối sả cho chồng. Đôi khi họ nhận lại và mang về một ít gạo trắng, thuốc men và cả thức ăn tươi, nếu đơn vị của chồng họ vừa hành quân qua vùng hậu cần của Việt Cộng.
Vào những ngày đầu tháng, đạo binh vợ lính càng xuất hiện đông đảo cùng lúc với xe tiếp tế và phát lương. Không biết các bà nhận "tin t́nh báo" từ đâu mà nhiều khi tiểu đoàn vừa kéo ra đường, đă thấy các bà chực sẵn hàng nửa ngày! Các bà phải tới để bảo vệ đồng lương lính c̣m cơi, mang về nuôi con. Nếu không, chỉ trong vài buổi, các ông có thể nướng sạch. Chỉ cần với một bộ bài cũ rách sờn nát, họp ṣng vội vă và lén lút ở một góc sân kín đáo nào đó, tránh sự giám thị của sĩ quan, thế là tiêu tán hết. Dù bám sát như vậy, không một buổi phát lương nào vắng nước mắt của các bà. Hoặc họ tới trễ một chút, hết sạch. Hoặc họ đến sớm, đến trước cả xe phát lương, kết quả vẫn không có ǵ, khi các anh chồng mặt nghệt ra, găi đầu găi tai phân bua: phải trả những đầu nợ ấp lẫm do tiền rượu, nợ cờ bạc...
Thăm nuôi chồng tại các vị trí đóng quân cũng là cách bảo vệ mái ấm gia đ́nh. Nhiều ông lính rất tài về chuyện kiếm bồ lẻ. Đóng yên chỗ chừng nửa ngày là họ đă bắt bồ xong. Và sau vài ba ngày nhổ trại lên đường, đă có người giọt vắn giọt dài quyến luyến tiễn đưạ. Các bà vợ trẻ v́ thế càng phải tới chỗ dừng quân để vừa giữ chồng, vừa nhóm chút hương lửa trong đời sống vợ chồng.
Cấp chỉ huy bao giờ cũng để cho các ông lính có vợ con tới thăm sự thoải mái tối đa: một góc nhà, góc vườn kín đáo; được gác đầu hay gác cuối, có khi miễn gác; không bị rầy rà khi phạm những lỗi nhỏ, v.v. Nh́n các cậu có vợ tới thăm nuôi trông rất buồn cườị. Mặt họ ửng đỏ, miệng cười chúm chím, đi đứng ăn nói lóng cóng như chú rể mớị. Cấp chỉ huy mỗi khi chạm mặt họ, mỉm cười chia sẻ những nụ cười hiếm hoi trong đời lính và họ rất sung sướng.
Trong đạo binh vợ lính ở đơn vị tôi, có hai bà rất lạ kỳ. Một bà c̣n trẻ, hễ chui vào mùng với chồng chừng vài phút là rú lên cười ngằn ngặt không nín nổị. Trong không khí thanh vắng ở đồng quê, tiếng cười của bà ta vọng đi rất xa, khiến cả đại đội phải khúc khích cười theo không tài nào nhịn được.
Khi bà vợ trẻ biểu diễn tiếng cười lần thứ hai lúc nửa đêm, người lính gác phải lên tiếng tằng hắng nhiều lần, anh chồng mới tḥ tay bịt miệng vợ, tiếng cười trở thành tiếng âm ư, bứt rứt. Gần sáng, lại nghe cười! Sáng hôm sau anh chồng thế nào cũng bị trêu chọc cho tới khi anh ta đổ cộc mới thôi, và bà vợ mặt mày đỏ lơ đỏ lưỡng, ngồi chết một góc sân không dám nh́n aị. May mà cả đơn vị chỉ có một bà như vậy và cũng không hại ǵ, chỉ lưu lại kỷ niệm vui vui mỗi khi nhớ tới.
Một bà vợ lính khác lớn tuổi hơn, khi ngủ say th́ ngáy khủng khiếp. Tiếng ngáy của bà vừa to, vừa dài hơi, vừa giống hệt như tiếng chó tru. Ở vùng đóng quân, tiếng ngáy của bà khiến chó trong xóm sợ hăi tru theo và dân làng một phen bở víạ. Ở trại gia binh, tiếng bà ngáy vọng ra xa hàng chục dăy nhà và hàng xóm phải lâu lắm mới làm quen nổi và chịu đựng. Đêm đầu tiên ngủ trong trại gia binh, nghe bà ta ngáy, tôi tưởng là tiếng chó dại tru, suốt đêm trằn trọc không cách nào ngủ được, khó chịu quá phải ḅ dậy xách súng đi lùng. Một người lính tuần pḥng nội doanh trông thấy dáng điệu của tôi, anh ta hiểu ngay, gọi tôi lại chỉ trỏ giải thích. Tôi ôm súng trở lại chỗ ngủ, và lạ lùng thay, vài phút sau tôi đă ngủ ngon lành! Cho tới bây giờ, chúng tôi, những người từng sống trong hậu cứ Tiểu Đoàn Bạch Hổ 401, kể cả Nguyên Hương, chưa ai quên tiếng ngáy độc nhất vô nhị của người đàn bà đó.
Dưỡng quân ở hậu cứ bao giờ cũng yên ổn hơn, dù doanh trại lúc nào cũng ồn ào như họp chợ từ khi đơn vị hành quân về tới cho đến khi chiếc quân xa cuối cùng rời trại, mang họ vào một chuyến đi khác. Sống trong trại chỉ khổ nhất khi đơn vị có người chết trận, và thân nhân người chết sống trong trạị. May mà những tiếng than khóc, vật vả ấy không kéo dài lâụ. Thân nhân người quá cố được xe đón ra Chung sự vụ ở tiểu khu, nơi quàn xác và hoàn tất việc chôn cất các chiến sĩ trận vong.
Tuy nhiên, những phút giây ngắn ngủi ấy đă để lại trong tôi những cảm xúc khó quên, như cái chết của anh Lâm, Trung Sĩ Ị
Lâm gốc Biệt Kích Thám Báo, sau về Tổng Tham Mưu, cuối cùng không hiểu sao lại về Địa Phương Quân, làm trung đội phó cho tôị. Anh Lâm nhỏ người, nhỏ tiếng, ít cười, lúc nào cũng buồn buồn. Lâm có vợ, vợ chồng anh có một con nhỏ và đang chờ đứa thứ hai, đang bầu bảy tám tháng ǵ đó. Anh đánh giặc rất giỏi, nhiều kinh nghiệm hành quân và bố trí pḥng thủ.
Mỗi chiều dừng quân, tôi bàn bạc với anh về cách sắp xếp hầm hố nếu ư anh khác tôi, anh giải thích cặn kẽ, thấy hợp lư, bao giờ tôi cũng nghe anh. Hố của anh bao giờ cũng ở vào chỗ nguy hiểm nhất và gần một vọng gác. Ban đêm anh tự đảm nhiệm phần đốc canh, bảo v́ mắc tật khó ngủ. Lâm chỉ lay tôi dậy khi cảm thấy có chuyện ǵ bất tường, c̣n th́ cứ để tôi ngủ thẳng giấc, anh làm việc với các tiểu đội trưởng, thay phiên nhau kiểm soát lính gác. Khi trung đội tới phiên trực, dẫn đầu một cánh quân tiến về phía địch, anh Lâm bao giờ cũng đi trước. Anh dẫn lính đi rất đúng hướng và nhanh vừa phải, phía sau không bị đứt quăng hay dồn ứ lại.
Mỗi khi chạm địch, tôi vừa lên tới nơi, anh đă bố trí xong đội h́nh tác chiến. Anh Lâm dũng cảm nhất ở những trận chống đột kích ban đêm. Cách bố trí của Lâm và lệnh "hầm chắc hố sâu" của tôi khiến trung đội đủ sức chịu đựng những cuộc quần thảo với Việt Cộng hầu như suốt đêm. Lâm giữ chặt liên lạc với các hố. Giữa hai đợt xung phong của địch, anh ḅ nhanh một ṿng để kiểm soát t́nh h́nh, san sẻ đạn dược và ủy lạo thương binh trong khi tôi bận báo cáo lên thượng cấp và trực tiếp liên lạc với sĩ quan pháo binh qua máy truyền tin. Anh Lâm là một chiến sĩ xuất sắc. Nếu được thưởng huy chương, tôi sẽ rất sung sướng đề cử anh thay đơn vị mà nhận...
Một lần, trước khi đơn vị hành quân, Lâm nói cho tôi biết là anh bị ho ra máu và muốn ở lại để vào Quân Y viện khám bệnh. Theo nội lệ của đơn vị, phép tắc do đại đội trưởng quyết định, tôi không dám tự chuyên. Cấp trên của tôi lúc đó là một ông trung úy rất thô lỗ và không thân với tôị. Lâm cho biết đă hỏi ông ta nhưng không được, anh quyết định trốn lại trại nhưng phải báo cho tôi biết để lo liệu cho anh em.
Tôi tin là anh đang đau ốm, và tôi cũng có thể khỏa lấp, che chở cho anh để đại đội trưởng không biết anh ở lại trạị. Nhưng nh́n vào phóng đồ hành quân, biết đơn vị sẽ đi vào một vùng đất cực kỳ nguy hiểm, tôi phân vân ra mặt, do dự không biết xử trí ra saọ. Anh Lâm kiên nhẫn chờ đợi, cuối cùng tôi cho anh biết t́nh h́nh, khuyên anh "cố gắng" và hứa sẽ cho anh theo xe tiếp tế để trở lại trại sau khi đơn vị hoàn thành công tác và kéo ra tới đường cái.
Anh Lâm chào tay, quay lưng đi và vài phút sau khi ra tới địa điểm tập hợp, tôi đă thấy anh đang có mặt với đầy đủ trang bị và đang kiểm soát đạn dược của từng binh sĩ. Chuyến hành quân đó, tôi đi cùng chiếc GMC cuối cùng.
Trông coi cho binh sĩ lên xe đầy đủ, tôi bấm Lâm:
Anh về nghỉ đi, chờ xe tiếp tế rồi theo vô, mọi chuyện để tôi lo!
Lâm cười nhanh:
Chuẩn úy đừng lo, tôi thấy đỡ rồị. Tôi sẽ theo xe tiếp tế mà về!
Hai ngày sau Lâm tử trận. Giữa cuộc hành quân, lúc đơn vị dừng quân ngồi nghỉ, anh trúng một tràng đạn bắn sẻ, hai viên chui vào cổ và buồng phổị. Lâm nằm ngửa, mắt mở hé chỉ thấy ḷng trắng, miệng ngáp từng chập như cá lóc bị đập đầụ. Tôi thương cảm vuốt mắt anh, mắt tôi ráo hoảnh nhưng ḷng như ứa máụ. Nửa phút sau, anh qua đờị. Hai người lính khiêng xác Lâm, bảo nhau chưa có xác nào nhẹ đến thế! Hôm sau, anh đă "theo xe tiếp tế mà về," đúng như lời đă bảo.
Đợt hành quân đó không thành công, địch kịp thời chuyển quân sang vùng khác, tiểu đoàn được lệnh về trại để bổ sung khí giới rồi lên đường hành quân ở một hướng khác. Xác anh Lâm về chung sự vụ và chúng tôi về hậu cứ. Tôi bắt gặp chị Lâm bụng cao vượt mặt, tay cầm nắm rau thơm, cười hớn hở:
Em mới xin được nắm rau tần dày lá! Canh chua mà thiếu rau tần, anh Lâm không thích!
Ḷng tôi thắt lại, chết điếng. Ông thượng sĩ thường vụ đại đội chưa kịp báo tin cho chị. Trông thấy vẻ mặt bất thường của tôi, chị Lâm tái mặt, lấp bấp:
Anh Lâm... bị thương?
Tôi nhẹ giọng:
Anh Lâm chết rồi! Chị dắt cháu lên Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn. Tôi lo xe cho chị ra chung sự vụ.
Chị Lâm ngồi phệt xuống đất, không khóc, không nấc được tiếng nàọ. Tôi không nh́n thấy chị nữa. Trời đất như phủ một màn sương. Một người vợ lính nào đó nâng chị dậy, d́u đị. Tôi lửng thửng vào nhà, nh́n Nguyên Hương chua xót. Một ngày nào đó, biết đâu ông Thượng sĩ Thường vụ lại chẳng phải nói với Hương một câu tương tự: "Anh Nghĩa..."
Nguyễn Hữu Nghĩa
hoanglan22
07-12-2019, 03:33
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1417157&stc=1&d=1562902291
Buổi họp mặt đầy cảm động qua những chuyện kể của các Chiến Sĩ Thám Sát PRU năm xưa
(H́nh: Văn Lan/Người Việt)
Đối với tôi đây là những Người Hùng Thật Sự, ngày xưa âm thầm chiến đấu, súng đạn thiếu thốn... không kèn trống, mũ măo, không ai biết đến tên tuổi, bị tù đày mười mấy năm... Chết không một nấm mồ, không tiệc tùng, đàn hát, báo chí rùm beng...
Lực Lượng Thám Sát Tỉnh gần nửa thế kỷ hội ngộ
Văn Lan/Người Việt
WESTMINSTER, California (NV) – Đơn vị PRU (Province Reconaissant Units đọc tắt là Province Recon. Unit hay Thám Sát Tỉnh) vừa có buổi hội ngộ thật hào hứng, kể những câu chuyện “bây giờ mới kể” vào sáng Thứ Năm, đúng ngày Lễ Độc Lập Mỹ, 4 Tháng Bảy, tại nhà của một thành viên tại thành phố Westminster.
Buổi hội ngộ sau gần nửa thế kỷ, với tâm t́nh của những người bạn cùng vào sinh ra tử trong chiến trận, cùng đi tù, vượt biên, hôm nay cùng ngồi chia sẻ những h́nh ảnh cũ, kỷ niệm xưa chưa bao giờ phai mờ trong tâm thức, những kỷ niệm của những bà vợ tù “cải tạo” cùng những chuyến đi thăm nuôi chồng.
Buổi gặp gỡ của những người đă từng chạm mặt với thần chết, đầy cảm động và cũng là dịp cùng tưởng niệm các đồng đội đă ra đi măi măi, bắt đầu bằng lời cầu nguyện của Mục Sư Vơ Xuân Sinh, cũng là một chiến sĩ PRU năm xưa.
Ông Đặng Bá Huy, một trong những Chỉ huy Trưởng Liên Đoàn Thám Sát Đặc Biệt, đơn vị Hậu Nghĩa, và là người hoạt động trong cộng đồng đă hơn 20 năm, người đầu tiên trong ban chấp hành của Cộng Đồng Việt Nam Nam California cùng với cố Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt, và cũng là thành viên vận động thành lập ủy ban phát triển Little Saigon, kể: "Tôi đóng ở Hậu Nghĩa, gồm hai quận của Long An, một quận của Tây Ninh, và một quận của B́nh Dương, để giúp đỡ các tỉnh kia ngăn chặn làn sóng Cộng Sản của ba công trường chính là 5, 7, và 9, từ Ba Thu, qua sông Vàm Cỏ Đông đột nhập vào Sài G̣n".
“Chúng tôi không phải là đơn vị thuần túy tác chiến, mà là đơn vị t́nh báo tác chiến, khai thác tin tức. Nhiệm vụ của chúng tôi là ngăn chặn và tiêu diệt hạ tầng cơ sở của Cộng Sản, thâm nhập vào mật khu để làm rối loạn hàng ngũ địch, giúp đỡ địa phương nơi đóng quân, và là lực lượng quân sự duy nhất để yểm trợ chiến dịch Phượng Hoàng,” ông kể tiếp.
"Chính v́ lư do ấy mà chúng tôi là kẻ thù đến tận xương tủy của Cộng Sản. Và sau năm 1975, chúng tôi bị Cộng Sản ‘bằm nát’ trong ngục tù để trả thù. Tới nay chúng tôi chết gần hết rồi, v́ tuổi già, v́ chuyện đi tù và chuyện vượt biên. Hôm nay với sự hết ḷng của các ông Tùng, ông Sinh, nhưng vẫn vắng rất nhiều anh em. Với tuổi này chỉ mong được gặp nhau, nhưng không biết có c̣n đủ sức và thời gian để gặp nhau nữa không!" giọng ông chùng xuống trong nỗi bùi ngùi.
Vài chai bia cùng món ăn do các bà phu nhân đem tới, cùng khề khà không biết bao nhiêu là chuyện kể quanh t́nh chiến hữu, đồng đội, t́nh vợ chồng, và rôm rả những câu chuyện bây giờ mới kể.
Ông An Lâm lần đầu tiên tham gia buổi hội ngộ, ngày xưa hoạt động ở tỉnh Quảng Tín, nhiệm vụ chính là đánh vào hạ tầng cơ sở địch, nơi cung cấp tin tức cho các đơn vị Cộng Sản chính quy. Sau năm 1975, ông chạy vô rừng hơn 30 năm, sống chung với người dân vùng kinh tế mới, trở thành nông dân, trồng đậu trồng bắp sống qua ngày.
"Anh em ở rải rác khắp nơi trên các tiểu bang nước Mỹ, biết nhau đă khó, mà gặp nhau được càng khó hơn nữa. Hôm nay là nhờ thư mời họp đăng trên báo Người Việt mới biết, chỉ mong kỳ tới gặp lại nhiều anh em hơn nữa, tuổi già c̣n đi đứng được, gặp nhau là quư rồi", ông Lâm nói.
Câu chuyện tới hồi gay cấn khi các chiến sĩ thám sát năm xưa, trong vai tṛ của một người dân b́nh thường trong bộ đồ đen hoặc nâu, cùng nón vải, nón lá, dép nhựa, giày bố. Đôi khi là “đồng chí” với trang bị súng ống của khối Cộng Sản, cũng dép râu, nón cối, đường hoàng xâm nhập vào hạ tầng cơ sở địch, gây nhiều tổn thất lớn cho các kế hoạch tấn công của Cộng Sản.
Chuyện kể của ông Trương Quang Tùng c̣n ly kỳ hơn nữa, xuất sắc khi nhóm của ông trong vai tṛ của “đồng chí du kích,” bắt trói được một người cố vấn Mỹ, đem đến giao nộp cho cán bộ để rảnh tay đi công tác. Đây là một kế hoạch hết sức táo bạo, hoàn chỉnh đến mức không ngờ, kết quả đă bắt được “nguyên ổ” hạ tầng cơ sở của Cộng Sản, thu được nhiều vơ khí và tài liệu quan trọng.
"Ở B́nh Thuận, chúng tôi cũng chiêu hồi được trưởng ban đặc công tỉnh, và tiểu đoàn trưởng đặc công, nhờ đó đánh vô trung tâm huấn luyện, tiêu diệt được huyện đội Lê Hồng Phong và bắt sống toàn bộ", ông kể.
"Giống như một đơn vị t́nh báo không được lộ diện, nhưng đôi khi cũng bị chỉ thị chiến đấu như một đơn vị chính quy tác chiến, đó là điều khổ sở cho đơn vị PRU, bị cho là con lai của Mỹ, một lực lượng tuy không có trong quy ước nhưng rất cần trong chiến tranh", ông Tùng nói thêm.
Trong thời chiến tranh Việt Nam, người Mỹ sau khi nghiên cứu th́ biết lực lượng chính quy Cộng Sản để xâm nhập miền Nam phải nhờ hạ tầng cơ sở, được cài đặt hoạt động trong dân chúng nên cung cấp được nhiều thông tin quan trọng. Vậy mục tiêu chính của PRU là bằng mọi cách phải tiêu diệt được hạ tầng cơ sở của địch, trà trộn lẫn lộn giữa những người dân b́nh thường khó nhận diện.
Một chiến sĩ PRU c̣n tương đối trẻ, ông Lâm Quang Trọng, Chỉ huy Trưởng Thám Sát tỉnh Kiến Tường từ 1972, cho biết: "Trước ngày mất nước năm 1975, tôi được báo trước phải về Sài G̣n để di tản, nhưng không thể đi mà bỏ lại vợ con được. Sau đó tôi phải trả giá đắt trong tù ‘cải tạo’ hết 13 năm 9 tháng, từ Suối Máu đến Sơn La, Hoàng Liên Sơn, rồi Phong Quang sát biên giới Tàu".
"Đến năm 1987 chuyển vô Nam, đi bằng xe lửa ba ngày với khẩu phần ăn là sáu ổ bánh ḿ. V́ không có đúng khẩu phần như vậy, tôi bèn xách động nổi loạn, bị giam trong trại Gia Trung sắt máu, với những trận đ̣n suưt chết. Trại giam gần 7,000 người sĩ quan VNCH trong ṿng gần ba năm thả về hết, chỉ chừa lại có năm người, trong đó có tôi", ông kể tiếp.
Ông Trọng tâm sự: "Tôi tin ơn trên cho tôi được thay gan tám năm nay, nhờ vậy mới lái xe gần hai tiếng đến đây gặp anh em. Trong hơn 30 năm qua, anh em cũng có lần hội họp, nhưng ngày càng vắng, tội nhất là những anh em đi tù ngoài Bắc hơn 10 năm, nhưng không có ai chỉ dẫn làm đơn, và cũng không có tiền đi lo hồ sơ, nên hiện nay vẫn c̣n sống lây lất khổ sở tại quê nhà".
Thám Sát là những anh hùng không tên tuổi, âm thầm đóng góp rất lớn vào việc tiêu diệt hạ tầng cơ sở của địch, góp phần giữ vững nền tự do của miền Nam. Trong tâm t́nh đồng đội, những người hiện diện trong buổi họp đă đồng ư thành lập một quỹ tương trợ những chuyện quan hôn tang tế, đau bệnh, nhất là để có thể yểm trợ phần nào những hoàn cảnh bi đát nơi quê nhà. Mong nhất là sẽ gặp lại được nhiều anh em hơn trong kỳ hội ngộ tới.
Mọi chi tiết cần biết, xin liên lạc ông Vơ Xuân Sinh (562) 752-7552, ông Trương Quang Tùng (714) 755-7579, ông Lâm Quang Trọng (818) 939-8897.
Văn Lan
hoanglan22
07-16-2019, 02:59
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1419331&stc=1&d=1563245916
Miền Nam, kể từ đầu tháng tư, trời h́nh như trở nên nắng gắt, có lẽ để chuẩn bị chào đón mùa mưa sắp tới, đâu đây cũng đă có rải rác một vài cơn mưa sớm. Những cơn mưa đầu mùa như thúc dục nhà nông thêm tất bật dọn đất, ruộng, cho kịp thời vụ. Suốt một cánh đồng rộng, dài mút tầm mắt, những cột khói đốt đồng chừng như cũng mệt mỏi, ră rời v́ nắng hạ, đang uể oải uốn ḿnh bay lên nền trời trong vắt, cánh đồng về chiều bỗng trở nên vắng lặng, khi những người nông dân âm thầm thu dọn đồ đạc trở về.
Gian quán đầu làng của Bà Ba lần lần đông khách, dân trong làng thường tụ tập vào buổi chiều tà. Khi công việc đă tạm ổn cho một ngày, trên đường về nhà, họ gặp nhau uống ly cà phê, ly chanh đường giải khát, sau một ngày làm việc vất vả, trao đổi với nhau vài ba câu chuyện thời sự, chiến sự, chuyện làng xóm, chuyện mùa màng v..v.. Một số người có máu Lưu Linh, rủ nhau "lai rai ba sợi" cho ấm ḷng, trước khi về nhà dùng bữa cùng gia đ́nh.
Trong góc quán, nơi kê chiếc bàn tṛn lớn nhất, đă có 4, 5 người đàn ông đang ngồi nhâm nhi bên chai rượu, mặc cho những tiếng rầm ŕ to nhỏ chuyện tṛ của những người trong quán, tiếng thăm hỏi, tiếng cười đùa, họ vẫn im lặng uống, không ai nói với ai một lời, h́nh như mọi người đều có tâm sự, hoặc đang chờ đợi chuyện ǵ.
Đột nhiên một người trong nhóm lên tiếng:
- Sao lâu quá chưa thấy Ba Đuông tới, không biết có chuyện ǵ không?
- Chắc không có ǵ đâu, năm nào chẳng vậy, cứ đến tháng này là gần đến ngày giỗ ông già nó, nên nó khật khật, khừ khừ vài bữa thôi - Từ ngày Trung đội ḿnh thanh toán xong mấy thằng "ly khai" ám sát ông già nó, coi như thù nhà được trả, tui thấy nó bớt buồn nhiều lắm rồi đó.
Họ lại im lặng ngồi uống, mỗi người theo đuổi một ư nghĩ riêng, nhưng chung quy họ cũng đều chỉ quan tâm đến một người mà họ vừa nhắc đến.. Ba Đuông.
Có tiếng động cơ xe Honda từ xa, tiếng máy lớn dần, lớn dần rồi ngừng ngay trước cửa quán - Trên xe có hai người, chú lính ngồi sau xuống xe, chú này chắc vừa trổ mă, mặt mày non choẹt, đầy mụn trứng cá, lưng đeo một máy truyền tin PRC.25, tay xách cây M.16 gắn băng đạn cong , 2 băng đâu ngược lại, cột dính với nhau bằng băng keo. Người lái xe là một thanh niên khoảng 26, 27 tuổi, dáng nhanh nhẹn, nai nịt gọn gàng trong bộ đồ kaki màu đen, may theo kiểu quân phục tác chiến, giày "saut", thắt lưng T.A.B với giây ba chạc, bên phải lủng lẳng cây Colt 45, đầu bao súng có một sợi giây dù cột chặt vào đùi, kềm chắc đầu bao để khi đụng chuyện rút ra cho lẹ, đây là lối bắt chước mấy tay cao bồi Texas, những người hùng trên màn ảnh trong các phim Western kiểu "Bắn chậm th́ chết" đấy - bên tay trái là con dao găm, mà hai chữ US nổi bật lên ngoài bao da, giữa bụng dắt cây K.54 không bao, có ư khoe chiến lợi phẩm, trên giây ba chạc, chỗ hai bên ngực, buộc gọn gàng hai trái lựu đạn "mini", bằng giây "ruban" đỏ, món quà tặng rất quư do một người bạn của anh Hai hắn tặng. Từ ngày hắn mới cưới vợ, món này rất đắc dụng khi lâm chiến, nhưng hiện tại, nó được coi như đồ "trang sức"- Hai túi hộp phía ngoài hai bên ống quần, mỗi bên một tấm bản đồ bọc plastic, thấp thoáng những đường gạch xanh xanh, đỏ đỏ bằng bút ch́ mỡ - Thoạt nh́n, mọi người đều có nhận xét chung là anh ta vừa nghiêm chỉnh trong trong quân phục, lại vừa có vẻ "nặng phần tŕnh diễn" trong trang bị - Thật sự anh ta có "vẽ vời" một chút cũng chẳng sao, mọi người có thể vui vẻ chấp nhận được, v́ anh ta hiện là một Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân sáng giá nhất trong Quận. Là sát tinh của bọn cộng sản cơ sở, giao liên, nằm vùng trong Xă, trong Quận, Trung Đội anh ta mười lần ra quân, có đến tám lần đạt thắng lợi, anh ta là Trung Đội Trưởng Nghiă Quân Lê Văn Đức, con người vui tính, dễ mến với hai, ba cái biệt danh như Ba Đuông, (v́ thích nhậu con đuông lăn bột), Ba Cơ Động, (v́ chuyên phục kích VC bằng ḿn claymore cơ động), Ba Sát Tinh, (v́ có tay sát cộng), Ba Cải Lương, (v́ những thứ lỉnh kỉnh anh ta mang trên người và thích ca cải lương). Được tiếng "chịu chơi", gan dạ, nên dù là Nghĩa Quân, một lực lượng chỉ đứng trên Nhân Dân Tự Vệ, nhưng Trung Đội của Ba Đức trang bị không kém ǵ các đơn vị Chủ Lực, v́ những công tác hành quân mà Trung Đội này luôn t́nh nguyện đảm trách và nhờ đó đă tạo nên nhiều thành tích lẫy lừng. Rồi trên Quận, trên Tỉnh thương, cho thêm đồ này, thứ khác ngoài cấp số, rồi các đơn vị bạn có dịp hoạt động chung, cũng v́ cảm t́nh riêng mà tặng thêm món nọ, món kia, cho nên Ba Đức vẫn tự hào là Trung đội anh ta có đủ "đồ chơi" với bọn Việt cộng.
Ba Đức bước vào quán, tươi cười dơ tay vẫy vẫy, đáp lại lời chào của bà con trong quán rồi tiến thẳng về chiếc bàn tṛn trong góc, nơi có mấy người bạn, đúng hơn là những người Nghĩa Quân trong Trung Đội, đang nóng ḷng chờ đợi tin tức của anh ta.
Vừa ngồi xuống, Ba Đức đă nghe hai, ba người trong nhóm hỏi dồn dập:
- Sao "có được không?" Vẫn đi "làm ăn" như b́nh thường chớ!!
Không vội trả lời, Đức nâng ly rượu uống cạn, đặt ly xuống bàn đoạn thở dài nhẹ nhẹ, gương mặt thoáng buồn, anh chậm rải trả lời mọi người:
- Ông Quận không đồng ư với đề nghị đột kích của ḿnh, ổng nói đă có ngưng bắn rồi, ḿnh phải tuân thủ, hơn nữa bây giờ xin yểm trợ khó khăn, ḿnh hăy chờ, cứ thủ cho kỹ đă, c̣n vụ phục kích đón đường liên lạc, tiếp tế của chúng th́ ổng thuận cho ḿnh cứ tiếp tục làm.
- Tụi nó tốt lành ǵ mà ḿnh phải tuân thủ hiệp định, xem chừng, lúc này mà tấn công mới chắc ăn à! Sao anh Ba không nói với ổng như vậy?
- "Mẹ" họ!!! chẳng lẽ tui c̣n phải đợi mấy ông "chỉ sao?" - Mấy ông và ngay cả ông Quận nữa, biết tôi quá rồi mà - Cho dù mấy ông đă phụ lực cùng tôi "đưa" mấy thằng ám sát ông già tôi hồi đó về "hầu hạ" ổng, nhưng năm nào cũng vậy, cứ đến gần ngày giỗ ba tôi, tôi vẫn muốn có thêm một "chút quà" ǵ đó, để làm lễ cúng ổng tôi mới "phái", v́ thế mà đôi ba phen tôi xin với ông Quận, cho bọn ḿnh làm một cú đẹp đẹp một chút cho ông già tôi vui mà không được, thật nản quá.
Nhắc đến người đă khuất, bàn nhậu như chùng xuống, không khí bỗng ngưng đọng, mọi người im lặng, mỗi người chừng như đang theo đuổi những ư nghĩ riêng tư...
Tháng Tư năm 1959...
Chiều xuống dần, trên cánh đồng chỉ c̣n lác đác vài ba người mà công việc c̣n một chút dở dang, đang cố làm thêm cho xong trước khi mặt trời lặn. Cha con ông Tư Trương cũng vội vàng dồn mấy ôm cỏ cuối cùng vào đống, rồi châm lửa đốt - Gió hiu hiu thổi, lửa bén vào cỏ, cột khói từ từ bốc cao, nhè nhẹ lan rộng trong trời chiều, việc tạm ổn, ba cha con ông Tư lững thững trở về - Hai thằng con trai của ông : Hai Tài và Ba Đức, thằng lớn 12, thằng kế 9 tuổi, vẫn đang đi học, nhưng con nhà nông, ngoài việc học hành để mở mang kiến thức và có cơ hội tiến thân, ông c̣n muốn chúng cũng vẫn biết những công việc đồng áng, những vất vả, cực nhọc của nhà nông, để từ đó, chúng hiểu và gắn bó với ruộng đồng, nơi tổ tiên, gịng họ chúng vẫn hàng ngày đổ mồ hôi bên ruộng lúa, nương khoai - V́ thế, ngoài giờ học, ông thường khuyến khích hai đứa ra đồng phụ ông, để ông dạy bảo chúng cung cách làm đồng . Được cái hai thằng con ông rất ngoan, ở trường chúng học giỏi, về nhà chúng chăm chỉ nghe ông hướng dẫn mọi việc . Rút kinh nghiệm cuộc đời ông, bị mồ côi sớm, học hành dang dở, nên lúc nào ông cũng tâm niệm phải lo cho các con học hành đến nơi đến chốn.
Thời điểm này, miền Nam đang được sống trong khung cảnh thanh b́nh êm ả, dưới chế độ Cộng Hoà mới thiết lập được mấy năm, không khí độc lập, tự do là động cơ làm hưng phấn mọi người, họ chăm lo sản xuất, thanh thiếu niên chăm lo học hành, phong trào thể dục thể thao và giáo dục văn hoá được chính quyền thúc đẩy mạnh mẽ, giới trẻ tham gia nhiệt liệt, ông Tư thấy cũng vui vui trong dạ . Từ ngày ông khôn lớn, đến bây giờ ông mới thực sự được sống trong chế độ tự do, dân chủ, không phải nơm nớp lo sợ bọn cường hào, ác bá, bọn quan quân thực dân hành hạ, cảnh chèn ép thô bạo người dân không c̣n nữa, ông cảm thấy bây giờ đời sống mới là thực sự của ḿnh - Ḷng hân hoan vui sướng, ông cũng muốn đóng góp một chút công sức vào việc xây dựng đất nước, cho nên khi bà con trong ấp đồng thanh bầu ông vào chức vụ Trưởng Ấp, ông vui vẻ chấp nhận ngay, không ḷng ṿng từ chối, không ngại khó, ngại khổ, mà ông cảm thấy đây là cơ hội để ông đóng góp công sức vào việc củng cố thôn ấp, cải tổ làng xă và quy mô hơn là xây dựng đất nước, có nhiều người dân đóng góp công sức, chắc chắn tương lai sẽ là nước mạnh, dân giàu, ông đơn giản nghĩ và nhủ ḷng như vậy .
Ông Tư là một trong những Trưởng ấp xuất sắc của Quận, ông chịu khó t́m hiểu đường lối, chính sách của chính phủ qua sự truyền đạt của các viên chức trong Quận, khi thấu triệt, ông nhẹ nhàng, kiên nhẫn phân giải rơ ràng, lợi hại, cho dân chúng trong ấp hiểu rơ để tham gia, thi hành - Ông thẳng thắn, khoan hoà, trên kính, dưới nhường, không quản ngại khó khăn hay vất vả, nên công việc trong ấp ông luôn tiến triển tốt đẹp - Thôn ấp ông xưa kia là nơi phát xuất phong trào chống thực dân Pháp, có nhiều người tham gia kháng chiến. Có những người sau một thời gian theo kháng chiến, do Việt Minh lănh đạo, họ nh́n rơ bộ mặt phản dân hại nước của cộng sản, nấp dưới danh nghĩa giải phóng đất nước, nên đă quay về, nhưng cũng có những người trong vùng ông, v́ lư do này hay lư do khác, vẫn phục vụ cho cộng sản, sau hiệp dịnh Genève 54, họ tập kết ra Bắc, trốn tránh trong mật khu, hay có khi nằm ngay tại một căn hầm bí mật nào đó, quanh quẩn đâu đây thôi, để chờ cơ hội nổi lên chống phá .
Là dân địa phương, ông không lạ ǵ những người này - Ông ra công, ra sức thuyết phục gia đ́nh những người ấy, kết quả là phần lớn đều nh́n rơ dă tâm của cộng sản, quay về với chính nghĩa quốc gia, c̣n một số ít v́ đă "lậm" với chủ nghĩa cộng sản, hoặc v́ khăng khíu bà con, quyền lợi, sự an toàn cá nhân v...v.. nên vẫn tiếp tục đi theo con đường cũ, có điều bây giờ những công việc tuyên truyền rỉ tai, phá hoại, của họ không c̣n có giá trị nữa, v́ người dân đă biết nh́n sự thực và biết so sánh giữa hai chế độ . Ông rất mừng v́ thấy những kết quả khả quan, làm thăng tiến đời sống người dân nông thôn ngày càng vững mạnh, đó là bằng chứng hùng hồn để mọi người chiêm nghiệm và tin tưởng nhiều hơn vào chính nghĩa quốc gia, ông rất hănh diện v́ những thành quả này, v́ trong đó có sự đóng góp một phần nhỏ nhoi công sức của ông. Nhiều lần trên Quận hoặc Tỉnh gởi giấy ban khen, ông đều cảm thấy hơi thẹn thẹn, v́ với tâm hồn chất phác, ngay thẳng, ông tự nghĩ việc đóng góp một chút công sức vào việc xây dựng làng xóm, đất nước là nhiệm vụ chung của người dân, có ǵ quan trọng lắm đâu mà mấy ông trên Tỉnh, Quận coi lớn chuyện quá vậy.
Ư nghĩ đơn giản của ông cũng hợp với ư nghĩ của nhiều người, những người có ḷng đạo đức, sẵn sàng gánh vác việc chung, nhưng ông càng làm được nhiều việc công ích, càng được nhiều người dân trong ấp thương mến, quư trọng, th́ ông lại càng bị một phe khác căm thù, oán hận, đó là những tên cộng sản nằm vùng. Bọn này không thể nào hoạt động, tuyên truyền hay dụ dỗ người dân theo chúng được, v́ những điều Tư Trương đă nói, đă làm, hoàn toàn là những việc mang lại ích lợi chung cho mọi người trong ấp, nó cụ thể, đang xảy ra trước mắt, không phải những hứa hẹn xa vời như các cán bộ cộng sản thường nói - Ông trở thành một chướng ngại to lớn, trên con đường phản dân hại nước của chúng, cần phải tiêu diệt ông, chúng mới có thể hoạt động được - Trong khi đó ông không hề hay biết tính mạng ḿnh đang bị đe dọa, ông vẫn nghĩ ḿnh làm việc công ích, mọi người nếu không quư mến th́ cũng chẳng có ǵ phải ghét bỏ ông cả.
Về đến cổng nhà, đứa con trai nhỏ 3 tuổi, mà ông bà hay gọi đùa là "út một" chạy lăng xăng ra đón, nhơng nhẽo đ̣i ông ẵm lên thả xuống mấy lần, rồi mới bi bô nói chuyện với hai thằng anh, đứa con gái thứ ba đang phụ mẹ dưới bếp, lo bữa ăn chiều cho gia đ́nh. Trời đă chạng vạng, bà Tư hối chồng và hai con lo tắm rửa cho khỏe khoắn trước khi ăn cơm. Cha con ông Tư ra giếng tắm trong khi bà Tư và đứa con gái lo sắp cơm lên bộ ván ở nhà sau, bà lấy cây đèn dầu "cao cẳng" thắp lên cho sáng khắp gian nhà .
Dưới ánh đèn, gia đ́nh ông Tư quây quần quanh mâm cơm, bà Tư cũng là người nội trợ đảm đang, hết ḷng lo lắng cho chồng, con, từng miếng ăn, giấc ngủ - Mâm cơm là cả một sự khéo léo, chế biến của bà, ngoài những món chính như kho mặn, canh chua, rau sống, cho các con ăn cơm, bà c̣n có mấy con cá trê vàng, nướng mỡ hành, dằm nước mắm gừng, để ông Tư làm mồi nhậu - Đây là món ăn khoái khẩu của ông, nên khi nh́n thấy, ông cười khà khà nói với bà: "má nó thiệt biết ư", ông Tư lấy hũ rượu thuốc, rót một ly để nhâm nhi, rồi gia đ́nh vừa ăn vừa chuyện tṛ vui vẻ, "út một" không chịu ngồi bên mẹ, nó chễm chệ ngồi trong ḷng ông bố, thỉnh thoảng há miệng nhận miếng cá nướng , nhai nhóp nhép, nếu không bận nhai, nó lại hỏi bố và hai anh hết chuyện này đến chuyện khác, câu chuyện mà nó quan tâm hơn hết, thường hay hỏi đi, hỏi lại, là có bao nhiêu con dế, chuồn chuồn mà hai anh gặp khi theo Ba đi làm?... Cả nhà cười vui vẻ, không khí trong gia đ́nh thật đầm ấm, hạnh phúc.
Đột nhiên con chó đang nằm chờ ăn dưới gầm bộ ván bỗng hực lên một tiếng, như phát giác có người lạ vào nhà, nó chạy lên nhà trên sủa dữ dội, rồi vừa sủa vừa lùi xuống nhà dưới, mọi người ngồi trong mâm cơm đang ngơ ngác chưa hiểu chuyện ǵ, bỗng hai bóng người mặc đồ đen từ trên nhà vụt xuống, một tên chĩa cây súng tiểu liên vào ông Tư bắn xối xả, tên kia hai con mắt láo liên canh chừng, sau loạt đạn chớp nhoáng, chúng hè nhau tung cửa sau, lủi ra vườn, trước khi chạy, một tên vứt lại tờ giấy, trên đó viết những ǵ không rơ.
Tiếng đạn nổ làm mọi người trong nhà mất hồn, đồng thời khuấy động cả xóm, bà Tư đứng chết trân, trợn trừng đôi mắt, nh́n chồng đang quằn quại trong vũng máu, thằng út gục chết trên bụng bố, tấm thân nhỏ xíu cũng đẫm đầy máu, máu nó và máu bố nó, hai thằng anh và đứa em gái ôm chặt lấy nhau, mặt xanh như tàu lá, chúng c̣n sợ lắm, không dám nhúc nhích, thậm chí c̣n không dám thở mạnh nữa - Ông Tư chợt nấc lên một tiếng lớn, thân ḿnh quằn quại, hai mắt đứng tṛng, máu từ ngực, từ bụng ông vẫn tuôn ra ồng ộc, bà Tư nghe tiếng nấc của ông chợt tỉnh, cảnh tượng tang thương trước mắt làm bà cũng không c̣n đủ b́nh tĩnh, bà hét lên một tiếng "ông ơi" rồi lăn xả vào, ôm ông dậy, lay cho ông tỉnh, vừa lay, bà vừa kêu khóc thảm thiết, máu me dính đầy áo quần bà, mấy đứa con thấy mẹ lên tiếng cũng bớt sợ, chúng cũng gọi Ba, gọi em rồi gào khóc với mẹ - Bà con cḥm xóm nghe tiếng khóc trong nhà vội vàng chạy đến, mọi người sững sờ trước cảnh giết người tàn nhẫn, thương tâm như vậy, hai cha con ông Tư chết ngay tại mâm cơm, trên thân thể hai cha con lỗ chỗ vết đạn - Không thể làm ǵ để cấp cứu được nữa, bà con bảo nhau cho người báo lên Xă, Quận, mọi người chờ đợi chính quyền xuống lập biên bản xong, sẽ giúp thu xếp, dọn dẹp.
Theo biên bản của Quận, ông Trưởng ấp Lê Văn Trương đă bị việt cộng ám sát lúc 7 giờ tối, ngày 14 tháng 4 năm 1959, tại tư gia, trong bữa cơm chiều, bằng súng tiểu liên - cùng tử nạn với ông có đứa con trai, tên Lê Văn Thuận, 3 tuổi - Sau khi khám nghiệm tử thi, pháp y đếm được 14 vết đạn trên ngực và bụng người bố, 11 vết đạn trên ngực, cổ và đầu em bé, có những viên đạn xuyên qua thân xác người con, rồi mới ghim vào người bố, tổng số vỏ đạn nhặt được ở phạm trường là 22 - Các chuyên viên vũ khí xác nhận đây là loại đạn 9 ly, dùng cho súng tiểu liên MAS. 49, do Pháp chế tạo - Tội ác nhăn tiền này, do cán bộ cộng sản nằm vùng gây ra, chúng đă để lại một tờ giấy có ghi những chữ như sau : "Đội hành quyết thi hành án tử h́nh tên việt gian Lê Văn Trương, tay sai Mỹ-Diệm". Mọi chứng cớ đă rơ ràng, các vết thương trí mạng, đều do bọn khủng bố bắn bằng súng tiểu liên, với khoảng cách gần, đạn xuyên thủng, hoặc c̣n nằm trong thân thể, gây tử vong cho nạn nhân, v́ thế Hội đồng Pháp Y quyết định, không cần thiết phải đưa đi giải phẫu giảo nghiệm tử thi, mà cho phép thân nhân được giữ thi hài tại nhà để lo tang lễ.
Ông Tư Trương là người đầu tiên trong Xă bị ám sát, tiếp theo đó có thêm 4 người nữa, gồm 1 Trưởng ấp, 1 Xă trưởng, 1 Ủy viên Cảnh sát và một Đồn trưởng Dân Vệ, không khí khủng bố bao trùm khắp làng xă, cho đến mấy tháng sau, khi chính quyền đẩy mạnh phong trào ấp chiến lược, củng cố an ninh thôn ấp, sàng lọc những phần tử nằm vùng, việc ám sát các cán bộ chính quyền Xă, Aáp mới được chặn đứng - Hơn nữa, sau vài ba vụ án, những người tham gia chính quyền cũng đề pḥng cẩn mật, lực lượng an ninh, Dân vệ, cũng tuần pḥng nghiêm ngặt, nên bọn chúng khó bề thao túng.
Đối với Bà Tư, cái chết của ông Tư và đứa con nhỏ là một mất mát quá lớn lao cho Bà và các con, nhưng là người đàn bà Việt Nam, mang đầy tính cần cù, nhẫn nại, bà cắn răng chịu đựng, thay chồng nuôi con - Để an ủi bà, chính quyền các cấp cũng hết ḷng giúp đỡ về tinh thần, vật chất đủ lo cho bầy con - Thêm vào đó, bà con cḥm xóm, sẵn cảm t́nh gắn bó với gia đ́nh bà từ trước, cũng quây quần, săn sóc bà và lũ nhỏ, bà cảm thấy cuộc đời cũng bớt cô quạnh - Bà và ba đứa con cứ như vậy, sống và khôn lớn trong t́nh yêu thương đùm bọc của mọi người .
Ngoài Tư Hiếu, đứa con gái của bà, không có ấn tượng ǵ rơ nét đối với cái chết của cha, nhưng bà và hai thằng con trai : Hai Tài, Ba Đức, th́ lúc nào cũng canh cánh bên ḷng cái chết tức tưởi của người chồng, người cha yêu dấu - Hai thằng con bà chỉ trông cho mau lớn để gia nhập quân đội, giết hết bọn Việt cộng, trả thù cho bố và những người bị chúng ám sát chết oan ức .
Thời gian lặng lẽ trôi qua, sau cuộc đảo chánh 1-11-63, t́nh h́nh chính trị của miền Nam không c̣n ổn định như trước. Ấp chiến lược bị phá bỏ, bọn VC lại có dịp trở về làng xă hoành hành như trước, ban đêm, chúng từ "căn cứ lơm" trở ra thu thuế, nhận tiếp tế, đôi khi c̣n tập họp dân chúng ở một vài nơi hẻo lánh để tuyên truyền nữa. Hai Tài năm ấy mới 16 tuổi, đang học lớp 10, nó sốt ruột lắm rồi, chỉ nhấp nhổm muốn đi đăng lính vào năm tới, nhưng nhiều người khuyên nó nên kiên nhẫn chút nữa, cố gắng học thêm, lấy được bằng Tú tài để đi sĩ quan, bề ǵ cũng hay hơn. Khi tṛn 19, vừa đậu Tú Tài, nó không suy nghĩ và cũng chẳng cần hỏi ư kiến ai nữa, tức tốc t́nh nguyện vào Thủ Đức ngay. Măn khóa, Chuẩn úy Lê Văn Tài được đưa về binh chủng Biệt Động Quân. Sau vài ba lần bốc thăm chọn đơn vị, Tài thuyên chuyển ra Tiểu đoàn 22, Liên đoàn 2/ BĐQ, đóng tại Pleiku, Tài tham dự hầu hết những cuộc hành quân lớn nhỏ của đơn vị và với ḷng căm thù giặc cộng ngất trời. Chuẩn úy Tài luôn luôn là người tiên phong trong mọi công tác, nhất là những cuộc phục kích, với tính kiên tŕ chờ đợi, ít khi trung đội của Tài đi không về rồi - Hương hồn ông Tư chắc cũng ngậm cười nơi chín suối, mong ông phù hộ cho con trai b́nh an trong mọi công tác an dân, trừ loạn.
Nhà chỉ c̣n ba mẹ con, Hai Tài đă ra đi, Ba Đức tất nhiên là người đàn ông duy nhất trong gia đ́nh, nhưng với ḷng căm thù của nó, anh Hai nó đă đi rồi, nó lại càng nôn nóng đi theo, chứ không hề nghĩ rằng nó sẽ phải ở nhà lo cho mẹ - Với Ba Đức, việc học hành nhẹ nhàng hơn, 18 tuổi nó xong bằng Tú Tài, cũng mắt trước mắt sau t́nh nguyện vào Thủ Đức, rút kinh nghiệm người anh, nó chẳng cần bàn soạn với ai, sau khi nộp đơn và nhận được giấy gọi, nó vẫn kín như bưng, đợi đúng ngày là lừng lững khăn gói vào trại nhập ngũ số 3 - Cả tuần sau Bà Tư mới biết rơ t́nh trạng của Ba Đức, bà khóc quá, không phải bà lo sợ các con bà phải xông pha nơi lằn tên mũi đạn, nhưng bà khóc v́ nghĩ tới những ngày cô đơn sắp tới, nếu Ba Đức ra đi, nhà chỉ c̣n hai mẹ con, là đàn bà cả, biết lấy ai trụ cột gia đ́nh - Có người hiểu chuyện bàn với bà, nên đi lên tŕnh bày với ông Quận trưởng, xin ông giúp đỡ, bằng cách cấp cho một giấy chứng nhận gia cảnh để xin miễn hay hoăn dịch cho Ba Đức. Ông Quận Trưởng mới về coi Quận được vài năm, ông dân Bắc kỳ chính hiệu, nhưng có vẻ rất "rành sáu câu", nghe Bà Tư tŕnh bày tự sự, ông hiểu ngay sự việc này phát xuất từ ḷng căm thù cộng sản đến cao độ mà ra, xét đến hoàn cảnh Bà Tư, ông bỗng thấy có thiện cảm với gia đ́nh bà, v́ chính thân phụ ông cũng bị bọn Việt minh thủ tiêu, khi ông cụ chỉ là một ông Chánh Tổng. Ông ân cần thăm hỏi cặn kẽ, cấp giấy chứng nhận theo đơn xin, đồng thời ông cung cấp phương tiện chuyên chở, c̣n cắt cử luôn ông Trưởng Ban 5 Chi Khu, đích thân lo liệu vụ này giúp bà Tư. Nhờ mọi người hết ḷng giúp đỡ, chỉ 1 tuần sau, mẹ con Bà Tư đă ng̣âi chờ tại pḥng tiếp khách của Quận, đợi ông Quận trưởng ra để trực tiếp cám ơn ông. Nh́n mái tóc ngắn ngủn của Ba Đức, bà Tư thấy tức cười, thật hú hồn, hú vía, xém chút nữa thằng con bà cũng lại đi biền biệt như anh nó.
Ba Đức ngồi đối diện với ông Quận Trưởng, lắng tai nghe giọng nói đều đều của ông chậm rải như rót vào tai:
- Tôi biết cháu nóng ḷng v́ thù nhà, nợ nước, nhưng thật sự th́ chính phủ cũng không đ̣i hỏi nhiều ở gia đ́nh cháu đâu, anh cháu đă nhập ngũ rồi, c̣n ḿnh cháu ở nhà lo săn sóc mẹ và em, tôi nghĩ cháu cũng nên suy xét lại, đừng làm mẹ cháu phải lo lắng nhiều hơn.
- Thưa ông Quận, mỗi lần nhớ tới h́nh ảnh ba và em cháu chết thảm trước mâm cơm, ḷng cháu lại sôi sục căm thù, anh em cháu có nói chuyện với nhau và hứa trước vong linh ba cháu, chúng cháu sẽ tận diệt bọn cộng sản, nếu không cũng phải trừ khử càng nhiều, càng tốt, để trả thù cho ba cháu và những người dân vô tội khác bị chúng giết.
Trong khi ông Quận Trưởng gật gù ra chiều suy nghĩ, Ba Đức thấy ông chưa nói ǵ, anh ta vội nói tiếp:
- Cháu cám ơn ông Quận đă lo cho gia đ́nh cháu, cháu cũng ráng chờ đôi ba năm nữa, con em cháu có chồng, là có người lo cho mẹ cháu với nó, lúc đó cháu sẽ đi.
Nghe Ba Đức nói, ông Quận lắc đầu nhè nhẹ, miệng hơi mỉm cười như có vẻ thấy hay hay v́ tính cương quyết của cậu bé . Ông nghĩ thầm trong bụng : "Những đứa như thế này th́ nó đánh giặc phải biết đây" - Đột nhiên ông nảy ra một ư nghĩ hơi là lạ, ông thăm ḍ :
- Muốn báo thù cho Ba cháu và những người trong Xă, bị VC ám sát mấy năm trước, tại sao cháu không hoạt động ngay tại Xă nhà, trừ ngay chính những tên đă cầm súng giết hại Ba cháu và những người khác, có hay hơn không .
- Dạ thưa ! Làm sao có thể như vậy được ông Quận.
- Được lắm chứ!
Ông Quận nở một nụ cười thật hiền, dẫn giải:
- Cháu phải biết rằng, bọn VC nằm vùng từ trước đến nay chỉ hoàn toàn hoạt động có tính cách cục bộ, vùng nào quậy phá ở vùng đó thôi . Như vậy có thể nói, những đứa ám sát ba cháu toàn là bọn sinh đẻ, hay cư ngụ trong Xă, chúng nắm vững t́nh h́nh tại địa phương, chúng được cấp chỉ huy của chúng cắt đặt phải nằm vùng, thoát ly, tập kết v . . .v . . , muốn trừ khử chúng, ta cứ bắt đầu từ đây là đúng nhất . Nếu cháu muốn hoạt động trong ṿng bí mật th́ gia nhập Thám Báo của Quận, hay làm Mật báo Viên, Cảnh Sát Đặc Biệt chẳng hạn - C̣n nếu cháu muốn cầm súng chiến đấu th́ gia nhập Nghĩa Quân - Có văn hóa như cháu nếu nhập ngũ cũng đi học sĩ quan, ra trường mang cấp bậc Chuẩn úy, làm Trung đội Trưởng - Trường hợp cháu vào Nghĩa Quân ở quận nhà, sau ít tháng, tôi sẽ gởi cháu đi học khóa Trung đội Trưởng, sau đó cháu cũng làm Trung đội Trưởng Nghĩa Quân, cũng có ba mươi mấy, bốn chục người lính, cũng hành quân như ai, có điều tầm hoạt động chỉ quanh quẩn trong phạm vi của Xă, nên cháu vẫn có thể chăm sóc gia đ́nh b́nh thường , giúp đỡ mẹ và em những việc nặng nhọc, không sao.
Hai mẹ con Ba Đức chăm chú theo dơi từng lời nói của ông Quận - Bà Tư có vẻ đồng ư với giải pháp này, c̣n ǵ sung sướng hơn khi thấy chính kẻ giết chồng ḿnh bị đền tội dưới mũi súng của con ḿnh - Ôi! thật tuyệt ! - Bà quay sang nói với con:
- Đúng đấy con ạ ! Cứ như lời ông Quận nói, nếu con làm việc trong Xă nhà, rồi hạ được những đứa đă sát hại ba con, th́ c̣n ǵ sung sướng cho mẹ hơn nữa . Mẹ c̣n nhớ như in nét mặt của hai đứa đă xả súng bắn vào ba con và em Thuận.
Lời nói của bà Tư làm cả ông Quận lẫn Ba Đức đều bất ngờ, thích thú - Đối với ông Quận, việc Ba Đức biết được tin này, chắc chắn anh ta sẽ không đi đâu nữa cả, muốn báo thù nhà, cứ việc gia nhập nghĩa quân là xong - Vậy là ông có dịp đưa những người trẻ, có học vào lực lượng Nghĩa quân, hầu nâng cao khả năng tác chiến các trung đội sau này - Với Ba Đức đây là điều hắn khắc khoải từ lâu, làm sao biết được đứa nào đă sát hại ba hắn, chả lẽ cứ gặp VC là giết, cũng đúng thôi, nhưng nếu hạ chính những tên đă nhúng máu cha ḿnh, sự trả thù, dĩ nhiên, sẽ thống khoái hơn nhiều chứ . Hắn nh́n mẹ bằng ánh mắt băn khoăn, như có nhiều điều muốn hỏi - May quá, ông Quận đă gỡ rối giúp:
- Bây giờ bà c̣n có thể nhận diện ra chúng nó không?
- Thưa ông Quận, chắc chắn tôi vẫn nhận ra.
Ông Quận đưa tay nhấn chuông, người tùy phái bước vào chờ lệnh, ông bảo:
- Mời Đại úy Trưởng Ban 2 lên gặp tôi.
Người tùy phái lui ra, chỉ một phút sau, viên Đại úy Trưởng Ban 2 bước vào, chưa kịp đưa tay chào th́ ông Quận đă hỏi:
- Anh có đủ hồ sơ, h́nh ảnh bọn VC cơ sở, giao liên, nằm vùng trong Quận ḿnh không?
- Thưa, về lư lịch có đủ, nhưng h́nh ảnh th́ đứa có, đứa không ạ!
- Anh về lấy đưa lên tôi xem và tiện dịp cho bà Tư đây nhận diện luôn thể.
Cũng chỉ mấy phút sau, Đại úy Trưởng Ban 2 trở lại với một chồng hồ sơ dầy cộm đặt trước mặt ông Quận, ông ra lệnh:
- Để khỏi mất th́ giờ, Đại úy lấy ngay hồ sơ của những tên thuộc Xă của Bà Tư trước, cho bà ấy nhận diện.
Ông Đại úy nhanh nhẹn lựa một tập hồ sơ đặt trước mặt ông Quận - Ông Quận Trưởng thong thả lật từng tơ,ø thỉnh thoảng gặp chỗ nào có ảnh, ông đưa qua cho Bà Tư coi, tập hồ sơ ngày càng mỏng dần, bà Tư đă coi hàng chục tấm ảnh, nhưng chưa nhận diện được ai, đến tấm ảnh cuối cùng trong tập hồ sơ, bà bỗng kêu "Á" lên một tiếng, tay run run chỉ vào, giọng nói lạc hẳn đi:
- Đúng tên này đây, ông Quận.
Ông Quận Trưởng đưa tấm ảnh đến trước mặt Ba Đức để hắn nh́n cho rơ - Đức chăm chú ngó, cặp mắt mở rộng, nét mặt hằn nên vẻ căm thù, như muốn ăn tươi nuốt sống người trong ảnh, một lát sau, chừng như đă ghi nhận đầy đủ h́nh ảnh kẻ thù, Đức mới liếc mắt đọc đến phần lư lịch:
- Vơ văn Bầu tự Bầu Cá, sinh năm 1939, cha vô danh, mẹ Vơ thị Bảy, nghề nghiệp: ở đợ - Bắt đầu hoạt động giao liên cho Việt minh từ năm 1950 - Năm 1952 bị Pháp bắt giam, đến năm 1953 được thả, vẫn tiếp tục hoạt động cho Việt minh, sau 1954 không thấy xuất hiện, có nguồn tin cho rằng y đă tập kết ra Bắc, đầu năm 1959, y xuất hiện trở lại trong vai tṛ khủng bố, thường hay từ "căn cứ lơm" ra các cơ sở nằm vùng của chúng ở các Xă chung quanh để thu thuế, nhận tiếp tế, đôi khi ám sát các viên chức của ta. Theo nguồn tin t́nh báo, y hiện ở trong Ban ám sát Quận.
Điều quan trọng đối với Ba Đức là nhận rơ mặt những tên VC này, c̣n phần lư lịch, hoạt động của chúng th́ có càng tốt, không có cũng chẳng sao, hận thù của Ba Đức hiện đang ngút ngàn, nó nghĩ thầm trong bụng: bây có làm được việc hay không được việc, thành tích nhiều hay thành tích ít cũng đều đáng chết cả. Với nó, một chú bé 18 tuổi, mang mối thù giết cha, th́ chính phủ rất phí phạm tiền bạc, công sức để lập ra Bộ Chiêu Hồi.
Bà Tư coi đến quyển thứ hai, không có ǵ, quyển thứ ba cũng vậy, đến quyển thứ tư cũng là quyển chót, được vài tờ, bà lại nhận diện được một tên nữa - Nh́n tấm ảnh tên này, Ba Đức thấy mặt mũi nó có vẻ sáng sủa nhưng gian ác hơn tên Bầu Cá - Tên này lớn tuổi hơn, đọc phần lư lịch, Ba Đức thấy ghi:
- Nguyễn văn Sang, tự Hai Sang, tên Cha Nguyễn văn Giàu, mẹ Trần thị Nhỏ, sinh năm 1929 - Hai Sang thuộc loại gia đ́nh khá giả, nhưng tính t́nh gian trá và ham chơi - Năm 1950, y là Thủ Bạ trong Hội đồng Tề của làng, nhưng v́ gian lận, biển thủ công quỹ nên bị tù 2 năm, sau khi được thả, v́ đă có tiền án, y không làm được công việc ǵ cả, y bất măn đi theo Việt minh. Thời gian đầu y hoạt động rất tích cực, hiện nay y đă được tin dùng và là một trong những tên chỉ huy ṇng cốt của Huyện ủy.
Không hiểu có sự may mắn ǵ run rủi, mà công việc tiến triển một cách tốt đẹp, mẹ con Ba Đức không ngờ sự việc được giải quyết một cách nhanh chóng và nhiều thuận lợi cho gia đ́nh như vậy. Hai mẹ con không ai nói ra, nhưng đều thầm nghĩ: "Có lẽ hồn thiêng ông Tư xui khiến, nên mới đẩy đưa đến cơ hội may mắn này?"
Trước khi chia tay, ông Quận ân cần nói với Ba Đức:
- Cháu cứ về nhà nghỉ ngơi, lo việc gia đ́nh, và suy nghĩ cho chín chắn, vài tháng nữa lên đây, sẽ có việc cho cháu làm thôi!
....... . . . . . . . Ḷng nóng như lửa đốt, làm sao có thể chờ đợi vài tháng như lời ông Quận nói - Chỉ mươi ngày sau, Ba Đức đă lấp ló trên văn pḥng Quận để xin gia nhập Nghĩa quân, ông Đại úy Trưởng Ban 2, đă biết mặt Đức, đem nó vào Ban 1 để giới thiệu và hỏi dùm nó thủ tục gia nhập. Một khi đă quyết chí th́ mọi trở ngại, rắc rối đều phải cố gắng vượt qua, huống chi đối với trường hợp Ba Đức ai ai cũng đều rơ và thông cảm với nó, v́ thế chỉ một tuần sau là nó đă có mặt trong lực lượng Nghĩa quân Quận, chờ đi Trung Tâm huấn luyện để học quân sự.
Chuyện một thanh niên có bằng Tú Tài, hoặc bằng cấp cao hơn, gia nhập Nghĩa quân không phải là chuyện lạ ở mấy xă ven đô , v́ những người đó, thực sự chỉ t́m một chỗ hợp lệ t́nh trạng quân dịch, để tính toán những việc khác cho cuộc đời họ - Nhưng với Ba Đức, đây là dịp nó mang hết khả năng để phục vụ, nói đúng hơn nó sẽ tận lực để báo thù...
Từ lúc học quân sự xong, chính thức trở thành một Nghĩa quân viên, Ba Đức không từ nan một công việc ǵ mà Trung đội cắt cử cho hắn, từ tuần tiễu đêm, hoạt động thám sát địa thế, phục kích trên những trục lộ mà bọn giao liên thường qua lại - Với tinh thần phục vụ cao, tuổi trẻ, nhanh nhẹn, tháo vát, nhất là luôn t́nh nguyện trong những công tác khó khăn, nguy hiểm, Ba Đức dễ dàng chiếm được cảm t́nh của đa số đồng đội và những viên chức trong Quận.
Đúng như lời ông quận Trưởng đă hứa, chỉ sáu tháng sau Ba Đức được đề nghị theo học khóa Trung đội trưởng Nghĩa Quân - Ngoài vấn đề giữ lời hứa, ông Quận c̣n nói thẳng với mọi người là Ba Đức rất xứng đáng theo học khóa này, căn cứ vào tŕnh độ văn hóa và nhất là tinh thần phục vụ của nó trong sáu tháng qua mà mọi người đă biết.
Đúng như sự tiên đoán của ông Quận "Bắc Kỳ", từ ngày Ba Đức được chính thức nắm chức Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân, chỉ trong ṿng hơn một năm trời, hắn đă đưa Trung đội của hắn lên hàng đầu của Quận, rồi của Tỉnh - Những thành tích mà Trung đội Ba Đức lập được không ai có thể chối căi, số địch quân bị hạ trong những trận phục kích, số vũ khí tịch thu được, t́nh trạng an ninh trong vùng hoạt động của Ba Đức ngày càng khá hơn, đă chứng minh điều đó.
Khi đă được nhiều người tin yêu, giúp đỡ, Ba Đức mới nghĩ đến việc tổ chức riêng một mạng lưới t́nh báo, hầu theo dơi những tên có trong sổ đen, tức là những tên xa gần đă nhúng tay vào máu ba và em anh ta. Người ta thấy Ba Đức hay qua lại với Đại úy Trưởng Ban 2 Chi Khu để trao đổi tin tức và những lần phục kích của Ba Đức đạt kết quả cao hơn, v́ nhờ tin tức t́nh báo chính xác - Thời điểm này là lúc cao trào "làm ăn" của Trung đột Ba Đức lên thật cao - Anh ta "phát minh" ra kiểu phục kích bằng ḿn Claymore cơ động, hàng đêm,Trung đội tung ra bốn, năm điểm phục kích, mỗi điểm chỉ ba, bốn người, bọn họ gài ḿn Claymore, cho nổ khi ng̣i nổ chạm điện, rồi tùy theo vị trí, họ đặt ḿn theo ṿng cung, thước thợ, nổ dọc hay chặn ngang v...v... tính toán làm sao để triệt hạ bằng hết những tên trong tổ của chúng, những cái bẫy để bọn VC đạp nổ được ngụy trang khéo léo - Đặt ḿn xong, họ t́m một chỗ an toàn nằm chờ, nếu đêm ấy, điểm phục kích phát nổ là họ "có ăn", họ tức tốc gọi ngay về Quận, xin Pháo Binh diện địa "chơi" thêm cho vài trái nổ chụp, rồi nằm chờ sáng ra ...lượm súng - Nếu không có ǵ, họ chịu khó dậy sớm, ra gỡ ḿn về, để hôm sau .....làm tiếp - Những hoạt động tích cực và đạt nhiều kết quả như vậy, đương nhiên Ba Đức trở nên cái gai trước mắt bọn VC - Theo tin tức từ trong mật khu ở "căn cứ lơm", t́nh báo ta cho biết, VC đă họp nội bộ, nhất quyết t́m cách hạ Ba Đức, để cứu vớt tổ chức của chúng đang trên đà dần dần bị tiêu diệt, chúng cũng đă hoạch định cả một trận tấn công quy mô vào đồn Nghĩa quân do Trung đội Ba Đức trấn đóng, để tiêu diệt bằng được tên "Trung đội Trưởng ác ôn", đă hạ rất nhiều các "cán bộ cách mạng", đồng bọn của chúng - Nhận được tin này, Ba Đức thích lắm, hắn họp hành liên miên với ông Trưởng Ban 2, Ban 3 và Ông Quận Trưởng đều phác họa một kế hoạch ngăn chặn.
Trong một buổi họp, Ba Đức tŕnh bày ư kiến:
- Con (đối với ông Quận và các cấp trong Quận, Ba Đức đă nhiều lần đắn đo suy nghĩ, bằng vào tuổi tác và với sự yêu thương mọi người dành cho, chỉ c̣n cách xưng con với họ là đúng hơn cả) - Con nghĩ tụi nó có "uấn" cũng c̣n lâu, ít ra nó c̣n phải điều nghiên, rồi xin xin lực lượng về cũng mất nhiều thời gian - Việc ông Quận với mấy Thày lo th́ cứ lo, phần con, con sẽ cùng anh em bung ra thật nhiều, để "hốt" trước mấy thằng về điều nghiên là tụi nó hết đánh luôn thôi.
Mấy ông nh́n nhau tủm tỉm cười - Đối với Ba Đức, chuyện ǵ nó cũng cho là "ngon ăn" cả - Nhưng thật sự nó nói rất có lư - Chặt xong mấy thằng đi điều nghiên, c̣n ai đưa đường dẫn lối nữa mà đánh với đấm, có điều không hiểu giờ nào chúng mới đi điều nghiên, đi bao nhiêu lần, phương hướng thế nào - Chặn được bọn này phải mất bao nhiêu công lao, ngày giờ v...v... Nghĩa là muốn làm việc này phải có thừa can đảm và ư chí - Chuyện này Ba Đức có thể đảm đương, v́ nó có đủ cả hai yếu tố đó - Cộng với ḷng căm thù nung nấu - Ba Đức không khi nào bỏ cuộc, đă nói là làm và làm đến nơi đến chốn.
Ba Đức quay về Trung đội, họp tất cả anh em tŕnh bày những hoạt động trong thời gian tới, anh ta dấu chưa cho mọi người biết tin tức nhận được là VC sẽ t́m cách triệt hạ anh ta bằng mọi giá, kể cả việc tấn công nơi Trung đội trú đóng . Mọi người thấy đây cũng giống như công việc b́nh thường, bất quá có nằm nhiều chỗ hơn thường lệ cũng không sao - Họ vui vẻ thi hành v́ đặt hết tin tưởng vào Ba Đức mà không hề thắc mắc ǵ cả . Ba Đức âm thầm, lặng lẽ làm theo chương tŕnh đă hoạch định - Một tháng rồi hai tháng, năm sáu điểm kích của Trung đội đi không lại về không, chẳng được chút kết quả nào cả - Ba Đức đă hơi nản chí, nhưng rồi anh ta bỗng nảy ra một ư nghĩ , có lẽ địch đánh hơi, hay chúng cũng có tai mắt, nên Trung đội càng đi ra khỏi đồn nhiều, địch càng giữ kỹ, không ló mặt ra nữa, v́ thế Ba Đức đánh lừa địch bằng cách không cho anh em ra khỏi đồn nữa - Tất cả Trung đội bỗng được lệnh tu bổ hệ thống pḥng thủ, đêm đêm thủ đồn, canh gác cẩn mật mà thôi - Đêm thứ nhất, Ba Đức ở trong đồn cùng anh em, đêm thứ hai, trời vừa tối hẳn, Ba Đức giao tất cả mọi việc trong đồn cho người Trung đội phó, anh ta cùng ba người t́nh nguyện, âm thầm rời đồn đi ra - Đêm đó và đêm kế tiếp yên tĩnh - Đến đêm thứ ba, vào lúc 1 giờ sáng, có tiếng ḿn claymore nổ liên tiếp 4 lần, mọi người trong đồn được báo động ra vị trí pḥng thủ, trong hầm chỉ huy, người hiệu thính viên ngạc nhiên thấy hệ thống truyền tin êm re, chẳng thấy trên Quận hỏi han rối rít như mọi khi nghe tiếng nổ, c̣n ông Trung đội phó ngồi tỉnh bơ hút thuốc, không hề lên tiếng, đă vậy sau dăm phút c̣n có thêm mấy tiếng nổ do pháo binh bắn đạn nổ chụp, rồi tất cả trở về im lặng - Trung đội được lệnh nằm ngủ tại vị trí pḥng thủ.
Bốn giờ rưỡi sáng, ông Trung đội phó đánh thức tất cả dậy báo tin, đêm qua, Ba Đức và mấy anh em âm thầm ra ngoài đồn phục kích và đă chạm địch, v́ những tiếng nổ đêm qua anh em đă nghe - ông cắt đặt một tiểu đội ở lại coi đồn, c̣n tất cả chờ trời rạng sáng sẽ theo sự chỉ huy của ông ra lục soát.
Kết quả cuộc phục kích bằng ḿn đem lại kết quả ngoài sự mong đợi của mọi người - Bốn tên chết tại chỗ, một tên găy cẳng, nằm lại bị ta bắt sống - Điều làm cho Ba Đức sướng phát điên lên được là trong 4 tên chết, có cả hai tên Vơ văn Bầu, tự Bầu Cá và Nguyễn văn Sang, tự Hai Sang, hai tên đă ám sát ông Tư Trương và một số viên chức xă ấp năm nào . Theo cung từ của tên c̣n sống sót, đúng có hai tên Bầu và Sang, chúng đi điều nghiên đồn Nghĩa quân - Quả như sự phán đoán của Quận, hai tên này, giờ đă thuộc thành phần lănh đạo, chúng chỉ xuất hiện trong những trường hợp đặc biệt, hạ được chúng phải kể là rất may mắn....
Ba Đức đang ngồi nói chuyện với mẹ, bà Tư hôm nay trong ánh mắt đă ánh lên niềm vui - Ước vọng của bà đă thành sự thực, những kẻ giết chồng bà và các người lương thiện, nay đă đền tội, và đặc biệt là đền tội dưới tay con bà - Hôm nghe tin Ba Đức đă hạ được mấy tên này, Bà và con Hiếu vội vàng bỏ cả công việc, hai mẹ con dắt nhau chạy lên trụ sở Xă, v́ những xác chết được đem về đó để bà con nhận diện - Những người có mặt tại chỗ ngày hôm đó thật cảm động khi chứng kiến hành động của bà - Bà nh́n sững hai xác chết tên Bầu Cá và Hai Sang, tay run run chỉ vào mặt chúng, miệng lắp bắp: "Đúng, đúng chúng nó" - Hai hàng nước mắt bà rơi ṛng ṛng. Đột nhiên bà ôm chặt Ba Đức và Tư Hiếu cười như điên dại, giọng cười thật thỏa măn, trong khi đôi ḍng lệ vẫn tuôn trào như suối . Nhớ lại quang cảnh ngày hôm đó, bà vẫn c̣n thấy nao nao trong dạ - Khi biết chắc mối thù của ḿnh đă được thằng con trai cưng trang trải, bà an tâm, đưa mắt quan sát chung quanh, nhiều người sau khi nhận diện những tên sát nhân, biết chắc chúng là những tên đă giết người thân của ḿnh, nay thật sự đă đền tội, ai nấy đều có cảm t́nh với những người thay họ mà trả thù - họ đến bắt tay Ba Đức và mấy người cùng đi với anh đêm ấy, các bà th́ kéo tay, ôm vai, một vài bà c̣n mếu máo nói với người đă khuất, nhưng để gián tiếp cám ơn Ba Đức và mọi người: "Ông ơi ! vậy là ông ngậm cười chín suối nghe! thù của ông có người trả dùm rồi !". Chợt nhớ lại chuyện ǵ đó, Ba Đức quay sang nói với mẹ, giọng rất thật t́nh:
- Không phải tụi con hay ho ǵ đâu má, làm như có sự run rủi của ba nhà ḿnh với mấy người bị chúng nó giết, nên tụi nó tự t́m đến chỗ chúng con gài ḿn đấy chứ - chỗ đó tụi con chỉ gài cầu may thôi chứ có tính toán ǵ như mọi khi đâu.
Bà Tư nh́n con tŕu mến, gật gù ra vẻ đồng ư, nhưng miệng bà mỉm cười, thầm mắng yêu thằng con:
- Thằng thiệt dễ thương, không bao giờ nhận riêng cho ḿnh một công trạng nào cả.
Cũng v́ vậy mà Bà Tư đă vui vẻ hạ một con heo tạ, trước là để cúng chồng, con, sau để Bà và các con tạ ơn Trời đất cùng những người đă tạo cơ hội, góp công sức trong việc trả thù chung này.
Bỗng có tiếng xe gắn máy tới gần, rồi ngừng trước ngơ, một bà già xăng xái bước vào, theo sau là người thiếu nữ, tuổi ngoài 20 , dắt chiếc Honda Dame . Bà già chân bước, miệng nói liến thoắng:
- Chị Tư ơi! có nhà không, ghé thăm chị chút nè!
Bà Tư và Ba Đức nghe vậy, cùng đứng dậy bước ra - Hai Bà dường như có quen nhau từ trước, chào hỏi tíu tít - Sau khi cúi đầu chào bà khách, Ba Đức đưa mắt sang nh́n người thiếu nữ, chàng ta chợt sững sờ v́ vẻ đẹp của cô nàng - Khó nói quá - Vừa đơn sơ, vừa quyến rũ - vừa nghiêm trang, vừa mời gọi - Không biết diễn tả thế nào, nhưng đúng như t́nh trạng của Ba Đức gặp bây giờ, người ta gọi là "tiếng sét ái t́nh" th́ phải - Phần cô gái cũng không khá ǵ hơn, sau khi cúi chào mẹ con Bà Tư, thấy cung cách Ba Đức nh́n ḿnh, cô bỗng thấy mất tự nhiên, tim cô không c̣n đập b́nh thường nữa, nó rộn ràng, gấp rút hẳn lên, rồi một luồng hơi nóng từ ngực bốc thẳng lên mặt, làm mặt cô vụt bừng đỏ - Cô luống cuống, loay hoay dựng chiếc xe măi mà không được, Ba Đức thấy vậy chạy lại giúp, khiến mặt cô đă đỏ càng đỏ thêm - Bà Tư lên tiếng giới thiệu vói con trai:
- Con à! Bà đây là bà Sáu Phúc, ổng làm Xă Trưởng ở xă trên, ổng cũng bị nạn hồi đó, cũng do mấy tên đă ám sát ba con giết hại, sau ba con ít tuần thôi.
Bà Sáu vui vẻ tiếp lời:
- Thiệt t́nh chỉ v́ chuyện gặp nạn của mấy ổng, chị em ḿnh mới quen biết nhau há chị Tư - Bây giờ có lẽ c̣n thân thiết hơn, v́ gia đ́nh tôi mang ơn cháu Ba nó ở đây nhiều lắm.
- Có ǵ đâu mà chị Sáu coi trọng như vậy - Bất quá cũng chỉ là nhiệm vụ của cháu thôi mà.
- Chị nói vậy đâu được, không có anh em tụi nó, biết đến bao giờ mấy ổng mới xong được cái oán này - Chị Tư c̣n hy vọng v́ có con trai, chớ gia đ́nh tôi th́ đành chịu - Bốn đứa con gái cả - Rồi như muốn nhân dịp này giới thiệu cô gái, bà day qua cô ta:
- Nhỏ này là út đây, cháu tên Dung, đang học trên Sàig̣n, nhưng năm nay tôi bắt nghỉ, về nhà mẹ con hủ hỉ với nhau, mấy con chị nó có chồng hết rồi, nhà vắng hoe... à !!
Sau choáng váng v́ bất ngờ gặp gỡ, Ba Đức đă b́nh tĩnh trở lại, nghe bà già nói chuyện, chàng ta nghĩ bụng: " Bà già thiệt hay, chỉ vài câu nói đă giới thiệu tạm đủ về con gái của bà - H́nh như bà muốn đem con khoe với ḿnh và để "cho" ḿnh th́ phải" - Ư nghĩ chợt đến làm Ba Đức khoái chí, mỉm miệng cười, đưa mắt nh́n sang cô gái. Cô Dung tuy vẫn c̣n hồi hộp lắm, nhưng sắc diện đă tạm trở lại b́nh thường, khi Ba Đức đảo mắt sang nh́n cô, cô cũng đang nh́n trộm hắn, hai mắt gặp nhau, mặt cô lại đỏ bừng lên... Cô cảm thấy vui vui... Sáng nay, khi mẹ cô bảo cô chở sang để cám ơn và mời ông Trung đội trưởng Nghĩa quân cùng các anh em đă hạ được những tên trước kia ám sát ba cô, sang dự buổi giỗ ba cô, cô không có h́nh tượng ǵ về người Trung đội trưởng này cả, v́ thông thường, những người trung đội trưởng mà cô đă gặp, trung b́nh cũng khoảng tuổi ba mươi mấy, bốn mươi - Đâu ngờ anh chàng này chỉ ngoài hai mươi, trông thật thư sinh v́ dáng người cao, mảnh khảnh, nước da trắng xanh, có lẽ nhiệm vụ đ̣i hỏi phải thức đêm nhiều - Nhưng mà con mắt chàng ta nh́n cô thật ... kỳ, làm ḷng cô xao xuyến, có lẽ trong chỗ riêng tư, chàng đă có cảm t́nh với cô, riêng cô, không hiểu sao nh́n ánh mắt, nụ cười ấy, cô cũng đă cảm thấy có phần rung động - V́ thế, nếu muốn nói cho chính xác, th́ phải nói thế này: - Ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên, hai người đă có cảm t́nh với nhau!
Sau đám giỗ ông Sáu Phúc, Ba Đức thường xuyên vắng nhà, b́nh thường sau những giờ hoạt động đêm, bao giờ anh ta cũng cần một giấc ngủ ngày thật dài, để lấy sức cho ban đêm hoạt động lại, từ ngày quen biết cô Dung, giấc ngủ ngày của Đức thất thường, khi có, khi không, khi dài, khi ngắn, bà Tư cũng lo ngại, nhắc nhở con, nhưng lần nào chàng cũng gạt đi, nói rằng ḿnh không cảm thấy mệt - Mà quả thật vậy, mặt hắn lúc nào cũng tươi roi rói, gặp ai cũng cười đùa vui vẻ, thỉnh thoảng lại c̣n hát nghêu ngao mấy câu vọng cổ của trai gái tỏ t́nh - Đúng! t́nh yêu chẳng dấu được ai, và Ba Đức cũng chẳng cần dấu diếm t́nh cảm của ḿnh - Bà Tư thấy đôi trẻ như vậy cũng vui, bà hối thúc Ba Đức mau mau tiến tới để bà có cháu bồng.
Rồi đám cưới hai người diễn ra ngon lành, xuông xẻ, hai bà thông gia đều là goá phụ của những viên chức xă ấp đă bị VC sát hại, nên họ hạp nhau và thông cảm với nhau hơn ai hết - Về dự đám cưới có cả Hai Tài, bây giờ anh ta đă là Trung úy làm Đại Đội Trưởng một Đại Đội Biệt Động Quân ở Liên Đoàn 2BĐQ
Gặp anh Hai lần này, Ba Đức học hỏi thêm được một số kiến thức về quân sự và các loại vũ khí - T́nh cờ Hai Tài gặp một người bạn cùng khóa, trước kia phục vụ tại Nha Kỹ Thuật, nay bị thương, xuất ngành, thuyên chuyển sang Tiểu khu, hiện làm Đại Đội Trưởng Đại Đội Địa Phương Quân, đi hành quân qua.
Trong bữa nhậu tại nhà bà Tư, có cô dâu mới lo tiếp đăi, thấy Ba Đức cứ chăm chú nh́n vào hai trái lựu đạn "mini" mà người bạn ḿnh đang đeo ở giây ba chạc, ánh mắt thèm thuồng, Hai Tài biết thằng em ḿnh "kết" hai trái lựu đạn đó lắm, anh dự tính trong bụng, sẽ chờ dịp hỏi xin cho thằng em - Không ngờ anh bạn quá sành điệu, anh ta nh́n chai Martell cổ lùn gật gù, anh nghĩ đến t́nh cảm của bạn và em bạn thết đăi ḿnh quá trịnh trọng, rồi nh́n qua Hai Tài nói:
- Tao thấy thằng em mày có vẻ khoái hai trái đồ chơi này lắm, hôm nay cũng may, t́nh cờ gặp anh em mày, lại c̣n nhậu nhẹt với nhau, thôi th́ nếu nó thích, tao tặng nó, cho nó vui.
Miệng nói tay gỡ hai trái "mini" trao cho Ba Đức đem cất - Ba Đức thích muốn nhảy lên, nhưng vẫn đẩy đưa:
- Cho em rồi anh lấy ǵ xài?
- Ôi! hơi đâu mà lo chuyện đó em, M.67 thiếu ǵ - Vả lại, "cái này" ít khi dùng tới, hồi tụi anh đi toán, thường mang thủ thân, để dành khi cần đến th́ ?cưa đôi? thôi mà ! Khi nào có dịp ghé qua Sở gặp bạn bè, chắc anh sẽ xin tụi nó mấy trái khác, lúc đó chưa chừng chú mày có thêm à!
Nghe vậy, Ba Đức hí hởn đem cất ngay, kể từ ngày hôm sau, trong hành trang dùng để "trang trí" của Ba Đức có thêm hai trái lựu đạn "mini".
Quán Bà Ba dần dần thưa khách, giờ này mọi người đều về nhà để ăn bữa chiều - Ba Đức và toán Nghĩa quân cũng giải tán, anh em người nào lo việc đó, riêng Ba Đức cũng tạt qua về nhà, ăn cơm với mẹ và vợ con, rồi cũng vào đồn ngủ như mọi khi - T́nh h́nh an ninh bây giờ không được tốt lắm, dù hết ḷng bảo vệ thôn xóm, nhưng nhiều khi "cái khó bó cái khôn", những phương tiện mà Trung đội của Ba Đức cần dùng để phục kích, diệt giặc không c̣n nữa - lợi dụng hiệp định ngưng bắn, địch hoạt động, xâm nhập, phá hoại nhiều hơn, trong khi bên ta lại tuân thủ, hay nói đúng hơn bị bắt buộc tuân thủ và ngồi yên nh́n địch vi phạm. Tiếp liệu đă bị thiếu thốn đủ thứ, viện trợ của Đồng Minh đang từ 10 sụt xuống c̣n 1, vũ khí đạn dược hết sức hạn chế, đôi khi đụng trận, xin yểm trợ vài trái đạn pháo binh cũng trần ai, lai khổ mà không được như ư, v́ thế khả năng hoạt động của Trung đội Ba Đức cũng không c̣n hữu hiệu nhiều như mọi năm nữa, giờ đây hoàn toàn trông vào sức ḿnh, với số vũ khí cá nhân, cộng thêm sự gan dạ, thỉnh thoảng mới có được chút kết quả gọi là yên ủi mà thôi - Buồn thật!
Nh́n nét mặt dàu dàu của con, bà Tư không hiểu chuyện ǵ, gặng hỏi măi, Ba Đức mới trả lời lấp lửng:
- Hết trơn mọi thứ, không c̣n ǵ mà xài.
Bà muốn an ủi con một tiếng, nhưng không biết nói ǵ, v́ chẳng hiểu rơ ư con nên cũng làm thinh luôn.
Ba Đức cũng cảm thấy việc ông Quận không chấp thuận đề nghị của chàng là điều bắt buộc, v́ với trang bị như vậy, yểm trợ như vậy, các đơn vị chính quy c̣n không đủ dùng, nói chi đến Nghĩa quân, làm ra chỉ thấy hại nhiều hơn lợi, chi bằng cố gắng tỉnh thức pḥng thủ, c̣n có thể bảo tồn lực lượng được, để chờ khi thuận lợi - Mà biết đến bao giờ mới thuận lợi, cơ hội có đến hay không.
Lùa vội vài chén cơm cho xong bữa, Ba Đức chơi với hai đứa nhỏ một lát rồi từ giă gia đ́nh đi vào đồn - Hai thằng con trai í éo đ̣i theo, nhưng bà ẵm đứa lớn, mẹ ẵm đứa nhỏ, hai đứa đành lặng thinh nh́n bố chạy xe thẳng ra cổng.
Cuối năm 1974, hoạt động phá hoại của VC nổi lên khắp nơi và quy mô gấp bội, kế hoạch lấn chiếm của chúng rất có bài bản - Đánh thăm ḍ vài nơi, thấy đồng minh của ta không phản ứng ǵ, chúng lập tức gia tăng cường độ - Đầu năm 1975, t́nh h́nh miền Nam bi đát thấy rơ, bọn VC đă chiếm được một vài tỉnh của ta - Chính quyền miền Nam hoàn toàn bị động - Lệnh rút bỏ cao nguyên, rút bỏ vùng 1, như khuyến khích bọn giặc cộng tăng thêm áp lực - Quân chính quy Bắc Việt xâm nhập công khai, không cần dấu diếm như mọi khi nữa, chúng chuyển quân bằng xe, chúng kéo cả xe tăng, đại pháo rầm rập chạy vào để sớm dứt điểm miền Nam, trong khi đó th́ đồng minh Mỹ im hơi lặng tiếng, quốc hội Mỹ lại "cẩn thận" hơn nữa, khi đưa ra đạo luật không cho phép Tổng Thống đem quân đội hay không quân can thiệp vào các trận chiến ở nước ngoài - Viện trợ quân sự cho VNCH bị cắt gần hết -Trong khi đó th́ những thành phần chính trị gia xôi thịt, những chính khách sa lông, phe này, phái nọ, ráo riết vận động cho một cuộc đầu hàng trá h́nh bằng cách tuyên bố thẳng sẽ nói chuyện với "người anh em phía bên kia" - Cuộc rút quân gọi là "di tản chiến thuật", "tái phối trí", hoàn toàn thất bại - Không phải là rút lui nữa mà là tháo chạy, tổn thất của cả quân lẫn dân làm cả nước bàng hoàng - Đến giai đoạn các ông ấy bàn giao chính quyền là ...hết thuốc chữa.
Đầu óc Ba Đức không c̣n tỉnh táo nữa, lúc nào cũng "bưng bưng" như có ai cầm búa gơ trong đầu - Nh́n mẹ già, vợ dại, con thơ, nếu có chuyện ǵ xảy ra, làm sao có thể cáng đáng được - T́nh h́nh bất lợi lắm rồi - Thương mẹ, thương vợ, thương con, mà đầu óc không làm sao tỉnh táo để đối phó cho kịp với hoàn cảnh - Ba Đức lẩn thẩn tự trách ḿnh - Sao hồi đó ham cưới vợ làm chi, để bây giờ khổ cho tất cả mọi người.
T́nh h́nh đă biến đổi không ai có thể ứng phó kịp, kể cả những ông vẫn được tiếng là tài giỏi, tiên đoán mọi việc như thần
- Địch quân càng ngày càng lợi thế và chuyện ǵ phải đến đă đến
- Miền Nam đă hoàn toàn bị cưỡng chiếm.
- Không nói đến những ông chính trị gia xôi thịt, chạy đôn, chạy đáo, t́m đường rút.
- Đừng nhắc đến Tướng Tá chẳng một chút tiết tháo, chí khí nhà binh, cũng xa chạy, cao bay.
Chúng ta hăy nhớ đến những người đă oai hùng tuẫn tiết, các vị Tướng, Tá, Úy, Hạ sĩ Quan, Binh sĩ, Cảnh Sát Quốc Gia v...v... trong đó có cả anh Trung đội Trưởng Nghĩa Quân thân thương của chúng ta nữa............. .
Mọi chuyện diễn tiến quá bất lợi, hầu như ai ai cũng biết và có thể đoán trước kết quả, nhưng khi nghe đích thân ông Tổng Thống lên đài phát thanh ra lệnh buông súng đầu hàng th́ mọi người đều hỡi ôi !!!
Toàn thân như tê cứng, đầu óc quay cuồng, Ba Đức hét lên một tiếng, đưa tay cầm chiếc radio transistor đập mạnh xuống đất, vỡ tan - Việc làm vô ích, không thay đổi ǵ được cuộc diện, cũng chẳng vơi được niềm đau, chỉ đơn giản đem lại khoảnh khắc im lặng trong gian hầm chỉ huy trong đồn.
Tiếng rè rè trong chiếc máy truyền tin đột nhiên cũng im và giọng nói chậm răi của ông Quận Trưởng cất lên:
- Tôi thông báo cho các đơn vị trực thuộc biết, từ giờ phút này, tôi không c̣n là người chỉ huy của anh em nữa, xin anh em tự lo liệu.
Mấy lời ngắn, gọn rồi im lặng, Ba Đức bốc máy, tính nói chuyện với ông Quận, nhưng gọi hoài không được, chàng chán nản buông máy, đôi mắt thất thần nh́n các anh em - Không ai lên tiếng, họ vẫn sẵn sàng chờ quyết định của người chỉ huy trẻ tuổi của họ mà họ hằng quư mến .
Ngồi im lặng cả tiếng đồng hồ, Ba Đức mới lên tiếng nói với anh em:
- Trên đă nói vậy, tôi cũng nói với mấy ông như vậy, tuỳ ư các ông, tôi cũng không c̣n là Trung đội trưởng của mấy ông nữa . Rồi như dứt khoát, Ba Đức đứng dậy, lấy giây ba chạc súng đạn mang vào người, bỏ đi.
Mọi người ngơ ngác, nhưng kết cuộc ắt phải xảy ra, làm sao có thể xoay chuyển được - Cả một guồng máy chính quyền, quân đội, như vậy mà c̣n phải chịu, huống chi một trung đội Nghĩa quân - Buồn th́ buồn lắm, nhưng họ phải nh́n vào sự thật phũ phàng, họ cũng im lặng ngó nhau, bỏ lại súng đạn , người trước, kẻ sau, rời đồn về với gia đ́nh.
Ba Đức chạy thẳng về nhà vợ chồng người em gái - Mấy hôm trước, thấy t́nh h́nh lộn xộn, để giữ an toàn cho mẹ và vợ con, cũng như sự an tâm cho chính ḿnh, anh đă đưa cả nhà về ở nhờ người em rể, v́ ở đây, có căn hầm trú ẩn rất rộng răi, chắc chắn.
Không khí trong gia đ́nh thật ảm đạm, giống như nhà có đám tang - mà nếu nói là gia đ́nh có tang, trên phương diện nào đó cũng đúng thật . Suốt ngày 30-4, Ba Đức nằm dí trên giường, không ăn uống, hỏi không nói, gọi không thưa, nằm vắt tay lên trán, thỉnh thoảng thở dài nghe muốn đứt ruột - Hai đứa con rất mến bố, nhưng thấy bố như vậy cũng không dám lại gần - Mẹ, vợ, em gái, em rể, ái ngại nh́n, không biết nói ǵ để an ủi, v́ họ hiểu sự mất mát này quá lớn lao, nỗi đau này là nỗi đau chết người, họ cũng buồn lắm, biết nói ǵ đây!
Nh́n ra ngoài trời, mây kéo về xám xịt, bầu trời cũng âm u, như chia sẻ niềm đau, nỗi hận, với nhân dân miền Nam . Cḥm xóm ai cũng ngơ ngơ, ngác ngác, trước cuộc thay đổi nghiệt ngă này - Họ bị hối thúc treo cờ, mít tinh v...v... để gọi là "chào mừng giải phóng", nhưng ai cũng chỉ à ới cho qua chuyện thôi.
Chập tối, chú em thân tín nhất trong Trung đội, thường theo sát Ba Đức ghé thăm, hai anh em th́ thầm với nhau một lát, những điều chú nói cho Ba Đức tóm tắt như sau:
- Anh Sáu Bộ (một Trung đội trưởng Nghĩa quân trong quận) bị tụi nó giết ngay tại đồn.
- Chú Tám Én, Trung đội Trưởng Cầu Vơng, bị tụi nó vô nhà vây bắt, rồi đem ra ngoài xử bắn luôn.
- Anh Ba t́m đường thoát đi, chắc chắn tụi nó đang kiếm anh, tụi VC vào đồn ḿnh, chỉ thấy súng đạn để lại, không gặp một ai, chúng không nắm vững t́nh h́nh ở vùng ḿnh, nên chưa kiếm ra anh đấy thôi.
Ba Đức suy nghĩ lung lắm, trước sau ǵ cũng phải đối diện thực tại - Anh đă có quyết định riêng cho ḿnh, nhưng không muốn ảnh hưởng đến những người thân yêu, nhất là đang ở nhà em rể - Qua một đêm hồi hộp đợi chờ , Ba Đức càng quyết tâm hơn nữa - Mờ sáng 1-5-75, Ba Đức nai nịt gọn gàng, giọng b́nh tĩnh nói với mẹ:
- Con về nhà trước thắp nhang lễ Ba, má với vợ con về sau nha! Hôm nay kể như tạm yên, ḿnh về nhà được rồi.
Hướng về hai người em anh nói:
- Má với anh chị cám ơn cô, dượng nhiều nghe
Quay sang vợ, Đức dặn ḍ:
- Chờ mấy đứa nhỏ ngủ dậy rồi em với má đưa con về. Anh về trước.
Hai nhà cách nhau không xa lắm, không muốn nổ máy xe ồn ào, Đức để xe lại, lủi thủi đi bộ về nhà.
Sau khi mở cửa vào, anh đóng cửa lại cẩn thận, thắp ba nén nhang, đứng trước bàn thờ bố, miệng lầm thầm khấn vái - cắm xong mấy nén nhang, anh ta thay bộ đồ cũ đă mặc mấy hôm nay bằng một bộ đồ ủi hồ mới tinh - Ngắm ḿnh trong tấm kiếng, với một giọng hết sức tỉnh táo, kèm đôi chút hănh diện, anh nói nhỏ riêng ḿnh nghe: Nghĩa Quân là phải "ngon"!
Vừa xỏ xong hai ống quần, Ba Đức nghe tiếng ồn ào ngoài ngơ, rồi giọng nói của má chàng vọng vào:
- Tui đă nói với mấy ông là con tôi ở nhà chứ có trốn tránh ǵ đâu
Bà lớn tiếng gọi:
- Ba à! Đang làm ǵ đó con?
Ô, vậy là chương tŕnh không đúng như dự tính, chắc phải ồn ào hơn chút đỉnh rồi - Nhưng không sao, cũng "vui" thôi - Nghĩ vậy, Ba Đức lên tiếng trả lời mẹ:
- Con đang thay đồ.
Nh́n qua khe cửa, anh thấy mẹ đi trước, theo sau bà cả chục tên du kích VC, súng ống đầy đủ, lố nhố tiến vào trong sân - Phía sau là Dung và hai đứa con nhỏ, rồi đến hai vợ chồng cô em và đứa con, một số bà con trong xóm cũng ngấp nghé ngoài cổng, không hiểu v́ ṭ ṃ hay bị lùa đến để chứng kiến cuộc vây bắt.
Vừa nghe Ba Đức lên tiếng trong nhà, tên chỉ huy toán du kích trở mặt liền với bà Tư - Hắn quát lớn:
- Thôi bà kia đứng lại, lui ra phía sau.
Hắn ra lệnh cho đồng bọn:
- Tổ 1 triển khai bố trí sau nhà, khẩn trương - Các đồng chí c̣n lại vây phía đằng trước.
Hướng vào phía trong nhà hắn la lớn:
- Ba Đức ra hàng ngay, nếu không lực lượng du kích sẽ tấn công vào nhà.
Hắn lại ra lệnh cho thuộc hạ:
- Các đồng chí, chuẩn bị thủ pháo - Miệng nói, tay hắn vẫy vẫy cho ba tên tiến gần cửa, trong tầm ném.
Ba Đức đứng trong nhà nghe không sót một câu, từ lúc nó đuổi bà mẹ ra, cho đến khi nó ra lệnh cho mấy đứa tiến vào, gia đ́nh Ba Đức và bà con thấy vậy cũng lùi ra xa
Ba Đức từ trong nhà lên tiếng:
- Tôi chuẩn bị ra đây!
- Dơ hai tay lên khỏi đầu, mở cửa bước ra!
Cánh cửa từ từ mở rộng, người ta thấy hai bàn tay khum khum dơ cao đưa ra, rồi một bóng người xuất hiện trong khung cửa, bộ quần áo trận màu đen thẳng nếp, cổ quấn một lá cờ vàng ba sọc đỏ, hai tay vẫn dơ cao khỏi đầu, từ từ bước ra khỏi nhà, cặp mắt quét nhanh một nửa ṿng tṛn nhận định vị trí - Tên VC chỉ huy quát lớn:
- Nằm sát xuống đất, hai tay dang ra!
Ba Đức hơi khựng lại, rồi đột nhiên anh ta vụt chạy thật nhanh đến chỗ tên chỉ huy và ba tên du kích đang đứng gần nhau, tay trái buông thơng xuống, tay mặt vung mạnh về phía đầu hồi, nơi có mấy tên khác đang quỳ lom khom bố trí hướng súng vào trong nhà - Đồng thời có tiếng hét bật ra từ lồng ngực: "Việt Nam Cộng Hoà muôn năm - Đả đảo cộng sản" - Trước sau hai tiếng nổ chát chúa vang lên - khói, bụi, cát, đất, lẫn vào nhau tung lên mù mịt - Dân chúng hoảng hốt kéo nhau chạy dạt ra - Bọn du kích không tên nào kịp phản ứng - Ba Đức và tên chỉ huy du kích chết banh xác tại chỗ, hai tên khác đang dẫy dụa trong vũng máu, tên thứ ba cũng nằm gục xuống, không rơ c̣n sống hay đă chết - Phía đầu hồi, chỉ có một tên lănh đủ v́ trái lựu đạn trúng ngay chỗ, hai tên khác bị thương nhẹ - Thật khủng khiếp, lần ra tay cuối cùng của Trung đội Trưởng Ba Đức - Anh đă quyết lấy cái chết để đền nợ núi sông, đồng thời nói lên tinh thần chiến đấu đến hơi thở cuối cùng của người chiến sĩ Nghĩa Quân.
Lần đầu và cũng là lần cuối, Ba Đức dùng đến món quà mà đàn anh đă tặng: "Cặp lựu đạn Mini".
A20 Nguyễn Văn Học
trungthu
07-16-2019, 20:39
Ta vào khai giải bùa thiêng yểm
Lăo Hâm Hư đang ăn tiền già nên rất rảnh rang ḿnh có việc lúc đi ngang qua nhà Hâm Hư th́ ghé chơi ,Hâm Hư thấy ḿnh th́ reo lên và khoe
- Tao mới được lên chức Kinh núp mày coi có oai không ?
_ Bộ cận thị nặng hay sao mà phải có kính lúp hả cha nội, ḿnh trả lời.
Hâm Hư liền đưa đầu gần lỗ tai tôi và hét lớn
- KING GROUP không phải KING NÚP..
Lăo ta hét lớn là v́ lăo ta biết tôi bị điếc tai do ngày xưa làm nghề thông ṇng 175 ly
-Ừ th́ là KING GROUP , được mấy sao rồi cha nội , nếu được 1 sao th́ đeo ở cổ vai, nhớ đừng đeo lên trán , phe ta bắn cho bể gáo à nghen
Hâm Hư kéo tôi tới bàn computer của hắn và nói rằng :
- Coi tao vào Việt Bề Ép anh dũng như thế nào , hắn liền nhấp chuột vào VietBF trong lúc miệng Hâm Hư ngâm 2 câu trong bài thơ TA VỀ của thi sĩ Tô Thùy Yên nhưng sai một chữ :
- Ta vào khai giải bùa thiêng yểm ( về )
- Tỉnh dậy đi nào gỗ đá ơi...
Thấy giọng ngâm thơ của Hâm Hư hay quá, nghĩ thầm : th́ ra Hâm Hư là loại vừa bắn vừa ngâm thơ, thảo nào lăo ta hăng hái thế..nhưng tôi nói :
- Kẻ dán bùa toàn là loại thầy pháp chuyên luyện " Thiên linh cái " hông à, bạn được bao nhiêu phép mà dám gỡ bùa .... Đang định nói tiếp th́ nghe tiếng AK 47 nổ gịn như bắp rang tôi bèn nói :
- Thôi , Hâm Hư ở lại , để tôi đi kiếm lăo Long Huệ " leo lon t́m động hoa vàng mà phê "
Biết tôi là thằng nhát đ̣n nên không giữ ở lại , lúc đi ra khỏi nhà Hâm Hư c̣n nghe thấy tiếng lăo rủa tôi:
- Thằng chết nhát ,chẳng có nghĩa khí, và rồi Hâm Hư tiếp tục ngâm 2 câu thơ truyền thống của lăo...
Ḷng tôi bỗng thấy se thắt lại, Không biết " gỗ đá " có tỉnh lại hay không ? mà chỉ thấy một lăo già tóc đă đổi mầu lụi cụi gơ bàn phím để gỡ " lá bùa thiêng yểm " và mong:
-Giải oan cho cuộc biển dâu này... ( TA VỀ thơ của thi sĩ Tô thuỳ Yên )
trung thu
hoanglan22
07-19-2019, 15:58
Ta vào khai giải bùa thiêng yểm
Lăo Hâm Hư đang ăn tiền già nên rất rảnh rang ḿnh có việc lúc đi ngang qua nhà Hâm Hư th́ ghé chơi ,Hâm Hư thấy ḿnh th́ reo lên và khoe
- Tao mới được lên chức Kinh núp mày coi có oai không ?
_ Bộ cận thị nặng hay sao mà phải có kính lúp hả cha nội, ḿnh trả lời.
Hâm Hư liền đưa đầu gần lỗ tai tôi và hét lớn
- KING GROUP không phải KING NÚP..
Lăo ta hét lớn là v́ lăo ta biết tôi bị điếc tai do ngày xưa làm nghề thông ṇng 175 ly
-Ừ th́ là KING GROUP , được mấy sao rồi cha nội , nếu được 1 sao th́ đeo ở cổ vai, nhớ đừng đeo lên trán , phe ta bắn cho bể gáo à nghen
Hâm Hư kéo tôi tới bàn computer của hắn và nói rằng :
- Coi tao vào Việt Bề Ép anh dũng như thế nào , hắn liền nhấp chuột vào VietBF trong lúc miệng Hâm Hư ngâm 2 câu trong bài thơ TA VỀ của thi sĩ Tô Thùy Yên nhưng sai một chữ :
- Ta vào khai giải bùa thiêng yểm ( về )
- Tỉnh dậy đi nào gỗ đá ơi...
Thấy giọng ngâm thơ của Hâm Hư hay quá, nghĩ thầm : th́ ra Hâm Hư là loại vừa bắn vừa ngâm thơ, thảo nào lăo ta hăng hái thế..nhưng tôi nói :
- Kẻ dán bùa toàn là loại thầy pháp chuyên luyện " Thiên linh cái " hông à, bạn được bao nhiêu phép mà dám gỡ bùa .... Đang định nói tiếp th́ nghe tiếng AK 47 nổ gịn như bắp rang tôi bèn nói :
- Thôi , Hâm Hư ở lại , để tôi đi kiếm lăo Long Huệ " leo lon t́m động hoa vàng mà phê "
Biết tôi là thằng nhát đ̣n nên không giữ ở lại , lúc đi ra khỏi nhà Hâm Hư c̣n nghe thấy tiếng lăo rủa tôi:
- Thằng chết nhát ,chẳng có nghĩa khí, và rồi Hâm Hư tiếp tục ngâm 2 câu thơ truyền thống của lăo...
Ḷng tôi bỗng thấy se thắt lại, Không biết " gỗ đá " có tỉnh lại hay không ? mà chỉ thấy một lăo già tóc đă đổi mầu lụi cụi gơ bàn phím để gỡ " lá bùa thiêng yểm " và mong:
-Giải oan cho cuộc biển dâu này... ( TA VỀ thơ của thi sĩ Tô thuỳ Yên )
trung thu
Nối tiếp câu chuyện
Lăo Hâm hư c̣n lại một ḿnh nh́n cuộc đời bể dâu những người bạn vào sinh ra tử đếm không c̣n ai . Thế mà có một lăo độc hành tha nhân ở đâu mà lạc bước tới đến thăm hỏi
Thôi kệ người mỹ th́ có lễ độc lập , tui và lăo chỉ có vài món lạc rang và gà luộc chai bia ăn mừng với bài ca
“America The Beautiful”:
O beautiful for spacious skies,
For amber waves of grain,
For purple mountain majesties
Above the fruited plain!
America! America!
God shed His grace on thee,
And crown thy good with brotherhood
From sea to shining sea!
Lăo gia hỏi ... này Lăo hâm hư chuyện chống cộng lăo đến đâu rồi .
- Giờ nói chuyện chống cộng th́ hơi lạc đề , chuyện đất mỹ phe ta đang quay ṇng súng sang chính trị . Phe th́ đang mong TT trump đánh gục tên trung cộng để rồi tên CSVN tự sụp đổ .Phe th́ chửi lại và đang sống ở đất mỹ và nhờ mỹ cho vào tị nạn lâu ngày ăn sung mặc sướng quên hết cả chủ trương là ǵ ??? đúng là bọn chó má thay đổi lập trường như cái chong chóng khi gió thổi
Lăo hâm hư làm thêm một ngụm bia và nói tiếp chuyện TT mỹ đánh sập Trung cộng khó quá không phải dễ dàng như nhiều người mơ tưởng . Nh́n lại thời trước đánh sập liên sô kéo theo nhiều nước cs sụp đổ v́ lúc đó mỹ ở thế mạnh có nhiều đồng minh . C̣n thời này đồng minh tan ră th́ lấy đâu mà đánh sập . Tuy nhiên không phải là không có cách , đầu óc chiến lược gia ở mỹ rất nhiều c, chỉ có điều tranh dành phe đảng đánh nhau tán loạn nên không trung ở một điểm mà thôi-
- Lăo gia chơi miếng phao câu gà xong nhấp miếng bia nói ...Ừ nghĩ cũng phải ngay viet bê , bê hổng hết đủ mọi chuyện ..ba cái chuyện chống cộng dường như chỉ nhắm vào thành kiến tư thù những tép riêu , loại tép lớn tôm cá th́ ẩn náu sao hổng thấy ai bắt được .
Lăo hâm hư trả lời , ba cái con tôm tép lớn cần phải chuẩn bị bắt bằng nhiều dụng cụ , nhưng khốn nạn những dụng cụ này mỗi lần lấy ra dùng th́ thấy đám bạn lúc trước mượn lại phá hư hết
Đột nhiên có tiếng AK nổ một tràng ḍn dă khiến lảo gia run như cầy sấy chui xuống gầm bàn và thảng thốt kêu lên ..tụi nó đang xung phong .
-lăo hâm hư cười và nói đừng sợ lăo gia ơi tiếng AK là tiếng cái loa TV đang mở . Thật sự nếu có bắn chúng dùng cây CKC của tiệp khắc có gắn ống ngắm và nhắm thẳng vào lăo gia và tui rồi .
_ lăo gia hoàn hồn và nói ..thôi xin kiếu từ để về lo cho vợ con chứ bàn về chính trị đất mỹ , đám này hay cương ẩu th́ chết cả nhà tui ...
hết câu chuyện
hoanglan22
07-22-2019, 04:42
" Hello Cao Sơn,
Nhận được địa chỉ rồi... À... À... Hồi chiều nói chuyện với Cao Sơn về một vài hình ảnh còn lại gửi Sơn xem chơi của thời còn "Cao Boy Du Đãng 1964-1975". Cao Sơn là người bạn độc nhất thấy hình ảnh còn lại này của tôi... Nhận được cho biết Ok...
Phong An, Pomona."
Đúng ra, đă được đủ tiêu chuẩn đi xin tiền Già. Nhưng có quá nhiều đàn anh hưu trước. Khuyên tôi không nên hưu. Bản thân cũng được loại "đói tiền". Dù rằng có lúc tưởng rằng chống không nổi, đang đi bỗng nhiên quỵ xuống.
Nhưng v́ có gịng máu yêu tiền. Đành phải, chống gậy kiếm cơm. Tôi giải trí bằng cách viết, hay t́m những ai "đồng dạng" với ḿnh. Ăn tục nói phét cho qua ngày tháng. Những người bạn Quân đội cùng thời, những đàn anh đi trước là một trong những "mục tiêu" của tôi. Nói Phét không cần phải hà tiện. Là con người tôi. Ai đọc đến đây không quen. Xin ngừng cho khỏi khó chịu.
E-mail của người đàn anh ở trên. Là Lính có một thời KHÔNG SỐ QUÂN. Thuộc loại tiền bối BIỆT KÍCH. Một trong nhiều người mà tôi ngưỡng mộ .
Biệt Kích CCN - An Như Phong.
1964. Anh An Như Phong, có bằng Tú Tài Toàn Phần. Học hết chữ tiếng Anh ở Hội Việt-Mỹ. Anh bị gọi đi tŕnh diện khóa 21 Thủ Đức. Nhưng không... Có máu giang hồ phiêu bạt, anh t́nh nguyện vào Biệt Kích làm Thông dịch viên của các toán hành quân. Biết sẽ chết anh vẫn đi, biết sẽ chết anh vẫn làm. Với khả năng Anh Ngữ viết và nói lưu loát. Anh nhanh chóng nổi tiếng trong đơn vị. Những người cùng thời với anh có ông Vơ Đại Tôn. Lúc đó cũng là Thông dịch. Sau đồng hóa lên đến chức Đại Tá. Ông Vơ Đại Tôn được nhiều người biết đến qua chuyến "kinh Kha" về VN năm 1981. Ông Tôn bị bắt, ở tù ngoài Hà Nội nhiều năm. Sau được thả. Nay... Đang sống ở Úc Đại Lợi.
Thông dịch Viên thời Biệt Kích do Mỹ chỉ huy, dắt toán vào rừng. Theo anh Phong kể, th́ lương năm 1964 đâu hơn 21,000/tháng. Tôi nhớ lương Lính VNCH 1966 chưa tới 3,000 ngh́n. Sĩ Quan hơn 7,000. Đó là chưa tính, sau mỗi chuyến công tác, về đến căn cứ Mỹ c̣n phát thêm tiền cho mỗi chuyến công tác. Giống như mấy anh Phi công VNCH chuyên lái H-34 của phi đoàn 219 mà có code name là Kingbee , cứ cất cánh chở Toán vào Lào, bay ra là lănh 3,000. Tiền ra, tiền vào xài thoải mái. Nên sống th́ cứ tiêu. Chết th́ là hết. Trong cuốn "Across the Fence" One-Zero John Meyer cũng có nói rơ về chuyện này.
Thông Dịch Viên cho Toán công tác th́ rất sướng. Ngoài những lúc vào rừng. C̣n lại tha hồ mà hưởng thú đời người. Chỉ Huy Mỹ không cản. Miễn sao, đến giờ thuyết tŕnh hành quân, có mặt đầy đủ là được. Thậm chí, c̣n tỏ ra oai phong. Nói mấy anh phi công của Kingbee, chở ra Huế. Vai mang lon Trung Úy (giả) hạ cánh trực thăng đâu đó, hù Cảnh sát, khoe hàng với mấy cô nữ sinh Trường Đồng Khánh. Chẳng hạn như Thông dịch viên Giáp Mạnh Cường. Về Sài G̣n cũng đeo lon Trung Úy. Có giấy phép đề cấp bực đàng hoàng nghe. Đâu ai dám nói là "Trung Úy dỏm". Anh Cường sau 1975 bị tố là Đại Úy, không đi tŕnh diện cải tạo. Tôi gặp anh trong tù cùng với hàng ngàn Sĩ Quan Đại Úy khác. Tôi c̣n chọc "Ủa lên Đại Úy hồi nào vậy cha ". Anh trả lời " Đeo Trung Úy lâu quá phải thăng cấp chứ" Đó là lư do anh Cường chính thức đi HO với cấp bậc Đại Úy. V́ có giấy ra tù trên 6 năm. Anh Giáp Mạnh Cường đă qua đời ở Tiểu Bang Oregan. USA.
Cái thời ở Trung Tâm Huấn Luyện Quyết Thắng Long Thành 1964. Anh làm trong pḥng chuyên lo hồ sơ An ninh cho các anh chuẩn bị làm công tác Vượt biên. Phía Mỹ nắm quyền quyết định. Chính anh Phong rủ Phạm Bá Toán ( Nhẩy Bắc) từ đời sống dân sự tham gia. Anh Tống văn Thái (Nhẩy Bắc) cùng nhóm nhẩy Bắc với anh Toán. Hai anh Toán và anh Thái bị bắt ở tù mút chỉ hơn 20 năm. Cuối cùng các anh gặp lại nhau ở Mỹ.
An Như Phong năm nay 76 tuổi. Những năm tháng đầu vượt biên đến Mỹ 1979, anh chỉ là Technician cơ khí cho Boeing. Với tính ham học, không chịu thua, không muốn bị đè đầu. Và cũng muốn tiền nhiều. Ban ngày đi làm. Ban đêm đi học. Nhiều năm sau đă có bằng Kỹ Sư, được Boeing cho thăng cấp. Làm Kỹ sư ở đó cho đến ngày về hưu. Anh vẫn thích tóc tán dóc về chuyện xưa. Vẫn văng tục chửi thề mỗi khi chúng tôi tâm t́nh với nhau. Lúc này, anh chống gậy đi tới, đi lui rất "chuyên nghiệp". Nhưng trí óc của anh th́ vẫn "như thuở c̣n thơ". Vẫn thích nhớ đến cái thuở giang hồ kỳ bạt.
Một tràng pháo "chân" cho Cái Bang Trưởng Lăo "Biệt Kích" An Như Phong.
Lính không biết văng tục không phải là lính
Cao Sơn ( Cao Hùng Sơn CVA 66-73)
hoanglan22
07-22-2019, 04:53
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1422692&stc=1&d=1563771154
Sàig̣n những ngày tháng 4, 1975 không khí thật là ngột ngạt căng thẳng. Chiến sự đă lan dần đến cửa ngơ Sàig̣n. Kể từ sau cuộc di tản chiến thuật khỏi Pleiku vào giữa tháng Ba đầy hỗn loạn đả dẫn đến những cuộc bỏ ngỏ hàng loạt những tỉnh miền Trung dọn đường cho VC tiến quân xuống phía Nam, hướng về Saigon. Cùng với cuộc di tản Pleiku, dân chúng cũng hoảng loạn chạy theo hướng di tản của các đơn vị QLVNCH.
Từ tháng 3, dân chúng khắp nơi từ miền Trung trong đó có cả các nhân viên cảnh sát đă ồ ạt kéo về Sàig̣n đă làm cho t́nh h́nh thủ đô càng thêm bất an. Những tin đồn rằng, đă có một giải pháp chính trị cho Miền Nam đă được xếp đặt trước từ những cuộc mật đàm giữa Kissinger và Lê Đức Thọ nay đang được thi hành. Lănh thổ VNCH theo cuộc mật đàm chỉ từ nam vĩ tuyến 12, khoảng từ Long Khánh xuống phía Nam, c̣n phần phía Bắc thuộc MTDTGPMN, dù VNCH không chịu nhưng nay cũng đành phải chấp nhận. Tuy đó chỉ là tin đồn nhưng vẫn được nhiều người tin và rỉ tai nhau nên đă làm cho nhiều người trốn chạy từ miền Trung về Sàig̣n, đi về phần đất của VNCH. Nhiều người đă t́m cách đi ra nước ngoài để trốn chạy hiểm họa cộng sản đang đến gần. Ṭa đại sứ Hoa Kỳ tại Sàig̣n đă có kế hoạch di tản không chỉ cho những nhân viên người Mỹ mà c̣n cả cho những gia đ́nh nhân viên người Việt làm việc cho họ. Ngay từ tháng Ba, đă có nhiều chuyến bay âm thầm mang số nhân viên sở Mỹ rời khỏi Việt Nam. Chị tôi đang làm thư kư cho ṭa đại sứ Mỹ đă lập danh sách tất cả các anh chị em trong đó có cả gia đ́nh tôi và gia đ́nh bên chồng chị nộp cho giới chức thẩm quyền của ṭa đại sứ cứu xét. Tuy nhiên v́ t́nh h́nh diễn tiến quá nhanh và có thể v́ không đủ ngân sách nên cuối cùng người Mỹ chỉ chấp thuận cho vợ chồng cùng con cái và tứ thân phụ mẫu của người nhân viên sứ quán được phép ra đi mà thôi. V́ thế gia đ́nh tôi và các chị em khác đành bùi ngùi ở lại đi tiễn gia đ́nh chị tôi ra đi vào chiều ngày Chủ Nhật, 27 tháng 4, 1975. Nơi chia tay gia đ́nh chị tôi là một ṭa nhà của MACV nằm trên đường Trương Quốc Dung, Phú Nhuận, nơi được dùng làm địa điểm tập trung các nhân viên sở Mỹ di tản. Đây có lẽ là chuyến bay chót c̣n ra đi bằng máy bay phản lực C-5A Galaxy từ phi trường Tân Sơn Nhất v́ sau đó phi trường bị pháo kích nên các chuyến bay khác từ đây đă bị hủy bỏ.
Trong lúc các nhân viên sở Mỹ di tản th́ tại các công sở người Việt, con số người đi làm mỗi ngày cũng vắng hẳn đi, số c̣n lại cũng chẳng thể yên tâm làm việc. Ngoài ra c̣n có tin đồn về một chiếc tàu do ḍng họ Lee bên Đại Hàn vốn là hậu duệ thuộc ḍng dơi của Hoàng tử Lư Long Tường đời nhà Lư phiêu bạt sang Đại Hàn gần một ngàn năm trước, đang có mặt tại Sàig̣n. Chiếc tàu Đại Hàn này được phái sang Việt Nam để t́m cách di tản cứu những người Việt thuộc ḍng dơi con cháu nhà Lư đem về Đại Hàn lánh nạn cộng sản. Được biết, Hoàng tử Lư Long Tường là vị hoàng tử duy nhất của nhà Lư sống sót sau khi nhà Lư bị Trần Thủ Độ âm mưu soán ngôi đă phải trốn chạy sang Đại Hàn định cư từ thế kỷ thứ 12.
Trước những tin tức dồn dập như vậy, số người đổ về Sàig̣n mỗi ngày mỗi đông. Tại Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát, hàng ngày có cả trăm nhân viên từ miền Trung di tản về Sàig̣n tŕnh diện. Một ban tiếp nhận trực thuộc Khối Nhân Viên đă được gấp rút thành lập để giải quyết t́nh trạng thặng số nhân viên này. Hầu hết các nhân viên này sau đó đă được phân bổ về các bộ chỉ huy tỉnh vùng IV theo nguyện vọng của họ, hoặc theo sự tái phối trí của Bộ Tư Lệnh.
T́nh h́nh mỗi ngày mỗi căng thẳng. Ngày 8 tháng 4, 1975, một chiếc máy bay A-37 của KQVN bất thần bay đến giội bom Dinh Độc Lập tuy không gây thiệt hại ǵ đáng kể nhưng đă làm cho mọi người thêm hoang mang. Lúc đầu mọi người tưởng rằng có đảo chánh v́ trước đó đă có nhiều tin đồn về việc này, nhưng sau được biết đó là chiếc phi cơ của KQVN do tên phi công phản loạn nằm vùng Nguyễn Thành Trung xuất kích từ Biên Ḥa bay về bỏ bom Dinh Độc Lập, nhưng có lẽ do vội vă nên mấy quả bom thả xuống đă không trúng mục tiêu, hoặc không nổ, chỉ có một quả sớt qua dinh. Để trấn an, Bộ Tư Lệnh CSQG sau đó đă ra thông tư giải thích đây chỉ là hành động phản nghịch, bất măn đơn thuần của một cá nhân riêng lẻ trong quân đội, và kêu gọi mọi người hăy b́nh tĩnh sát cánh cùng toàn quân, toàn dân và đoàn kết, sẵn sàng chiến đấu trước hiểm họa xâm lăng của cộng sản.
Chiều 20 tháng 4, không khí Sàig̣n càng thêm căng thẳng sau khi có những tin tức không mấy tốt lành cho sự tồn tại của VNCH về việc Long Khánh đă thất thủ sau hơn mười ngày cầm cự tại mặt trận Xuân Lộc. Tại mặt trận này, Sư Đoàn 18 Bộ Binh dưới quyền chỉ huy của Tướng Lê Minh Đảo đă đánh một trận cuối cùng oanh liệt từ ngày 9 đến ngày 20 tháng 4 gây tổn thất nặng nề cho địch trước khi rút lui về Sàig̣n. Sau khi mặt trận Xuân Lộc tan vỡ, hầu như chiến trường không c̣n một trận đánh lớn nào.
Tiếp theo tin Long Khánh thất thủ, trước những áp lực từ nhiều phía, tối ngày 21 tháng 4, 1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đă tuyên bố từ chức trong một bài diễn văn đọc trực tiếp trên đài truyền h́nh, trao quyền lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Biến cố này lại càng gây hoang mang thêm trong dân chúng. Người ta không biết t́nh h́nh rồi sẽ diễn tiến ra sao? Sự hoang mang đến không chỉ từ t́nh h́nh chiến sự không mấy tốt đẹp, mà c̣n hoang mang cả trong t́nh h́nh chính trị trong nước. Trong lúc dầu sôi lửa bỏng như vậy, nhóm đón gió thành phần thứ ba vẫn c̣n đang chạy cờ vào ra Dinh Hoa Lan của Tướng Dương Văn Minh với hy vọng được chia chác quyền lực trên ảo tưởng về một giải pháp chính trị sắp đến.
Tại Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát, ngày 22 tháng 4, 1975, trong một buổi họp nhân viên dưới quyền tại Sở Tổng Quản Trị/Khối Nhân Viên, Trung tá H., Chánh sở, đă trấn an mọi người về những t́nh h́nh chiến sự đang diễn tiến. Ông nói, mọi việc rồi sẽ ổn thỏa và chiến sự rồi sẽ có giải pháp chấm dứt; nhưng nay, trước hết mọi người cần phải b́nh tĩnh, không nên hốt hoảng có thể dẫn đến t́nh trạng hỗn loạn như đă xảy ra ở Đà Nẵng vào tháng trước. Ông cũng khuyên mọi người không nên t́m đường chạy ra nước ngoài, để đến một xứ sở hoàn toàn xa lạ về văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, chưa kể c̣n bị kỳ thị v́ màu da; hơn nữa rất khó kiếm việc làm v́ khác tiếng nói và tŕnh độ. Ông c̣n nói, “Mọi người chúng ta chỉ là những người dân và cấp thừa hành, không có ǵ phải lo sợ một mai khi có sự thay đổi chế độ hay chính thể.” Thật đáng tiếc, đây không chỉ là một suy nghĩ sai lầm của Trung tá H. mà có lẽ c̣n là suy nghĩ của khá nhiều người trước ngày Miền Nam được “giải phóng” bởi những người cộng sản. Phải đợi sau ngày Miền Nam thực sự bị “phỏng giái” mọi người mới nghiệm ra được sự sai lầm của ḿnh th́ đă quá muộn.
Sau buổi họp ngày 22 tháng 4, Trung Tá H. nhắc nhở mọi người tiếp tục công việc của ḿnh, đồng thời loan báo sẽ có một buổi họp khác vào 9 giờ sáng hôm sau 23 tháng 4 để có những phân công mới. Đúng 9 giờ sáng hôm sau, mọi người đă có mặt ngồi đợi trong pḥng hội của Sở Tổng Quản Trị để chờ Trung tá H. đến họp nhưng chờ măi mà không thấy ông đến. Khoảng 9 giờ 30, có chuông điện thoại reo từ văn pḥng của Trung tá H., Thiếu úy L., trưởng văn pḥng Chánh sở, sau đó đă trả lời điện thoại và cho biết, chính Trung tá H. vừa điện thoại báo cho biết, ông không thể đến họp được v́ con đường từ nhà ông ở cư xá Phú Lâm đến Bộ Tư Lệnh đă bị ngăn chận trên đường Hậu Giang dẫn về trung tâm Sàig̣n. Do vậy, cuộc họp phải hủy bỏ, tuy nhiên ông nói, mọi người cứ tiếp tục làm việc như thường lệ, ông sẽ t́m cách đến Bộ Tư Lệnh sau. Tin này làm mọi người xôn xao bàn tán. Có thật Trung Tá H. không đến được v́ con đường bị ngăn chận đóng chốt không? Với cấp bậc trung tá như ông lại sử dụng công xa cảnh sát, không ai nghĩ ông lại bị ngăn cản không cho đi vào thành phố.
Mấy ngày tiếp theo vẫn vắng mặt Trung Tá H., cũng không ai nghe tin tức ǵ về ông. Mặc dù số nhân viên đi làm đă vắng đi nhiều, nhưng số c̣n lại vẫn làm công việc thường nhật một cách đầy trách nhiệm. Lệnh cấm trại 100% tại Bộ Tư Lệnh đă có từ đầu tháng 4 vẫn được mọi người chấp hành nghiêm túc. Hàng đêm, các liên đội ứng chiến của Bộ Tư Lệnh vẫn làm nhiệm vụ ứng trực bảo vệ vành đai an ninh pḥng thủ xung quanh Bộ Tư Lệnh và các địa điểm trọng yếu trong thành phố.
Sáng ngày 29 tháng 4, 1975, tôi vào Khối Nhân Viên BTL để gặp gỡ bạn bè, đồng nghiệp để hỏi thăm t́nh h́nh và công việc, thấy vẫn c̣n khá đông nhân viên cảnh sát các cấp có mặt tại các pḥng, sở Bộ Tư Lệnh chờ lệnh mặc dù mọi người đều biết rằng tướng tư lệnh và ban tham mưu của ông đă đi ra ngoại quốc từ tuần trước rồi. Tôi và những người đang có mặt tại BTL, tất cả được lệnh, không rơ từ đâu, phải ở lại ứng chiến, không ai được phép ra khỏi cổng Bộ Tư Lệnh. Mọi người vừa làm việc, vừa bàn tán về các tin tức thời sự đang diễn tiến. Lúc đó, từ phía ṭa nhà văn pḥng làm việc của tư lệnh mọi người thấy có nhiều xe hơi dân sự và cảnh sát đậu ở phía trước. Nghe nói đang có người của Tướng Minh cử đến để tiếp nhận BTL/CSQG. Ngày hôm trước, Quốc Hội đă biểu quyết chấp thuận cho Tổng Thống Trần Văn Hương, người vừa kế nhiệm Tổng Thống Thiệu từ chức một tuần trước đó, trao quyền tổng thống lại cho Đại Tướng Dương Văn Minh với hy vọng Tướng Minh có thể mang lại một giải pháp ḥa b́nh cho Việt Nam. Thế nhưng hy vọng đó cũng chỉ là vô vọng và quá trễ. Cũng buổi sáng đó, mọi người nh́n thấy một chiếc máy bay cánh quạt bay thấp ngang qua không phận Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát phát ra lời kêu gọi của tân thủ tướng Vũ Văn Mẫu do Tướng Minh vừa chỉ định, yêu cầu người Mỹ rút hết ra khỏi Việt Nam trong ṿng 24 giờ kể từ 5 giờ sáng ngày 29 tháng 4, 1975. Ai cũng tự hỏi, liệu đó có phải là cách chấm dứt chiến tranh và Thủ Tướng Mẫu cần phải ra lệnh như vậy hay không? Bởi v́ được biết trước đó, đài phát thanh FM của quân đội Mỹ ở VN đă phát thanh bản nhạc “White Christmas” (Giáng Sinh Trắng). Đang là cuối tháng 4, giữa mùa Hè, v́ lư do ǵ đài phát thanh quân đội Mỹ lại phát thanh một bản nhạc Giáng Sinh như vậy vào lúc này nếu không phải là một ám hiệu cho người Mỹ? Ám hiệu đó là ǵ nếu không phải là lệnh di tản các kiều dân Mỹ ra khỏi Việt Nam như đang diễn ra. Cho nên lời yêu cầu của thủ tướng Mẫu có lẽ chỉ là cách làm cho người Mỹ khỏi mất mặt khi rút ra khỏi Việt Nam?
Khoảng 7 giờ tối cùng ngày, trong lúc các liên đội ứng chiến của Bộ Tư Lệnh đang chuẩn bị xếp hàng ở sân cờ để được di chuyển đến những vị trí ứng chiến chỉ định th́ một trái đạn pháo kích nổ ở gần đâu đó, có thể ở phía sân Ủy Hội Quốc Tế cũ bên cạnh Bộ Tư Lệnh làm cho một số miểng vụn văng bay ra xa rơi xuống các mái nhà xung quanh nghe rào rào. Mọi người vội vàng chạy túa vào khu nhà Khối Tiếp Vận và những mái hiên nhà xung quanh sân cờ để tạm trú, nhưng chỉ một lát sau khi đă yên tĩnh họ lại tiếp tục trở ra sân để lên xe đi đến những địa điểm ứng chiến. Các liên đội ứng chiến như thường lệ đặt bộ chỉ huy tại các trường xung quanh Bộ Tư Lệnh như Pétrus Kư, Nguyễn Bá Ṭng, Bác Ái,… Thật là một tinh thần trách nhiệm cao độ của những người chiến sĩ cảnh sát vào những giờ phút cuối cùng của cuộc chiến.
Suốt trong đêm 29 rạng 30 tháng 4, 1975, Liên đội 5 của chúng tôi được bố trí ứng chiến tại Trường Trung Học Bác Ái (của người Hoa) nằm trên đường Nguyễn Trăi gần BTL/CSQG. Trung tá Nguyễn Nhựt Châu (Chánh Sở Chưởng Pháp/KNV), Liên đội trưởng, và tôi cùng cả ban chỉ huy liên đội hầu như ai cũng thức. Tin tức về cuộc di tản đang diễn ra trên nóc ṭa đại sứ Mỹ và nhiều địa điểm khác trong thành phố làm cho mọi người đứng ngồi không yên nhưng không biết làm sao v́ thành phố đang giới nghiêm. Nghe nói từ sáng đến giờ cả ngàn người đă tràn vào bên trong ṭa đại sứ này để leo lên những chiếc trực thăng Mỹ bay ra Đệ thất hạm đội Mỹ đang đón đợi ngoài Biển Đông. Trong khi đó, những báo cáo trên những máy truyền tin liên hợp PRC-25 cho biết đặc công VC đă xâm nhập có mặt tại một số nơi ở ngoại ô Sàig̣n. Lệnh trên máy truyền tin yêu cầu các nơi cần đề cao cảnh giác với những tên đặc công này v́ chúng đang giả trang thành những binh sĩ QLVNCH ră ngũ mang băng đỏ cố ư gây náo loạn ngoài đường phố.
Sáng sớm ngày 30 tháng 4, mặc dù vẫn c̣n giới nghiêm nhưng đường phố xe cộ đă nhộn nhịp, mọi người như đang hối hả đi t́m nơi an toàn lánh nạn. Một số người đang lắng nghe từ những chiếc radio transitor phát đi phát lại nhật lệnh của Trung Tướng Vĩnh Lộc, tân tổng tham mưu trưởng QLVNCH vừa được chỉ định, kêu gọi quân nhân các cấp giữ vững tay súng và ở yên vị trí sẵn sàng chờ lệnh, không hèn nhát trốn chạy như người tiền nhiệm của ông và nhiều người khác. Thế nhưng chỉ vài giờ sau, Tướng Vĩnh Lộc cũng biến mất và radio lại phát thanh Nhật lệnh của Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người được Tướng Minh cử làm Quyền tổng tham mưu trưởng thay thế Tướng Vĩnh Lộc. (Sau ngày 30/4/75, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh đă hiện nguyên h́nh là một tên cách mạng ba mươi, được VC tuyên dương là đă góp phần làm ră ngũ QLVNCH vào giờ thứ 25 của lịch sử). Tin tức dồn dập biến đổi từng giờ. Lệnh cử Tướng Nguyễn Hữu Hạnh làm Quyền tổng tham mưu trưởng chưa được bao lâu th́ vào khoảng 10 giờ hơn có lệnh của Tướng Dương Văn Minh kêu gọi quân nhân các đơn vị không được nổ súng và chuẩn bị bàn giao cho đối phương. Sau khi nghe lệnh này, Trung Tá Châu nói với tôi và mọi người: “Thôi đi về! Việc bàn giao để mấy ông lớn lo, không phải việc của ḿnh.” Thế rồi, không ai bảo ai, mọi người đều tự động rời bỏ địa điểm ứng chiến trở về Bộ Tư Lệnh. Cùng lúc đó cũng có lệnh từ Tổng Hành Dinh BTL/CSQG kêu gọi các đơn vị ứng chiến tiếp tục ổn định vị trí và cử đại diện trở về Tổng hành dinh nhận lănh lương khô để tiếp tục làm nhiệm vụ nhưng chẳng ai quan tâm đến lệnh này và không biết có ai thi hành lệnh này hay không. Khi chiếc xe jeep của chúng tôi về đến cổng Bộ Tư Lệnh, người lính gác trong cảnh phục CSDC vẫn c̣n đứng trong vọng gác ngơ ngác nh́n chúng tôi mà không hiểu v́ sao mọi người trở về BTL cùng một lúc đông như thế. Có lẽ đêm qua anh không nghe radio hay máy truyền tin? Cá nhân tôi cùng một số bạn trong liên đội 5 sau đó đă bịn rịn chia tay nhau sau khi về lại trước sân Khối Nhân Viên. Mọi người bùi ngùi bắt tay nhau mà không biết bao giờ sẽ gặp lại.
Trên đường phố trở về nhà, bầu trời âm u không có nắng tôi đă thấy bọn VC nằm vùng và những tên “cách mạng ba mươi” đeo băng đỏ bắt đầu xuất hiện đây đó lăng xăng đi tới đi lui. Về gần đến nhà ở chung cư Minh Mạng gần Ngă Sáu Sàig̣n, Quận 10, tôi thấy có một chiếc xe “pickup” hiệu Daihatsu bên hông có mang một tấm biểu ngữ đỏ có hàng chữ trắng ǵ đó tôi cũng chẳng buồn đọc, trên xe có một số thanh niên đang bắc loa kêu gọi mọi người chuẩn bị “chào mừng cách mạng thành công”! Khi tôi về đến nhà, vợ tôi vội vă đưa cho tôi một túi xách quần áo đă soạn sẵn nói tôi tạm lánh mặt về nhà chị tôi ở Tân Định v́ ở chung cư đă có khá nhiều bọn nằm vùng xuất hiện mang băng đỏ đi phát truyền đơn trong xóm. Ngay trước nhà tôi, một tấm biểu ngữ đỏ dài chăng ngang đường nối liền hai ṭa nhà chung cư viết cái ǵ trên đó tôi cũng không để ư.
Một giờ sau khi về đến nhà chị tôi ở Tân Định, khoảng 11 giờ 30 sáng, tôi nghe tin từ radio phát ra lời đầu hàng của Tướng Dương Văn Minh, cùng lúc đó, ngoài đường nhiều tiếng súng AK chát chúa vang lên từng chập, có lẽ bọn cách mạng ba mươi, nằm vùng đang nổ súng để ăn mừng! Vừa nghe tin đó, tôi bỗng dưng ứa nước mắt nh́n chị tôi cũng đang khóc một cách tự nhiên mà không nói được lời nào.
Khoảng 1 giờ trưa, đứa em trai tôi tên Tiến từ ngoài cửa lếch thếch bước vào nhà. Em tôi mới 18 tuổi, mới nhập ngũ được gần hai tháng đang thụ huấn tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Nó nói, hôm nay sau khi có lệnh đầu hàng, các sĩ quan cán bộ đă tập họp các khóa sinh và tuyên bố cho họ được tan hàng về nhà. Tất cả các khóa sinh trong đó có em tôi sau đó đă tự động t́m cách đi về nhà. Bộ đồ thường phục mà em tôi mặc là do một người ở trong cư xá gia binh ở Quang Trung đă cho nó. Từ Quang Trung, nó đă vừa đi bộ vừa quá giang xe để đi về nhà. Trong khi đó, tôi và chị tôi cũng lo lắng cho một đứa em trai nữa đang phục vụ trong Sư Đoàn 21 BB ở Chương Thiện không biết số phận ra sao, nhưng may mắn hai ngày sau nó đă về được Sài G̣n.
Khoảng 1 giờ 30 chiều, từ cái radio trong nhà từ sáng đến giờ vẫn mở nhưng hầu như chẳng ai buồn nghe từ sau khi có lệnh đầu hàng của ông Minh bỗng có tiếng một người giọng Huế tự nhận là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nói đại ư rằng: “Tôi, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, rất vui mừng và cảm động…, tôi xin hát bài Nối ṿng tay lớn.” Ngay sau đó, ông nhạc sĩ này đă hát bài hát Nối ṿng tay lớn của ông được một số người phụ họa hát theo. Tôi thật buồn và thất vọng với tên nhạc sĩ phản chiến này. Tôi không thể ngờ tên này lại có thể trở cờ thành một tên “cách mạng ba mươi” nhanh đến như thế. Trước đây, nhiều người – nhất là những ai trong ngành an ninh, cảnh sát – đều biết Sơn là một tên nhạc sĩ phản chiến, trốn quân dịch được một số sĩ quan cao cấp của VNCH v́ yêu thích văn nghệ và mến mộ tài năng của y nên đă che chở cho y khỏi bị cảnh sát lùng bắt. Vậy mà khi cái chế độ từng nuôi dưỡng, cưu mang y vừa sụp đổ chỉ mới vài giờ, y đă vội vă ngoảnh mặt, quay ra xun xoe nịnh bợ những người chiến thắng!
Tới lúc đó, cả ba chị em cũng chả thiết ǵ đến ăn uống mà trong nhà cũng chẳng có ǵ để nấu nướng ngoài cái khạp gạo. Đến chiều tối, v́ nhà chị tôi nằm trong một con hẻm ở cuối đường Pasteur, nơi nổi tiếng có nhiều tiệm phở, nên mấy chị em đă rủ nhau đi ra đó để kiếm cái ǵ ăn lót bụng v́ suốt một ngày chưa ai ăn ǵ cả. Suốt con đường Pasteur hôm nay không có một tiệm phở nào mở cửa, nhưng cũng may có một nhà bán cháo gà nên ba chị em đă ghé lại ăn. Mặc dù đang đói bụng mà chẳng ai ăn hết nổi tô cháo của ḿnh.
Sáng hôm sau 1 tháng 5, 1975, tôi trở về nhà thăm vợ và con tôi (mới 7 tháng tuổi) một lát rồi vội vă đi ngay v́ không biết bọn nằm vùng và “cách mạng ba mươi” sẽ có những hành động ǵ. Lúc quay trở lại nhà chị tôi, tôi thấy có khoảng một tiểu đội lính bộ đội Bắc Việt đang lố nhố trong sân nhà chị tôi. Bọn bộ đội Bắc Việt đă mượn sân nhà chị tôi và nhiều nhà khác trong xóm làm nơi đóng quân để đề pḥng bất trắc trong những ngày đầu mới chiếm đóng. Tôi hơi chột dạ chẳng lẽ tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa? Tôi sợ chúng khám phá ra tôi là một sĩ quan cảnh sát cấp bậc đại úy th́ thật là nguy hiểm, khó toàn mạng với chúng. Tôi đă nghe có câu ca dao mới, “Lính ngụy bắt được th́ tha, Cảnh sát bắt được làm ma không đầu.” V́ vậy tôi phải nói tôi là một nhà giáo đến thăm chị và em tôi một lát rồi vội vă đi ngay. Tôi chạy xe loanh quanh ngoài đường, định ghé nhà mấy người bạn xem ai c̣n, ai đă ra đi, nhưng cuối cùng tôi lại thôi, quay trở về nhà ḿnh.
Những ngày tiếp theo là những ngày đầy căng thẳng lo âu không biết số phận ḿnh sẽ ra sao với những người vừa chiến thắng. Tôi cũng như các quân cán chính khác đều phải ra tŕnh diện với các ủy ban quân quản ở phường, quận, và thành phố. Mấy ngày sau, tôi gặp V.H.A., một người bạn văn nghệ, người đă có một số sách viết về t́nh yêu và tuổi trẻ khá ăn khách trong đó có tập truyện đầu tay “Dễ Thương” mà tôi có viết lời giới thiệu. Anh rủ tôi đến Hội Văn Nghệ Sĩ Yêu Nước (hay Giải Phóng?) có trụ sở đặt tại ṭa nhà ṭa Đại Sứ Đại Hàn trên đường Nguyễn Du để ghi danh. Tôi nghĩ, mặc dù thỉnh thoảng cũng có thơ văn in trên báo, nhưng tôi chỉ viết lách tài tử, không chuyên nghiệp, chẳng ai biết đến tên tuổi mà lại ghi danh vào hội này trong khi ḿnh lại là một sĩ quan cảnh sát bị liệt vào loại ác ôn th́ dễ bị nghi ngờ lắm. Nghĩ vậy nên tôi đă từ chối lời đề nghị của bạn. Sau đó, khoảng vài tuần sau, V.H.A. lại rủ tôi và một người bạn khác, mỗi người góp $100.000 làm vốn chung để mua bán phụ tùng xe đạp trên lề đường Minh Mạng, Quận 10. Lúc đó, sau ngày 30 tháng 4, 1975, xe đạp bỗng trở thành cái mốt thịnh hành thay cho xe gắn máy nên chợ trời phụ tùng xe đạp cũng bắt đầu xuất hiện đầy con đường Minh Mạng. Thế là cả ba chúng tôi bỗng chốc trở thành những tên buôn bán chợ trời rất sớm một cách bất đắc dĩ. Nhưng tôi chưa có dịp trổ tài buôn bán cũng như chưa nh́n thấy được đồng lời lăi nào từ việc bán buôn này th́ ngày 25 tháng 6, 1975, đúng như sự lo sợ của vợ tôi, tôi đă bị bọn “Cách mạng Ba Mươi” chỉ điểm dẫn công an đến nhà bắt. Tôi bị buộc tội “trốn tŕnh diện học tập” v́ mang cấp bậc Đại úy Cảnh Sát mà giờ này c̣n ở nhà không đi tŕnh diện học tập. Mặc dù tôi có giải thích, ngày tŕnh diện dành cho cấp Đại úy Cảnh Sát khác với ngày dành cho đại úy quân đội nhưng tôi vẫn bị chúng bắt giải vào giam trong khám Chí Ḥa.
Khi được giải vào đến khám Chí Ḥa th́ tôi đă hiểu rằng, dù bị bắt hay đi tŕnh diện th́ cũng một nghĩa như nhau, bởi v́ cùng bị bắt giam vào Chí Ḥa với tôi c̣n có hàng trăm quân cán chính khác đủ mọi cấp bậc. Có người bị bắt ở nhà như tôi, cũng có người bị bắt trên đường đi đến địa điểm tŕnh diện. Dù có giải thích thế nào th́ mọi người vẫn bị bắt v́ đó là chủ trương “thà bắt lầm c̣n hơn bỏ sót” của những người chiến thắng. Trong số những người bị bắt giam ở Chí Ḥa có rất nhiều giới chức cao cấp trong quân đội cũng như cảnh sát và hành chánh của VNCH. Như: về phía cảnh sát có Đại Tá Đàm Trung Mộc, cựu Viện Trưởng Học Viện CSQG; Đại Tá Cao Xuân Hồng, cựu Giám Đốc Nha CSQG Khu II, Trung Tá Trần Thanh Bền, cựu Tổng Giám Đốc CSQG, …. C̣n bên phía quân đội có Chuẩn Tướng Lê Văn Thân, Đại Tá Trần Vĩnh Đắt, Thiếu Tá Đặng Sĩ (vụ Phật Giáo Huế 1963), Trung Tá Trần Ngọc Thức (vụ vũ nữ Cẩm Nhung),… Về phía dân sự có Bác sĩ Hồ Văn Châm (bộ trưởng Chiêu Hồi… Cựu Chiến Binh), cựu Thủ Tướng BS Phan Huy Quát, kư giả lăo thành Nguyễn Tú, tỷ phú Nguyễn Đ́nh Quát (cựu ứng cử viên Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Ḥa),… Và c̣n nhiều nữa tôi không nhớ hết. Những người này, một số sau đó được chuyển đi các trại khác, có người bị đưa ra miền Bắc như Đại Tá Đàm Trung Mộc (sau đó đă chết trong trại tù Hà Sơn B́nh năm 1982); nhưng cũng có một số bị giam ở Chí Ḥa cho đến khi được trả tự do. Tôi là một trong số những người “may mắn” đó. Trong cái rủi (bị bắt) cũng có cái may là tôi không bị đưa vào rừng, lên núi lao động vinh quang; cho nên, nếu không rủi ro vào giờ thứ 25 như vậy biết tôi có c̣n sống để viết những hồi ức này hay không?
PBC Hội Ngộ
hoanglan22
07-26-2019, 22:38
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1425568&stc=1&d=1564180681
Lâu nay tôi vẫn kể chuyện chung sự của các chiến hữu, nay lại kể thêm câu chuyện buồn. Trưa chủ nhật 21 tháng 7-2019 IRCC/Viet Museum và Dân Sinh Media tổ chức ngày ghi dấu hiệp định Geneve chia đôi đất nước. Ngày xưa kỷ niệm này gọi là ngày quốc hận. Bây giờ chuyện di cư năm 1954 bị quốc hận 30 tháng tư 75 làm lu mờ. Tuy nhiên anh em chúng tôi là thành phần t́nh Bắc duyên Nam, làm sao quên được chuyện Bắc Kỳ di cư dù rằng xa cách đă 65 năm. Đă sắp xếp được 40 bàn bao trọn nhà hàng Phú Lâm. Cô Lương Kim Dung là bà quả phụ Trần Văn Tước đặt một bàn cho anh chị em cùng khóa. Trong số này đặc biệt có anh chị Nghiêm Kế. Phải nói là quá đặc biệt v́ cô vợ xứ Bưởi Biên Ḥa sẽ lái xe rước anh Kế từ Nursing home đi dự tiệc. Nhưng khi tôi viết những hàng chữ này th́ anh Kế vừa ra đi. Nghiêm Kế sẽ không bao giờ họp mặt với chúng tôi nữa.
Câu chuyện giữa anh em cùng khóa mà nói đến toàn dân, toàn quân xem ra quá rộng răi. Thu lại trong số hơn 300 sinh viên cùng khóa xem ra cũng c̣n quá nhiều. Khóa chúng tôi tên gọi là Cương Quyết sĩ quan trừ bị gồm có 5 đại đội bị động viên tháng 3 năm 1954. Ba đại đội quê miền Nam và miền Trung vào trường Thủ Đức. Hai đại đội ra đi từ Hà Nội gửi qua Đà Lạt. Nghiêm Kế và chúng tôi được xếp vào trung đội 21. Anh em cùng khóa trong quân trường sau này gặp nhau thường đại ngôn rằng khóa của ḿnh ngon nhất. Rồi cao hứng thu nhỏ lại nói rằng trung đội của ḿnh bao giờ cũng hay ho hơn các trung đội khác. Theo đúng truyền thống muốn hơn người tôi cũng phải xác nhận rằng khóa Cương Quyết Đà Lạt của chúng ḿnh là số một. Rồi thu nhỏ lại niềm hănh diện th́ trung đội 21, đại đội 6 của tôi với Nghiêm Kế cũng là số 1.
Nếu xét về học vấn th́ khóa của chúng tôi xem ra rất tầm thường. Phần lớn chưa có tú tài ở thời kỳ 54. Giỏi lắm là có bằng trung học. Nhưng Điện Biên Phủ đang giao tranh. Học sinh trung học đệ tứ là bị gọi động viên. Thêm vào đó khóa học cấp tộc có 6 tháng. Làm sao so được với mấy cậu Đà Lạt 4 năm ra trường với bằng cử nhân. Nhưng khóa Cương Quyết ra trường vào lúc quân đội đang thành lập các đơn vị nhảy dù, TQLC, các tiểu đoàn bộ binh và các quân binh chủng. Những chàng trai Hà Nội bắt đầu đeo lon Tây đội mũ xanh, mũ đỏ lao vào cuộc đời với tất cả hào hứng của tuổi trẻ. Nghiêm Kế là một trong các chàng trai Hà Nội theo học công binh, một binh chủng có nhiều hứa hẹn vô cùng khắc nghiệt. Tuy là binh chủng chuyên môn nhưng chiến đấu như bộ binh và trong chiến dịch thường đi đầu và về cuối. Sau khi tốt nghiệp công binh, Nghiêm Kế vốn là công tử Hà Nội đă lên xứ Bưởi Biên Ḥa để t́m người trăm năm mà yên bề gia thất. Nhưng rồi quân lệnh cấp tốc đưa chàng lên nhận trách nhiệm đại đội trưởng trong tiểu đoàn công binh sư đoàn đồn trú tại Pleiku. Cùng một lúc bạn Dương công Liêm khóa niên trưởng Đà Lạt nhận chức tiểu đoàn trưởng. Anh Liêm đến thăm đại đội của Nghiêm Kế đang ngày đêm xây dựng phi trường phia bắc Kontum. Phải đến gần 60 năm sau ông Liêm mới viết xong thiên hồi kư t́nh chiến hữu nhắc lại chuyện xưa rất cảm động.
Từ nhiệm vụ đại đội trưởng công binh binh đoàn đầu sóng ngọn gió, Kế lên nhận chức tiểu đoàn trường công binh sư đoàn 22 với đơn vị đóng tại miền duyên hải nhưng bộ tư lệnh tiền phương của sự đoàn đang hành quân tại Tân Cảnh. Trong chuyến đi từ duyên hải lên thăm đại đội của tiểu đoàn đồn trú ở tiền phương, Nghiêm Kế phải ở lại chịu dựng trận Bắc quân tràn ngập cuối cùng với tư lệnh sư đoàn tử trận . Khi phía bên kia pḥng tuyến tiểu đoàn nhảy dù tan hàng để trung tá Bảo ở lại Charlie th́ bên nầy trung tá Kế nghe tiếng ḥ hét của Bắc quân. Hàng sống, Chống chết. Từ Tân cảnh, tù binh Nghiêm Kế đội mưa B52 trên con đường Trường Sơn Tây mà trở về Hà Nội. Lội bộ ngược đường ṃn HCM một hôm thủ trưởng Cộng quân chợt hỏi. Có anh nào biết tiếng Mỹ không đến đây thông dịch. Ta mới bắt được anh đại úy phi công Mỹ nhảy dù. Kế bên xung phong nhận nhiệm vụ đi với anh tù Đồng Minh. Từ đó hai anh sĩ quan Mỹ Việt bị trói chung trên suốt con đường từ miền Nam ra đến Hà Tĩnh. Câu chuyện di hành suốt 3 tháng có thể làm thành cuốn phim với nhiều hoạt cảnh vô cùng thú vị. Qua hành tŕnh của tử thần, Nghiêm Kế nhiều phen cứu anh bạn tù trải qua những nỗi hiểm nghèo. Kế cũng dạy cho bạn Mỹ nhớ tên các sĩ quan tù binh Việt Nam để sau này về sớm th́ khai báo với phe quốc gia. Bạn trẻ phi công Mỹ thề nguyền sẽ không bao giờ quên ông trung tá công binh Việt Nam. Ra đến Quảng B́nh, bên kia Bến Hải tù binh được mở c̣ng để Mỹ Việt chia tay. Phi công Mỹ lên xe về hỏa ḷ Hà Nội “Hilton”. Nghiêm Kế bị chở lên trại tù binh Thái Nguyên. Năm 1954 khi giă từ Hà Nội, không bao giờ người thanh niên đất Bắc nghĩ rằng lại trở về quê cũ theo con đường đau thương như thế. Đoàn tù binh Sài G̣n ngồi xe bít bùng chạy qua cầu Gia Lâm giữa cơn gió lạnh trong màn sương đêm Hà Nội. Tiếp theo là những ngày tháng ṃn mỏi của đời sống tù binh cùng với những năm đói khát chiến tranh ở Bắc Việt. Tại Sài g̣n, vợ con Nghiêm Kế ngày đêm nghe đài Hà Nội, chợt một đêm nghe tiếng ông Kế trên máy. Mắng chửi ông Thiệu mấy câu cho phải đạo tù binh rồi Nghiêm Ke gửi lời về cho gia đ́nh. Anh chưa chết đâu em. Chị Kế, quê hương xứ Bưởi Biên Ḥa chưa bao giờ được tin anh chồng Bắc Kỳ bị tù mà vui như thế. Chúng tôi xa Hà Nội từ hiệp định Geneve 1954, nhưng Nghiêm Kế cũng nhờ hiệp định Paris 73 mà được trả tự do. Trên bến sông Thạch Hăn vào buổi chiều hạnh ngộ có anh trung tá nhảy dù Nguyễn thế Nhă của trung đội 21 ôm anh tù binh cùng trung đội sinh viên mà nói rằng. Kế ơi là Kế, sao mà mày khốn khổ thế này. Nhưng rồi chinh chiến nào biết ai khổ hơn ai. Mấy tháng sau Nguyễn thế Nhă trung đoàn trưởng của sư đoàn 1 BB tử trận được vinh tháng đại tá.Chúng tôi thuộc trung đội 21 và các bạn cùng khóa tiễn đưa Nguyễn thế Nhă anh hùng về nơi vĩnh cửu tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Trung tá tù binh Nghiêm Kế lại nói rằng. Nhă ơi Nhă, sao số mày khốn nạn thế này. Chào các bạn cùng đưa đám đại tá Nhă, ngày mai Kế sẽ ra miền Trung nhận chức vụ tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn công binh kiến tạo. Rất ít khi các sĩ quan tù binh được trở về lănh chức vụ chỉ huy.
Bây giờ câu chuyện dài rút ngắn. Đơn vị tan hàng năm 75. Kế chạy thoát về Sài G̣n rồi di chuyển bằng thuyền để trở thành các thuyền nhân đầu tiên. Năm 1977 trên con đường di tản từ miền Động về miền Tây nước Mỹ, vợ chồng Nghiêm Kế và đàn con di cư ty nạn lôi thôi lếch thếch được chở tới cổng trại của lữ đoàn trực thăng số 1 của lục quân Hoa Kỳ. Từ cổng trại gia đ́nh ông trung tá ty nạn đi lên con dốc . Phía trên có đoàn quân nhạc của lữ đoàn thổi kèn chào, anh đại úy phi công Mỹ tù binh đói khát ngày xưa bây giờ là ông đại tá tư lệnh cùng vợ con xếp hàng chào gia đ́nh người bạn tù giữa những tiếng cười trong nước mắt. Chỉ trong những giây phút đó những đứa con mới biết ngày xưa bố chúng nó làm công việc ǵ mà được trời đất đăi ngộ những cảnh tượng như trong phim bộ Đại Hàn
Tiếp theo là giai đoạn gia đ́nh Nghiêm Kể về định cư tại San Jose. Sau nhiều năm xây dựng cuộc sống, Kế dẫn vợ về thăm quê hương. Viếng thăm gia đ́nh nội ngoại Bắc Nam là chuyện thông thường. Cả họ nhà chồng đều vẫn c̣n xứ Bắc. Cả họ nhà vợ vẫn c̣n đầy đủ ở miền Nam. Tuy nhiên thật ít người dẫn vợ đi thăm các chiến trường xưa. Về thăm rừng núi Tân Cảnh nơi xảy ra trận cuối cùng. Bên này là pḥng tuyến cuối của sự đoàn 22. Đây là chỗ trực thăng Mỹ bốc cố vấn ra đi để toàn bộ sư đoàn tiền phương ở lại. Chỗ này là tăng địch tràn vào. Ngay đây là con đường ông Kế chạy ra ngoài. Phía bên kia là ngọn đồi Charlie danh tiếng của những người mũ đỏ ở lại muốn đời. Rồi Kế dẫn vợ lên miền Bắc thăm nơi đă sống những ngày tù binh. T́m đến nơi cho quà các tay quản giáo coi tù. Thật là hiếm hoi mới có anh tù Sai G̣n về thăm hỏi tặng quà cho cai tù cộng sản Hà Nội.
Đó là những trận chiến tranh chính tri sau cùng của Nghiêm Kế. Về phần khóa Cương Quyết Đà Lạt của chúng tôi kể chuyện anh em chẳng bao giờ hết. V́ vậy thu hẹp lại bài điểm danh trung đội xem ra hơn 30 sinh viên sĩ quan ngày nay số c̣n lại rất ít. Đa số đứng chờ Nghiêm Kế ở bên kia thế giới. Vừa mới loan tin Nghiêm Kế ra đi anh em Công Binh đă quan tâm đăng ngay lời phân ưu dù rằng gia đ́nh không cáo phó. Bạn công binh Dương công Liêm cũng hết sức t́nh cảm kể măi chuyện cũ trong t́nh chiến hữu. Các bạn cùng khóa hết sức quan tâm chia buồn như Vũ Thượng Đôn, Ngô văn Định, Nguyễn Đức Chung và Ms Lê Xuân Định, Ms Hien San Diego . Riêng phần chúng tôi thu hẹp trong t́nh trung đội xin báo tin cho các anh Bùi Thế Xương, trung đội trưởng và Trần trung Huân ở Paris. Các bạn CA Trần vẫn Giai (Nửa mê nửa tỉnh) Trần Quốc Lịch, Nghiêm Tôn, Trần Ngọc Thái, Lại Thọ và Nguyễn văn Minh VA. Tin sau cùng cho biết thể theo lời Nghiêm Kế, lễ tang chỉ giới hạn trong phạm vi gia đ́nh. Sau khi hỏa thiêu tro tàn sẽ đem về nghĩa trang của họ Nghiêm. Chàng trai Hà Nội sau hơn 60 năm ra đi sau cùng sẽ về chốn cũ với quê hương xưa. Xin nhắn tin bạn cùng trung đội Nguyễn Thế Thứ và Nguyễn Thế Nhă nhớ về đón Nghiêm Kế ở trại Ngoc Hà Hà Nội.
Nơi ngày xưa 300 thanh niên miền Bắc đă tŕnh diện nhập ngũ tháng 3 năm 1954. Đă 65 năm rồi. Anh chị Kế sẽ không đến dự ngày ghi nhớ Geneve chia cắt Việt Nam. Ngày khởi đầu của Việt Nam cộng ḥa làm cho Sài G̣n đẹp lắm Sài g̣n ơi. Trước sau được 21 năm. Ngàn thu vĩnh biệt Nghiêm Kế, Trung đội 21.
** Tr/tá Ng.T.Nhã Trung đoàn Trưỡng Tr Đ 51/S.Đ 1 BB tử trận khi đang ngồi trong căn nhà để nghĩ mát trong căn cứ Tiền phương Tr/Đ 51 ,nằm cạnh QL 1 vùng Cầu Hai -Đá bạc giữa Đà Nẵng và Huế. Ông mới vừa đi phép trong Sài gòn ra là đi đến Bộ chỉ huy tiền phương, thình lình có 1 tiếng nổ vang lên và chỉ 1 tiếng duy nhất làm ông đứt lìa đầu. Bà Nhã vợ ông đáp chuyến bay Air VN sau mấy giờ thì nhận được tin ông tử trận, có lẻ do đặc công hay nội gián đặt chất nổ chớ không phải pháo kích như báo cáo đã ghi ??....
DQY
hoanglan22
07-29-2019, 02:52
(Hào Kiệt Phương Nam) Những Chiến Sĩ Anh Hùng của Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù VNCH tự sát chứ không đầu hàng giặc (30/ 04/ 1975)
“Tuy mạnh, yếu có lúc khác nhau
Song, ‘Hào Kiệt’ thời nào cũng có”
(B́nh Ngô Đại Cáo - Nguyễn Trăi)
--------
Sáng sớm ngày 29 tháng 4, 1975, chúng tôi tiếp tục công việc như mọi ngày nhưng trong ḷng nôn nao khôn tả. Từng đoàn dân chúng hoặc quân nhân của Sư Đoàn 18 Bộ Binh ào ạt kéo về hướng Sài G̣n, chúng tôi kêu gọi họ ở lại tiếp sức trấn giữ cây cầu nầy nhưng họ nói là được lệnh về bảo vệ Thủ Đô Sài G̣n.
C̣n căn cứ Giang Thuyền của Hải Quân tại bờ sông Đồng Nai cạnh cây cầu nầy ngày hôm qua c̣n có bóng người thấp thoáng, đến hôm nay sao im vắng như vậy? Dưới sông c̣n mấy chiếc giang đỉnh nằm yên trên sóng nước lăn tăn dưới làn gió nhẹ.
Anh em tôi kéo đến hỏi ư kiến Trung Sỹ Ngôn là người có cấp bậc cao nhất và cũng lớn tuổi nhất trong bọn tôi:
- Tính sao Trung Sỹ?
Trung Sỹ Ngôn đáp tỉnh bơ:
- Không tính ǵ cả, giặc đến th́ đánh chớ c̣n tính ǵ nữa, lúc trước ta phải sang Campuchia, sang Lào, đi ra Vùng I, Vùng II t́m giặc mà đánh, nay chúng kéo đến đây th́ ta phải đánh chứ c̣n nghĩ ngợi ǵ nữa.
Lời nói khẳng khái của TS Ngôn khiến anh em Nhảy Dù và các chiến sĩ Công Binh, Địa Phương Quân cũng lên tinh thần. Một vài người phát biểu ư kiến:
- Trung Sỹ Ngôn đúng là một chiến sĩ can đảm của quân đội, lẽ ra anh phải có cấp bậc khác hơn mới đúng, quân đội cần phải có những chiến sĩ đảm lược như vậy.
Trung Sỹ Ngôn khoát tay bảo đừng nói tiếp nữa, ông nói:
- Các bạn đừng cho tôi uống nước đường tưởng tượng nữa, đời binh nghiệp của tôi nếu có được kéo dài th́ cũng thế thôi, một tên quân phạm được Bộ Tổng Tham Mưu cho tiếp tục phục vụ th́ c̣n lên xuống ǵ nữa!!!
Ai nấy đều không tin câu nói của Trung Sỹ Ngôn, ông ta phải xác minh tới lui mấy lần mà chưa có ai tin.
***
Riêng tôi th́ tôi tin ông nói thật v́ tôi là HSQ quân số của Tiểu đoàn, tôi nắm giữ hồ sơ lư lịch của quân nhân trong đơn vị nên tôi biết nhiều về quân nhân trong đơn vị.
Tôi xin mở dấu ngoặc nói về người Hạ sĩ quan nầy:
Sau những trận “Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972, v́ nhu cầu bổ sung quân số cho các đơn vị tác chiến đang thiếu hụt, Bộ Tổng Tham Mưu nghiên cứu và quyết định cho tiếp tục phục vụ các quân phạm được coi là thường phạm hiện đang bị giam giữ trong Quân Lao G̣ Vấp. Ông Trung Sỹ Ngôn được xuất lao trong đợt đầu tiên và được bổ sung về Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù.
Ngày tôi đến Khối Bổ Sung nhận về 30 quân phạm trong đó có Trung Sỹ Ngôn, vừa gặp ông là tôi có thiện cảm liền. Tôi đưa các quân nhân nay về Hậu cứ Tiểu đoàn ở cổng số 9 trong Căn cứ Long B́nh, Biên Ḥa, trang bị cho họ và chờ ngày tăng cường hành quân.
Trong những ngày chờ đợi tôi có dịp tiếp xúc với các quân nhân nầy để t́m hiểu và giúp đỡ chuyển thư từ, nhắn tin người nhà đến thăm, tiếp tế cho họ, phần các quân nhân ở xa hoặc ở trong vùng mất an ninh th́ chỉ gởi thư theo đường bưu điện thôi.
Riêng Trung Sỹ Ngôn, quê ở Hốc Môn, tuy không xa lắm nhưng xă ấp ở vùng xôi đậu nên tôi không thể đem thư đến nhà cho ông được, tôi cố gắng đi đến chợ quận Hốc Môn, rồi hỏi thăm t́m những người cùng xă ấp với ông nhờ họ chuyển thư về gia đ́nh ông. Cuối cùng, thân nhân của ông cũng đă t́m đến thăm ông được. Và nhờ vậy ông mang ơn tôi, có tâm sự ǵ ông đều phun ra hết, và con đường tù tội của ông như sau:
“Sau Tết Mậu Thân, Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến gần như thường xuyên có mặt tại Quân Khu I và Quân Khu II, các người lính Tổng Trừ Bị nầy hầu như là “Trấn thủ lưu đồn” của thời xa xưa, có khi hai ba năm chưa được về thăm gia đ́nh một lần, Trung Sỹ Ngôn tuy là đă có gia đ́nh, nhưng v́ lính xa nhà trong lúc sức lực phương cường, nên thường lén rời đơn vị đi thăm “Đệ Thất Hạm Đội” cắm sào trên sông Hương.
Một lần, sau khi lănh lương, anh đi lả lướt trên sông Hương, Đến sáng ngày tỉnh dậy mới hay bị mất ví cả giấy tờ tùy thân và tiền lương tháng mới lănh chưa kịp gởi về cho vợ. C̣n chiếc thuyền th́ đă cập bến nhưng người lái không có ở đó.
Trên đường trở về vị trí đóng quân bị Quân Cảnh xét giấy tờ không có nên bị bắt giữ rồi giải giao về đơn vị thọ phạt. Quá uất ức, nên sau khi thọ phạt xong Trung Sỹ Ngôn cầm một quả lựu đạn t́m đến bờ sông th́ rất may anh gặp lại cô lái đ̣ hôm trước. Anh đ̣i lại cái ví và số tiền anh đă bị đánh cắp, cô lái chối căi là không có lấy, anh đập trái lựu đạn vào đầu cô ta phun máu, cô ta mới chịu nhận là có lấy nhưng gă anh trai ma-cô của cô ta đă cất giữ rồi, theo lời cô lái đ̣ nói lại là nếu anh có tiền chuộc mới được trả lại.
Quá tức giận, anh lại cầm trái lựu đạn đập vào đầu cô ta khá mạnh khiến cô ta kêu thét lên rồi ngất xỉu luôn. Các người trên thuyền bên cạnh tri hô lên là có án mạng nên lính Quân Cảnh và An Ninh Quân Đội đến bắt anh, anh kháng cự đưa ra trái lựu đạn dọa nếu ai đến gần sẽ cùng chết với anh. Anh về đơn vị tŕnh diện và bị An Ninh Quân Đội của đơn vị bắt giải về Sài G̣n đưa ra ṭa án Quân Sự Mặt Trận Quân Khu III.
Tôi hỏi chen vào:
- Anh có mướn luật sư bào chữa cho anh không? Ṭa án xử anh có nặng lắm không?
Trung Sỹ Ngôn thở ra, chán nản nói:
- Tiền đâu mà mướn luật sư, tiền của ḿnh nó lấy hết rồi nên ḿnh mới gây nên tội. Tôi tŕnh bày tất cả sự việc để ông Chánh Án quyết định chứ không thèm xin ân giảm ǵ hết.
Tôi ṭ ṃ hỏi anh về quang cảnh của phiên Ṭa, anh đáp:
- Đầu tiên, họ điệu tôi ra giữa pḥng xử, các viên chức trong ṭa lần lượt đi ra, cuối cùng tới ông Chánh Án, là một vị Trung Tá trong QĐVNCH. Đầu tiên họ đọc cáo trạng về trường hợp phạm pháp của tôi, tiếp theo ông Ủy viên Chính Phủ tức là Công Tố lên án tôi, tôi bị khép vào 3 tội.
Tội thứ I: Phạm vào điều Giáo lệnh thứ 5: Không được bê tha, rượu chè, cờ bạc, trai gái, và nghiện hút.
Tội thứ 2: Can tội sát nhân, đánh chết người phụ nữ chân yếu tay mềm không thể tự vệ.
Tội thứ 3: Dùng vũ khí để chống lại nhân viên công lực làm nhiệm vụ. Cuối cùng Ủy viên Chính phủ xin ông Chánh Án lên án thật nặng đối với quân nhân vô kỷ luật để làm gương.
Đến phần luật sư biện hộ, v́ không có luật sư của bị cáo nên Ṭa chỉ định một luật sư t́nh nguyện giúp tôi, tôi nói là tôi không cần, tôi tự trả lời lấy.
Về tội thứ 1: Các điều bê tha, rượu chè, cờ bạc, nghiện hút tôi không có, c̣n vấn đề trai gái th́ tôi sống theo luật tự nhiên, giải quyết sinh lư, v́ một người b́nh thường mà phải xa nhà cả hai, ba năm, thậm chí bốn năm năm th́ bị mất quân b́nh, họ c̣n lo chiến đấu, sống chết bất ngờ, ăn uống thiếu thốn, nằm rừng ngủ bụi, th́ làm sao chịu nổi. Tôi đặt ví dụ: Một người công chức mỗi ngày làm việc 8 giờ, tan sở đă có công xa đưa đón, về nhà có vợ con săn sóc, họ được ba bữa ăn nóng. C̣n giới quân nhân th́ sao, có nhà mà cả mấy năm không được về, có vợ mà phải đi ngủ với gái điếm lại c̣n bị tội bê tha, trai gái.
Về tội thứ 2: Tôi nh́n nhận có nóng nảy, quá mạnh tay với cô đó. Nhưng thưa quan Ṭa, tôi ăn bánh trả tiền ṣng phẳng. Tại nó lấy tiền, lấy giấy tờ của tôi khiến tôi bị bắt, bị phạt kỷ luật, sau đó nó c̣n đ̣i tiền chuộc th́ tôi không nóng sao được.
Về tội thứ 3: Tôi dùng lựu đạn để gây áp lực chứ không hề mở khóa an toàn, không gây thương tích hay nguy hiểm cho nhân viên công lực, tôi không để nhân viên công lực bắt tôi v́ tôi không muốn để những người phè phỡn ở thành phố bắt những thằng đi tác chiến, tôi quyết về đơn vị để cấp chỉ huy định đoạt. Phần tŕnh bày của tôi đă xong.
Tôi hỏi anh:
- Sau đó th́ sao, Công tố viên c̣n nói ǵ không? Ṭa tuyên bố thế nào? Có nặng lắm không?
- Khi tôi nói, Ủy viên Chính Phủ có vẻ bất b́nh, muốn ngăn lại, nhưng ông Chánh Án không tỏ thái độ ǵ nên ông ta cũng nín luôn, cuối cùng Ông Chánh Án thay v́ kết án là tôi “cố sát” hay ít ra là kết tội “Cố ư đả thương, nhân thương trí mạng” ǵ ǵ đó, th́ Ông Chánh Án đă lên án là “ngộ sát” và h́nh phạt là năm năm tù ở. Nhưng mới hai năm th́ được cho ra ngoài tiếp tục phục vụ. Tôi nói thiệt, nếu có được đi ra ngoài đó nữa, tôi sẽ vẫn đi thăm “Đệ Thất Hạm Đội” đó nữa”.
Vậy mà giờ đây, trước giây phút hấp hối của Thủ đô VNCH anh vẫn hiên ngang đóng tại cửa ngơ vào thành phố, vẫn cùng 6 người thương binh tự đặt dưới quyền điều khiển của anh, cạnh đó, các quân nhân Công Binh, Địa Phương Quân cũng lây cái hào khí của anh, họ hứa sẽ ở lại cùng chiến đấu với anh em Nhảy Dù.
Và bây giờ chúng ta hăy nghe Binh Nhất Hào Hoa của Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù kể tiếp:
***
“Từ buổi trưa đến chiều ngày 29 tháng 4, 1975, các quân nhân của Sư Đoàn 18 BB đi về càng nhiều, có người th́ đi lẻ tẻ, có tốp th́ đi chung nhiều người. Tôi nghĩ đây là họ “di tản chiến thuật” để sẽ được “tái phối trí” ở một vùng nào đó. Nhiều người dân di chuyển trên đường giục chúng tôi:
- Mấy chú Nhảy Dù ơi, bọn Việt cộng tràn tới rồi ḱa !
“Nghe họ nói, tôi cũng cảm thấy lo ngại, hàng đoàn quân c̣n chạy, th́ mấy mươi người chúng tôi có nghĩa lư ǵ với cơn thác lũ của chiến cuộc. Tôi liếc nh́n các bạn Nhảy Dù tại đó, thấy họ vẫn b́nh tĩnh chứ không có vẻ lo sợ ǵ cả. Tôi nghĩ họ đă dày dạn phong sương, đă tôi luyện trong máu lửa nên ḷng họ đă chai ĺ rồi chăng?
***
“Từ ngày Tổng Thống Nixon lên chức, ông quyết định rút hết quân về nước trong “Danh dự”. Ông đưa ra áp dụng kế hoạch “Việt-Nam Hóa Chiến Tranh” là (bỏ của chạy lấy người). Quân Mỹ và Đồng Minh ào ạt đến rồi cũng ào ạt rút lui. Các căn cứ quân sự được chuyển giao lại cho QĐ VNCH, trong các căn cứ đó có căn cứ Long B́nh là rộng lớn và ở gần thủ đô Sài G̣n nhất.
Trong khi đó Chính Phủ Việt-Nam Cộng Ḥa cũng đă có kế hoạch chỉnh trang thành phố, mà hai doanh trại của Nhảy Dù là trại Nguyễn Trung Hiếu của Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù nằm trên đường Lê Văn Duyệt đối diện với Nghĩa Trang Đô Thành Sài G̣n và doanh trại Phạm Công Quân của Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù nằm trong vườn cao su của nhà thờ Chí Ḥa tại ngă tư Bảy Hiền là bị ưu tiên chiếu cố để chuyển đi. Cả hai Tiểu Đoàn 1 và 3 Nhảy Dù đều được giao cho một số nhà tole tại Cổng số 9 trong căn cứ Long B́nh để làm doanh trại cho đơn vị ḿnh.
V́ doanh trại cũ của TĐ 3 ND sẽ được ưu tiên xây Bệnh Viện V́ Dân, nên toàn bộ trại nầy được chuyển về doanh trại mới gần cuối năm 73, c̣n TĐ 1 ND chưa kịp chuyển về căn cứ nầy, nên chỉ đưa một bán đội sáu người đến tiếp nhận và trông chừng doanh trại, và tôi là B.I “Hào Hoa” là một trong sáu quân nhân được phái đến giữ trại đó.
Sáu người anh em chúng tôi thường hay sang doanh trại của TĐ 3 ND chơi với các quân nhân phụ trách về các việc chuyên môn của đơn vị nầy.
Lư do tôi được đến giữ doanh trại mới nầy là trong lúc cùng đơn vị tham dự Hành quân tại Quảng Trị, tôi bị thương, được di tản về Bệnh Viện Đỗ Vinh để điều trị, khi vết thương đă b́nh phục, tôi chuẩn bị tăng cường HQ th́ gặp lúc Tiểu đoàn cần một số quân nhân đến tiếp nhận và trông coi doanh trại mới vừa được chuyển giao và tôi được chọn cùng với 5 anh em khác.
***
V́ vậy mà tuổi chiến trường, kinh nghiệm chiến trận của tôi c̣n kém cỏi, nên khi nghe dân chúng bảo chạy đi tôi cũng thực sự lo ngại lắm, các binh sĩ kia cũng có vài người dao động, lo lắng trước những việc diễn biến quá nhanh. Binh 2 Kha rụt rè hỏi TS Ngôn mà cũng có thể hỏi chung anh em Nhảy Dù.
- Làm sao bây giờ Trung Sỹ?
Trung Sỹ Ngôn đáp không do dự:
- Như tôi đă nói ngày hôm qua, lúc trước ta t́m giặc mà đánh, bây giờ chúng nó tới th́ ta phải đánh chứ c̣n tính ǵ nữa, nếu anh em nào sợ th́ chạy theo đoàn người di tản đó đi, tôi không cản trở, c̣n anh em nào không sợ th́ ở lại chúng ta cùng nhau chiến đấu tới cùng.
Trước lời nói quyết liệt của Trung Sỹ Ngôn, anh em lên tinh thần trở lại, họ hứa sẽ ở lại chiến đấu tới cùng với TS Ngôn. Riêng tôi không có ư kiến, ai làm sao tôi làm vậy thôi.
Trọn đêm đó tiếng súng nổ từ xa đến gần, hướng Sài G̣n thỉnh thoảng có tiếng pháo kích rải rác đó đây tuy không nhiều lắm. Chúng tôi cũng thay nhau ngủ gà ngủ gật trong các công sự bằng bao cát.
Trời vừa hừng sáng ngày 30 tháng 4, 1975, Trung Sỹ Ngôn đốc thúc anh em t́m chỗ có thể vừa ẩn nấp vừa chiến đấu bên dưới gầm cầu, chứ mấy cái công sự bằng cát đó chẳng có nghĩa lư ǵ đối với xe thiết giáp T-54 của bọn cộng phỉ. Trung Sỹ Ngôn c̣n phái Hạ Sĩ Đắc và Binh Nhất Tân sang bên kia đầu cầu lấy thêm một ít súng chống chiến xa M.72 để tăng cường cho đầu cầu bên này, hai người đi một chập trở lại với mấy khẩu M.72
Trung Sỹ Ngôn chưa kịp có ư kiến ǵ th́ chợt có tiếng động cơ của xe thiết giáp chạy rần rần từ xa. Dân chúng chạy tán loạn vào vệ đường la hoảng lên:
- Bọn Việt cộng tới, nó có xe tăng nữa.
Chúng tôi thấy giữa đường có 2 chiếc xe thiết giáp treo lá cờ thổ phỉ xanh, đỏ và ngôi sao vàng ở giữa, hai bên đường, bọn cộng phỉ xâm lược hộc tốc chạy theo. Chợt chiếc xe chạy đầu dừng lại và bắn vào ụ cát làm công sự trên cầu, sau tiếng nổ lớn ụ cát đó biến mất, chúng lại bắn tiếp các ụ khác.
Chúng tôi nấp ở gầm cầu nên không bị thương tích ǵ, 3 người chúng tôi thủ M.72 bốn người kia thủ M.16 đồng loạt nhả đạn khiến lũ giặc xâm lược sợ hăi nằm rạp xuống vệ đường, chiếc xe chạy đầu sau khi bắn mấy phát liền chạy tới bị trúng đạn M.72 bị đứt xích đang xoay tṛn trên xa lộ. Chiếc xe T.54 c̣n lại và lũ giặc cộng phỉ bắt đầu phản công, chúng đă biết chỗ ẩn nấp của chúng tôi nên tất cả đều nhắm bắn vào chỗ chúng tôi.
TS Ngôn vừa chiến đấu vừa bảo anh em tôi:
- Súng M.16 bắn vào bọn vc chớ đừng bắn vào xe thiết giáp chỉ găi ngứa cho nó thôi, c̣n súng M.72 bắn vào xích của nó có kết quả hơn.
Chúng tôi bắn xong một loạt liền thay đổi vị trí mới nên bọn vc tuy đông người hơn nhưng chưa bắn trúng anh em chúng tôi một viên nào. TS Ngôn và HS Đắc bảo anh em tôi bắn phủ đầu bọn nó cho hai anh sử dụng súng M.72. Chúng tôi làm y lời họ và hai anh đă bắn cháy chiếc T.54 thứ 2.
Tuy áp lực trên 2 chiếc T.54 không c̣n, nhưng bọn giặc xâm lược tràn tới càng lúc càng đông, Trung Sỹ Ngôn căn dặn anh em:
- Các bạn hăy tiết kiệm đạn, chúng ta phải chiến đấu lâu dài đó, không có ai tiếp viện đâu!
Chúng tôi bắt đầu bắn dè sẻn từng loạt một cũng có thể chận đứng bọn cộng quân xâm lược được chốc lát. Nhưng ḱa, hai chiếc PT.76 khác lại ào ào chạy đến, chúng tôi chỉ c̣n có hai khẩu M.72. TS Ngôn thủ một khẩu, HS Đắc thủ một khẩu, chúng tôi lại bắn ào ạt yểm trợ cho hai người bắn chiến xa, nhưng phía cộng quân cũng bắn rát quá nên hai anh bắn không trúng chỗ hiểm, hai chiếc thiết giáp liền chạy thẳng qua bên kia cầu, bọn bộ đội cũng nương đà đó chạy theo xe qua cầu, một số quây tại đầu cầu gọi chúng tôi đầu hàng, bọn tôi đáp lời lũ giặc xâm lược từ phương bắc bằng những phát đạn thật chính xác, v́ thế chúng không dám xông vào chỗ ẩn nấp của chúng tôi.
Chúng tôi mong các quân nhân của đơn vị bạn giật sập cầu hoặc dùng súng M.72 bắn hạ mấy chiếc xe vừa thoát chạy sang bên đó, nếu để nó thoát được th́ tai hại lắm. Nhưng chờ măi mà chẳng thấy động tịnh ǵ cả, chúng tôi nghĩ là họ đă bỏ trốn hết rồi.
Quá thất vọng TS Ngôn nói:
- Chúng ta muốn góp sức để ngăn chận đường tiến của bọn cộng phỉ xâm lược, nhưng chúng ta cô đơn chiến đấu, sức chúng ta chỉ có hạn, đạn dược sắp hết rồi, bây giờ các bạn muốn tiếp tục chiến đấu hay muốn trốn đi đâu tùy ư. Riêng tôi quyết chiến đấu đến viên đạn cuối cùng.
Ai nấy lên tiếng quyết chiến đấu, không lùi bước, riêng tôi có hơi do dự. Thấy vậy, Trung Sỹ Ngôn nói với tôi:
- Em có thể chui vào đám lục b́nh trên mặt nước kia để rút đi, bây giờ c̣n kịp.
Tôi cảm thấy bị chạm tự ái nên quyết ở lại. Bây giờ, bọn cộng phỉ xâm lược trên cầu kêu lớn:
- Hàng sống, - chống chết!
- Hàng sống, - chống chết!
Chúng tôi trả lời bọn thổ phỉ xâm lược bằng mấy loạt đạn. Chống trả thêm một lúc, chúng tôi đă thực sự hết đạn.
Bây giờ đến quyết định cuối cùng, Trung Sỹ Ngôn nói:
- Anh em nào v́ gánh nặng gia đ́nh, muốn rút lui để giữ mạng sống th́ cứ tự nhiên.
HS Đắc hỏi lại:
- C̣n Trung sĩ th́ sao?
TS Ngôn đáp:
- Tao không đầu hàng!
HS Đắc nói:
- Tôi cũng không đầu hàng!
Cả bốn anh Lương, Tân, Kim và Kha cũng đồng lên tiếng:
- Chúng tôi cũng vậy, không đầu hàng, c̣n mấy viên đạn bắn hết rồi tính.
Thế là chúng tôi lại tiếp tục bắn tỉa những tên nào ló đầu vào gầm cầu.
Rồi viên đạn cuối cùng cũng đă được bắn đi.
Trung Sỹ Ngôn tuyên bố:
- Chúng ta không đầu hàng giặc, cũng không để cho giặc bắt. Vậy chúng ta cùng nhau chia cái nầy. Tự tử đi anh em ! Chúng ta dứt khoát không đầu hàng !
Trung Sỹ Ngôn cầm trái lựu đạn M.26 đưa ra đoạn bắt tay từng người, xong tất cả ngồi quây ṿng tṛn quanh trái lựu đạn. Tôi cũng ngồi xuống như mọi người nhưng bất chợt Trung Sỹ Ngôn cầm cái ba-lô để trước mặt tôi và đẩy tôi ngă ra, tôi vội đưa tay ra dẹp cái ba-lô nhưng không c̣n kịp nữa...
***
Khi tôi tỉnh dậy, cảm thấy mặt mũi đau buốt tôi khẽ rên lên, và một người thợ câu chèo thuyền nghe được ghé vào cứu giúp cho tôi. Từ đó đến nay tôi vẫn c̣n buồn anh em TĐ 3 ND đă chơi xấu với tôi, đă làm cái việc: “ăn đồng, chia... không đều” v́ nhờ có cái ba lô Trung Sỹ Ngôn để trước mặt tôi mà tôi đă không chết cùng anh em.
(SGtt-MĐ. Nguyễn Văn Nơi)
hoanglan22
08-22-2019, 02:03
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1439863&stc=1&d=1566439335
Khoảng cuối năm 1967 tôi nhận được Sự-vụ-lệnh về cầm một Đại Đội của một Tiểu Đoàn mới thành lập chưa được bao lâu, thuộc Sư Đoàn 25 Bộ Binh lúc đó đang đồn trú tại quận Đức-Ḥa.
TĐ này trước đó mấy tháng, được đặt dưới quyền chỉ-huy của một vị Thiếu Tá rất nổi tiếng bên Biệt-Động-Quân mới chuyển qua. V́ công-sự pḥng-thủ chưa hoàn tất, BCH/TĐ phải tạm thời đóng trong một ngôi biệt thự của một nhà máy xay lúa. Lợi dụng cơ hội này, VC đă bất ngờ dùng đặc-công và nội-tuyến, trong một đêm đen tối, chúng đă tràn ngập vào được BCH/TĐ ngay từ những phút đầu, gây thiệt hại rất nặng cho bên ta. Tai hại nhất, chúng đă lấy đi mạng sống của cả hai vợ chồng vị Tiểu Đoàn Trưởng mà ai đă từng là Biệt-Động-Quân cũng đều phải nghe danh : “Thiếu Tá Cọp-Ba-Đầu-Rằn”!
Tiếc thương ông và người vợ nữ-lưu anh-hùng, nhưng mọi người thầm tự hỏi : Có phải ông đă quá khinh địch ? Hay ông có điều ǵ bất măn khi đang trong một Binh chủng nổi tiếng, nay phải chuyển về một đơn vị Bộ binh khiến ông lơ là thiếu cảnh giác ? Điều này chỉ riêng ḿnh ông biết!
Sau trận thảm bại này, các anh em Binh sĩ trong TĐ xuống tinh thần rất nhiều ! Tiểu-đoàn phải chờ bổ xung thêm quân số và cần được “hấp” lại. Và tôi được chuyển về đây cũng trong dịp này.
Được nương nhẹ rất nhiều, nhiệm vụ chính của TĐ lúc đó hầu như chỉ là hành quân mở đường và làm an ninh ṿng ngoài cho BTL/SĐ25BB tại Đức Ḥa. Lâu lâu cũng có hành quân, nhưng chỉ là những cuộc hành quân lục soát quanh vùng, sáng đi chiều về, như công chức !
Trong khoảng thời gian coi như nhàn hạ này, tôi đă quen biết một đứa bé gái tên là Hân, lúc đó khoảng 8, 9 tuổi, là cháu gọi bằng d́ của cô Thanh, chủ ngôi nhà mà tôi đă xin phép để đặt BCH/ĐĐ.
Tôi chọn nhà cô Thanh v́ không những nhà có một sân lớn, mà c̣n có cả một cái nhà cầu đàng hoàng ! Cô Thanh, một phụ nữ khoảng trên dưới ba mươi, không đẹp cũng không xấu, ăn nói rất nhỏ nhẹ, dễ thương. Tôi không thấy chồng cô. Dù cô nghỉ dạy học đă lâu để trông coi việc ruộng nương, nhưng bà con lối xóm vẫn quen gọi cô là Cô Giáo. Dĩ nhiên cô Thanh không hề là đối-tượng của những sĩ quan c̣n rất trẻ như chúng tôi hồi đó.
C̣n nhớ ngày đầu tiên gặp và nói chuyện với cô ở ngoài sân, về việc xin tạm dùng căn nhà làm BCH/ĐĐ, tôi thấy có một đứa bé gái đứng dựa lưng một gốc cau gần đó, đang nheo mắt nh́n tôi rất chăm chú. Thấy nó dễ thương, tôi qú một chân xuống ngang tầm nó và ngoắc nó lại. Nó phụng phịu lắc đầu không chịu. Cô Thanh nói như hơi gắt :
– Hân không được hỗn, lại cúi đầu chào Thiếu-úy, đi con !
Vẫn c̣n phụng phịu, nó tiến lại gần tôi và lí nhí nói mấy câu ǵ tôi cũng không nghe rơ !
Tôi thông cảm sự thay đổi quá đột ngột đối với gia đ́nh cô giáo, đang vắng vẻ, neo đơn ; nay bỗng dưng ồn ào náo nhiệt, ra vào toàn lính là lính !
Cô Thanh th́ c̣n bận rộn với ruộng vườn, công thợ… chứ bé Hân th́ ngoài giờ đi học, nó đụng độ tụi tôi suốt ngày ! Mấy ngày đầu, nó có vẻ c̣n tránh né, nhưng rồi sau đó quen hết anh hạ-sĩ y-tá này đến bác thượng-sĩ thường-vụ kia. Nó trở nên vui vẻ và ḥa đồng rất nhanh với cái không khí ồn ào nhưng kỷ-luật của đời lính chúng tôi. Đặc biệt, Hân quí tôi hơn cả, v́ có mấy lần tôi đă giúp em giải một vài bài toán khó trong lớp. Nó quấn quít bên tôi suốt ngày, chuyện tṛ líu lo không ngừng nghỉ. Có những lần tôi đi hành quân về, nó núp trong bụi, rồi chợt ùa ra ôm lấy chân tôi cười nức nở… Mới 8, 9 tuổi, mà em đă biết dành dụm tiền để mua đường, nấu đăi chúng tôi những bát chè thật ngọt ngào ấm bụng ! Bù lại, những lần đi phép, không lần nào tôi không mua cho em, khi th́ đồ chơi, khi khác là sách, tập…
Hân mồ côi cả cha lẫn mẹ.
Quê em ở măi đâu vùng An-Hiệp, Thái-Mỹ. Em kể với tôi, nước mắt lưng tṛng: Cha em một hôm đi làm ruộng, đạp nhằm phải ḿn VC, chết không kịp trăn trối ! Hơn năm sau, người mẹ cũng ra đi v́ bịnh ! Thế là em phải về núp bóng d́ em, là cô giáo Thanh.
Tôi lúc đó chưa lập gia-đ́nh, thực t́nh, tôi thương Hân như thương người em út, nó c̣n kém đứa em út của tôi ba, bốn tuổi !
Tuy ở với d́ ruột, tôi biết Hân đang thiếu một t́nh thương phụ mẫu, nhất là h́nh bóng của một người cha. Và… không phải là một nhà tâm-lư-học, tôi không thể biết nổi: ở tuổi nào sớm nhất, một đứa con gái có thể biết yêu ? V́ có một lần, mấy cô bạn gái của tôi từ Sài g̣n lên thăm. Khi họ ra về, bé Hân đă đối xử với tôi một cách rất khác thường ! Nó lảng tránh và ít nói hẳn, không hồn nhiên như trước nữa ! H́nh như nó cũng biết hờn, ghen ? Tôi nghĩ dù sao, nó chỉ là một đứa con nít ! Mà đúng thế, chỉ được hai hôm là cô nàng đă quên hết ! Lại dở tṛ nghịch ngợm, chọc phá như cũ…
Hồi đó cứ như thế, tôi lấy t́nh thương yêu của anh em binh sĩ dưới quyền và luôn của bé Hân như một hơi ấm gia đ́nh. Đang ở cái tuổi tràn đầy nhựa sống, mấy anh chàng sĩ quan lóc chóc như tụi tôi, có th́ giờ là la cà tán tỉnh mấy em cỡ tuổi đôi tám, chợt nở rộ như những bông hoa đầy hương sắc miền thôn dă, chẳng hạn như em Huệ con một ông chủ nhà máy xay, hoặc Giáng Tiên, hoa khôi tỉnh Hậu-Nghĩa !
Thế nhưng mấy tháng nhàn hạ qua nhanh như gió thổi, khi TĐ vừa có một sinh khí mới, th́ biến cố Tết Mậu-Thân xẩy ra ! TĐ hành quân mệt nghỉ, ngày nào cũng có hành quân, ngày nào cũng có đụng độ, mà trận lớn nhất xẩy ra vào trước Tết khoảng 2, 3 ngày. ĐĐ của thằng bạn cùng khóa nhẩy vào giữa một TĐ VC. Chúng đang ếm quân trong khu vực Rạch Gấu, chờ xâm nhập để đánh vào Phú-Lâm ngày mồng một Tết. Hai trực thăng bị trúng đạn phải quay về, ĐĐ của nó thành ĐĐ trừ ! Không đủ trực-thăng, ĐĐ của tôi phải lội bộ vào tiếp cứu. Địch áp đảo về quân số, vũ khí có thừa, nhưng mục tiêu của chúng là vùng Chợ Lớn, ngày Tết, không phải là chúng tôi.. Thế nên chúng chỉ cầm cự, chờ đêm xuống là rút.
Vậy mà măi mờ sáng hôm sau, tụi tôi mới thanh toán xong mục tiêu. Nhờ những phi-vụ oanh tạc và pháo binh bắn suốt đêm, VC dù đă cố kéo theo, nhưng cũng đành để lại rất nhiều xác chết và vũ khí. Mặc dù vậy, chúng tôi cũng không vui ǵ khi phải đem xác thằng bạn ĐĐ Trưởng và bốn Binh sĩ dưới quyền của anh ! Tội nghiệp, anh quê ở Hóc Môn, ra trường là xin ngay về SĐ 25 cho gần nhà !
Khóa chúng tôi đă có một số nhờ tài thao lược, ḷng dũng cảm, cộng thêm sự may mắn, đă vượt qua nhiều gian khổ và nguy hiểm mang lại nhiều chiến công vẻ vang cho Quân đội, nổi bật nhất là Trung Tá BĐQ Lê-văn-Ngôn với 510 ngày trấn thủ Tống-Lê-Chân. Đa số c̣n lại đều đă hy sinh khi c̣n rất trẻ, trong những trận đánh tuy khốc liệt, nhưng không một ai biết, chẳng một ai hay ! Tên tuổi và thành tích hiếm khi được xuất hiện trên trang nhất các nhật báo, mà đa phần chỉ thấy nằm trong những khung h́nh chữ nhật, mầu tang đen nơi trang bốn !
Qua hai đợt Mậu-Thân, tôi sống sót và được thăng Trung-úy, nghĩa là sớm hơn quy định khoảng gần nửa năm, nhưng đến cuối năm 1969 tôi bị thương nặng, miểng ḿn văng đầy người. Tệ nhất, có một miểng chém vào động mạch bên nách phải, máu ra rất nhiều và nếu không nhờ trực thăng tản thương về Bệnh viện Dă chiến của SĐ 25 Hoa-Kỳ, chắc chắn là tôi đă theo mấy thằng bạn vui vẻ về miền quá cố rồi !
Khi cơn thập tử nhất sinh đă qua, tôi được chuyển về nhà thương Cộng-Ḥa.
Một hôm tôi đang nằm cho Y tá rửa vết thương và thay băng th́ có mấy anh em Ban 5 Trung và Tiểu Đoàn lên thăm. Tôi ngạc nhiên hết sức khi thấy có cả bé Hân trong đó. Nó chạy ngay lại ôm lấy tôi, nước mắt đầm đ́a… Ông Thượng-sĩ thường-vụ của tôi sau khi thăm hỏi xong, nói nhỏ vào tai tôi :
– Ngày nào nó cũng lên TĐ, xin bằng được nếu khi nào TĐ lên thăm thương bịnh binh, nhớ cho phép nó đi theo !
Tôi nh́n xuống con bé đang rúc cái đầu bé nhỏ vào bụng tôi, tấm thân mảnh mai của em th́ rung rung theo tiếng nấc. Tôi cúi xuống hôn trên mái tóc mềm mại của nó và cứ để như vậy một lúc lâu, bởi v́ chính trong ḷng tôi cũng đang nghẹn ngào, xúc động !
Lúc sau, tôi nâng cầm nó lên, trấn an nó :
– Chú không sao đâu. Chỉ một thời gian ngắn nữa là chú sẽ lành vết thương và sẽ được xuất viện.
– Rồi chú có trở lại Đại đội không ? Nó ngước mặt e ngại hỏi tôi điều mà nó quan tâm nhất.
– Chú cũng không biết nữa, chắc là phải ra một Hội-đồng Quân-y để họ giám định. Sau đó, chú mới biết.
– Vậy khi nào xuất viện, chú xuống thăm Hân nha ? Tôi mỉm cười nh́n nó :
– Chắc chắn là chú sẽ đến thăm Hân và các anh em trong Đại-đội, ngay khi nào chú có thể đi được.
Lúc này mới thấy nó nở một nụ cười, rồi cúi xuống nhấc lên một túi nhỏ và lấy từ trong đó ra một ít trái cây để trên chiếc bàn nhỏ đầu giường. Th́ ra nó cũng biết đem quà cho thương binh !
Phái đoàn thăm viếng lúc này đă xin phép tôi để qua thăm các anh em thương binh khác. Trước khi ra khỏi pḥng, ông Thượng sĩ thường vụ cúi sát tai Hân dặn ḍ :
– Khoảng nửa tiếng nữa con ra chỗ đậu xe để về nha. Về sớm cho an toàn.
Nó ngoan ngoăn gật đầu, rồi bắt đầu bi bô :
– Tháng trước ai trong Đại đội cũng tin là chú đă chết rồi. Tiểu-đoàn không có tin tức ǵ v́ chú nằm ở Bệnh viện Mỹ. Măi sau, khi họ chuyển về Cộng-Ḥa mới biết chú c̣n sống. D́ Thanh có dắt Hân đi cầu nguyện trên chùa hoài. D́ con nói gởi lời thăm chú.
Đến đây, nó bắt đầu quay qua nh́n mấy vị sĩ quan thương binh khác nằm cùng pḥng. Chợt thấy chiếc nhẫn của tôi để trên mặt bàn lúc tháo ra cho Y tá rửa vết máu trong các ngón tay, nó cầm lên ngắm nghía rồi hỏi :
– Nhẫn này của chú ? Sao bự và đẹp quá vậy ?
– Ừa, nhẫn của chú. Đây là chiếc nhẫn lưu-niệm của trường Vơ-Bị Đà Lạt, lúc măn khóa ai cũng có.
– Chú quư nó lắm ?
– Chú rất quư nó, và chú đă đeo nó từ khi ra trường.
Nó nhẹ nhàng để lại chiếc nhẫn vào chỗ cũ, rồi quay ra ôm lấy tôi, như thể không muốn xa rời. Nó kể đủ thứ chuyện ở Đức-Ḥa, đâu là Đại đội đă có Đại Đội Trưởng mới, nhưng không c̣n đóng ở nhà nó nữa, các chú trong BCH/ĐĐ vẫn thường ghé thăm luôn…
Nửa giờ sau, ông Thường-vụ đă xuất hiện ở cửa pḥng, nói với vào.
– Chào Trung-úy đi Hân, đến giờ về rồi.
Hân bắt đầu lúng túng, ṿng tay bé nhỏ, nó cố ôm lấy tôi. Mấy phút sau, tôi phải nhẹ nhẹ gỡ nó ra :
– Thôi Hân về đi không họ chờ.
Nó nh́n tôi như muốn khóc :
– Chú hứa nha ! Đừng quên đến thăm Hân nha, Hân chờ đấy !
Nói rồi nó buông tôi, từ từ bước ra cửa, h́nh như nó đă khóc. Đến cửa pḥng, nó quay lại nh́n tôi, bàn tay bé nhỏ của nó đang cố chùi những giọt lệ… Không cầm ḷng được, tôi gọi nó :
– Hân lại đây với chú.
Tôi cầm chiếc nhẫn lưu-niệm của tôi, nhẹ nhàng để vào ḷng bàn tay của nó :
– Hân giữ cho chú chiếc nhẫn này. Giữ thật kỹ và đừng cho ai biết. Hân biết là chú quư nó như thế nào rồi. Khi nào xuất viện chú sẽ đến thăm Hân và Hân đưa lại cho chú, Thế có được không ?
Thật không ngờ, cái ư-kiến bất chợt đến với tôi lúc đó lại có tác dụng ngay. Hân vui mừng ra mặt, ít nhất nó đă có một vật làm tin kèm theo lời hứa. Lau hết nước mắt nó thủ thỉ :
– Dạ, con sẽ giữ thật kỹ, chờ khi nào Trung-úy đến con giao lại.
Tôi xoa đầu nó rồi đẩy nhẹ nó về phía cửa. Lần này, nó quay lại mỉm cười nh́n tôi và rồi bóng nó từ từ lẫn vào với ḍng người thăm viếng bên hành lang Bệnh-viện…
Tôi xuất viện sau đó chừng một tháng, và phục hồi mau lẹ. Tuy vậy, phải chờ đến tháng ba năm 1973 tôi mới nhận được giấy tờ giải ngũ chính thức. Nh́n ngó bên ngoài, tôi may mắn không mất mát ǵ cả, nhưng những ngón tay bên mặt, nhất là ngón trỏ, không co duỗi b́nh thường được. Cầm tờ Chứng-chỉ giải-ngũ trong tay, tôi ngậm ngùi : thế là vĩnh viễn giă từ vũ khí !
Trong khoảng thời gian chờ quyết-định của Hội-Đồng Quân-Y, tôi đă đi Đức-Ḥa thăm lại chốn xưa. ĐĐ của tôi gần như hoàn toàn mới, chỉ trừ một vài anh em trong BCH/ĐĐ nhận ra tôi, c̣n lính tráng hầu hết là lính mới, nh́n tôi như nh́n một người xa lạ ! Chiến tranh đă làm thay đổi nhanh không thể ngờ được !
Tôi lần ṃ đến nhà cô giáo Thanh để thăm cô và bé Hân nhưng thật không may, người nhà cho biết hai d́ cháu cô đă đi ăn đám giỗ bên B́nh Thủy, có lẽ đến chiều mới về.
Tôi buồn rầu về lại Sài G̣n, tự hứa sẽ trở lại vào một dịp khác.
Chiến tranh vẫn c̣n đó, chiến trận gia tăng khắp mọi nơi, nhưng Sài g̣n vẫn c̣n là một mảnh đất khá b́nh yên ! Nó như một hải đảo nằm giữa một biển lửa. Và tôi đă phải cố gắng để thích ứng với cuộc sống hoàn toàn thay đổi.. Dù sao, tôi vẫn c̣n trẻ. Tôi làm việc như một cái máy, nhưng tôi không c̣n bị cô đơn, cái cô đơn của một người chỉ huy, dù chỉ là một cấp nhỏ; tôi tự do, không c̣n bị ràng buộc vào một trách nhiệm có liên can đến sinh mệnh của nhiều người khác. Tâm trạng thả lỏng này đă dẫn tôi đắm ḿnh trong thụ hưởng, để bù lại cho bao năm tháng tuổi xuân đă qua đi trong quân-trường và ngoài trận địa.
Bận rộn v́ công việc lúc ban ngày, say mê trong ánh đèn mầu của các vũ-trường vào ban đêm, tôi gần như đă quên hẳn Hân, một đứa bé đang ở một nơi thiếu an ninh, mà chỉ một năm trước, tôi đă coi nó như một đứa em ruột thịt. Tôi đă tự khất lần, và ngần ngại không muốn ra khỏi Đô-thành, nơi mà lúc nào cũng có những cuộc vui đang chờ sẵn.
Khoảng đầu năm 1974, nhân một chuyến đi Trảng Bàng, tôi ghé vào Đức-Ḥa và gặp lại Hân. Căn nhà vắng vẻ, khu xóm cũng thiếu bóng những người lính, có lẽ họ đang bận rộn trong một cuộc hành-quân nào đó. Khi tôi đến, chỉ có ḿnh Hân ở nhà, cô Thanh có lẽ đang đi coi ruộng vườn.
Hân lúc này không c̣n bé nữa, em đang là một thiếu-nữ tràn đầy nhựa sống với một vẻ đẹp tự nhiên và tuyệt mỹ mà Thượng-Đế chỉ dành cho những người con gái đương độ thanh xuân. Em mừng đến rơi cả nước mắt khi thấy tôi. Rót nước mời, em vẫn thân mật nhưng tỏ ra hơi e thẹn, cái e thẹn dễ yêu của các cô gái đang dậy th́.
Hân cho biết em đă trông mong tôi từng ngày, và rất ân hận v́ lần trước tôi đến, mà em không được gặp. Lấy chiếc nhẫn dấu kín trong hộc tủ, Hân đưa nó sát mặt tôi, rồi nắm vội nó trong bàn tay và ấp lên ngực :
– Hân biết đây là chiếc nhẫn lưu-niệm của chú, nó lưu lại những kỷ-niệm của chú với Quân-trường Đà Lạt; nhưng bây giờ, nó cũng đă trở thành một vật lưu-niệm của Hân. Nó đă lưu lại những kỷ-niệm giữa Hân và chú. Hân muốn được giữ nó lâu hơn nữa, như vậy có được không ?
Tôi cảm động trước những lư lẽ phát ra tự con tim của em :
– Hân cứ giữ nó đi, như vậy khi nào chú đến với Hân, chú sẽ được gặp cả hai.
Quá vui mừng, quên cả e thẹn, Hân chạy lại ôm tôi, và nói trong cảm động :
– Thực ra, khi có chiếc nhẫn bên ḿnh, Hân có linh cảm là chú sẽ luôn luôn quay về t́m Hân, và như vậy Hân sẽ không bao giờ mất chú.
Tôi ôm chặt Hân, và hôn nhẹ trên trán em như vài năm trước, khi em c̣n rất nhỏ.
H́nh như Hân muốn nhiều hơn thế, em từ từ ngước mặt lên để mong hai làn môi chạm nhau, nhưng tôi đă tự dừng lại bằng cách buông lỏng em. Có phải tôi đang c̣n bối rối giữa Hân, một đứa bé và Hân, một cô gái đang độ xuân th́ ?
Chúng tôi chia tay nhau khi ánh chiều vừa xuống. Tôi hứa với Hân sẽ lên thăm em thường hơn. Cả hai cùng bịn rịn, không nỡ rời nhau, nhưng rồi phút chia ly cũng phải tới, tôi lên xe về lại Sài g̣n mang theo một h́nh ảnh của Hân, đầy nước mắt…
Những tháng ngày sau đó, thời cuộc biến đổi không ngừng… Tất cả đều thất lợi cho miền Nam chúng ta. Ngay cả con đường từ Sài g̣n đi Đức-Ḥa cũng không c̣n an ninh nữa ! Tiếp đến là những biến cố dồn dập, nó đến nhanh quá, như ḍng thác lũ, như cơn đại hồng thủy, nó cuốn đi hết cả… Không kịp nữa rồi, những ǵ ta không làm, hoặc chưa làm, đành phải xếp lại trong niềm hối hận khôn nguôi…
Câu “nước mất, nhà tan” thật là thấm thía với tâm trạng của những người bỏ nước ra đi ngày ấy ! Ra đi là không bao giờ nghĩ đến ngày trở lại, ra đi là chấp nhận cả một trời mù mịt, đau thương !
Tôi cũng ở trong số ít những người “bất hạnh nhưng may mắn” này ! Tất cả Nhân dân miền Nam coi như gẫy cánh nửa đường; có khác chăng, chỉ là mỗi người “gẫy” một kiểu.
Riêng tôi đă gẫy một lần rồi, vừa mới bắt đầu xây dựng lại, th́ nay lại gẫy thêm một lần nữa…
***
Vật lộn với cuộc sống đến năm thứ 32 trên nước Mỹ, tôi quyết định nghỉ hưu v́ đă thấm mệt, cả thể xác lẫn tinh thần.
Những chuyện ngày xưa khi nhớ, khi quên.
Nhiều chuyện quên hẳn, như gió thoảng, như mây bay !
Ḍng đời thay đổi, cũng chỉ là lẽ tự nhiên của cuộc sống !
Những ngày, tháng buồn tênh, tôi chợt nhớ đến một câu thơ, không biết đă đọc được ở đâu và ai là tác giả :
Khi ta ở, đất chỉ là đất,
Khi ta đi, đất đă hóa linh hồn !
Vâng, linh hồn của đất, của những nơi ta đă từng đi qua, những nơi ta đă từng dừng lại… Nó đă có một linh-hồn, và linh-hồn đó đă ám ảnh tim ta, như muốn gọi ta về.
Và… tôi đă về thăm lại Sài g̣n vào năm 2007 !
Vẫn biết đổi thay là lẽ tự nhiên của cuộc sống, sao tôi vẫn thấy bàng hoàng, tiếc nuối những ngày xa xưa ?!
Lang thang măi ở Sài g̣n, chán! Một hôm, tôi trở lại Đức-Ḥa, ṭ ṃ muốn biết giờ nó ra sao ? và… những người muôn năm cũ…? Hơn ba mươi năm đă trôi qua, vật đổi sao rời, bóng chim tăm cá.
Đức-Ḥa đă thay đổi theo một chiều hướng đi xuống ! Ngày xưa, dù đang là thời chiến tranh, nó vui nhộn biết là bao: hàng quán, lính tráng, người mua kẻ bán ồn ào, tấp nập. Những con đường, tuy chỉ nhỏ vừa cho hai xe nhà binh tránh nhau, nhưng đầy bóng mát của những hàng cây cao… Giờ đây, có những con đường mới mở, rộng thênh thang, thẳng tắp, nhưng trống trơn dưới ánh nắng như thiêu như đốt, không một bóng cây; xe cộ th́ lẻ loi vài chiếc ! Thị-xă giống như một cô gái quê, xấu, đang cố làm dáng với những vết son vụng về tô vội !
Đến khu B́nh Tả, nơi ngày xưa tôi đă đóng quân. Cảnh vật không thay đổi nhiều, nhưng sao trông thật hoang sơ, buồn thảm. Tại một ngă ba, ngày ấy có một cái quán lụp xụp, lúc nào cũng ồn ào những lính. Chính tại nơi đây, tôi đă ăn một tô hủ tíu ngon nhất trong đời ! Đi vào sâu hơn khoảng trăm mét là ngôi biệt thự nhà máy xay. Căn nhà h́nh như đang bỏ hoang. Hỏi thăm th́ biết cô Huệ đă định cư bên Úc từ lâu. Cô Giáng Tiên, hoa khôi Hậu-Nghĩa, nghe nói sau này lấy một Sĩ-quan Biệt-động-quân đẹp trai, giờ này chắc đang ở bên Mỹ. Đi sâu hơn nữa th́ gặp tàn tích của một cái đồn, đồn này là của Tiểu-đoàn chúng tôi hồi đó. Gần đấy có cắm một cái bảng nhỏ, trên đề : Di tích lịch-sử – Cấm đến gần !
Tự nhiên, tôi thấy lạnh toát người. Có phải anh linh của bao nhiêu Chiến sĩ ngày xưa, vẫn như c̣n đang phảng phất đâu đây ?!
Ra thăm khu trung tâm Thị-xă, ở đây có thay đổi chút ít. BTL/SĐ25 BB nay h́nh như đang là một khu dành cho trẻ em, ngay trước cổng vào có một căn nhà nhỏ, trong đó trưng bầy h́nh ảnh và những kỷ-vật của ông Vơ văn Tần !
Chợ Đức-Ḥa có xây một mặt tiền mới, quay về hướng khác, nhưng bức tường mặt tiền cũ vẫn c̣n nguyên.
Đang ngơ ngáo nh́n ngó cảnh vật, tôi chợt để ư có một bà cụ cứ chăm chú nh́n tôi. Bước đi vài bước, bà lại quay đầu nh́n lại; cuối cùng bà cụ đến gần nhỏ nhẹ hỏi tôi :
– Nếu không phải, xin ông thứ lỗi. Phải ông đây là Trung-úy Phong không ?
Tôi giật bắn người. Chắc chắn đây là một người quen biết với tôi, nhưng nghĩ măi, tôi đành chịu :
– Dạ, tôi là Phong đây ! Xin lỗi, trí nhớ tôi hơi kém, bà đây là…?
– Trời đất, Mô Phật ! Thiệt không ngờ cũng có ngày tôi lại gặp được Trung-úy ! Tôi là Thanh đây. Xưa Trung-úy có đóng quân nhà tôi, Trung-úy c̣n nhớ không ?
Lúc này th́ h́nh ảnh của một cô giáo Thanh ngày xưa đă lờ mờ lẫn vào khuôn mặt già nua của bà cụ, tôi mừng rỡ :
– …Cô giáo Thanh.. Tôi nhận ra rồi. Tôi nhận ra rồi. Chà, cô trông c̣n mạnh lắm, đi không cần chống gậy mà. Xin mời cô vô quán nước đây ta ngồi nói chuyện.
Đôi mắt già nua của cô Thanh đă thấy có ánh nước, cô cầm tay tôi ân cần :
– Thôi, quán xá ǵ. Chắc là Trung-úy ở nước ngoài về thăm Quê hương? Trung-úy có rảnh mời ghé lại tôi uống miếng nước. Nhà cũng gần đây thôi.
– Dạ. Tôi ra khỏi nước từ năm 75, giờ nghỉ hưu rồi mới có dịp về thăm lại. Hồi năy đi ngang, tôi thấy nhà cũ của cô giờ dường như là một nhà máy ǵ đó ?
– Bị nhà nằm trong khu “quy-hoạch”, nghe đâu họ đă bán đất đó cho Hàn quốc lập nhà máy may ǵ đó. Tôi phải mua bậy một căn nhà cũng gần chợ đây thôi, cho nó tiện.
Mời Trung-úy đi theo tôi, chút xíu là tới à.
Lẽo đẽo theo chân bà cụ đi sâu vào một con đường nhỏ ngang hông chợ, tôi ngần ngại ngỏ ư :
– Tôi giă từ Quân đội lâu lắm rồi, cô Thanh cứ gọi tôi bằng tên cho tiện.
– Không có sao đâu. Ở đây bà con cỡ tuổi tôi, ai cũng quư những người lính Cộng Ḥa khi xưa ! Lại bởi tôi quen miệng rồi, tôi nhớ Trung-úy là Trung-úy, gọi khác nghe kỳ lắm.
Đến đây, mặc dù tận đáy ḷng, như có một chút ǵ hơi hổ thẹn v́ sự thất hứa năm xưa, nhưng tôi không thể quên được Hân :
– Thế cháu Hân giờ sao rồi ? Chắc cũng con cháu rầm rề cả !?
Cô Thanh bỗng như chùng xuống, cô nói rất nhỏ, giọng run run :
– Cháu… cháu nó không c̣n ở với tôi nữa.
Vừa lúc đó, cô dừng lại trước một căn nhà, nhà của cô. Phải qua một cái sân nhỏ trước khi vào tới pḥng khách. Cô Thanh dơ tay :
– Dạ, mời ngồi. Để tôi lấy nước trà mời Trung-úy.
Trong nhà c̣n có hai vợ chồng người bà con của cô, tuổi khoảng ngũ tuần. Cô Thanh sai họ châm b́nh nước trà, đoạn rót ra trân trọng mời tôi. Không giữ được kiên nhẫn, tôi hỏi :
– Hồi năy cô nói cháu Hân không c̣n ở với cô. Vậy giờ cháu đang ở đâu ?
Sau một hơi thở thật dài, cô Thanh bỗng bật lên khóc nức nở. Hai tay bưng mặt, cô nói trong tiếng nấc :
– Cháu nó đă mất rồi ! Nó bỏ tôi đă gần ba chục năm rồi Trung-úy ơi !
Tôi bàng hoàng, choáng ngợp như vừa bị dội cả một thùng nước lạnh vào người ! Qua một phút xúc động đến tột cùng, tôi lấy lại b́nh tĩnh :
– Cháu nó qua đời như thế nào, cô có thể cho tôi biết được không ?
– Chuyện cũng hơi dài ḍng, v́ vậy tôi có ư mời Trung-úy tới nhà, ḿnh có nhiều thời gian hơn. Cô Thanh có vẻ đă lấy lại được chút b́nh tĩnh, cô tiếp :
– Tôi nhớ nó mất năm Mậu Ngọ, 1978. Lúc đó khó khăn lắm, cả nước đói ! Ở quê như chúng tôi mà cũng phải ăn độn ! Cháu Hân bỏ học ngay từ năm 75. Nó nói học hành ǵ mà tối ngày họp tổ, họp đoàn, rồi chửi bới chế độ cũ… Vậy mà cũng không thoát, nó phải nhập vào cái ǵ kêu là Thanh-niên Xung-phong ǵ ǵ đó, đi làm thủy lợi. Nghĩa là đào kinh, đắp mương đó, Trung-úy.
Ngừng lại vài giây như thể để lấy thêm sức, cô tiếp :
– Hồi đó nó đang tuổi con gái, mà ăn uống th́ thiếu thốn. Lại thêm thi đua này nọ, nó bị mất sức nhiều lắm, rồi bị sốt xuất huyết. Bịnh cũng không đáng ǵ, nhưng thuốc men hồi đó hoàn toàn không có. Ăn c̣n không đủ, nói chi thuốc !… Lúc đó nó mới vừa 19 tuổi.
Đến đây, cô lại ôm mặt nức nở… Tôi lại gần cô, vỗ về an ủi :
– Số phận đă an bài như vậy, không cho em qua được cơn khó khăn. Cô cũng không nên rầu rĩ quá không có lợi. Tuổi cô cũng như tôi, ngày một yếu kém…
– Tôi cũng biết vậy, và tôi cũng đă cố giữ ǵn sức khỏe, để sống đến ngày hôm nay…
Nói tới đây, cô Thanh từ từ đứng dậy, hướng dẫn tôi đi về phía bàn thờ giữa căn nhà.
Phía trên bàn thờ, tôi thấy có treo hai tấm h́nh lớn mà tôi đoán là song thân của cô Thanh; đặt trên mặt bàn thờ phía bên trái, có ba tấm h́nh mà một trong ba tấm đó, tôi nhận ra là em Hân.
H́nh chụp có lẽ vào lúc em 17, 18 tuổi, trông xinh đẹp như một bông hoa đang nở.
Khi tôi nh́n em th́ đôi mắt của em cũng đă nh́n vào tôi từ lâu lắm rồi, có lẽ ngay từ khi tôi bước vào căn nhà này ! Thắp nén nhang, tôi biết tim tôi đang chảy ra thành nước, và ḍng nước ấm đó đang chảy ngược lên phía đôi con mắt … Khói nhang bốc lên không gian và tỏa rộng. Ánh sáng yếu ớt khúc-xạ qua làn khói, làm như em đang mỉm cười nh́n tôi. Có lúc lại không phải là cười, mà đang nh́n tôi như trách móc !?
Mắt tôi bỗng nhiên hơi mờ đi, h́nh ảnh của Hân, một buổi chiều xa xưa trong dĩ-văng bỗng hiện về, bé nhỏ lẫn trong đám người thăm viếng ở Bệnh-viện Cộng-Ḥa, em quay lại mỉm cười nh́n tôi…
Và rồi lần cuối cùng tôi gặp, cánh tay bé nhỏ dơ lên chào tạm biệt khi tôi trở về Sài g̣n, mắt em đầy lệ…
Một âm thanh mơ-hồ như vọng lại từ một nơi nào xa, xa lắm :
– …Đừng quên đến thăm Hân nha, Hân chờ đấy !…
Người tôi lúc đó như muốn rũ xuống, tôi cố gắng hết sức đứng thẳng người, nh́n tha thiết vào đôi mắt em, cầu xin một tha thứ.
Ngay trước bức h́nh của em, tôi thấy có một hộp nhỏ bằng nửa bàn tay, khảm xà cừ mầu đen rất đẹp. Thấy tôi nh́n vào chiếc hộp nhỏ, cô Thanh nói như khuyến khích :
– Trung-úy cứ cầm lên và mở ra coi.
Tôi nhẹ nhẹ cầm chiếc hộp lên bằng hai tay và mở nó. Một thứ ánh sáng như lóe lên : chiếc nhẫn Vơ Bị năm xưa của tôi hiện ra, sáng bóng, nằm trong hộp trên một miếng nỉ trắng.
Cầm chiếc nhẫn trên tay, tôi chợt rùng ḿnh, dường như có một luồng điện nhẹ đang chạy qua khắp châu thân ! Qua bao năm tháng, chiếc nhẫn vẫn c̣n đây mà người xưa đă mất. Chiếc nhẫn như nhắc tôi một lời hứa mà tôi không giữ trọn ! Nh́n giọt nước mắt rơi, tôi mới biết ḿnh đang khóc. Thực ḷng, tôi cũng không biết tôi đang khóc v́ vui mừng thấy lại một kỷ-vật xưa, hay đang khóc v́ tràn đầy ân hận.
Rồi như một phản xạ, tôi đưa nó lên gần miệng, hà một hơi ấm vào viên hồng ngọc rồi chà sát nhẹ nhẹ vào ngực, phía trái tim.
Nhạt nḥa trong nhang khói, tôi thấy Hân như lại mỉm cười. Có phải tôi tưởng tượng không, hay đang có một thần giao cách cảm ?
Cô Thanh từ năy chỉ đứng yên lặng theo dơi, bỗng cô nói, giọng nhẹ như hơi thở :
– Những lúc c̣n tỉnh, cháu nó đă kể hết cho tôi nghe v́ sao nó có chiếc nhẫn này. Trước đó, nó đă giấu cả tôi, giữ kín và âm thầm chờ mong cho đến những ngày cuối cùng. Trước khi nhắm mắt, nó c̣n dặn tôi phải để chiếc nhẫn này ngay trước h́nh thờ của nó, v́ nó quả quyết là sẽ có một ngày, một ngày Trung-úy sẽ t́m đến.
Ngừng một phút, cô nói thật nhỏ, như nói với chính ḿnh :
– Cũng phải mất hơn ba chục năm! Giờ th́ châu đă lại về hiệp phố !
Đặt lại chiếc nhẫn vào trong hộp và trân trọng để chiếc hộp vào đúng chỗ ban đầu, tôi quay qua cô Thanh :
– Thưa cô, chắc nó không cần về “hiệp phố” nữa đâu. Tôi giữ nó chỉ có khoảng 5 năm, thế mà chiếc nhẫn này nó đă ở bên em Hân những trên ba mươi năm, những lúc em c̣n sống và cả những lúc em đă qua đời. Tôi không thể h́nh dung được rồi mai đây, bên h́nh của em sẽ chỉ c̣n là một khoảng trống. Tôi biết khi xưa, em luôn luôn muốn có chiếc nhẫn này ở bên cạnh. Cái chỗ đúng nhất của nó là ở trong cái hộp này, ở tại nơi đây ! Xin phép cô, cho tôi cứ để nó bên em Hân măi măi… Âm dương là muôn đời cách trở, nhưng tôi muốn mượn chiếc nhẫn này, như một vật xúc-tác giữa hai linh hồn, một linh hồn sống tha-phương nơi đất khách quê người, và một linh hồn măi măi trên Quê hương…
***
Cô Thanh ân cần mời tôi ở lại dùng cơm chiều, nhưng tôi phải từ chối v́ không muốn trở lại Sài g̣n khi quá tối. Tôi hẹn tuần sau sẽ lên để thăm mộ và đốt cho em Hân một nén nhang
Khi tiễn tôi qua chợ, cô cười nói với tôi :
– Trung-úy biết không, khi mua lại căn nhà gần chợ này, tôi cũng có chủ ư là được thấy thật nhiều du khách Việt-kiều. Thấy ai có dáng Việt-kiều là tôi ngó thiệt kỹ. Không dè cũng có ngày Trời Phật thương.
Tôi mỉm cười trước những ư nghĩ chân chất và đôn hậu của một người miền Nam như cô Thanh. Từ giă cô, tôi theo Tỉnh lộ 10 để về Sài g̣n. Trước kia con đường này ít khi được xử dụng v́ luôn luôn bị đắp mô, ḿn bẫy…
Thương hải biến tang điền! Ngàn xưa đến ngàn sau, dù muốn hay không, đổi thay măi măi vẫn là một bản chất tự nhiên của cuộc sống!
Chỉ có t́nh-cảm của con người, có những thứ t́nh-cảm mà đời đời, không bao giờ thay đổi.
… Vậy mà nhiều khi tôi vẫn đinh ninh rằng: Đă mất hết cả rồi!
Bùi Thượng Phong
hoanglan22
08-22-2019, 02:08
Trong ḷng tôi, họ là những người cha can trường.
Có thể lúc ấy, họ vẫn là những chàng trai độc thân mang nợ nước trên vai và nợ t́nh trong tim, cầm súng lên đường xông pha vào chiến tuyến.
Có thể lúc ấy, họ đă là những người cha nhưng chưa hề biết mặt đứa con thơ của ḿnh c̣n đang nằm trong bụng mẹ.
Họ đă mạnh mẽ gạt t́nh riêng, từ biệt vợ dại con thơ ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng “Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm” vang vang trong tâm tưởng của những người trai thời chiến.
Đă có lúc tôi từng muốn lịch sử ngủ yên!
Quay ngược ḍng kư ức để làm ǵ khi lúc ấy chúng tôi chỉ là những đứa trẻ?
Không ai yêu thích chiến tranh, nhưng nếu hiểu rơ về một cuộc chiến, hiểu rơ được sự can trường của những người lính Việt Nam Cộng Hoà, hiểu rơ được “tầm vóc” của họ trong đôi mắt và suy nghĩ từ những ng̣i bút chân chính khắp nơi trên thế giới, tôi tin ḿnh sẽ trưởng thành hơn.
Hôm nay, tôi muốn viết về cảm xúc của ḿnh khi đọc bài viết “Heroic Allies” của tác giả Harry F. Noyes III. Tác giả là một cựu chiến binh Hoa Kỳ từng chiến đấu tại Việt Nam trong quân chủng Không Quân. Sau cuộc chiến trở về, ông lấy được văn bằng cao học về Nghiên Cứu Á Châu từ trường Đại Học Hawaii. Bài này (Heroic Allies) được đăng trong tạp chí Vietnam, số tháng 8, 1993.
“They were small, talked in sing-song squeaks, put a smelly fish sauce on their food, and often held hands with each other. “
Ông Noyes bắt đầu bài viết của ḿnh bằng một câu như vậy: “Họ (người lính VNCH) vóc dáng nhỏ con, nói chuyện líu lo như chim hót, ưa thêm nước mắm vào mọi món ăn, và thường hay nắm tay nhau.”
Chính những điều lạ lẫm , thiếu hiểu biết về xứ sở, về văn hoá của một đất nước, một dân tộc với những con người xa lạ này đă khiến cho đa số những người lính viễn chinh Mỹ khó ḷng thông cảm với những người mà họ bất đắc dĩ gọi là “đồng minh”, những người lính Việt Nam Cộng Hoà.
Và rồi từ sự thiếu thông cảm này dẫn đến những kỳ thị, những đánh giá thiếu công bằng cho Quân Đội Miền Nam Việt Nam, đồng thời cũng là h́nh thức bao biện cho sự bỏ rơi “đồng minh” một cách phũ phàng, nếu không muốn nói là “vô nhân đạo” của Quân Đội Hoa Kỳ.
Ví dầu t́nh bậu muốn thôi
Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra
Tôi nhớ đến hai câu ca dao trên và bất giác mỉm cười chua chát.
Ôi, những câu ca dao Việt sao mà đúng từ ngàn xưa cho tới ngàn sau.
Những điều ông Noyes viết, không phải chúng ta chưa từng nghe, từng đọc trước đây về những tội danh mà truyền thông Mỹ đă “gieo tiếng dữ” cho Quân Đội Miền Nam Việt Nam như “bất tài, phản trắc và hèn nhát...vv...và vv...” Tuy nhiên, ông đă lập luận găy gọn và đưa ra những bằng chứng hết sức xác đáng “từng quan điểm một” để so sánh và phân tích vị thế và khả năng tác chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà với những đội quân khác trên thế giới bao gồm Quân Lực Hoa Kỳ thời chiến tranh Độc Lập của Hoa Kỳ (American War of Independence) với nước Anh Vĩ Đại (The Great Britain) vào cuối thế kỷ 18.
Theo ông Noyes, trong cuộc Chiến Tranh Cách Mạng (Revolutionary War) ấy, Quân Đội Mỹ đă có nhiều thuận lợi hơn Quân Đội Miền Nam Việt Nam ở những điểm sau:
• Quy mô của cuộc chiến ấy nhỏ hơn và dễ chi phối hơn (khác với Chiến Tranh Việt Nam tuy chịu tiếng là “nồi da xáo thịt” nhưng thực chất chính là một cuộc đối đầu giữa hai khối tư tưởng chính trị gây ảnh hưởng toàn cầu: Chủ Nghĩa Tư Bản và Chủ Nghĩa Cộng Sản.)
• Quá tŕnh thuộc địa Hoa Kỳ đă giúp h́nh thành được những chính quyền tự phát địa phương, cho phép đất nước này hun đúc nên những vị lănh tụ tài ba thật sự (trong khi Miền Nam Việt Nam chỉ là một nền Cộng Ḥa đang phát triển, mới vừa thoát khỏi ách thuộc địa Pháp lại phải lao đầu ngay vào một cuộc chiến sinh tử với một đối thủ hùng mạnh được cả một khối Cộng Sản hỗ trợ phía sau)
• Quân Anh không quá ngoan cố như Cộng Sản Bắc Việt.
• Quân đồng minh Pháp thời bấy giờ đă không bỏ rơi nước Mỹ non trẻ như kiểu người Mỹ bỏ rơi Miền Nam Việt Nam.
Chúng ta hăy cùng với ông Noyes điểm qua một vài trận đánh sau đây để ngậm ngùi chịu tiếng oan “bất tài, phản trắc, và hèn nhát” cùng với những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà:
Trận Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968, Cộng Sản Miền Bắc tưởng rằng sẽ đập tan được ư chí chiến đấu của Nam Việt. Tuy nhiên, thay v́ bỏ cuộc, Quân Đội Miền Nam Việt Nam đă kháng cự mănh liệt và hữu hiệu: không một đơn vị nào tan ră hay tháo chạy. Ngay cả cảnh sát cũng chiến đấu, họ đương đầu với quân chính quy đối phương trang bị bằng vũ khí hùng hậu với chỉ bằng những khẩu súng cầm tay. Dựa theo báo cáo, sau trận này, tinh thần chiến đấu của người miền Nam dâng cao, số người xin đăng lính cao đến nỗi chính quyền của quốc gia này phải đ́nh hoăn bớt việc thu nhận thêm tân binh.
Trong cuộc Tổng Tấn Công năm 72, lực lượng trú pḥng của Quân Đội Miền Nam Việt Nam bị vây hăm tại An Lộc đă giữ vững được vị trí của ḿnh trước một lực lượng ghê gớm của quân thù cả về người lẫn hỏa lực kinh hồn của đại pháo và hỏa tiễn. Chúng ta đă đọc rất nhiều, đă nghe rất nhiều những hồi kư về Trận An Lộc từ những nhân chứng sống người Việt. Thiết tưởng nay dưới một góc nh́n khách quan của một nghiên cứu gia người Mỹ đă từng góp mặt trong cuộc chiến, liệu nỗi oan của họ có rửa được chăng?
Sau trận này, ông Noyes kể đă được tiếp xúc với một cố vấn Mỹ để nghe tường thuật lại mẩu chuyện một tiểu đội lính VNCH trong vùng được lệnh thanh toán ba chiến xa, đă hành động như thế nào. Họ hạ được một chiếc, rồi quyết định t́m cách bắt sống hai chiếc c̣n lại. “Theo tôi nhớ th́ họ chộp được một chiếc c̣n một chiếc bỏ chạy, thế là mấy người lính chạy bộ rượt theo đến cuối đường.”
Ông Noyes cho rằng việc thi hành thượng lệnh của mấy người lính này có thể không đúng tác phong quân kỷ, nhưng lối hành xử cho thấy tinh thần chiến đấu cao của họ và thế chủ động mà mọi binh sĩ VNCH đều có.
Cho đến năm 1975 khi Quốc Hội Mỹ đă quyết định không ra tay cứu giúp VNCH thêm nữa về cả nhiên liệu lẫn đạn dược, thế mà một đơn vị quân VNCH tầm cỡ một sư đoàn đă cầm chân được bốn sư đoàn BV trong suốt hai tuần giao tranh ác liệt tại Xuân Lộc. Một chọi bốn! Theo ông Noyes, chỉ riêng một trận này thôi sự anh dũng c̣n nổi bật hơn bất kỳ một chiến công nào có thể t́m thấy trong chiến sử Hoa Kỳ. Nhưng... ngậm ngùi thay, đội quân Miền Nam sau đó đành phải lui binh v́ Không Quân của họ không c̣n bom để yểm trợ.
Đến đây, tôi muốn bạn hăy đọc một đoạn bằng nguyên bản tiếng Anh của ông Noyes:
Remember: the United States had cut aid to South Vietnam drastically in 1974, months before the final enemy offensive. As a result, only a little fuel and ammunition were being sent to South Vietnam. South Vietnamese air and ground vehicles were immobilized by lack of spare parts. Troops went into battle without batteries for their radios, and their medics lacked basic supplies. South Vietnamese rifles and artillery pieces were rationed to three rounds of ammunition per day in the last months of the war.
The situation was so bad that even the North Vietnamese commander who conquered South Vietnam, General Van Tien Dung, admitted his enemy's mobility and firepower had been cut in half. Aside from the direct physical effect, we must take into account the impact this impoverishment had on South Vietnamese soldiers' morale.
Bởi v́ tôi e sợ bạn sẽ không tin tôi nếu như lược dịch những điều này qua tiếng Việt.
Tôi đă khóc khi đọc đến đây!
Tôi đă khóc cho một quân đội bất hạnh khi h́nh dung ra ông ngoại tôi, bố tôi, các chú bác của tôi, hai cậu tôi cùng biết bao đồng đội của họ đă phải chiến đấu trong một hoàn cảnh tồi tệ như vậy. Bởi v́ có hai thứ mà một người lính cần nhất trên mặt trận đó là vũ khí và tinh thần. Tinh thần th́ vẫn cao ngất, nhưng vũ khí và sự hỗ trợ từ “đồng minh” th́ cạn kiệt. Thương thay!
Hai luận điểm quan trọng nhất mà ông Noyes đă dùng để minh chứng cho ư chí chiến đấu kiên cường của quân nhân Miền Nam và để thấy rơ sự thất bại và đổ lỗi của người Mỹ tại Việt Nam như sau:
Thứ nhất: Chiến tranh Việt Nam đă khởi sự khoảng bảy năm trước khi lực lượng Hoa Kỳ chính thức đổ bộ đổ và sau đó lại tiếp tục thêm chừng 5 năm sau khi quân Mỹ rút đi. Quân đội Miền Nam Việt Nam đă-vẫn-và luôn luôn kiên cường chiến đấu, không ai khác hơn!
Thứ hai: Quân đội Miền Nam Việt Nam bị thương vong một phần tư triệu binh sĩ trên chiến trường. Theo “tỉ lệ dân số” th́ tương đương hai triệu lính Mỹ chết (một con số gấp đôi tổn thất của Mỹ trong tất cả các chiến tranh gộp lại).
V́ vậy, nếu cho rằng Quân Đội Miền Nam hèn nhát và không chịu chiến đấu th́ tại sao họ lại hy sinh nhiều như vậy?
Tuy nhiên c̣n có một luận điểm nữa trong bài viết mà ông Noyes đă nói đến không chút tránh né khiến cho tôi vô cùng v́ nể đó là khi ông phân tích về sự “bất tài và hoảng loạn, về động thái “bỏ chạy” trên chiến trường.
Ông dẫn chứng bằng những mẩu chuyện sau:
“Khi một phụ nữ Anh hỏi viên công tước xứ Wellington rằng lính Anh có bao giờ bỏ chạy trên chiến trường không?”
Viên công tước đáp, “Ngoài chiến trường người lính nào cũng có bỏ chạy cả, thưa bà.”
Cuộc Nội Chiến (Civil War) của nước Mỹ cũng đă cho thấy sự can trường lẫn sợ hăi liên tục trồi lên sụt xuống. Những đơn vị của cả hai phe Confederate lẫn Union đều có lúc xông pha rất hăng hái và rồi có lúc phải “bỏ chạy” trước hỏa lực kinh hồn trước khi tập hợp lại tiếp tục chiến đấu. Họ cũng có lúc giao động chạy tán loạn nơi một chiến trường quá đẫm máu.
Hoặc như trong Thế Chiến Thứ Hai, khi cảm tử quân Nhật vừa tấn công vừa ḥ hét đă khiến cho một đơn vị bộ binh Hoa kỳ hoảng hốt “bỏ chạy”, trong khi đơn vị thứ hai trụ lại quyết chiến và sau khi tiêu diệt đội cảm tử quân Nhật gồm 10 tên th́ mới biết đa số quân Nhật không có vũ khí.
Ông kết luận rằng, nếu một biến cố đơn thuần không thể đem ra mà gán cho cả quân lực Hoa Kỳ là hèn nhát, th́ thỉnh thoảng có sự tan hàng của một vài người lính hay tướng lănh VNCH cũng không có nghĩa là tất cả chiến binh miền Nam đều hèn nhát.
Riêng tôi, tôi tự hỏi: tấm gương của Ngũ Hổ Tướng tuẫn tiết trong giờ phút thứ 25 cùng với biết bao Quân Dân Cán Chính Miền Nam Việt Nam kiên cường ở lại cùng quê hương, sẵn sàng đối mặt với sự trả thù hèn hạ của Cộng Sản trong các trại tù từ Nam ra Bắc, những điều này mang ư nghĩa ǵ đối với truyền thông một chiều của nước Mỹ?
.....
Văng vẳng đâu đây lời t́nh ca ai viết sao tôi nghe như một câu hỏi day dứt:
Em ru ǵ, lời ru cho đá núi
Đá núi tật nguyền, vết sẹo thời gian...
Biết bao giờ thời gian mới xoá nhoà và xoa dịu vết thương chiến tranh trong ḷng họ, những người cha can trường của thế hệ chúng tôi?
Nguyễn Diễm Nga
Tưởng niệm Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà - 19 tháng 6, 2019
Nguyên bản: “Heroic Allies” by Harry F. Noyes III. Tạp chí Vietnam, số tháng 8, 1993.
http://www.vietamericanvets .com/page-records-heroicallies.htm
hoanglan22
08-23-2019, 02:29
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1440524&stc=1&d=1566527036
Đi lao động về , bước chân vào cổng trại , tôi thấy không khí có vẻ khác thường . Các anh cùng trại tù với tôi ( trại Xuân Lộc , phân trại A ) đang lăng xăng chạy tới , chạy lui. Tất cả gương mặt đều nghiêm trọng nhưng tiềm ẩn một điều gì phấn khởi ghê gớm . Tôi chận một anh lại hỏi :" Cái gì vậy ?". Anh ta vừa chạy vừa nói với theo :" Trưa nay , trại đọc danh sách , thả nhiều lắm ".
Tôi bình tỉnh bước về phòng giam , lòng hơi xao xuyến nhưng nghĩ rằng không có tên mình . Dân " Xịa " ( CIA ) mà , các anh trong trại thường hay kháo nhau khi nói về tôi . Bước ngang qua cửa sổ để vào buồng , một con mèo xám nhỏ , gương mặt thật dể thương đang nhảy lên nhảy xuống từ thành cửa sổ xuống đất . Một sợi dây nhỏ buộc cổ nó và nối vào song sắt cửa sổ . Tôi cúi xuống ôm con mèo xám nhỏ , vuốt ve nó , mặc cho hoạt động lao xao bên ngoài . Một anh chạy ngang qua bảo :" Của thằng trực buồng đó ". Con mèo kêu meo meo , đôi mắt sáng long lanh nhìn tôi . Tôi buông nó xuống , không muốn vấn vương tình cảm vì bản tánh tôi yêu mến thú vật . Tôi có kinh nghiệm , ở tù Cộng Sản , những liên hệ tình cảm không được lâu bền , dễ gây cho mình những sự mất mát .
Cơm nước xong , nằm nghĩ ngơi một chút thì có kẻng tập họp . Bước vào sân trại , các bạn cùng tù ngồi chật cả sân , gương mặt nôn nóng chờ đợi . Một tên cán bộ Cộng Sản đứng trước mặt , cầm một xấp giấy trên tay . Hắn ta đọc tên những người được thả . Lần lượt những người được đọc tên , luống cuống đứng dậy , gương mặt tái xanh vì vui mừng quá độ , chạy vội về buồng sắp xếp hành trang . Tên cán bộ đọc từ 2 giờ trưa đến 4 giờ chiều mới xong , danh sách thả hơn một ngàn người . Đợt thả năm 1985 là đợt thả lớn nhứt . Trại tù Xuân Lộc gồm 3 phân trại A , B, C có khoảng 2000 người . Như vậy , danh sách thả gần 2/3 tù của ba trại .
Cuối cùng , quả thật không có tên tôi . Dân " Xịa " mà . Tôi lủi thủi bước về buồng , chẳng màng đến các anh có tên về , chạy qua chạy lại như tên bắn đem quà của mình cho những bạn ở lại . Chiều nay , trại cho ăn cơm sớm . Một thau lớn đựng cơm , mốc và mọt , và một thau nhỏ đựng canh để trước cửa buồng . Bọn tù chúng tôi gọi là canh đại dương vì toàn là nước , nổi lềnh bềnh vài cọng rau muống hay một vài lá xanh xanh gọi là rau . Mọi bửa , anh trực buồng chia cơm , nay vắng anh vì anh có tên về , để thau cơm , mốc và mọt , nằm chênh vênh . Tôi lẩm bẩm :" Hôm nay là ngày XHCN mà , làm theo năng lực , hưởng theo nhu cầu ". Tôi uể oải xúc một tô cơm rồi bước vào buồng , đến chổ nằm từng trên . Buồng vắng tanh , mọi hôm nhộn nhịp lắm . Luôn luôn , buồng nào cũng có hai đội , mỗi đội khoảng từ 20 đến 25 người , vị chi tất cả là 50 người . Hôm đó lác đác chỉ còn lại khoảng mười mấy người . Tôi leo lên từng trên , chổ tôi nằm , để tô cơm xuống , nhìn anh bạn láng giềng , người Huế , độc nhứt còn lại . Anh cười với tôi , miệng méo xệch , không nói một lời nào . Tôi cũng cười với anh , chắc miệng cũng méo xệch như vậy .
Tôi lấy trong túi cót ra một hộp chao nhỏ xíu , trong đó có 4 cục chao . Mỗi bửa ăn tôi giới hạn cho mình một cục chao , như vậy với hộp chao nhỏ , tôi có thể kéo dài thức ăn ra hai ngày. Trịnh trọng trải khăn trắng ra dưới sàn nằm , đặt tô cơm mọt và mốc lên rồi mở hộp chao ra , vít một cục chao vào tô cơm và cuối cùng rưới một tí xíu nước chao lên cơm . Đó là buổi ăn thịnh soạn của tôi hàng ngày . Tôi ngồi trên sàn cao nhìn xuống , lác đác vài người ngồi ăn . Tất cả đều im lặng , miên man nghĩ về gia đình mình . Một không khí buồn bã , im vắng ngự trị trong buồng .
Con mèo xám nhỏ , đánh hơi thức ăn , chạy kêu meo meo dưới đất . Chắc anh trực buồng , trước khi về , chỉ kịp mở dây ra cho nó . Con mèo xám nhỏ bơ vơ , cầu cứu kêu ăn . Tất cả các anh trong buồng ngồi im như tượng đá . Họ vừa trải qua một cơn xúc động ghê gớm , thân phận mình về đâu và gia đình ra làm sao đây ? . Họ dửng dưng nhìn con mèo xám như muốn nói :" Tao lo thân tao chưa xong làm sao lo cho mầy ".
Tôi leo xuống đất , ôm con mèo xám lên . Kiếm một cái chén nhỏ , xúc ra một ít cơm . Vì biết con mèo không ăn chao được , tôi lấy bình chà bông mà mẹ tôi cho . Đó là đồ ăn chiến lược , tôi để dành khi nào ốm đau hay cạn kiệt mới lấy ra ăn . Tôi chúm một ít chà bông , trộn vào cơm rồi đưa cho con mèo . Con mèo ăn một cách ngon lành . Gương mặt nó láu lỉnh , thông minh , nó gừ gừ , hình như muốn nói :" Cám ơn , cám ơn ". Chắc có lẽ vì đói quá , nó ăn một loáng là xong . Tôi xúc thêm cho nó một it́ cơm và một ít chà bông nữa . Ăn cơm xong , con mèo no nê , như muốn làm quen , lấy thân mình cạ cạ vào người tôi . Tôi không muốn tiến xa tình cảm hơn nữa nên bảo nó :" Đừng có làm quen tao . Thôi hôm nay no nê rồi , đi kiếm chổ khác mà ở ". Tôi ôm con mèo bỏ xuống đất rồi leo lên sàn lại . Nhìn xuống , thấy con mèo đang nhìn tôi kêu meo meo . Tôi cứng rắn , không thèm nhìn nó nữa , nằm nghỉ ngơi chờ giờ điểm danh đóng cửa buồng .
Hôm sau đi làm về , tôi tất bật rửa tay , rửa chân , lấy cơm , mọt và mốc muôn năm , rồi leo lên sàn ngồi ăn . Không khí nặng nề , im vắng vẫn còn ngự trị trong phòng . Con mèo xám ở đâu chạy ra , đến đúng chổ tôi ngồi , ngước mặt lên nhìn tôi kêu meo meo xin ăn . Cầm lòng không đậu , tôi lại nhảy xuống ôm con mèo lên cho ăn . Nhìn nó nhỏ nhẻ nhai cơm , tôi thấy vui vui , nỗi cô đơn tan biến trong chốc lát . Nhưng sau đó , khi ăn cơm xong , tôi vẫn cương quyết chia tay với con mèo . Ôm con mèo xuống đất , tôi bảo :" Thôi đi đi , đừng theo tao nữa ".
Buổi chiều hôm sau nữa , đi lao động về , lại tất bật tắm rửa , thay quần áo sạch sẽ , ngồi nhai cơm mốc với một cục chao nhỏ xíu . Miên man suy nghĩ , nỗi buồn như thấm vào từng sớ thịt . Các sĩ quan Hải Quân , lâu lâu gặp laị để tâm sự thì về hết rồi . Nào Nguyễn địch Hùng ( khóa 6 , Hạm Trưởng HQ 1) , Nguyễn quang Hùng , Lê văn Quế( khóa 9 ) , Hà hiếu Diệp( khoá 10) , Vỏ duy Kỷ( khóa 11) , Nguyễn văn Hồng( khóa 14) ...
Hai thằng bạn cùng khóa còn lại là Sử và Hào Râu cũng về nốt . Bây giờ chỉ còn lại Đại Tá Trần phước Dủ và ... tôi . Tôi gục gặt đầu :" Mình cũng là thứ dữ đó ". Dòng tư tưởng đang trải dài bất tận thì bị cắt ngang . Một anh ngồi sàn dưới kêu lên :" Anh Phước , con mèo đang trèo lên anh kìa ". Tôi thò đầu ra ngoài mép sàn nhìn . Con mèo nhỏ đang vươn móng ra , cố bám vào thành gỗ có các cục u dùng để bước lên sàn trên . Móng chân nó quào quào trượt trên các thành gỗ cứng ngắt . Con mèo sắp sửa rơi xuống . Tôi vội vàng dở " cầm nả thủ " chụp lấy nó mang lên sàn . Tôi lắc đầu bảo nó :" Chà , sao mầy đeo theo tao dữ vậy , bộ tao mắc nợ mầy sao ". Rồi từ đó con mèo trở thành bạn thân tôi lúc nào không hay . Nó chia xẻ sự cô đơn với tôi , nó hòa lẫn vào đời sống tôi . Lúc ăn có nó kế bên , lúc ngủ nó cũng nằm kế bên tôi .
Anh bạn cùng sàn với tôi tỏ vẻ khó chịu khi thấy tôi nuôi con mèo . Anh than phiền với tôi là anh mất một cây lạp xưởng . Ôi, quý lắm , bao nhiêu là
" chất " trong đó , nói theo kiểu các anh hình sự ngoài Bắc . Không biết anh nghi tôi hay nghi con mèo . Không khí lạnh nhạt có vẽ nặng nề . Một bửa trưa , cơm nước xong , nằm nghỉ ngơi , con mèo xám nằm kế bên tôi . Tôi thấy anh bạn láng giềng cử chỉ có vẻ khác lạ . Mặt giận dữ , anh nhìn chằm chằm vào con mèo . Tôi liếc con mèo thì thấy nó lại nhìn chằm chằm vào túi cót đựng quà của anh bạn . À ra thế . Tôi nói , cố ý để anh bạn láng giềng nghe :" Mimi ( tôi đặt tên cho con mèo ) , qua đây nằm mầy ". Tôi cầm con mèo bỏ qua người tôi , cách ly nó và túi cót . Anh bạn dịu sắc mặt lại và lim dim nằm ngủ . Bổng nhiên con mèo phóng qua người tôi , lao về túi cót . Tôi thầm bảo :" Chết cha rồi , mầy làm ẩu như vậy đâu có được ". Anh bạn láng giềng cũng choàng tỉnh dậy . Cả hai chưa kịp phản ứng gì thì thấy con mèo xám chụp được con chuột lắt từ trong túi cót của anh bạn bò ra . Tôi hả hê khoái trá vì bao nhiêu nghi ngờ tan biến hết . Còn anh bạn , hơi mắc cở nhưng vui vẻ tỏ vẻ cám ơn , nói với giọng Huế đặc sệt :" Con mèo chi mô mà hay rứa ".
Trong trại tôi lúc đó , trại Xuân Lộc phân trại A, có một anh khá đặc biệt . Tên anh là Hảo , nhưng các anh cùng tṛại khoái gọi anh là Má Mèo . Anh nguyên là Đại Úy Quân Cảnh . Lúc trước chắc cũng phong độ lắm , nhưng bây giờ cười hay nói , nhe ra chỉ có một vài cái răng . Chân anh đi cà nhắc , một vài người kháo là anh trốn trại , nhảy tường nên chân có tật rồi bọn Việt Cộng tẩm quất lấy vài cái răng . Anh nuôi con mèo cái mẹ , đẻ mấy lứa anh đều nuôi hết vì vậy tổng cộng gần cả chục con . Anh có biệt danh Má Mèo từ đó mà ra . Anh không có vợ con , nhưng có bà mẹ , chắc khá giả , lên thăm nuôi anh thường xuyên . Vì vậy mà anh có khả năng nuôi cả chục con mèo . Mỗi khi anh ngồi ăn , mèo lủ khủ kế bên , có con trong lòng anh , con đứng kế bên , con nằm dưới đất . Cảnh tượng trông rất buồn cười . Má Mèo như một bà vú nuôi . Anh nghe nói tôi nuôi một con mèo , gặp tôi anh nằn nì , bảo :" Phước , mang con mèo đến tôi coi chơi ". Tôi nói :" Ờ , cơm xong cái đã ". Buổi chiều cơm nước xong , tôi ôm con mèo đến anh . Má Mèo đang đứng ngoài sân , đùa với mấy con mèo con . Tôi quăng con mèo xám xuống đất . Thấy mèo lạ , con mèo xám cong thân lại , lông xù ra , kêu gừ gừ , đuôi dựng đứng lên như ngọn cờ trông rất oai phong . Mèo con của Má Mèo chạy tán loạn , còn mèo mẹ gừ gừ nhưng không dám đến . Má Mèo nóng ruột , la lên :" Phước , đừng giởn , Phước ". Tôi cười , ôm con mèo xám về buồng .
Bọn Việt Cộng giải tán phân trại B , dồn tù còn lại qua trại A và C . Các đội được sắp xếp người lại , bọn chúng gọi là biên chế . Tôi bị chuyển qua đội khác gồm toàn các ông đại tá , chúng tôi gọi thân mật là bò lục . Tôi chỉ còn nhớ hai vị là Đại Tá Phúc , Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 2 Không Quân và Đại Tá Vũ thế Quang , Tư Lịnh Phó Sư Đoàn 23 Bộ Binh . Sở dỉ , tôi còn nhớ hai vị nầy vì hai ông thường hay mược sách tiếng Anh của tôi . Trong trại , tôi nổi tiếng có một kho sách mà tôi dám giấu diếm gần hai chục quyển . Các quyển sách nầy do em gái tôi mang lên từ từ . Rồi đem vào trại , để qua mắt bọn Việt Cộng là cả một vấn đề mạo hiểm . Các anh trong trại mê đọc sách nhưng không dám giữ , hay đến làm thân với tôi để được mượn sách . Giữ sách tiếng Anh là cả một vấn đề nguy hiểm . Anh Hà hiếu Diệp bị khám phá giữ sách tiếng Anh , bị cùm mấy tháng trời liên tiếp .
Tôi nằm sàn trên kế bên Đại Tá Quang . Ông không thích mèo nhưng vì mấy quyển sách của tôi nên cũng tỏ vẻ lịch sự . Các vị bò lục khác trong buồng cũng vậy , không thích thú vật nhưng vì thấy tôi cấp nhí nên họ không nói . Một bửa trưa cả đội đang ngồi ăn cơm . Các vị bò lục quây quần với nhau vì các ông là bạn thân với nhau và cũng để chia xẻ thức ăn với nhau mà gia đình cung cấp khi đi thăm nuôi . Tôi chỉ có con mèo xám là bạn thân . Tôi chia xẻ thức ăn với nó . Tôi đưa chén cơm cho nó . Nó có vẽ thờ ơ , nhìn lên trần nhà vẩn vơ làm như không thèm để ý tới miếng ăn . Tôi nghĩ thầm trong bụng :" Chắc chú mầy bắt được một con chuột nào rồi , phải không ?". Bổng thoắt , con mèo phóng lên trần nhà như một mủi tên . Trần nhà được đan chằng chịt bằng dây kẻm gai để đề phòng tù trốn . Tôi ngước nhìn theo , thấy nó vươn chân trước vỗ một cái , một con chuột to trên trần nhà rơi xuống . Con mèo lao vút theo , vừa chạm tới đất , con chuột nằm gọn giữa hai hàm răng của nó . Cả buồng chứng kiến cảnh phi thân tài ba của nó , vỗ tay rần rần . Có người nói lớn lên :" Thế là các anh thăm nuôi nhiều , khỏi lo sợ chuột nữa nhé ". Các vị bò lục cười hể hả vì họ có quà thăm nuôi nhiều nhứt . Từ đó con mèo xám đi ngênh ngang khắp nơi , được nhìn bằng những đôi mắt thiện cảm .
Con mèo bắt đầu trổ mã , đẹp lắm . Lông mọc dài xám mượt , xen lẫn những vân đen trông giống như cọp . Tôi thích gương mặt nó , mặt tròn sáng sủa , trông rất thông minh và có duyên . Có lẽ nó lai giống mèo rừng nên rất bự con . Thỉnh thoảng khi đi , nó dựng đứng đuôi lên , lông sù ra trông rất oai . Tôi đi lao động thì nó cũng đi , đi đâu không biết . Nhưng khi tôi về ăn cơm hoặc nằm đọc sách , nghe tiếng sột soạt là biết nó đang trèo lên chổ tôi . Nó nằm kế bên tôi trông rất thoãi mái và an bình .
Đối với tôi , vợ con không có , mẹ già và anh chị em đều xa diệu vợi , không gian lẫn thời gian , con mèo là một phần tình cảm của tôi .
Buổi trưa , mùa hè ở Xuân Lộc nắng gay gắt . Bỗng nhiên mây kéo đến đen kịt rồi trời đổ mưa rầm rập . Những giọt mưa đầu mùa mang hơi lạnh se sắt đến cho tù nhân . Nó làm trôi đi những bụi bặm nhưng nó không cuốn trôi được những nổi ưu phiền của tù nhân xa xứ . Mỗi khi mưa to , bọn Việt Cộng cho tù nghĩ vì sợ tù trốn trại chớ chẳng yêu thương gì ai . Mặc dù " lao động là vinh quang " , mặc dù " lao động là xây dựng chủ nghĩa xã hội " , chúng tôi vẫn thích được nghỉ hơn . Biết chắc là chiều nay được nghỉ , tôi trùm mền nằm ngủ . Gió lạnh từ cửa sổ phà vào mặt , tôi nằm sung sướng lắng nghe tiếng thời gian dần trôi . Buồng im vắng , chỉ nghe tiếng mưa rào rào bên ngoài . Bỗng nghe có tiếng oa oa rất lớn như tiếng con nít kêu . Tôi định thần xem tiếng đó là tiếng gì và xuất phát từ đâu . Một vị bò lục tầng dưới kêu lên:" Anh Phước ơi , con mèo của anh ở dưới sàn đang làm gì kìa ". Tôi vội vàng nhảy xuống , bò mọp xuống đất thì thấy con mèo xám ngoạm một con ếch rất to , lớn hơn nắm tay người lớn . Tôi chưa từng thấy con ếch nào to như vậy , có lẽ ếch rừng . Tôi vổ tay xuống đất , bảo :" Mimi ra đây ". Con mèo xám bò ra ". Tôi cầm chặc hai chân ếch và ra lệnh :" Mimi nhả ra ". Nó nhả con ếch ra và chạy theo tôi kêu meo meo , như bảo :" Của tôi mà , của tôi mà ".
Tôi và Đức Đù , anh em thân mật gọi là Đức Cống , nấu cơm chung , ăn với nhau cho vui . Đức nguyên là Thiếu Tá , Đại đội trưởng Trinh Sát Dù , khóa 22 Võ Bị Đà Lạt . Chiều hôm đó , Đức Dù trổ tài nấu bếp . Anh chặt đầu con ếch , lột da rồi đem chiên lên sau khi tẩm ướp gia vị . Và quả thật , đây là một trong những bửa cơm ngon trong tù mà khi nhắc lại , tôi vẫn còn nhớ hương vị đậm đà của nó . Đầu ếch cũng được chiên và đó là phần thưởng cho Mimi . Nó nhỏ nhẹ nhai kế bên chúng tôi và hình như nó cũng bằng lòng với phần chia của mình .
Bọn Việt Cộng lại sắp xếp nhân lực . Bọn chúng thông báo cho chúng tôi biết , một số tương đối khoẻ mạnh , sáng mai di chuyển ra tăng cường cho trại C . Chiều hôm đó , sau khi cơm xong , tôi bắt con mèo xám bỏ vào túi cót lớn , sợ sáng mai lụp chụp nó bỏ đi đâu mất . Tôi quý nó hơn tất cả những gì tôi có lúc đó . Nó len lén đi vào tình cảm của tôi lúc nào không hay và tôi cảm thấy không thể bỏ rơi nó được . Tôi có một điểm yếu về tình cảm . Những gì của tôi là của tôi , tôi không muốn bỏ rơi và không muốn đánh mất .
Sáng hôm sau , chúng tôi tập họp để lên đường , lội bộ qua trại C . Anh Bùi Quyền , Trung Tá Lữ Đoàn Phó Dù , cũng ở trong nhóm , hỏi tôi :" Con mèo đâu ". Tôi chỉ túi cót . Anh gật gù bảo :" Ờ phải mang theo chứ" . Và anh đề nghị xách dùm cho tôi một ít đồ đạc để tôi rảnh tay xách túi cót đựng con mèo . Đường thì xa , đồ đạc lỉnh kỉnh đủ mọi thứ , phải mang theo để có vật dụng xài . Lưng đeo sac marin thật lớn , quàng ở vai cái bị , hai tay xách hai túi cót , lội bộ gần mười cây số , đến trại C thì bở hơi tai, mồ hôi ra như tắm .
Trước cổng trại C , chúng tôi phải qua thủ tục khám xét hành lý cá nhân để xem có đem gì cấm kỵ vào trại không . Con mèo xám mà chúng bắt được thì chúng mừng lắm vì được " chất tươi mà " . Tôi lại phải dở ngón đòn " lì " của tôi ra . Lợi dụng các anh bị chúng lục soát trước rồi mang đồ đi , tôi cũng tỉnh queo xách túi cót đựng con mèo di chuyển từng đoạn một rồi cuối cùng xách áp vào bờ kẻm gai , có một số bạn bè đang đứng ở đó . Tôi hất đầu ra dấu nhờ họ xách dùm đi . Con mèo xám được mang vào cổng trại êm ru bà rù .
Chúng tôi được tập họp vào một buồng ở cuối trại chờ phân phối đi các buồng khác . Buổi trưa trời nóng hâm hấp . Sợ con mèo ngộp thở , tôi mở túi cót , ôm con mèo ra . Con mèo xám ngơ ngác nhìn xung quanh , cảnh vật lạ hoắc . Tôi chưa kịp phản ứng , con mèo nhảy ra vuột khỏi tay tôi , chui qua hàng rào , trốn vào rừng mất dạng . Tôi chạy theo kêu :" Mimi ,Mimi ". Nó không thèm quay trở lại . Quả thực là tôi sửng sốt , thất vọng và sửng sờ . Công trình khổ biết bao nhiêu mà rồi trở thành công cốc . Tôi đứng lặng người đến khi bọn Việt Cộng thúc dục , tôi mới quay đi .
Tôi bị chuyển về đội mộc . Trong đội , tôi còn nhớ Đại Tá Nguyễn văn Thu ( khóa 2 HQ) , (Trung Tá Nguyễn nam Thanh An ninh HQ , khóa 7) , Trung Tá Võ Ý ( nhà thơ Không Quân , khóa 17 Vỏ Bị Đà Lạt ), Thiếu Tá Châu ( tiểu đoàn trưởng Dù , khoá 19 Vỏ Bị Đà Lạt ) . Tối hôm đó , tôi ngủ không được , trằn trọc mãi và bực tức vì con mèo bỏ chạy vào rừng . Giấc ngủ cứ chập chờn , chập chờn rồi thiếp đi vì mệt quá . Khoảng 6 sáng , tôi thức dậy , trời mờ sáng . Bỗng tôi nghe tiếng kêu meo meo giống như tiếng kêu của con mèo xám . Tôi vội tốc mùng , chạy đến cửa sổ , nhìn ra bên ngoài , ánh sáng mờ mờ . Tôi kêu :" Mimi ,Mimi ". Có tiếng mèo kêu đáp trả lại meo , meo . Tôi áp mặt vào khung cửa sổ để nhìn rõ hơn , vẫn không thấy gì . Tiếng anh Châu trong mùng vọng ra :" Con mèo ở dưới chân anh đó ". Tôi cúi xuống ôm nó như tìm được một báu vật vừa đành mất . Tôi nghe hơi thở nó rù rù bên tai .
Con mèo bây giờ đang độ trưởng thành . Nó to gấp rưỡi con mèo thường . Lông càng dài càng mượt . Cả trại đều biết nó là con mèo tôi nuôi . Đức Dù cũng di chuyển qua trại C , nhưng ở đội khác , bảo :" Con mèo đẹp quá bạn ạ , tôi kêu nó không đến ". Mặc dù Đức đã từng vuốt ve nó . Không ai bắt được nó , chỉ trừ tôi , kêu nó mới đến . Anh Võ Ý thường hay nói vui :" Phước không có vợ con nên thương con mèo là phải ".
Chuột rừng ở đây cũng to lắm . Một anh " lâm sản" , nghỉa là tù đi đốn củi cho trại tù , bẫy được một con chuột rừng , mang về chơi . Con chuột rừng gần bằng mèo nhà , rất dữ , thấy mèo nhà là xáp lại . Mèo cái của Má Mèo chạy cong đuôi . Thế mà con mèo xám của tôi bắt được chuột rừng . Một hôm , tôi nghe nó nhai rau ráu dưới gầm sàn . Lôi con mèo ra , tôi thấy cái đầu chuột rừng to tổ bố . Vì vậy tôi thấy sau đó con mèo xám không ăn cơm nhà nữa . Ban đêm nó đi đâu mất tiêu , ban ngày về chổ tôi , nằm ngủ đưa bốn cẳng lên trời , phơi bụng ra .
Chủ nhật là ngày nghĩ ngơi , bồi dưởng của tù nhân . Buổi sáng vừa mở cửa buồng giam , bạn tù ùa ra , mỗi người dành một chổ nấu nướng , ăn uống , pha trà rồi đấu hót . Tôi cũng vậy , kiếm một chổ yên tĩnh , trải chiếu ra , dựng cái lò kế bên và bắt đầu trổ tài ... qua loa . Tôi ăn uống rất giản dị , giản dị như những gói quà của mẹ tôi cho . Hoặc là mì gói , hoặc là bún miến , cho vài con tôm khô vào nồi nước , một ít bột ngọt , vài lá rau nhặt nhạnh được và rồi ... húp sì sụp . Con mèo ngồi kế bên cũng được một chén nhỏ . Nhưng hôm nay không thấy nó đâu cả . Mọi bửa nó về sớm , nằm ngủ kế bên tôi . Ăn uống xong , tôi đi quanh trại để xem con mèo có đi thơ thẩn ở đâu không . Đến trưa , vẫn không thấy mèo về . Tôi thấy là lạ , chuyện nầy chưa từng xảy ra . Bốn giờ chiều , trại phát cơm , cả buồng lăng xăng . Tôi thấy một anh cũng là tù nhân , từ cổng trại đang tất tả bước về hướng tôi . Anh là người phụ trách nuôi heo , nên chủ nhật cũng phải ra ngoài trại lo cho heo ăn . Đến trước mặt tôi , anh hào hển nói :" Anh Phước , con mèo của anh chết rồi . Sáng nay , tôi thấy thằng chèo gác hàng rào trại , bắn nó chết . Nó cầm cái đuôi con mèo dơ lên . Tôi biết con mèo của anh mà , nó bự lắm . Thằng chèo nhe răng cười nham nhở ". Anh nhại giọng thằng chèo :" Thế là chiều nay có chất tươi rồi đấy nhé ".
Tôi đứng lặng người nhìn anh . Có gì nghẹn nơi cổ làm tôi không nói được tiếng nào . Anh bạn nhìn tôi ái ngại . Hình như anh muốn nói với tôi điều gì đó . Nhìn ánh mắt , tôi biết anh thương hại tôi . Anh muốn chia xẻ nỗi buồn với tôi , nỗi buồn như là chúng tôi có cùng một chiến hữu vừa nằm xuống .
Phước cafe
hoanglan22
08-23-2019, 02:34
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1440539&stc=1&d=1566527436
Tôi nhón chân lên cho cao , cố nhìn xuyên qua vai các bạn tù đứng trước mặt , liếc xem tấm bảng ghi tên thân nhân lên thăm . Tôi lẩm bẩm trong miệng :" Hôm nay là 23 Tết rồi , thế nào Má và Hạnh cũng lên ". Các bạn kế bên lao xao bàn tán , người tươi rói ra mặt , kẻ mặt mày ủ dột . Tôi đưa mắt lướt trên tấm bảng , từ trên xuống dưới . À , tên mình đây rồi , kế bên có chua thêm : người thăm , Mẹ và em gái .
Nhà thăm nuôi hôm nay thật đông vì là ngày 23 tết , ngày đưa ông Táo về trời . Các bà , các cô cố gắng đi thăm chồng con rồi còn phải về nhà đưa ông Táo chứ . Chúng tôi, khoảng 10 người được đưa đến một cái bàn dài có thân nhân ngồi sẳn một bên . Một tên " chèo " ngồi ở bàn giấy nhỏ ở cuối phòng để quan sát chúng tôi . Chúng tôi được liệt vào hạng "học tập" kém nên phải có người " chăm sóc " . Xung quanh nhà , la liệt những người " học tập tốt " được ra nhà thăm nuôi trước . Họ trải ny lông xuống đất , ngồi nói chuyện , ăn uống với vợ con trông rất hạnh phúc . Những người nầy được hưởng "chế độ" thăm nuôi một ngày , từ sáng đến chiều , được tự do đi lại . Còn những người ngồi ở bàn như chúng tôi , chỉ được ngồi một chổ và chỉ được gặp người nhà 2 tiếng . Bọn Việt Cộng thâm lắm , dùng chế độ phân biệt để làm đòn bẩy cho việc gọi là "cải tạo" cuả bọn chúng .
Tôi bước vào bàn , ngồi trước mặt mẹ và em tôi . Cảm thấy có một gương mặt quen thuộc . Tôi quay lại , à NCP , một sĩ quan trẻ thuộc một binh chủng nổi tiếng . Anh nhìn thấy tôi nhưng bẻn lẻn tránh ánh mắt của tôi . Gương mặt anh , tổng hợp một tình cảm pha trộn giữa nổi vui sướng và sự thẹn thùng . Tôi tế nhị làm như không thấy anh . Anh đang tiến vào phòng " hạnh phúc " . Ở trong tù , chúng tôi kháo với nhau như vậy . Đó là nơi xum họp với vợ của những người được chấm là cải tạo tốt , cải tạo tiến bộ . Thời gian được tưởng thưởng là 24 giờ , có thể là 48 hay 72 giờ tùy theo mức độ cải tạo. Nhiều người không giữ được tiết tháo , sống theo bản năng trong đó có một viên chức cao cấp từng là Tổng Trưởng , đã thụ hưởng những ân sủng nầy . Anh NCP là một sĩ quan trẻ , rất trẻ mà đã mang cấp bậc thiếu tá . Sau khi bị cùm một tháng , tôi bị chuyển vào chung đội với anh . Anh là người đầu tiên chào đón và giúp tôi mang hành lý vào . Anh sởi lởi nói chuyện vui vẽ . Tôi mến anh vì thấy anh còn trẻ mà cứng đầu và ... nghèo , không ai thăm nuôi , nghe nói vợ bỏ . Anh thường tâm sự với tôi , bọn VC dùng bẩy đàn bà ( ý anh nói vợ con ) để đánh sụp tinh thần sĩ quan QLVNCH và để mua chuộc một vài người làm ăng-ten . Anh nhấn mạnh với tôi : đi tù là mất tất cả chỉ còn lại danh dự . Tôi liếc về hướng anh , chỉ thấy tấm lưng anh đang khuất sau cánh cửa . Không biết tại sao vợ anh đổi bến , đổi lòng lên thăm anh . Tôi lắc đầu , chỉ biết thương cảm anh hơn là chê trách .
Tiếng mẹ tôi đều đều , ngắt quảng , có vẻ tức tưởi . Bà nói :" Người ta đi cải tạo 3 năm rồi về , rồi vượt biên rồi gởi quà về nuôi gia đình . Còn con , 5 năm, rồi 7 năm ,bây giờ 10 năm vẫn không thấy gì hết . Thằng công an khu vực đến nhà thăm hỏi , nói con " học tập " không tốt . Bộ con muốn ở luôn trong nầy sao ? Phải về lập gia đình , có vợ có con như người ta chớ ". Rồi bà sẳng giọng :" Tao biết mầy cứng đầu lắm . Tao nuôi mầy từ nhỏ tới lớn , tao biết mầy to gan . Đầu có 2 xoáy mà ". Tôi ngồi im thin thít , không dám hó hé . Tôi không dám tiết lộ là tôi đã trốn tù hai lần , còn sống là may lắm .
Mắt mẹ tôi hơi đỏ , giọng nói bà nhẹ như cơn gió thoảng : " Má già yếu rồi , mỗi lần đi thăm con , ngồi cả ngày , Má mệt lắm . Thức dậy từ 4 giờ sáng đến 10 giờ tối mới về tới nhà . Lần sau Hạnh sẽ đi thăm con , có thể 3 tháng , có thể 4 tháng , có thể lâu hơn nữa . Con rán dành dụm thức ăn Má cho . Anh mầy mất rồi , Má làm gì có tiền . Má già rồi ...." Tiếng già của bà nhẹ nhàng , kéo dài như tiếng chuông chùa ngân mãi bên tai tôi . Tâm tư tôi chùng xuống . Tình non , tình nước xa lơ , xa lắc đâu không thấy . Tình cảm mẹ già , sờ sờ trước mặt vẫn không nắm bắt được .
Hạnh thấy không khí có vẽ buồn , cô ấy xen vào :" Em có đem cho anh mấy quyển sách ". Hạnh biết tôi mê đọc sách nên nhập đề nói trước , rồi cô tiếp :"Chị Chi định lên thăm anh lần nầy nhưng Má không cho . Lần sau chỉ sẽ đi với em ". Thế là tôi bắt qua hỏi thăm người quen , người nầy , người nọ . Mười năm rồi , vật đổi sao dời . Một xã hội bình thường còn biến đổi , huống chi đây là xã hội bị bọn VC càn qua , quét lại . Bạn bè , người vượt biên , kẻ bỏ xác ngoài khơi , kẻ lên rừng vùng kinh tế mới . Bạn gái , người thì mất tăm hơi , kẻ ở lại tay bồng tay mang . Biết bao nhiêu chuyện mà thăm hỏi . Lật bật gần tới giờ , tên công an ra dấu còn 15 phút . Mẹ tôi nói :" Kỳ nầy , ngoài đồ ăn thường lệ , Má cho thêm một con gà giò để con ăn Tết . Thôi Má về , con rán giữ gìn sức khỏe ". Tôi theo tên công an về lại trại giam . Tôi không dám ngoáy cổ nhìn lại vì tôi biết Mẹ và em tôi đang nhìn theo tôi . Bước chân tôi bỗng nhẹ tênh . Hình như có tiếng nhạc đâu đây :
"Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình , rạt rào .
Tình mẹ như dòng suối hiền , ngạt ngào ....."
Vào trại giam , tôi nằm vật ra sàn nằm , bỏ mặc đống quà một bên . Tôi nằm bất động , cảm thấy bềnh bồng , chơi vơi ở một thế giới khác . Bỗng nhiên đôi mắt tôi đập vào túi cót nhỏ . Nó động đậy và nhúc nhích . Tôi sực nhớ con gà Mẹ cho , kẻo nó chết ngộp . Tôi choàng dậy , mở túi cót ra , ôm con gà nhỏ . Nó vùng vẩy yếu ớt , miệng thè luởi ra , chứng tỏ là khát nước và mệt lắm . Tôi kiếm sợi dây nhỏ , cột vào chân nó rồi đem ra sân cột vào hàng rào dây kẻm gai. Tôi đem cho nó một chén nước . Con gà đứng dậy không được vì bị cột hai chân cả ngày . Hai cánh chưa mọc lông đầy đủ , quạt quạt xuống đất , nó cố truờn tới , chúc mỏ xuống chén nước rồi ngước lên , làm vài lần , gương mặt tái xanh bắt đầu hồng trở lại . Tôi đem ra một ít gạo rải trước mặt nó. Con gà mái tơ ngơ ngác nhìn tôi không buồn ăn . Tôi nói :" Thôi nằm đó nghĩ mệt nha ".
Trại tù VC cấm nuôi thú vật , kỷ luật rất là nghiêm ngặt nhưng mấy ngày Tết , được nới lỏng . Buổi chiều , tôi bỏ con gà vào túi cót lại , đem vào kho . Đề phòng chuột tấn công , tôi treo túi cót lên cao . Buổi sáng trước khi đi lao động , tôi đem con gà buộc vào hàng rào dây kẻm gai . Con gà yếu sức , đứng chưa vửng . Tôi để cho nó một chén nước và ít gạo . Buổi chiều về thăm , con gà xơ xác , ủ rủ đứng im , nhắm mắt hình như ngủ . Một vài bạn tù đi qua nói :" Con gà bị bịnh , sắp chết rồi làm thịt đi ".
Thật là nan giải . làm sao đây ? Tôi nhớ lại lúc còn nhỏ , khoảng mười lăm , mười sáu tuổi , nhà có giỗ , mẹ và bà chị tất bật nấu ăn . Bà già sai tôi cắt cổ gà . Tôi lỉnh kỉnh rồi trốn mất . Đến khi đi tù , tôi vẫn không biết làm gà như thế nào . Vả lại con gà là quà mẹ cho , tôi muốn giữ lấy . Thôi kệ ,tới đâu hay tới đó . Tôi lấy viên thuốc trụ sinh để dành , tetracycline , bẻ làm tư , bóp nhuyển rồi hòa một tí nước . Tôi bóp mỏ gà cho hả ra , lấy muổng cho nó uống từng hớp một . Sau đó , lấy cơm vo từng viên rồi bỏ vào miệng nó . Tôi làm y tá thú y bất đắc dĩ . Xong rồi , tôi bỏ con gà vào túi cót , treo lên ở nhà kho . Tôi lẩm bẩm :" Rán mà sống nghe ".
Sáng hôm sau , việc đầu tiên là tôi mở túi cót xem con gà như thế nào , may mắn là nó vẫn còn cử động . Tôi lại trổ tài trị bịnh gà , cho uống thuốc và ăn cơm . Tôi lại buộc vào hàng rào kẻm gai rồi đi lao động . Buổi chiều đi làm về , vội vàng chạy tất bật đến xem con gà . Tôi vui mừng khi thấy nó vửng vàng đứng trên hai chân . Tôi thưởng cho nó vài con cào cào , châu chấu bắt được . Con gà nuốt ngon lành . Tôi nghĩ đến một cái chuồng xứng đáng cho nó . . Tôi thấy một anh bạn có một cái thùng ghép bằng các thanh gỗ , đóng xen kẻ có chừa các khe hở . Tôi mặc cả với anh bằng hai gói mì . Con gà bây giờ có một cái chuồng khang trang , sạch sẽ .
Mỗi ngày, sáng sớm tôi đem cột nó ở hàng rào, chiều tối bỏ vào chuồng đem vào kho . Trong lúc đi lao động , tôi cố bắt cào cào , châu chấu đem về cho nó ăn . Con gà bắt đầu quen tôi , thấy tôi về , nó mừng , tôi rờ nó , nó không sợ hãi . Con gà mái bắt đầu mọc lông ra đầy đủ , mập mạp , hồng hào, giống như cô gái đến tuổi trăng tròn. Nhiều anh bạn mặc cả để mua , tôi chỉ cười cười . Độ nửa tháng , tôi thả con gà đi ăn tự do . Buổi chiều tôi về , nó chạy đến mừng để được tưởng thưởng cào cào , châu chấu . Chiều tối , tôi đặt cái chuồng ở gần, nó tự động vào , tôi đem cất vào kho .
Một tháng sau , con gà lớn lên to đẹp , mặt hồng hào , đỏ ửng như một thiếu nữ xuân thì , tôi vẫn nuôi bình thường , xem như con thú cưng ở nhà . Không ai bắt được con gà , chỉ trừ tôi , gọi túc , túc là nó chạy đến . Một buổi sáng , đem chuồng ra ngoài , tôi thấy một trứng gà ở bên trong , tôi biết là con gà mái đẻ . Tôi để ý chu kỳ , con gà mái đẻ liên tục 15 ngày rổi nghĩ 20 ngày sau đó lại tiếp tục chu kỳ kế tiếp . Nhờ vậy mà tôi có thực phẩm bồi dưởng .
Anh Nguyễn bá Quát , dân biểu Tuy Hòa , làm trực sinh , danh từ VC đặt cho những người không đi lao động mà ở nhà lo quét dọn phòng ốc . Anh Quát nói với tôi :" Phước, cho con gà ấp đi . Tôi thấy có trống đó ". Tôi thấy cũng vui vui , để dành 5 trứng bỏ vào ổ , lót bằng quần áo cũ rồi đem gà mái đến ấp . Tạo hóa thật diệu kỳ . Bản năng làm mẹ của con gà mái bật dậy , nó say sưa nằm ấp cả ngày , quên ăn , quên uống . Tôi phải đem nó ra ngoài cho ăn uống rồi nó cũng chạy vào nằm ấp tiếp . Vài ngày sau , nở được hai con gà con .
Ngắm gà mẹ dẩn con đi ăn cũng là thú vui của tôi lúc đó . Gà mẹ nuôi con rất kỷ , kiếm được thức ăn gì cũng gọi con đến. Trới mưa xòe cánh che chở cho con , hai gà con ấm áp, ríu rít dưới cánh mẹ thấy mà thương . Mèo đến gần nó trở nên hung dử như muốn tấn công . Riêng tôi , bắt gà rất dể dàng , tôi kêu " túc túc " là gà mẹ chạy tới , tôi đưa tay nâng bầu diều của nó lên rồi bỏ vào chuồng , các gà con chạy theo . Hai gà con lớn dần , nhưng bộ lông đen tuyền , khác hẳn với lông màu vàng của mẹ .
Ba con gà càng lớn , càng đòi hỏi thực phẩm nhiều hơn . Làm sao tôi có lúa gạo mà nuôi bọn chúng ? Ban ngày , tôi thả gà đi rong . buổi chiều đi làm về , tôi bồi dưởng chúng bằng vài con cào cào , châu chấu . Mùa hè đến , cỏ cây ngoài đồng xơ xác , sâu bọ cạn kiệt , tôi đâm lo . Tình cờ thấy một anh bạn bắt được cắc kè , rắn mối , tôi bắt chước thử . Chúng tôi mỗi lần đi lao động ra đồng , di chuyển vài cây số . Tiếng chân xào xạc trên đường làm mấy con cắc kè , rắn mối sợ hãi bò lên cây lớn mọc ở dọc đường . Đặc biệt là bọn chúng chỉ bò lưng chừng thân cây rồi ngừng lại nhìn chúng tôi . Một anh bạn lí lắc , đi vòng qua thân cây phía bên kia để con vật không thấy, rồi lấy tay choàng qua, chụp đúng ngay chổ con vật đang bám vào thân cây . Cái hay là chụp đúng vị trí con vật . Anh bạn hí hửng bỏ vào hộp , không biết để làm gì . Tôi bắt chước thử , lần đầu tiên ra tay , hơi lo , nhưng cũng trúng đích . Mấy lần sau , quen tay nghề , không trật lần nào . Chỉ cần một con rắn mối thôi là đủ bồi dưởng cho ba con gà .
Đầu tháng năm , trận mưa đầu mùa tới , trong lúc làm cỏ, tình cờ lật mấy tảng đá , vô số ếch con nhảy ra . Thế là tôi có thực phẩm cung cấp cho ba con gà . Rồi chúng tôi được phân công trồng cây mè ( vừng) . Ếch nhái cũng cạn kiệt vì lớn lên chúng nhảy đi mất tiêu . Tôi xoay sang bắt sâu mè . Đặc biệt sâu mè lớn bằng ngón tay , thân hình màu xanh giống như cây mè . Mấy ngày đầu , gà ăn sâu mè , nhưng sau đó thì... chê , tôi không biết tại sao . Cỏ bắt đầu mọc , tôi quay qua bắt cào cào , châu chấu .
Một hôm , đi lao động về, thấy trại giam có vẻ khác lạ . Mấy tên " trật tự , văn hóa " ( các chức tước mà bọn VC phong cho những người phe ta , cam tâm làm tay sai cho bọn chúng) , đang hầm hầm lục soát các dãy phòng để bắt các thú vật mà người tù nuôi . Đúng là :
Người nách thước , kẻ tay đao ,
Đầu trâu , mặt ngựa ào ào như sôi.
Tôi vội vàng cḥạy về buồng giam . Anh Quát đứng trước cửa buồng , cười cười :" Phước đừng lo , con gà mẹ khôn lắm , dẫn con chạy vào rừng rồi , tụi nó không bắt được ". Tôi chạy đến hàng rào , kêu túc túc . Độ 15 phút sau , gà mẹ dẫn con chạy về , mặt đỏ ké , ríu ra , ríu rít , hình như muốn mét với tôi là vừa bị rượt bắt . Tôi thưởng cho chúng vài con cào cào , châu chấu . Gà mẹ lại bình tâm dẫn con đi kiếm ăn .
Tôi bắt đầu lo vì bọn " trật tự , văn hóa " sẽ bố ráp liên tục, rồi có ngày nào đó , bọn chúng cũng sẽ chộp được ba con gà . Tôi phải tìm giải pháp. Nhận thấy anh Thi , trung úy Cảnh sát , trưởng Cuộc bót Lê văn Ken, được ở một căn nhà nhỏ ở bên ngoài trại giam . Anh có tay nghề thợ may rất giỏi , bọn VC ưu ái cho anh ở riêng để phục vụ việc may quần áo cho bọn chúng . Anh Thi chơi thân với anh Chung , Thiếu tá khóa 20 VBĐL . Anh Chung và tôi thường hay đến chơi với anh Hồng , Thiếu tá Hải quân khóa 14 . Do đó tôi quen với anh Chung , tôi nhờ anh Chung giới thiệu anh Thi . Tôi trình bày khó khăn về 3 con gà , anh Thi xởi lởi , vui vẽ :" Tôi có chuồng nuôi gà , cứ đem ba con gà cho ở chung".
Sáng hôm sau , trong khi các đội tập họp trước cổng trại điểm số đi lao động , tôi vội chạy đến căn nhà may giao túi cót có đựng ba con gà cho anh Thi . Buổi chiều , đi làm về , tạt qua ghé thăm . Con gà mái dẩn hai con lủi thủi đi ăn riêng, cách xa đám gà của anh Thi . Thấy tôi , con gà mái dẩn hai con chạy tới có vẽ mừng . Tôi thưởng cho mấy con cào cào , châu chấu rồi vội vàng chạy về đội để nhập trại . Con gà mái chạy theo , tôi đứng lại khoát tay thậm chí dậm chân , làm dử, biểu nó quay trở lại . Tôi bỏ chạy đi , con gà mái đứng ngơ ngác nhìn theo .
Mấy ngày sau , anh Thi gặp tôi cho biết , ngày đầu tiên đám gà của anh Thi ăn hiếp ba con gà của tôi . Anh nói :" Con gà mẹ dử lắm , để bảo vệ con , nó dám đánh lại mấy con gà khác , rồi sau đó cũng huề nhưng mấy con gà của anh dẩn đi ăn riêng ". Tình hình êm ả được mấy tháng , chiều nào đi làm về tôi cũng ghé thăm . Con gà mẹ và hai gà con cũng quen đi với đời sống mới .
Lật bật vậy mà cũng giáp năm , chỉ còn một tháng nữa là Tết . Không khí trại giam có vẽ cởi mở vì chuẩn bị ăn Tết . Tôi đem ba con gà về chổ tôi ở , bọn chúng cũng thích ứng với đời sống gọi là mới mà là cũ nầy . Rảnh rang , tôi hay quan sát đời sống của ba con gà . Tôi thích thú so sánh đời sống tình cảm của bọn chúng với con người . Một hôm , ba mẹ con dẩn nhau đi kiếm ăn , ríu ra , ríu rít , thật là hạnh phúc . Bỗng từ đàng xa , một con gà trống , loại đẹp trai , lực lưỡng sáu múi , vỗ cánh hùng dũng cất tiếng gáy :" Ò Ó O Ò O ....". Con gà mái ngẫng đầu lên nghe rồi quyết định bước về phía con gà trống . Hai gà con lẻo đẻo theo sau . Tôi nhìn thấy rõ ràng và bật cười . Con gà mẹ quay lại mổ vào đầu hai gà con , mỗi đứa một cái , hình như nó muốn nói :" Tụi bây đừng theo tao để tao đi chơi ". Hai gà con ngơ ngác nhìn mẹ , rồi không biết hiểu ý hay không tôi thấy bọn chúng lủi thủi dẩn nhau đi riêng. Tôi liếc về cặp trống mái . Con gà mái e ấp đi kế bên anh gà trống hùng dũng giống như một thiếu nữ , bẻn lẻn , âu yếm đi kế bên người tình . Con gà trống với hai chân khỏe mạnh và móng sắc vừa cào đất kiếm thức ăn vừa kêu túc túc hình như nói lời âu yếm . Con gà mái kế bên , uống tràn hạnh phúc với các con trùng mà gà trống kiếm được. Tôi bật cười , ngẫm nghĩ : Tạo hóa thật diệu kỳ , ban cho loài người và sinh vật một quà tặng vô giá là tình yêu để lưu truyền sự sống và nòi giống . Tôi tiếp tục theo dõi ba con gà . Buổi chiều , sắp sửa vào chuồng, con gà mẹ rời người tình để trở về với hai con. Bọn chúng lại ríu rít thương yêu nhau . Tôi thấy con gà mẹ hơn hẳn nàng Trác văn Quân , bỏ cha , bỏ mẹ để đi theo chàng Tư Mã Tương Như khi nghe khúc nhạc Phượng Cầu Hoàng.
Một tuần lễ sau , một trong hai gà con bị bịnh chết , chỉ còn lại gà mẹ và một gà con . Đến ngày đưa ông Táo , Mẹ tôi và Hạnh lên thăm . Tôi bỏ hai con gà vào túi cót , đem ra nhà thăm nuôi và giao cho Hạnh :" Anh nuôi mấy con gà mến tay , mến chân không nở làm thịt . Hạnh đem về nuôi tiếp dùm anh". Cuối năm đó (1987) , tôi về , chuyến tàu vét của những người mà bọn VC gọi là " có nợ máu với nhân dân".
Một buổi lể " hoành tráng " tổ chức ở hội trường có phóng viên nhà báo và nhiếp ảnh quay phim . Đức Dù và tôi ngồi phía sau , giấu mặt đi để cho các vị tổng , bộ trưởng và đại tá ngất ngưởng , hân hoan ngồi phía trước . Một chiếc xe chở chúng tôi về Sài Gòn . Mười hai năm sau , Sài Gòn không thay đổi , đường phố vắng tanh ,im lìm, chỉ thấy các lá cờ đỏ phất phới đúng như nhà thơ Trần Dần đã viết :
Không thấy phố ,
Không thấy nhà ,
Chỉ thấy mưa sa ,
Trên màu cờ đỏ .
Tôi bước chân vào nhà đúng ngày 11/11/1987, mẹ tôi đang nằm trên ghế xích đu . Trong ánh sáng mờ mờ , mẹ tôi giở kiếng ra hỏi :" Con về đó hả ?". Tôi dạ . Tôi ngồi kế bên bà , nắm bàn tay gầy rạc , nổi đầy gân . Mẹ tôi và tôi im lặng, để hạnh phúc tràn đầy ngấm vào từng sớ thịt, vào tận mỗi tế bào . Lúc đó tôi muốn la lên :" Tôi không cần lý tưởng cao xa gì hết , tôi chỉ muốn hạnh phúc tầm thường vậy thôi ". Hạnh đi làm về , mừng rỡ . Câu đầu tiên , tôi hỏi Hạnh là hai con gà của anh như thế nào . Cô em gái lúng túng , mặt đỏ bừng , ấp a , ấp úng :" Nhà chật quá , em....em.....". Tôi hiểu và không nói gì . Tôi đã trải qua những tình cảm khắc nghiệt , đây chỉ là chuyện buồn nho nhỏ trong dòng đời . Nhưng tôi cũng cảm thấy buâng khuâng , man mác và hình như trong tâm hồn , tôi cảm thấy mất đi một cái gì đó mà không bao giờ lấy lại được .
Phước cafe
hoanglan22
08-23-2019, 02:39
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1440542&stc=1&d=1566527781
Người lính biển được đào tạo và trui rèn trong một môi trường đặc biệt . Biển cả bao la với các trận cuồng phong hay những đêm trăng mờ với muôn ngàn vì sao lấp lánh đã in ấn vào tâm hồn người lính biển những tình cảm mảnh liệt dử dội hay lãng mạn nên thơ. Tình non , tình nước , tình nhà hòa quyện lẫn nhau trong lòng người lính biển cũng như một bóng hình yểu điệu , mượt mà , yêu thương lãng đãng trong trái tim , làm chàng nhớ nhung , ray rức . Ngoài những tình cảm đặc biệt đó , còn có một tình cảm khác âm thầm bàng bạc giữa những người lính biển, giữa các khóa đàn anh và đàn em , không nói mà nên , không hẹn mà đến , nhẹ nhàng , sâu lắng mà cũng thiết tha.
Năm 1983 , tù binh chúng tôi bị bọn Việt Cộng di chuyển bằng xe lửa từ miền Bắc về miền Nam cùng chung với các vị bò lục ( đại tá ) ở trại Nam Hà hay Hà Tây . Hai người bị xích một cùm , nghỉa là tay mặt người nầy xích vào tay trái người kia . Đoàn xe đang chạy , tôi khó chịu , loay hoay ở ghế ngồi vì không được tự do bình thường . Một nhóm người , ồn ào từ toa đầu tàu của các vị bò lục đi tới . Họ được cử đi lảnh phần ăn về chia cho đồng đội . Một người vừa đi len lỏi giữa hai hàng ghế , vừa hô lên như rao hàng bán dầu cù là Mac Phsu :" Có ai Hải Quân không ? Có ai Hải Quân không ?........". Tôi ngước nhìn dáng người quen quen , thân hình dong dỏng , gầy gò , tóc muối tiêu , hớt cao với đôi kiếng trắng . Tôi sực nhớ tới ông, chỉ biết qua hình ảnh , Đại Tá Trần phước Dũ . Tôi chồm tới , chào ông :" Commandant , tôi nè ". ĐT Dũ đứng lại , mặt sáng lên , những người đứng phía sau ông dồn cục lại . Ông hỏi :" Toa ở đơn vị nào ". Tôi trả lời :" Tôi ở Hạm Đội ". Bị mấy người sau dục đi tới , ông nói nhanh:" Về Xuân Lộc , nhớ tìm tôi , nhớ nghe ". Đi gần hết toa rồi , ông còn quay lại, nói :" Nhớ nghe , nhớ nghe ...".
Trại tù Xuân Lộc gồm 3 phân trại A ,B, C . Đại Tá Dũ về phân trại A , còn tôi ở phân trại C . Sau nầy khi lưu lạc qua trại A , tôi có tìm ĐT Dũ . Ông nằm kế bên ông anh ruột , Đại Tá Trần cửu Thiên . Hai anh em có nét mặt gần giống nhau nhưng ông Dũ ít nói trong khi ĐT Thiên gặp tôi là ông huyên thiên về lá bài Bảo Đại . Ông cho rằng hiệp ước Teheran của Đồng Minh trong Đệ nhị thế chiến vẫn còn hiệu lực về phân chia thế giới , vùng Đông Nam Á là vùng trung lập và Bảo Đại là người được lựa chọn để thực thi . Đề tài thật hấp dẩn , tôi ngồi im tiếp thu nhưng là để nghe ... cho vui . ĐT Dũ là người thương đàn em thật sự . Ông ăn chay trường , quà cáp của ông cũng theo hướng đó nhưng là những món ăn cao cấp , có cả nấm đông cô ( thời đó là quí lắm). Mỗi lần gặp tôi là ông trịnh trọng gói cho tôi một bịch quà . Tôi từ chối , ông hăm he là sẽ mang bịch quà đi theo tôi qua chổ tôi nằm . Tôi lân la hay hỏi ông về các chuyện xưa trong Hải Quân . Có lần tôi mạnh dạn hỏi :" Nghe nói commandant có nhiều bà lắm , bây giờ các bà đó ra làm sao ? ". Ông trả lời tỉnh queo :" Tôi cho vượt biển hết , chỉ còn một bà ở lại nuôi tôi thôi ". ĐT Dũ và tôi về cùng một lượt , cuối năm 1987, trước khi chia tay , ông nhét vào túi tôi một số tiền để làm lộ phí đi đường . Vài tháng sau , ông tìm tôi để nhờ lái chiếc ghe vượt biển mà ông đang tiến hành cho đóng . Ông đưa tôi về nhà , ở gần chợ An Đông , nhà ở trên gác , rộng rải , gặp một người đàn bà trông thật đôn hậu, người mà ông nói ở lại để nuôi ông . Rồi bắt được một đường dây khác, ông vượt biên thành công bằng tàu sắt . Sau đó nghe nói ông mất bên Mỹ .
Vào trạc C , tôi được " biên chế " vào cùng đội với Đại Tá Tài , Chánh văn phòng của Tư Lịnh Hải Quân , Đề Đốc Chơn . ĐT Tài ít nói và không hề tâm tình . Trong đội còn có ĐT Sửu , Tham Mưu Trưởng Không Quân hồi thời ông Diệm . ĐT Sửu người Huế , tướng người cao lớn , da ngâm đen . ĐT Tài và ĐT Sửu được phân công cùng nhau gánh cơm từ nhà bếp về phân chia cho đội . Biết tôi là Hải Quân , ông Sửu cứ gặp tôi ở đâu là phân bua ở đấy . Giọng ông Sửu hơi nặng lại có thói quen nói nhỏ , tôi không hiểu gì hết nhưng cứ gật đầu lia lịa ra cái điều thông cảm những điều ông càm ràm về người " đối tác " . Ở trại C , tôi gặp các đàn anh : Trần ngọc Anh ( khóa 12}, Nguyễn văn Thuật ( khóa 13 ) và hai bạn cùng khóa với tôi Hào Râu và Ấn Sẹo .
Ở chưa ấm chổ thì tôi bị chuyển vào trại B , làm mộc . Cùng đội mộc với tôi có các đàn anh : Nguyễn xuân Huy khóa 11, Thùy trinh Bạch khóa 13 , Trần văn Căn khóa 14 và Phan thanh Sử cùng khóa với tôi . Ngoài ra , ở trại B nhưng ở đội khác có các đàn anh : Lê văn Quế khóa 9 , Nguyễn quang Hùng khóa 9 , Hoàng đại Nhân khóa 14 và vài sĩ quan khác mà tôi không nhớ tên . Các sĩ quan Hải Quân ở đây tiếp đón tôi trong tình thân mật và ấm áp . Đặc biệt 2 người đàn anh Lê văn Quế và Nguyễn quang Hùng . Anh Quế và tôi sau nầy cùng ở một đội và nằm kế bên nhau . Anh là người đứng đắn , đáng kính . Đi tù về , chúng tôi còn gặp lại nhau và tình cảm mến mộ kéo dài cho tới tận bây giờ . Anh Nguyễn quang Hùng , tánh tình ít nói , hiền lành , thật dễ mến . Anh xem tôi như người em út , chăm sóc kỷ lưởng . Anh ở đội rau , hôm nào cũng vậy , khi đi làm về là gọi tôi ơi ới :" Phước ơi , Phước ơi ...." để nhét vào tay tôi , khi thì một bó rau thơm , khi thì một bó rau muống hay vài trái ớt . Anh về trước tôi rồi vượt biển . Nghe nói anh mất tích luôn với cả gia đình . Sao người hiền không gặp lành vậy nè , ông Trời?
Lúc đó vào mùa thu hoạch , đội mộc được tăng cường đi phơi bắp . Có một đội khác cột các trái bắp từng chùm một , mỗi chùm 10 trái . Đội mộc chúng tôi , công việc chỉ là cầm từng chùm một , vắt lên một xà ngang xỏ từ vách nầy sang vách kia trong một buồng trống . Chúng tôi vừa làm vừa nói chuyện râm ran cho đở buồn . Tôi đùa giỡn với các bạn đồng tù vừa cầm xâu bắp vắt lên xà ngang . Xâu bắp tôi vừa vắt lên xà ngang , rớt xuống rơi lả tả vì người cột không cột chặc . Tôi cúi xuống lượm mấy trái bắp thì một tiếng nói the thé ở phía sau lưng tôi vang lên :" Các anh lao động như vậy hả . Bọn ngụy các anh chỉ có phá hoại ". Thật tình mà nói , biết thân phận mình đi tù , ráng nín thở qua sông , còn muốn làm anh hùng gì nữa trong hoàn cảnh nầy nhưng khi nghe nói đến tiếng " ngụy " , lòng tôi cảm thấy thương tổn ghê gớm . Vừa bị ăn cướp sạch sành sanh , vật chất lẫn tinh thần , lại còn bị mắng là " ngụy " nữa , tự nhiên tôi phản ứng không suy nghĩ . Tôi quay lại , tên công an nhỏ con , đầu to không cân xứng với thân hình nhỏ xíu , cái đầu ngất ngưởng giống như cục kẹo gắn trên một que kẹo . Sau nầy tôi mới biết hắn là Trưởng Trại B , tên là Tâm Đầu Bò , giống như hình dạng của hắn . Tôi nghiêm trang nói :" Cán bộ không được gọi chúng tôi là ngụy . Báo chí và đài phát thanh cũng không được nói tới chữ ngụy ". Hắn sứng sộ :" Anh cãi tôi hả ? Coi chừng tôi đánh anh :" Lỡ " binh " rồi , tôi " binh " luôn :" Cán bộ đánh tôi là tôi đánh lại ". Hắn nhìn trừng trừng vào tôi , mặt giận xanh lè nhưng không dám làm gì vì hắn nhỏ con hơn tôi . Hắn bỏ đi ra , một lát sau , hai tên công an , vỏ trang súng , kè tôi lên văn phòng bọn chúng . Ở đây cả 10 tên thay nhau thẩm vấn tôi . Chúng kết tội tôi là chống lao động , chống Ban Giám Thị ( VNCH gọi là Quản Đốc ) . Hai tội rất nặng , có thể bị cùm 3 tháng trở lên . Biết vào hang cọp , tôi khăng khăng trả lời : tôi hăng say lao động , tôi chỉ muốn không gọi chúng tôi là ngụy . Bọn chúng hết vuốt ve rồi dọa nạt nhưng tôi cứ một mực khai như vậy . Quần tôi 3 tiếng đồng hồ , từ 9 giờ sáng cho tới 12 giờ trưa , không được kết quả gì , bọn chúng hăm he tôi :" Về trại chuẩn bị hành lý qua trại khác để cải tạo tốt hơn".
Tôi về buồng giam , cả trại như đàn ông vở tổ . Nhiều người đứng thập thò ngoài buồng , có người vào tận giường bắt tay tôi để động viên tinh thần . Một sĩ quan đàn em , Trung Úy Trác ngọc Anh thuộc Quân Đoàn 2 , quen từ hồi ở trại Thanh Cẩm, trèo lên chổ tôi nằm . Anh truyền kinh nghiệm :" Chắc chắn là anh bị cùm . Chuyện nầy em kinh nghiệm nhiều lắm . Em cho anh cái áo nầy ". TN Anh chìa cho tôi cái áo ấm bộ binh , dầy cộm . Anh nói tiếp :" Cái áo nầy hữu dụng lắm , trong nầy có nhiều thứ cần thiết : kim chỉ , dao cạo râu, thuốc sốt rét , thuốc tiêu chảy ". TN Anh chỉ cho tôi đường viền của áo , các thứ nầy , anh để rải rác , vải lại dầy nên mò sơ không biết . TN Anh dặn kỷ tôi:" Nhớ nè , lúc nào cũng mặc áo nầy , khi nào bị đánh thì ôm bụng cuốn tròn lại để ngực và bụng không bị tổn thương" .
Buổi trưa , cả trại tập họp để nghe bọn chúng đọc lịnh cùm tôi với tội danh chống lao động và chống Ban Giám Thị . Tôi bị đưa qua trại A vì ở đây mới có nhà cùm . Nhà giam rộng chỉ có một giường gỗ và một cái cùm chân ở cuối giường . Tôi không sợ lắm vì đã từng trải qua ở trại Cổng Trời , ba tháng bị cùm trong phòng tối , khủng khiếp hơn ở ̣đây , đủ kinh nghiệm để chịu đựng . Chiếc áo của Trác ngọc Anh thật công dụng .
Chiều tối dần , ban nhạc sáo thổi của đàn muổi vang lên. Tôi cuốn mình lại thu tròn trong chiếc áo ấm bộ binh . Hai bàn chân vẫn còn thò ra ngoài , tôi nới lỏng dây lưng quần , kéo quần dài thêm che hai bàn chân . Không bị muỗi cắn nhưng bị chuột bò qua, bò lại trên người nhiều lần . Hai lần bị chúng tẩm quất để trả thù cho tên Tâm Đầu Bò , tôi nhớ lại lời của TN Anh nên cũng tai qua ,nạn khỏi .
Rồi cái gì cũng qua đi . Sau một tháng , tôi được tháo cùm . Trớ trêu , người mở cùm cho tôi là Trung Tá N. , Tiểu đoàn trưởng trẻ tuổi , sừng sỏ của sư đoàn nổi danh vào bậc nhứt . Cấp bậc của anh luôn thăng cấp tại mặt trận . Bây giờ , anh làm Trật Tự viên cho bọn chúng . Vì đâu nên nỗi ? Bị cùm được một tháng thôi mà chân trái tôi tê cứng , loạng choạng đứng dậy và khập khiểng đi . Tôi bị tống vào đội " hoàng gia " , gồm những người bị liệt kê là không chịu cải tạo . Đội nầy chỉ lao động trong trại , không được đi ra ngoài. Đội gồm đủ thành phần , một số là dân sự , tiêu biểu là Giáo Sư Lê văn Ngôn, Đại học Luật khoa , một số là các linh mục và các nhà sư , một số là quân đội, tôi chỉ còn nhớ Thiếu tá Nguyễn ngọc Xuân ( Quận trưởng) , Thiếu tá Trần khắc Nghiêm , em của Trung tá Trần khắc Kính ( Lực lượng đặc biệt) , Thiếu tá Thiết giáp Nguyễn chinh Phu (sĩ quan xuất sắc của Thiết Giáp , khi xuất trận mang lon Trung uý , hành quân 6 tháng trở về mang lon Thiếu tá , thăng cấp tại mặt trận) ...
Tôi đang loay hoay trải chiếu nằm ở từng trên , kế bên TT Nghiêm , anh đang diện bích , quay mặt vào tường , các ngón tay đang bắt ấn , không màng thế sự bên ngoài . Một bóng người xuất hiện ngoài cửa , tiến vào trong buồng , hô lớn lên giữa những tiếng ồn ào của đội :" Phước đâu , Phước đâu? ...." Tôi nhìn xuống nhận ra ông , gương mặt trí thức , hiền hòa sau đôi kiếng trắng, Trung Tá Nguyễn địch Hùng ( khóa 4 Brest ) , Hạm trưởng chiếc HQ1 , Trần hưng Đạo . Đàn anh và đàn em cách nhau khá xa ,khoảng 10 khóa , tôi biết ông mà ông không biết tôi , không hiểu tại sao ông lại đi tìm tôi? Tôi thò mặt ra ngoài , kêu lên :" Commandant , tôi là Phước nè ". TrTHùng vui vẽ :" Ờ Phước hả . Sáng chủ nhật nầy , nhớ ghé tôi chơi ". Ông bước ra cửa còn quay lại nói :" Nhớ 8 giờ sáng nghe ".
Sau nầy tôi mới biết , tiếng đồn gần xa , vang dội cả trại . Các đàn anh thăm hỏi tôi nhiều lắm . TrT Hùng là người đầu tiên sau đó là TrT Hà hiếu Diệp (khóa 10) , TrT Vỏ duy Kỷ (khóa 11), TrT Nguyễn như Phú( khóa 16 VBĐL thụ huấn khóa 13 HQ), ThT Nguyễn văn Hồng ( khóa 14). Đặc biệt TrT Diệp , ngày nào cũng hỏi thăm tôi có cần gì không mặc dù anh cũng thuộc loại thăm nuôi " nhà nghèo ". Anh ra tù trước tôi nhưng không vượt biên được vì con đ̣ông quá . Khi tôi ra tù , qua một người bạn , một đường dây vượt biên uy tín nhứt mà đài BBC từng đề cập , mời tôi đi . Tôi từ chối vì còn lấn cấn mẹ già , không nở bỏ đi , tôi nhường chuyến đi lại cho TrT Diệp . Chính tay tôi mua la bàn và hải đồ cho anh . Nhà anh lụp xụp ở một hẻm đường Phan đình Phùng sau tòa đại sứ Campuchea . Vài ngày sau khi ghe của anh khởi hành , người liên lạc đưa tôi một mảnh giấy với hàng chữ viết của anh :" Ra khơi an toàn ". Tôi mừng cho anh nhưng hụt hẩng . Chiếc ghe của anh mất tích hoàn toàn , không bắt được liên lạc với một ai trên ghe . Kết thúc một câu chyện buồn .
Anh Nguyễn văn Hồng , đối với tôi là khóa trên , khóa dưới dễ nói chuyện và dễ thông cảm , Anh dặn tôi , sáng chủ nào cũng phải ghé anh . Tôi ngần ngừ. Anh dỏng dạc :" Phước còn nhớ Brimade (huấn nhục) không ? Tôi ra lịnh Phước thi hành ". Tôi biết anh nói đùa , nhưng câu nói hàm chứa một sự thân thương nào đó .
Sáng chủ nhựt , 8 giờ sáng , đến hẹn lại lên , tôi qua thăm TrT Nguyễn địch Hùng như lời ước hẹn . Ông ngồi sẳn chờ tôi trên một chiếc chiếu mà ông đã trải lên trên hành lang lối đi của buồng giam . Thức ăn thăm nuôi bày la liệt trên chiếu . Người đàn anh và người đàn em , chưa từng gặp mặt , chưa từng nói chuyện mà cảm thấy thân thương hơn lúc nào trong hoàn cảnh nầy . Có một sự liên hệ nào đó buộc chặc chúng tôi lại . TrT Hùng và tôi ngồi đối mặt, cùng nhau trải dài tâm sự , kể lại những nổi vui buồn của đời lính thủy . Ông không hề nói tại sao ông đi tù mặc dù ông là Hạm Trưởng HQ1 lừng lẩy , soái hạm của HQ/VNCH . Cuối cùng bắt buộc tôi hỏi :" Tại sao chiếc HQ1 ra đi mà commandant lại ở đây ? ". TrT Hùng nhìn tôi một hồi lâu , gương mặt bình thản , đôi mắt sáng sau đôi kiếng trắng :" Tôi cho lịnh nhân viên trên chiến hạm đem gia đình xuống từ 6 giờ chiều đến 8 giờ tối . Mấy ông ấy muốn khởi hành sớm hơn , tôi không thuận vì chưa tới giờ . Thế là mấy ông ấy lái đi ". Thời gian như ngừng lắng đọng , tôi không dám hỏi thêm mấy ông ấy là ai và ông cũng không nói . Tôi nhận thấy có một cái gì đó không ổn . Ai có quyền lái tàu đi mà không có mặt hạm trưởng ? Sau nầy , tôi đọc được những lý do khác nhưng vẫn là trái luật . Người ta xem đó là chuyện bình thường và có khuynh hướng coi những chuyện đã qua rồi bới móc lại làm chi. Giữa cái đúng và cái sai ngườita không phân biệt được vì vậy cứ tiếp tục mãi. Có một vài " nhà Hải Quân " muốn Hải Quân lúc nào cũng đẹp , cũng hay không tì vết. Lý tưởng và lương tâm của người lính biển nằm ở đâu ?
Nắng lên cao , chiếu qua hàng cây ở ngoài sân . Ánh nắng xuyên qua các tàng cây chiếu vào chổ chúng tôi ngồi . Tôi nhìn ông , bóng lá cây nhảy múa trên gương mặt ông , gương mặt bình yên , không hận thù , không oán ghét . Xuất thân từ trường Hài Quân Pháp , Brest , bạn bè đồng thời với ông đều mang cấp bậc đại tá và giữ những chức vụ cao ở trên bờ , riêng ông ph̉ải lênh ̣đênh trên biển canh giữ kẻ thù . Hạm Trưởng HQ1 Trần hưng Đạo lừng lẩy , tình non tình nước là đó . Không bỏ thuộc cấp , không bỏ gia đình , tình nhà là đây. Ông ngồi đó trước mặt tôi , đôn hậu , vui vẻ với người đàn em xa lơ , xa lắc. Động cơ nào thúc đẩy ông tìm tôi ? Tôi xúc động , hình như mắt tôi ươn ướt, hình ảnh ông nhòe đi , nhưng trong lòng tôi sáng rực lên mấy chữ : TÌNH NGƯỜI LÍNH BIỂN .
Phước cafe
hoanglan22
08-23-2019, 03:08
LỜI NÓI ĐẦU : Người nào cũng có một quá khứ đầy những kỷ niệm êm đẹp hay những sai lầm tiếc nuối hoặc những điều suy nghĩ , trăn trở về những việc làm đã qua . Một mảng ký ức xa xăm hiện về với chàng thanh niên trẻ , đầy nhiệt huyết , đấu tranh với sự cám dổ vật chất xa hoa để tránh những việc làm phi pháp . Các nhân vật trong câu chuyện , kể cả " cái tôi " , được phác họa trung thực , đã góp phần tạo nên quá khứ . Thành hay bại , hay hoặc dở tùy theo sự lượng định của người đọc , tất cả đã đi vào dĩ vàng và bây giờ chỉ còn là những kỷ niệm thấm đẫm một chút hương xưa
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1440563&stc=1&d=1566529421
Giờ giải lao buổi trưa , tôi đang chơi bi - da ở câu lạc bộ sĩ quan trại Tây Kết ( Nha Trang ) thuộc Bộ Chỉ Huy Vùng 2 Duyên Hải . Đại úy Nguyễn xuân Biên ( khóa 13 , Trưởng Phòng Nhân Viên ) ghé tai tôi nói nhỏ :"
Thằng Kỳ (khóa 14 ) ra Qui Nhơn còn toa ở lại đây , các toa nhận lảnh các đơn vị Phòng Thủ Hải Cảng ̣̣ của tụi Mỹ giao lại ". Tôi hơi choáng váng vì bất ngờ nhưng sực nghĩ tới ông anh ở Qui NHơn , tôi bảo anh Biên :" Anh trình lại dùm Trung Tá Khuê ( Chỉ Huy Trưởng V2DH , lúc đó chưa cải danh là Tư Lịnh V2DH ) là tôi có người anh là Trưởng Ty Hàng Hải Qui Nhơn , cho tôi hoán đổi với anh Kỳ ".
Tôi gặp ông anh tôi ở văn phòng Ty Hàng Hải Qui Nhơn . Tôi gọi anh là anh Hai ( người Bắc gọi là anh Cả ). Anh lớn hơn tôi 11 tuổi là người dạy dổ và nuôi tôi ăn học . Tôi rất thương và kính mến anh . Hai anh em mừng rở , cầm tay nhau giục giặt . Anh tôi nói :" Mầy về đây , tụi Tàu biết hết . Tụi nó nhắn tao mời mầy chiều nay đi ăn cơm ". Tôi có cảm giác lâng lâng , hơi lạ lùng và không biết điều gì sẽ xảy ra .
Trên bàn tròn đầy ắp thức ăn , ở quán Ngủ Châu , năm người ngồi xung quanh , hai anh em chúng tôi và ba thương gia người Tàu . Họ có vẽ quen thuộc với ông anh của tôi , nói chuyện có vẽ thân tình . Một người Tàu ngồi kế bên , ghé tai tôi nói nhỏ : " Tôi làm ăn là phải vài chục triệu trở lên , một vài triệu , tôi không làm , mà phải chắc ăn ". Rồi anh ta cười ha hả . Thật tình mà nói , tôi chưa có một ý niệm nào về những việc mình sẽ làm . Nhưng khi nghe nói tới tiền , tự nhiên tôi tham lam , liên tưởng tới một căn nhà khang trang , một chiếc xe hơi với người vợ xinh xắn ngồi kế bên . Tôi như người nằm mơ . Tiếng người thương gia Tàu cứ rủ rỉ bên tai tôi . Tôi chỉ nghe mà không hứa hẹn điều gì .
Tiệc tàn , chúng tôi trở về căn nhà ông anh tôi , kế bên văn phòng Ty Hàng Hải . Anh tôi nghiêm trang nói :" Tụi nó nói chuyện với mầy rồi phải không ? Tụi nó nhờ tao lập thủ tục nhanh giúp tụi nó cho tàu vào bến rồi bốc hàng cho lẹ . Chuyện đó trong quyền hạn của tao , tao làm được , còn mấy chuyện khác , tao không can dự . Tao có bao nhiêu , ăn bấy nhiêu . Mầy làm gì thì tự quyết định , đừng để tao dính vào ". Anh tôi là người hiền lành , chất phác. Anh đúng là mẫu người công chức siêng năng , cần mẫn . Anh không đề cập thẳng vào vấn đề , nhưng tôi biết ý anh nói gì . Cảng Qui Nhơn xếp vào hàng thứ hai sau cảng Đà Nẳng về đồ lậu .
Đồ lậu từ PX của Mỹ , đồ lậu từ tàu buôn qua cảng Qui Nhơn . Tôi " nắm " đơn vị Phòng thủ Hải Cảng là đơn vị chống đặc công Việt Cộng và chống luôn cả bọn buôn lậu . Chống buôn lậu rồi bước qua độc quyền buôn lậu cũng rất dể dàng .
Hạ sĩ quan và thủy thủ đơn vị Phòng Thủ Hải Cảng được bổ sung vào khoảng 80 người . Trong thời gian huấn luyện , vào khoảng một tháng , họ làm việc và ăn ngủ chung với thủy thủ người Mỹ . Các tiểu đĩnh của đơn vị Phòng Thủ Hải Cảng khác với các chiến đĩnh của các giang đoàn trong sông . Chúng tôi được trang bị 2 Picket Boat , bằng gỗ , rất đẹp , mỗi chiếc có thể chở khoảng 30 người , có thể làm du thuyền . Các tiểu đỉnh chánh dùng để tuần tiểu là 12 chiếc LCPL ( Landing Craft Personel Large ) , bằng nhựa fiberglass , rất nhẹ , một đại liên 50 gắn trước mũi và một sau lái . Ngoài ra còn có 4 chiếc skimmers là một loại hors bord , chạy rất nhanh , lướt trên mặt nước nhờ một động cơ 85 mã lực gắn phía sau , dùng để rượt đuổi , chận bắt . Thời gian huấn luyện qua nhanh , chúng tôi làm chủ căn cứ , đồn trú trên ngọn đồi ở rìa mũi bán đảo Hải Minh mà sau nầy người ta xây bức tượng Trần Hưng Đạo ở đó .
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1440613&stc=1&d=1566533198
Riêng tôi ở một gian nhà 12 phòng mà trước đó 12 sĩ quan Hải Quân Mỹ ở . Nhà rộng thênh thang ,đầy đủ tiện nghi . Lúc bàn giao nhận đơn vị chỉ có mình tôi là sĩ quan . Khu vực sĩ quan nằm trên đỉnh đồi cao nhứt , cho một quanh cảnh nhìn về Qui Nhơn rất nên thơ .
Đơn vị Phòng Thủ Hải Cảng Qui Nhơn là đơn vị do Mỹ bàn giao lại nên chưa có trong bản cấp số , việc điều hành tiếp liệu , hành chánh và nhân viên gặp trở ngại vì vậy đơn vị chúng tôi phải sáp nhập vào Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn do Thiếu Tá T. làm Chỉ Huy Trưởng . Tôi được bổ nhiệm là Chỉ Huy Phó kiêm Sỉ Quan Đặc Trách PTHC . Trên danh nghĩa là Chỉ huy Phó , dưới quyền của Thiếu Tá T. , nhưng tôi làm việc biệt lập , đơn vị của tôi nằm trên ngọn đồi của bán đảo Hải Minh , trong khi Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn đồn trú trong thị xả Qui Nhơn .
Bạn bè nghe tôi là Chỉ Huy Phó dưới quyền Thiếu Tá T. , Các anh ấy đùa, đe tôi :" Ông T. khó chịu như tên của ổng , đọc trẹo hàm . Mầy coi chừng , ổng đì sói trán ". Nhưng khi tiếp xúc với Thiếu Tá T. , tôi nhận thấy ông ấy là người khả ái và rất lịch sự . Lần đầu tiên gặp ông ở văn phòng CHT Căn Cứ , ông nói chuyện với tôi cả tiếng đồng hồ . Ông thuyết giảng với tôi về Luật Hàng Hải , Luật trong Hải cảng . Ông chỉ tôi một đống sách luật dày cộm trên bàn :" Mình phải nghiên cứu kỷ lưởng để tránh đụng chạm với các đơn vị bạn". Vì ngoài đơn vị PTHC của Hải Quân còn có lực lượng Giang Cảnh , Quan Thuế , Ty Hàng Hải ( thuộc Bộ Công Chánh ) và Hải Đội 2 Duyên Phòng . Mấy lần ông tiết lộ tên Thiếu Tướng Ngô Du như một sự liên hệ nào đó . Tôi chỉ nghe mà không đóng góp một chi tiết nào ngoài bàn về cách làm việc .
Sự tiếp cận của tôi với Thiếu Tá T. đi đến chổ thân mật hơn . Chiều thứ bảy hay chủ nhật , ông hay mời tôi lên căn cứ làm vài ly rượu . Chiều tối dần , ông hay rủ tôi ra quán cà phê ngồi nghe nhạc . Ông lái xe , tôi ngôì kế bên , thỉnh thoảng ông liếc nhìn vào kiếng chiếu hậu , bảo :" Bả đi theo " . Tôi liếc nhìn kiếng chiếu hậu phía bên tôi , thấy một chiếc jeep chạy sau , một người đàn bà ngồi trên xe . Chúng tôi ngừng xe vào quán cà phê , chiếc xe đi theo cũng ngừng bên ngoài , đợi hồi lâu không thấy gì lại bỏ đi . Thiếu Tá T. cười với tôi :" Chỉ vậy thôi " . Ông có thói quen rất ngộ . Ông rất thích ăn mì , ông hay rủ tôi đi ăn mì tiệm Tàu , ở ngoại ô Qui Nhơn , trên quốc lộ 1 , qua khỏi đường rầy xe lửa . Tiệm đơn sơ , mộc mạc nhưng nấu ăn rất ngon , nước lèo ngọt thanh và sợi mì dai nhai sầng sật . Lần đầu tiên đi ăn với Thiếu Tá T. , ông rất tự nhiên khi dặn người chủ quán : " Cho hai tô mì 3 vắt ". Tôi nhìn ông dọ hỏi . Ông giải thích :" Một tô 2 vắt thì không no , hai tô thì mất ngon , một tô 3 vắt thì vừa ". Tôi thích thú với sáng kiến của ông. Người chủ quán bưng ra hai tô mì nóng hổi . Thiếu tá T. cầm hủ ớt ngâm chua còn phân nửa , trút vào tô mì của ông . Chủ quán người Tàu than thở :" Hà cái lầy nị làm ngộ lổ vốn dồi ". Ông trả lời tỉnh queo :" Không sao đâu , tính tiền thêm đi mà ".
Đơn vị tân lập nhưng rất nhàn , nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ tàu buôn neo ở ngoài cảng Qui Nhơn . Hải cảng Qui Nhơn chia làm hai vùng : bên trong cảng có các cầu cặp thuộc ty Hàng Hải , Giang Cảnh và Quân Vận , bên ngoài cảng là vùng hoạt động của đơn vị Phòng Thủ Hải Cảng Qui Nhơn . Các tàu buôn trước khi vào bến cặp cầu bốc hàng , phải neo ở vùng ngoài cảng . Chúng tôi phái các tàu tuần luôn luôn túc trực xung quanh các tàu buôn nầy. Nhiệm vụ rất đơn giản nhưng tôi cũng siêng năng đi theo tàu tuần thường xuyên để nắm bắt hoạt động của đơn vị . Tôi nhận xét : chống đặc công Việt Cộng thì dễ nhưng chống buôn lậu thì nhiêu khê hơn , bất cứ ghe hay tàu nào cũng có thể lấy hàng lậu từ tàu buôn với sự thông đồng của tàu tuần . Với nhiệm vụ của tôi và với quyền hạn của ông anh tôi , Trưởng Ty Hàng Hải , tôi là người dễ bị dòm ngó .
Một hôm , anh tôi hỏi :" Em có biết Thượng sĩ Hải không ? ". Tôi nói biết vì Thượng sĩ Hải thuộc CCHQ/QN . Anh tôi nói tiếp :" Thượng sĩ Hải có nhà trong khu vực của Ty Hàng Hải Qui Nhơn , đúng ra tao không cho phép nhưng vì nghĩ là binh sĩ , nghèo , nên tao cứ để vậy . Nhưng sáng nào hắn cũng đi dọ hỏi ở các cầu tàu . Mầy cẩn thận ". Để đề phòng hoạt động không kiểm soát được của tôi , Thiếu Tá T. lấy quyền phân bố nhân viên xuống các tiểu đỉnh đồng thời ông cho di dời đài kiểm soát hoạt động Hải Cảng từ căn cứ của tôi ở Hải Minh qua Căn Cứ Hải Quân ở thị xả Qui Nhơn .
Một hôm tôi đang nói chuyện với Thiếu Tá T. thì Thượng Sĩ Hải vào trình việc với ông . Tôi nhận thấy Thiếu Tá T. tín cẩn đặc biệt ở Thượng Sĩ Hải . Trong đơn vị râm rang Thượng Sĩ Hải ( Trần thiện Hải ) là cháu của Thủ Tướng Trần thiện Khiêm . Khi Hải đi ra , tôi hỏi thẳng TTá T. :" Thượng Sĩ Trần thiện Hải có phải thật sự là cháu của Thủ tướng Trần thiện Khiêm không?". Ông T. ngần ngừ một hồi lâu:" Tôi không biết có hay không , nhưng thấy mỗi lần ông Khiêm ra đây là thấy hắn ta lăng xăng ". Tôi không hỏi thêm nữa và biết đây là " mèo mượn hơi hùm " . Ông T. còn đi xa hơn nữa khi bổ nhiệm Thượng Sĩ Hải là Sĩ Quan An Ninh đơn vị .
Thượng Sĩ Hải đối với tôi tỏ ra nhủn nhặn nhưng các thiếu úy , chuẩn úy trực đài Kiểm Soát Hải Cảng cho biết họ bị xem thường và mỗi lần xin đi phép phải làm đơn đưa cho Thượng Sĩ Hải duyệt . Tôi có trình việc nầy với Thiếu Tá T. nhưng ông không nói gì .
Tình hình hơi căng . Lời nói của ông anh văng vẳng bên tai . Vả lại tôi là người nóng tính không muốn bị làm nhục . Tôi nhớ lúc phục vụ ở Duyên Đoàn 21, tôi Xử Lý Thường Vụ khi Chỉ Huy Trưởng Duyên Đoàn về Nha Trang họp , một Trung Sĩ da ngâm ̣đen , mặt rỗ , thuộc Sở An Ninh Quân Đội ( đường Nguyễn bỉnh Khiêm ) trình giấy yêu cầu được giúp đở để thi hành nhiệm vụ . Hắn yêu cầu tôi cho một bàn giấy , đặt ở nơi yên tĩnh và được quyền gọi bất cứ ai trong đơn vị để phục vụ cuộc điều tra . Lỗi lầm là ở các sĩ quan tiền nhiệm nhưng đơn vị náo loạn hẳn lên , hầu như không còn kỷ luật nữa . Tôi ấm ức , tự hứa với lòng mình là không thể để mình dính vào những trường hợp như thế .
Mặt khác , tôi cố giữ những hoạt động riêng tư thật trong sạch . Thỉnh thoảng anh tôi nói dò la :" Mấy thương gia Tàu muốn gặp mầy ". Tôi bảo :" Anh cứ nói với họ là em bận ". Tôi suy nghĩ nếu gặp họ , mình xiêu lòng thì sao , chẳng thà không gặp thì hay hơn . Đi chơi ngoài phố , nhiều người đến làm quen , mời một ly nước rồi kỳ kèo đến nhà chơi . Tôi sợ sập bẩy , tuyệt đối từ chối . Nơi tôi ở , phong cảnh thật hữu tình , thoáng mát , tôi không dám mời ai lên chơi , kể cả người quen . Đơn vị có hai picket boat có thể tổ chức picnic đi chơi ở Cù Lao Xanh hoặc dùng skimmers đi bắn cá ở các ghềnh đá . Tôi cố tiết chế để không xử dụng của công . Tình hình êm ả , nhưng cái gì đến , nó sẽ đến .
Sĩ quan an ninh đơn vị , Thượng Sĩ Hải , báo cáo trực tiếp lên Thiếu Tá T. mà không qua tôi , nhưng vì tôi làm việc sát với thủy thủ trên tàu tuần , mọi hoạt động xảy ra tôi đều biết . Một hôm , một thủy thủ trên một chiếc tàu tuần báo cáo sẽ có buôn lậu tối hôm đó . Khuya 12 giờ , tôi và hai thủy thủ lái một chiếc skimmer đi tuần tra . Biển êm , tôi cho chiếc skimmer thả lềnh bềnh trên biển . Ngoài xa , các thương thuyền bỏ neo , chong đèn sáng choang . Hai giờ khuya , tôi đang ngủ gà , ngủ gật , một chiếc ghe lạ xáp vào một chiếc thương thuyền . Tôi đợi cho họ chất hàng lậu xuống , ghe vừa tách ra là chiếc skimmer của tôi vọt tới . Bên trái tôi , trong bóng tối của rặng đồi Hải Minh , một lằn nước trắng xóa xuất hiện . Tôi nhìn kỷ thấy Thiếu Tá T. trên một chiếc skimmer khác . Tôi gật gù : sĩ quan an ninh đơn vị cũng khá đấy . Chiếc skimmer của Thiếu Tá T. kè chiếc ghe buôn lậu vào cầu tàu của đơn vị PTHC nằm trong khu vực của Hải Đội 2 Duyên Phòng . Người chủ ghe buôn lậu hóa ra là thủy thủ làm việc ở Thủy Xưởng . Đưa hắn lên cầu tàu , Thiếu Tá T. cứ hạch hỏi :" Ai cầm đầu mầy ?". Tôi biết ông ấy nghi ngờ tôi . Tôi đứng kế bên , tỉnh queo không thèm nói gì . Bổng nhiên , ông đấm mấy cái vào bụng tên thủy thủ buôn lậu và quát lên " Khai ra ". Tên thủy thủ ôm gập người xuống , rên rỉ :" Em làm một mình ". Thấy vô ích , Thiếu Tá T. giận dử , quay qua tôi :"Ông Phước , sao ông không báo cáo tôi ". Các nhân viên của tôi đứng xung quanh lo lắng . Lúc đó tuổi trẻ , tôi có một khuyết điểm là rất nóng tính . Biết mình có khuyết điểm , tôi ráng giữ mình mực thước . Bây giờ bị nghi ngờ , mất mặt , tôi giống như thùng thuốc súng nổ bùng lên . Tôi đập tay vào cái bàn nhỏ kế bên một cái rầm và to tiếng với Thiếu Tá T. :" Tôi nói cho cammandant biết , commandant có sĩ quan an ninh ,anh ta không báo cáo tôi , tôi phải làm một mình . Vả lại tôi có quyền đi bắt buôn lậu trước rồi báo cáo commandant sau". Ngày mai commandant báo cáo lên cấp trên , tôi đi hầu ". Nói xong , tôi bỏ về căn cứ .
Sáng hôm sau , ngày chủ nhựt , tôi trằn trọc nằm ngủ nướng . Người thủy thủ tài xế của Thiếu Tá T. vào nói :Thiếu Tá T. muốn gặp tôi . Chiếc xe jeep đưa tôi vào CCHQ/QN , xe vừa vào cổng , tôi thấy một cái bàn phủ drap trắng đặt dưới một tàng cây , Thiếu Tá T. đang ngồi ở đó . Tôi đến chào ông . Thiếu Tá T. đưa tay bảo tôi ngồi , ông cầm chai rượu Hennessy vừa rót vào ly , vừa nói :" Ông nóng tánh quá ". Tôi thật sự hối hận :" Xin lỗi commandant , tôi quả thật cư xử không đúng ". Thiếu Tá T. cười xòa :" Thôi nhắp một tí cho ấm ". Buổi sáng nắng lên hơi cao , gió thổi nhè nhẹ . Ánh sáng chiếu xuống tàng cây . Bóng lá cây lung linh , nhảy múa trên dĩa mồi nhậu , các con chim mía vàng rượm đang nằm chờ đợi . Tôi cảm thấy nhẹ nhàng , bao nhiêu buồn phiền tan biến .
Sau biến cố đó , tôi suy nghĩ mấy ngày . Tôi biết đơn vị tôi , bao nhiêu người thèm muốn . Nhàn hạ , an ninh , đầy đủ tiện nghi và nếu khôn ngoan một tí xíu có thể ... khá hơn . Nhưng tôi biết tôi không có khả năng đó . Tôi còn nghĩ xa hơn , nếu tôi còn nắm đơn vị , tôi sẽ là chướng ng̣ại vật , là ...kỳ đà cản mũi . Ngoài ra , tôi có một chuyện tình cảm cần giải quyết . Tôi phải rời Qui Nhơn . Tôi làm đơn xin thuyên chuyển , ba ưu tiên đều xin về Hạm Đội . Vài ngày sau khi nộp đơn , tôi ghé văn phòng CCHQ/QN , nhân viên ở đó bảo Thiếu Tá T. cầm đơn của tôi về Sài Gòn rồi . Tôi cười . Quả nhiên một tuần sau , tôi có lịnh thuyên chuyển về làm Hạm Phó của Pháo Hạm Lôi Công HQ330 .
Tôi trình diện Thiếu Tá T. trước khi thuyên chuyển . Ông cười , vui vẽ :" Sẳn dịp có phái đoàn thanh tra về kỷ thuật , tôi làm tiệc đãi, luôn dịp chia tay với ông . Tôi có hai món quà tặng ông , tôi đề nghị ông được huy chương kỷ thuật vì giữ đơn vị được hoàn hảo và phiếu phê điểm thuyên chuyển , tôi phê ông 90 điểm ". Ông chìa giấy cho tôi xem . Thiếu Tá T. để lại trong tôi nhiều kỷ niệm và một vài ân tình . Sau nầy khi đi tù Việt Cộng về , tôi có ghé thăm ông. Tôi đưa ông đi ăn mấy lần.
Ông sống trên một cái chòi cao ở đường Trương minh Giảng , như con cọp già đơn độc , vợ con xa vắng . Ông sống cô đơn với hàng chục cuốn sách tử vi bày la liệt trên bàn .
Buổi sáng tinh sương , tôi rời căn cứ trên đồi Hải Minh . Tôi gặp Vũ ngọc Thọ ( khóa 16) ở bến phà bên phía Qui Nhơn . Tôi chào từ giã Thọ . Thọ đưa tôi một ít tiền , tôi không lấy . Hắn cứ nằn nì , chạy theo nhét vào túi tôi :" Tao biết mầy mà , rủi đạp bánh tráng thì sao ". Lòng lâng lâng buồn nhưng tâm hồn thanh thản , tôi rời Qui Nhơn , một vùng đất kỳ bí , trắc trở , một vùng đất mà nhiều sĩ quan cao cấp bị thân bại danh liệt
Phước cafe
luyenchuong3000
08-24-2019, 14:55
không biết phải các chú bác bộ binh không nữahttps://scontent.ftpa1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-0/p180x540/68877084_38467570223 2977_763205160245867 3152_n.jpg?_nc_cat=1 08&_nc_oc=AQljzBoxrQ4DB zwO981hPLfv_MyZC28Q6 8DAqc9zatyOVaavG6qfo XHKrMXhGkh3BQk&_nc_ht=scontent.ftpa 1-1.fna&oh=6a258706b054384ad 8cf290e52c7ceaa&oe=5DD9E608
(https://www.facebook.com/photo.php?fbid=38467 5698899644&set=gm.2489428484428 581&type=3&eid=ARDDwL80ahxQR2Lf PqugwNoiFUh01_yQfEan 3b75NQxLcAAT24RvmL9j 8rXtM1i3oga_IzbvnUcD rene&ifg=1)
[/URL] (https://www.facebook.com/ufi/reaction/profile/browser/?ft_ent_identifier=Z mVlZGJhY2s6MjQ4OTQyO DQ4NDQyODU4MQ%3D%3D&av=100034371342502)[URL="https://www.facebook.com/ufi/reaction/profile/browser/?ft_ent_identifier=Z mVlZGJhY2s6MjQ4OTQyO DQ4NDQyODU4MQ%3D%3D&av=100034371342502"]
(https://www.facebook.com/ufi/reaction/profile/browser/?ft_ent_identifier=Z mVlZGJhY2s6MjQ4OTQyO DQ4NDQyODU4MQ%3D%3D&av=100034371342502)
hoanglan22
08-24-2019, 15:15
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1441198&stc=1&d=1566659555
NGƯỜI TÙ HAI MƯƠI NĂM CỦA CỘNG SẢN BẮC VIỆT
Người Nhái Lê Văn Kinh
Anh Lê Văn Kinh lớn hơn tôi 3 tuổi, là bạn học cùng lớp với tôi ở trường Trung Học Đồng Nai, Sàig̣n trong những năm 1951 đến năm 1955. Anh Lê Văn Kinh sanh ngày 15 tháng 2 năm 1935 tại Sa Đéc, Nam Việt Nam trong một gia đ́nh có 9 người con gồm: 3 gái và 6 trai. Sau hai chị, anh Kinh là người con trai lớn nhứt trong gia đ́nh.
Sau khi thi Brevet xong (Anh Kinh học chương tŕnh Pháp. Bằng Brevet tương đương với bằng Trung Học Đệ Nhứt Cấp của Việt Nam), anh Kinh mất tích trong chốn học đường. Sau đó một tḥi gian khá lâu, tôi mới biết là anh phải đi làm để giúp gia đ́nh nuôi đàn em dại, nên anh đă hy sinh tương lai của anh để lo cho tương lai của các em. Khi lớn lên, đáp lời sông núi, cả 6 anh em đều đầu quân vào QLVNCH và đă thật sự góp xương máu ǵn giữ giang sơn tổ quốc. Người em kế của anh Kinh đi Hải Quân, bị địch pháo kích, đă đền nợ nước. Người em kế tiếp đi Thiếu Sinh Quân, sau trở thành sĩ quan Pháo Binh. Hai em kế nữa đi TQLC, th́ một đền nợ nước tại chiến trường Kontum, một trở thành thương phế binh. Người em Út đi Biệt Động Quân cũng trở thành thương phế binh. Riêng anh Kinh th́ trở thành người tù 20 năm khổ sai của Cộng Sản Bắc Việt. Tổng cộng trong 6 anh em của anh Kinh th́ 2 người đă dâng mạng sống của ḿnh cho tổ quốc, hai người đă hy sinh một phần thân thể cho quê hương, dân tộc, một người chôn vùi tuổi thanh xuân suốt 20 năm khổ sai trong lao tù Cộng Sản.
Anh Kinh rất to lớn so với khổ trung b́nh của người Việt Nam. Thật ra, anh cao lớn hơn tất cả các bạn cùng lớp, nhưng anh rất hiền và dễ thương như một thư sinh “khổng lồ”...
Khi vào học khóa 9 SQ/ Hải Quân năm 1959, tôi mới biết anh Kinh và người bạn thân khác, cùng lớp, Lâm Văn Hiếu và Nguyễn Văn Thành đă gia nhập quân chủng Hải Quân trước tôi, từ năm 1955. Hiếu chọn ngành Trọng Pháo, Thành, Giám Lộ, anh Kinh, Vận Chuyển. Hiếu và Thành đều đă đền nợ nước: Hiếu trong Nam, Thành, ngoài Bắc (Lực Lượng Hải Tuần). Sau 5 năm dệt mộng hải hồ, anh Kinh thấy chưa thỏa chí tang bồng, muốn t́m những cảm giác mạnh hơn, những công tác khó khăn hơn, và nguy hiểm hơn: Anh muốn đùa giỡn với tử thần, anh muốn trở thành Người Nhái.
Năm 1960, anh t́nh nguyện ghi tên đi học khóa Người Nhái và được gởi đi Đài Loan huấn luyện để trở thành một trong những Người Nhái đầu tiên của Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa. Anh Kinh mà đi Người Nhái th́ đúng quá rồi, v́ anh có đủ yếu tố cần thiết để trở thành Người Nhái: Thông minh, khỏe mạnh, dẻo dai, chịu đựng, nhẫn nại, hiền nhưng can trường và cương quyết, có biệt tài bơi lội, lặn sâu và lặn xa...Và anh đă thành công. Anh đậu hạng nh́ (Lê Quán Thủ Khoa) trong khóa huấn luyện Người Nhái tại Đài Loan. Anh đă trở thành Người Nhái như ước mơ của anh.
Năm 1962, không ảnh của t́nh báo cho biết có 6 chiến hạm của Cộng Sản Bắc Việt, chia làm 2 toán, mỗi toán 3 chiến hạm thay phiên nhau hoạt động và nghĩ bến. Do đó thường xuyên có một toán gồm 3 chiến hạm đậu nghĩ bến tại quân cảng Quảng B́nh, bên trong Ba Đồn, sông Gianh. Người Nhái được lệnh đặt chất nổ phá hủy 3 chiến hạm đậu nghĩ bến. Một chương tŕnh huấn luyện và thực tập đặc biệt về ḿn chống chiến hạm và kỹ thuật sử dụng được thực hiện tại Đà Nẵng. Việc tuyển chọn Người Nhái thích hợp cho chuyến công tác bí mật nầy đă được Sở Khai Thác Địa H́nh, trực thuộc Phủ Tổng Thống, thi hành hết sức kỷ lưỡng và gắt gao: Anh Nguyễn Văn Chuyên được chỉ định chỉ huy tổng quát, hướng dẫn 3 Người Nhái khác được tuyển chọn cho công tác đặc biệt này gồm có: Nguyễn Văn Tâm, Lê Văn Kinh và Nguyễn Hữu Thảo. Chương tŕnh huấn luyện và thực tập chỉ chấm dứt sau khi mỗi người trong toán đều thông suốt cách sử dụng loại khí giới hết sức lợi hại này. Tuy đi chung một toán, nhưng mỗi Người Nhái đều có riêng mục tiêu của ḿnh đă được chỉ định trước, cũng như v́ lư do an ninh cá nhân, mỗi người đều có trang bị riêng và chỉ Người Nhái đó chịu trách nhiệm việc sử dụng và điều chỉnh trang bị của ḿnh chứ không ai khác được kiểm soát hay đụng tới. Cũng giống như nhảy dù điều khiển, người nhảy phải tự xếp dù của ḿnh, chứ không để ai được đụng tới.
Tháng 5, năm 1962, toán Người Nhái sẵn sàng và lên đường, nhưng chiếc ghe chở toán Người Nhái đi công tác bị phát giác, lộ hành tung, phải trở về căn cứ. Độ một tháng sau, tháng 6, năm 1962, toán Người Nhái của Anh Chuyên được lệnh thi hành công tác trên. Lần này, không bị phát giác. Công tác được thi hành ban đêm. Chiếc ghe lớn chở toán Người Nhái đến cửa sông Gianh th́ dừng lại và cho ghe nhỏ hơn chở toán Người Nhái vào quân cảng Quảng B́nh, cách các chiến hạm của Cộng Sản Bắc Việt khoảng 100 thước th́ dừng lại. Cả 2 ghe lớn và nhỏ đều được ngụy trang giống như ghe đánh cá tại địa phương.
Ba chiến hạm Cộng Sản Bắc Việt đậu song song với nhau sát cầu tàu, ở Ba Đồn. Mục tiêu của anh Kinh là chiến hạm đậu bên trong sát cầu tàu, anh Thảo, chiến hạm thứ 2 (đậu giữa) và chiến hạm đậu bên ngoài là mục tiêu của anh Tâm. Anh Chuyên ở lại ghe nhỏ cùng với ba thủy thủ đoàn chờ đợi đón ba Người Nhái kia sau khi hoàn thành nhiệm vụ để đưa ra ghe lớn trở về căn cứ.
Sau khi nhận diện mục tiêu và kiểm soát lại lần chót trang bị của ḿnh, anh Kinh xuống nước trước, kế đến anh Thảo và cuối cùng là anh Tâm theo thứ tự mục tiêu xa gần, như vậy cả ba sẽ tới mục tiêu cùng một lúc. Cho tới giờ phút đó, mọi việc đều xảy ra như kế hoạch đă định sẵn. Kế hoạch dự trù kế tiếp là điều chỉnh thời nỗ 5 giờ sau ḿn mới nổ, để có đủ th́ giờ trở về căn cứ an toàn.
Anh Kinh hoàn tất công tác trước, rời khỏi mục tiêu khoảng 20 thước, trồi lên mặt nước để dùng hồng ngoại tuyến định hướng chiếc ghe nhỏ đang chờ để rước toán của anh trở về ghe lớn sau khi hoàn thành công tác.
Th́nh ĺnh, một tiếng nổ long trời đẩy anh Kinh văng lên khỏi mặt nước, toàn thân tê dại, anh không c̣n biết ǵ nữa. Khi tỉnh dậy, anh mới biết ḿnh là tên tử tù của Cộng Sản Bắc Việt. Dựa theo cáo trạng và nghe lóm cán bộ nói chuyện với nhau trong lúc bị lao tù, anh Kinh cho biết như sau: V́ lư do kỹ thuật, sau khi được đặt vào mục tiêu như đă định, trái ḿn của anh Thảo nỗ liền tức khắc (thay v́ phải 5 giờ sau mới nỗ) anh Thảo chết banh xác tại chỗ, cả ba chiến hạm cùng nổ tung và ch́m theo xác anh Thảo. Sức nổ của 3 quả ḿn cùng nổ một lượt đẩy anh Kinh, ở cách đó khoảng 20 thước, văng lên khỏi mặt nước và làm anh bất tỉnh. Anh c̣n sống quả là phép lạ. Anh Tâm lội ra xa hơn về hướng chiếc ghe nhỏ đang chờ nhưng sức nổ quá mạnh nên cũng bị bất tỉnh và cũng bị bắt. Riêng chiếc ghe nhỏ, chạy về ghe lớn và lập tức rời mục tiêu, nhưng v́ tốc độ chậm, bị chiến đỉnh của Cộng Sản Bắc Việt đuổi kịp, chúng ra lệnh đầu hàng, anh Chuyên không chịu hàng, hai bên bắn nhau, nhưng nhờ hỏa lực mạnh hơn nên cuối cùng chiến đỉnh của Cộng Sản Bắc Việt làm chủ t́nh h́nh và đụng chiếc ghe lớn ch́m, chỉ một người thoát nạn nhờ núp dưới cánh buồm. Anh Chuyên và một thủy thủ đă đền nợ nước, tất cả thủy thủ đoàn c̣n lại đều bị bắt.
Ngày 30 tháng 6 năm 1962, anh Kinh bị kết án hai mươi năm khổ sai, anh Tâm bị kết án chung thân khổ sai. Thủy thủ đoàn bị kết án từ hai năm đến mười tám năm. Nhưng bản án là một tṛ hề, bởi v́ hai năm hay chung thân đều cùng chung số phận, phải ở tù từ mười bảy đến hai mươi hai năm khổ sai mới được phóng thích. Ngày 28 tháng 01 năm 1980, anh Tâm được phóng thích sau 17 năm rưỡi khổ sai. Anh Kinh được phóng thích ngày 30 tháng 6 năm 1982, đúng 20 năm khổ sai.
Anh Tâm hiện cư ngụ tại California, anh Kinh ở Florida.
Mặc dù 4 Người Nhái và thủy thủ đoàn thi hành công tác này đă đền nợ nước hay chôn vùi tuổi thanh xuân trong chốn lao tù khổ sai của Cộng Sản Bắc Việt, nhưng họ không chết và không bị quên lăng, v́ họ sẽ sống măi trong ḷng của anh em Người Nhái thuộc Liên Đoàn Người Nhái Hải Quân Việt nam Cộng Ḥa và của đồng bào ruột thịt dành cho những đứa con thân yêu của dân tộc đă“VỊ QUỐC VONG THÂN”.
Đối với gia đ́nh anh Kinh, LĐNN xin giở nón cúi đầu bái phục một gia đ́nh ái quốc đă t́nh nguyện hy sinh, dâng hiến tất cả những đứa con trai của gia đ́nh cho Quân Đội để phục vụ cho Tổ Quốc, và làm tṛn nhiệm vụ của người trai trong thời loạn: “Chấp nhận hy sinh mạng sống hay một phần thân thể để bảo vệ từng tấc đất của quê hương xứ sở do tổ tiên để lại, trái ngược với bọn CS phản quốc nỡ ḷng cắt đất, dâng biển của tổ tiên cho ngoại bang.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1441199&stc=1&d=1566659555
California, ngày Quân Lực 19 tháng 6
Phan Tấn Hưng
Người Nhái HQVNCH
hoanglan22
09-14-2019, 23:41
Mấy năm gần đây, mỗi khi đến gần ngày Quốc Hận, tôi thường viết một truyện ngắn như ôn lại những chuyện thương đau của cái ngày oan nghiệt nầy. Lần nầy tôi lại chọn cái đề tài “Tôi phục vụ Phi Đoàn 225”. Phải nói là khó viết quá. Đây như là một bài viết như kể chuyện thôi mà, sao tôi bảo là khó ? Xin thưa khi viết về đề tài nầy bắt buộc phải nói đến nhiều đến cái tôi mà ai cũng biết “ Le Moi est haissable ” thôi th́ tôi cố gắng đừng để cái 'Tôi' của ḿnh bị ghét nhiều, có vậy mới là thành công được .
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1453176&stc=1&d=1568504331
Tôi đến PĐ 225 vào tháng 10 năm 1970, sau khi tôi phục vụ một PĐ ở Cần Thơ hơn một năm với số giờ bay trên 1,300 giờ. Kể ra lúc đó tôi cũng có thớ lắm v́ PĐ 225 mới thành lập, chỉ có một số ít các anh đă từng bay cho PĐ nào đó trước khi về đây, c̣n phần lớn là các hoa tiêu mới, họ nhập ngũ vào năm 1968 và ra trường vào thời điểm nầy nên được bổ sung vào đây. Giai đoạn nầy phi đoàn đóng tại phi trường Sóc Trăng cũng là quê hương của tôi. Tôi được cấp một cái pḥng nhỏ gần pḥng hành quân PĐ để có chỗ ngủ khi trực bay đêm, hoặc tạm nghĩ ngơi trong khi chờ phi vụ.
Đêm đến, tôi về trú ngụ nhà mẹ tôi ngoài phố. So với các anh em khác tôi sướng hơn nhiều v́ có nước sạch để tắm gội mỗi ngày chứ không như ở trong căn cứ, nước bị phèn rồi c̣n khổ hơn nữa là khi có, lúc không. Cái chuyện nầy làm ai cũng thắc mắc không hiểu tại sao, căn cứ nầy trước đây do Mỹ đóng quân, ai cũng biết người Mỹ luôn đặt nặng lên hàng đầu cái vụ phải có nước sạch trong đơn vị của họ cho dù bất cứ nơi đâu, thế mà qua tay Việt Nam chỉ một vài tháng thôi, th́ t́nh trạng thiếu nước tồi tệ đến như vậy.
Theo chu kỳ th́ tôi bay 5 ngày và được nghĩ dưởng sức 3 ngày, vào ngày nghĩ nếu có tiền tôi dong về SG du hí xem phim như các anh em khác, c̣n khi cạn tiền th́ về nằm nhà bà cụ ăn bám, như vậy cũng xong. Nói vậy chớ, lúc ở Sóc Trăng tôi đở khổ nhiều lắm nghen, nhờ có mẹ và hai bà chị chu cấp thêm nên trông tôi mập mạp ra, bởi v́ sáng nào cũng được ăn sáng đàng hoàng, khi th́ cơm tấm b́, cơm cà ry khi th́ hủ tiếu, ḿ, phở hoặc điểm tâm kiểu chú Ba: bánh bao, xíu mại, há cảo v.v..trước khi xách nón đi bay. Chiều tối th́ được bạn bè tới kéo đi nhậu.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1453177&stc=1&d=1568504331
Tôi c̣n rất nhiều bạn cũ tại đây, hầu hết là bạn học thuở nhỏ, bây giờ phần lớn chúng nó làm việc tại Tiểu Khu, ty Cảnh Sát và ṭa Hành chánh tỉnh, rồi cộng thêm gần một chục ông bạn học gốc người Hoa nữa chi, họ là lính kiểng, lính ma ǵ là chuyện mấy ổng, được cái là mấy ổng có lắm địa nhiều tiền, nhậu với mấy ổng luôn là rượu dư thịt thừa, đă không chỗ chê. Nói vậy chớ tôi cũng biết kềm chế bản thân, như hôm nào sáng phải đi bay sớm th́ đêm trước đó tôi nhậu ít lại, khoảng 10 giờ đêm th́ rút lui về ngủ, chỉ khi nào ngày nghĩ mới dám xả láng, sáng về sớm.
Bây giờ xin kể sơ lượt về chuyện bay bổng lúc nầy nhé, thời gian nầy Sư đoàn IV/KQ có 4 phi đoàn trực thăng để yểm trợ cho Quân đoàn IV gồm: 16 Tiểu khu, 3 sư đoàn chủ lực và một Biệt khu tương đương với cấp sư đoàn, bộ Tư lệnh Biệt khu thường chỉ huy hay điều động các lực lượng Tổng trừ bị được biệt phái đến đây, khi là một Lữ đoàn TQLC, khi th́ một vài Liên đoàn BĐQ. Bốn phi đoàn trực thăng chia làm 2 team, nghĩa là 2 phi đoàn vào một team. Phi đoàn của tôi lại chung team với Đệ nhất PĐ 211, ở chung team với đại ca nầy th́ cũng đă thiệt, không biết đại ca có áp phe ǵ với Quân đoàn hay không, hay lấy lư do tiết kiệm xăng, khỏi phải bay tŕnh diện (T.O.T) nơi xa, thành thử đại ca luôn được yểm trợ phía bắc sông Hậu giang và vùng biên giới Miên-Việt do Biệt khu 44 đảm trách. Thằng em 225 phải yểm trợ phía nam sông Hậu nên ngày ngày : khi th́ tŕnh diện ở Vị Thanh, lúc th́ xuống Cà Mau Bạc Liêu vào ra U Minh Thượng, U Minh Hạ thấy toàn là rừng tràm, rừng đước hoặc rừng dừa nước, không có ǵ vui cả .
Có những địa danh mà người dân thị thành biết được qua tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, Dương Hà, Sơn Nam như là : G̣ Quao, Chắc Băng, Cạnh Đền, Giồng Riềng, Miệt Thứ, Kinh Trèm Trẹm, Cán Gáo, Thái B́nh, Tân Bằng, Đầm Dơi, Cái Nước, Năm Căn, sông Gành Hào, sông Ông Đốc v.v…. chớ c̣n anh em chúng tôi th́ tới những nơi ấy hà rầm như ăn cơm bữa. Lại có những nơi thật vô cùng nguy hiểm, bay vô đó thật là hú vía, kinh hồn chẳng hạn như vùng ‘VC Lake’, nằm phía tả ngạn sông Ô.
Đốc, cách con sông lớn nầy chừng 2 miles và cách quận Sông Ô. Đốc ở hướng tây chừng khoảng 10 miles, cái hồ nầy khá lớn và đẹp giống như cái hồ Possum Kingdom ở Mineral Wells của tiểu bang Texas mà tất cả phi công trực thăng đều biết v́ là gần trường bay Fort Wolters. Sở dĩ tôi nói ‘nguy hiểm’ là v́ nơi đây Việt cộng nhiều vô số kể, chính cái tên ‘VC Lake’ là do phi công Mỹ đặt ra đấy, chớ anh em 225 âu yếm gọi tếu là ‘Hồ bao tử kh́a’.
Nếu bạn được dịp bay chiếc vơ trang, bạn có dịp bay rà sát ngọn cây vùng nầy, bạn sẽ thấy phía dưới không c̣n một khoảnh đất nào gọi là lành lặn cả, toàn là vũng rộng hố sâu bởi do bom, đạn đại pháo tạo nên và nếu tiếp tục bay nữa thỉnh thoảng bạn bắt gặp đủ loại thân xác trực thăng bị bắn rơi tại đây như loại : trứng vịt OH6, cụ ông H-34, UH1B, trái chuối H-21 với hai hệ thống rotors trên nóc giống như Chinook và có cả loại phi cơ cánh quạt Cessna, L19. Chiếc th́ sứt gọng, găy càng, chiếc th́ chỉ c̣n lại cái đuôi hay cái cánh, chiếc th́ bị cháy thành đống sắt vụn, chỉ thấy thôi th́ cũng đủ làm bạn đái són ra quần. Chúng tôi cũng cống hiến nơi đây một chiếc vơ trang nằm phía nam cái hồ nầy lối chừng ba dậm, tức là phía bắc của Chi khu Hải Yến độ chừng 5 dậm.
Nhưng rồi như một phép lạ, cuối cùng chúng tôi cũng được luân phiên yểm trợ phía bắc sông Bassac như các PĐ đàn anh, nguyên do là : ông anh 211 đụng phải mặt trận Kompong Trạch, đây là một trận chiến lớn, địch quân hằng cả một Sư đoàn bao vây 3 tiểu đoàn BĐQ (đây là BĐQ biên pḥng) và một thiết đoàn M113 của quân ta, v́ vậy Quân đoàn tăng cường thằng em 225 đến giúp ông anh 211 và sau đó họ thấy thằng em nầy làm cũng được việc quá đi chớ, cho nên kể từ đó 225 có mặt tất cả chiến trường từ nội địa đến ngoại biên giống y những PĐ kỳ cựu. Là hoa tiêu trực thăng (phải kể luôn cả phi hành đoàn nữa mới được, không thôi hai ông em ngồi phía sau cự nự là phiền lắm đó) th́ phải chấp nhận hằng bao cái bất trắc, hiểm nguy đang đón chờ, nội cái tội : tấm thân sồ sề, bay chậm và thấp th́ coi như là tấm bia tập bắn cho đối phương rồi.
Bạn tôi và tôi đă từng nếm trải đủ loại súng đạn của quân thù từ bích kích pháo 61, 82 hay hỏa tiễn cầm tay B40, 41 tại băi đáp, rồi loại súng nhỏ như AK 47, CKC, loại trung liên, đại liên rồi thượng liên RPD, pḥng không 12 ly 8 và loại hỏa tiễn tầm nhiệt địa đối không SA-7. Được sống được tới giờ nầy, chắc là nhờ cái phước đức quá lớn của ông bà, ông văi để lại.
Vào đầu năm 1973, PĐ được dời về Cần Thơ. Chiến trường vùng I và vùng II bắt đầu thật sôi động, các lực lượng Tổng trừ bị được lệnh rút ra khỏi vùng IV để tăng cường cho các vùng I và II. Dù vậy Quân đoàn IV vẫn giữ vững t́nh h́nh, có lẽ là nhờ các chiến sĩ Quân đoàn IV rất siêng năng hành quân tảo trừ, luôn bẻ găy những chiếc đũa lúc c̣n riêng rẽ của cộng quân trước cái ư đồ gom lại thành từng bó lớn của chúng và t́nh trạng yên tỉnh tốt đẹp của vùng IV vẫn tiếp tục kéo dài cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975. Vào đầu tháng 3 năm 1975, PĐ 225 c̣n tăng phái cho Sư đoàn VI/ KQ tại Pleiku có nghĩa là PĐ chúng tôi c̣n góp mặt chiến đấu cùng với Quân đoàn II chống lại giặc thù chung nữa đấy.
Chiến trường mỗi ngày thêm khốc liệt sau khi đồng minh rút đi. Tôi càng ở lâu trong quân ngũ tôi càng hư đốn. Tứ đổ tường : Tửu, sắc, tài, khí th́ tôi làm đổ mẹ hết 3 bức tường rồi, chỉ chừa lại cái bức tường thứ tư là nằm thủ cây Bazoka bắn khỉ hay hít cocaine th́ tôi chưa dám thử. Cái tôi mê nhất là Tửu v́ nó giúp tôi dễ ngủ, thêm can trường, dũng cảm để mỗi ngày phải bay ra mặt trận. Và rồi cũng chính cái tánh nết bê tha phóng túng khiến tôi mắc nợ như chúa chổm. Những hàng quán gần quanh khu cư xá độc thân đều cho tôi ăn nhậu “À la ghi”.
Để coi tôi nợ ai, nếu tính con đường từ pḥng hành quân cũ đến cuối khu cư xá SQ độc thân th́ : xe bánh ḿ thịt của bà phi đoàn phó, tôi nợ nơi đây năm bảy bao thuốc lá 555 mỗi tháng; kế đến là quán anh chị Hưng râu, tôi nợ hơi nhiều cũng bởi anh Hưng biết tôi từ lúc ở quân trường Nha Trang nên anh chị cho tôi ghi sổ ‘líp ba ga’, trong quán nầy c̣n có ‘gian hàng’ của chị Tần. Xin phép chị, đùa với chị một chút cho vui chớ chị Tần làm ǵ có được gian hàng, chẳng qua là một quang gánh được ông bà Hưng râu thương t́nh cho đặt trong một góc xó xỉnh, bên nầy gióng chị có cái nồi nhôm to đặt trên hỏa ḷ để hâm nóng sản phẩm của chị, bên kia gióng chị bày trí nào là tô, đũa, lọ tương ớt, hũ tiêu đen, chai nước mấm, thau rửa tô bát, khăn giẻ lau khô v.v…
Món ăn của chị được thay đổi luôn khi th́ cháo cá, cháo vịt khi th́ bánh canh, hủ tiếu v.v…Chị nấu không ngon lắm nhưng được cái là giá cả rẻ mạt, chỉ chừng 1/3 đến nửa giá tiền nếu so với các quán ăn dưới dốc cầu B́nh Thủy, chính v́ thế gánh hàng của chị luôn hết sạch vào lúc 10 giờ sáng mỗi ngày. Chị Tần có gương mặt chơn chất, thiệt thà của phụ nữ miệt vườn miền Tây, chị luôn nói cười hệt hạt với mọi người nên tạo cho người đối diện có cảm nhận là chị rất dễ mến, v́ vậy tên ‘chúa chổm’ nầy chưa dám ăn thiếu nơi gánh hàng của chị. Quán kế tiếp là ‘Sơn Sỏi Đá’, quán nầy bán giống y chang như quán anh chị Hưng, nghĩa là chủ yếu vẫn là cà phê, nước ngọt, sinh tố giải khát, trong quán cũng có nhạc xập x́nh từ chiếc máy ‘AKAI reel to reel’ và kèm theo vài món ăn sáng dễ làm như xôi mặn, bánh ḿ kẹp thịt hay bánh ḿ trứng chiên ‘ốp la’.
Họ c̣n giống nhau ở cái 'mode' tăng cường thêm một vài cô em họ hàng bên vợ, bưng nước dọn bàn bẹo h́nh bẹo dạng để thu hút khách hàng. Tôi ít khi lui tới quán ni, lư do là không có ǵ khác biệt so với quán anh Hưng, c̣n lư do chánh nữa là ḿnh đang ghi sổ bên quán anh ấy, lại chui vào quán nầy th́ coi sao đặng. Quán cuối cùng trên con đường nầy là quán ông bà Tr/u Phương, ối giời ơi cái quán nghèo ơi là nghèo, vỏn vẹn hai chiếc bàn cây nhỏ và tám chiếc ghế đẩu con. Ông bà nầy chỉ bán bia và nước ngọt thôi, đồ nhấm để nhậu bia có mỗi món tôm khô củ kiệu ngoài ra không c̣n thứ ǵ khác.
Tôi bày cho bà Phương là nên mua thêm vài loại cá khô như : khô cá đuối, mực, cá kèo, cá khoai v.v…rồi pha luôn một keo nước mắm tỏi ớt có điểm dưa chua như củ cải, củ sắn, cà rốt xắt que tăm và bán thêm rượu thuốc, rượu nếp than hoặc rượu đậu nành v.v… ít ra phải như vậy mới lôi kéo được nhiều người. Tôi hỏi đùa bà ấy “Có cho tôi ghi sổ không ?” Bà vui vẻ trả lời “Được chứ, nhớ khi lănh lương anh phải trả cho em trước à nghen”.
Đùa vậy thôi, chớ thấy cái khó khăn của ông bà nầy, ai nở ghi sổ. Các quán tôi vừa kể chỉ là quán để bạn ăn vặt hay uống nước giải khát thôi, c̣n muốn ăn cơm trưa th́ phải vào quán Đ/u Thông cũng ở gần đó. Đúng ra chúng tôi ăn cơm ở câu lạc bộ Cửu Long nhưng trở ngại là đi bộ quá xa, vậy th́ chui vào quán cơm phần của ông Thông coi như là thượng sách, đó là chưa kể anh ấy cho bạn ăn ghi thỏa mái, thật thích hợp với tôi. Các quán ăn sáng ăn trưa coi như tôi kể đă xong, bây giờ nói qua quán nhậu, tôi tâm đắc nhất là quán Song Mă của Tr/u Ba Lang ở ngoài cổng phi trường, nơi nầy khá khang trang, nhiều món ăn tương đối hấp dẫn dân nhậu, cũng v́ thế mà tôi nợ ở nơi nầy hơi nhiều đấy.
Mỗi cuối tháng sau khi thanh toán nợ ăn nhậu chịu, tiền lương của tôi c̣n lại chừng một phần ba, hoặc nhiều lắm là gần một nửa, vậy làm sao đủ sống cho hết tháng? Thôi th́ ḿnh tự an ủi : ‘Trời sanh voi th́ sanh cỏ mà’, không thấy trong Kinh Thánh, Chúa Kitô dạy sao : "Loài chim Sẻ nào có biết để dành để dụm được hạt thóc nào đâu, thế mà Đức Chúa Trời đâu có để chúng nó chết v́ đói". Vậy th́ ta hơi sức đâu mà lo cho hao gầy thân xác.
Phần tiếp theo cũng là đoạn cuối bài viết nầy chắc tôi phải nhắc vài chuyện vào những ngày cuối cùng tại Quân đoàn IV cũng như tại PĐ 225 . Vào tháng Tư (năm 75) t́nh h́nh chiến sự vô cùng ác liệt, phần thua thiệt đă nghiêng hẵn về phía VNCH. Hai Quân đoàn I và II tiêu tan và triệt thoái, lănh thổ Quân khu III phải thu hẹp lại, pḥng tuyến xa nhất (Xuân Lộc) chỉ cách Thủ Đô Sàig̣n chừng lối 60 dậm (100 kilometres), nơi đây Sư đoàn 18 và vài đơn vị Tổng trừ bị đang dũng cảm chiến đấu để ngăn chận cơn sóng bạo tàn của cộng quân đang vỗ ập về phía nam.
Dù vậy Quân khu IV vẫn c̣n kiểm soát được, nói chung tinh thần chiến đấu của binh sĩ nơi đây chưa suy sụp, tất cả quân nhân đều hớt tóc ngắn gọn theo lệnh của Tướng Nam, răm rắp thi hành mọi chỉ thị của thượng cấp giao phó, sẵn sàng trực diện với quân thù nhất là bằng mọi giá phải giữ an ninh cho bằng được quốc lộ 4 đó là con đường huyết mạch tiếp tế về thành đô. Nhưng than ôi, trung tuần tháng Tư th́ pḥng tuyến Long Khánh bị chọc thủng, cộng quân ráo riết tiến nhanh về Thủ đô nhưng gặp nhiều ổ kháng cự của quân ta làm chậm bước của chúng, phi trường Biên Ḥa bị chúng nă pháo dữ dội, tất cả phi cơ đều phải di tản.
Ngày 29 tháng 4 phi đội II của tôi lên ca chánh, chúng tôi thi hành phi vụ 'package nhẹ' : 1-2-2 (1 C&C, 2 slicks, 2 gunships) làm việc cho Tiểu khu Sóc Trăng, đến 5:30 pm chúng tôi được họ 'released'. Trên đường về chúng tôi nghe rơ mồn một trên tần số FM Emergency, ôi thật là ồn ào kinh động, họ gào hét inh ỏi y như là cảnh mổ heo hay nhóm chợ ở miền quê, kẻ nói tiếng Mỹ người nói tiếng Viêt, họ báo cáo bị emergency, kẻ hỏi : Đệ thất hạm đội HK hiện ở tọa độ nào ? Người hỏi : lấy heading mấy, nếu bay từ Phú Quốc qua Utapao ? Kẻ hỏi : liệu khi đáp ở Côn Sơn có chắc là có tàu rước ḿnh đi không ? v.v..và v.v…
Những âm thanh đối thoại nầy không khỏi làm hoang mang xôn xao thêm cái tâm tư của anh em chúng tôi, mà nỗi ưu tư nầy vốn có sẵn cách đây vài tuần khi mà lănh thổ VNCH chỉ c̣n lại một nửa. Liệu rồi đây có giải pháp nào cứu văn t́nh h́nh nầy được chăng ? Đất nước chúng ta sẽ ra sao ? C̣n tương lai của chính ḿnh nữa ? Lại c̣n thêm cái tin Hoa kỳ có kế hoạch di tản gia đ́nh của những người làm sở Mỹ và vợ con mấy ông tướng tá thuộc hàng sĩ quan cao cấp của Quân đội VNCH.
Vậy ta nghĩ sao về mấy cụ tướng tá nầy, họ có c̣n tinh thần chiến đấu nữa không ? Hay mấy cụ cũng đang tính đường “vọt” theo vợ con ? Chắc là chúng ta đă có câu trả lời cho câu hỏi nầy, bởi chính chúng ta đặt ra mà. Hàng ngày h́nh ảnh và tin tức được báo chí đăng tải ở trang đầu về những trại tỵ nạn dă chiến do Mỹ thiết lập để tiếp nhận người tỵ nạn như Utapao ở Thái Lan, Subic Bay ở Phi Luật Tân, trại Asan và trại lều vải Orote Point tại đảo Guam, Trại ở Wake Island v.v…Tất cả các tin tức trên đă tàn nhẫn kết hợp lại làm nản ḷng người vô vạn, và tạo ra muôn ngàn câu hỏi dồn dập bủa vây trong tâm trí mọi người. Rồi từ đó những lần đi bay chung một hợp đoàn, các anh đâm ra biếng nói ít cười, không c̣n chọc phá, kể chuyện tiếu lâm hay trêu cợt nhau trên radio như lúc trước nữa.
Bỗng tôi nghe giọng anh Th. trong hợp đoàn hỏi tôi qua làn sóng VHF nội bộ : “Anh định thế nào hả anh Q ?”. Đang mơ mơ, màng màng theo dơi diễn biến trên FM thế mà nghe câu hỏi nầy, tôi tỉnh lại ngay, không phải suy nghĩ tôi trả lời dứt khoát : “Tôi không tính ǵ cả, đơn vị ḿnh c̣n nguyên vẹn, tôi không hề có ư định đào ngũ đi trước, tôi không thể phản bội anh em”. Và rồi cả 5 chiếc về đáp phi trường B́nh Thủy lúc gần 6 giờ chiều, tất cả 20 anh em vào pḥng hành quân, 5 anh hoa tiêu phó làm bổn phận ghi báo cáo giờ bay vào quyển sổ Phi Vụ như thường lệ, sau đó các anh em chia tay về nghỉ.
Tôi gặp anh A. trong phi đội của tôi tại nơi đây, A. bảo tôi tối nay đến pḥng hắn, hắn có chuyện cần nói với tôi. Tôi uể oải phóng xe Honda về nhà ḿnh trong khu cư xá Hoàng Hoa III ở ngoài cổng phi trường. Bước xuống nhà sau tôi thấy nước mưa đầy cả hồ chứa th́ khoái lắm, đó là nhờ cơn mưa lớn vào tối hôm qua, thời gian nầy là bắt đầu mùa mưa ở miền Nam và kéo dài trong suốt 6 tháng liền, ngày nào trời cũng u ám chuyển mưa trông thật ủ dột, buồn thảm tưởng như thương xót khóc than cho số phận hẩm hiu của miền nam sắp rơi vào tay cộng sản chăng.
Tôi cởi áo bay ra, tắm một phát rồi mặc y phục ‘civil’ vào, cảm thấy ḿnh khỏe ra và rồi bao tử bắt đầu làm eo, thôi th́ cuốc bộ đến quán Song Mă kiếm cái ǵ ăn vậy, ḿnh đang có tiền mà (Hôm nay tôi gặp anh tôi tại ṭa Hành chánh ST, ảnh dúi vào túi tôi một ít tiền). Trên đường đi đến đó phải đi ngang nhà ông Tư Ch., Tôi định nếu thấy ổng ở trước nhà th́ rũ ổng nhậu với ḿnh vài chai bia cồ cho vui, nói vậy chớ khó gặp ổng lúc nầy v́ ổng mới rước bà từ SG xuống. Bây giờ đă no rồi, tôi lưỡng lự chưa biết làm ǵ đây, vào PĐ gặp ông A. chăng, tôi nghĩ chắc không cần thiết lắm đâu, tôi đoán là hắn muốn báo cho ḿnh biết nội dung của buỗi họp Tham mưu vào tối đêm qua mà ḿnh v́ bận nên phải nhờ hắn đi họp thay, nếu có vậy th́ ngày mai gặp hắn cũng được, dù sao sáng mai ḿnh cũng phải vào PĐ sớm v́ ngày nầy : phi đội tôi xuống ưu tiên II tăng cường nên rất có thể tôi có tên đi bay vào lúc sáng sớm.
Vậy th́ quyết định nằm ở nhà lấy quyển ‘Thiên Long Bát Bộ’ ra đọc tiếp. Dạo nầy tôi rất khoái đọc chuyện chưởng, đó là cách tránh cho đầu óc ḿnh không phải suy nghĩ nhiều về thời cuộc, dẫu biết rằng ḿnh chỉ là hạng tép riu, cấp thừa hành bé tí tẹo th́ có giải quyết được chuyện ǵ đâu nà, nhưng trước t́nh thế nầy th́ đố ai giữ cho đầu óc ḿnh được thanh thản vô tư ? Tôi không biết thiền, vậy th́ đọc tiểu thuyết kiếm hiệp, đó là cách ru tôi vào giấc ngủ dễ dàng thôi.
Sáng hôm nay tôi đă có mặt tại pḥng hành quân rất sớm, tôi thấy Th/ tá Đ. đă ở đó rồi, tôi đến chào ông th́ được ông cho biết : “Đêm rồi Vc pháo kích vào thành phố Cần Thơ, hai chiếc gunships của ḿnh phải bay suốt đêm. Vậy tôi muốn đích thân anh và anh cắt thêm một phi hành đoàn (PHĐ, crew) chiếc số hai nữa, lên thay thế hai PHĐ trên đó, để họ về nghỉ”. Lệnh lạc của ông Alpha như vậy th́ làm kẹt tôi quá, v́ nguyên tắc th́ phi đội nào lên ca chính th́ họ mới có quyền cắt bay. Như tôi đă nói ở trên là hôm nay phi đội của tôi đă xuống ưu tiên hai rồi, nhưng mà : Nhà binh, lệnh là phải thi hành, chuyện khiếu nại là sau.
Tôi nh́n lên bảng phi vụ : Crew của tôi và crew anh S. nằm ở cuối bảng trực bay, thế là tôi sẽ dùng hai crew nầy, c̣n chút thắc mắc là tôi không biết 2 ông cơ phi, 2 ông xạ thủ của 2 crew nầy có bay được gunship không, điều đó tôi phải check lại ông Ch/úy trưởng toán của họ và cũng nhờ ổng điều động họ phải có mặt pḥng hành quân trong 15 phút nữa, đồng thời tôi nhờ ông sĩ quan trực xuống cư xá thông báo đến 3 ông hoa tiêu có tên trong hai crew nầy lên đây gắp, rồi xe pick-up truck chở xuống cư xá văng lai Hồng Lạc.
Tôi phóng xe Honda đến đó trước để bàn giao. Tôi trông thấy tám ‘người hùng’ có vẻ cũng mệt mơi, tôi nói “Thôi các ông chuẩn bị đi về nghỉ, chúng tôi sắp lên đây thay thế các ông theo lệnh ông Alpha Đ.” Tám ông nầy c̣n muốn tiếp tục bay nữa nên họ bảo tôi :“ Các ông cứ 'ground alert' tại PĐ, khi nào mệt, tụi nầy sẽ gọi về, chừng đó các ông sẽ lên thay”. Tôi chào các ổng rồi về lại PĐ, chắc mọi người hiểu rồi đấy : thời gian nầy mà có con tàu trong tay th́ dễ dầu ǵ các ổng chịu nhả ra. Về tới pḥng hành quân tôi thấy bảy anh em sẵn sàng lên xe truck, tôi bảo họ “Thôi, không phải đi đâu hết, hai crew của bọn ḿnh tạm thời cứ trực 'ground alert' tại PĐ, khi nào mấy ông trên đó muốn về th́ ḿnh sẽ lên thay, bây giờ có thể giải tán”. Tôi cũng dặn ông SQ và HSQ trực hăy gọi chúng tôi lên thay thế, khi nào các ông trên đó muốn về.
Xong xuôi tôi đi qua văn pḥng của Th/tá Đ. báo cho ông biết chuyện giao ước giữa các crew của chúng tôi. Ông Đ. nói : “Như vậy cũng được, tôi c̣n một chuyện nữa là nhờ anh điểm danh anh em thật kỹ lúc 9:00 sáng nầy cho tôi”, rồi ông nói thêm : “Đây là lệnh của Sư đoàn, ai vắng mặt không lư do th́ bảo ban Văn thư báo cáo đào ngũ”. Tôi đáp : “ Thưa, vâng ” chào ông, rời khỏi nơi nầy. Lại là một chuyện khó cho tôi nữa đấy, v́ theo thông lệ : Điểm danh là nhiệm vụ của phi đội nào xuống ưu tiên III nghĩa là phi đội đang nghĩ xả hơi tại đơn vị hoặc sắp đi phép.
Mà thôi, Sếp bảo tôi làm, th́ tôi làm, nhà binh mà. Cũng xin nói thêm mấy tháng gần đây không hiểu sao Sếp có vẻ chiếu cố tôi hơi ‘kỹ lưỡng’ như : cách đây hơn một tháng, ông bảo tôi lấy xe truck qua PĐ 217 bên phi trường 31 mượn đỡ mấy trăm hộp thực phẩm khô (C ration) về phân phát cho anh em đi tăng phái miền Trung, rồi lần khác ông bảo tôi xuống khu tiếp liệu kư mượn 12 chiếc giường sắt có luôn nệm, đem đặt trong cái Shelter ngoài phi đạo để anh em có chỗ ngũ khi đến đây trực đêm (trực dời tàu qua phi trường 31, khi căn cứ nầy bị tấn công), cũng may cho tôi : mấy chiếc giường đó chưa bị ai chôm chọt, chớ nếu mất một cái thôi, tôi phải đền thấy m..., toàn là những chuyện không phải nhiệm vụ của tôi.
Bây giờ tôi phải trở lại pḥng hành quân, nhờ SQ và HSQ trực thông báo dùm anh em là có cuộc điểm danh bất thường và rất quan trọng vào lúc chín giờ, yêu cầu mọi người phải có mặt đầy đủ. Sau đó, tôi về pḥng nghĩ một chút, v́ sáng tới giờ cứ làm chuyện ǵ đâu không.
C̣n chừng năm ba phút là đúng 9 giờ, tôi trở lại pḥng hành quân với cái danh sách nhân viên 225 trong tay, gần như tất cả mọi người đều có mặt tại pḥng họp. Đúng 9 giờ hai ông Th/tá Đ. và Ch. bước vào, tôi đứng lên chào và hô to :"Tất cả..vào hàng .. phắc", mọi người trong pḥng họp đều đứng lên nghiêm trang chào đón hai ông ấy, sau đó lại hô : "Tất cả…ngồi”, anh em ngồi xuống, tôi bước tới bục, quay mặt xuống đưa tay lên chào tất cả mọi người.
Trước tiên tôi cho anh em biết tại sao có cuộc điểm danh đặc biệt nầy, tôi lập lại y chang những lời sếp Đ. nói với tôi lúc năy và sau đó là điểm danh. Xong phần điểm danh, tôi hỏi hai vị Th/tá nầy có cần nói ǵ với anh em không, Sếp Đ. đứng lên tiến về phía bục, tôi lại chào tất cả pḥng họp lần nữa, rồi đi xuống ghế ngồi. Hôm nay Th/tá Đ. nói năng thật nhỏ nhẹ, ông khuyên anh em : "Đừng có dại dột mà lặn vọt lúc nầy, chính người ngoài phố họ c̣n muốn vào trong đây mà không được, nơi nầy chúng ta có sẵn tàu bay trong tay, nếu có lệnh di tản th́ chúng ta sẽ cùng đi v.v…".
Đến đây phần điểm danh sáng nầy coi như đă xong, tôi làm thủ tục để tiễn hai ổng đi ra, sau đó pḥng họp giải tán, tôi trả lại cái bản danh sách cho ban văn thư. Vừa bước ra cửa tôi gặp anh H. ở mái hiên, anh và tôi tṛ chuyện cũng khá lâu, anh cho tôi biết : nếu có chuyện di tản th́ anh sẽ không đi đâu, anh chỉ muốn trở về quê của anh ở CĐ. Đứng lâu, tôi thấy hơi mỏi chân nên rũ anh vào quán Hưng Râu uống cà phê, H. từ chối v́ anh muốn qua khu cư xá 211 để thăm vài người bạn bên đó.
Bây giờ đă hơn 10 giờ sáng, tôi đi đến quán anh Hưng, tôi thấy các bạn Đ., L., Q., H.Indian, T.(Flight II) có mặt ở đây nên tôi tấp vô bàn của họ để ngồi tán gẫu giải khuây, gọi luôn cho ḿnh một cà phê filtre có đá có đường. Khoảng 10:30 sáng, anh Hưng chủ quán hớt hải mang tới bàn chúng tôi một cái radio cassette đang nói tin tức lỡ dở, Hưng nói: “Các ông nghe kỹ đi, Tổng Thống Minh Cồ đă tuyên bố đầu hàng rồi”, sáu đứa chúng tôi chưa nghe được ǵ v́ ông nói sắp xong rồi, tiếp nối là một bản hùng ca.
Kinh nghiệm xưa nay cho ta thấy trong những lần có biến loạn như đảo chánh, chỉnh lư ǵ đó, th́ đài phát thanh thường hay xen kẽ giữa những huấn thị, hiệu triệu của tướng lănh bằng một bản nhạc hùng ca. Vậy phải đợi xong bản nhạc nầy th́ chắc họ sẽ ‘playback’ hiệu triệu của ông Minh. Đúng vậy, giọng ông Minh thật là monotone, ông nói rất từ tốn chứ không giống như giọng của một vị tướng lănh, tôi chỉ nhớ đại khái ‘…kêu gọi QL/VNCH hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân Giải phóng miền Nam VN…từ trung ương đến địa phương trao lại cho chánh phủ cách mạng lâm thời miền Nam VN ’.
Thế là hết, nỗi uất hận đă hằn lên gương mặt mọi người, muốn khóc mà khóc không được. Tôi uể oải đứng lên định đến quầy trả tiền, anh Hưng chận lại, anh nói : “Coi như tôi đăi các bạn lần cuối”. Thật ra ổng rất muốn tất cả mọi người trong quán rời khỏi đây cho rồi, để c̣n thu xếp chuyện của ổng. Năm ông bạn của tôi trở lại cư xá, c̣n tôi th́ lên văn pḥng của hai ông Thiếu tá nầy xem hai ổng đă biết tin nầy chưa? Rồi tôi sẽ hỏi luôn các ổng : ‘Đă đến lúc chúng ta lấy tàu di tản được rồi chứ? Không lẽ các ông ngồi đây đợi họ tới bàn giao?’ Nhưng tôi không thấy ông nào ở đây cả, thôi th́ tôi trở lại cư xá với mấy bạn lúc năy. Chúng tôi đứng chụm nhum 4,5 người bàn thảo với nhau ngay phía ngoài pḥng ngủ của A. và Đ.
Chừng 10 phút sau th́ thấy Đại tá T.M.Th quá giang xe Honda của ai đến đây, nhập với bọn tôi. Hầu hết chúng tôi đều biết ông Đ/tá Th, ông hiền từ như cái tên của ông, ông đă từng giữ chức Chỉ huy trưởng căn cứ Sóc Trăng trong lúc PĐ 225 đồn trú tại đó. Ông cho chúng tôi biết : “Soleil của ḿnh (Tướng TL Sư đoàn IV/KQ) mới lên Cessna đi rồi, vậy các anh hăy tự lo liệu cho chính ḿnh.” Ông không thấy chúng tôi phản ứng ǵ, nản quá ông từ giă bọn tôi, đi bộ qua cư xá 211. Và rồi chừng 5 phút sau th́ có một chiếc tàu đang Hovering fly từ khu Parking về đến khu cư xá, tàu hover trên cao, canh ngay cái sân vuông ở giữa 4 dăy cư xá 225 rồi hạ thẳng xuống, th́ ra ông pilot đó là H.Indian, thảo nào tự năy giờ tôi không thấy mặt ổng. H. gài controls bằng 'Forced trim', rồi mở cửa bên phải phóng đi t́m vợ con. Tàu bắt đầu cḥng chành v́ H. không giảm ṿng quay của máy (Engine RPM), bọn tôi đứng cách tàu chừng 5, 6m thôi, tôi phóng tới mở cửa trái leo vào, chụp controls điều khiển, các bạn tôi cũng leo lên tàu luôn, L. ngồi vào ghế phải, tôi đợi khi nào H. đem được bầu đoàn thê tử của hắn lên phi cơ đàng hoàng th́ tôi take off, trong lúc đó lại có thêm 5, 3 ông nữa nhảy lên tàu.
Ngoài tôi và L., tổng cộng người lớn và trẻ con cũng khoảng 15, 16 người rồi, ngồi kín cả sàn tàu. Trước mặt tôi là cây trứng cá khá cao, tôi làm cái 'maneuver' : maximum take off, cũng may con tàu nầy rất mạnh nên lên khá dễ dàng nhưng vẫn khốn đốn với giây điện, cột anten TV của cư xá 211, phải luồn qua, lách lại mới ra được. Sau khi đạt được cao độ, tôi lấy heading 150 độ để bay ra Côn Sơn giống như tôi đă nghe lóm từ hôm qua. Rồi từ phía sau chuyền lên cho L. và tôi mỗi người có một chiếc helmet, L. mở tần số FM emergency, và VHF nội bộ của 225 để theo dơi, chúng tôi thấy là chúng tôi đă bay đúng hướng như những người đi trước chỉ dẫn.
Chúng tôi đáp tại phi trường Côn Sơn lúc 12:45 trưa, thấy nơi đó có 2 ṿi Fuel, chúng tôi ghé vào đổ đầy săng cái đă và theo sự chỉ dẫn của một vị Th/tá phi công trực thăng nào đó, chúng tôi đem đậu vào bên hông phi đạo, 'line up' với mười mấy chiếc đậu sẵn tại đây, sau đó chúng tôi tắt máy như những chiếc kia. Viên Th/tá gặp lúc năy lại đến tàu chúng tôi nói chuyện, ông cho biết : “Nơi đây rất an ninh, hiện tại chúng ta đang có một UH1 toàn những ông rất giỏi tiếng Mỹ đang bay orbit gần Đệ thất hạm đội để liên lạc với họ, xin họ cho chúng ta được đáp xuống Hàng không mẫu hạm. Họ trả lời, họ cần phải gọi về Washington trước mà bây giờ bên Mỹ là đêm, nên họ bảo ḿnh ráng chờ, họ tin là WA sẽ chấp nhận thỉnh cầu nầy. Chiếc UH1 đó vẫn c̣n tiếp tục bay gần họ để chờ tin, khi được tin tốt, chiếc UH1 sẽ về cho chúng ta biết ngay. Bây giờ chúng ta phải lập nhiều hợp đoàn V5 sẵn, cứ 5 chiếc vào một hợp đoàn để bay an toàn, tôi nghĩ chắc sẽ có rất nhiều trực thăng nữa bay ra đây sau khi nghe lệnh đầu hàng của ông Minh.”
Thật dúng vậy, sau đó cứ 10 hoặc 15 phút th́ có một hoặc vài trực thăng UH1 hay Chinook đáp xuống, tất cả họ đều ‘refuel’ rồi đem tàu đậu nối đuôi nhau. Tôi thấy có chiếc của ông Alpha Đ., của ông Đ., ông Nh., ông S., ông Th. v.v…Tôi mừng lắm khi thấy anh em ḿnh thoát được cũng nhiều, tôi tới thăm hỏi Sếp Đ., Sếp hỏi tôi “Có cách nào để PĐ cùng bay chung Formation với nhau không?”. Tôi trả lời : “Chắc là không rồi, nhưng Sếp đừng lo, tất cả đều đáp USS Midway ḿnh c̣n gặp nhau dài dài mà”. Tôi cảm thấy ḿnh quư mến Sếp Đ. hơn v́ cho đến lúc nầy ông vẫn nghĩ tới anh em 225.
Khoảng 16:00 giờ, chiếc UH1 đi liên lạc với Hạm đội 7 trở lại đổ thêm xăng và ra dấu cho mọi tàu quay máy và đổi frecency mới trên VHF để cho tất cả các tàu có thể liên lạc được với nhau. Hôm nay, chiếc liên lạc coi như là chiếc C&C sẽ hướng dẫn mọi người bay phi vụ cuối cùng trong đời ḿnh. Chiếc C&C cất cánh trước rồi lần lượt các chiếc khác thứ tự cất cánh theo, cứ 5 chiếc ráp một 'Formation V5' như 'briefing' trước đó; V5 sau cách V5 trước chừng 10 cánh quạt. Dường như có tất cả là 7 cái Formation V5 (khoảng 30 đến 40 chiếc UH1H), lấy heading 030 (đi lênVũng Tàu) cao độ khoảng 1500 bộ.
C̣n bên Chinook cũng có khoảng 3,4 chiếc, họ bay với formation riêng của họ ở phía sau. Bay độ chừng hơn 30 phút th́ nh́n xa xa thấy Hạm đội 7 của Hoa Kỳ, khi đến gần hơn, tàu C&C ra lệnh cái V5 thứ nhất (I) đổi qua độ h́nh Trail (hàng một) và khi nào thấy hàng không mẩu hạm bật đèn xanh th́ 5 chiếc nầy vào đáp, trong khi đó cái V5 thứ nh́ (II) sẽ lên làm lead, dẫn nguyên hợp đoàn lớn bay ṿng tṛn lớn chờ đèn xanh, khi thấy đèn xanh th́ V5 (II) cũng đổi đội h́nh Trail vào đáp, rồi cái V5 số ba (III) sẽ lên làm lead tiếp tục dẫn hợp đoàn bay ṿng chờ…cứ như vậy đến cái V5 cuối cùng. Sở dĩ chờ hơi lâu là v́ mỗi tàu vừa đáp xuống xong, đợi cho mọi người trong tàu bước ra hết, trưởng phi cơ phải tuân theo sự hướng dẫn của toán phi đạo trên mẫu hạm Hoa Kỳ : là phải dời tàu ḿnh ra sát mé b́a của chiếc mẫu hạm, sau đó tắt máy, hai phi công bước ra khỏi tàu, tức th́ nhóm phi đạo của Mỹ h́ hục đẩy con tàu đó xuống biển ngay.
Tôi vừa bước ra khỏi tàu th́ có một ông thủy thủ da đen cao lớn đến bên tôi, hắn tháo cái dây súng Rouleau P38 của tôi quăng xuống biển rồi bảo tôi qua bên kia đứng với mọi người. Sau đó họ hướng dẫn toán của tôi khoảng ba mươi người đi xuống dưới hầm chiếc mẫu hạm. Tại nơi đây, tôi thấy đă có trên trăm người rồi, họ đang ngồi trong những chiếc tàu nhỏ, loại tàu há mồm đổ bộ của TQLC, phía trước mũi được mở ra để mọi người ra vào. mỗi chiếc chứa khoảng 30 người. Toán của tôi cũng chiếm một tàu giống như vậy, sau đó họ mang cho chúng tôi mỗi người một ít bánh 'Cracker' và một cái ly bằng nhựa chứa chừng 8 oz Coca Cola lạnh.
Được dung nạp một số calories do những thứ nầy tôi thấy khỏe ra, bởi từ sáng đến giờ tôi có ăn cái ǵ đâu. Nội cái chuyện lo âu, hồi hộp đă làm ḿnh quên đói, chỉ thấy mệt trong người thôi. Bây giờ th́ đỡ rồi đó, hết lo cái vụ bị người “anh em” phía bên kia bắt bớ giam cầm, khảo tra trả thù ǵ nữa ... Như vậy ta phải cám ơn người Mỹ mới được, đă giúp ta thật đúng lúc, rồi tôi lại thắc mắc : Tại sao Hạm đội 7 lại vào quá gần bờ ? (giữa Vũng Tàu - Côn Sơn). Tại sao Đặc khu Côn Sơn chỉ là một quận nhỏ của Bà Rịa Vũng Tàu lại rất an ninh vào những ngày cuối, tù chánh trị vẫn bị nhốt kỹ, ngoài phi trường phi cơ lên xuống như b́nh thường ? C̣n cái nguồn nguyên liệu ở đây sao quá dồi dào, nội ngày hôm nay đă cung cấp đầy đủ hơn 40 trực thăng vừa UH1 vừa Chinook và không biết bao nhiêu tàu trong ngày trước đó nữa ? Phải chăng người Mỹ đă có kế hoạch thu hồi lại những phương tiện và chiến cụ của họ, họ thà đổ sông, đổ biển chứ không muốn tặng cho csVN. Tôi nghĩ như vậy, không biết có đúng không ? Tôi ngó quanh t́m kiếm bạn bè để đến nói chuyện hay thăm hỏi cho đầu óc ḿnh bớt căn thẳng.
Khoảng 9:15 đêm, một ông Hải quân Thượng sĩ Mỹ dùng cái Haul-Parleur loại cầm tay nói cho mọi người biết là chừng 15 phút nữa, họ sẽ tắt bớt hàng đèn lớn trên trần để mọi người nghĩ ngơi. Vậy mọi người hăy dừng đi thăm viếng ở tàu khác mà hăy trở lại tàu của ḿnh rồi ông nhờ một người Việt giỏi tiếng Anh thông dịch lại. Đúng 9:30 mọi đèn lớn trên trần đă tắt hết, chỉ c̣n vài đèn nhỏ trên vách cao đủ ánh sáng cho ai cần thiết phải đi nhà vệ sinh. Tàu khá chật chội khi phải chứa đến 30 người, mọi người đồng ư ngầm là nhường cho trẻ con, người lớn tuổi hoặc phụ nữ được ngủ nằm c̣n hạng trai trẻ như tôi phải dựa lưng vào thành tàu, co gối ngồi ngủ. ‘Giang sơn’ của tôi ở phía ngoài cùng (mặt trước của con tàu) v́ khi sắp toán dẫn xuống tàu th́ tôi là người đi sau chót.
Tôi tựa lưng và thành tàu, định chộp mắt ngủ một chút cho khỏe như mọi người nhưng không, không dễ dàng vậy đâu v́ với những kẻ đang mang tâm trạng th́ bóng đêm là điều kiện tốt để thẩm vấn viên lương tâm lấy khẩu cung can phạm, can phạm đó chính là ḿnh đây. Điều tra viên nầy muốn chính can phạm phải trực diện với lương tâm ḿnh. Tội lớn nhất là bỏ nước ra đi, xa ĺa người thân, giờ đây thân quyến của tôi giống như họ đang ở dương trần, c̣n tôi ở nơi âm phủ th́ chắc ǵ kiếp nầy có dịp thấy lại họ ? Nghĩ tới đó, nước mắt tôi tự dưng tuôn trào, tôi ước ǵ đừng có ai nơi đây để tôi được khóc rống như trẻ con, hầu vơi bớt phần nào khổ đau như người đời hay nói như vậy.
Tôi ngồi phía ngoài, bên phải tôi th́ không có ai nên tôi xoay người về phía đó, hai tay bó gối, đầu gục xuống đó để đừng ai nh́n thấy hai ḍng nước mắt của ḿnh cứ đầm đ́a tuôn rơi không ngớt, xen kẽ đó là những uất nghẹn sắp bật thành tiếng, tôi vội nuốt nước bọt nhiều lần mới ḱm hăm lại được. Tôi tự nguyền rủa ḿnh 'chả ra làm sao cả', đối với gia đ́nh : ḿnh là người tắc trách vô tâm, c̣n với Tổ quốc ḿnh là kẻ vong ân bội nghĩa. Một con người tệ bạc như thế đấy th́ tương lai ḿnh sẽ ra sao đây, thôi th́ hăy phó thác cho định mệnh.
“Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Thử xem cao tạo xoay dần tới đâu”. ND
Nhờ rơi được nhiều nước mắt nên tôi thấy có chút nguôi ngoai, nhưng không dễ lấy lại trạng thái b́nh thường được đâu mà lúc nầy tâm trạng tôi vẫn rối bời, cứ chuyện nọ lại xọ qua chuyện kia, bây giờ tôi lại nhớ đến đơn vị cũ : PĐ 225 mà tôi yêu quư như một người t́nh sắt son chung thủy v́ đă chung sống với nhau những 54 tháng rồi, đó là tôi phải tính bằng tháng để được hai con số, chứ tính năm th́ chỉ có một con số thôi, mà c̣n dưới con số 5 nữa. Thật là đau đớn cho tôi phải nói lời giă biệt cùng nàng cũng như giă biệt những con tàu gunship mà tôi coi như những đứa con trai kiêu hùng đă cùng tôi hữu xung, tả đột xông pha nơi trận mạc và những con tàu slick như những đứa con gái mũm mĩm trang đài, giàu ḷng nhân ái đă cùng tôi chuyển quân, tiếp tế, tản thương.
Chỉ trong một ngày mà tôi có đến hai lần đầu hàng. Đầu hàng lần đầu là thừa lệnh vị Tổng Tư Lệnh QĐ (nhiệm kỳ hai ngày) : hạ vũ khí đầu hàng, sau khi hạ vũ khí th́ tôi có thể ra đi được rồi chứ, bởi v́ khoảng tiếp theo là ‘bàn giao hay trao lại’ ǵ.. ǵ.. đó, th́ hoàn toàn không có tôi.. bởi tôi chỉ là quân nhân hạng bét th́ có cái đếch ǵ để ‘trao lại hay bàn giao’? Đầu hàng lần thứ hai là đầu hàng định mệnh, chỉ mong sao định mệnh an bày cho tôi số phận nào cũng được trong những ngày sắp tới.
nguyên quân 225.
hoanglan22
09-19-2019, 13:16
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1456070&stc=1&d=1568898871
Tác giả là Bác sĩ Vĩnh Chánh, thuộc Hội Y Khoa Huế Hải Ngoại. Thời chiến tranh, ông là YSĩ Quân Y Nhảy Dù. Bài viết sau đây được tác giả viết cho Mùa Giáng Sinh năm 2012. Chuyện là thật, nhưng họ và tên các nhân vật không hoàn toàn đúng sự thật.
Kèm theo bài viết là h́nh ảnh trực thăng hành quân sưu tập từ internet.
Bất cứ một chiến tranh nào cũng có những hoạt động quân sự được che dấu bảo mật. Với những phi cơ màu đen không số không tên không cờ, Phi Đoàn 219 Thần Phong của Không Quân VNCH, trực thuộc Pḥng 7 Nha Kỹ Thuật, Bộ Tổng Tham Mưu, có nhiệm vụ thả người ra phía Bắc vĩ tuyến, đưa đón và yểm trợ những toán tiền thám Lôi Hổ, Biệt Kích đi sâu vào ḷng địch… Bài phóng tác dưới đây được dựa trên câu chuyên của Trần Khánh, một người con của Huế và là một “Thượng Sĩ Già” của Biệt Đoàn 83 gồm những chiếc trực thăng H34 của phi đoàn 219, với nét mặt vẫn mang đầy vẻ khí khái hiên ngang của một chàng trai thời chiến của ngày nào dù tóc nay đă nhuộm màu thời gian. Ước mong bài viết diễn tả được phần nào công việc hiểm nghèo các phi hành đoàn của Không Lực VNCH thi hành hàng ngày mà cá nhân tôi, một y sĩ QYND, đă chứng kiến qua những phi vụ đánh phá mục tiêu, yểm trợ, tiếp tế, tản thương…trong trận đánh năm 1974 ở Đồi 1062 tại vùng Thường Đức/ Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Từ xa về thăm bạn bè trong vùng Nam Cali nhân Mùa Giáng Sinh năm 1981, Khánh cố t́nh quên cái đau răng đă hành hạ anh từ mấy ngày qua. Qua một đêm mất ngủ v́ nhức răng quá độ dù tối hôm trước anh uống rượu khá nhiều với các bạn cùng phi đoàn, Khánh quyết định t́m đến văn pḥng nha sĩ cầu cứu.
V́ không quen biết ở vùng này, Khánh bước đại vào một văn pḥng nha khoa nằm ở góc đường, gần căn nhà người bạn mà ḿnh vừa tá túc. Trong khi đang đứng kể rơ bệnh t́nh với cô nhân viên để xin cho được gặp nha sĩ dù không có hẹn trước, Khánh thấy người nha sĩ bước vào pḥng và ra dấu cho người nhân viên chấp nhận, có lẽông ta nghe được câu chuyện v́ đứng sát cửa pḥng chờ khách.
Nằm chờ trên ghế khám không mấy lâu, Khánh thấy người Nha Sĩ vừa bước vào pḥng vừa đọc hồ sơ cá nhân của Khánh. Qua vài câu thăm hỏi về bệnh t́nh, ông hỏi Khánh có ở trong quân đội trước khi mất nước. Khánh trả lời có và cho biết ḿnh phục vụ trong Không Quân VN. Người Nha Sĩ ngần ngừ một thoáng rồi nói nhỏ “tôi có người em trai cũng ở trong Không Quân, nhưng nó chết rồi”. Rồi như muốn trút đi một tâm sự buồn, ông vội nói tiếp “Nó tên là Ḥa, Nguyễn Đại Ḥa, người rất hiền ḥa như tên của nó vậy đó. Nó là trung úy phi công trực thăng đóng ở Đà Nẳng, và chết trong một phi vụ vào tháng 2 năm 1971”.
Khánh thảng thốt bật thẳng dậy, hỏi ngay “có phải xác của Trung Úy Ḥa được đưa về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương ở Huế bằng trực thăng không?” Người Nha Sĩ bước lui mấy bước và trả lời không ngập ngừng “Đúng rồi. Sao anh biết?”
Như một tia chớp, bao nhiêu h́nh ảnh trong phút chốc bỗng trở về trong đầu Khánh một cách mạch lạc dù câu chuyện đă xẩy ra cả mươi năm qua.
“Thưa Nha Sĩ, nếu đúng với tên người chết là Trung Úy Hoà, chính phi hành đoàn chúng tôi đưa xác anh ấy về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương!”
Người Nha Sĩ đứng yên lặng trong giây lát, như để tự trấn tĩnh lấy ḿnh, rồi bỗng vái lạy Khánh, vừa nói nhanh.
“Mấy lâu nay gia đ́nh chúng tôi muốn biết về cái chết của nó v́ nghe phong phanh phi đoàn nó nói là trực thăng của nó bị bắn rơi, chỉ riêng một ḿnh nó chết thôi và phi hành đoàn 3 người c̣n lại đều bị bắt làm tù binh”
Trong cùng lúc đó, Khánh cũng bật dậy, nhảy vội ra khỏi chiếc ghế khám, chạy đến bên cạnh người Nha Sĩ, làm hành động ngăn không cho ông ta vái nữa; và trong sự cảm thông, hai người xúc động ôm chặt lấy nhau trong im lặng. Rồi người Nha Sĩ mời Khánh bước qua pḥng làm việc. Bấy giờ Khánh mới lấy lại b́nh tĩnh và tuần tự kể từng chi tiết về chuyến rescue mission đặc biệt năm đó.
Trong Chiến Dịch Lam Sơn 719 đánh vào các căn cứ của CS Bắc Việt ở Hạ Lào vào tháng 2, 1971, Biệt Đoàn 83 của Khánh được biệt phái từ Phủ Bài ra Ái Tử. Sau khi thi hành thả những toán Lôi Hổ vào vùng đất địch, trực thăng H34 của Khánh đang trên đường trở về căn cứ Phủ Bài. Trước khi đến cây số 17 gần An Lỗ, liên lạc viễn tuyến trên tần số phi cơ cho biết có một chiếc trực thăng UH1H của phi đoàn bạn từ Đà Nẵng bị bắn rớt ở phía Tây Động Ông Đô. Phi hành đoàn của Khánh lập tức chuyển hướng, quay về hướng Tây, lần theo toạ độ t́m đến nơi chiếc trực thăng bị rơi.
.
Trời lúc đó đă về chiều dù chưa tới 5 giờ và càng vào trong núi càng nhiều sương mù. Từ trên cao, Khánh thấy xác chiếc trực thăng nằm nghiêng ở kế bên ḍng suối nhỏ. Sau khi đảo quanh một ṿng để quan sát t́nh h́nh chung quanh trực thăng bị rơi, chiếc H34 từ từ bay dừng một chỗ trên không và sử dụng hệ thống Hoist thả Khánh xuống ở cách xa trực thăng kia khoảng 80 thước.
Khi đến được mặt đất và tháo gỡ dây Hoist ra khỏi người, Khánh mới biết cỏ tranh xanh cao hơn đầu người anh và triền đồi rất dốc, khiến anh đă bị lăn từ trên triền đồi xuống đến dưới ḷng suối.
Vừa ê ẩm trong người, vừa hồi hộp, Khánh chạy lần theo men bờ suối và đến cạnh chiếc trực thăng ngộ nạn. Khánh nh́n ở bên ngoài và chung quanh trực thăng, nhưng không thấy bóng dáng ai cả. Nh́n vào pḥng lái, Khánh thấy thân thể một người nằm gục không nhúc nhích ở ghế phi công trưởng, đầu nghẹo sang một bên và kính phía trước bị bắn lủng một lỗ to tướng.
Khánh lách người qua cửa hông bên trái, lần đến gần người nằm bất tỉnh ở ghế trước bên phải. Bấy giờ Khánh mới nghe hơi thở ph́ pḥ của người phi công bị thương cùng một lúc nhận thấy khuôn mặt anh bên phải là một khối bầy nhầy đầy cả máu.
Sau khi cố gắng lôi được hai bàn chân của người bị thương c̣n bị kẹt ở pedales phía dưới thân máy bay, Khánh bắt đầu ôm lấy thân h́nh anh ta, từ từ kéo ra khỏi xác máy bay. Khánh nghe được một tiếng thở mạnh từ người phi công vừa trút hơi thở cuối cùng trong tay ḿnh.
Trong khi vác xác đồng đội trên vai chạy dần về nơi an toàn, máu người chết tiếp tục chảy xuống ướt cả áo bên trong của Khánh, cộng thêm với mồ hôi của ḿnh khiến Khánh choáng váng và mệt đến lả cả người. Sau hai lần phải dừng lại nghỉ mệt, Khánh đă đến được điểm hẹn, bấm đèn pin lên hướng trực thăng của ḿnh làm dấu thả dây Hoist xuống cho Khánh móc xác người chết lên trước, rồi đến ḿnh lên sau.
Chiếc H34 bay quành một ṿng nhỏ như để chào vĩnh biệt lần cuối người bạn mới hy sinh, rồi lấy hướng về phía Đông Nam. Ít phút sau, Khánh lấy lại b́nh tĩnh, nh́n đọc bảng tên H̉A trên áo bay của người phi công xấu số.
Phi hành đoàn H34 báo cáo sự việc và nhận chỉ thị đưa xác Trung Uư Phi Công Ḥa về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương. Khánh vẫn c̣n run sợ, thầm nghĩ anh có may mắn không bị VC phục kích và chiếc trực thăng H34 đang bay chờ anh trên trời cũng không bị nhắm bắn trong khi thi hành nhiệm vụ một cách đơn độc vào giờ chót trong một thời tiết rất xấu.
Dù đau buồn v́ 3 người phi hành đoàn c̣n lại đă bị bắt làm tù binh trước khi trực thăng của anh đến vùng, và phi công trưởng tử thương, nhưng Khánh và phi hành đoàn H34 của anh có niềm hănh diện riêng v́ ước nguyện của các chiến hữu Không Quân đă thêm một lần được thực hiện qua châm ngôn “Không Bỏ Anh Em, Không Bỏ Bạn bè”
Cả tuần sau, Khánh vẫn bồn chồn đứng ngồi không yên, người cứ mệt mỏi bần thần.Bộ đồ bay màu đen của anh vẫn c̣n thoảng mùi máu của đồng đội dù đă được giặt đi giặt lại khá nhiều lần. Cái chết của người Trung Úy Phi Công Ḥa với gương mặt bị bắn nát một nữa bên của anh,cùng với h́nh ảnh của bao người lính Lôi Hổ, Biệt Kích mà Biệt Đoàn 83 của anh đă từng đưa đi, đón về phía sau lưng địch, có khi đầy đủ có khi thiếu một vài người, đă để lại những vết thương âm ỷ khó quên trong tâm hồn của con người vốn coi nhẹ tính mạng nơi anh.
Nghe xong câu chuyện và với nước mắt lưng tṛng, người Nha Sĩ lên tiếng:
“Chắc vong linh em tôi xui khiến và dẫn đường cho anh đến văn pḥng gặp tôi sáng nay. Câu chuyện anh kể hôm nay về cái chết của Ḥa là một món quà vô giá trong mùa Giáng Sinh năm nay cho gia đ́nh Cha Mẹ và anh em chúng tôi. Nguyện ước biết rơ về cái chết đau thương của Ḥa trong ṿng tay của một đồng đội sẽ mang đến một kết thúc nhẹ nhàng cho gia đ́nh chúng tôi. Thay mặt cho toàn gia đ́nh, tôi xin được nói lời cảm tạ với ân nhân đă đem xác em tôi về…”.
Trong mùa Giáng Sinh năm 1981, sau khi rời văn pḥng nha sĩ, Khánh cảm thấy nhẹ hẳn người, như vừa trút bỏ được một gánh nặng đă cất giữ trong ḷng từ lâu. Và anh bỗng thấy tâm hồn ḿnh thư thái, nhẹ nhàng như muốn vụt lên với trời cao trong xanh.
Vĩnh Chánh
cha12 ba
09-19-2019, 13:46
9/19/19
Biệt Cách Dù
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1456086&stc=1&d=1568900606
Vâng ! Chúng tôi thuộc Biệt đội 817 của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, một biệt đội tân lập để nhằm đáp ứng nhu cầu chiến trường thật sôi động vào những ngày cuối tháng tư đen.
NHẬN ĐƠN VỊ
Sau lễ ra trường vội vă tại căn cứ Long Thành, tôi và một số anh em khoá 28/29VBĐL, những người trai trẻ khát khao gió mưa cùng nguy hiểm, đă chọn bộ đồ dù với chiếc nón xanh ngạo nghễ làm chiến y. Nếu ai hỏi tôi: Cái ǵ làm mày chọn binh chủng oai hùng đó, tôi sẽ trả lời bằng hai câu thơ cảm khái của một nữ sinh ở chiến trường đẫm máu An Lộc:
An Lộc địa, sử lưu chiến tích,
Biệt Cách Dù, vị quốc vong thân.
Tuổi trẻ là vậy đó: thèm khát chiến trường, sau gần bốn năm trui rèn gian khổ mong được thử lửa, thêm với bầu máu nóng của tuổi trẻ muốn bảo quốc an dân, chúng tôi đă xông pha vào trận chiến vói hành trang thật đầy đủ từ tinh thần, thể lực lẫn trí tuệ của một sĩ quan đa hiệu, và c̣n nữa: trên vai chúng tôi c̣n cả một truyền thống oai hùng của các bậc đàn anh. Ôi ! Kể sao cho hết ḷng tự tin, hăng say náo nức của ngày đầu tiên tôi được khoác lên ḿnh bộ quân phục khét tiếng chiến trường ấy.
Tôi và Xuân, một tay có dáng người cao,đen,đẹp trai của khóa 29, sau khi cùng anh em tŕnh diện Trung tá Thông ở bộ Tư Lệnh Tiền Phương 2 Suối Máu, được phân phối ngay về Biệt Đội 817 đo Đại úy L. chỉ huy, không một ngày giờ phép.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1456087&stc=1&d=1568900650
Tôi xin nói sơ qua về cách phối trí đơn vị và danh xưng trong liên đoàn một cách tóm lược v́ sự hiểu biết hạn hẹp và cũng để bảo mật cho một đơn vị đặc biệt nàỵ Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn là Đại tá Huấn, Hậu cứ của Liên đoàn đóng ở An Sương,Hóc Môn, có hai Bộ Tư Lệnh Tiền Phương đặc nhiệm cho từng vùng hoạt động. Dưới quyền cuả Bộ Tư Lệnh Tiền Phương là những Biệt Độị . Biệt Đội có quân số của một đại đội, lúc nào cũng được bổ sung thật đầy đủ, và được chia ra làm 03 Trung Đội Xung Kích, một Trung Đội Thám Kích và một Trung Đội Súng Nặng. sau đó được chia thành Toán và Tổ. Khi hành quân, các trung đội xung kích thường đánh trực diện và trung đội thám kích được phân phối thành 06 toán để nhảy thăm ḍ, đột kích, t́m diệt, thu thập tin tức, hay hoa nở trong ḷng địch. Biệt Đội được yểm trợ đặc biệt như một Tiểu Đoàn khi hành quân.
Đại Úy L. là một người chỉ huy dày dạn và b́nh tĩnh. Sau khi chúng tôi chào tŕnh diện, ông chỉ nói vỏn vẹn “Chào hai anh” rồi lặng yên nh́n hai đứa tôi như ḍ xét khả năng, nhưng chúng tôi như một cặp gà ṇi ế độ, đứng lặng yên chờ nhận nhiệm vụ, không chút bồn chồn, dù trong ḷng có chút băn khoăn.
Sau khi yên lặng soi vảy và xem gị cẳng, Đại Úy L. từ từ nói: “Biệt Đội cần một Trung Đội Trưởng súng nặng và một Trưởng toán Thám Kích, hai anh chọn cái nào”. Xuân K.29 e dè nh́n qua tôi, bắt gặp cái nh́n của Xuân tôi hiểu rằng “em muốn nhường anh”. Tôi không ngần ngại, bước lên một bước, đưa tay lên chào và dơng dạc nói: “Tôi nhận Trưởng toán Thám Kích”. Quả thật cái ǵ đă in sâu trong tôi: Truyền Thống -T́nh Anh Em ? Em nhường Anh và Anh gánh vác hiểm nguy cho Em…và cùng lúc đó trong đầu tôi thoáng qua h́nh ảnh người tôi yêu với đôi mắt đợi chờ sâu thẳm.
Sau thủ tục giấy tờ và giới thiệu sơ qua về đơn vị đo một Sĩ quan khác đảm nhiệm, hai đứa tôi được đi ăn bữa tối đầu tiên của đời lính thật sự trong căn lều lớn có những lớp bao cát dày che chở chung quanh.
Trên đường đi, Xuân lo ngại hỏi tôi: Làm sao Niên trưởng, tôi quên hết rồi, Niên trưởng chỉ tôi với..Tôi trấn an Xuân: “Ông đừng lo, chỉ cần ông định điểm đứng và chấm tọa độ cho chính xác là đủ, tụi nó sẽ làm hết cho ông.” Xuân vẫn c̣n lo ngại nói tiếp: “Tối nay tôi qua hỏi thêm Niên trưởng vài chuyện”. Tôi gật đầu và sụyt khẽ với Xuân khi có vài người lính đi lại gần.
Trong đầu tôi lúc đó cũng mang nặng nỗi lo không kém : Làm sao để thu phục được những người lính gan ĺ đă từng vào sinh ra tử này.
Buổi tối hẹn với Xuân không bao giờ đến, v́ sau bữa cơm chiều, chúng tôi đă nhận được lệnh hành quân cấp tốc vào sáng sớm ngày mai.
VÀO VÙNG TRÁCH NHIỆM.
Biệt đội chúng tôi được chuyển vận về sân vận động quận Nhất ở bên hông bộ Tổng Tham Mưu đúng vào ngày 23 tháng Tư của năm định mệnh 1975.
Trên đường về Sài g̣n, ngang qua đại lộ Phan Thanh Giản, chúng tôi đă nh́n thấy những căn cứ pḥng thủ được vội vàng thiết lập đọc hai bên đường, nhưng Sài G̣n vẫn c̣n ngơ ngác, chưa sẵn sàng cho một cuộc pḥng thủ qui mô rộng lớn trong chiến tranh. Dân chúng hốt hoảng, sợ VC, ủng hộ quân đội Quốc gia, nhưng họ vẫn xem cuộc chiến chống lại VC là của Quân Đội VNCH, người dân chỉ đóng vai tṛ như một cổ động viên trong một trận tranh tài thể thao không hơn không kém. Những căn cứ pḥng thủ được thiết lập lẻ loi trơ trọi, không kết hợp được với địa h́nh bao quát chung quanh, chưa thiết lập được sự liên kết chặt chẽ cần thiết giữa dân và quân cũng như giữa những đơn vị chính qui và địa phương cho một pḥng tuyến liên hợp cần thiết khi chiến tranh đă đi vào thành phố.
Nh́n những lô cốt bằng bao cát nằm lẻ loi trơ trọi hai bên xa lộ, quan sát những ṭa nhà cao ốc chung quanh không một sự pḥng thủ thích nghi, tôi lo ngại cho sự an toàn bền vững của nhưng chốt pḥng thủ nàỵ Chúng là miếng mồi béo bở của một trái B40 hay cối 61 của một toán đặc công vô danh nào đó len lỏi vào các ṭa cao ốc trước khi tank hay lưc lượng chính qui tiến chiếm trận địa.
Suy nghĩ bâng quơ một lúc, th́ đoàn xe đă đến ngă tư Công Lư và quẹo phải để chạy về hướng Bộ Tổng Tham Mưu. Đến đây, chúng tôi phải chạy chậm lại v́ dân hai bên đường di chuyển hỗn loạn khác thường, một số đă nhận ra chúng tôi và bắt đầu hô lên “Biệt Cách Dù về! Biệt Cách Dù Về!” và làn sóng âm thanh ấy từ từ rộ lên nhịp nhàng lấn át cả mọi tiếng động ồn ào trong thành phố và rồi toả rộng ngân vang: Biệt Cách Dù về ! Biệt Cách Dù về ! Biệt Cách Dù về! hoà với tiếng vỗ tay cách nhịp của các em thiếu niên, và trên khuôn mặt hốt hoảng của những người dân đă dấy lên ánh mắt loé sáng của niềm tin. Vâng! chúng tôi, những người lính của chiến trường đẫm máu, đă về thành phố. Bất giác, tay tôi nắm chặt lại, nh́n gương mặt của những người lính vốn đă gan ĺ nay lại rạng ngời lên ánh mắt cương quyết. Trong ḷng chúng tôi như cùng thầm nguyện lời hứa Kinh Kha.
Chúng tôi đổ quân xuống sân vận động quận Nhất, Sau khi bố trí canh gác pḥng thủ, các sỉ quan trong biệt đội được lệnh họp và chúng tôi được tiếp xúc với một vị Trung Tá từ Bộ Tổng tham Mưu phái đến. Sau khi sơ lược ngắn gọn t́nh h́nh và nhiệm vụ, ông ta dỏng dạc nói: “Các anh là đơn vị cuối cùng được cấp trên tin tưởng đưa về đây pḥng thủ BTTM.và chúng tôi tin rằng đơn vị các anh không phụ ḷng tin đó.” Sau lời phát biểu ngắn gọn hàm chứa ư nghĩa ủy thác, ông ta lên vội xe jeep về lại TTM, chúng tôi về đơn vị ḿnh và tôi băt đầu làm quen với những người lính chai lỳ có gương mặt lạnh lùng u uất, những nét chỉ có trên những người đă từng về từ cơi chết. Quả thật họ là những người đáng gờm, những người lính lạnh lùng ít nói này sẽ gầm lên như hổ dữ khi chạm trán địch quân..
Chiều hôm đó, chúng tôi được cấp phát mỗi người một bộ quân phục của cán binh VC và được huấn luyện sơ qua về các hoạt động trà trộn trong ḷng địch cùng cách xưng hô địch quân thường gọi nhau trong đơn vi.. Măi sau này, tôi mới biết cấp trên đă dự trù một kế hoạch rút vào rừng và tiếp tục chiến đấu nếu Sài g̣n thất thủ. Sau đó, sĩ quan và các trưởng toán dược phát một bản đồ quân sự của Sài g̣n.
Chúng tôi đóng quân hai ngày đêm trong sân vận động để dưỡng quân, huấn luyện và cũng để các binh lính và sỉ quan làm quen với đơn vị mới.Sáng ngày 26/04/75, theo từng vùng trách nhiệm đă phân định sẵn, chúng tôi âm thầm rải quân trấn ngự các dịa điểm trọng yếu.Toán Thám Kích do tôi chỉ huy trấn đóng nhà thương Cơ Đốc lúc bấy giờ c̣n đang xây cất dở dang và một dăy cao ốc đối diện.
Đă được chỉ thị từ trước, tôi cho anh Trung sĩ toán phó chọn hai người lính có kinh nghiệm xử dụng M72, thiết lập hai tổ chống tank di động trải dài dọc theo bờ rào bằng gạch táp- lô (concrete block) nằm cạnh lề đường.Một tổ khác nằm trên cao ốc đối diện. Tôi theo tổ thứ tư đóng ở nhà thương Cơ Đốc. …
Phối trí đơn vị xong th́ trời cũng đă đứng bóng, trong ḷng tôi đầy ắp những lo âu và căng thẳng tột cùng: giặc vào Đô Thành dân chúng sẽ ra sao.Đánh giặc trong thành phố thật là điều mới mẻ trong kiến thức quân sự nhỏ bé của tôị Từ cao ốc nh́n xuống nhũng dăy phố chung quanh, tôi tưởng như những dăy đồi trùng điệp với nhũng địa dạo bí hiểm bên trong. Trong đầu tôi loé lên kế hoạch xử dụng những toán trẻ đưa tin như Huân tước Baden Powell (ông tổ của Phong trào Hướng đạo) để chống lại sự xâm nhập bằng đặc công của đich. Tôi lịm người thiếp đi trên vai người hạ sĩ mang máy PRC25 với giấc mơ tuổi thơ của những tṛ chơi lớn. Những đêm mất ngủ lo âu đă kéo đôi mi tôi sụp xuống.
T̀NH QUÂN DÂN:
Tôi giật ḿnh tỉnh giấc v́ những tiếng rè rè cuả PRC 25 từ Tổ 1 gọi lại: K a đây Hắc báo ! nghe rơ trả lờị Tôi đáp : 5/5. “Có 02 con tôm đang ḅ lại nghe rơ trả lời ! 5/5 tôi đáp gọn nhưng trong ḷng hoang mang với danh từ mới mẻ nàỵ Cua là tank của địch, én hay chuồn chuồn là các loại phi cơ, c̣n tôm….tôi đảo mắt nh́n xuống mặt đường, hai chiếc xích lô đang đậu lại, trên mỗi xe là một giỏ cần xé đầy được phủ bao đệm, không biết cái ǵ bên trong. Tôi giật ḿnh thét lên “Đ.M. coi chừng!” rồi nhảy từ lầu một xuống một đụn cát bên dưới, người Hạ sĩ mang máy cũng nhảy theo. Toán phó H. đă nhanh chóng dẫn tổ ba người của anh tràn lên mặt đường, phối hợp với tổ trực đang gác trên đường để cô lập hiện trường, một mặt kềm chế những chiếc xích lô, một mặt chận đứng giao thông. Tôi đích thân gọi các toán trưởng khác cùng lên máy. Một người đàn bà ăn mặc b́nh dân từ sau giỏ cần xé của chiếc xích lô bước xuống với vẻ ngạc nhiên lẫn hốt hoảng: ” Tôi đem đồ ăn tới cho lính ḿnh mà”. Trung sĩ nhất H. quay nh́n tôi chờ lệnh.
Thấy hơi quê với đàn em, tôi làm như tay sành điệu, đưa bàn tay phải ra, chúm năm đầu ngón tay lại rồi dùng ngón chỉ của tay kia chạm vào chúm tay nọ rồi bung năm đầu ngón tay ra ( hiệu lệnh lục soát tôi mới học lóm được). H. hiểu ư, sai một lính dưới quyền trải tấm poncho mỏng bên lề đường, (đời lính ăn ngủ và hy sinh gói trọn trong tấm poncho).
Người đàn bà cùng hai phu xích lô lần lượt chất chả và bánh ḿ xuống poncho dưới sự quan sát cẩn thận của H. rồi tất tả cùng đạp đi như sợ người khác nhận diện, không kịp nhận một lời cảm ơn.Tôi giao cho H. xử lư mọi việc, không quên nhắc anh ta chia đều cho các toán khác và “cúng dường” ban chỉ huy Biệt đội.
Bữa cơm trưa thật ngon miệng, những lát chả thơm ngon lạ lùng sau một tuần lễ gạo sấy , cá hộp làm ấm cả ḷng người (ration C chỉ c̣n là huyền thoại). Nh́n khuôn mặt những người lính tươi lên, có lẽ họ cũng thấy ấm ḷng như tôi và tay súng của họ sẽ gh́ chặt thêm trong trận chiến.
Trời dần về chiều, những tin tức bất lợi dồn dập đưa tới, tiếng nổ xa gần của đại pháo không làm tôi quan tâm đến nữa.Những chiếc xe buưt chật cứng người được Mỹ cho đặc ân di tản chạy về hướng Tân Sơn Nhất báo trước sự chạy làng của cái gọi là “Đồng Minh”, chúng tôi chỉ chận lại xem xét giấy tờ và tịch thâu tất cả vũ khí trên xe để pḥng ngừa rối loạn có thể xảy ra.
Họ ra đi cho bản thân riêng, chúng tôi ở lại v́ nhiệm vụ chung của người lính cho đến giờ phút cuối, không mảy may than phiền thắc mắc.
Tối đến trong căng thẳng, sau bữa cơm chiều, tôi ra lệnh cho các tổ giữ vững cách phối trí nhưng thay đổ vị trí để ngừa đặc công. Tổ chỉ huy của tôi di chuyển qua bên kia đường đóng trên một cao ốc. Khuya hôm đó, H. Toán phó, chuyền tay đến tôi một chai Johny Walker với hàng chữ thật dễ thương ghi bên ngoài: “tặng các anh”. Chúng tôi chuyền tay nhau hết chai, đỏ mắt lên chờ sáng.
NGAO DU SÀI G̉N.
Hôm nay đă là ngày 29, 08 ngày mang chiếc lon Thiếu Úy mới toanh trên trên cổ áo với nhũng nhiệm vụ thật mới lạ và bất ngờ không có trong binh thư, tôi cũng đă quen dần với đời sống lính rừng trong thành phố.. Suốt gần 04 năm quân trường, có bao giờ tôi nghĩ đến t́nh huống ngộ nghĩnh như thế này: Đường đường một đơn vị lính trận mà phải chia nhau đứng gác đường như những anh chàng cảnh sát bạn dân không bằng. Thật rơ chán, ḷng lại nóng như lủa đốt v́ những tin tức bất lợi dồn dập đưa đến không ngừng qua các đài phát thanh. Đất nước tan hoang, gia đ́nh di tản không nơi ăn chốn ở.
Người yêu duy nhất của tôi lúc bấy giờ đă một lần đến thăm tôi nắm tay để nói lời từ biệt, Nàng muốn ra đi với một ông lớn nào đó trong Bộ Dân Vận Chiêu hồi, nơi Nàng đang làm việc.Ḷng tôi thật rối như tơ ṿ nhưng ngoài mặt vẫn lạnh như băng.
Tội nghiệp những người lính đang trông chờ tất cả vào tôi, họ nh́n thẳng vào mắt tôi mỗi khi có biến động dầu chỉ là tiếng nổ của đạn pháo xa xa.
Quả thật pḥng thủ không phải là sở trường của một đơn vị đầy tính chất linh động như thế này.Và chúng tôi bắt đầu cảm thấy ḿnh như những con vật nửa người nửa ngợm. Bộ đồ dù này chỉ đẹp trong những buổi sớm chiều trong rừng già trùng điệp, hay trên băi chiến trường khét mùi thuốc súng.
Ngày 29 trôi qua thật nhàm chán, thỉnh thoảng chỉ nghe vài tràng liên thanh nhỏ, không khí ngột ngạt, một sự yên lặng ngấm ngầm ghê rợn. Lệnh tử thủ vẫn được nhấn mạnh từ Bộ Tư lệnh tiền phương. Trong ánh mắt những người lính gan ĺ đă thoáng lên sự nhàm chán. Tôi chợt nghỉ ra một cách để giải khuây: Hai tiếng đồng hồ phép cho tất cả mọi người, một quyết định thật táo bạo trong t́nh huống bấy giờ, nhưng không biết tại sao tôi lại tin tưởng hoàn toàn ở những người lính chịu chơi nàỵ.
Tôi im lặng phối trí lại các tổ tam đầu chế, mỗi tổ có một người biết đường đi nước bước ở Sài G̣n. Đúng 08 giờ tối, tôi cho tổ đầu tiên âm thầm lên tŕnh diện.
Tôi ra lệnh ngắn gọn:
Tao cho tụi bay đi chơi, đúng hai tiếng, mổi đứa chỉ được mang theo một trái mini, súng đạn để hết lại đây, thằng tổ trưởng giữ cây P38 này của tao nghe. Đi về cho đúng giờ để thằng khác c̣n đi. Nhớ cẩn thận.
Đầu tiên là ngạc nhiên và sau đó là những nụ cười sáng rỡ, hồn lính thật ngây thơ. Một tiếng dạ ngắn rồi ba chàng Ngự Lâm biến mất trong màn đêm, tôi bắt đầu lo âu chờ đợi…Và họ đă trở về đầy đủ, đúng giờ với những nụ cười hồn nhiên pha một chút bẽn lẽn khi nghe tôi hỏi “Dzui không tụi bay”.
Khi các tổ đă về đầy đủ, tôi cũng tự cho phép tôi, mượn chiếc Honda, chạy vội về thăm gia đ́nh đang tạm trú ở nhà người quen gần đó sau khi di tản từ Qui Nhơn. Tôi chỉ kịp ôm hôn Mẹ tôi, trấn an Bà vài câu rồi vội vă ra đi, mang theo ánh mắt luyến lưu chịu đựng của một bà Mẹ VN tiễn con đi trong những giờ phút cuối.
ĐÔI CO TRÊN LỬA ĐỐT.
Khoảng 5 giờ rạng sáng ngày 30 tháng tư, toán thám kích chúng tôi như một chú sư tử ngái ngủ trong cũi sắt giữa một thanh phố bỏ hoang. Bỗng nhiên tiếng gầm của đại pháo và súng chống tank vang lên dữ dội từ hướng Lăng Cha Cả, cùng lúc tiếng rè rè của máy PRC25 vang lên, tôi vươn ḿnh chụp vội cần liên hợp không kịp chờ anh Hạ sỉ mang máy. Lệnh chuẩn bị hành quân từ Đ/U Biệt đội trưởng.
Qua đối thoại ngắn ngủi, tôi biết rằng biệt đội đang chận đứng một đoàn Tank của cọng quân không rơ bao nhiêu chiếc và đă nướng được 04 con. Chúng tôi được lệnh chuẩn bị thật nhẹ để nhảy chân chim, một lối nhảy trải mỏng từng tổ một và thay đổi vị trí liên tục để gây hoang mang trên đường tiến của địch quân. khu vực và phương tiện sẽ được chỉ định sau.
Tôi ra lệnh cho thuộc cấp chỉ mang theo những trang bị nhẹ nhàng nhất và chuẩn bị tinh thần cho những trận cận chiến và chống Tank. Vài người lính rút chiếc dao găm ra ngắm, liếc nhẹ vào ṇng súng vài cái, đút lại vào bao rồi vỗ mạnh, tôi biết họ đă sẵn sàng và thật điệu nghệ. Có người c̣n nhổ một băi nước bọt vào ṇng súng, có lẽ v́ một thói quen cố hữu.
Chúng tôi nóng ḷng đợi chờ lệnh hành quân như những con ngựa chiến bị gh́m cương, mắt trợn trừng lồng lộn, bạn bè cùng đơn vị chúng tôi đang sống chết với giặc ngoài kia, sao chúng tôi đành ôm vó đợi chờ vô tích sự, và tôi như một chàng trai tân đang chờ đợi cuộc hẹn đầu đời với con gái của Ma Vương.
Cái đợi chờ làm tôi bồn chồn nóng nảy lẫn lo âu như một chú cá đang bị nướng sống trên ḷ lửa nóng, mắt tôi đỏ gừ, hơi thở dồn dập, mặt tôi tê dại đi không c̣n cảm giác. Tôi cắn chặt hàm răng, cố thở thật sâu để nén đi cảm xúc của ḿnh rồi lừ mắt nh́n thẳng vào mặt của từng người lính. Bất giác, tôi chưởi thề lớn tiếng: ĐM. tao như đứng trên lửa… và cứ thế thời gian trôi qua như thử thách sự dẻo dai của những dây thần kinh đang căng thẳng đến cùng cực. Để đốt thời gian, trấn an tinh thần lính, tôi trải rộng tấm bản đồ, định hướng chính xác, rồi gọi các tổ trưởng đến phân tách và giải thích từng cứ điểm quan trọng trong vùng.
Tuy sẵn sàng nhưng chúng tôi vẫn duy tŕ nhiệm vụ của ḿnh trong vùng trách nhiệm, các tổ vẫn thay phiên nhau cho người đứng gác đường, chứng tỏ sự có mặt của ḿnh để duy tŕ trật tự. Đang trong t́nh thế căng thẳng đó, một sự kiện buồn cười nhưng cảm động xảy đến làm tôi nhớ măi.
Người đứng gác đường lúc bấy giờ là một anh Trung sĩ tổ trưởng với bộ quân phục đẹp nhất mà anh có được trong túi quân trang. Bỗng nhiên, có chiếc cyclo đậu xịch lại sát bên anh, mọi người đều giật ḿnh chưa kịp phản ứng th́ một cô gái trẻ ăn mặc diêm dúa nhảy ra, cô ta cười toe toét, ăn nói líu lo rồi rút ra một xấp tiền dúi vào tay anh chàng Trung sỉ trẻ, anh ta đẩy tay cô này ra, nh́n về hướng tôi có vẻ lo lắng v́ tôi rất nghiêm ngặt trong nhiệm vụ đứng gác này , sau một hồi đôi co, cô gái t́m cách dúi đại tiền vào túi quần trận của anh Trung sĩ rồi leo lên cyclo chạy đi mất.
Tôi ra lệnh cho người khác lên thay gác, kêu anh chàng này đến chấn chỉnh để làm gương. Anh Trung sỉ này chỉ biết găi đầu bứt tai rồi phân trần với giọng đặc sệt miền Nam:
“Hồi hôm, Trung úy cho tụi em đi chơi (lại lên lon), em quằm con nhỏ này, tiền bạc đàng hoàng, sáng nay ngang qua đây, nhận ra mặt em đứng gác, nó tội nghiệp, nằng nặc đ̣i trả tiền lại cho được.”
Tôi mĩm cười trong bụng, ra lệnh anh ta quay lưng lại, đá nhẹ một cái vào đít cảm thông. Anh ta xoay người chào tôi với nụ cười trên khoé mắt rồi vội vàng chạy đi thi hành tiếp nhiệm vụ canh gác đang được tạm thời thay thế.
NGƯỜI LÍNH MANG MÁỴ
Lúc bấy giờ đă hơn 10 giờ 30 phút trưa ngày 30, lệnh tử thủ vẫn được duy tŕ, lệnh hành quân tôi vẫn đang chờ đợi mặc dù trên đài phát thanh, Tướng Minh đă tuyên bố và kêu gọi đầu hàng. Chúng tôi, những người lính, chỉ biết tuân lệnh cấp chỉ huy trực tiếp của ḿnh. Tôi thấy được trong ánh mắt lính sự hoang mang, trong ḷng tôi cũng tự đặt câu hỏi không biết phải làm ǵ.
Tuy đă quá mệt mỏi với sự đợi chờ và lo âu kéo dài, nhưng tinh thần trách nhiệm trong tôi vẫn c̣n tỉnh thức: mạng sống của thuộc cấp và sự an toàn ổn định của người dân trong khu vực trách nhiệm lúc bấy giờ là mối quan tâm chính yếu của tôi.
Trên vai trái hai khẩu M72, trong túí áo 04 trái mini, vai phải là cây M16 với cấp số đạn đầy đủ trong túi quần, giắt khẩu P38 ngắn ṇng vào dây nịt dưới chiếc áo 4 túi, tôi cố gắng tạo cho ḿnh một dáng đi chững chạc b́nh tỉnh dẫn anh Hạ sĩ mang máy đi một ṿng thăm hỏi nói chuyện với từng người lính, tinh thần họ hơi xao động v́ không biết việc ǵ sẽ xảy ra, nhưng những người lính gan ĺ này vẫn quyết tâm sát cánh bên tôi cho đến giờ phút cuối, thật không hổ danh là những con cọp biết nhảy dù. Không biết tôi trấn an họ hay chính họ đă làm ḷng tôi ấm lại và vững vàng hơn.
Tôi biêt rằng một sơ sẩy của tôi trong lúc này có thể đưa đến cái chết thật oan uổng cho những người lính quả cảm trung thành ấỵ Chúng tôi như keo sơn sống chết có nhau, quan cũng như lính, sự hiểm nguy thật công bằng trong những đơn vị nhảy toán này. Đây đă là giờ thứ 25, tất cả đều im lặng vô tuyến, tôi rít một hơi thuốc dài cuối cùng rồi dùng ngón tay bóp nát đóm thuốc lúc nào không biết. Măi lo nghĩ đến sự an nguy của thuộc cấp, tôi quên hẵn đi thân phận của chính ḿnh.
Đang suy nghĩ vẫn vơ, bỗng nhiên, một chiếc Pờ-giô 404 màu trắng bóng loáng thắng rít cạnh lề đường, gần chỗ tôi đang đứng, một người đàn bà đứng tuổi, ăn mặc sang trọng xuống xe, chạy vội lại ôm chầm lấy người hạ sĩ mang máy, bù lu bù loa:
– Con ơi con! sao giờ này con c̣n ở đây con! về với má đi con.
Trong t́nh huống này, tôi không biết phải làm gi, có nên giữ anh ta ở lại đơn vị trong giờ phút thứ 25 này không?. Suy nghĩ thoáng nhanh trong đầu, tôi vội bước lui vài bước, quay đi hướng khác, để tùy anh ta định đoạt. Qua ánh nắng đỗ nghiêng, tôi thấy bóng anh ta quay lại phía tôi im lặng hồi lâu, rồi với giọng trầm buồn nhưng quả quyết:
– Má về đi, con ở lại với Thiếu uư à.
Tôi bất giác quay lại nh́n anh, nén vội ḍng lệ đang trào dâng lên mắt. T́nh đồng đội, tinh thần trách nhiệm hay khí phách của một người trai đă giữ anh ở lại với chúng tôi trong những giờ phút cuối cùng tuyệt vọng đó. Đơn giản quá một câu trả lời ngắn ngủi, nhưng nó hàm chứa tâm t́nh của một hào kiệt, và tâm t́nh đó không thiếu trong đơn vị dù mũ xanh này.
Người Mẹ không biết làm ǵ, quay lại phía tôi với ánh mắt nh́n cầu cứu, một lần nữa tôi lại phải ngoảnh mặt để tránh đi một t́nh huống ngỡ ngàng khó xử. Trong đầu tôi thoáng hiện lên h́nh ảnh luyến lưu chịu đựng của Mẹ tôi đêm hôm trước.
– Thôi, Mẹ về, con nhớ lời Mẹ dặn.
Bà chỉ nói được bao nhiêu, rồi ôm chầm lấy con thổn thức. Người lính mang máy đứng thẳng người, hai tay trong túi quần trận, đầu ngẫng cao, cắn chặt răng, quai hàm bạnh ra, trông anh vững vàng như một cổ thụ đang cố đè nén những cơn băo táp phong ba dữ dội trong ḷng.
Người Mẹ sau đó lau vội nước mắt, đi chậm chậm về hướng chiếc xe, tôi đưa mắt ra hiệu cho anh trung sỉ toán phó đang ở gần đó đến mở cửa đứng chờ. Bà lẳng lặng bước lên xe nổ máy, ngồi nh́n con một lúc rồi từ từ lái xe đi sau khi quay lại đón nhận cái gập ḿnh cúi đầu chào tôn kính của tôi.
Quả cảm thay người lính, bao la thay ḷng hy sinh của người Mẹ trong chiến tranh. Ḷng tôi chạnh lại dưới ánh nắng dă dượi của Sài g̣n trong ngày tàn cuộc.
ĐỊT MẸ NÓ, ĐẦU HÀNG RỒI
Ḷng bàng hoàng xúc động về ḷng trung thành của anh Hạ sĩ mang máy đối với đơn vị, tôi ngẩn ngơ đứng lặng người, nh́n bâng quơ lên bầu trời ám khói hanh vàng.
Lúc bấy giờ đă gần 11 giờ, dân chúng di chuyển tấp nập, thỉnh thoảng họ lén đưa ánh mắt ái ngại nh́n về phía chúng tôi. Họ đang nghĩ ǵ về chúng tôi?: những nhân chứng của chiến tranh, h́nh ảnh hào hùng đă trôi vào quá khứ, hay những h́nh nộm được trưng bày không đúng thời hợp lúc. Mặc cho những suy nghĩ thị phi, chúng tôi vẫn chu toàn nhiệm vụ của ḿnh trong vùng trách nhiệm: bảo vệ mạng sống của binh sĩ dưới quyền và sự an toàn ổn định của người dân cho đến khi có lệnh mới.
Một tràng M16 nổ ḍn tan kéo tôi ra khỏi những suy nghĩ vẩn vơ, tiếp theo là tiếng thét thất thanh phẫn nộ :”Địt mẹ nó! Đầu hàng rồi. Địt mẹ nó! đầu hàng rồi.Một toán lính Dù gồm một người có vẻ là cấp chỉ huy và 3 người lính xuất hiện ở ngă ba cuối phố, họ di chuyển về phía chúng tôi không được b́nh tĩnh. Thỉnh thoảng, người chỉ huy bắn một tràng M16 rồi lại thét lên: “Địt mẹ nó! Đầu hàng rồi.” Trên vai anh, một ḍng máu chảy dài xuống cánh tay c̣n nhỏ giọt, ba người lính với khuôn mặt đanh lại lạnh lùng im lặng đi theo bảo vệ.
Tôi ra dấu cho thuộc cấp giữ ổn định tại vị trí của ḿnh. Chúng tôi đă dùng áp lực tước vũ khí nhiều toán quân lẻ tẻ không tổ chức khi họ qua pḥng tuyến của chúng tôi để vào Sài g̣n nhằm tránh những hỗn loạn đáng tiếc trong thành phố. Nhưng đây là một trường hợp thật nguy hiểm và khó khăn.
Chúng tôi tôn trọng những người anh em lính Dù mũ đỏ này với những chiến công lừng lẫy. Nh́n t́nh đồng đội của họ trong hoàn cảnh tuyệt vọng hiện nay cũng đủ thấy tinh thần và hiệu quả chiến đấu của họ như thế nào khi lâm chiến. Làm sao đây để chận đứng những hành động nguy hiểm chết người có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong cơn cuồng nộ phẫn uất ấy.
Một suy nghĩ táo bạo thoáng qua trong đầu, tôi lột chiếc nón sắt đưa cho một thuộc cấp, gác hai khẩu M72 bên vệ đường, rút trong túi áo ra chiếc nón xanh của binh chủng đội lên đầu, mang cây M16 trên vai, khoác tay ra dấu cho thuộc cấp cùng đứng lên, rồi với thái độ b́nh tĩnh ung dung, tôi dẫn anh Hạ sĩ mang máy chậm bước đến vị trí người lính đang đứng gác giữa đường. Một tràng M16 nữa lại nổ vang, toán lính Dù này chỉ c̣n cách chúng tôi khoảng 30 thước, và họ vẫn chưa nhận thấy sự hiện diện của chúng tôi. Họ tiến gần chúng tôi khoảng 20 thước nữa, một tràng đạn chỉ thiên lại nổ ḍn trên không. Tôi hít một hơi thở sâu, dùng hết sức thét lên
” N-G-H-I-Ê-M “. Đúng là Lính, họ giật ḿnh dừng lại nh́n quanh, thấy chúng tôi với quân trang và vũ khí đầy đủ, có lẽ cảm thấy ấm ḷng trong vùng kiểm soát của một đơn vị bạn, họ dừng chân và hơi b́nh tĩnh trở lại, chúng tôi nh́n nhau, chung bộ đồ Dù, một là chiếc nón đỏ với những trận chiến vang danh, một là chiếc nón xanh với những hoạt động biệt cách đởm lược. Tôi tiến đến bắt tay anh, người chỉ huy toán lính Dù quả cảm. Chúng tôi im lặng nh́n nhau, anh vẫn c̣n th́ thào : Địt mẹ nó!……
Tôi đích thân đưa anh vào một căn bỏ trống trong ṭa cao ốc, kêu toán phó băng bó vết thương ở vai và lưng cho anh rồi vội vă bỏ ra ngoài sau khi đưa cho anh chiếc áo dù c̣n mới toanh của tôi để thay chiếc áo đă bết máu khô. Ba người lính Dù vẫn lặng lẽ bám theo anh không rời một bước.
Tôi không nhớ anh mang cấp bậc nào, nhưng chỉ biết toán lính Dù này rút về đây khi trại Hoàng Hoa Thám đă hoàn toàn thất thủ. Sau khi chuyện tṛ thuyết phục, họ đă đồng ư ở lại với chúng tôi và trở thành một tổ mới trong toán. Về sau toán lính Dù này đă theo chúng tôi cho đến tọa độ cuối cùng.
TOẠ ĐỘ CUỐI CÙNG.
Thời gian như dừng lại, cái nắng ảm đạm của Sài g̣n như chuyên chở tâm tư tôi trở về với những thực tại phũ phàng:
Sụp đổ rồi ư những hoài băo ước mơ vá trời ngang dọc, có làm được ǵ không trong cơn tuyệt vọng cùng đường này.
Đầu óc tôi trống không mụ mẫm. Cổ họng tôi khô quánh lại. Những người lính của tôi dễ thương và tội nghiệp quá, làm sao để bảo vệ mạng sống của họ trong hiện tại và dẫn dắt họ trong đời sống vô định của một tương lai đen tối. V́ trách nhiệm, tôi bám chặt họ để làm lẽ sống.V́ quả cảm trung thành, họ quyết theo tôi cho đến bước đường cùng. Tôi đứng như trời trồng, nh́n sững xuống chân thấy bóng ḿnh dần thu ngắn lại.
Tiếng rè rè của PRC25 làm tôi giật ḿnh, đích thân Đại úy Biệt đội trưởng ra lệnh hành quân, các sĩ quan trong ban chỉ huy Biệt đội đă đồng ư một kế hoạch rút quân về toà nhà Quốc Hội, giá súng tại đây, tuyệt đối không buông súng trong vùng trách nhiệm. Trung đội Thám kích mở đường và tập hậu, chiếm các cao ốc làm điểm tựa cho cuộc rút quân.
Tôi tê dại đánh rơi cần liên hợp xuống mặt đường. Vậy là hết !…
Sững người trong phút chốc, tôi buông thơng:
– Đi .
– Đi đâu thiếu uư. Người toán phó nôn nóng hỏi.
Tôi nh́n anh ta với đôi mắt ngầu lên uất hờn tủi nhục rít qua kẽ răng đang nghiến chặt:
– Lệnh hành quân về quốc hội. Tôi đáp gọn rồi kịp quay đi dấu đôi ḍng lệ trào tuôn không cầm được.
Biệt đội đă bắt đầu di chuyển, ba toán nhảy theo chân sáo mà điểm đậu là các ṭa cao ốc để bảo vệ các trung đội xung kích di chuyển trên mặt đường.. Toán chúng tôi tuy vẫn giữ nguyên tắc tổ tam đầu nhưng tụ lại cho ấm cúng hơn.
Bỗng nhiên, tiếng máy của T54 đồng loạt gầm lên trên khắp ngă đường, những khối sắt đen đồng loạt ḅ ra dừng lại án ngữ những điểm chính yếu rồi đứng lại đe dọa, có tiếng click nhẹ của những khẩu M72 dương ṇng, tôi chưa kịp phản ứng ǵ th́ nh́n quanh, những người lính thiện nghệ của tôi đă vào vị trí sẵn sàng chiến đấu, tôi vụng về dương ṇng cây M72 rồi ẩn ḿnh sau một gốc cây lớn vệ đường quan sát.
Một sự im lặng căng thẳng cùng cực, T54 gục ṇng trong tư thế trực xạ, M72 đă sẵn sàng với biểu xích đă bật lên, súng gh́m súng, mắt long lên theo từng động tỉnh của đối phương, chỉ cần một tiếng súng nổ là khai hỏa một trận chiến không ai lường được hậu quả. Lúc bấy giờ khả năng tham chiến của biệt đội 817 chúng tôi vẫn đầy đủ.
Chiến công cuối cùng của Biệt Đội 817 Liên Đoàn 81 BCD ngay giữa Thủ đô Sài G̣n sáng ngày 30-04-1975
Đang trong phút im lặng tử thần đó, một sĩ quan, nếu tôi nhớ không lầm là một toán trưởng kỳ cựu trong trung đội thám kích, một cánh tay phải của Biệt đội trưởng, đứng thẳng người, mạnh dạn bước ra, nh́n về hướng Biệt đội trưởng như chờ sự chấp thuận. Nhận được thủ lệnh, anh từ tốn cởi bỏ vũ khí để xuống mặt đường, rồi dỏng dạc bước ra đứng giữa đường lớn tiếng:
– Chúng tôi, biệt đội 817 Biệt cách Dù, chúng tôi không buông súng trong vùng trách nhiệm, chúng tôi đang hành quân về quốc hội để trả vũ khí lại cho dân. Giọng anh sang sảng bằng tiếng Bắc 54.
Phía đối phương không động tĩnh một hồi lâu, có lẽ họ đang liên lạc để chờ lệnh trên hay để đánh giá lực lượng chúng tôi trước khi quyết định việc ǵ. Sau đó, từ chiếc T54 phía sau, một người bên đối phương bước xuống nói chuyện với anh Sĩ quan toán trưởng này, hai bên tranh luận dằng co, lúc nhẹ nhàng, khi lớn tiếng, cuối cùng, anh toán trưởng quay trở lại, khuôn mặt đỏ ngầu. V́ sự an nguy của đồng đội, anh đă cố nén đi sự phẫn nộ, có lẽ anh đă quen nói chuyện với địch quân bằng một phương pháp cứng rắn hơn..
Sau khi về lại vị trí, anh toán trưởng này đă gọi mọi người cùng lên máy và chúng tôi nói chuyện bằng bạch văn.
Tôi được biết đối phương đă đồng ư để chúng tôi tiếp tục hành quân về toà nhà quốc hội, nhưng hai bên cùng thỏa thuận: trên lộ tŕnh hành quân, nếu gặp nơi đối phương đang trú quân, chúng tôi phải vác súng lên vai và ngược lại, khi chúng tôi nghỉ chân th́ bất cứ đơn vị nào của đối phương đi chuyển qua cũng phải vác súng lên vai không được ở tư thế tác chiến.
Đại úy Biệt đội trưởng ra lệnh tiếp tục hành quân.
Chúng tôi câm lặng di chuyển, trong ḷng thấm dần niềm đau nỗi nhục, nh́n quang cảnh phố phường lẫn lộn đỏ xanh của màu cờ gạt lừa dối trá.
Dân chúng hai bên đường nh́n chúng tôi như những bóng ma đang đi chuyển trong một nghĩa địa hoang tàn của Sài g̣n sau cơn binh lửa.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1456091&stc=1&d=1568900785
Đến ngă tư Trương minh Giảng- Công lư, một lần nữa tiếng gầm rú của T54 lại vang lên như đang cố gắng nghiền nát tinh thần chúng tôi. Đối phương đă huy động một lực lượng chiến xa lẫn chủ lực đáng kể nhằm khống chế chúng tôi tại chỗ. Toán nhảy tiền phương đă bị chận đứng không thi hành được nhiệm vụ v́ đối đầu với những khẩu 3.5 đang theo dơi bước chân của từng người lính thám kích. Nh́n chung quanh, đại pháo của chiến xa trên các ngă đường dang gục ṇng sẵn sàng khai hoả.Toán nhảy tập hậu đă gọi về báo một t́nh trạng tương tự ở sau lưng, trên các cao ốc đối phương đă hoàn toàn trấn giữ.
Chúng tôi nh́n nhau không biết phải làm ǵ, Biệt đội trưởng lắc đầu chậm chạp, từng khuôn mặt lặng câm không cảm xúc. Một cảm giác tê dại chạy khắp người tôi từ bàn chân lên đến đỉnh đầu.Tâm trí hoàn toàn trống không, tôi đứng như trời trồng uất nghẹn, mắt trợn trừng nh́n vào cơi hư vô, tai ù lên chỉ c̣n nghe tiếng mạch máu nhảy lên trong lồng ngực. Tôi nói như trong mơ:
– Các anh về với gia đ́nh đi.
…………………………
Từng người lính rời xa, trái tim tôi quặn thắt.
…………………………
Tôi không nhớ việc ǵ đă xảy ra sau đó, nh́n chung quanh trống vắng lạnh lùng, ṇng đại pháo trên các chiến xa T54 vẫn c̣n nh́n tôi với con mắt chột đen ng̣m lạnh lẽọ
Tôi lặng lẽ trút bỏ quân trang và vũ khí trên người, giắt khẩu P38 ngắn ṇng vào thắt lưng, đặt chiếc nón sắt nhẹ nhàng xuống một gốc cây gần đó, rút chiếc nón xanh của binh chủng đội lên đầu, vuốt sơ lại bộ quân phục đă nhàu nát và bước đi giữa những vết tích tàn lụn ngổn ngang của binh sĩ, như kẻ mộng du, nhắm về hướng Suối Máu, như loài cá vô tri t́m về nơi chốn đă khởi đầu một cuộc hành tŕnh dĩ văng.
Tôi bước đi như vào chốn không tên, tất cả giác quan đều ngưng hoạt động, mắt nh́n đăm đăm trơ dại, tai ù lên những tiếng vo ve nhức nhối, miệng lưỡi đắng khô và chân tôi đều bước nhịp quân hành…..Lúc bấy giờ trời đă nghiêng bóng, có lẽ đă hơn 2 giờ……..
– Niên ttrưởng! Niên trưởng! Trời ơi, giờ này mà Niên trưởng c̣n mặc đồ này đi coi chừng tụi nó bắn chết.
Một khoá đàn em hay một nguời lính nào đó nắm tay tôi, vừa la thất thanh vừa kéo tôi vào một hẻm nhỏ bên kia cầu xa lộ . Anh ta dằng lấy nón, cởi phăng áo tôi ra, rút khẩu P38 gói vào trong áo chung với chiếc nón xanh dấu vào một góc nhà, rồi khoác vào tôi một chiếc áo sơ mi cũ nhàu nát loang đốm vết dầu.Sau đó quăng cho tôi một chiếc quần cũng nhàu nát không kém và một đôi dép Nhật, tôi lặng lờ theo lời anh thay đôi giày và chiếc quần trận ra như một kẻ không hồn.
Anh dẫn tôi ra lại xa lộ, nắm tay khẽ bảo: Niên trưởng về nhà đi.
Và tôi lại lững thững bước đi…..Như một xác âm binh lạc lối……
Bước chân tôi dừng lại trước căn nhà trọ của gia đ́nh đă di tản từ Qui nhơn hơn tháng qua . Nh́n qua khe cửa hé mở, tôi thấy Mẹ tôi ngồi im lặng một góc theo lối Kiết già, Bà đang niệm Phật để nguyện cầu cho Quốc thái Dân an, hay cho hai đứa con trai đang c̣n măi mê ở chiến trường đâu đó. Tôi khẽ lách cửa bước vào, hai người chị gái tôi ngồi bệt dưới đất trong tư thế đợi chờ ngột ngạt không biết chuyện ǵ sẽ xảy đến.
– Mạ! tôi khẽ kêu lên.
Cả nhà nh́n lên tôi, ngạc nhiên, sững sờ, bể dâu của cuộc đời đă thể hiện cả lên h́nh hài tôi qua bộ đồ dân sự nhàu nát.
Mẹ tôi nh́n tôi từ trên xuống dưới, cái nh́n đau đớn đến vô hồn của một bà Mẹ đi nhận xác con.
Vâng! con của Mẹ đă chết trong ngậm ngùi, mang theo những hoài băo ước mơ vá trời lấp biển, và nó đang về đây với cái xác không hồn từ cơi âm ti…..
Tôi viết lên những ḍng chữ này để nhớ đến những người lính quả cảm trung thành cùng binh chủng. Đây là dấu tích sau cùng của riêng tôi trong đoạn đường binh nghiệp ngắn ngủi .
Trong những ngày cuối tháng tư đen, hảy chia xẻ niềm đau với biết bao nhiêu người trai trẻ đă bị sống trong cảnh bức tử oan nghiệt .
Thượng cấp, v́ quá lệ thuộc vào ngoại bang, đă tước bỏ đi của chúng tôi cái quyền căn bản của các cấp sĩ quan trẻ đầy lư tưởng và nhiệt huyết:
QUYỀN ĐƯỢC CHIẾN ĐẤU ĐỂ ĐI ĐẾN CHIẾN THẮNG HOẶC HY SINH BÊN CẠNH NHỮNG NGƯỜI LÍNH THÂN YÊU.
MINH CUI
Khóa 28 Vơ Bị Đà Lạt
cha12 ba
09-19-2019, 13:47
To HL
Nếu bài này đă có, bác cứ delete.
Thân
c12 ba
hoanglan22
09-19-2019, 14:19
Minh cui ( minh gồ ) thuộc Biệt đội 817 nằm trong bộ chỉ huy chiến thuật 3 thuộc Thiếu tá Phạm châu Tài . Biệt đội 817 dưới quyền chỉ huy của TRung úy lợi ( là chú của một nick hải thuyền sát cộng trong forum này ) Biệt đội 818 do đại úy Ánh chỉ huy . Toán của tui rút về từ núi bà đen ( biệt đội 813 do trung úy Hợi nắm quyền ) sau khi phá đài truyền tin ở núi bà dend9e63 bọn chúng khỏi xử dụng và rút lui thất lạc đơn vị rút về sài g̣n sát nhập vào 818 trinh sát
Theo tin tức lúc đó tui c̣n nhớ , một trung đội thuộc biệt đội 819 giải vây cho 2 chuyến xe bus bị bọn nào đó uy hiếp khi tiến vào phi trường . Trung đội này sau đó họ bảo vệ và đưa những người này vào phi trường để di tản
Biệt độ 818 thả dọc từng toán từ trại dù Hoàng hoa thám đến ngă tư 7 hiền cùng phối họp với biệt đột 817
Toán biệt kich 18 người bị bọn nó bắt và giết ở hố nai , tui nhớ mang máng trực thuộc bộ chỉ huy chiến thuật 2 do Thiếu tá sơn nắm quyền
Mỗi người lính nằm trong đơn vị chiến đấu th́ không thể thấy toàn cảnh sự việc , chỉ bổ túc thêm những sự kiện để góp vào quân sử
hoanglan22
09-20-2019, 18:34
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1456770&stc=1&d=1569004416
Bốn mươi năm nh́n lại ngày Phan Rang thất thủ, tôi lại nhớ một khuôn mặt tướng lănh cựu tư lệnh sư đoàn 6 không quân (bản doanh đóng tại Pleiku), người đă bị địch bắt tại chiến trường, bị đem ra Bắc và trở thành người tù có thâm niên cao nhất (17 năm).
Trong số các sĩ quan bị trả thù sau cuộc chiến, ông là người vào tù sớm nhất (16-4-75) và ra trại trễ nhất (11-2-92). Thân tàn lực kiệt ông sống thêm được 10 năm và mất tại Quận Cam năm 2002. Trước khi mất ông dồn sức cố viết một hồi ức về trận đánh Phan Rang và làm một điều chẳng ai bắt ông phải làm là tỏ lời cáo lỗI cùng đồng bào qua mấy ḍng bi tráng, Tôi cảm nhận rất có tội với đồng bào, v́ làm tướng mà không giữ được thành.
Nói đến quân chủng Không quân người ta nhắc nhiều đến những khuôn mặt vừa hào hoa vừa gan dạ, lấy không gian làm nhà, lấy nghiệp bay làm lẽ sống, và trong hàng tư lệnh mang sao đă có hai ông một thời làm tới Phó tổng thống và một ông làm tư lệnh cảnh sát đă tự tay bắn chết tên VC trong tết Mậu thân (mà sau này hăng CNN đă chọn là một trong số 100 sự kiện nổi bật của…thế kỷ 20!).
Nhưng dư luận và báo chí ít chú ư đến vị tướng gốc Nam bộ này, tên ông chỉ được nhắc khi được đề bạt làm tư lệnh một sư đoàn sau chót của không quân mới thành lập cuối năm 1972 nhằm yểm trợ cho chiến trường cao nguyên và trở thành bại tướng khi Phượng Hoàng (danh xưng chỉ huy của ông) găy cánh tại Phan Rang hai tuần trước ngày mất nước.
Ngược ḍng tiểu sử ít ai biết tướng Phạm Ngọc Sang, người đă có gần 25 năm quân vụ, nguyên xuất thân là một sĩ quan bộ binh (khóa 1 Thủ Đức), sau được tuyển sang không quân du học tại Pháp, trở thành một phi công chuyên lái vận tải. Nhờ tài năng và tác phong gương mẫu, ông được tin cậy và là một trong ba người được chọn lái riêng cho tổng thống Diệm. Sau 63 trả về không quân ông tiếp tục bay và có thời đă làm Chỉ huy trưởng trung tâm đào tạo phi công tại Nha trang. Ông cũng là chánh vơ pḥng cho tướng Kỳ khi ông này làm chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương.
Trước khi vào quân ngũ ông cũng từng là nhà giáo, có kiến thức văn hóa, song hành với nghiệp bay, ông là sĩ quan cấp tá duy nhất tốt nghiệp các khóa quân sự về chỉ huy tham mưu và quốc pḥng nổi tiếng của Việt nam và Hoa kỳ, đáng kể là khóa cao đẳng quốc pḥng (VN), chỉ huy tham mưu cao cấp tại Leavenworth (Kansas) và quản trị quốc pḥng tại trường đào tạo hậu đại học của Hải quân Mỹ tại Monterey (California).
Cứ dựa vào thâm niên và tài năng ông xứng đáng trở thành Tư lệnh của quân chủng, nhưng vốn không có tham vọng, lại khiêm tốn, không phe cánh, măi đến 1972 mới lên tư lệnh và được thăng một sao một năm trước ngày găy cánh. Cũng năm này được tuyên dương trước toàn quân với Anh dũng bội tinh kèm nhành dương liễu về công trạng yểm trợ không lực hữu hiệu cho chiến trường cao nguyên.
Là người hay viết về chân dung tướng lănh của Quân lực VNCH khi các vị nằm xuống, tôi hụt viết về chuẩn tướng Sang khi ông từ giă bạn bè và người thân v́ ngày ấy tôi chưa quay lại làng văn làng báo. Nhưng cũng may tôi có dịp gặp ông hai lần trớ trêu thay trong cùng cảnh tù của một trại giam hắc ám nhất miền Bắc, trại Nam hà, rồi khi ra hải ngoại lại có dịp được biết thêm về ông qua các sĩ quan thuộc cấp đă gần gũi ông tại Pleiku và những tháng ngày cuối cùng trước ngày Sài g̣n tắt thở.
Viết về ông hơi khó v́ bản thân ông không thích người khác ca ngợi ḿnh, lại càng kín tiếng v́ không thích chuyện chính trị, ông là một mẫu quân nhân thuần túy, dù là một phi công mang tiếng hào hoa nhưng cá nhân lại hết mực nghiêm túc, trọng quân phong quân kư, có thể v́ gốc nhà giáo và luôn tỏ ra gương mẫu trong nếp chỉ huy của quân trường, nơi một lần ông đă uốn nắn các sinh viên sĩ quan theo đuổi nghiệp bay cả về kỹ thuật lẫn tác phong.
Tôi nhớ lần lén gặp ông trong khu biệt giam tướng lănh, khó ai ngờ ông là tướng một sao, cảm tưởng nh́n ông cặm cụi tưới mảng rau thơm và rau cải để tự cải thiện trong một khu đất khép kín của trại tù, người ta h́nh dung giống như một ông giáo già người Nam bộ đang chăm sóc mảnh vườn nhà èo uột dưới quê.
Nhưng bên trong con người này là một nhân cách đáng kính, lầm lỳ ít nói, ngay cả khi địch bắt cũng chẳng khai thác được ǵ, bảo lên đài nói để kêu gọi binh sĩ ta đầu hàng buông súng ông không chịu làm, bảo thành khẩn khai báo quá tŕnh bản thân để sớm được tha ông vẫn an nhiên tự tại, ông không dại ǵ mà chống khi cánh bay đă găy, nhưng phía cán bộ địch vận ở trung ương và quản lư trại giam nơi nhốt ông, họ biết người này khó mà chiêu hồi, cải tạo, có thể v́ vậy mà khi trại giam tù cải tạo cuối cùng trên đất Bắc đóng cửa, người ta đem ông về Nam để nhốt thêm. Ông là người cuối cùng ra khỏi trại giam sau 17 năm, chính thức khai tử cái chính sách khoan hồng mà cộng sản rêu rao dành cho những kẻ cựu thù của chúng.
Trở lại những ngày cao nguyên di tản, ông là nhân chứng đầu tiên ngoài tướng Nguyễn Văn Phú, người nhận lệnh từ tổng thống Thiệu. Ông vẫn hận về cái lệnh quái đản bằng miệng từ người tổng tư lệnh cho một tư lệnh quân đoàn qua đường điện thoại (từ Khánh Ḥa Nha Trang), áp đặt một quyết định sinh tử cho việc tháo lui bỏ ngỏ một vùng cao nguyên chiến lược mà chính người thi hành chỉ có không đầy… 72 tiếng đồng hồ để sắp xếp!
Ông vẫn c̣n nhớ như in trong cuộc họp tham mưu tại văn pḥng tướng Phú, cú điện thoại gần như độc thoại từ đầu dây bên kia và phía đầu dây bên này chỉ có những độc âm…dạ, dạ, dạ,…rồi ngưng, không kịp để phát thêm một lời xin giải thích và nhu cầu thời gian cho một cuộc di tản chiến thuật vô tiền khoáng hậu. Mặt buồn như người đưa đám, người tư lệnh cấp cao hơn ông chỉ đạo các đơn vị tự lo lấy phương tiện chuẩn bị băng qua con lộ 7, mà mấy ngày sau thành tử lộ trên đường rút về Tuy ḥa, một thị trấn gần Nha Trang, nơi chưa đầy một tuần trước ông Thiệu và đoàn tùy tùng có cả đại tướng Cao Văn Viên đă có mặt tại đây.
Chưa đầy một tháng sau, bản đồ miền Nam được vẽ lại, Phan Rang trở thành tuyến đầu của lănh thổ cộng ḥa. Tướng Thiệu cho gom góp các đơn vị vừa tản hàng sau cuộc di tản, từ cao nguyên đổ về, từ miền Trung dạt xuống, bằng mọi giá phải bảo vệ thị trấn này cũng là hometown của ông, không để cho Bắc Việt lấn chiếm thêm. Từ đây, tướng Sang thêm một nhiệm vụ mới, làm phụ tá cho tướng ba sao Nguyễn Vĩnh Nghi, một cựu tư lệnh đồng bằng sông Cửu đang bị thất sủng nên chịu giữ chức tư lệnh tiền phương pḥng thủ Phan Rang.
Có một giai thoại là tại mặt trận tiền phương, tướng Nghi đă chỉ định tướng Sang đặt bộ chỉ huy trên không để dề bề điều động phối hợp, nhưng ông đă nói đùa, tướng 3 sao dưới đất, tướng 1 sao trên trời coi sao tiện, ông đă xin cùng ngồi ở bộ chỉ huy đóng gần phi trường, để rồi cùng số phận ít ngày sau khi Phan Rang thất thủ cả hai ông trở thành tù binh có cấp bậc cao nhất bị bắt tại chiến trường. Một thuộc cấp cũng là bạn của tôi thuật lại nếu Phượng Hoàng cứ ở trên không th́ chiếc vận tải biết đâu đă quay hướng Sài g̣n và số phận của mấy thầy tṛ đă có ngả rẽ khác.
Viết lại về ông điều đáng nói không phải muốn đề cao một khuôn mặt từng được kính nể cả về tài năng lẫn phẩm chất, cái đáng phục dù không được nhắc nhớ như năm vị tướng đă chết theo thành, nhưng Phuợng Hoàng khi găy cánh đă trả giá bằng những tháng năm tù đầy gian khổ qua các trại giam của kẻ thù từ Bắc vào Nam, rồi trước khi về cơi đă dũng cảm nh́n lại bằng tri nhớ của ḿnh và nhờ các thuộc cấp bổ sung, ông đă viết được một tài liệu mang tính hồi ức thuật lại trận đánh Phan Rang mà những chi tiết có thể dùng làm tư liệu cho người viết quân sử.
Theo dư luận chung ông chẳng có lỗi ǵ, trái lại đă làm hết sức ḿnh trước t́nh h́nh vận nước đă đến hồi mạt vận, dù ông đă tự thân xin lỗi đồng bào v́ đă để mất Phan Rang. Các đồng đội vẫn tự hào khi nh́n lại thấy Thầy ḿnh sống chết có nhau, hơn nhiều kẻ chóp bu đă bỏ thành trước giờ tàn cuộc.
Mọi sự đă thuộc về lịch sử, thắng thua để các người sau phân giải. Bên thắng cuộc họ mới kỷ niệm ầm ỹ 40 năm Sài g̣n mất tên, nhưng cảnh đói nghèo tụt hậu vẫn c̣n là vết thương nhức nhối của một quê hương tan nát.
Tôi mượn lời của các thuộc cấp trong lễ truy niệm với đầy đủ lễ nghi quân cách trong ngày tiễn ông ra đi, “Thôi th́, ân đất nước đă đền, nghĩa đồng bào đă trả, xin Tướng quân thanh thản ra đi”. Chúng tôi, những người lính không cùng quân chủng, với ḷng quí mến của các cựu tù xin Phượng Hoàng cứ yên nghỉ ngàn thu.
Viết tại quận Cam
Đỗ Xuân Tê
hoanglan22
09-20-2019, 18:37
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1456771&stc=1&d=1569004528
Nhớ lại suốt hạ tuần tháng 3 năm 1975, sau khi có lệnh bỏ Huế và Đà Nẳng, các đơn vị ta cứ lần lượt tháo lui, làm các tỉnh thành, quận lỵ phải rút theo, tạo ra cảnh đỗ vở tan thương cho không biết nhiêu gia đ́nh quân nhân cũng như dân chính. Tốc độ rút lui nhanh hơn tốc độ truy đuổi. Các đơn vị VC đến tiếp thu, không bị đánh chận, nên cứ ung dung tiến văo thành phố đă bị bỏ ngỏ. Đến khi vào tiếp thu Nha Trang, chúng vẫn cứ tin rằng Phan Rang cũng đă bỏ chạy, nên tiếp tục cho các toán tiền thám cứ tiến vào. Ngạc nhiên, và cũng là lần đầu tiên bị ngăn chận trước khi đến Phan Rang, chúng bèn tháo lui về hướng Bắc, vào ẩn nấp trong vùng Ba Ng̣i chờ viện binh. Măi đến ngày 16.4.1975, khi tung ra toàn lực áp đảo, chúng mới vào được Phan Rang
Vào thời điểm các đại đơn vị ta rút lui, mà không có một sự kháng cự đáng kể nào để làm khó khăn và thiệt hại cho đối phương, th́ căn cứ Phan Rang đă anh dũng chống cự, và đă làm thiệt hại đáng kể cho quân đội chánh quy Bắc Việt. Chiến trận tại Phan Rang có thể chia ra làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhứt: từ ngày 1 đến 3.4.1975, là giai đoạn h́nh thành tuyến pḥng thủ, với Sư đoàn 6 Không quân và Tiểu đoàn 5 Dù thuộc Lữ đoàn 3 Dù cùng một số đơn vị địa phương quân c̣n lại.
Sư đoàn 6 Không quân gồm:
- 3 Phi đoàn A-37, 524, 534, 548
- 1 Phi đội A-1
- 2 Phi đội tản thuơng 259 B và 259 C
- 2 Phi đoàn Trực thăng 229 và 235
Lữ đoàn 3 Dù gồm:
- Bộ chỉ huy
- Tiểu đoàn 5
Giai đoạn thứ hai: từ ngày 4 đến 12.4.1975, là giai đoạn củng cố tuyến pḥng thủ, với sự thành lập Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3, với Lữ đoàn 2 Dù. Đây là thời gian đem đến ít nhiều lạc quan trong việc ổn định t́nh h́nh sau nhiều ngày xáo trộn. Một số đơn vị nhỏ của địch đă hoàn toàn bị đẩy lui khỏi đèo Du Long rút về ém quân tại khu Vườn Dừa, Cam Lâm đợi tăng viện.
Lữ đoàn 2 Dù gồm:
- 3 Tiểu đoàn 3, 7, 11
- 1 Tiểu đoàn Pháo binh
- Các đại đội Trinh sát, Công binh, Quân y, Truyền tin, Yểm trợ Tiếp vận
Giai đoạn thứ ba: từ 13 đến 16,4.1975, là giai đoạn của trận chiến quyết định, với các đơn vị gồm:
Liên đoàn 31 Biệt động quân gồm:
- 3 Tiểu đoàn 31, 36 và 52.
Tăng cường cho Bộ Tư Lệnh Tiền phương:
- Toán Thám sát / Nha Kỷ thuật
Sư đoàn 2 Bộ binh gồm:
- 2 Trung đoàn 4 và 5
- 2 Pháo đội gồm 10 khẩu 105 ly
- 2 Chi đội Thiết Vận Xa gồm 10 chiếc
Lực lượng Hải quân gồm:
- Duyên đoàn 27
- 2 Khu trục hạm
- 1 Giang pháo hạm
- 1 Hải vận hạm và một số tàu yểm trợ
Trong 2 ngày 13 và 14, Lữ đoàn 2 Dù được lịnh rút về Saigon. Liên đoàn 31 Biệt động quân và Sư đoàn 2 Bộ binh ra thay. Vừa thay quân vừa chiến đấu, và pḥng tuyến Phan Rang bị tràn ngập vào trưa ngày 16.4.1975, bởi 2 sư đoàn VC 325 và 3 Sao vàng, cùng với các đơn vị của Đoàn 968 VC. Trong ngày 14.4.1975, ngoài Duyên đoàn 27 đă có mặt tại Phan Rang, Hải quân Saigon tăng cường khẩn cấp 2 Khu trục hạm, 1 Giang pháo hạm, 1 Hải vận hạm cùng một số tàu yểm trợ.
Lực lượng địch:
Theo tù binh thuộc Đoàn Hậu cần 57 địch bị bắt tại đèo Du Long ngày 9.4.1975, các cấp chỉ huy địch ngở Phan Rang đă bỏ chạy, nên tiếp tục cho các bộ phận truy đuổi, cứ yên tâm tiến vào tiếp thu. Bị đánh đuổi, chúng lui về lẫn trốn vùng Vườn Dừa, Ba Ng̣i chờ đại quân của 2 Sư đoăn 3 và 325 VC từ phía Bắc đến. Các nhóm du kích vẫn hoạt động gần phi trường. Đoàn 968 VC vừa ghi nhận có mặt. (xác nhận bởi Đại tá Nguyễn Thu Lương và Trung Tá Phạm Bá Mạo khi bị đơn vị nầy bắt tại mặt trận.)
I. H̀NH THÀNH TUYẾN PH̉NG THỦ
Kể từ ngày 1.4.1975, sau khi Nha Trang bỏ ngỏ, căn cứ Phan Rang đương nhiên trở thành căn cứ tiền tuyến của Miền Nam. Buổi tối cùng ngày, Trung tá Lê Văn Phát, Lử đoàn trưởng Lử Đoàn 3 Dù cùng Bộ chỉ huy Lữ đoàn và một phần của Tiểu đoàn 5, trên đường rút từ Khánh Dương xin vào để chờ phi cơ về Saigon. Căn cứ tôi lúc bấy giờ rất là trống trải, v́ một số lớn quân nhân Địa Phương Quđn canh gác ṿng đai đă bỏ nhiệm vụ. Trong căn cứ, một số quân nhân trẻ nổ súng loạn xạ v́ lo sợ vu vơ. Ngoài thị xả, Tỉnh trưởng đă rời nhiệm sở, dân chúng th́ ngơ ngác, phân vân. Trên quốc lộ 1 và 11 hướng về Saigon, từng đoàn xe dân sự và quân sự chật nứt người rầm rộ tiếp nối nhau chạy giặc. Tệ hại hơn nửa là Đà Lạt cũng bỏ chạy, và đoàn xe của Trường Vơ Bị Đà Lạt đang theo Quốc lộ 11 trên đường đi B́nh Tuy cũng vừa chạy ngang căn cứ. Lúc nầy thực sự, căn cứ tôi đang trở thành tiền đồn và đang ở trong t́nh trạng hết sức cô đơn.
Chuẩn bị t́m phương kế giữ an toàn, tôi chỉ thị hạn chế sự ra vào căn cứ để tránh xáo trộn do toán người tháo chạy mang đến. V́ vậy nên khi nghe có đơn vị Dù xin vào căn cứ, tôi liền hỏi xin lệnh Bộ Tư Lệnh KQ. Được biết đó là do Bộ Tư Lệnh Dù yêu cầu để Lử đoăn III được văo căn cứ như đơn vị tăng phái phối hợp pḥng thủ, tôi mới thuận cho đoàn quân của Trung tá Phát vào phi trường. Thật là đúng lúc cần thiết và tôi rất bằng ḷng có thêm người để giử an toàn cho căn cứ hiện trong t́nh trạng bỏ ngỏ. Tôi phối họp ngay với Trung tá Phát để phối trí việc pḥng thủ căn cứ với Không đoàn Yểm Cứ của Trung tá Phạm Bá Mạo và Trung tá Nguyễn Văn Thiệt v́ căn cứ mênh mông với ṿng đai h́nh vuông mỗi cạnh 6 km, mà Liên đoàn Pḥng Thủ chỉ có khả năng phụ trách canh gác ṿng đai gần mà thôi. Dù muốn dù không, căn cứ không quân Phan Rang đă trở thành tiền đồn của Miền Nam mà tôi đang là người có nhiệm vụ phải chống giữ. Tôi chỉ thị Trung tá Diệp ngọc Châu Phụ tá Nhân Huấn phải theo dỏi sát vấn đề nhân viên, để đừng xảy ra t́nh trạng bung chạy, v́ quá hoang mang, giao động trước việc, có thể chiến đấu như bộ binh.
Trung tá Phát xử dụng Đại đội Trinh sát Dù, bung ra kiểm tra nội vi căn cứ và đánh đuổi một vài tên du kích mon men vào Đồn Đại Hàn gần cổng số 2 của căn cứ. Về phần Không quân, câc cấp phi hành và kỷ thuật đê am hiểu t́nh h́nh mới, chấp nhận thực trạng và hết ḿnh nổ lực chiến đấu v́ nhu cầu pḥng thủ.
Vào buổi chiều, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2 ghé căn cứ thăm hỏi t́nh h́nh. Sáng hôm sau, rời căn cứ bay về Saigon.
Ngày 2.4.1975, Saigon tăng cường một đơn vị Dù. Trung tá Phát liền xử dụng để kiện toàn an ninh cho phi trường và phối hợp với các đơn vị Địa phương quân trong việc giữ an ninh cho thị xả.
Lúc 2 giờ chiều, tôi bay xuống Phan Thiết đón Trung tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn 3. Khi gặp tôi, ông nói sở dĩ muốn gặp tôi tại Phan Thiết là để xác nhận sự hiện hữu của Phan Rang, mà giờ nầy lẻ ra cũng đă bỏ chạy như Nha Trang và Cam Ranh rồi. Sau khi nghe tôi thuyết tŕnh t́nh h́nh, Trung tướng Toàn nói:” kể từ buổi thị sát nầy, Phan Rang sát nhập vào Quân đoàn III, trở thành cứ điểm cực Bắc của quân đoàn.”
Cùng ngày tôi nhận được lệnh Bộ tổng tham mưu chỉ định tôi phụ trách bảo vệ Phan Rang.
Ngày 3.4.1975, TĐ5 Dù để tạm kiểm soát các khu vực cạnh thị xă và nội vi phi trường. Từ Ba Râu đến Thị xă, dân chúng bớt hoảng sợ mặc dầu sanh hoạt vẫn c̣n rụt rè. Trong căn cứ Không đoàn Yểm Cứ đă chấn chỉnh an ninh nội bộ khiến cho căn cứ lần lần lấy lại sanh hoạt b́nh thường.
Đại tá Lê văn Thảo Không đoàn trưởng Không Đoàn 92 Chiến Thuật với 3 phi đoàn A-37, 524 Thiên Lôi, 534 Kim Ngưu và 548 Ó Đen. đă sát cánh cùng đoàn viên xuất kích đêm ngày rất hữu hiệu.
Trung tá Lê Văn Bút Không đoàn trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật với 2 phi đoàn trực thăng 229 và 235, 1 phi đoàn Quan sát 118 và một bộ phận của Phi đoàn 530 A-1 với Phi đội tản thương 259 C, đă bay thi hành nhiều công tác khó khăn nguy hiễm.
Trung tá Đổ hữu Sung và đoàn kỷ thuật gan dạ, chu toàn mọi công tác sửa chửa và trang bị dưới làn pháo kích ngày đêm của địch.
Theo tin tức của các quân nhân ta từ các nơi ghé xin phương tiện về Saigon, th́ VC đang xuất hiện ở Vườn Dừa, Ba Ng̣i. Tôi liền cho phi cơ quan sát bao vùng và chỉ điểm cho phi cơ A-37 đánh phá.
Cộng thêm các khó khăn, việc tiếp tế nhiên liệu đang gặp trở ngại v́ xe bồn không cung cấp như b́nh thường, bởi cảng Cam Ranh đă bị địch chiếm. V́ vậy hàng ngày, tôi phải nhận tiếp tế từ Saigon bằng phi cơ C-130, một số lượng nhiên liệu tối thiểu cho hành quđn mà thôi.
Để tránh hổn loạn khi bị pháo kích dồn dập, tôi cũng phải cho nửa số phi cơ về trú đêm ở Saigon, để sáng hôm sau trở ra với đầy nhiên liệu.
Trong ngày, khi biết có tàu Mỹ đang lảng vảng ngoài vịnh Phan Rang để chở một số người, tôi liền cử Trung tá Lư Văn Bút dùng trực thăng đáp trên một trong những tàu đó để chào hỏi và cho biết hiện t́nh ở Phan Rang. Tiếp đón và trả lời những điều muốn biết trong lối 1/2 giờ, Hạm trưởng thúc giục Trung tá Bút rời tàu. Xuyên qua lời tŕnh thuật của Trung tá Bút, tôi đê hiểu rỏ ràng là trong cấp thời, Mỹ không c̣n có ư định dính líu ǵ nửa đến cuộc chiến đang diễn tiến hiện nay.
II – BỘ TƯ LỆNH TIỀN PHƯƠNG
Phan Rang nằm vào phía Nam của một thung lủng hẹp bao bọc bởi các dải núi về hướng Tây, Bắc và Đông Bắc, có các cao điểm và đèo Du Long rất thuận tiện cho việc pḥng ngự. Ngày đêm phi cơ trong căn cứ liên tục quan sát bao vùng và oanh tạc ngay các mục tiêu bị phát hiện. Các đơn vị VC đă tiến quá xa với hậu tuyến của họ. Họ chỉ mới tiếp thu Nha Trang và Cam Ranh. Với mức độ hành quân 10 cây số ngày hoặc gia tăng với phương tiện chiếm được th́ không thể tập trung tấn công ngay được. Có thể có những phần tử lẻ tẻ đă xâm nhập và đang ém quân, nhưng ngoài ra Phan Rang chưa có nguy cơ bị tấn công ngay bởi quân chánh quy. Muốn tấn công, có thể chỉ có từ 2 hướng: Một là từ hướng Bắc, theo QL 1 tiến qua đèo Du Long thẳng vào thị xả và hai là từ hướng Tây tấn công từ Khrông Pha qua Tân Mỹ hướng về thị xả Phan Rang. Ngoài ra c̣n có một ít đường ṃn từ Vườn Dừa, Ba Ng̣i chạy theo hướng Nam Tây Nam sát căn cứ KQ hướng về Tân Mỹ có thể chọn để xâm nhập được. Trong lần bay quan sát chiều ngày 14.4.75, tôi thấy một vài thiết vận xa địch trên những đường ṃn nầy vào hướng Tây Bắc của căn cứ, cách khoảng 8 km. (Đương nhiên, khi bị phát hiện, chúng đều lẫn trốn trước khi bị oanh tạc.)
Thị xă và Phi trường Phan Rang nằm vào phần Nam của cái thung lũng đó. Quốc lộ 1 và đường xe lửa chạy song song xuyên qua đèo Du long về thị xả, tách ra tại Thôn Ba Râu, chạy sát phi trường rồi tiến về Nam không qua thị xă. Từ thị xă đến Du Long khoảng 15 km với Ba Râu khoảng 9 km và với Că Đú khoảng 4 km. Từ Cà Đú đến thị xă, mặt đất bằng phẳng.
Phi trường Phan Rang rất rộng, h́nh vuông, mỗi cạnh trên dưới 6 km, nằm giữa QL 1 và QL 11 và sát với đường xe lửa về hướng Đông, cách thị xả 5km và Nha Trang khoảng 80km. Có 2 đường bay song song, 1 bằng xi măng cốt sắt vă 1 bằng vĩ nhôm dài 10.000 bộ, rộng 150 bộ. Có đầy đủ cơ sở cho kỷ thuật, tiếp liệu với các bồn xăng và kho bom theo tiêu chuẩn an ninh tối tân. Việc pḥng thủ bao gồm 60 cḥi gác, với 2 cổng chung quanh căn cứ do 7 đại đội Địa phương quân phụ trâch.
Ngày 4.4.1975, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chánh thức đến Phan Rang cùng với toán truyền tin và chuyên viên, nhận trách nhiệm pḥng thủ Phan Rang, và thiết lập Bộ chỉ huy Tiền Phương trong Căn cứ của Sư đoàn 6 Không quân, nằm vào lối 5km Bắc Tây Bắc của Thị xă Phan Rang. Ông cho biết là đă được Thượng cấp chấp thuận gởi ra một số đơn vị chưa bị ảnh hưởng của việc rút quân để giữ Phan Rang. Bởi tin tưởng vào lời hứa hẹn nầy, nên Ông rất vui ḷng đảm nhận chức vụ.
V́ địa thế của Phan Rang có nhiều thuận lợi cho việc pḥng thủ, nên Trung tướng Nghi quan niệm:
” Phải chống giữ mặt Bắc từ Quận Du Long, mặt Tây từ Quận Tân Mỹ và phải giữ an toàn cho căn cứ Không quân, cũng như giữ an ninh cho Thị xả phối họp với một số đơn vị Địa phương quđn c̣n lại.”
Theo quan niệm đó, Trung tướng Nghi thảo ra kế hoạch pḥng thủ Phan Rang với một lực lượng cở 2 sư đoàn mới có thể trong tạm thời pḥng thủ được. Đó là:
Mặt Bắc, trên Quốc lộ 1 trấn giữ các điểm cao tại đèo Du long với một dải chiến tuyến hùng hậu tại Du Long cùng các tuyến phụ tại Ba Râu và Ba Tháp để ngăn chận mọi cuộc tấn công hướng vào thị xả hoặc vào căn cứ.
Mặt phía Tây, trín Quốc lộ 11, án ngữ tại vùng Tân Mỹ, một chiến tuyến để chận địch và bảo vệ mặt Tây và Nam của phi trường.
Bảo vệ an ninh cho thị xả và phi trường do các đơn vị chánh quy phối hợp với Địa phương quân phụ trách.
Ngày 5.4.1975. Trong ngày, thỉnh thoảng vẫn có vài quân nhân Không quân thất lạc tŕnh diện xin phương tiện về Saigon và luôn xác nhận là vẫn có một số VC xuất hiện ở Vườn Dừa, Ba Ng̣i. Chúng nói v́ có quân Dù của ta ở phía trước nên chúng c̣n nấp chờ chi viện.
Ngoài ra Tướng Times, phụ trách an ninh cho Ṭa Đại sứ Mỹ, đến thăm và nói sẽ sắp xếp cho người của ông thường xuyên ở lại đây, để chuyển tin ngay về ṭa đại sứ.
Trong mấy ngày qua, tôi đă điều hành công việc như là cấp có trách nhiệm ở Phan Rang, ngoài trách vụ chuyên môn là phụ trách Sư đoàn 6 KQ. Vô t́nh tôi đă biến căn cứ Không quân Phan Rang thành một cứ điểm pḥng thủ tiền tiêu của cuộc chiến tranh rất phức tạp nầy.
Ngày 6.4.1975, trong ngày, sinh hoạt trong căn cứ không quân đă có sự b́nh thường và các phi vụ đều được thi hành như thông lệ. Thêm một số quân nhân của 7 Đại đội Địa phương quân phụ trách canh gác ṿng ngoài phi trường tiếp tục trở về.
Quân địch sau khi chiếm Nha Trang, liền vội vă đến tiếp thu Cam Ranh. Toán viễn thám của họ theo đă chạy tiếp thu, có thể đă xâm nhập từ Vườn Dừa, Ba Ng̣i, qua đồi Du Long, xuống về phía Nam. Các Sư đoăn xâm nhập chưa thấy xuất hiện. Chỉ biết có đơn vị F-10 hoặc 968 đang lẫn núp xâm nhập lẻ tẻ.
Ngày 7.4.1975 là ngày đáng ghi nhớ.
Đại tá Trần Văn Tự, Tỉnh trưởng Phan Rang, vừa trở về với một số công chức, và đang tập họp các lính Địa phương quân và Nghĩa quân.
Đại tá Nguyễn Thu Lương, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Dù, với 3 Tiểu đoàn 3, 7, 11 và 1 Tiểu đoăn Pháo binh cùng các Đại đội Trinh sát, Công binh, Quân y, Truyền tin, Yểm trợ Tiếp vận lần lượt đến căn cứ. Trung tướng Nghi liền giao cho nhiệm vụ chiếm các cao điểm và tổ chức tuyến pḥng thủ tại Du Long mặt Bắc và tại Tân Mỹ mặt Tây. Tập trung lực lượng khi cần để chận không cho địch vượt qua Du Long. Xử dụng Tiểu đoàn 5 Dù của Trung tá Phát hiện có mặt tại căn cứ giữ an ninh cho phi trường.
Ngày 8.4.1975, khi đơn vị cuối cùng của Lữ đoàn 2 Dù đến căn cứ, Đại tá Lương liền điều dộng giải tỏa đoạn Quốc lộ 1, từ Thị xă đến Du Long, qua các Thôn Cá Đú, Ba Tháp, Ba Râu và Du long, với 2 Tiểu đoàn 11 và Tiểu đoàn 3. Trên đường tiến quân, Tiểu đoàn 3 Dù đuổi địch chạy tán loạn khỏi Ba Tháp và Ba Râu. Địch tổn thất khoảng một đại đội với nhiều vũ khí. Tiểu đoàn 11 được trực thăng của Sư đoàn 6 Không quân, đưa đến chiếm Du Long, và các cao địa trọng yếu kiểm soát đường đỉ Du Long.
Bắt sống tại đèo Du Long, 7 xe tiếp tế thuộc đoàn hậu cần địch cùng một số quân lính VC, v́ ngở Phan Rang đă bị chúng chiếm, nên cứ ngang nhiên di chuyển. Đồng thời, t́m thấy bộ đồ bay của Trung úy Lư Tống, thuộc Không đoàn 92 Chiến thuật/ Sư đoàn 6 Không quân, c̣n để tại vùng đèo Du Long, khi phi cơ A-37 của ḿnh vừa bị bắn rơi, lúc cùng phi đội oanh tạc khu Vườn Dừa. (Trung úy Lư Tống là người đă thả truyền đơn chống cộng tại Saigon năm 1992, tại Cuba trong năm 2000 và tại Saigon cuối năm 2000, nhân dịp Tổng Thống Bill Clinton đến thăm Việt Nam.)
Tại phía Tây, phần lớn của Tiểu đoàn 5 Dù đă trấn ngữ đầu cầu hướng về Tân Mỹ, ngừa được sự tấn chiếm từ hướng nầy. Trong căn cứ, toán Trinh sât Dù cũng lại đuổi khỏi đồn Đại Hàn một số quân nhân địch vừa lén lút xâm nhập. Tiểu đoàn 7 trừ bị giám sát việc giữ an ninh trong căn cứ không quân với Tiểu đoàn 5 của Lữ đoàn 3 Dù. Kết quả là trong ngày nầy, Phan Rang đă hoàn toàn kiểm soát được t́nh h́nh vốn bị tŕ trệ từ khi Nha Trang và Cam Ranh tháo chạy.
Buổi sáng, lúc Trung úy Nguyễn thành Trung vừa oanh tạc Dinh Độc Lập, th́ Bộ Tư Lệnh Không Quân bảo tôi phải cho ngăn cản và bắt đáp, nếu Trung bay qua Phan Rang. Lệnh đă được cấp tốc thi hành, và Trung đă không bay qua đây.
Đặc biệt Cha giáo sứ Hồ Diêm, với niềm phấn khởi, đến thăm Trung tướng Nghi để hoan nghênh quân Dù đă giải tỏa được Phan Rang. Điểm đáng đề cao là chính Cha, cùng với lực lượng Nghĩa quân và Nhân dân tự vệ của giáo sứ, đă thành công bảo vệ địa phận ḿnh chống lại các cố gắng len lỏi xâm nhập của địch.
Ngày 9.4.1975, Trung tá Lê Văn Bút, Không đoàn trưởng Không đoàn 72 Chiến Thuật, bay chỉ huy 40 trực thăng HU với 12 trực thăng Vơ trang cơ hữu cùng 8 trực thăng Chinook từ Biên Ḥa biệt phái. Mục đích là để lên Khánh Dương t́m kiếm và chở về các toán c̣n kẹt lại của Lữ đoàn 3 Dù, gồm 2 Tiểu đoàn 2 và 6 cùng một số quân của Tiểu đoàn 5, lúc Nha Trang rút chạy. Cùng đi có Trung tá Trần Đăng Khôi, Lữ đoàn phó Lữ đoàn 3 Dù phụ giúp t́m kiếm, chọn băi đáp để rước toán thất lạc nầy trở về. Bấy giờ khu vực Khánh Dương đa trở thành vùng địch kiểm soât, nên tôi cho bay theo 2 phi đội A-37 yểm trợ. Kết quả là đoàn trực thăng đă mang về đến căn cứ Phan Rang, hơn 600 người mà phần lớn lă quân nhân của các Tiểu đoàn 2 và 6, cùng một số thất lạc của Tiểu đoàn 5 với một số ít dân sự chạy loạn đi theo. Toán nầy vào buổi chiều được chở toàn bộ vào Saigon. Cuộc hành quân trực thăng vận thành công tốt đẹp, đem về được số quân nhân thất lạc của Lữ đoàn 3 Dù. Thật đúng là một chuyến bốc quân lịch sử. Đoàn trực thăng 60 chiếc đă phải bay qua vùng địch chiếm với mọi hiểm nguy và bất trắc khôn lường.
Trong thị xă, Đại tá Trần Văn Tự Tỉnh trưởng tiếp tục chấn chỉnh các phần vụ hành chánh, đồng thời lo chỉnh đốn hàng ngũ các đơn vị Địa phương quân. Ngoài thị xă, dân chúng hăy c̣n e dè ở lại, nhưng không tuôn chạy nhiều như những ngày trước. Cuộc sống có chỉ dấu trở lại b́nh thường, tạo nhiều phấn khởi.
Các ngày 10 và 11. 4.1975 có được sự yên tĩnh trong toàn bộ vùng Phan Rang. Bộ Tư lệnh tiền phương đang trù tính kế hoạch chiếm lại Cam Ranh để sau đó lấy lại Nha Trang. Địch sau khi bị đuổi khỏi các địa điểm xâm nhập đang tập trung ém quân tại vùng Vườn Dừa ở Cam Lâm chờ đợi viện quân.
Ngày 12.4.75 là ngày khởi đầu có bất trắc trong việc pḥng thủ Phan Rang.
Lệnh từ Quân đoăn III cho biết sẽ rút Lữ đoàn 2 Dù và Tiểu đoàn 5 Dù vào ngày 13.4.1975, và thay bằng Liên đoàn 31 Biệt động quân với 3 Tiểu đoàn, và Sư đoàn 2 Bộ binh với 2 trung đoàn, cùng 2 Chi đội Pháo và Chi đội Thiết vận xa.
Liên đoàn 31 Biệt động quân vừa rút khỏi Chơn Thành, sau nhiều ngày tác chiến gian khổ với nhiều tổn thất, chưa kịp nghĩ dưỡng quân, th́ được tung ra tiền tuyến với quân số thiếu thốn trầm trọng.
Sư đoàn 2 Bộ binh cũng vừa tháo chạy từ Quảng Ngải, vừa tập trung tại B́nh Tuy và đang được bổ sung quân số th́ được lịnh phải ra Phan Rang, trong khi cả đơn vị hảy c̣n hoang mang, dao động. V́ chưa kịp bổ sung thiết bị, đơn vị nầy phải thu lượm một số pháo và thiết vận xa để mang theo cùng với các trung đoàn ra Phan Rang bằng đường bộ.
Bộ Tổng tham mưu Pḥng 7 vừa bổ sung toán thám sát, v́ kiểm thính phát hiện rộ lên nhiều liên lạc vô tuyến của các đơn vị địch xung quanh Phan Rang.
Chuẩn tướng Lê Quang Lưởng Tư lệnh Sư đoàn Dù và Trung tướng Trần Văn Minh Tư lệnh Không Quân, cùng đến thám sát công cuộc pḥng thủ. Cả hai vị đều tỏ ư bất đồng về việc điều quân nầy. Trung tướng Minh nói để căn cứ không quân làm tiền đồn là sai lầm, v́ khi hữu sự dưới lằn đạn pháo th́ không thể sửa chửa, trang bị cho phi cơ có khả năng hành quân như yêu cầu được. Chuẩn tướng Lưỡng cũng nói, muốn giữ Phan Rang làm bàn đạp để lấy lại Cam Ranh và Nha Trang, tại sao lại rút đơn vị đang chiến đấu tốt mà thay bằng 2 đơn vị đă từng vội vă rút quân vă c̣n đang chờ đợi bổ sung quân số.
Trung tướng Nghi cũng bất ngờ v́ không có được những đơn vị như đă hứa trước lúc ra nhận trách nhiệm pḥng thủ Phan Rang.
III. TRẬN CHIẾN QUYẾT ĐỊNH
Ngày 13.4.1975 là ngày đánh dấu nhiều việc không may xảy đến cho tuyến pḥng thủ Phan Rang.
Trong ngày, liên tục toán kiểm thính Pḥng 7 TTM báo cáo có sự hoạt động bất thường của các đơn vị Sư đoàn 325 và Sư đoàn 3 Bắc Việt.
Tướng Times của Ṭa Đại sứ Mỹ hấp tấp bay đến, dẫn theo Ông Lewis, chuyên viên truyền tin, để chuyển về Ṭa Đại sứ mọi biến chuyển mới nhứt của mặt trận. Ông Lewis ở lại, rất tích cực làm việc và rất b́nh tĩnh lúc địch dồn dập tấn công.
Sau mấy ngày ém quân, địch bắt đầu chuyển quân từ khu ém quân và khởi sự pháo kích văo căn cứ không quđn. Các đơn vị địch đang t́m cách tấn công các điểm cao ở vùng đồ Du Long và phía Đông Ba Râu. Đơn vị địch 968 cũng bắt đầu xâm nhập lẻ tẻ từ phía Tây của căn cứ không quân, phối họp với từng đợt pháo kích.
Tiếc thay, trong t́nh thế như vậy mà cơ cấu pḥng thủ phải thi hành lệnh thay quân đang chiến đấu tốt, bằng 2 đơn vị vừa mới được bổ sung sau khi bị tổn thất nhiều về trang bị và tinh thần.
Trong khi bộ phận lớn của Lữ đoàn 2 Dù, gồm Tiểu đoàn 7 với các bộ phần nặng và Tiểu đoăn 5 của Lữ đoăn 3 Dù rời căn cứ, th́ Đại tá Nguyễn Văn Biết, chỉ huy trưởng Liên đoàn 31 Biệt động quân và 3 tiểu đoàn 31, 36 và 52 cũng vừa từ Biên Ḥa tới bằng phi cơ C-130. Quân số Liên đoàn gồm khoảng 1.000 người. Các đơn vị liền vội vă đến trám vào các địa điểm đóng quân của Tiểu đoăn 11 Dù tại Du Long và Ba Râu. Tiểu đoàn 31 trám tại Du long, Tiểu đoàn 36 trám từ Ba Râu đến Cá Đú và Tiểu đoàn 52 làm trừ bị. Đang thay quân th́ chạm súng với các toán thăm ḍ của địch.
Cùng lúc, Trung đoàn 4 của Sư đoàn 2 Bộ Binh, quân số khoảng 450 người, từ B́nh Tuy theo đường bộ cũng vừa tới, và được giao trách nhiệm trấn giữ mặt Tây căn cứ và bảo vệ phi trường thay cho Tiểu đoàn 5 Dù vừa rời căn cứ.
Theo khuyến cáo của Bộ Tư lệnh Không quân, Đại tá Nguyễn Đ́nh Giao, Tham mưu trưởng Sư đoàn 6 Không quân được nhiệm vụ cùng các chuyên viên về Tđn Sơn Nhất để phụ lo việc quân số và tiếp liệu cho Sư đoàn.
Ngày 14.4.1975, Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh, cùng Trung đoàn 5 vừa đến với khoảng 450 quân, được giao nhiệm vụ bảo vệ mặt Nam căn cứ và phi trường v́ Lữ đoàn 2 Dù đă hết nhiệm vụ và đă bàn giao với Trung đoàn 4 hôm qua. Lực lượng Pháo binh chỉ có 1 Pháo đội 105 ly hiện diện tăng phái cho Tiểu khu trong đó có một Trung đội đóng tại An Phước, phía Nam phi trường lối 10 km.
Thị xả được pḥng vệ bởi khoảng 1 tiểu đoàn Địa phương quân c̣n lại. Cùng lúc, Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, theo lệnh, đề cử Đại tá Trương Đăng Liêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4 giử chức vụ tỉnh thưởng thay Đại tá Trần Văn Tự.
Cũng để dự pḥng cho những ngày tác chiến sắp tới, Bộ Tư lệnh Không quân cũng vừa gởi đến, một phi cơ C-47 để tăng cường phương tiện hành quân cho Bộ Tư lệnh Hành quân.
Bên ngoài căn cứ, từ sáng sớm, địch lần lượt tung vài đơn vị cấp Đại đội từ khu ém quân, đánh thăm ḍ cơ cấu pḥng thủ tại Du Long và Ba Râu. Một trong các đơn vị nầy đă xâm nhập được vào cổng số 2 phi trường về phía Bắc, lúc mờ sáng. Phi cơ trực thăng tuần tiểu phát hiện, và cùng với trực thăng vơ trang, yểm trợ cho một bộ phận của Tiểu đoàn 11 Dù đang chờ phi cơ về hậu tuyến, được gởi ra tiêu diệt toán xâm nhập nầy. Kết quả địch rút chạy, bỏ lại gần 100 tên bị hạ với khoảng 80 vũ khí đủ loại, trong đó có 2 súng cối 82 ly và 2 khẩu đại bác không giựt 75 ly. Ta chỉ có 6 chiến sĩ hy sinh và 1 thiết vận xa pḥng thủ phi trường bị chây. Trung tướng Nghi tưởng thưởng ngay huy chương Anh dũng bội tinh cho các quân nhân hữu công.
Khoảng trưa, Tướng Nghi và tôi cùng Đại tá Lương chạy xe thong thả từ phi trường đến Ba Tháp, Ba Râu và Du Long thị sát công việc pḥng thủ. Tại Du Long Tướng Nghi có tập họp và trấn an số Nghĩa quđn có mặt tại đây.
Tóm lại, mặc dầu hôm nay có các cuộc đánh thăm ḍ của địch, mặt trận vẫn đứng vững như những ngày qua. .
Ngày 15.4.1975 từ sáng sớm địch liên tục pháo từng chập văo căn cứ. Buổi chiều khoảng 2 giờ, có phái đoàn của Trung tướng Trần Văn Đôn Tổng trưởng Quốc pḥng và Trung tướng Nguyễn Văn Toăn Tư lệnh Quân đoàn 3 đến thị sát mặt trận. Sau khi thăm thị xả, nghe Tướng Nghi thuyết tŕnh t́nh h́nh và ghi nhận các đề nghị, Trung tướng Tổng trưởng Quốc pḥng tỏ vẻ chú trọng đến việc pḥng thủ Phan Rang và hứa sẽ t́m mọi cách bổ sung đầy đủ mọi trang thiết bị thiếu hụt.
Từ chiều trở đi, Trung tướng Nghi liên tiếp nhận được tin địch sẽ tập trung tấn công đêm nay. Một trong những công điện của Bộ chỉ huy địch với danh hiệu Sông Hồng, đóng tại Ba Râu, cho hay địch sẽ tấn công vào Phan Rang lúc 5 giờ sáng. Tiến quân theo đường rầy xe lửa cùng với 300 chiến xa, theo quốc lộ 1 phát xuất từ rừng dừa ở Ba Ng̣i. Biết ư định của địch, Trung tướng Nghi báo động ngay mọi nơi đề pḥng, đặc biệt là Liên đoàn 31 Biệt động quân có nhiệm vụ án ngữ ở Du Long.
Quả nhiên, sau 8 giờ tối địch gia tăng cường độ pháo vào phi trường, đồng thời cho di chuyển suốt đêm rất nhiều đoàn xe chở bộ binh, thiết giáp, pháo binh v.v…Chúng vượt đồi Du Long, chủ yếu chỉ để tràn qua pḥng tuyến pḥng thủ của Tiểu đoàn 31 Biệt động quân mà tiến nhanh về hướng Nam. Tiểu đoàn 31 đă ở tại chổ chiến đấu gan dạ mặc dầu đoàn xe địch vượt được qua. Tại Ba Râu, Ba Tháp và Cá Đú, từ địa điểm đóng quân chờ di chuyển về hậu cứ, từ 2 giờ sáng trở đi, Tiểu đoàn 11 Dù trừ và Tiểu đoàn 3 Dù, cùng với Tiểu đoàn 36 Biệt động quân vừa trám chổ, chạm địch ác liệt, làm chậm sức tấn công ồ ạt của đoàn cơ giới địch. Liên tục bị oanh kích, chúng tẻ xuống đường, tắt đèn và lại tiến tới. Phi cơ A-37 không ngớt tung xuống đợt oanh tạc ngăn chăn, nhưng v́ không đủ phương tiện soi sâng và hỏa long, nên chúng vẫn tràn qua, sau khi bị tổn thất khá nặng nề. Bên ta có 4 A-37 bị bắn bể b́nh xăng phải về đáp. Trận nầy Không đoàn 92/Chiến thuật đă tung toàn lực phi cơ cơ hữu kể cả 4 A-1 của Phi đoàn 530.
Tôi cùng Trung tá Lưu đức Thanh Phụ tá Hành quân Sư đoàn 6 KQ đích thân theo dỏi trận đánh suốt đêm. Chúng tôi liên tục đốc thúc phần tham gia của không quân, kể từ lúc các đơn vị bộ binh chạm súng, liên tục báo cáo địch đang xử dụng hàng đoàn xe để đến sáng chạy từ Du Long tràn xuống. Cuối cùng, đoàn xe tắt đèn vượt qua Ba Râu, vă chiếm thị xả lúc 7 giờ sáng ngày16.4.1975.
Tại Bộ chỉ huy tiền phương, Trung tướng Nghi cũng theo dỏi trận chiến suốt đêm và không nhận được tin ǵ từ Du Long của Liên đoàn 31 Biệt động quân sau 3 giờ sáng. (Sau nầy, Thiếu tá Đào Kim Minh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 36 Biệt động quân và Thiếu tá Nguyễn văn Tú Tiểu đoăn trưởng Tiểu đoàn 31 Biệt động quân có nhiệm vụ trấn giữ Ba Râu và Du Long cho biết không hiểu v́ lư do ǵ mà từ 2 giờ sáng không liên lạc được với Bộ chỉ huy. Sở dỉ cần liên lạc khẩn cấp là v́ đă 3 ngày, từ lúc thay quân, cứ liên miíê đụng địch nên cấp số đạn dược mang theo đă gần cạn. Đến sáng, khu vực trách nhiệm vẫn yên tịnh như sau những lần chạm súng. Trên đường vẫn an toàn nhưng nh́n vào phi trường thấy đang bị pháo kích.)
Ngày 16.4.1975, lúc vừa sáng, địch lại lẻ tẻ xâm nhập vào cổng số 2 của phi trường về hướng Bắc và kho bom ở hướng Tđy. Đến khi pḥng không chúng, bắn trúng chiếc phi cơ quan sát O-1 vừa cất cánh quan sát hành quân, phải trở lại đâp khẩn cấp, th́ đồng thời chúng gia tăng số lượng pháo kích.
Lúc bấy giờ mới khoảng gần 8 giờ sáng. Đại tá Biết bổng báo cáo là Du long bị mất và địch đă vào thị xă khiến cho Trung tướng Nghi phải t́m phương thế thích nghi. Cùng lúc, Chuẩn tướng Nhựt vừa đặt văn pḥng cạnh Văn pḥng Trung tướng Nghi, liền được mời tham gia vào việc duyệt xét t́nh h́nh. Sau đó Ông đi thị sát mặt trận tại nơi trách nhiệm của đơn vị ḿnh.
Trong khi Trung đoàn 4 Bộ Binh đang án ngữ bên ngoài phía Tây của phi trường và Trung đoàn 5 đang pḥng ngự địch tràn lên từ thị xả, th́ bên trong căn cứ t́nh h́nh bắt đầu có chiều hướng bất lợi. Địch vẫn giữ mức độ pháo kích quấy rối từng chập. Nhân có các khoảng trống giữa những đợt pháo kích, một số lớn phi cơ đă rời căn cứ. C̣n lại chỉ có một số rất ít trực thăng vơ trang và tản thương ở lại đến phút chót.
Khoảng hơn 9 giơ sáng, khi trực thăng vơ trang bị hỏa tiển SA.7 bắn tại ngọn đồi gần phi trường th́ t́nh h́nh đă khá nguy ngập. Trung đoăn 4 báo cáo đang chạm địch. Toán Dù bảo vệ Bộ Tư lệnh Tiền phương đang thanh toán các toán VC lẻ tẻ chạy lạng quạng gần khu vực Bộ Tư lệnh Tiền phương. Đến lúc nầy, Trung tướng Nghi vẫn tin tưởng văo khả năng chiến đấu của Trung đoàn 4 bảo vệ phi trường và Trung đoàn 5 án ngữ ngăn chận địch tràn vào cổng số 1 của căn cứ.
Đến khoảng gần 10 giờ, khi tiếng súng càng lúc càng dồn dập, Tướng Nghi liền họp cùng Chuẩn tướng Nhựt, Đại tá Lương và tôi để tái duyệt xét t́nh h́nh. V́ lẽ mặt trận đă bị thủng từ Du Long và địch đang hăm dọa căn cứ nên Trung tướng Nghi dự tính có thể sẽ dời Bộ Tư lệnh Tiền phương về Cà Ná để lập tuyến pḥng thủ mới tại đó, nếu địch chọc thủng được pḥng tuyến bảo vệ phi trường. Dự trù sẽ đi khỏi phi trường từ cổng số 1 và đi cùng Trung đoàn 5.
Khoảng 10,30 giờ sáng, măi đến khi các toán quân địch sắp tiến vào Bộ Tư lệnh Tiền phương th́ Trung tướng Nghi mới ra lịnh rời căn cứ bằng đường bộ, từng đơn vị theo đơn vị trưởng ḿnh rút theo hướng Nam về Cá Ná để lập pḥng tuyến mới. Trung tướng Nghi, Đại tá Lương, Ông Lewis chuyên viên Ṭa Đại sứ Mỹ cùng các quân nhân của Bộ Tư lệnh Tiền phương, Sư đoàn 6 Không quân, Lữ đoàn 2 Dù cùng các toán quân lẻ tẻ của Liên đoàn 3I Biệt động quân lối 400 người rời căn cứ tiến ra cổng số 1 về hướng Nam.
Đoàn quân di chuyển trật tự đến cổng số 1 khoảng 11 giờ, để cùng đi với Trung đoàn 5 về Cà Ná như dự định. Tại đây, v́ không liên lạc được với Chuẩn tướng Nhựt, nên Trung tướng Nghi quyết định theo đường rào phía Nam, di chuyển dọc theo đường từ Tour Cham đến ngă ba An Phước. Đoàn quân an toàn đến Thôn Mỹ Đức lúc 12 giờ trưa.
Trên đường rút khỏi Ba Tháp, Tiểu đoàn 3 Dù lần xuống băi biển, tẻ sâu về hướng Nam và không c̣n thấy Giang đoàn 27, chiến hạm WHEC cùng bất cứ chiếc tău nào khác tại cảng Ninh Chử. Đến một băi cát xa hơn về hướng Nam của thị xả, đơn vị Dù nầy, gặp và kháng cự với một toán quân địch khác đến bao vây. Sau khi thoát ṿng vây với ít nhiều tổn thất, Tiểu đoàn 3 Dù được một đoàn trực thăng, bốc về an toăn. (Đoàn trực thăng cấp cứu nầy, dự trù đón Bộ tư lệnh tiền phương, nhưng v́ Trung tướng Nghi không thuận cho đáp v́ lư do an toàn băi đáp, nên trên đường trở về, mới bốc được toán Dù trên.)
Tiểu đoàn 11 Dù c̣n lại rút được qua sông, phối hợp với toán quân vừa thoát khỏi trận phục kích ở Thôn Phú Qúy về được an toăn.
Liên đoàn 31 Biệt động quân và Sư đoàn 2 Bộ binh với một ít đơn vị cố gắng di chuyển về Nam lại chịu thêm tổn thất trên đường rút lui. Đại tá Lê Thương, Chỉ huy trưởng Pháo binh Sư đoàn 2 Bộ binh, trên đường rút về An Phước nơi có Trung đội Pháo binh đang trú đóng, cũng gặp địch đă đóng làm nút chận tại đây rồi,
Tại phi trường, khi đoàn quân của Trung tướng Nghi di chuyển khá xa, th́ Sư đoàn 325 VC phối họp với Sư đoàn 3 VC cùng Đoàn 968 tấn công và chiếm phi trường lúc 11,30 giờ trưa.
Thiệt hại của Sư đoăn 6 không quân rất đáng kể v́ mất toàn bộ kho bom đạn và các trang thiết bị phụ thuộc, với lối 10 phi cơ đủ loại không bay được. Tuy nhiên tổn thất hành quân tương đối là nhẹ: 1 A-37 rớt, 4 A-37 bị bắn về đáp an toàn, 2 trực thăng cháy, 1 phi cơ quan sát cùng khá nhiều trực thăng bị bắn nhưng về đáp được an toàn.
Hải quân ta chỉ có một số ít Giang thuyền bị ch́m và một chiến hạm bị pháo.
Tại Thôn Mỹ Đức lúc khoảng 4 giờ chiều, Trung tướng Nghi được toán truyền tin của Đại tá Lương cho hay có 1 đoàn phi cơ xin xác nhận vị trí để xuống bốc. Lúc bấy giờ, với số gần 700 quân nhân vă thân nhân nên khó bóc hết được, vả lại khi trực thăng đến, khó ḷng mà giữ được trật tự, chắc chắn sẽ tạo hổn loạn làm lộ mục tiêu giúp địch đến vây bắt. V́ vậy Trung tướng Nghi quyết định v́ sự an toàn cho đồng đội, từng khổ cực chiến đấu với nhau mà không v́ an toàn cho bản thân, nên ra lịnh toán cứu cấp đó không nên đâp, và chỉ nên đến ngày hôm sau, tại một địa điểm xa hơn về phía Nam.
Lúc 9 giờ tối, dưới sự hướng dẫn của Đại tá Lương, đoàn người bắt đầu rời Thôn Mỹ Đức. Chưa đi được bao xa th́ bị phục kích. Trung tướng Nghi, Ông Lewis và tôi cùng một số quân nhân bị địch bắt. Chúng dẫn 3 chúng tôi ngược về Nha Trang sáng hôm sau. Trên đường tôi thấy rất nhiều xe địch nằm la liệt dọc hai bên đường, và từng nhóm đồng bào ngơ ngác, thất thiểu, lang thang đi ngược trở về. Tôi bổng cảm nhận rất có tội đối với đồng bào, v́ làm tướng mà không giữ được thành. Ở tại Đồn điền Yersin 2 ngày, chúng đưa chúng tôi ra Đà Nẳng bằng đường bộ. Tại đây, ngày 22.4.1975 chúng đem phi cơ chở chúng tôi ra Bắc, giam tại nhà giam Sơn Tây nơi từng giam giữ tù binh Mỹ. Chúng thả Ông Lewis vào tháng 8.1975, Trung tướng Nghi vào năm 1988 và tôi năm 1992.
IV. KẾT LUẬN
Sư đoàn 6 Không quân rời Pleiku ngày 16.3.1975 đến tạm trú tại Nha Trang. Ngày 22.3.1975 được lịnh đến căn cứ Phan Rang đồn trú. Chưa kịp thích nghi với sanh hoạt địa phương th́ phải đương đầu với nhiều nổi ưu lự kể từ lúc Nha Trang rút bỏ. Liên tiếp trong 16 ngày, toàn thể quân nhân Sư doăn 6 Không quân đă khắc phục bao khó khăn, trong một hoàn cảnh khác thường của một căn cứ Không quân bổng trở thành một tiền đồn, vừa thi hành các phi vụ, vừa tham gia chiến đấu như bộ binh.
Địa phương quđn và Nghĩa quân Phan Rang có những đơn vị hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ đáng khen, như việc bảo vệ Giáo xứ Hồ Diêm được an toàn là một thí dụ.
Sư đoàn 2 Bộ binh với 2 Trung đoàn 4 và 5, tuy có một số lớn quân nhân hảy c̣n hoang mang, dao động v́ lo lắng cho thân nhân c̣n kẹt lại khi đơn vị vội vả rút lui, nhưng cũng đă cố gắng tham dự.
Liên đoàn 31 Biệt động quân với 3 Tiểu đoàn 31, 36 và 52, chứng minh được cái tinh thần của người chiến sĩ mũ nâu, mặc dầu sau những trận đánh ác liệt tại Chơn Thành được điều động thẳng ra Phan Rang, không có một ngày nghĩ dưỡng quân, cũng như không được bổ sung quân số, tái trang bị đầy đủ.
Lữ đoăn 2 Dù với các Tiểu đoàn 3, 7 và 11 cùng Tiểu đoàn 5 của Lữ đoàn 3 Dù đă chiến đấu rất tích cực và tạo được sự tin tưởng của nhiều người, quả xứng đáng là những đơn vị thiện chiến của Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Với những đơn vị như trên cộng thêm Phan Rang có vị trí rất thuận lợi cho việc pḥng thủ, đáng lư Phan Rang không thể bị chiếm quá nhanh như thế được.
Chiếm được Phan Rang, địch mới có lư do tung ra kế hoạch Tổng công kích, mà đáng lư ra theo dự trù, chúng chỉ có thể tung ra vào năm 1976 thay v́ năm 1975. Tướng VC Văn Tiến Dũng, sau chiến thắng, đê tuyên bố tại Cuba: ” Khi chiếm được Phan Rang th́ coi như chiếm được miền Nam.” Lời tuyên bố nầy chứng minh được việc chọn pḥng tuyến Phan Rang là một quyết định đứng đắn của Bộ Tổng tham mưu Quđn lực Việt Nam Cộng Ḥa. Việc mất Phan Rang quả đúng là một tổn thất quá lớn cho công cuộc bảo vệ Miền Nam vậy.
Đă hơn 25 năm, chắc chắn tôi không thể c̣n nhớ đầy đủ các diễn biến liên quan đến việc pḥng thủ Phan Rang. Tôi đă tham khảo một vài tài liệu và tiếp xúc một vài thân hữu. Cộng với kư ức, tôi đă cố gắng ghi lại trong bài viết nầy mọi hiểu biết có thể có và đương nhiên chắc phải có nhiều thiếu sót.
Viết xong ngày 15 tháng 1 năm 2002
Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang
hoanglan22
09-21-2019, 19:46
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1457251&stc=1&d=1569095058
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1457252&stc=1&d=1569095596
Từ cuộc đời của một chú Tiểu đến tuổi bút nghiên, sang đời binh nghiệp, đánh giặc, anh hùng mạt lộ bị bắt làm tù binh, rồi vượt ngục, vượt biên lưu vong làm bố sắp nhỏ… và sau cùng trở thành nhà sư Phật Giáo. Nhất định Thầy Huệ Quang có rất nhiều kinh nghiệm cuộc sống. Thầy sẽ hoan hỷ chia sẻ với mọi anh chị em cựu quân nhân chúng ta nói riêng và những ai thích thú nghe về những chia sẻ của thầy,… những kinh nghiệm mà thầy đă từng trải và sự hiểu biết về đạo Phật của thầy ...–BKT
*******
“Hai h́nh ảnh. Một đời người” của Biệt Cách 81 dù Ngô Nhựt Tân.
... Tôi sanh ra tại Phan Thiết. Năm 8 tuổi mẹ cho vào chùa tu học, “để tránh cho con khỏi đi lính sau này,” bà nói với tôi như thế. Cha tôi là một cán bộ tập kết lúc tôi vừa tṛn một tuổi, theo chân Hồ Chí Minh với một ước vọng điên rồ là đẩy đất nước vào thiên đường xă hội chủ nghĩa.
Trong đời tu hành, tôi may mắn gặp được một vi minh sư, Thầy Thích Châu Đức, giảng sư Tỉnh Hội Phật Học Phan Thiết. Thầy tôi thuộc ḍng Thiên Minh, Huế, đệ tử của Ḥa Thượng Thích Quảng Huệ, nên đặt pháp danh cho tôi là Quảng Hạnh. Tôi gọi Ḥa Thượng Thích Măn Giác, hội chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, là sư bác. Ông mất năm 2009. Thầy tôi có một lời nguyền là không bao giờ nhận đệ tử, nhưng v́ mẹ tôi có công với đạo pháp – bà giúp việc Phật sự cho chùa nhiều năm và chính thức vào sống hẳn trong chùa từ năm 1968 – thầy đă nhận tôi làm người đệ tử duy nhất. Tôi được đưa về làm điệu tại chùa Thiên Minh, ngoài Huế, nên tôi đọc kinh rất ư là Huế và rành rơi việc kinh kệ và tán tụng. Năm 1966, thầy gửi tôi vào tu học tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, tại đây tôi được cạo cái chỏm tóc mà tôi rất ư là ghét và đă thọ sa di giới trong một đại giới đàn do Ḥa Thượng Thích Tịnh Khiết chứng minh. Năm 1968, tôi rời viện vào Sài G̣n tiếp tục việc học.
Năm 1970, tôi chính thức bỏ áo tu và năm 1971 gia nhập khóa 4/71 Thủ Đức/Sĩ Quan Trừ Bị QLVNCH. Ngày 29 Tháng Bảy năm1972 tôi măn khóa, mang cấp bậc chuẩn úy và phục vụ tại Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Tháng Giêng năm 1975, tôi thuyên chuyển về Sư Đoàn Nhảy Dù, phục vụ tại Tiểu Đoàn 5, Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù cho đến ngày đơn vị tan hàng tại mặt trận Khánh Dương. Tôi chạy vào được gần Phan Rang th́ bị bắt và nhốt tại trại cải tạo Cà Tót. Năm 1978, tôi cùng một số lớn tù cải tạo được tạm thả và được đưa về Phan Thiết điều trị bệnh, v́ quá nhiều tù nhân đă chết v́ một chứng bệnh kỳ quái không tên khi ở trong khu rừng thiêng nước độc Cà Tót.
Khi được lệnh triệu tập của Việt Cộng để trở lại học tập cải tạo, tôi đă cướp ghe và cùng một số cựu quân nhân vượt biển, đến được bờ tự do sau bốn ngày lênh đên trên biển Thái B́nh Dương. Tháng Mười Hai năm 1978 tôi định cư tại Canada. Năm 1979, tôi lấy vợ và có hai con, một trai một gái.
Tôi trở lại sinh hoạt với chùa chiền năm 1980 v́ dân tỵ nạn tại Ottawa cùng góp công góp của xây chùa, nhưng không ai biết kinh kệ một cách chuyên nghiệp như tôi.
Đại Đội 4 Xung kích/LĐ81BCD, người đầu tiên trong ảnh này là MĐ Ngô Nhựt Tân, hiện nay là nhà sư Huệ Quang.
Tôi làm trong nghành computer sau khi học xong college. Tôi dốt về kỹ thuật lắm nhưng phải chịu đấm ăn xôi để đem pay cheques về cho vợ nuôi các con. Biết ḿnh sẽ không sống sót lâu trong lănh vực điện toán, tôi túc ta túc tắc lấy courses ban đêm, năm 2002 tôi hoàn tất được cử nhân tâm lư.
Vợ con lúc này cũng khá ổn định về nghề nghiệp và học vấn, tôi xin phép vợ đi tu. May thay, mặc dù là một người Công Giáo gốc, bà hỗ trợ cho việc trở lại con đường tu tập của tôi. Tôi phục vụ cộng đồng một thời gian, và nhờ t́m ṭi nghiên cứu, tôi thấy ḿnh thích hợp với truyền thống nguyên thủy hơn là đại thừa. Tôi khăn gói đi Miến Điện (Myanmar tức nước Burma cũ) thọ tỳ kheo giới bên đó, lưu lại tu học cho đến khi thầy cho phép trở lại quê nhà Canada để trao truyền lại pháp môn thiền định Vipassana theo truyền thống Miến Điện.
Năm 2014, tôi học xong cao học nghành Tôn Giáo và Chính Trị. Năm 2016, tôi nhận được học bổng để theo học PhD Khoa Chính Trị tại Đại Học Carleton. Hiện nay, tôi vừa học vừa dạy về chính trị cho sinh viên năm thứ nhất và năm thứ nh́ cũng tại Đại Học Carleton, Ottawa, Canadahttps://carleton.ca/polisci/people/tan-ngo/
Ngoài ra, tôi cũng đang dạy thiền và Phật pháp cho Phật tử tại chùa Tích Lan. Riêng ngôi chùa Từ Ân là nơi tôi đang sinh hoạt thường xuyên, ngoài việc lo cho phật tử việc kinh kệ và thiền định, tôi c̣n phụ trách việc giảng dạy cho sinh viên và học sinh trung học thường xuyên đến chùa để tham khảo và nghiên cứu về đạo Phật.
Theo Triết học về Tôn giáo (Philosophy of Religion, William L. Rowe, second edition, Wadsworth Publishing, 1993), từ khi có con người, v́ cảm thấy ḿnh quá nhỏ bé, và khiếp sợ thiên nhiên, nên ở đâu cứ thấy núi th́ thờ thần núi, sông th́ thờ thần sông, hễ thấy cái ǵ ngoài tầm hiểu biết th́ cứ thế mà thờ lạy. Tôn giáo v́ thế, không thể tồn tại ngoài con người v́ từ con người mà ra. This exists because that exists.
Trong Phật Giáo có câu “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác,” có nghĩa là ta phải t́m Phật pháp ngay trong cuộc sống của chúng ta, nếu bỏ thế gian này để đi t́m sự giác ngộ th́ chẳng thể nào t́m ra được. Nói đến đạo Phật chúng ta cần phải nghĩ đến cái gọi là Buddhism Engagement, có nghĩa là đạo Phật đi vào cuộc đời. Đạo Phật không thể tồn tại được nếu chúng ta cứ theo một khuôn ṃn lối cũ; đó là ê a tụng niệm kinh kệ bằng tiếng Hán. Đạo Phật cũng không thể phát huy bên Tây phương được nếu cứ nh́n đạo Phật qua một lăng kính mê tín dị đoan.
Đạo Phật rất đơn giản. Sự giác ngộ nằm trong tầm tay của người thực hành, và ngay trong cuộc sống hàng ngày. An lạc và hạnh phúc có mặt chung quanh chúng ta; hàng ngày, hàng giờ chúng ta nh́n nhưng không thấy được chúng. Một Phật tử hỏi tôi “tại sao con cứ khổ hoài trong khi con đi chùa thường xuyên và bố thí nhiều lắm, có phải điều Phật dạy khó thực hành lắm phải không thầy?” Tôi trả lời, chúng ta không làm được điều Phật dạy v́ điều ngài dạy đơn giản quá.
Chúng ta có khuynh hướng đi t́m những điều linh thiêng hay phép mầu từ chư Phật để cầu xin. Phật thua xa David Copperfield, một nhà ảo thuật lớn mà thế giới ai cũng biết tên, v́ ngài không làm được những điều của Copperfield. Ngài không thể ngồi một chỗ búng hay khảy móng tay, móng chân và làm cho chấn động cả tam thiên đại thiên thế giới như chúng ta thường nghe mấy thầy giảng dạy, cho dù có nhiều vị cũng cố giảng nghĩa qua một lăng kính khác, để phật tử nghe dễ chấp nhận hơn. Ngài chỉ thở, nhưng thở từ ngày này qua ngày khác, tháng nọ sang tháng kia, với một sự tỉnh thức trong từng giây phút. Phật đă dạy một con đường đơn giản, nhưng chúng ta không chịu đi, chỉ v́ chúng ta c̣n nhiều ham muốn trong cuộc đời. Nếu có người chịu đi th́ họ lại thiếu kiên nhẫn hay thiếu nỗ lực bỏ dở nửa chừng. Tôi thường nhắc nhở phật tử “đạo Phật là đạo để nếm chứ không phải đạo để nói.”
Có nhiều người nói rất văn hoa, trôi chảy v́ đạo Phật cho họ những điều kiện tốt để họ nói, nào là kinh, luận này luận nọ, nào là duy thức tông, nào là hoa nghiêm tông, nào là thiền tông. Nhưng khi nói động đến họ th́ họ nổi cơn tự ái như một kẻ điên. Mớ lư thuyết của đạo Phật mà họ đọc được tự dưng biến mất, lúc ấy chẳng có ǵ ngoại trừ một cái ngă to tướng…
Tôi nói với những người Phật tử Tích Lan, “Có một cái thước để đo sự tu tập của quư vị. Nếu ai nói động đến quư vị mà quư vị nổi điên lên, hay chỉ một chút bực ḿnh nhỏ, quư vị nên nhận biết là quư vị đă tu sai rồi và phải bắt đầu trở lại từ con số không. Nếu nhận biết ḿnh không hờn giận khi người khác nói động đến ḿnh, đừng tự măn, phải tiếp tục con đường tu tập v́ đường tu tập giống như đi ngược ḍng nước, nhiều chông gai và nặng nề lắm. ”
Nếu các bạn muốn đi t́m một vị thầy để nương tựa tu tập, không cần phải đi t́m một cao tăng, nhưng hăy t́m một thanh tịnh tăng.
luyenchuong3000
09-30-2019, 22:54
https://scontent.ftpa1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/71069384_13547431773 9308_324678893695716 5568_o.jpg?_nc_cat=1 08&_nc_oc=AQklDKqKB-X8dB0em01ABLmIcMpi2v spM23EKBTGxcoh-pyZ9k4zGUNAJw7QdPRSZ nY&_nc_ht=scontent.ftpa 1-1.fna&oh=72d013fa231b5799a 3222e02e264ac86&oe=5E350CEB
(https://www.facebook.com/photo.php?fbid=13547 4314405975&set=a.11006729694667 7&type=3&eid=ARCXJ80Ta3qUkhrM cJPmenQ9l2pSr93ewYgQ vlJaQN0QVU7O03DOwyO5 9_wFASUvM5F2ZeV3YIWn _s43)
Van Nghia Tran (https://www.facebook.com/vannghia.tran.733450 ?__tn__=%2CdCH-R-R&eid=ARDvNUhpdSffn9cf kY1lmxLLiMLQ0ZXe0XWK NfP9nNedSf92QMx87qOo BgluYU3WHY7mpXqjBSod NWSz&hc_ref=ARQvarJTusNDK cj4DnzYi4_YNXcp1E6If DTuDA0nULHk0NG85oUfB PPJ-5XQLa6athA&fref=nf)<a rel="theater" class="_5pcq" href="https://www.facebook.com/photo.php?fbid=13547 4314405975&set=a.11006729694667 7&type=3" target=""><abbr title="04:56, 29/09/2019" class="_5ptz">Hôm qua lúc 04:56</abbr>
50 năm Tao gặp lại Mầy.Sao Mầy vẫn tuổi 20 (1950-1970).
Gặp nhau đây.. không tay bắt mặt mừng mà hai đứa trừng nh́n khô lệ.
50 năm trước mầy thường nói:
'Sống hùng ,sống mạnh khó sống lâu.Một xanh cỏ ,hai đỏ ngực.Tao phải đỏ ngực để chứng tỏ người hùng Mũ Đỏ với người yêu, có huy chương là có tiền cưới vợ.Mầy nhớ xin phép về dự đám cưới của tao cuối năm nhe.'
Mầy muốn đỏ ngực!..Đúng. Mầy đă toại nguyện ...
NGỰC MẦY ĐĂ ĐỎ..ĐỎ banh lồng ngực.ĐỎ cả biên giới Tây Ninh (ViêtMiên) bởi viên đạn pháo vô t́nh rớt ngay hầm dă chiến Quân y.
50 NĂM tao mầy gặp lại với vài chung rượu lạt.; với 1 ổ bánh ḿ vài miếng thịt quay .Nhớ ngày nào hai đứa thèm thuồng ao ước mỗi sáng học thi.
Hăy nhâm nhi đi , chứ sao lặng thinh hoài thế.Tao rửa mặt mày bằng chén rượu t́nh thâm. Sáng ngời rồi mầy thấy rơ tao không.
Đây chén rượu ngày nào quán nhỏ .Rót thật đầy hai đứa chai hia.
Đây miếng thịt ngày nào mơ ước hăy dùng xem có giống hôm nao....
Tao với mầy khác áo chiến binh .Nhưng cận kề như chồng với vợ.
* Chổ bọn tao ở có bọn mầy che chở.
* Lúc nguy khốn bọn tao.... bọn mầy bay đến giải nguy
Khakhakakaka.Có qua có lại mới toại ḷng nhau.
Thôi .. giờ bên nhau đă hết.Bầu trời vần vũ kêu mưa.
Tạm biêt mầy..Hẹn ngày tái ngộ ...gần thôi.
hoanglan22
10-01-2019, 04:55
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1462094&stc=1&d=1569905548
Em bé ngày xưa, nay là Trung Tá Kimberly M. Mitchell
Vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, một em bé 4 tháng tuổi nằm trên xác mẹ trên Đại Lộ Kinh Hoàng; em đang trườn người trên bụng mẹ t́m vú để bú nhưng mẹ đă chết từ bao giờ. Một người lính Quân Cụ chạy ngang, bồng em bé bỏ vào chiếc nón lá rồi chạy qua cầu Mỹ Chánh, trao lại cho một Thiếu úy Thủy Quân Lục Chiến đang hành quân.
Bao năm trôi qua, em bé mồ côi mẹ nay trở thành Trung Tá trong Quân Lực Hoa Kỳ c̣n người Thiếu úy TQLC sang Hoa Kỳ theo diện HO nay đang định cư tại tiểu bang New Mexico. Hai người vừa gặp nhau sau 41 năm bặt vô âm tín. Ngày Thứ Ba 2 tháng 4, 2013 vừa qua, nhân dịp sang California dự lễ cưới, người Thiếu Úy TQLC này đă kể cho phóng viên Viễn Đông câu chuyện cảm động và ly kỳ ngay tại khách sạn nơi ông đang tạm cư ngụ.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1462095&stc=1&d=1569905548
Người Thiếu Úy TQLC tên là Trần Khắc Báo. Vào thời điểm 1972 ông c̣n độc thân và phục vụ tại Đại Đội Vận Tải Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, được biệt phái sang Pḥng 4 của Sư Đoàn làm sĩ quan phụ trách chuyển vận. Vào sáng 1 tháng 5 năm 1972, Thiếu Úy Báo được lệnh cấp trên, cùng một số đồng đội mở cuộc hành quân để giúp di chuyển Tiểu Đoàn 7 TQLC ra khỏi vùng vừa bị thất thủ thuộc tỉnh Quảng Trị v́ một số đông quân nhân bị thất lạc không t́m thấy vị chỉ huy của họ. Ngoài ra, ông cũng xin lệnh giúp di tản các Quân, Dân, Cán, Chính khác đang t́m đường chạy về phía nam sông Mỹ Chánh là nơi quân đội VNCH c̣n đang trấn giữ; ông được cấp trên chấp thuận.
Khi đơn vị ông đến cầu Mỹ Chánh (Quảng Trị) th́ nơi đây là pḥng tuyến cuối cùng của VNCH để ngăn chặn quân Bắc Việt tràn xuống phía Nam. Ông đă chỉ huy 20 quân xa GMC thực hiện cấp tốc cuộc di tản suốt ngày. Đến khoảng 4 hay 5 giờ chiều ông Trần Khắc Báo nh́n thấy thấp thoáng bên kia cầu c̣n một người đang ôm chiếc nón lá thất thểu đi qua với dáng điệu hết sức mỏi mệt. Ông định chạy qua giúp người này nhưng vị Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 TQLC đang trách nhiệm trấn giữ tại đó la lớn:
“Cây cầu tao đă gài ḿn, có thể nổ và sẵn sàng phá hủy khi thấy chiến xa Việt Cộng xuất hiện, đừng chạy qua, mày sẽ bị bỏ lại bên đó không về lại được đâu nghe!”
Ông cố nài nỉ:
“Đại Bàng chờ em một chút, cho em cứu người cuối cùng này.”
Và ông chạy đến đưa người này qua cầu. Thấy người này đi không nổi, thất tha thất thểu mà tay c̣n cố ôm ṿng chiếc nón lá, Thiếu Úy Báo nói đùa:
“Đi không nổi mà c̣n mang theo vàng bạc châu báu ǵ nữa đây cha nội?”
Người ôm ṿng chiếc nón lá nói:
“Em là lính Quân Cụ thuộc Tiểu Khu Quảng Trị, trên đường chạy về đây em thấy cảnh tượng hết sức thương tâm này, mẹ nó đă chết từ bao giờ không biết và nó đang trườn ḿnh trên bụng mẹ nó t́m vú để bú, em cầm ḷng không được nên bế nó bỏ vào chiếc nón lá mang đến đây trao cho Thiếu Úy, xin ông ráng cứu nó v́ em kiệt sức rồi, không thể đi xa được nữa và cũng không có cách ǵ giúp em bé này.”
Nói xong anh ta trao chiếc nón lá có em bé cho thiếu úy Báo.
Ngừng một chút, ông Báo nói với chúng tôi:
“Ḿnh là người lính VNCH, ḿnh đă được huấn luyện và thuộc nằm ḷng tinh thần ‘Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm’ nên lúc đó tôi nghĩ trách nhiệm của ḿnh là lo cho dân nên tôi nhận đứa bé và nói với người lính Quân Cụ: ‘Thôi được rồi, để tôi lo cho nó, c̣n anh, anh cũng lo cho sức khỏe của anh, lên GMC đi để chúng tôi đưa anh về vùng an toàn.’”
Sau đó, người sĩ quan TQLC ôm em bé leo lên chiếc xe Jeep chạy về Phong Điền, cách đó khoảng 20 cây số. Trên đường đi, ông Báo cảm thấy rất bối rối v́ em bé khóc không thành tiếng v́ đói, khát mà ông th́ c̣n là một thanh niên trẻ (lúc đó mới 24 tuổi) chưa có kinh nghiệm ǵ nên ông hỏi người tài xế, bây giờ phải làm sao? Người tài xế tên Tài trả lời:
“Ông thầy cho nó bú đi! Ông thầy không có sữa th́ lấy bi đông nước chấm đầu ngón tay vào nước để vào miệng nó cho nó bú.”
Ông Báo làm theo lời chỉ và em bé nín khóc rồi nằm im cho đến khi ông đưa em vào Pḥng Xă Hội của Lữ Đoàn TQLC. Tại đây, gặp Thiếu tá Nhiều, Trưởng Pḥng 4 TQLC, ông trao em bé cho Thiếu tá Nhiều và nói:
“Thiếu tá, tôi có lượm một em bé ngoài mặt trận, xin giao cho Thiếu tá.”
Ông này nh́n ông Báo cười và nói:
“Mày đi đánh giặc mà c̣n con rơi con rớt tùm lum!”
Ông Báo thanh minh:
“Không! Tôi lượm nó ngoài mặt trận; nó đang nằm trên xác mẹ nó.” Thiếu tá Nhiều bảo:
“Thôi, đem em bé giao cho Pḥng Xă Hội để họ làm thủ tục lo cho nó.” Sau đó, ông Báo đưa em bé cho một nữ quân nhân phụ trách xă hội. Cô này nói với ông:
“Thiếu úy giao th́ Thiếu úy phải có trách nhiệm, v́ em bé này ở ngoài mặt trận th́ Thiếu úy phải cho nó cái tên và tên họ Thiếu úy nữa để sau này nó biết cội nguồn của nó mà t́m.”
Lúc đó, ông c̣n độc thân nhưng trong thâm tâm ông vốn nghĩ rằng sau này khi ông cưới vợ, nếu có con gái ông sẽ đặt tên là Bích, nếu con trai ông sẽ đặt tên là Bảo, nên sau khi nghe người nữ quân nhân nói, ông Báo đặt ngay cho em bé cái tên là Trần Thị Ngọc Bích.
Sau đó ông trở về đơn vị và cuộc chiến ngày càng trở nên khốc liệt cho tới tháng 3/1975, đơn vị ông bị thất thủ cùng Lữ Đoàn 2 TQLC ở Huế và ông Báo bị bắt làm tù binh. Măi đến năm 1981 ông được thả về. Tháng 9/1994 ông được sang định cư tại thành phố Albuqueque, tiểu bang New Mexico…
EM BÉ MỒ CÔI GẶP MAY MẮN
Em bé Trần Thị Ngọc Bích được Pḥng Xă Hội Sư Đoàn TQLC đem đến Cô Nhi Viện Thánh Tâm Đà Nẵng giao cho các D́ Phước chăm sóc. Số hồ sơ của em là 899.
Một hôm có ông Trung Sĩ Hoa Kỳ thuộc binh chủng Không Quân phục vụ tại phi trường Đà Nẵng tên là James Mitchell vô Cô Nhi Viện xin nhận một trong các em tại đây làm con nuôi. Em Trần Thị Ngọc Bích may mắn lọt vào mắt xanh của ông James Mitchell và trở thành thành viên của gia đ́nh này từ đó đến nay.
Sau khi rời khỏi binh chủng Không Quân, ông James Mitchell trở về Hoa Kỳ vào cuối năm 1972. Ông quyết định mang theo đứa con nuôi Trần Thị Ngọc Bích, lúc đó em mới được 6 tháng.
Hai ông bà Mitchell đặt tên Mỹ cho em là Kimberly Mitchell. Em ở tại trang trại của gia đ́nh tại Solon Springs, tiểu bang Wisconsin. Kimberly Mitchell lớn lên tại đây và được bố mẹ nuôi rất thương yêu, coi như con ruột. Em được đi học, tham gia thể thao và vào hội thanh niên. Lớn lên em vừa đi học vừa phụ giúp cha mẹ nuôi ḅ và làm phó mát. Cái tên Trần Thị Ngọc Bích đă bị quên lăng từ đó, và Kimberly Mitchell cho biết, mỗi khi nghe ai nói ǵ về Việt Nam, cô thường tự hỏi, Việt Nam là đâu nhỉ?
Khi đă có trí khôn, Kimberly Mitchell nhận thấy ḿnh không phải người Mỹ như bố mẹ, không phải con lai, không phải người Tàu. Cô không biết ḿnh là người nước nào và cứ mang cái thắc mắc đó măi mà không ai có thể trả lời cho cô.
Một hôm, Kimberly Mitchell đánh bạo hỏi bố:
“Con muốn biết con người ǵ, nguồn gốc con ở đâu? Tại sao con lại là con bố mẹ?”
Bố nuôi James giải thích cho cô:
“Con là người Việt Nam, bố mẹ xin con từ trong viện mồ côi ở Đà Nẵng, Việt Nam. Nếu con muốn t́m nguồn cội của con, con có thể về Đà Nẵng, may ra t́m được tông tích của gia đ́nh con.”
Ngay từ khi Kimberly c̣n học lớp ba, bố nuôi em đă muốn sau này cho Kimberly gia nhập Không Quân nhân khi cô được chọn tham dự hội thảo về
nghệ thuật lănh đạo dành cho những học sinh xuất sắc. Nhưng rồi định mệnh xui khiến, cô lại theo Hải Quân. Trong thời gian theo học, Kimberly Mitchell phải bỏ học một năm v́ bố nuôi qua đời năm 1991 trong một tai nạn tại trang trại của gia đ́nh. Sau đó cô trở lại trường và tiếp tục học. Năm 1996 cô tốt nghiệp Cơ Khí Hàng Hải và phục vụ trong Hải Quân Hoa Kỳ và hiện nay mang cấp bậc Trung Tá, Phó Giám Đốc Văn Pḥng Trợ Giúp Quân Nhân và Thân Nhân tại Ngũ Giác Đài.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1462097&stc=1&d=1569905548
Trung Tá Kimberly Mitchell
Năm 2011, Kimberly Mitchell trở về cố hương với tư cách một nữ Trung Tá Hải Quân, Quân Lực Hoa Kỳ, mong gặp lại người thân. Đến Viện Nuôi Trẻ Mồ Côi Thánh Tâm ở Đà Nẵng, cô may mắn gặp được Sơ Mary, người tiếp nhận cô năm 1972 từ một nữ quân nhân Pḥng Xă Hội Sư Đoàn TQLC. Giây phút thật cảm động, nhưng Kimberly chỉ được Sơ Mary cho biết:
“Lúc người ta mang con tới đây, con mới có 4 tháng và họ đặt tên con là Trần Thị Ngọc Bích. Họ nói mẹ con đă chết trên Đại Lộ Kinh Hoàng, con được một người lính VNCH cứu đem đến đây giao cho Cô Nhi Viện rồi đi mất, v́ lúc đó chiến tranh tàn khốc lắm.”
Kimberly không biết ǵ hơn và cô quay trở lại Mỹ. Sau khi đă biết ḿnh là người Việt Nam, thỉnh thoảng cô viết trên website câu chuyện của ḿnh.
GẶP LẠI CỐ NHÂN
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1462096&stc=1&d=1569905548
ông Trần Khắc Báo trong ngày hội ngộ
Ông Trần Khắc Báo đưa cho chúng tôi xem một số h́nh ảnh, một số báo tiếng Việt và mấy tờ báo tiếng Anh đăng h́nh cuộc gặp gỡ giữa gia đ́nh ông và cô Trần Thị Ngọc Bích, và nói:
“Sau khi ra tù Việt Cộng, tôi cũng cố t́m hiểu xem em bé Trần Thị Ngọc Bích nay ra sao, kể cả người lính Quân Cụ năm xưa, nhưng tất cả đều bặt vô âm tín. Một hôm t́nh cờ tôi đọc được một bài viết của tác giả Trúc Giang trên tờ Việt Báo Hải Ngoại số 66 phát hành tại New Jersey, tác giả kể lại câu chuyện đi Mỹ của một em bé trong cô nhi viện Đà Nẵng mang tên Trần Thị Ngọc Bích. Đọc xong tôi rất xúc động pha lẫn vui mừng, v́ có thể 80, 90% cô Ngọc Bích đó là do ḿnh cứu và đặt tên cho cô.”
Sau đó, ông nhờ người bạn tên là Đào Thị Lệ làm việc trong New York Life, có chồng người Mỹ và có em cũng ở trong Hải Quân Hoa Kỳ, liên lạc t́m kiếm Mitchell. Và chính cô Đào Thị Lệ là người đầu tiên trực tiếp nói chuyện với Trần Thị Ngọc Bích đang làm việc tại Ngũ Giác Đài.
Theo ông nghĩ, có thể cô Mitchell bán tín bán nghi, không biết chuyện này có đúng không hay là chuyện “thấy người sang bắt quàng làm họ” như ông cha ḿnh thường nói. Nhưng sau khi nói chuyện với ông Trần Khắc Báo, Mitchell quyết định tổ chức một cuộc hội ngộ trước các cơ quan truyền thông. Cô xin phép đơn vị và mời được 7 đài truyền h́nh cùng một số phóng viên báo chí từ Washington, D.C cũng như nhiều nơi về tham dự.
Cuộc hội ngộ, theo ông Báo cho biết, hoàn toàn do cô Kimberly Mitchell quyết định, địa điểm là trụ sở Hội Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia New Mexico vào Thứ Sáu, ngày 29.8.2012. Cô đến phi trường vào tối Thứ Năm 28.8, gia đ́nh ông Báo ngỏ ư ra phi trường đón nhưng cô cho cô Đào Thị Lệ biết là cô không muốn gia đ́nh đón ở phi trường cũng như đưa vào khách sạn. Cô muốn dành giây phút thật cảm động và ư nghĩa này trước mặt mọi người, đặc biệt là trước mặt các cơ quan truyền thông, và cô muốn ông Báo mặc bộ quân phục TQLC như khi ông tiếp nhận cô đưa đến Pḥng Xă Hội Sư Đoàn TQLC cách nay 41 năm.
GIÂY PHÚT XÚC ĐỘNG
Gia đ́nh ông Trần Khắc Báo gồm vợ và con gái cùng có mặt. Khi ông Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia hỏi cô Kimberly Mitchell:
“Cô đến đây t́m ai?”
Cô trả lời:
“Tôi muốn t́m ông Trần Khắc Báo.”
Vị Chủ Tịch quay sang ông Báo đang mặc quân phục và giới thiệu:
“Đây là ông Trần Khắc Báo.”
Lập tức, Kimberly Mitchell Trần Thị Ngọc Bích tiến lại ôm lấy ông Báo và cả hai cùng khóc nức nở.
Giây phút xúc động qua đi, cô Kimberly hỏi ông Trần Ngọc Báo:
“Ông là người đă cứu mạng tôi, tôi mới có ngày hôm nay; tôi xin cám ơn ông, và bây giờ ông muốn ǵ ở tôi?”
Ông Trần Khắc Báo nói :
“Thực sự bây giờ tôi chỉ muốn cô nói với tôi một lời bằng tiếng Việt, cô hăy kêu tôi là “Tía”. V́ tất cả các con tôi đều gọi tôi bằng Tía, tôi xem cô cũng như con tôi, tôi chỉ mong điều đó.”
Và Kimberly Mitchell đã gọi “Tía”.
Ông nói với chúng tôi:
“Bấy giờ tôi thực sự măn nguyện.”
Trả lời các câu hỏi của chúng tôi, ông Trần Khắc Báo cho biết, cô Kimberly chưa lập gia đ́nh và cô có hứa sẽ thường xuyên liên lạc với gia đ́nh ông. Ông có nhắc cô Kimberly điều này, rằng cô không phải là đứa trẻ bị bỏ rơi. Cô đă được những người lính VNCH có tinh thần trách nhiệm cứu sống trên bụng mẹ cô đă chết, và chính ông đă đặt tên cho cô là Trần Thị Ngọc Bích. Ông cũng mong rằng sau này, cô có thể trở lại Quảng Trị, may ra có thể t́m ra tung tích cha cô hoặc người thân của ḿnh. Ông Trần Khắc Báo cũng cho biết, ông mất liên lạc với người lính Quân Cụ từ lúc hai người giao nhận đứa bé đến nay.
Trong cuộc hội ngộ, trả lời câu hỏi của các phóng viên Hoa Kỳ, nữ Trung Tá Kimberly Mitchell cho biết, cô có hai cái may. Cái may thứ nhất là cô được t́m thấy và mang tới trại mồ côi. Cái may thứ hai là được ông bà James Mitchell bước vào trại mồ côi và nói với các Sơ rằng, ông muốn nhận em bé này làm con nuôi.”
Câu chuyện sau 41 năm kết thúc tốt đẹp, cô Trần Thị Ngọc Bích đúng là viên ngọc quư trên Đại Lộ Kinh Hoàng như ư nguyện của người đă cứu mạng em, v́ chính cô đă làm vẻ vang cho dân tộc Việt khi cố gắng học hành để trở nên người lănh đạo xuất sắc trong Quân Lực Hoa Kỳ, một quân lực hùng mạnh vào bậc nhất thế giới.
Người quân nhân binh chủng Quân Cụ và người sĩ quan TQLC Trần Khắc Báo đă thể hiện tinh thần của một quân nhân Quân Lực VNCH, luôn đặt Tổ Quốc – Danh Dự và Trách Nhiệm trên hết.
THANH PHONG
https://scontent.ftpa1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/71069384_13547431773 9308_324678893695716 5568_o.jpg?_nc_cat=1 08&_nc_oc=AQklDKqKB-X8dB0em01ABLmIcMpi2v spM23EKBTGxcoh-pyZ9k4zGUNAJw7QdPRSZ nY&_nc_ht=scontent.ftpa 1-1.fna&oh=72d013fa231b5799a 3222e02e264ac86&oe=5E350CEB
(https://www.facebook.com/photo.php?fbid=13547 4314405975&set=a.11006729694667 7&type=3&eid=ARCXJ80Ta3qUkhrM cJPmenQ9l2pSr93ewYgQ vlJaQN0QVU7O03DOwyO5 9_wFASUvM5F2ZeV3YIWn _s43)
Van Nghia Tran (https://www.facebook.com/vannghia.tran.733450 ?__tn__=%2CdCH-R-R&eid=ARDvNUhpdSffn9cf kY1lmxLLiMLQ0ZXe0XWK NfP9nNedSf92QMx87qOo BgluYU3WHY7mpXqjBSod NWSz&hc_ref=ARQvarJTusNDK cj4DnzYi4_YNXcp1E6If DTuDA0nULHk0NG85oUfB PPJ-5XQLa6athA&fref=nf)<a rel="theater" class="_5pcq" href="https://www.facebook.com/photo.php?fbid=13547 4314405975&set=a.11006729694667 7&type=3" target=""><abbr title="04:56, 29/09/2019" class="_5ptz">Hôm qua lúc 04:56</abbr>
50 năm Tao gặp lại Mầy.Sao Mầy vẫn tuổi 20 (1950-1970).
Gặp nhau đây.. không tay bắt mặt mừng mà hai đứa trừng nh́n khô lệ.
50 năm trước mầy thường nói:
'Sống hùng ,sống mạnh khó sống lâu.Một xanh cỏ ,hai đỏ ngực.Tao phải đỏ ngực để chứng tỏ người hùng Mũ Đỏ với người yêu, có huy chương là có tiền cưới vợ.Mầy nhớ xin phép về dự đám cưới của tao cuối năm nhe.'
Mầy muốn đỏ ngực!..Đúng. Mầy đă toại nguyện ...
NGỰC MẦY ĐĂ ĐỎ..ĐỎ banh lồng ngực.ĐỎ cả biên giới Tây Ninh (ViêtMiên) bởi viên đạn pháo vô t́nh rớt ngay hầm dă chiến Quân y.
50 NĂM tao mầy gặp lại với vài chung rượu lạt.; với 1 ổ bánh ḿ vài miếng thịt quay .Nhớ ngày nào hai đứa thèm thuồng ao ước mỗi sáng học thi.
Hăy nhâm nhi đi , chứ sao lặng thinh hoài thế.Tao rửa mặt mày bằng chén rượu t́nh thâm. Sáng ngời rồi mầy thấy rơ tao không.
Đây chén rượu ngày nào quán nhỏ .Rót thật đầy hai đứa chai hia.
Đây miếng thịt ngày nào mơ ước hăy dùng xem có giống hôm nao....
Tao với mầy khác áo chiến binh .Nhưng cận kề như chồng với vợ.
* Chổ bọn tao ở có bọn mầy che chở.
* Lúc nguy khốn bọn tao.... bọn mầy bay đến giải nguy
Khakhakakaka.Có qua có lại mới toại ḷng nhau.
Thôi .. giờ bên nhau đă hết.Bầu trời vần vũ kêu mưa.
Tạm biêt mầy..Hẹn ngày tái ngộ ...gần thôi.
Bài Thơ Của Một Anh Thương Binh... Cay Đắng, Ngậm Ngùi!
https://i.postimg.cc/0NLtzT62/th-ng-binh.jpg (https://postimages.org/)
Tao bị thương hai chân,
Cưa ngang đầu gối !
Vết thương c̣n nhức nhối.
Da non kéo chưa kịp lành...
Ngày " Giải phóng Miền nam "
Vợ tao " Ẵm " tao như một đứa trẻ sơ sanh...!
Ngậm ngùi rời " Quân-Y-Viện "
Trong ḷng tao chết điếng,
Thấy người lính Miền bắc mang khẩu súng AK !
Súng " Trung cộng " hay súng của " Nga " ?
Lúc này tao đâu cần chi để biết.
Tao chiến đấu trên mảnh đất tự do Miền nam
-Nước Việt,
Mang chữ " NGỤY " thương binh.
Nên " Người anh,em phía bên kia..."
Đối xử với tao không một chút thân t́nh...!
Mày biết không !
Tao t́m đường về quê nh́n không thấy ánh b́nh minh.
Vợ tao: Như " Thiên thần" từ trên trời rơi xuống...
Nh́n hai đứa con ngồi trong căn cḥi gió cuốn,
Bụi đất đỏ mù bay !
Tao thương vợ tao yếu đuối chỉ có hai tay,
Làm sao " Ôm " nổi bốn con người trong cơn gíó lốc.
Cái hay là: Vợ tao giấu đi đâu tiếng khóc.
C̣n an ủi cho tao, một thằng lính què !
Tao đóng hai cái ghế thấp, nhỏ bằng tre,
Làm "Đôi chân" ngày ngày đi lại
Tao quét nhà; nấu ăn; giặt quần; giặt áo...
Cho heo ăn thật là "Thoải mái" !
Lê lết ra vườn: Nhổ cỏ, bón phân
Đám bắp vợ chồng tao trồng xanh tươi
Bông trổ trắng ngần !
Lên liếp trồng rau, thân tàn tao làm nốt.
Phụ vợ đào ao sau vườn, rồi thả nuôi cá chốt.
Đời lính gian nan sá ǵ chuyện gíó sương...
Xưa, nơi chiến trường
Một thời ngang dọc.
Cụt hai chân. Vợ tao hay tin nhưng không "Buồn khóc"!
Vậy mà bây giờ...
Nh́n tao...nuớc mắt bả....rưng rưng !
Lâu lắm, tao nhớ mầy qúa chừng.
Kể từ ngày, mày "Được đi Cải tạo"!
Hàng thần lơ láo - Xa xót cảnh đời...
Có giúp được ǵ cho nhau đâu khi:
Tất cả đều tả tơi !
Rồi đến mùa "H.O"
Mầy đi tuốt tuột một hơi.
Hơn mười mấy năm trời...
Không thèm quay trở lại
Kỷ niệm đời Chiến binh
Một thời xa ngái.
Những buổi chiều ngồi hóng gió nhớ...buồn hiu !
Mai mốt mầy có về thăm lại Việt nam
Mầy sẽ là "Việt kiều"!
C̣n "Yêu nước" hay không - Mặc kệ mầy.
Tao đếch biết !
Về, ghé nhà tao.Tao vớt cá chốt lên chưng với tương...
C̣n rượu đế tự tay tao nấu
Cứ thế, hai thằng ḿnh uống cho đến...điếc !
Trang Y Hạ
trungthu
10-01-2019, 22:44
Bài Thơ Của Một Anh Thương Binh... Cay Đắng, Ngậm Ngùi!
https://i.postimg.cc/0NLtzT62/th-ng-binh.jpg (https://postimages.org/)
Tao bị thương hai chân,
Cưa ngang đầu gối !
Vết thương c̣n nhức nhối.
Da non kéo chưa kịp lành...
Ngày " Giải phóng Miền nam "
Vợ tao " Ẵm " tao như một đứa trẻ sơ sanh...!
Ngậm ngùi rời " Quân-Y-Viện "
Trong ḷng tao chết điếng,
Thấy người lính Miền bắc mang khẩu súng AK !
Súng " Trung cộng " hay súng của " Nga " ?
Lúc này tao đâu cần chi để biết.
Tao chiến đấu trên mảnh đất tự do Miền nam
-Nước Việt,
Mang chữ " NGỤY " thương binh.
Nên " Người anh,em phía bên kia..."
Đối xử với tao không một chút thân t́nh...!
Mày biết không !
Tao t́m đường về quê nh́n không thấy ánh b́nh minh.
Vợ tao: Như " Thiên thần" từ trên trời rơi xuống...
Nh́n hai đứa con ngồi trong căn cḥi gió cuốn,
Bụi đất đỏ mù bay !
Tao thương vợ tao yếu đuối chỉ có hai tay,
Làm sao " Ôm " nổi bốn con người trong cơn gíó lốc.
Cái hay là: Vợ tao giấu đi đâu tiếng khóc.
C̣n an ủi cho tao, một thằng lính què !
Tao đóng hai cái ghế thấp, nhỏ bằng tre,
Làm "Đôi chân" ngày ngày đi lại
Tao quét nhà; nấu ăn; giặt quần; giặt áo...
Cho heo ăn thật là "Thoải mái" !
Lê lết ra vườn: Nhổ cỏ, bón phân
Đám bắp vợ chồng tao trồng xanh tươi
Bông trổ trắng ngần !
Lên liếp trồng rau, thân tàn tao làm nốt.
Phụ vợ đào ao sau vườn, rồi thả nuôi cá chốt.
Đời lính gian nan sá ǵ chuyện gíó sương...
Xưa, nơi chiến trường
Một thời ngang dọc.
Cụt hai chân. Vợ tao hay tin nhưng không "Buồn khóc"!
Vậy mà bây giờ...
Nh́n tao...nuớc mắt bả....rưng rưng !
Lâu lắm, tao nhớ mầy qúa chừng.
Kể từ ngày, mày "Được đi Cải tạo"!
Hàng thần lơ láo - Xa xót cảnh đời...
Có giúp được ǵ cho nhau đâu khi:
Tất cả đều tả tơi !
Rồi đến mùa "H.O"
Mầy đi tuốt tuột một hơi.
Hơn mười mấy năm trời...
Không thèm quay trở lại
Kỷ niệm đời Chiến binh
Một thời xa ngái.
Những buổi chiều ngồi hóng gió nhớ...buồn hiu !
Mai mốt mầy có về thăm lại Việt nam
Mầy sẽ là "Việt kiều"!
C̣n "Yêu nước" hay không - Mặc kệ mầy.
Tao đếch biết !
Về, ghé nhà tao.Tao vớt cá chốt lên chưng với tương...
C̣n rượu đế tự tay tao nấu
Cứ thế, hai thằng ḿnh uống cho đến...điếc !
Trang Y Hạ
Đọc bài thơ Trang-Y-Hạ....như thấy tim ḿnh đang chảy máu....:112::112::11 2::thankyou::thankyo u::thankyou:
florida80
10-02-2019, 00:48
So sad . Thanks for sharing with us .
hoanglan22
10-09-2019, 14:13
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1466201&stc=1&d=1570630275
Công ty tôi đang làm nằm trên con đường Mirama Road, sát nách một phi trường lớn của Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ, nên bắt buộc mỗi ngày tôi phải đi và về trên con đường này. Và ngày nào cũng vậy, lộ tŕnh của tôi đều đi qua khu bảo tàng Không Quân chứa đầy các loại phi cơ, từ thời có lỗ sĩ, từ thời tôi chưa được sinh ra trên cơi đời, cho đến những chiếc phi cơ của thời Đệ Nhị Thế Chiến và thời chiến tranh Việt Nam.
Cái khu bảo tàng này lại nằm sát đường chỉ cách một cái hàng rào bằng lưới chống B-40 (chain link fence). Mỗi lần đi qua khu vực này, tôi đều lái xe chậm lại và không khỏi liếc nh́n vào đó dù tôi đă quá quen thuộc với những loại phi cơ đang nằm phơi trên băi đậu.
Từ những chiếc Avia B 534, Bell P-39 Airacobra từ những năm 1934…đến những chiếc Gruman Hellcat hay Bearcat, những chiếc F-5, Skyraider cho đến những chiếc trực thăng trái chuối CH-46 đầu tiên, H-34 nặng nề, chiếc UH1, Cobra …và cả chiếc L-19 Bird Dog mong manh rất quen thuộc với tôi. Ngoài ra mỗi ngày tôi c̣n phải nghe tiếng gầm rú của các loại phi cơ chiến đấu cất cánh và hạ cánh mỗi giờ, những ngày không khí ẩm thấp, tiếng cánh quạt của nhiều loại trực thăng nặng nề vang dội trên đầu đă thực sự gây cho tôi nhiều ấn tượng nhất.
V́ đó là những tiếng động đă quá quen thuộc với tôi hầu như đă tiềm ẩn trong trí nhớ tôi và không thể xóa nó đi được dù 37 năm đă trôi qua kể từ khi tôi giă từ cái nghiệp lính.
Năm nay tôi đă bước vào tuổi 75, vẫn phải đi làm, ngoài việc tiếp tục kiếm sống qua ngày trên mảnh đất tạm dung nầy, c̣n để ngăn ngừa sự thoái hóa của bộ óc càng ngày càng già nua …để rồi hủy hoại hết những điều cần phải nhớ. Tuổi già th́ thường hay nói nhiều, nhớ nhiều về dĩ văng. Thật ra con cháu tôi, chúng cũng thông cảm v́ giờ đây tương lai của tôi, chỉ là đang bước dần tôi trạm cuối cùng, là cái nghĩa trang lạnh lùng nào đó.
Tôi là một người lính sống sót sau 15 năm khói lửa, 13 năm tù đày trong các trại tù khổ sai của cộng sản việt nam từ Bắc chí Nam, từ trại kỷ luật đến xà lim Chí Ḥa. Thử hỏi cuộc đời của tôi c̣n lại ǵ ?
Cái gia tài của người lính như tôi c̣n lại há không phải là quá khứ của 15 năm trong quân đội hay sao? 15 năm trong một đời người như chúng ta, những người lính đă sống qua cuộc chiến ác liệt, đầy máu và nước mắt, vinh có nhục có và đôi khi buồn nhiều hơn vui, dù muốn quên cũng khó quên.
Ngay từ những năm đầu ở Trung Học, tôi đă rất ngưỡng mộ Không Quân dù chỉ qua h́nh ảnh của các anh phi công Mỹ, Pháp và Anh trong thời kỳ Thế Chiến thứ hai và trong thời gian chiến tranh Việt Nam vào những năm 50. Sau này khi bước chân vào bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp tôi đă có ư định sau khi tốt nghiệp Trung Học tôi sẽ xin gia nhập vào Không Quân Việt Nam. Những mộng không thành v́ khi khám sức khỏe ở Bệnh Viện Cộng Ḥa tôi mới phát giác ra là thị lực của con mắt phải của tôi chỉ có 7/10. Thế là vỡ mộng, nh́n bạn bè rộn ràng lên đường gia nhập Quân Chủng Không Quân mà thấy tủi thân. Cuối cùng đành phải chấp nhận cái thân phận chui bờ chui bụi của cái lính đánh trộm là Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. May cũng nhờ quen thuộc lối đánh trộm (đôi khi chúng tôi cũng ăn trộm được nhiều kho vũ khí và lương thực của địch) nên cũng có chút tiếng tăm và chiến công góp phần với các quân binh chủng bạn, đă làm cho kẻ địch suy yếu. Nhưng nếu nói đến cái đơn vị bé tí teo và những chiến tích mà chúng tôi đă lập được cũng nhờ những đôi cánh thép, như một thứ bùa hộ mạng, như cái ô dù che chở trên đầu chúng tôi. Những đôi cánh thép đă mang chúng tôi đi hầu hết các chiến trường (ngoại trừ vùng IV chiến thuật v́ lính BCD 81 không biết bơi).
Đă bao lần không quản ngại trước lưới lửa pḥng không của địch tua tủa như pháo bông để mang chúng tôi và xác đồng đội ra khỏi vùng vây địch. Qua hàng trăm cuộc hành quân, những đôi cánh thép đă mặc nhiên như gắn ngay sau lưng chúng tôi, đă chắp cho chúng tôi đôi cánh thép. Đơn vị của chúng tôi đă gắn liền với Quân Chủng Không Quân của các bạn.
Xin cho chúng tôi được hân hạnh nhận các chiến hữu Không Quân là bạn để dễ bể tâm sự và để nói hết những điều cần nói sau 37 năm dài. V́ không nói ra lúc này sẽ không có dịp nào để nói, giữa chúng ta từ lâu đă cư xử với nhau rất mực huynh đệ chi binh, nhưng cũng đầy hào khí giang hồ. Tôi sẽ không nhắc lại những chiến công oanh liệt của các bạn hay của chúng tôi. Tôi chỉ muốn nhắc lại những người đi vào chiến tranh với dáng vẻ hào hoa phong nhă, lúc nào quân phục cũng sạch bóng, trang bị nhẹ nhàng không giống như đám chúng tôi bao giờ cũng vậy hễ xuất quân là quần áo rằn ri, lôi thôi lếch thếch…nào là ba lô, súng ngắn, súng dài, giây nhợ quanh người, lựu đạn lủng lẳng đằng truớc, đằng sau. Mỗi lần được bốc ra khỏi vùng hành quân th́ ôi thôi khỏi nói, dù có yêu tôi cách mấy cũng chỉ đúng xa mà chào mừng chứ chưa ai dám ôm hôn tôi thắm thiết. Mười lăm ngày hay một tháng luồn lách qua bờ bụi, lên xuống đồi núi dưới cái nắng nóng ẩm, mồ hôi rơi xuống mờ cả mắt lau không kịp. Bộ đồ trận lúc nào cũng đẫm ướt mồ hôi nhiều khi chẩy theo hai bắp chân xuống đôi giày đi rừng.
Đêm nằm trên chiếc poncho gấp đôi, mồ hôi vẫn c̣n đọng ướt cả lưng. Cứ như thế ngày này sang ngày khác, bộ đồ trận ướt rồi khô, bao nhiêu mùi hôi đều thấm sâu vào vải áo quần. May mắn lắm mới qua được một con suối c̣n lại chút nước, vội vàng múc cho đầy 2 bị đông nước, xong cùng nhảy xuống hụp cho ngập đầu rồi lại tiếp tục đi.
Ấy là những ngày không chạm địch, c̣n có thời gian ngồi xuống để thay một đôi vớ đă bốc mùi khó chịu. Những lần chạm địch th́ coi như được phép quên đi những khó chịu hàng ngày, quên đi ḿnh đă chưa ăn ǵ suốt một ngày qua, đă chưa uống một ngụm nước. Tàn cuộc thằng hay thua, lúc ấy mới biết ḿnh c̣n đủ mồm miệng để ăn vội bọc cơm xấy. C̣n các bạn tôi thật khỏe, ngồi trong buồng lái tha hồ tung hoành ngang dọc, hết phi vụ quay về phi trường, đi thẳng vào Câu Lạc. Bộ làm một ly cà phê đá, khỏe re trong lúc chờ cho các chuyên viên “check” tàu, tái trang bị bom đạn, “rocket” để chờ phi vụ tiếp theo.
Chưa nói đến vài ngày chúng tôi được xả hơi sau mỗi cuộc hành quân, cởi được bộ đồ hôi hám, thay vào một bộ quân phục mới để cùng xuống phố phường uống vài chai “33”cho đă bù lại những ngày phải uống nước sông nước suối. Nhưng nếu có xuống phố hay buổi tối tạt vào một tiệm nhảy nào lại đụng mấy bạn, và bao giờ chúng tôi cũng lép vế, lép về về đủ mọi phương diện. Đôi khi có một tí t́nh c̣m để an ủi những hễ chấm được cô nào vừa ư là y như rằng đă có một ông Không Quân nào sắp sửa rước đi rồi !!!
Nói cho vui vậy thôi chớ vội cho rằng chúng tôi đả kích các bạn nhé, thua th́ thua rồi. Xưa c̣n trẻ đă không thắng các bạn, nay đầu đă bạc, chân mỏi gối ṃn, hơi sức đâu mà ganh với đua . Trước khi nhắc lại những kỷ niệm đă qua, xin cho tôi nhắc lại một câu chuyện sau.
Vào tháng 1 năm 1975 khi Biệt Đoàn chúng tôi được lệnh tăng viện cho Tiểu Khu Phước Long, lúc này đang bị trên một sư đoàn địch vây hăm, các đơn vị địa phương hầu như đă tan hàng. Nói là Biệt Đoàn nhưng thật ra chỉ có 2 Biệt Đội 811, 814 và Bộ Chỉ Huy, tổng cộng khoảng 320 nguời. Không Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân là đơn vị yểm trợ và đổ quân, dưới cơn mưa pháo 105 ly, 155 ly, hỏa tiễn 122 ly và súng cối, các phi đoàn trực thăng đă hoàn thành nhiệm vụ một cách phi thường với tổn thất không đáng kể.
Đích thân Chỉ Huy Trưởng của tôi, cựu Đ/Tá Phan Văn Huấn và Đ/Tá Triệu đă trực tiếp chỉ huy cuộc đổ quân. Nh́n từ trên trực thăng xuống thị xă Phước Long tôi nghĩ khó mà đáp được v́ cả thị xă ngập trong khói lửa của đủ loại pháo chưa kể hỏa lực pḥng không của địch tua tủa bắn lên đây trời với đủ loại từ đại liên 50,súng cá nhân, 23 ly và 37 ly. Tiếng đạn pháo nổ dưới đất cộng tiếng các loại pḥng không nổ ngang trời nhắm vào các phi tuấn A-37 va F-5 đang cố thả những trái bom và bắn rocket yểm trợ cho cuộc đổ quân vang rền cả một vùng trời.
Tôi chỉ c̣n trông cậy vào tài bay bổng của các bạn đưa tôi an toàn xuống đất, chỉ cần chúng tôi đặt được chân xuống đất, dù chưa biết sau đó sẽ ra sao. Và thật như một phép lạ, cả hai lần đổ quân đều trót lọt, tất cả đều nhờ tài khôn ngoan của phi hành đoàn. Thay v́ đáp ngay xuống thị xă, các phi hành đoàn của Không Đoàn 43 Chiến Thuật đă đáp xuống cạnh các khe suối cạnh thị xă, là những nơi khuất tầm quan sát của các tiền sát viên địch. Địch đă bố trí quanh khu vực Phước Long một trung đoàn pḥng không với đủ mọi loại súng từ 12 ly 8 đến 23 ly và 37 ly. Tiền sát viên của địch ở khắp nơi, nhất là đỉnh núi Bà Rá đă bị địch chiếm mấy ngày trước. Biệt Đoàn I Chiến Thuật của tôi chỉ gồm có Bộ Chỉ Huy và 2 Biệt Đội (Biệt Đoàn -), không quá 300 người. Lực lượng trú pḥng của Tiểu Khu Phước Long và các đơn vị tăng phái không c̣n bao nhiêu.
Tiểu Đoàn 7 thuộc Trung Đoàn 9 của Sư Đoàn 5 chỉ c̣n không quá 100, Đại Đội 5 Trinh Sát, Sư Đoàn 5 chỉ c̣n hơn 10 người đă dạt vào đơn vị tôi, Đại Đội Trinh Sát Sư Đoàn 18 Bộ Binh c̣n Đại Đội Trưởng và hơn một trung đội. Hai Tiểu Đoàn Địa Phuơng Quân đă tan hàng, quân nhân c̣n lại cũng lẫn lộn trong hàng rào pḥng thủ của Biệt Đội 811 của tôi. Cộng chung lại không quá 500 tay súng để chọi lại với lực lượng địch trên 10 ngàn với đủ bộ xe pháo mă tốt. F-5 và A-37 vẫn yểm trợ tích cực nhưng với một hệ thống pḥng không chằng chịt không thể xuống thấp để có thể đánh bom chính xác hơn. Từ dưới đất tôi thấy chỉ một chút sơ hở là những chiếc F-5 và A-37 kia sẽ vỡ tung, có một vài trái bom đă rơi vào vị trí bạn …phải chấp nhận thôi .Dù sao sự hiện diện của những chiếc phi cơ này cũng khiến dịch không dám điều động thiết giáp tiến sát đến vị trí chúng tôi. Dân và lính bỏ đơn vị tràn ngập vị trí chúng tôi khiến không thể nào kiểm soát được, tuy vậy chúng tôi vẫn đẩy lui được nhiều đợt xung phong của địch và đă hạ được 4 chiến xa địch.
Vào lúc choạng vạng tối ngày 5 tháng 1 năm 1975, chiến xa địch và bộ binh tiến sát vị trí Bộ Chỉ Huy của tôi, sau đợt pháo 130 ly, 155 ly, 122 lư và 105 ly, chúng thả một toán đặc công vào 2 lô cốt trống , nhờ phát giác kip thời nên đă bị tiêu diệt ngay sau đó.
Suốt trong thời gian từ ngày 4 tháng 1 năm 1975 đến ngày 6 tháng 1 năm 1975, không lúc nào địch ngưng pháo vào vị trí chúng tôi, chúng mở nhiều đợt tấn công có chiến xa yểm trợ mong tiến sát vào vị trí chúng tôi. Sáng ngày 5 tháng 1 năm 1975, tôi đơn phương quyết định không cho C-130 thả dù tiếp tế nữa v́ 1/2 khu vực thị xă đă rơi vào tay địch trước đó 2 ngày. Hầu như 9/10 những kiện hàng tiếp tế đều rơi vào tay địch, các phi vụ oanh kịch không hiệu quả, không c̣n pháo binh yểm trợ, không tiếp viện. Ở tại Quân Đoàn III, Trung Tướng Dư Quốc Đống từ chối lệnh thả phần c̣n lại của Liên Đoàn 81 BCND. Trong t́nh thế này, tôi buộc phải cho lệnh đơn vị rút khỏi Phước Long để bảo toàn đơn vị, tôi đă phải để lại hơn 60 xác đồng đội tại đây. Một điều đau đớn chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử của đơn vị tôi. Tôi đă phải phân tán đơn vị tôi thành từng toán nhỏ, lợi dụng đêm tối, vượt qua hàng rào bao vây của địch để thoát ra ngoài. Phước Long thất thủ vào sáng ngày 6 tháng 1 năm 1975.
Trong lúc đơn vị tôi c̣n đang t́m cách vượt qua ṿng vây của địch th́ ngày 7 tháng 1 năm 1975 đă có một buổi họp cao cấp của Quân Đội, giống như ṭa án quân sự, họ cố gán ghép việc thất thủ Phước Long là do lỗi của Không Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn III Không Quân Biên Ḥa. Thật là vô cùng phi lư nếu không nói là ngược ngạo. Trong khi các phi cơ của các Phi Đoàn Trực Thăng 221, 223, 231 237 … phi cơ L-19 c̣n đang bay t́m kiếm và bốc các toán đă vượt qua được ṿng vây địch th́ tại hậu phương họ đang bị kết tội.
Trách nhiệm làm mất Phước Long nếu nói thuộc về tôi, người đă tự quyết định rút khỏi Phước Long, cao hơn là v́ chỉ huy trực tiếp của tôi đă không buộc tôi phải hy sinh cả đơn vị để cố thủ một vị trí mà gần như đă hoàn toàn chiếm giữ bởi quân địch. Chúng tôi c̣n sống sót không trách cứ bất cứ cấp chỉ huy nào. Người lính chỉ biết tuân hành mệnh lệnh nhưng rơ ràng trách nhiệm làm mất Phước Long thuộc về người đă ra lệnh thả một đơn vị 300 người vào chỗ cầm chắc 90% để thua về một mục đích chính trị. Một ván bài tháu cáy, và đă thua, là khởi sự cho sự sụp đổ sau này.
Tôi đă ghi ở phần trước là giữa Không Quân và các anh em 81 BCND, ngoài t́nh huynh để chi binh, chúng tôi c̣n có một cái nghĩa “giang hồ”. Trong buổi họp, Đ/Tá Huấn, Chỉ Huy Trưởng 81 BCND đă dũng cảm tuyên bố trước mặt các tướng lănh:
“Mất Phước Long, lư do tại sao quư vị đều biết nhưng không ai nói ra. Phần Liên Đoàn 81 chúng tôi vào chỗ chết đă đành bởi nghề nghiệp chúng tôi là chọn chỗ chết để đi vào. Riêng các anh em Không Quân, các phi hành đoàn trực thăng đă làm quá bổn phận của họ, đă chết lây với chúng tôi, thật tội nghiệp. Nay đưa họ ra ṭa, tôi cho là vô lư, nếu có lỗi làm mất Phước Long, tôi nhận lỗi. Xin quư vị tiếp tục họp và cho tôi biết kết quả, tôi xin phép ra về v́ c̣n nhiều việc phải làm”
Măi 2 ngày sau, tôi và Bộ Chỉ Huy mới thoát ra khỏi được ṿng vây địch. Ban đêm di chuyển qua các băi trống, tôi phát giác được nhiều chốt của địch đang bám giữ các băi đáp này. Sáng cuối cùng chúng tôi tới được một nương sắn (khoai ḿ), đă thấy nhiều trực thăng đang bốc các toán lẻ cách thị xă khoảng 5 đến 10 cây số. Tôi không c̣n máy để liên lạc với họ v́ chiếc mày truyền tin PRC-25 cuối cùng đă bị Hiệu Thính Viên của tôi đánh rớt xuống nước khi vượt qua sông vào buổi tối. Phương tiện liên lạc duy nhất là một mảnh kiếng nhỏ bằng 2 đầu ngón tay, tôi cũng không hy vọng được bốc ra. Ở tại Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn, mọi người đều nghĩ tôi đă tử trận hoặc bị bắt . C̣n đang kiểm điểm xem c̣n lại bao nhiêu người trong BCH của tôi, bất chợt tôi nghe lùng bùng ở tai. Tôi biết đang có trực thăng bay rất thấp v́ tiếng quạt gió làm rung chuyển lớp không khí c̣n ướt hơi sương, chỉ trong một khoảnh khắc ngắn chiếc chiếc trực thăng UH1 đă ở ngay phía trước. Anh em vội bẻ gẫy một số cây khoai ḿ, trong lúc đang ra dấu cho trực thẳng vào vị trí, tôi chợt nghe nhiều loạt súng cá nhân từ các đồi bên cạnh bắn qua, có lẫn cả tiếng nổ của đạn súng cối bắn vào vị trí quanh băi đáp. V́ số cây khoai ḿ c̣n nhiều nên trực thăng chỉ lơ lửng trên đầu ngọn cây khoai ḿ, anh em tự nhảy lên bám vào càng leo lên rồi kéo người khác lên. Đạn bắn càng lúc càng gần, đốn gẫy các cây ḿ chung quanh.
V́ đạn địch bắn quá gần nên phi hành đoàn buộc phải cất cánh vội vàng. Tôi và Đ/Úy Thành, sĩ quan liên lạc Không Quân (ALO) phải nhảy lên mới bám được vào càng bên trái của chiếc trực thăng.
Khi anh em kéo tôi lên được trên sàn tàu, tôi phải xoay người lại nhờ anh em bám chặt hai chân, cúi xuống nắm lấy hai cổ tay của của Đ/Úy Thành và la lớn để anh thả hai tay ra th́ tôi mới kéo anh lên được. Những Anh Thành vẫn không chịu buông tay ra và la lên “Cho tàu đáp xuống” …khi chiếc trực thăng đă bốc lên cao khoảng 200 bộ , bỗng nhiên anh bỏ tay ra không báo trước nên tôi đă để vuột anh. Nh́n anh rơi xuống như một chiếc lá rụng, chiếc áo jacket da ḅ x̣e ra như một cánh bướm mất hút với tiếng là thảm thiết của anh, tôi như người mất hồn…Cả phi hành đoàn đều cúi xuống nh́n anh rơi mà không màng đến hàng trăm viên đạn pḥng không đang túa theo chiếc trực thăng đang nặng nề rời băi .
Chiếc trực thăng duy nhất của Không Đoàn 43 đó Tr/Uy Sơn (Sơn ) lái đă phải cất cánh với 32 nguời kể cả phi hành đoàn, nó đă bị quá tải (overtorque), chỉ bay mà không đáp được nữa v́ nếu đáp sẽ không c̣n có thể cất cánh được nữa.
Trong đời binh nghiệp của tôi từ khi c̣n là một toán trưởng thám sát cho đến khi trở thành một cấp chỉ huy cao hơn, chưa bao giờ tôi phải ân hận như thế, đă để rớt Đ/Úy Thành. H́nh ảnh của anh c̣n măi trong tôi như một cơn ác mộng luôn đè nặng lên tôi trong nhiều năm.
Có rất nhiều phi hành đoàn trực thăng đă chết lây theo chúng tôi. V́ là một đơn vị lấy phương tiện không vận và không yểm là con chủ bài, hầu hết các cuộc hành quân của Liên Đoàn 81 BCND đến nằm trong vùng địch và sau lưng địch, không nằm trong tầm pháo binh, có khi c̣n phải chuyển tiếp qua căn cứ tạm để tiếp nhiên liệu v́ thời gian bay của trực thăng không đủ bảo đảm số thời gian bao vùng. Nếu nói một cách tàn nhẫn hơn th́ dù 81 BCND chỉ là một đơn vị nhỏ nhưng đă làm thiệt hại rất nhiều phi cơ của cả hai phía Hoa Kỳ và Việt Nam.
Tôi đă sống hết đời quân ngũ trong chỉ một đơn vị duy nhất, 12 năm khởi đầu bằng nghề Toán Trưởng, leo lên đến được BCH/ Biệt Đoàn, tôi đă chứng kiến được nhiều điều đau xót. Quên sao được khi lần đầu tiên bước chân lên chiếc H-34 nặng nề như một con voi của Phi Đoàn 215 Thần Tượng, nhớ những Anh Vui, Vinh, Khôi, Mành, Trắng, Hiếu …Những con người hào hoa đă đưa chúng tôi vào những mặt trận “thắt cổ họng c̣n sướng hơn” như B́nh Giả, Pleime, Đức Cơ, Đồng Xoài …và đă đón chúng tôi trở về trong niềm vui gặp lại vợ con, bằng hữu. Quên sao những bạn bè như Trọng, Vỹ, Bảo, Dơng, Duyên và hàng trăm phi công trẻ của Không Đoàn 43 Chiến Thuật, những cánh bay mong manh L-19 thủng hàng chục lỗ đạn. Quên sao được những buổi hàng đoàn trực thăng đáp xuống sân căn cứ hành quân ở Suối Máu, Biên Ḥa, phi hành đoàn ngồi chờ phi vụ với một khúc bánh ḿ, gói xôi đậu xanh mua vội ở Biên Ḥa. Những con người đă từng đối đầu với gian nguy cùng với chúng tôi qua bao nhiều mặt trận mà cuộc sống vật chất không đủ để nuôi vợ con, nhưng vẫn cười vang mỗi lần gặp gỡ.
Chúng tôi đă không có đủ khả năng để đăi các bạn một bữa cơm trưa thanh đạm mà phải để các bạn bay về căn cứ, nuốt vội bữa cơm ở Câu Lạc Bộ, để rồi lại phải tiếp tục suốt buổi chiều, có khi trở về khi trời đă tối. Thế mà các bạn vẫn cười, không có một lời phiền hà. Chúng ta đă đă cùng chiến đấu để không v́ miếng cơm manh áo của chính ḿnh mà v́ để bảo vệ miền Nam tự do, tránh được cái họa cộng sản.
Mỗi lần đi tham dự ngày họp mặt của các Quân Binh Chủng bạn, nh́n lại các chiến hữu xưa, nay đầu đă bạc trắng bỗng bùi ngùi nhớ lại thân phận ḿnh. Nhớ tới tôi đă chưa một lần gửi lời cảm ơn các bạn, v́ ḷng nhiệt thành của các bạn, biết bao nhiêu lần chỉ v́ để cứu một người lính 81 BCND trong ṿng vây địch, để rồi lại phải hy sinh cả phi hành đoàn, chúng tôi đă phải chấp nhận những tổn thất về nhân mạng. Chúng ta khác kẻ thù, chúng ta quư nhân mạng hơn, dù chỉ là một người lính b́nh thường. Biết bao lần tôi chứng kiến những chiếc trực thăng bị nổ tung khi vừa vào băi đáp, không một người sống sót. Sự tiếp cứu sau đó chỉ để mang về những xác người đă cháy đen!!! C̣n ǵ buồn hơn khi thấy người phi công thoát ra khỏi chiếc A-37 bị bắn cháy, chiếc dù cứ trôi theo gió rồi rơi vào đất địch. Hăy cảm nhận nỗi đau khổ của anh em chúng tôi, những người tiếp cứu một phi công L-19 của Không Quân Việt Nam bị bắn cháy chỉ mang về một thi thể trần truồng. Địch đă xỉ nhục hay căm thù đến nỗi lột hết quần áo của một người đă chết thân thế không c̣n nguyên vẹn. Cái bản chất cầm thú của kẻ địch đă đối xử với một người đă chết c̣n như thế, thử hỏi đối với những chiến hữu của chúng ta rơi vào tay địch c̣n phải chịu đựng những khổ nhục như thế nào? Bao nhiêu chiến sĩ Không Quân đă hy sinh, bao nhiêu người đă rơi vào tay địch?
Hoàng hôn ngày 27 tháng 4 năm 1975, giữa khung trời c̣n âm u khói từ kho bom phi trường Biên Ḥa bị nổ trước đó vài ngày, tôi đứng bên nầy hàng rào nh́n hàng chục chiếc trực thăng cất cánh rời bỏ phi trường. Thế là hết, ẩn ư như một lời vĩnh biệt…đó là lần cuối cùng tôi nh́n thấy những cánh chim ấy, những cánh chim đă cùng chúng tôi trải qua bao gian nguy.
Bây giờ những cánh bay ấy có thể đă nằm mục ră ở một vài băi phế thải nào đó, hoặc năm sâu dưới đáy biển sau lần bay cuối cùng, hay may mắn hơn được nằm trong các viện bảo tàng chiến tranh. Nhưng những con người điều khiển chúng vẫn c̣n nhiều, ḷng yêu nước và tinh thần dấn thân vẫn c̣n và mơ ước một ngày nào đó được bay trên vùng trời Tổ Quốc Việt Nam Tự Do.
Cuộc chiến tranh này chưa bao giờ chấm dứt, nó chỉ được thay đổi h́nh thức mà thôi …
“Old soldiers never die; they just fade away.”
General Douglas MacArthur
Vũ Xuân Thông
Liên Đoàn 81 BCND
PS : Tác giả sống ở San diego , CA . Trước kia ḿnh thường gặp gỡ vị niên trưởng này . Ông sống rất im lặng
luyenchuong3000
10-09-2019, 16:20
Hậu duệ Việt Nam Cộng Nam Cộng Ḥa trong mọi thời đại...
https://scontent.ftpa1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-0/p526x296/72449920_87634303275 9093_390949663976875 6224_n.jpg?_nc_cat=1 07&_nc_eui2=AeE1x-_hBayGoYDf0Ddc3uQydi cwi0uynX-iW4fD1kgQsMpeCJliUuy 53M8eMHMgtEHLkAPL1zn Qk2Z_fiParwHHns0xKQq _TqpRvVG6Vas_sA&_nc_oc=AQn8Nx-89vX93gdeht2HHkddmKs KoMSwM1XrNw8OZs3Ow-FsG8YqjLQ-DlJ8WwT_xUQ&_nc_ht=scontent.ftpa 1-1.fna&oh=c9a3ddbe265534302 7aed8f767f2766e&oe=5E342DB1
(https://www.facebook.com/photo.php?fbid=87634 3029425760&set=pcb.256935693643 5735&type=3&ifg=1&__tn__=HH-R&eid=ARBcs9mL3RkpZJSv gAIVL3D2OSq2te3YQ9Zv Euu6Tv_bzL-ORneDXUwkSddRrT8UG2J LgG7TxYBi2K2y)[/URL]
[URL="https://www.facebook.com/ufi/reaction/profile/browser/?ft_ent_identifier=Z mVlZGJhY2s6MjU2OTM1N jkzNjQzNTczNQ%3D%3D&av=100034371342502"]
(https://www.facebook.com/photo.php?fbid=87634 3269425736&set=pcb.256935693643 5735&type=3&ifg=1&__tn__=HH-R&eid=ARBNE50BvXKEjvYR Fpwg34vy9QdVE2bi-4oQVLXGasGNk5C3xkxr3 _2t1Cv-g4o0gKXIWcogWurb2YUh )
https://scontent.ftpa1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/71530447_87634327275 9069_871330474873375 9488_n.jpg?_nc_cat=1 06&_nc_eui2=AeHwfPMrCfB vkBnaK8ZVU-tucNs83uIyhRSPBxlpxf jPEk8IKX8OW2-J046BurB8Glw8spFNmXs Oz0VPhuPoYqvFSbKIpTH HO3AYqBAQ7bs6Ew&_nc_oc=AQmquauyn2uDT XoeerGmk539mUyJxENCL ZjHkVpeNbK7BgNI6Zdnv 7qjcJaoo-Vt-W4&_nc_ht=scontent.ftpa 1-2.fna&oh=80df30a68e009a242 024e31757436169&oe=5E19B341
(https://www.facebook.com/photo.php?fbid=87634 3269425736&set=pcb.256935693643 5735&type=3&ifg=1&__tn__=HH-R&eid=ARBNE50BvXKEjvYR Fpwg34vy9QdVE2bi-4oQVLXGasGNk5C3xkxr3 _2t1Cv-g4o0gKXIWcogWurb2YUh )
vBulletin® v3.8.9, Copyright ©2000-2025, vBulletin Solutions, Inc.