Log in

View Full Version : Trang của lính


Pages : 1 2 [3] 4

hoanglan22
10-25-2019, 13:41
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1474053&stc=1&d=1572010751

Tôi Viết Cho Anh
Người Tù Cải Tạo

Anh đến đây nơi xứ người lạnh giá!
Từ lưng trời màn tuyết trắng giăng giăng
Bên đường phố cây khẳng khiu trụi lá
Mây cũng buồn, v́ đông rét căm căm

Đất cỏ khô vùi dưới mồ tuyết lịm
Nỗi trầm tư nhè nhẹ thoáng qua hồn
Tôi chợt nhớ về ngày xanh mực tím
Yêu mây trời bát ngát buổi hoàng hôn

Bạn bè đă thưa dần trong lớp học
Người Bộ binh, kẻ lính Thủy, Quân Y…
Đứa Nhảy Dù… gĩa từ thời tuổi ngọc
Thuở đao binh, bao thảm cảnh phân kỳ!

Trai thời loạn sa trường say thép súng
Những ṿng hoa t́nh em gái hậu phương
Choàng lên cổ người chiến binh anh dũng
Đây tấc ḷng yêu đất nước, quê hương…

Nay anh đến, với h́nh hài héo hắt!
Cuộc đổi đời đă xóa tuổi thay tên
Nỗi u uất chói ngời trong ánh mắt
Ánh kiêu hùng và bất khuất vươn lên

Ôi thời gian có ǵ không thay đổi?
Chí làm trai như sắt đá trơ trơ
Bọn cường bạo hủy diệt làm sao nổi
Dạ sắt son ḷng dũng cảm vô bờ!

Nơi xứ người, đông về lạnh lẽo lắm!
C̣n t́nh người, anh thấy lạnh hay không?
Cựu chiến binh vốn ngại chi mưa nắng
Chỉ lo âu kẻ đổi dạ thay ḷng!

“Ngày xưa tôi choàng ṿng hoa cho lính
Cho người hùng chiến đấu giữ quê hương
Nay tôi viết cho người tù đáng kính
Cho những ai, măi bất khuất kiên cường!”

Dư Thị Diễm Buồn



Lính Nghĩ Ǵ ((Bài Họa)


Tôi đến đây cuối mùa Đông lạnh giá,
Đêm xứ người, tuyết trắng phủ giăng giăng
Vùng Tây Bắc cuối năm cây trụi lá
Thông vẫn xanh ngạo nghễ giữa lạnh căm.

Lính tha hương là hai lần chết lịm,
Một lần đi là nát cả tâm hồn.
Súng ngựa yên cương – Rừng chiều hoa tím
Bóng quê nhà lẩn khuất nẻo hoàng hôn.

Lửa chiến tranh đã len vào lớp học,
Sách vở buồn, lặng ngắm bóng chinh y.
Thôi giă từ những chuỗi ngày vàng ngọc,
Kiếp chinh nhân, ai biết chuyện phân kỳ!

Quên sao được, những ngày vang tiếng súng,
Đêm tiền đồn nghe tiếng hát hậu phương
Bài học dưới cờ - Trí, Nhân, Thành, Dũng.
Chống bạo cường để ǵn giữ quê hương.

Ngày quốc biến, nh́n miền Nam hiu hắt,
Sài G̣n thân yêu, em đă thay tên.
Bao nỗi nhục vinh, ch́m trong ánh mắt,
Chí quật cường thành băo tố vùng lên.

Triệu ḷng người đang khát khao thay đổi,
Th́ bạo quyền không thể cứ trơ trơ.
Trăm ngọn gió sẽ thành cơn băo nổi,
Thổi tan đi những ác chướng xa bờ.

Cảm ơn người - Những vần thơ đẹp lắm.
Kỷ niệm một thời với lính c̣n không?
Chút muộn phiền, như mây trôi vạt nắng
Xin hăy yêu thương với cả tấm ḷng.

Xin cảm ơn, những ân t́nh cho lính,
Quên tuổi thanh xuân, ǵn giữ quê hương
Sống hiên ngang giữa ḷng dân thương kính.
Mơ một ngày mai, đất nước phú cường.

Lê Tấn Dương
(Xin cảm ơn tác giả Dư Thị Diễm Buồn
và bài thơ “Viết cho anh - Người tù cải tạo”)

hoanglan22
10-26-2019, 17:27
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1474644&stc=1&d=1572110783

Người lính miền Nam chiến đấu không thù hận, họ chỉ bảo vệ sự yên ấm cuả một miền đất nước tự do đang hoà b́nh thịnh vượng, cho con cái ăn học nên người, cùng góp tay xây dựng một đất nước non trẻ mới giành được độc lập từ tay thực dân Pháp. Cộng sản Bắc Việt tay sai cuả đế quốc Nga, Trung Cộng đă phá đi sự b́nh yên đó.

Khi c̣n mài đũng quần trên ghế trường tiểu học, trong một buổi trưa thật ấm áp, dưới bầu trời xanh trong vắt, tiếng ve sầu reo inh tai điểm thêm tiếng vơng kẽo kẹt, tôi chợt thủ thỉ với ba tôi: “ Ba ơi, ba bảo anh Sơn đừng lái máy bay thả bom vào tàu cuả con nhá.”

Ba tôi cười lớn, hàm râu kẽm rung rung, ông cụ ngưng chân đưa vơng, khẽ véo tai tôi:
- Lúc đó làm sao ba bảo anh con được.

Nh́n khuôn mặt ngớ ngẩn cuả tôi, ba tôi lại được dịp cười ha hả.

Khẩu khí hồi c̣n là cậu bé tí teo thế mà đă phần nào trở thành hiện thực, anh tôi đă trở thành một quan sát viên kiêm phi công máy bay L19, c̣n tôi là một sĩ quan hải quân phục vụ trên các chiến hạm tuần duyên, chuyển vận và sau đó thuyên chuyển qua giang đoàn tuần thám.

Sau cuộc chiến, là một trong hơn 1 triệu quân bị thua trận một cách quái gở, tôi đă trải qua hơn 6 năm "học tập" thưà sống thiếu chết, từ "kẻ ăn bám" trở thành con người "tốt” dưới mái trường “cải tạo” XNCN, tôi đă "được" nhà nước” cách mạng” tỏ lượng "khoan hồng" tha cho trở về nhà tù lớn. Sống dở, chết dở được vài năm, nhờ vào những kinh nghiệm đi biển do hải quân dạy dỗ, tôi đă ù té chạy ra biển, vượt biên đến những 7 lần mới t́m được bến tự do.

Vào năm 1964, vừa mới thụ huấn Khoá Quan Sát Viên Không Quân, chuẩn uư Sơn được đổi về Phi Đoàn 114 trấn đóng tại Pleiku. Mặt trận Tây Nguyên càng ngày càng trở nên khốc liệt, chuẩn uư Sơn được biệt phái cho Tiểu Khu Tuy Hoà, Không Quân Việt Nam vào thời kỳ này lâm vào t́nh trạng thiếu hụt phi công và máy bay quan sát nên Chuẩn Uư Sơn phải bay trên phi cơ L19 cuả không quân Mỹ. Hôm ấy Đại Uư Lape, cố vấn Không Quân cuả tiểu khu Tuy Hoà và Chuẩn Uư Sơn được lệnh bay ra Qui Nhơn để nhận lệnh hành quân, ngay sau đó họ được chỉ thị bay đến vùng núi rừng An Lăo, chiếc L19 trôi nhẹ nhàng từ vùng biển ấm, nắng vàng đến nơi sơn cùng thuỷ tận.

Trung Đoàn 40 Bộ Binh được điều động để chiếm lại quận lỵ An Lăo đang bị quân đội cộng sản Bắc Việt chiếm đóng.

Ở trên cao chuẩn uư Sơn thấy các thiết vận xa và bộ binh dàn trận rất đông nhưng cứ đứng một chỗ mà không thấy tiến lên. Hỏi ra thẩm quyền dưới đất mới cho biết là có một Trung Đoàn Việt Cộng lập thế công đồn, đả viện nằm phục kích trên các cao điểm cuả các quả đồi hiểm yếu. V́ hoả lực cuả họ rất mạnh gồm các vũ khí chống chiến xa và súng cối hạng nặng nên cứ tiến lên là nó bắn nên bộ binh phải dội ngược trở lại, nên đă cầm chân Trung Đoàn 40 gây khó khăn cho cuộc giải vây thị trấn An Lăo.

Sau khi đảo nhiều ṿng bay thám thính trận điạ, chuẩn uư Sơn không t́m thấy dấu vết cuả đơn vị việt cộng tham chiến, anh mới nói với đại uư Lape:

- Bây giờ đại uư cứ bay ở trên cao như thế này th́ tôi chả thấy ǵ cả, anh thử bay xuống thấp để tôi có thể nh́n rơ và quan sát kỹ hơn. Đại uư Lape đồng ư và điều khiển tay lái chúc mũi máy bay, bay rà sát trên các ngọn cây dọc theo các triền đồi, sau vài ṿng bay mà hai anh em vẫn không nhận ra vị trí cuả địch v́ cây rừng quá rậm rạp và bọn VC nguỵ trang quá khéo. Chuẩn Uư Sơn lúc đó mới dùng máy bộ đàm liên lạc với bộ binh và nói:

- Các bạn cần phải tiến quân để khi đó xem địch phản ứng thế nào chúng tôi mới có thể phát giác ra địch.

Khoảng 10 phút sau, bộ binh bắt đầu tiến lên, họ đi theo sau các thiết vận xa, thận trọng tiến vào con đường độc đạo hai bên là ruộng luá trống trải dẫn đến một dăy đồi sừng sững. Khi toán quân đến gần ngọn đồi thứ nhất, bỗng chuẩn uư Sơn nghe những tiếng nổ đùng đùng, và trông thấy những cột bụi khói màu đen bốc lên quanh các thiết vận xa. Địch bắn rất gắt, các thiết vận xa chiụ không nổi phải bỏ đường cái, quay đầu ủi xuống ruộng luá rút lui, kéo theo các toán bộ binh tùng thiết.

Lúc đó trên không có một phi tuần 4 khu trục cơ AD6 mang bom đạn đày đủ bay vần vũ trên trời, Chuẩn Uư Sơn nói với họ:

- Các anh hăy yểm trợ cho tôi, chúng tôi chuẩn bị bay thấp để quan sát.”

Đại Uư Lape chúc mũi máy bay lao xuống , những ngọn cây trôi vùn vụt dưới cánh, nh́n kỹ dưới các lùm cây, Chuẩn Uư Sơn thấy rất nhiều dăy hố cá nhân và việt cộng quá đông lúc nhúc ẩn núp trong đó. Anh gọi máy liên lạc với Phi Tuần Trưởng AD6:

- Bây giờ tôi sẽ thả trái khói vào các vị trí cuả VC, các anh hăy theo dơi.

Cùng một lúc hai tay Chuẩn Uư Sơn thủ sẵn hai trái khói, khi máy bay bay dọc đến ngọn đồi thứ sáu, anh vung tay vứt liên tiếp hai trái khói trên đầu địch. Thấy trái khóí bốc lên mù mịt, địch hoảng loạn nhảy vọt ra khỏi các hố cá nhân. Chuẩn uư Sơn ngạc nhiên thấy một tên trong bọn mặc quần áo trắng toát nhảy dựng lên như một con ếch, và tự hỏi tên này điên hay sao mà đi đánh trận lại mặc đồ trắng. Sơn gọi máy nói với AD6:

- Các anh thấy chưa?,

Phi tuần AD6 trả lời:

- Thấy rồi, thấy rồi.

Chuẩn Uư nói với họ:

- Bây giờ các anh đánh từ trái khói dọc về phiá nam 500m và tôi sẽ điều chỉnh sau.

Lập tức 4 khu trục cơ AD6 lần lượt đảo cánh nhào xuống các ngọn đồi, nhả những tràng đại bác nổ chát chuá và những chuỗi bom sang loáng xuống đầu địch. Họ quần thảo trên trận điạ trong ṿng một tiếng đồng hồ, khói lưả bốc lên dữ dội kèm theo những tiếng nổ long trời, lở đất.

Sau khi phi tuần AD6 làm cỏ trận điạ đă bay về Pleiku, chiếc trinh sát cơ L19 bay ṿng trở lại, chuẩn uư Sơn thấy 6 quả đồi tan hoang, cây cối gẫy đổ ngổn ngang, trơ những mảng cháy nám đen bốc khói nghi ngút, phơi trên triền đồi lỗ chỗ chi chít các hố cá nhân và xác người không toàn thây, tay chân vắt vẻo trên các ngọn cây bị bom đạn cắt cụt ngọn, toàn cảnh chiến trường trông rất là thê lương, tâm hồn người lính trùng lại, một nỗi buồn dâng lên man mác trên băi sa trường sau cuộc can qua.

Ngay sau đó Đại Uư Lape lại liên lạc được với một phi đội gunship. Toán trực thăng gồm 6 chiếc này kéo đến tiếp tục nă đạn đại liên và rocket vào những vị trí việt cộng c̣n ẩn trốn. Trên cao chuẩn uư Sơn nh́n xuống chúng như những con chuồn chuồn đang riả mồi vội vă.

Sau đó v́ trời tối nên đại uư Lape và Chuẩn uư Sơn phải đem máy bay trở về căn cứ. Hai ngày sau đơn vị bộ binh mới cho biết là lực lượng địch bị chết và bị thương rất nhiều, bỏ lại những vũ khí hạng nặng như sung cối, súng chống chiến xa, thượng liên, cao xạ mà b́nh thường khi đụng trận họ không bao giờ để lại.

Đời phi công cuả Chuẩn Uư Sơn tiếp tục trong những năm 65-66, với lần biệt phái tại Tuy Hoà, chiến sự trở nên khốc liệt, cứ sau mỗi chuyến bay là phi cơ bị ít nhất hai ba lỗ đạn do địch bắn lên. Chiến thuật lấy nông thôn bao vây thành thị cuả địch càng ngày càng xiết chặt với những giao thông hào chi chit tiến gần vào các thành phố, quận lỵ.

Trong một chuyến công tác, chuẩn uư Sơn được lệnh điều động đến thám thính một đoàn xe bị phục kích trên quốc lộ 19 cách chân đèo Mân khoảng 2 cây số, nằm giữa đèo Man Yang và An Khê, cùng bay với một anh bạn pilot cùng phi đoàn, lâu quá không c̣n nhớ tên, hai anh em phát giác ra một đoàn quân mặc áo vàng từ trong rừng tuá ra mặt đường, chuẩn uư Sơn lấy làm lạ sao họ lại mặc quân phục vàng, hai anh em bàn nhau bay sát ngọn cây để xem cho kỹ, khi vưà bay đến vị trí chiếc xe đầu tiên bị giặc phục kích bắn cháy, chuẩn uư Sơn chợt nghe hàng loạt đạn đổ đùng đoàng, tiếng va chạm cuả kim khí nghe chói tai; hoá ra chiếc L19 cuả hai anh em bay đang bị nhắm bắn, cả một đơn vị việt cộng dùng tất cả hoả lực nỗ lực bắn hạ cho bằng được v́ họ biết đă bị lộ vị trí. Hai anh em phải g̣ lưng, nín thở, mồ hôi lạnh toát ra nhễ nhại, gh́ tay lái bay là sát mặt đường đến cả hai, ba cây số mới cất đầu lên để tránh những lằn đạn dữ dội nhắm vào phi cơ, sau khi thoát hiểm, nh́n quanh máy bay thấy lỗ chỗ cả mấy chục lỗ đạn nhưng may mắn cả hai không hề hấn ǵ. Liền sau đó cả khu rừng mà toán việt cộng ẩn trú bị các khu trục cơ AD6 oanh tạc tan nát.

Một lần khác tại Biên Hoà, chiếc phi cơ L19 cuả chuẩn uư Sơn được lệnh thám thính tại một toạ độ do bộ binh yêu cầu, khi lên đến nơi, từ trên không chuẩn uư Sơn thấy chung quanh là đồng ruộng c̣ bay thẳng cánh, nhưng có một con lạch chạy ngang, bao phủ bằng những tàng cây xanh mọc um tùm, chuẩn uư Sơn quan sát kỹ thấy một toán việt cộng lúc nhúc ẩn núp dưới những lùm cây. Chiếc L19 bay sát ngọn cây dọc theo con lạch, tiếng động cơ rền rĩ và cánh quạt chém gió khiến toán việt cộng bấn loạn bỏ chạy như vịt. Cùng lúc đó có một phi tuần 2 khu trục cơ AD6 bay vần vũ trên không, chuẩn uư Sơn liền gọi máy yêu cầu họ đánh dọc theo con lạch, lập tức hàng loạt bom đạn phóng xuống từ những con chim sắt dội dữ dội trên đầu địch, những tiếng bom nổ chát chuá kèm khói lưả tuá lên trên không, bao chùm các ngọn cây tạo không khí ngột ngạt mùi thuốc súng. Sau khi bom đạn dứt, từ trên cao chuẩn uư Sơn đếm được cả mấy chục xác VC mặc bà ba đen nằm phơi thây dọc theo bờ lạch.

Trong một chuyến biệt phái cho Tiểu Khu Tuy Hoà, Đại Uư Lape và chuẩn uư Sơn bay dọc theo bờ biển khi tới ven làng Tân Quỳnh, họ phát giác tại mũi Cao Biền có khoảng ba chục người mặc áo đen đang đào hố cá nhân, thấy máy bay qua lại nhẩy xuống hố ẩn núp, khi ấy trời đă xế chiều. Gọi máy cho Quận trưởng Tuy An để xác nhận xem có phải là quân bạn không, th́ được quận trưởng cho biết đó là toán VC đang chuẩn bị phục kích toán Biệt Động Quân và yêu cầu chuẩn uư Sơn gọi khu trục đến oanh tạc. Chuẩn uư Sơn nói với ông quận trưởng:

- Trời cũng gần tối rồi, nếu gọi Không Quân từ Pleiku xuống sẽ mất thời gian, tôi biết quận có hai khẩu 105 ly, xin ông cho khai hoả và tôi sẽ điều chỉnh toạ độ.

Sau vài loạt đạn chạm nổ, thấy toán việt cộng không hề hấn ǵ, chuẩn uư Sơn đề nghị đạn nổ cao, sau hơn chục trái đạn cũng không thấy hiệu quả, lúc đó ông quận trưởng mới nói chuẩn uư Sơn:

- Tôi có đạn VT nổ chụp, loại đạn này bắn đến mục tiêu với độ cao khoảng 20 mét, sẽ nổ và mảnh sẽ chụp xuống đầu địch.

- Như vậy th́ tốt quá, ông cho bắn ngay, chuẩn uư Sơn trả lời đồng thời điều chỉnh lại toạ độ vị trí cuả địch.

Sau vài loạt đạn đại bác nổ chụp toán việt cộng mặc áo đen hoàn toàn bị tiêu diệt.

Vào năm 1968, khi được bổ nhiệm làm sĩ quan liên lạc Không Quân cho Sư Đ̣an 18 Bộ Binh, thiếu uư Sơn mang theo gia đ́nh ngụ tại trại gia binh phi trường Long Khánh. Một hôm có lệnh hành quân khẩn cấp, viên sĩ quan quan sát trực không có mặt tại đơn vị; thiếu uư Sơn phải bay thế, bé Thuỷ, con gái đầu ḷng mới được hơn một tuổi, mẹ cháu lại mới vưà ra khỏi nhà đi chợ, không có ai trông coi. Không nỡ để con ở nhà một ḿnh, thiếu uư Sơn đánh liều bế con lên chiếc máy bay quan sát để ngồi cạnh bố. Bé Thuỷ được bay trên không, ṭ ṃ nh́n chung quanh, được nh́n đồng ruộng xanh mướt từ trên cao, cô bé mở tṛn mắt tỏ ra rất thích thú, thỉnh thoảng lấy ngón tay khều bố khi thấy những đám mây trắng như bông bay dật dờ quanh thân tàu. Khi bố phát giác ra vị trí địch, phi cơ chúc mũi xuống bắn rocket, cô bé cười lên khanh khách và chăm chú nh́n những khu trục cơ sau khi trút bom đạn bay ngang. Lần đầu tiên trong đời bé Thuỷ nếm mùi lưả đạn chiến trường. Có ai biết được đời lính VNCH gắn bó với gia đ́nh họ như thế nào chăng?

Cũng như đa số anh em ra cùng trường vào những năm 64, 65, trạc tuổi cuả họ chỉ chừng độ 22, 23, tâm hồn c̣n đày lư tưởng trong sáng, chuẩn uư Sơn chỉ ham đánh giặc, gan dạ, liều lĩnh, thích lập thành tích nhưng không màng báo cáo các chiến công; ngay cả khi máy bay bị thương lỗ chỗ đạn địch bay về tới phi trường cũng chỉ giao cho toán kỹ thuật sưả chưă. Thời gian đồn trú tại Biên Ḥa, sau giờ làm việc anh chỉ mau phóng Honda về Sài G̣n ăn cơm canh cua, rau đay, cà pháo chấm mắm tôm do chính thay mẹ nấu cho con trai ăn.

Sau ngày 30/4/1975 cũng v́ tính t́nh thuần hậu, cả tin nên Thiếu Tá phi công Sơn cùng 4 anh em trong gia đ́nh đă đi tŕnh diện “học tập” cải tạo, đem theo từ 10 ngày cho đến 15 ngày lương thực để rồi thời gian “học” kéo dài đền gần 13 năm đằng đẵng, đày khổ nhục, đói khát, bệnh tật qua các trại tù Long Giao, Suối Máu, Yên Bái, Liên trại 2,Hoàng Liên Sơn, nông trường Trần Phú Nghĩa Lộ, Tháp Bà, Vĩnh Phú, Nam Hà.… và may mắn thay, sau khi ra tù Thiếu Tá Sơn đă được can thiệp qua Mỹ tị nạn theo diện tù nhân chính trị.

Tại Joplin, Missourie, Thiếu Tá Sơn đă được một người bạn Mỹ mời bay thử chiếc máy bay Cessna riêng cuả ông ta, Sau hơn 20 năm không cầm tay lái, anh không do dự điều khiển chiếc máy bay bay bổng trên cao, ngang qua những đám mây cumulus trắng xoá như bông, cả một trời kỷ niệm lại hiện ra như mới ngày hôm qua. Anh bùi ngùi nhớ lại bà cụ đă hy sinh cả cuộc đời vất vả nuôi con, khi ông cụ vào tù ra khám như cơm bưă v́ "tội" tham gia đảng phái quốc gia chống Pháp và chống Việt Minh và xót xa thương tiếc người anh cả đáng kính tận tuỵ phục vụ Hải quân, quư mến gia đ́nh và các em, đă mất tích trên biển trên đường vượt biển t́m tự do.

Người lính già đầu bạc
Kể măi trận nguyên phong

Nổi tiếng kín đáo nhất trong gia đ́nh, tôi ngạc nhiên khi nh́n ông anh thao thao kể lại chuyện xưa với các bạn râu tóc bạc phơ khi có sinh hoạt cuả các phi đoàn quan sát KQVN. Tôi vô cùng thán phục những chiến công tưởng chừng như huyền thoại, và những sự hiểm nguy ŕnh rập những phi công máy bay trinh sát L19 từng giây, từng phút. Vai tṛ đặc biệt quan trọng cuả người quan sát viên trên các chiến trường, điều pháo, khiển không góp phần không nhỏ cho việc định đoạt thắng bại trên các mặt trận.

Kẻ thắng thường huyênh hoang những câu chuyện do văn nô viết ra khiến người biết tự trọng phải xấu hổ như du kích đu càng hạ máy bay trực thăng, dùng súng trường, cung nỏ hạ hàng ngàn máy bay địch. Người quân nhân phục vụ trong quân lực VNCH tuy thua trận nhưng vẫn trung trinh với Tổ Quốc, tấm ḷng trong sáng, trung thực, luôn luôn giữ ǵn khí tiết cuả những người lính đă từng xả thân chiến đấu dưới lá cờ vàng tự do, bởi lẽ đó, tôi viết lên đây qua lời kể trung thực không thêm bớt, quên th́ nói quên cuả một người anh thực thà như đếm, để cảm ơn ông đă “quên” thả bom vào chiến hạm “ tưởng tượng” cuả tôi khi c̣n bé.

Trần Chấn Hải

luyenchuong3000
10-29-2019, 17:15
https://scontent.ftpa1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/p843x403/75223853_81956014844 6951_885036095190020 9152_o.jpg?_nc_cat=1 08&_nc_oc=AQntY0p9RcrBy 8wbSORSZicMfTEI9Z7Mv quD9cHiobX4RBF5bjWyu 0DyxBwYXINak6A&_nc_ht=scontent.ftpa 1-1.fna&oh=732b9ac5a2614274e ca6d995f8987ae0&oe=5E20C9CC
(https://www.facebook.com/photo.php?fbid=81956 0141780285&set=a.40909853282645 0&type=3&eid=ARBxt5nFeeLw7LDV Yfhu1kWkqwBkREe5291g ZY_t_9YQ85Tdk4tDKXeG OOopyQ0EvSKtQE9aAa7w sGzV)




CHÚNG TA C̉N NỢ HỌ: ‘ NHỮNG NGƯỜI THƯƠNG PHẾ BINH VIỆT NAM CỘNG H̉A..’
Từ trái sang:
1. Chú Tô Văn B́nh, nhà số nhà 126/E, tổ 2 khu phố 5, phường Uyên Hưng, thị xă Tân Uyên, tỉnh B́nh Dương.
Số điện thoai: 0977 779 249
2. Chú Nguyễn Văn Thanh, tổ 4, ấp 4, khu Tái Định Cư, xă Vĩnh Tân, thị xă Tân Uyên, tỉnh B́nh Dương.
CMND: 280829118
Số điện thoại: 0396 073 414
3. Chú Lê Văn Tài, ấp 3, xă Hội Nghĩa, thị xă Tân Uyên B́nh Dương.
Số điện thoại: 0352 208 255
Một cái share có thể được vài ngàn, một cái share có thể được vài trăm ngàn, một cái share có thể được vài triệu của những người mạnh thường quân chia sẽ giúp đến các ông. Đó là công việc tôi thích làm mà không cần ai phải trả lương chỉ đơn giản là tôi thương lính.
Ba ông ở gần nhau trên vùng B́nh Dương ‘kinh tế mới’, không ai c̣n khả năng lao động, ba ông ai cũng đă già điều kiện cuộc sống bệnh đau kinh tế rất khó khăn đều giống nhau. Anh chị các bạn chia sẽ nếu giúp ba ông chỉ cần chuyển bưu điện Viettel giao tới nhà chịu thêm ít cước phí, và ghi rơ tên từng người nhận th́ ba ông sẽ nhận được.
NHỮNG MĂNH ĐỜI. NHỮNG THƯƠNG PHẾ BINH. XIN ĐỪNG QUÊN HỌ.

luyenchuong3000
11-03-2019, 19:39
https://scontent.ftpa1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/22814114_20958102439 81379_52905199128586 33267_n.jpg?_nc_cat= 108&cachebreaker=hd&_nc_oc=AQk_ExyHUq7uv Gm1CzPlPDJDz69wck80X Vr9HIAQwWn5whvAAN_L0 SZfzfw2YHLpif0&_nc_ht=scontent.ftpa 1-1.fna&oh=d31ee0959e533a8c9 b7042461045e3b0&oe=5E46F843
(https://www.facebook.com/photo.php?fbid=20958 10243981379&set=a.15136158688674 89&type=3&eid=ARAlqit_8mYB1Z2L MkXDqijF5v7S2Ze_twvH LxWsQmvckikjcQi_aned iw98gqEsVROEpfkROkbY R4qo)




Bài viết nên đọc! đọc đi để biết hiền tài Việt Nam xưa ...
Danh nhân số 1 cuả VNCH.........!!
TIỂU SỬ ĐẠI TÁ NGUYỄN XUÂN VINH
Nguyễn Xuân Vinh (sinh năm 1930) nguyên là Đại tá tham mưu trưởng kiêm tư lệnh của Không quân Việt Nam Cộng ḥa. Ông là giáo sư, tiến sĩ, viện sĩ chuyên ngành kỹ thuật không gian người Mỹ gốc Việt nổi tiếng trên thế giới. Năm 1962, ông là người Việt Nam đầu tiên và cũng là người đầu tiên ở Đại học Colorado được cấp bằng tiến sĩ khoa học không gian sau khi ông thực hiện thành công nghiên cứu công tŕnh tính toán quỹ đạo tối ưu cho phi thuyền do NASA tài trợ. Những lư thuyết của Nguyễn Xuân Vinh đă góp phần quan trọng đưa các phi thuyền Apollo lên được mặt trăng thành công đồng thời được ứng dụng vào việc thu hồi các phi thuyền con thoi trở về trái đất an toàn. Ông c̣n là nhà nhà văn với bút danh Toàn Phong với nhiều tác phẩm nổi tiếng được xuất bản.
Từ khi c̣n nhỏ Nguyễn Xuân Vinh là một người có năng khiếu toán. Ông tham gia viết sách từ rất sớm. Khi đang là học sinh, ông đă có sách được xuất bản với cuốn sách giáo khoa Bài tập h́nh học không gian. Cuốn sách đă trở thành tài liệu tham khảo và học vấn quan trọng thời bấy giờ.
Năm 1951 ông nhập ngũ theo lệnh động viên và tham gia khóa I Trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định và Thủ Đức. Năm 1952, ông theo học tại Học viện Không quân ở Salon-de-Provence, Pháp (École de l'Air) cho đến năm 1955. Sau đó ông lưu trú tại Pháp và Maroc. Trong thời gian này ông đồng thời lấy bằng cử nhân toán ở Đại học Máeille.
Năm 1957, Nguyễn Xuân Vinh được bổ nhiệm chức vụ Tham mưu trưởng Không lực Việt Nam Cộng ḥa. Cho đến tháng 2 năm 1958, ông được giao chức Tư lệnh Không quân. Ông giữ chức vụ này cho đến năm 1962 rồi đi du học ở Hoa Kỳ.
Năm 1962, Đại tá Nguyễn Xuân Vinh đến Hoa Kỳ để bắt đầu sự nghiệp khoa học của ḿnh khi ông 32 tuổi. Năm 1965, là người đầu tiên được cấp bằng tiến sĩ về khoa học không gian tại Đại học Colorado. Ba năm sau, Tiến sĩ Vinh làm giảng sư (associate professor) tại Đại học Michigan. Năm 1972, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Vinh được phong hàm giáo sư (professor) tại viện đại học Đại học Michigan. Cũng trong năm này ông lấy tiếp bằng tiến sĩ quốc gia toán học tại Đại học Sorbonne, Paris, Pháp.
Năm 1982, Nguyễn Xuân Vinh là giáo sư (chair professor) của ngành toán ứng dụng tại Đại học Quốc gia Thanh Hoa (National Tsing Hua University) ở Đài Loan. Hai năm sau, năm 1984, Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh là người Hoa Kỳ thứ ba và là người Châu Á đầu tiên được bầu vào Viện Hàn lâm Quốc gia Hàng không và Không gian Pháp (Académie Nationale de l'Air et de l'Espace). Đến năm 1986, Giáo sư Vinh trở thành viện sĩ chính thức của Viện Hàn lâm Không gian Quốc tế (International Academy of Astronautics).
Trong nhiều năm Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh đă được mời tham gia thuyết tŕnh thỉnh giảng tại nhiều đại học lớn và các hội nghị quốc tế nhiều nơi trên thế giới bao gồm Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Áo, Đức, Ư, Hà Lan, Thụy Sĩ, Na Uy, Thụy Điển, Hungary, Israel, Nhật, Trung Quốc, Đài Loan và Úc.
Năm 1999, Giáo sư viện sĩ Nguyễn Xuân Vinh nghỉ hưu, ông đă được Hội đồng Quản trị (Board of Regents) tại Đại học Michigan phong tặng chức Giáo sư danh dự ngành kỹ thuật không gian (professor emeritus of aerospace engineering) v́ công lao đóng góp cho khoa học và giáo dục.
Ngày 19 tháng 10 năm 2016, Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh đă được Giám mục Đa Minh Mai Thanh Lương, Giám mục Công giáo người Việt đầu tiên tại Hoa Kỳ, làm phép Thanh Tẩy gia nhập Đạo Công giáo tại nhà thờ Saint Bonaventure Church ở Huntington Beach, California. Ông lấy tên Thánh là Anphongsô. Ông Anphongsô Nguyễn Xuân Vinh cũng được lănh nhận bí tích Thêm Sức do giám mục Đa Minh Mai Thanh Lương ban trong Thánh lễ với sự hiện diện của gia đ́nh thân quyến và các bạn hữu lâu năm của ông.
GIẢI THƯỞNG :
- Năm 1994: "Mechanics and Control of Flight" của American Institute of Aeronautics and Astronautics.
- Năm 1996: "Excellence 2000 Award" của Pan Asian American Chamber of Commerce
- Năm 2006: "Giải thưởng Dirk Brouwer" về Cơ học Du hành Không gian của Hội Du hành Không gian Hoa Kỳ (American Astronautical Society)
- Năm 2007: Dirk Brouwer Award do the American Astronautical Society tặng
- Năm 1994: Mechanics and Control of Flight Award presented do American Institute of Aeronautics and Astronautics tặng.
- Năm 2000: Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh được bầu vào Viện Hàn lâm Quốc tế du hành vũ trụ và Viện Hàn lâm Hàng không và Vũ trụ Quốc gia Pháp. Ông được chọn là một trong những người xuất sắc của Hoa Kỳ Pan Asian American Chamber of Commerce tại Washington, DC.
- Hội Khuyến Học ở Saint Louis, Missouri, đề ra giải thưởng hàng năm tên là giải thưởng "Truyền thống Nguyễn Xuân Vinh" để khuyến khích học sinh ở địa phương.
TÁC PHẨM :
Tác giả Nguyễn Xuân Vinh đă xuất bản ba cuốn sách và hơn 100 bài báo kỹ thuật trong lĩnh vực toán học, astrodynamics, và tối ưu hóa quỹ đạo (trajectory optimization). Ông Vinh cũng từng là biên tập viên trong khoảng thời gian dài 20 năm cho tạp chí lưu trữ cho Học viện vũ trụ Quốc tế (the archival journal for the International Academy of Astronautics). Giáo sư Vinh nguyên là chủ tịch hội đồng chấm luận án tiến sĩ (chaired the doctoral committees) cho 30 nghiên cứu sinh, nhiều người trong số họ hiện nay đang là giáo sư của các Hiệp hội uy tín của Hoa Kỳ, các trường Đại học các trường học hoặc các hiệp hội nhà khoa học hàng đầu trong ngành công nghiệp hàng không vũ trụ.
Về Khoa học : Ông đă viết hàng trăm tiểu luận về toán, động học không gian (astrodynamics) và tối ưu hóa quỹ đạo (trajectory optimization). Các sách viết bao gồm:
- Hypersonic and Planetary Entry Flight Mechanics. 1980. Vinh, N. X.; Busemann, A.; Culp, R. D. University of Michigan Press.
- Optimal Trajectories in Atmospheric Flight 1981. Vinh N. X., Studies in Astronautics 2, Elsevier Scientific Publishing Company, Amsterdam.
- Flight Mechanics of High-Performance Aircraft. 1993. Nguyen X. Vinh. Cambridge Aerospace Series. ISBN 052134123X
Về Văn chương :
- Gương Danh Tướng, 1956.
- Đời Phi Công, 1959. Truyện dài, Giải thưởng Văn chương Toàn quốc năm 1961 (Việt Nam Cộng ḥa)
Theo Ánh Tinh Cầu, 1991. Truyện kư sự.

wonderful
11-04-2019, 11:00
Lớn lên em cũng như anh .

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1479076&d=1572865172

hoanglan22
11-04-2019, 13:52
Lớn lên em cũng như anh .

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1479076&d=1572865172

:thankyou: Bác . Thấy cầm M79 ngầu thật

hoanglan22
11-08-2019, 05:06
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1481005&stc=1&d=1573189284

Sau nhiều năm "luyện chưởng " ở miền Bắc, tôi được phép " hạ san ". Cầm tờ "lệnh tạm tha " tôi trở về thành phố đă thay tên, từ cảnh vật đến t́nh người đều thay đổi, tôi ngơ ngác như Mán ra thành.

Tuy đă ra khỏi " ḷ hấp ", nhưng người ta vẫn " quan tâm? " về tôi, ngày ngày cho chú công an khu vực đến "vấn an sức khỏe " và mỗi tuần tôi phải lên trụ sở công an phường để họ ngắm dung nhan cùng đóng một con dấu đỏ vào tờ giấy ra trại.

Dù tỏ ra "ưu ái " nhưng khi tôi xin phép về quê, để viếng mộ Cha- Mẹ, tôi phải đợi dài cả cổ. Hỏi th́ được trả lời "đang kíu xét ". Tâm sự với thằng bạn th́ nó hỏi "mầy có ǵ cho nó chưa?". Tôi đáp tao vừa mới ra tù, không một đồng xu dính túi, lấy ǵ mà hối lộ. Nó cười "dễ lắm chỉ cần vài điếu thuốc có cán thôi ". Tuy không tin lắm, nhưng tôi cũng thử cầu may. Tôi xin người thân tiền mua ba điếu thuốc có đầu lọc, mượn cái hộp quẹt của ông anh vợ, rồi đến gặp tên cán bộ phụ trách, mồi điếu thuốc mời anh ta hút và tặng luôn hai điếu bỏ túi, thế là tôi có ngay tờ giấy phép đi đường.

Hết xẩy! Từ đó về sau, mỗi khi cần ǵ tôi chỉ bổn cũ soạn lại hoặc đôi khi cho chắc ăn hơn, tôi mua vài tờ vé số cặp hai hoặc ba ( một đồng/tờ ) trao cho tên cán bộ, rằng th́ là cán bộ lương chẳng nhiều, giữ vài tấm vé số nầy biết đâu gặp may trúng độc đắc sẽ đổi đời; nghe bùi tai nên lúc nào họ cũng thỏa măn ngay cho tôi khỏi cần "kíu xét ".

Về thăm lại nơi chôn nhao cắt rốn cách Sài G̣n hơn trăm cây số, quê tôi trước 1975 thật trù phú, nhưng nay cũng cùng số phận hẩm hiu của cả miền nam, trở nên tiêu điều, người dân vất vả hơn, câm nín hơn và nhất là vắng tiếng cười hồn nhiên của trẻ thơ… .


Tôi vốn luôn nghĩ rằng Sinh - Lăo - Bệnh - Tử là luật của vũ trụ, chẳng ai tránh khỏi, nên ngay trước sự ra đi của người thân tôi cũng xem đó là điều tự nhiên, chẳng có ǵ phải bi lụy; nhưng lần nầy, đứng trước mồ của mẹ, nước mắt tôi tự dưng tuôn thành gịng. Một mảng kư ức trở về trong tâm khảm tôi:

" Vào những ngày cuối của tháng 3/1975, di tản từ V1DH về trú ở V3 DH, tôi gặp lại ông Xếp cũ năm 1972 cùng phục vụ ở CCHQ/MT mà hiện là HT của một chiến hạm. Tôi hỏi ông đi đâu? – Ông bảo muốn kiếm vài bản đồ vùng Đông Nam Á. Tôi vào pḥng thằng bạn lấy cho ông vài bản. Ông vỗ vai tôi thân mật bảo:- Anh về nói với bà Cụ (Mẹ tôi ) chuẩn bị sẵn, khi ông đến đón gia đ́nh bên vợ sẽ đón luôn gia đ́nh tôi.

Số là, ông rất mến tôi v́ khi tôi phụ tá ông, mọi việc của căn cứ tôi đều cán đáng. Ngoài ra, Ông lập gia đ́nh với một người phụ nữ gần nhà tôi, tức ngoài t́nh chiến hữu c̣n có thêm t́nh cḥm xóm. Tôi cám ơn Ông, nhưng cho biết là sẽ không đi.

Rồi ngày 29/04/1975, Ông Xếp của tôi là ĐôĐốcTL/HQ/V1DH và ĐĐ. TL/HQ/V3DH trước khi lên xe ra Vũng Tàu để xuống chiến hạm cũng đă khuyên tôi nên cùng đi với hai Ông " Anh ở lại với tụi nó không được đâu ". Tôi cám ơn hai Ông nhưng khước từ ra đi và trở về Sài G̣n để sau đó đi tù ".

Tuy nhiên, cho đến nay, tôi không ân hận chút nào về quyết định nầy. V́ tôi không thể bỏ Mẹ tôi để ra đi. Mẹ tôi, người đă cho tôi cả một t́nh thương bao la, ngay từ khi ba tôi bỏ gia đ́nh đi sống với một bóng sắc khác lúc tôi vừa tṛn tuổi thôi nôi. Dù nhà thật nghèo, phải vô cùng vất vả, nhưng Mẹ tôi lúc nào cũng v́ Nội và hai chị em tôi. Mẹ tôi thủ tiết cho đến khi nhắm mắt ĺa đời năm 1976, đúng vào lúc kẻ cướp đày tôi lên vùng thượng du Bắc Việt.

Tôi đă đi biết bao sông dài, biển rộng, nhưng không có đại dương nào bao la bằng t́nh thương của Mẹ tôi. Tôi cũng đă có dịp đi công tác ở nước ngoài, thấy được sự văn minh, giàu có của họ, nhưng không có vật chất nào đủ hấp dẫn để tôi phải xa Mẹ tôi. Tiếc thay việc ở lại của tôi chỉ là điều vô nghĩa v́ ước nguyện được cận kề Mẹ tôi đă không thành. Mẹ tôi, một người phụ nữ hiền lành, chất phác, không biết chữ để đọc được sách thánh hiền, nhưng bản chất đôn hậu, luôn yêu thương, giúp đỡ mọi người, nên rất được hàng xóm mến, và cả gia tộc nhà chồng thương, tuy nhiên thật tội nghiệp, chỉ có thằng con trai là tôi nhưng từ khi tôi học trung học, đại học và làm lính với cuộc sống phiêu bồng th́ chẳng mấy khi được gần con, thậm chí trước khi nhắm mắt ĺa đời cũng không được thấy con lần cuối.

Trở lên Sài G̣n, lần nầy tôi quyết định phải ra đi.

Nghe nói có thằng bạn cùng khóa HQ, thường tổ chức vượt biên. Tôi t́m đến, đề nghị lái ghe cho nó. Nó đồng ư nhưng chỉ cho thêm một chỗ. Tôi tŕnh bày là tôi có một vợ và một con, chẳng lẽ phải để lại người nào?. Nó dứt khoát một chỗ, nếu nhận th́ đánh, không th́ thôi. Tôi từ chối, lủi thủi ra về, ḷng ít nhiều xót xa, nhớ lại kỷ niệm hai năm chung quân trường và vào năm 72-73 khi tôi phục vụ ở CC/HQ/MT, lúc đó nó bị nạn dường như vụ c̣i hụ Long An, ghé tôi và tôi vẫn đối xử trong t́nh bạn.

Rồi cơn buồn chỉ thoáng qua, v́ vào thời điểm 1983 phong trào vượt biên c̣n khá rần rộ, tôi lại là lính biển thứ thiệt, chắc sẽ không đến nỗi nào và đúng như tôi nghĩ, không biết họ lấy tin từ đâu mà nhanh thật. Nhiều tổ chức đă đến đề nghị tôi cộng tác với họ, kể cả một tên Đại Úy bộ đội. Trước kia, tôi không rơ về VC lắm, nhưng giờ th́ cho cả kho vàng Fort Knox tôi cũng không tin nổi họ, do đó tôi cho biết là

" 29/04/1975 đang ở Vũng Tàu, dù có phương tiện nhưng tôi đă không đi, v́ không đâu đẹp bằng quê hương ḿnh, vả lại sau nhiều năm cải tạo, tôi đă hiểu được lao động là vinh quang, nên từ nay sẽ hăng say lao động để góp phần làm cho đất nước ta giàu mạnh ".

Tên bộ đội, không biết là muốn bẫy tôi hay thực sự đă chán ghét chế độ, hắn tṛn mắt nh́n tôi và nghĩ có lẽ tôi mới vừa ở Chợ Quán hay Biên Ḥa ra, nên vội vă kiếu từ.

Những tổ chức vượt biên, nếu để hốt vàng th́ thường chỉ cho người Hoa Tiêu thêm hai chỗ, c̣n nếu không v́ thương mại th́ họ chấp nhận cho cả gia đ́nh người lái cùng đi.

Lần đầu, tôi đến với một gia đ́nh ở Sa Đéc, nhưng thấy không thuận lợi, nên không tiến hành.

Lần thứ hai, gia đ́nh của cựu Đại Tá Tỉnh Trưởng G̣ Công đề nghị tôi hợp tác và đưa tôi về Bến Tre để cùng nhà Văn Kim Nhật t́m phương cách ra đi. Ông nầy nguyên là Bác Sĩ y khoa, mê chủ thuyết cộng sản nên theo VC và giữ chức giảng nghiệm viên y khoa ở cục R, nhưng khi rơ bộ mặt thật đê hèn và man rợ của chúng, Ông bỏ về thành viết cuốn Đường về R và bị VC tuyên án tử h́nh khiếm diện nên phải trốn về Bến Tre để sống.

Nguyên là BS, nhưng Ông ăn trầu bỏm bẻm, đi chân đất,… Sống như một bần cố nông thứ thiệt, Ông kịch giỏi đến nỗi sống chung với hàng xóm toàn là VC nơi quê hương đồng khởi của chị Ba Định mà không ai biết được hành tung. Từ nhà Ông ra biển, với một chiếc ghe nhỏ gắn buồm con, hai cây dầm, một hai tấm lưới bén, một cái thạp nhỏ và ít muối hột, Ông cùng cậu con khoảng bảy tám tuổi và tôi dăi nắng, dầm mưa trong hai ngày lần ḍ ra cửa biển. Trên đường đi, gặp bất cứ trạm kiểm soát nào Ông cũng tự động ghé vào, tŕnh thẻ đảng và hỏi các đồng chí nhờ chỉ giùm nơi nào có thể lưới kiếm chút cá về làm mắm trong khi chờ mạ lớn để cấy.

Tôi vốn là dân thành phố da dẻ trắng trẻo lại vừa ở tù ra không có giấy tờ, nên những khi đó tim tôi đập liên hồi. Ông giải thích " chú không biết, VC chúa đa nghi, ḿnh phải cao tay ấn nếu không chúng nghi sẽ hạch hỏi, c̣n tránh né hoặc không tuân thủ chúng sẽ dùng AK hoặc thượng liên để giải quyết ". Tuy đôi khi cũng có vài tên VC xuống kiểm soát ghe, nhưng thấy không có vẻ ǵ khả nghi, nên chúng cũng cho đi.

Thời gian ở bên nhà văn Kim Nhật không lâu, nhưng Ông kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện của VC, thú vị nhất là việc anh Ba mặt nám tức Lê Duẩn khi làm bí thư xứ ủy Nam Bộ đă đê tiện hiếp chị X.. Chủ Tịch Hội Phụ Nữ Cần Thơ. Chị là con của một Ông Hội Đồng giàu có, là hoa khôi của Tây Đô và có vị hôn phu là Tiểu Đoàn Trưởng của Tiểu Đoàn nổi danh 307. Lê Duẩn đă điều vị Tiểu Đoàn Trưởng nầy đi xa để ly gián hai người, rồi ra lệnh cho chị Chủ Tịch Liên Hiệp Phụ Nữ Nam Bộ cùng chị X vào cục nhận công tác. Khi bị Lê Duẩn hiếp, chị X đă kêu la cầu cứu, nhưng chẳng ai dám can thiệp, kể cả nhà văn Kim Nhật. Bất măn, buồn chán… Ông bỏ trốn về thành… .

Hai hôm sau, tôi trở lên Sài G̣n, tŕnh bày mọi việc cho tổ chức. Nhận thấy là thái độ của nhà Văn Kim Nhật chưa dứt khoát, v́ Ba ông không muốn xa con, cháu; riêng Ông có vẻ mong một người đồng chí cũ hiện giữ chức vụ lớn trong Quốc Doanh đánh cá đang t́m cách cướp một chiếc ghe tốt, có trang bị vũ khí, để vượt biển được an toàn hơn chiếc ghe sông nhỏ với thành ghe rất thấp không thích hợp để đi biển của gia đ́nh ông cựu Đại Tá Tỉnh Trưởng G̣ Công.

Rồi tôi nhận lái ghe cho một tổ chức người Hoa. Họ cho tôi hai chỗ và thêm một người bạn của cậu em vợ được tháp tùng với giá đặc biệt một lượng vàng. Tôi bàn tính mọi việc với Bà chủ ghe, Bà nghe tôi nhưng cho rằng " Tôi là người quan trọng nhất, không nên lộ diện sớm, chỉ nên đi như khách và chỉ nhận trách nhiệm khi ghe ở ngoài biển ". Tôi đồng ư.

Đúng ngày hẹn, ghe Taxi đón chúng tôi gần bến phà Thủ Thiêm. Đến Cần Giuộc, Cần Đước ǵ đó khoảng hai ba giờ đêm ; người lái Taxi cho biết là " động rồi, cá lớn phải chạy về Vĩnh B́nh ẩn và yêu cầu chúng tôi lên bờ tự túc về nhà ". Ghe Taxi chở khoảng hai mươi người, hầu hết là người Hoa, tôi khuyên họ là nên phân nhóm nhỏ hai, ba người để di chuyển nhằm tránh sự nghi ngờ của dân địa phương và lực lượng dân pḥng. Nhờ là lính biển, quen nh́n phương hướng, tôi dẫn cô em gái, cậu em vợ và bạn nó, t́m ra được bến xe đi Chợ Lớn. Len lén ngoái đầu lại, th́ tất cả mọi người cùng đi trên chiếc ghe Taxi cũng đă có mặt. Xe chở khách bán buôn, đă đầy nghẹt, c̣n quang, gánh th́ cũng đầy trên nóc và lủng lẳng khắp thành xe. Tới mỗi trạm gác th́ người phụ xế đều chạy đi nạp hối lộ, do đó không hề có sự kiểm soát nào, nhờ đó chúng tôi may mắn về đến Sài G̣n được an toàn.

Bà chủ ghe đến gặp tôi và trấn an, tôi yên chí, không hề thắc mắc là thời đó chưa có điện thoại di động để liên lạc th́ làm sao ghe Taxi biết được là đă bị động. Mải vài hôm sau, cháu của bà chủ đến gặp tôi. Chị là vợ của một Thiếu Tá Công Binh đă vượt biển thành công sang Úc và đă làm thủ tục bảo lănh vợ - con, nhưng có lẽ v́ nóng ḷng hoặc không chịu nổi sự hoạnh họe của lũ VC ở địa phương Cây Gơ nên chị liều lĩnh vượt biên trước. Chị Y khóc lóc kể với tôi rằng chiếc ghe trị giá mười hai lượng vàng mà phần chị và ba người con đă góp vào tám lượng, nhưng bà chủ ghe D́ ruột của chị v́ tham dùng người lái phụ chỉ tốn thêm một chỗ đă lái ghe đi, bỏ rơi cả gia đ́nh chị. Tôi nghèn nghẹn, nhưng cũng chỉ biết an ủi chị rằng ḷng người khó mà ḍ.

Ít lâu sau, có hai người đến gặp tôi nhờ lái ghe. Người đàn ông xưng là dân Quốc Gia Hành Chánh Cựu Phó Quận Trưởng Quận Cần Đước. Bà vợ th́ đeo cẩm thạch, vàng đầy tay và chiếc đồng hồ hiệu Citizen ( thời đó Citizen là đồng hồ thuộc loại xịn ) để khoe của và sự thành công. Trong khi bàn bạc và bày vẽ phương cách ra đi cùng họ, tôi đă thật thà khai báo là " vừa bị một tổ chức lừa, nhưng tôi nghĩ là họ sẽ không tệ như tổ chức kia ". Họ cười cười và hẹn hai ngày sau sẽ đến đón tôi, nhưng hơn tuần lễ vẫn không thấy, tôi bèn t́m đến nhà họ ở đường Tôn Thất Thiệp Khu Chợ Trời để hỏi, th́ người nhà của cặp nầy cho biết là chưa thuận lợi để đi và sẽ báo ngay cho tôi khi họ quyết định. Tôi ra về, nhưng sau đó được biết là họ đă bỏ rơi tôi, Dùng người lái phụ lái ra cửa Tiểu th́ bị Công An Tỉnh Tiền Giang xét bắt, cả một trăm năm mươi người khách và Ông-Bà chủ ghe phải đi gỡ lịch. Thật may! Số tôi đă hết dịp đi tù.

Tôi vốn gốc dân quê không lanh lợi, lớn lên đi học, đi lính,, rồi đi tù nên thật ngờ nghệch trước những đổi thay của xă hội thời VC. Sau hai lần bị gạt, tôi thật hoang mang, cộng với chuyện gia đ́nh không vui, nên tuy bề ngoài luôn cười cợt, nhưng bên trong lại thường khóc thầm.

Biết điều phiền muộn của tôi, người anh vợ từ sau khi ra tù, ngày ngày phải đạp xích lô để kiếm sống, nhưng thỉnh thoảng cũng đi vác củi thuê cho Ty Chất Đốt của thành phố, để khỏi phải đi vùng kinh tế mới và anh đă đề nghị tôi cùng làm việc nầy. Tôi lên phường xin cấp cho một giấy tờ hợp pháp để tôi làm việc cho Ty Chất Đốt Thành Phố. Những chức sắc của VC hầu hết đều không có tŕnh độ văn hóa, thường chỉ do có công với " cách mạng " mà được chỉ định phụ trách điều hành công việc hành chánh. Tên Cán Bộ Phường Trưởng vui vẻ bắt tay tôi và gọi tôi là đồng chí, làm tôi nổi da gà.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1481006&stc=1&d=1573189386

Ty Chất Đốt tọa lạc trên đường Trần Qúy Cáp thuộc Quận 3. Hàng ngày họ cắt năm, sáu xe vận tải lên rừng chở củi về thành phố. Mỗi chiếc xe, ngoài tài xế là nhân viên cơ hữu của Ty, c̣n chúng tôi năm, sáu đứa chỉ là phu công nhật. Tài xế vận tải thời nầy có thớ lắm, thật khá giả và rất hách dịch. Số xe lên rừng mỗi ngày chỉ cần vài chục người phu, nhưng số người chầu chực buổi sáng mong được cắt đi lúc nào cũng khoảng vài trăm và người phụ trách chấm công lại là một cựu Trung Úy VNCH. Không rơ người anh vợ tôi đă nói ǵ mà mỗi khi thấy tôi th́ ông cựu Trung Úy nầy đều chỉ định tôi đi làm và có lần c̣n kề tai nói nhỏ" khi nào dzọt, đàn anh nhớ thằng em nầy với nhé " .

Từ nhà tôi ở Phú Nhuận ra đến Ty Chất Đốt, tốn năm đồng xe lam, hai ngày ở trong rừng ăn bốn dĩa cơm với vài miếng ba rọi kho và chút rau muống tốn bốn mươi đồng cộng thêm bốn đồng trà đá v́ trời nóng như thiêu, vị chi là bốn mươi chín đồng, nhưng khi được trả công chỉ nhận có năm mươi, hoặc năm mươi lăm đồng. Đường lên rừng Xuân Lộc, Hớn Quản, Lộc Ninh, Trảng Bàng,… thật khủng khiếp, không chỉ ổ gà mà toàn lỗ chân Khủng Long, ngồi trong ḷng xe mà bị dằn xốc đến nỗi có lần tôi treo một cái vơng nylon để nằm và chiếc vơng đă bị đứt làm đôi.

Sáng th́ bụng trống trơn, lên đến rừng th́ tên tài xế ra lệnh phải lăn xả vào công việc, trời th́ nắng như thiêu, nhiều lần tôi bị choáng váng. Nếu 1975, khi tôi tù ở Long Giao, VC đă đốn vô tội vạ cao su ở Long Khánh để làm củi th́ nay chúng cũng tàn phá những rừng của Miền Nam để lấy củi. Những khúc củi dài hai mét, đường kính từ hai đến bốn tất có khi nặng cả trăm kí lô gram. Chúng tôi phải khiêng đến xe với khoảng cách vài chục đến trăm mét, rồi chất lên xe tải có mui, lèn kín củi như chất que diêm trong một cái hộp quẹt. Tội nghiệp, mấy cậu trai trẻ thấy tôi quá đuối nhiều lần đề nghị "Ông thầy mới ra tù, khiêng hổng nổi đâu, để tụi em làm ". Tôi thật cảm động, cám ơn các em, nhưng cũng phải ráng hết sức ḿnh.

Chất kín củi lên xe đă khó, mà chừa hộc để tên tài xế giấu nhựa cao su hay cà phê hoặc đậu xanh lại càng khó. Chắc chắn là hắn đă ăn chịu, nên chẳng ai dám tố cáo, c̣n nếu rủi bị thuế vụ xét gặp th́ hắn sẽ đổ dẩy cho lũ phu chịu tội. May là chuyện bị xét đă không xảy ra lần nào.

Chỗ xuống củi để trữ cho thành phố là khu đất gần Trung Tâm Tiếp Huyết và Tổng Y Viện Cộng Ḥa. Việc xuống củi th́ tương đối dễ dàng hơn. Trên đường Vơ Duy Nguy đoạn gần khu chứa củi th́ con buôn đă đứng sẵn rất nhiều và các cậu phu lợi dụng đẩy xuống đường vài khúc củi để kiếm thêm vài trăm đồng.

Phần tôi, đang đóng kịch đă giác ngộ lao động là vinh quang, nên dù một đêm trên rừng làm mồi cho muỗi đốt, khổ sở, vất vả, bầm dập tay chân… để hầu như làm việc không công, nhưng tôi vẫn làm ra vẻ vui vẻ, c̣n các cậu trai trẻ th́ đâu thể ngu như tôi rồi lấy ǵ sống. Chính VC đă đẩy các em phải mánh mung để sinh tồn.

Rồi một Trung Tá Công Binh mời tôi tham gia tổ chức của Ông. Ông dẫn tôi đến xem chiếc ghe đang tân trang. Ghe dài khoảng mười bảy mét, bốn máy. Ông cho biết đă có hai khẩu đại liên M60, hai cây phóng lựu M79, một khẩu M16, vài thùng đạn và tuyên bố là nếu bị VC xét th́ ăn thua đủ để thoát hoặc chết quyết không để chúng bắt. Dù không thấy súng ống, nhưng tôi thích phương cách của ông Trung Tá Công Binh nầy. Tiếc là để kiếm cho đủ hai trăm năm mươi người khách vượt biên như Ông muốn không phải dễ và chẳng biết đến bao giờ.

Sau đó, một ông Trung Tá Dù đề nghị tôi lái cho một tổ chức đă có liên tục mười chuyến thành công. Ông ta chỉ cho tôi thêm một chỗ và dù chưa thấy qua chiếc ghe, nhưng tôi vẫn nhận v́ bằng mọi giá tôi đă nhất quyết phải ra đi. Ông giao cho tôi một số tiền để mua sắm hải đồ và tôi may mắn được em của một người bạn cùng khóa HQ bán rẻ nửa giá.

Trước khi ra đi, tôi đă dùng số tiền thừa phân nửa đó để đăi cho bốn đứa con của người D́ vợ. Mỗi đứa một tô ḅ viên ở chợ Phú Nhuận. Nh́n những đứa bé sung sướng x́ xụp với tô ḅ viên, tôi thật xúc động. Trước 1975, nhà chúng cũng không tệ, nhưng khi VC thống trị th́ trở nên nheo nhóc, cha là ngụy nên phải đi tù, mẹ th́ muôn ngàn khó khăn để nuôi đàn con đông nheo nhóc, do đó trong nhiều năm chúng chỉ biết cơm độn với rau muống chấm nước mắm kho quẹt.

Riêng cô chị cả của chúng, mười sáu tuổi đă đỗ tú tài hai hạng tối ưu và nhờ học ở hội Việt- Mỹ khá thạo tiếng Anh, nhưng v́ lư lịch con ngụy nên không được tiếp tục học, cũng không xin được việc làm. Cô tâm sự " người xứng với em th́ hoặc đang ở nước ngoài hoặc c̣n trong tù c̣n lũ người rừng nầy (VC), th́ dù chết em cũng không ưng ". Do đó cô đă lén lút buôn chuyến, xuống miền Tây mua ít thịt thà, cá mắm đem về Sài G̣n bán kiếm chút lời, nhưng thời đó những món nầy đều bị cấm, bị chận xét, tịch thu và phạt; nên mười chuyến chỉ họa hoằn một, hai chuyến là thoát. Kiếm được chút đỉnh, vay mượn thêm, cô vượt biển nhiều lần, nhưng đều thất bại và sau cùng bị chết đuối.

Tội nghiệp, cô rất ngoan đạo, nhưng phận bạc phải ĺa đời lúc tuổi c̣n thanh xuân.

Người trong tổ chức của ông Trung Tá Dù, chở tôi từ Sài G̣n xuống Vĩnh B́nh bằng xe gắn máy. Ông nầy là cựu Đại Úy Biệt Động Quân, người to lớn, mập mạp, đội nón cối, đi dép râu, giống hệt một cán bộ VC, c̣n tôi với giấy tờ giả, ôm sacoche theo ông như là tà lọt. Nghe nói ông gốc dân Văn Khoa, không biết làm cách nào mà có dạo phụ trách thảo diễn văn cho tên Tư Lệnh Quân Khu 7 của VC.

Đón chúng tôi ở một quán cà phê ở Vĩnh B́nh là một bi thư Xă Ủy VC. Ông nầy mê cộng sản đă hiến mười lăm mẫu đất cho VC làm công binh xưởng, cả gia đ́nh đều theo VC, có vài đứa con đă lên bàn thờ, riêng bà vợ bị bom gảy cột xương sống. Có điều là dưới thời VNCH, th́ ai cũng được bệnh viện chăm sóc, chữa trị, nhưng khi VC cướp miền Nam th́ tất cả thuốc men đều vét sạch chở ra bắc, từ đó người dân Miền Nam dù bệnh ǵ thường chỉ có xuyên tâm liên hoặc thuốc dỏm, Bác sĩ dỏm thôi. Đến 1976, th́ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam bị giải tán và hầu hết cán bộ VC Miền Nam cũng bị cho ra ŕa. Bất mản v́ hai thập niên theo VC, chỉ được dăm bằng liệt sĩ, vài tấm huân chương treo vách để nhát con nít khi chúng khóc, vợ đau xin cấp thuốc cũng không có… Ông bí thư Xă Ủy nầy quay sang bắt tay với " ngụy " và sau mỗi chuyến thành công được tổ chức thưởng cho hai lượng vàng.

Cạnh nhà ông Bí Thư là nhà của tên Trung Đội Trưởng du kích xă, hôm đó có giỗ. Khoảng hơn hai mươi tên du kích với AK47, CKC nhậu nhẹt rần rần; thỉnh thoảng có tên kêu vói mời Bác Năm (Ông Bí Thư) sang nhậu với chúng, ông ta thối thoát tao không khỏe, tụi bây cứ tự nhiên.

Đến đêm, ông và cậu con, chống ghe nhỏ đưa tôi và ông Đại Úy Biệt Động Quân ra chiếc ghe lớn đậu gần một trại cùi. Mọi người đă lên ghe đầy đủ và chúng tôi là hai kẻ sau cùng. Ghe bắt đầu hướng ra biển.

Theo giao hẹn, tôi chỉ trách nhiệm khi ghe ra biển, nhưng khi đi được một đoạn c̣n khá xa biển, người lái ghe nhảy xuống ghe con trở về. Phóng lao phải theo lao, tôi tiếp tục lái ghe ra cửa Ba Động.

Hồi năm 1971, khi phụ trách chiếc kiểm báo Hạm Ba Động HQ 460, tàu tôi neo ngoài khơi cách cửa Ba Động hai mươi cây số, các Sĩ Quan thay nhau vào Vĩnh B́nh mua thực phẩm cho tàu, c̣n tôi chưa lần nào vào đó.

V́ không biết ǵ về cửa Ba Động nên khi ghe ra gần đến cửa biển, dù sông thật rộng, ghe tôi bị vướng phải một cồn ngầm. May nhờ thủy triều lên, tôi rút ghe ra được và thẳng ra biển. Lúc đó biển thật động, mà ghe là ghe nhỏ đi sông, thành ghe rất thấp, không có volant nên phải lái với cái cần lái ở đuôi ghe. Do không thể đâm thẳng ra biển, tôi phải lái chếch sóng, nhưng ngày càng gần hải đăng Vũng Tàu.

Cuối cùng tôi phải liều lĩnh chấp nhận rủi- may đâm ra khơi. Hôm đó v́ biển quá động, những ghe quốc doanh đánh cá từ Côn Sơn phải chạy cả về SGN và khi ghe tôi ra khơi khoảng hơn nửa giờ th́ bị một ghe Quốc Doanh đuổi theo. Ghe chúng lớn loại đi biển được trang bị máy mạnh, c̣n ghe tôi nhỏ, máy chỉ hai Bloc; nếu chúng tiếp tục đuổi chắc chắn sẽ bắt được chúng tôi, nhưng không hiểu v́ sao chúng bỏ cuộc và ghe tôi thoát nạn.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1481007&stc=1&d=1573189386
ghe sông vượt biển

Trưa hôm sau, chúng tôi lọt vào một cơn giông. Thường th́ sóng biển từng đợt đánh theo chu kỳ, nhưng trong cơn giông th́ sóng loạn, tôi vừa lái vừa cố gắng tránh sóng, tuy nhiên v́ thành ghe thấp và đôi khi tránh không kịp nên thỉnh thoảng ghe cũng bị sóng tràn vào. Tôi yêu cầu cánh đàn ông, chia từng cặp thay nhau múc nước đổ ra biển. C̣n phụ nữ và trẻ con th́ thật tội nghiệp, họ vô cùng sợ hăi, nhưng chỉ biết x́ xụp lạy hay cầu nguyện. Trên ghe tôi có một ông Tiến Sĩ, nhưng lúc đó ông không phụ tát nước mà chỉ cầu nguyện như những người phụ nữ, tuy có tŕnh độ văn hóa cao nhưng khi hữu sự giá trị của ông lại không bằng các cậu trai trẻ. Phần tôi, đă từng hai lần thoát chết trong trại tù CS, nên lúc đó tôi không hề sợ, ngoài ra nh́n hàng chục đứa bé thật tội nghiệp, tôi càng vững tay lái hơn, vừa niệm Phật vừa lái đến khi trời sụp tối. Tôi đang lo là sẽ không thấy đường để tránh sóng th́ may thay sóng dịu dần như có một phép mầu.

Sau một ngày vật vă với sóng gió, tôi mệt đừ, nên giao tay lái cho cậu em vợ và ngả lưng bên cạnh những buồng dừa ngổn ngang. Số là tổ chức cho biết là tôi có một người phụ lái và một người thợ máy, nhưng trên thực tế th́ người phụ lái là một cựu Đại Úy Địa Phương Quân, đă có lái qua tàu sông, nhưng suốt trong chuyến vượt biên ông không lái thay cho tôi lần nào. C̣n người thợ máy th́ dỏm, thực ra chỉ là một thợ tiện, anh ta ở trong cabine trông nom máy và phụ trách giữ mấy bao bột đậu xanh và bột Bích Chi. Anh lại rất say sóng, nên giữ ǵn thế nào mà mấy bao thức ăn nầy bị lọt xuống hầm máy và ngấm dầu gas-oil nên không c̣n dùng được.

Trong đêm, khi cậu em ôm tay lái, tôi chập chờn bên cạnh th́ nghe tiếng nước chảy róc rách. Kiểm lại th́ chiếc thùng phuy chứa nước uống v́ quá cũ lại bị sóng nhồi nên bị thủng và nước thoát ra, khi tôi phát giác và bít được lỗ thủng th́ nước chỉ c̣n lại rất ít. Rồi một cơn mưa to chợt ập đến, do không được dự trù trước nên một số người vội đem cái mền căng ra hứng được đầy phuy nước. Điều thật buồn cười là cái mền cũ có lẽ từ nhiều năm không được giặt nên ngày mai khi nắng lên, nước hứng được có màu xám đen và trên mặt là một lớp váng. Dĩ nhiên là chẳng ai dám động đến, do đó suốt chuyến vượt biên, ngày hai lần, khoảng mười giờ sáng và mười bảy giờ chiều, cậu em vợ tôi và vài cậu nữa phải chặt dừa, đem phát cho trẻ con, phụ nữ và đàn ông mỗi đầu người khoảng 10cc nước dừa tươi, phần tôi cũng ngần đó.

Sang ngày thứ tư, chúng tôi gặp hai tàu đánh cá Hồng Kông đang neo và chúng tôi đến để xin tiếp tế. Mấy cục piles phải ưu tiên dùng cho hải bàn và thỉnh thoảng cho radio để nghe tin tức khí tượng, nên mỗi khi gặp tàu, v́ không có đèn làm hiệu, mấy cậu trai thường lột áo nhúng dầu buộc vào cây sào rồi đốt lửa làm hiệu cầu cứu, do đó thường các cậu chỉ c̣n có cái quần sọt, ḿnh trần, c̣n đầu th́ quấn chiếc khăn trông giống như hải tặc. Hai chiếc tàu cá Hồng Kông ít người, có lẽ sợ bị cướp nên lúc đầu ra dấu không cho chúng tôi đến gần. May thay trên ghe có một phụ nữ gốc Hoa, trao đổi tiếng Hoa với họ. Khi hiểu rơ, họ cho phép ghe tôi cặp vào để cho nước, nhớt, bánh ngọt, tạp chí. Riêng tôi c̣n được vào pḥng lái để xem vị trí nơi tàu đang neo và có lẽ nhờ ơn trên, dù chỉ lái bằng sự phỏng định, nhưng vị trí ghe tôi cũng không sai lắm so với ước tính. Với vị trí nầy, nếu không có ǵ bất thường th́ khoảng hai mươi bốn giờ sau chúng tôi có thể đến được Mă Lai hoặc Nam Dương.

Chúng tôi từ giă thủy thủ đoàn của hai chiếc tàu Hồng Kông với niềm biết ơn sâu xa. Mọi người trên ghe tôi chia nhau bánh, tạp chí, uống nước thỏa thích và v́ sắp được đến đích nên ai cũng đều lên tinh thần. Riêng tôi, miên man nghĩ về việc trong khi hàng chục chiếc tàu đủ quốc tịch đă làm ngơ trước sự kêu cứu của chúng tôi, th́ tại sao hai chiếc tàu Hồng Kông nầy lại thật tốt giúp đỡ chúng tôi. Nhớ hồi năm 1974, có hai chiếc tàu đánh cá Hồng Kông vi phạm lănh hải VN, bị chiến Hạm HQ/VNCH bắt giải giao về BTL/HQ/V1/DH. Lúc đó tôi phụ trách về việc nầy trước khi giao lại cho Quan Thuế Đà Nẵng lo về thủ tục pháp lư và liên lạc với chính phủ Hồng Kông. Thủy thủ đoàn của hai tàu đánh cá nầy rất lo sợ, họ đă t́m cách hối lộ tôi, nhưng chẳng những tôi không động đến tôm cá hay tiền bạc của họ, mà c̣n giúp cho họ trong khả năng. Không biết có phải là luật nhân quả đă ứng hiện cho trường hợp nầy chăng?.

Nhưng rồi niềm vui của mọi người sớm vụt tan, anh thợ máy dỏm không rơ vụng về thế nào, làm rơi chiếc áo tee-shirt quấn vào trục láp làm chết cả hai máy tàu và không sao khởi động lại được. Ông phụ lái của tôi lúc nầy xuất hiện, đề nghị cắt miếng bạt mui ghe làm buồm và nhiều phụ nữ tiếp tay thực hiện được chiếc buồm con, nhưng không may hôm đó gió rất yếu lại thổi ngược hướng chúng tôi muốn đi, nên buồm cũng không có công dụng lắm, ghe chúng tôi trôi lênh đênh như con tàu ma.

Không rơ ông phụ lái thuyết phục thế nào mà hầu hết mọi người nhất là mấy bà yêu cầu tôi quay mũi ghe đi Phi Luật Tân. Tôi giải thích rằng ḿnh đang gần Nam Dương, Mă Lai, Singapore, ghe hiện trên hải đạo quốc tế có nhiều tàu bè qua lại, hy vọng chúng ta sẽ được cứu vớt, c̣n đi Phi Luật Tân th́ rất xa mà ghe ḿnh chỉ có chiếc buồm con lại thiếu lương thực và nước uống. Tôi đề nghị là nếu qua hai ngày mà không có tàu cứu sẽ quyết định sau. Mọi người đồng ư, nhưng chỉ sau hai mươi bốn tiếng đồng hồ họ lại nghe ông phụ lái yêu cầu tôi phải đi Phi Luật Tân lập tức. Tôi thật nản, định buông xuôi, nhưng trên bầu trời bỗng xuất hiện một chiếc máy bay cánh quạt của US NAVY bay thật thấp gần ghe chúng tôi. Mọi người la hét kêu cứu, nhưng máy bay tiếp tục bay thẳng vào Mă Lai. Thật ra th́ người trên máy bay đă thấy chúng tôi và họ cũng đă liên lạc với tàu trong khu vực đến cứu chúng tôi.

Lúc đó th́ không xa chúng tôi có hai chiếc tàu; Chiếc thương thuyền chạy thật nhanh th́ xa hơn , c̣n chiếc tàu gần th́ chạy thật chậm. Trời lúc đó mưa lất phất, trần mây th́ thấp và u ám. Lợi dụng lúc mặt trời vừa thoát ra khỏi cụm mây, tôi dùng đáy của hộp bánh sơn màu trắng inox lắc lắc như đánh đèn hiệu về hướng chiếc tàu chạy gần và liền đó chiếc nầy chuyển hướng đi về phía chúng tôi. Khoảng nửa tiếng sau th́ chiếc CHINON tàu dầu của hăng BP ( British Pétroleum ) chỉ c̣n cách ghe tôi vài chục mét. Họ ném dây xuống cho chúng tôi. Vài cậu trai trẻ nhảy ùm xuống biển để vớt dây. Tôi lo lắng v́ sợ họ bị cá mập tấn công, nhưng may thay có một đàn cá heo vài chục con nổi lên nhào lộn gần mấy cậu đă cất đi niềm lo của tôi, v́ thường đâu có cá heo là không có cá mập.

Khi ghe tôi đă áp vào tàu lớn th́ họ thả thang dây xuống để chúng tôi leo lên tàu. Tôi là người sau cùng đặt chân lên tàu và được yêu cầu lên gặp ngay vị Thuyền Trưởng. Ông cho biết là chính phủ ông không thuận để cứu ghe vượt biển, nhưng v́ lư do nhân đạo mà ông đă linh động, do đó yêu cầu tôi phải đánh đắm chiếc ghe, ông cũng ngỏ ư xin cái hải bàn và tấm hải đồ để làm kỷ niệm.

Tôi cho thi hành mọi việc, đồng thời dặn ḍ mọi người nên giữ tư cách, kỹ luật và tuyệt đối tôn trọng về an ninh pḥng hỏa hoạn cho chiếc tàu dầu. Có lẽ do vui mừng v́ sắp được bến bờ, nên mọi người đă răm rắp nghe tôi và lấy được cảm t́nh của thủy thủ đoàn của chiếc tàu dầu. Lúc đầu họ nấu thức ăn rồi đem ra boong tàu phát cho chúng tôi. Sau thấy chúng tôi không tệ nên đến giờ ăn th́ chúng tôi cũng được vào pḥng ăn chung với họ. V́ quá mừng, khi leo thang lên tàu, một số người tỵ nạn đă vứt cả giày, dép nên ông Thuyền Trưởng đă ra lệnh cho thợ mộc trên tàu cưa ván ép, đóng cho những người nầy những đôi guốc đi lốc cốc trên tàu trông thật ngộ nghĩnh; ngoài ra ông c̣n cho tổ chức văn nghệ, ca múa để mọi người giải trí.

Tối hôm đó tôi được viên Sĩ Quan đi phiên mời lên pḥng lái. Tàu dầu dài hơn ba trăm mét, trọng tải vài trăm ngàn tấn, nhưng thủy thủ đoàn chỉ ba mươi hai người và ngoài giờ hành chánh, để đi quart trên đài chỉ huy chỉ có hai người và dưới pḥng máy một người. Ông SQ trưởng phiên cho người phụ tá đi lấy một chai rượu chát và rót mời tôi một ly. Khi nghe tôi tŕnh bày, ông rất chú ư lắng nghe và cho biết là nếu ghe tôi phải quay về Phi Luật Tân th́ có thể sẽ gặp hai cơn băo nhiệt đới. Ông c̣n cho biết là khoảng thời gian nầy năm trước, tàu ông có cứu một ghe vượt biển gần ba mươi người, nhưng khi lên tàu họ phá phách quá và c̣n cắp vặt. Rút kinh nghiệm lần trước, ngoài ra v́ chính phủ Pháp không cho phép nên ông Thuyền Trưởng đă nói với thủy thủ đoàn là ghe tôi chắc đă chết hết rồi. Măi đến khi thấy vài ánh chớp, tức c̣n người sống, thủy thủ đoàn nài nỉ quá nên ông phải chiều theo và cứu chúng tôi. Đang nói chuyện với nhau, th́ có âm thanh và đèn hiệu báo động, ông SQ.TP giải thích là có chướng ngại vật trên hướng đi của tàu, tuy nhiên tàu sẽ tự động giải quyết mà không cần đến sự can thiệp của ông. Làm việc trên con tàu tối tân sướng thiệt.

Sau hơn một ngày th́ chiếc CHINON đến Singapore. Cơ quan tỵ nạn LHQ ở nước nầy cho một chiếc tàu nhỏ ra đón chúng tôi, thủy thủ đoàn của chiếc tàu dầu thật tử tế, họ quyên tiền tặng chúng tôi, nhưng tôi đại diện cám ơn rằng các ông đă cứu mạng chúng tôi, điều đó thật cao quư và xin khước từ số tiền, ngoài ra khi tiễn chúng tôi, thủy thủ đoàn chiếc tàu CHINON có nhiều người đă rơm rớm nước mắt.

Bà Mười - Vợ của DS La Thành Nghệ, đại diện HCR thật ân cần thăm hỏi chúng tôi và đưa thẳng chúng tôi vào trại tỵ nạn Sembawang - Singapore. Trại trước kia là khu gia binh của các Sĩ Quan người Anh, thật khang trang, sạch sẽ. Trại không có các ṿng rào kẽm gai, không có gác sách. Những người làm việc cho HCR th́ thật lịch sự và tử tế. Tuy chúng tôi chỉ ở trại ba tháng, nhưng họ cũng tổ chức dạy cơ bản về tiếng Anh, tiếng Pháp cho người tỵ nạn, chăm sóc tốt sức khỏe và mỗi tuần phát cho chúng tôi mỗi người mười đô la Singapore tức năm dollars Mỹ để sống và cuối tuần chúng tôi c̣n được phép đi phố chơi. Những người vượt biển hầu hết đều có mang theo tiền bạc và nữ trang, giá sinh hoạt ở Singapore cũng không đắt đỏ lắm, nên tha hồ mua sắm. Phần tôi không có xu teng nào, nhưng nhờ được cấp mười đô la mỗi tuần nên cũng thong dong. C̣n cậu em vợ theo mấy cậu trai khác lén ra phố khuân vác lặt vặt cũng kiếm được chút đỉnh để mua sắm. Người Singapore thật văn minh, lịch sự và tử tế… hàng tuần họ c̣n chở thịt cá, rau cải vào giúp cho chúng tôi. Công tâm mà nói th́ Singapore quả là thiên đường của người tỵ nạn.

Những người cùng trên chiếc ghe tôi tỵ nạn ở Singapore, trừ những ai được thân nhân ở Mỹ, Canada, Úc bảo lănh, số c̣n lại vài người v́ do tàu Pháp vớt, nên được đi định cư ở Pháp.

Phần tôi, do trước kia đă cứu mạng ba quân nhân Mỹ và được thưởng huy chương Hải Quân Mỹ, nên tôi được xếp loại ưu tiên đi Hoa Kỳ, nhưng cay cú về việc người Mỹ đă vô nhân đạo trước nỗi hiểm nguy của thủy thủ đoàn chiếc HQ 10 đào thoát trong trận hải chiến Hoàng Sa chống Trung Cộng xâm lược năm 1974, trong đó có bạn tôi là HP chiếc HQ10, ngoài ra " nực " về việc Mỹ đă phản bội VNCH, nên tôi đă khước từ đi Mỹ.

Tháng 11. 1983, tôi sang Pháp định cư đúng vào thời mà Đảng Cộng Sản Pháp cực thịnh, nên không được thuận lợi và tôi đă phải vô cùng khó khăn, vất vả để thích nghi với cuộc sống mới.

Tôi sinh ra đă sớm nếm mùi tân khổ, cuộc đời lại trải qua không ít nghịch cảnh, ngoài ra c̣n biết thế nào là địa ngục trần gian ở các trại tù VC; chính những kinh nghiệm quư báu đó đă giúp tôi vượt qua tất cả mọi khó khăn. Rồi nhờ ơn trên, sớm ngộ được thiền mà tôi có được cuộc sống thong dong, thanh thản. Hiện tôi có sức khỏe tốt, vật chất đủ, nhiều tự do, so với hàng triệu người trên thế giới, tôi thật may mắn.

Ơn đời thật chứa chan, xin cám ơn Cha- Mẹ và những người đă giúp tôi có cuộc sống hôm nay./.

nhân mùa lễ tạ ơn

Trần Kim Diệp K 17 HQ

wonderful
11-13-2019, 10:10
Chiều buồn nghiă trang.

Nghiêm chào mày, hăy an ḷng yên nghỉ
Đảng quỷ này đă đến lúc diệt vong
Phất Cờ Vàng ... Ta lấy lại Non Sông
Xuân "Mă Đáo Thành Công" tiêu lũ cộng.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1483584&d=1573639793

wonderful
11-13-2019, 10:18
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1483585&d=1573640214


Lửa chiến chinh từ lâu đă lịm tắt
Kỷ niệm buồn vẫn ẩn hiện trong ḷng....tôi .

wonderful
11-13-2019, 10:31
Kỷ Niệm thôi ! HoangLan ôi..

Tháng ngày khói lửa đă tan rồi
Nhịp bước oai hùng cũng xa trôi
Người nuốt uất nghẹn đời viễn xứ
Kẻ lết bên đường bụi mặn môi
Bao thằng c̣n lại mồ huyệt lạnh
Tháng Tư Găy Súng, xót xa ... Ôi !
Nón sắt, giày saut, đường binh lửa
T́m trang kư ức ... kỷ niệm thôi !

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1483586&d=1573641054

hoanglan22
11-13-2019, 14:33
Kỷ Niệm thôi ! HoangLan ôi..

Tháng ngày khói lửa đă tan rồi
Nhịp bước oai hùng cũng xa trôi
Người nuốt uất nghẹn đời viễn xứ
Kẻ lết bên đường bụi mặn môi
Bao thằng c̣n lại mồ huyệt lạnh
Tháng Tư Găy Súng, xót xa ... Ôi !
Nón sắt, giày saut, đường binh lửa
T́m trang kư ức ... kỷ niệm thôi !

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1483586&d=1573641054

Bác WD ơi !! người ta nói đúng khi tuổi già đến thường hay lục lại kư ức .
Có nhiều khi ngồi một ḿnh bên ly cà phê nh́n đồi núi ( CALI ) ḷng bâng khuâng tự nhiên nhớ lại những cảnh cũ mà một thời đă qua ... người c̣n người mất . Một cuộc chiến thương đau

hoanglan22
11-19-2019, 14:37
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1486669&stc=1&d=1574173694

Trực Thăng UH là loại máy bay được liên kết mật
thiết nhất với các đơn vị Bộ Binh của QLVNCH.
Sau khi tổng thống
Lyndon Johnson
tuyên bố gia tăng
cuộc chiến chống
cộng sản ở vùng
Đông Nam Á bắt
đầu. Năm 1964 Ông
đă quyết định đưa quân đội Hoa Kỳ ồ ạt vào miền
Nam Việt Nam, quân số đang từ 16,000 cố vấn quân
sự năm 1963, đă tăng lên 525,000 quân tham chiến
năm 1967.
Khi chính phủ Mỹ quyết định đổ quân vào Việt Nam
th́ họ cũng đồng loạt đem theo vũ khí, quân trang,
quân dụng vào miền Nam, rồi xây cất rất nhiều phi
trường và các căn cứ quân sự dưới vĩ tuyến 17, và
trên toàn cơi miền Nam Việt Nam.
Đặc biệt Hoa Kỳ đă đưa một số lượng khổng lồ máy
bay trực thăng 12,000 chiếc sang phục vụ cho chiến
trường Việt Nam, chưa kể các trực thăng thuộc khối
dân chính quốc pḥng như: AIR AMERICA,
USOM, USAIDS và của các hăng thầu xây cất như
PACIFIC & RMK-BRJ..v.v.. Nhiều nhất là UH-1H.
Trực thăng UH Huey Bell Iroquois là loại máy bay
tham gia nhiều nhất trên chiến trường Việt Nam,
phải kể đến: UH-1A, 1B, 1C, 1D & đa số là UH-1H,
động cơ Lycoming T53, 1400HP do công ty Bell
Iroquois Helicopter sản xuất.
Trước khi Mỹ đem UH-1 vào Việt Nam, th́ họ đă
viện trợ cho KQVNCH loại trực thăng có trọng tải
nhẹ, như: H19 & H34 động cơ nổ, bay chậm, chở
được rất ít hành khách và quân dụng.
Sau đó Mỹ đem trực thăng CH21 (H-21 "Flying
Bannana, kiểu trái chuối 2 chong chóng) của US
Army vào VN. Họ xử dụng H21 bốc và đổ quân trên
chiến trường miền Nam. Nhưng loại CH21 này
không hữu dụng v́ nó khó khăn trong công tác bảo
tŕ và cồng kềnh, lại bay chậm nữa, tốc độ 127mp/h,
dễ làm mồi cho VC, mục tiêu để pḥng không bắn
hạ, nên CH21 sớm bị khai tử tại VN sau năm 1963.
Kế đến, US Army thay thế bằng loại trực thăng UH1A. Model này chỉ có 2 cánh cửa cargo, kéo hai bên
(2 sliding doors), và modified thành trực thăng vơ
trang (Gunships) UH-1B, dùng để hộ tống hợp đoàn
đổ quân. Về sau chỉ c̣n US Navy Seawolves vẫn sử
dụng loại Gunships này.
Chiến tranh ngày càng leo thang. Quân đội Mỹ cho
nhập vào VN loại trực thăng UH-1H, OH-6A cán gáo
và Gunships Cobra để escort hợp đoàn slicks UH-1H
đổ quân trên chiến trường miền Nam.
UH-1H có trọng tải nhiều hơn, khoang hành khách
rộng, có thể chở được 10 quân nhân lực lưỡng bộ
binh Hoa Kỳ với vũ khí và quân trang cá nhân mang
theo khi đi hành quân. UH-1H có tốc độ
Max.140mp/h tương đương với 210km/h.
Đối với binh sĩ VNCH, UH-1H có thể chở được trên
1 tiểu đội (12 chiến sĩ).
Lính VNCH nhỏ con hơn lính Mỹ, nên đôi khi phi
hành đoàn VNAF du di, chở tới 16 binh sĩ mà vẫn
dưới 50 Torque. Trọng tải của UH-1H, 50 Torque
Power là Max cất cánh an toàn. Trên 50 Torque th́
quá tải (Overloaded). V́ thế khi hợp đoàn bay đi bốc
quân bạn. Mỗi lift
gồm 5 phi cơ slicks
UH-1H, có thể chuyên
chở được trên 60 tới
65 binh sĩ BB với vũ
khí cá nhân trang bị
đầy đủ.
HỢP ĐOÀN TRỰC THĂNG VẬN CỦA VNAF
Bay Hành Quân. (Helicopter Combat Team) gồm:
-1 Phi cơ chỉ huy C&C (Commander & Controller)
-3 Trực Thăng Vơ Trang (Gunships Escort)
(2 gunships escort + 1 spare gunship, ground alert)
-5 Trực thăng chở quân (Slicks)

-Phi cơ C&C hướng dẫn và chỉ huy cuộc đổ quân.
Trưởng Phi Cơ (TPC) bay C&C thường là cấp Th/tá trở
lên, sẽ chỉ huy toàn bộ hợp đoàn trực thăng vận đổ quân.
Phi cơ C&C chở theo Chỉ Huy Trưởng Bộ Binh và BCH
hành quân (c̣n gọi là Back Seaters)ᴧᴧᴧᴧ
-3 Trực thăng vơ trang (UH-1H GUNSHIPS MODIFIED)
bay hộ tống hợp đoàn đổ quân và yểm trợ quân bạn.
Trưởng Phi cơ bay Leader Gunships là những phi công
lăo luyện, có khả năng bay dẫn đạo từ 2 phi cơ trở lên và
chỉ huy những phi cơ vơ trang bay theo (wing friends),
Gunships Leader đă từng bay các phi vụ trực thăng vơ
trang yểm trợ hành quân, đánh phá các mục tiêu và giải
toả áp lực địch quân
-5 Trực thăng bốc và đổ quân (slicks). Trường Phi Cơ
(Formation’s Leader) bay dẫn đầu hợp đoàn, thường là vị
Phi Đội Trưởng, dầy dạn kinh nghiệm chiến trường và đủ
khả năng bay dẫn đạo hợp đoàn. Ứng biến, xử lư và ra
lệnh khẩn cấp, khi bất kỳ phi cơ nào trong hợp đoàn, gặp
hữu sự. Hay phân công ngay, các phi vụ lệnh khẩn cấp.
ĐỘI H̀NH BAY HỢP ĐOÀN ĐỔ QUÂN:
Leader of Formation là chiếc phi cơ bay
đầu, dẫn hợp đoàn. TPC chiếc Leader
thường là cấp bậc Đại Úy hay Tr/úy kỳ
cựu. Leader có nhiệm vụ liên lạc trực tiếp
và nghe lệnh từ C&C, nhận lệnh từ C&C
và bay theo hướng dẫn của Gunships
Leader khi vào băi đáp.
-Nếu hợp đoàn ít phi cơ, bay 3 chiếc, th́
chiếc Leader bay trước dẫn đầu, chiếc số 2
bay bên phải, chiếc số 3 bay bên trái theo
đội h́nh chữ ᴧ ngược.
-Nếu hợp đoàn 4 phi cơ: Sẽ bay theo đội
h́nh Diamond. Chiếc Leader bay dẫn đầu,
số 2 bên phải, bay kè theo, song song ở 45
độ chéo góc phía sau. Chiếc số 3 bên trái
bay theo chiếc Leader và ở 45 độ. Chiếc số 4
bay sau cùng ở chính giữa của chiếc số 2 và
3 bay theo leader.
-Nếu hợp đoàn gồm 5 máy bay, th́ hợp đoàn
sẽ bay theo đội h́nh mũi tên, chữ ᴧ ngược
Phi cơ số 5 của hợp đoàn, c̣n gọi là chiếc Trailer’
TPC bay chiếc Trail số 5 thường là vị Phi Đội Phó hay là
một Phi Công lăo luyện, cũng có khả năng bay Leader.
Chiếc số 5 có nhiệm vụ, nhắc lại lệnh của Formation’s
Leader cho cả hợp đoàn cùng nghe rơ. Theo dơi và kiểm
soát các phi cơ khi bay trong độị h́nh (formation).
Formation’s Trailer luôn luôn báo cáo với Leader khi bốc
và đổ quân bạn xong, cất cánh và dời băi đáp.
Thí dụ: Leader! Leader! Đây Trailer gọi. Hợp đoàn đă đổ
quân xong cất cánh...vv.. Hoặc Leader! Đây Trailer: Hợp
đoàn cất cánh an toàn!!! vv..v.. Trường hợp v́ nhu cầu
khẩn cấp ngay tại chiến trường như: C&C yêu cầu bốc
thương binh hay tiếp tế thêm vũ khí, th́ chiếc Trailer sẽ
phải break ra khỏi hợp đoàn, thi hành ngay các phi vụ này
Với những cuộc hành
quân cấp tiểu đoàn, th́
hợp đoàn trực thăng 5
phi cơ slicks UH-1H
có thể bốc và đổ quân
5 lifts trong ṿng hơn
1 tiếng đồng hồ thần tốc, là đủ cung ứng quân số cho
trên chiến trường.
Mỗi UH-1H chở được một tiểu đội binh sĩ. Một lift
đổ quân với 5 slicks UH-1H (5PC x 12QN = 60 chiến
binh). 5 lifts x 60QN sẽ đổ xuống chiến trường trên
300 binh sĩ.
PHI VỤ LỆNH HÀNH QUÂN
Tối hôm trước khi bay hành quân. Trưởng Pḥng Hành
Quân và Phi Đội Trưởng sẽ cắt bay, phân nhiệm vụ cho
các Phi Hành Đoàn (PHĐ) và thành viên PHĐ trong phi
đội dưới quyền, gồm:
-1 PHĐ bay C&C (4 nhân viên phi hành)
-3 PHĐ bay Guships (12 nhân viên phi hành)
-5 PHĐ bay slicks bốc quân (20 nhân viên phi hành)
Mỗi khi có lệnh hành quân, th́ phi cơ C&C và 3 Gunships
sẽ cùng bay lên vùng trước. TOT đúng giờ hẹn.
C&C đến Bộ Chỉ Huy quân bạn BB, bốc Back Seaters, rồi
chở đến Phi trường hay căn cứ gần nhất để họp bàn mật
lệnh về tham mưu hành quân.
Sau đó cuộc đổ quân bắt đầu. C& C và hai gunships
escort bay lên vùng hành quân dọn băi đáp (Clear LZ) cho
hợp đoàn đổ quân.
Khi đến mục tiêu, C&C bay ở cao độ 1500 mét để quan
sát và chỉ huy. Xác định mục tiêu, phóng một quả khói
xuống vị trí tác xạ. Hai 2 gunships theo lệnh của C&C
nhào xuống đánh phá mục tiêu ngay tức khắc, dọn băi đáp
để cho hợp đoàn slicks bay đến đổ quân ngay.
Khi nào gunships dọn băi xong, cảm thấy an toàn th́ báo
cho C&C ra lệnh cho hợp đoàn đổ quân bay đến.
Khi hợp đoàn đổ quân, bay gần tới mục tiêu chiến trường
(Short final approach) khoảng 1 mile, th́ 2 gunships bay
ra đón, hộ tống 2 bên hợp đoàn, bắn yểm trợ, bảo vệ hợp
đoàn khi đáp. Hợp đoàn chạm càng, thả quân xuống đất,
th́ 2 gunships sẽ bắn ṿng quanh bao vây băi đáp, để bảo
vệ hợp đoàn. Khi nào nghe Formation’s Leader báo cáo
đổ quân xong, cất cánh, th́ 2 gunships sẽ bay ở phía sau
hợp đoàn, hộ tống hợp đoàn dời băi đáp, lấy cao độ, bay
về căn cứ, bốc quân những lifts kế tiếp. Và cứ tuần tự như
vậy, cho đến lúc đổ đủ quân số xuống chiến trường theo
yêu cầu.
Sau khi đổ hết quân xuống chiến trường, hợp đoàn slicks
sẽ về phi trường (refill) đổ xăng trước, rồi load thêm quân
dụng và vũ khí, sẵn sàng tiếp tế cho quân bạn.
C&C và Gunships ở lại yểm trợ quân bạn dưới đất, tiến
chiếm mục tiêu cho đến khi gần cạn xăng th́ về phi
trường refill.
Khi Gunships, C&C và Back Seaters về phi trường đổ
xăng, nghỉ ăn trưa, load thêm Rockets và đạn dược, sau đó
tiếp tục hỗ trợ hợp đoàn slicks bay lên tiếp tế cho chiến
trường. Nếu chiến trường quá sôi động, trong khi hợp
đoàn trực thăng nghỉ ăn trưa, sẽ có phi, pháo lên yểm trợ.
Trước nhất là pháo binh sẽ nă pháo để mở đường tiến
quân. Phi cơ quan sát L19 và khu trục lên vùng tiếp viện,
cùng với xe tăng thiết giáp (nếu có) sẽ mở đường dẫn
trước đoàn quân. Nếu cần tiếp tế thêm, th́ sau khi các
PHĐ trực thăng dùng cơm trưa xong, sẽ lên vùng ngay.
Cuộc đổ quân trong ngày. Khi chiến trường đă b́nh định,
yên tĩnh, buổi chiều hợp đoàn trực thăng vận sẽ bay ra
chiến trường bốc hết quân bạn về lại căn cứ, nơi phát xuất.
Nếu chiến trường c̣n tiếp tực sôi động, màn đêm buông
xuống, th́ phi cơ AC47 Hỏa Long & AC119 Hắc Long sẽ
lên vùng tiếp viện, thả hoả châu, tác xạ yểm trợ cho quân
bạn đến sáng, sẽ có L19 và các phi tuần khu trục vùng lên
phản công tiếp viện. Trực thăng vận chỉ đổ quân ban ngày.
Sau khi chiến trường đă giải tỏa, phi vụ trong ngày hoàn
tất. Hợp đoàn trực thăng và Gunships bay về phi trường tổ
ấm. C&C thả Back Seaters về căn cứ BB, rồi cũng bay
theo hợp đoàn về nhà. Tất cả các phi cơ của họp đoàn
hành quân, khi về tới phi trường phải ghé POL đổ xăng
đầy b́nh, bay về Ụ Parking, rồi vô pḥng hành quân ghi
báo cáo, chấm dứt phi vụ.
Ngày hôm sau được nghỉ ngơi hay trực bay phụ.
TRỰC THĂNG BAY TIẾP

nhào xuống đánh phá mục tiêu ngay tức khắc, dọn băi đáp
để cho hợp đoàn slicks bay đến đổ quân ngay.
Khi nào gunships dọn băi xong, cảm thấy an toàn th́ báo
cho C&C ra lệnh cho hợp đoàn đổ quân bay đến.
Khi hợp đoàn đổ quân, bay gần tới mục tiêu chiến trường
(Short final approach) khoảng 1 mile, th́ 2 gunships bay
ra đón, hộ tống 2 bên hợp đoàn, bắn yểm trợ, bảo vệ hợp
đoàn khi đáp. Hợp đoàn chạm càng, thả quân xuống đất,
th́ 2 gunships sẽ bắn ṿng quanh bao vây băi đáp, để bảo
vệ hợp đoàn. Khi nào nghe Formation’s Leader báo cáo
đổ quân xong, cất cánh, th́ 2 gunships sẽ bay ở phía sau
hợp đoàn, hộ tống hợp đoàn dời băi đáp, lấy cao độ, bay
về căn cứ, bốc quân những lifts kế tiếp. Và cứ tuần tự như
vậy, cho đến lúc đổ đủ quân số xuống chiến trường theo
yêu cầu.
Sau khi đổ hết quân xuống chiến trường, hợp đoàn slicks
sẽ về phi trường (refill) đổ xăng trước, rồi load thêm quân
dụng và vũ khí, sẵn sàng tiếp tế cho quân bạn.
C&C và Gunships ở lại yểm trợ quân bạn dưới đất, tiến
chiếm mục tiêu cho đến khi gần cạn xăng th́ về phi
trường refill.
Khi Gunships, C&C và Back Seaters về phi trường đổ
xăng, nghỉ ăn trưa, load thêm Rockets và đạn dược, sau đó
tiếp tục hỗ trợ hợp đoàn slicks bay lên tiếp tế cho chiến
trường. Nếu chiến trường quá sôi động, trong khi hợp
đoàn trực thăng nghỉ ăn trưa, sẽ có phi, pháo lên yểm trợ.
Trước nhất là pháo binh sẽ nă pháo để mở đường tiến
quân. Phi cơ quan sát L19 và khu trục lên vùng tiếp viện,
cùng với xe tăng thiết giáp (nếu có) sẽ mở đường dẫn
trước đoàn quân. Nếu cần tiếp tế thêm, th́ sau khi các
PHĐ trực thăng dùng cơm trưa xong, sẽ lên vùng ngay.
Cuộc đổ quân trong ngày. Khi chiến trường đă b́nh định,
yên tĩnh, buổi chiều hợp đoàn trực thăng vận sẽ bay ra
chiến trường bốc hết quân bạn về lại căn cứ, nơi phát xuất.
Nếu chiến trường c̣n tiếp tực sôi động, màn đêm buông
xuống, th́ phi cơ AC47 Hỏa Long & AC119 Hắc Long sẽ
lên vùng tiếp viện, thả hoả châu, tác xạ yểm trợ cho quân
bạn đến sáng, sẽ có L19 và các phi tuần khu trục vùng lên
phản công tiếp viện. Trực thăng vận chỉ đổ quân ban ngày.
Sau khi chiến trường đă giải tỏa, phi vụ trong ngày hoàn
tất. Hợp đoàn trực thăng và Gunships bay về phi trường tổ
ấm. C&C thả Back Seaters về căn cứ BB, rồi cũng bay
theo hợp đoàn về nhà. Tất cả các phi cơ của họp đoàn
hành quân, khi về tới phi trường phải ghé POL đổ xăng
đầy b́nh, bay về Ụ Parking, rồi vô pḥng hành quân ghi
báo cáo, chấm dứt phi vụ.
Ngày hôm sau được nghỉ ngơi hay trực bay phụ.
TRỰC THĂNG BAY TIẾP TẾ & LIÊN LẠC
UH-1H = Utility Helicopter là loại trực thăng đa dụng, có
thể sử dụng trong nhiều lănh vực và các công tác, như:
Chuyên chở VIP và hành khách -Vận chuyển quân đội -
Chuyên chở hàng hóa -Tiếp tế tiếp liệu -Câu móc quân
dụng -Liên lạc -Thám sát -Vơ trang yểm trợ quân bạn -
Giải tỏa đồn bót đang bị bao vây.
Thường thường các phi vụ liên lạc do các Sư Đoàn hay
các Tiểu Khu xin (Request). Mỗi nơi có thể xin 1 hay 2
phi cơ, cho các cấp chi huy đi thị sát, đi công tác hay chở
vũ khí hàng hóa tiếp liệu trong khu vực trách nhiệm.
TRỰC THĂNG UH-1H BAY TẢN THƯƠNG
Mỗi Sư Đoàn KQ có 2 phi đội UH-1H trực bay Rescue và
Tản Thương trong vùng trách nhiệm của quân khu.
SĐ4KQ có hai phi đội tản thương “Hồng Điểu 259H & I”
Call sign Hồng Điểu = Chim Hồng Thập Tự
Mỗi ngày hai phi đội tản thương của SĐ4KQ có: 4 phi cơ
UH-1H trực bay tản thương: 1 Chiếc Rescue Alpha
(ground Alert) (Call sign Kim Cương KC)
-1 phi cơ tản thương KC Charlie bao vùng từ bờ bắc sông
Hậu lên tới ranh giới tỉnh Long An.
-1 phi cơ tản thương KC Delta bao vùng từ bờ Nam sông
Hậu xuống tận mũi Cà Mau.
-1 phi cơ tản thương KC Echo bao vùng cho Biệt Khu 44
gồm: Mộc Hóa, Cao Lănh, Châu Đốc, Hà Tiên, đảo Phú
Quốc và cả chiến trường Campuchia khi QĐ/VNCH sang
giúp nước bạn.
SĐ4KQ có 5 phi đoàn trực thăng vận. Khi bay hợp đoàn
hành quân, họ bắt buộc phải dùng các danh hiệu riêng cho
từng phi đoàn và từng loại máy bay, do Pḥng Hành Quân
Chiến Cuộc SĐ4KQ cung cấp. Do đó các hiệp sĩ
VNAF/SĐ4KQ khi đang bay trên không, cưỡi gió, đạp
mây, mà nghe Danh Hiệu gọi, liên lạc với đài Radar
Paddy, họ biết ngay là phi cơ loại nào? Của phi đoàn nào?
Bay đi hướng nào rồi:
Danh hiệu các loại Phi Cơ của SĐ4KQ, khi bay Hành
Quân, liên lạc với Radar Paddy:
-L19 máy bay quan sát = Danh hiệu: Sơn Ca, Họa Mi
-A37 khu trục phản lực = Danh hiệu: Thần Hổ, Thần Báo
-AC47 = Hỏa Long
-AC 119 = Hắc Long & Tinh Long
-Phi đoàn 249 trực thăng Chinook CH47= Đại Bàng
-Trực thăng bay biệt phái danh hiệu là Kim Cương (KC)
-Các Phi Đoàn Trực Thăng Vận khi đi bay đổ quân:
-Phi đoàn 211 = Hắc Mă
-Phi đoàn 217 = Bạch Mă
-Phi đoàn 225 = Hồng Mă
-Phi đoàn 227 = Phi Mă
-Phi đoàn 255 = Hải Mă
Phi Cơ Trực Thăng Rescue = Kim Cương Alpha
Trực Thăng dành cho Tướng Vùng = Kim Cương Bravo
Trực Thăng dành cho Tư Lệnh SĐ4KQ = Mékong I
Những danh hiệu trên chỉ dùng để liên lạc, gọi đài Radar
Paddy mà thôi. C̣n các phi đoàn vẫn có các danh hiệu sử
dụng trên giấy tờ hành chánh và show off hàng ngày như:
-Phi đoàn 211 Thần Chùy – Gunships Sét Thần
-Phi đoàn 217 Thần Điểu – Gunships Hỏa Điểu
-Phi Đoàn 225 Ác Điểu – Gunships Diều Hâu
-Phi Đoàn 227 Hải Âu – Gunships Ó Biển
-Phi Đoàn 255 Xà Vương – Gunships Măng Xà
-Phi đoàn 249 Chinook CH47 Mănh Long
Xin nói sơ qua về Trực Thăng Vận của US Army.
Trước khi bàn giao các phi đoàn trực thăng UH-1H cho
Không Quân VNCH, th́ quân đội Mỹ hoàn toàn nhận
trách nhiệm bốc và đổ quân trên chiến trường. Huấn luyện
các phi công trực thăng KQ/VNCH bay hành quân.
Chúng ta biết Mỹ là quốc gia nhà giàu đi đánh giặc, nên
lực lượng vơ trang của họ rất hùng hậu.
Trước khi đổ quân Bộ Binh bằng trực thăng vận, th́ họ
cho Pháo Binh, Khu Trục Cơ và xe Tăng vào quần nát
mục tiêu chiến trường, rồi mới đổ quân. Hơn nữa hợp
đoàn trực thăng vận của US Army bay rất hùng hậu.
US Army Combat Team gồm:
-1 Heli. C&C Command & Control hỗn hợp Việt Mỹ
-1 Hel. OH-6A và 1 Hel. LOH -58 thám sát và quan sát
-2 Cobra (AH-1G Gunships)
-5 Hel. Slicks Trực thăng vận đổ quân
-1 Hel. UH-1 nữa, sẽ bay ṿng quanh băi đáp thả khói,
tung hỏa mù, bao che hợp đoàn đồ quân.
Sau khi Phi, Pháo và xe Tăng quần nát băi đáp nơi chiến
trường, rồi mới tới Trực Thăng C&C và Bộ Chỉ Huy BB
lên vùng hành quân, dẫn theo:
-1 Trực thăng cán gáo OH-6A bay sát mặt đất ḍ t́m địch
-1 trực thăng loại nhỏ LOH 58 mũi nhọn bay lưng chừng
phía sau, theo dơi hợp đoàn và chiếc OH6.
-LOH58 luôn bay cặp kè với 2 chiếc Cobra.
-2 Trực Thăng gunships Cobra bay ở cao độ 300 mét, tác
xạ dọn băi đáp với OH6 + LOH58 và hộ tống đoàn slicks.
Lư do: Cobra phải bay cao v́ các súng gắn cố định.
Không moving súng được như Gunships của VNAF do
các xạ thủ xử dụng quơ qua, quơ lại uyển chuyển khi tác
xạ. Cobra có hỏa lục rất mạnh. Một chiếc Cobra được gắn:
-1 cây Canon 20mm
-1 cây Minigun 6 ṇng
-1 cây M79 bắn đạn nồi
-2 ống phóng Rockets. Mỗi ống loading 19 quả rockets
Do đó họ có dư vũ khí đạn dược, bao vùng thời gian lâu
-5 Slicks bốc quân. Mỗi Slick 2 cây đại liên M60.
US Army luôn luôn hành quân theo sách vở huấn luyện,
nên khi ra chiến trường, họ đổ quân chậm hơn VNAF.
Combat Team của họ dọn băi đáp rất cẩn thận và tốn thời
gian. Slicks bốc quân th́ phải cất cánh lấy cao độ đủ an
toàn, rồi hạ cánh phải từ từ, theo hướng dẫn của cặp Cobra
và LOH 58, đúng như sách vở chỉ dậy.
C̣n trực thăng vận VNAF nhà nghèo, đánh nhanh và rút
gọn. Nếu hành quân ở vùng đồng bằng, hợp đoàn VNAF
khi bốc và đổ quân không cần cất cánh lấy cao độ, mà chỉ
bay Low Level, rồi đáp nhanh. Như vậy sẽ an toàn hơn
bay cao, tránh bị pḥng không VC bắn hạ.

VNAF COMBAT TEAM: C&C bay cao, hướng dẫn hợp
đoàn bay đúng hướng đến đến target và về. Hai Gunships
hộ tống bay kè hai bên hợp đoàn slicks, dẫn hợp đoàn đáp
và rời băi, về bốc quân lift khác.
Cuộc hành quân hỗn hợp, chiến dịch “Long Knife” ở Mộc
Hoá năm 1971:
-US Army đổ quân cánh hướng Đông
-VNAF đổ quân cánh hướng Nam tiến lên
Hợp đoàn US Army, đổ được 1 lift quân, th́
Hợp đoàn VNAF đổ được 2 lifts quân
(vừa tiết kiệm xăng, vừa tiêt kiệm thời giờ, lại tiến nhanh)
Đánh gọn, đánh nhanh và rút mau là chiến thuật của phe
VNAF chúng ta. Chiến thuật này, đă được quân đoàn khen
thưởng. Ngoài ra dân VNAF c̣n tung ra chiến thuật
“ĐÁNH MẠNH THỌC SÂU” cũng rất hữu dụng
VNAF Miệt Dưới

NMd8g4j49sQ

hoanglan22
11-20-2019, 14:22
Người Tù Kiệt Xuất

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1487157&stc=1&d=1574259615

Tôi đă nhiều lần định viết về những người tù kiệt xuất của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa: những anh em Biệt Kích Dù, những người “từ trên trời rơi xuống,” nhưng tôi cứ lần lựa măi. Lười biếng th́ chỉ có một phần. Lư do chính yếu là những người bạn tù mà tôi bội phần cảm phục ấy đang ở trong một t́nh trạng hết sức khó khăn. Chúng tôi đi cải tạo sau tháng 4 đen 1975, dù đớn đau, khổ nhục đến đâu, vẫn có tên, có tuổi, hằng tháng, hằng quư vẫn c̣n liên lạc được với gia đ́nh. Anh em, bè bạn ở nước ngoài vẫn c̣n có chút âm hao để mà theo dơi. Những anh em Biệt Kích Dù th́ đúng là “thượng diệt, hạ tuyệt” - không có quân bạ, quân số, không có tên có tuổi nào được đăng kư, không có chính phủ nào, quân đội nào công nhận có những con người ấy ở dưới tay.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1487156&stc=1&d=1574259615

Không được liên lạc với ai, coi như không c̣n hiện diện trên trái đất. Ở trên trời rơi xuống Bắc Việt vào đầu thập niên 60 thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, những anh em Biệt Kích Dù đă tham dự một cuộc chiến tranh tối mật (secret war). Những người t́nh nguyện tham gia cuộc chiến này đă tự coi như ḿnh đă chết; nhảy xuống, t́m được địa bàn hoạt động, trà trộn được, ẩn dấu được là sống, là thi hành xong nhiệm vụ, nếu bị lộ, bị bắt, bị giết th́ “Anh tự lo liệu cho cái thân anh, không có cơ quan nào, tổ chức nào đứng ra can thiệp hay bảo trợ cho anh được”. Những người tù “đứt dây rơi xuống này không được hưởng chút quyền lợi nào từ quy chế tù binh (Genève); các cơ quan nhân đạo quốc tế như Hội Hồng Thập Tự, Hội Ân Xá Quốc Tế cũng không biết làm sao để can thiệp, v́ các anh đâu có quân bạ, quân số, đâu có tên có tuổi được đăng kư hợp pháp ở một chính phủ nào.

Dưới thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, (thời tổng thống Ngô Đ́nh Diệm), nghe nói đại tá Lê Quang Tung, em là thiếu tá Lê Quang Triệu phụ trách công tác này. Ở đàng sau có cơ quan t́nh báo hay phản gián nào của Mỹ yểm trợ hay không, điều này ai cũng hiểu là phải có, nhưng cơ quan nào: CIA hay thuộc cơ quan t́nh báo Ngũ Giác Đài, không ai dám đoan chắc, mà cũng không ai dám biết. Nghe nói những người được tuyển chọn vào Biệt Kích Dù tham gia vào cuộc chiến tranh tối mật, ngoài những người khả năng đặc biệt về nghiệp vụ như t́nh báo, truyền tin, phá hoại, trà trộn dưới đồng bằng, ẩn dấu trong rừng sâu, chiến đấu với đối phương, với bệnh tật, với thiên nhiên, được trang bị thật kỹ từ A đến Z về mưu sinh thoát hiểm, họ c̣n phải là những người tuyệt đối tin tưởng vào quốc gia, vào lănh tụ. “Sống không rời nhiệm vụ, chết không bỏ lập trường” đó là vũ khí chung của anh em Biệt Kích.....

Như mọi người đă biết, cuộc chính biến 1 tháng 11 năm 1963 đă làm sụp đổ nền Đệ Nhất Cộng Ḥa, anh em tổng thống Ngô Đ́nh Diệm bị hạ sát; người rất thân tín, người ủng hộ đến cùng anh em tổng thống Diệm là anh em đại tá Lê Quang Tung, thiếu tá Lê Quang Triệu tất nhiên cũng bị triệt hạ theo. Các anh em Biệt Kích Dù sau tháng 11 năm 1963, khi anh em tổng thống Diệm chết đi, khi anh em người chỉ huy chiến dịch là Lê Quang Tung-Lê Quang Triệu bị hạ sát, đă bị rơi vào t́nh trạng rắn mất đầu. Sự tan vỡ như thế là không tránh khỏi. Không biết có một sự kiện “vỡ kế hoạch” vô t́nh hay cố ư nào không, nhưng các anh em Biệt Kích Dù ra Bắc lần lượt bị phát giác, bị truy bức, bị giết và bị bắt.

Không ai biết rơ hay biết mà không ai dám nói ra, đă có bao nhiêu Biệt Kích Dù ra Bắc, công trạng họ lập nên được những ǵ? Bao nhiêu người sống, bao nhiêu người chết? Chiến tranh tối mật nên những người thực hiện sống hay chết đều nằm trong bóng tối. Đó là quy luật của cuộc chơi. Một cuộc chơi quyết liệt và tàn nhẫn. Có nhiều người cho rằng trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, người có công nhất chưa chắc đă là viên thống soái chỉ huy ba quân tướng sĩ, mà người có công nhất có thể là người chiến sĩ vô danh chết chồng đống trong chiến hào, chết âm thầm trong rừng sâu, chết lạnh lùng dưới biển cả. Thời gian cũng như ḷng người, đều vô t́nh như nhau. Nào ai c̣n nhớ trong biết bao nhiêu người chiến sĩ Biệt Kích Dù ra Bắc đầu thập niên 60 năm ấy, ai c̣n, ai mất?

o0o

Năm 1980 khi lũ tù cải tạo chúng tôi đến huyện Như Xuân, chốn rừng sâu Thanh Hóa, gần biên giới Lào, chúng tôi thấy đây là một trại tù mới dựng giữa rừng sâu. Trước đó, chắc trại Thanh Phong này chưa có trên bản đồ các trại tù miền Bắc. Đây là một trại tù “ẩn giấu”. Lũ tù cải tạo chúng tôi đến đây, thuộc loại được đánh giá là “ác ôn nợ máu” gồm thành phần An ninh, Pḥng nh́, Trung ương t́nh báo, Chiến tranh chính trị, B́nh định nông thôn... thành phần mà “Cách mạng” cho rằng có liên hệ với CIA. Nhưng so với anh em tù nhân lưu cựu ở đây th́ chúng tôi chưa có kí lô nào hết. Chúng tôi ở phân trại mới K2; phân trại chính và có mặt ở đây trước là K1, nơi giam giữ tù nhân kêu bằng CIA, nhưng thực ra chính là anh em Biệt Kích Dù từ đầu thập niên 60 đă nhảy dù ra Bắc.

Lũ chúng tôi mới tới được đưa ra tắm suối. Chợt gặp hai người, lưng mang dao quắm, khiêng mửi người một bó nứa khá to. Hai người đặt bó nứa xuống và hỏi: “Các bác vừa ở Tân Lập, Vĩnh Phú xuống?” Chúng tôi gật đầu đồng ư. Hai người liền lật đật đứng nghiêm, giơ tay chào theo đúng lễ nghi quân cách và đồng thanh nói: “Chúng em là Biệt Kích Dù đây”.

Chúng tôi vừa xúc động, vừa hoang mang chưa biết nói năng ǵ th́ một người vừa giơ ống tay áo lên lau mắt vừa nghẹn ngào: “Gần hai mươi năm nay chờ đợi các anh. Không ngờ lại gặp các anh trong t́nh cảnh này, đau đớn quá”.

Anh em Biệt Kích Dù về miền thượng du Thanh Hóa, gần biên giới Hạ Lào này trước chúng tôi chừng vài năm, sau khi đă trải qua những năm tháng tù đày khốn khổ ở những trại tù rùng rợn vùng biên giới phía Bắc: Trại Cổng Trời Hà Giang, trại “Mục xương” Cao Bằng hay trại Sơn La “âm u núi khuất trong sương mù”. Nếu quân “bành trướng Trung Hoa” không tấn công 6 tỉnh miền Bắc sát biên giới hồi đầu 1979, th́ có lẽ anh em Biệt Kích Dù vẫn c̣n quẩn quanh nơi rừng núi phía Bắc.

Ở đâu anh em cũng bị “cất giấu” chốn rừng sâu, cách biệt hẳn với loài người. Một anh Biệt Kích nói với tôi “Coi như ở đây, trại Thanh Phong này là tụi em được gần gũi với ‘nhân dân’ nhiều nhất. Cũng v́ thế nên mới được gặp các anh hôm nay”. Trong số các anh em Biệt Kích Dù ở trại Thanh Phong năm ấy (1980) người tù lâu nhất là 20 năm, người ít nhất là 17 năm. “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” chúng tôi đi cải tạo đă được 5 năm, đă thấy cuộc đời tù dài dằng dặc, nhưng so với anh em Biệt Kích Dù này th́ thật là chưa thấm vào đâu. Anh em cải tạo tụi tôi vẫn c̣n liên lạc được với gia đ́nh, vẫn nhận thư, nhận quà, có anh c̣n được người nhà từ trong Nam ra thăm nuôi nữa.

Mới đây một số anh em trẻ, cấp bậc nhỏ đă lác đác được về. Như vậy là ở cuối đường hầm chúng tôi đă có leo lét một vài tia sáng. Anh em Biệt Kích Dù th́ từ 20 năm nay, hoàn toàn nằm trong bóng đêm, sống cách biệt hẳn với loài người, coi như những người “bị bỏ quên” trên hành tinh trái đất. Người tù truyền thuyết trong cổ tích Trung Hoa là ông Tô Vũ cũng chỉ chăn dê ở Hung Nô đâu có 17 năm. Xem ra thâm niên đi tù của ông Tô Vũ cũng c̣n thua xa anh em Biệt Kích Dù. Từ 20 năm nay, tù Biệt Kích chưa hề có ai được tha về. Không, cũng có một số anh em được về - nhưng... đó là “về với đất”.

KHẨU LỆNH BIỆT KÍCH DÙ

Phân trại K2 của chúng tôi nằm cách K1 nơi giam giữ anh em Biệt Kích Dù chừng 4 cây số đường rừng. Ở cách K2 chừng một giờ đi bộ c̣n có K3 - nơi giam tù h́nh sự dữ nhất: cướp của, giết người. Từ huyện lỵ Như Xuân, vào đến K1 khoảng 15 cây số. Ngày xưa, hồi kháng chiến chống Pháp cuối thập niên 40, đi vào khu 4, nghe nói đến địa danh Hồi Xuân, La Hán ở trên rừng là đă rợn người. Nhưng mà đường đến Hồi Xuân-La Hán so với đường vào trại Thanh Phong th́ chưa đi đến đâu... Một người bạn có vợ thăm nuôi vào được đến Thanh Phong, gặp chồng rồi là cứ ôm chồng mà khóc. Người vợ đau khổ ấy không dám nói cho người chồng xấu số biết chị vừa trải qua những khốn khổ nào.

Chỉ biết chị đi từ huyện Như Xuân vào đây chưa đầy 20 cây số mà 2 ngày mới đến, phải ngủ giữa rừng. Cái ǵ đă xảy ra cho người đàn bà miền Nam một nách trên 30 kư quà cáp, không có xe phải đi bộ trên những con đường băng rừng lội suối. Nếu đang đi mà trời mưa đổ xuống th́ là tai họa. Suối đang nông lội qua được, mưa xuống chẳng bao lâu là nó thành sông. Miền Trung đất hẹp, rừng không giữ được nước, nên trời đổ mưa xuống là nó theo sông theo suối cuốn trôi ngay ra biển. Suối liền trở thành sông. Người ở đâu ở đó làm ǵ có phương tiện sang sông nước đang lên cuồn cuộn. Nước lên rất mau mà xuống cũng mau. Người đàn bà đi thăm nuôi chồng phải nghỉ qua đêm ở một cái cḥi vắng ven rừng. Đêm đến, những “con người thú” đă khai thác đến tận cùng thân xác và của cải người đàn bà thân cô thế yếu giữa rừng sâu. Sáng ra chị đă muốn cắn lưỡi tự tử, nhưng v́ không muốn bỏ rơi mấy đứa con nhỏ c̣n ở lại Sài G̣n, nên chị mới lê tấm thân nhơ nhớp đến gặp chồng đang cải tạo. Quà cáp cũng bị cướp đi luôn. Hai vợ chồng cứ ôm nhau mà khóc.

Câu chuyện đau khổ ấy, dù người chồng câm nín không tiện nói ra nhưng dần dần anh em ai cũng biết. Nó trở thành một nửi âu lo âm ĩ trong đám tù cải tạo. Ai mà không mong một ngày nào đó được thăm nuôi, được gặp vợ, gặp con. Nhưng nếu vợ con ḿnh, thân nhân của ḿnh phải hứng chịu những tai vạ đau thương nhường ấy để được thăm nuôi ḿnh th́ khốn nạn cho vợ con ḿnh quá. Nhưng lo th́ lo vậy, biết tính làm sao. Thân ḿnh c̣n chưa chắc là của ḿnh th́ c̣n lo cho ai được nữa.

Trước sự kiện mất an ninh, cướp bóc, hiếp đáp giữa đường như vậy trại cũng ra thông cáo là sẽ điều tra, sẽ trừng trị nhưng chưa thấy biện pháp nào cụ thể. Anh em Biệt Kích Dù th́ ngược lại phản ứng tức thời. Đa số anh em Biệt Kích Dù ở đây là “diện rộng” tỏa ra đi lao động trên rừng. Trại Thanh Phong ngán ngại anh em Biệt Kích Dù nhưng trong thực tế, trại “nể” anh em. Trại nể anh em Biệt Kích Dù v́ tác phong của họ, v́ sự trên dưới một ḷng của họ, nhưng lư do chính yếu nhất là v́ Biệt Kích Dù chính là cái “túi tiền” của ban Giám thị trại. Trại tù ở trên rừng, đâu c̣n chấm mút được ǵ. Nhưng v́ ở chốn rừng sâu, không ai léo hánh đến đây, nên trại dễ làm mưa làm gió.

Tục ngữ có câu “Nhất phá Sơn lâm, nh́ đâm Hà bá”. Chỉ cần có nhân công biết nghề rừng, có kỹ thuật và có sức. Điều này th́ không ai sánh được với Biệt Kích Dù. Rừng ở đây thuộc loại rừng đại ngàn nên gỗ quư thiếu ǵ, lại c̣n có quế. Quế Thanh Hóa xưa nay vẫn có tiếng trong nền y dược Đông Phương. Bây giờ không c̣n bao nhiêu nhưng một tổ anh em Biệt Kích Dù vẫn được lên rừng t́m quế cho trại trưởng Thùy “mồi”, nhưng bên ngoài gọi là đi lấu nứa. Anh em diện rộng Biệt Kích Dù có 3 đội đi rừng lấy gỗ. Lấy về trại xây dựng th́ ít mà lấy gử súc đem ra Thanh Hóa bán chui th́ nhiều.

Tôi được biết trại trưởng Thùy “mồi”, phân trại trưởng K2 Vũ B. ai cũng được anh em Biệt Kích Dù lo sẵn mửi người một số danh mộc (như lim, như sến, cán bộ vừa vừa th́ có gỗ thao lao, bằng lăng) đủ làm một căn nhà bề thế ở quê nhà. Anh em Biệt Kích Dù như vậy là một thứ tù “thượng thừa” của trại. Tiếng nói của anh em rất được lắng nghe. Phần lớn anh em Biệt Kích Dù là hạ sĩ quan, có một số là dân sự nữa. Chỉ có một sĩ quan chỉ huy, đại úy Nguyễn Hữu Luyện. Chưa được gặp anh, nhưng tất cả anh em Biệt Kích Dù nói đến người chỉ huy của họ với tất cả ḷng kính mến. Rất ít người được gặp vị sĩ quan Biệt Kích Dù này, v́ anh không lao động, không đi ra ngoài. Tuy vậy, một mệnh lệnh của vị chỉ huy Biệt Kích Dù đưa ra, dù là ở trong cảnh tù đày, nhưng anh em Biệt Kích Dù vẫn tuân hành răm rắp.

Phản ứng trước sự mất an ninh con đường từ huyện Như Xuân đến trại, anh em Biệt Kích Dù đề nghị mở một “dịch vụ chuyên chở” từ huyện lỵ đến trại Thanh Phong. Lúc ấy đang có phong trào “hạch toán kinh tế”. Anh em Biệt Kích Dù có kế hoạch đóng 2 cái xe trâu, do trâu của trại kéo cùng với hai anh em Biệt Kích Dù phụ trách. Hai xe, một ra một vào, giúp cho thân nhân của anh em cải tạo viên có phương tiện đi lại, khỏi phải gồng gánh đi chân như trước, trại cũng có một nguồn thu ổn định. Hoặc có thể dùng xe trâu để chuyên chở nông lâm sản hay hàng tiêu dùng cho trại và dân chúng. Đề nghị này được chấp thuận và sau đó gia đ́nh cải tạo viên tới thăm nuôi có xe trâu chở hàng, chở người, tuy chậm nhưng mà chắc, không bị dân vùng đó hà hiếp, bắt chẹt về giá cả gồng gánh - quà cáp và thân nhân tù cải tạo cũng được bảo vệ an toàn.

Cùng một lúc với việc đóng xe trâu chở hàng, chở người, anh em Biệt Kích Dù “diện rộng” đi “rỉ tai” khắp các vùng thôn bản xa gần trong huyện Như Xuân “khẩu lệnh” của Biệt Kích Dù. Khẩu lệnh như sau: “Thân nhân cải tạo viên ở trại Thanh Phong này là bà con ruột thịt của Biệt Kích Dù. Anh em Biệt Kích Dù xưa nay không động đến ai, nhưng thằng nào con nào động đến thân nhân anh em cải tạo, dù là về của cải, dù là về nhân thân, là Biệt Kích Dù nhất định không để yên. Luật của Biệt Kích Dù là “mất một đền mười”. Động đến thân nhân cải tạo viên, nhẹ là chặt chân, chặt tay, nặng là giết mà giết cả nhà. Biệt Kích Dù không có ǵ để mất, đă nói là làm”.

Từ đó về sau, thân nhân cải tạo viên trại Thanh Phong đi thăm nuôi an toàn tuyệt đối...

GẶP NGƯỜI CHỈ HUY BIỆT KÍCH DÙ

Hai cái xe trâu, một ra một vào từ trại Thanh Phong tới huyện Như Xuân do anh em Biệt Kích Dù phụ trách không những giúp cho thân nhân cải tạo viên thăm nuôi đi lại an toàn thuận tiện, mà c̣n là một đường dây giúp chúng tôi liên lạc với “thế giới bên ngoài”? Muốn “bắn” một cái thư khẩn cấp về Sài G̣n, muốn mua thuốc lào, thuốc lá, hay thuốc tây, báo chí... cứ nhờ anh Biệt Kích Dù đánh xe trâu. Chiều nào, vào khoảng ba, bốn giờ là xe trâu của anh Biệt Kích Dù cũng lịch kịch đi qua mấy lán của đội mộc, đội rau, đội mía, đội nông nghiệp tụi tôi ven đường. Biệt Kích Dù hầu như quen biết hết cán bộ coi tù. Anh em có “mánh” để giao thiệp với họ. Bao giờ anh em cũng làm đầy đủ thủ tục đầu tiên: đồng quà, tấm bánh, ít ra cũng là điếu thuốc có cán, hay là tờ báo.

Cán bộ nào tới đây cũng nhờ vả anh em Biệt Kích Dù không ít th́ nhiều. Vài bó nứa sửa lại cái căn nhà, cây tre làm cột, ít ṿng mây buộc lại cái cổng, cái giàn hoa. Cán bộ có chức có quyền th́ như đă nói, anh em Biệt Kích Dù “đấm mơm” hết: không một bộ khung nhà bằng danh mộc th́ cũng gỗ súc hay đóng bàn đóng ghế. Trên 250 anh em Biệt Kích Dù ở K1 làm đủ mọi thứ nghề, cung cấp nhân lực và kỹ thuật cho hoạt động của toàn phân trại K1. Diện rộng đi rừng lấy gỗ, lấy nứa, lấy mây - ở nhà th́ có các đội mộc, đội rèn, đội xây dựng, đội chăn nuôi... anh em Biệt Kích Dù bao thầu hết. Tù thâm niên 20 năm có khác. Biết rơ hết đường đi nước bước của cán bộ coi tù.

Trên nguyên tắc trại Thanh Phong K1 đặt dưới quyền chỉ huy của trại trưởng, trung tá Công An Thùy “mồi”, nhưng trên thực tế anh em Biệt Kích Dù suốt 20 năm tù đày gian khổ, vẫn tuân hành tuyệt đối mệnh lệnh của vị chỉ huy của họ, đại úy Nguyễn Hữu Luyện. Đây là một con người huyền thoại. Chúng tôi nghe đến tên anh từ lâu nhưng chưa bao giờ được gặp, v́ anh không đi lao động ở ngoài. Anh em Biệt Kích Dù đều tỏ ra rất nghiêm trang, rất kính cẩn mỗi khi nhắc đến “ông thầy” của họ. Truyện về đại úy Biệt Kích Dù này khá nhiều, đầy vẻ hoang đường, truyền thuyết. Đây là người sau 20 năm bị bắt vẫn c̣n tuyên bố: “Tôi Nguyễn Hữu Luyện, đại úy Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa... tôi chưa thua các anh.

Tôi mới thua một trận, chưa thua cuộc chiến này”. - Bắt Nguyễn Hữu Luyện đi lao động, anh nói: “Các anh có thể giam tôi, bắn tôi, nhưng danh dự của một sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa không cho phép tôi làm những công việc mất nhân cách. Quy chế sĩ quan không cho phép tôi làm như vậy”. Anh đă bị kiên giam nhiều năm tại rất nhiều trại rùng rợn, dă man nổi tiếng, nhưng Nguyễn Hữu Luyện trước sau vẫn là Nguyễn Hữu Luyện, không thay đổi, không khiếp sợ, không khuất phục. Việc Nguyễn Hữu Luyện, không đi lao động như mọi tù nhân khác từ gần 20 năm nay đă trở thành một nề nếp đặc biệt, các trại tù ngoài Bắc dù muốn dù không đều phải chấp nhận.

Người ta chưa lường được hết quyền năng của Nguyễn Hữu Luyện đối với anh em Biệt Kích Dù như thế nào. Khi cần Nguyễn Hữu Luyện ra lệnh là tất cả anh em Biệt Kích Dù nghỉ hết. Như bữa ở trại Thanh Phong có một anh em Biệt Kích Dù ho “tổn” nhiều năm không có thuốc nên anh “về nước Chúa”. Phần lớn các anh em Biệt Kích Dù đều là người Thiên Chúa Giáo nhiệt thành, kể cả Nguyễn Hữu Luyện. Nói chuyện với anh em Biệt Kích Dù họ đều nói “anh em lănh tụ Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Nhu chúng tôi chưa có chết. C̣n ẩn lánh đâu đó... Lănh tụ chúng tôi ngày nào đó sẽ trở về...”. Nghe anh em Biệt Kích Dù ho tổn nằm xuống, các đội Biệt Kích Dù khi có lệnh xuất trại đều ngồi yên không đi làm.

Họ nói “được lệnh của đại úy Nguyễn Hữu Luyện, anh em Biệt Kích Dù ở nhà để lo hậu sự cho người anh em vừa mới mất”. Cán bộ trực trại đến hỏi Nguyễn Hữu Luyện tại sao ngăn trở việc điều hành của trại. Nguyễn Hữu Luyện trả lời: “Các anh tôn trọng đồng chí của các anh th́ chúng tôi cũng yêu thương đồng đội của chúng tôi. Nghĩa tử là nghĩa tận, anh em chúng tôi phải ở nhà để một lần cuối cùng vĩnh biệt người nằm xuống”. Sau điều đ́nh măi, chỉ có đội Biệt Kích Dù lo về cơm nước cho phân trại và bộ phận chạy máy điện là đi làm, kỳ dư anh em Biệt Kích Dù khác đều nghỉ hết.

Gặp gỡ anh em Biệt Kích Dù, nghe chuyện kể về đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện tôi vừa tự hào vừa buồn bă. Tự hào v́ đồng đội đă có những người kiệt xuất như vậy, buồn bă v́ nh́n lại bản thân, nh́n anh em xung quanh ḿnh thấy khá nhiều người bất xứng. Những năm tháng trong trại tù giữa rừng núi Thanh Phong, anh em Biệt Kích Dù đối với chúng tôi, vừa là một đường dây yểm trợ vật chất, mà cao trọng hơn, c̣n là một nơi nương tựa tinh thần.

o0o

Tết năm 1982. Một số lớn anh em trong trại K2 đă chuyển về Nam. Đội văn nghệ nghiệp dư của tụi tôi thiếu rất nhiều “nhân tài” nhưng vẫn phải tŕnh diễn cho anh em vui Tết. Thiếu người, thiếu tiết mục, chúng tôi nhập luôn đội múa lân vào đội văn nghệ cho xôm tụ. Không ngờ đội văn nghệ “què” như vậy, Tết lại phải đi “lưu diễn” trên K1 và K3. Mùng 2 chúng tôi lên K1 - đường dài 4 cây số chúng tôi đi gần hai tiếng đồng hồ, khoảng gần 9 giờ mới tới. Một đại diện anh em Biệt Kích Dù nói rằng: “Chẳng mấy khi được đón tiếp các anh bữa nay, anh em K1 chúng tôi xin hạ một con heo để đón mừng anh em văn nghệ”. Tôi được biết sau này sự hậu đăi ấy là do ư kiến của đại úy Nguyễn Hữu Luyện đề xuất. Chưa bao giờ đội văn nghệ tù chúng tôi được tiếp đón long trọng và săn sóc chu đáo như vậy. Theo chương tŕnh, đội văn nghệ tŕnh diễn buổi trưa, diễn xong ăn uống rồi về.

Đang trông nom cho anh em dựng sân khấu ở hội trường, chợt có một anh em Biệt Kích Dù đến bên tôi khẽ nói: “Anh Luyện em mời anh vô trong lán uống trà”. Đi lên đây K1, ước mong thầm kín của tôi là được gặp người sĩ quan Biệt Kích Dù truyền thuyết ấy. Xem con người thật và con người “huyền thoại” giống nhau, khác nhau ra sao. Tôi vội vàng theo người anh em Biệt Kích Dù đi vào trong lán. K1 cũng như K2, K3 lán tù thường tối và thấp. Đi qua hai ba căn nhà dài hôi hám, mờ mịt tôi tới một căn buồng đầu lán. Vừa bước chân vô chưa kịp định thần, tôi đă thấy một con người cao lớn, mắt sáng trán cao đứng phắt dậy, chụm chân theo động tác quân sự, giơ tay chào đúng lễ nghi quân cách, miệng nói: “Mes respects, mon colonel!”.

Tôi thảng thốt không biết phản ứng ra sao. Đi tù 5, 6 năm nay, ḿnh là giai cấp đang bị triệt tiêu, là tù nhân đứng hàng thứ bét của nấc thang xă hội, tại sao lại có người chào ḿnh trân trọng như vậy. “Mes respects, mon colonel” đây là lễ nghi theo kiểu Pháp. Bao nhiêu năm nay, có nghe thấy, nh́n thấy kiểu chào này đâu. Ḿnh bây giờ, là tù khổ sai biệt xứ, đâu c̣n ǵ mà “kính chào trung tá”.

Tôi vội vàng tiến tới nắm lấy tay người đang đứng cứng người chào tôi theo đúng lễ nghi quân cách mà hỏi: “Thưa anh, anh là Nguyễn Hữu Luyện?” Người ấy, vẫn đứng nghiêm, chỉ đưa tay xuống rồi nói tiếp: “Vâng thưa anh, tôi là Luyện”, “Anh Luyện ơi, anh làm vậy tôi khó xử quá, thời buổi này, anh em ḿnh gặp nhau là quư”. Lúc ấy, Nguyễn Hữu Luyện mới rời bỏ tư thế đứng nghiêm, khẽ nói “Thưa anh, anh vẫn cứ phải cho phép tôi làm như vậỵ. Dù sao chăng nữa, anh vẫn là đàn anh của tôi”.

Nguyễn Hữu Luyện học khóa 4 phụ Thủ Đức. Tôi học khóa 2 có ra trường trước anh vài khóa thật, nhưng 20 năm qua, nếu anh c̣n ở lại miền Nam, với khả năng ấy, thiện chí ấy, không biết anh đă lên tới cấp nào, đâu có lẹt đẹt như tôi. Khóa 5 Thủ Đức đă có người lên tướng. Nhưng đối với người như Nguyễn Hữu Luyện, theo tôi cấp bực là thứ yếu, nhân cách mới là chính yếu. Ở trong quân đội miền Nam, về nhân cách, ai xứng đáng là đàn anh của đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện bây giờ?

Sau một tuần trà, Nguyễn Hữu Luyện chậm răi nói nhỏ với tôi: “Có một ‘thằng em’ vừa nhận được một cái tin rất lạ, rất mới. May là lại được gặp anh hôm nay ở đây. Được biết anh vốn là một nhà báo. Xin anh cho ư kiến về tin vừa mới nhận này”. Nói xong Nguyễn Hữu Luyện ra dấu cho một anh em nào đó đứng gần bên “Gọi Th. lên đây”. Trước khi Th. tới, anh Luyện có cho tôi hay Th. là một biệt kích dù cấp bậc thượng sĩ chuyên lo về truyền tin. Th. là một chuyên viên về địa hạt này. Hai chục năm bị bắt nhưng Th. vẫn xử dụng được tay nghề. Ở ngoài Bắc lúc ấy, tiêu chuẩn của một người “phấn đấu tiến bộ” là đạt 3 Đ: xe đạp, đồng hồ và Đài (radio).

Trong hàng ngũ cán bộ th́ công an vốn là một nơi an toàn mà “kiếm được”. Chỉ có hàng ngũ bộ đội là phải đi chiến trường chết banh thây mất xác hoặc phải đóng quân ở những nơi đầu sóng ngọn gió nghèo mạt rệp mà thôi. Cán bộ Công an tương đối có nhiều người đạt tiêu chuẩn 3 Đ. Nhưng đài ngoài Bắc phần lớn thuộc loại xưa, khó xài, dễ hỏng. V́ vậy nên chuyên viên truyền tin Th. luôn luôn có việc làm. Một lát sau, anh Th. lên gặp chúng tôi. Anh nói rằng: “Em sửa đài cho cán bộ quanh năm không lúc nào hết việc. Nhưng không bao giờ em sửa đài xong xuôi, rốt ráo. Lúc nào em cũng phải lấy cớ này, cớ kia để giữ lại bên ḿnh một cái đài “chạy được”.

Em giữ lại để đeo “ê-cút-tưa” vào nghe tin tức một ḿnh. Thưa anh, tối hôm qua, mùng 1 Tết, chính tai em nghe có một ông tướng Mỹ mà em không nhớ được tên đang ở Việt Nam, nói chuyện với các nhà lănh đạo Hà Nội về vấn đề cựu chiến binh Mỹ mất tích, về tù nhân chính trị... Lần đầu tiên chính tai em nghe là những biệt kích nhảy dù ra Bắc đầu thập niên 60 cũng được xét đến trong dịp gặp gỡ này. Thưa anh, vài chục năm nay nghe đài, đây là lần đầu em nghe đài nhắc đến số phận tụi em. Chúng em là những người bị bỏ quên, coi như đă chết rồi. Không số quân, không tên tuổi, không nơi nào nhận. Chúng em là những người “đứt dây rơi xuống luôn luôn sống ở một xó rừng góc núi ‘trên không chằng, dưới không rễ’, không c̣n liên hệ ǵ với xă hội loài người.

Bây giờ em nghe tin ông tướng Mỹ sang Hà Nội nói đến số phận tụi em, em nghe xong mà tự nhiên nước mắt chảy ṛng ṛng... không biết là mơ hay thật đây”. Tôi vội cầm lấy tay người thượng sĩ Biệt Kích Dù mà nói: “Đúng đấy bạn ơi, thời gian này ông tướng Vessey, đặc sứ (special envoy) của tổng thống Mỹ Reagan đang viếng thăm Hà Nội. Các báo Việt Nam đều nhắc đến sự kiện này. Tin mà bạn vừa nghe được rất đáng tin cậy”. Nguyễn Hữu Luyện vội chen vào “Làm sao ḿnh tin được đài Hà Nội”. Tôi nói tiếp “Đây là một sự kiện có tính cách quốc tế, truyền thông thế giới đều theo dơi sự viếng thăm của tướng Vessey, nên đài Hà Nội dù muốn dấu cũng khó ḷng. Vả chăng tin tức của khối Xă Hội Chủ Nghĩa xưa nay chỉ loan những tin nào có lợi cho họ.

Tin bất lợi, họ quên đi ngay. Việc tướng Vessey đến Việt Nam, ở bên trong chắc đă có một thỏa thuận nào có lợi cho Hà Nội không mặt này th́ mặt kia. Ḿnh chưa biết được sự thỏa thuận ấy đến đâu, chi tiết ra sao, nhưng việc loan tin sự hiện diện của đặc sứ Vessey đến Hà Nội, nh́n chung là một chỉ dấu thuận lợi cho lũ tù nhân chúng ta, đặc biệt là đối với các anh, những người mà trên 20 năm nay họ cố ư hay vô t́nh quên lăng. Nguyễn Hữu Luyện trầm ngâm “Như bản thân tôi và anh em chúng tôi ở đây đă từng rút kinh nghiệm không nên tin tưởng nhiều quá vào người Mỹ” - “Đồng ư trên nguyên tắc, nhưng trong số những người Mỹ c̣n nhớ đến đồng minh cũ, c̣n lưu ư đến số phận khốn khổ của chúng ta th́ ông Reagan này là số 1.

Nếu năm ngoái cái tên Mỹ khùng nào nó bắn ông ấy chết th́ chúng ta c̣n vất vả hơn nhiều. Bây giờ đặc sứ của ông Reagan, tướng Vessey sang đây có đích thân nhắc đến Biệt Kích Dù th́ tôi nghĩ sớm muộn trường hợp các anh sẽ được giải quyết. Các bạn có thể được về...”. Một nụ cười mơ hồ trên khuôn mặt Nguyễn Hữu Luyện. Anh như nói một ḿnh “Được về, được về, mà về đâu....”

Lời b́nh Mao Tôn Cương của tôi hồi đầu năm khi lưu diễn ở K1 không ngờ được chứng nghiệm. Đến giữa năm 1982, có hai lượt thả Biệt Kích Dù, mỗi lượt trên dưới 100 người. Chuyện không ai ngờ mà tới. Ông tướng Vessey đặc sứ của tổng thống Mỹ Reagan đă giở lại chồng hồ sơ mật đầu thập niên 60, can thiệp với Hà Nội để cho những Biệt Kích Dù bị giam trên dưới 20 năm ở nơi thâm sơn cùng cốc được trở về hội nhập với loài người.

Cùng thời gian đó chương tŕnh “nước sông công tù” đem cải tạo viên đến khai hoang những vùng rừng núi âm u (như trại Thanh Phong huyện Như Xuân giáp với Hạ Lào này) trở thành nông trường, lâm trường, rồi đem gia đ́nh cải tạo viên lên chỉ định cư trú ở những chốn rừng sâu nước độc, cũng được dẹp bỏ luôn. Phần lớn anh em tù chính trị được chuyển về Nam hay đổi đi trại khác. Đến cuối năm 1982, trại Thanh Phong K2 chỉ c̣n lại trên 50 tù chính trị. C̣n lại toàn là tù “đui, què, mẻ sứt” già yếu, bịnh tật... hay là thuộc loại “không tiện cho về Nam”. Tôi thuộc số trên 50 người c̣n lại này. Ngày 14 tháng 11 năm 1982 trên nguyên tắc phân trại tù chính trị K2 giải thể. Những người tù c̣n lại đi ra K1. Ở đây tù chính trị sẽ cùng anh em Biệt Kích Dù c̣n lại lên xe đi đến một trại khác ở Nghệ Tĩnh: Trại Tân Kỳ.

VỀ TRẠI TÂN KỲ

Trại Tân Kỳ này là một trại “trung chuyển”. Bao nhiêu tù chính trị ra Bắc c̣n lại hồi 76-77 trước khi về Nam về tập trung ở trại nầy và có một số khác ở trại Ba Sao, Hà Nam Ninh. Trại Tân Kỳ này chứa đựng đủ loại tù: tù chính trị, tù CIA, tù Biệt Kích, tù Fulro, tù h́nh sự thứ dữ. Trại này có 2 khu, khu Tây và khu Đông. Chúng tôi gọi là “Tây Đức” và “Đông Đức” v́ khu Tây tương đối dễ thở hơn khu Đông. Ở đây tôi gặp được nhiều loại người: ông Vơ Tr. lănh tụ VNQĐD ở miền Trung, Quảng Ngăi, linh mục duy nhất Trần Hữu L., những ông tướng Fulro, mấy ông thủ tướng, bộ trưởng “chính phủ trong bóng tối” và đặc biệt tôi được ở cùng lán với người thủ lănh Biệt Kích Dù. Chính trong thời gian này, v́ chung đụng, gần gũi nên tôi mới được hiểu thêm về người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện.

Anh em Biệt Kích Dù về trại Tân Kỳ (Nghệ Tĩnh) chỉ c̣n độ trên 50 người. V́ có tay nghề riêng nên các anh em Biệt Kích Dù được biên chế về các đội chuyên môn như đội mộc, đội rèn, đội chăn nuôi... Riêng thủ lănh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện lại chuyển đến một đội khác, đội rau. Tôi xưa nay đi tù cũng có chút “chuyên môn” nên ở đây, trại mới, tôi cũng được xử dụng đúng theo “tay nghề”: chuyên trị về phân và nước tiểu. Ở các trại, đội rau nào cũng cần đến loại phân bón này. Tôi nghiệm ra ở các trại cũ như Yên Hạ (Sơn La), Tân Lập (Vĩnh Phú), Thanh Phong (Thanh Hóa) và bây giờ ở đây Tân Kỳ, đồng nghiệp phân tro của tôi thường được tuyển lựa trong mấy ngành Quân huấn, Quân pháp hay Chiến tranh chính trị.

Đồng nghiệp cũ của tôi là thượng tọa nguyên giám đốc Nha Tuyên úy Phật giáo, là mục sư Tin Lành, là thẩm phán Ṭa án Quân sự, là giáo sư Trường Vơ Bị Quốc Gia v..v... Ở đây th́ đại loại cũng như vậy, ở khu Tây Đức này có 4 lán, có 4 người lo về nhà cầu th́ 1 là biện lư, 1 là đại đức, 1 là ông thầy dạy Anh văn trường Chiến tranh Chính trị và tôi. Sự tuyển dụng “trước sau như một” này là chấp hành đúng tinh thần “Mao-ít”: “Chữ nghĩa không bằng cục phân”. Tôi lại nhớ đến thái độ của đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện khi anh nhất định không đi lao động. Ở đây cũng như ở các trại khác từ trên 20 năm qua, và đă trở thành biệt lệ, Nguyễn Hữu Luyện được biên chế về đội rau nhưng anh nhất quyết không đi làm.

Toán “nhà cầu” tụi tôi khoảng 10 giờ sáng là công việc tạm xong. Phân, nước tiểu đă dọn sạch, chuyển cho đội rau. Nhà cầu đă quét tước, rắc vôi. Lúc bấy giờ là lo đi tắm v́ dù đă đeo khẩu trang, bịt mũi bịt mồm, nhưng tự thấy thân thể ḿnh hôi hám quá. Mùa nực được đi tắm là một cái sướng, nhưng mùa rét mà phải đi tắm trong khi bụng đói cồn cào lại là một cực h́nh. Nước suối lạnh cắt da, mấy tên tù mặt mũi xám xịt, thân thể gầy c̣m, co ro run rẩy, ngần ngại đứng bên bờ suối. Nguyễn Hữu Luyện không lao động, người luôn luôn sạch sẽ, nhưng ngày nào dù rét đến đâu Luyện cũng cùng chúng tôi đi tắm. Người lội xuống suối đầu tiên là Luyện. Anh nói: “cứ ào một cái là xong”. Cái lạnh ở miền Trung này đối với Nguyễn Hữu Luyện xem ra không có nghĩa lư ǵ. Anh bao nhiêu năm nằm trong hốc đá ở trại cổng trời Hà Giang. Bao nhiêu năm cùm kiên giam trong trại mục xương Cao Bằng. Ở miền cực bắc nước ta, cái lạnh c̣n ác liệt hơn nhiều. Người tù Biệt Kích trên 20 năm, đi qua mọi gian lao thử thách bằng một câu nói vô cùng giản dị: “Cứ ào một cái là xong”.

Ở gần bên, trong cùng một lán, tôi thấy Nguyễn Hữu Luyện sống như một thiền sư. Trong tù có một vấn đề hết sức quan trọng là ăn. Ai cũng đói mờ người. Bữa ăn và cái ăn là giấc mơ lớn nhất của tù. Nhưng đối với Nguyễn Hữu Luyện h́nh như anh coi rất nhẹ vấn đề ăn. Anh được phát đồ ăn thế nào, ăn thế ấy, mà ăn rất lẹ, rất nhanh, không biết anh ăn lúc nào. Không thấy anh phàn nàn bao giờ về vấn đề đói. H́nh như anh ở tù lâu quá, đói trở thành thường trực nên anh đă quen đi. Một vài anh em được thăm nuôi, hoặc nhận quà, có ḷng quư mến anh, biếu anh cục đường, nắm xôi, tấm bánh hay mời ăn một bữu cơm, nhưng trước sau không thấy anh nhận của ai một tặng vật nào. Tôi một bữa nhận quà có đưa đến anh một chiếc bánh chưng nho nhỏ. Anh nhất định chối từ. Tôi mới nói: “Chỗ anh em sao anh kỹ quá”. Nguyễn Hữu Luyện cười cười, nắm tay tôi mà nói nhỏ: “Bao nhiêu năm tôi tập cho cái bao tử nó đ̣i hỏi thật ít. Bây giờ anh em cho tặng vật, ăn vào nó quen dạ đi th́ lại khổ đấy anh ạ”.

Nhưng có một thứ mà ai cho anh cũng nhận. Nhận một cách hân hoan. Đó là xà bông. Không hiểu sao, Nguyễn Hữu Luyện có một nhu cầu về tắm rửa, về sạch sẽ một cách lạ lùng. Xà bông đối với anh thật là cần thiết. Như đă nói ở trên, chúng tôi dân “nhà cầu” làm việc xong, ḿnh mẩy hôi hám nên cực chẳng đă mùa rét mà phải đi tắm. Nguyễn Hữu Luyện không đi lao động mà trưa nào cũng ra suối với chúng tôi.

Nguyễn Hữu Luyện người rất cao, ít ra là 1,75m. Quần áo trại phát anh mặc vào ngắn cũn cỡn. Người đă cao anh lại c̣n đi đôi guốc mộc do anh đẽo lấy nên trông lại càng lênh khênh. Đi tù anh nào anh nấy chân nứt nẻ, bè ra như tổ tiên giao chỉ, riêng Nguyễn Hữu Luyện chân trắng bóc, gót đỏ hồng. Trông gót chân của người Biệt Kích Dù đi tù trên 20 năm tôi bửng nhiên nhớ đến 2 câu thơ của Vũ Hoàng Chương thuở nào:

Ta van cát bụi trên đường
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này

Trong món đồ hàng ngày đi tắm của Nguyễn Hữu Luyện có một vật rất lạ, rất ít có ở đây. Tù đi tắm th́ cứ thế cởi truồng ra, vục tay xuống suối mà kỳ cọ, tắm rửa. Hoặc buổi sáng có ra giếng rửa mặt th́ cũng chỉ mang cái thùng kéo nước với bàn chải đánh răng là cùng. Nguyễn Hữu Luyện đi tắm khác với người ta, mang theo một cái chậu men xanh thật đẹp. Màu men óng ả chói ngời... tương phản rơ rệt với màu cố hữu của trại tù là màu xám xịt. Tôi mới hỏi Nguyễn Hữu Luyện: “Ở đâu mà có cái chậu men xinh đẹp vậy?” Nguyễn Hữu Luyện trả lời: “Tôi cũng không ngờ là tôi lại nhận cái chậu này. Của tên trại trưởng trại “mục xương” ở Cao Bằng tặng cho tôi đấy.

Cao Bằng giáp với biên giới Trung Hoa nên vẫn có hàng lậu đi từ Trung Quốc sang. Cái chậu này là đồ làm từ Quảng Châu có nhăn hiệu chỉ rơ. Dạo cuối thập niên 70, tên trại trưởng Thiếu tá Công an nó hành tôi ghê lắm. Nhất định nó bắt tôi đi lao động. Tôi th́ nhất định không đi. Nó liền cùm chân. Cùm chán rồi đem xuống hầm tối. Rồi bắt nhịn ăn. Mùa lạnh nó c̣n đổ nước xuống hầm nữa. Tôi người Công giáo nên tôi cầu Đức Mẹ Maria, trong cơn thập tử nhất sinh, tôi cũng cầu luôn Phật Bà Quan Âm nữa.

Nó hành tôi măi năm này sang năm khác mà cuối cùng tôi vẫn c̣n sống. Nhưng mà chết th́ thôi, tôi nhất định không đi lao động. Không chịu thua chúng nó”. - “Như vậy th́ tên trại trưởng này nó hận anh ghê lắm, tại sao nó lại tặng anh cái chậu này?”- “Tôi cũng không biết nữa, hắn hành tôi luôn mấy năm, nhưng cuối cùng hắn thả tôi ra khỏi hầm kiên giam. Một bữa hắn cho gọi tôi lên. Hắn nói: “Tôi sắp đổi đi trại khác, có phải anh ưa tắm rửa lắm phải không? Tôi tặng anh cái chậu Trung Quốc này”. Tôi từ chối nhưng hắn ta cứ để cái chậu lại, rồi bắt tay từ biệt. Chẳng đặng đừng, tôi phải giữ cái chậu men xanh này, mà tôi cũng không hiểu tại sao hắn lại làm như thế”.

TẤM H̀NH NHẬN ĐÊM CUỐI NĂM

Ở cùng lán tôi thấy Nguyễn Hữu Luyện là một người ít nói, ít giao thiệp. Không đi làm, cả ngày tôi thường thấy anh ngồi quay mặt vào tường, kiểu thiền sư diện bích. Nhưng không phải anh ngồi thiền mà anh đọc sách. Một cuốn sách dày để trước mặt. Anh người Công giáo, tôi tưởng anh ngày ngày đọc thánh kinh. Nhưng một hôm tôi biết là không phải. Một buổi chiều anh mời anh bạn giáo sư Anh văn lại chỗ anh. Anh hỏi về văn phạm, về cách đọc một vài chữ khó. Th́ ra cuốn sách dày anh luôn để trước mặt là một cuốn tự điển Anh Việt. Bạn tôi hàng ngày ngồi học thuộc từng trang tự điển. Tôi mới hỏi: “Ông học Anh văn kiểu ấy th́ bao giờ cho xong?” Luyện trả lời: “Được chữ nào hay chữ nấy mà cũng để cho nó quên ngày quên tháng đi ông ơi”.

Nhưng học Anh văn, theo tôi nghĩ rất khó mà tự học. C̣n văn phạm c̣n cú pháp, c̣n cách đọc, cách nhấn... làm sao cho người ta hiểu. Ông bạn giáo sư Anh văn và tôi cùng dân “nhà cầu” nên ở gần nhau. Thỉnh thoảng buổi chiều, buổi tối Nguyễn Hữu Luyện lại tới rù ŕ bàn chuyện tiếng Anh. Ở trong trại cải tạo, tiếng nước ngoài, đặc biệt là tiếng Pháp, tiếng Anh nguyên tắc là cấm chỉ. Nhưng dạo này ở Sài G̣n có phát hành tuần san Nga Sô ấn bản tiếng Anh gọi là New Time. V́ nhu cầu đọc báo cũng như nhu cầu t́m học tiếng Anh, nên tờ New Time anh em nhận được từ gia đ́nh gởi tới khá nhiều. Thấy sách báo của đàn anh Nga Sô vĩ đại là cán bộ trực trại gật đầu cho nhận. Anh em đọc New Time với quan niệm “Nó nói ǵ, kệ cha nó - miễn là ḿnh có tài liệu học Anh văn”. Nguyễn Hữu Luyện là người t́m đọc New Time kỹ nhất.

o0o

Chúng tôi về trại mới Tân Kỳ đă được gần 3 tháng. Anh em Biệt Kích Dù được tha về từ trại cũ Thanh Phong có lẽ cũng đă được trên dưới nửa năm. Đă gần tới Tết, sắp sang năm mới 1983. Anh em nhận được quà nhà gởi “đông” hơn dạo trước. Trại này ở gần ngay huyện lỵ Tân Kỳ nên thư từ, quà cáp tới mau hơn Thanh Phong nhiều. Tôi nhận thấy hằng ngày vào khoảng buổi chiều sắp sửa đóng cửa lán, thế nào cũng có một vài anh em Biệt Kích Dù đến nói điều ǵ đó với Nguyễn Hữu Luyện, như là “báo cáo” hằng ngày của anh em với chỉ huy trưởng. Vừa có một sự kiện đặc biệt xảy ra với anh em Biệt Kích Dù. Trên 20 năm nay, anh em Biệt Kích Dù không bao giờ nhận được thư, được quà... Anh em là những người bị bỏ quên trong xă hội loài người.

Nhưng gần đến Tết năm 1983, có trên 10 gói quà gửi đến cho một số anh em Biệt Kích Dù. Những anh em được về từ nửa năm trước đă họp nhau gửi quà cho những người c̣n ở lại. Trong một buổi tối lên ngồi nói chuyện với tụi tôi, Luyện kể: Một số lớn anh em được về nhưng không c̣n liên lạc được với gia đ́nh nữa. 20 năm qua gia đ́nh xiêu tán không c̣n nhận được âm hao. Có anh th́ vợ đă lấy chồng khác, đă an phận với một cuộc đời mới từ mười mấy năm qua. Ván đă đóng thuyền, người trở về không muốn gây phiền muộn cho cố nhân làm ǵ nữa. Những anh em t́m lại được thân nhân, gia đ́nh phải nói là rất hiếm.

V́ vậy nên một số lớn anh em Biệt Kích Dù sau khi đi tù 20 năm biệt xứ trở về đành tụ họp cùng nhau, tùy nghề nghiệp, tùy hoàn cảnh mà quây quần bên nhau xây dựng một cuộc đời mới, trong một xă hội mới đầy khó khăn, thù hận. Cuộc sống mới của anh em hẳn là vất vả, gian nan, nhưng những món quà của anh em ở ngoài gửi vào cho anh em ở lại đều là những đồ gia dụng cả: gạo nếp, gạo tẻ, ḿ, trứng muối, thịt ướp, cá khô, cá hộp v.v... những thứ cần thiết cho một ngày Tết cổ truyền. Anh em được về như vậy đă không quên những người ở lại.

Tôi có nghe buổi chiều Luyện dặn một anh em Biệt Kích Dù “sẽ họp lại ăn chung”. Một số anh em nhận được quà, được thư, nhưng bản thân Nguyễn Hữu Luyện th́ không. Anh là người ít nói, không thích tỏ bày nên tôi cũng không tiện hỏi. Không biết gia đ́nh của anh bây giờ ra sao? Có thể bản tính anh kín đáo, hoặc là nghề nghiệp Biệt Kích, được huấn luyện về bảo mật quá kỹ nên anh không muốn nói về ḿnh; hay là những năm tù kiên giam trong hầm đá đă làm cho anh quen đi với bóng tối và im lặng. Tôi không biết nữa. Tôi chợt nhớ đến chi tiết khi tôi gặp anh lần đầu ở trại Thanh Phong, sau khi nghe tin đặc sứ của tổng thống Mỹ Reagan, tướng Vessey can thiệp th́ các anh em Biệt Kích Dù có thể được về, Nguyễn Hữu Luyện đă âm thầm khẽ nói “được về, được về... mà về đâu?”

Bây giờ tôi mới hiểu hơn hai chữ “về đâu” của Nguyễn Hữu Luyện. Không biết anh có c̣n gia đ́nh, có c̣n người thân chờ đợi? Trên 20 năm biệt xứ, không thư từ, không liên lạc, không tin tức... đâu phải người đàn bà nào cũng bền gan hóa đá vọng phu? Cái dấu hỏi sau 2 chữ “về đâu” của Nguyễn Hữu Luyện là hoàn toàn hữu lư. Gần Tết năm nay, khi một số khá đông anh em Biệt Kích Dù đă có tin tức... tôi băn khoăn, hồi hộp lo lắng cho t́nh trạng của anh mà không dám nói ra. Đây là một vấn đề riêng tư rất tế nhị, có khi thiêng liêng nữa, không nên vội vàng đề cập tới.

Một buổi tối Nguyễn Hữu Luyện đến với tụi tôi, dáng điệu hấp tấp hơn thường lệ, trên tay không cầm tờ New Time như mọi khi mà thay vào đó là một bao thư. Chuyến quà buổi trưa vừa tới có thêm một số gói cho anh em Biệt Kích Dù, và trong gói quà mới có bao thư này. Gói quà gởi cho một anh em Biệt Kích Dù khác, nhưng có một số h́nh ảnh nhờ anh Biệt Kích Dù này gửi cho Nguyễn Hữu Luyện, anh vừa nhận được buổi chiều. Anh ngồi quay lại, đưa h́nh cho chúng tôi coi. H́nh ảnh một đám cưới. Cô dâu, chú rể đang đứng lạy trứơc bàn thờ khói hương nghi ngút.

Trên bàn thờ có tấm h́nh phóng lớn của thân sinh cô dâu. Đôi trẻ vừa thành hôn đang cúi đầu trước người đă khuất. Tấm h́nh trên bàn thờ nh́n kỹ đâu phải ai xa lạ chính là h́nh Nguyễn Hữu Luyện 20 năm về trước. Nguyễn Hữu Luyện nói trong xúc động: “Khi tôi đi con gái đầu ḷng tôi mới có 4 tuổi, năm ngoái con tôi nó đă lấy chồng. Hơn 20 năm cách biệt không thư từ, không tin tức, vợ con tôi tưởng rằng tôi đă chết”. Đây là lần đầu tiên tôi thấy một giọt nước mắt ngập ngừng trên khuôn mặt phong sương của người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện. Trong đêm cuối năm giá buốt ở trại Tân Kỳ, Nghệ Tĩnh, có 3 người tù cùng âm thầm nhỏ lệ trong đêm.

BẠN TÙ FULRO

Ở trại “Tây Đức” có 4 lán th́ 3 lán là tù chính trị ở cùng với tù Fulro, lán c̣n lại là tù h́nh sự. Trại Tân Kỳ này, thời kỳ “phồn thịnh” chứa trên 1000 tù, bây giờ tù chính trị được đưa về Nam khá đông nên cả hai khu “Đông Đức - Tây Đức” chỉ c̣n lại chừng 500 tù. Chúng tôi ở đội rau cùng lán với anh em Fulro thuộc đội “củ quả”, chuyên trồng bí, trồng khoai, trồng tra, trồng mía... Những anh em Fulro theo chức danh ghi trong “lư lịch trích ngang” đều là những nhân vật lớn như thiếu tướng, chuẩn tướng, đại tá, trung tá, thiếu tá v.v... nhưng thật ra chỉ là những đồng bào thiểu số không biết chữ, nói tiếng Việt không bỏ dấu, rất khó nghe... luôn luôn cười nhe hai hàm răng cà sát lợi.

Sự ngây thơ, chân thật hiện rơ trong từng dáng điệu, từng lời nói. Nghe, nh́n họ khó có thể tưởng tượng đó là tướng, tá trong mặt trận giải phóng liên kết các dân tộc bị áp bức Fulro (Front unifié pour la libération des races opprimées). Phong trào này đă phát khởi từ lâu, giữa những năm 60 và đă gây phiền nhiễu không ít cho chính quyền miền Nam. Sau tháng 4 đen 1975 khi miền Nam rơi vào tay cộng sản, phong trào Giải phóng các dân tộc bị áp bức Fulro không những không tiêu trầm mà ngược lại Fulro lại trở thành một mặt trận vơ trang chống đối cộng sản rất mạnh mẽ tại miền Cao nguyên Trung phần thuộc Hoàng Triều Cương Thổ cũ. Rất đông các đồng bào thiểu số thuộc nhiều bộ tộc ở Kontum-Pleiku bị bắt, cho rằng có dính líu tới Fulro. Riêng ở trại Tân Kỳ này có tới hơn 200 tướng, tá Fulro bị bắt giữ.

Chúng tôi tù ngụy quân, ngụy quyền, biệt kích ở với anh em Fulro tương đối thuận thảo, không thấy anh em Fulro lộ vẻ “căm thù” ǵ hết. Nhiều khi anh em c̣n tiếp tế củ khoai, đẫn mía... Anh em đội rau th́ đưa lại su hào, rau cải. Không nói ra nhưng tù chính trị và tù Fulro thông cảm nhau trong t́nh cảnh “cùng một lứa bên trời lận đận”. Nhưng một buổi tối có một sự kiện không ngờ xảy ra. Trong số anh em Fulro ở lán tôi có một anh c̣n trẻ, nghe nói là thiếu tá, trước đây có đi lính Biệt Kích Mũ Xanh (green beret) của Mỹ hoạt động trên vùng Cao nguyên “Hoàng Triều Cương Thổ”. Anh này chắc làm việc lâu ngày bên người Mỹ, nên ở nơi anh hiện ra một sự kiện nghịch thường.

Anh không biết chữ nhưng ngược lại nói tiếng Anh rất “chạy”. Anh nói tiếng Anh dễ hơn, giỏi hơn nói tiếng Việt nhiều, một loại tiếng Anh người ta thường nghe thấy nơi các ghetto ở Mỹ. Tâm tính anh cũng là một sự cộng hưởng kỳ lạ, cái thơ ngây man dă ở bên cái khôn lanh quỷ quyệt. Anh có củ khoai, khúc sắn th́ anh đánh đổi lấy rau, lấy đường với anh em tù chính trị “tiền trao cháo múc”. Đêm nằm anh nghêu ngao một bài hát núi rừng nào đó, nghe không hiểu được nhưng phảng phất một nổi buồn rờn rợn, trầm thống như nghe một khúc spiritual của người da đen ở Hoa Kỳ.

Anh thạo nghề mưu sinh trong rừng nên anh luôn luôn bắt được cá, lươn, ếch, nhái, có khi rắn nữa để cải thiện bữu ăn. Ăn không hết anh mới bỏ những con vật ấy vào trong một cái hũ sành để làm một thứ mắm riêng. Cái hũ sành nầy anh để dưới sàn, gần chử đầu nằm. Lâu ngày mắm có mùi, anh th́ chịu được nhưng mấy anh em tù chính trị nằm gần chịu không nổi mới nói với anh trực buồng. Anh trực buồng, một anh công binh già cận thị phải nhờ một anh Fulro có tuổi, nghe nói là đại tá, nói với anh bạn thiếu tá Fulro xin dời cái hũ mắm của anh đi chử khác.

Anh này nghe xong gạt phăng ông già đại tá sang một bên rồi vùng vằng đi nằm, hết sức bất b́nh. Cái hũ mắm càng ngày bốc mùi càng nặng, nên một buổi nhân mọi người đi làm hết, anh trực buồng mới mang cái hũ ấy ra ngoài, đặt ở sau lán, bên đống củi. Đi làm buổi chiều về khi lán đă đóng cửa, anh thiếu tá Fulro mới nhận thấy cái hũ mắm của anh không c̣n ở chử cũ. Anh nổi giận đùng đùng, chửi mắng loạn xạ. Một người nào đó mới chỉ anh trực buồng.

Anh này chạy bay đến chử anh trực buồng già cận thị, nắm ngực áo lôi xền xệch hét lên: “Sao mày lấy của tao, I’m gonna to get you, to kill you...” (Tao sẽ đánh mày, giết mày). Một anh Fulro có tuổi ở gần đấy liền đứng dậy, định can ra; anh Fulro trẻ tuổi đang cơn nóng giận, đẩy anh Fulro già ngă chúi, kéo áo anh trực buồng rách toạc, cái kính cận văng xuống đất. Người ta không biết sự thể sẽ diễn biến ra sao khi anh Fulro đang lên cơn điên loạn rừng rú.

Bửng có một người cao lênh khênh bước tới, đó là tay thủ lănh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện. Không biết bằng một chiêu thức Judo hay cẩm nă thủ tuyệt vời nào, hai tay của anh Fulro điên loạn đă bị khóa chặt. Anh Fulro vùng vẫy nhưng không thoát ra được. Nguyễn Hữu Luyện nói gằn giọng: “Đừng làm ồn”. Tay Fulro hét lên: “It's none of your business” (không phải chuyện anh đừng dính vô). Luyện ôn tồn nói tiếp: “Chuyện không đáng ǵ. Sáng mai chúng ta gặp nhau giải quyết”. Không biết lời nói của tay thủ lĩnh Biệt Kích Dù có một mănh lực ǵ mà sau đó tay thiếu tá Fulro đang trừng trợn bỗng nguôi đi, nh́n xuống đất, Nguyễn Hữu Luyện dừng tay khóa, nhẹ nhàng vỗ vai anh Fulro, khẽ nói “Thôi đi nghỉ đi...”.

Sáng sớm hôm sau trước khi đi làm, hai người (anh thiếu tá Fulro và Nguyễn Hữu Luyện) có gặp nhau và không hiểu sao cái hũ mắm được để lại ngoài lán, bên đống củi. Mối giao hảo giữa anh em tù chính trị với tù Fulro, tưởng rằng sau vụ này sẽ căng thẳng, không ngờ ngược lại, nó tốt hơn lên, kiểu “đánh nhau vỡ đầu rồi mới nhận anh em”. Tay Fulro Biệt kích mũ xanh bây giờ mới nhận ra “ông thầy”, ở nơi thủ lănh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện. Thỉnh thoảng buổi tối tôi lại thấy anh bạn Fulro tới chỗ Nguyễn Hữu Luyện nói tiếng Anh, nói bất cứ chuyện ǵ để cho Nguyễn Hữu Luyện luyện “accent”. Có khi anh ta c̣n đem tới củ khoai, đẫn mía nữa, nhưng theo như cựu lệ, Nguyễn Hữu Luyện chỉ cám ơn mà không nhận bao giờ.

Sau khi những tấm h́nh của vợ con anh nhờ một anh em Biệt Kích khác được gởi tới trại Tân Kỳ, tôi một bữu mới hỏi Nguyễn Hữu Luyện “Tại sao anh không có thư, có quà riêng của gia đ́nh?” Trầm ngâm một lát Nguyễn Hữu Luyện mới nói: “Thực t́nh tôi không nghĩ là vợ con tôi c̣n đó, đợi chờ tôi. Khi một số anh em Biệt Kích Dù được về, tôi có nhờ anh em kín đáo đi t́m hộ... Rất may là đă t́m ra. Vợ con tôi đă rời Sài G̣n, xuống Cần Thơ sinh sống. Tôi cũng đă dự pḥng trường hợp này. Gần 20 năm nay vợ con tôi, anh em, họ hàng, bè bạn tôi nghĩ rằng tôi đă chết.

Thôi cứ để như thế cho tiện, chết là hết, phải không anh. Không phiền ai, gây trở ngại cho ai. Nhược bằng vợ con tôi c̣n nghĩ đến tôi, c̣n chờ đợi tôi th́ đó là ơn riêng của Chúa đă ban cho. Nhưng tôi đă nói trước là vợ con tôi nếu c̣n đó, khi nhận được tin tôi th́ không bao giờ được viết thư, được gửi quà. Nhận thư nhận quà rồi là tôi phải trả lời. Làm sao mà ḿnh không thương vợ, thương con ḿnh cho được. Xưa nay mấy chục năm ở các trại tù, ḿnh là thằng trọc đầu, trên không chằng dưới không rễ, họ không nắm ḿnh vào đâu được. Bây giờ ḿnh thương vợ ḿnh, thương con ḿnh, họ đọc thư, họ biết như vậy, th́ ḿnh không sống được yên đâu anh ơi. Họ không hành được ḿnh, bây giờ họ hành vợ con ḿnh để bắt ḿnh quy phục, th́ làm sao đây thưa anh. Cho nên tôi không muốn nhận thư, nhận quà riêng là v́ thế...”

ĐỨNG VỮNG KHÔNG LÙI

Có lẽ trại Tân Kỳ này trước đây đă xây dựng trên một vạt rừng. Trong sân trại c̣n một số cây cổ thụ c̣n sót lại. Ở cuối sân “tập kết” bên “Tây Đức”, trước cửa mấy lán tù có một cây đa cổ thụ. Cụ Nguyễn Du đă nói “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Ở đây không những người buồn, (một lũ tù nhân rạc rài đói cơm thiếu áo xác xơ như một lũ vượn người thời mông muội) mà cây lá cũng buồn theo. Cây ǵ mà khẳng khiu, trơ trụi, không c̣n một chút màu xanh, chỉ có những rễ phụ nâu đen rũ xuống, trông giống như một ông già đầu râu tóc bạc đang đứng giơ tay chịu tội giữa trời.

Xưa nay cây thường là một biểu tượng thuần hậu của thiên nhiên: cây cho lá cho hoa, cho bóng mát, cho nơi che chở, cho chim ca và gió hát. Ở đây th́ ngược lại; cây đa già trơ lá trụi cành đang biểu tượng cho sự tàn bạo của con người và sự lạnh lùng của thiên nhiên khắc nghiệt. Lũ tù nhân chúng tôi ít khi dám ra chơi dưới gốc cây đa. Những cái rễ ngoằn ngoèo nổi lên sần sùi trông giống như một đàn trăn gió đang ŕnh mồi, những hốc tối ṃ làm liên tưởng đến hang ổ của lũ cáo, chồn, rắn rết, nhưng điều chúng tôi ngại nhất là bên gốc cây đa này nghe nói đă có hơn một người tù treo cổ chết. Người tù treo cổ thường thiêng lắm. Tiếng b́nh dân gọi là “có hương”. Con ma treo cổ thường dẫn dụ một người nào khác kết liễu cuộc sống giống như ḿnh để oan hồn uổng tử kia được đầu thai kiếp khác.

Hôm ấy vào khoảng cuối tháng 3 năm 1983. Trời dù đă cuối Xuân nhưng cái lạnh miền bán sơn địa vẫn c̣n buốt giá. Như thường lệ buổi sáng các đội ra sân tập kết ngồi xuống, đợi điểm danh xuất trại đi làm. Chợt một tiếng thét thất thanh vang dậy, phát ra từ cuối sân tập kết, phía cây đa. Mọi người nh́n lên, một bóng người đang đứng trên chạc ba của cây đa trụi lá, vươn cổ ra ḥ hét: “Tộ cha bây. Bây hại dân hại nước. Bây hại con tao, hại vợ tao. Tộ cha bây, bất nhân, vô hậu...”. Cán bộ trực trại vội vàng đi lại gốc cây đa, giơ tay quát nạt “Anh kia, anh chửi aỉ” - “Tao chửi bây, chưởi tộ cha tụi bây”.

Một công an bảo vệ xách carbine chạy tới, kéo “cu lat” loạch xoạch. “Anh kia, xuống ngay”. Một phát súng nổ vang lên; mọi người giật ḿnh nhưng nh́n lại, đó chỉ là phát súng chỉ thiên, bắn dọa... Người đứng trên cây, nh́n kỹ, cổ đă quàng sẵn vào một sợi dây thừng buộc vào một cành cây cao cạnh đó. Người đó nói như thét: “Bắn cho tao một phát đi, tao khỏi thắt cổ”. Cán bộ trực trại giơ tay, anh công an bảo vệ hạ carbine xuống.

Người đứng trên cây tiếp tục chưởi bới, tiếp tục ḥ hét, trong khi cán bộ trực trại hấp tấp đi ra trước sân tập kết, vội vă thổi c̣i ra lệnh xuất trại gấp. Tù nhân vừa xúc động vừa tê điếng trước phản ứng bất ngờ của một bạn tù. Các đội hôm nay được ra khỏi trại rất mau, rất vội. Trại không muốn các tù nhân ở lại nghe những lời chửi rủa tận từ kia. Anh em x́ xào “Ai đấy nhỉ?” - “Nghe như tiếng Th. thiếu tá địa phương quân người Huế hay Quảng B́nh, Quảng Trị” - “Đúng hắn rồi c̣n ai nữa, nghe đâu ít lâu nay hắn bị tâm thần”.

Các đội tù xuất trại hết rồi. Sân tập kết trở lại vắng người, im vắng. Tiếng chưởi rủa của thiếu tá Địa Phương quân Th. vẫn c̣n róng rả: “Tộ cha bây, bây giết con tao”. Mấy tên làm việc trong trại như đội “nhà cầu” tụi tôi vẫn tiếp tục làm việc nhưng không ngớt băn khoăn, lo lắng cho người bạn tù đang nổi cơn điên loạn. Ông bạn đồng nghiệp nhà cầu, Đại Đức Như L. cho hay “Tội cho anh ta lắm. Anh ta đi tù cải tạo mà con trai mới lớn lên ở nhà lại phải đi ‘nghĩa vụ’ sang Campuchia. Anh vừa nhận tin con trai anh mới chết; chết mà không mang được xác về.

Vợ anh ta là cô giáo, nghèo sát ván, ngất đi khi nhận được tin con và từ đó bịnh luôn. Đi làm lương không đủ nuôi con, làm ǵ có quà cáp cho chồng nữa. Th. lâu nay là con bà phước. Ở nhà vợ anh ta ốm nặng, đứa con gái phải nghỉ học ở nhà nuôi mẹ, nuôi em. Đứa em trai út khốn thay lại bị bệnh tâm thần ngớ ngẩn. Cả nhà bây giờ trông vào một cô con gái mới đâu 15, 16 tuổi. Đêm nằm anh Th. thường ú ớ gọi vợ, gọi con... Anh ta vẫn đi làm được, không ngờ sáng nay anh ta lại phản ứng bất thường như vậỵ..”

Anh Th. vẫn đứng trên cây, vẫn chửi bới, ḥ hét. Nhưng tiếng chửi bới, ḥ hét thưa dần v́ không c̣n “đối tượng”. Vào khoảng 9 giờ sáng, trại trưởng Trung tá công an T. mới từ từ đi tới gốc cây đa nói: “Anh Th., có chuyện ǵ xuống đây tôi giải quyết”. - “Bắn cho tôi một phát đi, tôi không xuống”. Thấy không xong, trại trưởng liền đi vào trong lán tù. H́nh như y đi t́m một người nào đó. Tôi được nghe nói là Trung tá công an đi t́m đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện.

Trời đă gần đứng bóng. Anh bạn tù nổi cơn điên vẫn đứng trên cây, cổ quàng sẵn vào một ṿng dây thừng oan nghiệt. Chợt có một bóng người cao lênh khênh đi ra đứng dưới gốc cây đa. Đó là Nguyễn Hữu Luyện. Hai người đứng nói chuyện ǵ với nhau không rơ. Nhưng sau đó người tù nổi cơn điên Th. tháo bỏ cái ṿng dây oan nghiệt ra khỏi cổ, và từ từ trèo xuống. Nguyễn Hữu Luyện đỡ người bạn tù bước xuống đất và d́u anh ta vào trong lán. Không biết người thủ lănh Biệt Kích Dù đă nói những ǵ, đă làm thế nào để cho người tù khốn khổ kia trở lại với cuộc đời.

o0o

Những ngày tiếp theo đó cả trại Tân Kỳ nín thở theo dơi hậu quả đến với người tù cựu Thiếu tá Địa Phương Quân. Hậu quả đầu tiên là biên chế lại. Tù đội này đổi sang đội kia, từ lán này sang lán khác. Giản bớt khu “Tây Đức”. Cho một số đội sang khu “Đông Đức”. Mỗi lần biên chế là mỗi lần trại phá bỏ những khuôn sinh hoạt tinh thần cũng như vật chất của tù gây dựng được trong những tháng ngày qua. Đội mới, chỗ mới, bạn mới. Cái thân quen vừa tạo lập đă mất đi. Chủ trương của trại tù là luôn luôn bắt tù nhân ăn ở trong một t́nh trạng tạm thời, nghi ngờ, bất trắc.

Sau vụ biên chế này, tôi vẫn làm công tác nhà cầu nhưng không ở cùng lán với Nguyễn Hữu Luyện nữa. Ba ngày sau, một chuyến xe GMC (lấy được của miền Nam) chở một số tù mới đến trại Tân Kỳ. Tôi vội chạy ra xem có gặp lại người quen? Tưởng bạn tù nào xa lạ, hóa ra toàn là bạn cũ. Đây là chuyến xe chở một số các linh mục tuyên úy Công giáo từ trại B́nh Đà ngoài Bắc đổi trại vào miền Trung. Các bạn tù linh mục này năm ngoái tháng 4, 1982 đă từ biệt tụi tôi ở trại Thanh Phong ra Bắc. Tôi gặp lại bạn cũ, đội trưởng đội rau kiêm đội trưởng văn nghệ nghiệp dư, linh mục Nguyễn Quốc T. Chúng tôi ôm lấy nhau, linh mục Nguyễn Quốc T. nói “Xă hội tù xoay chuyển ṿng tṛn. Ḿnh lại gặp nhau ở đây, mừng quá”.

Nhưng cái mừng của người bạn cũ không được lâu. Ngày hôm sau (tôi nhớ là ngày 23 tháng 3, 1983), chuyến xe GMC lại chở một số tù từ trại Tân Kỳ đi nơi khác. Trong số 33 người tù di chuyển kỳ này có tên tôi. Chuyến xe đi vội vă. Ngồi trên xe chật cứng, tôi giơ một bàn tay vẫy vẫy. Từ biệt trại Tân Kỳ, từ biệt những người bạn tù đă cùng tôi trải qua một thời kỳ gian khổ. Tôi nh́n thấy trong lán tù ở lại có những bàn tay vẫy theo. Trong số những bàn tay tiễn biệt kia, biết đâu chẳng có bàn tay của người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện. Tôi không được gặp lại các anh từ ngày ấy, đến nay thấm thoát đă 12 năm rồi. Xin những anh em tù cải tạo nào từng có mặt tại trại Tân Kỳ đầu năm 1983, hiện giờ ở hải ngoại t́nh cờ đọc đến những ḍng này, nếu các anh được biết tin ǵ về người bạn tù khốn khổ của chúng ta Thiếu tá Th. Địa Phương Quân xin các anh vui ḷng cho tôi được biết.

Đặc biệt về người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện tôi lúc nào cũng nhớ anh, cũng cảm phục anh, nhưng có một điều tôi hứa với anh mà tôi không giữ được tṛn. Một buổi sau khi anh cho tôi xem tấm h́nh con gái anh bữa lấy chồng, đang cúi lạy trước chân dung người cha đă khuất (là anh) tôi mới nói với anh rằng “Sau này nếu có dịp tôi sẽ kể, sẽ viết ra chuyện này”. Anh nắm tay tôi mà nói: “Thôi đừng anh ạ, ḿnh xét ra cũng chỉ làm nhiệm vụ của một người lính t́nh nguyện gia nhập cuộc chiến tranh bí mật. Quy luật của nó là thế th́ ḿnh đành phải chịu, thưa anh”.

Nhớ lời nhắn nhủ của anh, nên mấy năm nay ở nước ngoài, có dịp viết đôi ba bài báo tôi đă muốn lắm, muốn được kể chuyện người tù kiệt xuất là anh và đồng đội của anh, những anh em Biệt Kích Dù bất khuất. Nhưng tôi cứ đắn đo e ngại măi. Bây giờ tôi được biết rơ là anh đă tới Hoa Kỳ được một thời gian và anh đang đứng ra lo lắng cho một số anh em Biệt Kích Dù đồng đội của anh làm thủ tục xuất ngoại. Chuyện Biệt Kích Dù trên 30 năm cũ tưởng đă nằm im trong cát bụi lăng quên bây giờ đang được mở lại hồ sơ. Cho nên bữa nay tôi mới dám viết ít ḍng này với tư cách của một người bạn tù cùng trại nói ra những điều tai nghe mắt thấỵ...

Phan Lạc Phúc

hoanglan22
11-20-2019, 15:01
SÀI G̉N (NV) – Không ai nghĩ trong con hẻm nhỏ trên đường Lư Chính Thắng, quận 3, lại có cái chợ. Có khi chính những cái chợ nhỏ kiểu này là nơi nuôi sống nhiều gia đ́nh công chức, sĩ quan của chính thể VNCH và những ai bị mất tất cả sau biến cố 30 Tháng Tư, 1975.

Trong con hẻm này, chúng tôi gặp bà quả phụ Nguyễn Thị Xa, vợ cố trung tá sư đoàn Dù, quân lực VNCH, Trần Văn Sơn.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1487173&stc=1&d=1574261872

Bà quả phụ Nguyễn Thị Xa trong những ngày Tháng Tư năm 2016 ở Sài G̣n
(H́nh: Trần Tiến Dũng/Người Việt)

Bà Xa, ở tuổi ngoài bảy mươi, sức khỏe kém và trải qua hơn 40 năm buôn bán lam lũ kiếm sống nuôi 9 người con khi người chồng tử trận, vẫn giữ cốt cách của một phu nhân lữ đoàn phó, Lữ Đoàn 2, thuộc một sư đoàn VNCH tinh nhuệ.

Nói bằng giọng người Bắc-Sài G̣n trầm ấm, bà Nguyễn Thị Xa cho biết, bà là người Bắc, gia đ́nh vào Nam năm 1942, c̣n cố Trung Tá Trần Văn Sơn người tỉnh Quảng Trị.

Bà là nữ sinh trường Nguyễn Văn Khuê, ông học trường Sĩ Quan Bộ Binh Thủ Đức và như các mối t́nh của những người thanh niên yêu lư tưởng quốc gia và chính thể Dân Chủ-Tự Do, họ lập gia đ́nh trong thời chiến, chấp nhận mọi hiểm nguy một ḷng phụng sự lư tưởng “Tổ Quốc Trên Hết.”

T́m chồng trong ngày tàn chiến cuộc

Khi nhớ về chuyện xưa, bà Nguyễn Thị Xa kiềm nén xúc động, kể: “Ở tận Gio Linh, Quảng Trị, anh Sơn bị thương một mắt. Tôi hỏi, giờ anh đă là thương binh anh ở nhà với vợ con em, đừng đi trận nữa. Anh cười nh́n tôi rồi nh́n mấy đứa con nhỏ, lặng lẽ gật đầu nhưng ánh mắt anh lại nh́n về hướng khác. Sau đó anh lại đi. Tôi buồn nhưng không trách anh, thời chiến mà biết làm sao được!”

Cố Trung Tá Trần Văn Sơn sinh năm 1940, là sinh viên sĩ quan Thủ Đức khóa 11, là sĩ quan của binh chủng Nhảy Dù, đời binh nghiệp của ông trải suốt các điểm nóng trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc chiến.

Bà quả phụ Nguyễn Thị Xa kể tiếp: “Tôi nhớ vào khoảng đầu Tháng Tư, 1975, tôi không c̣n tin tức ǵ về anh nhưng không biết anh đă mất. Tôi lên Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn và căn cứ ở Long B́nh để hỏi nhưng họ cũng không biết. Sau đó có đồng đội ảnh cho biết là ngày 15 Tháng Tư ảnh có nói chuyện trên đài. Tôi lại lên Bộ Tư Lệnh sư đoàn để đón những người chạy về hỏi tin tức. Không ai biết cả.”

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1487174&stc=1&d=1574261935

Chân dung cố Trung Tá Trần Văn Sơn, lúc c̣n mang lon trung úy.
Theo bà Xa, gạch trắng dưới hai bông mai trong tấm ảnh chân dung này của
ông là do gia đ́nh thêm vào để lấy làm ảnh thờ tại gia (H́nh: Trần Tiến Dũng chụp lại)
“Ở gần nhà tôi là nhà ông lữ đoàn trưởng, cùng là vợ lính nên bà lữ đoàn trưởng cho tôi biết chồng bà và chồng tôi đă hy sinh. Sau đó, Bộ Tư Lệnh sư đoàn có nói là sẽ đón gia đ́nh tôi đi di tản, nhưng tôi không đi v́ không tin chồng ḿnh hy sinh. Tôi nhủ ḷng tiếp tục đợi anh, hơn nữa lúc đó cả đàn con c̣n nhỏ quá, tôi lại đang mang bầu đứa út, không thể đi. Rồi tôi gặp một ông đại tá, ông cho tôi hy vọng khi nói chồng tôi c̣n sống, đang bị giam ở đầm Bà Th́n, tôi mừng quá và tin là anh đă qua khỏi hiểm nguy.”



Vẫn theo lời bà Xa: “Sau 30 Tháng Tư, tôi có xin phép chính quyền Việt Cộng để đi Phan Rang t́m anh. Họ không cho giấy phép nhưng tôi liều đi đại. Tôi đón xe balua chở hàng đến Phan Rang. Tôi kiếm anh ở mọi nhà thương, nhà tù, nhà thờ, nhà chùa. Không ai biết ǵ về anh. Đi đâu cũng nghe người ta nói: Người chết nhiều quá làm sao biết ai với ai.”



Ở Phan Rang, tôi mừng muốn phát điên khi gặp một chiếc xe Jeep có huy hiệu binh chủng Nhảy Dù bị lật bên đường, không hiểu sao tôi tin trong chiếc xe đó có tin về anh. Nhưng rồi tôi lại tuyệt vọng khi người dân ở đây nói: “Dân quanh đây chôn lính ḿnh nhiều lắm, có đọc được tên trên áo cũng không nhớ nổi, mà cũng đâu có ai giữ thẻ bài làm ǵ.”

Tảo tần nuôi 9 người con

Sau khi biết không cách nào giữ được căn nhà gần bệnh viện V́ Dân, ở Sài G̣n, bà quả phụ Nguyễn Thị Xa dắt 9 đứa con đi kinh tế mới ở Cụ Bị, Bà Rịa.

Bà Nguyễn Thị Xa cho biết chỉ ở kinh tế mới 5 năm. Sau đó về lại Sài G̣n và tiếp tục mua bán để nuôi con. Chúng tôi hỏi, được biết bà trải qua tất cả mọi nghề mua gánh bán bưng, có lúc làm cả nghề mua bán ve chai để nuôi con. Bà nh́n chúng tôi, ánh mắt của người mẹ già như đang t́m lại được ánh sáng tinh anh từ nghị lực ngày trước.

Bà nói: “Anh đừng nói tôi mua bán ve chai, cứ nói chung chung là tôi mua bán đồ cũ là được rồi. Tôi may mắn có mấy đứa con trai đầu biết phụ mẹ nuôi em. Cực khổ lắm anh. Họ xét lư lịch, đâu cho con ḿnh học hành tới nơi tới chốn, phải lao động thuê mướn cho người ta khổ cực ngàn lần hơn mới kiếm sống được.”

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1487175&stc=1&d=1574261935

Giấy thăng cấp cố Trung Tá Trần Văn Sơn được gia đ́nh ǵn giữ. (H́nh: Trần Tiến Dũng chụp lại)

Đồi Con Ngỗng và nguyện vọng người quả phụ

Những câu chuyện về chiến tranh, nhất là chiến tranh Việt Nam, hầu như được kể lại từ nhiều phía. Bỏ qua yếu tố tô son trét phấn của bên thắng cuộc, dư luận công chính luôn ư thức rằng: Chính nghĩa của cuộc chiến tranh không thuộc về bên chiến thắng với những chiếm đoạt, phân biệt đối xử tồi tệ với người lính thua cuộc và gia đ́nh họ.



Cách khác, sự tồn tại và vươn lên từ đống tro tàn cuộc chiến của gia đ́nh những quân nhân VNCH đă buông súng trong suốt thời hậu chiến mới là người thật sự chiến thắng, chiến thắng của phẩm giá và quyền con người trong nghịch cảnh đau thương nhất.



Trong câu chuyện của ḿnh, bà quả phụ Nguyễn Thị Xa luôn nhắc đến những đồng đội của chồng. Bà tế nhị nói: Tôi không rơ chồng tôi ăn ở thế nào với cấp dưới, nhưng mấy chục năm qua các ông ấy dù ở nước ngoài hay trong nước luôn quí trọng anh và nhớ đến gia đ́nh tôi. Bây giờ các ông ấy người đă mất, người th́ già rồi nhưng vẫn mong giúp tôi t́m được kỷ vật nào đó của anh để an ủi gia đ́nh.



Cách nay hai năm, tôi và một vài gia đ́nh có đến Đồi Con Ngỗng ở Phan Rang để t́m lần nữa tin tức hay kỷ vật về anh Sơn.



“Theo chỉ dẫn của một người địa phương, chúng tôi cúng và thắp hương ngay trên đồi cho các tử sĩ VNCH rồi khấn nguyện, nhưng khi đào lên th́ cũng chỉ thấy mấy thùng đạn, trong đó là phần xương thịt đă là cát bụi của các anh. Không có bất cứ kỷ vật nào. Nhưng với chúng tôi, cái am thờ bé nhỏ mà chúng tôi chung ḷng dựng nên nơi đấy thật sự có ư nghĩa cho cả người đă khuất và người luôn tưởng nhớ.”



Khi được hỏi về nguyện vọng cuối đời, ban đầu bà im lặng, phải một lúc sau mới bùi ngùi nói: “Phần tôi th́ chẳng mong muốn ǵ, có chăng là mong các chị em quả phụ khác, nhất là những người có hoàn cảnh khổ hơn cả tôi được quan tâm hơn.”



Chiến dịch Phan Rang-Xuân Lộc là một trong những trận chiến ác liệt cuối cùng của cuộc chiến tranh ác liệt nhất thế kỷ 20. Chính thể VNCH đă bị xâm đoạt và rồi đây lịch sử sẽ minh bạch phán xét. Nhưng ngày nay vẫn c̣n đó những con người, những gia đ́nh VNCH với nghị lực phi thường, bất kỳ có sự giúp đỡ nào vẫn phải cô độc hàng ngày, hàng giờ cố chữa lành vết thương chiến tranh trên thân xác và tâm hồn để tồn tại. Những ai sống ở trong nước dưới chế độ chuyên chế, nhất là những năm đầu sau biến cố 1975, mới có thể biết các trường hợp như bà quả phụ cố Trung Tá Lữ Đoàn 2, Binh Chủng Nhảy Dù, quân đội VNCH, để tồn tại được, là khó đến mức nào!

Trần Tiến Dũng/Người Việt

hoanglan22
11-30-2019, 19:03
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1492148&stc=1&d=1575140565

Miền Nam, kể từ đầu tháng tư, trời h́nh như trở nên nắng gắt, có lẽ để chuẩn bị chào đón mùa mưa sắp tới, đâu đây cũng đă có rải rác một vài cơn mưa sớm. Những cơn mưa đầu mùa như thúc dục nhà nông thêm tất bật dọn đất, ruộng, cho kịp thời vụ. Suốt một cánh đồng rộng, dài mút tầm mắt, những cột khói đốt đồng chừng như cũng mệt mỏi, ră rời v́ nắng hạ, đang uể oải uốn ḿnh bay lên nền trời trong vắt, cánh đồng về chiều bỗng trở nên vắng lặng, khi những người nông dân âm thầm thu dọn đồ đạc trở về.


Gian quán đầu làng của Bà Ba lần lần đông khách, dân trong làng thường tụ tập vào buổi chiều tà. Khi công việc đă tạm ổn cho một ngày, trên đường về nhà, họ gặp nhau uống ly cà phê, ly chanh đường giải khát, sau một ngày làm việc vất vả, trao đổi với nhau vài ba câu chuyện thời sự, chiến sự, chuyện làng xóm, chuyện mùa màng v..v.. Một số người có máu Lưu Linh, rủ nhau "lai rai ba sợi" cho ấm ḷng, trước khi về nhà dùng bữa cùng gia đ́nh.

Trong góc quán, nơi kê chiếc bàn tṛn lớn nhất, đă có 4, 5 người đàn ông đang ngồi nhâm nhi bên chai rượu, mặc cho những tiếng rầm ŕ to nhỏ chuyện tṛ của những người trong quán, tiếng thăm hỏi, tiếng cười đùa, họ vẫn im lặng uống, không ai nói với ai một lời, h́nh như mọi người đều có tâm sự, hoặc đang chờ đợi chuyện ǵ.

Đột nhiên một người trong nhóm lên tiếng:
- Sao lâu quá chưa thấy Ba Đuông tới, không biết có chuyện ǵ không?
- Chắc không có ǵ đâu, năm nào chẳng vậy, cứ đến tháng này là gần đến ngày giỗ ông già nó, nên nó khật khật, khừ khừ vài bữa thôi - Từ ngày Trung đội ḿnh thanh toán xong mấy thằng "ly khai" ám sát ông già nó, coi như thù nhà được trả, tui thấy nó bớt buồn nhiều lắm rồi đó.

Họ lại im lặng ngồi uống, mỗi người theo đuổi một ư nghĩ riêng, nhưng chung quy họ cũng đều chỉ quan tâm đến một người mà họ vừa nhắc đến.. Ba Đuông.

Có tiếng động cơ xe Honda từ xa, tiếng máy lớn dần, lớn dần rồi ngừng ngay trước cửa quán - Trên xe có hai người, chú lính ngồi sau xuống xe, chú này chắc vừa trổ mă, mặt mày non choẹt, đầy mụn trứng cá, lưng đeo một máy truyền tin PRC.25, tay xách cây M.16 gắn băng đạn cong , 2 băng đâu ngược lại, cột dính với nhau bằng băng keo. Người lái xe là một thanh niên khoảng 26, 27 tuổi, dáng nhanh nhẹn, nai nịt gọn gàng trong bộ đồ kaki màu đen, may theo kiểu quân phục tác chiến, giày "saut", thắt lưng T.A.B với giây ba chạc, bên phải lủng lẳng cây Colt 45, đầu bao súng có một sợi giây dù cột chặt vào đùi, kềm chắc đầu bao để khi đụng chuyện rút ra cho lẹ, đây là lối bắt chước mấy tay cao bồi Texas, những người hùng trên màn ảnh trong các phim Western kiểu "Bắn chậm th́ chết" đấy - bên tay trái là con dao găm, mà hai chữ US nổi bật lên ngoài bao da, giữa bụng dắt cây K.54 không bao, có ư khoe chiến lợi phẩm, trên giây ba chạc, chỗ hai bên ngực, buộc gọn gàng hai trái lựu đạn "mini", bằng giây "ruban" đỏ, món quà tặng rất quư do một người bạn của anh Hai hắn tặng. Từ ngày hắn mới cưới vợ, món này rất đắc dụng khi lâm chiến, nhưng hiện tại, nó được coi như đồ "trang sức"- Hai túi hộp phía ngoài hai bên ống quần, mỗi bên một tấm bản đồ bọc plastic, thấp thoáng những đường gạch xanh xanh, đỏ đỏ bằng bút ch́ mỡ - Thoạt nh́n, mọi người đều có nhận xét chung là anh ta vừa nghiêm chỉnh trong trong quân phục, lại vừa có vẻ "nặng phần tŕnh diễn" trong trang bị - Thật sự anh ta có "vẽ vời" một chút cũng chẳng sao, mọi người có thể vui vẻ chấp nhận được, v́ anh ta hiện là một Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân sáng giá nhất trong Quận. Là sát tinh của bọn cộng sản cơ sở, giao liên, nằm vùng trong Xă, trong Quận, Trung Đội anh ta mười lần ra quân, có đến tám lần đạt thắng lợi, anh ta là Trung Đội Trưởng Nghiă Quân Lê Văn Đức, con người vui tính, dễ mến với hai, ba cái biệt danh như Ba Đuông, (v́ thích nhậu con đuông lăn bột), Ba Cơ Động, (v́ chuyên phục kích VC bằng ḿn claymore cơ động), Ba Sát Tinh, (v́ có tay sát cộng), Ba Cải Lương, (v́ những thứ lỉnh kỉnh anh ta mang trên người và thích ca cải lương). Được tiếng "chịu chơi", gan dạ, nên dù là Nghĩa Quân, một lực lượng chỉ đứng trên Nhân Dân Tự Vệ, nhưng Trung Đội của Ba Đức trang bị không kém ǵ các đơn vị Chủ Lực, v́ những công tác hành quân mà Trung Đội này luôn t́nh nguyện đảm trách và nhờ đó đă tạo nên nhiều thành tích lẫy lừng. Rồi trên Quận, trên Tỉnh thương, cho thêm đồ này, thứ khác ngoài cấp số, rồi các đơn vị bạn có dịp hoạt động chung, cũng v́ cảm t́nh riêng mà tặng thêm món nọ, món kia, cho nên Ba Đức vẫn tự hào là Trung đội anh ta có đủ "đồ chơi" với bọn Việt cộng.

Ba Đức bước vào quán, tươi cười dơ tay vẫy vẫy, đáp lại lời chào của bà con trong quán rồi tiến thẳng về chiếc bàn tṛn trong góc, nơi có mấy người bạn, đúng hơn là những người Nghĩa Quân trong Trung Đội, đang nóng ḷng chờ đợi tin tức của anh ta.

Vừa ngồi xuống, Ba Đức đă nghe hai, ba người trong nhóm hỏi dồn dập:
- Sao "có được không?" Vẫn đi "làm ăn" như b́nh thường chớ!!

Không vội trả lời, Đức nâng ly rượu uống cạn, đặt ly xuống bàn đoạn thở dài nhẹ nhẹ, gương mặt thoáng buồn, anh chậm rải trả lời mọi người:
- Ông Quận không đồng ư với đề nghị đột kích của ḿnh, ổng nói đă có ngưng bắn rồi, ḿnh phải tuân thủ, hơn nữa bây giờ xin yểm trợ khó khăn, ḿnh hăy chờ, cứ thủ cho kỹ đă, c̣n vụ phục kích đón đường liên lạc, tiếp tế của chúng th́ ổng thuận cho ḿnh cứ tiếp tục làm.
- Tụi nó tốt lành ǵ mà ḿnh phải tuân thủ hiệp định, xem chừng, lúc này mà tấn công mới chắc ăn à! Sao anh Ba không nói với ổng như vậy?

- "Mẹ" họ!!! chẳng lẽ tui c̣n phải đợi mấy ông "chỉ sao?" - Mấy ông và ngay cả ông Quận nữa, biết tôi quá rồi mà - Cho dù mấy ông đă phụ lực cùng tôi "đưa" mấy thằng ám sát ông già tôi hồi đó về "hầu hạ" ổng, nhưng năm nào cũng vậy, cứ đến gần ngày giỗ ba tôi, tôi vẫn muốn có thêm một "chút quà" ǵ đó, để làm lễ cúng ổng tôi mới "phái", v́ thế mà đôi ba phen tôi xin với ông Quận, cho bọn ḿnh làm một cú đẹp đẹp một chút cho ông già tôi vui mà không được, thật nản quá.

Nhắc đến người đă khuất, bàn nhậu như chùng xuống, không khí bỗng ngưng đọng, mọi người im lặng, mỗi người chừng như đang theo đuổi những ư nghĩ riêng tư...

Tháng Tư năm 1959...

Chiều xuống dần, trên cánh đồng chỉ c̣n lác đác vài ba người mà công việc c̣n một chút dở dang, đang cố làm thêm cho xong trước khi mặt trời lặn. Cha con ông Tư Trương cũng vội vàng dồn mấy ôm cỏ cuối cùng vào đống, rồi châm lửa đốt - Gió hiu hiu thổi, lửa bén vào cỏ, cột khói từ từ bốc cao, nhè nhẹ lan rộng trong trời chiều, việc tạm ổn, ba cha con ông Tư lững thững trở về - Hai thằng con trai của ông : Hai Tài và Ba Đức, thằng lớn 12, thằng kế 9 tuổi, vẫn đang đi học, nhưng con nhà nông, ngoài việc học hành để mở mang kiến thức và có cơ hội tiến thân, ông c̣n muốn chúng cũng vẫn biết những công việc đồng áng, những vất vả, cực nhọc của nhà nông, để từ đó, chúng hiểu và gắn bó với ruộng đồng, nơi tổ tiên, gịng họ chúng vẫn hàng ngày đổ mồ hôi bên ruộng lúa, nương khoai - V́ thế, ngoài giờ học, ông thường khuyến khích hai đứa ra đồng phụ ông, để ông dạy bảo chúng cung cách làm đồng . Được cái hai thằng con ông rất ngoan, ở trường chúng học giỏi, về nhà chúng chăm chỉ nghe ông hướng dẫn mọi việc . Rút kinh nghiệm cuộc đời ông, bị mồ côi sớm, học hành dang dở, nên lúc nào ông cũng tâm niệm phải lo cho các con học hành đến nơi đến chốn.

Thời điểm này, miền Nam đang được sống trong khung cảnh thanh b́nh êm ả, dưới chế độ Cộng Hoà mới thiết lập được mấy năm, không khí độc lập, tự do là động cơ làm hưng phấn mọi người, họ chăm lo sản xuất, thanh thiếu niên chăm lo học hành, phong trào thể dục thể thao và giáo dục văn hoá được chính quyền thúc đẩy mạnh mẽ, giới trẻ tham gia nhiệt liệt, ông Tư thấy cũng vui vui trong dạ . Từ ngày ông khôn lớn, đến bây giờ ông mới thực sự được sống trong chế độ tự do, dân chủ, không phải nơm nớp lo sợ bọn cường hào, ác bá, bọn quan quân thực dân hành hạ, cảnh chèn ép thô bạo người dân không c̣n nữa, ông cảm thấy bây giờ đời sống mới là thực sự của ḿnh - Ḷng hân hoan vui sướng, ông cũng muốn đóng góp một chút công sức vào việc xây dựng đất nước, cho nên khi bà con trong ấp đồng thanh bầu ông vào chức vụ Trưởng Ấp, ông vui vẻ chấp nhận ngay, không ḷng ṿng từ chối, không ngại khó, ngại khổ, mà ông cảm thấy đây là cơ hội để ông đóng góp công sức vào việc củng cố thôn ấp, cải tổ làng xă và quy mô hơn là xây dựng đất nước, có nhiều người dân đóng góp công sức, chắc chắn tương lai sẽ là nước mạnh, dân giàu, ông đơn giản nghĩ và nhủ ḷng như vậy .

Ông Tư là một trong những Trưởng ấp xuất sắc của Quận, ông chịu khó t́m hiểu đường lối, chính sách của chính phủ qua sự truyền đạt của các viên chức trong Quận, khi thấu triệt, ông nhẹ nhàng, kiên nhẫn phân giải rơ ràng, lợi hại, cho dân chúng trong ấp hiểu rơ để tham gia, thi hành - Ông thẳng thắn, khoan hoà, trên kính, dưới nhường, không quản ngại khó khăn hay vất vả, nên công việc trong ấp ông luôn tiến triển tốt đẹp - Thôn ấp ông xưa kia là nơi phát xuất phong trào chống thực dân Pháp, có nhiều người tham gia kháng chiến. Có những người sau một thời gian theo kháng chiến, do Việt Minh lănh đạo, họ nh́n rơ bộ mặt phản dân hại nước của cộng sản, nấp dưới danh nghĩa giải phóng đất nước, nên đă quay về, nhưng cũng có những người trong vùng ông, v́ lư do này hay lư do khác, vẫn phục vụ cho cộng sản, sau hiệp dịnh Genève 54, họ tập kết ra Bắc, trốn tránh trong mật khu, hay có khi nằm ngay tại một căn hầm bí mật nào đó, quanh quẩn đâu đây thôi, để chờ cơ hội nổi lên chống phá .

Là dân địa phương, ông không lạ ǵ những người này - Ông ra công, ra sức thuyết phục gia đ́nh những người ấy, kết quả là phần lớn đều nh́n rơ dă tâm của cộng sản, quay về với chính nghĩa quốc gia, c̣n một số ít v́ đă "lậm" với chủ nghĩa cộng sản, hoặc v́ khăng khíu bà con, quyền lợi, sự an toàn cá nhân v...v.. nên vẫn tiếp tục đi theo con đường cũ, có điều bây giờ những công việc tuyên truyền rỉ tai, phá hoại, của họ không c̣n có giá trị nữa, v́ người dân đă biết nh́n sự thực và biết so sánh giữa hai chế độ . Ông rất mừng v́ thấy những kết quả khả quan, làm thăng tiến đời sống người dân nông thôn ngày càng vững mạnh, đó là bằng chứng hùng hồn để mọi người chiêm nghiệm và tin tưởng nhiều hơn vào chính nghĩa quốc gia, ông rất hănh diện v́ những thành quả này, v́ trong đó có sự đóng góp một phần nhỏ nhoi công sức của ông. Nhiều lần trên Quận hoặc Tỉnh gởi giấy ban khen, ông đều cảm thấy hơi thẹn thẹn, v́ với tâm hồn chất phác, ngay thẳng, ông tự nghĩ việc đóng góp một chút công sức vào việc xây dựng làng xóm, đất nước là nhiệm vụ chung của người dân, có ǵ quan trọng lắm đâu mà mấy ông trên Tỉnh, Quận coi lớn chuyện quá vậy.

Ư nghĩ đơn giản của ông cũng hợp với ư nghĩ của nhiều người, những người có ḷng đạo đức, sẵn sàng gánh vác việc chung, nhưng ông càng làm được nhiều việc công ích, càng được nhiều người dân trong ấp thương mến, quư trọng, th́ ông lại càng bị một phe khác căm thù, oán hận, đó là những tên cộng sản nằm vùng. Bọn này không thể nào hoạt động, tuyên truyền hay dụ dỗ người dân theo chúng được, v́ những điều Tư Trương đă nói, đă làm, hoàn toàn là những việc mang lại ích lợi chung cho mọi người trong ấp, nó cụ thể, đang xảy ra trước mắt, không phải những hứa hẹn xa vời như các cán bộ cộng sản thường nói - Ông trở thành một chướng ngại to lớn, trên con đường phản dân hại nước của chúng, cần phải tiêu diệt ông, chúng mới có thể hoạt động được - Trong khi đó ông không hề hay biết tính mạng ḿnh đang bị đe dọa, ông vẫn nghĩ ḿnh làm việc công ích, mọi người nếu không quư mến th́ cũng chẳng có ǵ phải ghét bỏ ông cả.

Về đến cổng nhà, đứa con trai nhỏ 3 tuổi, mà ông bà hay gọi đùa là "út một" chạy lăng xăng ra đón, nhơng nhẽo đ̣i ông ẵm lên thả xuống mấy lần, rồi mới bi bô nói chuyện với hai thằng anh, đứa con gái thứ ba đang phụ mẹ dưới bếp, lo bữa ăn chiều cho gia đ́nh. Trời đă chạng vạng, bà Tư hối chồng và hai con lo tắm rửa cho khỏe khoắn trước khi ăn cơm. Cha con ông Tư ra giếng tắm trong khi bà Tư và đứa con gái lo sắp cơm lên bộ ván ở nhà sau, bà lấy cây đèn dầu "cao cẳng" thắp lên cho sáng khắp gian nhà .

Dưới ánh đèn, gia đ́nh ông Tư quây quần quanh mâm cơm, bà Tư cũng là người nội trợ đảm đang, hết ḷng lo lắng cho chồng, con, từng miếng ăn, giấc ngủ - Mâm cơm là cả một sự khéo léo, chế biến của bà, ngoài những món chính như kho mặn, canh chua, rau sống, cho các con ăn cơm, bà c̣n có mấy con cá trê vàng, nướng mỡ hành, dằm nước mắm gừng, để ông Tư làm mồi nhậu - Đây là món ăn khoái khẩu của ông, nên khi nh́n thấy, ông cười khà khà nói với bà: "má nó thiệt biết ư", ông Tư lấy hũ rượu thuốc, rót một ly để nhâm nhi, rồi gia đ́nh vừa ăn vừa chuyện tṛ vui vẻ, "út một" không chịu ngồi bên mẹ, nó chễm chệ ngồi trong ḷng ông bố, thỉnh thoảng há miệng nhận miếng cá nướng , nhai nhóp nhép, nếu không bận nhai, nó lại hỏi bố và hai anh hết chuyện này đến chuyện khác, câu chuyện mà nó quan tâm hơn hết, thường hay hỏi đi, hỏi lại, là có bao nhiêu con dế, chuồn chuồn mà hai anh gặp khi theo Ba đi làm?... Cả nhà cười vui vẻ, không khí trong gia đ́nh thật đầm ấm, hạnh phúc.

Đột nhiên con chó đang nằm chờ ăn dưới gầm bộ ván bỗng hực lên một tiếng, như phát giác có người lạ vào nhà, nó chạy lên nhà trên sủa dữ dội, rồi vừa sủa vừa lùi xuống nhà dưới, mọi người ngồi trong mâm cơm đang ngơ ngác chưa hiểu chuyện ǵ, bỗng hai bóng người mặc đồ đen từ trên nhà vụt xuống, một tên chĩa cây súng tiểu liên vào ông Tư bắn xối xả, tên kia hai con mắt láo liên canh chừng, sau loạt đạn chớp nhoáng, chúng hè nhau tung cửa sau, lủi ra vườn, trước khi chạy, một tên vứt lại tờ giấy, trên đó viết những ǵ không rơ.

Tiếng đạn nổ làm mọi người trong nhà mất hồn, đồng thời khuấy động cả xóm, bà Tư đứng chết trân, trợn trừng đôi mắt, nh́n chồng đang quằn quại trong vũng máu, thằng út gục chết trên bụng bố, tấm thân nhỏ xíu cũng đẫm đầy máu, máu nó và máu bố nó, hai thằng anh và đứa em gái ôm chặt lấy nhau, mặt xanh như tàu lá, chúng c̣n sợ lắm, không dám nhúc nhích, thậm chí c̣n không dám thở mạnh nữa - Ông Tư chợt nấc lên một tiếng lớn, thân ḿnh quằn quại, hai mắt đứng tṛng, máu từ ngực, từ bụng ông vẫn tuôn ra ồng ộc, bà Tư nghe tiếng nấc của ông chợt tỉnh, cảnh tượng tang thương trước mắt làm bà cũng không c̣n đủ b́nh tĩnh, bà hét lên một tiếng "ông ơi" rồi lăn xả vào, ôm ông dậy, lay cho ông tỉnh, vừa lay, bà vừa kêu khóc thảm thiết, máu me dính đầy áo quần bà, mấy đứa con thấy mẹ lên tiếng cũng bớt sợ, chúng cũng gọi Ba, gọi em rồi gào khóc với mẹ - Bà con cḥm xóm nghe tiếng khóc trong nhà vội vàng chạy đến, mọi người sững sờ trước cảnh giết người tàn nhẫn, thương tâm như vậy, hai cha con ông Tư chết ngay tại mâm cơm, trên thân thể hai cha con lỗ chỗ vết đạn - Không thể làm ǵ để cấp cứu được nữa, bà con bảo nhau cho người báo lên Xă, Quận, mọi người chờ đợi chính quyền xuống lập biên bản xong, sẽ giúp thu xếp, dọn dẹp.

Theo biên bản của Quận, ông Trưởng ấp Lê Văn Trương đă bị việt cộng ám sát lúc 7 giờ tối, ngày 14 tháng 4 năm 1959, tại tư gia, trong bữa cơm chiều, bằng súng tiểu liên - cùng tử nạn với ông có đứa con trai, tên Lê Văn Thuận, 3 tuổi - Sau khi khám nghiệm tử thi, pháp y đếm được 14 vết đạn trên ngực và bụng người bố, 11 vết đạn trên ngực, cổ và đầu em bé, có những viên đạn xuyên qua thân xác người con, rồi mới ghim vào người bố, tổng số vỏ đạn nhặt được ở phạm trường là 22 - Các chuyên viên vũ khí xác nhận đây là loại đạn 9 ly, dùng cho súng tiểu liên MAS. 49, do Pháp chế tạo - Tội ác nhăn tiền này, do cán bộ cộng sản nằm vùng gây ra, chúng đă để lại một tờ giấy có ghi những chữ như sau : "Đội hành quyết thi hành án tử h́nh tên việt gian Lê Văn Trương, tay sai Mỹ-Diệm". Mọi chứng cớ đă rơ ràng, các vết thương trí mạng, đều do bọn khủng bố bắn bằng súng tiểu liên, với khoảng cách gần, đạn xuyên thủng, hoặc c̣n nằm trong thân thể, gây tử vong cho nạn nhân, v́ thế Hội đồng Pháp Y quyết định, không cần thiết phải đưa đi giải phẫu giảo nghiệm tử thi, mà cho phép thân nhân được giữ thi hài tại nhà để lo tang lễ.

Ông Tư Trương là người đầu tiên trong Xă bị ám sát, tiếp theo đó có thêm 4 người nữa, gồm 1 Trưởng ấp, 1 Xă trưởng, 1 Ủy viên Cảnh sát và một Đồn trưởng Dân Vệ, không khí khủng bố bao trùm khắp làng xă, cho đến mấy tháng sau, khi chính quyền đẩy mạnh phong trào ấp chiến lược, củng cố an ninh thôn ấp, sàng lọc những phần tử nằm vùng, việc ám sát các cán bộ chính quyền Xă, Aáp mới được chặn đứng - Hơn nữa, sau vài ba vụ án, những người tham gia chính quyền cũng đề pḥng cẩn mật, lực lượng an ninh, Dân vệ, cũng tuần pḥng nghiêm ngặt, nên bọn chúng khó bề thao túng.

Đối với Bà Tư, cái chết của ông Tư và đứa con nhỏ là một mất mát quá lớn lao cho Bà và các con, nhưng là người đàn bà Việt Nam, mang đầy tính cần cù, nhẫn nại, bà cắn răng chịu đựng, thay chồng nuôi con - Để an ủi bà, chính quyền các cấp cũng hết ḷng giúp đỡ về tinh thần, vật chất đủ lo cho bầy con - Thêm vào đó, bà con cḥm xóm, sẵn cảm t́nh gắn bó với gia đ́nh bà từ trước, cũng quây quần, săn sóc bà và lũ nhỏ, bà cảm thấy cuộc đời cũng bớt cô quạnh - Bà và ba đứa con cứ như vậy, sống và khôn lớn trong t́nh yêu thương đùm bọc của mọi người .

Ngoài Tư Hiếu, đứa con gái của bà, không có ấn tượng ǵ rơ nét đối với cái chết của cha, nhưng bà và hai thằng con trai : Hai Tài, Ba Đức, th́ lúc nào cũng canh cánh bên ḷng cái chết tức tưởi của người chồng, người cha yêu dấu - Hai thằng con bà chỉ trông cho mau lớn để gia nhập quân đội, giết hết bọn Việt cộng, trả thù cho bố và những người bị chúng ám sát chết oan ức .

Thời gian lặng lẽ trôi qua, sau cuộc đảo chánh 1-11-63, t́nh h́nh chính trị của miền Nam không c̣n ổn định như trước. Ấp chiến lược bị phá bỏ, bọn VC lại có dịp trở về làng xă hoành hành như trước, ban đêm, chúng từ "căn cứ lơm" trở ra thu thuế, nhận tiếp tế, đôi khi c̣n tập họp dân chúng ở một vài nơi hẻo lánh để tuyên truyền nữa. Hai Tài năm ấy mới 16 tuổi, đang học lớp 10, nó sốt ruột lắm rồi, chỉ nhấp nhổm muốn đi đăng lính vào năm tới, nhưng nhiều người khuyên nó nên kiên nhẫn chút nữa, cố gắng học thêm, lấy được bằng Tú tài để đi sĩ quan, bề ǵ cũng hay hơn. Khi tṛn 19, vừa đậu Tú Tài, nó không suy nghĩ và cũng chẳng cần hỏi ư kiến ai nữa, tức tốc t́nh nguyện vào Thủ Đức ngay. Măn khóa, Chuẩn úy Lê Văn Tài được đưa về binh chủng Biệt Động Quân. Sau vài ba lần bốc thăm chọn đơn vị, Tài thuyên chuyển ra Tiểu đoàn 22, Liên đoàn 2/ BĐQ, đóng tại Pleiku, Tài tham dự hầu hết những cuộc hành quân lớn nhỏ của đơn vị và với ḷng căm thù giặc cộng ngất trời. Chuẩn úy Tài luôn luôn là người tiên phong trong mọi công tác, nhất là những cuộc phục kích, với tính kiên tŕ chờ đợi, ít khi trung đội của Tài đi không về rồi - Hương hồn ông Tư chắc cũng ngậm cười nơi chín suối, mong ông phù hộ cho con trai b́nh an trong mọi công tác an dân, trừ loạn.

Nhà chỉ c̣n ba mẹ con, Hai Tài đă ra đi, Ba Đức tất nhiên là người đàn ông duy nhất trong gia đ́nh, nhưng với ḷng căm thù của nó, anh Hai nó đă đi rồi, nó lại càng nôn nóng đi theo, chứ không hề nghĩ rằng nó sẽ phải ở nhà lo cho mẹ - Với Ba Đức, việc học hành nhẹ nhàng hơn, 18 tuổi nó xong bằng Tú Tài, cũng mắt trước mắt sau t́nh nguyện vào Thủ Đức, rút kinh nghiệm người anh, nó chẳng cần bàn soạn với ai, sau khi nộp đơn và nhận được giấy gọi, nó vẫn kín như bưng, đợi đúng ngày là lừng lững khăn gói vào trại nhập ngũ số 3 - Cả tuần sau Bà Tư mới biết rơ t́nh trạng của Ba Đức, bà khóc quá, không phải bà lo sợ các con bà phải xông pha nơi lằn tên mũi đạn, nhưng bà khóc v́ nghĩ tới những ngày cô đơn sắp tới, nếu Ba Đức ra đi, nhà chỉ c̣n hai mẹ con, là đàn bà cả, biết lấy ai trụ cột gia đ́nh - Có người hiểu chuyện bàn với bà, nên đi lên tŕnh bày với ông Quận trưởng, xin ông giúp đỡ, bằng cách cấp cho một giấy chứng nhận gia cảnh để xin miễn hay hoăn dịch cho Ba Đức. Ông Quận Trưởng mới về coi Quận được vài năm, ông dân Bắc kỳ chính hiệu, nhưng có vẻ rất "rành sáu câu", nghe Bà Tư tŕnh bày tự sự, ông hiểu ngay sự việc này phát xuất từ ḷng căm thù cộng sản đến cao độ mà ra, xét đến hoàn cảnh Bà Tư, ông bỗng thấy có thiện cảm với gia đ́nh bà, v́ chính thân phụ ông cũng bị bọn Việt minh thủ tiêu, khi ông cụ chỉ là một ông Chánh Tổng. Ông ân cần thăm hỏi cặn kẽ, cấp giấy chứng nhận theo đơn xin, đồng thời ông cung cấp phương tiện chuyên chở, c̣n cắt cử luôn ông Trưởng Ban 5 Chi Khu, đích thân lo liệu vụ này giúp bà Tư. Nhờ mọi người hết ḷng giúp đỡ, chỉ 1 tuần sau, mẹ con Bà Tư đă ng̣âi chờ tại pḥng tiếp khách của Quận, đợi ông Quận trưởng ra để trực tiếp cám ơn ông. Nh́n mái tóc ngắn ngủn của Ba Đức, bà Tư thấy tức cười, thật hú hồn, hú vía, xém chút nữa thằng con bà cũng lại đi biền biệt như anh nó.

Ba Đức ngồi đối diện với ông Quận Trưởng, lắng tai nghe giọng nói đều đều của ông chậm rải như rót vào tai:
- Tôi biết cháu nóng ḷng v́ thù nhà, nợ nước, nhưng thật sự th́ chính phủ cũng không đ̣i hỏi nhiều ở gia đ́nh cháu đâu, anh cháu đă nhập ngũ rồi, c̣n ḿnh cháu ở nhà lo săn sóc mẹ và em, tôi nghĩ cháu cũng nên suy xét lại, đừng làm mẹ cháu phải lo lắng nhiều hơn.
- Thưa ông Quận, mỗi lần nhớ tới h́nh ảnh ba và em cháu chết thảm trước mâm cơm, ḷng cháu lại sôi sục căm thù, anh em cháu có nói chuyện với nhau và hứa trước vong linh ba cháu, chúng cháu sẽ tận diệt bọn cộng sản, nếu không cũng phải trừ khử càng nhiều, càng tốt, để trả thù cho ba cháu và những người dân vô tội khác bị chúng giết.

Trong khi ông Quận Trưởng gật gù ra chiều suy nghĩ, Ba Đức thấy ông chưa nói ǵ, anh ta vội nói tiếp:
- Cháu cám ơn ông Quận đă lo cho gia đ́nh cháu, cháu cũng ráng chờ đôi ba năm nữa, con em cháu có chồng, là có người lo cho mẹ cháu với nó, lúc đó cháu sẽ đi.

Nghe Ba Đức nói, ông Quận lắc đầu nhè nhẹ, miệng hơi mỉm cười như có vẻ thấy hay hay v́ tính cương quyết của cậu bé . Ông nghĩ thầm trong bụng : "Những đứa như thế này th́ nó đánh giặc phải biết đây" - Đột nhiên ông nảy ra một ư nghĩ hơi là lạ, ông thăm ḍ :
- Muốn báo thù cho Ba cháu và những người trong Xă, bị VC ám sát mấy năm trước, tại sao cháu không hoạt động ngay tại Xă nhà, trừ ngay chính những tên đă cầm súng giết hại Ba cháu và những người khác, có hay hơn không .
- Dạ thưa ! Làm sao có thể như vậy được ông Quận.

- Được lắm chứ!

Ông Quận nở một nụ cười thật hiền, dẫn giải:
- Cháu phải biết rằng, bọn VC nằm vùng từ trước đến nay chỉ hoàn toàn hoạt động có tính cách cục bộ, vùng nào quậy phá ở vùng đó thôi . Như vậy có thể nói, những đứa ám sát ba cháu toàn là bọn sinh đẻ, hay cư ngụ trong Xă, chúng nắm vững t́nh h́nh tại địa phương, chúng được cấp chỉ huy của chúng cắt đặt phải nằm vùng, thoát ly, tập kết v . . .v . . , muốn trừ khử chúng, ta cứ bắt đầu từ đây là đúng nhất . Nếu cháu muốn hoạt động trong ṿng bí mật th́ gia nhập Thám Báo của Quận, hay làm Mật báo Viên, Cảnh Sát Đặc Biệt chẳng hạn - C̣n nếu cháu muốn cầm súng chiến đấu th́ gia nhập Nghĩa Quân - Có văn hóa như cháu nếu nhập ngũ cũng đi học sĩ quan, ra trường mang cấp bậc Chuẩn úy, làm Trung đội Trưởng - Trường hợp cháu vào Nghĩa Quân ở quận nhà, sau ít tháng, tôi sẽ gởi cháu đi học khóa Trung đội Trưởng, sau đó cháu cũng làm Trung đội Trưởng Nghĩa Quân, cũng có ba mươi mấy, bốn chục người lính, cũng hành quân như ai, có điều tầm hoạt động chỉ quanh quẩn trong phạm vi của Xă, nên cháu vẫn có thể chăm sóc gia đ́nh b́nh thường , giúp đỡ mẹ và em những việc nặng nhọc, không sao.

Hai mẹ con Ba Đức chăm chú theo dơi từng lời nói của ông Quận - Bà Tư có vẻ đồng ư với giải pháp này, c̣n ǵ sung sướng hơn khi thấy chính kẻ giết chồng ḿnh bị đền tội dưới mũi súng của con ḿnh - Ôi! thật tuyệt ! - Bà quay sang nói với con:
- Đúng đấy con ạ ! Cứ như lời ông Quận nói, nếu con làm việc trong Xă nhà, rồi hạ được những đứa đă sát hại ba con, th́ c̣n ǵ sung sướng cho mẹ hơn nữa . Mẹ c̣n nhớ như in nét mặt của hai đứa đă xả súng bắn vào ba con và em Thuận.

Lời nói của bà Tư làm cả ông Quận lẫn Ba Đức đều bất ngờ, thích thú - Đối với ông Quận, việc Ba Đức biết được tin này, chắc chắn anh ta sẽ không đi đâu nữa cả, muốn báo thù nhà, cứ việc gia nhập nghĩa quân là xong - Vậy là ông có dịp đưa những người trẻ, có học vào lực lượng Nghĩa quân, hầu nâng cao khả năng tác chiến các trung đội sau này - Với Ba Đức đây là điều hắn khắc khoải từ lâu, làm sao biết được đứa nào đă sát hại ba hắn, chả lẽ cứ gặp VC là giết, cũng đúng thôi, nhưng nếu hạ chính những tên đă nhúng máu cha ḿnh, sự trả thù, dĩ nhiên, sẽ thống khoái hơn nhiều chứ . Hắn nh́n mẹ bằng ánh mắt băn khoăn, như có nhiều điều muốn hỏi - May quá, ông Quận đă gỡ rối giúp:
- Bây giờ bà c̣n có thể nhận diện ra chúng nó không?
- Thưa ông Quận, chắc chắn tôi vẫn nhận ra.

Ông Quận đưa tay nhấn chuông, người tùy phái bước vào chờ lệnh, ông bảo:
- Mời Đại úy Trưởng Ban 2 lên gặp tôi.

Người tùy phái lui ra, chỉ một phút sau, viên Đại úy Trưởng Ban 2 bước vào, chưa kịp đưa tay chào th́ ông Quận đă hỏi:
- Anh có đủ hồ sơ, h́nh ảnh bọn VC cơ sở, giao liên, nằm vùng trong Quận ḿnh không?
- Thưa, về lư lịch có đủ, nhưng h́nh ảnh th́ đứa có, đứa không ạ!

- Anh về lấy đưa lên tôi xem và tiện dịp cho bà Tư đây nhận diện luôn thể.

Cũng chỉ mấy phút sau, Đại úy Trưởng Ban 2 trở lại với một chồng hồ sơ dầy cộm đặt trước mặt ông Quận, ông ra lệnh:
- Để khỏi mất th́ giờ, Đại úy lấy ngay hồ sơ của những tên thuộc Xă của Bà Tư trước, cho bà ấy nhận diện.

Ông Đại úy nhanh nhẹn lựa một tập hồ sơ đặt trước mặt ông Quận - Ông Quận Trưởng thong thả lật từng tơ,ø thỉnh thoảng gặp chỗ nào có ảnh, ông đưa qua cho Bà Tư coi, tập hồ sơ ngày càng mỏng dần, bà Tư đă coi hàng chục tấm ảnh, nhưng chưa nhận diện được ai, đến tấm ảnh cuối cùng trong tập hồ sơ, bà bỗng kêu "Á" lên một tiếng, tay run run chỉ vào, giọng nói lạc hẳn đi:
- Đúng tên này đây, ông Quận.

Ông Quận Trưởng đưa tấm ảnh đến trước mặt Ba Đức để hắn nh́n cho rơ - Đức chăm chú ngó, cặp mắt mở rộng, nét mặt hằn nên vẻ căm thù, như muốn ăn tươi nuốt sống người trong ảnh, một lát sau, chừng như đă ghi nhận đầy đủ h́nh ảnh kẻ thù, Đức mới liếc mắt đọc đến phần lư lịch:
- Vơ văn Bầu tự Bầu Cá, sinh năm 1939, cha vô danh, mẹ Vơ thị Bảy, nghề nghiệp: ở đợ - Bắt đầu hoạt động giao liên cho Việt minh từ năm 1950 - Năm 1952 bị Pháp bắt giam, đến năm 1953 được thả, vẫn tiếp tục hoạt động cho Việt minh, sau 1954 không thấy xuất hiện, có nguồn tin cho rằng y đă tập kết ra Bắc, đầu năm 1959, y xuất hiện trở lại trong vai tṛ khủng bố, thường hay từ "căn cứ lơm" ra các cơ sở nằm vùng của chúng ở các Xă chung quanh để thu thuế, nhận tiếp tế, đôi khi ám sát các viên chức của ta. Theo nguồn tin t́nh báo, y hiện ở trong Ban ám sát Quận.

Điều quan trọng đối với Ba Đức là nhận rơ mặt những tên VC này, c̣n phần lư lịch, hoạt động của chúng th́ có càng tốt, không có cũng chẳng sao, hận thù của Ba Đức hiện đang ngút ngàn, nó nghĩ thầm trong bụng: bây có làm được việc hay không được việc, thành tích nhiều hay thành tích ít cũng đều đáng chết cả. Với nó, một chú bé 18 tuổi, mang mối thù giết cha, th́ chính phủ rất phí phạm tiền bạc, công sức để lập ra Bộ Chiêu Hồi.

Bà Tư coi đến quyển thứ hai, không có ǵ, quyển thứ ba cũng vậy, đến quyển thứ tư cũng là quyển chót, được vài tờ, bà lại nhận diện được một tên nữa - Nh́n tấm ảnh tên này, Ba Đức thấy mặt mũi nó có vẻ sáng sủa nhưng gian ác hơn tên Bầu Cá - Tên này lớn tuổi hơn, đọc phần lư lịch, Ba Đức thấy ghi:
- Nguyễn văn Sang, tự Hai Sang, tên Cha Nguyễn văn Giàu, mẹ Trần thị Nhỏ, sinh năm 1929 - Hai Sang thuộc loại gia đ́nh khá giả, nhưng tính t́nh gian trá và ham chơi - Năm 1950, y là Thủ Bạ trong Hội đồng Tề của làng, nhưng v́ gian lận, biển thủ công quỹ nên bị tù 2 năm, sau khi được thả, v́ đă có tiền án, y không làm được công việc ǵ cả, y bất măn đi theo Việt minh. Thời gian đầu y hoạt động rất tích cực, hiện nay y đă được tin dùng và là một trong những tên chỉ huy ṇng cốt của Huyện ủy.

Không hiểu có sự may mắn ǵ run rủi, mà công việc tiến triển một cách tốt đẹp, mẹ con Ba Đức không ngờ sự việc được giải quyết một cách nhanh chóng và nhiều thuận lợi cho gia đ́nh như vậy. Hai mẹ con không ai nói ra, nhưng đều thầm nghĩ: "Có lẽ hồn thiêng ông Tư xui khiến, nên mới đẩy đưa đến cơ hội may mắn này?"

Trước khi chia tay, ông Quận ân cần nói với Ba Đức:
- Cháu cứ về nhà nghỉ ngơi, lo việc gia đ́nh, và suy nghĩ cho chín chắn, vài tháng nữa lên đây, sẽ có việc cho cháu làm thôi!

....... . . . . . . . Ḷng nóng như lửa đốt, làm sao có thể chờ đợi vài tháng như lời ông Quận nói - Chỉ mươi ngày sau, Ba Đức đă lấp ló trên văn pḥng Quận để xin gia nhập Nghĩa quân, ông Đại úy Trưởng Ban 2, đă biết mặt Đức, đem nó vào Ban 1 để giới thiệu và hỏi dùm nó thủ tục gia nhập. Một khi đă quyết chí th́ mọi trở ngại, rắc rối đều phải cố gắng vượt qua, huống chi đối với trường hợp Ba Đức ai ai cũng đều rơ và thông cảm với nó, v́ thế chỉ một tuần sau là nó đă có mặt trong lực lượng Nghĩa quân Quận, chờ đi Trung Tâm huấn luyện để học quân sự.

Chuyện một thanh niên có bằng Tú Tài, hoặc bằng cấp cao hơn, gia nhập Nghĩa quân không phải là chuyện lạ ở mấy xă ven đô , v́ những người đó, thực sự chỉ t́m một chỗ hợp lệ t́nh trạng quân dịch, để tính toán những việc khác cho cuộc đời họ - Nhưng với Ba Đức, đây là dịp nó mang hết khả năng để phục vụ, nói đúng hơn nó sẽ tận lực để báo thù...

Từ lúc học quân sự xong, chính thức trở thành một Nghĩa quân viên, Ba Đức không từ nan một công việc ǵ mà Trung đội cắt cử cho hắn, từ tuần tiễu đêm, hoạt động thám sát địa thế, phục kích trên những trục lộ mà bọn giao liên thường qua lại - Với tinh thần phục vụ cao, tuổi trẻ, nhanh nhẹn, tháo vát, nhất là luôn t́nh nguyện trong những công tác khó khăn, nguy hiểm, Ba Đức dễ dàng chiếm được cảm t́nh của đa số đồng đội và những viên chức trong Quận.

Đúng như lời ông quận Trưởng đă hứa, chỉ sáu tháng sau Ba Đức được đề nghị theo học khóa Trung đội trưởng Nghĩa Quân - Ngoài vấn đề giữ lời hứa, ông Quận c̣n nói thẳng với mọi người là Ba Đức rất xứng đáng theo học khóa này, căn cứ vào tŕnh độ văn hóa và nhất là tinh thần phục vụ của nó trong sáu tháng qua mà mọi người đă biết.

Đúng như sự tiên đoán của ông Quận "Bắc Kỳ", từ ngày Ba Đức được chính thức nắm chức Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân, chỉ trong ṿng hơn một năm trời, hắn đă đưa Trung đội của hắn lên hàng đầu của Quận, rồi của Tỉnh - Những thành tích mà Trung đội Ba Đức lập được không ai có thể chối căi, số địch quân bị hạ trong những trận phục kích, số vũ khí tịch thu được, t́nh trạng an ninh trong vùng hoạt động của Ba Đức ngày càng khá hơn, đă chứng minh điều đó.

Khi đă được nhiều người tin yêu, giúp đỡ, Ba Đức mới nghĩ đến việc tổ chức riêng một mạng lưới t́nh báo, hầu theo dơi những tên có trong sổ đen, tức là những tên xa gần đă nhúng tay vào máu ba và em anh ta. Người ta thấy Ba Đức hay qua lại với Đại úy Trưởng Ban 2 Chi Khu để trao đổi tin tức và những lần phục kích của Ba Đức đạt kết quả cao hơn, v́ nhờ tin tức t́nh báo chính xác - Thời điểm này là lúc cao trào "làm ăn" của Trung đột Ba Đức lên thật cao - Anh ta "phát minh" ra kiểu phục kích bằng ḿn Claymore cơ động, hàng đêm,Trung đội tung ra bốn, năm điểm phục kích, mỗi điểm chỉ ba, bốn người, bọn họ gài ḿn Claymore, cho nổ khi ng̣i nổ chạm điện, rồi tùy theo vị trí, họ đặt ḿn theo ṿng cung, thước thợ, nổ dọc hay chặn ngang v...v... tính toán làm sao để triệt hạ bằng hết những tên trong tổ của chúng, những cái bẫy để bọn VC đạp nổ được ngụy trang khéo léo - Đặt ḿn xong, họ t́m một chỗ an toàn nằm chờ, nếu đêm ấy, điểm phục kích phát nổ là họ "có ăn", họ tức tốc gọi ngay về Quận, xin Pháo Binh diện địa "chơi" thêm cho vài trái nổ chụp, rồi nằm chờ sáng ra ...lượm súng - Nếu không có ǵ, họ chịu khó dậy sớm, ra gỡ ḿn về, để hôm sau .....làm tiếp - Những hoạt động tích cực và đạt nhiều kết quả như vậy, đương nhiên Ba Đức trở nên cái gai trước mắt bọn VC - Theo tin tức từ trong mật khu ở "căn cứ lơm", t́nh báo ta cho biết, VC đă họp nội bộ, nhất quyết t́m cách hạ Ba Đức, để cứu vớt tổ chức của chúng đang trên đà dần dần bị tiêu diệt, chúng cũng đă hoạch định cả một trận tấn công quy mô vào đồn Nghĩa quân do Trung đội Ba Đức trấn đóng, để tiêu diệt bằng được tên "Trung đội Trưởng ác ôn", đă hạ rất nhiều các "cán bộ cách mạng", đồng bọn của chúng - Nhận được tin này, Ba Đức thích lắm, hắn họp hành liên miên với ông Trưởng Ban 2, Ban 3 và Ông Quận Trưởng đều phác họa một kế hoạch ngăn chặn.

Trong một buổi họp, Ba Đức tŕnh bày ư kiến:
- Con (đối với ông Quận và các cấp trong Quận, Ba Đức đă nhiều lần đắn đo suy nghĩ, bằng vào tuổi tác và với sự yêu thương mọi người dành cho, chỉ c̣n cách xưng con với họ là đúng hơn cả) - Con nghĩ tụi nó có "uấn" cũng c̣n lâu, ít ra nó c̣n phải điều nghiên, rồi xin xin lực lượng về cũng mất nhiều thời gian - Việc ông Quận với mấy Thày lo th́ cứ lo, phần con, con sẽ cùng anh em bung ra thật nhiều, để "hốt" trước mấy thằng về điều nghiên là tụi nó hết đánh luôn thôi.

Mấy ông nh́n nhau tủm tỉm cười - Đối với Ba Đức, chuyện ǵ nó cũng cho là "ngon ăn" cả - Nhưng thật sự nó nói rất có lư - Chặt xong mấy thằng đi điều nghiên, c̣n ai đưa đường dẫn lối nữa mà đánh với đấm, có điều không hiểu giờ nào chúng mới đi điều nghiên, đi bao nhiêu lần, phương hướng thế nào - Chặn được bọn này phải mất bao nhiêu công lao, ngày giờ v...v... Nghĩa là muốn làm việc này phải có thừa can đảm và ư chí - Chuyện này Ba Đức có thể đảm đương, v́ nó có đủ cả hai yếu tố đó - Cộng với ḷng căm thù nung nấu - Ba Đức không khi nào bỏ cuộc, đă nói là làm và làm đến nơi đến chốn.

Ba Đức quay về Trung đội, họp tất cả anh em tŕnh bày những hoạt động trong thời gian tới, anh ta dấu chưa cho mọi người biết tin tức nhận được là VC sẽ t́m cách triệt hạ anh ta bằng mọi giá, kể cả việc tấn công nơi Trung đội trú đóng . Mọi người thấy đây cũng giống như công việc b́nh thường, bất quá có nằm nhiều chỗ hơn thường lệ cũng không sao - Họ vui vẻ thi hành v́ đặt hết tin tưởng vào Ba Đức mà không hề thắc mắc ǵ cả . Ba Đức âm thầm, lặng lẽ làm theo chương tŕnh đă hoạch định - Một tháng rồi hai tháng, năm sáu điểm kích của Trung đội đi không lại về không, chẳng được chút kết quả nào cả - Ba Đức đă hơi nản chí, nhưng rồi anh ta bỗng nảy ra một ư nghĩ , có lẽ địch đánh hơi, hay chúng cũng có tai mắt, nên Trung đội càng đi ra khỏi đồn nhiều, địch càng giữ kỹ, không ló mặt ra nữa, v́ thế Ba Đức đánh lừa địch bằng cách không cho anh em ra khỏi đồn nữa - Tất cả Trung đội bỗng được lệnh tu bổ hệ thống pḥng thủ, đêm đêm thủ đồn, canh gác cẩn mật mà thôi - Đêm thứ nhất, Ba Đức ở trong đồn cùng anh em, đêm thứ hai, trời vừa tối hẳn, Ba Đức giao tất cả mọi việc trong đồn cho người Trung đội phó, anh ta cùng ba người t́nh nguyện, âm thầm rời đồn đi ra - Đêm đó và đêm kế tiếp yên tĩnh - Đến đêm thứ ba, vào lúc 1 giờ sáng, có tiếng ḿn claymore nổ liên tiếp 4 lần, mọi người trong đồn được báo động ra vị trí pḥng thủ, trong hầm chỉ huy, người hiệu thính viên ngạc nhiên thấy hệ thống truyền tin êm re, chẳng thấy trên Quận hỏi han rối rít như mọi khi nghe tiếng nổ, c̣n ông Trung đội phó ngồi tỉnh bơ hút thuốc, không hề lên tiếng, đă vậy sau dăm phút c̣n có thêm mấy tiếng nổ do pháo binh bắn đạn nổ chụp, rồi tất cả trở về im lặng - Trung đội được lệnh nằm ngủ tại vị trí pḥng thủ.

Bốn giờ rưỡi sáng, ông Trung đội phó đánh thức tất cả dậy báo tin, đêm qua, Ba Đức và mấy anh em âm thầm ra ngoài đồn phục kích và đă chạm địch, v́ những tiếng nổ đêm qua anh em đă nghe - ông cắt đặt một tiểu đội ở lại coi đồn, c̣n tất cả chờ trời rạng sáng sẽ theo sự chỉ huy của ông ra lục soát.

Kết quả cuộc phục kích bằng ḿn đem lại kết quả ngoài sự mong đợi của mọi người - Bốn tên chết tại chỗ, một tên găy cẳng, nằm lại bị ta bắt sống - Điều làm cho Ba Đức sướng phát điên lên được là trong 4 tên chết, có cả hai tên Vơ văn Bầu, tự Bầu Cá và Nguyễn văn Sang, tự Hai Sang, hai tên đă ám sát ông Tư Trương và một số viên chức xă ấp năm nào . Theo cung từ của tên c̣n sống sót, đúng có hai tên Bầu và Sang, chúng đi điều nghiên đồn Nghĩa quân - Quả như sự phán đoán của Quận, hai tên này, giờ đă thuộc thành phần lănh đạo, chúng chỉ xuất hiện trong những trường hợp đặc biệt, hạ được chúng phải kể là rất may mắn....

Ba Đức đang ngồi nói chuyện với mẹ, bà Tư hôm nay trong ánh mắt đă ánh lên niềm vui - Ước vọng của bà đă thành sự thực, những kẻ giết chồng bà và các người lương thiện, nay đă đền tội, và đặc biệt là đền tội dưới tay con bà - Hôm nghe tin Ba Đức đă hạ được mấy tên này, Bà và con Hiếu vội vàng bỏ cả công việc, hai mẹ con dắt nhau chạy lên trụ sở Xă, v́ những xác chết được đem về đó để bà con nhận diện - Những người có mặt tại chỗ ngày hôm đó thật cảm động khi chứng kiến hành động của bà - Bà nh́n sững hai xác chết tên Bầu Cá và Hai Sang, tay run run chỉ vào mặt chúng, miệng lắp bắp: "Đúng, đúng chúng nó" - Hai hàng nước mắt bà rơi ṛng ṛng. Đột nhiên bà ôm chặt Ba Đức và Tư Hiếu cười như điên dại, giọng cười thật thỏa măn, trong khi đôi ḍng lệ vẫn tuôn trào như suối . Nhớ lại quang cảnh ngày hôm đó, bà vẫn c̣n thấy nao nao trong dạ - Khi biết chắc mối thù của ḿnh đă được thằng con trai cưng trang trải, bà an tâm, đưa mắt quan sát chung quanh, nhiều người sau khi nhận diện những tên sát nhân, biết chắc chúng là những tên đă giết người thân của ḿnh, nay thật sự đă đền tội, ai nấy đều có cảm t́nh với những người thay họ mà trả thù - họ đến bắt tay Ba Đức và mấy người cùng đi với anh đêm ấy, các bà th́ kéo tay, ôm vai, một vài bà c̣n mếu máo nói với người đă khuất, nhưng để gián tiếp cám ơn Ba Đức và mọi người: "Ông ơi ! vậy là ông ngậm cười chín suối nghe! thù của ông có người trả dùm rồi !". Chợt nhớ lại chuyện ǵ đó, Ba Đức quay sang nói với mẹ, giọng rất thật t́nh:
- Không phải tụi con hay ho ǵ đâu má, làm như có sự run rủi của ba nhà ḿnh với mấy người bị chúng nó giết, nên tụi nó tự t́m đến chỗ chúng con gài ḿn đấy chứ - chỗ đó tụi con chỉ gài cầu may thôi chứ có tính toán ǵ như mọi khi đâu.

Bà Tư nh́n con tŕu mến, gật gù ra vẻ đồng ư, nhưng miệng bà mỉm cười, thầm mắng yêu thằng con:
- Thằng thiệt dễ thương, không bao giờ nhận riêng cho ḿnh một công trạng nào cả.

Cũng v́ vậy mà Bà Tư đă vui vẻ hạ một con heo tạ, trước là để cúng chồng, con, sau để Bà và các con tạ ơn Trời đất cùng những người đă tạo cơ hội, góp công sức trong việc trả thù chung này.

Bỗng có tiếng xe gắn máy tới gần, rồi ngừng trước ngơ, một bà già xăng xái bước vào, theo sau là người thiếu nữ, tuổi ngoài 20 , dắt chiếc Honda Dame . Bà già chân bước, miệng nói liến thoắng:
- Chị Tư ơi! có nhà không, ghé thăm chị chút nè!

Bà Tư và Ba Đức nghe vậy, cùng đứng dậy bước ra - Hai Bà dường như có quen nhau từ trước, chào hỏi tíu tít - Sau khi cúi đầu chào bà khách, Ba Đức đưa mắt sang nh́n người thiếu nữ, chàng ta chợt sững sờ v́ vẻ đẹp của cô nàng - Khó nói quá - Vừa đơn sơ, vừa quyến rũ - vừa nghiêm trang, vừa mời gọi - Không biết diễn tả thế nào, nhưng đúng như t́nh trạng của Ba Đức gặp bây giờ, người ta gọi là "tiếng sét ái t́nh" th́ phải - Phần cô gái cũng không khá ǵ hơn, sau khi cúi chào mẹ con Bà Tư, thấy cung cách Ba Đức nh́n ḿnh, cô bỗng thấy mất tự nhiên, tim cô không c̣n đập b́nh thường nữa, nó rộn ràng, gấp rút hẳn lên, rồi một luồng hơi nóng từ ngực bốc thẳng lên mặt, làm mặt cô vụt bừng đỏ - Cô luống cuống, loay hoay dựng chiếc xe măi mà không được, Ba Đức thấy vậy chạy lại giúp, khiến mặt cô đă đỏ càng đỏ thêm - Bà Tư lên tiếng giới thiệu vói con trai:
- Con à! Bà đây là bà Sáu Phúc, ổng làm Xă Trưởng ở xă trên, ổng cũng bị nạn hồi đó, cũng do mấy tên đă ám sát ba con giết hại, sau ba con ít tuần thôi.

Bà Sáu vui vẻ tiếp lời:
- Thiệt t́nh chỉ v́ chuyện gặp nạn của mấy ổng, chị em ḿnh mới quen biết nhau há chị Tư - Bây giờ có lẽ c̣n thân thiết hơn, v́ gia đ́nh tôi mang ơn cháu Ba nó ở đây nhiều lắm.
- Có ǵ đâu mà chị Sáu coi trọng như vậy - Bất quá cũng chỉ là nhiệm vụ của cháu thôi mà.

- Chị nói vậy đâu được, không có anh em tụi nó, biết đến bao giờ mấy ổng mới xong được cái oán này - Chị Tư c̣n hy vọng v́ có con trai, chớ gia đ́nh tôi th́ đành chịu - Bốn đứa con gái cả - Rồi như muốn nhân dịp này giới thiệu cô gái, bà day qua cô ta:
- Nhỏ này là út đây, cháu tên Dung, đang học trên Sàig̣n, nhưng năm nay tôi bắt nghỉ, về nhà mẹ con hủ hỉ với nhau, mấy con chị nó có chồng hết rồi, nhà vắng hoe... à !!

Sau choáng váng v́ bất ngờ gặp gỡ, Ba Đức đă b́nh tĩnh trở lại, nghe bà già nói chuyện, chàng ta nghĩ bụng: " Bà già thiệt hay, chỉ vài câu nói đă giới thiệu tạm đủ về con gái của bà - H́nh như bà muốn đem con khoe với ḿnh và để "cho" ḿnh th́ phải" - Ư nghĩ chợt đến làm Ba Đức khoái chí, mỉm miệng cười, đưa mắt nh́n sang cô gái. Cô Dung tuy vẫn c̣n hồi hộp lắm, nhưng sắc diện đă tạm trở lại b́nh thường, khi Ba Đức đảo mắt sang nh́n cô, cô cũng đang nh́n trộm hắn, hai mắt gặp nhau, mặt cô lại đỏ bừng lên... Cô cảm thấy vui vui... Sáng nay, khi mẹ cô bảo cô chở sang để cám ơn và mời ông Trung đội trưởng Nghĩa quân cùng các anh em đă hạ được những tên trước kia ám sát ba cô, sang dự buổi giỗ ba cô, cô không có h́nh tượng ǵ về người Trung đội trưởng này cả, v́ thông thường, những người trung đội trưởng mà cô đă gặp, trung b́nh cũng khoảng tuổi ba mươi mấy, bốn mươi - Đâu ngờ anh chàng này chỉ ngoài hai mươi, trông thật thư sinh v́ dáng người cao, mảnh khảnh, nước da trắng xanh, có lẽ nhiệm vụ đ̣i hỏi phải thức đêm nhiều - Nhưng mà con mắt chàng ta nh́n cô thật ... kỳ, làm ḷng cô xao xuyến, có lẽ trong chỗ riêng tư, chàng đă có cảm t́nh với cô, riêng cô, không hiểu sao nh́n ánh mắt, nụ cười ấy, cô cũng đă cảm thấy có phần rung động - V́ thế, nếu muốn nói cho chính xác, th́ phải nói thế này: - Ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên, hai người đă có cảm t́nh với nhau!

Sau đám giỗ ông Sáu Phúc, Ba Đức thường xuyên vắng nhà, b́nh thường sau những giờ hoạt động đêm, bao giờ anh ta cũng cần một giấc ngủ ngày thật dài, để lấy sức cho ban đêm hoạt động lại, từ ngày quen biết cô Dung, giấc ngủ ngày của Đức thất thường, khi có, khi không, khi dài, khi ngắn, bà Tư cũng lo ngại, nhắc nhở con, nhưng lần nào chàng cũng gạt đi, nói rằng ḿnh không cảm thấy mệt - Mà quả thật vậy, mặt hắn lúc nào cũng tươi roi rói, gặp ai cũng cười đùa vui vẻ, thỉnh thoảng lại c̣n hát nghêu ngao mấy câu vọng cổ của trai gái tỏ t́nh - Đúng! t́nh yêu chẳng dấu được ai, và Ba Đức cũng chẳng cần dấu diếm t́nh cảm của ḿnh - Bà Tư thấy đôi trẻ như vậy cũng vui, bà hối thúc Ba Đức mau mau tiến tới để bà có cháu bồng.

Rồi đám cưới hai người diễn ra ngon lành, xuông xẻ, hai bà thông gia đều là goá phụ của những viên chức xă ấp đă bị VC sát hại, nên họ hạp nhau và thông cảm với nhau hơn ai hết - Về dự đám cưới có cả Hai Tài, bây giờ anh ta đă là Trung úy làm Đại Đội Trưởng một Đại Đội Biệt Động Quân ở Liên Đoàn 2BĐQ

Gặp anh Hai lần này, Ba Đức học hỏi thêm được một số kiến thức về quân sự và các loại vũ khí - T́nh cờ Hai Tài gặp một người bạn cùng khóa, trước kia phục vụ tại Nha Kỹ Thuật, nay bị thương, xuất ngành, thuyên chuyển sang Tiểu khu, hiện làm Đại Đội Trưởng Đại Đội Địa Phương Quân, đi hành quân qua.

Trong bữa nhậu tại nhà bà Tư, có cô dâu mới lo tiếp đăi, thấy Ba Đức cứ chăm chú nh́n vào hai trái lựu đạn "mini" mà người bạn ḿnh đang đeo ở giây ba chạc, ánh mắt thèm thuồng, Hai Tài biết thằng em ḿnh "kết" hai trái lựu đạn đó lắm, anh dự tính trong bụng, sẽ chờ dịp hỏi xin cho thằng em - Không ngờ anh bạn quá sành điệu, anh ta nh́n chai Martell cổ lùn gật gù, anh nghĩ đến t́nh cảm của bạn và em bạn thết đăi ḿnh quá trịnh trọng, rồi nh́n qua Hai Tài nói:
- Tao thấy thằng em mày có vẻ khoái hai trái đồ chơi này lắm, hôm nay cũng may, t́nh cờ gặp anh em mày, lại c̣n nhậu nhẹt với nhau, thôi th́ nếu nó thích, tao tặng nó, cho nó vui.

Miệng nói tay gỡ hai trái "mini" trao cho Ba Đức đem cất - Ba Đức thích muốn nhảy lên, nhưng vẫn đẩy đưa:
- Cho em rồi anh lấy ǵ xài?
- Ôi! hơi đâu mà lo chuyện đó em, M.67 thiếu ǵ - Vả lại, "cái này" ít khi dùng tới, hồi tụi anh đi toán, thường mang thủ thân, để dành khi cần đến th́ ?cưa đôi? thôi mà ! Khi nào có dịp ghé qua Sở gặp bạn bè, chắc anh sẽ xin tụi nó mấy trái khác, lúc đó chưa chừng chú mày có thêm à!

Nghe vậy, Ba Đức hí hởn đem cất ngay, kể từ ngày hôm sau, trong hành trang dùng để "trang trí" của Ba Đức có thêm hai trái lựu đạn "mini".

Quán Bà Ba dần dần thưa khách, giờ này mọi người đều về nhà để ăn bữa chiều - Ba Đức và toán Nghĩa quân cũng giải tán, anh em người nào lo việc đó, riêng Ba Đức cũng tạt qua về nhà, ăn cơm với mẹ và vợ con, rồi cũng vào đồn ngủ như mọi khi - T́nh h́nh an ninh bây giờ không được tốt lắm, dù hết ḷng bảo vệ thôn xóm, nhưng nhiều khi "cái khó bó cái khôn", những phương tiện mà Trung đội của Ba Đức cần dùng để phục kích, diệt giặc không c̣n nữa - lợi dụng hiệp định ngưng bắn, địch hoạt động, xâm nhập, phá hoại nhiều hơn, trong khi bên ta lại tuân thủ, hay nói đúng hơn bị bắt buộc tuân thủ và ngồi yên nh́n địch vi phạm. Tiếp liệu đă bị thiếu thốn đủ thứ, viện trợ của Đồng Minh đang từ 10 sụt xuống c̣n 1, vũ khí đạn dược hết sức hạn chế, đôi khi đụng trận, xin yểm trợ vài trái đạn pháo binh cũng trần ai, lai khổ mà không được như ư, v́ thế khả năng hoạt động của Trung đội Ba Đức cũng không c̣n hữu hiệu nhiều như mọi năm nữa, giờ đây hoàn toàn trông vào sức ḿnh, với số vũ khí cá nhân, cộng thêm sự gan dạ, thỉnh thoảng mới có được chút kết quả gọi là yên ủi mà thôi - Buồn thật!

Nh́n nét mặt dàu dàu của con, bà Tư không hiểu chuyện ǵ, gặng hỏi măi, Ba Đức mới trả lời lấp lửng:
- Hết trơn mọi thứ, không c̣n ǵ mà xài.

Bà muốn an ủi con một tiếng, nhưng không biết nói ǵ, v́ chẳng hiểu rơ ư con nên cũng làm thinh luôn.

Ba Đức cũng cảm thấy việc ông Quận không chấp thuận đề nghị của chàng là điều bắt buộc, v́ với trang bị như vậy, yểm trợ như vậy, các đơn vị chính quy c̣n không đủ dùng, nói chi đến Nghĩa quân, làm ra chỉ thấy hại nhiều hơn lợi, chi bằng cố gắng tỉnh thức pḥng thủ, c̣n có thể bảo tồn lực lượng được, để chờ khi thuận lợi - Mà biết đến bao giờ mới thuận lợi, cơ hội có đến hay không.

Lùa vội vài chén cơm cho xong bữa, Ba Đức chơi với hai đứa nhỏ một lát rồi từ giă gia đ́nh đi vào đồn - Hai thằng con trai í éo đ̣i theo, nhưng bà ẵm đứa lớn, mẹ ẵm đứa nhỏ, hai đứa đành lặng thinh nh́n bố chạy xe thẳng ra cổng.

Cuối năm 1974, hoạt động phá hoại của VC nổi lên khắp nơi và quy mô gấp bội, kế hoạch lấn chiếm của chúng rất có bài bản - Đánh thăm ḍ vài nơi, thấy đồng minh của ta không phản ứng ǵ, chúng lập tức gia tăng cường độ - Đầu năm 1975, t́nh h́nh miền Nam bi đát thấy rơ, bọn VC đă chiếm được một vài tỉnh của ta - Chính quyền miền Nam hoàn toàn bị động - Lệnh rút bỏ cao nguyên, rút bỏ vùng 1, như khuyến khích bọn giặc cộng tăng thêm áp lực - Quân chính quy Bắc Việt xâm nhập công khai, không cần dấu diếm như mọi khi nữa, chúng chuyển quân bằng xe, chúng kéo cả xe tăng, đại pháo rầm rập chạy vào để sớm dứt điểm miền Nam, trong khi đó th́ đồng minh Mỹ im hơi lặng tiếng, quốc hội Mỹ lại "cẩn thận" hơn nữa, khi đưa ra đạo luật không cho phép Tổng Thống đem quân đội hay không quân can thiệp vào các trận chiến ở nước ngoài - Viện trợ quân sự cho VNCH bị cắt gần hết -Trong khi đó th́ những thành phần chính trị gia xôi thịt, những chính khách sa lông, phe này, phái nọ, ráo riết vận động cho một cuộc đầu hàng trá h́nh bằng cách tuyên bố thẳng sẽ nói chuyện với "người anh em phía bên kia" - Cuộc rút quân gọi là "di tản chiến thuật", "tái phối trí", hoàn toàn thất bại - Không phải là rút lui nữa mà là tháo chạy, tổn thất của cả quân lẫn dân làm cả nước bàng hoàng - Đến giai đoạn các ông ấy bàn giao chính quyền là ...hết thuốc chữa.

Đầu óc Ba Đức không c̣n tỉnh táo nữa, lúc nào cũng "bưng bưng" như có ai cầm búa gơ trong đầu - Nh́n mẹ già, vợ dại, con thơ, nếu có chuyện ǵ xảy ra, làm sao có thể cáng đáng được - T́nh h́nh bất lợi lắm rồi - Thương mẹ, thương vợ, thương con, mà đầu óc không làm sao tỉnh táo để đối phó cho kịp với hoàn cảnh - Ba Đức lẩn thẩn tự trách ḿnh - Sao hồi đó ham cưới vợ làm chi, để bây giờ khổ cho tất cả mọi người.

T́nh h́nh đă biến đổi không ai có thể ứng phó kịp, kể cả những ông vẫn được tiếng là tài giỏi, tiên đoán mọi việc như thần
- Địch quân càng ngày càng lợi thế và chuyện ǵ phải đến đă đến
- Miền Nam đă hoàn toàn bị cưỡng chiếm.
- Không nói đến những ông chính trị gia xôi thịt, chạy đôn, chạy đáo, t́m đường rút.
- Đừng nhắc đến Tướng Tá chẳng một chút tiết tháo, chí khí nhà binh, cũng xa chạy, cao bay.

Chúng ta hăy nhớ đến những người đă oai hùng tuẫn tiết, các vị Tướng, Tá, Úy, Hạ sĩ Quan, Binh sĩ, Cảnh Sát Quốc Gia v...v... trong đó có cả anh Trung đội Trưởng Nghĩa Quân thân thương của chúng ta nữa............. .

Mọi chuyện diễn tiến quá bất lợi, hầu như ai ai cũng biết và có thể đoán trước kết quả, nhưng khi nghe đích thân ông Tổng Thống lên đài phát thanh ra lệnh buông súng đầu hàng th́ mọi người đều hỡi ôi !!!

Toàn thân như tê cứng, đầu óc quay cuồng, Ba Đức hét lên một tiếng, đưa tay cầm chiếc radio transistor đập mạnh xuống đất, vỡ tan - Việc làm vô ích, không thay đổi ǵ được cuộc diện, cũng chẳng vơi được niềm đau, chỉ đơn giản đem lại khoảnh khắc im lặng trong gian hầm chỉ huy trong đồn.

Tiếng rè rè trong chiếc máy truyền tin đột nhiên cũng im và giọng nói chậm răi của ông Quận Trưởng cất lên:
- Tôi thông báo cho các đơn vị trực thuộc biết, từ giờ phút này, tôi không c̣n là người chỉ huy của anh em nữa, xin anh em tự lo liệu.

Mấy lời ngắn, gọn rồi im lặng, Ba Đức bốc máy, tính nói chuyện với ông Quận, nhưng gọi hoài không được, chàng chán nản buông máy, đôi mắt thất thần nh́n các anh em - Không ai lên tiếng, họ vẫn sẵn sàng chờ quyết định của người chỉ huy trẻ tuổi của họ mà họ hằng quư mến .

Ngồi im lặng cả tiếng đồng hồ, Ba Đức mới lên tiếng nói với anh em:
- Trên đă nói vậy, tôi cũng nói với mấy ông như vậy, tuỳ ư các ông, tôi cũng không c̣n là Trung đội trưởng của mấy ông nữa . Rồi như dứt khoát, Ba Đức đứng dậy, lấy giây ba chạc súng đạn mang vào người, bỏ đi.

Mọi người ngơ ngác, nhưng kết cuộc ắt phải xảy ra, làm sao có thể xoay chuyển được - Cả một guồng máy chính quyền, quân đội, như vậy mà c̣n phải chịu, huống chi một trung đội Nghĩa quân - Buồn th́ buồn lắm, nhưng họ phải nh́n vào sự thật phũ phàng, họ cũng im lặng ngó nhau, bỏ lại súng đạn , người trước, kẻ sau, rời đồn về với gia đ́nh.

Ba Đức chạy thẳng về nhà vợ chồng người em gái - Mấy hôm trước, thấy t́nh h́nh lộn xộn, để giữ an toàn cho mẹ và vợ con, cũng như sự an tâm cho chính ḿnh, anh đă đưa cả nhà về ở nhờ người em rể, v́ ở đây, có căn hầm trú ẩn rất rộng răi, chắc chắn.

Không khí trong gia đ́nh thật ảm đạm, giống như nhà có đám tang - mà nếu nói là gia đ́nh có tang, trên phương diện nào đó cũng đúng thật . Suốt ngày 30-4, Ba Đức nằm dí trên giường, không ăn uống, hỏi không nói, gọi không thưa, nằm vắt tay lên trán, thỉnh thoảng thở dài nghe muốn đứt ruột - Hai đứa con rất mến bố, nhưng thấy bố như vậy cũng không dám lại gần - Mẹ, vợ, em gái, em rể, ái ngại nh́n, không biết nói ǵ để an ủi, v́ họ hiểu sự mất mát này quá lớn lao, nỗi đau này là nỗi đau chết người, họ cũng buồn lắm, biết nói ǵ đây!

Nh́n ra ngoài trời, mây kéo về xám xịt, bầu trời cũng âm u, như chia sẻ niềm đau, nỗi hận, với nhân dân miền Nam . Cḥm xóm ai cũng ngơ ngơ, ngác ngác, trước cuộc thay đổi nghiệt ngă này - Họ bị hối thúc treo cờ, mít tinh v...v... để gọi là "chào mừng giải phóng", nhưng ai cũng chỉ à ới cho qua chuyện thôi.

Chập tối, chú em thân tín nhất trong Trung đội, thường theo sát Ba Đức ghé thăm, hai anh em th́ thầm với nhau một lát, những điều chú nói cho Ba Đức tóm tắt như sau:
- Anh Sáu Bộ (một Trung đội trưởng Nghĩa quân trong quận) bị tụi nó giết ngay tại đồn.
- Chú Tám Én, Trung đội Trưởng Cầu Vơng, bị tụi nó vô nhà vây bắt, rồi đem ra ngoài xử bắn luôn.

- Anh Ba t́m đường thoát đi, chắc chắn tụi nó đang kiếm anh, tụi VC vào đồn ḿnh, chỉ thấy súng đạn để lại, không gặp một ai, chúng không nắm vững t́nh h́nh ở vùng ḿnh, nên chưa kiếm ra anh đấy thôi.

Ba Đức suy nghĩ lung lắm, trước sau ǵ cũng phải đối diện thực tại - Anh đă có quyết định riêng cho ḿnh, nhưng không muốn ảnh hưởng đến những người thân yêu, nhất là đang ở nhà em rể - Qua một đêm hồi hộp đợi chờ , Ba Đức càng quyết tâm hơn nữa - Mờ sáng 1-5-75, Ba Đức nai nịt gọn gàng, giọng b́nh tĩnh nói với mẹ:
- Con về nhà trước thắp nhang lễ Ba, má với vợ con về sau nha! Hôm nay kể như tạm yên, ḿnh về nhà được rồi.

Hướng về hai người em anh nói:
- Má với anh chị cám ơn cô, dượng nhiều nghe

Quay sang vợ, Đức dặn ḍ:
- Chờ mấy đứa nhỏ ngủ dậy rồi em với má đưa con về. Anh về trước.

Hai nhà cách nhau không xa lắm, không muốn nổ máy xe ồn ào, Đức để xe lại, lủi thủi đi bộ về nhà.

Sau khi mở cửa vào, anh đóng cửa lại cẩn thận, thắp ba nén nhang, đứng trước bàn thờ bố, miệng lầm thầm khấn vái - cắm xong mấy nén nhang, anh ta thay bộ đồ cũ đă mặc mấy hôm nay bằng một bộ đồ ủi hồ mới tinh - Ngắm ḿnh trong tấm kiếng, với một giọng hết sức tỉnh táo, kèm đôi chút hănh diện, anh nói nhỏ riêng ḿnh nghe: Nghĩa Quân là phải "ngon"!

Vừa xỏ xong hai ống quần, Ba Đức nghe tiếng ồn ào ngoài ngơ, rồi giọng nói của má chàng vọng vào:
- Tui đă nói với mấy ông là con tôi ở nhà chứ có trốn tránh ǵ đâu

Bà lớn tiếng gọi:
- Ba à! Đang làm ǵ đó con?

Ô, vậy là chương tŕnh không đúng như dự tính, chắc phải ồn ào hơn chút đỉnh rồi - Nhưng không sao, cũng "vui" thôi - Nghĩ vậy, Ba Đức lên tiếng trả lời mẹ:
- Con đang thay đồ.

Nh́n qua khe cửa, anh thấy mẹ đi trước, theo sau bà cả chục tên du kích VC, súng ống đầy đủ, lố nhố tiến vào trong sân - Phía sau là Dung và hai đứa con nhỏ, rồi đến hai vợ chồng cô em và đứa con, một số bà con trong xóm cũng ngấp nghé ngoài cổng, không hiểu v́ ṭ ṃ hay bị lùa đến để chứng kiến cuộc vây bắt.

Vừa nghe Ba Đức lên tiếng trong nhà, tên chỉ huy toán du kích trở mặt liền với bà Tư - Hắn quát lớn:
- Thôi bà kia đứng lại, lui ra phía sau.

Hắn ra lệnh cho đồng bọn:
- Tổ 1 triển khai bố trí sau nhà, khẩn trương - Các đồng chí c̣n lại vây phía đằng trước.

Hướng vào phía trong nhà hắn la lớn:
- Ba Đức ra hàng ngay, nếu không lực lượng du kích sẽ tấn công vào nhà.

Hắn lại ra lệnh cho thuộc hạ:
- Các đồng chí, chuẩn bị thủ pháo - Miệng nói, tay hắn vẫy vẫy cho ba tên tiến gần cửa, trong tầm ném.

Ba Đức đứng trong nhà nghe không sót một câu, từ lúc nó đuổi bà mẹ ra, cho đến khi nó ra lệnh cho mấy đứa tiến vào, gia đ́nh Ba Đức và bà con thấy vậy cũng lùi ra xa

Ba Đức từ trong nhà lên tiếng:
- Tôi chuẩn bị ra đây!
- Dơ hai tay lên khỏi đầu, mở cửa bước ra!

Cánh cửa từ từ mở rộng, người ta thấy hai bàn tay khum khum dơ cao đưa ra, rồi một bóng người xuất hiện trong khung cửa, bộ quần áo trận màu đen thẳng nếp, cổ quấn một lá cờ vàng ba sọc đỏ, hai tay vẫn dơ cao khỏi đầu, từ từ bước ra khỏi nhà, cặp mắt quét nhanh một nửa ṿng tṛn nhận định vị trí - Tên VC chỉ huy quát lớn:
- Nằm sát xuống đất, hai tay dang ra!

Ba Đức hơi khựng lại, rồi đột nhiên anh ta vụt chạy thật nhanh đến chỗ tên chỉ huy và ba tên du kích đang đứng gần nhau, tay trái buông thơng xuống, tay mặt vung mạnh về phía đầu hồi, nơi có mấy tên khác đang quỳ lom khom bố trí hướng súng vào trong nhà - Đồng thời có tiếng hét bật ra từ lồng ngực: "Việt Nam Cộng Hoà muôn năm - Đả đảo cộng sản" - Trước sau hai tiếng nổ chát chúa vang lên - khói, bụi, cát, đất, lẫn vào nhau tung lên mù mịt - Dân chúng hoảng hốt kéo nhau chạy dạt ra - Bọn du kích không tên nào kịp phản ứng - Ba Đức và tên chỉ huy du kích chết banh xác tại chỗ, hai tên khác đang dẫy dụa trong vũng máu, tên thứ ba cũng nằm gục xuống, không rơ c̣n sống hay đă chết - Phía đầu hồi, chỉ có một tên lănh đủ v́ trái lựu đạn trúng ngay chỗ, hai tên khác bị thương nhẹ - Thật khủng khiếp, lần ra tay cuối cùng của Trung đội Trưởng Ba Đức - Anh đă quyết lấy cái chết để đền nợ núi sông, đồng thời nói lên tinh thần chiến đấu đến hơi thở cuối cùng của người chiến sĩ Nghĩa Quân.

Lần đầu và cũng là lần cuối, Ba Đức dùng đến món quà mà đàn anh đă tặng: "Cặp lựu đạn Mini".

A20 Nguyễn Văn Học

wonderful
12-02-2019, 23:30
Những h́nh ảnh Hào Hùng của Binh Chủng Nhảy Dù - QLVNCH

Xin dành tặng những h́nh ảnh về Binh Chủng Nhảy Dù - Những "Thiên Thần Mũ Đỏ" của QLVNCH đến cho 1 người bạn theo yêu cầu và cho tất cả mọi người, những ai đă từng sống qua thời chinh chiến, và yêu mến NGƯỜI LÍNH VNCH.

Em biết tại sao lúc này Lính Dù lên điểm
Đi ra đường phố, nhiều cô nh́n nổ con ngươi
Cô th́ khen là lính chịu chơi
Cô th́ khen là lính hào hoa
Có cô mơ chồng, có cô mơ mộng lắm đêm nằm khóc.

Anh biết nhiều cô thích bồ thiên thần mũ đỏ
Bởi anh là lính đẹp trai mà khỏe hơn ai
Anh là thiên thần giữa trời mây
Anh làm quân thù khiếp sợ oai
Biết bao cô chờ biết bao cô đợi biết bao người mơ.

Anh như là mây nổi trôi giữa trời giông bao la
Ở đâu cũng là quê, là nhà
Yêu anh! khổ lắm em ơi!
Khi yêu là yêu dù cho cách trở đầy thương đau
Dù cho đói no hay giàu nghèo, dù đời khổ đến bao nhiêu.

Như thế th́ mê lính dù như là điếu đổ
Em mong được sống cùng nhau làm tổ uyên ương
Em là vợ hiền chốn hậu phương
Anh làm trai hùng giữa trường xa
Ước mơ thanh b́nh góp tay ong tạo hóa thân t́nh ta

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1493156&d=1575329324
CHUẨN BỊ - KIỂM TRA LẠI DÙ LƯNG DÙ BỤNG

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1493157&d=1575329339
LÊN ĐƯỜNG

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1493158&d=1575329354
HUẤN LUYỆN VIÊN NHẢY DÙ TRÊN PHI CƠ

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1493164&d=1575330026
THIÊN THẦN VÀO VÙNG HÀNH QUÂN

longhue
12-03-2019, 00:16
Mời ACE nghe chơi.

IyLRaE_u9Ig

hoanglan22
12-12-2019, 22:39
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1498336&stc=1&d=1576190347

Anh là một phóng viên chiến trường, ngoài phần lương khô và vật dụng cá nhân trong ba lô mang trên lưng như bao nhiêu người lính khác, anh c̣n phải đeo lủng lẳng cái máy quay phim và máy chụp h́nh trước ngực. Hành trang anh chỉ có thế, mũ sắt trên đầu, cuốn sổ tay trong chiếc túi áo có nắp gắn hai chữ “Báo Chí”, hai tấm thẻ bài, một bộ râu tua tủa v́ đă mấy ngày anh theo đoàn quân tiến vào trận địa. Người lính ra chiến trường đă có cây súng làm bạn, riêng anh, người phóng viên chiến trường đi vào vùng lửa đạn, chỉ vỏn vẹn có chiếc máy quay phim, đă ghi lại biết bao nhiêu h́nh ảnh trung thực của người lính sống thời chiến chinh gian khổ, trên mọi nẻo đường đất nước.

Tiếng đạn bay líu chíu ngang đầu, anh thầm nghĩ: "Không biết sống chết lúc nào". Chiếc máy quay phim đă thu vào bao nhiêu thước phim giữa mặt trận khi nóng bỏng, lúc âm ỉ đến lạnh người. Đoàn quân lầm lũi tiến vào rừng dừa trước mặt, phân tán mỏng theo lệnh viên sĩ quan chỉ huy. Những bóng người lầm lũi bước, đôi giày vải ướt sũng trên thửa ruộng xâm xấp nước, đói và mệt, chiếc ba lô trên vai anh như nặng trĩu xuống. Trong bóng chiều nhập nhoạng, thần chết như rập ŕnh chiếc lưỡi hái trên thân phận người lính, cơn mưa chiều luồn những giọt tái tê vào ḷng người chiến sĩ.

Anh nhớ lại trận đánh ở vùng Thới Lai, Cờ Đỏ vào mùa mưa năm trước, trong một vùng dầy đặc cỏ lác và sông rạch. Không phải lần nào quân ta cũng thắng. Đêm ấy, anh bị mất phương hướng, giữa bóng đêm chập chùng và ánh trăng khuya mờ ảo, anh lần ṃ ra được đường cái, ở đấy có một ngôi chùa nằm chơ vơ ven quốc lộ. Dưới ánh trăng mờ, ngôi chùa âm u không một ánh đèn, không một tiếng chuông tiếng mơ, chỉ có mùi d́u dịu của hoa sứ phảng phất giữa đêm khuya. Đă mấy ngày mà trận đánh chưa kết thúc, sự yên tĩnh tạm thời để chờ một cuộc đụng độ tiếp theo, dân chúng hầu như đă tản cư ra quận lỵ, hoặc chạy theo phía bên kia vào những làng mạc xa hơn.

Ngôi chùa tương đối nằm ở khu khá yên tĩnh giữa hai lằn đạn, nhưng không có bóng dáng người dân nào ở đó. Trong bóng tối mờ mờ và yên lặng, anh lần ṃ men theo mấy bụi cây thấp trước cổng chùa, anh nh́n thấy nhiều thân người nằm la liệt trên sân, im lặng như một băi tha ma. Họ đang ngủ, quá mệt mỏi cho nên anh chỉ kịp cởi ba lô vứt xuống đất, rồi cứ thế nằm vật xuống bên cạnh một người lính. Anh cần ngủ hơn tất cả mọi thứ trên đời, dù chưa ăn uống ǵ nhưng anh không cảm thấy đói, chỉ có giấc ngủ mới làm anh tạm quên đi tiếng đạn réo, tiếng bom rơi, tiếng đại bác rền rĩ trong những giờ phút căng thẳng của chiến trường. Anh thiếp đi thật mau, trong lúc ngủ mê h́nh như anh có đạp chân vào người lính kế bên nhưng không nghe tiếng chửi thề, hạnh phúc nhất của người lính có lẽ là những phút giây hiện tại, tạm quên đi nỗi nguy hiểm, cận kề với nỗi chết.

Chưa bao giờ anh có một giấc ngủ ngon lành đến thế. Không chiêm bao mộng mị, không giường, không chiếu, chỉ có một mặt đất ẩm lạnh và bầu trời nhấp nháy sao đêm. Gió đêm như được ướp mùi hương của những bông hoa sứ làm loăng đi mùi ǵ tanh tanh giống như mùi máu.

Sáng ra, ánh mặt trời rọi vào mặt anh khiến anh thức giấc, chim chóc hót líu lo chào một ngày vừa lên, sự sống của muôn loài vẫn diễn ra b́nh thường dù chiến tranh và sự chết đang hiện diện quanh quất, đó đây. Anh hoàn toàn tỉnh giấc, thèm một ly cà phê và điếu thuốc thơm buổi sáng, rồi lạ lùng ngó đám người nằm ngủ trên sân chùa, chợt một cảm giác lạnh toát chạy dài trên sống lưng người lính. Giờ th́ anh đă hiểu, đêm qua anh đă ngủ một giấc ngủ tṛn trịa và yên b́nh bên những người lính tử trận, xác họ ngày hôm nay sẽ được chở về nhà xác trên tỉnh lỵ, chờ thân nhân đến nhận.

"Không phải lúc nào ta cũng thắng", anh nghĩ như vậy khi nh́n những tử thi nằm lạnh lẽo suốt đêm trên sân chùa. Chiến tranh là vậy, thắng hay thua th́ bên nào cũng có người nằm xuống, có những giọt nước mắt của mẹ già, vợ dại, con thơ, chỉ có điều thật buồn khi tất cả đều là người Việt Nam. Anh nghe có tiếng bước chân nhẹ nhàng của một tà áo đà lướt bên hiên chùa, và mùi nhang thoảng bay trong gió. Một vị sư già có lẽ là người duy nhất c̣n lại nơi đây, đang cầm một nắm nhang ra cắm xuống trước những thây người nằm la liệt dưới sân chùa, miệng lầm rầm niệm Phật. Đôi mắt nhà sư thoáng một vẻ ngơ ngác và sợ hăi, khi nh́n thấy một người sống đang ngồi thu lu giữa đám người chết, cả hai cùng im lặng không nói được lời nào.

Năm 1969, anh theo cuộc hành quân miền biên giới giữa Campuchia và Việt Nam, Cộng quân đang cố thủ trong vùng núi Cô Tô, Châu Đốc. Người phóng viên chiến trường hơn ba mươi tuổi, đang độ chín muồi của nghề nghiệp, hăng say lao vào vùng lửa đạn khi Cộng quân dùng Campuchia làm bàn đạp thôn tính miền Nam.

Gia đ́nh anh gốc gác miền Bắc, cả một thời ấu thơ và thanh niên anh gắn bó với quê nhà, may mà năm 1954 anh nhanh chân chạy thoát. Bố anh chết ngay năm đó, tất cả gia tài, sự nghiệp bỗng dưng mất hết trong một ngày khiến người cha phẫn chí mà chết. Mẹ anh dẫn ba đứa em dại, đầu quấn khăn tang lếch thếch lên chuyến tàu há mồm xuôi Nam. Một cuộn phim của dĩ văng vừa hiện về trong trí anh, căn nhà gạch hai gian bề thế phố Cửa Tiền, rặng bàng trước cửa, hoa gạo đỏ mùa hè, giếng nước Tiền Hùng, cái ao sau nhà xanh um khóm chuối ngự, cả một tuổi thơ đầm ấm và mối t́nh đầu tuổi thanh xuân nằm lại sau lưng cho một tất tả bỏ chạy.

Từ trên máy bay trực thăng anh nhảy xuống theo gót chân người sĩ quan chỉ huy, máy quay phim chạy rè rè thâu vào h́nh ảnh núi non chất ngất, những người lính chạy lúp xúp nép vào những bờ đá cao tiến tới. Địch bắn ra như mưa, viên đạn đi ngọt như cắt từ một hốc núi bay thẳng tới ngực anh, anh chưa thấy đau v́ tầm đạn đi nhanh quá khiến anh ê ẩm như bị một viên gạch ném tới đột ngột. Cho đến khi anh thấy ấm ấm và rát bỏng trên ngực áo, máu đă ướt thẫm hai chữ Báo Chí trên chiếc áo nhà binh. Anh loạng choạng ngă xuống với thước phim đang quay dở, chỉ kịp nh́n thấy loà nhoà h́nh ảnh người lính cứu thương bế anh lên chiếc trực thăng tải thương, đang phần phật đôi cánh quạt trên một vùng cỏ xanh.

Lần ấy viên đạn đi cách tim anh khoảng hai cm, nếu không giải phẫu kịp, máu ứ đầy phổi có lẽ anh đă nằm xuống ngay tuổi ngoài ba mươi. Anh thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, phải nằm trong Quân y viện mấy tháng trời, để được nh́n thấy sự hy sinh và đau đớn tận cùng của người lính trong thời chiến. Những h́nh ảnh ấy vương vấn trong hồn anh, măi măi về sau, tim anh vẫn thắt lại khi bất chợt hôm nào nh́n thấy trên vỉa hè, người thương binh lê đôi nạng gỗ, khập khễnh bước khi đôi mắt chất chứa nỗi bất hạnh cho cả một tương lai

Năm 1972, mặt trận lại sôi động ở vùng biển Long Toàn, Trà Vinh. Bom đạn rền rền át cả tiếng sóng biển ŕ rào, người dân Khờ Me sống ở những làng mạc hiền hoà với chùa chiền cổ kính, lại vội vă bỏ vùng quê đi lánh bom đạn. Nhà cửa đổ nát, vườn tược tan hoang, anh ứa lệ nh́n hai đứa bé lạc mẹ, mặt mày nhem nhếch nước mắt, nước mũi giữa cảnh khói lửa tơi bời. Giữa vùng giao tranh, chỉ có lằn đạn líu chíu trên đầu người thường dân vô tội, quê hương ḿnh sao khốn khổ đến thế.

Anh nhớ lại một ngày năm 54, năm ấy anh mới mười tám tuổi và đứa em út mới lên sáu, mẹ anh trắng hai bàn tay làm lại cuộc đời trên miền Nam tự do. Những buổi chiều gió mưa, mẹ con ngậm ngùi nhớ về quê nhà. Khu phố êm ả có rặng bàng trở màu khi mùa thu đến, những buổi chợ phiên người trong các làng quê kĩu kịt gánh hàng ra chợ Nghệ.

Người phóng viên chiến trường đâu phải lúc nào cũng ngồi trên máy bay, đâu phải lúc nào cũng theo đuôi Tư lệnh để quay cảnh chiến thắng, gắn huy chương lên ngực áo người chiến sĩ. Anh đă phải ngắm nh́n chiến tranh như phải xem một bức tranh vẽ bằng máu, thâu vào h́nh ảnh và sự chiến đấu cam go của người lính nơi vùng lửa đạn. Trong khi ấy, chiến tranh quả là khó hiểu, những bàn tay giấu mặt như mụ phù thuỷ đang vẽ vời những lời nguyền rủa sấm sét xuống quê hương anh. Chiến trường này tiếp nối đến chiến trường khác, những cuộc hành quân liên miên từ tháng này qua tháng nọ, nghĩ đến đời sống gian khổ của người lính trong vùng đóng quân đầy những rủi ro bất trắc, anh chỉ ao ước một ngày nào chiến tranh chấm dứt. Một ngày nào đó những thước phim của anh chỉ là h́nh ảnh nụ cười dễ thương của trẻ thơ, là nét mặt vui tươi của người lính giữa khung cảnh ấm cúng của gia đ́nh, là đôi mắt hấp háy của mẹ già không ứa lệ, khi đêm đêm vẫn th́ thầm cầu nguyện sự an b́nh cho những đứa con.

Anh phóng viên chiến trường giơ ống kính lên, thâu bằng cận ảnh hai khuôn mặt ngây thơ, bốn con mắt ngơ ngác giữa khói lửa mịt mù của hai đứa trẻ thơ mà anh bắt gặp, khi cuộc chiến không bao giờ tính toán được sự bi thảm của nó. Những đôi mắt trẻ thơ sợ hăi, ngác ngơ khi địch quân dùng khu vực nhà dân làm bàn đạp để tiến quân, hai đứa bé c̣n lại khi cha mẹ chúng có thể đă ngă xuống bởi những lằn đạn vô t́nh.

T́nh cảm giữa người và người bắt anh phải quên đi những thước phim, những tấm h́nh giá trị khi lọt vào tay bọn thông tấn nước ngoài. Hai tay bế hai đứa bé anh băng ra khỏi khu nhà đang rần rật cháy, giờ phút ấy anh chỉ có một ư nghĩ phải mang hai đứa bé ra khỏi vùng giao tranh, dù có thể lănh một viên đạn của đối phương.

Suốt một đời làm lính và xông pha nơi những chiến trường nóng bỏng, anh phóng viên chiến trường đă bao phen đối mặt với tử thần. Anh c̣n bị thương một lần nữa trước khi chiến tranh kết thúc, chiếc máy bay trực thăng bị hỏa tiễn tầm nhiệt bắn trúng đằng sau đuôi, như một khối sắt khổng lồ rớt xuống cánh đồng ngập nước vùng Đồng Tháp Mười. May là Thượng đế đă che chở anh, đă cho anh trở về với một xác thân lành lặn.

Ngày chiến tranh kết thúc, một kết thúc bi thảm khiến anh hụt hẫng. Người lính bại trận trở về miền quê với những vết đau âm ỉ mỗi lần nhớ đến bạn đồng đội cũ. Trong những chiều gió mưa, ḷng anh bùi ngùi khi hồi tưởng đến một khoảnh khắc nào đó, bóng dáng những người lính năm xưa giờ như những bóng ma buồn bă trong dĩ văng, và anh lặng lẽ nghe những giọt nước mắt buồn tủi chảy ngược vào tim buốt lạnh.

Từ đây cuộc đời bắt đầu là những chia xa, bạn bè anh tan tác mỗi người mỗi nơi mỗi ngả. Có những người nằm xuống trong giờ thứ 25 của cuộc chiến, đă bị quên lăng với mồ hoang mả lạc. Có những người ra đi làm cánh chim cô đơn, gậm nhấm nỗi sầu vong quốc. Có những người đi vào chốn lao tù với đói khát triền miên, khi trở về chỉ là những chiếc bóng ngác ngơ, sợ hăi cả tiếng bước chân của chính ḿnh.

Sau ba mươi năm ngày chiến tranh kết thúc, người phóng viên chiến trường năm xưa nay đă già, ngồi bán cá kiểng, cá đá cho trẻ con trước khuôn viên một trường tiểu học, cạnh ngôi giáo đường cổ kính. Mỗi lần nghe tiếng chuông ngân ban chiều, anh lại th́ thầm đọc mấy câu kinh cho những linh hồn đă khuất.

Gia tài của anh chỉ có một hồ cá bằng thủy tinh với những con cá đủ màu bơi lội nhởn nhơ. Cả một xă hội cá quây quần bên nhau lượn lờ tranh sống, những cọng rong xanh, vài con lăng quăng sót lại từ bữa ăn chiều. Anh chép miệng, bầy cá đă no rồi, chứ lúc đói chúng nó cũng tranh nhau đớp mồi như đám người khốn khổ chen nhau chờ phát chẩn. Lúc này anh đâm lẩn thẩn như thế, chuyện cá chuyện người cứ lẫn lộn trong con mắt người phóng viên đă hết thời

Lúc ấy trời đă về chiều, hai đứa bé đánh giày độ trên mười tuổi vào hàng, ngắm nghía mấy con cá lia thia được rọng riêng trong những chiếc keo thủy tinh trên bệ gỗ, giữa mỗi cái keo đều có một tấm giấy cứng để che cho chúng khỏi nh́n thấy mặt nhau. Mỗi đứa chọn một con, chúng tḥ tay vào túi lôi ra những đồng tiền nhàu nát, đưa cho người bán cá. Hai thằng nhỏ bày ra cuộc đá cá ngay cửa hàng của người bán cá, tự nhiên anh cũng cảm thấy hào hứng muốn theo dơi trận đá cá của hai đứa trẻ con. Không biết ở đâu lố nhố mấy đứa trẻ nữa quần áo bẩn thỉu, chân đi đất, xúm vào bu xung quanh hai thằng nhỏ đánh giày, khiến anh tự nhiên hồi hộp như ngày xưa mỗi lần theo đoàn quân vào vùng lửa đạn.

Hai con cá trong một cái keo, không biết thù nhau tự kiếp nào xông vào nhau, hai cái thân cá ḿnh xanh vây đỏ lúc ấy phồng lên những chiếc vảy óng ánh, ḿnh chúng như to ra qua thành thuỷ tinh, xoắn lấy nhau đẩy ra những cú húc tơi tả. Lũ trẻ vây xung quanh nín thở, hai con cá lia thia mê mải tấn công nhau, thỉnh thoảng chiếc mỏ cá lại va vào thành keo đau điếng. Sau một lúc quần nhau dữ dội, một con như ngộp thở ngoi lên mặt nước hớp không khí, cái ḿnh cá vẩy óng ánh màu xanh nay đă nhợt nhạt như màu miếng vỏ dưa cố chạy thoát thân, lũ trẻ đứng bên ngoài vỗ tay hét rộ lên những tràng cười khoái chí.

Tan cuộc, hai thằng nhỏ đánh giày bỏ hai con cá cho người bán cá, bưng hộp đồ nghề đi về ngả thành phố, chỗ “hotel” và mấy quán rượu có đông người ngoại quốc và đám Việt kiều về thăm quê. Trời giăng giăng những đám mây đen khiến phố xá chừng như tối xầm lại, bất giác anh chợt nhớ đến cơn mưa đầu mùa của tháng tư năm nào làm ḷng quặn lên một nỗi buồn. Tự nhiên, người phóng viên chiến trường năm xưa cảm thấy ngùi ngùi, tưởng ḿnh như con cá bại trận manh giáp tả tơi, bị vứt lại bên lề đường một cách thảm thương

Tội nghiệp anh, những cuộn phim của dĩ văng như run rẩy theo làn khói thuốc, anh bập hoài điếu thuốc đen trên môi, những móng tay cáu vàng ám khói. Cơn mưa chiều đột ngột đổ xuống rơi lộp độp trên tấm poncho nhà binh che trên vỉa hè, gơ những nhịp trống vào đầu khiến anh nghĩ đến những cơn mưa nơi vùng hành quân năm xưa, khi anh c̣n là một người lính. Anh tưởng tượng lát nữa đây khi về nhà, với âm thanh hùng hồn của một ngày nào rất xa, anh sẽ tường thuật cho đứa cháu ngoại nghe trận đá cá chiều hôm nay trước cửa trường học. Hai con cá cùng một loại đá nhau chí tử, một con thắng nhưng cũng ê ẩm, ḷng ṿng trong chiếc keo thuỷ tinh chật hẹp, không hy vọng đá nổi một trận nữa, một con bại anh quăng ra mặt đường, đă nát ḿnh dưới những ṿng xe lăn.

Phố đă lên đèn, anh thu dọn cửa hàng để về nhà mà ḷng nặng trĩu một nỗi buồn không tên tuổi. Anh phóng viên chiến trường năm xưa th́ thầm nói với ḿnh, "Hơn ba mươi năm rồi, chẳng biết c̣n ai nhớ đến ḿnh không nhỉ?"

Nguyên Nhung
Viết cho anh tôi, người phóng viên chiến trường.

hoanglan22
12-13-2019, 14:43
Trung Úy Minh đă lên phiên Sĩ Quan trực nhật được mấy tiếng đồng hồ. Trời tối đen như mực. Trước cổng trại, đoạn đường Trưng Nữ Vương ngoài ven thành phố Đà Nẵng, thật im vắng. Lâu lâu mới có 1 chiếc quân xa vụt qua, rồi tất cả chỉ c̣n lại những bóng đèn đường vàng vọt xa xa…

Tiếng điện thoại dă chiến reo vang trong pḥng trực. Minh nói với ông Thượng Sĩ già, “Thượng Sĩ nghe coi có chuyện chi vào lúc này ! “Ông Thượng Sĩ nói vọng ra phía Minh, “Có điện thoại từ Bộ Chỉ Huy Quân Trấn, muốn gặp Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng hay Sĩ Quan trực.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1498595&stc=1&d=1576247871
Người Lính VN Cộng Ḥa trong Tết Mậu Thân 1968 –



Minh bắt điện thoại, “Trung Úy Phan Đức Minh, Sĩ Quan trực Tiểu Đoàn Truyền Tin Quân Đoàn I, tôi nghe đây!” Có tiếng nói ở đầu dây bên kia… Minh quả quyết “Chúng tôi đă thi hành đúng đắn lệnh của Quân Đoàn và Bộ Chỉ Huy Quân Trấn. Xin Đại Tá yên tâm ! Cấm trại và ứng chiến 100 phần trăm. Các toán ứng chiến đă đi nhận nhiệm vụ.Toán đóng quân ở chốt Ḥa Cường do 1 Thiếu Úy chỉ huy, tinh thần rất tốt. Đại tá yên tâm đi ! Vâng, xin kính chào Đại Tá ! ”Ông Thượng Sĩ già lo lắng hỏi “Có chi quan trọng không Trung Úy ?” “B́nh thường thôi! Đại Tá Tham Mưu Trưởng Bộ Chỉ Huy Quân Trấn nhắc nhở anh em ḿnh. Tính ông cẩn thận lắm.”

Minh vớ khẩu Colt-45 trên bàn rồi xách đèn pin đi kiểm soát canh pḥng. Đêm nay điểm canh gác nào cũng gác đôi. Một binh sĩ chặn Minh lại từ xa, hỏi mật khẩu “Quyết Tâm!” Minh đáp lại “ Xây Dựng !” Hai binh sĩ cùng nói “Chào Trung Úy !” Minh dặn ḍ “Anh em cẩn thận tối đa nghe không ! Nhất là phía bên kia đường rầy xe lửa.”

Qua khu vực băi đậu quân xa, Minh thấy anh em canh gác cẩn thận, nghiêm chỉnh. Đă định quay đi, Minh lại gọi cậu lính trẻ tới dặn “Anh em cẩn thận coi chừng phia bên kia hàng rào kẽm gai, cánh đồng hướng ra đài khí tượng và trại gia đ́nh binh sĩ ! “ Nói xong, theo thói quen, Minh vỗ vai cậu binh sĩ rồi đi về phía đồn canh.

Minh xuất thân là binh nh́, không theo học Trường Sĩ Quan nào cả nhưng v́ tinh thần và khả năng làm việc, tŕnh độ học vấn, anh lên cấp rất mau, bỏ băng nhiều cấp bậc so với những trường hợp b́nh thường. Ngày xưa đi kháng chiến chống Pháp hơn 6 năm, bị Tây bắt, giam lên giam xuống. Lần sau chót, khi được tha khỏi trại giam Nhà máy Rượu Nam Định, anh quyết định ở lại thành phố dù rằng ở lại thành phố lúc ấy chưa chắc đă là con đường tốt nhất. Tuy nhiên, giữa hai cái xấu, ḿnh phải chọn cái nào ít xấu hơn.

Được động viên gọi đi học khoá Sĩ Quan trừ bị Thủ Đức, v́ nhiều lư do, nhất là sức khỏe lúc đó, anh không đi, nhưng t́nh nguyện nhập ngũ với tư cách binh nh́, vào Đại Đội 3 Truyền Tin Việt Nam, lúc đó c̣n do Sĩ Quan người Pháp chỉ huy và đang chuyển dần sang cho Sĩ Quan Việt Nam. Mới ba tháng sau, Đại Úy Miraucourt, Đại Đội Trưởng, gắn lon Hạ Sĩ ( Caporal ) cho anh tại sân cờ đơn vị. Rồi 16 ngày sau nữa, cũng tại sân cờ này, trước hàng quân, Đại Úy Miraucourt long trọng đọc quyết định thăng cấp đặc biệt của Tướng Tư Lệnh Đệ Tam Quân Khu, có hiệu lực hồi tố ( retroactive effect ) và gắn lon Trung Sĩ ( Sergent ) cho anh. Cả đơn vị, anh em ai nấy đều ngạc nhiên v́ từ ngày thành lập, đây là lần đầu tiên trong đơn vị chuyên môn, không tác chiến, một binh sĩ dược thăng cấp quá mau, mang lon Hạ Sĩ rồi Trung Sĩ chỉ trong ṿng hơn 4 tháng nhập ngũ và có hiệu lực cùng 1 ngày, bỏ băng hàng Binh Nhất, Hạ Sĩ, Hạ Sĩ Nhất. Theo lệ thông thường th́ hàng Binh sĩ, Hạ sĩ quan ở đơn vị chuyên môn, không tác chiến thời đó, cần có 1 hay 2 năm công vụ mới lên được 1 bậc, 1 cấp…Sau này anh c̣n bỏ băng thêm cấp bậc khác nữa, như là từ Thượng sĩ lên thẳng Chuẩn Úy hiện dịch, bỏ qua cấp Thượng sĩ nhất… Đại Úy Miraucourt cần Minh ngồi vào cái chỗ thay thế Sergent-Chef Cordier sắp sửa hồi hương trở về Pháp, cho nên ông đă bằng mọi cách và thẩm quyền của ông lúc đó, đang chỉ huy một đơn vị 600 quân, phụ trách truyền tin cho toàn lănh thổ Quân Khu 3, trên toàn lănh thổ Bắc Việt. Ông muốn Minh ngồi vào chỗ đó,điều khiển cái văn pḥng khá đồ sộ của đơn vị, gồm cả chục nhân viên, điều hành, quản trị mọi mặt cho đơn vị, với rất nhiều toán nhân viên làm việc tại thành phố Nam Định, cả cho quân đội quốc gia Việt Nam, lẫn vài cơ sở quân đội Pháp, lại c̣n nhiều toán nhân viên biệt phái ( détachements ) đi khắp các nơi trên lănh thổ Bắc Việt… Anh luôn được giao phó chức vụ cao hơn cấp bậc thực sự của ḿnh cho nên khi anh đă lên Thiếu Tá, giữ chức vụ Phó Uỷ Viên Chính Phủ Ṭa Án Quân Sự Mặt Trận Quân Khu I th́ bạn bè cùng nhập ngũ 1 ngày với anh, gặp lại nhau thật tưng bừng vui vẻ, có điều họ vẫn c̣n ở cấp Thượng Sĩ hay cao lắm là Chuẩn Uư. .. Minh c̣n có dịp đặc biệt . được mời về đơn vị cũ là Tiểu Đoàn Truyền Tin Quân Đoàn 1- Đà nẵng - tham dự buổi Lễ gắn lon Thiếu Úy cho anh bạn Nguyễn Văn Dương, cùng lên Thượng sĩ với Minh 1 ngày, hồi tháng 8, năm 1956. Theo lời yêu cầu của Thiếu úy Dương, Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng, gốc ca sĩ đài phát thanh Huế, vốn là Trung Úy Đại Đội Trưởng của Thượng sĩ trẻ Phan Đức Minh ngày trước đồng ư, điện thoại cho Minh về đơn vị cũ, dự Lễ gắn lon cho anh bạn ngày xưa, tên Nguyễn văn Dương.

Đâu xe trước Bộ Chỉ Huy, Minh bước vào pḥng họp Tiểu Đoàn giữa tiếng vỗ tay chào đón của các Sĩ Quan bạn cũ cũng như mới mẻ sau này. Những cái bắt tay thân thiết khi anh em gặp lại nhau… Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng nói vài lời rồi yêu cầu Minh gắn lon cho tân Thiếu úy Nguyễn Văn Dương…

Những tràng vỗ tay vang pḥng họp… Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng mời tất cả xuống Câu Lạc Bộ dự buổi họp mặt mừng Sĩ Quan tân thăng. Dọc lối đi, Minh cứ phải xin phép dừng lại bắt tay, chào hỏi những anh em Hạ sĩ Quan, Binh sĩ đón chào với những lời chúc mừng: Trời đất ! Thiếu Tá ở đây từ hồi c̣n là Thượng sĩ. Mấy năm trước, rời đơn vị chuyển sang ṭa án, là Trung Úy, nay về thăm đơn vị cũ, cũng là Thiếu Tá như Tiểu Đoàn Trưởng…. Nhiều anh em đứng từ xa, cũng giơ tay chào và la to như để chúc mừng…

*

Minh luôn luôn sống gần gũi và thương mến anh em. Có lẽ đă từng là binh sĩ cho nên anh hiểu họ nhiều hơn và họ cũng thương mến anh hơn…

Bước vào đồn canh, Minh giơ tay chào lại anh em khi Trung Sĩ Nhất đồn trưởng hô “Phắc!” để tất cả anh em đứng lên, chào vị Sĩ Quan chỉ huy của ḿnh. Sau khi xem xét, Minh dặn Hạ Sĩ Quan đồn trưởng “ Không một ai được phép ra khỏi cổng trại đêm nay, dù là đêm 30 Tết, nếu không có Sự Vụ Lệnh do Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng hay tôi kư. Nếu gặp khó khăn ( ư Minh muốn nói: nếu có các Sĩ Quan khác tự ư lái xe Jeep ra khỏi cổng ), cứ gọi điện thoại cho tôi giải quyết !” Giống hệt Thiếu Tá Nguyễn Hữu Viên, Tiểu Đoàn Trưởng, xuất thân Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt, Minh thích làm việc là làm việc hết ḿnh, khi chơi là chơi xả láng, thứ nào ra thứ đó, không có lộn xộn…

Chỉ c̣n nửa tiếng đồng hồ nữa là sang năm mới. Đúng 12 giờ đêm 30 Tết, đón chào năm mới Mậu Thân 1968… Pháo nổ tưng bừng. Chiêng trống vang lên khắp nơi. Lính tráng đâu đó đem súng ra bắn chơi cho vui. Riêng đơn vị anh, không một quân nhân nào được phép làm như vậy. Pháo nổ hoài mà súng cũng nổ hoài. Thế là cái ǵ ? Minh chạy như bay vào pḥng trực, đích thân nhấn c̣i điện báo động. Tất cả mọi quân nhân trong trại ào ra các hố cá nhân, giao thông hào chung quanh trại trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Các Sĩ Quan đi kiểm soát khu vực trách nhiệm của ḿnh. Những ánh đèn pin xanh lè, loáng thoáng đó đây…

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1498596&stc=1&d=1576247871

- Chiến trận Tết Mậu Thân diễn ra ở nhiều nơi –



Tin từ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I và đài phát thanh cho hay: Việt Cộng đang từ ngả Đ̣ Xu đánh vào doanh trại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn. Một cánh quân khác đang tấn công vào Bộ Chỉ Huy Quân Trấn…



Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng điện thoại cho Minh, dặn ḍ rồi cho biết: Việt Cộng đang mở cuộc tổng tấn công vào thủ đô Sài G̣n cũng như hầu hết các thành phố quan trọng trên lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa. Việt Cộng đă chiếm và kiểm soát một khu vực thành phố Huế. Tại Đà Nẵng, Việt Cộng từ hướng Đ̣ Xu đánh vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, nhưng không gây được áp lực mạnh mẽ. Phía Bộ Chỉ Huy Quân Trấn, Việt Cộng từ phía Ty Ngân Khố, đánh sang, do lực lượng đặc công chủ động. Các mũi tấn công từ ngoại vi thành phố đă bị lực lượng Thiết Giáp và Biệt Động Quân của ta chặn đánh. Tin từ Trung Tâm Hành Quân Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn cho hay: Lực lượng tấn công của địch đă bị quân ta chặn đánh ngay từ ṿng đai bên ngoài cho nên số quân lọt được vào doanh trại Bộ Tư Lệnh rất yếu ớt và bị đánh bật ra ngay…

Minh cùng đơn vị đă thức suốt đêm. Đơn vị anh rất kỷ luật, quân số cấm trại ứng chiến luôn luôn đủ 100 phần trăm. Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng rất thông cảm với binh sĩ cho nên những lúc cấm trại, ông luôn sống sát với anh em, chia sẻ vui buồn với mọi người. Ngày nghỉ, ban ngày b́nh yên, ông cho phép anh em thay phiên 50 % quân số về thăm gia đ́nh. Tối đến, giờ điểm danh bắt buộc đông đủ 100 %. Ông lo lắng đến đời sống tinh thần, vật chất, giải trí cho mọi quân nhân trong đơn vị, giúp đỡ gia đ́nh binh sĩ trong những hoàn cảnh khó khăn. Vấn đề thưởng phạt công minh. Hầu hết mọi người trong đơn vị đều thương mến và dành cho ông một ḷng kính phục. Tháng 6 - 1968, sau vụ Tết Mậu Thân ít lâu, Thiếu Tá Viên từ trần tại Tổng Y Viện Duy Tân, Đà Nẵng v́ bệnh tai biến mạch máu năo trầm trọng. Khi tiễn đưa ông đến nơi an nghỉ cuối cùng, nhiều anh em đă khóc thật sự, trong đó có Trung Úy Phan Đức Minh, người từng mang ơn Quân Đội, mang ơn Thiếu Tá Viên là người đă cho anh những bài học quư giá, những gương sáng về nghệ thuật chỉ huy. Lúc hạ huyệt, Minh cầm một ḥn đất thả xuống nắp quan tài, xong đứng thẳng , chào Thiếu Tá Viên một lần cuối , rồi bỗng nhiên hai tay ôm lấy mặt … Anh bước vội ra chiếc xe Jeep đậu gần đó. Cậu Hạ Sĩ tài xế thấy thế cũng hai tay ôm lấy mặt, gục đầu xuống, hai vai rung lên trong sự nghẹn ngào… T́nh thương yêu Huynh Đệ Chi Binh trong Quân Đội ta là thế đấy!

Sáng Mồng Một Tết Mậu Thân, Minh nhận được tin quân sự chính thức: Lực lượng vũ trang cộng sản đánh vào thành phố Đà Nẵng đă hoàn toàn bị đẩy lui. Việt Cộng coi như hoàn toàn thất bại, phải tháo chạy trở lại phía Đ̣ Xu, rút về ngả Vĩnh Điện, Hội An. Một phần lực lượng địa phương của Tỉnh Đội Quảng Nam – Đà Nẵng bị kẹt, phải chạy qua ngả Ḥa Cường. Ở đây, chúng đụng phải một đơn vị bộ binh Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa và Tiểu đội ứng chiến của Tiểu Đoàn Truyền Tin Quân Đoàn I. Minh nhận được báo cáo vô tuyến của Thiếu Uư Thạch, Sĩ Quan chỉ huy toán ứng chiến: Có 1 binh sĩ bị thương nặng, cần đưọc di tản ngay vào Tổng Y Viện Duy Tân. Với tư cách Sĩ Quan trực nhật, Minh cho toán cấp cứu nhẩy ngay lên xe Dodge 4 x 4 đi liền, sau khi ra lệnh “ Tất cả: lên đạn ! Trừ tài xế, c̣n tất cả súng cầm tay, sẵn sàng phản ứng ngay tức khắc! ”

Một lúc sau, toán cấp cứu trở về. Toán trưởng báo cáo: “Thưa Trung Úy! Binh nhất Thắng bị đạn AK thủng bụng, đă đưa vào Tổng Y Viện Duy Tân, pḥng cấp cứu ! “ Th́ ra: Một toán Việt Cộng bị đánh bật ra khỏi khu vực Quân Đoàn, chạy ngược về hướng Đ̣ Xu, bị đụng Biệt Động Quân. Thế là tụi nó chạy dạt sang phía Ḥa Cường, phía có toán ứng chiến của Thiếu Uư Thạch. V́ không phải là đơn vị tác chiến thật sự nên Thiếu Uư Thạch cho quân nằm tại chỗ, chỉ nổ súng khi địch lọt vào khu vực trách nhiệm, không tấn công hay truy kích địch trong khu vực trách nhiệm của các đơn vị bạn. Từ xa, Binh Nhất Thắng thấy thằng Việt Cộng chạy sau cùng bị thương ở chân, chạy không kịp đồng bọn. Thắng thấy thèm khẩu AK của nó quá nên dầu là lính truyền tin, nó cũng xách khẩu Carbin M-2 nhẩy lên khỏi hố cá nhân, rượt theo tên Việt Cộng bị thương. Thiếu Uư Thạch quát lên, nhưng nó không c̣n nghe thấy ǵ nữa, nó phóng theo, ria 1 băng. Thằng Việt Cộng té nhào. Đồng bọn của nó thấy chỉ có 1 người đuổi theo cho nên 1 thằng khác cố quay lại đáp lễ cho Thắng 1 băng AK. Thắng qụy xuống, nhưng vẫn c̣n trông rơ bọn chúng quay lại xốc thằng bị thương đem đi, lượm luôn khẩu AK dưới đất và biến sau lùm cây kế đó…

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1498597&stc=1&d=1576247871

Tối Mồng Một Tết, cả Tiểu Đoàn tập họp tại Hội Trường đơn vị để Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng nói chuyện trước khi Ban 5 chiếu phim. Thiếu Tá Viên ngồi ở chiếc bàn phía trước. Cả Tiểu Đoàn, từ Sĩ Quan đến Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ ngồi đối diện với ông trên những hàng ghế chật ních Hội Trường. Thiếu tá Viên cất tiếng hỏi, “Anh em có biết tôi tập họp Tiểu Đoàn như thế này để nói chuyện chi không?”. Mọi người yên lặng . Có tiếng x́ xào bàn tán. Thiếu Tá Viên tiếp theo, “ Đơn vị chúng ta có chuyện đáng buồn. Đáng lẽ nó không xẩy ra mới phải. Đó là Binh Nhất Thắng, dưới quyền chỉ huy của Thiếu Úy Thạch, đóng chốt ở Hoà Cường, đă vô kỷ luật, không tuân lệnh cấp chỉ huy, tự ư đuổi theo địch để đến nỗi bị bắn thủng bụng. May mà không thiệt mạng. Quân Đội là phải có chỉ huy, không phải ai muốn làm chi th́ làm…” Ông nói hăng say như muốn lôi đầu Binh Nhất Thắng ở bệnh viện về đây mà trị tội cho nó biết thế nào là kỷ luật. Sau cùng Thiếu Tá Viên tiếp, “ Đó, sự việc vô kỷ luật là như thế đó! Đến đây có anh em nào muốn nói chi không, nhất là các Sĩ Quan? ” Mọi người yên lặng trong không khí trang nghiêm, căng thẳng. Vừa lúc ấy th́ Trung Úy Minh đứng dậy: “Thưa Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng, qúy vị Sĩ Quan cùng tất cả anh em! Tôi hoàn toàn công nhận những điều Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng vừa chỉ bảo, khuyên nhủ anh em chúng tôi là đúng với cương vị của một cấp chỉ huy có trách nhiệm. Tuy nhiên, thưa Thiếu Tá ! Trường hợp vô kỷ luật của Binh Nhất Thắng có những điều làm cho chúng ta suy nghĩ mà không thể đem nhốt Binh Nhất Thắng vào nhà giam chung với những quân nhân vô kỷ luật khác như: vi phạm những điều nghiêm cấm trong quân kỷ, cờ bạc, rượu chè, trai gái, đánh lộn, chống lại nhân viên công lực, trộm cướp, hiếp dâm, đào ngũ chạy theo địch vv… Hành động vô kỷ luật của Binh Nhất Thắng xuất phát từ tinh thần chiến đấu, hi sinh, dũng cảm, danh dự, trách nhiệm của 1 quân nhân trước kẻ thù. Thưa Thiếu tá ! Nếu Binh Nhất Thắng bắn hạ được tên Việt Cộng, lấy được khẩu AK của nó, đem về tặng cho Thiếu Tá, và danh tiếng của Tiểu Đoàn Truyền Tin Quân Đoàn I, dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá, tuy là đơn vị hoàn toàn chuyên môn, được loan truyền trên đài phát thanh Quân Đội cũng như Quốc Gia là có những quân nhân anh hùng, dũng cảm, nêu cao tinh thần chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, th́ liệu lúc đó Thiếu Tá có thấy hành động vô kỷ luật của Binh Nhất Thắng là đáng đem nhốt vào nhà giam kỷ luật giống như những quân nhân vô kỷ luật khác hay không? Nhân danh Sĩ Quan trực trong thời gian đó, tôi xin Thiếu Tá tha tội vô kỷ luật cho Binh Nhất Thắng. Nếu Thiếu Tá phạt nó th́ xin Thiếu Tá phạt luôn cả tôi v́ tôi cũng có phần nào trách nhiệm về hành động của nó…” Cả Hội Trường vỗ tay ào ào không dứt. Anh em binh sĩ đứng hết cả lên: “ Hoan hô Trung Úy Phan Đức Minh ! Hoan hô Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng ! Hoan hô Binh Nhất Thắng!” Thiếu Tá Viên trầm ngâm suy nghĩ rồi nói, “ Tôi có làm chi đâu mà anh em hoan hô tôi? Điều đó nên dành cho Trung Úy Minh v́ ông ấy nói như vậy th́ c̣n ai căi được nữa? Cái nghề của ông ấy là nghề Luật Sư, Thầy Căi chớ không phải Sĩ Quan truyền tin. Mai mốt ông ấy có đổi sang ngành Quân Pháp để phục vụ tại các Ṭa Án Quân Sự th́ cũng đúng thôi ! Tôi chấp thuận lời xin của ông ấy ! Anh em nghĩ sao?” Cả Hội Trường lại vỗ tay vang như sấm dậy liên hồi…

Ngày Mồng 2 Tết Mậu Thân… Việt Cộng chiếm đóng và kiểm soát phần quan trọng của thành phố Huế. Một số Sĩ Quan cùng bị bắt với nhân viên chính quyền khi có mặt tại gia đ́nh trong đêm 30 Tết, trong đó có vài người bạn thân của Minh. Anh chép miệng, “ Nếu chúng nó cứ nằm trong đơn vị với anh em th́ đâu đến nỗi ! Ngày Tết ai chẳng muốn về đón Giao Thừa với gia đ́nh, nhưng quân đội cần ḿnh làm gương cho binh sĩ, tại sao ḿnh không làm ?”

Minh đă hết nhiệm vụ Sĩ Quan Trực từ chiều Mồng Một Tết. Sĩ Quan Trực ngày Mồng 2 là Sĩ Quan Trung Đội Trưởng vô tuyến. V́ nhu cầu hành quân của Quân Đoàn, Sĩ Quan này phải dẫn 1 toán chuyên viên với máy móc lên xe đi ngay. Khi tŕnh kư Sự Vụ Lệnh, Thiếu Tá Viên hỏi Minh, “ Trung Úy Phúc đang là sĩ quan trực, đă có ai thay nó chưa?” Ngày Tết mà dính mấy cái vụ này thật là kẹt ! Muốn lẹt xẹt đây đó trong hay ngoài đơn vị một tí, dù là ban ngày, cũng chịu chết! Thiếu Tá Viên đùa dai với Minh, “Cậu làm Sĩ Quan Trực ngày Mồng Một rồi, nay làm luôn ngày Mồng 2 được không ? ” Minh đáp, “Nếu Thiếu Tá và đơn vị cần th́ tôi làm liền !” Thiếu tá Viên vui vẻ, “Ờ thôi, Cậu làm luôn đi! Mai mốt rảnh rang, muốn nghỉ ngơi, Moa cho Cậu thoải mái! ” Thế là Minh lại lên Pḥng Trực nhận bàn giao. Minh vừa nhấc điện thoại kiểm soát các điểm canh pḥng th́ Hạ Sĩ Quan trực báo cáo “ Thưa Trung úy, có báo cáo vô tuyến từ toán ứng chiến Ḥa Cường!” Minh nghe vô tuyến rồi ra lệnh “Giữ chúng nó cẩn thận, sẽ có người tới đem về Tiểu Đoàn ! ” Th́ ra toán Việt Cộng bị rượt đuổi hôm qua, chui rúc đâu đó, sang Mồng 2, bị Quân Đội ta lục soát kỹ quá nên đành chạy qua ngả Ḥa Cường, nhào vào khu vực của Tiểu Đội truyền tin đóng chốt. Chúng nó vừa chạy vừa bắn xối xả vào các mục tiêu nghi ngờ phía trước. Tiểu đội truyền tin nổ súng. Một tên té nhào. Toán Việt Cộng xả đạn như mưa vào Tiểu Đội truyền tin rồi chạy dạt sang phía khác. Chúng nó cần súng đạn hơn là cần người của nó nên chúng bắn phủ lên Toán truyền tin rồi nhào vô lượm khẩu AK chạy đi, bỏ thằng bị thương nằm lại. Thằng Việt Cộng cầm 2 khẩu AK lúng túng nên tụt lại phía sau. Nó lănh luôn 1 băng Carbin M-2, chạy được vài buớc thí qụy xuống, nhưng nó vẫn cố quăng 2 khẩu AK cho đồng bọn mang đi rồi mới chịu nằm yên tại chỗ. Toán truyền tin bắt được 2 tù binh nhưng tiếc là không lấy được khẩu AK nào. Tụi Việt Cộng trở về đơn vị mà mất súng th́ chỉ có nước nó chôn sống hay bắn bỏ. Chúng nó cần súng đạn chớ đâu có cần sinh mạng con người, dù là con người của chúng nó.

Chiếc xe Dodge 4 x 4 đậu trước cửa Pḥng Trực. Minh ra lệnh “ Dẫn 2 anh đó vào trong này ! Gọi y tá chăm sóc cho họ. Họ bị bắt rồi. Ḿnh phải đối xử tử tế ! ” Hai tên Việt Cộng nh́n Minh với vẻ sợ sệt. Minh cởi dây nịt, đưa khẩu súng Colt-45 cho 1 binh sĩ phía sau cầm để chúng nó đỡ sợ. Hai tên Việt Cộng c̣n trẻ măng, nói tiếng Quảng Nam. Minh hỏi họ “Các anh có phải là bộ đội chủ lực của Tỉnh không ? ” Chúng gật đầu. Minh bảo họ, “Các anh cứ yên tâm. Các anh bị bắt rồi. Chúng tôi không làm ǵ các anh cả. Lát nữa sẽ có người đưa các anh tới cơ quan có trách nhiệm. À, mà các anh có đói không ? ” Hai tên Việt Cộng mắt sáng lên. Minh bảo Hạ Sĩ Quan trực xuống Câu Lạc Bộ nói đem lên đây 2 tô bún ḅ và 2 ổ bánh ḿ. Trông 2 tên Việt Cộng ăn uống ngon lành, Minh nói với họ, “Cách đây nhiều năm, tôi cũng đă từng chiến đấu như các anh. Các anh c̣n trẻ quá ! Một ngày nào đó, các anh cũng sẽ nhận ra bộ mặt thật của cuộc chiến đấu này, giống như tôi cách đây nhiều năm về trước.” Cả hai ngước mắt nh́n anh chậm chạp rồi cúi gầm mặt xuống. Ăn xong, hai tên Việt Cộng tỉnh táo hẳn lên, chứng tỏ rằng họ đă bị đói có thể từ hôm trước. Minh hỏi cậu binh sĩ đứng bên cạnh, “ Có bật lửa không ? Lấy bao thuốc lá trên bàn kia, đưa cho các anh ấy hút một điếu đỡ lạnh. Trời đất ngày Tết lạnh hơi nhiều ! ” Bất chợt, Minh nh́n xuống bộ quân phục của ḿnh: một cái áo “Field Jacket ” cổ bọc lông thú nhân tạo, hai bông mai vàng gắn trên cái nền bằng nhung mầu hạt dẻ, cài trên ngực áo, giầy cao cổ, đầu đội mũ, đeo bao tay da mà c̣n thấy lạnh, vậy mà hai thanh niên kia c̣n quá trẻ, đói khát cả ngày, bị thương, mỗi người 1 cái quần đùi và cái áo vải đen mỏng dính, sát vào người, lại bị rách vài ba chỗ hở cả da, cả thịt… Ai cũng là người cả, dù họ là 2 tên Việt Cộng bị bắt làm tù binh… Đất nước, dân tộc ḿnh đau khổ là thế. Không biết đến bao giờ ?

Chiếc xe Dodge lăn bánh, chở toán lính vũ trang, đem 2 tên tù binh Việt Cộng giao cho Đặc Khu Đà Nẵng. Minh nh́n theo, buông 1 tiếng thở dài…

Tin tức quân sự cho hay: cuộc tổng tấn công của Việt Cộng trên khắp lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa đă bị đánh bại hoàn toàn. Địch chỉ c̣n chiếm giữ và kiểm soát khu vực Thành Nội của Cố Đô Huế. Một lúc nào đó, bọn Việt Cộng rồi cũng phải bỏ chạy khỏi nơi này. Số phận của các quân nhân, nhất là Sĩ Quan, nhân viên chính quyền, Đảng phái chính trị, nhân dân bị chúng coi là phản động đang trong gọng ḱm kiểm soát của chúng nó rồi sẽ ra sao?

Khi lực lượng Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Biệt Động Quân, rảnh tay ở các chiến trường đă thanh toán xong, cùng đổ về đây th́ bọn Việt Cộng chịu chi cho nổi. Chúng nó trên đường tháo chạy, đă lùa theo hàng ngàn người thuộc loại kể trên, trói lại từng xâu rồi cho lệnh bắn hàng loạt. Tiếc đạn quá, chúng nó cho lệnh giết bằng mă tấu, lưỡi lê, dao găm. Cứ thế mà chém ngang cần cổ, cứ lụi vào lưng. Không chết cũng đạp xuống những cái hố chôn tập thể đă được dân quân, du kích và dân công địa phương đào sẵn khi chúng thấy t́nh h́nh giữ Huế không c̣n nổi nữa. Phát xít Đức tàn sát người Do Thái, giết các quân nhân Ba Lan bằng pḥng hơi ngạt, bằng ḷ thiêu tập thể, hồi Thế Chiến thứ 2 đâu có ghê gớm, kinh khủng bằng lối giết người của Việt Cộng ở Huế trong dịp Tết Mậu Thân !

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1498598&stc=1&d=1576247871

Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa đă chiến thắng oanh liệt trên khắp 4 Vùng chiến thuật, cũng như tại thủ đô Sài G̣n…Tất cả Tiểu Đoàn tập họp tại Hội Trường. Thiếu Tá Viên muốn dành quyền cho các quân nhân trong đơn vị đề cử những Binh sĩ đă phục vụ xuất sắc, thuộc mọi lănh vực công tác, trong chiến dịch Tết Mậu Thân, vào danh sách thăng thưởng gửi lên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn duyệt xét. Các Sĩ Quan Đại Đội Trưởng, Trung Đội Trưởng đưa ra những binh sĩ xuất sắc thuộc quyền chỉ huy của ḿnh, như các chyên viên điện thoại dă chiến, chuyên viên vô tuyến điện, viễn ấn tự, siêu tần số, chuyên viên sưả chữa quân xa vv… đă tích cực phục vụ khi đi theo các cuộc hành quân trong vùng hay ngay tại đơn vị bất kể ngày đêm. Danh sách gồm những binh sĩ thật là xứng đáng được cấp trên khen thưởng, cho thăng cấp. Đến lượt Trung Úy Phan Đức Minh đứng lên. Anh nói,“Thưa Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng! Thưa quư vị Sĩ Quan cùng toàn thể anh em! Những binh sĩ xuất sắc của đơn vị ta đă được đề nghị ghi vào danh sách thăng thưởng, thật là xứng đáng! Tuy nhiên, chúng ta đă quên, đă bỏ sót một binh sĩ, theo tôi rất xứng đáng được ghi tên vào danh sách này. Đó là binh sĩ mà cách đây vài hôm tôi đă xin Thiếu Tá tha cho tội “Vô kỷ luật, bất tuân thượng lệnh”. Binh sĩ đó đang nằm bệnh viện với vết thương nơi bụng. Thiếu Tá đă chấp thuận. Hôm nay, một lần nữa tôi xin Thiếu Tá, quư vị Sĩ Quan cùng anh em hăy nghĩ đến Binh nhất Thắng đang nằm bệnh viện. Nếu Thắng nó cũng b́nh thường như mọi người b́nh thường khác th́ giờ này nó cũng đang vui xuân với đơn vị, với anh em, với gia đ́nh, bạn bè của nó. Tôi dùng tiếng “Nó” ở đây v́ chúng tôi coi nhau như anh em ruột thịt trong một gia đ́nh, như bạn bè thân thiết. Ngày gần đây, tại sân cờ đơn vị, chúng ta sẽ có nhiều binh sĩ được thăng cấp v́ công lao khó nhọc, gian khổ. Tại sao chúng ta không cho Binh Nhất Thắng được chia sẻ niềm vinh dự đó? Trong phạm vi chuyên môn, kỹ thuật, Binh Nhất Thắng là một binh sĩ giỏi, luôn luôn xung phong trong mọi công tác khi cần. Điều này chắc Đại Úy Đại Đội Trưởng của Thắng cũng đồng ư với tôi! Ngoài ra, Binh nhất Thắng, dù là một binh sĩ truyền tin, không thuộc đơn vị tác chiến, nhưng có một tinh thần chiến đấu, hi sinh, dũng cảm, sẵn sàng v́ Quân Đội, mà xả thân, lăn vào nguy hiểm, dám quên sinh mạng của chính ḿnh. Trong cuộc chiến tranh không trận tuyến này, có thể một ngày nào đó, biết đâu đơn vị chúng ta lại chẳng có khi bị địch tấn công, tràn vào như ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, Bộ Chỉ Huy Quân Trấn. Lúc đó, chúng ta không những chỉ cần có các chuyên viên kỹ thuật tài giỏi, phục vụ hăng say như quư vị Sĩ Quan và anh em đă đề nghị ghi vào danh sách. Lúc đó chúng ta nhất định cần phải có những quân nhân dũng cảm như Binh Nhất Thắng để chúng ta không bị tiêu diệt, không bị bắt làm tù binh, để chúng ta chiến thắng.…”. Cả Hội trường lại ch́m ngập trong tiếng vỗ tay, lẫn những tiếng hoan hô… Yên lặng một lát, Thiếu tá Viên hỏi, “Các Sĩ Quan nghĩ sao về điều này?” Tất cả đều đồng thanh “Binh nhất Thắng xứng đáng được thăng thưởng như lời Trung Úy Minh!” Thiếu tá Viên nửa đùa nửa thật, “Quân đội không có chơi cái màn lấy đa số mà áp đảo như vậy nghe! Quân Đội mà như thế th́ tôi, Tiểu Đoàn Trưởng cũng chịu thua anh em là cái chắc! Nói vui vậy thôi, tôi chấp thuận lời đề nghị của Trung Úy Minh.” Anh em lại vỗ tay ào ào một lần nữa. Ở phía sau có tiếng ồn ào, “Ghê thật! Trung Uy Minh đă xin tha tội vô kỷ luật cho thằng Thắng, nay lại c̣n xin thăng cấp đặc cách cho nó nữa. Thật chịu ông ấy luôn!” Có tiếng anh em khác, “Mà không chịu ông ấy làm sao được? Sĩ Quan xuất thân Trường Luật chớ bộ! Có lư quá đi chớ !Quân Đội là phải thưởng phạt công minh, rơ ràng.”.

Ít ngày sau, tại sân cờ đơn vị, một sáng đẹp trời, dưới bóng cờ bay phất phới, Thiếu Tá Viên cùng một số Sĩ Quan Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đi duyệt hàng quân thật nghiêm trang, long trọng. Quân nhân từng Đại đội, đều như máy, nhất loạt bồng súng chào, sau tiếng hô của Sĩ Quan trực nhật. Thế rồi buổi họp mặt “khao lon” tuy đơn giản nhưng vô cùng vui vẻ rộn ràng trong tiếng đàn, giọng hát của Ban Văn Nghệ Tiểu Đoàn, đă nhiều phen đoạt giải xuất sắc của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn .

Trung Úy Minh xin phép Thiếu Tá Viên, dẫn một “Phái Đoàn” sang Tổng Y Viện Duy Tân, gắn lon Hạ Sĩ cho Binh nhất Thắng, người quân nhân anh hùng của đơn vị. V́ là bạn thân văn chương, báo chí với Bác sĩ Thiếu tá Chỉ Huy Phó bệnh viện, và thường có mặt trong các buổi sinh hoạt vui vẻ của đơn vị Quân Y này cho nên khi Trung Úy Minh dẫn phái đoàn sang tới nơi th́ đă có một số nhân viên bệnh viện túc trực tại đây. Sau khi đọc quyết định thăng cấp đặc cách của Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I kiêm Tư Lệnh Vùng I chiến thuật, Trung Úy Minh tươi cười, nói với Thắng, “Cậu đang nằm trên giường bệnh, không mặc quân phục nên tôi xin phép thượng cấp, gắn cấp hiệu Hạ Sĩ lên ngực áo bệnh nhân cho cậu như thế này.” Anh em và đám nhân viên bệnh viện vui vẻ vỗ tay chúc mừng Hạ Sĩ Thắng, người quân nhân dũng cảm của Tiểu Đoàn truyền tin Quân Đoàn I, quên cả là mọi người đang ở bệnh viện. Hạ Sĩ Thắng xúc động, hai mắt long lanh, “Bạn bè thân thiết đă kể cho em biết hết về câu chuyện này. Xin vô cùng cảm ơn Trung Úy !”

Minh xiết tay Hạ Sĩ Thắng cùng toán anh chị em nhân viên bệnh viện với t́nh Huynh đệ chi binh dâng ngập trong ḷng, tất cả thân thương như anh em một nhà…Trung Úy Minh và phái đoàn đă ra xe đậu gần đó mà Hạ Sĩ Thắng và anh chị em nhân viên bệnh viện vẫn c̣n vẫy tay chào từ biệt. Ngoài trời, nắng ấm đă lên tràn ngập khung trời bệnh viện Duy Tân…


San Diego, California

Phan Đức Minh

hoanglan22
12-20-2019, 15:30
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1501983&stc=1&d=1576855758

Buổi sớm mai bầu trời có nhiều sương mù giăng dầy đặc khắp cả một vùng toàn rừng và đồi núi xung quanh, có hai người đàn ông, một trung niên và một trẻ, kẻ trước người sau lầm lũi đi về hướng những căn nhà của các cán bộ trại tù cải tạo. Người trẻ đi sau đeo cây súng AK trên vai, đó là viên vệ binh oắt con mặt lúc nào cũng vênh váo và thái độ th́ rất lấc cấc xấc xược. Viên vệ binh này nổi tiếng xấc xược với tất cả những người được gọi là cải tạo viên, dù người đó lớn tuổi đáng cha đáng chú của anh ta. Người đi trước lớn tuổi hơn và đó chính là vị Tướng bị mất nước và bị phỉnh gạt để phải có mặt ở chốn rừng thiêng nước độc này từ nhiều tháng qua. Theo cách làm việc của những người được gọi là “cách-mạng”, th́, luôn luôn bất ngờ và bí mật. Dù không được báo trước là sẽ đi đến đâu và làm ǵ, nhưng ông Tướng đoán biết là ông sẽ lại phải chịu bị thẩm vấn về một điều ǵ đó mà “cách-mạng” mới biết – hay đă biết rơ – nhưng muốn thẩm tra lại. Bản tính nghi ngờ cố hữu của người cộng sản luôn luôn là vậy.

Viên vệ binh đưa ông Tướng vào trong một căn pḥng và nói:

-Anh đứng chờ đấy. Cán bộ sẽ đến nàm việc với anh ngay bây giờ.

Nói xong viên vệ binh liền đi ra khỏi pḥng. C̣n một ḿnh, ông Tướng nh́n quanh quan sát căn pḥng. Căn pḥng vuông vức và không lớn; chỉ có một cái bàn và hai cái ghế. Căn pḥng chỉ có một cái cửa duy nhất mà ông Tướng vừa bước chân qua. Từ khi bị đưa về trại tù này, hôm nay là lần đầu tiên ông Tướng được đưa đến đây. Ông Tướng đă hiểu đúng là ḿnh được đưa đến đây để làm ǵ. Ông Tướng quay mặt lại nh́n ra phía sau lưng. Ông thấy tên vệ binh đáng tuổi con cháu ông vừa đi chân vừa đá những viên sỏi trên đường. Ông nhếch môi mỉm nụ cười nhẹ. Một nụ cười thương hại cho những người trẻ miền Bắc đă bị nhồi vào sọ một thứ chủ thuyết chỉ biết hận thù và xảo trá, nên họ mới có thái độ và những lời nói vô cùng xấc xược với những người bị thất thế mà phải vào đây; dù người đó đáng tuổi cha ông của họ. Đối với những người vệ binh có nhiệm vụ trong các trại tù mà ông đă ở qua, ông không hề oán trách hay giận họ khi họ có những thái độ và lời nói có tính miệt thị và hỗn xược với ông. Mà, nếu có trách oán th́ ông chỉ trách oán những người từ một đất nước xa lạ đă đến trên quê hương ông gọi là giúp đỡ mọi phương tiện pḥng thủ để chống lại bọn cộng phỉ phương Bắc đang âm mưu thôn tính các nước trong vùng. Từ đó, kẻ thù cùng màu da và tiếng nói với ông đă có lư do để tạo ra cuộc chiến tranh tương tàn. Khi quân đội miền Nam đang chiến thắng trên hầu hết các mặt trận th́ những người xa lạ kia liền rời bỏ quê hương ông ra đi sau khi đă cúp hết mọi viện trợ, để lại bao đau thương tang tóc uất hận cho đồng bào ông và, buộc quân đội hùng mạnh mà ông đang phục vụ phải buông súng đầu hàng trong tức tưởi. Quân đội miền Nam thật sự hùng mạnh và lừng danh với các sư đoàn thiện chiến,với các quân nhân gan dạ không hề sợ chết, quyết đem thân ḿnh ra chống trả lại sự xâm lăng để bảo toàn cuộc sống hạnh phúc ấm no cho đồng bào. Quân đội anh dũng đó đă và đang bị những đ̣n thù tàn độc mà kẻ thù cố ư giáng xuống bất cứ ở đâu và bất cứ nơi nào trên thân thể của những người được gọi với mỹ từ cao đẹp là, cải tạo viên.

“Buồn năo nề và hận tận xương tủy.” Đây là câu mà ông Tướng thường thốt ra mỗi khi ông nhớ lại những tháng ngày tung hoành trên khắp bốn quân khu, và, với hiện tại. Ông buồn và hận v́ đại đơn vị do ông chỉ huy chưa được đánh một trận nào ra hồn mà đă phải bị bắt buộc đầu hàng… dẫn đến việc ông phải đi tŕnh diện để vào tù. Ông Tướng lại nhớ đến vị Tướng Tư-Lệnh Quân Đoàn. Một vị Tướng tài giỏi và đức độ nhưng cô đơn.Trong trận Điện Biên Phủ ông ấyđă từng bắt nhịp bài Quốc ca Pháp La Marseillaise cho lính Quốc gia Việt Nam vừa hát vừa xông lên phản kích ở đồi C1 và được các sĩ quan Pháp nể phục. Ông Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn đă tự t́m đến cái chết để minh oan với toàn quân và toàn dân về việc thượng cấp đă đổ hết mọi tội lỗi cho ông trong cuộc lui quân khỏi vùng cao nguyên.

Cái c̣n lại trong cuộc đời mỗi con người là ân nghĩa. Ân nghĩa như ḍng suối mát tưới trên một đời người, một kiếp người. Vị Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn đă sống trọn vẹn ân nghĩa… cho đến ngày ông không c̣n trên cơi đời này nữa. Ông Tướng tin rằng, với một người như vị Tư Lệnh Quân Đoàn sẽ luôn mỉm cười nơi chín suối. Nếu ông Tướng là người không có đạo Công Giáo th́ ông đă gặp lại vị Tư Lệnh tài ba và đức độ của ông từ lâu rồi. Một phát súng vào đầu, đó là việc mà ông đă từng muốn thực hiện trước khi Saigon thất thủ.

Ông Tướng không hề ân hận khi quyết định ở lại với quê hương đất nước mà ông đă quyết dâng hiến cả cuộc đời để bảo vệ đến cùng. Ông là một trong những vị Tướng lănh vào những ngày thủ đô Saigon hấp hối vẫn c̣n phương tiện, c̣n trực thăng để bay ra hạm đội 7. Ông ở lại và hănh diện v́ đă làm tṛn bổn phận: Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm. Ông Tướng không lúc nào là không nhớ đến vợ con. Ông thương người vợ hiền và chung thủy đă quyết định ở lại quê hương cùng ông và chấp nhận mọi sự nghiệt ngă sẽ giáng xuống gia đ́nh, nên đă từ chối lời mời của viên Đại Tá Chỉ huy phó cơ quan DAO muốn giúp đưa đi di tản.

Ông Tướng vẫn đứng yên trước cái bàn và hai cái ghế. Hai mươi phút đă trôi qua mà vẫn chưa có người nào đến để gọi là làm việc với ông. Có lẽ kẻ thù muốn làm nhục ông bằng cách bắt ông phải đứng chờ dù trong bao lâu mà không được ngồi, nếu chưa được phép. Một sự lăng nhục có chủ ư và điều đó đă làm cho kẻ thù của ông lấy làm sung sướng. Họ sung sướng được hành hạ, được lăng nhục tất cả những vị sĩ quan của miền Nam, đặc biệt là những người mang cấp Tướng; là những người đă từng đánh cho họ tan tác và chạy trối chết đến phải trốn chui trốn nhủi tận trong rừng sâu. Nhưng, nếu như họ hả hê sung sướng một, th́ ông Tướng lại hả hê sung sướng gấp bội phần. Cho đến nay và măi măi kẻ thù sẽ không bao giờ khuất phục được ông. Kẻ thù đă áp dụng mọi cực h́nh tinh vi và tàn độc nhất… Ông và các vị Tướng thất thế luôn giữ thái độ của ngườiTướng lănh từng chỉ huy các đại đơn vị, nên, dù trong t́nh thế nào th́ kẻ thù cũng không bao giờ dám khinh thường.

Ông Tướng buồn bă nh́n lên tấm h́nh treo trên cao sau cái ghế. Cái ghế mà lát nữa đây sẽ có người cán bộ ngồi vào đó.Và, người đó dù với cấp bậc nào th́ cũng có quyền bắt ông Tướng phải nói ra những điều mà người đó muốn.Tấm h́nh lớn treo trên cao chụp gương mặt người đàn ông già với râu tóc bạc phơ mà đồng bào miền Bắc xem như là ông thánh.Trái lại, đối với ông Tướng và đồng bào miền Nam th́ lại xem ông là tên tội phạm đă đem một chủ nghĩa man rợ vô nhân tính vào quê hương để gieo rắc đau thương, hận thù, chia ly và tang tóc đến với mọi người.

Ông Tướng vẫn yên lặng đứng thẳng người trước cái ghế mà lát nữa đây ông sẽ ngồi vào đó. Ông sẽ ngồi vào cái ghế mà kẻ thù đă ví đó là ghế của bị cáo. Cũng như ở những nơi khác, cái ghế này đặt cách xa cái bàn khoảng nửa thước ngầm cho người ngồi vào ghế đó biết ḿnh là tội phạm.Tội không chịu buông súng sớm hơn để… được giải phóng sớm hơn. Ông Tướng miên man nghĩ, nếu như cuộc chiến chấm dứt mà phần thắng nghiêng về những người miền Nam th́ kẻ thù chắc chắn sẽ được đối xử đúng phẩm cách, đúng đạo lư và đúng với bản tính của con người Việt-Nam là, nhân đạo.

Cánh cửa sịch mở, một vị sĩ quan đeo cấp hàm đại úy xuất hiện.Viên đại úy đi thẳng đến cái ghế đặt sau cái bàn và rồi anh ta cố ư làm như là bận rộn t́m chỗ để đặt cái “xắc cốt” nên không nh́n đến ông. Ông Tướng quan sát viên sĩ quan. Anh ta là hiện thân của giai cấp bần cố nông v́ cái mặt nh́n thật ngu đần và gian ác, với mái tóc như rễ tre trên cái mặt đen xạm và tai tái của người bị bệnh sốt rét quanh năm. Cái hàm răng của viên sĩ quan làm cho ông Tướng nhớ đến những năm tháng ông phục vụ ở vùng đồng bằng sông Cửu-Long. Trong một đơn vị kia có một người lính gan ĺ và sát cộng nổi tiếng đến độ Việt cộng t́m mọi cách để trừ khử mà không được. Đó là theo lời khai của các cán binh Việt cộng khi bị bắt. Một hôm ông ghé thăm đơn vị này, các đồng đội của anh lính nổi tiếng sát cộng trong một lúc vui đùa đă chỉ vào người lính có hàm răng trên nhô ra như mái hiên nhà và nói với ông: “Trung Tá ơi, thằng này ngoài tài sát cộng, nó c̣n có tài nạo dừa mà chỉ trong tích tắc là hết một trái mà không cần đến bàn nạo.” Nghĩ đến những trái dừa làm cho ông Tướng nhớ đến một vùng quê hương nổi danh với món kẹo dừa thơm ngon và béo ngậy. Những viên kẹo dừa thơm phức và ngọt lịm làm cho ông Tướng phải nuốt vội nước miếng. Một trong những phương pháp trả thù của kẻ thù là không bao giờ cho những “cải tạo viên” được ăn no nhưng lại bắt phải làm việc thật nhiều và thật nặng. Nh́n cái tướng bần cố nông của viên Đại úy, ông Tướng đoán tŕnh độ học vấn của anh ta chắc chắn chỉ i tờ… đă làm cho ông, một lần nữa phải thốt ra câu: “Buồn năo nề và hận tận xương tủy.”

Sau khi viên sĩ quan đặt được cái ‘xắc cốt” lên bàn và kéo ghế ngồi, hắn chỉ tay vào cái ghế trước mặt:

-Anh… ngồi xuống đấy đi.

Ông Tướng từ từ ngồi xuống với hai tay đặt trên đùi. Ông Tướng hơi ngẩng đầu nh́n lên cao nhưng lại vội vàng cúi xuống nh́n ngay mặt viên sĩ quan; tuy có ngu đần nhưng cũng đỡ hơn nh́n h́nh tên tội phạm.

Viên sĩ quan rót nước trà vào hai cái ly, hắn đặt ly nước trà trước mặt ông Tướng và mời:

-Mời anh dùng cốc lước chè cho ấm. Giời hôm lay hơi nạnh đấy.

Ông Tướng mỉm nụ cười nhưng vẫn ngồi yên và mắt vẫn nh́n ngay mặt viên sĩ quan chờ đợi.Từ khi phải đi tù, ông Tướng đă tiếp xúc với những người sĩ quan đối nghịch từ cấp nhỏ cho đến cấp Tướng. Nhiều người trong họ nói ngọng N ra L và ngược lại. Mặc dù là người đang có quyền nhưng rơ ràng viên sĩ quan đă tỏ ra lúng túng khi thấy thái độ của ông Tướng nh́n ḿnh và cười mỉm. Anh ta cố giữ cho b́nh tĩnh khi cầm bao thuốc lá Sông Hương, một loại thuốc thơm cao cấp rút ra một điếu gắn lên đôi môi thâm đen ś và đốt hút. Hút xong một hơi dài, anh ta đưa bao thuốc về phía ông Tướng và mời:

– Mời anh.

– Cám ơn cán bộ, tôi không hút.

– Anh không hút thuốc à?

– Có… nhưng hiện tại tôi không thấy thèm.

Viên sĩ quan để bao thuốc lá bên cạnh, bên tay trái của anh ta rồi từ từ lấy trong cái “xắc cốt”ra một tập hồ sơ. Viên sĩ quan nh́n vào tập hồ sơ và nói chứ không nh́n ông Tướng:

-Hôm lay tôi được trên giao nhiệm vụ đến gặp anh để hỏi anh một vài vấn đề… cho được sáng tỏ hơn. Anh cũng hiểu nà chúng tôi đă biết hết mọi chuyện rồi nhưng chúng tôi vẫn muốn tự anh viết ra để trên có cơ sở đánh giá xem anh có thành thực và đă nĩnh hội được như thế lào về cách mạng. Trong bản tự khai của anh có hai vấn đề mà anh cố t́nh giấu giếm không viết ra. Buổi lói chuyện hôm lay nà cơ hội để cho anh lói ra hết những ǵ c̣n nấn cấn trong ṇng anh. Chúng tôi muốn biết nà… giai đoạn… từ núc anh về chỉ huy một đại đơn vị thuộc Quân khu II cho đến khi anh nên Tướng, cụ thể anh đă giết bao nhiêu người chiến sĩ cách mạng của chúng tôi mà trong tờ khai không thấy anh viết ra?

-Tôi vào…

Trong một phút sơ hở v́ phải chú ư lắng nghe xem viên sĩ quan muốn nói ǵ, hỏi ǵ với giọng ngọng nghệu và đặc sệt của người dân Nghệ Tĩnh, nên, ông Tướng đă để cho viên sĩ quan chỉ tay vô mặt ông và nói như quát:

-Trước khi trả nời tôi hay anh muốn lói với tôi điều ǵ anh phải… thưa gởi cho đúng phép nhé. Chúng tôi nà cán bộ được đảng giao trách nhiệm giáo dục các anh để trở thành người có ích cho xă hội. Chúng tôi sẽ nghiêm trị bất cứ người lào vẫn ngoan cố không chịu tiếp thu những ǵ chúng tôi đă truyền dạy.

Sau câu nói, viên sĩ quan thay đổi nét mặt và nh́n ông Tướng vẻ dịu dàng hơn:

– Bây giờ anh lói tiếp đi.

Ông Tướng nuốt nhanh nước miếng như nuốt nỗi uất nghẹn vào tận đáy ḷng. Quân đội mà ông từng phục vụ luôn tôn trọng phẩm cách con người, dù người đó là người dân b́nh thường hay là kẻ thù bị lính của ông bắt được. Ông Tướng từng cảm thấy phiền ḷng khi biết được những người an ninh thuộc quyền ông đă có hành vi tra tấn hay lời nói mạt sát với những người cán binh Việt cộng trong lúc bị thẩm cung; ngoại trừ những người ngoan cố. Nhưng, hôm nay vị thế của ông Tướng đă khác rồi. Được làm vua, thua làm… tù binh. Mà, tù binh của cộng sản th́ phải chịu đủ mọi thứ hành hạ. Ông nói nho nhỏ trong miệng câu mà ông vẫn thường nói: “Buồn năo nề và hận tận xương tủy.”

-Thưa cán bộ, tôi về Quân khu II năm 1972 và chỉ huy một trong những binh chủng thiện chiến nhất của miền Nam.Tôi đă chỉ huy nhiều chiến dịch và những trận đánh… Chẳng hạn như trận Pleime năm 1965 và 1974. Đặc biệt là năm 1974 khi Sư đoàn 320… của cách mạng sau ba mươi ba ngày đêm với hai mươi hai lần tấn công biển người vào căn cứ… chỉ có năm Đại đội pḥng thủ, nhưng, đă không chiếm được căn cứ. Nếu cán bộ muốn biết chúng tôi đă giết bao nhiều người của cách mạng th́ tôi xin xác nhận là… rất nhiều.Tôi chỉ có thể phỏng chừng là… nhiều chục ngàn…

Viên sĩ quan ngắt ngang lời ông Tướng và hỏi:

-Anh có thấy đó nà tội ác chống nại nhân dân chống nại cách mạng với vũ khí của bọn Mỹ không?

-Thưa cán bộ, đă là người lính, mà lại là người lính trong suốt hai mươi hai năm trời ngoài mặt trận để chống lại sự xâm lăng…

Viên sĩ quan đổi sắc mặt giận dữ và đập mạnh tay lên bàn. Đôi con mắt của anh ta long lên như tóe lửa nh́n ngay mặt ông Tướng thất thế và quát lên thật lớn đến văng cả nước miếng ra bàn:

-Anh phải nhận định cho rơ ai nà người xâm năng mới được. Có phải đó nà bọn Mỹ ác ôn không? Bọn Mỹ đă đem vũ khí súng đạn tàu bay tàu thủy vô xâm chiếm lước ta và c̣n được bọn ngụy các anh tiếp tay lên đảng của chúng tôi mới phát động cuộc chiến tranh giải phóng và đă đưa đến thắng nợi hoàn toàn vào lăm một chín bảy nhăm. Đảng của chúng tôi đă nănh đạo công cuộc giải phóng miền lam khỏi bọn xâm nược Mỹ, và đánh cho bọn ngụy ác ôn các anh phải đầu hàng vô điều kiện để đưa đến thắng nợi nà v́ đảng của chúng tôi, quân đội anh hùng của chúng tôi được toàn dân ủng hộ. Anh nà Tướng anh phải thấy rơ điều lày hơn ai hết để mà ăn lăn hối cải qua việc học tập và nao động để trở thành người có ích cho xă hội sau lày. Lếu các anh cải tạo tốt th́ rồi đây trên cũng sẽ xem xét mà dùng nại các anh tùy theo khả lăng và tŕnh độ nhận thức của mỗi người.

Viên sĩ quan ngưng nói và cầm ly nước trà lên uống. Viên sĩ quan thấy ông Tướng ngồi im như lắng nghe nên anh ta cố tỏ ra nhă nhặn với ông Tướng và hỏi với giọng nhẹ nhàng hơn:

-Một điều quan trọng lữa cũng không thấy anh viết ra đó nà: Anh nà người được nên Tướng sau cùng của miền lam để lắm quyền Tổng chỉ huy cuộc tháo chạy khỏi cao nguyên. Chúng tôi muốn anh lói ra đây rơ ràng và chính xác về cái kế hoạch rút quân khỏi cao nguyên của anh như thế lào mà để rồi bị chúng tôi đánh đến không c̣n một manh giáp lào cả, nà sao?

-Thưa cán bộ, cán bộ cũng là quân nhân và cũng có cấp bậc cao th́ cán bộ cũng hiểu là, ngoài tôi là vị Tướng mới được vinh thăng th́ Quân đoàn c̣n có vị Tư lệnh và Phó Tư lệnh. Quân đoàn có nhiều đơn vị, có nhiều cơ quan, tôi đâu biết là những đơn vị nào, đồn trú ở đâu, ai chỉ huy…Vậy làm sao tôi thảo kế hoạch và điều động được để gọi là Tổng chỉ huy?

-Thế… đài phát thanh Saigon và đài quân đội… Chẳng nẽ họ lói sai?

-Thưa cán bộ, tôi không biết v́ đâu và do ai mà đài phát thanh đă gọi tôi là Tổng chỉ huy trong khi hai vị Tư lệnh và Tư lệnh phó Quân đoàn c̣n đó… th́ làm sao tôi là Tổng chỉ huy cho được… Do đó tôi đă không viết ra trong bản tự khai.

Viên sĩ quan bây giờ không c̣n nh́n ông Tướng với ánh mắt hằn học nữa. Anh ta nh́n vào tập hồ sơ trước mặt và hút thuốc liên tục, chứng tỏ anh ta đang bị bối rối và suy nghĩ nhiều. Có lẽ viên sĩ quan thấy điều cần muốn biết đă được ông Tướng giải đáp thỏa đáng nên một lúc lâu sau, viên sĩ quan kết luận:

-Thôi, hôm lay nàm việc với anh như thế nà tạm đủ. Hy vọng những nần tới anh sẽ… tiến bộ hơn và sẽ cho chúng tôi biết nhiều việc hơn. Anh về và viết nại bản tự khai khác rồi sẽ có người đến nhận.Thôi, anh về nghỉ… cho khỏe.

Viên vệ binh có cái mặt lấc cấc đă đứng chờ ngoài cửa khi ông Tướng bước ra. Ông Tướng bước từng bước chầm chậm đi trước tên vệ binh về hướng lán trại, nơi ông đang phải bị giam giữ chẳng khác ǵ Chúa Sơn Lâm bị giam trong lồng sắt. Ông Tướng cũng chính là Chúa Sơn Lâm, là con cọp đầu đàn của một đại đơn vị thiện chiến thuộc vùng rừng núi. Nh́n khung cảnh chung quanh trại tù, ông Tướng bùi ngùi nhớ lại những địa danh, những khu rừng, những chiến binh cảm tử đủ mọi cấp bậc đă cùng ông Tướng xông pha chiến trận ngày nào; không biết bây giờ họ ra sao. Ông Tướng cũng nhớ đến vị sĩ quan Thiếu Tá Tiểu đoàn trưởng anh hùng trong trận Pleime 1974 đă làm cho cả một Sư đoàn Việt cộng phải ôm hận. Ông ấy là người sĩ quan giỏi, đă dẫn đơn vị nguyên vẹn băng rừng từ Quăng Đức về đến Long Khánh, c̣n nhập vào Sư Đoàn 18 Bộ Binh đánh một trận để đời nữa. Đó là một trong những cấp chỉ huy ưu tú mà ông Tướng có được. Rất tiếc thời cuộc không cho phép ông Tướng thực hiện những ǵ ông ấp ủ.

Nh́n về nơi lán trại vẫn c̣n ch́m trong màn sương trắng, ông Tướng như thấy người vợ hiền và những đứa con thân yêu đang đứng đó… đưa những cánh tay gầy guộc về phía ông làm cho trái tim ông Tướng nhói đau như bị mũi dao ghim vào. Ông Tướng cúi đầu nh́n xuống bước chân ông đang bước những bước nặng nề và nói khe khẽ:

-Buồn năo nề và hận tận xương tủy!./.

ToPa (Ḥa-Lan)

hoanglan22
12-20-2019, 15:33
Lực lượng pḥng thủ của VNCH

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1501985&stc=1&d=1576855971

Bộ binh :

Theo lời kể của Trung Úy Phan Văn Phụng, Trưởng ban hành quân Tiểu đoàn 3/53 BB :

– Tiểu đoàn 1/53 đóng tại Căn cứ B.50. là hậu cứ của Trung đoàn 53 mỗi khi đi hành quân về. Giờ đây Tiểu đoàn được nằm tại hậu cứ Trung đoàn cùng với BCH Trung đoàn.

– Tiểu đoàn 3/53 có 2 đại đội nằm ứng chiến tại khu Gia Binh Sư đoàn 23 tại mặt Nam của thị xă, 1 đại đội pḥng thủ Hậu cứ BTL/SĐ 23, phía Bắc của khu Gia Binh. C̣n Đại đội thứ tư được tăng phái pḥng thủ cầu 14, phía Nam của BMT, trên đường đi Quảng Đức.

– Tiểu đoàn 2/53 cùng với Bộ chỉ huy nhẹ của Trung đoàn 53 đang pḥng thủ Căn cứ Dak Song thuộc Tiểu khu Quảng Đức.

– Đại đội Trinh sát của Trung đoàn 45 hoạt động tại vùng Quảng Nhiêu, phía Bắc Đắc Lắc, ngày 8-3-1975 được điều về lục soát khu vực Bản Đôn, phía Tây thị xă BMT, ngày 9-3-1975 được kêu về nằm ứng chiến trong ṿng đai Phi trường Phụng Dực.

Pháo binh :

Theo bài viết của Đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tiểu khu trưởng Đắc Lắc, th́ vào thời điểm chiến trận nổ ra, tại BMT chỉ có 1 trung đội pháo binh của Sư đoàn 23. Nhưng theo lời kể của Thiếu úy Vĩnh B́nh, Pháo đội phó Pháo đội A thuộc Tiểu đoàn 231/PB th́ lúc đó tại BMT có tới 1 Tiểu đoàn pháo binh VNCH, đó là Tiểu đoàn 231/PB, được bố trí như sau :

– Pháo đội A có 3 trung đội : 1 trung đội đóng tại xă Đạt Lư, cách trung tâm BMT 5 cây số về hướng Bắc, trên Quốc lộ 14; 1 trung đội đóng tại cây số 72 trên Quốc lộ 21, gần đồn Chu Cúc giáp ranh với Tiểu khu Khánh Ḥa; 1 trung đội đóng tại phi trường L.19, cách Trung tâm thành phố 2 cây số. ( Mỗi trung đội là 2 khẩu 105 ly ).

– Pháo đội B gồm có 2 trung đội đóng tại hậu cứ Tiểu đoàn 231/PB, bên cạnh phi trường Phụng Dực, gần căn cứ B.50; và 1 trung đội đóng gần Khu gia binh Sư đoàn 23/BB để yểm trợ cho các đơn vị đang pḥng thủ tại khu vực cầu 14, phía Nam BMT.

– Pháo đội C đóng tại Gia Nghĩa, Quảng Đức để yểm trợ cho Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 53 tại căn cứ Dak Song và Liên đoàn 24 Biệt động quân đang hoạt động tại Quảng Đức. Nhưng thay vào đó, có 1 trung đội pháo binh 155 ly thuộc Tiểu đoàn 230/PB đóng trong ṿng đai phi trường Phụng Dực; và một Trung đội pháo binh diện địa ( 105 ly ) của Quân khu 2 đóng tại khu Thiết giáp, ŕa Tây Bắc của thành phố, dùng để yểm trợ cho các đơn vị ĐPQ trong phạm vi Chi khu Ban Mê Thuột.

Tổng cộng là 8 trung đội Pháo binh, gồm 14 khẩu 105 ly và 2 khẩu 155 ly. Ngoại trừ trung đội pháo binh diện địa thuộc quyền điều động của Ban chỉ huy Pháo binh thuộcTiểu khu Đắc Lắc, 7 trung đội c̣n lại thuộc quyền chỉ huy của Thiếu tá Đào Đắc Đạo, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 231/PB. ( Có lẽ bài viết của Đại tá Luật hiểu lầm về lực lượng pháo binh có khả năng phản pháo là trung đội 155 ly duy nhất bố trí giữa phi trường Phụng Dực và Căn cứ B.50 ).

Thiết giáp :

Tại Căn cứ B.40 có 1 đại đội thiết vận xa M.113 đóng chung với BCH trung đoàn 53.BB.

Tại khu Thiết giáp, phía Tây thị xă BMT, có 1 đại đội thiết vận xa M.113 gồm 11 chiếc. Tuy nhiên M.113 chỉ là những xe chở lính chứ không phải là chiến xa, cho nên không thể tung ra đối đầu với xe tăng T.54 của CSVN. M.113 chỉ được dùng như những ụ súng đại liên di động để pḥng thủ trong trường hợp bị tấn công. Và kể từ sau trận Mậu Thân th́ M.113 trở thành mục tiêu lư tưởng cho các xạ thủ B.40, B.41 của quân đội CSVN.

Riêng trong trận này, 11 thiết vận xa tại khu Thiết Giáp trở thành mục tiêu cho đại bác của xe tăng T.54, súng chống tăng B.40, hỏa tiễn chống chiến xa AT.3 của quân CSVN. Lính Thiết giáp VNCH không dại ǵ leo vào các xe M.113 để chiến đấu, họ nằm trên mui xe với súng đại liên để chờ bộ binh địch, nhưng một khi đă ở trong tầm bắn của xe tăng T.54 của CSVN th́ họ phải bỏ xe và bỏ chạy.

Diễn tiến trận đánh

Ngày 10-3,

– Lúc 2 giờ sáng, các khẩu pháo 130 ly và 122 ly của Trung đoàn 40 pháo binh CSVN ( 36 khẩu ) đồng loạt pháo kích vào BCH Tiểu khu Đắc Lắc, hậu cứ BTL Sư đoàn 23, Phi trường L.19 ( Ŕa phía Đông Bắc của thị xă ), Kho đạn Mai Hắc Đế ( Ŕa phía Tây của Thị xă. ). Tất cả các điểm đặt pháo từ hướng Tây của Thị xă , nhưng v́ khu vực Bản Đôn không c̣n quân VNCH hoạt động cho nên không có sĩ quan xác định tọa độ để phản pháo.

Hơn nữa, do v́ các trung đội pháo binh của VNCH tại BMT đều là súng 105 ly và 155 ly cho nên dù có biết được tọa độ đặt súng của pháo binh CSVN th́ cũng đành chịu thua bởi v́ súng 105 ly bắn hết tầm chỉ có 10 cây số, súng 155 ly bắn hết tầm là 15 cây số. Trong khi súng 130 ly của CSVN bắn xa tới 27,8 cây số; hoặc súng 122 ly bắn xa tới 15,4 cây số, nếu bắn đầu đạn trái phá tên lửa th́ xa tới 21 cây số. Tất cả các khẩu 130 ly và 122 ly của Trung đoàn 40 PB/CSVN đều đặt cách BMT trên 15 cây số.

– Lúc 2 giờ sáng, trong lúc pháo của quân CSVN bắn vào BCH Tiểu khu và BTL Sư đoàn 23 th́ 2 tiểu đoàn đặc công của Trung đoàn 198 tấn công phi trường L.19 trong thị xă, phi trường được canh gác bởi 2 đại đội pḥng thủ của Không quân. Đến 4 giờ sáng th́ quân CSVN chiếm được 2/3 phi trường nhưng thiệt hại nặng v́ đụng phải Chiến đoàn 3 của Lực lượng Lôi Hổ đóng trong ṿng đai Phi trường L.19, nên phải trụ lại chờ tiếp viện..

– Cùng lúc 2 giờ sáng, một đội Đặc công của Trung đoàn 198 CSVN hướng dẫn Tiểu đoàn 9 của Trung đoàn 149 thuộc Sư đoàn 316 CSVN lên đường đi đánh Phi trường Phụng Dực đang do 1 tiểu đoàn ĐPQ/VNCH trấn giữ.

– Lúc 4 giờ sáng, quân CSVN tấn công kho đạn Mai Hắc Đế. Lúc 5 giờ sáng, Đại úy Chỉ huy trưởng kho đạn bị thương nặng. Lúc 5 giờ 30 sáng, kho đạn Mai Hắc Đế bị tràn ngập.

– Lúc 5 giờ sáng, Tiểu đoàn 9 của Trung Đoàn 149 thuộc Sư đoàn 316/CSVN không t́m được lối tiếp cận hàng rào phi trường cho nên tam chiếm khu chợ xă Ḥa B́nh rồi báo cáo đă khống chế được quận lỵ Ḥa B́nh ( Tức là khu sân bay Ḥa B́nh, hay là phi trường Phụng Dực. Sự thực là chưa vào được phi trường, đến 10 giờ mới báo cáo là đă bị địch chặn lại ).

– Lúc 6 giờ sáng BCH Trung đoàn 149 CSVN và 2 tiểu đoàn trực thuộc bắt đầu tấn công Căn cứ B.50 đang do Tiểu đoàn 1/53 trấn giữ.

– Lúc 7 giờ sáng, đoàn xe tăng đầu tiên của CSVN cùng với Trung đoàn 95.B CSVN tiến vào trung tâm thành phố, Tiểu khu trưởng Đắc Lắc là Đại tá Nguyễn Trọng Luật xin phép được di chuyển qua Trung tâm hành quân của Sư đoàn 23 BB để cùng Đại Tá Vũ Thế Quang chỉ huy lực lượng chống trả.

– Lúc 8 giờ sáng, Tổng cục Tiếp vận tại Sài G̣n nhận được tin mất liên lạc hữu tuyến lẫn vô tuyến với Ban Mê Thuột. Đại tá Phạm Bá Hoa, Tham mưu trưởng Tổng cuc, t́m cách liên lạc với Chiến đoàn 3 của Lực lượng Lôi Hổ tại phi trường L.19 BMT. ( Là đơn vị có máy liên lạc siêu tần số trực tiếp với BTTM ).

Vị sĩ quan chỉ huy của Lực lượng Lôi Hổ cho biết : “ Xe tăng của tụi nó đă vào cuối sân bay rồi…… Xe tăng của tụi nó tấn công kho đạn đêm qua, và tụi nó tiến vào thành phố rồi. Khu vực Bộ tư lệnh Sư đoàn 23 và bên BCH Tiểu khu đều có tiếng súng dữ lắm, em chưa rơ lắm, nhưng em nghĩ là bị tụi nó chiếm hết rồi, bậy giờ em phải rút ra ngoại ô. Chào Đại tá” ( Phạm Bá Hoa, Đôi Ḍng Ghi Nhớ, trang 268 )

– Lúc 9 giờ sáng, 2 xe tăng CSVN bị bắn cháy tại đường Thống Nhất.

– Lúc 11 giờ sáng, 1 xe tăng T.54 của CSVN bị Trung đội T́nh báo thuộc Tiểu khu Đắc Lắc bắn cháy trước cổng BCH Tiểu khu, trên đường Thống Nhất.

– Lúc 11 giờ 30 trưa, 2 xe tăng CSVN bị phi cơ bắn cháy cách thành phố 2 cây số hướng Tây Bắc.

– Lúc 12 giờ 45 trưa, Trung tâm hành quân của BCH Tiểu Khu bị trúng pháo của xe tăng CSVN. Ban tham mưu hành quân tại TTHQ/Tiểu Khu di chuyển qua TTHQ của BTL/SĐ 23.

– Lúc 1 giờ 30 trưa, Trung đoàn 24 thộc Sư đoàn 10 CSVN tấn công vào BCH Tiểu khu.

– Lúc 2 giờ chiều, Trung đội T́nh báo Đắc Lắc và Trung đội Công vụ ĐPQ rút khỏi BCH Tiểu khu.

– Lúc 2 giờ chiều, 4 xe tăng CSVN bị Tiểu đoàn 204 ĐPQ/VNCH bắn cháy trong thành phố.

– Lúc 2 giờ chiều, Trung đoàn 149/SĐ 320 CSVN ( thiếu tiểu đoàn 9 ) tấn công căn cứ B.50 đang do Tiểu đoàn 1/53 thuộc Trung đoàn 53 BB/VNCH trấn giữ. Tiểu đoàn 231 Pháo binh VNCH đóng trên đồi đối diện với căn cứ B.50 bèn chong 2 khẩu 105 ly bắn trực xạ vào 2 tiểu đoàn CSVN đang tấn công B.50.

Đến 3 giờ 30 chiều th́ cuộc tấn công hoàn toàn thất bại, quân CSVN chạy tháo về hướng Tây Nam, đụng phải Đại đội trinh sát thuộc Trung đoàn 45 VNCH đang chờ sẵn tại b́a rừng cao su gần phi đạo. Sau khi im tiếng súng, Đại đội Trinh sát VNCH đếm được 40 xác chết, 100 nón cối rơi lại, thu nhiều vũ khí, trong đó có 5 hỏa tiễn tầm nhiệt SA.7 c̣n mới nguyên. C̣n tại căn cứ B.50 đếm được khoảng 150 xác, thu 50 vũ khí.

– Lúc 3 giờ 30 chiều, chiến trường im tiếng súng.

Đại tá Luật báo cáo cho tướng Phú là trong ngày đă bắn cháy 7 xe tăng của quân CSVN. Tướng Phú cho biết Liên đoàn 21 BĐQ đang tiến về BMT ( Bài viết của Đại tá Luật cho biết quân BĐQ đi bộ từ Buôn Hô đến BMT nhưng sự thực 24 giờ sau quân BĐQ mới đến ).

T́nh h́nh trong đêm yên tĩnh. Theo như bài viết của Đại tá Luật th́ Kho đạn Mai Hắc Đế, phi trường L.19 và BCH/ Tiểu khu đă bị địch chiếm, ông và Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 BB đang cố thủ tại Hậu cứ BTL/SĐ 23 và chờ tiếp viện của Quân đoàn.

Đặc biệt Đại tá Luật không nói ǵ tới lệnh lạc của Bộ tư lệnh Quân khu 2 hay của Tướng Phạm Văn Phú, hay của Tham mưu trưởng Quân khu Lê Khắc Lư. Và tài liệu của Thiếu tá Phạm Huấn, người đang theo sát Tướng Phú, cũng không có một ḍng đả động tới chuyện Tướng Phú có liên lạc hay ra lệnh cho Đại tá Luật hoặc Đại tá Quang trong 2 ngày 10 và 11-3-1975.

Về phần CSVN th́ trong đêm 10-3, Tướng Đặng Vũ Hiệp ghi vào sổ tay : “Đă chiếm được sân bay thị xă và ṭa tỉnh trưởng, khống chế được sân bay ḥa B́nh ( phi trường Phụng Dực ). Các mũi đều đánh tốt, riêng mũi phía Nam ( Trung đoàn 149 ) có khó khăn, thắng lợi thu được chưa tương xứng với tổn thất của bộ đội”. Đây là Tướng Hiệp viết theo lối tuyên huấn để tránh nói ra sự thật là Trung đoàn 149 CSVN đă bị xóa sổ.

Như vậy là trong ngày quân CSVN chưa chiếm BCH Tiểu Khu như Đại tá Luật đă viết, chẳng qua là lúc 2 giờ chiều Trung đội T́nh báo và Trung đội Công vụ đă rút khỏi BCH/TK để hộ tống BCH hành quân Tiểu khu Đắc Lắc di chuyển về BCH hành quân SĐ23.BB/VNCH.

Riêng tư dinh tỉnh trưởng, sát với BCH Tiểu khu, do 1 trung đội ĐPQ ( Trung úy Hoành ) trấn giữ vẫn cầm cự cho tới 7 giờ 45 sáng hôm sau.

*Chú giải : So sánh cách bố trí lực lượng của quân VNCH và kế hoạch tấn công của quân CSVN th́ phía CSVN có nhiều sơ xuất trầm trọng. Trong khi lực lượng chính của VNCH tập trung tại khu vực Phi trường Phụng Dực với BCH Trung đoàn 53 và Tiểu đoàn 1/53, 1 tiểu đoàn ĐPQ, 1 đại đội Trinh sát Bộ binh, 1 Đại đội Pháo binh với 2 khẩu 155 ly và 4 khẩu 105 ly, 1 chi đội Thiết vận xa M.113 ( khoảng 15 chiếc )

Thế nhưng tướng CSVN Hoàng Minh Thảo đă phân công cho 1 trung đoàn ( hơn 2.000 người ) và 1 đại đội xe tăng đánh vào BTL/Sư đoàn 23 mà nơi này chỉ có 1 đại đội Bộ binh pḥng thủ ( Khoảng 100 người ). Một trung đoàn khác ( hơn 2.000 người ) cùng với 1 đại đội xe tăng tấn công BCH Tiểu khu mà nơi này chỉ có trung đội công vụ của Tiểu Khu và Trung đội t́nh báo TK pḥng thủ ( 2 trung đội khoảng 60 người ). Và một trung đoàn khác ( hơn 2.000 người ) cùng 1 đại đội tăng đánh vào khu vực Kho xăng của SĐ.23 nhưng tại đây chỉ có 1 trung đội lính văn pḥng canh giữ ( khoảng 30 người ).

Trong khi đó lại phân công cho 1 trung đoàn ( hơn 2.000 người ), không có xe tăng, đánh khu vực phi trường Phụng Dực khiến cho cả 1 trung đoàn tan tành sau 2 giờ chiến đấu. Theo sách vở quân sự, muốn tấn công lực lượng đang pḥng thủ tại khu phi trường Phụng Dực ( khoảng 1.400 người ) th́ quân CSVN phải là 1 sư đoàn ( Từ 8.000 đến 10.000 người ).

Hồi kư của tướng CSVN Đặng Vũ Hiệp, trang 418 : “Việc đánh chiếm sân bay Ḥa B́nh và căn cứ Trung đoàn 53 là mục tiêu quan trọng phải đánh ngay từ đầu. V́ nhiều lư do công tác bảo đảm, ta không thể đưa bộ binh và xe tăng vào để đánh ngay mà chỉ sử dụng Trung đoàn Đặc công 198 thực hiện nhiệm vụ này, khi được lệnh nổ súng, lúc 2 giờ 10 phút ngày 10 tháng 3 Trung đoàn nhanh chóng chiếm được sân bay Ḥa B́nh.

Nhưng khi đánh vào căn cứ 53, Trung đoàn 198 gặp nhiều khó khăn, tuy có đánh chiếm một số mục tiêu nhưng sau đó địch đă phản kích và đánh bật ta ra và cho xe tăng bịt cửa mở”.

Ngoài ra, sự thực đơn vị CSVN đánh khu vực Phụng Dực là Trung đoàn 149 của Sư đoàn 320 CSVN chứ không phải là Trung đoàn Đặc công 198 CSVN, bởi v́ trang 407 Tướng Hiệp cho biết trong ngày 11-3-1975 “Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 198 CSVN đánh chiếm căn cứ Dak Song” ( Quảng Đức ). Và trang 409 cho biết lúc 2 giờ 3 phút “Trung đoàn Đặc công 198 ( thiếu tiểu đoàn 2 ) tiến công thị xă Buôn Ma Thuột. Sau 2 giờ chiến đấu, bộ đội đặc công đă chiếm 2 phần 3 sân bay thị xă ( phi trường L.19 )”. Vậy th́ lấy đâu ra một trung đoàn 198 khác để đánh sân bay Ḥa B́nh, tức là phi trường Phụng Dực?

Theo Thiếu úy Nguyễn Công Phúc, một sĩ quan của đại đội Trinh sát của Trung đoàn 45 VNCH th́ sau trận đánh sáng ngày 10-3 tại ṿng đai phi trường Phụng Dực, Thiếu úy Phúc lục được một quyển sổ tay trong xác của một Đại đội trưởng CSVN cho thấy đây là Tiểu đoàn K.5 thuộc Sư đoàn 316 CSVN từ Miền Bắc mới vào Nam bằng xe hơi.

BÙI ANH TRINH

hoanglan22
12-23-2019, 14:27
Vào dịp cuối năm 1994, một buổi họp mặt các cựu tù nhân chính trị được tổ chức ở San Diego. Xướng ngôn viên của buổi lễ cho biết: “Khi tôi xướng tên trại nào, nếu quư anh là trại viên của trại đó, xin đứng dậy và tự giới thiệu tên của ḿnh để các anh em khác được biết”. Nhiều trại cải tạo ở miền Bắc được lần lượt xướng tên như “Phong Quang”, “Yên Bái”, “Vĩnh Phú”, “Thanh Cẩm”, “Lư Bá Sơ”, “Nam Hà”, “Phú Sơn” v.v... Trại nào cũng có năm bảy anh đứng dậy và giới thiệu tên của ḿnh. Khi xướng tên trại Nam Hà, tôi đứng dậy và có thêm bốn anh nữa , trong đó có một anh, tự giới thiệu tên của ḿnh là Lê Trung Đạo. Tôi lẫm nhẫm Lê Trung Đạo, Lê Trung Đạo…sao tên nghe quen quá, h́nh như anh ấy ở chung đội với tôi th́ phải. Khi phần giới thiệu các anh em trại Nam Hà chấm dứt, tôi đi đến bàn của anh Đạo, đứng đối diện và nh́n kỹ anh ấy. Tôi nhận ra anh Đạo ngay. Tôi ôm chầm lấy anh, và anh ấy cũng ôm tôi tŕu mến. Tôi th́ thầm bên tai Đạo: “Em c̣n nhớ anh không? ” Đạo trả lời ngay: “Anh Uyển, mà sao em có thể quên được, thật vui mừng được gặp lại anh. Em trông chờ ngày này đă lâu lắm rồi!”

Khi cùng sống trong cảnh đọa đày nơi trại Nam Hà, phân trại C, tôi và Đạo nằm gần nhau. Ra đồng, bắt được con cua, con cá, tôi và Đạo cùng chia sẻ với nhau. Đạo là một Thiếu Úy Cảnh Sát Đặc Biệt, mới ra trường, không biết làm Trưởng G hay H ǵ đó..mà bị đày ra cải tạo ở miền Bắc.Anh c̣n quá trẻ, khoảng 24, 25 tuổi. Tôi xem anh như một người em của tôi và tôi rất quư mến anh. Đạo chưa lập gia đ́nh. Anh chỉ c̣n một mẹ già đang sống ở Vĩnh long. V́ vậy, từ ngày bị đưa ra Bắc, Đạo chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân từ trong Nam gởi cho anh. Anh sống hiền ḥa, vui tính, nên anh em trong đội ai cũng mến anh. Đạo xem tôi như một người anh trong gia đ́nh, anh tâm sự với tôi: “Đời em chẳng c̣n ǵ nữa, chỉ có một người mẹ, mà từ ngày bị đày ra Bắc, đă trên 5 năm rồi em chẳng có tin tức ǵ của mẹ em. Không biết bà c̣n sống hay đă ra người thiên cổ”

Đạo nắm tay tôi và cảm động nói: “Giờ đây em chỉ có anh là người duy nhất thương mến em, cho em chút an ủi để sống qua ngày!”

Như có một động lực nào thúc đẩy, Đạo tâm sự với tôi: “Anh ạ,ḿnh phải sống chứ anh, mà muốn sống, dù là cuộc sống thấp nhất, cũng phải có một ước mơ ǵ đó để mà mộng tưởng, để tiếp sức cho ḿnh. Các anh em ở đây, dĩ nhiên ai cũng mơ ước sớm được trở về với gia đ́nh. Ngoài xă hội th́ kẻ này mơ trúng số, kẻ kia mơ nhà cửa, ruộng vườn v.v. Nhưng sống nơi địa ngục trần gian này, anh em ḿnh mơ ước điều ǵ đây? Tất cả đều nằm ngoài tầm tay của ḿnh. Em chợt nhớ lại một câu chuyện cổ tích của Pháp, tựa đề là “Un Peu De Soleil Dans L’eau Froide” kể lại câu chuyện một ông lăo nghèo khổ, sống cô đơn một ḿnh trong căn lều nhỏ bé, trống trước, trống sau. Bổng một bà tiên hiện ra và cho ông một điều ước. Bà tiên cứ nghĩ, thế nào ông lăo nghèo nàn này cũng sẽ ao ước có một căn nhà, hoặc ao ước có nhiều tiền bạc. v.v... Nhưng bà tiên vô cùng ngạc nhiên, khi ông lăo nghèo khổ ấy chỉ xin “Một Nụ Cười”

Đạo như chợt tỉnh, ông lăo bất hạnh trong câu chuyện cổ tích, đă chỉ cho Đạo một mơ ước, mà dù trong hoàn cảnh nào cũng có thể đạt được, đó là một nụ cười. Không cần phải là nụ cười của giai nhân, mà chỉ cần một nụ cười thân ái của ai đó, chân thành trao cho anh, v́ yêu mến anh, có thế thôi.

Cuộc sống tù đày cứ kéo dài triền miên trong đói khổ, vô vọng. Nhưng khi nghĩ đến một nụ cười, Đạo thấy tâm hồn ḿnh có chút an ủi, nhẹ nhàng. Hằng ngày , Đạo ước mơ nhận được nụ cười. Đêm đêm Đạo cũng ước mong trong giấc mơ, anh sẽ gặp được một nụ cười. Nhưng buồn thay, những giấc mơ đến với Đạo chỉ là những cơn ác mộng mà thôi.

Nhưng thật kỳ diệu, từ ngày Đạo ôm ấp ước mơ có được một nụ cười, anh thấy cuộc đời của anh có chút ư nghĩa, v́ dù sao anh cũng có một ước mơ, để mà thương, mà nhớ, mà mong chờ.

Một hôm, đội được dẫn đi gặt lúa, khi đi ngang qua cổng cơ quan, Đạo thấy nhiều chiếc áo vàng đứng ở đó. Nh́n lướt qua, Đạo chợt thấy một nữ cán bộ nh́n anh mỉm cười. Anh không tin ở mắt ḿnh, anh nghĩ rằng có thể cô ta cười vu vơ ǵ đó, chứ đâu phải cười với anh. Anh quay lại nh́n một lần nữa, vẫn thấy cô ta nh́n anh và mỉm cười.
Từ ngày ấy, mỗi khi đội đi ngang qua cổng cơ quan, Đạo đều bắt gặp nụ cười của người nữ cán bộ dành cho anh. V́ vậy khi đi lao động, Đạo luôn luôn đi cuối hàng để dễ đón nhận nụ cười của cô nữ cán bộ. Đạo cũng cười đáp lễ với cô ta. Đạo bắt đầu thấy cuộc đời của ḿnh, có một chút ǵ thi vị, đáng sống. Khi ăn, khi ngủ, nụ cười đó luôn luôn theo anh, cho anh niềm an ủi, và chút lạc quan để sống. Anh em trong đội đều biết mối t́nh mắt nh́n mắt và trao đổi nụ cười của Đạo và cô nữ cán bộ.

Không những Đạo nhớ đến nụ cười, anh c̣n nhớ đến đôi mắt như muốn nói với anh muôn ngàn lời, anh nhớ đến người con gái ấy. Ban đầu anh nghĩ rằng cứ giă bộ vui vẻ cho qua ngày. Nhưng trong tâm trí anh, luôn luôn nhớ đến cô gái ấy và anh nhận ra rằng anh đă yêu cô ta. Đạo nhớ lại ngày xưa Elvis Presley đă hát một bài hát nỗi tiếng là bài Don’t Gamble With Love nay thật đúng như trường hợp của Đạo. Bây giờ Đạo không c̣ncho rằng lao động là khổ sai nữa, mà anh trông chờ mỗi buổi sáng được đi ngang qua cỗng cơ quan, để đón nhận nụ cười của người nữ cán bộ.

Một buổi chiều khi đi lao động về,nghe các anh em Công Giáo tập hát bài “Đêm Đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời”, Đạo mới biết, đêm nay là đêm Noel. Khi cửa pḥng giam đóng lại, anh em Công Giáo vội vă thiết trí một ngôi sao Giáng Sinh và hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh” ở vách tường cuối pḥng. Họ nắm tay nhau ca hát, đọc kinh, cầu nguyện. Đạo nằm mơ màng, lơ đăng nh́n về cuối pḥng, chung quanh hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh”, Đạo tưởng tượng như có những bóng đèn màu chớp sáng. Anh mơ hồ nghe như có tiếng nhạc bài Silent Night dịu dàng thoảng đi trong gió…Anh thiếp đi trong giấc ngủ yên lành.

Vào một buổi sáng chúa nhật, chúng tôi được gọi ra sân để nhận quà của thân nhân từ trong Nam gởi ra. Thường th́ 80 đến 90 phần trăm anh em đều nhận được quà. Riêng Đạo th́ chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân. Nhưng thật bất ngờ, hôm nay cán bộ lại kêu tên Đạo lên nhận quà, ai cũng ngạc nhiên và mừng cho Đạo.Anh nhận một gói quà b́nh thường, nhưng cách gói quà , khác với những gói quà từ trong Nam gởi ra. Đạo sững sốt nhận gói quà, đem về pḥng, cẩn thận mở ra. Một mănh giấy nhỏ nằm trên những gói đồ ăn, anh đọc vội hàng chữ “Tŕu mến gửi anh Đạo – Em : Kim Chi”. Với mấy chữ ngắn gọn đó, Đạo biết ai gởi cho anh món quà t́nh nghĩa này. Anh ôm gói quà vào ḷng. Anh không ngờ người nữ cán bộ có nụ cười dễ thương đó, lại dám liều lĩnh gởi quà cho anh. Hai hàng nuớc mắt chảy dài xuống má, đây là những giọt nước mắt hạnh phúc mà từ lâu anh không hề có.

Trại Nam hà, Phân trại C, nơi chúng tôi đang ở, phía sau là con đường làng. Trại chỉ ngăn cách với bên ngoài bởi những bụi tre thấp và hàng rào kẽm gai. Dân chúng đi ở ngoài, chúng tôi có thể thấy họ. Thường vào buổi chiều, sau khi ăn cơm xong , chúng tôi hay ra ngồi chơi ở sân sau đó, nh́n người qua lại. Một hôm, chúng tôi thấy cô cán bộ Chi đi lui, đi tới ở ngoài hàng rào, rồi th́nh ĺnh quăng vào trong một cái gói nhỏ. Chúng tôi biết cô ấy gởi ǵ đó cho Đạo, chúng tôi mang vào cho anh. Đạo không biết Chi gởi ǵ cho anh, nhưng anh cảm động lắm. Anh em hiếu kỳ đứng quanh giường của của Đạo, để xem cô Chi đă gởi ǵ cho anh: đó là một gói xôi và một con gà vàng rộm. Đối với tù nhân, đói triền miên như chúng tôi, th́ gói xôi gà này là cao lương mỹ vị bậc nhất trên thế gian này. Đạo rất hào phóng, anh chia đều xôi, gà cho tất cả 32 anh em trong đội, mỗi người được một muỗng xôi và chút ít thịt gà. Có người ăn ngay, nhưng cũng có vài anh em để đó, hít hít mùi thịt gà cho đỡ thèm.

Đạo thấy thương Chi quá, v́ yêu anh, nàng đă gan liều làm những việc như vậy, v́ nếu bị phát giác, nàng ở tù như chơi. Đạo càng thương Chi khi nghĩ đến tương lai : một cán bộ công an yêu một sĩ quan cảnh sát ngụy..th́ đời nào có thể sum họp được. Anh thở dài!

Vào một sáng chúa nhật, một anh trật tự đến pḥng chúng tôi, bảo anh Đạo chuẩn bị ra có người thăm nuôi. Chúng tôi rất ngạc nhiên, v́ từ bao năm nay, Đạo thuộc diện con mồ côi, chưa hề có ai gởi quà cho Đạo, nói ǵ đến chuyện thăm nuôi.Thế mà hôm nay, lại có người thân nào đó đến thăm Đạo. Chúng tôi mừng cho Đạo. Khoảng 9 giờ sáng, anh được cán bộ dẫn ra nhà thăm nuôi. Chúng tôi hồi hộp chờ Đạo trở vào để xem anh nhận được những quà ǵ của thân nhân đem đến.

Nhưng chúng tôi chờ măi…đă ba , bốn giờ chiều rồi, vẫn chưa thấy Đạo trở vô trại. Thường một trại viên được gặp mặt thân nhân khoảng 15, 20 phút, tối đa là nửa giờ. Thế mà, Đạo ra nhà thăm nuôi đă hơn bốn, năm tiếng rồi mà chưa thấy vô. Chúng tôi bắt đầu lo lắng cho Đạo, không biết chuyện ǵ đă xảy ra cho anh, lành hay dữ. Và từ đó, chúng tôi không c̣n biết tin tức ǵ về Đạo nữa.

Hôm nay gặp lại Đạo, tôi đem chuyện ấy ra hỏi Đạo, anh đă kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây:

“ Anh nhớ không, ngày chúa nhật hôm đó, em được dẫn ra nhà thăm nuôi, nói là có thân nhân đến thăm. Em vô cùng ngạc nhiên v́ em đâu có thân nhân nào từ trong Nam có thể ra thăm em. Bước vào nhà thăm nuôi, em thấy Chi và một ông Thượng Tá công an ngồi ở đó. Chi vội vă đứng lên giới thiệu: “Đây là cậu Du của Chi, đang công tác ở tỉnh Thái B́nh, em nhờ cậu ấy đến thăm anh.” Đạo bối rối nh́n Chi, nh́n ánh mắt, nụ cười của Chi. Chi mặc đồ công an, trên cổ áo có đeo quân hàm Thiếu Úy. Chi biết Đạo ngơ ngàng, thắc mắc nên cô nói ngay: “Anh đừng lo, em bảo anh làm ǵ th́ cứ làm theo, chớ có hỏi han ǵ hết”. Chi dẫn Đạo vào một căn nhà ở gần nhà thăm nuôi, nhà không có ai cả. Chi bảo tôi cởi bộ áo quần tù ra, và mặc ngay bộ đồ công an đă để sẵn ở đó; ngoài áo quần, có cả nón, cặp da và giấy chứng nhận đi công tác miền Nam. Tôi như trên trời rớt xuống, nhưng không có th́ giờ để hỏi Chi, việc ǵ đang xảy đến cho tôi. Khi tôi đă mặc xong bộ đồ công an, Chi nh́n tôi mỉm cướ, rồi kéo tôi ra ngỏ, bảo tôi leo lên một chiếc xe Jeep nhà binh đậu sẵn ở đó., và chạy ra ga xe lửa Phủ Lư. Chi bảo tôi cứ ngồi trên xe, Chi vào mua vé xe lửa đi về Sàig̣n. Khi đưa tôi lên xe lửa, Chi ân cần căn dặn: “Không nên về nhà, cũng đừng liên lạc với mẹ, mà t́m một người bà con nào đó ở tỉnh khác xin trú ngụ vài ngày, rồi t́m đường vượt biên. Tốt nhất là đi đường bộ qua ngă Campuchia”. Chi đưa cho tôi một gói giấy và nói: “Đây là ít tiền để anh tiêu dùng, nhớ là phải vượt biên ngay nhé!”. Chi cầm tay tôi và chân thành nói: “Em là vợ của anh, anh đừng quên em!”. Tôi ôm Chi vào ḷng, nước mắt ràn rụa. Chi cũng khóc trên vai tôi. Xe lửa từ từ lăn bánh, h́nh ảnh Chi cô đơn đứng một ḿnh trên sân ga, nhỏ dần, nhỏ dần.. Tôi thấy nhiều lần Chi đưa tay lên lau nước mắt. Trong tim tôi, mối t́nh mà Chi dành cho tôi quá sâu đậm, đă chiếm trọn cuộc đời tôi. Tôi vỗ vỗ vào trái tim của ḿnh “Đạo, Đạo, mày phải sống xứng đáng để đền ơn đáp nghĩa cho Chi nghe chưa”

Khi xe lửa dừng lại ở ga B́nh triệu, Sàig̣n, tôi không về nhà tôi ở Vĩnh Long, mà đến nhà d́ tôi ở Cần Thơ xin trú ngụ.Chồng của d́ tôi là một Đại úy Công Binh Việt nam Cộng Ḥa, trước năm 1975, ông phục vụ ở Tiểu Đoàn 24 Công Binh Kiến tạo, mới được trả tự do. Gia đ́nh d́, dượng tôi đang âm thầm chuẩn bị vượt biên. D́, dượng tôi vui vẻ chấp thuận cho tôi cùng đi theo. Tôi đă đưa gói tiền mà Chi trao cho tôi, cho d́ tôi để bà tiêu dùng. Mở gói ra xem, d́ bảo tôi: “Tiền đâu mà cháu có nhiều vậy?” Tôi trả lời ngay: “Của vợ con cho đó!”

Vào một đêm tối trời, ghe máy chở cả nhà ra cửa biển Đại Ngăi, v́ tàu lớn đang đậu ở đó. Sau 3 ngày và 4 đêm, tàu của chúng tôi đă đến hải phận Thái Lan, được tàu tuần duyên của Thái Lan đưa về trại Sikiew. Trong cuộc phỏng vấn thanh lọc, nhân viên Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc hỏi tôi rất ít. Tôi nghĩ là họ có đầy đủ hồ sơ cá nhân của ngành Cảnh Sát Đặc Biệt. Họ chỉ hỏi tôi là làm Trưởng G hay Trưởng H, tôi trả lời. Người nhân viên đó lấy trong tập hồ sơ ra một tấm ảnh, anh nh́n tôi rồi gật đầu.Thế là tôi vượt qua cuộc thanh lọc. Mấy tháng sau, họ chuyển tôi qua trại Pulau Bidong ở Mă Lai, để chờ chuyến bay đi định cư ở Mỹ.

Tôi mau chóng gởi thư cho má tôi ở Vĩnh Long, báo tin tôi đă b́nh yên đến trại Pulau Bidong ở Mă Lai, đang chờ chuyến bay để đi định cư ở Mỹ. Khoảng 2 tuần sau, tôi vui mừng nhận được thư hồi âm của má tôi, và một bất ngờ thú vị đến với tôi là có cả thư của Chi nữa! Má tôi đă viết cho tôi: “Đạo con, má rất vui mừng nhận được tin con đă đến nơi b́nh yên. Má cho con biết là Chi đang ở đây với má. Chi đă kể cho má nghe hết mọi chuyện. Má rất hạnh phúc có được một con dâu hiếu thảo như Chi, má mừng cho con”.

Đạo run run mở thư của Chi ra đọc: “ Anh Đạo yêu quí của em, nghe anh đă đến đảo và đang chờ chuyến bay để đi Mỹ, má và em mừng quá anh ơi. Khi anh đi về Nam chưa đầy một tháng, họ đuổi em ra khỏi ngành công an. Em đă về Vĩnh Long ở với má, em thay anh phụng dưỡng, săn sóc má, anh yên tâm! “

Với lời lẽ chân t́nh, mộc mạc, tôi uống từng chữ, từng lời trong bức thư ngắn gọn của Chi, tôi áp bức thư vào ngực và đi vào giấc ngủ.

Năm 1982, tôi được đi định cư ở Mỹ. Khi có thẻ xanh, tôi đă làm hồ sơ bảo lănh Chi. Trong thời gian ở với má tôi ở Vĩnh Long, không biết Chi hỏi thủ tục bảo lănh ở đâu mà nàng ra Thái B́nh, nhờ người cậu Thượng Tá Công An của nàng, làm một giấy hôn thú của tôi và Chi, có đầy đủ chữ kư và khuôn dấu đỏ xác nhận của chính quyền địa phương.

Năm 1987 khi tôi được nhập quốc tịch Mỹ, tôi đă bổ túc hồ sơ bảo lănh. Chi đă nhanh chóng được phỏng vấn. Lúc này, những trường hợp gian dối chưa xảy ra nhiều, nên việc chấp thuận cho chồng bảo lănh vợ tương đối dễ dàng nếu có đầy đủ giấy tờ chứng minh.

Vào một ngày se lạnh ở miền Nam Cali, tôi và vài bạn bè thân quen đến đón Chi ở phi trường Los Angeles. Tôi ôm Chi vào ḷng, v́ quá cảm động, tôi chỉ thốt lên được một tiếng “Em!” Chi cũng vậy, nàng thổn thức trên vai tôi “Anh!”. Chỉ 2 tiếng “Anh” “Em”, nhưng đă gói trọn cuộc t́nh mà chúng tôi nghĩ là không bao giờ có thể sum họp được. Tạ ơn Trời Đất !

Đạo xây qua người đàn bà ngồi bên cạnh anh, và giới thiệu với tôi: “Thưa anh, đây là Chi, vợ em” Chi bẽn lẽn cúi đầu, che dấu nụ cười đă đem lại sức sống và hạnh phúc cho Đạo.

Tôi đă được nghe, được biết nhiều mối t́nh ly kỳ, éo le lắm. Nhưng nếu nói đến một mối t́nh thật lăng mạn, mà người con gái đă dám hy sinh sự nghiệp và cả tính mạng ḿnh cho người yêu, th́ không thể không nói đến mối t́nh của nàng Kim Chi và chàng Trung Đạo.


Bửu Uyển
Tháng 6-2016

luyenchuong3000
12-23-2019, 16:32
https://scontent.ftpa1-1.fna.fbcdn.net/v/t31.0-0/p526x296/23331275_10541488880 60186_51777078989005 93507_o.jpg?_nc_cat= 108&_nc_ohc=spzy_6il30gA QmMXS5lEYC5L58LsvL_s y6PvlqvhH-xs-2GumQncdgOQg&_nc_ht=scontent.ftpa 1-1.fna&oh=823cdfa0f3ea3d505 a6ae0ce8f29e0bd&oe=5EADD3EA
(https://www.facebook.com/photo.php?fbid=10541 48888060186&set=pcb.105414959806 0115&type=3&__tn__=H-y.g&eid=ARAdcjtHEI2bUYOu NuobXEbQanie7OcP4F_S gtzTZeCa_p7umEZiam0C uMzzPiKG5b6YfZ5E740m RHnd)https://scontent.ftpa1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.0-0/p261x260/23172549_10541484847 26893_10366972825341 8192_n.jpg?_nc_cat=1 11&_nc_ohc=mMmiEy9ZT30A Qk4UW_bma48EWtfjAH5k mFYTzF2nu9dNlZUb0X7H Kpa9Q&_nc_ht=scontent.ftpa 1-2.fna&oh=024409e1a31d773c4 1bc857eac4a171e&oe=5EAEE927
(https://www.facebook.com/photo.php?fbid=10541 48484726893&set=pcb.105414959806 0115&type=3&__tn__=H-y.g&eid=ARA0vHqvKbVfE19c g-3n2rx-Lm1iY-nd2ZX9FHcfNSipaWAgLg VkPoQaUXgi3Ri9CTbW0T Ne86Y-0TkG)https://scontent.ftpa1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.0-0/p370x247/23167484_10541485280 60222_22389159896721 13297_n.jpg?_nc_cat= 104&_nc_ohc=gysYpWmuzT0A QkbS5kovW7Mgy_iTZGKt tEIa0ixQvvRingD0HH3e OTb5g&_nc_ht=scontent.ftpa 1-2.fna&oh=90b51143f03da5863 956847c8e6513a9&oe=5EA75F7F
(https://www.facebook.com/photo.php?fbid=10541 48528060222&set=pcb.105414959806 0115&type=3&__tn__=H-y.g&eid=ARDnclnqLp-V0RIRnh2fSB0WB0Zr-YaALlN3jgzxZLzKb8uZa mfmUWCbHhqqQXcW0v6R-KiAWSlD6T-B)https://scontent.ftpa1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-0/p370x247/23172594_10541489613 93512_59085112186671 53154_n.jpg?_nc_cat= 109&_nc_ohc=WNgacNn865sA Qk9EJDw64GjXtZvj8KyD uJXWInDFUS4wbLbYPRIb LYt3A&_nc_ht=scontent.ftpa 1-1.fna&oh=a26ce402bc2cf6a55 26ab47231657f76&oe=5EA6DFE5
(https://www.facebook.com/photo.php?fbid=10541 48961393512&set=pcb.105414959806 0115&type=3&__tn__=H-y.g&eid=ARDyrTHh2wLspp_y 4eAIET_PkYgOmgDHgsH9 5V-rzz16sM7q-jpXWJsZrsx6hM7_7w3ps weSbnkQvoC_)

" ...khẩu tiểu liên AK của chú Năm Bùi Văn Thuyên bắn liên tục 1300 viên tiêu diệt gần hết 360 tên Mỹ nằm lại trận địa.
Có lần chú Năm bị một trái M79 hất văng ra hơn 4 m lòi ruột ra ngoài. Chú lấy tay nhét ruột vào, bị đứt bảy khúc ruột, găy ba xương sườn. Chú đánh tiếp và tiêu diệt được 45 lính Mỹ .."
bên dưới là hình của chú .... Năm 😂🤣😜
Em nín cười éo được...😂😜🤣😅
<a class="_5pcq" href="https://www.facebook.com/le.thai.hung.0904/posts/1054149598060115" target=""><abbr title="04:21, 06/11/2017" class="_5ptz"></abbr>

hoanglan22
01-03-2020, 19:54
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1509355&stc=1&d=1578081233

Một buổi sáng, mặt trời lên rực rỡ, tốp quản giáo hôm nay nai nịt gọn gàng. Họ vào từng nhà. Quản giáo kêu nhà trưởng Hoàng ra chỉ thị:

- Anh cho tập hợp anh em lên hội trường học tập.

Mọi người đang chuẩn bị đi lao động như mọi ngày. Nghe tin đi học tập, có người nhảy cởn lên la to:

- Rồi, đến rồi, phải thế chứ. Học tập xong chuyến này là về, anh em tin tôi đi.

Lời nói đó của Lập, một tân thiếu uư, anh c̣n nắm chức vụ trung đội trưởng một trung đội bộ binh. Lập hay lạc quan «tếu», hay loan những tin tức thuận lợi cho ngày về. Trong đầu óc Lập non choẹt về sự phán đoán. Lập thường nh́n sự việc bằng hiện tượng hơn là bản chất.

Lập nói tiếp:

- Anh nào cá với tui không? Tôi nói về là về. Họ nhốt ḿnh để làm ǵ, chỉ tốn cơm nuôi.

Có một số người muốn đáp lại lời Lập, nhưng lại bận lo chuẩn bị mặc áo quần đi học tập nên họ im. Sum cũng vui trong ḷng. Biết đâu đấy! Quan trọng nhất trong việc tập trung là học tập. Học tập là tẩy năo, là xóa đi cái nh́n cũ trong đầu và tiếp thu lấy cái mới, cái cách mạng, cái giải phóng dân tộc, cái tự do, độc lập và hạnh phúc. Mà nay đă đến ngày đó. Chắc là ngày về cũng gần kề thôi.

Trong lúc bận áo quần, Sum hỏi Niệm:

- Bạn nghĩ thế nào, sau đợt học tập này?

Niệm cũng đang mặc áo. Cái áo bao cát anh vừa thực hiện. Cái áo khô, cong lên, trông nực nội, nóng bức. Nhưng Niệm đă rách hết áo quần. Từ Quy Nhơn chạy vô Sài G̣n anh đem theo mấy bộ đồ, rồi gói đi «học tập» luôn. Gần một tháng lao động ngoài trời, mồ hôi mồ kê đổ ra như tắm, làm áo quần mục đi.

Niệm nói:

- Bây giờ ḿnh theo chủ nghĩa hoài nghi. Bắt đầu tin lời ông Thiệu nói. Để coi thử sao?

Sum lắng đi cái tin tưởng, cái háo hức vừa mới bùng lên trong đầu.

Hoàng nhà trưởng. Dương B trưởng, hối hả, hấp tấp, vừa chạy đầu này, chạy đầu kia, hối thúc anh em nhanh lên, nhanh lên. Mười phút sau, cả đội chuẩn bị xong, tập họp ở trước sân nhà.

Người quản giáo đứng trước anh em, lên tiếng:

- Hôm nay bắt đầu cho đợt học tập chính trị, các anh sẽ đến hội trường tham dự học tập. Các anh phải nghiêm túc tiếp thu những cái mới. Có được sớm trở về đoàn tụ với gia đ́nh hay không là do các anh. Tôi thấy các anh vẫn c̣n lề mề, lao động th́ chây lười. Tôi dặn các anh, đến hội trường dự học tập các anh phải nghiêm túc, không được nói chuyện ồn ào, tṛ chuyện riêng, các anh quán triệt hết chưa?

Mọi người đồng thanh, nghe rơ. Tất cả đi theo quản giáo.

Dương bước ra khỏi hàng, anh hô, một, hai, ba, bốn như đi diễn hành, cho toán đi đều hàng, như những ngày c̣n học ở quân trường. Trong đầu óc Dương lúc nào cũng đầy đặc óc chỉ huy, toán đi phải có «khí thế».

Dương lên tiếng :

- Anh em đi đều bước nhé, tôi hô các anh em đi theo lệnh tôi, một, hai, ba, bốn, một, hai, ba, bốn, một, hai, bước đều, bước.

Trong toán, anh em đang đi tự do, nghe tiếng hô của Dương tự nhiên chập choạng. Có tiếng x́ xào:

- Đi tự do đi, đều bước cái con mẹ ǵ. Đi tù mà cứ như đi diễn hành vậy. Đụ mẹ!

Rồi nhiều tiếng chữi thề tiếp theo cất lên sau đó. Ngô Hoàng vội chạy tới hỏi ư quản giáo, quản giáo vừa nói vừa chỉ tay. Ngô Hoàng chạy về trước hàng quân, nói lớn:

- Thôi anh em cứ đi tự do, bước đều nhau là được rồi.

Dương quê cơ. Anh im lặng bước đi. Ai cũng biết giữa Ngô Hoàng và Dương có hiềm khích nhau. Dương chỉ là B trưởng, tức là dưới quyền Hoàng, thế mà Dương có nhiều lúc lấn lướt, gặp quản giáo là Dương lăn xăn báo cáo, làm ra vẻ tích cực lắm. Anh thường có ư kiến, có nhận xét, đề nghị về cách sinh hoạt của anh em trong đội. Quản giáo nhiều lúc cũng tin lời Dương. Ngô Hoàng đâm ra cay cú.

Tất cả anh em toàn trại được tập trung vào hội trường. Hội trường là một căn nhà rộng, lợp bằng tranh do anh em tập trung bên lán trại B thực hiện. Anh em vô rừng, rừng Tây Ninh đầy đặc tranh và cây gỗ. Anh em đốn gỗ, cắt tranh, cả mấy đội làm việc hàng tháng mới dựng nên hội trường này. Mùi tranh mới, c̣n nồng.

Hội trường được trang trí sơ sài, nhưng đầy đủ ư nghĩa. Một tấm màn đỏ kéo ngang qua làm cái nền. Màu đỏ mới trông vào ai cũng rờn rợn. Bức tượng bán thân của ông Hồ Chí Minh bằng thạch cao màu trắng để một bên. Một bên là khẩu hiệu «Không Có Ǵ Quư Hơn Độc Lập Tự Do».

Anh em từng đội được dẫn vào ngồi dưới đất theo thứ tự. Các quản giáo chạy đi chạy lại. Vệ binh mang súng đứng bên ngoài lố nhố. Cũng ba mươi phút sau mới bắt đầu.

Một người bộ đội mang "quân hàm" Thiếu tá, lên đứng trên bục gỗ. Ông tự xưng là người của Ủy Ban Quân Quản thành phố, lên nói về chiến thắng vẻ vang của cách mạng và tội ác của ngụy quân, ngụy quyền đối với nhân dân. Ông nói tràng giang đại hải, dùng những từ rất mới, nên Sum nghe qua lạ tai. Ngày trước, có đôi lần Sum nghe lén đài phát thanh Hà Nội hay đài Giải Phóng Miền Nam, anh có nghe những từ này, nhưng nghe qua rồi bỏ. H́nh như cái lén lút hay kích thích con người. Bây giờ nghe người thiếu tá giảng viên nói, anh lại thấy khó chịu, nhưng anh phải ngồi im. Nếu như đây là một giảng đường đại học, anh đă bỏ về.

Anh em có nhiều tiếng x́ xào nho nhỏ, h́nh như ai cũng có cảm giác tương tự như Sum. Nhất là khi người giảng viên nói qua tội ác Mỹ Ngụy. Sum thấy ḿnh như bị va chạm một điều ǵ đó thuộc về nhân phẩm. Tội Ác? Thật sự trong chiến tranh, chuyện bắn giết nhau để giành lấy chiến thắng, bên này hay bên kia. Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ là chính nghĩa, nhưng đó cũng chỉ là những nhân danh. Bây giờ th́ lư là ở kẻ mạnh, là ở phe của những người chiến thắng.

Cuối cùng, sau khi nghỉ giải lao mười lăm phút, người giảng viên tiếp tục nói đến Bản Tự Khi Lư Lịch. Cũng là chuyện b́nh thường mà cả đội đă làm nhiều lần, có người khai xong, bị trả về làm lại.

Người giảng viên nói:

- Bây giờ muốn cân đo sự thành thật của các anh, các anh sẽ làm tiếp Bản Tự Khai. Lần trước các anh đă làm nhiều rồi nhưng chưa đạt. Cách mạng biết rơ hết về quá tŕnh hoạt động của các anh nhưng muốn thử các anh thành thật đến mức độ nào, nên lần này, Bản Tự Khai các anh phải khai rơ ràng từng giai đoạn hoạt động của ḿnh, như chức vụ, quân hàm, công tác…

Ông c̣n nói thêm nhiều nữa nhưng Sum cảm thấy mệt quá, sức nóng của hơi người đông đảo làm anh muốn ngạt thở. Anh thấy sức khoẻ của ḿnh sa sút hẳn, nhất là đôi chân. Đôi chân sưng húp, đó là kết quả của bệnh phù thủng. Anh thấy tê cả phần dưới, những lúc đi lao động đôi chân hoạt động c̣n đỡ nhức nhối hơn là ngồi nghe như thế này. Mấy người bạn ngồi bên anh, nói nhỏ:

- Nữa rồi, lư lịch, lư lịch hoài. Ghi một mẫu để nhớ rồi cứ theo đó mà viết ra. Cách mạng dùng chữ trước sau như một ḿnh cũng chơi chữ trước sau như một. Đụ mẹ, ly lịch ba đời cứ khai hoài, ông bà cha mẹ chết rồi cũng nằm không yên chỗ.

Người bạn kế bên hích tay người đang nói, anh ta nháy mắt về phía Dương, Dương đang ngồi nghe một cách chăm chú.

Theo chương tŕnh, suốt buổi chiều và buổi tối, anh em được chia từng tổ, ngồi học tập, thảo luận, triển khai bài giảng của giáo viên đứng lớp, rồi phát biểu ư kiến của ḿnh. V́ là buổi học tập đầu tiên nên bắt buộc ai cũng có ư kiến. Dĩ nhiên là chia phiên nhau. Ư kiến anh em chung chung. Chỉ có Dương là gay gắt. Anh kết án quân đội cũ tham nhũng, hối lộ, quân phiệt. Anh em ngồi nghe, có người che miệng ngáp.

Theo thời khóa biểu, suốt một tuần, từ thứ hai đến thứ sáu, buổi sáng lên lớp nghe giảng bài, buổi chiều về pḥng họp từng toán thảo luận, đến chiều thứ sáu là thu hoạch. Mỗi người được phát một cây bút lá tre và một b́nh mực, như những lần khai lư lịch trước.

Đến ngày thứ hai th́ các buổi học tập trở nên sôi động. Đám cải tạo tuy lặng lẽ nhưng vẫn nghe và hiểu những điều đang tiếp thu. Buổi chiều trời nóng oi nồng. Không có một chút gió nào. Không gian như khô lại. Đám cải tạo ngồi dưới nền xi măng. Nhà trưởng Ngô Hoàng điều hành buổi thảo luận. B trưởng Dương làm thư kư. Khuôn mặt ai nấy đều căng ra, không biết có phải v́ bịnh phù thủng hay v́ đề tài nóng bỏng.

Đề tài «Từ Chủ Nghĩa Thực Dân Cũ đến Chủ Nghĩa Thực Dân Mới». Trên Hội trường, giáo viên giảng huấn đă giảng rằng:

"Bắt đầu chủ nghĩa thực dân là các đế quốc châu Âu như Pháp, Anh, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, muốn t́m thị trường buôn bán nên đem quân đến các nước Á Châu, trong đó có Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan và Trung Quốc, đi kèm theo mũi súng của quân đội viễn chinh đế quốc là các ông cố đạo truyền bá đạo Chúa. V́ bản chất của người Á Đông là theo Phật hay đạo Khổng, các ông cố đạo nhân danh Chúa, đă làm công cụ cho lực lượng đế quốc. Vua Gia Long đă cỏng rắn cắn gà nhà, cho Pháp đến Việt Nam xuyên qua các ông cố đạo như giám mục Bá Đa Lộc."

Đề tài nóng v́ đụng chạm đến tôn giáo. Anh em ngồi xếp bằng. Ai cũng muốn nói lên suy nghĩ của ḿnh. Có người đồng t́nh, có người không. Tuy nhiên, anh em ai cũng biết, đây là buổi học tập chính trị của cộng sản nên những suy nghĩ của ḿnh không thể phát biểu ở đây. Tốt hơn là ngồi nghe hơn là nói.

Ngày cuối cùng trong đợt học tập là thu hoạch. Như người trồng lúa đến ngày gặt lúa. Như người trồng khoai trồng đậu đến ngày th́ đem cuốc ra đào khoai, hái đậu đem về nhà. Nay th́ một tuần học tập là một tuần gieo giống, cày xới thảo luận, rồi đến cuối tuần th́ thu hoạch kèm theo là làm Bản Tự Khai quá tŕnh hoạt động của bản thân, để xem qua việc học tập của anh em tiến bộ đến đâu?

Sum cũng chăm chú loay hoay viết bài thu hoạch, anh viết như bài đă học, nào chế độ cũ là ngụy quyền không đại diện cho ai, quân đội cũ là ngụy quân, phục vụ cho ngụy quyền. Tướng tá th́ tham những, hối lộ và quân phiệt, phần đông là xuất thân từ quân đội Pháp, phục vụ cho thực dân Pháp, là kẻ thù của dân tộc, đă chiếm và cai trị Việt Nam hàng trăm năm.

Anh viết một mạch theo ḍng suy nghĩ tuôn tràn. Có những lúc cảm hứng anh viết văn hoa bóng bảy thêm lên như là viết một truyện ngắn, nhưng nó cũng rỗng tuếch chẳng đâu vào đâu. Đến lúc viết bản tự khai, anh khai ở đơn vị không tác chiến, làm việc ở văn pḥng, không dính dáng đến chiến tranh chính trị, an ninh hay t́nh báo. Anh ghi chú ngày giờ và từng đơn vị anh phục vụ trong một tờ giấy nhỏ, anh biết sẽ c̣n khai lư lịch dài dài nên phải viết làm sao cho trùng khớp, trước sau như một.

Buổi tối nằm một ḿnh, anh hơi ân hận những điều ḿnh đă khai. Anh đă dấu đi trường anh đă học, nơi anh xuất thân. Anh đă ở đó trên hai năm, đă luyện tập để trở thành sĩ quan, với bao nhiêu cực khổ cam go, anh đă hănh diện cùng bạn bè đồng khóa khi quỳ xuống ở Vũ đ́nh trường trong ngày xuống núi. Nhưng anh nghĩ lại, trong chiến tranh, trong tác chiến, có những lần hành quân bắt được tù binh, hàng binh địch, họ đă vứt bỏ cấp bậc, chức vụ, để không ai chú ư, để lẫn trốn. Trong chiến tranh, chuyện ǵ, việc ǵ, cũng trở nên b́nh thường.

Những ngày mới ra trường với biết bao hoài băo, bao nhiêu lư tưởng đầy ắp trong ḷng, ḿnh sẽ làm một điều ǵ đó theo như những lư thuyết đă học. «Đem Đại Nghĩa để thắng hung tàn, lấy Chí Nhân mà thay cường bạo». Sum ra tŕnh diện đơn vị với ba người bạn đồng khóa. Từ sư đoàn chuyển về trung đoàn. Tư lệnh sư đoàn lúc đó là tướng công, gương mặt ông bạnh ra như là một con heo nọc, lúc này tướng công đang bị báo chí đánh tơi bời v́ tội đă hiếp dâm một em bé. Trung đoàn trưởng là đại tá Ngh́n, tốt nghiệp trường Vơ Bị. Ông lúc nào cũng nghiêm nghị, mặt không bao giờ có một nụ cười. Ông leo lên từ cấp thiếu úy lên đến đại tá. Đă giữ nhiều chức vụ chỉ huy từ trung đội trưởng trở lên. Con người như vậy cứ ngỡ là rất lư tưởng cho một sĩ quan hiện dịch. Nhưng khi có trong tay quyền hạn lớn, ông trở nên ăn chơi, quân phiệt và tham nhũng. Khi về tŕnh diện trung đoàn, tất cả 4 tân thiếu úy cùng khóa vào tŕnh diện ông. Ông ngồi phía trong một cái bàn dài, rộng. Sau khi mỗi người tŕnh diện ông xong, ông chỉ nói một câu: «Các anh biết là đơn vị bộ binh chẳng có cần ǵ công tác... của các anh cả. Các anh về làm đại đội phó ở đơn vị tác chiến dưới đại đội lẻ.»

Chào ông trung đoàn trưởng đi ra, ḷng Sum nghe một nổi buồn từ đâu ụp đến, không phải anh sợ hành quân gian khổ, nhưng anh thấy như lư tưởng của ḿnh như là một ảo vọng.

Và tháng ngày sau đó là lội suối trèo đèo, ăn ngủ trong rừng từ tháng này qua tháng khác. Khi lên hành quân chưa đây hai ngày, Sum nghe tin người bạn cùng khóa, thằng Bút chết. Một năm rưởi sau, thằng Dân chết. Sum bỏ ngành anh đă học để làm người lính tác chiến thật sự. Thời gian đă biến đổi anh và đă dạy cho anh một bài học thực tế, ở ngoài đơn vị tác chiến, người sĩ quan phải có quyền, phải nắm chức vụ trưởng. Nếu không, chỉ là người vô dụng. Phần đông, những sĩ quan leo lên chức đại đội trưởng là đă quân phiệt, chữi thề, đánh lính, ăn lương khô hành quân của lính, lính ma, lính kiểng. Anh không c̣n con đường nào khác là phải bỏ ngành để lên làm cấp trưởng.

Anh thương những thằng bạn cùng khổ với anh, thương những người lính dưới quyền mà cái chết của họ được đếm trong từng tíc tắc. Mới cười nói đó, mới ước mơ đó, mới kể chuyện tiếu lâm đó, mà nghe một cái ầm, tiếng nổ từ một quả ḿn của địch gài, sẽ tung lên những thân xác người lính. Họ chết trong ngất ngứ, không toàn thây. Sau tiếng nổ, những người lính c̣n sống sót sẽ đi nhặt nhạnh ở chung quanh, đâu đó một cánh tay, một cái chân hay một cái đầu bê bết máu. Cái chết không trối trăn, không dặn ḍ.

Sum chỉ c̣n lại niềm tin ở những người đồng đội cùng anh trong chốn tử sinh. Cuối năm đó anh nghe tin trung uư Tín chết khi đang hành quân ở mặt trận Quế Sơn. Tín là khóa đàn anh của Sum. Tín đă về làm việc ở Bộ chỉ huy trung đoàn một thời gian, nhưng sau lại bị đại tá Ngh́n đổi ra đơn vị tác chiến v́ không chung đủ số vàng cho ông. Sum nghe tin mà hụt hẩng cả người.

Bây giờ anh là người bại trận. Anh sẽ khai ǵ đây. Hồ hởi phấn khởi trước sự thắng lợi của phía bên kia? Như những người đục nước thả câu trong những ngày sau ba mươi tháng tư bảy lăm, đeo băng đỏ, bận đồ bà ba đen, đi trên những chiếc xe jeep căng đầy biểu ngữ hô hào chiến thắng, kết tội kẻ thua. Anh không có cái ḷng ấy. Dù ǵ anh đă lớn lên, hít thở không khí ở miền Nam, đă chịu sự giáo dục dưới những mái trường thân yêu, anh không thể đành ḷng lên án một chế độ đă qua. Con người, chỉ có con người là có lỗi. Những nhân vật, những con người, khi quyền hành quá lớn đă làm họ đi chệch đường v́ tham vọng. Sự đào thải sẽ cuốn họ trôi đi như những gịng nước bẩn, sẽ trôi đi ra biển, để lại cho ḍng sông sự im lặng, lóng trong.

Nhưng Sum vẫn nghe ḷng ḿnh không yên ổn. Xă hội lúc nào cũng có sự lẫn lộn giữa người và người, giữa tốt và xấu. Ai cũng mặc lên ḿnh chiếc áo gấm trang trọng. Làm sao phân biệt được ai. Như Dương, như Hoàng. Mới một tháng trước đây c̣n đứng trước hàng quân oai phong lẫm liệt, mà nay đă quay mặt lại chữi quân đội thậm tệ, không c̣n danh từ nào tệ hơn.

***

Đảng phái: Không.

Trước đây, Sum không tham gia đảng phái nào cả. Kể cả đảng Dân Chủ của ông Thiệu một thời bành trướng đến tận cùng thôn ấp, lấy lực lượng chính quyền và hệ thống giáo dục làm ṇng cốt. Tổ chức, ra mắt rầm rộ, cùng khắp. Nhiều sĩ quan, bạn bè anh đă tham gia, nhưng anh từ chối. Anh thấy đây là một đảng cầm quyền chẳng ra ngô khoai ǵ cả. Với lại, lúc đó anh đang hành quân suốt năm, suốt tháng, c̣n th́ giờ đâu mà nghĩ đến chuyện «chính chị, chính em».

Nhưng anh cũng loay hoay suy nghĩ đến Việt Nam Quốc Dân Đảng. H́nh như ở quê anh, những gia đ́nh khá giả, tiểu tư sản, đều gia nhập đảng này. Khi anh c̣n bé dại, anh đă nghe nói đến những người trong Việt Nam Quốc Dân Đảng, đă làm nên những kỳ tích anh hùng. Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Kư Con, Nhượng Tống…Anh mê những h́nh h́nh ảnh lăng mạn cách mạng của họ, những con người mà thể hiện là nhân vật Dũng trong truyện Đôi Bạn và Đoạn Tuyệt của Nhất Linh. Và cả Nhất Linh nữa, anh cũng mê sự nghiệp văn chương của ông, và cả sự nghiệp hoạt động cách mạng của ông nữa.

Sum lớn lên trong một gia đ́nh phú nông, cha anh là một thầy dạy học miền quê. Cha anh là h́nh ảnh những ông đồ nho c̣n sót lại của thời phong kiến qua thời đệ nhất cộng ḥa. Cha anh để lại cho anh h́nh ảnh một con người của giai cấp trung lưu, yêu nước thụ động và chỉ có những ư nghĩ lăng mạn trong đời sống thường nhật.

Anh lại nghe ḷng ḿnh rộn lên những cảm xúc dạt dào của những ngày mới lớn. Việt Nam Quốc Dân đảng lập chiến khu Nam Ngăi chống chế độ Ngô Đ́nh Diệm. Đó là h́nh ảnh thuở thiếu thời của Sum. Anh bảy Phát, anh tám Cẩn, anh Phước đă thoát ly lên rừng núi của ba xă Phước Sơn, Phước Cẩm, Phước Hà, lập chiến khu kháng chiến, gọi là chiến khu Sơn-Cẩm-Hà.

Ôi ! Chiến khu ! chiến khu !

«Lăng mạn cách mạng» quá đi mất thôi. Như chiến khu Ba Ḷng của Đại Việt, và trước đó, chiến khu Băi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật, chiến khu Ba Đ́nh của Đinh Công Tráng.

Sau đó, Việt Nam Quốc Dân Đảng đầu hàng chính quyền Ngô Đ́nh Diệm và bị khủng bố đến tận cùng. Chỉ có một số ra làm việc cho chính quyền mới, c̣n lại, tất cả đều ở trong thế đối lập. Việt Nam Quốc Dân Đảng vẫn c̣n ẩn chứa trong anh những h́nh ảnh tuyệt vời.

Sum lại nghĩ đến phong trào Học sinh Sinh viên tranh đấu ngày anh c̣n học trung học. Đó là những ngày sau cách mạng 1.11.1963. Chính quyền Ngô Đ́nh Diệm sụp đổ kéo theo những khủng hoảng chính trị ở chính trường miền Nam. Phong trào Phật giáo tranh đấu, biểu t́nh, băi khóa liên miên. Các bạn anh đă khoác lên ḿnh bộ áo tranh đấu. Nào Trà, nào Chiến, nào Nhẫn, nào Tuyết. Những thằng bạn hiền hậu ngồi trong lớp chăm chú học hành và học giỏi, mà giờ đây đă đứng trên những chiếc xe, giữa chợ đông người đăng đàn diễn thuyết. Họ dăng biểu ngữ, hô hào biểu t́nh, họ phát biểu kêu gọi.

Đoàn biểu t́nh đông đảo, tiếng gào thét vang râng trời. Tất cả đă đem nhiệt huyết tuổi trẻ của ḿnh ra để đấu tranh, cho dân chủ, tự do, chống độc tài, quân phiệt. Nhưng họ không ngờ là họ bị giựt dây. Tuyết và Chiến, trên một chuyến xe đ̣ đi từ Tam Kỳ ra Đà Nẵng đă bị nghĩa quân bắt đem đi thủ tiêu. Những bạn c̣n lại bỏ trường bỏ lớp mà đi. Nhẫn bị bắt lên ty Cảnh Sát, nằm trong trại giam gần mấy tháng trời, ghẻ lở đầy ḿnh, sau nhờ có người thân làm việc cho chính quyền bảo lănh Nhẫn mới được thả ra.

Đó là một thời của tuổi thanh xuân, những người thanh niên đă trải ḷng minh ra để làm một cái ǵ đó, nhưng tất cả đă bị điều hành, chỉ huy, lèo lái của những thế lực. Nên khi biết ra ḿnh bị lợi dụng th́ Trà phải bỏ trường mà đi, Nhẫn ra tù cũng tấp vô Sài G̣n, những đứa khác vào quân đội. Quân đội là chỗ an toàn nhất để trú thân, tránh sự trả đủa của chính quyền đương thời. Một thời buổi nhiểu nhương nhưng đầy hào khí. Đó là cái «lăng mạn cách mạng», bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ.

Chiến tranh lan rộng, mọi thanh niên đều phải thủ một thế đứng, bên này hay bên kia. Nguyễn Thanh Vân, Tŕnh Nhữ, Tŕnh Anh, Nguyễn Văn Tường, Trần Ngọc Thản «nhảy núi». Một số ít tiếp tục lên đại học, c̣n th́ vào lính. Bên nào cũng cần những tay súng nă đạn vào quân thù. Bắn chậm th́ chết. Miền Bắc ào ạt tuyển quân, miền Nam ra lệnh Tổng Động Viên trên toàn quốc. Những thiếu niên mới lớn bị xúc vào quân trường rồi thảy ra chiến trận. Miền Bắc th́ đi B. Đường Trường Sơn, lũ lượt hàng trăm ngàn binh lính bộ đội miền Bắc tràn vào miền Nam.

Sum t́nh nguyện vào quân đội trong lúc anh đang đi dạy học. Thật ra th́ không c̣n con đường nào khác. Dạy học rồi cũng bị động viên vào Thủ Đức, học sáu tháng ra chuẩn úy với cái quai chảo trên cầu vai. Làm trung đội trưởng với mấy chục người lính tiền tiêu, dễ chết như chơi. Thời buổi chiến tranh chuyện chết chóc là chuyện thường ngày. Sum quyết định thi vào trường hiện dịch. Anh sẽ học ở đó hai năm, biết đâu khi ra trường t́nh h́nh sẽ đổi khác, biết đâu gió sẽ xoay chiều.

Nhưng có phải anh t́nh nguyện đi sĩ quan hiện dịch v́ lư do đó thôi sao? Hay v́ Nại. Mối t́nh của Nại đă làm anh choáng váng. Cùng học chung một trường trung học. Nại như một h́nh bóng rất xa ngoài tầm tay. Nại áo dài trắng học tṛ, Nại hát hay, múa đẹp. Nại làm bàng hoàng trong anh nổi khắc khoải không rời. Nhưng có phải v́ thế thôi sao? Nại có một người đàn ông theo đuổi, đó là một người xuất thân từ trường Vơ Bị. Có phải sự tranh hơn của anh, muốn cho ḿnh cũng được làm người hùng trong tim Nại, nên anh t́nh nguyện thi vào trường hiện dịch? Để anh có những chiều thứ bảy, chủ nhật, bát phố cùng em trong những bộ đồ dạo phố mùa đông, mùa hè? Hay thành phố sương mù Đà Lạt đă quyến rủ anh trong những mộng tưởng? Thành phố sương mù. Thành phố núi. Hoàng triều cương thổ. Tất cả những lư do đó đă đưa anh đến Đà Lạt. C̣n t́nh yêu Tổ Quốc, Lư Tưởng? chỉ lờ mờ, mơ hồ trong tâm tưởng anh như một sợi chỉ mong manh, xuyên suốt, ẩn sâu trong huyết quản, trong tâm thức. Chỉ bùng lên như lúc này đây, trong trại tập trung, anh mới thấy ḿnh có một thời quá nông cạn trong suy nghĩ, trong đánh giá kẻ thù. C̣n kẻ thù th́ lọc lừa,hung bạo bao nhiêu ?

Đêm vẫn lặng lẽ trôi qua một cách mệt nhọc. Khu Trảng Lớn rộng chứa đầy mấy ngàn người tập trung cải tạo. Đêm im ắng và buồn tẻ. Sum vẫn thao thức trong cơn đau nhừ của tinh thần. Anh cố gắng ngủ mà đôi mắt vẫn mở toang. Nhớ về vợ và các con thật xa vời vợi, như đă là ngàn trùng xa cách.

Trần Yên Ḥa

hoanglan22
01-09-2020, 03:52
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1512055&stc=1&d=1578541861

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1512056&stc=1&d=1578541861

Bài viết của Tr/úy Tôn Thất Đoàn SĐ3KQ/PĐ231 ...

Căn cứ KQ Biên Ḥa tháng 10 /1971 ... Một buối sáng trời bắt đầu chớm lạnh, tôi, th/úy Tôn Thất Đoàn đang tại Pḥng Hành Quân PĐ 231, cái PHQ mỗi đầu ngày buổi sáng người vô kẻ ra ồn ào náo nhiệt, anh em phi hành đang chen chúc nhau trước bảng phi lệnh xem số tàu và phi vụ cắt bay hôm nay xong kư tên vào sổ phi lệnh rồi cùng rủ nhau ra tàu. Tôi c̣n ngồi đó một chân gát bên gốc bàn trực để chờ Cư, một bạn học cũ và cũng là lính tàu bay học chung với nhau một trường ở Mỹ nên đă từ tối hôm qua tôi đă xin phép Flight Leader cắt chúng tôi bay chung trong phi vụ của ngày hôm nay.

Hôm nay chúng tôi sẽ bay cho Tiểu khu Phước Long, trưởng phi cơ là tôi và copilot là Lê Viết Cư, là bạn học cùng tôi từ Đệ Thất cho đến Đệ Tứ trường Trung học công lập Nguyễn Tri Phương, Huế. Lên Đệ Tam th́ tôi chuyển qua Quốc Học, và sau đó v́ t́nh h́nh ở Huế xáo trộn do biến cố Phật giáo năm 1963 nên tôi chuyển vào Sài G̣n học Hồ Ngọc Cẩn Gia Định. Khi sang Mỹ th́ Cư học bay cùng một thời gian với tôi nhưng lại không gặp được nhau cho đến ngày về PĐ 231 th́ kể cũng là chuyện lạ. Và tuy thời gian học ở trường bay nhưng lúc đó tôi đă là Thiếu úy c̣n Cư vẫn c̣n SVSQ do đó khi về nước phải học bổ túc quân sự nên về PĐ231 sau tôi. Gần 10 năm cách biệt
giờ được gặp lại nhau cùng đơn vị và cùng chung chí hướng th́ thích thú vô cùng. Sáng hôm nay chúng tôi chung một con tàu và đây cũng là phi vụ đầu tiên của Cư, cơ phi là tr/sĩ Hớn, gunner hạ sĩ nhất Kiệm, đặc biệt là hai bạn này một th́ hơi to con có 1, 2 cái răng bọc vàng sáng chóe, một th́ thật nhỏ con như lính ṭ-te mà nghe anh em cơ phi thường kêu là th/sĩ Hớn !

Sau khi chúng tôi tôi gọi Đài cất cánh th́ tôi để Cư bay cho đến Phước Long và cũng để Cư đáp tại bải đáp của Tiểu khu. Trong lúc chờ đợi, phi hành đoàn chúng tôi cùng đi ăn sáng uống cafe, Cư mời tôi 1 điếu Con mèo đen, tôi không hút thuốc nhưng cũng cầm lấy ph́ phèo nhắm nháp với ly cafe cũng ra vẽ lắm. Điểm tâm xong chúng tôi về lại tàu nằm chờ đợi cho đến một lúc sau th́ một sĩ quan liên lạc ra cho biết phi hành đoàn chuẩn bị đi bốc toán viễn thám. Lúc đó tôi tuy là trưởng phi cơ nhưng kinh nghiệm chưa nhiều ,mới bay HQ chưa được 1 năm nên ai chỉ đâu đánh đó không thắc mắc, không đ̣i hỏi v́ phi vụ bốc viễn thám phải có gunships cover th́ mới đúng dù cho chiến trường lúc đó chưa có chi gọi là sôi động. Hơn nữa vị đại úy viễn thám theo tàu cũng không nói nhiều, chỉ
cho biết tọa độ c̣n họ sẽ liên lạc nhận mặt toán của họ để bốc về mà thôi.

Tự sáng giờ nằm chờ cả người hơi quải cho đến khi tàu lấy đủ RPM tôi liền gh́ lấy cần lái đẩy mạnh múc một cái thật gắt để lấy tinh thần cất cánh trực chỉ LZ , Cư quày đầu ra cửa quan sát, trong nón bay tôi không ngừng nhắc nhỡ CP, XT cẩn thận. Viên Đại úy ngồi đằng sau cùng một hạ sĩ quan truyền tin không ngừng bận bịu liên lạc quân bạn ở điểm đến, họ thấp thỏm cả 10 phút bay, cho đến khi chuẫn bị vào LZ th́ anh ta lại chồm người cho tôi biết mục tiêu rất hot v́ viễn thám đang bị địch phát hiện và bám sát không quá mươi thước. Lúc này tôi quay đầu ra sau kêu anh em thử súng, được lệnh anh em liền khạt không ngừng, tiếng M-60 đàng sau hai bên nghe thật gịn, tiếng súng đă làm tăng cái không khí cả tàu đang căng thẳng ḥa lẫn tiếng rè -rè chát cả tai của máy truyền tin lại làm thần kinh anh em căng thẳng thêm. Tôi nh́n thấy thần chết đang phục đâu đây nên cứ nh́n Cư, c̣n copil Cư th́ đầu muốn ló cả ra cửa sổ đảo ṿng khắp vùng. Rừng cây cao ṿi vọi chằn chịt không t́m thấy một chỗ trống trên LZ mà viên sĩ quan viễn thám không ngừng chỉ trỏ quá là chật hẹp bao phủ toàn là cây cổ thụ nên không thể làm normal landing được. Sau khi xác định
được phe ta tôi la lên trong nón bay kêu clear bải đáp thật kỷ để tôi hover từ trên ngọn cây rồi sau đó sẽ làm vertical landing xuống bốc. Tiếng gào trong máy PRC-25 đàng sau kêu quân bạn quẹo phải trái ra một băi trống nhưng khi tầm mắt của tôi vừa ngang ngọn cây cách mặt đất khoảng 10, 15 ft th́ BÙM 1 tiếng nổ chát chúa vang lên, cả tàu chóa lửa khói bay mù mịt, phản ứng tự nhiên tôi giữ cho con tàu rớt tự do không bị lật, tôi nghĩ đạn không trúng main rotor và cả tail rotor nữa thật quá may mắn. Nhưng khi định hồn th́ cả tàu mịt mù khói chẳng c̣n thấy ǵ,và khi tàu đă bắt đầu cháy vậy mà tôi c̣n lo tắt Main Fuel Cotrol Off v́ sợ máy bay cháy, sau nầy nghĩ lại thật
buồn cười. Tôi không biết ḿnh có bị ǵ không nhưng quay mặt nh́n về phía trái th́ hởi ơi, Cư cũng đang nh́n tôi, không nói một lời với khuôn mặt đầy máu. Khuôn mặt đó cứ ám ảnh tôi cho đến bây giờ, phải chi ḿnh đừng yêu cầu Cư bay chung với tôi phi vụ này. Đây là phi vụ hành quân đầu tiên và cũng là phi vụ cuối cùng của Cư. Và khi thấy Cư ngồi bất động tôi mới tự tung cửa thoát ra khỏi tàu chạy qua phía trái với sự giúp đở của gunner Kiệm và đám viễn thám ở LZ kéo Cư vào hướng 9 giờ một trảng trống núp sau một g̣ đất và không nhớ cơ phi Hớn có mệnh hệ ǵ không ? Lúc nầy quân bạn không ngừng khạt đạn tự bảo vệ vùng, tiếng AK của Vịt cũng chẳng vừa cứ nghe rít ngang trên đầu. Tôi vội mở Survival Radio gào thét MayDay...MayDay...cả tiếng Việt lẫn tiếng Mỹ hy vọng ai nấy quanh vùng đều nghe. Tọa độ rớt máy bay liền được quân bạn xác định và chỉ khoảng 30 phút sau th́ tôi nghe thấy tiếng rockets của Cobra gunships không ngừng răi quanh cover cho chúng tôi, cả 2 chiếc F-5 cũng đang thay nhau oanh tạc dưới sự hướng dẫn của toán viễn thám và của tiểu khu Phước Long, toàn là máy bay của Mỹ đang ráo riết giập cả khu rừng, tôi tự mừng thầm trông bụng, của ai cũng được miễn là có người biết
ḿnh đang bị nạn và đang chờ rescue ở đây là được rồi. May mắn phi hành đoàn chỉ có Cư bị thương nặng, Hớn th́ bị nhẹ nhưng sau này cả hai đều giải ngũ. Gunner Kiệm th́ hoàn toàn vô sự, riêng tôi bị một mănh nhỏ ghim vào gót chân trái. Vị Đại Úy viễn thám đă hy sinh v́ viên đạB-40 bắn từ hướng 11 giờ nổ tung ngay ở giữa phi
cơ trổ ra hướng 4 giờ, lúc ấy ông đang như bao che cả người tôi để chỉ băi đáp đến cả một bông mai của ông đă văng đi ghim vào vai trái tôi mà tôi chẳng phát hiện cho đến khi được rescue về phi đoàn th́ Sĩ Quan trực mới thấy mà gỡ xuống!

Trở lại lúc chúng tôi đang nằm chờ đợi để được rescue trong lúc Crobra và F-5 sau hơn 1 tiếng quần thảo bao cả vùng th́ lù đù xuất hiện hai chiếc Dust-off Mỹ, chiếc
số 1 đáp , Cư và Hớn cùng một số viễn thám bị thương lên trước được bốc trước, tôi và Kiệm lên chiếc số 2. Lúc nầy bọn Vịt như đă banh thây dưới những trận oanh kích liên tục nên không c̣n nghe thấy tiếng súng của chúng nữa. Trên đường về Biên Ḥa tôi được phi hành đoàn cho biết chiếc Dust-off 1 tăi thương Cư và Hớn lại bị trúng đạn hydrolic-off phải emergency trên đồng trống gần B́nh Dương. Thế là trong một ngày Cư và Hớn bị rớt máy bay
hai lần và đều được trực thăng Mỹ đưa 2bạn an toàn về Tổng Y Viện Cộng Ḥa. Đúng là chưa tới số nên c̣n sống đến ngày hôm nay. Xin cảm ơn Trời Phật.

Sau những trận đánh càng ngày càng ác liệt của cuộc chiến Vùng 3 Chiến Thuật tôi bị thuyên chuyển ra Vùng địa đầu Phi đoàn 213 Song Chùy căn cứ KQ Đà Nẳng.

Giờ ngồi đây nghĩ lại Thiếu Úy Lê Viết Cư bạn tôi sao thật là xui xẻo, phi vụ hành quân đầu tiên cũng là phi vụ cuối cùng trong Cuộc Đời Phi Công của bạn !
Phi vụ nầy tôi được Chiến thương bội tinh kèm thêm Anh dũng bội tinh nhưng chỉ nhận được một c̣n cái Anh Dũng th́ không biết đi đâu ? Đó h́nh như là tai nạn đầu tiên của PĐ231 nhưng không biết anh em 231 có ai nghĩ tới đă từng có một phi công mới cất cánh bay đă phải từ giă về lại với đời, ư tôi nói th/úy Cư chỉ bay một lần rồi giải ngũ, và bạn ta chỉ ở phi đoàn có vài ngày chắc là rất ít người biết. Không biết có anh em nào nào về 231 cùng lúc với Cư không ? Cách đây mấy năm tôi có nhắc lại với Lôi Vân1 ( tức Trung Tá phi đoàn trưởng ) nhưng LV1 không nhớ, v́ phi đoàn lúc đó mới thành lập.

Cư thân mến, ḿnh không liên lạc được với Cư kể từ khi bị ra Đà Nẳng, sau đó ở tù cộng sản 4 năm, ḿnh kiếm bạn khắp nơi ở Facebook,Intergram , v.v.. nhưng t́m không thấy, ḿnh hy vọng là Cư đi được trước 30 Tháng Tư Đen, v́ sau khi giải ngũ, Cư làm cho Mỹ ở TSN. Hy vọng Cư hoặc anh em nào đọc được tin tức của Cư th́ cho tôi liên lạc, mong lắm thay.Trong lúc Cư điều trị tại TYVCH, thỉnh thoảng về Sài G̣n Đoàn có ghé thăm, thấy Cư nằm trên giường bệnh quấn toàn băng trắng, chân treo ṭng teng thật là đau ḷng lại thêm hối hận v́ hôm đó ḿnh đă yêu cầu sắp cho Cư
bay chung với ḿnh !

Sau 1974 th́ tôi không c̣n ở 231 nữa, mặc dù tất cả bạn bè ngày ngày cùng vào sinh ra tử đều ở đó, suốt 4 năm 71-74 đầy ấp những kỷ niệm vui buồn có nhau, tất cả đều ở Lôi Vân c̣n tôi đă ra Song Chùy 213 nhưng dù sao th́ cũng cùng chiến đấu dưới bầu trời khi đó vẫn c̣n xanh của Không Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Ra ngoài này không bao lâu nên không nhiều kỷ niệm, sau gặp Nguyễn Mạnh Thạc cũng đổi ra đây, 2 anh em tuy khác phi đoàn nhưng cùng chung một buổi cơm tháng với nhau nên bớt đi phần nào cô đơn. Tháng 4/75 tan hàng phi vụ di tản cuối cùng, tôi bị rớt tàu một lần nữa, đám Vịt xông đến bắt tôi ở tù hơn 4 năm ...

Cali Jan.2020
Tôn Thất Đoàn

hoanglan22
01-15-2020, 14:09
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1515098&stc=1&d=1579097269

Vào đầu năm 2016, cụ hội trưởng Hội Ái Hữu Không Quân miền trung Cali nhiều lần viết email kêu gọi các đơn vị KQ, nhất là các phi đoàn tác chiến hăy gởi danh sách tử sĩ của đơn vị ḿnh, phi đoàn ḿnh về Hội Ái Hữu KQ trung Cali với mục đích cao đẹp là gom góp tất cả tên tuổi của các tử sĩ KQ đặt vào cái Kiosque riêng của Không Quân. Đây là một ‎ư kiến quá hay và một ‎việc làm thật ‎ư nghĩa hàm chứa sự kính mến cũng như tiếc thương của đồng đội đối với các chiến hữu đă hy sinh. Tôi để tâm theo dơi, đă thấy có một vài phi đoàn hưởng ứng, thế là tôi phổ biến tin đây vào giới anh em chúng tôi, gồm hơn 70 anh đă liên lạc được từ trong nước đến hải ngoại sau cái ngày 30 tháng tư 1975. Anh em chúng tôi cùng nhau ôn lại để nhớ tên họ, cấp bậc, ngày tháng mà các anh ấy đă hy sinh và tại chiến trường nào hầu đúc kết được một danh sách tử sĩ của PĐ 225 Ác Điểu thật đầy đủ và chính xác.

Cũng giống như các phi đoàn bạn, với thời gian ṛng ră 4 năm rưởi miệt mài chiến đấu chúng tôi có tất cả là 22 tử sĩ và một số anh bị thương tích nặng phải giải ngũ. Hầu hết các anh hy sinh là do trúng đạn pḥng không, thượng liên hay hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 v.v... Duy có một trường hợp hết sức thương tâm, một cái chết không đáng phải xảy ra như thế, đă tạo sự tiếc thương vô vàn và uất ức quá lớn trong anh em chúng tôi khi ấy, tôi chọn chuyện đó để kể lại vào cái dịp tháng Tư Quốc Hận nầy.

Trước khi vào chuyện, tôi có đôi lời: đây là một đoản văn viết về chiến trường xưa như là k‎ư sự ngắn, bạn đọc có thể nhàm chán bởi cái 'Tôi' lập đi, lập lại nhiều quá chăng. Th́ xin bạn hiểu cho : là hồi k‎ư chiến trường nếu cần một sự trung thực th́ chính tác giả phải trực tiếp tham gia vào trận chiến đó, chứ không thể nghe ai đó kể lại rồi thêm thắc viết xuống y như là viết tiểu thuyết ? Xưa nay những Nguyên Vũ, Phan Nhật Nam hay gần đây Trần Hoài Thư, Phạm Tín An Ninh, Vương Mộng Long, Út Bạch Lan v.v…họ cũng chỉ viết lại những trận đánh mà chính họ tham gia v́ vậy ta đọc thấy hay, tôi bắt chước họ làm điều đó nhưng không phải là để đón nhận chuyện khen chê, hay dở ǵ đâu mà chỉ muốn ghi lại những kỷ niệm của một thời chinh chiến tuổi trẻ, đồng thời muốn vinh danh những người bạn tôi nằm xuống cho chính nghĩa Quốc Gia mà thôi. Câu chuyện xin bắt đầu :


Để viết cho đúng ngày giờ xảy ra tai nạn tôi phải t́m anh cơ phi cùng bị nạn trên con tàu đó, hiện đang sống ở VN th́ chắc chắn đó là ngày 02 tháng Tư năm 1973. Cái ngày nầy Phi đội II chúng tôi lên ca chánh : hành quân lần hai trong chu kỳ làm việc 5 ngày của chúng tôi. Chỗ nầy chắc tôi phải cắt nghĩa một chút v́ nếu các anh là đồng nghiệp và bay ở Sư đoàn IV/KQ th́ hiểu rơ cái lịch tŕnh làm việc của chúng ta nhưng nếu bạn đọc khác th́ hơi khó hiểu đấy. Chuyện là vầy: Mỗi Phi đoàn có 4 phi đội, mỗi ngày 3 phi đội cùng hợp sức làm việc để một phi đội được nghỉ dưỡng sức 3 ngày ở ngoài đơn vị nghĩa là tại gia đ́nh, hầu hết là ở Sài G̣n. Ba phi đội đó được phân định như sau: sau khi nghỉ phép, th́ ngày đầu làm việc của bạn là ngày ưu tiên một hành quân, qua ngày thứ hai bạn sẽ được tăng cường bổ xung cho một phi đội khác đang là hành quân chánh, ngày thứ ba bạn vẫn tăng cường nhưng thuộc loại hai: thường là đảm trách những phi vụ nhẹ hoặc có khi không phải bay, coi như có một ngày nghỉ dưỡng sức tại đơn vị của bạn. Đoạn qua ngày thứ tư, bạn lại lên ca ưu tiên một hành quân chánh (đợt nh́), ngày thứ năm bạn lại được tăng cường hành quân (đợt nh́) và ngày thứ sáu là ngày đi phép nghỉ dưỡng sức ba ngày của bạn. Đi và về, nếu bạn ở Sàig̣n th́ có phi cơ đưa rước cho bạn.

Sáng nầy, tôi thức dậy khoảng 5 giờ rưỡi, sau khi vệ sinh cá nhân, mặc áo bay vào, xỏ chân vô đôi botte de saut, đeo dây súng P38 rồi vác áo giáp trên vai, xách nón bay đi tới quán cà phê của P/Đoàn gọi một ly cà phê và một thứ ǵ đó để ăn sáng qua loa, sau đó tới thẳng đến pḥng hành quân. Nơi đây đă có một vài anh em đến trước tôi, chúng tôi chào hỏi nhau. Nh́n vào bảng phi vụ lệnh th́ tôi thấy P/Đoàn chúng tôi hôm nay làm việc cho Tiểu khu Kiến Ḥa (Bến Tre), chúng tôi cũng đă sẵn sàng cho một package lớn (một hợp đoàn hành quân) do T/u Ẩn, P/Đội phó cắt bay từ chiều tối đêm qua, gồm: 1 C&C, 5 Slicks chuyển quân và 3 Gunships yểm trợ. Được phối trí như sau : Th/tá Đặng (P/Đoàn phó) bay C &C (Control and Communication). Dù không nói ra, chúng tôi thấy khoái khi thấy mấy quan bay tàu C&C mà có cấp bậc cao, chẳng hạn như ông nầy, v́ sao thế ? Bởi các quan Bộ binh ngồi ‘back seaters’ (ngồi ghế vải phía sau chỉ huy cuộc hành quân) thường là Đ/Tá Trung đoàn trưởng (Đại bàng), Tr/Tá Trung đoàn phó hay Đ/Tá Tiểu khu trưởng (Tỉnh trưởng) , Tr/Tá Tiểu khu phó v.v.. mà nếu phe ta cấp bậc quá nhỏ như một vài mai vàng th́ tất nhiên dễ bị hiếp đáp. Chính tôi đă chứng kiến bốn năm lần cái cảnh nầy. Thôi trở lại chuyện hành quân hôm nay : T/u Ẩn sẽ bay lead 5 chiếc đổ quân, chiếc số 2 : trưởng phi cơ T/u Ngô Vĩnh Viễn, số 3 : T/u Quân.L, số 4 : T/u Thành.H và số 5 (Trail) : T/u Hồng.N. C̣n bên Gunship (Vơ trang), bay chiếc số một : tác giả bài viết, T/u San bay chiếc số 2 , T/u Phát bay chiếc số : 3. Vào thời điểm nầy hầu hết anh em hoa tiêu 225 đều mang cấp bậc Trung úy (T/u) bởi lẽ các anh ra trường vào khoảng cuối năm 1970, số giờ bay hiện tại của các anh đă trên hai ngh́n giờ rồi. Cách nói chung chung th́ phi công trực thăng của Sư đoàn IV/ KQ bay rất nhiều, mỗi năm các vị ấy bay khoảng một ngh́n giờ. Sở dĩ T/u Ẩn cắt tất cả hoa tiêu thuộc P/Đội II bay ghế trưởng phi cơ hôm nay v́ phi đội nầy lên ca chánh, tất nhiên phải có trách nhiệm nhiều hơn. Khoảng 6:30 sáng chúng tôi cuốc bộ ra tàu bay của ḿnh, mỗi tàu có 4 người, ai cũng có phận sự riêng trên con tàu nhưng xem xét con tàu (check) trước khi bay là việc chung. Kẻ leo lên nóc check hệ thống cánh quạt lớn, người đu lên ‘tail skid’ để check cánh quạt đuôi, rồi anh cơ phi (Cơ khí viên phi hành) kiểm soát lại dầu máy, dầu hộp số có ở đúng cái vạch an toàn không, anh xạ thủ coi lại súng ống hai bên thân tàu bằng cách lên đạn sống, tất cả phải sẵn sàng để lúc 6:45 (giờ mặt trời mọc) tất cả 9 chiếc đều quay máy. Tàu C&C cất cánh trước, kế đến 5 chiếc Slicks di chuyển ra phi đạo dưới sự chấp thuận của đài kiểm soát không lưu, rồi cất cánh, ngay sau đó 5 chiếc ráp thành hợp đoàn chữ V lớn (V5 formation). Sau cùng là 3 chiếc vơ trang cất cánh và ráp thành hợp đoàn nấc thang trái (Left Echelon) tức là đội h́nh tác chiến. Độ chừng 45 phút bay, tàu C&C đáp ở cầu tàu trước ṭa Hành chánh tỉnh Kiến Ḥa để rước các quan ngồi back seaters, c̣n tám chiếc của chúng tôi đáp xuống phi trường Bến Tre. Nơi đây có sẵn chừng một đại đội Địa phương quân, một xe GMC và một xe Dodge 4, cả 2 xe chở đầy ấp đồ tiếp tế. Chúng tôi tắt máy và chờ tàu C&C đến để biết ḿnh sẽ làm ǵ hôm nay. Phi trường Bến Tre là một trong những phi trường khá đẹp của Quân khu 4, chúng tôi tụ 5, tụ 7 tán gẫu cho vui nhất là trao đổi những hiểu biết về vùng nầy. Đây là vùng có rất nhiều du kích quân cộng sản, quê hương của hai gấu cái ‘thị B́nh, thị Định’ mà lỵ , dừa rất nhiều, dọc theo hai mé các kinh rạch được bao phủ dày đặc bởi giống dừa nước lá xanh um, c̣n trên đất khô là bạt ngàn rừng dừa cây ăn trái và dường như thiếu sự chăm sóc nên phần lớn các cây bị lăo, thân quá cao khoảng chừng 10 đến 15 thước, cho trái rất ít nhưng họ không đốn bỏ có lẽ v́ thiếu cánh tay đàn ông chăng. Bởi vào thời buổi nầy đàn ông nếu không đi lính Quốc Gia th́ cũng vào bưng đi lính giặc cộng, đâu có được ở nhà để mà o bế vườn tược. Nói thật chúng tôi hơi ‘nhợn’ khi bay cái vùng nầy, nhất là Gunships thường bay thấp, bay rà sát ngọn cây nếu chẳng may tàu bị bắn cháy, cần đáp khẩn cấp rất khó t́m được khoảnh đất trống cho vừa ‎ư. Khoảng chừng 8:30 tàu C&C chở các quan ngồi back seaters đến. Chờ cho chiếc nầy tắt máy hẵn th́ 8 trưởng phi cơ hợp đoàn kéo đến đây để nghe các quan Bộ binh cũng như Th/tá Đặng ‘briefing’ (thuyết minh) công việc phải làm hôm nay. Chuyện dễ thôi, cần hai Lifts (chuyến) chở Đại đội nầy vào hoán chuyển với Đại đội đang đống ở quận B́nh Đại, rồi sau đó cần 2 teams (toán) mỗi team gồm hai Slicks chở đồ tiếp tế cho 2 cái đồn Nghĩa quân, một đồn ở gần Giồng Trôm và đồn kia ở gần Ba Tri. Như vậy th́ chiếc Gunship số 3 có thể nằm nhà tiếp tục binh xập xám rồi đấy, chỉ cần Gunship 1&2 hộ tống hợp đoàn là được rồi. Đâu chừng khoảng 10:45 th́ mọi công tác đă xong, chúng tôi về đáp lại sân bay để ‘Stand By’ (chờ lệnh mới) trong khi đó tàu C&C đáp ở ṭa Hành chánh. Đến đây tôi cũng xin lỗi độc giả v́ tôi vẫn giữ nguyên English cho những từ ngữ chuyên môn cũng như nghề nghiệp. Xin cho tôi được giải bày để bạn đọc hiểu rơ v́ sao, rồi thông cảm rồi tha thứ. Những English nầy do anh em phi công trực thăng đă học được từ ở trường bay, khi về đơn vị chiến đấu th́ được nghe các huynh trưởng ḿnh cũng nói y chang như vậy trong các cuộc hành quân, riết rồi đâm ra quen miệng. Thêm cái khổ nữa, nếu anh em trong giới KQ thấy tôi dịch nó ra tiếng Việt, th́ họ bảo : đọc thấy không “phê”, có vẻ giả tạo, không thể hiện đúng ngôn ngữ thường dùng của dân bay 'chuồn chuồn'. Về phía bạn đọc thấy tôi giữ nguyên tên gọi bằng English th́ cho là chướng mắt, dị hợm đúng vậy không? Thôi th́ tôi cứ giữ nguyên từ ngữ chuyên môn bằng English cho phe ta, rồi mở ngoặc đơn ‘(’ để giải thích những từ nầy, xong rồi đống ngoặc đơn lại ‘)’, như vậy là trọn nghĩa trọn t́nh cả đôi đàng, các bạn hỉ ? Hay c̣n cách nữa, qu‎ư‎ vị cứ coi đây như là một cách ngụy ngữ hay mă hóa ngôn ngữ theo cách dân KQ, cốt là để Việt cộng không hiểu chúng ta nói cái ǵ trong lúc hành quân. Ngay ở đơn vị Bộ binh họ cũng xài ‘ngụy ngữ ’ nhưng giản dị hơn, thường họ đổi chuỗi từ nầy thành một chuỗi từ khác nhưng giữ nguyên những chữ cái ở đầu của mỗi từ. Thí dụ như ‘Chiến Tranh Chánh Trị’ (những chữ cái ở đầu từ là : C, T, C, T) th́ họ đổi là ‘Con tôm con tép’, như ‘Lao công đào binh’ biến thành là ‘Lau chùi đại bác’, c̣n ‘Cán bộ xây dựng nông thôn’ thành là ‘Canh bầu x́ dầu nước tương’, ‘Pháo binh’ th́ thành ‘Phở Bắc’, ‘Việt cộng’ là ‘Vịt con’ v.v...

Vào lúc 11:15, tàu C&C đáp xuống gần tàu của chúng tôi, sau khi giảm ‘ga’ nhỏ lại rồi giao ‘controls’ cho hoa tiêu phó, Th/tá Đặng bước xuống bảo chúng tôi quay máy, bay qua phi trường Đồng Tâm Mỹ Tho đợi lệnh mới. Sau đó, ông Đặng lên lại phi cơ, tăng ‘tour’ cất cánh đi trước, có lẽ ông đáp ở hồ nước ngọt Mỹ Tho để rước mấy quan ngồi ‘back seaters’ của Tiểu khu Định Tường. Hợp đoàn 8 chiếc quay máy, tôi gọi 2 chiếc Gunships qua tần số VHF nội bộ : “ Diều Hâu 2 và Diều Hâu 3, đây 1 gọi ” . Hai bạn San và Phát đáp bằng thính hiệu : “nghe rơ” (bấm micro switch trên ‘Cyclic’ hai lần), tôi tiếp : “ Diều Hâu 2 và 3 qua Đồng Tâm trước, c̣n 1 sẽ lên cao liên lạc với Paddy (đài kiểm báo của SĐIV/KQ) để nhờ họ thông báo cho Pḥng Hành Quân Chiến Cuộc (giống như Trung tâm Hành quân của Bộ binh) biết là hợp đoàn Hồng Mă (danh hiệu hành quân của PĐ 225 Ác Điểu) sẽ ăn cơm trưa tại phi trường Đồng Tâm Mỹ Tho ”. Sở dĩ tôi phải làm việc nầy là nhờ pḥng Hành quân chiến cuộc thông báo về phi đoàn tôi, để ông trưởng phi cơ bay tàu cơm biết chúng tôi hiện đang ở đâu mà đem cho đúng chỗ, nếu không gọi về, ổng cứ tưởng chúng tôi c̣n ở phi trường Bến Tre như ghi trên bảng phi vụ lệnh th́ trưa nay anh em chúng tôi phải treo bao tử.

Phi trường Đồng Tâm chỉ cách phi trường Bến Tre chừng bảy, tám miles đường chim bay, bay sẽ mất mười phút nếu tính từ khi quay máy cất cánh đến đáp xuống tắt máy. Chúng tôi không phải đổ thêm xăng, rồi 5 chiếc Slicks và 3 chiếc vơ trang chia nhau đậu hai bên phi đạo. Lúc nầy là ban trưa, nắng nóng lên rồi, anh em cảm thấy lười người ra, chỉ muốn ngồi yên trên ghế của ḿnh đợi tàu cơm hơn là bước xuống đi lang thang như mọi khi. Tôi lấy bao thuốc lá ra, đánh lửa hút rồi thử quan sát cái toán quân phía trước mặt mà bọn tôi sắp phải thả họ xuống cái LZ ( Băi đáp - Landing zone ) nào đó. Tôi đoán đây là một Đại đội Địa phương quân có thể là đại đội Thám sát Tỉnh, đại đội nầy cũng có nét giống đại đội thám sát ở Cao Lănh mà chúng tôi đă từng hành quân với họ, thoạt trông th́ thấy rất là ô hợp, lính tráng ǵ mà ăn mặc xốc xếch, áo bỏ ngoài quần, có vài ông cắc cớ trên th́ mặc áo treillis dưới th́ mặc quần Mỹ A đen của vợ, đầu họ đội đủ loại mũ: nón sắt, nón nhựa, mũ rằn ri tai bèo kiểu biệt kích Mỹ và cả nón rộng vành kiểu quân đội Tân Tây Lan. Họ mang đủ loại giày : botte de saut có, giày bố có và có cả dép râu việt cộng. Do vậy tôi vẫn nghĩ rằng cái đám nầy chắc là đánh giặc khá lắm đây, giống như đại đội ở Cao Lănh chăng ? bởi tôi thấy cũng có vài ông mang AK47 thay v́ M16, chắc đó chiến lợi phẩm mà mấy ông đó lấy được của vc. Không thấy ông nào mang ba lô trên lưng mà chỉ có súng và đạn, đặc biệt họ trang bị khá nhiều lựu đạn, lớp th́ đeo lủng lẳng ở hai túi trên, lớp th́ đeo ở dây thắt lưng to bản. Tôi đoán chắc cái kiểu nầy là thả mấy ổng vào, cho mấy ổng lục soát mục tiêu chừng vài giờ thôi, rồi phải bốc mấy ổng về. Mấy ổng thấy tàu chúng tôi vừa tắt máy xong, liền di chuyển đến để ngồi đụt nắng ở hai bên hông và sau đuôi tàu. Lại có năm bảy ông bày biện ra nhậu nhẹt, họ ngồi bẹp thành ṿng tṛn dưới đất cát, rượu đựng trong bi đông thay v́ đựng nước uống, họ rót ra cái nắp rồi chuyền tay nhau uống cạn, nói cười ồn ào vui vẻ lắm. Trong đám đó có một vài ông chơi nghịch tung hứng trên tay mấy quả lựu đạn nhỏ cở trái chanh (M 67 ?) như các bé gái chơi banh đũa. Nếu bạn không phải là lính tráng, thấy cảnh nầy chắc sợ té đái, chớ chúng tôi biết rơ vận hành trái lựu đạn, cũng giống như trái khói màu của chúng tôi thôi, không khi nào nó nổ bậy, trừ khi ḿnh muốn nó nổ.

Khoảng 12:30, tàu cơm đến rồi đậu phía sau 3 chiếc vơ trang. Chúng tôi đến đó lănh cơm, mang về tàu ḿnh ăn. Khoảng 12:45 tàu C&C chở quan back seaters đáp xuống và đậu nối đuôi tàu cơm. Ông Đặng thấy chúng tôi đang ăn cơm lở dở th́ bảo : “Cứ ăn tự nhiên đi, không có ǵ phải gắp gáp”. Gần13:00, tám trưởng phi cơ cùng đến tàu ông Đặng để nghe briefing, tóm lược như sau : Chúng ta sẽ bốc một đại đội tại đây rồi thả xuống khoảng giữa quận Sầm Giang (Vỉnh Kim) và xă Ba Dừa (vc gọi là chiến khu Ba Dừa) nằm cách bờ sông Tiền Giang chừng 500m ở bờ bắc (tả ngạn) v́ có tin chừng một trung đội vc thường xuyên hoạt động nơi nầy. Anh em chúng tôi đều biết đây là một vùng vô cùng nóng bỏng, nên rất chăm chú theo dơi phần briefing. Nh́n vào bản đồ bộ binh có tỷ lệ xích lớn 1/25,000 tuy không phải ảnh chụp nhưng được vẽ rất khéo, mô tả chỗ nào là rừng rậm, sông rạch, bờ đê hay ruộng đồng ao vũng v.v… sau khi nghiên cứu kỹ vị thế băi đáp trên bản đồ, tôi hỏi viên Th/tá bộ binh về cái hướng tiến quân, lục soát của quân ta ? Ông cho biết là hướng Bắc. Vậy là O.K rồi, tôi bàn với các trưởng phi cơ bay hợp đoàn chở quân là nên bay dọc theo bờ nam con sông Tiền, khi nào ngang với LZ th́ bẻ góc 90 độ băng qua con sông vào đáp ngay, lift đầu cho 'full suppress' (bắn tự do v́ chưa có quân bạn ở dưới) đường ra sẽ là ‘180 độ out’. Dù không nói ra, tôi tin các bạn tôi có‎ cùng ‎ư nghĩ giống như đề nghị của tôi. Để giảm bớt không khí căng thẳng, một ông trưởng phi cơ nói đùa “Tôi không biết lội nghen anh Quân”, tôi cũng đùa lại “Đợi anh uống đầy một bụng nước, tôi mới tới vớt anh lên”. Quay sang anh Phát, tôi bảo “Gunship 3 theo chúng tôi, nhớ đánh hết rockets trước khi Slicks vào đáp nghen”. Quay qua Ẩn, tôi nói “Hợp đoàn các anh đến sau chúng tôi chừng 7, 8 phút, chúng tôi cần dọn kỹ LZ trước khi các anh vào đáp” rồi tôi hỏi Th/t Đặng là : “Tôi ‘plan’ (phác họa) như vậy, Th/t thấy có ǵ không vừa ‎ư? ” và Sếp của tôi gật đầu đồng ‎ư. Ông Đặng thường bay C&C cho phi đội chúng tôi, cả hai bên làm việc rất tâm đầu ‎ư ‎hiệp, ông biết anh em chúng tôi có khá kinh nghiệm bay hành quân bởi do tất cả rất chịu khó bay và có ‎tinh thần trách nhiệm cao, ít có cụ nào kiếm chuyện tránh né hay lặn vọt. Thế là mạnh ai trở về tàu nấy, đồng ‎ư với nhau làm sớm nghỉ sớm, tất cả 9 chiếc quay máy sửa soạn cất cánh vào vùng. Tàu C&C cất cánh trước, tôi dẫn 2 chiếc vơ trang theo sau, ba chiếc bay đội h́nh tác chiến. Trong khi đó hợp đoàn Slicks bang ra phi đạo cho lính leo lên, mỗi tàu 12 người nghĩa là chở được một nửa đại đội ngay chuyến đầu.

Đến vùng, tôi biết ngay đâu là băi đáp, tuy nhiên chúng tôi tiếp tục bay hàng một làm ṿng tṛn giữ cao độ 1,500 bộ phía sau tàu C&C ở 2,000 bộ, để quan sát kỹ LZ và rồi tàu C&C bay vào băi đáp, ném khói màu xuống, đợi khói bốc lên, ông Đặng nói :
--- Diều Hâu có thấy ‘red smoke’ (khói đỏ) không? LZ là ở đó.
--- Đáp nhận Ác Điểu 55. Diều Hâu 2 và 3 theo tôi, chúng ta bắt đầu vào đánh. Target đầu là con rạch phía tây băi đáp, chúng ta đánh từ chỗ ngă ba sông, đánh dọc theo con rạch kéo dài lên phía bắc.

Tôi biết Phát đánh rocket c̣n yếu v́ c̣n đang thời gian huấn luyện bay vơ trang, chưa đánh chính xác lắm, v́ vậy tôi bay ngay trên đỉnh con rạch, cao độ chừng 500 đến 700 feet, th́ thế nào rockets của Phát cũng phải nổ ở hai hàng cây ở hai bên con rạch. Tôi nhắc Phát mỗi ‘pass’ nên đánh từ 3 đến 4 quả, nghĩa là sau 3 hoặc 4 ‘pass’ phải hết 2 bó rockets (14 quả loại 70 ly). Pass thứ hai, tôi chọn những lùm cây dọc theo con đê phía bắc băi đáp và ‘pass’ sau cùng cũng sẽ là những lùm cây ở phía đông. Có nghĩa là 3 hướng bắc-đông-tây, chúng tôi đă dọn dẹp kỹ, c̣n hướng nam tương đối trống trải sẽ răi đạn Minigun là được rồi. Bây giờ tôi đă thấy hợp đoàn Slicks c̣n cách LZ chừng 2 miles, tôi bảo Gun 3 lên cao 1,500 bộ bay phía sau tàu C&C, c̣n tôi và Gun 2 bắt đầu xuống thấp bay rà sát mặt ruộng, đoạn tôi bay vào chỗ tàu C&C thả khói đỏ khi năy, bảo anh cơ phi thả một trái khói để hợp đoàn Slicks biết mà quẹo phải vô đáp. Giờ th́ hợp đoàn đă quẹo phải, tức là vào ‘final’(cận tiến) và tàu nào cũng cho tác xạ M 60 vào phía bắc cũng như hai bên băi đáp, Gun 1 và Gun 2 bay ra rước họ vào, tôi bảo Gun 2 bảo vệ bên sườn phải của hợp đoàn, c̣n tôi sẽ bảo vệ bên sườn trái tức là phía tây của băi đáp. Hợp đoàn bắt đầu giảm dần cao độ và tốc độ để touch down (chạm đất), hai chiếc Guns bay lướt qua họ và bay xa hơn băi đáp chừng 50 thước, Gun 2 quẹo phải rồi sẽ bay h́nh quả trám theo chiều kim đồng hồ che chở bên sườn phải của hợp đoàn, trong khi đó bên sườn trái tôi cũng làm như thế, cũng bay quá băi đáp rồi quẹo trái để bay h́nh quả trám theo chiều ngược kim đồng hồ th́ tàu tôi bị ‘ground fired’(bị bắn), viên phi công phó bị thương. Than ôi, đang lúc cơm sôi mà lửa tắt nghĩa là ‎trong khi hợp đoàn đang ‘touch down’ th́ dù tàu tôi có người trúng đạn vẫn không thể rời vùng ngay được, tôi làm một ṿng quả trám nữa để bảo vệ hợp đoàn, đưa họ ra an toàn rồi chừng đó tôi báo cáo với C&C, xin rời vùng. Tôi gọi chiếc Gun 3 theo tôi về đáp hồ nước ngọt, c̣n Gun 2 ‎thử hỏi ông Đặng muốn sao? Lên cao và ở đây với ông, hay theo hợp đoàn về Đồng Tâm đáp chờ tôi. Tôi cũng nói cho tất cả hợp đoàn biết là : “Sau khi đáp hồ nước ngọt, tôi nhờ T/u Phát chăm sóc T/u Đắc.Hồ đưa đi Quân y viện cấp cứu, tôi mượn copil của chiếc Gun 3 lên bay với tôi tiếp tục hành quân”. Th/tá Đặng rối rít hỏi tôi về “Anh Đắc bị thương có nặng lắm không ?”, tôi trả lời : “Tôi không thấy trầm trọng lắm, để xem xét kỹ, tôi sẽ gọi lại”. Đắc bị đạn ở dưới cổ, phía sau ót, đường kính của vết thương nhỏ cở đường kính cây bút ch́, máu không ra nhiều. Tôi bảo Đắc thử vận động hai tay, rồi hai chân, thử hít vào thật sâu rồi thở ra thật mạnh, khi làm như vậy Đắc có cảm thấy đau ở đâu không? Đắc thử đếm ngược từ 20,19,18…được không? Tôi nghe giọng nói của Đắc cũng b́nh thường không ngọng nghịu hoặc đớt đát ǵ cả nên tôi an tâm. Tôi và 3 anh trên tàu đều nghĩ tầm đạn đă đi quá xa trước khi trúng vào Đắc v́ cả 4 đứa trên tàu không nghe tiếng súng nổ, chỉ nghe một tiếng ‘rẹt’ từ phía tay phải bắn qua và sau đó Đắc báo là bị thương. Thằng ‘vịt con’ nầy chắc chắn nấp ở con rạch chạy hướng nam-bắc, cái chỗ mà tôi dẫn Gun 2 và Gun 3 đánh đầu tiên. Bây giờ tôi mới gọi lại ông Đặng, báo cáo rơ cho ổng biết t́nh trạng của Đắc và cũng báo luôn hợp đoàn biết : “Hăy chờ tôi chừng 5 đến 10 phút v́ tôi có vài việc phải làm như : giao Đắc cho Phát săn sóc, tắt máy kiểm soát lại tàu v.v…nếu tất cả đều o.k, chúng tôi trở qua Đồng Tâm tiếp tục thả toán thứ hai, cũng là toán chót”. Chỗ nầy chắc có bạn hỏi : Tại sao không để Gun 2 dẫn Gun 3 th́ không gián đoạn hành quân khoảng 5, 10 phút như vậy ? Xin thưa , lúc nầy trưởng phi cơ bay Gun 2 c̣n mới, chưa hề bay lead hành quân lần nào, qu‎‎ư vị ạ.

Khi thấy tôi tới, 5 chiếc slicks liền quay máy cất cánh. Tôi bay trước đến LZ để gặp Gun 2 của tôi đang bị ông Đặng giữ lại, bay orbit 1500 bộ quanh LZ như ông. Qu‎ư‎ vị cũng biết vùng nầy có rất nhiều pḥng không, hai chiếc bay có nhau sẽ ‘ấm ḷng chiến sĩ’ hơn. Bổng tôi nghe “Tàu số 2 bị bắn, tôi phải đáp khẩn cấp”. Chúa tôi ơi, chuyện ǵ nữa đây, tôi quẹo gắt trở lại th́ thấy chiếc số 2 đang đáp nhanh xuống cái đồn phía dưới bụng rồi có một chiếc nữa đang đeo sát chiếc số 2, rồi tôi nghe “Coi chừng ground fired”, th́ ra là tiếng của Ẩn (bay chiếc Lead), tôi c̣n cách họ cũng khoảng 3 miles. Khi đến đó, tôi cho bắn tối đa chung quanh cái đồn rồi bay xoắn ốc xuống thắp, súng trái vẫn tiếp tục tác xạ những điểm nghi ngờ ở gần đó như bụi rậm, cây rơm, cḥi vịt, giàn bầu, xuồng ghe v.v.., cái tôi sợ nhất là vc phóng B-40 vào hai chiếc đang đậu ở dưới. Nh́n lên th́ thấy 3 chiếc Slicks bay không ra cái đội h́nh ǵ cả, tôi phải nhắc họ: “Một là bay V3, hai là bay ‘trail’ (hàng một), tạm thời số 3 làm ‘lead’ dẫn 2 chiếc kia bay về Đồng Tâm”. Dưới đất, chiếc số 2 tắt máy, tôi thấy T/u Hóa.P bước xuống chỉ huy đám lính đang làm ǵ đó. Bây giờ th́ tàu C&C và chiếc Gun 2 tới. Gun 2 hỏi tôi “Diều Hâu 1 có muốn 2 xuống thấp với 1 không?” Tôi trả lời “Diều Hâu 2 giữ cao độ 1000 bộ, bay ṿng nhỏ chung quanh cái đồn nầy và cho minigun bắn xa xa một chút, phải để ‎ư chúng nó có thể pháo 61 hoặc 82 ly vào chỗ hai Slicks ở dưới”. C̣n ông Đặng th́ hỏi han Ẩn rất nhiều, nào là : “Có ai bị thương không? Sao mà ở dưới lâu thế?”. Tôi nghe Ẩn trả lời : “Trưởng phi cơ chiếc số 2 bị thương rất nặng, rất khó mang anh ra bởi v́ cái tấm ‘armor blade’ móp méo khó đẩy về phía sau. Anh cơ phi lại bị skid (Cặp càn chịu đựng thân phi cơ) đè lên bàn chân, đang nhờ mấy ông bộ binh đào đất chung quanh để rút chân anh ra”. Nhờ Ẩn nói tôi mới biết thêm, chớ thấy bên dưới th́ tôi thấy rất rơ nhưng không nghe được tiếng nói th́ giống như là xem ciné phim câm, chỉ đoán ṃ mà thôi. Tôi vẫn tiếp tục bay thật thấp quanh đồn, thỉnh thoảng th́ cho tác xạ hù dọa cầm chừng, rồi tôi thấy một ông bộ binh bị thương đang đứng tựa lưng vào phía sau cánh cửa lớn của khoang hành khách, cánh cửa nầy luôn luôn được mở ra, đẩy hết về phía sau trong lúc bay hành quân, rồi ṿng kế tiếp tôi quan sát kỹ ông nầy, th́ ra ông bị vật ǵ phải thật sắc bén lắm mới thẻo đứt một mảng da thịt ở bụng, ruột bung ra, ổng cứ lấy hai tay tự ấn ruột vào, trông rất thương tâm. Ông Đặng bảo Ẩn : “Hăy để mấy ông lính ở lại đồn nầy, ḿnh chỉ chở phi hành đoàn chiếc số 2 về đáp hồ nước ngọt cấp cứu”. Tôi cũng lên tiếng : “ Tôi thấy có một ông bộ binh bị thương rất nặng, đổ ruột ra ngoài, Hồng Mă Lead hăy chở ông luôn, làm phước nhé ”. Cuối cùng th́ T/u Viễn cũng được khiên ra và chuyển qua chiếc Lead, anh cơ phi bị thương ở chân cũng được quân bạn cổng lên tàu cùng một lúc với ông bộ binh bị thương đổ ruột, sau cùng T/u Hóa và anh xạ thủ phi hành cùng bước lên tàu. Ẩn gọi tôi cho biết là Ẩn cất cánh, tôi bám sát bên Ẩn đến lúc cả hai có được cao độ an toàn. Bây giờ Ẩn mới báo cho mọi người biết là : “T/u Viễn ra đi rồi”. Chao ôi, tôi có nghe lầm không ? Tôi cảm thấy như là có cái đau buốc trong ḷng, thật nghẹn ngào, hai mắt cay xè. Tôi giao cần lái cho T/u Công, bảo anh bay theo chiếc Lead. Rồi tôi lại nghe ông Đặng ra lệnh : “ Diều Hâu 1, 2 cũng theo chiếc Lead về đáp ở hồ nước ngọt ” như vậy là đúng ‎ư của tôi v́ tôi rất muốn nh́n thấy mặt T/u Viễn lần cuối. Lúc nầy mọi vô tuyến thật im lặng, h́nh như mọi người đang cầu nguyện cho Viễn, duy chỉ có máy FM là c̣n ồn ào bởi v́ quân bạn đang điều quân để chiếm mục tiêu. Tôi chỉ vặn volume nhỏ lại chứ không tắt, v́ cần phải theo dơi họ, cũng may họ chưa chạm địch nên họ chưa kêu réo chúng tôi. Thế rồi 4 chiếc nối đuôi đáp xuống hồ nước ngọt. Sau khi tắt máy, tôi bước nhanh đến tàu Ẩn th́ nh́n thấy thi thể Viễn nằm sóng sượt trên sàn tàu, Viễn bị cắt đứt nguyên cánh tay phải đến tận bả vai, xương ḷi ra và máu động thành vũng lớn nơi vết thương, mặt anh tái xanh v́ mất quá nhiều máu, mắt nhắm nghiền và môi mím chặc, trông anh thật đau đớn trước lúc ra đi. Tôi không cầm được nước mắt cứ để nó tự tuôn rơi, cổ họng như cứng nghẹn. Nh́n lại sau lưng th́ thấy anh Đường, cơ khí phi hành bị thương ở chân và ông bộ binh bị thương ở bụng đă được lên chiếc Jeep cải biên thành chiếc xe Ambulance chở ngay đến quân y viện, làm tôi sực nhớ, thử nh́n về chiếc Gun 3 đang đậu phía trước chiếc tàu Lead, xem Đắc và Phát đă trở lại đây chưa ? chắc là chưa. Bây giờ tất cả các phi hành đoàn của chiếc C&C, Gun 1, 2, 3, chiếc Lead tụ tập quanh đây cũng có cả Th/t bay back seater (có lẽ ông là Tham mưu trưởng Hành quân của Tiểu khu Định Tường) chúng tôi im lặng, vẻ mặt ai cũng đăm chiêu buồn bă, không nói với nhau nhiều, thỉnh thoảng chúng tôi hỏi thăm T/u Hóa, mọi người đều tấm tắc khen anh rất b́nh tỉnh để đáp an toàn xuống đồn Nghĩa quân. Ông Đặng đă nhờ Th/t bộ binh giúp đở phương tiện là đưa thi thể T/u Viễn vào nhà xác để tắm rửa sạch sẽ, sửa thế nằm ngay ngắn và xin gởi vào pḥng đông đá trong thời gian chúng tôi c̣n hành quân. Thật ra không phải di chuyển thân xác anh đi đâu xa v́ ban tống táng, tẩn liệm của pḥng Năm Tiểu khu nằm ngay trong khu hồ nước ngọt.

Dường như bên phía bộ binh, Th/t Tham mưu trưởng đă tŕnh lên với Tiểu khu trưởng là đă có một sự tổn thất quá lớn bên phía KQ nên lệnh hành quân được hủy bỏ, có nghĩa không đổ thêm quân nữa nhưng chúng tôi phải bốc về cái toán quân đă thả xuống LZ. Ông Đặng ra lệnh tất cả chúng tôi trở qua phi trường Đồng Tâm, chỉ trừ Gun 3 v́ chưa có hoa tiêu. T/u Hóa, anh Tùng (xạ thủ chiếc Slick ngộ nạn) xin ở lại đây. Tôi về tàu ḿnh quay máy, nhưng luôn nghĩ về trường hợp tử thương kỳ quái của T/u Viễn cũng như cái kiểu bị thương lạ lùng của ông bộ binh, bổng đầu tôi chợt lóe ra một nghi vấn : rất có thể chiếc tàu Viễn không phải trúng đạn pḥng không, mà có thể có ông bộ binh nào đó nghịch ngợm đă làm nổ lựu đạn trên khoang tàu ? Tôi nghi là lựu nổ ngay kẹt cửa phía bên phải, khi đó Viễn ngồi nghỉ đang lúc T/u Hóa bay, tay phải Viễn gác lên trên tấm bửng chống đạn (armor blade) nên mới bị miễng cắt đứt cánh tay, chớ toàn thân c̣n lại th́ không thấy có vết thương nào nữa cả. C̣n chuyện lạ nữa là ngoài Viễn và ông bộ binh ra th́ chẳng ai hề hấn ǵ. Có thể đây là trái lựu đạn nhỏ mà mấy ổng ‘chơi banh đũa’ lúc ở phi trường, chớ loại M26 th́ khủng khiếp lắm. Tôi hứa với ḷng là phải quan sát kỹ lại cánh cửa phía bên anh Viễn, nhất là phía ngoài coi có phải là trúng đạn pḥng không khi tôi có dịp bảo vệ hai chiếc Slicks đáp xuống đồn để bốc 2 toán quân đă bỏ lại ở đó. Gần đáp Đồng Tâm, tôi gọi C&C cho biết là 2 tàu Guns cần ‘rearmed’ (trang bị thêm rockets và đạn 7.62 ly cho 2 súng Gatling guns). Thế là hai chiếc Guns 1 , 2 đáp rồi tắt máy ngay mấy cái kho chứa đạn và rockets, tôi nhờ thêm vài anh cơ phi và xạ thủ bay Slicks gần đó đến phụ giúp chúng tôi ‘Loaded’ cho lẹ. Và rồi chuyện ‘rearmed’ cũng xong, hai chiếc Guns quay máy và cả hợp đoàn cũng quay máy theo. Tàu C&C cất cánh trước, hai chiếc Guns của tôi theo sau, sau cùng là 4 chiếc Slicks bay hợp đoàn đội h́nh ‘Diamond’ (h́nh thoi), lượng nhiên liệu mỗi tàu c̣n khoảng nửa b́nh, như vậy là rất tốt cho 4 Slicks phải cơng 60 ông bộ binh từ LZ đem về Đồng Tâm. Đường tới PZ [ Giờ th́ không thể gọi là LZ được nữa mà phải gọi PZ có nghĩa là băi bốc quân (Picking up Zone) ] cũng c̣n xa nên tôi bàn hai anh xạ thủ ‘ruột’ của tôi, đó là Tr/s nhất: N.Vũ Kính và Tr/s Diệp (Trưởng toán xạ thủ) ‎ư tôi muốn hai cụ lát nữa đây hăy tác xạ theo kiểu gục gặc ṇng súng, chớ đừng bắn theo lối quét ngang, tôi muốn targets phải hứng đạn dày đặc hơn, hai cụ nầy rất đồng ‎ư cái khoảng nầy. Tôi cũng nhắc chiếc Lead “Nhớ cho hợp đoàn vào ‘Trail’ (hàng một) lúc ở ‘Final’, sau khi bốc quân hợp đoàn làm hai lần quẹo trái đi ra ”. Bây giờ PZ cách tôi chừng khoảng 2 miles, tôi gọi quân bạn, xin họ thả một quả khói màu đánh dấu băi bốc và hỏi kỹ “tất cả ‘con cái’ (toán quân) của bạn chỉ ở tại khói màu thôi phải không?” Họ đốt trái khói màu xanh lá cây và cho biết là con cái của họ chỉ ở gần quanh trái khói. Tôi và số hai xuống sát mặt đất, đầu tiên là bay tới toán quân phía dưới, thấy rơ là họ đang đứng chia làm 4 nhóm sẵn sàng để đợi Slicks xuống bốc về, như vậy là quá tốt. Tôi bảo họ cứ tiếp tục đốt khói màu để tránh ngộ nhận trong lúc hai Diều Hầu ra tay “bào láng” cái vùng nầy. Nầy ‘vịt con’, tụi con hăy xem Diều Hâu trả thù, bọn ‘qua’ mà ‘quánh’ không đẹp là không phải Diều Hâu nữa. Tôi và Gun 2 sắp bay ṿng tṛn phía ngoài quân bạn, nếu lấy chỗ đứng quân bạn là tâm điểm th́ ṿng tṛn thứ nhất có bán kính là 200 mét, chúng tôi đánh rockets theo lối cận chiến nghĩa là cho rocket nổ cách ḿnh chừng 3,4 chục mét thôi, v́ vậy phải bay low level (bay sát mặt đất) và chỉ phóng rocket lúc đang quẹo, tôi và San đă phải luyện tập lối đánh nầy rất nhiều lần nên mới chơi chiêu nầy được. Cái thế đánh rocket nầy được mấy ông bạn xạ thủ Gunsip đặt tên là thế đánh ‘cẩu tè’ v́ lúc đánh cũng là lúc quẹo, tất nhiên tàu phải nghiêng nghiêng, h́nh dạng giống như chú cẩu đang tè, c̣n hai ông phía sau đánh theo lối ‘lúc lắc cọng lạp xưởng’ (đàn ông sau khi tiểu xong). Ṿng thứ hai chúng tôi nong cái ṿng tṛn rộng ra , bán kính bây giờ là 250 mét cũng tiếp tục lối đánh đó và đánh thật nhiều con rạch chạy hướng nam-bắc mà chúng tôi tin rằng bọn ‘chuột’ nấp nơi đó bắn sẻ chúng tôi, ṿng thứ ba nong thêm 50 mét nữa th́ đă thấy hợp đoàn Skicks đang ở ‘cross-wind’ (gió ngang), tôi bảo Slicks vào đáp ngay trái khói mà quân bạn đă đốt đó. Chúng tôi tiếp tục đánh một ṿng nữa rồi ra rước Slicks vào, cũng như lần trước Gun 1 bảo vệ bên sườn trái của hợp đoàn đang bay hàng một, Gun 2 bảo vệ bên sườn phải. Thế là 4 Slicks bốc hết quân và ra được an toàn, mỗi Slick phải cơng đến 15 ông bộ binh đem về đáp lại Đồng Tâm. Bây giờ Gun 1 và Gun 2 cũng rời vùng rồi bay tà tà đến cái đồn mà tàu của T/u Viễn nằm dưới đó, chúng tôi chỉ bay ṿng ṿng thôi để chờ 2 Slicks tới bốc quân. Tôi gọi chiếc Lead, chỉ muốn dặn ḍ là “ Khi đến bốc quân th́ chiếc số hai nên bay xa chiếc Lead một chút v́ bên dưới chỉ có mỗi một chỗ đáp mà thôi, phải đợi chiếc Lead lên, th́ chiếc số hai mới xuống được ”. Khoảng 10 phút sau th́ tôi đă thấy dạng hai chiếc Slicks tới, tôi gọi Ẩn và Hồng : “ Lead hăy làm ‘overhead approach’ (cúp ga, xuống lối xoắn ốc). Khi nào chiếc ‘Lead’ lên xong th́ chiếc ‘Trail’ cũng phải làm như thế, Ok?”. Xong tôi gọi Gun 2 “ Diều Hâu 2 cứ ở trên cao như lần trước, hăy quan sát kỹ coi chừng bị chúng pháo ” và tôi bắt đầu xuống thấp bay chung quanh cái đồn bảo vệ mặt dưới. Tôi cũng không quên là phải quan sát cánh cửa bên phía Viễn. Nhưng hởi ơi, cánh cửa ấy đă được T/u Hóa giật ‘Jettison cable’(chốt bản lề) cho rớt ra và thảy nó xuống dưới gầm tàu để trống chỗ, mang T/u Viễn ra cho dễ. Bây giờ chỉ c̣n một cách là có dịp hỏi lại Hóa như : Hóa thấy phía ngoài cánh cửa ra sao? có dấu vết ǵ là bị pḥng không bắn lên không? Hay là tên lính say nào quờ quạng làm nổ lựu đạn trên tàu? Rất có thể thủ phạm là cái ông bị thương đổ ruột ra đó? v.v… Cuối cùng th́ Ẩn và Hồng đă lần lượt làm ‘overhead landing’ mang tất cả quân bạn về lại phi trường Đồng Tâm.

Bây giờ th́ công tác hành quân hôm nay của chúng tôi coi như hoàn tất. Cả 5 chiếc tàu lần lượt vô đổ xăng (C&C, 2 Gunships, 2 Slicks) c̣n 2 Slicks tắt máy nằm chờ, chắc là đă đổ xăng đầy rồi. Trong lúc đổ xăng th́ Ẩn ra hiệu cho hai chiếc kia quay máy. Ông Đặng bảo : “Tất cả hăy bay qua hồ nước ngọt để anh em chúng ta chào T/u Viễn lần cuối. Sau đó, tôi sẽ mang xác anh về KQ Tử Sĩ Đường”. Gun1 và 2 cất cánh theo C&C bay qua hồ nước ngọt, hợp đoàn 4 chiếc Slicks cũng theo sau. Đáp xuống xong, tôi đă thấy Đắc, Phát và Đường, tôi liền đến hỏi thăm họ. Đắc cho biết bác sĩ đă khám thật kỹ ṿng quanh cổ, không thấy có đầu đạn nào nằm trong đó cả nên sát trùng vết thương, băng lại, yêu cầu ngưng bay 2 tuần, sau đó tái khám tại bệnh xá đơn vị và ông cho một mớ thuốc uống nào là chống nhiễm trùng, nào là thuốc đau nhức v.v... Tôi nghe vậy cũng mừng cho anh, rồi tôi rũ anh lát nữa lên tàu tôi về nhà v́ nón bay, áo giáp, dây đeo súng của Đắc c̣n trên tàu tôi. Quay sang hỏi thăm Đường “Bác sĩ đă khám chưa mà ra sớm vậy ông?”. Đường mới thú nhận: “Khi vào đó, mới biết là c̣n phải chờ rất lâu mới tới phiên ḿnh. Ḿnh nghĩ là chỉ bị bong gân nhẹ thôi, anh. Kế đến, Đường thấy hai anh Đắc, Phát đi ngang qua, Đường mừng quá theo hai anh ấy về đây”. Nghe ổng nói như vậy, tôi chịu thua ổng luôn. Hiện tại Đường đă tháo giày ra, đi chân không v́ vậy tôi mới thấy bàn chân sưng vù của ổng, thấy thương ổng quá. Cũng may cho Đường, hôm nay mang đôi ‘botte’ mới toanh do bố vợ là Tiểu đoàn trưởng bộ binh tặng, nên cũng che chở bàn chân của ổng phần nào, vả lại đất vùng đó là loại đất phù sa xốp mềm, dễ lún. Tôi quên nói, chỗ hai ông Hóa và Ẩn đáp là những luống đất trồng khóm (thơm) của mấy ông lính Nghĩa quân trong đồn, khóm đă ra trái lớn bằng nắm tay rồi, thế mà hai ông nầy “quậy nát” đám khóm của người ta. Ông Đặng thấy Đắc và Đường đứng đây, ông tới hỏi thăm. Đắc kể với ông cũng giống như đă nói với tôi, tôi thấy ông Đặng có vẻ mừng cho Đắc, xong rồi quay qua hỏi thăm Đường, nghe Đường kể, ông rày liền : “ Không giởn mặt như vậy được, nếu bị infected (nhiễm trùng) bác sĩ cưa chân anh đấy. Lên tàu tôi, tôi đưa anh về khám ở Tổng Y Viện Cộng Ḥa”. Đến đây th́ ban lo hậu sự của TK Định Tường đưa xác anh Viễn tới, thi thể anh được đặt trong ‘Zip Bag’ màu cam nằm trên ‘băng ka’, rồi họ cáng thi thể đưa vào khoang tàu của tàu của ông Đặng, hai ghế vải ‘back seaters’ đă được tháo ra trước đó, họ nhấc anh lên để họ lấy lại cái băng ka của họ và đặt anh nằm xuống sàn tàu. Tất cả anh em bay hôm nay đứng vây quanh đây, tất cả đều im lặng như cầu nguyện cho anh và rồi từng người đến chào anh lần cuối. Sau đó ông Đặng hỏi : “Trong anh em, có ai biết nhà anh Viễn ở SG không?”, có một vài anh biết, nhưng không nhớ số nhà, nhưng cho biết nhà Viễn ở ngoài đường lớn rất dễ t́m, chỉ cần đến khu phố đó, hỏi thăm sẽ ra ngay. Ông Đặng ghi xuống giấy tất cả chi tiết đó để nhờ nhân viên phục vụ ở Tử Sĩ Đường thông báo với gia đ́nh anh Viễn. Đến đây Ông Đặng quay máy cất cánh về Tân Sơn Nhất…Bọn chúng tôi uể oải trở lại tàu ḿnh.

Trông tôi thật là chán chường, nhưng phải quay máy v́ cái trigger (bộ phận mở máy) nằm trên ‘collective pitch’(cần điều khiển lên xuống) bên ghế phải, chớ bên phía copil không có. Tôi tăng tour lên đủ 6,400 rpm rồi giao controls cho T/u Công muốn làm ǵ đó th́ làm. Tâm trạng tôi bấy giờ thật là chán nản, ê chề, tay phải luồn qua túi áo bay bên cánh tay trái, mở fermeture moi gói Capstan đầu lọc ra hút rồi kéo visor kiến râm xuống che mắt, đầu óc cứ nghĩ ngợi mong lung nhất là cảm thấy thật đau buồn v́ đây là lần đầu tiên phi đội tôi gặp chuyện xui xẻo lớn như thế. Tôi nhận phi độ II từ khi T/u Chu rời PĐ 225 để đến PĐ khác nhận một chức vụ cao hơn. Tôi rất hănh diện v́ đây là một phi đội giỏi, tất cà anh em bay rất khá, nếu bay lead th́ không ai qua được: Luông và Ẩn, c̣n bay ‘Wing-man’ (hợp đoàn) th́ đă có những : Hồng.N, Thành.H, Quân.L, Mến.N v.v...họ bay formation dính như sam vậy. Hôm nay, tôi mất Viễn. Tôi luôn h́nh dung về anh, thân thể to lớn khỏe mạnh, tóc tai luôn húi cao kiểu quân trường, có thể anh cao trên 1mét 80 mà lại mập mạp nên trông anh giống như ông cố vấn Mỹ, anh có nước da trắng trẻo của người Hoa, ít nói có lẽ v́ anh nói tiếng Việt không thông thạo lắm nhưng bù lại anh rất vui vẻ, tươi cười bất cứ ai đến bắt chuyện với anh. Theo tôi biết th́ phi đoàn chúng tôi có gần một chục anh người Việt gốc Hoa, gọi tắc là người Hoa giống như anh nầy và ngộ cái nữa là phần lớn các anh ấy lại ở trong phi đội tôi. Tôi cũng nhờ tôi mê đọc truyện tàu cũng như lịch sử Việt cận đại nên mới hiểu người nhiều về người Hoa, càng hiểu tôi càng quí mến các vị nầy. Họ là hậu duệ, là chắc chít của những danh sĩ hay danh tướng lẫy lừng như : Trịnh Hoài Đức, Mạc Thiên Tứ, Vơ Tánh, Ngô Tùng Châu, Châu văn Tiếp, Trương Minh Giảng, Tống Phước Hiệp, Phan Xích Long v.v…và tổ tiên của họ là những Thượng tướng ái quốc, những anh hùng của Minh triều, đó là : Trần Thượng Xuyên (C̣n có cái tên nữa là Trịnh Thắng Tài, là ông nội của Trịnh Hoài Đức), Dương Ngạn Địch và Mạc Cửu. Ba vị tướng nầy rất bất măn, thù ghét triều đại nhà Thanh, cho rằng người Măn Châu vốn dĩ là dân Tiên Ti, là rợ Kim nên không đáng cho họ thần phục, họ hô hào chiến dịch “Phù Minh, diệt Thanh” nhưng cơ mưu bại lộ nên họ đem toàn bộ gia quyến cùng dân xóm làng xuống tàu xuôi về phương nam, làm di dân đi t́m đất sống mới. May mắn thay cho 3 nhóm di dân nầy gặp được đấng minh quân đất Việt bấy giờ là chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) là người nhân từ, đức độ cũng như người dân Việt giàu ḷng bác ái, hảo tâm sẵn sàng dang rộng đôi tay cứu giúp họ, cho họ được an cư những nơi : Cù lao Phố-Đồng Nai cho nhóm Trần Thượng Xuyên, Mỹ Tho cho nhóm Dương Ngạn Địch và Hà Tiên cho nhóm Mạc Cửu. Khi viết đến đây tôi lại liên tưởng đến cái “Luật Nhân Quả” của Thích Ca Mâu Ni v́ thế xin bạn đọc cho phép tôi lái xe leo lên lề một tí. Đúng ba trăm năm về trước vị chúa nước Nam và tiền nhân của chúng ta đă gieo hạt ‘Nhân’ thật tốt đẹp là cứu giúp người di cư tị nạn, nên khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền nam 1975, có hơn hai trăm ngh́n dân quân bỏ nước ra đi th́ cũng được chánh phủ và nhân dân các quốc gia như: Hoa Kỳ, Anh quốc, Pháp, Gia Nă Đại, Úc Đại Lợi v.v… ra tay cưu mang, giúp đở chúng ta, như thể là hạt giống năm xưa đă thành cây đơm hoa kết trái rồi chăng? Đây là một trong những lập luận vững chắc nhất để biện minh cho “Luật Nhân Quả” đúng vậy không? Thưa bạn đọc. Thôi tôi trở lại trang k‎ư‎ sự :

Tôi măi mê nghĩ ngợi mong lung, tỉnh người ra th́ đă về tới phi trường Sóc Trăng. T/u Công bay sau đuôi 4 Slicks và dẫn 2 chiếc Gun 2 và Gun 3 đáp xuống phi trường, xong hắn đem tàu tới P.O.L để ‘refuel’(đổ đầy xăng), sau đó đem tàu vô ụ tắt máy. Ba mươi anh em vác áo giáp, xách nón bay lếch thếch đi vào pḥng hành quân, nơi đây có hơn mười anh em chờ đón chúng tôi để biết thêm về tai nạn ngày hôm nay. Tôi chỉ trả lời một cách nhát gừng nếu ai hỏi ḿnh. Tôi nhắc Công ghi giờ bay vào sổ phi vụ lệnh, c̣n tôi trở về pḥng ḿnh. Bây giờ khoảng 17:30, tôi nghĩ ḿnh nên đi tắm rửa, thay quần áo civil xem thấy có khỏe người ra không ? Xong rồi, cho dù bụng chưa đói nhưng chân vẫn bước về hướng Câu Lạc Bộ Sĩ Quan để gặp bạn bè tán gẫu cho đở buồn. Thôi th́ ăn ít, ăn nhiều ǵ ở đó cho xong, chớ lỡ sót ruột vào giữa đêm th́ làm sao làm sao ngủ được đây. Ăn xong tôi cùng vài bạn bách bộ về khu ‘hangar’ 1, bên hông pḥng hành quân của PĐ. Trước hangar là băi đậu của các tàu bay bị bệnh, chờ được kéo vô trong sửa chữa, khu băi đậu nầy rất rộng lớn, được tráng xi măng dày , sạch sẽ thoáng mát, v́ mặt trước là phi đạo, phía bên kia phi đạo là hàng rào an ninh phi trường, bên ngoài là lộ xe đi Bạc Liêu và bên kia con lộ là đồng ruộng bao la. Chiều chiều gió đồng dạt dào thổi tạt vào đây làm cho con người cảm thấy khoan khoái dễ chịu, v́ vậy nếu không ra phố Sóc Trăng chơi, chúng tôi thường tụ tập nơi đây, tán dóc hoặc xem các bạn chơi ‘volley’ ở sân cỏ bên cạnh đó. Tôi gặp Đắc cũng có mặt với vài người bạn, trông Đắc có vẻ không vui, tôi hỏi thăm : “Đắc khỏe không?”. Đắc phàn nàn là hơi bị chóng mặt, cảm thấy mặt phía bên phải dường như nặng nề và đầu đổ nhiều mồ hôi, chảy xuống trán, Đắc đă lau ướt cả chiếc khăn mouchoir. Trong nhóm tôi có một anh khá hiểu biết, anh nói : “Đắc mới bị thương mà có những triệu chứng như vầy là không tốt. Hay là chúng ta đưa anh đến bệnh xá căn cứ xem sao”. Thế là ba bốn bạn 'hộ tống' Đắc xuống bệnh xá, cách đây chừng 50m thôi. Chúng tôi gặp anh quân nhân y tá trực, chúng tôi cho anh biết l‎ư do anh em chúng tôi đến đây. Anh y tá đi t́m ngay Bác sĩ Th/tá Y sĩ trưởng bệnh xá cho chúng tôi. Xin nhớ cho bây giờ đă hơn 19:00 giờ nghĩa là ngoài giờ làm việc hành chánh. Đợi chừng 15 phút th́ bác sĩ T. đến, Đắc tŕnh bày hết sự việc như bị thương thế nào, đă được QYV Mỹ Tho chữa trị ra sao v.v..và bây giờ thấy bị chóng mặt, ra nhiều mồ hôi ở đầu v.v..Bác sĩ T. khám Đắc tại bàn làm việc, chứ không đưa vô pḥng khám và chúng tôi cũng được ở đây với Đắc. Việc đầu tiên ông tháo băng ở vết thương của Đắc, xem xét xong, ông thay băng khác cho anh. Ông cũng ấn tay vào chung quanh cổ, hỏi Đắc có đau không. Đắc trả lời “thưa không”. Ông nghĩ là nên chụp “X ray” phía trước mặt của Đắc, ông gọi y tá trực đi kiếm ông chuyên viên chụp quang tuyến vào đây. Khoảng 10 phút sau ông chuyên viên nầy tới và đưa Đắc tới pḥng quang tuyến chụp h́nh X ray như b/s yêu cầu. Chụp xong Đắc trở ra với chúng tôi. Trong lúc chờ đợi h́nh chụp, b/s T. vui vẻ hỏi thăm và nói chuyện với chúng tôi, ông có vẻ mến chúng tôi v́ chúng tôi rất thường cho ông quá giang tàu về SG thăm gia đ́nh. H́nh chụp đă khô, ông chuyên viên đem tŕnh cho b/s T. và nói “ không tốt rồi ông thầy ơi”. B/s T. treo h́nh lên khung đèn, ông nh́n kỹ đă thấy đầu đạn ở soan mũi rồi chỉ cho anh em chúng tôi xem. Đắc rớt nước mắt, mặt tái xanh v́ mất tinh thần. B/s an ủi “Cũng may trên đường đi, đầu đạn ác ôn kia không phá vở dây thần kinh nào nên anh không bị tê liệt hoặc câm điếc mù, có lẽ viên đạn đă đi hết tầm nên mới chịu nằm yên nơi đó”. Quay qua chúng tôi, ông nói “Tốt nhất là các anh đưa bạn về Tổng Y Viện C.H càng sớm càng tốt, chứ ở đây ngay cả bên Trương Bá Hân (QYV/ SócTrăng) cũng không giúp ǵ cho anh ấy được”. Nói xong, b/s T. viết giấy giới thiệu nhập viện trao cho Đắc và luôn cả h́nh chụp X Ray. Chúng tôi cám ơn bác sĩ, xong rồi vài bạn đưa Đắc về pḥng soạn quần áo và những thứ cần dùng đem theo v́ anh chắc phải ở nhà thương khá lâu. C̣n vài anh khác đến t́m Tr/tá phi đoàn trưởng để tường tŕnh sự việc cấp bách như vậy, nhưng không gặp ông. Chúng tôi nhớ lại cái ông số 3 của PĐ là Đ/úy Chừng, Sĩ quan Hành quân chắc c̣n đang chơi billard ở Câu Lạc Bộ, chúng tôi đến đó liền, may mắn gặp ông ta và nói cho ông ta biết cái chuyện của Đắc đi tái khám ở bệnh xá ra sao v.v…Đ/úy Chừng có vẻ hốt hoảng nói : “ Các anh nói Sĩ quan trực gọi liền qua Hành quân chiến cuộc xin gắp một chiếc tàu và số phi vụ, tôi sẽ đưa Đắc về TYV/CH ngay bây giờ.” Rất hoan nghênh niên trưởng …

Chúng tôi tiễn Đắc đến tận tàu bay, chúc Đắc thật nhiều may mắn. Tôi trở về pḥng ḿnh nằm vật ra giường, đầu óc cứ nghĩ ngợi mong lung, tâm tư như đang gặm nhấm một nỗi buồn da diết. Nh́n đồng hồ để bàn th́ đă thấy 23:30 rồi, ḿnh cần phải ngủ mới được v́ ngày mai c̣n bay yểm trợ cho Hồng Điểu ( Phi đội tản thương ), phi vụ nầy cũng trần ai, khoai củ chớ chẳng chơi, nhất là nếu phải vô kinh Lai Hiếu ở vùng Phụng Hiệp th́ luôn luôn có màn đấu súng với mấy ông du kích già việt cộng. Tôi nhắm mắt rồi tưởng tượng ḿnh đang chăn một bầy cừu vĩ đại tại một miền thảo nguyên nào đó, ḿnh thử đếm chúng có bao nhiêu con tất cả, tôi đếm đây : một con cừu, hai con cừu, ba con cừu ….đă đếm tới con cừu thứ 819 rồi, mà vẫn chưa ngủ. Tôi chợt nhớ mấy cụ lốc cốc tử, mấy thầy xốc mu rùa họ thường bấm lóng tay để tính ra ngày nào là ngày hoàng đạo, tức là ngày lành tháng tốt, mọi việc rơi vào ngày nầy th́ luôn được suôn sẻ, hạnh thông v.v... Ngược lại nếu rơi vào ngày hắc đạo th́ ôi thôi vô cùng xấu, đen như đồ nhà khó, như mơm chó mực. Nếu thật vậy th́ chắc ngày hôm nay phi đội ḿnh “gặp ngày hắc đạo” ...


Diều Hâu Nguyên Quân.

Chú thích._Đây là chuyện thật người thật, v́ vậy những nhân vật trong truyện bởi do sự tế nhị phải đổi tên khác. Duy các anh nay đă mất, tôi mới dám viết tên thật của các anh : Đ/u Ngô Vĩnh Viễn, Đ/u Thành (Hà), Tr/u Phát, Tr/u Công, Th/S Nguyễn Vũ Kính hầu để vinh danh các anh đă bỏ một quăng đời trai trẻ trong cuộc chiến giành chánh nghĩa của chúng ta. Và NQ cũng chân thành cám ơn quư bạn đọc...

hoanglan22
01-18-2020, 02:46
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1516429&stc=1&d=1579315539

Tháng Tám năm 1985. Thành phố Los Angeles với nhà cửa san sát và xe cộ đông như kiến hiện rơ dần dưới ánh nắng chiều, tiếng cô tiếp viên hàng không loan báo phi cơ chuẩn bị hạ cánh khiến tôi háo hức.



Tháng Tám năm 1985. Thành phố Los Angeles với nhà cửa san sát và xe cộ đông như kiến hiện rơ dần dưới ánh nắng chiều, tiếng cô tiếp viên hàng không loan báo phi cơ chuẩn bị hạ cánh khiến tôi háo hức. Nhân đi công tác ở Palo Alto ở bắc California, tôi bay xuống Los Angeles chơi cuối tuần với vợ chồng Canh; Canh là bạn đồng nghiệp dạy ở Đại học Khoa học Kỹ thuật Minh Đức. Cuối tháng Sáu năm 1975, tôi đă gặp Canh trong trại tỵ nạn Trại Pendleton, nhưng từ đó đến nay mặc dù thư từ và điện thoại thường xuyên, chúng tôi chưa gặp lại nhau. Canh mừng rỡ khoát tay lia lịa khi thấy tôi ở cuối jetway (hành lang dẫn từ phi cơ vào pḥng đợi phi trạm). Hai đứa ôm chầm lấy nhau; tôi nh́n bạn từ đầu đến chân và cố dấu vẻ xúc động,

“Mày không chịu bơ sữa đế quốc hay sao mà người ngợm tang thương thế kia?”

“C̣n mày trông như thằng cha thiếu thuốc, có khác ǵ tao? Chúng ḿnh già rồi Ba Hoa ạ,” Canh đỡ lấy chiếc cặp da trên tay tôi.

“Cô Ḷng Heo. . . à Long Huê có khỏe không? Chiều nay cô ấy đi làm hả?”

Ngày c̣n là sinh viên ban Điện tử của Đại học Khoa học Sài g̣n, Canh bị bạn bè gọi đùa là “Tiết Canh.” Khi Canh cặp bồ với cô sinh viên lớp Lư Hóa Nhiên (hay “chứng chỉ” SPCN) Long Huê người Việt gốc Hoa quê ở Rạch Giá, lũ bạn bèn tức cảnh sinh t́nh phang ngay cho nàng cái tên “Ḷng Heo” để đi đôi với Tiết Canh cho . . . hợp duyên. Canh mỉm cười trách nhẹ,

“Mày chứng nào vẫn tật ấy! Hôm nay bà ấy nghỉ làm ở nhà nấu nướng đăi mày.”

“Tụi mày nhiễu sự, bày vẽ làm chi cho mất công.”

“Mười năm mới có dịp đón tiếp gă nhà quê từ nơi đồng nội North Dakota đến thăm viếng chốn thị thành ấy mà! Hôm nay có thằng Tiễn và vài người bạn ở quanh đây.”

Dễ đến mười tám, mười chín năm nay tôi mới gặp lại Tiễn. Ngày đó, lớp đệ nhất niên ban kỹ sư của ba trường Công chánh, Công nghệ, và Điện học chung và học các môn khoa học cơ bản; Tiễn thuộc ngành Công chánh và tôi là dân Điện. Mặt rỗ chằng rỗ chịt, người bé loắt choắt, giọng nói oang oang, và tính ưa nghịch phá, Tiễn lân la làm quen rồi chơi thân với tôi. Tôi nghe từ vườn sau Tiễn cười vang kể chuyện xưa,

“Trong giảng đường gần tám chục mạng mà chỉ có hai thằng đứng thẳng lưng là tao và thằng Chích Cḥe. Bọn cù lần kia sợ thầy như đĩ thấy cha, tối ngày đứng khom lưng một điều ‘Thưa giáo sư,’ hai điều ‘Dạ vâng, giáo sư.’”

“C̣n mày, phét lác cho lắm mà sao bị xoọc-ti lát thành dở ông dở thằng?” có tiếng hỏi vặn lại; “xoọc-ti lát” là “sortie latérale” tiếng Pháp nghĩa là ra trường ngang hay bị đuổi học.

“Hà hà, ‘anh mày’ là dân chơi số dzách! T́nh cờ thấy ông Thế Trưởng ban Khoa học Cơ bản vào cầu tiêu sau giảng đường có ổ khóa treo lủng lẳng bên ngoài, tao bèn tiện tay lật bản lề, móc khóa vào bấm lại, và bỏ chạy một nước. Sau đó ông ta biết tao là thủ phạm và ra tay trù tới nơi tới chốn. Làm sao tao thọ sang năm thứ hai?”

Tiễn bắt tay tôi với nụ cười mở rộng đến mang tai; tôi hỏi,

“Hai mươi năm rồi mà sao bạn ta không lớn thêm được tí ti nào? Đă vợ con ǵ chưa hay vẫn pḥng không chiếc bóng?”

“Thứ nửa người nửa ngợm nửa đười ươi như nó, con Chín dưới đ̣ cũng chê, đàn bà con gái ai mà thèm?” Canh cười khà khà khiêu chiến; “chín dưới đ̣” nói lái thành “chó dưới đ́nh.”

“Hôm nay có thằng Chích Cḥe phương xa lại, tao tạm tha cho thằng Tiết Canh. Vả lại, cô Ḷng Heo hứa cho ăn ngon nên ‘anh nó’ nhường nhịn một tí cho phải đạo,” Tiễn vênh váo trả lời và giới thiệu người bạn đứng bên cạnh với tôi, “Thằng Hoàn ở chung nhà với tao. Xưa kia nó có vợ đ́nh huỳnh, nhưng khi dzọt khỏi Sài g̣n, gặp ‘hên’ vợ ngủm củ lèo nên thành ra độc thân vui tính như tao.”

Hoàn trông tương phản với Tiễn một trời một vực: thân h́nh cao lớn, hùng tráng khôi ngôi, nhưng vẻ mặt u sầu với đôi mắt buồn thăm thẳm. Hoàn bước lại gần tôi nói nhỏ nhẹ,

“Tôi là dân trung học Vơ Tánh Nha Trang, hồi đi thi tú tài đă nghe danh ‘ông.’ Trong lúc ‘ông’ làm bá chủ hội đồng Vơ Tánh cả hai năm, tôi chật vật lắm mới qua được cửa ải Tú tài I, nhưng năm sau trượt vỏ chuối trong hai kỳ thi Tú tài II.”

“Sau đó ‘ông’ làm ǵ?”

“Tôi t́nh nguyện đi sĩ quan Không quân. Sau thời gian thụ huấn tại trường Sĩ quan Không quân Nha Trang, tôi đi Mỹ học lái phi cơ vận tải. Đầu năm 1975, tôi là đại úy lái C-130 ở Không đoàn Chiến thuật XX trong căn cứ Tân Sơn Nhứt.”



C-130 Hercules (Dũng sĩ Hercules) là máy bay vận tải có bốn động cơ tua-bin cánh quạt có thể cất cánh và hạ cánh trên phi đạo ngắn không dự bị trước. Gần cuối bữa tiệc thịnh soạn do Long Huê khổ công nấu nướng, và khi màn đấu láo của đám bạn dịu lại, tôi gợi chuyện với Hoàn,

“Năm 1975, ‘ông’ ra đi bằng ǵ? Chắc hẳn không phải là tàu Hải quân như tôi rồi.”

“Tôi lái C-130 chở gia đ́nh quân nhân Không quân trốn thoát qua căn cứ U-Tapao bên Thái Lan.” Căn cứ Không quân U-Tapao được Hoa kỳ dùng làm căn cứ cho phi cơ oanh tạc B-52 đi giội bom thời chiến tranh Việt nam.

“’Bà’ ấy mất vào lúc nào?” tôi ái ngại hỏi.

“Quế Hương cũng là dân Nha Trang; nàng ra đi trong chuyến bay định mệnh đó. Ở Sài g̣n chỉ có hai đứa tôi, gia đ́nh hai bên ở hết và kẹt lại ngoài Nha Trang,” với giọng nói buồn tênh, Hoàn chậm răi thuật lại quăng đời đau thương mười năm trước.

* * *

Trong mấy tuần lễ cuối cùng của Việt nam Cộng ḥa (“VNCH”), quân nhân Không quân, nhất là các phi công như Hoàn, công khai thảo luận và chuẩn bị di tản gia đ́nh bằng máy bay của ḿnh. Ba giờ rưỡi sáng ngày 29 tháng Tư, đợt pháo kích đầu tiên của Việt Cộng vào căn cứ Tân Sơn Nhứt khiến Hoàn và Quế Hương thức dậy và sửa soạn ra đi. Khoảng chín giờ, Hoàn trông thấy ông Phó Kiền lên trực thăng bay theo hướng đông về phía Đệ thất Hạm đội Hoa kỳ ngoài hải phận quốc tế. Chín giờ 45 phút, ban T́nh báo căn cứ loan báo đợt pháo kích sắp tới sẽ gây thiệt hại rất nặng nề; đó là hiệu lệnh giờ G đă điểm. Giờ th́ mạnh ai nấy bay.

Hoàn và Quế Hương chạy như bay và leo lên chiếc C-130 chàng bay thường ngày, phi cơ đă đầy ắp người. Chàng vội kiếm chỗ cho Quế Hương ngồi rồi bước ngay vào pḥng lái mở máy cho phi cơ chạy từ từ ra phi đạo; nhiều người loi nhoi chạy theo và cố nhảy lên cửa trước c̣n để mở. Ra tới phi đạo, chàng ra lệnh đóng cửa, gia tăng tốc độ, và cất cánh bay về hướng tây giữa lằn đạn pháo kích. Đáp phi cơ xuống U-Tapao an toàn, chàng thở phào một tiếng nhẹ nhơm và đợi hành khách xuống hết mới ra khỏi phi cơ. Trong khi mọi người được đưa tới khu tạm trú trong các nhà để máy bay, ba-rắc lính, và lều vải nhà binh, chàng kinh hoảng nhảy bổ đi t́m Quế Hương; không ai thấy nàng đâu cả. Cuối cùng, chàng gặp anh hạ sĩ quan cơ khí quen, anh ta mếu máo,

“Đại úy ơi, ở Tân Sơn Nhứt, khi cửa c̣n mở, bà đứng nghiêng ḿnh ra ngoài giúp kéo những người đất lên. Họ níu kéo chen lấn và đẩy bà rớt xuống, bà bị máy bay cán lên người.”

Trời đất sụp đổ trước mắt Hoàn. Người vợ yêu quư chết tức tưởi. Đi ra ngoại quốc làm ǵ khi lẽ sống duy nhất trong đời không c̣n nữa? Chàng phải trở về Việt nam t́m xác nàng mai táng cho trọn t́nh trọn nghĩa. Dù chết cũng về, nhất định thế.

Căn cứ U-Tapao trở thành trại tiếp cư cho 3,900 người di tản. Vị chỉ huy trưởng là Đại tá Harold R. Dallas, một sĩ quan có ba mươi năm quân vụ, phải chạy đôn chạy đáo lo ăn ở cho đám người này. Nhưng khẩn thiết hơn là ông phải di chuyển họ ra khỏi Thái Lan ngay lập tức. Chính phủ Thái sợ Việt Cộng kiếm cớ gây hấn và xâm chiếm, nhất định đ̣i trục xuất họ ra khỏi nước, và đe dọa sẽ tống giam và hành h́nh nếu họ không tuân lệnh. Bộ chỉ huy Không quân Hoa kỳ vùng Thái b́nh dương đóng tại Hạ Uy Di cấp tốc gửi 21 phi cơ vận tải hạng nặng C-141 sang để chở tất cả qua đảo Guam.

Khi những chiếc C-141 đầu tiên đáp xuống U-Tapao, Đại tá Dallas lại đương đầu với khó khăn mới: Kể cả người phi công vừa mất vợ, có 65 quân nhân VNCH trẻ nói đă ra đi lầm và muốn trở về Việt nam. Tất cả đều đi trên chiếc C-130 do Hoàn lái sang và do một thiếu úy tên Lư cầm đầu; Lư cùng tuổi với Hoàn và phục vụ ở pḥng Kỹ thuật Không quân. Đại tá Dallas cậy một đại tá Không quân là vị sĩ quan VNCH cấp bậc cao nhất thuyết phục 65 người đó đi sang Guam tỵ nạn; ông này vạch rơ ra rằng nếu họ trở về, Việt Cộng sẽ không dung tha và đem ra xử bắn như không. Rốt cuộc, 52 người đồng ư đi Guam, nhưng 13 người c̣n lại (gồm cả Hoàn) kiên quyết, “Về hay chết tại đây!”

Mười ba người cực kỳ bướng bỉnh đó đặt Đại tá Dallas vào một hoàn cảnh vô cùng khó xử, giao họ cho chính phủ Thái là điều sau chót một chiến binh yêu thương đồng đội như ông muốn làm. Giữa lúc đó, y sĩ của căn cứ đưa ra đề nghị: Truyền thống của quân đội Hoa kỳ là không bỏ bạn lại (“no one left behind”), và nếu v́ một lư do nào đó quân nhân bị thương thà chết chứ không chịu rời chiến trường, quân luật Hoa kỳ cho phép toán quân y dùng thuốc an thần để cưỡng bách tản thương. Trong khi chiếc C-141 cuối cùng để máy nổ nằm chờ trên đường ra phi đạo, vị chỉ huy trưởng buộc ḷng chấp thuận giải pháp này.

Người đầu tiên bị tiêm thuốc an thần là Lư, Lư vùng vẫy kịch liệt khi bị khiêng vào trạm quân y. Mười hai người kia ngập ngừng, nhưng không kháng cự. Theo đúng thủ tục, đại tá Dallas phái bốn quân cảnh và một y tá đi theo hộ tống họ. Đến Guam, 13 người phản đối dữ dội, biểu t́nh tố cáo lính Mỹ “dùng thuốc mê để bắt cóc” họ, và khiếu nại với văn pḥng đặc trách thỉnh nguyện hồi hương của Hoa kỳ. Báo chí đăng tin và làm lớn chuyện khiến Đại tá Dallas bị cách chức và bắt buộc phải giải ngũ.

Kể đến đây, Hoàn mím môi cố nén nỗi bực tức,

“Phải công nhận thằng Lư có tài xúi giục và huy động đám đông. Ở Guam, nó cầm đầu những vụ biểu t́nh, cạo đầu, tuyệt thực, và có lần bạo động đốt doanh trại và đánh lính Mỹ bị thương. Nhưng khi chính phủ Hoa kỳ đồng ư cho đi về bằng tàu Việt nam Thương tín th́ trước ngày lên tàu nó xin ở lại.”

“Mẹ nó, đúng là thằng Việt Cộng nằm vùng! Xong công tác đó, nó ở lại Mỹ để tiếp tục đánh phá cộng đồng tỵ nạn,” tôi buột miệng la lớn.

“Ai cũng thấy vậy; tôi c̣n nghi nó là thủ phạm gây ra cái chết của Quế Hương. Tôi bèn đổi ư xin ở lại, đó là quyết định sáng suốt duy nhất của tôi trong gần sáu tháng trời.”

Thấy tên “Lư” nghe quen quen, tôi hỏi,

“Bây giờ thằng Lư đó ở đâu, ‘ông’ biết không?”

“Nó lấy vợ, và hai vợ chồng sống ở San Francisco và kết nạp bọn thân Cộng, gây quỹ, và ra báo tuyên truyền cho Cộng sản trên đất Mỹ tự do. ‘Ông’ biết trong giới người Việt tỵ nạn ḿnh có một nhóm vơ trang bí mật tên là Việt nam Diệt Cộng Hưng quốc chứ? Khoảng ba năm trước, họ gửi thư ngỏ cảnh cáo vợ chồng nó, nhưng cặp Cộng con không những không ngưng hoạt động mà c̣n lên mặt thách đố. Nhóm Hưng quốc ra tay, vợ chồng nó bị bắn chết trước nhà, và cảnh sát địa phương và FBI (Văn pḥng Điều tra Liên bang) điều tra mà không t́m ra manh mối.”

“Đáng đời hai đứa gian ác! Tôi có đọc vụ này trên cả hai tờ Time và Newsweek,” tôi gật đầu; Time và Newsweek là hai tuần san nổi tiếng phát hành tại Hoa kỳ và lưu hành khắp thế giới.

“Mười năm qua, tôi rất ân hận về việc ḿnh làm: Với tư cách một quân nhân đồng minh, Đại tá Dallas đă áp dụng nguyên tắc ‘không bỏ bạn lại’ để cứu giúp 13 quân nhân Việt nam Cộng ḥa. Vậy mà tôi nghe theo lời kẻ gian và góp phần vào việc chấm đời binh nghiệp của một sĩ quan đáng kính.”

Tôi thấy có đến hai người đáng kính: Một người là Đại tá Dallas – đă đành, người kia chính là Hoàn. Dù trải qua bao nhiêu khổ đau mất mát, chàng can đảm nhận lỗi lầm của ḿnh. Tôi đâm ra phục người bạn mới quen.

Nguyễn Ngọc Hoa

hoanglan22
01-24-2020, 04:55
Năm 1981, tôi được gọi tên ra khỏi nhà tù Cộng Sản. Hơn sáu năm tù là tiêu chuẩn thấp nhất cho tù quân, cán, chính, đảng phái, tôn giáo Việt Nam Cộng Ḥa

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1519005&stc=1&d=1579841388

Năm 1981, tôi được gọi tên ra khỏi nhà tù Cộng Sản. Hơn sáu năm tù là tiêu chuẩn thấp nhất cho tù quân, cán, chính, đảng phái, tôn giáo Việt Nam Cộng Ḥa
Thông thường, tù được thả về vào những dịp lễ, tết. Tôi ở tù vùng núi rừng tây bắc Việt Nam, được thả về trước tết âm lịch. Đi xe lửa Hà Nội - Sài G̣n, về đến ga B́nh Triệu th́ đúng vào 29 tháng chạp âm lịch. Tôi đi bộ từ ga B́nh Triệu về đường Vơ Duy Nghi, Phú Nhuận (Sài G̣n). Khi đi tù, tôi có gửi thư về nhà cha mẹ vợ, ở đường Vơ Duy Nghi, là nơi vợ tôi và hai đứa con tá túc, nhưng không thấy trả lời cũng chẳng được thăm nuôi trong mấy năm đi tù. Nhờ sức trai, tôi chịu đựng được chứ mấy ông lớn tuổi mà không có thăm nuôi, bịnh hoạn, đói lạnh, chết gần hết. Tôi từng thấy nhiều ông tù chết, được bó bằng cái chăn rách của ông ta, bỏ lên xe cải tiến, kéo đi trong sân, ra cổng. Hai cái chân khô đét, xanh lét tḥ ra khỏi xe, nhịp lên nhịp xuống theo bánh xe gập ghềnh, tưởng như người chết nằm rung chân khoái trá được vĩnh viễn ra khỏi nhà tù, lên g̣ nằm ngủ khỏe, khỏi phải “lao động là vinh quang"

Khi tôi đến nhà bên vợ, mới bước lên thềm, tôi đă dội ngược. Nghe giọng Bắc Kỳ 75, tôi biết gia đ́nh cán bộ đang ở trong đó. Như vậy, gia đ́nh bên vợ tôi đă bị đánh tư sản, tài sản bị tịch thu, cả nhà bị đưa lên kinh tế mới. Chẳng biết vợ con tôi bây giờ ra sao? Tôi ôm gói đồ tù, gồm quần đùi, khăn lau mặt và bàn chải đánh răng. (Người tù, khi được thả về, tất cả áo quần, mùng màng, lương thực thăm nuôi, thuốc men... đều để lại cho bạn tù, chỉ đem theo vật dụng đi đường) đi lang thang mà chẳng biết về đâu? Anh em ruột thịt chưa chắc đă dám chứa “tù ngụy” trong nhà v́ sẽ bị công an các cấp đến hạch sách, hăm dọa thường xuyên, nên tôi chẳng hi vọng ǵ ở từ tâm của bà con, bạn bè. Có lẽ phải sau tết, tôi đến hàng xóm của gia đ́nh bên vợ hỏi thăm tin tức th́ họa may.

Tôi cứ đi ḷng ṿng trên đường Vơ Duy Nghi, Hai Bà Trưng, Hiền Vương với cái bụng trống rỗng, nh́n ngơ ngáo mấy chậu bông tết người ta bày bán trước nhà thờ Tân Định, chứ không dám nh́n vào mấy tiệm bánh, hủ tiếu, phở. Đói bụng nên mũi rất thính. Mùi thơm của thức ăn từ các tiệm đó làm chảy nước miếng. Khoảng mười giờ tối, đi rả chân, tôi nằm đại vào một hiên nhà người ta, trên đường Hai Bà Trưng, bên kia đường là nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi. Hai bên lề đường Hai Bà Trưng, giăng đầy mùng của dân kinh tế mới. Họ là dân Sài G̣n, sau năm 1975 bị đánh tư sản. Nhà nước Cộng Sản tịch thu tài sản, đẩy lên kinh tế mới với hai bàn tay trắng, nơi rừng núi hoang vu khai phá đất đai sinh sống, nhưng bịnh và đói, chết dần, họ bỏ về Sài G̣n, ngủ lề đường cùng với dân bụi đời, vô gia cư, cầu bơ cầu bất.

Vừa thiu thiu ngủ, tôi bỗng bị đá vào người rồi có tiếng nạt “Ông nầy. Chỗ của tụi tôi, ai cho ông nằm đây?” Tôi giật ḿnh, lồm cồm ngồi lên, ôm gói đồ tù “Xin lỗi. Tôi tưởng không có ai”. Qua ánh đèn đường, tôi thấy hai cậu trung niên, khoảng bốn mươi tuổi, tướng bậm trợn, đứng chống nạnh nh́n tôi. Khi tôi bước xuống thềm, đi được mấy bước th́ bị gọi giật lại “Chú!” Tôi dừng lại, yên lặng quay nh́n “Chú có phải đi tù về không?” “Phải. Mà sao?” “Chú cứ ngủ đây đi. Tụi nầy ngủ lề đường cũng được” “Sao cũng được. Cám ơn”

Làm phật ḷng mấy tay nầy chỉ thêm phiền nên tôi phải vâng lời, quay lại, nằm xuống hiên, gối đầu lên bọc tù, nhắm mắt để đó chứ không ngủ tiếp được. Hai tay giang hồ nầy, lẽ ra, có thể nằm phần c̣n lại của hiên nhà nhưng lại giăng mùng ngủ trên lề đường, gần nơi tôi nằm. Cách giăng mùng của họ cũng đơn giản. Mấy cái túi hay xách, bị ǵ đó chắn trên đầu và dưới chân, đ́nh mùng cao độ hai gang tay, không chạm mặt người nằm bên trong, thật nhanh và thuận tiện. Hai cậu nằm trong mùng vừa chuyện tṛ vừa chửi thề rồi cười hắc hắc nghe thật ngang tàng. Tôi nằm nh́n thiên hạ qua lại. Xe gắn máy chạy vù vù, người đi bộ lê dép lẹp xẹp. Tôi không biết ngày mai đi đâu với cái túi trống trơn và cái bụng xẹp lép? Mấy năm tù đă làm cho đầu óc tôi mụ mẫm, chẳng thèm lo nghĩ. Đến đâu hay đó.

Trong tù, sáng nghe kẻng báo thức, dậy ra ngồi trước cửa nhà tù để cán bộ coi tù đếm tù, lănh mấy củ khoai mỳ hay trái bắp, ăn xong chờ kẻng để sắp hàng ra cổng, lao động. Chiều về, lại mấy củ khoai, trái bắp ǵ đó, ăn xong, ngồi cho cán bộ đếm tù rồi vô nhà tù nằm chờ giấc ngủ. Cán bộ khóa cửa nhà tù, bỏ đi. Khuya lại thường có bộ đội (vệ binh) mang súng đi tuần rỏn bên ngoài các nhà tù. Tù kiệt sức sau một ngày lao động, đói và mệt rả rời nên ngủ vùi, có thao thức mà nghĩ đến gia đ́nh cũng vô ích. Trong tù, chẳng ai biết ngày giờ, chỉ khi nào được chén cơm trắng với chút mỡ heo hoặc miếng thịt trâu mới biết là ngày lễ lớn hoặc tết nhất. Nghỉ một ngày lao động, ăn chén cơm là biết một năm đă đi qua nhưng không bao giờ tự hỏi ḿnh đă bao nhiêu tuổi rồi? Càng suy nghĩ càng mau chết v́ mất ngủ. Nhiều ông lớn tuổi, bịnh hoạn, tối nhắm mắt để rồi sáng hôm sau không thèm mở mắt. Cứ thế mà vào cơi hư vô... Đang suy nghĩ linh tinh th́ có hai ông xuất hiện, dừng lại trước hiên, nơi tôi nằm. Thấy mỗi ông một gói đồ tù trên tay, tôi biết ngay là bạn “đồng tù” nhưng làm thinh. Một ông thấy tôi nằm lỏ mắt nh́n, bèn hỏi “Anh ơi. Chỗ nầy c̣n trống, cho tụi tôi nằm đỡ. Được không?” “Đây đâu phải nhà của tôi. Mấy anh cứ tự nhiên” Hai ông bèn bước lên thềm, ngồi xuống, tựa lưng vào tường, duỗi chân, ẹo ḿnh coi bộ mệt mỏi. Họ nói chuyện rù ŕ nhưng tôi nghe rơ và biết họ cũng từ ngoài Bắc về chung một chuyến xe lửa cuối năm với tôi. Họ đối đáp nhát gừng nhưng vẫn đậm đà t́nh thân.

Họ kể về các trận đánh trong đó có bạn bè, người c̣n, người mất. Khi nhắc đến người bạn nào đă ngă gục ngoài chiến trường, họ tặc lưỡi, th́ thầm “... Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Tôi cũng tốt nghiệp sĩ quan nhưng về bộ binh, nghe họ chuyện tṛ, tôi biết hai ông là lính dù, một ông là đại đội trưởng, ông kia là sĩ quan pháo binh tiểu đoàn dù. H́nh như họ cùng tiểu đoàn nên chuyện tṛ rất thân mật. Trong câu chuyện, chẳng ai nhắc đến bóng hồng nào mà toàn chuyện lính tráng, đánh đấm. Tuổi trẻ miền Nam lớn lên, vừa xong trung học, buông bút là vào quân trường cầm súng. Họ, đa số chưa có người yêu. Ba lô, súng đạn như người bạn đời, sinh mạng phó mặc cho viên đạn nhỏ bằng mút đũa hay mảnh pháo có khi chỉ bằng cái móng tay quyết định... Tôi may mắn, có vợ con, nhưng bây giờ cũng như khôngï. Tôi yên lặng nghe hai ông bạn đồng tù tṛ chuyện và nghĩ vẩn vơ. Khi Cộng Sản miền bắc phát động chiến tranh, đánh chiếm miền Nam, hàng triệu thanh niên trai trẻ lên đường chiến đấu để chống xâm lăng, bảo vệ tự do, an lành cho đồng bào miền Nam với sự trợ giúp của nước Mỹ. Nước Mỹ giúp miền nam Việt Nam để “be bờ” Cộng Sản. Đột nhiên, từ năm 1973, viện trợ Mỹ giảm dần rồi đến con số không. Một đô la cũng không có. “Nước Mỹ không có bạn, không có thù. Chỉ có quyền lợi của nước Mỹ”. Nghe nói họ bắt tay với Trung Cộng, để miền nam Viêït Nam cho Cộng Sản, đổi lấy ǵ đó. Thế là miền Nam bị bó tay. Súng không có đạn, máy bay, xe cộ, thiết giáp, tàu bè không có xăng, trong khi đó, cả một khối Cộng Sản quốc tế khổng lồ viện trợ tối đa cho Cộng Sản miền bắc, để họ kéo vào, thoải mái bắn giết quân dân miền nam. Người nào sống sót th́ đưa đi tù cải tạo, không có ngày về...

Thủ tướng Việt Cộng Phạm Văn đồng ra lịnh, đại ư “Không giết tên nào cả. Đưa hết bọn chúng lên vùng rừng thiêng nước độc, bắt làm thật nhiều, ăn thật ít, chúng sẽ chết dần, thế giới không thể biết được”. (ngay cả khi tù chết, họ cũng cho vùi xác rải rác trong rừng chứ không chôn một nơi nhất định). Tôi nhớ, sau tháng tư năm 1975. Ngụy quân, ngụy quyền (quân, cán, chính Việt Nam Cộng Ḥa) phải tŕnh diện ủy ban quân quản để được học tập cải tạo trong một tháng. Mấy tháng đầu chỉ lên hội trường học tập, nghe các cán bộ thuyết tŕnh “mười bài”. Một lần, trong một buổi “lên hội trường”, cán bộ đứng trên bục chỉ tay xuống bọn tù ngồi phía dưới chửi “Các anh là rác rưởi của rác rưởi...” Chửi xong cán bộ hỏi “Có ai có ư kiến ǵ không?” Một ông tù xin phát biểu “Việt Nam Cộng Ḥa là một quốc gia riêng biệt, có lănh thổ, có dân, có chính quyền do dân bầu lên, được quốc tế công nhận, không gây thù chuốc oán ǵ với miền Bắc, v́ sao các ông vào bắn giết chúng tôi, bỏ tù chúng tôi c̣n bảo rằng chúng tôi có nợ máu với nhân dân?...” Nghe đúng bài ḿnh đă thuộc, cán bộ vui vẻ giảng rằng “Chúng tôi vào giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ. Các anh tiếp tay với đế quốc Mỹ, làm tay sai cho chúng để đàn áp, đánh phá sự nghiệp cách mạng, thống nhất đất nước của đảng và nhân dân ta. Các anh đáng bị xử bắn hàng trăm lần cũng chưa hết tội. Nay đảng và nhà nước khoan hồng, tập trung các anh vào đây để cách ly các anh khỏi bị nhân dân căm thù, đ̣i nợ máu các anh đồng thời tạo cơ hội để các anh nhận biết tội lỗi của ḿnh mà lập công chuộc tội, ra sức lao động, học tập để tiến bộ thành công dân tốt xă hội chủ nghĩa, đuợc đảng và nhà nước khoan hồng cho về sum họp với gia đ́nh. Các anh hiểu chưa? Có ai ư kiến ǵ nữa không?” Ông tù đó lại giơ tay, đứng lên “Theo như tài liệu cán bộ cho học tập th́. Năm 1959 miền bắc đă mở đường “Trường Sơn 59”, đưa quân vào nam. Năm 1960 đă lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, măi đến năm 1964, Mỹ mới đổ quân vào Đà Nẵng. Như vậy, trước khi Mỹ vào Việt Nam, các ông đă nhận lệnh của Nga, Tàu, nhận súng đạn của Nga, Tàu vào bắn giết, giật ḿn xe đ̣, pháo kích vào trường học, chôn sống đồng bào vô tội miền Nam. Như thế th́ ai có nợ máu với nhân dân?...” Nghe chưa dứt câu, cán bộ giận xanh mặt rít lên “Đem nó đi cùm!” Ông ta bị công an vơ trang bao vây quanh đấy lôi đi. Tối đó ông ta bị công an thay phiên nhau đánh đến chết, vất xác trong rừng... (Sau nầy, trước đền thờ tổng bí thư Lê Duẫn có khắc câu mà Lê Duẫn thường nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô Trung Quốc” Câu nói khiến cho quân đội nhân dân Việt Nam (Việt Cộng) ngỡ ngàng. Cựu đại tá Tư Cúc (Lê Cúc) phải kêu lên “Hóa ra quân đội nhân dân Việt Nam là lính đánh thuê cho Liên Xô, Trung Quốc

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1519006&stc=1&d=1579841388

Lúc đó đă về khuya, đường phố vắng tanh, hai cậu bụi đời đă im tiếng, h́nh như đang nằm lắng nghe hai ông bạn tù của tôi tṛ chuyện. Bỗng cái mùng động đậy và hai cậu chui ra, đứng dưới thềm, trước hai ông bạn tù, người thẳng đơ, đưa tay lên chào theo kiểu nhà binh. Một cậu nói lớn “Trung sĩ nhất Nguyễn văn..., đại đội..., trung đội..., tŕnh diện đích thân” Cậu kia cũng đứng nghiêm xưng tên họ, cấp bậc, đơn vị nhưng lại “Tŕnh diện thẩm quyền”. Thông thường, lính gọi sĩ quan cấp trên trực tiếp bằng cấp bậc hoặc các chức danh tùy ư “Ông thầy, đích thân hoặc thẩm quyền...” Th́ ra các cậu đều là lính dù. Như một phản xạ, hai ông bạn tù cũng chào tay “Chào hai anh. Hai anh ngồi xuống!”. Hai cậu ngồi trên hiên nhà, chân tḥng xuống lề đường. “Tụi em nằm nghe mấy ông thầy nói chuyện mới biết là sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Ḥa đi tù về”. Một cậu ngậm ngùi “Từ ngày mất nước, các cấp chỉ huy đi tù, tụi em tan hàng, bơ vơ, buồn muốn chết. Tụi em nhớ đơn vị, nhớ cấp chỉ huy, nhớ súng đạn, ba lô... nhớ đủ thứ. Lúc năy, nằm nghe hai ông thầy nói chuyện, tụi em mừng quá, tưởng như c̣n đang ở đơn vị”. “Bộ mấy cậu không bị tù cải tạo sao?” “Có, nhưng ở địa phương, tụi em bị tập trung một thời gian để nghe chửi là tay sai đế quốc Mỹ, rồi bắt đi nông trường làm thủy lợi, sau đó được đưa sang Căm Bu Chia vác đạn cho bộ đội làm nghĩa vụ quốc tế, đánh nhau với Khờ Me đỏ. Tụi em bỏ trốn về Sài G̣n” Tôi ngồi lên “Ḿnh nói chuyện có làm phiền chủ nhà không?” “Ông thầy khỏi lo. Họ ngủ trên lầu. Hai ông bà chủ nhà có con là đảng viên làm lớn, được cấp nhà tịch thu của tư sản. Tụi em ngủ ở đây, giữ ǵn sạch sẽ, khỏi sợ trộm cắp nên họ để yên”. Hai cậu bụi đời th́ thầm với nhau rồi cậu trung sĩ đứng lên, trịnh trọng thưa “Thưa, mấy khi thầy tṛ được gặp lại nhau, tụi em có ư kiến như thế nầy. Tụi em đi kiếm rượu và mồi nhắm để mấy ông thầy và tụi em lai rai đón giao thừa...” Một ông cười khan “Nghe văn chương của cậu là hiểu ư rồi đó. Tụi nầy vô sản, mấy cậu kiếm xị đế là đủ rồi, khỏi mồi miết phiền phức, tốn kém” “Không bao nhiêu đâu. Mấy tiệm phở sắp đóng cửa, họ bán xí oách rẻ đui. Ḿnh không lấy họ cũng đổ bỏ” “Khuya rồi, ai mà c̣n bán rượu nữa?” “Ông thầy khỏi lo. Tụi em là mấy con ma, chỗ nào không biết!”.

Buổi “tiệc đón giao thừa” gồm hai xị đế và thau xí oách (xương ḅ, xương gà) với một cái ly nhỏ để trên một tờ báo được trải ra. Người nầy “dzô” xong một ly th́ rót cho người kế tiếp, cứ thế xoay ṿng. Nhờ hơi men, những câu nói nhát gừng đă thành rôm rả. Những người lăn lộn chiến trường thường lầm ĺ, ít nói, chỉ khi có tiếng súng nổ mới kích động được họ xông lên phía trước. Trong chiến trận, chính những người trực tiếp chỉ huy trung đội, đại đội mới là người quyết định chiến trường. Sống chết bên nhau, họ thương yêu nhau c̣n hơn ruột thịt. Giờ đây, chiến trường đă im tiếng súng, họ là kẻ chiến bại, là kẻ mất nước, bị đối phương khinh miệt, tù đày, hành hạ để trả thù. Người lính Việt Nam Cộng Ḥa đă biến mất, chỉ c̣n lại những con người sống ngoài lề xă hội, vất vưởng, bơ vơ. Nhưng trong tâm tưởng người dân miền Nam, người lính Việt Nam Cộng Ḥa vẫn là những người con thân yêu của đồng bào. Ḷng biết ơn không hề phai nhạc.

Buổi “tiệc” cuối năm càng về khuya càng thân mật, thỉnh thoảng có tiếng cười. Trong cái gia đ́nh nhảy dù nhỏ đó với bốn thầy tṛ cùng nhắc lại những ngày chiến đấu đầy gian khổ, sát cánh bên nhau, giúp đỡ, che chở nhau trong những giây phút hiểm nguy, đối diện với kẻ thù... Tất cả đă là dĩ văng, đă là những kỷ niệm mà họ cố quên. Cả cuộc đời với tuổi thanh xuân đẹp đẽ, sung sức nhất, họ đă dâng cho Tổ Quốc để rồi thành kẻ mất nước. Họ hỏi thăm nhau, ai c̣n, ai mất, những “ông thầy” trong đơn vị nầy, đơn vị kia. Cấp chỉ huy không thể nhớ hết binh sĩ dưới quyền, nhưng lính th́ không bao giờ quên những “thẩm quyền” đă chỉ huy ḿnh.

Ngoài đường đă vắng bóng người. Đường phố như ngủ say dưới ánh đèn vàng vọt. Lúc đó đă vào khuya. Đột nhiên, trong đêm vắng, vài tiếng pháo nổ lẻ tẻ, vang đến từø chợ Tân Định. Rồi như cùng hẹn trước, tiếng pháo đồng loạt nổ vang khắp nơi. Giờ giao thừa. Mọi người đón mừng chúa Xuân bằng những tràng pháo và lễ vật trên bàn thờ, trước cửa nhà. Bọn lính tráng chúng tôi, trước đây không bao giờ biết đến năm mới, năm cũ v́ thường xuyên hành quân nơi rừng sâu, núi thẩm, họa hoằn đi ngang qua một xóm làng xơ xác nào đó, nh́n đồng bào nghèo khổ v́ chiến tranh, thấy họ chẳng có ǵ để đón xuân mà ngậm ngùi, nay bỗng nhiên nghe tiếng pháo mà tưởng như thời c̣n chiến tranh, nhất là mùi thuốc súng mà người ta lấy thuốc đạn ra làm thuốc pháo. Suốt dọc hai bên đường Hiền Vương, đường Hai Bà Trưng tiếng pháo nổ liên tục chen lẫn với tiếng pháo tống, pháo đại khiến bản năng người lính bị kích động. Chúng tôi tưởng như ḿnh đang bị bao vây bởi kẻ thù với những họng súng đang hướng về chúng tôi mà khạc đạn. Từ trên lầu, nơi chúng tôi đang ngồi, chủ nhà tḥng xuống một dây pháo dài, nổ rang, những viên pháo đại rơi xuống đất, nổ chát chúa, xác pháo bắn vào chúng tôi, khói pháo mịt mù, nồng nặc mùi thuốc súng. Mùi thuốc súng khiến thần kinh những người lính chúng tôi càng thêm căng thẳng. Hai cậu cựu binh như bị đồng nhập, tay nắm lại, cằm bạnh ra, mắt trừng trừng nh́n hai ông cựu sĩ quan. Một cậu chồm tới, thét lên trong tiếng nổ hỗn loạn “Đích thân! Đích thân ban lệnh đi. Chả lẽ nằm đây chịu chết sao?”. Tôi quay nh́n. Hai ông cựu sĩ quan dù lắc đầu, mắt nh́n trừng trừng vào khoảng không trước mặt. Rồi nước mắt họ ứa ra, trào xuống g̣ má xương xẩu, long lanh ánh chớp của pháo nổ. Bỗng, một ông (sĩ quan dù) kêu lên, giọng điềm tỉnh.

- “418, đây 314, xin tác xạ, hết”
Ông ngồi bên cạnh (sĩ quan pháo binh), trả lời.
- “314, đây 418, xin tác xạ, hết”.
Thế rồi cuộc trao đổi truyền tin diễn ra.
- “Lệ Hằng, phải 1.5, lên 2.3 một khói nổ chạm.Bắn khi sẵn sàng, hết”
-“Lệ Hằng, phải 1.5 lên 2.3, một khói, hết”
- “Hướng 800, gần lại 100. Một khói, hết”.
- “Hướng 800, gần lại 100, một khói, hết”
- “Hỏa tập cận pḥng. Năm tràng, bắn hiệu quả, hết.
- “Năm tràng, bắn hiệu quả, hết” ...


Giọng hai ông bạn tù của tôi vẫn mạch lạc, điều động nhịp nhàng pháo binh yểm trợ như trong một trận chiến sắp nổ ra. Tôi h́nh dung một đại đội dù đóng quân trên một ngọn đồi, địch quân theo dơi, bao vây và t́m cách tràn ngập. Các toán tiền đồn gọi về báo động. Toàn đơn vị đă sẵn sàng chờ địch. Hai ông cựu sĩ quan dù như đang cùng hồi tưởng lại một một kỷ niệm chiến đấu nào đó đă xảy ra và hai cậu cựu binh cũng là những người đă từng tham dự những trận đánh đẫm máu...


Cuộc trao đổi truyền tin trong tiếng pháo giao thừa vẫn tiếp tục. Hỏa tập như càng lúc càng kéo gần vị trí đóng quân trong khi tiếng pháo vẫn chát chúa, khi xa, khi gần. Rồi tiếng pháo cũng lơi dần. Người chủ nhà trên lầu đă đốt hết dây pháo, nhưng ông ta lại gắn thêm một dây pháo nữa, lần nầy ba bốn phong pháo được chập vào với nhau nên pháo nổ càng dữ dội, và như cao hứng, những căn nhà kế bên cũng đem pháo ra đốt tiếp. Tiếng nổ càng dồn dập, khói súng càng mịt mù. Ông bạn tù lại cao giọng

-“Các hỏa tập cũ đều kéo vào 50, sẵn sàng bắn, vị trí sắp bị tràn ngập -“Hỏa tập cũ kéo vào 50, bắn, hết” ...

Cuộc trao đổi trở nên căng thẳng, gấp rúc khiến tôi nhớ lại những trận tấn công biển người của đối phương. Hỏa tập thường được kéo vào sát vị trí pḥng thủ để chặn địch tràn ngập. Hai cậu cựu binh ngồi chết sửng, thỉnh thoảng cựa quậy như không chịu đựng được các bắp thịt và thần kinh đang căng lên hết mức.
Vẫn giọng b́nh tỉnh.
-“418, đây 314, địch tràn ngập vị trí. Hỏa tập tối đa, nổ chụp ngay trên đầu tôi, hết”

-“Xin 314 nhắc lại, hết”
-“418, đây 314, địch tràn ngập vị trí, hỏa tập tối đa ngay trên đầu tôi, hết”

Giọng ông pháo binh khàn khàn, nghẹn ngào.
- “Bắn trên đầu bạn ư?”
-“418, đây 314. Có bao nhiêu ông phang hết lên đầu tôi. Đó là lời cuối cùng”

-“314, đây 418, xin xác nhận lại. Nghe tôi không? Xin 314 trả lời... Vâng, hỏa tập tối đa trên đầu bạn. Vĩnh biệt 314”...
Tiếng pháo giao thừa đă dứt. Cả thành phố im lặng như đang mặc niệm tử sĩ. Vẳng lại từ xa vài tiếng nổ lẻ tẻ, rời rạc rồi lịm dần, tưởng chừng như chiến trường đă bị kéo trôi đi xa, chỉ c̣n lại cảnh b́nh địa hoang tàn.

Tác Giả người lính

hoanglan22
01-30-2020, 04:58
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1521539&stc=1&d=1580359768
Phi công Đặng Quỳnh. (H́nh: Đặng Quỳnh cung cấp)

WESTMINSTER, California (NV) - Đặng Quỳnh, quê Phú Nhuận, Sài G̣n, cựu học sinh Chu Văn An t́nh nguyện vào Quân Chủng Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa vào Tháng Năm, 1968, là tân sinh viên sĩ quan Khóa 7/68 Không Quân. Ông t́nh nguyện vào quân đội theo lời kêu gọi của tất cả quân, binh chủng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) sau trận chiến Mậu Thân 1968 bùng nổ. Đáp lời sông núi, ông cũng như bao người trai thế hệ ṭng quân giúp nước, xếp bút nghiên lên đường chinh chiến v́ nhu cầu chiến trường.

Tháng Sáu, 1968, Đặng Quỳnh trong số 255 tân khóa sinh Khóa 7/68 Không Quân được vào quân trường Quang Trung chín tuần, rồi sang quân trường Thủ Đức ba tháng rưỡi để học căn bản quân sự.

Sau đó, 255 tân khóa sinh về tŕnh diện Bộ Tư Lệnh Không Quân tại Tân Sơn Nhất để chờ nhập khóa huấn luyện của Không Quân. Các khóa bay gồm có Khu Trục, C130, L19, Trực Thăng, c̣n khóa Không Phi Hành th́ học về Kỹ Thuật. Trong số 255 khóa sinh có một nửa đi về ngành Không Phi Hành, và một nửa học về Phi Hành tác chiến.

Sau khóa học Anh Ngữ, Đặng Quỳnh chọn ngành Trực Thăng đổ quân và tác chiến. Tháng Mười, 1969 được sang Hoa Kỳ để học bay Trực Thăng UH-1 tại các quân trường Không Quân Hoa Kỳ qua nhiều giai đoạn ở các tiểu bang Texas và Georgia.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1521540&stc=1&d=1580359768
Phi công Đặng Quỳnh tại phi trường Sóc Trăng. (H́nh: Đặng Quỳnh cung cấp)

Chiến trường thuộc Vùng 4 Chiến Thuật sôi động mạnh
Tháng Bảy, 1970, tân sĩ quan Không Quân Đặng Quỳnh ra trường. Về nước, bắt thăm đi phục vụ cho các phi đoàn. Ông về đơn vị Phi Đoàn 225 đóng tại Sóc Trăng. Phi đoàn này mới thành lập, gốc từ phi đoàn của Hoa Kỳ mới bàn giao lại cho Không Quân VNCH. Lúc đó, phi đoàn trưởng của Phi Đoàn 225 là Không Quân Thiếu Tá Lê Văn Châu.

Thiếu Úy Đặng Quỳnh vừa về tŕnh diện phi đoàn trưởng, hôm sau th́ được lệnh hành quân lập tức. Nhiệm vụ của Đặng Quỳnh là đưa quân chiến đấu của các Sư Đoàn 7, 9, 21 Bộ Binh và Biệt Động Quân vào những trận địa thuộc Vùng 4 Chiến Thuật, Bộ Tư Lệnh Quân Khu 4 đặt tại Cần Thơ. Lúc bấy giờ, Tư Lệnh Quân Khu 4 là Tướng Ngô Quang Trưởng.

Từ năm 1970, các chiến trường thuộc Vùng 4 Chiến Thuật bắt đầu sôi động mạnh, bởi v́ các quân địa phương của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam với sự trợ giúp của quân Cộng Sản Bắc Việt xâm nhập vào miền Tây Nam Phần từ biên giới Việt-Miên, và đường biển.

Ông Quỳnh kể: “Lúc đó tôi mới mang lon Thiếu úy, chỉ làm phi công phụ chớ chưa được làm phi công trưởng. Tôi vừa về tŕnh diện phi đoàn trưởng th́ đă có lệnh đưa quân của Sư Đoàn 21 vào trận địa tại Sóc Trăng, tàn trận, lại phải bốc quân ta về. Rồi cứ thế, mỗi ngày chúng tôi đều có chuyến đổ quân, bốc quân về và đưa các chiến sĩ bị thương về hậu cứ tại Sóc Trăng hay tại Quân Y Viện nào gần nhất. Sóc Trăng, bộ chỉ huy đặt tại Thị xă Khánh Hưng, gồm các Chi Khu: Ḥa Trị, Kế Sách, Lịch Hội, Long Phú, Mỹ Xuyên, Ngă Năm, Thạnh Trị, Thuận Ḥa và Yếu Khu thị xă Khánh Hưng. Chỉ trong ṿng một tháng đầu về đơn vị, tôi đă đổ quân của các Sư Đoàn 21 và Biệt Động Quân vào những trận tại Ngă Năm, Long Phú, Kế Sách, Ḥa Trị nhiều lần.”

“Chiến trường miền Tây càng ngày thêm ác liệt hơn. Gần như không có ngày nào mà chúng tôi không đổ quân và đưa quân về. Có lúc, vừa đổ quân xong, chúng tôi phải bay trong ṿng chiến để tiếp ứng chiến đấu cùng với những anh em chiến sĩ tại mặt đất. Phi hành đoàn của mỗi chiếc trực thăng để chở quân gồm hai phi công và hai xạ thủ đại liên 60. C̣n chiếc Gunship th́ cũng hai phi công, hai xạ thủ đại liên 6 ṇng (Minigun) và được trang bị 14 đạn pháo rocket. Phi đoàn của chúng tôi cũng bị bắn rớt nhiều, có những chiếc bị bắn cháy và nổ tung trên không, phi hành đoàn không ai được sóng sót,” ông nhớ lại.

“Khoảng Tháng Mười, 1970, Phi Đoàn 225 gồm sáu chiếc trực thăng chở quân Sư Đoàn 21 và một chiếc Gunship đổ quân xuống khu Hải Yến, Cà Mau. Địch quân khoảng hai đại đội đang chuyển quân đến đánh khu Hải Yến. Sau khi đổ quân xong, một chiếc Gunship nhào xuống bắn yểm trợ cho quân ta, bị Cộng Sản bắn rớt,” ông kể thêm.

Trong thời gian phục vụ tại Quân Khu 4, Phi Công Đặng Quỳnh đă đổ quân VNCH nhiều nhất ở những trận địa thuộc các Tiểu Khu An Xuyên (Cà Mau): Bộ chỉ huy đặt tại thị xă Quản Long, gồm các Chi Khu: Đầm Dơi, Hải Yến, Năm Căn, Sông Đốc, Thới B́nh và Yếu Khu thị xă Quảng Long; và Kiên Giang: Bộ chỉ huy đặt tại thị xă Rạch Giá, gồm các Chi Khu: Hà Tiên, Hiếu Lễ, Kiên An, Kiên B́nh, Kiên Lương, Kiên Tân, Kiên Thành và Yếu Khu thị xă Rạch Giá. C̣n Tiểu Khu Chương Thiện th́ Bộ Chỉ Huy đặt tại thị xă Vị Thanh, gồm các Chi Khu: Đức Long, Hưng Long, Kiên Long, Kiên Lương, Kiến Thiện, Long Mỹ và Yếu Khu thị xă Vị Thanh.

Cà Mau và Kiên Giang là hai tiểu khu cập theo bờ biển của Vịnh Thái Lan và những khu rừng tràm dày đặc thuộc vùng U Minh Thượng và U Minh Hạ. Tại nơi này, Việt Cộng thành lập những căn cứ cấp tiểu đoàn trong rừng sâu để làm hậu cần cho quân du kích và quân Cộng Sản Bắc Việt. Tại Chi Khu Hà Tiên, Kiên Giang th́ có biên giới Việt-Miên, nơi mà Cộng Quân chuyển quân từ biên giới Hạ Lào xuống tận miền Nam để xâm nhập vào Vùng 4 Chiến Thuật. V́ thế, có khi Phi Đoàn 225 phải đưa những quân tác chiến VNCH đổ quân sang Cambodia để ngăn chận Cộng Sản Bắc Việt xâm nhập vào Hà Tiên hay Châu Đốc.

Thiếu Úy Quỳnh kể: “Ở Cambodia, đổ quân xong, các phi hành đoàn ít nhất là tám chiếc trực thăng phải đáp xuống các phi trường gần biên giới để ứng chiến. V́ không được rời khỏi tàu suốt cả ngày, hoặc lâu hơn nữa để chờ lệnh đưa quân về, nên phương tiện ăn uống được một chiếc trực thăng khác (gọi là tàu cơm) từ hậu cứ phi đoàn mang thực phẩm đến tiếp tế cho các phi hành đoàn ít nhất là 32 người đang tham chiến. Lư do là v́ các chiến sĩ Không Quân của Phi Đoàn 225 đă đóng tiền cơm hằng tháng cho câu lạc bộ tại hậu cứ của phi đoàn. V́ bận công tác, các phi hành đoàn không được về dùng cơm tại câu lạc bộ, nên phi đoàn trưởng cho chiếc (tàu cơm) bay thẳng ra chiến trường. Đôi khi, những phi vụ này cũng để tiếp tế đạn dược cho các chiến sĩ bộ binh đang chiến đấu tại mặt đất.”

Tại Tiểu Khu Kiến Phong, Bộ Chỉ Huy đặt tại Thị xă Cao Lănh. Phi Đoàn 225 đă có nhiều phi vụ đưa quân Sư Đoàn 9 và Biệt Động Quân tại những địa danh Cao Lănh, Đồng Tiến, Hồng Ngự, Kiến Văn, Mỹ An. Tại Kiến Tường, Bộ Chỉ Huy đặt tại thị xă Mộc Hóa. Tàu của Đặng Quỳnh từng bị trúng đạn của địch quân tại các mặt trận ở Tuyên B́nh, Tuyên Nhơn khi đưa quân của Sư Đoàn 7 ra chiến trường. Hai Tiểu Khu Kiến Phong và Kiến Tường nằm cập theo biên giới của Việt-Miên, nên Cộng Sản cũng thường dùng biên giới này để đưa quân xâm nhập vào miền Tây Nam.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1521541&stc=1&d=1580359768

Phi công Đặng Quỳnh tại phi trường Rạch Giá. (H́nh: Đặng Quỳnh cung cấp)

C̣n Định Tường là tiểu khu giáp ranh với Kiến Phong, Phi Đoàn 225 cũng đă đổ quân của Sư Đoàn 7 vào những nơi đóng quân của Việt Cộng tại Cai Lậy, Cái Bè, Hậu Mỹ, Sầm Giang.

Hết sang Cambodia diệt Cộng sản, lại về Việt Nam diệt Cộng quân
Cũng trong Tháng Mười, 1970, đơn vị của Đặng Quỳnh gồm hai chiến Gunship và tám chiếc chở quân Sư Đoàn 9 sang Cambodia đổ quân xuống Neak Luong để diệt quân Cộng Sản đang đóng quân để chuẩn bị xâm nhập vào các chi khu Cao Lănh và Hồng Ngự của Tiểu Khu Kiến Phong.

“Quân Cộng Sản bị các chiến sĩ của Sư Đoàn 9 Bộ Binh tấn công bất ngờ, lớp chết, lớp chạy tán loạn vào đoàn dân cư đang chạy giặc. Đoàn trực thăng của chúng tôi rượt theo chúng nó. Chúng hoảng sợ tách rời ra khỏi đám dân, t́m nơi an toàn để trốn lằn đạn của trực thăng. Chúng tôi rượt theo bắn chết chúng nó rất nhiều, và cũng có một số trốn thoát được vào khu rừng. Chỉ c̣n một tên Cộng Sản c̣n sống sót v́ sợ chết nên hắn mới nằm sấp xuống. Tàu của tôi đáp xuống, và chính tôi nhảy xuống bắt tên Việt Cộng này lên tàu đưa về để khai thác,” ông kể.

Tại Bạc Liêu, Biệt Động Quân và Sư Đoàn 21 cũng đă đụng độ rất nhiều lần với Việt Cộng tại những khu rừng ở Giá Rai, Phước Long, Vĩnh Châu. Phi Đoàn 225 đă đưa quân của VNCH vào những trận chiến khốc liệt. Tàu của Đặng Quỳnh cũng nhiều lần bị trúng đạn của địch quân tại những địa điểm này.

Ngoài ra, Phi Đoàn 225 c̣n có những chuyến đưa quân lẻ tẻ tại Chợ Mới, Huệ Đức, Thốt Nốt thuộc Tiểu Khu An Giang; Ḥa Đồng, Ḥa Lạc, Ḥa Tân thuộc Tiểu Khu G̣ Công; Ba Tri, B́nh Đại, Đôn Nhơn, Hàm Luông, Hương Mỹ, Giồng Trôm thuộc Tiểu Khu Kiến Ḥa; Đức Thành, Đức Thịnh, Đức Tôn thuộc Tiểu Khu Sa Đéc; và Long Toàn, Tiểu Cần, Trà Cú, Trà Ôn, Vũng Liêm thuộc Tiểu Khu Vĩnh B́nh.

V́ đă tham chiến rất nhiều trận ở Vùng 4 Chiến Thuật mỗi ngày, nên Đặng Quỳnh chỉ kể vài trận mà ông đă thoát chết dưới lằn đạn của địch. Trận cuối cùng tại Vùng 4 Chiến Thuật của Đặng Quỳnh là ông đă thoát chết tại Tiểu Khu Phong Dinh, Bộ Chỉ Huy đặt tại thị xă Cần Thơ, gồm các Chi Khu: Châu Thành, Phong Điền, Phong Phú, Phong Thuận, Phụng Hiệp, Thuận Nhơn.

Đầu năm 1971, ngay Mùng Hai Tết, Cộng Quân tấn công quận Phụng Hiệp. Theo tin t́nh báo cho biết, quân Cộng Sản Bắc Việt phối hợp quân địa phương của miền Nam hơn một tiểu đoàn. Ư đồ của Cộng Sản là muốn mở trận lớn để tấn công vào Quân Khu 4. Trong lúc Cộng Quân đang đụng trận với hai đại đội Địa Phương Quân VNCH, th́ sáng sớm, Phi Đoàn 225 được lệnh bốc các chiến sĩ Biệt Động Quân xuống tiếp viện cho các chiến sĩ Địa Phương Quân đang đụng lớn với quân cộng sản tại Phụng Hiệp.

Ông Đặng Quỳnh kể: “Từ phi trường Sóc Trăng, toán của chúng tôi chở Biệt Động Quân gồm năm chiếc trực thăng chở quân, hai chiếc Gunship và một chiếc CNC của cấp chỉ huy chiến trường. Hai chiếc Gunship vừa bắn yểm trợ cho Địa Phương Quân vừa bắn dọn băi đáp cho năm chiếc đổ Biệt Động Quân (nhảy trực thăng) xuống ngay chiến trường. Sau đó, bảy chiếc trực thăng chiến đấu của chúng tôi bay lên cao để quan sát và chờ lệnh để tham chiến. Được tin là quân ta đă làm chủ t́nh h́nh, Cộng Sản bỏ thây tại mặt trận rất nhiều, và Biệt Động Quân đang lục soát trong khu dân cư để t́m đám tàn quân địch đang lẩn trốn. Chúng tôi được lệnh rời khỏi chiến trường, về hậu cứ để chờ lệnh.”

“Chúng tôi sẵn sàng ứng chiến tại phi trường Sóc Trăng và không được rời khỏi trực thăng cách 100 mét để chờ lệnh đưa quân ta về. Khoảng 6 giờ chiều hôm đó, bảy chiếc trực thăng được lệnh đến điểm bốc các chiến sĩ Biệt Động Quân triệt thoái (rời khỏi),” ông cho biết thêm.

Thiếu Úy Đặng Quỳnh làm phi công phụ cho Phi Công Trưởng Trung Úy Nguyễn Phương Đức đáp băi chở Biệt Động Quân về.

“Tôi ngồi ghế tay mặt của pḥng lái, Trung Úy Đức, phi công chánh ngồi bên trái. Trực thăng của chúng tôi là chiếc cuối cùng bốc các chiến sĩ Biệt Động Quân lên tàu. Tàu vừa rời khỏi mặt đất khoảng 50 thước th́ tôi thấy phía dưới có một cái nấp hầm trú ẩn của Cộng Quân hé ra, liền sau đó, một loạt đạn AK từ hầm đó bắn lên chiếc trực thăng của tôi đang đưa quân ta về. Loạt đạn này trúng vào kiếng phía trước nơi tôi ngồi, nhưng lúc đó v́ tôi đang ló đầu ra ngoài để quan sát, nên tôi may mắn được thoát chết, trên tàu không có ai bị thương cả. Sau đó, hầm ngụy trang của vài tên tàn quân Cộng Sản cũng lănh đủ hàng ngàn viên đạn đại liên của trực thăng Phi Đoàn 225. Trận chiến này đă mang lại chiến công lớn cho Biệt Động Quân và Địa Phương Quân tại chi khu Phụng Hiệp,” ông kể.

Chỉ trong ṿng tám tháng hành quân tại Vùng 4 Chiến Thuật, Không Quân Đặng Quỳnh đă trên bay trên 160 phi vụ để đổ quân và chiến đấu. Hơn 60 lần tàu bị trúng đạn của địch, nhưng may mắn nhờ đạn không trúng vào máy và cánh quạt, nên trực thăng vẫn c̣n hoạt động và đưa quân về được an toàn.

Tại Vùng 4, trong ṿng sáu tháng th́ Đặng Quỳnh đă bay được 800 giờ công tác, theo luật của Không Quân th́ phi công phụ chỉ bay đủ 800 giờ th́ đạt tiêu chuẩn để trở thành phi công chánh.

Đầu Tháng Tư, 1971, phi công Đặng Quỳnh được lệnh thuyên chuyển ra Đà Nẵng tŕnh diện Phi Đoàn Kingbee 219 để đưa những toán Lôi Hổ của Nha Kỹ Thuật xâm nhập vào vùng đất địch đang đóng quan tại biên giới Hạ Lào.

(Lâm Hoài Thạch)

____________________ ____________________ ________

‘Chim Sắt Kingbee 219’ Đặng Quỳnh sống chết cùng Biệt Kích Lôi Hổ

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1521542&stc=1&d=1580359768

Đặng Quỳnh và vợ Xuân Thúy tại Westminster. (H́nh: Đặng Quỳnh cung cấp)

WESTMINSTER, California (NV) - Đầu năm 1966, Phi Đoàn 219 được thành lập tại Đà Nẵng do sự sáp nhập của hai biệt đội trực thăng H-34 chuyên thả các toán Lôi Hổ. Phi Đoàn 219, mang danh hiệu Long Mã, do Đại Úy Hồ Bảo Định làm chỉ huy trưởng.

Cuối năm 1971, cũng như các Phi Đoàn 213 và 215, Phi Đoàn 219 chuyển sang sử dụng trực thăng UH-1. Các phi đoàn này chuyên phụ trách những phi vụ thả và bốc các toán Biệt Kích Lô Hổ của Nha Kỹ Thuật trong vùng địch, dọc đường ṃn Hồ Chí Minh, có khi sâu vào biên giới Lào và Cao Miên.

Với phương châm “không bỏ anh em, không bỏ bạn bè,” các hoa tiêu của Phi Đoàn 219 đă chu toàn những phi vụ hiểm nghèo cho các đơn vị Biệt Kích, cho dù có hy sinh, mất mát một phần thân thể. Các hoa tiêu này chính là niềm hy vọng cuối cùng đối với các toán Biệt Kích Lôi Hổ trong lúc bị địch phát hiện và săn đuổi.

T́m mọi cách để đưa quân ta về
Những “Chim Sắt UH-1” của Phi Đoàn 219 với công tác hằng ngày như liên lạc, tiếp tế, tải thương, đổ quân, bốc quân. Các Gunship với nhiệm vụ hộ tống và yểm trợ tác xạ cho tất cả các đơn vị bạn của Quân Lực VNCH, đôi khi họ c̣n phải bắt sống địch quân mang về cho những đơn vị đặc biệt khai thác. Với ḷng gan dạ và dũng cảm đó nên phi đoàn này c̣n có danh xưng “Kingbee 219.”

Đặng Quỳnh kể: “Sau trận Hạ Lào vào năm 1971, Phi Đoàn 219 bị mất nhiều phi hành đoàn, nên Bộ Tư Lệnh Không Quân ra lệnh mỗi phi đoàn ở Vùng 4 Chiến Thuật phải tăng phái một hoa tiêu chánh và một cơ khí viên cho Phi Đoàn 219. Tôi là một trong những hoa tiêu từ Vùng 4 t́nh nguyện về Phi Đoàn 219. Lúc đó, Phi Đoàn Trưởng 219 là Thiếu Tá Nguyễn Văn Nghĩa. Khi tôi mới về tŕnh diện phi đoàn trưởng, th́ phi đoàn này vẫn c̣n bay trực thăng H-34 (có ba bánh xe), c̣n UH-1 th́ tối tân hơn, v́ không có bánh xe nên tàu rất nhẹ, máy của tàu là bán phản lực. C̣n H-34 th́ trưng dụng loại máy nổ. Sau đó, 219 đă được sử dụng toàn trực thăng UH-1.”

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1521543&stc=1&d=1580359768

Đặng Quỳnh tại phi trường Pleiku. (H́nh: Đặng Quỳnh cung cấp)

“Tôi về tŕnh diện Bộ Tư Lệnh của Phi Đoàn 219 tại Đà Nẵng. Sau đó được lệnh biệt phái đi rất nhiều nơi để đưa những toán Biệt Kích Lôi Hổ của Nha Kỹ Thuật vào những nơi ngoài biên giới của những vùng chiến thuật 1, 2 và 3. Mỗi chuyến công tác biệt phái là hai tuần,” ông cho biết thêm.

Tháng Sáu, 1971, Đặng Quỳnh nhận lệnh biệt phái về Ban Mê Thuột cho đơn vị Biệt Kích Lôi Hổ tại Bản Đôn là một buôn thượng có một phi đạo nhỏ sát bên đường ṃn Hồ Chí Minh gần biên giới.

Ông kể: “Tại Ban Mê Thuột, ngày nào tôi cũng có chuyến công tác để thả những toán Lôi Hổ vào những địa điểm dọc theo vùng Tam Biên (biên giới của Việt-Miên-Lào). Toán Lôi Hổ mỗi chuyến công tác đi tối đa là bảy quân nhân và ít hơn. Tại Vùng Tam Biên, gần như ngày nào các chiến sĩ Biệt Kích Lôi Hổ cũng đều chạm địch, nhiệm vụ của tôi phải t́m mọi cách để đưa quân ta về.”

“Cũng tại Ban Mê Thuột, đôi khi chúng tôi c̣n hành quân chung với Không Quân Hoa Kỳ, lực lượng không lực của họ th́ mạnh hơn của Không Quân ḿnh, cứ mỗi chuyến hành quân của Mỹ đều có những chiếc Gunship Cobra đi theo bắn yểm trợ. Khi đụng trận lớn có phi cơ phản lực F4 hoặc F5 hay B52 yểm trợ,” ông Quỳnh kể thêm.

Khoảng cuối Tháng Tư, 1972, Đặng Quỳnh được biệt phái về yểm trợ đưa quân cho Sư Đoàn 23 Bộ Binh ở Kon Tum để vào chiếm lại Tân Cảnh, đây là căn cứ quân sự của Quân Lực VNCH ở Bắc Tây Nguyên. Trước đó, Cộng Quân đă chiếm Tân Cảnh, và lực lượng của Quân Lực VNCH đă xông vào tái chiếm lại Tân Cảnh.

Không Lực Hoa Kỳ cũng đă trưng dụng Pháo Đài Bay B52 vào dội bom để tiêu diệt địch tại mặt trận này. Sau khi B52 đă thả bom xong, nhiều phi đoàn đă phối hợp được trưng dụng đến 50 trực thăng. Phi Đoàn 219 đi đầu và đi cuối không có Gunship chỉ đưa quân Sư Đoàn 23 Bộ Binh đổ quân xuống Tân Cảnh để kiểm tra và tái chiếm căn cứ này.

Đặng Quỳnh kể: “Tại mặt trận đó tàu của tôi là chiếc cuối cùng để thả quân xuống. V́ qua nhiều trực thăng đổ băi, nên không c̣n băi đáp trống, tôi phải t́m chỗ bằng phẳng để đáp. Trong lúc tàu của tôi hạ xuống cách mặt đất chừng một mét để cho lính nhảy xuống, th́ hai người lính đầu tiên nhảy xuống ngay một hầm trú của địch để tránh bom B52, nên hai anh này bị bắn chết ngay. Sau đó lính của Sư Đoàn 23 Bộ Binh tung nhiều lựu đạn xuống để tiêu diệt vài tên địch c̣n sóng sót sau khi bị B52 dội bom. Ngay tức khắc, tôi liền đáp xuống để bốc hai tủ lạnh (hai thi thể) của chiến sĩ đă hy sinh mang lên tàu. Các chiến sĩ của Sư Đoàn 23 tiếp tục vào ṿng chiến để lục soát.”

Kingbee 219 không bỏ anh em khi đụng trận cũng như bị thương
Theo Đặng Quỳnh kể th́ ông đă tham dự nhiều chiến trường tại Quân Khu 1 và biên giới Hạ Lào. Riêng tại Quảng Trị th́ Phi Đoàn 219 cũng có chở quân Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến để đánh tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị. Trong thời gian này, Đặng Quỳnh được thăng cấp trung úy.

“Nhiệm vụ của Kingbee 219 là thả toán và không bỏ anh em khi đụng trận cũng như bị thương. Khi đổ quân xong, lúc bay lên để quan sát th́ phi hành đoàn vẫn c̣n nghe trên máy truyền tin rất rơ ở dưới các anh Lôi Hổ vừa chạy vừa nói chuyện, kể cả tiếng súng nổ lúc bị địch đuổi theo. V́ thế, chúng tôi không bỏ anh em được, mà mỗi lần đáp xuống để bốc anh em th́ tàu của Phi Đoàn 219 rất dễ bị Cộng Quân bắn rớt hoặc bị cháy trên không, nhưng khi máy c̣n chạy th́ chúng tôi vẫn cố đưa quân về đến điểm nào của phe ta gần nhất,” Đặng Quỳnh tâm t́nh.

“Có nhiều lúc anh em bị địch phát giác th́ họ liền báo cho chúng tôi. Khi thấy một khoảng đất trống nào để đủ cho tàu đáp xuống th́ chúng tôi liên lạc với anh em cố gắng chạy ra khoảng trống đó để chúng tôi bốc anh em về. Trong lúc đó, anh em cũng đang bị địch đuổi theo, nên chúng tôi phải bắn địch để yểm trợ cho anh em có lối thoát để chạy đến điểm được chúng tôi bốc về,” Đặng Quỳnh kể thêm.

Cuối năm 1974, Phi Đoàn 219 đổ quân qua vùng Hạ Lào gồm hai chiếc chở quân và hai chiếc Gunship. Đổ quân xong về đậu tàu tại phi trưởng nhỏ ở Bản Đôn để chờ lệnh bốc quân về. Lúc đó Đặng Quỳnh lái Gunship. Có một chiếc L19 đáp xuống báo cho biết là thấy một đoàn công voa của Cộng Sản đang di chuyển trên đường ṃn Hồ Chí Minh rất gần.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1521544&stc=1&d=1580359768

Đây là CCKQ Nha Trang năm 1973. Từ trái: Trung tá Phạm Văn Phạm (PĐT Phi Đoàn 524), Trung úy Đặng Quỳnh (Phi Đoàn 219), kế đến là Trung tá (sau lên Đại tá) Đặng Duy Lạc đang bắt tay tân Trung tá Nguyễn Văn Nghĩa (PĐT Phi Đoàn 219) trong ngày vinh thăng.

Ông Quỳnh kể: “Nghe tin, chúng tôi xin lệnh cấp trên lên đường đánh đoàn công voa của địch chỉ cần hai chiếc Gunship, v́ nơi này cũng gần điểm ḿnh vừa thả quân hồi sáng. Thế là chiếc L19 bay trước hướng dẫn hai chiếc Gunship. Lúc đó ngay buổi trưa trời trong sáng, nên từ xa chúng tôi thấy bụi đang bay mờ cả một vùng rất dài, đó là đoàn công voa của địch đang di chuyển ban ngày, gần nơi vùng Tam Biên, cách Bản Đôn trên 10 cây số về phía Tây.”

Cũng theo ông Quỳnh kể, hai chiếc Gunship chia ra hai bên để tác xạ xuống đoàn công voa của địch đang di chuyển. Chiếc của ông bên cánh trái, hai chiếc Gunship bắn rocket và đại liên Minigun ồ ạt xuống đoàn công voa của địch th́ đoàn xe của chúng ngừng lại, địch quân lao xuống đường có một số băng vào rừng để ẩn trốn.

Hai chiếc Gunship bay một ṿng rồi trở lại đánh địch lần thứ hai. Đến lúc này, địch quân đă chuẩn bị nhiều súng pḥng không. Hai chiếc Gunship phải hạ thấp xuống để bắn địch th́ địch đă bắn đạn pḥng không lên như mưa. Xung quanh vùng tàu của ông đang bay có rất nhiều đạn pḥng không của địch nổ gần bên tàu của ông. Đặng Quỳnh liền gọi trong máy cho chiếc bên kia là phải tách ra khỏi vùng đạn của địch.

Trong lúc chiếc của Quỳnh đang đâm xuống để tránh lằn đạn của địch và tránh sự nhận diện tàu của ḿnh, th́ ông nghe một tiếng nổ lớn bên tai. Tàu của ông đă trúng đạn của địch! Đạn trúng ngay đế của cây Minigun và nhiều nơi khác, đế này rất dày nên không phá được tàu, hai xạ thủ th́ đă tử trận v́ trúng đạn của địch, c̣n hai cây Minigun cũng bị văng mất, kiếng trước mặt của phi công cũng không c̣n.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1521545&stc=1&d=1580359768

Đặng Quỳnh (giữa) và ban nhạc AVT tại Little Saigon. (H́nh: Đặng Quỳnh cung cấp)

Đặng Quỳnh tâm t́nh: “Hai xạ thủ đại liên đă hy sinh và thân của họ đă che đạn cho hai phi công. Nhưng chân phải của tôi th́ cũng bị trúng đạn máu ra đầm đ́a. Nhưng may, tàu vẫn c̣n nổ máy và tôi cố đưa tàu ra khỏi ṿng chiến. Tôi thấy một cầu ṿng màu đỏ trước mắt tôi th́ phi công phụ của tôi là Nguyễn Hùng Lực mới nói với tôi là máu từ trên trán của tôi bắn ra một tia nhỏ mà tôi cứ ngỡ đó là cầu vồng, và thân tôi đă bị thương rất nhiều chỗ.”

Ông cho biết thêm: “Sau đó, phi công Lực cố gắng đưa tàu về đến Trung Đoàn 45, Sư Đoàn 23 của Đại Tá Quang. Anh em mới chở thẳng tôi về bệnh viện Ban Mê Thuột. Bác sĩ cho biết tôi bị mất máu rất nhiều, cũng may trong phi đoàn có anh Dương Ngọc Như máu O+ nên anh cho máu nào cũng được. Và, chính máu của chiến hữu Nhu đă cứu sống tôi. Sau đó, tôi được đưa về bệnh viện Nguyễn Huệ, Nha Trang. Cuối cùng tôi được đưa về Quân Y Viện Cộng Ḥa Sài G̣n, và được thăng cấp Đại úy.”

Thành công khi đến Mỹ
Ông Đặng Quỳnh có ngôi nhà trên đường Trương Minh Giảng, ngôi nhà này thường bỏ trống, trong lúc các anh em Không Quân về phép thường dùng căn nhà này để làm chỗ nghĩ ngơi. Ch́a khóa th́ được Đặng Quỳnh cất giấu một nơi nào đó và cũng thông báo cho các anh em Không Quân biết để vào nhà.

Ngày 28 Tháng Tư, 1975, phi công Nguyễn Hữu Phước, bạn cùng khóa bay vào Quân Y Viện Cộng Ḥa thăm Đặng Quỳnh, và cho biết là anh phải đi ngay, nhưng c̣n để vợ con của anh trong nhà của Quỳnh. Và, anh c̣n nhắn lại rằng, anh sẽ về rước vợ con của ḿnh.

Ngày 30 Tháng Tư, 1975, Cộng Sản Bắc Việt chiếm Sài G̣n
Ngày 1 Tháng Năm, 1975, thương binh Đặng Quỳnh cùng bao người thương binh khác bị chánh quyền Cộng Sản đuổi ra khỏi Quân Y Viện Cộng Ḥa. Lúc 12 giờ 30 phút trưa, Đặng Quỳnh bao xe ôm về nhà của ḿnh.

Đặng Quỳnh kể: “Về đến nhà th́ tôi thấy vợ và con của anh Phước đang trong nhà của tôi, và vợ của anh cho tôi biết là anh Phước sẽ về rước vợ con và bảo tôi cùng đi chung nữa. Tôi ngạc nhiên giờ này Việt Cộng đă đi đầy đường, phi trường th́ chúng đă chiếm, biết phải đi đâu bây giờ. Chừng 20 phút sau, th́ có anh Hưng (xạ thủ đại liên) mặc đồ thường phục vào thông báo là Hưng và Phước đă bay ra hạm đội của Mỹ, và bây giờ xin thêm xăng trở vào để rước vợ con. Anh Phước đang bay ḷng ṿng, khoảng một tiếng nữa đến đón mọi người tại sân vận động Hoa Lư.”

“Tôi, anh Hưng và vợ con của anh Phước không c̣n ngần ngại ǵ cả, gọi xe ôm đi đến sân Hoa Lư liền. Đến nơi chưa thấy trực thăng tới, th́ khoảng 10 phút sau, tôi nghe tiếng trực thăng lù lù tới. Phước đă đưa mọi người ra đến hạm đội một cách an toàn,” Đặng Quỳnh kể thêm.

Tháng Bảy, 1975, Đặng Quỳnh được định cư tại Hilton Head, South Carolina, và sau đó có hơn 25 năm thành công trong ngành xây dựng tại Hoa Kỳ. Hiện giờ đang sống bên vợ Xuân Thúy và con tại Little Saigon. Đặng Quỳnh đă hưu trí và cũng là trưởng ban nhạc AVT chuyên hát giúp vui miễn phí cho cộng đồng người Việt tại Little Saigon.

Lâm Hoài Thạch

hoanglan22
02-10-2020, 04:23
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1527249&stc=1&d=1581308557


Mẹ tôi chỉ là một thư kư thường cho một công sở ở Sài G̣n trước năm 1975. Vào cái trưa ngày 30/04/1975, khi biết chắc miền Nam đă thất thủ và Việt cộng đang từ từ tiến vô Sài G̣n, Mẹ tôi lặng lẽ mở tủ lấy lá Cờ Quốc Gia, bỏ vô chiếc thau đồng vẫn thường để đốt vàng bạc trong các dịp cúng giổ trong gia đ́nh, rồi đem xuống bếp, thắp ba cây nhang lâm râm khấn vái trước khi châm lửa đốt. Lúc đó chúng tôi cũng biết việc cất giữ những ǵ thuộc về chế độ cũ sẽ mang tới tai hoạ cho gia đ́nh, huống chi là lá Cờ Quốc Gia, nên Mẹ tôi phải đốt đi; nhưng những điều mà Mẹ tôi giải thích sau đó về việc khấn vái trước khi đốt lá cờ mang một ư nghĩa khác hơn mà suốt đời tôi không quên được. Mẹ tôi nói:

- «Biết bao nhiêu anh chiến sĩ quốc gia đă chết dưới lá cờ ni, chừ v́ thời thế mà ḿnh phải đốt đi, ḿnh cũng phải xin phép người ta một tiếng!».

Thế rồi, những năm tháng sống dưới chế độ cộng sản bắt đầu đến với người dân miền Nam. Như bao nhiêu gia đ́nh khác, gia đ́nh tôi ngơ ngác, bàng hoàng qua những chiến dịch, chính sách liên tiếp của Việt cộng. Hết “chiến dịch đổi tiền ”, “chính sách lương thực, hộ khẩu ”, đến “chính sách học tập căi tạo đối với nguỵ quân, nguỵ quyền”, “chiến dịch đánh tư sản mại bản ”, «chính sách kinh tế mới » … và nhiều nữa không kể hết. Ai nói Việt cộng ngu ngốc, chứ riêng tôi th́ thấy họ chỉ vô đạo đức và kém văn hoá, kỹ thuật; chứ thủ đoạn chính trị th́ thật cao thâm ! Chính sách nào của Việt cộng cũng làm cho người dân miền Nam khốn đốn, d́m sâu con người đến tận bùn đen.

Đầu tiên là «chiến dịch đổi tiền», họ phát cho mổi gia đ́nh một số tiền bằng nhau, như vậy mổi gia đ́nh đều nghèo như nhau, không ai có thể giúp ai được. Họ tuyên bố vàng, bạc, quư kim, đá quư là thuộc tài sản của Nhà Nước, ai mua, bán, cất giữ th́ bị tịch thu.

Kế đến là «chính sách hộ khẩu», tức là mổi gia đ́nh phải kê khai số người trong gia đ́nh để được mua lương thực (tức là gồm khoai, sắn và gạo mốc) theo tiêu chuẩn, nghĩa là mổi người (mà họ gọi là «nhân khẩu») được 13 kg lương thực mổi tháng.

Bao vây như vậy vẫn chưa đủ chặt, Việt cộng sau đó c̣n ban hành lệnh cấm người dân mang gạo và các loại hoa màu khác từ vùng này sang vùng khác, bất kể là buôn bán hay chỉ là để cho bà con, con cháu. Thành thử các vùng thôn quê miền Nam (vốn dư thừa lúa gạo) mà lúc bấy giờ cũng không thể đem cho bà con, con cháu ở thành phố; nhiều bà nội, ngoại phải giấu gạo trong lon sữa guigoz để đem lên thành phố nuôi con cháu bị bệnh hoạn, đau ốm…

Như vậy là họ đă h́nh thành một cái chuồng gia-súc-người khổng lồ, con vật-người nào ngoan ngoăn th́ được cho ăn đủ để sống, con nào đi ra khỏi cái chuồng đó th́ chỉ có chết đói. Chính sách này c̣n cao thâm ở chổ mà miền Nam ngày trước không có là không thể có cái việc «các má, các chị nuôi giấu cán bộ giải phóng trong nhà» như Việt cộng đă đĩ miệng, phỉnh phờ người dân trước đây.

Ba tôi rồi cũng đi tù «căi tạo» như bao nhiêu sĩ quan, công chức miền Nam khác, Mẹ tôi ở lại một ḿnh phải nuôi bầy con nhỏ. Bây giờ mổi khi hồi tưởng lại đoạn đời đă qua, tôi vẫn tự hỏi, nếu ḿnh là mẹ ḿnh hồi đó, liệu ḿnh có thể bươn trăi một ḿnh để vừa nuôi chồng trong tù vừa nuôi một đàn con dại như vậy không? Trong ḷng tôi vẫn luôn có một bông hồng cảm phục dành cho Mẹ tôi và những phụ nữ như Mẹ tôi đă đi qua đoạn đời khắc nghiệt xưa đó.

Từ một công chức cạo giấy Mẹ tôi trở thành “bà bán chợ trời” (bán các đồ dùng trong nhà để mua gạo ăn), rồi sau khi kiếm được chút vốn đă “tiến lên” thành một «bà bán vé số, thuốc lá lẻ» đầu đường. Thời đó, cái thời chi mà khốn khổ! Mẹ tôi buôn bán được vài bữa th́ phải tạm nghỉ v́ hễ khi có «chiến dịch làm sạch ḷng, lề đường», công an đuổi bắt những người buôn bán vặt như Mẹ tôi, th́ phải đợi qua “chiến dịch” rồi mới ra buôn bán lại được. Có khi Mẹ tôi đẩy xe vô nhà sớm hơn thường lệ, nằm thở dài, hỏi ra mới biết Mẹ tôi bị quân lưu manh lường gạt, cụt hết vốn.

Thời bấy giờ, do chính sách «bần cùng hoá nhân dân» của Việt cộng đă tạo ra những tên lưu manh, trộm cắp nhiều như nấm. Có tên đến gạt Mẹ tôi đổi vé số trúng mà kỳ thật là vé số cạo sửa, vậy là Mẹ tôi cụt vốn; có tên đến vờ hỏi mua nguyên một gói thuốc lá Jet (thời đó người ta thường chỉ mua một, hai điếu thuốc lẻ, nên bán được nguyên gói thuốc là mừng lắm), thế rồi hắn xé bao lấy một điếu, rồi giả bộ đổi ư, trả gói thuốc lại, chỉ lấy một điếu thôi, vài ngày sau Mẹ tôi mới biết là hắn đă tráo gói thuốc giả!

Một buổi tối, tôi ra ngồi chờ để phụ Mẹ tôi đẩy xe thuốc vô nhà, th́ có một anh bộ đội, c̣n trẻ cỡ tuổi tôi, đội nón cối, mặc áo thun ba lỗ, quần xà lỏn (chắc là đóng quân đâu gần đó) đến mua thuốc lá. Hồi đó, bộ đội Việt cộng giấu, không mang quân hàm nên chẳng biết là cấp nào, chỉ đoán là anh nào trẻ, mặt mày ngố ngố là bộ đội thường, cấp nhỏ, anh nào người lùn tẹt, mặt mày thâm hiểm, quắt queo như mặt chuột th́ có thể là công an hay chính trị viên…

Anh bộ đội hỏi mua 3 điếu thuốc Vàm Cỏ, rồi đưa ra tờ giấy một đồng đă rách chỉ c̣n hơn một nửa. Mẹ tôi nói:

- «Anh đổi cho tờ bạc khác, tờ ni rách rồi, người ta không ăn».

Anh bộ đội trẻ măng bỗng đổi sắc mặt, cao giọng lạnh lùng:

- «Chúng tôi chưa tuyên bố là tiền này không tiêu được!».

À, th́ ra những thằng oắt con Việt cộng này cũng biết lên giọng của kẻ chiến thắng, giọng của kẻ nhân danh một chính quyền ! Lúc này tôi mới sực thấy cái quần xà lỏn màu vàng mà hắn đang mặc được may bằng lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ ! Mẹ tôi lẳng lặng lấy tờ tiền rách và đưa cho hắn 3 điếu thuốc. Khi hắn đă đi xa, Mẹ tôi ṿ tờ bạc vất xuống cống và nói nhỏ đủ cho tôi nghe:

- «Thôi kệ, một đồng bạc, căi lẫy làm chi cho mệt… Hắn mặc cái quần… làm chi rứa, thắng trận rồi th́ thôi, sỉ nhục người ta làm chi nữa, con hí?».

Th́ ra Mẹ tôi cũng đă nhận ra cái quần hắn mặc may bằng lá Cờ Quốc Gia và điều mà Mẹ tôi quan tâm nhiều hơn là lá cờ, chứ không phải tờ bạc rách!

Khi Việt cộng mới chiếm miền Nam, nhiều người vẫn tưởng Việt cộng cũng là người Việt, không lẽ họ lại đày đoạ đồng bào. Nhưng sau nhiều năm tháng sống dưới chế độ cộng sản, tôi hiểu ra rằng Việt cộng xem dân miền Nam như kẻ thù muôn kiếp, họ tự cho họ là phe chiến thắng «vẻ vang» và có quyền cai trị tuyệt đối đám dân xem như không cùng chủng tộc này.

Một hôm, đang ngồi bán thuốc lá, Mẹ tôi tất tả vô nhà, kêu đứa em tôi ra ngồi bán để mẹ đi có việc ǵ đó. Một lúc sau Mẹ tôi trở về và kể cho chúng tôi một câu chuyện thật ngộ nghĩnh. Mẹ kể:

- «Mẹ đang ngồi ngoài đó th́ nghe mấy bà rủ nhau chạy đi coi người ta treo Cờ Quốc Gia trên ngọn cây. Té ra không phải, có cái bao ny-lông màu vàng có dăi đỏ, chắc là gió thổi mắc tuốt trên ngọn cây cao lắm, người ta tưởng là Cờ Quốc Gia. Mà lạ lắm con, có con chó nó cứ ḍm lên cây mà sủa ra vẻ mừng rỡ lắm, rứa mới lạ, chắc là điềm trời rồi!».

Mẹ tôi là vậy đó, bà hay tin dị đoan, nhưng chính ra là Mẹ tôi nh́n mọi việc bằng t́nh cảm trong ḷng ḿnh.

Thời gian trôi măi không ngừng… Cuối cùng rồi Ba tôi cũng may mắn sống sót trở về sau gần 10 năm trong lao tù cộng sản, Mẹ tôi vẫn bán thuốc lá lẻ, chúng tôi sau nhiều lần bị đánh rớt Đại Học, đành phải t́m việc vặt vănh để kiếm sống. Đôi khi tôi tự hỏi, cuộc đời ḿnh sẽ ra sao, liệu ḿnh có thể có một mái gia đ́nh, vợ con như bao người khác không trong khi mà cả gia đ́nh ḿnh không hề thấy một con đường nào trước mặt để vươn lên, để sinh sống với mức trung b́nh!? «Mọi người sinh ra đều b́nh đẳng… và ai cũng được quyền mưu cầu hạnh phúc…» câu ấy nghe có vẻ hiển nhiên và dễ dàng quá; nhưng phải sống dưới chế độ cộng sản, việc ǵ cũng bị truy xét lư lịch đến ba đời, mới thấm thía ư nghĩa và hiểu được v́ sao người ta dùng câu ấy để mở đầu cho bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền bất hủ.

Một ngày khoăng đầu năm 1990, công an phường đến đưa cho Ba tôi một tờ giấy có tiêu đề và đóng dấu của Công An Thành Phố, nội dung vỏn vẹn “đến làm việc”. Gia đ́nh tôi lo sợ là Ba tôi sẽ bị bắt vô tù lại, Ba tôi th́ lẳng lặng mặc áo ra đi, h́nh như các ông «sĩ quan học tập» về đều trở thành triết gia, b́nh thản chấp nhận thực tại. Hay là thân phận của con cá nằm trên thớt, thôi th́ muốn băm vằm ǵ tuỳ ư.

Rồi Ba tôi về nhà với một tin vui mà cả nhà tôi có nằm mơ cũng không thấy được, công an thành phố kêu Ba tôi về làm đơn nộp cho Sở Ngoại Vụ v́ gia đ́nh tôi được Nhà Nước “nhân đạo” cho đi định cư ở Hoa Kỳ! Thật không sao kể xiết nổi vui mừng của gia đ́nh tôi với tin này, đang từ một cuộc sống tuyệt vọng nơi quê nhà mà nay được ra đi đến một quốc gia tự do, giàu mạnh nhất thế giới! Những ngày sau đó lại cũng là Mẹ tôi đi vay mượn, bán những món đồ cuối cùng trong nhà chỉ để có tiền làm bản sao photocopy các giấy tờ “Ra Trại” của Ba tôi, khai sinh của chúng tôi, đóng tiền cho “Dịch Vụ”… để làm thủ tục xuất cảnh.

Chỉ khoảng 6 tháng sau là gia đ́nh tôi lên máy bay để bay qua trại chuyển tiếp bên Thái Lan. Tôi lên máy bay, ngồi nh́n xuống phi trường Tân Sơn Nhất dưới kia mà nước mắt cứ trào ra không ngăn được. Thế là hết, đất nước này của tôi, thành phố Sài G̣n này của tôi, nơi mà tôi sinh ra và lớn lên, một lát nữa đây sẽ vĩnh viễn rời xa, bao nhiêu vui buồn ở đây, mai sau chỉ c̣n trong kỷ niệm! Tôi quay lại nh́n thấy Ba tôi mặt không lộ vẻ vui buồn ǵ cả, c̣n Mẹ tôi th́ nhắm mắt như đang cầu nguyện và Mẹ tôi cứ nhắm mắt như thế trong suốt chuyến bay cho đến khi đặt chân xuống Thái Lan, Mẹ tôi mới nói:

- “Bây giờ mới tin là ḿnh thoát rồi!”.

Sau khoảng 3 tuần ở Thái Lan, gia đ́nh chúng tôi lên máy bay qua Nhật, rồi đổi máy bay, bay đến San Francisco, Hoa Kỳ.

Ngày đầu tiên đến Mỹ được người bà con chở đi siêu thị của người Việt, thấy lá cờ Việt Nam bay phất phới trên mái nhà, Mẹ tôi nói:

- «Úi chao, lâu lắm ḿnh mới thấy lại lá cờ ni, cái Cờ Quốc Gia của ḿnh răng mà hắn hiền lành, dễ thương hí?».

Rồi Mẹ kêu tôi đi hỏi mua cho mẹ một lá Cờ Quốc Gia bằng vải, đem về cất vào ngăn trên trong tủ thờ.

Chúng tôi dần dần ổn định cuộc sống, cả nhà đều ghi tên học College, Mẹ tôi cũng đi học College nữa và xem ra bà rất hứng thú với các lớp ESL (English as a Second Language); đặc biệt là các lớp có viết essays (luận văn).

Mẹ tôi viết luận văn rất ngộ nghĩnh, thí dụ đề tài là «Bạn hăy nói các điểm giống nhau và khác nhau của một sự việc ǵ đó giữa nước Mỹ và nước của bạn» th́ Mẹ tôi lại viết về lá Cờ Quốc Gia. Ư Mẹ tôi (mà chắc chỉ có ḿnh tôi hiểu được) là nước Việt Nam có đến hai lá cờ khác nhau với hai chế độ tương phản nhau mà người Mỹ thời này hay ngộ nhận cờ Việt Nam là cờ đỏ sao vàng của Việt cộng; trong khi lá cờ đó không phải là lá cờ thiêng liêng của người Việt tại Mỹ. Rải rác trong suốt bài luận văn dài tràng giang đại hải của Mẹ tôi là những mẩu chuyện thật mà Mẹ tôi đă trải qua suốt thời gian sống dưới chế độ Việt cộng. Mẹ tôi kể là mẹ thấy bà giáo Mỹ đọc say mê (tôi nghĩ có lẽ là bà giáo Mỹ sống ở nước tự do, dân chủ không thể ngờ là có những chuyện chà đạp, bức hiếp con người như thế dưới chế độ cộng sản). Khi bài được trả lại, tôi cầm bài luận của Mẹ tôi xem th́ thấy bà giáo phê chi chít ngoài lề không biết bao nhiêu là chữ đỏ: «interesting!», «Narrative», «I can’t believe it!”… . và cuối cùng bà cho một điểm “D” v́… lạc đề!

Cuộc sống chúng tôi dần dần ổn định, vô Đại Học, lấy được bằng cấp, chứng chỉ, rồi đi làm, cuộc sống theo tôi như thế là quá hạnh phúc rồi. Dạo đó, có anh chàng Trần Trường nào đó ở miền Nam California, tự nhiên giở chứng đem treo lá cờ đỏ sao vàng của Việt cộng trong tiệm băng nhạc của anh ta làm cho người Việt quanh vùng nổi giận, đồng bào đem cả ngàn lá Cờ Quốc Gia, nền vàng ba sọc đỏ đến biểu t́nh trước tiệm anh ta suốt mấy ngày đêm. Mẹ tôi ngồi chăm chú xem trên truyền h́nh và nói với tôi:

- “Tinh thần của người ta c̣n cao lắm chớ, mai mốt đây mà về th́ phải biết!”

Ư Mẹ tôi nói là sau này khi không c̣n cộng sản ở Việt Nam nữa th́ chắc đồng bào sẽ hân hoan trở về treo lên cả rừng Cờ Quốc Gia chớ không phải chỉ chừng này đâu.

Thời gian trôi nhanh quá, chúng tôi đă xa quê hương gần 20 năm, Việt cộng vẫn c̣n đó, vẫn cai trị đất nước tôi. Sau này do chúng tôi, kể cả cha chúng tôi nữa, đều học xong và ra đi làm, không ai có thể chở Mẹ tôi đi học ESL nữa nên Mẹ tôi phải ở nhà thui thủi một ḿnh, buồn lắm. Có lần tôi hỏi mẹ có muốn về Việt Nam một chuyến để thăm bà con lần cuối không, Mẹ tôi nói:

- “Không, về làm chi, rồi ḿnh nhớ lại cảnh cũ, ḿnh thêm buồn; khi mô mà hoà b́nh rồi th́ mẹ mới về!”

Ư mẹ nói “hoà b́nh” nghĩa là khi không c̣n cộng sản nữa.

Rồi Mẹ tôi bệnh, đưa vô nhà thương, bác sĩ chẩn đoán Mẹ tôi bị ung thư phổi, cho về nhà để Hospice Care đến chăm sóc (Hospice là các tổ chức thiện nguyện ở khắp nước Mỹ, nhiệm vụ của họ là cung cấp phương tiện, thuốc men miễn phí nhằm giảm nhẹ đau đớn cho những người bệnh không c̣n cứu chữa được nữa). Mẹ tôi mất không lâu sau đó. Mẹ nằm lại đất nước Mỹ này và vĩnh viễn không c̣n nh́n thấy lại quê hương ḿnh lần nào nữa.

Trong lúc lục giấy tờ để làm khai tử cho mẹ, tôi t́m thấy chiếc ví nhỏ mà Mẹ tôi vẫn thường dùng để đựng ít tiền và các giấy tờ tuỳ thân như thẻ an sinh xă hội, thẻ căn cước… Trong một ngăn ví là lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ bằng giấy, khổ bằng chiếc thẻ tín dụng mà có lẽ Mẹ tôi đă cắt ra từ một tờ báo nào đó. Tôi bồi hồi xúc động, th́ ra Mẹ tôi vẫn giữ măi lá Cờ Quốc Gia bên ḿnh, có lẽ lá cờ vàng hiền lành này đối với Mẹ tôi cũng thiêng liêng như linh hồn của những người đă khuất.

Nguyễn Kiến

hoanglan22
02-12-2020, 04:54
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1528483&stc=1&d=1581482942

Sau khi tŕnh giấy tờ và hoàn tất mọi thủ tục tại Pḥng Tuyển mộ Nhập ngũ Quân vụ thị trấn Sàig̣n-Gia định, chúng tôi được chỉ định lên xe GMC không có mui che đậu sẵn ở trước cửa. Mỗi xe chở 30 tân binh, đoàn xe trực chỉ đi đến Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập ngũ.

Xe đi trở lại về hướng chợ Ḥa Hưng, qua chợ Ông Tạ, đến ngả tư Bảy Hiền, rồi thẳng đường đi Quang Trung.

Tôi ngồi yên lặng trên băng xe phía sau, nh́n những quang cảnh sinh hoạt quen thuộc của đường Lê văn Duyệt, con đường mà tôi đă lớn lên với tuối học tṛ của những buổi trưa nắng, buổi chiều mưa…Tôi mở mắt to nh́n lại một lần chót, trước khi tôi rời xa khung cảnh thân thương quen thuộc ấy.

Xe cộ vẫn tấp nập ồn ào, con đường vẫn xôn xao như ngày nào.

Thấy đoàn xe chở tân binh đi ngang qua, dân chúng hai bên đường vẫy tay chào tạm biệt. Tôi nghe tiếng la ó từ trên xe của những người bạn tân binh vẫy tay chào lại, nhất là mỗi khi xe đi qua mặt các cô thiếu nữ đang đi xe đạp, xe gắn máy …

Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập ngũ
Đoàn xe rẽ vào cổng Trung Tâm 3 Tuyễn Mộ Nhập Ngũ và đi theo con đường quanh co dọc theo các dăy nhà, trại làm việc. Xe ngừng lại. Chúng tôi được lệnh xuống xe, xếp hàng ngồi chồm hỗm chờ các cán bô Trung Tâm sắp xếp công việc. Sau khi được các Cán bộ Trung Tâm 3 cấp phát quân trang tạm thời, đọc cho ghi số quân, trời đă gần nửa đêm, chúng tôi được các cán bộ TT3 dẫn đi đến các barrack để t́m chổ nghỉ lưng tạm, chờ sáng hôm sau làm việc tiếp.

Giường ngủ là hai dăy nền xi măng, chiều ngang khoảng 2m5, xây cao hơn mặt nền nhà khoảng 0.5m, song song theo hai bên vách của barrack, chạy dài từ cửa trước cho đến cửa sau. Chính giữa barrack treo cái bóng đèn tỏa ánh sáng lờ mờ, như thiếu hơi điện. Mọi người trưng dụng những quân trang tạm thời vừa mới được cấp phát, trải ra trên nền xi măng để nằm tạm qua đêm.

Đêm đầu tiên bắt đầu cuộc đời lính, được nếm mùi đời có chút hơi “bụi”, tôi cảm thấy khó ngủ v́ đông đảo người ồn ào và khói thuốc lá bay mù mịt.

Tôi nằm trăn trở, xoay ḿnh qua lại, cố dỗ giấc ngủ. Những h́nh ảnh của thành đô cứ ẩn hiện chập chờn trước mắt. H́nh ảnh của gia đ́nh, của bạn bè, của người yêu, người chưa yêu, h́nh ảnh phố xá tấp nập, h́nh ảnh căn pḥng nhỏ của tôi có kê chiếc bàn vuông và kệ sách đựng đủ loại sách báo....

Buổi sáng ngày kế tiếp, các Tân Binh tập hợp xếp hàng dài, ngồi xếp bằng bẹp xuống đất, được các cán bộ của Trung Tâm 3 phát cho một xấp giấy có in sẵn các mẫu khai lư lịch, t́nh trạng sức khỏe v.v…
Ngồi chờ nghe các cán bộ giải thích, chỉ dẫn nầy nọ, nọ kia…Nắng lên, bắt đầu cảm thấy nóng nực, mồ hôi rịnh trên trán, hai chân tê mỏi, tôi muốn duỗi chân ra một cái cho thoải mái…mà không duỗi ra được!

Trung Tâm 3 TMNN 1972

Mặt trời đă lên đến đỉnh đầu, chúng tôi mới được tan hàng. Mọi người tụ năm tụm ba đứng đầy dưới những tàng cây Bá Đậu dọc theo hai bên con đường đi vào dẫy nhà lợp tôn dung làm chổ làm việc cho các cán bộ của Trung Tâm. Kẻ đi t́m nước uống, người ngồi ph́ phà nhả khói …

Buổi chiều, chúng tôi được di chuyển sang một khu trại nhà tập thể, bên trong có để sẵn hơn 200 chiếc giường chồng hai tầng bằng gỗ, cũ kĩ. Chúng tôi được lệnh tạm trú tại đó, chờ đến khi có lệnh mới.

Một bồn nước được xe kéo đến, mọi người xúm nhau bu quanh để chờ hứng nước vào chiếc b́nh bằng nylon cá nhân, có h́nh dạng như cái gối nhỏ, chứa khoảng 5 lít nước. Cảnh chen lấn, hổn độn vô trật tự. Tôi đứng nh́n thấy mà chán! Không hiểu tại sao dân ḿnh ǵ ǵ cũng dành giựt nhau, từ ăn uống ở các nhà hàng quán, cho tới các nơi giải trí chen lẫn nhau, xô đẩy nhau mua vé xem ciné, xem đại nhạc hội . .

Tôi đứng chờ cho bớt người dành giựt để hứng một ít nước cho vào chiếc b́nh nylon chứa nước của tôi, nhưng hết đợt nầy lại đến đợt khác, người người cứ tiếp tục giành giật. Nh́n thấy có nhiều anh đă lấy nước xong rồi, c̣n trở lại cởi áo ra tắm tại chổ, nước chảy tràn ngập ra sân…Chán nản, tôi bỏ đi sang Câu Lạc Bộ bên kia con đường, mua một ly cà phê đá và một gói thuốc lá ngồi nhấm nháp.

Tôi nhả khói, nh́n sang bên kia xem thiên hạ đang chen lấn, dành giựt la chí chóe.

Uống xong ly cà phê, ph́ phà vài điếu thuốc lá, tôi đi trở về căn pḥng tập thể. Định ngả lưng ngủ một giấc, nhưng bên trong quá nóng nực, lại ồn ào và nực mùi khói thuốc. Tôi cũng hút thuốc lá lai rai, nhưng c̣n không chịu nỗi được với mùi khói thuốc dầy đặc nên đi ra ngoài, ngồi dựa lưng nơi gốc cây Bá Đậu có cành lá trải rộng và thiu thiu ngủ.

Mặt trời xế bóng, cán bộ Trung tâm 3 phát loa phóng thanh gọi tập hợp và có người hướng dẫn xuống nhà Bàn (pḥng ăn)lấy thức ăn. Trong nhà tập thể đă nóng vậy, mà nhà Bàn c̣n nóng hơn!

Tôi đứng chờ đến phiên ḿnh lấy thức ăn, mồ hôi chảy đẩm ướt mặt mày, quần áo. Nhà Bàn phất lên mùi hôi v́ thiếu sạch sẽ. Ngửi mùi thôi.. là thấy đă muốn nhợn ói. Tôi không biết một lát nữa đây, thức ăn sẽ như thế nào?

Tôi chỉ lấy cơm thôi, không lấy thức ăn v́ mùi cá tanh quá! Cơm nấu trong cái chảo to, có bỏ vitamine trên mặt màu hơi vàng. Trở lại Câu Lạc Bộ để mua thức ăn và ly trà đá uống để “chửa lửa”, tôi ngồi ĺ bên đó cho đến chập tối, khi có lệnh tập hợp mới trở về.

Chiều tắt nắng, không khí dịu bớt hơi nóng. Sau khi tập hợp xong, tôi t́m chổ t́ểu tiện và tắm “dă chiến” một phát cho khỏe người, xong trở lại chiếc giường chồng hai tầng nằm mắm mắt.. để đó mà nghe chung quanh đầy những âm thanh không được êm dịu. .

Buổi sáng hôm sau, thiên hạ thức dậy ồn ào ở bồn chứa nước để rửa mặt, đánh răng. Một vài người xô đẩy, gây gổ dành đến phiên ḿnh trước. Tôi dùng lượng nước c̣n lại ở trong b́nh dùng làm gối kê đầu để rửa mặt, chớ không đến bồn chứa nước.

8 :30 sáng, tập hợp. Mỗi người được phát cho một khúc bánh ḿ dài chừng 6 inches và một ít đường cát trắng để ăn với bánh ḿ. Sau đó cán bộ Trung Tâm đọc tên từng người lên nhận giấy phép cho về. Tôi không được phép về, v́ bữa khai trong phiếu sức khỏe, mắt bị cận thị, nên họ giữ tôi lại chờ chở sang bệnh viện Cộng Ḥa khám mắt.

Tất cả được về phép, chỉ c̣n khoảng 50 người ở lại chờ đi khám bệnh. Nh́n thấy thiên hạ đi phép mà tôi thèm thuồng. Mới xa nhà, xa thành phố có mấy hôm, tôi tưởng chừng như cả tháng…Tôi nhớ nhà vô cùng, nhớ phố phường, nhớ người yêu..khoắc khoải trong ḷng.

Khu nhà tập thể vắng lặng, không tiếng ồn ào, không mùi khói thuốc lá. Bọn người ở lại chờ đi khám sức khỏe được tắm rửa no nê. Buổi tối, tôi sang Câu Lạc Bộ ngồi uống cà phê, khói lửa, nghe nhạc đến khuya mới về ngủ.

Ba ngày kế tiếp, mỗi buổi sáng thức dậy tập họp, có xe GMC đậu chờ sẳn chở sang nhà thương Cộng Ḥa khám mắt. Xe chạy ngang qua các khu dân cư đang sinh hoạt, thấy không khí vui làm sao.. Nh́n những cặp t́nh nhân trẻ đang chở nhau trên xe gắn máy qua lại trông mà thấy phát thèm. Tôi liên tưởng đến ḿnh của những ngày tháng cách nay hơn một tuần lễ, nữa tháng, ḿnh cũng hạnh phúc được làm tài xế như vậy, rồi chợt tiếc nuối cho những ngày tháng đă vụt qua mau..

Đám người đi phép trở lại, hôm sau được gọi tên, mang quân trang lên xe GMC chờ sẵn đưa sang Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung thụ huấn Giai đoạn I Khóa Sinh Dự Bị Sĩ Quan. Cứ mỗi ngày, ngày nào cũng có người đi.

Năm 1972 là năm Tổng động viên. Tất cả sinh viên học sinh nếu không đủ điều kiện hoăn dịch theo luật tổng động viên mới của Chính phủ phải vào lính. Có tất cả 12 khóa Sĩ Quan Trừ Bị, mỗi khóa có từ 500-900 người. Tôi bị kẹt ở lại khám sức khỏe 2 tuần lễ, bị lọt xuống đến khóa 10B/72.

Tôi được cho về phép 3 ngày, sau khi có kết quả khám mắt. Chả được ǵ! Cận nặng, cận nhẹ, cận thị hay không cận ǵ cũng cá mè một lứa. Ba ngày phép tôi ở nhà, không muốn đi đâu, không muốn thăm em nào hết. Nằm trong Trung Tâm 3 th́ nhớ nhung đủ thứ, giờ được về nhà, tôi lại không muốn đi đâu, mà cảm thấy lưu luyến cái không khí gia đ́nh ḿnh, tôi muốn đưọc gần gũi với cha mẹ, với anh chị em.

Hết phép, trở lại Trung tâm 3. Hôm sau tôi được gọi tên sang TTHL/Quang Trung để thụ huấn giai đoạn I Khóa Sinh Dự Bị Sĩ Quan.

Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung

Sau khi thụ huấn hết giai đoạn I tại đây, các Khóa Sinh lên đường đi công tác, được tạm thời gắn Alpha.

Đoàn xe GMC chở đám SVSQ trớ lại Quân trường Quang Trung sau hơn 2 tháng đi công tác chiến dịch tuyên truyền cho Hiệp Định Paris 1973.

Chúng tôi thiểu năo liệng cái ba lô nặng nề lại chiếc giường sắt 2 tầng với dáng vẽ mệt mỏi. Buối tối, mọi người được lênh tập họp ngoài sân của Liên Đoàn để nghe sĩ quan cán bộ Tiểu Đoàn Trưởng có đôi lời và sau đó về tập họp tại sân Đại đội trước barrack đang ở. Chúng tôi ngồi mà buồn ngủ, đầu cứ gật tới, gật lui.

Không có ai giơ tay lên thắc mắc, hay phát biểu ư kiến như những lần trước, mà hầu hết …h́nh như ai cũng chỉ chờ “tan hàng cố gắng”.

Tưởng là thiên hạ buồn ngủ, chờ cho tan hàng để ..ngủ nghê. Nhưng khi tan hàng rồi mọi người lại xúm nhau chụm đầu lại chuyện tṛ in ỏi. Họ kể cho nhau nghe 1001 chuyện những ngày đi chiến dịch. Anh nào cũng móc bóp ra khoe h́nh ảnh người yêu, h́nh má nuôi, chị nuôi, em nuôi .., không anh nào khoe h́nh cha nuôi và anh nuôi!.

Riêng tôi, mấy tháng đă quen sống thoải mái, giờ trở lại khu nhà tập thể ồn ào, đông nghẹt hơi người, tôi cảm thấy ngột ngạt, hơi khó chịu ..

Những ngày kế tiếp, chúng tôi không ra bải tập mà ngồi học trong pḥng. Lệnh của Tiểu Đoàn bảo tất cả Khóa Sinh phải “tháo Con Cá”(Alpha) xuống, trở lại là Khóa Sinh Dự Bị Sĩ Quan như trước.

Trớ lại ăn cơm ở nhà Bàn..ớn “ tới cổ. Bữa nào nhà Bàn cũng thu dọn cho heo ăn mệt nghỉ. Thực phẩm mang vào quân trường sau chiến dịch, đứa nào cũng c̣n đầy ba lô, ăn cả tuần lễ mới hết. Xuống nhà Bàn chỉ lấy cơm thôi, rồi mang sang Câu Lạc Bộ ngồi ăn.

Những câu chuyện sau khi đi chiến dịch về, không biết nói sau cho hết. Hể đến giờ học th́ tạm ngưng, giờ nghỉ giải lao (Break time), giờ tan học là thiên hạ tiếp tục quay lại “Cuốn phim tạp lục” đi Chiến dịch trao đổi với nhau. Có anh th́ nói nhiều, có người lại ngồi đăm chiêu trầm ngâm khó hiểu.

Tôi bắt đầu lấy giấy bút ra viết những bức thư gởi về thành đô cho những người tôi đă hứa. Tôi biết trước, cố gắng tránh né không “ kết” thêm những t́nh cảm vương vấn, mà giờ nầy vẫn phải trả nợ giấy bút..viết mỏi tay muốn rụng rời, ư là tôi cố gắng thu gọn, chỉ viết có vài ḍng, viết vắn tắt cho mỗi bức thư.

Thư viết gởi cho bạn bè, là tay tôi nó muốn ră rời. Tôi chưa có th́ giờ viết thư gới về cho gia đ́nh của tôi nữa.

Buối tối trong barrack như ngày hội Tết, anh nào cũng ngồi kề bên cái rương cây đựng quần áo, bên nhọn đèn cầy cậm cụi, cấm cúi viết thư. Câu Lạc Bộ bán sạch hết đèn cầy, các “thư sĩ” phải trưng dụng đến đèn pin. Đêm nào sĩ quan cán bộ Đại Đội Trưởng đi kiểm soát cũng la hét ôm xồm v́ một số anh em miệt mài “gởi ḍng tâm sự” qua giấy bút, không ngủ đúng giờ qui định. Anh em áp dung phương cách ngụy trang “trùm mền”, mở đèn pin, nằm xấp viết thư kín đáo.

Buổi sáng, xếp hàng đi đến lớp học, đă có hơn phân nửa đứng sang một bên “khai bịnh” lên bệnh xá xin thuốc, chích thuốc. Anh em trong thời gian chiến dịch, đi uống “cà phê sửa”, c̣n “dấu sửa” mang theo quân trường. Một số khác th́ cất dấu “hột xoài, hột mít” dưới háng đêm vô quân trường để trồng. Viên sĩ quan Đại Đội Trưởng khóa sinh phải buột miệng chửi thề:

-“Đ.M..! Thế nầy th́ học hành, tập tành cái chó ǵ …”

Sau hơn một tuần lễ trở lại quân trường Quang Trung, chúng tôi được lệnh thu xếp quân trang, sang Trại Chuyển Tiếp để chờ đi quân trường khác thụ huấn tiếp giai đoạn 2.

Cuộc chiến tranh Việt-nam lên đến hồi khốc liệt từ trước và sau “Mùa Hè đỏ lửa” năm 1972. Năm 1972, có 12 Khóa Sĩ Quan Trừ Bị chính thức và các khóa phụ xếp theo vần như khóa 4, 4A hay khóa 8, khóa 9A, 9B, 9C, hay khóa 10, 10A, 10B, khóa 12, 12A, 12B v.v…, chưa kể một số khác t́nh nguyện vào các binh chủng Hải Quân, Không Quân, Vỏ Bị Đà lạt, Trường Chiến Tranh Chính Trị, Trường Cảnh Sát ..

Đất nước loạn ly, thanh niên xếp bút nghiên ṭng quân nhập ngủ,

“Làm trai cho đáng nên trai

Xuống Đông, Đông tỉnh, lên Đoài, Đoài tan”

Các thanh niên, sinh viên học sinh chúng tôi nao nức, bồi hồi trăn trở theo từng nhịp thở của thời cuộc. Lệnh tổng động viên mới của chính phủ ban hành theo đó th́ thanh niên trong hạn tuổi 18 phải xong năm thứ nhất đại học, 19 tuổi phải xong năm thứ hai, hoặc là xong năm thứ nhất ở các phân khoa Kỷ Thuật. Nếu không đạt được tiêu chuẩn yêu cầu của Nha Động Viên Bộ Quốc Pḥng đề ra ..th́ các chàng trai hăy bắt đầu nghêu ngao hát:



…”Anh sẽ ra đi về miền cát nóng,

Nơi có quê hương mịt mờ khói súng …
Anh sẽ ra đi về miền mênh mông
Cơn gió cao nguyên từng đêm lạnh lùng …”
bài hát “Trả lại em yêu” của nhạc sĩ Phạm Duy và chuẩn bị bàn giao “Đào” cho người khác là vừa ..

Các phân khoa đại học “trai thiếu, gái thừa”. Gần hết những thanh niên thuộc dạng b́nh thường trông được trai đều xếp bút nghiên theo nghiệp binh đao, lên đường ṭng quân nhập ngủ, chỉ c̣n lại thành phần thanh niên được hoăn dịch v́ lư do gia cảnh (con trai duy nhất trong gia đ́nh có cha mẹ ǵa trên 60 tuổi) hay bị tật nguyền …

Quân trường Vơ Bị Thủ Đức chật nức, không c̣n đủ chổ chứa nữa. Tổng Cục Huân Huấn mượn đỡ trường Đồng-Đế Nha Trang (Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế) để huấn luyện sĩ quan. (Có 12,000 SVSQ Trừ Bị tốt nghiệp trường Đồng Đế-NhaTrang và một số các SVSQ Không Quân, Hải Quân thụ huấn quân sự tại đây)

Tiểu Đoàn của chúng tôi được chỉ định đi đến trường Đồng Đế-Nha Trang.



Trường Đồng Đế-Nha Trang

Chúng tôi được cấp phát cho mỗi đứa một ổ bánh ḿ dài độ 1’-0” và 2 hộp cá ṃi Sumaco để chuẩn bị lên đường. Đứa nào cũng hứng đầy bi đông nước và khệ nệ đeo trên vai ba lô, tay sách sacmaren (sách tay) nặng trĩu.

Sau khi được các sĩ quan cán bộ từ quân trường Đồng Đế dặn ḍ mọi chi tiết, chúng tôi bước lên những chiếc xe GMC đậu chờ sẵn. Đoàn xe lăn bánh rời khỏi TTHL Quang Trung vào khoảng 9 giờ sáng hôm đó theo ngả xa lộ Đại Hàn, ra xa lộ Biên Ḥa rồi trực chỉ Quốc lộ 1. Có lính vỏ trang theo hộ tống và tôi nh́n thấy phi cơ L-19 thỉnh thoảng xuất hiện bay quần trên bầu trời để bảo vệ an ninh.

Đoàn xe đi xuyên qua các tỉnh Phan Thiết, tôi ngửi được mùi nước mắm thơm phức từ những vựa nước mắn nằm dọc theo hai bên quốc lộ; rồi đi qua địa phận các tỉnh Phan Rang, Phan Rí, nắng như lửa đốt. Đoàn xe đi chậm lại khi đi ngang xuyên qua phố xá. Nh́n những người dân địa phương đang đi bộ trên đường bị ảnh hưởng khí hậu khắc nghiệt, người nào mặt mày cũng hóc hác, da đen thui đen thủi, tóc le hoe ..

Quốc lộ 1 có một khoảng đi cặp sát theo bờ biển, một bên là núi đá. Gió biển thổi vào mát rượi, có lẫn mùi muối hăn hắc ..

Đoàn xe dừng lại ở một khoảng quốc lộ cạnh bờ biển, chúng tôi được phép rời xe 15’ để..”xă nước” và vương vai hít thở vài cái cho thoải mái, xong lên xe tiếp tục cuộc hành tŕnh.

Gần xế chiều, chúng tôi đến điạ phận Cam Ranh có bải cát trắng tinh bao bọc những hàng dừa xanh lả lơi thơ mộng. Tôi mải mê nh́n ngắm những vẻ đẹp thiên nhiên của trời đất miền thùy dương mà đă nhiều lần nghe nói đến, nhưng giờ mới được diện kiến. Xe đi khoảng hơn một giờ sau th́ vào đến thành phố biển Nha Trang. Đoàn xe vẫn đi trên Quốc lộ 1, xuyên qua phố xá một đoạn, qua cầu Xóm Bóng độ hơn nửa giờ th́ dừng lại ở trại Tiếp Nhận trường Đồng Đế-Nha Trang, nằm dưới chân đèo Rù Ŕ.

Ở Trại Tiếp nhận 3 tuần lễ, chờ sắp xếp để đưa sang quân trường Đồng Đế. Trại Tiếp Nhận trường Đồng Đế không lớn bằng trại Tiếp Nhận quân trường Quang Trung. Chỉ có 6 cái barrack nằm song song, mỗi bên 3 cái. Ở giữa là sân rộng, có một nhà tiền chế cho toán kiểm sóat cổng ra vào trại. Cuối sân là dẫy nhà dùng làm văn pḥng cho cán bộ phụ trách. Trại Tiếp Nhận nằm trơ trọi dưới chân đồi, không một bóng cây. Ban ngày, nắng rọi vào mái tôn, nóng hừng hực như lửa đốt, chúng tôi phải ra đứng bên hiên nhà đế t́m chút gió thoảng.

Cán bộ trại cắt cử cho chúng tôi làm tạp dịch chung quanh doanh trại. Tối lại th́ tập họp, tất cả ngồi bẹp xuống mặt đất cát, sỏi để nghe các cán bộ hướng dẫn nầy nọ và thỉnh thoảng coi văn nghệ “tài tử” tự nguyện của các Khóa Sinh chúng tôi hát cho nhau nghe đỡ buồn.

Khoá Sinh không được phép rời khỏi khu vực trại Tiếp Nhận. Mỗi ngày có xe kéo bồn chứa nước đến vào buối sáng. Khoảng hơn 11 giờ sáng và 5 giờ chiều mỗi ngày, xe nhà Bàn chở thức ăn đến. Ăn cơm với cá biển kho, mùi cá tanh không chịu nỗi. Lính “công tử” nào nuốt không vô th́ đă có các ông cán bộ và lính phục vụ nhà Bàn có mang theo thức ăn “khá hơn” để bán lấy tiền. Trời trưa nắng gắt, các ông cũng ngụy trang kín đáo mang đến cà phê đá, trà đá, lén lút bán cho các Khóa Sinh. Đứa nào muốn mua ǵ ǵ khác, có thể nhờ các ông cán bộ nhà Bàn làm trung gian mua dùm, tính giá “văn nghệ” thôi.

Hằng ngày, kẻng đánh báo thức 6 giờ sáng, thức dậy ra sân tập thể dục, xong đánh răng rửa mặt, chia công tác, dùng cái rà-mèn đựng cơm ăn “chà láng” giao thông hào chung quanh trại. Nếu không có thêm công tác ǵ th́ ngồi tán dóc, kể chuyện trời trăng mây nước, hoặc đọc sách, viết thư trong lúc chờ xe nhà Bàn đến lảnh cơm ăn.

Hơn một tuần lễ, sau khi đi công tác trở về quân trường Quang Trung, anh em phóng thư đi, giờ đă có thư lại. Thư từ Quang Trung được chuyển ra ngày nào cũng đầy ấp cả bao “chỉ xanh” loại lớn. Khoái nhất là mỗi ngày ngồi chờ cho ông Bưu tín viên (Mail man) của trại vác cái bao to tổ bố đứng giữa sân đọc tên. Chờ cho ông ta đọc trúng cái tên cúng cơm của ḿnh, ra lảnh thư, hối hả mở ra xem. Có anh th́ ra giao thông hào, ngồi trầm ngâm đọc thư, có anh nằm xấp trên giường ngủ đọc thư, có anh ngồi dựa lưng vào vách hè barrack đọc thư …

Tôi nhận được vài lá thư từ Sàig̣n gởi ra, mừng và cảm thấy được an ủi vô cùng giữa khung cảnh đồi núi sỏi đá nắng cháy da. Những ḍng chữ thắm đượm nồng nàng t́nh cảm chan chứa của người hậu phương đă cho tôi có được những giây phút lâng lâng hạnh phúc hồi tưởng nhớ lại mấy tháng đi chiến dịch..



Chuẩn bị sang quân trường Đồng Đế.

Đoàn xe chở chúng tôi đi độ hơn nửa giờ, th́ đến cổng quân trường Đồng Đế. Quân Trường Đồng Đế tọa lạc sát cạnh bờ biển .Ngồi trên xe, tôi nh́n thấy khoảng trống mênh mông trời nước phía trước mặt ở cuối con đường .

Đoàn xe đi qua cổng gát, rồi dừng lại một bên sân Vũ Đ́nh Trường. Cả đám Sinh Viên Sĩ Quan khóa đàn anh đang ngồi chờ, chào đón. Chúng tôi vai mang ba lô, tay xách sacramen nhảy xuống xe là đă nghe tiếng ḥ hét, quát tháo của cán bộ quân trường ra lệnh cho đám “Lính mới” dậm chân tại chổ, miệng đếm nhịp 1, 2, 3, 4 …1,2,3,4. Khi hàng vạn cái chân đă nhịp nhàng ăn khớp với nhau, chúng tôi bắt đầu chạy quanh Vũ Đ́nh Trường chào sân. Sau mấy tháng đi chiến dịch “ăn hút” phây phả, anh em đă tạm quên “mùi” quân trường, cho nên mới chạy hết 3 ṿng, đă có vài “chiến sĩ” ngả gục...và lác đác kéo dài qua đến ṿng thứ 4. Sang ṿng thứ 5, chỉ c̣n lại phân nửa đang chạy mà tôi có cảm tưởng như đang.. đi bộ! Tôi cũng rán cầm cự kéo dài qua được ṿng thứ 5 th́..bắt đầu thấy sao trời chớp nhá, cổ họng tôi khô như có lửa cháy; tôi rán bước thêm vài bước nữa trước khi “gục ngả” nằm dài. Cán bộ quân trường nắm áo tôi kéo đứng dậy, bảo chạy tiếp, tôi lắc đầu, ra dấu tôi đă…hết “xíu quách”, chớ tôi nói không ra lời. Mặc cho cán bộ ḥ hét, tôi quị người xuống chiếc “giường đất” êm ái, để cho tới đâu th́ tới, chớ tôi không c̣n bước nỗi nữa. Biết tôi “làm thật” chớ không phải làm giả, cho nên cán bộ quân trường “thông cảm” cho tôi nằm luôn tại chổ giống như bao nhiêu chiến sĩ khác...Tôi nghĩ anh nào mà c̣n ngoan cố dấu “hột xoài hột mít” dưới háng hay cà phê sửa mang theo từ Quang Trung ra Đồng Đế, có lẽ cũng..văng hột, xịt sửa ra ngoài, khỏi cần chờ ban Quân Y quân trường trao quà tặng 100 đến 500 ngàn đồng, tiền thưởng cho “chiến sĩ xuất sắc”!

Sau một lúc nằm dài thẳng cẳng, các chiến sĩ mới lác đác cục cựa ṃ cái bi đông t́m nước uống. Cán bộ quân trường ngồi ..ŕnh, vừa thấy chúng tôi tay chân “mó máy”, bảo đứng dậy chạy tiếp. Ṿng chạy đợt nh́ nầy gây cấn hơn lần đầu. Cán bộ hướng dẫn ḥ hét dữ tợn hơn, vừa chạy theo sau lưng đếm nhịp, vừa đẩy người tôi đi tới. Tôi đi gần được một ṿng th́ thấy “ngàn sao”..và hết biết ǵ chung quanh nữa…

Màn ra mắt Quân Trường chỉ có vài tiếng đồng hồ thôi, một số anh em chúng tôi ê ẩm cả long thể.

Ba tuần lể huấn nhục bắt đầu sau 2 tuần chúng tôi đến quân trường Đồng Đế. Trong 3 tuần nầy, chúng tôi phải chịu nép ḿnh chấp hành những qui luật của quân trường, thi hành những h́nh phạt, biểu ǵ làm nấy, bảo sao làm vậy.., phải thi hành, không được phản đối cũng như có ư kiến. Phải chịu đựng những kham khổ. Chúng tôi được cắt cử làm những công tác mà tay chân phải đụng chạm với bùn śnh, chất thải dơ bẩn, không được phép thay quần áo, tắm rửa, để nguyên áo quần dơ và mang giầy vớ dơ ngủ một đôi ngày. Chân nhớt nhợt v́ chất bẩn tồn động trong đôi vớ thối, nơi các ngỏ ngách thoát mồ hôi, chổ tiếp giáp của thân thể với tứ chi không được vệ sinh nên ”lên men”..cũng nhớt nhợt, phát ra mùi khó ngửi và ngứa ngái khó chịu vô kể. Chúng tôi không được nhân thư từ, không gặp gở, tiếp xúc với ai, ngoài những người bạn đồng ngủ và sĩ quan Đại Đội Trưởng Khóa sinh. Không được đi đến Câu Lạc Bộ, không hút thuốc lá …

Một số khoá sinh không chịu đựng nỗi gia đoạn huấn nhục đă bỏ cuộc nửa chừng, hoặc v́ quá bức xức, quá sức chịu đựng của ḿnh nên nổi khùng không kềm chế được ḿnh, gây nên những hành động đáng tiếc ..

Hết 3 tuần lễ huấn nhục là một cuộc di hành từ trường lên đến đỉnh núi Đồng Đế có cái tượng “thằng Cù Lần” trên chót vót.

Không biết 2 câu thơ:

“Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ,

Em nằm xơa tóc đợi chờ anh”

Do ai là tác giả? Và đă có từ lúc nào để diển tả khung cảnh bức tượng cao khoảng 25m, đúc bằng ciment, sơn màu trắng, đứng ở thế “nghỉ” của nhà binh đặt trên đỉnh núi; bên
dưới chân của bức tượng là đường nóc của những dăy núi thấp. Đứng phía xa xa từ hướng thành phố Nha Trang, nh́n giống như những đường nét của một người phụ nữ, đang ở thế nằm nghiêng, tóc xơa dài.. đợi chờ ..
Vượt qua được ngọn núi cao để đến đỉnh đồi, rồi đi trở xuống lại chân núi, cũng phải đổ nhiều mồ hôi v́ vai mang ba lô, đầu đội nón sắt cùng súng ống, đạn dược nặng nề.

Từ sáng sớm, các Khóa Sinh rời trại, di quân theo hàng dọc đường ra Ba Làng đến Bải Tiên ṿng theo chân núi, một bên là vách đá, một bên là bờ biển. Buổi sáng sớm, thủy triều xuống thấp, bải cát dài, rộng, có lẫn đá lớn nhỏ lỏm chỏm. Đi khoảng 3 km, rẽ sang con đường ṃn, đi leo lên những triền dốc. Có lúc gặp con dốc hơi thẳng đứng, Khoá Sinh phải rán khom lưng, hoặc ḅ, hay dùng đủ phương cách để vượt qua. ̀ ạch theo chân các bạn ḿnh, đến xế trưa, tôi cũng được “ôm chân” thằng Cù Lần. Một sĩ quan cán bộ ngồi sẵn ở dưới chân bức tượng ghi tên, ghi danh số để biết người nào đă đến nơi, người nào c̣n “chém vè” ở lưng chừng núi.

Trên đường xuống núi th́ đỡ vất vả hơn lúc leo lên. Cứ đổ dốc mà..chạy! Có lúc dùng bàn tọa ngồi cho trượt xuống núi, và biết chắc là về barrack sẽ ..bỏ cái quần!

Xế chiều, tất cả các Khóa Sinh tập hợp đầy đủ dưới chân núi. Sau khi sĩ quan cán bộ kiểm điểm xem c̣n em nào ở nán lại để tâm sự với thằng Cù Lần không? Đầy đủ quân số rồi, chúng tôi trở về trại lúc trời nhá nhem tối.

Anh em được tắm một bữa thả dàn, để chuẩn bị sáng hôm sau mặc quần áo sạch sẽ, nguyên bộ văi kaki mầu vàng nâu, có thắc cravat, đầu đội mũ lưỡi trai, dự lễ gắn Alpha, chánh thức trở thành Sinh Viên Sĩ Quan.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1528484&stc=1&d=1581482942

Sau buổi lễ gắn Alpha, chúng tôi được đi phép và phải trở lại quân trường lúc 6 giờ chiều cùng ngày .

Khu Tiếp Tân tọa lạc kế bên bờ biển, nằm một bên, phía trước cổng chính của quân trường Đồng Đế đông nghẹt thân nhân của các SVSQ đến thăm. Tôi th́..ra Nha Trang không có th́ giờ đi dạo phố phường, chưa quen cô nào hết và gia đ́nh lại ở xa nên..không có ai đến thăm!

Tôi thả bộ đi ṿng ṿng khu Tiếp Tân, nh́n thiên hạ lao xao một lúc rồi tấp vô ngồi nơi mấy cái quán cốc che tạm bằng những miếng vải nylon do vợ con của các nhân viên cơ hữu đang phục vụ trong quân trường bài bán thức ăn uống làm một bụng cho đả thèm, xong tôi la cà xuống những quán cốc khác bán dừa tươi dọc theo bải cát, chọn cho ḿnh được một chiếc ghế bố, ở một vị trí mát mẻ, tôi ngồi nh́n ra khơi trời nước bao la, nghe sóng vỗ ŕ rào, gió vi vu nhăm nhi nước dừa ngọt, mát rượi. ./.



Chú thích : Người viết chỉ nhớ man mán tới đâu viết ra tới đó. Quí vị cựu SVSQ Đồng Đế nào c̣n nhớ chi tiết nào bổ túc thêm cho để anh em cùng chia sẻ những ngày mới vừa “Xếp áo thư sinh từ giả kinh kỳ”.

Đa tạ

Minh Vũ

hoanglan22
02-12-2020, 05:05
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1528485&stc=1&d=1581483676

Cuối tuần vừa qua, anh chàng cựu sinh viên sĩ quan phi hành tại Fort Rucker, thuộc tiểu bang Alabama, cựu học sinh trường trung học Lý Thường Kiệt - Quang Trung, nơi gia đình bố mẹ anh cư ngụ từ thuở đầu tóc anh còn mang“ trái đào “, và nay đang định cư cùng thành phố với tôi, đến chơi, mời tôi đọc một hai bài liên quan đến quê nhà, nơi anh đã sống thời niên thiếu cũng như những ngày ở tuổi thanh xuân trước khi gia nhập binh chủng Không quân. Một nơi chốn có những ngày cuối tuần dành cho những người thân, người yêu gặp nhau, cùng với những chương trình ca nhạc đặc sắc ở Vườn Tao Ngộ để chào mừng các thân nhân cùng các tân binh đang thụ huấn tại Trung tâm huấn luyện Quang Trung.
- Anh đã biết đến trường Lý Thường Kiệt khi bước lên bậc Trung học, anh đã một thời trải qua những ngày tháng nơi quân trường Quang Trung. Đã ba mươi mấy năm anh chưa về thăm chốn cũ làng xưa. Sao anh không viết một vài mẩu chuyện về Trung tâm huấn luyện Quang Trung? Viết đi, viết để đừng quên ngày tháng năm xưa, viết cho những kỷ niệm đừng xóa mờ và còn nhớ tới nhau. Anh không về thì anh nên viết – người con rễ ông chú ruột tôi nói, rồi đề nghị.

- Ờ, khi nao rảnh tôi sẽ viết, có thể qua năm mới, rảnh rang đôi chút không chừng. Tôi trả lời.
Sáng nay,“ Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt – Xếp bút nghiên theo nghiệp đao cung.....” của những ngày tháng năm xưa, lại gọi điện thọai thăm hỏi đã viết bài chưa. Tôi lại hứa ờ ờ, sẽ viết một vài mẩu chuyện nho nhỏ, còn bây giờ đang mắc tập thể dục, nhặt lá, quyét sân.......... Vì vậy, sau khi ăn sáng xong, tôi đã ngồi xuống ghế, với con chuột và cái bàn phím của chiếc máy điện toán trước mặt – ký ức xa xưa về khu vực có đường Quang Trung nắng đổ hiện về, và ngón tay tôi gõ như đánh nhịp theo những chuyện ngày xưa khó quên....

Khi tiếng súng AK, CKC của Việt Cộng Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 vẫn còn nổ lác đác trên Đồng ông Cộ. Theo lệnh tổng động viên, bốn anh em tôi phải lần lượt nhập ngũ. Ngày 16 tháng 5, vào khoảng 11 giờ, cô em gái chở tôi lên Phòng Quân Vụ tiểu khu Gia Định trình diện nhập ngũ khóa 3/68. Sau những thủ tục thường lệ của phòng Quân vụ, tôi được mời ăn bữa cơm trưa dã chiến đầu tiên trong đời quân ngũ cùng với những anh em khác. Sau đó, chiếc GMC chở chúng tôi trực chỉ và bàn giao chúng tôi cho Quân vụ thị trấn trên đường Lê Văn Duyệt lúc 2 giờ chiều. Từ đây, hai chiếc GMC đã đưa tất cả chúng tôi và các anh từ các phòng quân vụ khác tiến tới Trung tâm 3 tuyển mộ nhập ngũ. Thay vì chạy theo hướng Lăng cha Cả, hai chiếc GMC đã chạy theo đường Võ Di Nguy nối dài, gặp ngã năm Gò Vấp. Đây là giao điểm của năm trục lộ: Võ di Nguy Phú Nhuận nối dài gặp đường Quang Trung, đường Phạm Ngũ Lão nơi có cục địa chính, đường Gia Long Gò Vấp, và đường Cổ Loa với các doanh trại Thiết giáp, Pháo binh chạy tới các xứ đạo Xóm Mới. Trước khi quẹo trái vào đầu đường Quang Trung, ngay góc đường Võ di Nguy nối dài và đường Quang Trung có trại quân khuyển, và tiếp nối là cơ xưởng cắt may quân nhu.....khu dân cư và xứ đạo Xóm Thuốc.... Bên phải đầu đường Quang Trung có các trường Hành chánh Tài chánh, các đơn vị sửa chữa Truyền tin, sở Nông mục của cục Quân Nhu.....xứ đạo Hạnh Thông Tây.....Và từ con đường Quang Trung nắng đổ này, hai chiếc GMC đưa chúng tôi tới Trung tâm tâm 3 tuyển mộ nhập ngũ lúc gần ba giờ chiều.

Sau thủ tục bàn giao, bên cạnh những cán bộ của trung tâm, ông Thượng sĩ già - cán bộ trung tâm 3 tuyển mộ nhập ngũ hướng dẫn chúng tôi xếp hàng điểm danh: “ bốn hàng dọc, mỗi hàng cách nhau ba bước – cao đứng trước, anh đứng đầu làm chuẩn, thấp đứng sau - trước thẳng. So hàng – người này đặt tay phải lên vai người kia, thôi, nghiêm, nghỉ, tan hàng, cố gắng. Từ đời sống dân sự chuyển qua đời sống nhà binh, nên chúng tôi chưa quen với các động tác thao diễn nghiêm nghỉ, lạ lẫm như người từ quê lên tỉnh, khiến ông Thượng sĩ già phải hướng dẫn và lập đi lập lại nhiều lần các động tác căn bản khi tập họp. Có lẽ, với tuổi đời trong lãnh vực quân huấn lâu năm, nên ông kiên nhẫn, nhắc nhở chúng tôi và tỏ vẻ thông cảm với những người trai trẻ đến đây từ bốn phương tám hướng, ngày đầu tiên xa nhà – những tân khóa sinh sống trong doanh trại quân đội mà tâm tư đang vấn vương nhớ thương người thân, người yêu nơi quê nhà: “ Dấu chàng theo lớp mây đưa – Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà “.

Sau khi điểm danh, làm thủ tục, căn dặn đôi điều qui định, chúng tôi lần lượt được lãnh quân trang. Nhìn nhau lụng thụng trong cái áo, cái quần không đúng tấc thuớc, không đúng khổ dạng mỗi người, nhìn nhau thấy tức cười. Mấy anh cán bộ trung tâm nói: “Không sao, anh nào muốn đổi hay muốn sửa thì mai mốt tính, chuyện nhỏ. Bây giờ về phòng nghỉ rồi khi nghe tiếng kẻng thì đem theo cà mèn xuống nhà bàn ăn chiều”. Tất cả tân khoá sinh lại được tập họp, xếp hàng và theo cán bộ hướng dẫn đi về các dãy phòng ngủ với những chiếc giường tầng. Thân thể rã rời, tôi chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay. Khi anh bạn nằm giường kế cận đánh thức tôi dậy, chúng tôi nối đuôi nhau, tay cầm cái cà mèn đi dọc hành lang xuống nhà bàn. Ngày đầu tiên, nhìn những con cá mối trên các khay, nhìn những xô canh bí lõng bõng nước, tôi hơi ngần ngại, lưỡng lự cầm cái muôi xúc chút ít cơm, gắp con cá mối – thấy vậy, hai anh bạn Hinh và Châu mà tôi vừa quen ở phòng quân vụ Gia Định cười, Châu vỗ vai tôi, nói: “Ăn đại đi ông, ăn cho quen, ông anh họ tôi làm cán bộ bên trại Ngô Tùng Châu đã bảo tôi: “ Vào Quang Trung, chú mày phải ăn cho quen, vì nhà bàn nào thuộc trung tâm cũng đều có món cá mối làm chuẩn ”.

Tiếng còi như tiếng dế kêu tập họp mỗi buổi sáng, sau khi tập thể dục và ăn sáng với khúc bánh mì, chúng tôi lần lượt được các vị quân y khám tổng quát mắt, mũi, miệng, tim phổi qua y cụ. Điểm độc đáo làm bọn lính mới tò te chúng tôi ngạc nhiên, khi nghe ông y sĩ bảo kéo quần xuống và tay ông nâng nhẹ hai hòn bi lên, rồi ông nói tốt – tôi ngạc nhiên hỏi, và ông mỉm cười nói: “ xem anh có đúng là nam nhi chi chí để nhập ngũ hay không ”. Vừa qua khỏi tay ông quân y là các ông thợ húi cua nói ngồi xuống. Bàn tay của những anh lính thợ hớt tóc không phải là những bàn tay năm ngón kiêu sa, tay anh lính thợ đẩy chiếc tông đơ như đẩy chiếc bàn ủi, càng nhanh, càng sát, càng tốt. Chỉ vài ba phút sau, bọn tân khóa sinh chúng tôi nhìn nhau như tiếc nuối mái tóc thư sinh ngày nào, và thấy mặt mũi bạn mình không giống ai, mỗi người mỗi khác, trông không giống một con giáp nào.

Khi chưa nhập ngũ, tôi thường đi tắm mỗi khi trời oi bức. Nhưng từ ngày vào trung tâm 3 nhập ngũ, để tâm trí khuây khỏa, bọn chúng tôi thường chơi thẩy móng ngựa, nên mồ hôi cũng như bụi đất làm cả bọn phải đi tắm sau cuộc chơi. Bốn bể nước hình chữ nhật lớn được xây sát cạnh nhau trên một nền ciment cao, được bao quanh bởi những tấm tôn che ngang ngực. Ngày đầu tiên, mấy đứa lính mới to te chúng tôi vừa bỡ ngỡ, vừa ngại ngùng mắc cở, khi bước vào khu vực tắm công cộng thấy mọi người đều tồng ngồng, cười cười, nói nói, kỵ cọ như cùng ca múa vũ khúc không màn che trên sân khấu lộ thiên. Nhưng đến những ngày kế tiếp thì ai cũng hiểu rằng: đời quân ngũ thế thời phải thế - một vài anh có tính lạc quan tếu còn thi vị hóa: Có gì mà ngại, có em nào đâu mà sợ, mà không công khai, không minh bạch hả bạn – vườn Địa đàng có Adam nhưng thiếu bóng dáng Eva! Cả bọn cùng cười.

Trung tâm huấn luyện Quang Trung là trung tâm huấn luyện tân binh lớn nhất của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng để đáp ứng chiến thuật chiến lược và hiện đại hóa quân lực, từ khóa 1/68 các dự bị sinh viên sĩ quan trừ bị đã được huấn luyện giai đoạn một tại đây – đây là giai đoạn sống và sinh hoạt huấn luyện như một người tân binh. Trung tâm huấn luyện rộng hàng trăm mẫu tây, lớn nhất vùng Đông Nam Á, với những địa danh quen thuộc như Trung tâm phát tuyến Quán Tre, vườn Tao Ngộ, ngã tư An Sương...... thành ông Năm, khu thoát hiểm mưu sinh, đoạn đường chiến binh, các bãi tập tác xạ, và bãi Bà đầm với những phi cơ vận tải bay lượn thả những anh chiến sĩ nhảy dù tập luyện ngày đêm. Khi còn là một học sinh bậc tiểu học, tôi thường đứng ở sân bóng đá trước cổng trường trung tiểu học Dũng Lạc, Xóm Mới, coi các phi cơ thả dù như một thú vui. Ngoài các doanh trại dành cho các tiểu đoàn tân binh quân dịch và trại Võ Tánh dành cho các tân khóa sinh chúng tôi, còn có doanh trại Vương Mộng Hồng của sư đoàn Nhảy dù - nơi đây, các tân binh tình nguyện của binh chủng Nhảy dù được huấn luyện căn bản tác chiến. Trong vòng đai Trung tâm huấn luyện Quang Trung cũng có những trại gia binh, nơi cư trú của những gia đình cán bộ đang phục vụ tại trung tâm, cũng như các xứ đạo Công Giáo di cư trốn lánh Cộng sản từ miền Bắc vào miền Nam năm 1954, tiêu biểu là xứ Trung Chánh với những sinh hoạt đức tin sống động, nhiệt thành của các giáo dân, chợ búa và các cửa tiệm tạp hóa với đầy đủ các mặt hàng gia dụng.

Tiếng còi lại vang lên như tiếng dế kêu mỗi buổi sáng, sau khi chúng tôi vừa ăn sáng ngày cuối tuần. Tập họp, điểm danh xong, các cán bộ ra lệnh thu xếp quân trang để di chuyển qua trại chuyển tiếp Nguyễn Tri Phương. Balô đeo trên hai vai, cộng với cái túi quân trang dài vác trên vai, chúng tôi đi bộ từ Trung tâm 3 qua trại chuyển tiếp Nguyễn Tri Phương theo sự hướng dẫn của các cán bộ – dưới ánh nắng gay gắt tháng sáu của buổi sáng, nhễ nhại mồ hôi trán, thấm ướt áo mồ hôi lưng, vai ê ẩm, chân mỏi dã rời, làm chúng tôi mệt nhoài. Khi chân bước tới cổng trại chuyển tiếp thì mặt trời đã lên gần đỉnh đầu. Khẩu khí của những ông hạ sĩ quan cán bộ trại Nguyễn Tri Phương khi tập họp điểm danh khác hẳn thời gian ngắn ngủi sống bên Trung tâm 3 tuyển mộ nhập ngũ. Những làn da đen sạm, khắc khổ của cán bộ, và những răn đe hít đất, nhảy xổm, quay nón sắt đã được nói lớn tiếng một cách lạnh lùng, khi một hai con nhạn là đà, lè phè chậm chạp, không ngay hàng thẳng lối trong hàng quân. Và việc phải đến đã đến, vài ba chục cái hít đất, năm bảy chục cái nhảy xổm đã làm cho bọn tân khóa sinh chúng tôi thấy ớn lạnh trong tuần lễ đầu tiên. Nhưng sau một tuần quen hơi quen sức, chúng trở thành những động tác tập thể dục, thi hành phạt mà miệng cười tươi, làm quê cơ các hạ sĩ quan cán bộ khó tính. Tuy nhiên, một hình phạt gây cho nhiều anh yếu tim xanh máu mặt, lảo đảo, té ra giữa sân, và khiến cho cán bộ trại cũng e ngại ít áp dụng. Đó là trò quay nón sắt mà các tân binh thường gọi là trò quay dế mèng.

Như để các tân binh hay tân khóa sinh làm quen với các sinh họat đời lính, nhận bổ túc quân trang, chích ngừa, uống thuốc. Nên kỷ luật và sinh hoạt trại chuyển tiếp cũng không qúa gắt gao, gò bó. Nhiều anh trói gà không chặt trong đời sống thư sinh, nhưng sau khi vào trại chuyển tiếp với những mũi thuốc TAB làm da người bắt nắng, đen sạm, ăn ngủ khò khò, uống nước phông ten ( Fountain ), ăn cơm nhà bàn mà không thấy bịnh tật chi cả – chỉ thấy đôi khi gảy đờn sột soạt trong đêm vì ăn cá mối mà thôi. Các cán bộ thường nói: “chích TAB thì bắt nắng, nhà binh mà, sợ gì đen với đỏ, nhưng tránh được sốt rét ngã nước, trong nước uống cũng như cơm nhà bàn đều có thuốc khử trùng và vitamin. Không có cá mối không phải là Quang Trung, gảy đàn cho đã ngứa, không chết đâu mà sợ “.

Lớn lên khi trận chiến Quốc Cộng ngày càng khốc liệt. Ngay trước mặt nhà thày mẹ tôi là lối đi vào xóm đài Đức Mẹ, mấy năm trước khi tôi nhập ngũ, trong khu xóm đã có vài ba anh lớn hơn tôi năm bảy tuổi, người thì về trên chiếc nạng gỗ, người thì nằm trên Tổng Y viện Cộng Hoà gần cả năm, còn hai anh Hồng và Xuân ở cách nhà tôi khoảng bẩy tám căn nhà - một anh ở bên phải, một anh ở trong ngõ đối diện thì ra đi vĩnh viễn, anh Hồng để lại người vợ trẻ và hai cháu bé chưa đủ tuổi học lớp mẫu giáo, còn anh Xuân ra đi khi vừa đáo nhậm đơn vị sau mười ngày nghỉ phép mãn khóa, để lại cô bạn gái đang cắp sách đến trường, cách nhà tôi cũng không bao xa. Trong các xứ đạo, nơi gia đình thày mẹ tôi sinh sống, không tháng nào mà không có chia ly, báo tử, thất tung. Những vành khăn tang trên vầng trán những thiếu phụ đang tuổi thanh xuân, những nữ sinh duyên dáng ngây thơ ngày nào đã đánh mất nụ cười khi người yêu vừa ra đi không trở lại. Hệ lụy tang thương của cuộc chiến do Việt Cộng phát động và nuôi dưỡng đã hủy hoại hạnh phúc của mọi tầng lớp, khiến những trai tráng ở tuổi vừa vào đời đã nhận ra cuộc đời mỏng manh của mình, nên ngoài việc đèn sách, không mấy ai dám nặng nợ thê nhi hay có những mối tình vắt vai khi đi trình diện nhập ngũ.
Tuần lễ đầu tại trại chuyển tiếp Nguyễn Tri Phương, các cán bộ không bắt buộc tất cả các tân khóa sinh phải ra khu tiếp tân trong khuôn viên trại vào sáng thứ bảy, ai biết mình có người nhà đến thăm thì ra, còn không thì tùy ý. Để gia đình đỡ vất vả, lo lắng, tôi đã dặn mẹ tôi và các em không cần đi thăm hay tiếp tế gì cả, nên tôi ung dung ngủ nghỉ thoải mái. Nhưng đến tuần kế tiếp, các cán bộ bắt mọi người phải ra khu thăm tiếp tân cho thư thái tinh thần, dù có thân nhân đến thăm hay không. Nên tôi đi tới đi lui khu tiếp tân nhìn bà con thiên hạ như anh chàng mồ côi, bị vợ bỏ, người yêu chê. Còn khu Vườn Tao Ngộ còn gọi là Vườn Cộng Hòa, là khu vực dành riêng để đón tiếp thân nhân các anh em tân binh quân dịch vào mỗi cuối tuần, với những chương trình văn nghệ sống động.

Vài tuần lễ ở trại chuyển tiếp qua mau với những lần lãnh quân trang bổ túc, chích và uống thuốc, tập thể dục buổi sáng. Tiếng dế kêu bất thường liên tục hai ba hồi dài buổi sáng, các cán bộ thông báo tập họp và di chuyển với tất cả quân trang cá nhân. Một lần nữa, chúng tôi được lệnh đi theo các cán bộ hướng dẫn, di hành dọc theo đường lộ từ trại Nguyễn Tri Phương qua trại Võ Tánh. Là ngày cuối tuần, nên không có những đơn vị tân binh di chuyển đến các bãi tập trên đường. Từ trại chuyển tiếp qua trại Võ Tánh cũng không xa, và chúng tôi cũng đã phần nào quen hơi với cá mối nhà bàn. Nên khi đến trại Võ Tánh và tập trung ở sân cờ liên đoàn, ai nấy cũng đã nghiêm nghỉ và so hàng tương đối gần đúng quân cách. Liên đoàn gồm hai tiểu đoàn Nguyễn Huệ và Đinh Tiên Hoàng. Tôi được gọi tên về đại đội 36, thuộc tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng, và sau đó, cùng đội đi theo các sĩ quan cán bộ về đại đội. Trên đường từ sân cờ liên đoàn về đại đội, dọc hai bên đường đi của trại là các hàng cây Bã Đậu với thân cây tua tủa đầy gai, và những đường mương rộng đã được chà láng nhẵn như mặt xi măng, mà một tuần sau ngày về đại đội, chúng tôi mới biết đó là một hai món “ ăn chơi “ dành cho các khóa sinh – chà láng bằng Cà mèn mỗi buổi sáng như một hình thức thể dục trong huấn nhục, và chống tay hít cây Bã Đậu khi bị cán bộ phạt dã chiến. Ít lâu sau, hình phạt chống tay hít Bã Đậu đã bị cấm áp dụng khi Liên đoàn nhận thấy gây nguy hiểm cho sức khoẻ và tinh thần của các khóa sinh. Vì sau khi chống tay hít cây Bã Đậu, lòng bàn tay người khóa sinh đã bị rướm máu.
Đại đội 36 có ba sĩ quan cán bộ, tiêu biểu cho ba cung cách sinh hoạt khác nhau. Đại đội trưởng là Đại úy Nguyễn Hổ, nước da bánh mật, tuổi trung niên, cư xử và ăn nói rất điềm đạm với các tân khóa sinh. Ông đặc trách những giờ huấn luyện cơ bản thao diễn, ông chỉ họp đại đội khi cần và ra lệnh như một người anh dặn đò khuyên bảo, chỉ dẫn và giúp đỡ các em trong nhà. Trong các lần tập họp đại đội hay trong các buổi học tập cơ bản thao diễn, ông thường nhắc nhở anh em đừng vi phạm quân kỷ trong doanh trại nhất là trên các bãi tập tác xạ, an toàn tuyệt đối trên thềm bắn, ông nói: “ các anh quay bia tác xạ thì quay từ từ, còn anh em bắn thì hãy bình tĩnh, hít, nín thở, nhắm từ lỗ chiếu môn đến đỉnh đầu đầu ruồi rồi mới bóp cò. Cán bộ sân tập cũng như cán bộ đại đội không muốn các anh bị rớt vì tác xạ”... Hai cán bộ còn lại thì trẻ hơn, Thiếu úy Nguyễn Ẩn với đôi kiếng cận thị, dáng người tầm thước, nét mặt nghiêm và buồn, đi đứng chậm rãi, nói ngắn gọn, trên túi ngực ông có huy hiệu của bằng dù và rừng núi sình lầy. Thiếu úy Ẩn xuống đại đội bất thường, ông thường lấy một vài khẩu từ “ Giá súng “ của tân khóa sinh để kiểm soát súng đã lau chùi cũng như nòng súng sạch hay dơ. Vừa đi bãi tập được hai tuần, chiều tối thứ ba, Thiếu úy Ẩn xuống đại đội sau khi anh em vừa từ nhà bàn về. Ông tới giá súng nhấc một cây lên, kéo cơ bẩm, bóp cò và lập lại ba lần, rồi để miếng giấy trắng nhỏ vào buồng đạn, mắt nhắm thẳng vào đầu nòng súng và lắc đầu. Nhìn danh số trên báng súng, đeo cây súng trên vai rồi ông kêu đại đội tập họp. Với giọng nói đanh thép, ngắn gọn, Thiếu úy Ẩn cảnh cáo toàn đại đội về tính lười biếng khi không bảo toàn quân trang quân dụng đúng mức, nòng súng dơ làm kẹt đạn, trở ngại tác xạ và có thể làm bể nòng súng. Ông nhắc lại nhiều lần về quân phong quân kỷ rồi ra lệnh tan hàng, và không quên phạt hai đêm dã chiến anh Việt – người bạn cùng đại đội và thuộc trung đội 2. Vài anh đã nghe chuyện về Thiếu úy Ẩn ở đâu đó, nói: “ Ổng là dân tác chiến, bị thương, mới về trung tâm, khó tính, hay phạt dã chiến lắm”.
Sau buổi chiều ngày Thiếu úy Ẩn khám súng, Đại úy Hổ biết tin anh Việt bị hai đêm dã chiến, đã xuống tập họp đại đội và ra lệnh cho đại đội phải thực hành tốt những điều các cán bộ đã truyền đạt trong các sinh hoạt. Trước khi ra lệnh tan hàng, ông cũng ra lệnh cho trung đội 2 phải cắt cử vài ba anh trợ giúp anh Việt thay đổi các trang bị cho nhanh và cho đúng qui định khi thi hành lệnh phạt của Thiếu úy Ẩn.

Từ văn phòng đại đội trở về sau khi trình diện để thi hành hai đêm dã chiến. Việt nói cho mấy anh em biết hình phạt để tiếp tay với Việt: “Năm phút, một tai ướt một tai khô, giày vải, balô đeo vai với quân trang cá nhân, nón sắt hai lớp có lưới ngụy trang và súng cầm tay ”. Rồi, từ dãy nhà năm gian, phòng ngủ, cả đội nghe được tiếng chân Việt chạy trên con đường vòng quanh tiểu đoàn, vừa chạy vừa la như hét to và lập đi lập lại một điệp khúc:“ Từ nay tôi không bê bối nữa, từ nay tôi không bê bối nữa...”. Có những lúc hình như Việt mệt qúa qụy xuống nên tiếng la đứt quãng, có những lúc nghe không rõ âm thanh của tiếng hô, tiếng la của câu: Từ nay tôi không bê bối nữa, từ nay tôi không bê bối nữa – anh em trong đội kháo nhau “ nó đang la từ nay không ăn cá mối nữa, từ nay không ân cá mối nữa... “. Hai đêm dã chiến với đủ hình thức phạt: lúc thì mắt ướt mắt khô, chân trái giày bốt, chân phải giày vải không vớ, áo thung quần dài...Có chứng kiến hình phạt dã chiến mới biết các món “ ăn chơi “ khó tiêu này được thay đổi như thực đơn nhà hàng mỗi khi cần, làm bọn khoá sinh chúng tôi e ngại mỗi khi Thiếu úy Ẩn ra lệnh tập họp bất thường. Khác với các quân trường huấn luyện sĩ quan, Trung tâm huấn luyện Quang Trung không có chế độ huynh trưởng, niên trưởng, khóa đàn anh, đàn em. Nên chỉ có những hình phạt từ các cán bộ đối với khóa sinh hay tân binh mà thôi.

Cấp bậc nhỏ nhất trong ba sĩ quan cán bộ đại đội 36 là chuẩn úy Lê Văn Túc, anh em nghe đồn ông là cháu Thống tướng Lê Văn Tỵ. Mỗi khi xuống đội, ông đi tới đi lui hỏi đôi ba điều, rồi đi. Người sĩ quan áng chừng tuổi đời ngoài hai mươi, điển trai, quân phục láng cóng, có anh hỏi ông sao hôm nay diện đẹp thế, ông nói nói cười cười với các khóa sinh như đã biết nhau từ lâu: “ đi le ghế “. Có lẽ ông còn qúa trẻ, lại vui tính, nên không để ý nhiều đến những khuyết điểm của bọn khóa sinh chúng tôi như Thiếu úy Ẩn.

Vào thập niên sáu tám, sau Tổng công kich tết Mậu Thân, an ninh sân bắn đã được tăng cường và những buổi huấn luyện trong đêm tối giảm bớt. Nhiều lớp huấn luyện đêm tối được tổ chức trong vòng đai trung tâm. Các tân khóa sinh chúng tôi không phải tham gia phòng thủ vòng đai như khi thụ huấn ở trường Bộ Binh Thủ Đức sau này. Từ ngày có các tân khoá sinh thụ huấn, với tài năng văn nghệ của nhiều khóa sinh, các Văn Khang đã được hình thành ở hai tiểu đoàn khóa sinh Đinh Tiên Hoàng và Nguyễn Huệ, với cảnh trí thiết kế thật mỹ thuật như các phòng trà ca nhạc, cùng với tiếng đàn, tiếng sáo, tiếng kèn, hòa với lời ca những bản tình ca lính chiến của các tân khóa sinh.

Thời gian qua mau khi ngày ngày thao trường đổ mồ hôi, tối về sinh hoạt rồi chìm vào giấc ngủ say. Đời sống quân trường đã thấm nhập vào mỗi người, quen thuộc với nắng gió, gian lao, dù lời ca bản nhạc chính thức của đại đội khi di hành là bài Ra Biên Cương có những đoạn làm nhiều anh một đôi khi lo ra và nghĩ ngợi:
Ra biên cương ra biên cương
Khói hôn hoàng xuống men rừng
Qua con sông khuất nẻo ngàn thương
.................... .
Đời gai chông, xin thề lưu luyến
Biên ải xin hiến thân
Thấm thoắt đã bao lần
Bao người đi đền nợ máu xương....
Người đi không về
Chắc rằng có người nhớ
Hương khói chiêu hồn
Hiu hắt những chiều trận vong....Người đi không về, chắc rằng có người nhớ......chắc rằng có người nhớ
.................... .................... .......... .................... .................... .......... .................... .................... .......... ................
Sau tuần lễ thi tác xạ trên thềm bắn, Đại úy đại đội trưởng Nguyễn Hổ đã nói chuyện bên lề với anh em trước khi tập họp đội để lên sân cờ liên đoàn nghe Chuẩn Tướng Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm nói chuyện - ông mừng cho anh em khi biết tin trong đại đội không có ai rớt tác xạ. Nghe Đại úy đại đội trưởng nói như vậy, chúng tôi đã nghĩ đến đến tin đồn mấy ngày trước đây là sắp mãn khóa rồi. Đúng bảy giờ tối, trên sân cờ liên đoàn, đơn vị chào kính và các đơn vị thuộc liên đoàn khoá sinh đã vào vị trí. Tiếng hô Nghiêm, bắt súng chào vang lên trên sân cờ, và tiếng vị chỉ huy liên đoàn chào mừng Chuẩn Tướng Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm cũng như trình diện các đơn vị tân khóa sinh mãn khóa. Chuẩn Tướng Chỉ Huy Trưởng Lê Ngọc Triển ra lệnh Liên đoàn cho các đơn vị ngồi xuống. Tiếng vị chỉ huy trưởng vang lên trong bầu không khí trang nghiêm, tĩnh mịch – Ông nói về tình hình đất nước, về ý chí, trách nhiệm của người thanh niên trước vận mệnh đất nước với những lời nhắn nhủ trước khi giao quyền chỉ huy lại cho liên đoàn và ra về. Vị chỉ huy liên đoàn khóa sinh ra lệnh cho đơn vị chào kính và toán quân quốc kỳ trở về đơn vị, trước khi nói chuyện với các khóa sinh về kỷ luật là sức mạnh của quân đội và khuyên các khóa sinh dù ở cương vị nào cũng cần “văn ôn võ luyện” để “bảo quốc an dân”. Tiếp theo là vị Trưởng khối quân huấn của Trung tâm bước lên diễn đàn – ông nói: “ Những anh em được gọi tên sẽ bước qua cánh trái của sân cờ “...... Một số anh đã lần lượt đứng lên và bước qua cánh trái, những anh em chưa được gọi tên, trong đó có tôi vừa lo ngại lẫn ngạc nhiên, vì không biết diễn tiến của lễ mãn khóa, sao lại ở tại hàng và sao lại đi qua cánh trái? Nhưng sau khi các chiếc GMC chở các anh có tên đã di chuyển. Những anh em còn tại hàng theo cán bộ đội trở về đại đội. Lúc đó, chúng tôi mới được thông báo là các anh em rớt tác xạ hay hạnh kiểm, sẽ tham dự khóa huấn luyện dành cho hạ sĩ quan và sau khi ra đơn vị được hai năm sẽ trở lại tham dự những khóa huấn luyện Sĩ quan Đặc biệt. Có lẽ Trung tâm Huấn luyện Quang Trung chỉ là nơi huấn luyện giai đoàn một của chương trình huấn luyện Sĩ quan trừ bị, nên không có những nghi lễ long trọng như các trường sĩ quan dành cho ngày ra trường. Ngày hôm sau, chúng tôi được các xe GMC chở đến trường Bộ binh Thủ Đức. Trên đường chuyển trại, anh em vẫn còn bàn tán, cảm thấy buồn khi nghĩ đến những anh em đã rơi rụng trong khóa.
Cho tới ngày tan đàn xẻ nghé, không mấy ai để ý đã có bao nhiêu khóa học giai đoạn một ở Trung tâm Huấn luyện Quang Trung, trước khi trở thành những Sinh viên Sĩ quan tốt nghiệp tại Thủ Đức hay Đồng Đế. Nhưng, những kỷ niệm trong đời sống quân ngũ, hẳn nhiên như một dấu ấn khó phai mờ trong mỗi người thanh niên sống trong thời chiến – một thời quốc phá gia vong bởi tham vọng quyền lực và chủ thuyết ngoại lai không tưởng của đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ con đường Quang Trung nắng đổ dẫn đến các doanh trại của Trung Tâm, và từ các doanh trại đã có biết bao nhiêu những người trai nước Việt hy sinh hạnh phúc cá nhân, ngày đêm đổ mồ hôi trên thao trường, trau dồi và học hỏi chiến thuật chiến lược, để từ đây bước đi khắp bốn vùng chiến thuật, ngày đêm bảo vệ tự do hạnh phúc cho đồng bào, rồi đành thúc thủ trước các thế lực siêu cường trao đổi quyền lợi với nhau. Sau ngày nước mất nhà tan, lao động khổ sai trong các trại tù khắp ba miền đất nước – trong các trại tù trên núi rừng biên giới, biết bao nhiêu anh em đã bỏ mình trong các trại tù, trong đó có những bạn đồng tù với tôi – những anh em một thời đã đi qua con đường Quang Trung nắng đổ trước khi trở thành người Sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng Hòa: Ngô Nghĩa ở Trảng Lớn, Nguyễn Hiểu, Trần Duy Hóa ở Đồng Pan Kà Tum, và Hồ Thanh Long, Mai Duy Hạnh ở trại Cây Cày A. Trong những lần ngồi một mình bên cạnh nồi khoai mì và búp măng luộc, có những lúc sực nhớ đến những cái chết oan khiên, tức tưởi cuả các bạn trên núi rừng biên giới, tôi chợt nhớ tới bài Ra biên cương và hát nho nhỏ như ru đời mình - bài hát đã thuộc nằm lòng trong những tháng ngày sống ở Trung tâm Huấn luyện Quang Trung, trại Võ Tánh, đại đội 36, tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng – nơi có con đường Quang Trung nắng đổ năm nào.........
Ra biên cương ra biên cương
Khói hôn hoàng xuống men rừng
Qua con sông khuất nẻo ngàn thương
.................... .
Đời gai chông, xin thề lưu luyến
Biên ải xin hiến thân
Thấm thoắt đã bao lần
Bao người đi đền nợ máu xương....
Người đi không về
Chắc rằng có người nhớ
Hương khói chiêu hồn
Hiu hắt những chiều trận vong....Người đi không về, chắc rằng có người nhớ................ .................... .... chắc rằng có người nhớ .................... .................... .......... .................... .................... .......... ..
Chu Kim Long

hoanglan22
02-18-2020, 03:03
– Long. Long… Ráng chịu đựng, tao đưa mày ra tầu… Ráng lên…

– Tao… Tao chịu hết được. Mày… Mày bỏ tao lại… Chạy đi… Chạy đi… Nhớ trả … trả thù cho tao… Chào… Chào các bạn. Vĩnh… biệt em. Vĩnh… biệt… Nhan… Nhan…

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1531704&stc=1&d=1581994941

Long bị hai viên vào đầu, bốn phát vào ngực. Tôi nh́n sơ qua và chỉ biết có thế. Nhưng chắc c̣n nữa, ở bụng chẳng hạn… Tầm đạn địch đi sát mặt nước. Tôi ở cách Long không quá 5 thước. Long quỵ gập người xuống sau tiếng “ối”. Tôi cũng cảm thấy hai lần “bực, bực” ngang hông phải. Tôi biết tôi cũng bị rồi. Một viên khác trúng ngay cây M.16 của tôi, làm tôi văng mất súng. Nhân rảnh tay, tôi nhoài người tới chỗ Long, nâng đầu Long khỏi mặt nước để rồi chỉ nhận được vài câu trăn trối cuối cùng. Cây M.60 cưa ṇng, tháo báng, vẫn c̣n nặng, đủ sức tŕ Long xuống như đá tảng. Sợi dây đeo vẫn c̣n tréo qua vai Long, cộng thêm 900 viên đạn 7 ly 62. Tôi điên người lên, đứng thẳng dậy, nâng cây M. 60 của Long, bắn trả lại phía địch… hy vọng trả được phần nào mối thù cho Long… Nhưng cây súng đă bể toang ṇng ngay khi viên đạn đầu phát nổ. Nước biển đă làm tắc lỗ thông hơi… (điều mà tôi quên trong lúc vội vă). Tôi không c̣n ǵ trong tay để được gọi là vũ khí. Tôi thầm nhủ: “không lẽ đời tôi kết thúc ở xó đảo này sao!” … Từ ngoài chiến hạm, vẫn không một tiếng yểm trợ nào vào bờ… Cùng lúc đó, bên phải tôi, Trung úy Đơn, người sĩ quan trưởng toán, cách tôi không đày 10 thước, cũng la lên: “Tao bị rồi!” rồi cũng ch́m xuống. Tôi vội đỡ xác Long, nửa ch́m nửa nổi… tôi lại nhoài đến chỗ Đơn, đang gập người trong nước…

– Tao bị nhiều vào… ngực.

– Tôi… sẽ cố gắng mang Trung úy ra tầu. Trung úy cứ yên tâm…

Và chẳng cần ai ra lệnh, tôi kéo Tr/úy ra xa bờ, càng xa tầm đạn càng tốt. Tôi phải lo cho người c̣n thoi thóp… đành bỏ lại… Long. Mong Long hiểu cho -như lời anh trăn trối- Mong bạn bè của Long, người thân của Long, nhất là… Nhan (người t́nh của Long) thông cảm cho tôi. Điều mà chưa bao giờ Người Nhái phải làm… bỏ xác bạn lại trên băi chiến! Tôi đă ăn và ngủ với nỗi đớn đau này suốt mấy tháng. Tôi đă cố say để quên mà… vẫn nhớ.Người ta đă hứa “cuội” với chúng tôi, hứa sẽ yểm trợ nếu chúng tôi bị đụng. Mà chính bản thân tôi, tôi cũng không hiểu tại sao tôi lên được trên tầu. Th́ ra hai túi đựng băng đạn bên hông của tôi đă cứu tôi. Viên đạn địch đă chạm vào băng đạn và trượt ra ngoài. Tôi c̣n t́m được bốn lỗ hổng nữa ở nón vải và trên áo của tôi… Ai đă phù trợ tôi như thế… Phải Long không? V́ tôi biết Long cũng là một con chiên ngoan đạo… Nhất là từ ngày Long có… Nhan.

Gặp nhau từ ngưỡng cửa của khóa 4 Hải Kích, thời gian chúng tôi c̣n được “tiền tập dượt” tại Hải quân Công xưởng Saigon. Tôi mến Long v́ Long “cuời “ nhiều hơn “nói”, lớn tuổi nhưng đôi khi cũng dụt dè như… con gái. Long có một thân h́nh dắn dỏi, xứng với con người tầm thước của anh. Càng thân hơn khi chúng tôi được huấn luyện tại Cam Ranh, v́ tôi với Long cùng chung một “tổ lội”, tổ số 4, cùng chung một “xuồng”, xuồng số 1, xuồng thường dẫn đầu trong mọi công tác thi đua… Gồm có tôi, Hiền, Tinh, Hải chùa, Tư cá tŕnh, Đẹp lùn, và Long… sandwich.

Tôi c̣n nhớ, trong “tuần lễ địa ngục” chúng tôi chỉ có 20 phút cho bữa ăn (và ngủ và… đi xả bầu tâm sự), nên ai nấy ăn vội ăn vàng để hy vọng c̣n được 5 hay 3 phút cho giấc ngủ ngắn ngủi. Riêng Long, anh chẳng cần ngủ, cứ ăn cho đă… bụng. Bữa nào cũng thế, hai plates (second time), mỗi plate 4 hay 5 đùi gà, thêm rau, sữa và khoảng 20 miếng sandwiches (nhà ăn Mỹ ở Market Time, Cam Ranh). Những người phát đồ ăn đă sửng sốt và ra dấu cho người trật tự Mỹ “để ư” xem Long có đổ vào thùng rác không. Họ đă hoảng sợ khi biết chắc Long đă ăn hết khoảng 40 miếng sandwiches mỗi bữa, vị chi khoảng trên 100 miếng cho mỗi ngày… Bởi vậy bạn bè đă gán cho anh biệt danh… “Long Sandwich”.

Măn khóa, tôi và Long rẽ hai ngả đường riêng biệt. Tôi đi Cam Bốt, Mỹ Tho, Cù lao dung, Đồng Tâm, Rừng Sát… c̣n Long đến Phước Xuyên, Năm Căn, Tuyên Nhơn, Hội An, Degi và Cam Ranh… cũng có lần tôi tưởng sẽ gặp Long trong cùng một chuyến công tác -mùa hè đỏ lửa 72 và những lần xâm nhập từ Cửa Việt đến Bến Hải- nhưng không, Long lại phải đi huấn luyện ngoài Cam Ranh. Và lần này, lần đầu tiên tôi với Long cùng chung một công tác… đổ bộ Hoàng Sa để tái chiếm từ tay Trung Cộng. Tôi không ngờ đó lại là lần anh trăn trối cho tôi…

Một hôm tôi bất ngờ trong một lần nghỉ chờ công tác mới tại hậu cứ Cát Lái, chộp vai tôi, Long bảo:

– Ê mày, lâu quá không gặp. Đi cà phê! Tao lo. Được tư địa… đêm qua.

Tôi ngạc nhiên v́ c̣n một tuần nữa mới đến kỳ lương.

– Ở đâu vậy? Mới “chĩa” ṣng nào hồi hôm, phải không?

– Đâu, lương thiện mà. Tao sẽ kể chuyện làm ăn của tao.

Rồi tôi và Long đi luôn một mạch, không những cà phê mà c̣n bia 33, chết bỏ, chẳng thèm kèn trống ǵ với văn pḥng Biệt Đội Hải Kích cho đến sáng hôm sau mới trở về điểm danh. Lần đó Long cho biết sự “làm ăn lương thiện” của anh.

– Tụi nó đi “mắn” chỗ này chỗ nọ, hoặc đem dùm đô của mấy ông lớn ra “thảy”, tao… tao làm thợ … điện ban đêm.

– Sao lại thợ điện ban đêm? Tao không hiểu?

– Có mẹ ǵ khó hiểu! Tao đâu có sửa điện. Tao trèo cột điện… cắt dây đồng để đem cho các “chú ba… tàu” thôi chứ!

Tôi hiểu rồi. Hèn chi lâu nay trong căn cứ Cát Lái xôn xao không hiểu tại sao bao nhiêu dây đồng qua các trụ điện đều biến mất. Thậm chí ngay cả trên nóc của các building hay barrack của Mỹ để lại cũng “tiêu”.

– Đói quá mày ạ. Lương không đủ trả tiền kư sổ với đổ xăng. Tao biết mày không thích, nhưng phải… đành chứ biết sao bây giờ.

Rồi anh tâm sự thêm.

– Đôi khi tao chẳng dám nghĩ đến chuyện có “đào” mày ạ. Có đâu để mà đưa em đi “dung dăng dung dẻ” với đời. Mẹ nó! Mấy tên cà nhỏng ở Sàig̣n mà địa chi chít, em này em nọ mỗi ngàỵ Thối quá!

Tôi cũng tưởng Long sẽ “ở giá” thật, hoặc buồn t́nh th́ đi ra quán “Chi” thăm nuôi thôi, không ngờ đến phút chót tôi mới biết Long có… Nhan.

Gần ba giờ sáng, đoàn xe chúng tôi rời Cát Lái để vào phi trường Tân Sơn Nhất, rồi Đà Nẵng và Hoàng Sa. Đến xa cảng xa lộ Biên Ḥa, chúng tôi bị chận lại v́ nhập đô thành bằng một quân số đông với đủ loại vũ khí kể cả AK-47. Một bóng người nhỏ nhắn bước vội tới xe tôi, và Long nhảy xuống… hốt hoảng:

– Trời ơi! Sao em lại ra đây… giờ này…

Rồi hai người kéo nhau vào bóng tối… tâm sự. Tụi bạn quỷ sứ réo lên:

– Hôn em đi. Em đến tiễn anh ra xa trường mà. Hôn em đi…

Tôi biết Long cứ vờ như không nghe thấy . Lính mà. Căi chi cho mệt. Hai người lợi dụng được phút nào hay phút ấỵ Thật chí t́nh! Ba giờ sáng đến tiễn anh đi…xa trường.

Chúng tôi phải chờ hơn nửa giờ mới chuyển bánh được. Thời khắc đối với chúng tôi thật mỏi ṃn, nhưng đối với Long thật ngắn ngủi. Tôi biết Long c̣n muốn kéo dài hơn thế nữa. Và nếu tôi có quyền tôi sẽ bảo Long “Ở lại nhà, đừng leo lên xe trở lại”. Nhưng Long đă trèo vội lên khi xe bắt đầu chuyển bánh. Ngồi bên tôi, Long nói:

– Em tên Nhan. Quen sáu tháng rồị Em thương quá, nhớ không chịu được, phải đến tiễn đưa. Mày thấy đó! Chắc chuyến này về, tao phải… cuới cho xong.

Long tiếp lời:

– Nhà em có trại ḥm ở Gia định. Có lần “ông già” bảo tao “có tướng làm thợ đóng…ḥm”. Ổng cũng chịu tao, mày ạ. Tao cũng “hiền” phải không mày!

Trầm ngâm một lúc, Long thú nhận:

– Em vừa hôn tao mày ạ. Lần đầu tiên đấy! Trời ơi, tao phải cuới em… cuới em… Chờ anh nhé Nhan… Khi về, anh sẽ cuới em… Chờ anh… nhé Nhan…

Tôi không hiểu Nhan phải chờ Long đến bao lâu. Tôi chẳng bao giờ dám lại nhà Nhan, từ sau chuyến Hoàng Sa ấỵ Thực ra tôi cũng không biết Nhan ở đâu… Đành vậy, cứ để Nhan chờ… V́ tôi biết chẳng ai báo tin cho Nhan cả. V́ chẳng ai biết Nhan là… ai. Một điều mà tôi biết rất rơ, rất chắc chắn… Long sẽ măi măi là của Nhan… măi măi… của Nhan.

Người Nhái Già K4

Yết Kiêu 85

hoanglan22
02-18-2020, 04:30
Cách đây đă lâu, lâu lắm, gần 40 năm về trước, mà tôi vẫn cảm thấy như ngày hôm qua, vào một buổi chiều thứ Bảy giữa mùa Hè tôi gặp Tô Phạm Liệu lần đầu tiên ở Colorado, anh đi theo một số bạn bè từ Denver xuống Colorado Springs thăm tôi. Qua Mỹ chưa đầy một năm, khi đó vợ chồng tôi c̣n rách như xơ mướp. Vợ tôi tận tụy, bươn chải, c̣n tôi đi làm part time để dành th́ giờ cắp sách đi học thêm ở University of Colorado.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1531798&stc=1&d=1582000057

Chúng tôi thuê một căn nhà nhỏ ở gần hồ Prospect Lake, cách thành phố Denver khoảng 75 dặm. Căn nhà có gian bếp nhỏ nhắn, cũ kỹ, chỉ đủ chỗ cho hai vợ chồng tôi và đôi, ba người khách ngồi ăn cơm thanh đạm là cùng, thế mà bạn bè cuối tuần cứ ùn ùn kéo tới. Cứ tự nhiên như người Hà Nội, như ăn nhà hàng La Pagode (ăn chùa), chẳng cần thắc mắc điều chi.

Không đủ chỗ thù tiếp đám bạn, có khi lên tới hàng chục người từ xa tới, chúng tôi phải trải tấm vải nhựa xuống mặt thảm giữa pḥng khách, chén chú, chén anh, chén thù, chén tạc. Bắt chước người xưa: “Dục phá thành sầu dụng tửu binh”. Cái sầu mất nước, cái sầu bỏ lại vợ con, cha mẹ, bỏ lại bạn bè. Cái sầu phiêu lạc nơi đất khách quê người, cái sầu đang đánh đấm tưng bừng mà sao bỗng nhiên có những ông sếp lớn chợt nhiên lỉnh mất, sau những câu hứa hẹn chắc như cua gạch là sẽ ở lại chiến đấu tới cùng . . .

Trong đám bạn bè hôm đó có dăm ba người phi công, hai ba chàng hải quân và mấy ông lính nhảy dù. Đầy đủ Hải, Lục, Không quân. Mặt mũi tên nào cũng c̣n trẻ măng, chỉ mới xấp xỉ ba bó. Trong số đó có lẽ Tô Phạm Liệu là lớn hơn cả, khi ấy anh khoảng 35 tuổi. So với tụi tôi dù tuổi tác, học hành bằng cấp có phần chênh lệch nhưng anh chẳng hề câu nệ. Không quân và Nhảy Dù như có một cái liên hệ t́nh cảm đặc biệt, chỉ sau một vài ly sương sương là bắt đầu mày tao, chi tớ, coi như là bạn vàng biết nhau từ thuở c̣n ở truồng tắm mưa.

Chúng tôi ngồi uống rượu tới gần sáng, nói chuyện đời lính, chuyện trên trời dưới đất, ngậm ngùi nhắc tới bạn bè vắng mặt, khật khù bên ly rượu mắt ngấn đỏ. Cũng có đôi khi cười vỡ nhà với những câu chuyện bù khú. Tô Phạm Liệu uống rượu không biết say, nói chuyện không biết mệt, anh thao thao bất tuyệt:

“Tao là lính Nhẩy Dù. Ông về từ Charlie mùa Hè đỏ lửa 72 đó mày biết không? Tụi mày thả bom được đấy, ch́ lắm, A-1 và A-37 mỗi lần đánh đề bỏ hết bom và bắn đến viên đạn cuối cùng dù pḥng không hỏa tiễn của vẹm bắn lên như mưa. Tao thấy thằng A-1 bị trúng hỏa tiễn mà thương nó, tàu nó cháy bùng giữa không gian rồi cắm xuống bên sườn đồi . . . H́nh như cái thằng thiếu úy đẹp trai, trẻ măng sắp lấy con gái tiệm ăn Hương Giang ǵ ở Pleiku th́ phải? . . . Chúng mày đừng cứ gọi ông là bác sĩ, bác sĩ đếch ǵ! Ông là lính nhẩy dù: “Ra đi không mang va-ly, quần áo cứ thế đút túi . . .”

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1531799&stc=1&d=1582000057

Tô Phạm Liệu dáng người khá to lớn, đẹp trai, trắng trẻo, nói chuyện dí dỏm, có duyên. Khi mới gặp, tôi không ngờ anh là lính tác chiến, Y sĩ trưởng Tiểu đoàn 11 Nhẩy dù, v́ trong đầu óc tôi vẫn in đậm h́nh ảnh những người lính trận phải mang nét mặt sạm nắng, gân guốc, phong trần. Đâu có ai dáng dấp phong nhă như Tô Phạm Liệu “gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”, bao năm trấn thủ lưu đồn ở Vùng II Chiến Thuật, đầy tâm hồn văn nghệ, xúng xính thơ phú.

Tuy cùng một tên họ với thi sĩ Tô Đông Pha làm quan dưới đời nhà Tống bên Tầu, lừng danh kim cổ với hai bài phú Tiền Xích Bích và Hậu Xích Bích, nhưng ông quan tu-bíp họ Tô tên Liệu, dù mê thơ nhưng không có tài làm thơ, ông chỉ thích kể lại thời oanh liệt, chuyện “Tiền đồn Charlie” và “… “Hậu đồn Charlie”, mà mỗi lần nhắc tới người nghe như cảm được nỗi ngậm ngùi trong từng tiếng nói, đau xót trên từng thớ thịt khi nhắc đến tên bạn bè.

Đốc tờ Tô có biệt tài đọc thơ, đọc phú, dù thơ phú lượm lặt ở những buổi trà dư tửu hậu, hay tự phịa ra, chẳng câu nệ cú pháp, anh vẫn làm cho mọi người thích thú v́ luôn hàm chứa tính hài hước, tiếu lâm. Những lần bạn bè họp mặt có anh là không khí trở nên vui nhộn, sống động, dù các bà khó tính, giữ chồng như giữ của, mặt mũi lúc nào cũng đăm chiêu, nhăn nhó kinh niên, cũng ôm bụng cười hả hê, cười chảy cả nước mắt, cười ḅ ra sàn nhà.

Và dù ông chồng có mạ̃t lỳ mày lợm có ngồi lại đụng ly, đụng chén với bạn bè tới sáng, say ngỏm củ teo, những bà thuộc loại chằng lửa cũng chẳng lườm, chẳng nguưt, chẳng mặt nặng, mày nhẹ, mặt xưng, mày xỉa. Chẳng đanh đá chua cay xỉa xói bạn bè.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1531800&stc=1&d=1582000057

Trong cái chặng đường phiêu bạt của cuộc đời di tản buồn thê lương của người lính chiến buộc ḷng rũ áo, một nhóm bạn bè cũ, mới, bỗng nhiên cảm thấy gần gũi nhau, thương nhau hơn. Thương cho thân phận lăng nhách đột nhiên bị đẩy vào giữa cái xă hội vàng thau lẫn lộn, bạc t́nh, bạc nghĩa, ăn cháo, đá bát, qua cầu rút ván, coi đồng đô la to bằng cái bánh tráng. Mấy mợ gặp nhau th́ khoe khoang, ganh tỵ: Hột chị nhỏ, hột em to, hột chị tṛn, hột em méo, hột em trắng, hột chị đen . . . Trước cái sự lố lăng trong đời tha phương đó, Tô Phạm Liệu tức cảnh sinh t́nh, anh thường châm chọc:

Chồng chị giầu chị đeo vàng, đeo ngọc
Chồng em nghèo em nắm chắc con cu
Một mai bóng xế trăng lu,
Ngọc vàng chị mất mà con cu em vẫn c̣n.

Anh hay cất giọng cười sảng khoái sau những lần ngâm thơ tiếu lâm như vậy, hoặc những khi nhái thơ ông Nguyên Sa:

Nắng Saigon anh đi mà chợt “rét”
Bởi v́ em mặc áo lụa Hà Đông
“Lụa Hà Đông 5 ngàn đồng một thước
Mà sao em nỡ xé 4, 5 mầu”

Anh vui với đời sống b́nh dị, không đua đ̣i, chỉ thích gần bạn bè nhất là những người với anh đă một thời lao vào lửa đạn trong cuộc chiến tàn khốc, cố ǵn giữ phần đất miền Nam tự do. Tôi nhớ có dạo anh lên một bệnh viện thuộc một thành phố nhỏ phía bắc Dakota để tu nghiệp ngành chuyên môn, nhưng chỉ 3 tháng sau anh bỏ dở, quay về lại Denver. Trước khi anh đi tôi cũng đoán trước được điều đó. Tô Phạm Liệu không thể sống thiếu bạn bè.

Anh cảm thấy thoải mái khi ngồi quay quần, không kiểu cọ, khách sáo giữa đám bạn thân t́nh cười nói tự nhiên. Nhưng cũng có đôi khi tôi chợt thấy anh ngồi thừ người trước ly rượu, mắt nh́n vào bóng tối mông lung bên ngoài khung cửa sổ. Như nỗi đau buồn nào từ những ngày tháng xa xưa bỗng dưng trở lại mà những ly rượu cay, những tiếng cười rộn ră không đủ che giấu những vết thương nhức nhối trong ḷng. H́nh ảnh đồn Chalie và người anh cả Trung tá Nguyễn Đ́nh Bảo mà chính tay anh đă băng bó trước khi hy sinh, những đêm băng rừng lội suối, d́u đồng đội bị đầy thương tích, mà anh nhiều lần nhắc tới, như hiện về trong kư ức. Anh thường cất giọng ngâm bài “Nhớ rừng” của Thế Lữ:

Ta sống măi trong t́nh thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành, hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
…………..
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những b́nh minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt.
………
Than ôi! thời oanh liệt nay c̣n đâu?

Hoặc đôi khi đập tay xuống bàn, mắt trợn trừng nh́n vào bóng tối, ngâm bài “Tống Biệt Hành” của Thâm Tâm:

Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong ḷng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giă gia đ́nh, một dửng dưng…

Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ,
Chí lớn chưa về bàn tay không,
Th́ không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
……………….

Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say.

Mây thu đầu núi, gió lên trăng
Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm.
Ly khách ven trời nghe muốn khóc,
Tiếng đời xô động, tiếng hờn căm.

Khoảng giữa năm 1981, Tô Phạm Liệu hành nghề ở một bệnh viện sát biên giới hai tiểu bang Kansas-Colorado. Dù ở cách xa Denver trên 200 miles, nhưng gần như mỗi tuần anh đều lái xe về Denver, chúng tôi một nhóm bạn bè lại hú nhau tụ tập, chén chú, chén anh, chuyện tṛ thâu đêm suốt sáng.

Vào cuối thập niên 1980 anh đổi đi làm việc ở một bệnh viện cựu chiến binh ở thành phố Alexandria, Louisiana, chúng tôi ít có dịp gặp lại nhau, chỉ thỉnh thoảng gọi điện thoại hoặc nhắn tin thăm hỏi. Lần chót tôi gặp lại anh vào mùa hè năm 1993, anh trở lại Denver thăm bạn bè và đó có lẽ cũng là lần cuối chúng tôi ngồi chung bàn tiệc với nhau. Sức khỏe Liệu suy sụp một cách nhanh chóng, trông anh gầy hẳn đi v́ bệnh gan tàn phá cơ thể. Mùa Hè năm sau, tôi lo lắng gọi điện thoại hỏi thăm, giọng anh yếu ớt, mệt mỏi.

Tuy vậy, tôi vẫn c̣n nghe tiếng cười ngạo nghễ từ đầu dây bên kia: “Tao là lính Dù. Tao không dễ chết đâu mày. Ông đếch sợ, ông c̣n chống cự dài dài, c̣n lâu ông mới ngỏm”. Tôi hứa sẽ có dịp ghé thăm anh. Anh dặn ḍ: “Mày xuống đây tao gọi thằng em LXN, thằng KQ viết văn của tụi mày ở dưới New Orleans, nó làm đồ nhậu hết xẩy, thỉnh thoảng vẫn bê lên tao một bao crawfish ngồi lai rai cả buổi. Anh c̣n thách thức: “. . . Mày đừng lo, ông bệnh nhưng ông vẫn uống như rồng . . . Sư mày. Xuống đây. C̣n lâu ông mới uống thua mày.”

oOo

Tô Phạm Liệu vĩnh biệt bạn bè ra đi vào giữa đêm 29 tháng 7, 1997. Tôi không ngờ anh đi mau như vậy. Tôi ân hận măi v́ thời gian đó phải đi công tác xa nhà liên miên nên không xếp đặt th́ giờ để thăm anh được.

Thời giai trôi qua như bóng câu, nào ngờ thấm thoát đă ngần ấy năm cách biệt. Có những buổi chiều cuối tuần vắng lặng, tôi ngồi một ḿnh, chợt nhớ tới anh, sao cảm thấy trống vắng lạ lùng. Tôi nhớ những chiều thứ Bảy, dáng Tô Phạm Liệu lừng lững trong bộ đồ hoa dù, chiếu mũ đỏ đội lệch trên trán, bước ngang khu sân cỏ trước nhà tôi với một đám bạn bè, hớn hở cười nói. Tôi nhớ những đêm ngoài trời tuyết giá, tôi say mèm, người mềm như sợi bún, tửu lượng tôi chẳng thể so bằng Liệu nên thường hay thua cuộc. Tôi nằm trên ghế salon nửa tỉnh, nửa mê, anh đến gần ân cần đắp nhẹ chiếc mền lên ngực tôi: “Ngủ đi mày, sáng mai nhậu tiếp. Mẹ…cái thằng dở ẹt, chưa nhậu đă xỉn”.

Người Y sĩ yêu thương đồng đội, người lính Mũ Đỏ can trường Tô Phạm Liệu: “Ra đi không mang va-ly, quần áo cứ thế đút túi… ” dọc ngang một đời chiến đấu lẫm liệt không sợ ḥn tên, mũi đạn, nhưng số mệnh khắc nghiệt đă quật anh nằm xuống sau cơn bệnh ngạ̃t nghèo.

Anh sớm chia tay bạn bè vĩnh viễn, ra đi chẳng cần hành trang. Ngoài h́nh bóng người vợ trẻ, đứa con thơ, chắc chắn anh c̣n mang theo t́nh bạn bè, t́nh chiến hữu, t́nh những người lính Mũ Đỏ một thời cùng nhau ngang dọc, đạp gót bốt đờ sô lên không gian, coi cái chết tựa lông hồng. Tôi cũng tin rằng nếu khi ra đi mà được chọn lựa, anh sẽ chọn chiếc áo hoa dù và cái Mũ Đỏ đút túi mang theo, măi măi như hành trang quí báu về bên kia thế giới.

Và dù có yên nghỉ nơi nào, nếu c̣n được nghe tiếng phi cơ khu trục bay ngang trời chắc hẳn anh cũng đưa tay vẫy chào . . . Vẫy tay chào nhau, những người đă một thời chiến đấu hiên ngang, chiến đấu hết ḷng cho phần đất tự do nhưng phải buông tay trước số mệnh nghiệt ngă của quê hương.

Hoàng Gia Viễn (svqy.org)

hoanglan22
02-18-2020, 04:42
Y Sĩ Trung Úy Bùi Cao Đệ

(Tưởng nhớ hương hồn Y Sĩ Trung Tá Bửu Trí, Trung Úy Sĩ Quan Trợ Y Ngọc.)

Tôi tuy thuộc vào hạng nhỏ con và thường bị bạn bè gọi là “Sữa” nhưng lại rất thích binh chủng Nhảy Dù. Thường mơ ước rằng khi ra trường sẽ là một Y Sĩ Nhảy Dù. Đọc truyện Y Sĩ Tiền Tuyến của Bác Sĩ Trang Châu tôi lại càng thêm mơ mộng. Tôi thích đi nhảy dù v́ thích bận đồ rằn ri, đội nón đỏ, có huy hiệu nhảy dù trên ngực áo. Thấy các quân nhân Nhảy Dù chiều thứ 7 dạo phố với các nữ sinh thật là thơ mộng.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1531802&stc=1&d=1582000807

Cũng v́ thích màu áo mà tôi sém chút nữa là ḥm gỗ cài hoa! Tuổi trẻ có những tư tưởng lạ lùng mà sau nầy về già suy nghĩ lại mới biết sợ, không nên “giỡn mặt tử thần,” đúng là “Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ.”

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1531803&stc=1&d=1582000807

Tôi nhập ngũ vào cuối năm 1971 khóa 13 Y sĩ trưng tập thụ huấn quân sự tại trường Bộ Binh Thủ Đức. Trong thời gian này, thỉnh thoảng có một số Y Sĩ Nhảy Dù về thăm các bạn YK Sài G̣n. Ôi nón đỏ, bộ đồ trận rằn ri, trông thật là oai phong lẫm liệt. Tôi thầm hy vọng là khi chọn nhiệm sở sẽ có 1, 2 chỗ Nhảy Dù. Rồi thời gian thụ huấn quân sự và Hành Chánh Quân Y cũng trôi qua và ngày chọn nhiệm sở cũng đến. Các bạn Dược Sĩ Trưng tập được chọn nhiệm sở trước Y Sĩ trưng tập 2 ngày. T́nh cờ tôi gặp Dược Sĩ Sơn cùng khóa 13. Anh cho biết là anh chọn Nha Kỹ Thuật/TTM.

Sơn cho tôi biết là Nha Kỹ Thuật đồn trú ở Phú Thọ Sài G̣n. Khi tôi nói là tôi chỉ thích đi Nhảy Dù th́ Sơn nói đây cũng là Nhảy Dù Lôi Hổ, tôi hỏi thêm chi tiết và có ư định chọn Nha Kỹ Thuật (NKT).

Đến ngày chọn đơn vị tôi nh́n lên bảng đen th́ thấy có một chỗ NKT và một chỗ Sư Đoàn Nhảy Dù và tôi được xếp hạng 16 trong số gần 100 Y Sĩ trưng tập. Tôi không hề để ư đến các chỗ như Tổng Y viện, Quân Y Viện hay Bệnh Viện Dă Chiến, Bệnh Viện Tiểu Khu mà chỉ cầu mong là đến phiên ḿnh chọn đơn vị sẽ c̣n có NKT hay Sư Đoàn Nhảy dù.

May thay, các bạn trước tôi chỉ lo chọn QYV, TYV, hay BVTK, đến phiên tôi vẫn c̣n chỗ NKT. Tôi vội vă chọn NKT sau khi được Y Sĩ Đại Tá Châu xác nhận là có nhảy dù ở NKT. Thế là tôi đi mua ngay nón đỏ và bộ đồ rằn ri.

NKT/TTM là danh xưng ngụy trang của một đơn vị gọi là Bộ Tư Lệnh Chiến Tranh Ngoại Lệ, ngang hàng cấp Sư đoàn Tổng Trừ bị với cấp số Thiếu Tướng làm Tư Lệnh. NKT gồm nhiều đơn vị khác nhau nhưng trong phạm vi bài viết này tôi chỉ nêu ra hai đơn vị quan trọng nhất đó là:

1. Sở Liên Lạc (Lôi Hổ): Bộ Chỉ Huy đồn trú tại Sàig̣n, gồm 3 Chiến đoàn Xung kích1, 2, 3.
2. Sở Công Tác (Hắc Long): Bộ Chỉ Huy đồn trú tại Sơn Trà, Đà Nẵng gồm 5 Đoàn Công Tác 11, 68, 71, 72, 75. Các Chiến Đoàn Xung Kích và Các Đoàn Công Tác có nhiệm vụ thả Toán thám sát vào các mật khu Cộng Sản để thâu thập tin tức t́nh báo, phá hoại các mục tiêu trọng yếu của địch. Trước năm 1970, nhiều Toán Thảm Sát Đặc Biệt Xâm nhập Bắc Việt bằng không vận hay hải vận để do thám.

Vào thời tôi được tăng phái đến NKT th́ các toán chỉ hoạt động ở miền Nam mà thôi. Mỗi Toán có khoảng 6 người được trang bị vũ khí đến tận răng. Các hoạt động của NKT được giữ bí mật cho nên nhiều khi các quân nhân phục vụ trong NKT cũng không biết nhiệm vụ của các đơn vị bạn.

NKT có một Đại đội Quân Y đóng tại Phú Thọ Chợ Lớn, Y Sĩ Thiếu Tá Bửu Trí làm Y Sĩ Trưởng. Ngày tôi về tŕnh diện th́ ĐĐQY gồm có Bác Sĩ Trí, BS Ân, BS Nguyễn Văn Hưng và tôi. Ngoài ra c̣n có 4 Dược Sĩ, 2 Nha Sĩ, và 4 Sĩ Quan Trợ Y. Bác Sĩ Trí gốc Huế, người Hoàng Tộc rất hiền lành dễ thương, luôn bảo vệ và che chở cho đàn em, được sự quư mến và kính nể của thuộc cấp.

Sau khi tŕnh diện đơn vị, tôi đi học nhảy dù ở trung tâm Long Thành, nhảy chuồng cu ở trại Hoàng Hoa Thám SĐND, 3 tuần huấn nhục “thích chạy bộ hơn đi bộ,” tôi được cấp bằng nhảy dù Việt Nam và Mỹ. Tôi rất thích nhảy Chuồng Cu, xin nhảy nhiều lần. Thật ra có một số quân nhân không dám nhảy chuồng cu, huấn luyện viên phải đẩy ra giùm, nếu sau 3 lần mà không dám tự động nhảy th́ sẽ bị loại.

Cảm giác nhảy ra khỏi máy bay C130 của không quân Mỹ, rơi tự do khoảng 5 giây, rồi sau đó dù bung ra, một ḿnh bay lơ lửng giữa trời thật là tuyệt diệu. Một ḿnh ta lơ lửng giữa trời mây! Làm việc ở Sài G̣n được vài tháng th́ Mùa Hè Đỏ Lửa xảy ra. Chiến trận B́nh Long, QuảngTrị ác liệt, máu lửa. Cuối tháng 3, 1972, Y Sĩ Thiếu Tá Bửu Trí cho tôi biết là t́nh h́nh chiến sự ở Kontum gia tăng và sẽ tăng phái tôi lên Chiến Đoàn 2 Xung Kích Lôi Hổ ở Kontum. Thế là tôi khăn gói lên đường ngay.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1531804&stc=1&d=1582000807

Chiếc máy bay C46 của Air America vừa hạ cánh xuống phi trường Kon Tum th́ bị pháo kích lập tức. Có một số thương vong nhưng tôi may mắn OK. Trung úy Niệm, Sĩ Quan Trợ Y chở tôi về doanh trại CD2XK ở B12 phía Nam của Kontum. Vừa đến Bệnh Xá th́ thấy các cố vấn Hoa Kỳ đang thu dọn để lên đường ra khỏi Kontum v́ t́nh h́nh rất nguy hiểm. Họ để lại cho tôi toàn bộ thuốc men và thực phẩm. Mấy ngày đầu tôi lo tổ chức bệnh xá để tiếp nhận thương bệnh binh. Lúc rảnh rỗi th́ lái xe đi thăm Kontum. Thành phố nầy lúc đó c̣n tương đối yên tĩnh, cát trắng, có sông Dak bla nước rất trong nhưng chảy ngược? Xung quanh là núi non, thành phố nằm ngay ở ḷng chảo, rất dễ bị pháo kích, trông giống như Điện Biên Phủ ngày xưa.

Thành phố nói chung rất đẹp. Kontum chỉ cómột con đường độc nhất đi Pleiku về phía Nam, Quốc lộ 14, nhưng phải qua đèo Chu Pao thường hay bị Cộng Sản phục kích và đóng chốt nên chỉ có thể đi thoát bằng máy bay mà thôi.

Hàng ngày tôi khám bệnh cho quân nhân và gia đ́nh, cấp thuộc hành quân, huấn luyện cấp cứu cho Y Tá , dân sự vụ khám bệnh cho người thiểu số ở buôn Thượng. Người dân ở đây rất đỗi hiền lành. Họ mời tôi uống rượu cần, nhưng tôi không thích uống rượu, chỉ nhấm nháp lấy lệ mà thôi. Tất cả chúng tôi đều phải học cách xử dụng và thực tập bắn súng chống xe tăng M72.

Tôi quen thân với nhiều sĩ quan Không Quân, họ cho tôi làm Co-pilot đi rước toán khi công tác về. Mỗi lần rước có 2 trực thăng UH1B và 2 gunship. Bay ṿng ṿng một lúc th́ thấy panel của toán ở dưới b́a rừng. Thế là chiếc UH1B vội vàng nhào xuống để rước toán, trong khi gunships chúc lên chúc xuống sẵn sàng bắn che cho toán. Viên sĩ quan ban 3 khuyên tôi đừng có chơi dại như vậy, v́ lỡ người pilot chính bị thương hay chết th́ làm sao tôi lái máy bay một ḿnh được, tính mạng tôi sẽ coi như hui nhị t́.

Pháo kích của Cộng Quân xảy ra thường xuyên, cứ 2, 3 đêm một lần. Bị thương nhẹ th́ tụi tôi săn sóc tại chỗ, nặng th́ gửi đi Bệnh Viện Tiểu Khu hay Quân Y Viện. Chuyện cười ra nước mắt là một đêm kia, khoảng 10 giờ tối, tôi nghe một tiếng nổ lớn rồi sau đó có tiếng lính gọi: Bác sĩ ơi, có một con ḅ đạp ḿn ở hàng rào pḥng thủ, đùi của nó bị bay vào ngay trại, chúng ta sẽ có thịt ḅ ăn rồi, nhưng sau đó xem lại té ra là thịt người, có lẽ của trinh sát hay đặc công Cộng sản! Có khi buổi tối tôi phải đi đỡ đẻ. Có lúc có người tự tử… Công việc tương đối nhàn.

Lực lượng pḥng thủ Kontum chỉ có sư đoàn 22BB, gồm 2 trung đoàn và Bộ Tham mưu Sư Đoàn được dời lên Tân Cảnh để giao chiến với sư đoàn 320 và sư đoàn 2 của CS Bắc Việt. Quân Đoàn II được tăng cường thêm Biệt Động Quân để củng cố vững chắc đồn Ben Het, cửa ngơ đi vào lănh thổ QĐ II, Quân Khu II.

Đại Tá Lê Đức Đạt Tư Lệnh SD 22 làm Tư Lệnh Mặt trận Tân Cảnh được một tuần lễ th́ địch bắt đầu tấn công lẻ tẻ. Đại Tướng Cao Văn Viên liền tăng phái cho Đại Tá Đạt một Lữ Đoàn Dù.

Ngày 04/14/1972 CS tấn công vào căn cứ Charlie. Trung Tá Nguyễn Đ́nh Bảo, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 11 Nhảy Dù bị một hỏa tiễn 122 trúng vào hầm chỉ huy làm ông tử trận. (Bài hát Người ở lại Charlie của TrầnThiện Thanh) và quân ta phải rút ra khỏi Charlie.

Ngày 04/20/1972 Đại Tướng Viên rút Lữ Đoàn Dù tại Kontum để tăng cường cho mặt trận Quảng Trị nên t́nh h́nh tại Tân Cảnh bắt đầu đen tối thêm. Tôi nh́n Lữ Đoàn Dù rút đi mà cảm thấy tê tái v́ Kontum không c̣n lực lượng Tổng Trừ Bị nào nữa, chỉ c̣n sư đoàn 22 mà thôi. Tất cả Sư đoàn Nhảy Dù và TQLC đều dành riêng cho Quảng Trị và B́nh Long. Kontum chỉ vào hàng thứ yếu, không quan trọng bằng hai mặt trận kia?

Ngày 04/23/72 mất Dakto rồi Ben Het. Ngày 04/24/1972 mất Tân Cảnh, Đại Tá Đạt mất tích hay tự sát?

Trong bài viết về Mặt Trận Tân Cảnh, Kontum1972, Đại Tá Trịnh Tiếu cho biết Tư Lệnh Quân Đoàn II, Trung Tướng Ngô Dzu và cố vấn Hoa Kỳ John Paul Vann có kế hoạch dụ sư đoàn 320 CS Bắc Việt vào vùng Tân Cảnh, Dakto để tiêu diệt bằng B52. Rất tiếc là v́ có bất đồng ư kiến giữa Tướng Ngô Dzu và John Paul Vann về việc bổ nhiệm tân Tư Lệnh sư đoàn 22 (cho Đại Tá Lê Đức Đạt thay v́ Đại Tá Lê Minh Đảo) nên trong những ngày 04/21, 04/22 và 04/23/1972, lúc Cộng quân tấn công ào ạt với chiến xa vào Tân Cảnh, JP Vann đă từ chối xử dụng B52, và Tân Cảnh thất thủ.

Sau khi mất Tân Cảnh, bệnh tim của Tướng Ngô Dzu trở nặng, ông yêu cầu TT Thiệu cử người thay thế, TT Thiệu chỉ định Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn làm Tư Lệnh QD II, Quân Khu II và Tướng Toàn đồng ư tử thủ Kontum.

Mỗi ngày tôi đều đi họp tham mưu với Trung Tá Tiên CHT. T́nh h́nh Kontum càng ngày càng tồi tệ hơn. Lần lượt các căn cứ bảo vệ như Vơ Định, Dakto, Tân Cảnh, Charlie, Delta đều bị mất vào tay địch. Sau khi Tân Cảnh mất, Sư đoàn 22 BB gần như tan ră. Kontum trở thành tiền đồn. Dân chúng nhốn nháo chuẩn bị tản cư, mà chạy đi đâu bây giờ? Tôi có ghé thăm Bệnh Viên Tiểu Khu (BV Dă Chiến?) Kon Tum th́ thấy BV bỏ trống không c̣n gặp ai, có lẽ đă di tản rồi.

Trước t́nh thế nguy ngập, Tư Lệnh Quân Đoàn II điều động Sư Đoàn 23 BB từ Ban Mê Thuột lên cố thủ Kontum. Trong dịp nầy t́nh cờ tôi gặp lại BS Nguyễn Khanh YKH4, là Y Sĩ của Sư Đoàn 23 BB di chuyển trên QL 14 ngang qua doanh trại của tôi để tăng viện cho Kontum. Sau đó vài ngày đèo Chu Pao bị Cộng quân chiếm, đóng chốt nên Kontum đă bị bao vây.
Ngày 05/13/1972, Trung Tá Tiên cho biết là đêm nay quân Bắc Việt sẽ tấn công dứt điểm Kontum. Ông ta nói là ông đă làm chúc thư cho gia đ́nh rồi, có nghĩa là tính mạng của chúng tôi có thể chấm dứt đêm nay. Lúc đó tôi cũng lo sợ không biết là đêm nầy ḿnh sẽ bị thương, hoặc chết hoặc sẽ bị bắt là tù binh? Tôi dặn ḍ anh em Quân Y chuẩn bị thuốc men, hầm trú ẩn và phân công việc tản thương.

Suốt đêm trằn trọc không ngủ được. Vào khoảng 5 giờ sáng 05/14/102 th́nh ĺnh tôi nghe từng loạt tiếng nổ kinh thiên động địa, đồ đạc trong bệnh xá đổ nhào. Tiếng nổ liên tục làm ù tai và hất văng tôi xuống đất.

Sau này tôi mới biết là 25 phi vụ B52 được thả xuống 3000 quả bom đủ loại vào các vị trí của quân Bắc Việt gây thiệt hại nặng nề. Ngày 05/14/1972 trận chiến vẫn c̣n tiếp diễn ở phía Bắc thị xă Kontum. Đủ loại phi cơ Hoa Kỳ và Việt Nam, đặc biệt là Phantom F4 liên tục thả bom bắn phá quân CS chỉ cách chúng tôi khoảng 500m. Một chiếc Sky- raider của Không Quân Việt Nam bị bắn rớt và phi công đă hy sinh. Một chiếc Skyraider khác cũng bị bắn rớt, nhưng phi công nhảy dù an toàn và được lính Lôi Hổ cứu thoát.

Sau đó mặt trận Kontum coi như được giải tỏa. Xin cám ơn B52. Một phái đoàn Nha Kỹ Thuật gồm cả Bác Sĩ Bửu Trí, Y Sĩ Trưởng NKT và SQTYTrung úy Ngọc định đến thăm viếng và ủy lạo chúng tôi nhưng rủi thay máy bay bị bắn rớt, không một ai sống sót. Tôi vừa mừng v́ thoát chết nhưng rất buồn khi được tin BS Trí, người đàn anh đáng kính, và Trung úy Ngọc đă ra đi.

Khi bước vào tuổi già con người ta hay hoài niệm chuyện cũ, thường tự hỏi tại sao ḿnh có thể có những quyết định đầy nhiệt huyết, bất cần, thời trai trẻ. Nhưng những cái “ngông” đó lại là những kỷ niệm sâu đậm đáng nhớ nhất của một kiếp người, nhất là kiếp trai thời loạn. Để thỉnh thoảng vẫn làm tôi bâng khuâng nhớ lại, nhất là những lúc tháng Tư về.

Y Sĩ Trung Úy Bùi Cao Đệ YKH-4

Tài Liệu Tham Khảo:1.Trung Tá Lữ Triệu Khanh. Lịch Sử Nha Kỹ Thuật/BTTM/QLVNCH2. Đại Tá Trịnh Tiếu: Mặt trận Tân Cảnh, Kontum,1972

hoanglan22
02-18-2020, 14:08
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1532054&stc=1&d=1582034523

Vào những ngày đầu tháng Tư, mặt trận miền Trung đă vỡ, làn sóng người di tản tràn ngập Sài G̣n. Vùng 4 tương đối vẫn c̣n yên tĩnh. Sài G̣n mất chỉ c̣n là vấn đề thời gian. Có tin Chính phủ sẽ triệt thoái về Vùng 4 để cố thủ. Có tin sắp đảo chánh. v.v…

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1532055&stc=1&d=1582034523

Tầm nh́n của Đại Bàng.

Đô Đốc Cang với tầm nh́n xa của một vị Tướng đă thấy rơ vấn đề, phải di tản Hạm Đội, không thể nào để Hạm Đội lọt vào tay giặc, dù Chính Phủ có rút về Vùng 4 hay không. Bằng mọi giá Hạm Đội phải ra khơi vào giờ phút thích hợp nhất. Muốn ra khơi êm đẹp, bảo tồn được Hạm Đội th́ thủy lộ Soài Rạp và Ḷng Tào phải tốt. ( Sông Ḷng Tào và Soài Rạp là 2 thủy lộ chính từ Sài G̣n ra Vũng Tàu. Sông Ḷng Tào rất hẹp, quanh co nhưng khá sâu là thủy tŕnh chính của thương thuyền và Chiến hạm, trong khi đó sông Soài Rạp lớn hơn nhưng khá cạn, do đó chỉ sử dụng khi cần thiết.)

Đô Đốc Cang liền ra lệnh thành lập ngay Lực Lượng Đặc nhiệm 99, lấy tàu từ những đơn vị tinh nhuệ của sông ng̣i. Người chỉ huy ? C̣n ai nữa ! Đánh giặc “tới” nhất trong Hải quân ai cũng biết là Huỳnh Duy Thiệp và Lê Hữu Dơng. Ông Thiệp th́ đă biệt phái qua làm Giám đốc Thương cảng Đà Nẵng và đang bị kẹt ngoài đó, sống chết chưa biết, chỉ c̣n lại ông Dơng, tên thật xứng với người ! Đô Đốc Cang nói với chánh văn pḥng : “Gọi ngay Đại Tá Dơng về gặp tôi gấp, nội trong ngày hôm nay.”

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1532056&stc=1&d=1582034523

Ngày 8 tháng 4 năm 1975, Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 được thành lập. Trong khẩn cấp, các đơn vị sau đây đă được lấy về :

– Giang đoàn 42 ngăn chận.
– Giang đoàn 59 tuần thám.
– Đại đội Hải kích.
– Địa phương quân.
– Một số Giang đĩnh lấy ra từ những Giang đoàn Thủy bộ, Xung phong gồm tất cả 62 Chiến đĩnh, một mũi xung kích mạnh mẽ nhất của HQVNCH lúc đó.

Nhiệm vụ :

– Lực lượng sẽ là đơn vị hậu vệ nặng để bảo vệ Chính phủ rút về Miền tây khi t́nh h́nh xấu.
– Bảo vệ an ninh thủy tŕnh Soài Rạp và Ḷng Tào trong trường hợp phải di tản.
– Bảo vệ Bộ Tư Lịnh Hải Quân nếu có đảo chánh.
– Nhận lệnh trực tiếp từ Tư Lệnh Hải Quân.

Tầm hoạt động :

– Không giới hạn.
– Tùy theo t́nh h́nh.

Bàn cờ đă đến hồi chung cuộc. Đô Đốc Cang c̣n làm ǵ hơn được ? Bảo toàn cho Hạm đội di tản an toàn, cho Hải quân, cho đồng bào vào những ngày bi thảm cuối cùng của cuộc chiến đó là điều cuối cùng mà Đô Đốc Cang có thể làm đươc trong tầm tay của ḿnh. Và Đô Đốc Cang đă chọn lưỡi kiếm bén nhất, tấm khiên chắc nhất trao vào tay người đàn em ĺ lợm, chịu chơi nhất của ông: Hải Quân Đại tá Lê Hữu Dơng.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1532057&stc=1&d=1582034523

Vàm Cỏ máu và lửa.

Sau khi Khmer Đỏ xâm chiếm Cao Miên, Cộng sản Bắc việt kéo quân ào ạt qua biên giới Miên Việt đông như kiến, hung hăn với ư đồ cắt đứt Quốc lộ 4,tràn ngập Sài G̣n theo hướng Tây Nam, khóa chặt thủy lộ Ḷng Tàu Soài Rạp, bắt sống Hạm đội Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa, tịch thu toàn bộ làm chiến lợi phẩm… Kế hoạch chắc ăn như bắp, miếng mồi ngon như miếng mỡ. Nhưng khi kéo quân ào ạt đến bờ Tây sông Vàm Cỏ th́ Bắc quân đành phải khựng lại. Tới đây Bắc quân đă đụng ngay một bức trường thành thép và lửa do Đô Đốc Cang dựng nên : Tướng trấn ải là Hải quân Đại tá Lê Hữu Dơng, vị Đại tá trẻ và đánh giặc ch́ nhất của Hải quân VNCH. Trong tay Đại Tá Dơng có hơn 60 Giang đĩnh đủ loại thuộc các Giang đoàn Xung phong, Thủy bộ Ngăn chận, và một Đại đội hải kích đủ sức đốt cháy những tham vọng điên cuồng nhất của địch quân.

Bắc quân đành phải ém quân thật kỹ lại bên bờ tây sông Vàm Cỏ chờ cơ hội vượt sông. Nhưng cơ hội đó không bao giờ tới. Họ đă trễ một bước. Trên sông Vàm Cỏ, ngày cũng như đêm, bao giờ cũng có hơn chục chiến đĩnh tuần tiểu tới lui, sóng cuộn cả một vùng sông nước mênh mông.

Bảy ngày đêm trôi qua, tướng Việt cộng Lê đức Anh như ngồi trên đống lửa, cả 3 Công trường 5, 7 và 9 dưới quyền của ông ta đều hoàn toàn bị vô hiệu hóa, không tiến được một bước, mũi nhọn của mặt giáp công phía Tây Nam đă bị cùn. Đau thật, mang tiếng là “Quân đội Nhân dân Bách chiến bách thắng, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” mà phải bó gối ngồi đây, ho một tiếng lớn cũng không dám. Nhục thật! Đành phải nướng quân thôi, bất kể giá nào. Dù phải đẩy bao nhiêu lính vào tử địa cũng phải làm, mạng người đâu có sá ǵ so với sự nghiệp của “Bác và Đảng”. Bộ tư lệnh Bắc quân quyết định “Dụ địch vào trận địa pháo, tiêu diệt gọn các tàu địch, tạo điều kiện vượt sông, giải phóng Sài G̣n vây chặt Hạm đội địch vào rọ.”

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1532058&stc=1&d=1582034523

Vào ngày 16 tháng 4, Đại tá Dơng dẫn đại bộ phận Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 đi giải tỏa áp lục địch trên kinh Thủ Thừa. Ông chọn những Chiến đĩnh có hỏa lực mạnh nhất, những chiếc c̣n lại vẫn thay phiên nhau tuần tiểu trên sông Vàm Cỏ. Đội h́nh vẫn như thường lệ. Toán tiền phong gồm những Giang đĩnh gọn, nhanh, hỏa lực mạnh. Soái Đĩnh đi giữa sau đó là những Quân vận đĩnh, Pháo đĩnh đi đoạn hậu.v.v… Đoàn tàu đi thật sát bờ, càng sát càng tốt, kinh nghiệm chiến đấu bao nhiêu năm trên sông dạy cho ông như vậy. Đoàn giang đĩnh di chuyển đúng đội h́nh, giữ khoảng cách đều đặn, truyền tin liên lạc tốt như đang diễn tập. Đại Tá Dơng mỉm cười hài ḷng. Ông không biết là ông đang dẫn đoàn tàu đi vào trận địa pháo đang dương sẵn.

Cách Thủ Thừa chừng 5 cây số về hướng Nam, ngay rạch Cần Đốt, khoảng một đại đội Việt cộng đang tắm sông với nhiệm vụ la lối, đùa giỡn càng lớn càng tốt. Trên bờ trận địa pháo đă hờm sẵn, thuyền ghe trưng dụng của dân đă xong. B40, súng chống chiến xa, đại liên, trung liên đă sẵn sàng.

Trên soái đĩnh, Thượng sĩ Hiếu – cận vệ, một đàn em thân tín nhất của Đại Tá Dơng, đă theo ông từ thuở ban đầu, thời ông c̣n Trung úy – đặt ống ḍm quan sát bên kia bờ, thấy nước bắn lên tung tóe, đầu người lố nhố. Lạ thật, đâu mà nhiều người tắm thế trên một khúc sông không một xóm nhà này. Thôi chết rồi, Việt cộng. Thượng sĩ Hiếu chỉ tay về phía ấy và tŕnh báo với Đại Tá Dơng : “Ông Thầy, Việt cộng đang tắm.”

Đại Tá Dơng quan sát thật kỹ, sau một giây suy nghĩ, ra lệnh : “Ủi vào tấn công !” Các Chiến đĩnh quay mũi về bên kia bờ sông, dàn hàng ngang, dồn tất cả hỏa lực vào địch, súng lớn, súng nhỏ trên các giang đĩnh nhả đạn như mưa. Trong khi ấy, pháo địch bắt đầu rơi lỏm tỏm xuống sông tạo thành những cột nước tung toé. Pháo địch càng lúc càng dầy. Vài chiến đĩnh đă bị trúng đạn, quay mũi chạy về bờ Đông nơi đó có một Quân vận đĩnh (LCM) đă được cải biến để làm Bệnh viện Dă chiến như kế hoạch đă vạch. Những chiếc khác vẫn lầm lũi tiến vào bờ vừa đi vừa khạc đạn… Đoàn chiến đĩnh càng lúc càng đâm gần bờ 200 thước…100 thước… Pháo và súng địch bắn ra xối xả. Các chiến sĩ Giang đoàn không một chút nao núng, vẫn ủi tàu vào vị trí địch. Đoàn tàu càng tiếng gần, pháo địch càng vô hiệu v́ tầm bắn quá ngắn… 80 thước… 70 thước… 50 thước… 40 thước. Súng lớn súng nhỏ vẫn nổ vang trời. Bắc quân vẫn ĺ lợm chống trả, không tháo chạy. Đại Tá Dơng ra một đường gươm thật hiểm : Hai chiếc phóng hỏa đĩnh nhào đến, phóng 2 luồng lửa kinh khiếp, độ nóng thép cũng phải chảy, đừng nói chi đến da thịt con người.

Bắc quân tháo chạy. Chiến trường từ từ dịu lại rồi im bặt. Đại Tá Dơng ra lệnh đổ bộ, thu dọn chiến trường. Xác Bắc quân nằm la liệt. Vũ khí tịch thu : AK, súng trường nhiều như củi mục, 12 khẩu B40, 2 khẩu 12 ly 8, 4 khẩu 82 ly… Lực Lượng Đặc nhiệm 99 chỉ có 2 chiến đĩnh bị hư hại nhẹ và một số nhỏ Chiến sĩ bị thương. Trận địa pháo của Bắc quân đă biến thành trận “Tẩu pháo”. Chúng đă ôm đầu máu vất súng mà chạy v́ đă không đánh giá đúng hỏa lực và tinh thần chiến đấu của các Chiến sĩ Giang đoàn trong Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 dưới tài Chỉ huy của Hải Quân Đại Tá Lê Hữu Dơng.

Bắc quân điên tiết sau cuộc thảm bại hôm trước. Họ kéo quân đông hơn đến Rạch Cầu Đót, hỏa lực cũng mạnh hơn. LLĐN 99 lại đụng địch nặng nề ở đó. Chiếc pháo đĩnh Chỉ huy của giang đoàn Ngăn Chận trúng 82 ly không giật trực xạ. Chỉ huy trưởng, Thiếu tá Phạm Ngọc Lộ thuộc khóa 12 và 3 nhân viên bị thương. Nhờ đi sát bờ nên Chiến đĩnh đă kịp thời ủi băi, không ch́m dù tàu bị thủng lỗ. Đại Tá Dơng cũng bị thương nhưng ông vẫn ở lại trên Soái đĩnh cho đến khi tàn cuộc.

Những ngày sau đó, Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 đụng địch liên tục. Bắc quân vẫn không tiến được bước nào và cũng không gây thiệt hại nào đáng kể cho Lực Lượng nên chúng đổi chiến thuật, tạm ngưng giao chiến trên bờ. Đêm đêm, Bắc quân tung từng đợt người Nhái, lợi dụng lúc tối trời, tấn công các Giang đĩnh nhưng với sự pḥng thủ chặc chẽ và đôi khi người nhái ta phải cận chiến bằng dao găm. Người nhái địch đă bị hạ sát nhiều.

Ngày 23 tháng 4, trong tuyệt vọng, Bắc quân tung ra một cuộc tấn công “Thí chốt bắt xe” cuối cùng. Cấp chỉ huy của Bắc quân bắt đầu xài sinh mạng binh lính dưới quyền như xài bạc giả. Họ trưng dụng tất cả ghe thuyền của dân, chất đầy lính, ào ạt nhào ra tấn công, tính dùng chiến thuật “biển thuyền” để tràn ngập và triệt hạ LLĐN 99. Nhưng họ đă lầm, các chiến đĩnh đă hờm sẵn, phản pháo bằng tất cả các súng cơ hữu. Xác người lả tả. Ghe thuyền, chiếc th́ lật úp, chiếc th́ không người lái chạy ngổn ngang trên sông. Nhưng chết lớp này, lớp khác vẫn tiếp tục xông ra, nhiều như lá tre trong mùa băo lụt. Súng lớn, súng nhỏ của lực lượng bắn không xuể. Đại Tá Dơng ra lệnh cho 2 chiếc Zippo, súng phóng hỏa đă nạp đầy xăng đặc, 4 Pháo đĩnh hộ tống, ủi thẳng vào vị trí địch và phun lửa. Lưởi lửa phun ra dài cả trăm thước. Trong nháy mắt tất cả ghe thuyền địch đều bốc cháy, cả một vùng cây xanh gần bờ từ gốc tới ngọn cũng cháy rực, găy đổ, lửa bốc cao, khét lẹt. Từng lớp địch quân ở sát bờ sông ngă như sung rụng, dày đặc cả mặt nước. Lính trên bờ vẫn đầy nghẹt, kêu thét, chạy tán loạn. Pḥng tuyến địch vỡ. Cuộc tấn công tự sát thất bại. Bắc quân đă nướng bao nhiêu quân vào trận này. Đó là điều bí mật, chỉ có họ mới biết.

Nỗi ḷng.

Vài ngày sau, xác người cháy xém vẫn c̣n trôi nổi đen đặc trên mặt nước sông Vàm Cỏ. Những chiếc thuyền ma vẫn bập bềnh theo con nước lên xuống. Tất cả Lực Lượng 99 từ Sĩ quan, Hạ sĩ quan cho đến Đoàn viên Thủy thủ, ngay cả những người vui tính nhất đều trở nên trầm ngâm ít nói. Cuộc chiến thật quá dă man và đau ḷng. Đại Tá Dơng nh́n theo, ḷng vừa buồn vừa giận. Buồn v́ bao nhiêu sinh mạng phải tiêu tan chỉ v́ một cái bánh vẽ thật lớn “Thiên đường Cộng sản”, giận v́ cấp chỉ huy địch đă quá tàn nhẫn xem sinh mạng của thuộc cấp không bằng cỏ rác. Ông chiến thắng mà ḷng ông đau xót. Cùng là người Việt Nam da vàng máu đỏ, ai gây chi cảnh huynh đệ tương tàn. Ông và lực lượng 99 chỉ là người tự vệ. Ta đánh ngươi v́ ngươi đánh ta. Chỉ có vậy thôi.

Từ đó, hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây trở nên yên tĩnh. Có lẽ Bắc quân sau những lần thất bại, hết ư chí tấn công, đă kéo quân đi hướng khác hay v́ t́nh h́nh biến chuyển quá nhanh, họ vẫn ém quân chờ.

Dù ǵ đi nữa, lực lượng Đặc Nhiệm 99 cũng đă hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc cho đến giờ thứ 25 của cuộc chiến kéo dài trên 20 năm. Đại Tá Dơng với tư cách là tư lệnh LLĐN 99 đă có thể xác nhận với Đô Đốc Cang một cách tự tin “An ninh tốt” khi được hỏi về an ninh thủy lộ Ḷng Tào, Soài Rạp trước giờ Hạm đội ra khơi di tản.

Ḱnh ngư nhỏ lệ.

– 10 giờ sáng ngày 30-4-1975, Tổng thống Dương Văn Minh kêu gọi Quân nhân các cấp buông súng.
– 11 giờ, xe tăng Cộng Sản ủi sập cổng chánh Dinh Độc Lập.
– 4 giờ chiều cùng ngày, trên ngă ba sông Vàm Cỏ, Đại tá Dơng ra một lệnh cuối cùng, tập họp tất cả các Sĩ quan, Thuyền trưởng lại, trên Soái Đỉnh chỉ huy để nhận chỉ thị. Xa xa các chiến đỉnh vẫn như những con ḱnh ngư dũng mănh đang rẽ sóng thi hành công tác tuần tiểu, ngăn chận không cho Cộng quân vượt sông uy hiếp thủy lộ Soài Rạp, Ḷng Tàu.

Cũng vào lúc đó chiến hạm cuối cùng của Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa, chiếc HQ – 402 bắt đầu khập khiễng hải hành ra cửa Soài Rạp… Chiều bắt đầu xuống.

Bằng một giọng nghẹn ngào, Đại tá Dơng nói với các cấp thuộc hạ “ Tất cả đă hết, chúng ta đă thua, miền Nam đă mất vào tay CS. Bây giờ là lúc chúng ta phải tan hàng, anh em nào muốn đi theo Hạm đội th́ theo tôi, anh em nào muốn ở lại với gia đ́nh th́ cứ đem tàu về. Trên đường về, Cộng quân chận lại cứ xả súng bắn, kiếm một chỗ nào an toàn thay đồ dân sự, rồi về với gia đ́nh. Xin từ giă anh em. Hẹn gặp lại…”

Những lời cuối cùng chỉ có thế, tính ông vẫn vậy, nói ít, nhất là trong giờ phút này, chính trong thâm tâm ông, ông cũng không biết ḿnh sẽ đi đâu, về đâu. Đối diện ông là khuôn mặt của những thuộc hạ thân yêu đă cùng ông vào sinh ra tử trong trận đánh cuối cùng khốc liệt này. Những khuôn mặt hốc hác v́ chiến đấu quên ăn, thiếu ngủ, râu ria tua tủa ấy đang nh́n ông, những cập mắt đỏ ngầu v́ xúc động đang nh́n ông, không ai thốt được lời nào.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1532059&stc=1&d=1582034873

Giây phút này như kéo dài vô tận… Đại úy Hải ngập ngừng hỏi: “Commandant dự tính sẽ đi đâu ? ” Đại Tá Dơng trả lời : “ Có lẽ một ḥn đảo nào đó trên Thái B́nh Dương, tao cũng không biết nữa, c̣n mày ?”. Ông vẫn có thói quen gọi cấp dưới bằng “mày, tao” một cách thân mật như anh em thâm t́nh. Đại úy Hải trả lời : “Chắc tôi về Bến Tre đi tu với mẹ tôi quá.”

Đại Tá Dơng bùi ngùi nói lời từ giă cuối cùng : “ Chúc anh em may mắn… Hẹn gặp lại…” Lần đầu tiên trong đời binh nghiệp, một giọt nước mắt lăn dài trên khuôn mặt ông. Rồi ông đáp tàu lên HQ – 402. Ánh chiều cũng bắt đầu thoi thóp tàn dần trên sông Vàm Cỏ. Ráng chiều để lại trên mặt sông mênh mông những vệt đỏ như máu.

Cuối đời nh́n lại.

Do những Quốc tế sắp đặt cộng thêm với những yếu kém, sai sót của chính ḿnh đă để miền Nam thất bại. Miền Nam lại không được cái may mắn như đất nước Đài Loan c̣n có được một ḥn đảo nhỏ để dung thân, để tự tu sửa, học hỏi, xây dựng từ những lỗi lầm cũ.

Mỗi Quốc gia đều có một số phận. Và số phận Việt Nam mới chua xót, cay nghiệt và mai mĩa làm sao ! Anh em trong cùng một nước đánh giết nhau, máu thành sông, xương thành núi trên 20 năm. Kẻ thắng trận, sau hơn 2 thập niên thử nghiệm thất bại về cái gọi là Xă hội Chủ nghĩa lại chuyển hướng 180 độ, tập tểnh đi vào con đường kinh tế thị trường, con đường mà miền Nam đă đi cách nay 40 năm. Đúng là đi cho lắm lại trở về chốn cũ. Bao nhiêu xương máu đă xài phí một cách vô ích.

Ông Dơng năm nay đă ngoài 65, đă về hưu sau 26 năm làm việc trả nợ áo cơm cho người bạn đồng minh bạc bẽo. Mỗi khi một ḿnh trong đêm vắng, ông không khỏi ngậm ngùi nghĩ đến cuộc chiến cũ. Những tiếng khóc la đau đớn, kinh hải “Trời ơi” của chiến binh Cộng sản vẫn ám ảnh, quấy động trong giấc ngủ của ông, sau đó ông thường chập chờn đến sáng. Phải chi những tiếng kêu la đó là những tiếng kêu la của bọn ngoại xâm không cùng ḍng máu, không cùng tiếng nói chắc ḷng ông thanh thản hơn nhiều… Rồi những khuôn mặt bạn bè, những thuộc hạ cũ thân yêu hiện về, kẻ c̣n, kéo lê kiếp sống tha hương trên đất lạ hoặc sống nghèo khổ không tương lai trên chính đất nước ḿnh, người mất, mồ đă xanh cỏ… Ông nghĩ đến họ, nước mắt lại tuôn trào ra.

Rồi ông lại nghĩ đến dân tộc đau khổ, bất hạnh của ḿnh, kể cả những người cầm súng phía bên kia đă từng đối địch với ông. Nghĩ cho cùng, tất cả đều là nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản. Ông đă không thù hận họ như họ đă thù hận ông một cách điên cuồng, v́ trong thâm tâm, ông vẫn nghĩ đa số họ là những người nông dân hiền lành, thật thà, chất phát đă bị bọn cầm quyền Cộng sản cấy vào những độc tố thù hận giai cấp đấu tranh v.v… Trên 26 năm lưu lạc xứ người, ông luôn mang một tâm trạng buồn chán, lạc lơng, không thể nào hội nhập vào xă hội mới. Ông cũng không nghĩ đến chuyện gia nhập Quốc tịch Mỹ, không màng đến chuyện an cư lập nghiệp, tậu nhà, mua đất…

Ông chỉ là người tạm cư trên đất nước vĩ đại và lạnh lẽo này… Ông măi măi là người Việt Nam.

Hoàng Xuân Bái (K13 HQ)

hoanglan22
03-03-2020, 14:38
Tháng ba của tôi là thời điểm đau buồn nhất cuộc đời chiến chinh. Mọi người hay hỏi sao lại tháng ba mà không tháng tư. Tôi thường trả lời, vâng, đối với mọi người tuy là tháng tư đau buồn, nhưng tháng ba là tháng tôi mất nhiều bạn thời chiến của tôi. Chúng tôi di chuyển dọc theo quốc lộ 13 của tháng ba nắng cháy. Nhiều người ngă gục vào tháng ba của lệnh rút quân. Nhiều chiến sĩ QLVNCH đă ra đi không một tiển đưa, không một nén hương cho linh hồn b́nh yên.

Nhiều ngôi mộ chôn vội trên đường rút quân. Và cũng nhiều kẻ hèn hạ ḷi mặt chuột trong tháng ba binh lửa. Tháng ba của Đức Phong, Bến Cát, Đồng Xoài, những địa danh tôi đă đi qua, đă để lại những mảnh t́nh nho nhỏ với cô gái hậu phương.

Có tháng ba rút quân mới đưa đến tháng tư thất thủ. Những thằng lính như chúng tôi luôn tuân lệnh cấp chỉ huy. Đó là truyền thống của quân đội. Nhưng lệnh của tháng balàm cho chúng tôi xao động và ngở ngàng. Chúng tôi tin tưởng ḿnh đủ sức kháng cự với cộng quân, dư sức đối đầu với bất cứ quân đội nào của cộng sản miền Bắc. Nhưng vào tháng ba chúng tôi phải bỏ lại những thành phố thân yêu miền Trung, bỏ lại những người dân hiền ḥa đă nuôi dưỡng chúng tôi suốt đời quân ngũ. Chúng tôi phải gấp rút từ giă những người con gái thương yêu, bỏ lại những mảnh t́nh trong trắng, thánh thiện. Chúng tôi bị phục kích v́ không có kế hoạch hành quân, để thương đau mất đi những người bạn chiến binh chết tức tưởi v́ lệnh rút quân cấp tốc trong đêm.

Ôi tháng ba oan nghiệt, tháng ba của mất mát. Mỗi tháng ba tôi lại hụt hẩn trong đau buồn và tiếc nhớ, tôi lại t́m về quá khứ, để tiếc thương những người bạn đời quân ngũ. C̣n đâu những đêm nhậu đứng sau những chuyến hành quân dài. C̣n đâu những đêm ngồi dưới giao thông hào, chia nhau từng điếu thuốc Ruby quân tiếp vụ. Ôi thương quá từng ngụm nước đục dưới hố bom của những ngày nắng cháy giữa vùng Tam Giác Sắt. Những bát canh măng le giữa mật khu Long Nguyên đầu mùa mưa. Những ly cà phê gạo sấy của Bầu Bàng ngồi chờ giặc tấn công.

- Minh Mạng đây Bắc B́nh gọi, nghe rơ trả lời!
- Bắc B́nh đây Minh Mạng tao nghe 5/5.
- Mầy cho tao điểm hẹn, đại bàng bảo tụi ḿnh cắm trại đêm nay với nhau.
- Lên 12, phải 24, tao gặp mầy khoảng 6 con gà.
- OK, 6 con gà, hết.

Trả máy lại cho thằng truyền tin, tôi chỉ điểm hẹn cho thằng em mở đường dặn nó chuyển hướng đi. Đă bốn giờ chiều, rừng Long Nguyên dày kịt không một chút gió. Trời tháng ba có khác, nóng oi, nóng bức Tuy đi dưới bóng cây rậm nhưng vẫn nóng như ai trùm mền không cho thở. Dù có thở được th́ cũng toàn mùi ẩm của lá cây mục, của côn trùng, của rừng nhiệt đới. Giây leo giăng đầy ngang dọc chận lối, thằng em mở đường phải khó nhọc lắm mới t́m được lối cho mấy thầy tṛ. Tôi nh́n lại bảng đồ và định hướng của ḿnh, chỉ hai cây số là sẽ ra khỏi khu rừng rậm nầy, đến con suối nhỏ, xong băng ngang cái trảng chiều ngang khoảng 300 mét là sẽ đến điểm hẹn với tụi thằng Mẫn.

Bốn thầy tṛ tôi đi chuyến công tác nầy đă hơn hai tuần. Toán thằng Mẫn được lịnh vào thay để toán của tôi về lại Lai Khê. Đại Đội Trinh Sát 5 thi hành những chuyến công tác dài khoảng một tháng cho mỗi chuyến đi. Mỗi ngày chúng tôi nhận lệnh từ bộ tư lịnh sư đoàn, di chuyển theo từng toán nhỏ, lục t́m những tin tức và di chuyển của cộng quân trong địa bàn kiểm xoát của sư đoàn 5.

Theo tin t́nh báo tôi nhận được th́ khoảng một sư đoàn của chính qui bắc việt đă di chuyển từ Pleiku về hướng Nam. Đây là một sư đoàn thiện chiến của miền bắc, từng tham dự trận Quảng Trị, Kontum. Tôi nh́n lại bản đồ, nếu sư đoàn nầy muốn vào Sài G̣n th́ phải đi dọc theo quốc lộ 13, ngang Long Nguyên, chổ tôi đang công tác. Tôi quay ngang thằng em truyền tin bảo nó đổi tầng số cho tôi gọi thằng Đắc của tiểu đoàn 53 pháo binh.

- Đà Diểu đây Bắc B́nh, nghe rơ trả lời.
- Bắc B́nh đây Đà Điểu nghe 5/5.
- Mầy cho tao hai quả về lên 12, phải 24, chỉ bắn khi nào tao gọi.
- OK lên 12, phải 24, bắn khi nào mầy gọi.

Giọng thằng Đắc đề lô trong máy có vẻ hơi thắc mắc:
- Bắc B́nh sao bửa nay mầy gọi yểm trợ sớm quá vậy?

Tôi chửi thề trên máy: tao gọi th́ cứ làm đi, tao đang cuốc bộ mệt bỏ xừ không có th́ giờ giải thích đâu. H́nh như nó linh tính một cái ǵ đó không tốt nên gọi lại
- Bắc B́nh, tao muốn cho mầy một điếu thuốc lào cho bảo đảm. (Trái khói)
- Bộ mầy muốn chỉ cho tụi VC biết chổ của tao hay sao vậy.
- Tao thấy có ǵ không không ổn nên muốn ăn chắc không dội lên đầu mầy.
- Tao tin tài của mầy, từ xưa giờ mầy gọi đâu trúng đó nên tao không sợ.
- Mầy lại nâng bi tao nữa rồi, chừng nào về hậu cứ tao thưởng mầy một chầu bia.
- Ráng để dành tiền đi em trai, tụi tao mà uống bia th́ mầy chỉ có sạt nghiệp.

Phải nói ngày xưa tụi tôi uống bia như uống nước lạnh. Sau mỗi chuyến công tác về là bọn tôi kéo nhau xuống câu lạc bộ sĩ quan, mỗi thằng gọi vài két bia 33 (mỗi két 24 chai) chất sau lưng, ngồi uống cả đêm, đến sáng hết bia mới về trại ngủ. Mỗi lần bọn tôi về là ông bà chủ câu lạc bộ rầu thúi ruột, phải thức đêm lo mồi nhậu cho mấy thằng trời đánh. Nhưng hai ông bà lại khoái bọn tôi, không phải v́ cô con gái đang đến tuổi lấy chồng, mà v́ tụi tôi trả tiền ṣng phẳng, không ghi sổ. Những thằng lính như tôi mà cho ghi sổ lở có ngày ḥm gổ cài hoa th́ mất hết cả vốn lẩn lời.

Bốn thầy tṛ tôi đến men rừng khoảng 5 giờ 30 chiều nhưng không đi ra vội. Đó là kỷ thuật tôi học từ đàn anh, đó là luật sinh tồn, phải thám sát chung quanh trước khi đi ngang cái trảng trống trơn, chỉ có cỏ mọc ngang đầu gồi. Tôi lấy ống nḥm ra quan sát bên kia bờ rừng. Nh́n lên, nh́n xuống chẵng thấy ǵ nhưng linh tính tôi như báo có cái ǵ đó không ổn. Tôi bảo thằng em nhỏ nhất trong đám đi dọc xuống bia dưới khoảng 100 mét rồi quăng một tàn cây nhỏ ra. Trong khi nó đang di chuyển, tôi quan sát trên ống nḥm, khi thằng em quăng tàn cây, đúng như linh tính, có một vài vật di động bên kia bờ rừng. Thằng em trở lại nói nhỏ với tôi:
- Ḿnh bị phục kích ông thầy ơi!


Tôi bảo thằng truyền tin đổi tầng số tôi gọi thằng Mẫn:
- Minh Mạng đây Bắc B́nh, nghe rơ trả lời.
- Bắc B́nh đây Minh Mạng, tao nghe 5/5
- Cho tao điểm đứng.
- Tao đang chờ mầy ở điểm hẹn.

Tôi vội vang cảnh giác nó:
- Cách mầy nửa ống chân (cây số) bên phải (hướng Đông), dọc theo b́a rừng, tụi nó đang nằm chờ tao băng ngang để làm thịt.
- Mầy chờ tao dọn bải rồi hăy đáp.
- Đừng, tụi nó đông lắm, mầy chỉ có 4 thằng làm ǵ được. Để tao gọi thằng Đắc.
Thằng em truyền tin hiểu ư, bèn đổi máy sang tầng số pháo binh:
- Đà Điều đây Bắc B́nh nghe rơ trả lời
- Bắc B́nh đây Đà Điểu tao nghe
- Mầy có tầng số của tao và thằng Minh Mạng không? Đổi qua đó ngay đi, tụi tao có việc cần đến tụi mầy.
- Rồi, tao sẽ qua bên đó gặp mầy.
Thằng em truyền tin lại đổi tầng số một lần nữa:
- Đà Điểu đă bay về tổ, Bắc B́nh, Minh Mạng, tụi mầy nghe tao không.
- Đà Điểu đây Bắc B́nh, mầy cho tao một trái lên 12, phải 24 rưởi, bắn khi nào mầy sẳn
sàng.
- Lên 12, phải 24 rưởi, bắn ngay.

Chừng hai phút sao, tiếng 155 ly xé gió rớt ngay giửa trảng cỏ, đất trôn lẩn với cỏ non bay mù mịt.
- Đà Điểu đây Bắc B́nh, mầy cho qua phải khoảng ¼, bắn khi nào mầy sẳn sàng.
- OK, lên 12, phải 24-3/4 có ngay

Chỉ không đầy 30 giây, quả 155 ly thứ hai rớt ngay lên đẩu bọn chúng, vài thằng quưnh quáng chạy ra trảng cỏ.
- Đà Điểu bắn hết, bắn hết.
- Minh Mạng, coi chừng tụi nó chạy về phía mầy.

Tôi quay ngang bảo mấy thằng em chuẩn bị băng ngang trảng cỏ khi dứt pháo. Từng quả 155 ly rớt ngay trên đầu bọn phục kích. Hàng ngũ chúng bắt đầu xôn xao. Tôi gọi thằng Mẫn:
- Minh Mạng mầy chuẩn bị khi tao gọi th́ tiến đến b́a rừng nhưng coi chừng có bọn tao đi từ bên trái vào (hương Tây)
Giọng thằng Mẫn khẩn cấp trong máy:
-Tụi nó đang chạy về hướng tao, đông lắm. Đà Điểu mầy cho tao hết lên 12, phải 24, bắn hết, bắn hết.

Tôi nghe thằng Mẫn gọi tọa độ mà kinh hoảng, đó là điểm hẹn của hai đứa, thằng Mẫn đang lâm nguy. Tôi ra lịnh cho toán băng ngang trảng cỏ. Tôi vừa cầm khẩu M16 vừa chạy đến b́a rừng bên kia, từng tia đạn bay tới tấp về hướng tôi. Tôi bất chấp, gọi thằng Đắc pháo binh cho bắn hết vào điểm hẹn. Tôi thay băng đạn hai lần, không biết tôi chạy bao lâu, xác bộ đội bắc việt nằm ngổn ngang v́ trúng pháo 155 ly, nét mặt c̣n non choẹt, tuổi chừng 14-15. Tôi cứ vừa bắn vừa chạy về phía thằng Mẫn. Mấy thằng em chạy theo cũng vừa chạy vừa la xung phong.

Bọn tôi cứ chạy và bắn cho đến khi không c̣n nghe tiếng băn trả lại mới ngừng chạy. Không gian bây giờ im ĺm như thần chết vừa đi qua. Thây người chết ngổn ngang, cây găy đổ v́ đạn pháo. Mùi khói súng khét lẹt giữa rừng chiều. Gió bổng nổi lên như thần chết rảo ṿng chiến địa. Mùi tanh của máu, mùi khét khói súng quyện nhau giữa những thây người nằm ngă gục. Tôi đứng như chết giữa băi chiến trường đă chấm dứt mà phần thắng chẵng về ai. Mấy thằng em lục lội t́m toán thằng Mẫn. Bốn thầy tṛ nó nằm ngữa mắt vẫn mở như trông chờ ai. Tôi vuốt mặt từng đứa rồi lấy poncho gói xác Mẫn lại.

Ngủ yên đi Mẫn, đă 43 năm rồi đấy, tao thỉnh thoảng cứ nghĩ lại buổi chiều hôm đó, nếu tao không gọi pháo binh th́ mầy đâu có bị tụi nó tràn ngập sang hướng mầy. Có phải lỗi của tao không hả Mẫn?

Cửu Long
Viết từ New York

hoanglan22
03-04-2020, 15:05
(Phước Long đă được ghi trong lịch sử VN như khởi đầu cho sự sụp đổ của VNCH, rất nhiều
bài báo, sách vở đă được viết về Trận Phước Long 1975 từ những bài của các tác giả VNCH
đến các bài ‘quân sử’ của CSBV.. Bài này chỉ xin ghi nhận một số chi tiết tại Phước Long trước
tháng 12/1975)
● Vài chi tiết về Phước Long :
Tỉnh Phước Long phía Bắc giáp Kampuchea, phía Đông giáp hai Tỉnh Quảng Đức và Lâm
Đồng, phía Nam giáp Tỉnh Phước Thành, phía Tây giáp Tỉnh B́nh Long
Phước Long chiếm diện tích 7.490 cây số vuông.
Tỉnh lỵ đặt tại Phước B́nh c̣n gọi là Sông Bé
Các thay đổi hành chánh :
- 1958 : Khu vực Bù Gia Mập thành quận Phước Ḥa , nhưng sau đó bị hủy bỏ. Khu vực
Bù Đăng thành Phước Tân và sau đó đổi thành Đức Phong
- 1961 : khu vực Đồng Xoài thành quận Đôn Luân
Tóm lại cho đến 4/75 Phước Long có 4 quận : Bố Đức, Phước B́nh, Đức Phong và Đôn Luân
(theo Đông Tiến trong Nước Tôi, Dân Tôi trang 507)
● Sông Bé :
Địa danh Sông Bé trong chiến sử Việt-Mỹ thường được hiểu (theo LLĐB) th́ là :
Doanh trại LLĐB của Special Force (5 th SF) thành lập vào tháng 4 năm 1965. Trại (hay
chính xác là Cơ sở hành chánh được bảo vệ riêng trong ṿng rào pḥng thủ, nằm cách
Tỉnh lỵ Phước B́nh khoảng 2 km về phía Tây-Nam.
Tên ‘Song Be Base camp’ c̣n được gọi là SongBe Airfield, Farley Field hay LZ
Buttons (FSB Buttons)
Phi trường Sông Bé có phi đạo dài 1036 m, lót vỉ sắt, các C-130 có thể đáp được.
Trại này sau đó phát triển rộng trở thành Căn cứ đóng quân tạm của nhiều đơn vị Hoa
Kỳ và khi HK rút quân , căn cứ được giao lại cho QLVNCH
- Tháng 4-1966 : Lữ đoàn 173 Dù HK trú đóng tại đây trong cuộc hành quân Denver
- Tháng 12-1966 đến 2-1967 : Lữ đoàn BB 199th (Light Infantry)
- Tháng 5-6/ 1969 : nơi đóng quân của Lđ 1/ SĐ 1 BB Hoa Kỳ
- Tháng 4-1970 Lđ 2/SĐ 1 Không kỵ trú đóng đến 3/1971
Trận Sông Bé (Tháng 5-1965)
Cuộc đảo chính 1 tháng 11 năm 1963 và sau đó là các cuộc chỉnh lư tranh dành quyền lực
của các phe phái trong quân đội VNCH và các đảng phái chính trị đă làm suy yếu khả năng
chiến đấu của Quân lực VNCH. CSBV nhân cơ hội đă tập trung quân địa phương và đưa quân
từ miền Bắc xâm nhập trang bị các vơ khí mới của khối Cộng, sửa soạn cho một Chiến dịch
tấn công vào Phước Long.

Ngày 16 tháng 4-1965, toán B-34 của LLĐB Hoa Kỳ được gửi đến Phước Long, để giúp lực
lượng VNCH, tại đây đang có một toán cố vấn quân sự của MAC-V ngụ tại Ṭa hành chánh
Tỉnh. Toán B-34 bắt đầu xây dựng một doanh trại hay căn cứ tiền đồn tại một ngọn đồi gần đó
..Căn cứ này có thêm 120 địa phương quân VN và vài xe bọc thép cũ (thiết giáp Mă lai) bảo vệ.
(Gọi là ‘doanh trại' v́ đây không phải là một Căn cứ biên pḥng tiêu chuẩn, nơi đóng quân của
các Dân sự Chiến đấu, quân số 3-400 người , do một toán A LLĐB Mỹ, cùng một toán LLĐB
Việt giữ nhiệm vụ Chỉ huy Căn cứ)
Lúc 1 giờ 45 sáng 10 tháng 5, 2 Trung đoàn 761 và 763 CSBV, gồm trên 2500 quân đă mở
cuộc tấn công vào Thị xă từ nhiều hướng, bắt đầu bằng tiền pháo (súng cối) và sau đó .. hậu
xung..
Quân sử của 5th SF ghi lại về trận này như sau :
‘..trong khi Toán B-34 được xếp để ở chung ṭa nhà đủ tiện nghi với Toán 94 Cố vấn MAC-V,
địa điểm này chỉ được pḥng ngự sơ sài..Các quân nhân LLĐB thuộc Toán B-34 di chuyển ra
đóng ngoài tiền đồn, Th tá Mitchell Sakey theo linh tính đă đặt thêm nhiều vị trí súng máy và
súng cối quanh tiền đồn.. Công cuộc chuẩn bị đang tiến hành th́ CQ đă tấn công và họ cũng
không ngờ SF lại bố trí họa lực thật mạnh tại đây ! CQ pháo kích cả vào khu vực hành chánh
của Tỉnh lẫn doanh trại của B-34. TĐ 36 BĐQ đang trú đóng tại Tỉnh, bị CQ đẩy dạt sang một
phía và chúng tiến thẳng vào nơi cư trú của các quân nhân Mỹ : tại đây có 22 quân SF và 14
người Mỹ khác chia nhau trú tại 2 ṭa nhà.. Pháo CQ phá hủy các ṭa nhà ngay trong đợt pháo
kích đầu..Chỉ huy toán B-34, Tr tá Alton Parks bị thương..Th tá Sakey thay quyền chỉ huy chống
trả.. Các quân nhân SF kháng cự trong bóng đêm..CQ bị chặn tại ṿng ngoài hàng rào gốc phía
Tây-Nam, chúng dùng bộc phá, phá một khu vực rào giữa Trại và đặc công tiến vào dùng lựu
đạn tấn công các giao thông hào...Các quân nhân HK chống trả quyết liệt kể cả cận chiến bằng
dao, lưỡi lê. Các quân nhân của MAC-V và của ĐĐ 120th không vận Army cũng giúp chống đỡ.
Các trực thăng vơ trang đă đến yểm trợ chỉ 2 giờ sau khi CQ tấn công, nhưng trần mây thấp và
khói súng che khuất tầm quan sát của trực thăng..Các trực thăng phóng rocket và bắn phá khu
vực phía Tây Tỉnh lỵ giúp khóa các ổ súng cối của CQ. Th tá Sakey điều khiển các đợt không
kích và loại dần các ổ súng máy của CQ.. Trực thăng tải thương đă đáp được xuống lúc 8 giờ
sáng và 16 thương binh được di tản.
Cuộc chống trả quyết liệt của các quân nhân SF đă ngăn CQ tràn ngập khu hành chánh Tỉnh
CQ chỉ ở trong khu vực đến trưa..Ngay từ sáng TĐ 36 BĐQ đă phản công giải tỏa khu vực Chợ
và Nhà thờ Tỉnh lỵ, nhưng Đ úy Nghĩa (?) TĐ trưởng đă hy sinh..Các cuộc không kích tiếp tục
và TĐ 34 BĐQ tăng viện đă đến và tái chiếm toàn Tỉnh lỵ..’
Tổn thất : Tử thương : 5 quân nhân Mỹ ; 49 binh sĩ VNCH.
CQ bỏ lại 85 xác.
● Các đụng độ tại Sông Bé sau 1965 :
- 29 tháng 9 - 1967 : QĐ Mỹ mở cuộc hành quân Shenandoah II sử dụng 2 Lữ
đoàn BB khai thông QL13, cuộc hành quân sau đó mở rộng sang địa phận B́nh
Long và Phước Long khi t́m được các bằng chứng SĐ 9 CQ đang sửa soạn tấn
công Thị xă Sông Bé
- 27 tháng 10 -1967 Trung ương Cục Miền Nam (COSVN) đă mở các đợt tấn công
nhằm vào khu vực B́nh Long-Phước Long. Tấn công vào một căn cứ do một TĐ
BB/SĐ5BBVN trấn đóng tại Đông-Nam Sông Bé. Khoảng 200 quân VNCH trấn giữ tại đây CQ bị đẩy lui nhờ sự yểm trợ oanh kích của KQHK. CQ bỏ lại 134 xác
và 2 cán binh bị thương, bị bắt. Quân VNCH tịch thu được 73 súng cá nhân, 10
súng cộng đồng và 3 súng phun lửa. VNCH có 12 tử trận. Những ngày sau
VNCH đưa 1 TĐ BĐQ và HK đưa TĐ1/ 18/ SĐ 1 HK vào tảo thanh khu vực
nhưng CQ đă chuyển về hướng Bố Đức nhưng cũng bị đánh tan..Các đơn vị nhỏ
của CQ tiếp tục các hoạt động quấy rối.. và tấn công vào Lộc Ninh..(LỊch sử
Kháng chiến chống Mỹ- 1954-75 Tập V - Th tá Nguyễn văn Minh)
- Ngày 6 tháng 11 - 1967 : các đơn vị của Tr/Đ 275 CSBV đă phục kích 1 ĐĐ BB
thuộc SĐ 5 BB VNCH đang hoạt động tại Nam Sông Bé, Quân tiếp viện VNCH
được gửi đến và CQ áp sát quân VNCH, nên KQ và Pháo binh không thể oanh
kích yểm trợ . Kết quả CQ bỏ lại 265 xác ; bên VNCH có 54 tử trận, 55 bị thương
và 15 mất tích (Periodic Intel Report No 45/II FPV). Tướng Weygand nghi ngờ
CQ có thể mở các cuộc tấn công quy mô hơn nên đưa 2 TĐ BB của SĐ 25 BB
Mỹ vào tảo thanh các khu vực quanh Thị xă Sông Bé..Sau hai tuần hoạt động
các TĐ này về lại đơn vị , nhưng ngay sau đó , thám kích đă t́m ra dấu vết của
TRĐ 271 CSBV vừa di chuyển vào khu vực ! và CQ tập trung quang Bù Gia Mập
một ấp bỏ hoang cách Sông Bé 28 km về phía Đông-Bắc.. có thể sửa soạn cho
một trận đánh mới vào Sông Bé ? Ngày 25 tháng 11 , Tr Đ 275 CSBV tấn công
thăm ḍ một trại quân của VNCH phía Nam Sông Bé..Trận đánh kéo dài 4 tiếng
và CQ rút lui bỏ lại gần 100 xác ! Sau đó cho thấy đây chỉ là trận cầm chân quân
VNCH khi CQ tấn công vào Bố Đức (29 tháng 11) !(Periodic Intel Report No 47
II/FFV) (Xin đọc bài Bù Đốp của Trần Lư)
- Trong năm 1967, SF mở thêm nhiều trại hành quân giữa những khu vực mật khu
của CQ và ven biên, dùng các lực lượng biệt kích lưu động (Mike force) và toán
thám sát hoạt động ngăn chặn các đường xâm nhập và chuyển vận quân và tiếp
liệu dùng Chiến khu D để di chuyển vào vùng ven đô Saigon. Các Trại có mục
đích lâu dài và gặp nguy hiểm nhất là Prek Klok và Tống Lê Chơn tại Chiến khu
C, trại Bunard (xem bài về Bunard của Trần Lư) tại Chiến khu D và các trại của
Sông Bé gây trở ngại cho các cuộc xâm nhập của CQ từ Kampuchea…
- Năm 1968 , CQ tránh các cuộc tấn công trực tiếp vào Tỉnh lỵ nhưng vẫn liên tục
quấy phá các Trại LLĐB thuộc Tỉnh .. Các lực lượng hậu cần của CQ như Đoàn
86,t́m cách tránh các đơn vị VNCH, dùng các đường ṿng..
-Ngày 26 tháng 2 : một toán Dân Sự Chiến Đấu (CIDG) từ Bù Đốp (A-341) đă
phục kích tại một địa điểm cách Tỉnh lỵ 32 km về phía Đông. Toán đă chặn đánh
một chiếc xe vận tải quân sự BV (Molotova 2.5 tấn). Xe chở đầy quân BV chạy
xuống phía Nam về vùng Kampuchea. Xe lọt ổ phục kích của CIDG và bị tiêu
diệt hoàn toàn : 17 CQ bị hạ, 2 bị thương ; tịch thu 16 vơ khí cá nhân và 2 súng
cộng đồng. Phía CIDG có 1 bị thương cùng 1 SF Mỹ.
-Ngày 28-2 Trại Bunard (A-344) bị pháo kích 20 quả 82 ly.. 15 CIDG bị thương.
- (Trong những tháng đầu năm 1965 , CQ đă xây dựng một con đường chiến lược
tại vùng phía Đông Sông Bé, có thể sử dụng cho xe vận tải, đường chạy từ biên
giới Miên đến gần QL 14.. KQ Việt Mỹ và các toán CIDG đă liên tục oanh kích và
ngăn chặn các cuộc chuyển vận của CQ..)

Ngày 16 tháng 3 : DSCĐ Bù Đốp tiếp tục phục kích CQ xâm nhập : tại 33 km
Đông-Bắc Tỉnh lỵ Sông Bé : 2 xe vận tải 3/4 tấn bị tấn công; CQ bỏ chạy vào
rừng, 2 xe bị hủy , bỏ lải 2 xác..
- Hành quân trực thăng vận ‘Tamatta Shanee' từ 23 đến 28 tháng 3, tảo thanh khu
vực Tây Nam Phước Long. Lực lượng hành quân tiến theo hai hướng..Cộng
quân tránh đụng độ. Phá hủy được nhiều kho tiếp liệu : 16000 lbs gạo trong bao
, 1 quả bom 500 lbs, 12 xe đạp thồ,.6 CQ bị hạ, 1 bị bắt cùng 30-40 hầm hố, lô
cốt bị san bằng..
- Nhiều đơn vị Hoa Kỳ đă từng trú đóng tại Sông Bé (Xem phần trên)
● Sông Bé : 1969
Năm 1969 có một vài trận đánh giữa CQ và lực lượng Hoa Kỳ trú đóng tại Phước
Long trong đó đáng kể nhất là trận đụng độ tại Căn cứ Hỏa lực Buttons .
Căn cứ hỏa lực Buttons (Fire Support Base=FSB) nằm về phía Bắc và hơi chếch về
phía Tây của núi Bà Rá (Phước Long), cách Phước B́nh 1.5 km về hướng Tây. Tỉnh lộ
310 nồi liền Sông Bé và Phước B́nh. Hai tỉnh lộ 310 (chạy Đông -Tây) và 311
(Bắc-Nam) gặp nhau tại Liên tỉnh lộ 1 A. Tỉnh lộ 310 nối FSB Buttons với phi trường
Sông Bé và FSB nằm ven lộ 310..Núi Bà Rá cách FSB Buttons chừng 1 km về phía
Nam. FSB Buttons là nơi đặt Bộ chỉ huy của TĐ 5/ 7 Không kỵ , tại đây có một pháo đội
6 khẩu 105 và nơi trú đóng của một lực lượng thám kích Delta. Pháo đội 105 yểm trợ
cho các cuộc hành quân của TĐ 5/7 Không kỵ và các toán thám kích Delta..TĐ 5/7 do Tr
tá Thomas Healy chỉ huy (ông này sau lên tướng HK) và sau đó FSB Buttons do Đ tá
Meyer chỉ huy (Tướng Meyer , năm 1980 là Tham Mưu Trưởng Lục quân HK)
CQ đă tấn công vào FSB Buttons ngày 4 tháng 11 năm 1969. CQ sử dụng 2 TĐ Đặc
công với trên 500 quân với ư định đột kích căn cứ cố gây tổn hại cho quân Mỹ và rút thật
nhanh. Ngay 1 giờ sáng sớm CQ pháo kích vào Căn cứ với đủ loại pháo 107, 120 và cối
82..và đặc công cắt rào xâm nhập.. Cuộc tấn công hoàn toàn thất bại trước hỏa lực rất
mạnh của các thiết quân vận ACAV và chiến xa Sheridan của TĐ 5/7 Không kỵ (mỗi
ACAV được gắn 1 đại liên 0.50 cal, với 1500 viên đạn, 2 đại liên M-60 với 12 ngàn viên
chưa kể M-79 , súng cá nhân.. ) CQ rút chạy lúc 5 giờ sáng sau khi gần như toàn bộ đặc
công CS xâm nhập bị bắn hạ, ngoài ra HK c̣n có thêm các trực thăng vơ trang và
AC-47 yểm trợ . CQ bỏ lại 172 xác, đổi lại phía Mỹ có 2 chết và 26 bị thương..
Các tài liệu tịch thu được ghi lại : CQ đă dùng Đoàn đạc công tinh nhuệ nhất của
COSVN- J-16 và 1 TĐ thuộc Tr Đ 141/SĐ 7 CSBV trong trận đánh
(Xin đọc thêm ‘Incursion" của J.D Coleman trang 165-166)
Ngày 14 tháng 11, 1969 , các đơn vị thuộc SĐ 7 CSBV đă tấn công vào Căn cứ hỏa
lực Jerri ( Đây là một Cứ điểm bảo vệ một băi đáp trực thăng và pháo binh, cách Trại SF
Bù Đốp khoảng 4 km, do vài đơn vị HK thuộc SĐ 1 Không kỵ trấn giữ). CQ pháo kích dữ
dội vào căn cứ bằng súng cối và hỏa tiễn trong suốt 30 phút. CQ rút chạy ngay khi quân
HK phản pháo .. Bên Mỹ có 5 quân nhân tử thương…
Các Căn cứ hỏa lực Buttons và Jerry sau này được quân đội HK trong cuộc tấn công
vượt biên giới qua đất Miên ngày 1 tháng 5 năm 1970

● Sông Bé : Hè 1972

Trong mùa Hè 1972 : Cộng quân tập trung lực lượng tấn công vào An Lộc (B́nh Long).
Khu vực lănh thổ trách nhiệm của SĐ 5 BB VNCH (Tư lệnh là Ch tướng Lê văn Hưng)
gồm các Tỉnh B́nh Dương, B́nh Long và Phước Long (Tỉnh trưởng là Đ/tá Lưu Yểm) :
Tại Phước Long có TĐ 1/9 đóng quân tại Bố Đức, chịu trách nhiệm bảo vệ Thị xă phối
hợp với ĐPQ và Nghĩa quân cơ hữu của T́nh..
CQ chỉ tấn công quấy rối Sông Bé, dùng các lực lượng địa phương phục kích các
đường lộ và pháo kích vào các cứ điểm pḥng thủ để cầm chân các lực lượng trú
pḥng.
● Sông Bé : Sau Hiệp định Paris
Hiệp định Paris được kư ngày 27 tháng Giêng 1973, các vùng đất CQ chiếm đươc
trong Trận Tổng tấn công Mùa Hè 1972 được xem là Vùng ‘giải phóng' Quân VNCH
không thể tấn công tái chiếm.
CQ kiểm soát hầu như toàn bộ Tỉnh B́nh Long, ngoại trừ Thị xă An Lộc và Cứ điểm
Chơn Thành. QLVNCH cố gắng khai thông QL13 phía Bắc Lai Khê nhưng việc tiếp tế
cho An lộc và Chơn Thành rất khó khăn và phải dùng không vận. CQ cũng kiểm soát
các vùng đất quanh Phước B́nh (Sông Bé), Thị xă của Phước Long !
Cho đến cuối năm 1972, CQ thay đổi các bố trí lực lượng : Sau An Lộc, CQ chỉ để lại
Tr/Đ 95 C trong khu vực; SĐ 18 BB VNCH giao việc pḥng thủ An Lộc lại cho BĐQ QK 3
(có 8 TĐ trong đó TĐ 92 lo pḥng thủ Căn cứ Tống Lê Chơn). CQ đưa Tr Đ 272 về vùng
quanh Bố Đức và vùng Tây Bắc Phước Long để phá rối, đồng thời dưỡng quân; Tr Đ
271 chuyển về Đông-Bắc Chơn Thành , chặn QL 13 giữa An Lộc và Chơn Thành, đồng
thời dự trú tấn công các Căn cứ Chí Linh (thuộc B́nh Long) và Đồng Xoài (thuộc
Phước Long). Các căn cứ này do ĐPQ trấn giữ và được tiếp tế bằng không vận. Đồng
Xoài được nối với Phú Giáo bằng QL 1A (Phú Giáo là căn cứ của Tr Đ 7 SĐ 5 VNCH).
Đầu tháng Giêng 1973, Tr Đ 7/5 hành quân khai thông QL và một đoàn xe tiếp tế đă đến
được Đồng Xoài, nhưng QL 14 phía Bắc Đồng Xoài vẫn bị chặn nên Thị xă Sông Bé và
các căn cứ quân sự tại Sông Bé phải tiếp vận bằng phi cơ và nếu dùng đường bộ phải
đi ṿng ngơ Quảng Đức..
Đề pḥng thủ Phước Long, Tr/Đ 9 /SĐ 5 BB VNCH đă đến trú đóng tại Sông Bé
Năm 1973 : là năm ‘Dành dân - Giữ đất’ (LandGrab) trước khi các bên kư Hiệp định
Đ́nh chiến : CQ lo củng cố các vùng họ đă chiếm đóng sau cuộc tiến công Hè 72. Bên
VNCH t́m cách lấy lại các xă ấp bị mất
QLVNCH vẫn cố giữ Sông Bé : một căn cứ pḥng thủ mới, được xây dựng thêm
cạnh phi trường. Việc chống giữ Sông Bé chỉ có giá trị ‘chính trị' v́ Sông Bé không phải
là một ‘tiền đồn' nhằm ngặn chống lại CQ trong các cuộc tiến công về Saigon.
Từ đầu năm 1974, TỈnh lỵ Sông Bé (Phước B́nh) chỉ nối kết với bên ngoài bằng đường
bộ qua ngă Kiến Đức (Tỉnh Quảng Đức) : đường rất xa và khúc khuỷu v́ qua nhiều vùng
đồi núi : từ Nha Trang đi Ban Mê Thuột, qua Gia Nghĩa đến Kiến Đức và rẽ về phía Tây
để đến Sông Bé : đoạn QL 14 lưu thông được nhờ quân trú pḥng tại Đức Phong canh
giữ (giữa Kiến Đức và Sông Bé). Có thể đi từ Đức Phong qua lối Bù Na để đến Sông
Bé nhưng không an toàn. Từ giữa tháng 3-74 đường 14 lưu thông từ Bắc Đồng Xoài
cũng bị cắt đứt.. Việc tiếp tế cho Sông Bé tùy thuộc vào khả năng của KQVNCH sử
dụng các C-130 A, Chinook và trực thăng UH-1.

- KQVNCH bị mất 2 chiếc C-130 A tại Phi trường Sông Bé :
- 18 tháng 12 năm 1974 : Chiếc S/N 55-000521 trúng đạn pháo kích khi đang
lên-xuống hàng . Phi cơ hư hại hoàn toàn . Phi hành đoàn : Th/tá Nguyễn Chánh
Mỹ và Tr/u Châu Vĩnh Khải vô sự và được trực thăng bốc về Biên Ḥa
- 25 tháng 12 năm 1974 : Chiếc S/N 55-0016 bị bắn hạ khi đang đáp
Trong thời gian đ́nh chiến, CQ đă lo xây dựng các kho tiếp liệu quân sự, các kho thực
phẩm, làm đường xá, thiết lập các ổ pḥng không. CQ đưa thêm các xe tăng..lập các
trung tâm huấn luyện tại khu vực Ḷ G̣ (Tây Ninh) và Bù Đốp (Phước Long)
CQ cô lập hóa Thị xă Sông Bé, dùng pháo các loại oanh kích và dùng bộ binh tấn
công các tiền đồn của VNCH dọc suốt 75 km đường lộ, kéo dài từ Phú Giáo đến Sông
Bé. CQ pháo kích phi trường Sông Bé và tấn công Đồng Xoài, cắt đường bằng phá cây
cầu bắc ngang sông Sông Bé
KQVNCH , trong các ngày 14 đến 22 tháng 11, 1974, đă tập trung 122 phi cơ khu
trục để oanh kích các vị trí pḥng không , pháo binh và kho hàng của CQ tại Phước
Long để ngăn chặn các cuộc tập trung quân của CQ trong vùng. Tại Bù Đốp ngàỵ 5
tháng 12 , KQ dùng 23 chiếc A-1 , 17 chiếc F-5 và 18 chiếc A-37 oanh kích phá hủy 45
ṭa nhà, 2 vị trí pḥng không, một kho đạn, kho xăng dầu gây nhiều đám cháy và nhiều
vụ nổ phụ
● Những diễn biến trước cuộc tấn công lấn chiếm Phước Long :
(Theo The Last Christmas : Phuoc Long của William E Le Gro trong ‘VietNam from
Cease-Fire to Capitulation , trang 132-133)
Tỉnh Phước Long, do vị trí khá xa Saigon nên không nằm trong các kế hoạch pḥng
thủ Saigon từ xa của Bộ TTM QLVNCH. Sau Hiệp định Paris (1973), Phước Long có là
‘biểu tượng chính trị' để cho thấy Phe Cộng không chiếm đươc ‘trọn’ một Tỉnh nào của
VNCH hơn nữa sự hiện diện của các ‘tiền đồn' VNCH trong các khu bị CQ chiếm vẫn là
những cái ‘gai' gây khó khăn cho CQ về cả chính trị lẫn quân sự Nhiều đơn vị hậu cần
và chiến thuật của Trung Ương Cục Miền Nam CSBV (COSVN) đă di chuyển vào các
khu vực an toàn tạm chiếm tại vùng đồn điền cao su Bố Đức- Bù Đốp. Bộ Chỉ huy Thiết
giáp M-26 của CQ, có 3 Tiểu đoàn xe tăng đóng tại Phi trường Bù Đốp , chỉ cách Căn
cứ quân VNCH tại Sông Bé có 25 km. Bộ Chỉ huy Công binh của COSVN cũng đặt tại
Bố Đức với 3 TĐ, mở rộng các đường lưu thông giữa Lộc Ninh và Bù Gia mập. Các TĐ
Pḥng không, Vận tải, Tiếp liệu.. di chuyển vào Khu tạm chiếm, nằm trong tầm bắn của
Pháo binh VNCH đóng tại Phước B́nh (Sông Bé). Ngoài ra 4 con đường tiếp liệu-xâm
nhập chiến lược của CQ, đi qua Phước Long, từ Bắc xuống Nam, ṿng qua các Cứ
điểm nơi quân VNCH trấn đóng và vượt các đoạn đường mà quân VNCH tuần tiễu !
Mùa Hè 1974 , Phước Long yên ổn. Tháng 8/1974 một hồi chánh viên, ra hàng tại
Tiểu khu Phước Long cung khai cho biết CQ đă gửi 2 toán trinh sát thăm ḍ các Căn
cứ của VNCH : một toán trinh sát Sông Bé và một toán thăm ḍ Đức Phong . V́ sau đó
không thấy CQ tấn công nên Đ tá Nguyễn Thống Thành, Tỉnh trưởng cho rằng các hoạt
động trinh sát này của CQ chỉ nhẳm mục đích t́m đường vận chuyển tiếp liệu quân sự
và lương thực.. hơn nữa theo tin tức t́nh báo th́ CQ chưa tập trung đủ quân trong vùng
để đe dọa trực tiếp Phước Long (?), tuy vẫn có thể gây trở ngại cho các cuộc di chuyển
của quân VNCH trên các đường lộ dẫn đến Tỉnh lỵ Sông Bé : như QL 14 đi Quảng Đức

và các tịnh lộ nối Sông Bé với Bù Na. SĐ 7 CSBV cắt đường giữa Buna đi Đồng Xoài
nên phải dùng lối Quảng Đức rất xa và nhiều trở ngại. Đồng Xoài chỉ nhận tiếp vận bằng
trực thăng ..
CQ đóng chốt liên tục trên QL 14, phía Đông Phước B́nh-Sông Bé nên quân VNCH
phải mở các cuộc hành quân khai thông mỗi khi muốn chuyển vận tiếp liệu và thực
phẩm vào Thị xă Sông Bé : Nhu cầu gạo của Tỉnh mỗi tháng khoảng 500 tấn, địa
phương chỉ tự canh tác được chừng 200 tấn, phần c̣n lại phải vận chuyển vào Tỉnh
bằng xe vận tải. Lực lượng trú pḥng giữ mức tồn trữ đạn đủ dùng trong 1 tuần trong
trường hợp đánh lớn và đạn dự trữ phải được cung cấp liên tục..VNCH phải dùng các
C-130 để phụ thêm cho nhu cầu..(xem tổn thất C-130 phần trên)
Để dự trù chuyến tiếp liệu vào tháng 11-1974, Đ tá Thành cho khai thông Quốc lộ.
Để bảo vệ các Cứ điểm trong lúc các đơn vị ĐPQ trú pḥng tham dự cuộc hành quân
mở đường, QĐ III, không c̣n quân BB trừ bị, đành gửi cho Phước Long 3 ĐĐ Trinh sát
, lấy từ quân số của 3 SĐ ( 5, 18 và 25 ) thống thuộc QĐ,
Các lực lượng ĐPQ của Đức Phong gồm TĐ 362 ĐPQ, 4 Trung đội Nghĩa quân, một
trung đội Pháo 105 phối hợp cùng 2 ĐĐ của TĐ 340 ĐPQ (Sông Bé) được rải dọc QL
14. Trong một cuộc đụng độ gần biên giới Quảng Đức, lực lượng này hạ được 4 CQ
thuộc Tr Đ 201 BV , tân lập (thuộc SĐ 3 CSBV cũng tân lập riêng cho Phước Long)..
Tuy cuộc hành quân mở đường thành công nhưng dấu hiệu có mặt của một Tr Đ CQ
trong vùng Đức Phong đă đặt một câu hỏi nghiêm trọng !
Ngoài hai TĐ 340 và 362 ĐPQ trên, Đ tá Thành c̣n có TĐ 341 ĐPQ tại Đồng Xoài và
TĐ 363 ĐPQ tại Bù Na, thêm vào đó là 34 Trung đội Nghĩa quân pḥng vệ cho các ấp
quanh Sông Bé , trong đó 14 Tr đội lo pḥng thủ 8 ấp thuộc Chi khu Đức Phong , 9 Tr
đội pḥng vệ các xă ấp quanh Đồng Xoài...Toàn Tỉnh được yểm trợ bởi 4 khẩu 155 và
16 khẩu 105..mỗi chi khu c̣n có 2 khẩu 105..
CQ chính thức tấn công Phước Long ngày 13 tháng 12, 1974 ..và Phước Long thất
thủ ngày 6 tháng Giêng 1975.

Trần Lư

hoanglan22
03-06-2020, 14:17
( Trích sách “Giải Mă Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam” của Bùi Anh Trinh )

CÁC TRẬN ĐÁNH NĂM 1975, (19) TRẬN KHÁNH DƯƠNG, NHỮNG LỜI BỊA ĐẶT TỒI BẠI

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1541356&stc=1&d=1583504164

Sổ tay chiến trường của Thiếu tá Phạm Huấn vào ngày 22-3-1975 :

“Rừng núi cao nguyên thật lạnh. Nhưng họ cũng đă quen sau những năm tháng dài trấn đóng và hành quân tại Miền Bắc Kontum trước đây. Các chiến sĩ Trung đoàn 40 và 2 tiểu đoàn Địa phương quân thiện chiến của Tiểu khu Phan Rang, luôn luôn trong t́nh trạng báo động trên chiến tuyến phía Tây mặt trận Khánh Dương. ( Thực ra chỉ có 1 tiểu đoàn ĐPQ nhưng đă chết hết một nửa sau 5 ngày tử chiến với quân CSVN từ Ban Mê Thuột ).

“Đúng 7 giờ 30 sáng, một trận địa chấn kinh hồn. Hàng ngàn, nhiều ngàn trái đại bác của địch nă vào như “bắn hiệu lực” trên tuyến pḥng thủ. Sau đó là chiến xa và biển người.

Sư đoàn F 10 Cọng sản Bắc Việt dốc toàn lực lượng với chiến xa, pháo binh quyết rửa cái nhục chiều ngày hôm qua. Khoảng 40 phút, các lực lượng pḥng thủ phía Tây Khánh Dương gồm gần nửa quân số Trung đoàn 40, Sư đoàn 22 Bộ binh và 2 tiểu đoàn Địa phương quân Phan Rang, tan ra từng… mảnh nhỏ.” ( Phạm Huấn, Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên, trang 199 ).

Lúc đó Tiểu đoàn 231/ĐPQ đang nằm trong ṿng đai pḥng thủ BCH quận Khánh Dương và Tiểu đoàn 2/40 BB cách quận 5 cây số về hướng BMT. Nghĩa là Quận lỵ Khánh Dương bị tràn ngập từ phía BMT và từ trong rừng phía Nam BCH Chi khu. Thế nhưng sau đó Phạm Huấn lại ghi tiếp :

“ 10 giờ, Chi khu Khánh Dương di tản v́ bị Việt Cộng tràn ngập (!). Đây là màn dàn cảnh của Quận trưởng Khánh Dương : Cho em út thuộc Tiểu đoàn 272 Địa phương quân Khánh Ḥa bắn súng cối vào hàng rào pḥng thủ quận rồi bỏ chạy. Tiểu đoàn 63 pháo binh sau đó, vào quận kéo 2 khẩu đại bác 105 ly đi, không thấy có Việt Cọng. Tướng Phú ra lệnh truy tố Quận trưởng Khánh Dương, nhưng sau đó lại bỏ (!)…”

Nghĩa là vào lúc 10 giờ sáng ngày 22-3-1975 Chi khu Khánh Dương vẫn c̣n nguyên sau khi đă tan ra từng mănh nhỏ vào lúc 7 giờ 30 sáng !?.Đây chỉ là suy diễn bệnh hoạn của Thiếu tá Huấn từ chuyện kéo 2 khẩu súng :

Nguyên do khi quân CSVN pháo vào phi trường và BCH/Chi khu th́ cũng là pháo vào 2 khẩu 155 ly ( không phải 105 ly như tài liệu của Phạm Huấn ). Đây là 2 khẩu pháo duy nhất được đặt trong ṿng rào BCH/Chi khu. Cho nên khi vừa dứt pháo th́ Chi khu cho lệnh di tản bởi v́ toàn Chi khu bị tràn ngập mà tại quận Khánh Dương không c̣n dân mà cũng không c̣n lính. Các pháo thủ nhảy theo các loại xe trong chi khu để di tản. Riêng ông trung đội trưởng pháo binh cũng lên xe jeep dông theo đoàn di tản.

Đến 9 giờ ngớt pháo, t́nh h́nh có vẻ yên ắng th́ cả đám mới phát hiện ra 10 khẩu 105 ly được kéo về M’Drak an toàn, riêng ông trung đội trưởng Pháo binh 155 ly bỏ chạy mà chưa phá hủy 2 khẩu súng. Bắt buộc ông phải mon men trở lại để c̣n kịp th́ kéo súng đi, c̣n không kịp th́ hủy súng chứ không sẽ bị ra ṭa.

Hỏi thăm những người chạy sau cho biết quân CSVN từ Ban Mê Thuột đang c̣n đánh nhau với 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 40 BB cách BCH Chi khu 5 cây số, và Tiểu đoàn 231 đang c̣n cầm cự trên đồi sau lưng BCH Chi khu cho nên sĩ quan trung đội trưởng của 2 khẩu 155 ly đem GMC về kéo súng. Hai khẩu 155 được kéo về đầu đèo M’Drak an toàn. Lúc đó BCH hành quân của Sư đoàn 23 BB tại đầu đèo M’Drak mới báo về BTL Quân khu 2 là cho tới 10 giờ sáng quân CSVN cũng chưa tới BCH Chi khu Khánh Dương.

Những ông quan “ngồi lê đôi mách” ở hậu phương

Trong khi sự thật là bắt đầu từ 7 giờ sáng, cứ thêm 1 phút là thêm xác chết của binh lính của Trung đoàn 40 BB và Tiểu đoàn 231/ĐPQ ngă xuống tại chiến trường phía Tây BCH Chi khu Khánh Dương. Sở dĩ quân CSVN chưa vào được BCH Chi khu là v́ đang bị chận lại bởi các tiểu đoàn Bộ binh của Trung đoàn 40 BB và Tiểu đoàn 231/ĐPQ.

Di hại của trí tưởng tượng của Phạm Huấn là người đời đọc sách của ông ta luôn luôn có ấn tượng không tốt về tinh thần làm việc của quân lực VNCH, toàn là cấp trên lừa cấp dưới, cấp dưới dối trá cấp trên, không có luật lệ, không có kỷ cương, muốn báo cáo sao th́ báo, muốn truy tố ai th́ truy tố, chẳng cần bằng chứng, chẳng cần nhân chứng.

Có thể nào có chuyện báo cáo láo và truy tố ẩu hay không? Không thể nào có được, bởi v́ hệ thống chỉ huy của quân đội của bất cứ nước nào cũng có những biện pháp ngăn ngừa t́nh trạng này:

Theo huấn thị điều hành căn bản của Bộ TTM/QL.VNCH th́ mỗi trung tâm hành quân ( cấp trung đoàn trở lên hoặc cấp chi khu trở lên ) phải có một cuốn sổ lớn để ghi lại diễn tiến từng giờ từng phút mọi biến cố xảy ra trong khu vực trách nhiệm, bắt buộc phải ghi đúng ngay lúc sự việc đang xảy ra, nhằm tránh trường hợp có xảy ra lỗi lầm nhưng chối lỗi. Quyển sổ đó được gọi là “sổ nhật kư hành quân”.

Không thể có chuyện tẩy xóa hay viết lại những trang ghi chép trong sổ nhật kư hành quân bởi v́ mỗi trang giấy trắng của quyển sổ đều được đóng dấu giáp lai (giữa hai trang giấy) và trên mỗi con dấu đều có chữ kư của Đơn vị phó, nhằm tránh t́nh trạng viết lại trang nhật kư hoặc ngụy tạo bằng một trang giấy khác. Sở dĩ phải do ông đơn vị phó kư là để đề pḥng trường hợp chính đơn vị trưởng phạm lỗi rồi sai nhân viên xé trang cũ, viết trang khác để chạy tội.

Thiếu tá Huấn chỉ là một nhà báo được học căn bản về quân sự nhưng không rành về chỉ huy tham mưu cho nên ông có rất nhiều tưởng tượng của những người không rành về quân đội. Ngay việc ông gọi quyển sổ tay ghi chép của ông là “Nhật kư hành quân” cũng không đúng; sổ của ông được gọi là “sổ tay chiến trường” của phóng viên báo chí. Riêng chuyện Khánh Dương tan nát rồi sau đó Khánh Dương c̣n nguyên đủ chứng tỏ Phạm Huấn ghi lại không đúng thời gian, chuyện xảy ra trước đựợc ghi lại sau trong khi chuyện xảy ra sau được ghi trước.

Do v́ không sắp đặt theo thứ tự thời gian và không ghi đầy đủ diễn tiến của t́nh h́nh cho nên Phạm Huấn bị ảnh hưởng bởi trí tưởng tượng vô tư của những người ngồi trên các quán cà phê vĩa hè. Trong khi con người ta đang chết từng giờ từng phút trên chiến trường th́ mấy quan ngồi tại hậu phương tha hồ tưởng tượng. Nội chuyện phi trường KD bị tấn công trở thành không bị tấn công, và Tiểu đoàn 231/ĐPQ biến thành Tiểu đoàn 272/ĐPQ là những điển h́nh .

Ngoài ra “2 tiểu đoàn thiện chiến của Phan Rang” mà Phạm Huấn viết cũng chỉ là bịa đặt. Sự thực Tiểu Đoàn 250/ĐPQ của Phan Rang đă bị đánh tan trong ngày 12-3, tức là trước đó 10 ngày. Khi Tiểu đoàn 231/ĐPQ lên đường đi Khánh Dương vào sáng sớm ngày 14-3 th́ nguyên thành phố Phan Rang như một đám tang : Gia đ́nh, thân nhân của Tiểu đoàn 250 đứng dọc theo Quốc lộ 1 để đón các chuyến xe từ Nha Trang tới, mong t́m xem có thêm người nào sống sót được trở về hay không.

C̣n “tiểu đoàn thiện chiến 231/ĐPQ” th́ trong ngày 22-3 chỉ là 180 “tàn binh” mệt mỏi và xuống tinh thần sau 5 ngày tử chiến với quân CSVN từ Ban Mê Thuột. Lẽ ra họ phải được đưa về tuyến sau để nghỉ ngơi và lấy lại hồn, nhưng họ vẫn phải tiếp tục đứng trên tuyến đầu bởi v́ các quan ngồi tại hậu phương cho rằng họ là “2 tiểu đoàn thiện chiến” c̣n nguyên khí thế ! ( hai tiểu đoàn khoảng 1.000 người ).

Nhưng rồi chỉ trong ṿng 40 phút tự nhiên 1.000 chiến binh của Sư đoàn 22 BB và 1.000 chiến binh thiện chiến của Phan Rang “tan ra… từng mảnh nhỏ”, không thấy nói đánh như thế nào và tan như thế nào (sic).

Lời bịa đặt dựa theo trí tưởng tượng bệnh hoạn

Sự vô tâm của Thiếu tá Phạm Huấn càng nặng hơn nữa khi ông ghi chuyện này vào trong tác phẩm của ông với đánh giá riêng của cá nhân ông : “Trong những ngày sôi bỏng của mặt trận Khánh Dương, Nha Trang, hôm ông Quận trưởng Khánh Dương cho lính địa phương quân bắn súng cối vào gần hàng rào pḥng thủ, rồi báo cáo quận bị Việt cộng tràn ngập, và rút lui. Tướng Phú giận lắm, định cách chức Tỉnh trưởng Nha Trang và truy tố Quận trưởng Khánh Dương ra ṭa án mặt trận.

Nhưng rồi buổi tối, bà Đại tá Lư Bá Phẩm, vợ Tỉnh trưởng Nha Trang, tới gặp bà Phú… một lát, Tướng Phú lại đổi ư kiến”.

Đây là lối suy luận của những kẻ ngồi lê đôi mách trên vĩa hè chứ không phải là của một thiếu tá thuộc binh chủng Nhảy dù từng tốt nghiệp trường vơ bị Đà Lạt. Nếu quả thật ông Quận trưởng Khánh Dương có làm chuyện đó th́ Tỉnh trưởng Lư Bá Phẩm sẽ là người có trách nhiệm truy tố ông quận trưởng ra trước ṭa án binh chứ đâu phải là ông Tướng Phú. Bởi v́ ông Quận trưởng thuộc quyền quản lư của Bộ Nội vụ chứ không phải của Bộ Quốc pḥng.

C̣n muốn cách chức Tỉnh trưởng th́ chỉ có Tổng thống hay Bộ trưởng bộ Nội vụ bởi v́ những Tỉnh trưởng của những tỉnh quan trọng do Tổng thống bổ nhiệm, những tỉnh nhỏ do Thủ tướng ( Kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ ) bổ nhiệm. Trong Vùng 2 có 5 ông Tỉnh trưởng do Tổng thống bổ nhiệm, đó là các ông Hoàng Đ́nh Thọ, Lư Bá Phẩm, Trần Văn Tự, Ngô Tấn Nghĩa và Nguyễn Hợp Đoàn.

Vả lại từ ngày 17-3-1975 Tướng Phú đă giao Chi khu Khánh Dương thuộc quyền chỉ huy của Đại tá Đức, Tư lệnh Sư đoàn 23 BB, vậy nếu có kỷ luật th́ kỷ luật Đại tá Đức chứ sao lại kỷ luật Đại tá Phẩm? Không lẽ Phạm Huấn không biết về hệ thống chỉ huy trong quân đội ?

Đúng là lúc 10 giờ sáng ông Tướng có nổi giận đ̣i truy tố ông Chi khu trưởng bởi v́ ông nhận được báo cáo là Chi khu KD c̣n nguyên. Nhưng sau đó ông Tướng bỏ qua bởi v́ người ta tiếp tục báo cáo cho ông rằng 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 40 và Tiểu đoàn 231/ĐPQ đă tan ră. Bộ chỉ huy Sư đoàn 23 của Đại tá Lê Hữu Đức và BCH Trung đoàn 40 BB của Trung tá Nguyễn Thành Danh cũng rút khỏi Khánh Dương trước Thiếu tá B́nh. Vậy th́ lấy bằng cớ nào mà ông Tướng có thể truy tố ông Thiếu tá B́nh ?

Chuyện đ̣i cách chức Đại tá Phẩm v́ tội của ông Quận trưởng B́nh là chuyện phi lư. Rồi chuyện bà Phẩm đi gặp bà Phú để chạy tội cho ông B́nh lại càng vô lư hơn, rồi ông Tướng Phú cho vợ nhận tiền của bà Phẩm để tha cho ông B́nh lại càng vô lư hơn nữa. Mọi chuyện xảy ra trong lúc dầu sôi lửa bỏng, các nơi đều di tản, loạn lạc. Ai hơi đâu mà chạy tiền giữ chức? Nhất là chức quận trưởng của cái quận đă lọt vào tay quân Cọng sản?!

Trong khi Thiếu tá Phạm Huấn là tay chân thân tín của Tướng Phú đă nói ra th́ ai mà không tin? Giờ đây Tướng Phú đă chết th́ Huấn có quyền phịa vô tội vạ v́ biết mọi người không ai c̣n mặt mũi nào mà phản bác. Nhưng Huấn không hề nghĩ tới rằng vợ con của những nạn nhân oan ức sẽ phải đau ḷng suốt đời v́ những bịa đặt hạ cấp của ông ta.

BÙI ANH TRINH

Chú thích của người viết

Năm 1996 tôi đến Mỹ theo diện tị nạn chính trị. Việc đầu tiên là tôi t́m tài liệu để giải mă trận Khánh Dương mà chính tôi có tham dự dưới quyền chỉ huy của Thiếu tướng Phạm Văn Phú. Thời đó, 1996, th́ quyển sách “Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975” của Thiếu tá Phạm Huấn là một tài liệu ăn khách nhất v́ tính cách khả tín của nó.

Nhưng tôi hoàn toàn thất vọng khi lật từng trang của tài liệu này. Tất cả chỉ là những suy diễn bệnh hoạn dựa trên một số những ghi chép “không đầu không đuôi” của Phạm Huấn. Ngoài ra ông ta cũng đă ranh mănh dựa theo những tài liệu nổi tiếng thời sau 1975 như sách Đại Thắng Mùa Xuân của Văn Tiến Dũng, sách Decent Inteval của Frank Snepp, sách The Final Collapse của Cao Văn Viên, và sách The Palace File của Nguyễn Tiến Hưng.

Điển h́nh nhất là chuyện bịa đặt trắng trợn về Tiểu đoàn 231/ĐPQ của chúng tôi. Cũng may là kẻ gian không được thông minh cho nên ông ta nói trước hở sau, cái sau đá cái trước. Do đó nếu muốn chứng minh th́ chỉ cần trích dẫn những ǵ do chính ông ta viết.

Không phải là tôi chủ tâm lật mặt Thiếu tá Huấn để rửa mặt cho chúng tôi, nhưng tôi muốn nhân vụ này để làm đầu cầu bác bỏ những lời vu oan độc địa của Phạm Huấn đối với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Chuẩn tướng Phạm Duy Tất…

Ngoài ra tôi cũng không muốn những lời bịa đặt tồi bại lại được hậu thế lấy làm căn bản cho các tài liệu lịch sử nói về các trận đánh cuối cùng của Quân đoàn II. Con cháu đời sau đi t́m hiểu sự thực về VNCH qua tài liệu của Phạm Huấn sẽ thấy chế độ VNCH là một chế độ thối nát. Ở phía trước các ông chồng làm tư lệnh quân đoàn, làm tỉnh trưởng; c̣n ở phía sau các bà vợ ăn tiền chạy chọt ! Đúng như những ǵ CSVN đă dạy cho học sinh Việt Nam (sic).

Có nhiều người đă cản tôi lật mặt Phạm Huấn với lư do lịch sử đă sang trang (sic). Tôi có thể bỏ qua những ǵ đă bị chôn lấp bởi thời gian, nhưng tôi không chấp nhận lịch sử viết sai về chúng tôi, về chế độ VNCH. Giờ đây tôi chỉ nói về những bịa đặt hạ cấp do chính Phạm Huấn viết ra trong sách của ông ta chứ tôi không đưa ra những nhận xét về tư cách tồi tệ của Phạm Huấn do những nhân vật trong cuộc kể lại cho báo chí.



CÁC TRẬN ĐÁNH NĂM 1975, (20) TRẬN LIÊN TỈNH LỘ 7, LỆNH TRIỆT THOÁI

( Trích sách “Giải Mă Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam” của Bùi Anh Trinh )

Tại sao phải bỏ Pleiku, Kontum ?

– Tài liệu của CIA :

Ngày 16-8-1974, Tư lệnh quân đội HK tại VN John Murray họp buổi họp chót với Tướng Cao Văn Viên và một số tướng lănh của Bộ TTM. John Murray khuyên Tướng Viên nên liệu cơm gắp mắm, tùy theo mức viện trợ quân sự của Mỹ, gấp rút lên kế hoạch sẵn sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2, và cả Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4. Sau bổi họp này th́ John Murray giải ngũ, trở về Hoa Kỳ ( Frank Snepp, Decent Interval, 1977, trang 95 )..

– Tài liệu của Cơ quan Vện trợ Quân sự Hoa Kỳ ( DAO, hậu thân của MACV ) :

Nếu mức viện trợ là 750 triệu th́ khả năng tác chiến của quân VNCH : Không. Khả năng kiểm soát vùng sôi động của quân VNCH : Không. Khả năng tấn công của quân VNCH : Không.

Nếu mức viện trợ quân sự là 600 triệu th́ quân VNCH chỉ c̣n khả năng tác chiến tại Vùng 4 và Sài G̣n nếu bỏ hẵn các vùng khác.

( Nguyễn Tiến Hưng, Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập, 1986, phụ lục C trang 753, xem ảnh đính kèm cuối bài viết ).

– Tài liệu của Tướng Cao Văn Viên :

Ngày 11-3-1975 Tướng Thiệu mời các Tướng Khiêm, Viên, Quang ăn sáng tại dinh Độc Lập và sau đó tŕnh bày ư định muốn cắt bỏ bớt lănh thổ cho vừa với mức viện trợ quân sự của HK vào năm 1975 :

“Quyết định của Tổng thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đă suy xét thận trọng. H́nh như Tổng thống Thiệu đă ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ ông chỉ thổ lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng…”

“… Tổng thống Thiệu phác họa sơ : …Một vài phần đất quan trọng đang bị Cọng sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi giá… …Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại… …” ( Cao Văn Viên, The Final Collapse, 1983, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131 ).

“…VNCH không c̣n hy vọng nào. Một thực tế gần như hiển nhiên là HK không muốn cuộc chiến tiếp tục, và biểu quyết viện trợ để VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với HK, cuộc chiến Việt Nam đă kết thúc” ( trang 132 ).

Những lời cáo buộc tồi bại

Những đoạn tài liệu trích dẫn trên đây đă giải thích rơ v́ sao Tổng thống Thiệu phải quyết định bỏ Kontum-Pleiku. Cả ba tài liệu này đều được đưa ra công chúng trước năm 1986. Nhưng v́ thời đó các phương tiện truyền thông của người Việt tị nạn do Mỹ tài trợ muốn hướng sự oán hận mất nước vào cá nhân Tổng thống Thiệu ( Để quên đi tội bỏ rơi của Mỹ ), cho nên tất cả sách báo đều giả lơ như không biết v́ sao Nguyễn Văn Thiệu lại quyết định bỏ Cao Nguyên. Thậm chí Đại tá CIA Lê Khắc Lư c̣n tuyên truyền rằng Tổng thống Thiệu bỏ cao nguyên để “tháu cáy” Mỹ.

Trích bài viết “Tổng thống Thiệu và cuộc triệt thoái cao nguyên năm 1975” của tác giả Trọng Đạt :

“Cách đây khoảng nửa năm, trong một lần tiếp xúc Đại tá Lê Khắc Lư có nói ông nghi ngờ TT Thiệu rút bỏ Cao nguyên để tháu cáy Mỹ nhưng thất bại và ông có gợi ư tôi viết về chủ đề này ….Đại Tá Lư nói … ông đă học nguyên tắc chiến thuật (tactical) căn bản ngoài chiến trường là luôn luôn chiếm giữ “high ground” (vùng cao) để chế ngự các vùng đất chung quanh”.

“Nhưng khi giảng, “thầy” cũng có nói nguyên tắc này cũng áp dụng cho “chiến lược” (strategy) nữa. Trong trường hợp Quân đoàn 2 của ta hồi 1975, ông nghĩ là đúng với nguyên tắc này. Ông cho rằng quyết định bỏ cao nguyên là sai lầm. Rồi từ vùng đất thấp là vùng duyên hải sẽ đánh ngược lên để gọi là “tái chiếm Ban Mê Thuột” là chuyện quá khó nếu không nói là “không tưởng”.

“Tóm lại TT Thiệu đă sai lầm về chiến thuật chiến lược khi ban lệnh lui binh xuống đồng bằng duyên hải để từ đó lên tái chiếm Ban Mê Thuột”.

Chỉ có những người ngoài quân đội mới bị mắc bịp, chứ bất cứ ai đă từng qua trường Hạ sĩ quan hay trường Sĩ quan đều biết rằng đây là một nguyên tắc sơ đẵng của chiến thuật ( Không phải là chiến lược ). Bất cứ một người Hạ sĩ quan tiểu đội trưởng nào cũng phải biết chọn địa thế đóng quân cho tiểu đội là vùng đất cao khống chế địa thế xung quanh. Đặt một khẩu đại liên hay trung liên cho tiểu đội cũng phải tôn trọng nguyên tắc này. Và xưa nay người ta lập đồn bót đều lập trên cao chứ không ai lựa dưới trũng.

Trong khi đó Đại tá Lư lại nói cho các nhà báo rằng Tổng thống Thiệu bỏ trên cao chạy xuống thấp ( triệt thoái cao nguyên ) rồi từ dưới thấp đánh lên cao ( tái chiếm BMT ) là một sai lầm chiến lược… (!)

Có lẽ các ông tướng dạy môn chiến lược cho Lê Khắc Lư tại trường Cao Đẵng Quốc Pḥng cũng phải ph́ cười. Bởi v́ đối với chiến lược th́ giữ địa bàn trên cao sẽ thất thế hơn nếu bị triệt tiếp tế ( Bị bao vây cô lập ). T́nh thế của Quân đoàn II vào tháng 3 năm 1975 đă trở thành bất lợi khi quân CSVN đă triệt hết mọi đường tiếp tế cho cao nguyên.

Một thí dụ điển h́nh là tháng 1 năm 1954 quân Pháp trấn giữ cao nguyên Pleiku với 4 liên đoàn bộ binh là Binh đoàn 100 Lê Dương ( Mới từ chiến trường Triều Tiên về Việt Nam ), Liên đoàn 11 Nam Việt, Liên đoàn 41 Sơn Cước, và Liên đoàn 42 Sơn Cước. Trong khi đó B́nh Định và Phú Yên thuộc quyền kiểm soát của Việt Minh từ năm 1945 cho nên tuyến tiếp tế cho Pleiku phải từ Lào qua. C̣n Quốc lộ 14 đă bị quân Việt Minh chặn tại Dak Nong.

Tháng 6 năm 1956, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, quân của Sư đoàn 325 CSVN đánh Lào chặn đường tiếp tế cho Pleiku. Tướng Navard cho lệnh rút Binh đoàn 100 từ An Khê, ( giữa B́nh Định và Pleiku ) về giữ Pleiku. Ngày 24-6-1954 trên đường về Peiku Binh đoàn 100 Lê Dương bị phục kích tại đèo Mang Yang và bị đánh tan. Đồng thời quân CSVN từ B́nh Định tiến lên An Khê tấn công Liên đoàn 11. Liên đoàn 11 Nam Việt cũng bị đánh tan.

Rơ ràng quân Pháp ở trên cao nhưng hoàn toàn thất thế v́ bị triệt tiếp tế. Trong trường hợp Tướng Thiệu rút 1 Sư đoàn Bộ binh, 7 Liên đoàn BĐQ ( Tương đương 2 sư đoàn ), 2 trung đoàn tăng và 1 trung đoàn pháo từ Pleiku, Kontum để tái chiếm Ban Mê Thuột cũng là nằm trong tính toán là quân VNCH đông hơn, vũ khí mạnh hơn sẽ áp đảo được quân CSVN. Bằng chứng năm 1972 chỉ cần Sư đoàn 23 BB đủ đánh tan 3 sư đoàn Bắc Việt tại Kontum.

Lê Khắc Lư có bằng Cao Đẵng Quốc Pḥng mà cả đời chẳng bao giờ viết một bài phê b́nh về chiến thuật, chiến lược…! Lại đi “mớm” chiến thuật chiến lược cho các nhà báo để súi họ viết về chiến thuật chiến lược của Tướng Thiệu trong khi Tướng Thiệu được phóng viên chiến trường nổi tiếng thế giới là Oriana Fallaci đánh giá là 1 trong 10 tướng tài giỏi nhất thế giới.

Tại sao không cho Mỹ biết ?

Tài liệu của CIA : “Lư cho Nicol biết ngày mai 14/3 tướng Phạm Văn Phú sẽ họp với tổng thống Thiệu tại Cam Ranh. Buổi họp được giữ kín và máy bay của tướng Phú sẽ đi Qui Nhơn trước để đánh lạc hướng. Lư hứa với Nicol có tin ǵ sau khi Phú đi họp về Lư sẽ cho hay” ( CIA và Các Ông Tướng, Bản dịch của Trần B́nh Nam ).

Đại tá Lư là một điệp viên của CIA, được Tướng Cao Văn Viên đưa vào làm tham mưu trưởng của Tướng Phú. Lần này Tổng thống Thiệu muốn đánh lạc hướng theo dơi của CIA nhưng không ngờ mật thám của CIA đứng ngay sau lưng Tướng Phú.

Tài liệu của Thiếu tá Phạm Huấn, Tùy viên báo chí của Tướng Phạm Văn Phú : “Để bảo mật cho chuyến đi của ông Thiệu, nên đă không có một chuẩn bị nào tiếp đón ông và phái đoàn. Ngay cả một cái thang cao dùng cho loại máy bay lớn DC.6, DC.4 cũng không có.

Chiếc “biệt thự bay” tiến vào chỗ đậu. Một chiếc xe jeep được lái tới sát bên. Ông Thiệu và các tướng Khiêm, Viên, Quang lần lượt… “tụt” bằng đít khỏi chiếc DC.6 rồi bước lên mui xe !” ( Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên, trang 80 ).

Để giấu ai mà các nhà lănh đạo VNCH phải khổ sở như vậy ? Chắc chắn không phải để che mắt báo chí hay CSVN, bởi v́ che mắt báo chí hay CSVN th́ không cần giấu CIA. Nhưng đằng này giấu cả CIA th́ có nghĩa là không cho Mỹ biết.

Vấn đề c̣n lại là tại sao không cho Mỹ biết ? Câu trả lời là nếu Mỹ biết th́ những người Miền Núi ở Tây Nguyên sẽ biết, và họ sẽ không để yên cho quân đội VNCH bỏ rơi họ.

Ngày nay lịch sử c̣n lại lời chứng của Tướng Phạm Duy Tất : Chuẩn tướng Tư lệnh phó Quân đoàn 2 Trần Văn Cẩm hỏi : “ C̣n các tỉnh trưởng, lực lượng địa phương và dân chúng có tổ chức cho họ rút không?”. Phú trả lời: “Theo lệnh ông Thiệu, bỏ lực lượng này lại, không được thông báo cho các tỉnh trưởng, cứ để họ tiếp tục chống giữ. Khi chúng ta rút xong, ai biết th́ biết. Địa phương quân toàn là người Thượng th́ trả chúng về với cao nguyên” ( Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân, Việt Nam thư quán ).

Dĩ nhiên khi Tổng thống Thiệu ra lệnh bỏ người Thượng lại Cao Nguyên th́ ông và các tướng Khiêm, Viên, Quang, Phú đều biết rằng lực lượng địa phương là 45 ngàn cựu Biệt kích Mỹ ( CIDG, Dân Sự Chiến Đấu ). Sau khi quân Mỹ rút đi th́ 45 ngàn quân này trở thành Địa phương quân và Biệt động quân Biên pḥng. Danh tính 4 liên đoàn Biệt động quân Biên pḥng của Quân khu II xuất thân từ Biệt kích Mỹ là Liên đoàn 21, Liên đoàn 22, Liên đoàn 24, và Liên đoàn 25 BĐQ.

Người Mỹ và lực lượng chiến đấu người Miền Núi có quan hệ với nhau như thế nào mà Tướng Thiệu không muốn cho người Mỹ biết ? Tài liệu của Nguyễn Tiến Hưng ( sau nhiều cuộc phỏng vấn cựu Tổng thống Thiệu ) cho biết :

“…năm 1960 khi CIA ( Cơ Quan T́nh Báo Trung Ương Hoa Kỳ ) và Lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ gởi người lên Cao Nguyên tổ chức và vơ trang dân Thượng chống CS Bắc Việt. Người Mỹ cung cấp dược phẩm, súng đạn, thực phẩm, và xử sự như giới trung gian giữa người Việt và người Thượng…” ( Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập trang 444 ).

“Để bảo vệ an ninh cho cuộc rút lui này, ông Thiệu ra lệnh bảo mật tối đa, để các lực lượng địa phương, phần lớn là dân Thượng, không biết trước về vụ này….Ngay sau khi 200 chiếc xe vận tải đầu tiên rời khỏi Pleiku đă được tung ra khắp tỉnh. Đám người Thượng thấy ḿnh bị bỏ rơi bèn quay mũi súng về đoàn quân đang tháo lui…” ( trang 449 ).

Vậy th́ đă rơ, nguyên nhân của việc tạm giấu người Mỹ là v́ người Mỹ có trách nhiệm với các dân tộc Miền Núi cho nên họ sẽ không chấp nhận chuyện bỏ rơi người Miền Núi, chắc chắn họ sẽ thông báo cho các lực lượng cựu Biệt kích Mỹ biết để họ tự lo cho dân tộc của họ. Dĩ nhiên một khi các lực lượng vũ trang của người Miền Núi tự lo th́ chỉ c̣n có cách là bắt giữ các sĩ quan và công chức người Kinh làm con tin, để làm áp lực buộc chính phủ Sài G̣n không được bỏ rơi họ.

Cái chết của nhà báo Paul Leandri

Tại Sài G̣n, một nhà báo nổi tiếng của Pháp là Paul Leandri đă nhanh chóng loan tin tàn sát cấp chỉ huy người Kinh ra toàn thế giới cho nên ông ta bị bắt ngay và bị bắn chết trong một đồn cảnh sát. Cơ quan CIA ( Frank Snepp ) loan tin rằng ông ta bị bắn do chạy ra một chiếc xe toan trốn khỏi nơi bị giam. Tuy nhiên không ai tin rằng một nhà báo gạo cội lại ngu xuẩn đến như vậy. Chính tin tức mà ông muốn loan đă hại ông ta :

Sở dĩ Leandri bị giết bởi v́ trong khi mà 3 Liên đoàn Biệt Động Quân gốc Biệt kích Mỹ thanh toán các cấp chỉ huy người Kinh th́ cùng lúc đó, tại Sài G̣n, cơ quan CIA đang cho th́ hành kế hoạch di tản người Mỹ ra khỏi Việt Nam.

Nhưng tin tức của Paul Leandri nếu được lan truyền sẽ tạo thành một làn sóng tâm lư, rủ nhau thanh toán người Mỹ một khi các quân nhân Việt Nam thấy người Mỹ bỏ chạy. Nhất là các quân nhân thuộc Lực Lượng Đặc biệt Việt Nam; họ sẽ suy ra ai đă lập ra Lực lượng Biệt kích Mỹ mà rốt cuộc th́ đồng đội của họ phải nhận lănh mọi sự trả thù của các quân nhân người Thượng. Và nay tới phiên người Mỹ rút chạy th́ họ cũng sẽ bị thanh toán. Đó là ngón đ̣n dành cho kẻ phản bội.

Theo biên bản xét nghiệm tử thi của bệnh viện Grall th́ Leandri bị bắn bằng một phát đạn kê sát mang tai bắn lên. Và theo một bài tùy bút của giáo sư Nguyễn Ngọc Bích th́ Leandri bị Đại tá cảnh sát Phạm Kim Qui bắn chết rồi bắt Việt Tấn Xă phải loan tin theo như báo cáo của đồn cảnh sát.

Cũng theo sách của Frank Snepp th́ giám đốc CIA tại Sài G̣n là Polgar đă được Đại sứ Pháp gọi đến Ṭa đại sứ Pháp vào giữa khuya hôm đó để “nói chuyện phải quấy”. Điều này chứng tỏ CIA là người chịu trách nhiệm về cái chết của Leandri chứ không phải là Đại tá Phạm Kim Qui. Ông Qui chỉ là người thừa hành.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1541357&stc=1&d=1583504164

hoanglan22
03-06-2020, 14:23
( Trích sách “Giải Mă Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam” của Bùi Anh Trinh )

CÁC TRẬN ĐÁNH NĂM 1975, (16 ) TRẬN KHÁNH DƯƠNG, 3 NGÀY ĐẦU

Năm 1975, ngày 15-3, lúc 3 giờ 30 chiều, nhà báo Thiếu tá Phạm Huấn, đặc phái viên của Tướng Phạm Văn Phú đáp trực thăng xuống chi khu Phước An thuộc Tiểu Khu Đắc Lắc để gặp Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, chuyển lệnh của Tổng thống Thiệu là
“Rút bỏ Phước An, mang quân về pḥng thủ tuyến Khánh Dương càng sớm càng tốt”, có nghĩa là bỏ hẳn Ban Mê Thuột, lấy Khánh Dương ( Thuộc tỉnh Khánh Ḥa ) làm tuyến đầu ngăn chận đoàn quân CSVN từ BMT tràn xuống.

Sau đó Thếu tá Phạm Huấn đến gặp Đại tá Trịnh Tiếu, trưởng Pḥng t́nh báo Quân đoàn 2 ( Đang theo đoàn quân của Sư đoàn 23 BB chuẩn bị tái chiếm Ban Mê Thuột ). Không ngờ Đại tá Trinh Tiếu nhờ Phạm Huấn báo lại cho Tướng Phú :
“Hiện có 4 sư đoàn Cọng sản Bắc Việt trong vùng. Đó là các sư đoàn F.10, 320, 968, 316 và các trung đoàn Pháo, Chiến xa, Pḥng không” ( Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, trang 127 ). Một sư đoàn có khoảng 10.000 quân.

Trong khi đó tại Khánh Dương chỉ có độc nhất Tiểu đoàn 231 ĐPQ/VNCH. Một tiểu đoàn có khoảng 500 người
Năm 1975, ngày 16-3, lúc 9 giờ 15 sáng, Tiểu đoàn 231/ĐPQ đang trên đường hành quân tới mục tiêu Đồi 519 th́ nhận được lệnh mới : Tập trung hướng tiến của toàn tiểu đoàn về hai bên quốc lộ 21, tiến theo thế chân vạc để tiếp cận cầu 36 là nơi t́nh nghi có địch bố trí chận viện. Đúng 1 giờ 30 sẽ có hai phi tuần thả bom CBU xuống khu vực Đồi 519, sau trận bom th́ TĐ 231 sẽ tiến vào khu vực vừa bị bom để thông đường và bắt tay với Sư đoàn 23 BB từ đồn Chu Cúc tiến xuống.

Diển tiến hành quân

Ngày 16-3,
Lúc 10 giờ 30, cánh quân của Đại đội 1 ( một đại đội khoảng 100 người ) cho biết đă tới khu vực đụng độ giữa Tiểu đoàn 250 ĐPQ và quân CSVN vào 3 ngày trước. Quân ta t́m gặp rất nhiều binh sĩ của TĐ 250 ĐPQ bị thương nhưng c̣n sống, họ năn nỉ khiêng họ về ( Cùng là dân Phan Rang quen biết nhau ). Tuy nhiên Đại đội nhận được lệnh gấp rút tràn xuống triền đồi để tránh pháo v́ nơi đó đă được quân CSVN điều chỉnh pháo binh ( Thực ra Trưởng ban 3 không muốn cứu thương binh bởi v́ rồi đây chưa chắc lính trong Tiểu đoàn đă lo nổi an toàn cho chính bản thân của họ ).

– Lúc 10 giờ 45, Tiểu đội t́nh báo của BCH Tiểu đoàn báo cáo đă đến chân cầu 36 là nơi đụng độ giữa Đại đội Trinh sát Tiểu khu KH và quân CSVN hai ngày trước. Có cờ trắng phất dưới chân cầu. Đại đội 3 tiến vượt qua khỏi cầu 36 để án ngữ mặt trước, Đại đội chỉ huy tiến tới chân cầu 36 để tiếp nhận 32 binh sĩ từ BMT chạy về. Đa số thuộc Tiểu đoàn 231 Pháo binh của Sư đoàn 23 BB/ VNCH.

Trưởng ban 3 Tiểu đoàn 231/ĐPQ nhận ra trong số 32 người có Trung úy Pháo binh Phạm Ngọc Phụng là bạn học thời trung học. Trung úy Phụng cho biết tin tức nóng hổi về bố trí của quân địch tại khu vực giữa Chu Cúc và 519. Như vậy là địch chỉ chốt chận tại mặt Quốc lộ và phía bắc Quốc lộ, riêng mặt Nam Quốc lộ sát núi, địa thế hiểm trở, cho nên quân CSVN không có địa thế để bố trí bộ binh chặn địch mà chỉ chặn bằng sơn pháo 75 ly, v́ vậy toán quân đào thoát đă đi lẫn trong đêm qua ngă phía Nam của Quốc lộ.

Tiểu đoàn 231/ĐPQ báo về BCH hành quân. Sau khi được biết trong toán quân đào thoát có 2 sĩ quan pháo binh tại Phi trường Phụng Dực cho nên BCH hành quân cho xe lên đón đoàn di tản để lấy tin tức về t́nh h́nh của Trung đoàn 53 BB tại Phụng Dực cũng như Trung đoàn 44 và 45 tại Phước An.

– Lúc 11 giờ 30 Đại đội 1 bị pháo vào giữa đội h́nh phải tản về phía sau. Vị trí đặt pháo dưới chân đồi 519. Tiểu đoàn 231/ĐPQ gọi pháo binh phản pháo và chấn chỉnh lại đội h́nh của Đại đội 1. Có 7 binh sĩ chết và 15 bị thương. Số bị thương được đưa ra quốc lộ để tản thương bằng xe GMC cơ hữu của Tiểu đoàn, không có hộ tống, không có lính cứu thương hay phương tiện cứu thương.

Lúc 11 giờ 45 Tiểu đoàn 231 nhận được lệnh dừng lại bố trí chứ không tiến thêm nữa. Lúc này c̣n cách đồi 519 khoảng 5 cây số. ( BCH hành quân nhận được tin của máy bay quan sát cho biết xe tăng của quân CSVN xuất hiện phía Bắc khu vực hành quân của Tiểu đoàn 231/ĐPQ )
Lúc 1 giờ 30, 2 phi tuần A.37 thả 2 trái bom CBU và 4 trái bom 500 cân xuống khu Đồi 519 nhưng Tiểu đoàn 231 lại nhận được lệnh gấp rút thối quân về phía sau. Sau này mới được biết là quân CSVN ( Trung đoàn 95 B biệt lập, một trung đoàn khoảng 2.500 người ) có xe tăng hỗ trợ đang tràn xuống từ phía Đông Bắc đồi 519.

Lúc 3 giờ chiều, Tiểu đoàn 231/ĐPQ nhận được lệnh rút về điểm xuất phát ( BCH/ Chi khu Khánh Dương ). Trên đường rút về Tiểu đoàn gặp một toán thám báo ( 8 người ) của Nha kỹ thuật tiến ngược về phía cầu 36.

Lúc 5 giờ 30 chiều, Tiểu đoàn 231 bố trí pḥng thủ tại Buôn M’Dung, ngang cầu 31. Lúc này tại cầu 31 lù lù một chiếc trực thăng bị bắn bể kính đang đậu nghiêng trên mặt đường. Đây là chiếc trực Thăng chở Tướng Lê Trung Tường bị trúng đạn phải đáp khẩn cấp.

Đồng thời trong khuôn viên BCH Chi khu Khánh Dương xuất hiện cột ăng ten siêu tần số. Có nghĩa là BTL Sư đoàn 23 đang đóng tại đó ( Đại tá Đức làm Tư lệnh thay cho Tướng Tường ). Trong khi đó BCH tiền phương của Tiểu khu Khánh Ḥa rút về, giao việc điều động chiến trường Khánh Dương cho Sư đoàn 23 BB.

Ngày 17-3,
Tiểu đoàn 231/ĐPQ lại nhận được lệnh hành quân y như lệnh hành quân ngày 15-3, nghĩa là dàn hàng ngang suốt thung lũng Khánh Dương, tiến về phía Tây để thăm ḍ bố trí của địch. Nhưng người ra lệnh là Trung tá Nguyễn Văn Ba, Tiểu khu phó Tiểu khu Ninh Thuận, chứ không phải là Bộ chỉ huy tiền phương của Sư đoàn 23 BB.

Lư do là v́ BTL Quân đoàn tưởng rằng tại Khánh Dương có 2 tiểu đoàn tăng phái của Tiểu Khu Ninh Thuận ( khoảng 1.000 ) cho nên người ta điều động ông Tiểu khu phó Ninh Thuận lên ngồi tại BCH hành quân để chỉ huy 2 tiểu đoàn của Ninh Thuận. Người ta không biết tại Khánh Dương chỉ c̣n 1 tiểu đoàn của Ninh Thuận với quân số ban đầu là 377 người ( Bất khiển dụng 126 người. Qua trận pháo sáng ngày 16 chỉ c̣n 355 người.), c̣n Tiểu đoàn 250/ĐPQ đă bị hoàn toàn tan ră 5 ngày trước đó.

Giờ đây chiến trường Khánh Dương được bàn giao cho Sư đoàn 23, nhưng BCH hành quân Sư đoàn đóng tại Phi trường Khánh Dương lại không có lực lượng nào để điều động, toàn bộ lực lượng của Sư đoàn 23 BB đang nằm tại Phước An nhưng liên lạc lúc được lúc không bởi v́ các máy PRC.25 tại Phước An không liên lạc tới Khánh Dương.

Vả lại t́nh h́nh các đơn vị BB tại Phước An đang trong t́nh trạng dần dần tan ră. Lúc đó tại Khánh Dương chỉ c̣n duy nhất TĐ 231/ĐPQ của Tiểu khu Ninh Thuận cho nên Trung tá Nguyễn Văn Ba, Tiểu khu phó Ninh Thuận, phải ở lại để chỉ huy 1 Tiểu đoàn của Ninh Thuận. Chỉ có một ḿnh ông với một người sĩ quan hành quân và 2 lính truyền tin. Do đó ông đành phải dở lại lệnh hành quân trước đây của Tiểu khu Khánh Ḥa để tiếp tục điều động Tiểu đoàn 231 ĐPQ. Để có thêm quân số điều hành như một BCH hành quân, Trung tá Ba giữ lại sĩ quan tiền sát pháo binh ( Trung úy Thịnh ) mà trước đó đă được Tiểu khu Ninh Thuận chỉ định đi theo Tiểu đoàn 231/ĐPQ để làm tiền sát viên pháo binh.

Theo sổ tay chiến trường của Thiếu tá Phạm Huấn th́ quân số của Sư đoàn 23 BB vào chiều ngày 17-3 như sau : Trung đoàn 45 c̣n 200 người, Trung đoàn 44 khoảng 300 người ( Do Trung tá Ngô Văn Xuân chỉ huy ). Bộ tư lệnh Sư đoàn đặt tại Đồn Chu Cúc 42 người. Hậu trạm Sư đoàn tại Chi Khu Khánh Dương 6 người. Tổng cộng 548 người, trong khi quân số nguyên thủy của Sư đoàn là 10.000 người. Dĩ nhiên 548 người này chỉ là những quân nhân bị tan hàng, không thể tiếp tục chiến đấu, ngoại trừ Đại đội Trinh sát ( khoảng 100 người ) của Trung đoàn 44 BB .
Lúc 8 giờ sáng, Tiểu đoàn 231/ĐPQ lại xuất phát lần thứ hai, tiến về hướng BMT.

Lúc 1giờ 30, Đại đội 3 bị lọt vào trận địa pháo, nguyên quả đồi biến thành một đám bụi nám đen. Có 37 người vừa bị chết vừa bị thương phải bỏ lại trận địa, số c̣n lại rút về vị trí của BCH Tiểu đoàn. Đại đội 2 đi sau BCH Tiểu đoàn lên thế vị trí của Đại đội 3.

Lúc 2 giờ 30, một phi tuần A.37 đánh bom trúng đoàn xe tăng của quân CSVN hai chiếc bị cháy, cách vị trí của Đại đội 4 ba cây số về hướng đông Bắc ( Rẫy Ông Kỳ ). Mười lăm phút sau một phi tuần A.37 khác thả bom vào khu vực có 2 chiếc tăng bị cháy. 5 phút sau lại có một phi tuần A.37 đánh bom tại khu vực Rẫy Ông Kỳ ( Nông trại trồng khoai ḿ của Tướng Nguyễn Cao Kỳ, cách quận Khánh Dương khoảng 15 cây số về hướng Đông Bắc). Đoàn xe tăng bị toán thám báo của Nha Kỹ thuật phát hiện.
Lúc 3 giờ chiều, lại thêm 1 phi tuần A.37 vào vùng có xe tăng nhưng lúc đó phi cơ quan sát không thấy ǵ thêm, BCH hành quân yêu cầu TĐ 231 cho tọa độ một vị trí t́nh nghi có địch để 2 phi cơ A.37 giải tỏa bom đạn.
Lúc 5 giờ chiều, Đại đội 4 báo cáo 2 xe tăng của CSVN xuất hiện ở phía Rẫy Ông Kỳ, cách Đại đội 3 cây số về hướng Tây. Trưởng ban 3 Tiểu đoàn chiếu ống ḍm về phía tọa độ mà Đại đội 4 vừa cho th́ không thể nào xác nhận được v́ sương chiều xuống quá nhiều, cảnh vật ch́m trong mầu khói lam nên không phân biệt được trong khi đó quyền Đại đội trưởng Đại đội 4 ( Thiếu úy Thanh ) không có mang theo ống ḍm. BCH hành quân theo dơi trên máy vô tuyến biết được ĐĐ 4 phát hiện xe tăng th́ yêu cầu Trưỏng ban 3 Tiểu đoàn cho tọa độ để gọi máy bay, kể cả cho tọa độ phỏng chừng. Tuy nhiên Tiểu đoàn không thể nào xác nhận chính xác được.

Ngày 18-3,
Tiểu đoàn 231/ĐPQ tiếp tục tiến về hướng BMT, nhưng chỉ di chuyển dưới khe chứ không chiếm lĩnh các ngọn đồi.
Lúc 1 giờ trưa Đại đội 4 báo cáo đă thấy vị trí bố trí quân của CSVN. Trưởng ban 3 Tiểu đoàn nh́n qua ông ḍm thấy một số ụ tranh ngụy trang nằm sắp lớp một khoảng dài mấy trăm thước bên một đường đất đỏ, nghi là vị trí độn thổ phục kích của quân CSVN bèn kêu pháo binh bắn 5 tràng điều chỉnh, sau đó xin 20 tràng bắn hiệu quả. Không ngờ nghe trên máy tiếng của Trung tá Ngô Quư Hùng, Tham mưu trưởng BCH hành quân, ra lệnh mỗi lần bắn hiệu quả là 100 tràng, 200 tràng chứ không cần phải tiết kiệm đạn. Tiểu đoàn 231 gọi 200 tràng.

Tưởng đâu 200 tràng là 1.200 quả ( 6 khẩu ), không ngờ pháo binh bắn 2.400 quả ( 12 khẩu ), mới đầu c̣n thấy xác người tung lên không, sau đó cả một quả đồi ch́m trong làn khói đen mù mịt. ( Trước đây tại Khánh Dương chỉ có 1 pháo đội pháo binh diện địa của Tiểu khu Khánh Ḥa gồm 2 khẩu 155 ly và 4 khẩu 105 ly. Giờ đây mới tăng cường thêm 1 pháo đội của Trung đoàn 40 thuộc Sư đoàn 22 Bộ binh ).

Sau khi tan khói pháo, Đại đội 4 cho quân thám sát vị trí vừa bị pháo mới hay rằng những ụ tranh là những mồ chôn xác quân CSVN, khoảng gần 300 xác ( Tính theo số ụ tranh trông thấy trước khi bị pháo : 1 ô 30 ụ, có khoảng 10 ô ). Những xác này bị đạn pháo binh tung lên không trông giống như thân thể người mới bị pháo. Có lẽ đây là số bị chết do trận bom CBU ngày hôm qua ( V́ nghi là độn thổ phục kích nên Tiểu đoàn gọi tác xạ bằng đầu đạn nổ chậm, viên đạn chui xuống dưới đất mới nổ )

Chú giải : Trước đó BTL/Quân đoàn 2 giao cho Đại tá Đức làm Tư lệnh Sư đoàn 23 thay thế Tướng Lê Trung Tường. Và cũng giao cho Đại tá Đức làm Tư lệnh chiến trường Khánh Dương, với lực lượng là BCH/ Trung đoàn 44 BB thuộc Sư đoàn 23 BB với 1 Tiểu đoàn, cùng với Đại đội Trinh sát Sư đoàn 23 BB đang đóng tại Phước An và Chu Cúc, phía Tây của Đồi 519 ( Ranh giới giữa Đắc Lắc và Khánh Ḥa ). Cùng với một số đơn vị nhỏ của Trung đoàn 45 BB bị tan hàng tại BMT.

Ngoài ra Đại Tá Đức cũng chỉ huy luôn Chi khu Khánh Dương và lực lượng ĐPQ đang có mặt tại phía Đông của Đồi 519 là các Tiểu đoàn của Khánh Ḥa và Ninh Thuận ( Sự thực chỉ c̣n duy nhất 1 tiểu đoàn của Ninh Thuận là TĐ 231/ĐPQ với quân số chỉ c̣n 318 người sau hai trận pháo ngày 16 và 17-3 ). Và v́ Đại tá Đức không có bộ tham mưu cho nên tạm thời Trung tá Ngô Quư Hùng, Tham mưu trưởng Tiểu khu Khánh Ḥa, giữ nhiệm vụ Tham mưu trưởng BCH Hành quân của Đại tá Đức với ban tham mưu là một số sĩ quan của Pḥng hành quân Tiểu khu Khánh Ḥa..

Trong khi đó Trung đoàn 40 ( khoảng 2.500 người ) của Sư đoàn 23 BB. Trung đoàn trưởng là Trung tá Nguyễn Thành Danh đă nhận được lệnh từ B́nh Định di chuyển lên Khánh Dương, Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 40 ( khoảng 500 người ) và pháo đội Pháo binh của Trung đoàn ( 6 khẩu 105 ly ) đến Khánh Dương vào sáng ngày 17-3. Trung đội 1 của đại đội 4/TĐ 2 BB do Chuẩn úy Lê Minh Quang chỉ huy được trực thăng bốc lên thả tại Đồn Chu Cúc để chuẩn bị hoạt động thám báo chung quanh Chu Cúc, dọ đường tiến xuống Đồi 519.

Lúc 10 giờ 30 đêm, Đại đội 4/TĐ 231 tại khu vực nghĩa địa CSVN báo cáo có dấu hiệu địch hoạt động áp sát vị trí của Đại đội. Tiểu đoàn chỉ thị Đại đội âm thầm lùi về phía sau 1 cây số, lựa vị trí tốt để chuẩn bị đối phó với trận tấn công có thể xảy ra vào sáng sớm ngày mai, trước khi rút lui th́ gài lựu đạn tại chỗ để ngừa địch bám theo. Tiểu đoàn gởi về BCH hành quân hỏa tập tiên liệu ngay tại khu vực mà Đại đội 4 vừa rút đi. Đồng thời cũng cho lệnh Đại đội 1 âm thầm rút lui 1 cây số như Đại đội 4, hỏa tập tiên liệu trước pḥng tuyến của ĐĐ 1 cũng được chuẩn bị sẵn.
Trong khi đó Đại đội 2 di chuyển trong đêm, tạt về hướng Bắc của Đại đội 4, nhường điểm vừa rút làm điểm dự trù cho Đại đội 4 rút về nếu bị tấn công, lúc đó ĐĐ2 sẽ trở thành lực lượng yểm trợ cho ĐĐ 4 lui binh.

Chú giải : Cũng trong ngày này, ngày 18-3-1975, trên các tần số vô tuyến của chiến trường Khánh Dương vắng tiếng chỉ huy của Thiếu tướng Phạm Văn Phú bởi v́ 9 giờ sáng Bộ TTM chuyển cho ông tin dơm rằng Sư đoàn 320 CSVN đă đuổi kịp đoàn di tản và đang chuẩn bị pháo vào dân. Tướng Phú đành phải bỏ chiến trường Khánh Dương để bay ra Phú Bổn.
Lúc 10 giờ 45, tại Phú Bổn, Tướng Phú ra chỉ thị cho Tướng Cẩm, tướng Tất và t́m Đại tá Lư cùng với Bộ tham mưu Quân đoàn 2 nhưng t́m không ra. 11 giờ 20 Tướng Phú quay về Nha Trang. Tới 3 giờ chiều Tướng Phú tiếp Tướng Trần Thiện Khiêm tại Nha Trang. Đến 5 giờ 40 chiều đích thân Tướng Phú bay ra Phú Bổn t́m bốc Đại tá Lư và Bộ tham mưu của Lư. Đồng thời ra lệnh cho quân đội bỏ xe tăng và súng đại bác để băng rừng về Phú Yên.

Trong khi đó tại chiến trường Khánh Dương, từ giữa trưa bắt đầu xảy ra đụng độ ác liệt giữa TĐ. 231 VNCH và quân CSVN. Tướng Phú không thể phân thân ra chỉ huy cả 2 chiến trường cùng một lúc.
BÙI ANH TRINH

TRẬN KHÁNH DƯƠNG NGÀY THỨ 4 VÀ THỨ 5

Ngày 19-3, lúc 5 giờ sáng, băi lựu đạn gài trước pḥng tuyến của ĐĐ1 phát nổ, Tiểu đoàn gọi 200 tràng ( 2.400 trái ) vào hỏa tập tiên liệu.
Lúc 5 giờ 15, vị trí của Đại đội 4 bị pháo và băi lựu đạn gài trong đêm cũng phát nổ, Tiểu đoàn gọi 200 tràng vào hỏa tập tiên liệu.

Lúc 6 giờ sáng, ĐĐ 4 bị tấn công nhưng lực lượng tấn công rời rạc. ĐĐ 4 tiếp tục rút nhanh về phía sau trong khi ĐĐ 2 báo cáo quân địch đuổi theo ĐĐ 4 rất đông. Tiểu đoàn gọi 200 tràng nữa chận phía sau ĐĐ 4 theo hướng dẫn của ĐĐ 2. Quân CSVN chựng lại giữa băi trận địa pháo của VNCH. Đại đội 2 được lệnh rút về phía sau ngang với vị trí của ĐĐ 4. Quân của Đại đội 4 chỉ bị tổn thất 7 người.

Lúc 8 giờ sáng, ĐĐ 1 cho quân thám sát vị trí trận địa pháo nhưng toán thám sát bị pháo 75 ly của quân CSVN. Cùng lúc đó 1 phi tuần A.37 lên yểm trợ cho TĐ 231 ĐPQ được phi cơ quan sát hướng dẫn thả bom vào vị trí đặt pháo đồng thời báo cho biết nhiều toán quân CSVN từ khu vực bị bom đang chạy ngược về phía Tây. Đợi phi cơ rời vùng, Tiểu đoàn 231 gọi 100 tràng vào vị trí mà phi cơ quan sát chỉ điểm.

Lúc 10 giờ sáng, Đại đội 2 di chuyển về phía sau vị trí của BCH/ Tiểu đoàn để lập tuyến án ngữ chặn hậu trong trường hợp Tiểu đoàn lui binh, ĐĐ 3 lên thế vị trí của ĐĐ 2, lúc này quân số của ĐĐ 3 chỉ c̣n một nửa
Lúc 3 giờ chiều, ĐĐ3 phát hiện trong đám rừng cây trước mặt có dấu hiệu cờ trắng, sau đó có vài người dân cầm cờ trắng ra phất trước đám rừng, Thiếu úy Phúc, Đại đội phó, xin được ra đón dân; Tiểu đoàn không đồng ư, phải cho vài người ra trước pḥng tuyến ra hiệu cho dân chạy về hướng của ḿnh.

Nhận được hiệu cho phép của quân VNCH, khoảng 200 người dân Ban Mê Thuột từ trong rừng chạy ùa về phía quân VNCH, đích thân Thiếu úy Phúc dẫn quân ra trước cửa rừng đón dân. Không ngờ phía sau dân là quân CSVN, họ nổ súng thẳng vào đội h́nh của ĐĐ3 . Quân ĐĐ3 buộc ḷng phải nổ súng vào cả dân để chận quân CSVN đang tràn tới, cả đám dân chạy ngược lại khu rừng phía bên kia.

Một số quân CSVN cố gắng tràn tới nhưng bị bắn hạ, một số c̣n lại chạy theo dân để trở lại phía bên kia. Ngay khi đó đại bác 57 ly, 75 ly và súng cối 61 ly của quân CSVN từ trong rừng phía bên kia bắn tràn ngập vào vị trí của ĐĐ3. Đại đội hoàn toàn tan ră, riêng Thiếu úy Phúc bị thương ở chân nhưng vẫn chạy được. Mọi việc diễn ra trước ống ḍm của Trưởng ban hành quân Tiểu đoàn 231 ĐPQ.

Tiểu đoàn gọi về BCH hành quân để hỏi ư kiến v́ có dân trong đám rừng của quân CSVN. Lệnh của BCH hành quân ( Trung tá Ngô Quư Hùng ) là bắt buộc phải phải tiêu diệt cả khu rừng. Tiểu đoàn gọi 200 tràng. BCH trách là sao kêu ít như vậy? Trưởng ban 3 Tiểu đoàn cho biết để xem 200 tràng ( 2.400 trái ) ra sao cái đă, rồi sẽ kêu tiếp. Tuy nhiên sau khi khói tan th́ cả khu rừng rộng gấp 4 cái sân banh chỉ c̣n như là một đống rác toàn màu khói đen và màu bụi đỏ (sic).

Lúc 6 giờ 15, đến phiên BCH tiểu đoàn 231 ĐPQ lọt vào trận địa pháo của quân CSVN, nguyên Tiểu đội t́nh báo và Trung đội truyền tin bị tiêu diệt ngay loạt đạn đầu. Thiếu úy Đại đội phó Đại đội Chỉ huy Nguyễn Ngọc Ḥa tử trận.

Cùng lúc đó ĐĐ4 báo cáo đang bị tràn ngập. Lúc này trời nhá nhem tối, đây là lần đầu tiên có chuyện tấn công lúc trời mới tối, hoàn toàn khác với thông lệ từ trước tới giờ, có lẽ ĐĐ 4 chọn điểm đóng quân đêm trùng với điểm di quân của quân CSVN ( tao ngộ chiến ), quân CSVN đông hơn và ra tay trước.

Lúc 10 giờ đêm, tổng số quân gom lại được của BCH và Đại đội chỉ huy Tiểu đoàn là 28 người, hy vọng sáng mai sẽ có thêm người thất lạc t́m về. Cũng lúc đó ĐĐ4 cho biết là gom được 47 người, hy vọng sẽ có thêm vào sáng mai.

Ngày 20-3, lúc 6 giờ sáng, Đại đội 1 bị lọt ổ phục kích trên đường di chuyển về phía BCH Tiểu đoàn. Quân số địch khoảng 1 tiểu đoàn. Không thể gọi Pháo binh v́ ta và địch ở trong thế cài răng lược. Đại đội trưởng cho biết ông cùng với khoảng 1 chục binh sĩ đang chạy tháo về phía sau. Đợi 15 phút cho toán quân đang tháo chạy đă cách xa điểm chạm súng một khoảng an toàn, Tiểu đoàn gọi 200 tràng vào ngay vị trí của ta và địch trước đó 15 phút. Sau đó gọi 200 tràng bắt đầu từ nơi chạm địch rải về phía Tây, tức là trên đường quân CSVN rút về.

Lúc 8 giờ, kiểm điểm quân số BCH Tiểu đoàn và Đại đội chỉ huy, có thêm 10 người chạy lạc trong đêm đă nhập lại đơn vị. Trong khi đó ĐĐ 4 đang trên đường di chuyển về hướng BCH Tiểu đoàn, quân số của Đại đội vẫn là 47 người, không có ai về thêm.

Lúc 11giờ 30, toán 12 người của ĐĐ1 về đến BCH Tiểu đoàn. Toàn bộ BCH Tiểu đoàn rút về phía sau vị trí của ĐĐ2. Lúc này ĐĐ3 và ĐĐ1 đă bị xóa sổ. Đại úy Đại đội trưởng ĐĐ3 dẫn được vài người sống xót nhập vào ĐĐ4. Đại úy đại đội trưởng ĐĐ3 ( Lư ) nhận được lệnh chỉ huy luôn cả số quân c̣n lại của ĐĐ 4. Trước đó ĐĐ4 do Thiếu úy Đại đội phó ( Thanh ) chỉ huy; Đại úy Đại đội trưởng ( Châu ) đi phép trước khi hành quân.
Lúc 2 giờ chiều Đại đội 4 về ngang vị trí pḥng thủ của ĐĐ2. Được lệnh tiếp tục di chuyển về phía sau của BCH Tiểu đoàn để án ngữ chặn hậu trong trường hợp BCH Tiểu đoàn và ĐĐ2 lui binh.

Lúc chiều tối, ĐĐ2 của Tiểu đoàn 231/ĐPQ bị pháo nhưng không chính xác, vị trí bị pháo cách vị trí của đại đội 500 mét. Tiếng nổ cho thấy là đạn cỡ 130 ly hay 122 ly chứ không phải là đại bác không giật 82 ly và sơn pháo 75 ly như trước đây. Tiếng súng “đề pa” nghe rất xa cho nên không thể nào xác định được vị trí đặt pháo để gọi phản pháo.

Sau khi biết vị trí pḥng ngự đă bị lộ, BCH Tiểu đoàn và ĐĐ2 chuẩn bị rút lui về phía sau, gởi hỏa tập tiên liệu để dự pḥng quân CSVN sẽ tấn công vào sáng sớm ngày mai. Nhưng ngay khi đó lại nhận được lệnh bàn giao khu vực hành quân cho Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 40 BB thuộc Sư đoàn 22 BB/VNCH.

Như vậy là đă
hoàn thành tốt đẹp giao hẹn 3 ngày cầm chân địch. Giao hẹn có 3 ngày nhưng nay đă hết ngày thứ 5. Cũng sau ngày này th́ Trung đoàn 25 CSVN và Trung đoàn 95B /CSVN không c̣n được nhắc tới trong lịch sử trận chiến “Mùa Xuân 1975”.

Lúc 8 giờ tối, Tiểu đoàn 2/40 BB ( Thiếu tá Tốt ) vào tần số liên lạc với TĐ 231, xin xác nhận điểm đứng của BCH 231 để tới gặp và bàn giao vị trí. Qua trao đổi giữa ông và Trưởng ban hành quân TĐ 231 th́ có vẻ như ông không tin điểm đứng hiện tại của 231 là thật ( Nghi rằng báo cáo dối chứ sự thực phải ở phía sau xa ). Tiểu đoàn 231 xác nhận đó là vị trí đang đóng quân thật sự.

Lúc 10 giờ đêm, Tiểu đoàn trưởng TĐ 2/40 BB cùng với Trung úy Trưởng ban hành quân và hai binh sĩ đến gặp Tiểu đoàn trưởng 231/ĐPQ ( Thiếu tá Nguyễn Duy Hoàng ). Thiếu tá Tốt đă nhận được đầy đủ thông tin tại chiến trường, ông và vị sĩ quan Trưởng ban 3 của ông rất tự tin, cho biết sáng mai ông sẽ lấy vị trí này làm tuyến pḥng thủ trên cùng để chặn đoàn quân CSVN từ BMT tràn xuống. Hai bên trao đổi trong đêm tối và chỉ dẫn bản đồ dưới ánh đèn pin. Thiếu tá Tốt cũng cho biết là
quân Dù đă lên tới đèo M’Drak vào chiều hôm qua.
Cùng lúc đó Đại đội Trinh sát của Trung đoàn 40 BB vào tần số để bắt liên lạc, tiếp nhận vị trí của Đại đội 4/231 ĐPQ.

Ngày 21-3, lúc 6 giờ sáng. Tiểu đoàn 231 ĐPQ chào giả từ Tiểu đoàn 2/40 BB để rút về tuyến sau ( BCH Chi khu Khánh Dương ).
Lúc 11 giờ 30, Tiểu đoàn 231 về tới vị trí của BCH hành quân tại Buôn M’Dung. Quân số c̣n không tới một nửa ( Khoảng 180 người, bởi v́ các đại đội thay đổi báo cáo liên tục, có một số rời đại đội để vào bệnh xá hoặc lên phi cơ tản thương do bi thương nhưng cố lết về tới nơi, một số khác được tản thương trong 3 ngày trước nhưng chỉ bị thương nhẹ nên nhập trở lại đơn vị. Trong số mới nhập đơn vị có 1 sĩ quan và 3 binh sĩ mới đi phép về ).
Lúc 12 giờ trưa, toàn tiểu đoàn nghỉ ngơi tắm giặt và nhận lương khô
Lúc 12giờ 15 trưa, phi trường Khánh Dương bị tấn công. Quân CSVN pháo vào phi trường và BCH Chi khu khoảng vài chục trái 82 ly và 57 ly, sau đó khoảng 2 đại đội từ trong chân núi tràn vào hàng rào phi đạo. Trước đó họ đă âm thầm thanh toán Trung đội Nghĩa quân chốt tại chân núi ( Toàn là người sắc tộc Miền Núi, có lẽ họ đă ngă theo quân CSVN ).
Khi vừa bị pháo kích, khoảng 35 chiếc trực thăng và L.19 tại phi trường đồng một loạt bay lên lánh nạn, vô t́nh 2 tiểu đoàn CSVN đang chuẩn bị tấn công phi trường làm mồi cho trực thăng vơ trang ( Lực lượng CSVN không có súng pḥng không, có lẽ đây là 2 trong số 4 tiểu đoàn địa phương của Tỉnh đội CSVN tại Khánh Ḥa ). V́ có sẵn quá nhiều đạn cho nên các trực thăng rưới đạn như mưa vào khu rừng dọc chân núi chạy song song với phi đạo. Không ai ngờ là quân CSVN nằm chết la liệt trong rừng mà tới chiều tối mới phát hiện được.

Sau nửa tiếng náo loạn, các phi cơ lại đáp trở xuống phi trường để ứng trực cho chiến trường. Toán quân CSVN tràn vào hàng rào phi đạo đă chạy ngược vào rừng, một số ngă chết giữa đường từ rừng tới phi đạo nhưng v́ BCH hành quân không c̣n lực lượng phản kích cho nên không ai nghĩ tới chuyện lục soát trận địa để kiểm tra kết quả tác xạ của trực thăng. Vả lại BCH hành quân đang cần thêm lực lượng để tăng cường pḥng thủ phi trường Khánh Dương nhưng không c̣n quân.

Chú giải : So lại với sổ tay chiến trường của Thiếu tá Phạm Huấn :

“12 giờ 15 phi trường Khánh Dương bị pháo. Một lực lượng địch chưa biết rơ quân số về cách phi trường Khánh Dương 1 cây số theo hướng Nam. Bộ tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh lùi thêm 10 cây cố về phía Nam Khánh Dương….” ( Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên, trang 191 ).

“14 giờ 20 phút, Tỉnh trưởng Nha Trang báo cáo lực lượng chính Việt Cộng vẫn ở trên cây số 62 Quốc lộ 21. Phi cơ quan sát cho tin sai, không có Việt Cộng ở phi trường Khánh Dương…” ( trang 192 ).
BTL Quân khu 2 và Phạm Huấn nghĩ rằng quân CSVN tấn công phi trường Khánh Dương th́ phải tràn từ hướng Ban Mê Thuột xuống, nghĩa là phải đánh tan lực lượng của Sư đoàn 22 Bộ binh đang hành quân tại khu vực cây số 62. Cho nên khi nghe tin phi trường KD bị tấn công th́ Đại tá Lư Bá Phẩm, Tiểu khu Trưởng Khánh Ḥa, hỏi lại BCH hành quân tại Khánh Dương, BCH hành quân đă hỏi lại Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 40 thuộc Sư đoàn 22 BB th́ Thiếu tá Tốt cho biết ông đang hành quân tại khu vực cây số 62 và t́nh h́nh tại đây đang yên tĩnh.

Do đó Đại tá Phẩm xác nhận lại với BTL QK 2 để bác bỏ tin quân CSVN từ BMT đă tới thị trấn Khánh Dương. Thực ra đây là do Phạm Huấn ( và cũng có thể là cả BTL Quân Khu 2 ) suy diễn sai : Phi cơ L.19 đă trông thấy quân CSVN tràn vào phi trường từ khu rừng phía
Nam BCH Chi khu KD chứ không phải trông thấy quân CSVN từ phía
Tây Bắc của BCH Chi khu. Nghĩa là quân tấn công không phải từ BMT tràn xuống , mà từ trong rừng Khánh Dương đánh ra. Phi cơ đă báo đúng, nhưng nhà báo Phạm Huấn suy diễn sai.
Cũng theo sổ tay chiến trường của Phạm Huấn :

“17 giờ , Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh được lệnh trở lại Khánh Dương chỉ huy, không được lùi thêm…” ( trang 192 ).
Nhưng sau đó 20 phút, cũng theo Phạm Huấn :

“17 giờ 20 phút, tin từ mặt trận Khánh Dương xác nhận toàn bộ sư đoàn F.10 Cọng sản Bắc Việt đă ở vùng cây số 62. Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 40 vừa giao tranh với một trung đoàn Cọng sản Bắc Việt. Quân ta hạ 2 xe tăng Bắc Việt ở 10 cây số Tây Khánh Dương. Gần 100 xác Việt Cộng bỏ lại chiến trường với vũ khí. Hai tù binh Cọng sản Bắc Việt bị bắt đă khai thuộc Sư đoàn F.10 Cọng sản Bắc Việt…” ( trang 192, 193 ).
Đọc qua đoạn ghi chép này của Thiếu tá Phạm Huấn th́ những nhà quân sự học buộc phải đánh dấu hỏi về mức khả tín của tài liệu do nhà báo Phạm Huấn ghi lại : Vào lúc 17 giờ th́ t́nh h́nh yên tĩnh đến nổi Tướng Phú ra lệnh cho Đại tá Tư lệnh Sư đoàn 23 phải trở lại Khánh Dương. Nhưng 20 phút sau th́ 2 xe tăng Bắc Việt cháy, 100 xác địch bỏ lại chiến trường, hai tù binh bị bắt khai là thuộc Sư đoàn 10 CSVN (!).

Một chuỗi biến cố như vậy không thể nào diễn ra trong ṿng 20 phút, nhanh nhất phải là 2 tiếng, hoặc 3 tiếng đồng hồ. ( Sự thực là TĐ 2/40 đánh nhau với quân CSVN khoảng 2 giờ 30 trưa nhưng không hiểu v́ sao tới 5 giờ chiều Tướng Phú lại nhận được báo cáo Khánh Dương vô sự ).
Có thể giải đoán những khúc mắc khó hiểu này như sau :

Lúc 14 giờ 20, sau khi nhận được tin Phi trường Khánh Dương vô sự th́ Tướng Phú bay ra chỉ huy mặt trận Liên Tỉnh lộ 7. Đến 5 giờ chiều th́ ông về đến Nha Trang và ngồi nghe thuyết tŕnh diễn tiến hành quân tại chiến trường Khánh Dương. Việc đầu tiên là ông ra lệnh cho Đại tá Đức phải trở lại BCH/Chi khu Khánh Dương. Phạm Huấn có mặt tại pḥng thuyết tŕnh cho nên ông ta ghi vào sổ tay ( lúc 17 giờ ).

Sau đó các sĩ quan hành quân của BTL/QK 2 bắt đầu thuyết tŕnh về cuộc đụng độ giữa Tiểu đoàn 2/TrĐ 40 BB và quân CSVN từ 2 giờ 30 chiều. Và sau 20 phút thuyết tŕnh th́ tới đoạn tổng kết về kết quả của trận đánh. Lúc đó Phạm Huấn cũng ghi vào sổ tay ( lúc 17 giờ 20 ). Cho nên mới có chuyện là 17 giờ yên tĩnh và 20 phút sau th́ “2 xe tăng cháy, 100 xác chết, 2 tù binh”!

Lúc 3 giờ chiều, Toàn bộ Tiểu đoàn 231/ĐPQ được đặt dưới quyền điều động của Chi khu Khánh Dương, có nhiệm vụ pḥng thủ phi trường và BCH Chi khu thay thế cho Tiểu đoàn 272/ĐPQ đang pḥng thủ BCH Chi khu rút về Diên Khánh.

Đại đội 2/231 ĐPQ di quân vào án ngữ pḥng thủ bên khu rừng dọc chân núi phía Tây Bắc phi trường Khánh Dương ( Đỉnh núi có Cao độ 612 ). Thực ra Tiểu đoàn 231/ĐPQ chỉ c̣n 2 đại đội : Đại đội 2 c̣n nguyên vẹn như ngày đầu bởi v́ được dùng làm lực lượng yểm trợ phía sau BCH Tiểu đoàn, đại đội 4 c̣n một nửa sau trận tao ngộ chiến đêm 19-3, đại đội chỉ huy c̣n 1 nửa sau trận pháo đêm 19-3. Đại đội 1 và Đại đội 3 đă bị xóa sổ.

Lúc 4 giờ chiều Đại đội 4 và BCH/Tiểu đoàn chiếm lĩnh ngọn núi phía sau BCH Chi khu Khánh Dương ( Có cao độ 528, cũng thuộc dăy núi 612 ). Lúc này ĐĐ 4 do Đại úy Châu mới đi phép về chỉ huy. Đại đội trưởng ĐĐ 3 ( Lư ) chỉ huy Đại đội chỉ huy.

Lúc 4 giờ 15, Đại đội 2/ 231/ ĐPQ báo cáo trong khu rừng dưới chân núi có xác CSVN nằm la liệt, có khoảng 20 CSVN bị thương nhẹ xin đầu hàng, khoảng 10 bị thương nặng xin được cứu. Đây là toán quân thuộc 2 tiểu đoàn tấn công phi trường Khánh Dương lúc trưa đă bị trực thăng vũ trang tiêu diệt; số mạnh khỏe c̣n lại đă tháo chạy bỏ lại đồng bạn. Theo lời khai của họ th́ họ thuộc lực lượng cơ động tỉnh của Tỉnh đội Khánh Ḥa ( Tiểu đoàn địa phương ).

Lệnh của Chi khu trưởng Chi khu Khánh Dương ( Thiếu tá Trịnh Thanh B́nh ) là cứ bỏ mặc quân CSVN ở đó, cho họ thức ăn, nước uống; c̣n Đại đội di chuyển đi chỗ khác. Đại đội 2 báo cáo không thể nào pḥng thủ qua đêm tại khu vực đầy xác chết và cả người bị thương c̣n sống. Vả lại không thể biết được c̣n bao nhiêu quân CSVN có vũ khí đang c̣n lẩn quẩn trong rừng. Sau đó do sự nằn ń của Trung úy Đại đội trưởng Lê Bá Luyện ( Nguyên Trưởng ban hành quân Chi khu Khánh Dương, có thân t́nh với ông Chi khu trưởng ) Thiếu tá B́nh chấp thuận cho ĐĐ 2 di chuyển về ṿng đai pḥng thủ phi trường.

Lúc 8 giờ đêm, Trung đội 1 của ĐĐ 4 ( Chuẩn úy Đạo ) đụng độ với 1 toán quân CSVN giữa khu vực trách nhiệm của ĐĐ4 và BCH/TĐ, kết quả có 2 chết 2 bị thương nhưng toàn trung đội bị lạc nhau trong đêm tối. Thiếu úy Đại đội phó ( Thanh) dẫn 1 tiểu đội đi t́m gom lại Trung đội 1. Lúc này Đại đội 4 chỉ c̣n 2 trung đội.

TRẬN KHÁNH DƯƠNG NGÀY CHÓT

Ngày 22-3,

Lúc 7 giờ sáng, quân CSVN bắn sơn pháo 75 ly vào lô cốt trên đỉnh núi 528 của ĐĐ4, đồng thời pháo vào BCH/ TĐ 231. Đại úy Châu và 16 lính ĐĐ 4 chết ngay loạt đạn đầu, Thiếu úy Thanh dẫn số c̣n lại chạy tạt vế phía BCH Tiểu đoàn. Chuẩn úy Đạo chỉ huy trung đội bắn chận quân CSVN từ đỉnh 612 tràn qua.

Có thể đây là lực lượng quân địa phương của CSVN thuộc 2 tiểu đoàn đánh vào phi trường Khánh Dương vào chiều hôm qua. C̣n quân chính quy CSVN từ BMT vẫn c̣n cách BCH Chi khu Khánh Dương trên 5 cây số.

Cùng lúc 7 giờ sáng, quân CSVN pháo khoảng 1.000 quả đạn 130 ly vào phi trường Khánh Dương, đạn đạo bay xà qua đỉnh 528, nơi BCH/TĐ đóng quân, một số vướng đá nổ ngay trên đỉnh núi. Ống ḍm của Trưởng ban hành quân TĐ không nh́n thấy vị trí đặt súng của pháo binh CSVN ( v́ quá xa, đại bác 130 ly của CSVN bắn xa tới 28 cây số ).

Pháo binh VNCH xin Trưởng ban hành quân TĐ 231 xác định hướng bay của đạn đạo để các khẩu đội có thể áng chừng vị trí pháo binh của quân CSVN để phản pháo. Tuy nhiên theo quan sát của TĐ 231 th́ điểm nổ áng chừng của pháo binh VNCH c̣n cách quá xa vị trí đặt súng của CSVN, mặc dầu pháo binh VNCH đă bắn hết tầm.
BCH/ Tiểu đoàn 231 và BCH Chi khu Khánh Dương mất liên lạc với ĐĐ 2 đang giữ nhiệm vụ pḥng thủ phi trường.

Cùng lúc 7 giờ, Tiểu đoàn 2/40 của Sư đoàn 2 BB bị tấn công tràn ngập, ống ḍm của Trưởng ban 3 TĐ 231 từ trên đỉnh 528 thấy rơ quân CSVN dàn hàng ngang từ trên sườn núi tiến xuống truy kích quân của TĐ 2/40 BB/VNCH. Do v́ cả hai bên cùng bận áo trận màu xanh nên không thể điều chỉnh pháo binh để ngăn chặn đoàn quân đang đuổi theo. Vả lại đoàn quân đuổi phía sau cũng không nổ súng cho nên trên đỉnh núi cũng không chắc quân đuổi theo là quân CSVN, có thể cũng là một đoàn quân di tản thứ hai của TĐ 2/40 BB/VNCH.

Lúc 7 giờ 20, người lính mang máy của TĐ 2/40 VNCH vừa khóc vừa báo cho TĐ 231 là Thiếu tá Tốt đă tử trận ( Lúc đó 2 máy của 2 tiểu đoàn đang ở tần số liên lạc riêng để 231 hướng dẫn cho 2/40 biết hướng đuổi theo của quân CSVN, và máy truyền tin của pháo binh Trung đoàn 40 BB cũng đang ở trên tần số này để chuẩn bị bắn giải cứu cho 2/40 BB ). Pháo binh TrĐ.40 hỏi thăm về Trưởng ban hành quân Tiểu đoàn 2/40 nhưng ông này cũng đă tử trận.

Lúc 7 giờ 30, quân CSVN bắn khoảng 50 trái sơn pháo 75 ly vào vị trí của BCH Tiểu đoàn 231 và ĐĐ4. Toàn bộ Tiểu đoàn tan ră, mạnh ai nấy chạy xuống chân núi. Quân CSVN tiếp tục pháo 130 ly vào BCH Chi khu Khánh Dương.
Lúc 8 giờ Chi khu Khánh Dương di tản theo Quốc lộ về đèo M’Drak
Những người sống sót của Tiểu đoàn 231/ĐPQ di tản dọc theo sườn núi phía Bắc Quốc lộ để xuống đèo M’Drak

Lúc 3 giờ chiều, toán di tản đầu tiên về đến cầu 24 ( Trung tâm huấn luyện Lam Sơn ). Đến 10 giờ đêm vẫn có người tiếp tục về đến cầu 24.

Ngày 23-3,
Lúc 8 giờ sáng, tổng kiểm điểm quân số, Tiểu đoàn 231 về được 72 người, kể cả những người bị thương nặng, nhẹ. ĐĐ 2 là đại đội
c̣n nguyên tới ngày cuối cùng nhưng đă bị pháo binh CSVN tiêu diệt trong giờ cuối cùng. Đại đội trưởng Lê Bá Luyện và 4 người nữa c̣n sống sót.

*( Và 1 năm sau có một người thứ 73 trở về với gia đ́nh tại Văn Sơn, Phan Rang. Đó là Trung úy Đại đội phó Đại đội 2 Huỳnh Văn Hồng. Ông bị bắt ngày 23-3-1975 trên chốt đèo M’Drak.

Sau khi thẩm vấn, biết ông là sĩ quan của Tiểu đoàn 231, viên Thượng úy Tiểu đoàn Trưởng CSVN dẫn ông ra xa, bắt ngồi xuống một hố đá rồi bắn 7 phát đạn K.54 vào người của ông; 3 viên bắn ra ngoài, 4 viên trúng vào người nhưng không chết. Sau 1 năm ông mới gượng đi lại được và được CSVN cho về nhà để tiếp tục điều trị. Trong thời gian bị giam Trung úy Hồng hỏi thăm th́ mới biết người ta lầm Tiểu đoàn 231 ĐPQ với Tiểu đoàn 231 Pháo binh tại Phi Trường Phụng Dực, BMT.

Nguyên do ngày 10-3-1975, Trung đoàn 149 thuộc Sư đoàn 316/CSVN tấn công BCH Trung đoàn 53 BB/VNCH và Tiểu đoàn 1/53 tại phi trường Phụng Dực; nhưng cuộc tấn công bị thất bại nặng nề v́ quân 231/PB VNCH bắn đạn trực xạ vào lưng 2 tiểu đoàn CSVN đang tấn công.
Ba ngày sau, ngày 14-3 CSVN tập trung 2 trung đoàn c̣n lại của Sư đoàn 316/CSVN tấn công vị trí của Trung đoàn 53, nhưng lại bị pháo trực xạ nên phải rút lui.

Qua ngày sau, ngày 15-3, toàn bộ số quân c̣n lại của Sư đoàn 316 CSVN tập trung tấn công Căn cứ pháo binh, nhưng lần này th́ bị đạn chống biển người khiến cho Sư đoàn 316 bị xóa sổ. Chiều ngày 15-3, các trung đội Pháo binh 231 hết đạn và không c̣n tiếp tế nên hủy súng để di tản. Ba ngày sau, ngày 17, Sư đoàn 10/CSVN mới hạ được Trung đoàn 53 BB. Từ đó những quân nhân c̣n sống xót trong Sư đoàn 316 CSVN thâm thù quân 231/PB VNCH đến xương tủy ).
Năm 1975, ngày 23-3, lúc 10 giờ sáng, Đại tá Trần Văn Tự, Tiểu khu trưởng Ninh Thuận ra tại cầu 24, phát cho mỗi chiến sĩ 2.000 đồng và cho xe chở về Ninh Thuận
Diễn tiến hành quân trên đây được viết theo sổ tay hành quân của
Trung úy Bùi Anh Trinh, Trưởng ban hành quân Tiểu đoàn 231/ĐPQ.
BÙI ANH TRINH

Vài lời chân t́nh của tác giả
Trưởng ban hành quân của Tiểu đoàn 231 ĐPQ chính là tôi, Trung Úy Bùi Anh Trinh. Hiện nay Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Duy Hoàng, Đại úy Đại đội trưởng ĐĐ chỉ huy Lương Văn Thông và tôi đang sinh sống tại Little Saigon, Cali. Thiếu tá Nguyễn Xuân Hớn đang sinh sống tại Boston USA. Trung tá Ngô Quư Hùng lâu nay sinh sống tại VN, ông từ chối đi Mỹ mặc dầu ông trải qua 13 năm trong trại tù. Ông vừa mới mất ngày 10 tháng 7 năm 2016.

Tiểu đoàn chúng tôi đă hoàn thành nhiệm vụ cầm chân quân CSVN từ Ban Mê Thuột tràn xuống Nha Trang. Thành công này là do chiến thuật “Pháo binh + Trinh sát bộ binh” của Thiếu tướng Phạm Văn Phú.
Quân CSVN bị chặn lại trong 5 ngày v́ pháo binh và phi cơ chứ không phải v́ 1 tiểu đoàn ĐPQ.

Người ngoài quân đội khó mà h́nh dung được tầm mức khủng khiếp của những tràng đạn đại bác mà chúng tôi đă sử dụng tại chiến trường Khánh Dương. Nhưng có một cách để so sánh dành cho người ngoài quân đội : Đó là năm 1954, trong suốt trận Điện Biên Phủ, 36 khẩu đại bác 105 ly của quân CSVN đă bắn tất cả 20.000 trái đạn vào quân Pháp tại ĐBP. Trong khi đó tiểu đoàn chúng tôi chỉ trong 1 ngày, như ngày 19-3, đă gọi tất cả 900 tràng, tức là 10.800 trái đại bác 105 và 155 ly vào đội h́nh tấn công của quân CSVN !

Từ trước tới nay trong sách hay các bài viết của ḿnh tôi không bao giờ đề cập đến chiến tích của cá nhân ḿnh bởi v́ tôi tự thấy không hay ho ǵ nếu đem đặt bên cạnh cái chết của 250 ngàn chiến hữu VNCH và 58 ngàn chiến hữu Hoa Kỳ. Riêng đối với gia đ́nh của 304 chiến hữu trong Tiểu đoàn 231/ĐPQ đă nằm lại tại chiến trường Khánh Dương th́ là một tội lỗi quá lớn của chính tôi.

Trong những năm tháng u ám ở trong tù tôi có dư th́ giờ để hối hận. Lúc quyết định chấp nhận hy sinh mạng sống của ḿnh tôi đă quyết định hy sinh mạng sống của 376 chiến hữu khác. Rốt cuộc th́ chúng tôi đă làm được ǵ? Tại sao tôi lại phải sống trong khi 304 người khác đă chết v́ quyết định vô ích của tôi ? Tệ hơn nữa, cái chết của 304 người kéo theo 304 gia đ́nh ! Nếu ngày đó tôi dẫn nguyên Tiểu đoàn bỏ chạy trong ngày đầu tiên th́ kết quả cũng đến như thế này mà thôi.
Tháng Tư năm 2012 trong một buổi ngồi nói chuyện ngoài quán cà phê với Thanh Toàn, phóng viên của đài SPTN, Thanh Toàn đă bất ngờ hỏi tôi :
“Anh đă làm ǵ trong những ngày tháng Tư năm 1975”. Tôi trả lời ngay mà không kịp suy nghĩ :
“Tôi chỉ biết hết ḷng hết sức làm theo những ǵ mà cấp chỉ huy của tôi mong nuốn. Và tôi nghĩ tôi đă làm hết sức của ḿnh rồi”.
Không ngờ lúc đó Thanh Toàn đă bật máy thu h́nh mà tôi không biết bởi v́ tánh tôi không ưa xuất hiện trước công chúng. Và rồi Thanh Toàn cũng đă lén đưa đoạn phim đó lên truyền h́nh mà không hỏi ư kiến của tôi. Sau khi phát h́nh xong, Thanh Toàn đưa cho tôi dĩa DVD và cười giả lả : “Bởi v́ em thấy anh trả lời dễ thương quá, bỏ qua rất uổng”.

Trước đó cũng tại quán cà phê đó tôi thường ngồi nói chuyện với nhà văn Cao Xuân Huy, chiến hữu TQLC. CXH thường thúc tôi viết lại trận Khánh Dương nhưng tôi nói với anh là tôi sẽ không viết bởi v́ nếu viết th́ trước tiên tôi phải vạch mặt những người đâm sau lưng chúng tôi. Đó là những người bận áo lính ngồi lê đôi mách chuyên môn bươi móc hoặc bịa đặt những điều xấu xa trong quân đội VNCH.

Hoặc những người bận đồ lính ngồi trong văn pḥng thổi ống đu đủ, bơm chúng tôi thành những ông thánh, những anh hùng không biết sợ chết là ǵ. Và hễ chúng tôi thua trận hoặc hơi lùi th́ họ cho là chết nhát (sic). Trong khi sự thực chúng tôi là con người cho nên chúng tôi cũng ham sống, sợ chết như ai. Đă đánh trận th́ có khi thắng có khi thua chứ không ai cầm thanh gươm mà nói chắc là ḿnh luôn luôn thắng.
Cao Xuân Huy cũng có kinh nghiệm buồn về cuốn sách “Tháng Ba Găy Súng” của anh. Có nhiều người ở trong quân đội VNCH nhưng chưa bao giờ được hân hạnh bắn một phát súng đă kết tội CXH là “Chuyên môn nói xấu các cấp chỉ huy”, “Nó làm như chỉ có ḿnh nó là anh hùng, c̣n tất cả là hèn nhát”, “Tại sao lại viết về mặt trái không đẹp của VNCH”, “Thua trận rồi đổ cho cấp trên làm ǵ nữa” v.v…Trong khi CXH chỉ nói lên
sự thật chua xót của những người lính bị bỏ rơi.

Tôi không sợ sẽ bị hiểu lầm như Cao Xuân Huy, nhưng tự sâu xa trong đáy ḷng tôi rất ngại phải khơi gợi lại một lỗi lầm mà ḿnh đă cố chôn vùi từ lâu. Ngoài ra, có thể người ta sẽ cho rằng tôi là một sĩ quan cấp nhỏ muốn đổ hết trách nhiệm cho “bọn to đầu” để cho sự thua trận của ḿnh khả dĩ “coi được”.

Tuy nhiên sau khi xem lại đoạn băng nói chuyện với Thanh Toàn tôi mới nhận ra là ngày đó ḿnh không c̣n một lựa chọn nào khác, cho dù kết quả rất bi đát nhưng ḿnh đă làm đúng. Ngược lại, nếu giờ đây tôi chôn vùi câu chuyện này vào dĩ văng th́ cái chết của Tướng Phú và 304 chiến hữu của tôi sẽ trở thành oan uổng. Từ đó tôi mới có ư định viết lại trận đánh với tất cả mặt trái đen tối của nó.

Nhưng rồi năm nay tôi được làm quen với người bạn nhỏ tuổi hơn là Châu Xuân Nguyễn. Châu đă nói với tôi
: “Cái cần là anh là người trong cuộc chiến, anh chỉ kể những huy hoàng và “amnesia” ( tự nhiên mất trí nhớ ) về mặt trái th́ ai trách anh đâu”. Nghe lời Châu tôi quyết định xóa bỏ những đoạn có dính dáng đến mặt trái đau xót mà tôi đă viết xong.

Vậy th́ xin lượng thứ nếu thấy trong bài tường thuật này tôi toàn nói tốt.
Và chúng tôi tự nghĩ, chúng tôi đă làm hết sức của ḿnh rồi

C̣n tiếp

hoanglan22
03-07-2020, 02:15
Nhiều kỳ – kỳ 1

Chuyện ở đầu nguồn Da Dung…

Tôi ngồi chen vai cùng bảy người lính Biệt Động Quân khác trên sàn chiếc trực thăng thứ nh́ trong đội h́nh của mười hai chiếc UH1 D chở quân tham chiến ngày hôm đó.

Dưới bụng con tàu là một dải bạt ngàn, tre nứa màu xanh.

Chúng tôi đang bay trên vùng rừng già của Cao Nguyên Bảo-Lộc. Dưới kia là con sông Da Dung (Đọc là: Đa Dung) uốn ḿnh qua một khúc quanh.

Đoàn tàu lượn ṿng ṿng trong khi trực thăng vơ trang bắn phá ầm ầm để dọn băi.

Từ tọa độ của băi đáp này, con sông bắt đầu có thêm cái tên mới là Đồng Nai nằm kế cái tên Da Dung. Tên Đồng Nai c̣n đóng trong ngoặc đơn (Đồng Nai).

Hai cái tên Da Dung và Đồng Nai c̣n đeo theo nhau trên một đoạn đường dài, tới địa phận ranh giới Trung Phần và Nam Phần th́ địa danh Da Dung biến mất, chỉ c̣n lại tên Đồng Nai thôi.

Chúng tôi đổ bộ trên một băi cát ven bờ Bắc.

Trên bản đồ th́ đây là một vạt cát trắng bất di dịch, nhưng trên thực tế th́ vào mùa mưa, băi hẹp hơn mùa khô.

Hôm ấy là một ngày đầu tháng Tám, giữa mùa mưa năm 1968, mực nước sông dâng cao, sắp tràn bờ.

Bên hướng Đông băi đáp là một dăy đồi cao, rừng tre, dốc đứng.

Đoàn quân 96 người dàn hàng ngang tiến lên ngọn đồi gần nhất.

Tôi cứ leo lên được hai bước, th́ lại bị tụt xuống một bước; đường trơn như mỡ, đất đỏ quánh như hồ.

Chúng tôi yên tâm leo, v́ tin tưởng vào hỏa lực hùng hậu của bốn chiếc trực thăng vũ trang Cobras đang “Bập!Bùng! Oành! Oành!” nổ ngay trước mặt.

Không lâu sau, chúng tôi làm chủ ngọn đồi; trên đồi không có địch!

Chiếm xong ngọn đồi, để bảo đảm an ninh, tôi liền cho một toán tiền sát thăm ḍ dấu vết địch dưới con suối và ngọn đồi trước mặt. V́ nếu không mở rộng ṿng đai an ninh xa, có nhiều khi quân ta và quân địch nằm cách nhau chỉ vài chục thước mà ta không hay.

Có những cấp chỉ huy ơ hờ không đề pḥng, cứ ngừng quân là hạ trại qua đêm liền, đâu ngờ trước đó, địch đă ở sẵn sát bên. Tới khi bị địch tập kích bất ngờ th́ không tài nào trở tay kịp.

Sau khi ra lệnh cho Thiếu úy Đặng Hữu Duyên lo việc kiểm quân, tôi mồi một điếu thuốc Lucky rồi ngồi xuống nghỉ.

Chợt từ phía hậu quân, tôi nghe léo nhéo, “Ông cho đếm lại đi!” tiếng Thiếu úy Duyên ra lệnh cho một vị trung đội trưởng.

Rồi tiếp đó, “Tụi mày ngồi im tại chỗ để tau đếm. Một, hai, ba, bốn, năm… Tŕnh Thiếu úy mới có hăm ba, thiếu hai đứa!”

tiếng Thượng sĩ Nguyễn Lược, Trung đội phó, Trung đội 3.

Một phút sau, “Thiếu úy ơi! Thiếu thằng Đông và thằng Hậu.” tiếng ông Lược.

“Ông cho anh em khói lửa đi! Tôi sẽ tŕnh với Trung úy phái người xuống kiếm hai thằng này.” tiếng ông Duyên. (Khói lửa: nấu cơm, nấu bếp)

Anh Duyên trở về ban chỉ huy, nói nhỏ với tôi,

– Tôi kiểm quân rồi, cả đại đội thiếu hai người, là thằng Đông và thằng Hậu của Trung đội 3.

Tôi ra lệnh,

– Ông cho toàn bộ Trung đội 3 quay lại băi đáp t́m hai thằng đó ngay!

Nhận lệnh của tôi, cả Trung đội 3 vội dẹp bếp núc, nồi niêu, nhanh chóng xuống đồi.

Mười phút sau trong máy truyền tin có tiếng Thượng sĩ Lược,

– Lạ quá! Thái Sơn xuống mà coi!

– Ǵ vậy?

– Thái Sơn xuống coi đi! H́nh như hai thằng này bỏ trốn chứ không phải đi lạc!

– Ủa? Chờ đó đi! Tôi xuống ngay!

Đội mưa, tụt xuống dốc, chỉ mấy phút sau tôi và ba anh lính hộ tống đă tới bờ sông.

Trung đội 3 đang bố quân hướng cuối nguồn. Thượng sĩ Lược đưa tay vẫy,

–Trung úy ơi! Lại đây!

Tôi tiến nhanh về phía ông Lược.

V́ có rừng cây cao che chở, nên mưa chưa xóa mờ dấu chân giày in trên cát. Rơ ràng có hai dấu giày đi rừng, một lớn, một nhỏ, đè lên nhau nhắm hướng một ngọn đồi hướng Tây Bắc của băi đổ quân. Trong khi đó th́ dấu chân của đơn vị tôi lại quần nát cả một vùng rộng lớn trải dài từ băi đáp trực thăng tới chân ngọn đồi hướng Đông Bắc.

Chắc chắn hai anh lính này đă bỏ ngũ giữa rừng già. Họ đi ngược đường của đơn vị.

Tôi ra dấu cho Trung đội 3 chia hai cánh theo sát dấu giày phía trước. Tới chỗ chân dốc, tôi cho quân ngừng lại.

Nơi này c̣n cách Liên Tỉnh Lộ 8 B gần hai cây số.

Muốn tới Gia-Nghĩa, Quảng-Đức, phải đi qua một đoạn đường dài hơn hai chục cây số nữa.

Con đường Liên Tỉnh Lộ 8 B từ Gia-Nghĩa, Quảng- Đức đến Di-Linh, Lâm-Đồng đă bị bỏ hoang lâu lắm rồi. Nếu hai anh lính này mà ṃ ra đường chắc chắn sẽ gặp Việt-Cộng.

Tuy trong bụng tôi nghi hai anh tân binh này đă trốn đi, nhưng bắt buộc tôi phải cho Trung đội 3 ém quân bên băi đáp, pḥng khi hai anh này quay trở lại.

Trung đội 3 vào vùng kỳ này không có trung đội trưởng, Chuẩn úy Đinh Quang Biện bị sốt rét phải nằm bệnh viện Đà-Lạt.

Ông Thượng sĩ già đành phải thay ông Chuẩn úy trẻ để đảm nhận chức vụ chỉ huy.

Tôi nói với Thượng sĩ Lược,

– Ông cho anh em nằm trong b́a rừng. Nếu có động tĩnh ǵ th́ cho tôi hay.

Leo lên đồi, tôi báo chuyện này cho Đại úy tiểu đoàn trưởng. Tôi xin ông cho phép tôi tiến quân chậm lại một vài ngày.

Sáng hôm sau, tôi cho lệnh Trung đội 3 bắn cầm chừng, vài ba phút một viên về hướng Tây Bắc, hy vọng nghe tiếng súng, hai anh tân binh sẽ quay lại.

Một ngày dài qua đi, tôi không có tin tức ǵ về hai người lính mất tích.

Ngày tiếp theo, để bảo đảm an ninh vị trí đóng quân, tôi ra lệnh cho Thiếu úy Duyên dẫn Trung đội 1 của Thượng sĩ Ngọ và Trung đội 2 của Thiếu úy Vi tiến về hướng chính Bắc để thăm ḍ t́nh h́nh địch trên hai ngọn đồi cao trước mặt.

Trung đội 1 và Trung đội 2 đi rồi, Trung đội 3 c̣n ở dưới suối, nên trên đồi hiện giờ chỉ c̣n Trung đội chỉ huy, với khẩu đội cối 60 ly và hai khẩu đội đại liên M60.

Phút chốc tôi cảm thấy ngọn đồi như rộng thêm ra, tiếng thác đổ từ dưới chân đồi vọng lại nghe như rơ hơn, gần hơn.

Tôi ngồi bên một bếp lửa hồng, mặt tôi nóng bừng bừng, nhưng lưng tôi lại lạnh toát như đang có một cục nước đá trượt qua, trượt lại dọc theo xương sống.

Suốt hai ngày dầm mưa, thêm một đêm thức trắng, có lẽ tôi đă bị cảm mạo mất rồi!

Bỗng tôi nghe dưới băi đáp có tiếng súng nổ ran, rồi tiếng Thượng sĩ Lược trên tần số,

-Tŕnh Thái Sơn! Tụi nó giả trang làm Biệt Động Quân! Thái Sơn coi chừng cẩn thận!

Nghe ông Lược nói, tôi chẳng hiểu ǵ cả, nên gặng lại,

– Cái ǵ? Ai giả dạng? Có ǵ mà bắn phá tùm lum dưới đó vậy?

– Dạ! Việt-Cộng nó giả dạng Biệt Động Quân! Chúng nó chui ra khỏi rừng bắn nhau với tụi tui mấy viên rồi chạy mất!

– Kết quả ra sao?

– Dạ! Bên ta vô sự! Bên địch cũng … vô sự!

– Thôi! Cuốn gói về đây!

– Dạ!

Tôi gọi Y tá Đức lên, xin mấy viên thuốc cảm, rồi ngồi chờ ông Lược.

Chừng mười lăm phút sau th́ Trung đội 3 về tới vị trí trú quân.

Thượng sĩ Lược vừa thở, vừa tóm lược chuyện xảy ra cho tôi nghe.

Th́ ra sáng nay lính gác thấy thấp thoáng bóng người xuất hiện nơi b́a rừng Tây Bắc bèn cho lệnh báo động. Sau đó có tiếng la:

“Đừng bắn! Tôi đi lạc, trở về! Đừng bắn!”

Cũng may là, lúc đó Thượng sĩ Lược có mặt ở pḥng tuyến ngoài, ông Lược nh́n thấy hai người mặc quần áo rằn ri, nhưng tay lại thủ súng AK47, tiếng nói lại là giọng Bắc.

Ông Lược biết chắc chắn rằng, hai anh tân binh thất lạc là người Nam, không thể đổi thành giọng Bắc rặt như thế được!

Rồi ông đă có phản ứng thật nhanh. Tay ông bóp c̣ khẩu M 16, miệng ông la lớn,

-Việt-Cộng! Bắn đi! Bắn đi! Anh em ơi!

Mấy anh lính trong trung đội, nghe người chỉ huy la thất thanh ra lệnh bắn, nên vội ôm súng tác xạ văng mạng, miệng cũng thét vang,

– Việt-Cộng! Việt-Cộng! Bắn! Bắn!

Hai mươi ba khẩu M 16 liên thanh đua nhau nổ rền.

Tiếc thay! Quân của ông thượng sĩ già phản ứng nhanh như vậy mà địch cũng chẳng chết thằng nào!

Ngày kế đó tôi cho Trung đội 2 của Thiếu úy Vi thay thế Trung đội 3, tiếp tục phục kích các ngă đường dẫn về băi đáp, nhưng không phát giác động tĩnh ǵ.

Tôi báo cho tiểu đoàn biết chuyện địch giả trang người của ta để đánh ta, và đề nghị ông tiểu đoàn trưởng thông báo chuyện này cho các đơn vị bạn để đề pḥng.

Quả nhiên hai ngày sau, đại đội của Trung úy Nguyễn Văn Cơ thuộc Tiểu Đoàn 22 Biệt Động Quân hoạt động cách tôi ba cây số về hướng Tây cũng bị địch giả dạng Biệt Động Quân để đột kích.

V́ đă được thông báo đề pḥng, nên quân bạn đă bắn chết ngay hai tên Việt-Cộng mặc quân phục rằn ri đi đầu, c̣n bọn giặc núp theo sau cũng phải ùa nhau chạy bán mạng.

Kỳ hành quân này nhiệm vụ của đại đội tôi là t́m và phá hủy các căn cứ tăng gia sản xuất của địch trong rừng núi vùng ba mươi cây số Đông Nam thị trấn Gia-Nghĩa tỉnh Quảng-Đức. V́ chuyện hai người lính thất lạc mà mấy ngày nay, chúng tôi cứ loanh quanh gần khu vực băi đáp, không tiến lên được bước nào.

Tới ngày thứ năm tôi cho đơn vị nhổ neo nhắm hướng chính Đông.

Mục tiêu chúng tôi phải tới ngày hôm đó có tên là “Bravo” điểm xa nhất trên phóng đồ hành quân trong tay tôi. Bravo là làng Bích-Khê nằm cách nơi tôi đạp đất gần năm cây số.

Qua một cái thông thủy, chúng tôi leo lên một ngọn đồi, mặt đất thoai thoải về Đông Bắc, tre rừng đă bị phát quang, dọn thành từng đống, sẵn sàng đốt để làm nương lúa lốc.

Như vậy những người chặt nương, phát rẫy ở cách đây không xa. Vùng này không có dân, người khai nương phải là cán binh trực thuộc một đơn vị tăng gia của địch.

Tôi bị cơn sốt rét rừng hành hạ gần bốn ngày rồi. Mặt tôi th́ nóng phừng phừng, c̣n hai chân tôi lại nặng như đeo ch́. Tôi phải nhờ vào một cái gậy chống để bước đi không bị lảo đảo.

Ngày nào Y tá Đức cũng phải chích cho tôi một liều thuốc kư ninh chống sốt rét cùng một mũi Calcium cho ấm phổi.

Dù đă cố gắng hết sức để chữa trị cho tôi, nhưng chú Đức bắt đầu nản ḷng rồi; Đức khuyên tôi xin máy bay tải thương để về Bệnh Viện Đà-Lạt chữa bệnh.

B́nh thường th́ tôi đă nghe lời chú Đức rồi, nhưng với t́nh h́nh hiện giờ, đơn vị tôi có thể chạm trận bất cứ lúc nào, nên tôi không dám xin tản thương mà để đại đội lại cho người khác chỉ huy. Tôi hy vọng không có ǵ bất trắc xảy ra trên đoạn đường từ đây cho tới Bravo. Tới Bravo sẽ không c̣n bị rừng già che phủ, bớt sơn lam, chướng khí th́ người bệnh sẽ dễ thở hơn.

Chúng tôi ẩn ḿnh trong rừng để di chuyển.

Tới cuối dốc, tai tôi bỗng nghe tiếng tre uốn, “Ken két! Rào rào!” như có băo.

Tiếng động không ào lên như cơn gió lốc, mà di chuyển thành luồng, giống như có con trăn hay con giồng khổng lồ đang uốn khúc lượn qua các ngọn tre.

Tôi cho anh em dừng lại, gh́m súng chờ. Lần đầu thuộc cấp của tôi thấy tôi làm điều mà ít khi họ thấy, tôi rút cây Colt 45 ra, quỳ gối, thủ thế sẵn sàng bóp c̣!

Rồi th́, “Vèo! Vèo! Ào! Ào!” trên ngọn tre có những vật đen bay từ cây này sang cây khác.

Mỗi vật đen to bằng cái balô mang vai của lính.

Hóa ra đó là một đàn vượn rừng. Chúng di chuyển bằng cách đu ḿnh theo đà nhún của những cây tre.

Thân tre oằn xuống, rồi tưng lên, cành tre đập vào nhau nghe,“Ken két! Rào! Rào!” từng đợt.

Khi đu ḿnh ngang chỗ đoàn quân đang núp dưới gốc tre, lũ vượn phát giác ra sự hiện diện của con người, chúng kêu lên,“Khẹc! Khẹc! Chí! Chí! Oé! Oé!” báo động cho nhau, rồi rẽ sang hướng khác.

Bất th́nh ĺnh, từ ống liên hợp của máy truyền tin PRC 25 phát ra tiếng kêu,

“Thái Sơn đây Linh Hồ gọi!”

Trong máy, ai đó tự nhiên xuống giọng ở cuối câu, khiến cho hai tiếng “Linh Hồ” nghe giống như “Linh Hồn”

“Thái Sơn! Đây Linh Hồn gọi!”

Tôi thót bụng.

Trời đất!

Bộ chỉ huy tiểu đoàn gọi tôi vào đúng lúc tôi đang “lên ruột”

Những khi tinh thần căng thẳng như thế này mà nghe ba tiếng “Linh Hồn gọi!” thấy ớn quá!

Mấy ông thảo ra đặc lệnh truyền tin không chịu để ư tới ảnh hưởng tâm lư khi người nghe đang ở trong vị thế chuẩn bị đánh nhau.

Sắp sửa đánh nhau, sắp sửa nổ súng, mà nghe “Linh Hồn gọi” th́ sợ lắm!

Sao các ông ấy không đặt cho tiểu đoàn tôi cái tên “Giao Linh” hay “Chế Linh” có phải là dễ nghe hơn, đỡ sợ hơn không?

Khi biết người đầu máy bên kia là sĩ quan Ban 3 tiểu đoàn; anh bạn này cùng khóa với tôi; tôi cằn nhằn,
– Mày nói với Hoàng Mai bỏ cái tên “Linh Hồ” đi! Tao nghe “Linh Hồ gọi” mà cứ tưởng là “Linh Hồn gọi” tao ớn quá!

(Hoàng Mai là danh hiệu của ông tiểu đoàn trưởng)

Anh bạn tôi cười h́ h́,

– Ừ! Để tao nói với Hoàng Mai cho đổi tên ngay tối nay theo yêu cầu của mày. C̣n bây giờ th́ nghe đây: Nội nhật ngày mai mày phải có mặt trên Bravo. Mày trễ mất ba ngày rồi đó!

Tôi nói,

– Yên chí đi! Chiều nay tao sẽ có mặt trên mục tiêu.

– Mày có cần tiền oanh kích th́ tao xin cho mày ngay.

– Không cần! Tao biết, chỉ mười lăm, hai mươi phút sau khi chạm địch, ḿnh đă có Cobra rồi.

Sau khi vượt qua một con suối sâu tới bụng và một cái dốc đứng, chúng tôi đặt chân lên một b́nh nguyên cỏ tranh. Cuối băi, dưới dốc là một buôn Thượng đă bỏ hoang nằm bên phải cây cầu găy trên Liên Tỉnh Lộ 8B.

Từ buôn Thượng này đi theo liên tỉnh lộ chừng một cây số nữa về hướng Đông Nam th́ tới Bích-Khê.

Tôi dàn quân trên cao, sẵn sàng yểm trợ cho Trung đội 2 thám sát cái buôn Thượng.

Sau khi lục soát kỹ buôn Thượng này, tôi cho lệnh Trung đội 2 chốt giữ nơi đó luôn, nhưng tuyệt đối cấm đốt khói và gây tiếng động.

Thành phần c̣n lại của đại đội lập tức dàn hàng tiến theo trục lộ. Đường Liên Tỉnh 8B đi xuyên qua thôn Bích-Khê.

Khi họp hành quân chúng tôi được Ban 2 liên đoàn cho biết, thời Cụ Diệm làng Bích-Khê là một khu dinh điền trù phú, nay th́ nó đă bị bỏ hoang lâu rồi.

Làng Bích-Khê này tọa lạc trên đỉnh một ngọn đồi. Từ đỉnh đồi, tôi có thể nh́n bao quát một vùng xa. Phong cảnh ở đây thật là tuyệt đẹp!

Hướng Đông, con đường đổ xuống một thung lũng rộng; hướng Nam là dốc đứng; hướng Bắc có con suối lớn và sâu bao quanh.

Nh́n con suối xanh biếc chảy xiết trong cái thung lũng cũng là một đồng cỏ xanh bạt ngàn, tôi chợt hiểu, v́ sao người ta đặt tên cho cái làng này là “Bích Khê”. Bích Khê có nghĩa là “Suối Biếc”.

Dưới kia, suối biếc bắt nguồn từ một cái hồ ngợp bóng chim đang săn cá. Mặt hồ gợn sóng lăn tăn.

Nh́n qua cấu trúc của làng Bích-Khê, tôi đoán chừng xưa kia làng này là một Ấp Chiến Lược 5 cạnh có hàng rào bằng tre đực.

Nay Bích-Khê đă thực sự điêu tàn. Di tích văn minh thời Đệ Nhất Cộng-Hoà c̣n lại là dăm gốc xoài, gốc ổi bên mấy cái nền nhà cũ.

Không những vườn tược trong thôn đă thành rừng um tùm, trên mặt liên tỉnh lộ cũng đă có nhiều cây loại thân mộc mọc cao.

Đáng ngại nhất là con đường ṃn chạy từ Tây Nam lên Đông Bắc, xuyên qua ngay giữa làng. Đường ṃn này đang được sử dụng thường xuyên nên cỏ không mọc nổi.

Vô t́nh, con đường ṃn này và đường Liên Tỉnh 8B đă giao nhau, cắt Bích-Khê Thôn thành bốn mảnh.

Về hướng Bắc th́ con đường đâm xuống suối.

Về hướng Nam, con đường chui vào cái khe giữa hai ngọn đồi có cao độ tương đương với cao độ của làng Bích-Khê; hướng Tây của hai ngọn đồi đó là một vùng ao hồ và đầm lầy.

Nh́n địa thế này, tôi chợt nảy ra một ư định mới, thay v́ cho đặt một toán tiền đồn báo động trên ngọn đồi hướng Nam, tôi thay bằng một ổ phục kích ngay chân con dốc ngoài rào ấp chiến lược Bích-Khê.

Ba người được tôi giao trọng trách làm công tác phục kích ngày hôm đó là ba tay súng cự phách của đại đội: Hạ sĩ 1 Nguyễn Lác, người nấu cơm của Thiếu úy Duyên, cùng hai anh lính cật ruột của tôi là Hạ sĩ Nguyễn Phượng Hoàng và Binh 1 Phạm Công Cường.

Tôi đă đích thân đi cùng một tiểu đội hộ tống ba người này vào vị trí tác chiến xong xuôi rồi chúng tôi mới rút về.

Thế rồi, xế trưa hôm sau súng nổ, và chuyện được ba anh lính đi phục kích về kể lại…

Địch có khoảng mười tên. Một khinh binh ôm AK47 đi đầu. Phía dưới dốc, đằng sau nó là một đoàn bộ đội vừa đi vừa tṛ chuyện râm ran.

hoanglan22
03-07-2020, 02:18
Tới đầu dốc, đột nhiên tên khinh binh ngừng lại, ḍ dẫm từng bước. Rồi nó thận trọng ngồi xuống, giơ tay ra dấu cho toán Việt-Cộng đi sau đừng vội tiến lên.

Mặt trời mùa này nằm chếch về hướng Tây Nam, tên địch cũng tiến tới từ hướng Tây Nam, mặt trời ở sau lưng nó.

Thằng Việt-Cộng đi mở đường đă nh́n thấy một sợi dây cước phản chiếu ánh mặt trời, sáng lấp lánh căng ngang đường. Sợi dây cước này nối chốt nổ của hai cái bẫy sáng do Hạ sĩ Lác đă gài!

Chắc thằng Việt-Cộng rất ngạc nhiên khi thấy giữa rừng già có một sợi cước câu cá!

Chắc nó dừng lại v́ nghi ngại trước mặt nó có một cái bẫy ḿn hay lựu đạn.

“Đoàng! Đoàng!”

Tên Việt-Cộng đang lom khom, bị hai viên đạn bắn vỡ đầu, ngă ngửa về đằng sau.

Những tên đi sau vội ù té chạy.

“Đùng! Đùng!Đùng!”

Ba khẩu M16 đua nhau bắn. Góc bắn hơi cao, nên không có tên địch nào chết thêm. Trên đường ṃn có hai cái ba lô bị rớt lại…

Tôi có sẵn một hỏa tập tiên liệu ngay cái khe giữa hai đỉnh đồi hướng Nam.

Thời gian này đạn dược thừa mứa, muốn bắn bao nhiêu cũng có. Một pháo đội Hoa Kỳ nhanh chóng đáp lời tôi yêu cầu, tưới gần một trăm trái đạn đại bác 105 ly trên tọa độ.

Tôi nghĩ rằng, đang chạy bán sống, bán chết, mà bị một trận mưa pháo dội lên đầu th́ những tên giặc dù có thoát chết th́ cũng sợ tới ướt quần mất!

Tôi bắt đầu buổi chiều ngày thứ nh́ ở Bích-Khê bằng một cơn sốt cao.

Trên cái nền nhà cũ, tôi ngồi thu ḿnh trong chiếc poncho line, cả người nóng bừng bừng. Xưa nay tôi cứ cho rằng khi đau đớn mà phát ra tiếng rên th́ mắc cỡ lắm. Đau mà rên là hèn, là thỏ đế.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1541697&stc=1&d=1583547422

Ngày Mùng Một Tết Mậu Thân, dù bị Việt-Cộng bắn lủng ngực, tôi cũng không rên.

Ấy vậy mà hôm nay, tôi giơ cả hai tay bịt miệng, bịt mũi lại, mà vẫn không ngăn được những tiếng “Hừ! Hừ! Hừ!”

Bệnh sốt rét rừng quả là vô cùng lợi hại! Tôi thường tự hào là một tay đi rừng cự phách mà cũng bị mấy con vi trùng nhỏ tí ti, nhỏ hơn cả cái đầu kim, quật ngă phải nằm run bần bật.

Trung đội 3 của Thượng sĩ Lược trấn giữ mặt Bắc, đồng thời chốt ngay đầu cây cầu khỉ bắc ngang con suối.

Mặt trời vừa gác núi th́ ông Lược ḷ ḍ từ dưới dốc leo lên, tay xách một con cá lóc dài cỡ hai gang tay.

Ông ta giao con cá cho Hạ sĩ Thọ, người nấu cơm cho tôi,

– Tụi nó cắm câu được con cá lóc này. Mày đem nấu cháo để Thái Sơn ăn cho dă cảm. Nhớ cho nhiều tiêu vào! Cho ổng ăn cháo thật nóng để ra mồ hôi mới bớt được.

Sau khi gắng ăn một bát cháo nóng, tôi trùm thêm cái poncho đi mưa che kín từ đầu tới chân. Chỉ vài phút sau th́ cả người tôi ướt đẫm mồ hôi giống như người đang tắm hơi.

Những tưởng mồ hôi thông thương th́ bệnh t́nh của tôi sẽ bớt, nào ngờ vừa lau người xong, tôi bỗng lạnh run; tôi không bị cơn sốt nóng hành hạ nữa, mà ngược lại, tôi khốn khổ v́ bị rét.

Y tá Đào của Trung đội 3 mon men tới bên tôi, anh ta rụt rè,

– Thái Sơn bị lờn thuốc kư ninh rồi! “Chích” hoài không khỏi th́ Thái Sơn cho em “châm” cho ông thầy, thử xem có khá không nhé!

Tôi thắc mắc,

– Châm là cái ǵ vậy?

– Dạ! Châm cứu ấy mà! Em biết châm cứu! Để em châm cho Thái Sơn nhé!

Lúc này th́ tai tôi đă bị ù, mắt tôi nh́n chỗ nào cũng thấy sao sáng nhấp nháy, chớp chớp.

Thôi th́, cũng đành liều…

Tôi nằm sấp trên cái poncho, để mặc cho chú Đào tự do thoải mái dùng kim muốn châm chỗ nào th́ châm.

Tiếp theo màn châm cứu, chú Đào quay qua nghề giác hơi.

Sau màn giác hơi là mục xoa dầu Nhị Thiên Đường. Hạ sĩ Đào vận hết sức vào hai bàn tay, vừa xoa vừa véo trên da lưng tôi liên tục.

Tôi thấy da lưng ḿnh có vẻ c̣n dày hơn da trâu! Mặc cho Y tá Đào bấu, véo, vặn vẹo, cách nào tôi cũng không thấy đau.

Kỳ diệu thay! Sau khi xoa hết hai chai dầu Nhị Thiên Đường th́ tôi…hết sốt rét!

C̣n anh Y tá Đào th́ ngồi phờ người, như đă kiệt lực.

Ông Lược ngồi cạnh Y tá Đào, chợt phát thanh,

-Thằng Đào giỏi quá ta! Nếu biết nó chữa được sốt rét th́ Chuẩn úy Biện đâu cần đi nằm nhà thương, tui đâu có phải vất vả chỉ huy trung đội!

Hạ sĩ Thọ cười,

– “Thượng sĩ Tía” nhớ con rể rồi hả?

Nghe Hạ sĩ Thọ chọc quê, ông già cự liền,

– Cái thằng này chỉ hay nói bậy!

Tôi nghe ông Lược mạnh miệng nói vậy nhưng tôi nghĩ rằng, có lẽ lúc này trong ḷng ông già cũng đang nhớ người chỉ huy trẻ tuổi của ông lắm.

Chuyện nhớ nhung này duyên cớ cũng b́nh thường…

Vào một ngày tháng Sáu vừa qua, có chiếc xe đ̣ chạy đường Sài-G̣n Đà-Lạt ngừng bên phía đối diện xưởng cưa Đức-Trọng. Một cô nữ sinh áo dài trắng, tay xách cái giỏ mây, bước xuống, nh́n trước, nh́n sau, rồi băng qua lộ.

Tới vọng gác bên cổng, cô nhỏ nhẹ hỏi hai ông lính,

– Hai chú làm ơn cho hỏi, có phải Đại Đội 1/11 đóng quân ở đây không?

– Phải! Cô cần ǵ?

– Dạ! Em muốn gặp ông chỉ huy ở đây để xin phép thăm người nhà.

Anh lính gác gọi lớn,

– Chuẩn úy ơi có người cần gặp!

Trung đội 3 là đơn vị trực gác ngày hôm đó, Chuẩn úy trung đội trưởng Đinh Quang Biện vội chui ra khỏi lều,

– Thưa cô cần gặp ai?

– Dạ! Em muốn gặp “Tía”!

– Để tôi gọi ổng ra cho cô nhé!

– Dạ!

Anh sĩ quan trẻ quay mặt về hướng mấy cái bếp lộ thiên đang bốc khói nghi ngút bên rào rồi bắc loa tay gọi,

– Ông Tía ơi! Ông Tía ơi!

Cô bé vội níu tay anh chuẩn úy người Bắc,

– Tía là bố đó!Bố em tên là Lược!

– Vậy là Thượng sĩ Lược! Đại đội này chỉ có một ông tên là Lược!

Lại bắc loa tay,

– Ông Lược ơi! Ra đây ngay! Có người nhà tới thăm!

Thượng sĩ Lược đang ngồi đánh cờ tướng với Hạ sĩ Đào, ông đang ở vào thế hạ phong, nghe tiếng người gọi tên, ông mừng quá, vội vàng xóa bàn cờ đứng lên,

– Chuẩn úy chờ chút! Tôi ra liền!

Y tá Đào cằn nhằn,

– Ông già sắp bị chiếu bí rồi! Sao không để xong việc tiếp người nhà, th́ ḿnh đánh tiếp, mà lại xóa bàn cờ đi! Bộ ông tính ăn gian sao?

Trưa hôm đó, trong cái nhà kho lớn, có mái lợp tôn, nhưng không có vách, dùng để chứa ván, nơi ông chủ xưởng cưa dành cho gia đ́nh binh sĩ của Đại Đội 1/11 tới thăm chồng con ở nhờ, có ba người ngồi ăn cơm bên nhau, trông họ giống như gia đ́nh một nhà, gồm ông bố và hai đứa con, một trai, một gái.

Đại đội tôi thời gian này có bốn sĩ quan, vậy mà ông Thượng sĩ Nguyễn Lược chỉ mời một ḿnh Chuẩn úy Đinh Quang Biện ngồi ăn cơm chung với ái nữ của ông ấy. Thật là chẳng công bằng chút nào!

Cơm nước xong, ông Lược lên ban chỉ huy mời tôi và Thiếu úy Duyên xuống nhà kho uống nước trà và giới thiệu cô con gái của ông,

– Nhỏ này là bé Hai trong nhà tôi. Năm nay nó học Đệ Nhị. Nó nhớ tía quá nên vội chạy lên đây thăm tôi, chiều nó về lại Sài-G̣n.

Sau khi rót đầy hai bát trà để trên bàn, cô gái nhỏ nhẹ,

– Cháu mời hai chú uống trà.

Chỉ qua vài phút tiếp xúc, tôi đă nhận ra rằng, cô con gái của ông Lược có thể coi như đại diện cho nét đẹp của gái Hậu-Giang. Cô ấy ăn nói thật nhẹ nhàng, và thật dịu dàng. Cô có mái tóc thề ngang vai, đôi mắt nhung huyền. Cô có nụ cười hiền ḥa, đôn hậu, trên khuôn mặt trái xoan với làn da trắng hồng đặc biệt của những người con gái xứ Nha-Mân.

Xem thêm: Đằng sau Bức Tường Đá Đen
V́ nghe ông Lược nói rằng cô bé chỉ có vài giờ thăm cha rồi phải về Sài-G̣n ngay, nên tôi và anh Duyên giữ ư, chỉ ngồi chơi một lúc cho có lệ, rồi rút lui cho cha con người ta tâm sự với nhau.

Cô nữ sinh con ông trung đội phó Trung đội 3 cứ bịn rịn măi bên ông bố tới chiều mới chịu lên chuyến xe đ̣ cuối cùng trong ngày để xuôi Nam.

Trước khi lên xe, cô nhắn ông bố,

– Tía cho con gửi lời cám ơn anh chuẩn úy người Bắc ở cùng trung đội với Tía nhé! Trông mặt anh ấy thấy ngồ ngộ quá Tía à!

Từ ấy, ông Thượng sĩ trung đội phó Trung đội 3 mang thêm cái tên phụ là “Thượng sĩ Tía” của Đại Đội 1/11 Biệt Động Quân.

Từ ấy trong đơn vị, ông thượng sĩ già được nhiều người thương hơn, nhiều người kính nể hơn, đặc biệt là các chàng trẻ tuổi độc thân.

Tôi nghe anh em bàn tán rằng, người được Thượng sĩ Tía có cảm t́nh nhứt chính là anh chuẩn úy người Bắc mặt trông “ngồ ngộ” tên là Đinh Quang Biện.

Trú quân trong Bích-Khê Thôn được hai ngày th́ tôi nhận lệnh chuyển quân sang một băi đáp khác.

Chúng tôi lên tàu ở cuối làng Bích-Khê và nhảy xuống một băi trống cách bến Kinh Đà nửa cây số về hướng Tây.

Kinh-Đà là tên Thượng, tên chữ của làng này là Kinh-Đức, nơi đây chỉ cách làng Bích-Khê hơn mười cây số.

Đại Đội 4 và bộ chỉ huy tiểu đoàn đă xuống băi này trước tôi nửa giờ. Họ sẽ đóng tại đây giữ lưng cho tôi tiến lên phía trước.

Ông tiểu đoàn trưởng trao cho tôi cái phóng đồ mới và lệnh hành quân mới. Đại khái nhiệm vụ của tôi vẫn là t́m và triệt phá các khu sản xuất và trạm giao liên của địch.

Ngay trên băi đáp là một đường voi thồ rộng cỡ hai thước, dấu xe đạp chở hàng đè lên nhau chằng chịt c̣n rất mới trên mặt đường.

Rời băi, tôi dẫn quân xuống một cái thông thủy cạn.

Theo đường xe thồ, chúng tôi tiến về bờ sông.

Chúng tôi rời điểm đổ bộ được một đoạn đường xa chừng hai cây số th́ chợt trước mặt tôi có tiếng gà gáy “Te! Te! Te!”

Thiếu úy Duyên đi sau, vội nhấn bước tới, hớn hở kéo áo tôi,

– Thái Sơn ơi! Có tiếng gà rừng gáy! Anh cho phép tôi bắn một con làm nồi cháo nghen!

Tôi lắc đầu,

–Khoan đă! Gà rừng gáy th́ ḿnh chỉ nghe “Te! Te!” ngắn ngủn thôi! C̣n tiếng gáy của đàn gà này vừa thanh, vừa cao, vừa dài, chắc là gà nhà, gà nuôi, không phải gà rừng.

Tôi ra lệnh cho đơn vị ngừng lại, bố trí hai bên đường chờ.

Một toán thám sát được gửi lên phía trước, toán phát giác bên trái đường có một khu vườn, với hai ba mái tranh và một sân đất rộng.

Nhiệm vụ tấn kích được giao cho Thiếu úy Duyên và Trung đội 1.

“Đùng! Đùng! Đùng!” – “Đoàng! Đoàng! Đoàng!” Hơn hai chục tay súng dàn hàng ngang vừa bắn vừa phóng vào sân cỏ.

Bảy, tám cán binh Việt-Cộng từ trong căn nhà tranh lớn nhất chạy ra, bốn tên bị hạ, một tên nhanh chân phóng qua đường xe be rồi nhảy ùm xuống sông, những tên c̣n lại lao vào rừng, biến mất.

Căn nhà tranh này là khu nhà bếp và nhà ăn tập thể. Giờ này bọn chúng đang quây quần chuẩn bị ăn cơm trưa nên cổng trước, cổng sau không có người canh gác.

Đàn gà đang ăn trong sân vung cánh bay loạn xạ, cùng với tiếng gà kêu “Quang quác!”

Trong rừng h́nh như có tiếng “Éc! Éc!” của mấy con heo đang cắm đầu chạy trốn.

Chiến lợi phẩm tịch thu được hôm đó là ba khẩu súng trường Mas 36, bốn khẩu AK 47 cùng năm sáu quả lựu đạn chày. Ngoài ra chúng tôi c̣n nhặt được một quyển sổ ghi số lượng chi thu lúa gạo, đạn dược của huyện đội Di-Linh Việt-Cộng.

Toán quân xung phong cũng hạ được chín, mười con gà. Thượng sĩ Ngọ dành cho tôi và Thiếu úy Duyên con gà trống to nhất.

Tôi báo cáo cho tiểu đoàn biết kết quả cuộc tấn kích, đồng thời đề nghị tiểu đoàn chấp thuận cho đại đội tôi ngủ qua đêm tại đây sau khi mở rộng vùng kiểm soát để truy kích những tên địch đang đào thoát.

Chưa tới nửa giờ sau, qua máy vô tuyến tôi đă nhận được lời nhắn, “Bạch Mai gửi lời khen ngợi Thái Sơn và các anh em chiến sĩ thuộc Đại Đội 1/11” (Bạch Mai: Trung tá liên đoàn trưởng)

Để đề pḥng những tên địch sống sót có thể quay về dọ thám t́nh h́nh, tôi cho các trung đội luân phiên tuần tra ṿng quanh khu vực một cách liên tục từ trưa cho tới chiều.

Tới chiều, tôi cho đóng năm cái chốt chặn với bẫy sáng và lựu đạn gài đầy đủ để bảo đảm an ninh cho vị trí đóng quân đêm của đơn vị.

Nắng chiều xế tà, mấy con gà mon men về sân. Chưa có lệnh của tôi, không ai dám bắn chúng.

Thượng sĩ Ngọ đề nghị với tôi,

-Thái Sơn đừng cho ai bắn. Cứ để đó, tối nay tôi sẽ bắt hết tụi gà này!

Sau đó ông Ngọ xúc hai ba ca thóc trong kho của địch ra, rồi văi thóc đầy sân.

Đàn gà ngây thơ, vô tội “Cục! Cục! Cục!” lớn tiếng gọi nhau về tụ họp trong vườn.

Anh chàng Hạ sĩ 1 Lác t́m được hũ rượu mà tụi cán binh đang ủ, anh ta lôi ra chắt hết rượu vào cái nón sắt, sau đó anh đem bỗng rượu (bă rượu) đổ vào cái nồi nấu cám heo.

Lác cho thêm vào nồi hai gói cơm sấy và một rổ thân cây chuối xắt lát rồi nổi lửa, h́ hục nấu cám heo.

Cám heo được đổ vào cái máng đan bằng tre để trong chuồng. Mùi cám heo bốc lên thơm lừng bay trong rừng. Hai con heo đánh hơi thấy mùi cám nóng th́ ủn ỉn rủ nhau về chuồng.

Thế rồi đêm đen buông xuống, cùng với tiếng heo kêu, rồi tiếng gà kêu.

Không rơ ông Ngọ và anh Lác làm cách ǵ mà bắt gà, bắt heo, gọn gàng, nhanh nhẹn thế!

Hai con heo to bị trói nằm trên sàn bếp kêu “Eng éc!”

Gần hai chục con gà vừa trống vừa mái cũng bị trói chặt nằm bên nhau, con này chúi đầu vào dưới cánh của con kia rồi há mỏ, “Ục! Ục! Ục!” chờ người ta cắt cổ.

Vài phút sau th́ hai bó đuốc bằng nứa khô được đốt lên giữa sân cỏ soi sáng liên tục.

Trong bếp có tiếng mài dao, rồi có tiếng heo rít lên, “É! É! É” thật là thảm thiết v́ bị thọc huyết; những con gà th́ chết nhanh hơn và âm thầm hơn.

Chưa tới mười giờ khuya th́ các trung đội đă chia nhau đồng đều số gà và những miếng thịt heo.

Tôi nói Thiếu úy Duyên dành ra một cái đùi heo tặng ông tiểu đoàn trưởng, và một con gà trống đă làm lông sạch sẽ để dành cho thằng bạn cùng khóa của tôi đang là sĩ quan Ban 3 của tiểu đoàn.

Đúng là “Buồn ngủ mà gặp chiếu manh!” C̣n hai ngày nữa mới tới kỳ tái tiếp tế, chúng tôi đă hết đồ ăn, hết thuốc lá. Cái nông trại này của Việt-Cộng có đủ cả, gạo lức, heo, gà, chuối, ổi, ớt và rau cỏ, lại thêm ba bốn giàn treo thuốc lá phơi khô trên nóc bếp.

Sau này, nhân lúc rảnh rỗi tôi có thắc mắc hỏi ông Thượng sĩ Ngọ,

– Bác có bí quyết ǵ bắt heo, bắt gà, mà chúng nó không kêu?

Tôi ngẩn người, ngạc nhiên khi nghe ông Ngọ t́nh thực trả lời,

– Nào có ǵ khó đâu Trung úy! Ban đêm, chỉ cần một cục mắm tôm hay mắm ruốc to bằng đầu ngón chân cái, bóp nát ra, thêm chút nước, rồi xoa mắm cho kín hai bàn tay tới khuỷu tay là mấy con gà, con heo không đánh hơi được ḿnh, ḿnh nắm cẳng, nắm cổ nó là xong.

Ông Ngọ c̣n cho tôi hay, nếu dùng mắm tôm, mắm ruốc trải trên đường, ta có thể làm cho những con chó săn mất thính giác để theo dơi.

Nghe xong tôi cũng tin, nhưng chưa có dịp nào thí nghiệm xem kết quả thực tế sẽ như thế nào.

hoanglan22
03-10-2020, 13:18
Trước năm 1975, mỗi lần chạy xe tới ngă tư Lê Văn Duyệt & Hồng Thập Tự, Sài G̣n, tôi lại nh́n lên, rồi kính cẩn cúi đầu trước chân dung một thiếu phụ quê mùa nhưng đă trở thành bất tử trong ḷng người dân miền Nam: chị Phạm Thị Thàng, người giết giặc thay chồng.

Chân Dung Người Vợ Lính Việt Nam Cộng Ḥa
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1543680&stc=1&d=1583846175
(Ảnh minh hoạ)

bài viết dưới đây để tưởng nhớ anh linh vị liệt nữ ấy, và cũng để thay lời tri ân tất cả những người vợ lính Việt Nam Cộng Ḥa đă cùng chia sẻ ngọt bùi đắng cay, đă sát cánh bên chồng trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam tự do, chống lại bọn công sản xâm lược.

Đêm 1-10-1965, một lực lượng khoảng 300 tên Việt Cộng đă mở cuộc tấn công đồn Giồng Đ́nh, nằm ở một vùng thôn ấp hẻo lánh trong tỉnh G̣ Công, do một Trung Đội Nghĩa Quân với 24 tay súng trấn giữ. Ngoài ra, tất cả mọi người vợ lính trong đồn cùng đều được chồng huấn luyện sử dụng thành thạo những loại máy móc truyền tin và vũ khí...

Thế nhưng với quân số đông hơn gấp 10 lần, sau ba đợt tấn công như vũ băo với hai mặt giáp công, Việt Cộng vẫn không chiếm được đồn.

Khoảng 2 giờ sáng rạng ngày 2-10-1965, sau khi chấm dứt đợt tấn công thứ ba, địch tạm rút để tái tổ chức tấn công, th́ t́nh trạng bên trong đồn Giồng Đ́nh đă khá là bi đát. Đă có đến 16 chiến sĩ Nghĩa Quân bị thương, chỉ c̣n 8 Nghĩa Quân c̣n chiến đấu được. Âm thoại viên Lê Văn Mẫn bị thương ở đầu trong lúc anh đang cố gắng gọi máy về Tiểu Khu.

Anh Mẫn gục xuống buông chiếc ống liên hợp. Chị Trần Thị Tâm, vợ anh Mẫn vội đặt con bên cạnh anh và chộp lấy ống liên hợp. Liên lạc được tiếp nối, chị Tâm nghiễm nhiên trở thành một âm thoại viên, và là cứu tinh của đồn Giồng Đ́nh.

Ở một góc đồn, anh Lê Văn Hùng và chị Phạm Thị Thàng, vợ anh, và hai đứa con nhỏ đang phải đối đầu với một lực lượng quá đông của địch.

Nh́n ra ngoài hàng rào kẽm gai, giặc đă đă tràn vào đen ng̣m như những con quái vật hung hăn. Anh Hùng chỉ c̣n trong tay cây tiểu liên Thompson và 16 trái lựu đạn, chị Thàng có một khẩu Carbine. Thật tội nghiệp cho hai đứa nhỏ, sức ép của bộc phá và súng SKZ của Việt cộng bắn vào quá gần, các em không c̣n khóc được nữa mà đă nằm bất động dưới chân hai vợ chồng anh Hùng. Chị Thàng th́ thào:

- Chúng đang phá lô cốt chánh, để em bắn yểm trợ anh ḅ về giữ. Lô cốt mất là đồn ḿnh mất, em nằm tại đây giữ mấy đứa nhỏ, nếu chúng tràn vào th́... th́... em ném lựu đạn ra, có thể cầm cự đến sáng được.

Anh Hùng ngần ngừ, anh rưng rưng nh́n vợ con, rồi nh́n về phía lô cốt. Tiếng súng từ lô cốt cuối cùng đă yếu ớt lắm, có lẽ mấy Nghĩa Quân cố thủ ở đó đă kiệt quệ quá rồi. Số phận của anh Thi Đồn Trưởng thế nào. Anh Hùng lắc đầu không dám nghĩ đến chuyện xấu nhất đă xảy ra cho đồng đội.

Nhưng nếu Việt cộng chiếm được lô cốt ấy, th́ coi như đánh dấu chấm hết cuộc kháng cự. Anh Hùng phải quyết định, dù quyết định đó quá đau xót, là bỏ lại vợ con, mà trong lúc quân giặc đă ḥ hét ngay sát bên rồi:

- Anh chạy theo giao thông hào, em bắn yểm trợ cho anh.

Anh Hùng nh́n chị Thàng và hai đứa nhỏ lần cuối cùng.

Trong ḷng anh quặn lên một nỗi bi thương. Trời ơi, vợ con ḿnh. Hai đứa nhỏ chẳng biết c̣n sống hay đă chết. Anh phóng ḿnh xuống hào chạy băng băng về hướng lô cốt.

Cây Carbine trên tay chị Thàng run lên, những tràng đạn rải vào những cái bóng đen đă quá gần. Anh Hùng đă ḅ vào được lô cốt, giữa những tiếng đạn nổ rền trời. May quá, anh Thi trưởng đồn vẫn nguyên vẹn. Súng SKZ của địch thụt ầm ầm, nhưng anh Hùng vẫn có thể nghe được từng tiếng lựu đạn nổ từ phía công sự của chị Thàng.

Nước mắt anh rơi lả chả trên nền đất. Anh đă đếm được đến con số 15, mà tiếng súng của địch vẫn nỗ ḍn dă ngay sát tuyến pḥng thủ của chị Thàng. Anh biết giây phút định mệnh thảm thiết nhất cũng đă điểm. Chị Thàng sẽ làm ǵ với quả lựu đạn thứ 16. Anh Hùng đau đớn rên lên trong ḷng :

“Chỉ c̣n một trái lựu đạn nữa thôi, làm sao em cầm cự được đến sáng”. Chính anh cũng không có được một giây để nghĩ tiếp cái ǵ sẽ xảy đến cho vợ con ḿnh, v́ dưới chân lô cốt anh tử thủ đă đông nghẹt quân giặc. Đủ mọi thứ loại súng nỗ chát chúa khắp đồn, anh Hùng không biết chắc là ḿnh đă nghe được tiếng nổ của trái lựu đạn thứ 16 chưa.

Cuộc chiến đấu đă kéo dài được một tiếng đồng hồ, quân địch đă phá được lớp kẽm gai cuối cùng và sắp tràn ngập đồn Giồng Đ́nh. Lúc đó là 3 giờ sáng rạng ngày 2.10.1965.

T́nh h́nh đă quá nguy ngập. Anh Nguyễn Văn Thi, Đồn Trưởng, quyết định thà hy sinh c̣n hơn là để đồn lọt vào tay địch. Anh giật lấy ống liên hợp từ tay chị Tâm và thét lớn :

- Hăy bắn lên đầu chúng tôi ! Bắn vào giữa đồn... Hai lô cốt thứ nhứt và thứ hai đă thất thủ. Tụi tui ở lô cốt thứ ba. Hăy bắn lên trên đầu chúng tôi, Việt cộng đông lắm. Bắn đi... bắn....

Sau tiếng gọi thống thiết của người Đồn Trưởng, Pháo Binh Tiểu Khu G̣ Công lập tức bắn vào đồn với loại đầu nổ cao.

Loại đạn đặc biệt này nổ khi cách mặt đất chừng 4, 5 thước, rất hữu hiệu tiêu diệt biển người địch, quân ta núp trong lô cốt vẫn có hy vọng sống sót. Những cái bóng đen nhập nhoạng dưới ánh sáng hỏa châu văng tung tóe, tiếng kêu dẫy chết của chúng như tiếng rú của quỷ. Hàng tràng đạn nổ cao vẫn dội ùng oàng xuống đồn. Chiếc lô cốt cuối cùng vẫn đứng vững, anh Thi cùng anh Hùng từ trong những lổ châu mai bắn tỉa từng tên địch.

Giữa tiếng súng nổ ḍn, dường như người ta nghe âm thanh ŕ ŕ của máy bay. Không Quân Việt Nam đă tới. Những chiếc A1 khu trục cơ đă xuất kích. Đến đây th́ Thượng Úy Sáu Bích, tên chỉ huy trận đánh đă có thể nhận thấy rằng, cuộc tấn công đồn Giồng Đ́nh đă đánh dấu chấm hết, với phần thắng nghiêng về phía Nghĩa Quân Việt Nam Cộng Ḥa. Lúc 4 giờ 30 sáng, chiến địa hoàn toàn im tiếng súng. Quân địch đă kéo những xác chết và những tên bị thương chạy trốn vào phía bóng tối.

Khi ánh hừng đông của một ngày mới đă lên, hai Đại Đội Địa Phương Quân do chính Trung Tá Tiểu Khu Trưởng G̣ Công chỉ huy đă đến và tổ chức bung quân ra lục soát.

Quân cộng đă để lại trận địa 23 xác chết, ở giữa đồn có 6 xác khác nằm bên cạnh lô cốt thứ ba, nơi mà anh Đồn Trưởng Thi, Đồn Phó Hùng và chị Tâm giữ máy truyền tin đă kháng cự mănh liệt, thà chết không hàng. Những tên Việt cộng này mang trên ḿnh rất nhiều lựu đạn và bộc phá, chắc là chúng quyết thí mạng để phá cho bằng được ổ kháng cự cuối cùng này.

Anh Thi và anh Hùng đă bắn địch theo lối xâu chéo, nghĩa là bắn chéo góc với nhau tạo thành một xạ trường quét gọn tất cả những tên cộng nào nằm trong đó. Ngày hôm sau, một người thường dân bị Việt cộng bắt đi tải thương lén trốn về được đă cho biết số bị thương của chúng chở đầy sáu chiếc ghe tam bản. Một lính cộng may mắn bị thương tên Dương Văn Thiều, 18 tuổi, sống sót và bị bắt làm tù binh. Tại sao may mắn ? V́ nếu anh ta bị kéo đi theo vào bưng biền, nếu không bị chết v́ nhiễm trùng, bị những quân y sĩ Việt cộng cưa cắt bằng những loại cưa và đục của thợ mộc, th́ cũng bị cấp chỉ huy ra lệnh mang anh đi thủ tiêu. Đó là lư do giải thích tại sao sau ngày 30.4.1975, người dân Miền Nam hiếm thấy người thương phế binh cộng sản trên đường phố.

Nhưng đối với anh Hùng, th́ tất cả những ǵ mà Viêt cộng đă trả giá cho cuộc tấn công không làm anh quan tâm. Ngay khi tiếng súng vừa chấm dứt., quân cộng đă rút đi, th́ anh đă như một người điên lao ḿnh ra chỗ chiến hào mà chị Thàng đă một ḿnh một súng trấn giữ ở đó, với một niềm hy vọng mỏng manh, rằng đừng bao giờ trái lựu đạn thứ 16 được rút chốt. Anh Hùng ḅ vào khúc hào mà anh đă nuốt nước mắt chạy đi. Chị Thàng cùng hai đứa con của anh nằm chết bên cạnh ba xác Việt cộng. Anh Hùng gục xuống như thân cây chuối bị một nhát dao bén chém ngọt làm đôi.

Anh biết, nếu trái lựu đạn thứ 16 nổ th́ chị Thàng cũng đi vào cơi chết, v́ chị Thàng sẽ không bao giờ cho phép giặc bắt chị hoặc đạn của chúng bắn vào người chị. Chị Thàng đă chọn một cái chết thật dũng cảm và cao cả. Ôm hai đứa con vào ḷng, chị Thàng b́nh tĩnh chờ cho những tên Việt cộng nhào vào, chị rút chốt.

Tiếng nổ kinh thiên cùng với xác thịt và máu của người nữ chiến sĩ đó đă được đánh đổi với ba mạng giặc. Anh Hùng ôm xác vợ con vào ḷng và gần như ngất xỉu. Nhưng khi nh́n ra ngoài, những xác giặc thù nằm ngỗn ngang khắp nơi, trong nỗi đau khổ tột cùng của ḿnh, anh Hùng thấy trong ḷng dậy lên một niềm tự hào đến nghẹn ngào. Sự hy sinh của chị Thàng đă cứu sống được tất cả những thương binh Nghĩa Quân cùng vợ con các anh, nhưng trên hết cứu sống chính sinh mạng của người chồng mà chị yêu mến.

Những viên đạn Carbine và 15 trái lựu đạn của chị đă đóng góp vào sự tồn tại kỳ diệu của đồn Giồng Đ́nh. Một người lính chuyên nghiệp và thiện chiến nhất cũng chỉ làm được đến ngần ấy. Nếu cái lô cốt thứ ba không đứng vững, th́ chắc chắn tất cả sinh mạng mấy mươi người Nghĩa Quân và vợ con của đồn Giồng Đ́nh đều sẽ chết hết.

Anh Hùng ẵm chị Thàng ra ngoài, để trông thấy những người c̣n sống, những người vợ lính khác đă gục đầu khóc tiếc thương chị Thàng. Những nấm mộ đất được đắp vội với ba tấm bia tang tóc. Một của chị Phạm Thị Thàng, và hai bia của cháu Lê Văn Dũng và Lê Tấn Sỹ. Ôi, những người vợ của lính trong thời lửa binh.

( Nguồn Hung Tran)

hoanglan22
03-10-2020, 13:33
(Viết để bái vọng hương linh Tướng Nguyễn Ngọc Loan, người đă một thời đảm nhiệm chức vụ Tổng Giám Đốc CSQG)

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1543681&stc=1&d=1583847104

Ở tuổi bảy mươi, người ta thường nghĩ đến hưởng nhàn, quên đi mọi sự đời để vui chơi đây đó cho khoẻ cái thân già. Tôi th́ khác, tuổi càng cao, kư ức thời gian càng cuồn cuộn dâng lên, lôi kéo hồn tôi t́m về quá khứ, một thời mà tôi đă sống và làm việc cùng với bạn bè, cấp trên, cấp dưới của tôi trong cái gia đ́nh Cảnh Sát Quốc Gia đầy nhọc nhằn vất vả ấy.

Hơn bốn chục năm trôi qua, ḷng tôi vẫn mang nặng những hoài niệm về một vị Tướng, người đă một thời đảm nhiệm chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia và Cục Trưởng Cục An Ninh Quân Đội.

Ông có cái tên gọi lên êm ái như tên của một nữ nhân, nhưng giới truyền thông và bạn bè đương thời thường gọi ông bằng một biệt danh “Sáu Lèo”. Chẳng biết biệt danh này do đâu mà có, nghe như đượm chất khôi hài, thế mà ông vẫn hề hà chấp nhận như một cái tên trời cho.

Đó là Tướng Nguyễn Ngọc Loan!

Ngày ông về làm trưởng tộc gia đ́nh CSQG, tôi chỉ một lần được thấy ông mặc quân phục ka-ki màu vàng, đội chiếc mũ chào mào và đeo hững hờ cặp lon ba bông mai bạc trên đôi vai gầy guộc khi ông bước lên lễ đài trong buổi bàn giao. Sau đó, chẳng biết ông để quên cặp lon ở đâu mà chỉ thấy ông đến nhiệm sở trong bộ cảnh bèo nhèo, quần dài, áo sơ mi cộc tay và đôi dép nhựa lẹp xà lẹp xẹp.

Ngay cả khi lên cấp Tướng trang phục cũng vẫn thoải mái như vậy. Có ai cắc cớ hỏi ông ngôi sao để đâu, ông chỉ tủm tỉm trả lời:
- “Ngôi sao tớ gửi trên trời!”

Thời gian đó, tôi đang làm việc tại sở Tâm Lư Chiến dưới quyền chỉ huy của Chánh sở Vơ Lương, một Quận trưởng CSQG có nhiều thâm niên công vụ và dày dạn kinh nghiệm. Ông vừa có tài ứng biến lại vừa khéo léo trong cách ứng xử với mọi người.

Tôi và thi sĩ Quách Đàm phụ trách soạn bài vở cho chương tŕnh phát thanh hằng tuần của CSQG trên đài Saigon. Anh Quách Đàm, ngoài tài viết đầy truyền cảm mà nhiều thính giả đă được thưởng thức mỗi khi anh cất tiếng lên trong chương tŕnh Thi Văn Tao Đàn do anh Đinh Hùng làm chủ sự. Con người tài ba đó lại mang một cái tật “bất cần đời”, không xu nịnh cấp trên, không bon chen danh lợi để đến khi nhắm mắt ĺa trần cũng vẫn chỉ là một Phó Thẩm Sát Viên nhỏ bé.

Tướng Loan ngồi chức vụ chưa được bao lâu th́ miền Trung và thủ đô Saigon bỗng bùng lên những cuộc chống đối chính phủ do nhà sư Thích Trí Quang phát động nhằm hạ bệ Tướng Nguyễn Cao Kỳ ra khỏi chức vụ chủ tịch Uỷ Ban Hành Pháp Trung Ương.

Miền Trung ồn ào biểu t́nh, lính tráng công chức thi nhau ră ngũ đào nhiệm!
Thành phố Saigon, vang động ḥ hét xuống đường, phố xá ngỗn ngang bàn thờ Phật!

Trước cảnh dầu sôi lửa bỏng, Tướng Loan đă tức tốc điều động một số sĩ quan an ninh quân đội và một số viên chức CSQG ra miền Trung để thay thế những cấp chỉ huy nhút nhát bạc nhược hoặc bị lôi cuốn vào những âm mưu đen tối. Những người được ông tuyển chọn đều có đầy đủ khả năng ứng phó và ḷng can đảm dám gồng ḿnh chấp nhận những hậu quả rủi ro đến với bản thân. Điển h́nh cho những nhân tố tích cực này là quận trưởng Vỏ Lương được bổ nhiệm Giám đốc Nha CSQG vùng I, Quận trưởng Trần Minh Công giữ chức vụ Trưởng Ty CSQG Đà Nẵng.

Tại thủ đô Saigon, tướng Loan đă cương quyết làm tṛn sứ mạng của ḿnh không phải bằng cách ngồi tại văn pḥng chỉ tay ḥ hét ra lệnh mà bằng cách đưa cá nhân ḿnh vào nơi sôi động. Vị Tướng không giày không lon đó đă chấp nhận những ngày giờ sống bụi đời trên đường phố, sát cánh cùng đội ngũ nhân viên, trực tiếp nhận trách nhiệm và chia xẽ nỗi gian nan nhọc nhằn cùng thuộc cấp. Từng nơi từng lúc, ông tiến thẳng đến đám đông cuồng nộ, giải thích thuyết phục ai về nhà nấy, đồng thời kính cẩn vái lạy trước các bàn thờ Phật, xin phép được đưa ảnh tượng hương khói trở lại chùa chiền cho xứng đáng với vị trí trang nghiêm thờ phượng.

Bóng đen u ám của một biến cố ngậm ngùi đă được xua đi, Saigon và miền Trung lại rạng lên những tia sáng thanh b́nh.

Tướng Loan sau đó, đă thi hành quyết định của Hội Đồng Quân Lực đích thân tiễn đưa “người hùng” Nguyễn Chánh Thi lên đường sang Mỹ chữa bệnh “thối mũi”, một căn bệnh thâm căn cố đế, hiểu theo nghĩa bóng, mà ông này đă nhiễm từ ngày 1-1-1960 sau cuộc đảo chánh hụt Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm.

Lần đầu tiên tôi được tháp tùng Tướng Loan là dịp đi theo ông Chánh sở Tâm Lư Chiến làm tin cho buổi phát quà Trung Thu tại Cô nhi Viện G̣ Vấp.

Khi xe chúng tôi vào trong sân cục An Ninh Quân Đội, đă thấy Tướng Loan ngồi chờ sẵn trên xe Jeep lùn của ông, miệng ph́ phèo điếu thuốc, tay cầm chai bia 33 lắc qua lắc lại. Ông Dẫn tiến đến đứng nghiêm toan giơ tay chào th́ Tướng Loan phất tay như ra hiệu bảo về xe đi và nói:
- “Thôi, ḿnh đi chứ.”

Lúc sắp khởi hành, Tướng Loan bỗng xuống khỏi xe, tiến về phía chúng tôi và nói với tài xế của ông Dẫn:
- “Chú em ra ngồi phía sau, để tớ lái xe cho ông Chánh sở.”

Trước một t́nh huống quá bất ngờ, ông Dẫn bị lúng ta lúng túng, chỉ c̣n biết ngồi cứng người như tượng gỗ, hai tay thu gọn trong ḷng bắp vế. Tôi và tài xế đă phải nín cười đến đau cả bụng.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1543682&stc=1&d=1583847104

Tới cổng Cô nhi Viện, Tướng Loan rời bỏ tay lái, lè phè lê đôi dép nhựa đi cạnh ông chánh sở uy nghi sắc phục lon mũ chỉnh tề đang giơ tay chào hàng quân tiếp đón. Th́nh ĺnh, ông Trưởng Chi G̣ Vấp, người phụ trách dàn chào chạy đến bên tôi hỏi nhỏ:
- “Nghe nói có Chuẩn Tướng đến, sao giờ này chưa thấy?”

Tôi chỉ tay về phía trong và nói:
- “Ông Tướng kia ḱa, người mặc thường phục đó.”

Trưởng chi thảng thốt kêu lên:
- “Chết cha! Tôi cứ tưởng đó là anh tài xế của ông Chánh sở!”

Tướng Loan là vậy đó! Một con người b́nh dị, không câu nệ h́nh thức, không đặt nặng lễ nghi.

Hôm đó, chính vị Tướng Tổng Giám Đốc CSQG là người đă tạo nên một bầu không khí đầy ấm cúng, sưởi ấm những tâm hồn trẻ thơ sớm mang một số phận hẩm hiu từ lúc chào đời khi ông đến trọ chuyện nâng niu vỗ về và tặng quà cho từng em nhỏ.
Câu ví: “Tướng Loan hiền như ma-sơ” có lẽ từ đó mà ra.

Thời gian sau, tôi được điều động về làm phóng viên cho toà soạn nguyệt san Rạng Đông dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Trần Văn Thăng, Phó Tổng giám Đốc kiêm Chủ nhiệm, Thiếu Tá Chánh văn Pḥng Vũ Huy Đức kiêm Chủ bút và Biên tập Viên Nguyễn Hồng Nhuận Tâm giữ vai tṛ Tổng thư Kư.

Số báo đầu tiên vừa phát hành xong, bỗng anh Nguyễn Hồng Nhuận Tâm xin từ nhiệm, kéo theo hai nhân viên khác làm theo. Toà báo bảy người, giờ mất hết ba, bốn anh em c̣n lại cảm thấy buồn buồn, mặt ai cũng chảy dài như mặt ngựa.

Một buổi chiều, Thiếu Tá Đức gọi chúng tôi, ông chậm răi nói:
- “Người ta không muốn làm, ông Tướng cũng không ép. Mấy anh em c̣n lại cố gắng làm cho tốt”.

Rồi ông quay sang tôi khẽ bảo:
- “Đây là lệnh ông Tướng, cậu sẽ làm Tổng thư Kư toà soạn. Mai sẽ có giấy tờ chính thức. Nếu cần thêm người, cứ cho tôi biết, văn pḥng sẵn sàng giúp đỡ.”

Hôm sau, tôi lập phiếu tŕnh xin thêm hai nhân viên bổ sung cho toà soạn. Một có khiếu về ăn nói, quần áo lúc nào cũng chỉnh tề, sẽ phụ trách đi xin quăng cáo để bảo đảm có đủ tiền trang trăi ấn phí. Một có tài về hội hoạ lănh phần trang trí và sắp xếp bài vỡ. Cả hai đều mang cấp bậc khiêm nhường phó thẩm sát viên. Tướng Loan đă chấp thuận ngay với lời phê “OK, viết cho beau (hay) vào.”

Hơn nữa tháng trời, anh em chúng tôi đă liên tục vật lộn với công việc. Phần tôi, khi về nhà lại phải lo đến nhà các ông Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng & để lo xin bài vỡ. Nói chung, tất cả mọi người đều nô nức làm việc, cố gắng tranh thủ thời gian để nguyệt san được ra đúng ngày cuối tháng.

Chuyện đời có lắm cái kỳ thú và trớ trêu bất ngờ!

Khi số báo mới vừa được xuất xưởng khỏi nhà in Xây Dựng, tôi được thiếu tá chánh văn pḥng gọi lên tươi cười cho biết Tướng Loan quyết định thưởng cho anh em chúng tôi mỗi người một chút tiền bồi dưỡng. Nói là một chút chứ thực ra rất rộng răi khiến ai cũng phải ngạc nhiên. Ưu đăi đó sau trở thành thông lệ làm ông chánh sở Tâm Lư Chiến Trần Văn Đệ thốt lên:
- “Mỗi thằng làm báo là một ông vua!”

Vài anh kư giả báo ngoài nghe được tin này, ùn ùn kéo đến xin với tướng Loan cho đóng góp công sức với tờ nguyệt san không cần nhuận bút mà chỉ cần tướng Loan kư cho một giấy chứng minh thư cộng tác để đi đây đi đó cho tiện. Ông cảm ơn thiện chí của họ, nhưng không chấp thuận ngay mà lại uỷ thác việc cấp giấy cho thiếu tá chánh văn pḥng. Ông này lại giao phó cho tôi xem xét đề nghị. Tôi nghĩ có điều ǵ không ổn, nên cứ tà tà ngâm việc dù họ đă giục tôi mấy lần.

Bừng một buổi sáng, Thiếu Tá Đức ra lệnh cho tôi huỷ bỏ việc cấp giấy chỉ v́ hai tay kư giả Quốc Quân và Kỳ Hùng đă có những đ̣i hỏi quá đáng, người th́ xin bao thầu quảng cáo cho tờ báo, người th́ dẫn ông kia bà nọ đến xin giúp đỡ áp phe này áp phe kia khiến Tướng Loan bực ḿnh không bao giờ cho gặp nữa.

Bất ngờ, vài bữa sau, kư giả Duyên Anh tức Vũ Mộng Long, dưới bút hiệu Thương Sinh, đă phạng anh em chúng tôi bằng một bài báo nhếch nhác trong mục “Sống Sượng” của nhật báo Sống do ông Chu Tử làm Chủ nhiệm. Nội dung bài báo đầy tính chất tưởng tượng, moi móc lung tung, nào là chúng tôi làm việc lề mề chậm chạp, nào là văn pḥng làm việc vắng như chùa bà Đanh.

Tôi đọc bài báo thấy nóng cả mặt nên chạy ngay ra toà báo Sống t́m gặp Duyên Anh để hỏi cho ra lẽ. Một vài người quen cho tôi biết Duyên Anh đi khỏi và hỏi tôi t́m anh ta có việc ǵ. Tôi than phiền về bài báo rồi lặng lẽ ra về.

Hai hôm sau, vừa bước vào sở đă nghe anh em kể lại vừa rồi ông chánh sở Tâm Lư Chiến Trần Văn Đệ đến hỏi từng bàn xem ai là người đă đến toà soạn báo Sống t́m Duyên Anh. Tôi vội gơ cửa xin vào và nói cho ông biết tôi chính là người ông muốn t́m.

Ông không nói ǵ, lặng lẽ thảy ra trước mặt tôi tập phiếu tŕnh điểm báo và lạnh lùng bảo:
- “Chú đọc đi.”

Cũng vẫn bài báo trong mục “Sống Sượng” của Thương Sinh với tựa đề “Xin cho tôi một tuưp Optalidon” . Optalidon là loại thuốc trị nhức đầu, nếu uống nhiều sẽ bị chết. Trong bài báo, Duyên Anh cũng chính là Thương Sinh tự cho ḿnh là một kư giả chân chính có thiện chí nên mới viết bài chấn chỉnh lề lối làm việc của một số nhân viên sở Tâm Lư Chiến để rồi phải hứng chịu những lời chửi bới hăm doạ thủ tiêu của một “bạn dân” đến từ sở này v.v...

Thật là một sự vu cáo quá sức tưởng tượng. Ngay chuyện Duyên Anh đề quyết nhóm chúng tôi là nhân viên sở Tâm Lư Chiến cũng đă không đúng sự thật v́ sở này chỉ là nơi tạm trú của chúng tôi để làm việc, chỉ tội cho sở Tâm Lư Chiến tự nhiên bị mắc hàm oan.

Tôi nói với ông Đệ:
- “Xin ông Chánh sở cứ tŕnh bài báo lên Chuẩn Tướng, tôi xin nhận lănh mọi trách nhiệm.”

Sau đó, tôi lên gặp Thiếu Tá Đức tŕnh bày tự sự và xin ông cho tôi được vào yết kiến Chuẩn Tướng Tổng Giám Đốc. Ông đồng ư ngay và bảo tôi ngồi để ông vào tŕnh trước.

Vào trong, tôi thấy Tướng Loan đang đọc bài báo, ông ngẩng mặt lên ra lệnh cho tôi ngồi. Thú thật lúc đó tim tôi đập th́nh thịch, tự hỏi chưa biết hậu quả sẽ ra sao.

Đọc xong bài báo, ông nh́n tôi và hỏi:
- “Làm ǵ mà hăng quá vậy? Bộ cậu muốn giết kư giả chân chính sao?”

Tôi tŕnh những ư nghĩ của ḿnh đối với bài báo trước và mọi diễn tiến về việc đi t́m kư giả Duyên Anh.

Nghe xong, Tướng Loan gấp tập hồ sơ điểm báo và phán một câu:
- “Cậu hăy t́m ngay gă kư giả này, bợp tai cho hắn ba cái. Nhớ nói với hắn đây là lệnh của tướng Loan. Thôi, hăy về yên tâm làm việc.”

Tôi đứng lên chào ông rồi ra khỏi văn pḥng với một tâm thái nhẹ nhàng cùng niềm cảm kích kính mến sâu xa trước tấm ḷng của một vị Tướng dám đem tên tuổi của ḿnh để bênh vực nỗi oan cho một nhân viên nhỏ bé như tôi.

Sau đó, tôi không dám làm theo lời ông, nhưng vẫn đi t́m Duyên Anh để nói cho hắn biết. Hắn trốn như con cáo, tôi đành gặp ông Chu Tử và cha Lăm, chủ nhiệm báo Sống và báo Xây Dựng để bắn tin cho họ biết nỗi bực bội của tướng Loan đối với những ǵ Duyên Anh đă viết một cách độc ác về chúng tôi.

Vài bữa sau, mục “Sống Sượng” đă biến mất trên nhật báo Sống.

Vào những ngày tháng giữa năm 1967, thời kỳ tiền bầu cử Tổng Thống, tôi được tướng Loan gọi ra gặp riêng ông hai lần tại cục An Ninh Quân Đội để gợi ư cho tôi viết một số bài quan điểm liên quan đến cuộc vận động bầu cử đồng thời ông cho biết một số kỹ xăo sẽ áp dụng trong việc thông tin tuyên truyền yểm trợ cho một liên danh. Tôi xin mạn phép không kể ra đây v́ người được ông ủng hộ đă làm ông quá thất vọng đến nỗi có lúc ông phải kêu lên “đem bắn tên đó cho rồi.”

Đối với người bạn đồng minh Hoa Kỳ, tướng Loan không tin cậy cho lắm từ khi CSQG bắt một người có dấu tích là một cán bộ Việt Cộng nội tuyến trong toà đại sứ Hoa Kỳ mà toà đại sứ này cứ khăng khăng đ̣i thả. Bực ḿnh v́ người Mỹ quá xen sâu vào nội bộ Việt Nam nói chung và hoạt động CSQG nói riêng, tướng Loan xin từ chức, nhưng tổng thống Thiệu không chấp thuận.

Nhưng ngày giáp Tết Mậu Thân, trong lúc đồng bào đang nô nức chuẩn bị đón Xuân, tướng Loan đă âm thầm cùng đoàn tuỳ tùng rong ruổi đến thăm các ty CSQG xa xôi hẻo lánh, những nơi được mệnh danh là chốn khỉ ho c̣ gáy, ngày đêm phải đương đầu với những áp lực quấy phá của lũ phiến cộng bạo tàn. Phước Long, B́nh Long, Kiến Tường, Kiến Hoà, Nhinh Thuận, Quăng Đức, Hậu Nghĩa là những nơi tôi được theo gót chân ông.

Mỗi buổi sáng, chúng tôi tụ tập tại tư dinh của ông trong trại Phi Long, Tân Sơn Nhất để rồi từ đó lên hai chiếc trực thăng đến các nơi trên. Ông đến để nắm rơ t́nh h́nh địa phương, để thăm hỏi nhân viên các cấp và để tặng chút tiền làm tiệc Tất Niên cho anh em.

Đến bất cứ đơn vị nào, ông đều đi quanh xem xét hệ thống pḥng thủ và cho ư kiến tại chỗ. Với các đơn vị có nhiều vọng gác xây bằng bê-tông kiên cố, ông nhẹ nhàng nhắc nhỡ:
- “Nước ḿnh nghèo, phải đánh giặc theo lối nhà nghèo, ụ bê tông cứng nhưng không chịu đựng loại đạn xuyên phá, tốt hơn nên dùng nhiều bao cát vừa đỡ tốn kém lại vừa an toàn.”

Những ngày giờ đi theo, tôi thấy ông sống và làm việc như một con thoi, quên cả giờ giấc với gia đ́nh, quên cả những cơn đau bao tử và quên cả những hiểm nguy đến với bản thân.

Một lần, ngồi trên máy bay, dáng vẻ mỏi mệt, ông che miệng ngáp dài rồi nói một cách tự nhiên:
- “Tối hôm qua tớ chẳng ngủ được chút nào, bà ấy cằn nhằn cả đêm chỉ v́ làm việc mà quên đi lời hứa về đúng giờ để cùng ăn một bữa cơm với gia đ́nh.”

H́nh như cách ăn uống của ông cũng đơn giản như cách ăn mặc. Trong các bữa ăn tại các ty CSQG hoặc tại các toà Tỉnh Trưởng, tuy có đủ thịt cá, rượu Tây thuốc Mỹ trên bàn, tôi vẫn chỉ thấy ông nhâm nhi một tô hủ tiếu hoặc tô bún canh bên cạnh chai bia 33 và gói thuốc lá Ru-by màu hồng.

Nói về máu “liều” của Tướng Loan chắc ít ai b́ kịp. Tôi nhớ lần đến thăm Ty CSQG Hậu Nghĩa , sau khi dùng bữa cơm khét do Đại Tá Tỉnh Trưởng Mă Sanh Nhơn thết đăi, ai ai cũng chuẩn bị lên trực thăng ra về. Lúc đó vào khoảng 3 giờ chiều, bỗng Tướng Loan đổi ư, ông bảo hai phi công lái trực thăng về trước để ông và đoàn tuỳ tùng dùng đường bộ cho thoải mái. Cái quyết định “bốc đồng” đó đă báo hại Trưởng ty Ngô Văn Huế phải một phen hết vía chỉ v́ con đường độc đạo đó thường bị Việt Cộng gài ḿn phục kích bất ngờ.

Trời cuối Đông, mặt trời muốn đi ngủ sớm thế mà Tướng Loan cứ nhất định phải ghé thăm một đơn vị Cảnh Sát Dă Chiến nơi mà các nhân viên của ông đă oanh liệt chống trả một cuộc tấn kích của giặc thù vào đêm hôm trước. Ông đến bắt tay từng chiến sĩ, ngợi khen tinh thần quả cảm và ghi công trạng của tất cả mọi người.

Chiều hôm đó, khi về đến nhà, ông kéo chúng tôi vào một căn pḥng nhỏ, chỉ vào hai thùng giấy lớn và khoe:
- “Đây là số pháo hồng do một người bạn ở Hồng Kông gữi biếu.”

Nói xong, ông tự tay mở một thùng phát cho mỗi người ba phong, ngoại trừ Thiếu Tá Tiến, Chỉ huy Trưởng Tổng Hành Dinh đang ngẩn ṭ te ch́a tay ra hỏi:
- “C̣n phần của em đâu?”

Tướng Loan không đưa pháo mà c̣n cười hỏi lại:
- “Cậu hả? Chuyện đó tính sau. Cậu về tắm rửa sạch sẽ rồi lên đây cùng tôi khuân thùng pháo đây ra dinh Độc Lập để hai ông Thiệu, ông Kỳ làm ǵ th́ làm, nhà ḿnh thấp lè tè treo vào đâu.”

Thiếu tá Tiến vừa găi đầu vừa quay sang chúng tôi phân bua:
- “Các cậu thấy chưa, Chuẩn Tướng thấy tôi đẹp trai nên đi đâu cũng kéo theo.”

Tướng Loan tảng lờ như không nghe, nhưng miệng lại tủm tỉm cười thích thú.

Rồi Xuân Mậu Thân đă trở về! Xuân đến từng nhà, Xuân vô giáo đường, Xuân lên đ́nh chùa, Xuân vào lăng miếu. Hương Xuân tràn ngập mọi nơi. Tiếng Xuân vang vọng trên đài, ngọt ngào đi vào ḷng người bằng những lời thơ cung nhạc chúc tụng một năm mới an khang hạnh phúc.

Nữa đêm về sáng của ngày đầu năm, giữa lúc khói hương thiêng liêng c̣n đang nghi ngút th́ bỗng nhiên từng loạt âm thanh của súng đạn vang lên khiến ai nghe cũng phải bàng hoàng kinh động.

Thoạt đầu, tôi cứ nghĩ đó là một cuộc đảo chánh nên vội vặn radio để nghe tin tức. Im lặng và im lặng! Đài không phát ra một tiếng nói hay một lời ca. Trong khi đó, từng loạt đạn vẫn tiếp tục vun vút bay trên nóc nhà kèm theo tiếng la oai oái “Vi Xi! Vi Xi!” của những người lính Mỹ đóng quân trong khu nhà của bà Bút Trà trên đường Nguyễn Huệ cạnh bên con hẻm nhà tôi. Đêm đó, tiếng trẻ thơ cứ thét lên, sau mỗi loạt súng nổ, tôi vội đem hai cháu nhỏ, nhét chúng nằm sát dưới chân cầu thang c̣n ḿnh và vợ ngồi bó gối ngay bên cạnh để chờ trời sáng.

Khoảng sáu bảy giờ sáng, đài bỗng vang lên tiếng nói của Phó Tổng Thống Kỳ, nội dung vắn tắt cho biết Cộng Sản đă bội phản những cam kết hưu chiến trong ba ngày Tết, xua quân Tổng công kích 32 tỉnh lỵ và thủ đô Saigon. Tướng Nguyễn Ngọc Loan đă đích thân chỉ huy lức lượng Cảnh Sát Dă Chiến và quân đội quét sạch cộng quân ra khỏi đài phát thanh Saigon từ lúc 4 giờ sáng.

Tôi vừa mở cửa đă thấy bốn cán binh Cộng Sản tay gh́m súng AK, băng đạn quấn quanh ḿnh, đứng khuất trong hè nhà tôi và các nhà đối diện, mắt đăm đăm nh́n ra đường cái. Không hiểu sao lúc đó tôi lại tỏ ra rất b́nh tĩnh, b́nh tĩnh quan sát trang phục của họ và c̣n thầm nghĩ họ là những binh sĩ thuộc một đơn vị chính quy nào đó chứ không phải là quân du kích.

Cùng lúc, một số đông đồng bào từ trong các hẻm sâu phía trong ùn ùn bồng bế dắt d́u người già con trẻ chạy ra, mặt người nào cũng xanh như tàu lá. Họ vừa đi vừa thông báo cho mọi người biết lính Việt Cộng về nhiều lắm, tràn ngập trong khu Cây Quéo, khu phía sau chùa Quảng Đức, khu g̣ mả và khu đường rầy dẫn đến Cầu Hàng.

Tôi vội quay vào nhà, quơ quào ít quần áo rồi cùng vợ con lên xe máy đến nhà người quen ở chợ Tân Định. Đến nơi, tôi mới chợt nhớ để quên bóp giấy tờ ở nhà, đành phải một ḿnh quay lại.

Về tới đầu hẻm, một người cùng xóm ở phía ngoài khuyên tôi đừng vào v́ mới tức th́ có mấy nhân viên Cảnh Sát sắc phục đă bắn nhau với lính Việt Cộng ở phía trong. Lúc đó, trực thăng vơ trang đă xuất hiện. Hai con chuồn chuồn bay lên xà xuống khạc đạn ào ào vào những mục tiêu. Đạn dưới bắn lên, đạn trên bắn xuống, trận chiến cứ thế tiếp diễn vô cùng ngoạn mục. Tôi rời khỏi xóm mà ḷng cứ nơm nớp lo sợ căn nhà ḿnh bị ăn đạn phá.

Đến tổng nha CSQG, tôi nhận lệnh đi cùng một nhiếp ảnh viên lên vùng Ngă Bảy nơi tướng Loan đang trực tiếp chỉ huy các đơn vị Cảnh Sát và quân đội bao vây cô lập và tiểu trừ các đám Cộng quân xâm nhập. Ông mắc đồ trận, áo giáp khoác ngoài, đầu không nón sắt, sông pha vào nơi súng nổ đạn rơi như một người lính can trường không nề nguy hiểm.

Phải nói rằng, trận chiến nơi đây đă diễn ra ác liệt ngay từ những giây phút ban đầu trên một địa h́nh rộng lớn bao gồm các khu vực Phú Thọ, Nguyễn Tri Phương, hẻm Chuồng Ḅ, Vườn Lài...

Khởi đầu, Việt Cộng tấn công vào doanh trại của Biệt Đoàn 222 Cảnh Sát Dă Chiến ở góc đường Nguyễn Văn Thoại và Trần Quốc Toản giữa lúc toàn thể nhân lực ứng chiến được điều động đi giải toả đài phát thanh Saigon, số nhân viên pḥng thủ c̣n lại khoảng hơn bán tiểu đội. Lợi dụng thời cơ, Việt Cộng tập trung lực lượng ào ạt xua quân từ phía vườn ươm cây ở góc đối diện toan chiếm cho bằng được doanh trại này. Nào ngờ, các chiến sĩ CSDC đă b́nh tĩnh nă từng loạt đại liên khiến chúng không sao vượt qua nhă tư, đành phải mang theo một số thương vong rút về khu chợ Thiếc.

Cũng thời gian đó, một số lớn cán bộ VC nằm vùng cùng các tên chỉ điểm giả dạng nhân dân nổi dậy chia nhau chặn đường chặn ngơ lùng xục trong các khu dân cư bắt bớ một số quân nhân, Cảnh Sát và công chức dem ra xử bắn với lời kết tội “có nợ máu với nhân dân”.

Tôi có một người em họ là Đại uư Quân Y cũng bị bắt vào đêm đó. Chúng lột trần em tôi, trói rặt cánh khuỷu toan đem xử bắn. Trong lúc thế cùng, em tôi la lên:
- “Tôi là Bác sĩ Quân Y bị trưng dụng vào quân đội, không hề có nợ máu.”

Tên chỉ huy nghe vậy, bèn nói:
- “Nó c̣n dùng được, đưa nó ra chỗ thương binh.”

Lúc băng bó cho các cán binh VC, em tôi đă lẩn vào nhà dân trốn thoát.
Ngày 1-2-1968, Tướng Loan đă xử bắn tên cán bộ Cộng sản Nguyễn Văn Lém tức Bảy Lém, bí danh Ba Lốp ngay trên đường phố khu Ngă Bảy để rửa hận cho những đàn em của ông đă bị tên này sát hại.

Ngay chiều hôm đó, tôi rủ hai người bạn phóng viên báo ngoài đánh một ṿng đảo qua kinh Độc Lập, toà Đại Sứ Mỹ trên đường Thống Nhất. Hai phóng viên cho biết có chụp một vài h́nh ảnh binh sĩ VC chết trên lề đường và trong khuôn viên Toà Đại Sứ.

Từ đó chúng tôi xuống đường Hai Bà Trưng nồi rẽ vào đường Phan Thanh Giăn t́m về xa lộ. Bên lề con lộ thênh thang, năm bảy xác cán binh Cộng Sản nằm ngữa trơ trơ với sợi dây thừng cột cứng ở cổ chân. Họ được đồng đội kéo đi, nữa chừng bỏ lại.

Đến khu Hàng Sanh, chúng tôi rẽ về khu Lăng Tả Quân tiến đến đường Ngô Tùng Châu để nhập vào khu Cây Quéo. Đường xá trong khu vực này vắng teo vắng ngắt, cả ba chúng tôi bắt đầu thấy lạnh xương sống khi phát hiện ra một số xác bộ đội Cộng sản nằm rải rác khắp mọi nơi trong vườn ngoài ngơ. Tôi run cả người, chỉ muốn quay lại. Nhưng trót vào sâu rồi, đành chịu. Ba xe gắn máy của chúng tôi cứ luân phiên đổi chỗ, anh nào cũng muốn ḿnh vào giữa.

Bất ngờ, từ trong căn nhà có khu vườn rộng vang lên tiếng gọi:
- “Các chú ơi! Xin vào giúp một tay.”

Chúng tôi vừa ngừng xe, một bà và hai thiếu niên chạy ra kéo chúng tôi vào nhà, chỉ cho thúng tôi thấy hai xác Việt cộng đặt trên bộ ván gơ với tờ giấy viết nguệch ngoạc “nhờ đồng bào chôn cất giùm”

Bà giơ tay phàn nàn:
- “Thiệt là khổ! Chết rồi th́ để bên ngoài cho xong, đem vào nhà làm chi cho đám nhỏ sợ hết hồn hết vía. Bây giờ tôi nhờ các chú khiêng họ ra ngoài đường để chính quyền chôn cất.”

Anh em chúng tôi làm giúp bà, ḷng thấy áy náy tội nghiệp cho những người lính bên kia bị bọn đầu sỏ độc tài xô đẩy họ vào nơi tử địa.

Mặt trận vùng ngă Bảy đă gần như đi vào kết thúc. Cộng quân ở nơi này, một số bị bắt, một số ra chiêu hồi, số c̣n lại co cụm trong khu dân cư đong đúc như cá nằm trong rọ chờ ngày bị tóm.

Khi Tướng Loan ra lệnh cho Cảnh Sát và Quân Đội khai pháo dứt điểm toàn bộ th́ cái đám tàn binh ngoan cố đó đă giở một thủ đoạn đê hèn, táng tận lương tâm. Chúng khống chế cư dân không cho ra ngoài đồng thời dùng xăng đốt nhà gây nên những đám cháy mịt mù khói lửa để trà trộn trong dân t́m đường tẩu thoát. Nhiều xe cứu hoả đước điều động đến. Lúc đầu, các nhân viên chữa cháy rất rụt rè e ngại chưa dám áp sát vào nơi súng đạn thét gầm, tướng Loan đă phải giựt lấy ṿi rồng phun nước lên cao khống chế từng cơn băo lửa. H́nh ảnh hiên ngang đó, tôi đă dùng làm b́a cho Nguyệt San Rạng Đông trong số báo đầu năm Mậu Thân.

Hàng trăm cán binh địch đă bị bắt lôi ra tập trung trước tiệm đ̣ gỗ trên lề đường Minh mạng trong trận đánh cuối cùng ở khu vức ngă Sáu trước sự chứng kiến của tướng Loan. Ông đi loanh quanh quan sát từng người. Thấy ai bị thương nặng, ông nhắc nhở nhân viên Y tế băng bó gấp cho họ và chuyển đến bịnh viện ngay.

Ngày hôm sau, Tướng Loan đă cùng Đại Tá Đô Trưởng Văn Văn Của đến thị sát mặt trận tại Quận 8 bên kia cầu chữ Y. Phái đoàn đă dùng con đường đi qua cầu xóm Củi men theo đường Phạm Thế Hiển tiến đến ty CSQG quận 8. Đây là một ty CSQG nằm ở vị trí ven đô trên một diện địa trống trải đồng ruộng mênh mông và sông rạch chằng chịt.

“....Khởi đầu, Cộng quân dàn binh ngay trên đồng ruộng ở phía sau ty, bắn hạ một nhân viên Cảnh Sát gác trên cḥi cao đồng thời dùng B40 chóc thủng một lô cốt ở góc trái phía sau với ư đồ cho vài đắc công chui qua lỗ hổng tung lựu đạn và trái phá gây náo loạn phía trong trước khi xua quân chiếm lĩnh mục tiêu. Một vài nhân viên Cảnh Sát “điếc không sợ súng” đă ḅ ra lô cốt phục sẵn phía trong tỉa từng tên một và lấy xác chúng chèn vào lỗ hổng. Đội h́nh pḥng thủ trong ty đă được củng cố, b́nh tĩnh chống lại từng đợt tấn công để chờ lực lượng tiếp viện. Trời gần sáng, trực thăng vơ trang xuất hiện đổ rốc-kết và đại liên lên đầu giắc khiến chúng phải rúc vào các khu dân cư ẩn náu và rút về khu vực phường Rạch Ông mang theo một số thương vong đồng đội chất lên ghe thuyền luồn trốn trong các kinh rạch.....”

Trên đây là lời kể lại của Phó Ty Khưu Ngọc Đa, một người bạn cùng khoá 14 Biên Tập Viên Rạch Dừa với tôi, trong lúc đoàn xe di chuyển từ ty CSQG đến vùng Rạch Ông.

Anh Đa đang thao thao bắt tuyệt, bỗng một loạt đạn AK vun vút lướt trên nóc xe, anh vẫn giữ vững tay lái tiếp tục mối theo phái đoàn và quay sang tôi cười kh́ kh́ sảng khoái như thầm hỏi tôi “sợ không?”

Chiến cuộc tại thủ đô Saigon đă hoàn toàn chấm dứt sau ngày hôm đó, nhưng ḷng tôi vẫn không sao quên được những h́nh ảnh điêu tàn do Cộng quân gây ra. H́nh ảnh thương tâm mà tôi không thể nào quên là h́nh ảnh một gia đ́nh năm người co quắp ôm nhau chết cháy tại khu Nguyễn Thiện Thuật gần chợ Bàn Cờ...

Gần một tháng sau, tôi và một nhiếp ảnh viên lại được một dịp theo chân tướng Loan phi hành ra Huế. Chuyến đi vỏn vẹn có một ngày. Ông trở về cái nơi chốn mà ông đă sống trong những ngày niên thiếu không phải để t́m lại cảnh xưa chốn cũ mà là để chia xẻ những đau thương mất mát của tất cả mọi người ở chốn Cố Đô.

Vừa ra khỏi phi trường Phú Bài, tướng Loan đă cùng giám đốc Vơ Lương bắt tay vào việc ngay. Ông đến thăm các đơn vị Cảnh Sát, ngậm ngùi nh́n những nấm mồ chôn tạm ngay trong khuôn viên của cơ quan. Ngay sau đó, ông cùng các viên chức CSQG địa phương rong ruổi trên đại lộ Lê Lợi vượt qua cầu Bạch Hổ, men theo bờ sông Hương, vượt qua cửa Thương Tứ đến chợ Đông Ba rồi qua Gia Hội để động viên tinh thần những nhân viên Cảnh Sát Quốc Gia đang tham gia xây dựng cư xá T́nh Thương. Đây là một công tŕnh do ngành CSQG đài thọ từ A đến Z mà Tướng Loan coi đó như một món quà trao tặng đến các gia đ́nh đồng bào nạn nhân chiến cuộc đang gặp quá nhiều khó khăn.

Chiều về, khung cảnh cố đô mới ảm đạm làm sao! Phố xá thưa thớt bóng người, nhà nhà cửa đóng then cài. Đất Thần Kinh ủ rũ như một người bịnh chưa hồi lại sức. Cầu Tràng Tiên gục đầu trên mặt Hương Giang như cùng th́ thầm thổn thức tiếc nuối cho những ngày thơ mộng thuở nào:

Đâu rồi những mái tóc thề thả gió lê thê?
Đâu rồi những tà áo trắng bay bay vào mỗi buổi chiều?
Đâu rồi những nón bài thơ nghiêng che đôi má ửng hồng?
Đâu rồi những giọng ḥ mái nh́ ngọt lịm đến tim?
Đâu rồi những tiếng rao hàng như mời như gọi trên sông?
Đâu rồi những khuôn mặt thân quen bị giắc bắt đi vùi dập nơi nào?

Tôi đứng trên đầu cầu phía chợ Đông Ba nh́n xuống phía dưới thấy hai em gái nhỏ khoảng chín mười tuổi mặc áo màu hồng đang đưa đôi bàn tay bốc từng bụm cát đắp lên hai ngôi mộ mới. Tự nhiên tôi thấy tim ḿnh se thắt lại, thầm cầu mong đó không phải là chỗ ở của cha mẹ các em.

Sau một đêm không ngủ, sáng hôm sau chúng tôi lại theo gót tướng Loan trở về Saigon. Tôi vội ghi bài kư sự “Một ngày ở Huế” cho số báo tới với hai câu thơ mộc mạc mở đầu:

Ngày xưa Huế đẹp Huế mơ
Bây giờ Huế bị xác xơ điêu tàn.

Cuộc Tổng công Kích vào những ngày Tết Mậu Thân đi vào kết thúc với những kết quả vô cùng thê thảm. Hơn sáu mươi ngàn cán binh đối phương bị loại khỏi ṿng chiến kéo theo bao nhiêu sinh mạng của đồng bào vô tội bị chúng sát hại và để lại một đống hoang tàn trên khắp miền Nam tự do.

Vài tháng sau, bọn lănh đạo ngoan cố bất nhân Cộng sản miền Bắc lại xua đám tàn quân tiến hành một trận Tổng công kích đợt hai giữa lúc nhân dân miền Nam c̣n đang thổn thức ngậm ngùi sau cơn ác mộng ngày Xuân.

Tướng Loan, một lần nữa cùng lực lượng Cảnh Sát thủ đô xuất trận vào lúc 4 giờ sáng tiến thẳng về trại gà Thanh Tâm bên xa lộ ngăn chặn không cho địch quân tấn chiến Đài Phát Thanh Saigon.

Tám giờ sáng hôm đó, tôi và một nhiếp ảnh viên được lệnh lên đường thu lượm tin tức. Đến cầu Phan Thanh Giản, thấy súng bắn rát quá, người tài xế nhất định quay xe trở lại.

Ba giờ chiều cùng ngày, tin tức từ Trung Tâm Hành Quân cho biết Tướng Loan đă bị trúng đạn gẫy chân và được đưa về điều trị tại bệnh viện.

Đễ giữ vững tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ đang chiến đấu và đánh tan các lời đồn đăi bất lợi, Thiếu Tá Chánh văn Pḥng đă cho chụp một bức h́nh tướng Loan đang nằm trên giường bệnh, nói trong máy bộ đàm phổ biến trên các nhật báo với lời chú thích “Mặc dù bị thương, Tướng Nguyễn Ngọc Loan, tổng giám đốc CSQG vẫn tiếp tục chỉ huy các lực lượng hành quân truy quét giặc Cộng.

Cùng thời gian này, một biến cố đau ḷng đă xảy ra tại Trường Phước Đức trên đường Khổng Tử thuộc quận 5 Chợ Lớn. Khoảng bốn năm giờ chiều, bộ tham mưu hành quân CSQG đang họp tại trường này bỗng lănh một trái đạn rốc-kết từ trên trực thăng Mỹ bắn xuống gây tử thương cho Đại Tá Luận, Giám đốc Nha CSQG Thủ Đô; Quận trưởng Nguyễn Ngọc Xinh, Phụ tá Giám đốc Nha CSQG thủ đô; Thiếu Tá Lê Ngọc Trụ, Trưởng Ty CSQG quận 5 cùng một số sĩ quan khác bị thương trong đó có Đại Tá Trần Văn Phấn, Trưởng Khối Nhân Huấn thuộc Tổng Nha CSQG cụt một chân.

Tôi đến làm bản tin lễ truy điệu tại hội trường nha CSQG Saigon mà ḷng không sao ḱm được nỗi xúc động bồi hồi khi thấy Thủ Tướng Trần Văn Hương đứng trước các quan tài đầm đ́a nước mắt.

Ít ngày sau, Tướng Nguyễn Ngọc Loan âm thầm rời khỏi chức vụ để Đại Tá Trần Văn Hai về thay thế.

Phần tôi, sau một lần họp với Thiếu Tá Trần Hữu Kinh, Chánh văn Pḥng Đặc Biệt của Đại Tá tân Tổng giám Đốc, tôi cũng xin rút lui khỏi việc làm báo để đi một nơi xa xôi làm công tác khác.

Từ đó, tôi không gặp Tướng Loan, nhưng trong ḷng vẫn luôn luôn nhớ về ông, một tôn trưởng đầy quí mến trong gia đ́nh Cảnh Sát Quốc Gia.

Chu Kim

luyenchuong3000
03-17-2020, 16:13
https://scontent.ftpa1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/85257328_87394486304 3308_634133435715158 0160_n.jpg?_nc_cat=1 05&_nc_sid=ca434c&_nc_ohc=eMjrSPa9Q44A X81VBRC&_nc_ht=scontent.ftpa 1-1.fna&oh=167ce212ae89420ad 8fa0dcb2f9d3ff8&oe=5E9682A3
(https://www.facebook.com/photo.php?fbid=87394 4859709975&set=gm.6153247290147 95&type=3&eid=ARCFUlMf2HYQdrif fN7JgZtPNzVBd4NiWuWx vEyKTZ-bSPmhUfwEOBI8lb7FCNu 29dKlPohNIluEEIcu)



‎CHÚNG TÔI TRI ÂN CÁC ANH,
NHỮNG NGƯỜI LÍNH CỦA QUÂN LỰC VNCH
Bây giờ không biết hai người Lính Dù trong tấm h́nh, đang gánh xác bạn, giờ họ đang ở đâu? C̣n sống hay là đă chết ???
Tấm h́nh chụp vào ngày 15/4/1975 tại mặt trận Xuân Lộc, Long Khánh do một phóng viên chiến trường chụp được.
Vỏn vẹn chỉ 15 ngày sau đó, quê hương Miền Nam Việt Nam thân yêu rơi vào tay bọn cộng sản phương Bắc.
Giờ đây, bốn mươi lăm năm sau, có c̣n ai cảm thấy bồi hồi xúc động khi nh́n lại tấm h́nh này.
Xin đừng nói những lời chót lưỡi đầu môi, đừng yêu Lính bằng lời. Hăy tri ân Họ.
TỤI TAO GÁNH MÀY VỀ
Tụi tao gánh mày về
Mày bỏ cuộc chơi, khi tuổi vẫn c̣n xanh
Chiến trường khốc liệt quá, bỏ mày lại cũng không đành
Rừng cao su tơi tả, kiếm tạm một khúc cây.
Cột chân tay mày lại, xỏ đ̣n gánh gánh đi
Biết làm sao bây giờ, lính Dù không bỏ bạn
Có thằng Tây nó chụp h́nh, th́ kệ mẹ nó đi
Chiến trường đi ai tiếc đời xanh.
Biết đâu ngày mai sẽ đến phiên tao
Vào nửa trăng Lính thường cháy túi
Đạn dược bây giờ c̣n phải đánh cầm chừng
Kiếm đâu ra băng ca để mày yên giấc ngủ.
Gánh mày đi như gánh một con mồi
Mà những thằng thợ săn vừa săn được
Đầu mày chúc xuống đất, lắc lư theo nhịp đi
Hồn mày ở trên cao, có thấy tức cười không?
Ráng chút nữa rồi về với mẹ, ngày xưa mày khóc mẹ ru
Rồi th́ mẹ khóc ru mi xuống mồ
À ơi, con ơi à ơi, đây là giấc ngủ ban đầu, mà mẹ ru con
Bên ngoài gió thổi nam man, hai mươi năm trường, mẹ ru con theo tiếng à ơi.
Rồi con lớn khôn, con ra chiến trường...
Mẹ khóc hằng đêm
Những người Lính đă chết hôm qua,
Cho Miền Nam nước Việt b́nh yên.

luyenchuong3000
03-17-2020, 21:43
Mong ông sớm bình phục, tri ân và ngưỡng mộ các tướng lĩnh chính nghĩa Quốc gia VNCH, họ đã hi sinh cho nền tự do miền nam thân yêu trước giặc thù cộng sản.

https://scontent.ftpa1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/89775198_20638372204 28795_58619754624267 0592_n.jpg?_nc_cat=1 02&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=_Buaieo92OYA X8K4jp4&_nc_ht=scontent.ftpa 1-2.fna&oh=1883c72578ece1c0c 9abcda483c20311&oe=5E97EE89
(https://www.facebook.com/photo.php?fbid=20638 37217095462&set=a.10091945672059 1&type=3&eid=ARDyR7pFy9Hr7nl4 5CjSodhyaTTparnkFueR KEwmjA7eni1DqdvizO_r iwfHhFHnjJhbC-b0FyhFjibZ)




Tin từ gia đ́nh cho biết , cựu Thiếu Tướng Lê Minh Đảo , sư đoàn trưởng sư đoàn 18 , Quân Lực VNCH , đang trong bịnh viện . Sức khỏe của ông rất yếu . Sự giới hạn đi lại trong lúc dịch toàn cầu . Bệnh viện chỉ cho phép thân nhân ngày được thăm hai lần , không được túc trực ra vào bệnh viện như những ngày trước . Không biết ông sẽ ra đi lúc nào . Xin mọi người cầu nguyện cho ông .

phokhuya
03-17-2020, 23:17
[QUOTE=luyenchuong300 0;3864525]Mong ông sớm bình phục, tri ân và ngưỡng mộ các tướng lĩnh chính nghĩa Quốc gia VNCH, họ đã hi sinh cho nền tự do miền nam thân yêu trước giặc thù cộng sản.

https://scontent.ftpa1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/89775198_20638372204 28795_58619754624267 0592_n.jpg?_nc_cat=1 02&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=_Buaieo92OYA X8K4jp4&_nc_ht=scontent.ftpa 1-2.fna&oh=1883c72578ece1c0c 9abcda483c20311&oe=5E97EE89
(https://www.facebook.com/photo.php?fbid=20638 37217095462&set=a.10091945672059 1&type=3&eid=ARDyR7pFy9Hr7nl4 5CjSodhyaTTparnkFueR KEwmjA7eni1DqdvizO_r iwfHhFHnjJhbC-b0FyhFjibZ)

FzEdecQM9js

Mong ơn trên ban phước cho TT mau b́nh phục và nhiều sức khỏe.

hoanglan22
03-18-2020, 02:05
Người hùng Xuân Lộc những ngày cuối tháng tư đă đi vào lịch sử . Trận Xuân lộc khiến cho các tướng CS sau năm 75 phải khâm phục . văn tiến dũng cũng phải nể mặt . Với quân số 1 chọi mười mà cộng quân vẫn không lấy được Xuân Lộc phải bỏ cuộc chạy đường ṿng khác để vào SàiGon

luyenchuong3000
04-06-2020, 14:36
https://scontent.ftpa1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/92244641_21838213613 8974_770972190270868 6848_n.jpg?_nc_cat=1 07&_nc_sid=110474&_nc_ohc=uIQSv9Cb1EMA X8U-jp8&_nc_ht=scontent.ftpa 1-1.fna&oh=0a4a008425c90a96d 0048098c7332f1e&oe=5EB09CD6
(https://www.facebook.com/photo.php?fbid=21838 2132805641&set=a.10454840085568 2&type=3&eid=ARDuicZRIFsW1s2-H4QplWiCs3M7WUrNVcK7 t-crps0RFLrqHvzFtacGYa s2UKRguDHNMBJW3r2VIG 3E)




Rất chân chất, mộc mạc. Không khoa trương với cả một “rổ danh từ” (lời cụ Phạm Duy) rồi chả làm ǵ cả...
Sáu điều tâm niệm của người lính Việt Nam Cộng Ḥa
“Là Chiến Sĩ VNCH,
...
Điều 3: Tôi luôn kính già, thương trẻ, đứng đắn với phụ nữ và giúp đỡ đồng bào.
...”
Thương yêu trẻ con nhưng không ôm nựng.

luyenchuong3000
04-07-2020, 01:25
TAO ĐĂ VỀ ĐÂY
Mày bỏ tao
về thành ngồi hưởng lạc
Nếm buồn đau
ngày LAO BẢO đau thương
Gói PONSO
mày rời khỏi chiến trường
Để lại đấy
cây đàn không ai đánh
Ánh hỏa châu
bập bùng trong hoang lạnh
Nhớ mày ghê
lúc canh gác về khuya
Giọng CỐ ĐÔ
gái nườm nượp theo về
Đàn điêu luyện
với tiếng ca trầm luyến
Mày đành đoạn
bỏ tao trong cuộc chiến
Thế dằn co
bị Bạn bỏ đau thương
Suốt tháng 3
cứ trôi dạt về trường
Điểm cứ cuối
SAIGON trong hoảng loạn
Lệnh buông súng
đầu hàng tao ngao ngán
Trước tượng đài
một phát súng oai linh
Ngă người ra
nằm chết cạnh BẠN ḿnh
Thế phải thế
sống chi nhiều ô nhục
Chẳng c̣n ai
ngăn chúng ḿnh thao thức
Giữa côn trùng
rên rỉ suốt đêm đen



https://scontent.ftpa1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/91915077_23596484444 8657_175968523116347 3920_n.jpg?_nc_cat=1 05&_nc_sid=110474&_nc_ohc=JI8YTLiKwn4A X_31aas&_nc_ht=scontent.ftpa 1-1.fna&oh=76824db1f4c40d2a1 25e4d76ce1ac50f&oe=5EAF86D4
(https://www.facebook.com/photo.php?fbid=23596 4841115324&set=a.11113945359786 4&type=3&eid=ARAhMMF5dCWODQ7m VBO8f5DbIGDUyMyMo_3P PdezCvvODqUF-itG_x1A88XSGBGOZNGCR VetFLfXGuZH)

hoanglan22
04-23-2020, 14:40
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1570072&stc=1&d=1587652781

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1570073&stc=1&d=1587652781

Tác giả bài dưới đây, Đại tá Lê Nguyên B́nh, là một chiến hữu nguyên là sĩ quan trong Bộ Tham Mưu của cố Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Ở phương vị này, Đại tá B́nh đă có dịp được chứng kiến nhiều sự kiện đă xảy ra trong và ngoài khuôn viên của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV trong ngày cuối cùng của cuộc chiến đấu cho tự do.

Đọc những lời tường thuật của một nhân chứng trong cuộc, và đặc biệt những lời tường thuật chưa hề được tiết lộ trên báo chí, người đọc, nhất là những cựu quân nhân chúng ta, không khỏi bồi hồi, xúc động nghĩ rằng chúng ta đă có những vị tướng, tá như thế mà đành phải thất trận, không cứu văn nổi tự do th́ âu cũng là tại ḷng Trời c̣n muốn đày đọa dân Việt vậy.

Những tràng đại liên chính xác từ bốn chiếc trực thăng vơ trang thuộc Sư đoàn 4 Không quân đổ trên đầu toán tuần thám thuộc Trung đoàn Cộng Sản D1 miền Tây Nam Bộ, đang vượt kinh Thác Lác với ư đồ mở đường cho Trung đoàn này xâm nhập ṿng đai Alpha bao quanh thị trấn Cần Thơ và phi trường Trà Nóc. Tiếng gào thét rợn trời, từng xác người tung lên khỏi mặt nước như xé tan bầu trời, sau đó trả lại cho màn đêm dần dần phủ kín lớp sông dài.

Đội h́nh hàng dọc các đơn vị thuộc Trung đoàn D1 được lệnh phân tán tại chỗ, chờ động tĩnh. Những bóng đen x́ với những chiếc nón tre bọc lưới, ẩn hiện nhấp nhô như những bóng ma sau đám cây, những bụi chun bàu. Dưới sông, đám bèo tây vẫn lững lờ vô t́nh trôi, cuốn theo vài xác chết.

Thời gian trôi qua khoảng chừng tàn một nén nhang, Thủ trưởng Trung đoàn ra lệnh toàn bộ vượt sông với hàng trăm ghe xuồng lớn nhỏ đă được bố trí từ buổi sáng. Tiếng đập của mái chèo khua nước dồn dập như cố thúc đẩy những con thuyền gia tăng tốc độ chóng qua bờ. Tiếng người x́ xào nho nhỏ pha trộn hai giọng Bắc và Nam tạo nên nhưng âm thanh kỳ lạ, bí ẩn. Cuộc vượt sông tưởng như diễn tiến tốt đẹp.

Đột nhiên, những “coup départ” khai pháo từ phi trường B́nh Thủy, từ Tiểu đoàn 21 Bộ binh ở Vị Thanh, từ các pháo đội địa phương Rạch Gỏi, Cầu Nhím, Phong Điền như xé bầu không khí nổ tới tấp theo tuyến vượt sông, dọc theo hai bờ kinh, mưa trên đầu các đơn vị từ tiền phong tới hậu tập.

Tiếng người xô đẩy chạy ngược xuôi, khi hàng ngũ rối loạn. Cuộc tiến quân bất thành v́ bị bại lộ. Trung đoàn D1 bị cắt làm hai, phải phân tán vào các thôn xóm lân cận hai bên bờ sông.

Yên lặng lại trở về trong màn đêm cho miền Tây hiền ḥa. Bấy giờ là vào khoảng thượng tuần tháng Tư năm 1975.

Tôi ngồi trước bản đồ Quân khu IV. Màu đỏ chỉ những vị trí của Việt Cộng, tạo thành một ṿng đai bao quanh các thị trấn Quân khu 4. Đúng theo nghị quyết số 14 của Trung Ương Cục Miền Nam, Cộng Sản bỏ nông thôn tiến về thành thị theo kế hoạch thanh toán toàn miền Nam theo chỉ thị của Trung Ương Đảng Cộng Sản. Màu xanh trên bản đồ chỉ những vị trí của các đơn vị bạn được tái phối trí chặt chẽ hơn. Sư đoàn 21 phụ trách việc bảo vệ ṿng đai Alpha, từ phi trường B́nh Thủy tiếp nối liên tỉnh lộ Cần Thơ Chương Thiện. Sư đoàn 9 trải quân trấn giữ con lộ huyết mạch của Quân đoàn 4, từ phà Mỹ Thuận đến ngă ba Trung Lương. Sư đoàn 7 Bộ binh, đơn vị lừng danh của QLVNCH đă từng xóa bỏ Sư đoàn 5 và 9 của cộng sản giữ ải địa đầu của Quân khu 4, đoạn ṿng cung từ Chợ Thày Yên, Bến Tranh đến ranh tỉnh Long An.

Lập căn cứ ở Quân khu 4?

Trong thời gian này, tại Cần Thơ, Bộ Tư Lệnh Quân khu 4 và Quân đoàn 4 đă đặt nỗ lực vào việc xây cất nhiều địa ốc thật kiên cố, chuẩn bị cho Bộ Tổng Tham Mưu của Quân Lực và các đơn vị bạn, khi cần, có thể rút về giữ tuyến cuối cùng bảo vệ đất nước. T́nh h́nh chung lúc ấy là, sau cuộc rút lui của Quân khu 2, kế tiếp là Quân khu 1, ṿng đai của Quân khu 3 bảo vệ Thủ đô Sài G̣n dần dần bị thu hẹp. V́ những rối loạn chính trị đương thời tại thủ đô, v́ Quân khu 3 thiếu yếu tố địa thế hiểm trở, chắc chắn việc tử thủ tại thủ đô sẽ gây ra nhiều tổn thất cho quân lực và dân chúng. Tôi liên tưởng tới sự thành công của cuộc pḥng thủ Quân khu 4, mảnh đất cuối cùng của đất nước.

Với vị trí thiên nhiên của sông Tiền Giang cắt ngang miền Nam, với địa thế śnh lầy của vùng Đồng Tháp có thể làm giảm thiểu tốc độ chuyển quân của địch, sự di chuyển của chiến xa và trọng pháo sẽ bị trở ngại. Với sự tồn tại của toàn bộ các thị trấn, chưa nơi nào lọt vào tay địch; với các căn cứ Không quân và Hải quân vẫn c̣n nguyên vẹn dùng làm căn cứ cho các lực lượng liên hệ từ các quân khu khác rút về. Với ba Sư đoàn Bộ binh, cộng thêm gần nửa triệu Địa phương và Nghĩa quân, tôi nghĩ rằng chúng ta có thể chống cự một thời gian chờ cơn sốt chánh trị gây rối loạn và hoang mang trong hàng ngũ qua đi, chúng ta sẽ t́m thế phản công trong tương lai, chiếm lại phần đất nước đă bị mất. Tôi nghĩ đến gương của nước người, nước Trung Hoa vĩ đại của Tưởng Giới Thạch với hàng triệu binh sĩ, đă không đánh mà tan, phải bỏ chạy trước đạo quân của Mao Trạch Đông. Đến khi tàn quân chạy ra Đài Loan, một mảnh đất nhỏ bé, họ Tưởng đă tổ chức lại hàng ngũ, đẩy lui bao nhiêu cuộc tiến công của cộng sản, rồi tổ chức được một xă hội bền vững đến bây giờ.

Tôi nghĩ lại nước Việt Nam thân yêu rồi sẽ đi về đâu. Tưởng Giới Thạch c̣n có Đài Loan, ḿnh th́ có ǵ? Phú Quốc? Ḥn đảo này quá nhỏ và quá gần đất liền, không bảo toàn được. Tôi nghĩ đến giải đất vùng biên giới Việt Miên, bao gồm các khu vực có giáo dân Ḥa Hảo sinh sống, có dẫy Thất Sơn, có căn cứ an toàn, có ba, bốn ngàn hang động hiểm trở thành những pḥng tuyến kiên cố chống giữ các cuộc tiến công từ biên giới sang th́ việc pḥng thủ Quân khu 4 sẽ lâu bền hơn. Tôi mang ư kiến ra bàn với vị Tư lệnh Quân đoàn, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam th́ được sự tán thành của ông ngay. Nhưng rủi thay, việc hợp tác với giáo dân Ḥa Hảo đă gặp trở ngại ngay từ bước đầu v́ trước đó Thiếu tướng Nam đă có lần nhận chỉ thị của Tổng thống Thiệu để giải giới lực lượng Ḥa Hảo Huỳnh Trung Hiếu và bắt giữ ông Hai Tập nên đă gây ra sự nghi kỵ và hiềm thù trong ḷng những người bạn Ḥa Hảo..

Khoảng trung tuần tháng Tư năm 1975, Thiếu tướng Nam cùng tôi qua Mỹ Tho họp với các Tư lệnh Sư đoàn các Tỉnh trưởng miền Hậu Giang để thảo luận về kế hoạch ngăn chặn hoạt động của Cộng sản gây ảnh hưởng với t́nh h́nh an ninh Quân khu 4, Tướng Ngô Quang Trưởng từ Bộ Tổng Tham Mưu xuống tham dự buổi họp. Trong buổi họp, tôi có tŕnh bầy tường tận về nghị quyết “Tổng tấn công, Tổng khởi nghĩa” để đi đến dứt điểm chiến trường của Cộng Sản. Một số sĩ quan tham dự buổi họp tỏ vẻ hoài nghi về khả năng của Cộng sản để thực hiện nghị quyết ấy ở miền Tây. Vào cuối tháng Tư, tại các vùng khác quân ta phải triệt thoái liên miên; riêng Vùng 4, cho đến ngày cuối cùng vẫn giữ được sự toàn vẹn lănh thổ. Cuộc pḥng thủ Bộ Chỉ Huy cuối cùng của quân đội vẫn được ráo riết thực hiện. Các đà sắt làm cầu được xuất kho để hoàn thành những nhà hầm kiên cố, có thiết trí hệ thống truyền tin, chuẩn bị đoán tiếp Bộ Tổng Tham Mưu nếu Sài G̣n thất thủ.

Chiều 26 tháng Tư, Thiếu tướng Nam cho lệnh họp các sĩ quan của Bộ Tổng Tham Mưu và các đơn vị trưởng thuộc Quân đoàn 4 tại Trung tâm Hành quân. Họp xong, ông yêu cầu tôi lấy cuốn phim tài liệu tịch thâu được của Việt Cộng chiếu cho mọi người xem. Đó là cuốn phim “Chiến thắng Hạ Lào” liên quan đến cuộc hành quân Lam Sơn 719 của quân đội ta. Tôi c̣n nhớ khi phim chiếu cảnh bọn Việt Cộng dẫn giải những chiến sĩ QLVNCH bị chúng bắt, những khuôn mặt quen thuộc hiện ra trên màn ảnh làm rung động sự cảm xúc của mọi người. Đại tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ đoàn trưởng 3 Nhảy dù hiện thoáng qua; anh bị thương phải chống gậy. Anh vẫn mặc bộ quân phục Dù, ốm hẳn đi nhưng khuôn mặt vẫn c̣n nét rắn rỏi. Theo sát anh là một tên Việt Cộng bé con, mặt c̣n non, hờm khẩu AK như chực nhả đạn. H́nh ảnh này làm máu tôi sôi lên trong huyết quản. Tôi liếc nh́n Thiếu tướng Nam, ngồi bên cạnh, ông cũng nh́n lại tôi với cặp mắt buồn. Tôi biết rằng ông c̣n xúc động hơn tôi v́ ông nguyên là Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Dù trước khi nhận lănh chức Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh. Ông khẽ bảo tôi: “Nếu đời ḿnh như thế là hết!”

Ngày hôm sau, để nhận định thêm t́nh h́nh, tôi qua thăm Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 12 thuộc Sư đoàn 7, đóng tại Tân Lư Tây, quận Bến Tranh. Tôi gặp Đại tá Đặng Phương Thanh, Trung đoàn trưởng, cho biết t́nh h́nh trận chiến. Anh nhận định trung đoàn của anh đủ khả năng đối đầu với Sư đoàn Công trường 5 Cộng Sản đang dàn quân trước trận tuyến của anh. Anh đưa tôi đi xem chiến địa, nơi vừa xảy ra giao tranh ngày hôm qua. Xác địch c̣n nằm ngổn ngang trên các bờ bụi. Nh́n anh Thanh với dáng đi lầm lũi, chắc nịch, tôi cảm thấy anh là sĩ quan sẽ không hề lùi bước trước địch. Tốt nghiệp Khóa 16 Vơ Bị Đà Lạt, suốt thời gian trong quân ngũ, anh luôn có mặt tại đơn vị chiến đấu và mới được thăng cấp Đại tá vào hôm trước. Sau này, tôi được biết anh đă lựa chọn thà tự sát c̣n hơn đầu hàng địch.

Chúng ta là quân nhân…

Thời gian lặng lẽ trôi, bi thảm dần dần tới. Lúc đó vào khoảng tối 28 tháng Tư 1975, tiếng nói của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu vang lên từ Đài phát thanh Sài G̣n yêu cầu toàn bộ Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ và Cơ Quan D.A.O. rút ra khỏi Việt Nam trong ṿng 24 tiếng đồng hồ. Lời yêu cầu trên được lập lại nhiều lần như xoáy vào tim óc, như nổ trong lồng ngực. Thế là hết! Họ đă âm mưu bỏ chúng ta thực sự rồi. Thành tích bao nhiêu năm chiến đấu đă tan thành mây khói. Đêm đó và sáng hôm sau, quang cảnh thị xă Cần Thơ nhộn nhịp hẳn. Các loại xe ba bánh chở đồ từ các cơ sở Mỹ chạy ngược xuôi. Những trực thăng Air America không ngừng lên xuống các tàu nhỏ nhưng nhiều mă lực của Ṭa Lănh Sự Hoa Kỳ rời bến trực chỉ hướng Đại Ngăi, đem theo toàn bộ người Hoa Kỳ và nhiều người Việt làm việc với họ.

Cảm nghĩ của tôi lúc đó là tôi không nuối tiếc sự ra đi của người Mỹ; v́ dù họ có ở lại cũng không đóng góp được ǵ cho công cuộc chống Cộng của chúng ta. Nhưng sự ra đi của họ, trong bối cảnh bấy giờ đă trở thành một đoàn cân năo trí mạng, đánh mạnh vào tâm trạng hoang mang của toàn thể nhân dân Việt Nam và làm suy yếu hẳn sự kháng cự cộng sản của QLVNCH.

Trọn ngày 29, tôi có dịp gặp Thiếu tướng Nam nhiều lần nhưng chỉ bàn qua về t́nh h́nh có ảnh hưởng trực tiếp đến Quân khu 4 mà thôi. Nh́n ông trầm tư, tôi không nhắc tới chuyện thiết lập mật khu v́ tôi biết ông cũng cảm thông với những ǵ tôi muốn nói.

Chiều hôm đó, khi đi qua sân Bộ Tư Lệnh trở về pḥng làm việc, tôi có gặp Chuẩn tướng Tham mưu trưởng Quân khu 4. Đây là lần cuối tôi gặp ông v́ nửa đêm hôm đó, tôi bắt được nghị quyết số 15 của cộng sản đề cập đến việc chuẩn bị tiếp thu các thành phố, đến kế hoạch thâm độc nhắm tiêu diệt những quân nhân và cán bộ quốc gia một khi chúng nắm được quyền hành.

Sáng sớm ngày 30 tháng Tư, không khí Bộ tư lệnh Quân khu 4 có vẻ khẩn trương v́ sự ra đi của Chuẩn tướng TMT và một số sĩ quan trong đêm trước. Tiếp theo đó, qua đài phát thanh Sài G̣n, Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh toàn bộ QLVNCH buông súng đầu hàng địch và chuẩn bị bàn giao căn cứ cho chúng. Mọi người đều rúng động; không khí căng thẳng đến cực độ. Sự thật quá phũ phàng. Trước đó, có người c̣n hy vọng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống để sửa soạn một giải pháp trung lập, ḥa giải chứ đâu có ngờ ông ta lên làm Tổng thống để đầu hàng địch.

Đại tá Nguyễn Đ́nh Vinh được chỉ định thay thế Chuẩn tướng TMT để triệu tập tất cả sĩ quan có mặt tại Bộ tư lệnh và các đơn vị trực thuộc và vị Tỉnh trưởng Cần Thơ tại Trung tâm Hành Quân để Thiếu tướng Nam nói chuyện.

10 giờ 30 sáng, Thiếu tướng bước vào Hội trường, mọi người nghiêm chỉnh đứng lên chào. Ông từ từ tiến lên bục cao, xoay ḿnh đối diện với các sĩ quan trực thuộc, khuôn mặt vẫn đầy cương nghị nhưng ánh mắt thật buồn.

“Các sĩ quan thân mến”, ông nói, “Như anh em đều biết, đất nước chúng ta đang rẽ vào khúc quanh quan trọng nhất của lịch sử. Chúng ta là quân nhân th́ phải tuyệt đối tuân lệnh chánh phủ. vậy tôi để các anh lát nữa trở về đơn vị, tùy tiện sắp xếp công việc để bàn giao cho họ. Về phần tôi, mặc dù có sẵn trực thăng, tôi sẽ không đi đâu hết”.

Nói xong, ông rời pḥng hội để về văn pḥng ông. Tôi đẩy cửa bước theo để được nói chuyện với ông lần cuối: “Ông Tướng ơi, ông đành chịu vậy sao?” Tôi vẫn xưng hô kiểu đó khi chuyện văn chỉ có ông và tôi. Ông cười buồn: “Biết làm sao được bây giờ hả anh.” Rồi ông im lặng hút thuốc, thở khói nhè nhẹ, vẻ mặt đăm chiêu. Trước mặt ông là cái gạt tàn thuốc lá khổng lồ đầy ắp, chắc đêm qua ông đă thức trắng đêm. Trong thâm tâm, tôi muốn đề nghị với ông cùng t́m cách thoát hiểm nhưng tôi không mở lời được v́ biết ông sẽ từ chối.

Một lúc sau, tôi đứng thẳng người, kính cẩn chào cấp chỉ huy lần cuối rồi quay trở về pḥng.

Bấy giờ, tôi c̣n nhớ rơ, Trung uư Danh, Sĩ quan Tùy viên của Thiếu tướng Nam chạy theo, gọi tôi nhờ chỉ dẫn cách sử dụng khẩu súng lục màu xanh biếc mà Thiếu tướng vừa cho anh vào buổi sáng. Tôi không hiểu ông đă cho sĩ quan tùy viên khẩu súng xinh xắn để làm ǵ?

Tôi âm thầm đếm bước chân trên lối đi dẫn về pḥng tôi ở. Tôi liên tưởng ngày mai đây, cũng trên những bước đi này, bàn chân kẻ thù cũng sẽ bước chồng lên dấu chân tôi. Cuộc chiến này đă kéo dài trong bao năm trường, không ngờ lại tàn nhanh đến thế. Ḷng tôi đầy bi phẫn. Mặc dù tôi không có cách ǵ để kháng cự địch nữa nhưng tôi không cam ḷng đầu hàng chúng. Suy nghĩ măi, tôi thấy ḿnh phải t́m cách thoát hiểm, dù bỏ mạng trên đường thoát hiểm cũng đành. Ư nghĩ này làm tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Tôi nhảy lên xe jep, lái ngang qua Tiểu khu Cần Thơ gặp Đại tá Huỳnh Ngọc Diệp, một sĩ quan trừ bị bạn đồng khóa với Thiếu tướng Nam, để t́m phương thoát hiểm. Tôi tŕnh bầy với anh về nghị quyết 15 của cộng sản và những tủi nhục và chúng sẽ dành cho ḿnh khi chúng chiếm được phần đất này.. Tôi đề nghị anh cùng t́m cách thoát hiểm. Ban đầu anh từ chối lời đề nghị, nhất quyết tử thủ. Nhưng sau tôi thành công trong sự thuyết phục anh và chúng tôi t́m phương tiện di chuyển.

Chúng tôi rời bến Cần Thơ vào chiều ngày 30 tháng Tư 1975 trên một con đ̣ máy chật hẹp, hướng ra cửa biển. Cuộc hành tŕnh đầy cam go, tổn thất đă đánh dấu sự chấm dứt binh nghiệp của chúng tôi, trong sự tủi nhục, ê chề. Trên đường vượt thoát, được tin Thiếu tướng Nam, Chuẩn tướng Hưng và một số bạn hữu đă tự sát hoặc bị cầm tù, tôi đă nhắm nghiền cặp mắt để nén lệ trào ra, ḷng ngậm ngùi nhớ đến những khuôn mặt thân yêu đó mà trọn đời tôi sẽ không bao giờ quên…

Lê Nguyên B́nh

hoanglan22
04-24-2020, 03:16
Lời nói đầu
Ngày tàn chiến cuộc Việt Nam cũng là ngày tạm ngưng hoạt động của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa sau hơn 24 năm thành lập (Tôi nói tạm ngưng v́ Quốc Gia chúng ta c̣n, chúng ta sẽ c̣n Quân Lực Quốc Gia). Ngày tàn binh nghiệp của chúng ta đă có những Tướng lănh tuẩn tiết hi sinh thân ḿnh nêu danh hậu thế. Các vị này, đă tượng trưng tinh hoa, anh hùng tính dân tộc của chúng ta, xứng đáng được dựng bia để con cháu ngày sau tôn thờ. Các vị này thà tự giải quyết sinh mạng của ḿnh chứ không muốn rơi vào tay giặc cũng như không muốn phí sinh mạng Binh sỉ thuộc cấp một cách vô ich. Các vị anh hùng đó từ vị Tư Lệnh Quân Đoàn IV, Trung Tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng Lê Văn Hưng. Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Phú cựu Tư Lệnh Quân Đoàn II/V2CT, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hai. Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh và cuối cùng là vị Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh đáng kính yêu của tôi, cố Thiếu Tướng Lê Nguyên Vỹ.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1570387&stc=1&d=1587697705

Các vị nầy nếu ra lệnh cho thuộc cấp tiếp tục chiến đấu th́ chắc chắn tất cả sẽ tuân lệnh nhưng cũng chỉ tổn thất thêm sinh mạng một cách vô ích. Thiếu Tướng Hưng cũng từng là người hùng của trận An Lộc khi chỉ huy Sư Đoàn 5 Bộ Binh năm 1972 người đă làm rạng danh Khóa 5 V́ Dân Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức của chúng tôi.

Có nhiều bạn bè tôi khi đi tù hàng chục năm về hơi khó tính từng nói là họ không tôn trọng và không xem các tướng lănh rời miền Nam trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, trước khi miền Nam thất thủ, là các cấp chỉ huy của họ. Tôi th́ thông cảm t́nh cảnh quí vị này nhất là những vị rời miền Nam ngay sau khi Dương Văn Minh đầu hàng. Một điều tôi và đa số bạn hữu đều công nhận là nhờ có những người thoát ra nước ngoài năm 1975 và hoạt động tranh đấu với quốc tế, với Hoa Kỳ và cả Cộng Sản Việt Nam nên “Chương Tŕnh Ra Đi Có Trật Tự” (ODP) mới được thành h́nh và chúng tôi dân H.O mới sang được đất hứa.

V́ có những vị bỏ đi nên những người vĩnh viễn ở lại trong ḷng quê hương, đă dùng những giọt máu đào của ḿnh rải thắm đất mẹ rất xứng đáng được tôn vinh. Do đó chúng ta chỉ xếp hạng các người “hùng” và không “hùng” thôi. Chúng tôi chỉ xin quư vị sang trước đây, đă có một thời gian dài ổn định, con cái nên người, thành những người dân địa phương chánh gốc nếu không thể cưu mang các cựu chiến hữu của ḿnh v́ lư do nào đó đă ở lại miền Nam sau 30 tháng 4 năm 75, (Có người đă chết trong các ngục tù Cộng Sản) bị đối xử tàn bạo trong các ngục tù cộng sản mới sang đây thiếu thốn mọi bề, th́ cũng đừng tuyên bố những câu đau ḷng về những người tuẩn tiết và chúng tôi là những “Tên ngu dại không biết thời cơ.” Thế thôi ! Nhân danh là một người tù cải tạo 10 năm và mới sang đây tôi cũng xin cám ơn quư vị đó một lần.

Đă có nhiều người viết về ngày cuối cùng của Ngũ Hổ Tướng (Các tướng Nam, Phú, Hưng, Hai, Vỹ) đặc biệt về Tướng Vỹ trong số KBC Đặc Biệt vừa qua, nhưng c̣n nhiều chi tiết c̣n thiếu v́ tác giả nghe người khác kể lại.

Hôm nay tôi xin bổ túc về cái chết oanh liệt của cố Thiếu Tướng Lê Nguyên Vỹ v́ chính tôi và một số Sĩ quan cao cấp đơn vị trưởng của Sư đoàn đă ở gần cố Thiếu Tướng Lê nguyên Vỹ trong những giây phút cuối cùng.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1570397&stc=1&d=1587697799

Cuối tháng 9 năm 1974 tôi được thuyên chuyển từ Thiết Đoàn 8 Kỵ Binh thuộc Sư Đoàn 23 Bộ Binh (Đồn trú tại Ban Mê Thuột nhưng đang hành quân ở Vùng Pleiku KonTum), về Chỉ huy Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh sau hơn 9 năm rời khỏi đơn vị nầy lúc đó là tôi là Đại Úy Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn 3/1 Thiết Quân Vận.

V́ bất b́nh vị Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh khi vừa xuống trực thăng trong vùng hành quân Pleime (Pleiku) đă “xài xễ” tôi trước mặt các Sĩ Quan thuộc cấp và tăng phái do một lư do tôi không thể nào kiểm soát nổi hoặc Chỉ huy được là Thiết Vận Xa bị ḿn khi đơn vị được lệnh tiến nhanh, nên ḍ ḿn không kỹ, tôi bỏ vào Bộ Chỉ Huy Hành Quân của tôi và đề nghị Chuẩn Tướng Lê Trung Tường Tư Lệnh t́m người khác thay thế tôi. Vị này đùng đùng bỏ về và bảo Đại Tá Nguyễn Văn Đồng Tư Lệnh Lữ Đoàn II Kỵ Binh bổ nhiệm Thiếu Tá Nguyễn Văn Đêm Thiết Đoàn Phó Thiết Đoàn 21 Chiến Xa M48 thay thế tôi và đặt tôi dưới quyền xử dụng của Lữ Đoàn II Kỵ Binh dù tôi là quân số của Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp (nguyên Trưởng Khối Chiến Tranh Chính Trị BCH/TGB QLVNCH) trở lại chức vụ cũ của tôi vào tháng 4 năm 1974 là Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 8 Kỵ Binh, đơn vị tôi phải rời bỏ cuối tháng 10 năm 1972 v́ bị trọng thương.

Thiếu Tá Đêm đă bị VC bắt làm tù binh khi chúng tấn công Ban Mê Thuột vào trung tuần tháng 3 năm 1975 và đă ở tù 7 năm. Chính ra, nếu Sư đoàn không dùng tôi th́ phải trả tôi lại đơn vị gốc nhưng Chuẩn Tướng Tường muốn giữ tôi lại “Ngồi chơi xơi nước” tại Lữ Đoàn II Kỵ Binh cho Đại Tá Đồng “trù” tôi. Nhưng nhờ có Chuẩn Tướng Lư Ṭng Bá Chỉ Huy Trưởng Thiết Giáp Binh can thiệp và được Trung Tướng Nguyễn văn Toàn Tư Lệnh Quân Đoàn II chỉ thị xuống, Tướng Tường mới thả tôi đi về Chỉ huy Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh khi Việt Cộng c̣n đang chiếm Căn Cứ Rạch Bắp thuộc Quận Bến Cát và Trung Tá Nguyễn văn Tá (Khóa 11 phụ VBQG Đàlat) đă hy sinh ngày 5 tháng 9 năm 1974.

Khi được cho biết về Chỉ huy Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh (Một đơn vị “nát nhất” trong các Thiết Đoàn Kỵ Binh) tôi muốn từ chối (Tôi được xếp Loại 2 sau khi bị thương nặng ngày 31 Tháng 10 năm 1972 tại Pleiku, do đó tôi có thể không đảm nhận chức vụ chỉ huy các đơn vị chiến đấu nếu tôi không thích ) v́ khi tôi rời khỏi Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh năm 1965 lúc đó Đại Tá Phạm Quốc Thuần là Tư Lệnh Sư Đoàn, hiện lúc đó là Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn III, Đại Tá Lê Nguyên Vỹ đương kim Tu Lệnh Sư Đoàn th́ năm đó là Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 9 Bộ Binh, Đại Tá Đào Đức Chinh (Hiện định cư tại Virginia) hiện là Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn th́ trước kia là Trưởng Pḥng Ba Sư Đoàn đều biết tánh ba gai của tôi năm 1965 và có vẻ không thích tôi !? Nhưng Chuẩn Tướng Bá cho biết là tướng Thuần nói trước kia tôi không có lỗi ǵ cả‚ và đồng ư cho tôi về Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Chuẩn Tướng Bá Chỉ Huy Trưởng Thiết Giáp Binh c̣n khuyến khích tôi nói là tôi về chấn chỉnh lại Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh v́ “nó” quá nát rồi nhất là sau cái chết của Trung Tá Nguyễn Văn Tá Thiết Đoàn Trưởng.

Các vị trong quân đội nếu không biết rơ Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh “nát” như thế nào th́ chỉ nghe tôi kể sơ sơ đây cũng đủ ớn lạnh rồi ! Không kể tiểu sử trước năm 1972 của Thiết Đoàn, nhưng kể từ đầu năm 1972 khi Trung Tá Tôn Thất Hoàng (Khóa 14 VBLQ Đàlat) rời chức vụ chỉ huy thiết đoàn đến tháng 9 năm 1974 tôi là vị Thiết Đoàn Trưởng thứ sáu trong ṿng chỉ hơn hai năm ! Trong thời gian này một Thiết Đoàn Trưởng Trung Tá Nguyền Đức Dương (khóa 11 phụ VBQG Đalạt) bị đơn vị chiến xa CSBV bắt cùng cả bộ Chỉ huy Thiết đoàn làm tù binh tại mặt trận Lộc Ninh (B́nh Long) vào tháng 3/72(?), được trao trả 13 tháng sau nhờ Hiệp Định Ba Lê; Thiếu Tá Bùi Thường, khóa 5 SQTB Thủ Đức cùng khóa 5 SQTBTĐ với tôi chỉnh trang đơn vị lại vài tháng, Trung Tá Nguyễn Mạnh Lâm cũng khóa 5 SQTBTĐ chỉ huy vài tháng rồi cũng đi, Trung Tá Nguyễn Đức Dương sau khi được trao trả‚ trở lại đơn vị cũ vài tháng rồi đi v́ Cục An Ninh Quân Đội không đồng ư, kế đến Trung Tá Nguyễn Văn Tá từ Vùng 1 CT thuyên chuyển vào Chỉ huy Chỉ hơn 3 tháng là tử trận.

Thiết Đoàn này cũng có nhiều thành tích rất đặc biệt là đă từng nuôi dưỡng cả một ổ nội tuyến mà không hay. Tháng 4 năm 1965, khi tôi bị đổi đi khỏi Thiết Đoàn th́ Việt Cộng nội tuyến trong đêm 22 rạng 23 tháng 4 lấy đi 2 chiến xa M41, một chiếc chạy về bỏ tại ngă tư B́nh Ḥa (Gia Định) khi chúng định dùng chiến xa này tấn công phi trường Tân Sơn Nhất, c̣n một chiếc chúng đem lên chiến khu của chúng vùng Tây Bắc tỉnh Tây Ninh để nghiên cứu hành quân chống Thiết Giáp.

Trong trận nội tuyến này Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh đă tổn thất vừa chết, vừa bị thương gần 70 quân nhân các cấp trong đó có 1 Sĩ quan trực đơn vị. Đau đớn nhất là toàn thể các Hạ sĩ quan Chi đội phó các Chi đội của Chi Đoàn 3/1 TQV (Đang tập họp điểm danh tối) những người đă giúp tôi rất đắc lực trong trận Chiến Thắng tại Ấp 13bis Xă Đinh Thọ Quận Dầu Tiếng, tỉnh B́nh Dương (đêm 22 tháng 11 năm 1965),v́ thời gian đó các Sĩ quan chi đội trưởng hầu hết mới ra trường và chưa hề đụng trận, đă hy sinh. (Chi Đoàn 3/1 TQV đă được hấp lại sau hai trận B́nh Giă, một Tháng Mười Một và một Tháng Mười Hai năm 1964.

Trận đầu, Đại Úy Nguyễn Hữu Trung Ngọc (Khóa 14 Trường VBQG Đà Lạt) Chi Đoàn Trưởng tử trận, trận sau Đại Úy Vơ Văn Bẩm (Khóa 7 VBLQ Đalat) bị trọng thương. Trong trận đầu, Chi Đoàn 3/1 TQV tăng phái Chiến Đoàn 5 Chiến Xa dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Nguyễn Thành Lư (khóa 4 SQTBTĐ), Đại Tá Lâm Quang Thơ Chỉ Huy Trưởng TGB/Chiến Đoàn Trưởng đă ở hậu cứ. Thiếu Tá Nguyễn Thành Lư cùng Trung Úy Nguyễn Văn Bảy (Khóa 5 SQTBTĐ) Chi Đoàn Phó Chi Đoàn 2/5 Chiến Xa cũng đă hy sinh. Rất nhiều Quân nhân các cấp thuộc Thiết giáp đă hi sinh trong hai trận này khi bọn VC bắt đầu triển khai giai đoạn trận địa chiến của chúng (Thời gian này tôi đang theo học khóa 2 Sĩ Quan Cao Cấp Thiết Giáp (niên khóa 1964-1965) tại Trường Thiết Giáp Fort Knox Kentucky Hoa Kỳ. Tin tức trên do một anh bạn tại BCH/TG viết cho tôi hay.

Xin cho phép tôi khỏi nêu tên các vị chỉ huy các đơn vị này từ Thiết Đoàn Trưởng, Thiết Đoàn Phó, hai Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn 1/1 CX và 3/1 TQV chỉ biết rằng Trung Tá Lư Ṭng Bá cựu Thiết Đoàn Trưởng đă rời đơn vị đảm nhận chức vụ Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng B́nh Dương và Thiếu Tá Nguyễn Xuân Hường đă bị thuyên chuyển lên Thiết Đoàn 8 Kỵ Binh (Ban Mê Thuột) vài tháng trước đó.

Hai tên chủ chốt bị Việt Cộng móc nối này là Thượng Sĩ Phùng Văn Mười Hạ Sĩ Quan Quân Xa của Chi Đoàn 1/1 CX và Trung Sĩ Nguyễn Văn Tiểng Hạ Sĩ Quan Tiếp Liệu của Chi Đoàn 3/1 TQV. Cả 2 tên này đều đă dưới quyền tôi khi tôi Chỉ huy 2 Chi đoàn trên (Chi Đoàn 1/1 CX năm 63-64, Chi Đoàn 3/1 TQV năm 1965 (Tháng 7 đến tháng 12 1965) và tôi đă không dùng chúng v́ lư do chúng lem nhem tiền bạc.

Nhưng sau khi tôi bị thuyên chuyển, chúng “mua chuộc” các người thế tôi trở lại đơn vị cũ để làm nội tuyến.

Sau này, trong chiến dịch “Junction City” Trung Đoàn 11 Thiết Giáp Hoa Kỳ (U.S Army 11th Cavalry Regiment) t́m thấy chiến xa này tại khu rừng rậm Tây Bắc Tây Ninh.

Một chuyện khác khó tin nhưng có thật là trong trận Snoul thuộc lănh thổ Miên tại một đồn điền cao su phía Bắc Quận Lộc Ninh Tỉnh B́nh Long (Cuối Tháng 6 năm 1971) Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh tăng phái cho Trung Đoàn 8/SĐ 5BB rút lui khỏi đồn điền Snoul bị Việt Cộng rượt chạy có cờ đến nỗi bỏ lại một Thiết Vận Xa trên QL 13 độ 20 Km Bắc Lộc Ninh trong đó có nhiều xác đồng đội kể cả xác Thiết Đoàn Phó Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh và một Tiểu Đoàn Phó Pháo Binh ! Nếu bảo là đơn vị Bộ binh bỏ xác đồng đội lại th́ c̣n có lư, nhưng với một Thiết đoàn kỵ binh mấy chục xe vừa chiến xa và thiết vận xa bao nhiêu là hỏa lực mà bỏ lại xác đồng đội th́ khó thể chấp nhận được ! V́ Chiến Đoàn 8 Bộ Binh không chờ Lữ Đoàn III Kỵ Binh lên giao tiếp đă di chuyển xuôi Nam về hướng Lộc Ninh (Xuyên qua khu vực chưa được giải tỏa trên QL13) nên mới bị tổn thất nặng nề như vậy (Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8 Bộ Binh, trong thời gian này là Đại Tá Bùi Trạch Dzần đă cho lệnh “Chạy”).

Do đó, dù Thiết Đoàn 1 KB là một trong những đơn vị Thiết Giáp gần Thủ Đô nhưng ít ai muốn về đơn vị này nhất là trong những tháng cuối cùng của năm 1974 khi các đơn vị chánh quy Cộng Sản Bắc Việt có chiến xa nằm cách Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh tại Lai Khê không xa hơn tầm đạn hỏa tiễn 122 hoặc 107 ly chứ không nói đến Đại Bác tầm xa 130 ly của chúng.

Với t́nh h́nh như vậy tôi vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn tŕnh diện Đại Tá Lê Nguyên Vỹ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bô Binh (Lúc này ông chưa thăng cấp Chuẩn Tướng) vào ngày 20 tháng 9 năm 1974.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1570399&stc=1&d=1587697875

Vừa gặp tôi câu nói đầu tiên của ông ta với một nụ cười, có Đại Tá Đào Đức Chinh (cùng khóa 5 SQTB Thủ Đức với tôi) Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 5 Bộ Binh đứng bên cạnh: "Quả đất tṛn, chúng ḿnh lại gặp nhau, phải không anh Tánh".

Câu đó vừa là một câu vui mừng chào đón mà cũng là một câu như hăm dọa v́ năm 1965 (22/11) trong trận Dầu Tiếng lúc có đơn vị tôi th́ thắng trận nhưng năm ngày sau Trung Đoàn 7 Bộ Binh rời khỏi đơn vị tôi trên đường chuẩn bị hành quân lên núi Tha La (phía Bắc Dầu Tiếng) bị Trung Đoàn Q 762 VC tấn công gây tổn thất rất nặng cho cả 3 Tiểu Đoàn (Tiểu Đoàn 1/7,Tiểu Đoàn 3/7, và Tiểu Đoàn 4/7). Trung Đoàn Trưởng Trung Tá Nguyễn Văn Tư, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 1/7, Thiếu Tá Nguyễn Văn Chuyên, Cố Vấn Trưởng Trung Đoàn, Sĩ Quan Liên Lạc Pháo Binh v.v… tử trận. Số chết và bị thương lên đến hàng trăm.

Khi gặp Đại Tá Phạm Quốc Thuần sau khi Trung Đoàn 7 Bộ Binh tan tác, Đại Tá Thuần nói một câu :” Hôm trước ḿnh thắng, hôm nay thua, huề.” Tôi phản ứng lại ngay : “Đâu có, Đại Tá, hôm trước Thiết giáp thắng, c̣n bây giờ bộ binh thua chứ đâu có huề.” V́ câu nói thẳng tính này đă đưa tôi ra Vùng 2 Chiến Thuật gần 5 năm ! (Lúc đó Trung Đoàn 1 Thiết Giáp c̣n là đơn vị biệt lập thuộc dụng QĐ III không thuộc Sư Đoàn). Sau này tôi nghĩ lại là ḿnh quá bồng bột nông nổi để làm phật ḷng cấp Chỉ huy.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1570400&stc=1&d=1587697951

Khi bắt tay tôi xong, Đại Tá Vỹ hỏi tôi cần ǵ. Tôi nói muốn đi phép. Đại Tá Vỹ hỏi tôi cần mấy ngày th́ tôi nói chỉ xin 4 ngày thôi. Tôi đă đi phép do Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp và Lữ Đoàn III Kỵ Binh cho cả gần 10 ngày khi tôi từ Pleiku về Saigon nên tôi chỉ xin có bao nhiêu đó thôi (Tôi quên nói là cùng đi với tôi lúc đó có Đại Tá Trần Văn Thoàn, Tư Lệnh Phó Lữ Đoàn III Kỵ Binh, chưa về làm tư lệnh phó sư đoàn)..

Sau nầy tôi mới biết là Đại Tá Vỹ quá ưu ái với tôi chứ với các Sĩ quan tiền nhiệm chỉ huy Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh không dám xin phép chỉ thỉnh thoảng “dù” thôi. C̣n tôi mỗi tháng nếu không có hành quân tôi đều đi phép 48 tiếng. Do sự cởi mở lúc đầu nầy mà tôi quư mến Đại Tá Vỹ và đồng thời tôi cũng trọng tánh t́nh thẳng thắn bộc trực của ông.

Thượng tuần tháng 10 năm 1974, Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh do tôi chỉ huy và Trung Đoàn 9 Bộ Binh do Trung Tá Trần Phương Quế (Khóa 9 VBQG Dalat dường như cùng khóa Đại Tá Vỹ) chỉ huy đă đẩy lui Việt Cộng khỏi các căn cứ chúng chiếm được từ mùa hè 74. Trung Tá Trần Phương Quế được thăng cấp Đại Tá, và Đại Tá Lê Nguyên Vỹ được thăng cấp Chuẩn tướng. Chiến Thắng Rạch Bắp được tŕnh chiếu trên băng tần số 9 cũng như các chương tŕnh phông vấn các vị chỉ huy hành quân (Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đă đến thị sát chiến trường, gắn lon cho quân nhân thuộc đơn vị sau khi Sư Đoàn 5 Bộ Binh chiến thắng), tôi th́ chỉ được tưởng thưởng Anh Dũng Bội Tinh cấp Quân Đội + Nhành Dương Liễu v́ không đủ thời hạn chức vụ (dưới 6 tháng (!)).

Cuối tháng 12 năm 1974, tỉnh Phước Long thất thủ vào tay quân Cộng Sản Bắc Việt. Đơn vị của tôi đang hành quân vùng phía Nam Quận Phú Giáo chuẩn bị để tái chiếm Phước Long và tôi sắp sửa để “sinh tử” với địch theo lời của chuẩn tướng tư lệnh sư đoàn, nhưng lệnh tái chiếm không thành v́ không c̣n quân để bảo vệ ven đỏ nếu Sư Đoàn 5 BB rời bỏ căn cứ hiện tại để hành quân xa.

Thượng tuần tháng 3 năm 75 Ban Mê Thuột thất thủ kéo theo sau cuộc rút lui hỗn loạn trên Tỉnh Lộ 7 Pleiku Phú Bổn của các đơn vị thuộc Vùng 2 Chiến Thuật, cuộc “Tháo chạy tán loạn” ở Vùng 1 Chiến Thuật từ Quảng Trị chạy dài đến Nha Trang.

Khoảng gần hạ tuần tháng 3 năm 75, đơn vị tôi nhận nhiệm vụ mở đường từ Lai Khê lên Chơn Thành dọc theo phía Đông Quốc Lộ 13, một con lộ huyết mạch đă bị bỏ cho VC kiểm soát từ mùa H đỏ lữa năm 72 trong khi tại tỉnh lỵ B́nh Long c̣n Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Vùng 3 và Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân; ở tại Chơn Thành th́ c̣n Chi Đoàn 1/15 CX, và các đơn vị thuộc dụng của Tiểu Khu B́nh Long và Chi Khu Chơn Thành. Nhiệm vụ của đơn vị tôi : Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh và Tiểu Đoàn 3/9 Bộ Binh tăng phái do Thiếu Tá Đổng Huy Hùng. chỉ huy là để mở đường và bảo vệ cho các cánh quân rút lui từ Chơn Thành về Lai Khê.

V́ hành quân cấp tốc và bất ngờ nên sau hai ngày phá vở các chốt dọc trục lộ 13 đơn vị của tôi đă bắt tay được các đơn vị ở Chơn Thành với tổn thất tương đối nhẹ. Nhưng v́ các đơn vị ở B́nh Long chưa di chuyển xuống kịp tại Chơn Thành nên Thiết Đoàn của tôi phải trở về lại hậu cứ.

Cuối tháng 3 năm 1975, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II cũng như Vùng 2 Chiến Thuật kể như tan ră và tỉnh Phan Rang đặt thuộc khu vực trách nhiệm của Quân Đoàn III/V3CT. Một Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Đoàn III do Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi cựu Tư Lệnh Vùng IV chỉ huy được thành lập và bố trí tại đây, cần có lực lượng cơ hữu của Quân Đoàn III để phối hợp với đám tàn quân của Vùng 1 và Vùng 2 c̣n sót lại ! Do đó tôi lại phải mở đường lên Chơn Thành đón các đơn vị BDQ QK 3 về Lai Khê chuẩn bị cho ra Phan Rang. Do đó, tôi được lệnh trở lại vùng hành quân cũ với đơn vị tăng phái thường lệ là Tiểu Đoàn 3/9 BB.Tôi c̣n nhớ lúc tan buổi họp hành quân vào lúc 22 giờ đêm ngày 27 tháng 3 năm 1975, Chuẩn Tướng Vỹ bắt tay tôi và nói : “Quân Đoàn bây giờ trông vào anh đấy, anh Tánh. Anh cố gắng đem các đơn vị BĐQ về đây an toàn để họ ra Bộ Tư Lệnh Tiền Phương.”

Nhiệm vụ lần nầy thật khó khăn vỏ cùng ! Tuần lễ trước, địch chưa rơ ư đồ của ta nên chúng bị bất ngờ. Nhưng bây giờ, dù có “ngu” cách mấy chúng cũng biết là tôi sẽ lên lại vùng hành quân nầy v́ tin t́nh báo của chúng cho chúng hay là các đơn vị phía Bắc của ta sẽ rút về hướng Nam và đơn vị hướng Nam sẽ đến giao tiếp, do đó chúng bố trí các ổ phục kích dày đặc dọc trục lộ và tôi phải dằng co với chúng trong ba ngày ba đêm mới hoàn thành được nhiệm vụ, sau khi tổn thất hai xe Thiết Quân Vận, một Sĩ quan hy sinh, một Sĩ quan khác bị thương cùng một số kỵ binh khác tữ trận hay bị thương, nhưng đă gây tổn thất khá nặng cho địch quân nhất là bắt được 7 tên tù binh CSBV mặt c̣n non choẹt vừa được bổ sung từ ngoài Bắc vào.

Khi tiếp đón được Bộ Chỉ Huy BĐQ Vùng 3 CT gồm có Đại Tá Nguyễn Thành Chuẩn Chỉ Huy Trưởng BĐQ Vùng 3 CT và Đại Tá Nguyễn Văn Biết. Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 3 BĐQ (sau 22 giờ đêm) tôi gọi âm thoại báo cáo cho Tướng Vỹ biết th́ ông nầy rất mừng và nói âm thoại bằng bạch văn là đại diện cho quân đoàn cám ơn tôi. Một điều ông ít khi làm là nói bạch văn trong máy liên lạc âm thoại và mấy hôm trước đây ông đă gửi trả Thiết Đoàn 22 Chiến Xa về lại Lữ Đoàn III KB và phạt Thiết Đoàn Trưởng 15 ngày trọng cấm Trung Tá Nguyễn Văn Liên Thiết Đoàn Trưởng khi vị nầy sơ ư xin Sư Đoàn cho phép ngày hôm sau mở đường ra Quốc Lộ 14 để tiếp tế xăng nhưng không “ngụy” (code) cẩn thận.

Cuộc hành quân thành công, đơn vị tôi trở về lại hậu cứ.

Các tuần lễ sau tôi có tham dự các cuộc hành quân vùng căn cứ “Ba Lê” thuộc xă Tân Hưng nhưng không có chạm súng và đến ngày 17 tháng Tư năm 1975 th́ làm trừ bị tại Lai Khê.

Bây giờ Lai Khê là vùng tiền đồn v́ Chơn Thành không c̣n lực lượng bạn. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn Tư Lệnh Quân Đoàn III lên Lai Khê nói với tướng Vỹ là nên di chuyển Bộ Tư Lệnh về Phú Lợi chỉ để một trung đoàn nào đóng tại đây thôi. Điều nầy rất đúng chiến thuật v́ không khi nào một bộ tư lệnh sư đoàn lại làm tiền đồn bao giờ. Nhưng tướng Vỹ không đồng ư. Ông thường nói với các Sĩ quan thân cận là : ”Nếu tôi cho di chuyển Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn về Phú Lợi, lính tráng sẽ nói ḿnh ‘Di tản chiến thuật’ sao ? Tôi ở măi nơi đây và chết cũng tại đây!”

Một điểm son cho Chuẩn Tướng Vỹ là ông không hề ỷ lại vào Hoa Kỳ bao giờ và rất có tinh thần “Tự Lực Cánh Sinh” hay có nhiều sáng kiến.

Trong một buổi họp bàn về pḥng thủ, có một vị Trung đoàn trưởng báo cáo là thiếu kẽm gai, cọc sắt v́ Tiếp Liệu loại 2 và 4 khan hiếm do Mỹ hạn chế viện trợ, Tướng Vỹ liền tức giận hét lên: ”Cái ǵ cũng Mỹ. Mỹ nó bỏ anh rồi biết không? Vùng nầy thiếu ǵ tre gai, cho lính trồng dọc theo vị trí pḥng thủ một thời gian sau sẽ thành một ṿng đai tre gai dày đặc, đặc công nào vào được?” Sáng kiến nầy của ông rất hay nhưng đáng tiếc là quá trễ.

V́ tôi kính mến Tướng Vỹ khi tôi xin phép về lo đám tang bà mẹ vợ tôi từ ngày 20 đến ngày 24 tháng 4 năm 75 ông sẵn sàng cho ngay không phân bua ǵ cả nhưng chỉ đùa với tôi một câu là “Đừng bỏ tôi nghe anh Tánh”. Tôi đă hứa sẽ lên lại Lai Khê và đă giữ lời trong khi những người có quyền thế tại Thủ Đỏ miền Nam đang rục rịch “Di tản chiến thuật” khỏi nước bằng đường thủy và đường không.

Ngày 28 tháng 4 năm 1975. Bộ Tư Lệnh nhẹ Sư Đoàn 5 Bộ Binh do Đại Tá Trần Văn Thoàn Tư Lệnh Phó chỉ huy cùng với Trung Đoàn 8 Bộ Binh do Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng (Khóa 10 VBQG Đàlạt hiện định cư tại CA) cùng Chi Đoàn 3/1 Thiết Kỵ do Đại Úy Nguyễn Văn Thiệp (hiện định cư tại CA) chỉ huy di chuyển về Phú Lợi. Cũng sáng nay, Chuẩn Tướng Vỹ cho chúng tôi biết là “Các anh em ai có thể cho vợ con đi nước ngoài được th́ cho đi, c̣n các anh ở lại với tôi. Tôi cũng vậy cùng ở bên các anh”.

Sau nầy, đến ngày 21 tháng 5 1975 khi Việt Cộng đưa anh Thoàn từ B́nh Dương lên Trại Tù GK3 của VC tại Long Khánh th́ tôi được biết là trước ngày 30 tháng 4 năm 75 chị Thoàn (dân Pháp có Passport thường trực) đă đưa gia đ́nh anh Thoàn và gia đ́nh Chuẩn tướng Vỹ đi Pháp. Hiện giờ bà Vỹ đang định cư tại vùng Virginia.

Chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975. Sau cuộc họp Tham mưu thường lệ xong vào lúc 17 giờ, các đơn vị được lệnh chuẩn bị bỏ Lai Khê về B́nh Dương. Các quân dụng hư hỏng, cũng như các giấy tờ không cần thiết bỏ lại phải được tiêu hủy tại chỗ. Do đó trong căn cứ Lai Khê từng đám lữa đỏ rực các góc trời. Xa xa vùng Phú Giáo cũng thế v́ Quận Phú Giáo đă di tản.

Màn đêm buông xuống trong nổi kinh hoàng. Nơi phía Quốc Lộ 14 các đoàn xe đủ loại kể cả chiến xa của VC di chuyển chạy để đèn sáng cả con đường dài. Tôi trở qua Bộ Tư lệnh Sư Đoàn lúc 19 giờ để nhận lệnh th́ được tướng Vỹ cho biết là do tin báo cáo có cái chốt của VC trong khu vực Xă Mỹ Thạnh phía Nam Bến Cát. Tôi nói Sư Đoàn cho Đại Đội 5 Trinh Sát tăng phái cho tôi (Tôi không biết là Đại Đội 5 Trinh Sát đă ở B́nh Dương với Bộ Tư Lệnh Nhẹ Sư Đoàn) tôi dùng Chi Đoàn 1/1 CX bức chốt đó cho, nhưng Tướng Vỹ nói ban đêm khó phối hợp thôi để sáng hôm sau.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1570403&stc=1&d=1587698083

Tôi về hậu cứ của tôi và gọi điện thoại về Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp Trại Phù Đổng về nhà tôi. Trong điện thoại tôi nghe có tiếng súng các loại nổ xa xa và tiếng động cơ trực thăng nổ rất gần. Vợ tôi đă di tản lên nhà ông anh tôi ở Nancy từ chiều chỉ có chú lính giúp việc nhà trả lời cho tôi biết là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III đă di chuyển về đóng quân tại đây. V́ trong thời gian đó, Tướng Toàn kiêm nhiệm chức vụ chỉ huy trưởng Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp nên có toàn quyền xử dụng cơ sở nầy.

Tôi liền cho Tướng Vỹ biết tin nầy.(Vừa rồi khi hỏi thêm tin tức về các giây phút cuối của tướng Vỹ khi tôi không có ở bên ông, tôi được Trung Tá Tống Mạnh Hùng (Khóa 5 Thủ Đức, Pháo Binh Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn 5 BB) cho biết là trước đó tướng Vỹ đă gọi điện thoại về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn không có ai trả lời, ông liền chửi thề : ” Đ.M tụi nó chạy trốn cả rồi.”)

Đêm 29 tháng 4 năm 1975 là một đêm khủng khiếp nhất của đời tôi, một đêm mà tôi nhớ măi. Các tiền đồn tiếp tục báo cáo quân xa địch các loại di chuyển nhưng chúng đi ṿng không tấn công Lai Khê. Tôi đang chuẩn bị đón cái chết gần kề v́ tất cả không c̣n ǵ để cứu vớt cả. Các vị từng hô hào sống chết với quân đội đă yên thân nơi nước ngoài rồi, c̣n tôi với trọng trách nhỏ nhoi là Chỉ huy một thiết đoàn kỵ binh tôi phải làm ǵ đây ?! Ngày tàn binh nghiệp của ḿnh và niềm hănh diện được chết trên xe Thiết giáp cùng binh sỉ trong đơn vị cũng như các Hiệp sĩ ngày xưa chết trên lưng ngựa?

Đêm 29 tháng 4 là một đêm dài nhất đối với tôi v́ không chợp mắt được, chỉ nằm dài trên ghế bố xếp nh́n trời xanh, sao sáng! (Giuờng ngủ đă được xếp lên xe GMC chờ di tản). Nhưng rồi đêm dài cũng qua đi nhưng các đốm lữa ở trong cũng như ngoài căn cứ vẫn sáng rực ánh hồng!

Bảy giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, chúng tôi họp tại Pḥng Hành Quân Sư Đoàn. Không c̣n một nụ cười trên các đôi môi thường lệ hay khỏi hài. Tất cả đều lộ vẻ mất ngủ. T́nh h́nh “Địch” dày đặc điểm “Đỏ” trên Bản Đồ Hành Quân. T́nh h́nh bạn chỉ có nội bộ Sư Đoàn, c̣n các đơn vị bạn thuộc Vùng 3 CT th́ không tài nào biết được. Riêng Sư Đoàn 25 Bộ Binh tại Củ Chi th́ bị tấn công sáng ngày 29 v́ có một thành phần Thiết Giáp chạy về B́nh Dương tối ngày 29.

Từ sáng ngày 29 các khẩu Đại Bác 175 ṇng dài tại căn cứ Lai Khê đă tác xạ về hướng Củ Chi để yểm trợ tổng quát tăng cường cho Sư Đoàn 25 BB nhưng không hiệu quả mấy.(Sau nầy tôi được biết Chuẩn Tướng Lư Ṭng Bá Tư Lệnh Sư Đoàn 25 Bộ Binh đă bị VC bắt làm tù binh đêm 29 tháng 4 năm 1975). Nhưng Sư Đoàn cũng vẫn họp và cũng chuẩn bị di chuyển xuôi Nam về B́nh Dương.

Vừa họp xong Đại Úy Nguyên, Chánh Văn Pḥng Tư Lệnh xuống báo cáo Tướng Vỹ là 10 giờ sáng Tổng Thống Dương Văn Minh sẽ đọc diễn văn quan trọng. Nghe thế, tướng Vỹ cho lệnh tất cả Sĩ quan chờ tại chỗ bên chiếc Radio Zenith và bên tách cà phê. Nhờ sự kiện nầy mà chúng tôi được nghe bản phát thanh đầu tiên của Big Minh trong khi có tiếng nhắc phía sau: “Đọc đi”.

Sau nầy phối hợp các tài liệu do VC phổ biến tôi được biết là Dương Văn Minh khi gọi chúng vào Dinh để “bàn giao” đă bị chúng gạt dùng áp lực bắt đọc tuyên cáo đầu hàng theo ư chúng. Chớ theo bản “kêu gọi” đầu tiên, Tướng Minh mời đại diện Mặt Trận Giải Phóng vào để bàn giao ! Nhưng chúng bắt ông ta đọc lại theo nội dung khác. Tức là bản tin thứ hai hoàn toàn khác bản tin đầu.

Theo báo chí của chúng, chúng tự đề cao là do “Sáng tạo lợi dụng thời cơ” khi chiếm Dinh Độc Lập là chúng nói với Dương Văn Minh: ”Anh c̣n ǵ để mà bàn giao. Anh chỉ có một điều là đầu hàng vô điều kiện thôi! ” Ông Tướng Minh ơi! Ông lại hại chúng tôi rồi!".

Khi nghe lệnh tiếp của tướng Nguyễn Hữu Hạnh Tham Mưu Trưởng là các đơn vị ở tại chỗ chờ bàn giao th́ tướng Vỹ cho lệnh Trung Tá Nguyễn Tấn Văn Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị Sư Đoàn (Anh đồng hao của Tướng Vỹ) cho người ra cổng căn cứ treo cờ trắng đầu hàng, đồng thời ông nói: “Từ nay tôi không c̣n chỉ huy các anh nữa, các anh tự lo liệu lấy”.

Lúc đó Tướng Vỹ cho lệnh t́m Y sỉ Thiếu Tá Hiếu Tiểu Đoàn Trưởng 5 Quân Y có lẽ định t́m thuốc tự tử nhưng ông sau nầy đă lánh mặt. Tất cả anh em chung quanh tướng Vỹ đều t́m cách dấu tất cả các súng cá nhân v́ sợ ông tự tử. Các anh em khuyên ông th́ ông nói: “Các anh chờ ở đây để cho tên Huyện ủy Bến Cát vào tiếp thu các anh à!” Lúc đó trong đầu óc tướng Vỹ chỉ có một ư định tự sát thôi.

Tôi quay về Thiết Đoàn. Trong khi xe đang chạy về doanh trại của tôi th́ Hạ sĩ Nguyễn Văn Sơn tài xế xe Jeep của tôi (Anh nầy sau năm 75 đă bị VC hạ sát trong một cuộc tranh chấp làm ăn ǵ với chúng) nói : “Trung Tá thay đồ xi vin đi hai thầy tṛ ḿnh đi xe Vespa về Saigon.” Hạ Sĩ Sơn có để xe Vespa Ư tại Lai Khê đặng thỉnh thoảng anh ta đi phép về Saigon. Nhưng tôi không đồng ư.

Tội nghiệp anh này không bỏ tôi khi tôi di chuyển bằng M113, anh vẫn theo tôi và bỏ xe lại dù lúc đó tôi cho anh toàn quyền quyết định.

V́ như tôi đă nói ở trên là có một số Sĩ quan, Hạ sĩ quan, Kỵ binh của Thiết Đoàn bị bắt năm 1972 và lại trở về lại đơn vị gốc năm 1973 sau khi được trao trả (Điều này trái với nguyên tắc an ninh nhưng tôi không hiểu do ai chấp thuận việc này ?). Tôi sợ thế nào cũng có người bị địch mua chuộc, móc nối nên tôi về tập họp thiết đoàn lại gồm có Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn với Chi Đoàn 1/1 CX (Chi Đoàn 2/1 Thiết Kỵ tăng phái Trung Đoàn 9 Bộ Binh, Chi Đoàn 3/1 TK tăng phái cho Trung Đoàn 8 BB).

Khi tôi tuyên bố là: “Tôi cám ơn tất cả các anh em đă giúp tôi trong thời gian qua đă chu toàn các nhiệm vụ đă được giao phó và giúp tôi, giờ đây tôi không c̣n chỉ huy các anh em nữa”. Tôi nói bằng cả sự xúc động thật sự trong khi khóe mắt của tôi hơi cay cay. Nh́n thẳng vào gương mặt các anh em đối diện tôi thấy mắt nhiều người cũng nhuốm đỏ. Cùng lúc đó có những tiếng “nhao nhao lên”: “Trung Tá đi đâu chúng em xin đi theo đó.” Đây là những lời tâm huyết của các thuộc cấp mà tôi nhớ đến suốt cuộc đời c̣n lại.

Không có một huy chương nào cao quư hơn các lời nói mộc mạc chân t́nh nầy trong khi tôi chẳng c̣n là ǵ cả ! Sau này khi nghĩ lại tôi thấy tôi thật quá liều lĩnh đùa giởn sinh mạng của các chiến hữu của ḿnh trong khi tự ḿnh không biết phải làm ǵ trong tương lai, trong khi không có chính phủ, không có cấp chỉ huy? Nhưng trong thâm tâm tôi lúc đó là rời khỏi đây đi về Vùng 4 Chiến Thuật chứ Lữ Đoàn III Kỵ Binh và Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp th́ không liên lạc bằng hệ thống liên lạc Truyền Tin được.

Tôi nói: “Các anh em đă tin tôi th́ tôi cũng sẽ cùng sống chết với các anh em.”

Tôi cho lệnh Thiếu Tá Đổ Cao Thượng (chú ruột Tướng Đổ Cao Trí mấy năm trước định cư tại Maryland và Virginia, nhưng hiện nay đang định cư tại Georgia, Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn 1/1 Chiến Xa về doanh trại của anh ta chờ lệnh.

Tôi quay xe lại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn để đón Đại Tá Nguyễn Mạnh Tường Phụ Tá Hành Quân Sư Đoàn và Trung Tá Tống Mạnh Hùng Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn (Hiện định cư tại San Francisco CA), cả hai cùng khóa 5 SQTB Thủ Đức với tôi như đă hứa trước.

Đến Bộ Tư Lệnh th́ Hùng chạy ra gặp tôi nói: "Anh vào chào Chuẩn Tướng Tư Lệnh đi, người đă tự sát rồi!".

Tôi đứng chổ cửa “Trailer” nh́n vào th́ thấy Tướng Vỹ đă ăn mặc chỉnh tề, có huy chương trên túi áo và xếp tay lên ngực. Các viên đạn 6.35 ly của súng lục Beretta trổ từ dưới cằm lên trên đỉnh đầu. Tôi đă chào kính vị anh cả của Sư Đoàn 5 Bộ Binh đồng thời cũng là một Anh Hùng của Quân Đội theo đúng Lễ nghi Quân cách rồi quay ra.

Sau nầy do anh Hùng kể lại là lúc tôi về rồi, Tướng Vỹ cho gọi tất cả các anh em thuộc Bộ Tư Lệnh sang tư dinh cho lệnh dọn cơm ăn. Vừa ăn xong một chén cơm một cách hấp tấp, Tướng Vỹ chạy vội vào “Trailer” mà không ai hay chỉ v́ đang lo ăn. Th́nh ĺnh có 2 tiếng súng nổ. Các anh em chạy vào th́ thấy Tướng Vỹ gục đầu trên vũng máu bị đạn như đă nói trên. Dù tất cả các súng được cất dấu kỷ nhưng c̣n một khẩu súng lục Beretta 6.35ly để trong Trailer không ai biết, trừ Tướng Vỹ và Người đă dùng khẩu súng nầy để đi vào lịch sử. Chính Từ Vấn, anh Hùng và các anh em khác đă mặc quần áo tươm tất cho Tướng Vỹ.

(Trong số báo Thời Mới Phụ Nữ Mới số 405 nhân tưởng niệm ngày 30/04/1975, nữ thi sĩ Ngô Minh Hằng có làm một bài thơ tứ tuyệt như sau :

Tướng Lê Nguyên Vỹ

B́nh Long anh dũng góp tài năng
Làm Tướng như Ông, mấy kẻ bằng
Quốc sĩ đầu hàng sao được giặc
Sân cờ Tư Lệnh, ánh sao băng!!

Như tôi đă kể rơ cái chết của Tuớng Vỹ v́ thế tôi đă đề nghị (Trong e-mail) và giờ đây tôi xin nữ thi sĩ sửa đổi lại câu ǵ khác chứ đừng để câu chữ nghiêng. Câu đề nghị của tôi nếu được th́ xin nữ thi sĩ tạm dùng chứ để Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh tự sát ngay sân cờ Tư Lệnh trong khi có mặt rất nhiều Sĩ quan và Quân nhân thuộc Sư đoàn th́ thấy không ổn. Câu thơ đề nghị thay thế là:

“Trailer” Trây lơ người gục, ánh sao băng!!

Tường và Hùng theo tôi về Thiết Đoàn. Khi xe bắt đầu lăn xích ra khỏi cổng trại của tôi th́ thấy Đại Tá Từ Vấn (Khóa 12 VBQG Đà Lạt gốc BĐQ Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn), Trung Tá Nguyễn văn Khách (Khóa 10 VBQG Đàlạt gốc Lực Lượng Đặc Biệt) Trưởng Pḥng Ba Sư Đoàn, Thiếu Tá Nguyễn văn Nghĩa. Trưởng Pḥng Nhất Sư Đoàn, Thiếu Tá Nguyễn văn Ḥe. Trưởng Pḥng Nh́ Sư Đoàn cũng vừa đến tháp tùng lên các Thiết vận xa của chúng tôi. Tôi quên nói là đơn vị VC tại Bến Cát có vào hệ thống liên lạc Sư Đoàn đ̣i gặp tôi ở đầu máy nhưng tôi đă báo hiệu thính viên trả lời là tôi không có ở đây.

Theo thứ tự di chuyển th́ Chi Đoàn 1/1 Chiến Xa dẩn đầu kế đến là Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn của tôi. Khi ra khỏi căn cứ Lai Khê tôi thấy Chi Đoàn 2/1 Thiết Kỵ do Đại Úy Nguyễn Văn Thống chỉ huy (Anh nầy chết trong tù mấy năm sau 1975 tôi không rơ). Đại Úy Thống vào hệ thống liên lạc hỏi tôi xem đi đâu. Tôi hỏi anh ta có muốn đi theo tôi không th́ anh ta đồng ư. Tôi bảo gắn vải trắng ở đuôi ăng-ten và cho lệnh anh ta xem tôi làm ǵ th́ anh ta làm theo.

Đơn vị tôi ra khỏi căn cứ Lai Khê quay về hướng Đông căn cứ băng đồng, chạy song song theo hướng Đông Quốc Lộ 14. Tại vùng nầy, mới tuần trước Thiết đoàn tôi hành quân tại đây t́m đỏ con mắt không thấy một tên VC nào nhưng chiều nay sao đông thế ! Từ hướng Đông trong khu rừng, từ hướng Tây bên Quốc Lộ chúng tủa ra nhắm vào đoàn xe Thiết Giáp di chuyển tác xạ tới tấp. Cũng may là đơn vị chúng tôi cách xa tầm bắn B40 và B41 nên không có xe nào trong đoàn xe của tôi bị trúng đạn. Một điều tôi hănh diện về đơn vị của tôi và cũng nhờ ơn trên là không có một binh sĩ nào của Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh tác xạ lại. Họ rất giữ đúng kỷ luật là không tác xạ bừa băi và không có “Một sự cướp c̣” nào. Nếu không, có lẽ tôi khỏi đi tù và không c̣n để viết những ḍng chữ nầy.

Đoàn xe di chuyển được hơn 10 km th́ Đại Úy Thống Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn 2/1 Thiết Kỵ hỏi lệnh tôi thế nào khi VC chận đầu xe. Tôi nói trong máy cho anh ta biết thôi tŕnh diện họ đi c̣n tôi lên trên nầy gặp “Thằng Ba” tức Chi Đ̣an 3/1 Thiết Kỵ (Đang tăng phái cho Trung Đoàn 8 BB tại B́nh Dương) cũng tŕnh diện luôn (?).

Khi Chi Đoàn 1/1 CX dẫn đầu đi qua cầu xă Tân Phước Khánh vừa sang được chiếc thứ 5 th́ cầu sập. Lư do là cầu cây quá yếu và chiến xa lại di chuyển nhanh qua cầu và quá gần nhau, nên sức trọng tăi của cầu không chịu nổi sức nặng của chiến xa (Thường lệ, gặp trường hợp này trưởng xa phải xuống xe hướng dẩn cho xe chạy chậm qua cầu từng chiếc một). Toán đă qua cầu tiếp tục di chuyển ra đường Quốc Lộ 13. Toán c̣n lại quay trở lại nhập chung với Thiết Đoàn.

Đến cuối tháng 6 năm 1975 khi gặp tôi trong Trại 1 Cải Tạo Cát Lái (Trung Tâm Huấn Luyện Quân Khuyển của QLVNCH cũ) th́ anh Thượng nói anh đi ra Quốc Lộ 13 th́ gặp đoàn chiến xa T54 đang t́m hướng về Dinh Độc Lập và chúng đă nhờ anh chỉ đường (Thành Phần tiền phương của chúng là Lữ Đoàn 103 Thiết Giáp đă đi với Đại Tá Bùi Tín tiếp thu Dinh Độc Lập và nhận lệnh đầu hàng).

(Khi gặp lại tôi tại Virginia sau năm 1995, th́ Thiếu Tá Thượng cho biết là nhờ sự khéo léo anh đă gạt được chúng và thoát khỏi bị bắt trong ngày 30 Tháng 4 1975. Anh đă nhờ tôi đính chính lại.)

Đoàn xe của tôi quay ṿng lại vào giữa xă Tân Phước Khánh. Việt Cộng đă tiếp thu xong xă này. Cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam treo đầy trước các căn nhà và dọc theo đường. Dân chúng ùa ra đường cản đoàn xe tôi lại. Lúc đó vào khoảng 17 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tôi xuống xe th́ tên chủ tịch xă tiến đến ôm chầm lấy tôi nói câu đầu tiên: “Chúng ta không ai thắng, ai bại, chỉ có Đế Quốc Mỹ là thua thôi!

Các anh về với Cách Mạng (sic!) là có công rồi sẽ được biểu dương (Lần đầu tiên tôi nghe được danh từ “biểu dương”). Cũng lần đầu tiên, tôi biết thế nào là sự xảo trá của VC. Dù chúng biết rằng chúng tôi chạy trốn, không lọt nên mới tạt vào đây, nhưng chúng đă mở cho chúng tôi một lối thoát danh dự (?) bằng cách nói câu trên để tôi an tâm và đỡ mất mặt!

Cùng lúc đó một binh sĩ đến báo cáo là Thiếu úy Nguyễn Văn Tiền. Chi Đội Trưởng Chi Đội Súng Phun Lửa, ở sau tôi hai xe, đă tử trận. Vừa nghe câu này tên chủ tịch xă liền nói:"Anh cho tên anh ấy để ghi công v́ anh ấy về với Cách Mạng mà bị hy sinh là thành liệt sĩ", (thêm một từ mới) rồi! Trời! Chúng giết mà lại thành liệt sĩ của chúng? Nhưng tôi cũng phục phương tiện liên lạc của chúng – không hiểu chúng liên lạc thế nào – mà thân phụ của Thiếu úy Tiền từ Bến Tre ngày hôm sau đă lên đến xă Tân Phước Khánh B́nh Dương để đem xác con về.

Sau khi gom góp hết các súng cá nhân và các đồ dùng của chúng tôi như Radio Cassette, thùng đựng nước đá, v.v…của tôi mà chúng bảo là của “Ngụy”, chúng cho chúng tôi tự do đến nhà dân chúng gần đấy để tắm rửa với sự kiểm sóat của chúng. V́ tôi là Chỉ huy nên chúng chỉ để ư đến tôi thôi. Anh Tống Mạnh Hùng. Pháo Binh v́ theo sát tôi nên không thoát được; Đại Tá Tường, Thiếu Tá Ḥe, Thiếu Tá Nghĩa trốn thoát; Đại Tá Từ Vấn và Trung Tá Khách cũng trốn nhưng bị bắt lại bởi du kích tại địa phương, (Những tên này lúc sáng c̣n là Nhân dân Tự vệ của Việt Nam Cộng Ḥa nhưng đến chiều là du kích của Việt Cộng!)

Trừ chúng tôi, các Sĩ quan cấp Tá ra, chúng tập trung tất cả Quân nhân thuộc quyền tôi ngồi bẹp trước sân cờ của Văn Pḥng Xă Tân Phước Khánh. Khi tôi đi ngang qua nhóm Quân nhân này, có một Hạ sĩ quan nói một câu tôi vẫn nhớ đến bây giờ, trong lúc đó trong tôi nỗi lên niềm xúc động lẫn chua cay. Anh đó nói : "Trung Tá, sao họ lấy súng của ḿnh hết vậy?" Tôi đă trả lời anh ta mà nước mắt cứ muốn trào ra: “Ḿnh đâu c̣n cần các thứ đó nữa đâu anh, hết chiến tranh rồi!”.

Tên chủ tịch xă cho chúng tôi ăn cháo gà và uống bia (Bia chúng lấy trên Thiêt Vận Xa chở hàng Quân Tiếp Vụ của Thiết Đoàn) và nói một câu khách sáo :”Chúng tôi vừa tiếp thu nơi đây, cơ sở vật chất chưa có ǵ, các anh ăn tam”. Đó là bửa ăn cháo gà cuối cùng của cuộc đời tự do đánh dấu bước đầu đi tù Cộng Sản. Tôi chỉ có thể ăn lại cháo gà như thế này 10 năm sau!

Vừa ăn xong, có một tên VC người Nghệ Tĩnh mặc thường phục, tóc rụng gần hết trên dưới 50 tuổi, gương mặt đầy sát khí đến chất vấn tôi với giọng hằn học chứ không có những lời nói dịu dàng như của tên Chủ tịch xă người miền Nam kia. Lúc đó, tôi cảm thấy hối hận là mấy giờ trước c̣n quân trong tay tại sao tôi không “Một mất một c̣n” với chúng thà rằng chết với vũ khí trong tay c̣n hơn bây giờ đang đợi quyền sinh sát của chúng! Do các câu nói của tên này th́ chúng tôi là những tên “Tội phạm chiến tranh, trời không dung, đất không tha, lá rừng xanh không ghi hết tội, c̣n nước đại dương chẳng rửa sạch thù, là công cụ đế quốc Mỹ v.v.. (Các câu đầu trong bài 3 ‘Quân Ngụy là Công Cụ của Đế Quốc Mỹ kẻ thù của nhân dân Việt Nam v.v..’” trong 10 bài căn bản của chúng mà chúng tôi sẽ được chúng ‘lên lớp’ vài tháng sau đó).

Đang lúc chúng đang điều tra tôi, th́ có một chiếc xe Jeep A2 ngừng trước cửa, môt tên Cộng Sản Bắc Việt xuống xe (Sau này tôi mới biết tên này là Đại úy thuộc cơ quan chính ủy của Công Trường 7 VC). Tên này hỏi ai chỉ huy Thiết Giáp ở đây. Tôi xác nhận là chính tôi th́ chúng cho lệnh tất cả các Sĩ quan cấp Tá đi theo chúng.

V́ xe Jeep của hắn không đủ chỗ nên hắn chạy trước và cho tôi đem theo 2 M113. Trên mỗi xe M113 của chúng tôi chúng cho một tên VC ngồi trên thiết vận xa với chúng tôi trong khi các thùng đạn Đại Liên 50 và 30 c̣n đầy đạn và súng vẫn ở trên giá súng. (Đây là một hành động tương đối tốt của Công Trường 7 VC khi chúng cho người đến đón chúng tôi. Chúng sợ quân du kích hay địa phương của chúng v́ muốn “trả nợ máu” đối với chúng tôi nên “làm bậy”‚ làm hại đến đường lối tuyên truyền chiêu dụ của chúng chăng?

Chúng đưa chúng tôi về Trường Công Binh QLVNCH tại B́nh Dương (Bản Doanh của Công Trường 7 lúc đó) và cho chúng tôi ngủ tại pḥng của các Sĩ quan khóa sinh của các lớp học Công Binh đă trống vắng.

Ngày hôm sau, 1 tháng 5 năm 1975, Đại Tá Từ Vấn Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 5 BB đại diện đơn vị được chúng chấp nhận là “hàng binh”(?) dẩn chúng lên lại Căn Cứ Lai Khê để tiếp thu nơi đây v́ các đơn vị của chúng chưa dám vào đó.

Cũng chiều hôm đó, các phóng viên của báo “Quân Đội Nhân Dân” của chúng đến phỏng vấn, chụp h́nh chúng tôi gồm có Đại Tá Từ Vấn. Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 5 BB, tôi, Trung Tá Tống Mạnh Hùng. Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn, Trung Tá Nguyễn văn Khách. Trưởng Pḥng 3 Sư Đoàn, Thiếu Tá Nguyễn Văn Răng. Thiết Đoàn Phó, Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh và Đại úy Nguyễn Văn Vũ. Đại Đội Trưởng Đại Đội 5 Trinh Sát người đă lái chiếc xe Jeep A2.

Hinh ảnh chúng tôi được chúng cho tŕnh chiếu trên TV là các tên tàn quân của Sư Đoàn 5 BB bị chúng bắt ngày 30 tháng 4 năm 1975. Vào cuối tháng 6 năm 1975 khi chúng tôi tập trung về Trại Cát Lái th́ chúng cho chúng tôi đọc được tờ báo Quân Đội Nhân Dân có câu chuyện của chúng tôi và bức ảnh ghi trên.

Trong gần hết trang 3 của tờ Quân Đội Nhân Dân của chúng, chúng đăng một bài báo với tựa đề: “Vây Diệt Sư Đoàn 5 Ngụy.” hoàn toàn là hư cấu.

Trong đó chúng bịa ra giống như là tiểu thuyết trong đó có nêu đích danh tên tôi ra (Nhưng để tên là Nguyễn Minh Tránh) là đă đề nghị Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh thế này, thế nọ v.v... Có một điều quá nham nhở khi nó kể cái chết của Tướng Nguyễn Văn Vỹ, bằng những câu hạ cấp ḥng hạ uy tính của ông nầy. Chúng viết đại khái như sau và v́ lâu quá tôi không nhớ rơ.

Chúng bảo khi tự sát th́ trên bàn của Chuẩn Tướng Vỹ, Chuẩn Tướng đă viết “Đô la, đô la, đô la nhiều quá.” V́ sự kiện này cho chúng tôi thêm một bằng chứng là “Cộng Sản VN không có nói điều ǵ đúng cả”.

Trong thời gian “đi tù” nhất là trong các tháng đầu tôi bị “mệt” do các cuộc thẩm vấn tới tấp là tại sao tôi không ở Lai Khê (Hậu cứ của tôi) mà lại chuyển quân đi. Thêm vào đó, có nhiều bạn đă đổ lỗi cho tôi là dẩn họ đi nên tôi càng bị bọn cán bộ trại trù ẻo tôi dữ! Tôi không buồn giận ǵ các bạn nầy và rất thương các anh em ấy là trong giờ phút “Thập tử nhất sinh” đó dám phó cả sinh mạng theo sự “bốc đồng”(?) của tôi! Tôi đă phải t́m hết cách trả lời thật khôn khéo để làm nhẹ bớt các áp lực của chúng đối với tôi.

Kết thúc bài hồi kư tôi xin kính cẩn nghiêng ḿnh bái phục vị Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh đáng kính mến của chúng tôi và thắp lên nén nhang tưởng niệm cũng như choàng một ṿng hoa chiến thắng tưởng tượng lên vong hồn người. Chúng tôi cũng đă cám ơn người cũng như 4 vị Tướng khác, rất nhiều Quân nhân và nhân viên hành chánh, thành viên các đảng phái đă tự sát khi VC cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam về những điều sau đây:

1. Cho bọn Cộng Sản Bắc Việt cũng như các bạn bè năm châu biết chúng ta, dân miền Nam không phải đều là những tên hèn nhát!

2. Chứng tỏ cho thế giới biết quyết tâm của chúng ta là thà chết chứ không thèm sống với cộng sản.

Riêng cái chết của cố Thiếu Tướng Lê Nguyên Vỹ đă khuyên một dấu son cho Sư Đoàn 5 Bộ Binh, một đơn vị Bộ binh chịu nhiều tổn thất chiến trận nhất trong chiến tranh VN được kể là một trong những Sư đoàn “yếu” của QLVNCH, một đơn vị mà trước kia các cố vấn Hoa Kỳ "rất sợ" khi bị đưa về đây nên đă gọi Sư Đoàn này là Sư Đoàn Máu” (Blood Division).

C̣n tôi, tôi không ngờ là lại trở về Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh trong những ngày tàn binh nghiệp khi trước kia, nhờ 2 Chi Đoàn 1/1 CX và 3/1 TQV đă giúp tôi được thượng cấp biết tiếng với các chiến công đă thu hoạch được. Một điều tôi mản nguyện là trong tuần lễ cuối cùng của tháng 4 năm 75 nhiều đơn vị QLVNCH đă ră ngũ nhưng Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh chỉ có 5 % binh sĩ đào ngũ.

Tôi cũng xin nhân dịp này, chân thành cám ơn tất cả quân nhân các cấp thuộc Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh những người đă giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ khó khăn và đă không bỏ tôi khi nhà tan, nước đă mất. Tôi cũng đă hănh diện v́ các bạn, nhất là Thiếu Tá Nguyễn Văn Răng (Khóa 19 SQTBTĐ) (?).Thiết Đoàn Phó của tôi, một con người bất khuất, một trong những Quân nhân hăng hái nhất trong ngày 30 Tháng Tư 1975 để theo tôi. Anh là một trong những người tù cải tạo can trường đă dám trốn trại và đánh bọn quản giáo khi chúng bắt anh chở trên xe Jeep về trại.

Tôi cũng nghiêng ḿnh xin lỗi và chia buồn với gia đ́nh cố Thiếu úy Nguyễn Văn Tiền. Chi Đội Trưởng Chi Đội Súng Phun Lữa, đă hy sinh ngày tàn cuộc chiến mà tôi không thể phúng viếng gia đ́nh được (Khi tôi về Chỉ huy Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh, tôi đă hứa trong đầu là khi có một Sĩ quan thuộc Thiết đoàn hy sinh tại chiến trường, tôi sẽ đến phúng điếu (Với một phần lương của tôi + quỷ của Thiết đoàn nhưng đă không làm được).

Tôi xin phân ưu với gia đ́nh cố Trung Úy Liêu A Thành. Chi Đội Trưởng Chi Đội Thám Xa V 100, Trung úy Nguyễn Văn Lệnh. Sĩ Quan Quân Xa, Trung Sĩ Nhất Nguyễn Văn Quan... v...v... những người đă đến thăm tôi khi nghe tôi được về khoảng đầu Tháng 10 năm 1984 và rũ tôi tham gia phục quốc, nhưng tôi đă biết là tổ chức này dỏm không tham gia và khuyên họ chớ bị mắc lừa nhưng họ đă không nghe và đă bị gài bẫy bắt vào đêm giao thừa Tết Ất Sữu 1985 và sau đó đă bị chúng tra tấn đến chết trong tù. Dù đă bị tra tấn nhưng họ không khai bậy tên tôi. Cám ơn các bạn!

Tôi đă hoàn thành nhiệm vụ của 1 Quân nhân và cấp Chỉ huy thời chiến của tôi một cách tốt đẹp đến cuối ngày 30 Tháng 4 năm 1975 và đă đi tù trong các trại tù cải tạo từ Nam ra Bắc rồi trở về Nam đến 10 năm sau.

z1R8OkNzuK0

Nguyễn Minh Tánh

hoanglan22
05-16-2020, 05:32
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1583007&stc=1&d=1589606866

Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh Trưởng Chương Thiện.

Đa số sách báo Mỹ viết về chiến tranh Việt Nam không tường thuật nhiều về những ngày, những giờ phút cuối cùng của Miền Nam một cách chính xác. Điều dễ hiểu là, những người Mỹ làm việc tại Miền Nam đă được di tản nhiều ngày trước khi quân đội Bắc Việt vào Sài G̣n, nên những chi tiết về giờ thứ 25 rất ít được ghi nhận.

Tuy nhiên, cũng có vài tác phẩm viết lại những sự việc xảy ra những ngày cuối tháng Tư, như cuốn Goodnight Saigon của Charles Henderson, Decent Interval của Frank Snepp, hay cuốn Last Man Out của James E. Parker. Tác phẩm Goodnight Saigon (Giă Biệt Saigon) nghiêng nhiều về tường thuật những diễn biến quân sự từ những thảm họa trên cao nguyên và ngoài Quân Khu 1, đến những ngày hấp hối của Sài g̣n, những xao động của dân chúng. Một vài câu chuyện về những nhân vật dân sự như nhà văn Mai Thảo, diễn viên Kiều Chinh. Trong cuốn Decent Interval (Khoảng Thời Gian Coi Được), tác giả Frank Snepp chú trọng nhiều về những diễn biến và xáo trộn chánh trị ở Hoa Kỳ và Miền Nam. Đặc biệt ông tường thuật cuộc ra đi trong đêm 25.4.1975 của Tổng Thống Thiệu và Thủ Tướng Khiêm. Cái tựa đề đă nói thay cho chánh sách của chánh quyền Hoa Kỳ, hay nói chính xác, là công việc để đời của ông Henry Kissinger, khi ông này tiên liệu sau Hiệp Định Ba Lê th́ Việt Nam Cộng Ḥa chỉ c̣n sống sót được chừng một năm rưỡi nữa là cùng. Đó là khoảng thời gian coi được cho một cái chết từ từ, nếu chết nhanh quá th́ coi cũng… kỳ. Tuần lễ cuối của tháng Tư, khi Tổng Thống Thiệu đă ra đi, th́ ông Henry đă sốt ruột hỏi nhau với những cộng sự, rằng không biết giờ này VNCH đă chết chưa. Ở con người Kissinger tương phản hai thái cực kỳ dị. Khi c̣n trong cuộc ḥa đàm th́ ông ta nhũn nhặn ch́u chuộng Hà Nội đủ mọi thứ, đến đỗi Tổng Thống Thiệu đă bực tức hỏi thẳng ông Phó Đại Sứ Mỹ tại Sài G̣n khi ông ta nài nỉ Tổng Thống Thiệu chịu kư Hiệp Định: “Các ông đại diện cho người Mỹ hay đại diện cho Bắc Việt”. Bằng mọi giá, ông Kissinger phải kư cho được Hiệp Định Ngừng Bắn Ba Lê, đưa tù binh Mỹ về nước, và chấm hết. Nhưng khi Bắc Việt ngổ ngáo vi phạm hiệp định, tái phát chiến tranh, th́ ông lại bênh vực VNCH và đ̣i trừng phạt Hà Nội. Chẳng biết là ông diễn tuồng, điều mà ông gọi là lương tâm của nước Mỹ, hay là thật ḷng. Những dẫu sao th́ quốc hội Mỹ cũng đă quyết định thay giùm ông, rằng VNCH phải chết.

https://live.staticflickr.co m/4397/36367747173_bb6652c2 b6_b.jpg

Chiến sĩ Sư đoàn 21 Bộ Binh hành quân diệt giặc Tác phẩm Last Man Out (Người Cuối Cùng Ra Đi) của James E. Parker là hồi ức về những ngày công tác tại Việt Nam trong cương vị của một nhân viên CIA có trách nhiệm liên lạc và thu thập tin tức quân sự với những cấp chỉ huy của QLVNCH, rồi tổng hợp làm phúc tŕnh cho cơ quan CIA tại Sài G̣n. Ông Parker đang làm việc ở chi nhánh CIA Cần Thơ, th́ ông nhận lệnh thuyên chuyển về Vị Thanh, tỉnh lỵ của tỉnh Chương Thiện. Đối với người Việt Nam, th́ Chương Thiện là một địa danh ít người muốn đến, c̣n theo Parker th́ bên ngoài tỉnh lỵ bước ra mấy bước là đă ngửi thấy mùi Việt Cộng. Nên bất cứ người Mỹ nào về làm việc ở đấy đều được đồng nghiệp gọi tên giễu (nickname) là Dead Man (Người Chết). Tuy vậy khi về Vị Thanh, Parker nhận ra rằng Việt Cộng chẳng bao giờ muốn làm phiền ông ta, ông được an toàn. Từ đấy Parker suy luận rằng, chúng chẳng muốn khiêu khích Hoa Kỳ bằng cách giết một CIA Mỹ trong những khoảnh khắc cuối cùng của cuộc chiến, chẳng có lợi ǵ mà có khi c̣n làm cho anh Mỹ nổi giận quay trở lại th́ khốn. Cứ để cho những người Mỹ tà tà làm việc cho đến ngày họ cuốn gói ra khỏi Việt Nam, bởi ngày ấy chẳng c̣n lâu la ǵ. Công tác ở Miền Tây, là nhân viên đại diện cho CIA Cần Thơ, Parker có dịp tiếp xúc với những vị chỉ huy cao cấp của vùng châu thổ Cửu Long, những nhân vật đầy huyền thoại: Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai và Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Đặc biệt, trong những ngày cuối cùng của tháng Tư, chiếc trực thăng của Parker gần như hàng ngày đáp xuống Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh của Chuẩn Tướng Hai để nghe ông tŕnh bày quân t́nh, dân t́nh lúc ấy, rồi sau này nhiều người đă ngỡ rằng người Mỹ đến mời Chuẩn Tướng Hai ra đi. Nhưng nếu người Mỹ thực sự có ư định đưa Chuẩn Tướng Hai đi, th́ ông cũng sẽ khảng khái từ chối, như Tổng Thống Trần Văn Hương từ chối các ông Đại Sứ Mỹ Martin và Đại Sứ Pháp Mérillon, thề ở lại chia sẻ hoạn nạn với chiến sĩ và đồng bào của ông. Hay Thiếu Tướng Lê Minh Đảo từ chối sự mời mọc của người Mỹ, ông thề ở lại cùng sống chết với chiến hữu của ông. ChuanTuong LeVanHung Chuẩn Tướng Lê văn Hưng James Parker đă dành nhiều trang kể lại những cuộc tiếp xúc với những vị chỉ huy cao cấp của quân đội Việt Nam, cuộc gặp đầu tiên là với Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, lúc ấy ông đang là Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, bản doanh sư đoàn đặt tại Vị Thanh, kính mời quư độc giả cùng theo dơi (chú thích trong ngoặc là của chúng tôi): Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, tiếp đón chúng tôi rất niềm nở. Ông Tướng nói tiếng Anh hơi chậm nhưng phát âm rơ ràng, cho biết sư đoàn của ông có trách nhiệm bảo vệ vùng hạ châu thổ. Sư Đoàn trong thế bị áp đảo về quân số nhưng ông đă làm tất cả những ǵ có thể, ông chọn lựa mục tiêu. Ông không muốn tấn công vào những điểm kiên cố của quân cộng, bởi ông nghĩ rằng ông sẽ bị tổn thất nhân mạng nhanh chóng. V́ ông đang ở trong một cuộc chiến quá lâu dài, ông phải bảo vệ nhân lực và nguồn tiếp liệu của ông. Ông nói với tôi rằng ông không thể xoay chuyển cục diện ở đây, nếu ông muốn tạo một chiến thắng th́ quân Bắc Việt chắc chắn sẽ đưa nhiều quân đến nữa. Tôi hỏi ông: -Tại sao chiến đấu một cuộc chiến đang thấy thua rơ? Ông Tướng hỏi vặn lại, rồi mĩm cười: -Tôi c̣n có sự chọn lựa ǵ nữa không? Nhưng đây là đất nước của chúng tôi. Vị Thanh là nơi hiểm nghèo nhứt ở Miền Nam, không có lư lẽ nào để nuôi hy vọng ở đây. Quân địch đầy dẫy chung quanh thành phố. Tại sao lại mạo hiểm để cho những người Mỹ bị địch cầm giữ trong giờ thứ mười một này. Những tháng sau, tôi làm việc nhiều thời gian trong Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 21, thu thập tin tức trong vùng hạ châu thổ, cuối cùng tôi được cho phép thường xuyên tiếp xúc với Pḥng 2 và Pḥng 3 Sư Đoàn. Trong lúc đó th́ Tướng Hưng có mặt hầu hết ngoài mặt trận. Chiếc trực thăng chỉ huy của ông cất cánh mỗi buổi sáng sớm đưa ông đến những địa điểm xa xôi nhứt để ông có thể thăm hỏi những cấp chỉ huy. Tôi chỉ gặp ông hầu như vào lúc ban đêm, lúc th́ dùng bữa tối, lúc th́ uống với nhau. Thỉnh thoảng th́ tôi cũng gặp ông Tướng vào lúc ban ngày trong văn pḥng của ông. Thời gian dần trôi, th́ cuộc gặp gỡ của chúng tôi trở nên thoải mái nhiều, chúng tôi thích thú sự hiện diện của nhau. Terry (nhân viên CIA mà Parker đến thay thế) giới thiệu tôi với vị Tỉnh Trưởng, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông Đại Tá được tuyên dương là Chiến Sĩ Xuất Sắc Của Năm (1972), trước khi ông đến nhậm chức ở Chương Thiện, một vinh dự gặt hái được từ chiến công anh hùng của ông chống quân Bắc Việt ở An Lộc. Ông đă bị thương rất nặng, mất một phần mặt của ông. Khi tôi gặp ông, th́ phần bị mất ấy đă được chữa trị bằng phẫu thuật, từ cái nh́n đầu tiên th́ tôi đă có thể nhận ra một vết thẹo dài chạy dọc theo bên hàm. Đại Tá Cẩn có một quan niệm rất tích cực về chiến tranh, dù cảnh quan buồn tẻ ở Vị Thanh. Ông đúng là người lính của những người lính, dũng cảm và thanh liêm. Ban đêm ông thường đi xuồng đến những đồn bót xa xôi nhứt để phát lương cho binh sĩ. Ông nói rằng ông có dưới tay nhiều chiến sĩ giỏi mà có thể chiến đấu chống cộng sản đến khi họ chết hoặc là đất nước được thanh b́nh. Những buổi tối của tôi với Chuẩn Tướng Hưng càng lúc càng thân t́nh. Ông thường hỏi thăm về gia đ́nh tôi, về Hoa Kỳ cùng những ǵ đang xảy ra bên ấy. Ông rất quan tâm đến văn học Mỹ nên tôi thường có dịp nói về các tác giả Hoa Kỳ và tác phẩm của họ. Mặc dù tôi thường đọc hai, ba cuốn sách mỗi tuần ở Vị Thanh, nhưng tôi lại chưa đọc những cuốn mà Tướng Hưng hỏi tôi. Về phần ông, th́ ông nói về lịch sử và chuyện chiến tranh ở Đông Dương. Ông thường nói chuyện một cách có cân nhắc và chậm răi, hay mĩm cười dù đang đề cập đến những sự việc nghiêm trọng. Từ ông toát ra một vẻ rất tự tin và ánh lên sự trầm tĩnh.


https://hientinhvn.files.wor dpress.com/2012/06/hongoccan.jpg?w=298&h=40


Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh Trưởng Chương Thiện.



Trong tháng 2 (1975), cấp chỉ huy ở Cần Thơ và Sài G̣n thúc giục, Tướng Hưng cho quân tấn công một đơn vị lớn Bắc Việt về phía Đông Chương Thiện thuộc rừng U Minh, là một khu vực cộng quân chiếm đóng từ lâu. Cuộc tấn công này là chiến dịch lớn nhứt từ lúc tôi về tỉnh Chương Thiện. Ông Tướng sử dụng tất cả nguồn yểm trợ của Không Quân mà ông có. Mặc dù ông sở hữu nhiều khẩu đại bác do quân đội Mỹ để lại, ông lại có khó khăn khi di chuyển chúng v́ sự hạn chế phi vụ chuyển vận. Ông cũng thiếu thốn những tiếp liệu cần thiết và đầy đủ để trang bị cho lực lượng tấn công. Thí dụ, ông có rất nhiều ḿn claymore nhưng thiếu ng̣i nổ, đạn pháo binh cũng thế, có nhiều nhưng rỉ sét. Do vậy, sư đoàn chịu nhiều thiệt hại. Chiến sĩ của ông chiến đấu rất dũng cảm. Tôi hiểu nỗi đau đớn của ông Tướng, và tôi hiểu niềm tự hào của ông đối với những người lính ấy, dù bị thương vong rất nhiều nhưng họ vẫn tiếp tục tiến tới. Khi trận chiến tàn, quân Bắc Việt bị đẩy lùi vào rừng U Minh,

Tướng Hưng vẫn không chắc rằng ông đă thực sự chiếm thượng phong. Ông đă dùng quá nhiều nguồn tiếp liệu mà ông có. Cho cái ǵ mới được? Mấy ngày sau, một thứ mùi kinh khủng tuôn vào chỗ tôi cư ngụ. Tôi đă từng ngửi thấy mùi này, đó là mùi của thịt thối, của người chết. Một thông dịch viên cho tôi biết nhà xác sư đoàn nằm giữa khu tôi ở và cô nhi viện tỉnh. Những xác tử sĩ nằm chờ được chở đi. Phương tiện chuyên chở đă hiếm hoi mà pḥng lạnh cũng không. Một số xác được lấy về từ khu vực chiếm đóng của cộng quân. Dẫu sao th́ khi tôi muốn chạy xa khỏi khu nhà ở, th́ ông Tướng đă xoay sở phương tiện đưa xác tử sĩ đi trong tuần. Tháng sau (10.3.1975), Ban Mê Thuột thất thủ, Bộ Tư Lệnh Tối Cao ở Sài G̣n tái phối trí lực lượng để bảo vệ phần c̣n lại của Miền Nam. Sư Đoàn của Chuẩn Tướng Hưng di chuyển về bảo vệ khu vực phía Bắc Cần Thơ, ông Tướng được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Phó khu vực phía Nam Sài G̣n (Quân Khu 4). Ngày 20.3.1975, Huế thất thủ. Ngày 30.3.1975, Đà Nẵng mất. Ở Cần Thơ, Tướng Hưng làm việc với Jim D. (xếp CIA Cần Thơ) và những sĩ quan liên lạc quân sự, nhưng ông tỏ ra thích làm việc với tôi ngay lần đầu gặp gỡ hơn là với những người sĩ quan này. Jim D. bảo tôi lên Cần Thơ thường xuyên hơn để làm việc với ông Tướng. Tôi có kế hoạch trở lại Vị Thanh mỗi tuần hay mỗi hai tuần để coi lại khu vực trú ngụ và nghe thuyết tŕnh quân t́nh từ Đại Tá Mạch Văn Trường, Tân Tư Lệnh Sư Đoàn 21 đang chỉ huy những đơn vị c̣n lại ở đấy (Một ngày trước khi ra đi, ngày 24.4.1975, Tổng Thống Thiệu kư nghị định đặc cách thăng Chuẩn Tướng cho Đại Tá Trường. Ông là vị Tướng được thăng chức sau cùng nhứt của cuộc chiến). Khu vực càng lúc càng thu hút sự quan tâm là con đường Quốc Lộ 4 chạy dài theo hướng Tây và Tây Nam từ Sài G̣n, phía Bắc sông Bassac (tức sông Hậu Giang), rồi đổ vào vùng châu thổ. Các đơn vị của Sư Đoàn 7 Bộ Binh chịu trách nhiệm bảo vệ quốc lộ, Chuẩn Tướng Hưng sắp xếp cho tôi được nghe thuyết tŕnh từ Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Tướng Hưng cho biết ông từng phục vụ trong sư đoàn lúc c̣n trẻ. Ông cố vấn sư đoàn lúc đó là con người đầy huyền thoại Trung Tá John Paul Vann, một nhân vật đầy quyền lực đối với quân đội Nam Việt Nam.
Cuối cùng th́ ông đă chết (trong một tai nạn trực thăng ở Kontum, tháng 6.1972). Tôi đáp trực thăng đến Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh và diện kiến Chuẩn Tướng Hai trong văn pḥng của ông. Ông Tướng đúng là một bản sao của một sĩ quan Mỹ với bộ quân phục sạch thẳng nếp, tay áo xăn lên quá khuỷu tay. Ông Tướng nói tiếng Anh rất lưu loát (khi c̣n là Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ, người ta luôn thấy trong tay Chuẩn Tướng Hai nếu không là một cuốn kinh Phật, th́ cũng là một cuốn sách tự học Anh Văn. Thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, ông cũng đă từng được gởi đi thụ huấn khóa tham mưu ở Hoa Kỳ). Đôi mắt trên khuôn mặt đầy đặn của ông ánh vẻ nghiêm khắc và ông chẳng tỏ ra thân thiện. Tôi hỏi ông Tướng về t́nh h́nh. -Anh muốn biết tin tức, anh nhân viên chánh phủ Hoa Kỳ, tôi muốn cơ phận cho trực thăng, tôi muốn đạn dược. -Ngài đang nói chuyện với lầm người rồi, điều ấy chẳng phải là công việc của tôi. -Anh chính là chánh phủ Hoa Kỳ. Chánh phủ Mỹ hứa luôn cung cấp tiếp liệu cho chúng tôi để chúng tôi có thể chiến đấu. Chúng tôi có thể làm được chuyện ấy, chúng tôi có thể tiếp tục chiến đấu, nếu chúng tôi có đạn và máy bay.
Hăy nói lại với chánh phủ của anh điều đó rồi tôi sẽ nói anh nghe những ǵ đang xảy ra ở đây. -Vâng, tôi sẽ báo cáo rằng quân đội đang thiếu hụt tiếp liệu. Ông Tướng chằm chằm nh́n tôi một lúc lâu, cuối cùng ông nói: -Người Mỹ các anh không thường giữ lời hứa với người Việt chúng tôi.
https://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/thumb/6/61/Tranvanhai.jpg/200px-Tranvanhai.jpg Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh SĐ7BB Ông Tướng tiếp tục nh́n tôi qua làn khói thuốc, chờ đợi phản ứng của tôi. Khi tôi không tỏ thái độ ǵ, ông nhún vai và bắt đầu thuyết tŕnh. Ông cho biết binh sĩ của ông chiếm giữ những vị trí trên Quốc Lộ 4 và hành quân đến biên giới Kampuchea để bảo vệ vùng lănh thổ dưới Sài G̣n.

Khu vực này phần lớn là những cánh đồng ruộng trồng lúa. Tinh thần binh sĩ rất cao, ông có thể ngăn chống lực lượng địch cấp sư đoàn của Bắc Việt trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên tinh thần binh sĩ có thể suy sụp nếu sư đoàn đối đầu với lực lượng địch lớn hơn và nếu đạn dược hao hụt. Ông tiên đoán rằng quân Bắc Việt sẽ tấn công sớm, mà ông th́ không có tái tiếp tế. Sư đoàn ông đang trực diện với Sư Đoàn 9 Bắc Việt do Tướng Di Thiên Tích chỉ huy, mà đă chiến đấu trong khu vực này từ trước năm 1965. -Tướng Tích có thể là tướng chỉ huy xuất sắc nhứt mà Bắc Việt có. Anh có biết chiến hiệu (slogan) của sư đoàn ấy là ǵ không? Là “Quét Sạch Kẻ Thù”. Kẻ thù ấy là tôi. Có nọc độc trong giọng nói của ông. Quân Lực VNCH đang sụp đổ ở phía Bắc, ông buồn phiền và cay đắng. Không giống như Tướng Hưng, Tướng Hai không triết lư cho tương lai. Ông giận dữ. Tôi đưa ư kiến rằng có thể có cuộc thương thuyết ngừng bắn mà từ đó bảo vệ được chủ quyền của chánh phủ Miền Nam. Ông Tướng nh́n tôi không nói, tôi không rơ ông đang nghĩ ǵ.
Khi tôi trở về Cần Thơ, tôi báo cáo với Jim D. buổi gặp mặt ở Sư Đoàn 7 Bộ Binh, rồi kết thúc bằng sự việc ông Tướng muốn đạn dược và cơ phận. Jim D. nhíu mày nh́n tôi: -Đưa chuyện ấy vào báo cáo gởi cho Washington, và đứng nói với tôi nữa. Tôi thường xuyên đến thăm Chuẩn Tướng Hai, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Ông hiếm khi cười. Ông Tướng thường ngồi trên một cái ghế gỗ đằng sau bàn làm việc, ẩn đằng sau khói thuốc khi tôi đến Bộ Tư Lệnh Tiền Phương gần biên giới Miên. Mỗi lần nói chuyện với nhau, th́ ông Tướng thường gợi lại những điều mà ông cho là “Sự Can Thiệp Đầy May Rủi” của Quân Đội Hoa Kỳ. Những điều ông nói, đại khái như: -Giữa hai nền văn hóa có một sự khác biệt lớn lao, người Mỹ các anh luôn muốn chúng tôi suy nghĩ và hành động y hệt như các anh. Thực ra th́ chúng tôi đâu có thích các anh hay chánh sách của các anh… Anh có nghe tôi không? Chúng tôi không thích các anh bảo chúng tôi phải làm ǵ. Nhưng chúng tôi cần sự giúp đỡ để tồn tại, và chúng tôi biết các anh có lợi thế nh́n chúng tôi sinh tồn. Nhưng không có nghĩa là các anh có quyền xía vào công việc và nền văn hóa của chúng tôi. Tại sao các anh không đưa quân vô Kampuchea. Quân Bắc Việt đang ở đấy đấy, tại sao các anh th́ không? Nếu các anh vượt đường xa đến đây để chận đứng chủ nghĩa cộng sản, tại sao các anh không tiến vào đất Miên nơi có những căn cứ của cộng quân rồi đánh cho chúng tiêu tùng.
Tại sao các anh không vào Lào? Tại sao các anh không dùng cơ giới nặng ủi sạch con đường Hồ Chí Minh ở đó. T́nh h́nh quân sự ở đây rất đơn giản. Tại sao các anh hành động như những thằng khùng? Người Việt chúng tôi cho là các anh khùng. Anh nói ǵ về điều đó, anh CIA? Các anh ngáo làm việc cho một tổ chức ngáo. Sau khi ông Tướng đă giảng thế nào là cách điều khiển chiến tranh, sau khi gọi tôi bằng đủ thứ danh xưng, lập đi lập những chuyện ấy, nổi giận lên, th́ ông mới nói đến chuyện quân t́nh trong khu vực.
Trong những lần tiếp xúc tại Bộ Tư Lệnh, dần dà giữa ông Tướng và tôi cảm thấy thoải mái với nhau hơn. Không thân thiết, nhưng thoải mái, chúng tôi biết vị trí của nhau. Có thể là do thời gian hai năm ở Lào tôi có nhiều bạn bản xứ, nhưng cũng có thể ông Tướng nhận biết được sự cảm thông và kính trọng của tôi đối với cảm niệm của ông về Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm ở thời điểm mà rất nhiều cấp chỉ huy khác chỉ nghĩ đến bản thân họ. Cũng có thể khi chúng tôi cảm thấy thoải mái v́ tôi là người khách thường xuyên của sư đoàn. Thượng Nghị Sĩ Frank Church phát biểu trong cuộc họp Thượng Viện ngày 10.4.1975, nói rằng thế là đủ rồi (enough is enough), Quân Đội Nam Việt Nam tự lo liệu lấy. Trong khi đó th́ Hạ Viện cũng đă bác bỏ yêu cầu quân viện khẩn cấp 722 triệu mỹ kim và 250 triệu cho kinh tế của Tổng Thống Ford (con số này là do Tướng Weyand lập ra và đệ tŕnh sau khi đi quan sát t́nh h́nh quân sự ở Việt Nam về. C̣n con số 700 triệu cho tài khóa 1974-1975, rồi bị cắt xuống 300 triệu đă bị cắt bỏ tàn bạo từ lâu). Quốc Hội chỉ đồng ư cấp ngân khoản dùng cho việc di tản người Mỹ ra khỏi Việt Nam. Ngày hôm sau, trực thăng của Air America (có hợp đồng chuyên chở cho CIA) đưa tôi đến gặp Tướng Hai. Ông Tướng không đứng dậy chào khi tôi bước vào văn pḥng. Rất bất ngờ như bước ra từ cơi sương mù, ông nói chậm răi, hành động của chánh phủ tôi giống như cục phân, nghị sĩ Church xấu xa hơn Hitler, nước Mỹ không c̣n danh dự, quân đội nước tôi đă vi phạm quy luật hành xử chung của chiến sĩ khi quay lưng với chiến hữu và bỏ rơi họ trên chiến địa. Ông Tướng đứng dậy và tiến đến gần tôi, đôi mắt ông đỏ hoe, bàn tay ông sờ vào báng súng lục, chằm chằm nh́n tôi không che dấu sự giận dữ từ thái độ của ông.
Trong trạng thái căng thẳng đến điểm khó kiềm chế, những ngón tay của ông nắm chặt lấy báng súng. Khoảnh khắc ấy qua đi, ông thở dài: -Tôi có thể giết anh nhân danh những con người dũng cảm đă hy sinh trong cuộc chiến này. Tôi có thể giết anh v́ chánh phủ của anh đă không cố gắng chiến thắng. Tôi đứng lặng thinh, run rẩy. Tôi nhỏ nhẹ nói: -Chiến tranh đang tàn lụi, cuộc chiến đấu đă hoàn thành. Ngài phải chấp nhận những ǵ đă xảy ra, ngài phải chấp nhận số phận. Chuẩn Tướng Hai hỏi lại: -Tôi nghe ông Kissinger của anh ngày kia nói rằng Việt Nam đă chết. Ông ta có biết là chúng tôi vẫn c̣n sống ở đây không? Tôi không thể trả lời. Cuối cùng th́ ông Tướng nhún vai, giọng khàn đục không c̣n hơi. Ông nói cho tôi nghe tin tức mới nhứt về cuộc điều quân của quân địch mà ông quan sát từ trên máy bay trên vùng biên giới Việt-Miên.
Ngày hôm sau, 15.4.1975, tôi bay đến Sư Đoàn 7 từ sáng sớm. Như thường lệ, ông Tướng rầy rà tôi về hành động của Hoa Kỳ: -Đâu là người bạn của Miền Nam khi Miền Nam cần? Tôi có thể gọi ai đây? Quân giặc đă đến ngưỡng cửa của chúng tôi rồi, đất nước tôi trong cơn nguy khốn tận cùng. Ai sẽ đến tiếp cứu chúng tôi? Phía bên kia biên giới Miên, ông đă quan sát thấy quân cộng tập trung lên con số đông đảo, cơ giới và chiến cụ liên tục di chuyển đến hai mươi bốn tiếng đồng hồ mỗi ngày. -Máy bay bỏ bom của các anh đâu? Chúng ta đă trông thấy địch lộ diện, đúng là thời điểm dội lên đầu chúng.
Chúng chuyển quân rầm rộ trước chiến sĩ của tôi, tôi cần giúp. Hăy giúp tôi, anh bạn CIA. Như thường lệ, ông ngồi trên chiếc ghế gỗ nh́n tôi sau màn khói thuốc. CAC CHIEN SI SD7BB TICH THU VU KHI VC Những chiến sĩ Thần Ưng Miền Tây, Sư Đoàn 7 Bộ Binh Ngày 17.4.1975, Phnom Penh rơi vào tay Khmer Đỏ. Tôi khởi sự đến gặp Chuẩn Tướng Hai mỗi ngày. Ông Tướng cho biết quân Bắc Việt tiếp tục tập kết ngay phía bên kia biên giới, chúng đưa đến chiến xa, cầu nổi và pháo binh. Bộ đội mới, tươi rói đă đến mà ông suy đoán sẽ là nỗ lực chánh tiến đánh Sài G̣n. Đó là mục tiêu thực sự của cộng quân. Cộng quân tập trung đông đảo như vậy không phải là để tấn công Sư Đoàn 7 Bộ Binh hay chiếm lấy QL4. Thỉnh thoảng tôi đến thăm Chuẩn Tướng Hưng ở Cần Thơ. Ông biết rơ t́nh h́nh quân sự toàn quốc, nhưng ông vẫn b́nh tĩnh và vẫn thư thả đợi cái ǵ đến sẽ đến. Mười sáu tỉnh của vùng châu thổ chưa có thành phố nào rơi vào tay cộng quân, với một nửa dân số của Miền Nam vẫn được an toàn.
Trong cuộc gặp ngày 19.4.1975, Tướng Hai cho tôi biết có vẻ như là không có thêm quân cộng tập kết ở vùng biên giới nữa, chúng đang điều động đến các vị trí. Ông nghĩ rằng khi chúng bắt đầu đội h́nh với bộ đội mới vào ở gần biên giới, phía sau những đội công binh bắt cầu, với đoàn chiến xa nặng húc về phía Sài G̣n, cuộc tấn công sẽ nổ ra. Cộng quân sẽ mất bảy ngày để xuất phát từ đất Miên vượt qua vùng Đồng Tháp Mười và tiến về Sài G̣n. Sư Đoàn 7 của ông Tướng chỉ có thể làm chậm tốc độ tiến quân của chúng mà thôi. Tướng Hai nói: -Chúng tôi không thể chận đứng chúng, quân địch quá đông mà quân chúng tôi quá ít.
Ngày 21.4.1975, Xuân Lộc, một trong những cứ điểm cuối cùng của QLVNCH ở phía Bắc Sài G̣n thất thủ (thật ra chỉ di tản theo lệnh của Trung Tướng Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III&Quân Khu 3 về bảo vệ Sài G̣n), sau khi đă anh dũng chận đứng đà tiến của một lực lượng lớn quân Bắc Việt. Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa Nguyễn Văn Thiệu cũng đă từ chức trong ngày ấy. Tôi đáp trực thăng đến Bộ Tư Lệnh SĐ7BB trong ngày 22.4.1975. Pḥng làm việc của ông Tướng tối quá, ông đang ngồi trên chiếc ghế quen thuộc và hút thuốc. -Những chiến xa nặng của Bắc Việt đang vào đội h́nh, bộ binh dàn trận phía sau.
Chúng sắp sửa xuất phát, Sài G̣n sẽ rơi vào tay Bắc Việt trong ṿng bảy ngày, 29.4.1975. Ông Tướng đưa cao chiếc tách cà phê nóng lên, làm một cử chỉ vinh danh những người lính đă hy sinh và chào đón tương lai, nhưng ông không cười. Ư định của quân cộng thật rơ ràng đối với Chuẩn Tướng Hai. Chúng sẽ đánh lấy, chiếm được Sài G̣n trong bảy ngày nữa, mà Sư Đoàn 7 th́ không thể chận chúng lại được. Tôi đến gặp Chuẩn Tướng Hưng buổi chiều cùng ngày. Ông cho hay từ buổi sáng sớm quân Bắc Việt đă vượt biên giới ở khu vực gần các đơn vị của Chuẩn Tướng Hai và tiến về hướng Sài G̣n. Tướng Hưng đă lệnh cho lực lượng ít ỏi Không Quân và Pháo Binh chuẩn bị chống lại cuộc tiến quân của quân địch, nhưng có lẽ cũng không làm chúng khựng lại được. Ông Tướng vẫn vẻ b́nh tĩnh và giữ gia đ́nh gần bên. James E. Parker cùng các đồng sự CIA giúp được nhiều nhân viên Việt Nam và thân nhân ở Cần Thơ thoát được ra biển trong những ngày cuối cùng và được vớt lên chiếc tàu buôn Pioneer Contender.
Đứng trên cầu tàu, tôi quay nh́n về hướng Việt Nam, bất giác tôi chợt nghĩ trong một thoáng thật rơ ràng, rằng dù chúng tôi đă thua trận, nhưng chúng tôi đă hành động đúng khi đến đó và chiến đấu. Lịch sử sẽ rộng lượng phán xét ư định tốt của chúng tôi đến giúp cứu một đất nước bị xâm lấn.
Chúng tôi đă không thắng v́ những chánh trị gia, những nhà hoạch định chánh sách Hoa Kỳ đă đưa ra những quyết định xấu xa đầy tội lỗi, từ lúc khởi đầu cho đến lúc tàn cuộc. Con tàu Pioneer Contender cứu mạng hàng ngàn người Việt Nam Đối với tôi, cái di sản bất tử của cuộc chiến là những người lính đă đáp lời gọi của đất nước, hy sinh thân sống ở Việt Nam. Trong thời điểm của những giá trị chao đảo, họ đă khẳng định những nguyên tắc trường cửu của Trách Nhiệm.V́ Tổ Quốc họ đă tự dấn ḿnh trong những truyền thống Mỹ đẹp đẽ nhứt của những người lính chiến Mỹ. Họ đă chết trẻ rất Danh Dự trong chiến tranh. Mỗi người lính đều là những anh hùng. Hướng về phía bờ biển, tôi đứng nghiêm chào đúng quân cách, chậm răi.

Tôi đứng lặng thinh trong một khoảnh khắc, rồi quay người đi xuống bên dưới. Cuộc chiến đă chấm dứt. Chất chở hàng ngàn người tị nạn Việt Nam, con tàu Pionneer Contender nhổ neo buổi sáng sớm hôm sau hướng mũi tàu tiến về hướng Đông. Việt Nam mờ nhạt dần từ phía sau.



PHẠM PHONG DINH

hoanglan22
05-23-2020, 01:45
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1586590&stc=1&d=1590198208

Chiến tranh Việt Nam có những chuyện lạ và rất thú vị..Có những đơn vị của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa chiến đấu bằng những phương tiện và quân cụ mà binh chủng tự ḿnh không có v́ không ghi trong bảng cấp số tổ chức.. Lực Lượng Đặc Biệt thuộc Bộ Binh nhưng lại có nhưng lại có những chiến thuyền mà Giang lực của Hải Quân lại . không có ! (Hải sử của HQVNCH cũng không hề.. nhắc đến?).

Quân sử của Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ (Special Force) có ghi chép về SF Navy mà chúng tôi không thể chuyển ngữ thành .. Hải Quân LLĐB ! và chắc các bạn Hải Quân QLVNCH cũng đồng ư với chúng tôi…Bài này xin viết để tặng các chiến sĩ ‘mũ xanh’ từng chiến đấu chống Cộng quân bằng thuyền gắn máy và bằng xuồng bay...

Xuồng gắn máy và thuyền ba lá
Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ (tuy thuộc Bộ Binh) nhưng cũng tham dự vào các trận đánh tại những khu vực đầm lầy và vùng ngập hay nước xấp nước trồng lúa trong vùng Châu Thổ sông Cửu Long , Miền Nam Việt Nam..Và để có thể chiến đấu hữu hiệu trong các điều kiện địa h́nh khó khăn này họ đă phải tự tổ chức một lực lượng .. Thủy Quân riêng, độc lập với các lực lượng Hải Quân Việt-Mỹ ..Hạm đội này hay đúng hơn Nhóm Hải Thuyền Lực Lượng Đặc Biệt này lúc đầu chỉ là những thuyền bè, xuồng gắn máy tập trung tại các trại CIDG nhưng đến mùa mưa 1965, các xuồng bay (airboat) (mẫu sơ khởi) được đưa đến VN thử nghiệm và đến tháng 10-1966, lực lượng xuồng bay .. thật sự trở thành một .. hạm đội nhỏ tổ chức thành những đơn vị chiến đấu và các chiến sĩ Lực Lượng Đặc Biệt VN cũng tham dự vào việc điều khiển các đơn vị xuồng bay này (trong khi HQ VNCH..có lực lượng giang thuyền riêng, lại không trang bị xuồng bay!).

Khí hậu và địa h́nh của vùng Châu Thổ sông Cửu Long có những đặc điểm ảnh hưởng khá nhiều đến chiến tranh .. Nằm về phía Nam của thủ đô Saigon, vùng châu thổ này là vùng đất bằng, có nhiều sông rạch, kênh đào chồng chéo cùng ruộng lúa, vũng lung, rừng ngập nước lợ..Những con sông lớn có những vùng lúa sạ mà thân lúa vươn cao đến 2-3 thước. Những ruộng lúa ngập nước mỗi năm thu hoạch hai vụ mùa, phân cắt bằng các vùng đất lầy lội có những cây dừa cọ. Những khu vực này nước đọng, không khai thông nên tạo ra những cánh đồng lác, cỏ cao 2-3 m , chỉ khô ráo vào mùa Đông..Các vùng thấp hơn c̣n chia thành các khu vực ngập ảnh hưởng bởi thủy triều và các vùng đất ngập mặn , đáy phủ đắp bùn lầy.. Chỉ riêng vùng Thất Sơn và khu vực dọc biên giới Miên-Việt là tương đối khô nhờ có hệ thống kênh đào, nhiều đê điều và có hệ thống giao thông đường lộ đắp cao.. Nhiều khu vực rộng lớn của vùng Châu Thổ bị ngập nước, lụt lội trong các tháng mùa mưa và nước ngập kéo dài cả tháng.. Nước cũng ngập toàn khu rừng nước mặn Năm căn, Cà Mau.

Mùa mưa ẩm tại Vùng Châu Thổ kéo dài từ giữa tháng 5 đến đầu tháng 10, khi gió mùa Tây-Nam đem mưa đổ xuống vùng đất thấp qua suốt cả vùng đại dương.. Thiên nhiên đổ nước theo mưa dông trong tháng 5 và sau đó hầu như trưa và chiều nào cũng có những cơn mưa rào..Mây và mưa đạt mức cao nhất trong các tháng 7 và 8, mưa phủ chân trời và tầm nh́n hầu như bị che khuất hoàn toàn..Thời gian chuyển tiếp của mùa Thu chỉ kéo dài được một tháng rồi ngay sau đó gió mùa Tây-Bắc kéo về mang theo khí hậu lạnh-khô từ đầu tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Các thay đổi đột ngột từ gió mùa Tây-Nam sang Đông-Bắc có thể mang theo các cơn gió lốc cùng mưa giông, mưa đá và cả lụt lội bất thường..Trong mùa Đông khô ráo, các đám mây trôi dạt trên bầu trời, sáng sớm trời mây mù và phủ cả mặt đất dọc theo gịng sông.

Khí hậu nhiệt đới cùng điều kiện địa h́nh của vùng Châu Thổ gây nhiều trở ngại cho các cuộc hành quân của quân lực VNCH và Đồng Minh chống lại chiến tranh du kích của CQ, tấn công bất ngờ rút rút chạy thật nhanh, phân tán mỏng trong các vùng sâu nơi rừng ngập mặn quá nhiều ngơ ngách ..Dù có những phương tiện chuyển vận quy ước, khả năng di động của Special Force bị giới hạn rất nhiều..Cây cỏ mọc dày đặc dưới nước cản trở sự di chuyển. Rừng ngập mặn chặn đường thuyền bè với những cây to, chia cành tạo những hang ngách. Binh sĩ lạc vào vùng đất lạ khó t́m lối ra, bước chân đặt xuống cát lún và śnh sâu..Vùng nước ngập ngọt hơn lại toàn tràm và đước mọc thành ṿm che kín cả ánh sáng... Phương thức di chuyển tốt nhất chỉ là dùng thuyền chèo, xuồng chống.. Ruộng tuy thấp có bờ đê cao ngăn nước, có xóm làng và có cây dừa cọ nhưng lại là những điểm CQ thường chọn để đặt các ổ phục kích..Đê cao ven làng, luống rau dưới thấp là những giao thông hào để rút chạy.. Mùa khô, đốt cỏ cũng là phương pháp để cản trở tầm quan sát của lực lượng hành quân.

Các phương tiện giao thông thô sơ lúc ban đầu của các trại DSCĐ , khi mới thành lập vừa thiếu và vừa dễ bị CQ quá quen với địa h́nh sông lạch phục kích..

Ngày 26 tháng 4 năm 1966: Toán A-425 đă gửi một thuyền máy vơ trang từ Thượng Thới (Kiến Phong), nơi đang xây cất Trại, về Tân châu, nhận các bộ phận rời để sửa chữa cái máy ủi đất..Thuyền có 3 nhân viên: 2 SF Mỹ cùng 1 thông dịch viên Miên/Việt khi trở về đă bị phục kích.. Chiếc thuyền quay ṃng ṃng sau khi 3 nhân viên nhảy xuống nước..Xuồng CQ chèo ra cướp thuyền. Một lực lượng xung kích CIDG gốc Miên Khmer-Krom từ A-430 vào vùng nhưng không vượt nổi băi ḿn.(Khmer Krom là một tổ chức chính trị đ̣i Miên tại Nam VN tự trị, tuy không được SF tin tưởng nhưng vẫn sử dụng v́ họ rành địa thế khu vực) .và sau đó khi quân từ A-425 đến tiếp cứu, tuy thu hồi được chiếc thuyền máy và xác nhân viên kỹ thuật người Phi nhưng quân nhân SF và thông dịch viên bị xem như mất tích..Trại Thượng Thới, trước đó đặt tại An Long, sau đó được di chuyển về gần biên giới Miên-Việt hơn.

Toán B (chỉ huy): B41 do Trung Tá Joseph Fernandez làm trưởng toán đóng chung với Toán A-414 (thuộc quyền) tại Mộc Hóa, nơi có một trại cũ của SF , xây dựng từ 11- 1963 với nhiệm vụ canh chừng khu vực Tây-Bắc của Châu thổ sông Cửu Long và khu biên giới Việt-Miên tiếp giáp. Mộc Hóa, Tỉnh lỵ của Tỉnh KIến Tường nằm trên vùng đất bằng phẳng của Đồng tháp mười, được SF chọn làm nơi đặt Trung tâm chỉ huy 6 toán A hoạt động trong toàn khu vực.

Mùa thu 1966, một trận lụt lớn gây nước ngập hầu như toàn bộ Đồng Tháp Mười. Dân chạy nạn lụt đổ về Mộc Hóa,nước dâng cao vượt cả nhiều tường bao cát quanh các căn cứ, thuyền và xuồng.. nổi lềnh bềnh bên trên các rào kẽm gai, tụ lại bên trong căn cứ.. Trong toàn Tỉnh, nhiều tường pḥng thủ làm bằng bao cát bị nước cuốn trôi, các cứ điểm tiền phương , sân bay đều bị ngập dưới nước, đại bác phải di tản.

Phía CQ cũng không ..khá hơn ! Kho lương thực , vơ khí ngập nước..quân rút chạy súng đạn, gạo treo móc trên... ngọn cây...!

Nước dâng lên mức báo động lụt ngày 17 tháng 9 : Tại mỗi trại trong 6 trại thuộc B41 chỉ có khoảng 50 thuyền trong đó từ 5-10 thuyền vơ trang vỏ nhựa, 4-6 thuyền gắn máy và không trại nào có loại xuồng đuôi tôm (máy gắn ngoài xuồng). Có thể xem t́nh h́nh thực tế của “hạm đội” CIDG tại trại Dân An của Đại Úy William Baughn (cũng trú đóng tại Căn cứ B́nh Thạnh Thôn A-413) : các thuyền máy vơ trang gắn máy 6 ngựa khi hành quân phải kéo theo hay gắn kẹp thêm 2 thuyền gỗ hai bên hông..30 thuyền vơ trang được gửi khẩn cấp đến Mộc Hóa, cùng các thợ máy mang theo 51 máy đuôi tôm, phân phối cho 6 trại..Súng cối được đặt trên các thuyền xung kích vỏ nhôm và mỗi toán A đă mau chóng có 2 đại đội thuyền có khả năng tấn công, tuy súng cối gắn trên thuyền .. không mấy tác dụng!

Ba băi đáp nổi cho trực thăng được sà lan máy kéo vào Mộc Hóa giúp có thể dùng trực thăng vơ trang yểm trợ hành quân.. Ngày 14 tháng 10, trực thăng đă giúp yểm trợ chống lại CQ tấn công vào khu vực phía Đông Tuyên Nhơn, đánh chặn các toán VC phía sau .. Cũng trong tháng 10 khi nước lụt dâng cao nhất, HQ Mỹ đă gửi 8 giang đỉnh PBR vào khu vực và giúp các thuyền CIDG hành quân..Các dàn đại liên .50 trên các PBR rất hữu hiệu khi bắn phá các mục tiêu CQ..PBR cũng tiến gần biên giới Miên bắn phá các hệ thống pḥng thủ của CQ bên đất Miên.

Các cố vấn SF trong các cuộc hành quân bằng thuyền máy của LLĐB Việt Nam cùng CIDG thường không hài ḷng với sự ‘kém hữu hiệu’ của CIDG : .. Ngày 12 tháng 10, 1966 , một cuộc hành quân bằng thuyền từ Trại Kinh Quận II (A-416) tập trung 20 thuyền tam bản gắn máy và 9 chiến thuyền để giải tỏa một tiền đổn ĐPQ/NQ bên kênh LeGrange bị CQ tiến chiếm. Lực lượng do Trung úy LLĐB Phạm Bá Tước chỉ huy. Giữa mùa nước nổi , mực nước ngập cao 1-3 m, quân trú pḥng c̣n trụ lại sau khi CQ rút phải tạm ngồi và sinh hoạt trên nóc nhà của đồn. Một lực lượng địa phương khác, do Quận trưởng Quận Cai lậy (Đ úy Chánh) chỉ huy cũng hành quân vào vùng, từ hướng Ấp Bắc.. Đến phút chót khi hai mũi tiến quân đến vị trí phối hợp hành quân th́ Lực lượng Quận mới nhận được máy truyền tin (cùng tần số với CIDG) để liên lạc với lực lượng của Trung úy Tước ! CIDG không theo kế hoạch của quận Cai Lậy nên cuộc hành quân không đạt kết quả mong muốn..và bị thiệt hại nặng sau 45 phút giao tranh.. CQ chỉ bị đẩy lui sau khi trực thăng vơ trang can thiệp!

Ngày 15 tháng 10; A-414 tại Mộc Hóa gửi một Đại đội CIDG Miên dùng thuyền máy vơ trang hành quân trở lại Kinh Quận II, đơn vị hành quân được tăng cường thêm 2 Trung đội CIDG của Bộ Chỉ huy B-41, Hải Quân HK của TF116 gửi đến 5 chiếc PBR (Patrol Boat River = Giang tốc Đỉnh) đồng thời có thêm trực thăng yểm trợ.. Phi cơ Trinh sát ghi nhận lực lượng CQ lên đến 70 thuyền di chuyển từ Miên sang.. Nhưng CQ phân tán rút khỏi khu vực... LL CIDG gặp trở ngại do thủy lôi và ḿn bẫy của CQ thả trôi hoặc chăng dây ngang lạch, lựu đạn gài trên cọc tre.. việc tiếp vận nhiên liệu phải thả từ trực thăng bằng các thùng phi.

Các khó khăn trong khu vực biên giới Việt-Miên (tại vùng Châu Thổ sông Cửu Long) tiếp tục xảy ra. Toán A-413 , do Đ úy Baughn chỉ huy tại Trại B́nh Thạnh Thôn, là toán chịu trách nhiệm vùng biên giới dọc theo Kinh Cái Cờ. Các toán tuần tiễu bị phục kích thường xuyên trong suốt thời gian cả tháng.. Ngày 8 tháng 10 1966, lực lượng của Trại gồm 114 CIDG, 6 SF dùng 10 thuyền máy vơ trang và 18 tam bản, tăng cường thêm 6 PBR của HQHK, hành quân tảo thanh khu vực..Khi tiến vào một ấp bỏ hoang sát biên giới đă t́m được một kho vũ khí của VC..và lực lượng hành quân phóng hỏa đốt ấp. Súng máy CQ nấp sau các rặng dừa bên Miên đă bắn trả gây 2 binh sĩ bị thương..Để tránh bị lọt ổ phục kích, PBR-101 của HQ Đ úy Howard Fox đă giúp yểm trợ cho các thuyền nhỏ của CIDG rút trở ra, đồng thời PBR-116 đă bắn đại liên cùng súng phóng lựu vào các vị trí CQ..Ngày 2 tháng 11, Toán A-413 trở lại khu vực, với 120 quân của 2 ĐĐ 482 và 484 CIDG và đụng độ mạnh với quân CS bên kia biên giới, pháo kích sang, CQ thả ḿn trôi theo lục b́nh.. CIDG thiệt hại nặng, một trực thăng bị bắn nhưng đáp được về phần đất VN.. Chính phủ Miên phản đối cho rằng VNCH xâm nhập phần đất của họ... Các hoạt động của A-413 phải tạm ngưng trong khu vực biên giới.

(Ghi chú : Về PBR và Task Force 116 xin đọc bài riêng v́ liên hệ đến Hải Quân Mỹ-Việt phạm vi bài này xin giới hạn trong việc dùng thuyền vơ trang của LLĐB ) “Kế hoạch Game Warden” của HQHK thành lập ‘Lực lượng Đặc nhiệm 116 =Task Force 116” ngày 18 tháng 12 năm 1965. TF 116 có thêm nhiệm vụ trợ giúp VNCH kiểm soát các thủy lộ tại Vùng Châu Thổ sông Cửu Long và Rừng Sát (dẫn vào Sài G̣n).TF 116 đem vào VN một số quân cụ trong đó có 100 PBR (Giang tốc Đỉnh) do HQ đảm nhiệm, Giang Cảnh (Cảnh Sát VNCH) cung cấp các thông dịch viên và nhân viên An Ninh, thẩm vấn trên các PBR tại thủy lộ Rừng Sát nhưng sau đó HQVN đă thay CS trong các cuộc tuần tra. PBR có vỏ bằng fiberglass, máy dầu cặn 220 mă lực, vơ trang Đại liên 0.50 đôi đằng mũi, đại liên 0.30 và súng phóng lựu đằng đuôi; vận tốc đến 25 knots, thủy thủ đoàn 4 người. HQVNCH nhận 300 PBR trong khoảng thời gian 1968-70 và đánh số HQ 7500 đến 7749 và sau đó từ HQ 7800 trở lên...)..

Xuồng bay (Combat Airboats) Ngoài vai tṛ tác chiến ‘đặc biệt’ (như tên gọi), LLĐB (SF) cũng dự vào các chương tŕnh thử nghiệm vơ khí và ứng dụng vào chiến trường VN.. Chương tŕnh “Xuồng bay” tuy trên nguyên tắc là vơ khí thuộc Hải Quân nhưng lại do SF (thuộc Lục Quân) thực hiện tại vùng Châu Thổ sông Cửu Long...

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1586591&stc=1&d=1590198208

Các nhà nghiên cứu vơ khí nhận xét loại xuồng lướt trên vùng đất đầm lầy sấp nước tại vùng Florida Everglades có thể dùng tại vùng ruộng lúa tại Việt Nam. Loại xuồng dài 5.5 m Aircat, của hăng Hurricane được chọn để thử nghiệm : xuồng nặng chừng 500 kg, dùng động cơ máy bay Lycoming 180 mă lực, vận tốc lướt trên mặt nước 38 miles/ giờ, có thể trang bị một đại liên .30 nơi mũi. Xuồng bay trên các đám thực vật thủy sinh, phóng qua đê ruộng, chỉ cần nước xâm xấp chừng 25 cm dưới ṿ xuồng bằng fiberglass và styrofoam (hợp chất xốp). Xuồng được thử nghiệm trong các nhiệm vụ tuần tra, ngăn chặn, chuyên chở tiếp liệu và cả tản thương. Chiến thuật hành quân là dùng từng cặp yểm trợ lẫn nhau, hay 4-5 chiếc thành đoàn khi đột kích căn cứ CQ, và có thể phục kích, tắt máy nấp chờ, chèo tay vào vị trí, nổ súng rồi mở máy truy kích... Yếu điểm của xuồng bay là quá ‘ồn’ ! Động cơ điếc tai nên rất khó liên lạc vô tuyến, chỉ gọi cho nhau khi ..tắt máy (!), SF thử dùng... máy che tai kiểu phi công... Tuy ồn ào mất yếu tố bất ngờ nhưng airboat có hữu dụng khi vào vùng quá nhanh và khi có trực thăng che bớt tiếng... ồn.

Do nhu cầu bảo tŕ và huấn luyện, xuồng bay được tập trung tại các căn cứ SF cấp B. Các Toán A tổ chức riêng những trung đội chuyên biệt và liên lạc với các B tùy nhu cầu hành quân..Trung tâm chỉ huy lực lượng Airboat đặt tại Cần Thơ.

Ngày 2 tháng 10, 1966, 17 chiếc xuồng bay được chở đến bàng LST của HQHK , và sau đó phân phối đến các Trại bằng C-130.

Các Trại được chọn trong chương tŕnh thử nghiệm, mỗi trại 6 chiếc gồm : A-414 (Mộc Hóa) ; A-415 (Tuyên Nhơn) ; A-412 (Cai cai) ; A-413 (B́nh thạnh thôn) A-425 (Thường Thới); A-451 (Đức Huệ) ; A-452 (Trà cú) ; A-422 (Vĩnh Gia) và A-426 (Kinh quận II). Hai trung đội đầu tiên được huấn luyện xong vào 27-10 và đến Mộc Hóa, trung đội thứ 3 đến Cái cái vào 9-11.. và chính thức hành quân thử nghiệm ngay sau đó Mộc Hóa là một trong những căn cứ chính của lực lượng Xuồng bay..Các ĐĐ 491 đến 495 CIDG gồm các nhân viên Miên và Chàm được xem là lực lượng chủ động trong các cuộc hành quân thử nghiệm. Ngày 2 tháng 11-1966, 6 chiếc xuồng bay được sử dụng để bảo vệ sườn cho cuộc hành quân của 4 ĐĐ CIDG càn quét khu vực sông Vàm cỏ Tây từ Mộc Hóa đến Tuyên Nhơn, cuộc hành quân cho thấy các nhược điểm của airboat : liên lạc vô tuyến, nước sâu làm giảm vận tốc,cây cối rậm rạp ven kênh rạch nên không chặn được CQ rút chạy…

Ngày 14 tháng 11, một cuộc hành quân khác vào khu vực Bắc Tuyên Nhơn sát biên giới Miên do A-414 điều khiển dùng 1 ĐĐ CIDG có 8 thuyền máy xung kích, 12 tam bản , thêm 4 xuồng bay yểm trợ nhưng cũng không đạt được kết quả mong muốn: 3 xuồng hư hại, lực lượng hành quân chỉ rút về được nhờ KQ yểm trợ...

Từ giữa tháng 11, mực nước rút xuống thấp nhưng vẫn cản trở các cuộc hành quân trên bộ và bằng thuyền.
Xuồng bay và Tàu nệm hơi (Air Cushion Vehicles=PACV) của HQHK là những phương tiện tốt nhất trong suốt thời gian kéo dài đến 12 tháng 12. HQ HK đă đưa đến Mộc Hóa 3 tàu PACV cùng 18 thủy thủ. Và ngày 21 tháng 11 một cuộc hành quân phối hợp giữa PACV và LLĐB được thực hiện trong Tỉnh Kiến Tường. Mỗi PACV chở 8 quân nhân gồm LLĐB và nhân viên Thám sát Tỉnh. PAVC có thể di chuyển trên đất khô và ruộng nước chỉ bị trở ngại v́ ruộng lác..Ngày 22 tháng 11, lực lượng A-414 đụng độ với 1 ĐĐ chính quy CSBV, trước hỏa lực mạnh của PACV, CQ rút chạy nhưng bị chặn do CIDG được trực thăng vận đến bao vây quân . Sau 2 giờ chạm súng ĐĐ CQ hoàn toàn bị diệt, bên CIDG chỉ có một bị thương, 50 thuyền CQ bị phá hủy.

Vào mùa khô 1967, LLĐB lo tu bổ lại doanh trại bị hư hại do lũ lụt.. Lực lượng Airboat được tập trung hoạt động trong Tỉnh Kiến Phong, các chuyên viên bảo tŕ vẫn c̣n thiếu kể cả các cơ phận thay thế..Toán B-43 đóng tại Cao Lănh (Kiến Phong) tiếp tục thử nghiệm khả năng của airboat..Cơ xưởng bảo tŕ airboat , thiết lập vào tháng 5 đă bị CQ pháo kích bằng súng cối và hỏa tiễn vào đêm 3-4, phá hủy hoàn toàn cơ xưởng cùng một airboat, 6 động cơ bị hư hại.. và hoạt động của airboat bị đ́nh trệ..

Xa hơn về phía Bắc, tại Vùng 3 CT, các đơn vị LLĐB. Toán B-35 bắt đầu thiết lập hoặc chuyển vị trí các Trại dọc các sông rạch và kênh đào dẫn vào SaiGon (1967) Sông Vàm cỏ Đông và Kinh sáng là những thủy lộ mà CQ dùng để chuyển vận vũ khí và lương thực từ bên Miên. Ngày 10 tháng Giêng Trại Trà cú (A-352) chuyển đến giao điểm của sông và kênh. Trại Lương Ḥa (A-353) dược thiết lập trên bờ kênh ngày 26 tháng 5, và trại Hiệp Ḥa (A-351) chuyển từ vị trí đầu tiên đến ven sông cạnh Nhà Máy đường.. và vào mùa mưa tháng 9-1967 các thuyền xung kích vỏ nhựa và các airboat được B-35 đưa vào vùng trách nhiệm.. LLĐB thiết lập các trạm kiểm soát, lục soát ghe thuyền di chuyển trên sông rạch, bắt các người t́nh nghi..lôi các ghe VC bị tịch thu...

Tháng hai, 1968 - Bộ Tư lệnh Quân Viện Mỹ tại VN (MAC-V) giao cho LLĐB (SF5) tổ chức thêm một lực lượng DSCĐ xung kích lưu động dành cho Vùng 4 : 4th Mobile Strike Force gồm 3 Tiểu đoàn xung kích hoạt động chung với một ĐĐ 184 người chuyên cho airboat. Và Toán A-441 cùng đội airboat chuyển từ Mộc Hóa về Cao Lănh đổi thành A-404.. Các phân đội airboat cũng chia về trú đóng tại Mộc Hóa, Cao lănh c̣n Trung tâm huấn luyện đặt tại Đôn Phúc. Lực lượng ‘hải quân’ đặc biệt này (ĐĐ hải quân D) của SF, vào mùa mưa 1968 lên đến 61 airboat, 103 thuyển xung kích vỏ nhựa. Trung tâm yểm trợ hành quân đạt tại Tràm Chim và các cuộc hành quân của airboat khởi động từ Cao lănh (A-404), Cái cái (A-431), Thượng Thới (A-432)

Tổ chức và cấp số của “Chiến đoàn Airboat” được chấp thuận ngày 1 tháng 11, 1968.

Airboat được xem là một sàn rất thích hợp để đặt súng không giật 106 ly và để tăng cường thêm hỏa lực khi hành quân SF thay đổi các giàn súng đại liên .30 sang .50 trên một số airboat và khi hành quân sẽ dùng 2 chiếc gắn .50 ly đi chung với 4 chiếc .30 ly. Mỗi airboat sẽ có 3 thuyền viên: một lái xuồng, một xạ thủ chính điều khiển đại liên, và một xạ thủ phụ có thêm M.79..Đôi khi có một airboat mang theo một nhân viên trợ y và một thợ máy. Trong mùa lụt 1968, các airboat hoạt động rất hữu hiệu trong các công tác trinh sát và canh chừng, bảo vệ fác toán ghe tiếp liệu, ngăn chặn CQ di chuyển trong khu vực sông rạch biên giới, tuy nhiên khi hoạt động riêng lẻ airboat không thể dùng như tàu thuyền xung kích mà không bị thiệt hại khi không có các lực lượng khác ‘tùng thiết’. Mùa Xuân 1969, lực lượng Hải Thuyền Special Force đă phối hợp hành quân chung với Giang lực của HQHK trong nhiều cuộc ngăn chặn và tuần tra.. CQ nhiều lần t́m chiến thuật chống trả các airboat bằng phục kích..Ngày 5 tháng 5 -1969 , CQ phục kích toán airboat A-404 / Giang đỉnh HQ tại rừng U Minh nhưng bị airboat cơ động đánh tan tác, hàng chục ghe máy CQ bị đánh ch́m. Lực lượng địa phương Tỉnh đội Kiến Tường đă phải kêu viện đến Tiểu đoàn Cà Mau của Tr đoàn U minh CS sang Miên để học cách chống airboat..Đơn vị này sau khi huấn luyện xong đă từ Miên trở lại ngày 29 tháng 7 năm 1969, và tổ chức phục kích toán airboat của Trà Cú (A-326) tại vùng cuối kênh Tây (French canal)..Trận đánh này có thêm sự tham dự của Lữ đoàn 5, SĐ 25 BB Hoa Kỳ, TĐ Cà Mau VC rút chạy về bên Miên và hầu như ngưng hoạt động trong suốt 1969...

6 tháng 10, một trận đụng độ quan trọng khác tại khu vực Trại Thượng Thới: một đoàn thuyền vơ trang CQ 75 chiếc bị L-19 phát hiện khi đang di chuyển tử bên Miên theo sông Cửu Long vào VN , airboat bọc chặn đường rút, trực thăng cobra oanh kích và đánh ch́m 25 ghe..toán ghe c̣n lại phân tán vào các lạch nhỏ.. CIDG không thể truy kích v́ không thể vượt sang Miên..23 tháng 10, toán airboat A-404 chặn đánh đoàn ghe 100 chiếc của CQ tại Tây-Bắc Vĩnh Gia , đánh ch́m tại chỗ 16 chiếc.

CQ sau đó né tránh các cuộc đụng độ, tập trung vào gài ḿn, thả thủy lôi và pháo kích..Chương tŕnh ‘airboat’ chấm dứt vào cuối năm 1969..và được đánh giá là ‘thành công’ và HQ HK học được nhiều bài học chiến thuật có thể áp dụng trong các cuộc chiến tại các khu vực đầm lầy...

Đầu năm 1970, ‘Hải Quân’ Special Force c̣n 90 chiếc airboat, Special Force bắt đầu chuyển giao các airboat sau khi tập trung các xuồng này về Cần Thơ. Văn bản bàn giao được kư ngày 11 tháng 11 năm 1970. Các airboat khả dụng giao lại cho VN, Trại sửa chữa và bảo tŕ airboat tại Cao Lănh (A-404) được bàn giao cho ĐĐ Tiếp liệp LĐ 4 BĐQ.

Vài ghi chú: Các Trại Lực Lượng Đặc biệt Hoa Kỳ (SF5) tại vùng biên giới Miên-Việt trong Châu Thổ sông Cửu Long được đóng cửa tùy nhu cầu chiến trường , đến cuối 1970 khi Special Force chấm dứt nhiệm vụ, chỉ c̣n vài trại sau cùng như:

- B́nh Thạnh Thôn (thành lập 5-1965, chuyển giao 2 tháng 9-1970, CIDG đổi thành TĐ 86 BĐQ Biên Pḥng).
- Tuyên Nhơn (4-65; chuyển 2 tháng 10-1970 thành TĐ 75 BĐQ Biên Pḥng).
- Cái Cai (4-65; chuyển 2-10-1970 thành TĐ 76 BĐQ Biên Pḥng).
- Kinh Quận II (mở tháng 10-1965 , chuyển cho LLĐB VN ngày 15 tháng 11 năm 968 và đến 31 tháng Giêng 1970 giao lại cho Địa Phương Quân).
- Mỹ Điền (mở tháng 1-68, giao cho Địa Phương Quân 30 tháng 3-1970).
- Các CIDG tại các Trại Tô Châu (thành TĐ 66 BĐQ), Thạnh Trị (TĐ 67), Trà Cú (64); Vịnh Giạ (93) và Bà Xoài (94)...

Trần Lư

hoanglan22
05-23-2020, 02:04
Xin mời các bạn theo dơi video

2ne0n7h1rvE

Sự thật của phần 2 về dinh độc lập

gsTE0OhrQAc

Ghi chú những ngày cuối cùng 30/4 . Toán của liên đoàn 81 bcd sáu toán theo tui được biết qua điện đài Thám sát và tiêu diệt đặc công VC ... Minh gồ coi một toán ( hiện ở CA ) tui giữ một toán nằm cổng phi long gần ngă tư bảy hiền phải chạy liên tục , c̣n 4 toán khác thuộc biệt đội khác , tất cả đều sẵn sàng . Đơn vị xung kick với hỏa lực mạnh chờ chúng tôi báo cáo và tiêu diệt khi chúng tấn công vào . Ngay cổng trại Hoàng hoa Thám ( sư đoàn dù ) chúng đă bi ngăn chận và khi gần đến cổng phi long mấy con cua bị nướng

hoanglan22
05-23-2020, 02:25
JTgLor9B4PA

Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ - Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa

kb_QnzUT5AY

hoanglan22
06-19-2020, 23:41
Vào một buổi sáng, Sai g̣n c̣n ch́m trong màn sương mai mỏng, chúng tôi, tất cả gồm 10 người, thuộc SĐ IV và SĐ III KQ tề tựu đông đủ trước pḥng Đặc Trách Quan Sát BTLKQ, và được Thiếu Tá Trưởng Pḥng hướng dẫn ra băi đậu Phi Cơ, chiếc DC4 ngoan ngoăn chờ đợi chúng tôi ở đó.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1602916&stc=1&d=1592610069

Hoa Tiêu lên mở máy, taxi, rồi cất cánh trực chỉ Nha Trang….Đáp Nha Trang hồi 8 giờ sáng, nửa tiếng sau cất cánh lại, vượt mây mưa và hàng trăm cây số núi rừng lên Pleiku, để nhận thêm mấy Sĩ Quan Liên Lạc KQ, rồi mới bay thẳng ra Đông Hà.
Trên lộ tŕnh cuối cùng này, trần mây thấp và dày đặc, Phi cơ tránh mây, đă phải bay lên cao, lên cao măi…Tôi đoán chừng cao độ khoảng 15 ngàn bộ! Không khí buốt lạnh, làm chúng tôi ngồi co ro trong những chiếc áo Blouzon và phải hút thuốc lá liên miên. Sau gần một tiếng đồng hồ trôi theo mây gió đường xa, Phi cơ chao nghiêng, chúng tôi nh́n thấy thành phố Quảng Trị hiện ra mờ xa dưới cánh, một Phố Thị mà riêng tôi đă non mười năm bỏ xa biền biệt…
Bây giờ, th́ mỗi người thả hồn trôi theo những suy tưởng, những băn khoăn, và niềm lo lắng về sứ mạng sắp phải thi hành, trên Chiến trường khốc liệt, mà chúng tôi ai nấy đă biết ít nhiều qua báo chí, và đài phát thanh.
Phi Trường Ái Tử, hiện ra lờ mờ dưới lớp mây mù, in một vệt đen dài trong màn mưa mỏng, con tàu xà thấp cánh gió, đáp nhẹ và quay đậu, đổ chúng tôi xuống sân đậu.
Cơn mưa buồn và nhẹ hất vào mặt chúng tôi, giữa chốn mênh mông của Phi trường.
Chúng tôi đứng co ro khúm múm, trong cái lạnh buốt giá của mùa mưa xứ này. Sau 15 phút thấp thỏm chờ đợi, th́ một chiếc xe Dodge cũ kỹ chạy lại gần, mười mấy khuôn mặt KQ từ trên xe nhảy xuống, chào hỏi qua loa, rồi vội vă phóng lên Phi cơ, như trút bỏ tất cả khó nhọc lại cho trận chiến! Cho chúng tôi! Những ngày tháng rét lạnh, hiểm nguy và vất vả, nhọc nhằn….
Họ là những người hết hạn biệt phái và chúng tôi là lớp người tiếp nối nhiệm vụ của họ…
Chúng tôi lên xe về căn cứ, bảy cây số ngàn đuờng xe, với khung cảnh nhuộm đầy sắc thái Chiến Tranh, âm thanh hỗn loạn của Phi cơ, Trọng Pháo, Xe Tăng, Vận tải, chuyển quân rầm rộ…
Không khí mổi lúc mỗi ngồm ngộp, tạo nên bao nỗi giao động trong tâm hồn mọi người, cơn mưa như tấm màn lưới nhện, đan nhẹ vào không gian giá rét và không khí lạnh lẽo bao trùm rộng lớn.
Chúng tôi đến Biệt Đội VO10, một biệt đội thuộc biệt đoàn Tiền Phương, do Thiếu tá Mạnh làm Biệt Đội Trưởng,
Biệt Đội này gồm các loại máy bay như: HU1, H34, OV2, OV10.
Với nhiệm vụ Đổ Bộ, Tải Thương, yểm trợ Hỏa Lực.
Chúng tôi ở chung với anh em PĐ 110, và PĐ 114, cùng các Sĩ Quan Không Trợ, bay OV2 hướng dẫn C47 và C119 yểm trợ hỏa Lực ban Đêm.
Căn nhà chúng tôi tá túc, chỉ là một kho chứa vật liệu cũ của Hoa Kỳ, vừa chật chội lại vừa thiếu thốn tiện nghi,
Buổi Sáng, buổi Trưa chúng tôi dùng bữa ở Mess hall của Bộ Binh Hoa Kỳ, buổi chiều về nhận Briefing và đi bay, mỗi ngày chúng tôi có khoảng 24 Phi Vụ.
Chúng tôi bay phối hợp với Đồng Minh Hoa Kỳ, trên loại máy bay OV10.
Đây là loại Phi cơ vừa có thể bay bằng hệ thống Phản Lực, vừa có thể bay bằng hệ thống Cánh quạt.Trang bị 8 ṇng Minigun và 14 Rockets, hoặc loại 4 ṇng Minigun và 28 Rockets. Cũng có thể trang bị Minigun và 02 trái bom 250 lbs, tùy theo t́nh h́nh của Chiến trường.
Biệt đội có chừng 20 chiếc OV10, Hoa Tiêu Mỹ biệt phái từ Thái Lan qua.
Chúng tôi bay mỗi ngày 02 Phi vụ, mỗi Phi vụ từ 4 đến 5 tiếng đồng hồ.
Phần nhiều cất cánh dưới Trời mưa, và lên đến 9, 10 ngàn bộ mới lấy hướng, b́nh phi, và vượt hàng trăm cây số đường núi mới qua Hạ Lào.
Thời tiết vùng Hành quân thường tương đối tốt hơn vùng xuất phát.
Chúng tôi bay 7 hoặc 8 ngàn bộ trên mục tiêu. dưới tầm mắt chúng tôi là một màu xanh rừng núi, điệp điệp trùng trùng, một vùng hoang vu xa lạ, đầy dẫy huyền thoại về rừng thiêng nước độc, khói lửa bốc cháy ngút ngàn, ven sườn đồi, chân núi, triền dốc, lối ṃn, chỗ nào cũng lăn lóc, ngổn ngang xe Tăng, vận Tải Bắc Việt.
Hệ thống đường ṃn và khe suối ở đây chằng chịt, chi chit.
Đồi 31, một ngọn đồi chiến lược, một cao điểm Quân sự, luôn luôn ở trong tầm mắt, trong liên tưởng thường trực với một trận giao tranh khốc liệt, bây giờ trơ trọi hoang tàn…
Mỗi Phi Xuất của chúng tôi hướng dẫn từ 4 đến 12 Phi tuần Phản lực Hoa Kỳ, U2
Oanh kích phần nhiều là tiếp cận, v́ Cộng quân luôn bám sát các cánh quân Dù, Biệt động quân, Thủy Quân Lục Chiến và Sư Đoàn 1 Bộ Binh.
Phản lực Mỹ gồm có A3, A4, A6, A7, F100, F4C,
F.A.C Việt Nam gồm những KQ ưu tú trong ngành Quan Sát, nên mặc dù hỏa lực của Địch rất mạnh (theo tin tức của T́nh Báo th́ có chừng 2 ngàn súng Pḥng Không của Địch luôn hoạt động) chúng tôi cũng vẫn liên lạc chặt chẽ thường xuyên với Quân Bạn, và hướng dẫn oanh kích thật chính xác mục tiêu, gây nhiều nỗi kinh hoàng cho Địch Quân cũng như những tổn thất trầm trọng cho đối phương.
Thời tiết thường xấu, nhất là tại các vùng hành quân, mây, mưa, gió, đạn Pḥng Không vẫn là những đe dọa thiết thực đối với KQ.
Mặc dù vậy, chúng tôi đă t́nh nguyện gia nhập Quân Chủng Không Quân, làm việc trong đơn vị tác chiến, nên cho dù hiểm nguy cách mấy, chúng tôi vẫn không sờn ḷng.
Có lao vào vùng lửa đạn, mới có những cảm giác “không tả”, “vô lường” v́ cao xạ pḥng không của Địch lúc nào cũng đan từng mảng lưới lửa đạn, và tạo thành từng rừng bông khói trắng từ 8, 10, 12 đến 14 ngàn bộ….Điều đó có nghĩa là: Phi cơ lúc nào cũng bay trong tầm hiệu quả của Pḥng Không Địch!
Phương thức “né đạn” là phải bay lượn thường xuyên, nhất là những lúc xạ kích hoặc chỉ điểm, chúng tôi phải rất cảnh giác và khéo léo “Xàng qua, Xàng lại” để tránh đạn của Địch.
Thông thường mọi người vẫn quan niệm “Đạn tránh người” nhưng thực tế ở chiến trận “Hành Quân Hạ Lào” này, th́…”Người phải tránh đạn”!!!
V́ OV10 có thể bay được bằng chong chóng và phản lực, nên rất lợi hại, muốn bay chậm hay bay nhanh đều dễ dàng hành động, cũng v́ ưu điểm đó, mà giờ này tôi mới c̣n có cơ hội ngồi viết bài này!
Mỗi Phi vụ ở Chiến trường Hạ Lào, tưởng chừng như gấp 5, gấp 7 lần so với những Phi vụ ỡ vùng IV hay ở Miên, luôn luôn được ăn “G”, Black out và red out, là chuyện “cơm bữa”.
Ngày mới ra đây, Phi vụ đầu tiên chưa quen, có anh đă “cho chó ăn chè”, phần đông th́ cũng rất mệt mỏi và…thần kinh giao động!
Nhưng khi “quen nước quen cái” rồi, th́ bổn phận, trách nhiệm đă lấn áp tất cả, có khó khăn, gian nguy, mới nảy sanh ḷng quyết thắng, khả năng và kinh nghiệm mới có cơ hội được thể hiện tṛn nét,
Vâng, những ngày biệt phái từ vùng IV ra vùng I, để tham dự trận đánh lịch sử Hạ Lào đă qua rồi, nhưng nó vẫn c̣n măi với những kỷ niệm vàng son, trong muôn vàn kỷ niệm nối kết của cuộc đời xông pha lửa đạn, mong có một đất nước Việt Nam Ḥa B́nh Thịnh Trị, muôn người như một, sống chan ḥa t́nh thương đồng loại.
Tưởng cũng nên đan cử ra đây, một vài kỷ niệm, mà chính nó đă tô thành những nét son chói đỏ trong lịch sử chiến tranh Đông Dương, một niềm hănh diện lớn lao cho Sư Đoàn IV KQ cũng như Phi Đoàn 116 vậy.
Đồi 31 là một cao điểm Quân Sự do Tiểu đoàn 39 Biệt động Quân trấn giữ. Trời hôm đó hơi xấu, trần mây thấp, mà áp lực địch có phần nặng hơn mọi ngày, Địch với súng cối, hỏa tiễn, bắn như mưa băo lên đồi, khói lửa và cát bụi bốc cao mịt mù, đồng thời xe Tăng và Bộ Binh Bắc Việt kéo ào ạt lên đồi, như chốn không người, Đại úy Tôn Thất Tân (PĐ110) và Đại úy Nguyễn viết Trường (PĐ 116) đă cố gắng tập trung các Phi tuần Phản Lực của Hoa Kỳ, để dội những trận mưa bom xuống Địch, ḥng đập tan âm mưu dă man của chúng, hàng loạt MK82, BLU27, BLU32, rơi xuống như vũ băo, khiến Địch Quân khựng lại. Nhưng, rất sui, khi đó có một Phi cơ loại F4C bị trúng đạn pḥng không, hai Phi Công Hoa Kỳ nhảy dù xuống đất, thế là theo lệnh của trên, tất cả các Phi Công Mỹ được lệnh bỏ Đồi 31, để cấp cứu hai Phi Công bị nạn này,
Đại úy Tân và Đại úy Trường đành nghẹn ngào và uất hận khi chứng kiến Địch quân tràn ngập đồi 31!
Trước đó mấy ngày, Đại úy Nguyễn viết Trường đi bay với một trung uư Mỹ trên loại máy bay VO10, anh được biết có một Phi hành đoàn trực thăng Hoa Kỳ gồm 07 người, đă bị trúng đạn pḥng không của địch, họ đă sống trong nỗi kinh hoàng trong 02 ngày 03 đêm, mọi phương tiện cấp cứu của Hoa Kỳ đều thất bại, Phi cơ đến cứu không vào được mục tiêu v́ hỏa lực Địch mạnh vô cùng.
Đại úy Nguyễn viết Trường ( PĐ 116) quan sát mục tiêu, khi biết có thể liên lạc trực tiếp với Phi hành đoàn bị nạn, anh đă cho biết với kinh nghiệm bao năm chiến đấu với Cộng Quân, anh có thể cứu được 07 người Mỹ này, và chỉ cần thời gian là nửa ngày mà thôi!
Sau khi được sự chấp thuận của hai phía Việt Nam và Hoa Kỳ, anh bắt đầu tiến hành những phương cách của riêng ḿnh nghĩ ra,
Thoạt tiên, anh đề nghị cho oanh kích dữ dội một mục tiêu cách xa đó, với mục đích đánh lạc hướng suy nghĩ của Địch quân, trong lúc đó anh đề nghị cho “đổ” một toán Hắc Báo cách nơi toán lâm nạn khoảng 10 Km, rồi hướng dẫn họ đến mục tiêu giải cứu 07 quân nhân Hoa Kỳ, để giữ an toàn cho đám Hắc Báo, anh đă cho thả bom theo h́nh chữ U xung quanh toán Hắc Báo,
Phi Tuần, F.A.C, và toán Hắc Báo đă được phối hợp một cách nhịp nhàng và hữu hiệu, dưới tài điều động của Đại uư Nguyễn viết Trường, kết quả toán Hắc Báo đă đến nơi chỉ định an toàn.
Khi toán Hắc Báo và Phi đoàn thọ nạn liên lạc được nhau, sẵn sàng thực hiện việc giải cứu, Đại uư Trường đề nghị cho thả bom theo h́nh chữ L và hướng dẫn trực thăng đến “bốc” toàn bộ mọi người về căn cứ Khe Sanh, theo hướng do anh chỉ định.
Thời gian cấp cứu vỏn vẹn đúng nửa ngày, theo như tiên đoán của anh. Thật là một Phi vụ tuyệt vời,
Câu trả lời cho các báo chí ngoại quốc của Đại úy Trường là:
“ Bất cứ một người Việt Nam nào khi gặp trường hợp như anh, đều làm được như anh, có khi c̣n hay hơn anh nhiều”.
Kết quả, Đại úy Nguyễn Viết Trường được tuyên dương và gắn huy chương tại Bộ Tư lệnh Không Quân, là chiến sĩ xuất sắc, được đi du ngoạn Đài Loan, Hồng Kông, và được báo chí Việt Nam, và báo chí Mỹ đăng h́nh và phỏng vấn.
Trong một Phi vụ khác, Phi hành đoàn gồm Đại uư Hudges và Đại úy Mai trí Dũng (PĐ116) cùng bay trên OV10, số đuôi 789, cất cánh lúc 16 giờ 15 phút, tại căn cứ Ái Tử, đến vùng hành quân, hướng dẫn 02 Phi cơ A6 oanh kích tiếp cận, cho một vị trí của Dù, t́nh h́nh rất nguy khốn, v́ Địch quân vây hăm và tấn công dữ dội…
Lúc xuống bắn Rockets để đánh dấu mục tiêu, ở cao độ 5000 bộ, phi cơ trúng một loạt pḥng không của Địch, động cơ ngưng hoạt động, khi kéo lên, cũng bị thêm một loạt cao xạ khác, làm nổ tung ổ đạn Minigun bên trái, nhưng cả hai đồng quyết định cố gắng bay về Đà Nẵng đáp, v́ có nhảy dù ra ở đây cũng chết vào tay quân thù, rất may mắn, đáp Đà Nẵng an toàn,
Phi hành đoàn quả là gan dạ và “hết xảy”!
Những Phi vụ nêu trên, cho thấy khả năng và ḷng can đảm của những người Không Quân chúng tôi có thừa!
Nhưng cuộc chiến Việt Nam với nhửng ràng buộc vào Đồng Minh, đă ít nhiều ảnh hưởng đến tinh thần và ḷng yêu nước của chúng tôi!
Đến nay, Lịch sử đă sang trang, những người đáng phải thắng lại thua, những người đáng phải thua lại thắng!
Đất nước Việt Nam c̣n nhiều trăn trở, lắm đau thương, cho đến nay mấy chục năm Trời đă trôi qua, nhưng những chứng nhân lịch sử vẫn ít nhiều c̣n tồn tại, họ đă, đang và sẽ nghĩ ǵ? Hành động ǵ? Chắc không ai trong chúng ta không biết và không hiểu, hơn nữa có một điều khẳng định được:
Họ đă một thời v́ ḷng yêu nước, v́ chính nghĩa Quốc Gia, đă cống hiến tuổi thanh Xuân cho Quê Hương đọa đầy này!
Thật đáng trân trọng lắm thay!

SA GIANG
(NGUYỄN VĂN ĐỨC PĐ116)

hoanglan22
06-22-2020, 02:59
Nhân ngày QLVNCH 19/6


https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1603893&stc=1&d=1592794613

Thời VNCH (1955-1975), Quân đoàn 2 chiếm một lănh thổ có diện tích lên tới 78, 841km2, rộng nhất trong bốn vùng Chiến Thuật. Bộ tư lệnh đóng tại Pleiku, c̣n 2 Bộ chỉ huy tiếp vận 2 và 5 th́ ở Qui Nhơn và Nha Trang-Cam Ranh, c̣n có hai SĐ2 và SĐ6 không quân chiến thuật đóng tại Pleiku và Nha Trang. Các phi trường Nha Trang, Bửu Sơn, Phù Cát và Cù Hanh rộng lớn tối tân. Vùng 2 chiến thuật bao gồm 12 tỉnh Cao Nguyên và Duyên Hải Trung Phần, trong đó quan trọng và cũng có nhiều phiến cộng, nằm vùng nhất là [hai tỉnh] B́nh Thuận và B́nh Định. Để xâm lược miền nam, cọng sản Bắc Việt cho mở lại con đường giao liên đă có sẵn từ thời toàn dân kháng chiến chống Pháp 1945-1954, thành con đường chiến lược mang đủ thứ tên trong đó có Hồ chí Minh, xuất phát từ Hà Nội vào tới Cà Mâu dài trên 2000 cây số. Con đường khai sinh đồng thời với cái mặt trận ma GPMN sau khi vượt qua vùng phi quân sự ở Bến Hải, men theo rặng Trường Sơn, tới Đỗ Xá, Ḳn Tà Nừng, Chulya, Khánh Ḥa. Tại đây đường phân làm hai nhánh, một đi ngược lên Lâm Đồng, Quảng Đức, Phước Long về Sài G̣n. Nhánh hai tới Ninh Thuận, B́nh Thuận, Rừng lá, rừng sát, Biên Ḥa…

Sau ngày binh biến 1-11-1963, VNCH gần như vô chính phủ, rối nát tan hoang do đám kiêu tăng loạn tướng gây ra, măi tới cuối năm 1967 khi tướng Nguyễn văn Thiệu đắc cử Tổng Thống VNCH, t́nh thế mới tạm ổn định. B́nh Thuận là một trong các tỉnh ở miền Trung cùng chịu nhiều nạn kiếp, khiến cho t́nh h́nh an ninh toàn tỉnh kể luôn thị xă Phan Thiết tồi tệ đến mức ai nghe tới cũng sợ khi phải tới miền đất này. Dù Tết Mậu Thân 1968, Việt Cộng tấn công Phan Thiết ba lần bị thất bại, không có cơ hội tắm máu đồng bào như tại Huế theo mong muốn của một số VC nằm vùng và có thân nhân nhảy núi, tập kết nhưng hoàn cảnh lúc đó hết sức bi quan, 95% lănh thổ bị địch chiếm, vùng c̣n lại ban ngày là của ta và thuộc về giặc ban đêm. Tại Phan Thiết, VC về ám sát, đốt tấn công các trụ sở ấp Đức Nghĩa, Phú Trinh, Hưng Long, Đức Long… coi như chỗ không người, thậm chí ngay trong Ṭa hành chánh và tiểu khu, tỉnh trưởng khi di chuyển cũng phải có hộ tống và cận vệ. Các viên chức xă ấp, công chức, cảnh sát kể luôn các cấp chỉ huy XDNT, Nghĩa quân, ĐPQ… ban đêm phải di chuyển chiến thuật tới các vùng tạm có an ninh ở Sông Mao, Phan Thiết, Mũi Né để ngủ giữ mạng. Các đồn bót trong tỉnh luôn bị tấn công, VC pháo kích bạt mạng vào thành phố, huyện lỵ và tàn nhẫn gài ḿn khắp nơi, khiến cho thường dân vô tội bị chết oan hằng ngày khi di chuyển cũng như lúc ra đồng làm ruộng. Các trục giao thông tại quốc lộ 1, liên tỉnh lộ 8, tỉnh lộ Phan Thiết-Mũi Né… bị tắt nghẽn, nhiều trạm thu thuế gần như công khai của VC tại cây số 25, Thiện giáo, Tùy Ḥa, Tà Dôn, Đá ông Địa, Vĩnh Hảo… làm cho mọi người lo sợ, phải dùng phương tiện ghe thuyền thay v́ đi xe đ̣. Đă vậy trong tỉnh c̣n thêm vụ học sinh các trường trung học xuống đường biểu t́nh đ̣i Mỹ rút, kêu gào bảo vệ đạo pháp và các thầy cha, c̣n thêm màn mổ bụng rạch ngực viết huyết thư, tạo đủ đắng cay máu lệ cho người dân vô tội trong cảnh chiến tranh tận tuyệt. Tóm lại theo lượng giá của Đại tá Ngô tấn Nghĩa, trong ngày nhậm chức Tỉnh Trưởng vào mùa thu 1969 thế Đại Tá Đàng thiện Ngôn, th́ B́nh Thuận và Phan Thiết lúc đó sắp lọt vào tay VC. Theo Trung Tá Ngô văn Xuân, nguyên Tiểu đoàn Trưởng TĐ2, Trung đoàn 44, SĐ23BB từng tham chiến nhiều ngày tại B́nh Thuận, th́ chính Đại Tá Ngô tấn Nghĩa, một sĩ quan dầy kinh nghiệm trong chức vụ trưởng pḥng 2 Quân đoàn 2 nhiều năm, qua nhiều vị tư lệnh, đă thành công trong việc tách rời các cơ sở cũng như vô hiệu hóa Việt Cộng tại địa phương, từ đó cho tới ngày miền nam bị sụp đổ vào tháng 4-1975. Chính các lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân đă góp phần lớn máu xương trong việc bảo vệ an ninh và mạng sống của đồng bào trong tỉnh, cho tới những giây phút cuối cùng trong đêm 18 rạng ngày 19-4-1975. Họ là những chiến sĩ của QLVNCH không tên với những chiến công hiển hách, đă đánh những trận để đời như sử gia Chánh Đạo đă hết ḷng khen ngợi trong tác phẩm “55 ngày đêm-cuộc sụp đổ của VNCH”. Tôn vinh cuộc chiến đấu thần thánh trên là cách trả lời cao thượng nhất để tri ân và lấy lại uy tín cũng như danh dự cho người lính miền nam, những người đă v́ nước v́ đời, mà tự t́m lấy cái chết b́nh thản tại chiến trường, ngay lúc giặc đă tràn ngập.

1. NHỮNG NGƯỜI LÍNH ĐPQ & NQ/QLVNCH
Tại B́nh Thuận vào năm 1952, trước ngày đ́nh chiến, quân đội quốc gia đă thành lập 2 trung đoàn vệ binh, mỗi trung đoàn có 5 đại đội. Trung đoàn số 2 đóng tại Phan Rí, Trung doàn số 4 đóng tại Phan Thiết. Đầu năm 1953, các trung đoàn vệ binh được biến đổi thành tiểu đoàn Bộ Binh. Do đó, Trung đoàn vệ binh số 4 thành Tiểu đoàn 264B1 (Bataillon d’infanterie), c̣n Trung đoàn 2 thành Tiểu đoàn 265B1. Ngày 1-8-1954 lại thành lập Trung đoàn 404BB tại Phan Thiết với các Tiểu đoàn 83 (nguyên TĐ264B1), Tiểu đoàn 84 (nguyên TĐ265B1) và TĐ808 biệt lập đóng tại Phan Thiết. Đầu năm 1955, Trung đoàn 404 được cải danh là Trung đoàn 43BB với các TĐ1/43 (83), 2/43(84) và 3/43(808) thuộc SĐ15 khinh chiến, từng tham dự các chiến dịch tiểu trừ B́nh Xuyên, Ḥa Hảo năm 1955 tại Nam phần Từ năm 1964 Trung đoàn 43 Biệt Lập qua các Trung đoàn Trưởng tài danh như Thiếu Tá Vơ văn Cảnh, Thiếu tá Quách Đăng, Trung tá Lư bá Phẩm, Đại tá Đàm văn Quư… trấn đóng tại Biệt khu B́nh Lâm, sau đó di chuyển vào nam. Năm 1966 cùng với các Trung đoàn biệt lập 48BB, 52BB thành lập Sư đoàn 10BB, sau đổi thành SĐ18BB vào tháng 4-1975, dưới quyền chỉ huy của Thiếu tướng Lê minh Đảo, đă tạo nên chiến thắng Xuân Lộc vang lừng trong việt sử cận đại. Cũng tại B́nh Thuận vào tháng 7/1954 có 4,800 quân nhân người Nùng, thuộc SĐ3 khinh chiến của Đại tá Ṿng A Sáng từ miền bắc di cư vào đóng tại Sông Mao nhưng cũng chỉ một thời gian ngắn lại di chuyển vào Tam Hiệp, Biên Ḥa, sau đó đổi thành SĐ5BB. Để thay thế, Trung đoàn 44 và 53 thuộc SĐ23BB, hậu cứ đóng tại Sông Mao thường xuyên hành quân bảo vệ B́nh Thuận và Ninh Thuận. Từ đầu năm 1970, hầu hết các thành phần cơ sở, du kích kể luôn chính quy VC gần như bị tiêu diệt, khiến cho quân khu 7 Việt cộng, trong đó có tỉnh B́nh Thuận do tướng Bắc Việt Nguyễn văn Ngàn chỉ huy, cũng lâm vào tuyệt lộ. Để vớt vát cũng như vực dậy niềm tin của cán binh, cán bộ, VC xử dụng 2 Tiểu đoàn chính quy miền bắc là 481 và 482 tấn công vào Trung doàn 44BB tại Sông Mao từ tháng 7-10/1970, đồng thời thường xuyên tổ chức các cuộc phục kích, phá rối trên quốc lộ 1, từ đoạn đường cây số 25 nam về tới Phan thiết và khúc ngang qua mật khu Lê hồng Phong, từ Long Thạnh tới Lương Sơn, Chợ Lầu và phía bắc trong quận Tuy Phong. Thời gian này B́nh Thuận c̣n có sự yểm trợ của Chi đoàn 3/8 Thiết kỵ QLVNCH và Tiểu đoàn 3 thuộc Lữ đoàn 506 Nhảy dù Hoa Kỳ và toán viễn thám LLĐB/BTTM/QLVNCH, hải pháo Mỹ ở ngoài khơi, các phi tuần Mỹ-Việt luôn tiếp ứng tỉnh mau lẹ và cấp thời, nên đă bẻ găy tất cả. Nhưng rồi giai đọan VN hóa chiến tranh và hiệp định ngưng bắn 1973 đă thành h́nh, theo đó các đơn vị chính quy của VNCH cũng như Hoa Kỳ đều rời tỉnh vào cuối năm 1971 hoặc hồi hương hay nhận nhiệm vụ mới, giao công cuộc b́nh định và ǵn giữ an ninh cho các đơn vị ĐPQ và NQ của tỉnh lúc đó lên tới 13,000 người đảm trách.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1603894&stc=1&d=1592794613

Để chống địch bằng cây nhà lá vườn, Đại Tá Nghĩa đă áp dụng chiến lược mọi người đều phải RA TIỀN TUYẾN kể cả các trưởng ty sở, phó tỉnh trưởng, phó quận…, không bỏ đồn bót lẻ loi cho giặc về đêm. Theo lời các nhân chứng hiện ở Hoa Kỳ như Phạm ngọc Cửu phó tỉnh trưởng, Trung tá Dụng văn Đối quận trưởng Ḥa Đa rồi Hàm Thuận, Đại úy Mai xuân Cúc ĐĐT/ĐĐ948ĐPQ… th́ chính Đại tá Nghĩa là người đầu tiên xung phong làm gương mẫu cho thuộc cấp, ông đă noi gương cố tổng thống Nguyễn văn Thiệu luôn xông xáo tại chiến trường khi dấu binh lửa, bom đạn c̣n ngun ngút, Đại tá Nghĩa đă lần lượt ngủ đêm tại 173 trong tổng số 197 tiền đồn hẻo lánh và nguy hiểm của tỉnh, do các tiểu trung đội nghĩa quân hoặc xây dựng nông thôn trấn giữ. Nhờ vậy đă tạo được nềm tin trong quân đội cho tới khi mất nước. Một chiến thuật khác cũng vô cùng hiệu quả, đó là xử dụng hàng rào ḿn claymore làm ấp chiến lược lưu động. Với phương pháp này đă làm VC bị tổn thất nặng và gần như hoàn toàn tê liệt. Bẻ găy kế hoạch nuôi ăn cán binh v́ ai cũng sợ toi mạng khi vướng ḿn vào ban đêm khi ra vào ấp. Song song c̣n có chương tŕnh đập cỏ bắn rắn, tức là ủi quang hai bên quốc lộ 1 từ cây số 25 nam Phan Thiết cho tới Cà Ná, giáp giới Ninh Thuận, các vùng cây cỏ rậm rạp mà trước đây VC dùng làm địa bàn để hoạt động quân sự, thu thuế, phục kích, chặn xe đ̣…, mang lại t́nh h́nh an ninh hoàn toàn trong tỉnh và tại thị xă Phan Thiết. Cũng kể từ đó cho tới hồi tàn cuộc, cán bộ xă ấp, công chức không c̣n phải sống lưu vong và việc Tổng Thống VNCH Nguyễn văn Thiệu tới Phan Thiết cùng với Tỉnh Trưởng săn bắn ban đêm ngay trên địa bàn của cái gọi là mật khu Lê hồng Phong. Hay đi xe jeep trên quốc lộ 1 từ Phan thiết về Phan Rang như lời tự sự của Trung tá Ngô văn Xuân, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 44, SĐ23BB, trong Quân sử VNCH, là một xác nhận khích lệ.

Từ sau hiệp định ngưng bắn 1973, lực lượng ĐPQ & NQ đă được tổ chức và phối trí lại để phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Quyền chỉ huy trực tiếp thuộc tiểu khu, chi khu và các phân chi khu. Quân số cũng được cải tổ từ cấp đại đội thành tiểu đoàn, liên đội và Liên đoàn. Tính đến năm 1973, quân lực VNCH đă có 360 tiểu đoàn ĐPQ, quân số từ binh sĩ, HSQ tới SQ một số là chủ lực quân biệt phái, nên có rất nhiều kinh nghiệm chiến đấu, có đủ khả năng thay thế các SĐ bộ binh kể cả các lực lượng tổng trừ bị trong các cuộc hành quân cơ động quy ước chiến, đáp ứng sự hỗ trợ đắc lực cho các đơn vị chính quy. Theo tài liệu từ quân sử, cho tới tháng 4-1975, lực lượng ĐPQ-NQ gần 500,000 người và số tử vong cũng nhiều lần so với các lực lượng chính quy, điều đó chứng tỏ sự chiến đấu dũng mănh và can trường của họ.

Trong hiệp định Paris năm 1973, có điều khoản cắm cờ nhận đất vào giờ N và B́nh Thuận được coi là thí điểm. Nơi CS Bắc việt luôn đ̣i trở thành vùng vỹ tuyến. Các xă giáp tỉnh lỵ như Đại Nẵm, Phú Long, Tùy Ḥa, Phú Lâm có nhiều nằm vùng và thân nhân nhảy núi hoặc tập kết, nên luôn là địa điểm tin cậy để giặc đóng quân hay đặt BCH. Với quân số lúc đó là 13,000 ĐPQ-NQ nhưng v́ phải bảo vệ 197 ấp nên đă dàn mỏng, trong khi việt cộng luôn tập trung được ba tiểu đoàn địa phương, ngoài ra c̣n có một trung đoàn chủ lực từ quân khu 6 tăng phái và cán binh cơ sở, nên t́nh thế lúc đó cũng thật nguy hiểm. Rồi giờ G cũng tới, VC tấn công một lúc 13 ấp trong tỉnh nhưng nặng nhất là tại ấp Đại Tài, xă Đại Nẵm. Nhờ đă chuẩn bị trước, nên sau 2 ngày giao tranh, VC thất bại trong âm mưu cắm cờ giành đất, một phần là do đồng bào có ư thức quốc gia không chịu hợp tác hay đồng khởi, phần khác sợ tai bay đạn lạc nên đă bồng bế nhau tản cư khỏi vùng chiến địa theo lời kêu gọi của tỉnh qua truyền đơn và đài phát thanh. Cuối cùng các ấp xă chỉ c̣n thuần túy là chiến địa, điểm hợp đồng của pháo binh và phi pháo, trước khi các đơn vị ĐPQ-NQ mở cuộc tấn công, làm VC phải chém vè, mang theo nhiều xác chết đồng bọn khi tháo chạy sau 2 ngày giao tranh đẫm máu nhưng vẫn bỏ lại tại ấp Đại Tài, xă Đại Nẵm 121 xác chết…

2. NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG TẠI B̀NH THUẬN
Ngày 7-4-1975, tướng Phạm văn Phú tư lệnh QĐ2 từ Nha Trang đáp trực thăng ghé thăm BCH Tiểu khu B́nh Thuận lúc đó đang đóng tại lầu ông Hoàng, thuộc xă An Hải quận Hải Long. Lúc này, tướng Phú đă bị tước chức Tư lệnh QĐ2 và do Tướng Nguyễn văn Hiếu thay thế. T́nh h́nh đă bắt đầu hỗn loạn v́ Ninh Thuận, B́nh Thuận đă trở thành vùng hỏa tuyến. Sau này tại hải ngoại, có dịp tiếp xúc với những thẩm quyền của B́nh Thuận trong giờ phút hấp hối như Đại tá tỉnh trưởng Ngô tấn Nghĩa, ông Phạm ngọc Cửu phó tỉnh trưởng, Trung tá Dụng văn Đối, quận trưởng Hàm Thuận và các Đại úy Nguyễn chánh Trúc, ĐĐT giữ cầu Phú Long nhưng quan trọng nhất là tự sự của Đại úy Mai xuân Cúc, Đại đội trưởng ĐĐ948ĐPQ là đơn vị giữ an ninh trong thị xă Phan Thiết cho tới giờ phút cuối cùng. Tóm lại không giống như nhiều tỉnh thị khác, B́nh Thuận vào những giờ phút hấp hối, đă không có những trận đánh không có đại bàng như một tác giả nào đă viết trong mấy năm trước, v́ tất cả đại bàng từ cấp thấp nhất như Thiếu úy Phùng thế Xương phân chi khu trưởng PCK Ḥa Vinh, Trung úy Lê Ngữ phân chi khu trưởng PCK Thiện Khánh cho tới các đại bàng cao cấp ở quận như Trung tá Dụng văn Đối, Thiếu tá Phạm Minh trung tâm trưởng Trung tâm Tiếp vận, các vị Phó tỉnh tưởng, quận trưởng, trưởng ty và trên hết là Đại tá tỉnh trưởng Ngô tấn Nghĩa đều không bỏ chạy.

Sự sụp đổ nhanh chóng của QLVNCH từ khi Ban mê thuộc thất thủ, tiếp theo là cuộc di tản đẫm máu trên liên Tỉnh Lộ 7-B và Quân đoàn 1, cuộc lui binh tại Qui Nhơn, Quảng Ngăi… khiến cho ṿng vây bao quanh Sài G̣n càng lúc càng thu hẹp. Mặt bắc, Phan Rang và Phan Thiết trở thành vùng hỏa tuyến phải đương đầu với nhiều lộ quân hùng hậu của cọng sản Bắc Việt có đầy đủ tăng, pháo hiện đại do Liên xô, Trung Cộng và các nước Đông Âu trong toàn khối cọng sản quốc tế viện trợ. Trong lúc đó, VNCH đang lâm vào tuyệt lộ v́ đồng minh Hoa Kỳ đă cạn tàu ráo máng, rút ván qua sông, ngoài ra c̣n đem danh lợi c̣ mồi một số tướng lănh miền nam bỏ nước ôm của chạy, khiến cho QLVNCH bốn bề thọ địch, chỉ c̣n chờ chết mà thôi. Ngày 4-4-1975, hai tỉnh c̣n lại của QĐ2 là Ninh Thuận và B́nh Thuận được sáp nhập vào QĐ3 lúc đó do tướng Nguyễn văn Toàn làm tư lệnh, bổ nhiệm Thiếu tướng Nguyễn vĩnh Nghi làm tư lệnh tiền phương QĐ3, chỉ huy mặt trận Phan Rang, vốn là quê hương của Tổng thống Thiệu. Trong dịp này Phan Thiết cũng được tăng cường Trung đoàn 6 và một pháo đội thuộc SĐ2BB vừa di tản từ Quăng Ngăi vào B́nh Tuy. Tại Phan Thiết, thời gian này đă giao tranh ác liệt với trung đoàn 812 chính quy và các tiểu đoàn địa phương VC, nhưng đă giữ vững được pḥng tuyến nhờ sự yểm trợ của phi pháo và hỏa pháo VNCH. Ngày 16-4-1975 mặt trận Phan Rang tan vỡ, các tướng lănh Nghi, Sang, Đại tá Nguyễn thu Lương và nhiều sĩ quan cao cấp khác của VNCH bị bắt làm tù binh. Từ đó B́nh Thuận là chiến tuyến về hướng tây bắc, phía nam B́nh Tuy vẫn c̣n nhưng đường bộ bị bít v́ giao tranh long trời lở đất đang nổ tung tại Xuân Lộc, Long Khánh từ ngày 9 cho tới 14-4-1975.

Vào ngày 2-4-1975, Đại đội 948 ĐPQ đang đóng tại Ấp Hiệp Ḥa, xă Chợ Lầu, quận Ḥa Đa th́ được lệnh Trung tá quận trưởng Kiều văn Út theo chỉ thị của P3 TK, về tăng cường thị xă Phan Thiết, nhưng đóng quân tại trường Nông lâm súc Phú Long, bảo vệ Trung đội pháo binh đóng gần cầu đang yểm trợ hỏa pháo cho chi khu Thiện Giáo. Ngày 3-4-1975, đoàn di tản từ Nha Trang-Đà Lạt về trong đó có đủ mọi quân binh chủng kể luôn trường Vơ bị quốc gia, nổ súng bắn loạn xạ làm cho dân chúng sợ hăi và trước khi ra đi đă cướp bóc cũng như đốt chợ lớn Phan Thiết được xây dựng từ năm 1899. Lúc này tại khu vực Phú Long và các vùng lân cận, ngoài ĐĐ948ĐPQ của Đại úy Cúc từ Ḥa Đa về tăng cường, c̣n có ĐĐ283ĐPQ của Đại úy Nguyễn văn Ba giữ Tùy Ḥa, ĐĐ3/TĐ249ĐPQ của Đại úy Ḥa phụ trách xă Ḥa Vinh, nên t́nh h́nh an ninh cũng khả quan, ngoài các vụ pháo kích, bắn sẻ vào ban đêm mà thôi. Vào ngày 15-4-75 chi khu Thiện giáo tại huyện ly Ma Lâm được lệnh di tản chiến thuật v́ không chịu nổi đại pháo 130ly của VC. Các đơn vị của chi khu do Đại úy Lê văn Tuân, chi khu phó chỉ huy đoàn xe, qua cầu Phú Long về Phan thiết. Ngày 16-4-75 lại thêm một đoàn quân xa đông đảo gồm đủ mọi thứ binh chủng như Dù, BĐQ, Sư đoàn 2 BB, ĐPQ… từ Phan Rang cũng qua cầu Phú Long, để di tản về Sài G̣n sau khi Ninh Thuận mất. Lúc này t́nh h́nh trong thị xă Phan Thiết đă bắt đầu hỗn loạn, nhiều gia đ́nh kể cả công chức đă cuốn gói ra đi bằng thủy lộ, trong phố hầu như chỉ c̣n lại người nghèo không có phương tiện đào sanh, các hàng cột đèn không có chân và lính, cảnh sát, XDNT ở lại mà thôi. Từ ngày 10-4-75 ĐĐ948ĐPQ của Đại úy Cúc đổi vùng, di chuyển về đóng cạnh căn cứ của Duyên đoàn 28 HQ sát cửa Thương Chánh thuộc ấp Vĩnh Phú, để bảo vệ cho BCH hành quân của Trung tá Tŕ, TKP/TKBT. Lúc đó Đại tá Nghĩa cho thành lập hai BCH hành quân, BCH chánh do ông trực tiếp điều động toàn bộ lực lượng ĐPQ-NQ đóng tại Lầu ông Hoàng, c̣n TKP làm việc với các pḥng 2, 3 hành quân. Cũng trong ngày, Đại úy Cúc nhận lệnh trực tiếp từ Đại tá Nghĩa, dẫn ĐĐ948ĐPQ biệt phái cho yếu khu châu thành tại trại Đinh công Tráng của Thiếu tá Cư, trước sân vận động Quang Trung, nằm kế một phân đội YTQC sát trường Trung học tư thục Bạch Vân và Dân y viện Phan Thiết. Lúc này VC đă pháo kích nhiều hỏa tiễn 122ly vào phố, các khu vực quanh TK và Ṭa hành chánh thường hứng đạn. Sở dĩ VC bắn rất chính xác v́ tiền sát viên của chúng là bọn nằm vùng, một tên giả làm ngư ông câu cá dưới chân cầu Phan Thiết, tên khác là cận vệ của Đại tá Nghĩa, một tên làm tùy phái cho ṭa hành chánh…

Theo Cúc, th́ Phan Thiết lúc đó hầu như chỉ c̣n có lính mà thôi, ĐĐ948ĐPQ pḥng thủ ấp Đại Tài, ĐĐ206 trinh sát tỉnh của Đại úy Lê văn Tṛ giữ xă Tường Phong, kế đồn Trinh Tường, xa hơn có Tiểu đoàn 202 ĐPQ do Đại úy Nguyễn văn Hoàng, thế Thiếu tá Bích làm XLTV Tiểu đoàn trưởng, đóng tại Phú Hội và vùng giáp ranh với Đại Nẵm. Trên liên tỉnh lộ 8, Tiểu đoàn 275 ĐPQ bao vùng từ cầu Bến Lội, xă Lại An trên quốc lộ 1, qua tới các ấp Tân An, Tân Điền trên đường Phan Thiết-Ma Lâm. Về phía nam giao cho một ĐĐĐPQ và một Liên đội NQ giữ cổng chữ Y, bảo vệ các ấp Kim Hải, B́nh Tú và Đức Long. Trong phố, phần an ninh được giao cho các đơn vị NQ và NDTV do Thiếu tá Nguyễn thanh Hải, xă trưởng xă châu thành Phan Thiết chỉ huy. Tại BCH Cảnh Sát B́nh Thuận nằm trên đường Cao Thắng, phía sau CLB sĩ quan và TTTV, là phần pḥng thủ của một Tiểu đoàn CSDC do Trung tá trưởng ty điều động. Tại QYV Đoàn mạnh Hoạch không có đơn vị nào tăng phái bảo vệ, chỉ c̣n các quân nhân cơ hữu do y sĩ Đại úy Lê bá Dũng và Trung úy Công, SQ/CTCT của Đơn vị chỉ huy. Cũng theo lời Đại úy Mai xuân Cúc hiện ở Hoa Kỳ, một nhân chứng thật của B́nh Thuận trong lúc đó, th́ vị Thiếu tá CHT QYV Đoàn mạnh Hoạch đă di tản chiến thuật về Sài G̣n từ đầu tháng 4/1975 khi B́nh Thuận đang bước vào giờ thứ 25 định mệnh. Trong ngày 17-4-75, VC pháo kích ban ngày lẫn đêm, một vài quả bích kích pháo và hỏa tiễn rơi rớt quanh các khu quân sự, trước tiểu đội quân cảnh điều tra tư pháp và ty bưu điện, thành phố thật sự đă chết, nhà nhà cài chặt cửa, chen chúc chui rúc dưới các hố tránh đạn thô sơ làm bằng bao cát mua ngoài chợ. Nơi nơi im vắng năo nùng ngoại trừ khu vực cồn chà Đức Thắng vẫn c̣n hoạt động tấp nập v́ ai cũng chạy.

Giờ N đă tới lúc 17h30 chiều ngày 18-4-1975, pḥng tuyến Phú Long vỡ nhưng cầu không phá kịp, tuy nhiên phía bên khu vực Phước Thiện Xuân, An Hải, kể cả Hải Long, Lầu ông Hoàng vẫn chưa vỡ tuyến, Đại tá Nghĩa cùng BCH vẫn đủ giờ di chuyển về cửa thương chánh, trong lúc ngoài khơi có hằng hà tàu chiến của hải quân VNCH nhưng không làm ǵ được v́ tàu lớn không áp sát ven bờ được, hơn nữa sợ pháo kích như đă từng xảy ra ở Qui Nhơn, Phan Rang, Cà Ná… Bên Quốc lộ 1, đoàn âm binh của cọng sản Bắc việt với tăng, pháo và hàng hàng lớp lớp cán binh cỡ lộ quân, chừng mấy chục ngàn người, ào ào hơn sóng cuộn cuồng phong di chuyển khắp các nẻo đường phố thị. Tất cả các pḥng tuyến ĐPQ và NQ gần như bị đè bẹp trước đạn súng tối tân của Nga-Hoa. Tại pḥng tuyến ở Đại Tài, Đại úy Cúc nhận được lệnh từ Thiếu tá Cư, yếu khu trưởng trên máy PRC25 cho biết VC đă chiếm được Ṭa hành chánh, Tiểu khu nhưng tại Trung tâm tiếp vận, Thiếu tá Phạm Minh đă đốt được các kho quân nhu trước khi di tản, B́nh Thuận coi như đă mất, ĐĐ948 của Cúc được lệnh vượt sông Cà Ty để di tản về B́nh Tuy. Nửa đêm rạng sáng ngày 19-4-75, đại đội tới được xóm đạo Văn Lâm, từ đó lần về quận đường Hàm Thuận, mới biết Trung tá Dụng văn Đối chi khu trưởng cùng Đại úy Lê viết Lợi chi khu phó, cũng đă nhận được lệnh di tản. Đêm khuya thật là buồn, cả đại đội phần đói khát thêm lạnh run v́ quần áo ướt sũng nước khi lội qua sông, nên tạm bố trí tại ngă hai Phú Lâm vào lúc 2 giớ sáng, để rồi khi tiếng gà đầu vừa cất th́ mọi người cũng choàng dậy, băng quốc lộ 1, đi ngược về hướng Phú Khánh, B́nh Tú để xuống bến tàu cạnh phi trường đợi hải quân vào rước theo lệnh của TKBT. Trong đêm 18-4-75, qua máy truyền tin vẫn c̣n liên lạc 24/24, Đại úy Cúc biết được Thiếu tá Cư yếu khu trưởng châu thành cùng Trung tá Trí đă xuống được thuyền của Duyên đoàn 28 HQ. Theo Điệp Mỹ Linh trong tác phẩm “HQ VNCH ra khơi năm 1975” th́ giữa lúc khói đạn mịt mùng, tàu HQ-505 nghe tiếng cầu cứu của Đại tá Nghĩa trong máy PRC25 nhưng bất lực, tuy nhiên như lời ông Phạm ngọc Cửu phó tỉnh trưởng, th́ đại tá cuối cùng nhờ được một ghe đánh cá đưa ra tàu lớn và đă rớt xuống biển khi hai chiếc va chạm, cũng may mọi người cứu ông kịp thời.

Sáng ngày 19-4-75 tuy cọng sản đă làm chủ Phan Thiết nhưng khu vực bến tàu thuộc ấp Kim Hải, phía sau QYV Đoàn mạnh Hoạch và phi trường vẫn c̣n thuộc quyền kiểm soát của QLVNCH, trên băi có đầy lính đủ mọi quân binh chủng, từ Dù, SĐ2, BĐQ tại mặt trận Phan Rang c̣n đọng lại, cho tới các đơn vị ĐPQ-NQ tỉnh. Cũng trong ngày 19-4-75, một chiếc L19 của KQ/VNCH bay trên thành phố, kêu gọi các lực lượng ĐPQ-NQ đang bị thất lạc, phải t́m cách xuống bến tàu để được lực lượng Hải quân V2 Duyên hải cứu vớt đem về Nam. Một phi tuần F-5 có nhiệm vụ dội bom phá sập ba cây cầu trên ḍng sông Mường Mán, hầu ngăn cản bước tiến quân của cộng quân nhưng đánh lạc vào ngă tư quốc tế, làm hư hại một vài căn nhà trên đường Gia Long, Ngô sĩ Liên và Nguyễn tri Phương.

Cuối cùng nhờ kỷ luật và b́nh tĩnh, tất cả các quân nhân mọi binh chủng có mặt trên băi biển B́nh Tú vào lúc 10 giờ sáng ngày 19-4-75 đều được vớt. Lúc đó thủy triều đang xuống nên đoàn tàu lớn phải đậu xa bờ hơn nửa cây số. Tuy nhiên nhờ những chiếc tàu đổ bộ LCM nên tất cả các đơn vị kể cả chi đoàn TQV thuộc Thiết đoàn 8 Kỵ binh hành quân tại Phan Thiết, cũng được theo tàu về nam, ngoại trừ một chiếc bị ch́m tại băi Vĩnh Phú. Tóm lại đoàn tàu hải quân thuộc BTL vùng 2 duyên hải đă hoàn thành nhiệm vụ, chở hơn 3,000 quân nhân các cấp thuộc ĐPQ-NQ B́nh thuận trong đó có ĐĐ948ĐPQ của Đạy úy Mai xuân Cúc, cùng các lực lượng Dù, BĐQ, SĐ2BB và mọi quân binh chủng tham chiến tại Phan Thiết – Phan Rang trong những giờ phút hấp hối ngày 19-4-1975, đoàn tàu HQ đă cặp bến Vũng Tàu an toàn lúc 3 giờ sáng ngày 20-4-1975 và các đơn vị lại được Đại tá Ngô tấn Nghĩa tiếp rước hướng dẫn, vào trú đóng tại Doanh trại cũ của Trung đoàn 43/SĐ18BB ở Bà Rịa, cùng góp phần tham chiến với các đơn vị bạn tại đây cho tới ngày tàn cuộc. Riêng Trung tá Dụng văn Đối, quận trưởng Hàm Thuận, ngày 18-4-1975 cho người đốt các kho đạn, kho quân tiếp vụ, sau đó cùng Liên đoàn ĐPQ-NQ, một pháo đội và một chi đội thiết giáp V100, mở cuộc hành quân từ Hàm Thuận vào tới Bà Rịa một cách an toàn. Đoàn quân di tản này được bổ sung cho SĐ22BB chiến đấu tại Bến Lức Long An, cho tới ngày tàn cuộc. Như vậy, trong những ngày cuối cùng QLVNCH đă có hai cuộc lui binh thành công, một tại bến tàu Kim Hải, Phan Thiết do BTL/V2DH thực hiện, vớt ĐPQ-NQ tỉnh B́nh Thuận và nhiều quân binh chủng tham dự trận Phan Rang, cuộc lui binh thứ hai bằng đường bộ từ Long Khánh về Phước Tuy của SĐ18BB và các đơn vị do Thiếu tướng Lê minh Đảo chỉ huy.

Đời lính da ngựa bọc thây, nỗi tủi hờn của những thanh niên thời đại VNCH, may thay đă sớm chấm dứt khi cái mặt thật của lịch sử, của cọng sản Hà Nội trơ trẽn lộ ra sau lớp phấn son huyền thoại: hại dân, bán nước và vị kỷ.

Mường Giang
(Viết Tặng Mai Xuân Cúc)

Mường Giang
(Nguyên Tiểu Đoàn 1/Trung Đoàn 43/SĐ18BB – KBC 4424,
Phó Trưởng ty XLTV Trưởng Ty CCB-B́nh Thuận – KBC 4508)

TÀI LIỆU THAM KHẢO
– ĐĐ948ĐPQ, những ngày tử thủ BT của Đại úy Mai xuân Cúc
– Một chiến thuật hữu hiệu… của Đại tá Ngô Tấn Nghĩa
– Tôn vinh QLVNCH của Phạm Kim Vinh
– Chiến sử QLVNCH của Phạm Phong Dinh

hoanglan22
06-29-2020, 14:29
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1609091&stc=1&d=1593440713

Trong suốt hơn 20 năm hoạt động của HQVNCH, các chiến hạm cũng như các chiến đĩnh, dù do Pháp giao lại, hay sau này do Mỹ chuyển giao, đều do Mỹ sản xuất Chỉ riêng chiếc Scan/Fom, tiếng Việt gọi là Tuần Giang Đĩnh, là do Pháp đóng. Đây là một chiến đĩnh có nhiều đặc tính và tỏ ra rất công hiệu trong việc tuần tiễu trên sông rạch vùng Cửu Long Giang. Việt Cộng đă nhiều phen kinh hăi trước sự xuất hiện của loại chiến đĩnh này.Trong sinh hoạt của các giang đoàn, chiến đĩnh này được gọi tắt là Fom. Hỏi tại sao lại gọi như thế, nhiều người đă trả lời, v́ khi chạy máy tầu nổ rất ṛn kêu”fom, fom”. Nghe cũng có lư. Nhưng đúng tên của nó là do chữ Scan/Fom ( Service Technique des Constructions et Armes Navals Frances Outre-Mer ). Một loại tầu được đóng để Hải Quân Pháp hoạt động ngoài nước Pháp, đặc biệt cho Đông Dương. Chiến đĩnh này dài 36 bộ, rộng độ 7 bộ, mũi nhọn, đáy tầu cũng nhọn, chạy nhanh xé nước tạo thành một vùng trũng khiến cho toàn thân tầu gần như thấp hơn mặt nước, tránh được các loại súng lớn từ bờ muốn bắn vào phần thân tầu. Cũng v́ mũi nhọn, đáy nhọn, khi bị thủy lôi, sức công phá của thủy lôi tạt qua một bên, ( khác hẳn với các loại chiến đĩnh đáy bằng, khi bị thủy lôi là cầm chắc đáy tầu bị phá). Loại Fom này, được trang bị một đại liên 12ly 7 tại mũi, với dàn pháo tháp bằng thép bao quanh, đại liên này có tầm hoạt động mạnh, xa tới 5 cây số, và ṿng hoạt động 220 độ về phía trước và hai bên. Trên nóc tầu có 2 đại liên 30, và sau lái 1 đại liên 30 nữa, chưa kể các loại súng nhỏ như M16, M79. Thường mỗi chiếc chỉ có 4 nhân viên. Tầu bao giờ cũng đi hai chiếc, do một hạ sĩ quan làm thuyền trưởng trông nom cả cặp tầu. Sự lanh lẹ, gọn nhẹ của chiếc Fom được ví như “con ngựa Xích Thố của Giang Lực.”
Để có một cái nh́n sống động hơn về hoạt động của chiến đĩnh này, xin theo dơi bài bút kư viết về những kỷ niệm, những nguy nan của các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam một thời vùng vẫy trong khu chiến Tiền Giang, qua trận đánh tại Ba Rài.

Đường Đi Khu Chiến
Tôi bị ra Hội Đồng Kỷ Luật trong một trường hợp thật ngộ nghĩnh, và bị đưa đi đơn vị tác chiến: Giang Đoàn 21 Xung Phong, khu chiến Tiền Giang.

Mới tới đơn vị, tin tức các nơi liên hệ đến các cuộc đụng độ giữa các đơn vị Việt Cộng và các tầu tuần tiểu mỗi lúc một tăng. Sự thương vong mỗi lúc một lớn. Quả thật là tôi có “rét” thật . “Rét” nên tôi cố gắng t́m hiểu, học hỏi các kinh nghiệm của các bạn sĩ quan cùng khóa tại đơn vị, và nhất là các kinh nghiệm của các anh em đoàn viên đă lặn lội nhiều năm tại vùng sông nước nguy hiểm này. Lúc ấy, năm 1965, anh Nguyễn Đức Bổng, khóa 10, trên tôi một khóa, làm duyên Đoàn trưởng Duyên Đoàn 33 bị nội tuyến, địch giả dân đánh cá làm quen với đơn vị, rồi giữa trưa làm lễ cúng Hà Bá, mời cả Duyên Đoàn dự tiệc, rồi đùng một cái họ nổ súng, bắn chết khá đông. Anh Bổng ở trên ghe chủ lực, cũng bị bắn chết. Tràng đạn xuyên nát ngực. Khi chúng tôi đến lấy xác anh, trời đă chiều. Con rạch Sọ Dừa, cái tên oan trái, là nơi xác anh nằm vắt vẻo bên sàn ghe. Xác anh Bổng xám ngắt và tóp lại như một đứa trẻ, v́ máu ra quá nhiều. Xác anh nằm ở sàn tầu, phủ bằng một tấm chăn dạ lính. Máu từ thân thể anh vẫn tiếp tục chảy dài xuống sàn tầu và ḅ ngoằn ngoèo ra mé cửa sổ chiến đĩnh. Hỏa châu từ nơi nào đó bắn lên dọi sáng một vùng trời. Tôi lại nghe anh sắp sửa lấy vợ nữa. Tôi thương anh và càng thấy sợ. Tôi th́ vừa lấy vợ. Hai vợ chồng hai nơi, Sài G̣n và Mỹ Tho… Tôi thương vợ tôi lắm, nên nhủ ḷng:” Phải cẩn thận tối đa.”

Lúc rỗi, tôi lên Pḥng Hành Quân theo dơi bản đồ Trận Liệt, ghi các vùng nguy hiểm vào sổ tay. Nh́n cho kỹ địa thế. Đọc thật kỹ kư hiệu nơi có rừng cây, nơi có dừa nước. Các nơi đă từng đụng độ. Và tôi nhận ra rằng, đa số các nơi diễn ra cuộc đụng độ mà phần thiệt hại về ta, là các khúc sông hẹp, uốn khúc. Địch nấp trong hầm bắn ra. Ta hỏa lực hùng hậu, tầm đạn xa, lại có cả loại đạn công phá, nổ khi chạm vật cứng như sắt, thân cây lúc này trở nên ít hữu hiệu. Và thời điểm các cuộc đụng độ, đa số vào khoảng 4, 5 giờ chiều. Giờ mà theo thói quen, quân ta đă lo sửa soạn ra về, máy bay khi cần khó gọi, có đến cũng khó can thiệp. Giờ của địch, như thế kể như từ 4, 5 giờ chiều cho đến 4, 5 giờ sáng.

C̣n các cuộc bắn tầu, như kinh nghiệm các bạn kể lại, thường là vào ban đêm. Lúc ấy, nếu tinh ư, ta sẽ thấy “sao mà đất trời lạnh ngắt”. Lạnh ngắt v́ khi bờ sông có người phục kích, chim muông không dám xà xuống đậu. Có xà xuống thấy người lại chới với bay lên. V́ thế cảnh vật bỗng trở nên vắng lặng, rờn rợn. Lúc ấy, nếu thấy một ngọn đèn thắp lấp lánh bên bờ sông, ta có nhiều phần chắc đó là ngọn-đèn-nhắm. Việt Cộng thắp ngọn đèn bên kia sông, chúng nằm bên này sông, trời tối càng tốt. Khi tầu lướt trên mặt sông, án ngữ tầm nh́n của ngọn- đèn- nhắm là bên này sông, chúng đă hờm súng sẵn, cứ việc bấm c̣. Chắc như bắp. Chỉ trừ khi tên xạ thủ run tay, chậm trễ, đạn mới vượt qua sau lái.

Lúc như thế, ta mới thấy chiếc Fom hữu hiệu như thế nào. Fom, như trên đă viết, chạy nhanh, có bị bắn, đạn đi trên tầm nước, khó ch́m. Thấy đèn nhấp nháy khả nghi, Fom, loại tầu đi trước và đi sát mé sông, xả tốc độ, quay 90 độ, bỏ đèn nhắm của địch sau lái, lấy đại liên 12 ly 7 bắn như mưa vào bờ đối diện. Đâm thẳng vào. Đạn đan kín trời tràn ngập nơi địch trú ẩn. Tới gần, hai đại liên 30 trên nóc tầu xả đạn quanh điểm khả nghi. Đồng thời dùng M 79 bắn vào. Đạn nổ bùng. Việt Cộng bạo th́ nằm dí đó, ăn đạn nát thây. Vụt chạy th́ khó tránh được rừng đạn 12ly7 và đại liên 30 bắn đuổi theo như mưa bấc.

Đức Râu, kẻ tử thù của Việt Cộng
Người cho tôi kinh nghiệm về chiến thuật phản xạ này là Trung Sĩ I Lê Phước Đức, tục gọi là Đức Râu. Anh thâm niên quân vụ khá bộn, đâu như xuất thân từ khóa I, khóa 2 Đoàn Viên, ngành Thủy Chiến Binh (Fusilier), do Pháp huấn luyện. Bạn bè anh đă có người có đai vàng trên mũ. Anh vẫn chỉ có ba chữ V trên vai áo. Anh người Nam, to con, mặt hơi rỗ, râu hàm xanh ngắt. Lúc nhàn rỗi, anh ngồi lầm ĺ trên tầu, bên cạnh là một thùng bia Quân Tiếp Vụ, uống t́ t́, mặt đỏ râu dựng, không nói một câu. Ít ai biết về gia cảnh anh. Lúc nhàn rỗi đă thế, khi đụng trận, vừa ngồi trên nóc tầu, hai chân tḥng xuống bánh lái. Một tay bấm c̣ đại liên 30, một tay cầm ống liên hợp điều động chiếc Fom bạn, ủi đầu vào nơi địch vừa khai hỏa. Những lúc như thế, trời chiều đă gần tắt, mây đỏ đầy trời. Anh lẫm liệt lao vào lửa đạn, uy dũng lừng lững, như Quan Vân Trường với thanh Long Đao trên ḿnh con ngựa Xích Thố. Lúc ấy, đoàn tầu cứ việc nhẹ nhàng tiến, và lặng lẽ theo dơi cặp Fom của anh làm cỏ hai bên bờ.

Có lúc tôi đă hỏi anh:” Sao cứ ở đây hoài, đi tầu biển cho nó thay đổi cuộc sống chăng,” anh tợp một hơi bia và nói:” Ông thầy! Mấy thằng fusilier (chiến binh) đi tầu là loại lính-mỡ.” Tôi phân vân hỏi:” Lính mỡ là…?” Anh đáp:” Mang tiếng là chiến binh mà đi tầu biển chỉ có việc lấy mỡ xoa vào ṇng súng cho khỏi sét, chứ lính ǵ tụi nó..” Anh ví von đến là hay, tuy có phần hơi cường điệu… Trong đơn vị, anh là người có nhiều huy chương nhất, anh chỉ đeo có ngành dương liễu mà thôi. Các ngôi sao vàng, sao bạc, anh bảo “đồ ăn giỗ đó mà ông thầy..” Trong các cuộc hành quân tuần tiểu, có khi chỉ có một chiếc soái đĩnh, hai Quân Vận Đĩnh và hai chiếc Fom, biệt phái cho một vùng nào đó. Toán đi như thế, sĩ quan nào cũng muốn có cặp Fom của anh Đức. Bạn tôi, Trần Hữu Khánh, tay tŕ của Giang Đoàn nói:” Có Đức đi theo ḿnh yên trí lắm. Có đụng mới thấy ngựa hay..” Tôi ở Giang Đoàn có mấy tháng, đă thấy mấy lần đụng độ. Đức lúc nào cũng được nhắc đến, với các chiến lợi phẩm. Khi th́ mấy khẩu CKC, Bá Đỏ…, chiến công lặt vặt ấy, anh bảo:” Thôi để cho mấy đứa em. Dù nó có ở khẩu 30 sau lái, cũng là đụng trận chứ. Cho nó có chút xanh , chút đỏ cho vui. Tôi đeo đủ rồi.”

Vào giữa năm 1965, một buổi trưa, một đoàn tầu đi tuần trên kinh Chợ Gạo. Con kinh huyết mạch để đoàn ghe gạo, cá từ Vùng IV về Sài G̣n qua đó. Kinh Chợ Gạo, ṿng đai an toàn cho Mỹ Tho, B́nh Phục Nhất, nơi mà “ḿnh vừa đi qua, là tụi nó ló mặt ra liền”, chính nơi này, Đức Râu và cặp Fom của anh đă làm Việt Cộng điên đảo. V́ là tầu nhỏ, một tầu tiến vào lạch, kéo theo chiếc Fom khác quay mũi trở ra . Như thế lạch hẹp, tầu phải vừa đi vừa vén lau mà lủi, không thể xoay sở, chẳng thể quay đầu. V́ thế Việt Cộng tin là ” lạch hẹp, bố bảo tụi tầu cũng không dám vào đây”. Vậy mà Đức Râu bảo:” Ông thầy cứ nằm ngoài kinh. Để tôi vào.” Vào sâu nằm đó, khi ở ngoài kinh đoàn tầu đă đi. Trong lạch um tùm, hai chiếc Fom nằm im khe. Tụi Việt Cộng ló ra , chèo ghe đi lại. Cho thật chắc, để chúng xuất hiện đông, là Fom khai hỏa. Chúng chạy đâu cho thoát. Lúc ấy chiếc Fom buộc sau chiếc Fom đi đầu, mở máy chạy, kéo theo chiếc thứ nhất trở ra kinh lớn… Sự gan dạ và thông minh ấy của Đức, Đức Râu, đă làm địch khiếp vía. Bao nhiêu xác địch đă bị bỏ lại trên bờ kinh. Bao nhiêu gạo,muối, đồ tiếp liệu của địch đă tịch thu được, một phần không nhỏ là do Đức với cặp Fom đem về.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1609092&stc=1&d=1593440713

Tiểu Giáp Đỉnh FOM và Trung Vận Đỉnh LCM8 của một Giang Đoàn Xung Phong
Hải Quân VHCH

Rồi một hôm, giữa năm 1965 cũng chính từ chiếc Fom của Đức HQ 5001,HQ 5002 gọi về, giữa trưa:” Tôi bị bắn, lạ lắm. Lửa phát ra xanh lè. Đạn xuyên từ bên trái tầu, qua luôn thành bên phải, ghim vào bờ kinh nổ bùng. Chúng bắn xong lủi rất nhanh vào khúc quẹo..”. Cả Giang Đoàn bàn tán. Các chi tiết ấy đă được sĩ quan Ban 2 ghi lại, gửi về Bộ Tổng Tham Mưu. Sau này mới hay đó là loại súng mới rất lợi hại của địch: B40. Và cũng từ đó , thay v́ chỉ là súng ngựa trời, CKC, Bá Đỏ, Việt Cộng có loại AK 47 , nhẹ, bắn liên thanh. Cũng từ lúc ây, tin đồn Việt Cộng treo giải, ai giết được Đức râu sẽ được thưởng 200 ngàn đồng, số tiền tương đương với nhiều lạng vàng. Một gia sản lớn. Nghe thế, đọc các truyền đơn ấy, Đức râu chỉ cười. Ngồi thừ trên mũi Fom, uống rượu t́ t́.
Ở lâu quá một con tầu không nên, cần phải thuyên chuyển qua tầu khác để có kinh nghiệm mới , và cũng là dịp cho nhân viến khác lên thay, để có cơ hội học hỏi thêm. Đức râu được lên làm thuyền trưởng chiếc Tiền Phong Đĩnh (Monitor Combat), HQ 6001.

Tiền Phong Đĩnh c̣n gọi là Thiết Giáp Đĩnh, là loại chiến đĩnh được trang bị hùng hậu nhất trong các chiến đĩnh hoạt động trên sông, dài 60 bộ, rộng 17 bộ. Trước mũi là đại bác 40 ly, pháo tháp dày. Ở giữa chiến đĩnh có một súng cối 81 ly, hai đại liên 12 ly và hai đại liên 30, và nhiều súng nhỏ, kể cả súng phóng lựu M 79. Hai máy dầu cặn, hai chân vịt nên xoay sở dễ dàng, tốc độ 8 gút. Nhân viên cơ hữu độ mười người. Khi cuộc hành quân quy mô, thường có các sĩ quan trưởng toán hiện diện tại đây. Đức râu được biết “phải” rời cặp Fom cuả anh để lên làm thuyền trưởng chiếc Tiền Phong Đĩnh HQ 6001. Anh không muốn lên, v́ như nhiều người biết, ở đây gần mặt trời, lại là chiến đĩnh lớn, khó tung hoành. Nhưng anh không thể từ chối. V́ thâm niên công vụ, anh sẽ đeo lon Thượng Sĩ nay mai, không thể ở măi trên tầu nhỏ được.

Làm quen với chiến đĩnh này, cũng không khó đối với anh. Với tướng mạo hùng dũng ấy, các tay đàn em sợ một phép.

Trận Ba Rài 29/9/1965

Giang kể:
"Cuộc hành quân dựa theo tin t́nh báo cuả SĐ 7BB theo đó Trung Đoàn chính quy BV có trang bị vũ khí nặng đă có mặt trong vùng. SĐ 7 BB đă mở cuộc hành quân bao vây trước đó một ngày, lực lượng gồm nhiều Tiểu Đoàn TQLC và Bộ Binh SĐ 7. Lực lượng này đă bị cầm chân và không rút được, phi cơ cũng không can thiệp được v́ rừng cây dầy đặc. Phía ngoài, tại cửa sông lớn đi vào, địch đă để một thành phần súng lớn để diệt tầu Hải Quân (sau này, khi đụng độ mới biết, v́ chúng ngụy trang và bất động).

Do đó SĐ7/BB yêu cầu Hải Quân mở cuộc hành quân phối hợp thăm ḍ tiếp theo để có thể can thiệp cho kế hoạch: Rút quân và để phi cơ oanh tạc.

Giang Đoàn 21 Xung Phong và 27 Xung Phong do HQ Đại Úy Trần Văn Triết chỉ huy, mở cuộc hành quân thay cho HQ Thiếu Tá Huỳnh Huy Thiệp, đi họp ở Cần Thơ. Đoàn tầu đi tới vùng hành quân khoảng 2 giờ chiều. Tất cả nằm ngoài sông lớn. Riêng toán của tôi gồm Monitor Combat 6001 và hai Fom 5001-5002 được chỉ định đi vào kinh nhỏ bắt liên lạc với bộ binh. Toán của tôi chỉ huy gồm thuyền trưởng Nguyễn Văn Đức (Râu) và Trung Sĩ Sụn (Fom). Chúng tôi đă tiến sâu vào trong kinh và bắt liên lạc trực tiếp với lực lượng trên bờ tại xă Xuân Sơn. Tôi báo cáo ra ngoài cho Đại Úy Triết biết. Đại Úy Triết bèn cho một Monitor Comand với hai RPC hộ tống đi vào, và toán của tôi tiến ra yểm trợ. Tất cả đều yên lặng, không có cuộc chạm súng nào, nhưng không khí căng thẳng, v́ với kinh nghiệm cho biết, tôi đoán, địch sẽ đánh. Lúc trở ra. Thông thường, bất cứ cuộc hành quân vào sông rạch nào lúc vào không nguy hiểm bằng lúc trở ra; do đó thường tránh đi về cùng một đường. Nhưng trường hợp này không áp dụng được v́ độc đáo.

Khi quay trở ra, tiếp tay được với toán Đại Úy Triết, tôi nằm lại giữ an ninh thủy tŕnh, và Đại Úy Triết cho 3 giang đĩnh tiến sâu vào tiếp giáp với bộ binh trên bờ. Khi Hải Quân gặp Bộ Binh, địch không kềm chân Bộ Binh nữa v́ sợ Hải Quân phản công.

V́ thủy tŕnh quá dài, nên toán tôi giữ an ninh khúc giữa Đại Úy Triết cho monitor combat 6007 của Trung Úy Bảo vào giữ an ninh khúc ngoài.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1609093&stc=1&d=1593440713

Khoảng 4 giờ chiều, một phi cơ quan sát cho biết một tầu Hải Quân bị cháy phía ngoài đầu kinh. Đại Úy Triết liên lạc với Trung Úy Bảo không được và chỉ thị toán của tôi ra tiếp cứu. Khi gần tới tầu Trung Úy Bảo th́ tôi bị tấn công bằng đủ mọi loại súng nặng. Chiếc monitor combat HQ 6007 của Trung Úy Bảo là mục tiêu đầu tiên cho địch khai hỏa. Bảo bị thương nặng. Tầu bốc cháy và ch́m. Tôi cho lệnh 3 chiến đĩnh ủi thẳng vô bờ phản công. Địch đă xuất hiện với quân phục kaki vàng, nón cối rất đông. Chúng mở cuộc tấn công với mục đích cướp tầu, nhưng chúng không thể nào tiến tới gần tầu được.

Cuộc giao tranh rất khốc liệt. Toán giang đĩnh của Đại Úy Triết tiến trở ra bị ngay mấy du kích hai bên bờ bắn tỉa làm Thiếu Úy Hiền và Đại Úy David tử thương. Đại Úy Triết bèn ra lệnh cho tất cả rút ra ngoài sông lớn nhưng toán của tôi vẫn nằm ĺ ở lại , v́ đang đối đầu quyết liệt với địch. Chúng tôi đă tận dụng hỏa lực 40 ly, 20 ly, đại liên 50, 30, FM Bar. Địch quân không thể tiến lên được và chúng gục xuống sau những tiếng hô đồng nhất “xung phong”.

Khẩu đại liên 30 bên trái ngưng nhả đạn, tôi quay qua sờ thấy đầu Trung Sĩ Đức gục xuống, anh đă hy sinh. Tôi được lệnh Đại Úy Triết phải rút ra ngoài. Tôi báo cáo t́nh h́nh và cho biết tầu tôi bị trúng rất nhiều đạn súng lớn, trong đó có bị một lỗ lớn, nếu rút ra sẽ bị ch́m. Về nhân viên, có Trung Sĩ Đức hy sinh, Trung Sĩ Thức thuyền phó monitor bị thương nặng ở chân. Một phóng viên AP bị một viên đạn vô ngực, ông ta rất tỉnh, nhưng báo sự nguy hiểm sẽ đến với ông ta. Vài phút sau khi gặp th́ ông ta cũng ra đi. Số c̣n lại tất cả đều bị thương, nhưng vẫn c̣n chiến đấu hữu hiệu. Chúng tôi phải tận lực mới đẩy lui được những đợt tấn công cướp tầu của địch.

Khoảng 11 giờ đêm, tiếng súng thưa dần. Tôi yêu cầu Đại Úy Triết cho vô tiếp cứu, nhưng vô hiệu.

Nằm lại một ḿnh cho đến khi im tiếng súng , chúng tôi 9 thày tṛ đă chuẩn bị tất cả vũ khí cá nhân, lựu đạn để nếu tàu bị ch́m , không ở lại tàu được th́ sáng hôm sau sẽ t́m đường bộ về Cái Bè. Nhưng nhờ trước đó chúng tôi đă cho cột dây an toàn từ bít sau lái lên gốc cây trên bờ, nên tàu không bị vô nước, nhờ đó mới kèm kéo về an toàn…”

* * * * *

Con rạch Ba Rài bắt nguồn từ Quận Lỵ Cái Bè dài trên 10 cây số, chảy ra sông Cửa Tiểu theo hướng Bắc Nam. Ḷng rạch hẹp, nơi rộng nhất ở ngă ba Ba Rài- Cửa Tiểu, hai bên bờ rạch không quá 100 mét. Con rạch cắt một góc chéo 25 độ rồi uốn khúc, tạo thành một doi đất, bề ngang doi đất không quá 600 mét. V́ thế từ cửa rạch không thể nh́n thấy phía trong. Hai bên bờ cây rậm rạp, những hàng dừa đứng chen nhau như thành. Suốt cả chiều dài của bờ rạch như thế, nên cuộc đụng độ giữa một đơn vị chủ lực Việt Cộng với các đơn vị của sư đoàn 7 Bộ Binh, có cả Thủy Quân Lục Chiến từ mấy ngày qua. Hai bên cứ cầm chân nhau , không bên nào tiến lui được. Hai bên đều nh́n thấy nhau, chỉ cách mấy hàng dừa. Quá gần cho nên không thể gọi pháo binh tác xa. Quá rậm nên không có chỗ để trực thăng đổ quân tiếp viện. V́ thế, Sư Đoàn 7 Bộ Binh đă trông cậy vào Hải Quân: Giang Đoàn 21 và 27 Xung Phong. Giang Đoàn 21 là một đơn vị kỳ cựu, nhân viên và sông nước quen nhau, và cả địch lẫn ta quần nhau cũng lắm. Riêng Giang Đoàn 27 Xung Phong vừa mới thành lập, dưới quyền chỉ huy của Hải Quân Đại Úy Trần Văn Triết, một sĩ quan mới từ đơn vị biển đổi về sông. Sau mấy tháng huấn luyện, đây là lần đầu tiên Giang Đoàn 27 Xung Phong đem toàn lực ra quân, với tất cả các chiến đĩnh của Giang Đoàn 21 Xung Phong.

Nhiệm vụ của cuộc hành quân này là Hải Quân tiến vào rạch Ba Rài, hỗ trợ cho các đơn vị Bộ Binh rút từ Xă Xuân Sơn, phía Đông rạch Ba Rài sang bên kia rạch. Hải Quân, cả hai Giang Đoàn đă tiến vào. Dưới hỏa lực hùng hậu của các giang đĩnh, Việt Cộng đă án binh bất động. Đơn vị bạn đă rút an toàn, và dùng tầu Hải Quân băng qua bên kia bờ. Tất cả đă diễn ra êm ả, từ 2 giờ cho đến 4 giờ chiều. Đoàn tầu bắt đầu rút, nước đă xuống. Tàn cây che phủ ḷng sông,tối, lạnh. Việt Cộng đă phục sẵn tại doi đất gần cửa rạch và bắt đầu tấn công vào đoàn tầu của ta. Đây là một cuộc thử lửa khốc liệt giữa một đơn vị chủ lực của Việt Cộng và hai Giang Đoàn được coi là tinh nhuệ của ta.

Dù trận chiến đă diễn ra trên 30 năm, nhưng may mắn thay, các nhân sự ṇng cốt của cuộc thử lửa này, hiện ở Mỹ c̣n nhớ được, và đă thuật lại qua các câu trả lời trên giấy hoặc qua các cuộc điện đàm mới đây. Đó là anh Nguyễn Ngọc Giang lúc ấy là Trung Úy, lên lon tại mặt trận tŕnh bày ở phần trên; và anh Diệm, Đặng Diệm, người lăn lộn với Giang Đoàn 21 Xung Phong rất nhiều năm. Đặng Diệm kể:

“Như anh biết, tôi cũng chẳng gan dạ ǵ, nhưng việc tới tay th́ phải làm. Vùng sông nước này tôi hoạt động khá lâu nên khá rơ. Lúc đoàn tầu bị tấn công, tôi ở trên chiếc monitor command. Đại Úy Davis và Thiếu Úy Hoàng Hiền cũng ỏ trên tầu này. Hiền bị đạn, lăn lộn dữ lắm, mấy người ôm anh ấy để tránh rớt xuống sông. Lúc đă rút ra ngoài sông lớn, Đại Úy Triết đi Cái Bè họp với bên Bộ Binh. Trong Lúc ấy hệ thống truyền tin vẫn mở, tiếng Giang báo cáo, kêu cứu, tất cả các tầu đều nghe. Tôi kiểm chứng mật mă riêng với Giang. Giang trả lời rất nhanh. Tôi gọi 4, Giang đáplại ngay 9, để 9+ là 13. Con số 13 chỉ có hai đứa tôi biết mà thôi. Tôi tin là Giang không bị địch áp đảo. Giang tiếp tục kêu tiếp cứu gấp rút. Các thuyền trưởng họ cùng mở máy nghe, họ nóng ruột quá. Chỉ huy Trưởng th́ đă đi họp. Tôi bèn lấy quyết định một ḿnh vào cứu Giang, và yêu cầu ai t́nh nguyện th́ theo tôi. Phải nói là lúc đụng trận th́ ḿnh không sợ, ḿnh phản ứng tự nhiên. Giờ cuộc đụng độ đă tàn. Nhớ lại Lúc Đại Úy Davis ngă xuống và Hoàng Hiền lăn lộn đầy máu, tôi cũng cảm thấy hăi chứ. Mà chắc ǵ địch không phục ở cửa sông. Có thể là chỗ tầu Giang đă yên, yên thật, hay yên giả. Nhưng làm sao khác được, tôi lấy một chiếc command, 2 LCM và 2 chiếc fom trở lại rạch Ba Rài. Tôi nói với Giang: ” Khi nào nghe tiếng tầu tôi th́ lấy đèn pin làm hiệu…” Phải nói là liều chứ anh, run lắm, sĩ quan chỉ có ḿnh tôi. Con rạch tối om, lạnh ngắt. Khi nghe Giang báo cáo:” Tôi đă nghe tiếng tầu,” là lúc tôi thấy ánh đèn pin lập ḷe của Giang vẫy vẫy. Tôi cho hai chiếc fom khai hỏa phía bờ đối diện. Tầu tôi cặp vào tầu Giang. Đón được Giang và các nhân viên trên chiếc combat qua tầu tôi, tất cả chúng tôi đều bê bết náu. Tầu tôi lùi ra, để cho hai chiếc LCM cặp vào chiếc combat kéo về. Lúc trở ra. Trời đă khuya lắm, có lẽ đă quá nửa đêm. Vừa đi vừa bắn. Về đến cửa Mỹ Tho, như anh biết là 4 giờ sáng. May mà không có sự ǵ xẩy ra, nếu tụi nó phục sẵn, ḿnh làm sao mà không bị thiệt hại. Lúc ấy thật khó nói…”.


https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1609094&stc=1&d=1593440713

Các Chiến Đỉnh của một Giang Đoàn Xung Phong

Trong khi cả hai giang đoàn hầu như dốc toàn lực cho cuộc hành quân này, th́ riêng tôi được phân nhiệm đem một chiếc LCM và hai LCVP, chở theo một trung đội bộ binh, đổ bộ bên tả ngạn sông Tiền Giang, đối diện với vùng hành quân trên để nghi binh. Tôi c̣n được chỉ thị kỹ chỉ cần đổ quân gần bờ, bắn cho có tiếng súng, đừng vào sâu, và phải rút về lúc quá trưa, để c̣n liên lạc với bên Tiểu Khu lo việc làm lễ gắn huy chương cho vị cố vấn tiền nhiệm, và cũng là lễ giới thiệu Đại Úy Davis, tân cố vấn.Như đă dự trù, tôi đem mấy chiếc tầu về đến căn cứ lúc 2 giờ, nằm ngủ một lát để lát nữa qua Tiểu Khu mượn ban nhạc, th́ anh Trung Sĩ Vô Tuyến gơ cửa, tôi bảo ” vào đi”. Anh ta nói, mặt xám ngắt:
– Ông thầy xuống Pḥng Vô Tuyến đi. Tôi chạy xuống ngay, đóng cửa lại, và mở cả hai hệ thống truyền tin. Tiếng súng vọng lại từ mặt trận dội về xen lẫn các cuộc đối thoại giữa các chiến đĩnh trên hệ thống chỉ huy. Có Lúc tiếng nổ dội về, và hệ thống âm thoại tắt.. .Đúng là đụng to rồi. Tôi ra lệnh cho đóng cổng trại, cấm trại 100%, để sẵn sàng nhận lệnh từ mặt trận gọi về. Tất cả đă diễn tiến như anh Giang đă tả”.
Khi tiếng anh Diệm êm ả gọi, cho hay:” Tụi này sẽ về đến căn cứ độ 40 phút nữa. Sẵn sàng xe cứu thương và y tá…”

Tôi khoác áo ấm đeo súng Colt và đèn pin đứng đợi tại cầu tầu cùng với xe cứu thuơng và cáng. Đoàn tầu đă nh́n thấy lấp lánh tiến về từ từ cặp vào cầu tầu. Diệm bước lên đầu tiên, d́u Giang theo. Dưới ánh đèn vàng, chỉ thấy toàn người Giang đầy máu. Giang vẫn đi lại được. Tất cả nhân viên trên chiếc Tiền Phong Đĩnh cuả Giang lên ngồi kín chiếc xe Hồng Thập Tự. Sau đó, một xe khác chở cái băng ca, xác cuả Đức Râu vàng khè và toàn thân sũng máu.. Tất cả lặng lẽ di chuyển qua Bệnh Viện Dă Chiến. Các nhân viên c̣n lại, kể cả dưới tầu, trên căn cứ xúm lại lấy ống bơm xịt, rưả chiếc tầu vưà từ mặt trận về. Trời sáng dần, mặt sông đă óng ánh bóng nắng, và cũng là Lúc tôi nhận thấy nước từ trên chiến đĩnh chảy xuống vẫn đẫm đẫm máu đỏ.

Trời sáng hẳn, cả cầu tầu đă trở lại êm ả, sạch sẽ như thường lệ.

Tổng Kết Trận Ba Rài
Được chỉ huy bởi một vị sĩ quan vừa từ biển đổi về sông, kinh nghiệm chiến trận kể như c̣n “lỏng tay”, đây là một cuộc tranh hùng khốc liệt. Dù địch đă chuẩn bị sẵn chiến trường, có đủ yếu tố bất ngờ, và giờ giấc thuận tiện: Lúc 4 giờ chiều, giờ của họ, nước thấp, chúng ở trên cao bắn xuống. Nhưng ta đă “đáp ứng”ngon lành. Không ai có con số chính xác về tổn thất của địch, nhưng xác địch nổi trên mặt sông nhiều gấp 3,4 lần bên xác của ta, đó là chưa kể số thương vong trên bờ mà địch đă vội vă mang đi chắc cũng không dưới 100, v́ 57 súng đủ loại để lại là một chứng minh cụ thể. Bên ta tuy có một tầu ch́m, số thương vong chưa quá 20. Và vũ khí được bảo toàn.

Tại đơn vị, những phái đoàn lên xuống tấp nập . Đầu tiên là các cô nữ xă hội của Thiếu Úy Sa. Các cô đem dầu gió, vải trắng làm khăn tang.. Lần lượt là thân nhân của nhân viên đơn vị. Tất cả ngồi chật ních, rũ rượi ở Câu Lạc Bộ. Hải Quân Đại Tá Trần Văn Chơn, Tư Lện Hải Quân cũng có xuống. Ông xuống thăm chiếc monitor combat HQ 6001. Ông nh́n lỗ thủng do đạn địch bắn vào, ông x̣e bàn tay che chưa kín lỗ đạn, và nói với Giang:” Có bàn tay trời che chở cho anh…”.

Trong lúc ấy tại khúc sông con rạch Ba rài, Bộ Binh đóng đầy. Những đám khói hương cắm dọc theo mé sông, những vũng máu đen đặc, tanh nồng. Vũ khí địch bỏ lại tất cả là 57 khẩu đủ loại. Dưới nước, tầu của ḿnh ủi băi. Nước vẫn lên xuống điều ḥa. Lâu lâu từ dưới đáy sông lại trồi lên một xác. Tầu ḿnh ghé lại lật xác lên nhận diện. Bạn th́ vớt lên, lấy mền đắp lại. Địch th́ đẩy ra cho trôi theo gịng nước. Mấy ngày sau, xác Bảo mới nổi lên. Trước khi nổi có một đám bọt xủi, rồi một cánh tay nhô lên trước. Tay phải. Bàn tay c̣n cầm cái bút nguyên tử mầu vàng… Bây giờ sau hơn 30 năm đă qua, tôi chẳng c̣n nhớ được kỹ. Chỉ biết chắc là Trung Sĩ Thinh từ nhà xác về, đem theo các thẻ bài là tôi kư giấy khai tử cho các người chết, kèm theo các thủ tục xin quan tài kẽm và lệnh di chuyển cho các quân nhân tháp tùng.

* * * * *

Một buổi trưa ngày nghỉ, tôi trực nhật, ngồi từ trên lầu pḥng ngủ sĩ quan, nh́n qua bên kia Cù Lao Rồng. những mái nhà xen giưă mấy lùm cây. Trẻ con nô đuà dưới mé nước. Lấy ông nḥm nh́n kỹ vào phiá trong, có những ông già ngồi trước hiên nhà đang lặng lẽ uống rượu. Đàn vịt, đàn gà chạy loanh quanh. Mấy bà già và các cô gái đun nấu gần đó. Cảnh trí êm ả, thanh b́nh. Nhưng tôi nghĩ: ”Rất có thể các ông già kia là các mật báo viên cuả phiá bên kia. Địch lăn lộn, trà trộn với dân thật là xảo quyệt.

Tôi đảo ống nḥm về phiá cầu tầu. Một đoàn chiến đĩnh nằm như ngủ. Riêng chiếc Tiền Phong đĩnh HQ 6001, tầu cũ cuả Đức Râu, có mấy người lính đi lại. Tôi theo dơi, và tôi thấy họ xếp một điă đồ nhậu ra sàn tầu, một thùng bia Quân Tiếp Vụ. Tôi nghĩ: ” Lại nhậu cho đỡ buồn đây…” Nhưng không phải thế. Mấy nhân viên ăn mặc đàng hoàng, ngồi sau các thứ họ vưà bầy ra, rồi bật diêm, đốt nhang, cắm vào một ly gạo. họ đang làm lễ, và tôi chợt nhớ, hôm nay 49 ngày cuả Đức Râu rồi đây. Tôi muốn xuống với họ, xong tôi nghĩ:” Thôi để họ tự nhiên.”.

Cũng xung quanh thời gian ấy, một hôm cụ bà, thân mẫu của anh Hoàng Hiền t́m tới đơn vị để nhận lại các di vật của con. Cụ muốn lên căn pḥng cũ, nơi HQ Thiếu Úy Hoàng Hiền đă ở. ” Dạ, đây là giường nằm của anh ấy.” Cụ ngồi xuống mé giường, lặng lẽ. Cụ x̣e bàn tay gầy vuốt lên mặt nệm. Đôi Lúc bàn tay cụ dừng lại như lắng nghe, như t́m chút hơi ấm nào của con c̣n sót lại. Cụ ngồi khá lâu rồi đứng lên. Cụ nói:” Nhà tôi cũng bị chết v́ Việt Cộng, giờ lại đến nó…” Cụ nói êm ả điều ḥa như chuyện của ai. Mảnh sân đơn vị nắng bỏng. Cụ bước đi thong thả. Trên đầu cụ cuốn một mảnh khăn trắng dài, phủ xuống sau lưng. Bóng cụ đổ trên nền sân, cụ nắm chặt cây kiếm Hải Quân của cậu con trai trong ḷng bàn tay nhăn nheo của cụ.

Bây giờ, đă cuối năm 1998, đọc cuốn Vietnam, the Decisive Battles, ( Những Trận Chiến Quyết Định tại Việt Nam), Tác giả, ông John Pimlott, có nói đến trận Ba Rài. Tôi đọc kỹ, đây là một trận đánh khác, nhưng cũng xảy ra tại nơi trên, nhưng thời gian trận sau diễn ra vào ngày 15 tháng 9 năm 1967, trước hai tuần lễ đầy hai năm sau trận mà hai Giang Đoàn 21 và 27 Xung Phong đă chạm địch. Trong trận sau, các chiến đĩnh của Hoa Kỳ, loại mới, tối tân hơn (ATC), đă đụng với Tiểu Đoàn 263 D của Việt Cộng. Phải chăng đơn vị này của địch đă đụng với Hải Quân Việt Nam trước đó. Trận sau , dù địch có yếu tố t́nh cờ và địa thế đă chọn sẵn, địch cũng đă để lại 79 xác chết.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1609095&stc=1&d=1593440713

Một sự trùng hợp nữa rất lạ lùng, trận 29 tháng 9 năm 1965, Đại Úy Davis đă chết. Trận sau, cũng có một sĩ quan Mỹ tham dự trận đánh, tên ông cũng la Davis (Wilbert). Ông ta sống. Và nơi diễn ra trận đánh đă được Mỹ đặt cho một cái tên ngộ nghĩnh là Snoopy’s Nose. Với tôi, tôi đồng ư với Giang rằng, nếu trận năm 1965, vị chỉ huy Giang Đoàn 21 Xung Phong, HQ Thiếu Tá Huỳnh Duy Thiệp có mặt, t́nh thế chắc sẽ khác hẳn. Và, Đức Râu, vẫn dong duổi bén nhậy trên cặp Fom, con ngựa Xích Thố của Giang Lực, Việt Cộng khó có khả năng khai hỏa êm xuôi như vậy. Chính trận này, lần đầu tiên chúng dùng B 40 công phá đoàn tầu.

Đối Phương Đă Nói Ǵ Về Trận Ba Rài
Trong tập tài liệu lưu hành nội bộ nhan đề “Những Trận Đánh của Lực Lượng Vơ Trang Đồng Bằng Sông Cửu Long”, do nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, năm 1997, trận Ba Rài đă được viết lại tỉ mỉ, và chiếm một số lượng trang từ 104 đến 126, người viết đề tên Trung Tá Nguyễn Thanh Sơn. Đây là một bài viết công phu, từ những nhận định địa h́nh, thời tiết, t́nh h́nh lực lượng hai bên, t́nh h́nh dân chúng, những giả thuyết trận liệt, rồi diễn tiến trận đánh và cuối cùng là kết quả và ư nghĩa của trận này.

Từ đó ta biết rằng đơn vị đối đầu với ta tại Ba Rài ngày 29 rạng 30 tháng 9 năm 1965, là tiểu đoàn 261. Tiểu Đoàn này đă được trang bị vũ khí nặng. Riêng "Đại Đội Bộ Binh 1" của Việt cộng, có nhiệm vụ "chận đánh tầu địch trên sông Ba Rài", có 3 khẩu DKZ 57 ly, 2 khẩu 12ly 7, và ba khẩu B 40. Trận đánh đă diễn ra ác liệt, phù hợp với những ghi nhận của phía HQVN ta.

Có điểm kết quả trận đánh th́ chúng khoác lác rất lạ, Việt Cộng viết nơi trang 119 rằng:
"Sau một ngày chiến đấu, ta đă tiêu diệt 500 tên địch. Bắn cháy và ch́m tại chỗ 5 tầu chiến (có một tầu đầu hàng). Thu một cối 81 ly, 1 súng 12,7 ly, 2 đại liên, 8 cac bin, 1 máy vô tuyến điện và nhiều quân trang quân dụng khác. Phá hủy một DKZ 5 ly,1 súng 12,7 ly. Bắn rơi 5 máy bay.

Ta hy sinh 18 đồng chí (có 3 cán bộ trung đội). Bị thương 32 đồng chí. Bị phá hỏng 1 B 40 và 4 súng tiểu liên".
Thưa anh Nguyễn Thanh Sơn, không biết anh đă căn cứ vào đâu để có kết quả như trên. Nếu có th́ giờ, anh hăy lục lại loạt bài nhan đề ” Đoàn Tầu Đi Vào Cơi Chết Để T́m Ra Lối Sống”, đăng liên tục nhiều ngày khoảng đầu tháng mười năm 1965, trên nhật báo Tiền Tuyến, Sài G̣n, người viết đă ghi lại đầy đủ chi tiết về phía Quân Lực Việt Nam. Có đầy đủ các thiệt hại, và tên tuổi của người đă nằm xuống trong trận này. Đó là một trận đánh quả có gây xúc động tới các giới chức cao cấp của chúng tôi, v́ trận này sĩ quan Hải Quân chết nhiều nhất: Hai người là Trần Ngọc Bảo và Hoàng Hiền. Phía Mỹ, Đại Úy Davis, vị tân cố vấn vừa đáo nhậm, đây cũng là lần đầu tiên các anh đă xử dụng B 40 đánh phá đoàn tầu. Một loại vũ khí mới và rất công hiệu. Và chúng tôi rất tiếc, “Con Ngựa Xích Thố của Giang Lực”, Trung Sĩ I Lê Phước Đức, người mà phía các anh đă khiếp hăi, đă treo giải” ai giết được Đức Râu th́ sẽ được trọng thưởng...”. Đó là nỗi đau đớn, thiệt hại của chúng tôi. Quả các anh có bắn cháy và ch́m 1 chiếc tầu, trên có Bảo, bạn tôi chỉ huy. Tầu ch́m, rồi chúng tôi lại vớt lên, kéo về. Một chiếc khác bị thiệt hại nặng, trên đó có Giang điều động. Chiếc tầu đó có thủng, không chạy được, nhưng đă không ch́m. Phía các anh đă nhiều phen vừa hô “xung phong” vừa ào lên định cướp tầu. Mỗi lần như thế, lại một lần phía các anh gục xuống. Chỉ riêng với chiếc tầu này, khách quan mà nói, con số 20 người chết về phía các anh, có lẽ là con số quá nhỏ. Làm ǵ có chiếc tầu nào hàng các anh đâu? Trong khi đó, như bài viết ở trang 113, các anh đă phải đối đầu với " 7 tiểu đoàn bộ binh, 8 khẩu 105 và 155 ly trực tiếp chi viện. Trên sông có 12 chiếc tầu chiến. Ngoài ra c̣n có phi cơ các loại tập trung chi viện cho cuộc hành quân càn quét này".

Thưa anh Sơn, có thể các anh đă ước định sai số quân bên phía chúng tôi. Xin hăy giả thử chỉ một nửa quân số nói trên, họ lại là một loại binh chủng mà các anh kêu là “ác ôn, lính thủy đánh bộ,” họ đâu có phải là hàng chuối ở vườn, đứng im cho các anh tới hạ. Nếu quả các anh có một may mắn nào đó, tiêu diệt được độ một trăm người, tôi nghĩ cũng đă là oanh liệt lắm. Chiến công ấy do ai chỉ huy, ai là những ” xạ thủ ngoan cường” của các anh, sao không thấy các anh nhắc đến?

Những luận cứ vu vơ đó chỉ làm cho tập tài liệu của các anh trở thành một tṛ cười, không c̣n một chút khả tín nào nưă. Chỉ có “18 đồng chí hy sinh,” vậy th́ 57 khẩu súng đủ loại bỏ rải rác hai bên bờ sông Ba Rài là của ai. Các vũng náu đen đặc, và những xác chết nổi lên không đếm được trên sông Ba rài, các xác đều mắc quần áo Kaki Nam Định, là xác chết nào hở anh Sơn???

Thưa anh Sơn,
Khi cuộc chiến c̣n đang tiếp diễn, các anh cần thổi phồng chiến công để tuyên truyền, chúng tôi đọc đến nỗi phải ph́ cười nhưng vẫn c̣n thông cảm được. Nay cuộc chiến đă tàn. Cả khối Cộng Sản đă vỡ. Các anh đă phải mở cửa để long trọng đón kẻ thù cũ là ” Đế Quốc Mỹ” vào như một thượng khách. Sự thực về cuộc chiến đă được từ từ phơi bầy. Lẽ ra đây là lúc các anh phải thật khách quan, t́m hiểu, đối chiếu tường tận để trả sự thật cho sự thật. Đó mới là thái độ trí thức của người viết sử. Anh đă không làm thế. Các anh đă không làm thế. Riêng anh, anh Sơn, anh viết bừa băi, cẩu thả, đă đành. Trên anh c̣n có ông Phó Tiến Sĩ Phạm Gia Đức, người chịu trách nhiệm xuất bản. Ông Đức có lẽ đă không thèm nh́n lại bài viết của anh. Hoặc có đọc mà không có khả năng suy xét, nhận thức. Phải chăng ông ta là một ông tiến sĩ giấy ? Học vị càng cao chỉ càng làm cho tṛ cười thêm lớn. Tuy nhiên nói đi cũng phải nói lại, chính sự ngộ nghĩnh nghịch lư nói trên đă giúp phía chúng tôi ít phải mất th́ giờ so sánh, biện bạch. Và bên cạnh đó, anh Sơn c̣n dẫn một câu (mà không nêu rơ danh tánh) rằng:” Trận đánh này chỉ huy tiểu đoàn bộ binh 261 đă xác định lực lượng nguy hiểm trực tiếp trước mắt là đoàn tầu chiến trên sông Ba Rài” (trang 123). Thế là đủ.

Tôi xin dừng ở đây nghe anh Sơn. Trước khi bài này được in và chuyển ngữ, chúng tôi sẵn sàng đón nhận ư kiến từ mọi phía, kể cả tác giả bài viết của nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội.

Ôi Những Anh Linh Bên Gịng Sông Cũ
Bây giờ, tính từ năm 1967 đến nay, đă trên 30 năm. Cuộc chiến cũ đă nhạt nḥa. Người chiến binh Mỹ đă trở lại Việt Nam du lịch. Những con thuyền gỗ có mái che, chở các du khách lướt trên mặt nước đục ngầu Cửu Long Giang được in trên các báo Mỹ. Và tôi chắc, từ hải ngoại, có lẽ đă không thiếu bà con, bằng hữu chúng ta trở lại thăm thân nhân, chốn cũ. Có ai đă tới Mỹ Tho không? Trước khi đến Mỹ Tho, từ Sài G̣n đi xuống bằng Quốc Lộ 4, chúng ta gặp tỉnh lộ 29 xuôi Nam. Qua Mỹ Hạnh Trung, vào Tỉnh Lộ 20, tới Long Điền, rẽ trái vào Tỉnh Lộ 12 ta sẽ đi qua một vùng đau khổ cũ. Phía mặt là Cẩm Sơn, phía Nam là Hiệp Đức, Xuân Sơn, ta sẽ gặp con rạch Ba Rài ở giữa đoạn đường này, tính từ Long Điền đến An Phú. Nơi đây vườn cây xanh tốt. Mận ở vùng này nổi tiếng ḍn, đỏ au như xác pháo hồng mùa Xuân. Con rạch Ba Rài ấy có các con thuyền đi lại. Các cô thiếu nữ má hồng trong áo bà ba tươi mát, quần Mỹ A óng ả. Dưới sông trẻ nhỏ bơi tắm nô đùa. Các cô gái và trẻ em này được sinh ra và lớn lên sau cuộc chiến đă tàn. Họ có biết đâu rằng, dưới ḷng con rạch này,chắc c̣n có những nắm xương nằm từ bao năm cũ. Và hàng cây bên sông, cây già trăm tuổi, có c̣n nhớ một thời khói lửa đă bùng lên, và nếu ai tỉ mỉ, xem lại các thân cây, những vết đạn cũ, chắc có những đầu đạn sản xuất made in USA, và có cả những đầu đạn từ Nga Sô, Trung Cộng đem lại. Những người trai của cả hai bên trận tuyến, có khi là anh em một nhà, bạn bè một quận… đă phải ào ạt giết nhau. Những linh hồn oan khuất chắc c̣n lẩn khuất bên các gốc cây xưa.

Ôi những anh linh kẻ Nam Người Bắc
Chết là oan cho một cuộc tương tàn

Là quân nhân Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa, chúng ta đă làm tṛn xứ mạng được trao cho. Thời cuộc đă gọi, ta nhập cuộc. Chúng ta đă anh dũng hành động. Bạn bè ta đă anh dũng hy sinh. Các bạn đích thực là những kẻ anh hùng. Tôi ao ước có một ngày về thăm chốn cũ. Tôi sẽ ngồi bên bờ con rạch Ba Rài, dưới bóng mát của các cây ăn trái, tôi sẽ cầu nguyện, sẽ đọc một thời kinh Giải Oan cho những người năm xuống tại nơi này. Hỡi Nguyễn Ngọc Bảo, hỡi Hoàng Hiền, hỡi Lê Phước Đức, tức Đức Râu, và bao nhiêu người nữa. Tôi ngưỡng mộ các anh. Xin các anh hăy lắng ḷng nghe kinh mà siêu thoát. Tổ Quốc ghi công các bạn.

Phan Lạc Tiếp

* Bài viết này được cô đọng qua các cuộc phỏng vấn bằng thư, bằng điện thoại giữa người viết và anh Nguyễn Ngọc Giang, Đặng Diệm, trong phần có dấu ngoặc kép” ” là nguyên văn lời các anh ấy phát biểu.

hoanglan22
07-04-2020, 15:04
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1612273&stc=1&d=1593875027

Ḿnh mới biết bài hát này “Cúc Ơi !” hơn 5 năm nay thôi. Mổi lần ḿnh nghe lại nước mắt chăy dài trên má, cổ họng như bị chặn lại nghẹt thở, cố gắng kiềm ḷng mà không được nhất là khi nghe đến câu: "đất sâu bao nhiêu bọn anh không cần biết, chỉ sợ em đau nên cuốc chùng tay"...

H́nh ảnh chiến tranh ngày xưa lại sống lại trong ḿnh....
Lâu quá không nhớ lại thời gian hay địa danh...

Có lần trong phi đoàn ḿnh đi làm cho Sư Đoàn 7 BB Trinh sát (theo XV12). Được lệnh chở "chiến lợi phầm" tịch thu được đem về căn cứ cho họ...

Sau buổi cơm trưa được tàu cơm mang đến từ Căn cứ Không quân. Đang nẳm nghĩ trưa th́ được lệnh quay máy và tiếp tục “cuộc hành tŕnh” trong ngày.

Ḿnh bên chiếc Trực thăng vơ trang số 1 (TTVT luôn luôn đi 2 chiếc danh hiệu Măng Xà Alpha và Măng Xà Brovo)... Khi 5 chiếc slick đem hết chiến lợi phẩm lên xong. Chiếc số 1 (Lead) vừa cất cánh và hợp đoàn cất cánh theo...
Hai TT vơ trang cất cánh cuối cùng theo sau, dưới cao độ thấp...

Khi chiếc số 1 chở CLP lấy cao độ chắc khoảng hơn 1000 bộ... ḿnh thấy nguyên một cụm lửa bao tṛn chiếc số 1 (Lead: dẩn đầu) và sau đó nổ tung trên không như quả cầu lửa.... Ḿnh chỉ thấy những mảnh vụng nhỏ ly ti bay tơi tả từ từ rơi xuống đất... Bị nổ v́ chiến lợi phẩm? (cho đến bây gị ḿnh cũng không biết lư do có vài lần đă hỏi bạn bè,bị gài nổ, hay chiến lợi phầm nổ hay phi cơ nổ) nhưng chắc chắn là không phải SA 7... Cả hợp đoàn bay tứ táng như đàn chim vỡ tổ, trên tầng số ồn ào như vỡ chợ.... Sau đó vài phút tất cả bay theo chiếc số 2 kết hợp đoàn lại... và tiếp tục phi vụ cho đến căn cứ SĐ9BB (Nếu nhớ không lầm là vậy???)

Riêng 2 chiếc TT vơ trang được lệnh phải xuống thấp, thật thấp để t́m xem có c̣n ai mai mắn hay thấy xác, thấy được vật ǵ c̣n lại không... Ḿnh c̣n nhớ rất rỏ khi nghe trong helmet (nón bay) lệnh của C&C (chỉ huy hợp đoàn) : "Măng xà Alpha và Brovo (danh hiệu 2 TT vơ trang) các anh xuống thật thấp t́m kiếm và xem có thấy được ǵ không... Dù thế nào cũng phải t́m anh em dù là một manh áo bay c̣n lại và bay rộng ra t́m cho bằng được... (gần giống như trong lời bài hát: "đất sâu bao nhiêu bọn anh không cần biết....") Lệnh cấp chỉ huy đưa xuống là phải làm theo thôi... "bọn này cũng con người mà và cũng biết sợ chết vậy"... Nhưng lúc đó đâu có thời gian nghĩ hay lo sợ ǵ? chỉ biết "nghe 5/5" và thi hành...

Chúng tôi bay quầng sát đọt cây, ngọn lúa, ngọn cỏ mái cḥi tranh… Người dân vẫn khom lưng làm việc b́nh thường, có khi họ phải khom ḿnh xuống v́ sợ chúng tôi bay đụng họ, thỉnh thoăng có người đưa tay vẫy chào chúng tôi hay tống biệt? Những chú trâu, chú ḅ vẫn cậm cụi kéo cày kéo bừa như chúng tôi đang cậm cụi t́m xác bạn… Dù sao đi nữa cũng cảm ơn họ v́ chưa bắn lên. Có lẽ họ không dám thôi.

Hai chiếc TT vơ trang cố gắng miệt mài theo ư Hoa tiêu và 16 con mắt mở to ra, Cơ phi, Xạ thủ 2 tay thủ súng sẵn sàng nhả đạn bất cứ lúc nào, đôi mắt như soi mói như muốn lật tung những mái nhà, những lùm cây buội cỏ, bờ kinh con rạch... gần 2 tiếng đồng hồ, tàu sắp hết xăng và được lệnh bay về đổ xăng thêm và bay lên vùng lùng tiếp... Chiếc C& C cũng bay ṿng t́m kiếm trên cao độ hơn chúng tôi.

Sau gần 4 tiếng đồng hồ t́m kiếm... Trời sắp tối mây mưa đen kéo đến như đe dọa... Chúng tôi cũng phải chấp nhận tṛ chơi "đùa với tử thần"này.... Nhưng chúng tôi không t́m thấy được ǵ và được lệnh bay về căn cứ...(Theo XV 12 nhớ là t́m được khúc chân của Xạ thủ Minh)...Xong phi vụ.

Trên đường bay về lại căn cứ, 4 người phi hành đoàn im lặng không ai dám nói ǵ, 4 cột khói thuốc bay tỏa trong ḷng tàu nhưng h́nh như không ai c̣n biết mùi vị ra sao… và bay tỏa ra ngoài quyện cùng gió như chia sẽ cùng những bạn bè đă ra đi hôm nay... Ai cũng theo đuổi ư nghĩ riêng của ḿnh và có lẻ đang khóc trong ḷng... Nhưng cũng có thể cùng chung một ư nghĩ là : "Bao giờ đến phiên ḿnh?"

Phi hành đoàn kém mai mắn gồm Tr/úy Hùng 4, Th/úy Minh, Cơ phi là Trung sĩ nhất Trường, Xạ thủ là Hạ sĩ Minh (Nếu ḿnh nhớ không lầm).... H́nh như Trường và Minh là 2 người bà con gần lắm hay là 2 anh em "cột chèo" lâu quá không nhớ rơ.???
Nguyện linh hồn các bạn được tiêu diêu nơi miền cực lạc cùng vui vẻ với bạn bè và thân nhân.

"Bọn mầy đă an phần rồi ... Tao c̣n vất vưỡng nơi đây nhớ đến bọn mầy".
Sáng Kennewick, June-30-2020.

Nhớ Bạn.
Tư “cùi” (Nguyễn Thiện Tư K5/69)
Cựu Cơ Phi PĐ 211 và PĐ 255
TLT-NTT.

(Xin cho copy h́nh này cho đẹp. Cảm ơn)


Đính chính:
Chuyện xăy ra gần nửa thế kỷ rồi.Có đúng có sai.
Ḿnh cố gắng nhớ và viết lại hầu để các huynh và các bạn đọc nhớ về "ngày xưa" thôi.
Nên có rất nhiều sai sót và nhớ lầm chuyện này sang chuyện khác,tên người này sang tên người khác.Mong các huynh và các bạn lượng t́nh tha thứ cho.
Xin gia đ́nh Xà Vương và XV 12 bổ túc và sửa sai dùm..Cảm ơn
--Ngày đó đi làm cho Trinh sát Sư đoàn 7 BB (không phải SĐ9)...theo XV12
--Hoa tiêu phó: Thiếu úy Minh (không phải Th/úy Trân)...theo XV12
--Chỉ có 1 chiếc (không phải hợp đoàn)...theo XV 12.Cảm ơn XV 12 bổ túc lại.
Cảm ơn vạn bội
XV Tư "cùi"

hoanglan22
07-17-2020, 15:08
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1620325&stc=1&d=1594998398
Thủy Quân Lục Chiến Mỹ tại chiến trường Khe Sanh năm 1968.
(H́nh: Bettmann/Getty Images)

Trận Khe Sanh bắt đầu vào ngày 21 Tháng Giêng, 1968, khi các lực lượng chính quy của Cộng Sản Bắc Việt, phối hợp với quân du kích của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, mở cuộc pháo kích và tấn công đại quy mô vào các căn cứ của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ trong vùng Khe Sanh gần biên gới Lào-Việt.

Trong suốt 77 ngày, Thủy Quân Lục Chiến Mỹ và các đơn vị của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, gồm Biệt Động Quân trấn thủ và Nhảy Dù tăng viện, đă giao tranh dữ dội với địch để đẩy lùi các cuộc tấn công của Cộng Quân.

Trong trận chiến này, 20,000 Cộng Quân đă được huy động để bao vây 6,000 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ cùng Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Ḥa. Nhưng Khe Sanh đă không thất thủ theo kế hoạch bao vây và tấn công của Cộng Sản Bắc Việt như trường hợp của Điện Biên Phủ hồi năm 1954 trong cuộc Chiến Tranh Việt-Pháp.

Bối cảnh trận Khe Sanh

Căn cứ Khe Sanh, một tiền đồn đèo heo hút gió ở vùng biên giới Tây-Bắc của Việt Nam Cộng Ḥa và cách vùng Phi Quân Sự 14 dặm (23 km) về phía Nam, tọa lạc trên ngọn núi cao nhất vùng Đông Trị thuộc Dăy Trường Sơn, cạnh sông Rào Quan, một chi nhánh của sông Quảng Trị, bao quanh là núi đồi và cây rừng trùng điệp. Phía Bắc và Tây Bắc có bốn ngọn đồi án ngữ là 881 Bắc, 861, 558 và 881 Nam. Khe Sanh chỉ cách biên giới Lào-Việt chừng 6 dặm (10 km) trên Đường Số 9 chạy theo hướng Đông-Tây nối liền Đông Hà thuộc tỉnh Quảng Trị, ngang qua Cam Lộ, Cà Lu, xuyên qua biên giới Lào-Việt tới tận Savannakhet bên Lào.

Các lực lượng Mỹ đă có mặt tại Khe Sanh từ năm 1962 khi Lực Lượng Đặc Biệt thiết lập một doanh trại gần đó, trên Đường Số 9, cách Khu Phi Quân Sự (DMZ) chừng 14 dặm (23 km) và sát với biên giới với Lào.

Đường Số 9 là trục lộ chiến lược quan trọng được Cộng Quân sử dụng để xâm nhập người và vũ khí từ Lào vào các tỉnh cực Bắc Việt Nam Cộng Ḥa. Thủy Quân Lục Chiến Mỹ có ba tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 26 đóng quân tại căn cứ Khe Sanh, đó là các Tiểu Đoàn 1, 2, 3 và Tiểu Đoàn 13 Cơ Giới cùng một đơn vị T́nh Báo chiến lược.

Mùa Thu năm 1967, bộ đội chính quy của Cộng Sản Bắc Việt bỗng dưng khởi sự tăng cường lực lượng của họ trong vùng Khe Sanh, khiến phía Mỹ tin rằng thế nào Khe Sanh cũng sẽ bị Cộng Quân tấn công.

Theo tài liệu “Trận Khe Sanh 1968” của hai tác giả Đại Úy Nguyễn Trung Tín và Đại Úy Nguyễn Hữu Viên trên trang mạng nhaydu.com, mặt trận Khe Sanh, v́ kéo dài tới hơn hai tháng rưỡi, không phải chỉ có một trận đánh mà bao gồm nhiều cuộc giao tranh, nhiều đợt tấn công và phản công của lực lượng hai bên.

Giao tranh đợt 1

Ngày 19 Tháng Giêng, 1968, một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Mỹ tảo thanh vùng đồi 881 Bắc đă đụng độ dữ dội với Cộng Quân. Chiều ngày hôm sau, Lă Thanh Ṭng, đại đội trưởng pháo đội 14 pḥng không thuộc Trung Đoàn 95, Sư Đoàn 325 Cộng Sản Bắc Việt, về đầu thú với quân bạn và tiết lộ kế hoạch tấn công cấp bách của Cộng Quân lên các Đồi 861 và 881 Bắc. Viên sĩ quan đầu thú này cũng tiết lộ rằng hai Sư Đoàn 304 và 325C của Cộng Sản Bắc Việt đă vạch sẵn kế hoạch đánh chiếm căn cứ Khe Sanh.

Quả thật, đêm hôm 20 Tháng Giêng, sau nửa giờ pháo kích, lực lượng Cộng Quân khoảng 300 người đă mở cuộc xung phong lên đồị và tấn công vào căn cứ. Trận đánh kéo dài đến 5 giờ 30 phút sáng th́ Cộng Quân rút lui, để lại 47 xác.

Sáng ngày 21 Tháng Giêng, căn cứ Khe Sanh bị pháo kích dữ dội với hàng ngàn quả đạn, khiến kho đạn bị nổ tung, phi đạo bị cày xới cùng một số trực thăng bị phá hủy trong khi đài kiểm soát không lưu cũng như nhiều dụng cụ quan trắc khí tượng bị hư hại.

Ngày hôm sau, Tiểu Đoàn 1/9 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ được trực thăng vận đến tăng viện cho Khe Sanh. Ngày 27 Tháng Giêng, Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Ḥa được không vận đến để tăng viện thành năm tiểu đoàn Mỹ-Việt cùng pḥng thủ căn cứ Khe Sanh.

Giao tranh đợt 2

Trong khi đó, tin tức t́nh báo ghi nhận lực lượng Cộng Sản rất hùng hậu và đang hiện diện chung quanh Khe Sanh, với ít nhất ba sư đoàn và thêm một số đơn vị biệt lập hỗ trợ khác. Ngoài ra, Cộng Quân c̣n huy động thêm một đơn vị thiết giáp với chiến xa T-54 cùng Trung Đoàn 68 bộ chiến và Trung Đoàn 164 pháo binh.

Từ ngày 5 Tháng Hai, 1968, tức Mùng Bảy Tết Âm Lịch, giữa lúc cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân của Cộng Sản Bắc Việt đang diễn ra khốc liệt tại Huế, Sài G̣n và nhiều tỉnh, thành trên khắp miền Nam Việt Nam, Cộng Quân bắt đầu liên tục pháo kích, tấn công bằng bộ binh và bao vây quanh ṿng đai căn cứ Khe Sanh. Địch quân đă bố trí rất nhiều ổ pḥng không chung quanh căn cứ, và các dàn pháo 130 ly đặt sâu trong các sườn núi từ phía biên giới Lào, cách Khe Sanh khoảng 14 dặm, tức 23 km.

Đêm 6 Tháng Hai, Cộng Quân sử dụng một biệt đội chiến xa thuộc Trung Đoàn 202 chiến xa, gồm 12 chiếc PT 76 có bộ binh tùng thiết và Trung Đoàn 101 D chủ lực yểm trợ, tấn công vào trại Lực Lượng Đặc Biệt tại Làng Vei, cách Khe Sanh 6 dặm (10 km) về hướng Tâỵ. Hôm sau, 7 Tháng Giêng, trại này bị Cộng Quân tràn ngập, khiến số binh sĩ và cố vấn Mỹ c̣n lại phải rút về Khe Sanh.

Ngày 9 Tháng Hai, một tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 101D của Sư Đoàn 325 Cộng Sản Bắc Việt tấn công đồi 64 do một đại đội Thủy Quân Lục Chiến trấn giữ. Những khẩu đại bác quanh vùng của quân bạn đều nhắm hướng đồi 64 mà tác xạ, trong khi một lực lượng Thủy Quân Lục Chiến khác được gởi đến tiếp viện. Sau hơn ba tiếng đồng hồ giao tranh, có 200 bộ đội Cộng Sản Bắc Việt chết và 26 binh sĩ Hoa Kỳ tử thương.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1620326&stc=1&d=1594998398

Khói lửa ngập tràn chiến trường Khe Sanh. (H́nh: Dave Powell/Getty Images)

Giao tranh đợt 3

Sau trận đánh ở Đồi 64 này, quân Bắc Việt tạm ngưng các hoạt động để bổ sung quân số. Chiến trường lắng dịu trong hai tuần. Ngày 11 Tháng Hai, Cộng Quân gia tăng pháo kích vào phi đạo của căn cứ, và các vận tải cơ C-130 đáp xuống phi đạo trở thành mục tiêu, khiến một vận tải cơ C-130 bị nổ, làm sáu nhân viên phi hành đoàn bị tử thương.

Ngày 21 Tháng Hai, một đại đội Cộng Quân tấn công vào pḥng tuyến của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Ḥa tại khu phía Đông căn cứ Khe Sanh, nhưng các chiến sĩ Mũ Nâu đă nhanh chóng bẻ găy cuộc tấn công của địch.

Ngày 23 Tháng Hai, 1,300 quả đạn đủ loại của Cộng Quân đă được bắn vào Khe Sanh. Trận địa pháo tám tiếng đồng hồ này đă làm nổ tung một kho tồn trữ đạn trong căn cứ, gây thiệt mạng cho 10 quân nhân Hoa Kỳ và 51 người khác bị thương.

Khoảng 9 giờ rưỡi đêm 29 Tháng Hai, một tiểu đoàn Cộng Quân thuộc Sư Đoàn 304 Cộng Sản Bắc Việt tấn công thẳng vào mặt Đông của Khe Sanh, thuộc khu vực trách nhiệm của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Ḥa. Sau một màn pháo kích dọn đường, và ba lần xung phong biển người, Cộng Sản Bắc Việt vẫn không phá được pḥng tuyến thép nên đành phải rút lui, để lại 70 xác chết.

Trước t́nh h́nh chiến sự nghiêm trọng tại Khe Sanh, Tướng William Westmoreland, tư lệnh các lực lượng Mỹ tại Việt Nam, đă chấp thuận một kế hoạch hành quân giải vây căn cứ này, mệnh danh cuộc Hành Quân Pegasus về phía Mỹ và cuộc Hành Quân Lam Sơn 207A về phía Việt Nam Cộng Ḥa.

Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù Việt Nam Cộng Ḥa chịu trách nhiệm khu vực phía Bắc Đường Số 9 và phía Tây căn cứ Khe Sanh, bao gồm ba tiểu đoàn dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Khoa Nam. Bộ Tư Lệnh Hành Quân Mỹ-Việt đóng tại căn cứ Stud gần Cà Lu, với quân số tham chiến lên đến khoảng 20,000 người và được sự yểm trợ của 300 trực thăng cùng 148 khẩu trọng pháo.

Ngày 1 Tháng Tư, cuộc hành quân hỗn hợp Mỹ-Việt chính thức khai diễn.

Giao tranh đợt 4

Liên tiếp trong hai ngày 2 và 3 Tháng Tư, hai Lữ Đoàn 1 và 2 Kỵ Binh Không Vận Mỹ được thả xuống phía Nam căn cứ Khe Sanh và Đường Số 9 để tảo thanh khu vực một đồn điền cũ của Pháp gần đó. Lực lượng hành quân đă đụng độ dữ dội với Cộng Quân tại đây và bị thiệt hại nặng, khiến quân Mỹ phải đưa thêm một tiểu đoàn Kỵ Binh Không Vận nữa đến tăng cường, nhưng Cộng Quân đă rút lui sau trận đánh.

Trong khi đó, các đơn vị pḥng thủ bên trong căn cứ Khe Sanh cũng bắt đầu đánh ra theo hướng Nam để chiếm lại Đồi 471 theo chiến thuật gọng kềm, ép các đơn vị thuộc Trung Đoàn 66 của địch vào giữa. Cộng Quân cố thoát ra khỏi ṿng vây, nhưng hỏa lực hùng hậu của các đơn vị bạn đă buộc họ phải rút chạy và bỏ lại chiến trường 148 xác.

Ngày 4 Tháng Tư, các Tiểu Đoàn 3, 6 và 8 thuộc Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù Việt Nam Cộng Ḥa được thả xuống khu vực LZ Snake ở phía Tây và Tây-Nam căn cứ Khe Sanh để chận đường rút lui của địch. Vừa ổn định xong vị trí vào buổi tối cùng ngày, Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù cùng với Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn đă bị địch quân tấn công phủ đầu v́ họ tưởng rằng đây là một đơn vị của Hoa Kỳ. Bị chống trả mănh liệt, địch đành phải tháo lui.

Ngày 6 Tháng Tư, các đơn vị Kỵ Binh Không Vận đă bắt tay được với Thủy Quân Lục Chiến bên trong căn cứ trên Đồi 471. Sau đó, một tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến mở cuộc càn quét khu vực chung quanh căn cứ, khởi đi từ Đồi 552 rồi đến Đồi 681.

Giao tranh đợt 5

Cùng lúc đó, về phía Bắc, một tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến khác cũng tiến ra Đồi 558. Mũi tiến quân này gặp sức chống trả mănh liệt của Cộng Quân, khiến quân Mỹ phải mất hết hai ngày mới bứng hết được các ổ kháng cự của địch.

Ngày 7 Tháng Tư, trong khi tiến về Khe Sanh dọc theo Đường Số 9, một tiểu đoàn Kỵ Binh Không Vận đă chạm địch mạnh tại địa điểm chỉ cách Khe Sanh chừng 2 dặm (3 km), nhưng quân Mỹ đă đánh bật được Cộng Quân ra khỏi các công sự pḥng thủ.

Khi biết có đơn vị Nhảy Dù Việt Nam Cộng Ḥa đến tăng cường ở ṿng ngoài, binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến bên trong căn cứ liền khai hỏa dữ dội về phía Cộng Quân, khiến địch quân bị mắc kẹt giữa hai lằn đạn. Bị dồn vào thế bí, Cộng Quân đă liều lĩnh gọi pháo tác xạ vào ngay lên đội h́nh của ḿnh nên bị chết rất nhiều và một số bị bắt sống, trong khi quân bạn cũng bị khá cao, trong đó Đại Đội 33 Nhảy Dù bị thiệt hại nặng nề nhất.

Sau khi Cộng Quân tháo chạy, lực lượng Nhảy Dù trở lại hành quân giải tỏa Làng Vei, lúc này đang do một tiểu đoàn Cộng Sản Bắc Việt chiếm đóng. Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù được lệnh chuyển hướng về phía Nam để án ngữ sườn phía Bắc của Làng Vei, trong khi đó một lực lượng của Sư Đoàn 101 Không Vận Hoa Kỳ th́ tiến từ hướng Đông tới. Chưa kịp ổn định vị trí chiến đấu th́ Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù đă bị địch xung phong tấn công. Trong khi các chiến sĩ Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù chống trả quyết liệt, Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù đă bắn yểm trợ khoảng 100 quả đạn súng cối trên hướng tiến quân của địch. Túng thế, Cộng Quân phải rút lui khỏi vùng giao tranh, về phía biên giới Lào.

Nhờ hai cuộc hành quân Pegasus và Lam Sơn 207A, các đơn vị Cộng Sản Bắc Việt đang được điều động đến tăng cường cho chiến trường Khe Sanh phải từ bỏ ư định tiếp tục tấn công v́ biết rơ rằng họ sẽ làm mồi cho hỏa lực khủng khiếp của Không Quân và Hải Quân Hoa Kỳ. Áp lực của địch nhắm vào căn cứ Khe Sanh từ từ giảm đi rồi chấm dứt hẳn.

Ngày 8 Tháng Tư, 1968, Căn Cứ Khe Sanh hoàn toàn được giải tỏa sau 77 ngày bị Cộng Quân vây hăm.

Trận Khe Sanh trong Chiến Tranh Việt Nam

Trận Khe Sanh được coi là trận chiến dài nhất và đẫm máu nhất đối với các lực lượng Hoa Kỳ trong suốt cuộc Chiến Tranh Việt Nam (1960-1975). Một số các nhà viết chiến sử cho rằng Tướng Vơ Nguyên Giáp của Cộng Sản Bắc Việt muốn dẫn dụ Hoa Kỳ dồn quân vào Khe Sanh để quân Cộng Sản có thể rảnh tay tấn công các nơi khác, trong đó có các thành phố và tỉnh lỵ trên toàn lănh thổ miền Nam Việt Nam vào dịp Tết Mậu Thân 1968. Thêm vào đó, khi cho quân bao vây Khe Sanh, Tướng Giáp hy vọng t́m đạt một chiến thắng tương tự như Điện Biên Phủ thời Chiến Tranh Việt-Pháp để buộc Hoa Kỳ phải nhượng bộ tại các cuộc ḥa đàm với phe Cộng Sản nhằm chấm dứt cuộc Chiến Tranh Việt Nam đang diễn ra vào thời điểm đó tại Paris.

Trong khi đó, một số tài liệu chiến sử Hoa Kỳ cho rằng Tướng Westmoreland đă “tương kế, tựu kế,” dùng căn cứ Khe Sanh làm mồi nhử cho Cộng Quân tập trung nhiều binh đoàn trong vùng để quân Mỹ dễ dàng tiêu diệt họ bằng hỏa lực của pháo binh và phi cơ, được cho là hùng hậu bội phần so với số bom, đạn mà quân đội Liên Hiệp Pháp sử dụng tại thung lũng Điện Biên Phủ 14 năm về trước.

Hỏa lực hùng hậu của Hoa Kỳ là yếu tố thiết yếu giúp đập tan kế hoạch đánh chiếm Khe Sanh của Cộng Sản Bắc Việt, mặc dù các chiến binh Cộng Sản đă chiến đấu rất mănh liệt và gan dạ. Và Hoa Kỳ đă có đầy đủ phương tiện để pḥng thủ, yểm trợ, và tiếp tế Khe Sanh trong 77 ngày, hoặc lâu dài hơn, nếu cần.

Theo số liệu của các chuyên gia quân sự Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Ḥa, Cộng Quân đă không chiếm nổi Khe Sanh mà lại c̣n bị thiệt mất từ 10,000 đến 13,000 bộ đội tử trận, chưa kể các tổn thất khác, như hàng ngàn chiến binh bị thương tật hoặc bị bắt cùng với đạn dược và chiến cụ bị tiêu hao.

Theo en.wikipedia.org, số thương vong của quân đội Mỹ tại Khe Sanh là 274 quân nhân chết và 2,541 người bị thương, c̣n bên phía Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa th́ có 229 người chết và 436 người bị thương.

(Vann Phan)

hoanglan22
07-18-2020, 16:18
Tặng Nhóm Cù Lũ Nhí và các Đích Thân
(Hà ĐĐT/21, Tuấn Con PĐT/B2/TĐ2/PBND, Thọ PĐP/B2/TĐ2/PBND...)

Quận Thường Đức thuộc tỉnh Quãng Nam, tọa lạc bên giòng sông Vu Gia thơ mộng nước chảy êm đềm, cũng là nhánh hạ nguồn của sông Côn (sông Bung) chỉ cách quốc lộ 14B (còn gọi là Đường Mòn HCM) không đầy 25km, là nơi đặt BCH Chi Khu Thường Đức và hậu cứ của TĐ79/BĐQ/BP thuộc Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân, căn cứ nằm cạnh ngọn đồi 52, còn gọi là Núi Đất, gần Quận Đại Lộc.

Tuy nhiên, Thường Đức đã trở thành quận lỵ đầu tiên của VNCH rơi vào tay cộng sản sau ngày ngưng bắn, khi CSBV bất thần vi phạm hiệp đinh Paris, xua 2 SĐ chính quy thiện chiến (304 và 324B) và 1 SĐ quân điạ phương, dốc toàn lực thẳng tay dứt điểm vào tháng đầu tháng 8/1974, đây cũng là trận đánh thăm dò khả năng yểm trợ và viện trợ của Chính Phủ Hoa Kỳ dành cho QL/VNCH sau ngày ký Hiệp đinh Paris ngưng bắn 28/01/1973…

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1620841&stc=1&d=1595088837

Như đã long trọng tuyên hứa trước đây, rằng chính phủ Hoa Kỳ sẽ tiếp tục viện trợ “1 đổi 1” và bảo vệ cho QL/VNCH không bị mất từng tất đất trong trường hợp CSBV vi phạm hiệp đinh… Tuy nhiên, sau “trận đánh thăm dò”, nếu phía Hoa Kỳ không phản ứng quyết liệt hoặc ngoảnh mặt làm ngơ… họ sẽ tiếp tục leo thang chiến tranh một cách toàn diện, đưa đến cái gọi là “Chiến Thắng Mùa Xuân 1975”, chiếm trọn miền Nam trong những ngày sắp tới…

Sau khi khống chế vị trí chiến lược Thường Đức, theo sau là những đợt pháo kích chính xác vào thành phố và sân bay Đà Nẵng, dồn dập và liên tục hơn bằng hỏa tiển 122 ly và đại pháo 130 ly phát xuất từ những ngọn đồi chiến lược nơi đây, đã làm cho chính quyền VNCH không thể ngồi yên.

SĐND bấy giờ trấn thủ ngoài Vùng I, đang giữ vững từng tất đất ngoài chạm tuyến từ Huế trải dài ra Quảng Tri trong thế da beo. Sau khi bàn giao trách nhiệm ngoài vùng I cho SĐ/TQLC, cùng các đơn vị BĐQ và SĐ1/BB… bắt đầu được không vận vào vùng, chuẩn bị tham gia trận đánh lịch sử tái chiếm Quận Lỵ Thường Đức, đây là trận chiến lớn nhất của SĐND kể từ sau ngày ký Hiệp Định Paris.

Quân tham chiến gồm 2 Lữ Đoàn ND đánh theo chiến thuật xa luân chiến, LĐ1/ND gồm các TĐ1, 8 & 9/ND và TĐ1PB/ND, LĐ3/ND gồm các TĐ2, 3 & 6/ND và TĐ2PB/ND, lần lược được không vận vào vùng, trãi dài từ Đèo Hải Vân xuống Quận Hiếu Đức và Đại Lộc, BHC/SĐND đặt tại bán đảo Sơn Trà, Non Nước, Đà Nẵng… Sau khi điều nghiên trận điạ, để tái chiếm Quận Lỵ Thường Đức, SĐND sẽ bằng mọi giá phải đánh chiếm các cao điểm chiến lược trong vùng bao gồm các cứ điểm đồi 1025, 1052, 1062 và D1, D2… sau đó, đánh đần xuống các ngọn đồi áp sát bên trên Chi Khu Thường Đức như Đồi 400, 383, 126 và Đồi 52 ngay bên cạnh Chi Khu Thường Đức. Với quân số khiêm nhường 1 chọi 6, nhưng chỉ với bằng ấy quân tham chiến, SĐND đã xa luân chiến gieo cho quân CSBV một nỗi kinh hoàng, trước khí thế chuẩn bị dứt điểm chiếm lại Thường Đức, TĐ2ND giành lại ngọn đồi 383 một cách ngoạn mục, một chiến thắng để đời trước khi QLVNCH bị người anh em đồng minh phản bội vào mùa đông 1974, khi Quốc Hội Hoa Kỳ quyết định cắt gói viện trợ cuối cùng dành cho VNCH…

Chúng tôi, nhóm SQ trẻ được mệnh danh Cù Lũ Nhí (Châu, Phúc, Nghị, Hồng và Huyến) cùng đơn vị TĐ2/PB/ND đang đóng tại căn cứ Chuồng Bò chung với BCH/LĐ3/ND gần ngã ba Đại Lộc. Một buổi sáng đẹp trời tại căn cứ, chúng tôi được mời lên BCH/TĐ nghe thuyết trình về tình hình đang xãy ra dồn dập bên trong Thường Đức, bấy giờ chiến trận đang đến hồi quyết liệt, các TĐ/ND trên chạm tuyến ngày đêm giao tranh giành nhau từng tất đất, nhiệm vụ chúng tôi sẽ tăng cường vào thay thế cho các đơn vị bất cứ lúc nào khi cần thiết và trong tình hình khẩn trương đó, khi các TĐ/ND thay quân trong thế trận xa luân chiến, chúng tôi phải ở lại chờ đi đề lô cho đơn vị mới.

Trong đêm liên hoan tiển chúng tôi ra ngoài mặt trận, vị Thiếu Tá TĐT/TĐ2/PB mà anh em thương mến gọi là Anh Sáu (Lũng), Nguyễn Ngọc Triệu, tuyên bố bỏ thuốc lá nên có nhả ý tặng lại chiếc quẹt Zippo cho bất cứ ai trúng thăm để làm kỷ niệm… không biết sao tôi may mắn trúng được cái Zippo có khắc tên “Th/T Nguyễn Ngọc Triệu thân tặng”. Có lẽ đây cũng là cái duyên giữa tôi và anh Sáu từ khi diện kiến anh lần đầu cho đến bây giờ… (sau nầy cũng vì cái Zippo có hàng chữ đó làm cho tôi vất vã, bị biệt giam trong trại tù CS).

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1620842&stc=1&d=1595088837

Những ngày chờ bổ sung vào vùng hành quân, chúng tôi có dịp đi chơi ở Đại Lộc, Tùng Sơn, Ái Nghĩa, Cầu Chìm hoặc ngược về Túy Loan thưởng thức món mì Quảng đặc sản vùng nầy. Tuổi trẻ đang độ xuân thì, tuổi ăn chưa no lo chưa tới, nhóm SQ trẻ Cù Lũ Nhí chúng tôi chưa hề nghĩ đến những chết chóc hiểm nguy và gian lao sắp diễn ra chỉ trong vài ngày sắp tới… và chuyện gì đến sẽ đến, 5 đứa chúng tôi lần lược được đưa vào bổ sung cho các đơn vị đang hành quân bên trong Thường Đức, những đơn vị tác chiến cấp đại đội đang thiếu hụt các SQ Tiền Sát Viên ngày đêm đóng ngoài chạm tuyến. Lần lược, Phúc, Huyến và Hồng theo chân ĐĐ21, ĐĐ22 và ĐĐ24, TĐ2/ND vào Hà Nha rồi lên Dãy Sơn Gà để chuẩn bị tái chiếm đồi 383, Nghị về bán cà rem (đi đề lô) cho ĐĐ31, TĐ3/ND cũng đang nằm trãi dài trên dãy Sơn Gà từ cao độ 850 lên tới đỉnh 1025, đang vất vã tiến lên chiếm lại từng góc núi (sau nầy khi TĐ5/ND vào thay thế thì SQ Đề Lô sẽ ở lại chờ đơn vị mới chứ không được rút ra theo TĐ3/ND). Riêng TĐ6/ND không cần SQ Đề Lô, cho nên cuối cùng tôi được “ưu tiên” lên đài quan sát 1025, đỉnh 1025 chỉ cách ngọn đồi chiến lược 1062 chừng vài trăm mét chim bay, qua vài cái yên ngựa…

Đêm trước đó tôi được mời lên trình diện Th/T Hóa, TĐP/TĐ2/PB và Th/T Việt (Đại Cồ Việt), SQ/B3/TĐ2/PB/ND, 2 vị cho tôi biết sẽ “được” lên đài quan sát trên cao, với nhiệm vụ gắn liền với mắt thần (Viễn Kính Lưỡng Mục) quan sát tổng quát toàn khu vực… Trong lòng tràn đầy sung sướng, tôi nghĩ rằng ở “Đài” chắc là thoãi mái lắm, không phải ôm thùng cà rem (PRC25) lội theo các đơn vị hành quân ngày đêm tiếp cận địch ngoài chạm tuyến, vì chưa hình dung công việc ra sao, vã lại, hơi đâu mà lo, đã vào ND thì phải mang tâm niệm: Nhảy Dù Cố Gắng!

Nhóm PB chúng tôi gồm 3 người, tôi và 2 đệ tử (trung sỉ Bé và hạ sỉ Hùng), hành trang mang theo gồm 1 ống nhòm, 1 viễn kính lưỡng mục (DM60-M1) với ống ngắm 3 chân, 1 máy PRC25 đầy đủ anten lá lúa và 7 đoạn. Cùng nhảy với chúng tôi là 1 nhóm cũng mặc đồ bông, gồm 6 người, 3 người thuộc phòng 7 Nha Kỷ Thuật của quân đoàn I, 3 người khác thuộc 1 đơn vị đặc biệt của Không Quân, khi lên trực thăng tôi thấy họ đã ngồi sẳn trên đó, tôi tưởng họ sẽ đi nhảy toán riêng rẽ ở một nơi nào đó trên 1062, đâu ngờ lại nhảy chung toán với mình…

Trực thăng thả chúng tôi trên đỉnh Đông Lâm, sau vài phút chạm đất là 1 phùa pháo đủ loại của địch, chào đón chúng tôi một cách ân cần từ 4 hướng chung quanh… Tôi lao mình xuống 1 giao thông hào sâu tới ngực đã được quân ND đào sẳn để tránh pháo, sau khi định thần, tôi thấy mình đang nằm chung giao thông hào với nhiều thương binh đang chờ di tãn lên trực thăng. Trong khi đang xác định điểm đứng trên bản đồ thì nhận được lệnh nằm yên tại chổ và chờ gặp viên thiếu uý trung đội trưởng 1 trung đội Trinh Sát Dù, đơn vị nầy sẽ giữ an ninh và bảo vệ chúng tôi trong suốt thời gian trên đài quan sát, TĐ/TS đã nằm sẳn bên trên Dảy Sơn Gà cao độ 825, gần với các đơn vị thuộc TĐ8/ND, chờ toán chúng tôi nhảy xuống từ sáng tới giờ. Chúng tôi phải di chuyển ngay trong đêm để tránh những cặp mắt cú vọ của đề lô VC, sau 4-5 tiếng đồng hồ băng rừng, cố gắng bám sát theo toán Trinh Sát di chuyển nhanh nhẹn trong đêm, để tránh tối đa nguy cơ vướng mìn bẩy đã được VC đặt dẫy đầy trên vùng Đông Lâm và Sơn Gà nầy, chống lại sức tiến quân như vũ bảo của đoàn quân ND đang tiến dần về hướng tây lên đỉnh 1062...

Chúng tôi đến nơi gần 2 giờ sáng, ai nấy đều căng thẳng và mệt nhoài… sau khi bàn giao nhiệm vụ và thay phiên cho toán củ trên đài quan sát (thuộc TĐ1/PB/ND)đã nằm đó hơn tháng rưởi nay, chúng tôi được chỉ dẫn một cách rỏ ràng tình hình cần phải đối phó chung quanh, nhất là cảnh giác bọn bắn sẻ (snipper) và sơn pháo, cách sinh hoạt trên ĐQS… Họ cũng rời ngay trong đêm trước khi trời sáng...

Sáng hôm sau, tôi không thấy các toán đã nhảy chung trên trực thăng hôm qua hiện đang ở đâu, có lẽ, mỗi nhóm đều có nhiệm vụ riêng cũng đóng ở đâu đó quanh đây. Ngày đầu tiên trên đài quan sát, tôi gọi cho Tam Đa, viên th/u Trung Đội Trưởng/Trinh Sát thuộc ĐĐ3/TS/ND hẹn lên gặp hắn để nghe tường trình về tình hình chung quanh ĐQS, bò theo triền núi lên đỉnh 1025 tôi mới hoàn hồn và quan sát chung quanh khu vực của đài, ngọn đồi vừa được quân ND chiếm lại hơn 2 tuần qua, vẫn còn vương mùi tử khí vì chưa được ổn định nên xung quanh còn nhiều sơn pháo và snipper của địch lẫn trốn, trên đường đi vẫn còn rãi rác xác các chiến binh CS đã chết sình thối đâu đó dưới những giao thông hào… tôi phải bò và len lỏi qua từng hốc đá mần mò lên giáp mặt với Tam Đa. Tôi thực sự ngỡ ngàng khi gặp Tam Đa, chúng tôi ôm chầm lấy nhau… đây chính là Tuấn Sùi, Trần Lê Tuấn, là người bạn cùng khóa 9/72 với tôi bên Thủ Đức, chúng tôi đã không gặp nhau từ khi 5 đứa cùng khóa 9/72 về trình điện SĐND… mỗi đứa về mỗi đơn vị, tôi chỉ biết Tuấn Sùi tình nguyện về Trinh Sát từ những ngày đầu tiên khi còn ở Khối Bổ Sung, nhưng không biết hắn về ĐĐ/TS mấy, nào ngờ gặp hắn nơi đây, giữa vùng hỏa tuyến gian nan trên đỉnh tử thần nầy, Tam Đa cho tôi biết mọi chuyện cần thiết chung quanh ĐQS, những chuyện cần cảnh giác… bây giờ tôi mới thấy Tam Đa là một TrĐT/TS thật phong trần, gan dạ và uy nghi… hắn có phong cách của một cấp chỉ huy tài ba trong ĐĐ3/TS/ND.

Chúng tôi bắt đầu làm quen với VKLM quan sát toàn vùng, ĐQS thực ra là một hốc đá nằm cheo leo ngay bên bờ vực của đồi 1025, nhìn về phía đông có thể thấy toàn vùng thành phố Đà Nẳng, thấy rỏ từng chiếc phi cơ đáp xuống và bay lên từ phi trường, về hướng tây và bắc là đồi núi chập chùng kéo dài đến Liên Tỉnh Lộ 14B, chính là đường mòn HCM dọc theo biên giới Lào-Việt, tây nam là vực thẳm, dốc đứng bên trên khu vực vách đá cheo leo có tên gọi Ba Khe, vô cùng hiểm trở, bên dưới là nơi hội tụ 3 con suối lớn tạo thành khu đầm lầy trước khi đổ ra sông Vu Gia… dưới chân tôi là những ngọn đồi 400, 383, 126, 52 (Núi Đất) nằm sát Chi Khu Thường Đức và con sông Vu Gia, chạy dài theo hướng đông tây, dọc theo liên tỉnh lộ 4 len lỏi giữa 2 ngọn núi cao ngược lên hướng Sông Côn, Bến Giàng rồi Khâm Đức, và xa xa là quốc lộ 14… Bên kia sông Vu Gia là đồng bằng quận Điện Bàn và xa hơn nữa là Nông Sơn, mỏ than lộ thiên của VN… bây giờ tôi mới hiểu tại sao SĐ/ND phải bằng mọi giá phải tái chiếm cho bằng được đỉnh 1062 nơi quận lỵ Thường Đức đèo heo hút gió nầy.

Khi được điều lên đây Th/T Hóa cho tôi hay rằng tôi phải ở đây ít nhất là 1 tới 2 tháng, thực sự cũng không có đường xuống vì đường khó đi và rất nguy hiểm… bây giờ mới thấy là buồn và… teo, trước kia trong lòng cứ ngỡ rằng “Đài” Quan Sát là nơi có đầy đủ tiện nghi, thoãi mái, giờ nhìn thấy chung quanh toàn là núi non hiểm trở, chúng tôi phải leo xuống đóng cheo leo bên trong một hốc đá trên triền núi, bước ra là vực thẳm, thường phải rút vào ở sâu trong hang để tránh tầm ngắm trực xạ của sơn pháo và nhất là bọn bắn sẻ VC, khi nào cần thiết mới bò ra quan sát, ngay cả khi bò ra cũng phải thật cẩn thận.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1620843&stc=1&d=1595088837
ĐQS được bảo vệ ngày đêm bởi trung đội Trinh Sát Dù ngay triền dốc bên trên đồi, đây là những hung thần chống đặc công VC, thường len lỏi vào tiêu diệt ĐQS khi bị chúng phát hiện, đồng thời họ cũng cung cấp lương thực cho chúng tôi. Trong những ngày tiếp tế phải đi thật xa và rất khó khăn mới xuống được LZ, supply được trực thăng bỏ xuống đâu đó ở dãy Đông Lâm và sau đó được các anh em TS mang về. Trên triền đồi, quân ND đóng rãi rác và cách đó không xa là chạm tuyến, đỉnh đồi 1062, D1 và D2… hằng ngày từ sáng sớm đến chiều tối đều thấy VC bò lốp ngốp bên dưới giao thông hào, các đơn vị ND quần thảo với họ hầu như hằng ngày… ở trên nầy lâu lắm mới có một ngày yên lành, có thể đó là ngày có những chiếc trực thăng sơn màu trắng đỏ của Ủy Ban Liên Hiệp Quân Sự 4 Bên bay giám sát vấn đề gì đó… Chúng tôi phải ngụy trang cây anten dấu dọc theo phía bên hông, sau thân cây để tránh cặp mắt cú vọ của sniper và đề lô VC phát hiện, đa số chúng tôi luôn ở bên đưới triền rất dốc để tránh pháo và dễ quan sát mặt bờ sông Vu Gia và các ngọn đồi phía dưới, vị trí của tôi nằm ngay bên trên đồi Mỏ Vịt 383.

Đồi 383 nằm trên một vị thế chiến lược ngay bên trên Chi Khu Quận Thường Đức, trước đây là nơi đóng quân và đặt BCH và hậu cứ của TĐ79/BĐQ/BP vừa bị tràn ngập vài tháng trước đây… cho nên, muốn tái chiếm Quận Lỵ Thường Đức thì đồi 383 ắc phải là tâm điểm chiến lược trước tiên quân ND phải giành cho bằng được, đồng thời từ đây cũng có thể dễ dàng tiến xa và cao hơn bằng những ngọn đồi soai soãi, nhiều nơi là dốc đứng hướng về đỉnh 1062.

Nhìn đưới con mắt bình thường, ngọn đồi trông giống như đầu và mỏ con vịt, cái đầu vịt ngày xưa cũng đầy lông lá xanh um, nhưng từ khi quân ND vào trận địa, ngọn đồi đã được hết TĐ/ND nầy đến TĐ/ND khác đánh chiếm, chiếm rồi bị mất nhiều lần, cho nên bom đạn cứ ngày đêm rót xuống, giờ đây đất đá bị cào lên và cây cối biến mất, đã trở nên ngọn đồi trọc màu đất đỏ, trông càng giống cái đầu và mỏ vịt nhiều hơn. bởi thế, người dân địa phương gọi là Đồi Mỏ Vịt, khi giành được 383, các đơn vị ND từ đây có thể làm bàn đạp tiến lên những ngọn đồi cao hơn trên đầu chính là ngọn đồi chiến lược 1062, nơi là điểm đến của các đơn vị ND đang ngày đêm giành lại từng viên đá, chiếm lại từng hốc núi… và sau khi đỉnh 1062 được ổn định thì đồi chiến lược 383 cũng là bàn đạp chính để chiếm lại Chi Khu Thường Đức sau nầy.

Buổi sáng ở đài quan sát trên cao, nh́n xuống đồng bằng sông Vu Gia một cách rỏ ràng đến nỗi tôi có thể nhìn thấy từng hoạt động bên dưới cả 2 bên ta và địch, nhiệm vụ của tôi là yên lặng theo dỏi và ghi nhận những đơn vị địch đang đóng hoặc đang chuyển quân xung quanh, đặc biệt là tìm và phát hiện những vị trí mới, nơi mà địch quân đang áp sát vào những điểm đóng quân của các đơn vị ta, thường là những dấu hiệu đất đỏ mới được đào lên, đó là những giao thông hào mới để họ chuẩn bị cho trận đánh sắp đến, đồng thời đánh dấu những vị trí phòng không thường là các giàn cao xạ 12 ly 8, pháo phòng không 37 ly hoặc 57 ly và những vị trí đặt hỏa tiển 122 ly hay đại pháo 130 ly của địch trong vùng, những giàn phòng không nầy ngoài việc bắn máy bay, còn được trực xạ để yểm trợ cho bộ đội khi họ tấn công quân ta… sau đó, những vị trí được cập nhật trên bản đồ rồi báo cáo về B3/BCH/TĐ và BCH/HQ/LĐ (Ban 3 Lữ Đoàn), cũng có khi báo cáo trực tiếp cho những đơn vị đang đối diện với địch và làm mắt thần cho họ, chỉ điểm cho họ biết vị trí những giàn phòng không nằm gần họ để họ đề phòng hoặc khi cần có thể khống chế nó dễ dàng… Bấy giờ VC thường tập trung trãi dài từ phía bên kia sông Vu Gia hướng Đức Dục, có khi họ băng qua sông tiếp ứng cho các đơn vị bên nầy sông dài lên hướng Chi Khu Thường Đức, họ thường dùng ca nô trên sông Vu Gia để tiếp tế lương thực và đạn dược và đồng thời tải thương ngược về hướng sông Côn, Khâm Đức.

Buổi sáng ngày N… trung tuần tháng 10/1974, sau khi sương núi đă tan dần… từ trên cao qua VKLM, tôi giật mình phát hiện VC đang lợi dụng sương mù, tập trung đông quân trên cao độ 400, hình như họ đang áp sát và di quân về phía đồi Mỏ Vịt nơi đóng quân của ĐĐ21/TĐ2/ND… tôi khám phá rất nhiều giao thông hào mới được đào lên, những dấu hiệu đất đỏ mới đào tiếp cận sát bên đồi Mỏ Vịt, nhìn dưới bờ sông Vu Gia, một toán quân VC khác đang chuyển quân cũng áp sát từ chân đồi 126 phía sau Chi Khu Thường Đức hướng lên núi về phía đồi Mỏ Vịt… rỏ ràng cả hai toán quân từ hai nơi đang tập trung về đồi 383. Nhớ 2 hôm trước tôi liên lạc với Phúc Con, nó cho tôi biết đang đi đề lô cho ĐĐ21 đang nằm phè phởn trên cánh rừng chồi thưa, nằm “chờ thời” trên triền đồi Mỏ Vịt (Đồi 383), từ hôm lên đây đến gìơ chưa từng đánh đấm gì cả… còn Huyến cũng đang đi bán cà rem cho ĐĐ24, cũng đang nằm “phè” phía sau… tôi giật mình liên tưởng VC có thể giờ đây đang chuẩn bị đón chào ĐĐ21 cũng nên. Tôi bắt máy gọi cho ông Việt (Đại Cồ Việt, SQ/B3/TĐ2/PB/ND) báo cáo tình hình VC đang chuyển quân hình như đang chuẩn bị tấn công ĐĐ21, ĐT Việt bảo tôi ước lượng quân số địch, tôi ước lượng ít nhất là cấp tiểu đoàn và cho hay sương mù đang dầy đặc và sẽ tan trong vài giờ nữa… Qua tần số, tôi nghe Đại Cồ Việt nói chuyện với Anh Sáu Lũng (Th/T Nguyễn Ngọc Triệu, TĐT/TĐ2PB/ND) yêu cầu xin phi + pháo… ĐT Việt liên lạc ngay về LĐ, tôi nghe trên máy họ đang tập trung phối hợp hỏa lực, gồm mấy PĐ của TĐ2/PB/ND đang nằm rãi rác chung quanh, cộng với mấy PĐ/PB Diện Địa 105 ly, 155 ly đóng ngoài Cầu Chìm, Hà Nha, Đại Lộc và bên kia sông, Hiếu Đức, có cã đại pháo 175 ly nữa, đồng thời cũng cần thêm vài phi vụ A37 dứt điểm sau cùng, khi hỏa tập TOT ngưng tác xạ và thần ưng chấm dứt là thời điểm thích hợp cho quân ta xung phong vào dứt điểm. ĐT Việt bảo tôi chấm tọa độ 4 góc cho đồi 126 và 4 góc khác trên đồi 400, chuẩn bị sẳn sàng cho hỏa tập TOT…

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1620845&stc=1&d=1595088837

Trên tần số tôi nghe ĐT Tuấn Con (ĐU Tuấn Trần, PĐT/PĐ/B2/TĐ2PB/ND) điều ĐT Thọ (Tr/U Lê Văn Thọ, PĐP/PĐ/B2) kéo mấy khẩu M2 chở đầy đạn bò lên dãy Sơn Gà, cố lợi dụng sương mù kéo pháo áp sát ngay bên trên đồi 383, nằm đó góp phần trực xạ ngay trên đầu địch quân khi hỏa tập TOT bắt đầu, sẽ bắn tối đa cho đến khi hết đạn và rút nhanh để tránh pháo địch.

Khi tôi liên lạc về lữ đoàn, cả ông Việt và LĐ yêu cầu tôi làm mắt thần cho cuộc hành quân khi TĐ2/ND tấn chiếm đồi 383 và 126, đồng thời ĐT Hà (ĐĐT/ĐĐ21/TĐ2ND) cũng gọi cho tôi nhờ tôi giúp Phúc Con, anh hứa sẽ gởi lên cho tôi 1 cặp Johnny Walker sau khi xong nhiệm vụ… Tôi bắt máy gọi cho Phúc Con và thông báo cho nó biết hỏa tập đang chuẩn bị và tình hình đang khẩn trương xãy ra quanh họ, khi đó VC chỉ còn cách nó một khoãng cách rất gần… Phúc bảo tôi không nhìn thấy gì cả vì sương mù vẫn còn dầy đặt trên đầu, tuy nhiên trên cao tôi nhìn thấy rỏ ràng cuộc di quân áp sát từ hướng VC vào đồi 383. Tôi bảo Phúc Con yên tâm và yêu cầu nó ghi lại các điểm cận phòng và chỉ rỏ những điểm VC đang tập trung quân trên bản đồ, cùng những vị trí hỏa tập TOT để 2 đứa cùng nhau phối hợp điều chỉnh cả phi và pháo..

Lợi dụng lúc sương mù chưa tan trên vùng đồi 383, tôi bắt đầu chỉnh khói cho từng block TOT… may quá! cả trái khói và sương mù đều giống nhau, chỉ có tôi trên cao có thể phân biệt dễ dàng… Sau khi hoàn tất tọa độ cho cả 2 khu TOT, tôi quan sát chung quanh mục tiêu, thấy bên dưới đồng bằng sông Vu Gia có rất nhiều ca nô đang đổ ra từ hướng sông Côn, tôi đưa VKLM quan sát rỏ xem họ đang chở gì mà tấp nập đến thế, nhìn rỏ đến đổi c̣n thấy quân phục của bộ đội chính quy VC miền Bắc đang chuyển trên ca nô từ trong sông Côn ra, đồng thời họ mang theo nhiều thùng đạn tiếp tế… thì ra họ vừa chuyển quân tăng cường cho tốp trên đồi vừa tải thêm đạn dược cho chiến trường. Tôi báo cáo mọi hành động về LĐ, họ vẫn bảo tôi chờ đợi nhưng trong tư thế sẳn sàng.

Đúng như tôi dự định, họ đang chuẩn bị tấn công đồi Mỏ Vịt bằng 2 hướng, 1 từ trên đồi và 1 từ dưới sông lên, khi VC trên đồi 400 áp sát xuống chỉ cách ĐĐ21 chừng 150m, và toán quân tiếp viện bằng ca nô từ sông Vu Gia kéo lên cũng cách ĐĐ21 và ĐĐ22 không xa… tôi báo cáo cho ĐT Việt và SQ/B3/LĐ. Trên hệ thống tôi nghe phía PB/Diện Địa (155 ly và 175 ly) đã sẳn sàng tác xạ… Sau đó TĐ2/PB bắt đầu bắn những trái đầu tiên trước khi đợt TOT bắt đầu, tôi điều chỉnh lại một lần nữa, kéo sát vào ĐĐ21 chừng 100m, ông Hà bảo gần hơn 50m nữa… Cuối cùng là thời điểm Hoả tập TOT bắt đầu được các bên đồng loạt khai hoả, trên hệ thống PB/DĐ 155 ly bên kia sông nhả đều thật nhanh, dồn dập, cùng phối hợp nhịp nhàng với đại bác 175 ly một cách chính xác, tôi gào lên trong máy cho ĐT Việt hay là cả 2 block TOT rất đẹp và hửu hiệu… Tôi nghe Phúc Con và ĐT Hà cho ĐĐ21 chuẩn bị sẳn sàng tapi, để lại tất cả ba lô tại vị trí, chỉ mang vũ khí và lựu đạn để dể bề di chuyển nhẹ nhàng. Trên cao độ của đỉnh Sơn Gà, mấy khẩu 105 M2 của Tr/u Thọ trực xạ đều đặng, chính xác và dồn dập xuống đồi 400, rãi đều cho tới khi phùa TOT ngưng tác xạ, vừa đúng lúc trên máy vang lên tiếng Thần Ưng đang bao vùng và tiếng nói của ĐQS/KQ đâu đó trên 1025 đang chỉ đẫn những phi tuần A37, những con chim ưng bay từ hướng Đức Dục lạng lách tránh phòng không và đang bắn trả lại những ổ phòng không 37 ly… những đợt bom được rót vào mục tiêu một cách ngoạn mục, chính xác… lúc đó, những ổ phòng không khác trên cao phía sau đồi 1062 bắn rát quá, nhưng đồng thời nhiều sơn pháo 57 ly và 75 ly không giật từ những đơn vị ND gần đó (TĐ1/ND và TĐ8/ND) đã khai hỏa tới tấp vào những điểm phòng không nầy, khống chế chúng một cách hửu hiệu làm một số câm họng, thì ra LĐ cũng đã phối hợp nhịp nhàng để các đơn vị ND nằm gần đó có nhiệm vụ khóa miệng những giàn phòng không nầy, đó là những địa điểm mà tôi đã ghi nhận và báo cáo về LĐ trước đây… những phi tuần A37 sau khi đánh bom họ bay ngược chiều về hướng Đức Dục một cách đẹp mắt, để tránh hệ thống phòng không trên cao bắn vào bụng...

Sau phùa TOT của PB phối hợp đẹp mắt, mỗi block hứng chịu vài ngàn quả đạn… và sau đó c̣n bồi thêm nhiều phi vụ A37… đứng trên cao tôi nh́n thấy rỏ như ngay trước mặt… tôi đưa LKVM quan sát từng khu vực từ đồi 400 xuống 383, 126 dài xuống sông Vu Gia thấy VC nằm là liệt khắp nơi, một sự thiệt hại đáng kể…

Lệnh ngưng tác xạ vang lên trên hệ thống… vừa khi mấy phi tuần vừa chấm dứt nhưng vẫn còn đâu đó tiếng gầm thét trên không trung… Tôi nghe trên tần số tiếng Phúc Con và ĐT Hà cùng ĐĐ21 và ĐĐ22 tapi chiếm đồi 126, 383 và 400, tôi còn nghe tiếng xung phong, tiếng điều động tràn lên chiếm mục tiêu vang vang trên máy, cuộc chiến đấu giành lại ngọn đồi như thế chẻ tre… tôi cũng lặng người khi nghe trên tầng số báo cáo TĐ2/ND vừa mất đi 2 SQ trẻ là Tạ Thái Bảo và Thiếu Úy Tăng Thành Lân, đã anh dũng hy sinh trên ngọn đồi 126...

Từ trên cao tôi đưa VKLM theo chân những bộ đồ rằn ri đứng lên xung phong, ào ào chạy trên mục tiêu, lấn áp những chiếc áo xanh bộ đội miền Bắc có khi phải đứng lên bỏ chạy khỏi những giao thông hào chằng chịt vừa mới đào rạng sáng trên đồi… trong lúc ĐĐ21 và ĐĐ22 đang tung hoành xung phong trên các mục tiêu thì tiếng súng cối đưới chân đồi 383 của TĐ2ND bên Hà Nha cũng bắt đầu vang dội xa hơn để chặng đường rút quân của họ, tôi không có ở đó nên không tận mắt nh́n thấy những chiến công từ các đồng đội TĐ2/ND, chỉ nghe báo cáo trên hệ thống về đại thắng, tịch thâu nhiều vũ khí cộng đồng, địch quân thiệt hại rất nặng nề, không chỉ ở đồi 383 mà trên cao độ 400 và bên dưới đồi 126 cùng với toán quân tiếp viện từ sông Vu Gia gần như bị xoá sổ… Tôi nghe tiếng cười nói hả hê và cả tiếng chưởi thề ầm ỉ của Phúc con trên máy...

Dưới bờ sông Vu Gia giờ là những chuyến tản thương của đám tàn quân SĐ 304… tôi cũng ghi nhận nơi đến của những chiếc ca nô nầy, đó là bệnh viện của Bắc quân bên bờ sông Côn và đâu đó là trại tù binh, nơi nhốt những người lính VNCH gồm những ĐPQ, NQ, TĐ79/BĐQ/BP và ngay cả một số phi công đã bị bắn rơi trước đây… những địa điểm nầy được toán P7/NKT/BTTM trên ĐQS ghi nhận, chắc chắn sẽ có những toán nhảy vào hỏi thăm và giải thoát tù binh sau nầy...

Sau khi TĐ2ND chiếm được và củng cố 2 ngọn đồi chiến lược 383 và 126 thì cửa ngỏ tái chiếm Quận Lỵ Thường Đức chỉ còn là thời gian trong tầm tay… Tuy nhiên bên kia nữa vòng trái đất, người bạn đồng minh chúng ta đang khóa dần đôi tay của những chiến binh ND đang thừa thắng trên các mặt trận xung quanh ngọn đồi chiến lược 1062. Bên kia Washington DC, quốc hội Hoa Kỳ cũng vừa biểu quyết cắt gói viện trợ quân sự đợt cuối cùng cho VNCH mà họ đã hứa “một đổi một” như trước đây… điều đó cùng nghĩa là bao nhiêu súng đạn chúng ta tiêu pha tại Thường Đức sẽ không còn được thay thế nữa… nghĩa là hỏa tập TOT nầy là lần cuối cùng của PB/ND trong cuộc chiến VN.

Hung tin đưa đến trên truyền thông quốc tế về việc Quốc Hội Hoa Kỳ bán đứng VNCH cho CSBV trong những ngày trước lễ Giáng Sinh cuối năm 1974… thì đầu năm 1975, trận đánh đầu tiên vừa để thăm dò phản ứng (QHHK) vừa để “kiểm chứng” thành quả kể trên đã bắt đầu xảy ra tại Ban Mê Thuộc… QLVNCH không còn lựa chọn nào khác là phải ra lệnh cho SĐND rút bỏ khỏi mặt trận Thường Đức trong khi các đơn vị ND đang bao vây Chi Khu Thường Đức chuẩn bị tapi tái chiếm, như một hiệp sỹ bị trói 2 tay, phải ngậm ngùi rời bỏ, lên đường xuôi Nam để “chống đở” cái gọi là “Chiến thắng mùa Xuân” của CSBV bằng những khẩu súng M16 mang trên tay không còn đủ cấp số đạn, cùng những nòng đại bác M2, 105 ly của PB Dù được tiếp đạn một cách nhỏ giọt… duy chỉ còn những quả lựu đạn lân tinh dùng để phá súng thì đầy trong hầm pháo đội...

Nhân dịp lên SJ thăm Phúc Con cuối năm rồi trong cuộc hội ngộ của nhóm Cù Lũ Nhí chúng tôi, đồng thời gặp ĐT Hà, cả 2 nhắc đến trận đánh chiếm đồi 383… Phúc Con gợi ý tôi nên viết lại diễn biến trận đánh nầy… Hôm nay, ngồi moi lại từ trong tiềm thức, như một cuộn phim được quay lại nhiều lần… Gởi cho Phúc Con một chút kỷ niệm trận chiến đồi 383 năm xưa ở mặt trận Thường Đức, nơi mà hai đứa chúng tôi cùng nhau phối hợp hoả lực nhịp nhàng một lần duy nhất trong đời binh nghiệp, cũng không quên nhắc lại cho Phúc Con và ĐT Hà… rằng cho đến bây giờ tôi chưa bao giờ nhận được cặp Johnny Walker… ai đó vẫn còn nợ tôi...

Anaheim Hills, ngày 8 tháng Giêng, 2019
Cù Lũ Nhí, Châu Nhái

huudangdo1
07-19-2020, 00:22
Cám ơn Huynh Hoanglan22 đă ghi lại những Trận Đánh Khốc liệt và Kiêu Hùng của những Thiên Thần Mũ Đỏ VNCH trong Mặt Trận Thường Đức ...Ḿnh có 1 Người Bạn thuộc TD1 /ND đă Hy Sinh trong Mặt Trận Thường Đức ...Cao Điểm 1062 trên !...Trước đó chỉ 1 Mặt Trân Thượng Đức nầy ! ...Bạn Ḿnh đă được Đặc Cách 3 lần tại Mặt Trận !...Nhưng than ơi Bạn Ḿnh đă gục ngă khi bắt đồng xung phong chiếm Mục Tiêu cuối cùng của Cao Điểm 1062 Thường Đức !...
Xin thắp lên 1 Nén Hương Ḷng cho Hồ Viết Bền ...Người Bạn nối khố từ nhỏ của Ḿnh khi nhớ lại những Trang Quân Sử Hào Hùng của Quân Lực VNCH trong Cuộc Chiến trên Quê Hương thuở nào !...HDD xin đăng kèm Bài Thơ của Ḿnh sau đây như sự đồng cảm xúc với Bài Viết và H́nh Ảnh đính kèm của Huynh Hoanglan22 đăng trên !

T̀NH CHIẾN HỮU !!!


Bạn là Chiến Hữu thân quen
Từ Thời Niên Thiếu Sách Đèn cùng nhau
Chúng Ta t́nh bạn dạt dào
Như T́nh Tri Kỷ ngày nào Năm Xưa !

Cuộc Đời sớm Nắng chiều Mưa
Bằng Hữu Vĩnh Cửu vẫn chưa phai nḥa
Chiến Tranh tàn phá Quê Nhà
Tôi và Bạn phải xông pha Chiến Trường !

Giă Từ Đèn Sách Người Thương
Tṛn câu Trung Hiếu lên đường Ṭng Quân
Dưới Cờ Tổ Quốc An Dân
Làm tṛn bổn phận Quân Nhân Cộng Ḥa !

Lằn Tên Mũi Đạn Xông Pha
Như Người Chiến Sĩ Kinh Kha ngày nào !
Khi tàn Cuộc Chiến hư hao
Đại Bàng găy cánh biết bao nỗi buồn !

Ḍng Lệ trong Tôi trào tuông
Quê Hương đă mất ! Mất luôn Bạn Hiền !
Bạn về miên viễn An Nhiên
Tôi rời Quê Mẹ t́m Miền Tự Do !

Quê Người sống Kiếp Tha Hương
Vẫn không quên được Quê Hương Bạn Hiền !
Nỗi Buồn Vong Quốc nào nguôi !
T́nh Thân Chiến Hữu T́nh Người Năm Xưa !!!

HDD

Đêm Buồn Nhớ Đến Bạn Hiền Năm Xưa trong Cuộc Chiến !...

hoanglan22
07-19-2020, 02:04
Cám ơn Huynh Hoanglan22 đă ghi lại những Trận Đánh Khốc liệt và Kiêu Hùng của những Thiên Thần Mũ Đỏ VNCH trong Mặt Trận Thường Đức ...Ḿnh có 1 Người Bạn thuộc TD1 /ND đă Hy Sinh trong Mặt Trận Thường Đức ...Cao Điểm 1062 trên !...Trước đó chỉ 1 Mặt Trân Thượng Đức nầy ! ...Bạn Ḿnh đă được Đặc Cách 3 lần tại Mặt Trận !...Nhưng than ơi Bạn Ḿnh đă gục ngă khi bắt đồng xung phong chiếm Mục Tiêu cuối cùng của Cao Điểm 1062 Thường Đức !...
Xin thắp lên 1 Nén Hương Ḷng cho Hồ Viết Bền ...Người Bạn nối khố từ nhỏ của Ḿnh khi nhớ lại những Trang Quân Sử Hào Hùng của Quân Lực VNCH trong Cuộc Chiến trên Quê Hương thuở nào !...HDD xin đăng kèm Bài Thơ của Ḿnh sau đây như sự đồng cảm xúc với Bài Viết và H́nh Ảnh đính kèm của Huynh Hoanglan22 đăng trên !

T̀NH CHIẾN HỮU !!!


Bạn là Chiến Hữu thân quen
Từ Thời Niên Thiếu Sách Đèn cùng nhau
Chúng Ta t́nh bạn dạt dào
Như T́nh Tri Kỷ ngày nào Năm Xưa !

Cuộc Đời sớm Nắng chiều Mưa
Bằng Hữu Vĩnh Cửu vẫn chưa phai nḥa
Chiến Tranh tàn phá Quê Nhà
Tôi và Bạn phải xông pha Chiến Trường !

Giă Từ Đèn Sách Người Thương
Tṛn câu Trung Hiếu lên đường Ṭng Quân
Dưới Cờ Tổ Quốc An Dân
Làm tṛn bổn phận Quân Nhân Cộng Ḥa !

Lằn Tên Mũi Đạn Xông Pha
Như Người Chiến Sĩ Kinh Kha ngày nào !
Khi tàn Cuộc Chiến hư hao
Đại Bàng găy cánh biết bao nỗi buồn !

Ḍng Lệ trong Tôi trào tuông
Quê Hương đă mất ! Mất luôn Bạn Hiền !
Bạn về miên viễn An Nhiên
Tôi rời Quê Mẹ t́m Miền Tự Do !

Quê Người sống Kiếp Tha Hương
Vẫn không quên được Quê Hương Bạn Hiền !
Nỗi Buồn Vong Quốc nào nguôi !
T́nh Thân Chiến Hữu T́nh Người Năm Xưa !!!

HDD

Đêm Buồn Nhớ Đến Bạn Hiền Năm Xưa trong Cuộc Chiến !...

Xin chia buồn với bạn cùng một sắc áo của người bạn .

Trong trận Thường đức . Sư đoàn dù có yêu cầu BTM tăng cường chiến đoàn 3 BCD 81 nhảy vào để giải tỏa . Nhưng lệnh lạc như thế nào đó ..
tung toàn bộ chiến đoàn vào Phước long chuẩn bị những cuộc chiến . Toán viễn thám của ḿnh tung vào các nơi lấy tin tức .

Theo lịch tŕnh toán viễn thám nhảy toán một tuần th́ được nghĩ 2 tuần dưỡng sức , nếu hơn 2 tuần th́ thời gian được kéo thêm ra . Trong năm 74 th́ nhảy liên tục hầu như không có thời gian nghĩ v́ t́nh h́nh chiến sự sôi động ở khắp nơi .Đời lính là vậy :hafppy::hafppy::haf ppy:

hoanglan22
07-19-2020, 02:26
Từ cuộc đời của một chú Tiểu đến tuổi bút nghiên, sang đời binh nghiệp, đánh giặc, anh hùng mạt lộ bị bắt làm tù binh, rồi vượt ngục, vượt biên lưu vong làm bố sắp nhỏ… và sau cùng trở thành nhà sư Phật Giáo. Nhất định Thầy Huệ Quang có rất nhiều kinh nghiệm cuộc sống. Thầy sẽ hoan hỷ chia sẻ với mọi anh chị em cựu quân nhân chúng ta nói riêng và những ai thích thú nghe về những chia sẻ của thầy,… những kinh nghiệm mà thầy đă từng trải và sự hiểu biết về đạo Phật của thầy trên trang web Quân Nhân Phật Giáo này. Kính mời quư vị theo dơi đôi ḍng tiểu sử của chính nhà sư Huệ Quang chia sẻ về cuộc đời của ông. Trân trọng.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1621051&stc=1&d=1595125300

Nhà sư Thích Huệ Quang, người bạn cùng khóa 4/71 với tôi, ông tên là Ngô Nhựt Tân, cũng có duyên gặp lại và cùng nhau trao đổi trên diễn đàn của Groups, cũng như các bạn đồng môn vẫn gọi tôi là Ara và tôi vẫn tiếp tục gọi lại tên tục của thầy, gởi các bạn xem bài viết “Hai h́nh ảnh. Một đời người” của Biệt Cách 81 dù Ngô Nhựt Tân. Ara (Keith Dane: kdang22@gmail.com)

Tôi rất vui mừng khi được một người bạn mời đóng góp cho trang tôn giáo, tiết mục Phật Giáo, trên website của Gia Đ́nh Mũ Đỏ vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn & Phụ Cận. Trước khi bắt đầu cho những bài viết sắp tới, tôi xin được nói về bản thân ḿnh, điều mà rất hiếm khi tôi thường đề cập đến. V́ tôi nghĩ, nói về Nhảy Dù mà bản thân chẳng có một ngày nào sống trong binh chủng này, hay nói về Tae Kwon Do mà không biết tí ǵ về vơ thuật, nói về kỹ thuật nhảy toán mà chưa một ngày mang huy hiệu thám sát của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, th́ khi nói đến ai mà tin. V́ vậy tôi phải nói một ít về bản thân, tạo niềm tin cho đọc giả với những bài viết về Phật Giáo sau này.

Tôi sanh ra tại Phan Thiết. Năm 8 tuổi mẹ cho vào chùa tu học, “để tránh cho con khỏi đi lính sau này,” bà nói với tôi như thế. Cha tôi là một cán bộ tập kết lúc tôi vừa tṛn một tuổi, theo chân Hồ Chí Minh với một ước vọng điên rồ là đẩy đất nước vào thiên đường xă hội chủ nghĩa.

Trong đời tu hành, tôi may mắn gặp được một vi minh sư, Thầy Thích Châu Đức, giảng sư Tỉnh Hội Phật Học Phan Thiết. Thầy tôi thuộc ḍng Thiên Minh, Huế, đệ tử của Ḥa Thượng Thích Quảng Huệ, nên đặt pháp danh cho tôi là Quảng Hạnh. Tôi gọi Ḥa Thượng Thích Măn Giác, hội chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, là sư bác. Ông mất năm 2009. Thầy tôi có một lời nguyền là không bao giờ nhận đệ tử, nhưng v́ mẹ tôi có công với đạo pháp – bà giúp việc Phật sự cho chùa nhiều năm và chính thức vào sống hẳn trong chùa từ năm 1968 – thầy đă nhận tôi làm người đệ tử duy nhất. Tôi được đưa về làm điệu tại chùa Thiên Minh, ngoài Huế, nên tôi đọc kinh rất ư là Huế và rành rơi việc kinh kệ và tán tụng. Năm 1966, thầy gửi tôi vào tu học tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, tại đây tôi được cạo cái chỏm tóc mà tôi rất ư là ghét và đă thọ sa di giới trong một đại giới đàn do Ḥa Thượng Thích Tịnh Khiết chứng minh. Năm 1968, tôi rời viện vào Sài G̣n tiếp tục việc học.

Năm 1970, tôi chính thức bỏ áo tu và năm 1971 gia nhập khóa 4/71 Thủ Đức/Sĩ Quan Trừ Bị QLVNCH. Ngày 29 Tháng Bảy năm1972 tôi măn khóa, mang cấp bậc chuẩn úy và phục vụ tại Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Tháng Giêng năm 1975, tôi thuyên chuyển về Sư Đoàn Nhảy Dù, phục vụ tại Tiểu Đoàn 5, Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù cho đến ngày đơn vị tan hàng tại mặt trận Khánh Dương. Tôi chạy vào được gần Phan Rang th́ bị bắt và nhốt tại trại cải tạo Cà Tót. Năm 1978, tôi cùng một số lớn tù cải tạo được tạm thả và được đưa về Phan Thiết điều trị bệnh, v́ quá nhiều tù nhân đă chết v́ một chứng bệnh kỳ quái không tên khi ở trong khu rừng thiêng nước độc Cà Tót.

Khi được lệnh triệu tập của Việt Cộng để trở lại học tập cải tạo, tôi đă cướp ghe và cùng một số cựu quân nhân vượt biển, đến được bờ tự do sau bốn ngày lênh đên trên biển Thái B́nh Dương. Tháng Mười Hai năm 1978 tôi định cư tại Canada. Năm 1979, tôi lấy vợ và có hai con, một trai một gái.

Tôi trở lại sinh hoạt với chùa chiền năm 1980 v́ dân tỵ nạn tại Ottawa cùng góp công góp của xây chùa, nhưng không ai biết kinh kệ một cách chuyên nghiệp như tôi.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1621052&stc=1&d=1595125300

Đại Đội 4 Xung kích/LĐ81BCD, người đầu tiên trong ảnh này là MĐ Ngô Nhựt Tân, hiện nay là nhà sư Huệ Quang.

Tôi làm trong nghành computer sau khi học xong college. Tôi dốt về kỹ thuật lắm nhưng phải chịu đấm ăn xôi để đem pay cheques về cho vợ nuôi các con. Biết ḿnh sẽ không sống sót lâu trong lănh vực điện toán, tôi túc ta túc tắc lấy courses ban đêm, năm 2002 tôi hoàn tất được cử nhân tâm lư.

Vợ con lúc này cũng khá ổn định về nghề nghiệp và học vấn, tôi xin phép vợ đi tu. May thay, mặc dù là một người Công Giáo gốc, bà hỗ trợ cho việc trở lại con đường tu tập của tôi. Tôi phục vụ cộng đồng một thời gian, và nhờ t́m ṭi nghiên cứu, tôi thấy ḿnh thích hợp với truyền thống nguyên thủy hơn là đại thừa. Tôi khăn gói đi Miến Điện (Myanmar tức nước Burma cũ) thọ tỳ kheo giới bên đó, lưu lại tu học cho đến khi thầy cho phép trở lại quê nhà Canada để trao truyền lại pháp môn thiền định Vipassana theo truyền thống Miến Điện.

Năm 2014, tôi học xong cao học nghành Tôn Giáo và Chính Trị. Năm 2016, tôi nhận được học bổng để theo học PhD Khoa Chính Trị tại Đại Học Carleton. Hiện nay, tôi vừa học vừa dạy về chính trị cho sinh viên năm thứ nhất và năm thứ nh́ cũng tại Đại Học Carleton, Ottawa, Canada (http://carleton. ca/polisci/people/tan-ngo).

Ngoài ra, tôi cũng đang dạy thiền và Phật pháp cho Phật tử tại chùa Tích Lan. Riêng ngôi chùa Từ Ân là nơi tôi đang sinh hoạt thường xuyên, ngoài việc lo cho phật tử việc kinh kệ và thiền định, tôi c̣n phụ trách việc giảng dạy cho sinh viên và học sinh trung học thường xuyên đến chùa để tham khảo và nghiên cứu về đạo Phật.

Theo Triết học về Tôn giáo (Philosophy of Religion, William L. Rowe, second edition, Wadsworth Publishing, 1993), từ khi có con người, v́ cảm thấy ḿnh quá nhỏ bé, và khiếp sợ thiên nhiên, nên ở đâu cứ thấy núi th́ thờ thần núi, sông th́ thờ thần sông, hễ thấy cái ǵ ngoài tầm hiểu biết th́ cứ thế mà thờ lạy. Tôn giáo v́ thế, không thể tồn tại ngoài con người v́ từ con người mà ra. This exists because that exists.

Trong Phật Giáo có câu “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác,” có nghĩa là ta phải t́m Phật pháp ngay trong cuộc sống của chúng ta, nếu bỏ thế gian này để đi t́m sự giác ngộ th́ chẳng thể nào t́m ra được. Nói đến đạo Phật chúng ta cần phải nghĩ đến cái gọi là Buddhism Engagement, có nghĩa là đạo Phật đi vào cuộc đời. Đạo Phật không thể tồn tại được nếu chúng ta cứ theo một khuôn ṃn lối cũ; đó là ê a tụng niệm kinh kệ bằng tiếng Hán. Đạo Phật cũng không thể phát huy bên Tây phương được nếu cứ nh́n đạo Phật qua một lăng kính mê tín dị đoan.

Đạo Phật rất đơn giản. Sự giác ngộ nằm trong tầm tay của người thực hành, và ngay trong cuộc sống hàng ngày. An lạc và hạnh phúc có mặt chung quanh chúng ta; hàng ngày, hàng giờ chúng ta nh́n nhưng không thấy được chúng. Một Phật tử hỏi tôi “tại sao con cứ khổ hoài trong khi con đi chùa thường xuyên và bố thí nhiều lắm, có phải điều Phật dạy khó thực hành lắm phải không thầy?” Tôi trả lời, chúng ta không làm được điều Phật dạy v́ điều ngài dạy đơn giản quá.

Chúng ta có khuynh hướng đi t́m những điều linh thiêng hay phép mầu từ chư Phật để cầu xin. Phật thua xa David Copperfield, một nhà ảo thuật lớn mà thế giới ai cũng biết tên, v́ ngài không làm được những điều của Copperfield. Ngài không thể ngồi một chỗ búng hay khảy móng tay, móng chân và làm cho chấn động cả tam thiên đại thiên thế giới như chúng ta thường nghe mấy thầy giảng dạy, cho dù có nhiều vị cũng cố giảng nghĩa qua một lăng kính khác, để phật tử nghe dễ chấp nhận hơn. Ngài chỉ thở, nhưng thở từ ngày này qua ngày khác, tháng nọ sang tháng kia, với một sự tỉnh thức trong từng giây phút. Phật đă dạy một con đường đơn giản, nhưng chúng ta không chịu đi, chỉ v́ chúng ta c̣n nhiều ham muốn trong cuộc đời. Nếu có người chịu đi th́ họ lại thiếu kiên nhẫn hay thiếu nỗ lực bỏ dở nửa chừng. Tôi thường nhắc nhở phật tử “đạo Phật là đạo để nếm chứ không phải đạo để nói.”

Có nhiều người nói rất văn hoa, trôi chảy v́ đạo Phật cho họ những điều kiện tốt để họ nói, nào là kinh, luận này luận nọ, nào là duy thức tông, nào là hoa nghiêm tông, nào là thiền tông. Nhưng khi nói động đến họ th́ họ nổi cơn tự ái như một kẻ điên. Mớ lư thuyết của đạo Phật mà họ đọc được tự dưng biến mất, lúc ấy chẳng có ǵ ngoại trừ một cái ngă to tướng…

Tôi nói với những người Phật tử Tích Lan, “Có một cái thước để đo sự tu tập của quư vị. Nếu ai nói động đến quư vị mà quư vị nổi điên lên, hay chỉ một chút bực ḿnh nhỏ, quư vị nên nhận biết là quư vị đă tu sai rồi và phải bắt đầu trở lại từ con số không. Nếu nhận biết ḿnh không hờn giận khi người khác nói động đến ḿnh, đừng tự măn, phải tiếp tục con đường tu tập v́ đường tu tập giống như đi ngược ḍng nước, nhiều chông gai và nặng nề lắm. ”

Nếu các bạn muốn đi t́m một vị thầy để nương tựa tu tập, không cần phải đi t́m một cao tăng, nhưng hăy t́m một thanh tịnh tăng.

Hẹn mũ đỏ thư sau, mong thân tâm an lạc. Mọi thư từ, ư kiến hay thắc mắc xin gửi thư về huequangqh@gmail.com , tôi sẽ trả lời thư chung trên tiết mục dành cho Phật Giáo. Sẽ trả lời thư riêng nếu có yêu cầu.

hoanglan22
07-22-2020, 03:50
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1623175&stc=1&d=1595389884
H́nh những người lính Địa phương Quân

Hồi Kư – LTS: Quốc Thái là bút hiệu của Thiếu tá Đinh Hùng C., một sĩ quan trẻ đầy nhiệt huyết. Trong những năm tháng cuối của cuộc chiến tại Việt Nam, anh giữ chức vụ Quận trưởng kiêm Chi khu trưởng Thủ Thừa tỉnh Long An. Quốc Thái và gia đ́nh hiện cư ngụ tại thành phố Reston thuộc tiểu bang Virginia. Nhân dịp đọc Đặc San Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa, anh đă nhiệt t́nh gửi bài đóng góp. Chân thành cám ơn Quốc Thái và mong có dịp được đọc bài vở của anh nhiều hơn. Đó là Quận Thủ Thừa của tỉnh Long An, nằm dọc theo Quốc lộ 4 khi chúng ta nh́n về bên phải từ hướng Saigon đi xuống qua quận Bến Lức. Thời điểm mà tôi ghi lại những gịng chữ này xảy ra vào nhừng ngày cuối tháng Ba, năm 1975 khi Ban Mê Thuộc vừa thất thủ, áp lực của cộng quân đè nặng trên khắp 4 vùng chiến thuật. Chúng tôi đang ngăn chận đường giây xâm nhập của địch từ vùng Mỏ Vẹt, Ba Thu và Kiến Tường…

Giờ này đại quân của VC đă tràn xuống. trận đánh mở màn làm cho tôi xính vính. Tôi biết chủ lực bọn Cộng sản nằm bên kia biên giới Cam Bốt, nhưng một bộ phận chính đang nằm ở phía bắc xă Long Ngăi Thuận, chúng hăm he muốn "chơi" Tiểu đoàn của Cử. Thiếu tá Cử xuất thân khóa 9 Thủ Đức, là một sĩ quan anh hùng, có tài chỉ huy và biết chỗ đứng của ḿnh nên tôi rất kính trọng và quư mến ông. Tôi đối xử với ông như bạn, xung trận cùng nhau, chia sẻ ngọt bùi nơi trận địa. Tôi triệu Cử về, bàn định là phải tính kế với bọn này. Tôi làm lệnh hành quân dùng tuần giang đưa Tiểu đoàn Cử đi hành quân và thay thế khu này là một đại đội biệt lập. Tiểu đoàn dời đi buổi sáng chẳng ngay trong đêm là đoàn tàu lại bốc đủ Tiểu đoàn đem về Mỹ An Phú, một xă đối diện, để ém quân đợi lệnh.
Mưu kế của tôi và Cử có phần thành tựu. Ngay đêm sau, xă Long Ngăi Thuận bị tấn công. Địch chiếm ấp và vây hăm căn cứ hành quân của tiểu đoàn mà hiện chỉ có một đại đội biệt lập trấn đóng. Hai khẩu 155 ly đă kín đáo dời lên xă Mỹ Lạc Thạnh từ trước. Tiểu đoàn Cử sẽ được chia làm hai cánh, một mặt chận đường rút, một mặt tấn công vào hông của địch, đồng thời trong đồn cũng nhận lệnh phản công mănh liệt. Cuộc chạm súng bắt đầu từ tờ mờ sáng. Sư đoàn 3 Không quân cho một chiếc L19. Tôi yêu cầu quan sát viên ở lại để cho tôi được xử dụng máy bay.
Người phi công là dân chịu chơi, bất chấp hiểm nguy, anh ta xuống thấp gần 500 bộ (khoảng 200 thước cách mặt đất) để tôi nh́n rơ hầm hố và khả năng tham chiến của địch. Địch đă kẹt cứng trong ấp là vùng śnh lầy nước ṛng, không giống như những vùng đất đỏ như Tam Giác Sắt, Bời Lời hay Dương Minh Châu nên không thể đào hầm hố để trú ẩn. Ở đây lộ mục tiêu là chết! Gần 3 tiếng đồng hồ tôi dùng phi pháo, đánh cho địch nhào ra trước khi Tiểu đoàn của Cử có thể tiến quân tiếp địch.

Kết quả sau cùng, Tiểu đoàn của Cử toàn thắng. Mối thù tháng trước đă trả, nhưng vấn đề từ nay có lẽ phức tạp hơn thế nhiều. Một câu hỏi khúc mắc cứ lởn vởn trong đầu tôi. Từ trước đến nay lính Cộng Ḥa gọi tụi Cộng sản là "chuột" v́ chúng luôn luôn trốn chui trốn nhủi, chỉ nhảy ra cắn trộm như nổ ḿn, phục kích hay pháo kích, nay bổng dưng chúng công khai ra mặt, đối đầu đánh lớn với quân ḿnh; có thể là Mỹø yểm trợ chúng tôi yếu, hay chúng muốn đi đến hồi kết của chiến tranh?

Chỉ huy là tiên liệu. Tôi phải lo toan trước khi quá trễ. Lợi dụng hai trận đánh lớn vừa qua, tôi động viên toàn thể quân sĩ từ bộ chỉ huy đến đơn vị, chỗ nào tôi cũng tạo không khí chiến tranh sôi sục. Lệnh tích lũy 60 ngày ăn với nước uống được ban hành, lính tráng hành quân liên miên trừ sĩ quan là không phải chạy, từ hạ sĩ quan trở xuống, nếu cấp trên gọi cấp dưới th́ cấp dưới phải chạy, anh nào đi đứng tà tà là bị đưa đi ngay. Tất cả cao ốc, bồn nước, lính phải đặt bao cát, đem đồ ăn dự trữ trên đó.
Làng xă nhân dân tự vệ cho vào khuôn phép, không c̣n đắc nhân tâm ǵ cả, anh nào lôi thôi bị đá thẳng cánh. Có lần Bộ chỉ huy tập báo động, Chỉ huy trưởng Cảnh Sát coi thường, vẫn để đèn, c̣n vặn máy thu thanh nghe cải lương trong khi lính Chi khu đang phải chạy vào hầm hố. Lập tức Chỉ huy trưởng Cảnh Sát bị gọi qua để nhắc nhở và cảnh cáo. Ngay ngày hôm sau, đích thân Cảnh sát trưởng phải đi hành quân với Chi khu. Hôm đó Trung tâm Phượng Hoàng lên kế hoạch hành quân cảnh sát ngay vào ổ Việt cộng, và tôi đă yêu cầu ông Thiếu tá Cảnh Sát nhảy tàu với tôi.
Nước ngập tới ngực, chưa vào tới bờ đă bị du kích bắn tỉa. Chỉ huy trưởng Cảnh Sát mặt mày xanh lè, không phải v́ nước lạnh mà v́ mạng sống người cảnh sát đang làm việc ở nơi an lành bỗng dưng ra đây thí mạng "cùi". Sau cuộc hành quân Phượng Hoàng này, mỗi khi Chi khu nổi c̣i báo động là đèn đóm tắt ngúm và bên cảnh sát kỷ luật hơn ai hết.
Mọi người biết là lệnh thật, không c̣n ai đùa nữa. Chỉ thị ban ra điều được kiểm soát để thi hành nghiêm chỉnh. Tôi mật lệnh cho Đại úy Lộc, Trưởng Ban 4, khi có chiến tranh là lập tức thi hành hai việc: Đem đoàn tàu ra thu kho gạo của ông Ba Bài về nuôi quân và phát cho lính pḥng thủ ăn, đồng thời lấy lực lượng trừ bị chiếm cây xăng, lấy xăng cho lính chở quân. Hành động chiếm đoạt của tư này dễ làm tôi bay chức, có khi c̣n đi tù nữa, nhưng tôi nếu mọi sự xảy ra như dự đoán chắc cái mạng ḿnh cũng sẽ chẳng c̣n, không lấy th́ Việt cộng cũng nhào vô cướp, vô t́nh ḿnh nhường đồ tiếp tế cho chúng đánh ḿnh. Thà chơi trước, chết tính sau!

Phần lính đă lo xong, phần dân cũng phải động viên tinh thần họ. Đại úy Phước được lệnh tổ chức Tiểu Diên Hồng tại quận để công khai cho dân lành biết là Thủ Thừa đánh Việt cộng đến cùng. Tất cả làng xă, viên chức, tư chức, thầy giáo, dân cử, thân hào nhân sĩ được mời đến rạp hát lớn của quận để dự lễ Tiểu Diên Hồng. Cả cái sân khấu rộng thênh thang, được Đại úy Phước chuẩn bị cho tôi. Phó quận, cảnh sát trưởng, 9 ông xă trưởng, 9 ông chủ tịch đại diện sẽ ngồi đối diện với hội trường. Không khí trang nghiêm và khí thế đấu tranh ngùn ngụt.
Tôi tỏ bày tâm tôi thật, ḷng tôi thật, thể hiện lên lời nói chân thành và rất mạnh dạn. Tôi không chấp nhận bất cứ một đầu hàng nào, kẻ nào bất kể quân hay dân mà quay lưng lại kẻ thù là bị tôi bắn trước. Hăy mạnh dạn chiến đấu, "sống hùng và chết hùng". Tôi kết thúc những lời ngắn gọn trong một hội trường im phăng phắc. Tôi hiểu người dân dưới kia ưu tư nhiều lắm. Họ đă biết rằng miền Trung vừa thất thủ, quận Tánh Linh đă mất khồng đầy một tháng. Ở cái quận nhỏ này ta và địch đă trao đổi nhau gần 200 mạng người.

Tôi ra về với tiếng hô chào dơng dạc của Đại úy Phước làm mọi người phải đứng lên tiễn chân. Tôi biết là đă để lại sau lưng những người dân nhiều lo âu và ngại ngùng. Tôi nào khác họ? Cũng là con người th́ ai cũng có những điều suy nghĩ giống nhau, nhưng tôi bị đưa lên cái thế có trách nhiệm, cái trách nhiệm này chỉ có đánh Việt cộng th́ mới chết ít, c̣n chạy th́ chỉ tổ chết nhiều. Chạy sao được? Đánh đă, sống chết tính sau. Quận Tánh Linh là vựa gạo của Quân khu, thế mà Việt cộng bao vây có 3 ngày, cả quận đầu hàng và đói. Bài học này tôi phải thuộc. Tôi đă không ngần ngại viết lệnh rơ ràng cho Đại úy Lộc đi tịch thu kho gạo của ông Ba Bài một khi Việt cộng tấn công.

Đêm 8 rạng 9 tháng 4 năm 1975, một lực lượng Việt cộng đánh vào tỉnh Long An chiếm phi trường Cần Đốt, một lực lượng khác đánh vào bên hông tỉnh chiếm xă Lợi B́nh Nhơn của Thủ Thừa. Cuộc chiến bắt đầu. Quả là sau những toan tính của con người có thiên định. Hai cánh quân đánh vào Long An chỉ là để dương đông kích tây để cầm chân quân tiếp viện. Chủ lực địch là công trường 6 (sư đoàn – thực ra cái lối hù của Việt cộng – chúng gọi là sư đoàn nhưng quân số chỉ bằng trung đoàn của ta) nằm phía sau cánh quận 5 cây số. Chúng tung từng toán đặc công tinh nhuệ, táo bạo đánh thẳng vào hông quận qua ngă chợ. Chúng mong giết tôi xong và chiếm Bộ chỉ huy Chi khu làchúng kéo cờ lên, đại quân của chúng sẽ tràn ngập, và với khí thế đó, quân ta phải tan hàng như đă chạy ở miền Trung.

Có thể Đức Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức đang an nghỉ trên mănh đất này đă thương cho cái công khó nhọc của đám quân dân quận nhà, nên Ngài mới tạo ra những cơ may hy hữu. Bọn cộng sản đă điều nghiên kỹ càng là không bao giờ đoàn tàu đi tuần lại về đậu ở đó trước 6 giờ sáng, nếu chúng đánh vào quận giờ đó th́ gần như là lổ trống, chỉ thọc bộc phá phá hàng rào kẻm gai là giết được tôi dễ dàng. Không may, điều nghiên đúng, nhưng sai cho ngày hôm đó, v́ nước thủy triều cao, đoàn tàu về bến lúc gần sáng, đúng lúc đặc công di chuyển đến nên vô t́nh chúng đă bị tao ngộ. Không chịu nổi những khẩu đại liên bên thành tàu, toán đặc công đành lẩn vào dân, chạy dạt ra chợ. Ba đêm trước, toán đặc công Việt cộng đă điều nghiên và thả lục b́nh để đánh ch́m tàu, chiếc tàu đi tuần về đậu chệch trên băi, phía trước đám lục b́nh mà Việt cộng đă dấu ḿn. Đặc công Việt cộng cố vượt bóng đêm đẩy lục b́nh ngược con nước để đẩy đám lục b́nh tấp vô thành tàu. Lính gác nhanh trí thấy lục b́nh trôi ngược nước bèn nổ súng. Biết bị lộ, tên đặc công trên bờ đă hy sinh hai tên dưới nước bằng cách phải cho nổ quả ḿn. Tiếng nổ như trời gầm làm tôi hoảng hồn phóng ḿnh ra khỏi hầm.

Như vậy là cái may thứ nhứt đă giúp cho Bộ chỉ huy thoát chết. Cái may thứ hai: theo thường lệ, Đại úy Khánh, Trưởng Ban 3 ra lệnh cho 200 lính Nghĩa Quân về quận nhận lệnh đi phát quang xạ trường, tránh không cho Việt cộng ẩn núp. Khi toán đặc công dạt ra chợ th́ trông quận đă có 200 lính với súng đạn sẵn sàng, Đại úy Khánh chỉ việc điều động cho đánh, công việc xẩy ra nhịp nhàng như ông Trời xếp sẵn . Tính trạng tấn công tràn ngập đă không xảy ra, v́ tất cả những chuẩn bị trước đă nhịp nhàng ăn khớp. Từ trong hàng rào pḥng thủ, Đại úy Lộc ra liên lạc với đơn vị Thủy Quân Lục Chiến mới về tăng phái, phóng ḿnh lên đoàn tàu trực chỉ nhà máy gạo Ba Bài. Trung đội trừ bị chiếm cây xăng. Bộ chỉ huy của tôi với Nhất kiếm (Ban 1), Nhị hà (Ban 2), Tam sơn (Ban 3), Tứ hải (Ban 4) , Ngũ hổ (Ban 5) và Lục bảo (Ban 6) phân tán ngay vào các cánh quân chiến đấu trong đường phố. Lệnh oang oang của nhiều máy phóng thanh thuộc Chi Tin tức Quận ra lệnh cho tất cả tàu bè dời về phía bên này sông, không cho địch chiếm để vượt sông.
Nói là con sông th́ hơi quá, nó chỉ là con kinh bề ngang 100 thước nằm ngang quận. Vài tên đặc công Việt cộng chạy lạc vào Thánh Thất Cao Đài đă bị lực lượng chiếm cao ốc hạ sát ngay. Cả toán c̣n lại bị dồn vào trong rạp hát. Chúng tử thủ bên trong. Cảnh sát dă chiến và tổ t́nh báo Chi khu đă trổ nóc đánh xuống, giết một mớ và bắt sống trọn ổ. Thiếu tá Tống, Chỉ huy trưởng Cảnh sát tỉnh, đích thân chở tù binh về khai thác. Trong khi đó t́nh h́nh ở tỉnh cũng lắng dịu, lực lượng Việt cộng đă bị đánh văng khỏi phi trường Cần Đốt. Vĩnh Đường gọi tôi báo Công trường 5 Việt cộng ở sau lưng nên ông cho 2 tiểu đoàn ĐPQ xuống tăng cường, dàn quân thanh toán bọn chúng. Vừa chiến thắng trận đầu lại bảo toàn được chủ lực, ḷng tôi vui sướng vô cùng. Tin tức bay nhanh không tả. Phóng viên, kư giả từ Sài G̣n đổ xuống nườm nượp. Cả Đại tá Cục phó Cục Quân y cũng xuống ủy lạo thương binh.

Hai Tiểu đoàn ĐPQ bây giờ đổ xuống ngập chợ. Cả cái quận lỵ nhỏ bé chứa toàn là lính. Lấy văn pḥng quận làm tâm điểm, một tiểu đoàn cánh trái, một tiểu đoàn cánh phải lần lượt qua sông dàn quân xuất phát. Từ trên nóc công sự pḥng thủ, tôi liên lạc với cả hai cánh quân. Trên 600 người lính dàn hàng ngang đă tạo một chiều dài cả cây số. Tôi chưa cho lệnh tiến quân v́ khi xă Lợi B́nh Nhơn thất thủ, Chi khu đă ra lệnh cho Đại úy Hải, Đại đội trưởng Đại đội Biệt lập vượt sông Vàm Cỏ về làm tuyến án ngữ phía cầu Long An để chận đặc công Việt cộng có thể xâm nhập phá cầu, đồng thời cũng để ḍ xét dọc sông Vàm Cỏ xem Việt cộng có ém quân ở đó không. Hải chạm súng lẻ tẻ chứng tỏ chỉ có du kích quân chận ḿnh. Đây là lúc hai tiểu đoàn được lệnh xuất quân. Trời tháng Tư, chưa vào mùa cầy cấy, đất c̣n khô và nứt nẻ. Những thửa ruộng bỏ trống đă làm cho quân ta có xạ trường quan sát rất xa.
Hai cánh quân liên lạc hàng ngang tiến song song. Từ trên lô cốt, tôi theo dơi bằng mắt và giữ liên lạc máy với hai Tiểu đoàn trưởng. Quân đi khoảng 800 thước th́ bắt đầu chạm địch. Điều khủng khiếp nhất là chạm súng trên một tuyến dài cả cây số, hỏa lực địch mạnh đến nỗi đạn cày dưới chân tôi như đàn dế rúc. Đủ loại súng mạnh, cối 61, cối 82 và 130 ly choảng liên hồi về phía bạn. Quân ta chỉ chống trả bằng những vũ khí cá nhân, và là khu dân chúng nên không thể dùng hảo lực pháo binh.

Trời ạ! Không thể ngờ được. Sau những đợt hỏa lực dũng mảnh, cộng quân bắt đầu xung phong và tràn ngập. Chúng ùa lên đen cả cánh đồng trước mặt, cuộc cận chiến không xảy ra, nhưng tấn công biển người vũ băo. Hai tiểu đoàn ĐPQ buộc phải rút về tuyến A. Và chỉ chớp nhoáng là 600 người lính đâm đầu xuống nước. Hai tiểu đoàn tinh nhuệ đă bị địch áp đảo đến nỗi không c̣n sức phản công. Điềm may mắn cuối cùng là nhờ con sông thiên nhiên chắn lối, nếu không, sự lui quân của hai tiểu đoàn đă lôi theo 60 ngàn dân trong quận Thủ Thừa sẽ thất thủ chớp nhoáng vào tay địch. Tôi đứng như chết sững giữa lằn đạn của quân thù. Sự lâm nguy của tiểu đoàn làm tôi quên cả sợ chết, nếu không phản ứng kịp th́ chỉ trong năm, mười phút nữa Việt cộng sẽ tràn đến bờ sông.
Chúng sẽ tha hồ xả súng tiêu diệt quân ta đang loi ngoi dưới sông. Tuy nhiên, điều may mắn cuối cùng đă đến, cũng do ḷng trời c̣n thương cái mạng quèn của tôi và đám quân dân, thảng hoặc sự linh thiêng của Đức Tiền quân một lần nữa đă xui khiến ra không chừng. Số là vịnh Thủ Thừa ăn thông với sông Vàm Cỏ, tại đây bị ảnh hưởng của nước thủy triều khi lên khi xuống, và nếu gặp nước ṛng th́ tàu bè xuống thấp, có khi mũi tàu chưa lên cao bằng bờ đất nên vũ khí trên tàu hoàn toàn bất khả dụng. Trong lúc này vào đầu tháng âm lịch, nước không lên mà cũng không xuống. Nó luôn luôn đầy bờ và giữ nguyên mực.
Nhờ vậy khi tôi chỉ thị, đoàn tàu được che dấu từ cái lạch con tiến ào ra xung trận.
Lệnh của tôi rất rơ ràng:"di chuyển trên sông và tác xạ. Mỗi tàu có 6 đại liên 50. Một bên thành tàu là 3 đại liên. Sáu chiếc tàu tuần giang có 18 khẩu đại liên, mỗi phút có thể nhả 6.000 viên đạn, đă di chuyển hàng dọc trên sông và tác xạ nhịp nhàng. Đại đội trưởng Tuần giang nhận lệnh rơ ràng chiếc nào trúng B40 bị ch́m là bỏ, không tàu nào được dừng lại để tiếp cứu tàu nào, tiếp tục xạ kích cho đến khi đẩy lui được địch. Đại quân của địch đang hăng tiết xung phong đến điểm chiến thắng, bất ngờ bị hỏa lực quá mạnh của đoàn Tuần giang làm chúng gục xuống như sung rụng. Bọn Cộng cũng phản ứng nhanh, chúng phản công bằng B40, B41 và các loại súng cối thi nhau nổ trên sông, rơi xuống như mưa băo. May mắn cho đoàn tàu ở thế di chuyển nên chưa chiếc nào trúng đạn, nhờ vậy mà hàng rào hỏa lực đă chận đứng được cuộc xung phong khổng lồ này.
Đoàn tàu đă tạo một lưới lửa trên sông. Tôi vui mừng cứ đứng ỳ trên lô cốt quên cả sợ chết. Bốn thầy tṛ tiếp tục trên đỉnh lô cốt mà quan sát và liên lạc. Gần một tiếng đồng hồ sau, hai tiểu đoàn ĐPQ mới ngoi lên khỏi mặt đất, tái bố trí và bắt đầu tiến lên để tiếp tục giao tranh với bọn Việt cộng. Hai tiếng đồng hồ sau đó địch bị đẩy lui hoàn toàn.
Cám ơn tất cả những đấng thiêng liêng đă cho bọn Cộng sản chọn cuộc tấn công lúc nước thủy triều không xuống thấp, đă cho đoàn tàu không bị sức mẻ, sáu cái c̣n nguyên vẹn và tạo ra một chiến thắng lẫy lừng, cứu được Quận và cứu được 600 mạng lính. Địch chẳng c̣n bao nhiêu đă rút thật xa, không lấy được xác, chúng nắm ngổn ngang đầy một cánh đồng. Trận sống mái nghiêng phần thắng về quân ta, làm các đồn bót nức ḷng lên tinh thần, các nghĩa quân bắt đầu làm chỉ điểm cho hai con gà cồ 155 ly pháo kích vào những nơi địch quân lẩn trốn. Một quả đạn 155 ly nặng 45 kg, sức nổ tàn phá và sát hại 50 thước vuông. Với sự chỉ điểm của các đồn bót, buổi chiều hôm đó ta đă tác xạ khoảng 800 quả đạn, thương vong của địch lên cao độ khó mà phối kiểm.

Ngày một ngày hai đă đi qua nhanh chóng. Quận nhà vẫn đứng hiên ngang. Chiến thắng Thủ Thừa đă vang dội cả miền Nam và thế giới. Nước bạn Hoa Kỳ cũng buồn v́ muốn đồng minh chết sớm mà c̣n có những chiến thắng này th́ khó "nhá"quá. Đài VOA và BBC đă đặt bản tin là chiến thắng lớn tại Thủ Thừa và phát thanh trên băng tầng của họ.
Nói chung, chiến thắng Long Khánh, chiến thắng Long An đă đem lại phần nào niềm tin cho người dân, người lính. Sau trận thất thủ Ban Mê Thuột, thượng cấp sử dụng danh từ "di tản chiến thuật" để che dấu sự thất trận và tháo chạy của ta, trong khi đó lại bồi thêm bằng tất cả xảo thuật tuyên truyền để lung lạc quân sĩ và dân chúng miền Nam, nào là "ngưng bắn da beo", Mỹ chỉ cho mất Vùng 1 và Vùng 2 thôi, c̣n Vùng 3, Vùng 4 sẽ được giữ lại. Cứ thế mà người lính chạy dài v́ yên trí là Mỹ và chính phủ Sài G̣n đă đồng ư như thế nên tin đồn tung ra tới tấp. Bộ Dân vận cũng như Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị vẫn giữ im lặng một cách đáng sợ. Điều buồn nhất là trong t́nh thế một mất một c̣n, lănh đạo miền Nam không tung được một đ̣n phản công nào đánh địch để thức tỉnh đồng bào, cứ lặng lẽ để bọn Cộng sản thao túng trên chiến trường, và tuyên truyền mạnh mẽ đến làm tan ră hàng ngũ Quốc Gia.

ARVN_sand_pit
Chiến thắng lớn ở Thủ Thừa và Long An chỉ là một chiến thắng về chiến thuật nhất thời, không lật ngược được thế cờ, và địch bổ sung quân xố rất nhanh, chỉ hai ngày sau chúng đă tập trung lực lượng, không dại dột tấn công biển người nữa. Chúng nhổ tất cả những đồn bót của ta đóng rải rác trong tỉnh và quận để che tai bịt mắt Bộ chỉ huy. Lư do mà chúng tăng cường nhanh, v́ tất cả những đường xâm nhập vào Nam, một khi người Mỹ đă có mật ước, họ bỏ ngỏ hết.
Trước năm 1975, một cán binh cộng sản muốn xâm nhập vào miền Nam, hắn phải đi đường bộ, thời gian mất từ 9 đến 16 tháng mới đến được miền Nam. Đầu năm 1975, người cộng sản vào Nam tham chiến chỉ đi mất có 11 ngày. Bọn này được chở bằng xe Molotova, đi xuyên qua đường ṃn HCM đến thẳng vùng Mimot, nơi cục R của Việt cộng (Bộ chỉ huy Trung ương cục miền Nam), từ đó bổ sung cho các đơn vị chiến đấu nhanh cấp kỳ.

Liên tục những ngày sau, Cộng sản thay đổi chiến thuật, dùng pháo 130 ly và những súng lớn bắn sập một số cao ốc có quân ta chiếm đóng ở trong thị xă. Hai khẩu đại bác 155 ly bị pháo kích bể bánh xe, không thể di chuyển được. Hai con gà cồ này đành thúc thủ, trực xạ tại chỗ và chờ chết. Phía Bắc đa số đồn bót đă bị thất thủ. Thằng Tám Bụng ở đồn có 12 người lính bị hơn 100 VC tấn công, nó không ngần ngại xin pháo nổ ngay trên đồn. Tôi không đành ḷng cứ giữ máy liên lạc cầm chừng và chuẩn bị sẽ cho đạn nổ chụp khi mất liên lạc hoàn toàn. Thằng Nam Lùn có 8 người lính th́ 2 chết, 2 bị thương, nó vẫn b́nh thản chiến đấu cầm chân bọn cộng sản ở bên ngoài.

Lính chết, đồn bị mất, quân ta không có tiếp viện. Máy bay chiến đấu không, trực thăng cũng không nốt v́ Vĩnh Đường và 31 đang sử dụng cho mặt trận ở Tân Trụ. Đến ngày thứ tư Saigon (phi trường Biên Ḥa đóng cửa) cho được một chiếc trực thăng Workship, tôi leo lên bay lượn để quan sát địch t́nh, thăm viếng những đồn bót và mấy thằng em c̣n sống sót. Ḷng dũng cảm của những người lính chất phát và tuân hành kỹ luật này làm tôi hănh diện vô cùng. Trong tiếng trực thăng nổ phành phạch, truyền tin liên lạc theo kiểu nói lóng, chỉ thấy đánh và đánh. Trong cơn phấn chấn đó, bất giác tôi nhớ hai khẩu hiệu mà một người lính đă kể ở một cḥi canh cạnh quốc lộ 4: "Dân ta hằng anh dũng; quân ta vẫn oai hùng". Chưa cảm khái được mấy phút th́ nh́n lại quận nhà thấy tiêu điều quá, cháy rải rác khắp nơi, những luồn khói đen thi nhau cuộn lên trời. Dân lành sợ đạn lạc đă đổ xô ra phía quốc lộ. Hàng chục ngàn người đói khát chờ đợi sự tiếp tế của chánh quyền.. T́nh h́nh vô cùng rối rắm. Trong cái đầu nhỏ bé của tôi biết bao là chuyện: làm sao ngăn chận Việt cộng, làm sao cứu dân… và làm sao để sống c̣n.
Trực thăng chưa bay được nửa tiếng đồng hồ, người phi công cho biết lệnh Saigon là phải trở về ngay. Chiếc trực thăng đảo một ṿng, vứt tôi xuống bải đáp và trực chỉ Saigon mất dạng. Đánh nhau đến ngày thứ sáu, quân ta bắt đầu mệt mỏi, thiếu đạn dược và tiếp liệu. Sài G̣n vẫn bàng quan tọa thị để địa phương tự đánh. Mười giờ sáng, Trung tướng Toàn, Tư lệnh Quân khu đến BCH hành quân của tôi bằng xe jeep. Tôi không thích lối nói "huề vốn" của một số sĩ quan cao cấp ở BCH.
Tôi phủ nhận tất cả những lời tŕnh bày của vị Trung tá Chỉ huy trưởng BCH Chiến thuật. Tôi nói với Tướng Toàn rằng tôi trực tiếp chỉ huy trận đánh này trong 6 ngày qua. Thế địch rất mạnh v́ chúng bổ sung tổn thất cũng như đạn dược rất nhanh. Lư do tôi c̣n giữ được quận là nhờ con sông thiên nhiên làm chướng ngại vật. Tôi e rằng nếu địch đem PT-76 hay chiến xa xuống th́ Thủ Thừa sẽ thất thủ ngay v́ sự kinh hoàng của lính. Ruộng vào tháng Tư khô rang, hai mươi cây số đường chim bay từ Cam bốt, địch dễ dàng chạy chiến xa xuống. Tôi yêu cầu Quân khu, thứ nhất tăng viện thêm quân, thứ hai tăng cường chiến xa và M-113. Trung tướng Toàn ngồi thừ với cặp kính đen trên mắt, không nói một câu. Theo lệnh Vĩnh Đường, tôi tạm giao trách nhiệm chỉ huy chiến thuật cho Trung tá Liên đoàn trưởng BĐQ tăng phái để bước ra lo cơm nước cho cả chục ngàn người dân. Đây cũng là lúc Tướng Toàn chỉ thị cho Đại tá Tường, Trưởng pḥng 3 Quân đoàn theo tôi ra quận để điêu nghiên địa thế. Tôi chưa kịp mở bản đồ thuyết tŕnh, pháo nặng của địch đă phóng tới. Đại tá Trưởng pḥng 3 lên xe dông tuốt, tôi chạy vội xuống hầm chỉ huy.
Sự mệt mỏi của cả một tuần lễ không ăn không ngủ làm tôi kiệt sức. Tôi dựa lưng vào tường nhưng mắt vẫn không rời lổ châu mai quan sát những diễn tiến của ta và địch bên kia sông. Hai tiểu đoàn thoát chết, biết khôn đă đào hố cá nhân pḥng thủ chiều ngang. Tôi không c̣n một lực lượng nào để phản công ngoài hai tiểu đoàn ĐPQ bị cầm chân tại chỗ. T́nh thế này địch sẽ tiến lên chiếm quận và không hề có ư rút.
Địch đă bắt đầu pháo gần đến BCH v́ lư do đại kỳ VNCH của chúng ta vẫn bay ngạo nghễ trước gió, vô t́nh làm chuẩn đích cho Việt cộng tác xạ. Nhị Hà đă nhiều lần đề nghị hạ đại kỳ nhưng tôi nhất định không chấp thuận, v́ nó là biểu tượng sự sống c̣n của quận, là niềm tin của chiến sĩ. Họ kiêu hănh khi nh́n thấy lá cờ nầy mà chiến đấu. Một loạt 130 ly rơi trúng sân cờ. Nhị Hà đă gục tại đây. Một mảnh đạn bay trúng cổ thằng Thành, đệ tử trung thành của tôi, lo lắng cho tôi như một người thân. Cổ họng nó máu phun có ṿi. Nó gầm lên như con heo bị chọt tiết, cứ thế chạy từ pḥng này qua pḥng khác, máu phun tung tóe lên trần nhà. Nó gục xuống và chết khi ḍng máu ở cổ ngừng chảy. Một quả 130 rơi trúng Trung tâm Hành quân, ngay trước lổ châu mai mà tôi đang quan sát.
Điều lạ là đúng lúc quả đạn này rơi xuống là lúc Trung sĩ Minh – người cận vệ của tôi – bỗng dưng đến trước mặt tôi, quay lưng vào lô cốt. Sức nổ và mảnh đạn theo lổ châu mai bay vào, ghim đầy ḿnh. Anh chồm lên ngă chúi vào người tôi dẫy chết. Cũng đúng lúc đó, một mảnh đạn nữa đâm bổ vào mặt tôi nhanh như một luồng ánh sáng. Trong tốc độ khủng khiếp ấy, rơ ràng nó đâm vào mắt tôi, nhưng như có một bàn tay vô h́nh nào đă đẩy mảnh đạn vào ngay hốc mắt, ghim vào xương sọ ngay trước mũi và tôi thấy máu mồm máu mũi ộc ra. Trước lúc tôi bất tỉnh, tôi lờ mờ nhận thức được ḍng máu nóng hổi trong thân thể Trung sĩ Minh vẫn tiếp tục chảy ướt đẫm người tôi. Tôi lịm dần…

Sau này có dịp nghe kể lại, tôi được biết lúc đó BCH hành quân đang điều động phối hợp lực lượng giải tỏa Tân Trụ đồng thời phản pháo cho tỉnh lỵ. Riêng Vĩnh Đường, ông đang thị sát trận địa trên quốc lộ 4 khi VC đống chốt làm gián đoạn cầu Voi. Đây là quốc lộ huyết mạch tiếp tế chính cho thủ đô Saigon từ miền Tây nên việc gián đoạn này làm ông điên đầu. Theo trù liệu th́ có thể lực lượng của Trung đoàn 14 thuộc SĐ 9 BB sẽ từ Bến Tranh di chuyển lên xă Hải Yến, Trung đoàn trưởng cương quyết tuyên bố: "Đêm nay tôi sẽ có mặt ở Phú Lâm".

Được báo tin tôi bị "tróc sơn", Vĩnh Đường (danh hiệu trên vô tuyến của Đại tá Tiểu khu trưởng) và 31 (danh hiểu của Thiếu tá Trưởng pḥng 3 TK) đă tức tốc đổi hướng, cho trực thăng bay ngay vào vùng với ư định lấy hỏa lực pháo binh áp đảo địch đồng thời bốc tôi ra khỏi trận địa. Ư định này không thực hiện được v́ lưới pḥng không 37 ly của địch đan chằng chịt, phi cơ phải bay thật cao và cuối cùng phải về hạ cánh tại BCH. Măi tới xẩm tối, nhóm phi công thân hữu và 31 đă lại một lần nữa xin Vĩnh Đường cho bay vào vùng. Được chấp thuận, 31 đă hướng dẫn phi cơ bay ngược lên phía Bắc, không bay ṿng để lừa địch, rồi dùng hệ thống vô tuyến trên tầng số riêng dặn ḍ Tam Sơn phối hợp thật đẹp. Nhào qua lưới đạn pḥng không, chiếc trực thăng đáp "auto" khẩn cấp và bốc được tôi. Vừa lên khỏi mặt đất là pháo địch rơi ngay bên cạnh. Nhóm phi công và 31, người bạn thân của tôi đă ôm tôi mà reo lên. Phi cơ bay thẳng về Tổng y viện Cộng Ḥa. Lúc đáp kiểm lại, phi hành đoàn ngạc nhiên là tại sao phi cơ không nổ rớt khi nó bị trúng đạn nhiều như thế. Hai mươi hai năm dài, ngồi kể lại chuyện này, tôi vẫn tưởng như ngày hôm qua.

Vinh quang của tôi là xương máu của những người đồng đội. Sự sống c̣n của tôi là những sự hy sinh đến mất mạng của những người lính. Trận đánh cuối cùng của đời tôi để bị loại khỏi ṿng chiến chỉ là một giai đoạn chiến thuật. Thâm tâm tôi vẫn nghĩ rằng tôi phải đánh một trận đánh thực sự cuối cùng với bọn Việt cộng. Nó thực sự gọi là cuối cùng khi mà bọn bạo quyền Hà Nội không c̣n tiếp cai trị nhân dân ta, khi mà quyền căn bản của con người ở Việt Nam c̣n bị chà đạp, th́ không có trận đánh nào được gọi là trận cuối cùng.

Quốc Thái

hoanglan22
07-22-2020, 14:26
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1623466&stc=1&d=1595427879

Theo sách “Đại thắng Mùa Xuân” của Tướng CSVN Văn Tiến Dũng th́ đêm 11-3-1975 quân CSVN bắt được Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 Bộ binh VNCH tại Ban Mê Thuột. Ông này khuyên Văn Tiến Dũng nên đánh thẳng xuống Nha Trang và Cam Ranh bởi v́ giữa Ba Mê Thuột và Nha Trang chỉ c̣n 1 trung đội Địa phương quân đóng tại đèo M’Drak. (Một trung đội khoảng 30 người).

Thực ra lúc đó giữa Ban Mê Thuột và Nha Trang có 1 Tiểu đoàn ĐPQ chứ không phải 1 trung đội (Một tiểu đoàn khoảng 500 người). Đó là Tiểu đoàn 321/ĐPQ của Tiểu khu Ninh Thuận tăng phái cho Tiểu khu Khánh Ḥa. Tiểu đoàn đến trận địa Khánh Dương vào sáng sớm ngày 15-3-1975. Lúc đó quân CSVN đang từ BMT tràn xuống Khánh Ḥa.

Chiều ngày 15-3 tại Chi khu Phước An của Tiểu khu Đắc Lắc, Trưởng pḥng t́nh báo Quân Đoàn 2 là Đại Tá Trịnh Tiếu nhờ Thiếu Tá Phạm Huấn, đặc phái viên của Tướng Phạm Văn Phú, báo lại cho Tướng Phú, đang ở BTL/Quân Khu 2 tại Nha Trang, rằng quân CSVN tại Ban Mê Thuột là 4 sư đoàn, đang tràn về Nha Trang (Một sư đoàn khoảng 10.000 người).

Để đối phó với quân CSVN từ Ban Mê Thuột, Tướng Phú đă cầu cứu với Bộ TTM và Bộ TTM cho biết 3 hôm nữa Lữ đoàn 3 Dù đang trên đường từ Đà Nẵng về SG sẽ đổ bộ tại Nha Trang để lên chặn địch tại Khánh Dương.

Tướng Phú không thể ngồi yên chờ quân Dù, rơ ràng 3 hôm nữa th́ quá muộn; cho nên một mặt ông điều xe của BCH Quân Vận 5 chở hằng trăm tấn đạn đại bác lên Khánh Dương để đánh theo chiến thuật “Pháo Binh + Trinh Sát Bộ Binh” ( Trinh Sát Bộ Binh là 5 đại đội của Tiểu đoàn 231/ĐPQ, 4 đại đội tác chiến chia ra làm 4 cánh Trinh Sát, cánh thứ 5 là đại đội chỉ huy).

Đồng thời ông cũng điều Trung đoàn 40 thuộc Sư đoàn 22 BB bỏ ngỏ vùng hoạt động tại Bắc B́nh Định lên Khánh Dương. Trong khi người Phó của ông là Tướng Trần Văn Cẩm và Bộ Tham Mưu Quân đoàn II đang chuẩn bị cho một cuộc hành quân triệt thoái trên Liên tỉnh lộ 7. Tướng Phú hy vọng số quân triệt thoái (5 liên đoàn BĐQ, 2 tiểu đoàn Pháo hạng nặng, 1 trung đoàn tăng) sẽ là lực lượng chặn 4 sư đoàn địch trên Quốc lộ 21.

Trong khi t́nh h́nh Quân khu 2 lâm vào cảnh hiểm nghèo như thế th́ hồi kư của Tướng Cao Văn Viên không hề có lấy một ḍng đả động tới việc ông đă ra lệnh như thế nào hoặc làm ǵ để giúp Tướng Phú trong suốt khoảng thời gian từ khi trận Ban Mê Thuột bắt đầu nổ ra cho tới ngày quân CSVN thanh toán xong BMT và bắt đầu tràn xuống Nha Trang.

Năm 1975, ngày 15/ 3, lúc 3 giờ sáng, Tiểu đoàn 231 ĐPQ từ Ninh Thuận lên đến Chi Khu Khánh Dương. Đây là Tiểu đoàn thứ 5 được thảy vào trận địa Khánh Dương, và chỉ đơn độc một tiểu đoàn. Bốn tiểu đoàn ĐPQ trước đó đă bị đánh tan.

Lúc này Tướng Phú vẫn c̣n hy vọng giải tỏa Quốc lộ 21 tại Đồi 519 để thông đường tiếp vận cho Sư đoàn 23 BB/VNCH và lực lượng tái chiếm Bam Mê Thuột đang tập trung tại Chi khu Phước An, là quận giáp giới với Chi khu Khánh Dương của tỉnh Khánh Ḥa.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1623467&stc=1&d=1595427879

Chú giải: Trích lời kể của Trưởng ban Hành quân Tiểu đoàn 231/ĐPQ:
“Đoàn xe chúng tôi lên đến Khánh Dương khoảng 3 giờ sáng. C̣n cách trận địa 10 cây số th́ đoàn xe phải tắt đèn pha và đi bằng đèn mắt cáo trong đêm. Từ xa chúng tôi đă nghe tiếng đại bác nổ ran như cả một thành phố đốt pháo tết, trong đời tôi chưa bao giờ nghe đạn đại bác nổ với nhịp độ như vậy.

Khi xe của tôi và Tiểu đoàn Trưởng vừa ngừng tại băi đậu xe th́ Đại úy Tiểu đoàn Phó từ xe khác bước tới: “Thiếu Tá ơi! Không tư cách ǵ sống nổi Thiếu Tá ơi!”… Chúng tôi vừa bước xuống xe th́ có 2 sĩ quan hành quân thuộc Tiểu khu Khánh Ḥa đến trao “lệnh hành quân” và thuyết tŕnh hành quân ngay tại băi đậu xe, dưới ánh đèn pin.

Theo như mục t́nh h́nh của “lệnh hành quân” th́ quân số địch là 1 tiểu đoàn “Cơ động tỉnh” (Tiểu đoàn địa phương) nhưng họ có ưu thế là chiếm trước trận địa và đă bố trí trận địa quanh khu vực Đồi 519. Do đó nhiệm vụ của Tiểu đoàn chúng tôi là áp sát khu vực xung quanh đồi 519 để thám sát, điều nghiên vị trí bố pḥng của địch.

Tuy nhiên với kinh nghiệm của một người sĩ quan tham mưu tôi biết trong lệnh hành quân này có điều ǵ lắt léo, bởi v́ một tiểu đoàn không thể hành quân dàn hàng ngang 18 cây số (suốt bề ngang của thung lũng Khánh Dương). Do đó sau khi Thiếu Tá Tiểu đoàn Trưởng và Đại úy Tiểu đoàn Phó không có thắc mắc ǵ thêm, tôi kéo hai sĩ quan của Khánh Ḥa là Trung úy Minh và Trung úy Hạnh ra ngoài xa để hỏi cho biết sự thật.

Nguyên trước đây 4 tháng tôi là Trưởng ban Điều hợp lực lượng diện địa của Pḥng 3 Tiểu khu Khánh Ḥa (Pḥng 3 là pḥng hành quân). Trung úy Minh và Trung úy Hạnh là sĩ quan thuộc cấp của tôi. C̣n người hiện đang làm Trưởng ban Hành quân của Bộ chỉ huy hành quân Tiền phương tại Khánh Dương là Thiếu Tá Nguyễn Xuân Hớn, Trưởng pḥng 3 của Tiểu khu Khánh Ḥa, tức là ông xếp cũ của tôi. Giao t́nh của tôi và 17 sĩ quan trong Pḥng Hành quân Tiểu khu Khánh Ḥa như anh em một nhà.

Khi đă cùng nhau đứng cách xa băi đậu xe, hai người anh em của tôi cho biết họ không được phép nói sự thật nhưng họ bảo tôi có thể vào hỏi sự thật nơi Thiếu Tá Hớn, Trưởng ban Hành quân của Bộ chỉ huy hành quân. Họ cũng cho tôi biết là chiến trận tại Đồi 519 không phải xảy ra vào ngày 10-3, tức là ngày đánh Ban Mê Thuột, mà đă xẩy ra trước đó 7 ngày; và đă có 2 tiểu đoàn của Khánh Ḥa và 1 tiểu đoàn của Ninh Thuận đă tiêu tan trong cố gắng nhổ chốt Đồi 519, giải tỏa Quốc lộ 21 để thông đường tiếp tế cho Ban Mê Thuột.

Tôi bước vào lều của Bộ Chỉ huy Hành quân. Thiếu Tá Hớn đứng chết sửng khi biết tôi là Trưởng ban Hành quân của Tiểu đoàn sắp được đem ra thí. Ông cho tôi biết tất cả sự thật mà chỉ có vài người cao cấp nhất trong Tiểu khu Khánh Ḥa mới được biết: Lực lượng địch chốt tại Đồi 519 không phải là 1 tiểu đoàn địa phương mà là Trung đoàn chủ lực Miền, Trung đoàn 25 CSVN.

Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 2 dự đoán lực lượng đang tấn công Ban Mê Thuột phải trên 1 sư đoàn cho nên không c̣n hy vọng tái chiếm Ban Mê Thuột. BTL Quân đoàn đă tính tới kế hoạch lập tuyến pḥng thủ tại Chi khu Phước An để ngăn chận quân CSVN từ Ban Mê Thuột tràn xuống. Nhưng chi khu Phước An sẽ không thể lập thành tuyến pḥng thủ bởi v́ sau lưng Phước An, trên đường xuống Đồng Bằng, là Đồi 519 đang do quân CSVN chiếm giữ.

Do đó chỉ c̣n có cách là lực lượng của Sư đoàn 23 tại Phước An đánh xuống và quân Khánh Ḥa, Ninh Thuận từ Khánh Dương đánh lên, nếu thành công th́ lấy đồn Chu Cúc làm địa đầu giới tuyến để ngăn chặn quân CSVN từ BMT, c̣n đồn 519 là đồn hỗ trợ cho đồn Chu Cúc. Tuy nhiên phía Khánh Ḥa đă tiêu tan hết 4 tiểu đoàn tại khu vực Đồi 519, giờ đây chỉ c̣n duy nhất Tiểu đoàn 231/ĐPQ.

Trong khi đó lực lượng Sư đoàn 23 BB tại Phước An h́nh như đang trong t́nh trạng không ổn định (Đă bị tan hàng). V́ vậy giờ đây nhiệm vụ của 231/ĐPQ là xé lẻ Tiểu đoàn thành 5 đại đội trinh sát dàn hàng ngang suốt thung lũng Khánh Dương để phát hiện quân địch tràn xuống. Khi phát hiện địch từ xa th́ chỉ gọi Pháo Binh rồi để cho Phi cơ và Pháo Binh đánh trận chứ quân Bộ Binh không đánh. Đặc biệt không có máy bay tản thương, phương tiện tản thương chỉ là khiêng về phía sau bằng cách đi bộ. Nhưng có lẽ phải bỏ thương binh lại bởi v́ sẽ rút không kịp nếu bị tấn công.

Nhiệm vụ của 231/ĐPQ là làm sao cầm chân quân CSVN trong 3 ngày; sau 3 ngày sẽ có 1 lữ đoàn Dù lên Khánh Dương khóa đèo M’Drak, lập pḥng tuyến vững chắc ngay tại đầu đèo, nhường BMT và Khánh Dương cho CSVN. Trong khi đó sẽ có 1 Lữ đoàn TQLC sẽ được đưa tới phía Tây Chi khu Diên Khánh để khóa hệ thống đường ṃn từ Biên giới Lào Việt xuống Khánh Ḥa. Con đường này đă được CSVN thiết lập kể từ ngày có lệnh ngưng bắn năm 1973.

Như vậy yêu cầu chiến thuật của TĐ 231/ĐPQ là vừa đánh vừa rút trong 3 ngày (tŕ hoăn chiến) chứ không được chạy dài một mạch. Nếu biết sự thật này th́ không một vị chỉ huy tiểu đoàn ĐPQ nào dám đi bởi v́ ĐPQ chỉ chuyên canh gác đồn bót, cầu cống, làng xă chứ không có khả năng ứng dụng chiến thuật lui binh. Họ chỉ chịu đi nếu như họ bị đánh lừa như đă ghi trong lệnh hành quân. Nhưng hễ bị đánh lừa th́ một khi đụng trận họ sẽ chạy dài như 4 Tiểu đoàn ĐPQ trong ṿng 10 ngày trước đó. Do đó chiến thuật tŕ hoăn chiến, đánh cầm chừng trong 3 ngày sẽ khó có thể thực hiện được nếu người điều quân không phải là một sĩ quan xuất sắc về tham mưu cũng như về chỉ huy.

Sau khi cho biết rơ t́nh h́nh, Thiếu tá Hớn kết luận Tiểu đoàn của tôi là một Tiểu đoàn bị đem ra thí trước khi quân Dù khóa được đèo M’Drak. Hy vọng sống sót trở về rất mong manh. Giờ đây tôi có hai lựa chọn: một là điều động Tiểu đoàn sao cho có vẻ là một cuộc hành quân thám sát trong khi cố gắng tránh chạm địch nhưng vẫn bám địa bàn để gọi Pháo Binh và Phi cơ. Hai là đi tạt về một phía an toàn chứ không bắt buộc phải dàn đội h́nh trước khu vực đồi 519, và sẽ chạy dài về phía sau một khi bị pháo hay bị tấn công.

“Mày có quyền làm theo lương tâm của chính mày; một bên là trách nhiệm đối với đất nước, một bên là mạng sống của mày và của anh em binh sĩ trong tiểu đoàn”. Thiếu tá Hớn đă nói câu kết thúc với tôi như vậy.

Tôi hỏi lại Thiếu tá Hớn là ở trên không c̣n cách nào khác nữa sao? Thiếu tá Hớn cho biết là đă hết cách v́ hiện thời không c̣n quân (BCH/Tiểu khu Khánh Ḥa và BTL/ Quân đoàn 2). Sau hai phút cân nhắc, tôi trả lời Thiếu Tá Hớn là tôi sẽ làm theo những ǵ mà bộ chỉ huy chiến trường mong muốn, mặc dầu như vậy là tôi phải lừa dối binh sĩ trong tiểu đoàn và phải chịu trách nhiệm với gia đ́nh của họ nếu chẳng may họ không trở về.

Thiếu Tá Hớn cảm động bắt tay tôi thật chặt, có lẽ là để cám ơn tôi nhưng cũng có thể là để vĩnh biệt bởi v́ ông biết chúng tôi khó trở về; sau đó ông cho tôi những đặc lệnh Truyền Tin đặc biệt để liên lạc riêng với ông cũng như với sĩ quan “quan sát viên điều không tiền tuyến” của Tiểu khu Khánh Ḥa. Ông cũng chỉ cho tôi các hướng có thể chạy về vùng an toàn nếu may mắn c̣n sống sót.

Việc tôi trở lại Khánh Ḥa để đánh trận Khánh Dương như là đă có duyên tiền định: Gặp lại và làm việc với những sĩ quan bạn bè cũ tại Khánh Ḥa không phải là duyên kỳ lạ duy nhất, Đại úy Tiểu đoàn Phó Nguyễn Văn Thắng mới đổi về Tiểu đoàn 2 tháng nay nguyên là ông Liên đội Phó Địa Phương Quân của tôi khi tôi mới từ LLĐB chuyển qua ĐPQ cách đây 4 năm.

C̣n Đại đội Trưởng Đại đội 3 của Tiểu đoàn là Đại úy Ngô Đ́nh Lư, nguyên Đại đội Trưởng Đại đội Biệt kích 554 thuộc Trại Trung Dũng, Thành, Nha Trang. Lúc tôi mới ra trường về làm “Sĩ quan cố vấn” cho Đại đội 554 th́ Lư là một đại đội trưởng dân sự chiến đấu, không có cấp bậc. Trong Tiểu đoàn c̣n có Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Ḥa, đại đội phó Đại đội chỉ huy, nguyên cũng là Trung đội Trưởng Trung đội Thám Sát 72 của Trại Biệt kích Trung Dũng, thuở đó Ḥa cũng không có cấp bậc.

Đại đội Trưởng Đại đội 1 của Tiểu đoàn là Đại úy Nguyễn Văn Mới cũng là sĩ quan LLĐB cùng chuyển qua Địa Phương Quân cùng một lượt với tôi vào năm 1971. C̣n Đại đội Trưởng Đại đội 2 của Tiểu đoàn là Trung úy Lê Bá Luyện, trước đó 2 tháng là Trưởng ban Hành quân của Chi khu Khánh Dương, quen biết với tôi khi tôi c̣n làm việc tại Pḥng hành quân Tiểu khu Khánh Ḥa. Do đó Trung úy Luyện rất rành địa thế Khánh Dương và quen với cách làm việc của từng người trong BCH Chi Khu.

Chính v́ quen biết thân t́nh với hầu hết các vị sĩ quan chỉ huy trong Tiểu đoàn cho nên tôi biết tính ư từng người và ngược lại họ cũng tin tưởng nơi khả năng của tôi mà họ đă biết từ trước. Riêng ông Tiểu đoàn trưởng Thiếu Tá Nguyễn Duy Hoàng th́ yên tâm giao khoán mọi việc cho tôi với ông Tiểu đoàn Phó.

Có lẽ đây là lần đầu tiên ông ra trận, trước đó ông chỉ phục vụ trong các Trung tâm Huấn luyện. Ông cũng mới đổi về Tiểu đoàn cách đây 2 tháng để thay thế Đại úy Bùi Hữu Kiệt (Khóa 20 Vơ Bị Đà Lạt) đă tử trận tại B́nh Định trong thời gian chúng tôi tăng phái cho Chi Khu Tam Quan 4 tháng trước đó. Nhờ vậy mà tôi mới có thể thi hành chính xác yêu cầu thực sự của Bộ chỉ huy hành quân mà ngay cả các vị sĩ quan chỉ huy trong tiểu đoàn cũng không hay biết”.

Các sĩ quan trong Tiểu đoàn đặt hết tin tưởng nơi tôi qua thời gian 2 tháng tôi giữ chức vụ Trưởng ban Hành quân Tiểu đoàn tại chiến trường B́nh Định, nhất là trong khoảng thời gian Tiểu đoàn trưởng Bùi Hữu Kiệt tử trận mà không có Tiểu đoàn phó. Riêng đối với trận địa Khánh Dương th́ tôi là người rành địa h́nh nhất và quen với lối làm việc của những người trong Bộ chỉ huy Hành quân Tiếu khu Khánh Ḥa.

Trong khi đó người Chỉ huy trực tiếp tại Bộ Chỉ Huy Tiền Phương là Đại Tá Tiểu khu Trưởng Lư Bá Phẩm và Trung Tá Tham mưu Trưởng Ngô Quư Hùng cũng ra lệnh cho tôi trên máy như là với một người đàn em thân thiết, không phải như một đơn vị tăng phái.

Cũng v́ sự tin tưởng chân thành của những sĩ quan bạn bè trong tiểu đoàn mà lương tâm tôi bị đè nặng bởi mặc cảm tội lỗi là ḿnh đang lừa dối họ.

Sau 1 ngày nghỉ ngơi lấy sức, 8 giờ sáng ngày 16-3 chúng tôi xuất phát từ Buôn M’Dung tiến về phía đồi 519. Khoảng một tiếng sau tôi nhận được lời nhắn của Thiếu Tá Hớn hăy sang tần số đặc biệt giữa hai chúng tôi. Sau khi sang tần số đặc biệt ông chuyển cho tôi một câu nhắn tin được ngụy hóa bằng “khóa đối chứng” (Bảng mă của ngành Truyền Tin).

Sau khi người lính mang máy cho tôi biết nguyên văn lời nhắn là “ Quân số địch là 3X”, người lính đó hỏi tôi 3X là bao nhiêu? Tôi trả lời ngay là 1 Trung đoàn (do tôi bị ám ảnh bởi lời của Thiếu Tá Hớn trước đó quân số địch là 1 trung đoàn). Tuy nhiên đi thêm được vài bước th́ người tôi chợt lạnh toát, mồ hôi vả ra; bởi v́ tôi sực nhớ lại 3X là một quân đoàn (3 sư đoàn Bộ binh, 1 sư đoàn pháo, 1 sư đoàn tăng).

Tôi mất hồn, không phải v́ tính mạng mỏng manh của chúng tôi, mà v́ tương lai hiểm nghèo của đất nước. Địch đă tập trung tại BMT một quân đoàn th́ dĩ nhiên địch quân sẽ không dừng tại đây, chắc chắn họ sẽ tràn xuống Khánh Ḥa! Làm sao mà Tiểu đoàn của tôi có thề cản nổi bước tiến của họ trước khi quân Dù khóa đèo M’Drak?
(Chúng tôi chỉ có 377 người, trong khi địch quân có khoảng 40.000 người).

Lúc đó là 9 giờ sáng nhưng tôi có cảm tưởng như là trời đang hoàng hôn, cảnh vật mờ ảo như trong một giấc mơ. Nh́n loáng thoáng bóng những người lính lặng lẽ tiến bên cạnh ḷng tôi tê điếng v́ thương xót, chỉ một ḿnh tôi biết chắc là họ sẽ không thể trở về”.


Bùi Anh Trinh


Chú thích của người viết
Trưởng ban hành quân của Tiểu đoàn 231 ĐPQ chính là tôi, Trung Úy Bùi Anh Trinh. Diễn tiến của trận đánh sẽ được kể trong các bài kế tiếp. Lúc ra đi chúng tôi có 377 người. Và khi về c̣n có 72 người.

Thiếu Tá Tiểu đoàn Trưởng Nguyễn Duy Hoàng, Đại úy Đại đội Trưởng ĐĐ chỉ huy Lương Văn Thông và tôi hiện đang sinh sống tại Little Saigon, Cali. Thiếu Tá Nguyễn Xuân Hớn đang sinh sống tại Boston USA. Trung Tá Ngô Quư Hùng hiện đang sinh sống tại VN, ông từ chối đi Mỹ mặc dầu ông trải qua 13 năm trong trại tù.

Riêng đối với Châu Xuân Nguyễn,

Có lẽ tôi sẽ không đưa bài viết này lên Net nếu không có những lời chia sẻ chân t́nh của Châu. Nh́n lại suốt cuộc đời binh nghiệp của ḿnh, tôi tự thấy ḿnh đủ tư cách đại diện cho những người lính VNCH để nói chuyện với những người như Châu mà không hề hổ thẹn: Tháng 4 năm 1975 chúng tôi đă làm xong bổn phận, chẳng qua là chúng tôi không chết.

Khi quyết định khoác vào người chiếc áo lính th́ chúng tôi đă chấp nhận điều tệ hại nhất, đó là cái chết. Khi mà Châu và các bạn đang đùa chơi trên sân trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức th́ có biết ở dưới băi tập nh́n lên chúng tôi đă nghĩ ǵ hay không? Chúng tôi nghĩ: “Ngày này sang năm không biết ḿnh có c̣n sống để nh́n những h́nh ảnh đẹp như thế này hay không?”.

Bất hạnh là chúng tôi không chết, nhưng những h́nh ảnh đẹp cũng không c̣n. Cho nên chỉ có chúng tôi mới có quyền đại diện cho VNCH, có quyền phê phán những người lính VNCH. Chúng tôi đi giết người là v́ cái ǵ; chúng tôi đă làm đúng hay sai th́ tự chúng tôi biết; chúng tôi đă làm tṛn bổn phận đối với đất nước hay chưa th́ tự chúng tôi biết.

Năm 1975 tôi bước chân vào trại tù để trả giá cho việc làm của ḿnh ngày trước nhưng tôi không hề ân hận hay hối tiếc. Rất nhiều người trong bọn họ đă ngă chết dưới tay tôi cho nên tôi tự nghĩ nếu như giờ đây họ bắt ḿnh phải chết th́ cũng c̣n lời chán. Trong bản kê khai với họ tôi tự nhận ḿnh đă “giết hại” 35 người của họ. Cho nên giờ đây nếu tôi có chết 35 lần th́ chỉ mới “huề”; c̣n như chết 1 lần th́ chính bản thân người làm lính đă cam nhận kể từ khi quyết định cầm lấy khẩu súng.

Sau khi ra khỏi trại tù chúng tôi tự nghĩ là đă trả xong ân oán đối với bọn họ. Nhưng những ǵ mà chúng tôi chứng kiến ở ngoài khiến chúng tôi biết rằng ân oán giữa bọn họ với dân tộc Việt Nam chỉ là mới bắt đầu. Đến lúc này chúng tôi mới thực sự ân hận; trước kia chúng tôi đă đối xử với họ quá nhân đạo, và cái nhân đạo đó đă trở thành quá tai hại!

Lâu nay chúng tôi im lặng bởi v́ không c̣n ǵ để nói, chúng tôi không muốn thanh minh hay bào chữa. Chúng tôi tự thấy hổ thẹn đối với cái chết của 250 ngàn người anh em của chúng tôi và 58 ngàn chiến hữu Hoa Kỳ; chúng tôi đành để cho h́nh ảnh người lính VNCH và người lính Hoa Kỳ mờ dần theo thời gian.

Nhưng v́ thấy chúng tôi im lặng cho nên hiện nay người ta đang muốn bôi xấu chúng tôi để âm mưu biến “bên thắng cuộc” trở thành “bên chính nghĩa”. Do đó chúng tôi buộc ḷng phải lên tiếng, không phải để "khơi lại hận thù", nhưng mà để bảo vệ thanh danh của 250 ngàn chiến hữu VNCH và 58 ngàn chiến hữu Hoa Kỳ đă nằm lại tại chiến trường Việt Nam.

hoanglan22
07-24-2020, 04:15
Những chi tiết trong bài này được tóm tắt theo kư ức của các quân nhân thuộc Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhẩy Dù (*) nhằm vẽ lại một góc độ nhỏ nhoi của chung cuộc đau thương bức tử mà những người lính LĐ81/BCND nói riêng, và của toàn thể Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa nói chung đă phải gánh chịu vào những ngày tháng Tư năm 1975 và những năm sau đó…

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1624350&stc=1&d=1595563779

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1624351&stc=1&d=1595563779

Suốt năm 1974 cho đến ngày 30/4/75, Liên Đoàn 81/BCND tăng phái cho Quân Đoàn III để hoạt động trong các chiến khu Dương Minh Châu, chiến khu D, và các vùng rừng núi thuộc các tỉnh Tây Ninh, B́nh Dương, B́nh Long, Phước Long, B́nh Tuy, Phước Tuy, Long Khánh, và Biên Ḥa.

Nhiệm vụ của Liên Đoàn 81 là thả các toán thám sát vào hoạt động những nơi mà những đơn vị khác ít khi hành quân vào v́ lực lượng địch quá đông, v́ điạ thế hiểm trở, v́ ngoài tầm hoạt động của pháo binh, v́ xa nơi hoạt động của các đơn vị bạn, v.v. Các toán thám sát có cái lợi điểm là quân số ít (mỗi toán chỉ có 6 người), dễ dàng lẫn tránh khi gặp địch, dễ dàng thoát hiểm khi bị địch truy kích v́ đă được huấn luyện kỹ về mưu sinh thoát hiểm. Nhiệm vụ các toán là thu lượm tin tức hoạt động của địch để báo cáo lên cấp trên, tùy theo mục tiêu, các toán có thể tổ chức đột kích, phục kích bắt tù binh khai thác tin tức. Có những mục tiêu ngoài khả năng của toán và theo yêu cầu của Quân Đoàn, Liên Đoàn 81 thỉnh thoảng cũng mở những cuộc đột kích vào hậu tuyến địch như trận phục kích tiêu diệt đoàn xe tiếp tế của địch ở thung lũng Ashau thuộc tỉnh Thừa Thiên năm 1968 và ở vùng tam biên (biên giới Việt, Miên, Lào) thuộc tỉnh Kontum năm 1972. Ngoài nhiệm vụ phục kích, đột kích nói trên, tùy theo t́nh h́nh Liên Đoàn 81 c̣n có thể tập trung lại để hành quân phối hợp với các đơn vị khác như ở tại thành phố An Lộc năm 72, Quảng Trị năm 73, và Phước Long năm 75.

LĐ81/BCND trong trận Phước Long
Ngày 3 tháng 1 năm 75, Liên Đoàn 81 được lệnh tăng viện cho tỉnh lỵ Phước Long, trung tá Vũ xuân Thông và thiếu tá Nguyễn Sơn chỉ huy 300 quân chuẩn bị nhảy vào Phước Long. Cuộc đổ quân được chia ra làm hai đợt, nhưng ngày hôm đó không thực hiện được v́ phi trường Biên Ḥa bị pháo kích khá nặng, một số trực thăng bị hư hại, một số phi công có nhà ở ngoài không vào phi trường sớm được. Giờ xuất quân ấn định là 9 giờ sáng nhưng măi đến chiều, số trực thăng tập trung ở phi trường Long B́nh để đưa BCD nhẩy vào chiến trận Phước Long mới đủ túc số ấn định. Đúng 2 giờ chiều, 30 trực thăng cùng cất cánh. Sau một giờ bay, chiến trận Phước Long hiện ra trước mắt vị CHT/LĐ81. Đỉnh núi Bà Rá đă lọt vào tay Việt Cộng. Từ đó, pháo địch rót vào quân ta không một viên nào ra ngoài mục tiêu, tất cả thành phố như ch́m trong biển lửa. Có thể thả BCD xuống được nhưng sao giờ đổ quân đó, các phi tuần oanh tạc vẫn chưa thấy xuất hiện để làm tê liệt địch quân ở núi Bà Rá? Qua hai ṿng bay ngoài thành phố Phước Long để tránh cao xạ pḥng không, vẫn không thấy phi tuần đến, lại thêm trời chiều Phước Long với khói súng mù mịt khắp thành phố, với núi rừng âm u bao quanh Phước Long, màn đêm kéo đến những nơi này sớm hơn ở đồng bằng. Nếu thả BCD xuống vào khoảng 3 giờ 30 chiều th́ với khoảng cách từ sân bay Long B́nh đến Phước Long là gần 100 cây số, sớm nhất là phải 5 giờ 30 chiều đợt đổ quân thứ hai mới đến kịp. Giờ đó, màn đêm đă hoàn toàn phủ kín Phước Long, trực thăng và phi cơ oanh kích đành bó tay, chắc chắn anh em BCD đă thả xuống đợt đầu không thể nào đương đầu với làn sóng người “sinh Bắc tử Nam” được. Không thể hy sinh BCD ngu xuẩn như thế, CHT/LĐ81 quyết định không thả quân BCD và sẵn sàng lănh nhận trách nhiệm và mọi hậu quả.

Ngày 4/1/75, trước 9 giờ đă có đầy đủ số trực thăng như dự định nên 300 quân đă vào được Phước Long với một số tổn thất tương đối. 300 quân nhảy vào một chiến trường mà hết 90% vị trí pḥng thủ đă lọt vào tay địch quân cộng với tinh thần quân trú pḥng quá suy sụp, hàng ngũ chiến đấu không c̣n nguyên vẹn th́ giờ phút khai tử Phước Long chẳng c̣n bao lâu nếu không được tiếp tục đưa thêm quân tăng viện vào. Phần lực lượng c̣n laị của Liên Đoàn 81 đă sẵn sàng để vào tiếp viện nhưng lệnh trên không cho nên ngày 6/1/75, Phước Long đă hoàn toàn lọt vào tay Cộng quân. Liên Đoàn 81 đă xử dụng trực thăng cứu thoát được trên 100 quân ở xung quanh rừng Phước Long, trong số này có 7 quân nhân thuộc đơn vị bạn, số c̣n lại kể như bị chết, bị bắt hay mất tích.

Trớ trêu thay, sau khi Phước Long thất thủ, Không quân đă phải ra ṭa v́ tội “mất Phước Long”, đó là một quyết định bất công. Đúng ra là BTL/QĐIII, BTL/KQ và chính CHT/LĐ81 phải ra ṭa mới đúng. Đúng hơn nữa, người đă quyết định đưa BCD vào “biển lửa” khi đă có ư định bỏ rơi Phước Long mới là kẻ có tội. Khi KĐ43 Chiến Thuật phải ra điều trần trước hội đồng tướng lănh, CHT/LĐ81 đă đến buổi họp, ông xin được phát biểu trước và sau đó vội vă ra về v́ Phước Long mất, bộ chỉ huy BCD chỉ mới cứu ra được trên 100 quân, trong đó có trung tá Vũ Xuân Thông, CHT Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật, thiếu tá Nguyễn Sơn (CHP/BCH/CT), đại úy Trương Việt Lâm (biệt đôi trưởng BĐ 811), và đại úy Lê Đắc Lực (biệt đội trưởng BĐ 814), (những vị này hiện đang ở Hoa Kỳ), c̣n trên 100 BCD khác nữa đang cần có CHT/LĐ81 trên các phi vụ t́m kiếm. Gần 9 năm liên tục lặn lội trên các chiến trường với anh em BCD, CHT/LĐ81 nhận thấy Không Quân, nhất là anh em trực thăng đă thường cùng chết chung với BCD, do đó CHT/LĐ81 đă xin sẵn sàng nhận tội làm mất Phước Long trước ṭa án binh chứ không phải Không Đoàn 43 Chiến thuật.

Xin được trích đăng một đoạn do Không Quân Đào Vũ Anh Hùng đă viết trên đặc san Lư Tưởng của Không Quân liên quan đến “sự kiện Phước Long” :
Đại tá Triệu, xước danh “pilot Thái B́nh” mà Dương Hùng Cường mô tả là “lái máy bay trước khi biết lái xe đạp”, Không Đoàn Trưởng KĐ43 Chiến Thuật yêu cầu tôi đại diện Không Đoàn, làm “luật sư” trong buổi điều trần trước hội đồng tướng lănh. Đại tá Phan Văn Huấn, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù có một thiếu úy tùy viên đi theo, vào pḥng họp sau cùng. Ông xin được nói trước với lời lẽ hiên ngang đầy khí phách :
- “Mất Phước Long, lư do tại sao, quư vị đều biết nhưng không ai nói ra. Phần BCD 81, chúng tôi vào chỗ chết đă đành, bởi nghề nghiệp chúng tôi là chọn chỗ chết để đi vào. Riêng với anh em Không Quân, các phi hành đoàn trực thăng đă làm quá bổn phận của họ, chết lây với chúng tôi thật tội nghiệp. Nay đưa họ ra ṭa là điều tôi cho là vô lư. Nếu có lỗi làm mất Phước Long, tôi nhận lỗi. Xin quư vị ở lại tiếp tục họp và cho tôi biết kết quả. Tôi xin phép ra về v́ c̣n nhiều việc phải làm”.

Đại tá Huấn đứng nghiêm chào và quay ngắt đi ra. Ông đến như một cơn gió và ông đi cũng như cơn gió. Ông xuất hiện chưa đầy năm phút, nói một lời ngắn ngủi nhưng tôi ghi nhớ măi cái giây phút lịch sử và h́nh ảnh đó của ông. Hội đồng tướng lănh ra về, giao việc điều tra cho Đại tá Nguyễn Huy Lợi, Nha Quân Pháp, ở lại làm việc. Tôi đă làm trọn vẹn vai tṛ “luật sư”, biện hộ cho Không Đoàn 43 Chiến Thuật. Ngày di tản, gặp lại Đại tá Nguyễn Huy Lợi trên boong tầu Mỹ, trước đông anh em, ông đă khen tôi không tiếc lời về việc tôi dám nói ra sự thật vụ mất Phước Long.
Bộ Chỉ Huy 3 Chiến Thuật của LĐ81/BCND tại Bộ Tổng Tham Mưu
Công việc thả các toán thám sát vào sâu trong các vùng hoạt động của Cộng quân để thu thập tin tức vẫn được tiếp tục như trước. Đến ngày 26 tháng 4 năm 75, Liên Đoàn 81 được lệnh đưa một bộ chỉ huy chiến thuật khoảng 1000 quân về tăng cường pḥng thủ bộ Tổng Tham Mưu. Bộ chỉ huy 3 chiến thuật do thiếu tá Phạm châu Tài nhận lănh trách nhiệm này. Thiếu tá Phạm châu Tài đặt bộ chỉ huy ở cao ốc trước cổng bộ Tổng Tham Mưu và chia quân bố trí những điểm trọng yếu xung quanh bộ Tổng Tham Mưu như sân banh quân đội, nghĩa trang Bắc Việt, ngă năm quân khuyển, sân golf, v.v. Riêng việc bố pḥng bên trong hàng rào bộ Tổng Tham Mưu th́ do quân sĩ cơ hữu của bộ Tổng Tham Mưu đảm trách.
Ngày 30 tháng 4 năm 75, Cộng quân từ hướng ngă ba ông Tạ tiến về ngă tư Bảy Hiền th́ bị chận đánh bởi hậu cứ Sư đoàn Nhảy Dù, từ Lăng Cha Cả đến cổng Bộ Tổng Tham Mưu th́ gặp sự chống trả của LĐ81 Biệt Cách Dù và Nha Kỹ Thuật. Lực lượng địch gồm có bộ binh và chiến xa được pháo binh yểm trợ, tuy địch đông và mạnh như thế nhưng địch vẫn không dập tắt được sức kháng cự của Nhảy Dù, Biệt Cách Dù, và Nha Kỹ Thuật. Mặc dầu lệnh tổng thống Dương văn Minh đă phát đi từ sáng sớm, kêu gọi QLVNCH ngưng chiến và giao nạp vũ khí cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Cuộc điện đàm giữa thiếu tá Phạm châu Tài với chuẩn tướng Nguyễn hữu Hạnh và tổng thống Dương văn Minh sau này đă được thiếu tá Phạm châu Tài vắn tắt lại như sau :

9:00 giờ sáng ngày 30-4-75 Bộ chỉ huy 3 chiến thuật của LĐ81 / BCND đang quần thảo với Việt Cộng trước cổng bộ Tổng Tham Mưu ở Lăng Cha Cả th́ lệnh đầu hàng của tổng thống Dương văn Minh đă ban ra. Tôi chạy vào văn pḥng trong bộ TTM mà đêm hôm trước tôi đă họp với tướng Vĩnh Lộc, nhưng những người lính cơ hữu gác ở đó cho biết tướng Vĩnh Lộc đă rời Bộ Tổng Tham Mưu từ 6:00 giờ sáng. Tất cả các tướng lănh và các sĩ quan mang cấp bậc đại tá đă họp trong pḥng này với tôi vào đêm 29 tháng 4 đều vắng mặt. Tôi bốc điện thoại lên quay số của văn pḥng Phủ Tổng Thống để được đàm thoại với tổng thống Dương văn Minh, tôi hết sức ngạc nhiên khi người trả lời xưng danh là chuẩn tướng Nguyễn hữu Hạnh. Tôi nói muốn được nói chuyện với tổng thống Dương văn Minh, tướng Hạnh hỏi lại tôi là ai? Tôi trả lời:

- “Tôi là Th/tá Phạm châu Tài, chỉ huy trưởng bộ chỉ huy 3 chiến thuật của Liên Đoàn 81/ Biệt Cách Dù đang đóng quân ở Bộ Tổng Tham Mưu”
Tướng Hạnh đă biết tôi v́ tướng Hạnh cũng có mặt trong buổi họp ở BTTM vào đêm 29/4/75 nên khoảng vài giây đồng hồ sau tướng Hạnh đưa diện thoại cho tổng thống Dương văn Minh. T/t Minh nói :
- Đại tướng Dương văn Minh tôi nghe đây, có chuyện ǵ đó ?
Tôi mới tŕnh bày với T/t Minh:
- “Tôi là chỉ huy trưởng cánh quân đang tử chiến với Việt Cộng ở Bộ Tổng Tham Mưu, tôi đang cố liên lạc với bộ TTM th́ lệnh ngưng chiến đă ban ra và quân của Việt Cộng vẫn c̣n đang tiến về thủ đô. Tôi vào trong bộ Tổng Tham Mưu th́ không c̣n một tướng lănh nào ở đây, họ đă bỏ chạy hết do đó tôi muốn nói chuyện với tổng thống để xin quyết định” - T/t Minh trả lời rằng :
- Các em chuẩn bị bàn giao đi.
- Có phải là đầu hàng không ? - Tôi hỏi lại.
- Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng của Việt Cộng đang tiến vào dinh Độc Lập. - T/t Minh trả lời.
Tôi mới nói rằng:
- “Nếu xe tăng của Việt Cộng tiến về dinh Độc Lập th́ chúng tôi sẽ đến cứu tổng thống, nếu tổng thống ra lệnh đầu hàng th́ tổng thống có chịu trách nhiệm với hơn 1000 quân đang tử chiến ở Bộ Tổng Tham Mưu hay không?”.
T/t Minh trả lời:
- “Tuỳ ư các anh em” xong cúp máy….
Mặc dù đă có lệnh đầu hàng của tổng thống Dương văn Minh nhưng sự chiến đấu của nhiều đơn vị thuộc QLVNCH vẫn tiếp tục. Diễn tiến của bộ chỉ huy 3 chiến thuật thuộc LĐ81/BCND kể từ ngày 29/4/75 được đúc kết như sau :
12:30 giờ trưa ngày 29/4/75, trung đội 1 do th/úy Nguyễn công Danh thuộc biệt đội 819 đă giải vây và bảo vệ 2 chuyến xe buưt đang bị cướp có vơ trang uy hiếp tại cổng phi trường Tân Sơn Nhất. Sau khi ổn định t́nh h́nh trung đội 1 đă hộ tống 2 chuyến xe này vào phi trường. Hành khách lên phi cơ, và phi cơ cất cánh lúc 2:45 phút chiều. Đây cũng là chuyến phi cơ cuối cùng cất cánh tại phi trường Tân Sơn Nhất vào thời điểm đó. Sau đó trung đội 1 trở về phối trí với biệt đội 819 do Đại úy Trương việt Lâm chỉ huy đang rải quân ở trường Sinh Ngữ Quân Đội và Lục Quân Công Xưởng. Đại úy Lâm đă cho các quân nhân biết xử dụng thiết giáp M113 lái 3 thiết giáp M113 c̣n mới tinh chạy ra khỏi công xưởng để lập tuyến pḥng thủ bên ngoài.

Trong đêm 29/4/75 Đại úy Nguyễn Hiền nhận lệnh chỉ huy đoàn quân xa chuyên chở những quân dụng nặng, và tải thương binh của LĐ81/BCND từ Biên Hoà trở về trại hậu cứ của LĐ81/BCND là trại Bắc Tiến ở Trung Chánh. Lúc 3 giờ sáng ngày 30/4/75. Khi đoàn quân xa đến cầu B́nh Phước th́ Địa Phương Quân gác đầu cầu cho biết trại Bắc Tiến và các cơ sở quân sự trong vùng đó đă bị VC chiếm đóng. Đ/úy Hiền liền cho đoàn quân xa đổi hướng tiến đến cầu B́nh Triệu và t́m đường về bộ Tổng Tham Mưu để sát nhập lại với bộ chỉ huy 3 chiến thuật của LĐ81/BCND đang cố thủ tại đó. Đ/úy Hiền bắt tay liên lạc với BCH/3/CT của LĐ81/BCND lúc 5:30 sáng.

Cùng ngày 30/4/75 lúc 2 giờ sáng, trận chiến tại cổng phi trường Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng Tham Mưu vẫn tiếp tục giữa VC và các đơn vị của LĐ81/BCND. Các chốt của LĐ81/BCND phía sau cổng bộ Tổng Tham Mưu đă dùng lựu đạn mini để ngăn chặn các toán đặc công của Việt Cộng đang t́m cách đột nhập. Lựu đạn và chất nổ được xử dụng tối đa, sau 1 giờ rưỡi giao tranh VC không tiến được đành rút lui khỏi cổng sau của Bộ Tổng Tham Mưu.

Đến 6 giờ sáng, 5 chiến xa T54 và đoàn quân tùng thiết của VC trên đường tiến vào Sài G̣n đă bị lực lượng của Sư Đoàn Nhẩy Dù và Liên Đoàn 81/BCND chận đánh trước cổng phi trường Tân Sơn Nhất, 4 chiến xa của VC bị phá huỷ, chiếc sau cùng quay trở lại chạy thoát.
Các biệt đội của LĐ81/BCND trấn thủ trước cổng bộ TTM là biệt đội 817 do trung úy Lê văn Lợi chỉ huy, và biệt đội 818 do đại úy Nguyễn Ánh chỉ huy.

7 giờ sáng một đoàn chiến xa khác của Việt Cộng hướng vào cổng chính bộ Tổng Tham Mưu… Một toán của LĐ81/BCND pḥng thủ trên cao ốc đă dùng M72 bắn cháy chiếc đầu tiên, chiếc thứ 2 đă dùng súng đại pháo trên pháo tháp bắn vào cao ốc làm tê liệt tuyến pḥng thủ đó, nhưng chiến xa này cũng bị bắn cháy trước cổng bộ Tổng Tham Mưu do quân nhân thuộc biệt đội 817 của trung úy Lê văn Lợi.

Sau 10 giờ sáng, VC đă tràn ngập vào phi trường Tân Sơn Nhất, có một xe Toyota Corona dân sự chạy đến cổng Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bị quân nhân LĐ81/BCND chận lại không cho vào. Trên xe có hai người đàn ông, một người tên Quân mặc quân phục của Quân Vận mang cấp bậc thiếu tá, người kia mặc thường phục xưng là nhà báo muốn vào bộ TTM để treo cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Đại úy Nguyễn Hiền đă cho binh sĩ tịch thu cờ và bắt giữ 2 nhân vật đó. Sau khi hỏi cung được biết họ chỉ là thành phần đón gió trở cờ nên BCH 3 chiến thuật đă thả 2 người đó trước cổng bộ TTM.

10:30 sáng, đại úy Nguyễn hữu Hưng chỉ huy phó bộ chỉ huy 3 chiến thuật của LĐ81/BCND và đại úy Nguyễn Hiền đi đến quyết định rút đơn vị khỏi bộ TTM, trở về Biên-Hoà để tái hợp với bộ chỉ huy hành quân của LĐ81/BCND. Trên đoàn quân xa gồm những quân nhân của tất cả các đơn vị c̣n muốn chiến đấu, trong đoàn quân xa này được tăng cường thêm 8 chiếc thiết giáp M41 và M113 từ phi trường Tân Sơn Nhất về phối hợp. Nhưng khi đoàn xe đang di chuyển trên đường Vơ di Nguy, Phú Nhuận th́ bị VC phục kích, chiếc quân xa đầu tiên bị bắn cháy, đoàn xe bị nghẹt lại, đại úy Hưng cho lệnh anh em bỏ đoàn quân xa và t́m đường thoát thân để tránh sự trả thù.

1 giờ trưa ngày 30/4/75. Riêng biệt đội 819 của đại úy Trương việt Lâm sau khi tập họp được quân nhân của biệt đội, các anh em đă chất vũ khí, đạn được từ Lục quân công xưởng lên 2 xe GMC bít bùng để chạy về Biên Hoà hy vọng kết hợp với bộ chỉ huy Liên Đoàn 81/BCND tại đó. Nhưng khi 2 chiếc quân xa này chạy đến ngă 5 Hạnh Thông Tây bị Việt Cộng chặn lại. Dân chúng bên đường bu quanh 2 chiếc GMC kêu gọi anh em biệt đội 819 bỏ súng, họ nói: “Hết chiến tranh rồi, các anh buông súng đi, Biệt Cách Dù buông súng đi…” - Biệt đội 819/LĐ81/BCND đă giao nạp vũ khí tại ngă 5 Hạnh Thông Tây lúc 2:15’ chiều 30/4/1975. Anh em biệt đội 819/ LĐ81 / BCND chia tay nhau tại đó.
Bộ chỉ huy Liên Đoàn 81/BCND và 2 bộ chỉ huy chiến thuật ở Biên Hoà



Thủ đô VNCH trong giờ phút đó chỉ c̣n 2 điểm kháng cự ở ngă tư Bảy Hiền và Lăng Cha Cả. Chẳng bao lâu sau đó, tiếng súng cả hai nơi không c̣n nổ nữa, anh em rời vũ khí và chia tay nhau mỗi người mỗi ngả!
Bộ chỉ huy 1 chiến thuật do tr/tá Vũ xuân Thông chỉ huy, bộ chỉ huy 2 chiến thuật do th/tá Nguyễn Sơn chỉ huy cùng với bộ chỉ huy Liên Đoàn 81 do đại tá Phan văn Huấn chỉ huy với quân số vào khoảng 2000 quân nhân đang đóng quân ở phía bắc phi trường Biên Ḥa. Ngày 28 tháng 4/75 lúc 12 giờ trưa, đ/tá Huấn được lệnh tr/tướng Nguyễn văn Toàn gọi về bộ tư lệnh QDIII họp khẩn, nhưng Liên Đoàn 81 không c̣n có trực thăng tăng phái ngày hôm đó và đường xe đến bộ tư lệnh QDIII không c̣n chạy được nên tr/tướng Toàn đă cho trực thăng đến đón đ/tá Huấn về họp. Tr/tướng Toàn chủ tọa buổi họp với các sĩ quan gồm có: đ/tá Lưu Yểm tỉnh trưởng Biên Ḥa, tr/tá Lô tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 7 Nhảy Dù, đ/tá Phan văn Huấn chỉ huy trưởng Liên Đoàn 81/BCND và chừng 20 sĩ quan của bộ tư lệnh QDIII.

Trong pḥng họp không khí thật căng thẳng và hồi hộp, tr/tướng Toàn nói: “Ngày mai (29/4/75) chúng ta rút khỏi Biên Ḥa để về pḥng thủ tuyến Thủ Đức, các đơn vị tuần tự rút lui, nhưng phải có trật tự không được lộn xộn như ở vùng I và vùng II; Liên Đoàn 81/ BCND là lực lượng đi sau cùng (đoạn hậu) và có nhiệm vụ phá hủy chiếc cầu trên xa lộ Đại Hàn gần phi trường Biên Ḥa”.

Sau khi họp ở QĐIII về, đêm 28/4/75 Liên Đoàn 81/BCND liền di chuyển vào phi trường Biên Ḥa bố trí quân ở đó. Riêng biệt đội 812 do đại úy La-Cao chỉ huy có nhiệm vụ phải giữ an-ninh và kiểm soát lưu thông trên cầu Mới cho đến khi các đơn vị bạn và LĐ81/BCND qua khỏi cầu để tiến về Thủ Đức lập tuyến pḥng thủ. Sáng 29/4/75 đơn vị di chuyển qua cầu xa lộ Đại Hàn, rút khỏi thành phố Biên Ḥa đúng theo lệnh tr/tướng Toàn đă nói (phi trường Biên Ḥa do sư đoàn 3 Không Quân trấn đóng nhưng Không Quân đă rút đi từ mấy ngày trước). Đúng 8 giờ sáng th́ Liên Đoàn 81/BCND qua khỏi cầu Mới và biệt đội 812 cùng toán công-binh của đại úy Hoàng tăng phái cho Liên-Đoàn 81 là đơn vị sau cùng qua cầu và đă hoàn tất nhiệm vụ dùng chất nổ phá chiếc cầu đó. Đơn vị vừa qua khỏi cầu th́ nghe lệnh ông Vũ văn Mẫu, tân thủ tướng VN yêu cầu người Mỹ rút ra khỏi VN trong ṿng 24 tiếng đồng hồ.

Đây là một sự kiện quan trọng diễn ra trong giờ phút hấp hối của miền Nam. Trước t́nh thế đó, Liên Đoàn 81/BCND liền rút thẳng vào rừng C̣ Mi bố trí và t́m cách liên lạc với thượng cấp và các đơn vị bạn để hiểu rơ t́nh h́nh, ngơ hầu chọn lựa đường lối hành quân thích hợp cho Liên Đoàn 81/BCND. Suốt đêm hôm đó, bộ chỉ huy và ban truyền tin của Liên Đoàn 81/BCND đă cố gắng bắt liên lạc với các đơn vị bạn qua các tần số nhưng không có kết quả ! Sáng 30/4/75, Liên Đoàn 81/BCND men theo đường rừng di chuyển dần về hướng Thủ Đức để hy vọng gặp được đơn vị bạn nhưng hoàn toàn tuyệt vọng. Trên đường di chuyển, LĐ81/BCND chỉ thỉnh thoảng bắt gặp quân trang quân dụng của các đơn vị bạn bỏ lại! Khi Liên Đoàn 81/BCND đến gần lăng chú Hỏa (gần núi Châu Thới), đơn vị dừng quân và tung các toán thám sát ra các xa lộ Lái Thiêu, Đại Hàn quan sát t́nh h́nh.

Các toán thám sát báo về bộ chỉ huy LĐ81/BCND quân xa của Việt Cộng đang chạy công khai trên các trục lộ mà không gặp một sự kháng cự nào của đơn vị trách nhiệm trong vùng. Tất cả các nơi như là đều đă ră ngũ hết rồi!
Sau đó Đ/tá Huấn liền họp các cấp chỉ huy và nói:

- “Chúng ta đă cố gắng liên lạc với cấp trên và các đơn vị bạn nhưng tất cả đều vô vọng, bây giờ t́nh h́nh như thế này xin anh em cho biết ư kiến.”

Đại đa số ư kiến anh em đều nói:

- “Một con én không làm nổi mùa xuân, hơn nữa chúng ta không nhận được lệnh ǵ của thượng cấp hết, nếu bây giờ chúng ta vẫn tiếp tục chiến đấu mà không c̣n đơn vị yểm trợ th́ cuối cùng đơn vị ta sẽ bị Việt Cộng tập trung tiêu diệt mà thôi, không c̣n cách nào khác chúng ta phải bắt buộc làm theo lệnh của tổng thống Dương văn Minh.”
Đ/tá Huấn yêu cầu các cấp chỉ huy tập họp anh em xung quanh một ngôi mộ có g̣ mả khá cao. Đứng trên g̣ mả, đ/tá Huấn bùi ngùi nói trước hàng quân:

- “Chúng ta sinh trưởng ở miền Nam, chúng ta có bổn phận phải bảo vệ miền Nam, bây giờ chúng ta thua rồi, chúng ta phải cay đắng tuân lệnh tổng thống Dương văn Minh, giao nạp vũ khí cho Việt Cộng. Thưa anh em, chúng ta là một đơn vị ưu tú của QLVNCH, qua bao nhiêu năm chiến đấu bên nhau, trong giờ phút lịch sử này, chúng ta phải chứng tỏ là một đơn vị có kỷ luật không như những đội quân ô hợp, vậy yêu cầu anh em theo tôi tiến ra xa lộ Đại Hàn, các biệt đội sắp hàng tư và di chuyển về hướng Saig̣n để tiếp xúc với đơn vị Việt Cộng mà bàn giao vũ khí rồi anh em chúng ta giải tán và chia tay nhau; Xin anh em nhớ rằng, anh em không có tội ǵ cả, v́ anh em phải tuân hành theo lệnh của tôi, tôi sẵn sàng nhận tội và tôi sẽ đi đầu, nếu Việt Cộng có bắn th́ họ sẽ bắn tôi trước”.

Trên xa lộ Đại Hàn gần lăng chú Hỏa, quân nhân của Liên Đoàn 81/BCND sắp hàng tư tiến về hướng Saig̣n. Hai bộ chỉ huy chiến thuật và bộ chỉ huy Liên Đoàn 81 quân số gần 2000 quân nhân, đội h́nh hàng tư dài hơn cây số. Đoàn quân yên lặng di chuyển trên xa lộ, không khí thật ngột ngạt khó thở, những người lính súng đạn c̣n trên tay nhưng cái lệnh đầu hàng đă làm cay cay ḷng mắt. Những h́nh ảnh nhạt nhoà của những người dân đứng trước mái nhà tranh nh́n đoàn quân năo nề tiến bước. Khi LĐ81/BCND đang di chuyển trên xa lộ Đại Hàn th́ xe Việt Cộng cũng di chuyển ngược xuôi bên đội h́nh Liên Đoàn 81/BCND, các cán binh Cộng Sản trên xe nh́n Liên Đoàn 81/BCND với nét mặt ṭ ṃ và ngạc nhiên khi thấy quân nhân của LĐ81/BCND trên tay vẫn c̣n mang vũ khí. Khi Liên Đoàn 81/BCND đă di chuyển khá xa th́ có 2 xe từ hướng Saig̣n chạy đến, trên mỗi xe có đặt máy quay phim. Việt Cộng quay phim từ đầu đội h́nh cho đến cuối và ngược lại từ cuối lên đầu đội h́nh, Việt Cộng quay nhiều về toán quân đi đầu gồm nhiều cấp chỉ huy của Liên Đoàn 81/BCND.

Khi Liên Đoàn 81/BCND dừng lại cho anh em nghỉ ngơi th́ đơn vị Việt Cộng đến tiếp xúc và quân nhân Liên Đoàn 81/BCND để vũ khí tại chỗ và giải tán….
Xin viết thêm là khi Liên Đoàn 81/BCND đang di chuyển trên xa lộ th́ thấy rất nhiều thanh niên từ hướng Saig̣n chạy ngược về Biên Ḥa, đầu trần, đi chân không, ḿnh mặc áo quần lót, tay cầm các giấy tờ tùy thân và tiền bạc cá nhân; đ/tá Huấn đi đầu đội h́nh liền kéo một anh chạy gần và hỏi:

- “Các anh chạy đi đâu mà ăn mặc như thế? “

Anh đó liền trả lời:

- “Chúng tôi là lính, Việt Cộng tước vũ khí rồi bắt phải cởi áo quần giày dép và cho về nhà.”

Chính đó là lư do mà khi tiếp xúc giao nạp vũ khí cho Việt Cộng, đ/tá Huấn đă yêu cầu Việt Cộng đừng bắt anh em 81 Biệt Cách Dù làm như thế v́ sợ anh em chạm tự ái v́ bị sỉ nhục mà sẽ không tuân theo lệnh giao nạp vũ khí; Việt Cộng đă đồng ư và cho xe đến chở các sĩ quan về nhà.
Riêng biệt đội 812 do đại úy La-Cao chỉ huy, binh sĩ dưới quyền đă được đ/úy La-Cao chỉ thị:

- “Các anh em khi tháo băng đạn ra khỏi súng nhưng nên để lại một viên trong buồng đạn để tránh sự tấn công bất ngờ hoặc trường hợp khi gặp Việt-Cộng nếu bị sỉ nhục quá đáng nếu anh em không dằn ḷng được, anh em có thể xử dụng viên đạn cuối cùng.”

Sau đó có 2 chiếc xe đến chở các sĩ quan về Saig̣n, khi xe chạy đến làng đại học Thủ Đức, đ/tá Huấn yêu cầu xe dừng lại và nói với Việt Cộng:

- “Sĩ quan chúng tôi có nhà ở trong khu này”.

Thật t́nh th́ anh em sĩ quan đâu có nhà ở trong khu sang trọng đó, v́ anh em sĩ quan không muốn cho Việt Cộng biết nhà ở của ḿnh.
Tại nơi đây anh em sĩ quan đă ngậm ngùi chia tay nhau !

Biệt Đội 813/LĐ81/BCND tại Tây Ninh
Giữa tháng 3/75, đại bộ phận Liên Đoàn 81/BCND do Trung Tá Chỉ Huy Phó Nguyễn Văn Lân chỉ huy được điều động lên Tây Ninh để cùng với Sư Đoàn 25 pḥng thủ vùng Tây Bắc Sài G̣n (Tư Lệnh Sư Đoàn 25 lúc đó là Cựu Thiếu Sinh Quân Chuẩn Tướng Lư Ṭng Bá).

Khi Liên Đoàn 81/BCND đến Tây Ninh, Căn Cứ Hành Quân đóng tại Xóm Chàm và Biệt Đội 813/BCND là thành phần trừ bị, có nhiệm vụ pḥng thủ ṿng ngoài Căn Cứ Hành Quân. Khoảng một tuần sau, Biệt Đội 813 được điều động lên Trảng Sụp, tiền đồn cực Tây của Tỉnh Tây Ninh để thay thế cho Biệt Đội 816/BCND của Đại Uư Lễ.

Cuối tháng tư, t́nh h́nh Tỉnh Tây Ninh rất căng thẳng, Tr/Tướng Toàn ra lệnh cho Liên Đoàn 81/BCND phải duy tŕ một Biệt Đội ở đó để giữ vững tinh thần quân sĩ tại tỉnh Tây Ninh khi đại bộ phận của LĐ81/BCND về Biên Hoà để nhận lệnh hành quân mới. Biệt Đội 813/BCND do Tr/Úy Lai Đ́nh Hợi chỉ huy nhận lănh trách nhiệm này. Trước khi rời Tây Ninh Tr/Tá Lân giao cho Tr/Úy Hợi một bao thư niêm mật và nói chỉ được mở khi hữu sự.

Lực lượng tại Tây Ninh lúc đó, ngoài các đơn vị cơ hữu của Tỉnh, chỉ c̣n có Trung Đoàn 49 của Sư Đoàn 25, do Trung Tá Khoa làm Trung Đoàn Trưởng và Biệt Đội 813/BCND.
Vài ngày sau, Đại Tá Tài, Tỉnh Trưởng Tỉnh Tây Ninh, ra lệnh đưa Biệt Đội 813 về pḥng thủ dinh Tỉnh Tây Ninh. Vào thời điểm này, nhiều sự kiện xẩy ra như: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, Tổng Thống Hương giao quyền cho Đại Tướng Minh.

Sáng ngày 29/4/75, Tr/Tá Khoa báo cho Tr/Úy Hợi biết: Đă mấy ngày qua, ông mất liên lạc với Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 25. Biệt Đội 813 cũng mất liên lạc truyền tin với Trung Tâm Hành Quân Liên Đoàn 81/BCND đang đóng ở Suối Máu và cả với hậu cứ tại Ngă Tư Anh Sương. Tr/Tá Khoa cho Tr/Úy Hợi biết thêm là ông đă họp bàn với Đại Tá Tài và một số các đơn vị trưởng của Tỉnh là ông có ư định ngày mai (30/4/75) ông sẽ rút về Sài G̣n, nếu Sài G̣n cũng mất, ông sẽ về Vùng 4 để tiếp tục chiến đấu v́ ông có một số bạn bè ở đó. Tr/Tá Khoa hỏi Tr/Úy Hợi xin giúp ông một điều. Ông nói:

- “Chiều nay, khi Trung Uư đi họp, (chiều nào Đại Tá Tài cũng chủ tọa buổi họp gồm các đơn vị trưởng của Tỉnh, và các đơn vị biệt phái) giữa buổi họp, Trung Uư cho một toán Biệt Cách Dù ập vào pḥng họp dùng súng uy hiếp và ra lệnh cho tôi rút về Sài G̣n.”

Trung úy Hợi nói:

- “Tôi không làm được việc này v́ nếu chưa có lệnh của Đại Tá Huấn th́ tôi sẽ không rút, cho dù Tây Ninh chỉ c̣n mỗi Biệt Đội 813/BCND của tôi”.

Tr/Tá Khoa cố gắng thuyết phục Tr/Úy Hợi cùng rút và giải thích là ḿnh rút để có thể tiếp tục chiến đấu chứ không phải để chạy. Tr/Úy Hợi hẹn sẽ trả lời ông vào buổi chiều.

Trưa ngày 29/4/75, Tr/Úy Hợi họp tất cả các Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan trong Biệt Đội. Sau khi thuật lại cuộc nói chuyện với Tr/Tá Khoa, Tr/Úy Hợi cho các anh em biết, trong lần tiếp tế gần nhất bằng trực thăng, Tr/Úy Hợi có nhận được lá thư tay của Đại Tá Huấn trong đó, ngoài những lời chỉ bảo, c̣n có câu nhắn nhủ ngắn gọn: “Hợi, t́nh h́nh rất nặng, nếu có ǵ, cùng Tử Thủ với Liên Đoàn”. Sau khi bàn luận, tất cả đồng ư rút.

Chiều ngày 29/4/75, Tr/Úy Hợi trả lời Tr/Tá Khoa là sẽ cùng rút với ông, nếu Tr/Tá Khoa cùng đồng ư rút chứ Tr/Úy Hợi không cho lính của Biệt Đội uy hiếp ông (Tr/Tá Khoa đồng ư và do đó đă không có buổi họp chiều hôm đó). Sau đó Tr/Úy Hợi ra lệnh cho Biệt Đội 813/BCND chuẩn bị để ngày mai di chuyển về hậu cứ, đồng thời bảo Trung Uư Phan Anh Tuấn, Biệt Đội Phó vào Quân Y Viện Tỉnh để thông báo với các thương bệnh binh của BCND.

Sáng ngày 30/4/75, Tr/Tá Khoa cho biết lực lượng rút khỏi Tây Ninh chỉ có Trung Đoàn của ông và Biệt Đội 813/BCND (Đại Tá Tài ở lại không đi). Lệnh hành quân như sau: Di chuyển bằng xe về Sài G̣n, nếu bị phục kích, xuống xe đánh bật rồi đi tiếp (lúc đó quốc lộ nhiều đoạn bị cắt). Biệt Đội 813/BCND được phân chia đi cùng với Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 49. Khoảng 7 giờ sáng, tất cả đă lên xe chuẩn bị di chuyển. Đi theo Biệt Đội 813/BCND, ngoài các thương bệnh binh của BCND, c̣n có một người nữa là Trung Tá Trưởng Ty Cảnh Sát Tỉnh Tây Ninh (không nhớ tên vị Tr/Tá này). Đoàn xe đi được một đoạn, khoảng 8 giờ sáng, th́ bị chặn lại. Tr/Úy Hợi cho quân nhân Biệt Đội xuống xe, tạt sâu vào bên phải quốc lộ, bố trí đợi lệnh. Kiểm điểm lại quân số, Biệt Đội 813 không thiếu một ai, kể cả các thương binh của BCND, ngoài ra c̣n có Tr/Tá Khoa và Tr/Tá Cảnh Sát. Lúc đó, Tr/Úy Hợi mở bao thư mật của Tr/Tá Lân khi ông rời Tây Ninh, trong bao thư có một bản đồ chỉ dẫn các điểm tập trung để đợi triệt xuất khi gặp nạn. Tr/Tá Khoa cho biết Việt Cộng đă chiếm Tỉnh Tây Ninh ngay sau khi đoàn xe rời Tây Ninh. Tr/Tá Khoa và Tr/Úy HợI quyết định di chuyển bộ về Sài G̣n. Để tránh gặp địch, Biệt Đội 813 đi men theo bờ ruộng, xa Quốc Lộ. Tr/Tá Khoa cho biết là ông đă mất liên lạc với Trung Đoàn của ông.

Trưa ngày 30/4/75, trong lúc đang di chuyển, một binh sĩ BCND mở radio đang phát ra: lời kêu gọi đầu hàng của Tổng Thống Dương văn Minh. Sau khi dừng quân bố trí, Tr/Tá Khoa nghĩ Vùng 4 bây giờ vẫn c̣n và ông muốn cùng anh em Biệt Đội 813 về đó. Sau đó đoàn quân 813/BCND lại vững tay súng tiến bước lên đường mặc bỏ sau lưng lời kêu gọi đầu hàng của Tổng Thống Minh.

4 giờ chiều ngày 30/4/75, Tr/Úy Hợi họp tất cả các Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan để hỏi ư kiến. Tất cả đều đồng ư để súng tại bờ ruộng ấp Bầu Nâu và đi ra quốc lộ.
Ngày 1/5/75, các anh em trong Biệt Đội 813/BCND vẫn giữ kỷ luật nghiêm minh theo lệnh Tiểu Đội Trưởng, Trung Đội Trưởng, Biệt Đội Phó Tuấn và

Biệt Đội Trưởng Lai Đ́nh Hợi.
Khoảng 9 giờ tối ngày 1/5/75, Biệt Đội 813 và các anh em thuộc Sư Đoàn 25 được lệnh tập họp để nghe “Chính Sách Khoan Hồng Của Cách Mạng”. Trước khi chấm dứt, một Cán Binh nói: “Tất cả các Sĩ Quan ở lại, Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ được ra về”. Tr/Úy Hợi nói nhỏ : “Tất cả đi hết, không ai ở lại.”. Khoảng 10 giờ đêm ngày 1/5/75, tất cả Biệt Đội 813/BCND kéo nhau ra quốc lộ, đi bộ suốt đêm về G̣ Dầu để đón xe đ̣ về Sài G̣n. Đoàn xe đ̣ chở Biệt Đội 813/BCND về đến Ngă Tư An Sương vào khoảng trưa ngày 2/5/75 và anh em Biệt Đội 813/LĐ81BCND chia tay nhau tại đó.

Số phận của 6 toán thám sát của LĐ81/BCND trong chiến khu D
Riêng về 6 toán thám sát được trực thăng thả sâu trong mật khu VC đă hoàn toàn mất liên lạc. Hệ thống vô tuyến liên lạc của toán bằng máy PRC25, UHF-1 phải qua các trạm chuyển tiếp (Radio Relay Station) bằng phi cơ L-19 hoặc các đài tiếp vận truyền tin ở các núi cao. Nhưng sau ngày 29/4/75 các toán này không liên lạc bằng truyền tin với bộ chỉ huy LĐ81/BCND được nữa, v́ những đài yểm trợ tiếp vận truyền tin đă không c̣n. Các toán thám sát chưa biết lệnh buông súng của T/t Dương văn Minh ngày 30/4/75. Mười tám anh em của 3 toán liên lạc truyền tin được với nhau, lương khô 5 ngày đă cạn, họ đă phải nhịn đói, mưu sinh thoát hiểm, lặn lội từ rừng sâu, khi về đến một làng ở quận Tân Uyên cạnh sông Đồng Nai gần thác Trị An (đồn Đại An ngày xưa). Họ đă quá đói nên men vào làng để xin ăn và thăm hỏi sự t́nh. Ba toán thám sát này đă bị Việt Cộng bao vây, nên anh em đành buông súng vào ngày 5/5/1975. Mười tám anh em bị Việt Cộng giam, bỏ đói, sau đó bắn hết rồi thả trôi sông. Những xác của anh em thám sát thả trôi sông, sau bị śnh thối nên Việt Cộng bắt dân vớt lên chôn dọc theo bờ sông Đồng Nai, c̣n 8 xác anh em khác đă chôn tập thể trong một cái giếng bỏ hoang. Theo dân làng cho biết th́ có một anh chưa chết, được hai vợ chồng già trong làng đem dấu và cứu sống. Anh này tên là Đức. Hàng năm mỗi khi Tết đến anh Đức đều trở lại để đền đáp và tạ ơn cứu tử của ân nhân. Nhưng từ năm 1995 hai ông bà cụ đó đă qua đời nên anh Đức không c̣n đến nữa. Một toán viên khác tên Nguyễn văn Một, khi dân làng chôn cất th́ có giữ được một cuốn nhật kư nhưng nay cuốn nhật kư đó cũng đă thất lạc. Mặc dầu Liên Đoàn 81/BCND đă cố gắng t́m kiếm để mua lại nhưng không được. C̣n phần mộ anh Tuấn là sĩ quan toán trưởng đă được gia đ́nh đến bốc cốt từ năm 93.

C̣n toán của chuẩn úy Lê Xuân Hiền trở về ngày 7/5/75 và toán của thiếu úy Nguyễn Minh trở về ngày 15/5/75 cũng tại vùng Đại An nhưng không bị Việt Cộng xử bắn nữa. Anh Lê xuân Hiền và Nguyễn Minh nay đă được định cư ở Hoa Kỳ.

Theo dư luận địa phương cho biết sở dĩ hai toán này không bị VC giết chết v́ dân chúng bàn tán sôi nổi về sự dă man của Việt Cộng đă ngược đăi và tàn sát 3 toán trước.

Toán trưởng Lê Xuân Hiền cho biết sau khi bị VC tước bỏ vũ khí ngày 7/5/75, anh bị đưa vào trại tù binh trong rừng B́nh Sơn. Tại đây, toán trưởng Hiền gặp thêm 12 anh em thám sát ở các toán khác. Trong đó toán trưởng Hiền c̣n nhớ tên các anh ch/u Huỳnh sơn Phương, t/s Vơ văn Hiệp, Lư Khách, Lê văn Điệp c/u Nguyễn văn Bé, Nguyễn văn Sơn v.v. Trong thời gian bị giam giữ ở đó, các anh đă bị đánh đập tra tấn trả thù nên anh Nguyễn văn Sơn và t/s Vơ văn Hiệp đă chết.

Năm 1995 Gia Đ́nh 81/BCND ở hải ngoại đă cho người về làng Đại An để lập mộ cho những anh em đă đền nợ nước nhưng dân chúng địa phương đă không dám hợp tác. Dân chúng sợ Việt Cộng trả thù v́ việc lập mộ bia cho anh em là trưng bày cái dă tâm vô nhân đạo của Việt-Cộng. Những quân nhân thuộc LĐ81/BCND đă bỏ ḿnh tại làng Đại An vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến chỉ c̣n trong tâm tưởng của những người dân ở đó và chiến hữu c̣n sống sót mà thôi.

Phần Kết
Những anh hùng của LĐ81/BCND đă sa cơ trong thảm cảnh tháng Tư ở Đại An, họ đă nhận lănh những viên đạn oan nghiệt của kẻ thù vào sau cái ngày mà những người c̣n “mê ngủ” đă rêu rao gọi là ngày “hoà b́nh đă đến trên quê hương Việt-Nam!”
GĐ81/BCND



(*) Ghi nhận theo những tâm t́nh, thư từ, bài viết, điện thoại, email và lời kể lại của những chiến hữu đă trực tiếp có những liên hệ ít nhiều trong những ngày giờ lịch sử đau thương của đất nước.

Xin chân thành cảm ơn đại tá Phan văn Huấn, thiếu tá Phạm châu Tài, đại úy Nguyễn Hiền, đại úy La Cao, đại úy Trương việt Lâm, trung úy Lai đ́nh Hợi, thiếu úy Nguyễn công Danh, các sĩ quan toán trưởng Lê xuân Hiền, Nguyễn Minh… và nhiều quân nhân các cấp đă giúp cho bài “Liên Đoàn 81/BCND và những ngày tháng Tư năm 1975″ được thành h́nh, dù rằng thâm tâm quư vị đă không muốn nhắc lại “chuyện đau ḷng”.

ĐQY ghi thêm vài chi tiết :
- Đại tá Bùi đức Tài Tỉnh trưỡng Tây Ninh : Ông nguyên là sỉ quan giáo phái Cao Đài được đồng hóa cấp bậc Trung úy QLVNCH thời T.T Ngô đình Diệm ,sau đó thuyên chuyển lên Kontum thuộc phòng 3 Biệt khu 24 ( lúc đó tại Kontum có 2 Đại đội lính giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo sát nhập QLVNCH ) ,năm 63 ông thăng Đại úy nắm Trưỡng phòng 3 BK 24 ,năm 67 thăng Th/tá làm Tham mưu phó ( ông bố ĐQY là Tham mưu trưỡng và Đại tá Nguyễn văn Phước là Tư lịnh B.K 24 ) ,năm 68 thăng Trung tá thuyên chuyển về Bộ Tư lịnh SĐ 22 BB ở Qui Nhơn ,năm 72 thăng Đại tá Tham mưu trưỡng SĐ 22 BB ,thuyên chuyển về làm Tỉnh trưởng Tây Ninh cuối năm 73 ,giờ chót ông kẹt lại và đi tù ,cuối cùng ông và gia đình cũng định cư tại Mỹ diện H.O .

- Trung úy Lại đình Hợi Biệt đội trưỡng 813 BCD thuộc svsq Vỏ bị Đà Lạt K.25 ,giờ chót đóng tại Tây Ninh và đưa quân về tiếp ứng cho Sài gòn ,nhưng đến ngả tư An Sương thì tan hàng ,sau 30/04/75 không trình diện VC mà cùng người anh là cựu Tr/úy Lại đình Quyền ,chú là Tr/tá Thức nguyên Tham mưu phó SĐ 4 KQ tổ chức vượt biên đường bộ qua ngả Kontum dự trù xuyên qua Lào đến vùng Đông Bắc Thái Lan ,vì thiếu các vật dụng cần thiết như bản đồ ,địa bàn định hướng ,lương thực ...( dùng tạm bản đồ trong sách địa lý Tiểu học ) ,khi vượt qua sông Tonle Kong ( còn trong vùng đất Laos ) tưỡng lầm là sông Mekong ( trên đất Thái Lan ) nên thoải mái nghĩ ngơi rồi bị Pathet Lào bắt !!,giải về lại Việt Nam đi tù đến năm 81 được tha về sau đó định cư tại Mỹ .

hoanglan22
08-13-2020, 16:55
Thế là ông đă được về nhà. Sáu năm, ba tháng và thêm mấy ngày lẻ tù đày kể từ một buổi chiều tháng sáu năm 1975, các sĩ quan quân đội và công chức của chế độ miền Nam phải ‘tŕnh diện học tập’ theo lệnh của Ủy ban Quân quản.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1635471&stc=1&d=1597337655

Con ông chở ông và một người bạn là sĩ quan Thủy quân lục chiến đến trường tiểu học Nguyễn Tri Phương. Đến cổng trường, hai chiếc xe gắn máy dừng lại, ông bước xuống rồi tháo chiếc đồng hồ Seiko Five, vốn được ông mua tại phi trường Tokyo trong chuyến tu nghiệp về từ Mỹ mấy năm trước, khỏi cổ tay rồi đưa cho con. Người con trai lẳng lặng đeo vào tay ḿnh. Thế là trên người ông không c̣n vật ǵ đáng giá ngoài chiếc nhẫn cưới mỏng mảnh làm bằng vàng 18K và chiếc túi vải khoác vai, trong có vài bộ quần áo, ít thức ăn.

Ông nói với người bạn tháo chiếc đồng hồ để con ḿnh đem về hộ giao lại gia đ́nh bạn. Người bạn gạt phăng: “Học mươi hôm rồi về! Chẳng có ǵ đâu!” Chỉ 24 giờ sau, chiếc đồng hồ Omega “Người nhái” đă được cán bộ giữ giùm và không bao giờ trở về với người bạn của ông. Phải! Chẳng có ǵ! Có điều là người bạn của ông phải học đến hơn mười năm chứ chẳng phải mười ngày.

o0o

Cả gia đ́nh mừng rỡ khi thấy ông bước vào. Có tiếng đứa con gái hét lên: “Bố về!” Tiếng hét như một ḍng điện truyền nhanh và những bước chân chạy rầm rầm từ trên sàn gác, từ sau bếp ùa ra pḥng khách.

Ông có một bầy con đông đúc và chúng chen nhau để ôm và hôn ông. Có tiếng mừng reo vui nghẹn ngào ḍng lệ. Ông bồi hồi hôn lên tóc, lên trán hoặc lên má của từng đứa một.

Hai ngh́n ba trăm ngày ông chưa được ôm hôn chúng nó. Bóng h́nh và t́nh thương của chúng nó đến với ông qua những lọ thức ăn, những viên thuốc của những lần ông được vợ ông mang đến khi có dịp “đi thăm nuôi”. Bà chắt chiu từng hạt nếp, hạt gạo, hạt đậu, miếng thịt, thỏi đường, . . . và làm thành thức ăn khô để khi có dịp đi thăm là mang lên cho ông.

Bà đang đứng dựa vào góc tường và nh́n hạnh phúc nở trên từng khuôn mặt thân yêu và lan tỏa trong căn nhà nhỏ cũ kỹ. Ông lơi tay ôm các con và nh́n về phía bà. Có đứa con gỡ chiếc giỏ đệm đan bằng lát khỏi khủy tay ông. Bà nở nụ cười nhẹ, chớp mắt và đôi mắt đỏ hoe lên. Chiếc áo ngắn tay có nền những cánh hoa màu tím nhạt làm nổi bật làn da trắng xanh xao trên cánh tay của bà. Cánh tay gầy và gương mặt xương xương mà ông nhớ hằng đêm.

Ông bước vội đến gần bà, đưa tay đỡ lấy gương mặt bà, hai bàn tay áp vào má, những ngón tay chạm vào đôi tai và những sợi tóc xám bạc phía sau gáy. Ông kéo nhẹ đầu bà cúi thấp xuống và đặt môi hôn nhẹ lên trán, nơi những nếp nhăn xuất hiện nhiều sau ngần ấy đêm xa ông thao thức.

Bà đón nhận nụ hôn rồi nắm hai bàn tay đen đúa, chai sạn và sần sùi của ông trong hai bàn tay gầy và nổi những sợi gân xanh của bà. Bà nói: “Quang! con lên thỉnh chuông để bố con thắp nhang tŕnh báo ông bà. Đứa nào chuẩn bị nước cho bố tắm rồi dọn cơm”.

Trông bà vẫn trầm tĩnh, nhẫn nại và có vẻ thản nhiên nhưng ông biết, có bóng dáng ông trong nhà, nhịp đập trong trái tim bà đă thôi vội vă, sẽ đập nhẹ nhàng và hiền ḥa lại như đă trở về trong sự nương tựa bên ông từ bao nhiêu năm nay.

o0o

Những buổi tiếp bà con lối xóm đến thăm hỏi đă qua. Ông sống rất chân t́nh nên mọi người trong xóm cũng yêu mến ông. Họ dành cho ông sự quư trọng đúng mực v́ khi c̣n là người sĩ quan cấp tá trong quân đội Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH), ông luôn tươi cười, chào hỏi thân ái đến mọi người và cả những người đàn ông láng giềng mà cấp bậc chỉ là hạ sĩ quan.

Dường như không phải ông là người lính ác ôn bị chế độ mới gọi một cách miệt thị là “ngụy”. Dường như không phải ông bị đi học tập cải tạo ngần ấy thời gian. Ông chỉ vừa đi xa khỏi xóm ít ngày và nay trở về. Những ngày bảo con chở đi thăm bạn hữu, họ hàng thân thuộc đă qua. Đa phần bạn trong quân ngũ tương đương cấp bậc với ông th́ vẫn c̣n bị lưu đày trong các trại tù suốt từ Nam ra Bắc, bạn ngoài dân sự th́ sự đổi đời cũng đă khiến cuộc đời họ thay đổi. Người th́ co lại và cố sống lặng lẽ với số tài sản c̣n giữ được. Người th́ thích nghi nhanh với đời sống mới và vẫn ‘làm ăn’ được. Ông không gặp được một số người. Nghe nói có người đă về vùng kinh tế mới; có người đă mang gia đ́nh vượt biên. Và bây giờ, trước mắt ông là những ngày khó khăn chờ đợi.

Chẳng mấy người sống thanh liêm như ông. Thời chiến tranh, bom đạn khắp nơi. Ai cũng sợ chết và ai cũng cố kiếm lợi khi có chút quyền hành. Chiếc ghế ông ngồi tại một cơ quan trực thuộc Bộ Quốc Pḥng đă khiến bao kẻ thèm thuồng v́ là chiếc ghế gắn đầy những quyền lợi.

Nhưng chỉ ngồi và kiếm chác mà không làm được việc th́ cũng sẽ ra chiến trường hay chí ít th́ cũng về các tỉnh. Ông đă từng rời bỏ chiếc ghế đó v́ bị ganh ghét và nhận một công việc nhàn hạ hơn mà rồi cũng phải quay về nhận lại chỉ sau ba tháng khi người thay ông với nhóm nhân viên tăng cường đông nhiều lần hơn vẫn không thể hoàn thành công việc.

Ngồi trên chiếc ghế được ví như nạm vàng hoặc cẩn kim cương đó, ông lại giúp người khác nhiều hơn và không cần đ̣i hỏi tiền bạc hoặc đổi chác ǵ cả. Ông giúp v́ hoàn cảnh của họ đáng được giúp. Có lẽ sự hay giúp người đă tạo phúc cho ông. Ông chỉ học tập ở phía Nam, trong các trại “cải tạo” ở miền Đông: Suối Máu, Bù Gia Mập, Minh Hưng . . .

Ít nhất đă ba lần, vào lúc nửa đêm, ông đột ngột bị gọi tên và chuẩn bị hành lư để chuyển trại để rồi khi những người khác lần lượt bước lên xe làm chuyến đi trong đêm vô định, c̣n ông lại sót tên ngồi một ḿnh giữa sân và lại quay về lán trong sự mừng rỡ của các bạn. Bạn bè đưa lại cho ông những thứ mà ông khi chuẩn bị đi đă đưa cho họ và th́ thầm: “Ông may mắn đấy! Nghe nói chuyến đó ra Bắc.”

Trong trại, ăn uống cực khổ và thiếu thốn như thế, làm việc nặng nhọc, bị sỉ nhục tinh thần, thương nhớ người thân và tinh thần bị giằng xé bởi những quyết định trong những ngày cuối của cuộc chiến, ông vẫn không bị bệnh tật đe dọa. Nhờ quen ăn uống đạm bạc và điều độ nên ông chịu đựng được những cơn đói triền miên hành hạ. Những cơn đói hoa mắt váng đầu khiến con người ta nếu không đủ nghị lực dễ đánh mất danh dự.

Có lần ông c̣n thoát chết khỏi tai nạn lao động. Những cây to trong rừng phải đốn chặt chỉ bằng sức người và dao rựa và không có sự bảo vệ nào. Những cái chết thảm đến với các sĩ quan VNCH trong thời gian đi cải tạo như là sự phó mặc cho tự nhiên. Cái tàn ác của Cộng sản chính là sự phó mặc mang vẻ tự nhiên đă được sắp đặt. Chết v́ buồn phiền, chết v́ lao lực, chết v́ đói, chết v́ bệnh tật không có thuốc trị, chết v́ thú dữ, v́ lao động không được bảo hộ, . . . Lần ấy cả thân cây to đổ ập xuống về phía ông đứng, mọi người hét lên, ông bỏ chạy. Nhưng lúc ấy v́ quá sợ ông lại chạy trong chiều cây đang đổ xuống. Đột nhiên, ông nhớ lại, dường như có một sức mạnh vô h́nh kéo ông ngă văng sang một bên.

o0o

Ông cố t́m sự tĩnh lặng trong đời sống bằng mỗi buổi sáng cùng vợ đi dạo công viên. Trong làn gió sớm ông nhớ lại quăng thời gian hơn ba mươi năm làm lính. Từ Bắc vào Nam, từ một người lính khinh binh trẻ tuổi đến vị trí người sĩ quan nhiều lần tham dự các cuộc họp liên quan đến vận nước, đời binh nghiệp của ông kết thúc trong cái khóa tay uất hận và cùng bao đồng đội ngồi đếm niềm đau thân phận từng đêm giữa núi rừng rét lạnh. Vợ ông sức ngày càng yếu. Bà như một người đă cố kéo căng hết sức ḿnh để vượt qua những trở ngại và kiệt lực khi hoàn tất. Ông khuyến khích bà đi bộ mỗi sáng cho khỏe và dấu sự lo lắng về cuộc sống vào sự tập trung chăm sóc bà.

Ông cố đi t́m việc để đỡ đần cho con cái. Cuối cùng, một người bạn nhường một phần công việc kế toán cho các tổ hợp gia công trong Chợ Lớn cho ông. Ông phấn khởi đi làm dù thu nhập không nhiều. Ông nhủ thầm: “Thế là tốt lắm rồi.” Công việc giúp ông thoát được cảm giác vô dụng và những giờ ưu tư đè nặng tâm hồn. Cái ư nghĩ là trụ cột cho gia đ́nh luôn thúc dục ông phải bước tới dù con ông nhiều đứa đă trưởng thành. Mười năm qua chúng đă chẳng làm rất tốt đấy sao?

Một buổi sáng như thường lệ, ông và bà đi bộ về. Các con pha trà và gọi quà sáng cho ông ăn. Bát phở vào dạ dày chưa được bao lâu, một cơn đau bụng khủng khiếp đột nhiên bùng phát. Ông bổ nhào người khỏi chiếc ghế salon đang ngồi, xuống nền gạch bông và quằn quại. Các con hoảng hốt chạy đến đỡ ông dậy rồi vội vă đưa ông vào bệnh viện Nguyễn Văn Học. Các bác sĩ đến khám nhưng không biết ông bị bệnh ǵ và ông lại tiếp tục chịu đựng những cơn đau xé người. Ông chợt nghĩ đến cái chết. Phải chăng sau ngần ấy năm bị đày đọa ông phải nhận kết quả sau cùng cho cuộc đời ḿnh trong đớn đau như thế này? Hốt nhiên ông lại nghĩ đến bà và tiếc nuối.

Một đứa cháu biết tin chạy vào bệnh viện. Ông đă nằm trong đau đớn hơn 5 giờ đồng hồ. Bác sĩ vẫn không có sự chữa trị nào. Đứa cháu nói với con ông:” Phải đưa bác xuống bệnh viện Sàig̣n ngay. Để ở đây như thế này thế nào bác cũng chết. Bác sĩ dưới đó toàn là dân ‘quân y’ hồi trước.” Con ông lo ngại “Bác sĩ không cho mang đi.” Thằng cháu quả quyết:” Không cho ḿnh cũng mang. Người nhà của ḿnh ḿnh lo.” Chúng tranh căi với bác sĩ, y tá rồi mang ông xuống bệnh viện Sàig̣n nơi một số bác sĩ của “chế độ trước” c̣n được lưu dụng v́ tài năng.

Ông được cứu sống sau khi mấy ông ‘quân y’ cắt bỏ đoạn ruột bị hoại tử dài 8 tấc. Bác sĩ nói đến chậm một chút là cứu không kịp, nhưng cái bụng của ông sẽ mang vết mổ rất xấu v́ không có đủ chỉ khâu. Trong đêm nằm tại pḥng hồi sức, phía ngoài hành lang mờ tối các con ông thức trắng và cầu nguyện cho cha được b́nh an.

Ông được ra khỏi bệnh viện và về nhà. Ông cần ăn uống kiêng cữ một thời gian. Con ông nói: “Bố đừng lo nghĩ nữa. Lần này đúng là ‘rầu thúi ruột’.” Vết thương đang lành nhưng do không có đủ chỉ khâu, chỗ mổ dần dần bị căng ra và lồi lơm. Đoạn phía dưới rốn lồi ra thành một cục to tướng khiến ông mặc quần khó khăn. Ông tặc lưỡi: “Đành chịu xấu vậy thôi”.

o0o

Ông mang bầy con sang Hoa Kỳ định cư theo diện H.O. dành cho các sĩ quan bị “cải tạo”. Khi đi khám sức khỏe các bác sĩ đă hốt hoảng khi nh́n thấy vết mổ. Họ năn nỉ ông cho họ khâu lại v́ toàn bộ phần nội tạng chỉ c̣n có lớp da mỏng che chở và họ không biết lúc nào th́ vết khâu sẽ rách bung ra và toàn bộ ruột gan của ông sẽ đổ hết ra ngoài. Trong tuần kế tiếp ông đă đến bệnh viện để bác sĩ khâu lại bằng dao laser. Không một giọt máu chảy, vết mổ mảnh như một sợi chỉ vắt trên da và sau khi nằm nghỉ một tiếng ông thư thái ra về.

Vết thương đời đă kết thành sẹo vô h́nh trong tâm hồn hay gồ ghề xấu xí trên thân thể đă là bằng chứng của cuộc đời ông gắn liền với các biến cố của đất nước. Thỉnh thoảng, nh́n vết sẹo dài c̣n lưu trước bụng, ông thầm nhớ những buổi sáng đi bộ cùng vợ. Ông vẫn giữ thói quen ấy mỗi sáng. Một ḿnh. Chỉ một ḿnh lặng lẽ bước trên những con đường vắng và rợp mát. Bà đă không c̣n để cùng ông dạo sáng nữa, v́ một căn bệnh nan y, đă vĩnh viễn yên nghỉ lại với quê hương, trước ngày ông mang con ra đi, đă như niềm đau chôn chặt vào tim khôn nguôi. Dù thời gian có thu nhỏ nó lại mảnh mai như sợi tơ đi nữa, vẫn tồn tại nơi ông đến cuối đời.

Lê Khánh Long

hoanglan22
08-13-2020, 22:08
Lâu nay, tôi tự hứa với ḿnh là sẽ không nói ra những điều không vui đă xảy ra trong đời ḿnh. Tôi giữ im lặng v́ nghĩ rằng, khi nói ra những điều liên quan đến tư cách của một người đang sinh hoạt trong cộng đồng rất dễ gây ngộ nhận, đặc biệt là đối với anh em đồng môn Trường Vơ Bị Đà Lạt. Tuy nhiên, trong đời sống có những chuyện không muốn, nhưng người ta vẫn phải làm, phải nói v́ lợi ích chung.

Trong khi tṛ chuyện với người bạn cùng khóa qua điện thoại, tôi có hỏi về việc Lê Đ́nh Thọ (Khóa 28) lấy tư cách ǵ mà chen vào vấn đề nội bộ Khoá 22 trên internet của vài chiến hữu bên Florida . Luôn miệng tôi cũng kể cho anh bạn nghe về những năm tôi và nhân vật này ở chung một trại tù. V́ với tôi, tên Lê đ́nhThọ đă in sâu vào tiềm thức dù chỉ có 3 năm ở tù chung với anh ta. Câu chuyện xảy ra bắt đầu vào khoảng cuối năm 1976.

Tôi đi tù 9 năm ở trại Gia Trung nằm trên Quốc lộ số 19 Pleiku. Ở đội 3 trong trại K1, tên cán bộ quản giáo thấy tôi có học, viết chữ dễ đọc nên đă chọn tôi làm Thư kư cho đội. Một hôm đội chúng tôi nhận thêm 10 tù nhân mới từ Sài G̣n chuyển đến với tội danh "Vượt biên". Trong số tù này có hai thanh niên tuổi cở 25-27.Số c̣n lại th́ trung niên trở lên.

Khi làm danh sách tôi mới biết hai thanh niên kia một người tên là Phùng công Phước (K.26) và người kia tên Lê đ́nh Thọ (K.28 Vơ Bị Đà Lạt). Tôi rất vui mừng khi biết như vậy và đă giới thiệu với họ tôi Khóa 22. Chúng tôi cảm thấy gần gũi, tự nhiên và thân nhau ngay trong câu chuyện trao đổi những ngày sau đó. Là người đến trại trước, tôi đă chỉ vẽ họ tất cả những kinh nghiệm mà ḿnh đă sống tại Gia Trung. Tôi nói cho họ biết ai xấu, ai tốt trong cái xă hội thu gọn mấy chục người này, để họ biết mà đề pḥng khi giao dịch.

Thấy hai thằng đàn em mới đến xanh xao, thiếu dinh dưỡng nên tôi động ḷng. Nhân dịp mới được bà chị lên thăm nuôi, có đồ ăn ngon, tôi kêu hai thằng lại ăn chung để chia sẽ ngọt bùi với nhau. Hành động này đă trái với nguyên tắc tôi tự đặt ra là: “Không ăn chung với bất kỳ ai”. Nguyên tắc này là kinh nghiệm tôi học được khi chứng kiến cảnh tố khổ nhau chỉ v́ miếng ăn. Hơn nữa , tôi cũng biết cái miệng ḿnh không được kín đáo như thiên hạ, từ khi bị bắt tại cư xá Thanh đa hồi tháng 8/75, tôi đă không khai thật những ǵ mà tôi đă làm trước ngày 30/4/75. Nên tránh không tŕnh diện Học Tập Cải Tạo, nhưng rốt cuộc rồi cũng bị bắt…

Một hôm, thằng cán bộ quản giáo kêu tôi ra “làm việc”. Nó nói với tôi: “Anh làm đội trưởng nhé?”. Tôi hỏi: “Tại sao cán bộ lại muốn thay đội trưởng?”. Nó nói: “Cái anh L. này lười lắm! Không chịu đôn đốc các anh trong đội làm việc.” Tôi hoăng kinh, v́ thằng này khoái ḿnh cho nên mới nói như vậy. Tôi không thích làm đội trưởng, nên từ chối bằng cách nói với nó là bị bệnh sốt rét cứ lên cơn hoài, sức khỏe rất yếu, không thể làm được. Tên cán bộ hỏi: “Thế th́ anh biết trong đội có ai “tốt” và “siêng năng” có thể làm đội trưởng được?". Tôi không ngần ngại trả lời ngay: “Có anh Lê đ́nh Thọ và anh Phùng công Phước là khỏe và tốt. Cán bộ chọn ai cũng được!”

Trong thâm tâm tôi, v́ muốn cho anh em trong đội sống yên ổn và thoải mái, nên đưa “gà nhà” của ḿnh lên th́ c̣n ǵ hay bằng? Như vậy hay hơn là để cho nó chọn phải cái thằng “ác ôn” nào đó, th́ c̣n ǵ đau khổ hơn trong cuộc đời “cải tạo” không ấn định ngày về này?

Cũng nên biết là đội 3 chúng tôi có nhiều người thuộc thành phần trí thức, khoa bảng thuộc loại “chân yếu, tay mềm”. Trong đội có 2 Linh mục,1 Tuyên úy Phật giáo, 2 Giáo sư đại học,1 Bác sỹ,1 Kỷ sư,1 Tỷ phú,1 Chủ tịch hội kư giả miền Nam, các Văn nghệ sĩ, Kư giả nổi danh và một số vượt biên, phản động, sĩ quan không tŕnh diện cải tạo. Đa số họ đă lớn tuổi và không quen lao động chân tay. Mấy thằng cán bộ quản giáo cũng hiểu hoàn cảnh đó, nên đội 3 của chúng tôi gần như được châm chước chút đỉnh nên anh em tù kháo nhau là đội… “Hoàng gia”. Nhưng tất cả đă biến cái vốn là địa ngục thành một thứ “địa ngục nâng cấp” ” chỉ trong ṿng vài tuần, sau khi hai thằng đàn em mà tôi đề nghị lên làm đội trưởng và đội phó. Trong dịp này nại cớ v́ đang bị bệnh sốt rét hành,tôi xin nghỉ làm Thư kư luôn.

Khi Lê đ́nh Thọ lên làm đội trưởng th́ tuần lễ đầu tiên đêm nào đội cũng họp, phê b́nh kiểm điểm, lập kế hoạch, phương án, chỉ tiêu… toàn những danh từ xa lạ. Điều mà trước đó chưa xảy ra. Rồi những tuần lễ kế tiếp là “lao động mệt nghĩ”. Hai người đàn em của tôi luôn luôn “đi sâu, đi sát” mấy ông già kiểm soát từng nhát cuốc để bắt họ lui về cuốc lại nếu thấy c̣n quá cạn. Và từ “chỉ tiêu” từ 150 mét vuông được ông đội trưởng tăng dần lên 200 mét vuông một ngày.

Trên đất đồi núi Cao Nguyên, với sức khỏe của tuổi 30 như tôi mà đă lè lưỡi ra, muốn hộc máu tươi. Th́ thử hỏi những ông Cha, Giáo sư, Nhà văn, Bác sĩ làm sao mà theo kịp? V́ vậy họ phải cuốc dối dối để c̣n theo kịp hàng ngang khỏi bị bơ rơi phía sau. Nhưng những tiểu xảo này đâu có qua mắt được hai tên xuất thân từ một quân trường danh tiếng, nên họ bị bắt phải bắt đầu cuốc lại. Hăy tưởng tượng cái hoạt cảnh này hằng ngày lập đi, lập lại hoài có ai mà chịu cho thấu!?

Những lúc chúng tôi cuốc đất như vậy, th́ mấy tên cán bộ quản giáo ngồi trong cḥi xa xa, chớ chúng có bao giờ ra ngoài nắng để hối thúc tù “lao động tốt” đâu? Nhưng tôi thật không hiểu động cơ nào đă thúc đẩy hai anh chàng đội trưởng và đội phó quá hăng say trong nhiệm vụ cứ thúc bách bắt những người bạn tù của ḿnh phải đi đầu “tiên tiến” như vậy? Mâu thuẫn hơn nữa là tên cán bộ gốc Hà Tỉnh"xuề x̣a" này, trước đây coi chúng tôi cuốc đất, phá rừng, ít khi nó soi mói chúng tôi cuốc sâu hay cuốc cạn, lâu lâu nó chỉ nh́n chúng tôi nói: “Các anh lao động như thế là không đủ ăn đâu nhé!”, rồi bỏ vào trong cḥi ngồi đấu láo với mấy thằng khác. Nó chẳng hề la mắng chúng tôi một tiếng nặng. Cho nên theo tôi biết, chuyện phê b́nh kiểm điểm hàng đêm không phải do thằng cán bộ này vẽ ra. Và chuyện thúc giục cuốc đất cho đạt chỉ tiêu, cuốc đất “có chất lượng” chắc chắn cũng không phải của nó. Nếu có th́ từ lâu nó đă chỉ thị cho chúng tôi làm rồi, đâu đợi cho đến lúc Lê đ́nh Thọ lên làm đội trưởng?

Chúng tôi đă quá mệt mơi, cơ thể ră rời sau mỗi ngày cuốc đất cực khổ. Riêng cá nhân tôi v́ đôi lúc phải cuốc rộng ra hai bên cho hai người bạn tù già yếu nên tinh thần lẫn thể xác quá rũ rượi. Từ đó, tôi cũng không c̣n giao dịch hay nói chuyện với hai tên "khoá đàn em" nữa.

Với cuộc sống ban ngày th́ cuốc đất trối chết, đêm về lại phải ngồi nghe hai tên Thọ và Phước luân phiên nhau “tập ăn nói trước công chúng”. Hai người họ phê b́nh hết người này đến người khác, mà chẳng một ai buồn mở miệng để tự bào chữa cho ḿnh. Không khí trong đội càng ngày càng ngột ngạt, nặng nề thêm. Chúng tôi trở thành một lũ người lầm ĺ,chẳng ai c̣n dám than van với ai bất cứ điều ǵ. Thật kinh khiếp!

Tôi thấy xấu hổ và nhục nhă, hối hận với mấy anh em bạn tù trong đội v́ lỡ giới thiệu hai thằng đàn em cho thằng cán bộ quản giáo. Tôi nh́n họ ngượng ngùng lẫn xấu hổ v́ mấy chữ Vơ Bị Đà Lạt bị hoen ố. Và họ nh́n tôi thông cảm, v́ hiểu tôi trong suốt thời gian sống chung, nên chỉ biết lắc đầu. Có vài người thân kêu tôi ra nói nhỏ: “Nhờ chú khuyên chú Thọ nhẹ nhẹ tay cho anh em một tí. Chúng tôi lớn tuổi cả, làm như thế này chắc không sống để về với gia đ́nh được đâu!”.Tôi biết mọi người đều trông đợi nơi tôi, v́ ai cũng biết hai tên này là Đà Lạt đàn em và cũng thân thiết với tôi trong thời gian qua. Nhưng họ có biết đâu trong ḷng hai thằng đàn em này, tôi đă là kẻ xa lạ với chúng.

Và rồi vào một bữa tối thứ Bảy nọ! Sau khi điểm danh vào pḥng, tôi mở miệng đề nghị với Lê đ́nh Thọ sau hơn một tháng không nói chuyện với hắn: “Sáng mai chủ nhật không lao động, tối nay cho anh em nghĩ ngơi một bữa đi anh Thọ”. Hắn trở mặt với tôi ngay lập tức: “Anh nói ǵ? Anh muốn cản trở không cho tôi sinh hoạt đội hả?” Tôi nổi nóng v́ cái lối nói “chụp mũ” mất dạy hơn bọn công an phường khóm này của hắn. Lúc đó, tôi chỉ muốn cho hắn một cú đấm vào mặt, nhưng giằn được kịp thời và chỉ chưởi vào mặt hắn cho hả cơn tức giận: “Mày là cái thằng phản phúc!”. Thế là hắn lấy giấy bút ra lập biên bản và kêu thằng Phước đội phó làm nhân chứng kư tên vào. Ngay đêm đó, trong biên bản Lê đ́nh Thọ buộc tôi đủ thứ tội với những động từ như: xúi dục, kích động, chống phá, mà tôi không biết hắn học từ cái trường nào kể từ ngày mất nước để chụp lên đầu thằng khóa đàn anh, người đă vô t́nh giới thiệu hắn lên làm đội trưởng chưa đầy 2 tháng.

Sáng thứ hai, Lê đ́nh Thọ lên tŕnh với thằng quản giáo và tôi được kêu lên. Tôi phủ nhận những lời cáo buộc độc ác muốn hăm hại tôi của Lê đ́nh Thọ. Tôi nói với tên cán bộ, tôi chỉ chưởi Lê đ́nh Thọ v́ chuyện ăn uống trước đây chứ đâu liên quan đến chuyện họp hành.Thằng quản giáo biết tôi từ lâu nên cũng tin là như vậy.Câu chuyện ch́m xuồng. Tôi nghĩ, ngày nào thằng quản giáo này c̣n coi đội 3, tôi hy vọng tên Thọ chưa làm ǵ được tôi. Với bản chất hẹp ḥi,nham hiểm, muốn lập công của Lê đ́nh Thọ mà đă bao nhiêu người v́ hắn mà khốn đốn. Hắn đă thi hành triệt để lệnh đă có từ lâu, là "b́nh bầu mức ăn", mà trước đây chúng tôi tránh né tối đa, để tất cả đội đều được hưởng đồng đều 15 kư. Nay th́ ai "tốt" ăn 18kư, ai "xấu" ăn 13.5kư!

Một thời gian sau đó, thằng quản giáo đội chúng tôi được lên chức về làm cán bộ giáo dục ở Trại K.3 cũng thuộc trại Gia Trung. Lê đ́nh Thọ mừng lắm,v́ với tên quản giáo mới hắn nghĩ có thể ra tay trừng phạt đối với những ai tỏ ư chống hắn. Trước tiên, tháng sau đó, mức ăn của tôi xuống c̣n 13.5 kư với lư do là lao đông không đạt năng suất. Kế tiếp trong những cuộc họp hằng đêm tên tôi bao giờ cũng có trong biên bản, nên tôi bị kêu lên“làm việc” ít ra mỗi tuần một lần. Riết rồi tôi bất cần, gần như không c̣n kiểm soát được ḿnh nên cứ hể giáp mặt hắn là chưởi:“ Đồ khốn nạn, ăn cháo đá bát, tránh mặt tao ra!” Với những lời chưởi bới khinh bỉ vu vơ, Lê đ́nh Thọ chẳng buộc được tội tôi để đi “mét” với tụi cán bộ, và dĩ nhiên tôi cũng chẳng làm cho thằng vô lương tâm này đau đớn chút nào. Nhưng có một điều là ai ai trong đội cũng hả dạ và vui vui. Những chuyện vui vui này được lan truyền khắp cả trại. Tôi cảm thấy như gỡ lại được phần nào danh dự cho trường Vơ Bị Đà Lạt mà tôi đă từng theo học.

Cuộc sống trong tù có vài xáo trộn sau đó. Đội chúng tôi được chuyển về K.3 và vẫn giữ nguyên những “nhà lănh đạo”cũ. Chúng tôi thay đổi việc làm từ cuốc đất sang đào ao nuôi cá “bác Hồ”. Công việc này rất nặng nhọc, dơ dáy, vất vả. Trong khi mọi người c̣m lưng, ná thở để đào và khiêng đất, th́ Thọ và Phước chắp tay sau đít, ḍm ngó, đi tới đi lui hối thúc chúng tôi làm chết bỏ, nhưng cũng chỉ với tiêu chuẩn 13.5 kư hay 15kư, trong khi chúng nó vẫn ăn tiêu chuẩn 18 kư (1 thằng ăn 18 kư th́ phải có 2 người bớt phần c̣n 13.5kư).

Cho đến năm 1979, vào một buổi sáng sớm khi nghe radio phóng thanh loan tin Trung Cộng tấn công Bắc Việt, chúng tôi mừng lắm. Tôi cười hà hà khá lớn. Chỉ cười thôi! Trong lúc ấy, có một anh chàng v́ quá khích động nói “đánh chết cha nó đi”. Thế là LĐT nghe được, hắn liền ghi vào sổ và ngay sau khi đến chỗ lao động, LĐT gặp tên quản giáo báo cáo liền. Tôi bị kêu lên “làm việc”trước, LĐT nh́n tôi mặt đầy vẻ đắc chí. Khi gặp thằng cán bộ tôi nói với nó, tôi cười “Tại v́ có anh bạn nằm kế bên thường hay đùa giởn với nhau. Sáng nay ảnh “cù lét” vào người khi tôi đứng xếp mùng, chứ tôi đâu có nghe biết ǵ tin tức từ loa phóng thanh đâu? Chắc anh Thọ có thành kiến với tôi mà báo cáo sai đó thôi”. Ai buộc tội v́ những tiếng cười phải không? Thế là tôi thoát nạn . C̣n anh bạn nói “đánh chết cha nó đi” th́“làm việc” rất lâu, rồi được dẫn về trại để gặp cán bộ giáo duc. Đến trưa về, chúng tôi không thấy anh bạn đó ở pḥng, mà đă vào nằm nhà kỷ luật rồi! Đây là thành tích của Lê đ́nh Thọ đă đưa được người bạn tù vào nhà kỷ luật v́ một câu nói lửng lơ...

Sau khi anh bạn kia vào “nghỉ mát” trong nhà kỷ luật, tôi để ư thấy Thọ ngồi chăm chú viết mấy đêm liền. Đến ba bữa sau, trực trại đọc tên tôi nói khỏi đi lao động, ở nhà để gặp cán bộ giáo dục “làm việc”. Nghe như vậy, tôi biết chắc đây là sản phẩm của Thọ sau mấy đêm cặm cụi viết báo cáo.

Khi tôi lên gặp cán bộ giáo dục, th́ đúng ngay cái thằng quản giáo cũ của tôi. Tôi mừng thầm trong bụng, v́ thằng này h́nh như có cảm t́nh đối với tôi trước đây. Nhưng tôi vẫn chuẩn bị tinh thần để đối đáp. Sau khi đọc xong tờ báo cáo dài, tên cán bộ mới nói với tôi rằng: “Tôi biết anh Thọ có vấn đề với anh từ trước bên K1, nhưng anh hăy nói rơ cho tôi biết chuyện này. Đây là sự việc rất nghiêm trọng hiện nay giữa ta và Trung quốc. Nếu anh thấy vui thích khi nghe tin Trung quốc đánh chiếm mấy tỉnh miền Bắc nước ta mà anh cười to vui sướng, th́ tội anh rất nặng. Tội này, dù tôi có cảm t́nh với anh cũng không giúp ǵ cho anh được. Anh nghe rơ chưa?". Một dấu hiệu rất tốt cho tôi. Thế là tôi giải thích cho nó cái “thời điểm” của tiếng cười hà hà của tôi nó xảy ra trước và cách nhau với bản tin từ loa phóng thanh nửa tiếng, tôi nhắc lại Lê đ́nh Thọ là người tôi giới thiệu để cho anh ta được làm đội trưởng, nhưng v́ “tính tham ăn, tham uống” đă bị tôi phê b́nh nặng nề nhiều lần, nên đâm ra căm ghét, báo cáo láo để hăm hại tôi. Nên tôi xin tên cán bộ cứu xét kỹ dùm và nếu được đổi tôi đi đội khác để tôi có điều kiện “cải tạo tốt hơn". Nghe vậy, tên cán bộ nói: “Để tôi xem!”. Sau đó nó không vặn vẹo ǵ thêm và cho tôi về. Thế là thoát nạn! (Tôi cũng xin giải thích thêm ở đây là tại sao tôi hay "cáo buộc" LĐT về chuyện "ăn uống", bởi v́ đối với bọn cán bộ chính trị cai tù, tù nhân tranh chấp nhau về vấn đề "tư tưởng" mới quan trọng và cần quan tâm, chứ chuyện "ăn uống" chỉ là chuyện b́nh thường).

Hai hôm sau, tôi được chuyển qua đội “nhà máy cưa”. Đây là đội được mệnh danh là nơi “tập trung những thành phần nguy hiểm” nằm trong hai lớp rào, có 4 vọng gác chung quanh. Nhưng đâu có ai biết đây chính là “thiên đường” của trại tù K.3 lúc đó. Chúng tôi thường được lệnh “cưa lén” gỗ quư riêng cho bọn cán bộ có chức tước để chúng đóng rương, ḥm gởi về Bắc. Nhờ vậy chúng tôi được hối lộ chút ít gạo, đường để "bồi dưỡng" lai rai. Quản giáo là thằng tham ăn uống, lè phè, chẳng để ư đến ai. C̣n đội trưởng là chủ một xưởng cưa ở Biên ḥa bị bắt về tội “phản động” rất dễ chịu. Đa số tù nhân trong đội cưa này có nhiều thành tích “phản động”, nhưng không thiếu một vài thằng hủi. Đội trưởng thấy tôi tự nhiên có cảm t́nh, nên xếp cho tôi làm một công việc tương đối nhẹ nhàng, đó là "thợ đóng đĩa”. Về đội cưa tôi vui sướng nhứt là xa được hai tên khóa đàn em quá tệ mạt. Thoát khỏi tay hai đứa này, tôi cảm giác chẳng thua ǵ như khi vượt biển rời khỏi VN được an toàn sau này của tôi.

Tôi ở đội cưa xẻ khoảng hai năm, th́ chuyển trại về lại K.1 ở đội cuốc đất, HVH, Th/tá BĐQ là đội trưởng. Tay này cũng nổi tiếng từ ngoài Bắc ở trại Nam Hà về nghề “antène” chụp mũ anh em. Nhưng theo tôi so sánh, th́ HVH chỉ là hậu duệ của Lê đ́nh Thọ về mọi phương diện.

Cuối cùng giữa năm 1984, tôi được cho về trong khi hai tên tù “tiên tiến”, “tư tưởng tốt” vẫn c̣n được dùng ở lại để tiếp tục gieo khổ đau cho nhiều người.

Sau 1990, Lê đ́nh Thọ được qua Mỹ theo diện HO. Lúc đầu Thọ sống tại phiá Bắc San Fransico, làm nghề nail. Sau đó làm bưu điện part time, cắt cỏ... tại San Jose. Và hiện nay Lê đ́nh Thọ đang giữ một vai tṛ quan trọng trong Liên Hội Cựu Quân Nhân Bắc Cali đó là Tổng Thơ Kư của tổ chức này.

Những điều cần nói, cần kể tôi đă nói hết. Phần c̣n lại là sự phán xét của đồng hương, của các anh em cùng xuất thân từ trường Vơ Bị Quốc Gia về tư cách khả tín của Lê đ́nh Thọ trong sinh hoạt chính trị của Cộng Đồng Người Việt Bắc Cali hiện nay.

Tôi như trút được gánh nặng đă đeo đuổi nhiều năm sau khi nói ra được nỗi ḷng của ḿnh. Tâm trạng của người lính đă đỗ máu xương cho đất nước trong cuộc chiến Quốc- Cộng bị đàn em phản bội. Cuối cùng tôi nghĩ, nếu cứ măi câm nín sẽ vô t́nh có lỗi với mọi tổ chức, đoàn thể quốc gia chống cộng tại hải ngoại.

Nguyễn Tấn Ḥe
- Khóa 22A Vơ Bị Đà Lạt
- Cựu Đại Uư Sư Đoàn Nhảy Dù
- Cựu CHT Cảnh Sát Quận Hàm Long
và Quận Hương Mỹ, tỉnh Kiến Ḥa.

Phụ chú:

Thưa quư Niên Trưởng và các Bạn,

Câu chuyện về Niên Trưởng Nguyễn Tấn Hoè Khoá 22A và Lê Đ́nh Thọ cùng khoá với tôi là một sự kiện thật đau ḷng cho những người từng quan tâm đến t́nh tự Vơ Bị trên diễn đàn này nói riêng và t́nh nhân loại nói chung.

Thưa quư vị, chốn lao tù khổ ải là nơi thử thách ḷng can trường của những con người bất khuất và cũng là nơi bán buôn sự hèn hạ của ḷng người.

Qua cửa ải thần phù này, được hănh diện nh́n thẳng vào mắt những bạn đồng tù, được ôm nhau trong ṿng tay ấm áp bên ly rượu canh tàn, để rồi rướm nước mắt ôn lại những kỷ niệm đớn đau của những ngày tháng tuổi trẻ bị tàn phai trong uất hờn tủi nhục, thật là những giây phút hiếm hoi của đời người từng nếm đủ vị đắng cay như đa số anh em chúng ta.

Thật đáng tiếc thay, có những người đă không giữ được ḷng ḿnh trong cơn hoạn nạn, để phải mang những tiếng thị phi đeo đẳng suốt cuộc đời.

Thưa quư Niên Trưởng và các Bạn, sau khi câu chuyện của Thọ/28 được Niên Trưởng Hoè/22 đưa lên trên diễn đàn Khoá 22, tôi có lẽ là người “được” quan tâm đến nhiều nhất, v́ tôi cùng ở gần San Jose, cùng khoá với Thọ và số phone của đă được phổ biến trên Đa Hiệu đi khắp các nơi. V́ “được” quan tâm đến nhiều nên tôi cũng phải bỏ công ra t́m h́ểu sự việc qua những Niên Trưởng hay những người cùng ở trại tù Gia Trung cùng thời gian câu chuyện xảy ra. Qua những email qua lại của những người trong cuộc tôi xin được trích dẫn ra sau đây để quư vị có những thẩm định riêng cho ḿnh:

- Niên Trưỏng Vũ Văn Lâm, Khoá 23:
...theo nhận xét của tôi Thọ là một người tù rất tiến bộ cả về tư tưởng lẫn lao động. Đó là những ǵ tôi biết về Lê đ́nh Thọ.

- Văn sĩ Thanh Thương Hoàng (Cưụ Chủ tịch Nghiệp đoàn Kư giả Việt Nam)
..... Ve bai biet ve LĐT toi thay khong co gi sai ca
.....
... Hoi o trai GT toi cung bi LĐT tru len tru xuong, bi an 13.5 ky nhung toi nghi nhung nguoi quoc gia chung ta nhan tu do luong hon bon CS nhieu vi chung ta co tinh nguoi va de khoan hong tha thu.

- Niên Trưởng Phan Nghè, Khoá 19: trong lúc làm cổng Nam Quan tại nhà Niên Trưởng Nghè để chuẩn bị cho Đại Hội XVI, khi nói về Lê Đ́nh Thọ, Niên Trưởng Nghè đă tâm sự:
... Thằng nớ trong tù hắn gian ác lắm, ai cũng biết, tui ở tù chung với nó mà...

Thưa quư Niên Trưởng và các Bạn, trên đây là những trích dẫn thật tế qua những email và những lời tâm sự, tôi xin trung thực đưa ra đây để quư vị cân nhắc thật hư.

Dầu sao th́ câu chuyện cũng đă trôi vào quá khứ, nhưng đă khơi dậy th́ phải được nói lên cho rơ ràng, không nên để mập mờ hay dùng những ngôn từ không đứng đắn để che đậy hay khoả lấp sự thật.

... Và sự thật th́ quá đau ḷng, nhưng xin quư vị hăy b́nh tâm, đừng v́ mẫu chuyện của những người không giữ được bền chặt của ḷng ḿnh trong chốn tù đày đói khổ của quá khứ mà quên đi những tấm ḷng sắc son tỏ rạng khác của anh em Vơ Bị ḿnh.

Thân kính,
Minh/K28

hoanglan22
08-14-2020, 00:51
Nói đến vụ này tui cũng bị một vố đau . Trong gần ngày 30/4 lúc ở Trảng bàng , toán viễn thám chúng tui rút sau khi phá đài truyền tin ở núi bà đen th́ gặp Thiếu úy Tuân thuộc sư đoàn 25

Trich :
Đầu năm 1975 v́ nhu cầu chiến trường, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù phải chia ra làm hai cánh quân hoạt động cách xa nhau. Đại Tá Phan Văn Huấn và hai Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật Số 1 và Số 2 đang hành quân nhảy toán trong khu vực Bắc Tân Uyên, Biên Ḥa. Riêng Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật Số 3 do Thiếu Tá Phạm Châu Tài chỉ huy tăng phái cho Sư Đoàn 25 Bộ Binh hành quân tại Tây Ninh. Giữa Tháng Tư 1975, lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu gọi toàn bộ liên đoàn rút về trấn giữ Saigon, và được trải ra để hoạt động trong một vùng khá rộng chung quanh đô thành Saigon – Chợ Lớn – Gia Định ( Liên đoàn 81 dù là lực lượng riêng biệt trực thuộc BTM cho nên không có tư lệnh vùng có thẩm quyền ra lệnh )

Hắn yêu cầu ḿnh giúp chận đánh hỏa mù để Trung đội hắn an toàn rút khỏi . Với hỏa lực của bọn ḿnh chỉ c̣n 4 mạng , Cho nên mới nói hắn c̣n đạn M79 không giao cho tụi này . Thế là tụi này làm việc ...

Khi vào tù ở Katum gặp hắn ... hắn bán đứng ḿnh lấy điểm và ḿnh bị chúng nó khai thác làm bản tự kiểm điểm hàng ngày . Nhưng cũng may hắn chết v́ bị bệnh cho nên từ đó im chuyện . Đúng là quả báo . Nếu hắn c̣n sống mà gặp ḿnh ở xứ mỹ này chắc phải đấm cho vỡ mặt . Hắn chết rồi th́ thù oán cũng gỡ bỏ hết:eek::eek::ee k:

hoanglan22
08-21-2020, 03:48
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1639723&stc=1&d=1597981587

Muốn trở thành một phi công trong Quân Đội V.N.C.H. th́ điều kiện đầu tiên là phải có sức khỏe tốt. Chữ tốt ở đây có nghĩa là mắt phải nh́n được 20/20, tai phải nghe được 100/100, răng phải đủ và không bị sâu, cao tối thiểu 1 thước sáu mươi hai, nặng tối thiểu 48 kư và nội tạng gồm tim, gan, phèo, phổi đều tốt cả. Ngoài những yếu tố đó, người phi công c̣n phải có một vóc dáng dễ coi.

Khách quan mà nói Thượng Đế đă ban cho những tác phẩm của ngài vào lúc này, ở trong t́nh trạng thật là hoàn hảo mà người đời dẫu có tiền rừng bạc bể, khi cần cũng không mua được. Nguyên do của sự đ̣i hỏi khó khăn này cũng dễ hiểu, v́ rằng nếu thân thể có khỏe mạnh th́ trí óc mới minh mẫn, để có được những quyết định sáng suốt và chính xác cho việc hoàn thành tốt mỗi phi vụ. Chẳng hạn như người phi công lái máy bay vận tải, ngoài nhiệm vụ của họ là điều khiển những chiếc máy bay giá trị hàng trăm triệu Đô la, họ c̣n chịu trách nhiệm về sự an toàn cho nhiều hành khách. Thêm vào đó, họ luôn tuân theo luật lệ nghiêm ngặt của ngành hàng không, hầu tránh được các tai nạn. C̣n về phi công tác chiến th́ khỏi nói, ngoài sự việc cao cả là sẵn sàng hy sinh mạng sống của chính ḿnh, để bảo vệ sự an toàn cho Lănh thổ mỗi khi có giặc xâm lăng, chính phủ c̣n tin vào khả năng của họ, để giao phó điều khiển những chiếc máy bay rất qúy giá.

Chương tŕnh đào tạo các phi công rất tốn kém, nó bao gồm các chi phí về huấn luyện lư thuyết lẫn thực hành. Lư thuyết gồm có: cách cấu tạo của phi cơ, khí tượng và cách thức điều khiển máy bay. Thực hành là lúc học tṛ được thầy chỉ dẫn cách thức bay bổng ở trên không. H́nh ảnh này cũng hơi giống con chim mẹ d́u dắt chim con tập bay khi nó mới ra ràng. Chương tŕnh này thường kéo dài từ một đến hai năm. Đa số các Phi công của miền Nam Việt Nam đă tốt nghiệp từ các trường dạy lái máy bay nổi tiếng tại Pháp hay Hoa Kỳ, thời gian cho mỗi khoá học kéo dài từ một đến hai năm. Tại quốc nội, căn cứ Không Quân Nha Trang có trường đào tạo ra những Phi công Quan sát và đến năm 1973, th́ có thêm khoá đào tạo Phi công Trực thăng, sau này căn cứ Không Quân Phan Rang cũng mở trường dạy bay T-37.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1639724&stc=1&d=1597981587

Trong cuộc chiến chống lại sự xâm lăng của Việt Cộng, dân tộc Việt Nam đă mất đi nhiều anh hùng Không Quân tên tuổi. Một trong những anh hùng đó là phi công Phạm Phú Quốc, anh tốt nghiệp khoá Phi công bên Pháp, về nước anh phục vụ trong một phi đoàn khu trục A-1, Skyraider, anh đă bị bắn và mất tích trong một phi vụ Bắc Phạt vào năm 1965. Để thương tiếc anh, nhạc sĩ Phạm Duy đă viết bài ca “Huyền Sử Ca Một Ngừơi Mang Tên Quốc”, rất nổi tiếng được nhiều người ưa thích, qua tiếng hát truyền cảm của nam danh ca Duy Khánh. Bài hát này cũng đă đi sâu vào ḷng người nhiều luyến tiếc cho một người phi công thời chiến, một lần cất cánh bay đi và không bao giờ về lại…

Một người anh hùng Không Quân khác tên là Đại Úy Trần Thế Vinh, anh là phi công A-1 thuộc phi đoàn 518, danh hiệu Phi Long. Anh đă anh dũng hy sinh trong một phi vụ chận đứng hàng loạt những xe tăng, ồ ạt từ miền Bắc xâm nhập miền Nam vào mùa Hè Đỏ Lửa, năm 1972. Để vinh danh anh, một bài hát rất cảm động “Ṿng Hoa cho Trẩn Thế Vinh” do danh ca Thanh Tuyền hát, đă được nhớ măi trong ḷng mọi người, về sự can đảm của một người phi công gan dạ, sẵn sàng hy sinh mạng sống của ḿnh cho tổ quốc.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1639725&stc=1&d=1597981587

Cuối năm 1971, Tôi măn khoá học bay tại Hoa Kỳ, về nước và được bổ nhiệm phục vụ phi đoàn tác chiến 520, danh hiệu Thần Báo, phi đoàn đồn trú tại căn cứ Không Quân B́nh Thủy, thuộc tỉnh Cần Thơ. Những ngày đầu ở phi đoàn, tôi c̣n đang chân ướt chân ráo, may thay tôi được một Đại Úy phi công trẻ tên là Nguyễn Minh Sơn, trùng tên với tôi và pḥng của anh ở ngay cạnh pḥng của tôi trong cư xá Sĩ Quan Độc Thân. Anh đă tận t́nh giúp đỡ tôi từng đường đi, lối bước, cho tôi chóng thích hợp với đời sống ở nơi Tây Đô dễ thương này.

Đến năm 1972 tôi phải chia tay anh để đi đến phục vụ phi đoàn tân lập 532, danh hiệu Gấu Đen, đồn trú tại căn cứ Không Quân Phù Cát, thuộc tỉnh B́nh Định. Bẵng đi ba năm, tôi t́nh cờ gặp lại anh vào một buổi sáng tại Tân Sơn Nhất, khi các phi đoàn A-37 tụ tập tại đây trong tháng cuối của cuộc chiến. Chúng tôi tay bắt mặt mừng, hứa hẹn với nhau đủ thứ cho những ngày sắp tới. Trước khi chia tay, tôi hỏi anh đă lập gia đ́nh chưa, anh cho biết là anh sắp làm đám cưới với cô xướng ngôn viên của đài Truyền H́nh Cần Thơ và chắc chắn tôi sẽ có tên trong danh sách khách mời. Sang ngày kế tiếp, bất chợt tôi được thông báo là anh đă đền nợ nước trong một phi vụ vừa mới được điều động, đánh tại Quận Thủ Thừa Tỉnh Long An. Nghe xong chân tay tôi bủn rủn như người mất hồn, cổ họng bị nghẹn như có vật ǵ chấn ngang, hai mắt thấy nhoà đi bởi những giọt nước từ từ lăn dài trên má, có lẽ tôi đang khóc…

Cái cảm giác phải mất đi một người anh, một người đồng nghiệp thân thương, ôi! nó đau đớn vô vàn, nhưng nếu đem so sánh với cái nỗi khổ đau của những người thiếu nữ có người yêu hay chồng là những Phi công và nếu không may có một ngày, người yêu hay chồng của họ bị gẫy cánh trên chiến trường, không gian đă ấp ủ h́nh hài, th́ chắc chắn cái nỗi đau đó sẽ c̣n to lớn hơn nhiều… Tôi thầm cầu mong Thượng Đế, xin Ngài luôn ban cho những người thiếu nữ kém may mắn này nhiều phước lành cho quăng đời c̣n lại của họ.

Huy Sơn

hoanglan22
08-25-2020, 15:22
Căn cứ KQ Biên Ḥa tháng 10 /1971 ... Một buối sáng trời bắt đầu chớm lạnh, tôi, th/úy Tôn Thất Đoàn đang tại Pḥng Hành Quân PĐ 231, cái PHQ mỗi đầu ngày buổi sáng người vô kẻ ra ồn ào náo nhiệt, anh em phi hành đang chen chúc nhau trước bảng phi lệnh xem số tàu và phi vụ cắt bay hôm nay xong kư tên vào sổ phi lệnh rồi cùng rủ nhau ra tàu. Tôi c̣n ngồi đó một chân gát bên gốc bàn trực để chờ Cư, một bạn học cũ và cũng là lính tàu bay học chung với nhau một trường ở Mỹ nên đă từ tối hôm qua tôi đă xin phép Flight Leader cắt chúng tôi bay chung trong phi vụ của ngày hôm nay.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1642362&stc=1&d=1598368739

Hôm nay chúng tôi sẽ bay cho Tiểu khu Phước Long, trưởng phi cơ là tôi và copilot là Lê Viết Cư, là bạn học cùng tôi từ Đệ Thất cho đến Đệ Tứ trường Trung học công lập Nguyễn Tri Phương, Huế. Lên Đệ Tam th́ tôi chuyển qua Quốc Học, và sau đó v́ t́nh h́nh ở Huế xáo trộn do biến cố Phật giáo năm 1963 nên tôi chuyển vào Sài G̣n học Hồ Ngọc Cẩn Gia Định. Khi sang Mỹ th́ Cư học bay cùng một thời gian với tôi nhưng lại không gặp được nhau cho đến ngày về PĐ 231 th́ kể cũng là chuyện lạ. Và tuy thời gian học ở trường bay nhưng lúc đó tôi đă là Thiếu úy c̣n Cư vẫn c̣n SVSQ do đó khi về nước phải học bổ túc quân sự nên về PĐ231 sau tôi. Gần 10 năm cách biệt. giờ được gặp lại nhau cùng đơn vị và cùng chung chí hướng th́ thích thú vô cùng. Sáng hôm nay chúng tôi chung một con tàu và đây cũng là phi vụ đầu tiên của Cư, cơ phi là tr/sĩ Hớn, gunner hạ sĩ nhất Kiệm, đặc biệt là hai bạn này một th́ hơi to con có 1, 2 cái răng bọc vàng sáng chóe, một th́ thật nhỏ con như lính ṭ-te mà nghe anh em cơ phi thường kêu là th/sĩ Hớn !

Sau khi chúng tôi tôi gọi Đài cất cánh th́ tôi để Cư bay cho đến Phước Long và cũng để Cư đáp tại bải đáp của Tiểu khu. Trong lúc chờ đợi, phi hành đoàn chúng tôi cùng đi ăn sáng uống cafe, Cư mời tôi 1 điếu Con mèo đen, tôi không hút thuốc nhưng cũng cầm lấy ph́ phèo nhắm nháp với ly cafe cũng ra vẽ lắm. Điểm tâm xong chúng tôi về lại tàu nằm chờ đợi cho đến một lúc sau th́ một sĩ quan liên lạc ra cho biết phi hành đoàn chuẩn bị đi bốc toán viễn thám. Lúc đó tôi tuy là trưởng phi cơ nhưng kinh nghiệm chưa nhiều ,mới bay HQ chưa được 1 năm nên ai chỉ đâu đánh đó không thắc mắc, không đ̣i hỏi v́ phi vụ bốc viễn thám phải có gunships cover th́ mới đúng dù cho chiến trường lúc đó chưa có chi gọi là sôi động. Hơn nữa vị đại úy viễn thám theo tàu cũng không nói nhiều, chỉ cho biết tọa độ c̣n họ sẽ liên lạc nhận mặt toán của họ để bốc về mà thôi.

Tự sáng giờ nằm chờ cả người hơi quải cho đến khi tàu lấy đủ RPM tôi liền gh́ lấy cần lái đẩy mạnh múc một cái thật gắt để lấy tinh thần cất cánh trực chỉ LZ , Cư quày đầu ra cửa quan sát, trong nón bay tôi không ngừng nhắc nhỡ CP, XT cẩn thận. Viên Đại úy ngồi đằng sau cùng một hạ sĩ quan truyền tin không ngừng bận bịu liên lạc quân bạn ở điểm đến, họ thấp thỏm cả 10 phút bay, cho đến khi chuẫn bị vào LZ th́ anh ta lại chồm người cho tôi biết mục tiêu rất hot v́ viễn thám đang bị địch phát hiện và bám sát không quá mươi thước. Lúc này tôi quay đầu ra sau kêu anh em thử súng, được lệnh anh em liền khạt không ngừng, tiếng M-60 đàng sau hai bên nghe thật gịn, tiếng súng đă làm tăng cái không khí cả tàu đang căng thẳng ḥa lẫn tiếng rè -rè chát cả tai của máy truyền tin lại làm thần kinh anh em căng thẳng thêm. Tôi nh́n thấy thần chết đang phục đâu đây nên cứ nh́n Cư, c̣n copil Cư th́ đầu muốn ló cả ra cửa sổ đảo ṿng khắp vùng. Rừng cây cao ṿi vọi chằn chịt không t́m thấy một chỗ trống trên LZ mà viên sĩ quan viễn thám không ngừng chỉ trỏ quá là chật hẹp bao phủ toàn là cây cổ thụ nên không thể làm normal landing được. Sau khi xác định được phe ta, tôi la lên trong nón bay kêu clear bải đáp thật kỷ để tôi hover từ trên ngọn cây rồi sau đó sẽ làm vertical landing xuống bốc. Tiếng gào trong máy PRC-25 đàng sau kêu quân bạn quẹo phải trái ra một băi trống nhưng khi tầm mắt của tôi vừa ngang ngọn cây cách mặt đất khoảng 10, 15 ft th́ BÙM 1 tiếng nổ chát chúa vang lên, cả tàu chóa lửa khói bay mù mịt, phản ứng tự nhiên tôi giữ cho con tàu rớt tự do không bị lật, tôi nghĩ đạn không trúng main rotor và cả tail rotor nữa thật quá may mắn. Nhưng khi định hồn th́ cả tàu mịt mù khói chẳng c̣n thấy ǵ,và khi tàu đă bắt đầu cháy vậy mà tôi c̣n lo tắt Main Fuel Cotrol Off v́ sợ máy bay cháy, sau nầy nghĩ lại thật buồn cười. Tôi không biết ḿnh có bị ǵ không nhưng quay mặt nh́n về phía trái th́ hởi ơi, Cư cũng đang nh́n tôi, không nói một lời với khuôn mặt đầy máu. Khuôn mặt đó cứ ám ảnh tôi cho đến bây giờ, phải chi ḿnh đừng yêu cầu Cư bay chung với tôi phi vụ này.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1642363&stc=1&d=1598368739

Đây là phi vụ hành quân đầu tiên và cũng là phi vụ cuối cùng của Cư. Và khi thấy Cư ngồi bất động tôi mới tự tung cửa thoát ra khỏi tàu chạy qua phía trái với sự giúp đở của gunner Kiệm và đám viễn thám ở LZ kéo Cư vào hướng 9 giờ một trảng trống núp sau một g̣ đất và không nhớ cơ phi Hớn có mệnh hệ ǵ không ? Lúc nầy quân bạn không ngừng khạt đạn tự bảo vệ vùng, tiếng AK của Vịt cũng chẳng vừa cứ nghe rít ngang trên đầu. Tôi vội mở Survival Radio gào thét MayDay...MayDay...cả tiếng Việt lẫn tiếng Mỹ hy vọng ai nấy quanh vùng đều nghe. Tọa độ rớt máy bay liền được quân bạn xác định và chỉ khoảng 30 phút sau th́ tôi nghe thấy tiếng rockets của Cobra gunships không ngừng răi quanh cover cho chúng tôi, cả 2 chiếc F-5 cũng đang thay nhau oanh tạc dưới sự hướng dẫn của toán viễn thám và của tiểu khu Phước Long, toàn là máy bay của Mỹ đang ráo riết giập cả khu rừng, tôi tự mừng thầm trông bụng, của ai cũng được miễn là có người biết ḿnh đang bị nạn và đang chờ rescue ở đây là được rồi. May mắn phi hành đoàn chỉ có Cư bị thương nặng, Hớn th́ bị nhẹ nhưng sau này cả hai đều giải ngũ. Gunner Kiệm th́ hoàn toàn vô sự, riêng tôi bị một mănh nhỏ ghim vào gót chân trái. Vị Đại Úy viễn thám đă hy sinh v́ viên đạn B-40 bắn từ hướng 11 giờ nổ tung ngay ở giữa phi cơ trổ ra hướng 4 giờ, lúc ấy ông đang như bao che cả người tôi để chỉ băi đáp đến cả một bông mai của ông đă văng đi ghim vào vai trái tôi mà tôi chẳng phát hiện cho đến khi được rescue về phi đoàn th́ Sĩ Quan trực mới thấy mà gỡ xuống!

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1642364&stc=1&d=1598368739

Trở lại lúc chúng tôi đang nằm chờ đợi để được rescue trong lúc Crobra và F-5 sau hơn 1 tiếng quần thảo bao cả vùng th́ lù đù xuất hiện hai chiếc Dust-off Mỹ, chiếc số 1 đáp , Cư và Hớn cùng một số viễn thám bị thương lên trước được bốc trước, tôi và Kiệm lên chiếc số 2. Lúc nầy bọn Vịt như đă banh thây dưới những trận oanh kích liên tục nên không c̣n nghe thấy tiếng súng của chúng nữa. Trên đường về Biên Ḥa tôi được phi hành đoàn cho biết chiếc Dust-off 1 tăi thương Cư và Hớn lại bị trúng đạn hydrolic-off phải emergency trên đồng trống gần B́nh Dương. Thế là trong một ngày Cư và Hớn bị rớt máy bay hai lần và đều được trực thăng Mỹ đưa 2 bạn an toàn về Tổng Y Viện Cộng Ḥa. Đúng là chưa tới số nên c̣n sống đến ngày hôm nay. Xin cảm ơn Trời Phật.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1642365&stc=1&d=1598368739

Sau những trận đánh càng ngày càng ác liệt của cuộc chiến Vùng 3 Chiến Thuật tôi bị thuyên chuyển ra Vùng địa đầu Phi đoàn 213 Song Chùy căn cứ KQ Đà Nẳng.

Giờ ngồi đây nghĩ lại Thiếu Úy Lê Viết Cư bạn tôi sao thật là xui xẻo, phi vụ hành quân đầu tiên cũng là phi vụ cuối cùng trong Cuộc Đời Phi Công của bạn !

Phi vụ nầy tôi được Chiến thương bội tinh kèm thêm Anh dũng bội tinh nhưng chỉ nhận được một c̣n cái Anh Dũng th́ không biết đi đâu ? Đó h́nh như là tai nạn đầu tiên của PĐ231 nhưng không biết anh em 231 có ai nghĩ tới đă từng có một phi công mới cất cánh bay đă phải từ giă về lại với đời, ư tôi nói th/úy Cư chỉ bay một lần rồi giải ngũ, và bạn ta chỉ ở phi đoàn có vài ngày chắc là rất ít người biết. Không biết có anh em nào nào về 231 cùng lúc với Cư không ? Cách đây mấy năm tôi có nhắc lại với Lôi Vân1 ( tức Trung Tá phi đoàn trưởng ) nhưng LV1 không nhớ, v́ phi đoàn lúc đó mới thành lập.

Cư thân mến, ḿnh không liên lạc được với Cư kể từ khi bị ra Đà Nẳng, sau đó ở tù cộng sản 4 năm, ḿnh kiếm bạn khắp nơi ở Facebook,Intergram , v.v.. nhưng t́m không thấy, ḿnh hy vọng là Cư đi được trước 30 Tháng Tư Đen, v́ sau khi giải ngũ, Cư làm cho Mỹ ở TSN. Hy vọng Cư hoặc anh em nào đọc được tin tức của Cư th́ cho tôi liên lạc, mong lắm thay.Trong lúc Cư điều trị tại TYVCH, thỉnh thoảng về Sài G̣n Đoàn có ghé thăm, thấy Cư nằm trên giường bệnh quấn toàn băng trắng, chân treo ṭng teng thật là đau ḷng lại thêm hối hận v́ hôm đó ḿnh đă yêu cầu sắp cho Cư bay chung với ḿnh !

Sau 1974 th́ tôi không c̣n ở 231 nữa, mặc dù tất cả bạn bè ngày ngày cùng vào sinh ra tử đều ở đó, suốt 4 năm 71-74 đầy ấp những kỷ niệm vui buồn có nhau, tất cả đều ở Lôi Vân c̣n tôi đă ra Song Chùy 213 nhưng dù sao th́ cũng cùng chiến đấu dưới bầu trời khi đó vẫn c̣n xanh của Không Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Ra ngoài này không bao lâu nên không nhiều kỷ niệm, sau gặp Nguyễn Mạnh Thạc cũng đổi ra đây, 2 anh em tuy khác phi đoàn nhưng cùng chung một buổi cơm tháng với nhau nên bớt đi phần nào cô đơn. Tháng 4/75 tan hàng phi vụ di tản cuối cùng, tôi bị rớt tàu một lần nữa, đám Vịt xông đến bắt tôi ở tù hơn 4 năm ...

Bài viết của Tr/úy Tôn Thất Đoàn SĐ3KQ/PĐ231 ...

hoanglan22
08-28-2020, 18:26
Sĩ quan hành quân (S-3), t́nh báo tác chiến (S-2) thuyết tŕnh hôm 19 tháng Mười Hai năm 1968, trên căn cứ hành quân tiền phương (FOB-2) Kontum, phác họa ra một số mục tiêu cho các toán biệt kích SOG xâm nhập, ḍ thám: T-7 “Ban Blade”, J-3 “Little June”, I-6 “Hip Shot”. Nhiệm vụ cho ngày hôm đó là đưa một toán biệt kích SOG 9 người, xâm nhập mục tiêu H-6. Toán biệt kích sẽ mang danh hiệu “Little John”.


https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1644233&stc=1&d=1598639001

Sau khi toán biệt kích xâm nhập, báo cáo về là khu vực hành quân an toàn. Phi đoàn trực thăng vũ trang 361 “Con Báo” (Panther) được lệnh bay đến mục tiêu Juliet-Nine phá xập một chiếc cầu gỗ trên đường 96.
Chiếc cầu này được bọn cộng quân ngụy trang rất khéo, phi cơ thám thính “Covey” (FAC) không thể nhận ra. Chiếc cầu dài khoảng 30 thước, bắc ngang sông Dak Xou, cách “The Bra”, nơi gịng sông uốn quanh khoảng 300 thước về hướng tây.

“The Bra” rất quen thuộc với phi công và các toán biệt kích trong đơn vị SOG. V́ điạ h́nh khu vực rất đặc biệt, trông rất rơ từ trên không, nên các phi công thường dùng “The Bra” để định hướng, khi bay trên những cánh rừng mênh mông trên đất Lào. Thêm vào nữa, khu vực này khuyến cáo các phi công, cũng như biệt kích phải cẩn thận, “The Bra” là một điểm nóng trên hệ thống đường ṃn hcm, có nhiều hoạt động của quân đội Bắc Việt.

Toán biệt kích SOG xâm nhập vào mới khám phá ra chiếc cầu gỗ, được ngụy trang rất kín đáo dưới những tàng cây cao. Nằm cách vị trí (con đường) chính để băng qua sông chừng 200 thước về hướng bắc. Con đường chính băng qua sông là những lớp đá, bê tông, sắt đặt ngầm dưới mặt nước phi cơ quan sát không thể trông thấy được.

Đường 96, trước đó là một trong những con đường chính ở bên Lào nhưng sau này trở thành một phần trong xa lộ “Bắc-Nam” nối vào hệ thống đường ṃn hcm. Đường 96 hiện ra rất rơ trên bản đồ, cũng như được nh́n thấy từ trên không, nên bị Không Quân Hoa Kỳ thả bom thường xuyên.

Nhưng con đường lại được bọn chúng sửa chữa (lấp hố bom) nhanh chóng cho những đoàn xe vận tải Molotova chở quân xâm lược Bắc Việt cùng với đồ trang bị tiếp vận vào xâm lăng miền Nam Việt Nam. Bọn chúng thường di chuyển ban đêm để tránh bị phi cơ oanh kích. Đường 96 đến gịng sông Dak Xou, tẻ ra nhánh đường 110, uốn quanh theo “The Bra”, đâm vào vùng cao nguyên, Nam Việt Nam.

Phi Đoàn 361 Trực Thăng đă làm việc hàng ngày với đơn vị SOG từ tháng Chín năm 1968 và đă quen với nhiệm vụ hành quân. Sau khi thả toán biệt kích xâm nhập, các phi công “Panther” bay t́m xe cộ của địch đang di chuyển trên đường, băi đậu xe, thuyền bè di chuyển trên sông để tấn công. Trước đó một tháng tháng Mười Một), cà hai phi đoàn trực thăng 361 và 57 đă bay những phi vụ khó khăn nơi phiá bắc mục tiêu “The Bra”.

Cả hai Phi Đoàn 361 “Panther” và 170 “Bikini” đều rơi một trực thăng ngày 1 tháng Mười Hai. Ngày hôm đó sau trận B-52 thả bom trên binh trạm 37, BCH Tiếp Vận của địch gần chiếc cầu trên đường 96, trực thăng thuộc hai Phi Đoàn 361 và 170 đưa một toán biệt kích vào thám sát khu vực đánh bom.

Khi c̣n cách mục tiêu khoảng nửa dặm, các trực thăng hạ thấp cao độ bay trong đám bụi khói, hoang tàn đổ nát do B-52 gây ra, súng pḥng không của địch bắn lên trúng trực thăng chở quân (Slick, Phi Đoàn 170), trong khi toán biệt kích SOG vẫn c̣n trên trực thăng. Chiếc “slick” phải đáp khẩn cấp xuống nơi hướng bắc cách mục tiêu chưa đến một cây số, và về bên trái con đường chính khoảng 75 thước.

Hai trực thăng vơ trang “Panther” bao vùng tấn công mấy ổ súng pḥng không của địch để cho chiếc “slick” (chase, bay theo dự trù) bay vào cứu phi hành đoàn cùng toán biệt kích. Chiếc trực thăng vơ trang dẫn đầu (chính, chỉ huy) do Đại Úy Harold Goldman lái và Chuẩn Úy Mark Clotfelter ngồi ghế phụ, trúng đạn đại liên pḥng không 12.7 ly rơi xuống đất.

Sau khi cứu được phi hành đoàn chiếc “slick” cùng toán biệt kích, tai tôi nghe những tiếng “bíp”, tín hiệu cấp cứu của đại úy Goldman đánh đi. Tôi bay ḍ theo tiếng tín hiệu cấp cứu, đúng lúc trông thấy Đại Úy Goldman cùng Chuẩn Úy Clotfelter được một chiếc “slick” đáp xuống đám cỏ tranh cứu thoát. Chiếc trực thăng vơ trang Cobra c̣n lại có nhiệm vụ bắn tiêu hủy chiếc Cobra bị rơi, trước khi hộ tống mấy chiếc “slick” bay về căn cứ hành quân tiền phương Dak To.

Sau khi thả toán biệt kích “Little John” êm xuôi., toán biệt kích báo cáo “OK”, phi cơ quan sát FAC “Covey” cũng cho biết cả ba toán biệt kích đang hoạt động đều êm xuôi, cho lệnh chúng tôi bay đến tấn công mục tiêu thứ hai, chiếc cầu gỗ bắc qua sông Dak Xou. Ngoài hai chiếc Cobra (Phi Đoàn 361), có thêm một Huey “Bikini 29” (Phi Đoàn 170) bay theo, đề pḥng trường hợp cấp cứu. Chúng tôi bay thấp, theo đường 96 lên hướng bắc, ngang qua những khu rừng bị bom đạn tàn phá đến mục tiêu.
Bay với cao độ thấp, chúng tôi nh́n rơ chiếc cầu gỗ nằm ẩn dưới những tàng cây lớn. Tua (tour, pass) đầu tiên, chúng tôi đánh xập một chân cầu. Đến tua thứ hai, khi tôi chúi mũi chiếc trực thăng xuống, th́ nghe những tiếng súng tiểu liên bắn lên, có lẽ từ những tên lính gác cầu. Chiếc Cobra thứ hai do Trung Úy Paul Renner ngồi ghế phi công, báo cho tôi biết bẻ cua gắt, bay ra khỏi mục tiêu.

Tiếp theo, là hàng loạt súng đủ loại bắn lên, trong đó có cả pḥng không 12.7 ly và 37 ly. Cả trăm tên lính Bắc Việt từ trong những đám cỏ tranh đứng dậy chiả súng AK-47 bắn xối xả lên trực thăng.

Khi tôi lấy cao độ, ṿng lại chứng kiến chiếc Cobra của Paul Renner chúi xuống bắn hỏa tiễn, bọn lính Bắc Việt vừa chạy vừa bắn khắp nơi trong băi cỏ tranh. Chiếc Cobra trúng đạn, tiếp tục đi xuống, cánh quạt trực thăng chém mạnh vào mặt đất, gẫy văng ra chỗ khác. Tôi điều khiển chiếc trực thăng bay thấp để tránh đạn pḥng không, trong khi phi công phụ Mark khai hỏa khẩu đại bác 40 ly xung quanh chiếc Cobra bị rơi của Paul và Ben.

Tôi gọi chiếc “slick” trên hệ thống truyền tin, hy vọng có người nghe được “Bikini 29, đây Panther 16, chúng tôi có một chiếc bị rớt trong khu vực ‘Bra’, cần được tiếp cứu”. Và được phi công lái chiếc “slick” Ken Harper trả lời ngay tức khắc “Roger đang vào”.

Tôi vẫn phải tiếp tục bay ṿng, bắn xung quanh chiếc Cobra bị rơi, ngăn ngừa lính Bắc Việt đang ḥ hét tiến đến chỗ chiếc trực thăng. Trong băi cỏ tranh, Paul đang cố gắng lôi viên phi cộng phụ Ben ra khỏi chiếc trực thăng, rồi chiếc “slick” bay thật nhanh vào đáp bên cạnh, cứu cả hai viên phi công chiếc Cobra. Chiếc Cobra của tôi cũng trúng đạn, lúc đó hệ thống điện bị hỏng, không c̣n liên lạc được nữa.

Về đến căn cứ hành quân tiền phương Dak To, leo ra khỏi chiếc trực thăng, tôi trông thấy một lỗ đạn to khoảng 6 inches. Như vậy địch có đại liên pḥng không 12.7 ly trong khu vực chiếc cầu gỗ. Nh́n xung quanh, chiếc “Bikini 29” đáp ngay trước ban Quân Y, không thấy Ben (phi công phụ của Paul), tôi nghĩ chắc có chuyện… lớn.

Tôi vào trong hầm Quân Y, t́nh trạng của Ben nguy kịch, bộ quần áo phi công của Paul dính đầy máu, kiệt sức. Bốn người gồm có bác sĩ, y tá xúm lại xung quanh Ben, cố gắng đủ mọi cách để cứu sống Ben… Đến lượt chúng tôi đứng xung quanh Ben, người buồn nhất có lẽ là Paul, đă mất biết bao sức lực để mong cứu sống người bạn.

Sau đó, tôi với cương vị phi công trưởng phi tuần, đi theo một nhân viên y tá… làm những thủ tục cuối cùng cho Ben, nhân diện, nhận những vật dụng cá nhân của Ben, để trả về cho gia đ́nh anh… Nước mắt tôi tuôn ra, khó khăn mới kư xong mấy thứ giấy tờ cho Ben.

Khi chúng tôi ra khỏi hầm quân y, một đám đông đang bu quanh, xem xét chiếc Cobra trúng đạn, họ xầm x́ bàn tán… Ben Ide mới xin đổi đến Phi Đoàn 361 Cobra được hai tuần, từ một đơn vị trực thăng Lục Quân, vẫn c̣n đang hoạt động trong khu vực Tân Cảnh, Dak To. Tánh t́nh Ben dễ thương, có nhiều bạn… Tôi định bước đi, bỗng một viên phi công cùng đơn vị cũ với Ben chạy lại hỏi tôi… Những điều bàn tán xôn xao có đúng không? Ben có bị nặng lắm không? Nhưng nh́n qua khuôn mặt của ba chúng tôi, chắc anh ta cũng hiểu…

Ngồi trên sàn chiếc “Bikini”, là hành khách đuợc đưa trở về căn cứ trong phi trường Holloway, Pleiku, nỗi buồn mới thấm thiá. Lúc ra đi bốn phi công trên hai trực thăng tấn công Cobras, lúc trở về chỉ c̣n ba người và phải đi “ké” trực thăng. Chúng tôi, ngồi lặng lẽ, không ai buồn lên tiếng, dầu chỉ một lời… Chúng tôi phải cám ơn phi công chiếc “slick” này, nếu không, sẽ không một ai quay trở về.

Phi công “slick” thả ba đứa tôi xuống trước Bộ Chỉ Huy Phi Đoàn 361. Bạn bè trong đơn vị đă chờ sẵn, bước lại an ủi, dẫn đầu là Thiếu Tá Robert “Jim” Rogers, cấp chỉ huy của chúng tôi, một người đáng kính phục, sẵn sàng “sống chết” với đàn em, thuộc cấp. Tôi đứng cách đám đông khoảng ba thước, với giọng nói nghẹn ngào, báo cáo về nhiệm vụ, chuyện xẩy ra cho hai chiếc Cobras, chuyện xẩy ra cho Ben…

Thiếu Tá Rogers lúc nào cũng hiểu, bao che cho đàn em, ông ta hiểu những chuyện xẩy ra trên chiến trường, rất nhanh chóng… không điều khiển được. Sự ra đi của Ben là điều… nặng nề nhất trong tim mọi người. Tiếp lời tôi, Thiếu Tá Rogers cũng bằng gịong nói buồn, nhỏ nhẹ, chậm chạp, ông ta nói rằng trong chiến tranh… phải chấp nhận sự mất mát… Đó là những điều chúng ta chẳng làm ǵ được hơn.

Cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ lại những chuyện xẩy ra hôm đó, thương tiếc Ben và thầm cảm ơn Thiếu Tá Rogers, cấp chỉ huy của tôi, rất bao dung, tử tế, rộng lượng đối với đàn em. Đó là những tổn thất trong chiến tranh, Ben là một trong những người đầu tiên ra đi, sau đó c̣n nhiều nữa. Mark và tôi lại có dịp… ngồi trên sàn trực thăng “slick” trong tháng Giêng sắp tới, nhưng đó là câu chuyện khác.

Có rất nhiều bài học cay đắng và Thiếu Tá Rogers lại phải an ủi, động viên tinh thần tôi trước sự… ra đi của phi công phụ Mark Clotfelter, và Michael Mahowald trong tháng Bẩy năm đó.

Garry S. Higgins

hoanglan22
08-28-2020, 18:51
Lữ Đoàn 3 ND sau khi làm chủ tình hình trên đỉnh 1062 thì các đơn vị trực thuộc được bung rộng an ninh về hướng D1, D2 và trên những ngọn đồi chiến lược quanh vùng, quân Nhảy Dù dần dần ổn định vị trí một cách yên lành trong khi các đơn vị VC cũng rút khỏi vùng lữa đạn nầy êm thắm…

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1644238&stc=1&d=1598640422

Buổi sáng mùa Đông 1974, Tuấn Sùi, người SQ cùng khóa 9/72 với tôi khi còn ở quân trường Thủ Đức, đang chỉ huy một trung đội Trinh Sát thuộc ĐĐ3/TS, xuống thăm tôi trên đài quan sát (ĐQS) còn mang theo chai “ông gìa chống gậy” (Johnnie Walker) để từ giã tôi vì ngày mai Tuấn cùng Tr. Đ/TS sẽ xuống núi dưỡng quân ngoài Cầu Chìm, Tùng Sơn, Ái Nghĩa… Chúng tôi ngồi sau bậc đá nhâm nhi chai rượu mới vừa được trực thăng tiếp tế hôm qua, tôi cũng được Anh Sáu Lũng (TĐT/TĐ2PB/ND) gởi tặng cây thuốc President, anh thường khi gởi cho tôi mỗi khi anh muốn nói lời “khen thưởng” riêng cho thuộc cấp… ĐQS bây giờ cũng thoải mái hơn xưa, không còn sợ quân bắn sẻ thường xuyên rình rập như trước và có thể lai rai đốt thuốc hút mà không sợ “lủng cổ”, hút thuốc là điều tối kỵ và nghiêm cấm trên ĐQS nầy.

Tuấn kễ cho tôi nghe huyên thuyên chuyện Trung Đội Trinh Sát của hắn cách đó ba tuần đã bẻ gảy cuộc tấn công của đặc công CS đang cố gắng mon men bám sát hầu tìm cách tiêu diệt ĐQS chúng tôi… Tôi cũng nhớ rất rỏ giọng đanh thép của Tuấn lúc 4 giờ sáng oang oang trên tần số, điều động đàn em cẩn thận khi phát hiện đặc công CS đang bò vào và gặp ngay Trinh Sát Dù nghinh đón… Trinh Sát và các đơn vị Đa Năng của Nhảy Dù là các đơn vị được huấn luyện đặc biệt để diệt chốt, diệt tăng và chống đặc công CS, đêm đó khi đặc công bò vào thì đã bị quân tiền đồn phát hiện ngay từ đầu, nhưng vẫn để cho họ ung dung như không hề có khả nghi, tôi cũng được báo cáo nên ba thầy trò chúng tôi đã bò ra các giao thông hào trên triền dốc nằm sẳn sàng chờ đợi… cho tới khi Tuấn biết họ chỉ có chừng một trung đội và hầu như tất cả đã lên hết lên trên đỉnh 1025, hướng về ĐQS… Tuấn ra lệnh khai hỏa, vừa khi tiếng nổ của quả Beta đầu tiên mà bọn đặc công ném vào các hầm trú ẩn chử A kiên cố trống không… sau khi bị phát hiện tấn công vào chổ không người, họ cố gắng rút về hướng yên ngựa D1, nhưng những bóng người đã hiện quá rỏ dưới đường chân trời, làm mục tiêu trong tầm ngắm của các chiến binh Trinh Sãt Dù đang săn địch dưới giao thông hào...

Sáng hôm sau khi tôi lên 1025 gặp Tuấn đang chờ trực thăng đáp xuống để bàn giao 9 tù binh đặc công vừa bắt được đêm qua về cho Ban 2 Lữ Đoàn… trong khi những toán TS khác đang đào hố chôn những xác chiến binh đặc công miền Bắc còn trẻ đến độ không ngờ, chân đất, quần tà lỏn, mình thoa đầy lọ nghẹ hóa trang đen thui… họ là những chiến binh đặc công tình nguyện để rồi “sinh Bắc tử Nam”… nhưng CS không bao giờ mang xác họ về cho gia đình, cha mẹ đâu biết con em mình nằm chết vất vưỡn nơi nào đó trong rừng núi Trường Sơn.

Ngày hôm sau chúng tôi từ giã nhau, Tuấn lên đường sớm để bắt kịp chuyến trực thăng ngoài LZ (Landing Zone) dưới Dãy Đông Lâm, và đó cũng là lần cuối tôi và Tuấn Sùi gặp nhau, mãi cho đến bây giờ không biết Tuấn ở đâu, tuy nhiên, trong tôi, hình ảnh của người bạn cùng khóa, chàng SQ/ĐĐ3/TS/ND kiên cường, gan dạ và đầy bản lãnh, luôn ngự trị trong lòng tôi ở một vị thế trang trọng nhất cho đến ngày hôm nay…

Tôi được lệnh phải ở lại chờ gặp viên SQ/PB có biệt danh 207, để bàn giao ĐQS cho toán mới (và một trung đội đa năng lên bảo vệ) để thay thế cho toán chúng tôi được về dưỡng quân… Vị SQ/B3 yêu cầu tôi duyệt lại các điểm cận phòng quanh ĐQS, các vị trí phòng không của đối phương, đặc biệt là những vị trí bên kia sông Vu Gia, làng Đông Phước, và đồng thời tiếp tục quan sát các vị trí đóng quân giữa ta và địch. Suốt ngày hôm đó tôi ôm cái viễn kính lưỡng mục đi chu du khắp vùng trách nhiệm… tôi bỗng để ý dưới đồi 52, sát bên Chi Khu Thường Đức, có 3 ụ đất đỏ thật lớn vừa được đào lên đêm qua (hoặc được xe ủi đất ủi thành ụ đất lớn), tôi bốc máy gọi cho Th/T Việt, Đại Cồ Việt, báo cáo tình hình và cho biết có thể địch sẽ dùng làm việc gì đó lớn lao lắm nhưng tôi không biết, mấy ĐT cũng chú ý những ụ đất mới, họ nói phải cần thêm “bà gìa” lên vùng để kiểm chứng.

Sáng sớm hôm sau “bà gìa” xác nhận đã có 3 con cua (tăng T54) trám qua đêm vào các ụ mà tôi vừa báo cáo hôm qua, hiện chúng đã che đậy và hoá trang như những lùm cây… thì ra Bắc quân đã đoán được đoàn quân ND sớm muộn gì cũng sẽ dứt điểm Đồi 52 để tái chiếm quận lỵ Thường Đức. Tôi thực sự bị sốc khi biết tin nầy, vì từ khi ND tham chiến mặt trận Thường Đức cho đến giờ, chưa bao giờ thấy mặt T54 xuất hiện vào vùng nầy, bởi lẽ rừng núi trùng trùng điệp điệp về hướng tây dầy đặc làm sao xe tăng có thể vào được? vã lại ở ĐQS tôi cũng thường theo dõi đường di chuyển của Bắc quân xuyên rừng bằng những con đường chuyển gổ của dân theo đường xe be, giờ có lẽ xe tăng cũng dùng những con đường đó để áp sát Thường Đức từ hướng Quốc Lộ 14 (còn được gọi là Đường Mòn HCM)…

Nghe được tin phối kiểm từ nhiều phía là Đồi 52 giờ có thêm 3 chiếc T54 án ngữ đón chào đoàn quâm mủ đỏ, các đơn vị bắt đầu trang bị mạnh vũ khí chống tăng, hiện các cánh quân ND đã bao vây Chi Khu Thường Đức và Đồi 52 từ nhiều phía, ĐĐ21, 22, 23 và 24 của TĐ2/ND đóng dọc theo các triền đồi 126, 383, 400 ngay trên đầu Núi Đất (tên gọi khác của Đồi 52, theo tên dân địa phương)… tôi cũng ghi lại những tọa độ chính xác trên bản đồ hành quân của riêng tôi, đồng thời gởi các tọa độ về trung tâm hành quân LĐ.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1644239&stc=1&d=1598640422

Ngay đêm đó, bất thần, tôi nhận được lệnh của Th/T Hóa, TĐP/TĐ2PB/ND, điều động thầy trò 3 người chúng tôi rời bỏ vị trí ĐQS, ông nói rằng tôi sẽ được đề cử lên làm Sĩ Quan Liên Lạc (SQ/LL) cho một tiểu đoàn nào đó đang được không vận vào vùng, nhưng chính ông cũng chưa biết đích xác, và để bảo mật, chúng tôi phải rời ngay đêm nay, theo chân toán viễn thám dẫn đường, băng rừng về LZ tiếp tế trên dãy Sơn Gà, chúng tôi len lỏi trong đêm đen, một cách thật yên lặng, bám sát toán viễn thám, bằng cách nhìn theo miếng giấy bạc (bên trong mỗi bao thuốc) được dán sau ba lô của người đi trước, và chỉ được dùng bật lửa một cách giới hạn trong trường hợp bị lạc nhau quá xa… có đôi lần Hùng, người hạ sĩ mang máy PRC25 bị cần antenna vướn cây nên suýt bị rơi xuống vực, tôi phải đổi cho trung sĩ Bé to con hơn mang thay. Toán Viễn Thám (thuộc ĐĐ3/TS/LĐ3/ND) chỉ có 6 người, được chỉ huy bởi một sĩ quan cấp thiếu úy làm trưởng toán, tôi cũng chưa đối diện với hắn lần nào, chỉ nói chuyện qua máy với danh xưng Thiên Long 3, và chỉ gặp viên hạ sĩ quan toán phó vào ĐQS dẫn đường cho chúng tôi lúc nữa đêm, nên cũng chẳng nhớ rỏ mặt hắn. Phải công nhận rằng, các toán viễn thám Nhảy Dù hoạt động một cách độc lập, thành thạo trong khắp các ngỏ ngách vùng hành quân, họ len lỏi giữa đêm đen một cách nhanh nhẹn như những bóng ma… phần vì bị giới hạn vô tuyến, chỉ liên lạc khi nào tối cần thiết, cho nên chúng tôi phải cố bám cho được họ qua những vết loan loán phản chiếu từ miếng giấy bạc sau lưng của người đi trước… tôi là người đi đầu của toán ĐQS, phần được trang bị nhẹ nên tôi theo kịp họ dễ dàng, tuy nhiên 2 đệ tử theo sau có phần chậm chạp hơn, nhiều lúc tôi phải yêu cầu toán VT chậm lại…

Gần sáng hôm sau cả toán chúng tôi đến được LZ trên dãy Sơn Gà, ai cũng mệt nhoài sau một đêm dài di chuyển một cách căng thẳng, vừa lo lắng vừa cảnh giác cẩn thận nên cả bọn gần như không còn sức để trò chuyện, riêng tôi phải lên gặp Thiên Long 3 để cám ơn và từ giã anh ấy, tôi nhận ra anh là một huynh trưởng khóa đàn anh cách tôi mấy khóa, khi tôi về Khối Bổ Sung chờ học khóa nhảy dù thì anh đang chờ ra đơn vị, tuy nhiên chúng tôi không nói chuyện nhiều vì toán anh phải gấp rút trở về ngay.

Tình hình vùng 1062 bây giờ khá ổn định, nhớ lần trước khi trực thăng mới nghiêng mình thả toán chúng tôi xuống thì pháo địch cũng đã departed, chân vừa chạm đất phải phóng ngay xuống giao thông hào gồm toàn thương binh đang nằm chờ di tãn… bây giờ thoãi mái hơn, quân ND đã nện những cú đấm thần tốc, tái chiếm đỉnh chiến lược 1062, D1 và D2 đang đẩy Bắc quân ngược về hướng Sông Vu Gia… và nay mai, không xa, Chi Khu Thường Đức sẽ là mục tiêu sắp được dứt điểm…

Ngồi trên chuyến trực thăng về dưỡng quân thật là sung sướng, sau hơn 1 tháng rưởi bó chân trên ĐQS… liên tưởng đến nhiệm vụ mới lòng tôi cãm thấy nao nao, dù sao chức vụ SQ/LL coi như mình được đãi ngộ rồi, từ đây sẽ đi theo cấp tiểu đoàn cùng hợp tác với vị TĐT/ND và ở BCH cấp TĐ dù sao cũng an toàn hơn SQ/TSV ngoài chạm tuyến, vã lại sau chiến thắng đồi 383 của TĐ2/ND mọi người trong tiểu đoàn đều thừa hiểu rằng tôi đã góp phần không nhỏ…

BCH tiền phương của LĐ3/ND vẫn đóng ở căn cứ Chuồng Bò, mới vừa bị đặc công CS hỏi thăm cách nay một tuần, tuy không bị thiệt hại nhiều nhưng an ninh có vẻ thắc chặt hơn, ra vào đơn vị phải qua cổng an ninh… Tôi trình diện Anh Sáu, vị TĐT/TĐ2PB khả kính của chúng tôi, anh cho tôi biết lý do rút tôi ra khỏi ĐQS một cách gấp rút vì tình hình đang khẩn trương, LĐ đang chuẩn bị tái chiếm Quận Lỵ Thường Đức, dĩ nhiên, Đồi 52 (Núi Đất) sẽ là mục tiêu đầu tiên nằm sát phía đông của chi khu… Anh bảo tôi rằng, tôi là người am tường địa thế của vùng hành quân, nhất là biết rỏ vị trí của những con cua đang nằm chờ đợi trong hang… thực sự, mấy ngày nay các xe tăng nầy chưa được khởi động, chỉ nằm đó ém quân một cách bí mật để chờ thời… Anh cũng lập lại là tôi sẽ làm SQ/LL cho một TĐ/ND đang được không vận vào vùng. Tôi hỏi Anh Sáu về toán mới trên ĐQS, hơi ngạc nhiên vì tôi vẫn chưa bàn giao nhiệm vụ và các vị trí cho toán mới, nhưng lệnh của TĐ bảo tôi phải rút đi rồi sẽ làm việc với họ trên tần số vô tuyến sau nầy khi họ đến nơi.

Không còn gì sung sướng hơn là được tự do về Cầu Chìm để được an nhàn ngồi ngắm các “kiều nữ cà phê” ngoài chợ Ái Nghĩa, cùng chai bia lạnh, dưới ánh sáng điện mờ… quên mất rằng, chúng tôi vẫn đang trong vùng hành quân và tiếng đạn ầm ỉ xa xa cách đấy không đầy 12 km, là tử điạ Thường Đức và vùng núi 1062, D1, D2… vừa chôn không biết bao nhiêu chiến binh cả 2 miền Nam-Bắc…

Tôi có một người cha nuôi ngoài chợ Ái Nghĩa, gia đình ông có 2 người con, người anh trai trưởng tên Lợi, trước kia cũng là lính Nhảy Dù nhưng bị thương ngoài Quảng Trị vào mùa hè đỏ lữa năm 1972, nay đã giải ngũ và là anh kết nghĩa với tôi, cô con gái út tên Hoa, 16 tuổi, còn đi học nên mỗi lần đến nhà ít khi gặp. Khi quân ND tiến vào vùng Hiếu Đức và Đại Lộc tham chiến, trong khi chúng tôi đóng quân quanh bìa rừng chờ đợi các toán Công Binh Nhảy Dù đang ngày đêm khai phá những con đường chiến lược bên trong chân núi, tiếp cận những ngọn đồi hướng về đỉnh 1062, đồng thời làm bàn đạp cho các pháo đội kéo pháo lên đồi, áp sát các mục tiêu đã định, sẳn sàng yểm trợ cho các cánh quân Dù đang đóng quân trên các ngọn đồi bên trên. Trong khi chờ đợi các pháo đội đặt súng là thời gian thần tiên cho các SQ đề lô, được rãnh rổi la cà khắp vùng Tùng Sơn, Ái Nghĩa, vừa được phát lương sau thời gian chuyển quân về từ Huế-Quảng Trị, người nào cũng rủng rỉnh tiền đầy túi tha hồ tiêu pha, dân chúng trong vùng bấy giờ nhiệt tình đón chào đoàn quân mủ đỏ, họ đến đây để chuẩn bị chiếm lại Thường Đức, dù biết rằng mai nầy máu của họ sẽ đổ ngập đồng, nhưng bằng mọi giá, họ sẽ tái lập an ninh cho người dân trở về quê củ, tìm lại cuộc sống yên vui ngày nào… Trong tình quân dân cá nước, các anh tha hồ vờn gái trong các quán cà phê ngoài chợ Ái Nghĩa, còn các cô cũng dành nhiều tình cảm cho các chàng trai oai hùng đa số từ miền Nam ra…

Một buổi trưa đang ngồi nhâm nhi ly bia lạnh, Lợi đến gần mời tôi cụng ly, thấy hắn đội nón kết có bằng dù trên nón nên tôi hỏi ra lai lịch… từ đó chúng tôi thân nhau rồi kết nghĩa anh em, đôi lần Lợi dẫn tôi về nhà ăn uống, Ba của Lợi là người đàn ông goá vợ, là Thôn Trưởng ở Tùng Sơn, thấy tôi quê ở tận miền Nam xa xôi, vùng Cửu Long hiền hòa, vì nhiệm vụ làm trai thời chiến, phải ra đây để mưu cầu đem lại sự ấm êm hạnh phúc cho người bản xứ, từ đó, ông quý mến tôi như con, nên nhận tôi làm con nuôi… và cũng từ đó, mỗi khi đơn vị về dưỡng quân quanh vùng, có dịp là tôi “biến mất”… và cái tên “Châu Nhái” chết tiệt ra đời khi ông Hoá tập họp đám “cù lũ nhí” (các SQ trẻ trong TĐ) để phân chia đơn vị, ai cũng được phân công về các tiểu đoàn tác chiến chuẩn bị vào vùng hành quân, còn tôi, làm người nhái… lặn mất tiêu… ĐT Hoá từ đó gán cho tôi cái nickname nầy, dần dần nó ăn sâu vào lòng bạn bè cho đến bây giờ.

Tôi được mấy ngày “dưỡng quân tại chổ”, nghĩa là hết tiền để xuôi về miền Nam thăm gia đình, nên dĩ nhiên là về nhà Lợi, cùng hắn vi vu về Hòa Khánh, Đà Nẵng và Hội An… vui chơi cho vơi đi những nhọc nhằn trong ngày tháng ngoài vùng hành quân. Thực ra, mấy tháng nay nói là về tham chiến vùng Quảng Nam-Đà Nẵng nhưng tôi có biết thành phố là gì?… ngày đêm chỉ lo quần thảo với hiểm nguy, đối diện với tử thần trên chạm tuyến, từ hừng sáng đã thấy những bộ đồ xanh bộ đội miền Bắc bò lúp súp dưới giao thông hào, chỉ cách nhau có vài chục mét… giờ về thành phố Đà Nẵng ban đêm vui thật là vui, người dân thành phố đâu hiểu được những nhọc nhằn của đoàn quân mủ đỏ nói riêng và tất cả quân đội đang ngày đêm gìn giữ ngoài biên trấn cho họ có được sự thanh bình, an vui như vậy… nhưng thôi, đã làm trai, ai cũng có bổn phận với nước non, Nhảy Dù Cố Gắng!!!

Tối nay tôi và Lợi đi dạo dọc bờ biển, chúng tôi cũng ngà ngà sau một chầu bia, đi hóng gió mát từ biển thổi lên, quyện theo tiếng nhạc từ những nhà hàng sang trọng bên kia Kênh Phú Lộc, đang say sưa với cảnh thanh bình của Đà Nẵng về đêm, bỗng chiếc xe Quân Cảnh Hổn Hợp (QC của QĐ I đi tuần chung với QC 204/ND) dừng lại, thấy hai chàng nhảy dù đang đi dạo, lúc đó Lợi đang mặc bộ đồ bông ND nhưng trông có vẽ lôi thôi nên họ dừng lại hỏi giấy, Lợi trình giấy giải ngũ từ SĐ/ND (hắn vẫn được mặc đồ ND nhưng không cần phải đúng quân phong tuyệt đối vì đã giải ngũ)… còn tôi có đầy đủ phép nên họ bỏ đi… nghĩ lại, dù đang trong vùng hành quân nhưng khi ra ngoài thành phố cũng phải giữ đúng tác phong.

Buổi sáng hết phép, lên trình diện các Đích Thân để nhận nhiệm vụ mới, ngồi nghe ông SQ Ban 3 thuyết trình tình hình khu vực sau 1 tuần lễ trôi qua… ĐT Việt cho biết là toàn bộ TĐ2/ND đã rời vị trí chung quanh các ngọn đồi 126, 383, 400, vượt qua bên kia sông Vu Gia, đang làm nổ lực chính, bằng mọi giá phải tiến chiếm các ngọn đồi bên trên làng Đông Phước và QL14B, đối diện Chi Khu Thường Đức, hiện nơi đây đang đặt những ổ phòng không chiến lược của Bắc quân, lưới phòng không nầy ngày đêm khống chế các phi tuần oanh tạc mỗi khi vào vùng yểm trợ cho quân Dù, cho nên các phi công A37 thường bay từ hướng biển ngoài Hội An và Hiếu Đức dọc theo sông Vu Gia vào vùng để tránh những ổ phòng không nầy, sau khi đánh bom trong vùng Thường Đức xong, thay vì họ bay qua hướng 1062 để trở ra, thì họ lại đánh vòng ngược lại, bay bỗng lên không về Hội An (belly up or upside down) để tránh những ổ phòng không bên trên những ngọn đồi phía sau 1062 trông thật ngoạn mục… đường bay vào và đi ra đánh bom như vậy đã né được cả hai ổ phòng không quan trọng, tuy bị giới hạn vì kém chính xác, nhưng vẫn còn hơn là không vào được… và cũng chính những ổ phòng không nầy là hung thần trực xạ vào các cánh quân Bộ Binh ND khi lâm chiến, những ổ phòng không 37 ly liên thanh 2 nòng khi trực xạ làm thui chột ý chí chiến đấu của quân Dù… họ ngại ngần tiến quân dưới lằn đạn 37 ly… nay TĐ2/ND có nhiệm vụ vượt qua cầu Hà Nha để khóa họng chúng thì công cuộc tái chiếm TĐ mới dễ trong tầm tay.

TĐ6/ND từ Phú Bài được không vận vào vùng Hiếu Đức, chuẩn bị thay cho TĐ3/ND vừa bị rách áo vài tuần trước đây bên trên 1062 và D2, đang được về Sài Gòn dưỡng quân… LĐ3/ND nay gồm các TĐ2, 5 và 6/ND các cánh quân của TĐ6/ND gồm các ĐĐ61, 62, 63, 64 đang rải mỏng trên Đỉnh Đông Lâm và Sơn Gà, chuẩn bị vào vùng bao quanh Thường Đức…

Hôm nay trong phòng hành quân có mặt Anh Sáu Triệu, Ông Hoá, Ông Việt và Tr/U San, anh là vị Sĩ Quan Liên Lạc (SQ/LL) thâm niên gốc Thiếu Sinh Quân từ Lực Lượng Đặc Biệt về PB Dù, đã đi cho TĐ3/ND bấy lâu nay nhưng khi TĐ3 rút ra dưỡng quân thì anh và các Sĩ Quan Tiền Sát Viên Pháo Binh (SQ/TSV/PB còn gọi là Đề Lô) bị giữ lại, tiếp tục đi cho TĐ6/ND… Thấy tôi có vẽ hơi hụt hẫn, anh Triệu vả lả rằng chính anh cũng không biết trước điều đó nên mới rút tôi từ ĐQS về gấp đề làm SQ/LL… biết nói gì đây khi tình hình đang khẩn trương và tôi không còn sự lựa chọn. Ông Triệu bảo tôi rất thành thạo tình hình chung quanh Đông Phước và Thường Đức nên cử tôi về ĐĐ61, tôi dự đoán ĐĐ61 sẽ là nổ lực chính đánh vào Thường Đức, chắc chắn chúng tôi sẽ đối đầu với những chiếc tăng T54 đang ẩn mình trên Đồi 52 chờ chúng tôi, và còn không biết bao nhiêu chiếc nữa đang vào vùng… Tôi đứng dậy đưa tay chào anh rồi gật đầu tuân lệnh, anh cũng ái ngại bắt tay tiển chân tôi…

Đêm đó, lệnh cấm trại 100%, cỗng căn cứ Chuồng Bò khép lại… trực thăng sẽ đưa chúng tôi vào vùng đêm nay, sáng sớm ngày mai lên gặp ĐĐT/ĐĐ61 trên đỉnh Sơn Gà, về đơn vị mới với nhiều vấn đề mới, tôi bảo Tr.S Bé và HS Hùng ra câu lạc bộ mua ít đồ cần thiết rồi đi ngủ sớm, chuẩn bị khuya đêm nay thầy trò lên đường… lần nầy vào trực diện với Bắc quân trên tuyến đầu Thường Đức.

Toán chúng tôi lên trực thăng cùng với Tr.U San, hơn nữa giờ sau đã đến LZ Sơn Gà, lần nầy tạm yên ổn không còn bị pháo như trước, chúng tôi lên trình diện vị Th.T/TĐT/TĐ6ND, lần đầu tiên vào họp hành quân chung mới thấy uy danh của một vị TĐT/ND, trong căn hầm chỉ huy hành quân thật kiên cố, đã có đủ các ĐĐT và các SQ/TSV/PB của từng ĐĐ, trước tiên, Tr.U San, SQ/LL/PB (TĐ6ND) trình diện và giới thiệu các SQ/TSV/PB cho các ĐĐT, sau đó viên SQ/B3 lần lược trình bài diễn tiến sắp đến của tiểu đoàn, chỉ rỏ chi tiết bước tiến quân cho từng ĐĐ trên bản đồ hành quân, nhiệm vụ phối hợp của các SQ Đề Lô, tôi ghi lại những điều cần thiết, nhận ám danh đàm thoại và bản đồ khu vực, trước khi ra về Th.T/TĐT/TĐ6ND, Thành Thái, ban lệnh hành quân, mỗi đơn vị chuẩn bị xuất phát, ngày N và giờ G bắt đầu sẽ được thông báo sau.

ĐĐT/ĐĐ61 là Tr.U Danh, có biệt danh là Danh Con hay Danh Lùn, là một ĐĐT thân mật và cởi mở, sau buổi họp hành quân chúng tôi cùng nhau trò chuyện và đi dần xuống chân đồi bên dưới dãy Sơn Gà, băng qua khu rừng chồi hướng về đồi 383, anh đề nghị chúng tôi ở chung với BCH/ĐĐ cho dễ làm việc, HS Hùng sẽ cùng làm việc với toán nhà bếp lo việc ăn uống, TS Bé sẽ ở gần với âm thoại viên ĐĐ và chúng tôi sẽ ở chung lều với toán Quân Y, Th.U Bản, SQ Trợ Y và 2 binh sĩ quân y, bên cạnh lều của BCH… Ngày đầu tiên làm việc chung rất là thân thiện, chúng tôi dần dần xưng hô rất thân mật, cởi mở và hợp tác một cách ăn khớp với nhau.

Trời đã xế trưa, tôi bắt đầu gọi về pháo đội chuẩn bị điều chỉnh cận phòng và các điểm cần thiết, đề phòng bất trắc cho đêm nay, đồng thời gọi lên 207, ám danh của vị SQ mới lên thay thế trên ĐQS, để hỏi thăm động tĩnh đáng nghi quanh đồi 52 và chi khu Thường Đức, 207 cũng đã ghi nhận các vị trí T54 và cho hay chúng vẫn còn ẩn mình, nhưng hiện rất rỏ dưới lưỡng kính viễn mục, tôi cũng yêu cầu 207 chấm chính xác tọa độ cấm chỉ của chúng và gởi về pháo đội để khi cần sẽ có ngay… tôi bắt đầu đi một vòng xem tình hình chung quanh, mọi vật thật là yên tĩnh.

TĐ6ND vừa thay quân trám chổ cho TĐ2ND cách đây vài ngày, họ cũng vừa ổn định các tuyến phòng thủ , vẫn chưa có động tĩnh gì, tôi và Danh đi qua dãy rừng chồi thưa, nơi cách đây vài tuần trước, Huyến, Hồng, Nghị và Phúc Con la chói lói trên máy khi đánh nhau chiếm lại các ngọn đồi nầy. BCH/ĐĐ61 đóng trên triền đồi nhìn xuống hướng sông Vu Gia, cách đó không xa là vách đá sừng sửng hiểm trở bên trên khu vực Ba Khe, điểm hội tụ của 3 con suối từ trên núi chảy xuống đồng bằng, tạo thành một khu vực đầm lầy trước khi chảy ra sông Vu Gia. Danh có vẻ tin tưởng tôi trong vị trí đề lô, khi nhìn thấy tôi chỉnh cận phòng trước khi trời tối, và vì mới được không vận vào vùng nên anh còn bỡ ngỡ với với tình hình chung quanh, tôi trấn an anh, là tôi mới vừa rời ĐQS trên 1025 nên biết rất rỏ đường đi nước bước trong khu vực, tôi dẫn anh ra bờ đá hướng về đồi 52 và chỉ cho anh vị trí các chiếc xe tăng T54 đang chém vè ở đó, tôi móc bản đồ hành quân cho anh thấy khu vực đồi 52 đã được khoanh tròn bằng bút chì mỡ màu đỏ, cùng với vị trí 3 chiếc xe tăng đã đánh dấu bằng những mũi tên…

Bây giờ là mùa Đông, cuối năm 1974, vùng rừng núi trùng trùng hiểm trở bên trên Thường Đức mưa nhiều, lạnh cắt da, chúng tôi ăn ngủ trong lều quần áo bị mưa ẩm ướt qua đêm nên lạnh lẽo vô cùng… trong lều có một chiếc băng ca, không hiểu vì sao Bản không nằm nó mà nhường cho tôi, ngủ trên băng ca êm quá, cũng đỡ lạnh và khỏi bị ướt lưng nếu trời mưa lớn, tôi thấy có vài vết máu trên đó nhưng không sao, trãi chiếc poncho (lightweight) quấn lại rồi cũng qua đêm…

Mấy ngày trôi qua vẫn chưa nghe động tĩnh gì, tuy nhiên bên kia sông Vu Gia, các đơn vị của TĐ2ND bắt đầu đụng nhẹ, khi tiến lên chiếm các triền đồi bên trên làng Đông Phước… tôi bốc máy liên lạc với nhóm cù lũ nhí bên TĐ2ND để xem tình hình ra sao? hình như Bắc quân đã dần dần rút khỏi vùng một cách êm thắm, những điểm phòng không ghi nhận trước đây giờ rút sâu về phía Tây hướng Khâm Đức và Đường Mòn HCM… có lẽ, họ bị thiệt hại nặmg và nay cố tránh chạm mặt với quân Dù.

Cuối cùng ngày N cũng đến, chiều nay được lệnh ăn sớm trước 4 giờ chiều và chuẩn bị lương khô cho nhiều ngày sắp tới, thời tiết xấu mấy ngày qua trời rét mướt không làm chùn bước, không cần nói cũng biết chúng tôi sẽ rất vất vả suốt đêm nay, giờ G đã đến, phải lên đường… Tôi qua lều Danh hỏi thăm tình hình mới biết được rằng Thành Thái đã ra lệnh cho ĐĐ64 của Th.U Thóc đêm nay rời đồi 126, vượt qua yên ngựa soai soãi một cách im lặng ém sát sườn đồi 52 trong thế chờ, ĐĐ63 vượt qua con suối và bám sát đường thông thủy hướng lên chân đồi nằm chờ ở đó, ĐĐ62 trên đồi 400 xuống thay quân cho ĐĐ61 của chúng tôi trước 6 giờ chiểu nay, đồng thời để trung đội vũ khí nặng (cối 81 ly và sơn pháo 57 ly) trên đỉnh yểm trợ, còn lại hướng về mục tiêu Núi Đất… Riêng ĐĐ61, đêm nay sẽ xuống núi ngay sau khi khi bàn giao đồi 383 cho 62, sẽ băng rừng chồi xuống làng Phước Lộc, men theo vách đá hiểm trở khu Ba Khe để vượt qua đầm lầy Phước Lộc, dọc theo con suối Phụng Lâm đến Hà Nha, nằm đó, chuẩn bị con cái và báo cáo về TĐ trước khi trời sáng…

Tôi ngó Danh và cười gượng… cố gắng hết sức mới không buông tiếng chửi thề… Trời ạ! mình là Nhảy Dù chứ phải là TQLC đâu Đích Thân? mà lội qua đầm lầy nữa đêm như thế nầy, tôi nói… nhưng Danh cũng đã căi nhau với Thành Thái về việc “hiếp người quá đáng” đó rồi… lệnh là lệnh. Danh cho tôi biết thêm thông tin từ các toán Thám Báo của Chi Khu Thường Đức, có rất nhiều mìn bẩy trong vùng đồng bằng do du kích CS gài lại, nên di chuyển đêm khá khó khăn, nhất là không được đi trên bờ đê, chỉ lội dưới ruộng và đầm lầy… tôi cười, mấy thầy trò, ngay cả tôi, đều mang boot-de-saut… Nhảy Dù mà ĐT! Danh nhìn tôi một cách đăm chiêu… cuối cùng Danh chọn cách tránh xa khu đầm lầy, sợ nước sâu làm ướt các máy truyền tin… dù sao cũng phải băng qua đầm mới về Hà Nha.

Rời 383 lúc trời tối đen như mực… chúng tôi len lỏi qua khu rừng chồi một cách nhanh nhẹn, trời cuối năm mang gió bấc về thổi lạnh từng cơn, cộng thêm trời mưa đông miền núi lất phất làm tê tái lòng người, tôi thả ống tay xuống và thụt vào bên trong poncho cho đỡ lạnh, bước theo BCH một cách lặng lẻ. Đêm nay, tất cả phải im lặng vô tuyến, Danh và tôi không ai nói một lời, mỗi người có mối suy tư riêng…

Chúng tôi đi qua đầm một cách khó khăn, đúng vào lúc nữa đêm trời lạnh buốt tâm can, nước ngập tới lưng quần cũng đủ rung bần bật, nhưng vì di chuyển trong đêm đen nên mọi người đều cố gắng bắt kịp nhau… (ai biểu đi lính nhẩy dù, Nhẩy Dù Cố Gắng!!! mà…) phần vì mệt lã nên quên đi cái lạnh cắt da bên ngoài. Chúng tôi cuối cùng cũng vượt qua đầm và đến bên bờ suối, Danh dừng lại ngoài cánh đồng cải cách bìa làng Hà Nha vài trăm mét… (dân trồng cải để bán cho dịp tết sắp đến, nhưng vì chiến tranh nên họ đã di tản, bỏ lại nguyên cánh đồng cải đang độ tốt tươi). Danh bảo tôi rằng ngoài đồng sẽ không có mìn bẩy vì dân thường ra đồng đi làm hằng ngày, đợi trời rạng sáng sẽ cho em út dọn đường hường về đồi 52. Danh bấm máy cho Thành Thái báo cáo, tôi cũng gọi cho ông Việt biết địa điểm để cập nhật trên bản đồ, ĐĐ61 chỉ cách đồi 52 chưa đầy 500 mét… chúng tôi mệt nhoài, cứ nằm đó chờ lệnh, tôi thiếp đi dù quần áo còn ướt đẩm...

Bé đánh thức tôi dậy và đưa ống liên hợp, Anh Sáu trên đầu dây, tôi nghe, ĐT… anh cho tôi hay các pháo đội đã sẵn sàng đợi khi nào Thành Thái phất cờ, thằng 207 nay sẽ làm mắt thần lại cho tôi, nghe quen quen ĐT… nhất định dzớt 3 con cua càng sớm càng tốt, ĐT bảo 207 bắn cắm chỉ và khóa họng mấy con cua đó thì sẽ dễ dàng thôi ĐT, nó có tọa độ rồi, OK! anh sẽ trực tiếp theo sát trên máy. Danh quay qua bảo tôi chuẩn bị pháo binh thì bắt đầu nghe 64 tapi, cối 81 từ hướng 383 bắt đầu nổ, đồi 52 đã bị bao vây từ khuy đêm qua, chung quanh đồi quân ND dù thâu đêm mệt lả vẫn hò reo vang trời trong tiếng depart pháo binh rộn rã từ phía cầu Hà Nha.

Cuộc tấn công tái chiếm Đồi 52 đúng ngày 24 tết, năm Giáp Dần, đầu tháng hai, năm 1975… lúc nầy mùa đông nên 6 giờ sáng vẫn còn tối hù, tôi điều chỉnh bắn rãi từ chân đồi dọc lên tới đỉnh để con cái 61 tiến lên, địch phản ứng dữ dội, chống trả các đợt tapi từ hướng 64, Thóc đã vang trên máy chuẩn bị xung phong, lên rồi lại bị đẩy lui, mấy chiếc T54 giờ đây xoay nòng trực xạ làm thui chột đàn chó điên đang vờn chuột trên đỉnh đồi 52… 207 gọi bắn cắm chỉ lên đồi 52 một cách hối hả và liên tục, đồng thời gọi cho Hồng, Huyến và Phúc Con cố gắng khóa họng mấy dàn 37 ly trên núi Đông Phước… 207 cho tôi hay mọi chuyện tiến triển tốt đẹp, trước mỗi đợt xung phong mấy con cua đều bị pháo nện tả tơi nhưng vẫn không thể làm chúng gãy càng… tôi hỏi 207, anh đã có tọa độ cắm chỉ của đám cua, sao không dứt điểm chúng cho rồi? tôi ở dưới triền đồi nên không tự chủ được, mọi chuyện chỉ nhờ 207… hắn cho tôi hay là các pháo đội không thể bắn thỏa măn theo yêu cầu vì không được tiếp tế đạn đầy đủ… Trời ạ!!! pháo binh Nhảy Dù luôn gọi bắn bằng tràng (6 quả), giờ chỉ bắn từng quả… mẹ, vậy mà cứ đòi tapi, tapi cái con mẹ… tôi chưởi thề trên tần số hành quân của pháo binh… nghe tôi chưởi đỗng tá lả, ĐT Tuấn con nhảy vào cố gắng làm dịu tình hình, cuối cùng anh điều ông Thọ kéo các khẩu M2 lên đồi… lần nữa nằm chờ, chơi trực xạ ngay trên đầu địch…

Chiều hôm đó chúng tôi chỉ nhích lên được chừng 200 mét, địch đông như kiến, được tiếp viện đạn dược đầy đủ từ nhiều hướng phía từ sau CK/TĐ, nơi hầm hố kiên cố được để lại từ thời TĐ79/BĐQ còn trú đóng nơi đây… có thêm vài ổ phòng không 57 ly mới nổi lên từ hướng Đại Lãnh, vùng núi hướng tây bên trên Thường Đức, bắn trực xạ rát quá làm quân Dù trùng chân.

Qua ngày đầu tiên các ĐĐ đã bao vây đồi 52 bằng 3 phía, chỉ còn cách ngọn đồi vài trăm mét, không xa lắm nhưng mỗi tất đường di chuyển đều được trả bằng máu, địch cũng không kém, trả đủa quân Dù sau mỗi đợt xung phong, họ được tiếp ứng quân và đạn dược nhanh chóng bằng đường sông Vu Gia, nên các ĐĐ bắt đầu dè dặt hơn trước… đêm nay thế nào địch cũng sẽ phòng thủ lại kỷ hơn, mỗi phút trôi qua chậm trễ sẽ làm bất lợi cho quân Dù.

Mấy ngày hôm sau thời tiết quá xấu nên chỉ nằm im lặng chờ đợi… mưa càng lúc càng nặng hạt, làm tăng thêm khó khăn và rét mướt, khổ nổi, nước ngập hết các giao thông hào mà ban ngày không được căn lều nên đành đội mưa chịu lạnh… Trên cao 207 quan sát kỹ hơn, theo dõi “nhất cử nhất động” của Bắc quân, tôi nghe 207 liên lạc với Đài Quan Sát Không Quân chuẩn bị cho Thần Phong lên vùng ngay sau khi trời quang đăng… phải vậy chứ, mình bị thời tiết khó khăn, bị giới hạn đủ điều… nên phải tính cách khác.

Sáng ngày N+5 dự báo trời quang mưa tạnh, gió thổi từ hướng biển vào lạnh tê tái… Thành Thái gọi Danh Con chuẩn bị con cái hành động cho đẹp mắt, OK! Make my day, ĐT. Tôi bò qua gần Danh, hắn chỉ tay về phía đỉnh đồi, tôi thấy cái nòng súng đầy lá ngụy trang 100 ly của con cua quay qua quay lại một cách thách thức, Danh nói hôm nay mình được tăng cường thêm 1 trung đội đa năng để chuẩn bị dứt điểm, sẽ thanh toán ngọn đồi bằng mọi giá. Tôi hơi ái ngại vì địa thế bất lợi cho quân Dù, đang ở dưới thấp, địch thấy ta còn ta không thấy địch… Danh gợi ý tôi gọi pháo bắn cắm chỉ vào đỉnh đồi liên tục và kéo dài cho tới khi Thần Phong bao vùng, lúc đó đa năng sẽ bò lên dùng lựu đạn khói cay, lợi dụng mình đang trên gió, 61 sẽ lên dứt điểm mục tiêu dễ dàng hơn… tôi nhìn Danh e ngại, anh nghe tôi chưởi thề trên máy rồi đó, mấy hôm trước xin 20 tràng (120 qủa) chỉ bắn có 12… bà mẹ, chỉ xúi mình xung phong… tôi cười, xung phong cái con… khỉ...

Trên tần số hành quân nội bộ, Bé cho tôi biết 207 đã phối hợp xong, Th.U Trưng ở đài tác xạ cho hay đã sẳn sàng, tôi hỏi anh Tuấn tình hình anh Thọ chơi ngông ra sao? anh cho tôi hay lợi dụng thời tiết xấu, anh ấy kéo pháo lên đồi ém quân nay đang nằm chờ lệnh…tôi quay qua cho Danh hay mọi chuyện đã êm suôi. Tuy nhiên Danh cho hay, Thần Phong hôm nay không đến được, thôi được, có gì chơi nấy, Danh lầm bầm, đánh đấm cái con… kẹt…

Trung đội đa năng cuối cùng đã đến, người nào cũng mặt mày lem luốt sình bùn, được trang bị đầy đủ XM202, M72 và đầy đủ lựu đạn cay, Th.U Thời, Tr.Đ/T Đa Năng, lên gặp Danh để chuẩn bị di chuyển, tôi thực sự ngỡ ngàng khi gặp Thời ở đây, thì ra là Thái Kiêm Thời cùng khóa với tôi, cái thằng cao lêu nghêu, Thiếu Sinh Quân, ngoài Vũng Tàu, chung ĐĐ15 khi còn là SVSQ bên Thủ Đức, từ ngày ra trường đến giờ mới gặp lại nhau trên chiến trường nơi góc núi đèo heo vùng Thường Đức nầy, tuy nhiên vì tình hình quá cấp bách nên hai đứa chỉ cần một cái bắt tay, không hỏi thăm nhau lâu được, rồi mỗi người trở về với công việc thực tại… cuộc phối hợp tái chiếm đồi 52 thực sự bắt đầu.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1644240&stc=1&d=1598640422

Các pháo đội bắt đầu depart ngoài Cầu Chìm và bên kia sông khá rộn rã, các ĐĐ cũng bắt đầu tiến lên chầm chậm giữa đạn pháo, địch pháo lại liên tục… vài tiếng nổ sát hầm chỉ huy làm tôi lùng bùng lổ tai, cầm ống liên hợp trên tay chỉ huy các trung đội phía trước, Danh bảo tôi pháo lần nầy có hiệu quả, Thóc bên kia báo trên máy 1 con cua đã banh càng, 2 con kia vẫn đang hung hăng trực xạ… đúng lúc đó, Thọ khai hỏa trực xạ ngay trên đầu địch, tôi nghe tiếng hò reo bên máy của Danh Con, chính xác, chính xác, hai con cua còn lại đã bị gãy càng nằm chổng gọng… tôi không biết đích xác vì sao 3 con cua bị luộc, pháo ngoài Cầu Chìm, pháo trực xạ M2 của Thọ hay từ các M72, XM202 của Thời, nhưng sao cũng được, miễn đứt điểm chúng thì OK… Trong khi đó, các trung đội của 61 xung phong phía sau làn khói cay, Bắc quân bắt đầu bỏ chạy, rút về hướng Chi Khu Thường Đức, trung đội đa năng đang làm chủ tình hình trên đỉnh Đồi 52.

Đang lúc tình thế phấn khởi, tôi lắng nghe 207 báo tin vui trên máy thì Danh gọi tôi, bảo Thành Thái muốn nói chuyện… ngồi trên thành giao thông hào với tay qua cầm ống liên hợp, chưa kịp nói chuyện với Thành Thái thì một tiếng nổ át tai ngay bên hông cách tôi và Danh chừng 2 mét, đất đá bay tung toé, tôi chưa kịp phản ứng thì nghe bên hông ẩm ướt bên trong làn áo, một dòng máu thấm qua áo nghe âm ấm, trong khi Danh không hề hấn gì, Danh đưa tay chỉ vào mấy lổ lủng bên hông cạnh sườn cho hay tôi đã bị thương… Trời đất, chưa lên tới đỉnh đồi mà bị thương cái gì? tôi sờ vào hông rồi nói với Danh, chỉ nghe rang rát bên hông, chẳn ăn thua gì đâu… tôi tiếp tục kêu Bé báo cáo về Anh Sáu là 61 đã làm chủ tình hình trên đồi 52, tai tôi vẫn còn nghe Anh Sáu khen làm được việc… nhưng mắt tôi bắt đầu hoa lên, mắt tôi trờn trợn dường như muốn nhắm lại, tôi sờ bên hông thấy máu ra ướt đẫm xuống thắc lưng, hình như tôi ú ớ không còn nói được nữa, nhưng tai vẫn còn nghe Danh bảo Bé chuẩn bị đưa máy cho anh, rồi bảo Bé cõng tôi về phía sau cho y tá băng bó, họ khiêng tôi trên chiếc băng ca tôi dùng làm giường ngủ mỗi đêm, có lẽ, đó là tại sao Th.U Bản không dùng nó để ngủ… 2 y tá khiêng tôi băng qua bao hầm hố về bệnh viện dã chiến hành quân đàng sau hậu cần, cách đó chừng một cây số, tai tôi vẫn còn nghe vị bác sĩ tiền tuyến của tiểu đoàn nói bụng tôi đã bị trương lên vì bị ứ máu bên trong thành bụng, bị xuất huyết nội, cần được cấp cứu kịp thời nếu không sẽ bị tử vong… Cuộc chiến đánh chiếm đồi 52 đã qua nhiều ngày, thương vong quá nhiều nên tình trạng thuốc men không còn đầy đủ, trong lúc cấp cứu, tôi không được gây mê để họ bơm máu đang bị ứ đọng bên trong lòng bụng, bác sĩ thọt ống bơm trực tiếp vào lỗ bị thương để bơm máu… chính chứng xuất huyết nội làm cho tôi bị á khẩu, không thể rên la mặc dù tai vẫn còn nghe họ bàn tính cách cứu chữa, văng vẳng bên tai tiếng ì đùng vẫn còn vang lại từ mặt trận… tôi không chịu nỗi cơn đau nên chìm vào cơn mê…

Tôi giật mình khi nghe gió lạnh làm run người, tiếng trực thăng quạt xành xạch bên tai, chòng chành chuẩn bị đáp xuống Tổng Y Viện Duy Tân, Đà Nẵng… Chiến trường bỏ lại sau lưng, băng ca cứu thương nhanh nhẹn đưa tôi vào phòng mỗ, lần nầy về Duy Tân thì không còn sợ chết nữa vì đầy đủ máy móc y khoa, tôi được bác sĩ rút hết số máu còn đọng lại bên trong vòm bụng một cách dễ dàng không đau thấu xương như ngoài tiền tuyến, ông cho tôi biết đã bị gảy mấy cái xương sườn, về làm việc nhẹ và sẽ tự hồi phục dần…

Khi họ chuyển tôi ra ngoài phòng hậu giãi phẩu, trong lúc tôi vẫn còn mơ mơ màng màng chưa tỉnh dậy hẳn, nằm trên giường trong khu hồi phục, tôi nghĩ lại, các bác sĩ quân y nhảy dù cấp cứu thương binh dưới lằn đạn pháo địch, chỉ cách chạm tuyến không đầy 1-2 km, dù hiểm nguy chực chờ nhưng họ cứu người rất thành thạo, cứu sống bao nhiêu sinh mạng, dù đến đây khi bị thương nên tôi không nhớ mặt và tên, nhưng tôi thầm cám ơn vị Tr.U Bác Sĩ, Y Sĩ Trưởng của TĐ6ND đã nhanh nhẹn cứu sống tôi dù không còn thuốc mê một cách thành thạo ngoài mặt trận… Người ta thường nói, đi lính nhảy dù dễ chết, nhưng khi bị thương thì khó mà chết, đánh nhau đàng trước, bác sĩ cứu hộ phía sau…

Lúc tôi tỉnh dậy trong bộ đồ xanh thương binh, nhìn thấy nhiều người đứng lo lắng chung quanh, Ông già nuôi, Lợi và Hoa, đứa em gái của Lợi mới tròn 16 tuổi đứng bên khóc như mưa… mặt tôi tái xanh như tàu lá, chắc là mất máu nhiều lắm, nhưng vẫn gượng cười nhìn họ và trấn an họ là tôi hoàn toàn cảm thấy khỏe hẳn, bác sĩ nói sẽ bình phục nay mai.

Thường khi ghé nhà Lợi, tôi xem Hoa chỉ là cô bé mới lớn, đáng tuổi em mình, đang học lớp 10 ngoài Trường Trung Học Ái Nghĩa, nhí nha nhí nhảnh chào hỏi tôi mỗi khi vừa đi học về… có khi Hoa bưng nước mời tôi uống, hình như có chút e lệ, luống cuống mỗi khi đứng trước mặt tôi… nhưng sao giờ thấy cô bé đứng khóc như mưa làm lòng tôi ngài ngại, bảo Hoa đừng khóc nữa, tôi vẫn là tôi của bao ngày…

Đó là ngày Mồng 4 Tết năm Ất Mão, nhằm ngày 14 tháng 2, năm 1975… Tôi được chuyển về Bệnh Viện Đỗ Vinh hành quân ngoài Non Nước, thời gian nằm dưỡng bệnh, tôi bàng hoàng hay tin Tr.U San vừa hy sinh đâu đó trong vùng núi gần Đại Lộc, TS Bé về ghé thăm tôi cho hay xác của anh đang chờ phi cơ về SG với gia đình, được quàn ngoài phòng Chung Sự Sư Đoàn, nhưng vì còn yếu, tôi không đủ sức đi thăm anh lần cuối… Đâu cũng là số trời, lẽ ra tôi đã thay thế chổ của anh, để anh được về Sài Gòn dưỡng quân theo chân TĐ3ND… nhưng định mệnh nào ai biết được, số mệnh ơn trên đã dành cho mỗi chúng ta, tôi giờ đây vẫn còn nằm trong bệnh viện còn anh nằm yên nghĩ ngoài phòng Chung Sự… Vĩnh biệt Đích Thân, cố ĐU Lý San, TĐ2PB/ND, SQ/LL/PB cho TĐ6ND…

Bác Sĩ Cổn vào phòng thăm bệnh nhìn tôi cười, anh rất may mắn, bị thương tuy nặng nhưng mà nhẹ, nếu không cứu kịp thời thì chắc đã ra… ma rồi, anh hỏi tôi, muốn về Sài Gòn không? tôi cười trả lời, dạ Đích Thân… Tôi được theo chuyến bay C130 về nghĩ dưỡng thương ở Đỗ Vinh Sài Gòn khi mặt còn xanh như tàu lá, trên chuyến bay đi chung với những xác đồng đội được đưa về cho gia đình, phía sau phi cơ là những quan tài được chồng chất lên nhau trên những pallet nực mùi tử khí… dẫu biết rằng tương lai không xa mình cũng sẽ nằm dưới lá quốc kỳ phủ kín đời trai như các đồng đội đang nằm đó, nhưng Nhảy Dù Cố Gắng, chuyện đâu còn có đó, tôi hân hoan về dưỡng thương trước đã… khoan nghĩ đến chuyện chết sống, âu là do trời định…

Một tháng sau tôi trở lại hành quân, Lữ Đoàn 3 bàn giao Thường Đức cho các đơn vị TQLC, lên tàu Hải Quân trên đường xuôi nam… đâu ai biết rằng Buôn Mê Thuộc đang dần dần thất thủ, Khánh Dương đang chờ LĐ3/ND về làm nút chận bước tiến quân như vũ băo của bộ đội miền Bắc từ hướng Buôn Mê Thuộc tiến về Nha Trang… và rồi ngày 30/03/1975 tôi lại lặng người khi nghe trên tần số Th.U Thái Kiêm Thời đã bị thương, được di tãn ra nằm trong bóng râm trên Quốc Lộ 21 bên cạnh Buôn Ê-Thi… khi những chiếc xe tăng T54 ung dung phá tan phòng tuyến của TĐ5ND đang chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, chúng cày nát những thương binh nằm trong bóng mát chờ tản thương… trong khi tôi đang di quân cách đó non cây số… Vĩnh biệt Cố Tr.U Thái Kiêm Thời, người bạn cùng khóa của tôi, làm sao tôi có thể nhìn anh lần cuối, khi LĐ3/ND đang chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và không được tiếp tế, làm sao còn đủ sức để ngăn đoàn xe tăng đang cày nát thân xác anh… Mẹ và vợ anh bồng con thơ đến tìm tôi tận mặt, để biết đích xác trước tin anh ngã gụt trên chiến trường Khánh Dương… chỉ đúng 1 tháng nữa thôi là ngày định mệnh 30/04/1975.

Cù Lũ Nhí, Châu Nhái
Anaheim Hills, ngày 30/04/2019

Ghi chú cửu long :Cù Lũ Nhí, Châu Nhái cùng khóa 9/72 Thủ Đức với tôi, tên thật là Đoàn Văn Châu.
Châu Nhái đă từ giă cơi trần ngày 18 tháng 12, 2019 tại Anaheim, CA hưỡng thọ 66 tuổi.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1644241&stc=1&d=1598640422

hoanglan22
08-29-2020, 17:58
Để kỷ niệm ngày Quốc Hận, tôi xin ghi lại đây cái chết hào hùng một người bạn cũng là một cộng sự viên thân tín, một nhân viên đắc lực đă từ chối ra đi di tản để ở lại t́m cái chết chứ không đầu hàng Cộng Sản. Tôi ghi lại chuyện này cũng để tự nhận ḿnh là kẻ không xứng đáng, tuy là cấp chỉ huy trực tiếp nhưng không bằng một thuộc cấp đă hy sinh ở lại, trong khi tôi t́m đường để thoát thân với gia đ́nh, bỏ lại người bạn thân tín và bao nhiêu thuộc hạ đă cùng tôi sát cánh bên nhau hằng bao nhiêu năm trời.

Bây giờ sau 30 mươi năm, tôi kể lại sự việc này để hy vọng linh hồn người bạn của tôi nếu có linh thiêng xin chấp nhận lời tạ lổi của tôi. Cũng trong bài này , tôi xin trả lời câu hỏi mà những nhà sưu tập những câu chuyện về ngày 30 tháng 4 năm 1975, đă hỏi: ngày 30 -4-75 năm đó bạn đang làm ǵ và ở đâu? Sau đây tôi xin kể lại những ǵ đă xảy ra sáng ngày 30/4/75 tại Cần Thơ và đă đưa đến cái chết của Thiếu Tá Lương Bông, một phụ tá rất đắc lực của tôi.
Xin mời bạn đọc theo dơi câu chuyện.
***

Thiếu Tá Lương Bông làm Sĩ Quan Phụ Tá cho tôi khi tôi phụ trách cơ quan ANQĐ ở tỉnh Sa-Đéc. Sa-Đéc là một tỉnh nhỏ gồm có 4 quận, trước kia là Tỉnh, trong thời Đệ Nhất Cộng Hoà trở thành Quận trực thuộc Tỉnh Vĩnh Long, sau thời Đệ Nhị Cộng Hoà được trở lại thành Tỉnh như cũ, tuy nhiên bên phía VC th́ họ vẫn coi Sa-Đéc là một huyện của Tỉnh Vĩnh Long, trong thời gian này t́nh h́nh tại Tỉnh Sa-Đéc tương đối có an ninh, không có những trận đánh lớn, tuy vẫn c̣n những trận nhỏ nhắm vào các đồn bót xa xôi hẻo lánh, đặc biệt là Quận Đức Tôn (ngày xưa gọi là Cái Tàu Thượng). VC tập trung nỗ lực vào công tác Binh Địch Vận và nội tuyến để phá hoại hàng ngũ xă ấp của ta. Trong thời gian này Thiếu Tá Bông phụ giúp tôi trong công tác ngăn chận và loại trừ các phần tử VC xâm nhập vào hàng ngũ ta rất là hữu hiệu.

Vào năm 1973, tôi được lệnh thuyên chuyển về Tỉnh Phong Dinh/Cần Thơ, đang ở một tỉnh tương đối nhỏ và có an ninh, nay về một Tỉnh lớn gồm 7 Quận và 2 Quận của Thị Xă Châu Thành mà Quận nào cũng có vấn đề. Hơn nữa, nơi đây c̣n có Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4, Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 4, Phi Trường Trà Nóc, Phi Trường Cần Thơ, Bộ Chỉ Huy 4 Tiếp Vận và hàng chục đơn vị Quân Đội trú đóng rải rác khắp trong Tỉnh lỵ, tuy các đơn vị này đều có Pḥng An Ninh hoặc Sĩ Quan AN đơn vị phụ trách về an ninh nội bộ, tuy nhiên về mặt an ninh lănh thổ th́ cơ quan chúng tôi phải phụ trách với sự trợ giúp của Sở 4 An Ninh. Về phần VC th́ họ tập trung mọi nỗ lực đánh phá về quân sự, một mặt họ tận dụng mọi cơ hội, bằng mọi cách, dưới mọi h́nh thức để đưa người của họ xâm nhập làm lũng đoạn hàng ngũ các cơ quan đầu năo của ta, một nơi được mệnh danh là Thủ Đô Miền Tây. Nói về các cán bộ T́nh Báo CS, theo tôi nhận xét th́ những cán bộ cấp dưới th́ có vẻ rất mù mờ, khờ khạo nhưng những cấp trên của chúng th́ rất tinh khôn, quỹ quyệt v́ một số họ có sang học về t́nh báo ở các nước CS như Liên Sô, Đông Đức chẳng hạn, cũng như chúng tôi được gửi đi du học ở Okinawa (Nhật Bản), Mă Lai hay ở Hoa Kỳ vậy.

Đảm nhận trọng trách rất nặng nề này, tôi thấy cần phải có một phụ tá đắc lực để đương đầu với địch, cho nên tôi đề nghị và được thượng cấp chấp thuận cho thuyên chuyển Thiếu Tá Lương Bông về với tôi, v́ Thiếu Tá Bông rất có năng khiếu về T́nh Báo, Phản T́nh Báo như đă chứng tỏ lúc c̣n ở Sa Đéc. TT Bông quả thật xứng đáng cho tôi tin tưởng và khi về với tôi ở Tỉnh Phong Dinh/Cần Thơ đă chứng tỏ khả năng hoạt động chuyên môn, anh ta đă giúp tôi tiêu diệt và phá vỡ rất nhiều vụ binh vận, đặc công, nội tuyến rất ngoạn mục, bắt giữ nhiều cán bộ địch xâm nhập hàng ngũ ta và đặc biệt anh đă tổ chức đưa người của ta xâm nhập vào hàng ngũ địch chẳng những ở cấp Tỉnh Ủy mà c̣n lên cả BCH Miền của chúng để thu lượm tin tức. Những điệp viên này cung cấp cho ta rất nhiều tin tức rất có giá trị, đến nỗi cơ quan T́nh Báo Quốc Pḥng cũng như T́nh Báo của Toà Tổng Lănh Sự Hoa Kỳ tại Cần Thơ phải đến nhờ tôi phối hợp và chia sẽ những tin tức quư báu cho họ. Nhân tiện đây, tôi cũng xin nói thêm về cái ngành rất là bạc bẽo của chúng tôi, chúng tôi âm thầm chiến đấu với địch, tuy không “dàn binh bố trận”như các đơn vị chiến đấu, nhưng chúng tôi đă dùng trí năo để đối phó với địch, nếu thành công th́ cũng chẳng được nhiều người biết nhưng để thất bại th́ lănh đủ.


Tôi c̣n nhớ hồi ở Sa Đéc, một buổi sáng sớm, Đại Tá Tỉnh Trưởng kêu tôi tháp tùng với Ông đi vào thăm một đồn ở Quận Đức Tôn mà đêm qua bị VC tấn công nặng nề, khi trực thăng đáp xuống sân đồn, một cảnh tượng vô cùng đau thương ở trước mặt chúng tôi, tất cả một Trung Đội hơn 30 người trú đóng trong đồn đều bị VC tiêu diệt, xác người nằm la liệt mọi nơi, chỉ duy nhất có một người c̣n sống sót, nhưng người đó lại là nội tuyến cho địch, lợi dụng lúc canh gác đêm khuya đă mở cửa đồn cho VC vào tàn sát tất cả đồng đội rồi đi theo họ luôn. Vụ này tôi bị “xát xà pḥng”nặng nề, mặc dù trước đây tôi đă khám phá rất nhiều vụ tương tợ nhưng đâu có ai biết đến. Thành ra, nếu ngăn chặn được sự việc đừng để xảy ra th́ ít người biết đến, nhưng nếu v́ lư do ǵ đó mà không ngăn chặn được th́ bị trách cứ là không chu toàn nhiệm vụ.

Sáng ngày 30/4/75, như thường lệ, tôi đến Tiểu Khu để họp mỗi buổi sáng, khi tôi đến pḥng họp th́ thấy các sĩ quan Tham Mưu của Tiểu Khu, thay v́ vào ngồi trong pḥng họp như thường lệ để chờ Đại Tá, Tiểu Khu Trưởng đến chủ tọa th́ họ lại tụm năm, tụm ba ở ngoài hành lang hoặc rải rác trong pḥng họp để x́ xào bàn tán mà tuy tôi không nghe họ bàn luận về việc ǵ nhưng tôi cũng đoán được là họ đang bàn tán về một sự kiện quan trọng vừa xảy ra tối hôm trước. Sau khi tôi đến bắt tay chào hỏi một số người, có người hỏi tôi: Sao nghe anh đi đêm hôm qua rồi? Tôi chỉ cười và đáp lại: Chứ anh đang bắt tay ai đây? Số là 3 giờ sáng đêm 29 rạng ngày 30/4/75, tôi được tin là Bộ Chỉ Huy Hải Quân Vùng 4 đă kéo cả lực lượng này ra đi và có cả Chuẩn Tướng Ch.D.Q. là Tham Mưu Trưởng của Quân Đoàn 4 đi theo, đặc biệt lại có tin đồn (hoàn toàn là tin vịt) là trong nhóm người đi theo Hải Quân c̣n có Đại Tá Tỉnh Trưởng và tôi nữa, do đó mà các Sĩ Quan Tham Mưu Tiểu Khu mới bàn tán như đă nói ở trên. Sau khi họp xong, Đại Tá Tỉnh Trưởng gọi riêng tôi ra gần cột cờ (v́ chỗ này không có ai đứng gần) để bàn chuyện và sau khi thảo luận, chúng tôi đồng ư là với t́nh h́nh này chắc phải ra đi và chúng tôi cũng dự tính là sẽ ra đi tối hôm đó (lúc này vợ và con của tôi c̣n ở bên Sa-Đéc). Trong lúc này, Đại Tá Tỉnh Trưởng cũng ngỏ ư là đang có tin đồn ngoài dân chúng là ông ta và tôi đă ra đi trong đêm vừa qua, nên ông ta yêu cầu tôi đích thân lái xe đưa ông đi một ṿng thành phố để trước là quan sát t́nh h́nh, sau là để trấn an dân chúng là chúng tôi vẫn c̣n có mặt ở đây. Sau khi đi một ṿng thành phố, tôi đưa ông ta đến Ṭa Hành Chánh Tỉnh, c̣n tôi trở về cơ quan. Khi về đến văn pḥng th́ tôi nhận được 2 cái lệnh:

1.- Của Đại Tá S. (cấp chỉ huy trực tiếp của tôi trong ngành) yêu cầu tôi kiểm soát lại tất cả các Đơn Vị Trưởng trong thị trấn xem ai c̣n ở lại và ai đă ra đi .

2.- Lệnh từ Quân Đoàn gọi tôi đến họp gấp, tôi cũng nói thêm là lúc này chưa có lệnh đầu hàng hay buông súng ǵ cả.

Việc thứ nhất tôi giao cho Thiếu Tá Bông thi hành, việc thứ hai tôi lại giao cho Thiếu Tá Th. (một phụ tá đặc biệt khác) đại diện tôi đi họp bên Quân Đoàn, phần tôi cố t́m cách liên lạc với gia đ́nh ở Sa-Đéc để thu xếp qua Cần Thơ cho kịp để ra đi tối hôm đó. Sau đó v́ có lệnh đầu hàng, buông súng bất ngờ nên chúng tôi phải thay đổi lịch tŕnh ra đi vào xế trưa ngày 30/4/75 Chúng tôi gồm có: Đại Tá, Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh/Cần Thơ và phần lớn các sĩ quan ở Tiểu Khu, các công chức bên Ṭa Hành Chánh, một số sĩ quan ở bên Quân Đoàn 4 và nhiều nữa mà lâu quá rồi tôi không nhớ hết, một số lớn trong nhóm di tản này đều đem được gia đ́nh theo, tất cả chúng tôi đều lên một chiếc ghe đ̣ máy để đi dọc theo sông Hậu Giang hướng ra biển và chi tiết về chuyến ra đi này tôi đă có tường thuật khá đầy đủ trong một bài trước đây có liên quan đến bài viết về ngày cuối cùng của Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 4. Trong khi chúng tôi c̣n lênh đênh trên ḍng sông Hậu Giang th́ có ai đó trên ghe bắt nghe được đài phát thanh Cần Thơ, đài này có loan tin là tàu của chúng tôi đă bị bắn ch́m trên đường di tản rồi. Sau này tôi mới kiểm chứng lại th́ được biết sự việc như sau: Số là sau khi chúng tôi rời Cần Thơ th́ Thiếu Tuớng, Tư Lệnh Quân Đoàn 4 đề cử Đại Tá Th. làm Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh/Cần Thơ để thay thế Đại Tá D., sau khi nhậm chức, ông này có đưa ra lời kêu gọi ǵ đó trên đài phát thanh Cần Thơ và cũng trong dịp này, Đài có loan một tin giựt gân (không biết do đâu mà có) là chiếc tàu chở chúng tôi đi trên sông Hậu giang đă bị bắn ch́m chết hết, trong đó đă nêu đích danh Đại Tá D. và cá nhân tôi. Tôi cũng xin nói thêm là, sau khi có lệnh buông súng đầu hàng, tôi có tập hợp các nhân viên trong cơ quan lại, lúc này có một số nhân viên đă bỏ đi về với gia đ́nh, tôi cho biết là với t́nh h́nh này th́ coi như không c̣n ǵ nữa, anh em ai về nhà nấy và tùy hoàn cảnh của mỗi người mà quyết định nên ra đi hay ở lại, nếu ai muốn đi th́ theo tôi để đi, thật ra trong lúc này tôi cũng chưa biết phải ra đi bằng cách nào v́ chúng tôi dự định đến tối hôm đó mới đi nên chưa chuẩn bị kịp ghe tàu ǵ cả. Tôi có hỏi riêng TT Bông có muốn đi hay không th́ anh ta lưỡng lự một hồi rồi trả lời với tôi là với t́nh trạng này anh chưa biết quyết định ra sao, thôi th́ cứ ở lại xem t́nh thế diễn biến như thế nào rồi sẽ tính sau và anh cầu chúc cho tôi và gia đ́nh đi được b́nh an. Tôi nhớ có một số nhân viên, trong lúc hốt hoảng đă đi theo tôi, nhưng khi ghe vừa ra gần đến cửa biển th́ lại t́m cách quay về v́ kẹt gia đ́nh, hơn nữa họ thấy với chiếc ghe cũ kỹ đó th́ khó mà tới nơi tới chốn được và một số khác vẫn theo tôi đến đảo Mă Lai rồi cũng nhớ nhà rồi theo mấy chiếc ghe để trở về, lúc này có một số người chủ ghe muốn trở về nên nhà chức trách Mă Lai đồng ư cho họ trở về VN, cũng nhân dịp này tôi mới nhờ những người quen nhắn lại giùm với gia đ́nh là tôi đă tới nhà chú Mă (Mă Lai) b́nh yên. Khi tôi qua định cư tại Hoa Kỳ, tôi có nghe đồn Thiếu Tá Lương Bông đă tự sát vào chiều ngày 30/4/75 nhưng tôi không rỏ chi tiết như thế nào, măi cho đến mấy năm sau tôi mới được Hạ Sĩ Thân (anh này vừa là cận vệ vừa là tùy phái cho tôi) viết thư kể hết ngọn ngành về cái chết anh hùng của TT Bông như sau (những chữ trong ngoặc là chú thích của tôi):

“Thưa Thầy thân mến, (Anh này thường gọi tôi như thế) Khi đặt bút viết thư này cho Thầy th́ tự nhiên nước mắt của em lưng tṛng, v́ khi nhớ đến Thầy tự nhiên em phải nhớ đến người quá cố, người cao cả ấy không phải ai xa lạ là người kế Thầy đó, Anh Lương Bông ( TT Bông là người rất b́nh dân nên ngoài giờ làm việc các thuộc cấp đều xưng hô anh em với nhau). Cùng một ngày (30/4/75) mà 3 kẻ ra đi, Thầy đi miền đất lạnh, Anh Bông về ḷng đất mẹ c̣n em trở lại xứ nghèo, em xin viết lại ngày quan trọng đó cho Thầy rơ. Lúc 10 giờ30 sáng ngày 30/4/75, sau khi tài xế Như đưa Thầy qua bên Tiểu Khu, nơi cơ quan ḿnh chỉ c̣n lại Anh Bông, Phụng (một nhân viên thân tín khác) và em, ngoài ra không c̣n ai khác. Đến khoảng 11 giờ 30 th́ ông Ấ. (Th/Sĩ này phụ trách trại giam của cơ quan) cùng một vài người trong trại gia binh phía sau lên đập cửa nhà của Thầy (ở cạnh văn pḥng làm việc của tôi) để lấy tất cả đồ đạc, kể cả các đồ vật và mấy thùng rượu mà Thầy mua để chuẩn bị khao lon, chúng tôi chỉ đứng nh́n mà không dám nói ǵ. Độ 15 phút sau, Anh Bông và em cùng chú Phụng vô nhà th́ đồ đạc, máy móc, quần áo v.v.. không c̣n ǵ cả, chỉ c̣n lại rác và những vật dụng không có giá trị nằm tung tóe khắp nhà xen lẫn cùng mấy tấm h́nh của cô và 2 cháu rơi rớt tùm lum. Em và Anh Bông có lượm mấy tấm ảnh cất làm kỷ niệm. Sau đó Anh Bông và em lấy xe của Thầy, chiếc xe jeep có gắn cần câu và hệ thống truyền tin đặc biệt đó, chạy ṿng ṿng thành phố và có chạy ra phía cầu Bắc Cần Thơ, khi đến nơi th́ Bắc đă ngưng chạy, chúng em bèn quay trở về cơ quan. Lúc ấy khoảng 4 giờ chiều, Anh Bông bảo em lo nấu cơm và vào nhà Thầy coi có ǵ trong tủ lạnh để lấy ra nấu, trong nhà Thầy, đồ đạc th́ tiêu hết nhưng thức ăn trong tủ lạnh vẫn c̣n. Sau khi nấu nướng xong, chúng em ăn uống trên đầu xe jeep đậu trong garage, ăn xong hơn 5 giờ chiều, Anh Bông vào pḥng làm việc của Thầy mở máy lạnh và vặn đèn sáng choang cả pḥng, Anh Bông lên ngồi đàng hoàng trên chiếc ghế của Thầy thường ngồi làm việc, lúc đó em c̣n đang dọn dẹp đồ ăn và ngó vào văn pḥng xuyên qua cửa kính th́ thấy Anh Bông đang “hư hoáy” viết ǵ đó, một lát sau tôi lại ḍm vào th́ thấy anh Bông lấy trái lựu đạn MK3 mà Thầy thường để trên kệ để pḥng thân, ra và ôm vào bụng, lúc ấy em sợ quá nên chạy ra nhà xe la lớn lên cầu cứu nhưng lúc này trong cơ quan chẳng c̣n ai, th́ ẦM một tiếng rất lớn, thế là Anh Bông đă ra đi một cách oanh liệt, khi em ôm anh ấy lên th́ đôi mắt c̣n chớp lia và 2 gịng lệ c̣n lăn dài bên má. Em có nhặt tờ giấy mà anh Bông vừa viết khi nảy, thư này cũng bị cháy xém hết một phần, đại khái anh trăn trối lại với chị Bông là anh ấy xin lỗi chị ấy và cho biết là cả cuộc đời đă chiến đấu mà thất bại nay nay không thể sống để nh́n bọn cộng sản huênh hoang chiến thắng hay bắt tù làm nhục ḿnh nên phải t́m cái chết này. Đến sáng hôm sau, em và Phụng khiên anh Bông ra ngoài để nằm ở nhà xe và tắm rửa, thay quần áo cho anh ấy xong, chúng em năn nỉ Tài xế Năm Lùn đưa giùm thi hài anh Bông về Sa-Đéc. Khi tụi này về đến Sa Đéc th́ chị Bông qua Cần Thơ t́m anh Bông v́ chị chưa biết tin anh Bông đă mất, khi được tin này và sau khi xem thư tuyệt mệnh của anh Bông để lại chị ấy ngất xỉu trong văn pḥng của Thầy, lúc ấy đă hoang tàn đổ nát.”

Thưa quư độc giả, khi tôi ngồi viết lại chuyện này tôi tự lấy làm hổ thẹn, xấu hổ v́ gần suốt cuộc đời trong quân ngũ mà không xứng đáng là một cấp chỉ huy, dù là cấp chỉ huy nhỏ trong Quân Đội, nhưng không có ḷng cam đảm ở lại để sống chết với anh em vào lúc đất nước nguy kịch. Anh Bông, nếu linh hồn Anh có linh thiêng, xin tha thứ cho tôi, tôi xin hứa là khi nào tôi được trở về quê hương, tôi sẽ đến trước phần mộ của Anh để đốt nén hương trước là tạ tội sau là lạy Anh 3 lạy để tỏ ḷng kính phục sự cam đảm của Anh.(không biết tôi c̣n sống đến ngày ấy không?).



Nguyễn Thanh Tâm

Ty ANQĐ/ Phong Dinh/Cần Thơ

KBC3252

hoanglan22
09-01-2020, 15:02
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1646396&stc=1&d=1598972502

Tượng Tiếc Thương trước năm 1975 và lúc bị CSVN triệt hạ. (H́nh: svqy.org)


Suốt mấy chục năm trường, Cộng Sản Bắc Việt nung nấu bởi nghĩa vụ quốc tế, với súng đạn của hậu phương XHCN quyết tâm thôn tính miền Nam bằng mọi giá.

Miền Nam vừa lo hạnh phúc cho dân, vừa đoàn kết chống sự xâm lược của miền Bắc và hàng trăm ngh́n chiến sĩ đă nằm xuống cho một miền Nam no ấm, thịnh vượng và giữ được bờ cơi suốt hai mươi năm.

Nhưng không như các dân tộc văn minh khác, như sau cuộc nội chiến tại Hoa Kỳ, khi thất trận những người lính miền Nam phải gánh chịu tất cả sự trả thù đê tiện, hèn hạ của miền Bắc. Họ bị cầm tù, tước đoạt quyền làm người, bị hạ nhục và bị truy sát đến ba đời, ngay cả con cái cũng không sao có thể trở thành một người dân yên b́nh được!

Những ǵ tiêu biểu cho h́nh ảnh người lính miền Nam đều bị tiêu diệt, triệt hạ đến tận cùng, từ trong sách vở, thi ca, đến h́nh ảnh tượng đài đều bị giật sập, băm nát.

Những người Cộng Sản ngày nay chủ trương phá đổ h́nh tượng Lenin, nhưng chừa lại một khoảng tôn kính trong các nghĩa trang quân đội, trong khi chỉ trong ngày đầu tiên vào Sài G̣n, quân Bắc Việt đă chủ trương giật sập tượng đài Tiếc Thương ở Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa, ghi lại h́nh ảnh người lính miền Nam, dù chỉ là h́nh ảnh một người lính đă gác súng.

Trước tiên, với sự hung hăn, hăm hở với cả sự hận thù tàn sát, Cộng Sản đă hành quyết những người thua trận đă đầu hàng, với những vũ khí thô sơ như dao, rựa, mă tấu và với mọi phương cách dă man như thời trung cổ với lối tùng xẻo, dội nước sôi. Cũng không hề khoan nhượng với người chết, quân Bắc Việt đă chủ trương đào mồ những người chết đem ra chợ cho nổ cốt ḿn, và chỉ ba ngày sau khi thắng trận, nhẫn tâm cày nát rồi san bằng nghĩa trang Quân Đội Hạnh Thông Tây, G̣ Vấp!

Quân Bắc Việt muốn xóa hết h́nh tượng của những người lính VNCH trong ḷng nhân dân, bằng thủ đoạn bôi xấu dĩ văng, kỳ thị lư lịch, xếp hạng công dân, đưa quân đội miền Nam vào những nhà tù tập trung ở những nơi rừng thiêng, nước độc trong khi con cái và gia đ́nh được xỉ danh là những gia đ́nh “có nợ máu với nhân dân!”

Họ có thể ḥa hợp với nước Mỹ, đă từng được gọi là “đế quốc xâm lược,” nhưng với người lính VNCH th́ không, Cộng Sản đày đọa những người lính này cho đến tận cùng, từ người sống thất trận lạc loài không c̣n khả năng chiến đấu, đến người tử sĩ nằm trong nghĩa trang, và kỳ thị ngay với những thương binh bất hạnh, què cụt sống bên lề xă hội.

Sau chiến tranh, hài cốt của những người lính Mỹ, “kẻ cựu thù,” được xem như những món “quốc bảo,” dành để mua bán, đổi chác, mặc cả với phía Hoa Kỳ.

Trên đất nước Việt Nam, không thiếu những nghĩa trang đẹp đẽ, được nhang khói chăm sóc tận t́nh. Mỉa mai thay, đó chính là nơi chôn cất quân Trung Cộng xâm lược vào biên giới tổ quốc, ngày nay được Cộng Sản Bắc Việt vinh danh như là những chiến sĩ, anh hùng. Chỉ dọc theo quốc lộ xuyên Việt từ Nam ra Bắc, đă có bao nhiêu nghĩa trang đồ sộ, san sát bia mộ của những “anh hùng, liệt sĩ” sinh Bắc, tử Nam, “đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc!”

Nh́n lại, phía thua trận, hài cốt của “những người anh em,” trong Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa bị phong tỏa, cấm di dời, đổi tên, để dân sự hóa một nghĩa trang quân đội thành một băi đất tha ma dân sự, xóa hết một di tích lịch sử, để đời sau không c̣n ai biết đến nữa!

H́nh ảnh của người lính miền Nam thất trận trong cuộc nội chiến của Hoa Kỳ từ Tháng Tư, 1861, đến Tháng Tư, 1865, là Tổng Thống Liên Minh Miền Nam Jefferson Davis, Tổng Tư Lệnh Liên Minh Robert E. Lee và Tư Lệnh Phó Thomas Jackson, hơn một thế kỷ qua, vẫn c̣n sừng sững trên núi đá Stone Mountain, Georgia; hay hài cốt của 30,000 binh sĩ thất trận của miền Nam vẫn c̣n nằm chung với người thắng trong Confederate Section của Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington của một đất nước Hoa Kỳ bao dung và vĩ đại!

Nhưng những người lính miền Nam thua trận trong cuộc chiến kéo dài 20 năm th́ không!

Từ một quân đội hùng mạnh đứng hàng thứ tư thế giới, phải chăng những người lính miền Nam ngày nay là những người lính bị quên lăng.

Tháng Ba lại về! Tháng Ba của những trận lui binh máu đổ, cát biển miền Trung thấm máu người. “Tháng Ba Găy Súng” của những người lính can trường không khuất phục được cả một số mệnh đất nước, chết trong lăng quên, sống trong lưu lạc. Tháng Ba, ai c̣n thắp một nén hương cho những người lính đă một thời xả thân để giữ vững miền Nam.

Nhưng ngày nay, qua thời gian, h́nh ảnh người lính bị tước vũ khí, ngậm ngùi trước số phận của đất nước, tuy bị lăng mạ, xuyên tạc, chôn vùi bởi thế lực của kẻ cầm quyền, nhưng chưa bao giờ hết, qua cuộc biển dâu, qua thời gian gạn lọc vàng thau, h́nh ảnh người lính của miền Nam vẫn sống trong ḷng dân tộc, như là biểu tượng của ḷng dũng cảm của người trai giữ nước. Đó là những bia mộ muôn đời hiện hữu trong ḷng người, mà không phải ai cũng có được!

Từ hơn bốn mươi năm nay, những người Việt Nam tị nạn Cộng Sản, bỏ quê hương ra đi, có mặt trên những vùng đất tự do của thế giới, đă mang theo hồn nước và quê hương, trong đó có h́nh ảnh của người lính VNCH. Do đó nhiều tượng đài khắc ghi h́nh ảnh người lính đă được xây dựng, biểu tượng của ḷng biết ơn cũng như là nơi thờ tự thiêng liêng của người Việt lưu vong.

Mỗi người Việt lưu vong, mỗi đứa trẻ nước Việt lớn lên sẽ phải hiểu người lính miền Nam là ai, đă sống và chiến đấu cho ai, trong một hoàn cảnh nghiệt ngă nào đă phải ngậm ngùi thua trận.

Có những thứ chúng ta nghĩ rằng nó đă chết, hay bị người ta vùi dập, t́m cách chôn nó đi, mà nó vẫn c̣n sống!

Xin đốt một nén hương ḷng cho anh linh những người lính miền Nam, nhân ngày lui binh ngày này của Tháng Ba, bốn mươi lăm năm về trước!
(Huy Phương)

hoanglan22
09-02-2020, 03:19
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1646670&stc=1&d=1599016663

Sau Hiệp Định Paris vào Tháng 1/1973 Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà sút giảm về vấn đề tiếp vận. Các đơn vị tác chiến khá vất vả về khả năng yểm trợ từ đạn dược, xe cộ đến quân lương. Tuy vậy suốt hai năm sau, Sư Đoàn 2 Bộ Binh trách nhiệm tại khu vực cực Nam của Quân Khu 1 vẫn chơi sang như thường. Cứ xem lính của ba trung đoàn bộ binh và một liên đoàn biệt động quân luân phiên trấn đóng Sa Huỳnh th́ rơ. Đó là vùng đồi núi sát biển ôm Quốc Lộ 1, Đức Phổ (Quảng Ngăi), cách Tam Quan (B́nh Định) chừng 15 cây số ngăn bởi Đèo B́nh Đê với cao độ không quá 100 m. Vắng những tà áo trắng bên ḍng sông Lại Giang, Bồng Sơn xa xa đây th́ có khác chi những tiền đồn heo hút biên pḥng.

Về hướng Tây Sa Huỳnh, Núi Sang là dăy thứ hai trải dài 9 km rộng 5 km theo hướng Bắc Nam. Một vị trí quan trọng là Đồi 415 (tọa độ 880227) cách Quốc Lộ 1 chừng 4 km. Trong ṿng vài năm trước Tháng 4/1975, một nửa lính của Sư Đoàn 2 Quyết Thắng từng ngủ trên cao điểm này một tháng. Thông thường chỉ có cấp bậc từ trung úy trở xuống. Quư thẩm quyền, đại bàng cao hơn khó có dịp tới đây để ngắm sương rơi buổi sáng, hay nghe sóng vỗ dạt dào từ mé biển thổi vào. Bốn cây số, mang danh bộ binh nhưng không thích đi bộ, chỉ thích nhảy xuống hay bốc về bằng trực thăng. Vui nhất là mỗi lần chuyển quân họ được đón chào bằng những tràng đại bác loại nặng từ vùng An Lăo - Ba Tơ.

Sư Đoàn 2 Bộ Binh nổi danh là một đơn vị hắc ám. Vùng hành quân miền núi đầy gai góc, khô cằn, khu vực gần biển th́ đất vừa đỏ vừa đen, nắng cháy, băo cát mù trời. Ngoài các quân nhân t́nh nguyện tại miền hỏa tuyến, nơi đây tiếp nhận tất cả những ai phải tŕnh diện đơn vị mới, đủ mọi binh chủng, hạng dở từ các quân trường, ngoại trừ lực lượng đặc biệt hoặc lao công đào binh. Đă lên Đồi 415 th́ chẳng tay giang hồ nào dám lội bộ rời đơn vị để xuống làng về phố. Đại đội pḥng thủ trang bị gấp hai về cấp số đạn dược, kho gạo và nước uống dự pḥng đến ba kỳ tiếp tế được cất giữ trong các hầm đá ở trung tâm. Ban ngày, thường có vài toán nhỏ bung rộng tuần thám quanh đồi không ngoài cây số rưỡi.

Một tiểu đoàn chủ lực trải ṿng trên các cao điểm 415, 274, 203, Núi Bàu Nú và thung lũng ven con đường chỉ đỏ buồn hiu. Đồi 415 cao hơn tất cả các đỉnh trong ṿng yểm trợ của pháo binh, là tiền đồn nhằm "Quyết Tâm Bảo Vệ Sa Huỳnh". Đây là một đồi trọc, chóp dễ nhận với nhiều tảng đá to, chung quanh cây cỏ không quá thắt lưng. Kinh nghiệm cho biết hễ chỗ nào có đất là có nước, sâu lắm là khoảng vài chục thước thấp hơn. Về phía Đông Bắc, từ đỉnh đổ dốc chừng 500 m có một khe suối nhỏ. Mùa hè có thể hứng một nón sắt nước trong ṿng một phút. Tính ra luân phiên trong ngày đủ cung cấp cho mỗi người được 4 xô để vừa tắm, vừa giặt, nấu nướng, đổ vào bidong, và mang lên đồi dự trữ.

Xuyên qua một thông thủy rậm rạp, dốc đứng, mặc dù cách Đồi 274 chừng 2.4 km nơi mà bộ chỉ huy tiểu đoàn pḥng thủ với 2 đại đội. Đồi 415 trong trường hợp bị tấn công chỉ có cách là đánh tới cùng, tử thủ. Vào năm 1974, khi màn đêm bao phủ th́ phía Tây có hằng chục ánh đèn pha xe molotova cứ ẩn hiện lập lờ di chuyển trong đám cây rừng. Tuy vậy, nương theo chiến thắng Sa Huỳnh 73 trước đó, lính tráng trên Đồi 415 vẫn thư thả bên các hốc đá với những ca cafe nóng hổi. Nơi đây không có đồi sim tím, cũng chẳng ai hái hoa bỏ đầy ba lô, nhưng trong ḷng mỗi người lính chiến chỉ mong sao đất nước có hoà b́nh. Rốt cuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh hoàn toàn thua trận, và niềm mơ ước đó đă đi vào hư không.

Bichson

hoanglan22
09-05-2020, 18:37
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1648623&stc=1&d=1599330993

Liên Đoàn 2 BĐQ (sau đổi tên thành LĐ23/BĐQ) gồm 3 TĐ, theo lẽ th́ có số thứ tự là 21, 22, và 23. Nhưng do TĐ11 tham dự cuộc Biến Loạn Miền Trung năm 1966 nên được thuyên chuyển từ Đà Nẵng lên Pleiku và hoán đổi với TĐ 21. Do vậy LĐ 2 gồm TĐ 11, 22 và 23. Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đóng ở Biển Hồ Pleiku, trên một khu đất khá bằng phẳng gần Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II với 2 Tiểu Đoàn 22 và 23, riêng TĐ 11 th́ đóng biệt lập trên phần đất cao hơn và nằm đối diện với Liên đoàn qua Tỉnh Lộ.


Có lẽ v́ đóng riêng biệt như vậy nên TĐ 11 hầu như hoạt động độc lập nhiều hơn hai tiểu đoàn bạn. Sau khi các Trại Biên Pḥng của CIDG cải tuyển qua BĐQ hoàn tất vào tháng 12 năm 1970 th́ các tiểu đoàn này có một chương tŕnh huấn luyện bổ túc toàn đơn vị ở Trung Tâm Huấn Luyện BĐQ Dục Mỹ. Trong thời gian đi thụ huấn ở đây, trại được giao lại cho một đơn vị BĐQ khác. Liên Đoàn II/BĐQ là Liên Đoàn Tiếp Ứng hay Liên Đoàn Trừ Bị Vùng, nhưng cũng chỉ có 2 Tiểu Đoàn 22 và 23 là có nhiệm vụ hoán chuyển cho các Tiểu Đoàn Biên Pḥng đi Dục Mỹ “hấp” thôi. C̣n TĐ 11 đảm nhiệm vai tṛ một đơn vị lưu động, hết tăng cường cho Trung Đoàn 42 BB lại biệt phái cho Tiểu Khu Kontum, Phú Bổn, thậm chí cho cả các Chi Khu nữa.

Cuối tháng 11-1971, TĐ 11 BĐQ được lệnh tiếp viện cho trại Polei Kleng (TĐ72 BĐQ Biên Pḥng) ở phía Tây Nam Kontum. Nhờ B52 rải thảm trúng Trung Đoàn 95B, thuộc sư Đoàn 320 Thép của CS nên bọn chúng đại bại.

Cũng từ thời gian này chiến trận bắt đầu leo thang trên khắp 4 Vùng Chiến Thuật. Dĩ nhiên với t́nh h́nh đó th́ TĐ11 BĐQ bị hành quân liên miên là chuyện tự nhiên. Từ Polei Kleng, tiểu đoàn được trực thăng bốc thẳng về Kontum tăng phái cho Trung Đoàn 42 BB. Nơi đây, họ đưa tiểu đoàn lên phía Bắc Kontum để thám sát t́nh h́nh quanh khu vực Tân Cảnh, phi trường Phượng Hoàng. Trinh Sát của Tiểu Đoàn khám phá rất nhiều đoạn đường, ở những điạ thế ngặt nghèo, được làm rất công phu. Chúng bắc cầu qua những chỗ trũng hoặc suối bằng những cây rừng loại lớn cả người ôm. Qua những tin tức ghi nhận được, chúng xử dụng xe be của dân khai thác lâm sản làm những đoạn đường này, và cố né tránh đụng độ với Tiểu Đoàn chúng tôi. Báo cáo về Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn th́ họ không tin là Cộng Sản Bắc Việt đang có dự mưu ǵ với Kontum, bởi lẽ sau Tết Âm Lịch t́nh h́nh chiến sự có vẻ “êm” hơn b́nh thường. Báo về Liên Đoàn th́ nơi đây cũng chỉ ghi nhận để báo lại lên trên.

Nói chung, ngay từ đầu năm 1972, các tin tức t́nh báo đă ghi nhận được những biến chuyển của cuộc chiến kể cả các do đơn vị trinh sát cuả Tiểu Đoàn thu nhận được. V́ bọn CSBV đă làm những con đường khuất dưới những tàng cây rậm rạp của những cánh rừng già bạt ngàn trên cao nguyên, nên những báo cáo chúng tôi gởi về không làm sao ăn khớp được với không ảnh do Không Quân của cả Mỹ lẫn Việt chụp, thậm chí chúng tôi c̣n bị nghi ngờ là cung cấp tin tức giả mạo.

Ngay sau khi hết giai đoạn tăng phái cho Trung Đoàn 42 BB, TĐ11 cũng chẳng phải đi đâu xa, v́ đă nhận lệnh tăng phái cho Tiểu Khu Kontum và được quân vân xa chở thẳng đến địa điểm mới bên kia sông Dakbla, hướng Đông Kontum. Đó là một làng Thượng có tên Việt là Ngọc Hồi.

Làng khá sạch sẽ và ngăn nắp với một Nhà Rông rộng lớn, mái cao nhọn lợp tranh, ngay giữa làng. Chỉ cần thấy cái Nhà Rông này là biết ngay đây là một bản làng người Thượng, vẫn có thói quen xử dụng nước suối trong sinh hoạt. V́ thế, dù trong ấp có một giếng nước lại có cả máy bơm tay nữa nhưng họ vẫn hàng ngày kéo nhau ra sông Dakbla tắm rửa và lấy nước. V́ làng nằm cạnh bờ sông nên việc lấy nước cũng dễ dàng. (Chẳng hiểu sao lại gọi là sông, thực ra nó chỉ là 1 con suối hơi lớn bề ngang chừng hơn 10 mét. Dân xe be đă ủi một đoạn hơi lài 2 bên để xe có thể băng ngang suối.)

Chúng tôi cũng thích ra sông tắm, để vui đùa dưới làn nước trong mát hầu quên đi những ưu tư của cuộc chiến. Dù cùng tấm trên một ḍng sông, nhưng các thiếu nữ Thượng không bao giờ tắm chung, không chỉ với chúng tôi mà ngay với nam giới Thượng cũng thế. Họ luôn đi lên thượng nguồn lấy nước và tắm ở phía đó. Ngắm những thiếu nữ Thượng tắm cũng là một thú vui của đám lính Kinh. Họ hồn nhiên 100% dưới làn nước. Dù biết có người đang nh́n họ cũng vẫn thoải mái, không mắc cỡ. Họ cũng không cho rằng nh́n như vậy như vậy là thiếu lễ độ. Nhưng những thiếu nữ đă có chồng th́ họ mặc váy để tắm, và nếu có con th́ họ che cả ngực khi biết có người nh́n(?). Trai Thượng không tham gia với đám lính người Kinh, nhưng họ cũng chẳng phản đối ǵ.

Bọn VC thường từ phía này bắn cối và rocket vô phi trường Kontum. Anh em Địa Phương Quân vô vùng là bị phục kích, và dĩ nhiên “dữ nhiều lành ít”. Ngay ngày đầu tiên những toán lục soát của các đại đội đă gom về được một mớ rocket 122 mm được VC cài để tự khai hoả. Chính v́ vậy dù pháo binh lấy điểm chính xác để chống pháo kích th́ cũng chẳng ăn thua ǵ v́ chúng đă rút ngay sau khi đặt. Vả lại với phương pháp đó th́ không sao có thể biết chúng đang ở đâu v́ chúng đặt khắp mọi nơi. Tầm hoạt động của cối và rocket 122 mm của VC th́ khá gần, do vậy việc khoanh vùng để t́m và diệt không khó. Sau một tuần lễ t́nh h́nh trở lại b́nh thường, phi trường không c̣n bị pháo kích nữa.

Điều đặc biệt hơn cả là Tiểu Đoàn lùng xục khắp một vùng rộng lớn như vậy nhưng lại không chám trán, không đụng trận nào với VC cả, cứ như là ngửi hơi cọp lũ chó rừng trốn mất tăm mất dạng, vô t́nh chúng tôi được một dịp tốt hiếm hoi để dưỡng quân. Sau đó cả tháng trời, mặt trận phía Bắc và Tây Kontum đang lần hồi sôi động đến độ phải điều động cả Lữ Đoàn 2 Dù từ trong Nam ra tăng cường cho mặt trận Kontum th́ Tiểu Đoàn chúng tôi vẫn như “ngồi chơi sơi nước”.

Được trả về Liên Đoàn, một lần nữa chúng tôi lại bàn giao chiến địa cho anh em Địa Phương Quân. Cũng một lần nữa, chúng tôi lại tách rời Liên Đoàn để nhận nhiệm vụ tăng phái cho Lữ Đoàn 2 Dù. Quân số của Tiểu Đoàn chúng tôi khi đó khoảng 670 người. Đây là một con số rất lớn, bởi sau này khi t́nh h́nh chiến sự khốc liệt việc bổ xung quân số không c̣n đầy đủ và nhanh chóng nữa th́ Tiểu Đoàn có khi chỉ c̣n hơn 400 người thôi (!)

Lữ Đoàn 2 Dù giao chúng tôi nhiệm vụ giữ an ninh pḥng thủ căn cứ, chỉ phái một hai Đại Đội đi “làm ăn bên ngoài”. Khi đó, Lữ Đoàn Dù bố trí “các con” của họ tại những căn cứ theo h́nh cánh cung, trải dài trên 10km, từ dưới Căn Cứ 6 của Trung Đoàn 42 BB tới khoảng giữa trại Polei Kleng và Vơ Định. Đại Đội 4 BĐQ của Trung Úy Trần Cao Chánh được phái ra ngoài căn cứ hoạt động trong khu vực giữa 2 căn cứ Charlie và Delta (TĐ 11 Dù và TĐ 2 Dù) và ở về hướng đông của 2 căn cứ này. Họ đă được pháo binh Dù yểm trợ chính xác, nhanh chóng, hiệu quả với số lượng lớn, khi được yêu cầu.

Cần nói thêm là khi ra ngoài hoạt động Đại Đội này liên lạc thẳng tần số nội bộ trực thuộc điều động và báo cáo với Ban 3 Lữ Đoàn 2 Dù, khi đó Quyền Trưởng Ban 3 là Đại úy Nguyễn ngọc Nhi, khóa 20 Vơ Bị

Đầu tháng Tư địch tăng cường từ hướng Tây, pháo kích dữ dội vào các căn cứ Dù. Chúng dùng đủ loại pháo binh, kể cả 130 ly, có tầm bắn tới 30km trong khi pháo binh 155 ly của ta chỉ khoảng 15km. Rơ ràng chúng có nhiều ưu thế hơn ta. Cách duy nhất để “khóa mơm” bọn này là dùng máy bay. Nhưng không phải khi nào các đơn vị của ta cũng có thể điều động máy bay vào vùng, nhất là khi thời tiết xấu. Thêm nữa địch đặt pháo ngay biên giới, khi xong bọn chúng lại kéo đại bác qua biên giới. Tong khi đó, chúng ta không thể ném bom vào đất bạn được, v́ mỗi lần như vậy họ lại kiện cáo lung tung với Toán Liên Hợp Bốn Bên.

Đêm 11 rạng 12 Tháng Tư, qua tần số nội bộ của Dù, Tr/Úy Chánh biết rằng Charlie đă bị pháo kích nặng nề, Trung Tá Nguyễn Đ́nh Bảo đă tử trận. (Căn cứ chính của BCH/TĐ với TĐ Trưởng Nguyễn Đ́nh Bảo và TĐ Phó, Thiếu Tá Mễ lại là C2, c̣n C tên chính thức trên phóng đồ là do Đại Đội 111 đóng).

Sau 17 ngày hành quân riêng lẻ, Đại Đội 4 của Tr/Úy Chánh lại được trả về Tiểu Đoàn, chuẩn bị hoán đổi cho 1 Tiểu Đoàn Dù nhận nhiệm vụ khác.

Sáng ngày 19 -4-1972, Tiểu Đoàn 11 BĐQ được lệnh sẵn sàng “trực thăng vận”. Tôi tháp tùng Thiếu Tá Ngô Văn Mai-Tiểu Đoàn Trưởng, và Trung Úy Phan Văn Hải-Trưởng Ban 3, đến BCH Lữ Đoàn 2 Dù ở Căn Cứ Lam Sơn gần Vơ Định để nhận Lệnh Hành Quân, Phóng Đồ và Đặc Lệnh Truyền Tin. Thiếu Tá Mai và Đại Úy Hải vô họp, c̣n tôi qua bên Ban Truyền Tin. Tiếp tôi là một ông Thượng Sĩ, dáng hơi lùn, hơi mập, người Bắc tên Thập. Ông ta đôi điều ba chuyện cho tôi biết là t́nh h́nh rất “găng”. Khi trao Đặc Lệnh Truyền Tin cho tôi, ông dặn đi dặn lại về chuyện bảo mật khiến tôi phải ph́ cười. Tôi đă trả lời ông rằng chuyện bảo mật tuy không phải là vô ích, nhưng không hoàn toàn an toàn như ḿnh mong đợi.

Ngay buổi chiều hôm đó, trực thăng đă bốc Tiểu Đoàn 11 BĐQ vào vùng để hoán đổi với Tiểu Đoàn 2 Dù tại căn cứ Delta. Đây là ngọn đồi cao nhất trong dăy núi nằm ở Tây Bắc thị xă Kontum, phía Nam căn cứ Tân Cảnh. Trên bản đồ, cao độ của đồi là 1,049 m, c̣n trong thực thế chỉ cao hơn mặt đất khoảng 250 – 300m. Điạ điểm rất thuận lợi cho viêc đóng quân v́ với cao độ như vậy địch rất khó trèo lên tấn công, xe tăng địch cũng không thể lên tới được. Nhưng điạ điểm này cũng là vị trí “hứng pháo thoải mái” v́ địch có thể chiêm ngưỡng tác phẩm của ḿnh khi bắn đi và sau đó điều chỉnh cho chính xác đến độ từng mét được!

Quả thật, trực thăng vừa đổ toán của tôi xuống đă vội cất cánh ngay, trong khi những người lính Dù đang ở trong những giao thông hào chờ chuyển quân vội ngoắc chúng tôi nhảy xuống hoặc chui vào hầm ngay. Tôi vừa vào được một căn hầm th́ mặt đất rung rinh bởi những tiếng ầm ầm, v́ bọn VC thấy trực thăng chuyển quân đến nên chúng pháo “chào mừng”. (Thật quá lịch sự!) Tiếc thay đây lại là tṛ chơi dại dột thiếu tính toán bởi lẽ trên đầu chúng c̣n 1 chiếc OV10 đang lặng lẽ bay ḷng ṿng quan sát và thêm 4 chiếc Cobra như những chú cá mập đang bay quanh đội h́nh chuyển quân của những chiếc UH1B. Khi phát giác thấy những điểm đặt súng của địch, 4 chiếc Cobra vội quay đầu vào mục tiêu rồi chúi mũi rót rocket vô. Các trái đạn được phóng đi từ 4 chiếc trực thăng nổ ṛn ră trên mục tiêu, khóa họng những khẩu pháo hỗn xược và chắc cũng tiễn đưa bọn pháo thủ ngu xuẩn xuống địa ngục để đền tội ác!

Sau loạt pháo “chào mừng” Tiểu Đoán 11 BĐQ hoán đổi nhiệm vụ với Tiểu Đoàn 2 Dù, t́nh h́nh trở lại yên tĩnh cho đến tối. Khi những toán Dù cuối cùng rời khỏi trận địa th́ không một tiếng hoả tiễn nào dám bắn lên Delta nữa.

Ngày 14 Tháng Tư, 9 “box” B52 đến san bằng Charlie.

Theo báo chí VC và những thông tin địa phương th́ ngày nay, hầu như từ người tài xế xe ôm, tài xế xe lam cho tới người bán hàng rong ở Kontum nếu được hỏi ai cũng sẵn sàng chỉ cho biết Charlie ở đâu. Họ sẵn sàng đưa du khách đi thăm cứ địa nổi tiếng một thời đó. Dĩ nhiên nơi đó cũng có một đài “Tổ Quốc Ghi Công” để vô t́nh xác nhận với hậu thế rằng VC cũng đổ rất nhiều xương máu nơi chiến địa này, mặc dù chúng luôn t́m cách lấp liếm những thương vong trong cuộc chiến. Nhưng theo tôi, chính những chiến công oai hùng của TĐ 11 Dù, với sự hy sinh của Trung Tá Nguyễn Đ́nh Bảo, sau này được Nhạc Sĩ Trần Thiện Thanh viết thành ca khúc Người Ở Lại Charlie nổi tiếng, mới khiến mọi người chú ư để trở thành điểm thu hút khách du lịch, chứ không ai rảnh đâu để đến thăm trận địa có VC chết!

Cần nói thêm về những căn cứ hỏa lực của Dù, tâm điểm là ngọn đồi Charlie. Đây chỉ là tên gọi trên Phóng Đồ Hành Quân của Lữ Đoàn 2 Dù c̣n thực ra đồi này không có tên, nếu có chỉ là những ṿng cao độ. Charlie là một cứ điểm cũ của Quân Đội Hoa Kỳ để lại, trên bản đồ cao khoảng 900m so với mực nước biển, nhưng trên thực tế chỉ cao chừng 150m so với chung quanh, cách Quốc Lộ 14 khoảng 10km về hướng Tây, cách biên giới Việt-Miên chừng hơn 30km, nơi có nhiều nhánh rẽ của đường ṃn chiến lược Hồ chí Minh.

Để đề pḥng Cộng quân Bắc Việt xâm nhập Kontum, Quân Đội Hoa Kỳ đă thiết lập hệ thống pḥng thủ quy mô tạo nên một vành đai chắn ngang từ Benhet tới Polei Kleng. Sau đó 3 căn cứ CIDG là Benhet, Dakto, Polei Kleng của Hoa Kỳ trên vành đai này đă là nơi đóng quân của những tiểu đoàn BĐQ Biên Pḥng. Hai căn cứ khác được giao cho Trung Đoàn 42 Bộ Binh là Căn Cứ 5 và Căn Cứ 6 ở về phía Tây Nam Tân Cảnh, khoảng giữa đoạn đường từ Tân Cảnh về Vơ Định, nơi đặt Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Đoàn 22 BB. Một loạt những căn cứ cũ bị bỏ hoang từ trước đó nay được Dù khôi phục lại để phục vụ cho cuộc hành quân này. Chúng ta có thể kể đến Yankee (Y), Charlie (C), Delta (D), Hotel (H).

Trong cuộc hành quân, ngoài Tiểu Đoàn Pháo Binh đặt tại Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn ở căn cứ Lam Sơn gần Vơ Định, Dù c̣n thêm một căn cứ hỏa lực pháo binh nữa là Yankee có cả pháo binh 155 ly. Charlie cách Delta khoảng 5km. Căn cứ Hotel hay Hồng Hà nằm ngay sau Delta và thông nhau bằng một yên ngựa khá phẳng dài chừng hơn 1km. Hotel có mặt sau là một vách núi cao án ngữ phía Tây nên không bị pháo VC rót tới. Nó cũng chỉ là khoảng đất bằng phẳng dài chừng vài ba trăm mét với phiá Đông là thung lũng sâu ngút ngàn.

Nói về Chalie người người chỉ nghĩ đến đó là một địa điểm. Ngay cả nhà văn Phan Nhật Nam khi nói về Charlie cũng chỉ mô tả như “One point on the map” (Charlie hay Cải Cách). Thực ra, căn cứ chính tức điểm trên phóng đồ là C lại do Đại Đội 111 của Tiểu Đoàn 11 Dù trấn giữ, c̣n BCH TĐ 11 Dù lại ở một vị trí khác mang tên C2 cách đó khoảng hơn nửa km về phía Nam. Cũng thế họ đă bố trí lực lượng thành nhiều cứ điểm chung quanh, mỗi cứ điểm là 1 Đại Đội. Cách bố trí như vậy có lợi v́ có thể pḥng thủ và hoạt động trên một phạm vi rộng hơn, đồng thời tránh được địch tập trung pháo kích. Chiến thuật đem những Tiểu Đoàn Dù chiến đấu tinh nhuệ ra lập căn cứ, giữ chốt quả thật khó hiểu, giờ lại tới phiên Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân, một đơn vị cơ động tinh nhuệ của BĐQ Vùng 2 bị trói chân trên một sườn đồi.

Căn cứ Delta có lẽ do Công Binh Dù mới xây dựng nên vẫn c̣n mùi đất mới chứ không phải mùi ẩm thấp. Giữa đồi là những căn hầm kiên cố của Bộ Chỉ Huy và các ban. Có tất cả 5 căn hầm lớn và rất nhiều hầm nhỏ được nối với nhau bằng hệ thống giao thông hào chằng chịt sâu chừng một mét. Ngoài những hầm dùng cho người ở, họ c̣n thiết lập thêm những hầm làm kho dự trữ lương thực và nước uống. Có khá nhiều gạo xấy, thịt hộp được Tiểu Đoàn 2 Dù bàn giao lại cho chúng tôi, chưa kể khoảng 500 ống bằng đạn 155 ly đựng nước uống.

Đồi Delta này khá hẹp nên ngoài BCH Tiểu Đoàn chỉ có thể bố trí Đại Đội 1 của Trung Úy Nguyễn Hùng ở chung. Đại Đội 3 của Thiếu Úy Bùi Đăng Thủy được trấn giữ căn cứ Hotel, lo việc tiếp tế và tải thương. Đại Đội 2 của Trung Úy Huỳnh Trọng Hà và Đại Đội 4 của Trung Úy Trần Cao Chánh được bố trí về hướng Bắc trên 1 b́nh nguyên tương đối thoai thoải và thấp hơn, mà trên phóng đồ ghi là D2, D3.

Thời gian đóng quân ở Delta chừng hơn một tuần lễ. Ngày ngày chúng tôi “ăn” hàng trăm trái pháo đủ loại, thỉnh thoảng “đón tiếp” địch leo từ những triền đồi hướng Bắc lên tấn công. Bọn chúng chọn hướng này v́ có sườn đồi tương đối thoai thoải lại thêm có ít cây cối c̣n sót lại, dễ ẩn nấp và bám sát. Nhưng đây lại là mồ chôn bọn chúng, v́ chung quanh khu vực này là những hàng rào ḿn Claymore mà Tiểu Đoàn 2 Dù gài sẵn và để lại, với những “con cóc ḿn” được để tập trung tại các ụ súng trong giao thông hào. Với kinh nghiệm tác chiến có thừa, nhất là các hạ sĩ quan kỳ cựu, các binh sĩ cứ thư thả để địch vào hẳn khu vực hiệu quả rồi bấm “con cóc”. Quả nhiên, khi bọn chúng vào hẳn tầm sát thương th́ từng trái “claymore” ṛn ră nổ, đă tiễn đưa đám bộ đội vô thần qua bên kia thế giới.

Nhiều ngày như vậy không ăn thua ǵ, bọn Cộng quân bỏ hẳn không dám tấn công bằng đặc công hoặc bộ đội nữa, chúng quay lại bài bản cũ tiếp tục tăng cường pháo kích. Không hiểu chúng được tiếp tế bằng cách nào mà hàng ngày chúng rót cả mấy trăm trái pháo đủ loại lên đồi. Qua khai thác tù binh, chúng tôi chỉ biết đạn dược được vận chuyển gần như hoàn toàn bằng sức người gọi là dân công, mỗi người mang được tối đa 4-5 trái cối 61 ly hoặc 2 trái cối 82 ly trong những chiếc gùi cơng trên lưng. Với những loại đạn pháo lớn như 130 ly hoặc hỏa tiễn 122 ly th́ không hiểu chúng làm cách nào vận chuyển được mà lại có số lượng nhiều đến như vậy?

Sau này, ngă ngũ ra tôi mới biết rơ tất cả đạn dược đều được Kampuchia bí mật vận chuyển từ Trung Cộng về qua cảng Sihanoukville, rồi từ đó giao lại cho Cục R vận chuyển công khai trên đất Miên tới biên giới. Đám dân công chỉ là cái b́nh phong che mắt để lấy tiếng với quốc tế!

Ngày thứ 5 tính từ khi nhảy vào Delta, tức ngày 23 Tháng Tư năm 1972, hầm tôi lănh nguyên một trái 122 ly loại xuyên phá. Cũng may trái đạn chỉ đánh xập cửa hầm, c̣n mấy trái khác lại nổ ngay trên nóc hầm. Tuy tôi thoát chết nhưng binh sĩ dưới quyền th́ 1 tử thương 4 bị thương nặng. Sau khi băng bó xong tôi cho tản thương họ qua căn cứ Hotel phía sau để chờ trực thăng đưa ra. Vậy là tôi c̣n trơ trọi một ḿnh! Do hầm quá tối và hơi ngộp nên những binh sĩ dưới quyền thường kéo nhau ra cửa hầm ngồi cho thoáng. Chính v́ thế nên định mệnh chiếu cố tới!

Sau lúc cửa hầm tôi bị bắn xập th́ đến hầm của Thượng Sĩ Đương cũng bị xuyên lủng. Không chỉ Th/S Đương mà c̣n thêm 3 y tá nữa cũng đi theo ông! Một trái 122 ly oan nghiệt xuyên phá ngay giữa hầm và nổ ngay bên trong. Trong hầm của tôi, v́ là hầm Truyền Tin nên lúc nào cũng dự trữ sẵn vài máy PRC 25 để pḥng thay thế. Cũng rất may là anh em Dù đă để lại cả kho nên tôi có đủ pin dự trữ. Nhưng tôi không dám dùng pin mới để thắp đèn, mà tận dụng những cục cũ để thắp một bóng 6 volt cho đỡ tối. Bên BCH th́ được dùng thoải mái pin mới để thắp bóng 12 volt, đủ ánh sáng mà làm việc.

Cho đến giờ phút này th́ Cộng quân không dám tấn công lên nữa, nhưng chúng lại pháo kích ác liệt hơn bằng những loại pháo hạng nặng như 130 ly và hỏa tiễn xuyên phá 122 ly. Số thương vong ngày càng lớn, nhất là phía 3 Đại Đội v́ hầm hố không đủ kiên cố, phía BCH Tiểu Đoàn th́ Trung Đội Vũ Khí Nặng của Thượng Sĩ Hóa cũng chỉ c̣n mấy người. Tôi nhớ khá rơ quân số của Tiểu Đoàn khi vào vùng là 647 người nhưng đến ngày rời Delta chỉ c̣n hơn 300! Hơn 300 chiến binh đă “giă từ vũ khí” trong chỉ hơn 1 tuần lễ ngắn ngủi “trấn thủ lưu đồn” lăng nhách!

Thực ra với cái đồi đó không cần phải mang một đại đội đến trấn thủ. Một trung đội cũng đă quá nhiều bởi lẽ chỉ có hướng Bắc là địch có thể leo lên, mà cho dù có leo lên được th́ cũng không thể mang nhiều đạn dược. Hầu như mỗi cán binh VC chỉ có vài băng đạn AK, rất ít lựu đạn, và không anh nào có lương thực mang theo. Trang bị như vậy th́ đánh đấm nỗi ǵ?! Chưa kể là ở trên đó th́ lấy nước đâu mà uống, ḍng sông Pokơ lượn lờ phía đông cũng cách xa tới 5km. Với độ cao như vậy làm sao có thể lên xuống đó để lấy nước?

Do địa thế cao vượt khỏi mọi chướng ngại nên từ Delta chỉ với anten 7 đoạn chúng tôi cũng có thể liên lạc thường xuyên với hậu cứ ở Biển Hồ, Pleiku xa trên 50km. Ngay khi cửa hầm tôi bị pháo xập, Bắc Hải (Trưởng Ban 3) đă báo về hậu cứ là thày tṛ tôi “tiêu” rồi, trong khi tôi đang gỡ những bao cát bị đổ đè trên người những người lính để đưa họ vô sâu hơn trong hầm và băng bó sơ cứu cho họ. Rồi lại cũng một ḿnh tôi phải dọn sạch cửa hầm để lấy lối ra gọi y tá và người tới khiêng họ đi. Đến lúc đó mới biết là tôi vẫn c̣n sống mà lại không bị ǵ hết.

Cái phiền hà lớn nhất của tôi giờ này chính là không c̣n người giúp việc ngoài 2 âm thoại viên trực máy với BCH. Thôi th́ đành để họ làm việc 24/24 vậy chứ biết sao bây giờ, nhà binh mà “dĩ biến phải tùng quyền thôi”. Riêng tôi th́ từ giờ phút này phải đảm nhiệm công việc mă và giải mă công điện. Mọi liên lạc qua lại đều phải mă hóa, riêng công điện th́ phải mật mă hóa, mà ch́a khóa mật mă chỉ ḿnh tôi nắm! Thế là đang rảnh rang tôi bị tất bật suốt ngày…

Ngày 24 Tháng Tư, tôi lại nhận một tin khác không vui qua máy truyền tin PRC 25: Căn Cứ Tân Cảnh đă bị địch quân tràn ngập, Đại Tá Lê Đức Đạt hy sinh tại căn cứ. Ngay chiều đó, địch đă xử dụng những đại bác của ta bỏ lại ở Tân Cảnh “gởi quà” đến chúng tôi. Từng trái đạn 105 ly, 155 ly nổ ṛn ră trên Delta. Thiếu Úy Lễ, Sĩ Quan đề lô đi theo BCH Tiểu Đoàn, thất sắc nói với chúng tôi,

– “Nó mà căn delay là không c̣n đất sống v́ đạn delay 155 ly sâu cả 2 m mới nổ. Hầm này chịu cũng không nổi đâu!”

Nhưng dù địch không biết chỉnh delay th́ những viên 155 ly nổ cũng ác liệt hơn hẳn 130 ly của VC. Tiếng nổ đanh hơn, ṛn hơn và cũng lớn hơn, chấn động cũng mạnh hơn nhiều. Từ trước tới giờ chưa khi nào chúng tôi tưởng tượng được sức công phá của những trái đạn 155 ly “hiền ḥa” lại dữ dội đến như vậy. Mặt đất rung chuyển sau từng đợt đạn nổ, và số thương vong cũng bắt đầu tăng lên, tiếng í ới của những binh sĩ bị thương kêu cứu càng lúc càng nhiều. TĐT vội ra lệnh cho tôi gọi Không Trợ. Khi những chiếc máy bay OV10 của Không Lực Hoa Kỳ hoặc L19 của Phi Trường Cù Hanh lên vùng th́ địch im v́ sợ lộ mục tiêu làm mồi cho A 37 hoặc F 5. Khi những chiếc này quay về chúng lại tiếp tục “làm hỗn”. Lợi dụng lúc địch im tiếng pháo chúng tôi cho tải thương qua Căn Cứ Hồng Hà để trực thăng đến tải thương và sau đó bốc những binh sĩ đă hy sinh về bệnh viện dă chiến.

Tính cho đến khi được lệnh rút khỏi căn cứ, Tiểu Đoàn không để một binh sĩ nào nằm lại với Delta. Bởi vậy ngay sau pass trực thăng cuối cùng rời căn cứ, B52 đă thoải mái rải thảm bom xuống khu vực. Tôi nghĩ đây là một chiến thuật của Hoa Kỳ nhằm tiêu diệt địch.

(Sau này theo một số tài liệu của VC th́ chính tướng VC là Hoàng Minh Thảo, tư lệnh chiến trường Tây Nguyên, báo cáo về Bắc Bộ Phủ rằng chúng đă thiệt hại trên 10,000 tên trong chiến dịch này. Đây chỉ là con số báo cáo giả mà VC phải tiết lộ. Theo ước tính của người Mỹ và VNCH th́ khoảng 25,000.)

Ngay từ những pass trực thăng đầu tiên tôi đă được theo BCH/TĐ rời vùng. Cảm giác đầu tiên khi xuống khỏi trực thăng đó là “hoàn hồn”, như được sống lại sau hơn một tuần lễ căng thẳng trong địa ngục. Gặp lại một số bạn bè trong đơn vị đang từng người nhảy khỏi trực thăng, chúng tôi ôm nhau mừng mừng tủi tủi, sau khi kiểm điểm lại những ai mất ai bị thương. Ḷng tôi không khỏi trĩu nặng khi nghĩ đến viên trung sĩ, đă hy sinh ngay tại cửa hầm của tôi, và 4 người lính khác đang nằm bịnh viện. Quả thật trong chiến tranh, không thể tính toán ǵ được về cái sống và chết của mỗi người, chỉ c̣n trông cậy vào 2 chữ Hên Xui – Vận Số, hoặc nhờ các Thần Linh che chở mà thôi.

Tư Kiên

hoanglan22
09-05-2020, 18:50
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1648628&stc=1&d=1599331742

Trong lịch sử chiến tranh cận đại, có nhiều trận đánh lớn quân số đôi bên lên tới nhiều sư đoàn, hoặc với tầm mức quan trọng “dứt điểm” như trận Normandie, Stalingrad, Okinawa, Iwo Jima, v.v… Trong cuộc chiến tranh vừa qua tại Việt Nam, chúng ta cũng thường nghe nói tới những trận đụng độ ác liệt như trận Hạ Lào, An Lộc, Quảng Trị, Pleiku, v.v… So với những cuộc hành quân nổi tiếng kể trên, trận đánh tại Tống Lê Chân giữa một tiểu đoàn Biệt Động Quân (BĐQ) Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) và quân Cộng Sản không những chỉ nhỏ bé về tầm vóc mà c̣n cả về mức độ quan trọng.


Trại Tống Lê Chân chẳng qua chỉ là một tiền đồn hẻo lánh gần biên giới Việt-Miên thuộc Vùng 3 Chiến Thuật, có nhiệm vụ phát hiện sự xâm nhập của địch quân vào lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa. Tuy chỉ là một trận đánh nhỏ lại không mấy quan trọng, nhưng nếu kể về tinh thần chiến đấu can trường và sức chịu đựng phi thường của người lính chiến trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng, các chiến sĩ Tiểu Đoàn 92 BĐQ đă vượt trội và tạo nhiều thành tích có một không hai khiến trận đánh Tống Lê Chân trở thành có tầm vóc lịch sử, khác biệt và đáng chú ư hơn nhiều trận đánh lớn khác.

Nhân dịp kỷ niệm ngày Quân Lực VNCH 19 Tháng Sáu, chúng tôi tường thuật lại trận đánh oai hùng của Tiểu Đoàn 92 BĐQ tại Tống Lê Chân qua những tài liệu thâu thập được để tôn vinh các chiến sĩ Cọp Rừng Mũ Nâu. Đây cũng là dịp tri ân toàn thể Quân Lực VNCH đă đổ nhiều xương máu bảo vệ quê hương. Tác giả cũng hy vọng sẽ được tiếp xúc với các chiến sĩ đă có mặt hoặc liên quan đến trận Tống Lê Chân để có dịp sửa đổi và bổ túc thêm chi tiết giúp bài viết thêm chính xác.

Bối cảnh lịch sử

Trận đánh tại tiền đồn Tống Lê Chân trở nên sôi động vào một thời điểm hết sức đặc biệt, đó là lúc hiệp định ngưng bắn Paris vừa được kư kết vào đầu năm 1973, trên nguyên tắc chấm dứt cuộc chiến tranh giữa hai phe Quốc-Cộng tại Việt Nam. Nhưng đó chỉ là lư thuyết. Trên thực tế, đây lại là trái hỏa mù để quân đội Hoa Kỳ nương theo đó mà giải kết “rút quân trong danh dự,” nếu nói theo kiểu cặp bài trùng Kissinger và Nixon, và để Bắc Việt mặc sức tung hoành xua quân đánh chiếm Miền Nam.

Hoa Kỳ thỏa thuận rút quân trong ṿng 60 ngày, trong khi bộ đội Bắc Việt được tự do ở lại và thao túng tại miền Nam vô thời hạn. Như vậy, người bạn đồng minh đă mở ngỏ cửa và bật đèn xanh, giúp Cộng quân thành công trong việc thôn tính miền Nam. Trong khi đó Quân Lực VNCH coi như bị bỏ rơi, bị bó tay nên lâm vào t́nh trạng kiệt quệ, một ḿnh lại phải đương đầu không những với bộ đội Bắc Việt mà hầu như toàn khối Cộng Sản đang viện trợ những vũ khí tối tân cho quân xâm lăng.

Cộng Sản Bắc Việt đă vi phạm hiệp định ngưng bắn ngay khi vừa kư kết xong c̣n chưa ráo mực, có thể nói với sự gián tiếp đồng ư của người bạn Hoa Kỳ. Trong cuộc họp báo ngày 24 Tháng Giêng, năm 1973, chính Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger, người đă cùng tên đồ tể Lê Đức Thọ của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) kư “ḥa ước” bức tử Miền Nam, đă không một chút ngượng ngùng khi tuyên bố: “Thỏa ước ngưng bắn không có điều khoản nào cho phép quân đội Bắc Việt có mặt tại miền Nam. Bắc Việt cũng không đ̣i hỏi, nhưng chúng tôi ước lượng hiện có chừng 145,000 quân Bắc Việt đang tham chiến tại miền Nam Việt Nam.”

Rơ ràng, Hoa Kỳ đă nhập nhằng kư kết hiệp ước bán đứng Việt Nam Cộng Ḥa với mục đích duy nhất đóng của rút cầu, bỏ rơi Miền Nam khi không buộc Cộng Sản Bắc Việt cũng phải rút quân về Bắc. Thực sự, lúc đó Bắc quân đă có đến 13 sư đoàn quân chính qui tại miền Nam với quân số tổng cộng gần 200,000 người. Ngoài ra, chúng c̣n có các đại đơn vị pháo binh diện địa và chiến xa yểm trợ cùng các kho quân lương, vũ khí tại Lào và Cam Bốt được coi là an toàn khu. Tại khu vực đường ṃn Hồ Chí Minh bên Lào, các xe vận tải của Cộng quân công khai ồ ạt chở súng ống, đạn được và binh sĩ vào xâm lăng miền Nam v́ không c̣n bị oanh tạc như trước.

V́ vậy, t́nh h́nh sau khi ngưng bắn hoàn toàn bất lợi cho Quân Lực VNCH. Các đại đơn vị không thể nào dành được thế chủ động để lùng và diệt địch trên chiến trường v́ phải trải quân quá mỏng để trám vào những chỗ trống do quân đội Hoa Kỳ bỏ lại. Trong lúc đó, Cộng quân được tự do bổ sung quân số, tích lũy tiếp vận để tạo áp lực quân sự trên khắp lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa.

Tương quan lực lượng

Riêng tại Vùng 3 Chiến Thuật, ba sư đoàn Cộng quân gồm các công trường 5, 7 và 9 lợi dụng an toàn khu tại vùng Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt bên Cam Bốt thường vượt biên đánh phá dọc Quốc Lộ 13 từ Lộc Ninh đến Bến Cát nằm về phía Bắc thủ đô Saigon. Khi mạnh, họ tung lực lượng quấy phá. Lúc yếu, lại rút qua biên giới dưỡng quân để chờ cơ hội thuận tiện. Phía Việt Nam Cộng Ḥa chỉ cố gắng pḥng thủ trong tư thế thụ động v́ không đủ lực lượng mở các cuộc hành quân vượt biên truy kích như trước kia vào năm 1970 khi quân đội Hoa Kỳ c̣n tham chiến. Để đối đầu với 3 sư đoàn Cộng quân, Quân Lực VNCH trong vùng này chỉ có Sư Đoàn 5 Bộ Binh đặt bản doanh tại Lai Khê do Đại Tá Lê Nguyên Vỹ làm Tư Lệnh.

Sau nhiều cuộc tấn công thăm ḍ, vào đầu Tháng Tư, năm 1973, Công Trường 7 Cộng quân tấn công và tràn ngập căn cứ Chí Linh trên Liên Tỉnh Lộ 13 gần quận lỵ Đôn Luân vào ngày 10 tháng 4. Để mở rộng đường xâm nhập từ ngả Cam Bốt, Cộng quân cũng uy hiếp các trại Biệt Động Quân Biên Pḥng dọc theo biên giới như Bến Sỏi, Thiện Ngôn, Katum, Bù Gia Mập, Tống Lê Chân, v.v…

Trước áp lực quá mạnh của địch quân, Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân ở Quân Khu 3 phải lần lượt di tản hầu hết các vị trí chiến lược rất quan trọng dọc theo biên giới ngoại trừ trại Tống Lê Chân. Lư do v́ toàn thể Tiểu Đoàn 92 BĐQ đồn trú tại trại này đều t́nh nguyện ở lại chiến đấu. Trận đánh dài nhất trong quân sử khởi đầu và trang sử oai hùng nhất của Binh Chủng cũng được Tiểu Đoàn 92 BĐQ viết từ giờ phút đó.

Tống Lê Chân, địa danh xa lạ cuộc chiến tranh dai dẳng tại Việt Nam ngoài mức độ khốc liệt, c̣n tạo ra những địa danh xa lạ. Nếu không có trận Tân Cảnh, Kon Tum, làm ǵ có những tên Charlie, Delta? Nếu không có trận Hạ Lào chắc cũng chẳng có LoLo, Sophia, Biệt Động Quân Bắc, Biệt Động Quân Nam, v.v…

Tống Lê Chân cũng là một tên rất lạ. Dân địa phương người Miên gọi vùng này là Tonlé Tchombe. Tonlé tiếng Miên có nghĩa là sông, hồ, suối hoặc nơi nào có nước. Thí dụ như Biển Hồ có tên Miên là Tonlé Sap. Khi mới thành lập, trại này chưa có tên nên Thiếu Tá Đặng Hưng Long, vị chỉ huy trưởng đầu tiên phiên âm tiếng Miên Tonlé Tchombe thành tiếng Việt Tống Lê Chân. Sau này, phần đông các quân nhân trong binh chủng Biệt Động Quân biên pḥng gọi tắt là Tống “Lệ” Chân để ám chỉ một căn cứ đầy máu và nước mắt, không có một ngày yên vui kể từ khi ra đời.

Tiền đồn Tống Lê Chân nguyên thủy là một trại Dân Sự Chiến Đấu (DSC – Civilian Irregular Defense Group, gọi tắt là CIDG) do Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ thành lập từ năm 1967 để phát hiện và ngăn chận sự xâm nhập của Cộng quân từ bên kia biên giới. Đến năm 1970 trong chương tŕnh cải biến Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu thành Biệt Động Quân Biên Pḥng, phần đông những binh sĩ của trại Tống Lê Chân thuộc sắc dân người thượng Stieng đều t́nh nguyện ở lại để trở thành Tiểu Đoàn 92 BĐQ Biên Pḥng, tổng cộng gồm 292 binh sĩ lúc khởi đầu, chưa kể một số sĩ quan Quân Lực VNCH giữ các chức vụ chỉ huy.

Biệt Động Quân Biên Pḥng

*Lực lượng dân sự chiến đấu

V́ Tiểu Đoàn 92 BĐQ thoát thai từ Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu, tưởng cũng nên biết qua về tổ chức đặc biệt ít người biết tới này.

Chương tŕnh Dân Sự Chiến Đấu được đặt dưới sự quản trị trực tiếp của Toán 5 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ (5th Special Forces Group) đặt bản doanh tại Nha Trang. Mục tiêu của chương tŕnh là dùng các sắc tộc thiểu số (người Thượng) để thành lập các “trung tâm” (làng, buôn) chiến lược có vơ trang tại các vùng rừng núi khiến Việt Cộng không thể xâm nhập và lợi dụng. Việc tổ chức, quản trị và huấn luyện những trung tâm hay “trại” này đều do Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ đảm nhận. Thí điểm đầu tiên được thành lập tại Buôn Enao thuộc tỉnh Đắc Lắc vào năm 1961. Tới năm 1965 đă có khoảng 80 trung tâm được thành lập tại những vùng rừng núi hẻo lánh khó kiểm soát. Mỗi trung tâm là một “pháo đài” có thể tự pḥng thủ và có khả năng ngăn chận mọi xâm nhập từ bên ngoài.

Đến năm 1965, cùng với việc Hoa Kỳ đưa quân ồ ạt vào Việt Nam, chương tŕnh Dân Sự Chiến Đấu cũng được bành trướng mạnh. Các trung tâm pḥng thủ được cải tiến thành những trại lực lượng đặc biệt, trang bị vũ khí tối tân với nhiệm vụ không những chỉ để tự vệ mà c̣n có khả năng tấn công. Từ đó, các toán viễn thám ḍ t́m địch quân mang biệt danh Delta, Omega và Sigma ra đời. Nhiệm vụ chính của những toán này là xâm nhập sâu vào đất địch để phát hiện địch và thu thập tin tức t́nh báo.

Tới khoảng cuối năm 1967, toàn lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa tổng cộng có khoảng gần 100 trại Lực Lượng Đặc Biệt, đa số nằm dọc theo biên giới Lào-Việt và Miên-Việt. V́ địa thế chiến lược rất quan trọng của những trại biên pḥng này, Cộng quân luôn luôn dùng đủ mọi cách để tiêu diệt. Nhiều trận đánh dữ dội đă xảy ra tại các trại như: Lang Vei, Thường Đức, và Khâm Đức tại Vùng 1 Chiến Thuật, hoặc Đức Cơ, Plei Me, Plei Djereng, Plateau Gi, Đồng Xoài tại Vùng 2, Bến Sỏi, Tống Lê Chân, Trảng Sụp, Chí Linh ở Vùng 3 và Cái Cái, Thường Thới, Tịnh Biên tại Vùng 4.

Cho tới năm 1970, Hoa Kỳ chuẩn bị rút quân, khởi đầu giai đoạn Việt Nam hóa chiến tranh nên các trại Lực Lượng Đặc Biệt cũng lần lượt được chuyển giao cho Quân Lực VNCH. Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu theo kế hoạch được sát nhập vào binh chủng Biệt Động Quân để trở thành những đơn vị Biệt Động Quân Biên Pḥng. V́ mỗi trại Lực Lượng Đặc Biệt thường có vào khoảng từ 300 đến 400 người nên được biến cải thành một tiểu đoàn Biệt Động Quân Biên Pḥng. Trong khoảng thời gian từ ngày 27 Tháng Tám, năm 1970 cho đến 15 Tháng Giêng, năm 1971, tổng cộng có tất cả 49 trại Lực Lượng Đặc Biệt được biến cải thành các Tiểu Đoàn Biệt Động Quân Biên Pḥng. Nếu tính theo từng Vùng Chiến Thuật, con số này được phân chia như sau: Vùng 1 có 11 trại, Vùng 2 có 15 trại, Vùng 3 có 12 trại, và Vùng 4 có 11 trại.

Tuy trước đây có chừng 100 trại Lực Lượng Đặc Biệt, nhưng chỉ chuyển giao có 49 trại v́ có một số trại bị đóng cửa, quân số được bổ sung cho những đơn vị c̣n lại. Sau khi được chuyển giao, những dân sự chiến đấu trong các trại Lực Lượng Đặc Biệt không c̣n là dân sự do Hoa Kỳ tuyển mộ, mà chính thức trở thành quân nhân trong Quân Lực VNCH.

Trại Tống Lê Chân thuộc Vùng 3 Chiến Thuật được thành lập vào đầu năm 1967 cùng với trại Prek Klok tại vùng Chiến Khu C của Việt Cộng. V́ chận ngay yết hầu nên ngay từ khi thành lập, các trại này đă bị địch quân đe dọa thường xuyên. Trong hệ thống Lực Lượng Đặc Biệt, trại Tống Lê Chân mang ám danh A-334 và được biến cải thành trại Biệt Động Quân Biên Pḥng vào ngày 30 tháng 11 năm 1970. Toàn thể quân số trong trại lúc đó có 318 người (gồm 292 người nguyên thuộc Dân Sự Chiến Đấu và các sĩ quan cùng hạ sĩ quan Quân Lực VNCH mới được bổ nhiệm tới để chỉ huy) trở thành Tiểu Đoàn 92 BĐQ Biên Pḥng thuộc hệ thống chỉ huy của Biệt Động Quân/Quân Lực VNCH.

Tiền đồn cô đơn

Trại Tống Lê Chân trấn giữ một địa điểm quan yếu, chận ngay đường vào khu Tam Giác Sắt và án ngữ vùng Mỏ Vẹt, Lưỡi Câu thuộc Cam Bốt. Đây là những an toàn khu và cũng là đại bản doanh Cục R của Việt Cộng, giống như hai mũi dao nhọn chĩa vào cạnh sườn Quân Khu 3.

Trong các trận hành quân vượt biên của Quân Đoàn 3 do Đại Tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy vào năm 1970, trại Tống Lê Chân đă đóng một vai tṛ quan trọng trong nhiệm vụ phát hiện và diệt địch. Căn cứ được thiết lập trên một ngọn đồi cao chừng 50 thước, trông xuống hai con suối nhỏ dân địa phương gọi là Takon và Neron. Đây là những lạch nước khởi nguồn của sông Saigon chảy qua Dầu Tiếng, Bến Súc, Phú Cường v.v… Tống Lê Chân, như trên đă nói là một trong chuỗi trại Dân Sự Chiến Đấu do Lực Lượng Đặc Biệt thiết lập dọc theo biên giới Việt-Miên thuộc lănh thổ Quân Khu 3.

Về vị trí, trại Tống Lê Chân nằm trong vùng ranh giới của hai tỉnh Tây Ninh và B́nh Long, cách An Lộc chừng 15 cây số về hướng Tây Nam và mũi nhọn của chiếc Mỏ Vẹt chứng 13 cây số về hướng Đông Nam. Dưới chân căn cứ là con đường 246 nối liền Chiến Khu C và Chiến Khu D của Việt Cộng. Đây cũng là trục giao liên Nam-Bắc huyết mạch nối liền bản doanh của Cục R Việt Cộng bên Cam Bốt và vùng Dầu Tiếng với Khu Tam Giác Sắt của Cộng quân.

Với vị trí chiến lược vô cùng quan trọng có thể kiểm soát được các trục giao liên Nam-Bắc và Đông-Tây của Cộng quân tại vùng biên giới, lại trấn giữ sườn Tây cho thị trấn An Lộc, Tống Lê Chân như chiếc gai nhọn cần phải nhổ bằng mọi giá trên sa bàn trận liệt của địch.

Vào mùa Hè năm 1972, cùng với các trận cường tập có pháo binh và chiến xa nặng của Cộng quân vào vùng Lộc Ninh, Chơn Thành và An Lộc, các căn cứ biên pḥng lân cận Tống Lê Chân như Thiện Ngôn, Katum, Bù Gia Mập đă phải di tản. Tống Lê Chân chơ vơ c̣n lại như một hải đảo cô đơn giữa biển người Cộng quân trùng điệp.

Tứ bề thọ địch

Nhằm mục đích mở rộng đường giao liên cũng như giữ bí mật các cuộc chuyển quân xâm nhập từ biên giới Miên-Việt vào lănh thổ Quân Khu 3, ngày 10 Tháng Nam, 1972, Cộng quân dồn lực lượng đánh biển người vào căn cứ Tống Lê Chân quyết nhổ cái gai trước mắt. Quyết san bằng căn cứ, địch quân dùng đại pháo 130 ly cùng với đủ loại súng cối, sơn pháo bắn phủ đầu như mưa vào căn cứ theo đúng chiến thuật lấy thịt đè người “tiền pháo hậu xung.” Trận pháo kích khốc liệt này chính thức mở đầu cho gần hai năm trời vây hăm.

Sau loại pháo ṿng cầu, nhiều đợt pháo cấp tập bắn thẳng vào Tống Lê Chân như muốn san bằng căn cứ nhỏ bé nằm lẻ loi trên ngọn đồi. Trong khi đó, một rừng pḥng không từ thượng liên đến cao xạ 37 ly, 57 ly và cả hỏa tiễn tầm nhiệt thuộc sư đoàn Pháo Pḥng Không tân lập 377 khóa kín không phận khiến các phi cơ không thể nào tới gần để yểm trợ. Sau những đợt pháo kích dữ dội, Tiểu Đoàn 200 (tiểu đoàn độc lập) của Việt Cộng lănh nhiệm vụ tấn công vào Tống Lê Chân với sự yểm trợ của các đơn vị bộ đội thuộc hai Công Trường 7 và 9.

Tuy bị bao vây và cô lập, các chiến sĩ Mũ Nâu của Tiểu Đoàn 92 BĐQ đă b́nh tĩnh bố trí trong các giao thông hào đào sâu trong ḷng đất chờ địch ngay khi các quả đạn pháo kích đầu tiên rơi vào căn cứ. Một đơn vị đặc công địch theo sát những trái pháo mở đường đă xâm nhập được ṿng đai pḥng thủ bên ngoài. Những chiến xa hạng nặng T-54 của Cộng quân yểm trợ cũng nă đạn như mưa rất chính xác khiền t́nh h́nh có vẻ nguy kịch. Nhưng quân trú pḥng vẫn không nao núng v́ rất tin tưởng vào hệ thống bố pḥng vững chăi và nhất là băi ḿn dầy đặc bao quanh căn cứ.

Dưới sự chỉ huy đầy kinh nghiện của Thiếu Tá Lê Văn Ngôn (tiểu đoàn trưởng), các chiến sĩ Biệt Động Quân vẫn chưa khai hỏa. Họ chờ bộ đội chủ lực địch xung phong mới bắt đầu nổ súng. Quả nhiên, khi thấy không bị bắn trả, Cộng quân bắt đầu tràn vào căn cứ v́ tưởng quân trú pḥng đă bị chết hết hay mất tinh thần v́ các đợt pháo kích ác kiệt cũng như v́ chiến xa với đại bác 100 ly trực xạ. Đúng lúc đó, các chiến sĩ Mũ Nâu mới đồng loạt khai hỏa. Từng đợt “biển người” của Cộng quân bị bất ngờ nhưng v́ đă tiến tới quá gần không kịp t́m nơi ẩn trú nên bị đốn ngă như rạ.

Sau đợt tấn công đầu tiên bị thiệt hại nặng, địch lui ra để pháo binh tiếp tục nă vào căn cứ, sau đó bộ binh lại tấn công. Sau nhiều đợt xung phong vô hiệu quả, cuối cùng Cộng quân phải rút lui, bỏ lại hàng trăm xác chết phơi thây trên hàng rào pḥng thủ.

Cũng trong thời gian này, các mặt trận lớn khác tại vùng hỏa tuyến, Tây Nguyên, An Lộc bùng lên dữ dội với những cuộc đụng độ đẫm máu của một Mùa Hè Đỏ Lửa. Trận đánh tại Tống Lê Chân tuy là một chiến thắng lớn của các chiến sĩ Biệt Động Quân nhưng không được nhiều người biết tới. Nhưng từ khi cuộc “thử lửa” ban đầu bị thất bại nặng nề, Cộng quân biết rằng không thể dễ dàng nuốt chửng Tống Lê Chân nên họ chủ trương dùng chiến thuật tiêu hao, bao vây chặt chẽ và pháo kích thường xuyên với đặc công xâm nhập quấy phá. Bắc Việt tin rằng chiến trường An Lộc lân cận có tầm mức quan trọng hơn và nếu đạt được chiến thắng, Tống Lê Chân không cần phải đánh cũng sẽ tự tan ră. Cuộc bao vây dài nhất trong quân sử bắt đầu.

Cứ như vậy, tiền đồn Tống Lê Chân bị Cộng quân vây chặt. Địch pháo kích thường xuyên vào căn cứ, trong khi màng lưới pḥng không dầy đặc cắt đứt nguồn tải thương và tiếp vận duy nhất bằng phi cơ. Thoạt tiên, các phi cơ vận tải C-130 của Không Quân Việt Nam đă phải bay rất cao để thả dù tiếp tế khiến nhiều kiện hàng bay lạc ra ngoài, rơi vào tay Cộng quân. Theo lời kể lại của một hồi chánh viên, vào khoảng Tháng Sáu, năm 1973, Cộng quân đă tổ chức một đại đội có nhiệm vụ chuyên đi “lượm dù” để lấy đồ tiếp tế. V́ vậy, đă có dư luận từ các nguồn tin ngoại quốc cho rằng đôi bên đă ngầm thỏa thuận để các vận tải cơ được tự do thả dù mà không bị pḥng không bắn lên, miễn là quân trú pḥng không bắn vào toán Cộng quân lượm dù bên ngoài. Sau này, khi rút tỉa kinh nghiệm, Không Quân VNCH đă hoàn chỉnh được kỹ thuật thả dù tiếp tế nên số lượng đồ tiếp vận thất thoát không c̣n đáng kể.

Riêng các phi cơ trực thăng, phương tiện duy nhất để tản thương hay chở quân tăng viện không thể nào bay lọt lưới pḥng không dầy đặc của địch. Nhiều toán trực thăng đă liều lĩnh bay vào Tống Lê Chân chẳng những không đạt được nhiều thành công, lại bị thiệt hại khá nặng. Trong khoảng thời gian từ Tháng Mười, năm 1973 đến cuối Tháng Giêng, năm 1974, có khoảng 20 phi vụ trực thăng nhằm tản thương và tiếp tế cho Tống Lê Chân, nhưng chỉ có 6 trực thăng hạ cánh được, trong số này có 3 chiếc bị bắn hư hại trên băi đáp.

Cuối Tháng Mười Hai, năm 1973, một trực thăng Chinook CH-47 cũng bị bắn rơi khi hạ cánh. Đây là chiếc trực thăng thứ 13 bị trúng đạn pḥng không địch chỉ nội trong Tháng Mười Hai, năm 1973. Thiệt hại về phía Không Quân VNCH gồm 9 chết, 36 bị thương. Tới Tháng Giêng, năm 1974 tức là một năm sau khi kư kết hiệp định ngưng bắn, vẫn c̣n có 12 chiến sĩ Biệt Động Quân bị thương nặng vẫn chưa được tản thương khỏi căn cứ.

Ngưng chiến kiểu Việt Cộng

Tuy căn cứ Tống Lê Chân bị Cộng quân khởi sự tấn công vào Tháng Năm, 1972, nhưng bị vây hăm và tấn công dữ dội nhất vào lúc thỏa ước nhưng bắn được thi hành tại Việt Nam theo khuôn khổ Hiệp Định Paris. Đây cũng là một điểm đặc biệt có một không hai trong cuộc chiến tại Việt Nam cũng như trong lịch sử chiến tranh thế giới: một hiệp ước ngưng bắn bị vi phạm ngay sau khi vừa kư kết. Cộng quân, có lẽ đang cay cú v́ thất bại chua cay không chiếm được An Lộc, nay cố chiếm một mảnh đất khỉ ho c̣ gáy gần biên giới Việt-Miên để có một chỗ cho Cục R ra mắt.

Trong lúc toàn thể thế giới thở phào nhẹ nhơm v́ ng̣i lửa chiến tranh tại Việt Nam có thể đưa đến hiểm họa chiến tranh giữa hai khối Tư Bản và Cộng Sản không c̣n nữa, th́ tại Tống Lê Chân, Tiểu Đoàn 92 BĐQ vẫn đơn độc ngày ngày hứng pháo và giành giựt với Cộng quân từng thước đất để sống c̣n. Tuy Cộng quân công khai vi phạm thỏa ước ngưng bắn, nhưng người bạn đồng minh Hoa Kỳ của Việt Nam Cộng Ḥa vẫn dửng dưng không hề có một lời phản đối dù lấy lệ, dường như c̣n say men rượu mừng v́ đă t́m thấy “ánh sáng ở cuối đường hầm.”

Dĩ nhiên họ cũng chẳng có một phản ứng hay hành động tích cực nào thuận lợi cho Việt Nam Cộng Ḥa. Ngay cả Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đ́nh Chiến cũng không can thiệp. V́ vậy, trước những vi phạm trắng trợn và lộ liễu của Cộng quân tại Tống Lê Chân, trong phiên họp ngày 17 Tháng Ba, năm 1973, trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng Ḥa là tướng Dư Quốc Đống đă phải đặt vấn đề Tống Lê Chân lên bàn hội nghị với ba giải pháp như sau:

1- Cử một tổ Liên Hợp Quân Sự bốn bên đến Tống Lê Chân để điều tra tại chỗ các sự vi phạm. 2- Nếu phe Cộng Sản phản đối, sẽ yêu cầu Ủy Ban Kiểm Soát Đ́nh Chiến can thiệp. 3- Yêu cầu các đơn vị Cộng quân quanh Tống Lê Chân không được bắn lên phi cơ của Ủy Ban Đ́nh Chiến.

Dĩ nhiên đề nghị hợp lư của phái đoàn Việt Nam Cộng Ḥa bị phe Cộng Sản phản đối v́ chính họ là kẻ vi phạm. Trần Văn Trà, trung tướng trưởng phái đoàn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) cố ư vắng mặt để Đại Tá Đặng Văn Thu thay thế. Ông Thu một mặt vu khống chính Việt Nam Cộng Ḥa mới là phe vi phạm ngưng bắn, một mặt tự coi là không đủ thẩm quyền quyết định nên yêu cầu mở một cuộc họp khác để bàn về Tống Lê Chân với sự hiện diện của Trần Văn Trà. Về các đề nghị thứ hai và thứ ba của phái đoàn Việt Nam Cộng Ḥa, phe Cộng Sản cũng “nhất trí” phản đối, ngoài ra c̣n dọa dẫm các thành viên trong Ủy Hội Quốc Tế rằng t́nh h́nh tại Tống Lê Chân “chưa rơ rệt” nên họ không bảo đảm an ninh cho phái đoàn cũng như phi cơ của Ủy Hội.

Tóm lại, cả phe Cộng Sản trong Ủy Ban Liên Hiệp và Ủy Hội Quốc Tế đều đồng thanh tránh né việc điều tra vi phạm ngưng bắn tại Tống Lê Chân, lúc th́ chờ chỉ thượng cấp quyết định, khi lại không bảo đảm an ninh.

Đến ngày 23 Tháng Ba, năm 1973 tức là chỉ c̣n 4 hôm nữa là hết hạn 60 ngày làm việc của Ủy Ban Liên Hiệp bốn bên, phái đoàn Hoa Kỳ mới yêu cầu chiếu lệ Canada là chủ tịch Ủy Hội Quốc Tế điều tra về vụ Tống Lê Chân. Phía Việt Cộng đưa Đại Tá Vơ Đông Giang ra thảo luận với Đại Tá Lomis của Gia Nă Đại và thỏa thuận cử sĩ quan liên lạc của MTGPMN theo Ủy Hội Quốc Tế tới Tống Lê Chân vào ngày 24 Tháng Ba, 1973. Nhưng đó cũng chỉ là mánh lới tiểu xảo cố hữu của Cộng Sản: tới ngày hẹn, viên sĩ quan liên lạc này đă “trễ trực thăng” nên máy bay của Ủy Hội Quốc Tế không đi Tống Lê Chân được.

Như vậy, với sự tráo trở và lọc lừa cố ư của Cộng Sản, việc điều tra tại Tống Lê Chân đă không bao giờ được thực hiện. Số phận của Tống Lê Chân đành phó thác cho định mệnh và Tiểu Đoàn 92 BĐQ phải tự chiến đấu một ḿnh để sống c̣n.

Ṿng vây siết chặt

Suốt năm 1973 kể từ ngày ngưng bắn, trong lúc Việt Cộng giở thủ đoạn hèn hạ tại bàn hội nghị, Tống Lê Chân bị bao vây chặt chẽ và bị tấn công hàng chục lần nhưng vị trí vẫn đứng vững như một khúc xương khó nuốt. Nhả ra không được v́ bị Tống Lê Chân chận nghẹn ngay yết hầu, nuốt vào th́ không xong v́ các chiến sĩ Mũ Nâu rất kiên cường không chịu nhượng bộ một tấc đất, Cộng quân chỉ c̣n cách bao vây “nội bất xuất, ngoại bất nhập.” Tuy pḥng không địch dầy đặc bao quanh căn cứ nhưng phi cơ Việt Nam Cộng Ḥa đôi khi vẫn liều lĩnh bay lọt qua màng lưới của tử thần để tản thương và tiếp tế. Việc tiếp tế cho Tống Lê Chân bằng dù khá hiệu quả, nhưng v́ chu vi pḥng thủ quá hẹp nên có một số đồ tiếp liệu bị lọt vào tay địch.

Qua năm 1974, trong khi các phái đoàn “kiểm soát” tranh luận giằng co, t́nh h́nh tại Tống Lê Chân ngày càng nguy ngập sau cả năm trời bị bao vây. Thời gian càng trôi qua, phần bất lợi càng nghiêng về phía quân trú pḥng. Bị cả sư đoàn địch quân phong tỏa chặt chẽ và bị tấn công thường xuyên, quân số Biệt Động Quân ngày càng hao hụt không được bổ sung. Lúc này, Tiểu Đoàn 92 BĐQ chỉ c̣n lại 255 người, trong số đó có nhiều thương binh. Việc tiếp tế lại không được đầy đủ v́ phi cơ thả dù bị pḥng không chận bắn. Về mặt tinh thần cũng sa sút phần nào v́ bị vây hăm quá lâu ngày và áp lực liên miên . Tuy vậy, Tống Lê Chân vẫn c̣n đứng vững như một biểu tượng hùng hồn cho ḷng quả cảm và sức chiến đấu kiên cường của các chiến sĩ Biệt Động Quân.

Nhưng để giữ vững Tống Lê Chân, Quân Lực VNCH tính ra đă phải trả một giá quá đắt: sự thiệt hại về nhân mạng mỗi ngày một cao, việc dùng phi cơ để yểm trợ và thả dù tiếp tế đă trở thành một gánh quá nặng cho Không Quân Việt Nam lúc đó phương tiện không c̣n được dồi dào như lúc Hoa Kỳ c̣n tham chiến. Hơn nữa, tuy Tống Lê Chân chiếm giữ một vị trí khá quan trọng nhưng vẫn chỉ là một tiền đồn nên giá trị quân sự không thể so sánh với các căn cứ chính cần phải bảo vệ khác, do đó không nhất thiết phải giữ bằng mọi giá. V́ không thể chia bớt lực lượng để yểm trợ Tống Lê Chân, đă đến lúc Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 phải có một quyết định dứt khoát để giải quyết vấn đề Tống Lê Chân để chấm dứt t́nh trạng bất lợi.

Do đó, vào ngày 23 Tháng Ba, 1973, Tướng Phạm Quốc Thuần, Tư Lệnh Quân Đoàn 3 đề nghị với Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH chọn một trong ba giải pháp sau đây:

1- Mở một cuộc hành quân cấp sư đoàn từ An Lộc để giải tỏa áp lực, tăng cường, thay thế hay di tản Tiểu Đoàn 92 BĐQ tại Tống Lê Chân. 2- Cho phép thương lượng với Cộng quân, giao Tống Lê Chân cho chúng để đổi lấy sự di tản an toàn của các chiến sĩ Mũ Nâu trú pḥng. 3- Cho lệnh Tiểu Đoàn 92 BĐQ được di tản khỏi căn cứ bằng những toán nhỏ để tránh bị tiêu diệt hoàn toàn.

Về giải pháp một, theo t́nh h́nh lúc đó, toàn bộ vùng Lai Khê, An Lộc chỉ có đơn độc Sư Đoàn 5 chống giữ, hiện đang phải đương đầu với các Công Trường 5, 7 và 9 của Cộng quân. V́ vậy, ngay cả việc giữ an ninh trục lộ huyết mạch 13 cũng c̣n khó khăn, chưa đủ quân số, nói chi đến việc mở đường tới tận Tống Lê Chân để tăng viện? Hơn nữa, dù một sư đoàn có thể đảm đương trọng trách tiếp viện, nhưng kiếm đâu ra sư đoàn này trong lúc các đại đơn vị Quân Lực VNCH tuy đă phải phân tán rất mỏng nhưng cũng vẫn chưa đủ để trám vào những vùng quan trọng Hoa Kỳ vừa rút quân để lại?

Như vậy, giải pháp 1 coi như không thể thực hiện được. Nhưng nếu giải pháp 1 bất thành v́ lư do quân sự th́ giải pháp 2 cũng thiếu thực tế v́ lư do chính trị. Nếu “bàn giao” Tống Lê Chân cho Cộng quân, hậu quả tai hại về chính trị sẽ không thể lường được. Quân và dân Miền Nam sẽ vô cùng hoang mang. Tổng Thống Thiệu sẽ rất khó ăn khó nói v́ mới hô hào “dành dân chiếm đất” trước đây không lâu. Vả lại, nếu giao Tống Lê Chân cho Cộng quân, việc này có thể sẽ trở thành tiền lệ đưa tới nhiều cuộc bàn giao kiểu Tống Lê Chân khác.

Do đó, tuy đề nghị ba giải pháp, nhưng tướng Thuần biết rơ chỉ c̣n một con đường khả trợ duy nhất: đó là cho phép Tiểu Đoàn 92 BĐQ rút khỏi Tống Chân. Nhưng quyết định rút bỏ này không phải là không có hậu quả nghiêm trọng về quân sự cũng như chính trị. Hơn nữa, việc rút quân qua ṿng vây trùng điệp của Cộng quân cũng không phải là điều dễ dàng. Chính v́ những lư do này mà Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 phải hội ư trước với Bộ Tổng Tham Mưu. Rất có thể, ngay Bộ Tổng Tham Mưu cũng không quyết định được, mà việc rút quân phải do chính tổng thống cho phép.

Trong khi chờ đợi quyết định dứt khoát từ trung ương, t́nh h́nh tại Tống Lê Chân trở nên hết sức căng thẳng và sôi động từng giờ, từ trầm trọng đến nguy kịch. Bị bao vây cả năm trời, thiếu lương thực, thiếu đạn dược, quân số hao hụt, thương binh ngày càng nhiều không được di tản, bị pháo liên miên, đặc công đánh phá ngày đêm khiến Tiểu Đoàn 92 BĐQ ngày càng suy yếu. Tuy nhiên, các chiến sĩ Mũ Nâu vẫn kiên cường giữ vững căn cứ bằng mọi giá. Và cuộc bao vây dài nhất trong quân sử vẫn tiếp tục.

Tử thủ đến cùng

Để giảm bớt phần nào áp lực vô cùng nặng nề của khoảng 3 sư đoàn địch quanh Tống Lê Chân, vào ngày 23 Tháng Bảy, 1974, Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa bay trên 30 phi vụ giội bom vào các vị trí Cộng quân trên trận địa. Nhưng pḥng không địch rất dầy đặc nên phi cơ oanh tạc không mấy hiệu quả. Ngoài ra, lực lượng địch quá đông nên chúng vẫn không chịu rút lui để tránh thiệt hại mà ngược lại c̣n gia tăng cường độ tấn công để sớm thanh toán mục tiêu.

Trong khoảng thời gian liên tiếp 3 ngày từ 22 đến 24 Tháng Ba, 1974, Cộng quân dùng đủ loại đại pháo 130 ly, hỏa tiễn 122 ly, súng cối 82 ly, v.v… nă hơn 1,000 quả đạn vào tiền đồn Tống Lê Chân nhỏ bé, nơi có khoảng 300 chiến sĩ Tiểu Đoàn 92 BĐQ đang bị vây hăm. Tuy phi cơ được gọi đến oanh kích và thả trái sáng yểm trợ, nhưng hỏa lực pḥng không vô cùng dữ dội của Sư Đoàn Pḥng Không 377 địch với các loại hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7, đại bác 57 ly, 37 ly và thượng liên đă đan một màng lưới lửa đầy đặc quanh Tống Lê Chân khiến mọi hoạt động của phi cơ đều vô hiệu.

Bên trong trại, các chiến sĩ Mũ Nâu chỉ c̣n cách co ḿnh chịu pháo. Nhiều công sự pḥng thủ cũng như vị trí chiến đấu bị hư hại v́ cơn mưa pháo. Tuy nhiên, Trung Tá Lê Văn Ngôn tuy mới 25 tuổi nhưng dầy dạn kinh nhiệm chiến trường vẫn b́nh tĩnh đôn đốc và ra lệnh cho binh sĩ trực thuộc chuẩn bị phản công sau mỗi đợt pháo kích. Quả nhiên, liên tiếp trong hai đêm 21 và 22 Tháng Ba, 1974, sau khi “tiền pháo,” khoảng một trung đoàn bộ binh địch “hậu xung” dữ dội cả bốn phía định san bằng tiền đốn nhỏ bé bị vây hăm đă lâu ngày. Nhưng Tiểu Đoàn 92 BĐQ bắn trả dữ dội, tuy đạn dược khan hiếm nhưng họ tác xạ rất chính xác, đẩy lui nhiều đợt tấn công biển người.

Có lúc v́ Cộng quân quá đông, các chiến sĩ Mũ Nâu bắn không xuể nên một số đă lọt vào lớp hàng rào pḥng thủ. Nhiều trận cận chiến bằng lựu đạn diễn ra ác liệt. Quân trú pḥng được lợi thế v́ trú ẩn trong các hầm hố kiên cố nên đă gây thiệt hại nặng cho địch quân. Cuối cùng, trước tinh thần chiến đấu dũng mănh và can trường của Tiểu Đoàn 92 BĐQ, địch đành ôm hận rút rui để lại nhiều xác đồng bọn và đủ loại vũ khí.

Tuy vẫn giữ vững được vị trí nhưng t́nh trạng bên trong căn cứ vô cùng bi đát. Thương binh mỗi lúc một nhiều thêm v́ không được tản thương. Đạn dược gần cạn v́ các trận đánh liên tục, lương thực thiếu thốn v́ không được tiếp tế đă nhiều ngày, ngay cả đến nước uống cũng khan hiếm. Hơn nữa, sau mỗi đợt tấn công bị thất bại, Cộng quân lại điên cuồng pháo kích dữ dội hơn.

Trước t́nh thế nguy ngập như chỉ mành treo chuông, Trung Tá Ngôn biết rơ nếu không được tản thương, tăng viện, yểm trợ và tiếp tế hữu hiệu ngay tức khắc, việc giữ Tống Lê Chân hầu như không thể làm nổi. Trong lúc đó, biết được t́nh trạng cực kỳ bi đát của quân trú pḥng, Cộng quân chung quanh đồn dùng loa phóng thanh uy hiếp tinh thần và kêu gọi Tiểu Đoàn 92 BĐQ đầu hàng.

Nhưng Trung Tá Ngôn vẫn không rối trí. Một mặt ông ra lệnh cho các binh sĩ bố pḥng chặt chẽ để nhất định đánh tới người cuối cùng. Mặt khác, ông gửi công điện khẩn cấp cho Đại Tá Nguyễn Thành Chuẩn, chỉ huy trưởng Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân tại An Lộc yêu cầu thả dù tiếp tế gấp khí giới, đạn dược và lương thực cho quân trú pḥng. Trung Tá Ngôn cũng yêu cầu gửi quân tiếp viện và gia tăng sự yểm trợ của phi cơ. Nhưng các phi cơ dù liều lĩnh cũng không thể nào bay qua được hàng rào pḥng không và quân tiếp viện cũng chẳng bao giờ tới. Tuy nhiên, dù trong t́nh trạng tuyệt vọng, các chiến sĩ anh dũng của Tiểu Đoàn 92 BĐQ vẫn nhất quyết không hàng địch. Trung Tá Ngôn c̣n cho biết nếu bị địch tràn ngập, ông sẽ yêu cầu giội bom phá hủy Tống Lê Chân để cùng chết với địch quân.

Nhận được công điện cầu cứu của Tiểu Đoàn 92 BĐQ, Đại Tá Chuẩn lập tức chuyển lời yêu cầu tiếp viện lên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3. Nhưng Tướng Thuần cho biết vẫn chưa nhận được chỉ thị nào của Bộ Tổng Tham Mưu về đề nghị tăng viện hay di tản căn cứ. Trong lúc Tống Lê Chân như ngọn đèn leo lét trước trận cuồng phong, có thể bị tràn ngập bất cứ lúc nào, nhưng lệnh trên vẫn là “chờ”!

Cho tới giờ phút này, quân số tại Tống Lê Chân gồm có 254 Biệt Động Quân, 4 binh sĩ Pháo Binh, 12 lao công chiến trường và 7 nhân viên phi hành đoàn trực thăng bị bắn rơi. Tuy tổng cộng gần 300 nhân mạng nhưng thật sự hầu hết trong số này đă bị thương ít nhất một lần. Hơn nữa, bị vây hăm lâu ngày trong t́nh trạng thiếu thốn nên khả năng chiến đấu đă bị yếu đi rất nhiều.

Về phía Cộng quân, tuy đă bị thiệt hại rất nặng nhưng lại được tăng viện và bổ sung nhanh chóng từ các an toàn khu bên Cam Bốt nên sức mạnh coi như không suy giảm. Trong lúc chỉnh đốn hàng ngũ, địch ngơi tấn công nhưng vẫn pháo kích dữ dội. Rút kinh nghiệm những trận tấn công trước đă bị thất bại chua cay, Cộng quân biết tuy Tiểu Đoàn 92 BĐQ sẽ chiến đấu cho đến phút chót nhưng như cá nằm trong rọ nên chúng thong thả nghỉ ngơi dưỡng quân, cố ư để quân trú pḥng kiệt quệ tới mức tối đa mới tấn công dứt điểm để đỡ bị thiệt hại. Và chuyện phải đến đă đến!

Những đợt cường tập liên tiếp

Ṛng ră trong các đêm 24, 25 và 26 Tháng Ba, 1974, Cộng quân sau khi bổ sung đầy đủ đă liền tiếp mở những đợt xung phong biển người ồ ạt quyết san bằng Tống Lê Chân. Tuy đă gần kiệt sức, các chiến sĩ Mũ Nâu vẫn cắn răng chờ địch trong những giao thông hào đổ nát v́ đạn pháo kích. Trung Tá Ngôn và các cấp chỉ huy cũng sát cánh trong các công sự pḥng thủ với thuộc cấp, ra lệnh phải tiết kiệm từng viên đạn, chỉ được bắn khi thật “chắc ăn.” Giá của mỗi viên đạn phải là một quân thù.

Rồi hàng hàng lớp lớp Cộng quân tràn tới giữa tiếng ḥ la man dại “hàng sống, chống chết!” Đúng lúc này, các chiến sĩ Biệt Động Quân mới cắn răng siết chặt c̣ súng. Địch đă xâm nhập hàng rào kẽm gai pḥng thủ ngoài cùng, nhưng lập tức bị khựng lại v́ gắp phải bức tường lửa từ trong bắn ra rất chính xác. Xác địch chồng chất trên trận địa hay vất vưởng trên hàng rào kẽm gai. Nhưng địch quá đông, nhất định “dứt điểm” nên họ vẫn liều lĩnh xung phong.

Chẳng bao lâu, bộ đội Cộng Sản tràn tới hàng rào thứ hai. Lúc này một loạt ḿn “Claymore” nổ tung khiến nhiều xác giặc tan thành mảnh vụn. Tiếng súng nổ, tiếng la hét cùng với mùi thịt, mùi máu, mùi thuốc súng tạo nên một khung cảnh khủng khiếp. Nhiều chiến sĩ Biệt Động Quân quá mệt mỏi và căng thẳng gần như ngất xỉu v́ những trận tấn công liên tiếp đêm này qua đêm khác nhưng vẫn không rời tay súng.

Địch quân quá đông, lớp này chết, lớp khác đạp lên xác đồng bạn tiến tới. Trong đêm tối, phi cơ không thể yểm trợ hỏa lực. Dù có ban ngày đi nữa cũng khó bay qua màng lưới pḥng không. Trên bầu trời đen kịt, chỉ có vài đóm hỏa châu do phi cơ bay thật cao thả xuống, không đủ soi sánh trận địa, trông leo lét và mong manh như số phận của gần 300 chiến sĩ đang tử chiến với quân thù.

Địch đă tràn gần tới hàng rào pḥng thủ sau cùng, đôi bên giáp mặt. Các chiến sĩ Mũ Nâu buông những cây súng đỏ ṇng, với tay t́m lựu đạn. Nhiều tiếng nổ chát chúa giúp hàng loạt những con thiêu thân thực hiện lời thề “sinh Bắc tử Nam.” Lại một loạt lựu đạn thứ hai tung ra giết hết những tên địch c̣n sống sót trong đợt xung phong này. Bên ngoài hàng rào, không c̣n những bóng người đầu đội nón cối, chân đi dép râu di động như trước.

Sau đó, mặt trận bỗng nhiên im bặt không c̣n những tiếng la hét hô xung phong man dại. Những cán binh địch ngoài xa may mắn c̣n sống sót biết không thể xâm nhập căn cứ nên vội vă lẩn vào bóng đêm. Đợt xung phong cuối cùng của địch đă bị chận đứng tuy chúng đă lọt được gần tới hàng rào pḥng thủ sau cùng.

Một lần nữa, Cộng quân tuy đông hơn nhưng lại bị thất bại chua cay trước sự quả cảm và tinh thần chiến đấu gan dạ vô song của các chiến sĩ Tiểu Đoàn 92 BĐQ. Cùng với lời nguyền “Thà chết không hàng giặc,” căn cứ Tống Lê Chân tuy tan nát như Tiểu Đoàn 92 đang tan nát, nhưng vẫn đứng vững như một phép lạ. Vỏn vẹn một tiểu đoàn Quân Lực VNCH vẫn giữ vững được vị trí sau khi bị bao vây hàng năm trời với nhiều đột tấn công của hàng sư đoàn địch?

Các “cố vấn” Hoa Kỳ c̣n sót lại tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 đă vô cùng kinh ngạc. Trước đây họ đă cho rằng số phận của Tống Lê Chân coi như đă “xong,” v́ theo ước tính của những người lạc quan nhất, ngay cả quân đội Hoa Kỳ với hỏa lực khủng khiếp của thảm bom “Arc Light” B-52 và đại pháo 175 cũng khó ḷng giữ nổi Tống Lê Chân trong ṿng vài ba tuần. Phía Cộng quân lại càng sững sờ v́ họ tưởng sẽ ăn tươi miếng mồi béo bở nhưng lại gặp phải cục xương khó nuốt. Sau nhiều cuộc tấn công thất bại và bị thiệt hại nặng nề, Cộng quân đành ôm hận, lập lại sa bàn trận địa, bổ sung quân số, rút ưu khuyết điểm chờ ngày rửa hận.

Trong những ngày kế tiếp và suốt tuần lễ đầu tiên của Tháng Tư, 1974, Cộng quân không dám tấn công mạnh vào Tống Lê Chân, chỉ dùng đặc công quấy rối nhưng mức độ pháo kích vẫn không giảm. Nhưng “mănh hổ nan địch quần hồ,” các chiến sĩ Mũ Nâu đă không c̣n sức chiến đấu. Đến lúc này, thượng cấp vẫn chưa có quyết định dứt khoát về việc tăng viện hay rút bỏ Tống Lê Chân. Cả Phủ Tổng Thống, Bộ Tổng Tham Mưu lẫn Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 đều lâm vào thế “tiến thối lưỡng nan” không có cách nào giải quyết vấn đề. Sau 17 tháng trời ṛng ră bị vây hăm, pháo kích và tấn công liên miên Tiểu Đoàn 92 BĐQ hầu như không c̣n phương cách nào để thoát khỏi viễn ảnh bị tiêu diệt.

Trận đánh sau cùng của Tiểu Đoàn 92 BĐQ

Nhưng t́nh trạng tạm thời sống lây lất không c̣n kéo dài được bao lâu. Tống Lê Chân như một con cá phơi ḿnh trên thớt không c̣n phương cách tự vệ, nằm chờ lưỡi dao chém xuống. Và lưỡi dao đă rơi.

Ngày 11 Tháng Tư, 1974, sau khi tái điều nghiên, bổ sung lực lượng, Cộng quân mở những cuộc tấn công ác liệt quyết đạt được chiến thắng bằng mọi giá. Trong ngày chúng pháo kích mù mịt không dưới 1,000 quả đạn vào căn cứ đă tan nát trong các cuộc tấn công trước. Tiểu Đoàn 92 BĐQ lúc này đă kiệt lực, hết đạn, một số lớn binh sĩ lại bị thương nên không c̣n sức chống trả những đột tấn công mănh liệt của đối phương.

Nhưng dù t́nh thế đă đến lúc tuyệt vọng nhưng Trung Tá Ngôn vẫn không ra lệnh rời bỏ căn cứ khi chưa có lệnh của thượng cấp. Trước những loạt đạn pháo kích chính xác và các đợt tấn công biển người, vị tiểu đoàn trưởng anh hùng biết chắc không thể nào pḥng thủ được nữa nên khẩn cấp yêu cầu thượng cấp cho lệnh di tản trước khi căn cứ bị địch quân tràn ngập. Trung Tướng Thuần không rơ có tham khảo ư kiến của Bộ Tổng Tham Mưu hay Phủ Tổng Thống hay không, đă ra lệnh cho Trung Tá Ngôn phải “tử thủ bằng mọi giá!”

Nhưng Tiểu Đoàn 92 BĐQ sau hơn một năm trời bị vây hăm, bị pháo kích và tấn công liên miên bởi một lực lương địch quân đầy đủ vũ khí và đông hơn nhiều lần, lại thiếu đạn dược, lương thực, quân số hao hụt không được bổ sung nên đă chẳng c̣n giá nào để trả! Các chiến sĩ Mũ Nâu không c̣n nhiều chọn lựa: ở lại căn cứ chắc chắn sẽ bị chết hay bị bắt hết v́ không c̣n cách nào ngăn chận địch quân hoặc đầu hàng để t́m con đường sống. Nhưng theo truyền thống hào hùng của binh chủng Mũ Nâu, dù trong lúc thập tử nhất sinh cũng vẫn không hàng địch. Trung Tá Ngôn đă đưa ra một quyết định vô cùng táo bạo: dùng toàn lực phá ṿng vây, rời bỏ căn cứ, tuy có thể bị chết hết nhưng may ra sẽ đưa đơn vị tới một nơi an toàn.

Sau khi quyết định xong, vào khoảng nửa đêm 11 Tháng Tư, căn cứ Tống Lê Chân báo cáo nguy cơ sắp bị địch quân tràn ngập. Sau đó, mọi giấy tờ, tài liệu quan trọng đă được thiêu hủy đúng theo kế hoạch di tản để không bị lọt vào tay địch. Lúc đó, chỉ có phi cơ bay thật cao thả hỏa châu yểm trợ. Tiểu Đoàn 92 BĐQ yêu cầu phi cơ ngưng thả trái sáng để đơn vị nương theo bóng tối rời bỏ căn cứ. Dưới sự chỉ huy gan dạ của vị tiểu đoàn trưởng trẻ tuổi và tinh thần kỷ luật của toàn thể binh sĩ, Tiểu Đoàn 92 BĐQ đă di tản trong ṿng trật tự, mang theo tất cả những thương binh. Liên lạc vô tuyến với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 bị gián đoạn ngay sau đó.

Măi tới 9 giờ sáng ngày hôm sau 12 Tháng Tư, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 mới bắt được liên lạc với Tiểu Đoàn 92 BĐQ trên tần số hành quân lúc đó đă rời khỏi Tống Lê Chân đang trên đường di chuyển về hướng An Lộc, khoảng trên 15 cây số về hướng Đông Bắc. Cuộc hành tŕnh xuyên qua rừng rậm dưới sự ŕnh rập của Cộng quân, lại phải mang theo nhiều thương binh nên vô cùng gian nan vất vả.

Suốt đêm, Tiểu Đoàn 92 BĐQ phải kịch chiến với địch, vừa đánh vừa t́m đường rút lui khiến thêm 14 binh sĩ tử thương, 34 người nữa bị thương. Cuối cùng, may mắn như một phép lạ, Tiểu Đoàn 92 BĐQ tới được An Lộc tương đối an toàn, chỉ có thêm 4 chiến sĩ can đảm ở lại chận đường truy kích của địch quân để thành phần chủ lực rút lui anh dũng hy sinh. Tất cả các thương binh, kể cả xác chết của những người bị thiệt mạng đề được mang về.

Biệt Động Quân – sát!

Nh́n chung, Tống Lê Chân chỉ là một tiền đồn nơi đèo heo hút gió gần biên giới Việt-Miên không được nhiều người biết đến. Tiểu Đoàn 92 BĐQ lại là một đơn vị tương đối trẻ trung mới được thành lập từ năm 1970. Vị tiểu đoàn trưởng, Trung Tá Lê Văn Ngôn, con Cọp đầu đàn của Tiểu Đoàn 92 BĐQ cũng là một sĩ quan rất trẻ mới 25 tuổi, xuất thân khóa 21 Vơ Bị Đà Lạt. Trận đánh tại Tống Lê Chân cũng không phải là một cuộc đụng độ lớn. Cuối cùng, Tống Lê Chân lại rơi vào tay địch.

Như vậy, về mặt quân sự, rơ ràng trận đánh tại Tống Lê Chân cũng chỉ “tầm thường” như những trận đánh cùng tầm cỡ khác, kết thúc bằng việc quân trú pḥng phải di tản. Tuy nhiên, về phương diện tinh thần chiến đấu và sức chịu đựng phi thường của các chiến sĩ Mũ Nâu, Tống Lê Chân đă vượt xa những trận đánh lớn nhỏ khác trong quân sử với nhiều điểm rất đặc biệt. Đây là cuộc bao vây lâu dài nhất trong quân sử, một trận dánh trong chiến cuộc Việt Nam mà lực lượng đôi bên chênh lệch nhất và sau cùng, một cuộc lui binh thần t́nh nhất do một vị tiểu đoàn trưởng trẻ tuổi nhất, can trường nhất chỉ huy.



Cuộc bao vây dài nhất trong quân sử



Kể từ khi trại Tống Lê Chân bị Cộng quân khởi sự uy hiếp vào năm 1972 cho tới khi Tiểu Đoàn 92 BĐQ phải di tản vào Tháng Tư năm 1974, căn cứ đă bị bao vậy ṛng ră 17 tháng trời. Ṿng vây của địch vô cùng chặt chẽ khiến “nội bất xuất, ngoại bất nhập,” kể cả đường hàng không. Chẳng những việc gửi quân tăng viện, tản thương và tiếp đạn dược, lương thực v.v… đều bị giới hạn nhỏ giọt mà ngay cả đến cặp lon trung tá thăng cấp đặc cách ngoài mặt trận của tiểu đoàn trưởng Lê Văn Ngôn cũng phải thả dù vào trong trại, không có người gắn lon và việc “rửa lon” truyền thống của nhà binh có lẽ đă được thực hiện bằng máu của Cộng quân.

Điều này làm chúng ta liên tưởng đến chiếc lon thăng cấp của Đại Tá De Castries, người hùng của đoàn quân viễn chinh Pháp tại Điện Biên Phủ vào năm 1954 cũng đă được thả dù vào khu ḷng chảo. Nhưng De Castries trước kia đă không quá cô đơn và bị bao vây ngột ngạt như Lê Văn Ngôn tại Tống Lê Chân v́ ít ra cũng có một số quân nhẩy dù tăng viện. Ngoài ra, De Castries conợ có những “nàng hầu” thân yêu như Béatrice, Éliane, Huguette, Dominique để… tâm sự. C̣n Lê Văn Ngôn và Tiểu Đoàn 92 BĐQ chỉ có độc nhất một quả đồi trơ trụi với ṿng cao độ không quá 50 thước trên bản đồ UTM, một vị trí vuông vức mỗi bề không quá 300 thước để sống chết ôm ấp ṛng ră gần một năm rưỡi trời! Cuộc bao vây ngặt nghèo tới nỗi vào những ngày tháng chót, cả đến việc thả dù tiếp tế cũng bị gián đoạn, c̣n nói ǵ đến việc tản thương hay tiếp viện bằng trực thăng.

Về các cuộc bao vây nổi tiếng khác trong chiến sử, Điện Biên trước kia cũng chỉ kéo dài 57 ngày. Địa ngục Khe Sanh, niềm tự hào của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ cũng chỉ bị bao vây dăm ba tháng, nhưng với thảm bom dầy đặc đêm ngày của B-52, và lúc nào cũng có ba tầng phi cơ chiến thuật chờ sẵn trên không để giội bom, binh sĩ trú pḥng coi như được đi nghỉ mát dưỡng quân theo tiêu chuẩn lính Việt Nam, v́ họ không thiếu một thứ ǵ, kể cả nước đá để uống giải khát! Trong kỳ Đệ Nhị Thế Chiến, Stalingrad lừng danh cũng chỉ bị quân Đức bao vây gần ba tháng. Tobruk của người Anh cũng chỉ cần tử thủ hơn 8 tháng. C̣n Tống Lê Chân? Suốt 17 tháng trường ṛng ră trong những điều kiện tăng viện và tiếp vận khó khăn nhất. Như vậy, sức chịu đựng của người lính Việt Nam Cộng Ḥa phải được coi là bền bỉ siêu đẳng vô địch.

Lực lượng chênh lệch một trời một vực

Về tương quan lực lượng đôi bên, khi xảy ra trận đánh tại Tống Lê Chân, phía Cộng quân có các Sư Đoàn 5, 7 và 9 cùng Sư Đoàn Pháo Pḥng Không 377 tân lập, cộng thêm dăm ba tiểu đoàn địa phương và đặc công “lẻ tẻ.” Tuy Công Trường 5 đă bị thiệt hại khá nặng trong những cuộc hành quân vượt biên đánh sang vùng Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt trước đây của Quân Lực VNCH, nhưng đă được tăng viện nhanh chóng và thường lẩn quất tại vùng biên giới để uy hiếp các trại Biệt Động Quân Biên Pḥng.

Ngoài ra, Công Trường 7 cùng với Tiểu Đoàn Pháo 22 và Tiểu Đoàn Đặc Công 28, sau khi tràn ngập các căn cứ Chí Linh nằm trên Liên Tỉnh Lộ 13 giữa Chơn Thành và Đôn Luân, cũng đè nặng áp lực trên quăng đường bộ từ Lai Khê đến An Lộc. Riêng Công Trường 9 của Cộng quân với 3 trung đoàn c̣n đầy đủ quân số vừa từ Cam Bốt xâm nhập được dùng làm mũi dùi tiến công chính đánh Tống Lê Chân, sau khi đă buộc các trại Biệt Động Quân Biên Pḥng khác như Thiện Ngôn, Katum, Bù Gia Mập phải di tản. Tống Lê Chân là căn cứ biên pḥng duy nhất c̣n lại trong vùng v́ tất cả binh sĩ đều t́nh nguyện ở lại giữ trại. Tiểu Đoàn 92 BĐQ với quân số vỏn vẹn khoảng 300 người, đă bị hàng sư đoàn địch quân thay nhau tấn công và vây hăm hàng năm trời không được tăng viện. Thế mà các chiến sĩ Mũ Nâu vẫn anh dũng bền gan chiến đấu, nhất định không hàng địch! Đây quả là một thành tích phi thường ngoài sức tưởng tượng!

Cuộc lui binh thần t́nh

Sau gần một năm rưỡi trời giữa ṿng vây trùng điệp, lại bị tấn công liên miên, đương nhiên Tiểu Đoàn 92 BĐQ phải kiệt sức. Cho tới khi t́nh trạng tuyệt vọng, đơn vị chỉ c̣n đường rút lui để bảo toàn lực lượng nhưng cũng không quên dùng chất nổ phá hủy doanh trại, không để lọt vào tay Cộng quân. Sau đó, tuy bị truy kích, nhưng các con Cọp Rừng Mũ Nâu đă về được tới An Lộc với tổn thất nhẹ không ngờ: trong số 277 binh sĩ gồm nhiều thương binh, một số lớn đă về được An Lộc. Đây là một thành quả quá sức mong đợi cho một cuộc hành quân lui binh sâu trong ḷng địch. Với tài chỉ huy khôn khéo, tinh thần kỷ luật và sức chiến đấu bền bỉ gan dạ, các chiến Tiểu Đoàn 92 BĐQ đă làm nhiều người ngạc nhiên và thán phục khi rút quân thành công trong một hoàn cảnh vô cùng khó khăn, bi đát.

Cuộc lui quân thành công ngoài sức tưởng tượng này đă khiến dư luận phía Hoa Kỳ nghi ngờ rằng Tiểu Đoàn 92 BĐQ đă “thương lượng” với Cộng quân, bằng ḷng bàn giao căn cứ Tống Lê Chân để đổi lấy việc rút lui an toàn. Quả thật, việc Tiểu Đoàn 92 BĐQ phá được ṿng vây về được đến An Lộc phải coi như một phép lạ nên “dư luận” thương thuyết không phải là không có lư. Vả lại, đây cũng là một trong ba giải pháp mà Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 đă đề nghị lên thượng cấp cách đó không lâu. Ngoài ra, rất có thể những lời đồn đại nói trên là do Cộng quân tung ra để đỡ bị mất mặt v́ Tiểu Đoàn 92 BĐQ đă vượt khỏi ṿng vây như chỗ không người.

Thật sự, Tiểu Đoàn 92 BĐQ đă chỉ giết giặc chứ không bao giờ thương lượng với chúng và cuộc rút lui thành công v́ tinh thần kỷ luật cũng như khả năng chiến đấu tuyệt vời của các chiến sĩ Mũ Nâu. Bằng cớ xác thực nhất là chính những tài liệu bắt được sau đó tại mặt trận cùng những lời khai của tù hàng binh Cộng quân đă cho thấy không hề có chuyện “thương lượng.” Một hồi chánh viên tham dự trận đánh sau cùng vào đêm 12 Tháng Tư tại Tống Lê Chân đă thuật lại khá chi tiết về biến cố này.

Sau trận pháo kích dữ dội, bộ binh địch có chiến xa yểm trợ đă mở các cuộc tấn công mạnh. Tiểu Đoàn 92 BĐQ không c̣n đạn dược và nhất là không có vũ khí chống chiến xa nên bắt buộc phải rời bỏ vị trí. Tống Lê Chân bị bỏ ngỏ từ đêm 12 Tháng Tư nhưng v́ hàng rào pḥng thủ quá kiên cố, lại có nhiều băi ḿn, hơn nữa Cộng quân sợ Tiểu Đoàn 92 BĐQ c̣n tử thủ sẽ gây cho chúng nhiều thiệt hại như những lần trước nên măi tới ngày 13 Tháng Tư chúng mới vào được trại. Lúc đó, các chiến sĩ Mũ Nâu đă rời xa căn cứ trên đường về An Lộc. Tống Lê Chân đă bị đặt chất nổ phá hủy. Địch chỉ t́m thấy xác của 2 Biệt Động Quân và bắt sống một người khác.

Một bằng chứng rơ ràng khác là bản báo cáo của Cộng quân bị Quân Lực VNCVH tịch thu. Tài liệu này tiết lộ một đơn vị Cộng quân có nhiệm vụ chận đường rút lui của Tiểu Đoàn 92 BĐQ đă bất tuân thượng lệnh, không bố trí quân tại những vị trí đă ấn định v́ sợ bị phi pháo Việt Nam Cộng Ḥa tiêu diệt. Cuối cùng, bản báo cáo c̣n đưa ra nhận xét rằng trong trận đánh tại Tống Lê Chân, tinh thần binh sĩ Tiểu Đoàn 92 BĐQ rất cao, c̣n cao hơn cả nhiều đơn vị chính qui của Cộng quân có nhiệm vụ tấn công.

Đường vào lịch sử

Trận đánh tại Tống Lê Chân chính thức chấm dứt vào ngày 15 Tháng Tư, năm 1974 khi binh sĩ cuối cùng của Tiểu Đoàn 92 BĐQ về tới An Lộc. Trước đó, vào ngày 13 Tháng Tư, phi cơ của Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa đă bay 19 phi vụ thả bom đánh vào lực lượng Cộng quân tại Tống Lê Chân. Tuy trận đánh đă chấm dứt từ lâu, nhưng qua cuộc bao vây dài nhất trong quân sử và cuộc lui binh thành công mỹ măn, huyền thoại của Tiểu Đoàn 92 BĐQ tại Tống Lê Chân vẫn sống măi. Các chiến sĩ Mũ Nâu dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Văn Ngôn đă tô đậm một nét son cho truyền thống hào hùng của binh chủng Biệt Động Quân và viết một trang sử huy hoàng trong pho quân sử Quân Lực VNCH

Trần Đỗ Cẩm

hoanglan22
09-12-2020, 00:43
Là 1 trong những viên tướng VNCH đă không chịu đầu hàng và đă chiến đấu đến viên đạn cuối cùng ngày 30/4/1975. Ông phục vụ dưới sự chỉ huy của Phó tư lệnh vùng 4 là LÊ VĂN HƯNG và tư lệnh vùng 4 NGUYỄN KHOA NAM. Là những người anh hùng thật sự trong cuộc nội chiến nam bắc tại Việt Nam
Hồ Ngọc Cẩn (1938 - 1975), nguyên là một sĩ quan Bộ binh cao cấp của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa, cấp bậc Đại tá. Ông xuất
thân từ trường Thiếu sinh quân và tốt nghiệp khóa Sĩ quan Hiện dịch Đặc biệt tại Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế, Nha Trang vào đầu thập niên 60, và là Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng một tỉnh thuộc Quân khu 4 vào giai đoạn cuối Chiến tranh Việt Nam.

GTwc8epBgU0

hoanglan22
09-13-2020, 16:12
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1652849&stc=1&d=1600013475

Mỗi khi nói đến Trần Kim Quan, bạn bè thường gọi anh bằng cái biệt danh không lấy ǵ làm êm tai cho lắm "Quan Mập". Nói đến Quan mập th́ cả Không Đoàn không ai là không biết đến. Thế rồi theo thời gian, mọi người hầu như không c̣n ai nhớ tới họ và tên lót của anh nữa ngoại trừ người hạ sĩ quan văn thư phi đoàn. Đặc biệt hơn nữa là trong phi đoàn có hai Quan, người thứ nhất là Quan Mập, người thứ hai hơi cao, hơi gầy, họ Huỳnh th́ lại được gọi một cách rất đàng hoàng là "Quan Huỳnh" để phân biệt với Quan Mập.

Trong suốt thời gian ở chung đơn vị, tôi chỉ được vài lần thấy anh mặc đồ bay đúng kiểu KQ, c̣n ngoài ra hầu như lúc nào anh cũng mặc quân phục của phi công trực thăng Bộ Binh Hoa Kỳ, tức là áo quần riêng biệt và không bao giờ bỏ áo vô trong quần. Đă thế, anh lại c̣n không bao giờ mang cấp bậc, trên đầu lúc nào cũng có cái mũ lưỡi trai đen bạc màu cố hữu. Thành ra nh́n anh cứ y hệt như một người lính lang thang vô kỷ luật nào đó (họa hoằn lắm mới thấy anh đeo khẩu P.38 bên hông, hoặc trong những phi vụ vô cùng nguy hiểm, anh mới mang theo mảnh áo giáp để che trước ngực). Tôi nghĩ khi anh ra đường lỡ gặp Quân Cảnh th́ họ sẽ "hốt" ngay về Quân Vụ Thị Trấn với tội danh lè phè là cái chắc.

Thế nhưng mội người sẽ bị lầm lẫn ngay nếu đem tính t́nh và khả năng bay bổng của Quan ra để so sánh. Con người của anh không một chút ǵ giống với dáng dẻ bề ngoài: tính t́nh vui vẻ, luôn miệng nói cười, tôi chưa hề thấy anh nổi giận hoặc lớn tiếng với ai bao giờ, kể cả với những thuộc cấp không thi hành đúng lệnh của anh. Riêng về sự b́nh tĩnh, gan dạ, t́nh huynh đệ chi binh, ḷng thành với các chiến hữu có thể nói khó mà t́m được một người thứ hai như anh.

H́nh như Quan không hề biết sợ lưỡi hái của tử thần. Tôi c̣n nhớ, một lần trong lúc hành quân vào mật khu địch ở bên kia biên giới Campuchia. Trước đó hai ngày, một phi cơ trực thăng của phi đoàn do "Ngọc già" điều khiển đă bị bắn rơi bởi đạn pḥng không, những phi cơ bạn bay trong vùng cùng hợp đoàn với Ngọc đă nhiều lần cố gắng đáp xuống để t́m cứu phi hành đoàn nhưng đều bị thất bại v́ hỏa lực pḥng không quá mạnh của địch. Cuối cùng, phi đoàn trưởng của chúng tôi đành phải quyết định cho hợp đoàn quay mũi trở về: ông không muốn hy sinh thêm thuộc cấp của ḿnh.

Sau đó, không c̣n ai dám mạo hiểm bay vào hỏa lực pḥng không dày như đan lưới dù rất nóng ḷng muốn t́m cứu những đồng đội kém may mắn. Thế nhưng hôm ấy, sau khi hợp đoàn trở về Trảng Lớn ăn trưa (căn cứ Trảng Lớn, nơi đặt bộ chỉ huy tiền phương của SĐ25BB), Quan đă cùng phi hành đoàn âm thầm đi t́m chiếc phi cơ của Ngọc bị rớt. Một số người thấy Quan cất cánh đều cho rằng anh đi lấy thêm xăng và gắn thêm rocket để chuẩn bị cho phi vụ buổi chiều. Không một ai biết rằng anh và phi hành đoàn đă làm ǵ mà chỉ biết khoảng độ chừng hơn nửa giờ sau đó anh bay trở lại với thi thể của Ngọc trên tàu.

Một lần, tôi được dịp bay chung với Quan trong một phi vụ "cover" cho Chinook (trực thăng vận tải) tiếp tế cho căn cứ Tống Lê Chân của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân Biên Pḥng đang bị địch bao vây. Vừa cùng hợp đoàn Chinook cất cánh từ Lai Khê, khi phi cơ lên tới cao độ chừng 500 bộ (khoảng 150 mét), đang lơ đăng nh́n những hàng cao cu trùng điệp lướt nhanh dưới chân, đầu óc nghĩ tới những giây phút sắp đến, bỗng dưng tôi cảm thấy mũi phi cơ chúi xuống và lệnh hẳn hướng bay. Với phản ứng tự nhiên của một hoa tiêu, tôi chụp lấy cần lái điều chỉnh thăng bằng và lấy lại hướng bay. Nh́n sang ghế bên phải, tôi thấy tay chân Quan buông thơng, đầu rũ xuống, nghẹo sang một bên. Tôi bấm intercom thất thanh gọi lớn: "Quan, Quan anh làm sao vậy?" th́ bỗng anh bật dậy cười ha hả: "Tao thử xem mày phản ứng ra sao một khi lỡ tao bị bắn trên tàu". Tôi cự nự: "Giỡn cái ǵ mà ác vậy cha? lỡ chẳng may thật th́ vợ con để cho ai!". Quan đáp: "Th́ để cho thằng khác lo, sợ ǵ".

Sau đó tất cả chúng tôi trở lại với tâm trạng lo âu nhưng có phần đỡ căng thẳng hơn lúc trước, vừa bay, vừa trao đổi với nhau những câu chuyện vu vơ trên đường bay vào đơn vị bạn đang bị áp lực của địch đè nặng. Khi chúng tôi bắt đầu tới vùng trách nhiệm, hai chiếc Chinook cho biết họ sắp sửa vào đáp xuống căn cứ th́ mọi "thủ tục chào đón" của địch dành cho chúng tôi cũng bắt đầu, không thiếu một thứ ǵ - từ đốt pháo bông (súng pḥng không) tới bắn đại bác chào mừng (pháo kích vào băi đáp). Quan cùng chiếc số 2 cũng bắt đầu "đáp lễ" một cách vô cùng ngoạn mục, từng loạt rocket, từng tràng minigun của chúng tôi nhả xuống liên tục như mưa trên đầu đoàn quân "sanh Bắc tử Nam".

Những họng pḥng không, những ṇng đại bác câm tiếng, hợp đoàn hoàn thành nhiệm vụ một cách mỹ măn trước sự bất lực và ḷng căm tức của đám "bộ đội cụ Hồ".

Một lần khác, sau khi hoàn thành phi vụ từ An Lộc trở về, tôi bay chiếc gun số 2 (trực thăng vơ trang) bay bám theo sát chiếc số 1 do Quan lái. Vừa bay ngang suối Tàu Ô, Quan bấm máy liên lạc gọi tôi:

- "Ê gun 2, cover cho tao leo xuống kiếm thằng Quan Huỳnh".

Nghe Quan nói thế, tôi thầm lo trong ḷng, v́ nơi Quan Huỳnh bị rớt mất tích trước đó mấy tuần chỉ cách suối Tàu Ô có vài cây số, là nơi đă từng xảy ra những trận quần thảo kinh hồn giữa ta và địch, nay chắc địch vẫn c̣n đóng chốt đâu đây. Thế mà Quan bất chấp những ǵ đang chờ đợi ḿnh dưới đất. Anh "rà" xuống thật thấp và bay chậm với hy vọng may ra sẽ t́m ra được dấu vết nào đó của Quan Huỳnh ở phía dưới. Tôi từ trên cao độ 2000, rồi 1500 bộ, nh́n thấy Quan bay là là chung quanh chiếc phi cơ của Quan Huỳnh bị rớt, tim tôi như muốn nhảy khỏi lồng ngực. Tôi bấm máy gọi Quan:

- "Lên đi, không thấy ǵ nữa đâu, nửa tháng nay rồi c̣n ǵ mà t́m".

Quan đáp:
- "Ráng thêm chút nữa đi 2, may ra..."

Thấy Quan không chịu lên, tôi đành phải xuống thấp hơn nữa để cover cho gần hơn. Bỗng nhiên tôi nghe giọng Quan vang vang trong máy:
- "Mẹ, nó bắn, nó bắn lên!"

Tôi không kịp trả lời Quan. Hai khẩu minigun 6 ṇng của tôi nhả từng tràng đạn liên hồi với nhịp bắn tối đa (4000 viên/phút). Từ phía dưới, Quan vụt phóng lên cao và cao giọng:

- "Tao thấy chúng nó rồi, cover cho tao trả đũa!"

Rồi không cần biết tàu ḿnh lúc năy có bị trúng đạn hay không, Quan quay mũi về hướng mục tiêu và cắm xuống, từng cặp rocket xé gió phóng xuống, nổ tung. Xong đợt thứ nhất, Quan quẹo ra và nói với tôi:

- " Hai, mày vô đi, làm ăn chung quanh chỗ tao vừa làm, tụi nó đông lắm".

Tôi đă chuẩn bị sẵn, chỉ chờ có thế. Quan vừa ra là tôi bắt đầu cắm xuống. Và cứ như thế chúng tôi thay phiên nhau cho tới khi xả hết rocket mới chịu lấy hướng bay về. May mắn, hôm ấy không chiếc nào bị ăn đạn địch.

Nói về Quan, về thành tích trong chiến đấu cũng như trong t́nh chiến hữu, có lẽ phải viết một quyển sách dày máy ra mới tŕnh bày đủ những ǵ anh đă thể hiện trong đời binh nghiệp của ḿnh. Tiếc thay, tôi không có đủ khả năng để làm công việc đó. Tôi chỉ có thể tóm tắt như sau: Quan không bao giờ t́m cách từ chối bất cứ phi vụ nào dù nguy hiểm tới đâu; Quan không hề quay lưng khi bạn bè lâm nạn, chưa từng lùi bước khi đơn vị bạn dưới đất bị lâm nguy, không bao giờ chùn tay lái trước hỏa lực của quân thù.

Thế rồi vào một ngày gần cuối năm 1974. Hôm ấy thời tiết xấu, sương mù giăng phủ khắp vùng rừng núi chiến khu D, đồn điền Minh Thạnh. Ngay từ sáng sớm chúng tôi đă có mặt bên sân đáp của Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù chờ đợi thi hành những phi vụ "đứng tim", đổ các toán biệt kích vào ḷng chiến khu địch!.

Sau cả ba lần cất cánh, chiếc trực thăng chỉ huy chở theo những sĩ quan trách nhiệm của Liên Đoàn đều trở về trong chán nản. Thời tiết quá xấu, sương mù vẫn c̣n dày đặc khắp vùng hành quân. Măi đến gần 3 giờ chiều, chiếc trực thăng cất cánh thêm một lần nữa và lần này các cấp chỉ huy đă quyết định sẽ thả quân vào theo đúng như kế hoạch dự trù.

Sau khi hợp đoàn đang làm ṿng chờ ở phía quân lỵ Chơn Thành, hai chiếc vơ trang của chúng tôi cùng chiếc Charlie (trực thăng chỉ huy) bay sâu vào vị trí để xác định băi đáp một lần cuối cùng trước khi hợp đoàn vào hạ cánh. Quan sát xong, chúng tôi bay trở ra để hướng dẫn hợp đoàn vào, Thiếu Tá Tiên, vị sĩ quan chỉ huy hợp đoàn là người từng nổi tiếng với nhữung phi vụ gay go, căng thẳng đă đem lại những chiến công rực rỡ cho đơn vị ḿnh cũng như các đơn vị bạn.

Với một giọng rơ ràng, b́nh tĩnh, ông hướng dẫn hợp đoàn đến địa điểm đổ quân. Quan bay bên trái, tôi bên phải. Trước khi tới băi đáp, Quan dặn ḍ tôi:

- "Ráng coi chừng cho kỹ nghe gun hai. Có dấu hiệu tụi nó đông lắm đó!".

Tôi không trả lời, chỉ bấm máy hai lần ra hiệu nhận rơ. Rồi giờ phút nghiêm trọng bắt đầu khi tiếng của Charlie vang lên trong máy:

- "Số 1, số 2 lần lượt hạ cánh".

Hai chiếc slick cắt ga cho phi cơ từ trên cao rơi nhanh xuống. Quan kè theo chiếc số 1, tôi cặp theo chiếc số 2. Cùng lúc đó, từng loạt đạn của nhiều loại vũ khí khác nhau bắn xối xả lên hợp đoàn chúng tôi - mục tiêu tốt nhất của địch. Lập tức, bốn khấu minigun của những xạ thủ kinh nghiệm trả đũa, nhả đạn tới tấp. Bất chấp đạn địch bắn lên như đan lưới, hợp đoàn vẫn giữ hướng bay đi vào băi đáp theo lệnh của Charlie. Bỗng nhiên phi cơ của Quan quay đầu trở ra. Chưa hết ngạc nhiên th́ tôi đă nghe tiếng Th/tá Tiên gọi lớn:

- "Gun 1 đi dâu vậy? Quan đi đâu vậy? Sao không theo hợp đoàn?".

Không nghe trả lời, ông gọi tiếp:
- "Quan, Quan, mày đi đâu vậy?"

Vẫn kông có tiếng trả lời, ông gọi cho tôi:
- " Gun 2 tiếp tục theo hợp đoàn"

Tôi bấm máy:
- "Nghe rơ Charlie"

Vừa bay, vừa nhả đạn, tôi không c̣n thời giờ để nghĩ tới Quan nữa v́ hiện tại 2 chiếc "slick" chỉ c̣n một chiếc gun của tôi yểm trợ, tôi phải đặt hết tâm trí vào việc đối phó với quân thù.

Cuối cùng hợp đoàn đă thi hành xong nhiệm vụ. Khi cả ba chiếc lên đủ cao độ để bay về, tôi thở một hơi dài nhẹ nhơm. Bây giờ mọi người mới nhớ tới Quan, chiếc gun số 1, Gịong Th/tá Tiên vang lên trong máy:

- " Gun 1, gun 1, đây Charlie!"

Vẫn yên lặng, ông hét lớn hơn:
- "Gun 1 - Charlie, Gun 1 - Charlie"

Hoàn toàn không có tiếng nào đáp trả. Ông gọi cho tôi:
- "Gun 2 dùng tần số nội bộ gọi gun 1 xem sao"

Tôi đáp"
- " Đă gọi rồi Charlie, không nghe ǵ cả"

Sau một lúc im lặng, tôi đang suy nghĩ xem có cách ǵ để t́m được tàu của Quan hay không th́ bỗng nghe tiếng Th/tá Tiên la lên trong máy:
- " Có một chiếc trực thăng đang đậu dưới Chơn Thành, để tao xuống xem sao?"

Cả hợp đoàn hạ cao độ th́ thấy rơ ràng chiếc Gun 1 của Quan đang đậu dưới đó. Mọi người chưa hết ngạc nhiên và đang đặt một câu hỏi chuyện ǵ đă xảy ra cho Quan th́ được Charlie từ phía dưới báo lên một tin như sét đánh ngang tai:

"Quan mập" đă đền nợ nước!

Nghe tin này, tất cả chúng tôi như người đang nằm trong mộng, sững sờ không nói với nhau được một lời. Phải cả phút sau đó, chúng tôi mới hoàn hồn và bày tỏ ư định muốn đáp xuống nh́n xác Quan và chia sẻ mất mát với anh em phi hành đoàn gun 1, nhưng Th/tá Tiên không cho phép và ra lệnh cho chúng tôi bay về trước. Ông e rằng một khi chúng tôi đáp xuống, địch sẽ rót đại bác vào quận lỵ, gây thêm mất mát, tang tóc cho ḿnh một cách vô lư.

Vậy là sau bao lần thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc, cuối cùng Quan mập cũng đă vĩnh viễn ra đi. Sau đó chúng tôi được biết anh đă tử thương ngay từ những loạt đạn đầu tiên của địch. Một viên pḥng không 12 ly 8 của quân thù đă xuyên qua đầu anh và đâm thẳng lên trần cockpit phà hỏng hệ thống truyền tin của phi cơ, v́ thế mà Th/tá Tiên , tôi và tất cả anh em khác đều không ai liên lạc được với phi hành đoàn của gun 1 nữa. Sau khi Quan trúng đạn, Lâm Văn Có - hoa tiêu phụ của Quan hôm đó - vội vàng vừa điều khiển phi cơ, vừa cố liên lạc với các phi cơ khác nhưng vô hiệu. Không c̣n cách nào khác, Có đành quay mũi phi cơ bay thoát ra ngoài và đáp xuống Chơn Thành...

Quan ra di mà không một lời trối trăn từ biệt. Đành bỏ anh em bạn bè. Cánh chim nào ĺa đàn mà không làm cả bầy xao xác, nhưng riêng với Cố Đại Uư Trần Kim Quan, một chiến hữu mà tôi từng mến phục, từng nhiều lân vào sanh ra tử, sự ra đi của nh đă để lại trong ḷng tôi muôn vàn xót xa, thương tiếc.

Hơn 19 năm đă trôi qua nhưng h́nh ảnh quan tài của Quan với lá cờ vàng ba sọc đỏ của Tổ Quốc phủ kín, với tấm Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu lấp lánh bên hàng nến lung linh vẫn chưa phai nhạt trong tôi. Và tôi cũng tin rằng ở một nơi chốn b́nh yên nào đó, chắc chắn hồn anh cũng măi nhớ đến những cánh chim cùng bầy ngày nào, giờ đang tan tác khắp bốn phương trời cách biệt.

Mlebourne

Lôi Vân 71.

hoathienly19
09-16-2020, 05:18
Bài viết thật cảm động . Cám ơn anh người lính VNCH đă hy sinh tuổi hoa xuân trong cuộc chiến ngăn chận làn sóng đỏ , các anh sống măi trong ḷng dân tộc VN.

hoanglan22
09-16-2020, 14:46
Bài viết thật cảm động . Cám ơn anh người lính VNCH đă hy sinh tuổi hoa xuân trong cuộc chiến ngăn chận làn sóng đỏ , các anh sống măi trong ḷng dân tộc VN.

:thankyou: bạn ghé đến Trang lính > Mong bạn góp thêm bài về lính ở đây:handshake:

hoanglan22
09-17-2020, 15:01
j8jZ4c8NQlw

Hậu duệ chúng tôi xin được tri ân đến Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 43, Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Ông là người con đáng tự hào của xứ Huế.

Ông đă theo học khóa 13 Trường Bộ Binh Thủ Đức, ông nhập học và ra trường cùng năm 1962. Sau khi ra trường, ông về lại quê nhà và phục vụ trong Trung Đoàn 46 Biệt Lập. Từ đó, do nhu cầu quân vụ, trung đoàn này tiếp tục di chuyển từ từ vào Nam, qua các địa danh Đà Nẵng, quảng Nam, Quảng Ngăi, B́nh Định, Quy Nhơn… và sau cùng là Hậu Nghĩa. Trung Đoàn 46 đă sát nhập vào Sư Đoàn 25 Bộ Binh.

Năm 1966, tức là sau 4 năm, ông làm đơn xin giải ngũ và được chấp thuận…

Biến cố Mậu Thân 1968 đă xăy ra và mức độ leo thang chiến tranh ngày càng khốc liệt do phía cộng sản miền Bắc phát động theo lệnh quan thầy Liên xô, Trung Cộng. Ngoài việc nhuộm đỏ toàn vùng Đông Nam Á, mà Nhuộm đỏ Việt Nam là bước tiên khởi. Th́ cuộc chiến này không những làm cho Việt Nam bất ồn, suy yếu, mà ngày càng lệ thuộc vào cộng sản Nga, Tàu và qua đó chúng sẽ thực hiện tham vọng thôn tính Việt Nam từ từ như ngày nay ai cũng thấy rơ…

Sau Mậu Thân 1968, ông được gọi tái ngũ. Ông đă phục vụ trong Binh Chủng Biệt Động Quân 2 năm trước khi về Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 49 thuộc Sư Đoàn 25 Bộ Binh. Sau đó được thuyên chuyển qua Sư Đoàn 18 Bộ Binh dưới quyền vị tư lệnh tài đức song toàn là Thiếu Tướng Lê Minh Đảo.

Ông là một trong những vị tiểu đoàn trưởng được danh tướng Lê Minh Đảo ưu ái và đánh giá cao. Tại chiến Trường An Lộc vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, nhờ chiến công hiển hách ông đă được đặc cách tại mặt trận lên Thiếu tá.

Chiều 17/3/ 1975, tiểu đoàn của ông di chuyển vào đóng trên ngọn đồi ở phía tây bắc trên QL 20, để bảo vệ Chi Khu Định Quán. Sáng hôm sau, trước lối tấn công tiền pháo hậu xung bằng thí quân biển người của Trung Đoàn 141, Sư Đoàn 7 Bắc Việt, Chi Khu Định Quán đă thất thủ. Cũng vào ngày 17/3/1975, Đại Đội Biệt Lập 357 Địa Phương Quân cũng được Quân Đoàn III (chứ không phải là ĐĐ 377 như một số tài liệu, v́ tôi có người thân phục vụ trong ĐĐ 357 ĐPQ này và hiện nay vẫn c̣n sống), nhưng lực lượng pḥng thủ quá ít so với lực lượng tấn công. Sáng 19/3/ 1975, Bắc quân dồn toàn bộ lực lượng tấn công và tràn ngặp nơi Tiểu Đoàn 2 đóng quân, buộc ḷng tiểu đoàn của ông phải rút lui với tổn thất cao, toàn bộ Định Quán đă rơi vào tay quân Bắc Việt.

Bỏ Định Quán, TĐ 2 rút về Cầu La Ngà, rồi Túc Trưng và sau cùng là rút về đóng tại hậu cứ ở Núi Thị để được tái trang bị, bổ sung quân số và huấn luyện gấp rút. Núi Thị (H́nh như c̣n được gọi là Đồi 81) vừa là Căn Cứ Hỏa Lực gồm 12 khẩu đại bác 105mm và 155mm, vừa là trạm truyền tin liên lạc quan trọng của QĐ III. Đây là vị trí chiến lược quan trọng để bảo vệ mặt tây của Thị Xă Xuân Lộc, đồng thời tại cao điểm này, Pháo Binh có thể bắn yểm trợ cho quân bạn quanh Xuân Lộc và theo dơi sự chuyển quân của giặc. Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế đă cho một trung đội lên đóng ở Núi Ma ở phía bắc của Núi Thị và ở phía bên kia của QL 1, để kiểm soát t́nh h́nh tốt hơn.

Mặt trận Xuân Lộc bắt đầu từ sáng ngày 9/4/1975 và tại đây SĐ 18 BB đă đánh một trận để đời, với quyết tâm trên dưới một ḷng, họ đă đánh bại QĐ 4 Bắc Việt. QĐ 4 gồm SĐ 6, SĐ 7, SĐ 341 và SĐ 1 thuộc QĐ 7 bổ sung.

Do t́m hiểu cá nhân, tôi tin chắc rằng tại mặt trận này ngoài loại bom Địa Chấn BLU-82 Daisy Cutter được xử dụng, Không Quân VNCH c̣n thả thêm một trái bom Nhiệt Áp CBU-55. Phía Hoa Kỳ thời đó hoàn toàn im lặng khó hiểu v́ rất có thể họ không muốn khối cộng sản mà nhất là Liên Xô biết bom Nhiệt Áp CBU-55 đă được thả thử nghiệm tại đây !

Sau 12 ngày đêm bảo vệ Xuân Lộc, Bắc quân buộc phải rút lui về hướng tây để đi đường ṿng tiến về Thủ Đô Sài G̣n. SĐ 18 cũng được lệnh rút về Phước Tuy. 5 giờ sáng ngày 21/4/1975,TĐ 2 là đơn vị sau cùng triệt thoái khỏi Xuân Lộc bằng cách băng rừng về Long B́nh. Sau 5 ngày, Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế đă về được Long B́nh an toàn.

Khi tham chiến tại Xuân Lộc, TĐ 2 có quân số khoảng 600 Quân nhân, nhưng khi rút được về Long B́nh th́ chỉ c̣n lại một nữa! Những quân nhân của TĐ 2 hy sinh tại Núi Thị hay trên được rút lui đă bị bỏ lại, hoặc được đồng đội chôn tại chỗ. Nhân đây chúng tôi xin nhắn tin, nếu ai là thân nhân của người lính trẻ khoảng 19, 20 tuổi tên Nguyễn Ngói, quê ở Nha Trang, thuộc Trung Đội 2, Đại Đội 4. Anh Nguyễn Ngói hy sinh do bị miểng pháo vào ḷng ngực trong khi đang t́m cách nhảy vào hố cá nhân vào sáng ngày 9 /4/1975, anh được đồng đội chôn tại chỗ bằng cách đào rộng hố cá nhân của anh… Hiện nay nơi chôn không c̣n dấu vết nhưng một số người địa phương vẫn biết vị trí. Sau khi đọc được những gịng chữ này, xin người nhà liên lạc với chúng tôi để anh Nguyễn Ngói được về với gia đ́nh. Đối với chúng tôi đây là việc làm phát xuất từ món nợ ân t́nh chứ không vụ lợi.

Sau 30/4/1975, Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế cũng đă chịu cảnh tù đầy trong khoảng thời gian 5 năm. Hiện ông cùng gia đ́nh đang định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO. Hậu duệ chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hy sinh của ông và của toàn thể chiến hữu của ông trong công cuộc bảo vệ miền Nam tự do, dân chủ. Chúng tôi vẫn luôn ngưỡng mộ ông và cầu chúc ông cùng gia đ́nh luôn vui khỏe và b́nh an. Câu nói của ông luôn được chúng tôi suy ngẫm và làm theo :

“Nếu phải chết! Th́ phải chết sao cho xứng đáng!”.


Cuong Nguyen

hoanglan22
09-17-2020, 15:09
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1655259&stc=1&d=1600355288

Ḿnh mới biết bài hát này “Cúc Ơi !” hơn 5 năm nay thôi.Mổi lần ḿnh nghe lại nước mắt chăy
dài trên má,cổ họng như bị chặn lại nghẹt thở,cố gắng kiềm ḷng mà không được nhất là khi
nghe đến câu :"đất sâu bao nhiêu bọn anh không cần biết,chỉ sợ em đau nên cuốc chùng tay"...
H́nh ảnh chiến tranh ngày xưa lại sống lại trong ḿnh....
Lâu quá không nhớ lại thời gian hay địa danh...
Có lần trong phi đoàn ḿnh đi làm cho Sư Đoàn 9 BB.Được lệnh chở "chiến lợi phầm "tịch thu
được đem về căn cứ cho họ...
Sau buổi cơm trưa được tàu cơm mang đến từ Căn cứ Không quân.Đang nẳm nghỉ trưa th́
được lệnh quay máy và tiếp tục “cuộc hành tŕnh” trong ngày.
Ḿnh bên chiếc Trực thăng vơ trang số 1 (TTVT luôn luôn đi 2 chiếc danh hiệu Măng Xà Alpha và
Măng Xà Brovo)...Khi 5 chiếc slick đem hết chiến lợi phẩm lên xong.Chiếc số 1 (Lead) vừa cất
cánh và hợp đoàn cất cánh theo...
Hai TT vơ trang cất cánh cuối cùng theo sau,dưới cao độ thấp...
Khi chiếc số 1 chở CLP lấy cao độ chắc khoảng hơn 1000 bộ...ḿnh thấy nguyên một cụm lửa
bao tṛn chiếc số 1 (Lead: dẩn đầu) và sau đó nổ tung trên không như quả cầu lửa....Ḿnh chỉ
thấy những mảnh vụng nhỏ li ti bay tơi tả từ từ rơi xuống đất...Bị nổ v́ chiến lợi phẩm? (cho
đến bây gị cũng không biết lư do ;bị gài nổ,hay chiến lợi phầm nổ hay phi cơ nổ) nhưng chắc
chắn là không phải SA 7...Cả hợp đoàn bay tứ táng như đàn chim vỡ tổ,trên tầng số ồn ào như
vỡ chợ....Sau đó vài phút tất cả bay theo chiếc số 2 kết hợp đoàn lại...và tiếp tục phi vụ cho đến
căn cứ SĐ9BB .
Riêng 2 chiếc TT vơ trang được lệnh phải xuống thấp ,thật thấp để t́m xem có c̣n ai mai mắn
hay thấy xác,thấy được vật ǵ c̣n lại không...Ḿnh c̣n nhớ rất rỏ khi nghe trong helmet (nón
bay) lệnh của C&C (chỉ huy hợp đoàn) :"Măng xà Alpha và Brovo (danh hiệu 2 TT vơ trang) các
anh xuống thật thấp t́m kiếm và xem có thấy được ǵ không...Dù thế nào cũng phải t́m anh em
dù là một manh áo bay và bay rộng ra t́m cho bằng được.(gần giống như trong lời bài hát:"đất
sâu bao nhiêu bọn anh không cần biết....") Lệnh cấp chỉ huy đưa xuống là phải làm theo
thôi..."bọn này cũng con người mà và cũng biết chết vậy"...Nhưng lúc đó đâu có thời gian nghĩ
hay lo sợ ǵ?chỉ biết "nghe 5/5" và thi hành...
Chúng tôi bay quầng sát đọt cây,ngọn lúa,ngọn cỏ mái cḥi tranh…Người dân vẫn khom lưng
làm việc b́nh thường,có khi họ phải khom ḿnh xuống v́ sợ chúng tôi bay đụng họ,thỉnh thoăng
có người đưa tay vẫy chào chúng tôi hay tống biệt?Những chú trâu,chú ḅ vẫn cậm cụi kéo cày

kéo bừa như chúng tôi đang cậm cụi t́m xác bạn…Dù sao đi nữa cũng cảm ơn họ v́ chưa bắn
lên.Có lẽ họ không dám thôi.
Hai chiếc TT vơ trang cố gắng miệt mài theo ư Hoa tiêu và 16 con mắt mở to ra,Cơ phi,Xạ thủ 2
tay thủ súng sẵn sàng nhả đạn bất cứ lúc nào,đôi mắt như soi mói như muốn lật tung những
mái nhà,những lùm cây buội cỏ,bờ kinh con rạch...gần 2 tiếng đồng hồ ,tàu sắp hết xăng và
được lệnh bay về đổ xăng thêm và bay lên vùng lùng tiếp...Chiếc C& C cũng bay ṿng t́m kiếm
trên cao độ hơn chúng tôi.
Sau gần 4 tiếng đồng hồ t́m kiếm...Trời sắp tối mây mưa đen kéo đến như đe dọa...Chúng tôi
cũng phải chấp nhận tṛ chơi "đùa với tử thần"này....Nhưng chúng tôi không t́m thấy được ǵ
và được lệnh bay về căn cứ... Xong phi vụ.
Trên đường bay về lại căn cứ,4 người phi hành đoàn im lặng không ai dám nói ǵ, 4 cột khói
thuốc bay tỏa trong ḷng tàu nhưng h́nh như không ai c̣n biết mùi vị ra sao…và bay tỏa ra
ngoài quyện cùng gió như chia sẽ cùng những bạn bè đă ra đi hôm nay...Ai cũng theo đuổi ư
nghĩ riêng của ḿnh và có lẻ đang khóc trong ḷng...Nhưng cũng có thể cùng chung một ư nghĩ là
:"Bao giờ đến phiên ḿnh?"
Phi hành đoàn kém mai mắn gồm Tr/úy Hùng 4,Th/úy Trân,Cơ phi là Trung sĩ nhất Trường,Xạ
thủ là Hạ sĩ Minh (Nếu ḿnh nhớ không lầm)....H́nh như Trường và Minh là 2 người bà con gần
lắm hay là 2 anh em "cột chèo" lâu quá không nhớ rơ.???
Nguyện linh hồn các bạn được tiêu diêu nơi miền cực lạc cùng vui vẻ với bạn bè và thân nhân.
"Bọn mầy đă an phần rồi ...Tao c̣n vất vưỡng nơi đây nhớ đến bọn mầy".
Sáng Kennewick,June-30-2020.
Nhớ Bạn.

Tư “cùi” (Nguyễn Thện Tư K5/69)

Cựu Cơ Phi PĐ 211 và PĐ 255
TLT-NTT

hoanglan22
09-18-2020, 17:43
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1655982&stc=1&d=1600478914

Huy Hiệu Đại Đội 80, 81, 82, 83, 84/TĐ8ND

Âm mưu muốn nuốt trửng Miền Nam Nước Việt, của những người cầm đầu miền Bắc trong Bắc Bộ Phủ, nên năm 1968 các đỉnh cao trí tuệ này nghĩ ra kế hoạch đánh lừa Quân Dân Miền Nam bằng cách: Nhân dịp Tết Mậu Thân tung ra kế hoạch xin ngưng chiến ba ngày Tết, để Quân Dân miền Nam không đề pḥng, để dịp này chúng tung quân Tổng Công Kích Tết Mậu Thân tức đánh úp toàn thể lănh thổ Miền Nam hầu nuốt trọn Miền Nam trong thế chính nghĩa (với chiêu bài lừa bịp toàn cầu, chúng tung tin dân miền Nam chán ghét chế độ “Việt Nam Cộng Ḥa” cho nên toàn dân miền Nam từ vĩ tuyến 17 cho đến Cà Mau đồng loạt Tổng Nổi Dậy đuổi quân xâm lược Mỹ. Nhưng sự thật miền Bắc đă xua quân xâm lấn, dưới sự chỉ huy “lănh đạo” của Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, do tên Hồ Chí Minh chỉ đạo và Vơ Nguyên Giáp tổng chỉ huy “vậy mà trên thế giới tới hôm nay vẫn c̣n có người tin là dân chúng miền Nam tổng nổi dậy, đau như thế đó”). Quân Dân Miền Nam v́ luôn luôn khao khát Ḥa b́nh, nhất là quá ngây thơ cho nên chấp nhận ngưng chiến và thi hành rất nghiêm chỉnh không tấn công địch trong ba ngày Tết

Để chuẩn bị cuộc lừa bịp này từ mùa hè năm 1967 Hồ Chí Minh và Vơ Nguyên Giáp cùng Bộ Chính Trị đă chuẩn bị kế hoạch Tổng Công Kích kỹ lưỡng và chúng tin chắc chắn rằng chúng sẽ chiến thắng, để Quân Dân Miền Nam không nghi ngờ, ngày 1 tháng 1 năm 1968 Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cư Trinh của chúng c̣n ngỏ ư xin ḥa đàm với Hoa Kỳ; lệnh khởi sự tấn công bằng bốn câu thơ chúc tết của Hồ Chí Minh trên đài phát thanh Hà Nội trong đêm Giao Thừa, giờ mà mọi gia đ́nh c̣n nguyên truyền thống Dân Tộc cho là linh thiêng nhất trong năm, lệnh này đă phổ biến đến các cấp chỉ huy của Cộng Quân ở miền Nam biết để thi hành từ tháng 9 năm 1967 bốn câu thơ này Hồ Chí Minh gân cổ đọc, sau khi đă mài răng và liếm môi trơn tru, con cáo già gân cổ đọc đúng vào giờ linh thiêng của TẾT Mậu Thân:

Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua.
Thắng trận tin vui khắp nước nhà.
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ.
Tiến lên! Toàn thắng ắc về ta.

Nhưng nhờ tinh thần kỷ luật cao các đơn vị thuộc sư đoàn Nhảy Dù Việt Nam sẵn sàng chấp nhận gian khổ, những lúc đồng bào vui mừng đón xuân là lúc các chiến sĩ Mũ Đỏ tay gh́m súng mắt trông chừng về phía rừng núi âm u nơi bọn thảo khấu rừng xanh con cháu của Cáo đang đưa cặp mắt Cáo láo liên ŕnh rập đồng bào vô tội, nên Mũ Đỏ lúc nào cũng sẵn sàng, để không phụ ḷng đồng bào tin tưởng nơi lực lượng Tổng Trừ Bị của QLVNCH, cho nên ngay từ giây phút sanh tử đầu tiên này, lập tức các đơn vị Mũ Đỏ phản công liền tay dù chỉ với lực lượng hạn hữu, nhưng quyết liệt giữ trọn lời thề với mẹ Việt Nam:

Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù đă giữ vững Quảng Trị, anh dũng cản bước tiến của một trung đoàn chính quy cùng các đơn vị địa phương, để Quảng Trị vẫn xứng danh là tỉnh địa đầu Giới Tuyến.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1655983&stc=1&d=1600450700

Lính Nhảy Dù trong trận Mậu Thân - SàiG̣n

Tiểu Đoàn 2 và Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù đă giữ vững Phong Điền và Quảng Điền rồi từ đó về cứu nguy Huế, nếu các đơn vị Nhảy Dù không vào Huế kịp thời, Tướng Ngô Quang Trưởng bị bắt hay tự sát, thử hỏi cuộc chiến Mậu Thân tại Huế sẽ ra sao?

Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đă giữ vững Đà Nẵng, trước sự tấn công của trung đoàn địch từ phương Bắc tràn đến.

Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù đă giữ vững Kon Tum, dù không có Phi Pháo yểm trợ nhưng KonTum vẫn đứng vững không mất một thước đất cho địch.

Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù đă giữ vững Bà Rịa (Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp) trước sức tấn công của một trung đoàn địch. Đến năm 2003 kỷ niệm 35 năm cho trên 200 Cộng quân nằm xuống v́ thi hành ư đồ thôn tính miền Nam, được chúng ta chôn tập thể tại đây. Trước nấm mồ chôn tập thể, ban tổ chức lễ kỷ niệm này đă than rằng: Trung đoàn này bị sư đoàn Nhảy Dù của địch tấn công, (điêu ngoa là nghề của chúng, sự thật rành rành lúc đó các tiểu đoàn Nhảy Dù đă có mặt các nơi như trong bài này tŕnh bày) nhưng thật sự chỉ có Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù thanh toán trung đoàn này khi chúng tấn công Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp, vào đêm ngày mồng 1 rạng ngày mồng hai, chúng tin tưởng là sẽ thắng Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù dễ dàng v́ Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù là tiểu đoàn tân lập, nếu chiến thắng chúng sẽ thôn tính Bà Rịa như trở bàn tay, chúng đă lầm v́ tiểu đoàn tân lập nhưng lại có nguyên tám trung đội từ Trung đội Trưởng đến anh khinh binh đều là những cán bộ kỳ cựu của tám tiểu đoàn cũ, được thuyên chuyển đến để làm khung cho tiểu đoàn này.

Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù hai đại đội đă đẩy lui địch quân khỏi phi trường Tân Sơn Nhất khi trung đoàn địch đă đưa được hai tiểu đoàn vào phi trường, tiền quân của chúng chỉ c̣n cách chỗ đậu phi cơ một trăm thước, chỉ cần chậm chân mươi phút máy bay của ta do các phi công của chúng bay lên không phận Sài G̣n, c̣n hàng trăm phi cơ làm mồi cho bê ta, thiệt hại và nhục nhă biết chừng nào?

Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù hai đại đội c̣n lại đẩy một tiểu đoàn chính quy đă lọt vào Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH ra khỏi ṿng rào, khi tiểu đoàn địch đă vượt qua trường Sinh Ngữ Quân Đội, tiến trong chỗ không người và chỉ c̣n cách cư xá các Tướng lănh không đầy 100 thước, thử hỏi nếu Mũ Đỏ đến chậm mươi phút thôi, chúng bắt đi dăm bẩy tướng lănh, cờ đỏ sao vàng lặng lẽ bay trên cột cờ Bộ Tổng Tham Mưu/Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa lúc đó chúng ta ê chề ra sao?

Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù đă đẩy một trung đoàn địch ra khỏi kho đạn G̣ Vấp, khu Hạnh Thông Tây, Xóm Mới, nếu kho xăng kho đạn G̣ Vấp phát hỏa đạn nổ vang rền, xăng cháy khói ngút trời xanh, chúng ta đón nhận đau đớn thế nào?

Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù giữ vững trung tâm thủ đô, đẩy các đơn vị đặc công ra khỏi Đài Truyền H́nh, đài Phát Thanh Sài G̣n, giữ vững khu Sở Thú và Dinh Độc Lập, không may cờ đỏ sao vàng bay phất phới trước dinh Độc Lập sẽ ra sao?

Các đơn vị yểm trợ, pḥng sở. v.v… của sư đoàn Nhảy Dù chiếm các cao ốc từ ngă ba Bà Quẹo đến ngă tư Bẩy Hiền chặn đường tiến công của các đơn vị đặc công dùng đường này xâm nhập vào khu Tân Sơn Nhất, ngă ba Ông Tạ; tóm lại không một đơn vị nhỏ nào thuộc sư đoàn Nhảy Dù/VNCH vắng bóng trên chiến trường ngay từ giây phút đầu tiên của cuộc chiến lừa lọc Tết Mậu Thân. Nếu chậm chân th́ chúng ta đă bị Cộng Sản miền Bắc thôn tính từ năm đó.

*****

Nhưng Tết năm 1969 các đơn vị Nhảy Dù lại được ăn Tết tưng bừng hơn, xum vầy bên nhau nhiều hơn, tại Cổng Tây của Miền Nam Việt Nam, các đơn vị khác th́ hành quân nhiều lần hơn các đơn vị thuộc sư đoàn Nhảy Dù Việt Nam, v́ hai năm chúng tôi chỉ hành quân có một lần, đó là lần chúng tôi hành quân tại Cổng Tây của Miền Nam Việt Nam, lần này chỉ ngắn ngủi khoảng chừng 729 ngày là nhiều, c̣n các ngày khác trong hai năm này (1969-1970) chúng tôi ăn ngủ thỏa thuê v́ hưu chiến theo thỏa ước với các nhà lănh đạo miền Bắc.

Ngày 9 tháng 2 năm 1969 tức ngày 23 tháng chạp năm Mậu Thân, ngày Chủ Nhật, ngày ông Táo lên trời, nên Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam, từ Sài G̣n xuất quân để lại Liên Đoàn 2 Nhảy Dù với ba tiểu đoàn tác chiến hành quân ṿng đai ven đô Sài G̣n-Chợ Lớn, Bộ Tư Lệnh/SĐND tiến về hướng Bắc-Tây Bắc Sài G̣n, tới đồn trú tại đồn điền Vên Vên – Tây Ninh, tung hai lữ đoàn với sáu tiểu đoàn tác chiến ra làm quen với Sư Đoàn Chính Quy Số 9 của miền Bắc (Công Trường 9), cùng các đơn vị pḥng không và các đơn vị địa phương lực lượng chính của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam , v́ có tin các đơn vị này sẽ được Công Trường 7 đang có mặt tại khu vực đồn điền Chup tăng cường nhằm đánh úp, chiếm Tây Ninh để làm thủ đô cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, sau khi chúng thất bại không chiếm được một Quận lỵ nào của chúng ta mà phải tổn thất gần 50 ngàn quân trong dịp tấn công hai lần tết Mậu Thân, Công Trường 9 của chúng đang đồn trú quân tại vùng sông Vàm Cỏ, ngay cả những làng mạc cách Quốc lộ số 1 khoảng chừng ba cây số, đối diện với đồn điền Vên Vên cũng là nơi tập trung các đơn vị địa phương của chúng, các đơn vị này sẽ là lực lượng phục kích cắt đường tiếp tế cho Tây Ninh, chặn viện binh cho Tây Ninh, ngay ngày đầu tiên vào vùng khúc quanh của sông Vàm Cỏ, các đơn vị Nhảy Dù Việt Nam cho chúng thấy sự lợi hại của các Thiên Thần Mũ Đỏ.

Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Thu Lương đă đụng độ vô cùng mạnh mẽ với đơn vị cấp Tiểu Đoàn của địch với công sự pḥng thủ vững vàng, nhưng các Chiến sĩ Mũ Đỏ đă tràn vào, cùng đường địch quân phải đánh xáp lá cà, địch tổn thất nặng nề phải rút lui, đây là trận địa chúng đă chuẩn bị sẵn, cho nên Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù đón những trận Pháo liên hồi. Phải nói đây là trận pháo mạnh mẽ nhất của chiến trường miền Nam lúc bấy giờ, nhưng chúng đă pháo vào chỗ không người v́ Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù sau khi thu dọn chiến trường, đă tiến chiếm sang mục tiêu khác, vị tướng tư lệnh Sư Đoàn 25 Bộ Binh Hoa Kỳ lúc đó đang bay thị sát chiến trường cho các đơn vị của ông, ông thấy chúng ta chạm địch nặng nên ông bay lại quan sát giúp chúng ta, từ trên không quan sát trận đánh ông liên lạc được với cố vấn Hoa Kỳ đi bên cạnh Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù (Team 162), ông đă quan sát được vị trí pháo của chúng, ông cho toán cố vấn biết pháo địch đang ở đâu, đồng thời lập tức ông sử dụng các đơn vị không pháo cơ hữu đánh tan các ổ pháo này, chính nhờ điều may mắn như vậy, nên các chiến sĩ Mũ Đỏ của Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù hăng hái tấn công các mục tiêu đă dự trù trong kế hoạch hành quân của quân đoàn, trước sự kinh hoàng của địch quân v́ bị tấn công bất ngờ, tại những mục tiêu phía tây bắc của thị xă Tây Ninh.

Một Tiểu Đoàn TQLC/Việt Nam tấn công vào khu làng đối diện với Vên-Vên cách quốc lộ chừng 3 cây số, chạm địch nặng đây cũng là đơn vị địa phương cấp trung đoàn, nhưng được trang bị súng và đạn dược như các đơn vị chính quy.

Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Trương vĩnh Phước tiến song song với TĐ1ND thanh toán những mục tiêu sắt máu chung quanh G̣ Nổi, gặp sức kháng cự của trung đoàn địa phương có trang bị đầy đủ súng cộng đồng như các đơn vị chính quy, nhất là B41 các đơn vị địa phương khác chưa có, đơn vị này đă được trang bị để thi hành nhiệm vụ mới, chắc chắn phải quan trọng hơn b́nh thường, khi bắt được tù binh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III khai thác mới biết nhiệm vụ của trung đoàn này là đánh chiếm Trảng Bàng.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1655985&stc=1&d=1600450700

Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Thế Nhă tiến chiếm khu vực phía Tây bắc của Vên Vên, có chiến xa yểm trợ gặp sức kháng cự bởi một Trung Đoàn của Công Trường 9, nhờ cuộc chạm địch này có bắt được tù binh khai thác mới xác nhận được tin t́nh báo, Cộng quân đă có quân chung quanh Tây Ninh, và việc đánh Tây Ninh vào dịp tết Kỷ Dậu là việc tất nhiên phải đúng, nếu không chúng không điều động một lực lượng đông đảo như vậy chung quanh và sát nách Tây Ninh, chỉ cần chúng ta điều quân sau Tết Kỷ Dậu là chúng chiếm Tây Ninh dễ dàng bằng hai công trường và các đơn vị địa phương vào dịp tết này.

Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn văn Thọ, lục soát dọc theo biên giới đụng độ với các đơn vị địa phương, nên không bị thiệt hại và cũng chỉ tịch thu được không đầy 10 cây súng, tiêu diệt được một lực lượng địch không đầy 20 tên, cùng lúc đó Trung Đoàn 4 TQLC Việt Nam đang đóng tại Phước Tân phía cực Tây của thành phố Tây Ninh bị một trung đoàn của Công Trường 7 của MTGPMN “chính quy miền Bắc” tấn công gây thiệt hại đáng kể, TĐ8ND liền được vào thay thế.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1655984&stc=1&d=1600450700

Tướng Đỗ Cao Trí

Đây là thời điểm đầu với chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III của Trung Tướng Đỗ Cao Trí, ông nhận chức tư lệnh với nhiệm vụ tiên khởi là ngăn chận địch quân tấn công Tây Ninh vào dịp tết này, “Tiên hạ thủ vi cường” Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III ngay khi có tư lệnh mới liền tung ngay các cuộc hành quân chung quanh Tây Ninh. Ngay khi TĐ 8ND vào Phước Tân tân tư lệnh Quân Đoàn III đáp trực thăng xuống tận nơi, ông nhấn mạnh với các cấp chỉ huy của Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù là phải cẩn trọng, ban ngày phải lục soát xa, tránh co cụm lại dễ bị ăn pháo gây tổn thất không cần thiết, nhận thêm chỉ thị của cấp trên sự thực là để ghi nhớ, v́ lúc nào cũng vậy các đơn vị Nhảy Dù cũng lưu tâm đến t́nh h́nh chiến thuật của từng trận đánh.

Phước Tân không cao như những vùng khác, ngay đầu một khu xóm làng dân cư thưa thớt, bên cạnh là một khu chợ mà dân vùng Tây Ninh thường gọi là chợ Gà, v́ ngôi chợ này chuyên bán gà từ Campuchia chở qua, một phía là cánh rừng thưa c̣n một phía là śnh lầy trồng thốt nốt, nếu lội xuống là nước và bùn lên tới đầu gối, nhưng Phước Tân chính nó lại là điểm chiến thuật quan trọng trong vùng, trước đó một đơn vị Dân Sự Chiến Đấu đă bị tràn ngập, sau đó TĐ4TQLC vào chiếm lại và bây giờ th́ TĐ8ND vào thay, ngay ngày đầu sau khi nhận các tuyến pḥng thủ, Trung Tá Nguyễn văn Thọ bị đau chân do thấp khớp hành do trời nóng lạnh bất thường và v́ lội bộ gần hai tuần lễ, căn bệnh quái ác hành ông đến tê tái người, nên ông không thể đi quan sát chung quanh vị trí đóng quân được, ông cho lệnh Thiếu Tá Trần Thanh Liêm Tiểu Đoàn Phó đi quan sát một ṿng vị trí, Trung Tá Thọ cũng như cấp trên tin chắc rằng chúng sẽ trở lại đánh Phước Tân như hai lần trước, v́ hai lần trước chúng đều thắng, cả hai lần chúng đều phối hợp Pháo, Đặc Công và bộ đội xung phong, vừa nắm vững địa thế ông cho phối trí quân nới rộng ṿng đai pḥng thủ mỗi chiều rộng ra gần 100 thước: Đại Úy Ngôn đại đội trưởng Đại Đội 82 trấn tại phía tây nh́n ra phía śnh lầy, ông căn dặn Đại úy Ngôn, nếu nó đánh đặc công nó sẽ đánh phía này; bên phải của Đại Úy Ngôn là Đại Úy Nguyễn Hữu Thành Đại đội Trưởng Đại Đội 83, với lời nhắn nhủ là đón nhận các dợt xung phong của chúng. Bên phải của Đại Úy Thành cũng là bên trái của Đại Úy Ngôn là Đại Úy Hoàn đại đội trưởng Đại Đội 84, với lời nhắn nhủ là có thể bị cả Đặc công lẫn tấn công v́ địa thế nửa nọ nửa kia, Đại Đội 81 của Đại Úy Thụy bảo vệ Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù, kiêm trừ bị.

Phước Tân ngoài tầm súng của Pháo Binh Nhảy Dù, nên được yểm trợ bằng pháo đội hỗn hợp 8 inches và 175 ly của SĐ25BB Hoa Kỳ, ban đêm các đại đội về vị trí đóng quân trong Phước Tân như đă nói ở trên, ban ngày hai đại đội đi lục soát chung quanh Phước Tân, đến ngày thứ ba lúc 23:45 giờ hai toán phục kích-báo động của ta ngoài vị trí đóng quân của TĐ8ND từ ba trăm đến năm trăm thước, báo về đại đội mỗi hướng chúng di chuyển khoảng 400 quân, đều đi về hướng Phước Tân, các toán này nhận được lệnh trước không khai hỏa và nằm im, 24:30 một trái ḿn chiếu sáng trước mặt Đại Đội 82 Nhảy Dù bật sáng, ta tiếp tục bắn soi sáng nhưng vẫn không quan sát được dấu vết có địch xuất hiện, Đại Úy Ngôn cho lệnh một xạ thủ đại liên bắn chung quanh trái ḿn chiếu sáng, nhưng vẫn không động tịnh ǵ, ngay lúc đó Bộ Tư Lệnh/SĐND xin máy bay soi sáng túc trực trên không gần vùng hành quân của Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù chỉ vào vùng thả soi sáng khi có yêu cầu, đồng thời các hỏa tập tiên liệu của Pháo Đội hỗn hợp được tác xạ, địch quân khởi sự pháo 82 ly va 61 ly vào vị trí của ta, một trái ḿn chiếu sáng nữa bật lên, lệnh tác xạ nghiêm mật một viên đạn là một quân thù, ĐĐ82ND bắt đầu khai hỏa thưa thớt v́ đă quan sát được địch quân rất gần tuyến pḥng thủ, có nơi chỉ c̣n cách ta dưới 20 thước, địch liều chết quang bê ta nhưng vô hiệu, v́ c̣n quá xa quăng không tới lối đánh cựa tử này giúp anh em Mũ Đỏ lên tinh thần, các ĐĐ83, ĐĐ84 cũng bắt đầu khai hỏa địch quân liều chết xung phong, máy bay chiếu sáng vào vùng thả chiếu sáng liên tục, nhờ vậy các Chiến sĩ Mũ Đỏ của TĐ8ND thi hành đứng đắn lệnh một viên đạn là một quân thù. Địch quân dùng biển người xung phong, cả một vùng trời lửa đạn đôi bên đan vào nhau, chưa một lần nào trong cuộc chiến Việt Nam đơn vị Mũ Đỏ đang đóng quân, địch quân chỉ dùng quân số gấp năm (5) lần tấn công mà chúng có thể thắng được đơn vị Mũ Đỏ, lần này chúng vụng tính chỉ dùng quân số gấp bốn lần th́ làm sao chúng có thể thắng cho nổi.

Cuộc chiến đang trong lúc cao điểm cực độ, chúng đă dùng quân cảm tử ba lần xung phong vào tuyến của ĐĐ83ND, nên giấc mê “Sanh Bắc Tử Nam” phải thành hiện thực, không những vậy lần đầu tiên trên chiến trường Việt Nam máy bay C130 của Không Quân Hoa Kỳ trang bị ba ổ đại liên mỗi ổ là sáu cây đại liên, một dàn hỏa tiễn 12 ống phóng và một súng 105 ly không giật, với tên Việt Nam là “Hỏa Long” vào vùng yểm trợ, lúc đó chính cố vấn Hoa Kỳ cũng không hiểu khả năng và hỏa lực của Hỏa Long mạnh như thế nào, máy bay này có Sensor t́m hơi nóng, có ống kính hồng ngoại tuyến để quan sát ban đêm trên màn ảnh, có khả năng tự soi sáng chiến trường, từ lúc Hỏa Long vào yểm trợ v́ hỏa lực quá mạnh và chính xác, nên địch quân t́m đường thoát thân, di động là mồi ngon của Hỏa Long, v́ vậy chúng bị thiệt hại trên sự mong đợi của các cấp chỉ huy chiến trường, một tiểu đoàn tăng cường cho trung đoàn này đi lạc nên không tham chiến được, nhưng lại bị thiệt hại nặng nề nhất bởi Hỏa Long.

Ngay sáng hôm sau ta tịch thu vừa súng cá nhân vừa súng cộng đồng trên một trăm súng, địch bỏ xác tại trận địa trên hai trăm mạng rất nhiều súng và xác địch bỏ lại ta không sao kiểm soát được, không t́m được v́ śnh lầy, trước mặt Đại Đội 82 Nhảy Dù địch quân bỏ lại xác trên 70 tên đặc công, v́ ta đang pḥng thủ địch lại không giám pháo bằng súng cối khi Hỏa Long xuất hiện, v́ mỗi lần pháo của chúng hoạt động liền bị Hỏa Long tiêu diệt ngay, mà tấn công th́ sau ba lần xung phong đều bị đánh bật ra, bây giờ lại có Hỏa Long can thiệp quá chính xác nên chúng đành im lặng rút lui, do đó ta thiệt hại không đáng kể, một ngày sau TĐ8ND được bốc ra khỏi vùng hành quân về Sài G̣n nhận khao thưởng, và được đặt dưới quyền điều động của LĐ2ND đang đóng tại hăng bột ngọt Vị Hương Tố (sau đó một tuần BTTM khai thác báo cáo của chúng trên hệ thống truyền tin, hệ thống giải đoán mật mă của bộ TTM/QLVNCH đă cho biết trung đoàn đánh Phước Tân xin bổ xung 600 quân nhân các cấp)

Hơn một năm sau chúng tôi các Chiến sĩ Nhảy Dù Việt Nam buộc ḷng phải bước qua Cam Bốt t́m sào huyệt của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, rồi quay về bao bọc chung quanh Tây Ninh cho đến tết năm Tân Hợi tạm giă từ Tây Ninh chúng tôi bước chân vào Hạ Lào, có lẽ c̣n duyên với Tây Ninh hay chúng tôi v́ thương em gái Tây Ninh, hay v́ nhớ món ăn đặc biệt của quán “Hắc Quẩy” Tây Ninh nên chúng tôi trở lại Tây Ninh cho đến mùa Hè Đỏ Lửa chúng tôi từ giă Tây Ninh và không trở lại Tây Ninh nữa, ngẩng cao đầu bước chân vào ba chiến trường. Một là An Lộc để An Lộc trở thành Anh Dũng; Hai là KonTum để KonTum trở thành Kiêu Hùng và Ba là Trị Thiên để Trị Thiên được Vùng Dậy.

Trong mùa Hè 1972 không có một sư đoàn nào của chúng ta dẫm chân trên cả ba chiến trường này, ngoại trừ các Chiến Sĩ Nhảy Dù Việt Nam, đến những ngày cuối cùng của cuộc chiến các Chiến Sĩ Nhảy Dù Việt Nam vẫn giữ tṛn câu tâm niệm “Phải Thân Dân, Bảo Vệ Dân và Giúp Đỡ Dân” đó chính là nhờ tinh thần kỷ luật cao độ của đơn vị, xin cho chúng tôi được quyền hănh diện là đă được phục vụ trong một đơn vị kỷ luật, một đơn vị mà niềm thương yêu gắn bó nhau như trong một nhà, tại chiến trường gian khổ cũng như tại hải ngoại mịt mờ, phương châm của Nhảy Dù, hiểm nghèo nào cũng Cố Gắng vượt lên.

Quê nhà Nhảy Dù Cố Gắng
Hải ngoại Mũ Đỏ Hợp Quần

"Mẹ Việt Nam ơi chúng con vẫn c̣n đây, chúng con luôn luôn quỳ dưới chân mẹ… Mẹ Việt Nam Ơi".

Mũ Đỏ Bùi Đức Lạc

hoanglan22
09-18-2020, 17:57
Tướng Đỗ cao Trí nếu không mất sớm sẽ có những trận đánh ngoạn mục bởi dân Dù thởi 75 . Ba lữ đoàn dù 1 ,2 , 3 thiện chiến chỉ v́ Tổng tư lệnh sợ đảo chánh nên muốn rút về sài g̣n , BTM và Tổng tư lệnh không hợp nhất với nhau trong cách điều quân .

Lẽ ra muốn lấy lại Phước long th́ điều quân giống như Trận An lộc . Chỉ cần thảy vào 2 lữ đoàn Dù cùng 2 liên đoàn Biệt động quân ,( pháo binh không quân yểm trợ mặc dù quân viện bị cắt giảm xuống bởi mỹ )+ thêm chiến đoàn BCD từ trong đánh ra .

Nếu thắng thêm trận Phước Long th́ MN chưa chắc ǵ đă mất . Tại v́ Ông Thiệu buông Phước long và tin tưởng Mỹ sẽ nhảy vào giúp . Một ván cờ sai lầm

Trong trận chiến Phước long chỉ thảy 2 biệt đội vào ( quân số khoảng 300 ) c̣n một biệt đội trừ bị . BCD hy sinh quá nhiều trong trận này . Khi được Bốc ra khỏi vùng BCD chưa đếm quá 100 chiến sĩ . Một số thất lạc vào rừng già , một số bị CS bắt . Buồn thay cho đơn vị BCD

hoathienly19
09-18-2020, 19:37
Tri ân người lính VNCH , các anh đă hy sinh tuổi hoa xuân , sinh mạng , xông pha nơi trận mạc , bảo vệ từng mảnh đất quê hương để người dân miền Nam VN được sống và hưởng một nền dân chủ , ấm no hạnh phúc . Măi măi tiếc thương anh , người lính VNCH .

hoathienly19
09-20-2020, 05:33
Sông Tiền Giang mênh mông như bể, chiếc phà lớn chuyên chất ba GMC, vài chiếc xe du lịch bềnh bồng mang chúng tôi qua sông lẫn với đám hành khách đầy mầu sắc. Họ dồn về một phía, nh́n lũ người gươm đao thật xa cách




Tôi ngồi trên mui tầu thả từng mẩu giấy vụn xuống gịng nước, trí năo lăng đăng như bọt sóng.

Bến phà Mỹ Thuận trước năm 1975.


https://www.triviet.news/wp-content/uploads/2018/05/phamythuan.jpg


Đoàn xe rời Quốc Lộ 4 rẽ về phía phải theo con đường đỏ hướng phi trường Trúc Giang qua ngôi trường tiểu học quận, một dẫy quan tài sắp lớp, mùi thây chết bốc lên ngây ngất.


Biệt Động Quân (BĐQ), Tiểu Đoàn 41, nghe nói h́nh như tiểu đoàn trưởng hay tiểu đoàn phó bị chết. Lính ở trên xe x́ xầm bàn tán với một vẻ thản nhiên. Họ không biết chiến trận đă đến hồi khốc liệt, nên chiến đoàn dù gồm có tiểu đoàn chúng tôi và một tiểu đoàn bạn đă có mặt tại vùng hành quân từ ngày trước.



https://i.postimg.cc/HkqFDWCD/qsnd-pb-15-cd-Iadrang-TP7-016.jpg


Đến phi trường, nơi đặt bộ chỉ huy của khu chiến thuật Tiền Giang, trung tâm của cuộc hành quân, chúng tôi được lệnh ngủ tại đây để chờ ngày mai trực thăng vận vào vùng hành quân.


Tôi chưa được dự trận lớn, nên không có ư niệm về những gay go sắp đến trong ngày mai, b́nh thản ngủ một giấc yên lặng với kết luận:


Trực thăng vận đối với Nhảy Dù chỉ là tṛ đùa, không có ǵ mới lạ.


Ngày 22, lúc 8 giờ hai pháo đội đặt ở phi trường hướng súng về băi đáp nhả đạn liên hồi để dọn băi. Lấy cái chết của phe địch để làm an toàn cho phe ḿnh, nguyên lư của chiến tranh quả thật tàn khốc.


Tiếng súng dọn băi vừa dứt, ba mươi chiếc trực thăng đồng bốc lên một lượt mang hai đại đội 71 và 72 vào trận địa.


Báo cáo xuống băi tốt, b́nh yên.



https://i.postimg.cc/MpTNK2dN/78703900-1215767928812255-7615733514167648256-o.jpg


Phần c̣n lại của tiểu đoàn được trực thăng vận tiếp theo. Toàn bộ tiểu đoàn đă xuống đủ, hai đại đội 71 và 73 dẫn đầu cho đơn vị, di chuyển được mười lăm phút. Súng nổ. Đụng rồi, đụng rồi…


Lính dáo dác, máy truyền tin chuyển lệnh nghe loạn xạ. Phía trước của tiểu đoàn súng nổ lẫn lộn, tiếng khô và cứng của ta, sắc nhọn của địch. Đại Đội 72 rút lên bố trí về phía phải của Đại Đội 73.


Lệnh cho đại đội chúng tôi lên thật nhanh. Ngang qua chỗ của thiếu tá tiểu đoàn trưởng, một tiếng nổ thật lớn nháng lửa ngay trước mặt, quả đạn 57 ly vừa nổ khi ra ngay khỏi ṇng, người phụ xạ thủ bắn tung ra đằng sau, một bàn tay bị đứt.


Ông tiểu đoàn trưởng hét lớn qua màu khói. Trung đội anh chạy ra cái nhà tranh…


Như vậy là đụng lớn, người bị thương nằm la liệt ở dưới các rănh dừa nước, Toàn đang đứng trong một giao thông hao chỉ trỏ quát tháo. Phía tay trái nơi xa có tiếng lựu đạn nổ và tiếng hô xung phong.


Trung đội tôi ép phải, hướng tiến bây giờ thẳng góc với các con kinh nhỏ, nên chúng tôi chỉ có thể nhảy từng bước thật dài trên bờ kinh, một cái nhảy hụt tôi rơi vào đường mương vùng với hai người khinh binh.


Bám cỏ ḅ lên, xác hai cán binh Việt Cộng nằm tênh hênh, một xác bị banh nát ngực, xác kia nằm xấp, không rơ. Người chết, lần đầu tiên tôi chạm phải một thây chết của đối phương.


- Lên đi tụi mày, thằng nào trốn đàng sau, tao bắn găy gị… Tôi quát tháo cũng ra ǵ, mấy tên lính đi chậm dớn dác t́m lối qua rạch họ không nhảy qua được v́ mang đồ quá nặng. Đ.m. có nhảy qua được không ?
Thường ngày sao liến xáo quá cỡ, hôm nay lại chậm như rùa.


Tôi chửi mắng om ṣm. Trung đội đến bờ làng dừng lại bố trí trông ra cánh đồng trống. Ngồi dựa vào một gốc dừa, tôi thấy mệt v́ phải quát tháo quá nhiều, nhớ lại lời chửi tục. Tôi đă thành một người lạ nào đấy.


https://imagizer.imageshack. com/v2/320x240q90/r/922/jk9PIj.jpg


Địch từ phía trái chạy vọt qua, bóng áo đen ẩn hiện đàng sau rặng dừa xanh bên kia cánh đồng. Bắn. Bắn. Trung đội tôi khai hỏa ṛn ră.


Một vài bóng áo đen ngă xuống. Hơi thuốc súng, hơi bùn lầy, máu người chết xông lên ngây ngấy.


https://imagizer.imageshack. com/v2/500x374q90/r/922/UFx3lI.jpg


Sáu giờ chiều, tiếng súng phía bên trái, hướng Đại Đội 71 hoàn toàn chấm dứt, trực thăng tải thương bắt đầu đến, khói mầu xanh làm dấu băi đáp bốc lên mờ mịt làm đặc không gian đang ngă vào đêm, rừng dừa xanh thẩm lại.


Tiếng súng vu vơ của địch bắn lên máy bay khi tháo lui. Tôi ngồi dựa gốc dừa, mệt mỏi đến tột độ, một tên lính ṃ lại bên cạnh.

- Thiếu úy ăn cháo gà.

- Cháo gà ?

- Dạ, gà em bắt được, nó c̣n ấp trứng…

- Thôi mầy cho tao quả trứng, tao ăn cháo không nổi.

Khi lính trong trung đội xịt xoạt ăn cháo, tôi đi lui về phía xác hai cán binh Việt Cộng.


Người nằm sấp bây giờ lật ngược lại, có lẽ đấy là cử động cuối cùng của anh ta trước khi chết. Tôi đặt tay lên một xác chết, da người chết lạnh tanh.


Đêm xuống, chúng tôi trải Poncho nằm trên bờ rạch, không cởi giày, địch có ư tấn công lại nên phải đề pḥng.



https://imagizer.imageshack. com/v2/640x431q90/r/923/bFnNLq.jpg


Tiểu đoàn tiếp tục truy kích, hôm nay đại đội tôi đi đầu, trung đội tôi dẫn đầu đại đội, chúng tôi đi dọc một con kinh lớn, rừng dừa xanh ngút tầm mắt, thôn xóm trù phú nhưng không một bóng người. Chúng tôi dè dặt từng bước đi.


- Hầm có dấu chân người. Tản rộng ra chung quanh, một người đến xem mà thôi. Tôi ra lệnh.

- Ai ở dưới, đi lên! Im lặng…

- Lên không tao ném lựu đạn xuống! Thiếu úy, cho em ném lựu đạn xuống. Người lính hỏi ư kiến.

- Không, mầy bắn xuống mà thôi.

Tên lính lanh lẹ bắn một tràng Thompson, có tiếng rên khe khẽ.

- Lên không bắn nữa. Đưa tay lên trước.


Tôi nín thở, một chiếc đầu bạc phơ từ từ nhô lên khỏi miệng hầm, ông lăo bế một bà lăo lên theo. Vừa ra khỏi hầm ông lăo chấp tay xá bốn hướng xụt xùi khóc lóc, bà lăo nằm vật xuống, ở đầu có một vết thương.


Đến buổi trưa, tôi hoàn toàn kiệt lực như một mũi tên rơi xuống khỏi cuối đường bay. H́nh ảnh hai mái tóc bạc nhô lên từ miệng hầm, nét mặt hốt hoảng của hai cán binh Việt Cộng chưa quá mười sáu tuổi lôi lên từ một đám bèo, một người c̣n đang ngậm một búng cơm.



https://imagizer.imageshack. com/v2/480x480q90/r/924/ZaSqt1.jpg


Những h́nh ảnh đó bây giờ cộng thêm cảnh chết của hai vợ chồng và ba đứa con trước mắt tôi. Họ chết từ ngày hôm kia, khi địch đặt bộ chỉ huy ở khu nhà thờ, người chống là ông Từ giữ nhà thờ đă đem cả gia đ́nh vào trốn dưới cái bệ thờ Chúa.


Tượng Đức Chúa ngả nghiêng, tượng hai thiên thần rơi tung tóe, hai bàn tay trắng bằng đất nung lăn lóc trên sàn nhà. Khi tôi cúi xuống nhặt hai bàn tay nầy th́ khám phá ra năm xác chết trên.

Họ chết ngồi, hai vợ chồng ngồi sát nhau ôm ba người con trước ngực. Họ chết v́ bị sức ép nên thân thể vẫn c̣n nguyên vẹn, nét mặt in vẻ hốt hoảng. Tôi ra lệnh kéo xác họ ra sân.


Giáo đường bây giờ im vắng, tượng Chúa linh động trong vị thế nghiêng ngả, nắng ở ngoài không rọi vào, không khí nặng nề lạnh ngắt. Tôi ngồi xuống trên chiếc ghế, hỏi thầm:


Thượng đế, ngài có thật đấy chăng?

Tượng Chúa Ki To ở Bỉnh Long - An Lộc trước và sau mùa hè đỏ lửa 1972

https://farm4.static.flickr. com/3074/3044367293_f27cdfbf2 e_z.jpg


Khi tôi bước ra đàng sau nhà thờ, qua khu nhà của những người chết, một chiếc áo tím chắc hẳn của cô con gái c̣n phơi phới bay trong gió.

Nh́n ra xa, xác cô gái nằm thẳng trên sàn gạch, nắng thật sáng, rọi lên rực rỡ. Người tôi ai cắm một lưỡi dao oan nghiệt vào tim, thật buồn.


Tôi loay hoay đốt một điếu thuốc. Cái chết quả là một bi thảm, nhưng h́nh ảnh của cô gái nằm chết trong khi chiếc áo c̣n bay trong gió vang vang trong trí náo tôi như một tiếng kêu thê thảm không biên giới.


Hai ông bà cụ già, người Việt Cộng trẻ, người cha và người mẹ, họ đă sống, đă chết dù sao cũng có chủ đích, có chọn lựa, cũng đă qua gần hết cảnh sống.


Cô gái chết bất ngờ không báo trước, yêu đời như màu tươi của chiếc áo. Tôi choáng váng ngộp thở, người lao đao trong một niềm giận dỗi và sầu muộn mênh mông.


https://imagizer.imageshack. com/v2/320x200q90/r/922/IEMk1a.jpg


Đụng lớn. Tiểu đoàn lấy được một lô súng đạn, thừa thắng xông lên truy kích địch để lùa họ về Quốc lộ Bốn.



https://imagizer.imageshack. com/v2/500x334q90/r/922/bD8TQe.jpg


Bên trái là sông Tiền Giang. Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù bên phải làm thành phần chận bít. Tiểu đoàn tôi lùa địch từ đông sang tây.


Việt cộng phân tán thành từng toán nhỏ để trốn. Ba đại đội tác chiến được xử dụng để lục soát không chừa một hốc nhỏ. Việt Cộng được moi lên từ các ao bèo, bờ lúa, đun rơm, cuộc truy kích vừa khôi hài vừa hào hứng như tṛ chơi.


Tôi lầm ĺ đi giữa hàng quân, trận đánh ngày hôm qua, một đêm mất ngủ, cái chết hàng loạt của Việt Cộng, những thây ma tênh hênh lăn lóc, tất cả đổ ào xuống một lượt trên linh hồn c̣n hồn nhiên.


Tôi ngất ngư như lần đầu tiên uống rượu như đây là cơn say đen. Xua quân đi vào một vườn dừa rộng, tiểu đội bên trái, tiểu đội bên phải, lục soát dọc theo hai con rạch nhỏ bao quanh khu vườn. Tôi đi vào ngôi nhà đang âm ỉ cháy, những chiếc cột lớn lỏng chỏng hỗn độn bốc khói xanh ngắt.


https://farm3.staticflickr.c om/2563/3661846782_8b264b474 3.jpg


C̣n tiếp ,

hoathienly19
09-20-2020, 05:57
https://imagizer.imageshack. com/v2/320x214q90/r/924/fmkuZi.jpg



Một người đàn bà áo trắng quần đen tay ôm chiếc lẳng mây trước ngực ngồi im trên nền gạch đôi mắt nh́n thẳng ngơ ngác. Thấy chúng tôi đi vào chị ta đứng dậy, đứng thẳng người như pho tượng, như thân cây chết với đôi mắt không phản ứng. Thằng bé theo tôi cùng tên Hiệu thính viên lẻn ngay vào bếp kiếm thức ăn. Tôi đi đến trước chị đàn bà.


- Làm ǵ chị ngồi đây, không biết đang đánh nhau sao?


Im lặng, đôi mắt ngơ ngác lóe lên tia nh́n sợ hăi. Bỗng nhiên chị ta đưa thẳng chiếc lẳng mây vào mặt tôi, động tác nhanh và gọn như một người tập thể dục.


Sau thoáng ngạc nhiên tôi đưa tay đón lấy. Hai bộ áo quần, chiếc khăn trùm đầu, gói giấy nhỏ buộc chặt bằng dây cao su. Mở gói, hai sợi dây chuyền vàng một đôi bông tai.

- Của chị đây hả? Vẫn im lặng, nỗi im lặng ngột ngạt lạnh lùng.

- Con mẹ này điên rồi thiếu úy, chắc sợ quá hóa điên.


Tên hiệu thính viên th́ thầm sau lưng tôi, mắt nó sáng lên khi nh́n vào những miếng vàng chói trên giấy.


Vàng, chắc cũng hơn một lượng, lấy đi thiếu úy. Ê ! Đi đi.


Tên lính xua tay đuổi người đàn bà đi chỗ khác. Lạnh lùng, chị ta xoay người bước đi như xác chết nhập tràng.


Chị kia quay lại đây tôi trả cái này. Tôi nói vọng theo. Người đàn bà xoay lại, cũng với những bước chân im lặng, trở về đứng trước mặt tôi nhưng đôi mắt bây giờ chứa đầy sợ hăi, một vẻ hốt hoảng thảm hại làm răn rúm khuôn mặt và run đôi môi.


Chị ta c̣n trẻ lắm, khoảng trên dưới 27, 28 tuổi, da trắng mát tự nhiên, một ít tóc xơa xuống trán làm nét mặt thêm thanh tú.



https://imagizer.imageshack. com/v2/320x214q90/r/923/3QSTMb.jpg


Tôi đưa trả chiếc lẳng mây, chị đàn bà đưa tay đón lấy, cánh tay run rẩy như tiếng khóc bị dồn xuống. Chiếc lẳng rơi xuống đất, hai cánh tay thả xuống mệt nhọc song song với thân thể. Ḍng nước mắt chảy dài trên má.


Tôi hươi mũi súng trước mặt chị ta. Ngồi đây. Tôi chỉ ṇng súng vào bực tam cấp. Khi nào tụi tui đi th́ chị đi theo.

Tại sao khóc, nhặt vàng lên chứ. Im lặng, chỉ có nỗi im lặng kỳ quái, thân thể người đàn bà cứ run lên bần bật, nước mắt ràn rụa.


Từ từ chị đưa bàn tay lên hàng nút áo trước ngực. Không! Không thể như thế được, tôi muốn nắm bàn tay kia để ngăn những ngón tay run rẩy đang mở dần những hàng nút bóp để phơi dưới nắng một phần ngực trắng hồng.


Không phải như thế chị ơi. Người đàn bà đă hiểu lầm v́ tôi không lấy vàng và bắt đứng lại, chị ta không hiểu được lời nói của tôi, một người Việt Nam ở cùng trên một mảnh đất.


Chị ta tưởng tôi thèm muốn thân xác và đ̣i hiếp dâm. Tội nghiệp cho tôi biết bao nhiêu, một tên sĩ quan 21 tuổi làm sao có thể biết đời sống đầy máu lửa và đớn đau tủi hờn đến ngần này.



https://donghuongkontum.file s.wordpress.com/2015/03/tre_em9.jpeg


Tôi đi lính đánh giặc chỉ v́ một ư nghĩ :


Đi cho cùng quê hương và chấm dứt chiến trang bằng cách góp mặt. Thê thảm biết bao nhiêu với ngộ nhận tủi hổ này.



https://i0.wp.com/farm8.staticflickr.c om/7139/6885610242_cf6836c37 1_z.jpg


Thê thảm cho tôi, cho những người lính chung quanh v́ lính chúng tôi có thể tàn bạo trong khoảnh khắc, tham lam trong lén lút nhưng chúng tôi đâu phải là một thứ lính tẩy trên quê hương.


Người ngoại cuộc của những tàn phá kinh tởm do chiến tranh này gây nên. Chúng tôi có ḷng nào hưởng cảm giác trên xác thân của một người đàn bà Việt Nam trong cơn vỡ nát kinh hoàng đau đớn.


https://imagizer.imageshack. com/v2/640x354q90/r/924/mJTue2.jpg


Khổ lắm, người đàn bà của tỉnh Kiến Hoà đâu có biết rằng chúng tôi không bao giờ muốn huênh hoang, hung bạo trong vườn xanh bóng mát này, chúng tôi đâu có muốn tạo những ngọn lửa oan uổng thiêu đốt căn nhà b́nh yên như giấc mơ của chị. Và những mảnh vàng đó, thân thể chị đây ai có can đảm để giang tay cướp phá và xâm phạm !



Tôi muốn đưa tay lên gài những nút áo bật tung, muốn lau nước mắt trên mặt chị nhưng chân tay cứng ngắc hổ thẹn. Và chị nữa, người đàn bà quê thật tội nghiệp, đời sống nào đă đưa chị và cơn sợ hăi mê muội để dẫn dắt cho những ngón tay cởi tung hàng nút áo, sẵn sàng hiến thân cho một tên lính trẻ, tuổi chỉ bằng em út, trong khi nước mắt chan ḥa trên khuôn mặt đôn hậu đầy kinh hăi.


Quân rút ra khỏi làng, chị đàn bà đi theo chúng tôi, vẫn với những bước đi ngượn ngập cứng nhắc, vẫn đôi mắt nh́n vào khoảng trống không cảm giác. Người đàn bà Việt Nam bước đi trong ngỡ ngàng với hạnh phúc khốn nạn: hạnh phúc đến chót sau những đau khổ rời ră, hạnh phúc lạ lùng như chiêm bao thấy thân thể chưa bao giờ bị xúc phạm.



https://imagizer.imageshack. com/v2/320x168q90/r/922/hWjQwP.jpg


Quân rút ra gần đến Quốc lộ, con sông đầy thuyền, hỗn loạn bóng người chen chúc, dân của vùng hành quân trốn ra từ ngày trước. Tiếng người kêu la vang dội một khoảng sông. Họ hỏi thăm t́nh trạng nhà cửa, người thân thích người kẹt trong vùng hành quân. Có tiếng khóc vang lên:


“Trời ơi nhà ông Năm bị chết hết cả nhà rồi bà con cô bác ơi!”


Tiếng kêu thê thảm như một kẻ đắm đ̣.


“Lai! Mày đó Lai ơi!”


Bà già dưới sông mồm kêu tay ngoắc chị đàn bà theo chúng tôi. Chị ta dừng lại như để nhớ một dĩ văng, như nhớ một đời sống đă đi qua.


“Lai! Lai ơi, má đây con…” chị đàn bà đứng lại xoay người về phía ḍng sông…


“Má! Má!” Tôi thấy đôi môi run rẩy th́ thầm:


“Nhà cháy rồi, nhà cháy rồi.” Chị ta đi lần ra phía bờ sông, cũng với những bước chân của người mất hồn, bóng áo trắng nổi hẳn trên đám dừa xanh…



https://donghuongkontum.file s.wordpress.com/2015/03/phu-tuc-4.jpeg


Tôi cúi đầu đi thẳng, mắng mấy thằng lính đứng tần ngần nh́n theo người đàn bà.


“Tiên sư, đi lẹ c̣n qua phà sớm.” Ḷng ngập một niềm ăn năn kỳ lạ…


Chiếc phà đưa tiểu đoàn chúng tôi về Mỹ Tho, dân chúng ta ra đứng nh́n cảm phục. Tôi đóng quân ở sân vận động. Tôi đi lên chiếc cầu hướng về phía G̣ Công ḍng nước đen thấp thoáng ánh đèn chảy siết dưới chân cầu đục ngầu như linh hồn tôi.



https://i2.wp.com/saigontimesusa.com/bai/vanchuong/images/quanmactieu.jpg


Đêm tỉnh lẻ đỏm dáng tội nghiệp, tôi đi lang thang, thật lạ ngay với chính ḿnh. Gặp Bang ở Biệt Động Quân, anh chàng nhỏ người nhưng ồn ào nhất trong số mười lăm anh Khóa 15 Thủ Đức về Biệt Động Quân.


Bang đăi tôi cơm, tôi chỉ uống đượi chai bia, xong chúng tôi đi coi ciné, phim The Sun Also Rises, phục Hemingway th́ có khi đọc sách, nhưng phim dửng dưng và nhạt nhẽo.


Tôi đi về trong đêm khuya, thành phố ngủ sớm, chiếc lá khô bay trước mặt như tà áo của cô con gái. Tội nghiệp thay cho một tuổi trẻ, tôi cũng đáng tội nghiệp nữa.


Ngày mai chúng tôi về Sài G̣n, ao ước được cởi áo nhà binh trong vài ngày, nhưng đó chỉ là ao ước v́ chúng tôi biết rằng Sài G̣n đang có biến động, Phật Giáo và Công Giáo xua tín đồ ra đường phố. Lần đầu tiên trong đời, tôi biết thế nào là thù hận khi về đến Sài G̣n, đóng cửa Tổng Nha Cảnh Sát, lănh một cái mặt nạ để sẵn sàng dẹp biểu t́nh.


Phan Nhật Nam

Kiến Ḥa, 8/1964

hoathienly19
09-20-2020, 17:11
_sAUT2Fu1sw


Xích chân vào xe tăng như thế nầy thử hỏi có ai không " chết vẫn chiến đấu " ? Tuyên truyền như thế nầy th́ không theo Bác và Đảng mới lạ .


7'43''

" Ḿnh chỉ hơn họ một cái là chết vẫn chiến đấu , chết vẫn đánh . "


https://imagizer.imageshack. com/v2/351x480q90/924/mEEwjo.jpg


Chú bộ đội nầy có những lúc nói thật .

7'56

Thủy quân lục chiến đánh là tới số luôn , ... đánh xong 20 quả mỏ vịt mới dùng đến AR15 . Cho nên đánh với Thủy Quân Lục chiến khó xơi lắm v́ nó đánh mỏ vịt nổ như ngô rang , xong cái là :

" Đ. M Thủy Quân Lục Chiến chỉ tiến không lùi " .

Cũng kinh nó lắm chứ không phải đùa với nó . Cũng có những lực lượng cũng là ghê lắm đấy .

Đó là những lực lương giải quyết chiến trường


BẢN HÙNG CA THỦY QUÂN LỤC CHIẾN - QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A


9gmCfqCehek

hoanglan22
09-22-2020, 14:06
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1658060&stc=1&d=1600783330

Trong suốt hơn 20 năm hoạt động của HQVNCH, các chiến hạm cũng như các chiến đĩnh, dù do Pháp giao lại, hay sau này do Mỹ chuyển giao, đều do Mỹ sản xuất Chỉ riêng chiếc Scan/Fom, tiếng Việt gọi là Tuần Giang Đĩnh, là do Pháp đóng. Đây là một chiến đĩnh có nhiều đặc tính và tỏ ra rất công hiệu trong việc tuần tiễu trên sông rạch vùng Cửu Long Giang. Việt Cộng đă nhiều phen kinh hăi trước sự xuất hiện của loại chiến đĩnh này.Trong sinh hoạt của các giang đoàn, chiến đĩnh này được gọi tắt là Fom. Hỏi tại sao lại gọi như thế, nhiều người đă trả lời, v́ khi chạy máy tầu nổ rất ṛn kêu”fom, fom”. Nghe cũng có lư. Nhưng đúng tên của nó là do chữ Scan/Fom ( Service Technique des Constructions et Armes Navals Frances Outre-Mer ). Một loại tầu được đóng để Hải Quân Pháp hoạt động ngoài nước Pháp, đặc biệt cho Đông Dương. Chiến đĩnh này dài 36 bộ, rộng độ 7 bộ, mũi nhọn, đáy tầu cũng nhọn, chạy nhanh xé nước tạo thành một vùng trũng khiến cho toàn thân tầu gần như thấp hơn mặt nước, tránh được các loại súng lớn từ bờ muốn bắn vào phần thân tầu. Cũng v́ mũi nhọn, đáy nhọn, khi bị thủy lôi, sức công phá của thủy lôi tạt qua một bên, ( khác hẳn với các loại chiến đĩnh đáy bằng, khi bị thủy lôi là cầm chắc đáy tầu bị phá). Loại Fom này, được trang bị một đại liên 12ly 7 tại mũi, với dàn pháo tháp bằng thép bao quanh, đại liên này có tầm hoạt động mạnh, xa tới 5 cây số, và ṿng hoạt động 220 độ về phía trước và hai bên. Trên nóc tầu có 2 đại liên 30, và sau lái 1 đại liên 30 nữa, chưa kể các loại súng nhỏ như M16, M79. Thường mỗi chiếc chỉ có 4 nhân viên. Tầu bao giờ cũng đi hai chiếc, do một hạ sĩ quan làm thuyền trưởng trông nom cả cặp tầu. Sự lanh lẹ, gọn nhẹ của chiếc Fom được ví như “con ngựa Xích Thố của Giang Lực.”
Để có một cái nh́n sống động hơn về hoạt động của chiến đĩnh này, xin theo dơi bài bút kư viết về những kỷ niệm, những nguy nan của các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam một thời vùng vẫy trong khu chiến Tiền Giang, qua trận đánh tại Ba Rài.

Đường Đi Khu Chiến
Tôi bị ra Hội Đồng Kỷ Luật trong một trường hợp thật ngộ nghĩnh, và bị đưa đi đơn vị tác chiến: Giang Đoàn 21 Xung Phong, khu chiến Tiền Giang.

Mới tới đơn vị, tin tức các nơi liên hệ đến các cuộc đụng độ giữa các đơn vị Việt Cộng và các tầu tuần tiểu mỗi lúc một tăng. Sự thương vong mỗi lúc một lớn. Quả thật là tôi có “rét” thật . “Rét” nên tôi cố gắng t́m hiểu, học hỏi các kinh nghiệm của các bạn sĩ quan cùng khóa tại đơn vị, và nhất là các kinh nghiệm của các anh em đoàn viên đă lặn lội nhiều năm tại vùng sông nước nguy hiểm này. Lúc ấy, năm 1965, anh Nguyễn Đức Bổng, khóa 10, trên tôi một khóa, làm duyên Đoàn trưởng Duyên Đoàn 33 bị nội tuyến, địch giả dân đánh cá làm quen với đơn vị, rồi giữa trưa làm lễ cúng Hà Bá, mời cả Duyên Đoàn dự tiệc, rồi đùng một cái họ nổ súng, bắn chết khá đông. Anh Bổng ở trên ghe chủ lực, cũng bị bắn chết. Tràng đạn xuyên nát ngực. Khi chúng tôi đến lấy xác anh, trời đă chiều. Con rạch Sọ Dừa, cái tên oan trái, là nơi xác anh nằm vắt vẻo bên sàn ghe. Xác anh Bổng xám ngắt và tóp lại như một đứa trẻ, v́ máu ra quá nhiều. Xác anh nằm ở sàn tầu, phủ bằng một tấm chăn dạ lính. Máu từ thân thể anh vẫn tiếp tục chảy dài xuống sàn tầu và ḅ ngoằn ngoèo ra mé cửa sổ chiến đĩnh. Hỏa châu từ nơi nào đó bắn lên dọi sáng một vùng trời. Tôi lại nghe anh sắp sửa lấy vợ nữa. Tôi thương anh và càng thấy sợ. Tôi th́ vừa lấy vợ. Hai vợ chồng hai nơi, Sài G̣n và Mỹ Tho… Tôi thương vợ tôi lắm, nên nhủ ḷng:” Phải cẩn thận tối đa.”

Lúc rỗi, tôi lên Pḥng Hành Quân theo dơi bản đồ Trận Liệt, ghi các vùng nguy hiểm vào sổ tay. Nh́n cho kỹ địa thế. Đọc thật kỹ kư hiệu nơi có rừng cây, nơi có dừa nước. Các nơi đă từng đụng độ. Và tôi nhận ra rằng, đa số các nơi diễn ra cuộc đụng độ mà phần thiệt hại về ta, là các khúc sông hẹp, uốn khúc. Địch nấp trong hầm bắn ra. Ta hỏa lực hùng hậu, tầm đạn xa, lại có cả loại đạn công phá, nổ khi chạm vật cứng như sắt, thân cây lúc này trở nên ít hữu hiệu. Và thời điểm các cuộc đụng độ, đa số vào khoảng 4, 5 giờ chiều. Giờ mà theo thói quen, quân ta đă lo sửa soạn ra về, máy bay khi cần khó gọi, có đến cũng khó can thiệp. Giờ của địch, như thế kể như từ 4, 5 giờ chiều cho đến 4, 5 giờ sáng.

C̣n các cuộc bắn tầu, như kinh nghiệm các bạn kể lại, thường là vào ban đêm. Lúc ấy, nếu tinh ư, ta sẽ thấy “sao mà đất trời lạnh ngắt”. Lạnh ngắt v́ khi bờ sông có người phục kích, chim muông không dám xà xuống đậu. Có xà xuống thấy người lại chới với bay lên. V́ thế cảnh vật bỗng trở nên vắng lặng, rờn rợn. Lúc ấy, nếu thấy một ngọn đèn thắp lấp lánh bên bờ sông, ta có nhiều phần chắc đó là ngọn-đèn-nhắm. Việt Cộng thắp ngọn đèn bên kia sông, chúng nằm bên này sông, trời tối càng tốt. Khi tầu lướt trên mặt sông, án ngữ tầm nh́n của ngọn- đèn- nhắm là bên này sông, chúng đă hờm súng sẵn, cứ việc bấm c̣. Chắc như bắp. Chỉ trừ khi tên xạ thủ run tay, chậm trễ, đạn mới vượt qua sau lái.

Lúc như thế, ta mới thấy chiếc Fom hữu hiệu như thế nào. Fom, như trên đă viết, chạy nhanh, có bị bắn, đạn đi trên tầm nước, khó ch́m. Thấy đèn nhấp nháy khả nghi, Fom, loại tầu đi trước và đi sát mé sông, xả tốc độ, quay 90 độ, bỏ đèn nhắm của địch sau lái, lấy đại liên 12 ly 7 bắn như mưa vào bờ đối diện. Đâm thẳng vào. Đạn đan kín trời tràn ngập nơi địch trú ẩn. Tới gần, hai đại liên 30 trên nóc tầu xả đạn quanh điểm khả nghi. Đồng thời dùng M 79 bắn vào. Đạn nổ bùng. Việt Cộng bạo th́ nằm dí đó, ăn đạn nát thây. Vụt chạy th́ khó tránh được rừng đạn 12ly7 và đại liên 30 bắn đuổi theo như mưa bấc.

Đức Râu, kẻ tử thù của Việt Cộng
Người cho tôi kinh nghiệm về chiến thuật phản xạ này là Trung Sĩ I Lê Phước Đức, tục gọi là Đức Râu. Anh thâm niên quân vụ khá bộn, đâu như xuất thân từ khóa I, khóa 2 Đoàn Viên, ngành Thủy Chiến Binh (Fusilier), do Pháp huấn luyện. Bạn bè anh đă có người có đai vàng trên mũ. Anh vẫn chỉ có ba chữ V trên vai áo. Anh người Nam, to con, mặt hơi rỗ, râu hàm xanh ngắt. Lúc nhàn rỗi, anh ngồi lầm ĺ trên tầu, bên cạnh là một thùng bia Quân Tiếp Vụ, uống t́ t́, mặt đỏ râu dựng, không nói một câu. Ít ai biết về gia cảnh anh. Lúc nhàn rỗi đă thế, khi đụng trận, vừa ngồi trên nóc tầu, hai chân tḥng xuống bánh lái. Một tay bấm c̣ đại liên 30, một tay cầm ống liên hợp điều động chiếc Fom bạn, ủi đầu vào nơi địch vừa khai hỏa. Những lúc như thế, trời chiều đă gần tắt, mây đỏ đầy trời. Anh lẫm liệt lao vào lửa đạn, uy dũng lừng lững, như Quan Vân Trường với thanh Long Đao trên ḿnh con ngựa Xích Thố. Lúc ấy, đoàn tầu cứ việc nhẹ nhàng tiến, và lặng lẽ theo dơi cặp Fom của anh làm cỏ hai bên bờ.

Có lúc tôi đă hỏi anh:” Sao cứ ở đây hoài, đi tầu biển cho nó thay đổi cuộc sống chăng,” anh tợp một hơi bia và nói:” Ông thầy! Mấy thằng fusilier (chiến binh) đi tầu là loại lính-mỡ.” Tôi phân vân hỏi:” Lính mỡ là…?” Anh đáp:” Mang tiếng là chiến binh mà đi tầu biển chỉ có việc lấy mỡ xoa vào ṇng súng cho khỏi sét, chứ lính ǵ tụi nó..” Anh ví von đến là hay, tuy có phần hơi cường điệu… Trong đơn vị, anh là người có nhiều huy chương nhất, anh chỉ đeo có ngành dương liễu mà thôi. Các ngôi sao vàng, sao bạc, anh bảo “đồ ăn giỗ đó mà ông thầy..” Trong các cuộc hành quân tuần tiểu, có khi chỉ có một chiếc soái đĩnh, hai Quân Vận Đĩnh và hai chiếc Fom, biệt phái cho một vùng nào đó. Toán đi như thế, sĩ quan nào cũng muốn có cặp Fom của anh Đức. Bạn tôi, Trần Hữu Khánh, tay tŕ của Giang Đoàn nói:” Có Đức đi theo ḿnh yên trí lắm. Có đụng mới thấy ngựa hay..” Tôi ở Giang Đoàn có mấy tháng, đă thấy mấy lần đụng độ. Đức lúc nào cũng được nhắc đến, với các chiến lợi phẩm. Khi th́ mấy khẩu CKC, Bá Đỏ…, chiến công lặt vặt ấy, anh bảo:” Thôi để cho mấy đứa em. Dù nó có ở khẩu 30 sau lái, cũng là đụng trận chứ. Cho nó có chút xanh , chút đỏ cho vui. Tôi đeo đủ rồi.”

Vào giữa năm 1965, một buổi trưa, một đoàn tầu đi tuần trên kinh Chợ Gạo. Con kinh huyết mạch để đoàn ghe gạo, cá từ Vùng IV về Sài G̣n qua đó. Kinh Chợ Gạo, ṿng đai an toàn cho Mỹ Tho, B́nh Phục Nhất, nơi mà “ḿnh vừa đi qua, là tụi nó ló mặt ra liền”, chính nơi này, Đức Râu và cặp Fom của anh đă làm Việt Cộng điên đảo. V́ là tầu nhỏ, một tầu tiến vào lạch, kéo theo chiếc Fom khác quay mũi trở ra . Như thế lạch hẹp, tầu phải vừa đi vừa vén lau mà lủi, không thể xoay sở, chẳng thể quay đầu. V́ thế Việt Cộng tin là ” lạch hẹp, bố bảo tụi tầu cũng không dám vào đây”. Vậy mà Đức Râu bảo:” Ông thầy cứ nằm ngoài kinh. Để tôi vào.” Vào sâu nằm đó, khi ở ngoài kinh đoàn tầu đă đi. Trong lạch um tùm, hai chiếc Fom nằm im khe. Tụi Việt Cộng ló ra , chèo ghe đi lại. Cho thật chắc, để chúng xuất hiện đông, là Fom khai hỏa. Chúng chạy đâu cho thoát. Lúc ấy chiếc Fom buộc sau chiếc Fom đi đầu, mở máy chạy, kéo theo chiếc thứ nhất trở ra kinh lớn… Sự gan dạ và thông minh ấy của Đức, Đức Râu, đă làm địch khiếp vía. Bao nhiêu xác địch đă bị bỏ lại trên bờ kinh. Bao nhiêu gạo,muối, đồ tiếp liệu của địch đă tịch thu được, một phần không nhỏ là do Đức với cặp Fom đem về.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1658061&stc=1&d=1600783330

Tiểu Giáp Đỉnh FOM và Trung Vận Đỉnh LCM8 của một Giang Đoàn Xung Phong
Hải Quân VHCH

Rồi một hôm, giữa năm 1965 cũng chính từ chiếc Fom của Đức HQ 5001,HQ 5002 gọi về, giữa trưa:” Tôi bị bắn, lạ lắm. Lửa phát ra xanh lè. Đạn xuyên từ bên trái tầu, qua luôn thành bên phải, ghim vào bờ kinh nổ bùng. Chúng bắn xong lủi rất nhanh vào khúc quẹo..”. Cả Giang Đoàn bàn tán. Các chi tiết ấy đă được sĩ quan Ban 2 ghi lại, gửi về Bộ Tổng Tham Mưu. Sau này mới hay đó là loại súng mới rất lợi hại của địch: B40. Và cũng từ đó , thay v́ chỉ là súng ngựa trời, CKC, Bá Đỏ, Việt Cộng có loại AK 47 , nhẹ, bắn liên thanh. Cũng từ lúc ây, tin đồn Việt Cộng treo giải, ai giết được Đức râu sẽ được thưởng 200 ngàn đồng, số tiền tương đương với nhiều lạng vàng. Một gia sản lớn. Nghe thế, đọc các truyền đơn ấy, Đức râu chỉ cười. Ngồi thừ trên mũi Fom, uống rượu t́ t́.
Ở lâu quá một con tầu không nên, cần phải thuyên chuyển qua tầu khác để có kinh nghiệm mới , và cũng là dịp cho nhân viến khác lên thay, để có cơ hội học hỏi thêm. Đức râu được lên làm thuyền trưởng chiếc Tiền Phong Đĩnh (Monitor Combat), HQ 6001.

Tiền Phong Đĩnh c̣n gọi là Thiết Giáp Đĩnh, là loại chiến đĩnh được trang bị hùng hậu nhất trong các chiến đĩnh hoạt động trên sông, dài 60 bộ, rộng 17 bộ. Trước mũi là đại bác 40 ly, pháo tháp dày. Ở giữa chiến đĩnh có một súng cối 81 ly, hai đại liên 12 ly và hai đại liên 30, và nhiều súng nhỏ, kể cả súng phóng lựu M 79. Hai máy dầu cặn, hai chân vịt nên xoay sở dễ dàng, tốc độ 8 gút. Nhân viên cơ hữu độ mười người. Khi cuộc hành quân quy mô, thường có các sĩ quan trưởng toán hiện diện tại đây. Đức râu được biết “phải” rời cặp Fom cuả anh để lên làm thuyền trưởng chiếc Tiền Phong Đĩnh HQ 6001. Anh không muốn lên, v́ như nhiều người biết, ở đây gần mặt trời, lại là chiến đĩnh lớn, khó tung hoành. Nhưng anh không thể từ chối. V́ thâm niên công vụ, anh sẽ đeo lon Thượng Sĩ nay mai, không thể ở măi trên tầu nhỏ được.

Làm quen với chiến đĩnh này, cũng không khó đối với anh. Với tướng mạo hùng dũng ấy, các tay đàn em sợ một phép.

Trận Ba Rài 29/9/1965

Giang kể:
"Cuộc hành quân dựa theo tin t́nh báo cuả SĐ 7BB theo đó Trung Đoàn chính quy BV có trang bị vũ khí nặng đă có mặt trong vùng. SĐ 7 BB đă mở cuộc hành quân bao vây trước đó một ngày, lực lượng gồm nhiều Tiểu Đoàn TQLC và Bộ Binh SĐ 7. Lực lượng này đă bị cầm chân và không rút được, phi cơ cũng không can thiệp được v́ rừng cây dầy đặc. Phía ngoài, tại cửa sông lớn đi vào, địch đă để một thành phần súng lớn để diệt tầu Hải Quân (sau này, khi đụng độ mới biết, v́ chúng ngụy trang và bất động).

Do đó SĐ7/BB yêu cầu Hải Quân mở cuộc hành quân phối hợp thăm ḍ tiếp theo để có thể can thiệp cho kế hoạch: Rút quân và để phi cơ oanh tạc.

Giang Đoàn 21 Xung Phong và 27 Xung Phong do HQ Đại Úy Trần Văn Triết chỉ huy, mở cuộc hành quân thay cho HQ Thiếu Tá Huỳnh Huy Thiệp, đi họp ở Cần Thơ. Đoàn tầu đi tới vùng hành quân khoảng 2 giờ chiều. Tất cả nằm ngoài sông lớn. Riêng toán của tôi gồm Monitor Combat 6001 và hai Fom 5001-5002 được chỉ định đi vào kinh nhỏ bắt liên lạc với bộ binh. Toán của tôi chỉ huy gồm thuyền trưởng Nguyễn Văn Đức (Râu) và Trung Sĩ Sụn (Fom). Chúng tôi đă tiến sâu vào trong kinh và bắt liên lạc trực tiếp với lực lượng trên bờ tại xă Xuân Sơn. Tôi báo cáo ra ngoài cho Đại Úy Triết biết. Đại Úy Triết bèn cho một Monitor Comand với hai RPC hộ tống đi vào, và toán của tôi tiến ra yểm trợ. Tất cả đều yên lặng, không có cuộc chạm súng nào, nhưng không khí căng thẳng, v́ với kinh nghiệm cho biết, tôi đoán, địch sẽ đánh. Lúc trở ra. Thông thường, bất cứ cuộc hành quân vào sông rạch nào lúc vào không nguy hiểm bằng lúc trở ra; do đó thường tránh đi về cùng một đường. Nhưng trường hợp này không áp dụng được v́ độc đáo.

Khi quay trở ra, tiếp tay được với toán Đại Úy Triết, tôi nằm lại giữ an ninh thủy tŕnh, và Đại Úy Triết cho 3 giang đĩnh tiến sâu vào tiếp giáp với bộ binh trên bờ. Khi Hải Quân gặp Bộ Binh, địch không kềm chân Bộ Binh nữa v́ sợ Hải Quân phản công.

V́ thủy tŕnh quá dài, nên toán tôi giữ an ninh khúc giữa Đại Úy Triết cho monitor combat 6007 của Trung Úy Bảo vào giữ an ninh khúc ngoài.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1658062&stc=1&d=1600783330

Khoảng 4 giờ chiều, một phi cơ quan sát cho biết một tầu Hải Quân bị cháy phía ngoài đầu kinh. Đại Úy Triết liên lạc với Trung Úy Bảo không được và chỉ thị toán của tôi ra tiếp cứu. Khi gần tới tầu Trung Úy Bảo th́ tôi bị tấn công bằng đủ mọi loại súng nặng. Chiếc monitor combat HQ 6007 của Trung Úy Bảo là mục tiêu đầu tiên cho địch khai hỏa. Bảo bị thương nặng. Tầu bốc cháy và ch́m. Tôi cho lệnh 3 chiến đĩnh ủi thẳng vô bờ phản công. Địch đă xuất hiện với quân phục kaki vàng, nón cối rất đông. Chúng mở cuộc tấn công với mục đích cướp tầu, nhưng chúng không thể nào tiến tới gần tầu được.

Cuộc giao tranh rất khốc liệt. Toán giang đĩnh của Đại Úy Triết tiến trở ra bị ngay mấy du kích hai bên bờ bắn tỉa làm Thiếu Úy Hiền và Đại Úy David tử thương. Đại Úy Triết bèn ra lệnh cho tất cả rút ra ngoài sông lớn nhưng toán của tôi vẫn nằm ĺ ở lại , v́ đang đối đầu quyết liệt với địch. Chúng tôi đă tận dụng hỏa lực 40 ly, 20 ly, đại liên 50, 30, FM Bar. Địch quân không thể tiến lên được và chúng gục xuống sau những tiếng hô đồng nhất “xung phong”.

Khẩu đại liên 30 bên trái ngưng nhả đạn, tôi quay qua sờ thấy đầu Trung Sĩ Đức gục xuống, anh đă hy sinh. Tôi được lệnh Đại Úy Triết phải rút ra ngoài. Tôi báo cáo t́nh h́nh và cho biết tầu tôi bị trúng rất nhiều đạn súng lớn, trong đó có bị một lỗ lớn, nếu rút ra sẽ bị ch́m. Về nhân viên, có Trung Sĩ Đức hy sinh, Trung Sĩ Thức thuyền phó monitor bị thương nặng ở chân. Một phóng viên AP bị một viên đạn vô ngực, ông ta rất tỉnh, nhưng báo sự nguy hiểm sẽ đến với ông ta. Vài phút sau khi gặp th́ ông ta cũng ra đi. Số c̣n lại tất cả đều bị thương, nhưng vẫn c̣n chiến đấu hữu hiệu. Chúng tôi phải tận lực mới đẩy lui được những đợt tấn công cướp tầu của địch.

Khoảng 11 giờ đêm, tiếng súng thưa dần. Tôi yêu cầu Đại Úy Triết cho vô tiếp cứu, nhưng vô hiệu.

Nằm lại một ḿnh cho đến khi im tiếng súng , chúng tôi 9 thày tṛ đă chuẩn bị tất cả vũ khí cá nhân, lựu đạn để nếu tàu bị ch́m , không ở lại tàu được th́ sáng hôm sau sẽ t́m đường bộ về Cái Bè. Nhưng nhờ trước đó chúng tôi đă cho cột dây an toàn từ bít sau lái lên gốc cây trên bờ, nên tàu không bị vô nước, nhờ đó mới kèm kéo về an toàn…”

* * * * *

Con rạch Ba Rài bắt nguồn từ Quận Lỵ Cái Bè dài trên 10 cây số, chảy ra sông Cửa Tiểu theo hướng Bắc Nam. Ḷng rạch hẹp, nơi rộng nhất ở ngă ba Ba Rài- Cửa Tiểu, hai bên bờ rạch không quá 100 mét. Con rạch cắt một góc chéo 25 độ rồi uốn khúc, tạo thành một doi đất, bề ngang doi đất không quá 600 mét. V́ thế từ cửa rạch không thể nh́n thấy phía trong. Hai bên bờ cây rậm rạp, những hàng dừa đứng chen nhau như thành. Suốt cả chiều dài của bờ rạch như thế, nên cuộc đụng độ giữa một đơn vị chủ lực Việt Cộng với các đơn vị của sư đoàn 7 Bộ Binh, có cả Thủy Quân Lục Chiến từ mấy ngày qua. Hai bên cứ cầm chân nhau , không bên nào tiến lui được. Hai bên đều nh́n thấy nhau, chỉ cách mấy hàng dừa. Quá gần cho nên không thể gọi pháo binh tác xa. Quá rậm nên không có chỗ để trực thăng đổ quân tiếp viện. V́ thế, Sư Đoàn 7 Bộ Binh đă trông cậy vào Hải Quân: Giang Đoàn 21 và 27 Xung Phong. Giang Đoàn 21 là một đơn vị kỳ cựu, nhân viên và sông nước quen nhau, và cả địch lẫn ta quần nhau cũng lắm. Riêng Giang Đoàn 27 Xung Phong vừa mới thành lập, dưới quyền chỉ huy của Hải Quân Đại Úy Trần Văn Triết, một sĩ quan mới từ đơn vị biển đổi về sông. Sau mấy tháng huấn luyện, đây là lần đầu tiên Giang Đoàn 27 Xung Phong đem toàn lực ra quân, với tất cả các chiến đĩnh của Giang Đoàn 21 Xung Phong.

Nhiệm vụ của cuộc hành quân này là Hải Quân tiến vào rạch Ba Rài, hỗ trợ cho các đơn vị Bộ Binh rút từ Xă Xuân Sơn, phía Đông rạch Ba Rài sang bên kia rạch. Hải Quân, cả hai Giang Đoàn đă tiến vào. Dưới hỏa lực hùng hậu của các giang đĩnh, Việt Cộng đă án binh bất động. Đơn vị bạn đă rút an toàn, và dùng tầu Hải Quân băng qua bên kia bờ. Tất cả đă diễn ra êm ả, từ 2 giờ cho đến 4 giờ chiều. Đoàn tầu bắt đầu rút, nước đă xuống. Tàn cây che phủ ḷng sông,tối, lạnh. Việt Cộng đă phục sẵn tại doi đất gần cửa rạch và bắt đầu tấn công vào đoàn tầu của ta. Đây là một cuộc thử lửa khốc liệt giữa một đơn vị chủ lực của Việt Cộng và hai Giang Đoàn được coi là tinh nhuệ của ta.

Dù trận chiến đă diễn ra trên 30 năm, nhưng may mắn thay, các nhân sự ṇng cốt của cuộc thử lửa này, hiện ở Mỹ c̣n nhớ được, và đă thuật lại qua các câu trả lời trên giấy hoặc qua các cuộc điện đàm mới đây. Đó là anh Nguyễn Ngọc Giang lúc ấy là Trung Úy, lên lon tại mặt trận tŕnh bày ở phần trên; và anh Diệm, Đặng Diệm, người lăn lộn với Giang Đoàn 21 Xung Phong rất nhiều năm. Đặng Diệm kể:

“Như anh biết, tôi cũng chẳng gan dạ ǵ, nhưng việc tới tay th́ phải làm. Vùng sông nước này tôi hoạt động khá lâu nên khá rơ. Lúc đoàn tầu bị tấn công, tôi ở trên chiếc monitor command. Đại Úy Davis và Thiếu Úy Hoàng Hiền cũng ỏ trên tầu này. Hiền bị đạn, lăn lộn dữ lắm, mấy người ôm anh ấy để tránh rớt xuống sông. Lúc đă rút ra ngoài sông lớn, Đại Úy Triết đi Cái Bè họp với bên Bộ Binh. Trong Lúc ấy hệ thống truyền tin vẫn mở, tiếng Giang báo cáo, kêu cứu, tất cả các tầu đều nghe. Tôi kiểm chứng mật mă riêng với Giang. Giang trả lời rất nhanh. Tôi gọi 4, Giang đáplại ngay 9, để 9+ là 13. Con số 13 chỉ có hai đứa tôi biết mà thôi. Tôi tin là Giang không bị địch áp đảo. Giang tiếp tục kêu tiếp cứu gấp rút. Các thuyền trưởng họ cùng mở máy nghe, họ nóng ruột quá. Chỉ huy Trưởng th́ đă đi họp. Tôi bèn lấy quyết định một ḿnh vào cứu Giang, và yêu cầu ai t́nh nguyện th́ theo tôi. Phải nói là lúc đụng trận th́ ḿnh không sợ, ḿnh phản ứng tự nhiên. Giờ cuộc đụng độ đă tàn. Nhớ lại Lúc Đại Úy Davis ngă xuống và Hoàng Hiền lăn lộn đầy máu, tôi cũng cảm thấy hăi chứ. Mà chắc ǵ địch không phục ở cửa sông. Có thể là chỗ tầu Giang đă yên, yên thật, hay yên giả. Nhưng làm sao khác được, tôi lấy một chiếc command, 2 LCM và 2 chiếc fom trở lại rạch Ba Rài. Tôi nói với Giang: ” Khi nào nghe tiếng tầu tôi th́ lấy đèn pin làm hiệu…” Phải nói là liều chứ anh, run lắm, sĩ quan chỉ có ḿnh tôi. Con rạch tối om, lạnh ngắt. Khi nghe Giang báo cáo:” Tôi đă nghe tiếng tầu,” là lúc tôi thấy ánh đèn pin lập ḷe của Giang vẫy vẫy. Tôi cho hai chiếc fom khai hỏa phía bờ đối diện. Tầu tôi cặp vào tầu Giang. Đón được Giang và các nhân viên trên chiếc combat qua tầu tôi, tất cả chúng tôi đều bê bết náu. Tầu tôi lùi ra, để cho hai chiếc LCM cặp vào chiếc combat kéo về. Lúc trở ra. Trời đă khuya lắm, có lẽ đă quá nửa đêm. Vừa đi vừa bắn. Về đến cửa Mỹ Tho, như anh biết là 4 giờ sáng. May mà không có sự ǵ xẩy ra, nếu tụi nó phục sẵn, ḿnh làm sao mà không bị thiệt hại. Lúc ấy thật khó nói…”.


https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1658063&stc=1&d=1600783330

Các Chiến Đỉnh của một Giang Đoàn Xung Phong

Trong khi cả hai giang đoàn hầu như dốc toàn lực cho cuộc hành quân này, th́ riêng tôi được phân nhiệm đem một chiếc LCM và hai LCVP, chở theo một trung đội bộ binh, đổ bộ bên tả ngạn sông Tiền Giang, đối diện với vùng hành quân trên để nghi binh. Tôi c̣n được chỉ thị kỹ chỉ cần đổ quân gần bờ, bắn cho có tiếng súng, đừng vào sâu, và phải rút về lúc quá trưa, để c̣n liên lạc với bên Tiểu Khu lo việc làm lễ gắn huy chương cho vị cố vấn tiền nhiệm, và cũng là lễ giới thiệu Đại Úy Davis, tân cố vấn.Như đă dự trù, tôi đem mấy chiếc tầu về đến căn cứ lúc 2 giờ, nằm ngủ một lát để lát nữa qua Tiểu Khu mượn ban nhạc, th́ anh Trung Sĩ Vô Tuyến gơ cửa, tôi bảo ” vào đi”. Anh ta nói, mặt xám ngắt:
– Ông thầy xuống Pḥng Vô Tuyến đi. Tôi chạy xuống ngay, đóng cửa lại, và mở cả hai hệ thống truyền tin. Tiếng súng vọng lại từ mặt trận dội về xen lẫn các cuộc đối thoại giữa các chiến đĩnh trên hệ thống chỉ huy. Có Lúc tiếng nổ dội về, và hệ thống âm thoại tắt.. .Đúng là đụng to rồi. Tôi ra lệnh cho đóng cổng trại, cấm trại 100%, để sẵn sàng nhận lệnh từ mặt trận gọi về. Tất cả đă diễn tiến như anh Giang đă tả”.
Khi tiếng anh Diệm êm ả gọi, cho hay:” Tụi này sẽ về đến căn cứ độ 40 phút nữa. Sẵn sàng xe cứu thương và y tá…”

Tôi khoác áo ấm đeo súng Colt và đèn pin đứng đợi tại cầu tầu cùng với xe cứu thuơng và cáng. Đoàn tầu đă nh́n thấy lấp lánh tiến về từ từ cặp vào cầu tầu. Diệm bước lên đầu tiên, d́u Giang theo. Dưới ánh đèn vàng, chỉ thấy toàn người Giang đầy máu. Giang vẫn đi lại được. Tất cả nhân viên trên chiếc Tiền Phong Đĩnh cuả Giang lên ngồi kín chiếc xe Hồng Thập Tự. Sau đó, một xe khác chở cái băng ca, xác cuả Đức Râu vàng khè và toàn thân sũng máu.. Tất cả lặng lẽ di chuyển qua Bệnh Viện Dă Chiến. Các nhân viên c̣n lại, kể cả dưới tầu, trên căn cứ xúm lại lấy ống bơm xịt, rưả chiếc tầu vưà từ mặt trận về. Trời sáng dần, mặt sông đă óng ánh bóng nắng, và cũng là Lúc tôi nhận thấy nước từ trên chiến đĩnh chảy xuống vẫn đẫm đẫm máu đỏ.

Trời sáng hẳn, cả cầu tầu đă trở lại êm ả, sạch sẽ như thường lệ.

Tổng Kết Trận Ba Rài
Được chỉ huy bởi một vị sĩ quan vừa từ biển đổi về sông, kinh nghiệm chiến trận kể như c̣n “lỏng tay”, đây là một cuộc tranh hùng khốc liệt. Dù địch đă chuẩn bị sẵn chiến trường, có đủ yếu tố bất ngờ, và giờ giấc thuận tiện: Lúc 4 giờ chiều, giờ của họ, nước thấp, chúng ở trên cao bắn xuống. Nhưng ta đă “đáp ứng”ngon lành. Không ai có con số chính xác về tổn thất của địch, nhưng xác địch nổi trên mặt sông nhiều gấp 3,4 lần bên xác của ta, đó là chưa kể số thương vong trên bờ mà địch đă vội vă mang đi chắc cũng không dưới 100, v́ 57 súng đủ loại để lại là một chứng minh cụ thể. Bên ta tuy có một tầu ch́m, số thương vong chưa quá 20. Và vũ khí được bảo toàn.

Tại đơn vị, những phái đoàn lên xuống tấp nập . Đầu tiên là các cô nữ xă hội của Thiếu Úy Sa. Các cô đem dầu gió, vải trắng làm khăn tang.. Lần lượt là thân nhân của nhân viên đơn vị. Tất cả ngồi chật ních, rũ rượi ở Câu Lạc Bộ. Hải Quân Đại Tá Trần Văn Chơn, Tư Lện Hải Quân cũng có xuống. Ông xuống thăm chiếc monitor combat HQ 6001. Ông nh́n lỗ thủng do đạn địch bắn vào, ông x̣e bàn tay che chưa kín lỗ đạn, và nói với Giang:” Có bàn tay trời che chở cho anh…”.

Trong lúc ấy tại khúc sông con rạch Ba rài, Bộ Binh đóng đầy. Những đám khói hương cắm dọc theo mé sông, những vũng máu đen đặc, tanh nồng. Vũ khí địch bỏ lại tất cả là 57 khẩu đủ loại. Dưới nước, tầu của ḿnh ủi băi. Nước vẫn lên xuống điều ḥa. Lâu lâu từ dưới đáy sông lại trồi lên một xác. Tầu ḿnh ghé lại lật xác lên nhận diện. Bạn th́ vớt lên, lấy mền đắp lại. Địch th́ đẩy ra cho trôi theo gịng nước. Mấy ngày sau, xác Bảo mới nổi lên. Trước khi nổi có một đám bọt xủi, rồi một cánh tay nhô lên trước. Tay phải. Bàn tay c̣n cầm cái bút nguyên tử mầu vàng… Bây giờ sau hơn 30 năm đă qua, tôi chẳng c̣n nhớ được kỹ. Chỉ biết chắc là Trung Sĩ Thinh từ nhà xác về, đem theo các thẻ bài là tôi kư giấy khai tử cho các người chết, kèm theo các thủ tục xin quan tài kẽm và lệnh di chuyển cho các quân nhân tháp tùng.

* * * * *

Một buổi trưa ngày nghỉ, tôi trực nhật, ngồi từ trên lầu pḥng ngủ sĩ quan, nh́n qua bên kia Cù Lao Rồng. những mái nhà xen giưă mấy lùm cây. Trẻ con nô đuà dưới mé nước. Lấy ông nḥm nh́n kỹ vào phiá trong, có những ông già ngồi trước hiên nhà đang lặng lẽ uống rượu. Đàn vịt, đàn gà chạy loanh quanh. Mấy bà già và các cô gái đun nấu gần đó. Cảnh trí êm ả, thanh b́nh. Nhưng tôi nghĩ: ”Rất có thể các ông già kia là các mật báo viên cuả phiá bên kia. Địch lăn lộn, trà trộn với dân thật là xảo quyệt.

Tôi đảo ống nḥm về phiá cầu tầu. Một đoàn chiến đĩnh nằm như ngủ. Riêng chiếc Tiền Phong đĩnh HQ 6001, tầu cũ cuả Đức Râu, có mấy người lính đi lại. Tôi theo dơi, và tôi thấy họ xếp một điă đồ nhậu ra sàn tầu, một thùng bia Quân Tiếp Vụ. Tôi nghĩ: ” Lại nhậu cho đỡ buồn đây…” Nhưng không phải thế. Mấy nhân viên ăn mặc đàng hoàng, ngồi sau các thứ họ vưà bầy ra, rồi bật diêm, đốt nhang, cắm vào một ly gạo. họ đang làm lễ, và tôi chợt nhớ, hôm nay 49 ngày cuả Đức Râu rồi đây. Tôi muốn xuống với họ, xong tôi nghĩ:” Thôi để họ tự nhiên.”.

Cũng xung quanh thời gian ấy, một hôm cụ bà, thân mẫu của anh Hoàng Hiền t́m tới đơn vị để nhận lại các di vật của con. Cụ muốn lên căn pḥng cũ, nơi HQ Thiếu Úy Hoàng Hiền đă ở. ” Dạ, đây là giường nằm của anh ấy.” Cụ ngồi xuống mé giường, lặng lẽ. Cụ x̣e bàn tay gầy vuốt lên mặt nệm. Đôi Lúc bàn tay cụ dừng lại như lắng nghe, như t́m chút hơi ấm nào của con c̣n sót lại. Cụ ngồi khá lâu rồi đứng lên. Cụ nói:” Nhà tôi cũng bị chết v́ Việt Cộng, giờ lại đến nó…” Cụ nói êm ả điều ḥa như chuyện của ai. Mảnh sân đơn vị nắng bỏng. Cụ bước đi thong thả. Trên đầu cụ cuốn một mảnh khăn trắng dài, phủ xuống sau lưng. Bóng cụ đổ trên nền sân, cụ nắm chặt cây kiếm Hải Quân của cậu con trai trong ḷng bàn tay nhăn nheo của cụ.

Bây giờ, đă cuối năm 1998, đọc cuốn Vietnam, the Decisive Battles, ( Những Trận Chiến Quyết Định tại Việt Nam), Tác giả, ông John Pimlott, có nói đến trận Ba Rài. Tôi đọc kỹ, đây là một trận đánh khác, nhưng cũng xảy ra tại nơi trên, nhưng thời gian trận sau diễn ra vào ngày 15 tháng 9 năm 1967, trước hai tuần lễ đầy hai năm sau trận mà hai Giang Đoàn 21 và 27 Xung Phong đă chạm địch. Trong trận sau, các chiến đĩnh của Hoa Kỳ, loại mới, tối tân hơn (ATC), đă đụng với Tiểu Đoàn 263 D của Việt Cộng. Phải chăng đơn vị này của địch đă đụng với Hải Quân Việt Nam trước đó. Trận sau , dù địch có yếu tố t́nh cờ và địa thế đă chọn sẵn, địch cũng đă để lại 79 xác chết.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1658064&stc=1&d=1600783330

Một sự trùng hợp nữa rất lạ lùng, trận 29 tháng 9 năm 1965, Đại Úy Davis đă chết. Trận sau, cũng có một sĩ quan Mỹ tham dự trận đánh, tên ông cũng la Davis (Wilbert). Ông ta sống. Và nơi diễn ra trận đánh đă được Mỹ đặt cho một cái tên ngộ nghĩnh là Snoopy’s Nose. Với tôi, tôi đồng ư với Giang rằng, nếu trận năm 1965, vị chỉ huy Giang Đoàn 21 Xung Phong, HQ Thiếu Tá Huỳnh Duy Thiệp có mặt, t́nh thế chắc sẽ khác hẳn. Và, Đức Râu, vẫn dong duổi bén nhậy trên cặp Fom, con ngựa Xích Thố của Giang Lực, Việt Cộng khó có khả năng khai hỏa êm xuôi như vậy. Chính trận này, lần đầu tiên chúng dùng B 40 công phá đoàn tầu.

Đối Phương Đă Nói Ǵ Về Trận Ba Rài
Trong tập tài liệu lưu hành nội bộ nhan đề “Những Trận Đánh của Lực Lượng Vơ Trang Đồng Bằng Sông Cửu Long”, do nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, năm 1997, trận Ba Rài đă được viết lại tỉ mỉ, và chiếm một số lượng trang từ 104 đến 126, người viết đề tên Trung Tá Nguyễn Thanh Sơn. Đây là một bài viết công phu, từ những nhận định địa h́nh, thời tiết, t́nh h́nh lực lượng hai bên, t́nh h́nh dân chúng, những giả thuyết trận liệt, rồi diễn tiến trận đánh và cuối cùng là kết quả và ư nghĩa của trận này.

Từ đó ta biết rằng đơn vị đối đầu với ta tại Ba Rài ngày 29 rạng 30 tháng 9 năm 1965, là tiểu đoàn 261. Tiểu Đoàn này đă được trang bị vũ khí nặng. Riêng "Đại Đội Bộ Binh 1" của Việt cộng, có nhiệm vụ "chận đánh tầu địch trên sông Ba Rài", có 3 khẩu DKZ 57 ly, 2 khẩu 12ly 7, và ba khẩu B 40. Trận đánh đă diễn ra ác liệt, phù hợp với những ghi nhận của phía HQVN ta.

Có điểm kết quả trận đánh th́ chúng khoác lác rất lạ, Việt Cộng viết nơi trang 119 rằng:
"Sau một ngày chiến đấu, ta đă tiêu diệt 500 tên địch. Bắn cháy và ch́m tại chỗ 5 tầu chiến (có một tầu đầu hàng). Thu một cối 81 ly, 1 súng 12,7 ly, 2 đại liên, 8 cac bin, 1 máy vô tuyến điện và nhiều quân trang quân dụng khác. Phá hủy một DKZ 5 ly,1 súng 12,7 ly. Bắn rơi 5 máy bay.

Ta hy sinh 18 đồng chí (có 3 cán bộ trung đội). Bị thương 32 đồng chí. Bị phá hỏng 1 B 40 và 4 súng tiểu liên".
Thưa anh Nguyễn Thanh Sơn, không biết anh đă căn cứ vào đâu để có kết quả như trên. Nếu có th́ giờ, anh hăy lục lại loạt bài nhan đề ” Đoàn Tầu Đi Vào Cơi Chết Để T́m Ra Lối Sống”, đăng liên tục nhiều ngày khoảng đầu tháng mười năm 1965, trên nhật báo Tiền Tuyến, Sài G̣n, người viết đă ghi lại đầy đủ chi tiết về phía Quân Lực Việt Nam. Có đầy đủ các thiệt hại, và tên tuổi của người đă nằm xuống trong trận này. Đó là một trận đánh quả có gây xúc động tới các giới chức cao cấp của chúng tôi, v́ trận này sĩ quan Hải Quân chết nhiều nhất: Hai người là Trần Ngọc Bảo và Hoàng Hiền. Phía Mỹ, Đại Úy Davis, vị tân cố vấn vừa đáo nhậm, đây cũng là lần đầu tiên các anh đă xử dụng B 40 đánh phá đoàn tầu. Một loại vũ khí mới và rất công hiệu. Và chúng tôi rất tiếc, “Con Ngựa Xích Thố của Giang Lực”, Trung Sĩ I Lê Phước Đức, người mà phía các anh đă khiếp hăi, đă treo giải” ai giết được Đức Râu th́ sẽ được trọng thưởng...”. Đó là nỗi đau đớn, thiệt hại của chúng tôi. Quả các anh có bắn cháy và ch́m 1 chiếc tầu, trên có Bảo, bạn tôi chỉ huy. Tầu ch́m, rồi chúng tôi lại vớt lên, kéo về. Một chiếc khác bị thiệt hại nặng, trên đó có Giang điều động. Chiếc tầu đó có thủng, không chạy được, nhưng đă không ch́m. Phía các anh đă nhiều phen vừa hô “xung phong” vừa ào lên định cướp tầu. Mỗi lần như thế, lại một lần phía các anh gục xuống. Chỉ riêng với chiếc tầu này, khách quan mà nói, con số 20 người chết về phía các anh, có lẽ là con số quá nhỏ. Làm ǵ có chiếc tầu nào hàng các anh đâu? Trong khi đó, như bài viết ở trang 113, các anh đă phải đối đầu với " 7 tiểu đoàn bộ binh, 8 khẩu 105 và 155 ly trực tiếp chi viện. Trên sông có 12 chiếc tầu chiến. Ngoài ra c̣n có phi cơ các loại tập trung chi viện cho cuộc hành quân càn quét này".

Thưa anh Sơn, có thể các anh đă ước định sai số quân bên phía chúng tôi. Xin hăy giả thử chỉ một nửa quân số nói trên, họ lại là một loại binh chủng mà các anh kêu là “ác ôn, lính thủy đánh bộ,” họ đâu có phải là hàng chuối ở vườn, đứng im cho các anh tới hạ. Nếu quả các anh có một may mắn nào đó, tiêu diệt được độ một trăm người, tôi nghĩ cũng đă là oanh liệt lắm. Chiến công ấy do ai chỉ huy, ai là những ” xạ thủ ngoan cường” của các anh, sao không thấy các anh nhắc đến?

Những luận cứ vu vơ đó chỉ làm cho tập tài liệu của các anh trở thành một tṛ cười, không c̣n một chút khả tín nào nưă. Chỉ có “18 đồng chí hy sinh,” vậy th́ 57 khẩu súng đủ loại bỏ rải rác hai bên bờ sông Ba Rài là của ai. Các vũng náu đen đặc, và những xác chết nổi lên không đếm được trên sông Ba rài, các xác đều mắc quần áo Kaki Nam Định, là xác chết nào hở anh Sơn???

Thưa anh Sơn,
Khi cuộc chiến c̣n đang tiếp diễn, các anh cần thổi phồng chiến công để tuyên truyền, chúng tôi đọc đến nỗi phải ph́ cười nhưng vẫn c̣n thông cảm được. Nay cuộc chiến đă tàn. Cả khối Cộng Sản đă vỡ. Các anh đă phải mở cửa để long trọng đón kẻ thù cũ là ” Đế Quốc Mỹ” vào như một thượng khách. Sự thực về cuộc chiến đă được từ từ phơi bầy. Lẽ ra đây là lúc các anh phải thật khách quan, t́m hiểu, đối chiếu tường tận để trả sự thật cho sự thật. Đó mới là thái độ trí thức của người viết sử. Anh đă không làm thế. Các anh đă không làm thế. Riêng anh, anh Sơn, anh viết bừa băi, cẩu thả, đă đành. Trên anh c̣n có ông Phó Tiến Sĩ Phạm Gia Đức, người chịu trách nhiệm xuất bản. Ông Đức có lẽ đă không thèm nh́n lại bài viết của anh. Hoặc có đọc mà không có khả năng suy xét, nhận thức. Phải chăng ông ta là một ông tiến sĩ giấy ? Học vị càng cao chỉ càng làm cho tṛ cười thêm lớn. Tuy nhiên nói đi cũng phải nói lại, chính sự ngộ nghĩnh nghịch lư nói trên đă giúp phía chúng tôi ít phải mất th́ giờ so sánh, biện bạch. Và bên cạnh đó, anh Sơn c̣n dẫn một câu (mà không nêu rơ danh tánh) rằng:” Trận đánh này chỉ huy tiểu đoàn bộ binh 261 đă xác định lực lượng nguy hiểm trực tiếp trước mắt là đoàn tầu chiến trên sông Ba Rài” (trang 123). Thế là đủ.

Tôi xin dừng ở đây nghe anh Sơn. Trước khi bài này được in và chuyển ngữ, chúng tôi sẵn sàng đón nhận ư kiến từ mọi phía, kể cả tác giả bài viết của nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội.

Ôi Những Anh Linh Bên Gịng Sông Cũ
Bây giờ, tính từ năm 1967 đến nay, đă trên 30 năm. Cuộc chiến cũ đă nhạt nḥa. Người chiến binh Mỹ đă trở lại Việt Nam du lịch. Những con thuyền gỗ có mái che, chở các du khách lướt trên mặt nước đục ngầu Cửu Long Giang được in trên các báo Mỹ. Và tôi chắc, từ hải ngoại, có lẽ đă không thiếu bà con, bằng hữu chúng ta trở lại thăm thân nhân, chốn cũ. Có ai đă tới Mỹ Tho không? Trước khi đến Mỹ Tho, từ Sài G̣n đi xuống bằng Quốc Lộ 4, chúng ta gặp tỉnh lộ 29 xuôi Nam. Qua Mỹ Hạnh Trung, vào Tỉnh Lộ 20, tới Long Điền, rẽ trái vào Tỉnh Lộ 12 ta sẽ đi qua một vùng đau khổ cũ. Phía mặt là Cẩm Sơn, phía Nam là Hiệp Đức, Xuân Sơn, ta sẽ gặp con rạch Ba Rài ở giữa đoạn đường này, tính từ Long Điền đến An Phú. Nơi đây vườn cây xanh tốt. Mận ở vùng này nổi tiếng ḍn, đỏ au như xác pháo hồng mùa Xuân. Con rạch Ba Rài ấy có các con thuyền đi lại. Các cô thiếu nữ má hồng trong áo bà ba tươi mát, quần Mỹ A óng ả. Dưới sông trẻ nhỏ bơi tắm nô đùa. Các cô gái và trẻ em này được sinh ra và lớn lên sau cuộc chiến đă tàn. Họ có biết đâu rằng, dưới ḷng con rạch này,chắc c̣n có những nắm xương nằm từ bao năm cũ. Và hàng cây bên sông, cây già trăm tuổi, có c̣n nhớ một thời khói lửa đă bùng lên, và nếu ai tỉ mỉ, xem lại các thân cây, những vết đạn cũ, chắc có những đầu đạn sản xuất made in USA, và có cả những đầu đạn từ Nga Sô, Trung Cộng đem lại. Những người trai của cả hai bên trận tuyến, có khi là anh em một nhà, bạn bè một quận… đă phải ào ạt giết nhau. Những linh hồn oan khuất chắc c̣n lẩn khuất bên các gốc cây xưa.

Ôi những anh linh kẻ Nam Người Bắc
Chết là oan cho một cuộc tương tàn

Là quân nhân Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa, chúng ta đă làm tṛn xứ mạng được trao cho. Thời cuộc đă gọi, ta nhập cuộc. Chúng ta đă anh dũng hành động. Bạn bè ta đă anh dũng hy sinh. Các bạn đích thực là những kẻ anh hùng. Tôi ao ước có một ngày về thăm chốn cũ. Tôi sẽ ngồi bên bờ con rạch Ba Rài, dưới bóng mát của các cây ăn trái, tôi sẽ cầu nguyện, sẽ đọc một thời kinh Giải Oan cho những người năm xuống tại nơi này. Hỡi Nguyễn Ngọc Bảo, hỡi Hoàng Hiền, hỡi Lê Phước Đức, tức Đức Râu, và bao nhiêu người nữa. Tôi ngưỡng mộ các anh. Xin các anh hăy lắng ḷng nghe kinh mà siêu thoát. Tổ Quốc ghi công các bạn.

Phan Lạc Tiếp

* Bài viết này được cô đọng qua các cuộc phỏng vấn bằng thư, bằng điện thoại giữa người viết và anh Nguyễn Ngọc Giang, Đặng Diệm, trong phần có dấu ngoặc kép” ” là nguyên văn lời các anh ấy phát biểu.

hoanglan22
09-22-2020, 15:12
Lời Giới Thiệu của Dịch Giả
Bài viết “Đánh Trận Là Một Nghệ Thuật” đă được đăng trên “The Journal of Military History” số 68 vào năm 2004. Đây là một quyển báo rất có uy tín của quân đội Hoa Kỳ từ năm 1937, chuyên đăng những bài nghiên cứu có giá trị về lịch sử quân đội của mọi nơi trên thế giới.

Dù đă ra đời mười sáu năm, bài viết này có một giá trị lịch sử đặc biệt v́ người viết đă tham khảo rất công phu nhiều tài liệu của cả Việt Nam Cộng Ḥa, Hoa Kỳ và Bắc Việt.

Bài viết này đă được Cố Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Ḥa nhận định là chính xác đến 95%.

Tóm Lược Bài Viết
Từ đầu tháng cho đến giữa tháng Tư, 1975, Sư Đoàn 18 của Miền Nam Việt Nam đă pḥng thủ ngă đường chiến lược tại Xuân Lộc, Đông Bắc của Sài G̣n, giữ vững nơi này sau những cuộc tấn công ồ ạt của cả một quân đoàn của Cộng Sản Bắc Việt trong kế hoạch tấn công bất ngờ để tràn chiến Sài G̣n và nhanh chóng kết thúc cuộc chiến Việt Nam. Với những trận đánh khốc liệt, Sư Đoàn 18 đă chận được cuộc tấn công của Cộng quân trước khi được lệnh rút về pḥng thủ Sài G̣n. Mặc dù Cộng quân đă vấp phải lỗi quá tự tin, sự thành công của Sư Đoàn 18 phần lớn là kết quả của tài đánh trận có kế hoạch và sự chỉ huy dũng cảm của vị Tư Lệnh, Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo, người đă chứng tỏ rằng ngay trong những giờ phút đen tối nhất của Miền Nam Việt Nam, những người lính Việt Nam Cộng Hoà -- những người đă từng bị chỉ trích rất nhiều, sẽ chiến đấu nếu cấp chỉ huy của họ là những sĩ quan có khả năng.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1658075&stc=1&d=1600786198

Quả đạn pháo kích đầu tiên rót vào ngay nhà Tướng Lê Minh Đảo. Đó là một căn nhà hai tầng nhỏ, không có ǵ nổi bật, dù tường nhà sơn màu hồng. Căn nhà nằm đối diện với tư gia của ông Tỉnh Trưởng, gần nhà thờ Thiên Chúa Giáo ở giữa thị xă Xuân Lộc, thủ phủ của tỉnh Long Khánh. Ông Tướng, như phần lớn binh sĩ Việt Nam Cộng Hoà (VNCH), sống trong cái tỉnh nhỏ miền quê, yên lặng và đượm nét hoang tàn. Trái đạn pháo xuyên thẳng qua mái nhà và nổ tung ngay trong pḥng ngủ, chứng tỏ độ chính xác của pháo binh Bắc Việt. Tiếp theo ngay sau đó là hai ngàn quả đạn pháo vào tỉnh trong ṿng một tiếng đồng hồ. May thay, ông Tướng không ở nhà.

Những tiếng nổ liên tục của pháo địch đă đánh thức binh sĩ của Sư Đoàn 18 Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (QLVNCH) và Địa Phương Quân (ĐPQ) của tỉnh Long Khánh đang núp ở trong những vị trí đă được sửa soạn trước trên ṿng đai quanh tỉnh. Cộng quân liên tiếp pháo vào trung tâm tỉnh mà không hề biết rằng QLVNCH và ĐPQ đă dời ra vùng ngoại ô để tránh pháo kích. Mờ sáng, tiếng xích thép nghiến trên đường báo hiệu sự xuất hiện của chiến xa Bắc Việt, theo sau là lớp lớp Cộng quân đang hăm hở, tin chắc vào chiến thắng.

Lúc đó là 05:40 sáng ngày 9 tháng Tư, 1975. Trận đánh quyết định cho Sài G̣n bắt đầu.

Tuy trận Xuân Lộc có một vai tṛ quan trọng trong sự sụp đổ của Sài G̣n, các sử gia Tây Phương biết rất ít về trận đánh huyền thoại này, khi Sư Đoàn 18 QLVNCH và Địa Phương Quân Long Khánh đă đứng vững trước những loạt tấn công ồ ạt bằng bộ binh, thiết giáp và pháo binh của cả một Quân Đoàn Bắc Việt. Tuy những tài liệu đă được xuất bản thường không được chính xác và có nhiều sai lạc, một điều không thể chối căi là: dù QLVNCH có nhiều thất bại trầm trọng năm 1975, Sư Đoàn 18 đă làm nên một chiến công hiển hách, đó là giữ vững Xuân Lộc trong mười một ngày trong t́nh trạng tuyệt vọng của miền Nam Việt Nam trong khi hầu hết những đơn vị khác tan hàng hoặc rút chạy. Tại sao vậy? Có những khác biệt nào giữa Sư Đoàn 18 và các đơn vị khác? Sức mạnh nào đă giúp các binh sĩ của Sư Đoàn 18 không những giữ vững pḥng tuyến mà c̣n dũng cảm đánh trả lại địch quân? Bằng cách nào họ đă chịu đựng được mưa pháo và chống cự lại những cuộc tấn công bằng chiến xa của Cộng quân? Quan trọng hơn, những quyết định nào đă biến thị xă này thành chiến trường khốc liệt nhất sau trận An Lộc và Quảng Trị năm 1972?

Sau hơn hai mươi lăm năm, những câu trả lời không dễ t́m, nhưng điều khá dễ thấy là vị trí chiến lược của Xuân Lộc đă làm cho thị xă này trở thành điểm chính cho cuộc tấn công của quân đội Bắc Việt. Thị xă này nằm ở phía Đông Bắc Sài G̣n, thủ đô của Miền Nam Việt Nam, cách Sài G̣n sáu mươi cây số. Đây là nơi kiểm soát ngă ba Quốc Lộ 1 và Quốc Lộ 20, hai xa lộ lớn nối liền Miền Trung với Sài G̣n. Sau sự sụp đổ của hai Quân Khu I và II ở phía Bắc, Xuân Lộc biến thành giao điểm trọng yếu của đường dây pḥng thủ xung quanh Sài G̣n mà Miền Nam gấp rút dựng lên trong tuyệt vọng.

Phần lớn các quan sát viên đều nhận thấy rằng chút hy vọng của QLVNCH khi pḥng thủ Sài G̣n trước ṿng vây của Cộng quân tuỳ thuộc vào sự tồn tại của pḥng tuyến Xuân Lộc. Nếu VNCH giữ được nơi đó, họ sẽ c̣n cơ hội để ổn định t́nh thế, tập họp lại quân đội đang tản mác khắp nơi, và thoát được chiến bại.

Lănh đạo của Cộng Sản Bắc Việt nhất quyết “tiêu diệt tay sai từ trong ổ” bằng mọi giá, trước khi VNCH có cơ hội hồi phục. Từ những hỗn loạn làm cho Đà Nẵng thất thủ, Hà Nội mong t́m cơ hội kết thúc cuộc chiến nhanh chóng bằng cách tấn công thẳng vào Sài G̣n qua ngơ Xuân Lộc. Họ tin rằng một trận tập kích mạnh sẽ phá tan sức chống cự cuối cùng của QLVNCH, và sự thất thủ của thị xă Xuân Lộc sẽ mở đường cho họ tiến vào Sài G̣n, kết thúc cuộc chiến dài mấy thập niên bằng một trận tấn công quyết liệt. Để đạt được mục tiêu, Bắc Việt ném cả Quân Đoàn 4 gồm ba sư đoàn để phá tan Sư Đoàn 18 QLVNCH tại Xuân Lộc.

Tuy vậy, Sư Đoàn 18 đă không tan ră; và mộng tưởng về một chiến thắng dễ dàng đă tàn rụi theo lửa đạn trong một trận đánh mà một cấp chỉ huy Cộng quân, người đă từng tham gia các trận đánh chống Pháp và Mỹ, gọi là trận đánh khốc liệt nhất trong ba mưoi năm binh nghiệp của ông ta.

Sự thành công của Sư Đoàn 18 trong lúc tinh thần của QLVNCH xuống thấp tận cùng đă trả lời cho câu hỏi của rất nhiều người lúc đó: liệu QLVNCH có chống trả Cộng quân?

Dù cuối cùng Sư Đoàn 18 đă phải theo lệnh rút khỏi thị xă đổ nát, sự chống cự anh dũng của họ đă đem lại hy vọng ngắn ngủi là QLVNCH sẽ đứng vững trước những cuộc tấn công liên tiếp của Bắc Việt và cầm cự cho đến mùa mưa khi các cuộc công kích phải ngưng lại hay các nỗ lực ngoại giao đạt được thoả thuận ngưng bắn. Hơn nữa, hành động chống giữ quả cảm của Sư Đoàn 18 đă cứu văn phần nào cho sự tổn thương danh dự của QLVNCH khi Quân Đoàn I và Quân Đoàn II sụp đổ.

Các Lực Lượng Việt Nam Cộng Hoà Trong Trận Xuân Lộc

- Sư Đoàn 18 Bộ Binh

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1658076&stc=1&d=1600786198

Huy hiệu của Sư Đoàn 18 QLVNCH. Màu xanh nhạt tượng trưng cho bầu trời. Màu xanh đậm tượng trưng cho đất. Vật trên huy hiệu là nỏ thần và mũi tên thần trong sử Việt Nam

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1658077&stc=1&d=1600786198

Tư Lệnh SĐ 18 năm 1975 Cố Thiếu Tướng Lê Minh Đảo (chụp khi c̣n là Chuẩn Tướng)

Sư Đoàn 18 được thành lập ngày 16 tháng Năm, 1965. Tên đầu tiên là Sư Đoàn 10, nhưng theo tiếng lóng của người Việt, “số mười” là hạng chót, do đó, vào cuối năm 1966, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH đổi tên sư đoàn thành Sư Đoàn 18. Phần lớn Sư Đoàn 18 ở tại Long Khánh, một tỉnh nằm ở phía Đông của Quân Đoàn III.

Sư Đoàn 18 có ba trung đoàn cơ hữu: Trung Đoàn 43, 48, và 52. Mỗi trung đoàn có ba tiểu đoàn bộ binh và một đại đội trinh sát. Sư đoàn cũng có một thiết đoàn là Thiết Đoàn 5. Thiết Đội 1 có chiến xa M-41, Thiết Đội 2 và 3 có chiến xa M-113. Các Trung Đoàn Trưởng của Sư Đoàn 18 gồm có: Đại Tá Lê Xuân Hiếu chỉ huy Trung Đoàn 43, Trung tá Trần Minh Công chỉ huy Trung Đoàn 48, Đại tá Ngô Kỳ Dũng chỉ huy Trung Đoàn 52, Trung Tá Trần Văn Nô chỉ huy Thiết Đoàn 5, và Đại Tá Ngô Văn Hưng chỉ huy pháo binh. Theo ông Đảo, Trung Đoàn 43 là đơn vị thiện chiến nhất. Căn cứ chính của Sư Đoàn 18 đặt ở Long B́nh, nơi có trung tâm tiếp liệu lớn. Bộ Tư Lệnh Hành Quân của Tướng Lê Minh Đảo đặt tại Xuân Lộc.

Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo là Tư Lệnh Sư Đoàn. Ông ta là một trong những sĩ quan lỗi lạc của QLVNCH nhưng ít được biết đến ở ngoài quân đội.(1) Ông Đảo, một người lănh đạo đầy nhiệt huyết và nghị lực, đă sống với binh sĩ của Ông và thường xuyên thăm hỏi gia đ́nh họ. Khác với những sĩ quan cao cấp thường ở trong Bộ Chỉ Huy và ra lệnh qua máy truyền tin, Ông Đảo hay ở trong hàng ngũ thuộc cấp trong các trận chiến, và đi sát bên họ trong các cuộc hành quân. Ông tin rằng niềm tin của binh lính đến từ sự cố gắng của cấp chỉ huy, và Ông yêu cầu các sĩ quan trong Sư Đoàn phải quan tâm thăm hỏi và thấu hiểu các thuộc cấp ở “hai tầng phía dưới”. Đây là một cách chỉ huy mới mẻ so với lối chỉ huy đặt nặng về cấp bậc của một số sĩ quan VNCH. Sự chia cách về văn hoá và xă hội thường thấy giữa sĩ quan và binh sĩ đă khiến cho nỗ lực của Tướng Đảo tạo được sự gắn bó đặc biệt đáng chú ư giữa các cấp trong hàng ngũ của ông. Các thuộc cấp của Tướng Đảo đáp lại bằng sự kính phục và trung thành. Dưới sự chỉ huy của Tướng Đảo, Sư Đoàn 18 đă nhanh chóng trở thành “đơn vị hữu hiệu nhất của Quân Đoàn III” (2) ; hơn nữa, sự chỉ huy mạnh mẽ của ông là một trong những nguyên nhân cho khả năng chiến đấu dũng mănh của Sư Đoàn 18.

- Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân (BĐQ)
Tiểu Đoàn 82 BĐQ Biên Pḥng thuộc Liên Đoàn 24 BĐQ cùng với Tiểu Đoàn 63, 81. Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Vương Mộng Long, một trong những vị chỉ huy nổi tiếng của BĐQ. Đơn vị của ông đă đẩy lui phần lớn Sư Đoàn 320 CS trong trận đánh tại Pleime. Trong trận Ban Mê Thuột, Tiểu Đoàn 82 đang ở Kiến Đức, tỉnh Quảng Đức. Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, Liên Đoàn 24 được lệnh rút bằng đường bộ đến các tỉnh ven biển rồi t́m cách liên lạc với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II. Len lỏi qua vùng đất do Cộng quân kiểm soát, ăn trộm thực phẩm trong kho của Cộng quân, những BĐQ đă đi bộ hai mươi ngày cho tới khi họ đến được lănh thổ do quân bạn kiểm soát. (3)

Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân do Thiếu tá Vương Mộng Long chỉ huy vừa di chuyển từ trại Bến Hét (Quân Khu II VNCH) về tạm trú tại Xuân Lộc để chờ phương tiện chuyên chở tiếp về hậu cứ nhưng qua ngày hôm sau t́nh h́nh Xuân Lộc sôi động nên Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH tăng phái đơn vị trên cho SĐ18BB để tăng cường cho Trung Đoàn 43 pḥng thủ thị xă Xuân Lộc (Long Khánh). (101)

- Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù
Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù gồm ba Tiểu Đoàn 1, 8, 9 và Đại Đội Trinh Sát Dù được yểm trợ bằng Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù, Đại Đội 3 Công Binh Dù, và Đại Đội 1 Quân Y Dù. Tư lệnh của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù là Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh. (102)

- Sư Đoàn 3 Không Quân
Sư Đoàn 3 Không Quân Biên Ḥa yểm trợ chiến thuật theo yêu cầu của Tư Lệnh Mặt Trận qua các Chiến đoàn và Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù. (103)

- Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ
Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi là Tư Lệnh Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ. Lữ đoàn có những đơn vị trực thuộc được thành lập theo nhiệm vụ riêng biệt. Ông có ba Chiến đoàn: 315, 318, 322. Mỗi chiến đoàn có một tiểu đoàn BĐQ, một pháo đội Pháo Binh và một chi đội Thiết Giáp.

Vào ngày 11 tháng Tư, Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Khu III ra lệnh cho Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ, đơn vị trừ bị cuối cùng của ông, từ phía Tây Quân Khu III di chuyển về phía Xuân Lộc để mở lại Quốc Lộ 1 từ Ấp Hưng Nghĩa đến ngă ba Dầu Giây.

- Trung Đoàn 8 / Sư Đoàn 5
Trung Đoàn 8/Sư Đoàn 5 VNCH do Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng chỉ huy. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn ra lệnh cho Trung Đoàn 8/Sư Đoàn 5 đến giúp Lữ Đoàn 3 Thiết Giáp của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi với mục đích chọc thủng điểm chặn của Cộng quân trên Quốc Lộ 1 tại Dầu Giây.

- Các đơn vị Địa Phương Quân (ĐPQ) và Nghĩa Quân
Bốn tiểu đoàn ĐPQ: 340, 342, 353, 367 dưới sự chỉ huy của Đại Tá Tỉnh Trưởng/Tiểu Khu Trưởng Long Khánh Phạm Văn Phúc. Ông Phúc là một sĩ quan Biệt Động Quân, ông nhận nhiệm vụ chỉ huy tiểu khu Long Khánh vào ngày 1 tháng Tư, 1975.

Các Lực Lượng Quân Bắc Việt
Cộng Sản Bắc Việt chia toàn thể nước Việt Nam thành những quân khu. Trên lănh thổ của VNCH, Bắc Việt c̣n đặt ra những mặt trận. Mặt trận B-5 là Mặt Trận Trị Thiên Huế, đây là vùng phía Bắc của Quân đoàn I VNCH. Mặt trận B-3 cũng có tên là Mặt Trận Tây Nguyên bao gồm phần núi non ở miền Trung Việt Nam, đây là vùng dọc theo biên giới phía Tây của Quân Đoàn II VNCH. Khu 5 bao gồm các tỉnh đông dân cư dọc theo bờ biển ở miền Trung, đây là phần ven biển của Quân Đoàn II VNCH. Mặt Trận B-2 kiểm soát mọi hoạt động quân sự của Cộng quân trên một địa bàn rộng lớn, từ ranh giới phía Nam của vùng cao nguyên Miền Trung cho đến mũi Cà Mau, cực nam của nước Việt Nam. Mặt Trận B-2 là đối trọng của Quân Đoàn III và IV VNCH.

Trung Ương Cục Miền Nam là bộ chỉ huy tối cao của tất cả các lực lượng Cộng Sản tại Miền Nam Việt Nam, có bí hiệu là Cục “R”. Người Mỹ thường dùng chữ tắt để gọi bộ phận này là COSVN – Central Office for South Vietnam.

- Sư Đoàn 7/Quân Đoàn 4 Cộng quân
Quân Đoàn 4 Cộng quân được thành lập vào tháng 7, 1974 (4) gồm các sư đoàn 5, 7, 9 cùng với thành phần chỉ huy, thiết giáp, pháo binh, đặc công, và các đơn vị hậu cần. Quân Đoàn 4 trực thuộc Mặt Trận B-2.

Hoàng Cầm là Thiếu Tướng chỉ huy Quân Đoàn 4 từ khi quân đoàn này được thành lập.(5) Ông Cầm đă từng chỉ huy tiểu đoàn trong trận Điện Biên Phủ, 1954 và từng làm Tư Lệnh Sư Đoàn 312 của Cộng quân. Vào cuối tháng 12, 1964, Bộ Chỉ Huy quân đội Bắc Việt gởi ông ta vào Nam để gia nhập Mặt Trận B-2. Mùa Xuân năm 1965, Hoàng Cầm được cho làm người chỉ huy đầu tiên của Sư Đoàn 9 của Cộng quân, sư đoàn đầu tiên của B-2, thành lập ngày 2 tháng 9, 1965. Ngay sau khi được thành lập, Quân đoàn 4 đă đụng trận khi dẫn đầu trận đánh chiếm Phước Long vào đầu tháng Một, 1975.

- Sư Đoàn 341 Cộng quân
Sau khi chiếm được Phước Long, Cộng quân ngưng tấn công trong một thời gian ngắn để sửa soạn cho các trận đánh tới và để thăm ḍ phản ứng của Hoa Kỳ sau khi cả một tỉnh của VNCH bị thất thủ kể từ sau Hiệp Định Paris. Bắc Việt cũng dùng thời gian tạm ngưng này để đưa những sư đoàn mới vào củng cố cho chiến trường miền Nam. Một đơn vị được lệnh vào Nam trong thời gian này là Sư Đoàn 341, lúc đó đang đóng tại miền Bắc và là một phần của lực lượng tổng trừ bị của Cộng quân.(6)

Sư Đoàn 341 được thành lập cuối năm 1972 từ những đơn vị khác nhau từ Quân khu 4 của Cộng quân và được bổ túc bằng những lực lượng trừ bị của từ các tỉnh trong vùng. Sư Đoàn 341 có ba trung đoàn: 266, 270, và 273. Giống như những sư đoàn Cộng quân khác, mỗi trung đoàn có ba tiểu đoàn bộ binh. Sư đoàn cũng có trung đoàn pháo cơ hữu, tiểu đoàn pḥng không, các nhóm trinh sát, và các đơn vị hậu cần. Nhóm đầu tiên được tung vào chiến trường trong Nam là Trung Đoàn 273 và Tiểu Đoàn pháo 14 cùng với đơn vị chỉ huy và các nhóm tiếp vận. Trên năm trăm xe vận tải đă được dùng để chở lực lượng này vào Nam theo con đường ṃn Hồ Chí Minh.

Khi những toán quân của Sư Đoàn 341 CS đến miền Nam vào cuối tháng Hai, họ được chính thức giao cho Quân Đoàn 4 CS. Cục “R” lập tức giao cho sư đoàn này hai nhiệm vụ: thứ nhất, chuyển trung đoàn 273 từ Sư Đoàn 341 sang Sư Đoàn 9. Thứ hai, Sư Đoàn 341 phải “nghiên cứu Quốc Lộ 20 từ cầu La Ngà tới ngă ba Dầu Giây (nơi Quốc Lộ 1 và Quốc Lộ 20 cắt nhau) và thị xă Xuân Lộc. Chuẩn bị mọi điều cần thiết để tấn công tiêu diệt đối phương khi được lệnh.” (7)

- Sư Đoàn 6 Cộng quân
Sư Đoàn 6 được thành lập tháng 8, 1974 cho Khu 7 khi “Cục ‘R’ quyết định thành lập một sư đoàn nhẹ cho mỗi quân khu bằng cách kết hợp những trung đoàn độc lập, cung cấp cho họ lực lượng yểm trợ tác chiến, và thành lập bộ chỉ huy sư đoàn bằng cách cho tư lệnh phó của khu kiêm chức tư lệnh sư đoàn. Hai trung đoàn độc lập của Khu 7 là Trung Đoàn 33 và 4 và đă phối hợp thành Sư Đoàn 6 CS. Sau đó Trung Đoàn 4 được đổi tên thành Trung Đoàn 274. Tư Lệnh của Sư Đoàn 6 CS là Đặng Ngọc Sĩ. Ông Sĩ thuộc nhóm người miền Nam đầu tiên tập kết ra Bắc gọi là Nhóm B500. Sau đó, ông ta đă đi theo con đường ṃn Hồ Chí Minh xâm nhập vào miền Nam khi con đường này mới mở vào tháng Mười Hai, 1959. (8)

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1658080&stc=1&d=1600786428

Những Trận Đánh ở Quân Đoàn II và III VNCH Trước Trận Xuân Lộc
Từ lâu, t́nh báo Hoa Kỳ đă nhận xét rằng sự di chuyển những đơn vị đóng ở miền Bắc vào Nam là một dấu hiệu rơ rệt rằng cuộc tổng tấn công sắp xảy ra.

Tháng Ba, 1975 một cuộc tấn công bắt đầu ở Ban Mê Thuột, vùng Cao Nguyên Trung Phần (Bắc Việt gọi vùng này là Tây Nguyên). Cùng lúc đó, Cục “R” cũng được lệnh tấn công vào phía Tây và phía Đông của Quân Đoàn III VNCH. Mục đích của hai mũi tấn công này là để hỗ trợ cho chiến trường Ban Mê Thuột bằng cách cầm chân các lực lượng quân sự của Quân Đoàn III VNCH và chiếm phần đất ở Khu 5 giữa hai Mặt Trận B-2 và B-5. Điều này sẽ cho Cộng quân một hậu cứ an toàn nơi họ sắp đặt một cuộc tổng tấn công vào Sài G̣n.

T́nh báo Mỹ đă nhanh chóng phát giác ra sự chuyển quân của Bắc Việt. Những tài liệu bắt được và một đào binh từ Sư Đoàn 7 CS tiết lộ rằng ngày 18 tháng 2, một đội trinh sát đông đảo đă đến vùng Túc Trưng - Định Quán trên Quốc Lộ 20. (10) Định Quán là một trong 4 quận của tỉnh Long Khánh, nằm trăi dài dọc theo Quốc Lộ 20, phía Tây Bắc của Xuân Lộc, Túc Trưng là một làng thuộc phía Nam của Định Quán nằm cạnh Quốc Lộ 20. Nhiệm vụ của đội trinh sát này chấm dứt vào đầu tháng Ba khi hai trung đoàn của Sư Đoàn 7 CS, Trung Đoàn 141 và 209, đă đến gần Định Quán. Cùng lúc đó, Sư Đoàn 6 CS đóng ở phía Đông tỉnh Long Khánh tiến đánh những đồn Địa Phương Quân (ĐPQ) của QLVNCH dọc Quốc Lộ 1 ở phía Đông của Xuân Lộc vào đến tỉnh B́nh Tuy. Các cuộc tấn công được phối hợp của hai sư đoàn Cộng quân này nhằm mục đích làm ṃn yếu sự kiểm soát của chính quyền VNCH ở Long Khánh, để phân tán thật mỏng Sư Đoàn 18 QLVNCH, và ngăn chận Sư Đoàn 18 tăng cường cho nơi khác trong Quân Đoàn III.

Ngày 5 tháng Ba, 1975 Sư Đoàn 7 CS được lệnh giải toả Quốc Lộ 20 phía Bắc Túc Trưng với “trận mở đầu là tràn ngập và chiếm đóng Văn Pḥng Chỉ Huy Quân Sự quận Định Quán” (11).

Nằm cách Xuân Lộc 20 cây số về phía Bắc, quận Định Quán nhỏ bé là một điểm pḥng thủ quan trọng của Quốc Lộ 20. Quận này nằm giữa hai làng Túc Trưng và Phương Lâm. Địa Phương Quân cố thủ ở trung tâm quận, và Tiểu Đoàn 2/43 của Sư Đoàn 18 VNCH do Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế chỉ huy giữ những căn cứ ở ngoại ô. Nhiệm vụ của Sư Đoàn 7 CS là tiêu diệt lực lượng quân VNCH ở Định Quán và chiếm lấy nơi này để ngăn quân Cộng Hoà từ các tỉnh miền Trung như Lâm Đồng và Đà Lạt rút về Long Khánh. Một khi Định Quán mất, Sư Đoàn 7 CS sẽ vừa tấn công về phía Tây Nam để chiếm cây cầu quan trọng trên sông La Ngà vừa cố gắng chiếm Phương Lâm ở phía Đông Bắc. Nếu thành công, Sư Đoàn 7 CS sẽ tiến ngược về phía Đông Bắc và làm chủ Quốc Lộ 20 lên tới Đà Lạt.

Ngày 17 tháng Ba, Trung Đoàn 141 của Sư Đoàn 7 CS tấn công Định Quán. Sau hai ngày giao tranh kịch liệt, Cộng quân với số lượng đông hơn rất nhiều đă đánh bại Tiểu đoàn 377 Địa Phương Quân VNCH và chiếm được vùng đất cao có thể nh́n suốt cả thị trấn. Được tăng phái chiến xa, Trung Đoàn 141 CS nhanh chóng tiến vào trung tâm thị trấn và tiến thẳng đến công sự pḥng thủ của Quận Trưởng. Mặc dù lực lượng pḥng thủ đă chống trả mănh liệt, Định Quán thất thủ ngày 18 tháng Ba. Phương Lâm cũng mất cùng ngày.

Ở bên ngoài Định Quán, Tiểu Đoàn 2/43 VNCH cố chận đường tiến của Cộng quân nhưng cuối cùng cũng phải rút lui. Tiểu Đoàn rút về Núi Trân và cố thủ trên vị trí cao nh́n xuống cầu sông La Ngà. Một đại đội Địa Phương Quân trấn giữ cái cầu quan trọng này. Theo kế hoạch đă định trước, Bắc quân tiếp tục tiến về hướng Tây Nam Quốc Lộ 20. Ngày 20 tháng Ba, hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 209 CS tấn công núi Trân. Cộng quân cố đánh bật Tiểu Đoàn 2/43 VNCH nhiều lần nhưng đều bị đẩy lui. Vào đợt tấn công thứ ba, Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế dùng hai khẩu đại bác 105 ly bắn thẳng hai quả đạn đại bác chống biển người vào địch, giết chết hàng loạt Cộng quân và chận đứng chúng. (12)

Tuy Cộng quân bị tốn thất nặng nề, đến buổi chiều ngày 20 tháng Ba, sự pḥng thủ núi Trân trở nên hết sức khó khăn. Khi Cộng quân tấn công lần nữa, ông Chế đă phải gọi xin Không Quân VNCH dùng phản lực cơ F-5E thả bom yểm trợ mặc dù Cộng quân và lực lượng của ông đang ở rất gần nhau. Những trái bom đầu tiên đă rơi chính xác xuống địch quân ở sườn Đông, nhưng không may, hai trái bom cuối đă rơi chệch vào một tuyến pḥng thủ của Tiểu Đoàn 2/43. Sau những đợt tấn công liên tiếp của địch và tai nạn thả bom lầm, Tiểu Đoàn 2/43 thiệt hại trên tám mươi người vừa chết vừa bị thương. Không thể tiếp viện cho Tiểu Đoàn, nửa đêm Tướng Lê Minh Đảo cho lệnh rút về Núi Thị, một vùng cao phía Tây Xuân Lộc. Cộng quân chiếm được Núi Trân và tràn xuống cầu sông La Ngà. Không thể chận được địch, vị chỉ huy Địa Phương Quân VNCH là Thiếu Tá Lầu Vĩnh Quay đă gọi pháo binh bắn thẳng vào vị trí chân cầu, ngay nơi ông đang đóng. Đạn pháo đă hạ được khoảng một tá Cộng quân, nhưng cây cầu cầu vẫn rơi vào tay quân Bắc Việt.

Phải đương đầu với sự tấn công liên tục của địch trong khi Trung Đoàn 48 đă đi đánh ở Tây Ninh và Trung Đoàn 52 bận pḥng thủ Xuân Lộc, đơn vị giỏi nhất của Tướng Đảo là Trung Đoàn 43 phải trải mỏng để giữ đất và bảo vệ các thị trấn và làng xă trước số địch quân đông hơn nhiều và có thể chủ động tấn công bất cứ lúc nào. Đến cuối tháng Ba, Tướng Đảo không c̣n lựa chọn nào khác hơn là đem hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 43 về giữ Xuân Lộc và để Bắc quân chiếm phần lớn phía Bắc tỉnh Long Khánh.

Cùng một lúc với Sư Đoàn 7 CS tấn công Định Quán, Sư Đoàn 6 CS bắt đầu đánh chiếm các vùng. Từ ngày 15 tới 18 tháng Ba, Sư Đoàn 6 chiếm một quăng dài trên Quốc Lộ 2, con đường đi từ Xuân Lộc xuống phía Nam về tới Bà Rịa. Sau đó, sư đoàn này tiến về phía Đông Bắc, và đến ngày 28 tháng Ba, họ đă kiểm soát một đoạn dài 50 cây số của Quốc Lộ 1 ở phía Đông Xuân Lộc đi về hướng B́nh Tuy. Sư Đoàn 6 CS đă cắt đứt con đường huyết mạch từ Sài G̣n ra miền Trung và chận quân đội VNCH ở phía Đông rút về Xuân Lộc.(13) Trong ṿng hai tuần, Sư Đoàn 6 và 7 CS đă thành công trong việc “nới rộng các tuyến đường của Cộng quân để họ có thể di chuyển số lượng lớn quân sĩ, quân trang, và quân cụ đến mặt trận quan trọng ở Đông Nam bộ.” (14)

Trước tuần lễ thứ ba của tháng Ba, những đơn vị c̣n lại của Sư Đoàn 341 CS đă vào tới Mặt Trận B-2. (15) Cuối tháng Ba, Quân Đoàn 4 CS ra lệnh cho hai trung đoàn mới đến, 266 và 270, giữ Định Quán thay cho Sư Đoàn 7 CS. Trung đoàn 270 giữ phần đất mới chiếm trong khi Trung Đoàn 266 sửa soạn đánh Túc Trưng, một căn cứ của QLVNCH chỉ cách Núi Trân vỏn vẹn 4 cây số. Sau đó, Trung Đoàn này sẽ tiếp tục đánh xuống phía Nam Quốc Lộ 20 và chiếm mục tiêu kế tiếp là quận Kiệm Tân.Cùng lúc đó, Trung Đoàn 273 được tách khỏi Sư Đoàn 9 CS và trở về tăng cường cho Sư Đoàn 341 CS. (16)

Dĩ nhiên, Tướng Đảo hiểu rơ sự cần thiết phải ngăn chận Cộng quân tiến thêm về phía Nam trên Quốc Lộ 20. Ngày 28 tháng Ba, Ông cho Tiểu Đoàn 2/52 và đội trinh sát của tiểu đoàn tiến về phía Bắc Quốc Lộ 20 để lấy lại con đường từ cầu La Ngà tới Phương Lâm. Được sự yểm trợ của không quân và pháo binh, Tiểu Đoàn 2/52 đă thành công một phần và chiếm lại Núi Trân (Định Quán). Trong khi Tiểu đoàn đă phải mất nhiều thời gian đánh dẹp hai bên Quốc Lộ 20, họ tiến thẳng vào căn cứ của những trung đoàn Cộng quân thuộc Sư Đoàn 341 CS đang đóng ở chân núi trên một quăng đường gọi là “Ṿng chữ C”. Trận chạm súng đầu tiên của Trung Đoàn 270 CS diễn ra dữ dội từ sáng 29 tháng Ba tới chiều hôm sau. Tuy Cộng quân giữ được vị trí, quân VNCH tiêu diệt 50 địch quân và bắt sống nhiều tù binh. Không thể tiến thêm, Tiểu Đoàn 2/52 lui về cố thủ ở Túc Trưng. (17)

Khi thẩm vấn các tù binh, Tướng Đảo ngạc nhiên khi thấy họ quá trẻ. Rơ ràng là nhà cầm quyền Bắc Việt đă vét tận đáy nguồn nhân lực của họ. Nhiều tù binh chỉ mới mười sáu tuổi, nhưng họ được trang bị những vũ khí tối tân nhất của Liên Sô. Khi họ tiết lộ rằng họ thuộc Sư Đoàn 341, Tướng Đảo biết rằng việc Cộng quân tấn công Xuân Lộc chỉ là vấn đề thời gian. Ngay từ tháng Hai, sự nghi ngờ của ông đă nhen nhúm khi Địa Phương Quân đóng tại núi Chứa Chan đă gây bất ngờ và tiêu diệt một nhóm ḍ đường của pháo binh Quân Đoàn 4 CS. Giờ đây, với xác nhận là có ba sư đoàn Cộng quân trong khu vực, ông biết chắc là Cộng quân sắp ồ ạt tràn vào Xuân Lộc. Ông lập tức lên kế hoạch pḥng thủ.

Lúc đó là cuối tháng Ba. Sau những cuộc tấn công của Cộng quân và những sai lầm về chiến lược và chiến thuật của các lănh đạo quân sự và dân sự, VNCH đă mất nửa phần đất ở phía Bắc (Quân Đoàn I và Quân Đoàn II) cùng với 40% binh lính và vũ khí. Người dân chạy loạn và đào binh VNCH đă biến Đà Nẵng, thành phố lớn thứ nh́ của miền Nam sau Sài G̣n, thành một vùng hỗn loạn, đầy cướp bóc và phá hoại như trong một cơn ác mộng. Với sự thất thủ của Huế ngày 25 tháng Ba và Đà Nẵng ngày 29 tháng Ba, trận đánh ở Núi Trân, Định Quán và cầu sông La Ngà không được ai chú ư, nhưng thật ra, chiến cuộc trên Quốc Lộ 20 ở phía Bắc và và Quốc Lộ 1 ở phía Đông Xuân Lộc thực sự mở màn cho chiến trường Sài G̣n.

Những Chuẩn Bị của Cộng Quân cho Trận Xuân Lộc
Với áp lực nặng nề và liên tục của Cộng quân tại phía Tây của Quân Đoàn III VNCH từ giữa tháng Ba, nhất là tại Tây Ninh, cửa ngơ đă bị dùng nhiều lần để xâm chiếm Sài G̣n, cả Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH và Toà Đại Sứ Mỹ đều bị ám ảnh về một cuộc tổng tấn công của Cộng quân từ phía đó và bớt chú ư đến đe doạ của một cuộc tấn công bằng chiến xa từ phía Đông. Tuy vậy, cả Tướng Đảo và thượng cấp của ông đều không biết những người chỉ huy Cộng quân đă có hai quyết định làm cho QLVNCH có thêm một chút cơ hội xoay sở.

Trong kế hoạch đầu tiên cho cuộc tấn công mùa khô Đông – Xuân 1975, Bắc Việt muốn chiếm một phần Cao Nguyên miền Trung (Tây Nguyên). Sau khi chiếm được Ban Mê Thuột vào ngày 11 tháng Ba, 1975, Bắc Việt đổi kế hoạch và chia cuộc tấn công làm ba phần: đầu tiên là Tây Nguyên, kế đến là Quân Đoàn I của VNCH, rồi đến Sài G̣n.

Trong trận Ban Mê Thuột, Mặt Trận B-2 được lệnh mở nhiều cuộc tấn công để cầm chân lực lượng của Quân Đoàn III VNCH, mở đường liên lạc với các vùng Nam Trung Phần, và chờ lực lượng của Mặt Trận B-3 từ Tây Nguyên tiến về. Khi t́nh thế thay đổi nhanh chóng và thuận lợi, ngày 19 tháng Ba, 1975, Tư Lệnh Quân Đoàn 4 CS Hoàng Cầm đă đánh điện khẩn về Trung Ương Cục đề nghị thay v́ cho Sư Đoàn 7 đổi hướng để tiến về phía Bắc tấn công Lâm Đồng, hăy để cho sư đoàn đó đi tiếp về phía Nam trên Quốc Lộ 20 và đánh thẳng vào ngă ba Dầu Giây gần thị xă Xuân Lộc và tiêu diệt Sư Đoàn 18 VNCH. (18)

Đó là một đề nghị táo bạo và có thể đă mang lại kết quả tốt cho Cộng quân. Sự xuất hiện của một sư đoàn Cộng quân ngay sát thủ đô Sài G̣n có thể đưa đến sự hoảng hốt và sụp đổ của VNCH. Tuy vậy, Cục “R” đă bác bỏ đề nghị của Hoàng Cầm và ra lệnh cho ông ta “tiếp tục bành trướng các thông lộ của chúng ta về phía Bắc để tại những bàn đạp cho cuộc tấn công vào Sài G̣n từ Quốc Lộ 1 và Quốc Lộ 20 phía Bắc và Đông Sài G̣n.” (19)

Quyết định từ chối này là điều lạ v́ trong thời gian đó Tướng CS Trần Văn Trà cũng cố xin Hà Nội cho ông ta hoạch định tương tự: tấn công Sài G̣n lập tức mà không chờ những lực lượng Cộng quân khác tăng cường. Mặc dù Bộ Chỉ Huy Tối Cao lúc đầu băi bỏ đề nghị của ông Trà, sau đó Hà Nội bắt đầu xét lại v́ sự kiên tŕ của ông Trà. Trưa 29 tháng Ba, Lê Duẩn, Tổng Bí Thư Đảng CSVN gởi một điện thư cho Phạm Hùng, Uỷ Viên Chính Trị đặc trách Cục “R” và bảo ông Hùng t́m cách lợi dụng t́nh thế hỗn loạn v́ sự xụp đổ của Quân Đoàn I và II của VNCH. Thư viết “Tôi hoàn toàn đồng ư với đồng chí là trong thời điểm này cần ra tay nhanh nhẹn, quyết đoán, và gan dạ… Tôi muốn nhấn mạnh một yêu cầu cấp thiết… lập tức thi hành công tác quan trọng là thi hành một cuộc cô lập và bao vây Sài G̣n” (20) .Thực ra, điều ông Duẩn nói là “chúng ta có thể coi là cuộc tiến chiếm Sài G̣n đă bắt đầu.” (21)

Ông Trà hết sức phấn khởi v́ ông ta có thể đánh Sài G̣n ngay mà không phải chờ các lực lượng bổ xung từ Bắc Việt: “Thư của anh Ba gởi cho Cục “R” xác định t́nh thế sẽ biến đổi nhanh chóng, và chúng ta cần tấn công mạnh hơn và tiến về gần Sài G̣n hơn.” (22) Trà được lệnh dùng những lực lượng có sẵn của B-2 để tấn công thẳng vào ṿng đai quanh Sài G̣n và không chờ lực lượng tăng cường từ Tây Nguyên.

Cục “R” và Chi Bộ Quân Sự của Đảng CSVN lập tức họp để đưa ra một chương tŕnh hành động. Họ quyết định rằng Mặt Trận B-2 sẽ tấn công thẳng vào ṿng đai quanh Sài G̣n vào đầu tháng Tư. Lực lượng từ vùng sông Cửu Long sẽ đánh lên từ phía Nam, trong khi đó Quân Đoàn 4 CS sẽ mở ngay cuộc tấn công vào Xuân Lộc, tiêu diệt Sư Đoàn 18 và Lữ Đoàn Thiết Giáp, lực lượng ṇng cốt của Quân Đoàn III VNCH, sau đó sẽ tiến sát vào Biên Hoà. (23) Cuộc tấn công từ phía Đông được coi là chính yếu.

Sau đó, ông Trà tóm tắt những quyết định của Chi Bộ Đảng và kế hoạch tấn công. Ông Cầm được lệnh mới – chiếm Xuân Lộc rồi tiến chiếm căn cứ không quân Biên Hoà ở ngoại ô Sài G̣n. Sư Đoàn 6 của Quân Khu 7 với hai trung đoàn được giao cho Quân Đoàn 4 của ông Hoàng Cầm. Tư lệnh và Chính Uỷ của Quân Khu 7 hợp lực với bộ chỉ huy quân đoàn để đặt ra kế hoạch. Ông Cầm xin ông Trà hoăn ngày tấn công đến 9 tháng Tư, 1975 để có th́ giờ chuẩn bị và ông Trà đồng ư. (24)

Cuối ngày 3 tháng Tư, ông Cầm và những người khác trở về bộ chỉ huy hỗn hợp lúc đó đóng ở phía Đông Nam cầu La Ngà. Ông Cầm lập tức ra lệnh cho Sư Đoàn 7 CS đang trên đường tiến về Đà Lạt quay trở lại để tiến về phía Nam. Trong khi ông Cầm nói rằng các thuộc cấp của ông nghiền ngẫm tất cả mọi kế hoạch tấn công Xuân Lộc, dưới áp lực có thể đến từ ông Trà về việc tiến quân nhanh chóng, và chỉ c̣n năm ngày trước khi tổng tấn công, ông Cầm và những người chỉ huy cấp dưới đă phải làm một quyết định chiến lược duy nhất có thể: đánh thẳng vào thủ phủ của thị xă. Ông Cầm thấy đó là cách duy nhất để chiếm lấy thị xă và ngă ba Dầu Giây quan trọng. Tuy vậy, ông ta lo ngại về t́nh trạng của Sư Đoàn 7 CS – đă mệt mỏi v́ đánh nhau liên tục, v́ đây chính là “đơn vị tấn công chính” của ông.(25)

Đảng uỷ Đảng CS tại địa phương Xuân Lộc được hỏi ư để “biết thêm về t́nh h́nh địch, t́nh h́nh bên ta, và kết hợp cuộc tấn công với sự nổi dậy trong dân chúng.” (26) Cầm viết thêm, “Đảng uỷ đă chuẩn bị cho chúng tôi, cho chúng tôi những nâng đỡ cần thiết và những địa điểm thiết yếu để quan sát mục tiêu trong lúc chúng tôi không có th́ giờ thực hiện một kế hoạch thám sát từng bước, đầy đủ, và có hệ thống.” (27)

Sư Đoàn 7 CS ở quá xa để thám sát vùng chiến trường. Tuy nhiên, Sư Đoàn 341 ở gần đó đă tận dụng sự “giúp đỡ cần thiết” của các lực lượng địa phương (28) để hoàn tất một cuộc nghiên cứu về vùng họ sắp tiến đánh. Tư Lệnh và Phó Tư Lệnh Sư Đoàn 341, các Trung Đoàn Trưởng và toàn thể bộ chỉ huy vượt qua sông La Ngà để cùng các đảng viên và các uỷ viên quân sự địa phương và thảo luận về địa h́nh và những diễn biến có thể xảy ra khi họ tấn công. Họ đồng ư là du kích địa phương sẽ dẫn đường cho các đơn vị tấn công và một đại đội du kích sẽ cố kích thích để dân chúng nổi dậy và chịu trách nhiệm giữ tù binh.

Sau khi quan sát đường tới Xuân Lộc từ hướng Tây Bắc và t́nh h́nh trong thị xă, ngày 6 tháng Tư bộ chỉ huy Sư Đoàn 341 họp và đề ra kế hoạch tấn công rồi gởi tới Quân Đoàn 4 CS xin được chấp thuận. Quân đoàn đồng ư và chia công tác như sau: Trung Đoàn 266 sẽ tấn công những điểm trong thị xă , Trung Đoàn 270 sẽ tấn công Gia Tân (một phần của quận Kiệm Tân) và Núi Thị, nơi có một tiểu đoàn pháo binh VNCH, một trung tâm truyền tin, và Tiểu Đoàn 2/43 VNCH. Trung Đoàn pháo 55 CS sẽ yểm trợ, và Tiểu Đoàn 12 AAA sẽ phụ trách pḥng không.

Sư Đoàn 6 CS với hai Trung Đoàn 33 và 274 sẽ đi ṿng phía Nam thị xă và tấn công ngă ba Dầu Giây và những điểm trọng yếu dọc theo Quốc Lộ 1 phía Tây Xuân Lộc giữa thị xă và thị trấn Hưng Nghĩa.

Với vai tṛ chính yếu trong cuộc tấn công, Sư Đoàn 7 CS tới địa điểm tập trung tối ngày 7 tháng Tư, 1975. Thoạt đầu họ được lệnh tiêu diệt Trung Đoàn 48 VNCH và chiếm ngă tư giữa Quốc Lộ 1 và Quốc Lộ 2 tại Tân Phong phía Nam Xuân Lộc. Trong lúc bộ tham mưu Sư Đoàn 7 CS đang lên kế hoạch th́ họ được lệnh thay đổi chiến lược. Sư Đoàn 7 CS được lệnh phải chiếm thị xă trước rồi mới tập trung vào chuyện tiêu diệt Sư Đoàn 18 VNCH. Với ít hơn một ngày để làm kế hoạch tấn công mới, Sư Đoàn 7 CS quyết định:

“Trung Đoàn 165 CS sẽ dẫn đầu mũi tấn công chính vào căn cứ hậu cần và bộ chỉ huy Sư Đoàn 18 ở Đông Bắc thị xă (và căn cứ của Trung đoàn 52). Tiểu Đoàn 5 CS, đơn vị tấn công chính, sẽ chọc thủng pḥng tuyến của địch ở phía Đông Nam; Tiểu Đoàn 6, đơn vị tấn công thứ nh́, sẽ đánh từ phía Nam – Đông Nam. Tiểu Đoàn 4 CS ở đằng sau Tiểu Đoàn 5 CS làm lực lượng trừ bị. Trung Đoàn 209 CS sẽ chiếm Quốc Lộ 1 từ Suối Cát (một làng nhỏ cách thị xă khoảng tám cây số về phía Đông) tới ngă tư Tân Phong, rồi tấn công vào thành phố từ phía Nam, và sẵn sàng tấn công các lực lượng tăng viện của địch.” (29)

Quân đoàn 4 CS chuyển bộ chỉ huy chính tới một địa điểm ở Đông Bắc Xuân Lộc. Quân Đoàn lo phối hợp pháo binh cho tất cả các đơn vị và thành lập đường tiếp vận cho ba đơn vị tấn công chính của quân đoàn. Ngày 7 tháng Tư, Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Bắc quân, Cục “R”, và Uỷ Ban Quân Sự họp và phê chuẩn kế hoạch cuối cùng về cuộc tấn công Sài G̣n.(30)

Theo kế hoạch của Cộng quân, cuộc tấn công sẽ được thi hành qua hai giai đoạn. Giai đoạn đầu “liên quan tới những tấn công để cắt đứt liên lạc, cô lập, và bao vây địch… Nếu quân ta có thể cắt đứt Quốc Lộ 4 và tiêu diệt Sư Đoàn 18… kế tiếp ta sẽ đánh thẳng vào Sài G̣n không cần chờ tiếp viện.” (31)

Giờ “H” được định vào 05:30 sáng ngày 9 tháng Tư. Nếu tấn công của Cộng quân vào Xuân Lộc đưa đến một cuộc rút lui vội vă của QLVNCH th́ sẽ không c̣n ǵ ở giữa Quân Đoàn 4 CS và Sài G̣n ngoài vài đơn vị Biệt Động Quân, cảnh sát địa phương, và hai Lữ Đoàn Nhảy Dù VNCH. Sẽ có những hỗn loạn trong Sài G̣n, hàng ngàn người Mỹ và đồng minh Việt Nam của họ, cùng với nhân viên và bạn hữu sẽ không di tản được nếu không dùng quân đội Mỹ và không lực của Mỹ.

Chuẩn Bị Của Sư Đoàn 18 Việt Nam Cộng Hoà
Trong khi Cộng quân chuẩn bị tấn công, Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo bận rộn tổ chức pḥng thủ. Trước hết, ông xem xét lại cho thật kỹ lưỡng địa h́nh chung quanh thị xă. Xuân Lộc nằm lọt ở giữa rất nhiều đồn điền trồng chuối và cao su, tại chân núi phía cực Nam của rặng núi Trường Sơn trải dài từ biên giới Trung Hoa đến biển, làm thành xương sống của bán đảo Đông Dương. Vùng đồi núi phía Tây thị xă đầy rừng rậm bao phủ và có nhiều sông suối nhỏ chạy ngang dọc, ở phía Đông đất mở rộng hơn mặc dù có núi Chứa Chan sừng sững.

Dù Tướng Đảo có hơn một tuần để chuẩn bị chống cuộc tấn công của Cộng quân, lực lượng Sư Đoàn 18 VNCH pḥng thủ Xuân Lộc phải trải mỏng. Hai trong ba trung đoàn đang ở ngoài thị xă: Trung Đoàn 52 phải canh giữ Quốc Lộ 20 ở Dầu Giây cách Xuân Lộc khoảng 10 cây số, trong khi Trung Đoàn 48 đang tham chiến ở Tây Ninh, gần 200 cây số về phía Tây. Đầu tháng Tư, 1975, Tướng Đảo chỉ có Trung Đoàn 43, lực lượng hậu cần, một chi đội thiết giáp và đại đội trinh sát của Sư Đoàn để pḥng thủ Xuân Lộc. Bốn đơn vị Địa Phương Quân dưới quyền Đại Tá Tỉnh Trưởng Phạm Văn Phúc giúp canh giữ phía Bắc Xuân Lộc và khu vực Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Tuy nhiên, phía sau lưng của Tướng Đảo, phía Nam của thị xă hoàn toàn bỏ ngỏ, đúng chỗ Sư Đoàn 7 CS dự định tấn công. Tướng Đảo biết rằng ông cần cả Sư Đoàn để chống trả những trận tấn công của Cộng quân. Cơ hội đến với ông vào ngày 3 tháng Tư khi Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III VNCH đến thăm ông. Trong lúc tường tŕnh về những chuẩn bị chống địch, Tướng Đảo xin Tướng Toàn cho Trung Đoàn 48 về lại với Sư Đoàn. Tướng Toàn lưỡng lự nhưng ông Đảo kiên tŕ nói với ông Toàn rằng nếu Sư Đoàn 18 VNCH được giao nhiệm vụ giữ Xuân Lộc, ông cần phải bảo vệ phía sau lưng Xuân Lộc. Để thuyết phục ông Toàn, ông Đảo nói rằng ông dự định dùng Trung Đoàn 48 để lấy lại Núi Chứa Chan lúc đó đang bị Cộng quân chiếm đóng. Cuối cùng, Tướng Toàn đồng ư cho Trung Đoàn 48 về, nhưng ông lại ra lệnh cho ông Đảo gởi Tiểu Đoàn 2/48 đến Hàm Tân, một thị xă ven biển để giữ an ninh cho những đoàn dân chạy loạn đang từ Quân Đoàn II VNCH đổ về.

Trung Đoàn 48 được trả về ngày 5 tháng Tư. Ngày 7 tháng Tư, Tướng Đảo cho Trung Đoàn đi dọn đường cho tới Suối Cát phía Đông Nam Xuân Lộc, trên đường đi Núi Chứa Chan nhưng không tiến thêm. Để Tiểu Đoàn 3/48 ở lại giữ Suối Cát, ông đem Tiểu Đoàn 1/48 về giữ ngă tư Tân Phong ngay phía Nam thị xă Xuân Lộc và dùng tiểu đoàn này làm quân trừ bị cùng với chi đội 1 và 2 của Thiết Đoàn 5, đơn vị thiết giáp của Sư Đoàn 18 VNCH.

Nhận thức được tai hoạ ở Quân Đoàn I và II VNCH khi nhiều đơn vị tan ră toàn bộ v́ binh sĩ đào ngũ để về nhà cứu vợ con, ông Đảo cho lực lượng tiếp vận, quân y, và tối đa số gia đ́nh binh sĩ và thường dân trong vùng di chuyển về Long B́nh, một căn cứ hậu cần rất lớn gần Biên Hoà. Những thường dân c̣n lại núp trong hầm trú ẩn gần Dinh Tỉnh Trưởng.

Quan trọng hơn, ông Đảo chuyển lính pḥng thủ thị xă ra ngoại ô với hy vọng là pháo của địch sẽ tập trung vào trung tâm thị xă. Ông cho đại đội trinh sát, chỉ huy bởi một Đại Uư rất gan dạ, trang bị đại liên 50 ly và đóng gần trường Trung Học Hoà B́nh, ven Tây Bắc của thị xă. Ông Đảo cũng thành lập ba bộ chỉ huy riêng rẽ: bộ đầu tiên đóng ở nhà riêng của ông, bộ thứ nh́ ở ngă tư Tân Phong phía Nam thị xă, và bộ thứ ba ở một vườn trái vải phía Đông của Tân Phong và phía Bắc của Quốc Lộ 1. Trong khi các binh sĩ xuống hầm, ông tiếp tục nghiên cứu địa h́nh, cố gắng đoán cho được kế hoạch tấn công của Cộng quân. Không lâu sau, ông nhận ra: không c̣n nghi ngờ rằng Cộng quân sẽ tiến quân theo con đường họ đă dùng để tấn công Xuân Lộc vào Tết Mậu Thân, 1968 với vài thay đổi dựa trên lực lượng hiện tại của họ. Lượng định của Tướng Đảo đă đúng.

Tướng Đảo quyết định giăng bẫy đợi địch. Ông gọi đó là cái “máy nghiền thịt”. Ông tạo ra một khu vực tử thần bằng cách đặt Pháo Binh của ông gồm 36 khẩu đại bác (24 khẩu 105 ly và 12 khẩu 155 ly) trong một tam giác phía Tây Xuân Lộc, mỗi đỉnh tam giác có 4 đại bác 155 ly và 8 đại bác 105 ly. Ở đỉnh thứ nhất của tam giác, Ông để 10 khẩu đại bác cùng với Tiểu Đoàn 2/43 trên Núi Thị, c̣n 2 khẩu 105 ly và phần c̣n lại của Trung Đoàn 43 th́ để ở bên ngoài thị xă. Ở đỉnh thứ hai của tam giác, ông Đảo đặt 12 khẩu đại bác tại Trung Đoàn 48 ngay phía Tây của Tân Phong. Ở đỉnh thứ ba có tiểu đoàn Pháo Binh trực thuộc Trung Đoàn 52 cùng với Trung Đoàn này tại Ấp Nguyễn Thái Học.

Lực lượng của Đại Tá Tỉnh Trưởng Phạm Văn Phúc có 2 đại bác 105 ly để pḥng thủ khu vực của họ trong thị xă. Thêm vào đó, nhiều ngày trước trận chiến, Quân Đoàn III có gởi cho ông Đảo hai khẩu đại pháo tự hành 175 ly, và ông giữ 2 đại pháo này tại bộ chỉ huy thứ hai tại Tân Phong. Quan trọng hơn cả, chỉ huy pháo binh của Tướng Đảo là Đại Tá Ngô văn Hưng đă giữ vai tṛ trọng yếu trong việc sắp xếp, chuẩn bị pháo binh. Ông Hưng ra lệnh cho xe ủi đất để đào những hố đặt súng đại bác và những hầm để kéo đại bác vào sau khi bắn. Ông Hưng cũng đích thân kiểm soát tất cả súng đại bác. Tướng Đảo cho mở rộng hệ thống hầm và giao thông hào có sẵn không những để chứa các khẩu pháo mà cho tất cả lực lượng binh sĩ bảo vệ thị xă. Mục đích của ông là vô hiệu hoá sự phản pháo của Cộng quân. Nỗ lực này đă đạt được kết quả mong muốn, như ông nói, “Pháo của họ (Cộng quân) không bao giờ t́m được chúng tôi.” Tuy vậy, sự chiết giảm tối đa các viện trợ quân sự cho Việt Nam của Quốc Hội Hoa Kỳ trong tài khoá 1974-75 đă làm cho dự trữ nhiên liệu, vơ khí, và đạn dược, nhất là đạn Pháo Binh xuống thấp thê thảm. V́ biết trước là Cộng quân sẽ đánh Xuân Lộc, trước đó ông Đảo đă thực hiện hai chương tŕnh.

- Thứ nhất, ông dự trữ đạn Pháo Binh. Từ tháng Hai, ông đă giảm bớt 20% số đạn sử dụng hàng ngày.

- Thứ hai, ông đă thành lập một trung đội trinh sát trong mỗi tiểu đoàn tác chiến để “t́m địch”. Dù Trung Đoàn 341 CS có nhiều hoạt động trinh sát, ông Đảo không thụ động khi quân địch tăng cường dọ thám. Ông dùng những trung đội trinh sát để càn quét những vùng quanh Xuân Lộc. Ngày 6 tháng Tư, trung đội trinh sát Tiểu Đoàn 2/43 phục kích và tiêu diệt một lực lượng thám thính của Cộng quân ở núi Ma, một điểm cao quan trọng ở Tây Bắc Xuân Lộc. Quân VNCH sau đó đóng ở những ngọn đồi khác để ngăn ngừa Cộng quân trở lại và dùng chúng làm những trạm quan sát.

Giữa trưa ngày 6 tháng Tư, Tướng Đảo được báo có một lực lượng Biệt Động Quân (BĐQ VNCH), Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân biên pḥng từ Quân Đoàn II, mới đến từ căn cứ bỏ lại ở tỉnh Quảng Đức, sau một cuộc chạy thoát khủng khiếp qua vùng Cộng quân kiểm soát. Dưới sự chỉ huy của Thiếu Tá Vương Mộng Long, Tiểu Đoàn 82 đă đi bộ qua rất nhiều cây số rừng rậm để đến được thành phố Bảo Lộc trong tỉnh Lâm Đồng. Ông Long đă giữ được mạng sống của phần lớn tiểu đoàn của ông và gần năm trăm đồng bào khi đi qua rừng rậm. Tướng Toàn vội gởi đại diện của bộ chỉ huy BĐQ để dàn xếp trực thăng đón những người sống sót mệt lả. Tiểu Đoàn 82 sau đó được đưa tới Xuân Lộc, Tướng Đảo cung cấp đạn dược và thực phẩm cho họ, để họ đóng ở phi trường và để họ tạm dưới quyền Trung Đoàn 43. Tướng Toàn nói với Tướng Đảo rằng sáng ngày 9 tháng Tư đưa Tiểu Đoàn 82 về Sài G̣n để bổ xung lực lượng. Những chiến sĩ không thể ngờ rằng họ bước từ một chảo dầu nóng vào một đám cháy.

Chiều ngày 8 tháng Tư, Tướng Đảo nhận được một tin khẩn từ Quân Đoàn III VNCH. Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, được t́m thấy đă chết trong văn pḥng của ông ta với một vết thương rơ ràng là tự bắn. Ông Đảo luôn coi ông Hiếu là một sĩ quan tham mưu lỗi lạc và người bạn thân thiết, do đó, ông vội đáp trực thăng về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III ở Biên Hoà. Ông cũng muốn nhân dịp này bay ṿng quanh Xuân Lộc nhiều lần để xem xét lại những vị trí pḥng thủ vừa dựng lên, đặc biệt là ở vùng đất trống trải phía Đông thị xă. Sau những buổi thảo luận tại trung tâm chỉ huy của quân đoàn, ông Đảo bay về Long B́nh để làm việc với Trưởng Pḥng Tiếp Vận của Quân Đoàn III. Ông quyết định nghỉ đêm tại Long B́nh.

Khi đêm xuống ngày 8 tháng Tư, binh lính ở Xuân Lộc được sắp đặt như sau:

Trung Đoàn 52 đă được rút về để bảo vệ ngă ba chiến lược ở Dầu Giây; Tiểu Đoàn 1/52 ở phía Nam, sát Dầu Giây; Tiểu Đoàn 2/52 cùng bộ chỉ huy trung đoàn, Pháo Binh, và các thiết vận xa M113 của chi đội thiết giáp 3/5 đóng gần giao lộ về phía Bắc. Đơn vị xa nhất ở phía Bắc của ông Đảo, Tiểu Đoàn 3/52 pḥng thủ vùng đất cao dọc Quốc Lộ 20 và có một đại đội đóng ở trên Đồi Móng Ngựa, một ngọn đồi nhỏ nằm cạnh Quốc Lộ 20 gần Núi Ma. (32)

Đi xa hơn về phía Đông, Tiểu Đoàn 2/43 giữ vùng Núi Thị, trong khi đại đội trinh sát đóng ở trường Trung Học trên lối vào thị xă ở phía Tây Bắc, và hai tiểu đoàn ĐPQ 340 và 342 đóng ở sườn bên phải. Tiểu Đoàn 1/43 và 3/43 giữ những lối vào Xuân Lộc ở hướng Đông. Cách bố trí trên để lại một lỗ hổng đáng lo ở giữa Trung Đoàn 52 và thị xă, chỗ mà Tướng Đảo chỉ có thể trám vào bằng đại bác.

Tiểu Đoàn 1/48 và hai chi đội của Thiết Đoàn 5 được giữ làm trừ bị, trong lúc Tiểu Đoàn 2/48 được gởi đi Hàm Tân. Tiểu Đoàn 3/48 đóng hai bên trên Quốc Lộ 1 phần đi từ thị xă về phía Đông.

Tiểu Đoàn 82 BĐQ pḥng thủ phi trường Xuân Lộc. Hai tiểu đoàn ĐPQ, 353 và 367, đóng ở các vị trí trong thị xă.

Diễn Tiến Trận Xuân Lộc


Buổi sáng 9 tháng Tư, 1975, Cộng quân vào vị trí.

Sư Đoàn 6 CS băng qua Quốc Lộ 2 phía Nam Xuân Lộc mà không bị phát hiện và di chuyển nhanh chóng xuyên qua những đồn điền cao su phía Bắc về phía Quốc Lộ 1. Sư Đoàn 7 và 341 CS tiến gần tới hàng rào pḥng thủ của quân VNCH. Lúc 05:00 giờ sáng, tất cả mọi đơn vị của Quân Đoàn 4 CS báo cáo rằng họ đă tới vị trí định sẵn. Pháo Binh Cộng quân cũng sửa soạn xong toạ độ súng và chờ lệnh khai hoả.

Trong khu vực Sư Đoàn 341, mười phút trước giờ ấn định khai hoả, quan sát viên thấy sương mù chưa hết hẳn nên họ xin chờ thêm mười phút. Quân Đoàn 4 CS chấp thuận. Đúng 05: 40 sáng 9 tháng Tư, 1975, Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn ra lệnh bắt đầu. Với những tiếng nổ long trời, pháo binh từ Quân Đoàn 4 CS và các sư đoàn trực thuộc đồng loạt tác xạ. (33)

Trong suốt một tiếng đồng hồ, pháo binh Cộng Sản rót vào Xuân Lộc đạn đại bác, súng cối và hoả tiễn. Từ hai đến ba ngàn quả đạn đă bắn vào thị xă nằm trơ trọi (34). Họ tàn phá trung tâm thị xă, biến nhiều công tŕnh kiến trúc thành gạch vụn. Tuy vậy, dù đă thám thính trước, Cộng quân không hề biết rằng Trung Đoàn 43 và ĐPQ VNCH đă chuyển ra ngoại ô. Phần lớn đạn pháo rớt vào nhà dân, các binh sĩ VNCH trong hầm và giao thông hào không bị thiệt hại ǵ. Đến 6 giờ 40, hai quả pháo hiệu loé sáng trong bầu trời b́nh minh. Đó là dấu hiệu cho xe tăng và bộ binh tùng thiết CS tiến vào. Cán bộ và binh lính của Sư Đoàn 7 và 341 CS tiến đến sát gần binh sĩ của Sư Đoàn 18 VNCH đang mai phục.

Ngay khi quả pháo đầu tiên bắn đi lúc 05:40 giờ, Tham Mưu Trưởng Hứa Yến Lến của Sư Đoàn 18 VNCH gọi điện cho Tướng Lê Minh Đảo ở Long B́nh. Ông ta báo cáo là nhân sự ở bộ chỉ huy đều vô sự nhưng tư gia của Tướng Đảo, địa điểm của Bộ Chỉ Huy 1 đă bị trúng đạn. Tướng Đảo ra lệnh đem Bộ Chỉ Huy 1 đến chung địa điểm của Bộ Chỉ Huy 2 tại Tân Phong rồi lên trực thăng bay ngay tới chiến trường. Trên đường đi, Tướng Đảo điện cho các Trung Đoàn Trưởng để hỏi về t́nh h́nh. Mọi người đều cho biết là họ không sao. Tướng Đảo nói chờ lệnh của ông khi ông về tới.


https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1658078&stc=1&d=1600786428

Trong khu vực phía Đông, Trung Đoàn 165 của Sư Đoàn 7 CS dẫn đầu cuộc tấn công. Tất cả tám chiếc xe tăng của Sư Đoàn 7 đều tham dự (35). Nghĩ là lính VNCH sẽ bỏ chạy ngay sau khi pháo kích ngưng, Cộng quân tự tin tiến lên. Họ phải đi lên dốc, băng qua những khu đất trống, vượt qua 8 hàng rào kẽm gai, nhiều băi ḿn, và leo lên một bờ đất trước khi đến giao thông hào của VNCH.

Trung Đoàn 165 CS đă nhanh chóng phải ngừng lại. Chiếc tăng T-54 dẫn đầu trúng ḿn chống chiến xa, đứt tung xích bên trái và trở thành vô dụng (36). Pháo binh của QLVNCH lập tức nhả đạn, và khi trời vừa sáng, chiến đấu cơ A-37 và F-5 của VNCH bắt đầu không kích vào đoàn Cộng quân bị lộ. Trong khi các chiến xa tiếp tục đi tới, Cộng quân cố tiến lên lần thứ hai. Nhưng, Trung Đoàn 43 VNCH đă cho họ một bất ngờ mới: phi đạn 2.75 inch gắn trên hai càng và bắn bằng điện từ những cục pin đơn giản (37). Oanh tạc của không quân và phi đạn của quân VNCH đă tiêu huỷ bốn xe tăng của Cộng quân và chận đứng Trung Đoàn 165 CS.

Trung Đoàn 209 CS với nhiệm vụ mở đường Quốc Lộ 1 từ hướng Đông đă đụng với Tiểu Đoàn 82 BĐQ VNCH tại phi trường Xuân Lộc. Tiểu Đoàn 82 VNCH chận đứng hai tiểu đoàn Cộng quân và gây tổn thất nặng cho địch (38).

Tiểu Đoàn 3/48 VNCH từ Suối Cát rút về để giúp pḥng vệ Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 18 VNCH ở Tân Phong.

Như thế là cuộc tấn công chính của Tướng CS Hoàng Cầm đă bị chận lại. Trong sách “Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân” đă ghi: “không cuộc tấn công nào của Sư Đoàn ta vào Bộ Chỉ Huy của Sư Đoàn 18 của ‘Ngụy.’ và phía sau Trung Đoàn 52 ‘Ngụỵ’ đạt được thành công. Quân ta giằng co với địch để giành từng giao thông hào, từng căn nhà, từng con đường.” (39)

Cuộc tấn công bị chận lại lập tức không phải chỉ v́ oanh tạc, pháo binh, và bộ binh VNCH nhưng cũng v́ Tướng Đảo giao cho mỗi người trong Sư Đoàn một vị trí pḥng thủ. Như ông giải thích, “Tất cả mọi người đều chiến đấu. Ngay cả sĩ quan tiếp vận và nhân viên làm việc ở căn cứ cũng đào hầm pḥng thủ. Thêm vào đó, những người mất sức sắp được giải ngũ hoặc đă bị thương đều được cấp phát súng đạn và giao vị trí pḥng thủ. Những người này đánh rất hiệu quả và tiêu diệt được nhiều quân địch.”

Sư Đoàn 341 CS lúc đầu khá hơn ở phía Tây thành phố. Với địa bàn hoạt động đỡ trống trải và đă có dịp quan sát kỹ càng những con đường vào thị xă, ba tiểu đoàn của Trung Đoàn 266 CS đă lọt qua năm lớp kẽm gai đầu tiên ở gần trường Trung Học thị xă và “Ṿng Cua Heo” nơi Quốc Lộ 1 đánh một ṿng lớn vào thị xă. Tư Lệnh Sư Đoàn 341 CS đi theo Trung Đoàn 266 trong lúc tấn công. Tuy thế, pháo binh VNCH mau chóng bắn vào Cộng quân và một phi cơ C-119 rải đạn xuống chỗ bị xâm nhập. Đại đội trinh sát ở trường Trung Học Hoà B́nh góc Tây Bắc thị xă bắn tung Cộng quân bằng đạn đại liên. Những người lính ít kinh nghiệm của Trung Đoàn 266 CS cố gắng mở một ngơ xâm nhập thứ hai về hướng Đông và đă đi thẳng vào nơi hai tiểu đoàn 340 và 342 ĐPQ VNCH đang cố thủ. Cuối cùng, sau khi bị tổn thất nặng, các nhóm quân của Tiểu Đoàn 5 và 7 thuộc Trung Đoàn 266 Bắc Việt cũng t́m được lối đi ṿng qua trường học và xâm nhập được khoảng 300 mét vào trong thị xă nơi họ chiếm đóng ở những nơi gần khu chợ, nhà thờ, bến xe đ̣, và bộ chỉ huy thị xă, tuy vậy lính VNCH vẫn giữ được phần lớn thành phố. (40)

Xa hơn về phía Tây, Trung Đoàn 270 của Sư Đoàn 341 CS tiến đánh Núi Thị và Gia Tân. Như những lực lượng khác của Sư Đoàn 18 CS, Tiểu Đoàn 2/43 đă chống cự mănh liệt tại Núi Thị. Trong một thời gian ngắn, Trung Đoàn 270 CS cũng phải rút lui, để lại hàng tá tử thi và thương binh.

Không phí thời gian, vào lúc 11:00 giờ, ông Đảo cho lực lượng trừ bị gồm Tiểu Đoàn 1/48 và Thiết Giáp, Liên đoàn 5 phản công ở phía ngoài thị xă. Tiểu Đoàn 1/48 VNCH nhanh chóng tiến lên nhưng Sư Đoàn 341 CS cho một tiểu đoàn của Trung Đoàn 270 CS đánh vào hông cánh quân 1/48. Trung Đoàn 270 CS cũng được đem tới để chận cuộc phản công của 1/48, do đó ṿng vây của VNCH không thể khép kín. Tuy vậy, pháo binh VNCH cùng với những cuộc oanh tạc hữu hiệu của không quân VNCH đă liên tiếp t́m ra những điểm tập trung của Cộng quân và trút xuống đó những loạt đạn pháo và bom. (41)

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1658079&stc=1&d=1600786428

Bên trong thị xă Xuân Lộc, Tướng Đảo cho nhổ sạch những đơn vị Cộng quân đă lọt vào thị xă. Tiểu Đoàn 1/43 VNCH và hai tiểu đoàn ĐPQ của Đại Tá Phúc, được yểm trợ bằng không kích chính xác, giữ vững bộ chỉ huy tiểu khu và chiếm lại phần lớn những vị trí Cộng quân đă chiếm trước đó trong ngày. Dù một vài người lính của Trung Đoàn 266 CS cố bám được vài toà nhà, đến cuối ngày đầu, Sư Đoàn 341 CS đă bị thiệt hại nặng nề với gần 600 người chết và bị thương. (42)

Trong ba sư đoàn Cộng quân 7, 341, và 6, Sư Đoàn 6 CS thành công nhất v́ họ đương đầu với ít phản công nhất. Trung Đoàn 274 của Sư Đoàn 6 CS tấn công những vị trí của ĐPQ dọc Quốc Lộ 1 phía Tây Xuân Lộc, chiếm được Ấp Trần Hưng Đạo và đèo Mẹ Bồng Con., khoá Quốc Lộ 1 giữa Xuân Lộc và ngă ba Dầu Giây. Trung Đoàn 33 c̣n lại của Sư Đoàn 6 CS tấn công các ấp Hưng Nghĩa và Hưng Lộc ở phía Tây Dầu Giây. Họ chiếm được Hưng Lộc nhưng bị lực lượng tự vệ ở Hưng Nghĩa đẩy lùi và cuộc tấn công Dầu Giây cũng bị Tiểu Đoàn 1/52 đẩy lui. (43)

Đến buổi chiều Cộng quân thiệt hại gần 700 chết và bị thương, phía VNCH tổn thất dưới 50. Sư Đoàn 18 vẫn tiếp tục giữ vững vị trí. Lần đầu tiên trong ṿng năm tuần lễ, quân đội VNCH không bị đánh bật ra, thay vào đó lại chống cự mạnh mẽ làm ngay cả quan sát viên Tây Phương ngạc nhiên. Sự phản công dũng mănh làm chấn động quân đội miền Bắc, như họ viết, “Phi cơ địch cất cánh từ Biên Hoà… ném bom dồn dập xuống Xuân Lộc. Trận chiến trở thành một cuộc giành giật khó khăn và đẫm máu, những đơn vị của ta bị tổn thất nặng… Kho đạn pháo binh của ta đă cạn. Hơn nửa xe tăng của ta đă bị tiêu huỷ.” (44)

Quân VNCH bắt được ba mươi tù binh, và trực thăng chở họ về Sài G̣n thẩm vấn. Khi đêm buông xuống, Bắc Việt cố gắng tiếp tế cho lính của họ trong thành phố và ngoại ô. Quân Đoàn 4 CS tin là họ đă giữ được nửa thành phố và đă cắt Quốc Lộ 1 đoạn từ Dầu Giây đến đèo Mẹ Bồng Con nhưng cũng công nhận là họ không đạt được mục tiêu. Tuy vậy, họ quyết định giữ nguyên chiến thuật: đánh trực diện.

Hoàng Cầm chấp thuận bộ chỉ huy tiền phương của CS đưa thêm đơn vị trừ bị vào chiến trường. (45) Sư Đoàn 7 đưa Trung Đoàn 141 với một tiểu đoàn pḥng không vào vị trí đánh trực tiếp. Trung Đoàn 165, 209 và thêm các chiến xa lại sẵn sàng tấn công từ phía Đông. Sư Đoàn 341 CS đưa Trung Đoàn 270 vào thị xă để chống đỡ cho Trung Đoàn 266 đang cố giữ ŕa phía Tây thị xă.

Sáng sớm ngày thứ hai, pháo binh Cộng quân lại bắn một loạt pháo để yểm trợ cho pháo binh của họ. 05:27 sáng ngày 10 tháng Tư một ngàn quả đạn lại bắn vào thành phố c̣n đang nghi ngút khói. Sư Đoàn 7 CS tấn công liên tiếp vào công sự pḥng thủ kiên cố của quân VNCH ở phía Đông nhưng không thể tiến qua Tiểu Đoàn 82 BĐQ và các lực lượng VNCH.

Ở phía Tây, Trung Đoàn 270 CS tấn công năm lần vào lực lượng VNCH ở đó, chủ yếu là hai tiểu đoàn ĐPQ đóng ở trại Lê Lợi gần khu chợ trong thành phố. Mỗi lần Cộng quân tấn công là lại bị đánh bật ra. Có một lúc trận chiến trở thành xáp lá cà, “một trận chiến khủng khiếp bằng lưỡi lê và lựu đạn.” (46)

Pháo binh VNCH được không quân yểm trợ hữu hiệu, tiếp tục bắn vào Cộng quân gây thương vong nặng nề. Thêm năm chiếc xe tăng T-54 bị huỷ diệt.

Đến buổi trưa, Tướng Đảo phản công lần nữa. Thấy được hai trung đoàn của Sư Đoàn 341 CS bị giữ chân trong thị xă, ông Đảo đưa hai tiểu đoàn phản công hai mặt từ phía trong và ngoài thị xă. Lần phản công thứ hai này vượt quá sức chịu đựng của các binh lính c̣n quá trẻ của Sư Đoàn 341 CS. Trong lúc súng nổ liên tục và bị tổn thất nặng trong hai ngày, nhiều bộ đội CS sợ hăi, không c̣n muốn chiến đấu. Họ trốn trong hầm và những toà nhà đổ nát. Theo lời Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, Tướng Cao Văn Viên, “Họ không biết về vùng đất, sợ đánh nhau và đạn pháo. Sau khi xâm nhập vào thị xă, họ núp trong cống và không bắn một viên đạn nào trong băng đạn 70 viên cơ bản của họ.” (47)

Từng địa điểm một, quân VNCH giải toả những nơi mà Cộng quân đă chiếm hôm trước. Trong lúc đó các lực lượng ĐPQ và Tiểu Đoàn 1/43 VNCH đẩy Trung Đoàn 266 CS hoàn toàn ra khỏi thành phố. Vào tối ngày 10 tháng Tư, tất cả Xuân Lộc nằm trong tay quân VNCH nhưng phần phía Bắc của thị xă chỉ c̣n là một khu đổ nát nghi ngút khói. Kư giả Phillip Caputo của tờ Chicago Tribune viết:

Hầu như mọi kiến trúc đều bị thiệt hại, và trung tâm thị xă bị biến thành một khu đổ nát. Đường phố th́ đầy hố do những quả đạn 130 ly xé gió bay tới từ vùng đồi núi xanh bí hiểm ở phía Bắc. Những khu dân cư trước đây giờ là những đống gạch vụn và cột gỗ cháy thành than… Ngôi chợ chính, với những sạp gắn mái tôn quằn lại méo mó, trông giống như một băi đồ phế thải, và bến xe buưt, nơi trận giao tranh đầu tiên diễn ra, chỉ c̣n nhận ra được bởi vài khung xe buưt cháy đen thui. Ngay cả gác chuông nhà thờ cũng không thoát. Trông giống như phần c̣n lại của một tháp chuông thời cổ, nó đứng lặng lẽ nh́n những tan hoang, những đám cháy, những tử thi chương śnh và thối rữa dưới ánh nắng của những người lính Bắc Việt nằm rải rác trong những tư thế chết lạ lùng. “Cảnh vật giống như một thành phố sau Thế Chiến Thứ Hai”, một người lính miền Nam nói. (48)

Tối đến nhưng những người lính VNCH vẫn không được ngưng nghỉ v́ pháo Cộng bắn phá cả đêm. Cộng quân bắn thêm 2,000 quả vào thị xă buổi tối 10 tháng Tư. (49) Sư Đoàn 18 VNCH phản pháo hiệu quả, cố phá những điểm tập trung của địch. Sư Đoàn 341 CS ghi lại “Địch quân bắn phá các địa điểm pháo binh của ta trong vùng, cùng lúc đó bắn vào những con đường dẫn từ những căn cứ phía sau của ta vào thị xă. Vận tải cơ C-130 gắn đại bác 20 ly bắn rải hàng loạt xuống các vị trí của ta. Địch quân hy vọng phủ một bức màn lửa để chận nỗ lực tái tiếp viện đạn dược cho quân ta và công tác tải thương.” (50)

Mặc dù tổn thất nặng, các chỉ huy Bắc Việt vẫn không bỏ cuộc. Sáng ngày thứ ba, Cộng quân tiếp tục tấn công. Quân đoàn 4 CS ra lệnh cho Sư Đoàn 341 chuyển trục tấn công vào Trung Đoàn 43 VNCH và nối kết với Sư Đoàn 7 CS. Lúc 05:30 sáng ngày 11 tháng Tư, pháo Cộng rót vào địa điểm của Trung Đoàn 43 suốt ba mươi phút. Lúc 6 giờ sáng, pháo Cộng chuyển qua hai vùng Núi Thị và Tân Phong. Sư Đoàn 7 CS cũng được lệnh tái tấn công.

Kết quả cũng giống như cũ. Quân pḥng thủ VNCH kiên cường đẩy lui những cuộc tấn công của cả hai sư đoàn địch. Thêm nhiều xe tăng T-54 của Cộng quân bị phá huỷ. Quân VNCH phản công, chận đứng xâm nhập của Cộng quân và giành lại những phần đất đă mất. Một lần nữa, Cộng quân không lấy nổi thị xă dù với tổn thất cực kỳ cao và vẫn tiếp tục tăng. Ông Hoàng Cầm viết, “Đây là trận đánh ác liệt nhất mà tôi từng tham dự! Nhận xét cá nhân của tôi là, sau ba ngày chiến đấu, ngay cả sau khi quân trừ bị của ta đă vào trận, t́nh h́nh vẫn chẳng tiến triển và ta tổn thất khá nặng.” Trong một phần chú thích, ông Cầm đă ghi lại những con số giống như trong quyển Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân Việt Nam: “Trong ba ngày đầu của trận chiến, Sư Đoàn 7 tổn thất 300 người vừa chết vừa bị thương, và Sư Đoàn 341 tổn thất 1200 người vừa chết vừa bị thương… hầu như tất cả đại bác 85 ly và 57 ly đều bị phá huỷ.” (51)

Theo Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Bắc Việt, Tướng Văn Tiến Dũng, “Trận Xuân Lộc dữ dội và ác liệt từ những ngày đầu tiên… Những sư đoàn của ta đă tổ chức nhiều cuộc tấn công vào thị xă, tiến công và tái tiến công để phá tan từng mục tiêu, và phải đẩy lui nhiều cuộc phản công của địch.” (52)

Trên thực tế, quyết định của Tướng Đảo để có được kho đạn và pháo binh dự trữ, sự sửa soạn toạ độ cho pháo binh để bắn vào những “khu tử thần”, cùng với sự yểm trợ hữu hiệu của không quân, và sự chỉ huy cương quyết của ông đă là những yếu tố quan trọng nhất trong sự thành công của Sư Đoàn 18 VNCH với sự trợ giúp đắc lực của Tiểu Đoàn 82 BĐQ trong việc đẩy lui các cuộc tấn công của Cộng quân trong ba ngày đầu.

Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH nhận thức được tầm ảnh hưởng nghiêm trọng của t́nh h́nh tại Xuân Lộc. Pḥng thủ thành công thị xă này là điều trọng yếu để bảo vệ Sài G̣n và nâng cao tinh thần của cả miền Nam. Nếu quân VNCH có thể làm cho Cộng quân thảm bại tại Xuân Lộc, miền Nam sẽ có thể tránh khỏi cuộc khủng hoảng quân sự. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, người chỉ huy trực tiếp của tướng Đảo, định dùng khả năng chuyển quân để dồn lực lượng trừ bị vào những nơi bị tấn công và tiêu diệt các đội h́nh của địch. Thêm vào đó, Tổng Thống Thiệu nói với ông Toàn rằng nếu ông Toàn có thể cầm chân ba sư đoàn cộng sản tại Xuân Lộc, "B-52 sẽ trở lại." (53) Tuy vậy, ông Toàn lo là Sư Đoàn 18 VNCH sẽ bị Cộng quân tràn ngập, do đó ông đă có nhiều hành động. Vào ngày 11 tháng Tư, Tướng Toàn ra lệnh cho Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ, đơn vị trừ bị cuối cùng của ông, từ phía Tây Quân Đoàn III VNCH di chuyển về phía Xuân Lộc để mở lại Quốc Lộ 1 từ làng Hưng Nghĩa đến ngă ba Dầu Giây. (54) Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ đă bị tấn công dữ dội vào ngày 9 tháng Tư, đó là một phần trong kế hoạch tổng tấn công của cục “R” CS. Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, chỉ huy Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ, đă bị tấn công vào cả hai cánh hông, nhưng ông đẩy lui được địch. Tuy vậy, quyết định chuyển Lữ Đoàn 3 đi để lại Sư Đoàn 25 VNCH ở Tây Ninh trong t́nh trạng bấp bênh, không có lực lượng trừ bị nếu bị tấn công.

Lữ đoàn 3 Thiết Giáp tới Hưng Nghĩa vào 11 tháng 4 và lập tức chạm với Sư Đoàn 6 Cộng quân đang chận trên Quốc Lộ 1 về phía Đông gần Hưng Lộc. Tướng Khôi điều động quân của ông để Chiến đoàn 315 đánh dọc Quốc Lộ 1 làm mũi chính trong khi ông cho Chiến đoàn 318 tiến về phía Bắc vừa để canh chừng bên hông cho mũi chính, vừa cố đi ṿng qua chỗ cản của cộng quân trên
Quốc Lộ 1. Ông giữ Chiến đoàn 322 làm trừ bị. Lực lượng của Tướng Khôi không tiến lên được. Ông Khôi sững sờ khi xe tăng của ông bị chận đứng, ông nói, "Đây là lần đầu tiên chúng tôi không vuợt qua được." (55)

Vào lúc đó, tiểu đoàn 2/48 (đă gửi tới Hàm Tân để giữ an ninh cho đồng bào chạy loạn từ trước), được đưa vội về Xuân Lộc bằng trực thăng. Quan trọng hơn, sáng ngày 11 tháng Tư, Tướng Toàn cho di chuyển Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, một trong nhũng đơn vị cuối cùng của lực lượng tổng trừ bị VNCH, và, đối với ông Thiệu, là một phần của lực lượng bảo vệ Dinh Tổng Thống không chính thức, để tăng cường cho Sư Đoàn 18 VNCH. Tư Lệnh của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù là Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh. Lữ Đoàn gồm ba Tiểu Đoàn 1, 8 và 9, được yểm trợ bằng Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù. Trong ṿng hai ngày, ông Toàn sử dụng tất cả trực thăng c̣n lại để bốn Tiểu Đoàn của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù vào Xuân Lộc; họ đáp xuống gần Tân Phong. (56) Đó là cuộc trực thăng vận lớn cuối cùng trong cuộc chiến. Một nguồn tin VNCH cho biết "Mọi trực thăng của Sư Đoàn 3 và Sư Đoàn 4 Không Quân VNCH, tổng cộng một trăm chiếc UH -1B, chở hơn hai ngàn lính Nhảy Dù... tới trận chiến." Các trung đội Pháo Binh Nhảy Dù được vận chuyển bằng trực thăng Chinook tới Bộ Chỉ huy Hành quân Nhảy Dù đặt ở bên cạnh bộ chỉ huy sư đoàn 18. (57) Thương binh và thường dân được chở đi sau khi trực thăng đổ quân xuống.

Tướng Đảo cũng có một thay đổi nội bộ để bổ xung cho sự pḥng thủ Xuân Lộc. Mặc dù bị cắt đứt với các đơn vị bạn và bị pháo kích, Trung Đoàn 52 VNCH vẫn giữ được một khúc Quốc Lộ 20 bắt đầu từ Ấp Phan Bội Châu ở phía Nam Dầu Giây tới Ấp Nguyễn Thái Học, và đến vị trí xa nhất là Đồi Móng Ngựa. Ngoài Tiểu Đ̣an 1/52, không đơn vị nào khác của trung đoàn bị bộ binh CS tấn công. Tuy nhiên 1/52 bị áp lực thường xuyên từ Trung Đoàn 33 CS. Ấp Phan Bội Châu là mục tiêu khá dễ dàng cho pháo binh Cộng Sản. Từng đợt pháo dội lên đầu các chiến sĩ VNCH đang cố thủ, và khi pháo tạm ngưng là bộ binh địch lại tấn công. Tiểu đoàn 1/52 đẩy lui nhiều đợt nhung đă chịu tổn thất nặng để hoàn tất nhiệm vụ.

Mặc dù Tiểu Đoàn 1/52 phải chịu áp lực như trên, sáng mùng 10 tháng Tư, Tướng Đảo quyết định rút bớt Tiểu Đ̣an 2/52 từ Ấp Nguyễn Thái Học về tăng cường Xuân Lộc và ra lệnh cho Tiểu đoàn 3/52 gởi hai đại đội gần đó ra thay thế. (58) Tiểu đoàn 2/52 VNCH theo một đường ṃn trong rừng phía Bắc Quốc Lộ 1 để tránh Trung Đoàn 274 CS đang chận ở Đèo Mẹ Bồng Con. Họ cắm trại ngắn qua đêm ở một đồn điền gần Ấp Núi Tùng , ngay phía Tây Bắc Xuân Lộc . Sáng sớm 11 tháng Tư, Tiểu Đoàn 2/52 đụng độ toán Cộng quân giữ ấp. Một giao tranh ác liệt kéo dài măi đến 4 giờ chiều cùng ngày. 2/52 giết trên 20 địch quân và tịch thu một đại bác pḥng không 37 ly. Sau trận chiến, 2/52 đi tiếp tới Xuân Lộc và đóng gần Ṿng Cua "Con Heo" ban đêm. Sáng 12 tháng Tư, Tiểu Đoàn 2/52 đánh vào lưng Cộng quân, xuyên qua tuyến địch, và bắt tay được với Trung Đoàn 43 VNCH vào trưa 12 tháng Tư. Trong trận đánh này, họ tịch thu trên sáu mươi vũ khí và tiêu diệt sáu mươi quân địch. (59)

Ngày 12 tháng Tư, một tiểu đoàn nhảy dù đánh một trận chiến dữ dội với một tiểu đoàn của Sư Đoàn 7 CS. (60) Vào ngày 13 tháng Tư, Tướng Đảo đem hai tiểu đoàn Nhảy Dù khác từ phía Đông thị xă về tấn công Sư Đoàn 7 CS. Một tiểu đoàn dù tấn công và chọc thủng pḥng tuyến địch tại làng Bảo Định dọc Quốc Lộ 1, giúp tiểu đoàn kia tiến lên và bao vây Tiểu Đoàn 8 của Trung Đoàn 209 CS. (61)

Bị Sư Đoàn 18 chận đứng, và thấy quân VNCH được tung thêm vào Xuân Lộc, các chỉ huy Bắc Việt bắt đầu đánh giá lại t́nh h́nh và hoạch định chương tŕnh mới. Quân Đoàn 4 CS khó chịu các báo cáo bắt đầu đến Cục "R" là Quân Đoàn 4 CS bị buộc phải rút lui . Sau những hăng hái về những báo cáo tốt đẹp lúc đầu, lănh đạo Cộng Sản trở nên "rất lo lắng". Quân Đoàn 4 phàn nàn là “thiếu đạn dược đủ loại, và nhất là Sư Đoàn 341, 6 và 7 đều không đủ quân số bởi v́ họ đă chiến đấu không nghỉ từ lúc bắt đầu giao tranh trên Quốc Lộ 20.” (62)

Buổi trưa ngày 11 tháng Tư, sau cuộc bàn thảo giữa Trần Văn Trà, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, và một số người khác, ông Trà được gửi tới thẳng đến Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn 4 CS để lượng định t́nh h́nh, và nếu cần, nắm quyền chỉ huy. Thêm vào đó, ông Trà đem theo giấy chỉ đạo chiến thuật mới.

Sau khi ông Trà vừa đi, ông Văn Tiến Dũng điện cho Hoàng Cầm và cho Cầm biết sơ về những lệnh mới ông Trà mang tới. (63) Thấy VNCH đă tập trung phần lớn lực lượng trừ bị c̣n lại để pḥng thủ thành phố, ông Dũng và cục "R" thấy được t́nh trạng của Tướng Đảo có hai chỗ yếu: sự lệ thuộc của ông vào căn cứ Không Quân Biên Ḥa, nơi xuất phát của phần lớn sự trợ giúp của không quân, và sự cô lập của Trung Đoàn 52 VNCH đang giữ Ngă Ba Dầu Giây, nơi không nằm trong hệ thống pḥng thủ của ông Đảo. Ông Dũng ghi chú "một khi địch quân tập trung để… giữ Xuân Lộc, chúng ta không cần tụ lại để tấn công trực diện. Chúng ta cần di chuyển lực lượng để đánh vào đơn vị phản công địch ở ṿng ngoài... trước khi địch đến đó. Chúng ta nên dùng pháo binh tầm xa để phá hủy căn cứ không quân Biên Ḥa... để phi cơ địch không cất cánh được." (64) Cộng quân quyết định bỏ lối đánh trực diện và dùng lối khác để đạt được những ǵ mà đánh trực diện không đạt được. Ông Trà và các chỉ huy Bắc Việt chưa quên thất bại 1972 của họ tại An Lộc, lúc đó họ không chịu đi ṿng qua thành phố mà cứ đánh thẳng vào thị xă, một t́nh thế giống như Xuân Lộc. (65)

Sau cú điện thoại của ông Dũng, bộ tham mưu Quân Đoàn 4 mở một cuộc họp vào chiều 11 tháng Tư để duyệt xét t́nh h́nh. Theo lời chỉ đạo của ông Dũng, ông Cầm ra lệnh hai trung đoàn thuộc Sư Đoàn 7 CS vẫn tiếp tục giữ vị tri tạm của ḿnh và rút lui từ từ. Trung đoàn c̣n lại của Sư Đoàn 7 CS được lệnh đánh vào bên hông những đơn vị Dù. Sư Đoàn 341 CS vẫn giữ vị trí và từ từ rút để chuẩn bị một cuộc tấn công mới vào Núi Thị. Thêm vào đó, Cộng quân "làm những việc để phía địch tưởng là chúng ta sẽ tiếp tục tấn công để tràn ngập trong ṿng mấy ngày tới." (66)

"Kế hoạch nghi binh” của Cầm gồm thêm hai cuộc tấn công trực diện vào 12 tháng Tư. Cuôc tấn công bắt đầu tờ mờ sáng, đánh vào Tiểu Đoàn 1/43 tại phía Đông Bắc Xuân Lộc và kéo dài đến 9 giờ 30 sáng. Không Quân VNCH dùng máy bay vận tải C-130 làm máy bay dội bom, họ cột những chồng bom 750 cân Anh vào những bè gỗ và đẩy ra từ cửa lớn ở đằng sau máy bay. Pháo binh của VNCH cũng bắt đầu lại với sức tàn phá đầy hiệu quả. Khi quân Bắc Việt ngưng chiến, họ không chiếm được thêm đất, và quân VNCH đếm được 235 xác địch. T́nh báo Hoa Kỳ tin rằng "Thiệt hại của địch quân chắc cao hơn xác đếm được nhiều." (67)

Tới giữa trưa, Cộng quân mở cuộc tấn công lần thứ nh́, tung vào trận những đơn vị đă cạn lính của Sư Đoàn 341 để đánh Tiểu Đoàn 1/43 và các đơn vị tham mưu đang cố thủ. Khu trục cơ A-1 của Không Quân VNCH bay hai mươi phi tuần chống lại Cộng quân, phá vỡ hàng ngũ của binh lính Bắc Việt trước khi họ tới được vị trí của Tiểu Đoàn 1/43. Tướng Đảo quan sát rằng trong những cuộc tấn công cuối với những tổn thất rợn người, những chỉ huy địch phải dùng tay đẩy lính của họ ra khỏi những hố cá nhân. Thiệt hại của quân Bắc Việt lên đến hai ngàn người chết và bị thương, trong khi về phía QLVNCH chỉ tổn thất vài trăm người. Ông Đảo, Sư Đoàn 18, và các đơn vị trợ giúp đă biến Xuân Lộc thành một chiến trường đẫm máu cho Cộng quân.

Sau trận chiến ngày 12 tháng Tư, Quân Đoàn 4 CS được tăng cường với chiến xa, những khẩu pháo và binh lính mới. Ông Trà ghi là "Quân Đoàn đă được tăng cường [với]… một chi đội xe tăng, một số khẩu pháo, súng pḥng không và khẩn cấp đưa về binh lính tăng cường và đạn dược để chúng ta vẫn c̣n quân số chiến đấu tốt." (68) Chiều 12 tháng Tư, Quân Đoàn 4 CS ra lệnh cho Sư Đoàn 341 CS rút ra khỏi ngoại ô thành phố. Đến tối , Trung Đoàn 266 của Sư Đoàn 341 đă rút lui xong để được tái vơ trang; Trung Đoàn 270 của Sư Đoàn 341 th́ thay đổi vị trí để yểm trợ cuộc đánh chiếm Núi Thị của Cộng quân. (69) Sư Đoàn 6 CS vẫn ở vị trí cũ dọc Quốc Lộ 1 hai bên Dầu Giây, phía Tây Xuân Lộc. Trong lúc đó, các đơn vị của Sư Đoàn 7 CS cố chận tiến quân của Nhảy Dù VNCH.

Một điều đáng lo cho quân đội VNCH là Trung Đoàn 95B CS từ Tây Nguyên, một đơn vị của Quân Đoàn 2 Bắc Việt đă được xử dụng để tấn công Ban Mê Thuột tháng trước, đă bí mật đến Xuân Lộc vào 13 tháng Tư. Tướng Văn Tiến Dũng đă ra lệnh trung đoàn đó xuôi Nam ngay từ khi Quân Đoàn 4 CS gặp những trở ngại đầu tiên. Hành động này cho thấy ông Dũng hết sức lo lắng. Vào lúc đó, đơn vị lăo luyện 95B CS có thể nói là một trong những trung đoàn bộ binh nhẹ thuộc loại ưu việt của thế giới. Họ đă tham dự trận Ban Mê Thuột, và sau đó đi về phía Bắc để giúp Sư Đoàn 320 CS trong việc phá hoại đoàn xe di tản của Quân Đoàn II VNCH trên Quốc Lộ 7B từ Cao Nguyên miền Trung. Sau này, Trung Đoàn 95B CS được xác nhận là đơn vị Cộng quân duy nhất được giao cho cả bốn Quân Đoàn Bắc Việt vào những lúc khác nhau trong cuộc tổng tấn công 1975. Gởi trung đoàn này tấn công những đơn vị VNCH đă kiệt sức có thể thay đổi cục diện ở Xuân Lộc.

Tướng Trà đến bộ tư lệnh Quân Đoàn 4 CS vào ngày 13 tháng Tư và gặp bộ chỉ huy quân đoàn. Khi phân tích t́nh h́nh, Trà và các chỉ huy Bắc Việt đă đi đến một kết luận rơ ràng: “Xuân Lộc là một điểm tối quan trọng trên tuyến pḥng thủ của địch, do đó họ tập trung nhiều lực lượng để cố thủ... Chúng ta không c̣n yếu tố bất ngờ. Do đó, chúng ta không c̣n lợi thế để tiếp tục đánh Xuân Lộc." V́ vậy, "Nếu chúng ta chiếm và giữ ngă ba Dầu Giây... Xuân Lộc không c̣n là một điểm chính yếu nữa v́ nó nằm ngoài tuyến pḥng thủ... Do đó chúng ta sẽ làm hai công tác: một, tập trung để đánh vào Dầu Giây từ hai phía. Hai, chúng ta sẽ rút khỏi Xuân Lộc." (70) Ông Trà nhận ra rằng lúc nào Sư Đoàn 18 c̣n có không quân yểm trợ hữu hiệu, Cộng quân cực kỳ khó khăn để lấy được thị xă đổ nát đó. Ông ta dự tính sẽ bí mật đem đại bác 130 ly vào trong tầm bắn đến Căn Cứ Không Quân Biên Ḥa và bắt đầu pháo kích, t́m cách làm tê liệt phi trường hay là giảm bớt số phi vụ của Không Quân VNCH.

Trong lúc Bắc quân bắt đầu rút từ ngoại ô thành phố vào đêm 12 tháng Tư, Tướng Đảo tiến lên ngay, không phí thời gian. Thấy Cộng quân rút lui, Trung Đoàn 43 và 48 của Sư Đoàn 18 VNCH lập tức chiếm lại phía bên ngoài bị mất lúc trước. Sư đoàn cũng lo nhận tiếp tế. Vào trưa ngày 12 tháng Tư, Không Quân VNCH đưa vào chín mươi ba tấn đạn pháo bằng tám trực thăng Chinooks. (71) Chinooks cũng chở pháo binh nhảy dù vào, và ông Đảo đă xử dụng những chiếc Chinooks này để hoàn tất việc tái tiếp tế cho những tiểu đoàn pháo binh của ông. Ngày hôm sau, QLVNCH chở thêm một trăm tấn tiếp tế, bao gồm thực phẩm và đạn súng nhỏ; tuy vậy, ông Đảo không hề biết sự thay đổi chiến thuật của Bắc quân và việc trung đoàn 95-B đă tới từ Cao Nguyên miền Trung.

Chính phủ VNCH cố dùng sự giữ vững Xuân Lộc của Sư Đoàn 18 để làm tăng niềm tin cho dân chúng đang sợ hăi và quân đội đang mất tinh thần. Trước đó, có những kư giả đă lái xe tới Hưng Xuân, Lộc Nghĩa phía Dầu Giây để tường thuật chiến trường nhưng không tới được Xuân Lộc. Biết rằng, cần một biến cố ǵ để lấy lại tinh thần sau những cuộc rút lui bi thảm từ hai Quân Đoàn phía Bắc, chính phủ VNCH tổ chức một cuộc thăm viếng Xuân Lộc cho báo chí để biểu dương chiến thắng.

Vào ngày 13 tháng Tư, một buổi sáng chủ nhật trời nắng, những phóng viên đầu tiên bay vào thành phố bằng trực thăng Chinook. Họ đáp ở Tân Phong, nơi họ được nghe tường tŕnh từ ông Chuẩn Tướng bất khuất, Lê Minh Đảo, người đă thề sẽ "đập tan" bất cứ bao nhiêu sư đoàn địch gởi tới. (72)

Các phóng viên đi bộ vào thành phố trên Quốc Lộ 1 và xem xét những đổ nát phần phía Bắc thành phố sau năm ngày đánh không ngừng. Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Đại Tá Phạm Văn Phúc tường tŕnh cùng báo chí, và Đại Tá Lê Xuân Hiếu Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 đưa phóng viên đi bộ quan sát khu chợ, chỉ vào quân địch bị chết và triển lăm số lớn vũ khí tịch thu và vài tù binh. Thỉnh thoảng vẫn có những tiếng pháo của Cộng quân rớt xuống tạo ra những cụm khói bay lên. Phóng viên Nicolas Profitt của tờ Newsweek viết rằng, "Những đợt pháo và những trận đánh khốc liệt trên đường phố đă làm những khúc đường biến thành những đống tro trắng, gạch cháy đen và kim loại cong queo... khu chợ chính của Xuân Lộc từng nhộn nhịp bây giờ chỉ là đống gạch vụn cao hơn sáu tấc.” (73)

Không may, chuyến về của báo chí bằng trực thăng là một mất mặt của QLVNCH. Những người dân địa phương cố giành giật để được một chỗ trên những chiếc Chinook, chỉ để bị vài đào binh VNCH đang t́m mọi cách để thoát khỏi thành phố, đẩy xuống. (74) Những người lính đang tải thương, bị tràn ngập bởi đám đông dân chúng, bỏ cả những thương binh trên cáng xuống đất, trong lúc những phóng viên Hoa Kỳ xô đẩy, chen lấn để leo lên những chiếc trực thăng quá tải. (75) Với cuộc trở về đầy cam go này, những câu chuyện của các kư giả đă rộng lượng một cách đáng ngạc nhiên đối với những binh sĩ sư đoàn 18 VNCH.

Trong lúc chính phủ Nam Việt Nam tuyên cáo về thành công của họ, từ đêm 12 tháng Tư, Cộng quân đă điều động lực lượng của họ vào cuộc tấn công mới, một cuộc tập kích vào ngă Ba Dầu Giây. Ngày 13 tháng Tư, cuộc tấn công dữ dội bằng pháo binh và bộ binh của Cộng quân đẩy Tiểu Đoàn 1/52 VNCH, đă bị yếu đi qua các trận đánh, ra khỏi Ấp Phan Bội Châu đến tận b́a của ngă ba. Đêm đó, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 52 ra lệnh cho hai đại đội của Tiểu Đoàn 3/52 tới Dầu Giây bắt tay với 1/52 và lui về Ấp Nguyễn Thái Học. Di chuyển ban đêm qua những bụi rậm, quân VNCH cứu được Tiểu Đoàn 1/52 nhưng Dầu Giây bị bỏ ngỏ. Tiểu Đoàn 1/52 chỉ c̣n lại một phần ba quân số sau năm ngày bị Trung Đoàn 33 của Sư Đoàn 6 CS liên tục tấn công. Bị bao vây và không thể tải thương hoặc nhận tiếp tế, Trung Đoàn 52 rơi vào t́nh trạng bấp bênh. Sau khi Tiểu Đoàn 2/52 được đưa về tăng cường pḥng thủ Xuân Lộc, sức pḥng thủ của Trung Đoàn 52 yếu hẳn. Khi Tướng Đảo quyết định rút 2/52 về Xuân Lộc, chỉ có 1/52 là đụng trận nặng và Tướng Toàn đă hứa với ông Đảo là Lữ Đoàn 3 Thiết Giáp sẽ tiến qua Hưng Lộc đến Dầu Giây. Dù sao, quyết định chuyển Tiểu Đoàn 2/52 ra khỏi Dầu Giây, dù đă thắng bất ngờ Cộng quân ở Ấp Núi Tùng ngày 11 tháng Tư, vẫn là một sai lầm về chiến thuật của Tướng Đảo.

Giao tranh vẫn xảy ra ác liệt trong vùng của Lữ Đoàn 1 Dù VNCH trong khi Tiểu Đoàn 8 Cộng quân vẫn cố gắng thoát ṿng vây. Nhưng quan trọng hơn là những trận chiến ở phía Tây, trong lúc Lữ Đoàn 3 Thiết Giáp VNCH vẫn không thể vượt qua nút chận của Cộng Quân trên Quốc Lộ 1 để bắt tay với Trung Đoàn 52 VNCH . Tướng Khôi quyết định đi ṿng qua chỗ chận của Sư Đoàn 6 CS bằng cách gửi LLĐN 315 và 322 đi về phía Bắc của ấp Hưng Lộc để liên kết thẳng với Trung Đoàn 52.

LLĐN 315 được chia làm hai cánh, A và B. Cánh A tiếp tục dọc theo Quốc Lộ 1 chịu trách nhiệm phía Nam. Cánh B gồm có tiểu đoàn BĐQ 64 và Chi Đoàn 1/15 Thiết Giáp do Đại Úy Phạm Văn Ban chỉ huy và được trao nhiệm vụ chọc thủng tuyến pḥng thủ của địch và bắt tay với Trung Đoàn 52 tại Ấp Nguyễn Thái Học. Tới giữa ngày 14 tháng Tư, ông Ban đă thành công trong việc chiếm đồi 122, chỗ đất cao của Hưng Lộc, với những chống trả lẻ tẻ của Cộng quân. Tuy thế, nhiều gịng nước làm thiết giáp của ông không di chuyển thêm được, ông phải chờ công binh cố làm cầu đi qua. Cộng quân khám phá được sự di chuyển bất ngờ của Lữ Đoàn 3 và nhanh chóng phản công. Chẳng bao lâu lực lượng của ông Ban bị tấn công mạnh từ ba phía: Bắc, Đông, và Tây. Theo lời ông Ban, "địch quân tràn ra như kiến phóng ra tấn công biển người từ ba phía của ngọn đồi... trong t́nh h́nh nguy kịch tôi gọi bộ chỉ huy LLĐN cho pháo binh và không yểm. Không may chúng tôi chỉ nhận được vài trực thăng bắn phi đạn và rời đi ngay... Cộng quân tấn công càng lúc càng mạnh. Tôi tưởng là Việt Cộng sẽ tràn ngập đồi 122 hoặc là cô lập chúng tôi hoàn toàn... Bất ngờ Cộng quân rút lui và trận chiến lặng xuống... Chúng tôi có 20 người bị thương vong , BĐQ mất gần 40... Xác Việt cộng nằm rải rác trên ruộng lúa." (76) Cánh B của ông Ban đóng lại ban đêm trên đồi. Nỗ lực của Tướng Khôi để đi ṿng phía Bắc bị chận lại, làm cho Sư Đoàn 18 và Trung Đoàn 52 bị tách rời nhau.

Để phá ṿng vây, quân VNCH vẫn tiếp tục vội vă t́m bất cứ phương tiện ǵ để quân b́nh lại cán cân trước những lợi thế về pháo binh và bộ binh của Cộng quân. Cho tới lúc đó, Không Quân VNCH đă giúp vận chuyển và oanh tạc hữu hiệu, gây thiệt hại cho Cộng quân. Bây giờ, cần có những biện pháp liều lĩnh và quyết liệt hơn.

Một lợi điểm chiến thuật của Tướng Đảo là sự xử dụng hiệu quả của những làn sóng truyền radio của địch mà quân VNCH chận nghe được. Bộ tổng tham mưu QLVNCH đă xử dụng những nhóm hai mươi chuyên viên cho mỗi sư đoàn để theo dơi và chận bắt những truyền tin của địch. Ông Đảo nói, "Những đơn vị địch báo cáo vị trí và quân số tới bộ chỉ huy của họ. Mỗi ngày tôi định giá những tin tức nghe được và bắn pháo binh vào họ. Tôi cũng gởi những vị trí này lên Quân Đoàn III để sắp xếp oanh tạc vào những địa điểm đó." Không có B-52, không quân VNCH chọn thả những trái bom nặng mười lăm ngàn cân Anh được gọi là "Daisy Cutter" (77) vào những mục tiêu hàng đầu. Căn cứ vào những tin tức nghe được, ngày 14 tháng Tư , "Daisy Cutter" đầu tiên được thả vào địa điểm t́nh nghi là bộ chỉ huy Quân Đoàn 4 CS, mười hai cây số phía Đông Bắc của Xuân Lộc. Bảy mươi lăm phần trăm của Bộ Chỉ Huy này bị phá hủy. (78) Ngoài ra "Không Quân Việt Nam tự có sáng kiến là xử dụng tám vận tải cơ C-130 hàng ngày chở những thùng 55-galông đựng dầu và khí đốt để oanh tạc địch”, một chương tŕnh được gọi là “Chiến Tranh Lửa”. (79) Hiển nhiên là những cuộc bỏ bom bằng C-130 của Không Quân Việt Nam là một trở ngại lớn cho Cộng quân. Lịch sử của Cộng quân không nhắc đến cuộc bỏ bom vào bộ tư lệnh Quân Đoàn 4, mặc dù quân sử của đơn vị đó viết "Địch quân thả bom trung b́nh 80 phi vụ mỗi ngày, và ngày cao nhất lên đến 125 phi vụ. Họ c̣n thả một loại bom rất tác hại là CBU (bom bi), tạo những khó khăn lớn cho các đơn vị ta." (80)

Sáng sớm 15 tháng Tư , mở màn cho một chiến dịch mới của Cộng quân, pháo Bắc Việt bắn vào Biên Ḥa khi bốn đại bác 130 ly từ Tiểu Đoàn 26/Trung Đoàn Pháo 75 CS bắt đầu hoạt động. (81) Một toán đặc công lẻn vào căn cứ Biên Ḥa và cho nổ kho đạn. Tiếng nổ rung chuyển Sài G̣n. Những quả pháo kích tiếp theo, chính xác hơn, làm hư hại phi đạo và nhiều phi cơ. Huyết mạch của Tướng Đảo, phi trường Biên Ḥa, đóng cửa mất nửa ngày.

Mờ sáng 15 tháng Tư, Trung Đoàn 33 của Sư Đoàn 6 CS và Trung Đoàn 95B CS bắt đầu phối hợp bất ngờ tấn công Tiểu Đoàn 1/52 và 3/52 VNCH đang giữ đồi Móng Ngựa và Ấp Nguyễn Thái Học. Nhiều ngàn quả đạn dội xuống hai đơn vị đă tổn thất và yếu mệt sau nhũng trận đánh liên tiếp. (82) Sau khi chiếm được nhiều cửa ngơ quan trọng, Trung Đoàn 33 CS sửa soạn tràn vào Ấp Nguyễn Thái Học, nhưng họ đổi hướng để quay sang giúp chống lại cánh quân VNCH của Đại Úy Ban đang tiếp tục hành quân. Về phía Bắc, Trung Đoàn 95B CS bắt đầu tấn công đại đội VNCH duy nhất đang giữ đồi Móng Ngựa. Sau khi đánh bật ba đợt tấn công, chỉ huy Trung Đoàn 52 VNCH ra lệnh một đại đội khác từ Tiểu Đoàn 3/52 tới tăng cường cho đại đội ở trên đồi. Ngay lúc quân tăng viện mang tiếp tế và tải thương tới, 95B CS mở cuộc tấn công thẳng lên đồi. Từng đợt bộ binh Cộng Sản tràn qua những cánh đồng trống, nhưng bị đốn gục bời binh sĩ Cộng Ḥa. Một tiểu đoàn Cộng quân đi theo Quốc Lộ 20 để đánh vào hông quân VNCH trên đồi nhưng bị chận lại bằng hoả lực Pháo Binh.

Tiểu Đoàn Trưởng của 3/52 nói, “Đại Đội 1 và 4 trên đồi Móng Ngựa phải đánh bật đợt tấn công này sang đợt khác... lúc 4 giờ chiều ngày 15 tháng Tư một sĩ quan pḥng thủ đồi báo cáo ‘Không c̣n ǵ xung quanh chúng tôi... xác địch che đầy chân đồi và cây cối trong rừng hoàn toàn bị phá hủy, đến nỗi trông như sườn đồi cũng thay đổi.... Đỉnh đồi màu xanh đă thành trơ trọi, không c̣n cây cỏ. Những khu vườn biến thành đống rác lớn. Gốc cây và xác người chồng lên nhau từng hàng.' “ (83) Có lẽ giây phút “hănh diện nhất" cho Sư Đoàn 18 là trong một ngày đánh nhau khốc liệt, hai đại đội binh sĩ VNCH với sự yểm trợ của pháo binh đă gây tổn thất nặng cho một trong những trung đoàn thiện chiến nhất của Bắc Việt.

Không chiếm được ngọn đồi, Cộng quân dùng loa phóng thanh để kêu gọi lính Cộng Ḥa đầu hàng. Đến chiều cùng ngày, Cộng quân tấn công Ấp Nguyễn Thái Học, nơi hai đại đội c̣n lại của Tiểu Đoàn 3/52 , Chi Đoàn Thiết Giáp 3/5 và thành phần c̣n lại của Trung Đoàn 52 đang đóng. Lúc 18 giờ, sau một ngày chiến đấu và bị pháo liên tục, Đại Tá Ngô Kỳ Dũng Trung Đoàn Trưởng 52 ra lệnh rút lui ban đêm về pḥng tuyến quân bạn.Tới lúc đó, binh sĩ VNCH ở trên đồi Móng Ngựa cũng đă chiến đấu đến hết đạn, họ đành rút lui để tái nhập tiểu đoàn 3/52. (84) Quân VNCH chia làm hai đoàn vào lúc 18:30 giờ, với Đại Tá Dũng chỉ huy đoàn thứ nhất đi với thiết giáp ra khỏi đồn điền, và Tiểu Đoàn 3/52 là đoàn thứ nh́. Những khẩu pháo được phá hủy trước khi rút. Một sĩ quan VNCH viết, "Chúng tôi không thể làm ǵ hơn. Cộng quân bắn mấy ngàn quả đạn – mấy ngàn. Rồi họ tấn công bằng hai trung đoàn bộ binh sáng nay. Tổn thất của chúng tôi không phải là nhẹ, do đó chúng tôi băng rừng để thoát." (85) Cộng quân lại pháo hàng ngàn lần để ngăn Sư Đoàn 18 và Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù tiếp cứu Trung Đoàn 52. Dù Sư Đoàn 18 đă pḥng thủ rất anh dũng, Cộng quân, với khả năng hành quân nhanh chóng, đă chuyển lực lượng bộ binh nhẹ qua rừng rậm và bọc sườn quân Cộng Hoà. Tuyến pḥng ngự tại Ngă Ba Dầu Giây bị tan ră.

Những ǵ được xưng tụng là chiến thắng hai ngày trước bây giờ đă trở ngược. Thất bại của VNCH khi không mở được Quốc Lộ 1 từ ngă ba Dầu Giây đến Xuân Lôc sau ngày 9 tháng 4, và không pḥng thủ Dầu Giây với một lực lượng mạnh hơn đă gây một thiệt hại lớn cho Miền Nam Việt Nam.

Ngày hôm sau có thêm những tin xấu. Chiến xa và bộ binh Bắc Việt đă tràn ngập Phan Rang trên Quốc Lộ 1 ở Quân Đoàn II, pḥng tuyến lớn cuối cùng ở phía Bắc Xuân Lộc. Sớm hôm đó, các đơn vị của Sư Đoàn 341 CS tiến về phía Bắc Quốc Lộ 20, chiếm Kiệm Tân và Túc Trưng. Sự thất thủ Phan Rang, trận pháo kích Biên Ḥa, và mất đoạn Quốc Lộ 20 cuối cùng làm rúng động Sài G̣n và làm tiêu tan cơ hội cuối cùng của Nam Việt Nam để có thể chận đứng Cộng quân. Ngày 17 tháng Tư, Uỷ Ban Quốc Pḥng Thượng Viện Mỹ phản ảnh mong muốn của đại đa số quốc hội muốn chấm dứt chuyện Viêt Nam, bác bỏ yêu cầu viện trợ khẩn cấp 722 triệu cho miền Nam Việt Nam của chính phủ Ford.

Dù sao, nếu yêu cầu viện trợ này có được chấp thuận, cũng không ảnh hưởng ǵ đến kết quả trên chiến trường. Lúc đó đă quá trễ cho sự viện trợ. Chỉ có sự sử dụng Không Quân và Hải Quân Hoa Kỳ mới có thể chận được Cộng quân và cho miền Nam thời gian và không gian cần thiết để pḥng thủ những ǵ c̣n lại của VNCH.

Tướng Toàn không thể chờ sự xuất hiện của sức mạnh quân sự Hoa Kỳ. Ông lập tức ra lệnh cho Trung Đoàn 8/Sư Đoàn 5 VNCH do Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng chỉ huy đến giúp Lữ Đoàn 3 Thiết Giáp của Chuẩn Tướng Khôi chọc thủng điểm chặn của Cộng quân trên Quốc Lộ 1. Đơn vị của ông Hùng đang giữ Phú Giáo, một tỉnh phía Bắc của Lai Khê, căn cứ chính của Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 5 VNCH. Họ mất bốn tiếng để tới Hưng Nghĩa, cách Dầu Giây 2.5 cây số, nơi họ gặp lực lượng của ông Khôi. (86) Ông Khôi giao Chiến đoàn 322 cho ông Hùng và ra lệnh cho ông Hùng giải toả Quốc Lộ 1.

Mặc dù bị tấn công liên tục, Trung Đoàn 95B và Sư Đoàn 6 của Cộng quân ở Hưng Nghĩa và Hưng Lộc quyết tử thủ; và lực lượng VNCH đă không tiến lên được. Ông Hùng nói, "Cộng quân đă thiết lập khoảng mười công sự pḥng thủ, mỗi chỗ được một trung đội chống giữ, không thể chọc thủng được." Quân Sử Quân Đoàn 4 viết, "Trận đánh tại Hưng Nghĩa và đồi 122 rất khốc liệt." (87) Sau nhiều ngày đánh nhau, Sư Đoàn 341 CS tiến vào để thay thế Trung Đoàn 95B và Sư Đoàn 6 CS.

Trong lúc đó, bốn khẩu 130 ly của Cộng quân và một đại đội hỏa tiễn 122 ly vừa được tăng cường tiếp tục bắn phá không ngừng vào phi trường Biên Ḥa mặc dù quân VNCH cố gắng hết sức để t́m kiếm và tiêu diệt họ. Những cuộc pháo kích đă giới hạn khả năng không quân để trợ giúp Tướng Đảo và Tướng Khôi. Ba trăm hai mươi sáu quả đạn 130 ly bắn vào phi trường Biên Hoà từ 14 đến 26 tháng Tư đă giúp đánh hồi chuông báo tử cho Xuân Lộc. (88)

Những đoàn quân Cộng Sản dọc bờ biển tiếp tục tiến như chẻ tre về phía Nam. Vào 18 tháng Tư, Phan Thiết, chỉ cách Xuân Lộc bảy mươi cây số, rơi vào tay Cộng quân. Ngày 20 tháng Tư, Sư Đoàn 325 CS và những đơn vị tiền phương của Quân Đoàn 2 Bắc Việt tới Rừng Lá, một làng trên Quốc Lộ 1 chỉ cách Xuân Lộc 20 cây số về phía Tây. Với sự thất thủ ở ngă ba Dầu Giây, với Sư Đoàn 18 bị bao vây và đang đối diện với một cuộc tấn công biển người của những đơn vị Cộng quân dày dạn chiến trường, một tập trung lực lượng đông đảo nhất của Cộng Sản trong cả cuộc chiến Viêt Nam, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH không c̣n chọn lựa nào khác. Vào 09:00 giờ ngày 20 tháng Tư, Tướng Toàn bay vào Xuân Lôc gặp Tướng Đảo. Lệnh của ông Toàn khô khốc: rút lui ngay. Tướng Toàn cần lực lượng của Tướng Đảo để đánh những trận sắp tới cho Sài G̣n. Ông Đảo và ông Toàn quyết định là Sư Đoàn 18 sẽ rút theo đường số 2, một con đường đất đi về phía Nam đến tỉnh Phước Tuy, khi tới nơi họ sẽ được chở bằng xe nhà binh đến Long B́nh để tái trang bị và được tăng cường.

Trong khi Tướng Đảo đồng ư với quyết định của Tướng Toàn, ông vẫn lo về việc rút lui trên một con đường vừa bị Sư Đoàn 6 CS tấn công. Tai hoạ trên đường rút quân của Quân Đoàn I và II vẫn ám ảnh ông. Để đi thoát, Sư Đoàn 18 cần phải đi bộ bốn mươi cây số ban đêm trên một con đường đất từ Xuân Lộc đến nơi tập trung ở Đức Thạnh, một điều khó thực hiện trong đêm tối. Do đó, ông Đảo gởi một sĩ quan tham mưu trong bộ chỉ huy G-3 của ông đi thám thính con đường bằng trực thăng để xem t́nh trạng của con đường và xem có chốt chặn của cộng sản hay không. Sĩ quan đó báo cáo lại là con đường đi được và có vẻ không có Cộng quân. Mặc dù du kích CS địa phương vẫn quấy phá trên đường, Tướng Đảo tin là ông có thể dẹp họ một cách dễ dàng. Ông ta lo lắng hơn về việc lặng lẽ rút sao cho địch quân c̣n đang ở chung quanh thị xă không hay biết. Nếu Cộng quân biết được, quân của ông có thể bị tràn ngập dễ dàng.

Tướng Đảo lên kế hoạch lừa địch để họ mất tập trung. Ông ra lệnh cho Lữ Đoàn 1 Dù VNCH mở cuộc tấn công lớn vào Sư Đoàn 7 ở phía Đông thị xă. Ông cũng ra lệnh cho Tiểu Đoàn 2/43 và hai đại bác trên Núi Thị ở lại và làm một phần lực lượng bảo vệ phía sau. (89) Nhảy dù, được yểm trợ bằng "lượng pháo dữ dội" quần thảo cả ngày 20 tháng Tư với các lực lượng của Sư Đoàn 7 CS, chủ yếu là Trung Đoàn 141.

Với chỉ nửa ngày để sửa soạn chiến lược mang Sư Đoàn 18 ra, Tướng Đảo quyết định chương tŕnh như sau: Tướng Đảo sẽ đi với Trung Đoàn 43, trong khi Đại Tá Ngô Kỳ Dũng lái trực thăng chỉ huy của Tướng Đảo để ra lệnh và kiểm soát. Đơn vị đầu tiên rời Tân Phong lúc 20:00 giờ là Trung Đoàn 48, tiếp theo là Liên Đoàn 5 Thiết Kỵ, rồi đến những lực lượng pháo binh và các đơn vị điều động, công xa và công binh do Đại Tá Hứa Yến Lến chỉ huy. Khi pháo binh tới căn cứ cũ của Trung Đoàn Thiết Kỵ Hoa Kỳ ở Long Giao, họ sẽ thiết lập một căn cứ hỏa pháo, có đại đội trinh sát bảo vệ, để yểm trợ cuộc rút lui. Kế tiếp là các đơn vị ĐPQ và dân chúng. (204) Tiếp theo là hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 43, tiểu đoàn 2/52, tiểu đoàn 82 BĐQ là lực lượng chót trong đoàn. Đến khuya, Tiểu Đoàn 2/43 sẽ rời Núi Thị và gặp Lữ Đoàn 1 Dù tại Tân Phong. Hai đơn vị đó sẽ rời Xuân Lộc vào rạng ngày 21 tháng Tư.

Khi đoàn quân bắt đầu rút, Tham Mưu Trưởng Hứa Yến Lến nhớ lại:
Tướng Lê Minh Đảo đi chung với những đoàn lính để cho lệnh và hành động lập tức nếu gặp trở ngại trên đường rút. Một trực thăng chỉ huy bay trên đường rút suốt đêm để cung cấp phương hướng và để yểm trợ, nếu cần. Đường số 2 là đường chính để xe cộ và gia đ́nh binh lính đi từ Xuân Lộc đến điểm tập trung Đức Thạnh. Mặc dù lực lượng du kích Việt Cộng địa phương cố chiếm một số địa điểm dọc đường và thiết lập ổ phục kích trên những đồi dọc đường số 2 để làm chậm lại cuộc di tản và gây tổn thất cho ta, sự chiến đấu với tinh thần cao của tất cả binh sĩ mọi cấp của sư đoàn 18 bộ binh và các đơn vị trực thuộc đă gạt ra dễ dàng những điểm chặn và phục kích của địch . Kết quả là tất cả mọi lực lượng đă có thể tới được khu tập trung Đức Thạnh an toàn vào sớm ngày hôm sau 21 tháng Tư 1975. (90).

Mặc dù nhiều nguy hiểm, cuộc rút lui của Tướng Đảo và Sư Đoàn 18 là một sự dàn xếp bậc thầy. Tài chỉ huy của ông Đảo một lần nữa tạo được sự khác biệt. Đi bộ lên xuống trong đoàn suốt đêm. Tướng Đảo khuyến khích đoàn binh đă thấm mệt tiếp tục di chuyển và bảo vệ đồng bào cùng rút lui. Quân Bắc Việt sững sờ v́ cuộc triệt thoái bất th́nh ĺnh. Quân Đoàn 4 CS ra lệnh cho mọi đơn vị truy kích quân VNCH nhưng không bắt kịp bởi v́ "Chúng ta đă trễ trong chuyện phát hiện di chuyển của địch và đă không tổ chức được một cách thích hợp lực lượng chận địch." (91)

Tuy thế mọi chuyện không xảy ra êm thắm cho Lữ Đoàn 1 nhảy dù và tiểu đoàn 2/43, lực lượng đoạn hậu. Theo lời một cựu sĩ quan Sư Đoàn 18.

Trong cuộc triệt thoái, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đương đầu với nhiều nguy hiểm nhất và tổn thất nhiều nhất v́ họ là đơn vị cuối cùng và được trao cho trọng trách đoạn hậu… Hôm 20 tháng Tư, khi lệnh rút lui được ban hành, Lữ Đoàn c̣n đang giao tranh kịch liệt tại Bảo Định, và các binh sĩ chết và bị thuơng của Lữ Đoàn vẫn chưa đuợc di tản. Tất cả đă phải bị bỏ lại, như đă xảy ra trong cuộc hành quân Lam Sơn ở Hạ Lào [Lam Sơn 719 vào tháng Hai - tháng Ba 1971]. Chuyện này bắt buộc phải làm, bởi v́, đối với những người sống sót, đi qua con đường thoát hiểm dài hơn 40 cây số qua những rừng cao su đen kịt như là đi qua những cửa địa ngục. Đây là những bi kịch mà người lính VNCH phải đối đầu.

Đúng 9:00 giờ tối ngay khi những tiểu đoàn dù đến đường số 2 họ gặp phải một cảnh đáng nhớ và cảm động. Tất cả những gia đ́nh Công Giáo từ giáo phận Bảo Định, Bảo Toàn, và Bảo Ḥa tập trung dọc theo hai bên đường chờ để đi theo binh sĩ VNCH trong cuộc di tản... Việc đi qua nhiều cây số trên con đường rừng bỏ hoang, Liên Tỉnh Lộ 2 từ Tân Phong tới Đức Thạnh, quả thật không dễ cho một đoàn người dân chạy loạn lẫn lộn với lính ....chỉ có Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù, bảo vệ bởi một đại đội trinh sát dù, đi trên đường. Những tiểu đoàn Dù khác đều di chuyển qua những rừng cây cao su, bọc phía sau. Vào 4:00 giờ sáng ngày 21 tháng Tư, 1975, Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù và Đại Đội Trinh Sát Dù bị hai tiểu đoàn Việt cộng phục kích tại ấp Quí Cà gần ranh giới tỉnh Long Khánh - Phước Tuy. Hầu như tất cả trung đội pháo C và trung đội trinh sát nhảy dù đều bị chết hay bị thương trong cuộc tấn công biển người đó... Ngoại trừ những tổn thất vừa kể cuộc di tản trên đường 2 diễn tiến tốt." (92)

Có một sự hiểu lầm giữa Tướng Đảo và Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh, chỉ huy Lữ Đoàn 1 Dù. Ông Đảo cần Tiểu Đoàn 2/43 giữ Núi Thị để bảo vệ phía Bắc của cuộc triệt thoái. Tiểu đoàn này sẽ rút lui từ từ và gặp Nhảy Dù tại Tân Phong. Không may, ông Đỉnh rút và để lại 2/43. Khi tới Đức Thạnh, Đại Tá Hiếu, Trung Đoàn Trưởng 43, báo cáo là Nhảy Dù gặp trở ngại tại ranh giới Long Khánh - Phước Tuy. Tướng Đảo lập tức lên trực thăng và bay về phía vị trí của Nhảy Dù để giúp họ và chỉ đường cho không quân đánh. Dọc đường, ông Hiếu gọi ông Đảo bằng radio và cho ông Đảo biết 2/43 vẫn đang chờ ở Tân Phong. Ông Đảo đổi qua tần số của Tiểu Đoàn 2/43 và ra lệnh không dùng đường 2, mà phải đi xuyên rừng để tránh những vị trí của cộng sản. (105) Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế ra lệnh cho lính của ông phân tán thành những đơn vị nhỏ. Mất ba ngày để họ rút lui qua rừng, chiến đấu suốt dọc đường. Họ bị tổn thất nặng với hơn 50% tiểu đoàn bị thiệt hại.

Một tổn thất nặng thứ hai trên đường rút là Trung Tá Tiểu Khu Phó Long Khánh Lê Quang Định bị tử thương khi xe jeep của ông bị trúng đạn B-40 của Cộng quân, và Cộng quân bắt được Đại tá Tỉnh Trưởng/Tiểu Khu Trưởng Phạm Văn Phúc và một số sĩ quan của ông. (93) Ông Phúc và ông Định đă quyết định rút lui cùng với Nhảy Dù, trong khi phẩn lớn ĐPQ của tiểu khu đă rời thành phố với Sư Đoàn 18 trong đêm.

Ngày 22 tháng Tư, lực lượng Nhảy Dù được lệnh tách khỏi Sư Đoàn 18 và đến pḥng thủ Vũng Tàu. Lữ đoàn ở gần thành phố cảng nầy cho đến khi lệnh đầu hàng tới vào ngày 30 tháng Tư.

Dù quân VNCH đă rút khỏi Xuân Lộc, giao tranh vẫn không ngừng hẳn. Những toán đo độ sóng Truyền Tin của QLVNCH đă định được tọạ độ của bộ tư lệnh Sư đoàn 341 CS từ những rất nhiều thông tin qua lại trong khi đơn vị này cố sức t́m bắt cho được lực lượng VNCH rút lui.

Không Quân VNCH quyết định đánh bom bằng một vũ khí sát hại cao, CBU-55, một loại bom bi hơi ngạt với không khí - nhiên liệu, thiết kế với mục đích nguyên thuỷ là để dọn băi ḿn:

Với sự giúp đỡ của chuyên viên DAO Mỹ, phi công VNCH chế biến một giá đỡ bom cho quả bom… một thiết bị giết người khủng khiếp được biết dưới tên là CBU-55. Sự hiệu quả của vũ khí ghê gớm nầy đă được chứng minh không c̣n một chút nghi ngờ vào chiều thứ Ba [22 tháng Tư giờ Sài G̣n]. Một C-130 vận tải cơ với một CBU bay lên từ Tân Sơn Nhất, bay ṿng Xuân Lộc một lần về phía Đông, và thả bom CBU trên Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 341 ở ngay bên ngoài thị xă mới chiếm được. Tổn thất rất lớn, trên 250 Cộng quân bị thiêu hoặc chết v́ ngạt trong vùng chân không sau khi bom nổ, và trong một khoảnh khắc quân của Tướng Dũng bị lảo đảo khi đang bước." (94)

Ngay khi cộng sản t́m được nguyên nhân của lần tấn công đó, họ tố cáo dữ dội rằng Sài G̣n "coi thường tất cả những luân lư thông thường và luật lệ quốc tế" và lên án những viên chức ra lệnh xử dụng vũ khí đó là "tội phạm chiến tranh." (95).

Cuộc thả bom những CBU-55 là cú đánh cuối cùng trong trận chiến Xuân Lộc, mặc dù Lữ Đoàn 3 của Tướng Khôi và Trung Đoàn 8 của Trung Tá Hùng vẫn đánh ở Hưng Nghĩa. Vào 22 tháng Tư, Trung Đoàn 8 thực ra đă chiếm lại được thị trấn sau khi giao tranh nặng nề và tiến lên phía Dầu Giây, nhưng được lệnh ngưng khi Sư Đoàn 18 rút lui. (96) Ngày 25 tháng Tư, Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ được lệnh rút về Biên Ḥa để nghỉ ngơi và bảo tŕ chiến xa và xiết chặt ṿng đai pḥng thủ Sài G̣n.

Lực lượng của Tướng Đảo dưỡng quân ở Long B́nh được ba ngày. Họ đă phá hủy hơn ba mươi xe tăng địch, gây tử thương cho nhiều ngàn địch quân, và sấp sỉ số đó bị thương, trong lúc chính họ cũng bị tổn thất nặng.

Buổi sáng 30 tháng Tư, Sư Đoàn 18 của Tướng Đảo đang ở Nghĩa Trang Quân Đội Quốc Gia khi chính phủ VNCH đầu hàng. Ông Đảo liên lạc với gia đ́nh, rồi ông mặc thường phục và trốn về phía Cần Thơ với cố gắng kết hợp với bộ Tư lệnh Quân Đoàn IV VNCH, hy vọng Quân Đoàn IV và các lực lượng VNCH sẽ tiếp tục chiến đấu. Mặc dù chính phủ đă đầu hàng, ông muốn chiến đấu tiếp. Khi ông tới được Cần Thơ và biết được rằng Tư Lệnh và Phó Tư Lệnh Quân Đoàn IV đă tự sát, ông hiểu rằng mọi chuyện đă kết thúc.

Ngày 9 tháng Năm, Ông Đảo ra tŕnh diện nhà cầm quyền Cộng Sản. Trong mười bảy năm kế tiếp, ông Đảo bị giam trong một trại tù cải tạo. (97)

Nhận Xét của Tác Giả George Veith
Tuy rằng chương tŕnh cục "R" tấn công Sài G̣n từ phía Đông Bắc bị phá hỏng, nhưng cuối cùng các lực lượng Quân Đoàn III cũng không chống nổi cả một quân đội Bắc Việt.

Mặc dù bị mang tiếng tham nhũng và thiếu khả năng, QLVNCH, như đă thấy trong trận chiến Xuân Lộc, không phải là một đạo quân không làm được việc và hèn nhát như báo chí ở Mỹ thường nói. Khi những người bắt ông Đảo hỏi tại sao ông không chạy thoát như những tướng lănh khác của VNCH, ông Đảo nói với họ là ông không thể bỏ những binh sĩ đă chiến đấu cực khổ v́ ông. Tôi là Tướng của họ, ông nói với cai tù, và nếu các ông c̣n giữ một thuộc cấp nào của tôi, tôi muốn tôi là người cuối cùng của Sư Đoàn 18 VNCH được thả. "Nếu không, tôi không dám nh́n mặt họ," ông nói.

Nói về trận Xuân Lộc, ông Đảo b́nh thản tuyên bố, "Chiến đấu là môt nghệ thuật; bạn không thể chỉ sử dụng tay chân, mà phải dùng cả trí óc. Mặc dù chúng tôi biết là chúng tôi đă thua trong cuộc chiến, tôi vẫn chiến đấu. Tôi đă tràn đầy tuyệt vọng sau khi mất các Quân Đoàn phía Bắc, nhưng tôi vẫn chiến đấu." Ông đă trả lời tương tự cho một phóng viên trong chuyến thăm thị xă Xuân Lộc vào 13 tháng Tư , 1975 "Tại sao quân Cộng Hoà chiến đấu tại Xuân Lộc mà không ở phía Bắc?” “Làm sao tôi có thể trả lời cho họ,” Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 VNCH nói, “tôi chỉ trả lời cho tôi, và chúng tôi đă chiến đấu." (98)

Cựu Thiếu Tướng Lê Minh Đảo được thả khỏi tù vào 4 tháng Năm 1992 và tới Hoa Kỳ vào tháng Tư 1993. Ông hoạt động trong những cộng đồng người Việt lưu vong, dùng nhiều th́ giờ để đi thăm binh sĩ cũ của ông, phần lớn là sĩ quan, bởi v́ rất ít binh sĩ cấp dưới rời Việt Nam.

Ông yêu cầu người viết, "Xin đừng gọi tôi là anh hùng. Binh sĩ của tôi, những người đă chết ở Xuân Lộc và cả trăm trận đánh trước, mới thực sự là anh hùng".

Không cần gọi Tướng Lê Minh Đảo là anh hùng. Có những sự thật tự nó đă là bằng chứng.

Sơ Lược về Các Tác Giả
George J. Veith là cựu Đại Uư Thiết Giáp Quân Đội Hoa Kỳ và là tác giả quyển “Code Name Bright Light: The Untold Story of U.S. POW Rescue Efforts During the Viet Nam War (New York: Free Press, 1997). Ông sẽ cho xuất bản sắp tới “Leave No Man Behind: Bill Bell and the Search for America POW/MIA’s from the Vietnam War.”

Merle L. Pribbenow II về hưu từ the Central Intelligence Agency vào 1995 sau hai mươi bảy năm làm viêc với chức vụ điều hành viên về Ngôn Ngữ Việt Nam và Công Tác. Những bài viết của ông về lịch sử Chiến Tranh Việt Nam đă được phát hành trong “Vietnam , Parameters, and Military Review.” Bản dịch của ông về lịch sử cuôc chiến, chính thức của Bộ Quốc Pḥng “Victory in Vietnam”, đă được phát hành vào 2002 bởi “University Press of Kansas”.

*****

(1) Phỏng Vấn Cựu Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, East Hartfort, Connecticut, 7 tháng Tư, 2001. Ông giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 18 QLVNCH từ tháng 3, 1972. Tháng 11, 1972, ông được thăng cấp Chuẩn Tướng và tiếp tục chỉ huy Sư Đoàn 18 cho tới ngày miền Nam Việt Nam mất. Ngày 24 tháng Tư, 1975, Tổng Thống Trần Văn Hương ra nghị định thăng cấp cho ông lên Thiếu Tướng. Cuộc phỏng vấn với tác giả Veith là lần nói chuyện đầy đủ đầu tiên với vị Tướng của QLVNCH chỉ huy trong trận chiến Xuân Lộc sau khi ông được ra tù vào tháng Năm, 1992. Ông là một trong bốn vị tướng được thả sau cùng trong số những sĩ quan VNCH bị Cộng Sản giam giữ. Các tác giả xin cám ơn Thiếu Tướng Lê Minh Đảo về những nỗ lực của ông để giúp tác giả thấu hiểu về góc nh́n của QLVNCH trong trận Xuân Lộc. Tất cả những chuyện về Tướng Lê trong bài viết là từ cuộc phỏng vấn và những trao đổi sau đó.





George J. Veith and Merle L. Pribbenow II
Dịch giả - Khôi An và Trần Sơn

hoathienly19
09-22-2020, 18:50
Battle of Xuan Loc April 1975 - ARVN 18th DIvision

VfhBb0eBNCY

hoanglan22
09-23-2020, 15:02
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1658645&stc=1&d=1600872894

“Tôi tên Hinh, được anh em ưu ái tặng cho biệt hiệu “Hinh Nổ” là v́ hai lư do:
Trước hết, tôi chuyên môn gài chất nố để phá hoại.
Sau nữa, tôi đă dám . . . Nổ vào mặt bọn cán bộ tuyên truyền của Việt Cộng. Bọn chúng tuyên truyền nói dóc với chúng tôi, chúng nổ những chuyện không ai tin nổi, làm cho tôi nổi cơn, tôi . . . nói dóc lại cho chúng nghe, nổ lại chúng bằng chính những câu nói dóc mà chúng nói với chúng tôi, làm anh em Biệt Kích cười nôn ruột, từ đó, họ đặt cho tôi cái tên . . . Hinh NỔ.”
(Biệt Kích Quân Nguyễn Văn Hinh, Melbourne)
Năm 1959, Miền Nam Việt Nam đang ở vào thời kỳ cực thịnh của nền Đệ Nhất Cộng Ḥa, nhân dân an cư lạc nghiệp, chiến tranh là một điều c̣n xa xôi lắm.

Lúc đó, tôi đang học lớp Đệ Nhị, sửa soạn thi kỳ thi “Tú Tài I”. Chưa thi, tôi đă vẽ ra cái vinh quang của người học sinh thi đậu bằng “Bắc Oong – Baccalauréat Première Partie”, oai phong lẫm liệt bước lên học lớp Đệ Nhất, năm sau thi “Tú Tài II – Baccalauréat Deuxième Partie. Có bằng “Bắc Đơ” rồi là cứ ung dung ghi tên vào thẳng Viện Đại Học Saig̣n, tự chọn phân khoa ḿnh ưa thích: Y, Nha, Dược, Kiến Trúc, Kỹ thuật, Luật, Văn Khoa . . . mà không phải qua bất cứ kỳ thi nào cả.

V́ cái viễn ảnh tươi đẹp đó, tôi cứ nghĩ rằng tôi sẽ đậu kỳ thi cuối năm. Số ḿnh đậu, chắc chắn sẽ đậu, không cần phải cố gắng chi cho nhiều. Rủi thay, tôi lại . . . thi rớt. Vào thời đó, chưa có lệnh . . . Tổng động viên, nên tôi cứ tàn tàn học lại chờ thi khoá 2. Số mạng của tôi là miệt mài khoa cử, nhưng lại khác mọi người: Khoa cử của tôi không về các nghề nghiệp dân sự, mà lại khoa cử về . . . binh nghiệp.

Một hôm, trong khi tôi đang ngồi chăm chỉ học bài thi, th́ người anh họ (học cùng lớp) của tôi đến chơi. Đợi lúc không có ai, anh ghé tai tôi nói nhỏ:

“Tao . . . t́nh nguyện đi học khoá Hạ Sĩ Quan Đồng Đế, vừa thoả măn đời trai tang bồng hồ th́, vừa có tí tiền xài”

Tôi thắc mắc:

“Anh không lo học để mà thi lại bằng Tú Tài Một à?”

“Đi lính trước đă, khi ra đơn vị rồi, nộp đơn xin về đi thi. Bộ Quốc Pḥng và Bộ Giáo Dục đồng ư năng đỡ những quân nhân có tinh thần học hỏi, nên cho thêm điểm, dễ đậu lắm.”

Tôi nghe bùi tai, xin cha mẹ cho đi lính.

Học căn bản quân sự ở Trung Tâm Huấn Luyện “Quang Trung” ba tháng, đến khoàng tháng 9 năm 1959, chúng tôi khoác ba lô đi ra Nha Trang để học khoá “Trần B́nh Trọng” ở Trường Hạ sĩ Quan Đồng Đế (lâu quá rồi, tôi không nhớ rơ tên khoá học, nên tên này có thê đúng, và cũng có thể sai). Gần măn khoá học, các binh chủng quân đội, như Nhẩy Dù, Thuỷ Quân Lục Chiến. Thiết Giáp, Pháo Binh . . . đều cử phái đoàn đến để giới thiệu binh chủng của ḿnh và cũng để tuyển mộ tân binh. Tôi đang đứng sớ rớ th́ gặp thầy giáo đầu đời bậc Tiểu học của tôi là Thầy Khai Tâm. Thầy đă không c̣n tiếp tục dậy học nữa, mà mang lon Trung uư, mặc bộ quân phục Nhẩy Dù, đội mũ bê rê đỏ chói, làm trưởng toán tuyển mộ của “Lữ Đoàn Nhẩy Dù”. Thầy hỏi tôi:

Em có muốn đi lính . . . Thiên Thần Mũ Đỏ hay không?”

Thôi th́ thầy đi đâu tṛ theo tới đó, tôi đặt bút kư t́nh nguyện gia nhập Binh Chủng Nhẩy Dù.

Học xong khoá huấn luyện nhẩy dù, tôi được bổ xung cho Tiểu Đoàn 5 do Đại uư Phạm Xuân Soạn làm Tiểu Đoàn Trưởng. Sau vài tháng mưa nắng chiến trường, là tới kỳ thi Tú Tài I, do tôi đă nộp đơn từ trước, nên được cho một tuần lễ nghỉ phép để về Sài G̣n dự thi. May mắn đă đến, tôi được chấm đậu.

Đại Uư Soạn kư giấy cho tôi đi học khoá 3 Sĩ Quan Đặc Biệt, cũng tại trung tâm huấn luyện Đồng Đế, Nha Trang.

Măn khóa học, tôi được gắn lon Chuẩn Uư, nhưng Sự Vụ Lệnh câp cho tôi lại không trở về Nhẩy dù, mà lại về phục vụ cho Lực Lượng Đặc Biệt, trực thuộc Lữ Đoàn Liên Binh Pḥng Vệ Phủ Tổng Thống. Tuần lễ đầu, tôi được đặc biệt cho hưởng nhàn, đi tới đi lui trong doanh trại ở Đại Lộ Thống Nhất, gặp và làm quen với những Biệt kích quân khác, mà đa số là độc thân, trẻ tuổi và . . . theo đạo Công Giáo.

Suốt một năm trời sau đó, tôi được đưa đi học đủ thứ khóa học của Biệt Kich. V́ đă có bằng nhẩy dù rồi, tôi chỉ học thêm những môn học sau đây: T́nh Báo, Truyền Tinh, Khai Thác Mật Mă, Phá Hoại, Tác Chiến và Mưu Sinh Thoát Hiểm . . .

Đầu năm 1962, tôi măn khóa học để chính thức trở thành một Biệt Kích Quân. Chuyến hành quân đầu tiên của tôi là:

Đổ bộ vào Hà Tĩnh, theo dơi t́nh h́nh và . . . bắt cóc một người lính Bắc Việt, đem về hậu cứ để khac thác thêm.

Đêm tối đen c̣n hơn mực, tôi được một giang đĩnh của Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa (cải trang thành một thuyền đánh cá của ngư dân vùng Hà Tĩnh) đưa vào gần bờ biển. Từ đó, tôi một ḿnh một bóng bơi vào bờ, đem theo trong ḿnh giấy tùy thân của một ngư dân Hà Tĩnh, một bức thư liên lạc, một máy truyền tin và khẩu súng lục Browning.

Vào bờ, tôi liên lạc với điệp viên gài sẵn của Biệt Kích, bằng cách đem bức thư liên lạc đến bỏ tại “Hộp Thơ Chết”. Đó là một địa điểm do điệp viên của chúng ta tại Hà Tĩnh chỉ định để nhận thơ và tài liệu. Khi nhận được tài liệu, người điệp viên sẽ liên lạc trực tiếp với tổng đài để báo tin và cho địa điểm của “Hộp Thơ Chết” sắp tới. Đúng giờ đă ấn định, tôi liên lạc vói Tổng đài để biết sẽ phải tới đâu để nhận tài liệu. Biết được đích xác nơi phải đến để dọ thám, tôi cứ tự nhiên như là người bản xứ, từ rừng đi vào thành phố Vinh, nhập vào đoàn người mà đi tới đi lui trong giới hạn mà tôi có thể di chuyển. Trong thời gian này, tôi phải chọn đối tượng để bắt cóc. Đối tượng phải là một người lính chính quy của Bắc Việt, có mặc quân phục hẳn hoi. Tôi mon men lại gần một bệnh viện của đám bộ đội, bọn chúng đi tới bệnh viện xin khám bệnh vào sáng sớm và chiều tối. Tôi theo dơi, t́m được một con mồi, đợi lúc hắn ta đi về nhà một ḿnh, ra tay nhanh như chớp chụp thuốc mê kéo anh ta về băi biển đă định sẵn. Đêm đến, ghe đánh cá vào tận nơi, những anh em Biệt Kích khác phụ với tôi khiêng người tù binh lên thuyền, trực chỉ Đà Nẵng.

Sau này, tôi được biết, người tù binh đó là một Thượng Úy. Khi tỉnh dậy, anh ta như là lạc vào một . . . thế giới khác, với những người nói cùng một thứ tiếng với anh, nhưng không gian th́ hoàn toàn khác hẳn với thành phố Vinh của anh. Anh đă . . . thực t́nh khai báo những ǵ mà anh biết về t́nh h́nh dịa phương và đơn vị trực thuộc của anh.

Trở về Saig̣n, tôi được chỉ định ở tại một ngôi nhà gọi là “Nhà An Toàn” với một số anh em khác. Đó là một ngôi nhà rất binh thường trên con đường Trần Hưng Đạo cũng rất b́nh thường của thành phố Saig̣n, mà Lực Lượng Đặc Biệt sử dụng cho các toán viên có nơi trú ngụ và dễ tập trung. Gia đ́nh tôi vẫn ở vùng Ḥa Hưng, nên tôi về đó sống tiện hơn là ở Nhà An Toàn.

Được thảnh thơi khoảng một tuần, tôi được lênh lên máy bay trở lại Đà Nẵng, rồi từ đó bay thẳng qua Lào, vào khu rừng núi trùng điệp, căn cứ của Biệt Kích và CIA Mỹ, nằm trong khu vực của Tướng Lào Vàng Pao. Tôi nhớ rơ là được kư tên trên giấy tờ là làm việc với tư cách Điệp Viên, không có tên tuổi, không có số quân, không đơn vị (mặc dầu về phía Việt Nam, tôi gốc lính Nhầy Dù, Biệt Kích, có số quân hẳn hoi). Sau đó, tôi được xếp toán 6 người, sẽ lên trực thăng nhầy xuống vùng biên giới Lào Việt để xâm nhập vào Nghệ An.

Tôi chưa hề gặp và quen biết những biệt kích quân cùng toán với tôi, những cái tên mà chúng tôi được giới thiệu để gọi nhau, đều là những tên . . . giả. Giấy tờ tùy thân, mặc dầu là là giấy . . . thật, có đóng dấu đỏ chót của “Khai Thác Địa Chất Miền Núi” nhưng lại do CIA cung cấp. Thời gian này, toán chúng tôi chỉ có nhiệm vụ thâu thập tin tức, giữ liên lạc với những điệp viên đă được gài sẵn ở Miền Bắc mà thôi. Những tin tức này được gởi về Đà Nẵng để t́m hiểu thêm và từ đó đưa ra những kế hoạch hành quân. Ngoài những toán Biệt Kích Việt Nam, trung tâm hành quân này c̣n có những toán Biệt Kích của Đài Loan, họ đều lớn tuổi, khoàng từ 30 tới 45 tuổi, nhưng tinh thần chống cộng rất cao. Thời gian đầu chưa quen biết, họ nói tiếng Hoa, chúng tôi nói tiếng Việt, lúc sau, có nhiều người trong bọn họ học nói tiếng Việt, nên chúng tôi nói chuyện vui lắm.

Ở phần đầu, tôi có nhắc tới những “Điệp Viên” của chúng ta gài lại ở miền Bắc. Làm cách nào mà pḥng Phản Gián của chúng ta gài được những điệp viên này?

Theo tôi được biết, vào năm 1954, trước khi quân đội Pháp rút khỏi miền Bắc, họ có tuyển một số người t́nh nguyện, đưa đi học một khóa t́nh báo ở Osaka khoàng 15 ngày, sau đó đem họ trở về sống b́nh thường ở khắp nơi trên lănh thỗ miền Bắc. Con số điệp viên không biết là bao nhiêu, gồm cả những điệp viên của Tướng

Tưởng Giới Thạch, Cộng Ḥa Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Những lần ra Bắc, chúng tôi thường xuyên liên lạc với họ qua những “Hộp Thơ Chết” nhưng chưa bao giờ nh́n thấy mặt họ, và cũng không bao giờ được phép t́m hiểu họ là ai? Những điệp viên này, tùy theo nhu cầu, có thể xin phép tuyển thêm nhân viên. Họ được trả lương và cung cấp máy truyền tin mới rất đều đặn. Cho đến nay, những điệp viên này vẫn c̣n sống, có điều không c̣n ai liên lạc với họ nữa, và họ cũng chẳng c̣n ai để báo tin.

Thông thường, cứ khoảng ba bốn tuần, chúng tôi lại làm một chuyến công tác nhảy toán một lần, mỗi chuyến công tác kéo dài khoảng 7 ngày, có khi kéo dài cả tháng, tùy t́nh h́nh an ninh tại nơi thâu thập tin tức, và nơi trực thăng bốc chúng tôi. Cuộc đời của nguời lính T́nh Báo Biệt Kích, tuy nguy hiểm và đầy những cam go và thử thách (có đời lính nào mà không nguy hiểm và cam go hay không?), nhưng đa số những toán t́nh báo đều trở về đầy đủ và an toàn. Sau mỗi chuyến công tác ở miền Bắc trở về, chúng tôi được đi máy bay Hàng Không Việt Nam về Saig̣n hoặc Đà Nẵng nghỉ phép.

Chuyến công tác dài bao nhiêu ngày th́ khi về sẽ được nghỉ phép bấy nhiêu ngày. Mỗi khi đi phép, chúng tôi đều mặc thuờng phục và sống tại những “Nhà An Toàn” đă định sẵn, chỉ những lần đi lĩnh lương th́ mới mặc quân phục mà thôi. Chúng tôi mặc quân phục của lính Nhẩy dù, đội mũ đen có gắn cánh dù tương tự như Binh Chủng Nhầy dù, nhưng kích thước lớn hơn (sau này mới đổi qua bê rê mầu xanh lá cây, giống như Thủy Quân Lục Chiến). Mặc dù không có Thẻ Căn Cước Quân Nhân, nhưng chúng tôi có một Giấy Chứng Nhận với chữ kư của Đại Tá Lê Quang Tung, chỉ huy trưởng Lực Lượng Đặc Biệt, trên đó có in tiêu đề của binh chủng, tên quân nhân, số thứ tự cùa giấy chứng nhận và huy hiệu cánh dù Biệt Kích. Tên trên giấy chứng nhận là tên thật của chúng tôi, và v́ không có h́nh ảnh dán kèm, nên mỗi khi chúng tôi gặp rắc rối, Quân Cảnh chỉ c̣n một cách duy nhất là gọi điện thoại cho Bộ Chỉ Huy của chúng tôi để hỏi thêm chi tiết mà thôi. Tiền lương chúng tôi lănh, là lương b́nh thường của người lính Việt Nam Cộng Ḥa, kèm theo phụ cấp bằng Dù, Bằng Biệt Kích mà thôi. Ngoài tiền lương này, về phía Mỹ, mỗi khi nhầy toán trở về, chúng tôi lănh thêm tiền phụ cấp của CIA, v́ những tin t́nh báo do chúng tôi thâu thập, CIA cũng đều sử dụng.

Tướng Dương Văn Minh đảo chánh Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm hồi nào? Tôi hoàn toàn không biết, v́ lúc đó, tôi và anh em c̣n ở tuốt ngoài Nghệ An lận.

Sau chuyến công tác, vào khoảng tháng cuôi tháng 11 năm 1963, tôi nhận được sự vụ lệnh về tŕnh diện Bộ chỉ huy gấp, do Đại Tá Lam Sơn, chỉ huy trưởng Lực Lượng Đặc Biệt kư.

Được mời về một cách đặc biệt như vậy, anh em trong toán, và ngay cả tôi nữa, cũng đều cho rằng, tôi sẽ được . . . thăng chức, hoặc ít ra cũng được . . . gắn huy chương v́ thành tích nhầy toán xuất xắc.

Vào pḥng chỉ huy trưởng, tôi chẳng thấy huy chương, cũng chằng thấy lon lá ǵ để sẵn cho tôi cả, trái lại, Đại Tá Lam Sơn hỏi tôi một câu mà tôi không hề dự định:

“Chú em là đảng viên của . . . Đảng Cần Lao Nhân vị, phải không?”

Tôi thất vọng, buồn bă trả lời ông:

-“Dạ đúng, thưa Đại Tá!”

-“Tại sao chú lại gia nhập đảng Cần Lao Nhân Vị?”

-“Tại v́ đàng này có đường lối ôn ḥa, tôn trọng sức cần lao và nhân vị con người.”

-“Chú em có biết rằng, Hội Đồng Tướng Lănh Cách Mạng đă ra chỉ thị đ́nh chỉ công tác, theo dơi, thấm vấn và loại trừ những đảng viên của Đảng Cần Lao hay không?”

-“Thưa Đại Tá, có phải đây là lư do tôi được gọi về tŕnh diện Đại tá?”

-“Đúng vậy.”

-“Nếu vậy th́ tùy Đại Tá định liệu. Tôi là lính, lúc nào cũng chỉ là một người lính mà thôi. Lệnh đó áp dụng cho những vị chỉ huy cao cấp ḱa, chứ c̣n tôi, suốt ngày tôi ở rừng ở núi, không lẽ Đại Tá d́nh chỉ công tác của tôi, cho tôi về . . . hậu cứ?”

-“Chú mày ngon! Dám nói như vậy với chỉ huy trưởng?”

-“Tôi đâu có c̣n cách nào để mà nói nữa, thưa Đại Tá.”

Đại Tá Lam Sơn chống tay cạnh sườn đi tới đi lui trong pḥng một hồi để suy nghĩ, cuối cùng, ông đập tay lên bàn một cái . . . Rầm, nói với tôi:

-“Được! Chú mày ngon, th́ anh cũng . . . chơi ngon với chú mày. Anh cho chú mày . . . mười bốn ngày phép, sau đó về tŕnh diện, làm việc tại đây với anh.”

Tôi đứng như trời trồng, không ngờ là ḿnh lại đuợc may mắn như thế. Đi phép hai tuần th́ tôi ham, nhưng về làm việc ngay tại cái hang cọp này, th́ tôi . . . ớn lắm. Đời trai, tôi đang c̣n thích bay nhẩy, làm sao mà ngồi một chỗ được. Tôi làm gan, nói lớn với vị chỉ huy:

-“Thưa Đại Tá, tôi không dám xin đi phép, chỉ xin Đại Tá cho tôi được. . . trở về đơn vị cũ.”

Ông Đại Tá cười sang sảng:

-“Đúng như anh nghĩ. Chú mày . . . bảnh thiệt! Vậy th́ anh cho chú mày mười bốn ngày phép, lănh lương liền, sau đó về lại căn cứ Vàng Pao, nghe chưa?”

Tôi . . . bay liền lập tức ra khỏi bộ chỉ huy.

Hai tuần lễ nghĩ phép đặc biệt thật là hạnh phúc. Tôi về nhà thăm cha mẹ, anh chị em, đi phố chơi với nguời yêu . . . đủ cả mọi thứ, tiền bạc xài rủng rỉnh.

Hết phép, tôi lại trở về vùng rừng núi đầy sương mù nơi đất Lào xa xôi cách trở.

Đầu năm 1964, toán t́nh báo của chúng tôi đuợc lệnh đi Nghệ An một lần nữa. Lần này nhiệm vụ hơi nhiều: Chúng tôi phải t́m hiểu chung quanh tỉnh Nghệ An có cả thẩy bao nhiêu bồn chứa xăng? Đă gắn bao nhiêu dàn rada? Lấy tin tức chính xác về “Đập nước Linh Cảm” những nơi có thể đặt bom để phả hủy đập nước này. . .

Tin tức được lấy đầy đủ, tôi báo cáo rơ ràng mọi chi tiết cho trung tâm và được lệnh trở về. Tôi cho anh em biết địa điểm tập trung, nói họ cứ đi trước, tôi c̣n một nhiệm vụ nữa phải làm, sẽ tới sau.

Địa điểm tới của tôi là đến nhà thờ Vinh, thăm cha sứ để làm quen và mời cha làm đầu cầu liên lạc mới, v́ cha là nguời nổi tỉếng chống cộng ở ngay tại miền Bắc Cộng Sản.

Tôi mua vé xe khách vào Vinh, rồi đi bộ tới nhà thờ. Vừa đi đuợc khoảng vài bước, tôi có linh tính là đang bị theo dơi. Trước khi lên xe, tôi đă dấu máy truyền tin ở một nơi rất kín, chí mang theo người giấy tờ tùy thân (giấy giả) và khẩu súng pḥng thân mà thôi. Hai tên công an mặc thường phục đă đến sát bên tôi rồi, tôi muốn rút súng ra bắn tụi này rồi chạy thoát thân. Nhưng súng chỉ dùng khi ḿnh có cơ hội chạy thoát mà tôi, bây giờ tôi đang ở trong thành phố, có bắn chúng nó th́ cũng không biết chạy đi đâu? Thôi th́ tới đâu hay tới đó. Hai tên công an tới sát bên tôi, một tên chĩa súng, tên kia hỏi giấy đi đường của tôi. Tôi b́nh tĩnh đưa tay vào trong áo, tính rút súng ra bắn thằng cầm súng rồi áp đảo thằng kia, nhưng chúng nó không phải có hai tên, mà c̣n nhiều tên bên cạnh đó nữa, chúng nhào vô đẩy tôi ngă xuồng đất rồi c̣ng tay bịt mắt tôi ngay lập tức. Một tên ṃ trong người tôi, lấy được khẩu súng và giấy tờ, hắn kêu lên mừng rỡ:

“Biệt Kích Miền Nam! Bắt được rồi.”

Về đồn công an, thay v́ đánh đập tra tấn, bọn chúng để tôi ngồi yên trong pḥng giam, gọi điện thoại đi tứ tung. Sáng sớm, một đám công an mới tới, có vẻ là cấp lớn hơn, chúng dắt tôi ra bắt đầu thẩm vấn. Càng trể càng tốt, gị này th́ các toán viên của tôi đă an toàn lên trực thăng rời khỏi Nghệ An rồi. Một tên hỏi dằn mặt tôi ngay lập tức:

“Tôi có danh sách sáu người Biệt Kích Miền Nam hoạt động trong vùng này. Chỉ có trưởng toán mới được quyền đi vào thành phố, anh tên là Nguyễn Văn Hinh, phải không?”

Đây chắc là đám chống t́nh báo của Việt cộng. Tôi không ngờ là bọn chúng lại có đầy đủ tên họ của cả toán Biệt Kích, lại tên thật nữa. Chối cũng vô ích, tôi nhận là đúng tên tôi.

Bọn chúng hỏi ngay máy truyền tin của tôi. May mắn là tôi không mang theo, nên khai là bị thất lạc ở trong rừng rồi. Bọn chúng hỏi số mật mă liên lạc với trung ương? Tôi trả lời thật dể dàng:

“Nhiều số lắm, tôi không nhớ hết được, nên đă ghi vào mảnh giấy, gắn vào máy truyền tin “

Bọn chúng hỏi rất nhiều, đa số là tôi khai “Không nhớ” “Không biết”. Cho dù là có biết, tôi cũng không khai, v́ biết rằng, lời khai của tôi sẽ có ảnh hưởng rất lớn cho những toán đi về sau. Thấy tôi không khai, bọn chúng đổi chiến thuật, mỗi ngày đưa tôi đến môt địa điểm khác nhau, đa số là nhà dân ở, rồi nói với tôi:

“Chúng tôi không có nhà tù, nên không bíết đem anh giam ở đâu cả, chỉ để anh ở chung với dân mà thôi.”

Nhưng tôi biết, đám dân này toàn là công an đội lốt cả, chúng nó cứ hỏi tôi những câu hỏi vớ vẩn, rồi xen kẽ vào những câu hỏi nghề nghiệp, làm cho tôi phải cố gắng lắm mới không tiết lộ bất cứ những điều ǵ cần phải dấu.

Cuối cùng, vào khoảng tháng 4 năm 1964, bọn chúng lôi tôi ra trước ṭa án nhân dân tỉnh Nghệ An, kết án tôi là “Gián Điệp Biệt Kích Miền Nam” và cho tôi bản án

Tù trung thân.

Xử xong chúng mói đem tôi ra mà làm thịt, chúng đánh tôi nhừ tử. Không khai câu nào, đánh câu nấy, không nói tiếng nào, đánh tiếng đấy. Chúng đánh tôi mềm người rồi mói xách lên xe đưa đi giam tại trại “Cổng Trời”.


Trại tù Cổng Trời không biết được xây từ lúc nào, chắc là do thực dân Pháp xây để giam giữ những nhà ái quốc chống lại chúng. Đó là một trại tù rất kiên cố, xây bằng đá xanh, hàng rào phía bên ngoài cũng bằng đá tảng, cao, cao lắm, cao vút tận trời (khoảng 4m ǵ đó), bên trên lại chăng giây kẽm gai nữa, chỉ có một cổng duy nhất đi vào mà thôi. Bị nhốt ở đây th́ không có cách chi mà vượt ngục, trừ khi vượt ngục bằng cửa chính. (Trại giam “Cồng Trời” nằm trong địa phận huyện Đồng Văn là một trong số 10 huyện của tỉnh Hà Giang.

Hà Giang là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp tỉnh Yên Bái và Lào Cai, phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang. Về phía Bắc, Hà Giang giáp tỉnh Vân Nam và tỉnh Quảng Tây nước Tầu. Trại Cổng Trời chỉ cách biên giới Việt Nam – Trung Cộng độ 10 km đường chim bay).
Tôi bị biệt giam ngay từ khi tới trại. Ban ngày tôi được tự do đi tới đi lui trong pḥng, ban đêm, chúng cùm tôi lại cho tới sáng mới mở ra.

Trại Tù Cổng Trời ở Hà Giang
Thời gian đầu, mỗi khi đêm xuống, tôi không tài nào ngủ được, tôi có cảm giác như người bị hơng chân, không tin rằng ḿnh đă bị bắt. Tôi nhớ lại từng hành vi, cử chỉ khi đang hoạt động ở Nghệ An. Tôi đă nhầy xuống vùng này nhiều lần, đă quá quen thuộc với đường đi nước bước rồi, tại sao lại để bị bắt? có thể v́ đă quá quen, nên tôi đă bị sơ hở?
Tôi hối tiếc, v́ đáng lẽ ra, tôi không nên đi xe ca (xe đ̣) vào buổi sáng, mà nên di vào buổi trưa hoặc chiều, v́ lúc đó, bọn công an đă trở về trại rồi. Nhưng tôi lại tự trả lời: Nếu tôi vào thành phố trễ, sẽ khó gặp cha xứ, v́ cha sẽ phải đi thăm các con chiên trong họ đạo.
Hối tiếc thứ hai của tôi là, cũng đáng lẽ ra, tôi không cần phải đi gặp cha xứ ngay trong lần này. V́ việc tới gặp cha xứ chỉ là tự nguyện, trong trường hợp có thể làm được mà thôi. Chỉ v́ tôi đă quá tôn trọng nhiệm vụ, nên đă liều mạng dùng xe ca để di chuyển.
Nếu tôi không đi gặp cha xứ, chắc chắn tôi đă không bị bắt rồi.
Trong khi ngồi trên xe ca, tôi quan sát, thấy người dân Nghệ An trên xe đều mặc quần áo giống tôi (đồng phục công nhân mầu xanh biển) nhưng chiều cao th́ thấp hơn tôi. Có thể chính cái vóc dáng này (1.76m) đă làm cho tôi khác với mọi người trong xe, nên bọn công an mới để ư và bắt tôi?
Trong thời gian bị chúng hỏi cung, tôi cũng đă trốn thoát một lần, nhưng tại sao tôi lại bị chúng bắt trở lại?

Khoàng hai tuần lễ sau khi bị bắt, chúng giữ tôi tại những căn nhà, gọi là . . . nhà dân và không c̣ng tay c̣ng chân tôi gỉ cả. Một hôm, nhân lúc chúng vừa cho tôi ăn chiều, lo thu dọn đem đi, th́ tôi tàn tàn đi theo chúng nó, thoát ra ngoài, đi thẳng luôn xuống cuối phố, t́m đuởng đi về miền núi. Tôi vừa trốn vừa đi, được ba ngày th́ tới vùng núi non, coi như là thoát rồi, chỉ cần leo lên tới lưng chừng núi là tôi sẽ t́m cách liên lạc với máy bay trực thăng để họ đón tôi về.

Nhưng mà tới lúc đó th́ tôi mệt quá rồi, ba ngày không ăn, không ngủ, tôi kiệt lực, gục xuống một gốc cây thiếp đi. Tới khi tôi tỉnh dậy th́ đă thấy bọn công an đang chĩa súng vào đầu tôi, chân chúng đang đạp lên ngực tôi, thế là tôi lại vào tù. Trên đưởng bị giải đi, tôi thoáng thấy đám trẻ chăn trâu đang nh́n tôi mà chỉ chỏ. Th́ ra đám con nít này đă thấy tôi, đi báo với công an.

Thôi th́. cũng là số mạng đă an bài, tiếc nuối làm chi.
Ḿnh đă làm tṛn nhiệm vụ của một người Biệt Kích. Ḿnh không làm điều ǵ sai trái, không để phiền lụy ǵ tới người khác. Hăy hănh diện v́ công việc ḿnh đă làm.

Suy nghĩ như vậy rồi, tôi chấp nhận với số mạng.
Ở một thời gian Trong trại giam, tôi đă có dịp quan sát trại tù. Pḥng giam của tôi rất nhỏ, chiều dài khoảng 2.5m, chiều rộng khoảng 2.00 m ǵ đó (tôi chỉ pḥng chừng, không nhớ rơ). Ba phía pḥng giam là tường xây bằng đá tảng, đằng trước là cửa gỗ. Qua khe cửa, tôi nh́n thấy trại giam chia làm hai dẫy pḥng đối diên nhau, cách nhau bằng một lối đi khoảng 1m. Tôi đă t́m cách liên lạc với anh em tù bên cạnh tôi và đối diện với pḥng giam của tôi.

Đối với người tù ở hai bên cạnh, tôi dùng muỗng bằng sắt, cạo lớp vôi giữa hai viên đá rồi gơ vào đả theo kiểu truyền tin (Morse). May mắn thay, người tù kế bên cũng là một Biệt kích, nên đă trả lời lại cho tôi. Anh này đă bị tù trước tôi, nên đă cho biết, có khoảng 40 Biệt kích bị giam ở đây, phần c̣n lại là những người dân miền Bắc bị bắt v́ lư do chính trị, những tu sĩ Công giáo và Phật giáo bị bắt trong chính sách diệt trừ tôi giáo của Việt Cộng.
Một hôm, sau khi nhận phần cơm, bọn cai tù đóng cửa bỏ đi, tôi thoáng nghe một giọng nói thật nhẹ nhàng:
“Bị bắt lâu chưa?
Tội ǵ mà vào đây?”
Lời nói như gió thoảng, tôi không nghe rơ cho lắm, và cũng không biết là ai nói với ai? Nên tôi giữ im lặng để cố nghe lại và t́m hiểu xem lời nói đó phát xuất từ đâu?
Giọng nói lại phát ra, lần này tôi nghe rơ, phát ra từ pḥng giam đối diện với tôi:
-“Bị bắt lâu chưa?”
Tôi vội vàng đứng thẳng lên, kê miệng vào khe hở của cánh cửa phía trên, trả lời vừa dủ nghe:
-“Tôi bị giam ở đây khoảng sáu tháng rồi”.
-“Tội ǵ mà vào đây?”
-“Tôi là Biệt Kích Miền Nam, nhẩy ra Bắc, bị bắt.”
-“C̣n tôi là Giám Mục Công Giáo.”
-“Thưa cha, con cũng là người theo đạo Công Giáo.”
Thế là chúng tôi quen nhau, và tiếp tục nói chuyện với nhau rất là tâm đầu ư hiệp. Tôi được biết, cha tên là Nguyễn Văn Vinh. Tôi và cha Vĩnh đă có đôi lần cầu nguyện chung với nhau (đương nhiên là vào ban đêm).
Vào một buổi sáng, khi bọn cai tù đi giao cơm, tôi nghe tiếng chúng mở cửa pḥng của cha Vinh, và nghe những lời đối thoại sau đây giữa người tù giao cơm và tên cai tù:
“Sao không thấy nó cựa cậy? Vào xem nó ra sao?”
“Nó . . . Chết rồi!”
“Tới giờ này mới chịu chết. Thôi được rồi, đóng cửa lại, không cần giao cơm nữa.”
Khi bọn chúng đi rồi, tôi cố gọi cha Vinh:
“Cha ơi, Cha Vinh ơi . . . Cha . . . C̣n sống không? Trả lời cho con đi.”
Tôi gọi cha Vinh nhiều lần nữa, nhưng cha Vinh không bao giờ trả lời tôi nữa. Tôi nhớ thời gian đó là khoảng cuối năm 1964.
Inline image
Bản đồ Việt Nam, do Nha Địa Dư Việt Nam Cộng Ḥa ấn hành, năm 1956.
GHI CHÚ: Ông Mặc Lâm, biên tập viên đài Á Châu Tự Do RFA 2010-12-24 / Phong Trào PNVN/HĐCN http://www.rfa.org đă phỏng vấn quư ông Phùng Văn Tại và Kiều Duy Vinh, như sau:
Ông Phùng Văn Tại, một giáo sư dạy môn giáo sử văn chương trong chủng viện, ông kể rằng:
“Ngày 24 tháng 12 năm 1959 tức là chiều hôm trước chuẩn bị trang trí nhà thờ chính ṭa để đón Noel, th́ Ủy ban Liên lạc Công giáo, tức là Ủy Ban Đoàn Kết Công giáo đến gây chuyện, tranh dành việc trang trí nhà thờ. Tranh giành như thế cha chính Vinh cho kéo chuông. Hai cái tháp nhà thờ Chính Ṭa của Hà Nội có 6 quả chuông cha chính Vinh cho ca đoàn lên kéo cùng một lúc, cứ như thể một cuộc báo động lớn năm 1959 cho nên kinh khủng lắm, và họ hô nhau đến bắt cha chính Vinh.”

Linh Mục Nguyễn Văn Vinh.
Có thể nói cha chính Vinh là nạn nhân đầu tiên trong chính sách xóa sổ thầm lặng đạo Công giáo mà chính quyền Hà Nội hướng tới. LM Nguyễn Văn Vinh do quá cương quyết và không chịu khuất phục đă âm thầm chịu chết sau đó trong trại giam Cổng Trời.

“Bắt cha chính Vinh xong họ bắt một số ca viên, có những người chỉ mới 16, 17 tuổi. Cha chính Vinh bị bắt và cuối cùng ngài bị đày lên Cổng Trời. Cổng Trời là một cái địa ngục nhốt cho đến chết th́ thôi, cùng với cha Lương Huy Hân. Cái chết của cha chính Vinh là như thế.”

Đại Úy Kiều Duy Vinh, khóa 4 Đà Lạt, kể lại rằng:
“Tôi tên là Kiều Duy Vĩnh sinh năm 1931 tại Hà Nội. Tôi học trường Chu Văn An, thế rồi giữa năm 1950 và 1951 tôi học ở trường sĩ quan Đà Lạt khóa 4. Tôi ra trường và đến năm 1954 tôi là đại úy tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 74 D Việt Nam ở khu 9 Linh Trang thuộc địa phận Hải Pḥng.

Vào năm 1954 tôi là con một, tôi không đi di cư và ở lại miền Bắc, tới năm 1959 tôi bị bắt đi tù. Tôi t́nh nguyện thứ nhất 10 năm từ năm 1959 tới 1969 tại trại Cổng Trời. Ở đó tôi gặp tất cả những người tử tù đặc biệt là 72 người đầu tiên.Tôi lên cùng anh Nguyễn Hữu Đang (ông là người từng lănh trọng trách tổ chức buổi lễ tuyên bố độc lập cho chính phủ Hồ Chí Minh. Ông cũng là con chim đầu đàn của phong trào Nhân Vân Giai Phẩm, bị bắt khi phong trào này đ̣i quyền tự do sáng tác.). Chỉ c̣n mỗi tôi và anh Đang c̣n sống c̣n 70 người c̣n lại chết cả trên trại cổng trời. “Trại cổng trời là cái tên một địa danh mà dân gian đặt ra v́ ở đấy nó là một cái dốc cổng trời. C̣n địa danh do Bộ Công an, Cục Lao cải th́ tên chính thức của nó là C65 HE công trường 75A Hà Nội. Không ai biết địa điểm của nó ở đâu, người ta muốn hỏi trại Cổng trời ở đâu th́ đến Hà Nội, hỏi Bộ Công an, và Bộ công an th́…đấy địa chỉ đấy…

Trước năm 1959 tôi với anh Đang lên th́ hầu như không có đường. Người ta chở chúng tôi tới Hà Giang rồi đi một đoạn nữa, rồi đi một đoạn nữa…cứ thế. Lúc ấy tôi đă là một sĩ quan rất biết địa h́nh lắm mà vẫn không biết vị trí thật của nó ở chỗ nào! Tôi ở đấy 10 năm từ 1959 cho tới 1969 th́ tôi được thả về.’
Đến đầu năm 1966 th́ bọn chúng đưa chúng tôi ra giam ở pḥng tập thể, từ 6 người trở lên, và bắt đầu cho học tập chính trị.
Tôi nhớ, bài học đầu tiên là “Tiến bộ của Xă Hội Chủ Nghĩa Liên Xô”. Bọn chúng tập trung anh em tù, đủ mọi thành phần, từ Biệt kích cho tới tù chính trị, tôn giáo . . . khoảng cả trăm người, ngồi đầy chặt cả hội trường. Tên cán bộ phùng mang trợn mắt kể:
“Ở một nhà máy đóng hộp thịt ḅ, người nông dân dắt con ḅ vào để làm thịt ḅ đóng hộp. Từ lúc dắt con ḅ vào cho đến khi giết ḅ, cạo lông, mổ ḅ, chia ra từng bộ phận . . . rồi đóng hộp, chỉ chừng nữa tiếng đồng hồ mà thôi. Sau đó, người nông dân đem về cả một bao đầy những hộp thịt ḅ đă đóng hộp xong để phân phối cho các hợp tác xă của ḿnh.”
Đến phần thảo luận, mà bọn chúng gọi là “Thu Hoạch” tất cả chúng tôi phải đưa ra những lời phát biểu để chứng tỏ rằng ḿnh đă hiểu sự tiến bộ của “Xă Hội Chủ Nghĩa” mà đứng đầu là Liên Bang Xô Viết.

Đến phiên tôi lên phát biểu, trước mặt mọi người , tôi đă kể lại sự ưu việt của Xă Hội Chủ Nghĩa, như sau:
“Liên Bang Xô Viết rất là tiến bộ, nhất là trong lănh vực máy móc cơ khí, đến nỗi các kỹ sư có thể làm sống lại một con ḅ đă được xẻ ra làm thịt hộp. Hồi ở miền Nam, tôi được đưa đi du học ở Tây Đức. Ở Tây Đức có rất ít ḅ, cho nên họ đă mua được một xưởng “Tái Tạo Thịt Ḅ” của Liên Xô. Người nông dân đi mua tất cả những hộp thịt ḅ do nhà máy đóng hộp thịt ḅ sản xuất ra, đem vào xưởng tái tạo.
Người công nhân bỏ tất cả các hộp thịt ḅ vào trong máy tái tạo, chờ chừng nửa tiếng sau, dắt ra một con ḅ nguyên vẹn, đang nhai cỏ, giao lại cho người nông dân.”

Tôi kể câu chuyện tiến bộ của Xă Hội Chủ Nghĩa này bằng một giọng rất là . . . khâm phục và kính nề, nên bọn cán bộ cứ đứng nghệt mặt ra mà nghe để khâm phục tiếp cho tôi. Những nhà tu hành, những tù nhân chính trị không quen với lối nói chuyện của tôi,nên họ cũng ngồi im lặng, bán tín bán nghi.

Nhưng những anh em Biệt kích của tôi th́ phá lên cười, họ vừa vỗ tay tán thưởng ưu việt của Xă Hội Chủ Nghĩa vừa ôm bụng cười nghiêng cười ngửa, cười như chưa bao giờ được cười.
Măi một lúc sau, những người tù khác mới hiểu ra rằng, chẳng thể nào có cái chuyện dắt một con ḅ vào hăng, nửa tiếng sau đem về một rổ thịt ḅ hộp. Muốn làm ra thit ḅ hộp, phải đi qua rất nhiều giai đoạn, mỗi giai đọan ỏ một hăng khác nhau, và mỗi hăng làm một lượt cả trăm con ḅ, chứ không thể nào làm từng con ḅ một. Và cũng không thể nào lấy thịt ḅ đă đóng hộp để mà trộn nó lại để làm nó trở thành một con ḅ sống b́nh thuờng đuợc. Tới lúc đó, họ mới rủ nhau cười lên ồ ồ.

Tên cán bộ kể câu chuyện “Tiến Bộ” tức điên người lên, nhưng hắn không làm ǵ tôi được, v́ rơ ràng tôi khen kỹ thuật tiến bộ của Liên Xô, tới nỗi Tây Đức là một quốc gia tiến bộ mà c̣n phải đi mua máy “Tái Tạo Thịt Ḅ” của Liên Xô. Tên này nói thêm vài câu nũa rồi chấm dứt buổi học tập.
Ra đến ngoài, anh em Biệt kích ào tới, nói với tôi:
“Thằng Việt cộng đă nổ, mày c̣n . . . Nổ hơn thằng Việt Cộng nữa! Cái hay là chúng nó cứ ấm ớ, không dám làm ǵ mày cả, v́ mày . . . khen chúng nó mà!”
Thế là từ đó, tôi có biệt danh “HINH NỔ”
Cứ thế, cuộc sống của chúng tôi ngày này qua ngày khác cứ thế mà trôi đi. Ban ngày th́ đứng ngồi trong pḥng giam, ban đêm th́ cùm kẹp. Bọn chúng không dám đưa chúng tôi ra ngoài rừng làm việc v́ sợ rừng núi là địa bàn hoạt động của chúng tôi, chúng tôi sẽ trốn đi ngay lập tức.
Đối với anh em Biệt kích chúng tôi, trong những ngày đầu tù tôi, đă có rất nhiều người nản chí, nhưng chúng tôi ráng t́m cách liên lạc với nhau, ráng khuyên nhủ nhau giữ vữg tinh thần, v́ ḿnh vẫn c̣n đường sống, mong chờ một ngày mai . . . Đại Quân Miền Nam sẽ đánh ra Bắc, giải thoát cho đám Biệt Kích. Hơn nữa, da số anh em chúng tôi đều là người Công Giáo, nên không bao giờ có chuyện tự tử, vỉ chỉ có Chúa Trời mới có quyền ban cho ḿnh lẽ sống và đưa ḿnh trở về với Chúa Trời.

Đến năm 1966, Không Quân Mỹ đă bắt đầu ném bom ở miền Bắc.
Bọn quản giáo sợ điếng người, nhưng chúng tôi lại mừng ra mặt. Chắc chắn sau những cuộc dội bom này sẽ có cuộc đổ bộ của Đại Quân Miền Nam, mọi người chuyền cho nhau những tin tức thật là nóng hổi, những suy luận thật là hợp t́nh hợp ly. Trong thời gian này, bọn quản giáo không dám lên mặt chửi bới hoặc có hành động ǵ hăm dọa chúng tôi cả. Trái lại, chính bọn chúng tôi đă . . . hù lại bọn chúng:
“Thằng nào làm ǵ, chúng tao nhớ tên từng đứa. Khi Đại Quân Miền Nam ra đây rồi, đố chúng mày chạy đâu cho thoát khỏi tay anh em Biệt kích chúng tao.”
Không thể ngồi không mà chờ đợi, anh em chúng tôi nẩy ra ư định:
VƯỢT TRẠI.
Chúng tôi để ư, mỗi lần có máy bay Mỹ đến dội bom, bọn quản giáo, bọn công an lại cùm chân chúng tôi lại rồi sách súng chạy xuống hầm trú ẩn hết, tới khi hết báo động mới dám chường mặt lên. Anh em trong pḥng giam của tôi đă bàn với nhau:

“Mỗi lần có c̣i báo động, từng nhóm hai tên công an đi với nhau, mỗi tên một khẩu AK và ba băng đạn. Đợi khi chúng tiến tới gần, xiết cổ chúng nó liền lập tức, rồi lột quần áo của chúng mặc vào, đi ra ngay cửa chính mà vào rừng. Lúc báo động, không ai để ư tới ai, ngay chính những tên công an gác ở đài kiểm soát cũng lo chạy xuống hầm, không lo khẩu thượng liên sẽ bắn ḿnh. Vào tới rừng rồi, dễ ǵ chúng t́m ra đuợc.”
Tin tưởng vào cách thức vượt trại này, chúng tôi xem xét, để ư từng cử chỉ, từng đường đi nước bước của bọn công an, t́m ra từng toán hai tên công an đi với nhau để chọn ra toán nào dễ thanh toán.
Rủi thay cho chúng tôi, một Biệt kích trong lúc ngủ mê đă tiết lộ kế hoạch vượt ngục:

“Ngày mai, chờ lúc có c̣i báo động, tôi và anh Hinh sẽ chờ sẵn, tới khi hai thằng Toán và Thể tới gần, sẽ quàng khăn xiết cổ tụi nó liền, nhũng người khác sẽ cướp súng, lột quần áo của hai tên này thật nhanh, rồi cùng . . . áp giải nhau ra cửa chính mà chạy.”
Anh Biệt kích nói trong cơn ngủ mê như vậy, đúng vào lúc hai tên công an Tóan và Thể đang đi tuần ở ngoài. Thế là chúng nhào vào tóm anh ngủ mơ ngay lập tức và đem chúng tôi lên pḥng tra hỏi.
“Chúng mày muốn . . . trốn trại, phải không?”
Tôi trả lời ngay lập tức:
“Đúng!”
“Thằng nào bầy mưu tổ chức?”
“Chẳng có ai bầy mưu tính kế ǵ hết. Thằng Biệt kích nào bị nhốt tù ở đây cũng đều muốn trốn tù hết. Trong đầu óc bất cứ thẳng Biệt kích nào cũng có mưu kế để trốn tù hết. Nếu không có ư định trốn tù, đâu phải là Biệt Kích!”
Inline image
-“Chính mày là chủ chốt vượt ngục, phải không?”
-“Tôi đă trả lời cán bộ rồi, trong đầu óc bất cứ một người Biệt Kích nào cũng có ư tưởng vượt ngục, không cần phải có người nào đứng làm chủ chốt cả. Tuy nhiên, ư định là một chuyện, làm được hay không lại là một chuyện khác, các anh canh gác như thế này th́ chúng tôi làm sao mà vượt ngục được!”

Hai tên công an nh́n nhau, thích thú v́ câu nói của tôi đă . . . khen chúng canh gác kỹ (Trên thực tế, ở trại tù Cổng Trời này, v́ địa thế hiểm trở, nên bọn Công an chỉ canh gác cho có lệ. Tôi nói móc họng tụi nó chứ không phải là khen). Chúng im lặng một lúc rồi cùng bước ra ngoài to nhỏ với nhau.

Tôi đoán rằng, trong lúc này, đầu óc tụi nó đang hoang mang lo sợ máy may Mỹ có thể đến thả bom bất cứ lúc nào. Nếu giữ tôi lại để tra tấn, để hỏi cung, lỡ máy bay Mỹ đột ngột bay tới, làm sao mà kịp giờ để chạy xuống hẩm? Chạy không kịp, lỡ bọn Biệt Kích nổi loạn, chúng nó dám . . . giết ḿnh lắm!

Hơn nữa, chúng tôi cũng chưa hề có một hành động nào chứng tỏ là sẽ vượt ngục, tất cả chỉ là một lời nói trong giấc mơ mà thôi.
Cuối cùng, hai tên cai tù trờ lại, chỉ đe doạ tôi:

-“Chúng mày liệu hồn. Ở trại Cổng Trời này, chưa bao giờ có chuyện vượt ngục, mà dù có vượt ngục cũng không thể trốn đi đâu cho thoát. Đă lên tới cổng trời rồi, th́ chỉ c̣n có một con đường duy nhất để mà đi tới là “Đồi Bà Then” chứ không c̣n con đường nào khác để đi xuống.”
Ghi chú: Đồi Bà Then là nơi chôn tù nhân. Chỉ bó chiếu mà chôn chứ không có mộ bia ǵ cả.

Sau đó, chúng lại cho tôi vào pḥng biệt giam, cùm tôi suốt một tuần lễ rồi mới cho ra pḥng giam chung.
Tù nhân ở trại Cổng Trời, với khí hậu khắc nghiệt, ăn uống thiếu thốn, lại không có thuốc men ǵ cả, rất khó mà kéo dài cuộc sống: Ban đêm, nhiệt độ có khi dưới 0 độ, anh em tù chỉ có trên người một bộ quần áo vải và cái chăn đơn. Lạnh không c̣n nơi nào lạnh hơn. Ăn uống th́ chỉ có khoai sắn, luộc với muối, lâu lâu có ít cơm. Nếu có bệnh, ráng chống chọi để mà qua cơn bệnh, nếu không qua khỏi cơn bệnh, th́ chỉ c̣n cách . . . đem chôn.

Anh em Biệt Kích chúng tôi c̣n sống được là nhờ vào niềm tin:
Niềm tin là một ngày nào đó, Đại Quân Miền Nam sẽ tấn công qua sông Bến Hải để Giải Phóng Miền Bắc, giải cứu anh em Biệt Kích.
Inline image
Quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa được trao trả. H́nh
của minhhoa’s photostream.
Nếu ngày hôm nay Đại quân chưa ra, th́ ngày mai, ngày mốt, một ngày nào đó . . . Cứ thế mà chúng tôi kéo dài cuộc sống tù đầy . . .
Vào một ngày của năm 1973, tất cả tù Biệt kích chúng tôi được dời về trại Phú Lu ở Lào Kay để học tập về Hiệp Định Giơ Neo và cách thức trao trả tù binh. Tôi đếm cả thảy có khoàng một trăm hai mươi Biệt Kích, bao gồm cả những anh em Biệt Kích nhẩy toán ở Cam Pu Chia, đường ṃn HCM và Hạ Lào. Vừa cho học tập, bọn Việt cộng vừa làm công tác tuyên truyền để cài người: Mỗi Biệt kích đều được chúng gọi riêng vào pḥng để doạ nạt, dụ dỗ sẽ cho trao trả sớm nếu chịu làm điệp viên cho chúng, báo cáo cho chúng những tin tức cần thiết ở Miền Nam.

Anh em chúng tôi về pḥng bí mật họp nhau lại, tương kế tựu kế, chỉ nói rằng sẽ làm những ǵ có thể làm, sau đó báo cho nhau đầy đủ những ǵ bọn chúng đ̣i hỏi, coi đó như là một tṛ chơi đấu trí mà thôi. Một số anh em c̣n bàn bạc trao đổi với nhau về những kinh nghiệm nhẩy toán, để nếu sau này c̣n nhẩy ra Bắc nữa, sẽ không mắc phải những lỗi lầm này. Nếu không nhẩy toán, sẽ làm huấn luyện viên, truyền lại những kinh nghiệm này cho đám Biệt Kích đàn em.

Thời gian học tập này là thời gian thoải mái nhất trong cuộc đời tù tội của chúng tôi. Thời gian này cũng là thời gian duy nhất mà anh em Biệt Kích không có ư định vượt ngục: Đang chờ để trao đổi tù binh mà! Vượt ngục làm chi? Cũng trong thời gian này, đôi khi chúng cho chúng tôi đuợc cho ăn thịt. Thông thường, khẩu phần tù được 9kg . . . “Chất Bột” bao gồm khoai, sắn, rau, muối và hiếm khi có một ít gạo. Thịt chỉ được ăn (vài miếng được gọi là thịt) vào hai ngày trong năm: Ngày Tết và ngày mà chúng gọi là “Độc Lập”.

Hàng ngày, chúng tôi được cho nghe tin tức từ đài phát thanh, và được biết, một vài nhóm tù Quân nhân Cộng Hoà đă được trao trả, làm anh em chúng tôi càng nức long hơn nữa.
Chờ măi, chờ măi cho đến tháng 10 năm 1973 mà vẫn chưa được trao đổi, anh em chúng tôi hỏi thẳng đám cán bộ:
“Tại sao chúng tôi không được trao trả?”
Bọn cán bộ trả lời quanh co:
“ Có nhiều toán được trao trả, ráng chờ tới phiên.”
Chờ không nổi nữa rồi, anh em chúng tôi bàn nhau:
Có thể bọn Việt cộng đă dùng chúng tôi để mặc cả một điều ǵ đó, nên mới chần chờ như vậy. Được trao trả theo Hiệp định Genevè là một dịp may hiếm có, phải nắm lấy cơ hội này, phài làm một cái ǵ đó để đ̣i hỏi, nếu không, sẽ không bao giờ c̣n cơ hội nữa.
Anh em Biệt Kích ra quyết định:
“Tuyệt thực, cho đến khi nào được trao trả!”
Không biết v́ lư do nào đó mà anh em Biệt Kích ở Trại Quảng Ninh cũng đă có quyết định tuyệt thực cùng một ngày với anh em Biệt Kích ở Phú Lu chúng tôi, làm cho bọn Việt cộng lo ngại đă có . . . gián điệp Miền Nam trà trộn vào trong đám cán bộ của chúng để cho hai trại biết tin nhau, chứ anh em Biệt Kích không thể nào thông tin với nhau đuợc, v́ hai trại ở rất xa nhau. Chúng tôi thấy bọn cai tù bối rối ra mặt, nên càng quyết định làm tới.

Tuyệt thực tới ngày thứ ba th́ bọn quản giáo họp chúng tôi lại, tuyên bố dỗ ngọt:
“Sẽ đưa nguyện vọng của anh em lên Bộ Công An để cứu xét gấp.”
Sau vài tuần chờ đợi, bọn chúng lại họp anh em chúng tôi lại, chia thành từng toán 20 người đưa lên xe đi, giải thích rằng:
“Trao đổi ở nhiều nơi khác nhau, nên phải chia toán ra mà đi.”
Toán thứ nhất có tôi, được đưa ra khỏi trại để lên xe.
Anh em c̣n lại vui ḷng chờ đợi tới phiên ḿnh.
Bất chợt, những người tù h́nh sự chạy vào báo cáo:
“Anh em trong toán vừa rồi, bị đưa lên xe bít bùng, vừa mới lên xe là bị c̣ng lại. Đưa đi đâu không biết!”
Anh em Biệt Kích c̣n lại họp khẩn với nhau:
Nếu đưa đi nơi khác làm thủ tục trao đổi, tại sao lại phải c̣ng lại? Tại sao phải ngồi xe bít bùng?
Như vậy, có nghĩa là anh em bị đưa đi trại giam khác, chứ không phải được đưa đi trao đổi.

Tất cả Biệt Kích yêu cầu quản giáo giải thích rỗ ràng, nếu không, yêu cầu trao trả đám anh em vừa mới được chuyển đi.
Bọn Công an từ chối giải thích và cũng từ chối trao trả đám tù vừa bị đưa đi. Không những thế, chúng c̣n chĩa súng ra lệnh cho anh em trở về khu nhà giam.
Nhịn không đuợc nữa rồi, anh em Biệt Kích quyết định:
Đánh!
Toàn thể hơn một trăm Biệt Kích bất chấp súng đạn, lưỡi lễ, đă nhào lên tấn công bọn Công an. Anh em dùng dao búa, đồ nghề và bất cứ thứ ǵ có thể dùng làm vũ khí, kéo bàn ghế làm chướng ngại vật để giao chiến với bọn Công An.

Bọn Việt cộng không chịu trao đổi th́ anh em Biệt Kích . . . Tự Trao đổi.
Phải thoát ra ngoài. Phải vượt trại. Phải vượt ngục.
Bọn Việt cộng cũng biết vậy, nên chúng kêu viện binh, thêm cả lính chính quy với đại liên và xe tăng trợ chiến. Kết cuộc, sau một ngày giao chiến, anh em Biệt Kích bị thúc thủ, lại bị bắt c̣ng tay giải đi từng trại khác nhau.
Toán đầu tiên của chúng tôi đă bị đưa trở lại trại Cổng Trời.
Vài ngày sau, đám Biệt Kích c̣n lại cũng lên nhập bọn và bị biệt giam ngay lập tức.

Khi được biết anh em v́ t́nh đồng đội, v́ chúng tôi mà đă bị bọn Công an đàn áp, chúng tôi chỉ c̣n cách nh́n nhau mà thương cảm, xót xa cho cuộc đời tù tội dưới chế độ Cộng sản.
Biệt Kích thương yêu nhau, dùm bọc lẫn nhau như thế đấy!
Tháng 6 năm 1975, đang nằm trong khu biệt giam, chúng tôi được bọn Công an cho nghe radio, phát tin:
“Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà đă đầu hàng Bộ đội Việt Cộng”
Anh em chúng tôi không ai tin cả, v́ đă một lần vào năm 1968, bọn chúng cũng đă cho chúng tôi nghe tin “Bộ đội Bắc Việt đă chiếm toàn cơi Miền Nam” Nhưng sự thật không phải là như vậy, nên lần này, dù bọn chúng có cho chug tôi nghe thật nhiều lần cái tin đầu hàng đó, chúng tôi cũng vẫn không tin, không nghe.

Măi tới tháng 10 1975, bọn Việt cộng tập họp chúng tôi lại, cho xem đoạn phim xe tăng Việt cộng húc đổ cổng sắt tiến chiếm Dinh Độc Lập, Tổng thổng Dương Văn Minh đọc lời hiệu triệu quân dân chính, kêu gọi quân nhân các cấp của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà buông súng ngưng chiến đấu.
Lúc đó, mặt trời mới hoàn toàn đổ xụp trên đầu chúng tôi.
Từ khi bị bắt tới bây giờ, anh em Biệt Kích chúng tôi sở dĩ c̣n sống đến ngày nay là nhờ vào ḷng tin. Ḷng tin một ngày nào đó Đại Quân Miền Nam sẽ tiến về giải phóng quê hương miền Bắc, tiêu diệt bọn Cộng sản dă man, mang lại hoà b́nh cho toàn cơi Việt Nam và giải cứu chúng tôi.
Inline image
Những người lính Biệt Kích đă chứng kiến cuộc sống an lành phồn thịnh của dân chúng ở miền Nam.
Những người lính Biệt Kích như chúng tôi, đă được trui luyện qua nhiều quân trường của quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Đào tạo ra một người lính Việt Nam Cộng Hoà đ̣i hỏi rất nhiều công phu sự luyện tập, đ̣i hỏi vừa khả năng về quân sự lẫn trí óc và ḷng tin. Ḷng tin vào chính nghĩa Tự Do, Cộng Hoà sẽ toàn thắng chủ nghĩa Cộng sản vô thần, vô tổ quốc, dă man, vô nhân đạo.

Đến khi bị bắt, chúng tôi đă được tận mắt chứng kiến mức sống cơ cực của người dân miển Bắc, đă được nh́n thấy những đám lính Cộng sản thiếu huấn luyện, vũ khí thô sơ, không có khả năng chiến đấu, chúng tôi đều có sự suy nghĩ, so sánh và kết luận là:
Miền Nam hơn Miền Bắc rất nhiều, do đó, chắc chắn quân đội của Việt Nam Cộng Hoà sẽ tiến về giải phóng Miền Bắc.
Sự thật xẩy ra đă quá trái ngược với niềm tin tưởng của chúng tôi.
Mặt đất dường như xụp đổ ngay dưới chân của tôi. Tôi đứng không vững, tưởng chửng như nếu bước tới một bước nữa, sẽ bị xụp xuống hố sâu.
Tôi mở mắt nh́n trời, mà tưởng chừng như bầu trời đă biến mất, không c̣n một tia sáng nào ỏ trước mặt.

Chúng tôi nh́n nhau, nói không nói lên lời, khóc không ra tiếng.
Niềm tin vào Miền Nam của chúng tôi đă xụp đổ!
C̣n ǵ để cho chúng tôi vịn vào đó mà sống nữa!
Một số trong anh em chúng tôi đă quá tuyệt vọng, đă tự tử.
Đến lúc này, chúng tôi mới chợt bừng tỉnh.
Trong chiến tranh, thắng bại là chuyện b́nh thường.
Tại sao lại phải chết?
Bại hôm nay, đâu có nghĩa là hoàn toàn bại trận.
Thắng hôm nay, đâu có nghĩa là măi măi thắng.
Lịch sử đă cho thấy, thua ngày hôm nay, ngày mai, năm sau, mười năm sau thắng lại vẫn là chuyện thường xẩy ra và có thể xẩy ra với Miền Nam Việt Nam.

Chúng tôi khuyến khích nhau, hỗ trợ tinh thần cho nhau để cùng đứng vững, cùng tin tưởng vào một ngày mai tươi sáng hơn.
Năm 1976, Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ và một số anh em từ trong Nam bị đưa ra ở cùng trại với chúng tôi, đă cho chúng tôi thật nhiều tin tức. Tin quan trọng nhất mà chúng tôi thu thập được là: Một số Sĩ Quan cao cấp của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đă thoát ra ngoại quốc và đang tổ chức những cuộc kháng chiến.

Thế là trong tâm khảm chúng tôi lại bừng lên một niềm hy vọng mới:
Sẽ lại có ngày ca khúc khải hoàn!
Đến năm 1977, bọn Việt cộng tập họp chúng tôi lại, loan tin:
Án chung thân cho tất cả các Biệt Kích được xoá bỏ. Kể từ nay, tất cả tù nhân sẽ được chuyển về các Nông trường để sản xuất.

Nghe th́ thật là nhân đạo, nhưng thực sự th́ là một phương cách chuyển trại tù mà thôi. Lư do là toàn thể nuớc Việt Nam bây giờ đều nằm trong tay bọn Việt cộng, chúng không c̣n sợ chúng tôi trốn trại nữa, nên thay v́ để chúng tôi ở trong tù, phí phạm, chúng chuyển chúng tôi về các nông trường sản xuất, bắt làm việc tự nuôi thân.

Tôi và một số anh em được đưa về Nông trường Hồng Thắng, ở Phú Lu, thuộc tỉnh Lào cay, để cuốc đất trồng khoai, trồng ḿ. Gọi là Nông trường cho có vẻ hoa mỹ, chứ thực sụ, nông trường này cũng nằm ở một góc rừng không có dân địa phương lai văng. Trong nông trường nhốt đủ mọi thứ tù: Từ tù h́nh sự tới dân sự, từ cán bộ tới bộ đội mà chúng gọi là “Hủ hoá, Tham ô”. Tù ra đồng từ sáng sớm tới tối mịt mới trở về khu nhà ngủ.

Những bữa ăn sáng trưa và chiều tối đều tập trung vào những lán, gọi là nhà ăn. Tất cá các loại tù đều xếp hàng ăn chung với nhau. Việc nấu nuớng ở nhà bếp và chia khẩu phần cơm canh được giao cho những tù h́nh sự, tức là những người ít ra c̣n được bọn Việt cộng tin tưởng, v́ họ sinh ra và sống muôn đời ở ngoài Bắc. Những tù nhân lo việc nấu nướng th́ an nhàn hơn và có thể dấu phần cơm thêm cho ḿnh, nhưng những người tù lo việc phân chia cơm canh lại không được an nhàn như vậy, v́ com canh là lẽ sống của tù, nên chỉ cần chia không đều một vài hột cơm, một nửa củ khoai hoặc sắn là các tù nhân có thể căi vă hoặc đánh người chia cơm liền lập tức, đôi khi đua tới đổ máu, giết lẫn nhau. V́ thế, dù là tù h́nh sự có dữ dằn tới đâu đi nữa, cũng không dám đứng chia phần cơm cho tù được quá một bữa. Các cai tù và tù chia cơm đành phải nhờ tới các Biệt Kích Miền Nam lo nhiệm vụ chia cơm. Lư do mà Biệt Kích Miền Nam dám làm và làm công viêc chia cơm một cách hoàn hảo, không phải v́ anh em Biệt Kích . . . dữ dằn hơn các loại tù khác, mà v́ những lư do như sau:
• Anh em Biệt Kích là những chiến binh can đảm, có số đông, lại luôn luôn bênh vực lẫn nhau. Anh em có đủ bản lănh để đánh trả những ai đụng tới ḿnh hoặc ức hiếp các tù nhân khác.
• Anh em Biệt Kích đều là nhưng người trọng danh dự, không làm lợi riêng cho ḿnh.
• Có đầu óc tính toán, biết cách làm việc, biết cách chia phần cho đồng đều. Đa số đều có tŕnh độ học thức, nên đều biết cách thức chế ra cái cân thăng bằng một đầu có dĩa đựng đồ ăn, đầu kia là quả cân bằng đá.
Ví dụ: Nếu mỗi người tù được nhận 100gram chất bột, th́ anh em cân thử trước mặt mọi người lần đâu: Để đồ ăn lên dĩa, rồi dời quả cân tới điểm thăng bằng và đánh dấu tại đó. Tới phiên lănh cơm th́ một anh xúc đồ ăn lên đĩa, anh kia dời quả cân tới đúng điểm đă đánh dấu, thế là xong, ai cũng có phần đúng như cân lượng.

Trong một bữa ăn trưa, sau khi tôi chia cơm xong, lấy phần của ḿnh ra một góc ngồi ăn, có một anh tù tới gần chỗ tôi ngồi ăn chung, tự giới thiệu anh ta tên Bưởi. Tôi hỏi anh thuộc loại tù ǵ? Anh thản nhiên trả lời:
“Tù . . . Tham ô”
Tham ô? Tôi hơi ngạc nhiên, v́ xứ Bắc nghèo nàn vô tận, có ǵ đâu để mà tham ô?
Anh thuộc loại cán bộ tập kết, lấy vợ là con gái của Phó Giám Đốc Mỏ Than Ḥn Gai. V́ tên Giám đốc ganh tị với bố vợ của anh, nên đă kết tội anh là tham ô, lăng phí. Anh bị kết án tù 10 năm, đưa lên làm lao động ở đây.
Sau vài lần ngồi ăn chung, một hôm, đột nhiên anh hỏi tôi:
“Hồi đó, tôi ở . . . căn nhà an toàn tại lầu 4 đường Trần Hưng Đạo, tôi có treo một bức h́nh Tổng Thống Diệm đang đứng hiệu triệu quốc dân. Không biết có c̣n không?”
Tôi giật ḿnh, lạnh sương sống, củ khoai lang mắc nghẹn trong miệng tôi, v́ tôi có thấy tấm h́nh Tổng Thống Diệm ở trên tường. Tôi im lặng quan sát anh Bưởi một lần nữa:
Anh Bưởi này là ai mà lại ở “Nhà An Toàn” của Biệt Kích?
Anh là ai mà lại treo tấm h́nh Tổng Thống Diệm lên trên tưởng?
Anh Bưởi vừa bóc vỏ khoai lang vừa nh́n quanh, khi đă quan sát để biết rơ không có ai nghe lén, anh mới tiếp tục nói:
“Tôi là Đại Úy Biệt Kích Lê Văn Bưởi, được đưa qua Thái Lan làm con nuôi một gia đ́nh cách mạng, rồi sau đó đưa về Hà Nội với tư cách . . . tập kết. Tôi được sắp xếp làm tại mỏ than Ḥn Gai. Nhiệm vụ của tôi là nhận đồ tiếp liệu từ Hà Nội dem về, nên lấy được nhiều tin tức lắm. Tên Thủ trưởng muốn tôi xuất kho những món hàng có thể đem bán được, tôi không chịu xuất, nên hắn t́m cách cáo buộc tôi là tham ô. Tôi bị tù nhưng v́ có bố vợ can thiệp, nên chỉ phải đưa đi làm lao động mà thôi.”
Tôi ú ớ, không biết có nên tin anh ta hay không? Tôi hỏi lấy lệ:
“Tụi nó đă biết . . . anh là ai hay chưa?”

“Chúng nó cũng là người thôi, chứ đâu phải là thần thánh ǵ để mà biết anh em ḿnh có mặt ở mọi nơi, và đang làm cái ǵ? Nếu chúng nó biết tôi là ai, th́ giờ này tôi đâu có ngồi đây mà nói chuyện với anh. Thôi, chào anh mạnh giỏi, ráng giữ vững tinh thần.”
Rồi anh đứng dậy, vươn vai đi trở lại chỗ làm.
(Ghi chú: Vào năm 2007, tôi có qua Mỹ dự đại hội “Biệt Kích Nhầy Bắc” và có gặp lại Đại Úy Bưởi. Anh kể tiếp cho tôi nghe đoạn cuối của cuộc đời Biệt Kích của anh:
“Năm 1984, tôi được tha, đem vợ con vào Saig̣n sinh sống. Khi nghe tin có chương tŕnh HO, tôi đi thằng tới Ṭa Lănh Sự Mỹ tŕnh diện. Họ coi lại sổ sách, có tên tôi là Biệt Kích Nhầy Bắc, gài tại Hà Nội, thế là họ cho cà gia đ́nh tôi qua Mỹ định cư.”
Anh Bưởi đă qua đời vào năm 2009.)

Anh em Biệt Kích chụp h́nh lưu niệm trước Quốc Hội Hoa Kỳ (1997) trong thời gian tranh đấu đ̣i quyền lợi. H́nh của http://www.chinhnghia.com/tiengnoicongly.asp
Năm 1978- 1979, chiến tranh biên giới giữa Trung cộng và Việt cộng bùng nổ, anh em Biệt kích c̣n bị nhốt ở trại Cổng Trời xôn xao bàn tán: Từ Cổng Trời tới biên giới Trung cộng rất gần, chỉ leo qua ngọn núi là tới. Hăy nhân dịp này mà vượt trại đi thôi. Ở đây th́ chỉ là kiếp tù đầy cho đến chết. Đằng nào cũng chết, chết trên đường t́m Tự do c̣n hơn sống nhục. Thế là một số anh em đă cùng với những Biệt kích của Trung Hoa Dân Quốc (Tưởng Giới Thạch) đă vượt trại đi qua Trung cộng. Số phận của họ ra sao, không ai được biết.

(Ghi chú: Cũng trong dịp đi dự đại hội Biệt Kích Nhầy Bắc vào năm 2007, tôi đă được biết tin: Số anh em Biệt Kích Trung Hoa Dân Quốc, trong đó có anh Ṿng A Cầu và Lê Trung Chính, sau khi vượt trại Cổng Trời, đă qua được tới Trung cộng. Bằng cách nào đó, họ đă liên lạc với Ṭa Đại Sứ Mỹ và cũng đă được bốc về Đài Loan và cuối cùng, họ đă chọn định cư ở Mỹ.)

Phần anh em chúng tôi (khoàng 18 người) ở Nông trưởng Hồng Thắng, bị bọn Công an chuyển về Hà Nội, trực thuộc Cục Quản Lư Trại Giam, để sửa chữa nhà cửa. Bọn chúng phát quần áo công nhân mầu xanh bỉển cho chúng tôi mặc, mỗi sáng đưa chúng tôi lên xe chở đi sửa chữa những trại giam bị hư hại. Sau một thời gian quen thuộc, chúng không đưa xe đi nữa mà bắt chúng tôi tự di chuyển bằng xe lửa. Mỗi buổi sáng, chúng tôi tới ga Hàng Cỏ đón xe lửa tới những trại giam được chỉ định để làm việc, tối lại đón xe lửa về Cục Quản Lư Trại Giam trính diện.

Một hôm, khi chúng tôi vừa tới nhà ga th́ thấy một số các bà các cô đang gồng gánh và khiêng những kiện hàng nặng chĩu xuống xe lửa. Những người này mặc dù mang vác đồ đạc nhưng họ có dáng điệu và cách ăn mặc khác hẳn đám đàn bà buôn bán thường đi xe lửa tại đây. Chắc chắn họ là thân nhân của các Sĩ Quan Miền Nam đang mang đồ đạc thực phẩm tiếp tế cho chồng đang bị tù ở những trại tù ở miền Bắc. Tôi tới gần họ nghe ngóng, một cô trẻ tuổi nói với mẹ:
“Má à, cái đồ này nặng lắm, để cho con “gắn” cho, má mang cái giỏ này đi.”
Trời ơi! Giọng nói của người Miền Nam!
Một giọng nói mà tôi tưởng chừng như là không bao giờ con nghe lại được nữa!
Trong phút chốc, tôi quên mất tôi là người sinh đẻ ở miền Bắc, để nhận tôi là người Nam, và cái giọng nói miền Nam đó là giọng nói của Mẹ Việt Nam của tôi, của đất nuớc tôi.

Nước mắt tôi trào ra. Tôi đứng im nh́n những người đàn bà mà tưởng chừng như đă được về nhà, đang đứng trước cửa nhà của tôi, và trong số những người đàn bà này có mẹ tôi, có cô d́ có chị em của tôi. Tôi mừng quá, chỉ muốn chạy ngay lại chổ bọn họ để mà hỏi thăm, để được nói những câu nói, được nghe những giọng nói mà tôi đă không được nghe từ hơn mười lăm năm trời nay.

Nhưng tôi kịp ngưng lại để nhớ thân phận ḿnh đang là tù, đang ở Hà Nội. Tôi đứng im để cố nhớ lại những tù ngữ miền Nam mà tôi đă học được suôt muời năm sinh sống ở Miền Nam của tôi, khi nhớ lại rồi, tôi chạy lại chổ các bà các cô đang khiêng hàng, cười tươi tỉnh, ráng lấy giọng miền Nam mà nói câu nói đầu tiên:
“Chào mấy chị. Mấy chị mang đồ đi thăm nuôi chồng học cải tạo đó, phải hông?
Tui cũng là người xứ Nam Kỳ như mấy chị đó, tui theo ba tui ra tập kết ngoài đây. Để tui phụ mấy chị khiêng đồ xuống nha.”
Những người đàn bà nghe tôi nói tiếng Nam pha giọng Bắc, mặc dù họ không biết tôi là cái thứ ǵ, nhưng trong xứ Bắc mà nghe được một giọng Nam th́ cũng một phần nào có ḷng tin, họ nhờ tôi khiêng những đồ nặng xuống để chung một chỗ. Tôi hỏi họ muốn đi thăm nuôi ở vùng nào? Trại nào? Rồi ra ngoài mặc cả xe thồ, xe kéo đưa họ đi. Trong khi sắp xếp phuơng tiện, tôi từ từ hỏi họ về t́nh hỉnh ở trong Nam ra sao? Nhất là vùng Thủ Đức, nơi cha mẹ tôi ở.

Chiều về, tôi lại đứng chờ ở ga xe lửa để đón những thân nhân đi thăm tù cải tạo. Tôi lại giúp họ mang vác và mướn xe để ḍ hỏi thêm tin tức trong Nam. Họ cho tôi biết, Việt cộng đă cho đổi tiền, đưa các sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đi tù cải tạo, đánh “Tư Sản Mại Bản”. Tôi cũng cho họ biết tôi theo cha đi tập kết, đă lâu không về miền Nam, nên muốn trở về thăm nhà, nhưng không biết làm cách nào để về, v́ không có giấy tờ, cũng chẳng có tiền bạc ǵ cả. Họ khuyên tôi nếu muốn về Nam, cứ đi về đi, Việt cộng chưa đến nỗi kiểm soát quá kỹ đâu, nhưng nên đi theo các xe chở hàng đỡ bị kiểm soát hơn.

Tối hôm đó, tôi nằm trong trại vắt tay lên trán suy nghĩ. Tương lai của tôi hiện tại chỉ là chôn chặt cuộc đời ở miền Bắc rồi chết đi như một người tù mà thôi. Đằng nào cũng chết, tôi phải bằng mọi cách trốn về Nam. Nhưng nếu đi bằng xe lửa, tôi không có tiền mua vé, dù có tiền mua vé, th́ cũng sẽ bị bắt ở các trạm kiểm soát. Do đó, tôi quyết định phải đi theo xe hàng như đă được thân nhân tù cải tạo chỉ dẫn.

Sáng hôm sau, tôi đi ḍ la bến xe chở hàng ở đâu? Đám xe thồ chỉ cho tôi lối đi tới bến xe Kim Liên. Tôi tới bến xe, vừa lúc một đoàn xe chở hàng ở miền Nam vừa mới tới. Những người tài xế đang túa ra quán ăn sáng, có một người tài xế không đi, đang lui cui mắc vơng nằm nghỉ. Tôi bước tới làm quen.

Anh tài xế cho biết, anh chở hàng từ Saig̣n thẳng tới Hà Nội, nghỉ một đêm rồi lại quay về Nam. Tôi nh́n kỹ trên cổ anh ta có đeo một giây chuyền có h́nh thánh giá. Mừng quá! Tôi đă gặp . . . phe ta rồi! Tôi cố t́nh bẻ cổ áo để lộ rơ cái giây chuyền có h́nh thánh giá đă lên nước bóng loáng của tôi, hỏi anh mới từ trong Nam ra phải không? Đường xá có hư hại nhiều lắm không? Vợ con ra sao? Cuối cùng, tôi hỏi anh trước đây anh có làm nghề lái xe “Tải” hay không mà dám lái đường trường như vậy? Anh cho biết, anh nguyên là Trung sĩ Quân vận của “Lính Ngụy”, nên lái xe đường xa thường lắm. Tôi lấy bổn cũ ra soạn lại, cũng tâm sự là dân miền Nam, tập kết ra Bắc, nhớ nhà quá, bây giờ muốn . . . quá giang xe của anh về Nam thăm gia đ́nh. Tôi nói rất ngậm ngùi là, ở ngoài Bắc này, tôi chỉ được nuôi ăn thôi, chứ không có tiền lương như ở miền Nam, nên sẽ không có tiền trả cho anh, chỉ xin tặng anh cây Thánh Giá bằng gổ Soan mà tôi đang đeo trên cổ.

Ngoài sự dự đoán của tôi, anh trung sĩ hỏi tôi một câu thật là . . . cắc cớ:
“Chú có Đạo, sao lại đi . . . tập kết?”
Tôi bí lối, ráng b́nh tĩnh trả lời:
“Hồi đó, tôi c̣n nhỏ . . . biểu đi th́ đi, chứ đâu có biết là đi đâu!”
Rồi cũng ngoài sự tưởng tượng của tôi, anh Trung sĩ không hỏi ǵ thêm nữa, mà đồng ư ngay:

“Muốn . . . dźa nhà th́ dźa. Tụi tui rời bến sáng sớm mai, muốn . . . guá giang th́ bốn giờ sáng mai có mặt tại đây.”
Tôi mừng quá, bắt tay anh rối rít hẹn sáng mai đúng bốn giờ sẽ có mặt.
Tôi hôm đó, tôi dặn tên công an gác cổng là ngày mai tôi phải đi làm sớm, sẽ rời trại lúc ba giờ sáng. Tên này đồng ư.
Đúng bốn giờ sáng, tôi có mặt tại bến xe Kim Liên gặp anh tài xế. Anh ta mời tôi một gói xôi rồi giới thiệu tôi với anh phụ xe. Xe nổ máy, anh cho tôi ngồi giữa.

Xe bắt đầu rời bến, tôi hồi hộp y như là lúc tôi ngồi trên trực thăng sửa soạn nhẩy xuống Nghệ An mười lăm năm trước đây.
Xe chạy ngang Huế, tôi thấy một vài cửa hàng có treo đèn trung thu, tôi mới biết là sắp tới rằm Tháng Chín.

Đoàn xe vào tới miền Nam mà không phải dừng lại ở bất cứ trạm kiểm soát nào. Cuộc đào thoát của tôi đă trót lọt một cách cực kỳ êm đẹp, không thể nào ngờ được. Trên đường đi, tôi đă nghĩ ra hàng ngàn khó khắn sẽ ập tới, và hàng ngàn câu trả lời mà tôi sẽ phải trả lời. Cuối cùng là nếu bị bắt, tôi sẽ . . . tự xử bằng cách nào để xứng đáng với một Biệt Kích Miền Nam và không làm liên lụy tới người tài xế Quân Vận.
Vậy mả không một khó khăn nào đến với tôi hết!
Xe vào tới địa phận Thủ Đức, tôi xin anh tài xế cho xuống, cám ơn anh, bắt tay anh thật nồng nhiệt.
Cám ơn Thượng Đế.
Cám ơn Đức Chúa Trời.
Con đă thoát khỏi ngục tù Cộng Sản rồi.
Cám ơn anh Trung sĩ Quân Vận của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Cầu xin Chúa phù hộ cho anh.
Lúc đó là bốn giờ sáng, trời c̣n tối lắm, tôi đi bộ tới cái quán cà phê đầu đường. Cái quán này có từ thời tôi nhập ngũ, nay vẫn c̣n đây. Tôi đứng lảng vảng chờ cha mẹ tôi đi lể buổi sáng. Theo thông lệ từ lâu đời, mỗi sáng, cứ vào khoảng năm giờ sáng là cha mẹ tôi dắt tay nhau đi lễ sớm. Khi chưa nhập ngũ, tôi cũng đă từng theo cha mẹ đi lễ sớm.
Đây rồi, mẹ tôi đang từ nhà buớc ra, tôi hồi hộp nhập theo đoàn người thưa thớt bước theo. Tới gần mẹ, tim tôi đập mạnh hơn bao giờ hết. Tôi muốn nói nhưng cổ tôi nghẹn lại. Tôi cố lên tiếng:
“Mẹ! . . . Mẹ ơi . . .”
Đến lần thứ ba tôi mới nói ra tiếng.
Nhưng tôi nói nhỏ quá, mẹ tôi không nghe rơ. Bà thấy có người đi gần th́ lảng ra xa. Tôi bước theo cố gắng nói cho bà đủ nghe:
“Mẹ ơi . . . Con là Hinh đây . . . “
Mẹ tôi quay lại nh́n tôi. Chắc bà nghe không rơ nên lại quay lại tiếp tục bước đi.
Tôi tiếp tục đi theo bà, nói tiếp:
“Mẹ ơi . . . Con là Hinh con trai của mẹ đây.”
Lần này, mẹ tôi đă nghe rơ, bà quay lại nh́n tôi, nh́n từ đầu đến chân:
“Thằng Hinh . . . đấy à.”
Rồi bà té xỉu xuống đất.
Tôi đă dự pḥng trường hợp này rồi, nên tôi ôm chặt lấy mẹ, d́u mẹ tiếp tục bước đi. Một lúc sau, mẹ tôi tỉnh lại, bà nắm chặt lấy tôi như sợ tôi lại biến đi, bà vừa khóc vừa hỏi tôi:
“Con . . . ở đâu về vậy?”
Tôi cũng vừa khóc vừa trả lời mẹ:
“Con nhẩy dù ra Bắc lấy tin tức t́nh báo, bị bắt tù từ ngày đó tới giờ. Con . . . trốn trại về đây.”
Mẹ nghe tôi nói th́ vội vàng đổi hướng quay trở lại:
“Về nhà! Về nhà ngay đi con.”
Hai mẹ con vội vă quay trở về nhà. Mẹ chờ tôi vào nhà, đóng cửa cài then chặt chẽ rồi mới hỏi tôi ngọn ngành.
Mẹ cho tôi biết, ba tôi đă mất cách đây ba năm. Anh em tôi một người đi Không Quân, lái trực thăng, đă chết trận, người kia là Đại úy Biệt Động Quân, đóng ở Long B́nh, sau 30 tháng Tư 1975 không thấy về nhà.
Tôi ở trong nhà suốt mấy ngày trời, hai mẹ con cố gắng t́m cách nào để hợp thức hóa sự có mặt của tôi.
Cuối cùng, mẹ tôi đă nghĩ ra cách giải quyết: Nhà tôi c̣n thân nhân ở lại ngoài Bắc. Tôi sẽ đóng vai chồng của đứa em họ ở Hà Nội vào Nam thăm gia đ́nh. Mặc dù từ thủa nhỏ tôi chưa hề đóng kịch, nhưng đóng vai người ở ngoài Bắc vào Nam th́ tôi rành đủ sáu câu.
Sau hơn mười lăm năm xa nhà, lại có thân h́nh gầy g̣ ốm yếu và cách phát âm đúng điệu Việt cộng, thêm bộ quần áo xanh công nhân mà ở trong Nam không thể có, nên ngay cả những người hàng xóm cũng không nhận ra tôi là ai?
Mọi chuyện được dàn xếp đâu vào đấy. Công an tổ dân phố cũng đă đến kiểm soát. Cái giọng Bắc chính cống Việt cộng, thêm bộ quần áo công nhân làm cho đám công an nể tôi lắm, không hỏi thêm bất cứ câu hỏi nào cả, cũng không thắc mắc tôi sẽ ở trong Nam bao lâu?
Nhưng không lẽ ông cháu rể cứ sống bám măi ở trong Nam, không về Bắc? Tôi không thể nào đóng măi vai này được, phải t́m cách khác giải quyết.
Sau nhiều lần bàn căi, mẹ tôi quyết định t́m đường cho tôi . . . Vượt Biên T́m Tự Do.
Tháng 11 năm 1979, người quen với mẹ tôi giới thiệu một mối ở Long Xuyên. Tôi xuống dưới đó, lên thuyền. Ghe chở đầy . . . muối, đi Rạch Giá.
Buổi tối, ghe chuyển hướng nhắm cửa biển xả máy chạy thẳng.
Đi bốn ngày đêm, tầu của chúng tôi được một tầu buôn vớt, kéo tới Singapore.
Vài tuần lể sau, phái đoàn Mỹ tới phỏng vấn tôi:
-“Anh là Biệt Kích được thả ra Bắc?
Đúng.
Anh có muốn định cử ở Mỹ hay không?
“KHÔNG!”
-Tại sao anh là Biệt kích mà lại không muốn đi Mỹ?
-Tại v́ chính quyền Mỹ đă bỏ rơi Việt Nam Cộng Ḥa, nên chúng tôi mới bị thua trận.
– Trong thời gian ở tù ở miền Bắc, anh có thấy bất cứ tù nhân Mỹ nào hay không?
– Có.
– Tôi đại diện cho chính phủ Mỹ, xin mời anh tới định cư ở Mỹ. Anh có thể cung cấp cho chúng tôi tin tức về những người tù binh Mỹ mà anh đă gặp, chúng tôi phải cứu dân của chúng tôi.
– Cám ơn ông đă mời, nhưng tôi không xin đi Mỹ đâu. C̣n về tù binh Mỹ, ông cứ việc hỏi, tôi sẽ trả lời.
– Rất tiếc, tôi không phải là người làm nhiệm vụ thâu thập tin tức t́nh báo. Tôi sẽ báo cáo trường hợp của anh cho cấp trên dể họ cử người xuống gặp anh.
– Vậy khi nào những người thâu thập tin tức đó tới, tôi sẽ nói cho họ hay.“
Tôi được chinh phủ Ḥa Lan chấp thuận cho định cư ở nước họ. Đúng bốn tháng trời ở trại tỵ nạn, tôi lên máy bay tới Ḥa Lan.
Bốn chục tuổi đời, tôi vẫn c̣n . . . Độc Thân Vui Tính.
Hai tháng sau khi tói Ḥa Lan, tôi nhận được thơ của Ṭa Dại Sứ Mỹ . . . mời qua Mỹ gặp Đại Tướng Smith của Biệt Kích Mỹ. V́ tôi là người Biệt Kích Nhẩy Bắc đầu tiên vượt thoát được lao tù Việt cộng, nên họ muốn nhờ tôi cung cấp những chi tiết cần thiết cho họ, mọi chi phí di chuyển, ăn ở . . . trong tḥi gian 6 tuần lễ tại Mỹ đều do toán này lo liệu.
Tất cả những câu trả lời về các trại giam Biệt kích, tôi đều trả lời đầy đủ.
Toán đặc nhiệm về tù binh Mỹ hỏi tôi có gặp bất cứ tù nhân Mỹ nào bị giam ở Bắc Việt hay không?
Tôi cho biết, khi sửa chữa những nhà tù ở Hà Nội, tôi có thoáng thấy những tù binh Mỹ bị giam ở đó.
Có bao nhiêu tù binh Mỹ?
Tôi không biết, chỉ thoáng thấy mà thôi, không được đứng lâu ở đó.
Tên họ những người tù binh Mỹ?

Cái đó tôi lại càng không thể biết được. Tôi đâu phải là công an Việt cộng đâu mà biết tên họ của những tù binh này.
Cuối cùng, tôi đoán ra mục đích của chuyến đi của tôi: Mỹ chỉ muốn biết về số phận của những tù binh Mỹ bị giam ở Bắc Việt mà thôi. Rất tiếc, tù Biệt kích không có giam chung với tù binh Mỹ, tôi chỉ xác nhận là có thấy những tù binh này mà thôi, ngoài ra, tôi không giúp ǵ thêm cho họ được cả.

Tôi trở về Ḥa Lan, lập gia đ́nh và tiếp tục cuộrc sống tỵ nạn.
Đến năm 1984, Việt cộng bắt đầu trả tự do cho những Biệt Kích Miền Nam, tôi có gỏi thơ về nhờ gia đ́nh t́m gặp một số bạn bè trong toán của tôi. Anh em Biệt kích vẫn liên lạc mật thiết với nhau, nên tôi t́m họ không khó. Tấm h́nh đầu tiên trong đời mà anh em Biệt kích chụp chung với nhau là tấm h́nh do Ninh “Côi” gởi cho tôi (Ninh mồ côi cha mẹ, lại chưa có bồ, nên chúng tôi đặt cho anh biệt hiệu “Mồ côi”). Ninh lấy vợ, đám cưới có đầy đủ những Biệt kích tới tham dự, họ chụp chung một tấm h́nh gởi cho tôi. Tấm h́nh này là gia sản độc nhất của cuộc đời Biệt kích của tôi. Tôi sẽ giữ nó măi măi . . .

Đám cưới của Ninh “CÔI”. Bạn bè và phù rể đều là anh em Biệt Kích
Nhầy Bắc.

Từ năm 1987, 1991 . . . 1992 . . . 1974, bắt đầu chương tŕnh HO, tất cả các Biệt kích đều được đưa qua định cư tại Mỹ. Chúng tôi vẫn tiếp tục liên lạc với nhau để giúp đỡ và bảo vệ quyền lợi của nhau.
Sau hơn mưới năm ở Ḥa Lan, với lư do đoàn tụ gia đ́nh, gia đ́nh nhỏ của tôi đă được bên vợ bảo lănh qua Úc sinh sông từ năm 1998.
Năm 2007, lần đầu tiên anh em Biệt Kích Nhẩy Bắc đă tổ chức cuộc hội ngộ tại Hoa kỳ. Tôi đă gặp lại những anh em cùng toán nhầy Bắc với tôi. Sau những hàn huyên tâm sự, chúng tôi dở sổ đời ra cùng ngồi lại tính toán với nhau.

Trong lần nhẩy cuối cùng ra Bắc, toán của tôi có sáu nguời, chỉ một ḿnh tôi bị bắt mà thôi. Năm anh em c̣n lại đă nhập vào những toán khác tiếp tục nhẩy ra Bắc, một người tử trận trong khi giao tranh, hai người khác chết v́ đói và lạnh ở trại tù Cổng Trời, c̣n ba người chúng tôi sống sót, đă gặp nhau và đang bàn tán với nhau đây.
Có một số người cho rằng, trước khi nhẩy ra Bắc, anh em chúng tôi đều được lănh trước . . . 12 tháng tiền tử!
Không. Không một ai trong đám Biệt Kích Nhẩy Bắc của chúng tôi được nghe nói tới hoặc lănh số tiền này cả.

Tính kỹ ra, mỗi kỳ nhẩy toán, xác xuất đều là . . . Năm Ăn Năm Thua. V́ tin vào xác xuất này, chúng tôi mới dám ra đi, chứ nếu biết . . . Đi là Chết, chắc chắn là anh em chúng tôi sẽ không bao giờ đi, mặc dù can đảm chúng tôi có thừa. Cấp trên của chúng tôi đều cũng lả Lính, đều cũng là người, không lẽ họ đẩy chúng tôi vào chỗ chết một cách b́nh thản như vậy sao? Chắc chắn trên thế giới, chưa có toán biệt kích nào ra đi để chắc chắn nhận lấy cái chết. Như tôi đă nói ở trên, nhẩy toán ra Bắc cũng chỉ là một cuộc hành quân, giống như những cuộc hành quân của những binh chủng khác trong quân đội mà thôi. Trước khi ra trận, ai cũng hy vọng trở về an toàn, Biệt kích nhẩy Bắc cũng vậy, chúng tôi cũng hy vọng trở về an toàn. Sống chết là do số mạng, do sự rủi ro, sự nguy hiểm của chiến tranh mà thôi.

Chỉ từ năm 1966 trở đi, không hiểu v́ lư do nào mà đa số anh em nhầy toán đều bị lộ, một số bị chết trong khi giao tranh, số c̣n lại đều bị bắt. Có thể là Sở Bắc đă bị bọn Việt cộng gài người vào, nên những toán sau đó mới bị lộ h́nh tich như vậy. Thật là đáng tiếc.
Tuy nhiên, chiến tranh là như vậy, chẳng có một quy luật nào cả.
Thắng một trận, chưa phải là hoàn toàn thắng.
Thua một trận, cũng không phải là hoàn toàn thua.
BIỆT KÍCH LUÔN LUÔN HY VỌNG VÀO NGÀY MAI
NGÀY MAI ĐÂY, ĐẠI QUÂN MIỀN NAM SẼ TRỞ LẠI.

Ông Sedgwich Tourison (một tù binh Mỹ, đă giúp đở và tranh đấu cho quyền lợc của anh em Biệt Kích Nhẩy Bắc) chụp h́nh chung với anh em Biệt Kích và gia đ́nh của họ. (H́nh trên internet)

GHI CHÚ:
Vào năm 1996, anh em Biệt kích đă làm đơn khiếu nại lên Quốc Hội Mỹ xin bồi thường và lănh tiền lương cho những tháng năm bị bắt giam tại Bắc Việt. V́ ngoài nhiệm vụ là người Lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, anh em c̣n kư hợp đồng cung cấp tin tức cho CIA nữa. Quư ông Sedgwick Tourison, Luật sư John Mattes, Thượng Nghị Sĩ John Mc Cain . . . là những người đă tích cực hỗ trợ và vận động cho anh em. Cuối cùng, vào năm 1999, Quốc Hội Hoa Kỳ đă chấp nhận bồi thường và cấp huy chương Phục Vụ cho tất cả các Biệt Kích Nhẩy Bắc.

Luât sư Jonh Matter (người đă giúp đở và bênh vực quyền lợi cho các Biệt Kích
Nhẩy Bắc) chụp h́nh chung với anh em Biệt Kích. (H́nh trên internet)

Biệt Kích Nguyễn Thái Kiên , Tŕnh A Sám, Thượng Nghị Sĩ John Mc. Cain, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot, Biệt Kích Kim Âu Hà văn Sơn tại một buổi điều trần của Quốc Hội Hoa Kỳ. H́nh của http://www.chinhnghia.com/tiengnoicongly.asp
MỘT NGÀY LÀ BIỆT KÍCH, CẢ ĐỜI LÀ BIỆT KÍCH.
NGƯỜI LÍNH BIỆT KÍCH CỦA QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ CHÚNG TÔI,
LÀ THẾ ĐẤY!./-
Theo nguyenkhapnoi.com

hoathienly19
09-23-2020, 16:46
LỰC LƯỢNG BIỆT KÍCH CỦA QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG H̉A



KXRvmr7UgSg

hoathienly19
09-24-2020, 06:11
BÁC SĨ TRẦN ĐÔNG A , ÔNG LÀ AI ?



https://i.postimg.cc/d1J5xqPf/11470-20200719021505-1595124905-4285-735x400.jpg


Sau vụ mổ cho 2 cháu Trúc Nhi và Diệu Nhi thành công, một số FBker đưa bài nói ông A là người phản bội. Tôi th́ không nghĩ vậy.


Trước hết tôi nghĩ ông ấy là một bác sỹ giỏi, bác sỹ Quân Y Nhảy Dù được VNCH đào tạo, lại được gửi qua Mỹ tu nghiệp th́ phải giỏi rồi.


Thứ đến tôi nghĩ ông ấy là một người khiếm thính, hăy đọc những ǵ Bác Sỹ Quân Y Nhảy Dù Tôn Thất Sơn viết về ông A trên Trang Đại Học Y Khoa Huế vào khoảng năm 2010:


Trích:

-Tôi gặp NT Trần Đức Tường sớm, vào khoảng 1982-1983 liên quan đến Mặt Trận Hoàng Cơ Minh. Sau một thời gian vài năm, tôi chấm dứt sinh hoạt với MT/Việt Tân. NT TĐT kể về Trần Đông A đại khái:



Trong thời gian trong tù cải tạo VC, TĐA đă có những lời nói “bưng bô” quá đáng, và NT TĐT có nói nhỏ với TĐA đại khái :


“ Toa nên nhớ ở đời, cũng phải biết cứt là thối hay thơm .”


Nay mọi người đều rơ TĐA là giáo sư y khoa, là đại biểu quốc hội VC. TĐA từng cùng với cựu YS Th/tá Trần Thành Trai chia cắt thành công cặp song sinh dính vào nhau.

Hết trích


Ông A c̣n là người thức thời, nghe nói ông ấy từ bỏ Đạo Thiên Chúa Giáo để làm đại biểu quốc hội csvn.


Ngoài ra ông ấy c̣n là người có đầu óc kinh doanh, nghe đâu vợ ông ấy làm ăn lớn có khu nghỉ mát ở Phan Thiết.


Ông ấy là người "có công", được huân chương lao động hạng nhất, được phong anh hùng lao động, thầy thuốc nhân dân.


Ông A c̣n là người biết chọn mặt gửi vàng. Tuy là thầy thuốc nhân dân, nhưng đâu phải nhân dân nào muốn được ông chữa cũng được, chẳng thấy ông ra Nhà Thờ Chúa Cứu Thế khám bệnh cho Thương Phế Binh VNCH bao giờ.



Ông ấy là một người hay quên, quên những ǵ ông quỳ xuống thề với trời đất, với Quốc Dân trong ngày lễ măn khóa của các bác sỹ quân y VNCH.


Nghe đâu ông ấy đă từng nói "là người làm nghề y, hễ ở đâu cũng là để cứu người", vậy th́ hăy để ông làm tṛn chức năng của ḿnh, một ông già đă trên dưới 80 tuổi, có tài và "tật" th́ xin đừng nói ông là người phản bội, tội nghiệp.



Tôi Yêu Miền Nam

hoathienly19
09-24-2020, 18:20
TRẦN ĐÔNG A , ÔNG LÀ AI ?


Hồi ức của Xuân Đỗ

Tên ông mới nghe tưởng ông là thầy thuốc nam, có tiệm thuốc bắc bên cầu Sắt miệt Gia Định. Nhưng ngoài đời ông lại là một bác sĩ Tây y, khi đi lính ông là một bác sĩ Quân y, hết đi lính ông là một tù cải tạo.



Hết cải tạo ông trở thành bác sĩ Giải phóng và suốt gần ba mươi năm sau ông vừa hành nghề bác sĩ vừa là Đại biểu Quốc hội CHXHCN/VN đại diện cho cử tri thành phố mang tên Bác.


Có điều lạ là vào lúc cuối đời cái lư lịch trích ngang của ông lại thêm một đảng tịch:


“ Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam ”.



https://nammoi2015.files.wor dpress.com/2015/04/savedpicture-201541714513.jpg



Cuộc đời ông tôi nghĩ là ông nên viết hồi kư, một cuộc đời rất trôi nổi, rất sôi nổi của một con người có ư chí, nhiều tài năng, đầy tham vọng, trải qua nhiều hiểm nguy nhưng cũng gặt hái nhiều tiếng tăm.


Tuy nhiên sự nghiệp cá nhân của đời ông vừa mang niềm tự hào kiêu hănh, vừa mặc cảm ray rứt khi ông trở thành ”con quay” của một thời kỳ đất nước đầy biến động từ lúc ông sinh ra đến nay đă vào tuổi cổ lai hy.


Khi đọc bài viết này, có thể ông hỏi ngược lại, “ tôi (tác giả) là ai ” mà dám hỏi “ông (TDDA) là ai”.


Ông thắc mắc là phải v́ tôi biết ông, nhớ ông, phục ông nên mới dám viết về ông, c̣n cá nhân tôi chẳng có ǵ nổi bật, nên ông coi tôi xa lạ là phải.



*


Ta hăy quay ngược thời gian, trở về những năm cuối thập niên 50, đầu 60.


Tôi và ông đều ở tuổi sinh viên, nhưng theo hai ngành khác nhau, ông được quân đội cho học ngành (bác sĩ) quân y, tôi học ngành (sư phạm) quân giáo.


Cả ông và tôi đều mang ơn quân đội để rồi khi ra trường sẽ trở thành những người lính hiện dịch phục vụ cho lính và con cái của lính.


T́nh cờ họ lại xếp chúng tôi, tuy khác ngành nhưng lại ăn ở nội trú cùng doanh trại với các ông, đó cũng là cái duyên v́ sao tôi quen biết nhiều thầy thuốc gốc lính.


https://baovecovang2012.file s.wordpress.com/2017/01/nhanbanvnch2.jpg



Phải nói những năm tháng này là thời gian đẹp nhất của đời sinh viên, đất nước chưa đi vào chiến tranh, cuộc sống thanh b́nh, xă hội ổn định, cả tôi lẫn ông đều có niềm tư hào đă chọn con đường mang thiên chức của thầy thuốc, của nhà giáo.

V́ cùng là cánh Bắc kỳ di cư nên tôi hay để ư đến ông, một người ít giao thiệp với bạn bè, lúc nào cũng chỉ chú tâm vào việc học.


Tôi biết ông quyết lấy bằng bác sĩ, coi đó là cách vượt khỏi số phận và ngoi lên với đời.


Ông cũng có cái khác đời là ăn mặc rất xuyềnh xoàng, ít chải chuốt, đi cái xe kiểu Lambretta “cởi truồng”, môĩ lần đậu xe anh em biết ngay là “thằng A mới về”.


Có điều lạ là ông không bồ bịch với cô nào, trong khi cuộc đời sinh viên anh nào cũng có những mối t́nh lẻ, nhất là cái mác y khoa của ông chỉ cần hứa chứ không cần “ chi ” mà vẫn có người theo.


Nói vậy chứ ông cũng có chơi bóng bàn, bóng chuyền và tham gia bích báo sinh viên. Ông có khiếu ăn nói, tranh căi, hiếu thắng, thích làm lănh đạo nhóm. Học hành nói chung không nổi bật (có thể v́ bài vở bằng tiếng Pháp), ai có ngờ đâu khi ra trường tay nghề của ông thuộc loại bậc thầy.


Ít năm sau mỗi người một ngả. Ông ra trường đúng vào cao điểm của chiến tranh. Qua bạn bè tôi được biết ông t́nh nguyện về đơn vị Nhảy Dù, một binh chủng thiện chiến bậc nhất và thương vong cũng cao nhất, đặc biệt số thương binh cần tải thương.


Tôi đánh giá nhầm về ông, tôi tưởng ông lạnh cẳng xin về các đơn vị hậu cứ. Lại ngạc nhiên hơn khi biết ông hay thực hiện các ca mổ ngay tại chiến trường. Pḥng mổ dă chiến phải đặt các bao cát đề pḥng trường hơp bị nổ do các đầu đạn c̣n nằm trong thân thể thương binh.


Ông nổi tiếng là một người thương lính, không quản thời gian, nguy hiểm trực chờ và là y sĩ có số ca mổ dă chiến nhiều nhất trong sư đoàn Dù. Bản thân ông không có pḥng mạch riêng, không thích làm tiền, và h́nh như chỉ muốn hiến thân cho nghề nghiệp.



https://www.tvvn.org/wp-content/uploads/2016/02/Mau_Than_68.jpg



*


Sau tháng tư đen, tôi với ông lại có dịp hội ngộ tại một trại gần Suối Máu. Lúc này trong hoàn cảnh tan hàng ông có vẻ ít nói và né tránh bạn bè.



https://nhatbaovanhoa.com/images/file/Ldm2Y14O0ggBAINA/image011.jpg


Nhưng khi vào đợt học tập “ chính sách mười điểm ”, trong phần kiểm điểm tôi lỗi và phát biểu tại Tổ, th́ ông như lấy lại được cái sinh khí tranh luận rất nhiệt t́nh của thời sinh viên, ông can đảm nhận “tội”,


Xf9gfc_7bq0


mà cái tội nặng nhất của ông là đi lính Dù và chữa lành cho nhiều lính “ngụy” để chúng trở lại chiến trường chống phá cách mạng.


QksJ6oWPNFA


Nếu kể về lư lịch bản thân, ông là cấp Tá, được xếp thành phần ác ôn lọai 2 (tác chiến Dù).


Về lịch sử gia đ́nh thuộc loại di cư chống Cộng.


Có liên hê với Mỹ v́ đi tu nghiệp phẫu thuật tại Texas.



Động cơ đi lính là diện t́nh nguyện chứ không phải bị bắt lính. Được khen thưởng nhiều huy chương (ít nhất 5 anh dũng bội tinh) kể cả một huân chương của sư đoàn Không kỵ Mỹ.



Nh́n chung ông có nhiều điểm giống tôi về mặt lư lịch, nhưng nhờ cái bằng bác sĩ của ông nên Đảng cần người, giơ cao đánh sẽ cho về sớm, không người nào quá ba năm. Trước khi ông được tha th́ tôi đă ra Bắc từ năm 76.


*


Mười hai năm sau trở lại Sàig̣n th́ được biết ông đă thành Giám đốc của một bệnh viện nhi khoa thành phố.


Cuối thập niên 80, tiếng tăm ông lại nổi như cồn v́ đă chủ tŕ và thành công trong ca mổ tách đôi hai em bé sanh đôi dính liền nhau có cái tên Việt &Đức.


Một ca mổ tuy có sự hỗ trợ về dụng cụ, kỹ thuật từ phía Nhật, nhưng về chuyên môn th́ chính ông và toán bác sĩ y tá Việt nam hoàn toàn đảm nhiệm.



Ca mổ làm cho các đồng chí trong thành ủy vô cùng tự hào, v́ từ nay thành phố mang tên Bác trở thành ngọn cờ đầu về lănh vực khoa học kỹ thuật trong cả nước.


Chẳng phải các đồng chí không thôi, chính chúng tôi là những người chế độ cũ cũng hănh diện khi người đồng đội cũ của ḿnh chứng tỏ tài năng cho cả nước về chức năng và sở học của ḿnh.



Tôi chắc ông cũng đă đọc bài báo của nhà học giả CS Trần Bạch Đằng viết cách đây mấy năm đă cảnh giác về sự cần cải tổ hệ thống giáo dục đào tạo nhân tài, trong đó ông có viện dẫn gương của hai bác sĩ Trần Đông A và Phạm Thành Trai :


“ Cứ nói họ được đào tạo dưới chế độ Mỹ ngụy, nhưng tài năng họ hơn ta rất nhiều ”.


C_ybWp0hntQ



Sau cái vụ mổ xẻ này th́ ông được tiến cử sung vào thành phần đại biểu quốc hội đại diện cho thành phố và cứ năm năm một lần được bầu lại cho đến khóa VI hiện giờ.


Chuyện này th́ cũng chẳng làm ai ngạc nhiên, các trí thức cũ có công với các mạng cũng đă được đề bạt vào chức danh này, cho nặng phần “mặt trận” đoàn kết đa nguyên.


Rất tiếc chuyện lại không ngừng ở đây. T́nh cờ đọc phần phỏng vấn cựu thủ tướng CS Vơ văn Kiệt trên V.W., chúng tôi mới được biết ông đă vào... Đảng, ai nói th́ tôi không tin nhưng ông Kiệt nói tôi tin v́ ông ta tự nhận là người đă giới thiệu ông để chứng tỏ với kiều bào hải ngoại là Cộng sản họ không có vụ kỳ thị và luôn có thiện chí muốn “nối ṿng tay lớn”.



Tôi có phần ngạc nhiên v́ lúc này nhiều nhà trí thức, tướng tá quân đội của họ đang trả lại thẻ đảng th́ ông lại t́m đường vào đảng.


Lại ngạc nhiên hơn với cái lư lịch và quá tŕnh bản thân như vậy th́ không thể nào trở thành người Cộng sản được.



https://lh3.googleuserconten t.com/proxy/LiIbYQ_sbkQJdObg8Rwr LlaVUl8-lTLcRyBI9IFeC7OomF2g FpDfdEWR87NxV2vNQj6m yzHqnFDBmtwo0npOWdwp nsTNNxOwa05w3s2vV881 kdY_scCW8HP9tS6Njq8O oTqWFkwrS2nha09RCARC


1. Điều kiện lư lịch gia đ́nh như thế nào th́ được xem xét kết nạp Đảng?

Thủ tục kết nạp Đảng như thế nào?

* Người vào Đảng phải:

- Có đơn tự nguyện xin vào Đảng.

- Báo cáo trung thực lư lịch với chi bộ.

- Được hai đảng viên chính thức giới thiệu.

Nơi có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người vào Đảng trong độ tuổi thanh niên phải là đoàn viên, được ban chấp hành đoàn cơ sở và một đảng viên chính thức giới thiệu.

Ở các cơ quan, doanh nghiệp nơi không có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người vào Đảng phải là đoàn viên công đoàn, được ban chấp hành công đoàn cơ sở và một đảng viên chính thức giới thiệu.

* Người giới thiệu phải :

- Là đảng viên chính thức và cùng công tác với người vào Đảng ít nhất 01 năm.

- Báo cáo với chi bộ về lư lịch, phẩm chất, năng lực của người vào Đảng và chịu trách nhiệm về sự giới thiệu của ḿnh. Có điều ǵ chưa rơ th́ báo cáo để chi bộ và cấp trên xem xét.

https://danluat.thuvienphapl uat.vn/5-giai-dap-thac-mac-dieu-kien-ket-nap-dang-142182.aspx


Tôi và có thể nhiều người tán đồng việc ông phục vụ -thông qua chế độ- là nhằm lợi ích cho dân, đem sở học của ḿnh để phục vụ tha nhân như bản thân ông thường tích cực thể hiện.


Nhưng rất tiếc sự mưu t́m một dấu ấn chính trị cho dài thêm lư lịch trích ngang, theo tôi, xét ra không cần thiết đối với ông, một con ngừơi đă khẳng định được vị trí của ḿnh trong quần chúng cả nước.


Xin ông cứ tiếp tục con đường của riêng ông.


Nhiều chiến sĩ Dù vẫn c̣n nhắc nhớ đến ông.


Riêng tôi th́ vẫn khâm phục ông và nhớ ông như một người đồng cảnh đă một thời nhờ quân đội miền nam cho ăn học nên người.


kWnCnQJ_g8I

hoanglan22
09-25-2020, 03:32
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1659821&stc=1&d=1601004652

Tháng Ba, Tháng Tư, 1975, là tháng chạy. Chạy chiến tranh. Chạy Cộng Sản. Dân khổ, lính c̣n khổ hơn. Đau nhất là có súng mà không được bắn. Có quân mà không được đánh. Không đánh mà phải thua; không thua mà phải chạy. Thành ra nghịch lư: đáng lẽ phải bảo vệ dân, lính phải chạy theo dân.

Trong lịch sử, chưa có cuộc chiến nào kết thúc một cách lạ lùng dường ấy. Đó là nỗi uất ức không có ǵ giải nỗi. Chẳng lạ ǵ, 44 năm sau khi tàn cuộc chiến, trong lúc có thể có người đă quên, nhưng người lính th́ không bao giờ. Bài thơ Tháng Ba, Tháng Tư nào của người lính miền Nam Việt Nam cũng ưu uất, tức tối. Lịch sử đă qua, nhưng những sự kiện lịch sử vẫn c̣n nằm đó.

Năm nay, Tháng Tư, tôi đọc vài bài thơ lính của hai tác giả, một là Cái Trọng Ty và hai là Nguyễn Phúc Sông Hương. Cả hai nhà thơ đều là sĩ quan trong Quân Lực VNCH. Trong những tháng ngày cuối cùng của cuộc chiến, hai ông ở hai hoàn cảnh tương đối khác nhau, do đó, thơ Tháng Tư của hai ông cũng có những h́nh ảnh và trạng thái tâm lư khác nhau. Nhưng cảm xúc th́ vẫn là cảm xúc. Đau. Buồn. Uất ức. Tháng Tư đến, đọc lại thơ hai ông, ḷng vô cùng cảm khái.


Hai bài thơ của Cái Trọng Ty, một, “Ban Mê;” và hai, “Tháng Tư Bẻ Súng;” nằm trong “Có Một Mùa Trăng Xa Người” (Thư Ấn Quán 2015), tập thơ đầu tay gồm có 60 bài cùa ông. Cái Trọng Ty đóng ở cao nguyên, ngay chính nơi là “thủ phạm” cho cuộc triệt thoái phi lư, đưa đến sự tan ră của quân đội VNCH: Ban Mê Thuột. Chứng kiến cảnh triệt thoái khiến thơ Cái Trọng Ty vừa thực, vừa bàng hoàng, xót xa xen lẫn phẫn uất. Bài “Ban Mê” (Ban Mê Thuột) khái quát h́nh ảnh đau ḷng của một khởi đầu bi thảm:

“này anh lính trẻ trói tay thất trận
ngày lui binh súng đạn tả tơi
tạ từ buôn bản theo đơn vị
chiều cao nguyên mắt cỏ mục vàng hoe
đêm pháo dập nghe chim trời vỗ cánh”

Một số chữ dùng, tuy rất b́nh thường mà nghe khá lạ, lại chính xác: “trói tay thất trận,” “mắt cỏ mục vàng hoe.” Chính v́ bị trói tay, không phải v́ khiếp nhược bỏ chạy, nên hơi thơ nghe đầy uất ức:

“tiếng hát hỏa châu rụng cánh sao sa
ḷng đau uất những điều không muốn nhớ
có v́ sao khuya thức dậy bên trời
sinh bất phùng thời
thiên hạ rối tung
ngày tháng ba giặc tràn qua tây vực
đêm ban mê tanh khiếp máu nhân quần
ở phía thành đô trời chớp lóe
đoàn quân ma trơ trốc núi xương khô”

Hai chữ trơ trốc (= trơ và trốc), lạ, hiếm có ai dùng, nhất là trong thơ. Nhưng ở đây rất gợi h́nh. Cả câu thơ “đoàn quân ma trơ trốc núi xương khô” như lột tả được hết thực cảnh của cuộc “trói tay thất trận” của lính trận VNCH đóng ở cao nguyên ngày đó.

Tháng Ba “trói tay thất trận,” nên có “Tháng Tư Bẻ Súng.” Bài thơ như một bút kư ghi lại thực cảnh chen lẫn nhiều cảm xúc khá phức tạp, khi th́ đớn đau, dằn xé, khi th́ trầm tư, khi th́ cay đắng, khi th́ chùng xuống, da diếc. Bài thơ bắt đầu bằng những h́nh ảnh dữ dội:

"Lương Sơn xa lắc đồi rỉ máu
ngựa cuồng quay quắt chiến trường xưa
đồng đội cũ đâu lưng nỗi chết
(…)
biển gầm núi hú quân tàn ră
lịch sử sang sông băo tố tràn
ráng chiều đỏ quạch trăng tận tuyệt
biển dâu cung kiếm bóng chiều sương”

Rồi đột nhiên trầm xuống, lắng đọng:

“về đây ngồi ngóng triền sông cũ
chợt thấm vô cùng thương tích xưa
tháng Tư bẻ súng người tự sát
oan khiên tận khốc nỗi niềm đau”

Sau đó, theo ḍng sự kiện và cảm xúc, khi th́ giọng thơ lên cao, ưu uất, khi th́ trầm xuống, ngậm ngùi, cay đắng:

"quân về xuôi tan tác phương Nam
mịt mờ chiến trận
mây lửa mênh mông
(…)
em đau đớn
t́m anh vô vọng
cái chết tuổi tràn xuân
(…) chàng phiêu giạt
rời Sông Pha cùng đơn vị bơ vơ (…)
nước mất thân vong
ngậm ngùi quê quán cũ…
(…)
tháng Tư đêm đen
đồi chiêm rực lửa
trời sông Lâu trôi cuối mùa Xuân
khổ nạn chập chùng
bèo dâu vạn hướng”

Bài thơ kết thúc bằng hai h́nh ảnh chia cách nhau nhưng phản chiếu lẫn nhau, giữa người lính và người t́nh. Gắn bó và cách biệt. Đắm đuối và tan nát.

“băi trầm luân se sắt
băo đời xoay
thân lính trận rách bươm

em trồng một đóa hoa trên đá
vỡ nát tàn phai một cuộc t́nh
ngày ấy bên sông tàn nắng mật
chiều vàng rơi lại giọt thiên thu”

Những h́nh ảnh ghi lại thật bất ngờ: trồng hoa trên đá, tàn nắng mật, giọt thiên thu.

“Em trồng một đóa hoa trên đá.” Câu thơ đẹp và buồn.

Ngậm ngùi đến thế th́ thôi!

***

Nếu Cái Trọng Ty bi phẫn, tuyệt vọng v́ phải bẻ súng, th́ tâm trạng của một người lính khác, Nguyễn Phúc Sông Hương, có phần hơi khác. Nguyễn Phúc Sông Hương đóng quân ở Xuân Lộc. Trong lúc các miền Trung và cao nguyên chạy th́ pḥng tuyến Xuân Lộc vẫn c̣n đứng vững. Lính vẫn c̣n cầm súng, chưa đi theo ḍng người di tản hỗn loạn.

Nhưng rồi, đến những ngày cuối Tháng Tư, trong cơn vật vă đau thương của lịch sử miền Nam, đơn vị ông cũng đành ôm hận, lui quân. Nếu “Tháng Tư Bẻ Súng” là một bút kư th́ “Nửa Hồn Xuân Lộc” là một tùy bút, vừa t́nh yêu, vừa t́nh đất, vừa t́nh lính. Cả mấy thứ t́nh chen lộn lẫn nhau. Hơi thơ lúc đầu nghe vẫn c̣n b́nh tĩnh, chừng mực nhưng chứa chan ân hận.

“C̣n ta nhận lệnh rời Xuân Lộc
Lại muốn t́m em nói ít lời,
Nhưng sợ áo ḿnh đầy khói súng
Cay nồng mắt người gục trên vai.

V́ chắc ôm nhau em sẽ khóc,
Khóc theo, vợ lính cả trăm người!
Em biết dù tim ta sắt đá
Cũng vỡ theo ngàn giọt lệ rơi.

Mây xa dù quen đời chia biệt
Ngoảnh mặt ra đi cũng ngậm ngùi.
Rút quân, bỏ lại hồn ta đó
Bảo Chánh, Gia Rai lửa ngút trời!

Bí mật lui quân mà đành phụ
Mối t́nh Long Khánh tội người ơi.
Mất thêm Xuân Lộc tay càng ngắn
Núm ruột miền Trung càng xa vời.
(…)
Đêm nay Xuân Lộc vầng trăng khuyết
Như một vành tang bịt đất trời!
Chân theo quân rút, hồn ta ở
Sông nước La Ngà pha máu sôi
(…)
Ta đi, áo nhuộm màu đất đỏ
Cao su vướng tóc măi thơm mùi,
Tiếc quá nắng vàng phơi áo trận,
Vườn nhà em chuối chín vàng tươi.
Ta nhớ người bên đàn thỏ trắng,
Cho bầy gà nắm lúa đang phơi,
Chôm chôm hai gốc đong đưa vơng,
Ru nắng mùa xuân đẹp nụ cười…”

Nhưng càng về sau, hơi thơ càng nghe uất ức:

“Nếu được đưa quân lên Định Quán
Cuối cùng một trận cũng là vui
Núi Chứa Chan kia sừng sững đứng
Sư đoàn 18 sao quân lui?
Thân ta là ngựa sao không hí
Cho nỗi đau lan rộng đất trời.
Hồn ta là kiếm sao không chém
Rạp ngă rừng xanh, bạt núi đồi.
(…)
Chân bước, nửa hồn chinh chiến giục
Nửa hồn Xuân Lộc gọi quay lui.”

Bài thơ kết thúc bằng một h́nh ảnh bi thảm và buồn thảm:

“Ta biết dưới hầm em đang khóc
Thét gầm pháo địch dập không thôi
Em ơi Xuân Lộc, em Xuân Lộc
Xích sắt nghiến qua những xác người.”

Rồi đến cái ngày định mệnh tàn nhẫn ấy: 30 Tháng Tư!

Lính đau! Miền Nam đau! Đất nước đau!

Có lẽ không có h́nh ảnh nào kỳ lạ bằng h́nh ảnh nảy, ghi dấu ngày tàn cuộc chiến:

“Tiểu đoàn hai hàng đều bước
Tay không súng đạn,
Vẫn ngước cao đầu,
Dân làng bên đường
Vỗ tay chào đón,
Người được thắng trận
Ngơ ngác nh́n nhau.”

Đoạn thơ này nằm ở trong một bài thơ khác, cũng của Nguyễn Phúc Sông Hương, “Chén cơm làng Long Thạnh Mỹ ngày 30-4.”

Để kết thúc, xin trích một đoạn ngắn trong một bài viết khá dài, “Mỗi tháng Tư về…” của một cô giáo trẻ lớn lên ở miền Bắc (Hải Pḥng), Thảo Dân, t́m thấy trong Facebook của cô, nhắc đến chiến trường Xuân Lộc: (1)

“Tôi từng vô cùng xúc động khi bạn gửi cho vị trí sông La Ngà trên Messenger. Nh́n chiếc xe nhích từng ô trên địa đồ, tôi như nh́n thấy trước mắt ḿnh, từng đoàn quân của Sư Đoàn 18BB kiêu dũng đang lặng lẽ rút khỏi Xuân Lộc vào trung tuần Tháng Tư năm 1975 sau những trận đánh được ghi vào Quân Sử VNCH như một chiến thắng sau cùng, bi tráng nhất, ác liệt nhất và tầm vóc của nó không thua kém bất kỳ trận huyết chiến nào trên thế giới. Nhưng cuộc tử thủ phá ṿng vây phong tỏa như trận Leningrad kinh điển trong Chiến Tranh Thế Giới 2 đă không xảy ra…

‘Đêm nay Xuân Lộc vầng trăng khuyết
Như một vành tang bịt đất trời!
Chân theo quân rút, hồn ta ở
Sông nước La Ngà pha máu sôi.’

Chưa khi nào, con sông La Ngà trong sử sách, trong thơ của Nguyễn Phúc Sông Hương, vị tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 3, Sư Đoàn BB18 lại gần với tôi tới như thế.”

***

Cái Trọng Ty là sĩ quan quân lực VNCH. Sau 1975, ở tù Cộng Sản 10 năm. Định cư tại Hoa Kỳ năm 1991.

Nguyễn Phúc Sông Hương, tên thật là Nguyễn Hồng Phúc. Vào Tháng Tư, 1975, ông là tiểu đoàn trưởng thuộc Sư Đoàn 18 BB, người trực tiếp cầm tiểu đoàn dự trận Xuân Lộc ngày 29 Tháng Tư. Sau 30 Tháng Tư, đi tù gần 10 năm. Hiện định cư tại Hoa Kỳ.

Trần Doăn Nho

hoanglan22
09-25-2020, 15:02
Tập 'Quân sử Không Quân' trang 199 ghi lại: 'Về Không quân VNCH ngoài một số nhỏ quân nhân và gia đ́nh được di tản bằng phi cơ C130, C141 của KQHK từ ngày 20/4, đa số c̣n lại chỉ di tản sau ngày 28/4/1975, khi Bộ Tư lệnh KQ không c̣n hoạt động theo đúng chức năng của một Bộ Tư lệnh nữa..

Số lượng phi cơ của KQVN bay thoát được sang Utapao, Thái Lan, do các tác giả đưa ra, không thống nhất, theo Robert Miskesh trong 'Flying Dragons: the South Vietnamese Air Force th́ tổng cộng vào khoảng 132 chiếc, gồm khoảng 25 F5, 27 A37, 11 A1, 13 C47, 6 C130, 3 AC 119, 5 C7 và 45 UH1., trong khi đó Wayne Muntza, trong The A-1 Skyraider in Viet Nam: The Spad's Last War, và Ralph Wetterhahn trong 'Escape to Itupao th́ con số máy bay được cho là 165 chiếc. thêm vào đo là các U-17 và O-1, ngoài ra không kể vài phi cơ dân sự của Air VN..

Cũng vào ngày cuối cùng, một số trực thăng đă bay ra đáp xuống các chiến hạm của HQHK, con số này được ước lượng là khoảng 100 chiếc, đa số là UH1 và CH47..Cũng có những chiếc tuy bay được ra biển nhưng do trục trặc kỹ thuật, hoặc hết nhiên liệu đă rớt xuống biển..Con số này được ước lượng là khoảng 18 chiếc..'

37 năm sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, các tài liệu quân sự được giải mật và những bài hồi kư, bút kư của nhiều tác giả trong cuộc đă giúp 'vẽ lại' toàn cảnh (tuy có thể chưa hoàn toàn chính xác) về cuộc di tản..hay đúng hơn là 'tự tan hàng' của KQVNCH.

Cuộc di tản chiến thuật, rút bỏ Quân Đoàn 2, ngày 6 tháng 3 năm 1975 đă bỏ lại tại Pleiku 64 phi cơ các loại.

Ngày Quân Đoàn 1 tan hàng tại Đà Nẵng (30 tháng 3, 1975), 180 phi cơ đă bị bỏ lại.. trong số này có 33 phi cơ vận tải C-7 Caribou đang bị đ́nh động c̣n bọc kin trong bao tồn trữ..

Trong những tháng cuối củng của cuộc chiến, khả năng chiến đău của KQ VNCH càng ngày càng bị giơi hạn do không c̣n một Hệ thống chỉ huy và kiểm soát hữu hiệu. KQ VNCH không có những phi cơ trang bị hệ thống chỉ huy, dẫn đạo không trợ bay trên vùng cần yểm trợ hành quân (theo phương pháp của KQ HK, dùng các C-130 làm trạm chỉ huy trên vùng). Trong khi đó sự kiện bị mất các Đài Kiểm báo và Không trợ như Trung Tâm CRC (Combat Report Center) Panama Đà Nẵng, các Trạm CRP (Combat Report Point) Peacock PleiKu, Pyramid Ban Mê Thuột..đă khiến Hệ thống Kiểm Báo Chiến Thuật trở thành tê liệt, vô hiệu.. Tuy Trung Tâm CRC Tân Sơn Nhất vẫn c̣n hoạt động nhưng nhiệm vụ chinh lại..không phải là để điều hành cac phi vụ yểm trợ chiến trường, hoặc hương dẫn oanh tạc các mục tiêu dươi đất.. Các phi vụ oanh tạc tùy thuộc vào các phi cơ Quan sát FAC (Forward Air Controller= Điều không tiền tuyến) và tùy phi công có mặt trên vùng..nhận định mục tiêu bằng mắt thường..

Vào thời điểm của Trận Xuân Lộc: KQVNCH c̣n 1492 phi cơ các loại, trong đó có 976 chiếc hoạt động được, 135 chiếc hư hỏng không bay được và 381 chiếc kể như phế thải..Lực lượng phi cơ chiến đấu gồm 169 chiếc A-37 (trong đó 92 chiếc khả dụng) và 109 F-5s (93 chiếc khả dụng).

Những phi vụ hành quân cuối cùng của KQ VNCH trên không phận Sài G̣n:

Trong những ngày cuối cùng của VNCH, KQVN vẫn c̣n hoạt động vơi một số phi vụ yểm trợ bộ binh và chống pháo kích. Đ/úy Phi công Trần văn Phúc PĐ 518 ghi nhận một số phi xuất trong những ngày 28 và 29 tháng 4 như:

PĐ 518 với Phi vụ Phi Long 51 do một phi tuần gồm 2 Skyraiders..(một do Đ/u Phúc và 1 do Th/tá Trương Phùng) bay vào sáng 29/4. Phi cơ của Th/tá Phùng bị pḥng không BV bắn hạ. Ông đáp xuống ruộng gần cầu B́nh Điền, bị bắt và sau đó bị CQ hành quyết vào ngày 30 tháng 4.

PĐ 514 với một phi tuần 2 Skyraiders cất cánh từ Cần Thơ để bay trên không phận Sài g̣n vào sáng 29..do các Th/tá Hồ ngọc Ân và Đ/u Nguyễn Tiến Thụy điều khiển.

Những phi vụ Tinh Long của các AC-119 như Tinh Long 06, Tinh Long 07..

Tinh Long 07 (sáng 29) do Tr/u Trang văn Thành điều khiển đă bị SA-7 của CQ bắn hạ, phi cơ gẫy làm đôi và rơi ngày tại ṿng đai phi trường.. Phi hành đoàn gồm 9 người, 8 hy sinh ngoại trừ nhân viên nhảy dù thoát được.

Theo Đ/u Phúc 'ngoài Tinh Long 07, c̣n có thể c̣ thêm 2 AC 119 khác bị bắn hạ (?) (một rơi tại đường Ngô Quyền, và một rơi tại Tân Tạo..).

Sáng 30 tháng 4, một phi xuất A-37 (PĐ 526) từ Cần Thơ, phối hợp với O-1 (PĐ112) từ Đồng Tâm..bay yểm trợ khu vực Hoàng Hoa Thám ngay trước giờ DV Minh tuyên bố đầu hàng..(A-37 do Tr/u Nguyễn Mạnh Dũng điều khiển); (O-1 do Đ/u Mai Tri Dung). Đây có thể là phi vụ hành quân cuối cùng của KQ VNCH..

(Xin xem bài: Những Phi vụ hành quân sau cùng của KQ VNCH, của Trần Lư)

Những giờ phút cuối cùng tại Bộ Tư lệnh KQVNCH

Chiều 28 tháng 4, CSBV đă dùng 4 A-37 (lấy được, từ Phan Rang) oanh kich Phi trường TSN, gây tổn hại cho 3 chiếc C-119 và nhiều C-47.

Tối 28 tháng 4: một sự kiện 'kỳ lạ' đầy bí ẩn đă xẩy ra tại TSN: Tác giả Thiên Lôi Ngô Đưc Cửu trong 'Chuyện 30 năm trước' (website bgkq.net/hoiky) ghi lại như sau:

..'8 giờ tối 28 tháng 4 năm 1975..tôi trở về ụ đậu phi cơ đầu phi đạo 07 phải, nơi tạm trú của 3 Phi đoàn 524, 534 và 548 di tản từ các căn cứ về..Bước xuống xe, tôi thấy các nhân viên phi đạo đang bận rộn kéo các A-37 trang bị đầy bom đạn từ trong ṿm trú ẩn ra đậu hàng ngang dài phía trước, cách ụ 50 feet. Tôi bước đến hỏi Trưởng phi đạo tại sao dời phi cơ khỏi ụ ? Anh ta trả lời:theo lệnh Trung tá kỹ thuật và Bộ CH Hành quân..Tôi vào pḥng trong ụ, nhắc điện thoại gọi TT Hành quân, th́ sĩ quan trực cho biết h́nh như lệnh của Bộ Tư lệnh KQ hay..Bộ TTM..ǵ đó ? Tôi hỏi:Anh có biêt là hồi chiều phi đạo 07 vừa bị dội bom không ?..Tôi liên lạc với Đ/tá Ước, nhưng không được..Trở lại băi đậu,tôi yêu cầu Trưởng phi đạo di chuyển phi cơ trở lại ụ, nhưng không được..

Tôi tự hào trong hàng ngũ phi công khu trục KL VNCH, nhất là KĐ 92 có các PĐ 524, 534, 548 cho đến giờ phút này: 22 giờ 18 tối 28 tháng 4 tât cả phi công đều có mặt ứng chiến, không thiếu một ai.

Suốt đêm tất cả anh em 3 phi đoàn chờ đợi, điều động cất cánh..nhưng tuyệt nhiên không một tiếng điện thoại reo..

Nửa đêm VC bắt đầu..pháo kích.. và hơn 50 chục A-37..bị phá hủy.. Giờ đây hơn trăm phi công chiến đấu bằng tay không ư?

6 giờ 15 sáng 29, tât cả phi công lên xe chạy về Bộ Chỉ huy KĐ 33..Đ/tá Thảo chạy vào rồi chạy trở ra..Đến nơi các pḥng vắng lặng, không c̣n ai cả..Trở lại sân cờ KĐ 33, Đ/tá Thảo tuyên bố tạm thời tan hàng, anh em rán tự t́m lấy phương tiện di tản..

Mọi người xuống xe, nhưng chạy về đâu bây giờ ? Tan hàng, nghe thảm thiết quá. Một trong những đơn vị chiến đấu kiên cường nhất của QL VNCH, giờ đang bị bó tay. Lệnh ai sắp hàng ngang trên 50 chiếc A-37, cánh liền cánh, xăng nhớt, bom đạn trang bị đầy đủ để hủy diệt ? Nếu không cho chúng tôi chiến đấu th́ cũng để chúng tôi có phương tiện ra khỏi ṿng đai đang bủa quanh phi trường chứ ? Chúng tôi đâu có..ră ngũ ?..'

Sự kiện phi cơ bị 'tự hủy'(?) này cũng được ghi nhận trong 'Can trường trong Chiến bại' của Tướng Hải Quân Hồ văn Kỳ Thoại, trang 306-307' như sau:

'Tới đêm 28 tháng 4, tại căn cứ Duyên đoàn ở Vũng Tàu, một sĩ quan KQ cấp tá xin vào gặp tôi và cho biết có một số trực thăng đang đậu tại Vũng Tàu.. có Tướng Huỳnh Bá Tính, Sư đoàn trưởng SĐ 3 KQ muốn đến gặp tôi, cần tŕnh bầy một sự kiện quan trọng..

Tương Tinh vào căn cứ duyên đoàn gặp tôi và các tướng lănh khác (Nguyễn duy Hinh, Trần văn Nhựt..).. kể chuyện xẩy ra, rất bi thảm Ông không biết lịnh từ đâu..bỗng nhiên một số phi cơ phát nổ, sau đó được biết có lệnh của Saigon..cho phá hủy các phi cơ của KQ ?

Tướng Tính phân vân..không muốn về tŕnh diện Bộ TLKQ..khi ông chưa biết ai ra lệnh hủy phi cơ thuộc SĐ của ông ? Chúng tôi thuyết phục ông Tính liên lạc trực tiếp với Tướng Minh TL KQ..

Trong đêm 28, rạng sáng 29 tháng 4 CQ bắt đầu pháo kích vào Phi trường TSN phá hủy nhiều phi cơ..

Khoảng 8 giờ sáng, Tướng Phan Phụng Tiên, Sư đoàn trưởng SĐ5 KQ, đến gặp Tướng Minh, và sau đó bỏ đi.

10 giờ 30 phút sáng 29 tháng 4, sau khi họp riêng vơi Tướng Minh Tư lệnh KQVN, Tướng Nguyễn Cao Kỳ (không có một chức vụ chính thức nào trong Chính Phủ cũng như trong Quân lực VNCH), bay trực thăng riêng về Bộ TTM..Thấy không c̣n ai.. Tướng Kỳ gặp Tướng Ngô Quang Trưởng..ngồi không nên rủ Ông Trưởng cùng lên trực thăng, theo đoàn tùy tùng bay ra USS Midway đang đậu ngoài khơi Vũng Tàu.

Khoảng 11 giờ, Trung tướng Nguyễn văn Mạnh Cựu TMT Liên quân cùng với Trung tướng Dư Quốc Đống vào gặp Tướng Minh.. Sau khi chờ không thấy HK liên lạc như đă dự trù, Tướng Minh cùng các Tướng Tá Bộ binh và KQ tùy tùng đă di chuyển sang DAO để chờ di tản..

Kể từ 1 giờ trưa: Trung Tâm Hành quân KQ kể như bỏ trống. Các Phi đoàn trưởng..ra lệnh tự tan tan hàng..phi công bay đi đâu hoặc chạy đâu, tự ư quyết định..

Riêng SĐ 4 KQ tại Trà Nóc Cần Thơ, c̣n hoạt động (cho đến sáng 30/4 một số phi vụ vẫn từ Cần Thơ bay lên yểm trợ chiến trường quanh Sài G̣n) và Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Tần, Sư đoàn trưởng có thể được xem là vị Tư lệnh sau cùng của KQ VNCH (?)

Trong bài bút kư 'Giây phút nát ḷng' (Lư Tưởng Tháng 4/2002) Tác giả Không Quân Liệt Lăo, Chỉ huy trưởng Pḥng vệ BTLKQ đă kể lại những giây phút tan hàng tại Tân Sơn Nhất với những đoạn tạm trích như sau:

..' tôi lên tŕnh diện Tư lệnh bộ, toan phúc tŕnh t́nh h́nh pḥng thủ, nhưng chẳng ai bận tâm. Người người nh́n nhau đăm chiêu dường như trong thâm tâm ai cũng muốn buông rơi tât cả..Ai cũng thần sắc không c̣n, dũng khí tiêu tan như 'đại bàng xệ cánh'..'Tôi trông chờ một lệnh họp khẩn cấp, duyệt xét t́nh h́nh chung, lấy quyết định tối hậu 'Chiến' hay 'lui' Chiến th́ chiến ra sao ? Lùi th́ lùi thế nào ? Có tuần tự, trước sau, không bỏ một ai hay hỗn loạn..mạnh ai nấy chuồn ?.. Tôi chờ lệnh, nhưng không có lệnh ?

Bài viết có thêm những chi tiết di tản của một số Tướng KQ và BB như:

..' Tôi đưa tay chào nghiêm túc theo quân cách, Cửu Long (danh hiệu của Tường Minh, Tư lệnh KQ), chào trả, ngập ngừng chân bước, ái ngại nh́n tôi và đột nhiên dứt khoát:

Toa ở lại, đi sau với Lành (Tương Vơ Xuân Lành) nghe..

..' Tôi mỉm cười, quay bước vào pḥng t́nh h́nh, lúc này chỉ c̣n Ông Linh, ông Lành, ông Lượng đă đi đâu lúc nào tôi không biết. Được một lúc khoảng 10 giờ ǵ đó, Ông Ươc (Đ ta Vũ văn Ươc) đáp trực thăng trên sân banh, chạy vội vào gặp ông Lành, xong cùng ông Lành trở ra, kéo luôn theo tôi, miệng nói:

Đi mày..

Tôi nh́n Lành, quay qua hỏi Ươc: Đi dâu ?

Qua Tổng Tham mưu xem t́mh h́nh ra sao ?

Ước nói và nắm tay tôi..lôi đi..Tôi, Ước, Linh lên trực thăng qua đáp tại sân cờ trươc tiền đ́nh Bộ TTM.Linh, Ươc chạy lên văn pḥng TTM trưởng..Tôi không theo..

Đảo mắt chỗ khác thấy trực thăng Tương Kỳ. Đàn em trước kia của tôi hiện là cận vệ ông Kỳ, vội từ trực thăng nhảy xuống chạy đến tôi nói nhỏ: Trực thăng sẽ bay ra Blue Ridge.. ông hảy lên, cùng đi..Tôi hỏi: Tương đâu ?- Họp trên văn pḥng TTM Trưởng..

Tôi bước lại trực thăng, nh́n vào..thây Hà Xuân Vịnh (Đ tá) ngồi trên đó từ hồi nào..Tôi leo lên ngồi cạnh.. Đang miên man suy nghĩ cho mạt vận của đất nước, mạt kiếp của ḿnh th́ ông Linh từ bộ TTM chạy ra một ḿnh đến bên trực thăng có tôi và Vịnh đang ngồi đăm chiêu, mỗi người một ư nghĩ..Linh cứ loanh quanh ở dưới chẵng chịu bước lên cùng chúng tôi. Tôi vội leo xuống, lại gần Linh nhỏ to:' Linh, Kỳ sẽ rút ra Đệ Thât hạm đội. Hảy lên, cùng đi. Hết cách thôi..'

Linh có điều ǵ bất ưng, nhất định không lên tàu..Tôi hỏi: Sao ? Linh nói: thiếu ǵ máy bay..Tôi vội báo động: Máy bay nào ?, c̣n duy nhất chiếc này thôi. 'Chiếc kia ḱa', Linh vừa nói vừa chỉ tay về chiếc trực thăng mà tôi, Ươc và Linh vừa đáp hồi nẫy..'Tàu c̣n đó, hoa tiêu bỏ đi rồi..'Tôi nói vơi Linh v́ thấy họ phóng jeep ra khỏi TTM...

Linh nhất định không lên tàu..tôi đành ở lại bên anh..

Tôi c̣n đang phân vân bàn thảo vơi Linh những bước kế tiếp, th́ ông Kỳ, từ đại sảnh bộ TTM bước ra, hướng về trực thăng, dẫn theo số đông tương lănh bay đi cùng Ươc..để lại tôi và Linh tự quyết định lấy phận ḿnh..

Tôi và Linh, đồng thời cả Đặng Duy Lạc (KĐ trưởng KĐ 62) không biết từ đâu chui ra, gọi QC/TTM yêu cầu hộ tống chúng tôi về lại Bộ TL KQ.. Xe rồ máy phóng đi trực chỉ cổng Phi Long..

Tinh cầu trên vai, Linh cho lệnh mở cửa..Quân ta phớt tỉnh..không nghe. Đặng Duy Lạc ngồi yên như khúc gỗ..T́nh h́nh thực gây cấn.

Thấy ông Linh hết 'linh', tôi bước xuống xe tiến thẳng đến chỗ anh KQ bất tuân thượng lệnh, điềm đạm ra lệnh..mở cỗng. Anh liu riu vâng lời..

Chúng tôi vào Bộ Tư lệnh KQ gặp ông Lành..

Niềm tự hào của KQ đang ở chỗ này: Tương Lành, trước thế quân tan vỡ, quân binh đang đua nhau bỏ ngũ, ông vẫn trầm tĩnh, kiên tŕ thủ đài Chỉ huy Hành quân Chiến cuộc KQ. Ông giữ vững liên lạc vơi SĐ 4 KQ, SĐ KQ duy nhất c̣n hăng say chiến đấu trong khi nhiều đơn vị đă tự ngừng nghỉ.

Ông Linh tóm lược t́nh h́nh bên Bộ TTM cho ông Lành rơ..ông đề nghị rút khỏi Tân Sơn Nhưt..Tướng Lành, nói vơi Linh trươc sự hiện diện của tôi và Đặng Duy Lạc:

Moa chưa có lệnh..

Ông vẫn đợi lệnh.. phải chúng tôi vẫn đợi, vẫn chờ..nhưng chờ lệnh ai đây ?. Mọi người đă bỏ đi cả rồi, tội cho ông Lành vẫn ngồi chờ lệnh..mà lệnh của ai đây ? Tôi buột miệng:

Ông chờ lệnh ai ? c̣n ai đây nữa mà ra lệnh cho ḿnh?

Ông Lành trầm ngâm không nói, chúng tôi lặng yên chờ..(lại chờ) quyết định của ông, chợt Tướng Lê quang Lưỡng (Nhảy dù) xịch jeep đến, thấy tụi này c̣n đương nh́n nhau, hỏi:

Tụi toa định làm ǵ đây ?

Ông Lành ngượng nghịu chưa biết phải nói sao cho đỡ khó nói? Tôi nh́n thẳng Tương dù nói nhanh:

Tụi này zulu dây. Ông có theo th́ cùng đi ?

Zulu ? zulu bỏ mây đứa con (ư nói quân dù) lang thang..sao đành ?

Ông Lành hỏi:

Toa c̣n mấy đứa con ?

Sáu đứa chung quanh Đô thành..

Lúc này trực thăng TQLC Mỹ đổ bộ và bốc người loạn cào cào trên không phận SàiG̣n..

Tôi đỡ lời ông Lành:

Tân sơn Nhất không giữ được..KQ chúng tôi phải rút khỏi tầm pháo địch trước đă..

Ông Lưỡng vội hỏi: Tụi toa định rút đi đâu ?

Tôi nhanh nhẩu: Có thể vùng 4..có thể đi luôn..

Chờ moa một chút, cho moa về thu xếp với mấy đứa con cái đă..

Nói xong, ông Lưỡng lên xe jeep về Sư đoàn Dù..

Trong khi chờ Tương Dù trở lại, các sĩ quan cấp Không đoàn và Tham mưu Bộ Tư lệnh KQ hiện diện cùng vơi một số binh sĩ thuộc Tổng hành dinh KQ vội tập họp quanh chúng tôi tại tiền đ́nh Bộ TL..bao quanh, nghe ngóng t́nh h́nh..Tôi nói thẳng:

Dưới áp lực của pháo Cộng, Bộ TLKQ buộc phải rút khỏi đây..Ai muốn đi theo, hăy sẵn sàng..Kể từ giờ phút này, các anh không c̣n trách nhiệm ǵ với KQ nữa..Các anh có thể rời đơn vị lo cho sự an nguy của vợ con càng sơm càng tốt..

Cùng trong lúc đó, Tướng Dù đă trở lại. Chúng tôi thảo luận kế rút đi. Khi xét kỹ lại trong chúng tôi..không ai là hoa tiêu vận tải. Tướng Lành, Thảo nâu, Duy Lạc..đều là hoa tiêu phóng pháo. Ông Linh đề nghị qua DAO.. Tôi hỏi nhỏ ông Linh: SĐ 5 KQ th́ sao ?..Các hoa tiêu đă tự ư rút cả rồi..Linh thở dài trả lời..Sau phút suy tính, vị chỉ huy đoạn hậu BTLKQ cho lệnh rút..Tất cả lên 3 jeep trực chỉ DAO.

Tới cổng DAO, một dân sự Mẽo, mặc áo giáp, M17 cầm tay chặn lại:

Generals only.. Y hách dịch ra lệnh..

Hai Tướng KQ, một Tương Dù bước vào trong hàng rào kẽm gai.. Tôi lắc đầu quay ra, tự tay gỡ kẽm gai bước khỏi vùng phân ranh Mỹ-Việt.

Anh Mẽo gác cửa chẳng hiểu tại sao cái anh phi hành đă vào rồi lại bỏ ra..khi nhiều người muốn vào lại không được..

Tác giả sau đó, cùng một số sĩ quan cấp Tá quay lại BTL KQ để t́m phương cách khác tự di tản..

(Ghi chú: Danh sách một số Tướng, Tá và chức vụ tại Bộ TLKQ, trong những ngày cuối cùng của VNCH

Trung Tướng Trần văn Minh, Tư lệnh KQVN

Thiếu Tướng Vơ Xuân Lành: Tư lệnh phó

Chuẩn Tướng Vơ Dinh: TM Trưởng

Ch/Tướng Đặng Đ́nh Linh:TM Phó Kỹ thuật/Tiếp vận

Bác sĩ Phạm gia Lữ trong bài 'Tân sơn Nhất trong giờ hấp hối' (Lư Tưởng, tháng 4/2002) kể lại một số diễn biến tại Trung Tâm Y Khoa KQ..với nhiều tiết khá..chua chát của một đơn vị..hầu như bị..bỏ quên ?

..'chiều thứ hai 28 tháng tư..lệnh giới nghiêm 24/24 bắt đầu, cổng Phi Long đóng cửa..Phi trường TSN vừa bị A-37 oanh kích trước đó..

Khoảng nửa đêm, Th/t L. nhào vào bô bô nói: T́nh h́nh thế này mà các cậu ngủ được th́ lạ thật. Đàn anh biến đi đâu hết rồi.(hắn ám chỉ các anh lớn của KQ)..họ đang lập cầu không vận đi Côn sơn kia ḱa.. SĐ5 KQ đang tổ chức di tản cho thân nhân binh sĩ thuộc SĐ đi Côn sơn..

Đêm 28, CQ pháo kich vào phi trường..gây thiệt hại cho nhiều máy bay..

..Khoảng 7 giờ sáng. (29/4) trong lúc quanh quẩn tại BCHHKQ, tôi gặp Đ/tá H Giám đốc Trường Chỉ huy và Tham mưu Trung cấp KQ trước cửa văn pḥng ông, vẻ buồn bă lộ trên nét mặt..tuy thuộc cấp chỉ huy nhưng không cổ cánh, máy bay không có trong tay, nên cũng chẳng xoay sở ǵ được.. Đ/tá Th. Chỉ huy trưởng Trung Tâm Kiểm báo, cũng là người rất kỷ luật, cứ nằm lỳ trong đơn vị để làm gương cho thuộc cấp nên cũng bị kẹt trong cơn hấp hối của TSN..

Khoảng 10 giờ..cùng Th/t Vũ BH thuộc trường CH/TM..chúng tôi cùng lái xe..đi thăm t́nh h́nh..Trên đường chạy ra Phi đạo, một dẫy dài xe hơi bỏ trống, nối dài từ cửa chính vào văn pḥng Tư lệnh ra đến ngoài đường..

Tôi gặp chiếc falcon màu vàng nhạt của Th/t Khoa (đen), vẫy tay ra hiệu cho anh ngưng lại và hỏi: Đi đâu bây giờ ?'. Khoa trả lời vắn tắt: Theo moa...'Vừa khỏi ṿng rào BTL, Kh quẹo phải rồi quẹo trái, th́ ra anh ở nhà cũ của LCK, sau khi vợ con hành lư lên xe, chúng tôi nối đuôi nhau trở ra phi đạo. Trạm canh ra phi đạo không c̣n quân cảnh canh gác..'

Bay đi Utapao:

Để thoát khỏi Việt Nam, các phi cơ vận tải, phản lực..nếu đủ nhiên liệu có thể tự bay sang Singapore ( 590 miles về phia Tây-Nam) hoặc gần hơn là sang Utapao (Thái Lan) (350 miles phia Tây-Bắc). Đa số các phi cơ vận tải và phản lực đă chọn Utapao, chỉ một số rất ít C-130 bay đến Singapore..

Bài viết chinh thức về cuộc di tản của các phi cơ VNCH đến Utapao trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến VN:Escape to Utapao của Tác giả Ralph Westerhaan đă được đăng trên Tập san Air and Space/ Smithsonian Số Dec-Jan 1997.

..' Vài ngày trước khi xẩy ra cuộc di tản của KQVNCH ra khỏi Sài gon, Tương KQ HK Harry Aderholt, Chỉ huy trưởng Phái bộ Quân viện HK tại Thái Lan (MAC-Thai) đă gửi Đại úy KQ Roger L YoungBlood bay đến Phi trường Trat, nằm sát biên giới Thái-Miên. Bay trên một chiếc phi cơ AU-23 của Không lực Thái (AU -23 là một phi cơ cải biến từ loại Pilatus PC-6, có khả năng đáp được xuống những phi đạo thật ngắn) YoungBlood bay ṿng ṿng trên không phận Thái cùng một phi công phụ VNCH. Phi công phụ này giữ tần số vô tuyến và hướng dẫn các phi cơ VN bay về Utapao..'

Skyraiders A-1:

11 chiếc Skyraiders đă đến được Utapao, gồm 5 A-1E, một A-1G và 5 A-1H. Trong số này 7 chiếc thuộc Phi đoàn 514, 3 chiếc thuộc PĐ 518 và một thuộc PĐ 530:

Chiếc Skyraider A-1H, số hiệu 139606 thuộc PĐ 518 là chiếc Skyraider sau cùng bay khỏi VN đến Utapao, phi công đă chở cả gia đ́nh'nêm' chật cứng trong pḥng lái (danh từ lóng của KQ Mỹ gọi đây là một hell hole).

Trên một chiếc A-1E, phi công (Th/tá Hồ văn Hiển PD 514) đă cất cánh, chở theo 15 người, nhét cứng trong..'blue room'.. Tác giả Phi Long 51 trong bài 'Chuyến bay định mệnh' (trên Diễn đàn Cánh thép) ghi lại:

..' Sáng 29..tôi trở lại Bộ chỉ huy Hành quân KQ sau 10 giờ và khám phá ra PĐ 518 đă cất cánh đi Cần Thơ. Tôi gặp Tr/tá NCP trong BCH và t́m phi cơ để đi..Do cơ trưởng Lợi huớng dẫn, chúng tôi t́m được một AD-5 (chiếc này có 2 chỗ ngồi lái và một pḥng trống khoảng 3x4x3 feet cao ở phía sau ghế pilot). Phi cơ trang bị đầy bom đạn..Sau khi thay b́nh điện, phi cơ rời ụ và tuy quá tải cũng cất cánh được, không liên lạc được với đài kiểm soát..Phi cơ bay đi Cần Thơ xin đáp nhưng bị từ chối..sau đó đành bay ra An Thới (Phú Quốc), thả bớt bom xuống biển..Tại An thới phi cơ được bỏ bớt đạn đại bác, tạm bị giữ, không cho cất cánh..Đến 10 giờ sáng, sau khi có lệnh đầu hàng, phi cơ bay đi Utapao.cũng vẫn vơi 15 người trên phi cơ..

Số Skyraiders bị bỏ lại là 40 chiếc, trong đó 26 chiếc bỏ lại ở TSN.

F-5s:

Trong số 26 chiếc F-5s bay thoát khỏi VN (gồm 22 chiếc F-5E và 4 chiếc F-5A/B), có 2 trường hợp đặc biệt được Anthony Tambini ghi lại trong F-5 Tigers over Việt Nam:

Một chiếc F-5F (loại 2 chỗ ngồi), đă chở theo 4 phi công trong 2 pḥng lái, bằng cách tháo bỏ các dù, hạ ghế xuống thấp hết mức, một phi công ngồi và phi công thứ nh́ đứng khom lưng đối mặt, lưng dựa vào cockpit.. Phi cơ cất cánh khi phi trường đang bị pháo kích: lúc đầu phi cơ định bay lên với hệ thống thắng để mở. Cảm nhận được t́nh h́nh không thể bay lên, phi công đă phải mở dù 'drag chute) để làm chậm vận tốc..sau đó đóng hệ thống thắng để phi cơ bay lên được và bay đi Thái Lan. Tuy nhiên, có lẽ hệ thống thắng đă bị hư hại khi bị pháo kích nên không c̣n sử dụng được..Phi cơ đáp xuống một phi dạo thô sơ và chật hẹp.. không ngừng được nên đâm vào cây và phát nổ, gây tử thương cho cả 4 phi công..(Các phi công tử nạn gồm các Th/tá Mai Tiến Đạt, Nguyễn Đức Toàn, Ngô văn Trung và Đ/u Lê Thiện Hữu..)

Một F-5A khác, cất cánh với 3 phi công, cất cánh ngược hướng bay, bay qua đầu các phi cơ đang đậu trên phi đạo chờ đến lượt bay lên..Phi cơ đến được Utapao..

Số F-5 bị bỏ lại gồm 87 chiếc, trong đó có 27 F-5E

A-37s:

Gần 50 chiếc A-37 đă bị hủy diệt trong đợt pháo kich đêm 28/4 (xem phần trên) và Đ/tá Thảo (KĐ trưởng KĐ 33) đă cho lệnh tan hàng vào khoảng 8 giờ sáng 29..

Th/tá Ngô đức Cửu, đón được một L-19 và về được Trà Nóc (Cần Thơ)..Tại đây ông tŕnh bày t́nh h́nh của Bộ Tư lệnh KQ Sàig̣n (bỏ ngỏ..) và hướng dẫn các PĐ A-37 c̣n lại bay đi Utapao:

..' từ B́nh Thủy đi Utapao, hướng 300, khoảng 45 phút là đến..Anh em nên lấy bản đồ ra kiểm soát lại..và ghi các chi tiết tần số tower..'

10 giờ sáng 30/4 khi có lệnh 'đâu hàng' Căn cứ B́nh Thủy cũng tự động tan hàng..Băi đậu phi cơ vắng lặng, không c̣n quân cảnh, không c̣n chuyên viên kỹ thuật..

..'tôi rất thán phục anh em A-37 Cần Thơ, có nôn nóng nhưng rất trật tự có thể nói là..lịch sự..Tôi lên tiếng v́ nhu cầu, tất cả hoa tiêu A-37 phải rời VN, anh em bắt cặp lấy, mỗi phi cơ phải đi được 3 người, không dù không hành lư..ngoại trừ Phi công bay ghế trái phải đội helmet để liên lạc..tất cả phi cơ phải bay ở 12 ngàn bộ, không cần dưỡng khí..'

Đa số phi cơ b́nh điện yếu, Th/tá Cửu và Th/tá Kim (Liên đoàn trưởng Kỹ thuật) đă dùng APU để khởi động từng phi cơ theo thứ tự..Thiếu tá Cửu lên chiếc sau cùng..rời phi đạo để cùng hợp đoàn gần 30 chiếc A-37 bay đi Utapao.

Đây có thể được xem là 'chuyến di tản' trật tự và 'thành công' nhất của KQ VNCH.

Ngoài ra, c̣n có một A-37 đáp xuống một xa lộ gần Căn cứ KQ Korat, phía Bắc Bangkok, gần một trường học, bom đạn c̣n đầy dưới cánh và Tướng Aderholt đă phải gửi một Đ/u phi công Mỹ đến để bay chiếc này về Căn cứ Udorn.

Theo thống kê 27 chiếc A-37 đến được Utapao..95 chiếc bị bỏ lại VN

Phi cơ vận tải:

Tân Sơn Nhất là căn cứ tập trung của nhiều Phi đoàn vận tải của KQVNCH..Cuộc di tản cũng rất hỗn loạn, nhiều phi cơ bị bỏ lại v́ không có phi công, không người đổ xăng..có những trường hợp phi cơ không cất cánh nổi do quá tải, hay do quá vội. Một số phi cơ vận tải đă bay được sang Utapao do đă ở sẵn tại Côn đảo, tất cả đều chở vượt quy định..có những C-47 bay đến Utapao với cả trăm hành khách (b́nh thường chỉ chở 30 binh sĩ)..bánh đáp bị găy khi chạm đất..

Phi công Hungphan trong bài hồi kư 'Những giờ phút sau Tinh Long 07' ghi lại: Sáng 29/04/75

..' đồng loạt không ai bảo ai, chúng tôi tháo chạy về phia Không đoàn bộ (PĐ 437), cạnh một bên là đại bản doanh của PĐ 435, chúng tôi đang ngơ ngác t́m nơi trú ẩn, th́ thấy ông PĐ trưởng Tr/tá MMC bước ra, nh́n chúng tôi lên tiếng..' giờ này pilot quư lắm, ai ở phi đoàn nào..về phi đoàn nấy..'chúng tôi im lặng rút sâu vào tầng dươi của SĐ bộ..thấy đủ mặt văn vơ bá quan.. TT Vinh con 435, TT Vinh Trô 437, TrT Dinh, Đ/u Chư..đă có mặt từ lúc nào ?..gần giống một cuộc họp của Không đoàn..

Không biết thời gian nặng nề, dai dẵng này kéo dài bao lâu, thỉnh thoảng như để phá tan bầu im lặng, tiếng pháo lại vang lên phía bên ngoài..bỗng nghe tiếng điện thoại reo vang trên lầu, rồi lại im lặng, tất cả mọi khuôn mặt không dấu vẻ lo lắng, đợi chờ..t́nh h́nh căng thẳng..khoảng mười phút sau, tiếng chuông điện thoại lại một lần nữa reo lên..và chưa hết tiếng reo..bỗng một tiếng của..ai đó hét to Ra xe.. (nghĩa là chưa ai nghe điện thoại..)..Không ai bảo ai, chúng tôi chạy nhanh và chen chân nhẩy lên xe..

Tôi cũng nhảy lên một step van, chạy một quăng, 4-5 anh pḥng thủ, súng ống đầy ḿnh chạy ra chận lại, có tiếng trong xe la lớn:'ĐM, lên xe luôn, giờ này mà chặn cái ǵ?' thế là thêm đông.. Đến parking tôi chạy về chiếc GZA 027, Herky 027, mà tôi biết tàu tốt..v́ tôi mơi bay về tối hôm qua...Trên pḥng lái, có độ 10 ông pilot C-130..phí thật..

Chỉ một phút sau, chúng tôi take-off..2 phút sau đă có cao độ an toàn (TT Nhân nhẩy vào ghế pilot thay Đ/u Chuân, ngồi co-pilot là Tr/T Đinh..)

(14 chiếc C-130 bị bỏ lại, 9 chiếc đến được Utapao, ngoài ra c̣n 1 chiếc đă đào thoát sang Singapore từ khoảng đầu tháng 4)

Tác giả 'Không quân liệt lăo' trong bài 'Giây phút năo ḷng' (xem phần trên) ghi tiếp:

..Thảo bảo tôi: Ḿnh ra khu trực thăng, moa thấy nhiều lắm, đậu phía gần phi đạo hướng Bà quẹo đó.. Đến khu trực thăng, lên chiếc nào mở máy cũng không..nổ.. tàu nào cũng khô ran..(Tướng Tiên cho lệnh rút xăng..khỏi tàu v́..sợ các phi công..tự động tan hàng).. Chọn trực thăng không xong, Thảo Nâu chở tôi trên jeep đi t́m Cessna..Gặp Cessna, Thảo leo lên, bảo tôi ngồi ghế phài..hắn quay máy, máy nổ. Bỗng nhiên con tàu xao động dữ dội..Quan quân ở đâu đông thế đang dành nhau leo lên tàu..Cessna chỉ có 5 chỗ, làm sao chở nỗi cả chục người..Không ai chịu xuống..

Tôi tự quyết định.. nhường chỗ, mở cửa buớc xuống., leo lên jeep để lái đi,có QC Vân cùng bỏ Cessna lái đi..t́m xem c̣n chiếc nào để quá giang..

Trên đường rời khỏi SĐ 5KQ, ngang qua văn pḥng Tư lệnh phó SĐ, thấy có ánh đèn, cửa mở, tôi đậu xe bước vào.. Gặp Đinh thạch On ngồi thẫn thờ sau bàn giấy..Tôi hỏi:

- On, sao c̣n ngồi đây? Tât cả bỏ đi hết rồi, anh cũng đi đi thôi..

On như người mât hồn: C-130 tụi nó lấy trốn cả rồi..

T6i nhắc: c̣n C-47 mà..On thở dài: Đă lâu lắm, tôi không lái C47.

.. Sau khi ngồi chờ ông On, lôi quyển kỹ thuật C-47..ra 'ôn bài', cả đám đi t́m C-47 để chạy..Đến băi đậu, các phi cơ đều bất khả dụng: hoặc không xăng, hoặc bị trúng đạn pháo kích..Đang tuyệt vọng, cả đám t́m được một C-47 đang nằm trong hangar. khóa kín..Đó là chiếc phi cơ riêng của Tư lệnh Vùng 2..Sau đó có thêm Đ/u Qui chạy đến.. Phi cơ chở đến gần 80 người, cộng theo thiết bị linh tinh..cố gắng cất cánh..để sau cùng đến được..Utapao.

Nhóm của BS Phạm gia Lữ (xem phần trên) sau đó đến phi đạo C-47 để t́m máy bay di tản, có chiếc không khởi động được do b́nh điện yếu..Chiếc DC-6 'B́nh Long Anh dũng' tuy nằm cạnh nhưng được..canh giữ. Sau đó t́m được chiếc C-47 của Tư lệnh KQ, Kh bắn bể khóa..Tất cả leo lên tàu để bay ra Côn sơn..Sau những trục trặc như không có bản đồ phi hành, phi cơ hết dầu thắng (t́m được 2 gallon nơi đuôi phi cơ)..phi cơ đáp được xuống Côn sơn..Th/t Khoa bay thêm một chuyến trở lại Saigon (TSN đă bỏ ngỏ) để đón thân nhân và bay lại ra Côn sơn.. Dùng nón sắt để chuyển xăng, phi cơ đă bay đi Utapao sáng 30/4 khi DV Minh ra lệnh đầu hàng..

Tác giả Nguyễn Cao Thiên trong bài 'PĐ 314, Chuyến bay không phi vụ lệnh '(Đặc san Liên khóa 64SVSQ, 2009) ghi lại một số chi tiết mô tả t́nh trạng hoảng loạn, vô trật tự.. tại TSN khi phi trường bị pháo kich..Sau khi PĐ phó Tấn từ KĐ trở về cho biết 'Trên đó có ai đâu ? vắng hoe ?'.. Mạnh ai nấy chạy..tự t́m phi cơ để..bay đi..Có phi cơ cất cánh quá vội, quên cả gỡ kẹp đuôi, nên bị..rơi ngay tại phi trường. Chiếc C-47 của PĐ 314 bay đến Utapao với trên 40 người..

(16 chiếc C-47, đủ loại kể cả EC, AC đến được Utapao.. 38 chiếc bỏ lại..)

Ngoài ra cũng có 3 AC-119 và 6 C-7A Caribou đến Utapao, 37 chiếc AC-119 cùng 6 chiếc C-119 vận tải bị bỏ lại.. Số Caribou lên đến 33 (trong t́nh trạng đ́nh động..)

Tại Utapao c̣n có:

- 14 chiếc Cessna U-17 Skywagon

- 12 chiếc UH-1

- 3 chiếc O-1 Bird dog

Bảng tổng kết của HK ghi nhận: số phi cơ của KQVN bỏ lại c̣n có 434 chiếc UH-1, 114 chiếc O-1, 32 chiếc CH-47 Chinook và 72 phi cơ các loại khác gồm U-17, O-2A, T-37, T-41 và cả U-6 Beaver..

Bay ra biển:

Các phi cơ trực thăng (UH-1 và Chinook), khi tự động tan hàng..đa số t́m đường thoát bằng cách bay ra biển, để đáp xuống bất cứ tàu bè nào đang di chuyển ngoài khơi: đáp trên chiến hạm Mỹ, nếu có chỗ đáp là tốt nhất, đáp trên chiến hạm VN..và trong tinh trạng 'bi thảm 'nhất' là đáp xuống biển..và phi công tự thoát, nếu may mắn sẽ được tiếp cứu và vớt lên tàu..

Trường hợp đặc biệt nhất được ghi vào lịch sử KQ và HQ Hoa Kỳ là trường hợp đáp của một L-19 chở đầy..'hành khách' trên Hàng Không Mẫu hạm..

Sau đây là một số trường hợp được kể lại trong các bài hồi kư:

Phi đoàn Thần Tượng 215

Khoảng 10 giờ sáng 29 tháng 4, bộ chỉ huy Phi đoàn 215 đă dùng 3 trực thăng để 'di tản 'về Côn Sơn. Trên các trực thăng có Phi đoàn trưởng (Tr/tá Khưu văn Phát), PĐ phó (Th/tá Đức)..các phi đội trưởng.. Tuy nhiên do hết xăng nên cả 3 chiếc sau khi gặp Tàu chở dầu của hăng Shell.đă cố gắng thả người (nhảy từ máy bay xuống sàn tàu từ cao độ chừng 3 m) và phi công c̣n lại sau cùng đă đáp xuống biển, bơi thoát khỏi chiếc phi cơ đang ch́m và được canô vớt..Cả 3 phi công (Đ/úy Chín, Đ/u Vĩnh và Th/tá Lương) đều được an toàn..(Vĩnh Hiếu: Phi đoàn Thần tượng Giờ thứ 25)

Phi đoàn Lôi Vũ 221:

Phi đoàn di tản từ Biên Ḥa về TSN trong đêm 27 tháng 4, khi phi trường bị pháo kích..Chiều 29 tháng 4, Tr/Tá Nguyễn văn Trọng, PĐT tuyên bố giải tán Phi đoàn.. 13 trực thăng của PĐ bay được ra Hạm đội HK..Trong đoàn di tản c̣n có các Đ/tá Phước, Đ/tá Vy (Sư đoàn phó SĐ 1 KQ) (Tâm tư Lôi Vũ -52, Van Nguyên).

Phi đoàn Lôi Thanh 237 (Chinook CH-47)

Ngày 29 tháng 4, lúc 4 giờ sáng, 4 trực thăng Chinook CH-47 đậu song song vơi nhau trước phi cảng Hàng Không dân sự. Các nhân viên phi hành..chờ quyết định của Th/tá Nguyễn văn Ba, Phi đoàn phó..nhưng ông vẩn tŕ hoăn chờ PĐ trưởng (Tr/tá Ch.) c̣n đang kẹt ở Biên Ḥa..Các sỉ quan tham mưu của PĐ đều vắng mặt..Sau đó, ông quyết định di tản 4 phi cơ khả dụng đi Vũng Tàu..khi 4 phi cơ vứa đáp xuống Vũng tàu..th́ phi trường này cũng vừa bị pháo kích..Chỉ 3 phi cơ bay về Cần Thơ, một chiếc đă tự tách khỏi hợp đoàn..3 phi cơ đáp xuống Mỹ Tho, 1 bay trở lại Sàig̣n để..đón gia đ́nh.. khi trở lại Mỹ Tho, phi cơ bị trục trặc nên đành bỏ lại nơi bờ sông..Hai chiêc c̣n lại cất cánh lúc 2 giờ trưa..bay ra hạm đội HK..thả người xuống chiến hạm Kirk,và phi công 'ditching' để sau đó được vớt (Chuyến bay cuối cùng-Nguyển văn Ba- Lư Tưởng Úc châu, số kỷ niệm Ngày Không Lực 1-7-2011)

O-1 Birđ Dog (L-19) đáp trên Hàng Không Mẫu hạm:

Một trường hợp đặc biệt nhất của cuộc di tản, được ghi vào quân sử Hoa Kỳ, phi cơ được lưu giữ tại Viện bảo tàng là trường hợp dùng L-19 đáp xuống Hàng không Mẫu hạm Midway của Thiếu tá Lư Bửng, Sĩ quan trưởng pḥng hành quân của PĐ Sao Mai 114/ KĐ 62 CT/ SĐ 2 KQ.

Việc O-1 đáp trên Hàng không Mẫu hạm đang di chuyển là chuyện không thể tưởng tượng nổi, ngay cả với các phi công Hoa Kỳ và những chuyên viên thiết kế máy bay của hăng Cessna..

Điều gây 'kinh ngạc' hơn nữa là trên phi cơ c̣n có thêm 6 người (vợ và 5 đứa con) ngồi chật cứng trên ghế sau..

Phi công Lư Bửng kể lại như sau (Chuyến bay về vùng tự do của KQ Lư Bửng- Đặc san Lư Tưởng số 02/2010):

..'Sáng 29 tháng 4, tôi và Hường, Nhị cùng bay chiếc O-1 này ra Côn Sơn. Vợ con tôi đă ra Côn sơn bằng phương tiện trực thăng trước, h́nh như của PĐ 215..Chiếc O-1 này t́nh trạng máy tốt, chỉ có vô tuyên là không hoạt động được...Tôi cất cánh từ TSN trong lúc phi trường đang bị pháo kich..Chúng tôi quyết định bay ra Côn sơn v́ không rơ t́nh h́nh Cần Thơ.. Đêm nghỉ tại Côn sơn, chúng tôi chưa biết chắc sẽ đi Thái bằng phi cơ ǵ..Sáng 30 tháng 4, có lệnh đầu hàng, tôi sắp xếp cho tất cả anh em PĐ 114 trật tự lên các C-123 và C-130 đi Thái Lan..Tôi và gia đ́nh dự trù sẽ đi chiếc C-123 sau cùng..nhưng chiếc này bị hư không cất cánh được. Khoảng 130 người c̣n lại đành chờ tàu HQ..Cảnh tượng xuống tàu rất hỗn loạn. Tôi quyết định dùng chiếc O-1 mà tôi đă bay ra Côn sơn hôm qua để chở cả gia đ́nh để bay đi..nhưng chưa biết đi đâu? Trời rất xấu, mưa mù mịt, tôi bay rase motte trên mặt biển, khoảng từ 500 đến 700 bộ. Trong lúc bay tôi thấy nhiều trực thăng bay ra biển..tôi cũng lấy hướng bay này..cho đến khi thấy chiếc hàng không mẫu hạm..

Chiếc O-1 bị hỏng hệ thống vô tuyến nên tôi không thể liên lạc được với ai..Tôi dùng phương thức bay qua đài kiểm soat của chiến hạm, lắc cánh để cho biết hệ thống vô tuyến bị hỏng và xin đáp. Dưới mẫu hạm bắn hỏa pháo đỏ liên tiếp ra dấu cho biết là họ không chấp thuận cho hạ cánh..có lẽ v́ không c̣n chỗ ? Tôi lấy bản đồ, giấy tờ trong máy bay viết chữ xin hạ cánh v́ phi cơ c̣n có vợ con..và buộc vào botte để thả xuống..sàn tàu. Sau đó nhân viên trên tàu xô một số trực thăng xuống biển và dọn các trực thăng khác để lấy chỗ cho tôi đáp..Phi đạo họ dành cho cho tôi đáp là cạnh ngắn, khoăng 150 feet..'

Sau một lần đáp thử để ước lượng các thông số kỹ thuật, như gió ngang, sự di chuyển của mẫu hạm..Phi công Lư Bửng đă đáp thành công..xuống Mẫu hạm Midway trước sự kinh ngạc và thán phục của nhân viên thủy thủ trên tàu..

Trong 'chiến dịch di tản' Frequent Wind':

Hàng không mẫu hạm Midway đă tiếp nhận khoảng 60 trực thăng của KQ VNCH, trong đó có chiếc UH-1 của Tướng Kỳ và cả vài trực thăng của Air America..

Chiến hạm USS Kirk, trong thời gian yểm trợ đoàn tàu di tản của HQ VNCH đă là nơi đáp cho 16 chiếc trực thăng của KQ VNCH..Sàn đáp của chiến hạm chỉ dành cho một trực thăng nên sau khi đáp, trực thăng phải đẩy xuống biển để lấy chỗ cho chiếc kế tiếp..Ngoài 16 chiếc UH-1, c̣n có 1 Chinook sau khi thả người trên sàn đáp đă phải đáp xuống biển, phi công được cứu thoát..Số người trên các trực thăng đáp xuống USS Kirk lên đến gần 200 người..USS Kirk chở được về Subic Bay 3 chiếc UH-1..

Các chiến hạm khác như Blue Ridge, Mobile (LK 115).. đều tiếp nhận các trực thăng của KQVN..

Tài liệu của Air America ghi nhận một số trường hợp các phi công VN dùng súng..'tạm mượn' phi cơ của Air America để bay ra Hạm đội Hoa Kỳ: Chiếc UH-1H (69-16715) của Air America màng dấu hiệu ICSS (Ủy Ban Liên hợp 4 bên) đă do phi công VN bay ra đáp tại Chiến hạm Blue Ridge..trưa ngày 29/4. Tất cả có 6 chiếc trực thăng bị phi công VN mượn tạm, trong đó 5 chiếc loại UH-1 và một chiếc Bell 204B (?), chiếc Bell này sau đó đáp trên USS Kirk. (Air America in South Viet Nam: The Collapse. Tác giả Joe Leeker)

Số phận những phi cơ..đến được Utapao:

Ngay khi các phi cơ của KQ VNCH đáp xuống Utapao, vừa ngừng bánh, tắt máy..các nhân viên phi đạo lập tức sơn lại cờ.. chuyển từ VNCH sang thành máy bay của Hoa Kỳ. Người Thái không muốn 'chứa chấp' những người Việt vừa phải bỏ nước ra đi nên HK đă phải lập cầu không vận, dùng các C-141 để đưa người tỵ nạn sang Guam.

Một trục trặc nhỏ đă xẩy ra: 65 người, tất cả trên cùng một chuyến C-130 đến Utapao.. đă đ̣i trở về VN..Dưới sự lănh đạo của Tr/Uy Cao van Le (?), những nhân viên KQVN này.. khi bay khỏi TSN, không biết là họ sẽ phải..biệt xứ, trong khi gia đ́nh c̣n kẹt lại tại VN..và dọa sẽ tự tử nếu không được như ư. Một Đại tá KQVN và một Tuyên úy QĐ HK đă giúp điều đ́nh để giải quyết vấn đề và c̣n 13 người cương quyết đ̣i về.. Sau cùng cả 13 người đă được chích thuốc ngủ để đưa lên C-141 đi Guam..

CSVN đă lên tiếng đ̣i hỏi chủ quyền về những máy bay tỵ nạn tại Thái và Hà Nội đă đ̣i đưa một phái đoàn đến Thái để kiểm kê các phi cơ..Chính quyền Thái, do áp lực của Hà Nội đă đ̣i' tạm giữ' các máy bay đang ở Utapao. Tướng Aderholt cho biết' các phi cơ này thuộc quyền sỡ hữu của HK theo một điều khoản có ghi trong Thỏa ước Viện trợ Quân sự Mỹ-Việt' nhưng chưa chắc Thái..đồng ư nên ông t́m cách chuyển các phi cơ..khỏi Thái..càng nhanh càng tốt. Trước hết, Aderholt 'tặng' cho Tư lệnh KQ Thái 5 chiếc F-5 (đễ..mua chuộc giới quân sự Thái, thật ra Aderholt..không có quyền.. nhưng trước chuyện đă rồi HK khó lấy lại được 5 phi cơ này). Và ngay khi Hàng không mẫu hạm Midway ghé một Căn cứ HQ Thái gần Utapao ngảy 5 tháng 5..khoảng 140 phi cơ đủ loại đă được chở ra khỏi Thái (trong số này có lẽ gồm cả một số phi cơ, trong tổng số 93 chiếc của Không lực Kmer đă bay sang Thái khi Nam Vang thất thủ). 4 chiếc Skyraiders được Aderholt cho bay đi, cất giấu tại Căn cứ Takhli..Mẫu hạm Midway đă chở về Guam 101 phi cơ của KQVN, trong đó có 21 chiếc F-5E..

Theo 'Escape to Utapao' một chiếc C-123K được đưa ra khỏi Thái (số đuôi 54-00592)..chiếc này hiện ở Phi trường Avra Valley và..không ai biết về trường hợp này..(Theo danh mục trong Flying Dragons trang 164 th́ chiếc này của KQVN)

Tài liệu của Hải Quân Thái ghi nhận: trong danh mục phi cơ thuộc HQ Thái có một số phi cơ 'cũ' của KQVN như:

- C-47A (43-48101, VNAF)

- VC-47D (43-48777, VNAF 'EY'

- AC-47D (43-49095, VNAF 'EK'

- RC-47 (43-49701, VNAF) và (43-49925, VNAF 'EF') và (44-76418, VNAF 'EB')

- EC-47 P (45-1044, VNAF 'WA')

Ngoài ra c̣n 3 chiếc U-7 mang các số đuôi 71-1438; 71-1442 và 7-1455 được ghi là VNAF(?)

Trần Lư

hoathienly19
09-25-2020, 15:32
SỨ MẠNG CỦA KHÔNG QUÂN VIỆT NAM CỘNG H̉A TRONG CUỘC BẢO VỆ MIỀN NAM ( PHẦN 1 )

h4-UyQ8Zl_s


( PHẦN 2 )



6_zgcceD3JY

hoathienly19
09-28-2020, 04:42
TRẬN KỊCH CHIẾN CUỐI CÙNG CỦA TIỂU ĐOÀN 82 BIỆT ĐỘNG QUÂN


https://ongvove.files.wordpr ess.com/2012/04/bdq.jpg



Trận kịch chiến cuối cùng của Tiểu Đoàn 82 BĐQ với Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Vương Mộng Long, ôi bi hùng ! ! ! Xin kính mời quư vị và quư bạn theo dơi.

==========

“Vinh quang một đời của người cầm quân là một món nợ.

Nợ với tổ quốc, với đồng bào, và với thuộc cấp của ḿnh!”


https://www.tvvn.org/wp-content/uploads/2015/09/LucLuongDacBiet.jpg


Bảy giờ sáng ngày Ba Mươi tháng Tư 1975, tôi dừng quân trên một tọa độ cách thủ đô Sài-G̣n hơn hai chục cây số. Nơi đây là đoạn cuối của quốc lộ 1. Chỉ c̣n một quăng đường ngắn ngủi nữa thôi, quốc lộ 1 sẽ chấm dứt.


Tối qua, 29 tháng Tư chúng tôi rút về tới Long-B́nh th́ Bộ chỉ huy Liên đoàn 24 Biệt Động Quân đă di chuyển đi đâu mất rồi. Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân của tôi như con gà con lạc đàn.


Tôi vào máy gọi Liên đoàn 24 BĐQ, gọi Tiểu đoàn 81 BĐQ, gọi Tiểu đoàn 63 BĐQ, và gọi cả Sư đoàn 18 BB/ HQ trên tần số riêng. Tần số nào cũng rối loạn.


Tôi không bắt liên lạc được với ai. Nửa đêm, th́nh ĺnh máy vô tuyến đưa lệnh, chẳng hiểu của giới chức nào, chỉ vắn tắt một câu:


- “Các đơn vị cấp tốc rút về pḥng thủ Sài-G̣n!”


Mờ sáng Ba Mươi tháng Tư, chúng tôi bỏ Long-B́nh, rồi từng bước, rút về hướng thủ đô, để “pḥng thủ thủ đô”. Cuối cùng, lết bộ tới Cầu Hang (Biên-Ḥa) th́ mỏi mệt quá, tôi cho quân dừng lại nghỉ.


Trên quốc lộ 1, cách Cầu Hang chừng hai trăm mét, hơn sáu chục người lính sống sót cuối cùng của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân bơ vơ.


Vào giờ này, quân số Tiểu đoàn 82 BĐQ bách thắng của Quân khu 2 c̣n lại chừng nửa đại đội, với bốn sĩ quan là tôi (Thiếu tá Vương mộng Long), Thiếu úy Thủy, Trung úy Trâm, Chuẩn úy Thiều cùng hơn sáu mươi binh sĩ.


Ông Đại úy Ngũ văn Hoàn (TĐP) chết đêm 28 tháng Tư. Trung úy Đăng mất tích. Thiếu úy Châu đi thụ huấn chưa về. Thiếu úy Học, Thiếu úy Hoàng vắng mặt từ chiều 27 tháng Tư, trước khi tiểu đoàn vào vùng.


Chuẩn úy Gấm, Chuẩn úy Trung, hai ông Chuẩn úy Phước (Lê văn Phước, Nguyễn văn Phước) cùng Trung úy Phước (Trần văn Phước) thất lạc trên đường rút lui từ Hố-Nai về Long-B́nh ngày hôm qua. Từ nửa khuya, những đơn vị đồn trú ở Long-B́nh đă bắt đầu theo cơ giới rút đi.



https://ongvove.files.wordpr ess.com/2015/12/khesanh.jpg


Lúc tôi tới Cầu Hang th́ những vị tu hành áo vàng của ngôi chùa Theravada bên kia lộ đang lên xe chạy về hướng Sài-G̣n. Giờ này họ đă quay trở lại. Họ trở lại chùa, vào pḥng, khóa chặt cổng ngoài.

Có một điều lạ lùng, khác với những lần rút lui từ Quảng-Đức và từ Long-Khánh, đó là, trong lần rút bỏ Biên-Hoà này, tôi không thấy dân chúng bồng bế nhau chạy theo quân đội.


Chiếc xe nhà binh sau cùng di chuyển qua Cầu Hang đă khuất bóng từ lâu. Khoảng tám giờ sáng th́ không c̣n ai đi sau chúng tôi nữa.


Sau lưng chúng tôi, thành phố Biên Ḥa có lẽ đă rơi vào tay Cộng Quân. Trước mắt chúng tôi là quốc lộ 1, dài mút mắt, hướng Sài-G̣n.


Cuối trời hướng tây có từng cột khói đen cuồn cuộn bốc lên. Trong vài túp lá, quán cóc bên đường xe lửa, xác những người bạn Nhảy Dù chết cách đó một vài ngày c̣n nằm trên sạp tre. Họ đă hi sinh khi nhổ chốt địch để lấy lại đoạn đường quanh Cầu Hang.

Tôi không c̣n tâm trí đâu mà lo chôn cất cho những người bạn đă kiêu dũng nằm xuống này. Chính tôi cũng không rơ số phận chúng tôi sẽ như thế nào trong vài giờ sắp tới.


https://ongvove.files.wordpr ess.com/2011/08/cai_non_sat.jpg


Mười giờ sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975. Tôi thẫn thờ rời cái quán cóc bên đường. Chiếc xe Jeep của Thiếu tướng Lê minh Đảo,Tư lệnh Sư Đoàn 18 BB đă khuất dạng nơi khúc quanh có vườn cây xanh, về hướng Thủ-Đức.

Tư lệnh đă quay lại t́m tôi, nhưng giây phút cuối cùng, chúng tôi không kịp gặp nhau. Vào giờ phút này, trên máy thu thanh, ông Dương văn Minh đang oang oang ra lệnh cho chúng tôi buông súng.


Ông Dương văn Minh gọi kẻ thù của chúng tôi là “những người anh em”. Chỉ trong ṿng mấy tiếng đồng hồ, buổi sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975, cuộc chiến tranh Việt-Nam hai mươi năm đi vào trang chót. Đứng trên đường tà vẹt, tôi bàng hoàng, ngỡ ngàng tự hỏi:


- “Có phải ta đang trong cơn ác mộng hay không?”


- “Sao chiến tranh lại có thể kết thúc một cách đột ngột, vô lư, và thê thảm như thế này?”


Chua xót thay! Tôi không mơ. Tôi đang sống với thực tế phũ phàng. Thằng Y Don Near nắm chặt sợi dây ba chạc của tôi, nó khóc sướt mướt:


- “Thiếu tá ơi! Sao lại thế này? Thiếu tá ơi! Hu...hu...hu...”



https://ongvove.files.wordpr ess.com/2009/10/bdq.jpg



*** Vào Nơi Lửa Đạn ***



Từ chiếc máy PRC 25, trên lưng nó, trong tần số liên đoàn, có nhiều giọng đàm thoại lạ. Những hiệu đài không quen, gọi nhau, chửi thề, quát tháo, than van...


Trước mắt tôi, bên kia đường, lá cờ ngũ sắc trong sân chùa bay phất phới. Hai bên quốc lộ, những bộ rằn ri c̣n bố trí, thế tác chiến sẵn sàng.


Những người lính Biệt Động đang chăm chú nh́n cấp chỉ huy của họ. Họ nh́n tôi với ánh mắt của những đứa con nhỏ đang nép ḿnh trong ḷng mẹ, vào những buổi ngoài trời giông băo, mịt mù sấm sét.

Cảnh này quen thuộc lắm. Những khi t́nh h́nh nghiêm trọng, thuộc cấp của tôi thường chờ đợi quyết định của tôi với những cái nh́n kính cẩn, tin tưởng và thương yêu như thế này.


Trong mười năm chiến trận, đă có đôi lần tôi bị bỏ lại đàng sau. Đôi lần đơn vị tôi bị dồn vào t́nh trạng vô cùng nguy khốn, thập tử nhứt sinh, nhưng thấy con chim đầu đàn c̣n hiện diện, những người lính dưới quyền tôi vẫn không xiêu ḷng, không bỏ vị trí.

Nhưng sáng nay, trước mắt họ, người chỉ huy của họ đă trở thành một h́nh nhân, bất động. Thực sự, tôi không biết phải làm ǵ bây giờ.


https://i.postimg.cc/qvcvhkHC/qlvnch-kontum.jpg


Radio chỉ có một chiều; tôi chỉ nghe được; không trả lời được; không hỏi lại được. Có ai cho tôi biết ông Dương văn Minh lên chức Tổng thống lúc nào đâu ? Tôi biết hỏi ai rằng ông Tổng thống này là thiệt hay giả ?


Theo tôi biết, ông tướng này, sau khi giết cụ Diệm để tiếm chức, đă bị các nhóm khác hất cẳng về vườn lâu rồi. Sao tự nhiên ông ta trở thành Tổng thống VNCH được nhỉ ? Sao một thường dân có thể lên làm Tổng thống dễ dàng thế nhỉ ?


Đùng một cái, sáng nay, ông ta ra lệnh cho tôi buông súng. Đầu hàng ? Đầu hàng cách nào ? Đầu hàng ở đâu ? Đầu hàng với ai ? Giữa đồng không, tôi đứng chết trân. Mặt trời lên, thày tṛ chúng tôi lặng lẽ nh́n nhau. Những bàn tay đen đủi Bana, Jarai, Rhadé đưa lên quệt nước mắt.



SMxyw9XQXTo


Hướng Tân-Uyên có tiếng trống múa lân thùng! thùng!...thùng... thùng... nghe lớn dần... lớn dần. Tới Cầu Hang, đoàn múa lân quẹo phải, về tây.

Tôi thấy một cán binh Cộng-Sản vai quàng AK, vác lá cờ Mặt Trận Giải-Phóng Miền Nam đi đầu, tiếp đó là cái đầu lân nhảy múa, rồi một đoàn người điên cuồng, la hét, hoan hô, đả đảo, nối theo sau. Tiếng loa vang vang,

- “Hoan Hô Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam!”

- “Hoan hô!...Hoan hô!”

Thùng... thùng... Hoan hô... Hoan hô... Thùng... thùng... Tiếng loa và tiếng trống lân dập dồn theo gió. Lá cờ Giải-Phóng khổng lồ, xanh đỏ, uốn éo trong gió.


- “Đù má tụi mi! Tụi mi chọc giận ông phải không?”


Chửi thề xong, ông Hạ sĩ Phi xả hết một dây đạn M60 về hướng đoàn múa lân. Chỉ là bắn dọa. Đạn bay cao. Đoàn múa lân như ong vỡ tổ, chạy tán loạn. Chiếc đầu lân bị vứt chỏng chơ giữa đường. Thằng VC vác cờ cũng quăng cờ, ḅ lê, ḅ càng t́m chỗ tránh đạn.


- “Thôi ! Ta đi !” Tôi ra lệnh cho những người lính cuối cùng của đơn vị.

- “ Ḿnh đi đâu bây giờ, Thiếu tá ?” Thiếu úy Thủy băn khoăn hỏi.

- “Th́ cứ đi về hướng Sài-G̣n, t́m xem có ai ở đâu đó, ḿnh nhập vào với họ.” Tôi trả lời Thủy. Mà chính tôi cũng chẳng biết ḿnh sẽ dẫn đơn vị đi về đâu! Không mục tiêu, chúng tôi đi rất chậm.


- “Thùng... thùng...hoan hô...hoan hô”. Chúng tôi đi được chừng nửa cây số th́ đoàn múa lân lại tiếp tục theo sau lưng.

- “Hoan hô! Hoan hô cái mả cha tụi mi !” Hạ sĩ Phi lại đổ quạu.


- “Cành! Cành! Cành... cành... cành! Cành !”


https://image.viettimes.vn/650x450/Uploaded/viettimes/2017_04_30/saigon93_3042017.jpg


Một dây đạn đại liên M60 lại quét ngược về đàng sau. Vẫn chỉ là bắn dọa. Đạn bay cao. Thằng VC vác cờ lại vội quăng cờ núp đạn. Cái đầu lân lại bị ném chỏng chơ trên mặt đường. Đoàn múa lân lại tán loạn chạy chết.

Chúng tôi tiếp tục lê gót theo đường, về hướng Sài-G̣n. Cứ đi được vài trăm mét, chúng tôi lại dừng chân nghỉ mệt. Có mục tiêu nào cho chúng tôi t́m tới đâu mà phải vội vàng ?


Khi đi ngang khu núi đá vôi Bửu-Long th́ thằng Don đưa ống nghe cho tôi:

- “Có Hai Lẻ Bảy (207) gọi Thái Sơn!”

Tôi nghe tiếng Trung tá Hoàng kim Thanh, Liên đoàn trưởng LĐ24/BĐQ:

- “Thái Sơn! Đây Hai Lẻ Bảy ! Anh cho hai chiếc xe tới đón chú và con cái về Đường-Sơn Quán. Các đơn vị đang tập trung ở đây chờ lệnh!”

Giọng anh Thanh vẫn b́nh tĩnh, từ tốn, không có vẻ ǵ là lo lắng.

Nghe ba tiếng “Đường-Sơn Quán”, tôi chợt nhớ thời 1971-1973, ở BCH/BĐQ/QK2 có một biệt đội Biên-Vụ (Viễn Thám) do tôi thành lập, huấn luyện, và trực tiếp chỉ huy.



https://danviet.mediacdn.vn/upload/2-2019/images/2019-05-08/Khong-ngo-Biet-kich-Hai-quan-My-ra-doi-vi-chien-tranh-Viet-Nam-186-1557291488-width698height500.jp g


Sáu toán Biên-Vụ trang bị AK, dép râu, nón tai bèo, nghênh ngang, xuôi ngược trên các tuyến đường Hồ chí Minh, dọc theo biên giới Việt, Miên, Lào, trong căn cứ địa 609, 613, 701, 702, 740


Những cú nổ ḿn phá ống dẫn dầu, phá xe tải, bắt cóc cán binh, dọc Trường-Sơn Đông, phá Ngầm 24 trên sông Sésan là một mối đe dọa kinh hoàng hàng ngày đối với đoàn quân xâm lăng vào từ phương bắc.


Chuyện chúng tôi xuất, nhập các mật khu, huấn khu địch, xảy ra như cơm bữa. Những tay súng dưới quyền tôi cũng yên hùng, ngang tàng như các hiệp sĩ trong phim Hồng-Kông.


Họ quen gọi tôi là “Anh Hai”. Bất cứ giờ nào, dù đang lội trong rừng gai mây Plei-Trap Valley hay trong rừng khọt Nam Lyr (Cambốt), họ vẫn nghe được tiếng “Anh Hai” của họ, từ một đỉnh núi cao nào gần đó. Thỉnh thoảng, “Anh Hai” lội rừng chung với họ để thi hành những nhiệm vụ gay go do Quân-Đoàn 2 giao phó. Tôi và họ, thương nhau như anh em cùng mẹ, cùng cha.


https://hon-viet.co.uk/BKichMy.jpg


Khi cuốn phim “Đường-Sơn Đại-Huynh” được chiếu trên màn ảnh các rạp Diệp-Kính, Diên-Hồng, Thanh-B́nh, ở Pleiku, th́ đàn em của tôi gán cho tôi biệt danh “Đường-Sơn Đại-Huynh” chỉ v́ tôi có cái tên Long, trùng với tên ông Lư tiểu Long, tài tử chính của phim này.


Sau khi “Anh Hai” vào Plei-Me nhận Tiểu đoàn 82/BĐQ/BP, đơn vị này bắt đầu đánh giặc với cái phong thái “Đường Sơn” khiến quân thù vừa nghe tên đă khiếp vía... Tôi ở Cao-Nguyên mút mùa, làm sao biết được ở Sài-G̣n cũng có cái quán được đặt tên như trong phim vơ hiệp của Tàu ?



https://vvnm.vietbao.com/images/file/hjaQHjVz0wgBAGts/image001.jpg


Tôi mở miệng định hỏi anh Thanh tọa độ của Đường-Sơn Quán th́ máy liên đoàn đă cúp. Tôi đành cho anh em ngừng lại bên đường, chờ đợi. Chừng nửa giờ sau, hai chiếc xe be từ hướng Thủ-Đức chạy lên. Xe ngừng, ông tài xế ló đầu ra lớn tiếng hỏi :


- “Có phải Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đó không?”

- “Phải rồi ! 82 đây!”

- “Lên xe đi ! Tôi chở các ông về Đường-Sơn Quán!”

- “Có ai ở đó không ?”

- “Đông lắm! Có lẽ các ông là những người tới sau cùng”


https://danviet.mediacdn.vn/upload/2-2019/images/2019-05-08/Khong-ngo-Biet-kich-Hai-quan-My-ra-doi-vi-chien-tranh-Viet-Nam-195-1557291488-width637height500.jp g


Xe trở đầu, chúng tôi lên xe. Tôi, Trung úy Trâm và thằng Don ngồi trên cabin chiếc xe đi đầu. Chú Thủy và chú Thiều đi xe sau. Thành xe be thấp hơn thành xe GMC, không có thế để đứng, những người lính đành phải ngồi chồm hổm. Ông tài xế xe be, cười rất tươi,


- “Ḥa b́nh rồi! Ḥa b́nh rồi! Hết đánh nhau rồi các anh ơi!”


Tôi là một người lính nhà nghề, nên dù cho “ḥa b́nh” có ở ngay trước mắt, hiệu lệnh phản phục kích xe vẫn được tôi ân cần nhắc nhở cho thuộc cấp.


Hai khẩu M60, một của Hạ sĩ Phi, một của Trung sĩ Tài, được đặt trên nóc buồng lái của hai chiếc xe be.


Xe đang bon bon trên con lộ vắng th́ khựng lại, ḅ từ từ. Trên mặt lộ, đàng xa, có người dang tay phất phất lá cờ nửa xanh, nửa đỏ, ra hiệu cho xe chạy chậm lại.


Tới gần, tôi nhận ra một du kích Việt- Cộng, quân phục xanh, mũ tai bèo, dép râu. Tên du kích cột lá cờ trên cánh tay phải, cờ phất lia, phất lịa. Tay trái nó dương họng khẩu AK 47 hướng vào đầu xe của tôi. Xe vừa ngừng th́ hai bên đường có tiếng la


- “ Bắn! Bắn!... Không cho đứa nào chạy thoát !”

Rồi th́ tiếng súng đủ loại rộ lên. Những người lính Việt-Nam Cộng-Hoà trên hai chiếc xe be vừa ngừng trên mặt quốc lộ trở thành những cái bia sống. “Ḥa b́nh” rồi.

Tại sao người ta nỡ đang tay giết chúng tôi, khi chúng tôi đang trên đường về điểm tập trung để buông súng ?

- “Choác! Choác!....Choác!”


https://4.bp.blogspot.com/-DzksbUrhiyU/XK55R9VrwhI/AAAAAAAA224/EAci13AmaGsQqNjHwSdC vac_sahf94lBQCLcBGAs/s1600/thang-4-linh-du.jpg


C̣n tiếp ,

hoanglan22
09-28-2020, 14:35
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1661802&stc=1&d=1601303647

Ông ngồi trên chiếc ghế đẩu, chung quanh la liệt những nẹp nứa và ở góc pḥng một lô rổ đă đan xong, nhưng chưa có cạp. Ánh nắng quái vàng lọt chiếu qua khung cửa tạo thành một vệt trên nền đất. Ông ngồi yên, ngước nh́n tôi đang ở thế chào kính, mỉm cười độ lượng.

– Anh không cần giữ quân phong quân kỷ nữa. Bây giờ chúng ta cùng là tù binh cả. Nội qui trại nói rơ mọi người đều gọi nhau bằng anh, không có chuyện cấp trưởng, không có chuyện Lữ Đoàn Trưởng, Sư Đoàn Trưởng, tá tiếc ǵ nữa. Anh ngồi xuống đi.

Đại Tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù là tù binh cao cấp nhất đă bị bắt khi ông bị thương ở chân và bộ chỉ huy của Lữ Đoàn bị tràn ngập ở Nam Lào trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Tôi lúng túng không biết nói năng ǵ với một vị sĩ quan của binh chủng tinh nhuệ nhất miền Nam. Ông và toàn bộ chỉ huy trong đó có Trung Tá Trần Văn Bé, Trưởng Pḥng Nh́ Sư Đoàn Dù đă bị vây khốn v́ quân số chênh lệch giữa ta và địch, v́ không có đủ tiếp tế đạn dược, tải thương. Tôi đă nghe bạn bè ca ngợi ông và tuy dù chưa một lần diện kiến, tôi luôn h́nh dung ông đội mũ đỏ có cánh dù, quần áo mầu huyết dụ cầm cây can chỉ huy đứng trước hàng quân. Nhưng nay ông ngồi đó trong căn lều lá nền đất ngồi đan rổ. Ông đang nghĩ ǵ? Thấy tôi vẫn đứng đó, tay vẫn c̣n ở thế chào, ông lắc đầu:

– Cám ơn anh. Trung Úy Đỗ Lệnh Dũng phải không? Anh em mới tới cho biết là Đồng Xoài đă mất, Bố Đức cũng mất, e rằng Phước Long cũng nguy đến nơi. Cái vận nước nó thế, biết làm sao hơn. Anh ngồi xuống nói chuyện miền Nam cho tôi nghe đi.

Ḷng tôi nhũn xuống. Ông vừa nói vừa tiếp tục bẻ những cây nan nứa cong xuống, lồng vào nhau. Chiếc rổ ông đang đan đă hơi có dạng cong. Khuôn mặt ông b́nh thản một cách lạ lùng. Mọi thứ từ con người ông là một cam chịu nhưng không khuất phục. Ông nói năng từ tốn, không hề ngưng tay đan lát như thể cả cuộc đời c̣n lại của ông chỉ để đan kết những mảnh lạt, những nẹp nứa. Tôi ngồi xuống chiếc ghế con cạnh ông thong thả kể tất cả những ǵ xảy ra ở Đồng Xoài. Ông chăm chú nghe, và cuối cùng thở dài:

– Tôi đă nhiều đêm khóc một ḿnh. Tôi thương những người lính như người nghĩa quân cố chạy ra để rồi chết bên lá cờ ở Đồng Xoài. Nhảy dù có nhiều anh hùng lắm, nhất là những người lính b́nh thường, lương không đủ nuôi vợ con. Nhưng cái vận nước nó thế biết làm sao hơn.

Tôi nói:

– Thưa Đại Tá, cuộc hành quân 719…

Ông ngẩng đầu nh́n tôi, đôi mày nhíu lại khiến tôi khựng, không nói năng thêm được. Nhưng ông lấy lại cái dáng yên nghỉ của một thiền sư, vững vàng ngay lập tức. Lưng ông vẫn thẳng và cái áo tù sọc đỏ như hơi chật khiến vai ông như rộng hơn ra. Cái dĩ văng 719 Hạ Lào chỉ thoáng qua trong xúc động cùng cực nhưng rồi ông chậm răi:

– Trung Úy Dũng, từ nay ḿnh gọi nhau bằng anh em, được không? Không phải v́ nội qui của trại. Cũng không phải v́ là tù mà phải bỏ cái cấp bậc quân đội của ḿnh sang một bên. Không phải như vậy. Anh c̣n trẻ, trông anh khoẻ mạnh, người doi doi như anh chắc sẽ vượt qua mọi gian truân của tù tội. Tôi có điều này để nói với anh như một người lính nói với một người lính. Chúng ta đă không hổ thẹn với việc làm của chúng ta, dù ai nói ǵ th́ nói.

Lam Sơn 719 được tung ra với hai mục tiêu. Mục tiêu đầu là phá vỡ hệ thống tiếp liệu của địch mà trọng tâm là ở vùng Tchéphone, Hạ Lào, t́m cách kiểm soát con lộ số 9 để chặn đường tiếp tế của địch từ Bắc. Tất cả những anh em Dù, anh em Sư đoàn 1, anh em Thiết Giáp Pháo Binh, anh em bên Không Quân, tôi nói về tất cả những anh em ḿnh đă tham dự 791 Hạ Lào hồi đó đều biết chắc giai đoạn đầu của cuộc hành quân đă đạt được mục tiêu của nó. Khó mà đưa ra tổn thất chính xác của địch nhưng tôi cam đoan một đổi mười là ít. Nh́n những kho xăng địch cháy, những kho lương thực bị phá hủy, và nhất là nh́n cảnh bộ đội Bắc Việt chết sắp lớp, tôi có thể xác định mục tiêu đầu của ta đă đạt.

– Thưa Đại… – Vâng, thưa anh, nhưng…

Ông giơ tay chận ngang, ngắt lời tôi:

– Tôi ở trong hầm chỉ huy. Hai chiến xa địch sập hầm bít hết lối và tôi đă gọi pháo bắn chụp lên đầu tụi tôi. Hồi đó tôi cứ thắc mắc tại sao các cấp chỉ huy địch lại phí phạm sinh mạng thuộc cấp đến như vậy. Có một hai sĩ quan khi khai thác tù binh tại mặt trận bảo họ được uống cường lực hay an thần ǵ đó của Trung Cộng. Tôi không tin hẳn chuyện này. Nhưng trong suốt những ngày tù đày ngồi đan rổ rá, tôi vẫn không hiểu tại sao họ phí phạm sinh mạng binh lính đến thế? Thế nào rồi anh cũng có dịp ra ngoài để thấy hậu phương miền Bắc không c̣n thanh niên nữa. Họ đem nướng không thương tiếc. Chỉ tội cho dân ḿnh, Bắc cũng như Nam. Tôi hiểu các thắc mắc của anh. Tôi không trả lời được tại sao Lam Sơn 719 đă không được đẩy tới trong giai đoạn hai là chiếm giữ các cứ địa 604 và 611 trên đường xâm nhập của địch. Hồi 1970 ḿnh đă phá tan hệ thống tiếp liệu của địch ở Miên. Nếu chúng ta tiến hành đúng, chiếm giữ 604 và 611 trong ṿng ba tháng nữa mùa khô th́ địch sẽ không c̣n cách ǵ tiếp tế cho chiến trường miền Nam. Tôi không trả lời anh được v́ tôi bị cầm tù từ hồi đó. Anh ở miền Nam chắc anh có đọc báo hay nghe tin tức, anh có biết tại sao không?

Tôi lắc đầu trầm ngâm. Hẳn là Đại Tá Thọ cũng không chờ một lời giải thích nơi một viên sĩ quan hạng bét như tôi. Nhưng cái thắc mắc của ông hẳn đă dày ṿ ông nhiều hơn là cảnh tù đày mà ông đang gánh chịu. Mong rằng sau này những nhà quân sử sẽ trả lời được cho người tù đă coi ngày bị bắt là ngày giỗ của ḿnh.

Ông là sĩ quan cao cấp nhất và được ở riêng một căn lều lá, không phải lao động nặng nhọc nhưng cũng phải chịu chế độ khoán. Đây là một chính sách hẳn ḥi được rút tỉa kinh nghiệm của các trại tù Nga Xô, Trung Cộng. Nó đẩy người tù đến tận chân tường, không có cách ǵ cục cựa nổi. Tôi không rơ một ngày Đại Tá Thọ phải nộp mấy cái rổ nhưng trông đống tre, nứa chất đống ở một góc nhà, tôi biết là ông đă phải lao động cật lực để đạt chỉ tiêu. Cuối cuộc tŕnh diện, ông trầm ngâm rồi bảo tôi:

– Cám ơn anh vẫn c̣n nghĩ đến t́nh đồng đội để đến thăm tôi – Ông không dùng chữ tŕnh diện – Điều duy nhất tôi mong mỏi ở tất cả các anh em là phải thương yêu đùm bọc nhau, cố giữ lấy tinh thần của một người lính quốc gia. Chỉ có thế, anh em ḿnh mới chứng minh được ḿnh khác họ. Và chỉ có thế mới minh giải được những điều anh em ḿnh đeo đuổi là đúng. Anh cho tôi gửi lời thăm tất cả anh em mới tới và bảo họ không cần tới thăm tôi nữa. Anh nói dùm với anh em là tôi luôn cầu Trời Phật để mọi người mạnh khoẻ.

Lê Thiệp

hoathienly19
09-29-2020, 15:49
TRẬN KỊCH CHIẾN CUỐI CÙNG CỦA TIỂU ĐOÀN 82 BIỆT ĐỘNG QUÂN ( tiếp theo )


https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2016/12/4786e-tuongdaibdqtaisg.jpg


*** Gian Lao ***


Tôi tối tăm mặt mũi v́ loạt đạn bất ngờ. Tấm kiếng che gió của chiếc xe tôi đang ngồi lănh cả chục viên AK của loạt đạn đầu tiên. Mảnh thủy tinh văng rào rào trên đầu, cổ, mặt mũi tôi. Ông tài xế gục trên vô lăng. Thùng nước xe bể, hơi nước phun “ph́...ph́...” che kín đầu xe.


Tôi phóng nhanh xuống đường. Sau một cái lạng ḿnh, tôi đă ở đàng sau thành xe. Tôi rút khẩu Colt 45, vẩy một viên về hướng thằng du kích. Viên đạn trật mục tiêu. Một BĐQ vừa nhảy khỏi xe, té trên mặt đường. H́nh như anh ta bị trúng đạn, không ngồi dậy được. Tôi giựt khẩu M16 trên tay anh


- “ Đưa tao !”

Tôi kéo cơ bẩm. Đạn tuôn ra khỏi ṇng. Tên du kích giăy giụa trên vũng máu. Lá cờ Mặt-Trận phủ trên ḿnh thằng du kích. Tôi ghếch mũi súng về lề phải con đường, nơi hàng chục họng AK và B40 đang đua nhau nă đạn vào hai chiếc xe be.


“Oành!”. Một trái B40 nổ ngay trước mặt tôi. Tôi cảm nhận rơ ràng nhiều mảnh B40 và đá, sỏi đă ghim vào cẳng ḿnh.


Chủ nhân khẩu M16 mà tôi đang xử dụng bị bay mất cái đầu. Máu từ cổ anh xịt thành ṿi; phần thân thể c̣n lại của anh giựt giựt trên mặt lộ. Khẩu B40 cách tôi chỉ vài sải tay, ngay bên kia đường. Tôi nhắm đầu thằng xạ thủ B40 quạt một tràng M16. Ngón tay tôi tiếp tục siết c̣.


https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2016/12/cac-chien-si-biet-dong-quan-tai-quang-tri-nam-1972.jpg


Địch đông lắm. Chúng đứng lố nhố trong vườn có những luống đậu, dây leo. Một băng đạn ria đại vào đây cũng có thể hạ gục cả chục tên. Chúng tôi không dự trù sẽ vướng vào một cuộc giao tranh vừa bất ngờ vừa điên cuồng này.


Chúng tôi ở vào cái thế không biết xoay trở cách nào để phản công. Thôi, đành liều mạng ! Ai đang ở đâu nằm tại đó, chống trả. Cũng may, đêm qua, ở Long-B́nh, chúng tôi có cả kho đạn lận lưng cho ngày hôm nay.


Đạn địch từ hai bên đường trước mặt tôi tưới như mưa vào những người lính c̣n đứng trên xe. Những thân h́nh rằn ri rơi rụng xuống mặt lộ. Có người chân vừa chạm đất, đă lăn ra chết.

Có đôi người vừa nhảy ra khỏi sàn xe, c̣n lơ lửng trên không, tay đă bóp c̣, nă đạn về hướng địch. Hầu như ai cũng lo bóp c̣. Không ai để ư đến thân thể ḿnh đă trúng thương nơi đâu.



https://live.staticflickr.co m/65535/49819184101_d74ee29a c3_o.jpg


Hạ sĩ Đinh Lít nằm nghiêng dưới gầm xe, tay trái anh đă trúng đạn, xuội lơ, tay phải ôm cứng khẩu M16. Anh nằm trên vũng máu, mặt anh tỉnh như không. Mặc cho đạn địch cài dày dặc xung quanh. Với một tay c̣n lại, anh liên tục bắn hết băng đạn này, tới băng đạn khác.


Lựu đạn miểng, lựu đạn nổ, lựu đạn cay, B40, M72, chớp nhoá, “Cành! Cành!...” - “Choác! Choác!... “ - “Xoẹt! Xoẹt!...” - “Oành! Oành!..”


Hai bên đường, địch vẫn tiếp tục ào ra. Xác Việt-Cộng đè lên nhau từng lớp, ngổn ngang.


- “Cành! Cành! Cành!...” Trên xe, Hạ sĩ Phi vừa rải từng tràng M60 về phía quân thù, vừa la rú như người mất trí

- “Đù má tụi mi ! Chết cùng chết ! Ông chết ! Tụi mi cũng chết!”


Fsrx91Sugm8


Trưa Ba Mươi tháng Tư, trên đoạn cuối của quốc lộ 1, một cuộc hỗn chiến loạn đả xà bần đă diễn ra giữa thanh thiên, bạch nhựt.

Dân chúng tràn ra đường, xem hai bên đánh nhau. Có đôi ba người dân thường, liều mạng chạy vào khu giao tranh, mang vác những Biệt Động Quân bị thương đem đi cứu cấp.

Khẩu đại liên của Trung sĩ Tài trên xe thứ nh́ đă được di chuyển xuống lề đường. Điều lạ là, hai phụ xạ thủ của Tài lại là hai em bé trai, tuổi khoảng mười hai, mười ba. Như vậy có nghĩa là, người phụ xạ thủ và tải đạn của Tài đă bị loại ra ngoài ṿng chiến.

Đạn nổ rền trời. Đạn bay qua. Đạn bay lại. Việt-Cộng chết. Biệt Động Quân chết. Dân chúng cũng chết ! Những người lính Biệt Động cuối cùng của Plei-Me, vùng 2, ruột đổ ḷng tḥng vẫn ôm súng bắn như khùng, như điên.

Hết đạn, những con cọp giăy chết đành dùng tất cả những ǵ cha mẹ ban cho để tự vệ:


Nắm đấm, gót chân, đầu gối, khuỷu tay và cả...răng cũng được xử dụng.

Trong phút giây tuyệt vọng, những chiến sĩ Việt-Nam Cộng-Hoà lăn xả vào địch, la hét, vật lộn, đấm đá, cào cấu, cắn xé...

Binh nhứt Liêu chí Cường (gốc Chợ-Lớn) trước khi chết, c̣n cố ôm cứng một thằng địch để cắn vào mặt nó. Tôi biết chắc người đó là chú Cường, v́ cái khăn len xanh cố hữu, bốn mùa quấn trên cổ chú (cái khăn của người t́nh phụ).:112:



https://c1.staticflickr.com/9/8286/7800724374_a663b826d f_c.jpg


Tôi đă bắn hết số đạn mang theo trên lưng người lính nằm chết dưới chân tôi.

Tôi vừa rướn người, quơ quào được một băng M16 trên sàn xe th́ đạn 12,7 ly của địch từ xa ào ào bắn tới. Có tiếng trung úy Trâm thét lên, bên hông trái xe,

- “ Thái Sơn ơi ! H́nh như tank tới !”

- “ Làm ǵ có tank ! Chỉ có 12,7 ly thôi !”


Đạn pḥng không của Việt-Cộng quét sát mặt đường nhựa, toé lửa khi nổ lần thứ hai. Những viên 12,7 ly nổ “đúp” (hai lần), chui qua thân người bị đạn, hất thân ḿnh người đó lên khỏi mặt đất, đục những lỗ to như bàn tay trên thân thể nạn nhân. Trên mặt lộ là cả chục xác Biệt Động Quân không toàn thây. :112:


Khẩu M60 của Hạ sĩ Phi đă găy nát. Hạ sĩ Phi vỡ óc. Hạ sĩ Đinh Lít cũng vỡ óc. Sáu bánh xe be xẹp lép. Chiếc xe nằm bẹp xuống mặt đường. Trên sàn xe, trên mặt lộ, chỗ nào cũng ngập máu. Máu đọng thành vũng, máu chảy tràn xuống ruộng. Bên tôi, không c̣n khẩu M16 nào hoạt động.


q_8sswThITA


Những Biệt Động Quân đi trên xe thứ nhứt có lẽ đă chết gần hết. Những người đi trên xe thứ nh́ đang là mục tiêu cho khẩu 12,7 ly. Tôi thấy họ rút vào ruộng mía bên phải quốc lộ. Đám dân đứng xem đánh nhau, bị trúng đạn cũng nhiều.


Súng của tôi lại hết đạn rồi. Tôi trườn ra giữa đường để nhặt khẩu AK và giây đạn của tên du kích. Khẩu đại liên của Trung sĩ Tài đă găy làm đôi. Hai em bé tải đạn cho Tài đều chết v́ trúng đạn 12,7 ly.

Trung sĩ Tài đang lăn lộn trên vũng máu. Tôi lăn ḿnh vài ṿng, tới bên Tài. Tài nh́n tôi, thều thào,

“Chạy đi !... Ông thày... chạy đi!...”

Tôi định xốc Tài lên để d́u anh vào lề đường th́ hai mắt anh đă lạc. Đạn bay xém bên ḿnh tôi, nổ “toang toác!” trên mặt lộ. Chợt ai đó nắm sợi dây ba chạc sau lưng tôi, lôi tôi chạy về bờ ruộng bên trái quốc lộ.

- “Anh em chết hết rồi. Chạy đi, thày ơi !” Đó là tiếng Trung úy Trâm.

“Toác! Toác!” - “Chíu! Chíu!” đạn địch đuổi theo.


Tôi cắm đầu chạy. Chạy được một đỗi th́ tôi đuối sức, lảo đảo. Trâm bèn ghé vai, vác tôi lên lưng. Trâm khỏe như một đô vật.

Trâm cơng tôi, nhanh chân lẩn vào rặng dừa bên trái lộ. Hết vạt dừa, Trâm đặt tôi xuống đất. Chúng tôi lội trên mảnh ruộng vừa gặt xong. Chân tôi vướng gốc rạ. Tôi ngă bổ nhào trên mặt ruộng.

Trên mặt ruộng có những đồ chơi của trẻ con vương văi đó đây. Một con búp bê bằng nhựa, một cái xe hơi bằng nhựa, những chén bát nhỏ tí, cũng bằng nhựa, màu mè xanh đỏ.


Tôi chợt nhớ tới gia đ́nh vợ con tôi ngoài Ban Mê Thuột. Chắc vợ con tôi đă chết hết. Tôi nghĩ tới đất nước tôi. Đất nước tôi đă mất. Đơn vị tôi đă tan tác. Một phút bất thần, phẫn uất, tôi rú lên như con thú,

- “Ôi!... Ôi!... Ông Trời ơi!... Ông Trời ơi!...ơi...ơi... ”

Tôi rút khẩu súng Colt ra, kê ṇng súng vào mang tai ḿnh, bóp c̣. Bàn tay như sắt nguội của Trung úy Trâm phạt ngang một cú Karaté. Viên đạn bay lên trời. Khẩu Colt văng trên mặt ruộng.

- “ Trâm ơi ! Làm ơn!... Cho anh chết! Trâm ơi!...”

Nước mắt dàn dụa, tôi thất vọng, van lơn. Chẳng nói chẳng rằng, Trung úy Trâm lầm ĺ, xốc vai tôi bước đi.


https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2019/07/biet-dong-quan-vi-dan-quyet-chien.jpg


Ngoài lộ vẫn c̣n lác đác tiếng đạn bắn qua, bắn lại và tiếng lựu đạn nổ. Trâm lột sợi dây ba chạc của tôi, của anh, mũ sắt của tôi, của anh, vứt trên một g̣ mả.

Trâm từng bước d́u tôi về hướng xóm làng gần đó. Giờ đó tôi như con sên yếu đuối, mặc cho chú Trâm tha lôi đi đâu th́ đi. Chúng tôi vừa đụng đầu một con lộ đất th́ một nông dân đạp xe tới chặn đường,

- “ Ông thiếu tá bị thương hả ?”

Thói quen, ngược đời, đi trận tôi thường đeo lon trắng. Về nhà tôi lại đeo lon đen. Người dân đă nh́n thấy cặp lon trắng của tôi. Ông cụ có vẻ động ḷng,

- “ Ông trung úy lấy xe này đưa thiếu tá chạy đi ! Luẩn quẩn ở đây lâu không tốt đâu!”

-” Cám ơn cụ !” Trâm lanh tay nhận chiếc xe đạp thồ từ tay người dân tốt bụng.

Con lộ đất dẫn tới một văn pḥng Hội Đồng Xă, cửa đóng, khóa ngoài. Rồi con lộ đất dẫn vào một ngôi nhà thờ xứ đạo. Trong sân nhà thờ, lố nhố nhiều người đang tập trung.

Một cái rờ-moọc xe GMC chất đầy súng ống nằm ngay giữa sân. Đó đây, từng đống quân trang, quân phục VNCH vừa bị cởi bỏ. Trâm dựng cái xe đạp ngay giữa sân. Chú đứng quan sát một phút, rồi thở dài,

- “ Cởi quân phục vứt đi th́ chỉ c̣n cái áo mayor với cái quần xà-lỏn. Ḿnh làm sao đây, Thái Sơn ?”

Tôi rờ rẫm những khẩu M16 trên chiếc rờ-moọc, “Lên đạn. Dựng khẩu súng thẳng đứng. Đưa ṇng súng vào dưới cằm. Lách ngón chân vào c̣ súng. Nhấn ngón chân xuống. Thế là xong!”

Tôi đang suy nghĩ, sắp thử một cú tự giải thoát nữa, th́ chú Trâm van lơn,

- “Thày ơi ! Thôi đi thày ơi! Đừng bỏ em, thày ơi !”


https://hon-viet.co.uk/LinhNghiGi1.jpg


*** Gian Lao ***


Trung úy Trâm ôm chặt vai tôi, khóc nức nở như một đứa bé. Thày tṛ tôi ôm nhau. “Hu... hu... hu....”

Những người đứng gần đó, bị nỗi đau đớn chung lôi cuốn, cũng ôm mặt khóc theo. Như giữa đám ma, cả một khu sân nhà thờ xứ đạo vang lên tiếng khóc.

Một đám ma không có người chết, mà những người đang đứng đây, chẳng có họ hàng ǵ với nhau, nh́n nhau, ôm nhau, cầm tay nhau, chúng tôi khóc vùi.

Một thanh niên cưỡi chiếc Honda 90 từ hướng quốc lộ 1 phóng tới. Anh kè sát bên tôi, nói nhỏ :

- “ Thiếu tá lên xe, em chở đi trốn .”

Trâm đẩy tôi lên yên sau xe, chú leo lên theo.

- “Chúng nó (VC) chết nhiều lắm ! Chúng nó bắt được mấy anh lính bị thương, tra khảo họ xem cấp chỉ huy của họ là ai, đâu rồi ? Họ khai có ông thiếu tá, chắc chết rồi. Chúng kiểm xác chết. Không có xác thiếu tá. Chúng đang túa đi lùng. Em sẽ đưa thiếu tá đi dấu. Không để cho chúng nó bắt.”


https://diendanchinhtri.file s.wordpress.com/2011/07/73547-278734_1379797996147 80_100002082822437_2 79997_1491785_o.jpg


Xe chạy trong đường làng quanh co một đỗi th́ ngừng. Anh thanh niên dựng xe, đập cửa một căn nhà gỗ, mái dừa,

- “Mẹ ơi ! Con đây ! Hải đây ! Mẹ mở cửa cho con !”

Cánh cửa hé mở, một bà già, giọng Bắc Di Cư:

- “ Đánh nhau, súng nổ ầm ầm mà mày cứ nhơn nhơn ra đường. Về nhà đóng cửa lại cho tao đỡ lo !”

- “ Vâng con về ngay. Mẹ cho con gửi hai anh này. Có ai hỏi, mẹ cứ nhận là hai con của mẹ. Anh Cả, anh Hai đi lính vắng nhà lâu rồi, cḥm xóm không nhớ mặt đâu ! Mẹ làm ơn, làm phúc. Con đi một chút nữa con về ngay. Mẹ đừng lo !”


Bà mẹ nh́n tôi và Trâm, bà biết ngay hai đứa chúng tôi là sĩ quan QLVNCH đang bị truy đuổi. Bà cụ không dài ḍng hỏi han. Cụ đưa tay chỉ cho tôi cái tủ đứng góc nhà,


- “Hai đứa lấy quần áo 'si-vin' của thằng Hải mà mặc vào ngay đi ! Đưa quần áo nhà binh cho tao đi dấu !” Thoáng chốc, tôi và Trâm thành hai anh dân sự. Bà cụ Bắc Kỳ đă chôn hai bộ rằn ri dưới bùn ruộng muống sau nhà.

Trước sân, anh thanh niên (Hải) con bà cụ đang bơm lốp xe. Tôi và Trâm ngồi uống nước vối nóng, nghe ngóng động tĩnh. Chợt, ngoài đường có tiếng đối đáp,

- “Anh kia ! Anh có thấy hai thằng lính rằn ri Ngụy chạy qua đây không ?” một giọng Nghệ-Tĩnh gặng hỏi.

- “ Có! Chúng nó chạy thẳng sang hướng Thủ-Đức. Đấy! Con đường quẹo phải ! Chổ cây dừa nghiêng...”

Tên Việt-Cộng chỉ huy liếc mắt vào trong nhà. Thấy tôi và Trâm, nó hỏi trống không,

- “ Chứ hai anh kia làm chi rứa?”

- “ Anh Cả và anh Hai của tôi đó!” Hải nhanh miệng.

- “ Thưa ông, hai thằng con tôi đi lính ngoài miền Trung. Tụi nó mới đào ngũ về nhà được mấy tuần. Xóm này ai cũng biết.” Bà cụ phân trần.

Thằng Việt-Cộng hết nghi, quay sang đồng bọn, nó ra lệnh,

- “ Nhanh lên ! Đuổi theo chúng nó nhanh lên! Hướng cây dừa nghiêng. Đừng cho chúng nó chạy thoát ! Các đồng chí cẩn thận đấy ! Tụi nó có súng !”


HoTZz6FIMY4


Rồi tiếng chân người huỳnh huỵch chạy đi, xa dần. Bà già lấy khoai lang luộc đưa cho chúng tôi ăn đỡ ḷng. Anh Hải rồ máy xe. Nửa giờ sau anh trở về

- “ Thiếu tá đi được rồi! Quân của chúng nó đi hết rồi.”

- “ Hai con có c̣n tiền để đi xe về quê không? Nếu không mẹ cho !” bà cụ ân cần.

- “ Cám ơn bác. Chúng cháu c̣n tiền đây. Chúng cháu mới lănh lương. Mải lo đánh nhau, chưa tiêu đồng nào .”

Tôi cảm động nói không nên lời. Bà già nh́n chúng tôi, ánh mắt bà chứa ẩn một tấm t́nh thương xót bao la.

- “ Thưa Mẹ ! Con đi !”

- “ Thưa Mẹ! Con đi !”

- “Anh đi nhé, Hải! Cám ơn Mẹ và em vô cùng!”


Lần đầu tôi gọi một người không sinh ra tôi là Mẹ. Tôi gọi bà là Mẹ, không ngại ngùng, như thể bà đă là Mẹ tôi, đă sinh ra tôi. Tôi và chú Trâm bước ra vườn sau, theo bờ ruộng rau muống, leo lên con lộ đá đi về hướng Thủ-Đức. Tôi biết sau lưng tôi, Mẹ và chú Hải c̣n trông theo.


https://www.quyenduocbiet.co m/images/file/XmrmUDX01ggBAMwm/w800/0aa3177aee3b07655e2a .jpg


Hai đứa tôi nhanh chân nhập vào ḍng người hướng về Thủ-Đức. Chợt sau lưng tôi có tiếng gọi :

“ Thái Sơn ơi ! Trâm ơi !”


Th́ ra người gọi chúng tôi là Thiếu úy Trần văn Thủy. Ba thày tṛ tôi không dám lớn tiếng hỏi han nhau về những ǵ đă trải qua. Chúng tôi đi như những người dân chạy loạn đang t́m đường về nhà, sau khi im tiếng súng.

Chúng tôi vào Thủ-Đức. Nhà nhà, cửa đóng kín mít. Vài chiếc xe Cảnh-Sát cháy dở dang. Vài tiệm buôn bị đốt phá. Trong phố đă xảy ra cướp bóc, hôi của. Cổng Trung-Tâm Cải-Huấn Thủ-Đức mở toang.

Sân nhà lao vắng tanh. Tội phạm mới ra khỏi khám đang lộng hành (?) Nhiều người tay mang băng đỏ chở nhau trên Honda, trên xe Ford Cảnh-Sát. Xe chạy nhanh như bay, qua lại nhiều lần trên đường phố.

Tới chợ Thủ-Đức, chúng tôi may mắn đón được chiếc xe Lamb chạy đường Thủ-Đức, Thị-Nghè, giá sáu trăm đồng một người. Chiếc xe Lamb ḅ ́ ạch v́ quá tải.

Xe chúng tôi qua mặt từng đoàn người bận quần đùi, áo thun, chân đất, đang chen vai nhau, đi về hướng thủ đô. Tôi nhận ra, trong đoàn người áo thun, quần xà lỏn đang đi dưới đường, có Thiếu tá Nguyễn hữu Tài, tiểu đoàn phó tiểu đoàn 81 Biệt Động Quân. Có lẽ anh ta cởi bỏ quân phục nơi Đường-Sơn Quán (?)

C̣n cách ngă ba xa lộ Đại-Hàn chừng hơn trăm mét, chúng tôi phải xuống xe đi bộ ṿng qua một khu ao cá và ruộng nước bên trái quốc lộ, v́ giữa đường có một chiếc tank T54 đang cháy.

Có vài cán binh Cộng-Sản Bắc-Việt ôm AK chặn không cho bộ hành và xe cộ qua lại đoạn đường này. Lội hết vạt ruộng th́ thày tṛ tôi tới xa lộ Đại-Hàn.

Lúc này, trên xa lộ, tank T54 và xe chuyển quân của CSBV đang nối đuôi nhau hướng về Sài-G̣n. Sau khi cuốc bộ một đỗi, chúng tôi tới cây cầu đúc. Qua cầu, chúng tôi lẫn trong biển người xuôi ngược.


https://3.bp.blogspot.com/-9l4cfd3Mc1w/TbpRmJNpOcI/AAAAAAAAAUg/LyoNwnpVFS4/s640/4562287230_16c16e81b 8_o.jpg


Chúng tôi về tới Thị-Nghè th́ mặt trời xế bóng. Giữa cầu Thị-Nghè là một chiếc M41 đứt xích v́ B40. Chiếc chiến xa nằm bẹp, bụng xe đè sát mặt cầu. Trên pháo tháp, có vết máu đă khô, nhưng không thấy xác người chết. Bên cạnh đó, vương văi vài bộ quân phục Việt Nam Cộng Ḥa, dây đạn, nón sắt, ba lô...


Tôi không dám về nhà mẹ tôi, sợ trong lúc t́nh h́nh lộn xộn, cḥm xóm biết ḿnh là sĩ quan QLVNCH, sinh chuyện không hay. Để hai người đàn em chờ trên cầu, tôi đi kiếm nhà người quen, xin cho chúng tôi tá túc.

Nhà anh bạn Nguyễn gia Hân của tôi nằm ngay chân cầu. Bạn tôi là sĩ quan Cảnh-Sát, Trưởng đoàn pḥng vệ Toà Đại-Sứ Hoa-Kỳ. Nhà khóa cửa. Có lẽ gia đ́nh bạn tôi đă di tản rồi.


Tôi trở lại cùng Trâm và Thủy. Qua cầu, chúng tôi tiếp tục đi. Bây giờ, trong phố, người qua lại nườm nượp. Bên lề đường, sát tường rào Sở Thú, những người đi hôi của đang bày bán đủ thứ, chăn màn, quần áo, chén bát, sách truyện, tranh ảnh, rượu bia...



https://imagizer.imageshack. com/v2/640x431q90/r/923/k3JCu3.jpg


Quên đời ? Chỉ c̣n cách uống rượu. Năm trăm đồng một chai Hennessy. Ba thày tṛ tôi kẹp nách mỗi người một chai.

Tôi vẫy tay chận một chiếc xích lô máy để vào Chợ-Lớn, về nhà Trung úy Trần văn Phước; vừa có nơi lạ để nghỉ qua đêm; xóm giềng không biết ḿnh là ai; vừa t́m xem chú Phước c̣n hay mất.


Chiều rồi, nhưng nhà chú Phước c̣n mở cửa. Trước nhà là cái bảng hiệu “Chiêm-Tinh Gia Trần-Cẩm, Chuyên Bói Bài, Coi Chỉ Tay, Đoán Vận-Mệnh”. Bác Cẩm là thân sinh của chú Phước.


Xe ngừng, tôi vừa bước xuống đất th́ Phước từ trong nhà ào ra ôm chầm lấy tôi


- “ Ôi ! Anh Hai ! Anh Hai ! Mừng quá! Anh Hai ơi !”


Th́ ra trong cuộc lui binh dưới mưa pháo ngày 29 tháng Tư, Phước bị tụt lại đàng sau, mất liên lạc với tiểu đoàn. Phước không biết chúng tôi rẽ vào Long-B́nh. Phước đi thẳng một lèo, theo xa lộ về tới Sài-G̣n.


Đêm 30 tháng Tư bốn anh em tôi ngồi bên nhau, cạn ba chai rượu. Chú Thủy cho tôi biết rằng, ngay đợt tấn kích đầu của địch, chiếc xe thứ nh́ đă bị thương và chết khá nhiều. Nhiều BĐQ bị thương đă được dân chúng di tản đi cứu cấp.


Thiếu úy Thủy đă cố gắng mở một mũi bọc hông phải để giải tỏa áp lực địch nhưng không thành công, v́ địch quá đông.



https://tuxtini.files.wordpr ess.com/2014/01/quc3a2n-lc3adnh-nam-vie1bb87t-nam-vc3a0-nhc3b3m-phc3b3ng-vic3aan-truye1bb81n-hc3acnh-phc6b0c6a1ng-tc3a2y-tc3acm-che1bb97-trc3ba-e1baa9n-trc6b0e1bb9bc-c491.jpg


Đến lúc khẩu pḥng không 12,7 ly của địch tham chiến th́ Thủy cho anh em phân tán chạy vào nhà dân. Sau đó Thủy được dân chúng cưu mang, cho quần áo cải trang rút chạy.

Chú Thủy nói, h́nh như chú Thiều bị thương ngay từ phút đầu, không rơ số mệnh ra sao. Sáng Mồng Một tháng Năm 1975, tôi cho Thủy và Trâm một số tiền để làm lộ phí về quê. Từ dạo ấy, anh em chúng tôi không c̣n dịp gặp lại nhau nữa.


https://imagizer.imageshack. com/v2/537x480q90/r/921/vzMSgh.jpg


*** Thời gian trôi... ***


Mười ba năm sau [sau khi ra tù], cũng vào ngày Ba Mươi tháng Tư, đầu làng, cuối xóm, rợp bóng cờ đỏ sao vàng. Nơi nơi, loa vang vang, bài ca “Mùa Xuân Trên Thành Phố Hồ Chí Minh”.

Có một anh Bắc-Kỳ, tuổi lửng lơ, nửa già, nửa trẻ, đạp xe thồ, đèo theo một cái giỏ, đi rao bán cá khô trong khu ngoại ô Thủ-Đức.


Tới căn nhà gỗ, mái dừa, anh bán cá khô vừa mở miệng hỏi thăm, một bà người Xứ Quảng đă mau mắn trả lời :

- “ Đi rồi ! Bán nhà, vượt biên . Năm, sáu năm rồi !”


- “Xin cám ơn bà. Xin cám ơn Trời !”

Anh Bắc-Kỳ mừng rỡ. Bà chủ nhà... nghệt mặt, giương mắt nh́n anh chăm chăm, mà chẳng hiểu ư anh.

Anh bán cá khô lên xe, đạp từ từ theo con lộ đất. Xe tới cổng nhà thờ. Gác chuông lặng câm. Sân nhà thờ vắng ngắt. Trên thánh giá, Chúa cúi đầu. Không biết Chúa có c̣n nhận ra anh không ?


Qua văn pḥng Ủy-Ban Nhân-Dân Xă, đến quốc lộ 1, anh quẹo phải, ngừng lại bên đường ngồi nghỉ. Nơi đây chỉ cách Đường-Sơn Quán vài cây số.


Cũng ngày này, mười ba năm trước, các chiến sĩ của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đă tả xung hữu đột trong trận đánh đẫm máu bi hùng cuối cùng. Những người nằm xuống đă sang thế giới bên kia trong quân phục rằn ri, với cái huy hiệu đầu beo, phía trên phù hiệu đó là một bệt tím có chữ số “82” màu vàng.


pzus3uxUuGY


Trưa nay, có lẽ dân chúng trong vùng c̣n nhớ tới họ, nên cắm vội bên đường đôi bó nhang, hương khói.

Anh bán cá khô ngồi xẹp trên lề cỏ, rưng rưng,

- “ Các chú tha lỗi cho anh...”

Hai bên quốc lộ là rừng bạch đàn. Những cây bạch đàn lớn lên từ ḷng đất từng thấm đẫm máu của những anh hùng Plei-Me. H́nh như trong gió, thoảng như ru, có tiếng ai, thiết tha, năo nuột:

- “Thày ơi ! Chạy đi !... Thày ơi!...”

Ngồi bên b́a rừng, đôi mắt Đường-Sơn Đại-Huynh đẫm lệ...!


https://baotreonline.com/tre_assets/uploads/2020/01/ngay-xuan-o-bien-ho-pleiku-ky-cuoi-442x600.jpg

Vương Mộng Long

hoathienly19
10-01-2020, 06:19
*** ANH HÙNG BIỆT HẢI VNCH


- Đi Vào Ḷng Địch - Cuộc giải cứu ly kỳ ở Cam Lộ


Câu chuyện thật của một Người Nhái Hải Quân VNCH

Cuối năm 2001, người xem TV các chương tŕnh “Suicide Missions” (History Channel), “Navy SEALs :



Untold stories” (TLC - The Learning Channel) sẽ thấy một nhân vật Việt Nam tên Kiệt được nhắc đến trong những chuyến công tác chưa bao giờ được kể lại. Nhân vật này là ai ? T́nh tiết trong các phim tài liệu đó có chính xác không ? Mời đọc giả đi ngược thời gian….



https://linhvnch.files.wordp ress.com/2016/08/nguoinhai.jpg


Cách đây hơn 40 năm về trước, vào mùa hè năm 1972, c̣n được gọi là “Mùa Hè Đỏ Lửa”. bọn cộng sản Bắc Việt (CSBV), là bọn lính đánh thuê tay sai của cộng sản quốc tế Tàu-Nga, đă theo lệnh quan thầy, điên cuồng mở cuộc tấn công xâm lăng miền Nam Việt Nam ở ba mặt trận Quảng Trị, Cao Nguyên, An Lộc.


30 ngàn quân CSBV xâm lược trang bị vũ khí tận răng, ngang ngược tràn qua vùng phi quân sự (DMZ) ở vĩ tuyến 17, vượt tràn qua sông Bến Hải.


Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) và đồng minh ở trong thế giằng co với kẻ địch….


Trong một chuyến thám thính thâu lượm tin tức, chiếc máy bay EB-66 của Không Lực Hoa Kỳ bất th́nh ĺnh bị hỏa tiễn SAM bắn hạ.

Phi cơ thám thính điện tử EB-66.


https://i0.wp.com/www.rc135.com/0002/BAT_21.JPG


Vừa kịp tung ra khỏi máy bay, Trung Tá Iceal “Gene” Hambleton kinh hăi chứng kiến cảnh chiếc máy bay bùng nổ làm thiệt mạng 5 người c̣n lại trong phi hành đoàn.


Chiếc dù từ từ lượn xuống, dù bị mây mù che phủ không thấy đất, Trung Tá Hambleton biết chắc là 30 ngàn địch quân đang chờ ḿnh dưới đất.


Thế là guồng máy quân sự của đồng minh bắt đầu một cuộc “t́m kiếm và giải cứu” (search and rescue) đắt giá và tổn hại nhất trong cuộc chiến.


Hai chiếc trực thăng Bộ Binh vừa nhào đến địa điểm giải cứu liền bị bắn hạ. Phi hành đoàn 4 người của chiếc Blueghost 39 thiệt mạng tại chỗ. Chiếc trực thăng thứ nh́ ráng “lết” đến một địa điểm an toàn và phi hành đoàn được một chiếc trực thăng khác đến giải cứu.



https://scontent-yyz1-1.xx.fbcdn.net/v/t1.0-9/120181993_7395727699 56583_56697986090306 87007_n.jpg?_nc_cat= 101&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=nUhGSTJui2QA X82MLa4&_nc_ht=scontent-yyz1-1.xx&oh=6c011f9c31778d0ee 733ad523af79324&oe=5F9A07DF


Màn đêm buông xuống, Trung Tá Hambleton trơ trọi một ḿnh dưới đất trong sự che chở của rừng rậm, bủa vây tứ bề bởi một lực lượng địch quân lớn nhất trong cuộc chiến VN.

Hôm đó là Ngày Phục Sinh, Chúa Nhật 2 tháng 4, 1972. Không Quân Hoa Kỳ (HK) biết vị trí của Trung Tá Hambleton nhưng không tài nào với tới nổi ông ta v́ địch quân bủa vây dầy đặc. Tối đó họ chỉ có thể thả ḿn xung quanh ông ta để ngăn cản địch quân tới gần.


Sáng hôm sau, chiếc trực thăng “Jolly Green 65″ bay tới gần vị trí của Trung Tá Hambleton th́ lập tức bị “dàn chào” bởi một trận mưa đạn tàn khốc. Lại phải “lết” về.


Chuyến kế của “Jolly Green 66″ cũng không khấm khá. Đạn bắn rát từ tứ phía như xé nát chiếc trực thăng. Và cũng phải “lết” về lại căn cứ.

Trước khi màn đêm phủ xuống vào ngày Thứ Hai, một chiếc máy bay hỗ trợ cho cuộc giải cứu bị hỏa tiễn SAM bắn hạ.

Đại Uư William Henderson và Trung Úy Mark Clark nhảy dù thoát hiểm, đáp xuống đất gần vị trí của Trung Tá Hambleton.

Cuộc giải cứu bây giờ không phải cho một người nữa, mà cho 3 sĩ quan Hoa Kỳ, mỗi người lạc một lối.

Dưới đất, 3 người phi công HK chứng kiến tận mắt trong nỗi niềm thất vọng khi thấy các loạt giải cứu kế tiếp bị đẩy lui bởi hỏa lực tàn khốc của địch.

Chỉ trong ṿng 24 tiếng đồng hồ, 3 máy bay bị bắn hạ, 5 chiếc bị thiệt hại nặng nề, 4 người thiệt mạng.


Và xui xẻo thay tối đó Đại Úy Henderson bị cs BV lùng bắt được. Trong khi đó, quân đội HK khám phá ra rằng Trung Tá Hambleton từng phục vụ với Bộ Tư Lệnh Chiến Lược Không Quân (Strategic Air Command).

Ông ta giữ trong đầu một kho kiến thức về hệ thống hỏa tiễn nguyên tử, cái loại dữ kiện không thể để rơi vào tay kẻ địch.

Bằng mọi giá phải giải cứu cho được Trung Tá Hambleton.


https://i0.wp.com/vnafmamn.com/untoldpage/Bat21_map.jpg


Những ngày kế tiếp, không lực HK mở nhiều cuộc tấn công xung quanh cầu Cam Lộ. V́ hỏa lực địch quá mạnh, không chiếc máy bay nào có thể xuyên thủng ṿng vây được. Trái lại hầu hết đều bị bắn hư hại nặng.


Mọi người đều nhận ra là kẻ địch đang dùng hai phi công Hoa Kỳ làm mồi để nhử các chuyến giải cứu vào để tiêu diệt.


Đến ngày 6 tháng 4, tổng cộng có đến 52 chiếc máy bay và 4 chiếc B-52 oanh tạc liên tục chung quanh vùng Cam Lộ.


Trong lúc đó, chuyến phi hành “Jolly Green 67″ chuẩn bị để thực hiện cú “chộp” lấy Trung Tá Hambleton.


Chiếc trực trăng “Jolly Green 67″ gần đáp xuống vị trí của Trung Tá Hambleton giữa khói lửa mịt mù, giữa những lằn đạn của địch cào nát phi cơ.

Bị bắn quá rát, trực thăng rút lên không kịp, rơi sầm xuống đất nổ tung. Thiệt mạng tất cả phi hành đoàn 6 người.


Trung Tá Hambleton gục khóc khi thấy biết bao nhiêu người thiệt mạng chỉ để giải cứu lấy ḿnh. Bằng mọi giá ông ta tự nhủ cũng phải sống c̣n….


https://i2.wp.com/r.ddmcdn.com/s_f/DSC/uploads/2014/08/lonetarget11_iceal_g ene_hambleton-622x447.jpg


Ngày 7 tháng 4, một chiếc máy bay khác hỗ trợ cuộc giải cứu lại bị bắn hạ. Trung Úy Bruce Walker và Trung Úy Larry Potts bị thất tung.


Ngày 9 tháng 4, 1972, quân lực HK nhận thấy cuộc giải cứu kết hợp nỗ lực của nhiều binh chủng không thành công.


5 phi cơ bị bắn hạ, 9 quân nhân bị thiệt mạng, 2 người là tù binh, mất tung tích 2 sĩ quan khác.

Không lực Hoa Kỳ gần như bó tay chưa biết tính toán như thế nào.

Lúc bấy giờ, Đại Tá Thủy Quân Lục Chiến Al Gray đưa ra một đề nghị khác :

Một cuộc giải cứu âm thầm bằng đường bộ. Ai thực hiện công tác này ?

Câu trả lời :

Biệt kích Mỹ và Việt.


Phóng đồ hành quân Bat 21 Bravo và Nail 38 Bravo giải cứu Trung tá Không quân Hoa Kỳ Hambleton từ ngày 2 đến ngày 14 tháng 4 năm 1972.


https://nhayduwdc.org/nn/bv/tn/2016/vld/nnNVK004.jpg


Đại Úy Thomas Norris thuộc US Navy SEAL cùng 5 Người Nhái (Frogmen) Việt Nam từ căn cứ Đà Nẵng đến để chuẩn bị.

Cùng lúc đó, Không Lực HK ra tín hiệu cho hai phi công HK kẹt trong ḷng địch t́m cách tới điểm hẹn.

Trung Úy Clark đang ở gần sông Cam Lộ, chảy về hướng Đông ra Cửa Việt.

Tối ngày 10 tháng 4, 1972, sẽ men theo ven sông đến điểm hẹn. C̣n Trung Tá Hambleton cách gịng sông gần 2 cây số cần phải được hướng dẫn để len lỏi qua ṿng đai địch quân dầy đặc để đến bờ sông.


Toán biệt kích tập trung tại một tiền đồn (forward operating base) nằm trên một ngọn đồi thấp cạnh sông Miếu Giang, quận Cam Lộ.

Nhóm Người Nhái Việt Nam gồm có một Đại Úy trưởng toán, hai Hạ Sĩ Nhất, và hai Hạ Sĩ. Kiệt, 27 tuổi, lúc bấy giờ là Hạ Sĩ Nhất Trọng Pháo, thuộc sở Pḥng Vệ Duyên Hải, và cũng là một Biệt Hải được huấn luyện theo mô h́nh của US Navy SEALs.


https://i2.wp.com/batkhuat.net/images/blafront.jpg


Từ tiền đồn, Norris cùng với nhóm Biệt Hải đi ngược ḍng sông để giải cứu cho Trung Úy Clark trước, rồi Hambleton sau đó.

Khi màn đêm buông phủ ngày 10 tháng 4, đội biệt kích khởi hành .

6 người trơ trọi trong bóng đêm đối đầu với một lực lượng địch quân đă bất chấp sức mạnh của không lực HK. Thoạt đầu, toán biệt kích dự tính bơi ngược ḍng sông để gặp Trung Úy Clark trôi xuôi ḍng xuống. Nhưng v́ ḍng nước chảy mạnh quá nên cả toán đành phải xâm nhập bằng đường bộ theo ven bờ sông.


Một toán Người Nhái VNCH trong khóa huấn luyện tại Nha Trang


https://vietmynewspaper.com/wp-content/uploads/2018/12/1.gif


Toán biệt kích chậm răi tiến từng bước trong màn đêm, vượt qua mặt từng đoàn thiết giáp, xe hàng, và các toán tuần tiểu thường xuyên canh pḥng.

Đây là một việc chậm răi, nguy hiểm và có thể trở thành chết người trong nháy mắt. Nhóm điều hành chuyến giải cứu biết là nguy hiểm nên đă dặn cả toán là đừng đi quá một cây số vào cứ địa của địch ở thượng nguồn.

Nhưng toán biệt kích biết là như vậy không đủ nên tiếp tục âm thầm vượt qua tai mắt kẻ địch để cuối cùng dừng lại và chờ … 2 cây số ở thượng nguồn.

Gần 3 giờ sáng, toán biệt kích phát hiện một vật di động xuôi ḍng sông. Đó chính là Trung Úy Clark.

Trước khi cả toán bắt đầu cuộc giải cứu th́ một toán tuần tiểu của địch xuất hiện. Cả toán lặng yên chờ đợi trong khi Trung Úy Clark cứ trôi xuôi ḍng sông.

Đến khi kẻ địch đă đi qua th́ Trung Úy Clark cũng biến dạng trên ḍng sông nước chảy mạnh. Cả toán biệt kích rút lui đi dọc theo bờ sông để truy lùng Clark.

Cuối cùng toán phát hiện ông ta đang ẩn núp ở ven sông.


ibF2VdNihgA


Trời đă hừng sáng, tuy đă t́m được Trung Úy Clark nhưng cả nhóm vẫn c̣n ở sâu trong vùng địch. Hết sức chậm răi và cẩn trọng, toán biệt kích tiếp tục chuyến hành tŕnh đào tẩu khỏi vùng địch.


Trưa hôm đó, cả toán về đến vùng an toàn. Trung Úy Clark được bốc về Đà Nẳng. Toán biệt kích c̣n ở lại tiền đồn. Công tác của họ chưa xong v́ vẫn c̣n một phi công HK cần giải cứu.


https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2016/12/tong-thong-ngo-dinh-diem-tham-hoi-cac-chien-si-nguoi-nhai-huan-luyen-tai-vung-tau.jpg


Ngày hôm sau, 11 tháng 4, 1972, toán biệt kích chuẩn bị lên đường.

Trong chuyến giải cứu hôm trước cả toán đă chứng kiến tận mắt lực lượng địch quân dầy đặc. V́ thế trước khi toán biệt kích lên đường, không lực HK đă dội bom phủ đầu các vị trí địch để dọn đường.

Địch quân liền trả đũa với hàng loạt mọt chê bắn phủ đầu lên tiền đồn quân lực VNCH.

Thật là xui xẻo, người Đại Úy Biệt Hải Việt Nam và Trung Tá Anderson (cố vấn cho nhóm biệt kích) bị thương.

Một Biệt Hải hộ tống hai người trở lại hậu cứ. Nhóm biệt kích chỉ c̣n lại 4 người :

Tom Norris và 3 Biệt Hải VN. Nhóm biệt kích 4 người c̣n lại vẫn tiếp tục nhiệm vụ giải cứu.

Họ lên đường rạng tối ngày 12 tháng 4. toán biệt kích chuẩn bị lên đường.

Lần này cả toán mạo hiểm gần 4 cây số sâu vào ḷng địch.

Càng vào sâu, nh́n thấy địch quân dầy đặc tứ bề, 2 người trong toán biệt kích e ngại và không muốn tiến thêm. Nhưng rồi cuối cùng cả nhóm vẫn tiến tới để truy t́m Trung Tá Hambleton.

Trời đă hừng sáng mà không thấy tăm tích ông ta đâu cả, toán biệt kích đành thất vọng rút lui.

Trực trăng Jolly Green HH-53 cấp cứu phi công lâm nạn.


https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/8/86/HH-53C_hoisting_man_out _of_jungle.jpg


Trung Tá Hambleton, 53 tuổi, sau 10 ngày trốn tránh, đói khát sức khoẻ kiệt quệ, đầu óc mụ mẫm đi, phương hướng lẫn lộn. Thời gian không c̣n bao lâu trước khi ông ta gục ngă chết lịm trong rừng già.

Hôm sau trong khi toán biệt kích nghỉ dưỡng sức th́ không lực HK liên lạc bằng tín hiệu với Trung Tá Hambleton, động viên tinh thần ông ta cố gắng gượng sức để ra đến chỗ hẹn.

Sức khoẻ của ông đă đến hồi nguy kiệt. Nếu toán biệt kích không “chộp” được ông tối nay th́ có lẽ đó sẽ là cơ hội cuối cùng. toán biệt kích chuẩn bị lên đường.

Họ cũng lượng định rằng trong t́nh trạng sức khoẻ như vậy, Trung Tá Hambleton khó mà đến chỗ hẹn. Nếu muốn thành công, toán biệt kích phải đi t́m cho ra được ông ta.

Người Nhái Hải Quân VNCH Nguyễn Văn Kiệt và Người Nhái Hải Quân Hoa Kỳ Tom Norris.

Trong chuyến đi này, 2 Biệt Hải VN từ chối không tham dự. Người duy nhất t́nh nguyện đi là Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Văn Kiệt, Liên Đoàn Người Nhái, Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa.

Đối diện với hiểm nguy, Kiệt vẫn t́nh nguyện đi v́ yêu chuộng sự hào hùng của ngành Biệt Hải, và cũng v́ ḷng nhân đạo không nỡ thấy người sắp chết mà không cứu.


https://bienxua.files.wordpr ess.com/2017/01/ea5ad-biethai5b15d.jpg

Hai biệt kích, một Mỹ, một Việt. Tom Norris và Kiệt mặc quân phục ngụy trang như bộ đội chính quy Bắc Việt, trang bị súng AK-47.

Họ quyết định dùng xuồng đi ngược ḍng sông lên hướng Bắc. Như thế sẽ lẹ hơn đi đường bộ và mới có đủ thời giờ để truy t́m Trung Tá Hambleton.

Trong màn đêm, tay chèo, tay súng, họ nghe rơ mồn một tiếng tṛ chuyện của địch quân canh gác ven sông, tiếng gầm rú của xe tăng T-54, tiếng di động của cả đoàn quân hùng hậu.

Họ chèo chậm răi để tránh tai mắt kẻ địch. Một màn sương mù phủ lấp ḍng sông che chở họ khỏi sự ḍm ngó của kẻ thù nhưng đồng thời lại làm cho họ chậm tay chèo. Và họ cũng không ngờ là họ chèo gần đến cầu Cam Lộ, nơi địch quân đóng giữ.

Quốc lộ 9 và sông Cam Lộ (nh́n về hướng Nam-Đông phía Đông Hà)


https://i0.wp.com/vnafmamn.com/untoldpage/Bat21_rescue1.jpg


Khi nghe tiếng chân bộ đội Bắc Việt tuần tiểu đi lại trên cầu, họ mới biết là đi lố. May mắn là sương mù che phủ khắp vùng nên Tom và Kiệt không bị phát hiện. Họ chèo trở ngược lại, xuôi ḍng sông và t́m kiếm Trung Tá Hambleton.

Không ảnh các vị trí trong cuộc t́m kiếm


https://i1.wp.com/c1.vgtstatic.com/pic/8499.jpg

Biệt Hải Vịệt Nam Cộng Hòa

(copy lại từ internet, không biết người viết)

Rồi cuối cùng Tom và Kiệt cũng t́m ra Trung Tá Hambleton, một thân h́nh tong teo gục ngă gần bờ sông. Ông ta chỉ c̣n thoi thóp thở. Tom và Kiệt đem Trung Tá Hambleton lên dấu dưới đáy xuồng, lấy lá chuối che phủ thân h́nh ông ta.

Họ bắt đầu cuộc hành tŕnh rút lui khỏi vùng địch, thoát khỏi gọng kềm của tử thần, vẫn một cách chậm răi như mọi khi.

Lúc bấy giờ hừng đông đă ló dạng.


https://sites.google.com/site/dulichnhatrang1tour/_/rsrc/1468855700545/cam-nang/kinh-nghiem-chup-anh-binh-minh-dep-khi-du-lich-nha-trang/binh-minh-nha-trang.jpg

Bất th́nh ĺnh, Kiệt nghe tiếng gọi :

- “ Ê, lại đây !”.

Cả hai người cùng quay đầu lại và bắt gặp 3 tên lính Bắc Việt xa xa trên bờ. Tên đi giữa là sĩ quan, vắt khẩu K54. Hai tên cận vệ kè kè AK-47 hai bên. Khoảnh khắc đó thật dài như thế kỷ. Kiệt cảm thấy ớn lạnh dọc theo xương sống. Nhưng cả hai người đều b́nh tĩnh quay đầu trở lại, tiếp tục chèo xuồng xuôi huớng Nam.

Vừa chèo, Kiệt đă bắt đầu đếm thời gian và lắng nghe tiếng súng của bọn chúng sẽ bắn theo. Nhưng chúng hoàn toàn im lặng. Một cái im lặng đáng nghi ngờ và hồi hộp vô cùng. Kiệt ráng lắng nghe tiếng chân rầm rập đuổi chạy theo. Nhưng tất cả không gian lúc ấy hoàn toàn trở lại b́nh thường im lặng. Một sự tĩnh mịch khó hiểu.


Có thể chúng sẽ liên lạc máy để chận xuồng ở một đoạn sông sắp đến ? Hay chúng đang chỉ điểm để pháo kích theo ? Bấy giờ là giờ phút hết sức căng thẳng trong tâm năo của Kiệt. Bao nhiêu giác quan của Kiệt được tận dụng tập trung quan sát để phản ứng kịp thời …


Tom lập tức báo cáo bằng radio là đă giải cứu được Trung Tá Hambleton. Tuy thế chuyến giải cứu chưa xong v́ họ vẫn c̣n sâu trong ḷng địch và khi trời hừng sáng, sự ngụy trang của họ không qua mặt được kẻ địch. V́ thế, không lực HK được điều động sẵn để hỗ trợ bất cứ lúc nào.


https://i1.wp.com/vnafmamn.com/untoldpage/Bat21_rescue2.jpg


Đúng như Kiệt dự đoán, kẻ địch đă báo động về sự xâm nhập của chiếc xuồng biệt kích. Tiếng la hét, tri hô vang dậy cả bầu không khí tĩnh mịch. Cuộc truy đuổi bắt đầu. Tom và Kiệt chèo hối hả, mượn ḍng nước chảy mạnh để đưa con xuồng đi thật lẹ, cũng như nhờ cậy vào các tàng cây dầy đặc ven sông che dấu bớt h́nh ảnh chiếc xuồng mong manh.


Trong khi đó đạn của địch không ngừng bắn xối xả ngang sông. Thấy hỏa lực địch quá mạnh, Tom và Kiệt tấp xuồng vào một bụi cây ven sông và gọi không lực yểm trợ ngay lập tức.


Không gian yên lặng của đoạn sông bị xé nát bởi những lằn đạn bắn tứ phía. Đạn từ trên không bắn xuống, đạn từ dưới đất bắn lên, đạn từ hai bên bờ nhả xuống sông lia lịa. Và cũng nhờ sự yểm trợ không lực mạnh mẽ và liên tục, Tom và Kiệt cuối cùng cũng đưa con xuồng xuôi ḍng an toàn.


https://i2.wp.com/vnafmamn.com/untoldpage/Bat21_rescue8.jpg


Khi gần đến tiền đồn của quân lực VNCH, quân đội hai bên dàn trận ra “tiếp đón” lần nữa. Cộng Sản Bắc Việt bên bờ Bắc, quân đội VNCH bên bờ Nam.

Hai bên nhả đạn bắn qua lại dữ dội. Dưới cơn mưa đạn đó, Tom và Kiệt d́u Trung Tá Hambleton khỏi xuồng và chạy chặng nước rút nguy hiểm cuối cùng vào hầm trú ẩn ….

Người Nhái Nguyễn Văn Kiệt và Thomas Norris cứu sống được Trung Tá Hambleton đưa về pḥng tuyến Việt Nam Cộng Hoà.


https://i0.wp.com/www.defensemedianetw ork.com/wp-content/uploads/2012/05/Iceal-Hambleton-Norris-3.jpg


Cuộc giải cứu đă thành công vượt sức tưởng tượng của mọi người. Khi mà cả không lực Hoa Kỳ bó tay th́ những biệt kích Mỹ, Việt gan dạ cùng ḿnh đi vào trong ḷng địch, chộp các phi công ra khỏi gọng kềm của tử thần.


https://i0.wp.com/www.sealtwo.org/page12/tomandkiet.jpg?zoom= 2


Câu chuyện trên, người ta có viết thành sách, Hollywood có chuyển thành phim BAT 21 vào năm 1988 với những tài tử quen thuộc thủ vai các nhân vật chính trong câu chuyện.


https://www.billstclair.com/weaponsman.com/wp-content/uploads/2015/02/BAT-21-DVD-208x300.jpg


Vậy mà hai nhân vật “CHÍNH” nhất trong truyện là Đại Úy Hải Quân (Navy SEAL) Hoa Kỳ Thomas Norris và Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Văn Kiệt, Liên Đoàn Người Nhái, Hải Quân VNCH không hề được nhắc đến.





Người nhái Nguyễn Văn Kiệt (trái) và Thomas Norris cùng các bạn


https://lh3.ggpht.com/_aH1bx2ubVuk/SoMT8Nd_y9I/AAAAAAAAFwk/Rny-OaE_CQY/s400/353651158pmsgNj_fs.j pg


Hành vi dũng cảm, gan dạ phi thường này chỉ có một số người được biết để bảo vệ các dữ kiện quân sự liên hệ đến các chuyến giải cứu đường bộ.


Đại Úy Thomas Norris được trao tặng Huân Chương “Medal of Honor”; Huân Chương cao quư nhất của Quân Đội Hoa Kỳ trao cho những chiến sĩ đă có hành động dũng cảm phi thường.


https://www.stripes.com/polopoly_fs/1.224935.1370888109!/image/image.jpg_gen/derivatives/landscape_804/image.jpg


Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Văn Kiệt, Người Nhái Anh Dũng của Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa, được trao tặng Huân Chương “Navy Cross”; Huân Chương cao nhất có thể trao tặng cho quân đội đồng minh.


Kiệt là người chiến sĩ Hải Quân VNCH duy nhất nhận Huân Chương “Navy Cross” trong cuộc chiến Việt Nam.


https://i.pinimg.com/736x/d5/d8/d2/d5d8d2d740d7978a3e32 68fadf368b1a--marine-recon-navy-seals.jpg


***

https://nhayduwdc.org/nn/bv/tn/2016/vld/nnNVK002.jpg

Đến nay đă gần 30 năm. Hồ sơ quân sự cũng đă được tiết lộ (declassify). Rồi cuối cùng những hành độngdũng cảm, anh hùng này đă được mọi người biết đến


(Sài G̣n trong tôi/ Nguyễn Phúc An Sơn t/h/ TT)

(Theo lời kể của ông Nguyễn Văn Kiệt và dữ kiện trong các trang web)

hoanglan22
10-01-2020, 14:50
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1663765&stc=1&d=1601563833

Bà Nguyễn Thanh Thủy (trái) cùng các nữ học viên Sĩ Quan Cảnh Sát thực tập tại bến cảng Sài G̣n năm 1966
(H́nh chụp lại: Văn Lan/Người Việt)

ANAHEIM, California (NV) – Biệt Đội Thiên Nga gồm khoảng 30 người thuộc “phái yếu” rất trẻ đẹp, ai cũng học giỏi và thông minh, tất cả mọi người đều có một tên chung là Thiên Nga, với công tác đặc biệt là bí mật xâm nhập vào hàng ngũ hạ tầng cơ sở Cộng Sản để thu thập tin tức.

Năm 1964, bà Nguyễn Thanh Thủy đang theo học Khoa Dược tại Đại Học Sài G̣n phải bỏ ngang v́ sức khỏe, sau đó theo học phân khoa Chánh Trị Kinh Doanh và Sư Phạm, Viện Đại Học Đà Lạt. Tuy rất tiếc không khí và môn học đă chọn tại đây, bà phải bỏ học lần nữa v́ bị bệnh gout chịu không nổi xứ lạnh, phải trở về Sài G̣n.

Sau khi thi đậu vào Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia, phải qua cuộc tuyển lựa về nhân dạng, chiều cao, gương mặt, phải đúng tiêu chuẩn. Trong những người thi đậu, cả 18 cô biên tập viên đều về Khối Đặc Biệt, với điều kiện bắt buộc là phải độc thân ít nhất hai năm từ khi vào làm việc.

“Có một số các Thiên Nga được đi ra ngoài xă hội làm việc, với danh nghĩa như vậy dễ tiếp cận các đối tượng hơn, riêng tôi về Pḥng Nghiên Cứu thuộc Khối Đặc Biệt, lư do v́ chân tôi yếu, đi đứng dễ bị nhận diện. Trong Pḥng Nghiên Cứu, tôi có bổn phận mỗi tháng phải nhận những chứng minh thư của t́nh báo viên để xác nhận lại, nh́n coi thật hay giả hoặc đọc lại những hồ sơ cũ không c̣n sử dụng nữa, nhận xét có đúng hay không. Đó là cách tập cho người biên tập viên có cái nh́n bao quát và nhận định chính xác từng chi tiết, không bỏ sót”, bà Thủy nói.

Bà Thủy kể, từ trận Mậu Thân 1968 cho đến những năm về sau, chiến tranh trở nên khốc liệt. Trong khi quân đội Việt Nam Cộng Ḥa đang ngày đêm chiến đấu ngoài mặt trận, th́ bên trong nội thành Sài G̣n Gia Định nổi lên những phong trào xă hội như Phong Trào Phụ Nữ Đ̣i Quyền Sống, Hội Quả Phụ Tử Sĩ Việt Nam, Hội Phụ Nữ Việt Nam, Hội Nữ Phật Tử Long Hoa, Nghiệp Đoàn Bạn Hàng Các Chợ, Đoàn Thanh Sinh Công, Nhóm Công Giáo Thân Cộng của Linh Mục Chân Tính và Linh Mục Nguyễn Ngọc Lan, Nhóm Phật tử Ần Quang, Hội Ni Giới Khất Sĩ, phong trào sinh viên học sinh tại các trường đại học và trung học Sài G̣n.

Những phong trào xă hội lúc bấy giờ đều do Việt Cộng giật dây, biểu t́nh chống đối chính phủ, gây rối đời sống người dân, gây bất an cho xă hội khiến một số người bất măn, gia nhập thêm vào các lực lượng chống đối này.

Thiên Nga Nguyễn Thị Bê trong vai kư giả Bạch Tuyết
Người Sài G̣n Gia Định lúc bấy giờ ai cũng biết phong trào “Phụ Nữ Đ̣i Quyền Sống” nổi lên gây xáo trộn rất nhiều trong xă hội do bà Ngô Bá Thành nhũ danh Phạm Thị Thanh Vân chủ trương. Bà Ngô Bá Thành từng tốt nghiệp tiến sĩ luật khoa tại Pháp, trở về nước bắt đầu có những hoạt động gây rối chống chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa từ năm 1970 đến 1975.

Tháng Tám, 1970, trong lễ ra mắt tại chùa Ấn Quang, bà Ngô Bá Thành với danh xưng “chủ tịch Ủy Ban Phụ Nữ Đ̣i Quyền Sống” đă kêu gọi phụ nữ Việt đ̣i quyền sống cho chồng, con em và của chính họ. Sau đó phong trào này mở rộng thành phong trào “Bảo Vệ Nhân Phẩm và Quyền Lợi Phụ Nữ,” lôi kéo rất nhiều sinh viên và chị em phụ nữ xuống đường biểu t́nh chống chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa.

Những người hưởng ứng phong trào của bà Ngô Bá Thành luôn tự xưng thuộc “Thành Phần Thứ Ba” nghĩa là không theo Cộng Sản, cũng không theo chính quyền quốc gia tại miền Nam Việt Nam. Họ luôn hướng các cuộc biểu t́nh tranh đấu tới việc đ̣i xóa bỏ chính thể Việt Nam Cộng Ḥa để lập một chính phủ khác có tự do, dân chủ và nhân quyền hơn. Tuyệt đối các phong trào này không bao giờ tố cáo tội ác của Việt Cộng.

Người của bà Ngô Bá Thành đi vào các xóm lao động, khu dân cư nghèo để phát truyền đơn, phổ biến tài liệu, sách báo do bà Thành soạn thảo in ra với nội dung lên án chính quyền Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu có những ngược đăi can phạm trong nhà tù, chế độ giam giữ người tàn nhẫn, vi phạm nhân quyền…

Vào thời điểm đó, những cuộc biểu t́nh công khai trên đường phố, đô thành Sài G̣n Gia Định như một băi chiến trường, thường xuyên có những cuộc biểu t́nh của sinh viên học sinh phản chiến chống chiến tranh, kêu gọi không đi Quân Sự Học Đường, rồi nào là giới báo chí đi “ăn mày,” rồi phong trào Phật Giáo xuống đường do Ni Sư Huỳnh Liên tổ chức.

Những cuộc biểu t́nh tổ chức công khai ở nhiều địa điểm khắp nơi trong thành phố, nhiều nhất là tập trung trên đường Cường Để, quận Nhất, Sài G̣n, nơi tập trung nhiều trường đại học như Văn Khoa, Dược, Nông Lâm Súc và tại Đại Học Luật Khoa, Đại Học Khoa Học Sài G̣n, cùng những cơ sở tôn giáo khác.

Để tiếp cận và theo dơi phong trào do bà Ngô Bá Thành chủ trương, thực chất là do Cộng Sản núp bên trong giật dây điều khiển, Biệt Đội Thiên Nga đă cài rất nhiều nhân viên của ḿnh xâm nhập vào các phong trào này, và người của Thiên Nga đă từng được các phong trào này chọn để giữ nhiều nhiệm vụ then chốt.

Riêng nữ kư giả Bạch Tuyết, thường có nhiều cuộc phỏng vấn bà Ngô Bá Thành (lúc đó là “chủ tịch Phong Trào Phụ Nữ Đ̣i Quyền Sống”), luôn bên cạnh bà Thành để phổ biến tin tức hoạt động của phong trào cho báo giới, nên tin tức lúc nào cũng chính xác.

Với sự tin tưởng tuyệt đối, nữ kư giả Bạch Tuyết luôn đồng hành và là cái loa phát thanh về mọi hoạt động của bà Thành, thậm chí bà được giao đánh máy những tài liệu quan trọng của các phong trào xă hội.

Sau thời gian thử thách, Thiên Nga Nguyễn Thị Bê được tin tưởng v́ làm việc cẩn mật nên được cấp thẻ kư giả chính thức, từ đó nữ kư giả Bạch Tuyết có thể xâm nhập bất cứ nơi nào có phong trào tranh đấu chống chính phủ, có thể kết nối nhiều móc xích khác, thực hiện nhiều công tác nữa cho Biệt Đội.

Một số phong trào của Việt Cộng mà kư giả Bạch Tuyết đă xâm nhập vào được như Tổng Hội Sinh Viên Sài G̣n do sinh viên y khoa Huỳnh Tấn Mẫm làm chủ tịch; Hội Sinh Viên Đại Học Vạn Hạnh do sinh viên Vơ Như Lanh thân Cộng làm chủ tịch; Tổng Hội Trung Học Sài G̣n do Lê Văn Nuôi làm chủ tịch; Tịnh Xá Ngọc Phương ở G̣ Vấp của Ni Sư Huỳnh Liên; chùa Ấn Quang ở đường Sư Vạn Hạnh, nhờ đó mà chính quyền Sài G̣n đă bẻ găy nhiều âm mưu phá hoại của Việt Cộng dưới chiêu bài các phong trào dân chúng chống chính phủ.

Thiên Nga “Tư Hương” với chức vụ của Việt Cộng
Ngày càng có nhiều cuộc biểu t́nh chống chính quyền của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ngay tại thủ đô Sài G̣n, do Ni Sư Huỳnh Liên xách động và nhóm Phật Giáo Ấn Quang cầm đầu. Biệt Đội Thiên Nga đă gài được người nằm trong hai tổ chức tôn giáo này.

Bà Tư Hương, một nữ can phạm chính trị bị Cảnh Sát bắt giam, là cán bộ đặc công Việt Cộng nhưng không đủ gan dạ đặt chất nổ một cao ốc có người Mỹ cư ngụ trên đường Trần Hưng Đạo, Sài G̣n nên bà bị hạ tầng công tác xuống làm “binh vận.”

Sau này khi bà Tư Hương đồng ư hợp tác với phía Việt Nam Cộng Ḥa với một điều kiện là chỉ làm việc với nữ nhân viên, chứ không làm việc với nam giới. Theo yêu cầu này, bà được điều động về Biệt Đội Thiên Nga, và đă báo cáo nhiều tin tức giá trị giúp Việt Nam Cộng Ḥa phá vỡ nhiều hoạt động của Việt Cộng.

Với chức vụ huyện đội trưởng huyện G̣ Môn của Việt Cộng, Thiên Nga Tư Hương được triệu tập về họp tại mật khu Hố Ḅ, Củ Chi. Lần họp đó có rất nhiều huyện ủy ở nơi khác cùng về dự để nhận chỉ thị công tác cấp trên giao, Biệt Đội Thiên Nga được đề nghị gắn một máy phát tuyến trong đôi guốc gỗ của bà Tư Hương, để máy bay của Việt Nam Cộng Ḥa có thể nhận được tín hiệu phát ra trong từng bước đi của bà, biết chính xác vị trí nơi họp mật mà thả bom tiêu diệt tất cả những người dự họp. Nhưng kế hoạch ấy rất nguy hiểm, ảnh hưởng đến người của Việt Nam Cộng Ḥa nên không được thực hiện và bà đă báo cáo đầy đủ về nghị quyết ban hành cho các huyện ủy kỳ họp đó, gởi về Biệt Đội.

Thiên Nga Hà Thị Nhă với công tác Hải Âu
Thiên Nga Hà Thị Nhă sau khi đă xâm nhập được vào Hội Phụ Nữ Việt Nam và khối Phật Giáo Ấn Quang, Tịnh Xá Ngọc Phương của Ni Sư Huỳnh Liên, sau những ngày cùng tham gia biểu t́nh tuyệt thực trên đường phố, nếm mùi lựu đạn cay, dùi cui, cùng bị bắt bớ nên bà Nhă được tin cậy.

Bà được giao cho việc chở người già đi biểu t́nh, nhờ vậy bà đă bí mật chụp h́nh các nhân vật chủ chốt xách động, biết được địa điểm giờ giấc hoạt động của các nhóm này, giúp phá tan những âm mưu do Việt Cộng núp đằng sau giật dây.

Thiên Nga Hà Thị Nhă được móc nối vào Mật Khu Hố Ḅ, sau khi cân nhắc và đánh giá khả năng của bà, Biệt Đội quyết định thêm một bước công tác cho bà, tiếp tục đi sâu vào mật khu.

“Lúc vô mật khu học khóa hoạt động giao liên nội thành do Việt Cộng huấn luyện, chị Nhă cho biết Việt Cộng có đề cập đến và cảnh giác các khóa sinh về một tổ chức t́nh báo Sài G̣n đang hoạt động toàn nữ giới, đứng đầu là một phụ nữ trẻ đẹp có tài, có học và thông minh. Việt Cộng vẫn chưa biết rơ được danh tánh tổ chức t́nh báo ấy cũng như các nhân viên đang hoạt động. Tuy nhiên chúng xác định đây là một tổ chức t́nh báo rất nguy hiểm mà mọi người phải đề cao cảnh giác về mọi hoạt động của đội t́nh báo này để tránh lộ công tác và bị họ theo dơi,” bà Nguyễn Thanh Thủy kể.

Sau khóa học t́nh báo ở mật khu, Thiên Nga Hồ Thị Nhă được tin cậy giao nhiệm vụ đưa đón cán bộ Việt Cộng từ mật khu về hoạt động nội thành, được tiếp cận với nhóm thân cộng của hai Linh Mục Nguyễn Ngọc Lan và Linh Mục Chân Tín, chuyên in ấn các sách báo chống đối dựa theo bài viết do Việt Cộng cung cấp, chống sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam, đ̣i trả tự do tù chính trị, đặc biệt là tù Côn Đảo. Ngoài ra bà c̣n cung cấp nhiều tin tức về cách thức hoạt động nội tuyến của phe phá hoại do nhóm Linh Mục Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan cầm đầu trong các hoạt động phản chiến của sinh viên, cung cấp thuốc men quần áo cho can phạm chính trị.

Thiên Nga Diệu Ngôn với công tác Hoàng Yến
Khi đă xâm nhập được vào hoạt động xă hội của bà Ngô Bá Thành, Thiên Nga Diệu Ngôn được làm việc với bà Nguyễn Thị Mạnh Quỳnh (Bôn Quỳnh), là vợ của một đại úy quân y Việt Nam Cộng Ḥa, bà Quỳnh mượn uy tín của chồng chuyên đi phát thuốc trong những xóm lao động nghèo, nên ghi nhận được hết những cơ sở bà Quỳnh đă tiếp xúc, thực chất đó là những cơ sở Việt Cộng trong nội thành.

Sau đó bà Quỳnh thấy bị động nên giao cho Thiên Nga Diệu Ngôn thay ḿnh trong những công tác xă hội nên chị Diệu Ngôn biết sâu thêm nhiều cơ sở của Việt Cộng, giúp phá vỡ nhiều ổ hoạt động nội thành.

Văn Lan

hoanglan22
10-01-2020, 14:58
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1663766&stc=1&d=1601564191

Lực Luợng Đặc Nhiệm Tango của Sư Đoàn TQLC và Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh Việt Nam Cộng Hoà đă tái chiếm Hải Cảng Cửa Việt, Quảng Trị do quân cộng sản Bắc Việt xâm lược chiếm giữ, hai phút truớc giờ ngưng bắn là 8 giờ sáng ngày 28 tháng 1 năm 1973.

Là một nguời đă từng tham chiến trong trận đánh này, tôi xin kính mời Quư Vị cùng chúng tôi hồi tưởng lại những ǵ không thể nào quên được của những ngày cuối tháng 1 và đầu tháng 2 của năm 1973.

Ngày 23 tháng 1 năm 1973, Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên chính thức đổi quân cho Tiểu Đoàn 9 Mănh Hổ tại Gia Đẳng 3, Đông Bắc Quảng Trị và cách Cửa Việt 9 cây số. Riêng Đại Đội 1 Trâu Điên của tôi th́ nhận bàn giao từ Đại Đội 3 Mănh Hổ của Tầm Dương Đại Uư Đoàn Văn Tịnh Khoá Đàn Anh của tôi 22A Vơ Bị Đà Lạt. Cuộc đổi quân diễn ra vào ban đêm v́ chúng tôi không muốn là mục tiêu cho các loại cối địch mà đáng nói nhất là miếng mồi ngon cho bọn chuyên bắn tỉa ngay đầu. Người viết đến đây xin đuợc tuởng nhớ đến một Nguời đàn Em Khoá 24 Vơ Bị Đà Lạt, Cố Trung Uư Vàng Huy Luyến đă hy sinh v́ đạn bắn tỉa v́ rớt mắt kiếng đang khi tấn công chiếm chốt địch quân trong khi Niên Truởng Tầm Dương đang đi phép ngoài Huế t́m mua tạm hai bông mai để sẵn sàng hôm sau đem về vùng hành quân để rửa lon cho thằng Em xấu số của ḿnh!

Ngày 24 tháng 1 năm 1973, Đại Đội 1 Trâu Điên bắt đầu mở những cuộc tấn công chớp nhoáng vào pḥng tuyến dày dặc chốt kiềng của địch. Tuyến pḥng thủ của quân cộng sản xâm lược gồm 3 chốt một đứng vững như kiềng 3 chân để hổ trợ lẫn nhau bằng súng AK với B40 và hàng rào súng cối tiếp cận. Nhưng đáng kể vẫn là họng súng của những tên bắn tỉa chuyên nghiệp có sổ tay ghi nhận đang hoàng. Tối ngày 25 tháng 1 năm 1973, dưới quyền chỉ huy của Sơn Tây Trung Uư Phạm Ngọc Sương Đại Đội phó, Khóa 24 Đà Lạt, bằng lối đánh nghi binh và dương Đông kích Tây, hai Trung Đội 12 của Thiếu Uư Trần Gia Tăng Khoá 25 Đà Lạt mới ra Truờng và Trung Đội 16 của Chuẩn Uư Nguyễn Kính Khoá 1/72 Thủ Đức đă đồng loạt xung phong tràn ngập pḥng tuyến địch sau những tràng pháo 105 ly vừa delay và vừa nổ chụp lên đầu lũ chuột. Quân ta đă hạ sát 15 tên tại chỗ và tịch thu 11 AK, 3 B40, 1 súng truờng bắn của của Hung Gia Lợi có máy nhắm và 5 thùng lương khô đang ăn giở. Bên ta có 5 bị thuong nhẹ và chỉ có Chuẩn Uư Nguyễn Kính là cần tản thương.

Chiều ngày 26 tháng 1 năm 1973, Đại Đội tôi tiếp nhận từ Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn năm thùng Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ may bằng thứ vải thưa để may màn hay mùng ngủ. Sau này thấy mà buồn 5 phút v́ cờ "phỏng giái" của quân cộng sản Bắc Việt xâm lược th́ lại được may bằng vải popeline rất bền và đứng vững với thời gian. Tiền may Cờ để đâu xin hỏi Ông Hoàng Đức Nhă Tổng Uỷ Truởng Dân Vận Chiêu Hồi của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà???

Bẩy giờ sáng ngày 27 tháng 1 năm 1973, Lực Luợng Đặc Nhiệm Tango Tiền Phương duới quyền chỉ huy của Tiền Giang Thiếu Tá Phạm Văn Tiền Khoá 20 Dalat, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 4 Ḱnh Ngư gồm các Chi Đoàn Chiến Xa M 48, M 41, M 113 mà Thiết Đoàn 20 là nổ lực chính với hai Đại Đội 3 Ḱnh Ngư của Trung Uư Mai Văn Hiếu, Khoá 23 Dalat và Đại Đội 4 Ḱnh Ngư của Trung Uư Duong Tấn Tuớc cũng Khoá 23 Đà Lạt tùng thiết đă bất ngờ vuợt tuyến xuất phát ồ ạt tiến lên mục tiêu Cửa Việt. Nh́n đoàn Chiến Xa tiến quân mở hết hoả lực tối đa về phiá truớc tôi cứ nghĩ ḿnh đang xem lại cuốn phim Đồng Minh đổ bộ Normandie đánh đuổi Phát Xít Đức vào ngày 6 tháng 6 năm 1944 tại Miền Bắc Nước Pháp. Sau đó là đợt tiến quân của Đại Đội 1 Trâu Điên để thu dọn chiến truờng. V́ quá bất ngờ cho nên địch trở tay không kịp mà cũng chẳng biết chém vè đi hướng nào cho nên lũ chuột đành nằm im trong hang chốt chờ đầu hàng. Qua lục soát, các Trung Đội liên tục bắt sống tù binh và tịch thu rất nhiều chiến lợi phẩm đủ loại! Đă có tới 60 tù binh trong đó riêng Bộ Chỉ Huy Đại Đội cũng đa tóm đuợc cả chục tên. Qua cung từ tại chỗ các tù binh đều khai “là đang học cấp 3 tại Hà Nội và Hải Pḥng th́ bị buộc bỏ học vào Nam tiếp thu vùng giải phóng. Có nghe Lính Thuỷ Đánh Bộ sừng sỏ lắm, nếu bắt đuợc tù binh là mổ bụng lấy gan ăn tươi nuốt sống ngay?” Bởi vậy đă có vài tù binh c̣n quá trẻ lại quá lo sợ cho nên đă bôi thuốc đỏ đầy ḿnh và chui đầu vào cát giả chết!

Đang báo cáo với Tiểu Đoàn để giải giao số tù binh và vơ khí th́ một tiếng nổ lớn từ phiá Trung Đội 16. Chuẩn Uư Hà Thế Dơn Trung Đội Truởng 16 báo cáo cho biết đă có vài tên địch trá hàng nên khi quân ta xông đến để tuớc đoạt vũ khí th́ chúng cho ḿn nổ gây tử thương cho Hạ Sĩ Lê Sanh Thạch và 3 Quân nhân khác. Thế là tôi gọi máy cho các Thẩm Quyền là kể từ bây giờ Đại Đội không muốn nhận tù binh nữa! Viết đến đây tôi lại nhớ đến bài "L’Humanité" của một nhà văn hồi c̣n Trung Học với phần mở đầu "Tu seras soldat un jour, si t’arrives de te battre tu te battras en conscience. Cela,c’ est ton devoir!" Và ḷng nhân đạo chỉ có đuợc sau khi cuộc chiến thực sự chấm dứt phải không thưa Quư Vị?

Đoàn Chiến Xa qua rồi th́ bây giờ là mưa pháo 130 ly dành cho Đại Đội 1 Trâu Điên của tôi trên đường tiến quân càn quét mục tiêu. Không hiểu những tên tiền sát địch nằm sẵn đâu đây mà sao chúng điều chỉnh tác xạ chính xác đến thế? Trái đầu tiên nổ trước mặt 100 mét, trái thứ nh́ nổ sau lưng 100 mét, trái thứ ba nổ bên phải 50 mét... tôi chưa kịp nói hết câu là địch đang chỉnh lồng khung mà coi chừng trái thứ tư đó th́ một tiếng nổ vang hất tôi văng xa gần 5 mét...Tôi lồm cồm ngồi dậy với mặt mũi lọ lem và quần áo đầy khói bụi và nặc mùi thuốc súng th́ thấy Thiếu Uư Nguyễn Tấn Tài Tiền Sát Viên Nỏ Thần đă bị thương lủng ruột nằm bất động bên hai đệ tử đă hy sinh. C̣n hai nguời mang máy cho tôi th́ một gẫy nát chân trái và một bị miểng 130 ly chui qua má cắt đứt phân nửa cái luỡi! Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn cứ tuởng tôi đă hy sinh chứ đâu ngờ tôi một ḿnh mang cả ba máy tiếp tục điều động Đại Đội tiến quân...

Đến 6 giờ chiền ngày 27 tháng 1 năm 1973, th́ Đại Đội tôi đă tới sát chân cao điểm đồi 11 và Trung Đội 12 báo cáo cho biết là có một chốt địch khá lớn tại cao điểm chạy dài ra tới bờ biển này. Tôi ra lệnh khai triển ngay công sự pḥng thủ, đưa các toán tiền đồn ra xa và giăng đồ chơi claymore, ráng gài và lựu đạn ra tối đa. Sau khi báo cáo t́nh h́nh về Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, Trung Uư Trần Đinh Công Khoá 26 Thủ Đức sẽ điều động Đại Đội 4 Trâu Điên thay Đại Đội tôi theo đoàn xe GMC lên tăng cường cho Cửa Việt.

Đúng 7 giờ 58 phút có nghiă là chỉ 2 phút truớc giờ ngưng bắn có hiệu lực là đúng 8 giờ sáng ngày 28 tháng 1 năm 1973, Lực Luợng Đặc nhiệm Tango đă hoàn toàn làm chủ t́nh thế tại căn cứ Hải Quân Cửa Việt sau 25 giờ quần thảo dữ dội với địch. Giờ phút "hoà giải, hoà hợp và ngưng bắn đă đến" Binh Sĩ đôi bên ăn mừng "hoà b́nh vội vă" mang cà phê Sài G̣n với thuốc lá Capstan và kẹo sưă Hà Nội ra mời nhau truớc sự cay cú nghẹn ngào uất hận của Đại Tuớng Vơ Nguyên Giáp Uỷ Viên Bộ chính trị trung ương đảng, Bí thư Quân uỷ trung ương kiêm Bộ truởng Quốc pḥng Nuớc việt cộng nhà ta. Quả vậy, Vơ Nguyên Giáp đă ra lệnh cho Trung Tuớng Lê Trọng Tấn đưa các Trung Đoàn 18, 995, và sừng sỏ nhất vẫn là 101 của Đại Tá Thân Trọng. Một Sư Đoàn Điện Biên 325 âm thầm chuẩn bị sẵn sàng tùng thiết Trung Đoàn 203 Xe tăng chờ lệnh. Trong khi đó tại cao điểm 11, tôi đă tiến vào và tiếp xúc đuợc với viên Chính uỷ Trung Đoàn Hiệp Định 27 của quân cộng sản xâm luợc khi đi thăm các đồng chí bộ đội của y. Tại cao điểm này tôi hơi giật ḿnh với cấp số hon một Tiểu Đoàn địch cùng hàng chục xe tăng T 54 và pḥng không 37 ly bảo vệ. Nếu đêm qua có đụng độ th́ Đại Đội tôi không biết t́nh h́nh sẽ thế nào đây? Điểm cần lưu ư là qua điện đàm, tôi đă nhiều lần đề cập tới Lực luợng địch tại cao điểm này với Hà Nội 819 Tiểu Đoàn Trưởng Trâu Điên của tôi là chắc chắn quân cộng sản xâm luợc không thế nào bỏ rơi cao điểm đuợc. Cho nên ta phải coi chừng chúng sẽ phản công để bắt tay với đưá con này. Nhưng rất tiếc ư kiến của một viên Đại Đội Trưởng thấp cổ bé miệng không đáng để các Đại Bàng lưu tâm suy nghĩ chăng???

Ngày 29 tháng 1 năm 1973, thấy t́nh h́nh có vẻ căng thẳng mà cộng quân có thể phản kích bất cứ lúc nào nên cánh phó Tiểu Đoàn 9 Mănh Hổ do Cam Ranh Thiếu Tá Phạm Cang Khoá 20 Dalat cùng Phán mập Khoá 25 Thủ Đức Đại Đội Truởng đă tăng viện đến Đại Đội tôi mà trên tay các Anh c̣n vương vấn quà uỷ lạo của Em gái hậu phương Lê Bảo Tịnh Sài G̣n. Cho đến chiều th́ Cánh Phó Mănh Hổ đuợc lệnh di chuyển đi chỗ khác.

Ngày 30 tháng 1 năm 1973, t́nh h́nh lại trở nên đen tối truớc áp lực tấn công thăm ḍ của địch, Đại Đội 2 Trâu Điên của Đại Uư Từ Đức Thọ lại được lệnh tùng thiết Chi Đoàn 1/17 Chiến xa M 41 của Đại Uư Nguyễn Quang Trung kéo lên tăng cuờng cho Lực Luợng Tango tại Cửa Việt. Khi đoàn chiến xa đến cao điểm 11 th́ bị chốt địch chặn lại, nhưng trước hoả lực mạnh mẽ của các xe tăng M 41, địch phải chấp nhận cho đi. Tưởng cũng nên nhắc nhở là sau khi Quân ta chiếm đuợc Cửa Việt rồi th́ địch chỉ cho tiếp tế lương thực mà hoàn toàn không cho tiếp tế đạn dược và thuốc men từ tuyến sau lên Cửa Việt.

Sáng ngày 31 tháng giêng năm 1973, địch đă dùng đại pháo 130 ly phối hợp với các loại hoả tiễn 122 ly, 107 ly pháo kích liên tục vào căn cứ Hải Quân Cửa Việt rồi dùng xe tăng có bộ đội tùng thiết mạnh mẽ tấn công vào tuyến pḥng thủ của ta đặc biệt là căn cứ Hải Quân do Đại Đội 2 Trâu Điên trấn giữ. Ngay từ giờ phút đầu xa chiến, Đại Uư Lê Bá Nam Khoá 20 Thủ Đức, Chi Đoàn Trưởng 2/20 Chiến xa M 48 đă anh dũng chỉ huy Chi Đoàn phản công mănh liệt và bắn cháy một số xe tăng T 54 và PT 76 của địch khiến chúng bị rối loạn và tan ră đội h́nh tấn công. Nhưng chết lớp này th́ c̣n nhiều lớp khác, chúng nhào lên cố tiêu diệt lực lượng Tango của ta. Áp lực và hoả lực địch mạnh đến như vậy trong khi kế hoạch hoả yểm của ta th́ chỉ trông vào 3 Tiểu Đoàn Pháo cơ hữu và 1 Pháo Đội 155 ly của Tiểu Đoàn 101 Pháo Cơ Động của Quân Đoàn I. Hải Quân Việt Nam có xuất hiện nhưng chỉ lảng vảng ngoài khơi rồi biến mất. Cũng không thấy sự can thiệp của Không Quân? Các Phi Đội Phản lực A37 hay F5E sao không có mặt để trả đuă cho việc trắng trợn vi phạm lệnh ngưng bắn của quân xâm luợc việt cộng đúng như Diễn văn của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu "sắt máu và hiếu chiến" mà Ông ta đă đọc trong ngày 28 tháng 1 năm 1973 là "địch dùng súng trường Ta dùng súng máy, địch dùng súng máy Ta dùng đại bác, địch dùng đại pháo Ta dùng bom dội lên đầu chúng!" Cửa Việt đang thực sự lâm nguy mà sao không có một Ai dám ra lệnh dùng bom dội lên đầu chúng thưa Tổng Thống? Có phải nói dzậy mà không phải dzậy không thưa Vị Tổng Tu Lệnh Tối Cao của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà chúng ta, một Quân Đội đang từ từ bị Đồng Minh Hoa Kỳ bỏ rơi từ cái bản hiệp định khốn nạn và trớ trêu này?

Sau 24 giờ tử thủ cuối cùng Thiếu Tá Phạm Văn Tiền phải tự ḿnh quyết định là vưà chống trả, vưà triệt thoái lui Quân về phiá sau để bảo toàn Lực Luợng v́ chẳng có một ai dám lên tiếng ngoài hành vi tiêu cực là chờ Uỷ Ban Liên Hợp bốn bên đến giải quyết! Chính Thiếu Tá Trần Văn Hợp Tiểu Đoàn Trưởng Trâu Điên đă ra lệnh cho tôi chặn Lực Lượng di tản lại để cùng thiết lập một pḥng tuyến chặn địch không cho chúng tiếp tục đuổi theo nhưng tôi đă không đồng ư chuyện này v́ tôi tin Đại Đội tôi đủ sức chặn địch rồi. Chính Trung Đội 12 của Thiếu Uư Tăng đă dùng hoả tiễn 66 ly M72 bắn cháy 5 xe tăng T 54 đi đầu của địch làm chúng khựng lại. Tôi không ngờ tinh thần diệt tăng địch của Lính Trâu Điên lại cao ṿi vọi như sóng thần đến thế? Bằng chứng là 5 con cua của địch không những đă bị Trung Đội 12 hoả thiêu rồi mà c̣n bị các Trung Đội 14, 16, 18 thi nhau rang đi rang lại nhiếu lần. Nhớ lại vào tháng 7 năm 1972 tại bờ biển Mỹ Thuỷ, Hải Lăng Quảng Trị suưt tư nưă là Lính Trâu Điên hăm hở chờ đợi rang muối trọn Chi Đoàn Thiết Quân Vận của một Đơn Vị Bạn rồi!

Sau khi Lực Luợng Tango triệt thoái về phiá sau an toàn th́ 1 giờ đêm rạng sáng ngày 1 tháng 2 năm 1973, Hà Nội 819 Tiểu Đoàn Truởng Trâu Điên ra lệnh cho tôi bỏ vị trí rút về sau 3 cây số và đóng quân tại một vị trí pháo 155 ly đă bị phản pháo cháy rụi hồi nào. Có lẽ Đại Bàng 819 lo sợ mất tôi nưă hay sao đây?

Sáng ngày 1 tháng 2 năm 1973, Sao Mai Mai Văn Hiếu nguời bạn cùng Khoá 23 Dalat với tôi đă dẫn Đại Đội 3 Ḱnh Ngư đến hoán đổi vị trí để tôi lui về Gia Đẳng 1 bảo vệ Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Đặc nhiệm Tango của Đại Tá Nguyễn Thành Trí Tư Lệnh Phó Sư Đoàn trong khi cả Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên đuợc di chuyển về Bộ Tu Lệnh Sư Đoàn tại Hương Điền để bổ sung quân số cho hai Đại Đội 2 và 4.

Sáng ngày mùng 1 Tết Quư Sửu 1973, Tuớng Bùi Thế Lân đă đáp trực thăng xuống Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Tango để chúc Tết và uỷ lạo Lực Lượng. Đứng trong hàng quân tôi nghe Lạng Sơn phát biểu: "Tuy chúng ta không thành công về mặt Chiến Lược, nhưng chúng ta đă thành công về mặt Chính Lược!" Quả thật tôi muốn dùng lời nói này để xin đuợc thông cảm và chia xẻ buồn nhiều hơn vui đối với Thiếu Tá Phạm Văn Tiền, một Niên Truởng và cũng là một cấp Chỉ Huy đầy dũng cảm và đáng kính của tôi!

Để chấm dứt bài "Cửa Việt, một chiến thắng vẻ vang và ngậm ngùi này" xin Qúy Vị chúng ta hăy cùng nhau dành một phút thành kính tuởng nhớ đến tất cả các Anh Hùng TQLC và Thiết Giáp đă Anh Dũng hy sinh trong trận đánh tái chiếm Cửa Việt Lịch sử này!

West San Jose, CA
Trân trọng
Mũ Xanh Trần Văn Loan
Trâu Điên 117

hoathienly19
10-02-2020, 15:04
NHỚ BẠN BÈ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG XƯA - PHẦN ĐẦU


6qNzhJOydYc

NHỚ BẠN BÈ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG XƯA - PHẦN CUỐI


HxfZ9562fPU

hoathienly19
10-04-2020, 19:34
SAO HÔM, SAO MAI…
(Vương Mộng Long- K20)



Giữa tháng 4 năm 1974, một trận đánh vô cùng ác liệt và đẫm máu đă xảy ra bên ḍng suối Mé (Ia Mé), cách Pleiku 30 cây số về hướng tây nam.

Trong hai ngày 14 và 15 tháng 4 năm 1974, Tiểu Đoàn 82 BĐQ/QLVNCH bị hai Trung Đoàn 48 và 64 của Sư Đoàn 320 Cộng Sản Bắc Việt xa luân chiến, tấn công bằng chiến thuật biển người.

Sau những cơn mưa pháo là những đợt xung phong.

Cuối cùng, địch đă dùng tới thủ pháo chứa hơi ngạt để dứt điểm.

Trưa 15 tháng 4 năm 1974 Cộng-Quân tràn ngập căn cứ hỏa lực 711.

Dù bị đánh văng ra khỏi căn cứ, Tiểu Đoàn 82 BĐQ vẫn không bỏ chạy khỏi vùng.

Gần hai trăm chiến sĩ bị thương nặng, nhẹ đă từ chối tản thương, họ đă đâu lưng cùng nhau bám đất, chờ tiếp tế đạn để phản công.

Rồi hai ngày sau, với sự hỗ trợ của một tiểu đoàn bộ binh, Tiểu Đoàn 82 BĐQ trừ (-) đă trở lại trận địa để đánh một cú hồi mă cực kỳ dũng mănh.

Dạ chiến là sở trường của Biệt Động Quân Plei-Me , v́ thế, chỉ sau hai đêm, lực lượng Cộng-Sản bám trụ đă bị đánh bật ra khỏi vị trí cố thủ.


https://hung-viet.org/images/file/O5vBPjVj0wgBANcR/quandoivnch080510-4.jpg


Chiến dịch kết thúc với tổn thất nặng nề của cả đôi bên, ta và địch.

Thiệt hại phía ta là trên 50 quân tử trận.


Thiệt hại phía địch là trên 200 quân bị giết (trong đó có một thượng tá).


Từ đó, căn cứ hỏa lực 711 được gọi kèm thêm cái tên “Đồi Thịt Bằm”.

Trận chiến qua nhanh như mưa bóng mây, nhưng mănh liệt như một cơn dông mùa hè. Rồi, t́nh h́nh lắng dịu, địch và ta lại gh́m quân, chờ dịp ra tay khi phát giác sơ hở của kẻ thù .


1XeqLHQu8EQ


Ở Plei-Me, thời gian ấy, đơn vị tôi chịu trách nhiệm một vùng cố định. Tôi có cảm tưởng như ḿnh là một tiểu tướng cầm quân thời Tam-Quốc. Tôi đă phải nặn óc, vận dụng hết khả năng, kinh nghiệm, sở trường của ḿnh để đương đầu với một đơn vị địch mạnh gấp năm sáu lần đơn vị ḿnh.


Tôi biết rơ Sư Đoàn 320 CSBV từ xuất xứ, tổ chức trận liệt, tới thói quen, sở trường, sở đoản.


Địch thủ của tôi, những người chỉ huy tác chiến của Sư Đoàn 320 Điện-Biên, cũng là những tay dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Họ rất tinh khôn, và không kém can trường, liều lĩnh.


Trong thời gian này, có một mẩu điện đàm của địch lọt vào đài kiểm thính của ta, trong đó, chính ủy Sư-Đoàn 320 đă cảnh giác các đơn vị dưới quyền :

- “ Phải tránh né tối đa mọi đụng độ trực tiếp với Thằng Hai Nâu (?)”.

Pḥng 7 giải mă, cho tôi biết địch gọi TĐ82 BĐQ là “Thằng Hai Nâu”.

Một ngày, giữa tháng 6 năm 1974, trong khi tôi cùng hai đại đội đang lục soát vùng nam núi Chư Gô th́ được thông báo cái điện thứ nh́ :

“ Thằng Hai Nâu đang hoạt động dă ngoại, phải khẩn trương bôn tập, đánh tiêu hao nó !”

- Điện văn này của Bộ Tư Lệnh SĐ320 CSBV ra lệnh cho Trung Đoàn 48 SĐ320.

Sáng sớm hôm sau, từ đỉnh núi cao, qua ống nḥm, tôi thấy rơ những vệt cỏ tranh trên những ngọn đồi hướng bắc Chư Gô rạp xuống như những luống cày.


H́nh như trong đêm, cả trăm người đă đạp trên cỏ để tiến về suối Lé (Ia Glaé). Suối Lé chạy dài từ đông bắc xuống tây nam, sát chân núi Chư-Gô. Con suối này cắt ngang trục tiến trên phóng đồ hành quân của tôi.


https://media.baothaibinh.co m.vn/upload/news/10_2018/bde40c83a74a9b7c59ae f196f44dc7c9.jpg


Tôi ra lệnh cho Đại Úy Quách Cơ B́nh (K22 A) đang là tiểu đoàn phó giữ trại, đóng chặt cổng rào, nội bất xuất, ngoại bất nhập.

Suốt ngày hôm đó, tôi đă dội hàng trăm quả cối 4.2 (106 ly) và đại bác 105 ly trên những hàng cây gai xanh bên bờ con suối.

Quân dă ngoại của tôi ém trong núi, không lửa khói, chịu đói. Rồi trong đêm, lợi dụng bóng tối, im lặng vô tuyến, theo đường tắt, tôi rút êm. Về tới cổng nam trại Plei-Me tôi mới lên máy gọi chú B́nh.

Chỉ chừng mười phút sau cú điện đàm giữa tôi và Đại Úy B́nh, th́ từ biên giới Miên, địch đă nă khoảng hai trăm trái đại bác vào trại.


Từ vài năm nay, hầu như tất cả điện đàm vô tuyến của ta đều bị địch nghe trộm. Âm mưu của địch đă bị ta phát giác, cú đánh tiêu hao không xảy ra.


Hụt ăn, địch gỡ gạc ! Vụ pháo kích gây cho hai căn nhà tôle bị sập, và một binh nh́ gốc Chợ-Lớn bị tử thương. Rồi t́nh h́nh lại yên…



W3brpijc2Nc


Cuối tháng Sáu có tin mật báo, một cấp chỉ huy Cộng-Sản chiều chiều cưỡi ngựa, thám sát khu ngă ba làng Xổm (Plei Xôme).

Làng Xổm nằm về hướng bắc, dưới chân ngọn núi lửa, cách Plei-Me chừng bảy cây số. Làng này đă bị bỏ hoang từ lâu.

Trên bản đồ hành quân, làng Xổm nằm sát ranh giới hoạt động của Trung Đoàn 42 Bộ Binh trừ (-) và Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân.

Trung Tá Nguyễn Thanh Danh (K19 VB) Trung Đoàn Phó Trung Đoàn 42 Bộ Binh đang chỉ huy cánh quân bộ binh.


https://baotreonline.com/tre_assets/uploads/2020/01/tran-pleime-nam-1974-ky-1.jpg


Tôi muốn đích thân giăng bẫy hạ thằng Việt-Cộng gộc này. Sợ khi đụng trận, bắn nhầm quân bạn, tôi muốn anh Danh chia cho tôi thêm một cây số trách nhiệm về hướng bắc.

Chuyện không thể nói trên vô tuyến, v́ vậy tôi phải lái xe ra căn cứ 711 gặp mặt Trung Tá Danh.

Tại căn cứ hỏa lực 711, Trung Tá Danh đi vắng, nhưng may mắn, tôi đă gặp Đại Tá Nguyễn Hữu Thông (K16VB) Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 42 SĐ22 Bộ Binh đang có mặt.

Tiểu đoàn tôi nằm dưới quyền giám sát hành quân của niên trưởng Thông.

Niên trưởng Thông hỏi:

-Danh nó về Pleiku, mai mới vô. Cần ǵ vậy em?

Đứng trước tấm bản đồ hành quân, tôi kể cho niên trưởng Thông nghe tin tức địch tôi vừa nhận được, và ư đồ hành động của tôi, rồi đề nghị :

-Niên trưởng nới thêm cho tôi một click về bắc, để tôi dễ bề xoay trở.

Đại Tá Thông đồng ư ngay :

-Okay, Làm đi ! Chắc tên Vi-Xi này tới số nên mới gặp chú…


N0XHl9m1k8w


Chuyến làm ăn dự trù này của tôi bị khựng lại vài ngày v́ chú Quách Cơ B́nh được lệnh thuyên chuyển về nguyên quán. Trong khi chờ một vị tiểu đoàn phó mới tới bổ sung, tôi đem Đại Úy Bá, sĩ quan chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn vào giữ đồn Plei-Me trong lúc tôi xuất trại.

Toán viễn thám của Trung Sĩ Nguyễn Chi và toán cận vệ của Hạ Sĩ Nguyễn Ba sẽ tháp tùng tôi vào vùng.

Lực lượng an ninh ban đầu để tôi thiết lập vị trí là Đại Đội 1/82.

Khi tôi đă hoàn tất tổ chức địa thế, lực lượng này sẽ rút lui theo đường tắt để về pḥng thủ trại. Lực lượng trừ bị cho tôi là Đại Đội 3/82 của Thiếu Úy Phạm Đại Việt, sẽ án binh trong khu suối đá, bốn cây số hướng tây bắc Plei-Me.


https://ongvove.files.wordpr ess.com/2012/03/anloc051.jpg


Tôi đă dự trù mọi phản ứng thích nghi nếu có bất cứ trục trặc nào xảy ra bất ngờ. Trừ sáu người đi theo tôi trong chuyến làm ăn này, những quân nhân c̣n lại trong đơn vị hoàn toàn không biết thày tṛ tôi đi đâu. Trên tần số, không ai được phép đả động tới việc tôi xuất trại.

Tôi chọn “Vùng làm ăn” trên đoạn đường xe be cách ngă ba Tỉnh Lộ 6C làng Xổm chừng một trăm mét. Hai bên b́a rừng của đoạn đường này không bị khai quang như hai bên lề Tỉnh Lộ 6C.

Cây rừng chen chúc nhau, lau lách um tùm, khu này rất thuận lợi cho một cuộc bố quân phục kích. Mờ sáng hai quả Claymore đă gài xong. Hướng nổ của hai quả ḿn đánh chéo nhau thành h́nh chữ “W”. Bụi lau nơi mô đất giữa đường là điểm mốc. Hai lằn đạn ch́ của Claymore sẽ giao nhau chỗ này.

Tử địa chỉ dài chừng năm chục mét thôi, nhưng con mồi nào lọt vào tử địa là coi như Diêm-Vương đă gọi.

Ngày thứ nhứt trôi qua, vô sự.

Ngày thứ nh́ trôi qua, vô sự.

Ngày thứ ba, vào lúc mặt trời đứng bóng giữa đỉnh đầu…

Binh nhứt Y Huynh nói nhỏ vào tai tôi,

- Thiếu Tá ! Có tiếng xe !

– Tao có nghe ǵ đâu?

Tôi quay sang hỏi chú Chi :

- Ê ! Chi ! Có nghe tiếng ǵ không ?

Trung Sĩ Chi nghiêng tai lắng nghe một lúc, rồi lắc đầu,

-Dạ không. Em không nghe ǵ cả! …

Lúc sau, thằng Y Huynh vừa giựt vạt áo tôi, vừa càu nhàu,

- Em nghe rơ có tiếng máy xe mà ông Thiếu Tá ! Đó ! Đó ! Nghe rơ chưa?

- Ừ ! Tai thằng này thính thiệt. Có tiếng xe xa lắm…



https://scontent-yyz1-1.xx.fbcdn.net/v/t1.0-0/cp0/e15/q65/s320x320/12038303_16597658042 67561_31065221464179 91516_n.jpg?_nc_cat= 101&_nc_sid=2d5d41&efg=eyJpIjoiYiJ9&_nc_ohc=jVyhWUbsa8kA X9OOiSZ&_nc_ht=scontent-yyz1-1.xx&tp=9&oh=97556a6c006ba9e06 818ce7c22367f60&oe=5F9EE47F


Rừng già xanh ŕ trải dài mênh mông. Trong gió, từ hướng tây, phía làng Gà (PLei Bon Ga) có tiếng xe rồ máy. Tôi leo lên một ụ đất cao ngỏng cổ quan sát.

Từ xa, từng cụm khói xe phun lên khỏi đọt cây. Chim rừng hoảng hốt vụt lên không mỗi khi đoàn xe sắp tới gần nơi chúng kiếm ăn. Đoàn cơ giới đang tiến về phía chúng tôi, tiếng động cơ rơ dần, gằn từng cơn, như tiếng xe tank, ít nhứt cũng cỡ năm bảy chiếc.

Tôi ghé tai chú Chi và chú Ba ra lệnh :

- Chuẩn bị đánh tank ! Đánh gục chiếc đầu . Xong là rút liền !

Chúng tôi cấp tốc chuyển địa bàn phục kích về hướng đầu con dốc ngược trên đoạn đường xẻ ngang một ngọn đồi nhỏ. Con đường độc đạo chạy giữa hai bờ đất cao bốn, năm thước.


Bảy Biệt Động Quân, bố trí trên b́a đường, ḍm xuống. Tôi tin tưởng rằng, với hai ống M72 và hơn chục quả lựu đạn vừa miểng, vừa lân tinh, thế nào tụi tôi cũng “thịt” được một chiếc tank đi ngù ngờ dưới kia (!) Chúng tôi nín thở, nép ḿnh trong cỏ, đợi chờ…


Tiếng động cơ đă gầm gừ dưới chân dốc.

- “Ỉm! Ỉm!…́…́…..Ỉm!…” đoàn xe rồ máy lấy đà leo lên. Thời nhảy toán trong Plei-Trap Valley (1972) tôi đă có dịp nghe tank địch chạy sát bên ḿnh vài lần.

Ngoài tiếng động cơ gằn từng cơn, tank di chuyển c̣n gây tiếng “két! két!” của xích sắt khi móc xích bám vào guồng quay. Lần này, chiếc tank đang tiến tới không gây ra tiếng “két! két!”


Cành lá rung rinh, mặt đất cũng rung rinh khi chiếc chiến xa đầu tiên tiến lên đỉnh dốc. Ṿm tre xanh đầu dốc đang bị chẻ đôi bởi chiếc cần cẩu trên xe đang di chuyển. Th́ ra đó chỉ là một chiếc xe be ! Cái cần cẩu sơn đỏ của nó cao hơn ngọn tre, nhô lên không.

Tôi vội nắm sợi dây ba chạc của chú Chi, ra dấu cho chú đừng phóng viên M72 đi.


Dưới đường, chiếc xe be thứ nhứt rồ máy liên tục để lấy đà, kéo chiếc thứ nh́ sau lưng. V́ phải kéo một sức nặng gấp đôi, nên động cơ xe gầm rú dữ dội. Mới nghe, ngỡ tiếng máy xe tank.

Chúng tôi thở phào, nhẹ nhơm. Thoáng chốc, đoàn xe be năm chiếc theo nhau qua con dốc.

Chú Ba lầm bầm :

“ Đồ phá thối !”

Thấy công việc làm ăn không thuận lợi, tôi cho lệnh cuốn gói.

Theo đường tắt, chúng tôi rút về tiền đồn bắc của trại.


samv0tya28w

Khoảng bốn giờ chiều, toán canh gác báo động xa trên Tỉnh Lộ 6C cách trại hai cây số báo cáo có mười hai người dân khai thác lâm sản xin vào trại tá túc v́ xe be của họ bị hư không thể chạy về Pleiku.

Tôi cho lệnh toán an ninh giữ họ tại chỗ chờ tôi xuống tiếp xúc với họ. Đám dân khai thác gỗ này gồm một phụ nữ, một chú bé và mười đàn ông. Người thiếu phụ tuổi trên dưới ba mươi, nhan sắc dễ coi. Mặt chị ta có một vết chàm trên má. Chị khai là chủ hai chiếc xe be, một chiếc bị Việt-Cộng bắn cháy đầu máy, phải kéo.

Qua đoạn đường đèo ngă ba làng Xổm th́ chiếc xe kéo bị “lột dên” không tiếp tục được. Họ biết đường vào Plei-Me dễ đi hơn đường ra căn cứ 711 nên xin vào tá túc. Tôi cho phép đoàn người làm rừng này vào đồn, tạm trú qua đêm trong Câu Lạc Bộ tiểu đoàn.

- Tôi là người quen của Trung Tá Danh…

Bà chủ xe be khoe với tôi.

- Tại sao xe của bà bị Việt-Cộng bắn ? Bộ bà không đóng thuế cho Cộng-Sản à ?

- Hai tuần nay họ ra lệnh cấm xe be vào khu vực quanh Ia-Drang. Vi phạm lệnh cấm là họ bắn. Tụi tui không rơ lệnh này, nên họ bắn bể két nước chiếc xe đi đầu. Tha cho những chiếc chạy sau, rồi đuổi chúng tôi về.

- À ra thế !

Tôi hỏi chuyện những người thợ rừng về tin tức địch, nhưng họ cũng không biết ǵ hơn. Tôi vào máy, gọi Trung Tá Danh, báo cho anh biết tin tức người quen của anh đang tá túc trong trại Plei-Me, sáng mai đoàn xe của họ sẽ dắt d́u nhau về qua căn cứ 711.


https://4.bp.blogspot.com/-jk40up4Kj-E/VRFuS2ouOfI/AAAAAAAAA8o/XE2eZfcdzus/s1600/thangtu011.jpg


Ngày kế tiếp…

Mặt trời lặng lẽ nghiêng từ từ xuống rặng Chư Prong sát biên giới Việt Miên.

“Oách! Oách! Oách!…Quàng! Quàng! Quạc! …Ụt! Ụt! Ụt!…” đàn chim khách rời cành, vụt bay lên không. Hướng tây, tiếng chim rộ từng chập. Chúng tôi nín thở.

“K’rọc!…K’rọc!…”- “Hừm!…Hừm!..”

Có người đang đi tới ! Nhưng tiếng động phát ra nghe lạ quá !

Con cóc Claymore trên tay tôi đă sẵn sàng.

Tiếng “K’rọc! …K’rọc! …” – “Hừm! …Hừm! …” gần hơn, tiếp đó là lạo xạo bước chân dẫm trên lá khô. Một bóng người ngả trên đường. Cái bóng dài dần tới gần điểm mốc, ranh giới của tử địa.


“K’rọc! …K’rọc! …” – “Hừm! …Hừm! …”

Trong nắng xế tà, một đàn ông Thượng, cởi trần, đóng khố, vuông khăn xéo quấn trên trán, miệng ph́ phà ống vố, đang vô tư bước trên đường xe be. Tay phải anh ta giữ chuôi con dao quắm vác trên vai. Mỗi khi nuốt xong một đợt khói thuốc, anh chàng này lại hắng giọng, “Hừm!…Hừm!..” C̣n tiếng “K’rọc!… K’rọc!…” đều đều là do con dao ngắn trong bao tre trên mông anh ta, lắc lư theo nhịp bước.

Anh dân Thượng đủng đỉnh đi qua tử địa. Bóng anh ta mất hút chỗ khúc quanh nơi con đường ṃn nhập vào Tỉnh Lộ 6C. Núi rừng lại trở về cảnh cũ, lạnh lùng, vắng lặng.


https://4.bp.blogspot.com/-RfVCo-H6EuE/WrIvI-D_KmI/AAAAAAAAHTQ/rDQEo4rKIWImxHg2QMXm wB9qz2DztXQ1QCLcBGAs/s1600/106.png


Chớm bóng chiều. Muỗi rừng “O…o…o…” sau gáy. Sợ địch đánh hơi nghi ngờ, dù nằm cuối gió, chúng tôi cũng không dám xoa thuốc chống vắt, chống muỗi.


Những con muỗi quái ác, thấy con mồi không phản ứng tự vệ, nên châm chích trên da thịt chúng tôi một cách thoải mái. Có con bị bội thực, ễnh bụng no máu, lăn kềnh ra ḅ, không bay nổi. Chúng tôi cắn răng chịu đựng nỗi ngứa dày ṿ, không dám găi, không dám đuổi xua đàn muỗi đói.

Chợt rừng chiều xào xạc…

“Oách! Oách! Oách!…Quàng! Quàng! Quạc! …Ụt! Ụt! Ụt!…” Hướng tây, đàn chim khách lại rời cành, vụt bay lên không. Lần này tiếng chim rộn ră, dồn dập hơn lần trước. Rồi chúng tôi thót tim, khi nghe tiếng vó ngựa nện trên đường,

“Lộp cộp!…Lộp cộp!…Lộp cộp!…”

Tôi hít một hơi dài cho không khí vào đầy lồng phổi. Tay tôi cầm chắc con cóc Claymore. Tôi liếc mắt ra dấu cho chú Ba. Ba gật đầu, tay chú cũng đang nắm chắc một con cóc Claymore.

“Lộp cộp!…Lộp cộp!…Lộp cộp!…”

Một con ngựa đen, cao to, chắc nó thuộc gịng giống ngựa thồ, lững thững tới gần bụi lau có đánh mốc bên đường. Trên lưng ngựa là một người to lớn, y phục đen, có dây súng lục đeo chéo qua vai.

Tôi nghiến răng, bấm c̣ con cóc,

“K’rạch!”

Con cóc đă kích hỏa, nhưng quả ḿn không nổ !

Con ngựa như nghe được tiếng động lạ, nó đứng dừng lại, hai vó trước dở hổng, quơ quơ lên trời.

“Hí!… Hí!… Hí!…í!…í!…í!…”

Con ngựa cất vó, ngửa cổ hí. Một cái bóng đen bay ṿng qua đầu con ngựa, rơi trong bụi lau bên kia đường.

“Oành!”

Quả Claymore của Hạ Sĩ Ba nổ! Ào ào một cơn lốc bụi đỏ bốc lên, kéo theo cành lá găy. Tiếp đó,

“Rẹt! Rẹt! Rẹt!…”

Bảy khẩu M16 bắn chéo nhau, đạn đan sát mặt đất.

Con chiến mă quằn quại trên mặt đường xe be, miệng ph́ ph́ sùi bọt.


Tôi và Trung Sĩ Chi tiến ra chặn nút hai đầu đường. Hạ Sĩ Ba và bốn tay súng băng nhanh qua đường, kiểm soát kết quả. Ḿnh ngựa bị ghim đầy vết ḿn Claymore và vết đạn M16.

Nhưng trong ṿng bán kính một trăm mét, chúng tôi không t́m ra dấu tích của chủ nó. Đại Đội 3/82 của Thiếu Úy Phạm Đại Việt đang hoạt động vùng tây bắc Plei-Me được điều động hỏa tốc tiến về hướng bắc, ngăn chặn con đường về làng Gà.


Suốt ngày hôm sau, chúng tôi lục soát từng tấc đất quanh vùng tử địa. Nơi con suối hướng bắc con đường, chúng tôi t́m được dấu giày lưu lại của con mồi. Con mồi đă thoát thân thẳng về hướng bắc.

Tôi kiểm lại quả Claymore của tôi th́ phát giác ra rằng, sức điện đă làm đứt một trong hai sợi dây ch́ gắn vào đầu ng̣i nổ, khiến ḍng điện bị ngắt, trái ḿn câm.

Chú Chi càm ràm:

“Chắc thằng ‘cội’ này có bùa!…”


https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2018/08/Tong-le-Chan.jpg


Ít lâu sau…

Trung Đoàn 42 SĐ22 Bộ Binh chuyển vùng hoạt động về B́nh-Định, căn cứ 711 được bàn giao cho Liên Đoàn 24 BĐQ trách nhiệm. Lúc này vùng hành quân của TĐ 82 BĐQ được thu hẹp lại vể hướng nam hai cây số.

Làng Xổm nằm trong vùng trách nhiệm của TĐ81 BĐQ. Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Lân đă đặt bản doanh Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 81BĐQ của ông ngay dưới chân ngọn núi lửa nơi ngă ba làng Xổm.


Trưa 27 tháng 7 năm 1974 chiến dịch tấn công xóa sổ đồn Plei-Me mở màn. Với sự yểm trợ trực tiếp của một tiểu đoàn pháo, Trung Đoàn 64 SĐ 320 CSBV hướng bắc, Trung Đoàn 48 SĐ 320 CSBV hướng nam, đồng loạt mở một cuộc bôn tập tập kích hai tiểu đoàn Biệt Động Quân đang hành quân mở đường dọc Tỉnh Lộ 6C.


Sau ḥa đàm Paris, chiến thuật bôn tập tập kích đă được các đơn vị Cộng-Sản thuộc Mặt Trận B3 áp dụng một cách bài bản và hiệu quả.

Chiến thuật này là một sự phối hợp nhịp nhàng giữa pháo kích và di chuyển tập kích. Bộ binh địch khẩn cấp di chuyển băng rừng tiến tới mục tiêu, trong khi pháo địch tác xạ tối đa trên vị trí quân ta. Khi pháo địch vừa ngừng th́ bộ binh địch đă ở kế bên ta rồi.

Ta chưa kịp chấn chỉnh đội h́nh th́ địch đă xung phong. V́ vậy, ngay đợt xung phong đầu, Việt-Cộng đă chặt đầu Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Lân, vị tiểu đoàn trưởng của TĐ81 BĐQ bên chân núi lửa. Cùng ngày, chúng đă bắt làm tù binh ông tiểu đoàn phó TĐ81 BĐQ là Thiếu Tá Trần Văn Ngọc (K18 VB).

Trong khi đó, tại mặt trận phía nam, Trung Đoàn 48 SĐ 320 của địch không tiến được bước nào.


Suốt ngày 27 tháng 7 năm 1974, ba đợt tập kích của địch đều bị chặn đánh từ xa bởi những toán viễn thám.


Pháo địch dứt, nhưng tiền quân địch chưa tới mục tiêu. Khi lực lượng tập kích địch tới được mục tiêu th́ khả năng tác chiến đă giảm đi nhiều.

Mục tiêu của địch là con đường, nhưng trên mặt đường và hai bên đường trống trơn, địch xung phong vào chốn không người.


Trước đó, pháo địch nổ dày dặc trên mặt Tỉnh Lộ 6C chỉ cày xới đất đá vô tri, v́ quân mở đường của TĐ82 BĐQ không trải dài trên trục lộ như thói quen của các đơn vị khác khi hành quân khai lộ, mà đóng chốt chặn các trục xâm nhập bằng cấp đại đội với hố cá nhân và giao thông hào.


Cách bố quân dă ngoại đặc biệt lạ lùng này của TĐ82 BĐQ đă khiến Trung Đoàn 48 SĐ 320 CSBV không thi thố được sở trường bôn tập của nó. Lần đầu tiên trên chiến trường Tây-Nguyên, chiến thuật bôn tập, tập kích của Mặt Trận B3 thất bại.


Những ngày sau đó, tiền đồn Plei-Me bị cô lập, và địch lại tiếp tục cái màn xa luân chiến.

Hết Trung Đoàn 48 SĐ 320 đến Trung Đoàn 64 SĐ 320, rồi tới Trung đoàn 26 Địa Phương của Mặt Trận B3 thay nhau phơi thây trên các lớp rào kẽm gai pḥng thủ Plei-Me.


Hai mươi đợt biển người, biển lửa, mưa pháo, mưa truyền đơn của Sư Đoàn Điện-Biên vẫn không hạ nổi lá cờ vàng ba sọc đỏ phần phật tung bay trên ngọn cột gỗ giữa sân tiền đồn biên pḥng này. Trận đánh đă kéo dài ba mươi tư ngày đêm.


TB07Iu5ZtB0


Sáng ngày 2 tháng 9 năm 1974 chiến dịch vây hăm Plei-Me chấm dứt.


0r2qjcaS7wk

Thêm một lần đụng độ, “Thằng Hai Nâu” đă chứng tỏ cho địch biết rằng :


Ở Tây-Nguyên, Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân là một địch thủ vô cùng lợi hại, một địch thủ chúng không thể đánh bại.

Trung Đoàn 48 SĐ 320 là đơn vị địch bị thiệt hại nặng nề nhứt trong đợt cao điểm này. Trung đoàn này phải rút về biên giới để bổ sung và tái huấn luyện.

Tới đầu năm 1975, Trung Đoàn 48 Sư Đoàn 320 được giao nhiệm vụ chủ công trong chiến dịch tấn công Ban-Mê-Thuột.

Lúc đó Tiểu Đoàn 82 BĐQ đă chuyển vùng về bảo vệ tỉnh Quảng-Đức. V́ thế “Thằng Hai Nâu” và những đơn vị trực thuộc SĐ 320 Điện-Biên CSBV không c̣n dịp nào chạm mặt nhau nữa…

C̣n tiếp ,

hoathienly19
10-05-2020, 18:39
SAO HÔM, SAO MAI… (Vương Mộng Long- K20)

Tiếp theo ,

https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=61

Sàig̣n, ngày 7 tháng 5 năm 1975

Hai chiếc xe con của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam ngừng lại nơi đầu hẻm TK9, phường Nguyễn Cảnh Chân, Quận 2, Sàig̣n.

Một người cao lớn, bận quân phục lực lượng vũ trang Cộng-Sản Bắc-Việt bước xuống từ chiếc xe thứ nhứt.

Ông ta trạc tuổi trên bốn mươi, đeo kính râm, cặp da, súng ngắn. Ve áo ông ta lấp lánh quân hàm thượng tá của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam, với ba sao, hai gạch vàng, trên nền nỉ đỏ.

Xe thứ nh́ có máy truyền tin với bốn bộ đội trang bị AK. Người sĩ quan Bắc-Việt cùng hai hộ tống viên đi vào ngơ TK9, t́m địa chỉ.

Tới căn lầu đúc gần cuối hẻm, họ dừng lại. Người sĩ quan CSBV cất tiếng hỏi,

- Phải nhà này có Vương Mộng Long không?

Lúc đó tôi đang ngồi đọc báo nơi pḥng khách. Tôi ở nhà một ḿnh. Mẹ tôi đi vắng. Bà cụ lên Ban-Mê-Thuột để t́m kiếm vợ con tôi.

- Phải ! Các ông cần ǵ ?

- Tôi muốn gặp Vương Mộng Long.

Thấy có người trang bị súng ống đến tận nhà gọi đích danh ḿnh, tôi liên tưởng ngay tới một vụ bắt bớ. Tuy hơi chột dạ, nhưng tôi vẫn từ tốn trả lời,

- Tôi đây !

- À ! Anh Long đây hử ? Anh Long có mạnh khỏe không ?

- Cám ơn ông, tôi vẫn khỏe.

Ông thượng tá Quân-Đội Bắc-Việt quan sát tôi vài giây rồi nói :

- Vất vả hai ngày nay tôi mới t́m được địa chỉ của anh. Tôi có chuyện muốn nói với anh, anh có vui ḷng tiếp tôi hay không ?

- Vâng, mời ông vào nhà.

Để hai cận vệ đứng gác bên cửa ngăn đám trẻ con hàng xóm ṭ ṃ bu quanh, người sĩ quan CSBV bước vào nhà tôi. Ông ta không hề đảo mắt quan sát căn pḥng khách. Ít người có thái độ thế này khi vào nhà người lạ.

Ông gỡ cặp kính đen, bỏ mũ xuống mặt bàn, ch́a tay ra cho tôi bắt. Bàn tay to lớn, sần sùi, rắn chắc, nhưng rất ấm. Rồi ngồi ngay xuống ghế, với giọng oang oang, tiếng Bắc, pha chút âm sắc lơ lớ Thượng-Du Bắc-Việt, ông ta mở lời :

– Anh Long có nhận ra tôi không ?

– Xin lỗi ! Ông là ai ? Tôi không nhớ đă gặp ông lúc nào.

- Tôi là người bị anh giết hụt ở Tây-Nguyên cách đây một năm.

- À…

- Tháng Sáu năm ngoái, anh đă phục kích tôi ở làng Xổm. Con ngựa của tôi bị bắn chết, nhưng tôi thoát. Tôi muốn gặp anh, xem mặt anh, nói chuyện với anh vài phút .Thế nào, có được không?


https://donghuongkontum.file s.wordpress.com/2014/04/em-becc81-gucca3c-ngucc89.jpg


-Ư…ư.. ông cứ tự nhiên…

Đôi mắt ông khách sáng quắc, giọng nói của ông oang oang, cung cách của ông thật là chất phác thực thà.


Lần lượt, ông thượng tá hỏi qua quê quán của tôi nơi nào ngoài Bắc ?

- Năm nào gia đ́nh tôi vào Nam?

- Gia cảnh tôi thế nào? Vợ con tôi ra sao ?

- Tôi t́nh nguyện đi lính Ngụy hay đă bị bắt lính, động viên ?

- Bao nhiêu lần thương tật ?

- Bao nhiêu lần được tặng thưởng huân chương ?

Qua thái độ và giọng nói của ông ta, tôi thấy người địch thủ cũ của ḿnh không có ư tầm thù. V́ thế, ḷng tôi cũng cảm thấy bớt lo ngại.


Người sĩ quan Bắc-Việt ôn lại chuyện xảy ra trong những ngày tháng khói lửa mịt mù ở Điện-Biên-Phủ, ở Quảng -Trị, ở Tây-Nguyên.

Ông khách thao thao :

- Tớ là con quan Lang xứ Cao-Bằng. Mười bẩy tuổi tớ vào bộ đội đánh Tây.

Tớ phục vụ Sư Đoàn 320 từ ngày thành lập, cho tới tận bây giờ. Đánh Điện-Biên tớ làm đại đội trưởng.

Tới thời đi B, xâm nhập Miền Nam, tớ làm trung đoàn trưởng. Mười năm đánh Tây, hai mươi năm chống Mỹ, vào sinh, ra tử. Giờ này mới thấy ḥa b́nh…

Ông khách kể tự truyện, theo đó, trước 1945 ông học trường Tây ở Hà-Nội. Ông sắp thi “Diplôme” th́ Cách Mạng Tháng Tám xảy ra, ông đi theo kháng chiến, giữ chân liên lạc viên, rồi thành bộ đội.

Ông kể chuyện đánh thắng Điện-Biên, thời Tây, chuyện giải phóng Tân-Cảnh, thời Ngụy, chuyện hai lần suưt bị máy bay B 52 làm cỏ ở Pơ-Lây Cần (Ben Het), chuyện Sư đoàn 320 Điện-Biên CSBV rời địa bàn Kontum, chia đôi, một nửa về chiến trường B́nh-Định, một nửa xuôi Jarai.

Không ảnh trại Bến Hét – Tiền đồn Bến Hét trước khi trận đánh căn cứ Bến Hét 1972 trong chiến tranh Việt Nam – Aerial view of Ben Het Camp 1972 in Viet Nam war


https://i2.wp.com/chientranhvietnam.co m/wp-content/uploads/2018/01/Khong-Anh-Can-Cu-Ben-Het-Camp.jpg


Rồi khách rầu rầu vắn tắt nhắc trận thư hùng tháng Tư năm 1974 bên bờ Suối Mé (căn cứ 711). Trận này, sau khi dùng hơi ngạt để tấn công tôi, suưt tí nữa ông ta đă bắt sống được tôi, nhưng cuối cùng, ông ta đă thua tôi (TĐ82 BĐQ).

Khi kể tới trận vây đồn Plei-Me 34 ngày đêm (tháng 7 và 8 năm 1974) ông ta la lớn :

-Đúng là kỳ phùng địch thủ! Tớ không ngờ trên đời lại có thằng ĺ như cậu! Hết xung phong tới pháo, hết pháo tới truyền đơn, hết truyền đơn lại pháo. Vậy mà cậu vẫn không chịu đầu hàng ! Cuối cùng tụi tớ phải bỏ cuộc ! Gớm thật!

Sau câu, “Gớm thật!” ông ta vỗ đùi đánh “độp!” một cái, rồi nh́n tôi, tán dương,

– Ĺ thật ! Tớ khen cậu đó !

Tiếp theo, khách thao thao về chiến tích của trung đoàn chủ công giải phóng Buôn- Ma -Thuột tháng Ba năm 1975 và màn bôn tập Quân Đoàn II Ngụy trên đường rút chạy. Với chiến công này, ông trung tá trung đoàn trưởng CSBV đă được thăng cấp thượng tá.


-wzhN4cdDww


Khách nói nhiều hơn chủ nhà. Khách nói say mê, miên man, trong lúc chủ nhà chỉ ậm ừ. Ông ta là kẻ chiến thắng, có thế để nói. Tôi là người thua trận, mở miệng mắc quai. Trên môi khách là nụ cười tự hào. Trên môi tôi, nụ cười như mếu.

Trong dịp gặp mặt ngày hôm ấy, ít nhất, đă ba lần, ông ta thắc mắc,

– Động cơ nào khiến cậu chiến đấu một cách ngoan cường, ĺ lợm như thế ?

Tôi chỉ trả lời thật gọn,

– V́ chữ hiếu !

Nghe vậy, ông ta có vẻ không thỏa măn với câu trả lời của tôi, nhưng ông ta cũng không gặng hỏi thêm.

Cuộc thăm viếng chấm dứt, tôi tiễn người khách không hẹn gặp ra về.

Nơi bực cửa, khách nh́n vào mặt tôi, dịu giọng như thông cảm,

– Tôi c̣n ở Sàig̣n ít lâu nữa. Tôi được đề cử vào đây dự lễ nhận huân chương do Bác Tôn trao tặng. Trước lúc chia tay, tôi muốn nói với anh rằng :

Chúng ta đă đánh nhau hai lần trên Tây-Nguyên, hai lần bất phân thắng bại . Cuối cùng, anh là người thua trận. Dù rằng anh là lính Ngụy, tôi vẫn coi trọng anh, v́ anh là một ngôi sao sáng hiếm hoi.

Tôi với anh như Sao Hôm với Sao Mai, anh sáng th́ tôi tối, anh tối th́ tôi sáng. Hôm nay tôi đến thăm anh, an ủi đôi lời. Thương cho anh, một v́ sao rụng.


https://imagizer.imageshack. com/v2/320x213q90/r/922/yrcyxp.jpg

– Cám ơn ông.

Vào lúc người sĩ quan Cộng-Sản cất bước, tôi cố nói vói theo :

– Ở suối Mé ông giết hụt tôi . Ở làng Xổm tôi giết hụt ông.Thế là ḥa. C̣n trận Plei-Me ba mươi tư ngày đêm, th́ ông thua tôi rành rành.

Về cái vụ Ban-Mê-Thuột, tôi công nhận, ông đă chiến thắng. Nhưng người đánh nhau với ông ở Ban-Mê-Thuột không phải là tôi.

– Anh nói đúng.Trong trận Buôn-Ma-Thuột không có “Thằng Hai Nâu”. Và trong số những người bị tôi bắt, không có anh…

Khi thốt ra những lời cuối cùng này, mặt ông ta hơi sầm lại, ngượng ngùng.

Vài phút sau, hai chiếc xe con của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam và người khách không mời rời con hẻm.


https://baovecovang2012.file s.wordpress.com/2015/04/kontumkieuhung-ttnvt-lytongba.jpg


Đầu năm 1988 tôi được tha từ trại cải tạo Z30D Hàm-Tân, Thuận-Hải.

Tháng 11 năm 1988, tôi nộp đơn xin xuất cảnh sang Hoa-Kỳ tỵ nạn.

Từ tháng Giêng năm 1990, những người bạn nộp đơn xin xuất cảnh cùng thời với tôi như Phan Trần Bảo (Cảnh Sát), Đỗ Dũng (KQ), Lư Ngọc Châu (BĐQ) vân vân, đều đă lên danh sách, chờ ngày phỏng vấn.

Riêng hồ sơ của tôi và hai anh bạn Nguyễn Thanh Danh (K19VB) và Lê Văn Để (BĐQ) vẫn bặt vô âm tín.

Tháng 8 năm 1990 tôi tới sở Công-An Quận 1 Thành Phố Hồ Chí Minh để hỏi hồ sơ của ḿnh th́ được biết, cô Huyền, người nữ Công-An phụ trách hồ sơ của tôi đang nghỉ phép đẻ. Sau khi đẻ, cô ta lại chuẩn bị theo học một lớp Anh-Văn kéo dài nửa năm.

Một anh bạn gốc Không-Quân đă giúp tôi rút hồ sơ ra để chuyển lên Sở Ngoại-Vụ. Anh Danh và anh Để cũng vừa lấy được hồ sơ ra, họ rủ tôi đi Hà-Nội làm thủ tục xuất cảnh để được cứu xét nhanh hơn. Người ta nói rằng, nếu đem hồ sơ ra Hà-Nội nộp cho Pḥng Xuất Cảnh Bộ Ngoại-Giao, sẽ lướt qua ít nhứt vài ba danh sách.

Hà-Nội, với tôi, cũng có chút kỷ niệm riêng tư thuở ấu thơ. Tôi vẫn mong một dịp nào đó trong đời, về lại chốn này, t́m dư hương ngày cũ.

Hà Nội - Sài G̣n sau tháng 4- 1975 năm 1975


PiRj5m6zFxI

Tôi đạp xe một ṿng quanh Sàig̣n, gặp người quen, xin viện trợ. Trung Tá Bùi Văn Huấn, cựu Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 22 Biệt Động Quân giúp tôi 100 ngh́n đồng.

Bạn tôi, (TQLC) Mai Văn Tấn (K21VB) cho tôi 100 ngh́n đồng.

Và anh Vũ Văn Ích, một người anh con d́ của tôi cũng giúp tôi 100 ngh́n đồng nữa. Thế là tôi có đủ lộ phí lên đường về Hà-Nội.


https://laodongthudo.vn/stores/news_dataimages/quocdai/082017/17/13/thang-8-lang-nghe-giai-dieu-mua-thu-ha-noi-04-.8182.jpg


Hà-Nội, một ngày tháng 8 năm 1990…

Tôi xuống ga Hàng-Cỏ vào buổi chiều. Thành phố thật rộn rịp đông vui, đầy người qua, kẻ lại. Loa phóng thanh trên cột điện bên đường và trên cổng vào ga đang oang oang phát đi những bài hùng ca thời chiến tranh chống Mỹ.

Tôi bước vội qua đường, v́ nh́n thấy bên phải con đường đâm thẳng vào cổng ga có cái bảng hiệu một khách sạn b́nh dân. Tôi vừa đặt chân trên lề phố bên kia, một người đàn ông lớn tuổi đă đứng chờ, dơ tay ngoắc,

– T́m nhà trọ phải không ?

– Phải…

– Pḥng ngủ quốc doanh bẩy ngh́n một đêm, nước tắm giới hạn, khổ lắm! Về nhà tôi, năm ngh́n một đêm, nước nôi thả cửa…

Tôi không tin lời người đàn ông này. Tôi vào pḥng ngủ quốc doanh.

– Một người, bẩy ngh́n một đêm, cứ thêm một người, tính thêm ba ngh́n…

Tiếp viên pḥng ngủ quốc doanh cho giá cả một cách dứt khoát.


https://laodongthudo.vn/stores/news_dataimages/ngocthang/012020/09/09/3654_022.jpg

Tôi bước ra cửa, người đàn ông đứng tuổi đă chờ sẵn,

– Bên kia đường…theo tôi…

Tôi theo chân người chủ nhà vào khu cư ngụ của công chức về hưu, đối diện với khách sạn quốc doanh. Khu cư xá này có khoảng trên dưới chục căn pḥng. Ông chủ nhà trọ dẫn tôi vào căn pḥng bên trái cư xá,

– Nhà tôi đây…

Rồi ông ta chỉ cho tôi cái sạp gỗ bên phải buồng ngủ,

– Chú ngủ ở đây. Cái tủ đứng có năm ngăn, ngăn thứ nhất dành cho chú, ch́a khóa nằm trong ngăn tủ, đi đâu nhớ khóa ngăn của chú lại.

Tắm giặt th́ ra đằng sau nhà, có mười pḥng tắm, nước chảy cả ngày. Bên khách sạn quốc doanh không có nước phông ten, tắm theo tiêu chuẩn, một thùng hai chục lít. Bên này, chú tắm chán th́ thôi…

Ông chủ dẫn tôi ra sau nhà, nơi đây có một dăy mười pḥng tắm có ṿi hoa sen tươm tất sạch sẽ. Tôi thay bộ quần áo đi đường đầy bụi bặm chuẩn bị đi giặt. Ông chủ nhà lại ra đi.

Tôi tắm giặt xong, quay về buồng th́ ông chủ cũng trở lại, theo chân ông là một khách đàn bà. Cô ta sẽ nằm trên cái sạp đối diện với tôi. Hộc tủ thứ nh́ của chiếc tủ đứng thuộc quyền cô ta. Một cái sạp, một ngăn tủ, tắm giặt thả giàn, năm ngh́n một đêm, rẻ chán !


https://dep.anh9.com/imgs/13930anh-dong-vuon-hoa-tim.gif


Ông chủ nhà ngủ trên cái sạp sát tường, cách đầu giường tôi và đầu giường cô gái một lối đi rộng hai thước. Ba cái sạp kê thành h́nh chữ “U”. Ba người nằm trong một căn pḥng hẹp, một người phát ngôn, hai người kia đều nghe rơ…

– Này ! Chú em nhà ở đâu mà phải ngủ ghé, không về ? Ông chủ nhà gợi chuyện.

– Hải-Dương

– Hải-Dương xe chạy cả đêm, sao không về ?

– Tôi có việc phải ở Hà-Nội vài ngày…

– Ừ hử ! Vậy chứ chú em làm nghề ǵ?

– Buôn bán làng nhàng, theo tầu, ngược Bắc, xuôi Nam…

– Có thường ghé Sàig̣n không?

– Chuyến nào mà chẳng ghé…

– Ba, bốn năm nay anh không ghé Sàig̣n, bây giờ chắc đông, vui lắm nhỉ ?

– Vâng, đông lắm, vui lắm…vậy chứ bác đă ở Sàig̣n hở ? Bác làm ǵ trong đó?

– Tớ dậy học. Tớ dậy Đại-Học Khoa-Học…

– Ủa! Vậy ra bác là giáo sư…

– Tớ dậy đại học từ bẩy nhăm (1975) tới tám nhăm (1985). Tám nhăm th́ tớ về “hiu”…

– Tám nhăm, bác c̣n trẻ, sao về hưu sớm thế?

– Về vườn th́ đúng hơn. Mới giải phóng, chúng nó cần ḿnh. Sau…chúng nó thải ḿnh, cho họ hàng, bà con, anh em, con cái chúng nó thay ḿnh, kiếm ăn…

– Bác dạy môn ǵ trong thời gian đó ? Chắc bác có bằng cao học, hay tiến sĩ ?

– Bằng cấp con khỉ mốc! Tớ đang học lớp ba, chưa thi Sơ-Học Yếu-Lược (thời Tây) th́ xảy ra cách mạng. Ba mươi năm theo Đảng, vốn liếng của tớ chỉ có mớ lư thuyết Cộng-Sản thuộc nằm ḷng.

Giải phóng Miền Nam xong, Đảng ủy yêu cầu tớ dậy Lư Thuyết Đảng cho học sinh đại học. Lúc đầu tớ cũng khớp, không dám nhận. Sau đó tớ đánh liều.

Mà quả thật, có ai biết ḿnh là thằng dốt đâu ? Mười năm, nhờ ơn Đảng, tiếng nói của một thằng i tờ rít như tớ tự nhiên có trọng lượng…học sinh nghe theo răm rắp…

Cân khám sức khỏe ở miền Bắc năm 1980.


https://anhxua.net/photo/1079699908742180.jpg

https://anhxua.net/album/mien-bac-thoi-ky-bao-cap-1975-1987_174.html


– Rồi sau đó…

– Rồi sau đó ư ? Tụi nhỏ du học Liên-Xô, Tiệp-Khắc trở về. Chúng nó thay chân những tên i tờ như tớ… tớ về “hiu”, xin được căn hộ này để ở. Già rồi, không ai thèm thuê mướn, tớ đành kiếm khách lỡ độ đường, cho họ trọ qua đêm, kiếm cơm…

– Chắc cuộc sống của bác cũng khấm khá ?

– Bữa no, bù bữa đói. Mưa thuận gió ḥa th́ có đồng ra, đồng vào. Giông băo vài ngày, không có khách, là meo mỏ rồi. Sung sướng ǵ đâu em ơi !

Tôi trải cái bản đồ thành phố Hà-Nội trên sạp, ḍ t́m con phố Hàng Bài. Cô khách trọ cùng pḥng ṭ ṃ rướn cổ sang theo dơi,

– T́m cái ǵ đấy hở ?…

– Phố Hàng Bài…

– Hơi xa đấy nhá! Cứ gọi xích lô là đến ngay! T́m làm ǵ cho mệt xác!

Ông chủ nhà nằm ngửa, mắt lim dim nh́n trần nhà, miệng cười h́ h́,

– Chú em đi buôn đường Sàig̣n, Hà-Nội mà không biết phố Hàng Bài ở đâu th́ có ngày lớ ngớ đem hàng nộp cho dinh Thủ-Tướng…

Tôi đành nhỏ giọng, thú thật :

– Tôi là sĩ quan của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa, cựu tù cải tạo. Tôi ra Hà-Nội để nộp đơn đi Mỹ…

– Tôi cũng đă nghi như thế, khi nghe giọng nói của chú em không c̣n thuần túy Hải-Dương. Chỉ v́ tôi cũng là dân Hải-Dương. Trước chú, đă có đôi người của chế độ Sàig̣n cũ ghé đây, ngủ trọ, nộp đơn, chờ ngày ra đi. Mỹ quốc là thiên đường cho những người sa cơ, lỡ vận. Đời chú như thế là may mắn lắm rồi…


https://i.postimg.cc/6qgGM8Y2/27544834-849615748551671-6811605858801323533-n.jpg


Ông giáo sư đại học về hưu thở dài ...

– Con đường của chú đi, thấy sai mà đúng. Con đường của chúng tôi đi, thấy đúng lại sai…


Hà Nội ( 1974 ) & Sài G̣n ( 1969 )


Y5dgcjIcnPw


Đêm xuống đă lâu, phố phường bớt người qua lại, nhưng trên đài phát thanh Hà-Nội, Tô Lan Phương c̣n đang biểu diễn bài “Cô Gái Vót Chông”. Giọng cô Ca-Sĩ Nhân-Dân cao vút, nhọn hoắt như những ngọn chông tre.

Những ngọn chông tre thời chống Mỹ, từ trên cột đèn và cổng nhà ga, theo nhau tới tấp lao vào màng nhĩ khách bộ hành. Ông chủ nhà thắp ngọn đèn dầu đặt trên nóc tủ. Ông tắt điện, căn pḥng chợt tối. Cánh cửa gỗ khép lại, cài then. Gỗ cửa khá dày, những ngọn chông Tô Lan Phương bị chặn lại ngoài hiên.


Sau mấy ngày ngồi gật gù trên xe lửa, tôi thấy cái sạp gỗ của nhà trọ êm ái quá. Tôi nằm duỗi thẳng cẳng để cảm thấy xương cốt ḿnh như đang mềm đi, đang giăn ra. Từ giường bên kia, giọng cô gái trẻ bắt đầu,

“Anh ở đầu sông, em cuối sông…”

Giọng cô ta không cao vút, không nhọn hoắt, nhưng tôi chỉ nghe được câu đầu của bài ca, hai mi mắt tôi đă sụp xuống rồi. Một đêm qua êm đềm, không mộng mị.


ZruiLH8Wd2I


Mười giờ sáng hôm sau, tôi rời phố Hàng Bài khi vừa hoàn tất việc nộp hồ sơ xin xuất cảnh. Một ngày rảnh rỗi, tôi lang thang trên ba mươi sáu phố phường Hà-Nội.

Ở đây chỉ có những con đường nhỏ hẹp như đường phố cổ Hội-An trong Nam. Tiếng chuông xe điện “leng keng!…leng keng!…” làm cho thành phố này già nua thêm.

Mặt trời đứng bóng, nắng hanh, tôi tạt về hướng hồ Hoàn-Kiếm. Xung quanh một gốc si cổ thụ, khách quây quần bên những gánh quà vặt, chè, thạch, óc đậu, kem quay, bánh tôm, bún chả, cháo ḷng, thịt ḅ khô, khoai ngô nướng, nước chè tươi …

– Chè đỗ đen đi chú em…

- Cho tôi một bát.

Bà bán hàng đang múc chè vào bát, chợt ngừng tay, reo lên :

– Ông đại tá tới rồi, chè đỗ đen nhá ?

Tôi giựt ḿnh .

“ Chẳng lẽ bà này quen ḿnh, gọi đùa ḿnh là đại tá ?”

Nhưng tôi lầm, bà bán chè vừa nói với một phu xích lô mới ngừng bên lề. Trả lời bà, một giọng đàn ông oang oang :

– Bát to đấy nhá ! Để lấy sức cuốc một ngày.

– Vâng, bát to. Mỗi ngày một bát chè to cho ông đại tá Điện-Biên, Tây-Nguyên lấy sức “đánh”…xích lô.

Ông phu xích lô ghé đít xuống chiếc ghế con, chiếc ghế quá nhỏ, so với cái mông đồ sộ của ông. Đưa tay quẹt mồ hôi trên trán, người phu xe già than thở,

– Hôm nay ế ẩm, từ sáng tới giờ chưa được cuốc nào. Chán bỏ xừ…

– Đại tá mua gạo tháng này chưa ? Dạo này tem phiếu giá chui cao quá…

– Nhà này ăn đong từng ngày. Tiền đâu mà mua tem, mua phiếu…Mẹ kiếp ! Hồi xưa đánh Tây đánh Mỹ, nó cần ḿnh. Bây giờ ḥa b́nh, nó duỗi ḿnh ra, nó ăn cả, đồ chó má !

Thấy tôi trố mắt theo dơi câu chuyện đổi trao giữa hai người, bà bán chè giải thích :

– Ông đại tá một đời theo Đảng. Anh hùng Điện-Biên, Tây-Nguyên đấy! Đáng nhẽ ra, những người có công với tổ quốc, với cách mạng như ông phải được chiếu cố đặc biệt mới đúng.

Ai đời ! Anh hùng quân đội nhân dân mà sáu chục tuổi đầu c̣n phải đi đạp xích lô để kiếm sống th́ quả là tội nghiệp quá !

Người phu xe già thở dài

– Chúng nó vắt chanh bỏ vỏ. Lớp chúng tớ hết thời rồi. Bây giờ, thân tớ ví như…một v́ sao rụng.

Tôi giật ḿnh, bốn tiếng “một v́ sao rụng” h́nh như tôi đă nghe một lần ở đâu đó, lâu rồi…


Tôi vừa nhướng mắt quan sát, vừa moi trí nhớ, xem ông già này có nét ǵ quen không, th́ bên bờ hồ có tiếng gọi :

– Xích lô! Xích lô !

Người phu xe chống hai tay lên đùi lấy đà, nhổm dậy thật nhanh :

– Mai tôi giả tiền nhớ ! Có khách, không lẹ cẳng, thằng khác nẫng tay trên…

– Được mà! Khách quen, mai giả cũng được mà…

Tôi đang tính bắt chuyện với ông đại tá th́ ông đă nhanh chân đẩy xe sang bên kia đường rước khách.


Tiếc rằng cuộc hội ngộ mười lăm năm trước (tháng 5 năm 1975) quá ngắn ngủi, tôi không nhớ rơ nét mặt của người khách lạ đă tới căn lầu đúc trong hẻm TK9, phường Nguyễn Cảnh Chân, Quận 2 thăm tôi, một tuần lễ sau ngày Sàig̣n thất thủ.


Tôi cố ôn chuyện cũ trong óc, gợi lại h́nh dáng năm xưa của ông thượng tá. Ông thượng tá Điện-Biên, anh hùng Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam có đôi vai ngang, người phu xe già… cũng có đôi vai ngang.

Thêm vào đó, thân h́nh người phu xe già cũng vạm vỡ, cao lớn, tiếng nói cũng oang oang, lơ lớ như ông thượng tá con quan Lang xứ Cao-Bằng.


Khi chiếc xích lô lẫn trong ḍng xe nườm nượp giữa thủ đô, tôi cũng đứng dậy tiếp tục lang thang quanh bờ hồ.

Suốt ngày hôm ấy, trong óc tôi cứ lởn vởn h́nh ảnh người phu xe già, với câu than thở :

“ Bây giờ, thân tớ ví như…một v́ sao rụng ”


v2f_f5FZjy8


Đêm thứ nh́, cũng là đêm cuối cùng trên đất Thăng-Long, tôi đứng bên này đường, trong ánh điện mờ.

Bên kia đường là ga Hàng-Cỏ. Nơi này, bố tôi đă đưa tiễn mẹ con tôi lên tàu hỏa xuôi Hải-Dương, ngày tôi tṛn bốn tuổi.

Hôm ấy (1946) bố tôi bế tôi trên tay, tôi bập bẹ bài hát trẻ con đương thời hay hát, “Ai yêu Bác…hơn chúng em…”

Bố bịt mồm tôi lại :

–Con ơi! Đừng hát bài này, bài hát không hay…Con hăy hứa với Bố, con sẽ không hát bài này nữa nhá!

Mẹ tôi gạt nước mắt, bế tôi lên tàu. Đứng bên đường, cạnh chiếc xe đạp, bố vẫy tay.

Bố con tôi, từ đó, cho tới suốt đời tôi, không c̣n gặp nhau nữa. V́ hai năm sau, bố tôi đă bị giết. Những người mê say “bài hát không hay” đă giết bố tôi…

Mới đó, mà hơn bốn mươi năm qua! Đêm nay, trước ga Hàng-Cỏ, đứng bên cái cột đèn, nơi ngày xưa bố tôi đă đứng vẫy tay, tôi gọi thầm trong nước mắt,

“Bố ơi ! Bố ơi !…Con nhớ Bố! Con thương Bố ! Bố ơi !…”

Năm giờ sáng hôm sau tôi phải vào ga để lên tàu về lại Sàig̣n. Ông chủ nhà dậy sớm khui gói chè móc câu Thái-Nguyên pha tiễn khách. Tôi bắt tay, nói lời cám ơn người chủ nhà trọ, rồi bước ra đường.

Sáng mùa Thu Hà-Nội, buồn hắt hiu. Heo may nhè nhẹ. Điện đường lập ḷe. Quán hàng c̣n đóng cửa. Vài chiếc xích lô vội vàng đưa khách vào ga. C̣i tàu rúc từng hồi. Loa phóng thanh trên cột đèn và trên cổng ga c̣n im tiếng, v́ chưa tới giờ phát đi những “bài hát không hay”.

Đứng trên sân ga Hàng-Cỏ, ḷng tôi man mác bâng khuâng. Vừng dương đang lên. Sao Mai mờ dần. Chân trời hừng đông mầu tím nhạt. Có đôi v́ sao đang rơi trong không trung mờ ảo mênh mông…


https://www.spaceanswers.com/wp-content/uploads/2015/08/Perseid_meteor_-_13_Aug._2013-616x462.jpg


Vương Mộng Long

hoathienly19
10-10-2020, 07:06
RA ĐI KHÔNG HẸN NGÀY VỀ

TRẦN VĂN THÂN - NGƯỜI BIỆT KÍCH DÙ BẤT TỬ


Trực thăng đang bốc các biệt kích triệt xuất.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1571099638-bk4.jpg


1974 - 1975 - Những ngày cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam trở nên khốc liệt hơn bao giờ hết.

Lợi dụng đường ṃn hcm đă bị bỏ ngơ và những điều khoản bất công phi lư trong bản hiệp định ngưng bắn 1973 do Hoa Kỳ và bọn cs bắc việt xâm lược sáng tạo, nên bọn cs bắc việt đă vơ vét cả những thanh thiếu niên và di chuyển gần hết các sư đoàn chủ lực của chúng vào Miền Nam, uy hiếp các tỉnh địa đầu giới tuyến thuộc Quân Đoàn 1, đồng thời bao vây Cao Nguyên Trung Phần, thuộc lănh thổ Vùng II Chiến thuật.


Ư đồ của bọn cộng phỉ là tấn công cưỡng chiếm cho được VNCH theo lệnh các quan thầy của chúng là bọn tàu cộng và liên sô, ngay sau khi quân đội Hoa Kỳ và Đồng Minh đă rút hết về nước, phủi tay trước những cam kết của nhiều đời Tổng Thống Mỹ, đă kư hứa giúp đỡ Miền Nam VN, chống lại cuộc xâm lăng của bè lũ cộng sản đệ tam quốc tế,do bọn cs bắc việt độc quyền làm tay sai, lính đánh thuê, đảm nhận suốt cuộc chiến tương tàn, sau khi chia hai VN vào tháng 7-1954.


https://imagizer.imageshack. com/v2/640x354q90/r/924/mJTue2.jpg


Trước t́nh h́nh nguy ngập của đất nước, gần như tính bằng ngày. Thế nhưng QLVNCH vẫn không bỏ cuộc và dù biết đang phải chiến đấu trong cô đơn đầy thiếu thốn, mà mạng sống của người lính ngoài chiến trường, th́ mỏng manh hơn bao giờ hết.

Vậy mà chẳng ai nghĩ tới chuyện đào ngũ, bỏ trốn ra ngoại quốc, cho dù người Mỹ đă cố t́nh tiết lộ việc di tản cho một số quan chức có quyền hành tại Sài G̣n. :)


Cao cả và đáng kính trọng khâm phục nhất, cũng vẫn là những Người Lính thuộc Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB), trong đó bao gồm Các Toán Công Tác Xâm Nhập thuộc các Đoàn Công Tác và các Đoàn Liên Lạc của Nha Kỹ Thuật/ Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH, vẫn tiếp tục tiến hành công tác xâm nhập vào những mục tiêu nguy hiểm nhất, chẳng khác nào nhiệm vụ ám sát Toàn Quyền Pháp là Merlin, của Liệt Sĩ Phạm Hồng Thái tại Hồng Kông vào năm 1924.


G8pwacIF-8E


Có thể nói được, đây là cuộc đổi mạng của những Người Lính cảm tử LLĐB giữa chốn ba quân, để mang về cho QLVNCH, những tin tức t́nh báo chiến lược, được cập nhật hóa tại chỗ đóng quân của giặc.

Nhờ đó, mọi cấp chỉ huy tại các vùng chiến thuật, mới nắm vững được t́nh h́nh và hoạt động của địch, để ta điều nghiên ứng phó.


Đoàn Công Tác 75 trách nhiệm Vùng II Chiến thuật, với những nhiệm vụ đặc biệt kể trên.

Quân số của Đoàn, có 9 Toán Thám Sát, mỗi toán gồm :

- Một Sĩ Quan Trưởng Toán

- Năm Hạ Sĩ Quan Chuyên Viên và các toán viện công tác.

Quân số này tuỳ theo nhiệm vụ giao phó, nên số Nhân Viên Công Tác, tăng hay giảm với nhu cầu.

Ít ai biết tới những sự hy sinh cao cả nhưng âm thầm của những Người Lính LLĐB trên, chỉ riêng những ngày đen tối 1974-1975, đă có tới bảy trong chín Sĩ Quan Trưởng Toán, đă hy sinh tại chiến trường máu lửa, trong chốn ba quân, phần lớn bị banh thây bầm xác v́ bom đạn.

Số khác mất tích, bởi không một ai chịu đầu hàng để mà sống nhục.

Chết th́ chết, những Toán c̣n lại vẫn tiếp tục bổ xung và tiến hành những công tác hiểm nguy cho đến những giây phút cuối cùng, phải ră ngũ v́ lệnh buông súng, do Dương Văn Minh ban hành vào trưa 30-4-1975.


https://baovecovang2012.file s.wordpress.com/2017/05/post-2472-1238648564.jpg


CỐ TRUNG ÚY TRẦN VĂN THÂN


Ông sinh năm 1942 tại Phú Trinh Phan Thiết,Tỉnh B́nh Thuận, cựu học sinh Trung Học Tư Thục Bạch Vân và Bồ Đề.

Nhập ngũ tháng 10-1962, cùng với Đặng Ken, Cao Minh, Nguyễn văn Nghĩa, Nguyễn Văn Đại, Trần Khói Hương.

Các bạn Minh, Đại, Nghĩa cùng Thân kẻ trước, người sau đền nợ nước, Trần Khói Hương chết sau khi ra tù CS, chỉ c̣n Đặng Ken trước là cận vệ của Tướng Đặng Văn Quảng Tư Lệnh LLĐB sống già nơi quê hương Phan Thiết.

Thân ra trường tháng 3-1963 và về Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt, năm đó trú đóng tại Nha Trang.

Ông cũng là vơ sư cao cấp của Thái Cực Quyền, v́ vậy được chọn về Đơn Vị Quân Cảnh của Bộ Tư Lệnh LLĐB.


Sau Tết Mậu Thân 1968, Trần Văn Thân là Trưởng Toán Thám Sát thuộc Đoàn Công Tác 75, có nhiệm vụ xâm nhập vào các vị trí đóng quân của các đại đơn vị cs bắc việt, để thu nhặt cập nhật hóa tin tức t́nh báo chiến lược.

Theo tin tức của những đồng đội hiện c̣n sống sót tại hải ngoại cho biết Thiếu Uư Trần Văn Thân, đă bị mất tích vào mùa hè 1974 v́ bị giặc săn đuổi, Ông đă bơi qua một con sông nước chảy siết nên chết mất xác.


Những giây phút thảm tuyệt này, đă được một nhân viên mang máy may mắn được sống sót kể lại.

Vậy mà từ ấy cho đến nay những người thân trong gia đ́nh, thảm nhất là mẹ Ông là Bà Ngô Thị Dân ở Phan Thiết, cùng với người vợ trẻ tên Nguyễn Thị Liễu với ba con thơ dại tại Sài G̣n, lúc nào cũng ngong ngóng hy vọng là con và chồng-cha ḿnh, vẫn c̣n sống trong các trại tù đâu đó, rồi cũng sẽ trở về như nhiều bạn bè của Thân cùng đơn vị và quê Phan Thiết.

Cứ chờ măi đến nỗi mẹ già khóc mù cả hai mắt rồi gục chết vào năm 2000, nhưng vẫn không ngớt gọi tên đứa con thân yêu của ḿnh .:112:

Riêng người vợ trẻ thay chồng nuôi con, ở vậy cho tới khi tất cả khôn lớn vào đời, c̣n ḿnh th́ cứ ôm ấp h́nh bóng của người chồng cũ, vẫn sống trong những di ảnh thân thương nguyên vẹn, mà chàng th́ biền biệt tận phương nào ? :112:


https://i.postimg.cc/Rh7StrKr/45713815-336847753792735-7367163673481052160-o.jpg


CHUYẾN CÔNG TÁC CUỐI CÙNG CỦA TRUNG ÚY TRẦN VĂN THÂN :


Thi hành công tác được Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II giao phó, với nhiệm vụ thâu thập tin tức về các hoạt động của địch quân đang hiện diện trong lănh thổ, thuộc Vùng chiến thuật.

Toán Thám Sát do Thiếu Uư Trần Văn Thân làm Trưởng toán, nhận lệnh thi hành công tác bí mật tại Đèo An Khê, nằm trên Quốc Lộ 19, giữa đường từ B́nh Khê đi An Túc, thuộc tỉnh B́nh Định.

Lúc đó, vùng này, coi như một chiến trường đẵm máu, giữa sư đoàn 3 sao vàng của bọn cộng phỉ xâm lược và Sư Đoàn 22 Bộ Binh của QLVNCH.


Địch quân hiện diện cả một vùng rộng lớn trong lănh thổ các Quận B́nh Khê, An Túc, Hoài Ân, An Lăo ... mà dấu hiệu để lại tại chỗ, là việc bọn cán binh thổ phỉ đào xới cướp sạch lán những nương khoai, rẫy ḿ của đồng bào Bà Na trong vùng, để làm lương thực nuôi lũ quân đánh thuê, tay sai tàu cộng của bọn chúng.


https://imagizer.imageshack. com/v2/624x462q90/r/924/tsDiBI.jpg


Theo tin tức ghi nhận, th́ Toán Thám Sát của Thiếu Uư Thân đă chạm địch từ những giây phút đầu, v́ lọt vào bộ tư lệnh của sđ 3 sao vàng, bên cạnh có đến cả một trung đoàn bảo vệ.

Tuy vậy, họ đă chống trả mănh liệt trước quân số hàng ngàn của lũ cộng phỉ; thêm vào đó, chúng c̣n có cả trời pḥng không của Nga Sô và Trung Cộng viện trợ, trong lúc Toán Thám Sát của Thân, vỏn vẹn chỉ có sáu người.



https://i.postimg.cc/4xWHMt5V/47483933-768816910121038-662985230713356288-o.jpg


Nhưng cuộc đời của Người Lính VNCH là vậy đó, nhất là những người lính cảm tử Lực Lượng Đặc Biệt. Bởi vậy, các cấp chỉ huy liên hệ, chỉ c̣n biết nghe Đồng Đội của ḿnh, qua tiếng báo cáo với đại bàng, là đơn vị đang chạm địch nặng, cùng lúc với tiếng súng lớn nhỏ và lựu đạn nổ, xen lẫn tiếng hô xung phong, vang lên từng đợt trong ống liên hợp.


Cùng ḥa tấu trong điệu ru nước mắt này, là tiếng đạn pḥng không nổ tung tại một vùng xa xôi nào đó, nhưng âm hưởng truyền qua máy, cũng đủ làm rách tai người hiệu thính viên đang trực.

:112:Cuối cùng là tiếng thét của Thiếu Uư Trưởng toán Trần Văn Thân "Zulu - Zulu" Âm thanh càng lúc càng nhỏ dần và tan biến vào trận địa, lúc đó vẫn c̣n vang tiếng súng ở một góc trời.


Vậy mà nhiều năm sau, dường như tiếng thét cuối cùng của người Lính Trận :

Cố Trung Uư LLĐB Trần Văn Thân, vẫn c̣n vang vọng đâu đây, bảo sao những người thân của Ông, cứ vẫn tin là Con, Chồng và Ba của ḿnh c̣n sống, nay đang ở nơi nào đó, mai sẽ về ...!

https://imagizer.imageshack. com/v2/300x240q90/r/923/fMrvKT.jpg


Sau khi nhận được tin dữ về Toán Thám Sát của Thiếu Uư Thân, Nha Kỹ Thuật đă phối hợp với Không Quân, hằng ngày tiếp tục lên vùng t́m kiếm dấu vết của những người sống sót đang ẩn nấp trong rừng sâu, từ ánh sáng của kiếng chiếu rọi lên, hoặc Panô (Panel), hay hỏa châu cấp cứu, cũng như bất cứ tín hiệu truyền tin nào, của Toán thất lạc nhưng tất cả đă ra đi không hẹn ngày về.

Đại Uư Nguyễn Hùng Trâm (hiện ở Mỹ), Liên Toán Trưởng thuộc Đoàn Công Tác 75, vô cùng cảm xúc khi đọc bài viết về Cố Trung Uư Trần Văn Thân, v́ chính Ông là người đă bay thả Toán Thám Sát của Trần Văn Thân tại đèo An Khê, tỉnh B́nh Định.

Đây là thời gian nguy ngập nhất của chiến trường này, nên chỉ vỏn vẹn một tháng ngắn ngủi, mà Đoàn Công Tác 75 đă mất 3 Toán Thám Sát LLĐB trong khu vực này.



https://scontent-yyz1-1.xx.fbcdn.net/v/t1.0-9/19732362_13924861641 33649_36293526315206 69280_n.jpg?_nc_cat= 103&_nc_sid=110474&_nc_ohc=e5_CzIoVZ5QA X9JZ-im&_nc_ht=scontent-yyz1-1.xx&oh=6d7c36b79c6c89543 57af80f43e30e23&oe=5FA6E4CF


Theo báo cáo, th́ Toán của Thân đụng độ với một trung đoàn địch thuộc sư đoàn 3 sao vàng, ngay khi vừa nhảy xuống, với nhiệm vụ chặn bắt một tên bác sĩ vc ở đầu đường ṃn.


Tên này sau đó cũng bị Toán Thám Sát của Trung Đoàn 45 thuộc Sư Đoàn 23 Bộ Binh QLVNCH, chận ở phía cuối đường đă bắt được, giải giao cho Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Pḥng 2 Quân Khu và được trực thăng chở về Pleiku khai thác thông tin.

C̣n sống sót trong 7 Toán Thám Sát thuộc Đoàn 75 bị thất lạc, là Thiếu Uư Vũ Văn Quyền cũng xác nhận là Thiếu Uư Trần văn Thân đă mất tích vào năm 1974.


https://imagizer.imageshack. com/v2/320x200q90/r/922/eBuQ5b.jpg


Xin nghiêng ḿnh tri ân những người đă hiến thân cho dất nước và dân tộc Việt Nam.

Thảm thương ơi cho Thân Phận Người Lính VNCH, một đời V́ Nước - V́ Dân, màu cờ sắc áo, bảo vệ cho Miền Nam Việt Nam, thế nhưng nay có c̣n được bao nhiêu người nhớ tới.


(Sài G̣n trong tôi/ Phạm Hoa)

hoanglan22
10-10-2020, 18:44
NGƯỜI HÙNG PHI CÔNG - TRƯỞNG PHI CƠ TRANG VĂN THÀNH VÀ BẢY DŨNG SĨ KHÔNG QUÂN
Phi công, Trưởng phi cơ, Trung úy Trang Văn Thành sinh ngày 16/9/1947 tại Rạch Gía, t́nh Kiên Giang. Mồ côi cha năm lên 9 tuổi. Cha của Thành là ông Trang văn Cánh, một nhân viên làm việc cho chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa. Tàu “bobo”của ông đă bị Việt cộng phục kích và tấn công. Ông Cảnh bị trọng thương rơi xuống sông, ông cố bơi vào bờ nhưng đă qua đời v́ vết thương trầm trọng.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1668385&stc=1&d=1602355281

Cậu bé mồ côi cha Trang Văn Thành được mẹ gửi vào trường để theo học Thiếu Sinh Quân ở Vũng Tàu, Việt Nam. Trường luyện thép Thiếu Sinh Quân này đă trui luyện một Trang Văn Thành dũng cảm trong chiến tranh, có tinh thần chống cộng cao độ, quyết chiến đấu và đă tử trận cùng phi hành đoàn dũng cảm AC119K của ông, trong ngày Sàig̣n thất thủ 29 tháng Tư năm 1975.

Trang Văn Thành gia nhập quân chủng Không quân Việt Nam Cộng Ḥa năm 1968, ngành phi công. Ông du học Hoa Kỳ năm 1969 và trở về Việt Nam giữa năm 1970. Ông đă phục vụ cho phi hành Xích Long 413, vận tải cơ C119, loại phi cơ chuyên chở hành khách và hàng hóa với tư cách hoa tiêu phụ. Một năm sau, ông được thụ huấn hoa tiêu chánh và rổi trở thành Trưởng phi cơ AC119K của phi hành đoàn Vận tải cơ Chiến đấu Tân lập Tỉnh Long 821. Sau khi phi đoàn Vận tải chuyên chở hành khách, Xích Long 413 giải tán vào cuối năm 1971.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1668386&stc=1&d=1602355281

Trung Úy Trang Văn Thành trong thời gian bay huấn luyện C-119 tại Hoa Kỳ

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1668387&stc=1&d=1602355281
Trung úy Trang Văn Thành trong ngày nhận đôi cánh bay

Trung úy Thành đă chọn vận tải cơ tác chiến cho sự nghiệp quân đội của ông. Trong khi đó Trang Văn Thành có nhiều cơ hội và khả năng để về phục vụ trên một loại vận tải cơ không chiến đấu. Lúc đó, Trang Văn Thành đă kết hôn với chị Vơ Thị Ḥa là cháu gái của Thiếu Tướng Vơ Xuân Lành, Tư Lệnh Phó Không Quân, nhân vật đứng hàng thứ hai của Không Lực Việt Nam Cộng Ḥa. “Đường chú chú đi, đường cháu cháu đi”. Thành đă không nhờ vả người chú vợ đầy quyền lực. Ông đă hiên ngang chọn lựa con đường chiến đấu trực tiếp trên chiến trường, để c̣n có cơ hội bảo vệ đất nước và “thù cha phải trả”.

TRẬN CHIẾN CHƯA TÀN
Sau hai tiếng đồng hồ chịu đựng trận mưa pháo long trời lỡ đất do Cộng sản Việt Nam dội vào phi trường Tân Sơn Nhất. Khơi dậy cơn phẫn nộ của dũng sĩ Trang Văn Thành, con người không khuất phục định mệnh, không khoanh tay chờ địch đập pháo sát hại, không ngồi yên đợi kẻ thù tràn đến tàn sát “C̣n nhân viên, c̣n phi cơ, c̣n súng đạn, phải c̣n chiến đấu”. Thành đă phân tích, so sánh và quyết định: Chết v́ bị đạn pháo kích của địch ở phi trường hoặc chết v́ đạn pḥng không của giặc trên không trung cùng ư nghĩa của sự chết. Nhưng chiến đấu để chết là cái chết oanh liệt, vô cùng ư nghĩa của một quân nhân gan dạ có tránh nhiêm bảo vệ quê hương, v́ dân, v́ nước, v́ sự an nguy của ngừoi thân, bằng hữu và bá tánh.

“Thù cha phải trả”giấc mơ bao năm trời, ông đă thức trắng thâu đêm bay tên toàn cơi quê hương, trên không phận đường ṃn Hồ Chí Minh, để săn đuổi và diệt địch. Giờ đây, giặc đă t́m đến nhà. Tại sao lại phải cuối đầu rút cổ chờ chết trong bốn bức tường phi đoàn nhục nhă này? Trang Văn Thành đă quyết định phải bay lên không, chiến đấu và diệt địch trước khi ông gục ngă v́ kẻ thù.

Trang Văn Thành mạnh dạn đứng lên, dơng dạc kêu gọi đồng đội, tự điều động phi hành đoàn dự bị của ông để bay lên không quyết tử chiến. Dù thời điểm đó, Bộ Tư Lệnh Không Quân, Bộ Tổng Tham Mưu, Bộ Quốc Pḥng và Chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa đă tê liệt và đang trên đà tan ră.

Trong đám đông của hơn 40 nhân viên phi hành hiện diện tại phi đoàn Tỉnh Long 821, AC119K. Người ta đă nh́n ông trong sự ngạc nhiên, thương hại với ư nghĩ thầm lặng “Thằng điên”. Khi cuộc chiến VN đă hoàn toàn kết thúc và thua cuộc, ai ai cũng đang t́m đường bôn tẩu, kiếm cách đưa vợ con và thân nhân ra khỏi nước Việt Nam, để tránh một cuộc trả thù và tàn sát của Việt cộng.

Trong ư chí của Thành hoàn toàn trái ngược, với ông trận chiến vẫn chưa tàn và cuộc chơi chiến tranh chỉ mới bắt đầu. Ư nghĩ trả thù cho thân phụ đang bùng cháy mănh liệt trong tâm tư người sĩ quan mang mối thù cha cao ngất. Cuồn cuộn dâng lên theo những tiếng nổ xé nát không gian của kẻ thù.

Sự im lặng của mọi người vỡ tan. Trung sĩ Nhất Phan Quốc Tuấn, người kỹ sư phi hành dũng cảm, tự cảm thấy ḿnh phải có trách nhiệm thi hành phi vụ để bảo vệ thủ đô. Là một nhân viên phụ tá ngành Kỹ sư Phi hành, nghề nghiệp vững, nhiều tâm huyết phục vụ cho đất nước, đă năm năm chia xẻ những ngọt bùi và gian nguy cùng viên phi công Trang Văn Thành. Há, không sờn gian nguy! Tuy Quốc Tuấn không nằm trong danh sách phi hành đoàn dự bị của Trung úy Thành. Đồng ư nghĩ cứu nước, đáp lời kêu gọi của Thành, Tuấn bước ra khỏi đám đông, trước sự ngơ ngác của mọi người, Quốc Tuấn đă có hàng trăm phi vụ bay đêm với Trung úy Thành, người mà Tuấn vô cùng ngưỡng mộ, quư mến trong t́nh đồng đội, do tư cách của Trang Văn Thành đă đối xử tốt đẹp với anh em. Người làm việc rất “hợp rơ” với Tuấn.

Tiếng x́ xào vang lên trong phi đoàn. Lần lượt sĩ quan phi công Trung úy Trần Văn Hiền, Sĩ quan Điều hành viên, Sĩ quan Hồng ngoại tuyến, một Hạ sĩ quan Hỏa châu, Trung sĩ Chín và Hạ sĩ quan Vũ khí Phi hành dũng cảm khác, lặng lẽ đứng lên tỉến về phía Trang Văn Thành, theo tiếng gọi của non sông. Họ cùng hỗ trợ Trang Văn Thành đứng lên diệt giặc, sống và chết có nhau trong những giây phút tử sinh cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam. Họ đă thành lập một phi hành đoàn bất thường, đoàn kết và gan dạ. Một phi hành đoàn thực sự có tinh thần chiến đấu duy nhất c̣n sót lại của Không Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Họ đă chiến đấu thế cô, không có phi cơ đồng đội phụ trợ, không cần phi vụ lệnh, không được lệnh của cấp trên, từ Bộ Tư Lệnh Không Quân, Bộ Tổng Tham Mưu, Bộ Quốc Pḥng hay lệnh của Tổng Thống VNCH. Tất cả đều đă ră ngũ và đă bôn tẩu. Họ đă thi hành công tác theo mệnh lệnh lương tâm của một quân nhân có trách nhiệm.

Gương mặt đầy phẫn nộ cho vận nước đảo điên của Trung úy Trang Văn Thành thể hiện lần cuối cùng tại cửa phi đoàn Tỉnh Long 821, trước khi họ lên đường chiến đấu và diệt địch, Thành buồn bă tuyên bố lời cuối cùng với viên sĩ quan này, gạn hỏi ư kiến:
- Trung úy có cần tôi ghi tên phi hành đoàn của Trung úy vào sổ trực hành quân và báo cáo lên Không đoàn không Trung úy?

- Ứ! Vô ích. Sổ trực hành quân phi đoàn tôi đă xé rồi, cơ quan đầu năo c̣n nữa đâu mà báo cáo cho mất công chứ. Giờ đây, chúng tôi tự nguyện chiến đấu cho đất nước v́ trách nhiệm của một quân nhân, mà không cần đến lệnh của cấp trên. Không làm phiền Thiếu úy đâu. Chúng tôi phải gấp rút lên đường thôi!

NHỮNG GIỜ TỬ CHIẾN CUỐI CÙNG
Chiếc phi cơ AC119K của Trung úy Trang Văn Thành gầm thét náo động phi trường Tân Sơn Nhất. Mang một chút sinh lực phấn khởi đến cho những tâm hồn đang bấn loạn với thể xác đă ră rời v́ trận mưa pháo kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ vừa qua và c̣n đang tiếp diễn ác liệt. Sức nổ và sự tàn phá khủng khiếp, chẳng những nó hủy hoại vật chất, cả tinh thần và hồn phách của những chiến sĩ Không Quân đang hiện diện trong ḷng trận chiến cũng tan biến.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1668388&stc=1&d=1602355281

Ḥa lẫn tiếng động cơ là những loạt đạn pháo kích dữ dội của Cộng sản VN rơi vào sân bay Tân Sơn Nhất. Một bầu không khí hăi hùng của chiến tranh, Cộng sản Bắc việt đă có công triệt hạ Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa, cho mục tiêu chiến thắng cuối cùng để đoạt lấy chính quyền từ tay của chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa. Hầu áp đặt một chế độ độc tài gian tham tại Miền Nam VN.

Phi cơ của Trung úy Thành rời khỏi phi đạo, rẽ mũi bay về bên trái, hướng Tây của Thủ đô Sàig̣n. Tránh né đạn pḥng không dầy đặc ở phía Đông Bắc phi trường Tân Sơn Nhất. Ông nhanh nhẹn cho phi cơ bay lên cao độ, làm các ṿng chờ ở phía Tây Thủ đô yên tĩnh, hầu quan sát t́nh h́nh chiến sự. Vừa mới bay lên không ông cần nhiều thời gian để quan sát, theo dơi và chọn lựa các mục tiêu trước khi ra tay sát thủ.

Sau khi phi cơ cất cánh, trong hai tiếng đồng hồ vắng bặt âm thanh của máy bay, người ta cứ ngỡ đó là chiếc vận tải cơ chiến đấu AC119K hèn nhát, đă cất cánh bay đi và đă di tản khỏi nước Việt Nam.

Mất gần hai tiếng đồng hồ bay lượn trên bầu trời Đồng Tháp Mười ven đô, phía Tây của thành phố Sàig̣n chờ trời sáng, đồng thời quan sát kỹ lưỡng các mục tiêu. Rồi con “Hắc đại bàng dũng mănh” lại gầm thét ồn ào, lù lù xuất hiện trở lại trên bầu trời trong sáng Tân Sơn Nhất.

Bấy giờ, đă 7 giờ hơn. Mặt trời đang lên, thành phố Saig̣n đang bừng sáng ở phía Đông. Sân bay Tân Sơn Nhất đang bị sang bằng, mịt mù khói lửa. Vài đám khói trắng để lộ các mục tiêu dàn đại pháo của địch đang rót vào phi trường. Tọa độ phát hiện tại những cánh rừng thưa gần xóm mới, hướng Bắc của quận G̣ Vấp ven đô.

Có lẽ Hà Nội đă rút tỉa kinh nghiệm sự thất bại nặng nề trong trận tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968. Hàng trăm xác Việt cộng phơi thây trên Quốc Lộ 1, do hỏa lực của vận tải cơ chiến đấu AC47, phi đoàn Hỏa Long đă bắn hạ, khi họ tấn công vào Sàig̣n bằng hướng Tây Bắc, đồng ruộng bằng phẳng, trống trải, ít dân cư, phi cơ dễ dàng tác xạ, rải đạn lên chúng. Lần này, chúng tiến chiếm Sàig̣n bằng hướng Đông Bắc, gần rừng thưa, để trà trộn vào những khu đông dân cư, tránh né những cuộc không tập với hỏa lực hùng hậu của Không Quân VNCH.

SAI MỘT VÁN CỜ
Khi chiến cuộc VN bắt đầu mở rộng, Quân đội Hoa Kỳ ào ạt đổ vào phục vụ ở VN. Họ đă bị tổn thất nặng nề qua hai chiến thuật “Du kích chiến, bắn sẻ rồi lẫn trốn an toàn, và Việt cộng đă dùng chiến thuật thứ hai “Tấn công biển người, càn quét địch quân hiệu quả và nhanh chóng. Gây nhiều tổn hại nhân mạng đối phương.

Để chống lại Chiến thuật Tấn công biển người vô cùng lợi hại, gây nhiều tổn thất cho Quân đội Hoa Kỳ. Quân đội Mỹ đă phải nghiên cứu và sáng tạo ra các loại Vận tải cơ Chiến đấu. Họ đă dùng phương pháp rải đạn trên một vùng rộng lớn, dài hàng cây số, bằng những loại vũ khí liên thanh, tác xạ bằng điện, mỗi khẩu bắn cùng một lúc bởi 6 ṇng súng xoay tṛn trên 6.000 viên đạn cho một phút. Khoảng cách của mỗi viên đạn đến mục tiêu đều đặn trên mặt đất độ ba tấc.

Thoạt đầu, Quân đội Hoa Kỳ thí nghiệm bằng vận tải cơ có trọng tải nhẹ, đó là vận tải cơ chiến đấu AC47. Phương pháp rải đạn này đă đem đến nhiều kết quả lớn lao. Hoàn toàn bẻ găy chiến thuật tấn công biển người vô nhân đạo của Cộng sản Việt Nam. Lùa dân sự (dân công) càn quét quân đội địch, trước khi lực lượng vũ trang chính quy của họ nhập cuộc, tiến vào mục tiêu và tịch thu chiến lợi phẩm.

Phát triển lớn hơn nữa, Quân đội Hoa Kỳ bắt đầu cải tổ các lọai vận tải cơ có trọng tải lớn hơn, đó là AC119G. Rồi dẫn đến, các loại vận tải cơ chiến đấu trang bị các dàn súng đại bác bắn liên thanh 20 ly, AC119K và AC130. Loại vận tải cơ chiến đấu AC130 tối tân nhất của Mỹ chỉ được sử dụng bởi Không Lực Hoa Kỳ hoạt động ở VN.

Cuộc chiến tranh VN mỗi ngày càng bộc phát và leo thang dữ dội. Sự tổn thất nặng nề của Việt Cộng do những phi cơ vận tải chiến đấu, trang bị vũ khí liên thanh chống biển người hữu hiệu do Hoa Kỳ chế tạo, Cộng sản Bắc việt đă phải cầu cạnh với Cộng sản Quốc tế Liên Sô tăng viện nhiều loại vũ khí tối tân hơn, nhằm chống lại các loại phi cơ lợi hại của Hoa kỳ. Cuối thập niên 60, cuộc chiến tranh VN đổi hướng. Phe Cộng sản cho xuất hiện nhiều loại hỏa tiễn pḥng không tự động SAM và các loại hỏa tiễn tầm nhiệt cầm tay SA7. Những loại hỏa tiễn mới này đă gây khốn đốn cho cả Không lực Hoa kỳ lẫn Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa.

Suốt giai đoạn Chiến tranh VN, để vô hiệu quả Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa; Việt cộng đă luôn sử dụng hai chiến thuật: Điệu hổ ly sơn hoặc điệu hổ nhập hầm (bẫy), hầu bảo toàn lực lượng trước sức mạnh của Không quân đối phương. Khi họ dùng một lực lượng chính quy đông đảo để tấn công, càn quét địch và để tránh khỏi một cuộc tàn sát do phi cơ đối phương gây ra.

Chiến thuật Điệu Hổ Ly Sơn là một phương pháp chiêu dụ phi cơ đánh sai lạc mục tiêu. Chúng phải dùng đến những toán cảm tử cực nhỏ, chỉ 2 hoặc tối đa là 3 người. Họ sử dụng pḥng không và vũ khí bắn ra toàn là đạn lửa chiếu sáng. Các nhóm cảm tử này được đặt ở những vị trí có địa thế bị phi cơ nghi ngờ, nhiều đồi và rừng, họ bố trí rất cẩn thận với hầm trú ẩn sâu và an toàn, gắn những mục tiêu họ đă dự định sẽ tấn công.

Toán quân “nhử địch” này có nhiệm vụ bắn máy bay bằng đạn lửa, để chiêu dụ phi cơ, các phi công lầm tưởng những nơi bắn máy bay đó là những lực lượng chính của Việt cộng. Phi cơ sẽ mất nhiều thời giờ đến tác xạ và thả bom các tọa độ giả tạo do họ dàn dựng, mà phi công quên đi mục tiêu chính là đồn bót hoặc căn cứ đang bị Việt cộng tấn công.

Trong khi đó, lực lượng chính quy tấn công đồn bót, căn cứ địch, lại xuất phát từ những địa điểm trống trải, yên tĩnh như đồng ruộng, ít bị phi cơ nghi ngờ là con đường chuyển quân. Chúng sẽ tấn công chớp nhoáng và nhanh nhẹn rút lui theo các lộ tŕnh an toàn đó.

Chiến thuật “Điệu hổ ly sơn” này của Việt cộng đôi khi cũng bị tổ trác, khi họ gặp phải những phi công trực thăng vũ trang hoặc hoa tiêu vận tải chiến đấu đă sinh sống ở miền quê Việt Nam, biết rơ chiến thuật lừa phỉnh này, Họ luôn đi t́m những mục tiêu chuyển quân âm thầm, yên tĩnh, khu vực ít bị nghi ngờ. Đột nhiên rải đạn đánh phá, đă đem đến những kết quả mỹ măn, nhiều xác Cộng quân phơi thây bất ngờ, không c̣n cơ hội mang xác ra đi.

Trung úy Trang Văn Thành đă rời vào cái bẫy của Cộng sản Bắc việt, ông đă bị trúng kế “Điệu hổ nhập hần (bẫy)”. Khi năy quan sát trên không phận ở phía tây Thủ đô Sàig̣n. Trung úy Thành chỉ khám phá và ghi nhận được những dàn trọng pháo và hỏa tiễn của Việt Cộng đang bắn vào Thủ đô. Chúng đă được đặt rải rác từ những cánh rừng thưa ở mạn Bắc của Xóm Mới, thuộc Quận G̣ Vấp. Cho nên ông đă bất cẩn khi chọn lựa và bay ngang quận G̣ Vấp để đánh lên mạn Bắc.

Cộng sản Bắc việt đă âm thầm mai phục phi cơ. Lén lút đưa những dàn pḥng không và hỏa tiển tầm nhiệt vào bên trong quận G̣ Vấp. Một xóm nghèo nàn đông dân cư, thuộc ngoại ô hướng Bắc thủ đô Sàig̣n. Một chốt chặn đường phi cơ hạ hoặc cất cánh tại đầu phi đạo Tân Sơn Nhất.

Cộng sản Việt Nam đă tiên đoán trước Không quân Việt Nam Cộng Ḥa sẽ phải xuất phát và tấn công vào họ từ những vùng an toàn nhất. Việc âm thầm di chuyển những dàn phóng không và hỏa tiễn vào quận G̣ Vấp là nhất sách với hai cái lợi của sự bất ngờ: Dù phi cơ có phát giác ra họ, phi công cũng không dễ dàng tác xạ vào nhà dân, gây tổn thương lớn đến sinh mạng người dân. Thứ hai là những dàn pḥng không được đặt ở đầu phi đạo sẽ có thể bất ngờ bắn hạ, ngăn chận những phi cơ cất cánh để tấn công vào lực lượng quân sự của họ. Hoặc có thể bắn hạ các phi cơ di tản ra khỏi nước VN. Trung úy Thành đă bị trúng kế “điệu hổ nhập hầm”.

Giờ hành động đă điểm. Trước khi cho phi cơ bay vào mục tiêu, chuẩn bị trận đánh không địa của chiến đấu cơ AC119K. Trung úy Thành đă hội ư cùng phi hành đoàn lần cuối truớc khi ông quyết định đưa vào trận chiến.
- Các anh em có ư kiến ǵ? Chúng ta có nên tiến vào mục tiêu diệt địch bây giờ hay không?

Tất cả những gương mặt đều tự tin trong im lặng. Tất nhiên họ đă hiện diện trên phi cơ là họ chấp nhận một cuộc tử chiến, quần thảo với địch, cứu nguy thành phố Sàig̣n đang trong cơn sốt sụp đổ, sắp rơi vào tay địch. Chính vợ con và thân nhân của họ cũng sẽ gánh chịu hậu quả của sự trả thù thê thảm sau một cuộc bại trận, do phe Cộng sản nham hiểm sẽ chiến thắng. Không c̣n chọn lựa nào khác, nếu phải hy sinh. Một giọng phát ra từ máy liên thoại phi hành đoàn:
- Quyết định thi hành phi vụ này là chúng tôi đă chấp nhận sự hy sinh. Tùy theo quyết định của Trung úy.

Trung úy Trang Văn Thành lái chiếc phi cơ bay bọc từ phía Nam thủ đô Sàig̣n ṿng lên hướng Bắc để đánh ṿng bay đầu tiên vào các mục tiêu đă được phi hành đoàn ghi nhận. Một tràng liên thanh ầm ỹ, ṇng súng minigun xoay tṛn, khói bốc lên, lửa đỏ lóe sáng, 6,000 viên đạn tua tủa bay ra khỏi các ṇng súng trong một phút, tạo thành những vệt đạn lửa trăi rộng gần một cây số, nằm trong tầm tác xạ của loại vũ khí độc hại này, địch sẽkhông c̣n cơ hội sống.

Tiếp nối các ṿng bay tấn công và diệt địch thứ hai rồi thứ ba. Tiếp tục cuộc chiến đấu đầy dũng cảm, cam go để bảo vệ thủ đô. Mỗi một ṿng bay trút hàng ngàn quả đạn đại bác 20 ly xuống đầu địch nơi ven đô. Ba ṿng bay tác xạ đầu tiên của phi cơ vào các tọa độ đặt dàn trọng pháo và hỏa tiễn của địch. Việt cộng đă phải im bặt trong hơn nữa tiếng đồng hồ, kể từ khi con diều hâu xuất hiện và gầm thét ồn ào trên bầu trời Sàig̣n. Chiến sĩ Không Quân đang hiện diện trong phi truờng Tân Sơn Nhất t́m được một ít phấn khởi, ngoi ra khỏi hầm trú ẩn ngộp ngạt, t́m những giây phút thoải mái. Hàng triệu đôi mắt hướng về chiếc phi cơ cứu tinh đang bay lượn ở hướng Đông, sắp sửa nhả đạn, tác xạ ṿng bay thứ tự xuống đầu địch.

Phi hành đoàn đă chiến đấu không mỏi mệt, không đầu hàng, không bỏ chạy. Mỗi lúc chiếc phi cơ AC119K lại tiến sâu vào trận địa dày đặc pḥng không, trọng pháo của địch quân đang cố xâu xé Thủ đô Sàig̣n.

60 GIÂY ĐỐI DIỆN TỬ THẦN
Trung úy Thành đă hạ phi cơ xuống thấp hơn các ṿng bay trước, để đánh địch quân và điều chỉnh. Ông hy vọng cao độ 2.000 bộ, với tầm tác xạ và hiệu quả hơn. Nhưng cao độ này khá nguy hiểm cho một loại vận tải cơ bay chậm chạp, nó nằm trong tầm bắn trả của pḥng không và hỏa tiễn tầm nhiệt của địch. Trung úy Thành dự định sẽ rải 2 thùng đạn đại bác liên thanh 20 ly để phá hủy và dập tắt các ṇng súng thuộc dàn đại pháo của Việt Cộng, Những tọa độ ông vừa mới phát hiện được trong ṿng bay đă qua.

Phi cơ của Trang Văn Thành chưa kịp tiến gần mục tiêu của địch. Nó đă bay và lọt vào ổ pḥng không bí mật phía đông phi trường. Địch đă im lặng, giữ bí mật đặt dàn pḥng không này trong quận G̣ Vấp, một khu phố nghèo nàn phía Đông, bên ngoài ṿng đai phi trường Tân Sơn Nhất.

Tám nhân viên phi hành đoàn AC119K hiện diện trên phi cơ cùng một cảm nhận những tiếng nổ rung chuyển không gian, xung quanh chiếc phi cơ của họ. Dàn pḥng không của địch đă đồng loạt nả đạn lên không, tấn công chiếc AC119K nổ rợp trời như pháo bông nổ giữa ban ngày. Đợt tấn công đầu tiên gồm bốn quả pḥng không đă không gây thiệt hại nào cho phi cơ.

Mấy giây tử thần ngắn ngủi trôi qua. Phi hành đoàn lại cảm nhận một tiếng nổ đơn độc khác, ảnh hưởng trầm trọng trực tiếp đến phi cơ. Toàn thân chiếc máy bay rung chuyển dữ dội theo tiếng nổ. Họ đă kinh hoàng nh́n thấy lửa đỏ lẫn miếng đạn pḥng không phóng ra, kèm tiếng nổ ấm và bịt kín từ trong ḷng động cơ bên trái.

Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa! Họ đă biết chắc chắn chiếc phi cơ đă bị trúng đạn pḥng không SA7 của Việt Cộng.

Viên phi công Trưởng phi cơ dũng cảm, 28 tuổi. Trung úy Trang Văn Thành không hề nao núng. Ông rất tin tưởng vào tài nghệ lái máy bay của ông, với hơn 2.000 giờ bay, ông đă trải qua không biết bao nhiêu lần phi cơ bị hư hỏng phải đáp khẩn cấp an ṭan. Một trách nhiệm đặt trên vai người Trưởng phi cơ, phải làm mọi cách để đoàn viên phi hành của ông được toàn mạng. Tám sinh mạng trên phi cơ hiện đang nằm trong bàn tay tài nghệ của viên phi công Trưởng phi cơ.

Trung úy Trang Văn Thành b́nh tĩnh, một bản tánh chung của những người phi hành, họ đă được trui luyện ḷng can đảm, ngay từ những giờ bay đầu tiên, đó là sự b́nh tĩnh, hành động chính xác và phải làm mọi cách để được đáp b́nh an và toàn mạng.

Thành dơng dạc trên máy điện thoại của phi hành đoàn. Ông công bố t́nh trạng phi cơ đang nguy ngập với lệnh đáp khẩn cấp.
- Phi hành đoàn, chú ư! Đây, Trưởng phi cơ! Phi cơ chúng ta đă bị trúng đạn pḥng không. Tất cả nhân viên phi hành đoàn hăy b́nh tĩnh, ngồi vào ghế, buộc giây an toàn. Tôi đang làm thủ tục đáp khẩn cấp xuống phi trường Tân Sơn Nhất.

Vừa ra lệnh,Trung úy Thành vội vă hạ mũi và nghiêng phi cơ về bên trái, theo hướng phi đạo Tân Sơn Nhất, đang nằm ở hướng 3 giờ của chiến phi cơ. Trong ư nghĩ của Trung úy Thành đă có sẵn một quyết định rơ rệt. Ông b́nh tĩnh dặn ḍ các nhân viên trong pḥng lái.
- Bằng mọi giá chúng ta phải mang phi cơ ra khỏi vùng đông đúc dân cư của Quận G̣ Vấp. Nếu phi cơ của chúng ta không lết kịp đến phi đạo. Tôi sẽ quyết định cho phi cơ làm crash ngay tại các cánh đồng vắng xung quanh phi trường.

“THƯỢNG ĐẾ” CƯỚP LẤY TAY LÁI PHI CƠ
“Thượng đế” đă cướp lấy cần lái phi cơ từ tay người phi công Việt Nam Cộng Ḥa tài ba và dũng cảm Trang Văn Thành. Phi cơ vừa nghiêng bên trái, gia tăng sức ép của không khí đè nặng lên vết thương vốn đă trầm trọng nơi động cơ trái vừa bị pḥng không SA7 xé nát, những mối giáp của 3 phần cánh: cánh trong, động cơ và cánh ngoài của phi cơ đă bị rạn nứt khi đạn nổ, không c̣n chịu nổi sức ép của không khí.

Cánh ngoài, bên trái của phi cơ đột nhiên găy xếp lên không, lôi động cơ trái găy đổ theo, rồi ră ra. Nó giựt mạnh những đường dây cáp điều khiển cánh lái nghiêng của phi cơ, làm đứt ĺa, khiến cần lái phi cơ vuột khỏi tầm tay của viên phi công, rồi đập mạnh về phía trước bảng phi cụ.Trung úy Trang Văn Thành kinh hoàng cảm nhận chiếc phi cơ không c̣n trong tầm tay điều khiển an toàn của ông nữa. Đồng lúc, 2 chiếc bàn đạp điều khiển cánh lái đuôi phương hướng cũng đập mạnh về trước, khi những dây cáp điều khiển nối liền từ cánh lái đuôi đến bàn đạp cũng bị giựt đứt ĺa và rời khỏi phi cơ.

Phi hành đoàn bàng hoàng cảm nhận cái chết cận kề. Người này loạng choạng chụp lấy dù cá nhân, người kia tháo gỡ dây an toàn, người nọ ṃ mẫm đến cửa thoát hiểm. Đôi tay Trung úy Trang Văn Thành nhanh nhẹn chụp lấy lại cần lái, cố gắng điều khiển, đồng lúc chân ông cḥi đạp trên cần điều khiển cánh lái phi cơ đều lỏng toát, không có một tác động nhẹ, khi toàn bộ hệ thống dây cáp điều khiển ba bộ cánh lái phi cơ đều đứt gọn. Trang Văn Thành rùng ḿnh, toát mồ hôi lạnh, gào thét thất thanh trên máy liên lạc phi hành đoàn, Ông kinh hoàng, thúc giục đồng đội thoát thân.
- Tất cả nhảy dù ra khỏi phi cơ, mau lên, mau lên, mau lên…

Thân phi cơ bắt đầu nghiêng đổ hẳn về một bên. Các đồng hồ ngưng hoạt động, tốc độ phi cơ đứng hẳn giữa bầu trời và chuyển đổi sang trạng thái rơi tự do. Hệ thống điện bị cắt đứt. Tất cả bắt đầu im lặng theo sự rơi chao đảo trong 40 giây mặc niệm cuối cùng của sự chết!

Các động cơ đă hỏng v́ sự rối loạn, tan ră của phi cơ. Tất cả kim đồng hồ dàn phi cụ, đồng loạt rớt xuống số 0. Cánh trái, thân nối liền đuôi phi cơ đă găy đổ và rời khỏi phi cơ đang bay lơ lững trên không. Hệ thống điều khiển tê liệt. Phi hành đoàn kinh hoàng cảm nhận chiếc phi cơ của họ không c̣n là một chiếc máy bay thăng bằng, bay bổng trên không trung nữa. Đó là một khối sắt vô dụng đang rơi vùn vụt trên bầu trời Sàig̣n.

Trung úy Trang Văn Thành tuyệt vọng, buông xuôi và đầu hàng định mệnh. Tám người phi hành đoàn cùng cảm nhận trong hăi hùng với cái chết cận kề trong sức rơi của vùn vụt của phi cơ xuống mặt đất, trên bầu trời trong sáng Tân Sơn Nhất của buổi sớm, ngày 29 tháng Tư năm 1975. Cơ hội thoát hiểm của phi hành đoàn gần như chấm dứt khi họ đang ở vào trạng thái rơi tự do của hai vật thể riêng biệt: trọng lượng con người tách rời trọng lượng phi cơ, con người không c̣n là điểm tựa tên mặt phẳng của chiếc máy bay. Bàn tay của viên kỹ sư phi hành đă mấy lần đụng chạm đến cần khóa cửa thoát hiểm bên cạnh chiếc ghế ngồi của ông, được đặt dưới sàn trong ḷng pḥng lái phi cơ, bao lần nó đă vuột khỏi tầm tay v́ sức rơi chao đảo, nghiêng ngă và lơ lửng trong ḷng phi cơ.

Chiếc phi cơ nghiêng đổ hẳn về một phía, Những đôi mắt kinh hoàng của họ trừng trừng khiếp đảm nh́n xuống ḷng đất cứng rắn hăi hùng, phút chốc nữa đây phi cơ của họ sẽ phải va chạm nổ vỡ tung. Những quả tim, bấn lọan hồi hộp theo cảm nhận của sự chết trong 40 giây ngắn ngủi c̣n sót lại qua sức rơi chao đảo của phi cơ từ 2,000 bộ xuống mặt đất.

Tinh Long 821 AC-119 Phi hành đoàn cuối cùng của KhôngQuân Việt Nam Cộng Ḥa hy sinh cho Tổ Quốc sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, ngay trên không phận ṿng đai phi trường Tân Sơn Nhất Thủ Đô Sài G̣n.

Tử thần đang chào đón họ trong 40 giây của sự sống cuối cùng, 40 giây để thở, tim vẫn đập, máu vẫn lưu thông, 40 giây của tâm hồn rối loạn, để cảm nhận sự chết của một con người, truớc khi tất cả đều dập tắt theo tiếng nổ kinh hoàng, sự va chạm của phi cơ vào ḷng đất.

Mười giây sau cùng, Trung úy Thành đă nhắm nghiền đôi mắt đầy lệ thương xót cho người vợ trẻ và hai con dại vẫn hiện hữu trên thế gian. Họ đang lo lắng và chờ đợi một “cuộc di tản không bao giờ có” của chàng đă hứa. Viên kỹ sư phi hành ngồi ở chiếc ghế phía sau, Trung sĩ Nhất Phan Quốc Tuấn, người đă dũng cảm t́nh nguyện, chấp nhận chuyến bay trên phi vụ sinh tử cuối cùng của Trung úy Thành, ông đă cùng chung hoàn cảnh một vợ và hai con thơ đang ṃn mỏi trông đợi cha về.

Tâm hồn phi hành đoàn ch́m vào bóng tối theo tiếng nổ long trời, hồn biến, xác tan, để đi vào cơi an lạc, chấm dứt một đời người kiêu dũng trên không trung. Để rồi tên tuổi các anh vẫn sống măi trong ḷng người và lịch sử của Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa, với ư chí sắt đá “hiến thân cứu nước”và quyết tâm “v́ dân diệt bạo”.

CHỐNG CHỎI TỬ THẦN
Kể từ khi xuất hiện loại vũ khí hỏa tiễn tầm nhiệt độc hại trên địa cầu, do khối Cộng sản Quốc tế yêu chuộng, chủ chiến, chuyên gây rối trên thế giới, xúi giục và yểm trợ những chính trị gia độc tài quốc tế, tham vọng gây chiến tranh để cướp giựt lănh đạo, gạt bỏ những sự lựa chọn người tài ba ra điều hành đất nước của nguời dân, áp đặt những chế độ độc tài lên họ, đánh hỏa mù để hưởng tư lợi cá nhân. Chúng đă sáng tạo ra những loại chiến cụ mới gây khiếp đảm cho khối tự vệ, yêu chuộng tự do, công bằng và dân chủ. Trong đó có Miền Nam Việt Nam. Quân chủng Không quân Việt Nam Cộng Ḥa đă gặp rất nhiều khó khăn và thiệt hại nặng nề với hàng lọat phi cơ bị bắn hạ bằng loại vũ khí tầm nhiệt SA7 lợi hại này.

Trong chiến tranh, không ai có thể lo lắng hơn những nhân viên phi hành của Không lực Việt Nam Cộng Ḥa và Hoa Kỳ. Những người phải đối diện trực tiếp với loại vũ khí ghê gớm SA7 này. Mỗi nhân viên phi hành của Không Quân đều đă phải suy tính, tự học và luyện tập để chuẩn bị cho chính ḿnh một con đường thoát hiểm nhanh nhẹn nhất truớc những đe dọa của loại vũ khí có sức tàn phá khủng khiếp, nhanh chóng và chính xác như loại hỏa tiễn tầm nhiệt của khối Cộng sản.

Phi hành đoàn của Trung úy Trang Văn Thành cùng tâm trạng lo âu và đă tiên liệu truớc những sự nguy hiểm của loại vũ khí hỏa tiễn tầm nhiệt, nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào trên các phi vụ của chiến trường Miền Nam Việt Nam.

Ngay khi phi hành đoàn của họ đă cảm nhận phi cơ của họ đă bị trúng đạn pḥng không. Tám nhân viên phi hành hiện diện trên phi cơ đều cùng có một cảm nghĩ và hành động t́m kiếm cá nhân, hay họ phải chú tâm đặc biệt đến những cánh cửa thoát hiểm gần họ nhất, ngỏ hầu nhanh chóng thực hiện một cuộc thoát hiểm cấp tốc khỏi phi cơ truớc khi nó không c̣n điều khiển được nữa. Trung úy Trang Văn Thành đă không tiên đoán trước được phi cơ của ông sẽ găy cánh trong 10 giây sau tiếng nổ. Nhân tính dũng cảm và quyết tâm cố mang phi cơ ra khỏi khu phố G̣ Vấp đông đảo, sự an toàn cho sinh mạng người dân. Ông đă kêu gọi đồng đội b́nh tĩnh, ở lại phi cơ. Bày nhân viên phi hành đă tuân lệnh, sáu người đă không thoát hiểm được khỏi phi cơ và chết tan xác theo chiếc máy bay định mệnh.

Tại pḥng hàng hóa của phi cơ nơi trang bị 4 khẩu súng minigun 6 ṇng và 2 khẩu đại bác liên thanh 20 ly, cùng hàng tấn đạn dược và hỏa châu. Pḥng làm việc của các chuyên viên vũ khí phi hành.

Nhân viên phi hành chống chỏi tử thần dữ dội nhất để thoát khỏi bàn tay của thần chết, đó là trung sĩ Chín, nhân viên vũ khí phi hành. Ông đang bám chặt ở cánh cửa hành khách bên phải của chiếc phi cơ, kể từ khi chiếc máy bay của họ bị trúng đạn pḥng không.

Trung sĩ Chín vẫn c̣n đủ b́nh tĩnh, bám chặt khung cửa, vật lộn với thời gian, chiến đấu với tử thần. Trung sĩ Chín vất vả, quần thảo để tháo gỡ chiếc chốt pin khóa chặt dàn phóng trái sáng vào chân, chúng án ngữ kín mít ở cửa pḥng hành khách, ông không thể nào rướn người ra khỏi phi cơ.

Đă mất 10 giây trong sức rơi vùn vụt, cực nhanh của phi cơ. Trung sĩ Chín may mắn giật được chốt pin khóa dàn phóng trái sáng, nó rời khỏi chân dàn phóng rơi xuống mặt sàn phi cơ, để lộ một khoảng trống của khung cửa bao la. Đúng lúc chiếc phi cơ nghiêng đổ về bên phải, Trung sĩ Chín dùng hết sức b́nh sinh dồn lên đôi chân cứu rỗi, nhanh như cắt, ông búng mạnh đôi chân vào thành phi cơ, để truợt chân người rơi ra khỏi đống thép vô dụng đang lao vùn vụt xuống mặt đất.

Trung sĩ Chín rời phi cơ khi chiếc máy bay của ông đang rơi và cách mặt đất độ 600 bộ, chừng 200 mét. Trong 10 giây ngắn ngủi sau cùng c̣n sót lại cho sự sống. Chín đă lảo đảo trong không khí, đôi tay vẫn chới với, quờ quang t́m kiếm khóa giật để bung dù, chiếc dù đeo lủng lẵng chỉ một bên của thân người gây nhiều khó khăn.

Chiếc dù vừa bọc gió đúng lúc Trung sĩ Chín cũng vừa rơi xuống mặt đất. Ông đă thoát nạn, nhưng đă bị chấn thương nhẹ nơi cột xương sống.

Đồng lúc một tiếng nổ rung chuyển trời đất, quả cầu lửa rựng lên, sức nóng bức của bom đạn ḥa lẫn xăng cháy dữ dội, hắt vào người trong khoảng cách gần 100 thước, nơi Chín đă vừa rơi xuống từ phi cơ hư hỏng, vô phương cứu chữa.

Tuần lễ sau, Trung sĩ Chín đă t́m đến nhà anh trưởng phi cơ Trung úy Trang Văn Thành. Lúc đó chị Vơ Thị Ḥa là vợ anh Thành đă đi vắng. Chín đă kể lại những chi tiết trên chuyến bay cuối cùng của Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa với chị Bùi Vơ Thanh, chị ruột của chị Ḥa. Trung úy Thành và 6 đồng đội khác đă không thoát khỏi phi cơ và đă tử trận theo con tàu AC119K, lúc 8 giờ sáng ngày 29/4/1975 tại Tân Sơn Nhất.

Trung sĩ Chín xác nhận Trung úy Thành đẽ đền nợ nước, chết theo phi cơ. Một hung tin mà gia đ́nh chị Ḥa đă biết mấy hôm trước do các nguồn tin từ những người bạn thân cùng đơn vị của anh Thành đă lén báo tin và xác nhận về cái chết anh dũng của anh Thành.

Trang Văn Thành đă tự điều động một phi hành đoàn c̣n đầy đủ tinh thần chiến đấu và tự nguyện hiến thân cho đất nước. Một phi hành đoàn duy nhất c̣n sót lại của Không Lực Việt Nam Cộng Ḥa và của Quân đội Miền nam Việt Nam. Họ đă làm nên trang chiến sử oanh liệt cuối cùng trong giây phút kết thúc chiến tranh Việt Nam, và Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa này đă tan ră và “bại trận”.

KINH NGHIỆM HỎA TIỄN TẦM NHIỆT SA7
Nhiều nguồn tin, suy đoán không chính xác và họ cho rằng nhân viên phi hành đoàn của Trung úy Trang Văn Thành đă chết trên phi cơ, ngay sau khi đạn pḥng không SA7 nổ tại động cơ. Họ đă chết trước khi phi cơ găy cánh và rơi xuống đất. Điều này đúng hay sai?

Qua kinh nghiệm nhiều chiếc phi cơ của Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa bị pḥng không hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 bắn rơi, sự suy đoán này không chính xác.

Thứ nhất, trái đạn hỏa tiễn tầm nhiệt là một loại đạn cá nhân, nó nhỏ và nhẹ để dễ di chuyển, so với các loại bom miểng của đại bác hay hỏa tiễn khác có tầm sát hại rộng lớn. Mục đích chính của loại hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 không chủ đích phát ra nhiều miểng đạn để sát hại nhân viên phi hành trên không trung. Mục đích chính là nó phá hủy phi cơ. Quả đạn nổ làm rối loạn và hủy họai động cơ máy bay, hủy diệt sức kéo hoặc đẩy phi cơ đi tới. Đồng thời, hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 cũng làm rạn nứt lớp vỏ của cánh phi cơ, với những loại máy bay mang động cơ trên cánh. Nó hủy diệt sự chịu đựng sức ép của không khí đè lên mặt cánh và gây ra sự găy đổ. Khiến phi cơ bị hủy hoại cả hai: sức kéo hoặc đẩy của động cơ và phá hủy bộ cánh lái điều khiển chiếc máy bay.

Lư do thứ hai, hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 không thể phát ra nhiều miểng đạn để sát hại nhân viên phi hành. Loại hỏa tiển tầm nhiệt đặc biệt này chỉ t́m sức sống, chui vào và nổ bên trong ḷng động cơ. Động cơ được bao bọc bởi một lớp vỏ thép cứng rắn, đă cản trở hầu hết miểng bom, sức công phá không văng tung tóe, rồi miểng quả đạn phải xuyên qua nhiều lớp vỏ của cánh và vỏ của thân phi cơ, khiến nó không thể sát hại quân nhân Không Quân phi hành như những loại bom đạn thường khác. Dựa trên những dữ kiện chính xác qua ba truờng hợp của Không Quân VNCH bị bắn rơi bởi pḥng không SA7. Phi hành đoàn đă bị tử nạn v́ sự chậm trễ của họ. Phi cơ nhanh chóng chuyển đổi trạng tháng rơi tự do, tách rời trọng lượng con người ra khỏi điểm tựa trên mặt bằng phi cơ, họ không c̣n đứng vũng để mở cửa hoặc đến gần cửa để thoát hiểm. Chúng ta biết rằng, khi phi cơ đang ở trạng thái rơi tự do. Cả hai trọng lượng con người và trọng lượng phi cơ tách rời nhau như hai vật thể riêng biệt cùng rơi trên không gian, nên con người cũng ở trạng thái lơ lửng trong ḷng phi cơ.

Trường hợp thứ nhất
Một chiếc F5 hai động cơ phản lực đă bị trúng đạn pḥng không SA7. Một máy bay phản lực bị phá vỡ trên không, động cơ c̣n lại chỉ nằm cách động cơ kia không quá một mét, không bị hề hấn ǵ, máy nổ vẫn tốt. Ghế phi công đặt cách động cơ bị phá hủy độ 3 mét. Phi công vẫn b́nh an vô sự, ông đă không nhảy dù ra khỏi phi cơ, vẫn bay và cố mang phi cơ về đến phi trường và đáp khẩn cấp an toàn xuống phi đạo. Sỡ dĩ, hệ thống cánh lái điều khiển phi cơ bay về là v́ động cơ phản lực F5 được đặt trên thân phi cơ, không liên hệ ǵ đến cánh và các bộ phận điều khiển chiếc máy bay. SA7 đă không hủy diệt được các hệ thống cánh lái điều khiển chiếc phi cơ F5 này.

Trường hợp thứ hai
Một chiếc EC47, Không Thám Điện Tử, thuộc phi đoàn 718, phi cơ bị trúng đạn pḥng không SA7 tại mật khu của địch. Chỉ một ḿnh viên sĩ quan Điều hành viên có chuẩn bị, đă nhảy dù ra khỏi phi cơ truớc khi máy bay găy cánh, rơi tự do. Ông đă sống sót, bị địch bắt làm tù binh. V́ thế chiếc ghế của điều hành viên đặt gần động cơ bị phá hủy nhất, độ hai thước. Viên sĩ quan này đă không bị miểng hỏa tiễn SA7 gây thương tích hoặc sát hại. Toàn bộ đoàn viên phi hành đoàn khác đều chậm trễ, trong trạng thái phi cơ rơi tự do, không thoát hiểm được và chết theo phi cơ.

Trường hợp thứ ba
Tương tự chiếc phi cơ Không Thám Điện Tử EC47. Trung sĩ Chín, vũ khí phi hành của phi hành đoàn AC119K, cũng đă nhảy dù thoát hiểm khỏi phi cơ, nhờ may mắn khi ông đang ở trong trạng thái rơi tự do, nhưng ông có chuẩn bị đă bám ở cửa phi cơ không có cánh cửa. Vị trí làm việc của ông trong pḥng hành khách là nơi gần động cơ bị phá hủy nhất, ông đă không bị miểng đạn SA7 gây thương tích hoặc sát hại, tương tự viên sĩ quan Điều hành viên EC47.

Cả ba truờng hợp chứng tỏ quả đạn pḥng không SA7 không có chủ đích sát hại phi hành đoàn bằng sức công phá của miểng đạn. Nó chỉ nhằm hủy hoại phi cơ để sát hại phi công và phi hành đoàn, những ai thiếu chuẩn bị, chậm trễ, không rời khỏi phi cơ truớc khi nó chuyển đổi sang trạng thái rơi tự do.

Như vậy, phi hành đoàn muốn toàn mạng phải chuẩn bị sẵn dù và nhảy ra khỏi phi cơ trước khi phi cơ găy cánh hoặc động cơ hư hỏng không c̣n sức kéo hoặc đẩy, đưa đến trạng thái phi cơ rơi tự do.

Nhận diện sự khác biệt giữa hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 và các loại đạn pḥng không khác ở chỗ, loại SA7 chỉ nổ ngay bên trong ḷng động cơ với âm thanh tiếng nổ khác thường do động cơ đă bịt kín. Tiếng nổ ấm và nhỏ hơn các loại tiếng nổ của đạn pḥng không khác. Các loại đạn pḥng không thường khác chỉ có khuynh hướng chạm nổ và phá hủy mặt dưới của thân và cánh phi cơ, do dưới đất bắn lên không. Miểng đạn của nó không bị sự cản trở nào nên tầm sát hại rộng lớn hơn. Vả lại, các loại pḥng không thường khác không nhất thiết phải trúng vào động cơ và cũng khó có thể đánh trúng chính xác vào phi cơ đang bay với tốc độ. Ngoại trừ, phi đạn SA7 sẽ bay đuổi theo sức nóng của động cơ, phát nổ và phá hủy.

CẢM PHỤC L̉NG DŨNG CẢM CỦA PHI HÀNH ĐOÀN AC119K
Ḷng dũng cảm đáng kính của phi hành đoàn AC19K ở chỗ, giờ phút lâm nguy cuối cùng, tính mạng bị đe dọa. Xem nặng tính mạng của người dân. Tất cả nhân viên phi hành đều tuân lệnh trưởng phi cơ, nán lại, không rời bỏ phi cơ, tiếp sức Trưởng phi cơ cố hoàn thành nhiệm vụ mang phi cơ ra khỏi thành phố đông đúc dân cư, có thể sát hại nhiều người dân. Để rồi phi cơ bị găy đổ chỉ 10 giây sau tiếng nổ của đạn pḥng không SA7, trước khi họ đạt đuợc ước nguyện mang phi cơ ra khỏi thành phố.

Trung sĩ Chín đă t́m đến cửa thoát hiểm ngay sau khi đạn nổ tại động cơ. Ông đă dừng lại khi nhận lệnh của Trưởng phi cơ, chỉ 10 giây phi cơ găy cánh đưa đến trạng thái rơi tự do. Trong sự tuyệt vọng, thúc dục đoàn viên thoát hiểm khỏi phi cơ của Trưởng phi cơ. Chín đă vất vả chống chọi với tử thần, mất một nửa khoảng thời gian lộ tŕnh phi cơ rơi trong không trung. Ông may mắn thoát hiểm và đă bị trọng thương.

US COPYRIGHT 2005, BY THÀNHGIANG

Sử liệu CUỘC TỬ CHIẾN TRÊN KHÔNG PHẬN SAIG̉N của Thành Giang là những tư liệu đă được cấp phát bản quyền Hoa Kỳ 2005. Tài sản của tác giả và thân nhân cung cấp tin tức cùng h́nh ảnh những vị anh hùng tử trận trên chuyến bay AC119K của Không lực Việt Nam Cộng Ḥa tại Tân Sơn Nhất.

hoathienly19
10-12-2020, 21:05
XUẤT QUÂN QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A


rcmewCwA8mc


KỶ VẬT CHO EM (PHẠM DUY) - THÁI THANH


tI-gkYeSUyM

hoathienly19
10-13-2020, 06:00
NHỮNG ANH HÙNG VÔ DANH ĐỒN DAK SEANG

"Thành kính tưởng niệm các chiến sĩ Địa Phương Quân anh dũng đồn Dak Seang":112:




AOvzW8VYwHE


“Đường ra trận mùa này đẹp lắm” Đại úy Ngọc tḥng một câu đùa trong chiếc Phi Cơ L19 ở cao độ 8 ngàn bộ, hôm chúng tôi cất cánh từ Nha Trang đi Kontum với hành trang cho 15 ngày biệt phái.

Đồng ư đó là một câu đùa, nhưng tôi không cười được chút nào cả v́ ḷng tôi đang héo hon như cái vỏ xe bị x́ lốp.

Đang vui vẻ với đám bạn bè từ Ban-Mê-Thuột về Nha Trang nghỉ mát, ngày nào cũng sáng tiểu yến với cà phê, phở, thuốc lá 555, chiều
đại yến với la-de, nem nướng, ṣ huyết mà phải khăn gói qủa mướp ra đi như thế này th́ thật là đau khổ vô cùng, lại mới bị Thủy giận, tôi chưa có dịp làm ḥa.


Tính vốn lo xa, tôi đâm ra hăi. Đi biền biệt 15 ngày mà không từ gĩa em được, em tưởng ḿnh… rớt máy bay chết rồi bèn đi cặp thằng khác th́ hết một đời trai.

Cứ tưởng tượng cái cảnh Thủy cặp tay một tên chết tiệt nào đó đi coi hát bóng, đi nhảy đầm vung vít là tôi cảm thấy… hết muốn bay bổng.

Đời phi công sao khổ thế nầy, tôi than thở. có lẽ thấy được những cái vẻ đau khổ khó chịu trên khuôn mặt tên Thiếu úy trẻ, anh Ngọc cười.

Nh́n thấy cái bản mặt táo bón của chú mầy tao nhớ đến cái thuở huy hoàng của những ngày..chưa lấy vợ.


4Yi9o7144ys


Tôi phản đối “ở Phi Đoàn 114 mà không biết phản đối th́ chẳng bao giờ lớn được”.

- Chưa lấy vợ th́ khổ bỏ xừ đi chứ huy hoàng ǵ anh?. Bị đào hành lên hành xuống, quay ṿng ṿng như con mắm có ǵ mà huy hoàng. Lại c̣n phải đi biệt phái lâu ngày như thế này, xác thân ở nơi tiền tuyến không sợ mất mà chỉ sợ… mất đào ở nhà.

Đại úy Ngọc bật cười lên khoái chí.

Hậu sinh…. chẳng biết mẹ ǵ cả. Mày lấy vợ đi rồi mới thấy cái gía trị của những ngày biệt phái. này nhé, ở nhà với vợ, có chó nào dám ti teo, đi phải thưa về phải tŕnh, tiền bạc phải “báo cáo”đầy đủ.

Ấy là chưa nói đến chuyện ở gần mặt trời th́ phải sống có qui củ, có nề nếp, gặp xếp từ xa là phải cung tay chào rốm rốp tên nào cũng muốn kiếm thêm tí điểm th́ phải biết điếu đóm v..v..

Đi biệt phái, nói một cách văn chương, đó là “những ngày nghỉ mát” v́ thứ nhất ḿnh thoát khỏi ṿng cương tỏa… bà tư lệnh , muốn làm ǵ th́ làm, gặp bất kỳ cô thôn nữ yêu kiều nào cũng có quyền đấu tưới hột sen, muốn khoe ḿnh chưa vợ hay vợ… mới chết th́ đó là quyền của ḿnh.Các cô thôn nữ vốn dễ dăi và cả tin, chẳng ai thèm khiểm chứng hay thắc mắt lôi thôi .

Thứ hai, đi biệt phái, cuộc sống không g̣ bó như ở phi đoàn. Ḿnh tự chỉ huy lấy, đời sống thoải mái hơn, chỉ làm sao đừng bê trể công việc, thứ ba, làm việc trực tiếp với bộ binh có nhiều cái thú.

Mười tám tuổi bỏ nhà đăng lính đâu phải để suốt ngày ḍm ba cái đồng hồ phi cơ rồi cứ hết cất cánh rồi hạ cánh.

Phải có “Action” phải có đánh bomb, có ăn pháo kích v..v. Nghe anh Ngọc thuyết một lúc là tôi đă thấy xiêu ḷng. Mẹ, tôi đâu biết là lấy vợ sẽ khổ như thế này. Sống bị kềm kẹp vậy chả trách ǵ ông nào cũng có vẻ chán đời. Anh Ngọc cảm thấy h́nh như tôi đă thấm ư, nên kết luận :

– Đó là những cái khác nhau giữa hai thế hệ, Thế hệ chưa vợ và thế hệ có vợ. Bây giờ nh́n lại mấy chú, anh thấy tiếc hùi hụi. Rồi hứng t́nh, anh chơi thêm hai câu thơ, giọng vịt cồ nghe không có tính chất…văn học chút nào hết.

T́nh chỉ đẹp khi c̣n dang dở

Đời hết vui khi đă vẹn câu thề

Sau hai câu thơ là một chuỗi cười h́ h́ nghe rất ngứa lỗ tai. Men rượu của buổi tiệc gĩa từ tối hôm qua c̣n ngây ngất trong máu tôi, làm đầu óc cứ dật dờ. Tôi tắt radio, bảo anh Ngọc:

– Anh bay hộ, em buồn ngủ quá.

Anh Ngọc dễ dăi:

– Ngủ đi, tao bay cho. Ráng ngủ lấy sức, xuống đến Kontum chuyến này có nhiều chuyện lắm.

Tôi kéo tuột ghế ra sau, nhắm mắt làm một giấc ngon lành…. Biệt đội Kontum lần ấy, các phi hành đoàn ở trong cư xá văng lai Sĩ Quan của Tiểu Khu.


ftxR-Aom5zQ


Cả thành phố Kontum như một trại lính khổng lồ, đi đâu cũng chỉ gặp toàn lính là lính. Từ lính không quân đến lính bộ binh, lính nhảy Dù, lính Lôi Hồ, lính Biệt Động Quân, lính Biệt Kích….., ai nấy vơ khí trang bị tới răng trông phát khiếp.

Lâu lâu, phải chịu khó t́m ṭi và chờ đúng giờ tan học mới nh́n thấy được vài tà áo dài phất phơ cuả các em nữ sinh, Những tà áo dài bé nhỏ xinh xinh coi có vẻ vừa lạc lơng vừa hiền lành làm sao trong cái thế giới đầy dẫy súng đạn của thành phố địa đầu này. Cũng như một con én không làm được mùa xuân, một chiếc áo dài tha thướt cũng không làm mất đi được cái vẻ chinh chiến của quê hương khốn khổ.

Đứng nh́n ngắm những tà áo này, tôi thấy nhớ Thủy chi lạ, buổi chiều cơm nước xong về khu tạm trú thắp đèn cầy đánh bài cho hết giờ.

Buổi tối, cái khổ nhất của chúng tôi là hai cây cà nông 175 ly to tổ bố của thiết đoàn 14 Kỵ Binh đặt cách dẫy nhà chúng tôi ở chừng 500 thước. Hai cây súng mắc dịch này, ban đêm, giữa lúc mọi người đang ngủ say, cứ thỉnh thoảng nổ một vài phát bắn quấy rối rồi nằm im.

Đang mơ màng giấc diệp, tiếng súng đại bác ở sát bên bắn một phát làm chúng tôi nẩy tung muốn văng ra khỏi giường

- ” Đêm hôm khuya khoắc, bắn con C…ǵ mà bắn độc thế ? Sao không về nhà mà bắn… bà xă cho được việc”, một giọng càu nhàu cất lên.

Lại có giọng khác hăm dọa ” ngày mai tao phải “phản đấu”mới được. Đó là tiếng nói của Đại úy Bá, trưởng biệt đội.

Ông đại úy này người dân xứ Quảng, lâu lâu phải để cho ông ấy “phản đấu” ai một lần th́ ông ăn cơm mới ngon.

Mất cả tiếng sau mới dỗ được giấc ngủ. Nhiều khi vừa mới chợp mắt th́ lại “ầm” một tiếng như trời long đất lở tiếp theo, lỗ tai như bi ai tống vào một cây đinh. Đến lúc này thi đại úy Bá không nhịn được nữa, chửi thề um sùm

- “ Đ..” mọa nó, bén chi mà bén miết..”.


wT7SKArwt-8


Thế là hết mẹ nó một tiếng đồng hồ nữa rồi… Tôi không hiểu các anh em bộ binh làm sao mà sống được như vậy không phải chỉ trong 15 ngày biệt phái như tôi mà tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác.

Phải đi biệt phái những nơi như vầy mới hiểu được và thương các anh em bộ binh. Người lính bộ binh Việt Nam khổ qúa. Khổ đến độ sự khác biệt giữa sự sống và cái chết hầu như không có ranh giới.

Cuộc đời là địa ngục th́ chết chắc cũng chẳng có ai sợ. Và có lẽ, chết sẽ là một giải thoát. Tôi đă tận mắt nh́n thấy nhiều người sống suốt mấy tháng trong giao thông hào nước ngập tới háng. Đó là nơi mà anh em vừa ăn, ỡ ngủ v.v..


https://www.aihuubienhoa.com/images/file/mkmd0Lc-0QgBAMZT/volinh-large.jpg


Các anh cũng là người với những cảm giác b́nh thường, biết lạnh, biết nóng, biết thèm ăn ngon, biết sợ đau khổ, sợ chết.

Mănh lực nào. sức lôi cuốn nào đă khiến anh em từ bỏ gia đ́nh ôm cây M16 để trở thành người lính bộ binh.

Trở thành người linh bộ binh để “chết thay dùm dân tộc” để chấp nhận mọi đắng cay, mọi hiểm nguy .

Chắc chắn không phải để lănh số lương mười mấy ngàn , chỉ đủ mua bao gạo. Cũng không phải v́ sợ cảnh sát bắt đi quân dịch ở đầu ngơ. Cũng càng không phải v́ mủi ḷng bỡi vài cái bích chương kêu gọi rẻ tiền của chính phủ dán trong thành phố, hay v́ câu hát của Hùng Cường, Mai Lệ Huyền.

Tôi nghĩ, anh em đă ra đi chỉ v́ ḷng yêu nước. V́, anh em nghĩ rằng cầm súng chiến đấu là bổn phận của ngững người trai thời ly loạn.

Chỉ biết rằng đi để thể hiện chữ “Yêu” yêu Quê Hương yêu Tổ Quốc, không cần tính toán, không đo lường giá cả.


https://hon-viet.co.uk/ChienSiVNCH.jpg


Chỉ vài ngày đi bay mà anh em ai cũng bị hốc hác thấy rơ.

Đêm mất ngủ, lên trời gió mát, chỉ muốn nhắm mắt. Cùng tắc biến, biến tất thông, mấy hôm sau chúng tôi biết cách trị.. Pháo Binh. Trước khi leo lên giường ngủ, chúng tôi lấy bông g̣n nhét kín hai lỗ tai. Thế là mấy chú thiết giáp cứ mặc sức mà bắn.

Có *… Thiếu úy tên On nằm gần giường tôi, mới được cho đi hành quân lần đầu nên lẩm cẩm không chịu được. Tên nghe đă lẩm cẩm mà người lại c̣n lẩm cẩm hơn. Đang đêm, tôi thấy nó thỉnh thoảng ngồi dậy, móc bông g̣n ra khỏi hai lỗ tai, nghe ngóng một chút rồi lại nhét vào, nằm xuống. Mặt mày nó làm ra vẻ quan trọng lắm. Trằn trọc không ngủ được, tôi thắc mắc:

– Mày làm cái tṛ khỉ ǵ đó ông Thiếu úy On ?

Nó đáp tỉnh queo :

– Tao phải thức dậy để nghe ngóng xem có pháo kích không.

Tôi suưt bật cười. Đúng là * lẩm cẩm, nó làm như Việt Cộng chờ nó tháo bông g̣n ra khỏi hai lỗ tai rồi mới thèm pháo. Tôi phịa một câu:

– Tao có ư kiến này hay hơn. Mày chỉ cần rút bông g̣n ra khỏi một lỗ tai thôi. Một tai bịt kín để khỏi nghe pháo binh ḿnh, tai kia bỏ trống để nghe VC pháo kích.

Một thoáng êm lặng, rồi như biết được câu móc ḷ của tôi, * On chửi thề:

– Đ.. M.. * mất dạy. Mày mà đ̣i móc ḷ tao sao được. Tao đâu có ngu.

Thấm thoát mà 15 ngày biệt phái của tôi trôi qua mau. Con người qủa thật là dể thích ứng với hoàn cảnh mới. Tôi chỉ c̣n nhớ Thủy… sơ sơ thôi chứ không c̣n “nồng nàn da diết” như những ngày mới đến đây nữa.

Cuộc đời biệt phái cũng có nhiều niềm vui khác như đi uống cà phê đêm, nhậu nhẹt, gặp lại bạn bè cũ, kết bạn bè mới. Với lại, chúng tôi vừa khám phá ra một quán cà phê mới khai trương. Cô Cashier coi xinh không chịu được.

Thế là chiều chiều cơm nước xong, chúng tôi bảy tám người chất nhau lên chiếc xe Jeep ra quán cà phê ngồi… ĺ đến tới tối. Giữa khu rừng núi hoang dại này, dể ǵ kiếm được một cành hoa.

Tôi để ư thấy Thiếu úy On yêu đời ra mặt. Không hiểu nó tính dợt le với ai mà đi biệt phái ở nơi rừng sâu núi thẩm này cũng mang theo được mấy cái khăn quàng cổ đủ các màu. Đi uống cà phê những lần sau này nó nhất định phải đóng thêm cái khăn quàng cổ màu tím vào cho ra cái điều như là… màu tím hoa sim, coi chán đời không chịu được. Vào quán cà phê, Thiếu úy On ăn nói chững chạc đàng hoàng, không láu cá nham nhở như tôi..

Có mấy lần tôi tính tḥ tay ra sờ mông em th́ bị nó gạt phắt đi, điệu hung hăn làm như nó… chưa sờ đít ai bao giờ. Nó muốn mang khăn quàng màu ǵ hay tán tỉnh ǵ th́ kệ nó, tôi không để ư tới. Cái làm tôi thích thú nhất là mỗi lần ra về, cu cậu nhất định dành trả tiền cho kỳ được.

Dĩ nhiên, tôi không bao giờ phản đối cái mục này. Tôi biết * khỉ này nó có bao giờ trả tiền cà phê cho ai đâu. Hóa ra là con người khi yêu ai cũng trở thành dễ thương hết.

Chả trách ǵ nhà văn Shakespeare đă phán một câu :

“Everybody loves the lover”. Cả thế giới đều yêu một kẻ si t́nh.

Đúng thật. Tôi ước giá phi đoàn có chừng chục tên như Thiếu úy On th́ tôi khỏi sợ tốn tiền cà phê thuốc lá. Được trớn, tôi xúi dại nó, bảo hay là mầy xin ở lại Kontom luôn cho anh em nhờ. Nhưng nó quắc mắt lên, cười khỉnh :

- ” Vừa phải thôi… tám. Tao tuy ngu nhưng đâu có ngu hơn mày.”

Lần biệt phái này, trái với lời anh Ngọc tiên đoán, sư đoàn 23 BB không có đụng trận nào ra hồn cả. Thỉnh thoảng một bọn ” giặc cỏ” đến quấy rối rồi lặn mau như chuột. Dường như cả hai bên đang nghỉ ngơi dưỡng sức. Dưới đất mà không thèm đánh nhau th́ trên trời biết ăn thua với ai.

Những phi vụ air cover nhàn rỗi, tôi hỏi đại úy Ngọc đi ”duy tŕ khả năng” bắn rocket.

"Duy tŕ khả năng” là một danh từ không quân dành cho những anh chàng phi công văn pḥng, sợ lâu quá không bay th́ lúc leo lên tàu, th́ quên béng nó mất cái cần lái nằm chỗ nào nên phải bay “duy tŕ khả năng” cho khỏi quên.

Tôi th́ khoái tập bắn rocket sao cho nó đẹp như ‘Dăng gô” bắn súng. Chỉ đâu bắn trúng đó. Cái kiểu bắn rocket của tôi phi đoàn ai cũng chán v́ lối bắn mất dạy.

Bay trên mục tiêu, tôi cắt ga cho tàu rơi cái rào nhiều khi gần như cắm đầu thẳng xuống. Cứ thế mà bóp c̣. Bắn th́ dể nhưng khi kéo tàu lên mới là cực h́nh.

“ G ” đâu mà lắm thế, mặt mũi cứ dài ra cả thước nhưng đại úy Ngọc chịu chơi, lần nào cũng cho tôi bắn. Nhiều khi anh c̣n nh́n “tác phẩm” của tôi phê b́nh :

“ Số mày sinh ra để bay khu trục mà bị trời bắt lái .. L19 . Đúng là con nhà vô phúc”.



MPj4dPSEPP4


Ngày cuối cùng của cuộc biệt phái, chúng tôi cất cánh phi vụ thứ hai vào khoảng 3 giờ chiều. Lên trời, làm vài ṿng, tôi hỏi đại úy Ngọc :

– Hay ḿnh làm vài ṿng, nếu không có ǵ th́ đi kiếm cái cḥi thượng nào đó “duy tŕ khả năng” rồi về đáp. Mai đổi biệt đội khác rồi.

Đại úy Ngọc tự nhiên phản đối :

– Thôi cứ để đó, mày bay dọc lên Dak Pek đi. Tao đi quan sát lần chót để bàn giao vùng trách nhiệm cho phi hành đoàn mới.

Có cái ǵ thắc trong đầu anh mà tôi không nghĩ ra. Lát sau anh nói:

– Mày để ư thấy chiến trường lần này, đặc biệt là cách mấy ngày hôm nay yên lặng một cách quá đáng không ?

Tôi chả biết ǵ, trả lời :

– Yên th́ có yên đó, nhưng mà có ǵ không anh ?

– Thường thường mà yên quá như thế này là thế nào cũng có đánh lớn.

Tôi nói xuôi:

– Mai ḿnh về rồi, nhằm nḥ ǵ.

Khoảng 5 giờ chiều tôi đang lơ lửng gần một cái đồn nhỏ gọi là đồn Dakseang, phía Nam của Dakto. Đại úy Ngọc chợt giật cần lái, quẹo một ṿng.

– Để tao coi. Đ.M. h́nh như đồn này đang bị pháo kích. [b][size=3][color=blue][i]

Chỉ một thoáng sau anh la lên :

– Đ.M. đúng rồi. Đ.M. nó đang pháo vô đồn.


https://scontent-yyz1-1.xx.fbcdn.net/v/t1.0-9/91753811_26332022602 57239_96539603409829 8880_n.jpg?_nc_cat=1 11&_nc_sid=110474&_nc_ohc=zCOXs-0b_TIAX86vhP_&_nc_ht=scontent-yyz1-1.xx&oh=b61a5b5496b673947 81e363f8e021440&oe=5FA9C60E


Anh Ngọc gọi máy về Trung Tâm Hành Quân, báo cáo những ǵ ḿnh thấy và xin tần số liên lạc ngay. Chỉ trong vài phút, Trung Tâm Hành Quân xác nhận với chúng tôi là đồn bị pháo kích, và có nhiều dấu hiệu cho thấy đồn sẽ bị tấn công.

Chúng tôi được chỉ thị ở lại làm việc với đồn. Bắt được liên lạc, trao đổi danh hiệu xong là chúng tôi giảm cao độ. Vừa tà tà bay vô th́ bổng hàng chục cây pḥng không nhắm vào chúng tôi nổ tới tấp. Chắc chắn phải có vài viên trúng tàu v́ tôi nghe lên vài tiếng bụp bụp.

Tôi càu nhàu:

” 15 ngày biệt phái không sao, ngày cuối cùng mà lănh một viên vào.. đít là xui quảy..” vô không nổi, tôi quẹo ra. Đại úy Ngọc phê b́nh:

–" Trên trời mà pḥng không “kèm cứng một rừng” như vậy là dưới đất nó đă chuẩn bị trận địa pháo rồi. Lạng quạng th́ đồn này chắc mất tối nay. "

Anh giở tấm bản đồ, ba cái FM trên phi cơ được sử dụng liên tục. Cái gọi pháo binh, cái trực với đồn Dakseang, cái nói thẳng với Bộ Tư Lệnh chiến trường. Cường độ pháo kích càng ngày càng trở nên khốc liệt, Tôi lên cao chút xíu rồi ŕnh ŕnh lại chui vào từ một hướng khác.

Bố khỉ, tôi lúc ấy mới khám phá ra là khu vực làm việc bị mây “broken” từng cụm nhỏ bao phủ khoảng từ 5 đến gần 8 ngàn bộ trên trời. Đang quan sát, tàu chui vào mây là coi như mù. Ra khỏi mây th́ phải mất một lúc mới trở lại được chổ quan sát cũ.

Đại úy Ngọc chửi thề :

- “ Đ.M. mây mà cũng bị VC dụ dỗ đâm sau lưng chiến sĩ. Trời đất bao la sao không kiếm chỗ bay mà cứ lẩn quẩn làm con C.. ở đây.”

Tôi đă cắt ga xuống dưới trần mây mấy lần nhưng vừa xuất hiện là bị hàng chục họng pḥng không thổi rào rào vô mặt, đuổi trở lên “súng đâu mà chúng nó lắm thế” . Tôi đành vật lộn với mấy cụm mây…VC này.


https://maithanhhaivietnam.f iles.wordpress.com/2011/12/hn69.jpg


Bi thảm hơn, giặc bắt đầu nả 130 ly vào đồn, Hai cây đại pháo, một cây đặt ở ven làng cách đó chừng 15 cây số, cây kia ở hướng đối diện cứ tà tà nă từng trái một vào đồn.

Từ trên, tôi nh́n thấy rơ ràng những quả đạn rơi rất chính xác vào trong đồn. Cứ mỗi quả đại bác rơi xuống là có chừng mười mấy trái súng cối nổ kèm theo “phụ diễn”.

Tôi và anh Ngọc lồng lộn trên tàu bay. Máy vô tuyến gọi đến gần nát cả họng, nhưng bất ngờ quá, chả thấy phi tuần xuất hiện, anh Ngọc gọi pháo từ căn cứ pháo binh gần đó nhất để yểm trợ. Vừa nhận được tọa độ, đă nghe ở dưới đất kêu trời:

– Vô ích bạn ơi. Xa quá, bắn tới… Têt cũng huề.

– Th́ bạn quay ṇng xuống thổi đại cho một chục tràng đi, bắn dọa nó cũng được.

– Xong rồi, để tôi cho yếu tố tác xạ – Yếu tố mẹ ǵ, bắn đi bạn….


https://i.pinimg.com/originals/60/c3/b7/60c3b7af6d18f4eb177d f1864508b44c.jpg


Khoảng 5 giờ rưỡi chiều, người chỉ huy đồn Dakseang có vẻ bối rối:

– Bạch Ưng, đây Thanh Trị.

– Nghe 5 bạn

– Báo cho bạn biết đến giờ phút này con cái tôi đếm được là 500 trái rồi đó bạn. Hầm hố tôi 50% thiệt hại.

Tôi muốn nhảy nhổm trong tàu bay. 500 trái vừa cối vừa pháo xuông một diện tích tí teo như thế kia th́ c̣n hầm c̣n hố nào.

Anh Ngọc bổng nẩy ra một kế…chết người.

– Nếu để nó pháo điệu này th́ chừng tí nữa quân ḿnh chẳng c̣n ǵ hết. Ḿnh phải “chiến tranh chính trị” mới được.

– Có học trường chiến tranh chính trị ngày nào đâu mà đ̣i…chiến tranh chính trị anh ?

Người phi công chiến tranh chính trị bất đắc dĩ lên mặt dạy dỗ.

– Từ từ để tao cắt nghĩa. Chiến tranh chính trị nghĩa là…có là không, không là có. Bây giờ chưa có phi tuần th́ ḿnh phải làm như có phi tuần. Ḿnh phải xuống ngay trên đầu mấy cây pháo làm bộ như phi tuần sắp tới th́ pháo nó mới câm được.

– Xong rồi .


sR6Exq2o0y0


Mặc dù vẫn c̣n ngán mấy chục họng pḥng không nhưng trong hoàn cảnh này, đạn tránh người chứ người làm sao tránh đạn? Tôi cắt ga cho tàu rơi cái rào, cứ nhắm họng đại bác bay tới. Đạn nổ tùm lum chung quanh tàu. Anh Ngọc trấn an tôi:

– Mầy đừng lo, tao có bùa nanh heo rừng. Đạn nó né tao.

Nghe sao mà chán đời, Tàu bay chỉ có 2 người, đạn nó bay vào đây mà né anh Ngọc th́ nhất định nó phải kiếm người khác để chui vào. Người đó c̣n ai khác hơn tôi. Bỗng nhớ ra điều ǵ, anh sờ tay vô ngực quờ quạng rồi rú lên:

– Bỏ mẹ rồi, nanh heo rừng đíu có đem theo. Đ.M. hôm qua đi tắm treo nó chỗ phuy nước quên đeo vô rồi. Nhưng anh nói ngay:

– Nhưng tử vi nói tạo sống thọ lắm, yên chí lớn đi em.

Tôi nghiệm ra rằng con người, lúc ở trong những hoàn cảnh nguy hiểm đều kiếm ra một lư do ǵ đó để tự tin và hy vọng.

Càng đi xa đồn th́ pḥng không càng bớt dần. Thấp thoáng con gà cồ của giặc đă nằm ngay dưới cánh, chúng tôi xuống thấp thêm tí nữa, lượn ṿng chung quanh cây pháo.

Đúng y như anh Ngọc đoán, pháo im bặt. Rồi như một cơn mưa rào đổ xuống mùa hạn hán, một hợp đoàn Cobra của Tây xuất hiện. Đại úy Ngọc qua được tần số của Tây xí xa xí xồ một chập, tôi nghe được mấy tiếng “everywhere”. Vừa vào vùng là mấy anh Cobra làm ăn liền.

Tôi ngạc nhiên thấy họ thay phiên nhau bắn rào rào chung quanh đồn. Như vậy con cháu họ Hồ đang “tùng thiết” đi vô chăng ? Dĩ nhiên pḥng không giặc bây giờ đổi mục tiêu, nhắm mấy anh Cobra nhả đạn.

Trận thư hùng coi rất đẹp mắt nhưng ngắn quá. Mấy ông Tây bắn chừng 5 phút là hết đạn, quay lui.


https://petruskyaus.files.wo rdpress.com/2020/07/tai-chiem-quang-tri-01.jpg


Khốn nạn hơn cái món chiến tranh chính trị xem ra hết ép phe. Có lẽ giặc biết chúng tôi chỉ dọa giả nên cây pháo bắt đầu nổ trở lại. Đại úy Ngọc gầm lên:

– Đ.M. tụi mày, lát nữa khu trục lên tao cho nó…bỏ bomb thấy mẹ mày.

Tức quá mà không làm ǵ được th́…chửi cho đă tức. Chúng tôi chỉ có 4 quả Rocket khói, chẳng sơ múi ǵ được.

Rồi Peacock gọi thông báo sẽ có phi tuần khu trục A-1 đang cất cánh khẩn cấp từ Pleiku lên làm việc với chúng tôi. Đại úy Ngọc hớn hở gọi máy:

– Thạnh Trị, đây Bạch Ưng

– Nghe 5 bạn, gần ngàn trái rồi. Tụi nó mới xung phong đợt đầu đó bạn.

– Có sao không bạn ?

– Không, mấy chuồn chuồn tới đúng lúc với lại con cái tôi đánh giặc c̣n “tới” lắm bạn ơi. Tụi nó rút hết rồi. Khoảng chùng 50 xác nằm dài dài. Mấy Tây đánh đẹp lắm.


OVmNT_BzgKE


– Chúng tôi sẽ có 2 phi tuần lên liền bây giờ với bạn.

– Bạn ráng dùm, hầm hố gần nát hết rồi bạn.

– Tôi hiểu bạn.

Cây 130 ly quái ác vẫn đ́ dạch phọt ra từng cụm khói đen.

Tôi bảo anh Ngọc :

– Anh để em lên làm đại một trái khói vô đó coi, may ra….

– Ờ, may ra….

Tôi làm ṿng bắn, nghiêng cánh quẹo vào, nhắm và bóp c̣. Oành cái Rocket nổ…gần cây đại pháo. L-19 mà bắn được vậy là nhất rồi, nhưng có chết * chó nào đâu?

Không chết nhưng cây pháo lại im tiếng một lần nữa. Tốt ! Tôi tính cứ lâu lâu nhào xuống xịt cho tụi nó một trái để mua thời gian chờ khu trục lên.

Rồi tiếng rè rè thử vô tuyến của mấy ông khu trục A-1 nghe lên bên tai. Phải thú nhận, cái tiếng rè rè đực rựa lúc này nghe sao mà nó…đáng yêu thế. Đó là thứ tiếng nói của hy vọng, của niền tin, của sức mạnh, của t́nh chiến hữu.

Anh Ngọc trao đổi vô tuyến với phi tuần khu trục rồi gọi máy cho quân bạn.

– Thạnh Trị, đây Bạch ưng

– Nghe bạn 5.

– Chim sắt của tôi lên rồi đó bạn. bạn muốn tôi đánh đâu ?

– Bạn lo dùm mấy con gà cồ trước đi.

– OK ! Roll


rx7vvi6PenE


Phi tuần khu trục vừa xuất hiện th́ cả bầu trời biến thành một biển lửa. Số lượng pḥng không bây giờ không biết là bao nhiêu cây, nhưng ḍm hướng nào cũng chỉ thấy lửa và lửa.

Trời đă về chiều nên những viên đạn lửa bay vút lên cao càng được thấy rơ ràng hơn. Phi tuần đầu nhào lên nhào xuống mấy lần vẫn không làm câm họng được cây pháo pḥng không v́ trời quá xấu.

Những đám mây…phản quốc, khốn nạn vẫn ch́nh ́nh khắp nơi. Khó khăn lắm họ mới kiếm được cái lỗ chui xuống, bay giữa những loạt đạn pḥng không trùng điệp, để tới mục tiêu, bấm rơi bomb, rồi kéo lên.

C̣n 2 trái cuối cùng, người phi công A-1 “để” vào ngay trên ổ súng chính xác như để bi vào lỗ. Ầm một tiếng vang lên rồi tiếp theo là nhiều tiếng nổ phụ. Cha con nó đang đền tội. Xong một cây.

Anh Ngọc hướng dẫn phi tuần thứ hai đang làm ăn th́ tôi nghe tiếng gọi:

– Bạch ưng, đây Thạnh Trị

– Nghe 5 bạn

– Báo bạn biết, hầm chỉ huy tôi xập rồi. Tôi ra giao thông hào với mấy đứa con.

– Bạn nhớ giữ liên lạc với tôi.

– Bạn…

Không có tiếng trả lời. Tôi hoang mang. “ra giao thông hào với mấy đứa con” vậy là bi đát lắm rồi.:112:


C̣n tiếp ,

hoathienly19
10-14-2020, 07:33
Anh Ngọc bảo tôi:

- Anh đang bận hướng dẫn khu trục, em qua FM gọi thẳng TTHQ xin gấp cho anh ít nhất là 2 phi tuần nữa, lên liền lập tức, nếu không kịp là tụi nó sẽ "over run" Dakseang trong ṿng nửa tiếng đồng hồ.

Tôi đổi tần số FM, Anh Ngọc cẩn thận dặn ḍ thêm:

- Phải nhớ la ơi ới lên như là đang bị bóp...dái th́ cha con nó mới chịu chạy dùm.

Tôi ph́ cười, ông đại úy nầy lúc nào cũng đùa được. Khỏi cần bị ai bóp dái tôi cũng la được v́ ḥ hét và tả oán là sở trường của tôi. Tôi gọi máy và có kết qủa ngay.

Anh Ngọc mừng rú lên khi được thông báo có một phi tuần F4 của Hải Quân Mỹ sẽ cất cánh ngay từ hàng không mẫu hạm vào làm việc.

Giọng nói từ dưới đất bây giờ nghe có vẻ hốt hoảng:

- Bạch ưng, đây Thạnh trị

- Nghe bạn 5

- Bạn cho mấy con chim sắt đánh sát quanh đồn gấp đi bạn. Tụi nó đang "à lát xô" lên.


Huy hiệu Địa phương quân (trên nón beret xanh dương)


https://lh5.googleuserconten t.com/9GNEMVXpv-8ERWVRsFqHnbbGw9KwEk 4zzSlYNZGJ09kzGO_TIN HDSmrofjrmmFbArHxIP7 tkgIT7AzI7LvyXswJ_mz fovsVdRMtHLwPf1zcFP6 RZ4_DuxFVsFsFf2uSo4v D6dkNJyfB6FOAHfA


Anh Ngọc la ùm lên trong tần số khu trục. Hai chiếc khu trục A-1 c̣n mấy trái bomb bỏ dở cây, hối hả trở về đồn nhào xuống đánh sát chung quanh rào. Một ông la to khi kéo tàu lên.

- Tụi nó đông như kiến bạn ơi.

- C̣n phải hỏi.

Khu trục đánh hết bomb nhưng vẫn bay trên mục tiêu để bắn hết những tràng cà nông 20 ly. T́nh h́nh lúc này đă bi đát lắm rồi.

Giặc xung phong lên ào ào.

Thạnh trị thông báo là một góc pḥng tuyến đă bị vỡ và con cái anh đang xáp lá cà với giặc.


Tôi nghe Trung tâm hành quân "TTHQ" thêm ba căn cứ khác cũng bị tấn công một lúc.

Anh Ngọc bảo tôi:

Tao c̣n lạ ǵ cái tṛ này, tụi nó đánh nghi binh để dứt điểm Dakseang đó. Phải cẩn thận.


https://i2.wp.com/hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd2/HQPD_1352304874.JPG


Trong vô tuyến, tiếng tàu bay gọi nhau tiếng trao đổi gă trên trời và dưới đất nghe loạn cào cào..

Bởi trong những tiếng ồn ào đó, có tiếng gọi của mấy ông F 4 Hoa Kỳ. Mấy ông Tây trang bị vũ khí tận răng. Hai chiếc F4 mỗi chiếc mang 18 trái 500 pouds đang làm ṿng chờ ở khoảng 20 ngàn bộ.

Anh Ngọc chỉ "briefing" một tí, mấy ông "Roger" và "Sir"lia lịa nhào xuống làm ăn liền. Khu trục Việt Nam đánh đă đẹp, mấy ông Tây đánh cũng không thua ai.

Từ khoảng 15 ngàn, mấy ông nhào xuống dưới trần mây, để những trái bomb thật chính xác. Pḥng không bắn dữ dội nhưng xem ra không ăn thua ǵ với mấy chiếc F4 này.

Đang đánh ngon lành th́ tôi nghe tiếng gọi từ dưói đất:

- Bạch ưng, đây Thạnh trị

Giọng nói lúc này không có vẻ hốt hoảng mà b́nh tĩnh lạ thường.

Anh Ngọc bấm máy:

- Nghe bạn 5, cho biết t́nh h́nh đi bạn.

- Tôi yêu cầu Bạch ưng cho đánh ngay vào trong đồn.


https://hung-viet.org/images/file/nR1V7zdj0wgBANUl/nguoilinhvietnamcong hoa-diaphuongquanhanhqua n.jpg


Cả hai chúng tôi giật nẩy ḿnh, chỉ hy vọng là ḿnh nghe...lộn. Chúng tôi sững sờ không trả lời được.


Người chỉ huy phía dưới đất xác nhận lại:

- Bạch ưng, tôi xác nhận lại, tôi xin bạn đánh xuống đầu tôi.

- Bạn nói bạn xin đánh thẳng vào đồn ?


- Đúng 5. Hết hy vọng rồi bạn ơi. Cứ đánh vào đây để tụi nó chết chùm luôn với chúng tôi.

- Bạn suy nghĩ kỹ chưa ?

- Giọng nói dưới đất lúc này nghe có vẻ hết kiên nhẫn :

- Không c̣n lựa chọn nào khác bạn ơi. Bạn đánh lẹ giùm. Chúc bạn may mắn. "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" mà bạn... :112:

Đó là những tiếng nói cuối cùng tôi nghe được từ đồn Dakseang :

"Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi".


o0QGutGx0d8


Anh Ngọc hốt hoảng gọi máy về xin chỉ thị quân đoàn. Quân đoàn trả lời phải xác nhận với đồn Dakseang một lần nữa rồi cho biết kết qủa.

Chúng tôi gọi muốn đứt hơi nhưng không c̣n liên lạc được với Thạnh Trị nữa. Báo cáo trở lại, quân đoàn quyết định:

- " Cho đánh thẳng vào đồn nhưng phải... cẩn thận.

- "Cẩn thận con C... ông" anh Ngọc lẩm bẩm chửi thề rồi gọi máy thong báo cho mấy ông Tây, bảo đánh thẳng vào đồn.

Người phi công hải quân Mỹ vừa kéo con tàu lên sau một loạt tấn công cũng bối rối không kém:

- Roger! Sir, Did you say...right on it ? Over

- Yes sir, it's all over. I said you salvo right on it. Over.

- Roger, sir, I understood, sir, Over.

Chỉ có vậy thôi, đồn Dakseang biến thành một biển lửa sau hai đợt bomb salvo của mấy chiếc Phantom.


O-oGfkVmLHQ


Tôi đang chứng kiến một h́nh ảnh mà có lẽ suốt đời sẽ không bao giờ quên được. Tôi biết nói ǵ lúc này đây cho những người chiến sĩ Địa Phương Quân QLVNCH ?

Tất cả những ngôn từ, những ư nghĩ đều trở thành vô nghĩa trước cảnh tượng bi thảm hào hùng này. Bay cách đó chừng 5 cây số với cao độ 5 ngàn bộ mà con tàu tôi như rung lên dưới tiếng nổ và sức ép khủng khiếp của mấy chục trái bomb 500 cân Anh nổ một lần.

Làm sao c̣n có ai sống sót sau cơn tàn phá khủng khiếp này?.

Những thịt, những xương, những máu của các anh hùng Dakseang đă tung bay khắp nơi rồi rơi xuống lẫn lộn với bụi, với đá, với sắt, để rồi nằm im trên mặt đất.

Cũng trên mặt đất nầy của quê hương, ở một nơi nào đó, những người vợ, những đứa con, những bà con thân bằng quyến thuộc của các anh đâu biết người thân của ḿnh vừa anh dũng đền nợ nước, vừa " Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" như lời trăn trối cuối cùng của người đồn trưởng, vừa chết để cho cả dân tộc được sống, được hít thở không khí Tự Do dù chỉ trong một khoảnh khắc...

Ngày mai đây, những chiếc khăn tang trắng sẽ được chít vội vă lên đầu những người thiếu phụ nghèo nàn khổ sở kia, những khuôn mặt bầu bĩnh vô tội của trẻ thơ.

Nước mắt nào khóc cho hết nỗi bi thương của người vợ lính VNCH đây hỡi ông trời xanh thẩm? h́nh ảnh nào có thể thay thế được h́nh ảnh ngọt ngào của Cha chúng nó, suốt khoản đời c̣n lại của những em bé hồn nhiên vô tội kia hỡi ông trời ? :112:


3hCuT7DgBYI


Dân tộc tôi đă làm ǵ nên tội, "Tử biệt sinh ly" câu nói nghe được từ thuở học tṛ bầy giờ mới thấy trọn nghĩa ư đau thương. Máu nào chảy mà ruột không mềm, mắt tôi bỗng chan ḥa nước mắt. Tôi tống ga bay trở lại đồn.

Qua màn lệ nhạt nḥa, tôi chẳng c̣n thấy ǵ, ngoài những cụm khói đen bốc lên giữa đồn.

Những cụm mây oan khiên vừa rồi vẫn c̣n vần vũ như những chiếc khăn tang trắng lồng lộng bao phủ cả bầu trời.

Mây ơi là mây, c̣n sống chẳng chịu giúp nhau, bây giờ người đă chết, đồn đă mất sao c̣n lảng vảng để khóc thương.

Trời chiều cao nguyên vốn đă thê lương cô quạnh lại càng trở nên tang tóc sầu thảm hơn.

Hai chiếc Phantom Hoa kỳ ráp thành một hợp đoàn tác chiến bay những ṿng tṛn thấp chung quanh đám đất đá điêu tàn không hiểu để quan sát hay để chào vĩnh biệt những chiến sĩ gan dạ anh hùng của Địa Phương Quân QLVNCH.



https://scontent-yyz1-1.xx.fbcdn.net/v/t1.0-9/53305547_23054352263 67279_31151009103347 71200_n.jpg?_nc_cat= 102&_nc_sid=110474&_nc_ohc=o4-97Kz8kHoAX8b2W4m&_nc_ht=scontent-yyz1-1.xx&oh=d00549587071e161c af8db65bc71004f&oe=5FAB357C


Dưới trời chiều nắng tắt, trông hợp đoàn Phantom như hai con chim hải âu ủ rủ lượn từng ṿng quanh xác chết của đồng loại.

Sau khi nhận kết oanh kích của anh Ngọc, giọng nói xúc động của người phi tuần trưởng Phantom vang lên:

- Sir, may I reach out across the fires and destructions of today to tell you this:

Those people down there have fought like men and have gone in honor.

Giọng anh Ngọc run run nghẹn ngào :

- Yes sir, they have gone in honor. That was an Alamo by all means, sir. An ever greater Alamo than ours, Over.

Tôi thấy hai hàng nước mắt chảy dài trên má anh Ngọc.

- Roger ! We have thousand of Alamo like that every day in our country.

- Roger, I believe that, sir, God bless you all. Over.


Hai chiếc Phantom liếc cánh chào vĩnh biệt rồi bốc lên cao, mất hút giữa bầu trời ảm đạm.



https://image.anninhthudo.vn/w600/Uploaded/2020/205/2020_01_03/au-1.jpg


Alamo, cái tên nghe đă đi vào huyền sử của dân tộc Hoa Kỳ mà bất cứ công dân Mỹ nào nghe cũng phải hảnh diện.[/i][/color][/size][/b]

Alamo, làm tôi nhớ đến bài học Anh văn năm đệ ngũ.

Alamo, đúng ra là một ngôi nhà thờ "Y pha nho" mà hai ngàn chiến sĩ kỵ binh Hoa Kỳ đă tử thủ khi chống cự lại với hàng chục ngàn quân Mễ Tây Cơ cho đến giây phút cuối cùng. Không ai đầu hàng và tất cả đă bị tàn sát.


Người Mỹ chỉ có một thành Alamo trong suốt 200 năm lập quốc mà cả thế giới đều biết, đều mến phục.


Đất nước tôi có bao nhiêu thành Alamo c̣n tàn khốc hơn, đẩm máu gấp ngàn lần hơn suốt bao nhiêu năm chinh chiến.


Sáng hôm sau tôi và anh Ngọc bay thêm một phi vụ sớm trước khi bàn giao biệt đội. Tối đêm qua một trận mưa bomb của B52 đă cày nát khu tập trung quân giặc.



https://lh4.googleuserconten t.com/fXIjj1Gh5KQVQlRrv0ot 8P0kk497rdSLEcMAnADe KNBGUR_tUIW0pX00xP2s mQji3lu6wKbmjISTVRuZ 3C7m-rLXmcjK2oFQiBxV0LCq_ qvwFDqTu4IbSY9Q0Enwp FNciebzGdfnAtVJWY8Js A


Dù biết là vô ích, chúng tôi vẫn mở lại tần số cũ để gọi cho Thạnh trị.

Nhưng chả c̣n Thạnh trị nào để trả lời cho Bạch ưng nữa.

Đồn Dakseang chỉ c̣n là đống đất vụn điêu tàn. Gió thổi lên từng cơn cuốn theo những lớp bụi đỏ mù. Tôi nh́n xuống đó, tưởng nhớ đến những cái chết oai hùng chiều qua.

Trong một quê hương khói lửa, kiếp người quả thật mong manh như gió, như đám bụi mù kia. Mới nói nói cười cười mà giờ đây đă ngàn thu vĩnh biệt. Bay thêm vài ṿng quanh đồn để tưởng nhớ ngậm ngùi cho các anh rồi cũng đến lúc phải từ giă để ra đi.


"Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi"

Thôi th́ xin thành kính nghiêm trang giơ tay chào vĩnh biệt các anh.


https://imagizer.imageshack. com/v2/522x359q90/r/921/57cgVl.jpg



Những người lính Địa Phương Quân âm thầm của một tiền đồn xó núi.


Địa Phương Quân, cái tên nghe khiêm nhường và hiền lành như đất, như bộ đồ xanh bạc màu của các anh.


Địa Phương Quân, thứ lính...âm thầm nhất trong các thứ lính của quân lực

- Không màu mè

- Không áo rằn ri

- Không có những huyền thoại khủng khiếp

- Không "truyền thống, binh chủng"

- Không có đến những khẩu hiệu nẩy lửa chết người.

Nhưng Địa Phương Quân Pleiku chiều hôm qua đă b́nh tỉnh xin :

" Cho nó nổ trên đầu tôi". "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi bạn ơi" :112::112::112::112: :112::112:


https://lh5.googleuserconten t.com/xAdeFUGnhlufL3dPAZ_C AZwGMsFgB3_uBlfZ3lyv Hty1ucDHMKujHWn8F-N6L7afEcJtfcGVunS8Hs 5jTubnVD00Td7fXnSZKX iZLKmxFZ1OWkFYFF-rsx6mqz0mkfTwqVgNrDH XSeetKYAiVQ



Xin vĩnh biệt và cảm tạ.


Cảm tạ các anh đă đem cái qúi giá nhất của cuộc đời là mạng sống ḿnh để đổi lấy cho quê hương dù đă rách nát tả tơi c̣n có được những ngày xanh hy vọng.

Cho buổi hợp chợ ban mai, dù nghèo nàn thưa thớt vẫn c̣n được an b́nh.

Cho ngôi trường quận lỵ thấp lè tè những mái tôn cháy nắng c̣n rộn tiếng trẻ thơ cười.

Cho mái chùa cong cong nơi sườn núi c̣n được ngân lên những hồi chuông tín mộ.

Và cho những người ở lại như tôi đây biết rằng ḿnh sống tức c̣n nợ phải trả....


https://1.bp.blogspot.com/-rmrlADl_M6I/WpYruDHWQ-I/AAAAAAAAaS8/gHGwzfgRFdsue2qcWUUL U5q-Tj8l00RuACLcBGAs/s640/A%25CC%2589nh%2Bchu% 25CC%25A3p%2BMa%25CC %2580n%2Bhi%25CC%258 0nh%2B2018-02-28%2Blu%25CC%2581c%2 B11.00.25%2BSA.png


Các anh chính là những người được mô tả trong một bài học thuộc long tôi thuộc làu làu lúc c̣n là một đứa bé :

Họ là kẻ khi quê hương chuyển động

Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng

Đă xông vào khói lửa quyết liều thân

Để bảo vệ tự do cho tổ quốc

Trong chiến đấu không nài muôn khó nhọc

Cười hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan

Người thất cơ đành thịt nát xương tan

Những kẻ sống ḷng son không biến chuyển

Tuy tên họ không ghi trong sử sách

Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên

Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên

Không ai đến khẩn nguyền dâng lễ vật

Nhưng máu họ đă len vào mạch đất

Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông

Và linh hồn chung với tấm t́nh trung

Đă ḥa hợp làm linh hồn giống Việt.


Xin thành kính viết lại một phần bài thơ của Đằng Phương để tặng các anh.

Các anh chính là những "Anh Hùng Vô Danh". Tổ Quốc Việt Nam, dân tộc Việt Nam ngàn đời sẽ c̣n ghi ơn các anh.

Xin vĩnh biệt và cảm tạ .:112::112::112:

Trường Sơn Lê-Xuân-Nhị

hoathienly19
10-16-2020, 17:01
ĐỊA NGỤC MÁU LỬA !


CHIẾN ĐOÀN 1 XUNG KÍCH / SỞ LIÊN LẠC / NHA KỸ THUẬT


Thiếu Tá Nguyễn Văn Thụ, Sĩ Quan Điều Nghiên và Không Thám, đánh thức chúng tôi dậy vào lúc năm giờ sáng, thông báo ba mươi phút nữa Toán đươc đưa ra phi trường. Cường nhóc bị thương ở lại NKP...

Toán chúng tôi c̣n lai năm người hành quân, gồm :

- Trung Sĩ Quang (Trần Quang) Toán Phó (One one) phụ trách điện đàm, c̣n lại là bốn toán viên Biệt Kích Quân (BKQ).

Tôi, BKQ Hải (Nguyễn Văn Hải) Thông dịch viên.

BKQ Nguyễn Duy Châu, Khinh binh (point man) BKQ

Hào (Lê Thanh Hào) M79.

Thiếu Úy Điệp (Phạm Ngọc Điệp) Trưởng Toán (One zero), sáng nay đă bay Covey Ov10 quan sát băi đáp, dự thuyết tŕnh mục tiêu.


https://www.nhayduwdc.org/ls/bklh/2016/bklh001_001.png


Chiếc MC130 Blackbird, loại có râu móc trước mũi đề bốc Toán theo kiểu James Bond 007 (Fulton Skyhook Extraction System).

Cửa sau đă mở sẵn chờ đợi cửa sau của xe bít bùng chở Toán. Thiếu Tá Thụ không đi theo.

Máy bay lập tức ra phi đạo rồi cất cánh. Hơn nửa giờ bay, giờ phi cơ đang chuẩn bị hạ cánh, cái cảm giác nặng chịch trong ḷng cùng buốt hai tai, tạo cho tôi cảm giác bay bổng nhưng rất khó chịu trong người.


Một xe GMC chạy đến tận cửa sau máy bay đón chúng tôi. Nh́n vào nóc nhà xây trước mặt, trên nóc nhà hàng chữ “Phi trường Kontum”.

GMC chở Toán đên một khu vực cũng nằm trong phi trường, trên sân sáu chiếc Kingbee sơn mầu blackbird đang chờ, sẵn sàng cất cánh.

Từ trực thăng, cảnh núi rừng trùng điệp. Bên dưới, đám mây trắng kéo thành một vệt dài dưới ánh nắng như chưa đủ sức làm tan loăng. Gió phần phật lốc vào làm ran rắt trên mặt cùng tiếng ầm ĩ của động cơ trực thăng. Người xạ thủ trực thăng, cạnh tôi mời thuốc hút.

Đảo một ṿng, trực thăng chở Toán bắt đầu đáp xuống, theo sau những chiếc đă xuống trước.

Đoàn Kingbee sáu chiếc, chỉ chở năm hành khách. Dưới băi đáp, một Trung Úy người Mỹ thông báo phi hành đoàn cùng toán trưởng vào dự thuyết tŕnh. Ngay tức th́, Thiếu Úy Điệp, đưa cây Car 15 cho tôi, rồi vào Pḥng Hành Quân.


https://4.bp.blogspot.com/-9_bZp8EGKQ4/ULxHH1rsIAI/AAAAAAAAAa0/uNuflU_WSoo/s1600/2353878960031690022D JUINm_ph.jpg


Hai chiếc Kingbee cất cánh và một trong hai chở theo Toán.

Vượt qua những ngọn đồi thoai thoải tiếp nhau, xa xa dẫy núi xanh mờ chắn ngang. Gió dữ dằn tung lốc ào ạt quanh quanh.

Những đám mây lạ lạc bất thần tạt cái lạnh êm êm. Hai chiếc Cobra, đến từ lúc nào đang song hành hộ tống. Sự phối hợp Không Quân bài bản, nhuần nhuyễn với độ chính sác cao.

Dưới kia gịng sông đỏ ngầu mầu đất ngoằn ngoèo chia cắt giữa núi cao và đồi cây. Xa kia, tầng mây trắng như cố bám lấy núi rừng và tuyệt vời hơn nữa, những đám mây mỏng nhỏ lang thang tạo thành bức tranh thần tiên lăng đăng. Người xạ thủ trực thăng ra dấu Toán chuẩn bị. Nh́n ra ngoài, đă thấy rơ chiếc OV10 (FAC) bay đằng xa.

Theo thuyết tŕnh hai chiếc Kingbee sẽ đáp xuống cùng một lúc hai băi đáp khác nhau và chỉ có một chiếc là chở Toán, nhằm đánh lừa địch.

Trực thăng hạ độ cao. Chiếc Cobra đang dọn băi bằng đại liên sáu ṇng và M79 tự động.

Bằng vào một động tác hạ nhanh, trực thăng sát đất rồi trườn xa một quăng. Đáp vội trên con suối cạn, đá lởm chởm. Toán chúng tôi nhanh chóng thoát vào rừng cây.


http://www.nhayduwdc.org/ls/bklh/2016/bklh001_007.jpg


Cơn mưa ngày qua để lại dấu tích dễ nhận trên bề dầy của lá rụng, nơi sinh sản và cũng là căn cứ của loại vắt độc hại. Mùi khai nồng, hăng hắc của cây lá bung lên như muốn giao t́nh với ánh nắng trên cao. Nhưng nắng chẳng đủ sức xuyên qua tàn cây x̣e rộng dù rằng nắng đang trực diện với đất.

Lặng lẽ chúng tôi cố gắng di chuyển thật nhanh để tránh cái lộ của băi xâm nhập. Khi máy bay đi rối, chắc chắn ở gần đây, địch sẽ đến và thám thính.

Dự đoán không lầm, khi anh em ngồi nghỉ rồi ăn trưa, đất vẫn c̣n nhăo, thêm sự tĩnh lặng, lẫn tiếng thú rừng thỉnh thoảng âm vang rồi vọng lại. Tiếng súng địch bắn để báo động cho nhau.

Rơ nhất vẫn là tiếng gà rừng mà tất nhiên không thể thiếu ở bất cứ một khoảnh rừng nào.


https://iwthanoi.vn/wp-content/uploads/2019/09/thuc-trang-ga-rung-viet-nam.jpg


Thiếu Úy Điệp cùng Châu đang căn lại bản đồ lấy phương hướng.

Hào th́ vẫn cái mùi mắm ruốc xả kinh niên mà mỗi chuyến hành quân, vợ tịch thu hết lương khô, xong phát cho một hũ ruốc sả có thề ăn dè được cả tháng. Có tiếng Covey lên bao vùng, tôi mở điện đàm chờ đợi.

Toán Phó Trần Quang đă giao điện đàm cho tôi để thế chỗ Cường nhóc đoạn hậu. Tiếng Đại Úy Ginh (Trần Trung Ginh) trên Covey gọi Toán, tôi chuyển ngay bức điện đă làm sẵn, rồi nhanh chóng di chuyển, đâm xâu vào mục tiêu.

Khu rừng thật rậm rạp. Châu vất vả lắm để mở đường. Len tỏi, lạng lách, đánh vật với cây rừng, khi mà yêu cầu đi đúng đường. Chốc chốc hắn lại phải xem la bàn. Thiếu úy Điệp đi kế Châu, cây Car 15 luôn sẵn sàng bảo vệ.

Trời quá chiều, ánh nắng hắt những tia cuối cùng. Muỗi như vă vào mặt và vắt th́ nhiều vô kể, nó đi t́m mồi như người làm xiếc, di chuyển uốn dẻo thân ḿnh rồi bung tiến tới mồi rất chính xác nếu chúng tôi lộ ra khoảng da thịt.

Điệp đă chọn được chỗ nghỉ ăn cơm chiều. Có tiếng hú vọng lại, trầm ấm, lan tỏa rồi h́nh như lại dội lại. Trên tàn cây lao xao tiếng chim gọi nhau, thiếu đi giọng hót mượt mà ban mai. Tiếng súng địch quân vẫn thỉnh thoảng nổ gọi nhau hay báo hiệu ǵ đó...

Tay lấy lọ thuốc muỗi, xoa thêm vào mặt và tay để đối phó với sự tấn công quyết tử của vắt và muỗi.

Nhá nhem tối, Toán đi t́m chỗ ngủ, lư tưởng nhất vẫn là gốc cây to, rễ bạnh. Trung Sĩ Quang lên đi đầu. Di chuyển êm, chậm chạp và cẩn thận nghe ngóng. Trời tối hẳn, ánh trăng tỏa vằng vặc từ lúc nào.


https://thumbs.dreamstime.co m/b/scary-forest-night-full-moon-scary-forest-night-full-moon-103395852.jpg


Đứng nghe ngóng một hồi lâu. Thiếu Úy Điệp ra lệnh ai hút thuốc th́ hút đi... Cẩn thận v́ khói thuốc tỏa rất xa và đó là cái mùi không có ở núi rừng.

Kinh nghiệm cho thấy, có Toán địch theo dơi cả ngày, đem đến, chỉ v́ mùi thuốc lá dễ nhận, địch âm thầm bao vây và tấn công.

Xong, Quang gài lại trái ḿn M14 rồi di chuyển t́m chỗ ngủ. Địa điểm ngủ đêm đă được đồng ư. Toán chúng tôi hạ bàn tọa... Một đám mây đen lao thẳng vào mặt trăng, trời bỗng tối xầm rồi lại sáng. Ba lô là gối, lá cây rừng làm nệm.

Dưới ánh trăng từng ngọn gió nhẹ lay động cây lá truyến tải ánh sáng phản chiếu lung linh. Cảm giác như lạc vào cơi kinh dị. Nghĩ bụng phải nhắm mắt lại ngay và đừng suy nghĩ cố mà t́m giấc ngủ.

Đây là một kinh nghiệm, v́ đă có những toán viên không ngủ được trong t́nh cảnh này, đă thút thít khóc gọi mẹ, để rồi bị chế giễu và sa thải, hay những toán viên đào ngũ chỉ v́ đă từng để lại tiếng thở dài trong đêm hành quân.

Trời sáng, sương đêm c̣n ướt nơi ngực, là đà quẩn trong gió, sương mù mỏng dần theo gió núi lành lạnh. Thông lệ Toán có một tiếng đồng hồ đễ vệ sinh và chuẩn bị cơm nước trong ngày.

Point man Châu trở lại vị trí dẫn đầu, giờ đang cùng Thiếu Úy Điệp căn lại phương hướng, xong Điệp đưa cho tôi bức điện tin vừa viết bằng mật mă. Bất giác tôi nh́n Châu, khăn mầu lá cây cột trên trán, cái răng vàng nh́n thấy rơ bởi cái miệng hắn hô, trên gương mặt lầm ĺ, xa vắng như nhớ vợ.

Tự nhiên tôi bật lên tiếng cười.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1571099616-bk2.jpg


Lệnh di chuyển, ngoái lại thấy Trần Quang đang xóa dấu vết. Tiếng súng báo hiệu hôm nay, bên này đă trả lời. Cánh rừng bớt rậm, nhưng cây lớn nhiều.

Thỉnh thoảng vài trái cây ném xuống từ trên cao, nh́n lên thằng khỉ đang nhăn răng cười tay găi găi vào nách. Không gian bao trùm âm thanh núi rừng, nắng chếch trên cao, sưởi ấm cái lạnh bên dưới nhưng không đủ sức.

Châu bất thần ngồi xuống tay ra thủ hiệu dừng lại, mắt nh́n Điệp và tôi. Quan sát động tĩnh rồi ngó về phía trước...

Một con đường ṃn chắn ngang hướng di chuyển. Phân công ba người yểm trợ, Điệp và tôi lum cum đi lên thám thính...

Con đường rất ít lá cây, có nơi nhẵn nhụi, lạ lùng nơi kia loang một vũng nươc nhỏ như có ai mới vừa tiểu tiện. Hoảng hốt tôi kéo Điệp trở lui, miệng lầm bầm :

- " Đồng chí mái " Điệp hỏi lại :

- "Sao Hải biết". Đến nơi đồng đội đang chờ, tôi giải thích... Vết lỗ đái nhỏ, xâu in trên đất, tại vũng nước loang tṛn, hạn chế th́ dứt khoát đó là tác phẩm của phụ nữ, các bà. Gọn ghẽ và thẩm mỹ.

Thiếu Úy Điệp phất tay ra dấu, vượt đường ṃn từng người một, yểm trợ lẫn nhau, đi trên lá cây. Bở hơi tai, chúng tôi đến đươc nơi có thể ngồi nghỉ. Có tiếng Covey trên bầu trời. Điệp vội vàng thêm vài chi tiết vào bức điện.

Đại Úy Ginh từ Covey đang gọi Toán, tôi trả lời và mau chóng chuyển ngay bức điện. Bây giờ tôi mới nhân rơ Thiếu Tá Thụ trên Covey. Hai ông đều nói tiếng bắc nên dễ lộn.



https://anhxua.net/images/nha-ky-thuat-luc-luong-dac-biet-biet-cach-du-quan-luc-viet-nam-cong-hoa-296625027669770.jpg


Tiếp tục tiến vào mục tiêu. Nửa tiếng ăn buổi trưa, Toán vội vă di chuyển để tránh địch theo dơi. Châu dừng lại bên tảng đá cao ngút đầu, ngồi xuống rồi đưa tay chỉ.

Một con suối rộng, nước chảy lặng lờ trong kẽ đá. Xa xa mà mắt thường có thể nh́n thấy, bên bờ suối, trên dốc thoai thoải, nép vào những cây cao. Hai dẫy nhà bằng cây rừng tre lá, ẩn nấp dưới những tàng cây. Thấp thoáng vài bóng người. Bên này suối, xa hơn một tí, những ngôi nhà ngắn và nhỏ, lọt xâu giữa những tảng đá lớn. Vài tên bộ đội đang lấy nước.

Toán nhanh chóng di chuyển càng xa càng tốt, nhắm hướng hạ lưu. Thấy có vẻ ổn, Toán dừng lại bàn bạc và đồng ư xin không kích. Định vị trên một vị trí có vẻ kín đáo và thuận tiện cho tác chiến. Tôi vừa ăn trưa vừa lo bắt liên lạc với FAC (Covey OV10), nhưng không được đành phải xài tới hệ thống máy cấp cứu P90. Một lúc sau, khọt khẹt và tiếng trả lời hoi:

Sóng cấp cứu của ai lên với tần số...Tôi thông báo mật danh và được trả lời hăy đợi.

Mười phút trôi qua, động cơ ́ ́ của Covey càng lúc càng rơ. Trong máy PRC74 đă nghe rơ tiếng gọi Toán.

Một ông tây điều không, trả lời mật danh và chuyển lên bức khẩn điện, tôi yêu cầu Không-quân.

Mười phút sau khi nghiên cứu bức điện và điều không. Lời yêu cầu được chấp thuận. Báo cáo với Điệp, hiểu ư Quang và Hào lẳng lặng lấy trong ba lô hai trái ḿn Claymore, hỏi ư Điệp nên gài ở đâu.

Chớp nhoáng Toán đă ở vào vị trí chiến đấu. Nép vào góc hai cục đá to, giữ cái PRC74 ở vào nơi tương đối an toàn. Tôi đang ở giữa bốn đồng đội. Trên tầng cây cao sau lưng, tiếng kêu ré lên đuổi nhau ầm ĩ của đàn chim, chúng đang tung chưởng đánh nhau.


https://www.sacei07.org/images/H/H103_001.jpg


Covey lúc này đang ṿng trên đầu chúng tôi. Hắn gọi Toán và xin mở cửa sổ (ư muốn thấy vị trí Toán bằng chiếu gương).

Tôi cầm cái gương đưa lên mắt, ngó hướng mặt trời, lấy ánh sáng hội tụ tṛn mờ trong gương và qua lỗ nhắm giữa gương chỉnh điểm ánh sáng tṛn mờ lên thẳng Covey đang bay....

- À thấy rồi, xin cho mục tiêu. lúc này không c̣n cần mật mă, mà nói trực tiếp và bạch hóa.

-Lima charlie (tên Covey)nghe đây, ngay tại triền suối, hướng Tây, khoảng cách 1000 mét

-Pa pa oscar (tên Toán) nhận rơ, chuẩn bị panel cho oanh kích.

Một Phantom F4 lúc này đang bay trên trời.

-Papa oscar đây là Li ma charlie. Tao sửa soạn làm t́nh, xin cho ư kiến và trải panel vàng.

Một cú bay xuống như tia chớp, chiếc Covey lao nhanh trực chỉ mục tiêu và trái rocket đă được bắn ra. Nh́n làn khói trắng bốc lên, tôi ước lượng và gọi Covey.

-Lima charlie. Mục tiêu 200 mét về hướng bắc. Ngay triền suối.

-OK Papa oscar. Hăy nh́n đây.

Covey đảo nửa ṿng cung, đầu chúc xuống, thêm một trái rocket thứ hai xuống mục tiêu. Máy bay múc thẳng lên cao, nghiên nghiên rồi ngừa bụng lên trời, tí sau mới lật lại, bay b́nh thường. Với câu hỏi:

-Papa oscar. Đúng mục tiêu chưa. Tao chơi có khá không?

-Lima charlie, Đúng rồi, thật tuyệt. Anh tŕnh diễn giống như Elvis Presley.

-Cám ơn cám ơn Papa oscar. Ha, ha, ha, ha.

Liền tiếp theo sau, chiếc F4 xà xuống một trái bom ghim ngay mục tiêu khói trắng chỉ điểm.

Tiếng nổ vang dội và một cột khói lửa bao trùm bốc cao. Ngay đầu tiên hắn đă xài loại 500 cân anh.

Trên bầu trời lúc này c̣n thêm chiếc A1 Skyraider chả biết đến từ lúc nào? bất thần theo sau chiếc F4


https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/7/74/B-52D%28061127-F-1234S-017%29.jpg


Máy bay như ngừng lại khi khai hỏa một loạt đại bác 50 và rồi hất ra tung tóe như đậu văi những trái bom bi cứ như nắm tay một, rồi nghiêng nghiêng tăng tốc vút lên cao. Chợt tôi hoảng hốt, nh́n thấy làn đạn xanh, đỏ từ dưới đất bắn lên.

-Lima charlie. Đồ chơi có gai, ngươi thấy ǵ không? xanh, đỏ đang lên với bạn.

-Cám ơn, Papa oscar, thấy rơ 5 trên 5, có lẽ c̣n trước cả bạn. Nó sẽ câm họng.

Chiếc Phantom tiếp đến bổ nhào xuống và cắt một lúc hai trái bom, rồi biến mất sau cột khói mịt mù. Tiếng nổ khủng khiếp tạo sư chấn động, mà chỉ nhũng kẻ có tinh thần thép mới không khỏi sợ hăi khi mắt chứng kiến cảnh hăi hùng bom đạn, khói lửa bao trùm

-Papa oscar ghi nhận có tiếng nổ phụ. Xin xác nhận.

-Lima charlie...Đúng rồi và cháy dữ dội, có thể là kho tồn trữ nhiên liệu.

Trên cao họ tinh tường thật, lúc này b́nh tâm tôi mới nhận ra và báo cáo...Tới tấp đánh vào mục tiêu, chiếc A1 bổ nhào ném thêm hai trái bom Napalm . Một vệt dài toàn lửa cháy dần loang, tung lên những cuộn khói đen kịt.

Trên bầu trời đă mất hút chiếc F4 và chiếc A1 cũng nhỏ dần. Sau đám mây cuồn cuộn trắng. Chỉ con lại chiếc Covey quần đảo, để ghi nhận cùng xác định kết quả.

-Papa oscar...Tạm biệt, thằng nhóc. Ta đă biết mi là ai rồi. Chuyển lời khen đến mi, con trai. Ta đi lo phần việc tiếp theo.

Tháo gỡ hai trái ḿn claymore pḥng thủ. Quang và Hào đă sẵn sàng di chuyển. Ngoái nh́n mục tiêu, vẩn tiếng nổ rời rạc và lửa khói bốc cao. Toán nhanh chóng vượt con suối trống trải. Biến vào khu rừng bên kia... Tiếng súng quanh quanh vẫn bắn cú một truyền tin ... hay đang có một cuộc lùng sục của địch.

Chiều tà mang mầu nắng vàng ệch soi rọi trên khuôn mặt mỗi người. Tàng cây rừng thưa cao nghất không đủ sức che chắn ánh nắng chiếu ngang tạo cảnh thu năo ḷng trên cùng h́nh ảnh năm cái bóng đổ dài như ma quái chập chờn.

Cố gắng di chuyển thật nhanh để kiếm t́m sự che chắn. Toán bất chấp sự hiểm nguy, v́ chẳng c̣n con đường khác. Phải nhanh chóng thoát khỏi khu rừng thưa nầy.


https://i0.wp.com/xaydunghouston.com/TuyBut/688bietkicha_files/image005.jpg


Mọi lo lắng rồi cũng qua, địa thế lại thuận tiện. Chúng tôi ăn cơm trong ánh sáng c̣n sót lại trong ngày. T́m được chỗ ngủ, khi bóng tối bao trùm. Núi rừng bỗng trở nên yên lặng kỹ quái, như cố đẩy lùi những xao động vừa qua. Vài tiếng hú gọi nhau thê dài như có vẻ nhớ nhau. Trong ánh trăng chiếu rọi xuyên cành. Năm chúng tôi im ĺm, lặng lẽ đi vào giấc ngủ.


Tiếng ngáy của thằng Hào làm tôi tỉnh giấc, chửi thề trong bụng, tôi nhoài người đưa tay lay gọi nó "mẹ cái thằng, đồ chết tiệt, ăn cho đẫy mám ruốc vào, ngủ rồi ngáy "

Xem đồng hồ, mới bốn giờ sáng. Tôi nín cười v́ bất chợt được thưởng thức bản hợp tấu tiếng người ngáy và gà gáy xen lẵn tiếng đệm âm trầm của thú rừng xa xa.

Điệp h́nh như cũng đă thức. Trần Quang xích lại phía tôi rủ hút thuốc. Tôi buột miệng dút khoát"không được".

Ánh trăng treo ngang in nguyên cành lá trên gương mặt tẽn ṭ của Quang đă xấu lại càng xấu thêm.

Hai trái claymore pḥng thủ đă được thu hồi.Toán chuẩn bị di chuyển. Sương mù dầy đặc làm hạn chế tầm nh́n và cái lạnh ướt hai hàng mi. Có tiêng súng nổ rồi bên này đáp lại. Địch đang truyền tin cho nhau. Đến một con suối cạn, bên kia dốc cao. Ngồi quan sát địa h́nh...

Châu và Điệp đang so lại bản đồ và địa bàn. Hướng đi được xác định, phải vượt suối và khắc phục dốc cao. Châu và Điệp sang trước, ba người bên này yểm trợ.

Đă có nhửng ḥn đá theo chân của Châu, Điệp lăn xuống ḷng suối, phát ra những tiếng va chạm lớn theo đà lăn, gây sự nguy hiểm, chú ư nếu địch ở gần đây. Bắt đầu ba người c̣n lại vượt qua dưới sự yểm trợ của hai người sang trước.

Vào ngay hướng đi của Toán, phía trước thoai thoải cánh rừng thưa, cây cao,bóng cả. Nắng chói rọi một mầu vàng vào từng đốm băi cỏ bên dưới mà không bị che khuất bởi những tàn cây dâm mát. Xa xa tít ngoài, b́a rừng xanh thẵm, đẹp như tranh vẽ.


https://anhxua.net/images/nha-ky-thuat-luc-luong-dac-biet-biet-cach-du-quan-luc-viet-nam-cong-hoa-296624921003114.jpg


Địa thế thật bất lợi và rất nguy hiểm cho di chuyển và tác chiến. Lộ nguyên h́nh trong nhiệm vụ Thám-sát đồng nghĩa với nhất chín,nh́ bù. Thiếu úy Điệp ra lệnh pḥng thủ đợi Covey, v́ thường vào giờ này đă lên bao vùng.

Một con khỉ đực lông vàng, to lớn có vẻ đầu đàn, nhăn nhở cười trên cây, tay găi găi mân mê khoe quả quí. Ở phía xa kia lũ chim líu lo, đanh đá đánh nhau hay đùa giỡn ầm cả một góc rừng.

Có tiếng ́ ́ quen thuộc của Covey rồi Thiếu tá Thụ gọi. Tôi gửi ngay bức điện, Điêp đưa cho hồi sáng rồi trao máy cho Điệp trực tiếp xin yểm trợ ...Lệnh chấp nhận và Toán bắt đầu di chuyển.Covey vọng ngay trên đầu.
Bở cả hơi tai, mồ hôi nhễ nhại.

Cuối cùng cũng đă vượt qua trở ngại. Yên tâm hơn với địa thế hiện tại. Vẫn tiếng súng cú một quen thuộc, rồi tiếng đáp trả. Sự đe dọa tinh thần căng thẳng hay một cuộc bao vây đang h́nh thành v́ điên tiết bởi trận oanh kích ngày qua.

Point man Châu bỗng dừng lại. Tôi và Điệp lên quan sát. Con đường rộng, cách chúng tôi chừng tám hay mười mét, ngang hướng đi của Toán. Lên tiếp cận con đường, Điệp chụp ảnh và ghi nhận...

Đường rộng hai mét, dấu vết thường xuyên và đang sử dụng, lá cây không bao phủ hết, ḷi cả đất. Một vết trượt ngắn để lại dấu dép nghiên nghiên. Ngoắc tay ra hiệu cho Toán đi lên, chúng tôi vượt qua con đường.

Nửa tiếng nghỉ ăn trưa. Một tiếng hú lạ tai dài hơi ở hướng bắc, bên này cũng hú đáp lại. Chúng tôi nh́n nhau, ḷng cũng đă hiểu. Sự sợ hăi ập tới chen lấn và len lỏi trong tôi. Nhưng rất may chỉ thoáng qua. Ư tưởng vượt khó, lồng lẫn vài gương mặt mấy em cava, xinh sắn thơm như mít, đă làm tâm hồn dịu lại.

Mồ hôi chẩy dài trên mặt người đi đầu thật vất vả. Cái mặt bóng lưởng bởi thuốc bôi trừ muỗi và vắt nay lại càng bóng thêm v́ mồ hôi. Bất giác mọi người nh́n nhau như muốn hỏi... Tiếng chim ré lên lao xao như đang gặp người lạ...

- " Kệ mẹ nó, tiếp tục, chả có chi "

Tiếng nói khẽ của Thiếu úy Điệp nghe đanh vả gọn. Vẻ lừng khừng. Châu lại tiếp tục mở đường.

Một cơn dâm buổi chiều, che khuất ánh nắng đă ngả về tây. Ranh giới của rừng rậm,lui dần về phía sau. Trước mặt dốc thoai thoải trống trải tối mù bởi nhũng tàn cây x̣e rộng. Nhũng cây cổ thụ vút lên cao vẻ thách thức. Một con đường lớn băng ngang ở phía trước chia cắt bên kia rừng chồi non, bên này cổ thụ.

Toán khựng lại, án binh bất động. Thật đáng ghét, đành chờ tối hẳn... Trung sĩ Quang và Hào vùa giăng xong hai trái ḿn pḥng thủ. Vẫn tiếng súng phát một của địch, vẫn tạo ngay sự khủng bố tinh thần. Chẳng làm chúng tôi mê mụ đi.


https://anhnendep.net/wp-content/uploads/2015/06/hinh-nen-rung-jungle-1.jpg


Cơm vừa xong,th́ trời vừa tối. Ngồi đợi trăng lên, nhưng thiết nghĩ trăng cũng chẳng đủ sức soi rọi qua những tàn cây rậm rạp, nhưng có thể cũng đủ để không khỏi va chạm.

Âm thanh núi rừng bỗng bừng bừng trỗi dậy,ma quái, huyền bí, năo nuột tiếng thú khàn đục vọng dội thê lương như măi măi cô đơn. Ánh trăng vừa treo chếch, cũng là lúc Toán tới chạm con đường suưt vấp ngă bởi chỗ trũng trên con đường, bước băng ngang khoảng năm bước, lại một vết trũng . Cho tôi hiểu ra rằng, đây là con đường cho xe hơi chạy. Báo cáo xong với Điệp... Lệnh qua đường, t́m chỗ ngủ.


https://baodansinh.mediacdn. vn/Images/2017/04/29/nguyensiupv/dng_-trng_-son.jpg


Lắng nghe động tĩnh, nh́n đồng hồ đă mười giờ đêm. Thấy an toàn. Điệp ra lệnh cho Quang và Hào đi gài claymore pḥng thủ... Cố dỗ giấc ngủ, bằng cách nghĩ một chuyện vui rồi vật vờ ch́m dần...

Bỗng giật bắn người lên, tiếng nhẹ xoay người từ đồng đội. Vểnh tai dựng đứng, nghe cho rơ hơn... Từng bước, từng bước. Tiếng bước chân và cành cây khô gẫy. Địch đang di chuyển thẳng vào Toán. Ánh trăng lao xao qua kẽ lá, không đủ để nh́n rơ quang cảnh.

Tiếng bước chân bỗng ngừng lại. Không khí nặng nề lại nặng thêm. Tôi suy đoán địch chỉ cách chúng tôi chừng bốn hay năm mét. Nhưng rồi có tiếng khụt khịt, xong đi thẳng về chỗ chúng tôi. Thở phào nhẹ nhơm, mọi người hiểu ngay chỉ là thú rừng.

Đến gần, con heo rừng cao cả thước đứng đánh hơi một chặp, mới chịu ra đi... Mẹ kiếp, đêm đến thấy vợ chưa về, bực tức đi t́m... Làm hú hồn.

Nằm yên được một chặp.Trong đêm tĩnh lặng.Tiếng động cơ ́ ́ nặng chịch, ngay sau lưng chúng tôi. Chắc chắn trên con đường tối qua, với hai vết lơm hai bên.

Gà gáy lao xao tứ phía, lâu lâu xen lẫn tiếng người ồn ào nhưng chẳng rơ nói ǵ. Trăng đang gặp núi cao bên hông, tỏa ánh sáng mờ đục đùa giỡn cùng sương mù bay bay theo gió. Nghĩ lại quả là đêm của những giật ḿnh.

Liên lạc xong với Covey, chúng tôi lại bỏ sau lưng những ǵ đă qua. Ngày mới lại đến, b́nh thường như đang trong mục tiêu.?!

Mới mười giờ sáng, cái không khí oi nồng, nắng gắt trên cao và gió, gió biến đâu mất. Thời tiết tạo những cơn mưa đầu mùa. Thấy một địa thế ưng ư. Thiếu úy Điệp cho Toán nghỉ lại ăn trưa. Một chiếc phản lực lang thang ầm ĩ trên không.

Ăn cơm xong, tôi thấy đau bụng lạ ḱ. Mượn chai dầu gió của Châu, dùng móng tay cái tôi cạo hai bên khủy tay, nhưng chẳng hết đau. Hay tại hũ mắm ruốc của Hào mà ḿnh đă xin, sơi khi sáng.

Điệp nh́n tôi e ngại. Tôi kêu Quang đưa viên thuốc và rồi :

- " Điệp coi dùm ba lô máy ".

Tôi tất tả ra ngoài, vẹt xong lá cây, khoan khoái phóng thích của nợ. Kéo quần lên trong trạng thái thoải mái. xoay lưng chưa kịp về chỗ. Súng ầm ầm nổ chát chúa. Tôi chỉ kịp nghe tiếng của Điệp ;

- " Hải chạy đi "


https://hoidulich.net/wp-content/uploads/2019/06/H%E1%BB%99i-Du-L%E1%BB%8Bch-Vi%E1%BB%87t-Nam-moi-66-1400x746.jpg


Nhanh như chớp, tôi nhắm thẳng hướng bốn người vừa khuất. Mặc cho gai rừng quất vào mặt và cổ, cố sức phóng cho kịp đồng đội chạy trước...


Thế rồi cám ơn Chúa, chúng tôi cũng đă cùng nhau một nơi. Vui thoáng qua. Bất giác tôi và mọi người cùng nh́n nhau. Chiếc ba lo máy của tôi vẫn c̣n trong trận địa. Ứa gan và hoảng hốt, rút vội cái máy P90 phóng làn sóng cấp cứu. Rồi nóng nẩy, điên tiết tôi nói :

- " Trở lại lấy máy ngay,chần chừ là không kịp"

Tự động tôi lao lên trước dẫn đầu, trở lại trận địa, mà cách đây chẳng bao xa.

Bên dưới gốc cây, chiếc ba lo nằm ngang, chứng tỏ khi ra lệnh rút Điệp đả cố kéo mang theo. Quan sát động tĩnh, tôi cẩn thận nhón từng bước, bốn đồng đội yểm trợ phía sau. Chỉ c̣n lại khoảng ba mét nữa,tôi dần ḅ vào.Ngồi dậy sốc cái ba lo vô vai,thở phào nhẹ nhơm. Chỉ là đám trinh sát địch.

Dưới kia hai tên địch chết nằm xấp, vũ khí văng xa. Thiếu úy Điệp ra dấu lại đây, di chuyển. Tôi ra thủ hiệu chờ một tí, lẹ làng băng xuống lấy cây AK gần nhất, tiếc rẻ nh́n cây AK c̣n lại, tôi tặc lưỡi... Ôi, cũng chỉ làm quà cho mấy ông Tây mà thôi.

Cây rừng chằng chịt, cản trở nhiều và lấy đi bao sức lực. Nh́n đôi găng tay đen của Châu, đă thấy rơ những vết sước tráng ởn... Mừng rỡ khi nghe tiếng Covey. Bật điện đàm tôi gọi ngay.

-Hotel bravo đây Whisky yankee Toán đụng địch, xin trợ giúp khẩn cấp.

-Whisky yankee. Tao đang tới, yên tâm.

Tôi nhận ra ngay tiếng nói đặc biệt của Đại úy Storter, thanh tao như gái.
Lấy cẩm nang mật mă, tôi đọc và gửi lên Covey báo rơ t́nh h́nh và xin triệt xuất v́ Toán đă bị lộ .

Tạm nghỉ mệt ngồi chờ quyết định. Hào đang mân mê cây AK và lắc lắc tay ra dấu vô ích, súng hết đạn rồi.Trong máy có tiếng gọi Toán và Đại úy Storter thông báo, yêu cầu đă được chấp thuận và xin cửa sổ nhà tôi.

Móc trong túi áo ngực lấy cái gương,chiếu thẳng lên Covey.

-Whisky yankee. Đi về hướng đông 200 mét, có băi đáp.

Thông báo cho Thiếu úy điệp. Toán vội vă di chuyến, tẽ ngang hướng đông, được chừng 100 mét. Phía trước cây rừng thưa, từng bụi rậm rải rác chen lấn nhau. Điệp ra dấu ngồi xuống, quan sát địa thế. Toán đang đứng trên ngọn đồi. xa xa một khoảng trống băi cỏ vàng, nhởn nhơ dưới ánh nắng vàng quá trưa. Thót người v́ tiếng hú ngay sau lưng, kèm theo tiếng người.

Rất nhanh, Toán đều t́m được mỗi người một gốc cây và sẵn sàng. Tôi gọi ngay cho Covey báo đụng địch và xin trợ giúp... Tiếng chân người xen lẫn những cánh tay vẹt cây rửng, từ từ đến thẳng chúng tôi...

Sự căng thẳng, hồi hộp trên từng nét mặt, gần tôi, Hào đưa tay vuốt mồ hôi trên mặt. Tôi, tim như ngừng đập theo từng tiếng bước chân của địch. Châu và Điệp tay đang mở bao bi đông nước trong có chứa khoảng hai mươi trái lựu đạn mini...

Loạt đạn đầu tiên của Trung sĩ Quang đă làm hai tên địch đi đầu vật ngửa, mà chẳng kịp nh́n thấy ai...Tiếng hô hoán, ra lệnh bỗng chốc ầm ĩ sau loạt đan của Quang. Tiếp đó,cái không khí nặng nề lại đè lên hiện trường, kèm theo mùi thuốc súng cộng lá cây rừng.


https://anhxua.net/images/nha-ky-thuat-luc-luong-dac-biet-biet-cach-du-quan-luc-viet-nam-cong-hoa-296624927669780.jpg


Bên này đồi ,nghe thấy tiếng quát thúc dục. Toán chúng tôi đang bị bao vây bằng hai cánh quân. Địch đă đến gần và trực diện với chúng tôi bằng những loạt đạn phủ đầu áp đảo. Nép vào gốc cây, nh́n nhũng vết đạn cày sước, đất bắn tung tóe. Tôi gọi Covey trong lúc bốn đồng đội tác chiến.

-Hotel bravo. Anh có mang theo đồ chơi không, bật khói vàng cho anh chơi nhá.

-Whisky yankee, rất tiếc tôi không trang bị đồ chơi.Hăy cố gắng...Con hổ mang đang trên đường đến... Chạy ra băi đáp sau lưng.

Bằng vào hỏa lực của ḿnh.Toán cầm cự nhờ vào địa thế thuận lợi trên cao. Chúng tôi chơi lựu đạn dễ dàng và chính xác.

Quang ḅ ra sau chúng tôi lo gài trái claymore để mở đường máu, tay đang sởi cuộn dây điện bấm ḿn... Bất thần tiếng hô :

- " Muốn sống đầu hàng đi, chúng mày bị vây chặt rồi !"

Chúng tôi đáp trả lại bọn giặc cướp xâm lược láo xược bằng một băng đạn vào chỗ tiếng lải nhải. Nóng nẩy và điên tiết tôi gào lên "chửi thề". Bên dưới Quang đă gài ḿn xong ra hiệu cho Toán rút xuống từng người. Đ̣n cân năo và những loạt đạn qua lại chứng tỏ địch khôngđông...

Giờ này địch đă chiếm được vị trí cao mà chúng tôi mới bỏ lại. Bên gốc cây to, bạnh. Điệp chỉ chiếc balo rách, đạn cày phá tung bên hông, nước trong bi đông giờ c̣n nhỏ giọt. Trên kia bốn cái xác địch nằm dài xuôi tay quanh những tay súng lâu lâu xuất hiện bắn xối xả vào chúng tôi. Địch đang chờ tiếp viện để làm cỏ Toán tôi.


https://image.ibb.co/dFLQo0/Liendoan81bietcachdu .jpg


Tiếng súng xối xả của cả hai bên đánh bật đi tiếng Covey, mà có để ư mới nghe thấy. Tôi vẫn bấm mở máy điện đàm để Covey có thể theo dơi t́nh h́nh và thưởng thức diễn tiến trận đánh bằng âm thanh.

Có tiếng thét thúc dục của cấp chỉ huy địch. Những lằn đạn cày sới, hất tung đất cát lên cao và lả tả vỏ cây văng văi trên đấu và vai. Cây M79 của Hào tỏ ra thật hữu hiệu, áp đảo trận địa. Hào chứng tỏ sự nhanh nhẹn , thông minh, chính xác trong tác chiến. Cây M79 của hắn thật tuyệt vời đă làm khựng lại cuộc tấn công, v́ sau tiếng nổ của những trái M79.

Phía địch gần như phải lo chống đỡ hoặc ẩn núp. Nhuần nhuyễn trong bài bản chiến thuật, lúc này mới thấy được tính hữu dụng của những giờ khó nhọc thực tập. Chiếc Covey xà xuống thật thấp, bay theo kiểu khủng bố với tiếng động cơ hết cốt. Xẹt,ào ào trên trận địa. Đèn xanh đă được bật , trong chiến thuật quen thuộc.

Covey gọi tôi :

- Whisky yankee Phá ṿng, chạy thẳng ra băi đáp hướng đông.

Tôi báo cáo cho Điệp, hiểu Điệp ra lệnh chơi lựu đạn... Bất chấp Toán đồng loạt đứng lên. Mỗi người tay lựu đạn lấy hết sức ném về phía đối phương. Trung sĩ Quang nổ trái claymore. Toán chúng tôi hè nhau, vắt gị lên cổ, chạy thục mạng, nhắm hướng đông có băi đáp.

Dưới sự che khuất bởi khói và đất cát mịt mù của lựu đạn và ḿn nổ. Cố hết sức, kết cục cũng ra được tới b́a rừng và thấy rơ những chấm đen của trực thăng đang lao tới. Thoải mái và phần nào lạc quan. Nét hân hoan hiện lên tửng khuôn mặt chờ đợi trực thăng bốc về.

-Whisky yankee. Con trai, mở cửa đi!

Thiếu Úy Điệp ra khỏi tàn cây rồi lắc gương.

-Whisky yankee. Thấy rồi. tiến ra khoảng trống, một trưc thăng sẽ bốc hết Toán.

Tiếng trực thăng chém gió đang quần ngự trên đầu. Hai chiếc Cobra, ṿng chờ đợi sự điều khiển của Covey. Trên cao bốn chiếc Kingbee vẫn chưa chịu hạ thấp.

-Whisky yankee, ra ngay băi đáp và chuẩn bị panel vàng. Hải, coi chừng phía b́a rừng.

Toán chạy thẳng ra băi trống, phất panel vàng theo mật lệnh, trong lúc loạt rocket đầu tiên bốn, năm trái đươc phóng xuống nổ tung dài theo b́a rừng... Xa luân chiến...

Tiếp theo sau, Cobra thứ hai, bay đầu chúc chúc... Tiếng đại liên mini, cùng 40ly tự động nghe phần phật, rồi nổ văng văi dưới đất. Hai chiếc Cobra đảo ṿng hai cũng là lúc chiếc Kingbee đang xuống băi đáp. Phía sau hỏa lực của Cobra lập thành hàng rào thép cho Kingbee.

Chiếc Cobra thứ hai lù lù phía sau...


https://image.anninhthudo.vn/w600/Uploaded/2020/199/2019_04_29/e0e942ae7ca734b1cfa6 af3566440afc.jpg


Nằm vội xuống đất, trong khi từ b́a rừng, cách Toán khoảng 50 mét, tiếng súng thi nhau nổ...

À,mày chơi cú chót... Tôi thấy rơ chiếc Kingbee xẹt ngang qua đầu. Cây đại liên M60 phun ra lửa. Người xạ thủ đứng hẳn lên, văi đạn như mưa xuống b́a rừng. Nhưng chiếc trực thăng bỗng bốc lên cao.

Hỏa lực của Cobra chơi bằng đủ mọi đồ chơi hiện có.

Toán chúng tôi nằm chết dí tại băi đáp. Địch đang nỗ lực chơi máy bay, tạm tha cho chúng tôi. Vẫn xa luân chiến, hai Cobra thi nhau tận dụng mọi hỏa lực và đang áp tải chiếc Kingbee xuống băi.

Người xạ thủ trên Kingbee nổ tới tấp vào b́a rừng, trong khi hỏa lực từ Cobra cày tung tóe đất cát. Một địa ngục lửa thép ...


https://image.anninhthudo.vn/w600/Uploaded/2020/199/2019_04_29/u1.jpg


Nhưng, rơ ràng là một thằng điên đứng chạy với cây thượng liên nồi xối xả bắn vào trực thăng. Lạ lùng cây M60 trên trưc thăng không làm hắn ngă được.

Kingbee đáp hẳn xuống băi. Hai Cobra vẫn bân bịu ở b́a rừng. Nhưng không thể ngăn được chừng cả mấy chục tên địch đứng chạy bắn đuổi theo chiếc Kingbee. Trên trực thăng, tôi dơ cao khẩu AK chiến lợi phẩm dí dí thẳng vào mặt đối phương.



https://lh5.googleuserconten t.com/proxy/orI8whucXTWlAGB-PVlA7cT-QX2wZTlvd0Wy7f60BTHY VokVRSMmeHhxH3jvUfHe NGdA4qdS4cbbzN6ihuMK fnm_5QeqgfLv688N1LHu Ag=s0-d


Toán về đến CCC (Snowden Hall) . Trời vừa ập tối. Nhân viên pḥng Hành-quân ra đón, tay bắt mặt mừng.

Chiếc Kingbee đang được soi đèn đếm vết đạn.
Ông Thiếu Tá người Mỹ dơ cao cây AK tôi mới trao, miệng cười ha hả. Trên sân lúc này chỉ c̣n ba chiếc Kingbee, hỏi ra, một chiếc bận đưa người xạ thủ bị thương lên tận Pleiku để chữa trị.

(Sài G̣n trong tôi/ Toán Hải Sơn CCN (Command Control North)

phokhuya
10-25-2020, 16:16
A6bV6SPnOPc
:o

hoathienly19
10-29-2020, 09:29
VINH DANH QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A :


NHỮNG TRẬN ĐÁNH OAI HÙNG TÁI CHIẾM QUẢNG TRỊ - PHẦN 1


RA4dOPR2N7Y


TÁI CHIẾM QUẢNG TRỊ - PHẦN 2


q0yy5_imPj4

C̣n tiếp

hoathienly19
10-30-2020, 03:31
VINH DANH QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A

NHỮNG TRẬN ĐÁNH OAI HÙNG


TÁI CHIẾM QUẢNG TRỊ PHẦN 3


xMMmFrHnNZ8


TÁI CHIẾM QUẢNG TRỊ PHẦN 4



zH9tKeYMHdU

hoathienly19
11-01-2020, 07:35
VINH DANH QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A

NHỮNG TRẬN ĐÁNH OAI HÙNG

TÁI CHIẾM QUẢNG TRỊ PHẦN 5


kz6S_-bbYjQ


TÁI CHIẾM QUẢNG TRỊ PHẦN 6


lbW39jdtcj4

hoathienly19
11-04-2020, 19:01
NHỮNG CÂU CHUYỆN BIỆT KÍCH

NÚI RỪNG TAM BIÊN - GIÓ TANH MƯA MÁU


* Để tưởng nhớ đến :

- Trung Úy Phan Nhựt Văn (Sở Liên Lạc)

- Đại Úy Dick Meadows (MACVSOG) và

- Trung Tá Nguyễn Văn Nghĩa (Phi Đoàn 219 KingBee) cùng các Chiến Hữu Nha Kỹ Thuật đă phục vụ và hy sinh trong cuộc chiến chống cộng tại Việt Nam.


Tháng 6 năm 1966, buổi sáng thời tiết ở Kontum thật là mát mẻ. Bầu trời trong xanh và cao thăm thẳm.

Tôi có thói quen ngày nào cũng phải nh́n trời để rồi liên tưởng đến thời tiết mỗi ngày. Buổi sáng trời trong xanh, trần mây cao như thế này thật là lư tưởng cho những chuyến hành quân xâm nhập hay triệt xuất.

Thật ra các chuyến công tác xâm nhập thường vào buổi chiều, mà buổi chiều ở vùng Tam Biên thay đổi thất thường.

Trời đang cao thăm thẳm không một tàn mây, rồi bỗng mây đen ở đâu ùn ùn kéo tới thật thấp, tưởng chừng như là đà ngọn cây.

Tầm nh́n cao và xa không qúa 100 thước, do đó thường gây trở ngại cho các chuyến hành quân nhưng lại là yếu tố thuận lợi cho các đoàn quân cộng sản Bắc Việt trên hành lang Trường Sơn vùng 3 biên giới.


https://hinhanhkontum.maytin hhtl.com/images/kon-tum/du-lich-mang-den/canh-dep-mang-den-kon-tum.jpg


Tôi vừa nhận được lệnh hành quân chiều hôm qua. Sáng nay khoảng 10 giờ th́ máy bay không thám tới. Bây giờ mới 7 giờ rưỡi sáng, c̣n sớm qúa ! Tôi muốn trở vào giường nằm nán thêm ít phút để suy nghĩ về những ngày phép sắp tới khi chuyến hành quân này chấm dứt.

Niềm vui của những ngày về phép Sàig̣n, những ngày được sống cạnh Liên khiến tôi bỏ ư nghĩ vào giường nằm nán lại. Tôi quay về pḥng lấy gói thuốc lá và bước qua Câu Lạc Bộ uống cà phê. Đang mải suy tư bỗng giật ḿnh v́ tiếng của Trung Sĩ Phát HSQ Ban 3 :

-o - Trung Úy, 10 giờ sáng nay Trung Úy bay không thám. Xe Jeep Ban 3 đă chuẩn bị sẵn sàng chở Trung Úy ra phi trường đang đậu ở TOC. Trung Tá nhắc Trung Úy ra phi trường đúng giờ, đừng để tụi Mỹ nó chờ !

V́ bảo mật, các mục tiêu hành quân chỉ giới hạn cho một số người biết. Hạ Sĩ Quan Ban 3 như Trung Sĩ Phát th́ chỉ biết làm bản đồ hành quân, c̣n nhiệm vụ hành quân và tin tức t́nh báo th́ biết một cách hạn chế. Nhưng v́ Phát phục vụ ở Ban 3 Chiến Đoàn từ lâu, phụ trách đánh máy giải tŕnh các cuộc hành quân, do đó cũng đoán được tính chất của mục tiêu và nhiệm vụ cuộc hành quân này.

Thật ra nhiệm vụ chính của cuộc hành quân này vẫn là thám sát, báo cáo và hướng dẫn phi cơ oanh kích.

Nhiệm vụ phụ là ”bắt tù binh”. Có điều tôi thấy hơi khác lạ là trước nay thường có lệnh chuẩn bị hành quân từ trước. Sau đó, toán được đưa vào Khu Cấm, nội bất xuất – ngoại bất nhập.

Nhiệm vụ chuyến hành quân này là :

- Quan sát, chỉ điểm cho khu trục oanh kích các đoàn quân xa và các đơn vị địch. Ngoài ra c̣n t́m các kho tiếp liệu quanh vùng này

Tin t́nh báo cho biết địch sẽ chuẩn bị tấn công vào quận Tân Cảnh hoặc thị trấn Dakto.


https://scontent-yyz1-1.xx.fbcdn.net/v/t1.0-9/122576096_7601980012 27393_36068080534845 62790_n.jpg?_nc_cat= 108&ccb=2&_nc_sid=730e14&_nc_ohc=Q6SYezy2Oh4A X_orDqr&_nc_ht=scontent-yyz1-1.xx&oh=1a82e9b22c53856f9 5ba5555c417003f&oe=5FC7CF36


Tôi cũng khoái nhiệm vụ của cuộc hành quân này, v́ không phải trang bị nặng cho các mục tiêu cần chất nổ hay ḿn đặt trên đường. Có điều làm gấp như thế này sợ mấy thằng em của tôi thiếu chuẩn bị.

Tôi quay qua Trung Sĩ Phát :


-o- Anh chạy xuống toán gọi Thương Sĩ Sơn giùm tôi. Tôi chờ anh về uống cà phê và ăn sáng luôn. Phải dặn Thượng Sĩ Sơn vài điều mới được…
Tôi đi bay sớm nhất cũng 1-2 giờ trưa mới về. Buổi chiều c̣n biết bao nhiêu việc phải làm.

Tôi lại nghĩ đến Thượng Sĩ Cố Vấn toán mới vừa đổi về hơn 3 tuần. Chúng tôi đă đi hành quân 5 ngày thực tập tuần trước. Tên này rất có kinh nghiệm trong ngành Lực Lượng Đặc Biệt. Nghe nói hắn là HSQ xuất sắc nhất của Liên Đoàn 5 LLĐB Hoa Kỳ.

Toán tôi có 3 tên Mỹ, tên nào cũng có từ 10 đến 15 năm kinh nghiệm trong LLĐB.

- Cố Vấn Trưởng là Thượng Sĩ Richard J. Dick Meadows.

Hai Trung Sĩ kia là James A. Simpson và Trung Sĩ Charles N. Chuck Kerns.

Hai Trung Sĩ này, một người là chuyên viên ḿn bẫy và phá hoại, c̣n người kia là chuyên viên truyền tin kiêm cứu thương.

Các Cố Vấn đối với toán rất thân mật, vui vẻ và cởi mở. Không biết đây là tiêu lệnh trên chỉ thị, hay là v́ vào sanh ra tử chung với chúng tôi nên họ sống rất ḥa ḿnh với anh em toán.


https://anhxua.net/images/nha-ky-thuat-luc-luong-dac-biet-biet-cach-du-quan-luc-viet-nam-cong-hoa-296625047669768.jpg

Các Sĩ Quan trực thăng trong Phi Đoàn Long Mă 219 Kingbee này nh́n vào chẳng giống các Sĩ Quan Không Quân khác một chút nào cả.

Mặc đồ Biệt Kích , đồ Beo ! Súng Colt 9 ly đeo xệ xệ, chẳng có lon lá ǵ cả. Nếu trong tay không cầm nón bay th́ chẳng ai biết đây là những Sĩ Quan Không Quân hào hoa phong nhă.


Nếu các binh chủng có sự đoàn kết sống chết với nhau th́ phải kể đến các Phi Hành Đoàn này với các đơn vị hành quân của chúng tôi, như câu châm ngôn truyền tụng ”Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè”.

Trong các chuyến hành quân ”Ra Đi Không Hẹn Ngày Về” của các toán Lôi Hổ, qua chiến công của các toán Biệt Kích mang về, một phần lớn cũng nhờ vào những phi vụ cảm tử của các phi công trẻ này.

" Chim Sắt Kingbee 219 " Đặng Quỳnh sống chết cùng Biệt Kích Lôi Hổ


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1580171267-1cs3.jpg

https://hoiquanphidung.com


Với những nick-name mà các toán thường nhắc nhở như :

Hùng Râu Kẽm, Nghĩa Lùn, Hiếu Chệt, An Cào-Cào, v.v…

Bất chấp hỏa lực pḥng không của địch, bất chấp các toán Biệt Kích đang bị địch truy kích và sắp sửa bị tiêu diệt, những chàng trai này vẫn liều mạng đáp xuống.

Không những Biệt Kích Lôi Hổ coi các phi hành đoàn này như anh em, mà các phi công Hoa Kỳ yểm trợ hành quân cũng phải giở nón cúi đầu trước các phi vụ ”uống thuốc liều” của các chàng trai trẻ này.


https://www.nhayduwdc.org/ls/bklh/2016/bklh001_001.png


Chúng tôi thường nói đùa :

Họ là những chàng trai hành quân mang dép… Lạnh cẳng, cần mang giầy, mang vớ th́ đi chỗ khác chơi! Do đó, tuổi thọ của những chàng trai này thường ”gẫy cánh” của các chàng trai trẻ này. ở luới tuổi dưới 30 !

Hôm nay, không có toán nào trong vùng hành quân nên bọn họ c̣n nhởn nhơ ở đây. Mỗi ngày, nếu có toán hành quân trong vùng th́ 6 giờ sáng phải bay lên căn cứ yểm trợ Dakto ứng chiến rồi.


https://image.ibb.co/jUd8wz/Loi_Ho_NKT_phuhieu.j pg

………………


Buổi sáng nay khi bay không thám, nh́n thấy bên dưới đường ṃn chi chít như màng nhện.

H́nh ảnh không thám chụp từ mấy ngày trước bây giờ thấy xuất hiện thêm rất nhiều con đường mới. Nơi có ghi những con suối, bọn Công Binh của địch đă đổ đá và kè cây liền nhau cho xe vượt qua, dấu vết rất mới mẻ.

Viên phi công FAC, người đă bay rất quen thuộc với vùng này cũng xác nhận các đường ṃn này chỉ mới xuất hiện nội trong 1-2 ngày nay thôi. Ngoài ra khi bay không thám, tôi thấy các ngọn núi cao trong vùng đều có đặt tổ báo động. Tôi nghe súng trường ba tiếng một vang từ chỏm núi này sang chỏm núi khác.


https://i.pinimg.com/originals/cc/d4/71/ccd4719535bfc5820b8e f9c2f4d67ef0.jpg


Để có yếu tố bất ngờ, tôi đề nghị :

” Từ điểm hẹn 1, FAC hướng dẫn 2 trực thăng chở toán xâm nhập bay thật thấp, vào tới mục tiêu th́ đáp luôn ”.


Thiếu Tá Hoa Kỳ bay FAC nh́n các Sĩ Quan H-34 như hỏi ư kiến rồi ông nói :

” Từ điểm hẹn 1 vào mục tiêu khá xa, tôi đề nghị khi đi được khoảng 2/3 đường th́ trực thăng mới bắt đầu hạ thấp cao độ. Như vậy cũng đủ yếu tố bất ngờ rồi.

V́ băi đáp khá lớn nên khi tôi lắc cánh ra dấu hiệu Bingo-Bingo-Bingo th́ trực thăng 1 đáp xuống; khi chiếc này bốc lên th́ trực thăng 2 đáp xuống.”.

Đề nghị này rất khó cho phi hành đoàn v́ FAC bay thật cao, hướng dẫn cho trực thăng lúc này đang bay rất thấp nên có thể sẽ không thấy được băi đáp. FAC hướng dẫn Lead 1:

Hướng 12 giờ 1000 thước, 800 thước, 600 thước, 400, 200, 100…

Sau đó, FAC từ trên cao chúi xuống lắc cánh và gọi ám hiệu của máy bay ”Bingo-Bingo-Bingo”.

Khi FAC lấy cao độ bay lên cũng là lúc Lead 1 đáp xuống.

Khi Lead 1 bốc lên th́ Lead 2 cũng vừa bay tới và đáp xuống luôn.

Như đă nói ở trên, trường hợp này băi đáp phải lớn. Nếu băi đáp nhỏ th́ Lead 2 phải bay ṿng lại để đáp cho đúng chiều, và nếu như vậy th́ sẽ không c̣n yếu tố bí mật nữa.

Nếu trong vùng băi đáp không có các tổ báo động của địch th́ chúng tôi giữ yếu tố bí mật được khoảng 80-90% rồi.

Bốn chiếc trực thăng vơ trang vừa bay vượt qua dẫy núi hướng Tây-Bắc Dakto. Trực thăng chở toán 6 chiếc cũng bay theo.

Trước đó vài phút, 4 chiếc khu trục A1-E bay đảo một ṿng quanh băi đáp trực thăng như ngầm cho biết ” Chúng tôi đă sẵn sàng chờ các bạn ”, xong cũng bay khuất vào những mỏm núi cao hướng Tây-Bắc. Thời tiết chiều nay thật lư tưởng.


https://2.bp.blogspot.com/_2qPDfjqTiBk/S-XAMVdpbII/AAAAAAAANgM/OiB2WaWcdcs/s400/Trietxuat.jpg


Mặt trời đă gần sụp xuống ở chân trời nhưng hướng Tây trời vẫn c̣n sáng.

Dự trù trực thăng bay khoảng 40 đến 45 phút, như vậy chúng tôi sẽ đến băi đáp khoảng gần 6 giờ chiều.

Xâm nhập mục tiêu trong thời gian này, xuống đất chúng tôi chỉ cần di chuyển khỏi băi đáp chừng 300 đến 400 thước là có thể đóng quân. Địch dù đoán được có Biệt Kích xâm nhập nhưng tối rồi cũng khó mà theo dấu của chúng tôi.

Ngồi bên cửa trực thăng bỏ chân ra ngoài, tôi ngắm nh́n những cánh rừng cây cao xanh ngút ngàn điểm đầy những hố đỏ thẫm, dấu vết của những trận mưa bom B-52.


https://i.pinimg.com/originals/64/f5/8d/64f58da2d3e04fc67948 3ca59ff3cbda.jpg


Trực thăng tôi chở 6 người, gồm 2 tiền sát viên, tôi, Thượng Sĩ Meadows, 1 toán viên y tá và Trung Sĩ Charles mang máy truyền tin.

Trực thăng thứ hai chở Toán Phó, Trung Sĩ James, 2 nhân viên phá hoại và 2 hậu vệ.

Trời mới đó mà sụp tối rất nhanh. Gió tạt vào người tôi mát lạnh đến tê da. Trực thăng đến điểm hẹn 1, đảo ṿng lấy hướng về băi đáp và bay với cao độ thấp dần rồi giữ cao độ là đà trên ngọn cây cho đến băi đáp.

Cả đám xuống băi đáp an toàn. Trời cũng vừa tối hẳn. Sau khi làm thủ lệnh kiểm soát tất cả đă an toàn, tiền sát viên bắt đầu di chuyển theo hướng đă định.


https://i.pinimg.com/236x/2f/8a/56/2f8a56263ff2bcb264b5 2557d3d578bc.jpg


Đêm đó, chúng tôi đóng quân an toàn cách băi đáp khoảng 500 thước.

Tất cả toán chúng tôi t́m một địa thế cao, có cây không qúa to rồi đứng thành ṿng tṛn, mỗi người cách nhau một cánh tay dang ngang, đầu quay vào trong, xong đâu đó quay 180 độ ngược ra ngoài.

Chúng tôi đóng quân quay thành h́nh tṛn. Mỗi khi có báo động, chúng tôi đă có đội h́nh pḥng thủ 360 độ.

Ba-lô kê đầu, lưng lót poncho, dây đạn chỉ cởi khoen nhưng không tháo khỏi lưng, nằm ngủ súng luôn để trên bụng.

Địch thường theo dơi lúc toán mới xuống băi đáp hoặc trong khi di chuyển, chờ lúc toán đóng quân là tấn công ngay.

Buổi tối, chúng tôi không được phi cơ yểm trợ nên địch sẽ được lợi thế hơn.

Nhiều toán đă bị đi đứt trong khi đóng quân đêm v́ đồ đạc cởi bỏ lung tung, gây ồn ào hoặc hút thuốc lá, hay dùng C4 nấu cà phê.

Chúng tôi thường có câu :

”Đường ṃn là mồ chôn Biệt Kích”. :112:


https://image.ibb.co/mABN6z/Loi_Ho_NKT_logo2.jpg


Hành quân cứ theo đường ṃn mà đi hoài th́ trước sau ǵ cũng lạnh theo.

Hành quân mà hút thuốc lá là vô t́nh để cho địch theo dơi.

Hút thuốc trong rừng ban ngày thôi, khói thuốc cũng bay từ 15 – 20 thước. Thuốc lá thơm th́ mùi sẽ c̣n dễ nhận ra hơn nữa.


…………………….



NGÀY N+1


Phi cơ lên vùng rất sớm. Chúng tôi báo cáo trong đêm vô sự và bắt đầu di chuyển theo lộ tŕnh. Đường đi rất khó v́ B-52 oanh tạc, cây cối đổ ngổn ngang trong hướng tiến quân của chúng tôi. V́ phải đi qua các hố bom đường kính trên 15-20 thước nên toán di chuyển rất chậm v́ cứ phải định hướng lại hoài.

Buổi trưa trên con đường ṃn nhỏ, trên đỉnh của một ngọn núi thấp chạy theo hướng Tây-Bắc – Đông-Nam, chúng tôi phát giác gần 25 cái cḥi nhỏ, vuông, mỗi cạnh khoảng 3 thước.

Sạp được lót bằng tre, cách mặt đất khoảng 5 tấc.

Các cḥi này được bọc quanh bằng phên tre phết đất, cao khoảng 1 thước, bên trong chứa đầy lúa khoảng 8 tấc.

Phần 2 tấc bên dưới chứa trấu. Ngăn đôi giữa lúa và trấu là một lớp lá rừng

Các cḥi có nóc cao hơn 2 thước, lợp tranh, mái cḥi chạm đất

Cḥi đă thấp, lại được làm dưới tầng cây cao nên phi cơ quan sát khó thấy được.

Tôi báo cáo lên FAC xin chỉ thị ở nhà và được lệnh cứ tiếp tục di chuyển. Hướng dẫn cho FAC thấy mục tiêu xong, chúng tôi sẽ di chuyển để FAC hướng dẫn khu trục đến oanh tạc bằng bom Napalm.

Tôi cho đốt một cḥi để FAC thấy Sau đó, toán chúng tôi di chuyển nhanh xuống triền núi. Lửa gặp tranh và phên tre nên bùng cháy rất nhanh. Lúa chỉ đổ tràn xuống thôi chứ không cháy được.

Không biết bom Napalm có làm cháy hết số cḥi lúa này không ? Chung quanh không có rẫy trồng lúa. Di chuyển số lượng lúa này từ xa đến đây chắc địch phải mất rất nhiều ngày và nhân lực.


Chị em tăng gia sản xuất, thu hoạch củ cải về cải thiện bữa ăn cho đồng đội. Ảnh chụp lại từ triển lăm


https://znews-photo.zadn.vn/w1024/Uploaded/oplukaa/2019_05_16/1.jpg


Khi đến chân núi, chúng tôi thấy 2 chiếc F4-C Phantom từ trên cao bổ nhào xuống, thụt bom Napalm rồi bay vụt qua đầu chúng tôi. Tôi mong cho những đồi lúa bị cháy.

Lúa đổ xuống đất chỉ cần có mưa hoặc sương đêm cũng đủ làm cho lúa nẩy mầm là không dùng được rồi. Buổi tối hôm đó chúng tôi đóng quân cạnh một con suối nhỏ.

Trời vừa sụp tối đă nghe có tiếng xe di chuyển ở hướng Tây.

Tiếng xe hú to chứng tỏ là xe đang phải chở nặng, hoặc cố vượt qua các dốc cao hay suối cạn.

Tiếng bom B-52 nổ suốt đêm về hướng Bắc khiến mặt đất và cây cỏ rung lên từng chập sau mỗi đợt tiếng nổ. Tuy nhiên, sau đó đêm yên tĩnh…



Phần c̣n lại của một xe tải do Liên Xô sản xuất, được quân đội Giải phóng sử dụng trên đường ṃn Hồ Chí Minh thời kháng chiến chống Mỹ. Ảnh chụp gần Ban Kalum, tỉnh Sekong của Lào

https://images.kienthuc.net. vn/zoomh/800/uploaded/quocquan/2018_09_12/soi-tan-tich-chien-tranh-tren-duong-mon-ho-chi-minh-o-lao.JPG

NGÀY N+2


Vừa di chuyển theo suối khoảng 200 thước, chúng tôi cặp dọc theo 2 bên con suối trong một khu rừng thấp và phát hiện một chỗ đóng quân cho khoảng từ 150 đến 200 người trở lên.

Mỗi chỗ đóng quân cá nhân gồm có 2 cây thiên nhiên hoặc 2 cây trụ, đuợc chôn khoảng cách vừa tầm để buộc vơng.

Phía trên 2 cây có buộc một cây ngang để máng lều cá nhân. Hai cây ngang tôi đoán dùng để gác súng và một sạp nhỏ để ba-lô.

Chung quanh thật sạch sẽ, không một ngọn cỏ, không một chiếc lá, chứng tỏ là được dùng đóng quân thường xuyên. Có lẽ đây là một binh trạm đóng quân của chúng giữa 2 chặng đường.

Chắc chắn gần đây phải có nhà hoặc có cơ sở của binh trạm này. Tôi chụp h́nh và cho lệnh lục soát rất kỹ.


https://charliecompanydotorg .files.wordpress.com/2012/10/hcm-trail9.jpg

Qủa nhiên trên một ngọn đồi thấp, cạnh con đường ṃn lớn không có dấu vết xe di chuyển, chúng tôi phát giác 1 căn nhà sàn nhỏ và 4 căn nhà trệt nằm dưới cây cổ thụ cao. Chúng tôi dè dặt tiến vào .

Đúng là một binh trạm rồi ! Đồ đạc vất vương văi, dép râu, điếu cày, mấy cái chén xanh và một cái tô méo mó. Dưới đất có 2 bếp nhỏ và mấy đôi đũa… chứng tỏ là địch đă bỏ đi thật gấp.

Một bàn viết làm bằng tre, ghế cũng bằng tre. Trên bàn có một lọ mực tím. Trên phên vách treo mấy cái áo trận đă rách, một tấm lưới bắt cá, lưỡi và dây câu.

Chúng tôi lục soát thật kỹ và t́m thấy một tờ giấy nhỏ như giấy học tṛ, viết bằng mực tím. Giấy bị ướt nên chữ nḥe đi, không đọc được ǵ cả.

Bốn căn nhà trệt có lẽ dùng để chứa lương thực v́ thấy có ít gạo và bắp rơi xuống đất. Chúng tôi đốt tất cả 5 căn nhà này. Tiếng tre nứa cháy nổ ầm ầm như đụng trận.

Chúng tôi di chuyển thật nhanh và t́m chỗ đóng quân đêm. Tối hôm đó vẫn c̣n nghe tiếng xe di chuyển măi gần đến khuya mới dứt.

NGÀY N+3


Buổi sáng hôm đó, FAC bay lên và chuyển cho chúng tôi một công điện :

Cứ giữ hướng di chuyển cũ, chú ư lục soát kỹ, bung rộng trong trục tiến quân v́ hướng này là một nhánh hay một xương sườn của đường ṃn Hồ Chí Minh chạy vào Tam Biên.

Công điện cũng cho biết thêm là trục tiến quân của địch vào Benhet chỉ chung quanh đây thôi. Tôi bàn với Thượng Sĩ Meadows, nếu lục soát rộng sẽ làm chậm sự di chuyển của toán.

Meadows đề nghị :

Chia toán ra làm đôi , lục soát rộng 2 bên bờ suối, cặp theo con đường ṃn nhỏ mà chúng tôi đă gặp hôm qua.

Tôi không đồng ư v́ nếu chia đôi toán ra th́ khó liên lạc và yểm trợ cho nhau. Trước nay, chúng tôi thường để một nửa toán nằm lại tại chỗ, c̣n một nửa toán kia đi lục soát để biết có điểm hẹn mà trở về.

Chia đôi th́ không đúng nguyên tắc, mặc dù có thể lục soát một chu vi rộng hơn.

Tôi vẫn giữ đội h́nh cũ và di chuyển chếch về hướng Bắc v́ 2 đêm liền đều nghe thấy có tiếng xe di chuyển ở hướng này.


https://hanoimoi.com.vn/Uploads/images/tuandiep/2020/04/30/Tram-dung-chan-tiep-xang-va.jpg


Khoảng gần trưa, chúng tôi phát giác 2 căn nhà cất thật thấp trên một diện tích 8 x 10 thước.

Nền nhà được đào sâu xuống khoảng gần một thước, đất được đắp chung quanh.

V́ mái nhà cất chạm đất và lại ở dưới tàn cây cao nên đến gần chúng tôi mới phát hiện.

Một thang gỗ khoảng 3 bậc dùng để lên xuống, hai bên là 2 dăy sạp tre. Đầu nhà phía bên kia cũng có thang lên xuống.

Một phía đầu nhà có một chái nhỏ dùng làm bếp, có hai cái ḷ, một ḷ kẹp 2 con cá nướng c̣n đang nằm trên bếp. Cá đă cháy khét.

Tôi tḥ tay vào tro thếy c̣n hơi âm ấm. Có lẽ tụi chúng đă bỏ đi chiều hôm qua. Căn nhà bên kia khoảng 4 x 8 thước, bên trong có một bàn viết, sạp ngủ làm bằng tre. Một quyển sổ b́a xanh loại giấy học tṛ ghi tên tuổi các bệnh binh.

Có lẽ đây là một bệnh xá thuộc binh trạm mà chúng tôi đă phát hiện ngày hôm qua. Sổ ghi bệnh nhân phần nhiều là phù thủng, sốt rét và kiết lỵ.

Tôi đếm và cộng lại sổ ghi mỗi tháng thấy có từ 17 đến 25 tên có mặt ở trạm xá này. Tổng số chết cũng gần chục tên. Bệnh xá có ghi tên một bác sĩ và hai hộ lư, đều là tên đàn ông.

Như vậy, hộ lư và y tá cũng c̣n có tên riêng là nữ cán bộ, dùng để phục vụ sinh lư cho các cán bộ cao cấp địch. Chúng mày bỏ của chạy lấy người th́ chúng ông đốt nhà chúng mày vậy.

Chiều nay lại được dịp nghe tre nứa cháy nổ ầm ầm như pháo Tết ! Đêm hôm đó nghe tiếng xe di chuyển gần chúng tôi hơn…


https://cdn.baogiaothong.vn/files/baogiay1/2015/06/24/duongtruongson-xe-anh-qua-2343.jpg

Ngày N+4


Buổi sáng sau khi báo cáo với FAC trong đêm an toàn, chúng tôi bàn với nhau:

Qua phát hiện trong 2 ngày nay, chắc chắn tuyến đường xâm nhập vào vùng Tam Biên phải ở gần đây.

Tuyến đường này gần như nằm song song với trục tiến quân của chúng tôi. Có thể là hướng Bắc của con suối hay nằm ở phía Nam con suối.

Tôi quyết định đổi hướng và toán di chuyển về hướng Bắc, không tiến vào mục tiêu như đă dự trù. Tôi liên lạc với FAC cho biết ư định mới của toán và chiếu gương xin FAC xác nhận vị trí điểm đứng của toán.

FAC cho tọa độ hiện tại của toán, so với tọa độ chúng tôi xác định th́ chỉ cách nhau không qúa 100 thước.

Chúng tôi vượt qua một con suối sâu độ 3-4 tấc th́ phát giác một con đường ṃn, láng, sạch, không có một cọng cỏ. Theo kinh nghiệm th́ đường ṃn như thế này phải được sử dụng hàng ngày rồi.

Tôi bước dọc theo lề đường khoảng 10 thước, nh́n về phía Tây khoảng 100 thước th́ bị che khuất Có lẽ đó là khúc quanh mà con đường chạy theo đoạn cong của ḍng suối.

Quan sát về phía Đông của đường ṃn thấy xa hơn khoảng 200 thước th́ con đường đi xuống thấp dần, v́ đường ṃn chạy theo triền đồi thoai thoải xuống. Vừa định lấy máy h́nh ra chụp, tôi bỗng nghe có tiếng ồn ào về hướng Tây.


https://sohanews.sohacdn.com/2013/1377399010672.jpg


Vội thụt lui vào phía trong th́ đă thấy một đoàn người vừa xuất hiện ở khúc quanh con đường. Dẫn đầu là một tên quần xanh, áo trận vàng, đầu đội nón cối, tay cầm một cây gậy dài, vai quàng một miếng vải dù bông, vừa chạy vừa hô ”Khẩn trương – Khẩn trương – Khẩn trương”.

Phía sau là một đoàn người gần như chạy lúp xúp mặc đồ trận xanh, nón cối, giầy vải, khiêng những khúc dài được bọc bằng giấy mầu ô-liu, không biết là sơn pháo hay pḥng không.

Có tên gánh, có khi cả 2 tên khiêng một thùng gỗ hoặc thùng sắt.

Tôi đứng như trời trồng v́ chỉ cách chúng không đầy 5 thước ! Bờ suối th́ cũng cách tôi khoảng chừng 5 thước. Tôi nhích dần, nhích dần xuống suối. Nếu trời xui khiến chỉ cần có tên nào dừng lại là thấy tôi ngay.

Tôi nh́n Thượng Sĩ Meadows và 2 tiền sát viên Lư A Dưỡng và Ẉng A Cầu đang nằm bẹp bên bờ suối, nước tới thắt lưng, mặt người nào cũng nghệt cả ra. Cuối cùng, tôi cũng thụt lui tới mép suối.

Tôi vừa ngồi thụt xuống bờ suối th́ đoàn quân của địch cũng vừa vượt qua.

Tôi nhích dần về phía Thượng Sĩ Meadows, đưa ngón tay ra dấu hiệu đúng là mục tiêu rồi. Tôi hỏi nhỏ:

” Mày đoán xem đoàn quân vừa đi qua độ chừng bao nhiêu ?”.

Nó đoán khoảng hơn 150 người. Tụi thằng Dưỡng, thằng Cầu nói khoảng 300. Tôi đoán trên dưới cũng khoảng 200 thôi.

Tôi ra dấu cho Thượng Sĩ Meadows trở về phía bên kia suối bảo Trung Sĩ Charles liên lạc với FAC báo cáo hiện t́nh.

Chờ khoảng không hơn 20 phút sau cũng không thấy toán quân địch nào di chuyển qua. Thượng Sĩ Meadows lội sang, tay cầm máy quay phim. Cùng lúc này, tôi nghe tiếng phản lực cơ gầm thét cùng với tiếng ầm ầm ở hướng Đông mà đoàn quân xâm nhập của địch vừa đi tới.


https://dongsongxua.files.wo rdpress.com/2019/02/cac-chien-si-ld81-biet-cach-nhay-du-phuc-kich-dich.jpg


Thượng Sĩ Meadows nói nhỏ vào tai tôi :

”Tôi đă liên lạc với thằng FAC, nó điều động các phản lực cơ đang có mặt ở trong vùng ưu tiên đánh cho bọn ḿnh FAC cũng cho biết đă xin các phi xuất từ Đà Nẵng đang trên đường đi yểm trợ theo lời yêu cầu và hướng dẫn của toán.”. ..

Nó c̣n cho biết thêm là đă cẩn thận trải panô bên kia bờ suối khoảng 10 thước và FAC đă thấy tọa độ của ḿnh rồi. Tôi cũng khoái. Như vậy là chắc ăn như bắp. FAC cũng khôn, nó chỉ bay ở xa xa chứ không ở trên đầu chúng tôi.

Ở bờ suối bên này chỉ có tôi, Meadows và thằng Dưỡng. Thằng Meadows gần như nằm hẳn xuống suối, từ thắt lưng trở xuống ngâm hẳn dưới nước suối. Nó để máy quay phim ghếch ống kính lên chờ quay. Tôi đứng rùn người, hơi nghiêng bên cạnh thân cây gỗ mục chờ chụp h́nh.

Khoảng 15 phút sau, ở khúc quanh hướng Tây xuất hiện một toán khoảng chừng 15 tên, vượt qua chỗ chúng tôi đang núp với những bước chân sải thật dài.

Cũng quân phục xanh, nón cối, giầy vải và dép râu lẫn lộn, lưng mang balô có vắt nhánh cây. Tên nào cũng chống một cây gậy nhưng không thấy mang vũ khí hay khiêng vác vật ǵ cả, khác với toán vừa vượt qua. Toán này tất cả đều sồn sồn khoảng 40-50 tuổi.


https://baogialai.com.vn/dataimages/201712/original/images2605384_1_hung _tan.gif


Khoảng 10 phút trôi qua, chúng tôi lại thấy một toán nữa xuất hiện. Quân phục cũng giống như toán vừa vượt qua lúc đầu

Cũng khá đông, gần 100 tên. Không biết thuộc đoàn vừa qua rớt lại phía sau, hay chúng chia ra từng nhóm nhỏ để tránh phi cơ quan sát thấy. Đặc biệt nhóm này không có tên dẫn đường.

Toán này vượt qua được gần 20 phút rồi mà vẫn không thấy thằng Meadows quay trở qua.

Tôi ra dấu cho thằng Dưỡng trở về bờ suối bên kia. Thằng Meadows đang nhăn nhó lắc đầu cho biết máy quay phim của nó không sử dụng được. Tôi nói:

” Tao chụp được nhiều h́nh lắm rồi ”.

Trong lúc đó phản lực cơ đang thả bom ầm ầm ở hướng Đông. Tiếng bom nổ như sát bên cạnh chúng tôi.

Lúc này đă hơn 12 giờ trưa, mấy thằng nhỏ của tôi chắc cũng có ǵ bỏ bụng rồi. Tôi ra dấu cho thằng Meadows kiếm ǵ ăn đi. Nó lắc đầu và đưa bi-đông nước lên làm dấu. Tôi thấy thằng này đi hành quân ăn rất ít, thường thường chỉ một hộp trái cây nhỏ cho cả ngày

Tôi liếc một ṿng thấy mấy thằng nhỏ đang ẩn nấp thật kỹ sau những thân cây to. Tôi, thằng Meadows và Charles bắt đầu hướng dẫn cho FAC đánh chính xác hơn.

Giờ phút này, ở con đường ṃn phía bên kia bờ suối lại thấy xuất hiện một toán quân khác. Đoàn này trang phục cũng quần áo trận xanh, lưng đeo ba-lô vắt lá ngụy trang.

Đặc biệt tất cả đều mang vũ khí cá nhân, phần nhiều là AK-47, không thấy có súng lớn như đoàn đầu tiên.

Chúng gần như dồn cục vào nhau, vừa đi vừa chạy.


https://cdn.tuoitre.vn/thumb_w/980/2019/5/16/luc-luong-giao-lien-15579278408349402615 50-15579992370971636342 629.png


Nhờ tấm pa-nô trải làm dấu phía sau chúng tôi nên FAC thấy vị trí toán rất rơ. Do đó, lần này khu trục đánh bom con đường ṃn trước mặt chúng tôi không qúa 50 thước.

Nghe tiếng khu trục gầm thét, bọn chúng ngừng lại và đứng tạt ra hai bên đường. Một tràng đại liên từ khu trục bắn cày dài theo mặt đường tới bờ suối bên kia.

Bị khu trục bắn thẳng vào đoàn quân nên bọn cộng phỉ kinh hoàng khiếp vía bỏ chạy náo loạn và kêu la ầm ĩ. V́ rừng già nên bên dưới rất trống trải nên thấy có rất nhiều xác chết nằm rải rác trên đường

Một số tạt về phía bờ suối hướng toán chúng tôi đang đứng phục kích Lần này, khu trục bắn nhiều tràng đại liên dọc theo bờ suối. Lại nhiều tên cộng phỉ nằm bên bờ suối cũng bị trúng đạn khu trục ngă gục.

Về hướng Bắc cây cối thưa hơn nên chúng tôi quan sát thấy có thêm một toán địch mới xuất hiện. Chúng bị dồn cục lại và nằm phục 2 bên con đường.

Thằng Meadows vội giành lấy ống liên hợp trong tay thằng Charles, hướng dẫn FAC đánh mục tiêu hướng Tây Bắc và hướng Bắc.

Có lẽ chúng thấy khu trục chỉ bắn con đường ṃn và phía bờ suối nên đổ dồn về phía này.

Hết khu trục A1-E rồi phản lực F4-C thay phiên nhau quần thảo phía Bắc con suối, cách chỗ chúng tôi khoảng 50-60 thước. Tiếng bom, tiếng đạn, tiếng tí tách lửa cháy và tiếng rên la vang từng chập.


https://e.baonghean.vn/wp-content/uploads/2019/04/ChiendichTayNguyen-ca2.jpg

Tiếng bom đạn vừa ngừng là bọn chúng lại chạy về hướng Đông của đường ṃn. Chưa bao giờ tôi thấy khu trục yểm trợ ngoạn mục như vậy. Nhiều tràng đại liên cài dọc theo con suối chỉ cách chúng tôi không qúa 50 thước.

Tôi nghĩ chỉ cần một viên đạn ”bụi đời” bỏ đi bậy bạ là toán chúng tôi có người bỏ mạng rồi.

Phi cơ đánh từ Đông sang Tây phía trước mặt chúng tôi. Hướng Bắc không nh́n thấy địch nhưng về hướng Tây trên một ngọn đồi thấp có nhiều tảng đá to, tôi thấy địch đang tập trung và ẩn nấp quanh mấy ḥn đá lớn lố nhố.

Tôi ra dấu cho Thượng Sĩ Meadows lại gần chỉ cho nó thấy và nói:

”Mày gọi FAC và xin 2 phi xuất Napalm đi”.

Nó nói OK và ḅ lần về phía thằng Charles.


https://sohanews.sohacdn.com/2013/1377399010664.jpg


Trong lúc đó ở hướng Đông Bắc bỗng có đại liên pḥng không 37 ly nổ "chụp chụp". Từng cụm khói trắng bung lên mỗi lần phi cơ đảo xuống.

Không biết FAC có điều động không nhưng tôi thấy có một khu trục tách ra, lao về hướng có pḥng không vừa bắn lên. Sau mấy loạt đạn và 2 tiếng bom nổ, khẩu súng pḥng không này của bọn cộng phỉ cũng bị làm im tiếng luôn.

Thượng Sĩ Meadows ḅ lại cho biết sẽ có trực thăng vơ trang bay lên yểm trợ. Tôi nói :

” Good !”.

Vừa nói xong th́ tiếng lạch bạch của 4 trực thăng vơ trang Cobra cũng vừa lao tới.

Hai chiếc bay ṿng bên ngoài, hai chiếc kia lao vào phụt rocket và đại liên. Hỏa lực trực thăng cũng mạnh lắm nhưng tụi địch không ngán trực thăng, v́ chúng tôi nghe thấy nhiều tràng AK bắn lên phi cơ.

FAC có lẽ được trực thăng báo cho biết có hỏa lực bên dưới bắn lên nên nó bay vào vùng mục tiêu và đảo trên đầu chúng tôi. Mấy tên sống sót từ trưa đến giờ nhờ núp bên mấy khe đá, thấy ngọn đồi bên phía chúng tôi đang đứng không bị oanh kích cho nên tôi nghe tiếng la:


” Tất cả tiến sang bên phải ”.

Hai, ba tên lụp xụp bám thành suối leo lên chạy về hướng ngọn đồi chúng tôi đang bố trí.

Hai thằng chạy đầu vừa lên khỏi bờ suối bên này th́ ”rẹt rẹt”, thằng Dưỡng nhả 2 loạt súng giảm thanh. Hai tên này gục xuống. Thằng thứ ba vội tụt xuống, lui lại nấp vào ḥn đá to giữa suối. Thằng Dưỡng khạc thêm mấy loạt đạn nữa nhưng đạn chỉ chạm vào đá rồi rớt xuống suối nghe bụp bụp.

Bỗng tên này la to :

”Có Biệt Kích gián điệp, Biệt Kích gián điệp!”.

Thằng Sáng lanh lẹ thẩy một trái lựu đạn mini sau lưng tên này. Tiếng nổ của trái lựu đạn mini hất tung tên cộng phỉ lên cao, phơi nửa người nằm trên phiến đá.

Sau tiếng lựu đạn, tôi nghe có nhiều tiếng la ở hướng Tây

”Có Biệt Kích gián điệp, Biệt Kích gián điệp!”.


https://sohanews.sohacdn.com/2013/1377399010670.jpg


Tôi ra dấu cho cả toán chuẩn bị. Chúng tôi đă bị địch phát giác rồi. Có thêm mấy bóng theo các thân cây khum khum tiến về phía chúng tôi, bắn mấy loạt đạn AK ḍ dẫm.

Tôi ra hiệu cho Thượng Sĩ Sơn dẫn bán tổ rút trước về hướng Nam. Bán tổ c̣n lại cũng rút chầm chậm theo. Giờ này ở bờ suối bên này đă có khoảng mười mấy tên ḅ lên đồi rồi.

Thằng Meadows từ sáng tới giờ chắc cũng ngứa tay nên chồm lên nhả nguyên một loạt đạn. Tiếng AK bắn ào ào xả vào chúng tôi lúc chúng tôi vừa yểm trợ cho nhau vừa rút. Bốn chiếc trực thăng đảo qua đảo lại, bắn đại liên ngăn chặn phía sau chúng tôi.

Vỏ đại liên và sắt két đạn rơi lên đầu lên cổ chúng tôi nóng bỏng. Có lẽ tụi trực thăng thấy chóp mũ chúng tôi có dấu hiệu mầu cam nên tụi nó bắn thật chính xác, không sợ lầm vào quân bạn.

Mặc dù trực thăng yểm trợ rất mạnh, thế mà tụi nó cũng đuổi theo chúng tôi hơn 500 thước. Lúc này cũng gần 6 giờ chiều.

Bây giờ chúng tôi mới bắt đầu thấy đói và khát. Tôi ra dấu cho toán ngừng lại để bố trí ăn cơm. Từ sáng đến giờ, v́ qúa mệt và căng thẳng nên tôi chỉ nuốt trôi nửa lon Fruit-Cocktail.

Trong công điện buổi trưa chúng tôi nhận được th́ Chiến Đoàn cho lệnh ngày mai chúng tôi phải t́m băi đáp triệt xuất gấp.



https://sohanews.sohacdn.com/2013/1377399010654.jpg


Tôi đoán B-52 sẽ ”tapi” vùng này khi chúng tôi triệt xuất ra xong Sau khi dùng cơm chiều, chúng tôi chờ trời tối hẳn mới di chuyển khỏi nơi này khoảng 200 thước t́m chỗ đóng quân.

Khoảng 9 giờ tối, chúng tôi nghe từng tràng tiếng nổ ầm ầm. Mỗi lần sau tiếng nổ là ánh sáng lóe lên, sáng như ban ngày. Thằng Meadows cho biết máy bay C-47 đang ”chụp h́nh” tụi nó bằng bom !

Lần đầu tiên tôi mới nghe như thế. Cuộc chiến này có nhiều điều thật mới lạ. V́ sợ tụi VC theo dơi đột kích trong đêm nên tôi cứ chập chờn không dám ngủ.

C̣n tiếp ,

hoathienly19
11-06-2020, 07:28
NGÀY N+5

Buổi sáng báo cáo với FAC xong, chúng tôi cho biết là băi đáp triệt xuất chưa có. FAC hướng dẫn chúng tôi về phía Tây Nam khoảng 300 thước thấy có một băi đáp nhỏ, có thể dùng để triệt xuất được.

Trong lúc chuẩn bị di chuyển, tôi nh́n về phía Đông Nam khoảng 300 thước thấy h́nh như có một làn khói nhỏ lơ lửng bay lên. Tôi chỉ cho thằng Meadows, nó nói có lẽ là sương. Buổi sáng nắng lên làm tan phần sương trên ngọn cây nên nh́n thấy có ánh sáng mầu vàng lợt. Nhưng nếu nh́n từ mặt đất trở lên 2-3 thước th́ thấy sương mù c̣n lăng đăng.

Quan sát một hồi, thằng Meadows nói có lẽ là khói. Tôi cũng c̣n chưa quyết định hẳn đây là sương hay khói. Nếu là khói th́ có lẽ v́ các đám cháy do bom đánh ngày hôm qua tạo ra.

Nhưng sau khi quan sát kỹ, tôi thấy làn khói bay lên thẳng như tạo ra bởi một đống lửa nhỏ, giống như khói bếp vậy. Hướng này là hướng con đường ṃn chạy bọc theo suối, trải dài về hướng Đông mà các phi tuần phản lực đánh chặn địch ngày hôm qua.

Thay v́ di chuyển về hướng Tây Nam theo phi cơ quan sát chỉ để t́m băi đáp, tôi cho toán di chuyển về hướng Đông Nam, tiện việc lấy nước ở suối và quan sát xem đó có phải là khói không ?


https://lh3.googleuserconten t.com/proxy/cyCHAnqp4yf7N2k50I8s MeZ65VgjHe2HAR4GpXqm LEFlwoTAXu7YgdnGvBGY ze2TCC1ST-gpCUxghGy95SmtCQPeBg BHljQx54omcjvRjrDqlj r06JBfSZ_zOKX7_Jdmu9 kl0Cg


Chúng tôi thấy cạnh con suối có một căn cḥi nhỏ. Kích thước cḥi này cũng giống như những căn cḥi mà chúng tôi phát hiện có lúa mấy ngày trước. Cḥi không có lúa, chỉ c̣n lại toàn trấu.

V́ được cất gần suối nên sàn nhà cao hơn một thước.

Chúng tôi tản ra và chuẩn bị ăn sáng. Từ hôm đi đến nay mới nghe thằng Charles mở miệng :

” Nếu được phép ngủ, tôi sẽ nằm dưới cḥi này ngủ 3 ngày liền ”.

Trong toán, nó là thằng phải mang nặng nhất. Ngoài những trang bị như mọi người, nó c̣n cơng thêm một máy truyền tin PRC-25, một máy ngụy tần số gắn liền với PRC-25 cộng thêm một cục pin trừ bị.

Nghe nó nói muốn ngủ, mắt tôi cũng muốn sụp xuống ! Tôi tháo ba-lô ra, tṛng giây súng vào cổ, bước lên một thân cây to đổ vắt ngang qua suối để ra giữa suối khoát nước rửa mặt.

Vừa ngồi xuống, chưa kịp đưa tay khoát nước, nh́n về phía trái khoảng 15-20 thước tôi chợt thấy có móc 3-4 chiếc vơng. Có chiếc c̣n căng poncho làm lều.


http://redsvn.net/wp-content/uploads/2020/05/Duong-Truong-Son-07.jpg


Tôi đưa tay ra dấu có địch, nhưng ngoái lại chẳng thấy có đứa nào nh́n thấy thủ hiệu của tôi cả. Ai nấy đang chuẩn bị ăn sáng ! Tôi vừa thụt lui nhưng mắt vẫn quan sát mấy cái vơng, tay vẫn đưa ra sau làm dấu có địch.

Chân tôi vừa đặt suống đất th́ Thượng Sĩ Sơn cũng vừa ngó thấy thủ hiệu có địch của tôi. Nó chồm tới phát vào vai thằng Dưỡng và thằng Meadows ngồi gần đó, ra dấu có địch. Bây giờ th́ cả toán đă được báo động.

Tôi cho toán biết là quan sát thấy có 3-4 cái lều vơng nhưng không thấy có người. Tôi cho lịnh rất nhanh :

Tôi, thằng Dưỡng và thằng Meadows ḅ qua trước. Thượng Sĩ Sơn, thằng Cầu, thằng Sáng yểm trợ. Phần c̣n lại bố trí bên này.

Buổi sáng nước lạnh như nước đá, cũng may nước chỉ cao hơn đầu gối một chút thôi. Chúng tôi ḅ lên khỏi bờ suối khoảng ba thước th́ thấy một tên từ vơng ngồi dậy. Thằng Dưỡng hốp tốp kêu:

- ” Đứng dậy – Dơ tay lên !”.

Tên này đang lúng túng, có lẽ c̣n vướng một chân trên vơng nên chưa ḅ xuống được. Tôi và thằng Meadows vọt nhanh tới.

Thằng Meadows nắm vai tên này lật té xuống đất. Hai tên khác vụt bỏ chạy. Hai tên này đang ngồi khuất dưới đất nên chúng tôi không thấy.

Thật nhanh, thằng Dưỡng đưa nguyên một băng giảm thanh. Một thằng ngă, c̣n thằng kia chúng tôi thấy nó phóng xuống đất, nhưng khi chạy đến t́m th́ không thấy có máu và người đâu cả. Tên kia bị bắn trúng, lănh cả gần chục viên ở bụng. Tôi quay trở lại chỗ thằng Meadows th́ thấy nó đă c̣ng tay tên vừa bắt được bằng c̣ng nylon, miệng dán băng keo xanh.

Bỗng tôi nghe tiếng Thượng Sĩ Sơn hô:

” Đứng lên! Đưa 2 tay lên khỏi đầu ”.

Th́ ra cách chúng tôi khoảng 5-6 thước có một tên khác đang đi cầu.

Thấy lộn xộn nó ngồi im tại chỗ, nhưng không ngờ bị Thượng Sĩ Sơn phát giác. Tên này đứng lên, 2 tay đưa lên đầu nên không kéo quần lên được, để ”Bác Hồ” ḷng tḥng coi tức cười qúa. Thượng Sĩ Sơn bước đến, chĩa súng sau lưng nó nói:

” Cài quần lại !”. Tên này lúng túng kéo quần lên, miệng hỏi:

” Các đồng chí ở đơn vị nào ?”. Thằng Cầu nạt:

” Im mồm mày !”.

Nó được dẫn lại gần chỗ tôi và thằng Meadows đang đứng.

Thấy thằng Meadows to lớn như con gấu, râu ria 5-6 ngày chưa cạo th́ nó biết ngay chúng tôi là ai rồi nên không hỏi nữa. Thằng Meadows kéo tay nó xuống, quặt ra sau lưng tṛng dây c̣ng vào. Nó dẫy dụa nói:

” Các anh phải đối xử tử tế với tù binh ”.

Thằng Cầu đá vào đít nó rồi nói:

”Con c… ông nè chứ tử tế. Tụi mày bắt được tụi tao có tử tế không ?”.

Thằng Meadows trong tay đă cầm sẵn miếng băng keo chụp dán miệng tên đó câm luôn.


https://ci6.googleuserconten t.com/proxy/93aenmrvMTaMcjCDVkIg vu0k26IlsGARSmuWYeyq 6YrMDVQ4knZg5ejtHBif p5tTQxSLes1mi2SN-x6x1l-UpgDp6vXGpCcUvtrrgl0 j6vu1j9v8FcqbPA=s0-d-e1-ft


Tôi ra dấu rút. Trong lúc Thượng Sĩ Sơn và tụi thằng Dưỡng, thằng Cầu hối hả tháo vơng và lều bỏ vào ba-lô tụi nó, nh́n thấy cây AK dựng ở góc cây, tôi chỉ thằng Sáng cho nó cầm luôn. Chúng tôi trở qua cḥi họp toán lại rồi bắt đầu rút. Thằng Meadows nói nhỏ với tôi:

” Sir, chờ tôi báo cáo với FAC biết ḿnh đă bắt được 2 tù binh rồi hăy di chuyển ”.

Trông gương mặt nó vui như được kẹo.

Tôi lẩm bẩm trong bụng

“ Tiên sư anh. Có chiến lợi phẩm anh gọi tôi bằng Sir ngọt sớt .”.

Tôi nói OK và tính rất nhanh trong đầu.

Nếu di chuyển đến băi đáp do FAC chỉ lúc ban sáng th́ quá xa. Vướng 2 tên tù binh không di chuyển nhanh được, lỡ chạm địch lại càng thêm rắc rối.

Nếu mấy tên này thuộc toán tiền tiêu của đơn vị địch th́ tên chạy thoát vừa rồi về sẽ báo cáo, và lúc đó địch sẽ truy kích chúng tôi ngay.

Thằng Meadows đưa ngón tay cái lên làm dấu là đă báo cáo cho FAC xong. Tôi cho nó biết ḿnh phải phá cây làm băi đáp cho trực thăng xuống. Nó không suy nghĩ nói OK ngay. Tôi quan sát thấy hướng Đông Nam có đám rừng thưa, toàn là cây chồi, không to lắm. Tôi cho lịnh toán tiến về hướng đó.

Đi được khoảng 200 thước th́ thấy dưới triền đồi hơi thoai thoải, rừng thưa, cây to chỉ bằng bắp vế. Đảo mắt nhanh một ṿng, ước lượng chu vi rộng đủ cho một trực thăng đáp xuống được mà cánh quạt phải không chém vào cây, tôi quyết định chọn nơi này làm băi đáp.

V́ là triền đồi nên nước chẩy xuống tạo thành một khe khá sâu như một con suối cạn. Tôi bảo đẩy 2 thằng tù binh xuống dưới đó.

Định tọa độ xong, đưa cho thằng Charles gửi lên cho FAC. Một mặt, tôi cho lấy giây chuyền nổ quấn chung quanh các thân cây, định bụng sẽ cho nổ mấy cây này trước vài phút để lấy chỗ cho trực thăng đáp xuống.

Nuôi quân 3 năm, xài trong 15 phút. Với tay nghề của thằng James và 2 toán viên của tôi, việc dọn băi trực thăng bằng chất nổ là 1 trong 15 bài dễ nhất của khóa ”Ḿn bẫy & Phá hoại”.


https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/0/07/ARVN_and_US_Special_ Forces.jpg


FAC cho biết trực thăng đă cất cánh. Nh́n đồng hồ, tôi tính phải 40 phút nữa trực thăng mới tới. Đi một ṿng thấy mấy thằng nhỏ bố trí và cảnh giác cao nên tôi ngoắc thằng Meadows lại chỗ con mương, nơi Thượng Sĩ Sơn đang giữ 2 tù binh.

Tôi ra hiệu cho Thượng Sĩ Sơn lên, tôi và thằng Meadows nhẩy xuống. Tôi phải khai thác tụi này vài câu mới được. Nhỡ khi bị địch truy kích, chắc chắn là phải thanh toán 2 tên này. Biết được vài tin tức, ít ra cũng được một vài tin để báo cáo.

Trong 2 tên th́ tên lớn tuổi bị bắt lúc đi cầu đang dăy dụa như muốn tháo dây c̣ng, miệng cứ ú ớ hoài. Thượng Sĩ Sơn nói:

”Nó đi cầu chưa chùi nên thúi hoắc à”. Meadows ngó tôi hỏi Sơn nói ǵ ? Tôi nói

“ Nó bảo kỳ này về mày sẽ được lên lon ”.

Thằng Meadows cười, biết là tôi nói đùa với nó.

Tôi gỡ băng keo khỏi miệng 2 tên tù binh rồi nói:

”Các anh hăy ngoan ngoăn, đừng có chống cự ǵ cả. Bắt buộc v́ an toàn, chúng tôi mới phải c̣ng các anh lại thôi”. Tôi nh́n tên lớn tuổi nói tiếp:

”Loại c̣ng này anh tuột không thoát được đâu. Càng dăy dụa, răng cưa càng xiết chặt.

Bây giờ tôi muốn mở ra cũng không được, v́ răng cưa vào th́ xuôi, c̣n tháo ra th́ ngược. Đợi về đến nhà có kềm tôi sẽ cắt ra”.

Tôi chỉ vào tên nhỏ tuổi nói:

“Ngoan ngoăn như thế này có phải tốt không?”. Tôi hỏi bọn nó có muốn uống nước không? Chỉ có tên nhỏ gật đầu.

Tôi lấy bi-đông cầm cho nó uống. Hỏi có muốn hút thuốc không? Tên nhỏ gật đầu. Tôi ra dấu xin Thương Sĩ Sơn điếu thuốc.

Thượng Sĩ Sơn đưa cho tôi một nửa điếu thuốc Pall-Mall. Tôi mồi lửa rồi cầm cho tên tù binh nhỏ tuổi hút. Tôi hỏi nó:

” Thuốc lá của Đế Quốc Mỹ đó, có ngon không?”. Nó gật đầu.

Tôi bắt đầu hỏi tên tuổi và đơn vị tên nhỏ trước.

Nó cho biết tên là Nguyễn Tiến Hùng, 19 tuổi, quê ở Phú Thọ, thuộc đoàn Khánh Ḥa 13.

Từ ngày khởi hành xâm nhập vào Nam, tính đến ngày hôm nay bị bắt đúng 2 tháng.

Nó cũng cho biết ngày hôm qua, đoàn của nó bị phi cơ oanh kích, thiệt hại rất nặng. Nó vàmột nhóm chạy toán loạn nên đă thất lạc đơn vị.

Nó cũng nói thêm là đoàn của chúng nó bị thiệt hại nặng v́ có Biệt Kích gián điệp chỉ điểm. Nó cho biết đoàn của nó là đơn vị vào Nam để bổ sung thôi.

Lúc ra đi quân số là 300. Gần 100 tên rơi rớt lại tại các binh trạm, bị phù thủng, sốt rét, kiết lỵ và ”B quay”.

B quay là đào ngũ, bỏ trốn về lại miền Bắc.

Tôi mở ba-lô của nó ra xem th́ thấy ngoài tấm bạt nylon c̣n có vơng, một bộ đồ xanh ô-liu, một chăn mỏng mầu vàng, một mặt nạ pḥng hơi độc, hai thỏi lương khô, một chén nhôm xanh, tất cả đều có dấu sản xuất tại Trung Cộng.

Đặc biệt trong ba-lô có một tờ giấy thuộc loại nylon, không thấm nước, không bị mục và không bị mối ăn. Đấy là một loại truyền đơn mà chúng tôi thường bắt gặp, rải rất nhiều trong rừng.

Trong đó có một bài thơ lục-bát, nội dung nói đại ư là người con vào Nam ngồi nhớ mẹ nơi đất Bắc, không biết số phận của ḿnh và của mẹ già ra sao ?

Bài thơ được in chồng lên h́nh người lính Bắc Việt đang ngồi ôm súng gục đầu. Có lẽ truyền đơn này của một cơ quan tuyên truyền Hoa Kỳ, v́ bài thơ có nhiều chữ không bỏ dấu. Nếu thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị th́ chắc chắn không có khuyết điểm này.


https://1.bp.blogspot.com/-VSYSDDE8yZA/XfRjk4IwJKI/AAAAAAAAEV4/SsJ9jrG1hsYV647ZvLhf U067s7eSn_Y-ACLcBGAsYHQ/s400/image1.jpg

Tên lớn tuổi quê ở Thái B́nh, 24 tuổi, tên Lê Văn Thành. Tôi hỏi:

” Các anh nói thất lạc đơn vị sao không đi t́m mà c̣n đóng quân ở đây ?”.
Nó nói phải chờ xem có c̣n bị phi cơ oanh kích nữa không, rồi mới t́m đường trở về binh trạm hôm trước chờ giải quyết, v́ nếu không có giao liên th́ không biết đường tới binh trạm sắp đến.

Tôi xếp sổ tay lại, thấy hỏi như vậy cũng đủ rồi. Tôi không có đủ thời giờ, vả lại nên dành cho Ban Thẩm Vấn Tù Binh v́ họ có kỹ thuật và kinh nghiệm nhiều hơn.

Nh́n đồng hồ thấy c̣n gần 5 phút nữa trực thăng mới tới, tôi hỏi vớt tên Hùng thêm một câu:

”Ngoài Bắc anh có thấy cố vấn Nga không?”. Nó lắc đầu và cho biết:

“ Nghe nói các cố vấn người Nga chỉ ở các đội tên lửa pḥng không mà thôi ”.


Tôi quay sang thằng Meadows nói tóm tắt cho nó biết. Thôi đủ rồi. Quăng ba-lô của 2 thằng tù binh lên trước, tôi và thằng Meadows leo lên sau rồi đưa tay kéo 2 đứa chúng nó ra khỏi rănh nước.

Tiếng trực thăng H-34 nghe phành phạch từ xa. FAC đảo thật thấp trên đầu chúng tôi. Trực thăng vơ trang cũng vừa tới, tuôn đại liên và rocket chung quanh băi đáp.


rx7vvi6PenE

Thằng James và tụi thằng Cầu, thằng Sáng nhào ra tới các thân cây đă quấn giây chuyền nổ sẵn để giựt kíp nổ.

“Ầm – Ầm – Ầm”.

Năm sáu cây ào ào ngă xuống. Theo tiêu lệnh, 2 tù binh và bán tổ của toán lên trực thăng đầu tiên. Nhóm của tôi và thằng Meadows luôn luôn xuống trực thăng trước và lên trực thăng sau cùng.

Thằng Nghĩa đáp xuống, tḥ đầu ra cửa sổ đưa tay vẫy tôi và đưa một ngón tay cái lên. Tôi cười và vẫy tay ra dấu đáp lại. Cây cối ngă ngổn ngang nhưng nó đáp xuống cũng đẹp lắm.

Bánh xe trực thăng đặt gần chạm đất, do đó tụi tôi đỡ 2 tù binh bị trói tay bước lên bậc thang trực thăng cũng dễ. Trực thăng của thằng Nghĩa vừa kéo lên khỏi ngọn cây th́ chiếc kia của thằng Hiếu cũng đáp xuống liền trong tích tắc.


https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2017/05/16d50-haclongog9.jpg

Ngồi trên trực thăng bay về Dakto tôi nghĩ thầm :

”Khi giải tŕnh hành quân, tôi sẽ cho biết địch bị phi cơ oanh kích chết hai, ba trăm tên. Không biết mọi người có tin không ?”.

Ôi mà cần ǵ? Hai tên tù binh cộng phỉ này sẽ trả lời thay tôi

(Sài G̣n trong tôi/ Lê Minh)

hoanglan22
11-18-2020, 04:37
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1691005&stc=1&d=1605673898

Vào những ngày đầu tháng Tư, mặt trận miền Trung đă vỡ, làn sóng người di tản tràn ngập Sài G̣n. Vùng 4 tương đối vẫn c̣n yên tĩnh. Sài G̣n mất chỉ c̣n là vấn đề thời gian. Có tin Chính phủ sẽ triệt thoái về Vùng 4 để cố thủ. Có tin sắp đảo chánh. v.v...

Tầm nh́n của Đại Bàng
Đô Đốc Cang với tầm nh́n xa của một vị Tướng đă thấy rơ vấn đề, phải di tản Hạm Đội, không thể nào để Hạm Đội lọt vào tay giặc, dù Chính Phủ có rút về Vùng 4 hay không. Bằng mọi giá Hạm Đội phải ra khơi vào giờ phút thích hợp nhất. Muốn ra khơi êm đẹp, bảo tồn được Hạm Đội th́ thủy lộ Soài Rạp và Ḷng Tào phải tốt. (Sông Ḷng Tào và Soài Rạp là 2 thủy lộ chính từ Sài G̣n ra Vũng Tàu. Sông Ḷng Tào rất hẹp, quanh co nhưng khá sâu là thủy tŕnh chính của thương thuyền và Chiến hạm, trong khi đó sông Soài Rạp lớn hơn nhưng khá cạn, do đó chỉ sử dụng khi cần thiết.)

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1691007&stc=1&d=1605673898

Đô Đốc Cang liền ra lệnh thành lập ngay Lực Lượng Đặc nhiệm 99, lấy tàu từ những đơn vị tinh nhuệ của sông ng̣i. Người chỉ huy ? C̣n ai nữa ! Đánh giặc “tới” nhất trong Hải quân ai cũng biết là Huỳnh Duy Thiệp và Lê Hữu Dơng. Ông Thiệp th́ đă biệt phái qua làm Giám đốc Thương cảng Đà Nẵng và đang bị kẹt ngoài đó, sống chết chưa biết, chỉ c̣n lại ông Dơng, tên thật xứng với người ! Đô Đốc Cang nói với chánh văn pḥng : “Gọi ngay Đại Tá Dơng về gặp tôi gấp, nội trong ngày hôm nay.”
Ngày 8 tháng 4 năm 1975, Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 được thành lập. Trong khẩn cấp, các đơn vị sau đây đă được lấy về :
- Giang đoàn 42 ngăn chận.
- Giang đoàn 59 tuần thám.
- Đại đội Hải kích.
- Địa phương quân.
- Một số Giang đĩnh lấy ra từ những Giang đoàn Thủy bộ, Xung phong gồm tất cả 62 Chiến đĩnh, một mũi xung kích mạnh mẽ nhất của HQVNCH lúc đó.
Nhiệm vụ:
- Lực lượng sẽ là đơn vị hậu vệ nặng để bảo vệ Chính phủ rút về Miền tây khi t́nh h́nh xấu.
- Bảo vệ an ninh thủy tŕnh Soài Rạp và Ḷng Tào trong trường hợp phải di tản.
- Bảo vệ Bộ Tư Lịnh Hải Quân nếu có đảo chánh.
- Nhận lệnh trực tiếp từ Tư Lệnh Hải Quân.
Tầm hoạt động:
- Không giới hạn.
- Tùy theo t́nh h́nh.
Bàn cờ đă đến hồi chung cuộc. Đô Đốc Cang c̣n làm ǵ hơn được ? Bảo toàn cho Hạm đội di tản an toàn, cho Hải quân, cho đồng bào vào những ngày bi thảm cuối cùng của cuộc chiến đó là điều cuối cùng mà Đô Đốc Cang có thể làm đươc trong tầm tay của ḿnh. Và Đô Đốc Cang đă chọn lưỡi kiếm bén nhất, tấm khiêng chắc nhất trao vào tay người đàn em ĺ lợm, chịu chơi nhất của ông : Hải Quân Đại tá Lê Hữu Dơng.
Vàm Cỏ máu và lửa

Sau khi Khmer Đỏ xâm chiếm Cao Miên, Cộng sản Bắc việt kéo quân ào ạt qua biên giới Miên Việt đông như kiến, hung hăn với ư đồ cắt đứt Quốc lộ 4,tràn ngập Sài G̣n theo hướng Tây nam, khóa chặt thủy lộ Ḷng Tào Soài Rạp, bắt sống Hạm đội Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa, tịch thu toàn bộ làm chiến lợi phẩm... Kế hoạch chắc ăn như bắp, miếng mồi ngon như miếng mỡ. Nhưng khi kéo quân ào ạt đến bờ Tây sông Vàm Cỏ th́ Bắc quân đành phải khựng lại. Tới đây Bắc quân đă đụng ngay một bức trường thành thép và lửa do Đô Đốc Cang dựng nên : Tướng trấn ải là Hải quân Đại tá Lê Hữu Dơng, vị Đại tá trẻ và đánh giặc ch́ nhất của Hải quân VNCH. Trong tay Đại Tá Dơng có hơn 60 Giang đĩnh đủ loại thuộc các Giang đoàn Xung phong, Thủy bộ Ngăn chận, và một Đại đội hải kích đủ sức đốt cháy những tham vọng điên cuồng nhất của địch quân.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1691006&stc=1&d=1605673898

Bắc quân đành phải ém quân thật kỹ lại bên bờ tây sông Vàm Cỏ chờ cơ hội vượt sông. Nhưng cơ hội đó không bao giờ tới. Họ đă trễ một bước. Trên sông Vàm Cỏ, ngày cũng như đêm, bao giờ cũng có hơn chục chiến đĩnh tuần tiểu tới lui, sóng cuộn cả một vùng sông nước mênh mông.
Bảy ngày đêm trôi qua, Tướng Việt cộng Lê đức Anh như ngồi trên đống lửa, cả 3 Công trường 5, 7 và 9 dưới quyền của ông ta đều hoàn toàn bị vô hiệu hóa, không tiến được một bước, mũi nhọn của mặt giáp công phía Tây Nam đă bị cùn. Đau thật, mang tiếng là Quân đội Nhân dân. Bách chiến bách thắng, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng mà phải bó gối ngồi đây, ho một tiếng lớn cũng không dám. Nhục thật ! Đành phải nướng quân thôi. bất kể giá nào. Dù phải đẩy bao nhiêu lính vào tử địa cũng phải làm, mạng người đâu có sá ǵ so với sự nghiệp của “Bác và Đảng”. Bộ tư lệnh Bắc quân quyết định “Dụ địch vào trận địa pháo, tiêu diệt gọn các tàu địch, tạo điều kiện vượt sông, giải phóng Sài G̣n vây chặt Hạm đội địch vào rọ.”

Vào ngày 16 tháng 4, Đại tá Dơng dẫn đại bộ phận Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 đi giải tỏa áp lục địch trên kinh Thủ Thừa. Ông chọn những Chiến đĩnh có hỏa lực mạnh nhất, những chiếc c̣n lại vẫn thay phiên nhau tuần tiểu trên sông Vàm Cỏ. Đội h́nh vẫn như thường lệ. Toán tiền phong gồm những Giang đĩnh gọn, nhanh, hỏa lực mạnh. Soái Đĩnh đi giữa sau đó là những Quân vận đĩnh, Pháo đĩnh đi đoạn hậu.v.v... Đoàn tàu đi thật sát bờ, càng sát càng tốt, kinh nghiệm chiến đấu bao nhiêu năm trên sông dạy cho ông như vậy. Đoàn giang đĩnh di chuyển đúng đội h́nh, giữ khoảng cách đều đặn, truyền tin liên lạc tốt như đang diễn tập. Đại Tá Dơng mĩm cười hài ḷng. Ông không biết là ông đang dẫn đoàn tàu đi vào trận địa pháo đang dương sẳn.

Cách Thủ Thừa chừng 5 cây số về hướng Nam, ngay rạch Cần Đốt, khoảng một Đại đội Việt cộng đang tắm sông với nhiệm vụ la lối, đùa giỡn càng lớn càng tốt. Trên bờ trận địa pháo đă hờm sẳn, thuyền ghe trưng dụng của dân đă xong. B40, súng chống chiến xa, đại liên, trung liên đă sẳn sàng.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1691008&stc=1&d=1605673898

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1691009&stc=1&d=1605673898

Trên soái đĩnh, Thượng sĩ Hiếu - cận vệ, một đàn em thân tín nhất của Đại Tá Dơng, đă theo ông từ thuở ban đầu, thời ông c̣n Trung úy - đặt ống ḍm quan sát bên kia bờ, thấy nước bắn lên tung tóe, đầu người lố nhố. Lạ thật, đâu mà nhiều người tắm thế trên một khúc sông không một xóm nhà này. Thôi chết rồi, Việt cộng. Thượng sĩ Hiếu chỉ tay về phía ấy và tŕnh báo với Đại Tá Dơng : "Ông Thầy, Việt cộng đang tắm."
Đại Tá Dơng quan sát thật kỹ, sau một giây suy nghĩ, ra lệnh : “Ủi vào tấn công !” Các Chiến đĩnh quay mũi về bên kia bờ sông, dàn hàng ngang, dồn tất cả hỏa lực vào địch, súng lớn, súng nhỏ trên các giang đĩnh nhả đạn như mưa. Trong khi ấy, pháo địch bắt đầu rơi lỏm tỏm xuống sông tạo thành những cột nước tung toé. Pháo địch càng lúc càng dày. Vài chiến đĩnh đă bị trúng đạn, quay mũi chạy về bờ đông nơi đó có một Quân vận đĩnh (LCM) đă được cải biến để làm Bệnh viện Dă chiến như kế hoạch đă vạch. Những chiếc khác vẫn lầm lũi tiến vào bờ vừa đi vừa khạc đạn... Đoàn chiến đĩnh càng lúc càng đâm gần bờ 200 thước...100 thước... Pháo và súng địch bắn ra xối xả. Các chiến sĩ Giang đoàn không một chút nao núng, vẫn ủi tàu vào vị trí địch. Đoàn tàu càng tiếng gần, pháo địch càng vô hiệu v́ tầm bắn quá ngắn... 80 thước... 70 thước... 50 thước... 40 thước. Súng lớn súng nhỏ vẫn nổ vang trời. Bắc quân vẫn ĺ lợm chống trả, không tháo chạy. Đại Tá Dơng ra một đường gươm thật hiểm : Hai chiếc phóng hỏa đĩnh nhào đến, phóng 2 luồng lửa kinh khiếp, độ nóng thép cũng phải chảy, đừng nói chi đến da thịt con người.

Bắc quân tháo chạy. Chiến trường từ từ dịu lại rồi im bặt. Đại Tá Dơng ra lệnh đổ bộ, thu dọn chiến trường. Xác Bắc quân nằm la liệt. Vũ khí tịch thu : AK, súng trường nhiều như củi mục, 12 khẩu B40, 2 khẩu 12 ly 8, 4 khẩu 82 ly... Lực Lượng Đặc nhiệm 99 chỉ có 2 chiến đĩnh bị hư hại nhẹ và một số nhỏ Chiến sĩ bị thương. Trận địa pháo của Bắc quân đă biến thành trận “Tẩu pháo”. Chúng đă ôm đầu máu vất súng mà chạy v́ đă không đánh giá đúng hỏa lực và tinh thần chiến đấu của các Chiến sĩ Giang đoàn trong Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 dưới tài Chỉ huy của Hải Quân Đại Tá Lê Hữu Dơng.

Bắc quân điên tiết sau cuộc thảm bại hôm trước. Họ kéo quân đông hơn đến Rạch Cầu Đót, hỏa lực cũng mạnh hơn. LLĐN 99 lại đụng địch nặng nề ở đó. Chiếc pháo đĩnh Chỉ huy của giang đoàn Ngăn Chận trúng 82 ly không giật trực xạ. Chỉ huy trưởng, Thiếu tá Phạm Ngọc Lộ thuộc khóa 12 và 3 nhân viên bị thương. Nhờ đi sát bờ nên Chiến đĩnh đă kịp thời ủi băi, không ch́m dù tàu bị thủng lỗ. Đại Tá Dơng cũng bị thương nhưng ông vẫn ở lại trên Soái đĩnh cho đến khi tàn cuộc.

Những ngày sau đó, Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 đụng địch liên tục. Bắc quân vẫn không tiến được bước nào và cũng không gây thiệt hại nào đáng kể cho Lực Lượng nên chúng đổi chiến thuật, tạm ngưng giao chiến trên bờ. Đêm đêm, Bắc quân tung từng đợt người Nhái, lợi dụng lúc tối trời, tấn công các Giang đĩnh nhưng với sự pḥng thủ chặc chẻ và đôi khi người Nhái ta phải cận chiến bằng dao găm. Người Nhái địch đă bị hạ sát nhiều.

Ngày 23 tháng 4, trong tuyệt vọng, Bắc quân tung ra một cuộc tấn công “Thí chốt bắt xe” cuối cùng. Cấp chỉ huy của Bắc quân bắt đầu xài sinh mạng binh lính dưới quyền như xài bạc giả. Họ trưng dụng tất cả ghe thuyền của dân, chất đầy lính, ào ạt nhào ra tấn công, tính dùng chiến thuật “biển thuyền” để tràn ngập và triệt hạ LLĐN 99. Nhưng họ đă lầm, các chiến đĩnh đă hờm sẳn, phản pháo bằng tất cả các súng cơ hữu. Xác người lả tả. Ghe thuyền, chiếc th́ lật úp, chiếc th́ không người lái chạy ngổn ngang trên sông. Nhưng chết lớp này, lớp khác vẫn tiếp tục xông ra, nhiều như lá tre trong mùa băo lụt. Súng lớn, súng nhỏ của lực lượng bắn không xuể. Đại Tá Dơng ra lệnh cho 2 chiếc Zippo, súng phóng hỏa đă nạp đầy xăng đặc, 4 Pháo đĩnh hộ tống, ủi thẳng vào vị trí địch và phun lửa. Lưởi lửa phun ra dài cả trăm thước. Trong nháy mắt tất cả ghe thuyền địch đều bốc cháy, cả một vùng cây xanh gần bờ từ gốc tới ngọn cũng cháy rực, găy đổ, lửa bốc cao, khét lẹt. Từng lớp địch quân ở sát bờ sông ngă như sung rụng, dày đặc cả mặt nước. Lính trên bờ vẫn đầy nghẹt, kêu thét, chạy tán loạn. Pḥng tuyến địch vỡ. Cuộc tấn công tự sát thất bại. Bắc quân đă nướng bao nhiêu quân vào trận này. Đó là điều bí mật, chỉ có họ mới biết.

Nỗi ḷng.
Vài ngày sau, xác người cháy xém vẫn c̣n trôi nổi đen đặc trên mặt nước sông Vàm Cỏ. Những chiếc thuyền ma vẫn bập bềnh theo con nước lên xuống. Tất cả Lực Lượng 99 từ Sĩ quan, Hạ sĩ quan cho đến Đoàn viên Thủy thủ, ngay cả những người vui tính nhất đều trở nên trầm ngâm ít nói. Cuộc chiến thật quá dă man và đau ḷng. Đại Tá Dơng nh́n theo, ḷng vừa buồn vừa giận. Buồn v́ bao nhiêu sinh mạng phải tiêu tan chỉ v́ một cái bánh vẽ thật lớn “Thiên đường Cộng sản”, giận v́ cấp chỉ huy địch đă quá tàn nhẫn xem sinh mạng của thuộc cấp không bằng cỏ rác. Ông chiến thắng mà ḷng ông đau xót. Cùng là người Việt Nam da vàng máu đỏ, ai gây chi cảnh huynh đệ tương tàn. Ông và lực lượng 99 chỉ là người tự vệ. Ta đánh ngươi v́ ngươi đánh ta. Chỉ có vậy thôi.

Từ đó, hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây trở nên yên tĩnh. Có lẽ Bắc quân sau những lần thất bại, hết ư chí tấn công, đă kéo quân đi hướng khác hay v́ t́nh h́nh biến chuyển quá nhanh, họ vẫn ém quân chờ.

Dù ǵ đi nữa, lực lượng Đặc Nhiệm 99 cũng đă hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc cho đến giờ thứ 25 của cuộc chiến kéo dài trên 20 năm. Đại Tá Dơng với tư cách là tư lệnh LLĐN 99 đă có thể xác nhận với Đô Đốc Cang một cách tự tin “An ninh tốt” khi được hỏi về an ninh thủy lộ Ḷng Tào, Soài Rạp trước giờ Hạm đội ra khơi di tản.
Ḱnh ngư nhỏ lệ
- 10 giờ sáng ngày 30-4-1975, Tổng thống Dương văn Minh kêu gọi Quân nhân các cấp buông súng.
- 11 giờ, xe tăng Cộng Sản ủi sập cổng chánh Dinh Độc Lập.
- 4 giờ chiều cùng ngày, trên ngă ba sông Vàm Cỏ, Đại tá Dơng ra một lệnh cuối cùng, tập họp tất cả các Sĩ quan, Thuyền trưởng lại, trên Soái Đỉnh chỉ huy để nhận chỉ thị. Xa xa các chiến đỉnh vẫn như những con ḱnh ngư dũng mănh đang rẽ sóng thi hành công tác tuần tiểu, ngăn chận không cho Cộng quân vượt sông uy hiếp thủy lộ Soài Rạp, Ḷng Tào.
Cũng vào lúc đó chiến hạm cuối cùng của Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa, chiếc HQ - 402 bắt đầu khập khiễng hải hành ra cửa Soài Rạp... Chiều bắt đầu xuống.

Bằng một giọng nghẹn ngào, Đại tá Dơng nói với các cấp thuộc hạ “ Tất cả đă hết, chúng ta đă thua, miền Nam đă mất vào tay CS. Bây giờ là lúc chúng ta phải tan hàng, anh em nào muốn đi theo Hạm đội th́ theo tôi, anh em nào muốn ở lại với gia đ́nh th́ cứ đem tàu về. Trên đường về, Cộng quân chận lại cứ xả súng bắn, kiếm một chỗ nào an toàn thay đồ dân sự, rồi về với gia đ́nh. Xin từ giă anh em. Hẹn gặp lại...”

Những lời cuối cùng chỉ có thế, tính ông vẫn vậy, nói ít, nhất là trong giờ phút này, chính trong thâm tâm ông, ông cũng không biết ḿnh sẽ đi đâu, về đâu. Đối diện ông là khuôn mặt của những thuộc hạ thân yêu đă cùng ông vào sinh ra tử trong trận đánh cuối cùng khóc liệt này. Những khuôn mặt hốc hác v́ chiến đấu quên ăn, thiếu ngủ, râu ria tua tủa ấy đang nh́n ông, những cập mắt đỏ ngầu v́ xúc động đang nh́n ông, không ai thốt được lời nào.

Giây phút này như kéo dài vô tận... Đại úy Hải ngập ngừng hỏi :“ Commandant dự tính sẽ đi đâu ? ” Đại Tá Dơng trả lời : “ Có lẽ một ḥn đảo nào đó trên Thái B́nh Dương, tao cũng không biết nữa, c̣n mày ?”. Ông vẫn có thói quen gọi cấp dưới bằng “mày, tao” một cách thân mật như anh em thâm t́nh. Đại úy Hải trả lời : “Chắc tôi về Bến Tre đi tu với mẹ tôi quá.”

Đại Tá Dơng bùi ngùi nói lời từ giă cuối cùng : “ Chúc anh em may mắn... Hẹn gặp lại...” Lần đầu tiên trong đời binh nghiệp, một giọt nước mắt lăn dài trên khuôn mặt ông. Rồi ông đáp tàu lên HQ - 402. Ánh chiều cũng bắt đầu thoi thóp tàn dần trên sông Vàm Cỏ. Ráng chiều để lại trên mặt sông mênh mông những vệt đỏ như máu.

Cuối đời nh́n lại
Do những Quốc tế sắp đặt cộng thêm với những yếu kém, sai sót của chính ḿnh đă để miền Nam thất bại. Miền Nam lại không được cái may mắn như đất nước Đài Loan c̣n có được một ḥn đảo nhỏ để dung thân, để tự tu sửa, học hỏi, xây dựng từ những lỗi lầm cũ.

Mỗi Quốc gia đều có một số phận. Và số phận Việt Nam mới chua xót, cay nghiệt và mai mĩa làm sao ! Anh em trong cùng một nước đánh giết nhau, máu thành sông, xương thành núi trên 20 năm. Kẻ thắng trận, sau hơn 2 thập niên thử nghiệm thất bại về cái gọi là Xă hội Chủ nghĩa lại chuyển hướng 180 độ, tập tểnh đi vào con đường kinh tế thị trường, con đường mà miền Nam đă đi cách nay 40 năm. Đúng là đi cho lắm lại trở về chốn cũ. Bao nhiêu xương máu đă xài phí một cách vô ích.

Ông Dơng năm nay đă ngoài 70, đă về hưu sau 26 năm làm việc trả nợ áo cơm cho người bạn đồng minh bạc bẽo. Mỗi khi một ḿnh trong đêm vắng, ông không khỏi ngậm ngùi nghĩ đến cuộc chiến cũ. Những tiếng khóc la đau đớn, kinh hải “Trời ơi” của chiến binh Cộng sản vẫn ám ảnh, quấy động trong giấc ngủ của ông, sau đó ông thường chập chờn đến sáng. Phải chi những tiếng kêu la đó là những tiếng kêu la của bọn ngoại xâm không cùng ḍng máu, không cùng tiếng nói chắc ḷng ông thanh thản hơn nhiều... Rồi những khuôn mặt bạn bè, những thuộc hạ cũ thân yêu hiện về, kẻ c̣n, kéo lê kiếp sống tha hương trên đất lạ hoặc sống nghèo khổ không tương lai trên chính đất nước ḿnh, người mất, mồ đă xanh cỏ... Ông nghĩ đến họ, nước mắt lại tuôn trào ra. Rồi ông lại nghĩ đến dân tộc đau khổ, bất hạnh của ḿnh, kể cả những người cầm súng phía bên kia đă từng đối địch với ông. Nghĩ cho cùng, tất cả đều là nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản. Ông đă không thù hận họ như họ đă thù hận ông một cách điên cuồng, v́ trong thâm tâm, ông vẫn nghĩ đa số họ là những người nông dân hiền lành, thật thà, chất phát đă bị bọn cầm quyền Cộng sản cấy vào những độc tố thù hận giai cấp đấu tranh v.v... Trên 26 năm lưu lạc xứ người, ông luôn mang một tâm trạng buồn chán, lạc lơng, không thể nào hội nhập vào xă hội mới. Ông cũng không nghĩ đến chuyện gia nhập Quốc tịch Mỹ, không màng đến chuyện an cư lập nghiệp, tậu nhà, mua đất...

Ông chỉ là người tạm cư trên đất nước vĩ đại và lạnh lẽo này... Ông măi măi là người Việt Nam.
Hoàng Xuân Bái. K 13
❤💚💜💛💙❤🧡💛
Hải-Quân Đại-Tá LÊ-HỮU-DƠNG và trận Vàm Cỏ.
Các bạn Khóa 13 thân,
Rất hănh diện HQVNCH chúng ta đă có một Sĩ Quan mưu lược và can đảm như HQ Đại tá Lê Hữu Dơng. Tuy nhiên, sự chiến thắng anh dũng của trận chiến kinh hồn này là do sự phối hợp tuyệt vời giữa Lực lượng Đặc nhiệm 99/Hải quân VNCH và Trung đ̣an 12 /Sư Đoàn 7 Bộ binh dưới tài chỉ huy can trường của Đại tá Đặng Phương Thành, khóa 16 Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam.

Chúng ta hăy nghe Tác giả Châu Xuân Nguyễn nói về Trận chiến trên sông Vàm Cỏ trong loạt bài " Vinh danh Đại tá Đặng Phương Thành " như sau :
....." Ngày 16 tháng 04 năm 1975 (2 tuần trước ngày mất nước), trên kinh Thủ Thừa thuộc Tỉnh Long An giáp giới Sông Vàm Cỏ Tây, lực lượng Thuỷ Bộ gồm có Giang Đoàn Đặc Nhiệm 99 với gần 100 giang đĩnh, do Vị Tư Lệnh Hải Quân, Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang cấp tốc thành lập, llục lượng đặt dưới quyền chỉ huy của HQ Đại tá Lê Hữu Dơng đă phối hợp cùng Trung Đoàn 12 thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh, do Đại Tá Đặng Phương Thành, (tốt nghiệp Khóa 16 Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam) đă chận đánh Công Trường 5 thuộc Quân Đoàn 232 Cộng Sản Bắc Việt do Tướng Cộng Sản Lê đức Anh Chỉ Huy, ngăn không cho đơn vị này (Công Trường 5) vượt qua Sông Vàm Cỏ. Trung Đoàn 12 Bộ Bộ Binh và Lực lương Thuỷ Bộ 99, đă đánh một trận để đời tại ngă ba Sông Vàm Cỏ Tây, Cộng quân phải khiếp đảm kinh hồn tháo chạy, để lại trên chiến địa trên 3,000 xác cán binh tử trận và hàng ngàn thương binh. Máu Cộng Quân loang đầy ḍng sông. Xác Cộng quân lấp đầy con kinh Thủ Thừa ra tận đến bờ Sông Vàm Cỏ.

Nhưng rồi….Người Hùng Đặng Phương Thành phải chịu kiếp tù đày khổ sai.
Nhớ lại cái hận của trận thảm bại đau đớn năm xưa tại ngă ba Sông Vàm Cỏ Tây, bọn cai tù đă giết Đại tá Đăng Phương Thành một cách dă man sau cuộc vượt ngục của ông bất thành…bị bắt trở về. Trong đêm trời vần vũ mây đen, tại căn hầm “khổ sai” biệt lập, các bạn “tù” kế cận, nghe được tiếng “Kêu Trời” và những tiếng rên la uất nghẹn của người Anh Hùng thất thế sa cơ…. Sáng sớm hôm sau, khi sương mù c̣n giăng phủ, người ta lờ mờ thấy mấy tên cai ngục lôi xác một người từ trong xà lim bỏ ra ngoài…rồi ra lệnh cho các bạn tù khác khiêng đi chôn. Các “tù” Quân Nhân QL/VNCH mới nhận ra thân xác của Đại Tá Đặng Phương Thành, ḿnh mẩy tím bầm, môi mắt sưng vù, miệng c̣n động vũng máu tươi, chết một cách tức tưởi, thật thảm thương !!! Đúng là Mănh Hổ sa cơ, lũ Chồn Cáo chia nhau xẻ thịt....."

hoathienly19
11-20-2020, 04:28
HỎA TÁNG !


MẶT TRẬN CHARLIE . MÙA HÈ 1972


Để tưởng-niệm Thái-Dương Dương-Huỳnh-Kỳ PĐ-530, và những phi-công khu-trục, Quan-Sát, Trực-Thăng cùng các KQ đồn trú tại PleiKu, vùng trời “Phố-Núi” mây mù, đă hy-sinh cho lư-tưởng tự-do của dân-tộc. Tổ-quốc tri-ân các anh.

Trần Ngọc Nguyên Vũ


https://i1.wp.com/chieuanhquan.files.w ordpress.com/2017/05/animation-coa-4-200-1501.gif


*****

Tân Cảnh


https://hung-viet.org/images/file/YMzjajVj0wgBAGpE/quandoivnch-cancutancanh.jpg


Hai chiếc khu-trục A1 trang-bị tối đa với dàn bom lửa và hỏa-tiễn công-phá dưới cánh, trong đội h́nh hành-quân, lao ḿnh xuyên mây bay về hướng Tân-Cảnh. Anh đảo mắt quan-sát…

Cả một vùng núi rừng trùng-điệp của vùng Tây-Nguyên đang đắm ch́m trong màn sương chiều âm-u và khói đạn…

Tiếng âm-thoại của phi-cơ quan-sát và quân bạn trên băng-tần FM vọng lên qua nón bay nghe như tiếng réo gọi của tử-thần. Anh bấm nút liên-lạc với phi-cơ quan-sát :

- Bắc-Đẩu đây Thái-Dương gọi, bạn nghe rơ không trả lời.

Tiếng người phi-công quan-sát dồn-dập vang lên :

- Thái-Dương, Bắc-Đẩu nghe bạn năm trên năm (5/5). Chúng tôi đang đợi bạn trên mục-tiêu. Xin bạn cho biết vị-trí, cao độ, và trang-bị .

- Phi-tuần Thái-Dương gồm hai A1, Trang bị bom lửa, đại-bác 20 ly và hỏa-tiễn công-phá. Hiện tại chúng tôi đang ở phía Tây-Nam của Tân-Cảnh 10 dậm. Cao độ 5,000 bộ.

- Bắc-Đẩu nghe bạn rơ. Phía Tây-Nam Tân-Cảnh…OK ! Chúng tôi đang ở hướng 10 giờ của bạn đó. Cao độ 3,000 bộ.

- Thái-Dương hiểu, hướng 10 giờ…OK ! Chúng tôi thấy bạn rồi, xin cho biết thêm chi-tiết.

- Quân bạn hiện đang đụng độ nặng với địch .

Địch có đại-pháo 130-ly yểm-trợ từ hướng Tây, và sơn-pháo từ sườn núi phía Tây-Bắc tại cao độ 600 bộ.

Tôi sẽ cho bạn một ly cam vắt để giải-khát.

Anh cười trong máy, thầm cảm-phục người phi-công quan-sát gan dạ và đầy nghệ-sỹ tính, dù trong những hoàn-cảnh hiểm-nghèo. Một cột khói mầu da cam bốc lên khỏi ngọn cây. Tiếng người phi-công quan-sát gọi tiếp:

- Thái-Dương đây Bắc-Đẩu. Mục-tiêu là khu rừng phía Tây, cách trái khói 100 thước, cứ-điểm xuất phát của đoàn xe Molotova địch.

Quân bạn ở hướng Đông của trái khói 200 thước. Pḥng-không được ghi nhận là có đại-bác 37 ly và hỏa-tiễn tầm nhiệt SA7. Xin bạn cẩn thận.

- Cám ơn Bắc-Đẩu. Thái-Dương nhận bạn năm trên năm. Vị trí quân bạn cách mục-tiêu 300 thước về hướng Đông.

Nói xong anh lắc cánh ra hiệu cho số hai chuyển qua đội-h́nh chiến-đấu rồi bấm máy liên-lạc:

- Thái-Dương hai đây một gọi.

Tiếng Kỳ trả lời trong máy:

- Hai nghe năm.

- Ṿng đầu ḿnh sẽ vào theo hai trục khác nhau.

Số một đi bom theo hướng Đông-Tây, lấy cao độ về bên phải.

Số hai vào theo hướng Bắc-Nam, dùng hỏa-tiễn bắn phủ đầu, lấy cao độ về bên trái.

Ṿng thứ nh́ giữ cao độ 3,500 bộ và đổi ngược hướng oanh-kích. Lưu ư quân bạn cách mục-tiêu 300 thước về phía Đông.

Coi chừng pḥng-không địch có đại-bác 37 ly và SA7


https://hung-viet.org/images/file/21T-lTZj0wgBAKoi/maybayvietnamconghoa oanhtacquanbacviet.j pg Ảnh minh họa


Tiếng Kỳ trả lời, giọng lạnh băng, và sắc gọn:

- Thái-Dương hai hiểu.

Sau Tết Mậu-Thân năm 1968, cuộc chiến tại miền Nam càng ngày càng trở nên sôi-động và khốc-liệt hơn.

Những Phi-Công của Không-Lực Việt Nam Cộng-Hoà đă phải thường-xuyên đối đầu với hỏa-lực pḥng-không tối-tân và hùng-hậu của địch. Họ đă phải trả một giá rất đắt để đem lại chiến-thắng cho các đơn-vị bạn.

Những chiến-thuật oanh-kích cổ-điển theo đúng tinh-thần an-phi, nhiều khi đă không c̣n thích-hợp nữa. Trong những phi-vụ yểm-trợ tiếp-cận cho quân bạn, các phi-tuần-trưởng khu-trục đă uyển-chuyển thay đổi chiến-thuật tùy theo địa-h́nh, địa-vật và khả-năng của người phi-tuần-viên tại chiến-trường…

Lần này bay chung với Kỳ, anh rất tin-tưởng vào nghệ-thuật nhào lộn, cùng tài thả bom chính-xác của người phi-công trẻ…

Anh đẩy nhẹ tay ga lên vi-thế tiền oanh-kích, liếc mắt kiểm-soát thật nhanh bảng phi-kế trước mặt rồi lật ngửa phi-cơ, chúi mũi lao ḿnh xuống thấp sát ngọn cây.

Anh thấy đoàn xe Molotova của địch lố-nhố như những con cua sắt ḅ lổn-nhổn trên mặt đất. Anh bấm nút nhả hai trái bom lửa xuống mục-tiêu.

Cùng một lúc, phi-cơ của Kỳ quẹo gắt về hướng trái 90 độ, cắt ngang đường bay số một, từ trên cao bổ xuống như một con đại-bàng đang vồ mồi, tung ra một chùm hỏa-tiễn công-phá vào sườn núi.

Đạn pḥng-không từ bên dưới tưới lên tới tấp…Anh mím môi kéo mạnh cần lái, chiếc khu-trục cơ vọt lên như con thần-long cuốn nước…hai bên cánh quét hai vệt khói trắng dài in hằn lên bầu trời xám đục như những nét chấm phá tuyệt-vời trong một bức tranh thủy-mạc…

Qua ống nghe trong nón bay, anh nghe rơ tiếng quân bạn và phi-cơ quan-sát reo lên :

- Thái-Dương đánh tuyệt đẹp. Đúng ổ con chuồn-chuồn rồi. Báo cáo sơ khởi, có ba tiếng nổ phụ trên sườn núi phía Bắc, và năm Molotova địch bị đốt cháy…

Anh lấy cao độ, điều-chỉnh lại đội h́nh chiến-đấu, nhắc nhở số hai coi chừng pḥng-không địch, rồi vào ṿng bắn dùng hỏa-tiễn bắn che cho phi-cơ của Kỳ xuống thả bom.

Tiếng người phi-công quan-sát dồn dập trên tần-số :

- Thái-Dương hai coi chừng pḥng-không bên cánh trái của bạn…

Tiếp ngay sau đó là tiếng hét thất-thanh của người phi-công quan-sát dội lên trong màng tai:

- Thái-Dương hai lấy cao độ gấp về hưóng Đông là vùng an-toàn để thoát-hiểm. Phi-cơ bạn bị bốc cháy bên cánh trái…

Trong một thoáng, anh cảm thấy toàn thân bị tê-liệt như có một luồng điện cao-thế chạy luồn qua cơ-thể. Anh bấm máy gọi :

- Thái-Dương hai nhẩy dù, nhẩy dù ngay…

Không có tiếng trả lời. Mặt anh đanh lại, cuống họng khô chát…ánh mắt tóe lửa nh́n chiếc khu-trục cơ của Kỳ đang bốc cháy, lao ḿnh vun vút xuống mặt đất như một ngôi sao chổi khổng lồ lọt ṿng khí-quyển, cô-đơn trầm ḿnh trong biển lửa mịt mùng…:112:



https://imagizer.imageshack. com/v2/522x359q90/r/922/l6o71z.jpg




Gg6y9Y0Cdyg


Trần Ngọc Nguyên Vũ

https://hung-viet.org

hoathienly19
11-29-2020, 06:07
LĐ 2 DÙ TẠI MẶT TRẬN TÂY NGUYÊN

ĐĐ 2 TRINH SÁT DÙ THẦN TỐC DIỆT GỌN MỘT TIỂU ĐOÀN CSBV - PHẦN 1


1ArMFzLOOSk


Bắt đầu từ ngày 27-1-1972.

Tin tức t́nh báo của ta đă ghi nhận được những biến chuyển của Lực lượng CSBV tại cao nguyên do mặt trận B3 .

Tư lệnh là tướng Hoàng Minh Thảo chỉ huy gồm có sư đoàn 320 Bắc Việt, vừa di chuyển vào từ Thanh Hóa, sư đoàn 2 BV, đơn vị cơ hữu F10 của mặt trận B3, và một Trung đoàn chiến xa.


Ngoài các đơn vị kể trên CSBV c̣n điều động sư đoàn 3 Sao vàng và các đơn vị địa phương tăng gia hoạt động tại vùng duyên hải tỉnh B́nh Định và miền Nam quân khu II và Sư Đoàn 968 từ Hạ Lào vừa kéo sang làm thành phần trừ bị.

Những mục tiêu chính trong chiến dịch tấn công cao nguyên của CSBV là Tân Cảnh, Dakto, các căn cứ hỏa lực dọc theo dăy Rocket Ridge, thị trấn Kontum và Pleiku.

Rocket Ridge là dăy núi có các cao điểm chạy dài từ Bắc xuống Nam, nằm dọc theo Quốc Lộ 14, kéo dài từ Tân Cảnh đến Kontum.

Các đơn vị địa phương của CS thường tấn kích khuấy rối nhằm mục đích đánh lạc hướng các đơn vị Quân lực VNCH, đồng thời hỗ trợ cho hai sư đoàn chính quy CSBV tấn công vào Kontum.

Mọi cố gắng của CSBV trong giai đoạn này là nhằm thực hiện cho được mưu đồ nhằm chia cắt Việt Nam Cộng Ḥa làm 2 phần.


https://hon-viet.co.uk/MuDoUtBachLan_DaiDoi 2TrinhSatNhayDu.JPG


Khoảng đầu tháng Ba năm 1972, vào mỗi đêm từ Ben Het hướng về phương Bắc, người ta có thể nh́n thấy ánh đèn pha và nghe thấy tiếng động cơ nổ vang rền của đoàn cơ giới cộng sản di chuyển về hướng Nam trên đường ṃn Hồ Chí Minh bên Lào.

Trong khi đó, tại Vùng 2 Chiến Thuật, theo tài liệu tịch thu cho biết Sư Đoàn 320 cộng sản Bắc Việt và Trung đoàn 54 Pháo đă xuất hiện tại vùng Tam Biên, nhưng cố vấn trưởng của Quân Đoàn 2 là John Paul Vann, lúc ấy vẫn c̣n đặt nghi vấn.


Khi biết tin sư đoàn 320 CSBV [/bvà Trung đoàn 54 pháo binh BV đă xuất hiện tại vùng ba biên giới vào đầu tháng 3/72, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH điều động LĐIIND tăng phái cho QĐ2 hành quân tảo thanh VC ở vùng phía Tây Tân Cảnh.

BCH/LĐIIND đến trấn đóng tại làng Vơ Định, cạnh QL-14 giữa khoảng Kontum và DakTo.

Các đơn vị trực thuộc được bố trí trên các cao điểm ở dăy núi Rocket Rigde về phía Tây QL-14 với các căn cứ Alpha, Yankee, Charlie, Delta, Hotel...


[b]ĐĐ 2 TRINH SÁT DÙ THẦN TỐC DIỆT GỌN MỘT TIỂU ĐOÀN CSBV - PHẦN 2



TdgztZYgRLI


Ngày 2/4/1972 t́nh h́nh tại Delta rất nguy ngập, pháo địch ngoài tầm phản pháo của ta liên tục nă vào căn cứ giữa ban ngày, Sĩ quan liên lạc không trợ không xin được các phi vụ diệt pháo địch và các đơn vị địch quân đang bao vây quanh Delta.

Việc tiếp tế và tản thương không thể thực hiện được, t́nh trạng đạn dược và tiếp liệu của TĐ2ND đă cạn kiệt, một Chinook của Mỹ cố gắng đáp xuống tiếp tế đă bị bắn rơi ngay trong căn cứ Delta, 4 phi công phi hành đoàn bị kẹt lại trong căn cứ.

Toán rescue của Hoa Kỳ cố gắng làm việc nhưng không thể bốc được phi hành đoàn. Đêm đến, cộng quân tiền pháo hậu xung biển người hết lớp này đến lớp khác, nhằm mục đích bắt sống cho được 4 phi công Mỹ.

Các binh sĩ của hai ĐĐ22 của Thái Doăn Anh và ĐĐ20 của Đỗ Văn Hiến đều đứng đậy khỏi chiến hào gh́m súng nhả từng tràng đạn.

Đám nhóc con Cán binh cộng sản h́nh như say thuốc “hùng binh” của Trung cộng, mặt mày ngơ ngác hàng hàng lớp lớp tiến lên rồi rơi rụng trước họng súng đă đỏ ṇng của các chiến sĩ Nhảy Dù.

C̣n tiếp ,

hoathienly19
11-30-2020, 22:51
LỬ ĐOÀN 2 NHẢY DÙ TẠI MẶT TRẬN TÂY NGUYÊN . TRUNG TÁ NGUYỄN Đ̀NH BẢO, NGƯỜI Ở LẠI CHARLIE - PHẦN 3



2j4rtcgBzvk


Sang ngày 10/4/1972 đến giờ phút này th́ đă rơ thế nào bọn chúng cũng dứt điểm Charlie, địch quân bắt đầu trận địa pháo . Căn cứ nhỏ bé như thế mà phải lănh đủ trên 3 ngàn quả đạn cùng ngày.

Đại Đội 111 bị pháo nặng nề nhất, ngay Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn cũng đang bị pháo, tất cả các đại đội đều đang bị pháo.

Pháo Binh của ta cũng bị cấm chỉ không yểm trợ được.

Tiếng rít của hỏa tiễn và pháo 130ly làm tê liệt lệnh lạc. Sau khi ngưng tiếng pháo, Bộ Binh địch quân bắt đầu tấn công... dưới chân đồi 960, lúc nhúc những bóng người ngụy trang bằng những cây lá đang từ từ ḅ lên dốc .


Các chiến sĩ 111 Nhảy Dù gh́m tay súng chờ chúng đến gần rồi đồng loạt khai hỏa. Ḿn claymore, súng cối, phóng lựu, đại liên, M-16... Bom đạn nổ rền khắp cả sườn đồi.

Lính CS say thuốc hùng binh, lớp này ngă gục lớp khác chồm tiến lên như những con thiêu thân lao vào bóng đèn nóng bỏng.



https://medicinthegreentime. com/wp-content/uploads/2015/06/NVA-SOLDIERS-CHARGING-AN-AMERCIAN-BASE.1.jpg


Các chiến sĩ Nhảy Dù bắn hết đạn tới dùng lưỡi lê đánh cận chiến và sau cùng BCH Tiểu đoàn phải gọi Trung úy Thinh triệt thoái ĐĐ111 về C2.


Việt cộng tràn lên vị trí đóng quân của Đại Đội lo tranh nhau kiếm mấy cái ba lô của binh sĩ bỏ lại, lục lọi t́m kiếm những gạo sấy, đồ hộp khui ra ăn tại chỗ. Họ đă bị bỏ đói nhiều ngày, đói quá nên không c̣n sợ súng đạn ǵ hết.


RVKva8quAks


Đại đội 112 của Hùng móm phải xuống tiếp đón ĐĐ111 rút về nhập chung với Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn.

Pháo Binh Nhảy Dù phải bắn đạn nổ chụp lên đỉnh đồi 960 để ngăn chận cộng quân tràn vào BCH Tiểu đoàn.

Lữ Đoàn xin phi cơ quan sát lên vùng và phi pháo của Hoa Kỳ bắt đầu vào vùng oanh tạc quanh căn cứ Charlie.

Các phi tuần của Không Quân VNCH tiếp theo vào vùng bay thật thấp để thả chính xác những trái bom napalm, trải những thảm lửa xuống đồi 960.

Lửa thiêu cháy Charlie, thiêu luôn cả những con thiêu thân đợi ngày giải thoát. Trực thăng tản thương không thể đáp được v́ hỏa lực pḥng không quá mạnh của địch, toàn 12.7ly từ các khe núi bắn ra.

Trực thăng vơ trang oanh kích ít gây tổn thất cho địch.

Maj. John Duffy cố vấn của Tiểu Đoàn 11ND, theo một hệ thống riêng của Lực Lượng Đặc Biệt, xin được mấy phi vụ B-52 sẽ thả lúc nửa đêm...


LỬ ĐOÀN 2 NHẢY DÙ TẠI MẶT TRẬN TÂY NGUYÊN . TRUNG TÁ NGUYỄN Đ̀NH BẢO, NGƯỜI Ở LẠI CHARLIE - PHẦN 4



htBB_bMy2j0


Tiểu đoàn 11 chính thức rời bỏ Charlie vào lúc này, nhờ mấy phi vụ đánh bom hồi chiều và ba toán tiền đồn nằm sẵn từ buổi trưa, đoàn quân ào đi không gặp kháng cự.

Cũng may địch sợ ta dùng chiến thuật “ đồng ư quy tận ” tức là gọi Pháo Binh bắn ngay trên đầu cùng chết với địch nên không dám đuổi, nhờ vậy đoàn quân xuống đến chân đồi không có phát súng nào bắn vói.

Trời hơi tối, địch cũng không dám pháo kích nữa sợ lộ vị trí, vả lại chúng đă lên đầy trên Charlie và giờ đây có lẽ đang lục hầm kiếm thức ăn, nên Pháo Binh của ta hoạt động lại được bắn chận không cho địch truy kích.


https://imagizer.imageshack. com/v2/480x480q90/r/922/Qeqwsx.jpg


Rút theo hướng Đông Nam độ vài trăm mét th́ nghe nhiều tiếng rít xé trời, bom B-52 rơi xuống Charlie cày nát thành b́nh địa.

Đại Đội 113 ở hướng Bắc hầu như c̣n nguyên vẹn từ ngày đầu đến giờ không bị đánh cũng như không thiệt hại v́ pháo kích, nên được lệnh đi ngược xuống Yankee t́m đường ra băi bốc trên bản đồ cách Charlie khoảng gần 4km.

Trời tối, đồi cao, rất khó đi, máy bay lên vùng thả hỏa châu soi sáng, những dây đạn M-79 từ phi cơ OV10 rót đều phía sau chận hậu.

Binh sĩ c̣n khỏe d́u những người bị thương, hết lương thực, đạn dược, thuốc men, và dưới những cơn mưa pháo khủng khiếp nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, hơn một trăm con người c̣n lại chia đều mỗi người đă lănh cỡ gần 100 trái đại bác, thử hỏi c̣n có ai chịu đựng được như thế không ?


https://imagizer.imageshack. com/v2/640x457q90/r/922/81TcDZ.jpg

Danh tướng Mac Authur đă nói :

“ Tôi thương những người lính bộ binh hằng ngày 24 giờ phải đối diện cái chết trên chiến trường, lại c̣n phải gánh chịu những bất công của thượng cấp”, hoàn cảnh của Lính Dù c̣n tệ hại hơn thế nữa, bị trói tay để đánh.

hoathienly19
12-01-2020, 21:53
LỬ ĐOÀN 2 NHẢY DÙ TẠI MẶT TRẬN TÂY NGUYÊN _ PHẦN 5



cKMHhy_rqGs


T́nh h́nh Kontum bắt đầu sôi động. Các hỏa tiễn 122ly của địch cứ đều đều rót vào các căn cứ quân sự và phi trường Kontum làm tinh thần dân và quân luôn luôn bị căng thẳng.

Về t́nh báo, Tướng Toàn chỉ thị Pḥng 2 QĐ phải báo cáo cho ông biết trước ngày giờ cộng quân tấn công vào Kontum và làm gấp kế hoạch trải thảm B-52 phía Bắc tuyến đầu của ta để ông và Paul Vann áp dụng kế hoạch khi địch tấn công.

Hôm sau, P2 tŕnh lên ông kế hoạch 100 “Box” B-52 (mỗi Box chiều dài 3km, chiều ngang 1km) chận đứng các mũi tấn công và tiêu diệt các ổ pḥng không của địch, căn cứ vào địa h́nh, địa vật và tin tức bằng không ảnh.

Tướng Toàn và Paul Vann đă chấp thuận hoàn toàn ư kiến của Pḥng 2.

Kontum bấy giờ vẫn nắng bụi, mưa lầy. Nhưng trong cái nắng, cái bụi như đang mang mang một cái ǵ không yên, chứa đựng một cái ǵ bồn chồn lo âu trên mọi nét mặt từ dân tới lính. Dăm ba trái hỏa tiễn 122ly của CS rót vào thành phố, càng tạo một không khí chiến tranh thực sự đă về sát Kontum


LỬ ĐOÀN 2 NHẢY DÙ TẠI MẶT TRẬN TÂY NGUYÊN PHẦN CUỐI B-52 TRẢI THẢM DIỆT 1OOO CSBV VÀ 20 CX T-54



7LtXAPggLCY



Ngày 13/5/72, nhân viên kỹ thuật báo cáo đă bắt được mật điện của B3. Trong mật điện này, Bộ tư lệnh B3CS đă ra lệnh như sau:

“Mũi tấn công hướng Bắc-Sư đoàn 2-Stop

- Tăng cường mỗi sư đoàn 10 T54-Stop

- Ngày giờ tấn công hướng Tây Bắc Sư đoàn 320-Stop

- Ngày giờ tấn công 05g00 ngày 14/5/72-Stop”.


Pḥng 2 QĐ vội vàng tŕnh ngay tin này cho Tướng Toàn. Đọc xong mật điện, ông liền bay lên Kontum.

Trong giao thông hào của tuyến đầu, Tướng Toàn và Đại tá Lư Ṭng Bá đi từng hầm để nhắn nhủ từng binh sĩ hăy can đảm nằm yên tại chỗ khi địch tấn công. Tướng Toàn nói :

“ Khi địch nổ súng th́ sẽ có B-52 thả ngay trên đầu địch. Các em phải chịu khó bịt tai lại và hả miệng để bớt áp lực của bom nổ ”.

Áp lực của bom sẽ rất lớn đối với các binh sĩ của ta v́ theo kế hoạch đă vạch sẵn, B-52 sẽ thả bom sát quân ta, ở mức an toàn là 500m thay v́ 1000m như thường lệ.

Tại hầm chỉ huy SĐ23BB, Tướng Toàn, Đại tá Bá, Đại tá Rhotenberry nghiên cứu trên bản đồ và thảo luận vị trí từng Box B-52 sẽ dội bom xuống và thời gian dội.

Paul Vann gọi máy yêu cầu Không quân chiến lược Hoa Kỳ (Strategic Air Command) tại Thái Lan để thảo luận về cách thức trải các Box B-52 cho thật hợp với t́nh h́nh mặt trận dưới đất.


https://image.anninhthudo.vn/w660/Uploaded/2020/vowkbwiv/2012_11_28/b-52-nem-bom-rai-tham.jpg


Đêm 13 rạng 14/2/72, Tướng Toàn và Bộ tham mưu Việt-Mỹ đều thức suốt đêm theo dơi t́nh h́nh từng phút và hồi hộp chờ đợi.

Phi đoàn A37 của Sư đoàn 6 Không quân tại Pleiku túc trực 100%.

Nhiều cặp phi cơ trực thăng vơ trang Cobra của Hoa Kỳ đă ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu kể từ 12g đêm.

2 phi đoàn B-52 từ đảo Guam và Sattahip ở Thái Lan đă cất cánh và xuất hiện trên bầu trời biển Thái B́nh Dương.

Tất cả hồi hộp chờ đợi giờ G (tức 5g00 sáng). Kém 5 phút đến 5g, Đại tá Bá báo cáo trên máy rất lớn, địch đă bắt đầu nổ súng.

Trực thăng chỉ huy của Tướng Toàn cấp tốc bay về hướng Kontum trong sương mù.

B-52 vào vùng đúng 5g ngày 14/2/72.

Tất cả 25 Box B-52 đồng loạt bấm nút thả xuống trên 3,000 quả bom đủ loại, từ 100 lbs đến 500 lbs, trên đầu Sư đoàn 320 và Sư đoàn 2 của cộng quân, tiếng nổ long trời lỡ đất, khói bụi bay mịt mù.

Diện tích trải thảm của các B-52 là 75km².


https://36hn.files.wordpress .com/2016/07/redsvn-rene-burri-28.jpg


Tiếp theo từng đoàn A37 và AD6 của Sư đoàn 6 Không quân VNCH bay vào mục tiêu tiếp tục bắn vào các chiến xa và các ổ pḥng không địch.

V́ bị áp lực quá mạnh của bom, nhiều đoàn quân của cộng quân bị ngất ngư, đă hốt hoảng chạy lui về phía sau, lại bị trực thăng vơ trang Cobra bọc hậu thanh toán rất nhiều.


https://image.anninhthudo.vn/h600/Uploaded/2020/199/2019_04_29/u2.jpg


Tại tuyến đầu, 9 chiến xa T54 của địch nằm ngoài khu ném bom của B-52 đă hốt hoảng lao vào phía ta và đă bị các chiến xa của ta bắn cháy mất 6 chiếc.

3 chiếc c̣n lại bỏ chạy, nhưng v́ các chiến binh của cộng quân điều khiển các xe này đă bị sức dội quá mạnh của B-52, không c̣n chủ động được, nên các binh sĩ của ta đă nhào ra bắt sống.


https://img.otofun.net/upload/v7/images/4511/4511103-6c70ddebfe299bb2387d a1deff3e3ca5.jpgH́nh minh họa


Một giờ sau, Tướng Toàn bay vào vùng thả bom B-52 để kiểm soát th́ thấy rất nhiều xác của cộng quân trong các hố bom, không thể đếm hết.

hoathienly19
12-02-2020, 23:32
NGƯỜI Ở LẠI CHARLIE :112:


FAebo3laIgk

luyenchuong3000
12-03-2020, 02:41
Để Nhớ ....Một Thời T́nh Huynh Đệ Chi Binh VNCH.
Tấm ảnh cảm động mang đầy ư nghĩa ..
Đây là h́nh ảnh thật năm xưa và h́nh ảnh hiện tại.
"41 năm trước tôi cơng nó và bây giờ tôi ẳm nó.".


https://scontent.ftpa1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/24174617_36394592734 9635_831584549832628 3035_n.jpg?_nc_cat=1 03&ccb=2&_nc_sid=8bfeb9&_nc_ohc=m2ZcvIsRwigA X-mFLvp&_nc_ht=scontent.ftpa 1-2.fna&oh=de608327d59ebd003 8ad42ed7a712edc&oe=5FEC2676
:112::112:;);)

hoanglan22
12-04-2020, 13:27
Trong đời sống con người ai cũng có những cuộc hạnh ngộ bất ngờ mà ta không thể tiên đoán được; có những cuộc gặp gỡ mang đến điều may mắn, niềm hân hoan và hạnh phúc. Ngược lại, cũng có thể là bất trắc, tai ương và đau khổ; nhất là đối với một quân nhân thuộc quân chủng Không Quân VNCH như tôi, không nằm dưới quyền chỉ huy trực tiếp mà lại phải “Tŕnh diện ông Tướng” mới là một điều hiếm thấy, thật đáng lo!

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1700976&stc=1&d=1607088171

Thiếu Tướng 1972 (1927–1975)
Tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh 1970 –1973
Tư lệnh Quân Đoàn IV & Quân Khu IV 1974 –1975

Người mà tôi sắp phải đối diện đó là Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, bản doanh đặt tại căn cứ Đồng Tâm (Mỹ Tho). Được biết Ông nổi tiếng là một quân nhân nghiêm minh, chuyên cần, trong sạch và tận tụy v́ công vụ, không cậy thế cậy quyền hống hách, được thuộc cấp kính nể mến thương. Trong trường hợp này, ắt hẳn có chuyện ǵ thật nghiêm trọng xảy ra, mà tôi được lịnh phải có mặt tức khắc tại văn pḥng tư lệnh.
Linh tính cho tôi biết chắc có chuyện không lành sắp xảy ra và sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc đời binh nghiệp của ḿnh. Ḷng dạ hoang mang, vô cùng lo lắng. Vâng! Xin thưa cùng quư vị, câu chuyện như sau:
Phi đoàn 122 Quan Sát (L-19 & U17 Cessna) đặt tại phi trường Trà Nóc, Cần Thơ. Nhiệm vụ của phi đoàn là phụ trách không yểm cho bán phần lănh thổ quân khu IV gồm các tỉnh như Long An, Kiến Phong, Kiến Tường, Châu Đốc, Định Tường, Vĩnh B́nh, Long Xuyên và Cần Thơ.
Giữa năm 1973 chiến sự bùng phát dữ dội, những cuộc hành quân được tung ra hầu ngăn chặn, giải vây, lùng và diệt địch diễn ra khắp vùng nổi tiếng gai góc, có biệt danh là khu “tam giác sắt”: Sầm Giang, Cái Bè và Cai Lậy, phần lănh thổ trách nhiệm của SĐ7-BB. Nên chúng tôi luôn luôn có 3 phi hành đoàn (PHĐ=2người) túc trực tại sân bay Đồng Tâm, Mỹ Tho không xa mấy văn pḥng của Thiếu Tướng Tư Lệnh.
Sau khi phi cơ đáp an toàn và đang taxi (di chuyển) về băi đậu, tôi chợt thấy một chiếc xe Jeep của SĐ7-BB đang phóng nhanh về hướng phi cơ. Vừa mở cửa bước xuống tháo nón bay, trên tay cầm xấp bản đồ và phi lịnh hành quân th́ thấy chiếc xe Jeep được lái bởi một quân nhân cấp bậc trung sĩ thắng gấp, dừng ngay bên cạnh. Tôi quá đổi hoang mang và kinh ngạc trước sự kiện lạ lùng chưa bao giờ xảy ra cho các PHĐ đă từng biệt phái yểm trợ cho SĐ7-BB từ trước tới nay ở căn cứ Đồng Tâm nầy.
– Chào đại uư.
– Chào trung sĩ, có chuyện ǵ xảy ra? Tôi lo lắng hỏi dồn.
-Thiếu Tướng vừa chỉ thị tôi ra rước PHĐ đưa vào pḥng họp ngay.
-Trung sĩ có biết v́ sao?… Anh Tr/sĩ chẳng nói một lời, nhấn ga chiếc xe chồm tới như con ngựa bất kham, để lại phía sau một đám bụi mù.
Ngồi trên xe Thiếu uư Hội — Phi công trẻ, hiền lành dễ mến mới về phi đoàn khoảng 6 tháng — với vẻ mặt lo âu nh́n tôi hỏi nhỏ:
-Đại uư có biết chuyện ǵ xảy ra cho chúng ta không
Để trấn an Hội dù trong bụng đang đánh lô tô, cố giữ vẻ mặt b́nh thản khuyên Hội hăy yên tâm, là trưởng phi cơ tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm và sẽ tŕnh bày mọi diễn tiến phi vụ yểm trợ tiếp cận sáng nay, với một tiểu đoàn bộ binh ở vùng Cai Lậy cùng Thiếu Tướng nếu có liên quan đến sự việc đó.
Xe vừa thắng gấp trước văn pḥng, anh Trung sĩ mời chúng tôi vào gặp Trung uư (có lẽ là tuỳ viên Tư Lệnh) trong một pḥng nhỏ có cửa ăn thông với pḥng họp rất to trang bị tiện nghi, thích ứng với pḥng hợp hành quân. Ngoài bàn làm việc có dựng một lá cờ nhỏ 2 sao của Tướng Nam, phía đối diện là một dăy ghế cho khoảng 100 người. Phía sau bàn Tư Lệnh được treo một bản đồ hành quân có kích thước thật lớn từ vách trái sang vách phải của pḥng họp. Trên đó ghi chú phần tương quan lực lượng địch và bạn, cùng với chi chít các địa điểm giao tranh được đánh dấu bằng viết ch́ mở màu xanh đỏ.
Hồi hộp bước vào pḥng, tôi liếc nhanh không thấy Tướng Nam, chỉ thấy 2 sĩ quan mang cấp bậc Trung tá và Đại tá. Tôi đứng nghiêm chào th́ Ông Đại tá cất tiếng ôn tồn hỏi: Có phải PHĐ vừa thi hành phi vụ yểm trợ oanh kích cho tiểu đoàn bộ binh gần Cai Lậy phải không?
– Dạ, khoảng 9 giờ sáng nay, thưa Đại tá.
– Thiếu Tướng bảo Đại uư chờ trong giây lát v́ Ông rất bận trong pḥng truyền tin sư đoàn.
Tôi định hỏi v́ sao chúng tôi phải có mặt tại đây th́ bất ngờ Tướng Nam từ pḥng truyền tin bước ra với vẻ mặt mệt mỏi pha chút giận dữ. Từ xa Ông ngước nh́n chúng tôi hất hàm gằn giọng hỏi:
-có phải PHĐ vừa yểm trợ oanh kích cho tiểu đoàn bộ binh ở vùng Cai Lậy?
-Tŕnh Thiếu tướng khoảng 9 giờ sáng này. Tôi lo sợ run run trả lời.
Rồi bất th́nh ĺnh Ông đập mạnh tay đánh rầm xuống bàn:
-Vậy là hai chú giết hết con cái tôi rồi!
Tôi điếng người đứng chết trân, hồn bất phụ thể, lúng túng chưa biết phản ứng ra sao, vội liếc nhanh t́m hai ông Tá hy vọng hai người có thể góp phần giải thích hộ để Tướng Nam giảm bớt cơn thịnh nộ trong lúc này, nhưng chỉ thấy Th/uư Hội c̣n lại trong pḥng mặt xanh như tàu lá.
Tướng Nam chống hai tay lên bàn hướng về phía chúng tôi nói tiếp:
– Các chú có biết đơn vị bị thiệt hại do oanh kích vừa gọi về báo số tổn thất tổng kết là 7 quân nhân chết tại chỗ và hơn 10 bị thương!
Mắt tôi nổ đôm đốm, hai lỗ tai lùng bùng, mồ hôi ướt trán, cố gượng đứng vững trên đôi chân tưởng chừng mềm như bún khi bất ngờ được biết số thương vong của quân bạn quá lớn những vậy!
-Tŕnh Thiếu tướng… không đợi tôi nói hết câu và có lẽ thấy gương mặt quá thảm năo của tôi và sự sợ hăi của Thiếu uư Hội, Ông khoát tay ra lịnh, một quân nhân mang ra một khay đựng 3 ly nước lạnh. Tướng Nam đẩy 2 ly nước về phía chúng tôi rồi Ông dịu giọng nói: Tôi biết Đại uư (Bây giờ ông mới gọi tôi bằng cấp bậc!) muốn tŕnh bày, hăy uống ít nước lấy lại b́nh tĩnh và có 5 phút vắn tắt v́ tôi phải đi bay để kiểm tra lại tọa độ oanh kích sáng nầy.
Cố gắng lấy lại b́nh tĩnh, tôi rút ngay tấm bản đồ hành quân trong túi áo bay trải lên mặt bàn. Tôi tŕnh bày:
-Tŕnh Thiếu tướng – PHĐ cất cánh khi nhận lệnh hành quân lúc 8 giờ sáng, trên phi tŕnh đến vùng hành quân tôi đă liên lạc trực tiếp với Alpha (Tiểu đoàn Trưởng), và chính vị TĐT này gởi tọa độ yêu cầu không yểm mà tôi có ghi rơ ràng chi tiết trên phóng đồ hành quân của riêng tôi. (Ông bước đến
gần để nh́n kỹ và ghi tọa độ oanh kích vào mảnh giấy nhỏ). Trước khi đánh quả bom đầu tiên tôi cũng đă xác định lại tọa độ với sự đồng thuận của Alpha.
-Vậy tại sao bom lại rơi trúng vị trí quân bạn? Tướng Nam gằn giọng hỏi gắt.
Tôi ú ớ, loay hoay t́m cách trả lời, chợt nhớ đến mẫu đối thoại trên tầng số không lục với Alpha sau pass bom đầu tiên vừa đánh vào mục tiêu.
-Thưa Th/tướng, không biết ở pḥng truyền tin sư đoàn có theo dơi phi vụ yểm trợ tiếp cận trên tần số không lục với TĐ sáng nay hay không? Nếu Th/tướng cho phép tôi xin thuật lại những ǵ xảy ra trong thời gian hướng dẫn khu trục đánh bom.
-Đại uư hăy tŕnh bày ngắn gọn tôi không có nhiều th́ giờ! Tướng Nam một lần nữa gay gắt thúc giục.
-Dạ! Tôi mừng thầm — Xin được tŕnh sau đây là mẫu đối thoại với Alpha:
-“Alpha đây Họa Mi gọi” (Danh hiệu L-19).
-Alpha nghe Hoạ Mi 5/5.
-Thần báo (danh hiệu A-37) vừa đánh pass bom đầu tiên vào mục tiêu do bạn yêu cầu mà tại sao giờ này con cái bạn bê bối vẫn c̣n hút thuốc? (Bung khói màu khẩn cấp báo hiệu v́ bom đă dội trúng đội h́nh quân bạn).
-Tiếng Alpha rơ ràng, mạch lạc: Vịt con (Việt Cộng) giả dạng phe ta đó Hoạ Mi! Chúng nó chơi mánh này, nhiều lần lắm rồi! Yêu cầu chim sắt (khu trục cơ A-37) cứ tiếp tục.
Nghe đến đây Tướng Nam lộ vẻ bực dọc tức tốc rời pḥng họp trước sự ngạc nhiên và lo sợ của chúng tôi. Ít phút sau viên Trung uư tùy viên vào cho biết là Thiếu tướng bảo PHD chờ tại đây, Ông ra lấy trực thăng bay lên vùng kiểm tra tọa độ vừa oanh kích.
Tôi buồn bả ngồi bệt xuống ghế ôm đầu tự hỏi! Có phải sự việc xảy ra hôm nay là bước ngoặt quan trọng có thể chấm dứt đời bay bổng của ḿnh? Ngoài ra, c̣n có thể bị giáng chức hoặc nhiều h́nh phạt khác dành cho một quân nhân phạm lỗi “tày trời”. Nếu Tướng Nam là một “Minh Tướng” lấy công tâm phán xét sự việc th́ ḿnh có hy vọng giải oan? bằng không, hay hoặc v́ truyền thống “phủ binh phủ, huyện binh huyện” th́…
– Đại uư, nếu lỗi về phần không yểm th́ ḿnh có bị rút bằng bay và bị phạt tù không? Hội lo sợ lên tiếng hỏi cắt đứt gịng suy nghĩ của tôi.
– Hy vọng chắc không sao đâu! đây là lần thứ hai tôi cố gượng trấn an Hội khi ḷng dạ rối như tơ ṿ.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1700977&stc=1&d=1607088171

“Vào hàng, phắc!” Tiếng Trung uư tuỳ viên hô to. Tôi bật dậy hồi hộp đứng nghiêm chào, từ xa Ông khoát tay ra lịnh dứt khoát ngắn gọn: “Trả PHĐ về lại sân bay!”.
Hú hồn! Hú vía! Cám ơn Phật! Cám ơn Chúa! Không c̣n sự sung sướng nào có thể diễn tả nổi, sau gần một tiếng đồng hồ bó gối căng thẳng lo âu, sợ sệt, giờ chúng tôi như chim xổ lồng ào ra cửa phóng nhanh lên xe sợ Ông đổi ư!
Xe vừa về đến biệt đội, Đại uư Kiệt (Biệt đội trưởng), Dại úy Duy (Khờ) các Trung uư Kiệm, Hải và Sang ùa ra đón chào, tay nắm tay mừng mừng tủi tủi; mừng cho PHĐ “qua cơn bĩ cực” tủi buồn cho các chiến hữu bộ binh bị thương vong khá nặng!
Đang trong bầu không khí phấn khởi th́ chuông điện thoại reo vang.
-Biệt đội Đồng Tâm, Đại uư Kiệt nghe.
– Tôi Tr/tá Đặng (Mekong03) Trưởng Pḥng Hành Quân Chiến Cuộc Sư Đoàn IV KQ) đă chỉ thị cho đại uư Nguyễn Cao Minh, sĩ quan trực ngày hôm nay, gọi trực tiếp với toán chuyên viên kỹ thuật phi đạo chuẩn bị sẵn sàng một Cessna U-17 trong ṿng 45 phút nữa do Tr/tá Trần trọng Khương, Phi đoàn Trường lái sẽ đáp phi trường Đồng Tâm đón PHĐ về Cần Thơ ngay! Đó là lịnh của Mekong 01 (Tướng N.H.Tần Tư lệnh SĐIV/KQ). Mọi người đều nghe rơ qua loud speaker.
– Nhận rơ Mekong 03. Quay sang tôi:
-Mầy và thằng Hội (chúng tôi thường gọi nhau mày tao) chuẩn bị đi là vừa, tao sẽ yêu cầu phi đoàn đưa PHĐ khác qua thay, c̣n một tuần nữa (biệt phái 2 tuần) hết biệt phái về Cần Thơ tao sẽ đăi mừng tụi bây một chầu.
-Tôi quơ nhanh túi quần áo và nón bay cùng Hội chuẩn bị sẵn sàng ra Parking (băi đậu), trong khoảnh khắc chiếc Cessna đă đáp an toàn và đang taxi (di chuyển) vào.
Lấy đủ cao độ, phi cơ vượt ḍng Tiền giang phản chiếu lấp lánh dưới ánh mặt trời, quay nh́n về hướng mục tiêu oanh kích sáng nay, xa xa lửa vẫn c̣n nghi ngút cháy, những làn khói mỏng vươn lên loang tỏa trong không khí phủ quanh những cánh đồng lúa và vùng kinh rạch. Mơ hồ trong tâm tưởng, cảm nhận h́nh như ḿnh cũng có một phần nào trách nhiệm! Ôi! Chiến tranh, bom rơi đạn lạc! Tôi buồn bă lắc đầu. Tiếng Tr/tá Khương vang trong nón bay:
– Hưng biết tại sao lịnh trên chỉ thị phải cấp tốc rước PHĐ về Cần Thơ ngay trưa nay không?
– Dạ! Thưa không Tr/tá.
– Sự việc đáng tiếc xảy ra, sư đoàn 4/KQ được thông báo và theo sát từng diễn biến đến khi biết không phải lỗi thuộc về Không Quân chúng ta.
Tôi ngắt ngang hỏi:
-Vây sao phải “bốc”chúng tôi về ngay tức khắc?
– Để tránh tối đa những va chạm không cần thiết v́ có thể thân nhân hay bạn bè của nạn nhân trong lúc uất ức quẩn trí sẽ tràn vào phi trường hành hung PHĐ cho hả cơn tức giận!
Tôi giật ḿnh ngỡ ngàng và cảm động, bấm Intecom nói nhỏ:
-Cám ơn Tr/tá và các cấp chỉ huy lo cho sự an toàn của anh em phi hành.
Phi cơ chạm bánh lướt nhẹ trên phi đạo, trên đường về phi đoàn Tr/tá Khương vừa an ủi vừa ra lịnh: Tôi biết PHĐ mất tinh thần và mỏi mệt trong lúc này, nhưng ngày mai Hưng chịu khó vào phi đoàn viết bản tường tŕnh mọi sự việc xảy để tôi tŕnh lên SĐIV/ KQ và Bộ Tư Lịnh/KQ Tân Sơn Nhứt; sau đó tôi sẽ kư 48 giờ phép để cho PHĐ có th́ giờ nghĩ ngơi hầu lấy lại tinh thần.
Ḷng hân hoan rộn ră, liếc sang Thiếu uư Hội giờ mới thấy lần đầu tiên chú em vui ra mặt.
-Cám ơn Tr/tá đă quan tâm đến PHĐ. Tôi vui vẻ trả lời.
-À! C̣n một điều quan trọng nữa là tôi sẽ chỉ thị cho Th/tá Hảo (Trưởng pḥng hành quân phi đoàn) không cắt Hưng và Hội biệt phái Đồng Tâm trong ṿng 6 tháng tới. Nghe rơ chưa?
Tôi như mở cờ trong bụng:
-Dạ! 5/5 thưa Tr/tá.
Hôm sau, đúng 8 giờ sáng đă có mặt ở pḥng hành quân phi đoàn, sau khi viết xong bản tường tŕnh tôi đi thẳng vào pḥng phi đoàn trưởng tŕnh Tr/tá Khương. Ông đọc thật kỹ xong gật đầu:
-Tốt! Giờ anh qua ban văn thư lấy giấy phép tôi đă kư chiều hôm qua.
-Cảm ơn Tr/tá. Tôi lư nhí pha chút cảm động v́ cách đối xử tế nhị của ông trong t́nh huống nầy.
Nhét giấy phép vào túi, ḷng vui rộn ră, rảo qua pḥng hành quân, khều vài thằng bạn thân, hẹn khoảng 4 giờ chiều đến câu lạc bộ sư đoàn lai rai để “lấy lại phong độ” chứ bây giờ cảm thấy “xệ” quá!
Câu lạc bộ trang hoàng thật đẹp mắt, hệ thống điều ḥa không khí toả làn gió mát lạnh làm dịu hẳn cơn nóng, tiếng nhạc êm dịu ngân vang. Bọn tôi vừa dứt điểm pass một, nồng độ Cognac Hennessy chưa tráng bao tử, pass thứ hai được chia đều, bất th́nh ĺnh Lư Tống (thời gian này Lư Tống c̣n bay Cessna chưa xuyên huấn qua bay phản lực cơ A37), ở đâu ào tới nói to giọng Huế: Ê! Hưng, thằng Kiệt bên Đồng Tâm vừa gọi về pḥng hành quân phi đoàn cần gặp mi gấp, chắc có chuyện chi!
Tôi hơi khựng, nghiêm mặt hỏi lại: Thật không? Đừng có giỡn nghe mậy! Cả ngày hôm qua tao bầm dập như trái chuối chín mùi rồi, muốn ăn nhậu th́ vào đây!
– Tao nói thật, mi nên gọi hắn cho ra lẽ. Tống vừa ngồi xuống vừa trả lời.
-Okay!, vậy để tao lên pḥng hành quân phi đoàn gọi nó. Ba đứa bây cứ tự nhiên, chầu này tao chi, nếu v́ lư do ǵ tao không trở lại th́ bảo anh quản lư ghi sổ. Nói xong tôi nâng ly thứ hai nốc cạn.
-Biệt đội Đồng Tâm,Tr/uư Hải nghe.
-Hưng đây Hải, cho gặp Kiệt.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1700978&stc=1&d=1607088171

Đại uư Kiệt qua họp bên Sư Đoàn 7, chắc cũng sắp về.
-Mầy bảo Kiệt gọi cho tao ở pḥng hành quân phi đoàn, Tao chờ.
Khoảng 5 phút sau, chuông điện thoại reo vang. Tôi vội vàng chụp ống nghe:
-Hưng đây Kiệt! Chắc có ǵ lạ xảy ra?
-Có, vui buồn lẫn lộn.
-Cái ǵ! Tôi gắt.
-Mầy b́nh tĩnh để tao nói.
-Okay! Nói ngay đi ông nội!
-Ngày hôm qua sau khi Ông sếp rước tụi mầy về Cần Thơ, chiều đến tao có gặp hoa tiêu lái chiếc C & C (Command and Control = trực thăng chỉ huy) của Tướng Nam cho biết là khi bay kiểm tra tọa độ oanh kích th́ đúng là tọa độ do Alpha yêu cầu. Vậy là mầy vui chớ ǵ? Kiệt hỏi tḥng.
-Dĩ nhiên rồi! C̣n sao lại buồn?
-Tội cho Alpha v́ một phút chểnh mảng không nắm vững vị trí con cái, để một trung đội ém quân lạc ngay vào tọa độ oanh kích, hứng ngay loạt bom đầu tiên, máy PRC-25 bể nát không liên lạc được với bộ chỉ huy tiểu đoàn, nên mới bung khói màu báo động xin ngừng đánh bom, nhưng quá muộn!
Biết được sự việc, Tướng Nam tức giận vô cùng, Ông ra lịnh Alpha tŕnh diện tức khắc tại vùng hành quân, bốc lên trực thăng bay thẳng về bộ tư lệnh sư đoàn; đồng thời Ông chỉ định Đại uư Tiểu Đoàn Phó lên nắm chức Tiểu Đoàn Trưởng.
Tôi thảng thốt kêu lên:
-Trời! Trời! Tao đâu ngờ có sự đột biến nghiệt ngă như vậy!
-Mầy biết không! Cái mà làm cho Ổng hành động quyết liệt hơn, là khi biết thêm có một Thiếu uư, trung đội trưởng bị tử vong nguyên là một giáo sư dạy đệ nhị cấp ở Sài-G̣n mới thuyên chuyển về phục vụ tiểu đoàn chưa quá 3 tháng.
-Trời! Tội nghiệp cho vị giáo sư quá! Nhưng lỗi đâu phải tao gây ra!
Tôi lư nhí cố chống chế, phân trần trong tâm trạng mang mặc cảm h́nh như chính ḿnh cũng đă phạm lỗi lầm nào đó!
-Tao biết! Ngày xui tháng hạn, thôi mầy đừng buồn, dù sao chuyện cũng đă qua. Kiệt hạ giọng an ủi.
-Cám ơn mầy, phải nói là nhờ sự công tâm của Tướng Nam; nếu trường hợp gặp mấy ông tướng khác chắc giờ này tao ngồi trong pḥng giam chớ không phải ông Thiếu tá TĐT! Thôi hẹn gặp lại tuần sau và nhắn với anh em bên đó nhớ bay bổng cẩn thận!

◘◘
Định Mệnh Chiều 30-4.1975

Pḥng hành quân phi đoàn chật ních nhân viên phi hành, im phăng phắc trong bầu không khí nghẹt thở. Trên bục Tr/tá Trần Trọng Khương, phi đoàn Trưởng, nói lời từ giă cuối cùng trước khi chia tay, tan hàng găy cánh trong niềm đau đớn, uất hận, xót xa tột cùng của đời lính chiến: “Ngày 30/4/1975 định mệnh. Lịnh buông súng đầu hàng của TT Dương Văn Minh”.
Tôi đứng chết trân, đôi tai lùng bùng, đầu óc trống rỗng, nhận thức mơ hồ chỉ nghe loáng thoáng tiếng ông nói trong vội vă “Giờ phút nầy Anh em nào muốn đi U-Tapao, Thailand, lên xe pickup (Loại xe KQ dành riêng cho Phi Đoàn) cùng tôi xuống băi đậu phi cơ!“. Tiếng bàn ghế chuyển dịch, và rồi một làn sóng người ào ra khỏi pḥng. Nh́n quanh giờ chỉ c̣n lèo tèo mấy mạng thất thần mặt mày ngơ ngác, trông rất thảm hại!
Tôi buồn bă lửng thững ra khỏi pḥng đi về hướng băi đậu xe gắn máy dành riêng cho phi đoàn. Bỗng một chiếc xe Jeep dân sự thắng gấp ngay trước mặt. Tiếng Đai/uư Công – Thằng bạn thân – hỏi dồn như thúc giục:
-Hưng! Giờ nầy gần 11 giờ trưa rồi sao mày c̣n nấn ná ở đây?
-Chiến tranh chấm dứt rồi! Mày định đi đâu th́ đi! Phần tao trở lại đời dân sự sẽ đưa vợ con về quê sinh sống.
Tôi buồn bă nói buông xuôi:
-Trời ơi! Sao mầy ngây thơ quá! Tụi Cộng Sản đâu để mầy yên! Mầy có biết hồi khoảng 3 giờ sáng này tụi VC xâm nhập vào ṿng đai pḥng thủ, đại đội địa phương quân bảo vệ an ninh phi trường chống trả quyết liệt, đồng thời yêu cầu gunships của ḿnh lên diệt gọn hơn trăm tên, xác nằm la liệt quanh hàng rào không? Ngoài ra bên ta bắt sống khoảng chục tên chúng khai: lệnh thủ trưởng bảo vào tiếp thu căn cứ v́ tụi ngụy đă đầu hàng! Công nói một hơi.
-Tao có nghe súng nổ và tiếng trực thăng vọng vào cư xá, nhưng không biết VC tấn công vào phi trường.
-Vậy mầy muốn chúng nó vào đây cắt cổ mầy à? Công gằn giọng hỏi gắt.
Tôi giật ḿnh thoáng sợ nhưng vẫn ậm ờ, phân vân.
-Tao ở ngoài Cần Thơ lái xe vào, bị kẹt ngoài cổng phi trường, quân cảnh được lệnh Tướng Tần (Tư lịnh sư đoàn IV không quân). Nội bất xuất, ngoại bất nhập” May mà tao có quen một sĩ quan quân cảnh nên mới vào đây được.

-Phải chi mày có mặt ở phi đoàn th́ mầy đi chung với Tr/tá Khương.
-Ổng đi rồi à! Mà đi đâu? Công ngạc nhiên hỏi.
-U-Tapao, Thailand với Tr/tá Nhơn (Phi đoàn trưởng PĐ 124 từ Biên Hoà di tản xuống) Tôi đáp:
-Với tư cách là thằng bạn thân, tao yêu cầu mày phải quyết định ngay! Mầy biết không, ngoài Cần Thơ, B́nh Thuỷ, dân chúng hoảng loạn, nhốn nháo chạy đôn chạy đáo t́m mọi phương cách để ra đi; trong khi mầy có phương tiện trong tay mà mầy lại b́nh chân như vại! Công lộ vẻ bực bội.
-Tao c̣n kẹt vợ con và hai em gái đang ở cư xá gần Bộ Tư Lịnh (trong phi trường).
-Tao biết! mầy chạy theo đến cổng băi đậu phi cơ, lấy xe Jeep về đón gia đ́nh, trong khi đó tao vào t́m phi cơ khả dụng. Nhanh lên! Công thúc như ra lịnh.
Tiếng rầm rú vang dội như thúc giục của những chiếc phản lực cơ đang ào ào cất cánh trực chỉ về hướng biên giới, âm vang của hàng chục trực thăng vô trật tự vần vũ trên không dọc theo đường phi đạo; hàng trăm quân nhân và gia đ́nh mặt mày thất sắc, hớt hăi, ngơ ngác chạy ngược chạy xuôi bằng mọi phương tiện, tiếng người kêu gọi, tiếng trẻ con khóc, thật là một cảnh hoảng loạn chưa từng thấy!
Chứng kiến tận mắt sự sợ hăi của dân chúng đối với Cộng Sản, trong giây phút sinh tử này tôi dứt khoát ra đi theo lời đề nghị hữu lư của Công.
Vừa đưa gia đ́nh đến ụ chứa phi cơ th́ thấy Công hốt hoảng chạy dội ngược ra la lớn:
-Chết rồi Hưng ơi!
-Có chuyện ǵ? Tôi ngạc nhiên hỏi.
-Tao kiểm soát 2 chiếc, cả hai đều bất khả dụng: một không có xăng; một hai bánh trước xẹp lép. Trán Công ướt đẩm mồ hôi, hổn hển giải thích . Tôi hướng về ụ quen thuộc phía xa nơi có chiếc Cessna thường đậu.
-Vướng víu gia đ́nh tao không thể đi nhanh được, Công mầy dọt nhanh đến ụ số 5. Gấp! Giờ tôi ra lịnh ngược lại.
-Ừ! quưnh quá tao quên mất ụ chứa chiếc Cessna, Công vừa nói vừa phóng đi.
Hú hồn! Chiếc phi cơ tốt nhất của đơn vị chưa có ai rờ tới. Trong khi tôi đưa gia đ́nh lên phi cơ th́ Công đi ṿng quanh tàu làm tiền phi (kiểm soát an phi trước khi cất cánh).
Đứng trước đầu phi cơ ra thủ hiệu cho Công nổ máy, nhưng thấy chong chóng động cơ không nhúc nhích. Tôi bực ḿnh hét to:
-Sao không quay máy?
-Không có điện! Công đưa hai tay lên trời đáp với vẻ thất vọng.
Linh tính báo cho biết có chuyện chẳng lành, tôi phóng nhanh về phía sau phi cơ nơi để b́nh điện.
-Ai lấy mất b́nh điện rồi! Tôi than trời! (Sau nầy, chúng tôi mới biết có nội tuyến cài vào nhóm chuyên viên kỹ thuật phi đạo. Báo hại, kẹt lại khá nhiều phi công và gia đ́nh!
Lục đục, đở đứa con trai 4 tuổi cùng vợ và các em xuống, đang đứng dưới cánh phi cơ trong tâm trạng chán nản, mệt mỏi gần như tuyệt vọng, bỗng thấy một phi công từ xa hớt hải chạy về hướng chúng tôi tay xách nón bay. Khi đến gần nh́n kỹ lại là Đại uư Tuấn (sau tôi một khoá). Tuấn cũng vừa nhận ra tôi, lộ vẻ vui mừng buột miệng: Niên trưởng!
-Ê Tuấn! Lái loại phi cơ ǵ? Trước t́nh trạng dầu sôi lửa bỏng này, tôi hỏi ngay.
-Trực thăng. C̣n niên trưởng Cessna hả? Cho tôi tháp tùng với, v́ đơn vị tôi mới di tản từ miền Trung vào.
Như chết đuối vớ được phao, ḷng mừng khấp khởi tôi nhanh chóng đề nghị: Bên Cessna của tao tiêu tùng rồi! Băi đậu trực thăng sát bên, hay là tụi ḿnh sang bên đó xem thế nào.
Thấy Tuấn, Công đều gật đầu đồng ư, tôi thúc luôn:
-Nhanh lên! Hy vọng giờ này ḿnh kiếm được tàu bay khả dụng. Tôi hất hàm về hướng băi đậu.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1700979&stc=1&d=1607088171

Chiếc trực thăng định mệnh giữa sống và chết .

Lê lết bầu đàn thê tử, mệt bở hơi tai mới đến được chiếc trực thăng mà Tuấn đang quay máy, cánh quạt tăng tốc độ quay tít như sắp cất cánh. Bất ngờ, không biết từ đâu một đoàn người ào tới chen lấn, xô đẩy, tôi cố lấy hết sức b́nh sinh, trong cảnh hỗn quan hỗn quân nầy mới đưa được thân nhân lên tàu; riêng phần tôi không tài nào chen lên được v́ số lượng người trên tàu chật như nêm rồi.
-Xuống bớt! Xuống bớt! Tàu overload không thể cất cánh được. Tiếng Tuấn hét to ḥa lẫn tiếng cánh quạt trực thăng vù vù quay tít làm tôi điếng người.Trên tàu không một ai nhúc nhích. Bổng có tiếng hô to “Tàu hư!”. Một vài người nghe vậy nhanh chân nhảy khỏi tàu, tôi cũng hốt hoảng không kém dang tay định bồng thằng con xuống, nhưng Công lanh trí chụp cánh tay tôi bấm nhẹ và nháy mắt; đồng thời kéo mạnh tôi lên tàu đúng lúc cánh quạt vừa đạt ṿng quay nhấc bổng con tàu lên cao. Hú hồn!
Tàu bay chậm chạp, nặng nề lắc lư xuyên qua những cụm mây đen dày đặc, gió phần phật quất mạnh vào hông tàu, mưa bắt đầu rơi nặng hạt, tầm nh́n xa bị hạn chế tối đa. Bổng nghe tiếng Tuấn gọi vang: Niên trưởng! Niên trưởng Hưng!
-Tao đang nằm bẹp đằng sau thùng tàu nè!
-Niên trưởng lên đây phụ tôi một tay. Nhanh lên! Nhanh lên!
-Tao đâu biết lái trực thăng! Tôi đáp to trong tiếng ồn ào của động cơ.
Tuy nói vậy, tôi cũng cố gắng chen lên hướng pḥng lái, vừa thấy tôi Tuấn hất hàm về phía viên Thiếu uư đang ngồi ghế hoa tiêu phụ. Như hiểu ư viên Thiếu uư nhanh nhẹn đứng dậy và trao Helmet (nón bay)cho tôi.
-Tàu chở nặng, mưa to mù trời, tầm nh́n xa giới hạn, gió giật mạnh quá! Niên trưởng check giùm vị trí và hướng bay. Tôi không quen với địa h́nh vùng IV này! Giọng Tuấn run run nói một hơi.
Từ cao độ 1500 bộ (500m) nh́n xuyên qua những đám mây đen rời rạc, lờ mờ trong mưa, thành phố thân yêu quen thuộc quận lỵ Ô-Môn (Một sự ngẫu nhiên, và đâu biết đây là lần cuối cùng nh́n lại nơi chôn nhau cắt rốn của tôi).
Tôi bấm intercom:
-Tuấn, tàu ḿnh dạt xa về hướng tây phi trường rồi, nhưng yên chí, hăy giữ b́nh tĩnh! Thấy con sông lớn bên phải không? Đó là sông Hậu hướng về biên giới Việt-Miên.Tôi nhắc nhở.
Lây quây ít phút, tàu vừa chui ra khỏi đám mây, cơn mưa nhẹ dần, không gian quang đăng, con tàu lướt êm. Tuấn có vẻ lấy lại tự tin nh́n tôi:
– Ḿnh bay đâu đây niên trưởng?
– Xăng nhớt như thế nào? Tôi hỏi.
– Khoảng trên 2 tiếng bay.
Chợt nghĩ đến U-Tapao, Thái Lan như Tr/tá Khương kêu gọi sáng này.
-U-Tapao,Thái Lan.Tôi đề nghị.
-Xa quá, tàu sẽ không đủ nhiên liệu đâu niên trưởng!
-Vậy ḿnh ghé Phú Quốc lấy xăng, từ đó bay dọc theo bờ biển Campuchia là tới địa phận xứ Thái. Tôi cố thuyết phục.
-Không được! Không được! Tuấn lắc đầu lia lịa.
-Tại sao? Tôi gắt.
-Kinh nghiệm của tôi từ lúc di tản từ miền Trung vào, tàu đáp xuống rồi th́ không thể nào cất cánh lại được v́ quá nhiều người tranh nhau lên tàu, hoặc có thể bị bắn theo khi tàu cất cánh, bởi một số quân nhân uất ức v́ nghĩ họ bị bỏ rơi!
Tôi ngẩn người nghe Tuấn dứt khoát giải thích như vậy. Không thể nấn ná, chần chừ trong giây phút sinh tử nầy. Đầu óc căng thẳng, hơi thở dồn dập. Theo cảm tính tôi buột miệng:

-Đảo Côn Sơn!
(Trước đây khoảng ba ngày. Bộ Tư Lịnh/Không Quân gởi công điện cho phép nhân viên phi hành đưa gia đ́nh vợ, con) ra đảo Phú Quốc hoặc đảo Côn Sơn lánh nạn. Sau đó phải trở về đơn vị ứng chiến. Đến lúc t́nh hình tồi tệ nhất th́ lúc đó mới được phép lấy phi cơ bay sang U-Tapao,Thái Lan).
-Đảo Côn Sơn! Tuấn gằn giọng hỏi lại.
-Tuấn biết vị trí đảo chứ?
-Biết, nhưng tôi chưa bao giờ bay xa trên biển.
-Đừng ngại! tao đă từng biệt phái hành quân ngoài đảo Phú Quốc nhiều lần (Đặc khu Phú Quốc), phần không hành xuyên biển để tao lo! Tôi nói chắc lời để trấn an Tuấn.
-Okay! Niên trưởng nhớ theo dơi, điều chỉnh phi tŕnh nghe!
-Đồng ư! bây giờ Tuấn lấy 90 độ EAST, xuôi ḍng sông Hậu ra biển Đông. — Đảo Côn Sơn nằm chếch về hướng 13 giờ và cách bờ biển tỉnh Bạc Liêu khoảng 90 Km đường chim bay. Trong khẩn cấp tôi hướng dẫn ngắn, gọn.
Tàu chuyển hướng, xuôi gịng sông Hậu trên cao độ 1500 bộ, dưới kia thành phố Cần Thơ nhạt nhoà qua khung kính, ẩn khuất sau những cụm mây đen mờ dần trong làn mưa nhẹ. Tôi bồi hồi xúc động tự hỏi phải chăng đây là chuyến bay cuối cùng vĩnh biệt quê hương?
-Niên trưởng, hướng 1 giờ xa xa phía trước có phải là phi trường Sóc Trăng không?
-Đúng 5/5 Kế đó là Bạc Liêu. Tuấn bay đúng hướng rồi đó! Tôi khích lệ tinh thần.
Th́nh ĺnh tàu giảm cao độ một cách bất thường, chưa kịp phản ứng th́ âm thanh trong nón bay vang lên:
-Tôi đáp Sóc Trăng! Giao tàu cho niên trưởng. Tuấn với giọng dứt khoát.
-Trời! Trời! Tuấn định giết hết anh em trên tàu sao?! Tuấn biết tôi đâu phải là pilot trực thăng!
-Niên trưởng thông cảm, trong hoàn cảnh hiện tại, nghĩ đến vợ, con đang kẹt ở Saigon, tôi không nở bỏ đi một ḿnh!
Trong giây phút sinh tử nầy, tôi quyết liệt, tay giữ chặt cần lái với giọng hù dọa:
– Tuấn! Tuấn! Bạn mà hạ tàu xuống thấp, chưa kịp đáp, dưới sân bay tụi Việt Cộng nó xỉa lên th́ coi như tiêu tùng cả đám!
Dứt lời, nh́n sang thấy Tuấn không phản ứng, lầm ĺ chẳng nói năng ǵ, gương mặt lộ vẻ căng thẳng, u buồn, chăm chú điều khiển con tàu vẫn ở cao độ an toàn. Tôi tạm yên tâm. (hình như lối hù dọa có kết quả!) Để phá tan bầu không khí ngột ngạt:
-Tuấn! Ḿnh sắp sửa đến cửa biển rồi đó!
-Ừ! Niên trưởng lo liệu nhe! Tôi không quen địa thế nầy.
-Okay! Nhiên liệu như thế nào?
-Gần 2 giờ bay. Tuấn trả lời.
-Tốt, khi ra tới biển lúc đó ḿnh sẽ điều chỉnh lại hướng bay.
Mưa đă dứt hẳn, tầm nh́n xa trên 10 cây số, không gian thông thoáng (Trời thương). Tuấn đưa tàu xuống dưới trần mây. Xa xa một màu xanh dương phản chiếu lấp lánh, tôi mừng rỡ:
-Tuấn! Ḿnh vượt cửa biển sông Hậu rồi.
-Tàu bị Gusty Wind (Gió giật mạnh từng hồi), niên trưởng nên cẩn thận.
-Okay.
Con tàu đơn độc, lầm lũi bay ra hướng biển, từ trên cao nh́n xuống, một vùng trời nước mênh mông, nhấp nhô những làn sóng lan dài, mây rải rác che tầm mắt.
Bất ngờ, cả hai chúng tôi đều nh́n thấy những làn nước trắng xoá trên nền biển xanh. Bay đến gần xem kỹ lại mới thấy nhiều chiến đỉnh của Hải Quân Việt Nam đang rẽ sóng phăng phăng hướng ra hải phận quốc tế. Tuấn phấn khởi để nghị:
-Niên trưởng, hy vọng ḿnh có thể đáp an toàn trên một trong những tàu Hải Quân này!
-Đồng ư! Nhưng trên tàu phải có băi đáp trực thăng.
Tuấn nhanh nhẹn ấn mũi con tàu, hạ dần cao độ. Tôi nhanh trí bảo Tuấn nên chọn chiến đỉnh nào lớn nhất, có băi đáp (dấu hiệu chữ H), v́ thời lượng không cho phép chúng ta bay ṿng ṿng trên biển.
Thao tác điêu luyện,Tuấn bay ṿng quanh chiến đỉnh lớn nhất ở cao độ 300 bộ (100m).Thất vọng! Không có băi đáp, chỉ thấy một số thủy thủ đoàn ùa ra tươi cười vẫy tay chào, trên đỉnh kỳ đài lá cờ vàng 3 sọc đỏ vẫn c̣n nghạo nghễ tung bay.
Bổng, Mayday! Mayday! Mayday! Tiếng gọi cầu cứu khẩn cấp liên tục của phi công lâm nạn nào đó vang trong nón bay (có thể phi cơ hết nhiên liệu hoặc trở ngại kỹ thuật). Tuấn và tôi kinh ngạc, dáo dác nh́n chung quanh nhưng chỉ thấy trời nước mênh mông khi con tàu vừa đạt cao độ 1500 bộ, lấy hướng 2 giờ đi Côn Sơn.
Vừa lúc ấy, nhiều tiếng gọi oang oang trên tầng số Guard (Emergency Frequency=243.0 MHz). Như bắt được vàng, Tuấn cho biết là tàu ḿnh đang bay ở cao độ 1500 bộ, trong khi đó hợp đoàn trực thăng 7 chiếc do Trung tá Lâm (Đế) phi đoàn trưởng PĐ211, hướng dẫn đi Côn Sơn bay ở cao độ 3000 bộ.
Tuấn kéo tàu lên vào hợp đoàn, mặt mày tươi rói, quay sang mỉm cười:
-Ḿnh hết “cô đơn” rồi niên trưởng!
-Ừ! Tụi ḿnh hên thiệt, có chim đầu đàng dẫn đường th́ c̣n ǵ bằng!
Hợp đoàn bay khoảng 30 phút, từ xa mờ mờ, ẩn khuất trong mây một chấm đen hiện lên rơ và to dần trên vùng biển bao la. Có tiếng reo vui của phi công nào đó trong hợp đoàn:
-Nh́n! Đảo Côn Sơn hướng 12 giờ ḱa!
-Thoát chết rồi các bạn ơi!
-Anh em b́nh tĩnh! coi chừng”chém” vào nhau khi vào cận tiến. Có lẽ tiếng Tr/tá Lâm.
Khoảng 15 phút sau, đảo Côn Sơn hiện rơ mồn một trước mũi tàu. (phi cơ).
-Niên trưởng yên tâm tôi thấy phi đạo rồi!
Tôi mừng quưnh, quay lại báo cho mọi người (khoảng 20 mạng đứng, ngồi chen như nêm cối!) Biết tin vui này, tất cả đều thở phào, hân hoan ra mặt.
Tuấn nhẹ nhàng hạ càng trên băi đáp, cánh quạt quay chậm lại và ngừng hẳn (đúng 2giờ trưa ngày 30/4/1975, giờ mà tôi không bao giờ quên được!).
Một tràng pháo tay bất ngờ vang lên, vài anh em c̣n đến ngỏ lời cám ơn phi hành đoàn (hơi ngượng v́ ḿnh chỉ là thợ vịn!) đă tận lực đưa họ đến nơi an toàn (không làm mồi cho cá mập)! Ít nhất là trong hoàn cảnh này.
Chợt nhớ đến vợ, con và hai em c̣n ngồi trên tàu (trong t́nh trạng căng thẳng, nguy cấp, tôi quên bẳng gia đ́nh) vội vàng nhào lên, ngạc nhiên thấy vợ, con đang ngồi thoải mái trên chiếc ghế bành, nệm ngồi bọc vải trắng tinh, nệm dựa lưng bọc nylon màu xanh dương trên đó có vẻ hai ngôi sao
bạc và dọc hai bên bệ cửa trực thăng có trang bị hộp thuốc cấp cứu (First Aid Kits), có vài chiếc áo và phao nổi màu cam nẹp sát vào thân tàu.
Tôi tá hỏa tam tinh, buộc miệng kêu: Đây là trực thăng VIP (Very Important Person = Nhân vật tối quan trọng); của tư lịnh quân khu chiến thuật, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam! (Thời gian nầy là tư lệnh vùng IV). Tướng Nam là vị tướng luôn luôn quan tâm đến chuyện bảo mật, đó cũng là để bảo đảm an toàn nên Ông ra lịnh phải để trực thăng riêng của Ông trong phi trường Trà Nóc thay v́ để ngoài bộ tư lịnh quân khu, bản doanh đặt ngay trung tâm thành phố Cần Thơ.
Thấy tôi hơi loạng quạng, vợ tôi ngạc nhiên hỏi:
-Anh vừa nói ǵ?
-Tuấn lấy nhầm trực thăng của tướng Nam rồi em ơi! (Trong cảnh hỗn loạn, đâu c̣n có sự lựa chọn!)
-Hèn chi con và em ngồi ghế này êm quá!
Vậy là lần đầu tiên chúng tôi được bay trên chiếc trực thăng riêng của một vị tướng lănh và vợ con tôi lại là khách VIP bất đắc dĩ! Đó có phải là sự ngẫu nhiên hay đó là cái duyên gắn bó giữa Tướng Nam với cá nhân tôi cùng gia đ́nh?
V́ cái duyên nầy mà tôi phải nợ Tướng Nam một lần nữa, vô h́nh chung, chiếc trực thăng định mệnh VIP của Tướng Nam đă gián tiếp cứu sống gia đ́nh tôi cùng một số gần 20 người được may mắn lên tàu vào giờ thứ 25, sau vụ đánh bom vào vị trí quân bạn ở Cái Lậy ngày nào!


Trời Côn Sơn vào giờ này nóng như đổ lửa, dọc theo hai bên phi đạo ngắn, những chiếc lều nhỏ căng bằng poncho là nơi tạm trú cho những người thân của nhân viên phi hành từ Biên Hoà, Tân Sơn Nhứt và Cần Thơ đưa ra (Chuẩn thuận của BTL/KQ), cộng với một số quân nhân và dân chúng địa phương khoảng độ 400 người. (Trong đó có phu nhân Tr/tá Trần Trọng Khương PĐT 122, Tr/tá Vơ Trung Nhơn PĐT 124 và một số phu nhân và gia đ́nh của các hoa tiêu phản lực cơ A37).
Bổng có tiếng la báo động: “Coi chừng tù binh Việt Cộng phá nhà tù tràn vào phi trường giết chúng ta để trả thù bà con ơi!”. Thất kinh hồn vía, chúng tôi vội vàng tập hợp các quân nhân có mặt trên sân bay, đếm được khoảng hơn một trung đội, bên anh em bộ binh c̣n được trang bị súng M-16, phần không quân chúng tôi chỉ có súng ngắn P-38.
-Đại uư tính sao? Bất thần một Tr/uư Bộ Binh tiến đến hỏi tôi. (có lẽ v́ tôn trọng cấp bậc?)
-Tôi KQ, không rành về pḥng thủ, chiến thuật, chiến lược, chỉ mong Trung uư…
Nói chưa dứt câu, lại nghe có tiếng nói oang oang của ai đó trong sự vui mừng “Nh́n ḱa!, có tàu đến đón chúng ta quư vị ơi!”. (Sau này mới biết trên phi trường lúc đó có một nhân viên CIA người Mỹ, là người hướng dẫn tàu đến rước chúng tôi, không phân biệt quân, dân. Đồng thời, ông cũng hướng dẫn Tuấn, Công và hợp đoàn Tr/tá Lâm bay ra hạm đội đang thả nổi ngoài hải phận quốc tế.)
Thế là, tất cả mọi người hiện diện trên sân bay đều hối hả đổ dồn về hướng biển cuối đầu phi đạo, nơi chiếc tàu vừa ủi băi, cách bờ khoảng hơn 200 m. (bờ biển cạn tàu không vào gần được).
Đợi mọi người lên tàu xong, thủy thủ đoàn cho biết là tàu sẵn sàng ra khơi. (Họ rất kiên nhẫn, v́ sự chậm chạp của trẻ em, phụ nữ ). Ṭ ṃ đi dần đến pḥng lái, mới biết nhóm tài công là người Phi Luật Tân. Nh́n thấy tôi (mặc áo bay, mang súng ngắn) họ lên tiếng vui vẻ chào bằng tiếng Anh. Tôi chào đáp trả và ngỏ ư muốn biết tàu nầy sẽ chạy về đâu.
-Big ship! Một người vừa trả lời vừa đưa tay chỉ về hướng hải phận quốc tế.
-U.S. ship? Tôi gặn hỏi, mong là đúng như vậy.
-Yeah! U.S. Navy ships. Anh ta xác nhận.
Tôi mừng húm, trở về chỗ ngồi báo cho một số người biết tin vui trong đó có anh Trung uư bộ binh:
-Đai uư, không nên tin tưởng chúng!
-V́ sao?
-Nên cẩn thận! v́ chúng có thể chở ḿnh về đất liền, nạp cho Việt Cộng.
Tôi giật ḿnh hoảng sợ nhưng b́nh tĩnh, nhanh trí chỉ mặt trời đang ngả về hướng Tây. (Nếu Trung úy c̣n nhớ những giây phút căng thẳng đă xảy ra cho chúng ta ngày 30/4/1975 trên đảo Côn Sơn). Nếu tàu chạy về hướng mặt trời lặn, anh em ḿnh với số quân nhân có vũ khí đông đảo sẽ khống chế thủy thủ đoàn (khoảng 6 người), buộc họ phải chạy ra hải phận quốc tế. Tr/uư nghĩ thế nào?
-Thế cũng ổn! Vậy để tôi thông báo cho một số quân nhân chuẩn bị nếu cần. (Đúng là cấp chỉ huy biết tính toán).
Hú hồn! Mọi nghi vấn đều không xảy ra. Tàu rời băi, tăng tốc độ phăng phăng lướt sóng, tách mũi ra khơi nhấm hướng đông chạy thẳng.
Nắng đă tắt dần, mặt trời đỏ hồng treo lơ lửng từ từ ch́m xuống cuối đường chân trời. Gió lồng lộng thổi làn khí mát vào tàu, tuy tinh thần bớt căng thẳng nhưng cơn đói và mỏi mệt sau một ngày chật vật, tôi đặt người xuống sàn tàu thiếp đi lúc nào cũng không hay.
Tiếng động ồn ào pha lẫn tiếng khóc của trẻ con làm tôi tỉnh giấc. Đồng hồ dạ quang trên tay chỉ hơn 5 giờ sáng. Nh́n sang bên cạnh, vợ con và các em vẫn ngủ im trong tư thế mệt mỏi, có lẽ v́ say sóng.

Một trong những chiếc trực thăng phải ném xuống biển để cứu người trên boong tàu
Động cơ tàu vẫn nổ đều, âm thầm vượt sóng. Đứng thẩn thờ trong bóng đêm ḷng buồn vời vợi, chạnh nghĩ đến kiếp sống lưu vong mai đây nơi xứ lạ quê người, với tương lai mù mịt đang chờ đón trước mặt.
Đi lần về hướng mũi tàu, dưới ánh sáng vàng vọt có một số quân nhân đang tụ tập.
-Nh́n ḱa! Tàu ḿnh sắp tới đất liền rồi!
Một giọng nói mừng rỡ vang lên:
-Thấy ánh đèn thành phố sáng rực chưa? Có lẽ là thủ đô Manila của Phi Luật Tân đó.
Thêm một giọng phụ họa:
Vừa đến gần (nhóm quân nhân của viên Tr/uư):
-Đại uư (trong hoảng loạn, chạy lánh nạn chỉ có một bộ áo bay dính da!) –Tới đây, nhanh lên! Xem ḱa! Đại uư nghĩ sao? Một quân nhân hỏi.
Theo hướng chỉ, tôi thấy một vùng ánh sáng ẩn hiện nhấp nhô theo làn sóng.
-Tôi không nghĩ đèn điện của thành phố ven biển.
-Ánh sáng tỏa rực cả một vùng mà!
-Theo hiểu biết của tôi với vận tốc nầy, hải tŕnh phải mất ít nhất là một tuần mới đến được thủ đô Manila hoặc vịnh Subic Bay (Căn cứ hải quân, Phi luật Tân), Tôi giải thích.
Vùng ánh sáng càng lúc càng lớn dần, lan tỏa lấp lánh như một thành phố nổi trên mặt đại dương.
Tàu càng lúc càng tiến gần vùng ánh sáng, cùng lúc mặt trời vừa nhô từ đường chân trời, ánh nắng mai bừng lên soi sáng một vùng biển rộng.
-Ồ! Đệ thất hạm đội bà con ơi!
-Ḱa! Nh́n ḱa! Tàu Mỹ sẽ đón chúng ta? Có tiếng kêu vang trong sự ngạc nhiên lẫn vui sướng.
Tôi cũng mừng rơn, nh́n kỹ đoàn tàu không phải chỉ có vài ba chiếc, mà cả hàng chục chiếc khổng lồ sừng sững dàn trải ngoài hải phận quốc tế. (Sau này mới biết Mỹ tôn trọng chủ quyền quốc gia, không xâm phạm lănh hải VN, nên mướn tàu Phi luật Tân vào đón người tỵ nạn trên đảo ngày 30/4/1975).
Khi tàu chở chúng tôi vừa đến hải phận quốc tế th́ được hướng dẫn đến cập vào hông một chiếc tàu màu xanh khổng lồ, cao như toà nhà 10 tầng mang tên Green Forest (Thương thuyền tư nhân chở khoảng 5000 – năm ngàn – người tỵ nạn được chánh phủ Mỹ thuê)

Đa số mỏi mệt v́ say sóng nhất là đàn bà và trẻ em, nhưng cũng cố gắng thu xếp chuẩn bị chuyển sang tàu lớn. Thang dây vừa được thả xuống. Tiếng ra lịnh oang oang của một quân nhân Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ qua loa cầm tay:
“Chúng tôi yêu cầu những ai mang vũ khí đều phải vứt hết xuống biển! Trẻ em, người già, phụ nữ ưu tiên lên trước”, được lập đi lập lại nhiều lần. Qua lời của một thông ngôn viên.
Tất cả anh em quân nhân không ai bảo ai đồng loạt vứt súng qua thành tàu. Riêng tôi, mân mê khẩu P-38 đă bao năm gắn bó lần cuối cùng (súng là vợ, đạn là con!); giờ đành đoạn vứt đi trong nuối tiếc, hụt hẫng.
Phải mất gần 2 tiếng đồng hồ mới đưa được khoảng 400 người sang tàu lớn, chúng tôi là tốp thanh niên sau cùng đặt chân lên chiếc Green Forest cao sừng sững, khoảng 8 giờ sáng ngày 1/5/1975.
Các khoang tàu đều chật nít người tỵ nạn, không tài nào chen vào được, nên gia đ́nh chúng tôi buộc phải lên tầng thượng (boong tàu, khổ sở v́ nắng mưa!).
Đang lui cui sắp xếp t́m chỗ tạm nghĩ cho gia đ́nh, bổng thấy một thanh niên trạc 17 – 18 tuổi mang đến phân phát mỗi người một ly cháo lỏng (ly mốp). H́nh như hơi ngạc nhiên, khi cậu ta nh́n thấy tôi vẫn c̣n mặc quân phục.
-Đai uư là quân nhân KQ?
-Đúng vậy! cậu là ai?
-Dạ! Em là một trong toán t́nh nguyện viên có bổn phận giúp đỡ những người mới được đưa lên tàu.
-Cám ơn các cậu nhiều. Tôi nói trong cảm động.
-Ủa! Em nghe nói không quân có tiếng bay nhanh, bay xa mà sao đại uư giờ này mới có mặt tại đây?
-Không đầy 24 tiếng đồng hồ sau lịnh đầu hàng của Tổng thống Minh, giờ này anh có mặt tại đây là sớm chớ đâu có trễ mà cậu nói vậy.
-Xin lỗi Đại uư đừng giận, em nói thật, tụi em có mặt trên tàu nầy gần một tuần rồi.
-Thật vậy à! Bằng cách nào? Tôi hơi ngạc nhiên lẫn nghi ngờ.
-Không riêng ǵ gia đ́nh em, mà cả làng được Cha xứ đưa từ Vũng Tàu ra đây. (Các Cha Xứ được chánh quyền Mỹ báo tin trước cả tuần).
Nh́n hàng ngh́n, hàng ngh́n người nhẫn nại đang chen chúc trên tàu, họ dứt khoát ra đi lánh nạn Cộng Sản, dù bỏ lại người thân, ruộng vườn, nhà cửa mà họ đă tốn biết bao nhiêu mồ hôi và nước mắt. Đó là cái giá của TỰ DO!

Mặt trời lên cao đỏ hồng tỏa ánh sáng chan hoà trên vùng biển bao la, con tàu “CỨU TINH GREEN FOREST” nặng nề, chậm chạp, mang hơn 5.000 người tỵ nạn tiếp tục rẽ sóng về hướng Đông; gió giật mạnh từng cơn thổi vào hất tung những mái che dă chiến trên boong tàu. Dù vậy, vẫn không ngăn được tiếng cười đùa râm ran của đám người tỵ nạn, kẻ chạy tới, người chạy lui tạo ra một khung cảnh vô trật tự nhưng đầy phấn khích. Một người với vẻ mặt hân hoan:
-Đến đây là coi như an toàn rồi các bạn ơi!
-Đúng đó bạn! Tôi nghĩ tàu ḿnh đang hướng về xứ Phi Luật Tân. Một người tỏ ra hiểu biết.
Ngồi xuống cố t́nh chắn gió cho hai mẹ con, thoáng nh́n, tôi bắt gặp nỗi sợ hăi vẫn c̣n phảng phất trên gương mặt của nhà tôi. Quàng tay siết nhẹ vai nàng, trong tinh thần hưng phấn, tôi nói như reo: “Chúng ḿnh thoát rồi em ơi!”.
Hai bờ vai rung rung, mím môi lặng lẽ tŕu mến ôm chặt con vào ḷng, nàng ngước nh́n tôi trong khoảnh khắc, bất giác hai gịng nước mắt sung sướng vỡ ̣a lăn dài trên đôi má.
***( Ba ngày sau, tàu cập bến hải cảng Subic Bay, Phi Luật Tân và từ đó người tỵ nạn được không vận bằng phi cơ C-130 đến đảo Guam đúng vào ngày 5/5/1975).


· Kính dâng Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam: Lời nguyện cầu hương linh NGÀI sớm tiêu diêu miền CỰC LẠC.
· Thương mến tặng đại uư Phạm Anh Tuấn, Trưởng pḥng hành quân PĐ213 Song Chuỳ, đă đưa gia đ́nh “Niên Trưởng “ đến vùng đất TỰ DO.
· Thương về cố Trung uư Phạm Ngọc Hội đă găy cánh trên chiến trường Mộc Hoá năm 1974.

San Jose, California, tháng 12/2020.
KQ Nguyễn Thành Hưng

hoathienly19
12-07-2020, 15:30
Ó BIỂN ĐĂ BAY XA ! :112:


https://1.bp.blogspot.com/-QtnydKkoCCg/X8pauybBRaI/AAAAAAAAffk/J1zCwBfaLLcB6zdqr05E PAF8R30c0vgpQCLcBGAs YHQ/w640-h385/Screen%2BShot%2B2020-12-04%2Bat%2B10.42.55%2 BPM.png


Trong chiến tranh Việt Nam, Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến là hai binh chủng mà Việt Cộng cố tránh đối đầu càng nhiều càng tốt.

Một trong những yếu tố khiến hai binh chủng này làm quân đội miền Bắc khiếp đảm là v́ họ có cấp chỉ huy giỏi.


_sAUT2Fu1sw


Mỗi tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến đều mang một tên riêng, trong đó có Tiểu đoàn 2 Trâu Điên và Tiểu Đoàn 8 Ó Biển.

Cựu Trung Tá Nguyễn Văn Phán, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 8 Ó Biển, một người con của Huế, đă từ trần ngày 1 tháng 12 vừa qua tại Houston, tiểu bang Texas, thọ 80 tuổi .:112:


Như một lời tiễn biệt Ó Biển giữa lúc đại dịch Covid, chúng tôi xin mời bạn đọc DLB xem lại tường thuật của Trung tá Phán về trận đánh tái chiếm Kỳ Đài ở Huế trong đợt Tết Mậu Thân 1968.

Lúc đó, ông c̣n là Đại úy Đại đội trưởng thuộc Tiểu đoàn 1 Quái Điểu.

Kế tiếp là một bài thơ của ông trong một ngày buồn ở Mỹ sau năm 1975.


https://scontent.fyyz1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/1441447_581097398627 850_1804171298_n.jpg ?_nc_cat=110&ccb=2&_nc_sid=cdbe9c&_nc_ohc=ygSvBsV-H_kAX_ivY5_&_nc_ht=scontent.fyyz 1-2.fna&oh=bf8bb3501e7192868 bfe3fbdd5b725d4&oe=5FF3C445


HUẾ , TÔI VÀ MẬU THÂN

Tác giả : Mũ Xanh Nguyễn Văn Phán


Từ Cai Lậy về thủ đô Sài G̣n, nhập ngay vào đánh giải tỏa trại Cổ Loa của Thiết Giáp và Xóm Mới Gia Định xong xuôi, Quái Điểu Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến về nằm dọc đường Ngô Tùng Châu, Gia Định.

Mười hai giờ khuya họp Tiểu Đoàn, 2 giờ sáng có mặt tại Tân Sơn Nhất, 4 giờ sáng lên máy bay đi, đi đâu không biết.

Đồ khô và tái trang bị không lănh kịp. Cứ lên phi trường rồi hay. Đó đây những loạt pháo kích, những loạt đại liên rời rạc, những đốm hỏa châu lũng lẳng trên bầu trời.

Tôi để lại đằng sau một Sài G̣n mang nặng bộ mặt chiến tranh. Những chiếc máy bay C.13O khổng lồ nuốt gọn 8OO Quái Điểu và đưa chúng tôi lên cao trong đêm tối mịt mùng.

– Đi đâu bây ?

– Nha Trang, tao nghe Nha Trang đang có đánh nặng.

Lượm, Đại Đội Trưởng Đại Đội 1, dân Nha Trang, trả lời. Tôn, Đại Đội Trưởng Đại Đội 2 là dân Đà Lạt, căi:

– Đà Lạt .

Phán Phu Nhơn nói:

– Đi đâu cũng được, đổi vùng là khoái rồi .

(Khi vào quân trường, Phán tŕnh diện :

Tui chánh quán làng Phú Nhơn, ở gần hồ Tịnh Tâm, quận Thành Nội, Huế. Thế là sau đấy, giữa lửa đạn và thịt đổ xương rơi, qua tiếng thét trong máy truyền tin, cái tên ngụy trang “Phu Nhơn” ra đời, nghe thật lạ tai!)

– Máy bay chi bay măi ri bây ?

Thời tiết thật xấu, và rồi bánh phi cơ cũng chạm đất, những cặp mắt đổ dồn ra khung cửa sổ máy bay . Phú Bài !

Cơn gió cắt da, băi cát trắng trải dài, mưa nặng hột. Thiếu áo lạnh, tất cả đều quấn Poncho đứng nh́n đoàn người gánh gồng xuôi ngược, hấp tấp và lo sợ, một số về Truồi, một số lên Giạ Lê, An Cựu.

Phú Bài đó, Tịnh Tâm đó, Cầu Kho đó, Mạ, d́, chị và em ḿnh đó mà không liên lạc được. T́nh h́nh không biết sao, ruột như lửa đốt. Trách nhiệm nặng nề, tôi nằm trằn trọc suy nghĩ thật nhiều để chờ sáng mai.

Kỷ niệm thời đi học kéo về trong trí tôi, đẹp quá, nhẹ nhàng quá, vụng dại quá.



4g6LZUvrO9k


Mười giờ sáng, đoàn GMC đưa chúng tôi về Huế. Qua Giạ Lê, đồng bào hỗn loạn, nét lo âu hiện rơ trên mặt.

Tới An Cựu, dân chúng thưa thớt, nhà hai bên đường đóng kín cửa. Dọc quốc lộ 1 từ Huế về Phú Bài, binh sĩ Nhảy Dù từng toán d́u nhau âm thầm đếm bước. Những cái nh́n như nhắn gửi, như lo sợ giùm chúng tôi. Mạnh, Đại Úy Nhảy Dù, cùng khóa cho tôi biết :

– Huế tang thương và điêu tàn lắm Phán ơi. Thừa (cùng khóa) chết, Phạm Như Đà Lạt bị thương… :112:

Mạnh khắp người băng bó đang được hai đệ tử d́u đi bộ về phi trường Phú Bài . Mạnh tiếp :

– Phán, mày cẩn thận. Không yểm trợ, không thực phẩm, không tiếp liệu, thời tiết quá xấu. Tụi nó chiếm hết thành phố, Đại Nội, Gia Hội. Tụi nó chốt rất kỹ, chỉ c̣n cái lơm nhỏ ở Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 tại Mang Cá*.

(*Sau này tôi được nghe nói : V́ nghe tin Tướng Ngô Quang Trưởng kẹt nặng nên Đại Bàng Lê Quang Lưỡng, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn Nhảy Dù đă xua quân đi bộ từ cây số 17 về Huế để cứu Tướng Trưởng. Tôi xin Tướng Lưỡng cho tôi được nghiêng ḿnh chào Ông một cách đầy kính phục cho cái t́nh nghĩa huynh đệ không bút nào tả nổi này. Để đáp trọn t́nh nghĩa, Lữ Đoàn của Đại Bàng Lưỡng cũng hao hụt nặng nề).

Đoàn xe dừng lại bên hông đại học Văn Khoa, cách con đường là trường Kiểu Mẫu mới xây, đối diện là đài phát thanh Huế, và trước mặt là cầu Trường Tiền, chiếc cầu tượng trưng cho xứ Huế, chiếc cầu đă hàng ngàn, hàng vạn lần qua lại, đầy ắp kỷ niệm.

Nh́n qua chợ Đông Ba và phố Trần Hưng Đạo mà ḷng quặn thắt.

Một mái chợ đă sập, những cột khói ngút trời cách khoảng. Từ đầu đường đến cuối đường Trần Hưng Đạo không một bóng người. Nh́n bên phải là cầu Gia Hội vắng tanh, những cột khói khác vươn lên… Cả thành phố đă chết, Huế tôi tang thương đến thế sao ! Một nhịp cầu đă sập, tôi nghĩ vành khăn tang đă cuốn lấy Huế.


SNIAvj40B8U


Xuống tàu tại chân cầu Trường Tiền, xuôi ḍng Hương xanh biếc ngang Gia Hội, quẹo trái sông Hang Bè, cầu Đông Ba đó, có tiệm La Ngu ngày xưa chúng tôi thường mua dụng cụ học tṛ.

Tiếp tục xuống ngang tiệm gạo Mụ Đội, có người con gái đẹp năo nùng tên Xuân mà con trai Huế lứa tuổi tôi đều hơn một lần đi qua đó để nh́n người con gái trời cho đẹp.

Qua trường B́nh Minh, nơi tôi học năm Đệ Tam, nhiều kỷ niệm đẹp. Đến Bao Vinh, dân chúng nhốn nháo khi thấy một đơn vị lớn đang đổ bộ tại bến đ̣.

Tôi hướng dẫn đơn vị vào Mang Cá Nhỏ để tới bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Địch chào đón bằng hàng loạt hỏa tiễn 107 và 122.

Tất cả nằm sát bờ tường để tránh pháo và t́m chổ pḥng thủ. Tôi cho lệnh Sự, Trung Úy Đại Đội Phó, kiểm soát con cái và chuẩn bị cơm chiều. Trung Úy Sự là sĩ quan trẻ, có tài và đầy nhiệt huyết, xuất thân Khóa 19 Vơ Bị Đà Lạt, thủ môn đội tuyển Nha Trang, đúng là đa năng đa hiệu.


https://i.imgur.com/6cEzjWW.jpg


Tôi dự buổi họp Tiểu Đoàn khẩn cấp và quan trọng. Tiểu Đoàn Trưởng ra lệnh :

– Phu Nhơn rành địa thế dẫn đầu, 8 giờ sáng mai xuất phát.

Kế tiếp là Tôn, Đại Đội 1, Lượm Đại Đội 2, tiếp theo là Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn cùng Đại Đội Chỉ Huy, sau cùng là Ṭng Đại Đội 4.

Mục tiêu Phu Nhân phải chiếm là trường tiểu học Trần Cao Vân. Trước trường có thành Quân Cụ, vào khoảng một đại đội ta đóng ở đó, không biết c̣n hay mất.

Phán hỏi :

– C̣n phi trường Thành Nội th́ sao ? T́nh h́nh trong Đại Nội, Thiếu Tá có nắm vững không ?

– Không rơ, tụi nó chiếm hết, chốt rất kỹ. Tất cả các cửa Thành Nội tụi nó đều kiền và chốt rất chặt.

Cửa Hữu, cửa Chánh Tây, cửa Sập, cửa An Ḥa, cửa Đông Ba, Kỳ Đài Phú Vân Lâu v.v.. tụi nó đều chiếm hết.


J5v2ztDUCCo


Trong óc tôi, một bản đồ chi tiết hiện ra rất rơ cho một cuộc hành quân mà t́nh h́nh tôi nắm không được vững.

Tôi cố t́m một con đường ngắn và an toàn nhất cho đơn vị để tới mục tiêu. Có rất nhiều đường đưa tới trường Trần Cao Vân, nơi từ 9 tuổi đến 19 tuổi tôi đă bao nhiêu lần đi lại. Con đường nào cũng đầy hoa và mộng, nay tôi đang t́m một con đường không có máu để cho anh em chúng tôi đi.

Tám giờ sáng, tất cả gọn gàng, sẵn sàng di chuyển. Ba trăm thước đường từ Mang Cá đến nhà tôi sao quá dài. Bồn chồn, nóng ruột v́ nơi đó Mạ tôi, d́ tôi, chị tôi và em trai út của tôi đang trông ngóng. Không biết có bị ǵ không ?

Thiếu Uư Duật, Trung Đội Trưởng Trung Đội 2 dẫn đầu. Duật xuất thân Khóa 21 Đà Lạt, hăng say, gan, thích xóc đĩa và gái đẹp, uống rượu rất ít, chỉ phá mồi.

Phán và Ban Chỉ Huy Đại Đội kế tiếp.

Thiếu Uư Nghênh, Trung Đội Trưởng Trung Đội 1 tiếp theo. Nghênh "xuất thân từ Commando Du Nord”, kinh nghiệm, gan lỳ, thích đánh phé nhưng đánh nhỏ, rượu rất ít và không thích gái.

Kế đến là Thượng Sĩ Nhất Mă Khện, Trung Đội Trưởng Trung Đội 3, "xuất thân Commando trong Nam ", rất gan lỳ, ít nói, mê rượu, không mê gái.

Sau cùng là Thượng Sĩ Nhất Hải, Trung Đội Trưởng Trung Đội súng nặng." Hải xuất thân Commando Du Nord”, người Nùng, lỳ lợm già dặn chiến trường, không rượu, không gái và không thuốc lá.

Hai bên đường dân chúng đứng chen chúc, vẻ mặt hớn hở, thật tội nghiệp cho họ.

Lần lần những khuôn mặt quen thuộc hiện ra, những cánh tay vẫy chào, nào mụ Đội Dậu, mụ Ba, ông Sung, ông Dung, anh Thiên chủ bàn Ping Pong… Những tiếng nói đó đây:

– Anh Phán đó tề ! Anh Phán! Anh Phán…

Tiếng gọi lớn dần và lan dài suốt con đường tôi đi.

Con hẻm sát hồ Tịnh Tâm là đường vào nhà tôi. Mạ tôi đó, d́, chị và em tôi đó, xao xuyến quá ! Tôi đi nhanh đến ôm Mạ tôi, d́ và chị tôi khóc như mưa. Thằng em luống cuống chạy quanh, bị Mạ tôi nạt :

– Mi chạy mau vô nhà lấy khúc cá kho khô và đ̣n bánh tét gói lại đem ra đây bới cho anh mi .

Mạ tôi dụi vào tay tôi chai dầu Nhị thiên đường :

– Con xức cho khỏi gió .

Lính đi ngang hỏi nhau :

– Mạ Đại Úy sao đầu trọc lóc vậy bây ?.

– Bà ấy đi tu để phước cho con, tụi ḿnh cũng được hưởng ké đấy.

Phán và âm thoại viên vẫn c̣n dừng lại:

– Nhà ḿnh có răng không Mạ ? Bà con thân thuộc có ai bị chi không ?

– Nhà ông Quế chủ quán Chiêu bị trúng hai trái nhưng người th́ không răng. Nhà ḿnh bị ngói đổ một góc, cây đào bị găy ngọn. C̣n thằng Chỉ không biết đi mô.

Chỉ là bạn tôi xuất thân Khóa 17 Vơ Bị Đà Lạt. Tôi xót xa đắng miệng :

– Thôi con đi, Mạ và gia đ́nh đừng lo cho con .

Mạ tôi khóc ̣a, tôi thật năo ḷng. Những tiếng gọi anh Phán, anh Phán tiếp tục vang lên cho đến giữa hồ Tịnh Tâm.

Tiếng gọi, giọt nước mắt và những cánh tay chào vẫy, phải chăng nhắc nhở trách nhiệm của tôi. Bây giờ là lúc đền đáp ơn sâu nghĩa nặng. Vinh dự này thật khổ. Máu nóng sôi trong người, tôi và hai âm thoại viên vượt lên đi với trung đội đầu.


EHqYiizh5xs


Cuối hồ Tịnh Tâm là đường Tịnh Tâm, tôi cho lệnh quẹo tay mặt theo đường lên nhà ông Ngự Đạt. Như vậy bên hông mặt của con cái tôi lúc nào cũng có bức thành và cái hồ che chở.

Cuối đường Tịnh Tâm quẹo trái là trường tiểu học Đoàn Thị Điểm, nhưng tôi không đi con đường này. Tiếp tục đi thẳng qua một con hẻm nhỏ, con đường đă bao lần đi lại, nào ăn cắp me, nào trộm sấu, nào hái xoài, nào đào sen, nào học thi, nào thăm người yêu… Con đường nào cũng nhắc tôi bao kỷ niệm yêu dấu khôn quên.

Đến Canh Nông, chưa thấy phản ứng nào của địch, gần sân bay Thành Nội dân chúng thưa thớt và kinh hăi. Tôi cho dừng quân bên này đường, một ông già mách:

– Con đường ni bị bắn rất rát, từ trong cửa Ḥa B́nh ở Đại Nội bắn ra.

– C̣n sân bay Thành Nội ra sao ôn, có ai khôn ?

– Đánh nhau mấy ngày ni dữ lắm, mà tui không biết răng, không biết ḿnh hơn hay thua nữa.

Tôi chỉ con đường và hướng dẫn Duật :

Băng qua khỏi con đường này, đến một xóm nhà, qua một cái cống th́ bên trái là thành Quân cụ.

Nghênh và Mă Khện yểm trợ hông mặt cho Duật, và sau đó băng qua đường theo tôi.

Con đường chỉ có 5 thước mà hơn một giờ mới vượt qua với 6 thằng em rớt rụng trên mặt đất. Lần ṃ theo mép đường tới sát ống cống, tôi cho dừng lại, phi trường vắng tanh. Tôi bảo Duật:

- Mày cho một thằng con nhỏ qua trước làm đầu cầu bên kia cống, sau đó cho tất cả con cái mày qua rờ vào thành Quân Cụ, chờ tau lên.

Thành Quân Cụ cao khỏi đầu người, không liên lạc được với bên trong. Tất cả con cái nằm sát thành để tôi và đám cận vệ ḅ tới cổng chính. Loáng thoáng thấy nón sắt, Field -Jacket, giây ba chạc, không phải tụi nó đâu, chắc chắn là bạn rồi. Thằng đệ tử tôi gọi lớn :

– Ê ! Thủy Quân Lục Chiến đây.

Một loạt đạn bay qua khỏi đầu một cách rùng rợn. Ḅ lết vào tới trong đồn, ông trưởng đồn nói tiếng Huế đặc sệt, ông là Trung Uư Cát, thủ môn nổi tiếng của Huế :

– Đại Úy ơi, 7 ngày không ra vào nổi, nó bao hết. Trường Trần Cao Vân, Đại Nội, xóm nhà trước mặt và bao quanh đồn tụi nó chốt hết. Nhà bảo sanh sau lưng trường cách một cái hồ tụi nó cũng chiếm luôn.

Dân chúng chạy hết rồi, không c̣n ai cả. Tụi nó pháo liên miên, không cho ngóc đầu được, đủ loại :

61, 82 hỏa tiễn 107, 122. Tôi ráng cố thủ đây được ngày mô hay ngày nấy, c̣n ngoài nớ tôi không liên lạc được nên không biết t́nh h́nh các nơi khác ra răng.

" Súng trường bán tự động kiểu 56 Trung Cộng"


https://anhxua.net/photo/1198286286883541.jpg


https://anhxua.net/album/trien-lam-vu-khi-quan-doi-bac-viet-su-dung-tai-saigon_82.html


Tôi trở ra báo cáo về Tiểu Đoàn, lệnh của Tiểu Đoàn Trưởng :

– Phu Nhơn chiếm cho bằng được trường Trần Cao Vân, dọn sạch chung quanh. Tiểu Đoàn Trưởng và Bộ Chỉ Huy sẽ lên ở trại Quân Cụ.

Quan sát địa thế thêm một lần nữa, trước mặt trường là cái am lên đồng, bên cạnh là quán hớt tóc lợp tranh chỉ có một ghế ngồi. Sát đó là ngă ba đường, một đường chạy lên cửa Sập, một chạy về trường Đào Duy Từ và một chạy đến trường Trần Cao Vân. Có bốn năm cái đầu lố nhố bên trong trường.

Duật phải chiếm am trước, trong trường bắn ra mănh liệt, có cả B.40.

Tôi ra lệnh Nghênh và Mă Khện cầm chân hỏa lực trong trường học. Duật chiếm xong am không một tổn thất.

https://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/thumb/6/68/C%E1%BB%9D_M%E1%BA%A 1nh_nh%C6%B0_s%C3%B3 ng_th%E1%BA%A7n.png/320px-C%E1%BB%9D_M%E1%BA%A 1nh_nh%C6%B0_s%C3%B3 ng_th%E1%BA%A7n.png


Tôi gọi Thượng Sĩ Hải đem hai đại liên và một 57 không giật lên tăng cường cho Duật để Duật yểm trợ cho Mă Khện vào trường.

Sau 45 phút dùng mưu kế cùng với hỏa lực và sự gan dạ, kinh nghiệm, Mă Khện đă chiếm được một lớp của trường.

Nghênh tràn vào cùng với Mă Khện lục soát và làm sạch sẽ. Hỏa lực từ góc Thành Nội đổ dồn về phía trường học, không sao, có thành của các lớp học che chở.

Tôi kêu Sự :

– Pháo binh có chưa ? Kêu về đại bàng Thanh Hoá cứ bắn vào góc thành cho tau.

Đến chiều vẫn không có một trái pháo bắn, anh em tôi có 7 đă lót đường cho mục tiêu đầu và 3 bị thương nặng. Tôi lên sát Duật và bảo đem cây 57 đến :

– Nhắm ngay vào góc thành, tụi nó bắn rát quá cứ “phơ” cho tau, trật trúng ǵ không cần, chỉ cần tiếng nổ.

Qua một vạt đất trống, trong một ngôi nhà gạch có bóng người lấp ló. Duật quay 57 nhắm thẳng :

– Nhột quá, cho em bung cái nhà này đi.

Tôi bỗng thấy có bóng đàn bà, tôi la lớn :

– Khoan bắn, nhà thầy Tiềm.

Rồi tôi băng qua đám đất trống đến nhà gặp cô và các cháu. Không thấy thầy, tôi chào cô và giới thiệu tôi học Sử Địa với thầy ở trường Bồ Đề và khuyên cô về dưới phố. Tôi trở lại vị trí mà ḷng nao nao buồn.


https://imagizer.imageshack. com/v2/480x480q90/r/922/0MAvEB.jpg


Giờ này vẫn chưa có pháo, làm sao khóa góc thành đó lại. Duật bảo con cái đào hầm hố thật kỹ, tôi dặn:

– Mày cố thủ tại đây cho Tiểu Đoàn lên.

Tôi cùng đám đệ tử lúp xúp chạy đến tiệm hớt tóc để quan sát ngã ba đường và góc Thành Nội.

Tôi chợt nghe tiếng đàn bà rên la quằn quại, sau cùng chỉ c̣n tiếng rên nho nhỏ.

Nơi góc quán tối tăm, một người đàn bà máu me khắp nửa phần thân thể, vừa bị thương nặng lại vừa sanh ra một bào thai lờ mờ tượng h́nh đứa bé, trông giống như con rắn mối . :112:

Xót xa, chịu không nổi, tôi ra lệnh đem chôn đứa bé ngay và chuyển người mẹ về đồn Quân Cụ cho bác sĩ Tựu cứu giúp .

Đến lúc ấy đại đội tôi đã có 13 chết, 3 bị thương nặng để trải thảm cho đơn vị. :112::112::112:

Tối đó, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đến trại Quân Cụ.

Sáng hôm sau, Tiểu Đoàn Trưởng cho Đại Đội 2 của Tôn và Đại Đội 1 của Lượm dưới sự chỉ huy của đại ca Đă, Tiểu Đoàn Phó, chiếm nhà bảo sanh.

Đoạn đường có 30 thước, cách một hồ nhỏ mà phải trả bằng 50 đứa con thân yêu. :112::112: :112:


https://ongvove.files.wordpr ess.com/2015/05/nnc12.jpg


Sau 8 tiếng đồng hồ mới chiếm được nhà bảo sanh, Tôn bị thương ngay từ phút đầu, Lộc Đại Đội Phó lên thay.

C̣n tiếp ,

duckyy
12-08-2020, 05:27
chân thành cám ơn hoathienly19 rất nhiều .

hoathienly19
12-08-2020, 16:02
Mười ngày tiếp theo, nh́n nhau qua một con đường rộng vừa đủ cho xe chạy mà hai bên đều khựng. Mưa vẫn rơi ray rức lê thê, thỉnh thoảng cơn gió thật lạnh thổi qua.

Có những trận tấn công chớp nhoáng của địch vào Đại Đội của Lượm và Lộc đều bị đánh bật lui.

Ngược lại ta cũng nhiều lần cố tràn qua bên kia nhưng không chiếm được thêm một tấc đất. Hai bên tải thương đều thấy nhau rất rơ.
Lượm bị hao hụt nặng, Phu Nhân lên thay.

Tôi và con cái ḅ lên từng toán một, địch và ta đă sát nhau, ngóc đầu lên là đạn bắn xuyên mũ sắt ngay. Hơn nửa ngày mới trám hết vị trí của Lượm. Lượm và Ṭng về pḥng thủ cho Tiểu Đoàn.

Tối đến pháo địch đủ loại nổ vang trời. Xác chết của anh em nằm trên mặt đường, śnh lớn mà không lấy được. :112: :112:Phía bên kia bốn năm xác địch vẫn để yên, tụi nó cũng không dám ra lấy về. Cố giữ đất, giữ vị trí và làm vài cuộc tấn công nhỏ vẫn không qua đường được.

Từ căn nhà hai tầng cuối đường nh́n xéo từ nhà bảo sanh, một thượng liên và và trung liên nồi của tụi nó kiểm soát con đường rất kỹ, dưới sự chỉ huy của một đứa con gái mặc áo choàng màu xám, tóc xỏa dài nhưng không thấy rơ mặt . Tay đứa con gái chỉ tới đâu th́ đạn nổ dồn về hướng đó. Tôi nhắm bắn hai phát M16 nhưng hụt, nó trốn nhanh vào sau cửa và mất luôn.

Hai mươi ngày nằm chịu pháo và bị bắn sẻ, tối nào hai bên cũng rà máy chửi nhau. Theo dơi máy, đột nhiên tôi bắt được một câu báo cáo của tụi nó :

– Bồ câu hết thóc !

Tôi nghĩ ngay tụi nó đang thiếu đạn, nếu cứ nằm như thế này, một lúc nào đó tụi nó tập trung tấn công, ḿnh cũng sẽ bị mất vị trí ngay, chỉ v́ áp lực quá nặng nề, tổn thất nhiều, tinh thần anh em quá mệt mỏi .



https://bienxua.files.wordpr ess.com/2016/04/tqlc-qlvnch.jpg



Tôi đi đến kết luận riêng :

“Nếu ḿnh không đánh nó, chắc chắn nó sẽ tấn công ḿnh”.

Tôi tŕnh với Tiểu Đoàn Trưởng :

– Thiếu Tá cho tôi luôn thằng 2 để tôi tấn công tụi nó. Tôi thấy tinh thần anh em xuống quá và sức khỏe ngày càng hao hụt.

Tiểu đoàn trưởng không cho, bắt ráng giữ vị trí. Phu Nhơn năn nỉ :

– Nếu không th́ cho tôi đột kích, tôi cùng vài toán nhỏ tràn qua đường đánh đột kích rồi rút về. Ḿnh phải chứng minh cho tụi nó thấy ḿnh c̣n đủ sức chơi tụi nó, thời tụi nó không dám tấn công ḿnh.

Tiểu đoàn trưởng nói :

– Làm kế hoạch xong cho tôi hay .

Tại hầm của tôi anh em đang chờ, họ gồm :

Lộc Đại đội 2, Sự Đại đội phó của tôi, Duật, Nghênh và Mă Khện. Tôi nói :

– Nằm chờ lâu tau chán quá, chỉ muốn qua đột kích tụi nó rồi rút về.

Tất cả im lặng, tôi tiếp :

– 4 giờ sáng mai ḿnh đột kích, nếu giữ được vị trí thời tau cho tràn luôn.

Bây giờ tau chọn 4 toán :

Toán 1: Phán, Điểu, Việt, Can, Dư và Phúc mang máy.

Toán 2 : Duật và 3 người thật nhanh và gan dạ.

Toán 3 : Nghênh và 3 người.

Toán 4: Thượng Sĩ Nhất Hải và 3 người.

Tất cả trang bị thật nhẹ :

- Mỗi người 20 quả lựu đạn và hai băng đạn cong ráp ngược cho M16.

Sự và Lộc dẫn con cái ra sát bờ đường, khi thấy khói xanh th́ lùa tất cả tràn qua.

Nếu thấy khói màu vàng, yểm trợ tối đa cho tụi tau dọt về. Sự và Lộc hăy về lo cho con cái, đúng 4 giờ sáng sẵn sàng tại vị trí.



https://ongvove.files.wordpr ess.com/2012/02/tqlc-mauthan.jpg



Duật, Nghênh và Hải ở lại, tôi nh́n anh em thật lâu rồi cho biết :

– Tau theo dơi tụi nó báo cáo qua máy, h́nh như tụi nó thiếu đạn. Do đó tau quyết định cuộc đột kích hôm nay.

Tôi nghiêm mặt và lạnh lùng nói :

– Hai ông Duật và Nghênh tôi chỉ định phải đi với tôi. Riêng ông Hải, tôi cho ông suy nghĩ lần nữa. Lần này đi khó trở về, ông con cái đông, muốn ở lại vị trí tôi cho phép và tôi hứa rằng tôi không nghĩ là ông thiếu can đảm.

Suy nghĩ một lát, Thượng sĩ Hải trả lời:

– Đại úy cho tôi ở lại vị trí .

Tôi vui vẻ bằng ḷng và gọi Mă Khện đến, Mă Khện đồng ư đi và xin đem theo Hạ Sĩ Nhất Mười. Tôi tiếp :

– Bây giờ các ông về chọn người xong lên gặp tôi.

Chiều hôm đó, lúc 4 giờ, các toán trưởng lên gặp tôi, có thêm Trung Úy Sự . Tôi hỏi lần chót :

– Có ai xin ở lại cho tôi hay.

Không ai trả lời. Tôi căn dặn Sự nhắc Lộc khi thấy khói xanh th́ sao và khói vàng th́ sao, phải nhớ kỹ.

Tôi đưa ba toán trưởng ḅ đến hầm trú ẩn của nhóm tiền đồn ở sát ngă tư đường. Tôi chỉ từng căn nhà bên kia đường:

– Cái thứ nhất gần ngă tư là mục tiêu của tau

- Cái thứ hai kế tiếp có hàng rào là của Nghênh

- Căn thứ ba cũng có hàng rào và cây nhăn cao là của Mă Khện

- Căn thứ tư có mấy bụi chuối lớn là của Duật.

Tất cả hăy quan sát cho kỹ và cố chọn một con đường tiến quân thích hợp, không cần báo cáo miễn sao thích hợp thôi.




R0X9ST0xVTg



Tôi tiếp tục quan sát mục tiêu của tôi. Căn nhà bằng gạch có nhà trên và nhà dưới, kế đó là cầu tiêu xây bằng đá lợp tôn, sát đường là cái giếng xi măng. Trước sân có hai cây vú sữa cao và sai trái. Tôi biết phải làm ǵ để chiếm căn nhà đó. Tôi quay lại nói:

– Lần chót tôi hỏi các ông có ư kiến ǵ không ? Đúng 4 giờ sáng mai tôi sẽ chiếm trước, sau đó tùy các ông bằng mọi cách phải hốt cho bằng được các mục tiêu tôi ấn định .

Trở lại vị trí, tôi dặn ḍ Điểu, Việt, Can, Dư và Phúc mang máy :

– Tối nay miễn gác, 3 giờ sáng mai gặp tau ở đây.

Sau đó tôi đi gặp Tiểu đoàn trưởng để tŕnh bày kế hoạch. Ông nói :

– Nguy hiểm quá, không được, chết cả lũ .

Tôi nói :

– Nếu Thiếu Tá không làm bây giờ, một vài ngày nữa tụi nó chỉ cần ho là lính ḿnh chạy hết.

Cuối cùng ông chấp thuận :

– Nhớ là có ǵ th́ trở về liền, càng sớm càng tốt .



https://haingoaiphiemdam.com/images/file/23EXP4WP1ggBAO0A/w400/tqlc-tai-dong-ha.jpg



Tôi dạ nhưng trong đầu tôi nghĩ khác. Trước mắt tôi bây giờ không có ǵ ngoài đoạn đường từ tiền đồn qua cái giếng, lên cầu tiêu, tới nhà dưới rồi chiếm nhà trên. Tôi nằm suy nghĩ triền miên cho đến 3 giờ sáng.

Trước khi ḅ ra tuyến xuất phát, tôi nhắc Sự và Lộc một lần nữa cho chắc ăn. Bốn giờ kém mười sáng, toán tôi có mặt tại tiền đồn.

Trời vẫn mưa, mưa xứ Huế có dư âm cái lạnh của ngày Tết. Trời tối không thấy ǵ, tôi ngại bắn lầm nhau. Gắng chờ một chút nữa, đến 5 giờ sáng mưa vẫn không tạnh, trời vẫn tối mù. Năm giờ rưỡi, cái giếng đă nh́n thấy được.


Chuẩn bị !

Tôi cảm thấy hồi hộp, chỉ cần bốn cái nhảy vọt là qua bên kia đường nhưng khó như đi lên trời v́ con đường này là con đường tử thần làm ranh giới bên ta và địch, là hai mươi ngày trời không nuốt nổi 5 thước đất.

Rách nát bao nhiêu cũng vẫn không qua được. Bây giờ ḿnh cắt băng khánh thành, phải làm để cứu đơn vị, phải hy sinh để cứu đồng đội.



https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1171411&d=1517799465


https://www.youtube.com/watch?v=IStAS-G7Jbk



Vừa suy nghĩ xong, tôi phóng vụt qua ôm bờ giếng. Kế tiếp là Điểu, Việt, Can, Dư băng theo. Tất cả ngồi ôm thành giếng, mồ hôi ra như tắm mặc dù trời lạnh như cắt. Điểu và Can chiếm cầu tiêu. Bỗng một loạt đạn thật gịn và thật gần, tôi quay nh́n ra đường. Phúc và cái máy nát ḿnh nằm trên mặt đường nhựa, dưới làn đạn mịt mùng của địch. Tôi hét lớn :

– Dư, Việt chiếm nhà bếp.

Tôi theo sát lên cầu tiêu bên cạnh Điểu và Can. Súng và pháo nổ dồn dập, một B.40 nổ ngay trên đầu mái tôn cong, cả ba thầy tṛ đều bị miểng nhỏ đâm đầy mặt, tóc râu và lông mày đều bị cháy. Cầu tiêu nhỏ quá nên tôi cùng Điểu và Can lên nhà bếp. Tôi ra lệnh:

– Điểu và Dư chiếm nhà trên, lục soát thật kỹ.

Để Việt ở lại, tôi và Can cũng lên nhà trên. Điểu và Can giữ cửa chính nh́n ra sân, tôi và Dư giữ cửa sổ nh́n ra vườn có nhiều luống khoai lang.

Trời sáng hẳn, tôi lắng tai chẳng nghe nhà bên cạnh có ǵ cả bèn ḅ trở ra bờ giếng và thấy Duật, Nghênh, Mă Khện vẫn c̣n bên kia đường. Tôi toát mồ hôi. Tôi nh́n thẳng vào mấy ổng rất nghiêm và lấy ngón tay ngoắc. Tôi không dám gọi lớn tiếng, mấy ông kia gật đầu. Tôi ḅ trở lên nhà trên. Lựu đạn, súng nhỏ, súng lớn nổ khắp nơi và nhất là bên phía tay mặt tôi. Tôi biết rằng tụi tôi đă băng được qua đường. Tôi hỏi khẽ:

– Thấy ǵ không Dư ?

Dư lắc đầu, tôi nghe tiếng th́ thào sát vách tường phía ngoài. Tôi đoán khoảng 7-8 người đang ở trong một cái hầm, tôi dùng ngón tay đẩy nhẹ cửa sổ. Một loạt đạn từ phía nhà đối diện xuyên ào ào vào cửa sổ.

Bỗng Dư chỉ tay về phía các luống khoai, tôi đếm đủ 11 người đang ḅ qua, kaki Nam Định, súng AK và B.40, cách vách tường khoảng 20 thước, 15 thước rồi 10 thước. Tôi đưa súng lên lên định bóp c̣ th́ Dư kéo lại và ra dấu dùng lựu đạn. Tôi dựng cây súng xuống thật nhẹ, hai tay rút hai trái lựu đạn miệng cắn chốt.

Dư cũng thế, bốn lựu đạn ném ra cùng lúc, tiếng nổ xé trời, rồi bốn trái tiếp theo. Bên ngoài tường, tiếng hét lớn rồi tiếng rên và sau đó im lặng, tụi c̣n lại ḅ sát vào chân tường. Nh́n ra cửa, 5 xác nằm vắt trên luống khoai. Một loạt đạn nổ và tôi nghe:

– Chết em, Đại uư !

Tôi sững sờ nh́n Dư, tay trái ôm ngón út của bàn tay mặt đầy máu, ruột của Dư đổ ra ḷng tḥng . :112::112::112::112: :112:

Dư ngă vật ra chết tại chỗ, nơi Dư đứng có một lỗ hổng nhỏ ở vách tường. V́ măi nh́n qua cửa sổ mà không để ư ở phía dưới :

- Nguyên một họng AK thọc qua lỗ tường để sát bụng Dư mà nhả đạn. Tôi bắn một loạt M16 ra cửa sổ, và cứ thế hết quả này qua quả khác tôi ném tất cả lựu đạn của tôi ra ngoài bờ tường.



https://imagizer.imageshack. com/v2/522x359q90/r/922/l6o71z.jpg



Hai thằng em đă hy sinh, c̣n bốn thầy tṛ phải giữ vững vị trí. Phía bên tay phải của tôi, súng vẫn nổ dữ dội.

Đến 10 giờ 30 sáng tôi cho Điểu liên lạc với Nghênh, Duật và Mă Khện. Điểu băng người ra đi, bốn căn nhà cách nhau mười phút đi bộ mà hơn một tiếng đồng hồ sau Điểu mới về báo cáo là tất cả đă chiếm được mục tiêu.

Có đoạn đường nào xa và xấu hơn đoạn đường tôi đang đi ! :112::112::112:

Toán Duật : một chết một bị thương.

Toán Mă Khện : hai chết.

Toán Nghênh : một chết một bị thương.

Tất cả là 6 chết 2 bị thương, chúng tôi c̣n lại 11 người tại tuyến.



9gmCfqCehek


Điểu ḅ ra giếng cố đem qua cho tôi một cái máy. Cột máy vào một đầu dây và quăng đầu dây kia qua cho Điểu kéo. Can mở máy liên lạc với Tiểu đoàn :

– Tŕnh đại bàng, tôi sẽ cho tràn ngập vị trí với thằng 2 của Lộc và thằng 3 của tôi.

Đại bàng hỏi:

– Tại sao từ sáng đến giờ không chịu liên lạc với tôi ? Tôi ra lệnh rút về ngay .

Phán nài nỉ :

– Đây là dịp may, tinh thần anh em đang lên, tôi xin đại bàng cho làm luôn .

Đại bàng Thanh Hóa nói bằng bạch văn không ngụy trang:

– Nếu anh không rút về, tôi sẽ đưa anh ra ṭa án quân sự.

Khí giận bừng bừng, tôi tắt máy không trả lời, trên tay vẫn cầm trái khói xanh. Suy nghĩ thật kỹ. Suy nghĩ thật kỹ. Hơn mấy giờ để đánh mục tiêu, bốn căn nhà và một con đường ngập máu. Mưa vẫn lạnh như cắt da và mồ hôi vẫn ra như tắm.

Cuối cùng tôi đành bảo Điểu chuyển lệnh cho các toán :

– Rút về ngay, mạnh toán nào rút toán nấy, không chờ đợi. Mang thương binh theo, xác chết bỏ lại.

Năm thước đường đi đă khó, về c̣n khó hơn. Mỗi bóng người nhúc nhích là đạn nổ hàng loạt, liên hồi, đạn bắn chéo bao phía, đan lưới thật dày trên mặt đường và khắp vị trí.

Làm sao trở về đây ? Con cái bên kia đường đưa mắt theo dơi. Toán tôi ḅ ra giếng, bỗng mấy bóng đen vụt qua đường như sao xẹt, nhào vào bờ lề và được anh em kéo ra sau.

Đạn nổ ḍn tan cày nát mặt đường. Đây là mấy đứa bị thương nặng, tưởng là di chuyển không nổi, nhưng khi nghe lệnh rút chúng thu hết tàn lực vùng chạy về, chớp mắt không kịp thấy.

Hỏa lực 3 phía nổ vùi vào vị trí chúng tôi. Các toán đột kích không c̣n liên lạc với nhau. Điểu và Can vẫn giữ căn nhà. Địch kiểm soát con đường bằng mấy cây thượng liên và trung liên, chúng bắn liên miên.

Bên kia đường, Sự và Lộc đáp lễ bằng hỏa lực cơ hữu của Khăn Tím và của 2.



https://anhxua.net/photo/136299296415584.jpg


Tôi lấy chân đạp vào thành giếng phóng người băng qua đường, lăn ḿnh, nhảy, chạy và té ào vô bờ lề. Anh em kéo vội tôi ra sau, tôi dừng lại bảo Lộc và Sự bắn từng loạt một để tụi nó dọt về.

Nh́n thấy Việt ngồi thành giếng trố mắt ngó về mà tội nghiệp. Sống và chết cách nhau có một con đường. Tôi hồi hộp xót xa cho mấy thằng em. Tôi vừa quay mặt hét :

– Bắn kềm mấy cây thượng liên.

Những bóng người bay vọt qua đường. Tim tôi thắt lại, đạn nổ mịt mù. Lần lượt tôi gặp Nghênh, Duật, Mă Khện và tất cả anh em. Tôi ôm gh́ từng đứa, tụi nó c̣n sống cả. Can và Việt nhào đến ôm tôi một cách dữ dội mà đậm đà tŕu mến. :hafppy:Lính với tay sờ người, nắm nhẹ áo tôi:

- Đại Úy, tóc và râu Đại Úy cháy hết rồi, mặt bị dăm nhiều chỗ.

Cả Đại đội bất chấp đạn địch, đứng dậy nh́n nhau hănh diện và sung sướng . Tôi báo cáo Tiểu đoàn :

– Tất cả đă về vị trí.

Bỗng tôi thấy thiếu một cái ǵ, tôi nh́n Can và Việt hỏi :

– Thằng Điểu đâu ?

Tụi nó nói:

– Lần cuối cùng em thấy nó vừa khóc vừa chạy lung tung t́m Đại Úy ở bên ấy .

– Thôi chết tau rồi, tau phải cứu nó, hai thằng bây theo tau .

Tôi, Can và Việt ḅ trở ra đường. Bỗng nhiên một bóng người nhảy qua khỏi hàng rào, nhảy qua khỏi miệng giếng, phóng nhanh qua đường, nhào lăn vào vị trí và la lớn:

– Ê, tụi bay thấy anh Hai đâu không?

Điểu đứng dậy nước mắt đầm đ́a, tôi lao đến ôm Điểu :

– Tau định qua kiếm mày đây .

– Trời anh Hai, tụi nó nói anh Hai chết rồi . Em đi lục hết căn nhà mấy chục lần, chỉ không dám ra ngoài hè mà không thấy xác anh Hai đâu . Hôm trước Mạ có dặn nhỏ với em, phải sát bên cạnh anh Hai, nếu có ǵ cũng phải nhớ đem anh Hai về cho Mạ.

Tóc tai mặt mày râu ria Điểu cháy nám, áo quần rách bươm, nó khóc mùi mẫn v́ thấy tôi c̣n sống. Rồi nó lại bẻn lẻn cúi đầu hai hàng nước mắt lă chă giọt xuống đất. Trong một cuộc chiến bạc bẽo lại có chút t́nh nghĩa trao nhau qua mấy giọt nước mắt nóng hổi.



VMzVGYNuJGA



Sáu giờ chiều, xuống tŕnh diện Tiểu Đoàn Trưởng, ông nói ngay :

– Ông làm chuyện nguy hiểm quá, lỡ kẹt bên đó th́ nói làm sao với Lữ Đoàn ?

Tôi dạ dạ vâng vâng cho qua rồi nghiêm mặt đề nghị :

– Thưa Thiếu Tá, ngày mai cho tôi tấn công, tôi tin chắc sẽ tràn ngập vị trí tụi nó. Cho tôi thêm thằng 2 của Lộc, để thằng 1 của Lượm đi sau thu dọn chiến lợi phẩm. Chỉ xin Thiếu Tá cho tôi hai chiếc tank kèm hai bên hông của tôi.

Ông hỏi :

– Có chắc ăn không Phán ?

Tôi cương quyết :

– Chắc, và nếu tràn được vị trí Thiếu Tá cho phép tôi đánh thẳng lên Kỳ Đài nếu kịp thời gian .

Tôi theo Tiểu Đoàn Trưởng lên tŕnh ông Già Hự, Đại Tá Yên Tư Lệnh Phó. Ông già chấp thuận .



kb_QnzUT5AY



Tôi trở về họp các trung đội trưởng :

- Ngày mai, 8 giờ sáng, Đại Đội 3 Khăn Tím bên trái, Đại Đội 2 của Lộc bên phải, dàn hàng ngang lấy con đường lên cửa Sập làm chuẩn tiến song song.

Sau khi hai chiếc tank yểm trợ bằng hỏa lực xong, cả hai đại đội xung phong tràn ngập vượt qua mỗi chốt thật nhanh, không cần thâu chiến lợi phẩm, để Đại Đội 1 đi sau làm chuyện đó.

Tất cả ba lô và đồ ăn để lại, trang bị thật nhẹ, Khi tới xóm nhà sát cửa thành th́ dừng lại chờ tôi.

Đúng 8 giờ sáng ngày hôm sau, dàn quân, hai chiếc tank Ontos hạng nặng tiến lên, mỗi chiếc trang bị 6 cây đại bác 106 ly.

Tôi chỉ vị trí tác xạ cho hai trưởng xa người Mỹ rồi ra lệnh khai hỏa. Hy vọng 12 cây 106 ly này sẽ san bằng mục tiêu trước mặt cho con cái tôi được dễ dàng đôi chút.

Nhưng mỗi chiếc tăng chỉ bắn một phát đạn duy nhất rồi chạy lùi biến mất, không biết chạy về đâu.

Tôi hết hồn, quân đă dàn xong, bắt buộc tôi phải ra lệnh xung phong. Tôi hét thật lớn, hét khản cả cổ :

- XUNG PHONG !

Cả một đoàn quân dàn hàng ngang, không một ai nhúc nhích.

Con đường trước mặt, con đường của 21 ngày máu và nước mắt, con đường tráng nhựa đẹp đẽ nhưng băng qua là đi vào cơi chết.



https://ichef.bbci.co.uk/news/640/cpsprodpb/78D6/production/_95843903_gettyimage s-105068641.jpg



Tôi tức giận chửi thề lung tung rồi chụp cây đại liên M.60 của người lính bên cạnh bắn một loạt dài rồi một ḿnh tôi vừa bắn vừa băng qua đường cùng với toán cận vệ :

Can , Việt, Điểu và hai thằng mang máy. Qua khỏi đường xông tới trước, tiếng đại liên của tôi nổ ḍn. Đúng lúc ấy cả đoàn quân đồng thanh hô xung phong và ào qua đường.

Sau đó, đoàn người vượt nhanh qua mặt tôi và lướt tới trước. Súng nổ vang rền, đoàn quân tiến đều, M16 bắn văi vào chốt, lựu đạn ném vào chốt, đạp chốt, bang chốt, lướt qua, cố giữ đội h́nh.

Tiếng nổ inh tai liên tục, đàn áp thật mănh liệt và chạy tới trước .



VHwcRInYHTw


Đến 3 giờ chiều, chúng tôi đến xóm nhà sát cửa Sập.

Lính vỗ vai nhau cười làm tôi bắt cười lớn v́ xóm nhà này rất quen thuộc với họ. Lính thường hay đến xóm này rồi về kể nhau nghe con này đẹp, con kia chân dài, con nọ… Nào khăn, nào thau vứt bừa băi khắp nơi.

Lính vui vẻ kể chuyện tục cho nhau nghe và hồn nhiên đùa nghịch. Những tiếng cười đầy ham muốn và thèm thuồng, hơn 40 ngày, từ vùng 4 về giải tỏa Sài G̣n rồi ra đây, không thấy mặt một người đàn bà, chỉ thấy toàn máu và mồ hôi.

Tôi ra lệnh :

– Lộc và Sự mỗi ông cho 1 toán 10 người băng nhanh đến sát mặt thành rồi ngồi xuống.

Toán kế tiếp chạy đến leo lên vai toán thứ nhất để toán này đồn đồn lên thành. Khi bám được mặt thành th́ tác xạ tối đa và bằng mọi cách giữ vị trí để làm đầu cầu.

Con cái tôi hành động đẹp c̣n hơn tài tử xi nê. Tiếng đạn lớn nhỏ nổ rền, hai toán lên thành chiếm xong vị trí.

Tôi cho tất cả con cái đem bàn ghế ra chất sát tường và leo lên ngay. Tiếng đạn và pháo địch vẫn mănh liệt trên nóc thành.

Một chặng đường xương máu đă vượt qua, bây giờ mục tiêu chính, mục tiêu của niềm hănh diện, mục tiêu của ơn sâu và nghĩa nặng :

Kỳ Đài Huế.

Đây là nơi tượng trưng cho linh thiêng của dân tộc nói chung và cho Huế nói riêng.



https://vvnm.vietbao.com/images/file/t04Z6b711QgBAA0x/w800/tqlc-co-thanh-quang-tri.jpg



Duật và 20 người tiến chiếm 6 cây súng thần công to lớn, từ đó Duật dùng hỏa lực kềm địch ở cửa Ngọ Môn, yểm trợ cho Nghênh và Mă Khện chiếm Kỳ Đài.

Địch bắn trả. Con cái tôi dùng hỏa lực tối đa và thần tốc tiến vào Kỳ Đài. Phản ứng của địch bắt đầu yếu, 5 giờ 12 phút chiều, màu áo rằn ri Thủy Quân Lục Chiến đă làm chủ Kỳ Đài.

Lá cờ xanh đỏ sao vàng đầy hận thù c̣n ở trên không. Một thằng em rút đâu trong người ra một lá cờ vàng ba sọc đỏ thật lớn. Tôi gọi về Tiểu đoàn:

– Tất cả đă sạch sẽ, xin Thiếu Tá cho tôi treo cờ.

Tôi nhớ rơ lệnh của Trung tướng Lê Nguyên Khang:

– Một người lính Thủy Quân Lục Chiến duy nhất c̣n sống sót cũng phải dựng lại cho được ngọn cờ vàng tại Phú Vân Lâu.

Trong niềm vui cùng tột, Hạ Sĩ Hạnh hét lớn:

“Thủy Quân Lục Chiến”, xong lấy trái hỏa châu đập mạnh định bắn pháo bông lên trời ăn mừng.

Trong cơn say chiến thắng, Hạnh xoay ngược hỏa châu vào ḿnh, hỏa châu nổ xuyên bụng. Hạnh cười tươi:

– Em không sao Đại Úy.

Phán nghĩ thằng em này tỉnh táo quá, chắc nó chết, và nó chết thật.:112::112::112: :112:



https://i.postimg.cc/CM4cPzYV/tqlc-thuongbinh-01.gif


Tiểu Đoàn Trưởng bảo Phu Nhân giữ đầu máy chờ.

(Sau này tôi được nghe : Khi báo cáo về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1, Chuẩn Tướng Trưởng xin Thủy Quân Lục Chiến dành vinh dự treo cờ cho Sư Đoàn 1.

Sáng hôm sau ngày 24/2 Phạm Văn Đính dẫn một đơn vị của Sư Đoàn 1 từ cửa Thượng Tứ lên làm lễ thượng kỳ.)



Sq1yJl_lcTc



Nh́n lá cờ vàng phất phới trên nền trời màu xám của Huế, tôi hănh diện thật sự v́ một thằng con của Huế đă góp phần dựng lại ngọn cờ này.


Trung úy Sự tŕnh tôi:

– Thằng Hạnh chết, ḿnh c̣n 67 người.

Đại đội ra đi hơn 17O người, sau 24 ngày và sau bao nhiêu lần bổ sung quân số, chỉ có 3 mục tiêu :

- Con đường, cửa Sập và Kỳ Đài mà bây giờ tôi chỉ c̣n lại 67 người .

Thời khắc lịch sử tại Kỳ Đài, Phu Lâu, Huế 1968. (H́nh: Internet)


https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2018/02/Thoi-Khac-Lich-Su.jpg


Sáng hôm sau tôi về phối trí đóng quân lục soát ở khu vực cửa Đông Ba, Nhà Thương Nhỏ, chợ Xép, ngă tư Anh Danh.

Ban chỉ huy của tôi đóng tại một tiệm cầm đồ, tiệm này có Tôn và Lưu cùng học một lớp với tôi hồi nhỏ. Trong nhà không c̣n ai cả.

Chiều hôm đó tôi gặp lại rất nhiều bạn bè cũ. T́nh h́nh chưa được an ninh hoàn toàn nhưng đóng ở đây chúng tôi nhẩn nha hơn trước nhiều. Tôi đi kiểm soát các vị trí và cho lệnh lục soát tàn quân địch.

Lính canh bắt giải tới một người đàn ông lớn tuổi, gầy ốm ăn mặc lếch thếch, áo vét nhàu rách, tóc tai rối bù và dơ bẩn, miệng nói lí nhí.

– “ Lệnh giới nghiêm, đă 11 giờ đêm sao ông này c̣n lang thang trên hè phố, em nghi quá ” Người lính nói.

Tôi sững sờ nh́n người đàn ông. Thầy Cao Hữu Triêm !

– Trời ơi Thầy !

Tôi gọi mấy tiếng lớn mà thầy cũng không nghe, thầy tiếp tục lẩm bẩm rất nhỏ. Tôi cầm tay mời thầy ngồi :

– Con là học tṛ cũ của thầy đây .

Một ánh mắt lạc lỏng xa vời:

– Ờ, ờ sao con khỏe không? Thầy mấy ngày ni chưa ăn chi cả.

Lính tôi kiếm cơm trắng và một đĩa gà luộc về mời thầy xơi. Tụi nó c̣n kiếm được một b́nh trà nóng mời thầy.

Sau một hồi thầy tỉnh táo, và cho biết:

Cô và sắp nhỏ vào Đà Nẵng, thằng con lớn bị chết rồi, thầy không muốn về nhà nữa. Rồi thầy khóc, giọt nước mắt lăn dài trên đôi má nhăn nheo. Tôi nói :

– Thôi thầy ở đây với con cho yên .

Lính của tôi thay nhau hầu hạ thầy ân cần, đến ngày thứ tư thầy đ̣i đi, tôi thu xếp để thầy vô Đà Nẵng. Từ đó, tôi mất tin tức của thầy. Cầu mong thầy được bằng an .

Được sinh ra và lớn lên ở Huế, tôi cố trả một phần nào chữ Hiếu cho nơi chôn nhau cắt rún. Máu của tôi, của anh em tôi, của đồng bào tôi đă tạo thành một cơn sóng thần cuốn đi tất cả kẻ thù để dựng lại ngọn cờ trên Kỳ Đài tượng trưng cho Huế.


https://i.pinimg.com/originals/fb/73/7d/fb737d02dd222dfe6627 ed18c863d71d.jpg

https://www.youtube.com/watch?v=DmW7zx9yrEQ


Hai mươi năm sau, hồi tưởng lại, máu và xương kia đă theo ḍng Hương Giang cuốn tôi và bằng hữu ra biển bắt làm người biệt xứ !

Lạy trời, một ngày nào đó, cũng Cố Đô đó, cũng Kỳ Đài đó, cho tôi được góp phần dựng lại ngọn cờ một lần nữa để đền đáp ơn sâu và nghĩa nặng, nơi tôi đă sinh ra, nuôi tôi lớn lên và cho tôi làm người.


fD7hF6eQLzI



KHI TÔI CHẾT ĐỪNG ĐƯA TÔI RA BIỂN

Tác giả: Mũ Xanh Nguyễn Văn Phán

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển

Đưa tôi về Lao Bảo, Khe Sanh

Để đêm nghe vang dội khúc quân hành

Ôi! Lính chiến một thời kiêu hănh quá.


Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển

Đưa tôi về Ben Het, Dakto

Nơi bạn bè tôi, xây mộng sông hồ

Nguyện trấn giữ dăy Trường Sơn yêu quư.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển

Đưa tôi về B́nh Giả, Chiến Khu D

Cho hồn tôi siêu thoát với lời thề

Thân chiến sĩ, nguyện xin đền nợ nước.


Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển

Đưa tôi về Cái Nước, Đầm Dơi

Đêm U Minh, nghe tiếng thét vang trời

Mừng chiến thắng để dâng về tổ quốc.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển

Trả tôi về với dân tộc Việt Nam

Gói thân tôi ba sọc đỏ nền vàng

Xin liệm kín với hồn thiêng sông núi.


Bạn đọc Danlambao

danlambaovn.blogspot .com

hoathienly19
12-10-2020, 12:14
Đọc hồi kư của Trung Tá Phán tôi cảm thấy ḷng tôi thật bồi hồi xúc động . Trận đánh dường như hiện ra trước mắt tôi ,người lính VNCH kiêu hùng , anh dũng tiến sâu vào ḷng địch xem cái chết tựa lông hồng . Một tấc đất tái chiếm là máu và sinh mạng của người lính đă đổ xuống trên đất mẹ , cho người dân được ấm no , hạnh phúc .

Khi Trung Tá Phán và các chiến sĩ ḍ dẫm trong từng vị trí bị chiếm đóng giành giật từng tấc đất , tôi hồi hộp , tôi xót xa , đau đớn khi nghe anh chiến sĩ thốt lên những tiếng la hốt hoảng cuối cùng trước khi nhắm mắt ĺa đời ! Tiếng thét như một lưởi dao xuyên qua tim . :112:

( Trích đoạn :

Một loạt đạn nổ và tôi nghe:

– Chết em, Đại uư !

Tôi sững sờ nh́n Dư, tay trái ôm ngón út của bàn tay mặt đầy máu, ruột của Dư đổ ra ḷng tḥng .

Dư ngă vật ra chết tại chỗ .... ) Hết trích .

https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=64

Ôi ! Chiến tranh ! Chiến tranh thật tàn nhẫn ! Rồi mai đây những người mẹ , người vợ , người con hoặc người yêu của anh sẽ như thế nào ?khóc , hụt hẵng tiếc nuối người thân yêu không bao giờ gặp lại ...... :112:

Sau tháng tư đen , người lính VNCH bị bôi xấu , bị ngược đăi nhưng không thể chối bỏ được một sự thật :


" Người lính VNCH là những người lính yêu quê hương , bảo vệ nền tự do , độc lập cho nước Việt " .


https://1.bp.blogspot.com/-BkPIG6vFDKQ/WqLMQ7VK6dI/AAAAAAAA9vc/2OGvNWmV72MDMKsoUB0I YUpwSopT9oskACEwYBhg L/s1600/1%2Ba%2Ba%2Ba%2Banh% 2Ban%2Bba%2Ba%2Ba%2B a%2Ba%2Ba%2Banh%2BLi nh%2BVNCH.jpg



V́ sao mỗi lần xảy ra những trận đánh chính quy giữa VNCH và Bắc Việt th́ hầu hết dân chúng đều bỏ nhà cửa , ruộng vườn , tài sản chạy theo lính VNCH ? Tại sao họ không ở lại với người cộng sản ? " Tết Mậu thân 1968 và Mùa hè đỏ lửa là một chứng minh hùng hồn nhất .



Xf9gfc_7bq0


Hồi kư của Trung Tá Phán viết thật sống động , trung thật đó là mối tương quan thân thiết của một vị sĩ quan đối với người thuộc cấp .

Điều nầy không chỉ riêng cá nhân ông mà là truyền thống của quân đội VNCH từ cấp lảnh đạo đến binh sĩ trong những lúc nguy nan , thể hiện tính nhân bản của nền chính trị VNCH trước 1975 .

Đối với thuộc cấp dưới quyền đều được các vị sĩ quan thương yêu , bảo bọc , xem như một đứa em cần bảo vệ giữa lằn tên mũi đạn , giữa sự sống và chết . Tôi kính phục Ông . Một vị sĩ quan tuyệt vời .

( Trích đoạn :

Bỗng tôi thấy thiếu một cái ǵ, tôi nh́n Can và Việt hỏi :

– Thằng Điểu đâu ?

Tụi nó nói :

– Lần cuối cùng em thấy nó vừa khóc vừa chạy lung tung t́m Đại Úy ở bên ấy .

– Thôi chết tau rồi, tau phải cứu nó, hai thằng bây theo tau . ) Hết trích :):):)


https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=64



Trung Tá Nguyễn văn Phán Tết Mậu Thân 1968 - Quảng Trị


https://vvnm.vietbao.com/images/file/Qcwycmub1QgBAKd-/image002.jpg


Không chỉ hết ḷng với lính , Trung Tá Phán c̣n biểu lộ một mối thông cảm sâu sắc đến binh sĩ thuộc quyền có một hoàn cảnh đặc biệt .

Trước một chuyến đi đầy gian nan , nguy hiểm ông đă cho lính của ông lựa chon v́ hoàn cảnh gia đ́nh của Thượng Sĩ Hải đông con .

Ông không sắt máu , không vô cảm chỉ cần mang chiến thắng . Tôi cảm phục ông , một vị chỉ huy thương lính đầy nhân bản , t́nh người .

( Trích đoạn : Tôi nghiêm mặt và lạnh lùng nói :

– Hai ông Duật và Nghênh tôi chỉ định phải đi với tôi. Riêng ông Hải, tôi cho ông suy nghĩ lần nữa. Lần này đi khó trở về, ông con cái đông, muốn ở lại vị trí tôi cho phép và tôi hứa rằng tôi không nghĩ là ông thiếu can đảm.

Suy nghĩ một lát, Thượng sĩ Hải trả lời:

– Đại úy cho tôi ở lại vị trí .

Tôi vui vẻ bằng ḷng ... ) Hết trích .

https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=64


Trong quân đội VNCH không chỉ vị sĩ quan thương yêu thuộc cấp mà chính người lính cũng xem vị chỉ huy đó là một người anh cả của chính ḿnh . Đă nói lên điều ǵ ? Là tính nhân bản đă được giáo dục dưới chính thể VNCH . " Đạo Đức " .

( Trích đoạn :


Tóc tai mặt mày râu ria Điểu cháy nám, áo quần rách bươm, nó khóc mùi mẫn v́ thấy tôi c̣n sống. Rồi nó lại bẻn lẻn cúi đầu hai hàng nước mắt lă chă giọt xuống đất. Trong một cuộc chiến bạc bẽo lại có chút t́nh nghĩa trao nhau qua mấy giọt nước mắt nóng hổi. ) Hết trích .

https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=64

Thật cảm động . Người lính VNCH là như thế đó và tính nhân bản nầy được giáo dục từ xă hội , từ những bài học trong " Quốc Văn Giáo Khoa Thư " khi vừa tập tễnh vào trường học mấy chữ " ê , a " dưới chính thể VNCH .



stir7mbOJ6w



Tôi đọc Hồi Kư " Đường đi không đến " của nhà văn Xuân Vũ . Ông là một cán bộ tập kết và trở về Nam xuyên qua đường ṃn Hồ chí Minh . Thú thật đọc hồi kư nầy tôi cảm thấy buồn , thương cho dân tộc VN , một dân tộc sao gánh quá nhiều bất hạnh ! .


Giá mà , ( đời tôi , tôi ghét nhất 2 chữ nầy ! ) , những người cùng đi trên chuyến đường nầy đừng học chủ thuyết cs ( tất cả phải hy sinh cho Đảng ! ? Mà Đảng là ai ? Đảng là cái ǵ ? Đảng phải là Tổ Quốc VN không ? Đảng có phục vụ dân tộc Việt Nam không ? ) th́ họ sẽ sống và đối xử với nhau âm ấp t́nh người như Trung Tá Phán và binh sĩ của ông ta .



https://imagizer.imageshack. com/v2/519x480q90/r/922/T0wPFt.jpg


Trích đoạn :

– Cậu đi đâu ? Trốn hả ? Vinh dự thay lính Bác Hồ ! Pốp ! pốp !

Tôi ra lệnh cho cậu từ giờ phút này không được đi một bước khỏi gốc cây đó .

- Pịch ! pịch ! Cứ ngồi mà ôm cái gốc cây đó cho đến khi có lệnh mới !

Tiếng khóc bỗng trào lên rưng rức.

– Ơ hay, sao lại khóc ? Tôi đùa với cậu à ?

– Em không đi nữa !

– Quân đội là cái chợ à ? Muốn vào th́ vào, muốn ra th́ ra à ?

– Không phải thế, nhưng em ốm quá !

– Ốm th́ có thuốc men chứ.

– Em không xa nhà được .

– Cậu không bằng trẻ con ấy !

– Em chưa cầm súng bao giờ. Em đang ở hợp tác xă . ... . Hết trích . ! :112::112::112:

https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=139 5658&page=3


Anh bộ đội kia chưa cầm súng bao giờ , nguyên tắc cơ bản xử dụng súng chưa biết . Bây giờ bảo họ phải ra trận đối mặt với kẻ thù có vũ khí , có kinh nghiệm chiến trường th́ cũng giống như tay không đấu với súng , thử hỏi có ai dám đi không ?

Vị sĩ quan kia chắc hẳn anh ta phải hiểu điều đó nhưng anh ta vô cảm trước vấn đề v́ anh ta được trui luyện từ trong bụng mẹ :

" Đảng nói là phải đúng , phải thực hiện những ǵ Đảng muốn dù biết đó là lửa cũng phải xông vào , phục vụ Đảng . "

Những bài học từ lúc vở ḷng với những huyền thoại : " ngọn đuốc sống Lê văn Tám , Ngô vĩnh Diện mang thân người chèn pháo , Vơ thị Sáu trên đường ra pháp trường , tay bị trói sau lưng mà c̣n đưa tay ngắt cành hoa lê ki ma cài lên mái tóc ? ? ? .... " hoàn toàn vô lư khi lư giải khoa học , thực tế .

Một câu nói của Joseph Goebbels :

" Một lời nói dối lặp đi lặp lại hàng ngàn lần biến thành sự thật "

https://vi.psychologyinstruc tor.com/la-mot-loi-noi-doi-lap-di-lap-lai-mot-ngan-lan-bien-thanh-su-that/



https://cuuhocsinhphuyencom. files.wordpress.com/2018/12/48386083_33142793425 4252_919871397677341 0816_n.jpg


( Trích đoạn :

Anh lính đào ngũ đă đưa ra một lư do bất ngờ. Anh chưa cầm súng bao giờ ! Anh đang ở hợp tác xă, không biết v́ sao anh lại đi vô Nam . )

https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=139 5658&page=3

Nguyên nhân anh bộ đội " đào ngũ " không được vị chỉ huy suy xét v́ :

" Đảng bảo đi phải đi , phải hoàn thành nhiệm vụ . Không đạt yêu cầu Đảng th́ bị trừng phạt dù đó là một con đường đi không bao giờ đến . !

Một sự vô cảm , sắt máu trong chủ thuyết cộng sản :nana::nana::nana:



https://imagizer.imageshack. com/v2/522x480q90/r/922/de0UKY.jpg


Trung Tá Phán là h́nh ảnh một vị sĩ quan thao lược , kiên cường , yêu thương binh sĩ của quân đội VNCH .

Ông là một biểu tượng của người lính VNCH :

Bảo vệ Tổ Quốc . Hy sinh sinh mạng để mang lại hạnh phúc , ấm no cho người dân miền Nam trước hiểm họa thôn tính miền Nam cho Cộng Sản quốc tế của miền Bắc .



https://imagizer.imageshack. com/v2/480x480q90/r/921/o71jBI.jpg




Thành thật tri ân Ông và người lính VNCH đă hy sinh mạng , tuổi hoa niên để chính thể VNCH tồn tại 20 năm . Và bây giờ mọi người đă hiểu giá trị của 2 chữ Tụ Do , Hạnh Phúc mà họ đă sống trong chính thể VNCH . !



R0X9ST0xVTg



Xin thắp một nén nhang ḷng tưởng nhớ ông . Người chiến sĩ VNCH sẽ sống măi trong ḷng dân tộc Việt Nam và những người Việt yêu Tổ Quốc Việt Nam . Yêu Tự Do , Dân Chủ .



https://giacngo.vn/UserImages/2020/10/06/11/nenhuong.jpg


hoathienly19

hoathienly19
12-15-2020, 21:58
NHỮNG NGƯỜI LÍNH KHÔNG CÓ SỐ QUÂN :112:



Toán Biệt Hải gồm những thành viên t́nh nguyện từ binh chủng TQLC cùng cố vấn Mỹ




8cInrnATbwQ



VNCH đă giữ vững được cuộc sống tự do trong suốt 21 năm ngắn ngủi nhưng đầy gian truân, máu và nước mắt, đầy sự hy sinh của biết bao nhiêu người.

Trong số những sự hy sinh đó, phải nói tới sự hy sinh của người lính Biệt Kích Dù hoạt động tại Bắc Việt. Số phận của họ rất bi thảm khi bị kẹt tại Bắc Việt.

Bảng tổng kết sơ khởi cho biết trong số những Biệt Kích Dù được thả ra miền Bắc có :

- 7 người đă bị CS tuyên án tử h́nh và đă bị hành quyết

- 9 người tử trận, 21 người chết trong các trại tù khổ sai miền Bắc

- 7 người chết sau khi được thả về

- 2 người mất tích khi thi hành nhiệm vụ

- 11 người bị chỉ định phải định cư tại các nông trường hay hợp tác xă miền Bắc.

Đa số những người c̣n lại đều bị tra tấn dă man và bị bắt lao động khổ sai trong những trại tù khắc nghiệt nhất . Tại sao hầu hết các biệt kích thả xuống miền Bắc đă bị CS bắt ?


Bài viết sau đây là của Trung Tá Nguyễn Văn Vinh,người trực tiếp phụ trách các toán Biệt Kích Dù được thả xuống Bắc Việt, sẽ cho chúng ta biết những nét đại cương về tổ chức các đơn vị Biệt Kích, các hoạt động của họ và cách thức điều hành của cơ quan t́nh báo Hoa Kỳ.

Vài nét về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt

Ít ai biết đến các tên P45, Sở Bắc hay Sở Khai Thác, tiền thân của Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu.

Đó là những bí danh của một cơ quan t́nh báo chiến lược, được thành lập từ cuối năm 1958, đặt trực thuộc Phủ Tổng Thống và nằm trong mạng lưới chỉ huy của Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt VNCH.

Cơ quan này được Hoa Kỳ yểm trợ cả về tài chánh lẫn các phương tiện cần thiết để thực hiện cuộc chiến tranh không quy ước chống miền Bắc CS.


Đại tá Lê Quang Tung . Tư lệnh đầu tiên LLĐB



https://4.bp.blogspot.com/-VBfmrrcbkDA/U2jw335C_LI/AAAAAAAAAkg/IAZaThpmybM/s1600/le_q_tung+Tu+lenh+LL DB+dau+tien.jpg


Sau Hiệp Định đ́nh chiến Geneva, vĩ tuyến 17 được chọn làm vùng phi quân sự và sông Bến Hải là biên giới thiên nhiên, ngăn cách 2 miền Nam Tự Do và Bắc CS.

Quân đội viễn chinh Pháp, dưới áp lực của Hoa Kỳ, đă phải kéo cờ tam tài xuống khỏi dinh Norodom, nhường chỗ cho quốc kỳ VN tung bay tại dinh Độc lập vừa được đổi tên và đổi chủ.

Để đáp lại, quân đội Pháp đă không nương tay, xóa sạch mạng lưới t́nh báo mà họ đă khổ công gầy dựng trong nhiều năm tại miền Bắc.

Đây là một sự thiệt hại khá lớn cho ngành t́nh báo non trẻ của miền Nam.

Trong khi đó, CS đă để lại tại miền Nam vô số cơ sở t́nh báo mà họ đă gầy dựng trong suốt thời kỳ chống Pháp, trong đó phải kể đến các thân nhân của các cán bộ và bộ đội tập kết.

Thêm vào đó, các khuyết điểm to lớn chồng chất của 2 chế độ lỗi thời

Thực dân dân và phong kiến đă làm mồi nuôi dưỡng các phong trào chống đối trong nội bộ miền Nam, rất thuận lợi cho các cán bộ CS nằm vùng khai thác.

Dù vậy, ngành t́nh báo miền Nam, tuy phải xây dựng trễ và phải đặt nền móng từ đầu, nhưng lại được hưởng ứng nồng nhiệt v́ đa số người Việt thời ấy, nhất là đồng bào di cư, các bộ lạc dân tộc thiểu số, các đảng phái chính trị và tín đồ các tôn giáo, đă thấy rơ bộ mặt gian dối của CS.

Có người đă chứng kiến những vụ tàn sát hay đấu tố dă man các thành phần quốc gia yêu nước nhưng bất đồng chính kiến với CS và có khi họ chính là thân nhân của các nạn nhân đó.

Ngoài ra, những tài liệu sống động như cuốn phim Chúng Tôi Muốn Sống đă gây được một ấn tượng ghê tởm CS trong mọi tầng lớp nhân dân miền Nam.

Nắm được các yếu tố thuận lợi trên đây, Sở Bắc đă gấp rút gửi nhân viên đến các trại định cư, liên lạc với các vị lănh đạo tinh thần cũng như các bộ lạc dân tộc thiểu số, chiêu mộ các thanh niên nhiệt t́nh yêu nước c̣n thân nhân ở tại miền Bắc, để cấp tốc đưa về huấn luyện và tạo vỏ bọc thuận lợi, đưa họ về quê quán hoạt động.



uJbMzt34jLM


Từ những năm đầu tiên đến năm 1966, các toán xâm nhập miền Bắc thường xử dụng một trong những phương cách sau đây:

- Nhảy dù đêm vào vùng mục tiêu.


https://3.bp.blogspot.com/-PFdAjb96DvQ/U2eiRwrCuaI/AAAAAAAAAjc/_cmOPAcu4ro/s1600/C46+tha+cac+Toan+Bie t+kich+So+Bac+va+tie p+lieu+vu+khi.jpg


- Xâm nhập đường biển bằng thuyền mẹ, và từ đó xử dụng thuyền con bơi vào vùng công tác.

- Xâm nhập vào vùng phi quân sự, vượt sông Bến Hải và lén lút đi bộ vào điểm công tác, móc nối với thân nhân đă nằm vùng, hoặc giới chức được tín nhiệm tại địa phương. Trường hợp sau này thường phải xử dụng "bona fides" để nhận nhau.



https://4.bp.blogspot.com/-_eR8TktSukk/UGPMnBSpSHI/AAAAAAAAKFk/oAqSTOMIqVs/s640/h1.jpg


- Cử chuyên viên phục vụ tại Ṭa Đại Sứ của một vài nước thứ 3 như Lào, Cam-bốt, Pháp, Thái Lan hay Hồng Kông... rồi từ đó tuyển mộ và huấn luyện các công tác viên có khả năng, và tạo cho họ cái vỏ bọc thích hợp cũng như giấy tờ hợp lệ để họ dễ dàng xâm nhập vào miền Bắc hoạt động.

Phương pháp này đă được điều nghiên tỉ mỉ, nhưng v́ quá tốn kém nên chỉ được thực hiện từng giai đoạn.

Tuy có nhiều h́nh thức xâm nhập khác nhau như vừa tŕnh bày trên, nhưng trong bài này, tôi (Trung Tá Nguyễn Văn Vinh) chỉ xin đề cập đến những toán Biệt Kích xâm nhập miền Bắc bằng đường hàng không mà thôi, v́ đây là phần việc mà chính tôi đă đảm nhận trong nhiều năm tại cơ quan t́nh báo chiến lược này.



NHỮNG CHUYẾN BAY ĐÊM



Các toán Biệt Kích Dù thường được thả xuống miền Bắc vào những đêm trăng.

Mùa trăng thuận lợi cho công tác này bắt đầu từ ngày mồng 10 - 20 âm lịch hằng tháng. Giờ giấc được chọn tùy thuộc vào điều kiện an ninh và thời tiết tại vùng công tác.


Để có đủ phương tiện đối phó với các bất trắc có thể xảy ra khi toán chạm đất, các nhân viên Biệt Kích Dù phải mang theo các trang bị cá nhân khá nặng nề.

Ngoài súng tiểu liên Swedish K. của Thụy Điển hoặc Sten của Anh hay Uzi của Do Thái có trang bị ống giảm thanh và 3 đơn vị hỏa lực, họ c̣n phải đèo thêm các dụng cụ khác trên 20 món :

- Bidon nước

- Bản đồ vùng mục tiêu

- Địa bàn, lựu đạn

- 3 ngày lương khô,

- Đèn bấm,

- Pamean,

- Dao găm,

- Túi cứu thương cá nhân

- Càmèn

- Pháo hiệu (pen flare)

- Đồng hồ đeo tay

- Radio, v.v...



https://4.bp.blogspot.com/-fSveoBEmBps/Wt9Q4f6AgDI/AAAAAAAA-t4/88-RW3VccBc-jzWnle9f6J3gdY6kysqS wCLcBGAs/s640/1%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2B a%2Ba%2Ba%2BBa%2BL%2 5C3%25B4%2BNh%25E1%2 5BA%25A3%2Bto%25C3%2 5A1n%2B1.jpg



Các dụng cụ này thường được mua ở các nước thứ 3 và không một trang cụ nào được mang nhăn hiệu Hoa Kỳ hay miền Nam VN. Các đồ trang bị tập thể nhưng dụng cụ phá hoại, đồ cứu thương, lương thực dự trữ dùng cho 3 tháng, v.v... đều được đóng thành kiện.

Máy truyền tin dự trữ và máy beacon là máy phát tín hiệu có tầng số nhất định, được đặt tại kiện hàng số 1.

Các toán viên khi nhảy dù xâm nhập vào đêm, chiếc dù có thể bị ảnh hưởng của gió, bạt ra xa cách băi thả 1-2 km. [/i][/color][/size][/b]Nhưng nhờ các radio cá nhân, họ có thể dễ dàng bắt tín hiệu từ máy beacon phát ra, để đi về hướng tập trung.

Thông thường, các nhân viên quê quán vùng vào được thả về mục tiêu vùng đó. Để bảo đả an ninh cho công tác, mục tiêu và nhiệm vụ của toán chỉ được thuyết tŕnh vào giờ chót, trước khi lên máy bay .

Các chuyến xuất phát trong những năm đầu đến năm 1964, chính cơ quan Trung Ương T́nh Báo Hoa Kỳ đă yểm trợ cho các chuyến bay bí mật này và lộ tŕnh duy nhất được xử dụng là Tân Sơn Nhất - Đà Nẵng - Vùng mục tiêu.

Tại Đà Nẵng, đợi lúc trời tối, phi cơ cởi bỏ hết mọi huy hiệu trước khi khởi hành xâm nhập vào vùng hành quân.

Phi cơ được xử dụng là loại DC7 hoặc DC6.

Phi hành đoàn thường là người Trung Hoạ Tuy nhiên, cũng có lúc phi hành đoàn là người VN, được tuyển chọn trong số sĩ quan có khả năng và được tín nhiệm nhất của Không Quân Việt Nam.

Phó TT Nguyễn Cao Kỳ hồi c̣n mang lon Đại úy, đă nhiều lần làm phi công chính thức cho các phi vụ đặc biệt này.

Đến cuối năm 1966, Trung Ương T́nh Báo Hoa Kỳ rút vào bóng tối, nhường chỗ cho MAC-SOG, một cơ quan t́nh báo quân sự, thay thế yểm trợ cho Nha Kỹ Thuật.

Khi cường độ chiến tranh VN đi đến giai đoạn khốc liệt nhất th́ nhu cầu tin tức gia tăng cao, do đó số toán Biệt Kích Dù hoạt động phải được tăng cường nhiều hơn.

Các phương tiện xâm nhập cũ được thay thế bằng C123 hoặc C130 và nơi phát xuất được chuyển sang Nakor-Phanum, một sân bay nằm sát biên giới Thái-Lào hoặc sân bay don nằm ở phía Đông-Bắc Thái Lan.

Từ các nơi đó các toán Biệt Kích Dù được chuyển qua trực thăng CH3 để bay băng qua lănh thổ Lào, tiến về vùng mục tiêu nằm trên ranh giới Lào-Việt. Cũng có lúc mục tiêu được lựa chọn nằm sâu trong nội địa Bắc Viêt.


Một toán thám sát Lôi Hổ nhảytoán xuống vủng đất Lào


https://i.pinimg.com/originals/df/54/de/df54dea2905b04c58b0e 6aff39f076cb.jpg


Trực thăng là phương tiện xâm nhập vừa rẻ tiền vừa tiện lợi nhưng lại là phương tiện kém an toàn nhất, v́ tiếng động cơ quá lớn, địch dễ phát hiện.

Phải chăng đây là một trong những nguyên nhân thất bại của công tác Biệt kích tại miền Bắc ? Vấn đề này đă được phía VN quan tâm và nêu lên nhiều lần trong các phiên họp Việt-Mỹ, nhưng phía đối nhiệm không quan tâm . !


SỐ PHẬN NHỮNG CON CHIM LẠC LOÀI ! :112:


Đến cuối năm 1968, trong số gần 40 toán được cho xâm nhập bằng đường hàng không và đường bộ để hoạt động dài hạn, chỉ con có 5 toán là c̣n giữ được liên lạc với Trung ương, đó là các toán :

- Tourbillon (1962)

- Ares (1962)

- Remus (1963)

- Easy (1963) và Eagle (1963)


Theo đánh giá chung của các chuyên viên hữu trách Việt-Mỹ. th́ cả 5 toán này h́nh như đă bị địch kiểm soát, nhưng cá nhân tôi vẫn c̣n tin tưởng một toán, đó là toán Ares. Sự tin tưởng này có thể đúng v́ lư do sau đây :

Vào những năm đầu ở trại cải tạo, tôi thường bị cán bộ, không biết thuộc cơ quan nào và cấp nào, đă thay nhau thẩm vấn tôi về các toán Biệt Kích. một trong những lần thẩm vấn ấy, tôi bị 3 tên cùng một lúc thay nhau hạch hỏi suốt buổi sáng, khiến tôi không c̣n sức chịu đựng, tôi đă bị gục ngă v́ tức giận và xây xẩm.

Họ cho người dẫn tôi về pḥng, nhưng 2 giờ sau lại kéo tôi lên tiếp tục thẩm vấn.

Họ dùng đủ tṛ ma giáo "hỉ, nộ, ái, ố",... lúc th́ mời tôi hút thuốc lá "có cán" (tức loại thuốc có đầu lọc, một loại thuốc cao cấp vào thời ấy), lúc lại đập bàn quát mắng, khinh bỉ.

Họ chưa bao giờ đánh đập tôi lúc thẩm vấn, nhưng họ đă dùng những lời rất cộc cằn và thô lỗ để áp đảo tinh thần tôi.

Một điều làm tôi quan tâm hơn cả là họ hỏi tôi rất nhiều về toán Ares, như trưởng toán tên ǵ, quê quán ở đâu, tuổi tác độ bao nhiêu, dáng điệu bên ngoài như thế nào, có những đặc điểm ǵ, những liên hệ gia đ́nh, địa chỉ của các người thân lúc ở miền Nam, v.v...

Tôi thầm nghĩ nếu Ares đă thật sự nằm trong tay họ th́ mắc mớ ǵ họ phải hỏi tôi những chuyện thừa thăi ấy. Tôi có lư do để không trả lời họ, v́ Ares đă xuất phát năm 1962, trước khi tôi được thuyên chuyển về Sở Bắc.



https://image.ibb.co/bOSyDe/Loi_Ho_NKT.jpg


Tuy nhiên, hôm nay tôi xin nói ra đây những ǵ tôi có thể nói ra được. Một vài chi tiết khác tôi thấy chưa thể tiết lộ lúc này v́ có thể phương hại đến sự an toàn của toán đó, nếu quả thật toán đó đến nay vẫn c̣n giấu được tung tích.

Ares hay Hạ Long có tên thật là..., một cán bộ trung cấp và là đảng viên CS bị khai trừ v́ bất măn. Anh đă theo đoàn người di cư vào Nam năm... và được một giới chức miền Nam báo cáo lên ông Ngô Đ́nh Nhu, Tổng Thống Diệm, ông Nhu đă lưu tâm và giúp đỡ cho người này.

Sau dó, Sở Bắc đă cử người đến tiếp xúc thuyết phục và bố trí cho anh trở về Bắc hoạt động. Anh đồng ư và đă được đưa xâm nhập vào Vịnh Hạ Long năm 1962, rồi từ đó tiến dần về cảng Hải Pḥng và nhà máy điện Uông Bí.

Đây là 2 mục tiêu mà anh có nhiệm vụ theo dơi và báo cáo mọi sinh hoạt. Ares tỏ ra rất tích cực trong mọi nhiệm vụ giao phó, và điều rất kỳ lạ là anh đă mộ mến Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm một cách khác thường. Hàng năm, trước ngày Song Thất hoặc 26/10, anh đều đánh điện chúc mừng TT Diệm và nguyện trung thành phục vụ tổ quốc.

Khi nghe tin TT Diệm bị giết qua đài phát thanh, anh rất thắc mắc và sau khi được Trung ương xác nhận, anh đă tỏ ra chán nản tột độ. Dù vậy, anh vẫn thi hành mọi công tác giao phó một cách chu đáo.

Những chuyến tàu cập bến Hải Pḥng, nhất là các tàu chở vũ khí hay quân dụng, đă được anh theo dơi và báo cáo khá chi tiết. Ngoài nhiệm vụ trên, anh c̣n báo cáo kết quả oanh tạc của một số mục tiêu khác nhau như cầu Hàm Rồng và nhà máy điện Uông Bí ở quanh vùng Hải Pḥng.

Để giúp anh thi hành nhiệm vụ trong thời gian anh bị bịnh sốt rét, Trung ương đă chấp thuận đề nghị của anh, tuyển mộ thêm người em ruột và một hai người khác trong họ hàng, để phụ anh thực hiện quan sát các mục tiêu ở xa.

Trong những năm 1966, 1967 và 1968, bệnh sốt rét của anh trở nên trầm trọng, nhưng Trung ương không tiếp tế cho anh được v́ địa điểm nhận tiếp tế của anh nằm trong Vịnh Hạ Long đă bị lộ. Thêm vào đó, vùng biển Hải Pḥng bị Mỹ gài ḿn khiến mọi cố gắng tiếp tế bằng thuyền cho anh đều không thể thực hiện được. :112:


Khoảng giữa năm 1968, do lời yêu cầu của phía VN, Hoa Kỳ đă t́m được kế hoạch tiếp tế cho Ares. Trung ương báo ngay cho anh tọa độ một số băi thả tiếp tế và yêu cầu toán đến tận nơi nghiên cứu và báo ngay địa điểm ưu tiên được chọn.

Sau khi nhận phúc đáp, Trung ương đă hướng dẫn các chi tiết mà toán phải thi hành để có thể nhận tiếp tế đúng như dự liệu.

Đến ngày N, giờ G, một đoàn phản lực đă xuất hiện bắn phá một số mục tiêu ở Hải Pḥng, cùng lúc đó một phản lực cơ khác đă bắn một thùng " container " đựng hàng tiếp tế xuống thửa ruộng đă ấn định và được Ares đánh dấu bằng 2 cụm khói trắng như đă chỉ thị.

Cách tiếp tế này đă được thực tập 2 lần tại trại Long Thành và cả 2 lần đều đem lại kết quả mong muốn. Trong container đựng hàng tiếp tế, ngoài lương thực, thuốc men, áo quần c̣n có 10 khâu vàng để toán trao đổi thực phẩm hoặc thuốc men mỗi khi cần đến. Ngoài các vật dụng trên, c̣n có 4 lá thơ, trong đó có một lá thơ thăm hỏi của Trưởng công tác, c̣n 3 lá thơ khác được dán b́ kín.

Toán được chỉ thị dán tem vào và tuần tự gởi đến một địa chỉ trung gian tại Thái Lan. Mỗi lá thơ đều có dấu hiệu riêng mà toán không được biết lư do.

Chỉ trong một thời gian ngắn, 2 thơ có nội dung thường đă đến tay người nhận, thơ c̣n nguyên si không bị mở, nhưng lá thơ thứ 3 có "gài" một tài liệu bí mật giả tạo lại không đến tay người nhận. 2 tháng sau, khi dược Trung ương hỏi về lá thơ này th́ toán cho biết, trên đường di tới bưu điện, bị c̣i báo động, đương sự phải chạy t́m hầm trú ẩn, không may đánh rơi lá thơ xuống vũng bùn nên đương sự đă không gửi.

Lư do này đă khiến bạn đồng minh Hoa Kỳ nghi ngờ ḷng trung thành của Ares.



49XYMfgOu_8

C̣n tiếp ,

hoathienly19
12-17-2020, 18:52
NHIỆM VỤ MỚI


Đến năm 1968, sau đợt tấn công của địch vào dịp Tết Mậu Thân, Nha Kỹ Thuật phải lănh nhận thêm rất nhiều công tác ngoại biên với những toán mới được thành lập :

- Các toán STRATA là những toán quân nhân được huấn luyện thuần thục để thi hành những công tác đột kích hay phá hoại các căn cứ địch nằm trên lănh thổ Bắc Việt.

- Các toán PICK-HILL là những toán người Miên gốc Việt hoạt động trong lănh thổ Cam-bốt, có nhiệm vụ quan sát và phá hoại các căn cứ địa của VC nằm trên lănh thổ nước láng giềng Cam-bốt.

- Các toán EARTH-ANGEL, c̣n được gọi là Đề Thám, là những toán được thành lập với thành phần tù binh bộ đội Bắc Việt hồi chánh. Các toán này hoạt động rất đắc lực, được trang bị như bộ đội chánh quy miền Bắc. Nhờ đó họ len lơi vào vùng địch khá dễ dàng và đă nhiều phen lập được nhiều thành tích đáng kể. Một số toán viên sau đó đă gia nhập Quân đội VNCH.

- Các toán SINGLETON hoạt động riêng biệt từng cá nhân. Họ là những Việt kiều từng sống nhiều năm tại Cam-bốt, được móc nối trở lại hoạt động nằm vùng tại Mimote, Krek, Sihanoukville, Kratié, Ba Thu, v.v...

Đây là những nơi địch đặt căn cứ quân sự và hoạt động rất mạnh. Các nhân viên này có nhiệm vụ theo dơi, báo cáo hoạt động địch và hướng dẫn phi cơ oanh tạc lúc cần thiết.

Ngoài các toán hoạt động như trên, c̣n có chương tŕnh công tác lừa địch và ly gián địch, được gọi là chương tŕnh Borden, mà toán viên là những tù binh bộ đội Bắc Việt cứng đầu.

Họ được học nhảy dù vài hôm trước khi được trang bị như một toán viên rất trung thành của miền Nam :

Một bản đồ, lệnh hành quân, thơ giới thiệu, v.v... Các thứ này được giấu kín trong áo nhảy và chỉ được trao cho toán viên tù binh cứng đầu mặc vào trước khi được thả dù xuống vùng địch chiếm đóng.

Các chương tŕnh mới này đă đem lại những kết quả hết sức khích lệ, nên phía Hoa Kỳ đă yêu cầu phía VN chấm dứt liên lạc với 5 toán c̣n lại ở miền Bắc, bằng cách ra lệnh cho các toán ấy t́m cách xâm nhập qua Lào, tŕnh diện với bộ đội Vang Pao hoặc rút về miền Nam...

Tuy nhiên, nhiều tháng sau khi lệnh được ban hành, không một toán nào xuất hiện.


HƯỚNG VỀ NHỮNG NGƯỜI ANH EM KIÊU HÙNG


Các Biệt Kích Dù bị CS bắt đă phải chịu đủ thứ cực h́nh. Tuy vậy, họ vẫn giữ vững tinh thần quốc gia và đồng đội.

Thái độ cương quyết của họ đă phải làm các cán bộ CS khâm phục và gọi họ là những người "không cải tạo được".

Măi đến một thời gian lâu sau khi VNCH bị chiếm đóng, CS mới tuần tự tạm trả tự do cho các tù nhân Biệt Kích.

Người được trả sớm nhất đă phải ở tù suốt 15 năm và người lâu nhất trên 20 năm. Khi họ trở về, chúng ta đă biết thêm được nhiều chuyện đă xảy ra khi họ công tác tại Bắc Việt.

Tuy nhiên, vẫn c̣n một số toán bặt tin, trong đó có :

- Toán VOI do anh Trần Hiếu Ḥa làm trưởng toán cùng với 4 toán viên.

- Toán Ares mà tôi đă đề cập ở trên và một vài toán khác nữa, cũng đang nằm trong danh sách những toán mất tích này.

Phải chăng họ đă bị thủ tiêu hay đă hy sinh trên đường thi hành nhiệm vụ. "Hy sinh trong bóng tối, tất cả v́ Tổ quốc", đó là phương châm hành động mà mọi Biệt Kích đă chấp nhận khi gia nhập vào binh chủng này.



HuXyFnMZWJw


Tôi c̣n nhớ năm 1970, các sĩ quan trong Bộ chỉ huy Nha Kỹ Thuật đă được xem một cuốn phim mà một đơn vị VNCH vừa tịch thu được của bộ đội Bắc Việt khi tấn công vào một căn cứ địch ở Mimot, Cam-bốt.

Cuốn phim ghi lại phiên ṭa xét xử một toán Biệt Kích mang tên toán Jackson, hoạt dộng tại vùng Nghệ Tĩnh. Bản cáo trạng rất dài, luận tội rất nặng, nào là tay sai đế quốc Mỹ, tay sai Ngô Đ́nh Diệm, nào là xúi dục nhân dân lật đổ chính quyền vàphá hoại tài sản nhân dân, v.v...

Toán Jackson đă bị bắt toàn bộ với tất cả vũ khí và chất nổ khi toán phá chiếc cầu thứ 2 tại Cửa Ḷ. Hầu hết toán viên đă lănh án tử h́nh, chỉ 1-2 người lănh án chung thân.

Điều làm anh em chúng tôi xúc động và hănh diện, là được chứng kiến thái độ hiên ngang và b́nh tĩnh của các toán viên khi bản án tử h́nh được tuyên đọc.

Theo lời một nhân chứng quê ở Thọ Ninh, bà con với một toán viên cho biết, 6 người lănh bản án tử h́nh đă bị bắn ngay sau đó, và lời nói cuối cùng của họ là :

"Việt Nam Cộng Ḥa muôn năm! Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm muôn năm !"



ZKFOrssv5xQ


Anh em chúng tôi là những người đă đi qua nhiều trại cải tạo ở miền Bắc và đă được nghe nói rất nhiều về những việc làm đáng phục của anh em Biệt Kích.

Trong số đó có các vị linh mục, đại đức tuyên úy, các bạn bè của tôi đă sống chung trại với các anh ấy.

Ngoài ra, các tù h́nh sự miền Băc mà đa số chúng tôi thường gọi họ bằng danh từ "bọn h́nh sự", v́ phần đông họ thuộc thành phần bất hảo, trộm cướp, đâm chém, giết người...

Khi được hỏi về anh em Biệt Kích th́ họ tỏ vẻ rất khâm phục. Họ nói với tôi:

"Các anh Bê Ka là những người rất hào hùng, cán bộ trại cũng phải nể, các anh ấy rất kỷ luật và đoàn kết với nhau, họ thương nhau và giúp đỡ nhau.

Khi một người bị biệt giam được thả hay bị ốm, là các anh khác t́m cách giúp đỡ. Dù ai cũng đói, nhưng họ nhịn bớt phần ăn để bồi dưỡng cho anh em bị bệnh hay bị ốm.

Đă có những anh Bê Ka cướp súng bắn cán bộ rồi chạy thoát, có nơi các anh toàn bộ đứng lên làm reo tuyệt thực không đi lao động, nhưng cán bộ trại cũng đành phải làm ngơ..."


abQ3LYtHwSY


Riêng cá nhân tôi, trong 13 năm cải tạo, đă không may mắn gặp lại các anh em Biệt Kích, nhưng tôi không bao giờ quên những con người hào hùng cùng chung lư tưởng đă cùng chung sống với nhau trong t́nh huynh đệ chân thành.

Tôi là người đă từng sống chung với họ ở trại huấn luyện Long Thành và lúc họ lên đường đi công tác. tôi đă tiễn chân hoặc nhiều khi đă cùng với họ bay vào vùng mục tiêu xâm nhập, đưa tay vẫy chào họ khi họ rời máy bay... Những kỷ niệm đó khó quên được.


NHỮNG KỶ NIỆM KHÓ QUÊN


Tôi nhớ lại năm xưa, có lần trước ngày lên đường công tác, tôi lái xe đưa một nhân viên của tôi đến thăm lần cuối người bạn gái, hay nói đúng hơn, một người yêu, có nhà ở hẻm xứ Bùi Phát, trên đường Trương Minh Giảng, nay đổi tên là Lê Văn Sỹ.

Đến nơi, người thanh niên ấy vội vă bước xuống xe như muốn tận dụng những giây phút ngắn ngủi và quư báu c̣n lại... Khoảng 10 phút sau, anh trở ra với người bạn gái đi theo tiễn chân, trên tay anh c̣n mang một gói quà nhỏ mà tôi đoán chắc đó là quà kỷ niệm của người yêu.

Họ nh́n nhau, mắt đẫm lệ, và tôi chỉ biết im lặng cảm thông nỗi buồn chan chứa đang xâm chiếm 2 tâm hồn...b]

Xe chạy được một quăng đường, người thanh niên ấy quay nh́n tôi, vừa nói vừa mở món quà :[/b]

" Đây, anh xem, quà cô ấy tặng em ".

Tôi liếc nh́n, thấy một nắm tóc thề được gói trong một chiếc áo lót. Cả hai chúng tôi đều im lặng trên đường về trại . :112:


o4J-F-QRWDc


Lần khác, một nhân viên của tôi cũng sắp lên đường, anh đến gặp tôi và trao cho tôi một chồng thơ khá dày đă đề b́ sẵn và nói:

" Anh Dũng, anh biết em là con một, em đi nhưng em đă không dám nói thật với mẹ em.

V́ vậy, em nhờ anh mỗi tháng đến thăm mẹ em và trao cho mẹ em một bức thơ này, nói là em đang đi học ở ngoại quốc gửi về để mẹ em yên tâm".

Tôi xúc động nh́n người thanh niên ấy với tất cả ḷng yêu thương và mến phục. Tôi đă nhận thơ anh giao và hàng tháng, tôi đă đến thăm mẹ em và trao cho bà quả phụ ấy bức thư của con bà...

Nhưng đau đớn thay, lá thơ cuối cùng của anh đă được traomà " khóa học " của anh vẫn chưa măn.



https://1.bp.blogspot.com/-eJi8bHe7HWc/U2eliff2uWI/AAAAAAAAAkA/AlUlOUowTmM/s1600/haclongog9.jpg



Hai nhân viên Biệt Kích mà tôi vừa kể trên đây, cả 2 đều trở về từ cơi chết, sau gần 20 năm sống trong lao tù CS, một anh hiện đang sống ở Cali, đó là anh Lâm, em ruột của anh Nguyễn Ngọc Trâm, c̣n người kia, trước ngày tôi rời Saigon, anh ấy đang vất vả hành nghề thợ mộc ngoài Vũng Tàu.

Hy vọng một ngày không xa, anh Độ cũng như bao nhiêu anh hùng Biệt Kích khác c̣n ở VN sẽ được đoàn tụ với chúng ta tại quê hương thứ hai này.


Trung Tá Nguyễn Văn Vinh

hoathienly19
12-22-2020, 18:30
THƯ VỀ EM GÁI THÀNH ĐÔ



WOxRCciE-p4

hoathienly19
12-25-2020, 23:57
TRẬN ĐÁNH CHIẾN XA THẦN KỲ TRÊN ĐỈNH NÚI - NHỔ CHỐT ĐÈO CHU PAO

Quốc lộ 14 nối Kontum và Pleiku là đoạn huyết mạch chiến lược cần phải giữ. Chi Đoàn 1/8 Thiết kỵ được giao giữ an ninh trục lộ và mở đường.

Đường từ buôn Pleiboi, qua khỏi căn cứ hỏa lực 42 tới phía đông bắc của căn cứ hỏa lực 41 dưới chân núi Chu Pao. Qua khỏi núi Chu Thoi (đối diện núi Chu Pao, phía Nam quốc lộ 14 chừng 2Km là tới đồi Sao Mai rồi sau đó là tới Tân Phú. Đoạn đường đến đây là khá an toàn. Từ Chu Pao tới Tân Phú do Biệt Động Quân phụ trách.


https://c1.staticflickr.com/9/8112/8588621612_7ba7a132e f_b.jpg


Rừng núi âm u, sương mù lảng đảng phủ chụp quấn quít từng chiếc chiến xa mờ ảo. Mỗi sáng sớm, khi rừng xanh c̣n ngái ngủ, Chi Đoàn đă cho xe lăn xích rời vị trí, lục soát và an ninh đoạn đường trách nhiệm trước 8 giờ sáng cho đoàn xe tiếp tế lên Kontum.

Thường th́ việc mở đường và an ninh trục lộ do các đơn vị Địa Phương Quân đảm trách. Công việc nguy hiểm và nhàm chán, sáng đi, chiều rút... Thời gian lâu không có chi xẩy ra, anh em hay ỷ lại và coi thường.

Từ đó, địch điều nghiên thói quen của các đơn vị mở đường để rồi có một ngày mưa bụi âm u, địch ra tay tấn công chớp nhoáng... Thường là đơn vị mở đường bị thiệt hại nặng trong t́nh huống bất ngờ đó.

Không theo vết xe cũ của các đơn vị bạn, tôi chỉ thị các Chi Đội luôn luôn thay đổi vị trí, đội h́nh pḥng thủ an ninh cũng di chuyển luôn trong ngày. Và nhờ vậy, Chi Đoàn đă bảo toàn khả năng tác chiến và an ninh vùng trách nhiệm trong suốt thời gian cấp trên giao phó.

Cuối tháng 4. 1972, địch bất ngờ tập trung quân và hỏa lực tấn công và đánh bật đơn vị Biệt Động Quân trên đỉnh Chu Pao, rồi đào hầm hố, bám trụ, đóng chốt trên đó với đại bác không giật 75 ly, các loại cối và đại liên pḥng không.

Ư đồ của Bắc quân rơ ràng là cố ư cắt đứt quốc lộ 14, chận đoàn xe tại eo núi Chu Pao và Buôn làng không tên dưới chân núi để cô lập và cắt đường tiếp tế cho Kontum.



https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/02/huy-hieu-bdq.jpg


Khi xe dẫn đầu đoàn xe vừa tới chân núi Chu Thoi, đại bác, cối và các loại súng của địch từ trên đỉnh Chu Pao ồ ạt tác xạ tới tấp vào đoàn xe.

Hai chiếc đầu trúng đạn bốc cháy, các xe đi sau phóng vào các rừng chồi cạnh đường để tránh tầm quan sát của các ổ tác xạ địch, đoàn xe ở giữa và cuối quay đầu lại chờ lệnh.

Nh́n lên đỉnh Chu Pao, tử thần như đang múa may, quay cuồng. Giữa cái âm u của núi rừng, giữa cái khét lẹt của súng đạn, viễn tượng Kontum bị cô lập chuẩn bị bước tiến quân kế tiếp của các sư đoàn Bắc quân sau khi gây tổn thất nặng cho quân ta ở Tân Cảnh, Sư Đoàn 23 BB quyết định phá thế địch, lệnh cho Biệt Động Quân phải tái chiếm Chu Pao và Thiết Giáp phải bảo vệ đoàn xe bằng mọi giá.


Lực lượng đặc nhiệm Biệt động quân kịch chiến với CQ quanh Kontum và Chu Pao:



https://baovecovang2012.file s.wordpress.com/2013/01/linhvnch6.jpg


Nhận lệnh " Mặt Trời " , hiểu được cái căng cứng của t́nh thế, ngước nh́n đỉnh núi lờn vờn bóng địch, tôi quay sang người hiệu thính viên:

- Cậu gọi Đại úy Chi Đoàn phó (Phan Chánh Hảo) gặp tôi gấp !

- Bravo ! 51 gọi !

- Bravo nghe 51 !

- Lệnh Alpha mời Bravo tới 51 họp !

- Nhận rơ 51 !

Tôi gặp Phan Chánh Hảo, cho biết một số t́nh h́nh và chỉ thị của thượng cấp. Hảo chăm chú ghi từng chỉ thị ban ra

- Chi Đội 3 tăng cường thêm phân đội chiến xa chỉ huy, tiến lên ngang núi Chu Thoi, hướng đại bác lên đỉnh Chu Pao dập thẳng vào những vị trí đặt súng của địch khi chúng bắn xuống đường !

- Nhận rơ !

Hảo lui ra và chúng tôi phóng lên xe và tiến hành kế hoạch tạm thời bịt miệng tiếng súng địch.

Khi chiến xa chúng tôi dàn trận di chuyển nhô ra khỏi vị trí, các loại hỏa lực địch từ đỉnh Chu Pao phóng xuống, và vị trí chúng bị lộ, chúng tôi dập tối đa hỏa lực đại bác và đại liên vào vị trí địch, d́m địch không ngóc đầu được, nhờ vậy, phần đầu của đoàn xe kẹt trong rừng thưa phóng được ra đường an toàn và hướng đầu về Pleiku.

Chi Đội chỉ huy sau đó rút xuống phía Nam căn cứ hỏa lực chừng 2 Km, án ngữ bên kia con suối. Chi Đội 1 và 2 chia nhau giữ các khúc quanh nguy hiểm, chiếm các cao điểm chế ngự quanh vùng.

Và sau đó, toàn Chi Đoàn cũng được lệnh rút sau khi đoàn công voa vượt khỏi khu vực trách nhiệm.

Đỉnh Chu Pao, nút chặn oan nghiệt, hiểm hóc lởn vởn bóng tử thần nh́n xuống quốc lộ 14.

Đại tá Lư Ṭng Bá, Tư lệnh Sư Đoàn 23 ḷng như lửa đốt. Đại tá Đạt, h́nh ảnh con mănh sư sa cơ trên vùng Tân Cảnh chờn vờn trong đầu ông.

Biệt Động Quân không chiếm lại được đỉnh Chu Pao, Lư Ṭng Bá, con mănh sư c̣n lại trên Cao Nguyên đầy khói lửa, vùng vẫy không chịu bó tay, ông đập tay xuống bản đồ hành quân :

- Phải nhổ chốt Chu Pao bằng mọi giá !



https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/articlefiles/204303-LyTongBa.jpg


Bộ Tư Lệnh SĐ23BB giao trách nhiệm nhổ chốt Chu Pao lại cho Trung Đoàn 45 BB và Chi Đoàn 1/8 Chiến Xa giữ nhiệm vụ yểm trợ hỏa lực, đồng thời án ngữ đoạn đường từ Căn cứ Hỏa Lực 41 tới núi Chu Pao.

Được sự yểm trợ tối đa của không quân và pháo binh, Bộ Binh và Thiết giáp đă tấn công dữ dội các chốt kiên cố của địch trên đỉnh núi.

Súng đạn vang trời suốt 7 ngày đêm, cái chốt ác hiểm này vẫn c̣n nằm nguyên trong tay địch. Những cơn gió núi vẫn thổi, sương mù vẫn giăng những sáng tinh sương, và tiếng súng địch vẫn c̣n thách thức. Bắc quân nghĩ chắc như nêm là các chốt trên đỉnh Chu Pao là thành đồng vách sắt, bất khả xâm phạm....

Sáng ngày 26.04.1972, khi các Chi Đội bố trí xong đôi h́nh th́ bất ngờ có lệnh triệu tập ban tham mưu Chi Đoàn 1/8 Chiến xa.

Phiên họp diễn ra tại " Buôn không tên " dưới chân núi Chu Pao. Ngoài tôi ra, trong buổi họp c̣n có Đại Tá Nguyễn Văn Chà, Trung Đoàn trưởng Trung đoàn 45 BB.

Ban 3 Trung Đoàn báo cáo lên Đại tá Tư Lệnh Sư Đoàn về t́nh h́nh địch, t́nh h́nh bạn và những khó khăn mà Bộ Binh đă phải đối đầu và không vượt qua được.



https://bienxua.files.wordpr ess.com/2017/08/huy-hieu-tthiet-doan-8-ky-binh.jpg


Đại tá Lư Ṭng Bá bóp trán. Ông xoay người nh́n khắp núi rừng, nh́n lên đỉnh Chu Pao, bỗng mặt ông nghiêm lai một cách cương quyết khi ông nh́n qua tôi, và như một thứ lệnh bất ngờ từ trên trời, vị Tư Lệnh Sư Đoàn nói như đinh đóng :

- Toàn thể gia đ́nh Tài Lực 1/8 (danh hiệu Chi Đoàn trương 1/8) phải nhổ xong chốt Chu Pao nội trong ngày nay ! Không cần đợi phi pháo !

Tôi choáng váng và bất ngờ :

- Thưa Đại tá Tư lệnh ! Nhổ bằng cách nào ?

- Cho chiến xa leo lên đỉnh Chu Pao ! Chi Đoàn sẽ sử dụng con đường ṃn xe be kéo gỗ khi xưa ở hướng đông bắc Chu Pao để tiến lên đỉnh núi ! Con đường không sử dụng đă lâu đó nay đă ngập cây rừng nhưng chiến xa có thể càn qua được. Địch không thể ngờ ta dùng con đường này ! Anh cho anh em thám sát ngay và hành động gấp cho tôi !

Sau khi nhận lệnh, tôi đờ người ra, đầu óc xoay tṛn những ư nghĩ không có đáp số. Lần đầu tiên trong đời binh nghiệp với xích sắt, với chiến xa, tôi mới nghe và nhận một cái lệnh cho chiến xa leo núi tấn công địch.Cái này sách vở không dạy, binh pháp không thấy đề cập.


Nếu vị Tư lệnh Sư Đoàn không phải là Đại Tá Lư Ṭng Bá, một sĩ quan cao cấp kỳ cựu của binh chủng Thiết Giáp, đă từng du học về Thiết Giáp tại trường Thiết Giáp Saumur của Pháp và Fort Knox của Hoa Kỳ, có lẽ tôi đă từ chối chấp hành cái lệnh lạ đời này, và chấp nhận luôn hậu quả của việc ra ṭa án quân sự. Nhưng không. Tôi không có sự lựa chọn nào khác. Tôi chấp hành lệnh.



SrLF7wPn8Gs


C̣n tiếp ,

hoathienly19
12-28-2020, 06:46
Người tôi như lửa bỏng, tôi về Chi Đoàn đích thân lựa 5 binh sĩ gan dạ và nhanh nhẹn theo tôi đi thám sát địa h́nh con đường chuyển quân.

Thầy tṛ chúng tôi âm thầm như những bóng ma, len lỏi trong rừng cây dưới chân núi, ṿng về phí Đông ngọn núi, chúng tôi quả thật t́m ra được con đường ṃn xe be kéo gỗ lúc xưa đúng như Đại tá Lư Ṭng Bá đă nói.

V́ chiến tranh, con đường trở thành hoang vu, không sử dụng, cỏ cây rừng mọc phủ xanh ŕ nhưng chỉ là những cây non không đủ sức cản chiến xa.

Con đường này cộng quân không hề biết, không hề ngờ. Bây giờ tất cả là rừng bao phủ Chu Pao như một chiếc áo xanh lục, âm u theo tháng năm dài, theo những cơn mưa đổ trút xuống rừng xanh...

Từ chân núi lên đỉnh núi xa khoảng không tới một cây số, nếu là địa h́nh đồng bằng th́ có thể không đầy 2 phút, chiến xa có thể phóng qua công sự pḥng thủ địch, nhưng ở đây, trước mặt chúng tôi là con đường ṃn dốc cao đầy cây rậm, ngoằn nghèo chữ chi khi lên dốc, có khoảng rất hẹp bên cạnh là vực sâu, chiến xa chạy không ngay hay lệch tay lái là có cơ rơi xuống vực.

Sau khi thẩm sát và lượng định địa h́nh, chúng tôi xuống núi. Nh́n lại núi Chu Pao , một vùng núi rừng trùng điệp so vai chạy dài từ Đông Nam sang Tây Bắc theo quốc lộ 14 với đỉnh cao đầy hầm hố và các hốc đá ẩn chứa cả một Tiểu Đoàn Bắc quân đóng chốt để cô lập Kontum.


https://scontent.fyyz1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/15977487_11402737527 52426_57275523916101 25091_n.jpg?_nc_cat= 110&ccb=2&_nc_sid=dbeb18&_nc_ohc=0sRtFJYLQ5EA X8JwPTH&_nc_ht=scontent.fyyz 1-2.fna&oh=27d99f1165b99114d 0089004ace6244c&oe=600A6CDA



Tôi nghĩ bụng:

" Tư Lệnh Sư Đoàn đă phóng mũi lao lên đỉnh núi th́ ḿnh phải theo lao, phải chấp hành lệnh ."

Đếm từng bước dài về lại Chi Đoàn, tôi cho họp toàn bộ sĩ quan để bàn kế hoạch đưa chiến xa M41 leo lên núi tấn công mục tiêu. Tiếng Tư Lệnh Sư Đoàn như c̣n văng vẳng bên tai tôi :

" Phải nhổ xong chốt Chu Pao nội trong ngày nay ! Không cần đợi phi pháo !"

Khi mục tiêu được chỉ định, lệnh ban ra, hầu hết các sĩ quan trong Chi Đoàn đều kinh ngạc về sứ mạng hiểm nghèo này .


Chuẩn tướng Lư Ṭng Bá


https://baovecovang2012.file s.wordpress.com/2015/04/kontumkieuhung-ttnvt-lytongba.jpg


Đại úy Hảo, Chi Đoàn phó phá tan bầu không khí nghẹt thở :

- Tại sao Alpha không từ chối cái lệnh quái ác này

Tôi trầm tĩnh nh́n hết anh em đang căng thẳng chờ câu trả lời :

- Xin anh em nhớ Đại tá Tư Lệnh Sư Đoàn là một sĩ quan Thiết Giáp lừng danh, kinh nghiệm trận mạc từ cấp nhỏ, ông có một cái lư nào đó khi ban lệnh.

Chúng ta không có quyền từ chối lệnh này, mặc dù theo tôi, trước mắt chúng ta chỉ có khoảng 20 phần trăm hy vọng chiếm được mục tiêu ! Anh em có ư kiến ǵ hay không ?

Sứ mệnh vô cùng nguy hiểm, hầu như bất khả thi, nên mọi người im lặng, không một ai lên tiếng. Tôi nh́n hết anh em, tôi đảo mắt nh́n núi rừng và sau cùng, mắt tôi dán lên đỉnh Chu Pao.

Rừng thiêng thúc giục, đỉnh cao thách thức, sứ mệnh là máu, là lửa, là đạn, là trách nhiệm đối với Tổ Quốc và có thể cũng là niềm tự hào :

Lần đầu tiên trong chiến sử, chiến xa M41 tiến lên đỉnh núi giải quyết chiến trường.


https://c2.staticflickr.com/8/7193/6820093954_8f91e3960 e_b.jpg


Tôi hít mạnh, buồng phổi căng ra, và cuối cùng, chính tôi chọn phương án tiến quân trong đầu :

H́nh thành một Chi Đội hổn hợp để làm mũi nhọn tấn kích mục tiêu địch, tất cả thành phần c̣n lại sẽ dàn quân tập trung hỏa lực tối đa đổ lửa vào mục tiêu để đánh lạc hướng địch.

Công tác tấn kích trên đỉnh Chu Pao cực kỳ nguy hiểm, nên thành phần tham dự ngoài xe Chi Đoàn trưởng, Chi Đội trưởng Chi Đội trực c̣n kèm theo 3 xe t́nh nguyện.

Tất cả thành phần c̣n lại, Chi Đoàn phó, theo kế hoạch, sẽ cho chiến xa bố trí trong rừng, sát phía Nam Quốc Lộ 14 với nhiệm vụ là hướng tất cả các loại súng lên núi, tác xạ tối đa vào mục tiêu khi Chi Đội vượt tuyến tấn kích trên Quốc Lộ 14 để leo lên núi bằng con đường ṃn.

Phía sau núi Chu Thới có một băi lầy chiến xa M41 không qua được nhưng M113 th́ không trở ngại.

Tôi lệnh cho :

- 2 xe M113 của Chi Đội chỉ huy vượt qua băi lầy, nối cáp dài kéo từng chiếc M41 qua bên nay băi, sau đó, toàn bộ len lỏi trong rừng tiến về hướng Đông Bắc Chu Paọ Tôi chia đội h́nh và kế hoạch tấn công như sau:

- Chiến xa M41 mang số 21 do Thượng sĩ Tôn chỉ huy dẫn đầu có nhiệm vụ ḍ đường, mở đường và soi đường. Khi vừa tới đỉnh sẽ phóng chiến xa đánh thẳng tốc tới phía trước nơi vị trí địch đạt khẩu đại bác 75 ly không giật chế ngự QL14.

- Chiếc kế là chiến xa chỉ huy, khi tới đỉnh sẽ đánh tràn qua hướng Tây để bảo vệ sườn cho chiến xa 21 dẫn đầu.

- Chiếc thứ 3 là chiến xa M41 mang số 11, khi tới đỉnh Chu Pao sẽ vượt qua yên ngựa đánh thẳng về hướng Đông Bắc.

- Chiếc thứ 4 là chiến xa M41 của Chi Đội trưở ng Chi Đội 2, Trung úy Chính, sẳn sàng tiếp ứng khi có lệnh.

- Chiếc thứ 5 là chiến xa M41 của Thiếu úy Chi, Chi Đội phó Chi Đôi 3, khi đến đỉnh phải vượt qua đèo yên ngựa cùng với chiến xa 11 mở rộng đội h́nh dồn địch xuống núi.

- Một Đại Đội của Tiểu Đoàn 4/45 tùng thiết do Đại úy Cẩm, Tiểu Đoàn Trưởng chỉ huy sẽ bám sát chiến xa để bảo vệ và đánh cận chiến với Bắc quân.

Từ tuyến xuất phát dưới chân núi che kín bởi rừng xanh, khi chiến xa số 21 vừa băng ngang QL14 th́ từ những vị trí đă bố trí sẳn, Đại úy Hải cho lệnh khai hỏa tối đa lên đỉnh Chu Pao.

Địch không hề hay biết ǵ về sự chuyển quân của toán xung kích đang âm thầm leo núi, mỗi phút một gang tấc gần về mục tiêu địch. Chiến xa chỉ huy theo sát xe dẫn đầu để rồi từng chiếc thay nhau mất hút trong rừng cây.



https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2018/12/Thiet-doan-8-Ky-binh-tai-Kon-Tum-nam-1972-.jpg


Là một tín đồ Công giáo, tin ở Chúa Ba Ngôi và Đức Mẹ Maria, tôi làm dấu thánh giá lần chót để cầu xin sự b́nh anh cho anh em trong những giây phút phải lao vào tuyến lửa, trước khi đoàn xe biến mất trong mầu xanh dày đặc của núi rừng.

Từ giây phút này, đầu óc tôi căng thẳng, tôi quên tất cả Mẹ già, gia đ́nh, quên anh chị em, quên những người thân thương, và quên đi cả bản thân ḿnh, trong tâm trí tôi chỉ c̣n lại có một điều quan trọng sinh tử :

"Phải đè bẹp địch ngay trong những phút giây đầu tiên khi phóng vào tuyến địch. Nếu không làm được chuyện này,/i] tất cả anh em sẽ phải bỏ xác trên đỉnh Chu Pao, và chiến xa sẽ vùi chôn dưới vực thẩm oan nghiệt dưới chân núi."

Lối ṃn lên đỉnh Chu Pao dài không tới một cây số mà hôm nay tôi tưởng nó kéo dài ra vô tận. Mười phút trôi qua mà tôi tưởng như cả đời người.


Cho đến hôm nay, hơn 30 năm trôi qua , khi nhớ lại trận đánh kỳ lạ này, tuy vẫn c̣n những cảm giác hănh diện và thích thú, /i]nhưng dường cảm giác ớn lạnh trên tuyến đầu lửa đạn trong trận đánh vẫn c̣n chạy trên gáy tôi như mới vừa xẩy ra trên đỉnh núi ngày nào./i]

Nối đuôi nhau, âm thầm, trừ tiếng vang nhẹ của xích sắt, chiếc này ḅ theo chiếc kia, xích sắt chiếc sau lăn chính xác in đè lên vết xích chiếc trước, bộ binh tùng thiết in vết dày theo vết chiến xa.

Tất cả đều đạn lên ṇng, căng cứng, cẩn trọng khi đối diện với tử thần.

- Tử thần là địch

- Tử thần là ḿn

- Tử thần là vực thẳm cận kề vết xích lăn của chiến xa, sai một ly là đi một dậm xuống đáy chân đồi.

Tiếng đại bác, đại liên qua lại từ dưới bắn lên, từ trên nả xuống kéo dài liên tục nhận ch́m rừng núi trong một âm thanh điên cuồng, hổn loạn. Tiếng xích sắt chuyển động của đoàn chiến xa leo núi biến mất trong tiếng đạn nổ liên hồi.

Chiến xa cứ ḅ lên, vượt thêm một đoạn nữa, tôi chợt thấy một phần của đỉnh Chu Pao, phần yên ngựa, nơi thấp nhất nối liền mơm núi phía Đông và rặng núi phía Tây.

Tất cả hệ thống vô tuyến đều im lặng, gương mặt chiến binh lạnh lùng trên pháo tháp, lạnh lùng theo vết chân tùng thiết, chờ đợi một cuộc xung phong tập kích quyết liệt bất ngờ vào tuyến địch. Thời tiết trên đỉnh Chu Pao c̣n rất lạnh nhưng áo trận của tôi vẫn đẫm ưới mồ hôi.


Đồi Chư Pao



https://donghuongkontum.file s.wordpress.com/2015/08/nc3bai-chc3a0-bang-ninh-thue1baadn.jpg


Đứng trong vị trí của trưởng xa, khẩu đại liên 50 đă được nối với 5 thùng đạn. Một thùng lựu đạn được tháo khỏi hộp, sẳn sàng sử dụng khi chiến xa ủi thẳng tới hầm địch khi đại bác và đại liên không c̣n hiệu quả mà chỉ có lựu đạn và lưỡi lê .

Bên phải tôi, Thượng sĩ Bào thuộc phân đội chiến xa chỉ huy mặt đanh lại, hai tay gh́m chặc khẩu đại liên 50 sẳn sàng nhả đạn.

Tôi hồi hộp nh́n theo chiến xa dẫn đầu mang số 21, khoảng cách lên tới đỉnh núi một lúc một rút ngắn, tim tôi muốn vỡ tung trong lồng ngực khi chiến xa đầu vừa lên khỏi dốc.

Bắc quân vẫn không hay biết ǵ về sự có mặt của những con cua sắt định mệnh trên đỉnh Chu Pao ngay sát nách hầm hố của các chốt. Bỗng Tôn hét trong hệ thống âm thoại:

- Mục tiêu hướng 12 giờ ! Khoảng cách 50 mét ! Bắn !

Tiếng đại bác và đại liên của xe đầu dệt thảm lửa vào các mục tiêu địch. Chợt hai tiếng nổ liền nhau từ hướng 3 giờ của xe mang số 21, nó bị khựng lại, tôi hét lớn trong máy.

- 21 lao thẳng vào mục tiêu ! Để hướng 3 giờ cho tôi thanh toán !

Hai tiếng nổ tiếp theo, chiếc 21 bốc cháy. Ngay lúc đó xe chỉ huy vượt qua chỗ đất bằng, ép qua bên phải, đại bác và đại liên càn quét tất cả khu vực trước mặt, cây cối thi nhau rạp ngả, cách xe chi huy chừng 20 mét là khẩu đại bác 75 ly không giật đặt trên tảng đá cao quay ṇng về xe chỉ huy.

Trong gang tấc chết sống, tôi tung hai qua lựu đạn về hướng địch. Địch khai hỏa thẳng vào xe chỉ huy, đạn trúng bên hông pháo tháp, Bào bị thương, máu văng tung tóe vào mặt tôi. Tôi hét :

- Kéo Bào vào trong ! Nạp thêm đạn !

Tôi chụp khẩu đại liên 50 đẩy gần hai thùng đạn vào vị trí khẩu 75 ly địch. Trong nháy mắt, ba chiến xa sau vọt tới, tôi điều động gấp rút qua âm thoại :

- 11 vượt qua yên ngựa, tấn công mục tiêu hướng 3 giờ !

- Chính số 2 phối hợp 11 mở rộng đội h́nh càn quét mục tiêu !

- 34 tấn công hướng trước mặt xe 21 !


Lệnh ra như một cái máy. Các chiến xa nhận lệnh phóng ào vào mục tiêu và hướng chỉ định .

Lúc này ta và địch sát nhau, có chỗ địch kẹt dưới hầm, chiến xa cán lên trên, có nơi địch và ta cài răng lược, cận chiến, đại bác, đại liên trở thành vô dụng, lựu đạn được dùng tối đa.

Địch bám chốt cả một tiểu đoàn, quân số quá đông, địa thế lại chật hẹp, khó xoay trở, ḿnh tung lựu đạn xuống, địch tung lựu đạn lên. Tôi chụp máy hét :

- Cẩm cho con cái nhào vô tiếp sức gấp !

Liền đó, Đại Đội tùng thiết của Đại úy Cẩm từ mé rừng tràn vào hai hướng tấn công của chiến xa và một trận đánh cận chiến vô cùng hào hùng và ác liệt đă diễn ra.

Lưỡi lê tuốt trần, lựu đạn nổ khắp nơi. Ta và địch quyện nhau trong trận tử chiến kinh người ngay trên đỉnh Chu Pao.




https://4.bp.blogspot.com/-of3hteRnRIE/UrSI4Su-S_I/AAAAAAAAGyI/n7-C5vEkwQA/s640/tanks_at_pleiku.jpg


Có bộ binh yễm trợ, Trung úy Chính, Chi Đội trưởng Chi Đội 2 tức tốc dẫn hai chiến xa tràn qua mơm bên kia của yên ngựa, nơi mà trước đó bộ binh sau gần một tuần quần thảo với Bắc quân đă không chiếm được.

Giờ này, chiến xa và bộ binh đang cày nát từng công sự pḥng thủ của địch. Cùng lúc đó, tại yên ngựa, chiến xa đă ủi sập một một số hầm chữ A chống phi pháo của Bắc .

Một số chết chôn tại hầm, một số c̣n sống không c̣n chỗ trú ẩn, tàn quân địch thoát chạy xuống triền phía Bắc của núi Chu Pao, liều mạng chống trả bằng B40, B41 và lựu đạn, nhưng cuối cùng đă bị đánh bật khỏi vị trí, bỏ của, bỏ vũ khí và xác đồng chí... để chạy lấy người.

Trong đời binh nghiệp, chưa bao giờ tôi được chứng kiến và trực tiếp tham dự một trận đánh tuyệt vời của sự phối hợp nhịp nhàng giữa bộ binh và thiết giáp như lần này.

Chiêu ."nhị thức" ( bộ binh - thiết giáp) đă san bằng các chốt địch trên đỉnh Chu Pao, điều mà các tướng Bắc quân đă bàng hoàng và không bao giờ nghĩ tới. Làm sao, có sĩ quan nào trong binh sử nghĩ tới chuyện dùng chiến xa leo lên núi phá chốt địch ?!



T1cOXiyjvpo


Đứng trên đỉnh núi, tôi ngẫng mặt nh́n trời, thầm nghĩ :

"Chiến công này là của tất cả anh em! Là niềm vui của Chi Đoàn /18. Là niềm tự hào của quân lực, của Sư Đoàn 23 và của tôi!"

Nhưng rồi, những vết máu của Thượng sĩ Bào khô lại trên mặt, trên áo chiến của tôi đă làm tôi đau xót [/color][/size][/b]về những thương vong, mất mát của thuộc cấp, của anh em thiết kỵ cũng như bộ binh trên đỉnh Chu Pao oan nghiệt mà suốt đời tôi cũng không thể nào quên.

Ḷng tự hào trong tôi, người lính tác chiến vừa hoàn thành nhiệm vụ khó khăn được thương cấp ủy thác, bị nguội lạnh và vơi đi .


Chiến thắng nhổ nguyên một tiểu đoàn Bắc quân đóng chốt trên đỉnh Chu Pao đă giữ cho Kontum sống, đă làm buồng ngực của anh em thiết kỵ và Sư Đoàn 23 BB căng phồng niềm tự tin và tự hào, và điều này môt phần đóng góp cho chiến thắng trong trận ác chiến giải tỏa Kontum sau nàỵ..

Sau khi báo cáo kết quả trận đánh lên Sư Đoàn, Đại tá Tư Lệnh chỉ thị cho :

- Tiểu Đoàn 4/45 BB ở lại giữ đồi Chu Pao

- Chi Đoàn 1/8 Chiến xa rút về Pleiku để nhận tiếp tế và vài ngày sau đó lại nhận lệnh di chuyển lên Kontum, để rồi trở thành đơn vị Thiết Kỵ duy nhất có mặt trong các trận ác chiến giải vây thành phố này

Chiếc trực thăng của Tư Lệnh Sư Đoàn quần trên ṿm trời chiến địa. Đỉnh Chu Pao đă im tiếng súng.

Cờ vàng ba sọc phất phới trong gió trên mơm đá mà trước đó mấy giờ, 75 ly không giật của Bắc quân c̣n uy hiếp Quốc Lộ 14.

Đại tá Tư lệnh Lư Ṭng Bá gởi qua âm thoại lời khen và chào mừng anh em. Từ trực thăng, ông nh́n xuống những mơm đá tử thần trên đỉnh Chu Pao, niềm tự hào về cánh quân Thiết Kỵ của Chi Đoàn 1/8 tràn ngập tim ông.

Ông nghĩ đến cái lệnh ban đầu phải nhổ chót Chu Pao bằng mọi giá, và anh em đă hoàn thành sứ mệnh trong một trận đánh tuyệt vời trong chiến sử Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Ông nói như để ḿnh ông nghe :

"Chú Vinh ! Gia đ́nh Tài Lực của chú số một!"

Lê Quang Vinh

(Edit: Hải Triều)


Ghi chú:

Báo cáo kết quả trận đánh lên Sư Đoàn:

Thiết Giáp :

- 1 chiến xa bị phá hủy.

- 2 tử trận.

- 4 bị thương.

Bộ binh :

- 7 tử trận.

- 12 bị thương .

Bắc quân :

- 30 tử thương bỏ xác tại chỗ.

- Một số chết bị chôn lấp dưới hầm sập không đào lên được.

- Thu 17 súng đủ loại, trong đó có 2 đại bác không giật 75 lỵ [/color][/size][/b]


Lê Quang Vinh

Khóa 19 VB Thủ Đức

Binh chủng Thiết Giáp. Chi đoàn trưởng Chi Đoàn 1/8 Chiến Xa[i]

Đơn vị và chức vụ cuối cùng:

Thiết Đoàn Phó Thiết Đoàn 8 Kỵ Binh Thiết Giáp

hoanglan22
12-30-2020, 16:24
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1716514&stc=1&d=1609345219

Các chiến si TĐ52BĐQ

Hàng năm, cứ đến khoảng tháng 4, tháng 5, tôi đều nhớ đến những kỷ niệm đau buồn trong cuộc đời đă qua của ḿnh – Ngoài nỗi buồn đau thương nước mất nhà tan, một kỷ niệm buồn nữa đă in sâu trong tiềm thức tôi, mà tôi không bao giờ có thể quên được, đó là cái chết của con "mănh hổ đầu đàn" trong thập niên 1960 của TĐ 52/BĐQ, người mà tên tuổi đă gần như gắn liền với danh hiệu "Sấm Sét miền Đông": Thiếu Tá Nguyễn Hiệp. Tôi là người mang nhiều cơ duyên với Thiếu Tá Hiệp.

– Lần đầu tiên khi ra trường được phục vụ tại TĐ 52, dưới sự chỉ huy của Anh
– Và cũng lần cuối cùng chính tôi vuốt mắt tiễn Anh về bên kia thế giới, trong đơn lạnh, nghẹn ngào, tức tưởi tại khám Chí Hoà, sau ngày đen tối nhất của lịch sử Việt Nam, ngày 30-4-1975.

Anh đă bị một kẻ vô danh tiểu tốt, thiếu ư thức, thiếu giáo dục và căn bản đạo đức, cho nên chỉ v́ chút hiềm khích cá nhân, lợi dụng lúc anh đang tắm, xát xà bông đầy người, hắn đă dùng một độc chiêu của vơ thuật Judo để hạ anh ngă đập đầu trên nền xi măng, bên miệng giếng, trong sân khám đường Chí Hoà, khoảng tháng 5-1975, khiến anh phải bỏ mạng.

Tệ hại hơn nữa là trong khoảng thời gian Anh hấp hối 4, 5 tiếng đồng hồ, bọn cai tù VC, đă không đưa Anh đi cấp cứu, hay chữa trị cho Anh tại chỗ, mà chúng đă bỏ Anh nằm quằn quại, chịu đau đớn và rồi lặng lẽ trút hơi thở cuối cùng, trong ṿng tay của tôi, sự uất ức, căm hờn khiến Anh, dù đă tắt hơi, mà mắt vẫn mở trừng trừng trong ánh sáng mờ nhạt của pḥng giam.

Cơ Duyên Gặp Gở
Lần đầu tôi gặp Anh là vào khoảng tháng 6-1968, sau khi măn khóa 26 Trường Bộ Binh Thủ Đức – Tất cả các tân Sĩ Quan chọn binh chủng LLĐB, trong đó có tôi, đều được tự động đưa qua binh chủng BĐQ, v́ LLĐB đă nhận đủ. V́ yêu màu áo hoa rừng, thích phiêu lưu mạo hiểm, nên tôi đă chấp nhận gia nhập BĐQ.

– Vậy là khoá tôi gần 100 tân sĩ quan bổ sung cho BĐQ, chúng tôi được xe GMC đón về BCH ở Sàig̣n, tại đây chúng tôi bốc thăm về các Liên Đoàn BĐQ trên 4 Vùng Chiến Thuật
– Tôi được nằm trong số 20 người về LĐ3, vùng 3 Chiến Thuật
– V́ nhu cầu chiến trường, chúng tôi được đưa ngay về BCH/LĐ3 ở Biên Hoà, lại một lần nữa bốc thăm về các Tiểu Đoàn của LĐ
– Tôi và 4 người nữa bốc trúng thăm về TĐ 52/BĐQ, tôi c̣n nhớ tên các anh Quư, Nhung, Nam (một người nữa tôi không nhớ v́ anh chỉ ở TĐ vài tháng rồi chuyển về Không Quân).
– Tiểu Đoàn cũng đang thiếu sĩ quan Trung Đội Trưởng, nên chúng tôi lại được xe Jeep của TĐ đưa ngay về tiền cứ của TĐ ở đồi Tân Phong, cách thị xă Xuân Lộc, Long Khánh khoảng hơn 5 cây số, tại đây, TĐ đang tăng phái cho Sư Đoàn 10/BB (tiền thân SĐ 18/BB) để hành quân trong vùng Rừng Lá.

Tại BCH/TĐ, trên đỉnh đồi Tân Phong, trong pḥng thuyết tŕrnh của BCH/TĐ, chúng tôi hồi hộp ngồi chờ Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng về để phân phối chúng tôi đi các Đại Đội. Trong khi chờ đợi, chúng tôi được tiếp đón bởi một vị Thiếu úy, tự giới thiệu tốt nghiệp khóa 22 Đà Lạt, tên Nguyễn Ngọc Khoan. Anh cũng mới về TĐ độ hơn 3 tháng, hiện là Phụ tá Ban 3. Anh giới thiệu sơ qua cho chúng tôi biết về đơn vị và các cấp chỉ huy của TĐ và ĐĐ như sau:

– Tiểu Đoàn Trưởng Thiếu Tá Nguyễn Hiệp.
– Tiểu Đoàn Phó Đại úy Nguyễn Công Thông.
– Đại Đội Trưởng ĐĐ1 Đại úy Nguyễn Văn Niên.
– Đại Đội Trưởng ĐĐ2 Đại úy Hồng Khắc Trân.
– Đại Đội Trưởng ĐĐ3 Đại úy Nguyễn Ngọc Quang.
– Đại Đội Trưởng ĐĐ4 Đại úy Trần Thanh Thuận.

Anh c̣n cho biết thêm, sau khi hành quân xong, toàn bộ TĐ sẽ trở về đóng quân tại đây và tiền cứ các ĐĐ cũng đóng trên các đồi nhỏ trong đồi này.

Khoảng xế chiều, Thiếu Tá Hiệp họp trên Sư đoàn trở về. Ông vui vẻ bắt tay chúng tôi với lời chào đón thân t́nh, nhưng nét mặt ông rất nghiêm nghị, ông chỉ định tôi về ĐĐ 4, Ch/u Nhung về ĐĐ 1, Ch/u Nam về ĐĐ 2, Ch/u Quư về ĐĐ 3, c̣n một người cao lớn, bự con, ở lại làm việc tại BCH/TĐ, thuộc Ban 2, ngày ngày ngồi xe Kiểm Soát BĐQ, tuần tiễu ngoài thị xă Xuân Lộc, kiểm soát các quân nhân thuộc TĐ, tránh phiền hà cho dân chúng và đơn vị bạn.

Tôi được đưa về ĐĐ4 ngay. Đại úy Thuận chỉ định tôi làm Trung đội trưởng Trung đội 1. Trung đội phó là một Thượng sĩ và 3 Tiểu đội trưởng là ba Trung sĩ, tất cả 4 Hạ sĩ quan này đều lớn tuổi, rất dày dạn gió sương và đầy kinh nghiệm chiến trường. Trung đội khoảng trên dưới 25 người, đa số là lớp lính cũ, thâm niên tác chiến, rất ít tân binh, mới nhất chỉ có tôi là tân trung đội trưởng của họ mà thôi. Đặc điểm của TĐ này là thuộc cấp không bao giờ gọi cấp bậc Chuẩn úy, mà họ toàn gọi là Thiếu úy. Tôi có thắc mắc, họ giải thích chung chung là Thiếu úy dễ gọi hơn, vả lại họ đă quen từ xưa rồi,

Thiếu úy? Ráng chịu vậy.

Chẳng hiểu hên hay xui, tôi về Trung đội 1 là Trung đội cứng nhất của ĐĐ, nên khi hành quân, TĐ luôn đi đầu, nhất là thời gian này, Tiểu đoàn đang tăng phái cho Sư đoàn 10/BB.

Tiểu đoàn luôn được tung vào hành quân vùng Rừng Lá, Vơ Su, Vơ Đắc, cánh quân Đại Đội 4 luôn luôn do Trung đội 1 chúng tôi làm mũi nhọn xung kích và thường được ĐĐ cho hành quân đơn lẻ, ở lại phục kích đêm trong vùng hành quân.

Cứ thế, trong suốt thời gian tăng phái, cả Tiểu đoàn hành quân liên miên, hết hành quân lại ứng chiến 100% ở sân bay, để chờ đổ quân tiếp viện. Tiểu đoàn chúng tôi đă hành quân khắp các địa danh nổi tiếng vùng Long Khánh như núi Chứa Chan, La Ngà, Định Quán, Rừng Lá, Vơ Su, Vơ Đắc v.. v… Sau khi hành quân vùng La Ngà, hơn nửa Tiểu đoàn bị sốt rét nặng, hàng ngày đều có binh sĩ tử vong v́ bịnh sốt rét, nên toàn bộ TĐ được rút về băi biển Hàm Tân để nghỉ dưỡng quân và trị bệnh sốt rét. Trong số sĩ quan bị sốt rét, có cả tôi, do đó trung đội tôi hoàn toàn được nghỉ ngơi tại băi biển này một cách thoải mái trong suốt 3 tuần lễ Tiểu đoàn đóng quân tại đây.

Sau khi dưỡng quân, tái bổ sung và trang bị, toàn thể Tiểu đoàn được bốc bằng trực thăng Chinook đổ vào căn cứ Sóc Con Trăng thay thế cho Tiểu đoàn 36/BĐQ. Trong khu vực trách nhiệm của ĐĐ 4, Trung đội 1 của tôi đă được Đại Đội Trưởng chiếu cố nhiều nhất, Trung đội đă được tung ra mỗi ngày một xa căn cứ hơn – Mỗi lần chạm địch đều gặt hái kết quả, mà tổn thất về ḿnh không đáng kể, nên tôi được tiếng là không sát quân. Tuy nhiên Thiếu Tá Hiệp là một vị chỉ huy rất kỹ, ông không cho bung quân quá xa mà phải luôn luôn trong tầm kiểm soát, yểm trợ của Pháo Binh 105 ly và trên trời luôn có L.19 hoặc trực thăng chỉ huy bao vùng, để sẵn sàng yểm trợ khi có chạm địch mạnh.

Tôi c̣n nhớ rơ một buổi trưa nắng đẹp, Thiếu Tá Hiệp bay trên trực thăng chỉ huy kiểm soát các ĐĐ trực thuộc. Khoảng cuối tháng 12-1968 – Các ĐĐ tung các Trung đội hành quân lục soát sâu vào trong rừng, quanh căn cứ độ khoảng 1 tới 3 cây số từ sáng sớm và cho đến giờ này, trên vùng căn cứ các Trung đội đă phải tiến chiếm và lục soát các mục tiêu sâu ở trong rừng rồi, do đó khi Tiểu đoàn trưởng trên trực thăng, muốn kiểm soát cánh quân phía dưới, chỉ cần lệnh cho họ ném khói màu là biết các trung đội phía dưới có thi hành đúng lệnh hành quân hay không.

Sau chuyến bay kiểm soát này, tôi đă được ông khen ngợi là có tinh thần trách nhiệm, thi hành lệnh nghiêm chỉnh, nên đă đạt nhiều thành tích cho ĐĐ. Ngược lại, ông đă phạt nặng Chuẩn úy Nhung của ĐĐ 1, v́ anh đă nằm một chỗ mà báo cáo chứ không cho Trung đội tiến lên. Ông đưa anh ra toà án quân sự với tội danh căi lệnh thượng cấp tại mặt trận, nên anh này đă bị giáng cấp và thuyên chuyển khỏi Tiểu đoàn. Riêng tôi, đây chính là cơ duyên đă đưa tôi đến gần ông hơn, qua chuyến bay kiểm soát hành quân này của ông.

Đó là do nhu cầu, v́ Tiểu đoàn tăng phái cho Lữ đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ, Tiểu đoàn cần một sĩ quan có khả năng thông thạo Anh ngữ. Qua phần lư lịch của tôi, ông đă duyệt qua, tôi đă có bằng Anh ngữ, đă làm cho sở Mỹ 4 năm trước khi nhập ngũ, nên ông ra lệnh rút tôi về nhận nhiệm vụ khác.

Tôi vào tŕnh diện Thiếu Tá Hiệp ngay chiều hôm đó. Ông vui vẻ, thân thiện bắt tay tôi, nhưng nét mặt rất nghiêm nghị, ông nói: “Moa rất thích những sĩ quan trẻ làm việc có trách nhiệm cao như toa”. Ông lệnh cho tôi làm việc ở Bộ chỉ huy Tiểu đoàn và sáng sớm hôm sau, ông sẽ đưa tôi ra căn cứ Tống Lê Chân bằng trực thăng. Ở đây, tôi sẽ là sĩ quan chỉ huy tiền trạm của TĐ, vừa là Sĩ quan liên lạc của TĐ bên cạnh tiền cứ của Lữ đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ có trách nhiệm đại diện TĐ nhận lănh tiếp liệu, nhu yếu phẩm cho TĐ, do Lữ đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ cung cấp.

Trong thời gian làm việc ở Tống Lê Chân, tôi thi hành nhiệm vụ một cách nghiêm chỉnh và đạt kết quả tốt cho Tiểu đoàn, v́ với sự ngoại giao khéo léo của tôi, nguồn tiếp tế cho TĐ luôn được đầy đủ, c̣n có phần dư thừa để dự trữ cho TĐ
– Tôi cũng c̣n linh động dùng những phần ăn do Quân đội Mỹ cung cấp, đổi lấy thực phẩm tươi cho TĐ, v́ thế anh em binh sĩ không cảm thấy khó chịu khi trú đóng lâu dài ở căn cứ trong rừng sâu.

Sau gần 2 tháng đảm trách nhiệm vụ này, Thiếu Tá Hiệp gọi tôi vào tŕnh diện, ông giao cho tôi nhiệm vụ khác, đó là phụ tá Ban 3, làm việc cùng Đại úy Niên, tân Tiểu đoàn Phó, bên BCH nhẹ, c̣n Đại úy Trân là Trưởng Ban 3 của tôi làm việc bên BCH Tiểu đoàn.

Kể từ ngày đó, tôi chính thức làm nhiệm vụ của một sĩ quan Phụ tá Ban 3, tôi luôn túc trực trong pḥng hành quân, để theo dơi diễn tiến của các cánh quân, để cung cấp, yểm trợ Phi Pháo theo yêu cầu khi cần.

Qua đầu tháng 1-1969, Tiểu đoàn được điều động về hành quân bảo vệ ven đô Sàig̣n, TĐ vẫn hành quân phối hợp với Lữ đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ. Tiểu đoàn được trách nhiệm 2 vùng:

– BCH Tiểu đoàn và 2 ĐĐ trách nhiệm vùng xa lộ Biên Hoà – Sàig̣n, từ phía Đông xi măng Hà Tiên chạy dài xuống ngă ba Cát Lái, BCH/TĐ đóng tại bên này cầu xa lộ
– BCH nhẹ do Đại úy Niên chỉ huy cùng 2 ĐĐ chịu trách nhiệm vùng B́nh Triệu, dọc theo đường trong đi Thủ Đức, tới cầu B́nh Lợi về hướng Bắc.

Thời gian này, Thiếu Tá Hiệp được thuyên chuyển về phục vụ ngành Cảnh Sát Quốc Gia. Trước khi rời TĐ, ông cho tôi biết là ông đă đề cử tôi đi học khóa Tác chiến trong rừng bên Mă Lai, vào tháng 10-1969. Tôi c̣n nhớ rơ câu nói của ông khi gặp tôi: "Moa đề cử toa v́ moa tin tưởng với khả năng Anh ngữ của toa, sẽ không làm mất mặt binh chủng BĐQ của ḿnh khi du học bên Mă Lai, vả lại với sự lanh lẹ, tháo vát, cộng với tinh thần trách nhiệm cao, toa rất xứng đáng được moa đề cử đi học khóa này".

Câu nói này đă làm tôi nhớ măi trong đời và cũng chính câu nói tin tưởng khích lệ đó. Tôi đă không hổ danh là một BĐQ khi đi du học khóa 52 Tác Chiến trong rừng ở Mă Lai, v́ chính tôi lại được chọn làm sĩ quan thông dịch trừ bị cho khóa, mỗi khi sĩ quan thông dịch bịnh hay vắng mặt. Trong khi thi hành toán thực tập hành quân, do tôi làm trưởng toán, chúng tôi đều dẫn đầu lớp về thực tập hành quân. Điều này đă mang lại kết quả vẻ vang, đại diện cho binh chủng du học nước ngoài – BCH/BĐQ Trung Ương đă được thông báo kết quả cụ thể này của Tổng Cục Quân Huấn/Bộ TTM, khi chúng tôi măn khóa trở về đơn vị.

Tháng 12-1969, tôi du học Mă Lai trở về tŕnh diện Liên Đoàn th́ được Trung Tá Liên Đoàn Trưởng giữ lại làm việc tại BCH/LĐ, với chức vụ phụ tá Ban 3, đặc trách sĩ quan Không trợ Liên đoàn. Trưởng Ban 3 là Thiếu Tá Ngô Văn Mai, Liên đoàn Trưởng là Trung Tá Phạm Văn Phúc.

– Hiện LĐ đang đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, với nhiệm vụ phối hợp hành quân cùng Lữ Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ.
– Có lẽ v́ vậy mà Thiếu Tá Mai rất cần một phụ tá như tôi, mỗi khi giao dịch hay hành quân chung với đơn vị bạn, nên xin với Trung Tá LĐT cho tôi về làm việc với ông chăng. Tôi phục vụ tại BCH/Liên Đoàn với nhiệm vụ một sĩ quan tham mưu hành quân, qua hai thời Liên Đoàn Trưởng là Đại Tá Phạm Văn Phúc và Đại Tá Nguyễn Văn Biết.
– Tôi đă cùng Liên Đoàn tham dự tất cả các cuộc hành quân lớn nhỏ, trong nội địa, cũng như ngoại biên, cho đến ngày đơn vị hoàn toàn tan ră 30-4-1975, ngày đau thương nhất của Quân Lực VNCH, mà mỗi quân nhân chúng ta không bao giờ quên được.

Tái Ngộ Trong Nghiệt Ngă
Sau ngày 30-4-1975, miền Nam bị VC chiếm đóng, chúng ra thông báo cho các sĩ quan cấp Tướng, Tá tŕnh diện đi “học tập cải tạo” trong tháng 5, sĩ quan cấp úy tŕnh diện trong tháng 6. Trong khoảng thời gian chờ đợi đi tŕnh diện, tôi thường hay lên thăm anh Biết ở Thủ Đức. Chúng tôi thường đàm luận về t́nh h́nh, tiên đoán tương lai, số phận của chính ḿnh và tự hỏi không biết cuộc đời sẽ ra sao, có thể chung sống với bọn họ được hay không

– Sẽ được yên lành trong nghèo đói, hay sẽ bị khó dễ đủ điều, thậm chí c̣n có thể bị thủ tiêu nữa
– Chẳng có câu giải đáp nào thoả đáng, buồn quá, chúng tôi chỉ biết uống rượu giải sầu

– Nhưng rồi càng uống càng buồn, nhất là anh Biết, thường nhắc với tôi đến những anh em đồng đội, thuộc cấp bị kẹt lại ngoài Phan Rang, mà không biết số phận ra sao như Đại úy Tài, Bác sĩ Đức của BCH/Liên Đoàn, Thiếu Tá Minh, Thiếu Tá Tú Tiểu đoàn Trưởng và các Hạ sĩ quan ông từng biết tên, nhớ mặt. Ông nhắc đến từng người với nét mặt lo buồn, thương tiếc.

Đến ngày sĩ quan cấp Tá đi tŕnh diện, chị Biết có nói với anh Biết nhờ tôi dùng xe Honda của nhà, chở anh về Sàig̣n tŕnh diện, xong rồi đem xe về nhà giúp chị, đồng thời cho chị biết tin tức cuả anh luôn thể. Tối đó, tôi ngủ tại nhà anh Biết để sáng hôm sau đưa anh về Sàig̣n tŕnh diện như chị dự định

– Khi anh Biết tŕnh diện và được họ tiếp nhận, tôi đem xe về Thủ Đức trả lại cho gia đ́nh anh Biết và để thông báo tin tức cho chị.

– Nhưng khi vừa dừng xe trước nhà anh, th́nh ĺnh có một toán du kích địa phương, khoảng 10 tên, chỉ huy bởi một tên mặc đồ bộ đội, hắn dùng K.54 chĩa vào đầu tôi, các tên kia cầm AK.47 bao quanh tôi với vẻ mặt rất nghiêm trọng và đầy sát khí. Chúng bắt tôi dắt xe theo chúng, tôi phải dắt xe đi bộ đến quận Thủ Đức, đến nơi, chúng dắt xe đi mất, c̣n tên mang K.54 bảo tôi theo hắn vào pḥng làm việc. Tôi c̣n nhớ rơ trên đường đi bộ đến quận, lâu lâu liếc lại phía sau, tôi bắt gặp cô Hồng, em vợ anh Biết, đă âm thầm theo dơi xem chúng dẫn tôi đi đâu. Khi tôi đưọc dẫn vào quận Thủ Đức th́ không thấy cô nữa, tôi đoán có lẽ cô trở về cho chị Biết hay tin.

Trong một căn pḥng của quận Thủ Đức, tôi bị một tên mặc thường phục, giọng người Nam hỏi cung tôi
– Tôi nghĩ tên này là một tên cán bộ nằm vùng ở đây lâu lắm rồi, nay ra mặt để nhận diện và bắt tất cả các sĩ quan trong vùng chưa kịp đi tŕnh diện.

Đầu tiên hắn hỏi tôi dồn dập:
– Là sĩ quan cấp Tá sao anh không đi tŕnh diện để “học tập”? – Anh đưa Đại Tá Biết đi đâu? – Anh đưa anh ta đi dấu ở đâu? – Trở về nhà anh ta làm ǵ?

Không hiểu sao lúc này tôi lại b́nh tĩnh lạ thường và từ tốn trả lời hắn:
– Tôi là sĩ quan cấp Úy, không phải cấp Tá
– Tôi chở anh Biết về Sàig̣n tŕnh diện đi “học tập” rồi. C̣n tôi đem xe về nhà để trả cho chị ấy, có vậy thôi!

Hắn không chịu, nhất định kết tội tôi là sĩ quan cấp Tá, trốn tŕnh diện, với lập luận rất ư khôi hài của hắn. Tôi ghi ra đây để quư vị thấy sự tuyên truyền nhồi sọ của bọn lănh đạo cũng như sự ngu xuẩn của tầng lớp cán bộ Việt cộng:
– Anh nói là sĩ quan cấp Úy, tôi không tin, v́ quân đội “Nguỵ”, sĩ quan cấp Tá không chơi với sĩ quan cấp Úy. Chúng tôi biết anh rất thân thiết với anh Biết, v́ từ trước “giải phóng”, đến sau này, chúng tôi đă theo dơi chặt chẽ nhà anh Biết, nên thấy anh thường xuyên ra vào gia đ́nh này. Anh không phải sĩ quan cấp Tá, sao lại ra vào thân thiết, dễ dàng như vậy?

Tôi nghĩ ngay, bọn chúng đă để ư theo dơi nhà anh Biết từ lâu và có lẽ chúng cũng biết tôi chỉ là cấp Úy, nhưng cố t́nh bắt tôi để nuốt chiếc xe Honda của anh chị Biết, v́ cho dù tôi có đưa giấy tờ xe ra, th́ giấy đó cũng không phải tên tôi. Thời điểm đó không có một chút ǵ được gọi là luật lệ cả.

Hắn bắt tôi kư vào biên bản nhận tội. Tôi nhất định không kư. Sau cùng tên thẩm vấn nói:
– Anh ngoan cố, không nhận tội, tôi tạm giữ anh lại đây để điều tra, để biết thêm đồng phạm của anh.
– Tôi đă nói, tôi chỉ là sĩ quan cấp Úy, chưa đến ngày tŕnh diện, sao các anh bắt tôi, hăy thả tôi về, tới ngày tŕnh diện sĩ quan cấp Úy, tôi sẽ đi tŕnh diện.

– Các anh coi thường chúng tôi quá, “cách mạng” chúng tôi biết hết mọi điều các anh làm. Đoán biết mọi điều các anh đang nghĩ và tính toán, chúng tôi c̣n biết một số các anh tính trốn “tŕnh diện học tập”, để sau này kết bè, kết đảng chống phá “cách mạng” chứ ǵ.
– Các anh có bằng chứng ǵ cụ thể chứng minh, nếu không, xin anh thả tôi về.

– Tôi tạm giữ anh lại đây để cấp trên điều tra và sẽ cho anh về khi chúng tôi có bằng chứng cụ thể. Nói xong, hắn bảo mấy tên du kích dẫn tôi về pḥng tạm giam.

Nơi tạm giam là một căn pḥng mà cửa sắt bít kín hết, chỉ có một cửa sổ nhỏ bằng lưới độ 2 tấc vuông, trong pḥng chỉ có 1 bóng đèn yếu ớt, ánh sáng mờ mờ, mới bị đẩy vào, tôi chưa nh́n được chung quanh và nhận định ra vị trí căn pḥng. Buồn chán, tôi ngồi phệt xuống ngay tại chỗ, nhắm mắt lại định thần.

Suốt chiều đó, chúng dẫn tôi lên hỏi cung mấy lần nữa, nhưng tôi đều cương quyết không nhận tội, sau cùng tên cán bộ tuyên bố:
– Chúng tôi chính thức bắt giữ anh, tạm giam anh ở đây. Tôi cũng cho anh biết, ngoài anh ra, chúng tôi đă bắt nhiều tên sĩ quan ngoan cố như anh, bọn họ cũng là sĩ quan cấp Tá mà không chịu đi tŕnh diện học tập, các anh đă bỏ mất cơ hội để trở thành công dân chân chính của chế độ mới rồi đó.

Câu nói của tên cán bộ VC đúng một phần trên, đó là chúng đă bắt giam nhiều người rồi, v́ trong căn pḥng giam nhỏ xíu này, đă có hơn 40 người, chỉ đủ chỗ ngồi sát vào nhau. Tối hôm đó, chúng tôi nhịn đói nằm trong pḥng giam v́ tôi hỏi những người chung quanh đều bị bắt vào buổi sáng, mà đến giờ đó chưa có ǵ ăn cả – Sự lo lắng, mệt mỏi, sợ hăi đă làm mọi người quên cả đói, hoặc có nhớ đến, cũng không dám kêu, v́ không biết chúng sẽ đối xử với ḿnh như thế nào!

Sáng sớm hôm sau, chúng lại dắt tôi ra pḥng làm việc, tên cán bộ hỏi cung tôi chiều qua cho biết, hắn sẽ giải tôi lên cấp cao hơn ở Sàig̣n giải quyết Ngoài sân đă đậu sẵn một xe GMC, trên xe có khoảng 10 người, mặt mũi người nào cũng xanh xao, u sầu. Tên du kích gác trên xe kéo tôi lên, tôi vừa ngồi xuống th́ chúng dẫn thêm một người nữa ra xe. Tôi nh́n anh, rất đỗi ngạc nhiên, ḷng c̣n đang bàng hoàng, không thể ngờ được lại chính là anh. Vẻ mặt bơ phờ như mất ngủ, dáng đi khập khễnh, khó khăn. Ôi! gặp anh trong t́nh huống nghiệt ngă này thật bất nhẫn, tôi than “trời” nho nhỏ, rồi lầm thầm gọi tên anh, trong khi tên du kích đang kéo anh lên xe một cách khó khăn, phải có một tên dưới đất đẩy phụ anh mới lên được.

Phải! người khiến tôi kinh ngạc khi gặp, vừa được đẩy lên xe chính là anh Nguyễn Hiệp, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ52/BĐQ anh dũng ngày nào, vị TĐT đầu tiên của tôi, đă dẫn dắt, chỉ bảo cho tôi từ những ngày đầu tiên khi mới ra trường.

Tôi e dè vừa nh́n chừng tên du kích, vừa hỏi nhỏ anh, sao anh lại ở đây? – Anh cho biết là anh bị chúng đến nhà bắt đi, với kiểu lừa đảo rất lịch sự là “mời đến cơ quan dể làm việc”, chỉ sau giờ ấn định ngày đầu cho sĩ quan cấp Tá “tŕnh diện học tập”. Tại quận, anh cũng bị chúng khép vào tội sĩ quan cấp Tá không chịu đi Tŕnh diện, chúng giữ anh từ trưa qua, mặc dầu anh đă cho chúng biết anh đă giải ngũ v́ bị thương tật, nhưng chúng vẫn không tin, vẫn giữ anh lại đến sáng nay giải về Sàig̣n luôn.

Sau khi nói chuyện với anh xong, chúng tôi quay qua các người khác hỏi thăm, th́ được biết, họ cũng là sĩ quan, bị các chốt kiểm soát chặn bắt giải về Thủ Đức và cũng bị khép vào tội như chúng tôi vậy.

Xe đến Sàig̣n và chạy thẳng vào khám Chí Hoà. Chúng tôi bị đưa lên lầu 3, dẫy AH, pḥng số 1 với lời tuyên bố là chúng tôi bị tạm giam ở đây, để điều tra lư lịch, tên cán bộ cho chúng tôi vào pḥng, khóa cửa lại rồi lặng lẽ bỏ đi, lúc đó độ hơn 10 giờ sáng.

Pḥng giam ở Chí Hoà tương đối thoáng hơn ở Thủ Đức, trong pḥng đă có săn một số người, cộng chung toán chúng tôi nữa là vào khoảng 35 người, hỏi ra được biết gồm đủ mọi thành phần, Quân đội, Hành chánh, Sĩ quan, Hạ sĩ quan v..v.. đủ cả.

Tới trưa, một tên cán bộ cùng hai tên hộ vệ vào pḥng tôi. Tên cán bộ chỉ định tôi làm trưởng pḥng, hắn bảo tôi ngày hai bữa ăn, trưa và chiều, cắt cử 3 người cùng tôi đi theo một bộ đội, xuống nhà bếp lănh cơm và thức ăn về cho pḥng. Chúng tôi được phát cà mên, ca uống nước, đũa, muỗng để ăn cơm, đồng thời hắn đưa cho tôi một cây viết, một tờ giấy, bảo tôi lập danh sách, theo thứ tự chỗ chiếu nằm trong pḥng của từng người và nộp lại cho hắn khi lănh cơm. V́ làm công việc này, tôi mới biết trong pḥng có một bác sĩ và một nhà tu, anh này khai là Tuyên úy Phật Giáo, c̣n rất trẻ, đầu không cạo trọc mà chỉ húi cua thôi. Tôi c̣n nhớ rơ vị bác sĩ tên là Điền, ông là Bác sĩ Giải phẫu tài danh của bệnh viện Dă Chiến Cần Thơ, trên đường từ Cần Thơ về Sàig̣n th́ bị chốt chặn bắt giữ.

Sau này, Bác sĩ Điền cũng bị chuyển ra Bắc với tôi và cùng ở chung trại Vĩnh Quang. Riêng với anh thanh niên trẻ, người xưng là Tuyên úy Phật Giáo, là đồ đệ của thày Thích Tâm Giác, tên anh này tôi đă hoàn toàn quên hẳn. Tôi cố, cố lắm, nhưng không tài nào nhớ nổi, mặc dù nhắc đến cái chết của anh Hiệp. Anh này đúng là thủ phạm, là vai chính trong câu chuyện, đáng lẽ phải vạch rơ tên tuổi anh ta ra mới hợp lư chứ. Vậy mà bao nhiêu lâu nay, tôi vẫn không nhớ ra được!

Ngày hai lần, tôi được đi lănh cơm cho anh em, anh Hiệp dặn tôi chịu khó ḍ la tin tức xem có ǵ đáng “phấn khởi” không, nhưng hoàn toàn thất vọng, bọn chúng cũng chẳng biết ǵ. Có lần tôi làm bộ ngây thơ hỏi một tên cán bộ: “không biết chúng tôi đă được cấp trên điều tra cứu xét chưa? chừng nào thả chúng tôi về, để đi “tŕnh diện học tập”.

Hắn lạnh lùng trả lời tôi:
- “C̣n cứu xét điều tra ǵ nữa, các anh ở đây sẽ được đưa đi học tập hết mà, đừng lo. Khi nào học tập tốt xong th́ được đảng và nhà nước cho về thôi”.

Tôi cho anh Hiệp biết điều này, anh yên tâm chờ mà không nôn nóng nữa, có điều anh phàn nàn: “bọn ḿnh đi mà gia đ́nh không biết th́ tội nghiệp cho vợ con ḿnh quá!”

Thỉnh thoảng tôi cũng đưa về cho anh một vài tin “vui”. Lần thứ nhất tôi gặp anh Hồ Văn Hoà, Tiểu Đoàn Trưởng 35/BĐQ thời Mậu Thân, với những trận đánh oai hùng vùng Chợ Lớn, đẩy lui địch ra khỏi thủ đô Sàig̣n. Anh Hoà ở pḥng số 3, cùng dăy AH với tôi và anh Hiệp. Lần thứ hai, tôi gặp ở cầu thang, một người lớn tuổi, râu tóc dài lùm xùm, như những người bị lạc vào hoang đảo lâu ngày, tướng đi ông kḥm kḥm, tay xách sô nước nhỏ, nhưng có vẻ khó khăn, khi đụng mặt, tôi nhận ra ông ngay: Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai, vị CHT cuối cùng của BĐQ – Tôi buột miệng gọi ông nho nhỏ: “Thiếu tướng!” Ông chỉ lặng lẽ nh́n tôi, rồi âm thầm đi lên lầu. Trong pḥng tôi có anh Hiệp, pḥng anh Hoà có anh Nhiệm, vậy là có 4 Sĩ quan BĐQ, Hạ sĩ quan BĐQ cả hai pḥng có khoảng 5 người, pḥng tôi có 1 Trung sĩ nhất và 1 Thượng sĩ mà tôi c̣n nhớ tên là Xuân, những người này khi gặp lại chúng tôi trong hoàn cảnh tang thương. Tuy không c̣n ǵ cả, nhưng họ vẫn giữ lễ, kẻ trên người dưới, lúc nào cũng nể v́ chúng tôi, điều này làm anh em chúng tôi cảm thấy an ủi rất nhiều.

Vào một buổi sáng trời nắng đẹp, tên cai ngục dăy AH vào pḥng giam bảo tôi cắt cử 10 người ra nhổ cỏ ngoài sân quanh khám, một lát hắn sẽ tới dắt đi. Tôi cắt 10 người, trong đó có anh thanh niên Tuyên Úy Phật Giáo, Thượng sĩ Xuân v...v..? Trước khi tên cai tù đến nhận người độ vài phút, anh Hiệp ngỏ ư với tôi anh muốn đi ra ngoài hít thở cho khoẻ, đồng thời đi lại ngoài trời cho đỡ tù túng, chiều ư anh, tôi nói Bác sĩ Điền ở lại để anh đi thay.

Khi tên cai tù lên nhận người dẫn đi, đếm qua đếm lại thấy thiếu 1 người, tôi đang quay qua quay lại để t́m th́ anh thanh niên Tuyên Úy từ trong pḥng vệ sinh chạy ra – Kiểm điểm đủ người, tên cai tù dắt họ đi, tôi đứng ở cửa pḥng, c̣n nghe tiếng anh Hiệp lầu bầu chửi đổng: "Đ.M." ǵ đây? – Đây là câu chửi đổng tôi thường nghe anh phát ra mỗi sáng sớm, lúc đó chưa ai thức giấc, tên thanh niên này đă dậy tập vơ, đấm, đá gió, nhẩy th́nh thịch trong pḥng, làm khó chịu mọi người, nhưng không ai nói ǵ, mà chỉ có anh Hiệp thấy chướng quá, hay chứi đổng nho nhỏ đủ tôi nghe: "Đ.M., mới sáng sớm đă đấm với đá, không cho ai ngủ". Tôi không ngờ tên thanh niên cũng nghe được và để bụng thù anh, tuy vậy hắn không nói năng ǵ, mà cứ thản nhiên tập vơ, nhảy nhót mỗi sáng sớm. Hắn c̣n cố t́nh gây tiếng động, có ư như trêu tức anh Hiệp nữa.

Khi tên cai tù nhận người dắt đi, hắn bảo tôi khỏi đi, ở lại coi pḥng và anh em c̣n lại, đến 4 giờ chiều hắn sẽ đem người lên trả tại pḥng cho tôi. Sau 4 giờ chiều, khi anh em trong cả dăy pḥng đang ồn ào, lên xuống xách nước từ dưới lên lầu, th́nh ĺnh tôi nghe có tiếng la lớn ở dưới sân vọng lên: "có đánh lộn!"

Rồi tiếng anh Hoà đứng ở đầu cầu thang hét vọng lên: "Khuê ơi ! tụi nó đánh thằng Hiệp ḱa!" Nghe vậy, tôi tức tốc chạy xuống, đă thấy anh Hoà ẵm anh Hiệp trên hai tay, anh Hiệp lúc này hai mắt nhắm nghiền, tay xuội lơ, máu chảy ra khoé miệng.

Đúng lúc đó, tên cai tù dăy tôi cũng chạy xuống – Anh Hoà báo cho hắn biết anh Hiệp bị đánh bất tỉnh, tên cai tù hỏi ai đánh, lúc đó tên thanh niên Tuyên Úy đang chạy lên, phía sau anh em dưới sân la hét đuổi theo, dẫn đầu là Xuân, Xuân chỉ ngay hắn nói: "Nó đó, nó đánh anh Hiệp đó"

Tên cai tù không nói không rằng, sấn tới chặn tên thanh niên lại, đá hắn một cái thật mạnh, hắn bị mất thăng bằng, lộn té xuống, lăn long lóc theo bậc thang. Cứ thế, tên cai tù đi theo xuống, tiếp tục đá hắn lăn xuống từng trệt, xuống đến đó, ba, bốn tên khác nhảy vào đánh hắn một trận đ̣n ác liệt, sau đó dẫn hắn đi biệt giam luôn. Sau này, chúng tôi không hề gặp lại hắn ở đâu nữa cả.

Phần anh Hiệp, tên cai tù trở lên pḥng bảo tôi cứ để anh Hiệp nằm trong pḥng, chờ tới sáng hôm sau, sẽ có y sĩ lại khám cho anh. Nói xong, hắn bỏ đi, tên cai khác đến bảo tôi cho người đi lănh cơm
– Tôi cắt Xuân và ba người nữa đi, c̣n tôi ở lại pḥng theo dơi t́nh trạng của anh Hiệp
– Anh Hiệp vẫn nằm bất động, mắt nhắm nghiền, hơi thở thoi thóp, bác sĩ Điền bắt mạch cho anh, nói rằng mạch anh rất yếu, ông lật đầu anh qua lại để khám v́ dưới thân thể không thấy có xây xát ǵ, bác sĩ Điền nói có lẽ đầu bị đập mạnh xuống sàn xi măng, nên bị bất tỉnh.

Khi anh Xuân lănh cơm về, tôi mới được anh kể rơ diễn tiến câu chuyện như sau:
– Làm cỏ xong, anh em được tập trung đi tắm ở giếng nước giữa sân dưới tầng trệt, trước khi về pḥng
– Tại giếng nước, Xuân đứng cách anh Hiệp không xa, trong khi mọi người đang chà xà bông từ đầu đến chân, anh Hiệp cũng vậy, mặt mũi đầy xà bông, đang chà rửa, Xuân nghe tên thanh niên Tuyên úy đứng sát anh Hiệp hỏi anh một câu mà Xuân cũng nghe: “Đ.M. hoài, rồi bây giờ đánh không?”. Hắn vừa nói vừa nhấc bổng anh Hiệp lên, quăng qua đầu hắn theo một thế Nhu đạo độc hiểm
– Anh Hiệp ngă vật xuống nền xi măng gần giếng nước, rồi nằm bất động từ đó.
– Khi ấy mọi người đều la lên: “có đánh lộn”, tên thanh niên bỏ chạy, nhưng hắn chạy ṿng ṿng, đi đâu cũng bị anh em la và rượt đuổi, dẫn đầu là Xuân, nên hắn hoảng hốt chạy thẳng lên lầu 3
– Không ngờ hắn lại gặp tên cai tù đang đi xuống, nên mới bị đá văng xuống và bị đ̣n hội đồng trước khi bị biệt giam.

Anh Hiệp vẫn nằm mê man, bất tỉnh nhân sự, trên chiếu bên cạnh tôi, đến hơn 7 giờ tối, tôi thấy máu rỉ ra từ lỗ tai và lỗ mũi của anh, tôi báo cho bác sĩ Điền đến xem, ông cho biết anh Hiệp bị chấn thương sọ năo rồi, máu bị ứ đọng trong đầu, nên đă rỉ ra lỗ tai và lỗ mũi, rất nguy hiểm. Bệnh t́nh này, nếu đủ phương tiện và thuốc men, ông có thể cứu sống được, chứ như t́nh h́nh hiện tại, dù biết anh Hiệp sẽ chết trước mắt, cũng đành bó tay thôi, chuyển đi bệnh viện sớm phút nào, hy vọng tăng theo phút đó, nếu chậm trễ anh Hiệp chắc sẽ chết.

Nghe tới đây, tôi và Xuân, không ai bảo ai, cùng đứng lên chạy ra cửa pḥng, chĩa miệng ra ngoài hét lớn: “… lầu 3, dăy AH, pḥng 1, có người bịnh nặng, cần cấp cứu”. Sở dĩ chúng tôi phải la lớn v́ giờ này, bọn cai tù đều tập trung ở dưới tầng trệt để ăn uống và xem TV, không có tên nào ở trên lầu cả, mạng sống của một người tù không quan trọng bằng một buổi xem TV, chiếc máy lạ lùng, từ nhỏ tới lớn ở miền Bắc, chúng chưa hề thấy, chỉ khi vào Nam chúng mới được mở mắt ra chút đỉnh, dễ ǵ chúng bỏ qua để đi lo cho người tù.

Dù biết vậy, chúng tôi vẫn tiếp tục la lớn, nhưng không một tiếng trả lời, hay một chút động tĩnh ǵ ở bên ngoài cả, chúng tôi vẫn thay phiên nhau la cầu cứu trong tuyệt vọng, sau mỗi tiếng la của chúng tôi, chỉ là một khoảng không gian trống vắng, im ĺm.

Đến khoảng hơn 8 giờ tối, th́nh ĺnh tôi nghe anh Hiệp hét lên một tiếng thật lớn, anh vùng bật dậy, vừa chạy một ṿng nhỏ trong pḥng, vừa hét lớn, sau đó anh ngă vật trở lại nằm trên chiếu của ḿnh, ngửa mặt lên trời, lúc này mắt anh lại mở trừng trừng nh́n lên trần nhà. Tôi ngồi xuống, sau khi chạy theo anh để đỡ, pḥng khi anh ngă xuống. Lúc này, tay anh quơ lên như muốn kéo tôi lại gần, cử chỉ của anh như muốn nói với tôi điều ǵ, tôi thấy miệng anh th́ thầm không ra tiếng. Tôi cố cúi sát xuống mặt anh để nghe, nhưng không nghe được ǵ cả. Anh muốn trăn trối với tôi điều ǵ, nhưng đă không kịp nói trước khi trút hơi thở cuối cùng.
– Mắt anh vẫn mở trừng trừng nh́n lên khoảng không mờ nhạt, dưới ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn trong pḥng
Bác sĩ Điền nắm tay anh bắt mạch, khoảnh khắc sau, ông lắc đầu nói: “Anh Hiệp đă đi rồi, anh chết thật rồi !”. Bác sĩ Điền nói thêm: “Như ngọn đèn dầu sắp cạn, phải loé lên một chút rồi tắt hẳn, anh Hiệp cũng thế, v́ uất hận, anh cố thu tàn lực bật dậy, la hét, sau đó ngă xuống và đi luôn”.

Tôi vừa nghe, vừa vuốt mắt anh Hiệp, đôi mắt vẫn trợn trừng, biểu lộ biết bao căm hờn, đau đớn, uất ức. Tay tôi vẫn vuốt mắt anh, miệng lầm thầm khấn nguyện: “Xin anh thanh thản ra đi, linh thiêng pḥ hộ cho chúng tôi sớm được thả về, tôi sẽ báo tin cho chị và các cháu”.
Khi thấy cặp mắt anh đă khép, tôi móc trong túi quần sau của anh, lấy cái bóp, trong đó có tấm h́nh của chị và các con, với ư muốn làm bằng chứng, để sau này có dịp báo tin cho chị và trả lại chị kỷ vật này của anh.

Cá nhân tôi, dù đă nhiều lần vào sinh ra tử, cũng như biết khá nhiều về cuộc đời binh nghiệp lẫy lừng của anh, đồng thời đă có nhiều lần xông pha trận mạc, dưới quyền chỉ huy của anh, tôi thật sự bất ngờ, choáng váng, khi chứng kiến tận mắt cái chết của anh, nó đơn giản, tàn bạo, dă man, nó thể hiện rơ ràng tính dă thú, bất nhân, bất nghiă, độc ác, của con người với con người, nhất là ở buổi giao thời giữa hai chế độ. Tuy không là bà con, máu mủ, nhưng những tháng ngày, cùng với anh phục vụ trong một binh chủng, một đơn vị, không nhiều th́ ít, cũng đă có những gắn bó với nhau – Như thế, có thể nói, tôi là người thân thiết nhất với anh tại đây và bây giờ – Tôi thật đau ḷng, thật xót xa, khi nh́n anh ĺa đời trong hoàn cảnh nghiệt ngă này.

Sau khi ổn định lại tinh thần, tôi bảo Xuân và một vài anh em khác, cùng nhau hét lớn vọng xuống lầu:”…, lầu 3, pḥng 1, dăy AH, có người chết.” Chúng tôi thay nhau la hét như vậy, đến lần thứ 5 mới có tiếng hỏi vọng lên:
– Chết thật chưa?

Tôi đáp: “Chết thật rồi”. Tiếng trả lời vọng lên ngắn ngủi: "Chờ đó đi". Chúng tôi lại phải chờ. Măi đến gần 10 giờ đêm chúng mới đến, chúng đặt anh Hiệp lên băng ca, phủ chiếc chiếu lên người anh, rồi khiêng anh đi luôn, có lẽ chúng khiêng anh xuống nhà xác, để báo cho gia đ́nh đến nhận. Tôi hy vọng được như vậy.

Sau này, khi được thả về, tôi có lại nhà chị Hiệp, trao lại chị kỷ vật của anh và thuật lại tỉ mỉ câu chuyện cho chị nghe. Chị rất cảm động, không cầm được gịng lệ. Chị cũng rất cảm kích và nghĩ rằng, anh cũng đă được yên ủi phần nào, v́ ít ra, anh cũng vĩnh viễn ra đi, trong ṿng tay thân ái của tôi, một đàn em của anh và một vài đồng đội. Chị cho biết, hồi đó, họ cũng báo tin cho chị lên nhận xác anh về chôn cất, với lư do “chết do đánh nhau với bạn đồng tù”. Chị cũng tự an ủi là c̣n may mắn hơn nhiều người khác, v́ chị c̣n được thấy xác chồng, chứ sau này khi bị đưa ra Bắc, biết bao nhiêu người chết mà gia đ́nh không được biết tin tức và cũng chẳng biết chôn ở đâu.

Ngày hôm sau, khi đi lănh cơm gặp anh Hoà, tôi định báo tin cho anh, nhưng anh đă nói trước:
– Tao biết rồi, Hiệp nó chết rồi. Đêm qua tụi bay la như vậy ai mà không nghe.

Anh nói tiếp, bắt đầu bằng một câu chửi thề cố hữu của người miền Nam:
– Đụ mẹ đồ dă man, tụi nó không cho thằng Hiệp đi cấp cứu, chớ chở đi nhà thương ngay, nó đâu có chết đau đớn, tức tưởi như vậy, đúng là tụi hèn.

Quả thật, câu kết luận của anh Hoà, hoàn toàn đúng, v́ sau này, qua những mẩu đối thoại, chúng tôi biết được chúng cố ư để anh Hiệp như vậy, có lẽ để “dằn mặt” chúng tôi chăng, đôi khi chúng c̣n tỏ rơ thái độ khiêu khích bằng cách nói chuyện với nhau cho chúng tôi nghe, để chúng tôi bị nhục nhă
Cái chết của anh Hiệp đau đớn như vậy, nhưng chúng rất hả dạ, mặt chúng hớn hở nói cười với nhau, như để chọc tức chúng tôi, nếu chúng tôi có hành động ǵ, chúng sẽ vin vào đấy trừ khử, tiêu diệt ngay – Chúng tôi cảm nhận được âm mưu đen tối của chúng, nên anh em rỉ tai an ủi tinh thần nhau, khuyến khích nhau cố giữ b́nh tĩnh, tự kềm chế để đừng lọt bẫy của chúng.

Hai tháng sau khi anh Hiệp mất, chúng tập họp, giải chúng tôi bằng xe bít bùng xuống tàu ở Tân Cảng, ḷng ṿng ra đến cửa biển, rồi lại trở lại Tân Cảng, lên xe bít bùng giải đi Suối Máu, Biên Hoà (trại tù phiến cộng). Chúng dở tṛ bịp thật ấu trĩ, 1 giờ sáng xe chạy từ Tân Cảng mà đến 5 giờ sáng mới tới Biên Hoà

Toán chúng tôi ở Chí Hoà ra, đếm được gần 300 người, gồm đủ mọi thành phần, quân đội có từ binh sĩ đến cấp Tướng, hành chánh từ Phường trưởng, Xă trưởng đến Tỉnh trưởng, y tá, bác sĩ đủ cả, thậm chí có cả những người ăn mày, bụi đời, khùng điên, lang thang ngoài đường chúng cũng bắt hết – đúng với tâm niệm của bọn Cộng sản: “bắt lầm hơn bỏ sót”.

Kế tiếp là những ngày tháng dài trong lao tù cộng sản, anh em chúng tôi bị hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần, bị khủng bố ban ngày cũng như ban đêm, lúc nào cũng nơm nớp sống trong lo âu, sợ hăi – Những ư đồ thâm hiểm của bọn cộng sản ngày càng lộ rơ, đó là chúng cố t́nh hạ thấp và bôi nhọ giá trị của quân đội chúng ta. Chúng nhốt chung những sĩ quan Tướng, Tá, Úy, những nhân vật cao cấp trong hành chánh, cùng với những tên du đăng, bụi đời, những kẻ lưu manh, trộm cướp, coi tất cả cùng chung một tên gọi: “Tù”. Biết vậy, nhưng anh em chúng tôi vẫn dửng dưng, vờ như không biết, anh em tự an ủi lẫn nhau: “Thôi ! Mang thân phận kẻ chiến bại, dù có thừa khả năng và dũng khí, nhưng đă bị đồng minh bỏ rơi, lại c̣n bị thượng cấp gạt gẫm, bị trói tay, trói chân trước kẻ địch, chỉ là con cờ thí trong ván cờ quốc tế, giữa tư bản và cộng sản, mà hai nước siêu cường tiêu biểu cho hai chủ nghĩa này, họ cũng chỉ coi quyền lợi của nước họ là trên hết mà thôi, c̣n ǵ mà nói nữa – Hăy cố gắng vượt qua những khó khăn mà sống”

Gần 30 năm sau cái chết của anh Hiệp, tôi và một số đông anh em cựu tù, được sống ở một nơi văn minh, tự do, sung sướng nhất địa cầu: Hoa Kỳ. Tôi chạnh nhớ và ghi lại những đau đớn, nhục nhă, uất ức của những ngày đầu mất nước, mà nạn nhân là toàn thể dân chúng miền Nam, nhưng nặng nề nhất, có lẽ là những thành phần quân nhân như anh em chúng tôi.

– Những đau đớn hằn sâu trong tâm hồn tôi, khó ḷng phai nhạt, đừng nói chi đến chuyện xoá bỏ
– Bao nhiêu gia đ́nh tan nát
– Bao nhiêu người v́ đi t́m tự do mà phải bỏ thân nơi rừng rậm, nơi biển cả
– Bao nhiêu phụ nữ, thiếu nữ, mang nỗi nhục nhă, kinh hoàng, khi thân xác bị những con người, dạ thú dày ṿ, hành hạ, sống dở, chết dở
– Bao nhiêu đồng đội của tôi vùi xác nơi rừng thiêng nước độc, bị bỏ đói, bệnh hoạn không một chút thuốc men trong các trại tù khổ sai
– Biết bao nhiêu gia đ́nh tan nát và những di hại của chế độ cộng sản, không biết sẽ c̣n tàn phá đất nước đến bao giờ – Ôi! nước mất, nhà tan. Câu nói của người xưa thật chí lư.

Thật sự, tôi cũng không muốn nhớ đến những chuyện này, v́ nó đau quá, buồn quá, nhưng mỗi khi nghe đôi ba ông gọi là “chính trị gia”, những ông gọi là nhà văn, nhà báo, những thành phần được coi là học giả, trí thức – Họ nhân danh tự do, dân chủ, nhân danh quốc gia, dân tộc, lên tiếng cổ vơ cho việc hoà giải, hoà hợp, xoá bỏ hận thù, quên quá khứ để xây dựng đất nước, tương lai v…v… Tôi tự hỏi, không biết quốc gia, dân tộc của họ là ǵ, và họ ở đâu mới chui ra mà quên mau quá vậy??? Đầu óc tôi lại quay cuồng, nhớ đến tiếng hét uất hận của anh Hiệp trước lúc lâm chung.

Nguyễn Quốc Khuê

hoanglan22
12-30-2020, 16:26
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1716515&stc=1&d=1609345493

Từ Đồng Xoài đến Bà Rịa
Trong chiến sử của binh chủng Biệt Động Quân, Tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân là 1 trong những đơn vị đă có những trận đánh được ghi vào quân sử Việt Nam Cộng Ḥa. Chỉ sau hơn 1 năm thành lập, Tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân (BĐQ) đă được báo chí vinh tặng danh hiệu “tiểu đoàn Sấm Sét Miền Đông” sau trận đánh lịch sử tại quận lỵ quận Đôn Luân (Đồng Xoài), vào tháng 5/1965. Đây là lần đầu tiên trên chiến trường Việt Nam, Cộng quân đă huy động ba trung đoàn chủ lực để đánh chiếm một quận lỵ của Việt Nam Cộng Ḥa, và dàn quân để nghênh chiến các đơn vị tiếp ứng. Là lực lượng trừ bị cơ hữu của Quân đoàn 3, Tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân được điều đồng tiếp cứu quân trú pḥng ở Đôn Luân.

Theo kế hoạch hành quân, toàn tiểu đoàn được trực thăng vận xuống Phước Thành vào buổi trưa và sau đó đổ quân xuống sân vận động quận lỵ vào 4 giờ chiều, đúng vào lúc Cộng quân đă tràn ngập trụ sở quận. Qua liên lạc, Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 3 xác nhận là lực lượng chi khu Đôn Luân c̣n làm chủ t́nh h́nh trong quận lỵ. Đại đội 4 của tiểu đoàn tiến vào th́ bị Cộng quân từ quận đường bắn ra. Trước t́nh h́nh đó, ba đại đội c̣n lại và ban chỉ huy tiểu đoàn đă rút ra ngoài hàng rào trước cửa để đợi Quân đoàn tái xác nhận. 15 phút sau, Trung đội 1 của đại đội 3 bám sát hàng rào ngoài quận đường quan sát và thấy rơ Cộng quân đang sử dụng đại liên đặt trên chiến xa của chi khu (địch đă chiếm được) để tác xạ vào đội h́nh của Biệt Động Quân.

Sau khi nhận được báo cáo, Đại úy Hoàng Thọ Nhu, Tiểu đoàn Trưởng, xin sự yểm trợ của Không Lực Hoa Kỳ qua sự liên lạc của cố vấn, oanh tạc ngay vào quận đường. Hai phi cơ B57 đă nhào xuống tiêu diệt các ổ hỏa lực của Cộng quân trên 2 xe thiết giáp. Đợt oanh tạc kết thúc, kho đạn trong Chi Khu (Quận) nỗ dữ dội. Trung úy Trần Thanh Thủy, Đại đội Trưởng Đại đội 3 quyết định tung Trung đội 1 ḅ vào chiếm lại quận đường. Khoảng 8 giờ đêm, kho đạn ngừng nổ, đại đội 3 đă bố trí quanh hàng rào pḥng thủ của chi khu để đợi Cộng quân từ hai trại bên kéo trở lại. Biệt Động Quân đánh tan hai cánh quân này và sau đó tràn lên tái chiếm căn cứ Biệt kích và Pháo binh trong quận lỵ trước khi trời sáng. Tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân đă tịch thu hàng trăm vũ khí, trong đó có hơn 50 súng AK47. Sau chiến thắng này, tiểu đoàn được tuyên dương công trạng trước Quân đội.

Tháng 10/1965, do áp lực nặng của Cộng quân tại Phước Tuy, Tiểu đoàn Sấm Sét Miền Đông được Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 3 tăng phái cho tiểu khu Phước Tuy, đặt dưới quyền điều động của Trung Tá Lê Đức Đạt - Tiểu Khu Trưởng (năm 1972, ông là Đại Tá Tư Lệnh Sư đoàn 22 Bộ Binh, tự sát tại Tân Cảnh cuối tháng 4/1972). Theo phân nhiệm, tiểu đoàn là nỗ lực chính trong các cuộc hành quân tảo thanh và giải tỏa áp lực của Cộng quân tại Xuyên Mộc, Đất Đỏ, Hàm Long, Núi Đất. Do phải tăng phái 1 đại đội của Tiểu đoàn (Đại đội 1/52) pḥng ngự ở B́nh Giả, nên tiểu đoàn chỉ c̣n 3 đại đội và ban chỉ huy tiểu đoàn tham gia cuộc hành quân trên địa bàn Phước Tuy.

Ngày 11 tháng 11/1965, theo kế hoạch của Bộ chỉ huy Tiểu khu Phước Tuy, đại đội 2/52 do Trung úy Trần Trọng Truồi chỉ huy được chỉ định hoạt động dọc theo đèo Mẹ Bồng Con, tiểu đoàn chỉ c̣n lại hai Đại đội 3/54, 4/52 và được lệnh di chuyển từ vùng hành quân về vị trí mới. Thành phần này được Tiểu khu Phước Tuy tăng cường hai xe thiết giáp (loại xe của Mă Lai dùng để tiểu trừ du kích) và 1 đại đội Địa phương Quân. Đoàn quân do Đại úy Nguyễn Hiệp, Tiểu đoàn Phó chỉ huy. (Tháng 9/1966, Đại úy Hiệp giữ chức Tiểu đoàn Trưởng, thăng Thiếu Tá sau trận đánh Suối Ḷng).

Trong khi tiểu đoàn đang di chuyển trên Quốc Lộ 15 th́ Bộ chỉ huy Tiểu khu Phước Tuy được một hồi chánh viên cho biết là trung đoàn của anh ta đang bố trí sát sân bắn ở đầu tỉnh đợi phục kích Tiểu đoàn 52 BĐQ. Liền ngay sau đó, phi cơ quan sát L19 được gởi tới, quan sát viên xác nhận đă thấy các cụm bố trí của Cộng quân (CQ). Khi vị Tiểu đoàn Phó nhận được thông báo về cuộc phục kích của CQ th́ đoàn xe đă tiến vào khu vực mà địch quân đang bố trí. Theo lời kể của Đại úy Hiệp với một số phóng viên chiến trường sau khi trận đánh kết thúc, th́ vị Tiểu đoàn Phó này đă kịp thời đưa ra một quyết định khẩn cấp là cho lệnh đoàn xe dừng lại khi c̣n cách khúc quanh 50 thước - nơi mà Cộng quân được lệnh khai hỏa khi chiếc xe đầu tiên xuất hiện, đồng thời chỉ định trung đội đi đầu của Đại đội 3 khởi động khai hỏa khi có lệnh.

Trở lại với trận phục kích trên Quốc Lộ 15, theo các tài liệu tổng hợp của đặc san Mũ Nâu và KBC, tuyến phục kích của địch quân dài 2 km với 2 tiểu đoàn dàn trận từ chân núi Thị Vải. Tiểu đoàn CQ thứ ba nằm cạnh sân bắn của tỉnh. Khi đoàn xe vừa ngừng, các chiến binh Nũ Nâu đă tự động nhảy xuống bố trí. Trung đội 1 của đại đội 3 do 1 Trung úy chỉ huy được Đại úy Trần Thanh Thủy - Đại đội Trưởng, tăng cường 2 thiện xạ nổi tiếng thuộc ban chỉ huy đại đội là Thượng sĩ Hoàng Tào với cây súng M14 và Hạ sĩ nhất Đinh Đô với cây AR15 thần tốc, hai tay súng này đă yểm trợ cho tổ đại liên của Trung đội 1 khai hỏa loạt súng đầu tiên cho trận đánh thay v́ phát súng đầu tiên do Cộng quân khai hỏa. Tổ hỏa lực tiền tiêu của CQ đặt tại vườn mít nằm sát Quốc Lộ 1, đă phải lúng túng khi Biệt động quân khai hỏa trước, v́ theo kế hoạch phục kích của CQ, tổ hỏa lực này chỉ khai hỏa khi chiếc xe đầu tiên của BĐQ đến khúc quanh.

Sau khi khai hỏa, Trung đội 1/đại đội 3 tràn lên chiếm vườn mít. Cây B 40 của tổ hỏa lực CQ chỉ mới bắn được một phát trúng xe cơ giới của Địa phương Quân gây phát hỏa, đă bị một toán chiến binh Trung đội 1 tràn lên đoạt ngay. Trận chiến trở nên quyết liệt hơn khi Cộng quân từ các vị trí bên trong bắn xối xả về hướng của Biệt Động Quân để yểm trợ cho thành phần xung kích đang tràn ra. Tại Vườn Mít, tổ đại liên M60 cùng hai thiện xạ M14 và AR15 đă chận đứng đợt xung phong của địch. Để yểm trợ cho Tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân, sau khi nhận được yêu cầu của Quân đoàn 3, phản lực cơ F100 của Không quân Hoa Kỳ từ Đệ Thất Hạm Đội đă bay vào vùng xảy ra giao tranh. Để Không Quân khó oanh tạc, Cộng quân cố tràn ra bám sát trận địa, vườn mít trở thành mục tiêu của cả hai bên.

Theo lệnh của Tiểu đoàn Phó, Đại úy Trần Thanh Thủy - Đại đội Trưởng Đại đội 3 cho rút Trung đội 1 rút về bên kia Quốc Lộ dể Không Quân dễ dàng oanh kích Cộng quân. Trong khi F100 oanh tạc dữ dội, th́ Trung đội 1 men theo Quốc Lộ tiến về khúc quanh sát sân bắn để đợi dịp xung phong vào cánh trái của địch quân.

Đối phương cố bám sát Biệt Động Quân để vô hiệu hóa các phi vụ Không Yểm, trong khi đó phía sau của Tiểu đoàn 52 BĐQ là băi śnh lầy lội, do đó Đại úy Hiệp - Tiểu đoàn Phó đă xin Không Quân oanh tạc dọc Quốc Lộ, chấp nhận cùng địch tổn thất nếu bị rủi ro. Cùng lúc đó, Đại đội 2/52 đang hoạt động tại đèo Mẹ Bồng Con được lệnh rời vùng hành quân để tiếp ứng. Cả đại đội này đă quá giang xe đ̣ về bố trí ở ấp sát khu vực phục kích. Trung úy Trần Trọng Truồi, Đại đội Trưởng đă cho các trung đội dàn quân để đợi lệnh xung phong tấn công địch quân từ cánh phải. Với lối điều quân linh động, lực lượng Tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân dù ít nhưng đă có được 2 gọng kềm phía ngoài để kẹp ngược lại các đơn vị Cộng quân.

Sau 1 giờ giao tranh với nhiều phi tuần F 100 yểm trợ liên tục, Cộng quân đă bị tổn thất nặng. Trời gần tối, Đại úy Hiệp xin ngưng không trợ và cho lệnh các đại đội xung phong. Tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân từ chính diện và hai bên trái phải của Cộng quân đồng loạt tiến lên theo tiếng c̣i của cấp chỉ huy. Tuyến phục kích bị chọc thủng, Cộng quân tháo chạy về cánh rừng sát chân núi Thị Vải. Sau trận đánh, Tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân đă được các tướng lănh Hoa Kỳ ngợi khen. Theo đề nghị của Bộ Tư Lệnh Hoa Kỳ tại Việt Nam, Tổng Thống Jonhson đă kư quyết định ân thưởng huy chương Danh Dự của Tổng Thống Hoa Kỳ cho Tiểu đoàn Sấm Sét Miền Đông.

Vương Hồng Anh

huudangdo1
12-31-2020, 00:44
Cám ơn Huynh Hoanglan22 đă luôn ghi lại những h́nh ảnh với những trận đánh oai hùng của Quân Lực VNCH trong Quân Sử Thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Ḥa !...

Thân Chúc Huynh HL22 và Gia Quyến 1 Năm Mới 2021 được nhiều Niềm Vui Hạnh Phúc và VẠN SỰ NHƯ Ư !:thankyou::handshak e::handshake:
HDD

hoanglan22
12-31-2020, 02:39
Cám ơn Huynh Hoanglan22 đă luôn ghi lại những h́nh ảnh với những trận đánh oai hùng của Quân Lực VNCH trong Quân Sử Thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Ḥa !...

Thân Chúc Huynh HL22 và Gia Quyến 1 Năm Mới 2021 được nhiều Niềm Vui Hạnh Phúc và VẠN SỰ NHƯ Ư !:thankyou::handshak e::handshake:
HDD

Trong năm mới cũng chúc huynh và Gia đ́nh vui vẻ đầy đủ sức khỏe b́nh an .Riêng huynh có đầy sáng tác thơ và in Tập thơ xuất bản 2021 :thankyou::handshake :

hoathienly19
01-01-2021, 03:14
TỔNG KẾT TRAO QUÀ XUÂN 2021 VÀ TÂM T̀NH TRI ÂN CỦA QUƯ THƯƠNG PHẾ BINH VNCH VÙNG SÀI G̉N



pt5oZ3Fld5U

hoathienly19
01-02-2021, 22:50
GIÁNG SINH XƯA VÀ NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG H̉A



l-sYRuY8s_Q


Cho đến nay, dẫu đất nước Việt Nam Cộng Ḥa, đă bị bức tử, nhưng h́nh ảnh của những lần đón mừng Lễ Giáng Sinh xưa và Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa vẫn không bao giờ phai nhạt.

Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa, với h́nh ảnh oai hùng trên khắp sa trường, đối diện với những nguy nan, xem thường tử sinh nơi chiến địa; nhưng h́nh ảnh Người Lính vẫn thật đẹp, thật lăng mạn với h́nh ảnh trong những lúc dừng quân, Người Lính lại viết thư:



https://hon-viet.co.uk/LinhVietThu.jpg


“Đồn anh bên sông cạn, và hoàng hôn ướt đẫm đáy sông thưa ;

Nhiều tên trong đơn vị gọi đùa anh chiến sĩ của mộng mơ ;

Thường khi hai ba thằng, chiều chiều ra bờ vắng ngắm mông lung.

Một thằng nhớ em, để một thằng nhớ thêm. C̣n ḿnh t́m h́nh lén xem.


Thư của lính không xanh màu trời như mơ ước đâu em.

Thư của lính không thơm nồng hương, không nét hoa đa t́nh.

Thư của lính ba lô làm bàn nên nét chữ không ngay Nhưng thư của lính ghi giữa rừng cây khi nhớ em thật đầy”.

Và nơi “Tiền đồn heo hút, tinh tú quây quần nghe Anh kể chuyện đời Lính”.

Rồi người Lính lại ngồi lại với nhau, để đọc những “Bức tâm thư”:



https://hon-viet.co.uk/LinhDocThu.jpg


“ Hôm qua hành quân dừng chân trên dăy đồi sim

Anh vui nhiều hơn v́ đọc thêm lá thư em

Lời thư đẹp quá, đọc đă bao nhiêu lần, mà ḷng vẫn c̣n thương ”

Và rồi, mùa Đông lại đến, Giáng Sinh lại về, trên những tiền đồn, hay những Căn Cứ xa xôi, Người Lính không thể trở về phố thị, để sum họp bên mái ấm gia đ́nh, nên Người Lính đành phải đón mừng Giáng Sinh với tất cả những ǵ có thể làm, có thể tạo ra những h́nh ảnh Giáng Sinh, với những Hang Đá “dă chiến”, để cùng nhau, tay súng, tay đàn, hát những bài ca yêu thích, để cùng nhau san sẻ những niềm vui đời Lính Chiến.



https://hon-viet.co.uk/BanNhacLinh.jpg


Một lần nữa, người viết xin trích lại một bài viết của chính ḿnh, về những mùa Giáng Sinh xưa:

“Đêm nay, đêm Giáng Sinh - Đêm Thánh Vô Cùng - Đêm chia hai lịch sử của nhân loại.

Mọi người ở trên mặt địa cầu này, dù có tin Chúa hay không; nhưng mỗi lần đặt bút xuống, để ghi lại một ngày tháng nào đó, dù là ngày vui hay là một ngày buồn, th́ chính họ, mặc nhiên công nhận :

Đó là ngày đánh dấu niên lịch của sự kiện Chúa Cứu Thế đă Giáng Sinh.”


2krM7pvuiYk


Cùng giao ḥa với sự đổi thay của đất Trời, để nhân loại có một niên lịch vĩnh cửu như hôm nay , chúng ta, những người Việt đang sống đời vong quốc ở khắp bốn phương Trời hồi tưởng về những năm tháng cũ của một thời chinh chiến.

Đặc biệt, với những chàng thư sinh đă từng t́nh nguyện xếp bút nghiên theo việc đao binh, từ giă mái trường cùng bè bạn thân yêu, lên đường ṭng quân, với nguyện ước để bảo vệ đồng bào, bảo vệ miền Nam Tự Do, v́ đó là bổn phận của người thanh niên giữa thời đất nước đang lâm vào cơn nguy biến.

Những ngày tháng đầu tiên nơi “Thao trường đổ mồ hôi, Chiến trường bớt đổ máu”; lần đầu tiên khoác chiến y, trở thành người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa, những “Đoạn Đường Chiến Binh”đầy thử thách, nhưng với chí nam nhi các anh đều vượt qua tất cả, để làm tṛn trách nhiệm:

Đem sinh mạng của chính ḿnh, để bảo vệ non sông.

Từ những năm tháng ấy, gót chinh nhân đă từng lưu dấu trên khắp Bốn Vùng Chiến Thuật, mà có khi cả năm, các anh không được một lần về phép, để sum họp cùng người thân bên mái ấm gia đ́nh.

Cho đến khi những đám mây đen vần vũ trên khắp đầu non, và những ngọn gió Đông giá buốt xoáy vào những chốn rừng sâu, ở các đơn vị nơi biên pḥng giới tuyến, th́ các anh bỗng nhớ đến rằng :

Mùa Vọng và Giáng Sinh lại trở về giữa chốn núi rừng hoang lạnh, thế rồi, với những đôi tay khéo léo như một nghệ nhân của các anh - các chị - các cô Chiến Sĩ Tâm Lư Chiến của đơn vị, đă gom góp :

Những tấm cạt-tông, những tờ giấy xi-măng được tách ra, những cọng cỏ, rơm khô, những nắm đất sét mềm mại vàng nâu, những viên đá, viên sỏi… những cục nhựa đặc biệt mềm và dẻo của loại cây Sưng (sâng) có một mầu vàng trong suốt… và để có những sắc mầu trang trí cho Hang Đá, th́ các anh đă lấy mầu vàng từ cốt nước của loại lá Dung, mầu đỏ từ cốt nước của thân cây Vang ở ven rừng… rồi pha thêm thành nhiều mầu khác, sau đó, đem trộn lẫn với một chất keo chiết từ lá khoai lang, cộng thêm với những nhánh Thạch Thảo, thế là đă đủ, để các anh-các chị-các cô Chiến Sĩ Tâm Lư Chiến cứ vừa hát vừa biến tất cả thành những chiếc Hang Đá thật tự nhiên, tái hiện một Hang Bê-Lem của từ ngh́n năm trước, và được đem đặt ở một nơi trang trọng nhất của đơn vị, có nơi là một Pḥng Văn Khang , để đêm về người Chiến Sĩ quỳ bên máng cỏ, hoặc ở một nơi nào đó của đơn vị và cất tiếng hát giữa đêm thâu những bài Thánh Ca hoặc những bản nhạc viết về Giáng Sinh như :

Đêm Thánh Vô Cùng, Bài Thánh Ca buồn…



ejC5DQvBaSM


Những Người Lính tiền đồn đón Noel bằng vật liệu tác chiến sẵn có. Nào ống phóng lựu M72 làm trụ, đạn đại liên M60 làm lá thông, đạn M79 làm dây đèn trang trí cùng với 5 quả đạn súng cối, trên đỉnh làm ngôi sao và vài thùng đạn làm đế cây phía dưới.

Thật tuyệt, một h́nh thức trang trí đón mừng Giáng Sinh của Lính.



https://hon-viet.co.uk/CayNoelCuaLinh.JPG


C̣n đây, là những h́nh ảnh của Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa đă đón Giáng Sinh ở những doanh trại, tiền đồn, hay các Căn Cứ xa xôi:


https://hon-viet.co.uk/GiangSinhTanSonNhat. jpg


Các quân nhân Sư Đoàn 7 BB đang trang trí hang đá trong đơn vị


https://hon-viet.co.uk/GiangSinhSD7BB.jpg


https://hon-viet.co.uk/GiangSinhDonVi1.jpg


https://hon-viet.co.uk/GIangSinhDonVi.jpg


Ngày nay, Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa, dẫu không c̣n được tay súng, tay đàn như những ngày hào hùng, thân ái cũ. Có những Người Lính đă vĩnh viễn ra đi !

Người c̣n ở lại, bùi ngùi, rưng rưng tiếc nhớ những năm tháng được sống trong “T́nh Huynh Đệ Chi Binh”.

Người Lính không bao giờ quên những giờ phút đă từng sát cánh bên nhau giữa các chiến hào, say mùi thuốc súng, đối đầu với quân giặc, để rồi thốt lên câu:


“ Những người muôn năm cũ ; Hồn ở đâu bây giờ ?!”


Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa, với những chiến công lẫy lừng, với những trận địa nổi danh trong Quân Sử :

Mùa Hè Đỏ Lửa, Quảng Trị, B́nh Long, An Lộc…



https://i0.wp.com/www.truclamyentu.inf o/projethinhanh/binhlonganhdung_biet cach81_1.GIF


Đặc biệt, trong trận chiến Mậu Thân, 1968, v́ đă “ tin ” cái “Thỏa ước hưu chiến ba ngày cho đồng bào ăn Tết ” do chính Cộng sản xâm lăng Bắc Việt “đề xướng”, nên một nửa quân số của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă được phép về ăn Tết với gia đ́nh.

Lịch sử sẽ măi măi khắc ghi:

Giữa đêm Giao Thừa Mậu Thân, 1968, th́ “Giặc từ miền Bắc vô đây, bàn tay nhuốm máu đồng bào”.

Quân xâm lăng Cộng sản đă tấn công vào các thành phố, máu đổ, đầu rơi, bao xác dân lành ngă đổ, khói lửa lan tràn, quyện giữa làn khói hương nghi ngút trên bàn thờ gia tiên của đồng bào miền Nam !



Xf9gfc_7bq0


Thế nhưng, dẫu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, với quân số, chỉ c̣n phân nửa, nhưng Cộng sản Bắc Việt gồm có sự tiếp tay đắc lực của Nga, Tàu và cả những tên lính Bắc Hàn đă cải trang thành “bộ đội Bắc Việt”, (Sau này, Bắc Hàn đă sang Việt Nam đem xương cốt của chúng về nước, th́ người ta mới biết).

Riêng về mặt quân sự, phần lớn các loại vũ khí của Quân Giải phóng đều do Liên Xô và Trung Quốc viện trợ, trong đó chỉ tính riêng vơi súng bộ binh, tổng số lượng viện trợ của các nước đồng minh Xă hội Chủ nghĩa đă lên tới hơn 3,5 triệu khẩu. Nguồn ảnh: TL.


https://photo-cms-kienthuc.zadn.vn/zoomh/800/uploaded/tuananh/2019_06_21/5/nhung-nguon-chi-vien-lon-cho-cach-mang-viet-nam-trong-khang-chien-chong-my.jpg


Và v́ đă không được “ chiến ” vào trận đánh cuối cùng.

Chính v́ thế, nên Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa không hề có “ bại”


https://1.bp.blogspot.com/-gToUqZF0ckc/XLxs72IFs2I/AAAAAAABCxo/2l22oPxN4XMkaxnM_7Va VDn6jYVeLkPfwCEwYBhg L/s640/1%2B%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba %2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba %2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba %2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba %2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba %2Ba%2Ba%2Ba%2Ba%2Ba %2Banh%2Ba%2Ban%2Bba %2Banh%2Bbac%2Banh%2 Bchua%2BB%25E1%25BB% 2599%2Btr%25C6%25B0% 25E1%25BB%259Fng%2B% 2Banh%2BCo%2Bgiao%2B Pha%2B1%2BCT%2BNTDB% 2B3%2Ba%2B1%2Bv%2B1% 2Be%2B2%2Ba.jpg


Tạm kết :

Qua những h́nh ảnh của Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa, từ lúc xếp bút nghiên, lên đường ṭng chinh. Người Lính luôn tâm niệm: Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm cho đến giây phút cuối của cuộc đời.

Người Lính không cho phép ḿnh đón Giáng Sinh, hoặc vui Xuân cho riêng ḿnh, khi đất nước c̣n ch́m trong lửa khói của quân xâm lăng.

“Em nghe không ngoài kia, Trời Đông đă lên rồi, bao lớp người đi, đầu mây chân gió, vai nặng gánh sông hồ, c̣n bao lâu nữa, xin em thôi hờn dỗi.

.................

Đây gói hành trang xếp lại cho tṛn để anh đi nhé. Xin chớ u buồn v́ trong những ngày dài anh vắng bên em. Nhưng xin em đừng quên, từng đêm súng vang về trong giấc ngủ say, là khi anh đă dâng nguồn sống cho đời, và cho đôi lứa đẹp ước mơ…”



fXVt5jaFpyo


Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa, là tất cả những ǵ cao quư, hào hùng, đẹp nhất trên đời, khi các Anh đă dâng hiến đời ḿnh cho Tổ Quốc và Dân Tộc.

Hôm nay, và măi măi cho đến ngàn sau, dẫu có “hái ngàn sao” trên Trời, hay “gom hết sóng nước của đại dương”, cũng không sánh bằng những hy sinh vô bờ bến của Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa trong suốt hơn hai mươi năm, đă góp máu xương trong đại cuộc chung :

BẢO QUỐC - AN DÂN !



https://scontent.fyyz1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/13934724_97070363969 4969_239873477456080 0134_n.jpg?_nc_cat=1 11&ccb=2&_nc_sid=9267fe&_nc_ohc=E7JJSTqWu7kA X99h4A-&_nc_ht=scontent.fyyz 1-2.fna&oh=608619fee90049141 8590b5d41272b48&oe=6016BE21


Hậu thế, cần phải ghi nhớ :

Quân xâm lăng Cộng sản Bắc Việt được Nga, Tàu tiếp tế súng đạn, vũ khí hùng hậu, và điêu ngoa quỷ quyệt khi đă trắng trợn bội ước hưu chiến trong cuộc “Tổng Công Kích Tết Mậu Thân, 1968”, là như thế; nhưng vẫn không thắng nổi Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa



3wMf_Cv-bOA


th́ nếu vào thời điểm trước và sau 30/04/1975, nếu không bị bức tử, và nếu được đánh một trận thư hùng cuối cùng, th́ chắc chắn Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa phải thắng !


https://boxitvn.files.wordpr ess.com/2010/04/clip_image002.jpg


Giáng Sinh 2020

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

hoathienly19
01-03-2021, 04:08
CHƯƠNG TR̀NH " TÂM T̀NH NGƯỜI TPB VNCH " XUÂN 2021



1g2X0GRjE9g

hoathienly19
01-07-2021, 04:23
CHIẾN TRƯỜNG TAM BIÊN


https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2016/07/huy-hieu-lc4911bcnd.jpghttps://dongsongcu.files.wor dpress.com/2016/07/huy-hieu-tham-sat-delta-bcnd.jpg


Chuyện kể của Cựu Đại Úy Biệt Cách Dù Lê Đắc Lực.



“mong manh cánh lan rừng xanh bên thác uốn quanh”

“ Chiều lên Bản Thượng ”

Đâu phải lần nầy đơn vị tôi mới lên rừng. Dù ở Tiểu Đoàn hay Thám Sát Delta, “lên rừng” là những cuộc hành quân thông thường và sở trường của chúng tôi.

Ba Ḷng, A-Shau, An Lăo, Dakto… nơi nào không là núi rừng? Chỉ có thời gian Tết Năm Mậu Thân mới đánh nhau với địch ở Thành Phố Nha Trang, Gia Định, Saigon.

Địch ở trên rừng, chúng tôi lên rừng, địch về thành phố, chúng tôi về thành phố. Nơi nào có địch, cấp trên điều là chúng tôi tới.

Phía Tây Quê Hương Việt Nam, núi rừng xanh ngắt trùng điệp, nh́n màu xanh Quê Hương, vừa thấy đẹp, vừa thấy buồn, vừa thấy thương…



https://img.thanhtra.com.vn/portals/0/news_images/2018/04/khaithacvan/img_20180402_130832_ 1.jpg


Chuyến đi nầy th́ thấy thương hơn, lên tới vùng Tây Bắc Kontum, qua khỏi những cái tên mà người Thành Phố đă nghe tới nhiều, nhưng vẫn c̣n thấy lạ lẫm :

- Dakto, Dak-Bla, Ban-Het, Tân Cảnh, Tu-Morông, hay các Trại Lực Lượng Đặc Biệt Polei-Kleng, Plei-Djereng kế cận vùng Tam Biên.

Tam Biên là khu vực giáp ranh của ba biên giới :

- Việt, Miên, Lào.

Vào khoảng tháng 2 năm 1971, gần tới Tết con Heo, năm Hợi .

Trước ư đồ xảo trá của bọn giặc cọng, chúng muốn tái diễn cái tṛ lấn đất dành dân, nên đă chuyển quân tràn qua biên giới ngỏ hầu mở ra các cuộc tấn công xâm chiếm Thị Xă Kontum hay một vài Quận Lỵ lân cận để làm áp lực trong cuộc Hội Đàm 4 bên tại Paris.

Việt cọng đă đưa quân theo con đường ṃn Hồ Chí Minh, từ Lào, từ Cambodia qua ẩn trú sát nách biên giới trong vùng rừng rú lănh thổ trách nhiệm của Quân Đoàn II. Để xác định chính xác về đơn vị, cấp số và vùng trú quân của lực lượng địch, ngỏ hầu lập kế hoạch tấn công, tiêu diệt hay pḥng thủ.

Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đă tŕnh xin Bộ Tổng Tham Mưu đưa Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù tăng phái cho Sư Đoàn 22 Bộ Binh để hành quân thám sát kiểm chứng, xác minh.

Toàn bộ Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù được không vận đến Phi Trường Kontum, và lập căn cứ Hành Quân ở mạn Tây sát bên hông Phi Đạo.

Vào những ngày cận Tết, Kontum trời se lạnh, thỉnh thoảng có những trận mưa rào, làm cho những chiến binh đang buồn v́ phải xa Sài G̣n như chúng tôi lại càng buồn hơn.

Từ căn cứ hành quân, lội bộ gần cả cây số mới tới khu phố Hàng Keo, nằm cạnh bờ sông Dak-Bla, để uống một ly cà-phê đen nóng và nghe vài ba bản nhạc giải khuây, ngoài ra chẳng có ǵ làm vui trên cái xứ cao nguyên hẻo lánh này.



https://tusachonline.files.w ordpress.com/2014/11/1-210.png


Đêm Giao Thừa, nằm trải dài trên chiếc ghế bố, thỉnh thoảng tôi nghe từng tràng đạn pháo nổ ḍn bên tai, ngoài trời th́ liên tục được thắp sáng bởi những trái hỏa châu, đầu óc tôi cứ bị đè nặng trong không khí chiến tranh. Chẳng biết đến bao giờ Đất Nước tôi mới không c̣n bom rơi đạn nổ. Tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay.

Sáng vừa thức dậy, Thượng Sĩ Mai Xuân Hùng, Thường Vụ Đại Đội, báo tin cho hay hôm nay sẽ có Biệt Đoàn 5 Văn Nghệ Trung Ương ở Sài G̣n lên tŕnh diễn ủy lạo.

Tin thật vui mà lại quá buồn cười. Đơn vị tôi đóng ở ngă tư An Sương, Hốc Môn, Sài G̣n. Biệt Đoàn 5 Văn Nghệ Trung Ương cũng ở Sài G̣n, sao không cho nghe hát ở dưới đó mà kéo nhau lên rừng, bên hát, bên nghe ?

Mấy ngày qua, một hai Toán Thám Sát đă xâm nhập hoạt động trong các vùng gần Tam Biên, nằm về hướng Tây Nam Dakto, cách

Trại Polei-Kleng về hướng Tây Bắc khoảng 20 cây số. Các Đại Đội th́ đang túc trực ứng chiến tại căn cứ Hành Quân.

Tối lại, ngoài các Sĩ Quan, Binh Sĩ trực hành quân và canh gác, bốn Đại Đội tập trung ngồi phía trước cái sân khấu dă chiến, được kê cao bằng những tấm palette nhôm của Quân Đội Mỹ, đặt trên các thùng “phuy” chứa đầy nước, phía sau là căn lều bạt để các Ca Nghệ Sĩ làm chỗ trang điểm, thay đổi y phục.

Ban Nhạc đánh trống thổi kèn trên ấy, Ca Sĩ hát trên ấy, chúng tôi ngồi dưới đất, ngưỡng cổ hào hứng vừa nghe vừa nh́n.

Các Ca Sĩ lần lượt xuất hiện :

- Phương Hồng Quế

- Phương Hoài Tâm

- Phương Dung

- Thanh Mai

- Chế Linh

- Hùng Cường

Duy Khánh v.v…

Các Nữ Ca Sĩ cũng mặc đồ trận, quần áo rằn ri Biệt Động Quân, Nhảy Dù, Biệt Cách Dù. Mà có ǵ lạ đâu, các Cô là Binh 1, Hạ Sĩ danh dự của các Quân Binh Chủng mà. Phó Tổng Thống Trần Văn Hương cũng là Hạ Sĩ danh dự đấy. Nghe giới thiệu lon lá như thế, chúng tôi rất vui và vỗ tay hoan hô liên tục, không dứt.

Duy Khánh xuất hiện trên sân khấu. Rất ít người Huế không biết Duy Khánh. Chúng tôi th́ rành sáu câu bởi v́ khó có ai hát hay hơn Duy Khánh với bài “Xuân nầy con không về!”

Hồi chưa nhập ngũ, gần Tết, tôi cũng bắt chước Duy Khánh:

“Con biết bây giờ Mẹ chờ em trông, nhưng nếu con về bạn bè thương mong”.

Ông Anh con ông cậu tôi, giáo sư, nghe tôi hát, phán một câu:

“Thằng ni bất hiếu. Cha mẹ phải hơn bạn bè chớ !”.

Có lẽ ông Anh tôi ngoài tuổi nhập ngũ, chưa từng đi lính, nên không rơ t́nh Đồng Đội như thế nào. Sinh ra ta là Cha Mẹ, cứu mạng ta giữa chiến trường là Đồng Đội.

Chưa từng đi đánh giặc, chưa từng gặp gian nguy, thập phần sinh tử nên khó biết cái t́nh Đồng Đội ấy thiêng liêng, cao quí như thế nào. Càng xông pha trận mạc, vào sinh ra tử, tôi hiểu tâm trạng người lính trong bài hát hơn Ông Anh của tôi.



eqh5sMXN6rM


Sau đêm tŕnh diễn, Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương trở về Sài G̣n ngay sáng hôm sau. Chúng tôi đón Xuân không có [b][size=3][color=indigo]“thịt mỡ dưa hành, câu đối đỏ”, thiếu cả tiếng pháo đ́ đùng. V́ Tết Mậu Thân mà bây giờ có lệnh cấm pháo. Đồng bào cũng nản[b][size=3][color=indigo][i] “quân giải phóng” nên không ai c̣n muốn đốt pháo làm chi để Việt cọng lợi dụng vào Thành Phố mà giết Đồng Bào.

Ba ngày Tết lặng lẽ trôi qua. Buổi sáng Mồng 4, Trung Úy Thứ, Sĩ Quan phụ tá Ban 3 Hành Quân thông báo:

Đại Đội 4 có lệnh chuẩn bị hành quân.


Toán 5 Thám Sát Delta, đă chuyển công điện báo cáo là vừa khám phá trên đường ṃn Hồ Chí Minh, ở gần ngă ba biên giới, ban đêm có nhiều đoàn xe Molotova và bộ đội Việt cọng từ Lào và Cambodia di chuyển về hướng Đông Đông Nam, trên phần lănh thổ của Nước ta, dẫn đến gần các căn cứ 5 và 6 trong vùng trách nhiệm của Sư Đoàn 22 trú đóng tại Tân Cảnh.

Theo yêu cầu của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II.

Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù có nhiệm vụ tổ chức phục kích tiêu diệt đoàn xe, bắt sống tù binh để khai thác tin tức.

Đại Đội 4 Biệt Cách Dù được giao trách vụ này. Đại Đội Trưởng là Đại Úy Đào Minh Hùng, c̣n tôi là Đại Đội Phó.



https://cms.kienthuc.net.vn/zoomh/500/uploaded/lenam/2014_12_17/truongson-kienthuc_10_wuqc.jpg


Chiều hôm sau, Đại Đội được trực thăng vận vào vùng hành quân. Băi đổ bộ nằm ở hướng Nam khu vực Tam Biên, cách đường biên giới Cambodia về hướng Tây chừng 1 km.

Hai Trung Đội 3 và 4 do tôi chỉ huy được đổ xuống trước để an ninh băi, không lâu sau đó là Ban Chỉ Huy Đại Đội và hai Trung Đội 1 và 2.

Đại Đội di chuyển chừng cây số th́ trời bắt đầu tối nên dừng quân nghỉ đêm.

Sáng dậy, Đại Đội chia ra hai cánh quân, tiến song hành về hướng Đông Bắc để tiếp cận con đường ṃn do Toán 5 Thám Sát phát hiện.

Nơi đây chắc hẳn là chốn an toàn của địch, v́ trên đường di chuyển Đại Đội đă nh́n thấy có rất nhiều đường dây điện thoại của chúng giăng đầy chằng chịt dọc theo các cành cây, thỉnh thoảng bắt gặp những căn lều trại và bếp núc đă bị bỏ hoang bên những khe suối, dưới những cụm rừng âm u, hoang



https://cms.kienthuc.net.vn/zoomh/500/uploaded/lenam/2014_12_17/truongson-kienthuc_2_fipf.jpg


Đi gần nửa ngày đường, vừa tiếp cận con đường ṃn, đang dàn quân bố trí, th́ Tổ khinh binh tiền đạo trông thấy một tốp bộ đội Việt cọng đang di chuyển ngược hướng, nên đă nổ súng tác xạ.

Bọn địch dạt qua mé rừng bên phải phản công mănh liệt, nhưng cuối cùng bọn chúng tháo chạy, để lại 05 xác chết tại hiện trường. Có thể đây cũng là đám tiền sát viên của chúng.

Sợ lộ mục tiêu sau khi chạm địch, Đại Úy Hùng cho lệnh Đại Đội di chuyển lên hướng Bắc chừng 500 mét th́ dừng lại.

Sau khi quan sát địa thế, Đại Đội dàn trải đội h́nh dọc theo con đường ṃn chạy từ Tây sang Đông.

Tôi ra lệnh Thiếu Úy Nguyễn Kim Long Trung Đội Trưởng Trung Đội 3 đưa 2 khinh binh ḅ ra giữa mặt đường để chôn các trái ḿn chống chiến xa M.15 dưới các vết xe lăn cũ.

Màn đêm xuống dần, rừng êm ắng, lặng yên và mù mịt tối. Tất cả Binh sĩ gh́m súng nằm chờ đợi. Ở một vài khoảng trống trong khu vực, thỉnh thoảng được những trái hỏa châu trên bầu trời tỏa sáng lờ mờ rồi dần dần tối hẳn.

Ba tiếng đồng hồ đă trôi qua, không một động tĩnh, nhưng không v́ thế làm nản ḷng các chiến sĩ Đại Đội 4 Biệt Cách Dù, tất cả vẫn gh́m súng trong tư thế sẵn sàng đối phó với địch quân.

Tôi nh́n đồng hồ, đă 12 giờ 30 khuya, vừa định lấy bi đông uống một ngụm nước cho tỉnh táo, th́ ầm, ầm, ầm, những tiếng nổ vang dội và chuyển động cả một khu rừng.

Ba chiếc xe Molotova của địch đă bị trúng ḿn, nằm lật nghiêng, choáng hết cả mặt đường.

Tiếng la hét của đám Việt cọng, tiếng súng Đại liên, XM.16, M.79, xen lẫn tiếng đạn AK.47, CKC đă làm cho sự tịch mịch của khu rừng trở nên náo động, ầm ĩ.

Đêm trôi qua rất nhanh. Trời vừa hừng sáng, sau khi kiểm chứng và báo cáo kết quả tổn thất của địch bao gồm:

- 15 cán binh cọng sản bị sát hại

- 03 xe molotova và rất nhiều quân dụng, lương thực đă bị phá hủy hoàn toàn

- Phía ta 5 chiến sĩ bị thương, trong đó có tôi bị một mănh tạc đạn cắt vào cổ tay và 1 Hạ Sĩ Quan tử thương về Bộ Chỉ Huy Hành Quân.

Đại Đội khởi sự di chuyển trở lại hướng Tây Nam, vừa băng ngược qua con đường ṃn, di chuyển lên hướng ngọn đồi trước mặt để đến băi triệt xuất, th́ bất ngờ đạn địch từ trên bắn xuống xối xả, nhưng may nhờ sườn đồi có nhiều đá tảng và cây rừng lớn che chắn, nên chỉ làm bị thương 2 Hạ Sĩ Quan Tiểu Đội Trưởng và 5 Binh Sĩ.

Đại Đội ở vị thế bất lợi hơn địch, Việt cọng ở trên cao. Đại Đội tấn công lên đồi nhiều đợt mà không lên được, hao hụt không ít. :112:

Chuẩn Úy Lương Hữu Yên, Trung Đội Trưởng Trung Đội 2, đă bị tử thương, xác c̣n nằm trên sườn đồi, và không lâu sau đó Chuẩn Úy Trần Thanh Đồng đang tiến quân lên đỉnh đồi ở cánh phải, th́ cũng cùng chung số phận, tôi đă hai lần điều động binh sĩ cố ḅ lên lấy xác, nhưng v́ bị hỏa lực địch bắn càng quét dữ dội, nên không thể, Đại Úy Hùng bảo tôi báo cáo t́nh h́nh chạm địch và tổn thất về Bộ Chỉ Huy, đồng thời khẩn cấp xin máy bay oanh kích đến dội bom vào vị trí địch ở trên đồi cao.

Tiếng động Trực Thăng bay ṿng trên khu vực, qua máy truyền tin PRC.25, tôi nghe rơ tiếng Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn, đang liên lạc hướng dẫn các Phi Tuần Skyraider, A.37, trên đường bay đến để oanh kích chính xác vào tọa độ mục tiêu của địch.



https://nhayduwdc.org/ls/kq/hk/2013/dmvg/ctqtmhdlvoipd518_2.j pg


Sau các Phi tuần oanh tạc th́ Phi Đội Trực Thăng vơ trang xuất hiện, bay ṿng quanh, bắn xối xả, liên hồi xuống trên đầu địch.

Vừa chấm dứt các đợt oanh kích, tác xạ, hai cánh quân hai mặt của Đại Đội, theo lệnh của Đại Úy Hùng, đă đồng loạt xung phong, tràn lên chiếm lĩnh đỉnh đồi.

Xác Chuẩn Úy Yên và một số Binh sĩ đă được Thiếu Úy Long đưa một Tiểu Đội khiêng vác mang theo.

Riêng thi thể Chuẩn Úy Đồng, v́ nằm gần vị trí địch, nên đă không c̣n t́m thấy xác sau khi các chiến đấu cơ đă dội bom yểm trợ khốc liệt.:112::112::1 12:

Quân địch hoàn toàn tan ră, bỏ thây răi rác chung quanh đồi, 20 xác đếm được, c̣n một số'' chém vè” cao bay xa chạy, tịch thu rất nhiều loại vũ khí, máy móc và quân dụng.

Vậy rồi, ngay chiều hôm đó, Đại Đội vừa tải thương vừa di chuyển đến băi triệt xuất. Tới điểm hẹn, chờ không bao lâu th́ một Đoàn Trực Thăng đáp xuống thấp.

Từng Trung Đội đưa xác tử sĩ và thương binh lên trước, xong thay nhau nhảy lên các chiếc kế tiếp. Lần lượt Đại Đội đă được bốc đưa về lại Căn Cứ Hành Quân ở Phi Trường Kontum.



https://anhxua.net/images/nha-ky-thuat-luc-luong-dac-biet-biet-cach-du-quan-luc-viet-nam-cong-hoa-296624921003114.jpg


Cách hành quân của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù thường như thế.

Thả các Toán Thám Sát vào các mật khu của địch, thông thường là ở những vùng dọc theo biên giới, núi non hiểm trở, ngoài tầm tác xạ, yểm trợ của Pháo Binh, để khám phá các căn cứ, kho tàng, địa đạo và lực lượng của Việt cọng.

Nhưng, nếu cần thiết thanh toán mục tiêu, hành quân tiêu diệt, phục kích, th́ các Đại Đội xung kích sẽ đảm nhận trách nhiệm.

Đây cũng là một trong hai cuộc phục kích hiếm hoi trong ḷng địch, nơi các mật khu bất khả xâm phạm của bọn chúng, trước đây vào năm 1968 tại thung lũng Ashau, mà chỉ có lực lượng duy nhất là Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù mới có thể lập nên thành tích, công trạng lịch sử này.

Kontum là đây ! Tam Biên là đây !

Ḷng chúng tôi vui. Và trong niềm vui trở về, tôi bỗng nhớ một bài hát:

“ Đường lên núi rừng ! Sao hăi hùng ”.

Hăi hùng là tự người khác đem đến cho ta, từ con người, không phải từ thiên nhiên.

Người yêu Quê Hương th́ không thấy Quê Hương ḿnh hăi hùng bao giờ !

Cựu Đại Úy Biệt Cách Dù Lê Đắc Lực.


https://dongsongcu.wordpress .com

hoathienly19
01-18-2021, 17:44
https://scontent.fyyz1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/139240191_1062992777 500468_2685884955896 195285_n.jpg?_nc_cat =110&ccb=2&_nc_sid=730e14&_nc_ohc=mqLllVGuf1wA X8jqR9S&_nc_ht=scontent.fyyz 1-2.fna&oh=bc0d78d9d95087c4e f8b474f98957a12&oe=602C40BA



ANH HÙNG QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A , TRUNG TÁ LÊ BÁ B̀NH


Trung Tá Lê Bá B́nh năm 1972 là TĐT Tiểu Đoàn 3 TQLC VNCH. Đại Úy John Ripley lúc đó là Cố Vấn TĐ (sau lên Đại Tá) kể lại, trong trận đánh ở Thị Xă Đông Hà, Ông ĐU hỏi TrT B́nh:

"Nếu giặc tràn qua được th́ sao ?"

TrT B́nh trả lời :

"Nếu TĐ 3 TQLC trong đó có tôi và anh không c̣n nữa th́ cộng quân mới có thể vào Thị Xă Đông Hà".

Năm 1972 mở đầu cho cuộc tổng tấn công trong chiến dịch Nguyễn Huệ, cộng quân xua 20.000 lính cùng hàng trăm thiết giáp T54, PT76 và đại pháo tấn chiếm Đông Hà, Quảng Trị.

Thị Xă Đông Hà lúc đó được trấn giữ bởi TĐ3 TQLC, quân số gồm khoảng 700, cùng Thiết Đoàn 20, có phi pháo và hải pháo yểm trợ.

TrT B́nh quyết định giật sập cầu Đông Hà ḥng cản đường tiến của xe tăng cộng quân.

Sau khi cầu sập, nhờ con sông Thạch Hăn làm rào cản thiên nhiên, Ông và các chiến sỹ TĐ3 TQLC đă giữ được Thị Xă trong hơn một tháng, sau đó bàn giao trách nhiệm lại cho LĐ5 BĐQ. Trong trận này Ông bị thương, quân số TĐ bị thiệt hại hết phân nửa.

Trung Tá Lê Bá B́nh tốt nghiệp Khóa 12 Trường Sỹ Quan Trừ Bị Thủ Đức năm 1962, t́nh nguyện về TQLC, chức vụ sau cùng:

- Tiểu Đoàn Trưởng TĐ6 TQLC.

Sau ngày mất nước Ông đi tù cải tạo khổ sai 12 năm, qua Mỹ theo diện HO năm 1991, hiện đang sống ở San Jose, CA.

Ông là nguồn cảm hứng cho Ông Richard Botkin viết cuốn sách Ride The Thunder sau được làm thành phim mang cùng tên.

Ông vừa mới mất tại Mỹ lúc 1g40 15/1/2021.

Xin chào vĩnh biệt Đại Bàng Bắc Giang.:112:

Nguyễn Quốc



" RIDE THE THUNDER - CƯỠI NGỌN SẤM - NGƯỜI THẬT VIỆC THẬT VỀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM



xHouHJCk2YA


TRẢ SỰ THẬT CHO LỊCH SỬ


Được hỏi lư do viết thêm một cuốn sách rồi lại làm thêm một cuốn phim về Việt Nam, tác giả Richard Botkin nhắc lại câu nói bất hủ của cố Tổng Thống Nixon:

“ Không biến cố nào trong lịch sử Hoa Kỳ bị hiểu lầm hơn là chiến tranh Việt Nam. Cuộc chiến này trước đây bị tường tŕnh sai lệch, và giờ đây được nhớ lại lại một cách sai lạc.”

“Gặp và nghe chuyện của Trung Tá Lê Bá B́nh là chuyện t́nh cờ. Nhưng từ đó, tôi đă nghiên cứu nhiều vô cùng, đọc biết bao nhiêu tài liệu, cả trăm cuốn sách, và nói chuyện với rất nhiều người, để cuối cùng phải đi đến kết luận là :

" Đa số sách viết sai về cuộc chiến này, sai về dữ kiện lịch sử, về con người, người dân, người lính VNCH và người cựu chiến binh Hoa Kỳ.”

“Tôi muốn thay đổi những nhận thức và kư ức sai lạc đó.”

Trả lời câu hỏi ông muốn thay đổi nhận thức ǵ, đâu là sự thật ?

Ông Richard Botkin nói:

“ Những người nói miền Nam thất thủ v́ quân sĩ VNCH thiếu can trường, c̣n cựu binh Hoa Kỳ chỉ là những người trai trẻ bị tổng động viên, không có lư tưởng, là không hiểu đúng lịch sử.

Người lính VNCH rất can trường, chiến đấu trong danh dự, và bạn họ, các chiến binh Hoa Kỳ xả thân v́ yêu nước, v́ chia sẻ lư tưởng chống cộng sản.”

“Sự thật những người lính quân đội Việt Nam Cộng Ḥa là những người quả cảm. Không ai muốn ngừng chiến đấu cả. Miền Nam Việt Nam đă gần đoạt được chiến thắng rồi. Nhưng họ phải bỏ súng v́ Hoa Kỳ quyết định không hỗ trợ, không viện trợ nữa, trong khi miền Bắc vẫn tiếp tục được Nga và Tàu hỗ trợ.”

C̣n nhiều sự thật nữa mà ông Richard Botkin muốn đưa lên màn ảnh.

Sự thật về sự tàn ác của bên thắng cuộc tại những trại tù cải tạo.

Sự thật về những người vợ có chồng đi cải tạo vừa bươn chải lo cho con, vừa đối phó với mọi khó khăn của cuộc sống, vừa bóp chắt thăm nuôi chồng, vừa ṃn mỏi đợi chờ, cho đến ngày chồng hoặc được thoát khỏi ngục tù hay được tin chồng đă chết.

Ông Richard Botkin cho biết cũng v́ mục đích trả lại sự thật cho lịch sử mà ông muốn biến cuốn :

“Ride the Thunder : A Vietnam War Story of Honor and Triumph” thành phim.

Tuấn Đạt

hoathienly19
01-29-2021, 16:44
NGƯỜI LÍNH GIÀ (Cọp Nhớ Rừng)



Người Lính Già, nửa đêm nằm trăn trở

Nhớ trường sơn, như thể hổ nhớ rừng

Thèm điếu thuốc, đốt lên trong nón sắt

Đốt đêm đen, thêm hơi ấm vào ḷng


*****

Người Lính già, nửa đêm nằm không ngủ

Nhớ anh em, nhớ đồng đội ngày xưa

nhớ trà nóng, nửa đêm nằm dưới hố

nấu vội vàng, bằng "C4" chuyền tay


*****

Người lính già, nửa đêm trong giấc ngủ

Mơ chập chờn, bạn gọi lúc nửa đêm

Ngồi bật dậy, tay quơ “M 16”

Súng c̣n đâu, đâu c̣n Súng mà t́m


*****

Người lính già, nửa đêm t́m giấc ngủ

Cố quên đi, những h́nh ảnh ngày xưa

Quên sao được, nào “Triệu Phong” “ Ái Tử”

Cùng “Hương Điền”, Hương lộ ba số “5”


*****


Người Lính Già , nửa đêm nằm không ngủ

Nhớ “Trị Thiên”, nhớ tuyến lửa địa đầu

Nhớ “Mỹ Chánh”, nơi chiếc cầu bị găy

Bởi v́ đây, là chiến tuyến cuối cùng


*****


Người Lính Già, cố quên càng thêm nhớ

Nhớ “Hải lăng”, nhớ “Thạch Hăn”, “Điền Môn”

Nhớ nhiều lắm, nhớ hoài không kể hết

Nhớ ḍng sông, toàn xác với lục b́nh…


*****


Người lính Già nửa đêm nằm trăn trở

Mơ trong đêm, tiếng pháo nổ đ́ đùng

Nhớ nhiều lắm, ánh hỏa châu soi sáng

Dẫn đường về, sau trận đột kích đêm

*****

Ngày tháng đến, người Lính Già thôi nhớ

Thời gian trôi, là Phuơng thuốc thần tiên

không ai gọi, nữa đêm người tỉnh giấc

Chỉ c̣n chăng, trong t́m thức Cọp Già…


*****



zZWmhH2FUE8


Tuấn TT


"C4" một loại thuốc nổ TNT ở trong ruột quả Ḿn claymore, lính thường lấy bớt ra để nấu café hay nấu trà , khi lấy bớt sức công phá sẽ bị giảm thiểu, nhưng ngộ biến tùng quyền.

http://tqlcvn.org

hoathienly19
02-02-2021, 15:40
THĂM LẠI ĐỒI CHARLIE : NGHE NGƯỜI ĐI , HỒN Ở LẠI !


Trung Tá Nguyễn Đ́nh Bảo - người ở lại Charlie (phải), và Đại Úy Đoàn Phương Hải (trái) - Nguồn h́nh Internet



https://www.quyenduocbiet.co m/images/file/JKKXvCfG2AgBAO1g/charlie003.jpg


Chúng tôi chọn những ngày cuối năm để leo lên ngọn đồi lịch sử Charlie, bởi vào lúc này thời tiết không quá khắc nghiệt để lần ṃ được đến nơi. Mang theo trong chuyến đi, những thứ quan trọng nhất là rượu, hoa và nhang :

Quà cho những người mà thế hệ chúng tôi chưa từng biết mặt.

Máu xương người Việt…

Khác với việc thắp nhang ở nghĩa trang quân đội Biên Ḥa, nay nằm trong địa phận tỉnh B́nh Dương, đường đi nghĩa trang không khó nhưng lại phải chịu sự ḍm ngó và hạch hỏi của nhóm gác cổng do công an địa phương cắt đặt, c̣n đường đi đến đồi Charlie chỉ có núi rừng, vài tấm bảng chỉ đường phủ đầy bụi đỏ.

Thỉnh thoảng trên đường có bắt gặp vài người dân tộc Jarai hay Sedang.

Charlie là một chóp đồi cao nằm giữa ba huyện Sa Thầy, Đắk Tô và Ngọc Hồi, thuộc tỉnh Kon Tum.

Đường đi đến đó cheo leo và trắc trở. Chúng tôi đoán là trước năm 1975, hầu hết cuộc chuyển quân đều dựa trên không vận mới có thể nhanh và an toàn.

Người Việt trong vùng gọi là Sạc-Li, dựa theo âm tiếng Anh, mà trong chiến tranh Việt Nam, cứ điểm cao 900m so với mặt nước biển được quân đội đặt tên, tạo thành tuyến pḥng thủ và quan sát khu vực ngă ba Đông Dương.



https://hinhanhkontum.maytin hhtl.com/images/kon-tum/doi-charlie/duong-di-charlie.jpg


Nơi đây c̣n là vùng bảo vệ cho sân bay quân sự Phượng Hoàng và bản doanh bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn 22 Bộ binh ở Tân Cảng của miền Nam.

Việc đặt tiểu đoàn 11 nhảy dù Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa trấn giữ ở đồi Charlie là một sự khó chịu vô cùng đối với quân Bắc Việt, v́ mọi cuộc chuyển quân ở ngă ba Đông Dương hay từ Bắc vào, qua ngă này, đều có thể bị phát hiện.

Cho nên , trong cuộc tổng tiến công năm 1972 của quân đội Bắc Việt, cùng với một phần của Mặt trận Giải phóng miền Nam, đồi Charlie là mục tiêu cần phải bị xóa sổ.

Cái gai cần phải nhổ cho đường tiến quân thuận tiện từ Tây Nguyên xuống đồng bằng miền Nam.

Mùa hè 1972, người ta gọi đó là mùa hè đỏ lửa. Đỏ lửa là bởi sự nóng bức của thiên nhiên, cộng thêm súng đạn bay khắp nơi trong một cuộc tương tàn nhân danh giải phóng của chủ nghĩa cộng sản.

Không có số liệu chính xác nào nói về thương vong của cả hai bên ở đồi Charlie, nhưng dựa trên phần sử liệu được công bố th́ phía Việt Nam Cộng Ḥa có :

- Tiểu đoàn 11 Song kiếm Trấn ải (tạm tính khoảng hơn 600 người) đối đầu với quân của :

- Sư đoàn 320 Bắc Việt (tạm tính khoảng gần hơn 7,000 người), chưa kể phía lực lượng Mặt trận Giải Phóng Miền Nam không được công bố, th́ con số ít nhất thiệt mạng sau khi máy bay B-52 bỏ bom rải thảm tái chiếm, những thanh niên Việt Nam của cả hai bên thiệt mạng, ít ra cũng phải là 4,000 đến 5,000 người trong trận đó.

Điều đó, có nghĩa rằng chuyến đi mất gần ba tiếng di chuyển lên đến đỉnh đồi của chúng tôi, nơi đâu cũng có máu xương người Việt.:112:

Từng viên đá, từng khúc quanh, từng ngọn cây… chắc đều giữ lại phần bí mật nhất chưa bao giờ được kể lại về số phận không chỉ của từng con người, mà của một dân tộc phải chịu điêu linh v́ cuộc chiến tranh màu lư tưởng cộng sản.



https://imagizer.imageshack. com/v2/640x354q90/r/924/mJTue2.jpg


Ngọn đồi Charlie xanh mướt và lặng lẽ giữa thông xanh, trời mây và gió se sắt lạnh. Đầu ngơ vào cầu treo dẫn đến chân đồi, chính quyền địa phương đến hôm nay cũng chưa dám ghi rơ ràng về cuộc chiến này, mà chỉ đơn giản là :

“ Di tích lịch sử của điểm cao 1015 Charlie và 1049 Delta ”

- Khác với giọng điệu thường đắc thắng và kiêu ngạo sau 1975, khi mà những di tích thường có thêm các tấm bia nợi ca ngợi sự anh dũng của quân đội Bắc Việt.


Nhưng ở Charlie, mất mát quá lớn có thể là điều nhà cầm quyền ngại ngùng không muốn nhắc tới.



https://hinhanhkontum.maytin hhtl.com/images/kon-tum/doi-charlie/duong-di-sac-ly-huyen-sa-thay.jpg


Hàng năm không chỉ có những chuyến xe từ Bắc vào Charlie để viếng người thân sinh Bắc tử Nam, mà chính người miền Nam đứng trên ngọn đồi ấy cũng ngậm ngùi :

Ai, điều ǵ… đă xô đẩy khiến cho máu xương Việt Nam chia ĺa và chôn vùi thảm khốc đến vậy ?



ppJzXOIeEAY



xBKXhj3-XkQ


- “ Đi thăm ông Trung tá Bảo à ?”

Chúng tôi đi xe máy, sáu người chở nhau và tận dụng mọi sức lực tay chân để có thể đến đỉnh đồi, trước khi trời sụp tối. Có đoạn phải vừa nổ máy xe, vừa đẩy, có đoạn vứt bớt đồ lại v́ quá mệt, mang vác không nổi.

Đoạn đường vừa tạm hết lầy sau mùa mưa, lại khô, trơn và nhiều ổ gà và đá vụn. Mọi người trong đoàn có lúc mệt đến mức hoa mắt, tay chân bủn rủn, thở không được v́ không khí ngày càng loăng.

Anh B., người khỏe nhất trong nhóm, có lúc đứng lại chắp tay và cầu nguyện :

- “ Đă đến được đây, mấy anh phải giúp tụi em đến nơi thắp hương mời rượu cho mấy anh ”.

Đă 45 năm rồi. Những ngôi mộ, nếu có, th́ giờ cũng đă um tùm cỏ lau. Thịt xương cũng đă là rêu bụi. Chiến địa đă trở thành rừng xanh bao phủ trên núi, ôm kín mọi nỗi ḷng. :112:

Đó là chưa nói nhiều thế hệ đă đi qua, không biết, hoặc bị tuyên truyền bóp méo tin tức về những người lính Việt Nam Cộng Ḥa ở đây.

Vậy mà mấy lần, gặp một người Jarai hay Sedang, thấy chúng tôi hồng hộc thở trên đường, họ cười thân thiện và hỏi :

- “ Đi thăm ông Trung tá Bảo à ?”.

Lạ lùng. Sao họ lại biết Trung tá Bảo nhỉ ? Thậm chí bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh có tên Người ở lại Charlie cũng không nhắc ǵ về tên của người chỉ huy tiểu đoàn Song kiếm Trấn ải này.

Dù sau khi tử trận ở Charlie, Trung tá Nguyễn Đ́nh Bảo (1936-1972) được truy phong đại tá, nhưng dân trong vùng vẫn nhớ về một vị Trung tá, giữa hàng ngàn người đă gửi lại h́nh hài ở nơi này.:112:




744HG0u74yY


NGƯỜI Ở LẠI CHARLIE

Trận chiến Charlie diễn ra trong một tuần, dữ dội. Quân đội Bắc Việt được điều động tiến vào Nam, số trang bị và nhân lực được kể là gấp sáu lần quân Việt Nam Cộng Ḥa trấn giữ.

Một người lính miền Nam phải chống cự với 6-7 người lính miền Bắc.

Pháo kích và tiến công biển người diễn ra cấp tập trong ba ngày đầu. Đạn pháo kích đă khiến Trung tá Nguyễn Đ́nh Bảo tử trận vào ngày thứ hai (12-4-1972), các chỉ huy nối nhau thay quyền kiểm soát cũng tử trận liên tục.:112:

Không chỉ tấn công mà mục tiêu của sư đoàn 320 c̣n là tiêu diệt cho được tiểu đoàn Song Kiếm Trấn Ải (theo nhà văn Phan Nhật Nam th́ sau trận đồi Charlie, tiểu đoàn này mất 400 quân nhân) nên quân Bắc Việt bao vây và chặn đường mọi ngă.

Thậm chí súng pḥng không Bắc Việt c̣n được chuẩn bị để ngăn không cho trực thăng tiếp viện.

Sau khi không c̣n đạn dược và lương thực, những quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa c̣n lại đă rút lui, nhường đường cho tốp máy bay B-52 bỏ bom hủy diệt toàn bộ phần Sư đoàn 320 đang tràn lên ở đây.



https://imagizer.imageshack. com/v2/640x276q90/r/924/opguFp.jpg


Charlie phút chốc thành b́nh địa, :112:kể cả những bộ đội từ Bắc vào, cho đến những thân xác c̣n nằm lại của những quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa.

Mọi nỗ lực tấn công hao tổn về con người và súng đạn của phía quân chính quy Bắc Việt hoàn toàn thất bại. Có lẽ v́ vậy mà trong wikipedia Việt ngữ nói về Sư đoàn 320, chiến sử Charlie đă không được ghi lại cũng như cũng cố ư không nhắc tới, trong các mục viết ca ngợi danh tiếng của Sư đoàn này.

Nói về trận đánh đó, vùng đất đó, nhà văn Phan Nhật Nam có viết trong bài Người ở lại Charlie:

- “Bi kịch không riêng đối với những người lính Tiểu Đoàn 11 Dù, qua lần đi khuất của Cố Đại Tá Nguyễn Đ́nh Bảo

– Nhưng cũng là bi kịch của mỗi thân phận Người Miền Nam hiện thực qua hy sinh xả kỷ của Người Lính, sự chịu đựng âm thầm của Người Vợ-Đứa Con Người Lính.

Nỗi Đau kia hằng mới v́ Nỗi Đau Luôn Là Nỗi Đau Chung, cùng với những dấu tích kỳ diệu miên viễn của T́nh Yêu trong đời sống trần thế giới hạn của nhân sinh”. (trích)



Đồi Charlie, Một Địa Danh ghi vào Quân Sử VNCH cùng với Tiểu Đoàn 11 Dù "Song Kiếm Trấn Ải" của Đại tá Nguyễn Đ́nh Bảo



https://image.ibb.co/chVBap/doi31.jpg


Cuối năm 1972, quân đội Việt Nam Cộng Ḥa có tổ chức dựng bia tưởng niệm trên đỉnh đồi để tưởng các quân nhân đă hy sinh trong cuộc chiến, và ghi nhớ nơi tử trận của Đại tá Nguyễn Đ́nh Bảo.

Nhưng rồi sau 1975, chính quyền địa phương theo lệnh từ Hà Nội đă cho đập phá tất cả. San bằng mọi thứ.

Nhưng đáng ngạc nhiên, là chính nhà cầm quyền Bắc Việt cũng không hề dựng bất kỳ bia tưởng niệm nào cho hàng ngàn người lính của họ đă thiệt mạng ở nơi này.

Măi cho đến giữa thập niên 1990, những đoàn thân nhân từ miền Bắc vào để viếng, nơi con em của họ đă để lại tuổi xuân trên ngọn đồi Charlie mới góp tiền cùng nhau dựng một bàn thờ, hương khói.

C̣n về những người miền Nam, không biết ai đó đă ùn một đống đất, tựa như một g̣ nhỏ, hay có thể là một nấm mộ tượng trưng cho những ai lên thắp hương cho Đại tá Nguyễn Đ́nh Bảo và những quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa.

Và dù rất khiêm tốn, không có bia hay chữ ghi chú nào, nhưng mọi người đều biết nếu thắp nhang cho những người miền Nam, th́ đến đó.


Miếu thờ các quân nhân tiểu đoàn nhảy dù 11, quân lực VNCH được người thân dựng lên ngay trận địa đồn trú của họ 46 năm trước, cạnh điểm cao Charlie. Ảnh: Mai Thanh Hải



https://4.bp.blogspot.com/-iEKl3nBFuTg/WvzNrUK6t-I/AAAAAAABvq8/ksxCdv1SL_o3p-cdPt4YEGGA53bqA9qBgC LcBGAs/s640/12_alqg.jpg



GIẢI OAN CHO CUỘC BIỂN DÂU NẦY !


Khi cả nhóm loay hoay trên ngọn đồi, lúc chiều xuống đậm rồi, vẫn không biết là nơi nào để hướng đến, th́ chính một người trẻ tuổi địa phương bất ngờ có mặt xuất hiện trên đó chỉ giúp, “ nơi của ông Bảo ” , hay nơi để viếng những người cùng ông ngă xuống, cũng vậy.

Hương bay theo gió, những cánh hoa vàng phất phơ trên cỏ. Tôi chợt nhớ đến phần cuối trong Đồi gió hú của Emily Bronte, rằng :

- “ Dưới những cành hoa phất ấy, những người nằm dưới nấm mộ ấy có thật sư yên nghỉ không ?”.

Không có ai trả lời tôi suy nghĩ đó, chỉ có tiếng gió rít qua từng hồi như tiếng thở than.

Con đường xuống núi nguy hiểm và khó khăn hơn cả lúc đi lên, v́ chung quanh là bóng tối, đường lầy với cát khô và đầy khúc quanh đốc xuống thẳng đứng. Nhưng bên cạnh chuyện việc lo lắng đi ra, ai cũng mang theo một cảm giác kỳ lạ.

Trận chiến Charlie lại sống động như mới hôm qua, những người Việt Nam nổ súng vào nhau như vẫn c̣n nghe tiếng đạn bay. Rừng núi âm u như vẫn chực chờ những cái chết vô định. Chúng tôi cảm nhận được hết mọi thứ và ngồi lại, kể với nhau khi ra đến bên ngoài.

Kư ức thường rồi dần sẽ phai mờ, sự khốc liệt của chiến tranh, máu và nước mắt rồi cũng khô cạn.

Nhưng anh hùng tử, khí hùng bất tử, cái chết v́ chính nghĩa bảo vệ miền đất tự do của những thanh niên miền Nam Việt Nam quyết bảo vệ vùng đất của ḿnh vẫn được nhớ đến, vẫn phảng phất trong hương gió núi vùng Dakto, trong lời hát, bất ngờ hiện ra vào chiều sẩm tối ở đồi Charlie, khiến chúng tôi gai người

– Sự linh thiêng của núi sông là đây, của cha anh là đây, của nghịch cảnh tương tàn v́ tham vọng cơ đồ là đây . !



https://imagizer.imageshack. com/v2/640x386q90/r/924/CC3LhJ.jpg


Đi trong đoàn có hai sư thầy trẻ, vừa là bạn tín ngưỡng, vừa là người đồng chí hướng. Nhang được đốt lên, hoa được đặt xuống mặt đất bằng. Chai rượu trắng được rót xuống cùng những lời cầu nguyện khác nhau.

Anh V., đứng thẳng dáng gầy, tay chắp nhang ngang mày im lặng. Sự tôn nghiêm của anh làm hơi rượu như nồng hơn, sẻ chia như những vần thơ của Tô Thùy Yên :

Ta về như lá rơi về cội

Bếp lửa nhân quần ấm tối nay

Chén rượu hồng đây xin rót xuống

Giải oan cho cuộc biển dâu này

Giờ th́ không có ai là kẻ thù, cần diệt trừ và không có nơi chốn nào, cần phải bị giải phóng.

Chỉ có những con người nằm lại với nhau, xương thịt nằm lại trên cùng một mảnh đất, cùng ngửa mặt lên bầu trời đêm của ngọn đồi Charlie để thấy thương đau là tên gọi chung của tất cả.

Tất cả thịt xương Việt Nam đă đến, đă hư không, chỉ c̣n linh hồn ở lại.

Chắc chắn rồi chúng tôi sẽ trở lại, rót rượu cho mọi người, không phân biệt là ai. V́ như có một lời hứa âm vang trong tim với những con người đă đến, thân xác ra đi nhưng linh hồn măi măi ở lại Charlie.



z69XOr8pinc


Những người anh em Việt Nam đă chết trên đất nước, đem lại những điều quư giá.:112:

Có những người dạy cho thế hệ sau biết chính nghĩa quốc gia là ǵ, và có những người lại dạy cho chúng tôi biết :

Cuộc tương tàn ấy đau đớn thế nào trong tham vọng chủ nghĩa.



https://1.bp.blogspot.com/-Uu5Od5d5WzI/Wy69uNdveyI/AAAAAAACVQ8/r1Hg9RFPXTgd6rYghyc9 ZKLMiWFRuBvZgCLcBGAs/s1600/Ho%25CC%2582%25CC%25 80%2Bchi%25CC%2581%2 Bminh-su%25CC%259B%2Bto%25 CC%2582%25CC%2589%2B ki%25CC%2581ch%2B%25 C4%2591o%25CC%25A3%2 5CC%2582ng%2B-%2Bdanlambao.jpg


Tuấn Khanh - RFA Blog

hoanglan22
02-02-2021, 16:10
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1735116&stc=1&d=1612281909

Trong cuộc hành quân Delta 51, theo tổ chức của Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB) Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH), Trung Tâm Huấn Luyện Hành Quân Delta đảm nhận trách nhiệm hoạch định chương tŕnh nhảy toán xâm nhập vào mật khu địch trong rừng sâu, khám phá các căn cứ của địch quân và theo dơi sự chuyển quân của bọn cộng sản Bắc Việt (CSBV) từ đường ṃn Hồ Chí Minh (HCM) xâm nhập vào chiến trường Trị Thiên, vùng Tam Biên (biên giới Việt Nam, Cam Bốt, và Lào), Lộc Ninh, B́nh Long, Tây Ninh… để xâm lăng Miền Nam Việt Nam

Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù (BCDN) gồm 6 đại đội xung kích và một đại đội chỉ huy, mỗi đại đội có đủ khả năng tấn công và tiến chiếm các mục tiêu do các toán Delta chỉ tọa độ, hoặc mở những cuộc tấn công bất thần vào các cứ điểm bọn cộng sản Bắc Việt. Tiểu đoàn này và Trung Tâm Huấn Luyện Hành Quân Delta cũng có hai đơn vị trừ bị của Lực Lượng Đặc Biệt với nhiệm vụ giải tỏa áp lực địch trong trường hợp một trại Biên Pḥng bị đối phương bao vây. (Giữa năm 1970, Lực Lượng Đặc Biệt được lệnh giải tán. Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù sát nhập với Trung Tâm Hành Quân Delta để trở thành Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù).

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1735117&stc=1&d=1612281909

Toán B52 Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB) Hoa Kỳ có nhiệm vụ yểm trợ trực tiếp cho Trung Tâm Huấn Luyện Delta về quân trang, quân dụng, vũ khí cũng như các nhu cầu cho kế hoạch huấn luyện và thám sát hành quân Delta. Để đáp ứng nhu cầu hành quân theo kế hoạch Delta, toán B52 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ tuyển mộ, trang bị, trả lương cho 12 toán thám kích Tiền Phong cũng như hai đại đội Biệt Kích Quân (Dân Sự Chiến Đấu cải danh) người Việt sắc tộc Nùng và người Việt gốc Miên. Hai đại đội Biệt Kích Quân này có nhiệm vụ pḥng thủ doanh trại cũng như tham gia chiến đấu trong các cuộc hành quân Delta.

Phi Đoàn 281 Trực Thăng Nhảy Dù là một phi đoàn chuyên thả toán và bốc các toán đă hoàn tất công tác rút khỏi vùng hành quân. Phi đoàn được trang bị những chiếc thang giây và những sợi dây tḥng ḷng để các toán Delta dễ dàng lên xuống trong một vùng không có băi đáp.
TUẦN ĐẦU CUỘC HÀNH QUÂN

Sáng ngày 6 tháng 4/1970, toàn bộ lực lượng tham chiến được vận chuyển về Cam Lộ, qua Cùa và đến Mai Lộc thuộc tỉnh Quảng Trị đi về hướng Tây. Hai sĩ quan chỉ huy cuộc hành quân này là Thiếu Tá Phan Văn Huấn, chỉ huy trưởng của Trung Tâm Huấn Luyện và Hành Quân Delta, và Thiếu Tá Trần Phương Quế, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù.

Tại Mai Lộc có trại Lực Lượng Đặc Biệt nằm trên một ngọn đồi cao, chung quanh là núi rừng. Căn cứ hành quân Delta được thiết lập và bố pḥng bên phía trái của trại Mai Lộc. Trước cổng trại có một phi trường dă chiến cho phi cơ loại nhẹ có thể đáp xuống được. Những căn lều được dựng lên song song với việc đào giao thông hào, hố cá nhân chiến đấu, hầm chống pháo kích. Ngày 7 tháng 4/1970, Phi Đoàn 281 trực thăng Hoa Kỳ đáp xuống Mai Lộc, các hoa tiêu và xạ thủ phi hành cũng dựng lều trong căn cứ hành quân.

Sau phần thuyết tŕnh của toán trưởng, các cảm tử quân lần lượt lên phi cơ để tiến hành xâm nhập, một chiếc trực thăng Command And Control (CNC) do Thiếu Tá Huấn chỉ huy và cố vấn Hoa Kỳ bay trên cao, một trực thăng cấp cứu, 2 trực thăng vơ trang hộ tống và chiếc trực thăng cuối cùng dành cho toán cảm tử quân xâm nhập vào vùng địch.
Trong khi đó, các đại đội Biệt Cách Nhảy Dù tuần tự lên phiên ứng chiến để kịp thời giải cứu toán Delta trong trường hợp khẩn cấp, hoặc khai thác các mục tiêu do toán Delta t́m thấy.

Những ngày kế tiếp, toán Delta và toán Thám Kích Tiền Phong được đưa vào vùng hành quân. Chiều ngày 12 tháng 4/1970, một trực thăng CNC do Trung Úy Hoàng Xuân Cường bay đi liên lạc với các toán, v́ bay quá thấp để quan sát nên Cộng quân đă bắn trúng phi cơ. Phi cơ nổ tan, tất cả phi hành đoàn và Trung Úy Cường mất liên lạc.

Ngày 13 tháng 4, Đại Đội 2 Biệt Cách Nhảy Dù do Đại Đội Trưởng Trần Duy B́nh chỉ huy được tung vào vùng hành quân với hy vọng cứu thoát được những người may mắn sóng sót. Khi cánh quân của Đại Đội 2 vừa nhảy vào khu vực phi cơ bị trúng đạn ở phía Nam Lao Bảo th́ một cuộc chạm súng dữ dội đă xảy ra với một tiểu đoàn Cộng Sản Bắc Việt.
Trận chiến kéo dài từ 9 giờ sáng đến 4 giờ chiều, nhiều lần Bộ Chỉ Huy Hành Quân hỏi xem Đại Đội 2 có cần tăng viện không nhưng Đại Đội Trưởng Trần Duy B́nh đều trả lời không cần thiết. Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù do Đại Úy Phạm Châu Tài chỉ huy ở căn cứ hành quân được lệnh sẵn sàng nhảy vào khu vực hành quân bất cứ lúc nào. Tin từ Đại Đội 2 cho biết Cộng quân đă sử dụng súng cối 82 ly pháo vào vị trí đại đội.
Mười giờ đêm, tiểu đoàn trưởng là Thiếu Tá Trần Phương Quế gọi Đại Úy Tài vào Trung Tâm Hành Quân, ông cho biết t́nh h́nh của Đại Đội 2 rất trầm trọng, đang bị Cộng quân bao vây. Ông chỉ định Đại Đội 3 do Đại Úy Tài chỉ huy nhảy vào trận địa để giải vây cho đại đội bạn. Trên bản đồ hành quân, Thiếu Tá Quế chỉ cho Đại Đội Trưởng Đại Đội 3 biết vị trí đổ quân.

Trong khi đó, tại trận địa, cố vấn Hoa Kỳ nhảy theo Đại Đội 2 đă gọi phi tuần phản lực từ Hạm Đội 7 vào oanh kích chính xác vào các vị trí mà Cộng quân đang khai triển đội h́nh để bao vây đại đội Biệt Cách Nhảy Dù nói trên. Từng trái bom Napalm được thả vào vị trí của địch quân tạo nên những cuộn lửa khổng lồ và những tiếng dội thật lớn.

Lợi dụng sương mù đang phủ xuống những vùng đồi núi ở phía Nam Lao Bảo, và sự không yểm của phi tuần khu trục làm cho đối phương kinh hoảng, Đại Đội Trưởng Trần Duy B́nh hướng dẫn Đại Đội 2 vượt thoát được ṿng vây của Cộng quân. Đến 6 giờ sáng ngày 14 tháng 4, Đại Đội 2 đă t́m được một băi đáp tương đối tốt. Đúng 7 giờ sáng, 10 chiếc trực thăng của Phi Đoàn 281 sẵn sàng cất cánh tại Mai Lộc. Từ vùng chiến trận, Đại Úy B́nh yêu cầu xạ kích quanh băi đáp trước khi trực thăng đáp xuống bốc Đại Đội 2 trở về.

Chín giờ 15 phút, chiếc trực thăng thứ mười với những chiến binh Biệt Cách Nhảy Dù đáp xuống Mai Lộc. Đại Đội 2 mang về một số vũ khí địch gồm một khẩu súng cối 82 ly, 2 khẩu trung liên và 8 súng AK, phần đại đội có 6 chiến binh tử thương, 12 bị thương được đưa về căn cứ.
Ngày 15 tháng 4, Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù của Đại Úy Phạm Châu Tài được điều động nhảy vào vùng giao tranh để kiểm soát chiến trường. Khi đại đội có mặt tại trận địa th́ Cộng quân đă rút đi, để lại vô số xác chết. Biệt Cách Nhảy Dù bắt được một thương binh Cộng Sản Bắc Việt.

Thẩm vấn tại chỗ, thương binh Cộng quân này khai quê quán tại Yên Bái, xâm nhập qua Bến Hải và được bổ sung cho D5 thuộc Công Trường 316. Lục soát trận địa, Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù thu thêm 2 khẩu B-40, 4 khẩu AK-47, và 2 khẩu CKC. Đến trưa ngày 15 tháng 4/1970, Đại Đội 3 rời vùng hành quân, mang theo chiến lợi phẩm và 6 tử thi của các chiến binh Đại Đội 2 Biệt Cách Nhảy Dù.

Từ ngày 16-4-1970, các đại đội Biệt Cách Nhảy Dù lần lượt được đưa vào vùng hành quân, mỗi ngày đều có các phi vụ thả các toán xâm nhập và bốc các toán đă hoàn tất công tác lại căn cứ. Vào thời gian này, các toán Delta nhảy đơn độc, không có có vấn Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ như trước, chỉ có cấp đại đội mới có cố vấn nhảy theo. Các cố vấn đại đội được phân nhiệm vụ hướng dẫn phi tuần oanh kích của Không lực Hoa Kỳ yểm trợ cho cuộc hành quân.

Ngày 21 tháng 4, Đại Đội 4 Biệt Cách Nhảy Dù do Đại Đội Trưởng Đào Minh Hùng chỉ huy được thả xuống khu vực Khe Sanh nơi Trung Đoàn 26 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ và Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân (BĐQ) đă tử chiến với hai sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt trong 10 tuần lễ ṛng ră vào mùa Xuân Mậu Thân 1968.

Sau khi Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ rút khỏi Khe Sanh vào giữa năm 1968, khu vực này đă được bỏ ngỏ, trở thành vùng oanh kích tự do của Không quân Việt-Mỹ. Hai năm sau, các chiến binh của Đại Đội 4 Biệt Cách Nhảy Dù đă xâm nhập vào Khe Sanh để thám sát mục tiêu này, bấy giờ Khe Sanh đă hoang tàn với cỏ tranh, cỏ lau phủ đầy.

Hai ngày sau, toán Delta do Biệt Cách Nhảy Dù Lưu Huỳnh chỉ huy nhảy vào Khu Phi Quân Sự (DMZ), khám phá dấu vết chuyển quân của Cộng quân, và bắt sống được một giao liên (danh từ Cộng Sản để chỉ người đưa đường và liên lạc).
ĐẠI ĐỘI 3 BIỆT CÁCH NHẢY DÙ PHỤC KÍCH CỘNG QUÂN Ở SAVANAKHET, LÀO
Ngày 25 tháng 4, cuộc hành quân bước vào giai đoạn 2, Đại Đội 1 Biệt Cách Nhảy Dù đă xâm nhập và thọc sâu mũi xung kích vào căn cứ địa của Cộng Sản Bắc Việt ở Ba Ḷng, khám phá một bệnh xá của địch, bắn hạ một số Cộng Sản Bắc Việt thuộc đội bảo vệ mật khu này, bắt một quân y sĩ Cộng Sản Bắc Việt và tịch thu nhiều dược phẩm do Trung Cộng sản xuất.

Tiếp đến, ngày 1 tháng 5 năm 1970, toán 2 Delta do chiến binh Trương Việt Lâm làm trưởng toám đă khám phá một con đường chiến lược chạy dài từ những dăy núi dọc biên giới Lào-Việt và xuyên thẳng về hướng Lao Bảo. Con đường chiến lược này mang kư hiệu “616,” rộng 4 mét chạy ngoằn ngoèo trên dăy Trường Sơn và đâm thẳng sang lănh thổ Savanakhet của Lào. Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù do Đại Úy Phạm Châu Tài chỉ huy được giao nhiệm vụ thám sát và khai thác con đường này.
Sáng ngày 2 tháng 5/1970, Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài bay quan sát con đường chiến lược này cùng với Thiếu Tá Phan Văn Huấn, chỉ huy trưởng Trung Tâm Hành Quân Delta, và Vũ Xuân Thông –Trưởng Ban 3 Delta. Phi cơ bay cao để các sĩ quan nói trên t́m một nơi đổ quân an toàn.

Qua khỏi biên giới Việt-Lào khoảng 5 km, con đường chiến lược 616 tách ḿnh qua giữa hai ngọn đồi ở cao độ 270. Đại úy Tài nh́n kỹ ngọn đồi 270 này và quyết định đổ quân trên đỉnh đồi. Nh́n qua ống ḍm thật kỹ, Trưởng Ban 3 Vũ Xuân Thông kề miệng vào tai Đại Úy Tài và nói
– Có ổ pḥng không trên đỉnh đồi.

Theo đề nghị của các sĩ quan Việt Nam, phi cơ trực thăng đảo một ṿng nữa rồi bay đi. Qua sự quan sát, Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài biết rằng những điểm cao hai bên đường đều có đặt pḥng không để bảo vệ sự chuyển quân của Việt Cộng nếu bị phi cơ của Không Quân Việt-Mỹ phát hiện.

Đại Úy Tài được Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn dành cho một ngày để thảo kế hoạch xâm nhập và chuẩn bị súng đạn và trang bị cần thiết cho cuộc hành quân của đại đội trong vùng Savanakhet, lănh thổ Lào. Để phụ trợ cho Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù về liên lạc không yểm trong vai tṛ cố vấn, toán B52 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ đă chỉ định 3 quân nhân nhảy theo đại đội. Đó là Thượng Sĩ Voix, Trung Sĩ Scott và Hạ Sĩ Alain.
Tối ngày 3 tháng 5, Đại Úy Tài được lệnh thuyết tŕnh đầy đủ chi tiết cuộc xâm nhập. Theo kế hoạch th́ đỉnh đồi 270 là mục tiêu thứ nhất và ngọn đồi 250 là mục tiêu thứ nh́. Tiến sâu vào lănh thổ Lào khoảng 500 mét có một ngọn đồi ở cao độ 200 mét là mục tiêu thứ ba.

Các trực thăng vơ trang sẽ tác xạ “sạch sẽ” băi đáp ngay trên đỉnh đồi 270 một phút trước khi Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù đổ bộ. Nếu gặp sự chống trả hoặc bao vây của Việt Cộng th́ đường rút lui sẽ men theo hướng Đông đi về biên giới Lào-Việt. Các sĩ quan chỉ huy gồm có: Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài; Đại Đội Phó Dương Thương Ngộ, Trung Đội Trưởng Trung Đội 1 Nguyễn Vũ Thiện; Trung Đội Trưởng Trung Đội 2 Đặng Đ́nh Hoàng; Trung Đội Trưởng Trung Đội 3 Nguyễn Văn Phước; Trung Đội Trưởng Trung Đội 4 Vũ Ngọc Đính.

Sáu giờ sáng ngày 4 tháng 5, 15 chiếc trực thăng của Phi Đoàn 218 Hoa kỳ sẵn sàng tại phi đạo Mai Lộc để chuẩn bị cuộc đổ quân. Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù là Trần Phương Quế và Trưởng Ban 3 Tiểu Đoàn là Trần Văn Thọ sẵn sàng trên chiếc trực thăng CNC.
Ngoài ra, 4 trực thăng vơ trang cũng chuẩn bị cất cánh. Theo kế hoạch, Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài và ban chỉ huy đại đội gồm 5 người sẽ cùng Trung Đội 1 của Nguyễn Vũ Thiện là thành phần đầu tiên chiếm đỉnh đồi 270.

Sáu giờ 30, đoàn trực thăng rời khỏi phi đạo, bay về hướng biên giới với cao độ tăng dần. Lúc 6 giờ 55 đoàn trực thăng hạ thấp cao độ. Mục tiêu lần lần hiện rơ. Đoàn trực thăng chở quân đảo một ṿng trên mục tiêu để 4 trực thăng vơ trang luân phiên nhau bắn dọn băi.

Khi những quả rocket và đại liên của trực thăng vơ trang nổ vang là lúc Cộng quân vừa tỉnh ngủ và thức dậy. Trung Đội 1 nhảy xuống trận địa xung phong tiến chiếm các vị trí cao điểm, một ổ pḥng không 12 ly của Cộng quân chỏng mũi lên trời và chưa kịp điều khiển, th́ Biệt Cách Nhảy Dù đă tung một trái lựu đạn vào ổ súng này, hai xạ thủ Cộng quân tan xác.

Do bị tấn công bất ngờ, nên Cộng quân không kịp kháng cự. Phân đội pḥng không của họ phản ứng yếu ớt và bị triệt tiêu. Từng hố cá nhân trên đồi bị nổ tung, một toán Biệt Cách Nhảy Dù nhanh chóng tấn kích chớp nhoáng vào căn hầm chỉ huy có mái lợp bằng lá rừng, bắn hạ cả 3 bộ đội Bắc Việt trong hầm. Những cán binh Bắc Việt khác c̣n sống sót lập tức tháo chạy. Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài liền chỉ định Trung Đội 2 đuổi theo truy kích.

Đúng 7 giờ 15 phút, Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù hoàn toàn làm chủ đồi 270, tịch thu một súng pḥng không 12.7 ly, 12 khẩu AK 47, 30 thùng đạn đại-liên 12.7 ly, một số lựu đạn chài và chất nổ. Ngoài ra, có 7 cán binh Bắc Việt đă bị bắn hạ tại chỗ.

Về phía Biệt Cách Nhảy Dù có một người tử trận, 2 binh sĩ khác bị thương. Các cố vấn Hoa Kỳ đi theo đại đội đă ngạc nhiên về chiến tích 15 phút vừa qua của các Biệt Cách Nhảy Dù. Cuộc truy kích tiếp tục, các trung đội bung rộng lục soát đồi, khám phá nhiều giao thông hào chiến đấu được ngụy trang rất kỹ.

Tại ban chỉ huy, Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài liên lạc vô tuyến với Tiểu Đoàn Trưởng Trần Phương Quế trên máy, báo cáo chiến tích và xin một trực thăng cứu thương để đưa xác chiến binh vừa tử trận và thương binh về căn cứ hành quân.

Lời yêu cầu được đáp ứng 15 phút sau đó. Tám giờ 5 phút, trên vùng trời xuất hiện một phi cơ L-19. Thượng Sĩ Voix liên lạc với phi công và được biết quan sát viên trên phi cơ này vừa thấy một đoàn quân khoảng 100 người đang từ hướng Tây Bắc di chuyển về hướng Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù.
Được báo tin, Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài nghĩ ngay đây là một thành phần Cộng quân đă lọt vào khu vực hành quân của Biệt Cách Nhảy Dù. Thượng Sĩ Voix hỏi Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài có cần gọi phi cơ oanh kích không, anh gật đầu và yêu cầu liên lạc thẳng với L-19 để hướng dẫn cuộc oanh kích.

Mười lăm phút sau, trên nền trời hai phản lực cơ F-5 xuất hiện và nhào xuống oanh kích đoàn Cộng quân. Một lát sau đó, có thêm hai F-5 tăng cường. Cả bốn chiếc đồng loạt oanh kích dữ dội. Phi công trên chiếc L-19 báo cho Thượng Sĩ Voix biết là phi cơ đă tấn công trúng đội h́nh di chuyển của Cộng quân và địch chết rất nhiều.

Thượng Sĩ Voix hỏi Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài có cần oanh kích nữa không, anh trả lời nếu cần th́ xin thêm hai phi tuần nữa rồi đại đội di chuyển đến đại đội đó để thanh toán các Cộng quân c̣n sống sót.
Qua sự liên lạc của Thượng Sĩ Voix, hai phi tuần F-5 tiếp tục oanh kích lần chót, sau đó Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù di chuyển xuống đồi, băng qua đường chiến lược 616 để tiến về phía Tây Bắc.

Di chuyển gần 2 km trên triền núi, Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài các chiến binh Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù nh́n thấy tận mắt kết quả của trận oanh kích: trên 100 xác Cộng quân bị cháy, bị đạn nằm la liệt trên đồi, bên b́a rừng và trên triền núi. Không một tiếng súng kháng cự của đối phương khi Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù đến.

Chiến binh trong đại đội nhặt những khẩu AK bị gẫy báng, bị cháy, ṇng cong queo và chất thành đống. Lục soát tử thi, đại đội t́m được một số tài liệu và biết được đơn vị Cộng Sản Bắc Việt này vừa theo đường ṃn Hồ Chí Minh xâm nhập vào Nam Lào để tiến về Trị-Thiên.

Mười giờ 30, đại đội chia làm ba mũi tiến chiếm ngọn đồi 250. Không một tiếng súng chống cự, và khi Trung Đội 2 do anh Đặng Đ́nh Hoàng tiến lên đỉnh đồi th́ khám phá một ổ pḥng không 12 ly 8. Những hầm hố ngụy trang xung quanh đồi vẫn c̣n nguyên vẹn và mới mẻ.

Theo ước đoán của Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài, Cộng quân sợ phi cơ oanh tạc nên đă vội vă rút chạy, c̣n để lại khẩu pḥng không và 50 thùng đạn mang nhăn hiệu Trung Cộng. Mười một giờ, Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù làm chủ ngọn đồi 250.

NHỮNG PHÚT MÁU LỬA Ở ĐỒI 250
Sau khi dừng quân trên Đồi 250, Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài ra lệnh cho các trung đội tổ chức bố pḥng và dùng cơm trưa. Mỗi chiến binh Biệt Cách Nhảy Dù nấu một lon nước sôi bằng chất thuốc nổ rồi đổ bao gạo sấy và khui một hộp thịt ba lát, ăn vội vàng để c̣n kịp chuyển quân sang mục tiêu thứ ba trước khi trời tối.

Mười một giờ 5 phút, Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài đang ngồi dưới gốc cây lưng chừng đồi, xem lại bản đồ th́ anh nghe tiếng ngáy ngủ của Thượng Sĩ Voix. Trung Sĩ Scott đề nghị Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài hướng dẫn anh lên đỉnh đồi để quan sát và chụp h́nh vị trí pḥng không của địch. Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài đồng ư và gọi Thượng Sĩ Voix thức dậy cùng đi. Anh liên lạc với Trung Đội 2 cho biết anh và 2 cố vấn Mỹ đang tiến lên đỉnh đồi.

Đến đỉnh đồi, anh gặp Trung Đội Trưởng Hoàng đang đứng bên cạnh ổ súng pḥng không, Hoàng nói với Đại Đội Trưởng:
– Không đánh mà được, kỳ này ḿnh may nhiều hơn rủi, phải không Hổ Xám (danh hiệu truyền tin của Đại Úy Tài).
Hổ Xám trả lời:
– Ḿnh c̣n 3 mục tiêu phải thanh toán, anh em ḿnh có lẽ sẽ mệt lắm.
Mười phút sau, trong khi Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài, Trung Đội Trưởng Hoàng và hai cố vấn đang đứng quanh ổ súng pḥng không của địch th́ trên bầu trời bỗng nhiên xuất hiện một chiếc trực thăng “con cóc” mà Không Quân Hoa Kỳ gọi là LOH (Light Observation Helipcopter).
Các chiến binh Biệt Cách Nhảy Dù thấy phi cơ Mỹ th́ vui mừng, giơ tay lên trời vẫy. Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài cũng nghĩ đó là một trực thăng đang có nhiệm vụ yểm trợ quân bạn. Chiếc LOH chao đi một ṿng và bắn hai quả đạn khói trắng gần vị trí các quân nhân nói trên. Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài ngạc nhiên vô cùng và tự hỏi tại sao LOH bắn trái khói của Biệt Cách Nhảy Dù.

Nh́n về hướng Đông, Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài thấy hai chiếc Cobra xuất hiện. Linh tính cho vị Đại Đội Trưởng biết là sẽ có những điều không may xảy đến, anh nhảy xuống ụ súng pḥng không đào sâu dưới đất một thước th́ nghe bốn tiếng ầm ầm nổ vang trên đồi.

Trung Sĩ Scott cũng nhảy theo anh xuống ụ súng ngay theo đó. Tiếp theo là những tràng đại liên nổ ṛn ră và tới tấp từ Cobra bắn xuống. Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài biết là phi cơ Mỹ đă bắn lầm nên rút vội trái khói vàng thảy lên miệng hố. Anh cũng thúc Trung Sĩ Scott rút một trái khói vàng nữa thảy lên. Khi trái khói vàng tỏa ra trên đỉnh đồi th́ hai chiếc Cobra mới ngưng tác xạ. Hạ sĩ Alain dưới đồi vội vă t́m tần số liên lạc với hai phi cơ này.

Sự kiện xảy ra không đầy ba phút, và theo ghi nhận của Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài đó là ba phút của máu và nước mắt của chiến trường. Anh đă kể lại sự kiện bi tráng này trong hồi kư của ḿnh như sau:
“Dứt tiếng súng, tôi và Trung Sĩ Scott nhảy lên miệng hố th́ chứng kiến một cảnh tượng hăi hùng diễn ra trước mắt: Trung Đội Trưởng Đặng Đ́nh Hoàng nằm ngữa không nhắm mắt, bị đại liên bắn trúng từ hông phải và rải dọc lên vai trái. Thượng Sĩ Voix nằm sấp, chết bất động, chân trái và chân phải bị đạn từ bắp vế, đứt ĺa khỏi cơ thể. Hạ Sĩ Nguyên mang máy truyền tin cho tôi ngồi bất động, vẫn c̣n sống, nhưng cánh tay phải đă cụt mất và không biết văng rớt nơi nào.”

“Khi tôi nhảy lên miệng hố th́ hai chiếc Cobra và chiếc LOH vẫn c̣n bay ḷng ṿng trên bầu trời. Những người lính Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù đang bố pḥng quanh, một số ít bị thương v́ đạn đại liên, phần lớn đều bị trúng những cây đinh ghim vào mặt, vào chân, vào tay, vào cổ.
Th́ ra chiếc Cobra loạt đầu đă phóng 4 hỏa tiễn Flechette, mỗi trái đạn khi ra khỏi ṇng tủa ra 2,500 cây đinh nhọn. Đây là một loại đạn chống chiến thuật biển người của Việt Cộng, không may lại phóng vào Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù của chúng tôi.”

“Hai chiếc Cobra sau khi đă bắt được liên lạc với hạ sĩ Alain, biết ḿnh đă bắn lầm quân bạn, vội vă bay đi mất. Những máy truyền tin PRC-25 bị chấn động mạnh nên gặp trở ngại những phút ban đầu. C̣n chiếc LOH đă chỉ điểm bắn lầm quân bạn bay hai, ba ṿng trên đỉnh đồi, bỗng nhiên trục trặc máy móc và buộc phải hạ cánh xuống đỉnh đồi.”

“Lính Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù biết rằng Mỹ bắn lầm và chợt thấy chiếc LOH hạ cánh xuống đồi, họ tức giận và cầm súng hung hăng tiến đến định bắn chết phi công Mỹ. Trong lúc đó, hai chiếc Cobra bay trở lại ṿng ṿng trên bầu trời. Viên phi công trực thăng LOH vội vă giựt ống liên hợp truyền tin trên tay Hạ Sĩ Alain và báo với 2 chiếc Cobra rằng Biệt Cách Nhảy Dù uy hiếp anh ta.”

“Đứng bên cạnh viên trung úy phi công Mỹ, tôi chụp lấy ống liên hợp của anh ta và nói: Anh đừng báo cáo bậy, tôi là chỉ huy trưởng ở đây, tôi sẽ bắt anh chứ không bắn chết anh. Lính Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù tiến lại và chĩa súng vào ḿnh viên trung úy phi công này, chỉ cần một tiếng nói của tôi là họ đồng loạt nổ súng.”

“Thấy vậy tôi bảo họ: Không nên làm bậy, v́ thằng Mỹ này chết th́ hai chiếc Cobra trên đầu sẽ tác xạ bọn ḿnh. Tôi bảo họ trở về vị trí, sợ Việt Cộng thừa cơ hội tấn công. Sau đó, một mặt tôi báo cáo về căn cứ hành quân sự kiện phi cơ Mỹ bắn lầm, một mặt lo chỉnh đốn lại hàng ngũ và kiểm điểm quân số tổn thất. Tôi nghĩ rằng căn cứ hành quân sẽ xúc động mạnh về sự kiện này.”

“Thi thể Đặng Đ́nh Hoàng, thi thể Thượng Sĩ Voix và thi thể của ba anh em khác được cuốn gọn trong những tấm poncho. Tổng kết tổn thất trong vụ bắn lầm gồm có 5 người chết và 33 người bị thương. Tôi liên lạc với căn cứ hành quân để xin tản thương. Hai giờ chiều, một chiếc Chinook Hoa Kỳ bay đến và t́m cách móc chiếc LOH đang nằm trên đỉnh đồi. Công việc hoàn tất lúc 2 giờ 30 phút. Tôi giữ viên trung úy phi công lái chiếc LOH lại.”

“Trung Sĩ Scott da đen giải thích với tôi rằng phi cơ của Sư đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ đang tuần tiễu biên giới Lào Việt, nh́n về hướng Đông, chiếc trực thăng LOH nhận thấy lố nhố những người đang di chuyển trên đồi cạnh khẩu pḥng không, phi công này tưởng đó là quân Bắc Việt nên hướng dẫn hai chiếc Cobra tác xạ, nên xảy ra việc bắn lầm đáng tiếc này.”

NHỮNG GIỜ PHÚT CUỐI CÙNG TRÊN ĐỒI 250
Hai giờ 50 phút chiều, sáu chiếc trực thăng tản thương đến. Tử thi của Trung Đội Trưởng Hoàng, 3 binh sĩ Biệt Cách Nhảy Dù, Thượng Sĩ Voix cùng các thương binh khác lần lượt đưa lên trực thăng. Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài giao viên phi công Mỹ cho Căn Cứ Hành quân, đồng thời nhận được công điện của Liên Hương (danh hiệu của Thiếu Tá Phan Văn Huấn, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Hành Quân Delta gửi cho Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài: “Hổ Xám tiếp tục nhiệm vụ.”

Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài kiểm điểm quân số c̣n lại và xin thay đổi gấp hai máy truyền tin PRC-25 đă bị hư không liên lạc được để tránh những khó khăn lúc lâm trận, nhất là cả đại đội đang ở trên đất Lào, ngay trên đường chuyển quân của bọn cộng sản Bắc Việt.
Đến 3 giờ 30 chiều, đại đội đang bố trí quân c̣n lại trên đồi 250 th́ từ phía Đông-Nam xuất hiện một chiếc trực thăng. Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài nghĩ rằng trực thăng này sẽ mang hai máy truyền tin mới cho đại đội.

Một lát sau trên tần số của máy PRC-25, Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài nghe tiếng của Thiên Nga (danh hiệu của Tiểu Đoàn Trưởng 81 Biệt Cách Nhảy Dù) gọi và hỏi Hổ Xám: “T́nh h́nh thế nào, có ổn không, có “lang thang” được không? (“lang thang” ở đây có nghĩa là tiếp tục chiến đấu).” Hổ Xám trả lời: “Tŕnh Thiên Nga, vẫn đủ sức lang thang.”

Bên đầu máy, giọng của Thiên Nga trở nên nghiêm trọng: “Đây là lệnh Liên Hương cho Hổ Xám: Zoulou chuồn chuồn sẽ đến. (Liên Hương là danh hiệu của Thiếu Tá Phan Văn Huấn — Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Hành Quân Delta). Lệnh của Liên Hương cho phép Đại Đội 3 Biệt Cách Nhảy Dù được rút khỏi trận địa để trở về căn cứ hành quân. Mười sáu (16) chiếc trực thăng sẽ đến đưa toàn đại đội trở về.”

Sau khi nhận lệnh của Liên Hương, Hổ Xám trả lời: “Tŕnh Thiên Nga, tôi nhận đủ –thôi nhé, ráng lên.” Bốn giờ 30 chiều, đoàn trực thăng từ hướng Đông bay đến. Chỉ Huy Trưởng hành quân Delta là Thiếu Tá Phan Văn Huấn ngồi trên trực thăng CNC gọi Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài sẵn sàng để Zoulou (di chuyển).

Đại Đội Trưởng Phạm Châu Tài ra lệnh cho các trung đội sẵn sàng theo thứ tự ưu tiên để lên phi cơ, anh là người cuối cùng của đại đội lên chiếc trực thăng thứ 16 trở về căn cứ hành quân ở Mai Lộc.

(Sài G̣n trong tôi/ Vương Hồng Anh)

hoathienly19
02-07-2021, 17:17
HUYNH ĐỆ CHI BINH



tyNNxyioJsw

huudangdo1
02-07-2021, 22:32
;) Các ACE đă tham gia vào TOPIC này tui rất vui . nhưng bây giờ tui cảm thấy không c̣n thích hơp nữa nên tui đóng cửa . Chúc các ACE vui vẻ:thankyou::handsha ke:

Huynh Hoàng Lan 22 ơi !...Trang Lính mà đóng cửa th́ tiếc lắm Huynh !...V́ theo HDD nghĩ Trang Lính có giá trị vô cùng !...Bởi v́ đọc lại Trang nầy để chúng ta nhớ lại những ngày chiến đấu gian khổ và hy sinh để bảo vệ Miền Nam Tự Do của Quê Hương hơn 40 Năm trước ...Và để con cháu chúng ta biết được những Trang Sữ Bi Hùng Tráng của Người Lính VNCH trong công cuộc Bảo Vệ Tổ Quốc VN thân yêu bên kia bờ Đại Dương xa thẳm ...Cũng bởi v́ Người bạn Đồng Minh Mỹ đă bỏ chúng ta !...nên Miền Nam mới thất bại !...

Một lần nữa cám ơn Huynh HL22 đă ghi lại những h́nh ảnh và ḍng bút kư ở những Trận Đánh kiêu hùng của Quân Lực VNCH Năm Xưa !...Rất mong Huynh đừng đóng cửa nhé !...Thân Chào Huynh ! :thankyou::thankyou: :thankyou::handshake ::handshake::handsha ke:

hoathienly19
02-08-2021, 04:24
Huynh Hoàng Lan 22 ơi !...Trang Lính mà đóng cửa th́ tiếc lắm Huynh !...V́ theo HDD nghĩ Trang Lính có giá trị vô cùng !...Bởi v́ đọc lại Trang nầy để chúng ta nhớ lại những ngày chiến đấu gian khổ và hy sinh để bảo vệ Miền Nam Tự Do của Quê Hương hơn 40 Năm trước ...Và để con cháu chúng ta biết được những Trang Sữ Bi Hùng Tráng của Người Lính VNCH trong công cuộc Bảo Vệ Tổ Quốc VN thân yêu bên kia bờ Đại Dương xa thẳm ...Cũng bởi v́ Người bạn Đồng Minh Mỹ đă bỏ chúng ta !...nên Miền Nam mới thất bại !...

Một lần nữa cám ơn Huynh HL22 đă ghi lại những h́nh ảnh và ḍng bút kư ở những Trận Đánh kiêu hùng của Quân Lực VNCH Năm Xưa !...Rất mong Huynh đừng đóng cửa nhé !...Thân Chào Huynh ! :thankyou::thankyou: :thankyou::handshake ::handshake::handsha ke:


:eek::eek::eek::eek:

Trong cuộc chiến 20 năm qua , h́nh ảnh người lính VNCH bị " bôi nhọ " bởi bên thắng cuộc nào là :

- " Hèn nhát "

- " Bị " quân đội đánh cs chạy tụt cả quần .... " nhưng nh́n lại lịch sử đă chứng minh những trậnnh đánh chính quy của quân lực VNCH và cs Bắc Việt th́ VNCH hoàn toàn đẩy lui dù VNCH phải chiến đấu trong t́nh trạng thiếu vũ khí v́ bị đồng minh Mỹ bán đứng dưới h́nh thức cắt viện trợ vũ khí , đạn dược trong khi đó cs Bắc Việt được LX , Tàu cộng viện trợ vũ khí dồi dào ! .

Trong cuộc chiến 20 năm qua , h́nh ảnh người lính VNCH bị " bôi nhọ " bởi bên thắng cuộc nào là :

- " Hèn nhát "

- " Bị " quân đội nhân dân chạy tụt cả quần .... " nhưng nh́n lại lịch sử đă chứng minh nhận trận đánh chính quy của quân lực VNCH với cs Bắc Việt :

Tết Mậu Thân , Mùa hè đỏ lửa , ... đă chứng minh hùng hồn những luận điệu xuyên tạc ác ư , gian dối .

Theo thiển ư thô thiển của tôi về cuộc chiến trong 20 năm qua được cho là :

- Một cuộc chiến huynh đệ tương tàn do những thế lực trên thế giới ... Với những sự kiện lịch sữ đă được bạch hóa th́ đây không phải là một cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn mà là cuộc chiến " chống ngoại xâm , bảo vệ lảnh thổ của tiền nhân để lại và người lính VNCH đă mang một sứ mệnh cao cả đó .

Những trận đánh , những anh hùng tử sĩ trong cuộc chiến nầy phải được lưu truyền , vinh danh để cho những thế hệ trẻ sau nầy biết được :

Quân đội nào thực sự bảo vệ Tổ Quốc VN và Quân Đội nào làm tay sai cho Cộng Sản Quốc Tế ( Cướp miền Nam để đưa cả dân tộc VN trở về thời kỳ Ngàn Năm Nô Lệ Giặc Tàu " , cản đường bước tiến của dân tộc )

Người lính VNCH hy sinh xương máu bảo vệ Tổ Quốc VN trước hiểm họa nhuộm đỏ của " cs quốc tế " .

Quân Đội Nhân Dân VN ăn cướp miền Nam là cho " Cộng Sản Quốc Tế " mà Lê Duẩn đă chỉ thị :


https://imagizer.imageshack. com/v2/640x354q90/r/924/mJTue2.jpg


Một chứng minh thực tế là quân đội nào " Hèn với giặc ... hăy so sánh quân lực VNCH và Quân Đội Nhân Dân VN trong thời điểm hiện tại và trận Hải Chiến HS của Quân Lực VNCH và Quân đội Nhân Dân VN hiện nay đă chứng minh hùng hồn :

- " Quân Đội nào " Bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam và Quân đội nào " Hèn , không bảo vệ Tổ Quốc VN ? ".

Tàu cộng ngang nhiên vào vùng đặc khu kinh tế của VN , bắn giết , cướp ngư cụ ngư dân VN mà Quân Đội Nhân Dân VN trốn mất sau những tuyên truyền " hét ra lửa " :

- Quân đội ta đánh trăm trận , thắng trăm trận

" Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành "

- Khó khăn nào cũng vượt qua

- Kẻ thù nào cũng đánh thắng ... vv .... và vv...


2S1NK88kubE


Câu hỏi được đặt ra :

" Tại sao Quân Đội Nhân Dân VN oai hùng , tài ba thế mà cái Dũng của quân đội nầy ở đâu để ngồi xem đoạn video của Tàu cộng chiếu lại cảnh bọn chúng thảm sát 64 bộ đội ở đảo Gạc Ma năm 1988 để rồi sau đó nh́n chúng xây căn cứ quân sự , tuyên bố chủ quyền lảnh của VN thuộc về chúng mà không thấy nhục nhă ?

Tổ quốc , Danh dự , Trách Nhiệm , của người lính trước một đoạn phim của kẻ cướp chiếu lại cảnh chúng tàn sát đồng đội mà không thấy bị sĩ nhục ?

Một quân đội luôn tự hào có truyền thống " chiến thắng Pháp , Mỹ , 2 tên đầu sỏ thế giới " , từng ngẩng cao mặt thóa mạ người lính VNCH là ươn hèn , đánh thuê cho Mỹ ... vv ... và ... vv ...

Bây giờ bị trói tay xem kẻ thù tàn sát đồng đội không dám hở môi th́ cái chiến thắng oai hùng , long trời , lở đất ngày 30/4/1975 " được tuyên truyền tóe lửa " có thật là chiến thắng do chính Quân Đội Nhân Dân VN làm ra hay nhờ vào một thế cờ khốn nạn giữa các cường quốc ?

Bộ đội cs có thực sự là một đội quân " bách chiến , bách thắng " ?



xBKXhj3-XkQ


Quân lực VNCH thua trận HS v́ phải đối đầu với CS , v́ bị đồng minh Mỹ bán đứng nhưng trong trang sử của dân tộc VN th́ :

- VNCH không thua chứng minh cụ thể :

- Dù biết khả năng không thể đương đầu với một lực lượng quân sự Tàu cộng hùng mạnh nhưng VNCH vẫn hiên ngang đánh với bọn chúng .

Biết chết vẫn đánh , biết thua vẫn đánh .

- Đánh cho chúng biết cái hào khí của dân tộc VN .

- Đánh cho chúng nhớ từ ngàn năm trước chúng từng thua nhục nhă trong các trận Như Nguyệt (1285) , Bạch Đằng Giang , Hà Hồi , Ngọc Hồi .... mà tiền nhân của chúng ta làm cho chúng khiếp sợ , bỏ mộng xâm lăng .

- Đánh cho chúng biết tinh thần bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc VN nói chung và của người lính VNCH nói riêng .

https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=142 4042



https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2016/03/12056-chien-si-qlvnch.jpg


Tâm niệm của người lính VNCH :

" Tổ Quốc Việt Nam trên hết .

Nối gót tiền nhân : " Quyết tâm hy sinh xương máu để bảo vệ toàn vẹn lảnh thổ ."

Thiết tha mong anh Hoang Lan 22 đừng bao giờ khóa thread nầy .

Trân trọng . hoathienly19

hoathienly19
02-08-2021, 06:11
THẦN ƯNG XÉ XÁC XE TĂNG ĐỊCH 1972 !



https://i1.wp.com/tqlcvn.org/images/td6-TQLC%20TRANS.gif



Qua đợt đầu Cộng sản Bắc Việt tấn công mănh liệt, hung hăn, ồ ạt, các căn cứ hỏa lực Carroll (Trung đoàn 56 thuộc Sư đoàn 3 Bộ binh) đầu hàng và Mai Lộc (Lữ đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến) phải cầm cự lui dần, khi căn cứ Pedro trở nên tuyến đầu pḥng thủ.

Thiếu tá Đỗ Hữu Tùng, Sĩ quan khóa 16 đalat, phong thái trầm tĩnh, luôn như suy nghĩ điều ǵ, từ từ, thủng thẳng trong mọi biến cố, kinh nghiệm chiến trường, một trong các Tiểu đoàn trưởng cự phách của Thủy Quân Lục Chiến, là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến biết thế nào căn cứ cũng bị chiến xa cùng quân bộ Cộng sản Bắc Việt tấn công kế tiếp, nên anh phối hợp với Lữ đoàn 258 xin đặt ḿn chống chiến xa sâu về hướng Tây đường tiến sát đến căn cứ.



https://i.postimg.cc/R0PH52K2/f-R2wc-FMOYa-Bs97pmp-Ri-Juz19-Qx-Kizm67v-Eq-KYnvqf-GKo-Dub-FBKj-ldp-PFQ8v58-RE1-Mh-Fp3hx-Tlo-TTlp8pub0z3-NK1-Tqnzjz.jpg


Ngay trong đêm 8/4/1972, toàn bộ Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến phân tán lực lượng ra khỏi căn cứ, chốt tại các đỉnh cao xung quanh.

Thật quả như Đỗ Hữu Tùng dự đoán, địch chuẩn bị cho cuộc tấn công căn cứ vào ngày hôm sau nên pháo kích suốt đêm như mưa, binh sĩ Tiểu đoàn 6 dưới các hầm hố cá nhân bên ngoài căn cứ chờ địch suốt đêm

Quả nhiên lúc 6 giờ 45 sáng ngày 9/4/1972, một Trung đoàn địch cùng đoàn chiến xa T54, T59 xuất hiện từ hướng Tâỵ Pháo binh được gọi can thiệp, nhưng chỉ cản sức tiến phần nào của Bộ binh địch mà thôi, c̣n chiến xa địch vẫn hăm hở xông xáo tiến lên trong thế nghênh ngang khinh địch .

Đoàn chiến xa vượt hẳn đội h́nh bộ binh của họ, tiến thẳng đến căn cứ.


Từ một hố cá nhân chỉ huy đặt ống nḥm, Đỗ Hữu Tùng nở nụ cười nửa miệng, anh thường hay có lối cười như vậy, bạn bè thường nói:

- “ Lại cười ruồi rồi ”, mà cứ mỗi lần cười ruồi là tiếp theo một đ̣n độc.

Bản chất vốn thủng thẳng, anh giữ im lặng vô tuyến với các đại đội xa gần, ngay cả với hệ thống chỉ huy cao hơn, các con cái sốt ruột quá, không rơ ông Thái Dương (danh hiệu của Thiếu tá đỗ Hữu Tùng) của ḿnh muốn ǵ đây.

Vài chiến xa đă cán hàng rào rồi, mà sao chưa lệnh lạc ǵ thế này, chờ cho đoàn chiến xa lọt hẳn vào tầm tác xạ dự trù, th́ cũng vừa lúc 1 chiếc cán ḿn, ầm một tiếng long trời dội đất, chiếc chiến xa lệch sang một phía bốc cháy, vài chiếc khác đă lọt hẳn vào trong căn cứ c̣n lựng khựng như đang cảm nghĩ chắc bị lừa, th́ lệnh khai hỏa tấn công của Đỗ Hữu Tùng vang lên trong máy truyền tin.


Một xe tăng T-54 bị bắn hạ tại An Lộc.


https://anhxua.net/photo/465876090124568.jpg


Các chiến sĩ Tiểu đoàn 6 nhô ra khỏi hố cá nhân, súng nhỏ nhắm bộ binh địch mà khiển, ống phóng chống chiến xa M72, 57 ly không giật tha hồ mà phóng từ bên hông và theo đuôi đoàn chiến xa ; cả chục chiếc bốc cháy, những chiếc c̣n lại hốt hoảng, đội h́nh rối loạn và húc vào nhau phóng chạỵ .

Nhưng đâu thoát, các đồi xung quanh căn cứ binh sĩ Tiểu đoàn 6 đă chốt hết rồi, cứ nhằm chiến xa địch mà xịt ống phóng M72, một hồi nuốt gọn gần 20 chiến xa địch.

Nhiều chiếc đang bốc cháy, một số binh sĩ Tiểu đoàn 6 hăng quá phóng ra khỏi hố cá nhân nhẩy phốc lên tháp chỉ huy chỉa súng M16 vào trong xe tăng, dọa tung lưu đạn, kêu ra đầu hàng.

Về phần bộ binh địch tiến theo sau thấy đoàn chiến xa dẫn đầu bị phản công hung hăn, bốc cháy hàng loạt, đâm hốt hoảng rối loạn hàng ngũ tháo lui.



https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2019/09/cac-chien-si-qlvnch-ban-ha-chien-xa-t54-cua-vc-tai-quang-tri-nam-1972.jpg?w=540&zoom=2


Ngay khi được báo cáo t́nh h́nh, Trung tá Ngô Văn định, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 258 (sau thăng cấp đại tá) liền ra lệnh Tiểu đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến cùng chiến xa M48 hoạt động gần đó nhào đến tiếp tay Tiểu đoàn 6 truy kích ngược lại địch, đồng thời Không Quân cũng được gọi đến khi trời quang sáng để dội bom gây cho địch thiệt hại nặng .

Địch cố thoát về hướng Tây bỏ lại hơn 400 xác ngổn ngang đầy đồi núi và 23 xe tăng (kể cả Tiểu đoàn 1 truy kích hạ thêm 4 và 2 xe tăng do Tiểu đoàn 6 bắt sống) bị cháy ngổn ngang.

Vô cùng ngoạn mục và hùng tráng, thường th́ chiến xa chiến là 2 đoàn chiến xa bạn thù quần thảo với nhau, nhưng đây ngược lại lính Thủy Quân Lục Chiến quần thảo với chiến xa hạng nặng địch khác nào như lấy trứng gà đập vào tảng đá.

Thật là một trận diệt chiến xa bằng bộ binh ít thấy ghi chép trong các trang quân sử trên thế giới.



rea4e9bsQEc


Sau trận này, 5 tiểu đoàn đàn anh, không một ông anh nào dám coi thường thằng em Thần Ưng nữa (xin xem bài Thần Ưng trong mùa Hè đỏ Lửa của Thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến Lương Xuân đương, để rơ nét thêm về trận đánh này).

Cũng lại Trung tá Đỗ Hữu Tùng dẫn Tiểu đoàn 6 tapi nửa vào Cổ thành đinh Công Tráng trong trận tái chiếm Quảng Trị sau đó ít tháng.

Lời kết, nhân danh là vị Tiểu đoàn trưởng đầu tiên của Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến “Thần Ưng” có vài cảm nghĩ như sau:

– Trung tá Đỗ Hữu Tùng, vị Tiểu đoàn trưởng lâu nhất, cũng là người dẫn dắt Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến lập được nhiều chiến công hiển hách lẫy lừng.

– Đỗ Hữu Tùng sống anh dũng, khi về th́ lặng lẽ biến đi, để lại biết bao thương tiếc cho bạn bè đồng đội và một mối t́nh sầu cho người nữ ca sĩ nổi danh.

– Nhiệm vụ sau cùng là Lữ đoàn phó Lữ đoàn 369, anh cùng với Lữ đoàn trưởng, Trung tá Nguyễn Xuân Phúc mất tích vào những ngày cuối tháng 3 năm 1975, hơn hai mươi năm sau, chúng tôi vẫn không t́m kiếm được một dấu tích nào về các anh.

Khi ngồi ghi lại những ḍng này, người viết không khỏi bùi ngùi, xúc động tưởng nhớ các anh, những chiến hữu đă cùng người viết chia sẻ mười mấy năm vinh nhục trong cuộc nội chiến phi lư nhất lịch sử Việt Nam.:112::112::112:: 112:


MX Phạm Văn Chung

https://dongsongcu.wordpress .com

Nguồn: http://tqlcvn.org/chiensu/cs-td6-xexac-xetang-dich.htm

wonderful
02-08-2021, 20:41
Đêm Hoa Đăng Bi Thảm (Hồi kư chiến trường).

LTS* Hôm nay ngày 30 tháng 3 năm 2013, đúng 38 năm ngày kỷ niệm trận Khánh Dương, Lữ đoàn 3 Nhảy Dù rút quân về Phan Rang, theo sau là đoàn xe của quân đội và đồng bào theo chân quân đội quốc gia xuôi về nam lánh nạn cộng sản.

Đêm Hoa Đăng Bi Thảm.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1738090&d=1612816813

Nguyễn Văn Lập
( Translated into English by Writer, Merle L Pribblenow below. Thanks)
Tái chiếm Quăng Trị xong, Sư đoàn Nhảy Dù tiếp tục đóng chốt trên dảy Trường Sơn làm thành một tuyến dài Bắc Nam từ bờ Nam sông Thạch Hản về đến căn cứ Bastongne tây bắc Huế, lúc này Hiệp định Paris đă ráo mực với những đợt xâm nhập của cộng sản Bắc Việt theo đường ṃn Hồ Chí Minh nằm sâu trong dảy Trường Sơn âm u, chúng định cắt Quân khu 1 làm đôi nên nhả bớt hoạt động nhưng vẫn duy tŕ áp lực để cầm chân hai Sư đoàn tổng trừ bị Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến tại Quăng Trị để đánh vào Thường Đức thuộc tỉnh Quăng Nam, nên Lữ đoàn 3 Nhảy Dù được điều động làm thành một pḥng tuyến kéo dài từ Ḥa Thanh sát với Đèo Hải Vân đến bờ sông Thu Bồn để bảo vệ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1 tại Đà Nẳng. Bộ Tư Lệnh Sư đoàn Nhảy Dù cũng rút về đóng tại phi trường Non Nước.
Tiểu đoàn 2 Pháo binh Nhảy Dù của chúng tôi về đến Quăng Nam giửa tháng 2 năm 1975. Sau gần ba năm hành quân ngoài Trung, lần này tôi có căm tưởng đây là cuộc hành quân xuôi Nam lần cuối rồi giả từ vĩnh viễn miền Trung. Trung đội tôi đóng sát chân núi chỉ cách đồi 1062 độ 8 cây số để yểm trợ cho nhiều trận đánh ác liệt tại đây, Tiểu đoàn 6 Dù rồi Tiểu đoàn 3 Dù thay nhau tái chiếm ngọn đồi máu này. Gần Tết, pháo binh Thủy Quân Lục Chiến đến thay. Trung đội tôi rút ra đóng chung với Bộ chỉ huy một Tiểu đoàn Địa Phương Quân tại một ngọn đồi thoai thoải phía trước quận Đại Lộc, ngó xuống Cầu Gảy. Nhiệm vụ bây giờ chỉ là yễm trợ tổng quát tăng cường cho các đơn vị bạn, nên chúng tôi có th́ giờ đi vào làng dân thăm hiểu t́nh h́nh luôn tiện làm công tác dân sự vụ. Mặc dù không phải là nhiệm vụ chính của đơn vị tác chiến như chúng tôi, nhưng thấy t́nh cảnh đồng bào nghèo khổ tội nghiệp quá, đau yếu thuốc men ǵ cũng không có, nên tôi bảo y tá có bất cứ loại thuốc ǵ có thể cho th́ cho đồng bào rồi báo cáo xin lại sau, và gạo xấy th́ tặng cho bà con hết, kể cả một số gạo thặng dư hàng ngày thay v́ bán để mua thêm thức ăn cho trung đội, tôi cũng bảo đem cho hết. Ngày 30 Tết, Ban đại diện ấp và bà con đem bánh tét và bánh tổ là một loại đặc sản Quăng Nam đến tặng cho Trung đội tôi ăn Tết, t́nh nghỉa quân dân thật thắm thiết, nghỉ lại câu nói bạc như dân bất nhân như lính mà tôi nghe trước đây thật đúng là xuyên tạc. Viên Trưởng ấp nói với tôi quân đội ḿnh tốt quá, ở đây thường mất an ninh, nếu Nhảy Dù mà rút đi chắc bà con chúng tôi cũng bỏ làng đi theo. Câu nói này đă in sâu vào ḷng tôi nhiều năm sau này, và tôi tiếc là khi chúng tôi rời Quăng Nam vài ngày sau đó để về Nam th́ đồng bào Đại Lộc không theo chúng tôi được.
Khi Thủy Quân Lục Chiến hoàn toàn thay thế Nhảy Dù tại mặt trận Thường Đức th́ Sư đoàn Nhảy Dù được lệnh về hậu cứ, chúng tôi hoàn toàn không ngờ đây là một cái lệnh bỏ Quân Khu 1. Tôi được Tiểu đoàn điều động ở lại sau chót để thu dọn quân dụng lên Hải vận hạm 505 về Saigon. Sau gần hai ngày lênh đênh trên biển, thay v́ về Saigon, tàu đưa chúng tôi vào quân cảng Cam Ranh rồi quân xa chở chúng tôi về Dục Mỹ. Lữ đoàn 3 Nhảy Dù đă có mặt ở Khánh Dương để chận bước tiến của đại quân cộng sản sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu có ư định bỏ nốt Quân Khu 2. Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng, Nguyễn Ngọc Triệu giao cho tôi nhiệm vụ làm Sĩ quan liên lạc Lữ đoàn 3 Dù, nếu tôi về trước đó một ngày th́ có lẽ không bao giờ có việc cầm bút viết lại hồi kư này v́ tôi sẻ được thay thế cho Đại Úy Tuấn, Pháo đội Trưởng A2 bị bệnh nên Đại Úy Tống Văn Tùng khoá 26 Thủ Đức và là bạn học cùng lớp với tôi suốt 4 năm Trung học Trần Lục, nay là Phụ tá Ban 3 vào thay. Sau trận Khánh Dương, Tùng bị bắt và bị cộng sản Bắc Việt đem ra sân vận động Nha Trang xử tử.
Theo nhiệm vụ, tôi được quyền xin toàn bộ hỏa lực của Trường Pháo Binh Dục Mỹ gồm một pháo đội 105 ly, một pháo đội 155 ly, và một liên đội 175 ly gồm 3 khẩu để tác xạ tăng cường cho Lữ Đoàn 3 Nhảy dù gồm các Tiểu đoàn 2,5, và 6 Nhảy dù đóng từ Khánh Dương tức cửa ngỏ vào tỉnh Ban Mê Thuột chạy dài đến phía Bắc của Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn. C̣n Tiểu đoàn tôi yễm trợ trực tiếp cho các đơn vị tác chiến thuộc Lữ Đoàn 3 Nhảy dù với gồm 18 khẩu đại bác 105 ly kiểu M102 kích ṇng bắn cực nhanh mà chính pháo binh Hoa Kỳ cũng không được trang bị, v́ chỉ dành riêng cho Pháo binh Nhảy Dù Việt Nam Cộng Ḥa là đơn vị duy nhất xử dụng loại vũ khí này cho thích hợp với đặc tính di động nhẹ. Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, toàn bộ các đơn vị đồn trú rút hết về Nam qua quốc lộ số 21, và bây giờ Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù phải một ḿnh ngăn chận các Sư đoàn 3 và 10, và một số đơn vị khác của cộng quân tại đây, tương quan lực lượng cở một chống mười làm tôi nhớ lại ngày nào Tiểu đoàn 11 Dù tử thủ Charlie tại Kontum, nay sẻ giống hệt như Lữ đoàn 3 Dù tại Khánh Dương. Cộng quân áp lực khắp nơi từ cả hai mặt đông và tây núi non hiểm trở, c̣n quốc lộ 21 th́ cộng sản không dám theo đường bộ tràn xuống, bộ binh và xe tăng của địch theo những đường ṃn trong rừng núi đánh ra đến đèo Phượng Hoàng (M’Rack) th́ bị chận lại, hàng trăm xác Việt cộng bị bỏ thây tại đây cùng với một xe tăng T54, t́nh h́nh chiến sự đè nặng lên vai bố già Lữ đoàn trưởng, Đại Tá Lê Văn Phát. Không ai bảo ai, mọi người đều biết t́nh h́nh này khó thể kéo dài nếu không có quân tiếp viện, suốt trong một tuần lễ và nhất là trong hai ngày 29 và 30 tháng 3 năm 1975, các đơn vị Lữ đoàn đụng độ liên tục với cộng quân, pháo binh Nhảy Dù cùng pháo binh cộng quân đấu pháo hầu như liên tục. Có lẻ tôi là một pháo thủ duy nhất lần đầu tiên được sử dụng toàn bộ hỏa lực của Trường Mẹ để yễm trợ chiến trường ác liệt cách Trường Pháo Binh không xa, tôi đă gọi bắn gần như liên tục ngày đêm các mục tiêu phản pháo hoặc tiêu hủy với đại bác 175 ly, và nhiều tuyến cản với đại bác 155 ly và 105 ly, ngoài các mục tiêu mà các Sĩ quan liên lạc từ các Tiểu đoàn Dù xin bắn, tôi c̣n phải chấm thêm nhiều tuyến cản để tác xạ. Cộng quân không pháo kích Bộ chỉ huy Lử Đoàn mà chỉ đánh các Tiểu đoàn Dù bằng pháo kích với pháo binh và xe tăng xong rồi bộ binh xung phong theo chiến thuật cổ điển tiền pháo hậu xung, Không Quân của ta từ phi trường Thành Sơn lên yễm trợ cũng không được hữu hiệu lắm đối với các chiến trường xé lẻ và tiếp cận hàng chục thước như thế này.
Đến tảng sáng ngày 31/3/1975 th́ toàn thể các đơn vị tác chiến kể cả các pháo đội Pháo binh Dù bị tràn ngập, và trước khi rút đi đă phá hủy hết đại bác. Không hiểu sao Trường Pháo Binh nghe được và tự động ngưng tác xạ, tôi gọi măi để chuẩn bị nếu các đơn vị bạn yêu cầu th́ bắn ngay trên đầu cùng chết với địch tức là đồng ư quy tận, nhưng không có một đài nào trả lời hết. Độ nửa tiếng sau tôi nghe tiếng động cơ nổ liên tục tại Trường Pháo Binh mà sau cùng là tiếng xích sắt của các khẩu pháo 175 ly. Có lẽ Trường Pháo Binh đă nhận lệnh di tăn từ ở đâu đâu trước đây nên tự động tan hàng, kế đến là Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ nằm sát bên cũng tự động rút đi, và sau cùng là Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn. Một số các đơn vị thuộc Lữ đoàn 3 Nhảy dù hiện đang im lặng vô tuyến rời bỏ vị trí, chỉ biết là hầu hết bị địch tràn ngập, không một Đề lô nào cũng như Sĩ quan liên lạc pháo binh lên máy, mà có liên lạc được giờ phút này cũng không c̣n hỏa lực pháo binh yễm trợ nửa. Bộ Chỉ huy Lữ đoàn 3 Dù ra lệnh rút và Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 2 Pháo binh Dù phải di tản theo về Đèo Rù Ŕ, độ một tiếng sau là gở toàn bộ căn cứ di tản ra khỏi phi trường Dục Mỹ, tôi được lệnh ở lại căn cứ với một máy truyền tin PRC 25, một tài xế, và một chiếc xe Dodge. Trung Tá Trần Đăng Khôi, Lữ Đoàn Phó dặn tôi cứ ở tại phi trường chờ ông bay trực thăng quan sát xong sẻ quay trở lại bốc tôi đi, việc để lại tài xế với chiếc xe Dodge này mang ư nghỉa nếu ông không về đón th́ tôi sẻ cùng đệ tử chạy về Đèo Rù Ŕ t́m Lữ đoàn. Giờ này th́ cả huấn khu rộng lớn và phi trường Dục Mỹ chỉ c̣n có một ḿnh tôi và người đệ tử. Tôi nh́n về hướng Tây Bắc nơi h́nh Núi Vọng Phu vươn lên trên bầu trời nhạt nắng mai, người chinh phụ cùng đứa con hóa đá kia đă bao năm sắt son đứng đợi chồng về vẫn c̣n đứng đó, và ở dưới chân Bà, nhiều thế hệ sau đang viết tiếp một chương bi thảm của những người đi chinh chiến không về, lịch sử là một sự lặp lại không ngừng. Trong niềm đau thương u uất đó, tôi mong nghe có tiếng gọi của đồng đội tôi thuộc bất cứ đơn vị nào t́m đường ra quốc lộ, tôi sẻ hướng dẩn như đă làm trong quá khứ, nhưng không thấy ai lên tiếng. Gần một tiếng rồi không thấy trực thăng của Trung tá Khôi bay về, tôi mở các tần số gọi liên tục, vô vọng, kể cả tiếng Trung tá Khôi cũng không thấy trả lời. Tôi lên xe bảo người tài xế mở máy trực chỉ về Nha Trang.
Dọc đường, đồng bào bằng đủ mọi phương tiện xe đ̣, honda, xe ḅ, kể cả đi bộ, có người trên vai gánh cái gia tài vô giá là hai người con nhỏ ngồi hai đầu, họ cũng xuôi Nam theo chân quân đội quốc gia, họ đi theo đường quân đội rút, để t́m tự do. Để phục vụ cho âm mưu phản chiến, bọn phóng viên khốn nạn nước ngoài chỉ giỏi loan báo những tin thất thiệt xuyên tạc cuộc chiến tranh tự vệ của quân dân miền Nam, chúng không bao giờ có th́ giờ t́m hiểu tại sao những người dân lành lánh nạn cộng sản, tại sao đồng bào tôi lại theo chân quân đội quốc gia về miền đất hứa bằng đôi chân tự do như thế này. Xế trưa th́ tôi về đến Đèo Rù Ŕ gần Nha Trang gặp lại Tiểu đoàn, tôi tŕnh với Thiếu Tá Triệu là không nghe bất cứ đài nào gọi. Độ nửa tiếng sau, Trung Tá Khôi cũng bay về, ông hỏi tôi sao không đợi, tôi trả lời cả một huấn khu to lớn như thế rút hết, chỉ c̣n hai thầy tṛ tôi và không liên lạc được ai nửa nên phải về đây. Lúc này tôi cũng không rỏ Lữ đoàn sẻ đi đâu, vào Nha Trang hay về Saigon theo đường bộ. Sau đó th́ có lệnh rút về quân cảng Cam Ranh. Về đến cổng quân cảng th́ cả một rừng quân xa của nhiều binh chủng và dân xa đủ loại đă bít kín hết cổng ra vào, xe cộ đậu dài cả chục cây số. Những người lính quân cảnh gác cảng chỉ biết lắc đầu nói không có tàu, t́nh cảnh này mà mở cổng th́ có trời cũng không cản nổi cảnh hổn loạn.
Lúc gần chiều th́ Đại Tá Phát Lữ đoàn trưởng quyết định rút về Phan Rang theo đường bộ, khi đoàn xe của Lử đoàn trở đầu ra khỏi quân cảng th́ toàn thể rừng xe cộ kia cũng tự động nối đuôi, cặp bên hông là xe gắn máy của đồng bào, hàng ngàn xe cộ, dân xa, chiến xa, đại bác, và quân xa của một phần Quân khu 2 đông cở chục ngàn người theo sau đoàn quân Mũ Đỏ cở trên một trăm người mở đường tiến về Nam. Giửa cái khung cảnh bi hùng như thế, tôi có căm tưởng giống hệt như ngày xưa ông Môi Sen dẩn dân Do Thái vượt qua Biển Đỏ t́m về miền đất hứa lánh nạn quân Ai Cập. Xe chạy khá chậm để phía sau theo kịp, thỉnh thoảng phải dừng lại để quan sát ḍ đường. Mổi lần ngừng lại, chúng tôi năn nỉ đồng bào đừng chạy xe gắn máy cặp sát xe chúng tôi, lở bị phục kích th́ bị chết oan, nhưng đồng bào cương quyết nói “Nhảy dù đi đâu chúng tôi đi theo, có chết chúng tôi cũng chịu”, đành phải để cho bà con chạy theo như thế. Trong đời lính, nếu các bạn đă từng nghe được chính miệng những người dân lành vô tội đă đặt hết sinh mạng và tài sản vào tay quân đội quốc gia trong giờ phút tuyệt vọng như thế này, mới thấy được sự hy sinh của người lính chúng ta không phải vô ích. Ngồi trên xe, nhớ lại ngày mồng 2 Tết năm 1973, tôi đi đề lô cho Tiểu đoàn 2 Nhảy dù của Thiếu Tá Nguyễn Đ́nh Ngọc, có Đại đội 1 Hắc Báo là một đại đội bộ binh nổi tiếng nhất của Sư đoàn 1 Bộ binh do một viên Thiếu Tá làm Đại đội trưởng tăng cường đi chiếm lại làng An Lỗ nằm sát ngay quốc lộ số1 Thừa Thiên, Việt cộng vi phạm Hiệp định Paris, dành dân lấn đất, chúng đă lợi dụng ngưng bắn, chiếm trọn làng này, và dùng đồng bào làm bia đở đạn. Tôn trọng lệnh ngưng bắn, chúng tôi không sử dụng pháo binh để yễm trợ, Hắc Báo làm trừ bị, Nhảy Dù dàn hàng ngang làm nổ lực chính, cẩn thận chiếm lại từng ngôi nhà với lệnh cố gắng tối đa bằng mọi giá không làm thiệt hại đến tính mạng và nhà cửa của đồng bào, chiếm đến đâu giao cho Hắc Báo giử đến đó. Khi chiếm lại toàn bộ xă, bắt sống cũng như hạ tại chổ nhiều địch quân, nhà cửa của đồng bào hầu như c̣n nguyên vẹn, không một người lính Dù và đồng bào nào bị tử thương, c̣n hơn là phép lạ.
Đến Du Long th́ trời đă tối, nh́n lại phía sau, cả chục cây số đèn pha sáng trưng, nguyên một góc trời đèn xe như một con giao long đang uốn khúc, sáng long lanh trong đêm hoa đăng bi thảm, đêm nay đồng bào Khánh Ḥa bỏ phiếu cho tự do, không cần biết về đâu miễn quân đội quốc gia đi đâu th́ đồng bào đi theo đến đó. Cũng may, không một tiếng súng nào nổ thêm trong đêm này và toàn bộ đoàn quân dân về đến Phan Rang b́nh an vô sự.
Xe của Nhảy dù chạy đi đâu th́ đoàn xe khổng lồ phía sau cũng nối đuôi, đến khoảng 3 giờ sáng ngày 01/4/1975 th́ vào đến Phan Rang, xe chạy ra sát biển th́ dừng lại, c̣n đoàn xe đă tháp tùng chúng tôi th́ tiếp tục cuộc hành tŕnh vô Nam và đến Phan Thiết trong ngày hôm đó. Lử đoàn 3 Dù nhận được lệnh mới vào phi trường Thành Sơn nay do Bộ Tư lệnh Sư đoàn 6 Không Quân với con phượng hoàng Phan Rang, một vị tướng mặt trận, Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang trấn nhậm, c̣n vị Tỉnh trưởng Phan Rang, Đại Tá Trần Văn Tự th́ đang tá túc trong phi trường đến ngày 07/4/1975 mới trở về nhiệm sở. Sáng hôm sau ngày 02/4/1975, một trung đội thuộc đại đội chỉ huy của Lữ đoàn 3 Dù do một Trung sỉ hướng dẩn đi theo một viên Đại Úy Địa Phương Quân, vị này nguyên là Trưởng Ban 2 quận châu thành Phan Rang nay được đề cử giử chức tân Quận Trưởng và được Nhảy Dù hộ tống đi trấn an dân chúng. Tôi được lệnh đi theo với nhiệm vụ chính là t́m đại bác 105 ly nào của ta bỏ lại c̣n sử dụng được th́ sẻ kéo về pḥng thủ phi trường, nhưng tất cả đại bác kể cả 155ly đều bị phá ṇng để lở rơi vào tay địch th́ không sử dụng được. Tại tiểu khu Ninh Thuận, tôi đă gặp người thay thế ông Tỉnh đang tá túc ở trong phi trường là vị Trung Tá Tiểu khu phó, đang liên lạc bằng tiếng Anh với một chiếc trực thăng bay ṿng ṿng trên đầu nghe nói là của một cựu cố vấn Mỹ đang hỏi thăm t́nh h́nh. Trong lúc chờ đợi, tôi đi ṿng ṿng quanh tỉnh th́ gặp một toán Thám Sát Tỉnh (tiếng Anh là Province Recon Unit gọi tắt là PRU), anh em này nhận ra tôi là cựu huấn luyện viên CT tiền thân của PRU, tay bắt mặt mừng, anh em cho biết t́nh h́nh trong tỉnh vẫn tương đối yên ổn tuy có vài vụ cướp bóc, c̣n Việt cộng th́ chưa vào được thành phố. Tôi nói Nhảy Dù về giử Phan Rang, nếu thuận tiện anh em thông báo cho dân chúng biết. Xong tôi từ giả và tiếp tục đi theo xe của trung đội Nhảy Dù chạy ṿng quanh thị xả t́m súng đại bác, rồi ra đến ngoại ô, đến nơi đâu viên Đại úy Quận Trưởng đều bắc loa nói Nhảy Dù đă về Phan Rang xin bà con trở lại sinh hoạt b́nh thường. Chỉ trong ṿng một buổi sáng, đă thấy sinh khí có vẽ đă trở lại với Phan Rang, vùng đất mà từ nay đă trở thành địa đầu giới tuyến, nhưng tôi vẫn không t́m được khẩu đại bác nào c̣n nguyên vẹn, pháo binh quyết định chiến trường, không có pháo th́ việc pḥng thủ phi trường càng thêm khó khăn.
Tại cửa biển Phan Rang, sát một làng chài lưới, đồng bào báo cáo có một bọn cướp có súng, lợi dụng t́nh h́nh sôi động đă cướp bóc nhũng hại dân lành cả tháng nay, hiện bọn này đang nằm ở nhà, xin quân đội đi bắt, viên Đại Úy không c̣n quân này xin Nhảy Dù đi bắt cướp, tôi đề nghị viên Trung sĩ Trưởng toán Nhảy Dù cho đi, và đă bắt được hai tên cướp này thật dễ dàng, rồi trói lại rồi đưa ra ngay cửa biển nơi có chiếc ghe của gia đ́nh tên chánh đảng cướp đang neo tại bến. Bà con nghe tin kéo đến thật đông, viên Đại Úy hỏi ư kiến bà con xử trí như thế nào, mọi người đều hô to xử tử, nhanh như chớp viên Đại Úy Quận Trưởng lập tức giơ M16 nhắm vào tên chánh đảng đang quỳ cách đó khoảng chục thước và bắn ba phát, tên chánh đảng vừa giảy chết th́ chiếc ghe kia cũng mở máy chạy. C̣n lại tên thứ hai th́ có một vị bô lảo nói là con và xin tha, v́ con ông chỉ là đồng bọn bị ép buộc, nay dân chúng cũng xin bảo lănh tha tội chết, tôi cũng nói thêm vào xin Đại Úy tha cho nó, và thật giống như là xi nê, tên này được viên Quận Trưởng cởi trói và tha tại chổ giống như “not guilty” tại phiên ṭa xử vô tội tại Mỹ. Chuyện này về sau xem phim Hồng Kông, tôi có ư nghỉ ngộ nghĩnh là Nhảy Dù dẫn Bao Công đi xử án tại Phan Rang.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1738091&d=1612816824

Về đến Tiểu đoàn, tôi báo cáo mọi chuyện, Thiếu Tá Triệu cắt tôi tiếp tục làm Sĩ quan liên lạc Lữ Đoàn đặt cạnh Bộ chỉ huy hành quân chiến cuộc của Không Quân, và nhờ phương tiện liên lạc tốt của Không Quân, tôi đă liên lạc được Hải pháo Hoa Kỳ ngoài khơi hải phận Việt Nam qua một sĩ quan liên lạc hải pháo người Việt. Tôi tŕnh bày mọi việc và yêu cầu yễm trợ hải pháo khi đụng trận, v́ hiện nay chúng tôi không c̣n pháo binh, họ chấp thuận yêu cầu trên nguyên tắc, nhưng sau đó đă lờ đi v́ Hoa Kỳ vĩnh viễn phủi tay với người bạn đồng minh. Ngày 9/4/1975 đă diễn ra một cuộc bốc quân cuối cùng và vĩ đại nhất của Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa, Không đoàn 72 chiến thuật của Trung tá Lê Văn Bút đă dùng 40 trực thăng UH1B cộng với 12 trực thăng vơ trang, và 8 chiếc trực thăng Chinook từ phi trường Biên Ḥa ra bay ngược về Khánh Dương bốc “một slick duy nhất” được gần hết các quân nhân Lử Doàn 3 bị thất lạc gần 600 người mà đa số là Tiểu đoàn 5 Nhảy dù của Trung Tá Bùi Quyền và một số anh em Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 6 Dù, c̣n riêng các pháo đội Nhảy dù th́ sau này có người t́m ra được quốc lộ và cuối cùng về đến đơn vị chỉ được vài người, c̣n lại ngoài số bị tử trận, một số bị bắt làm tù binh như Đại úy Nguyễn Thái Chân hàng chục năm sau mới được trả tự do. Vài ngày sau, khi toàn bộ Lữ đoàn 2 Dù ra thay Lữ đoàn 3 xong, và Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi ra làm tư lệnh mặt trận Phan Rang, th́ Tiểu đoàn tôi được lệnh trở về hậu cứ Nguyễn Huệ để bổ xung lực lượng sau gần 3 năm tham chiến tại miền Trung.
Qua cửa phi cơ nh́n xuống Phan Rang, quốc lộ số 1 với những hàng dừa ngút ngàn chạy song song với biển Thái B́nh Dương, tôi c̣n h́nh dung được hơn một tuần trước, ở phía dưới kia đă diễn ra một đêm hoa đăng bi thảm soi đường cho một cuộc di tản trong ṿng trật tự, v́ tự do, v́ đồng bào, chúng tôi đă ngồi dậy, và cầm súng tiếp tục chiến đấu.
“Night of the Flowered Lanterns” [Đêm Hoa Đăng Bi Thảm]
By Nguyen Van Lap [Nguyễn Văn Lập]

wonderful
02-08-2021, 21:40
Xuân nhớ bạn!

Ngoài trời mưa xuân đến sớm nhưng sao buốt lạnh quá chừng, khiến cho ta thêm buồn rầu trong bóng tối một tết tha hương. Dường như có ai đang hát ru Những T́nh Khúc Chiến Trường giúp ta nhắp một chút men nồng để thấy lại ngày xưa, để ta d́u ta trở về trong kỷ niệm buồn vui của đời lính với những tết không bao giờ quên được dù nay bạn bè người c̣n kẻ mất, trong đó có rất nhiều anh em đă gục chết ngay giữa tuổi thanh xuân mộng thắm tràn đầy.

Giữa đồi sương và gió
T́nh cờ ta ghé qua
Ngu ngơ nh́n ngọn cỏ
Quanh mộ đời phôi pha

Giun dế đọc giùm ta.
Tên một loài dễ vỡ
Chim một bầy gọi nhỏ
Tên một loài hư vô

Người ôm bờ huyệt lạnh
Ngủ cùng đất ngàn năm
Ta ôm đời lẽ bạn
Mang mang sầu quanh quanh…
(Chinh Yên một chiều viếng mộ bạn)

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1738113&d=1612820317

hoathienly19
02-10-2021, 04:16
TẾT VỀ LẠI NHỚ NHỮNG TẾT THA PHƯƠNG CỦA ĐỜI LÍNH TRẬN VNCH !



Chợt nhớ xuân nào trên chiến địa,

Tao mày hiu hắt đón xuân chơi

Một thằng bộ binh đời như bỏ

Một đứa nhảy dù cũng tả tơi..



https://hung-viet.org/images/file/VNEQcL0m1QgBAJ06/nguoilinhvietnamcong hoatrentructhang.jpg


Bốn câu thơ củ mới đó mà đă mấy mươi mùa thương nhớ, càng khiến cho người lính già thêm trơ trọi lạc lơng, giữa tối ba mươi lạnh lẽo nơi chón quê người..

Trong quán khách bên đường, ta một ḿnh sóng đôi với ngọn đèn hiu hắt, qua đêm lại một năm buồn. Rượu chưa nhắp mà môi dă muốn cay sè, ngoài trời con chim kỹ niệm vẫn như thiết tha giục giă dù khói lửa đă ngưng trên chiến địa, bạn bè cũng không c̣n quan hà cạn chén ly bôi, sau những tiếng tỳ bà nhặt khoan nức nỡ.

Tan tác, chia xa giờ đây chúng ta đang lang thang như mây chiều, sau những năm tháng đă giốc ngược đời ḿnh cho quê hương.

Lính là thế đó, buồn nhiều vui ít với một chút nhun nhén t́nh cờ bắt gặp, trên các nẽo đường hành quân vô định, qua dăm ba ngày Tết dưỡng quân hay canh giặc chốn tiền đồn lẽ loi ngoài quan tái.

Ai đă từng là lính mới căm thông cho lính, sống thật cô đơn lếch thếch và chết cũng rất hiu hắt ngậm ngùi. Thời gian và không gian đời lính cũng chẳng qua chỉ là một cái mốc vô t́nh để biết ta hiện hửu. Nhưng thôi tiếc làm ǵ ai biểu ta sinh ra làm trai hùng đất Việt ? nên phải chấp nhận kiếp lính :

“ Ôm yên gối trống đă chồn, nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh “ để rồi thui thủi

- “ Đêm từng đêm ngó mông lung, ôm cây súng lạnh hát rừng mà nghe “..

Gần mười ba năm lính tết nào cũng tết tha hương, xuân ở đâu cũng xuân lữ thứ.

Đêm trừ tịch giữa tối ba mươi cái khoảnh khắc năm củ sắp tàn, khi mà mọi nhà chặt then kín cửa, để sửa soạn đón giao thừa trong niềm hạnh phúc của gia đ́nh, th́ lính cũng đón chào năm mới trong chiếc hầm trốn đạn hay mái cḥi canh giặc đen tối lạnh băng.

Nhớ từ đâu bổng kéo tới, vây kín cái không gian nhỏ hẹp này. Ngoài trời mưa xuân đến sớm nhưng sao buốt lạnh quá chừng,khiến cho ta thêm buồn rầu trong bóng tối một tết tha hương.

Dường như có ai đang hát ru một khúc t́nh ca của lính, nhắp một chút men nồng để thấy lại ngày xưa, để ta d́u ta trở về những mùa xuân củ, những tết không bao giờ quên được trong cuộc đời



k_EiHnSkw8E


1 - TẾT LÍNH ĐẦU TIÊN TRÊN RỪNG NÚI MIỀN TÂY BẮC B̀NH THUẬN :



https://hung-viet.org/images/file/1mXT0TZj0wgBAPIK/hanhquan.jpg


Ma Lâm xưa nay vẫn là cửa ngỏ để nhập vào vùng tây bắc B́nh Thuận hùng vĩ và đầy huyền thoại. Ma Lâm là thủ phủ của quận Thiện Giáo, nằm giữa châu thổ ph́ nhiêu của con sông Cả (Quao) phát nguyên tại Di Linh và ra biển Đông tại cửa Phú Hài.

Quốc lộ 12 hay c̣n gọi là Liên tỉnh lộ 8 chạy ngang qua đây, được hoàn thành ngày 1-10-1914 từ Phan Thiết đi Di Linh. Đây là biên địa cuối cùng của Vương quốc Chiêm Thành trước khi mất nước vào năm 1693, nên có nhiều người Chàm và Thượng Ba Phủ sống tại các xă Ma Lâm Chàm, Phú Nhiêu, Sông Trao, Trịnh Ḥa, Tịnh Mỹ.

Tuy những địa danh như Rừng Đú, Mang Tố, Làng Chăo, Vũng Dao.. và các câu chuyện xưa về người Chàm trên mănh đất B́nh Thuận, theo thời gian tan biến vào cát bụi nhưng vẫn muôn đời vẫn c̣n là huyền thoại đẹp của một thời vang bóng.

V́ địa thế hiểm trở lại thêm chinh chiến triền miền nên quốc lộ gần như bị bỏ hoang, cũng như hầu hết miền tây bắc bi quên lăng, để mặc cho người Thượng tha hồ đốt rừng bừa bải làm rẫy, dù vùng này nếu ruộng đất được khai thác, cũng đủ cung ứng nhu cầu lúa gạo cho nhiều người trong tỉnh.

Gần Tết Nguyên Đán năm 1964, chúng tôi gồm mười lăm đứa măn khóa từ Sài G̣n bổ sung cho Trung Đoàn 43 biệt lập, lúc đó do Thiếu Tá Vơ văn Cảnh (sau lên chuẩn tướng là tư lệnh Sư đoàn 23 bộ binh năm 1972), làm Trung Đoàn Trưởng kiêm Biệt Khu Trương Biệt Khu B́nh Lâm, trách nhiệm ba tỉnh B́nh Tuy-B́nh Thuận-Lâm Đồng.

Bộ chỉ huy biệt khu đóng tại quân Di Linh với Đại đội Trọng Pháo của Đại Uư Ngô Tất Tống và Tiểu đoàn 3/43 của Đại Uư Công.

Riêng Tiểu đoàn 1/43 của Đại Uư Ngô văn Diệp (tử trận năm 1965 tại Trảng Bàng) và Tiểu đoàn 2/43 của Đại Úy Hai, th́ hành quân thường trực tại B́nh Tuy-Phan Thiết.



https://hoiquanphidung.com/echo/media/k2/items/cache/3dcbd8056f504532259e 733a4b9e2ae3_XL.jpg


Ngày đầu tiên về đơn vị lại là ngày cuối năm, nên khi xe lủa tới Đà Lạt vào buổi chiều cũng là lúc thiên hạ đang rộn rịp chuẩn bị đón giao thừa. Cao nguyên Lâm Viên mùa Tết, nên trời rét căm căm. Bọn chúng tôi đều sinh trưởng tại miền biển và đồng bằng sông Cửu Long, nên chịu không thấu với cái lạnh cát da tím thịt nơi chốn biên tái, trong bộ đồ trận mỏng manh, qua đêm đầu tiên tại nhà văng lai của Tiểu Khu Tuyên Đức.

Viết sao cho hết nổi buồn rầu của bọn lính xa nhà trong đêm trừ tịch ? dù tết Đà Lạt thật tuyệt vời, khiến ta cứ ngỡ như ḿnh đang lạc lối đào nguyên giữa hoa và người đẹp, cả hai sắc hương dường như đang cùng với mây trời ngạt ngào trong sương giá.

Đà Lạt đêm xuân thú vui không kể xiết, khắp phường phố thiên hạ quần áo là lượt hạnh phúc, gắn bó từng cặp, từng đôi trong muôn màu đam mê rực rỡ nhưng với bọn lính mới đầu đời, Đà Lạt lại vô t́nh hờ hửng. Bởi vậy mười mấy đứa đều mong mau sáng, để sớm trả lại cái thiên đường hạnh phúc mà trời trót dành cho những giai nhân tài tử.

Rồi th́ chia tay, dăm đứa gọi là kém may mắn khi về Tiểu đoàn 3/43 gần mặt trời. Số c̣n lại bổ sung cho Tiểu đoàn 1 và 2/43.

Một cuộc hành quân mở ra vào ngày mùng ba tết nguyên đán, mục đich khai thông quốc lộ 12, đưa lính mới và quân trang quân dụng bổ sung cho hai đơn vị tại B́nh Thuận. Nhờ vậy mới có dịp hưởng được một cái tết núi rừng vui nhộn với người Koho quanh bếp lửa hồng.



ZP74Mc1IPAM


Bộ tộc Koho sống đông đảo tại cao nguyên nam Trung Phần, có nguồn gốc pha trộn từ nhiều sắc dân Chàm, Mă Lai, Indonesian và Chân Lạp.. gồm các bộ lạc Churu, Noang, Sre, Maa, Sil, Toa, Queyong, Lat, Nop, Kodiong, Nam.. chủ yếu sống tại các tỉnh Quảng Đức, Tuyên Đức, Lâm Đồng,B́nh Thuận, B́nh Tuy và Long Khánh.

Được vui Tết với người Koho là một thích thú tột cùng, v́ ngoài việc được ăn uống tự do, c̣n hưởng được t́nh người qua cử chỉ, một hành động đối với người Việt trong thời chinh chiến, hầu như đă mất mát hay nếu c̣n cũng chẳng qua là sự giả tạo hay lớp phấn hào nhoáng bên ngoài.

V́ lộ tŕnh bị bỏ hoang lâu ngày,không được sửa chữa và xử dụng nên khắp nơi đầy ổ voi ổ gà. Thêm vào đó là nhiều đèo cao với vô số khúc quanh co lên trời, xuống lủng. Do vậy đoàn xe di chuyển rất chậm v́ phải mở đường và tu bổ quan lộ, nên đêm đó phải đóng quân và cũng là dịp ngàn năm một thuở được chủ làng trong buôn Koho, tai thung lũng Klonodium sát đường mời ăn Tết.

Theo truyền thống, buổi lễ được tổ chức giữa sân nhà Hội Đồng. Tất cả đều là sự quyên góp chung từ củi đốt, trâu ḅ tới rượu cần.

Quang cảnh đêm Tết thật hấp dẫn với đống củi cao như núi đủ rực sáng suốt đêm, mấy trăm hủ rượu cần và ba con trâu cột sẳn quanh các hàng cộc được chạm trổ. Khắp nơi c̣n có những cây phướng, nêu và cờ xí càng tăng thêm nét đẹp và trang nghiêm trong ngày Tết.

Rồi lúc ráng chiều vừa khuất sau rặng núi Bà cao đen thăm thẳm đầy huyền bí, cũng là lúc chiêng trống nơi nhà Hội Đồng trổi dậy, thúc dục dồn dập như tiếng trống trận xua quân, kêu gọi mọi người trong Buôn tề tựu nơi bếp lửa hồng vừa cất cao ngọn.

Tiếng lửa lách tách nổ vui tai, cộng với tiếng người chuyện tṛ huyên náo. Nam nử, già trẻ vui Tết ăn mặc quần áo đẹp và mới nhất của họ, dù chỉ là thứ vải bâu thô thiển.



https://sotaydulich.info/wp-content/uploads/2014/01/rrrrr.jpg


Ở đây hoa nhiều không đếm hết nhưng cũng không có hoa ǵ đẹp hơn hoa mai khiến đêm thêm ngát, làm cho lính đă ngây ngất bên ché rượu cần, lại càng ngẩn ngơ hóa bướm v́ tiếng hát ngây thơ hồn nhiên của các cô gái vùng cao.

Hỡi ôi kỷ niệm mấy chục năm qua rồi, mà sao trong hồn mỗi lần chợt nhớ, dường như lại muốn khựng khi tưởng tới vị chua chua của rượu cần và mú hương hoa núi rừng tây bắc.

Sáng tinh sương lính lại lên đường, không được như người Koho sung sướng tiếp tục cuộc vui Tết quanh các gia đ́nh, cho đến hết tháng giêng mới chấm dứt khi cả Buôn không c̣n rượu và thịt.:

“ Ớ chàng trai lính ơi,

đùng quên đêm nay bên vũ điệu Lam Tơi,

đôi ta t́nh cờ quen nhau ngắn ngũi

nhưng em nguyện chờ chàng trở về ..”


2 - NHỮNG NGÀY TIỀN ĐỒN Ở TÙNG NGHĨA, TUYÊN ĐỨC :

Sau hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước , một số người Thái sinh sống tại tỉnh Lai Châu đă từ bỏ thiên đàng xă nghĩa miền bắc, di cư vào Nam để t́m tự do và lập nghiệp tại xă Tùng Nghĩa, quận Đức Trọng, tỉnh Tuyên Đức, gần phi trường Liên Khương ngả ba Di Linh-Đà Lạt-Đơn Dương.

Thời tiền chiến, Hoàng Ly đă viết bộ tiểu thuyết trường thiên dă sử nổi tiếng :

- “ Lửa hận rừng xanh”, hư cấu cuộc đời của Tù trường Đèo văn Lang, vua của người Thái đen Thái trắng sống ở miền tây bắc Lai Châu rộng lớn , từ Phong Thồ, Nậm Nà tới Mường Lay, Mường Tè, Bản Pháp.. xứ sở của hoa ban, loài hoa trắng mọc chênh vênh ven vách núi, mùa xuân nở trắng núi đồi xứ Thái.

“ Đón giao thừa một phiên gác đêm

chào xuân đến súng xa vang rền

Xác hoa tàn rơi trên bán súng..

ngỡ rằng pháo tung bay, nào ngờ hoa lá rơi”



hEhWD3Bfoug


Bài hát cũ của nhạc sỹ Nguyễn văn Đông mấy chục năm về trước, nay sao vẫn nhớ như niềm nhớ về một cái tết xa xưa rất t́nh cờ với đồng bào Thái Trắng, khi tiểu đoàn nằm tiền đồn, giữ an ninh ngoài ṿng đai Tùng Nghĩa.

Theo phong tục cổ truyền, hầu như tất cả các dân tộc thiểu số vùng thượng, trung Bắc Việt cũng như cao nguyên Trung Phần, hằng năm đều có nhiều lễ hội.

Người Thái cũng vậy nhưng quan trọng hơn hết đối với họ vẫn là Tết Nguyên Đán NEN BƯƠNG TIÊN, thường được tổ chức tiếp theo Lệ ăn cơm mới và uống rượu Kim Lao Mao, mừng trúng mùa, cũng như ngày Tết Thần Táo vào tối đêm 23 tháng chạp, cũng giống như người Việt, rất trọng thể khắp mọi nhà, mọi đ́nh làng với lễ vật gồm gà, xôi, rượu, vàng giấy và hoa quả.

Người Thái sống lâu năm trên đất Việt nên Tết Nguyên Đán gần giống người Kinh, nhất là từ khi họ di cư vào miền Nam. Đêm giao thừa, mọi người đều ăn mặc quần áo mới, sặc sở và diêm dúa nhất vẫn là các cô gái chưa chồng trong lễ hội “ Tung Cầu “ với thanh niên chưa vợ, để rồi sau đó từng cặp sóng sánh cười vui, qua cuộc t́nh đầu xuân vừa chớm nở.

“Chốn biên thuỳ này xuân tới chi, t́nh lính chiến khác chi bao người” , nên đêm tiền đồn được vui ké với bản làng một cái tết vui nhộn từ đầu thôn tới cuối ấp, nơi nào cũng vang vang tiếng pháo, khiến người lính trẻ xa nhà chạnh ḷng để rơi nước mắt, khi nhớ về những ngày xuân củ, nhớ màu hoa cúc hoa mai, tết đến nở tṛn như mắt môi em một thời tuổi học :

- “ Tay anh gh́ nhẹ trên báng súng, cứ ngỡ cùng em sóng bước xuân


3 - ĐÊM CHỜ TÊT NGOÀI V̉NG ĐAI ÂP CÂY BÀI (CỦ CHI) :

Cuối năm 1964, toàn bộ Trung Đoàn 43 biệt lập từ Di Linh tăng phái hành quân cho khu 32 chiến thuật trách nhiệm tỉnh Hậu Nghĩa nhưng chủ yếu là tại quận Củ Chi bảo vệ an ninh cho các xă :

- B́nh Mỹ

- Tân Thạnh

- Trung An

- Phú Ḥa Đông

- Phước Vĩnh An

- Tân Phú Trung

- Tân Thông

- Nhuận Đức

- Trung Lập

- Phước Hiệp

- Thái Mỹ

- An Nhơn Tây

- Phú Mỹ Hưng và phố huyện Tân An Hội nằm trên quốc lộ 1từ Sài G̣n đi Tây Ninh.

Lúc đó, BCH Trung đoàn đóng tại Tân Thông, các tiểu đoàn 2 và 3/43 nằm tiền đồn khắp các xă xôi đậu.


Riêng Tiểu đoàn 1/43 được dưởng quân ba ngày Tết tại Quận, v́ đă lội suốt một năm khắp các chiến trường Phan Thiết, B́nh Tuy, Long Khánh, B́nh Dương, B́nh Long và Hậu Nghĩa.

Cũng v́ vậy, Ban 5 /TĐ đă soạn thảo nhiều chương tŕnh để lính và gia đ́nh vui một cái Tết đặc biệt tại hậu phương.

Ngày ba mươi tháng chạp đơn vị xuất tiền hành quân, công thêm tiền thưởng của Tỉnh và Trung Đoàn, giao cho Ban 4 ra chợ Củ Chi mua sắm gà, vịt, heo, ḅ, bánh trái và rượu đế Bà Điểm làm tiệc tất niên.

Lúc đó, đa số lính của TD là người Trung, nên trong dịp Tết chỉ có một số nhỏ có gia đ́nh tại Sài G̣n và vùng lân cận được phép miệng về thăm gia đ́nh, c̣n hầu như là ở lại với đơn vị.

V́ khỏi trực gác, nên lính tha hồ rong chơi khắp hàng quán, dù phố lỵ Củ Chi nhỏ xiú và buồn hiu, lưa thưa vài hàng quán và cái lồng chợ cũng bé bỏng khiêm nhượng.

Cũng may quận nằm trên quốc lộ 1, nên có rất nhiều xe đ̣ xuội ngược Sài G̣n-Trảng Bàng-Tây Ninh.. cũng như ngả rẽ tới Bầu Trai, Hiệp Ḥa, Đức Huệ..

Đứng bên đường,nh́n trộm những người đẹp ngồi trên xe, đang hối hả mua quà vật khi xe ngừng, hồn lính cũng cảm thấy phần nào vơi đi nổi nhớ nhà.

Ở đây mùa đông không lạnh lắm so với Phan Thiết nhưng gíó nhiều nên cũng tái tê se sắt. Bao nhiêu năm lính, lần đầu được vui một cái tết thị thành cũng thấy an ủi phần nào .

Nhưng Tết chưa tới, tiệc cũng c̣n đang sửa soạn, th́ lệnh hành quân khẩn cấp từ Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn ban xuống. Quân báo và an ninh Tiểu đoàn lái xe ruồng bố khắp nơi để gom lính, làm cho người Củ Chi ngạc nhiên tuá ra đường ḍm ngó, như thể họ đang xem hát tuồng.



https://hung-viet.org/images/file/6qv6PjVj0wgBAE95/quandoivnch0819-1.jpg


Và rồi nửa giờ sau Tiểu đoàn 1/43 lại lên đường, lính chỉ mang theo súng đan và nước uống với nhiệm vụ giải toả Ấp Cây Bài vừa bị giặc lợi dụng lệnh hưu chiến, từ mật khu Hố Ḅ tràn vào chiếm Ấp và bắt đồng bào làm con tin đỡ đạn.

Quân ra đi như bóng ma đói, ai cũng phờ phạc buồn rầu thấy rơ, đầu gục xuống súng vác vai, bất kể đội h́nh kỹ luật, im lặng như hến. Thế là thêm năm nửa tàn mộng tết-xuân.



https://hung-viet.org/images/file/cF0JPzVj0wgBAM0e/quandoivnch0819102.j pg


Bốn giờ rưỡi chiều ba mươi Tết Tiểu đoàn 1/43 đă có mặt ngoài ṿng đai Ấp, trong khi đó toàn bộ Trung Đoàn đều tham dự cuộc hành quân này và các đơn vị đang dần xiết ṿng vây.

Súng nổ khắp bốn hướng giữa ta và địch, từ trong Ấp cho tới Làng Paris Tân Qui, Bến Cỏ, Phú Ḥa, Ấp Nhà Việt.. chổ nào cũng có đụng lớn.

Riêng TD 1/43 án ngử ngay con đường tỉnh lộ dẫn vào Ấp, đường đă bỉ cày xới tan nát.

Ấp nằm trong tầm ngó nhưng mù mịt v́ bom đạn lửa khói và rừng cao su ngút ngàn che phủ. Cánh đồng lúa ven làng đang bắt đầu ươm hạt, mùi thơm sữa lúa theo gió thoang thoảng khắp nơi, mũi ṃng từng đàn đáp đậu trên da thịt, tha hồ xơi tái lính.

Trong cảnh buồn rầu thê thiết, ai cũng thẩn thờ quên đau v́ muỗi chích khi nghĩ tới đồng bào vô tôi đang nằm giữa dao thớt chiến tranh, trong khi các nơi khác mọi nhà đang rộn ríp náo nức đón xuân về.

Thời gian qua thật chậm, chiến trường vẫn sôi sục bom đạn.

C̣i thúc quân vang dậy dồn dập nhưng lính vẫn không tiến nổi v́ các khẩu súng cộng đồng của giặc từ các cao điểm trong Ấp bắn chận dữ dội, khiến cho lính Tiểu đoàn 1/43 lần hồi rụng tă tơi như mấy cánh mai vàng trước gió xuân tơi tả, khi tiệc tất niên chưa kịp hưởng đă vội về với đất lạnh.:112:

Thân phận của người lính trận VNCH là như vậy, làm sao mà không buồn không hận và không than trách cho kiếp đời hẵm hiu héo úa ?:112:



https://imagizer.imageshack. com/v2/640x459q90/r/922/ADZ4Tf.jpg


Không thể làm ǵ hơn, nên Bộ Chỉ Huy hành quân đă xin Khu chiến thuật nhờ không quân can thiệp.

Màn đêm hững hờ buông rèm gói trọn vạn vật, chỉ c̣n nghe tiếng L19 và Khu trục cơ Skyraider vần vũ dội bom bắn phá mục tiêu. Xa xa về hường Sài G̣n, trời sáng hồng trong đêm tối, giờ này thiên hạ đang vui say chè chén nhảy nhót và hạnh phúc.

Nên chắc không ai hoài công nghĩ tới, lúc đó tại một thôn xóm hẻo lánh nghèo nàn, có không biết bao nhiêu người, dân cũng như lính, địch lẫn ta đang lặn lội trong bom đan, chỉ mong được phép lạ để sống c̣n.

Suốt đêm trừ tịch, máy bay liên tục dội bom, Ấp Cây Bài đắm ch́m trong biển lửa. Ngoài ŕa ấp Tiểu đoàn nằm chờ trời sáng ai cũng đói lạnh nên nhiều người mặc kệ lăn kềnh trên đất ngáy kḥ, bất kể cái chết kề cận.

Tờ mờ mồng một Tết, quân vào Ấp trong nổi thê lương tận tuyệt. Khắp nơi chỉ là nổi chết từ người tới trâu ḅ heo chó. Giặc đă chém vè bằng các đường giao thông hào, bỏ lại nhiều tử thi lơa lồ bất động.

Chiến tranh tàn nhẩn, oan nghiệt khiến suốt đời lính không quên được h́nh ảnh chết chóc [/i][/color][/size][/b]của những người dân lành vô tội, giữa nhang đẻn bánh mứt.. chờ đón xuân về.



gAMAhFKILQ0


C̣n tiếp ,

hoathienly19
02-10-2021, 07:29
TẾT VỀ LẠI NHỚ NHỮNG TẾT THA PHƯƠNG CỦA ĐỜI LÍNH TRẬN VNCH !



Chợt nhớ xuân nào trên chiến địa,

Tao mày hiu hắt đón xuân chơi

Một thằng bộ binh đời như bỏ

Một đứa nhảy dù cũng tả tơi..



https://hung-viet.org/images/file/VNEQcL0m1QgBAJ06/nguoilinhvietnamcong hoatrentructhang.jpg


Bốn câu thơ củ mới đó mà đă mấy mươi mùa thương nhớ, càng khiến cho người lính già thêm trơ trọi lạc lơng, giữa tối ba mươi lạnh lẽo nơi chón quê người..

Trong quán khách bên đường, ta một ḿnh sóng đôi với ngọn đèn hiu hắt, qua đêm lại một năm buồn. Rượu chưa nhắp mà môi dă muốn cay sè, ngoài trời con chim kỹ niệm vẫn như thiết tha giục giă dù khói lửa đă ngưng trên chiến địa, bạn bè cũng không c̣n quan hà cạn chén ly bôi, sau những tiếng tỳ bà nhặt khoan nức nỡ.

Tan tác, chia xa giờ đây chúng ta đang lang thang như mây chiều, sau những năm tháng đă giốc ngược đời ḿnh cho quê hương.

Lính là thế đó, buồn nhiều vui ít với một chút nhun nhén t́nh cờ bắt gặp, trên các nẽo đường hành quân vô định, qua dăm ba ngày Tết dưỡng quân hay canh giặc chốn tiền đồn lẽ loi ngoài quan tái.

Ai đă từng là lính mới căm thông cho lính, sống thật cô đơn lếch thếch và chết cũng rất hiu hắt ngậm ngùi. Thời gian và không gian đời lính cũng chẳng qua chỉ là một cái mốc vô t́nh để biết ta hiện hửu. Nhưng thôi tiếc làm ǵ ai biểu ta sinh ra làm trai hùng đất Việt ? nên phải chấp nhận kiếp lính :

“ Ôm yên gối trống đă chồn, nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh “ để rồi thui thủi

- “ Đêm từng đêm ngó mông lung, ôm cây súng lạnh hát rừng mà nghe “..

Gần mười ba năm lính tết nào cũng tết tha hương, xuân ở đâu cũng xuân lữ thứ.

Đêm trừ tịch giữa tối ba mươi cái khoảnh khắc năm củ sắp tàn, khi mà mọi nhà chặt then kín cửa, để sửa soạn đón giao thừa trong niềm hạnh phúc của gia đ́nh, th́ lính cũng đón chào năm mới trong chiếc hầm trốn đạn hay mái cḥi canh giặc đen tối lạnh băng.

Nhớ từ đâu bổng kéo tới, vây kín cái không gian nhỏ hẹp này. Ngoài trời mưa xuân đến sớm nhưng sao buốt lạnh quá chừng,khiến cho ta thêm buồn rầu trong bóng tối một tết tha hương.

Dường như có ai đang hát ru một khúc t́nh ca của lính, nhắp một chút men nồng để thấy lại ngày xưa, để ta d́u ta trở về những mùa xuân củ, những tết không bao giờ quên được trong cuộc đời



k_EiHnSkw8E


1 - TẾT LÍNH ĐẦU TIÊN TRÊN RỪNG NÚI MIỀN TÂY BẮC B̀NH THUẬN :



https://hung-viet.org/images/file/1mXT0TZj0wgBAPIK/hanhquan.jpg


Ma Lâm xưa nay vẫn là cửa ngỏ để nhập vào vùng tây bắc B́nh Thuận hùng vĩ và đầy huyền thoại. Ma Lâm là thủ phủ của quận Thiện Giáo, nằm giữa châu thổ ph́ nhiêu của con sông Cả (Quao) phát nguyên tại Di Linh và ra biển Đông tại cửa Phú Hài.

Quốc lộ 12 hay c̣n gọi là Liên tỉnh lộ 8 chạy ngang qua đây, được hoàn thành ngày 1-10-1914 từ Phan Thiết đi Di Linh. Đây là biên địa cuối cùng của Vương quốc Chiêm Thành trước khi mất nước vào năm 1693, nên có nhiều người Chàm và Thượng Ba Phủ sống tại các xă Ma Lâm Chàm, Phú Nhiêu, Sông Trao, Trịnh Ḥa, Tịnh Mỹ.

Tuy những địa danh như Rừng Đú, Mang Tố, Làng Chăo, Vũng Dao.. và các câu chuyện xưa về người Chàm trên mănh đất B́nh Thuận, theo thời gian tan biến vào cát bụi nhưng vẫn muôn đời vẫn c̣n là huyền thoại đẹp của một thời vang bóng.

V́ địa thế hiểm trở lại thêm chinh chiến triền miền nên quốc lộ gần như bị bỏ hoang, cũng như hầu hết miền tây bắc bi quên lăng, để mặc cho người Thượng tha hồ đốt rừng bừa bải làm rẫy, dù vùng này nếu ruộng đất được khai thác, cũng đủ cung ứng nhu cầu lúa gạo cho nhiều người trong tỉnh.

Gần Tết Nguyên Đán năm 1964, chúng tôi gồm mười lăm đứa măn khóa từ Sài G̣n bổ sung cho Trung Đoàn 43 biệt lập, lúc đó do Thiếu Tá Vơ văn Cảnh (sau lên chuẩn tướng là tư lệnh Sư đoàn 23 bộ binh năm 1972), làm Trung Đoàn Trưởng kiêm Biệt Khu Trương Biệt Khu B́nh Lâm, trách nhiệm ba tỉnh B́nh Tuy-B́nh Thuận-Lâm Đồng.

Bộ chỉ huy biệt khu đóng tại quân Di Linh với Đại đội Trọng Pháo của Đại Uư Ngô Tất Tống và Tiểu đoàn 3/43 của Đại Uư Công.

Riêng Tiểu đoàn 1/43 của Đại Uư Ngô văn Diệp (tử trận năm 1965 tại Trảng Bàng) và Tiểu đoàn 2/43 của Đại Úy Hai, th́ hành quân thường trực tại B́nh Tuy-Phan Thiết.



https://hoiquanphidung.com/echo/media/k2/items/cache/3dcbd8056f504532259e 733a4b9e2ae3_XL.jpg


Ngày đầu tiên về đơn vị lại là ngày cuối năm, nên khi xe lủa tới Đà Lạt vào buổi chiều cũng là lúc thiên hạ đang rộn rịp chuẩn bị đón giao thừa. Cao nguyên Lâm Viên mùa Tết, nên trời rét căm căm. Bọn chúng tôi đều sinh trưởng tại miền biển và đồng bằng sông Cửu Long, nên chịu không thấu với cái lạnh cát da tím thịt nơi chốn biên tái, trong bộ đồ trận mỏng manh, qua đêm đầu tiên tại nhà văng lai của Tiểu Khu Tuyên Đức.

Viết sao cho hết nổi buồn rầu của bọn lính xa nhà trong đêm trừ tịch ? dù tết Đà Lạt thật tuyệt vời, khiến ta cứ ngỡ như ḿnh đang lạc lối đào nguyên giữa hoa và người đẹp, cả hai sắc hương dường như đang cùng với mây trời ngạt ngào trong sương giá.

Đà Lạt đêm xuân thú vui không kể xiết, khắp phường phố thiên hạ quần áo là lượt hạnh phúc, gắn bó từng cặp, từng đôi trong muôn màu đam mê rực rỡ nhưng với bọn lính mới đầu đời, Đà Lạt lại vô t́nh hờ hửng. Bởi vậy mười mấy đứa đều mong mau sáng, để sớm trả lại cái thiên đường hạnh phúc mà trời trót dành cho những giai nhân tài tử.

Rồi th́ chia tay, dăm đứa gọi là kém may mắn khi về Tiểu đoàn 3/43 gần mặt trời. Số c̣n lại bổ sung cho Tiểu đoàn 1 và 2/43.

Một cuộc hành quân mở ra vào ngày mùng ba tết nguyên đán, mục đich khai thông quốc lộ 12, đưa lính mới và quân trang quân dụng bổ sung cho hai đơn vị tại B́nh Thuận. Nhờ vậy mới có dịp hưởng được một cái tết núi rừng vui nhộn với người Koho quanh bếp lửa hồng.



ZP74Mc1IPAM


Bộ tộc Koho sống đông đảo tại cao nguyên nam Trung Phần, có nguồn gốc pha trộn từ nhiều sắc dân Chàm, Mă Lai, Indonesian và Chân Lạp.. gồm các bộ lạc Churu, Noang, Sre, Maa, Sil, Toa, Queyong, Lat, Nop, Kodiong, Nam.. chủ yếu sống tại các tỉnh Quảng Đức, Tuyên Đức, Lâm Đồng,B́nh Thuận, B́nh Tuy và Long Khánh.

Được vui Tết với người Koho là một thích thú tột cùng, v́ ngoài việc được ăn uống tự do, c̣n hưởng được t́nh người qua cử chỉ, một hành động đối với người Việt trong thời chinh chiến, hầu như đă mất mát hay nếu c̣n cũng chẳng qua là sự giả tạo hay lớp phấn hào nhoáng bên ngoài.

V́ lộ tŕnh bị bỏ hoang lâu ngày,không được sửa chữa và xử dụng nên khắp nơi đầy ổ voi ổ gà. Thêm vào đó là nhiều đèo cao với vô số khúc quanh co lên trời, xuống lủng. Do vậy đoàn xe di chuyển rất chậm v́ phải mở đường và tu bổ quan lộ, nên đêm đó phải đóng quân và cũng là dịp ngàn năm một thuở được chủ làng trong buôn Koho, tai thung lũng Klonodium sát đường mời ăn Tết.

Theo truyền thống, buổi lễ được tổ chức giữa sân nhà Hội Đồng. Tất cả đều là sự quyên góp chung từ củi đốt, trâu ḅ tới rượu cần.

Quang cảnh đêm Tết thật hấp dẫn với đống củi cao như núi đủ rực sáng suốt đêm, mấy trăm hủ rượu cần và ba con trâu cột sẳn quanh các hàng cộc được chạm trổ. Khắp nơi c̣n có những cây phướng, nêu và cờ xí càng tăng thêm nét đẹp và trang nghiêm trong ngày Tết.

Rồi lúc ráng chiều vừa khuất sau rặng núi Bà cao đen thăm thẳm đầy huyền bí, cũng là lúc chiêng trống nơi nhà Hội Đồng trổi dậy, thúc dục dồn dập như tiếng trống trận xua quân, kêu gọi mọi người trong Buôn tề tựu nơi bếp lửa hồng vừa cất cao ngọn.

Tiếng lửa lách tách nổ vui tai, cộng với tiếng người chuyện tṛ huyên náo. Nam nử, già trẻ vui Tết ăn mặc quần áo đẹp và mới nhất của họ, dù chỉ là thứ vải bâu thô thiển.



https://sotaydulich.info/wp-content/uploads/2014/01/rrrrr.jpg


Ở đây hoa nhiều không đếm hết nhưng cũng không có hoa ǵ đẹp hơn hoa mai khiến đêm thêm ngát, làm cho lính đă ngây ngất bên ché rượu cần, lại càng ngẩn ngơ hóa bướm v́ tiếng hát ngây thơ hồn nhiên của các cô gái vùng cao.

Hỡi ôi kỷ niệm mấy chục năm qua rồi, mà sao trong hồn mỗi lần chợt nhớ, dường như lại muốn khựng khi tưởng tới vị chua chua của rượu cần và mú hương hoa núi rừng tây bắc.

Sáng tinh sương lính lại lên đường, không được như người Koho sung sướng tiếp tục cuộc vui Tết quanh các gia đ́nh, cho đến hết tháng giêng mới chấm dứt khi cả Buôn không c̣n rượu và thịt.:

“ Ớ chàng trai lính ơi,

đùng quên đêm nay bên vũ điệu Lam Tơi,

đôi ta t́nh cờ quen nhau ngắn ngũi

nhưng em nguyện chờ chàng trở về ..”


2 - NHỮNG NGÀY TIỀN ĐỒN Ở TÙNG NGHĨA, TUYÊN ĐỨC :

Sau hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước , một số người Thái sinh sống tại tỉnh Lai Châu đă từ bỏ thiên đàng xă nghĩa miền bắc, di cư vào Nam để t́m tự do và lập nghiệp tại xă Tùng Nghĩa, quận Đức Trọng, tỉnh Tuyên Đức, gần phi trường Liên Khương ngả ba Di Linh-Đà Lạt-Đơn Dương.

Thời tiền chiến, Hoàng Ly đă viết bộ tiểu thuyết trường thiên dă sử nổi tiếng :

- “ Lửa hận rừng xanh”, hư cấu cuộc đời của Tù trường Đèo văn Lang, vua của người Thái đen Thái trắng sống ở miền tây bắc Lai Châu rộng lớn , từ Phong Thồ, Nậm Nà tới Mường Lay, Mường Tè, Bản Pháp.. xứ sở của hoa ban, loài hoa trắng mọc chênh vênh ven vách núi, mùa xuân nở trắng núi đồi xứ Thái.

“ Đón giao thừa một phiên gác đêm

chào xuân đến súng xa vang rền

Xác hoa tàn rơi trên bán súng..

ngỡ rằng pháo tung bay, nào ngờ hoa lá rơi”



hEhWD3Bfoug


Bài hát cũ của nhạc sỹ Nguyễn văn Đông mấy chục năm về trước, nay sao vẫn nhớ như niềm nhớ về một cái tết xa xưa rất t́nh cờ với đồng bào Thái Trắng, khi tiểu đoàn nằm tiền đồn, giữ an ninh ngoài ṿng đai Tùng Nghĩa.

Theo phong tục cổ truyền, hầu như tất cả các dân tộc thiểu số vùng thượng, trung Bắc Việt cũng như cao nguyên Trung Phần, hằng năm đều có nhiều lễ hội.

Người Thái cũng vậy nhưng quan trọng hơn hết đối với họ vẫn là Tết Nguyên Đán NEN BƯƠNG TIÊN, thường được tổ chức tiếp theo Lệ ăn cơm mới và uống rượu Kim Lao Mao, mừng trúng mùa, cũng như ngày Tết Thần Táo vào tối đêm 23 tháng chạp, cũng giống như người Việt, rất trọng thể khắp mọi nhà, mọi đ́nh làng với lễ vật gồm gà, xôi, rượu, vàng giấy và hoa quả.

Người Thái sống lâu năm trên đất Việt nên Tết Nguyên Đán gần giống người Kinh, nhất là từ khi họ di cư vào miền Nam. Đêm giao thừa, mọi người đều ăn mặc quần áo mới, sặc sở và diêm dúa nhất vẫn là các cô gái chưa chồng trong lễ hội “ Tung Cầu “ với thanh niên chưa vợ, để rồi sau đó từng cặp sóng sánh cười vui, qua cuộc t́nh đầu xuân vừa chớm nở.

“Chốn biên thuỳ này xuân tới chi, t́nh lính chiến khác chi bao người” , nên đêm tiền đồn được vui ké với bản làng một cái tết vui nhộn từ đầu thôn tới cuối ấp, nơi nào cũng vang vang tiếng pháo, khiến người lính trẻ xa nhà chạnh ḷng để rơi nước mắt, khi nhớ về những ngày xuân củ, nhớ màu hoa cúc hoa mai, tết đến nở tṛn như mắt môi em một thời tuổi học :

- “ Tay anh gh́ nhẹ trên báng súng, cứ ngỡ cùng em sóng bước xuân


3 - ĐÊM CHỜ TÊT NGOÀI V̉NG ĐAI ÂP CÂY BÀI (CỦ CHI) :

Cuối năm 1964, toàn bộ Trung Đoàn 43 biệt lập từ Di Linh tăng phái hành quân cho khu 32 chiến thuật trách nhiệm tỉnh Hậu Nghĩa nhưng chủ yếu là tại quận Củ Chi bảo vệ an ninh cho các xă :

- B́nh Mỹ

- Tân Thạnh

- Trung An

- Phú Ḥa Đông

- Phước Vĩnh An

- Tân Phú Trung

- Tân Thông

- Nhuận Đức

- Trung Lập

- Phước Hiệp

- Thái Mỹ

- An Nhơn Tây

- Phú Mỹ Hưng và phố huyện Tân An Hội nằm trên quốc lộ 1từ Sài G̣n đi Tây Ninh.

Lúc đó, BCH Trung đoàn đóng tại Tân Thông, các tiểu đoàn 2 và 3/43 nằm tiền đồn khắp các xă xôi đậu.


Riêng Tiểu đoàn 1/43 được dưởng quân ba ngày Tết tại Quận, v́ đă lội suốt một năm khắp các chiến trường Phan Thiết, B́nh Tuy, Long Khánh, B́nh Dương, B́nh Long và Hậu Nghĩa.

Cũng v́ vậy, Ban 5 /TĐ đă soạn thảo nhiều chương tŕnh để lính và gia đ́nh vui một cái Tết đặc biệt tại hậu phương.

Ngày ba mươi tháng chạp đơn vị xuất tiền hành quân, công thêm tiền thưởng của Tỉnh và Trung Đoàn, giao cho Ban 4 ra chợ Củ Chi mua sắm gà, vịt, heo, ḅ, bánh trái và rượu đế Bà Điểm làm tiệc tất niên.

Lúc đó, đa số lính của TD là người Trung, nên trong dịp Tết chỉ có một số nhỏ có gia đ́nh tại Sài G̣n và vùng lân cận được phép miệng về thăm gia đ́nh, c̣n hầu như là ở lại với đơn vị.

V́ khỏi trực gác, nên lính tha hồ rong chơi khắp hàng quán, dù phố lỵ Củ Chi nhỏ xiú và buồn hiu, lưa thưa vài hàng quán và cái lồng chợ cũng bé bỏng khiêm nhượng.

Cũng may quận nằm trên quốc lộ 1, nên có rất nhiều xe đ̣ xuội ngược Sài G̣n-Trảng Bàng-Tây Ninh.. cũng như ngả rẽ tới Bầu Trai, Hiệp Ḥa, Đức Huệ..

Đứng bên đường,nh́n trộm những người đẹp ngồi trên xe, đang hối hả mua quà vật khi xe ngừng, hồn lính cũng cảm thấy phần nào vơi đi nổi nhớ nhà.

Ở đây mùa đông không lạnh lắm so với Phan Thiết nhưng gíó nhiều nên cũng tái tê se sắt. Bao nhiêu năm lính, lần đầu được vui một cái tết thị thành cũng thấy an ủi phần nào .

Nhưng Tết chưa tới, tiệc cũng c̣n đang sửa soạn, th́ lệnh hành quân khẩn cấp từ Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn ban xuống. Quân báo và an ninh Tiểu đoàn lái xe ruồng bố khắp nơi để gom lính, làm cho người Củ Chi ngạc nhiên tuá ra đường ḍm ngó, như thể họ đang xem hát tuồng.



https://hung-viet.org/images/file/6qv6PjVj0wgBAE95/quandoivnch0819-1.jpg


Và rồi nửa giờ sau Tiểu đoàn 1/43 lại lên đường, lính chỉ mang theo súng đan và nước uống với nhiệm vụ giải toả Ấp Cây Bài vừa bị giặc lợi dụng lệnh hưu chiến, từ mật khu Hố Ḅ tràn vào chiếm Ấp và bắt đồng bào làm con tin đỡ đạn.

Quân ra đi như bóng ma đói, ai cũng phờ phạc buồn rầu thấy rơ, đầu gục xuống súng vác vai, bất kể đội h́nh kỹ luật, im lặng như hến. Thế là thêm năm nửa tàn mộng tết-xuân.



https://hung-viet.org/images/file/cF0JPzVj0wgBAM0e/quandoivnch0819102.j pg


Bốn giờ rưỡi chiều ba mươi Tết Tiểu đoàn 1/43 đă có mặt ngoài ṿng đai Ấp, trong khi đó toàn bộ Trung Đoàn đều tham dự cuộc hành quân này và các đơn vị đang dần xiết ṿng vây.

Súng nổ khắp bốn hướng giữa ta và địch, từ trong Ấp cho tới Làng Paris Tân Qui, Bến Cỏ, Phú Ḥa, Ấp Nhà Việt.. chổ nào cũng có đụng lớn.

Riêng TD 1/43 án ngử ngay con đường tỉnh lộ dẫn vào Ấp, đường đă bỉ cày xới tan nát.

Ấp nằm trong tầm ngó nhưng mù mịt v́ bom đạn lửa khói và rừng cao su ngút ngàn che phủ. Cánh đồng lúa ven làng đang bắt đầu ươm hạt, mùi thơm sữa lúa theo gió thoang thoảng khắp nơi, mũi ṃng từng đàn đáp đậu trên da thịt, tha hồ xơi tái lính.

Trong cảnh buồn rầu thê thiết, ai cũng thẩn thờ quên đau v́ muỗi chích khi nghĩ tới đồng bào vô tôi đang nằm giữa dao thớt chiến tranh, trong khi các nơi khác mọi nhà đang rộn ríp náo nức đón xuân về.

Thời gian qua thật chậm, chiến trường vẫn sôi sục bom đạn.

C̣i thúc quân vang dậy dồn dập nhưng lính vẫn không tiến nổi v́ các khẩu súng cộng đồng của giặc từ các cao điểm trong Ấp bắn chận dữ dội, khiến cho lính Tiểu đoàn 1/43 lần hồi rụng tă tơi như mấy cánh mai vàng trước gió xuân tơi tả, khi tiệc tất niên chưa kịp hưởng đă vội về với đất lạnh.:112:

Thân phận của người lính trận VNCH là như vậy, làm sao mà không buồn không hận và không than trách cho kiếp đời hẵm hiu héo úa ?:112:



https://imagizer.imageshack. com/v2/640x459q90/r/922/ADZ4Tf.jpg


Không thể làm ǵ hơn, nên Bộ Chỉ Huy hành quân đă xin Khu chiến thuật nhờ không quân can thiệp.

Màn đêm hững hờ buông rèm gói trọn vạn vật, chỉ c̣n nghe tiếng L19 và Khu trục cơ Skyraider vần vũ dội bom bắn phá mục tiêu. Xa xa về hường Sài G̣n, trời sáng hồng trong đêm tối, giờ này thiên hạ đang vui say chè chén nhảy nhót và hạnh phúc.

Nên chắc không ai hoài công nghĩ tới, lúc đó tại một thôn xóm hẻo lánh nghèo nàn, có không biết bao nhiêu người, dân cũng như lính, địch lẫn ta đang lặn lội trong bom đan, chỉ mong được phép lạ để sống c̣n.

Suốt đêm trừ tịch, máy bay liên tục dội bom, Ấp Cây Bài đắm ch́m trong biển lửa. Ngoài ŕa ấp Tiểu đoàn nằm chờ trời sáng ai cũng đói lạnh nên nhiều người mặc kệ lăn kềnh trên đất ngáy kḥ, bất kể cái chết kề cận.

Tờ mờ mồng một Tết, quân vào Ấp trong nổi thê lương tận tuyệt. Khắp nơi chỉ là nổi chết từ người tới trâu ḅ heo chó. Giặc đă chém vè bằng các đường giao thông hào, bỏ lại nhiều tử thi lơa lồ bất động.

Chiến tranh tàn nhẩn, oan nghiệt khiến suốt đời lính không quên được h́nh ảnh chết chóc [/i][/color][/size][/b]của những người dân lành vô tội, giữa nhang đẻn bánh mứt.. chờ đón xuân về.



gAMAhFKILQ0


C̣n tiếp ,

hoathienly19
02-10-2021, 07:30
4 -CHUYẾN TÀU BA MƯƠI TẾT :

Chiều hăm chín tết năm 1978, trại cải tạo Huy Khiêm của tỉnh Thuận Hải rộn hẳn lên v́ ngày mai cho tới mồng hai Tết, đoàn tù khổ sai của VNCH tạm nghĩ lao tác, được đổi khẩu phần Tết với đường, thịt heo, cơm trắng không độn và một bao thuốc có cán.

Nhưng quan trọng nhất vẫn là cái danh sách phóng thích tù nhân vào mỗi dịp Tết về, sẽ được cán bộ gọi trong buổi sinh hoạt hôm nay.

Đúng 1 giờ trưa chiều ba mươi tết năm đó, trại có mười người được nhận giấy phóng thích về nguyên quán tŕnh diện.

Quỹ trại không có tiền cho tù nhân mua giấy xe đ̣ xe lửa, nên ai lo mạng nấy bằng cách lội bộ , từ Huy Khiêm tới Ga Suối Kiết xa chừng 30 cây số.

Tám giờ tối cả bọn tới nhà ga th́ đă lở chuyến tàu chợ, nên đành phải chờ chuyến tàu suốt Bắc-Nam, Nam Bắc vào lúc 11 giờ khuya cuối năm. Trong bọn chỉ có tôi về Phan Thiết, c̣n lại đều ở rất xa tận Sài G̣n, Nha Trang..

Chia ly rồi sắp chia ly nữa, anh em chỉ đành ngậm ngùi trao gởi, hứa hẹn. Trong khoảnh khắc năm củ sắp tàn, mọi nhà cài then đóng cửa đón mừng năm mới, th́ chúng tôi cũng đang chờ phút giây thay đổi của đất trời.

Ga Suối Kiết nằm cheo leo trong rừng lá cạnh vách núi Ông cao ngất hùng vỹ, bao quanh vài chụp nếp nhà lá lụp xụp của các công nhân hỏa xa và dân làm gổ.

Có lẽ hôm nay mọi người đă về quê ăn tết nên xóm nhỏ thật đ́u hiu không có một chút sinh khí, chứng tỏ nàng xuân chưa ghé chốn này.

Cũng may Suối Kiết là một ga lớn trên đường xe lửa Nam-Bắc, nên tất cả các chuyến tàu chợ và suốt đều phải ngừng lại, dù khách có hay không.

Đêm về núi rừng càng buốt cóng lạnh căm, bộ quần áo trận năm nào dù đă được đắp thêm chục mănh vá, vẫn không ngăn nổi cái sắt se xa xót, như từ một cơi mộ địa, theo cái lạnh xâm chiếm tâm hồn những bóng ma đang lạc lơng trong đêm xuân, không biết rồi sẽ về đâu, để kiếm chút hơi ấm của t́nh quê.

Trong cái hiu hắt của đêm buồn, cũng đủ để mọi người nh́n rơ h́nh ảnh của sự cô đơn nơi ga lẽ, từ những thanh sắt han rĩ tróc sơn trước quầy bán vé, cho tới hàng ghế gổ mọt đầy vết bẩn.:112:

Tất cả bỗng dưng được trùng phùng một cách ngẩu nhiên với những người tù không bản án , những quân, công ,cán cảnh của VNCH bại trận , vùa được phóng thích trong đêm tết quạnh quẽ, buồn rầu.



https://www.trangdangdidau.c om/wp-content/uploads/2019/09/xe-lua-sai-gon-phan-thiet-04-770x515.jpg


Phải vui lên một chút để mừng năm mới, thay v́ mượn rượu phá thành sầu, cả bọn lại chụm đầu vào nhau rít chung vài bi thuốc lào ăn tết, trong khi bên ngoài gió núi lồng lộng thổi, tạt sương muối vào mặt mũi da thịt, khiến cho cơn lạnh đói càng thêm hành hạ những người tù từ địa ngục mới được thả về.

H́nh như giao thừa sắp đến trong mông mênh cùng tận. Như những năm nao, tôi lại âm thầm lâm râm cầu nguyện cho mẹ già, em gái, cho ngươi yêu củ, bạn bè, đồng đội, đồng bào.. được may mắn an b́nh trong buổi hổn mang dâu bể.

Hởi ơi giờ này không biết mẹ già em thơ, có c̣n như những ngày xuân dấu ái trước năm 1975, giao thừa đi lễ chùa, xin xăm hái lộc, nhà có vui xuân đón tết hay gia đ́nh cũng lại như tôi, tại sân ga nơi rừng núi thẳm tăm tối lạnh lẽo này, cô đơn, đói lạnh và nhục nhă trùng trùng.

Kỷ niệm xưa từng mảng lại trôi bềnh bồng trên mắt, lén lút đẩn dắt đưa tôi về thuở hoa niên, khi những cánh hoa phượng đỏ ối nối hàng, dọc theo con đường Nguyễn Hoàng dẫn vào lớp học, đă bắt đầu rụng rơi lă tă giữa các trang lưu bút, trên từng rèm mắt ô môi, cũng là lúc bọn học tṛ nghĩ hè làm gă giang hồ lăng tử, trên những chuyến tàu hỏa chui Phan Thiết-Sài G̣n rồi Sài G̣n-Phan Thiết, đi hoài vẫn không thấy chán.



https://1.bp.blogspot.com/-W1GELQYh7gQ/WUVUPU-PhuI/AAAAAAAAO6Q/Srp6oqnvV4Qrn1s3yPBK-M4ahyHvJje_wCLcBGAs/s640/A%2Bconvoy%2Bof%2BWi ckham%2Barmoured%2Bt rolleys%2Bin%2BOctob er%2B1967%252C%2Bpho to%2BFondation%2BGil les%2BCaron.jpg


Rồi những ngày dài chinh chiến, định mệnh lại đẩy đưa tôi về chốn cũ Long Khánh-B́nh Tuy-Phan Thiết.

Tuy tàu hỏa đă bị gián đọan nhưng suốt đoạn đường sắt từ Mường Mán về Gia Ray, con đường ṃn Vơ Xu tới Suối Kiết, kể cả những suối rạch, bải đá ven sông La Ngà, đều là những lối lại qua quen thuộc , đă cùng tôi chắt chiu suốt đoan đường tuổi trẻ của người lính trận.

Làm sao quên được những ngày dừng quân ở Văn Phong, Mường Mán ? ngày ngày ngồi ngâm nga tách cà phê đen ngon tuyệt nơi quán lẽ ven sông, ngó nh́n các chuyền tàu xuôi ngược.

Giờ đây cảnh xưa vẫn nguyên vẹn, riêng tôi th́ ôm một tầng trời sầu thảm không đáy, lạc lơng trên quê hương hận thù với kiếp sống nào hơn loài cỏ cây.

Rồi th́ tàu cũng đến, chúng tôi chia tay trong nước mắt, cuối cùng ai nấy hấp tấp lên tàu như kẻ trốn nợ trong đêm trừ tịch, giữa tiếng c̣i tàu lanh lănh thét vang, phá tan cảnh tịch mịch của rừng núi âm u, nghe sao quá ảo nảo lạnh lùng.



n37xjDyudfc


Chuyến tàu suốt Sài G̣n-Phan Thiết đêm nay ế ẩm, nhiều toa hành khách vắng ngắt lạnh tanh, không như ngày thường chen chân không lọt. Có lẽ mai là mồng một tết nguyên đán, nên ai cũng muốn ở nhà để xum họp với gia đ́nh.

Đất trời buồn mênh mông quá, thêm gió thổi vi vút từ hai b́a rừng thả hơi lạnh khắp nơi, nhưng tôi vẫn muốn ngồi ngoài hành lang để được nh́n lại quang cảnh cũ Trong các toa tàu, đèn đóm tối om, dăm ba hành khách nằm dài trên ghế như đă ngũ tụ lâu rồi.

Mặc kệ, tàu vẫn chạy xiết trên đường sắt như con thú điên , với hai ánh đèn pha phá tan màn đêm tăm tối.

Hởi ơi cuộc đời sao oan nghiệt quá, trong lúc nhà nhà đang đầm ấm chờ đón chúa xuân, th́ tôi trong một tối ba mươi tết, buồn rầu nơi toa xe lửa lạnh lẽo này, yên lặng nép ḿnh trong cô quạnh , để đón một mùa xuân vàng úa nữa, sắp rơi xuống bờ vai của cuộc đời.

Trong giờ phút năm củ sắp tàn, con tàu cũng hối hả lướt qua từng ga vắng

Sông Dinh, Sông Phan, Suối Vận, Mường Man rồi Phú Hội vừa đúng 12 giờ rưởi sáng .

Thế là năm mới đă qua và tôi cũng đă lở dịp nghiêng ḿnh chào đón nàng xuân mới nơi quê hương ḿnh. Trên tàu ai nấy đều thức dậy, đang chuẩn bị hành lư xuống ga Phan Thiết.

Tất cả đều xa lạ, hờ hững, buồn rầu, im lặng như bóng tối, không ai chúc nhau một lời ngắn ngủi dù là ngày tết.



https://1.bp.blogspot.com/-9AEUVH9IOXA/WUVURirAbDI/AAAAAAAAO6w/OegbTr-4Sosv_AYQR_WipIjLKhK SCmHvACLcBGAs/s640/Passengers%2Bboardin g%2Ba%2BSaigon-Nha%2BTrang%2Btrain% 2Bin%2Bthe%2B1960s.j pg


Bổng đâu đấy nơi một thôn xóm nào đó, dọc theo con đường sắt vang lên mấy tràng pháo chuột, bóng sáng lập ḷe như muốn đưổi theo con tàu, khiến cho hồn thêm buồn rầu thương tiếc. Nổi náo nức thầm kín vừa lóe lên, chợt tắt hẳn khi nghĩ đến thực tại năo nùng.

Hỡi ôi mấy chục năm về trước, tôi là người lính trẻ xa nhà vẫn đam mê chạy đuổi theo những giọt mưa xuân giữa trời lửa loạn.

Nay trong buổi xuân về, người lính già lội ngược thời gian t́m vết ngày thơ như c̣n giấu đâu đó, nơi ṿm trời đồng đội, và em, và những tết cuối cùng trong quân ngũ, để ngẩn ngơ bàng hoàng xúc động, như thể vừa bước chân lên con tàu về quê hương, của những tết ấm yên hạnh phúc đầu đời.



https://3.bp.blogspot.com/-QfQfZ_38_lg/WUVRQGhfVoI/AAAAAAAAO5g/xmpScpwO-hYZASYssLtSwoUynNr7i CkVwCK4BGAYYCw/s640/Screenshot_155.jpg


Tết nay em có về Phan Thiết

có ghé trường xưa, viếng mộ thầy

đây nén hương ḷng người lính cũ

cũng là lệ nhớ xót thương cay

Có vào tửu quán vui cùng bạn

chuốc một bầu riêng cúng tưởng người

những lính cùng dân chung bất hạnh

v́ đời mà đổ máu thây phơi

Có xuống Cồn Chà ăn cá mực

thăm giùm người bạn biển quê tôi

thảm ơi một kiếp đời mưa gió

vẫn áo mê tơi suốt một đời

Có qua phố chợ khoe quần áo

bớt một vài xu giúp kẻ nghèo

người phế binh ḅ trên gạch lạnh

tủi buồn cô quạnh nắng mưa treo

Có đi ngắm cảnh t́m thơ vị

đừng bỏ quên Cây Táo, Phú Long

Dốc Căn, Kim Hải, Đoàn Mạnh Hoạch

những địa danh xưa đẳm máu hồng

Có vào lễ Phật trên chùa Cú

hay ghé thăm Cha tại giáo đường

t́m lại giùm tôi hương phấn cũ

của thời tuổi học lắm thương vương

Có gặp bạn bè c̣n sống tủi

xin em chia bớt một phần vui

xin em lau lệ đời phân cách

để nguyện cho nhau bớt ngậm ngùi

Có mua quà tặng khi về Mỹ

xin nhớ cho tôi chút vị làng

hơi đất , mùi rơm, t́nh biển mặn

thương hoài mà vẫn cứ miên man

Viết từ Xóm Cồn Ha Uy Di

Chạp 2008

Hồ Đinh

http://www.xaydunghouston.c om/ThamLuan/646-HoDinh-TetThaPhuong.htm

hoathienly19
02-12-2021, 13:51
PHÚT GIAO MÙA



3tYlO7y0CfU

hoathienly19
02-12-2021, 19:40
TẾT VỚI NGƯỜI LÍNH THỜI XƯA CŨ !



https://imagizer.imageshack. com/v2/362x482q90/r/923/UW5Tm8.jpg


Có người nói tết là ngày quay lưng đi quá khứ và ngoảnh nh́n tới tương lai. Với người lính VNCH xưa cũ, những ngày cuối năm là dịp để nhớ về, để tưởng nhớ. Thời gian ở chiến trường, có lúc biền biệt để không thể nhớ được ngày tháng.

Nhưng gần tết, khi nắng buổi chiều đă có màu vàng hoe, khi gió bấc đă xạc xào làm thức dậy những chuỗi kỷ niệm tưởng như yên ngủ. Bao giờ cũng là những hướng vọng. Như là những ngày yên b́nh sắp tới. Như ngày được về nhà hội ngộ với vợ con. Dù ở bất cứ nơi đâu, một tiền đồn heo hút hoang vắng, hay ở một đảo xa cô tịch sóng gió băo bùng, hay ở trong quân trường chỉ cách phố phường có hàng rào kẽm gai ban đêm nh́n ánh đèn thành phố, cái cảm khái cũng đều giống nhau, của một nỗi buồn của bất cứ một người nào có trái tim đều tự nhiên như thế.

Nhân ngày đầu năm, tản mạn về những cái tết của thời chinh chiến mà những ngày tháng ấy không thể nào quên trong trí nhớ chúng ta.

Có người đă đặt câu hỏi nhiều người thích chiến tranh nên hay thường nhắc đến với nhiều cảm khái ?

Thời trước, mặc dù tôi là một người lính nhưng cũng không đến nỗi hiếu chiến nên chọn lựa giữa an b́nh và chém giết th́ tôi vẫn thích an b́nh cho đất nước hơn. Nhưng, vẫn phải đi trên con đường mà cả thế hệ chúng tôi phải đi và không có thể có quyết định nào khác. Khi nước biến th́ phải làm nhiệm vụ của ḿnh.



https://imagizer.imageshack. com/v2/362x482q90/r/922/ndjCEo.jpg


Chiến tranh có lẽ là một đề tài lớn của văn chương nhân loại. Riêng với dân tộc Việt Nam, từ xưa đến nay, đă quen với chinh chiến khói lửa, chỉ riêng kư ức của những người lính cũng đủ làm chất liệu cho những pho tiểu thuyết lớn.

Đọc từ văn học miền Bắc đến hai mươi năm văn học miền Nam, từ văn chương trong nước đến hải ngoại, rất nhiều chân dung người lính được phác họa với rất nhiều đặc tính, đặc thù.

Viết về chiến tranh, mô tả chân dung người lính của QLVNCH và bộ đội Cộng sản trong những nền văn học, những nhà văn ở hai phía đă có nhiều khác biệt.

Văn học miền Bắc và văn học trong nước sau 1975 là một nền văn học đầy tiếng súng. H́nh tượng người lính được tô vẽ với những nét anh hùng đôi khi gần với tưởng tượng và không có trong thực tế. Dù rằng, có khi chiến tranh đă hết, nhưng âm hưởng vẫn c̣n.

Tới bây giờ vẫn c̣n những tiểu thuyết tô vẽ những mẫu người được gọi là chiến sĩ, chiến đấu ngay cả khi ḥa b́nh.

Có một khuôn mẫu cho nhà văn miền Bắc khi mô tả về chân dung người lính Cộng sản theo đúng như những đề cương văn hóa đă ấn định.

Chân dung người lính Cộng sản được vẽ ra ltoàn thiện toàn mỹ với đầy những nét hy sinh cang cường mưu trí và nhất là trung thành vô hạn với chế độ với lănh tụ.

Cả đến khi gần với cái chết cũng không sợ hăi và dù trước những cám dỗ vật chất cũng không chuyển ḷng.

Đó là chân dung của những con người không có trong thực tại.

Những mô tả khác với ấn định ấy, dù có nét chân thực của tự nhiên con người cũng bị phê phán, cấm đoán. Những tiểu thuyết như:

- “Cái Gốc“ của Nguyễn Thanh Long,

- Truyện ngắn “Một đêm đợi tàu” của Đỗ Phú hay tùy bút

- “ T́nh rừng” của Nguyễn Tuân, … đă bị kết tội

- “ Xu hướng lấy cái tầm thường yếu đuối của ḿnh mà gán cho nhân vật theo kiểu lấy bụng ta suy ra bụng người”

Hay những bài thơ :

- “ Ṿng Trắng “ của Phạm Tiến Duật, như :

- “ Tâm sự với Thúy Kiều“ của Lư Phương Liên, hay những bài thơ của Dư Thị Hoàn,... cũng bị phê phán, là dao động, ủy mị có những suy nghĩ tiêu cực đi ngược lại chính sách của Đảng.



https://laomoc.files.wordpre ss.com/2010/11/21.jpg?w=640&h=468&zoom=2


Trong khi đó, không có một mẫu mực tiền chế nào về chân dung của người lính quân đội VNCH.

Trong hai mươi năm văn học miền Nam hay ở văn chương Việt Nam hải ngoại, chân dung người lính ấy được nh́n ngắm từ nhiều góc độ.

Không có một khuôn khổ nào được ấn định cho những chân dung người lính ấy. Và không phải lúc nào cũng là những lời lẽ cổ vơ chiến tranh.

Cái tâm tư không muốn tham dự cuộc chiến nhưng vẫn phải vào cuộc hay sự suy nghĩ của những người t́nh nguyện đi vào binh nghiệp, có khi tưởng như tương phản nhau nhưng lại là phản ánh trung thực [/b]của cả một thế hệ tuổi trẻ lớn lên trong thời kỳ chiến tranh.



https://imagizer.imageshack. com/v2/228x480q90/r/922/AjJoJD.jpg


Trong khung cảnh của một đất nước chiến tranh, mùa xuân vẫn là một dịp để nhớ nhung, hay một dịp để nh́n vào tương lai sắp tới với những hy vọng.

Ngày đầu năm ở quân trường, ngày tân xuân ở chiến trường, những nhà văn, nhà thơ mang áo lính đă sống trong không khí đặc biệt, trôn lẫn buồn vui, chán chường, hy vọng, thương đời và thương ḿnh.

Trong những tác phẩm viết về chiến tranh ấy, nhân ngày đầu xuân, chúng ta thử đi vào những không gian riêng, thời gian riêng của những người lính. Mặc dù, chế độ Cộng sản đương thời muốn xóa nḥa đi h́nh ảnh nền văn học ấy nhưng xem ra ư định ấy đă thất bại.

Chẳng có chế độ nào thành công trong việc phần thư khánh nho, cho dù là chế độ Tần Thủy Hoàng ngày xưa đến Cộng sản Việt Nam bây giờ…

Phan Nhật Nam, người lính Nhảy Dù, một nhà văn mà bị Tô Hoài trong cái bỉ thử nhưng vẫn pha sự thán phục cho là :

“ Người viết tác phẩm của ḿnh bằng máu nhưng là loại máu cặn bă của chế độ thực dân mới“.

Chính thái độ phi văn nghệ khi chửi bới các nhà văn khác chính kiến như Doăn Quốc Sỹ, như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, như Phan Nhât Nam,… đă làm cho tác giả của Trăng Thề, của O chuột bị người đọc ác cảm và hạ thấp đi nhiều giá trị của ḿnh.

Trong “Dấu Binh lửa“ Phan Nhật Nam cũng đă trải qua nhiều cái Tết. Cũng có những cái tết hạnh phúc, những ngày ứng chiến ở thủ đô Sài G̣n.

Nhưng, tiếp theo không phải là thiên đường như vậy. Chiến trường ngày đầu xuân ác liệt, và gian khổ :

“… Đêm mùa khô trời đầy sao, sau khi có mấy muỗng cơm nóng với ngụm nước nhỏ tôi tỉnh người đốt điếu thuốc gối đầu vào nón sắt ghé tai vào máy truyền tin xem chừng các toán phục kích… bên phía hai tiểu đoàn bạn trận đánh mỗi lúc một ác liệt chưa bao giờ tôi thấy gunship đánh trận đêm nhiều đến như thế

Quân rút ra đi như một lũ ma đói hai ngày hai đêm thiếu nước và mất ngủ mọi người phờ phạc trông thấy. Trung đôi tôi đáng lẽ dẫn đầu trở ra lại phải đi chót Tiểu Đoàn. Đại đội 73 đi đầu. Trung đội của Toàn vừa đi được hai mươi thước đạp một trái lựu đạn, hai chết hai bị thương... Mấy thằng lính của Trung đội tôi cười như mếu. May quá, ḿnh đi đầu là chết rồi ! Tôi cũng nhủ thầm ḿnh có số mạng…



https://imagizer.imageshack. com/v2/549x375q90/r/922/yerQgN.jpg


Người trước đi, tôi đi theo chẳng cần đội h́nh ư tứ ǵ nữa, hai ngày vừa qua có được bốn muỗng cơm, người tôi không c̣n một sức lực nào nữa... Tôi dặn lính.

_ "Tụi mày cứ đi theo Trung đội trước mà đi, sát vào nhau đừng để lạc.

Đầu gục xuống súng vác trên vai tôi thở không những bằng mũi mà cả bằng chiếc mồm há ra thật lớn, chiếc lưỡi căng phồng nhức nhối và đôi môi khô không c̣n chút cảm giác nữa. Tro rừng, đất bụi bám đầy mặt mũi bay đầy vào mồm, không c̣n tí nước bọt nào để nhổ ra, tôi đưa tay vào mồm chà trên lưỡi từng tảng tro đen. Quốc lộ 15 đây rồi, có thửa ruộng nhỏ bên đường tôi úp chiếc mặt vào gịng nước đục ngầu phủ một lớp bùn non… Uống! Uống! Như loài thú hoang trên sa mạc. Ngày hôm nay mới mồng tám Tết...”



https://imagizer.imageshack. com/v2/449x480q90/r/924/mH0OXu.jpg


Mùa xuân với người lính quả không phải là một dịp để nghỉ ngơi. Nguyên Vũ, một sĩ quan đề lô pháo binh đă tả cảnh “Nghênh xuân chiến địa” :

“ Tết Ất Tỵ trở về bất chợt và ngỡ ngàng. Buổi chiều ngày 28 tết tôi đă định nhảy dù về Sài G̣n. Nhưng sợ hành quân bất tử, chui vào chiếu bạc, cháy túi.

… Thương nhớ đưa tôi vào quán rượu. Những ly rượu đế sủi bọt nồng cháy cuống phổi. Nhưng thấm lạnh tận trong hồn. Mắt tôi mở lớn nh́n ra khung trời khô lạnh - thứ khô lạnh của chiều cuối năm miền Bắc. Mà không thấy ǵ…

Nửa đêm hôm đó 4 chiếc GMC đưa chúng tôi ngược đường từ Bạc Liêu về Nhu Gia. Nửa đường, đoàn xe ném chúng tôi xuống để nhào tới đột kích xóm Béc Hen.

Băng ruộng băng kinh trong đêm tối giá lạnh. Ṃ mẫm giữa những lung dừa nước rậm rạp hàng giờ. Ba giờ sáng chúng tôi mới tới mục tiêu và âm thầm xiết chặt ṿng vây.

Năm giờ, trời vừa rạng sáng dù sương mù c̣n dày đặc chúng tôi ào ạt tràn vào xóm. Chỉ bắt được hai tên du kích và liên lạc bậy bạ. Báo hại dân chúng xanh máu mặt. Và chắc họ rủa thầm chúng tôi không ít. Mới sáng sớm mồng một Tết đă có lính tráng xông nhà. Rủi hay may đây ?

Thế nhưng thời buổi này người nông dân Việt Nam làm ǵ có một chút quyền lực nào dù nhiệm vụ họ rất nặng nề.

Nhiệm vụ phải “đóng góp” cho MTGPMN, nhiệm vụ bị thủ tiêu bởi những viên Công an xă ấp hay du kích. Nhiệm vụ khóc cười sao cho hay và ṛn ră nếu không may có một trận đánh khai diễn ngay trong xóm.

Dù sao ngoài mặt họ cũng niềm nở pha trà mang mứt mời chúng tôi. Chủ và khách bất đắc dĩ cười nói chúc mứng năm mới tài lộc đắc phúc. Gần trăm mạng Thám Báo chúng tôi chia ra chúc Tết mọi gia đ́nh của cái xóm nhỏ nghèo nàn này…

Khi những vệt nắng đầu năm vàng ối đă kết hoa trên ṿm lá của những thân sao, trâm bầu và dừa nước chúng tôi từ giă xóm Béc Hen, hướng về phía Tây, để lại sau lưng nắng ấm mùa xuân và những người nông dân ”thân lươn bao quản lấm đầu”



https://imagizer.imageshack. com/v2/362x482q90/r/922/jlfgKN.jpg


Phan Lạc Tiếp, một nhà văn quân đội nhưng chất đôn hậu lại nhiều hơn chất lính trong văn chương. Trong bút kư Bờ Sông Lá Mục, ông ghi chép lại hành tŕnh của một sĩ quan Hải quân lênh đênh trên sóng nước.

“Giao Thừa Trên Đảo” là những ḍng ghi lại sinh hoạt của những người lính biển cuối năm ở một hải đảo cô tịch hầu như biệt lập với sinh hoạt bên ngoài. Giao thừa, tập họp trong hàng quân, mỗi người mỗi nặng nề tâm sự.

“… Tiếng c̣i tập họp nổi lên. Tôi vẫn đứng yên. Sau tôi những bước chân vội vă. Những tiếng động quen thuộc lúc sắp vào đêm. Gió h́nh như vừa nổi lên và lạnh hơn. Tôi quay vào. Viên trung sĩ dơng dạc hô “nghiêm”. Tôi giơ tay chào và ra đứng trước hàng quân. Tôi ngửa mặt nh́n lên. Những tàn cây che phủ. Bước mấy bước chậm rồi tôi ngừng lại.

- Hôm nay ba mươi tết phải không các anh? Hàng quân như xao động. Tôi tiếp:

- “ Bây giờ là bảy giờ tối ba mươi tết “.

Tôi vừa bước những bước ngắn và nói. :

- ” Tối ba mươi tết. Chúng ta ở ngoài ḥn đảo này. Quanh chúng ta chỉ có rừng cây, ghềnh đá và biển…

... Tôi trở về lều. Cửa sổ mở nh́n ra ngoài khơi. Biển vẫn phẳng lặng không một ánh đèn. Tôi thấy xót xa trong ḷng. Nếu tàu không tới th́ buồn biết mấy. Tiếng hát từ chiếc loa ngoài kia đều đều vọng tới. Giọng hát Thái Thanh nức nở thiết tha. Tôi khêu to ngọn đèn lên. Chiếc kiếm gác trên vách lá. Di vật của người đội trưởng trước tôi để lại, hồi ông ta nổi điên được đưa về Sài G̣n điều trị. Vội vă quên nên không mang theo.

Chiếc kiếm với đầy đủ ngù quàng nơi đốc kiếm. Tôi lấy xuống, rút ra. Lưỡi đă có vài vết han rỉ. Tôi tra vào bao và dựa xuống sau đầu ghế vải thầm hỏi không biết hồi này bịnh t́nh đă khá chưa. Người con trai thời loạn chẳng lẽ chóng hoen rỉ như lưỡi kiếm này, như chủ nó sao?

Tôi cũng không biết tôi sẽ c̣n phải trấn giữ ḥn đảo này trong bao lâu nữa. Rồi ra tôi sẽ phát điên không? Ai sẽ tới thay tôi và sau đó ai sẽ tới nữa. Những buổi chiều bóng núi đổ dài ra ngoài khơi. Khí núi xông lên lạnh và buồn. Những anh tuần viên xúm nhau ngồi trên khúc cây khô ca vọng cổ. Rồi đêm xuống dơi mắt ra khơi t́m những bóng đèn câu lạc loài từ đất mẹ…

Tôi rùng ḿnh thật mạnh như muốn xua đuổi những h́nh ảnh u buồn ngày cũ. Tôi đứng lên tính đi rửa mặt cho tỉnh táo để c̣n đi thăm mấy gia đ́nh trong trại. Nhưng vừa bước ra sân đă thấy lố nhố một đám đông quần áo chỉnh tề. Tôi hiểu ngay ư định của họ nên vội vàng sốc gọn lại quần áo.

Dẫn đầu là ông Tư-thuốc-mê. Không hiểu ông đă moi được ở đâu một cái áo vét-tông nhầu nát và sực mùi ẩm mốc. Mọi người khác cũng đều mặc thường phục. Ông Tư đằng hắng rồi lên tiếng :

“ Năm mới chúng tôi tới mừng tuổi đội trưởng và cầu chúc đội trưởng thăng quan tiến chức.“

Tôi chắp tay đáp lễ và chúc mọi người sang năm mới ai nấy đều được vạn sự như ư. Tôi c̣n đang ngập ngừng lựa lời nói tiếp th́ một người bật nói “Và sớm được về đất” Mọi người đều cười vang.

Khi mọi người kéo nhau vào, kẻ ngồi người đứng quanh chiếc bàn nhỏ th́ tôi chợt nhận ra một ánh sáng long lanh qua kẽ lá ngoài cửa sổ mọi người cùng nh́n theo tôi và bật reo mừng ồn ào. Hai chấm xanh đỏ. Đúng là đèn hải hành của con tàu sắp tới. Chúng tôi cùng chạy ùa ra ngoài băi cát. Triền cát mát lạnh dưới chân, cái mát lạnh cảm thấy được qua đế giầy da và làn bít tất đen dầy. Con tàu mỗi lúc lại tiến lại gần. Mọi người bàn tán xôn xao. Phía sau chúng tôi ngọn lửa vẫn âm ỉ cháy. Tôi quay lại nói lớn:

Đốt lửa lên, cao nữa lên, anh em!”



_H887vw-jaM


Trần Hoài Thư, cũng đón giao thừa. Nhưng, là đêm giao thừa nằm giữ đường làm an ninh cho các cuộc vui thâu đêm suốt sáng của các quan to súng ngắn :

“Dẫn một đàn con chiều xuống núi

giao thừa không ai nhắc mà đau

giao thừa hai tiếng đâm tâm năo

trừ tịch: poncho gạch lót đầu

một đêm sao lại buồn như mếu

muốn nổ tan tành cả cơi đêm

giao thừa giao thừa ta xuống núi

làm hiệp sĩ mù giữa cơi u minh

giao thừa ai đó mời ta rượu

một nhấp mà hồn tê tái ư

anh bạn nghe ǵ không, tiếng nhạc

người ta đang nhảy đầm

dạ vũ mừng xuân

Giao thừa mừng tuổi con heo bịnh

Xin của nhà dân làm cỗ xuân

Trung đội lập bàn thờ giữa mả

Ta khấn âm hồn

Bảo bọc đàn con…”



3K4vhLfNrZU


Một bài thơ khác đón xuân say sưa của một người lính thường không uống rượu.

“Ông già chống gậy, cũng xong

một thau xá xị đủ nồng thịt da

mày tao lính trận xa nhà

cuối năm th́ cũng ba hoa tiệc bầy

Uống cho núi lở, ông thầy

Đầu gà sao cứ chỉ ngay ly buồn

Thinh không giá rét từng cơn

Bâng khuâng nghe chuyện mất c̣n vu vơ

Phá mồi đừng có giả ngơ

Vài lon thịt có bao giờ đủ say

Uống cho trời đất lăn quay

Mốt mai vào núi men cay đâu cùng

Cầm súng bắn vào không trung

Lửa nào bốc măi tận cùng sầu ta

Bạn tao vừa chết đêm qua

Hai mươi mốt tuổi chưa già đă đi

Uống cho đă nỗi thầm th́

cuộc chơi bom đạn c̣n ǵ thế thân

Vết thương máu giọt mấy lần

Hay đầu dao nhọn phân vân tháng ngày

Rượu c̣n, sao quắc, ông thầy

Dỡn mày, ly cạn rót đầy cho tao

Lính trận giữa chốn binh đao

Cuối năm giấc bướm trăng sao chẳng về…”

Thau xá xi pha lộn xộn những loại rượu nội hóa rẻ tiền quen thuộc với lính. Ông già chống gậy như Vĩnh Tồn Tâm, Vĩnh Sanh Ḥa,... Đồ mồi đơn sơ và tṛ chơi quay đầu gà để chỉ định người cạn chén.

Những người lính xúm nhau mượn men cay để đón xuân, để quên đi những bèo bọt cuộc đời. Nhưng quên đi sao được khi h́nh ảnh của những người đă hy sinh vẫn cứ hiện về, nhức nhối.


Nguyễn Mạnh Trinh

hoathienly19
02-14-2021, 20:05
ANH CHO EM MÙA XUÂN


EQ099dVy-LM

hoathienly19
02-15-2021, 08:58
https://hon-viet.co.uk/XuanTanSuu2021.jpg


“ Từ độ ra đi xa Tổ quốc,

Thấy đào mai nở nhớ thương quê,

Xuân về lòng nguyện cầu Quê Mẹ,

Dân chủ Tự do sớm trở về ... ”

- Phạm Thọ -

hoathienly19
02-20-2021, 21:28
NGÀY XUÂN THĂM NHAU



nnRWHqN80Tw

hoathienly19
02-20-2021, 23:35
CỜ VÀNG RỰC RỠ TRÊN NÚI ĐỒI XUÂN


Tiểu Đoàn 2 Sói Thần Đón Tết nơi Tiền Đồn Sư Đ̣an 1 Bộ Binh VNCH - Vùng 1 Chiến Thuật.



https://anhxua.net/images/hinh-anh-tet-xua-mien-nam-truoc-1975-145945446071063.jpg



Sau Tết Mậu Thân năm 1968, các phe lâm chiến tại Việt Nam rủ nhau tới Paris, thủ đô của nước Cộng ḥa Pháp quốc để bàn chuyện ngưng chiến.

Một cuộc chiến tương tàn do Cộng sản Bắc Việt chủ xướng từ nhiều năm nay, ngay khi Hiệp định đ́nh chiến Genève tháng 7 năm 1954 được kư kết chưa ráo mực. Và cuộc chiến trở nên qui mô hơn kể từ khi cái gọi là “ Mặt trận Dân tộc Giăi phóng miền Nam”, con đẻ của Cộng sản Bắc Việt ra đời năm 1960.

Các phe đến phó hội đều mang một chủ đích riêng, khó có thể dung hợp, nếu đối phương không chịu nhượng bước. Nội chiếc bàn để ngồi họp mà cũng bàn thảo ṛng ră mấy năm trời ! Từ bàn tṛn, bàn vuông, đến bàn bầu dục. Toàn bàn những chuyện tào lao, cố kéo dài th́ giờ để chờ một chiến thắng trên chiến trường làm lá bài áp đảo đối phương.

Nhưng rồi cuối cùng một văn kiện ngưng bắn cũng đă được kư kết. Toàn dân, toàn quân đă thở phào nhẹ nhỏm. Những tưởng phen này người dân Việt có thể sống trong thái b́nh, dù có bị thiệt tḥi đôi chút.

Nhưng bất hạnh thay, dù ta có thiện chí, dù người "bạn đồng minh" Hoa Kỳ của chúng ta có "thiện chí", nhưng thằng cộng sản là kẻ gian manh tráo trở, nên Hiệp định ngưng bắn Paris chỉ là một tṛ hề lố bịch , và đưa dần đến mất nước !


“Đừng nghe những ǵ cộng sản nói,

Hăy nh́n những ǵ cộng sản làm”


Đầu xuân năm 1973 , để đối phó với một cuộc ngưng bắn bất lợi mà chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa buộc phải kư kết do áp lực của người bạn lớn đồng minh Hoa Kỳ, Tiểu đoàn 2/43 của Đại úy Nguyễn Hữu Chế và Chi đoàn Thiết kỵ M113 của Đại úy Đào được điều về giữ Hậu cứ Sư đoàn tại Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh.

Đây là lần đầu tiên trong nhiều năm, những người lính mang khăn quàng màu tím có dịp về phố thị. Xuân Lộc tuy chỉ là một thị xă đất đỏ nhỏ bé nằm giữa những cánh rừng cao su bạt ngàn, nhưng dù sao cũng là một phố thị có đèn xanh đèn đỏ, có phố xá, có người qua lại với áo quần đẹp đẻ, có những người em gái xuân th́, mà nói như một thi sĩ trong nhóm Nhân Văn Giai phẩm:


“ Tôi thấy những người con gái

đến tuổi dậy th́

trông cô nào cũng đáng yêu ”

Những người lính quanh năm suốt tháng làm bạn với gió núi mưa nguồn, màn trời chiếu đất, hay nói một cách thực tế, nằm vơng nghe muổi đốt, bây giờ có dịp bát phố, ghé vào một quán cà phê để “bên ly cô ca đó, nghe thèm thuốc pall mall” bổng thấy đời sao đẹp lạ lùng!

Trước ngày ngưng bắn có hiệu lực, Tiểu đoàn nhận lệnh không được mở những cuộc hành quân , phục kích; chỉ được đặt tiền đồn, tuần tiểu và canh gác bảo vệ căn cứ.



0Leoxans2B8


Buổi sáng ngày ngưng bắn, Đại úy Chế thức dậy sớm, v́ đêm trước là một đêm ngủ ngon, không bị đánh thức bởi những tiếng súng hay báo cáo của những toán đi phục kích bên ngoài phá giấc ngủ. Một đêm trôi qua thật yên tĩnh.

Để đón chào giờ phút lịch sữ, giờ ngưng bắn có hiệu lực, vị Đại úy Tiểu đoàn trưởng cho pha một b́nh trà nóng, một hộp mức bánh dọn ra trên chiếc bàn đóng bằng gỗ thùng đạn pháo.

Chiếc radio hiệu sony 4 băng, là phần thưởng do Quân đoàn tặng, do chính Chuẩn tướng Lê Văn Hưng trao tại sân cờ Bộ Tư Lệnh QĐ, sau những chiến thắng vang rền của Tiểu đoàn tại mặt trận An Lộc, B́nh Long hồi mùa hè đỏ lữa, đang phát ra những khúc nhạc hùng.

Ông cho mời tất cả cán bộ từ cấp Tiểu đội trưởng và sĩ quan trong Tiểu đoàn về uống trà, ăn bánh thưởng xuân, đồng thời đón nghe Thông điệp của TT Nguyễn Văn Thiệu.



jb-UiOftrcA


Đúng 7 giờ, khi tiếng pháo và tiếng chiêng trống vừa dứt, lời của TT vừa cất lên chưa hết câu th́ súng nổ khắp nơi, đạn pháo của VC từ các khu rừng kế cận nă vào thị xă như mưa, khói súng mịt mù. Tiếng điện thoại reo vang.

Đại úy Chế nhận lệnh cho đơn vị sẵn sàng, c̣n ông th́ lên Trung Tâm Hành quân. Khi chiếc xe jeep đưa ông đi ra đến cổng doanh trại, một trái đạn pháo nổ ngay đầu xe. Nhưng may mắn thay, tất cả đều vô sự.

Tại TTHQ/SĐ, ông đă gặp Đại úy Đào, vị Chi đoàn trưởng Thiết kỵ. Hai đơn vị nhận lệnh đi giải tỏa ấp Bảo Vinh, một Ấp nằm sát ngay ṿng đai của Thị xă vừa bị VC tiến chiếm.

Thật ra chúng chỉ là những tên VC nằm vùng, phối hợp cùng đám du kích địa phương, nên sau khi bị bao vây chia cắt, chúng đă t́m cách tẩu thoát vào rừng. Nhưng trước khi bỏ chạy, chúng đă làm một hành động tàn nhẫn là đốt nhà dân, tạo màng khói cho dễ lẫn tránh.

Giải ṭa ấp Bảo Vinh vừa xong th́ Tiểu đoàn lên xe ra hướng ngả ba Ông Đồn để giải tỏa tiếp các ấp dọc theo QL1, cũng do đám địa phương lợi dụng lúc tranh tối tranh sáng tấn công.

Với danh tiếng của Tiểu đoàn và đoàn xe thiết giáp hùng dũng, quân đi đến đâu là yên đến đó. Trước khi mặt trời xuống núi, hai đơn vị lại đèo nhau trở về Hậu cứ.



_wbZkOV6vdg



Lối 1 giờ sáng, Chế và Đào lại bị đánh thức cho đơn vị chuẩn bị lên đường.

Hai đơn vị trưởng đi gặp Đại tá Mạch Văn Trường, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Long Khánh. [b][size=3][color=green][i]

Vừa bước vào pḥng khách, họ đă thấy người hùng An Lộc đang ngồi đợi :

- Lợi dụng lúc ngưng bắn, một đơn vị cấp tiểu đoàn tăng cường của Trung đoàn 33 Quyết Thắng Long Khánh đă tiến chiếm ngả ba Dầu Giây. Đại đội Địa Phương Quân an ninh khu vực bị dồn vào một đầu xă.

Chúng có súng pḥng không và súng đại bác không giật. Toàn khu vực ngả ba đă bị chiếm cứ. Ông vừa nói vừa di động ngón tay trên tấm bản đồ trăi rộng trước mặt.

- Hai em ráng giúp qua, ông nói tiếp, lệnh trên bảo chúng ta phải khai thông trục lộ trước 12 giờ trưa!

Hai vị Đại úy nh́n nhau, chỉ biết tuân lệnh. “Muôn sự tại Nhân, thành sự tại Thiên!”

Trước khi đứng lên từ biệt vị Đại tá Tỉnh trưởng, họ c̣n được biếu mỗi người một chai rượu martel để khao quân.


Chi Khu Định Quán, Tỉnh Long Khánh 1966



https://anhxua.net/images/lich-su-long-khanh-xuan-loc-anh-tinh-long-khanh-ngay-xua-303814906950782.jpg


Ngă ba Dầu Giây, đoạn bắt đầu của QL20, đường đi Đà Lạt, với QL1. Đây là một thị trấn nhỏ nhưng sầm uất, là nơi dừng chân của các chuyến xe đ̣, xe hàng từ miền Trung, và từ Đà Lạt đổ xuống. Chung quanh là rừng cao su bao bọc.

Lợi dụng lúc ngưng bắn, VC cộng đă tiến chiếm và đóng chốt ở đây trên một tuyến dài cả cây số. VC trà trộn trong nhà dân. Các ổ súng cộng đồng th́ được bố trí trên các cao điểm. Tương quan lực lượng th́ gần như ngang nhau. Địch thủ sẵn trong những hầm hố kiên cố. Ta có lợi thế là quân sĩ can trường, đoàn xe thiết giáp hùng hậu. Kể như một chọi một.

Sau khi quan sát trận địa, và mở những cuộc đánh thăm ḍ. Đại úy Tiểu đoàn trưởng cho mở cuộc tấn công trực diện với đội h́nh hàng ngang. Nhưng cuộc tấn công lần thứ nhất thất bại.

Một chiếc M113 bị bắn cháy, cả đoàn xe de lui. Một đại đội vượt được qua đường, bị kẹt ở tấm biển quảng cáo ḿ ăn liền. Lên không được mà rút lui cũng không xong. Đành phải nằm chịu trận, hứng mọi loại đạn pháo của địch quân.

Nhưng thua keo này th́ bày keo khác. Đại úy Chế thề quyết thanh toán mục tiêu trước 12 giờ.



rcmewCwA8mc


Ông cho mời vị Chi đoàn trưởng, các Đại đội trưởng, và Sĩ quan tiền sát viên gặp mặt. Một cuộc họp hành quân bỏ túi diễn ra gấp rút. Ông ban lệnh :

- Tất cả thiết giáp bố trí theo đội h́nh hàng ngang, bộ binh xen kẻ. Pháo binh tác xạ tập trung vào các ổ súng cộng đồng của địch. Khi có lệnh tiến quân, pháo chuyển xạ xa dần. Nếu có thương vong hay xe nào bị bắn cháy, cứ để đó, sẽ có Đại đội Chỉ huy và Yểm trợ lo. Tất cả cứ tiến, càng nhanh càng tốt. Nếu ai bất tuân, tôi sẽ truy tố ra trước ṭa án quân sự.

Lúc đó đă gần 11 giờ. Đúng 11 giờ, ông cho lệnh tấn công. Các chiến sĩ khăn quàng tím cùng đoàn thiết giáp M113 hơn 20 chiếc hùng dũng tiến lên như vũ băo. Súng nổ rền vang, khói lữa mịt mùng. Vài chiếc xe bị bắn cháy, vài binh sĩ bị ngă gục. Nhưng đoàn quân vẫn tiến mà không hề chùn bước.

Chỉ trong chớp mắt, đơn vị tấn công đă làm chủ trận địa. Địch quân bị bất ngờ trước lối đánh táo bạo của đối phương - giống như những con thiêu thân lao vào ngọn đèn - chúng tốc hầm bỏ chạy về hướng Tây – Bắc, xuyên qua ấp Nguyễn Thái Học, trốn vào rừng sâu.

Cộng quân chỉ kịp mang theo những khẩu súng cá nhân, các ổ súng cộng đồng bị bỏ lại, gần như nguyên vẹn.

Tin tức sơ khởi cho biết, quân ta tịch thu 1 khẩu thượng liên 12 ly 7, 1 súng đại bác không giật 107 ly, 1 súng cối 82 ly, và nhiều tù binh địch bị bắt sống, trong đó có tên B trưởng, tức Trung đội trưởng.



j8jZ4c8NQlw


Đúng 12 giờ, Đại úy Chế đứng ngay ngả ba đường cùng người lính mang máy truyền tin, bên dưới tấm biển quảng cáo ḿ ăn liền, báo cáo :

- Tŕnh Hằng Minh, con đường đă được khai thông.

Chính Đại úy Chế lúc đó trở thành người cảnh sát chỉ đường, điều khiển cho xe cộ lưu thông. Những ổ bánh ḿ, những hộp mức bánh, những tờ báo Xuân tới tấp liệng xuống đường, với những lời hoan hô, lời cám ơn người lính cộng ḥa cùng những nụ cười tươi, những nụ hôn gió của các cô gái xuân.

Xe từ Đà Lạt th́ liệng trái cây, trà và rượu. Tất cả là cử chỉ tri ân, ḷng biết ơn của người hậu phương gửi cho lính trận. T́nh quân dân như cá với nước. Ôi ! Không c̣n ǵ cảm động và đẹp đẻ hơn.



ZplFiER_qkk


Buổi chiều, Tiểu đoàn 2/43 cùng Chi đoàn Thiết kỵ của Đại úy Đào lui về ấp Trần Hưng Đạo nghỉ quân. Nhưng thời chiến, người lính chiến không có th́ giờ để nghỉ ngơi . !

Sáng sớm ngày hôm sau, Tiểu đoàn đă lên xe thiết giáp trực chỉ quận Định Quán trên QL20.

Sau khi thất bại trong mưu toan cắt đứt QL1 và QL20, cộng quân chuyển qua cắt đứt QL20 tại Phương Lâm, giáp ranh với Madagui của quận Bảo Lộc.

Địa thế tại Phương Lâm rất thuận lợi cho việc phục kích và đóng chốt. Hai bên đường là đồi núi chập chùng, sâu bên trong là rừng rậm. VC đă bố trí một khẩu thượng liên 12ly7 trên một mỏm núi cao có thể khống chế được một đoạn đường. Những khẩu súng cối 61 ly và 82 ly được dấu đàng sau những ngọn đồi.

Lực lượng địch tham chiến không rơ là bao nhiêu, nhưng ít nhất cũng là cấp Tiểu đoàn tăng cường.

Khi Tiểu đoàn 2/43 và Chi đoàn Thiết kỵ đến, một đoạn đường đă bị cộng quân chiếm giữ. Lưu thông đă bị gián đoạn.

Nhưng lần này công việc khai thông trục lộ không phải là một việc làm dễ dàng !

Cuộc ngưng bắn lần này là một cuộc ngưng bắn da beo.

Theo tinh thần bản hiệp định, trước giờ ngưng bắn có hiệu lực, quân của phe bên nào ở đâu là vùng đất thuộc quyền kiểm soát của phe đó.

Do đó Việt cộng đă từ rừng sâu, gấp rút tiến quân ngay trong giờ phút ngưng bắn để nới rông phạm vi ảnh hưởng của chúng.

Đối phó với hành động gian xảo của địch, người lính Việt Nam Cộng Ḥa được lệnh mang theo nhiều Cờ Vàng ba sọc đỏ bên ḿnh để khi tiến đến đâu th́ cắm cờ đến đó.

Chính những lá Cờ Vàng ba sọc đỏ này đă làm rực rỡ núi đồi mùa Xuân, và cũng đă tiết kiệm được nhiều xương máu của quân sĩ.



https://i.postimg.cc/jjvwwCtX/dung-co-dd2-td3-300.jpg


Cây cầu ngắn nối liền với đoạn đường đang bị VC đóng chốt bị khống chế bằng một khẩu thượng liên 12 ly 7, nhiều khẩu B40, B41.

Đă hơn một ngày đoàn quân giải tỏa bị dậm chân tại chỗ, không tiến lên được chút nào, nhưng nhiều quân sĩ cũng đă bị hy sinh tại cây cầu.:112:

Đại úy Chế quyết định phải khống chế khẩu thượng liên trước khi cho quân vượt qua cây cầu để nhổ chốt.

Đại đội 1 của Trung úy Nguyễn Trung Chánh được lệnh tiến đánh mỏm núi, nơi cộng quân đặt khẩu thượng liên. Ông chỉ thị :

- Không cần quân của anh đến được mỏm núi, v́ như vậy rất gay go và nguy hiểm. Nhưng tôi cần quân của anh tiến đến đâu th́ cắm cờ đến đó. Cắm càng nhiều càng tốt. Và cứ nhứ nhứ cho chúng sợ mà bỏ đi.

Trong lúc đó, các đại đội khác cũng răi quân ra khắp núi đồi làm công việc tương tự.

Chỉ trong vài tiếng đồng hồ, khắp núi đồi vùng Phương Lâm Cờ Vàng nở rộ như Mai Vàng khoe sắc trước mùa xuân tới. Những lá cờ vàng nở ra mỗi lúc một nhiều, như nước thủy triều dâng.

Cộng quân thấy khí thế của đối phương mỗi lúc một dâng cao, chúng bắt đầu nao núng. Cánh quân Đại đội 1 dù không đến được mỏm núi, nhưng tiếng súng từ khẩu thượng liên đă ngưng bặt.

Khi biết chắc khẩu thượng liên đă bị khóa họng, đoàn quân bắt đầu tiến. Cây cầu bây giờ không c̣n là trở ngại đáng ghét, mà đă giúp đoàn quân tiến nhanh thanh toán mục tiêu.

Quân tiến đến đâu, Cờ vàng theo đến đó, màu vàng loan đến tận biên giới Madagui của quận Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.



Fgcko7vUWUE


Khắp nơi là cả một rừng Cờ Vàng, trông như một rừng mai vàng nở rộ trong gió sớm mùa Xuân, đáng lẽ là một mùa Xuân thanh b́nh của đất nước, nhưng lại là một mùa Xuân của chiến cuộc tràn lan, cho đến một ngày th́ mùa Xuân không c̣n nữa, thay vào đó là một mùa Đông băng giá đang bao phủ khắp trời Nam !


Bảo Định

https://hon-viet.co.uk/

hoanglan22
02-28-2021, 14:40
Tác giả tên thật là Tô Văn Cấp. Cựu học sinh Pétrus Kư. Cựu Thiếu Tá TQLC/VNCH. Tốt nghiệp khoá 19 Vơ Bị Đà Lạt. Hiện ở Nam Cali.
tdp

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1748000&stc=1&d=1614523166

Sau nghi thức phủ Quốc Kỳ cho Trần Tú, một đồng đội TQLC, tại nhà quàn Peek Family trên đường Bolsa (Little Saigon CA) anh em chúng tôi ra ngoài sân để “nhớ nhà châm điếu thuốc”, đồng thời nghe anh hội trưởng TQLC Nam CA căn dặn ngày giờ cuốn cờ và tiễn chân đồng đội đến nơi an nghĩ cuối cùng. Khi tôi đang nói chuyện với anh em th́ có một vị khách (cũng đến viếng người quá cố) tiến tới chào tôi và hỏi nhỏ:
- Xin lỗi ông, tôi thấy trên nắp túi áo quân phục TQLC của ông mang tên TO CAP, vậy có phải ông là Tô Văn Cấp không?

- Vâng...tôi là Tô Văn Cấp.

Vị khách nắm tay tôi lắc lắc, kéo tôi ra khỏi đám đông, mừng rỡ nói:
- Ê “B.K Cá Rô Cây*”, tao nè, Đỗ Minh Đức, tự “Đức Cống” ở Ba-Lắc-Kư 1955-1962 nè, mày có nhớ không?

Tôi sững sờ nh́n vị khách lạ, nhưng những biệt danh “B.K Cá Rô Cây”, “Đức Cống”, “Ba-Lắc-Kư” (L.Petrus Ký) th́ quá quen thuộc, chỉ có trong đám “quỷ ma học tṛ” chúng tôi mới hiểu mà thôi. Tôi không bao giờ quên chuyện đau khổ ấy, dù đă hơn 60 năm rồi.

Ngày xưa ấy, tôi là chú bé con “Bắc Kỳ Di Cư 54” duy nhất trong lớp Đệ Thất B1 niên khóa 1954-1955 trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Kư, (chúng tôi gọi là “Ba-Lắc-Kư”), tôi bị đám học tṛ “Nam Kỳ giá sống” bắt nạt gọi tôi là “Bắc Kỳ ăn cá rô cây”, trong đó có tên Đỗ Minh Đức, nó là tên ngỗ nghịch nhất và tự nhận ḿnh là “Đức Cống” (nói lái là đống…).

Nhất định là hắn rồi, tôi xiết chặt tay Đức-người khách lạ, và bóp cho thật đau để trả cái hận xưa. Đă hơn nửa thế kỷ qua rồi, nay bất ngờ đồng môn (cùng trường, cùng lớp) gặp nhau, nhận ra nhau th́ bao chuyện nghịch ngợm của tuổi học tṛ hiện ra khiến những lăo già như trẻ lại “mày tao” và ngậm ngùi nhớ các bạn cùng lớp đă hy sinh cho Tổ Quốc Việt Nam, nhắc và nhớ đến quư danh các thầy cô, Thầy Phạm Văn Ba, Thái Chí, Tạ Kư, Thượng Thủ, Hồng Đảnh, Trọng Phỏng, Cô Dung, Cô Sâm, Cô Ngà, Cô Hồng, Cô Thiên Hương đă từng dạy dỗ đám “nhất quỷ, nh́ ma, thứ ba học tṛ sao cho ra cái giống người”. Tôi hỏi Đức:

- Mày* là “Đức Cống” thật sao? Lớp ḿnh có hơn phân nửa đi Khóa 19 Võ Bị và đã tử trận nhiều rồi, như các Nhẩy Dù Nguyễn Đức Cần, Phạm Thượng Chí, Phạm Khánh Châm, Bộ Binh Lê Đ́nh Điển, Ngô Văn Nô, TQLC Vơ Thành Kháng, Nguyễn Văn Hùng, BĐQ Nguyễn Thái Quan v.v.. tao* nghe nói mày* cũng chết cháy theo trực thăng rồi mà. Vậy từ ngày đó đến nay mày* biến đâu mất, lưu lạc phương nào, sao nay lại xuất hiện đến đây để viếng anh TQLC này?

- Tao* tu ở Houston TX lâu rồi, nay bỗng dưng muốn ngao du phương Nam một chuyến cho biết sự t́n. Tao qua CA được hơn tuần, bữa nay đi ngang đây, thấy có đám tang, dường như thần lực nào đẩy tao* vào thắp nhang cho người quá cố này, không ngờ lại gặp mày*, mừng quá...

(*Xin lỗi quư độc giả, mấy lăo già mà cứ xưng “mày tao” thì nghe thật chướng tai, nhưng đó là những tiếng xưng hô quá thân t́nh với nhau để được sống lại thời trẻ. Để quư đọc giả khỏi ngứa tai, những đại danh từ “mày tao” sẽ được thay thế bằng “tôi” trong các đoạn viết dưới đây)

***
Đức kể tiếp:

- Vô t́nh đi ngang Peek Family, thấy có đám tang và nhiều anh em TQLC, h́nh như có một thần lực nào đó đẩy tôi vào xin thắp một nén nhang cho người quá cố để nhớ ơn những anh em TQLC đă có lần cứu mạng tôi khi trực thăng tôi bị bắn rơi năm 10/1972 ở Quảng Trị...

Nghe Đức kể vậy tự nhiên tôi rùng ḿnh, khi c̣n sống, Trần Tú, TQLC mà chúng tôi vừa làm lễ phủ cờ hôm nay, thường hănh diện kể lại cho chúng tôi nghe về chiến công của anh đă cứu sống một phi công trực thăng bị VC bắn rơi. Trần nói đúng, Trần và tiểu đội của anh gồm 6 TQLC làm tiền đồn đă cứu mạng một pilot trực thăng bị VC bắn rơi bên kia bờ sông Thạch Hăn vào tháng 10/72.

Có thể đây là định mệnh đă đưa đẩy Đức đi ngao du đến Nam CA để gặp và tiễn chân ân nhân là Trần Tú lần cuối cùng chăng?.

T́nh đồng đội ngoài chiến trường giữa Không Quân và TQLC cứu nhau khi sống và khi chết lại vô t́nh đưa đẩy tiễn nhau quả là một chuyện không b́nh thường. Tôi hỏi Đức kể về vụ rớt trực thăng và được cứu sống như thế nào xem có giống như chuyện Trần Tú thường nhắc không, Đức miên man đi vào dĩ văng:

***.
Hồi Kư Của Pilot Đỗ Minh Đức:

- Ngày 7/10/1972, Phi Đoàn 233 Thiên Ưng, Không Đoàn 51 Chiến Thuật, biệt phái 6 chiếc trực thăng cho Sư Đoàn TQLC, đóng tại quận Hương Điền, Huế, với nhiệm vụ yểm trợ hỏa lực tác chiến, tiếp tế và tản thương.

Khoảng 9 giờ ngày 7/10/1972, tôi được lịnh từ Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn TQLC đi bốc giúp một thiếu phụ sinh con khó khăn ở phía Bắc quận Hương Điền, để đưa bà mẹ này về bịnh viện Nguyễn Tri Phương, Huế. Sau phi vụ nhân đạo đó khoảng nửa giờ, tôi nhận được một phi lịnh đặc biệt đi cứu cấp một hoa tiêu A-37 bị pḥng không VC bắn, anh ta đă nhảy dù xuống một giờ rồi.

Tôi đă nhiều lần cứu cấp hoa tiêu lâm nạn phải nhảy dù xuống như vậy, nhưng lần này, tôi cảm thấy rất đặc biệt, tại sao A-37 đi oanh tạc lại không báo cho trực thăng ứng trực ngay trên bầu trời? Tại sao một giờ sau mới gọi cứu cấp? Ai trách nhiệm ra lịnh trễ nải như vậy?

Tôi phải cố hành động sao cho thật nhanh, tôi chụp lấy nón bay, nhảy lên ghế lái, chưa kịp xỏ chân vào giày, vẫy tay ra lịnh mở dây cột cánh quạt. Tôi ra hiệu 5 chiếc trực thăng c̣n lại, (có 2 chiếc vơ trang) cất cánh sau tôi. Phi hành đoàn của tôi chưa ai mang giày và áo an toàn. Chúng tôi vừa bay vừa trang bị cho đầy đủ. Tôi cũng đă kiểm soát xem tất cả phi hành đoàn đều có áo an toàn chưa v́ rằng hoa tiêu A-37 đă lâm nạn hơn một giờ qua, thời gian đủ dài để VC chuẩn bị những cái bẫy và hỏa lực để hạ những phi hành đoàn đến cứu cấp.

Ngay sau khi cất cánh tại Hương Điền, tôi bấm máy ra lịnh 3 trực thăng vận tải theo sau phải giữ khoảng cách là 3 phút bay. Hai chiếc vơ trang bay hai bên cách tôi một phút bay, v́ tôi phải áp dụng chiến thuật bay cho phi lịnh hết sức nguy hiểm này.
Trên bầu trời Quảng Trị, nắng gắt, gió Đông Nam thổi nhẹ. Quan Sát Cơ L-19 mang tên Pigeon 10 đang trách nhiệm bao vùng theo dơi. Tôi bắt đầu liên lạc với anh ta khi c̣n bay với cao độ 1000 bộ, với tốc độ 110 knotts.
- Pigeon 10, Pigeon 10, Eagle 3, Eagle 3 gọi. (Eagle 3 là tên của tôi trong phi lịnh này).
- Eagle 3, Eagle 3, Pigeon 10 tôi nghe anh 5/5.
- Pigeon 10, chỉ dẫn mục tiêu.
- 12 giờ trước mặt,
- 12 giờ nhận rơ.

Sau đó, tôi đă quyết định đưa trực thăng nhào xuống bay sát mặt đất, tốc độ 120 knotts và bắt đầu bay chiến thuật vào vùng tử địa.
Cứ mỗi giây phút trôi qua là nguy hiểm đến gần hơn. Mặc dù có hai chiếc vơ trang bay sau tôi để yểm trợ, tôi cho lịnh xạ thủ Tuấn và cơ phi Xôm khi tôi nghiêng cánh bên nào thỉ bên đó bắn không ngừng để đàn áp hỏa lực VC dưới đất.
Tôi đă liên lạc với Pigeon 10 nhiều lần và cũng nhận cùng một câu trả lời như trên. Hỏa lực VC từ đất bắn lên rát lắm, đạn xuyên thủng trực thăng nhiều nơi. Một viên đạn đă nổ tung phía trước bọc kính, một mảnh nhỏ đă ghim trên chân mày tôi, máu lăn xuống mí mắt làm tôi thấy màu đỏ loang loáng. Tôi biết ngay là vùng nguy hiểm vô cùng đă đến. Tôi bảo hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn:

- Tao đă trúng miểng đạn ở trán, mày để tay vào cần lái, bay theo tao.

Văn, không nói lời nào, nhanh chóng đưa tay vào cần lái và nhẹ nhàng bay theo tôi. Đây là cách pḥng ngừa khi tôi th́nh ĺnh “ra đi” trên ghế lái.
Từ Pḥng Kiểm Soát Hành Quân, sau khi nghe tiếng tôi, Thiếu Tá Nguyễn Văn Thanh, giọng nhẹ nhàng ra lịnh:
- Eagle 3, phải hết sức cẩn thận. Rồi Thiếu Tá lập lại: “Phải hết sức cẩn thận, tôi nói anh hiểu không?”
- Vâng, Eagle 3 tôi hiểu, Thiếu Tá!

Liên lạc với Pigeon 10, th́ vẫn chỉ có một câu trả lời “12 giờ trước mặt!” Tôi thấy những viên đạn lửa của VC bay lên trực thăng trong lúc tôi nóng ḷng t́m hoa tiêu A-37 lâm nạn, th́nh ĺnh cơ phi Xôm hét to lên mừng rỡ:
- Cánh dù bên trái! Thiếu Úy!
Tôi nh́n về phía trái, thấy cành dù, sẵn sàng đáp xuống. Tôi dùng phương pháp đáp khẩn cấp từ 120 knotts, bay thấp trên mặt đất cùng lúc vội vàng bấm máy ra lịnh:

- Tất cả ba trực thăng bay ra ngoài vùng. Trực thăng vơ trang bắn yểm trợ.

Và tôi quyết định đáp xuống khi cả vùng trời ngập trong lửa đạn đủ loại, pháo và khói bụi mịt mù. Kéo cần lái sát vào người, cùng lúc tôi đưa cần cao độ sát xuống thấp, quẹo trái, áp dụng kỹ thuật đáp khẩn cấp. Đạn của ta và đạn của địch thi tài áp đảo nhau! VC c̣n giúp thêm cho tử thần bằng mưa pháo vào băi đáp, quang cảnh chẳng khác nào phi hành đoàn vào địa ngục để cứu hoa tiêu A-37.

Cơ phi Xôm và xạ thủ Tuấn gan dạ và nhanh nhẹn nhảy xuống đất, phóng nhanh về phía hoa tiêu A-37 lâm nạn và kẹp hai tay xốc anh ta chạy vội vàng về trực thăng. Tôi nhận ra đó là Thiếu Úy Nguyễn Hàn.

Khi cả ba đă bước lên trực thăng, tôi vội vă kéo cần lái, cần cao độ cất cánh trong bụi cát mịt mù dưới cơn băo pháo và súng lớn nhỏ các loại của VC. Chúng tôi vô cùng mừng rỡ, phi vụ cứu cấp thành công! Tôi vội bay hướng Đông Nam về Huế, Phú Bài!

Mọi việc được hoàn tất mau chóng và chuyên nghiệp trong khi VC liên tục pháo vào băi đáp. Khi trực thăng của tôi đạt tới cao độ vào khoảng 200 bộ th́ bất ngờ bị hỏa tiễn hay 12 ly 7 đă bắn găy cánh quạt đuôi, trực thăng giựt mạnh quẹo sang trái. Tôi phải tắt máy và áp dụng thể thức đáp khẩn cấp. Bây giờ là đáp khẩn cấp thật sự đây!

Năm người trên trực thăng, kể cả Thiếu Úy A-37 Nguyễn Hàn, phải t́m cách mưu sinh thoát hiểm, v́ trong không gian bom đạn mịt mù và mưa pháo VC, th́ tôi đâu muốn để cho anh em trực thăng khác ở bên ngoài bay vào cấp cứu chúng tôi, rồi chuyện ǵ sẽ xảy ra như tôi đang bị xảy ra như hiện tại.

Ngay khi trực thăng đáp xuống đất, t́nh thế rất khẩn cấp, tôi gọi xạ thủ Tuấn mở cửa cho hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn, và mọi người nhớ theo tôi, v́ tôi giữ máy liên lạc.

Nhưng trong cơn mưa pháo của VC, cơ phi Xôm, xạ thủ Tuấn, hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn và hoa tiêu A-37, Thiếu Úy Nguyễn Hàn, tất cả đă rời khỏi trực thăng qua cánh trái, khi tôi lấy dụng cụ và máy liên lạc cứu cấp xong, tôi nhảy xuống đất bên phải của trực thăng. Chỉ vài phút sau là chúng tôi mất liên lạc với nhau, không cách nào trông thấy nhau trong cơn băo pháo và bụi mịt mù. Địa ngục đây rồi!

Dưới bầu trời nắng gay gắt, VC vẫn liên tục mưa pháo vào trực thăng của tôi. Bụi mù và mưa pháo vùng tử địa, không ai nh́n thấy ai nữa! Tôi nhiều lần khẩn khoản 3 hoa tiêu trực thăng đừng vào v́ rất nguy hiểm. Tôi biết 3 chiếc trực thăng c̣n lại nóng ḷng muốn cứu chúng tôi, cũng bay vào, rồi th́ bị đạn, rồi th́ cũng không tài nào thấy được nơi chúng tôi đang nấp nên trong khoảnh khắc giành giựt với tử thần đó, anh em cũng đành phải rời vùng.

Lại có thêm 2 trực thăng Cobra và 1 chiếc trực thăng CH53 chuyên môn cứu cấp của Hoa Kỳ cũng bay đến cấp cứu! Tôi cũng đă dùng máy liên lạc và kêu gọi rời vùng ngay v́ súng pḥng không VC đầy dẫy chung quanh băi đáp, đừng bay vào rọ.

Chiếc trực thăng của xấu số của tôi, danh số ở đuôi là 827 màu trắng dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ đă từng hiên ngang ngạo nghễ sau những tháng năm dài phục vụ con người, giờ đây, nhằm giờ hóa kiếp, nó đă bị thương mất đuôi, rồi bị bao nhiêu đạn pháo, nó bốc cháy ngùn ngụt.

Tôi chạy khỏi phi cơ độ hơn 100 thước, lại bị thương vào đùi, tôi đă ngă xuống một hố bom cũ phủ đầy cỏ dại, tôi bất tỉnh, mê đi!

Tiếng đạn pháo liên tục gầm vang, gió cuốn bụi cát xát mạnh vào mặt làm tôi choàng tỉnh và mở mắt ra! Bầu trời xám xịt, mây đen thấp xuống, bao phủ cả ṿm trời! Màn đêm xuống mau lẹ với cơn mưa to, nhiều sấm sét. Đến nửa đêm khi đạn pháo bớt, tôi nghe tiếng người lục soát, t́m kiếm chúng tôi. Tôi cố giữ hoàn toàn yên lặng, tôi nghĩ rằng họ là VC.

Nằm núp dưới đất bùn dơ bẩn, trong cơn mưa sấm sét, tôi cảm thấy lạnh vô cùng, khi tiếng bọn VC đă đi xa, tôi phải lách ḿnh, ḅ đi một cách êm thắm, trầm ḿnh xuống lạch nước mưa mà trườn tới! Bấy giờ tôi liên tưởng đến những người khác, đầu óc tôi lẩn quẩn nghĩ miên man tới phi hành đoàn của tôi và hoa tiêu A-37 Nguyễn Hàn. Hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn, nhà ở Quảng Tín, mới ở Mỹ về, tôi bay với Văn và đă đề nghị cho Văn là hoa tiêu phụ đi hành quân với tôi. Văn khoe c̣n giữ 300 Mỹ Kim và cất ở túi bay dưới chân để dành cưới vợ. C̣n Xôm và Tuấn rồi Hàn bây giờ ra sao rồi? Cả bốn người có bị VC gian ác bắt không?

Tuấn và Hàn là người gốc Huế, mà Huế và Quảng Trị đâu xa ǵ! Chắc là cả bốn người biết luồn lách mà tránh được VC để về đến Huế. Tôi bị mặc cảm dằn vặt măi, bởi v́ tôi, v́ tôi quyết tâm bay vào lửa đạn để cứu hoa tiêu A-37 lâm nạn, nếu lúc Thiếu Tá Thanh nhắc chừng, tôi đă nhận thấy quá nguy hiểm mà bay trở lại th́ đă an toàn cho tất cả, nhưng rồi c̣n Thiếu Úy A-37 Nguyễn Hàn th́ sao?

Dù sao, tôi vẫn cứ tự an ủi nếu ai cũng thiếu gan dạ, không chấp nhận hiểm nguy th́ t́nh chiến hữu đồng đội có ra chi. Bị thương, ừ th́ bị thương, chết ừ th́ chết, bổn phận không thể không hoàn tất. Mạng sống con người quư giá lắm. Nhưng cái quư giá đó không so sánh được nếu v́ lư tưởng, bổn phận phải hy sinh. Tôi đă từng bảo hoa tiêu Lê Công Quởn, đă hy sinh tại căn cứ Hoàng Đế phía Tây của Huế, rằng:

- Là người làm tṛn nhiệm vụ, hy sinh cho người khác, khi chết sẽ được vinh hạnh thành Thánh, nếu không cũng được thành Thần.

Tôi đă cầu nguyện cho bốn người này. Tôi cũng cầu xin Đức Chí Tôn:

- Xin Ngài che chở cho tôi nếu Ngài nghĩ rằng tôi c̣n hữu ích cho đổng đội. Nhược bằng trái lại, xin cho tôi nhận một quả pháo trọn vẹn từ quân VC vô thần, gian ác! Tôi xin đoàn tụ cùng những bậc tiền nhân, ông cha anh hùng của tôi.”

Tôi nghĩ đến vinh dự cao cả của bao nhiêu người lính gan dạ đă đem thân bảo vệ độc lập, ḥa b́nh của Tổ Quốc th́ đâu sá ǵ ḿnh bị thương hay bị hy sinh bởi súng đạn quân VC xâm lăng.

Mải mê suy nghĩ đến bổn phận, mơ màng trong trách nhiệm thế rồi tôi rơi vào giấc ngủ lúc nào không hay.

Tiếng chân người rầm rập trên mặt đất mỗi lúc một gần hơn, gần hơn, rồi một toán VC hung ác đứng gần chỗ tôi trốn. Tôi đă vùi thân ḿnh dưới tầng bùn đen. Tôi chẳng c̣n ǵ trên tay, chiếc nón bay, áo chống đạn đă để lại trên trực thăng đă cháy rụi rồi. Trống ngực đập th́nh thịch, tôi sợ hăi vô cùng, rồi chúng bỏ đi. Từ kinh nghiệm này, trên đường mưu sinh thoát hiểm về lại căn cứ, tôi đă hết sức đề pḥng từng ly, từng tí, tránh mọi bất trắc.

Ṃ ra khỏi vũng bùn, chiếc áo bay của tôi quá nhiều túi, bây giờ chứa đầy bùn trở thành một gánh nặng nên tôi đă cởi bỏ, tôi chỉ c̣n mặc một chiếc quần lót mà thôi. Để ngụy trang, tôi đă dùng bùn trét đầy lên khắp người, và hết sức cẩn thận trườn đi bằng ngực, hoặc bằng lưng của tôi, bởi v́ làm sao tôi có thể đi được khi mà khớp nối của đầu xương đùi bị thương quá nặng.

Tôi trườn được một đỗi vừa để ư ép tai ḿnh xuống mặt đất để nghe có tiếng chân ai đó hay không. Tai tôi cũng mở rộng, hết sức chăm chú. Lúc này trời cũng sắp tối đến rồi. Theo hướng gió từ xa đưa lại, tôi nghe tiếng nói eo éo của đám VC. Tôi vội vàng lẩn trốn ngay. Tôi thấy đói cồn cào và khát nước! Đạn pháo hôm nay ít hơn hôm qua.

Rồi th́ mưa đổ xuống như thác, nhờ vào đó mà tôi di chuyển an toàn hơn. Tôi dùng hai bàn tay nắm cỏ cao kéo tới, chân trái phụ vào bằng cách đạp vào mặt đất cho toàn thân di chuyển về phía trước được hai hay ba chục mét. Thật may mắn làm sao! Mưa càng to th́ tôi càng di chuyển được dễ dàng và an toàn hơn, bởi lũ VC lười biếng đi kiểm soát trong cơn mưa.

Tôi đă kiệt sức rồi, dù vậy tôi vẫn phải cố hết sức ḅ đến một hố nước, trầm ḿnh dưới vũng nước để được ấm hơn trên mặt đất gió thổi. Hai bàn tay khuấy nước cho sạch bớt bùn đất, rồi hai tay chụm lại hứng từng giọt nước mưa để thấm giọng cho đỡ cơn khát. Tôi tiếp tục làm như vậy cho đến khi tôi thấy bớt khát.

Tôi tự bảo rằng dừng lại việc di chuyển về hướng Nam là tự sát, mỗi tấc tôi trườn tới có nghĩa là tôi về gần chỗ an toàn hơn, bởi vậy, tôi phải cố gắng di chuyển, tai lắng nghe xem có sự động tĩnh ǵ của lũ VC hay không. May mắn quá tôi không thấy cái ǵ cả, nhưng những dây điện thoại của VC liên lạc th́ giăng đầy như lưới nhện trong vùng tử địa chiến tranh tàn khốc này.

Ngày thứ ba trên băi chiến trường, tôi thức giấc khi tiếng phi cơ phản lực vọng lại từ xa xôi lắm. Tôi hy vọng chúng đến gần tôi hơn, để tôi có thể đánh hiệu lên cho chúng biết rằng tôi vẫn c̣n sống.

Tôi nhớ Thiếu Úy Hồng, cùng Phi Đoàn 233 của tôi, đă dùng chính hộp nước ngọt để gửi dấu hiệu cho trực thăng t́m kiếm của Đại Úy Nguyễn Văn Banh. Đại Úy Banh nhận được tín hiệu, tức khắc anh tắt máy cho được an toàn và đáp xuống một khoảng trống cạnh một con rạch nhỏ của dăy núi cao. Đại Úy Banh đă cứu được Thiếu Úy Hồng một cách ngoạn mục. Tôi cũng đă thết đăi Thiếu Úy Hồng một chầu mừng thoát chết. Tôi cũng đă học hỏi cách nào Thiếu Úy Hồng mưu sinh thoát hiểm để có ngày nào đó đến lượt tôi, và lúc này tôi đă có chút kinh nghiệm. Tôi đă quan sát cẩn thận chung quanh cho an toàn rồi tiếp tục ṃ về hướng Nam. Lúc đó một chiếc Quan Sát OV-10 trên bầu trời bỗng bay thẳng vút lên trời xanh tránh hỏa tiển SA7 của VC, để lại một vệt khói trắng màu tang. Tôi hú hồn cho chàng hoa tiêu trên chiếc OV-10 đó.

Trong giây lát, tôi bỗng miên man nhớ lại h́nh ảnh của Đại Tá Khánh, Sư Đoàn Trưởng Sư Đoàn 1 Không Quân, Trung Tá Phước, Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51 Chiến Thuật, c̣n gọi là Phước răng vàng. Tôi nhớ Thiếu Tá Bùi Quang Chính, Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 233. Ông này làm anh cả th́ tốt hơn là Phi Đoàn Trưởng. Ông đă chăm sóc mọi thứ cho thuộc hạ dưới quyền, từ sĩ quan cho đến binh sĩ! Gia đ́nh ra sao, anh chị em thế nào. Ông biết rơ từng người trong gia đ́nh của Phi Đoàn. Tôi nợ ông nhiều lắm. Tôi phải trả ơn cho ông bà- bà giáo Diệp, bà đối xử với tôi như chị ruột. Cơn đói và rét kéo tôi vào giấc ngủ nữa rồi.

Cơn mưa chiều nhiều sấm sét cùng tiếng nổ đạn pháo của hai bên Quốc Gia và Cộng Sản làm cho bầu không khí trở nên ồn ào ghê rợn khiến tôi tỉnh giấc, tôi không thể nào nghe rơ sự vật quanh tôi. Tôi sắp bước qua đêm thứ ba không quần, không áo! Chính bùn, đất và bèo cỏ đă thay cho quần áo và là phương tiện ngụy trang rất hữu hiệu cho tôi. Tôi thầm nhủ rằng lợi dụng đêm tối, mưa giông để ṃ đi sẽ làm ngắn lại con đường về căn cứ an toàn hơn.

Mưa to quá, mưa xối xả như trút nước, sấm chớp vang trời như thiên lôi rượt đuổi, diệt trừ quỷ ma đang hành hạ con người. Nhờ mưa đêm che chở tôi tránh được sự ḍ t́m của bọn độc ác VC.

Tôi vừa trườn qua một chiếc đầu lâu và bộ xương người trắng hếu. Bàn tay tôi nhẹ nhàng vuốt cái xương sọ cùng lúc van vái rằng:

- Tôi biết tại sao anh bị giết, xin giúp tôi đến nơi b́nh an tôi sẽ cúng..

Một lúc sau tôi thấy một con mèo trắng, đi quanh quẩn bên tôi và rồi đi về hướng Nam. Tôi tự hỏi tại sao có con mèo hoang ở vùng lửa đạn này? Tôi không sợ ma mà muốn sống nên cố trườn theo con mèo, nhanh và nhanh hơn nữa, v́ vết thương đă có mùi thối như xác chết! Đây là băi chiến trường, vùng oanh kích tự do, chẳng có hàng tre hay bờ tường nào cao hơn nửa thước. Tất cả điêu tàn, là sắt máu hận thù!

Ngày thứ tư trên băi chiến trường bắt đầu bằng đạn pháo ầm ĩ, súng nổ bốn bề, nhằm giết đi hết mọi sinh vật của Thượng Đế trên đời! Nghĩ cho cùng, nếu Hà Nội không ngu xuẩn nghe lời xúi dại của Liên Xô và Trung Cộng, xua quân xâm lấn miền Nam, th́ làm ǵ có cảnh gió tanh mưa máu hôm nay. Cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt. Ngàn đời nguyền rủa sự ngu xuẩn tham lam của lũ Cộng Sản.

Có lẽ là hai hay ba giờ chiều. Đây là ngày thứ tư tôi nằm trên vùng tử địa. Mây đen kéo tới, bầu trời đen kịt. Gió thổi càng lúc càng mạnh, gió mạnh làm ngả rạp đám cỏ cao quá đầu gối. Tôi vẫn luôn cảnh giác nghe ngóng về giọng nói của người và những động tĩnh bất thường trên đường thoát hiểm hướng về Nam.

Tôi đă không có một chút ǵ ăn trong ba ngày qua, tôi thấy đói và đói. Tôi thấy ḿnh dần dần yếu đi, đến nỗi tôi muốn dừng lại một chỗ. Nhưng rồi tôi lại nghĩ, dừng lại chẳng khác nào tự tử. Đâu ai biết tôi nơi nào mà cứu cấp! Do vậy mà tôi phải cố gắng trườn đi từng tấc, từng tấc đất để về Nam. Nhờ vận chuyển tôi thấy có thêm sức mạnh và ấm người hơn.

Bèo cám trên mặt nước dân miền Nam dùng để cho heo ăn, nhưng rồi không có cái ǵ bỏ vào miệng cho bao tử làm việc sinh ra nhiệt, nên tôi buộc ḷng nhặt một ít bỏ vào miệng nhai, nhai và nuốt, tôi cảm thấy có cát đất đi vào bao tử với nhúm bèo cám. Tôi nghĩ bao tử tôi reo vui khi làm vai tṛ sinh nhiệt cho thân tôi.

Trời lại sắp mưa, gió giật, gió quyện vào nhau cuốn từng cộng rác to nhỏ xoáy tṛn bay cao lên khoảng trời đen sẫm. Trời mưa rồi, tôi trườn qua một mái tranh sụp xuống gần ngang mặt đất. Tôi nghe ai đó nói chuyện bên trong. Tôi chắc chắn chúng là lũ ác ôn VC đây rồi! Tôi lặng yên trườn đi nhanh xa chỗ đó. Tôi lại may mắn bởi trời đă đổ mưa to, VC chúng núp trong mái tranh nên đă không phát giác ra tôi! Thật quá căng thẳng đến nỗi tôi nghe được cả nhịp tim tôi đập liên hồi trong lồng ngực.

Tôi lại may gặp con rạch nhỏ, tôi trườn ḿnh đi nhẹ nhàng đến nỗi không một gợn sóng lan ra trên mặt nước. Tôi tạm nghĩ ngơi, hít thở những hơi dài, coi như rất sảng khoái. Tôi đă cách xa cḥi lá giết người lúc năy rồi.

Hai bàn tay tôi chừng như ră rời, những chỗ bị thương máu đă khô đặc lại, khi gặp nước làm tôi cảm giác xót buốt vô cùng! Thực ra tôi không c̣n sức di chuyển nữa rồi. Lúc bấy giờ tôi đang bên bờ sông Thạch Hăn. Tôi cẩn thận ṃ xuống ḍng sông ngước nh́n t́m chỗ trú an toàn. Tôi biết tôi có thể ngủ ngay tức khắc! Do vậy tôi phải t́m cách nào kín đáo nhứt để ẩn thân đi vào giấc ngủ vùi hẹn ḥ nhiều mộng mị.

Tiếng pháo nổ gần làm tôi tỉnh ngủ, tôi thấy ḿnh đang nằm vắt trên hai rễ cây, ch́m dưới làn nước của bờ sông Thạch Hăn. Lúc đó mặt trời lên giữa đỉnh đầu, nắng gay gắt, không thấy có chút gió nào. Toàn khoảng không gian như bị tan tác, xé ra từng mảnh bởi những phi cơ phản lực oanh tạc thay nhau thả bom liên hồi xuống rặng núi phía Tây là dăy Trường Sơn.

Tôi bước vào ngày thứ năm trên băi chiến trường chết người. Tôi luôn luôn nghĩ là tôi vô cùng may mắn. Trời đất cho tôi nhiều ân huệ, ngày nắng gắt cung cấp cho tôi nhiều năng lực ấm áp để rồi đêm đến trong cơn mưa lạnh tôi có đủ sức trườn đi, ṃ về miền an toàn nhanh hơn.

Tôi trông thấy nhiều thùng đạn pháo in chữ Tàu, trên bờ Bắc sông Thạch Hăn, đựng trong những bao plastic, nói lên một thực tế là quân VC đang kiểm soát phần đất phía Bắc ḍng sông định mạng Thạch Hăn! Biết vậy tôi tự bảo tôi phải nhanh chóng lánh khỏi nơi tử địa này, bơi sang phía Nam càng sớm càng tốt.

Lợi dụng trời tối, tôi nhẹ nhàng hết sức, cố bơi sang bờ Nam của ḍng sông mà không để lại bất cứ một lượn sóng nào, bởi tôi biết rất rơ là do làn sóng lan ra đó, VC sẽ phát giác ra tôi và rồi tôi sẽ lănh ngay một tràng AK kết liễu đời ḿnh!

Khối nước to lớn và đám bèo trên mặt nước của ḍng sông làm rớt đi những mảng đất sét ngụy trang trên cái thân ốm đói của tôi. Vết thương trên đùi phải cũng bớt đau dai dẳng mấy ngày qua. Rồi cũng đến lúc tôi ṃ tới được bờ Nam rồi.

Tôi t́m xem nơi nào có lỗ trống để tôi lết thân lên bờ. Tôi dùng hai tay bám vào mặt đất mà trườn lên bờ Nam rồi chui vào trong đám cỏ. Tôi trườn đi giữa những đám cỏ cao ngang ngực, khi bóng chiều xuống nhanh, mặt trời khuất sau dăy Trường Sơn, ánh sáng cuối ngày c̣n vất vưởng trên cánh đồng mênh mông đầy mùi tử khí.

Mưa đêm qua lớn quá nên qua một ngày nắng gắt rồi mà vẫn c̣n nước đọng lại trên đường đi giúp tôi trườn tới dễ dàng như đang bơi lội trên đám cỏ sũng nước. Cứ lập đi lập lại măi động tác hai tay dang ra phía trước nắm cỏ kéo lê thân đi, chưn trái đạp vào đất! Cố gắng, tiếp tục cố gắng nữa. Muốn sống phải vươn lên.

Chắc cũng được vài trăm thước rồi th́ phải, tôi cảm thấy đuối sức, hết hơi trườn tới nữa rồi! Băi cỏ voi cao quá, cao quá không ai có thể nh́n thấy tôi nằm trên láng cỏ ướt đó. Tôi thấy khát nước vô cùng, muốn uống bất cứ nước ǵ để thỏa măn cơn khát.
Bất ngờ, may mắn làm sao, tôi thấy loáng thoáng vài anh lính Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Ḥa lom khom chạy qua gần bên tôi. Tôi đă vận dụng hết sức mạnh c̣n lại để gọi:

- Thủy Quân … Lục Chiến...

Tiếng tôi đứt khoảng v́ không đủ hơi. Sau khi nói lên chữ “Lục Chiến”, tôi hoàn toàn hết hơi. Tôi đă hiểu tôi có cuộc gặp gỡ ly kỳ này là trời cho.
- Đứng lên! Giơ tay lên!

Một anh lính TQLC chĩa súng chăm chăm vào tôi và gằn giọng ra lịnh:
Tôi nghe cái lịnh “đứng lên” của anh ta mà tức giận:
- ĐM! …thiếu úy… hoa tiêu … trực thăng … găy chân...

Sau câu nói hết sức lực đó, tôi như đi vào hôn mê.
Bầu trời sụp tối, gió chiều đă thổi mơn man qua mặt tôi như bàn tay bà mẹ hiền vuốt má đứa con thân yêu. Tôi thấy nhẹ nhàng lâng lâng, trút mọi lo âu cho quá khứ. Một anh TQLC ḅ đến sát bên tôi, nói th́ thầm vào tai tôi:
- Thiếu Úy, Thiếu Úy, bám vào lưng tôi để tôi ḅ kéo Thiếu Úy vào…

Chưa bao giờ tôi được nghe hai tiếng “thiếu úy” yêu thương như lúc này, trong khi trên người tôi chỉ c̣n cái quần đùi! Hai tiếng gọi: “thiều úy” tức là anh em TQLC đă nhận ra tôi là đồng đội, là phi công lái trực thăng. Trước sự sống, toàn thân tôi như liệt đi, tôi nói nhỏ:
- Lấy dây lưng TAB nối vào nhau, cột hai tay tôi và kéo, tôi không bám nổi.

Anh TQLC ḅ vào chỗ trú quân của anh. Mặt trời lặn hẳn rồi, nhưng đứng gần cũng c̣n nh́n rơ mặt nhau. Gió Đông Nam nhẹ nhàng đưa hơi nước mát ḷng, mát dạ đến vùng chiến địa cài răng lược, quân ta và quân VC đóng xen kẽ nhau.

Quả là phước đức vô cùng, đêm nay trời không mưa. Thật mầu nhiệm của Ơn Trên ban thưởng cho tôi. Tôi yên lặng tận hưởng sự sống lại, không thể nói lời nào khác nữa trong giây phút này, nhưng trong thâm tâm, tôi vui mừng khôn xiết, tôi biết rằng tôi đă được cứu, tôi được sống từ giờ này.

Vài phút sau, hai anh lính TQLC lại ḅ đến bên tôi, một anh nằm sát đất, anh kia nâng tôi lên lưng anh nọ, rồi cả ba trườn vào nơi ẩn núp, nơi tuyến đầu xen kẽ cài răng lược giữa quân ta với địch. Nơi đây tôi lại bất ngờ gặp Thiếu Úy Thanh, một người bạn vốn là sinh viên sĩ quan cùng tiểu đội với tôi khi cả hai cùng được huấn luyện tại Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức.

Thanh ngồi xuống, ôm lấy tôi từ từ nâng tôi ngồi dậy, cả hai ôm choàng nhau, nước mắt ràn dụa, chúng tôi nhắc lại kỷ niệm thời sinh viên sĩ quan khi cả hai cùng tŕnh diện sĩ quan cán bộ v́ bị phạt dă chiến 4 đêm, làm chúng tôi luyến tiếc thời khóa sinh. Thanh trao cho tôi một điếu Rubi quân tiếp vụ. Điếu thuốc thấm nước phân nửa, ngả màu vàng, cong ṿng, nhưng khi hít một hơi thông suốt th́ thấy ḷng sảng khoái.

Bấy giờ chắc khoảng 9 hay 10 giờ đêm, khác với những đêm mưa tầm tă vừa qua, đêm nay mưa chỉ lấm tấm đủ làm ướt áo khách qua đường. Tôi được chuyển sang vùng an toàn hơn. Rời chỗ Thiếu Úy Thanh chia tay lưu luyến, tôi bắt tay cám ơn từng anh em và Thanh. Tôi dặn ḍ các anh nên hết sức cẩn thận, v́ sau mỗi lùm cỏ cao có VC núp.

Tôi được đưa đến bộ Chỉ Huy Đại Đội, bởi tuyến đầu của Thanh, hai bên cọ sát đương đầu nhau trong gang tấc. Tôi được một anh lính TQLC cơng, ba anh khác đi theo phụ giúp, hai anh hai bên, và anh thứ ba phía sau. Con đường chuyển tôi đi qua nhiều dốc đất sét, đất sét gặp nước mưa làm con đường càng trơn trợt nguy hiểm, dễ dàng té ngă.

Chúng tôi tới Bộ Chỉ Huy Đại Đội, nơi đây có bao cát chung quanh. Tôi hoàn toàn kiệt sức, bởi v́ tôi phải dùng hết sức ḿnh ôm chặt anh TQLC kḥm lưng cơng tôi. Do vậy, với ân t́nh huynh đệ chi binh xứng đáng ngàn vàng đó tôi đă lấy hết sức tàn để siết tay và nói lời cám ơn 4 anh TQLC vừa gan dạ vừa t́nh nguyện hy sinh cơng tôi ra khỏi bàn tay của tử thần. Tôi nhờ TQLC gọi máy liên lạc về Huế, và Đà Nẵng cho họ biết là tôi đă được cứu về đến nơi an toàn. Lúc đó, một anh TQLC đến bên tôi hỏi:
- Thiếu Úy đói lắm hả, uống sữa nhé, chúng tôi cũng có ḿ Quân Tiếp Vụ.
- Không, cám ơn anh quá đi, tôi chỉ buồn ngủ thôi.

Tôi đáp nhanh và rơi vào giấc ngủ hồi nào không hay.

Đến sáng, khoảng 7 hay 8 giờ, một chiếc xe thiết vận xa M113 đến trước Ban Chỉ Huy Đại Đội để chở tôi đi. Tôi vui mừng khôn xiết, nhắm mắt lại mơ màng. Trước khi chiếc M113 di chuyển, anh Đại Đội Phó bắt tay tôi siết mạnh và chúc mau lành để trở lại chiến trường với anh em. Anh cười, và cho biết thêm rằng lúc hơn 2 giờ khuya, một phi hành đoàn của Trung Úy Lưu, Phi Đoàn 233 có liên lạc với TQLC để đến bốc tôi về bịnh viện, nhưng anh từ chối v́ an ninh cho cả Đại Đội ban đêm. Đạn và súng cối VC sẵn sàng tấn công vào Đại Đội khi trực thăng đáp xuống rước tôi. Anh đă khước từ nhiều lần mặc dù Trung Úy Lưu khẩn khoản và nói rằng Trung Úy Lưu sẽ tắt hết đèn và tắt máy để đáp xuống bất ngờ. Tôi nghe chuyện mà thương cho người đứng đầu chiến tuyến, thương và cảm phục t́nh chiến hữu trong quân đội, thương Trung Úy Lưu.

Hơn nửa giờ sau th́ chiếc M113 dừng lại, tôi được khiêng ra khỏi xe, tôi cám ơn các anh kỵ mă can trường. Xe đă lui mà tôi c̣n nghe lời chúc mau b́nh phục của họ.

Tôi nh́n quanh quan sát, đây là trạm cứu thương giữa chiến trường, Bác Sĩ Quân Y TQLC nh́n tôi e ngại, thương t́nh. Lúc đó, trên người tôi chỉ có một chiếc quần lót lẫn śnh đất. Xót xa quá, nên bác sĩ lấy bộ đồ rằn ri TQLC có đính huy hiệu Quân Y, và bảo mấy anh y tá mặc vào cho tôi.

Thú thật, trong bộ quân phục Binh Chủng anh hùng đó, trông tôi mạnh mẽ hơn lên. Tôi cám ơn họ nhiều lần, bác sĩ và binh sĩ TQLC can trường c̣n trẻ quá.

Mặc xong bộ quân phục TQLC, một xe tải thương đă sẵn sàng để chuyển tôi về nơi an toàn hơn nữa để trực thăng đến bốc về bịnh viện. Xe chạy trên đường đất đỏ có một hàng cây bên trái. Gió buổi sáng len vào thùng xe làm tôi cảm thấy dễ chịu. Có lẽ sau đêm ngủ ngon lành nhiều mơ mộng vui tươi, tôi như có thêm nhiều sức lực. Sức lực có thêm là nhờ t́nh người, t́nh đồng đội, t́nh chiến hữu trong đấu tranh sinh tử có nhau.

Xe cứu thương dừng lại nơi có tên Ngă Tư Quốc Tế, đây là Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 147/TQLC. Tôi được khiêng xuống, và xe cứu thương trở lại trạm Y Tế Tiền Phương, nơi có bác sĩ cứu tôi

Nằm trên băng ca nơi yên ổn, có người chăm sóc thân mến, ḷng tôi rộn ràng nghĩ đến anh em ở Phi Đoàn 233 chắc đang chờ gặp tôi. Mắt tôi lơ đăng nh́n bầu trời xanh, mây trắng mà thầm cám ơn Thượng Đế, các đấng Thần Linh đă che chở cho tôi. Cám ơn những đêm mưa đầy sấm sét. Cám ơn người chết nằm giữa đường, xương sọ, xương người trắng hếu. Cám ơn Quân Đội đă sản sanh ra những người chiến hữu sống chết có nhau.

Tôi về nơi yên lành mà sau lưng c̣n bao nhiêu lính trận phải mở mắt to lên, ngày đêm cho dù buồn ngủ đến cay xé. Làm sao đủ từ ngữ để nói lên tinh thần hy sinh cao cả của những người lính TQLC trên tuyến đầu lửa đạn.

Bây giờ, ngồi ghi lại những ḍng chữ nầy, ḷng tôi vẫn c̣n bồi hồi, cảm động. Tôi thắc mắc tại sao ngày đó người lính miền Nam gan dạ đến như vậy? Lư tưởng bảo quốc, an dân? Lao vào mục tiêu, biết ḿnh sẽ hy sinh, nhưng vẫn có biết bao nhiêu người trẻ t́nh nguyện.

Riêng chuyện của chính tôi, tinh thần nào là động cơ để 4 người lính TQLC không ngại bị ngă gục khi cơng tôi ra ngoài vùng binh lửa, cài răng lược.

Tôi đă trườn đi năm đêm rồi, quăng đường dài chắc hơn 5 cây số, dẫy đầy ḿn bẫy và dây điện thoại của Cộng Sản! Tôi mang ơn những người lính Mũ Xanh nầy biết bao nhiêu! Ôi t́nh người, t́nh chiến hữu.

Một phi vụ cứu cấp không thành:
Thiếu Úy A-37 Nguyễn Hàn gan lỳ của chúng tôi đă hy sinh sau hai ngày lần ṃ về miền an toàn!

Phi công phụ Trịnh Hữu Văn bị VC bắt sau 4 ngày thoát hiểm, sau này Văn được thả ra từ nhà tù miền Bắc, hiện nay, Văn cư trú tại Houston.

Xạ thủ Tuấn, người trai xứ Huế không biết bây giờ ra sao?

C̣n cơ phi Vơ Văn Xôm?

Lúc tôi c̣n nằm trị thương tại Trung Tâm Y Khoa Không Quân Tân Sơn Nhứt, th́ chiếc quan tài của cơ phi Xôm được chuyển đến và hôm sau, trực thăng đưa về quê của Xôm ở Cai Lậy! Xôm t́m về gần đến vị trí của TQLC th́ bị lộ và VC đă giết, tiểu đội Trinh Sát TQLC đă t́m được xác Xôm với tấm thẻ bài!

Ngày 7/10/1972 tôi bị bắn rơi, 5 ngày sau, ngày 12/10/1972 được anh em TQLCVN cứu về, tôi được đưa vào bịnh viện của Không Đoàn 366 của Không Quân Hoa Kỳ Đà Nẵng, được trị thương săn sóc tốt lành như chính những người lính Mỹ.

Tất cả họ là đồng đội của tôi, tôi nợ mạng sống với các anh, làm sao tôi trả nổi? Và phép lạ nào kéo tôi từ Houston TX đến đây, Little Saig̣n CA này, đúng lúc đến nhà quàn để tiễn biệt một ân nhân. Tôi không bao giờ quên những người anh em Mũ Xanh Anh Hùng./.

huudangdo1
02-28-2021, 18:19
WoW !...Cám ơn Huynh Hoanglan22 đă tiếp tục đăng những H́nh Ảnh và Chiến Tích Oai Hùng của Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa năm xưa !...Như những kỹ niệm Thời Chinh Chiến mà Chúng Ta ra đi vẫn luôn ghi nhớ trong ḷng và măi măi !...

Thân Chúc Huynh Hoanglan22 và Gia Đ́nh 1 Năm Mới TÂN SỬU 2021 được Sức Khỏe Dồi Dào & An Khang Thịnh Vượng và Vạn Sự Như Ư !...
Thân Chào Huynh !

hoanglan22
03-01-2021, 15:59
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1748665&stc=1&d=1614613619

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1748666&stc=1&d=1614613619

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1748667&stc=1&d=1614613619

(H́nh 1) Các Sĩ quan TĐ11 Nhảy Dù tại sông Bồ 1973
Từ trái sang phải: Dũng, Quân, Thông, Tuấn, Oanh

(H́nh 2) Trung Tá Nguyễn Đ́nh Bảo và Đại Tá Trương Vĩnh Phước TLP/SĐND
tại Kampuchea

(H́nh 3) Phù hiệu TĐ11 Nhảy Dù


Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, với huy hiệu Song Kiếm Trấn Ải, sau khi ngậm đắng nuốt cay phải để Mũ Đỏ Nguyễn đ́nh Bảo ở lại với Charlie, mối đau c̣n thấm trong tim gan, trong ḷng mọi quân nhân các cấp, cho tới ngày 15 tháng 4 năm 1972, ngoại trừ các con chim không may bị sa vào tay giặc, vài con chim cuối cùng trong đàn chim lạc của Song Kiếm Trấn Ải c̣n t́m về với gia đ́nh của ḿnh tại căn cứ Metro nơi đóng quân của Pháo Đội C1 Nhảy Dù, mấy ngày nay Pháo Đội C1 Nhảy Dù, theo lệnh trên nên cứ năm hay mười phút, lại cất tiếng vang vang trên dăy trường sơn, súng đại bác bắn tiếng một, như tiếng chuông chùa ngân vang khi chiều tàn, nghe đến năo ḷng, tiếng súng đại bác như tiếng pháo đơn lẻ vô duyên, ôi! Tiếng súng đại bác như tiếng quốc kêu từng tiếng một, từng tiếng một tha thiết gọi đàn!

Nhớ bạn (nước) đau ḷng con quốc quốc
(bà Huyện Thanh Quan)

Mục đích để những anh em thất tán nghe tiếng pháo, may ra có ai c̣n đủ sức, định hướng trở về, nhưng hy vọng cuối cùng không c̣n nữa, những ngày sau đó không c̣n một tăm hơi nào, tuy vậy thỉnh thoảng tiếng súng Đại Bác lại cất tiếng ngân vang, niềm hy vọng tuy dập tắt, nhưng ḷng người vẫn c̣n nhen nhúm đợi chờ, niềm tin nhẹ bay, người pháo thủ Mũ Đỏ, không nói một lời sau khi bắn đạn đi, đạn sẽ rớt vào một điểm nào đó vùng Charlie và anh không sao ngăn nổi giọt lệ, nhẹ lăn trên g̣ má rám đen v́ khói súng, hay phải chăng vết tràm do nắng cao nguyên; tiếng thở dài nhẹ nhàng nhưng chứa chất nỗi căm hờn khôn tả, núi rừng như thấu ḷng người, chưa hết xuân mà hoa biếng nở, chim chẳng muốn nô đùa cùng nắng chói chan, tất cả đều đă ch́m ngập, trong tiếng thở dài u uẩn nghẹn ngào, trong ánh mắt căm hờn, thù này khó quên thù này phải ghi khắc trong tim, trong gan, trong từng thớ thịt, trong từng tế bào, cúi mặt chiêu niệm, linh hồn các chiến hữu Mũ Đỏ trong đàn chim không may gẫy cánh, tiếng pháo như tiếng kêu của chim Gia Gia, nghe muốn đứt từng khúc ruột.

Thương bạn (nhà) mỏi miệng cái Gia Gia
(bà Huyện Thanh Quan)

Charlie hăy yên nghỉ, một ngày nào nữa đây hận này không quên, hận này phải trả, chim thần ưng anh dũng muôn phương, đôi chân dũng mănh càn qua chiến khu mà bọn quỉ đội nốt người cho rằng bất khả xâm phạm, chiếc mỏ cứng đập tan tành chủ nghĩa vô thần của loài quỷ đỏ, cánh đại bàng tung mây lướt gió, sóng trùng dương không làm chim mỏi cánh, nhưng không may gió trường sơn làm chim gẫy cánh, người ta không chú ư đến những chuỗi ngày oanh liệt của chim, người ta sẽ chú ư đến lần chim không may gẫy cánh, và họ sẽ nhắc nhở trăm ngàn lần chim mắc nạn, vết tràm khôn gột rửa được.

Thứ hai ngày 17 tháng 4 năm 1972 Thiếu Tá Lê văn Mễ tiểu đoàn phó được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Trưông Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, cũng là ngày TĐ11ND chính thức mang vành khăn tang Cố Đại Tá Nguyễn Đ́nh Bảo, để trở về Sài G̣n chỉnh quân, đàn chim ưng về tổ ấm, chau chuốt lại bộ lông, mầu hoa rừng, vuốt lại móng để tung cánh trở lại núi rừng, trở lại ngàn khơi, đua cùng cây cỏ, cùng núi rừng, cùng đại dương bát ngát, móng vuốt này thử sức cùng bọn quỷ đang dầy xéo quê hương, mọi người im lặng nh́n nhau không nói , không nỗi đau nào cay đắng hơn, một lễ tuyên dương ngắn ngủi, một lễ truy điệu âm thầm, dù nắng mưa đă làm chai đá đời chiến binh, dù sa trường đă tôi luyện chí anh hùng trở thành sắt thép, nhưng cuộc chia ly này đă làm nát gan tím ruột! Ôi ! gịng nước mắt nào đây! Tuy không chan ḥa, như nhi nữ thường t́nh, không bi lụy như thiếu phụ Nam Sương, nhưng gịng nước mắt đắng cay, cô đọng lại, nay mới có cơ hội tràn ra, để nung chí tang bồng, cho thương yêu chồng chất được tỏ bầy, cho căm hờn được nung nấu, cho lời thề được xác nhận.

Ta đi đi lời thể nguyền,
Tung gươm thiêng
Đời hùng cường
Quyết chiến đấu đoàn quân ra đi,
.................... ........
Sa Trường... Thấp thoáng bóng mây,
Muôn bóng (quân) Dù bay rợp trời,
(Lục Quân Việt Nam)

Trời Kontum ảm đạm, hàng phượng vĩ không buồn nở hoa, gió biếng cuốn những lá rơi rụng bên đường, mặt trời buồn ngái ngủ, nắng ban mai khép nép chưa hiện h́nh, đoàn trai phong sương lên xe ngồi im bất động, tiếng cười đùa vô tư đă bị lễ truy điệu mang theo, ngay ngắn thẳng hàng trong tư thế nghiêm chỉnh, mắt họ nh́n về phương trời xa xôi cuốn hút, núi đồi như mang mang nỗi khắc khoải trong ḷng, họ trở về Pleiku, họ trở về Sài G̣n-Long B́nh nơi nung nấu chí phục thù, nơi hun đúc chí nam nhi, quyết tâm rửa hận.

Đoàn hùng binh hiên ngang nh́n trong trời sương, (LQVN) chỉ ít ngày sau quân trang được cấp phát, quân số được bổ xung, kỹ thuật tác chiến, được trau dồi nhuần nhuyễn, cũng vừa đủ thời gian các quân nhân, trong đơn vị nhận diện nhau cùng một khu bưu chính, rồi đoàn hùng binh sẵn sàng lên đường, gươm đă mài xong, chí khí đă vững mạnh bùng lên hùng hồn, tinh thần đă xung mănh; hôm nay biết bao nhiêu giới chức đến khích lệ, biết bao nhiêu quan khách, dùng lời lẽ khích tướng khi đoàn quân chuẩn bị lên đường, ngày mai đàn chim Song Kiếm Trấn Ải, giă từ Long B́nh, giă từ Biên Ḥa, giă từ Sài G̣n và không quên giă từ người yêu thương để lên đường trả đại thù cho đơn vị, lần này lên đường không thăm Tây Nguyên với các em má đỏ môi hồng để trả nợ núi sông, mà lên đường thăm người em sông Hương núi Ngự, với hành trang quyết tâm bảo vệ quê hương, phải giành lại phần đất đă mất về tay giặc, cũng cần phải rửa hận cho vơi đi sầu thương nhớ.

Huế, Huế không một bóng h́nh thân thương lai văng, để Huế diệu vợi, để Huế thơ mộng như ngày nào, mà Huế điêu tàn hoang phế, thân xác em trông thật ră rời, núi đồi kia im ĺm hờ hững, ai phụ nhau trong chiều hè oi ả, anh nâng em đứng dậy để vang khúc an b́nh, mùa hạ này, có trai, có gái, có già, có trẻ, để khúc ca mới lưu truyền cho hậu thế, cho ngàn đời sau, cho vạn đời sau, em hăy ngồi yên, để anh tô son, cho môi hồng đượm nét đa t́nh, em hăy ngồi đây, cho phép anh gỡ rối bụi tóc trần, tiếng súng xa sẽ không c̣n làm em rùng ḿnh, lo sợ, em hăy ngồi đây, đón nhận t́nh lính nghe em, người yêu ơi! T́nh lính đơn sơ nhưng chân thật, t́nh lính không bay bướm nhưng chưá chan, chất ngất, dài như trường sơn, rộng như biển cả.

Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù, đă xử dụng Trung Đội 2 Quân Cảnh, thuộc Đại Đội 204 Quân Cảnh, quét sạch vấn rác cho cố đô, sống lại t́nh người, ngay ngày hôm sau không c̣n giờ phút lưu luyến Huế nữa, người lính Mũ Đỏ, mắt đăm chiêu nh́n dẫy trường sơn, thách thức lên đường, môi không c̣n mỉm cười, mà mím chặt, để giữ trọn chí căm hờn, đầu óc không c̣n th́ giờ nghĩ tới em, mà đang nghĩ dùng kế nào, để ngăn bước chân thù, đang dầy xéo quê hương, phải rồi! phải tung ngay ra tuyến đầu Mỹ Chánh, nơi địch quân, đang nḥm ngó, nơi địch quân, đang thăm ḍ để vượt qua, nếu địch quân vượt qua Mỹ Chánh dễ dàng, th́ Huế trong tay địch, phải cho địch quân thấy miếng mồi ngon dễ nuốt, nhưng không phải dễ làm, quà nào cho bọn hung thần phương Bắc, chắc chắn quân thù phải đưa thành phần hung bạo nhất, chiếm lấy miếng mồi ngon này, c̣n đợi ǵ mà ngư ông, lại không đưa miếng mồi ngon cho cá cắn câu, địch quân thấy được đơn vị vừa bỏ con chim đầu đàn lại Charlie, chắc chắn tinh thần đang sa sút, vậy c̣n đợi ǵ mà không đặt TĐ11ND vào Mỹ Chánh; tuyến địa đầu hung hiểm, rồi từ đó bọc ṿng cung sang tây nam theo thứ tự Tiểu Đoàn 9 Nhẩy Dù, rồi đến Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù và Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù trong khu căn cứ Ḥa Mỹ, đó nếu muốn chúng tôi ở thế pḥng thủ, phải cho chúng tôi, tự t́m cho ḿnh thế nằm, của rắn cobra để dễ cựa ḿnh, để dễ bề vùng lên, tiêu diệt quân thù, không thể nằm quanh tṛn, như loài rắn cỏ được, một đơn vị chuyên về lưu động chấp nhận tao ngộ chiến, lại bắt nằm một chỗ cúi đầu xuống đất, làm mục tiêu, cho địch quân thực tập tác xạ pháo binh.

Tôi không nghĩ Charlie có thể làm mục tiêu, cho pháo binh địch bắn thực tập, ngày đêm, bắn hàng ngàn quả đạn vừa Hỏa Tiễn, Pháo Binh ṇng ngắn, ṇng dài, súng cối đủ loại, rồi nguyên một sư đoàn SĐ320, sư đoàn mệnh danh là sư đoàn Thép, sư đoàn Diện Biên Phủ của địch, con cưng của Bác và Đảng nhục nhă, luân phiên gửi từng trung đoàn tấn công, địch quân dùng chiến thuật xa luân chiến như vậy, suốt hai tuần lễ, mà Charlie không rữa nát cùng cỏ cây, Ấy vậy mà Charlie vẫn nguyên h́nh, địch vẫn không chiếm được Charlie, sau cùng nếu TĐ11ND không v́ hết lương thực, không v́ hết đạn phải rút lui! Th́ Charlie vẫn c̣n là mục tiêu cho địch thực tập tác xạ Pháo Binh. Nhưng chua cay, là mất Vị Tiểu Đoàn Trưởng v́ trúng đạn pháo binh thực tập của địch, một Tiểu Đoàn Trưởng Nhảy Dù, không phải hy sinh v́ chiến trận, mà hy sinh v́ trúng đạn pháo binh của địch, trong lúc địch thực tập tác xạ, nó đúng như vậy đó quí vị ạ, chiến tranh nó tồi bại như vậy đó, không thua sao được?

Nếu một Tiểu Đoàn Nhảy Dù Việt Nam có một pháo đội pháo binh 105 của QLVNCH yểm trợ trực tiếp và một pháo đội 155 yểm trợ tăng cường khi cần, chỉ cần một ngàn đạn 105 mà thôi, nếu một Tiểu Đoàn địch cũng đến chiếm đóng mục tiêu tương tự như Charlie, trong ṿng một ngày tôi bảo đảm ngày thứ hai là ngày giỗ cho cả Tiểu Đoàn này; nó vô lư đến thế, cùng tận của trận mạc rồi, ấy thế mà nó xẩy đến cho đơn vị Nhảy Dù, đơn vị Tổng Trừ Bị của QLVNCH, hỏi rằng các đơn vị khác c̣n chịu biết bao đắng cay hơn, không ai biết đến, hàng trăm ngàn chiến sĩ vô danh, ngậm đắng nuốt cay, hàng trăm đơn vị của ta bị vùi lấp oan khiên, v́ không được chiến đấu đúng với nghĩa trận mạc, tôi không bao giờ đổ lỗi cho các cấp chỉ huy, nhưng tôi đổ lỗi cho trời cao, đă đọa đầy dân tộc tôi, chịu bao cảnh oan khiên, cho tới mức này, vẫn chưa vừa ḷng trời cao, đất đầy hay sao? Chưa hết sao?

Chiến trường Trị Thiên, lại mời chào chúng tôi; mới ngày đầu vào vị trí pḥng thủ mà sao các bạn phương Bắc đă cạn t́nh, họ dàn chào chúng tôi bằng tất cả lực lượng pháo hùng hậu sẵn có của họ, đủ loại pháo nhắm vào ba pháo đội của TĐ1PBND, sau đó đến các đơn vị khác, v́ dầu sao bộ binh di chuyển cũng dễ ngụy trang hơn, nhưng chúng tôi đă biết trước là sẽ được dàn chào kỹ càng như vậy nên nhằm nḥ ǵ ba cái lăng nhăng này.

Chó sủa mặc chó;
Đoàn Pháo Binh Nhảy Dù luôn tiến tới
Ta hiên ngang, ngày ngày bốn phương trời
Đoàn lữ hành vẫn đi,
(nhái theo Nguyễn Tấn Bạch)

Mũ Đỏ không đi, Mũ Đỏ mạnh bạo tiến vào sa trường, chấp nhận tiến vào vùng tử địa, để Huế được thanh b́nh, để dân chúng miền Nam nước Việt được sống theo ư ḿnh, các đơn vị Mũ Đỏ vào vị trí đă được ấn định, nặng nề nhất vẫn là các đơn vị Pháo Binh, nhưng các đơn vị Pháo Mũ Đỏ, vào vị trí an toàn không một thiệt hại nào, không một ai bị ( rách áo hay thủng quần ) ba pháo đội phải từng khẩu ngụy trang vào vị trí, địch trên cao nh́n xuống, địch bên hông nh́n vào, nhưng chúng tôi vẫn nương theo triền đồi để địch quân không sao nhận diện được, những con gà cồ 105 ly từng con vào cạnh các lùm cây, đầu hướng về phương bắc, xa xa trông vị trí mỗi Pháo Đội không khác ǵ cánh rừng Tràm xanh ngắt, đó chính là công lao và kỹ thuật di chuyển, ngụy trang cao, của các Pháo Đội Trưởng, các Khẩu Đội Trưởng và các Pháo Thủ; chúng bực dọc, pháo liên hồi, nhưng may mắn kỹ thuật Pháo của chúng c̣n non kém, nên thiếu chính xác, nêu đêm ngày một vị quan khách nào đó, đứng quan sát sẽ thấy rằng các đơn vị pháo của địch, đang bắn cận pḥng cho các pháo đội Mũ Đỏ, chúng có thể bắn trúng vị trí pháo của ta, ngoại trừ chúng bắn góc cao, nhưng từ ngày nhập cuộc chúng tôi không thấy chúng xử dụng kỹ thuật tác xạ này, bởi vậy làm sao chúng có thể bắt ép chúng tôi, thiệt hại lúc này được, chúng tôi đă biết để tiên liệu, địch quân có khả năng cối, các loại súng cối 82 ly hay 120 ly bằng cách bắn, theo hướng chúng nhận diện được, nên chúng tôi rất thận trọng những diểm chúng có thể đặt súng cối, các toán viễn thám của Trinh Sát 2 không cho chúng làm được việc đó, Út Bạch Lan trên sân khấu hấp dẫn chừng nào, Út Bạch Lan (Trương văn Út) Đại Đội Trưởng Đại Đội 2 Trinh Sát Nhảy Dù của chúng tôi, c̣n hấp dẫn hơn nhiều, nhiều hơn trăm ngàn lần, tay chân quà quạng, nên ban đêm thích đi ṃ, ṃ lần nào trúng lần đó, v́ vậy chúng đành bó tay trước một địch thủ trinh sát lợi hại, có lẽ chúng chưa bao giờ gặp phải, chúng tung toán nào ra liền bị trinh sát thộp cổ toán đó, những con Thần Thử ŕnh mỗi rất chính xác, các toán tiền sát viên Pháo Binh của chúng, không một toán nào kịp liên lạc về đơn vị gốc, đều đă bị thộp cổ, các đài quan sát trên cao, không thấy rơ các vị trí Pháo của ta, mà chỉ quan sát được khói súng của ta, lơ lửng bay trên đồi non, v́ chúng tôi đóng quân ngang triền đồi, đóng quân như vậy thật gian lao vất vả, đổi lại chúng không thể quan sát được vị trí của ta, đặc công ư chúng chỉ làm tṛ cười cho chúng tôi, các ổ phục kích tự động, ḿn thay người đưa hàng đêm, từng toán đặc công về tŕnh diện bác và đảng, chính v́ vậy càng làm, các cấp chỉ huy của chúng giận dữ, điên cuồng, bằng mọi giá phải trả thu, các đơn vị Mũ Đỏ, phải tiêu diệt những đứa con yêu của Tổ Quốc Việt Nam, chính là lúc chúng tôi dương bẫy lên, đón nhận những con thiêu thân, t́m ánh sáng của ngọn đèn trong đêm tối.

Quả thật đây là một chiến trường bất lợi cho đơn vị mới vào vị trí, ấm ớ là tan hàng ngay, địch ở trên cao hơn, các đài quan sát địch đặt bất cứ chỗ nào cũng nh́n rất rơ cách phối trí của ta, nhiều người ..... lúc đó b́nh phẩm, tại sao lại để TĐ11ND lên trên tuyến đầu, đơn vị mới bị đau thương tháng trước tại Charlie, nhưng họ không sao hiểu được những toan tính của Mũ Đỏ, nào ai biết TĐ11ND bây giờ không phải như các Tiểu Đoàn tái lập khác, cán bộ nồng cốt là các cán bộ cũ dầy dạn, quân nhân các cấp là những quân nhân từ các đơn vị Mũ Đỏ khác kéo qua, nói một cách rất dản dị, ngay lúc này tân binh TĐ11ND c̣n ít hơn, các đơn vị Mũ Đỏ khác, mà quân số lại đầy đủ nhất, trong đoàn quân Mũ Đỏ, bây giờ tiểu đoàn này rất mạnh, rất bén nhậy trong bất cứ chiến trường nào, rất sung mănh trong bất cứ t́nh huống nào, cho nên chấp nhận trách nhiệm đánh lừa địch, miếng mồi nhử cho cá cắn câu, nếu không chịu vào hang làm sao có thể tóm cổ được cọp, lần này TĐ11ND không ở t́nh trạng làm mục tiêu cho Pháo Binh Địch thực tập tác xạ, mà là làm miếng mồi ngon nhử các cấp chỉ huy đang tập đánh vần, để học chiến thuật tứ khoái nhất măn, của quan thầy Mao Sếng Sáng phương bắc xua quân vào bẫy, từ trên xuống dưới đồng ḷng làm tṛ hú tim, thích thú dương bẫy đón nhận những đơn vị tinh nhuệ của địch, biết trước một chọi năm, chọi mười nhưng phần thắng phải trong tay ta, v́ địch thiếu cấp chỉ huy, chịu suy tính, mà chỉ biết thí quân, coi mạng sống cấp dưới như cỏ cây, miễn sao nhận được tiếng chiến thắng, nhưng ảo vọng đó không đến với Quân Đội Nhân Dân Miền Bắc, một khi các đơn vị Mũ Đỏ đă có chuẩn bị, đây chính là dịp tốt để TĐ11ND rửa hận, cho nên ngay khi tới vị trí đóng quân, TĐ11ND bung rộng sang hướng tây liền chạm địch nặng, các cấp chỉ huy đại đội của TĐ11ND đă dùng hỏa lực pháo binh nhanh chóng và chính xác, hàng trăm đạn pháo bao phủ mục tiêu bọn cán ngố gọi là pháo bầy cộng với lối đánh, tốc chiến, tốc thắng, nhất là trên vai c̣n mang nặng ư chí phục thù, vừa gặp địch là đoàn thần ưng tung cánh đại bàng, chụp bắt đàn gà con phương bắc, như chúa sơn lâm gặp nai tơ, địch quân chỉ c̣n hai con đường chọn lựa, một là đầu hàng, hai là phải chết, quá sợ hăi trước một địch thủ vô cùng lợi hại, đơn vị tổng trừ bị của quân đội nhân dân, không c̣n chọn lựa nào hợp với khả năng hơn, chọn lựa đường chém vè, là hợp lư nhất của bọn cáo chồn miền bắc, chúng bỏ chạy như đàn vịt bị cáo vồ, chúng quên rằng các toán tiền sát viên của ta, làm sao bỏ lỡ dịp thực tập này, những pháo thủ đă có đầy kinh nghiệm chiến trường, đưa những loạt đạn CVT chụp lên đầu chúng như hàng trăm hàng ngàn chiếc nơm, chụp xuống đầu đàn cá, bơi trên luồng nước chật hẹp không đường thoát thân, thật tội nghiệp, chúng đành đoạn phải bỏ lại cả xác Tiểu Đoàn Trưởng, cùng máy vô tuyến liên lạc, c̣n đang liên lạc, món quà đầu tay của đoàn chim Song Kiếm Trấn Ải, cũng khá cao đấy, xin các vị đọc tới đây công bằng mà hiểu cho, dù cho có giết được dăm ba tiểu đoàn trưởng của chúng, làm sao có thể sánh với một Nguyễn Đ́nh Bảo của ta được! V́ vậy ta vẫn c̣n đau; huống chi chỉ mới thịt được có một tiểu đoàn trưởng, của SĐ325; Không làm sao gặt hái kết quả cao hơn được, thôi có cũng c̣n hơn không, nhất định chưa chấm dứt tại đây, chỉ tạm an ủi dầu sao chăng nữa cũng là món quà đầu tay, nhờ vậy ta biết được SĐ325CSBV đă có mặt ở bờ nam sông Mỹ Chánh. Trận chiến vừa tạm ngưng, chúng tôi tháp tùng trên thiết quân vận có mặt ngay tại trận địa, để quan sát quân đội nhân dân, đơn vị thuộc SĐ325CSBV, những em bé tuổi cần cắp sách đến trường, nay nằm ngủ ngàn đời tại đây, cuộc chiến này đến bao giờ tàn, tôi thật sự ước mong cho cuộc chiến tương tàn này lắng xuống, để chúng tôi có thể đi thăm những thôn xóm hoang vu từ nam chí bắc, để những em bé xứ bắc không phải nằm chết kinh hoàng tại những nơi dèo heo hút gió như tại đây, tôi cúi xuống nh́n mặt một em có lẽ là cấp chỉ huy của SĐ325. Tôi nói nhẹ nhàng trong lúc vuốt mắt, để em có thể nhắm mắt ra đi.

-Thôi nhé em hăy nhắm mắt ngủ yên, tiếc rằng không có lư lịch, để anh thông báo cho gia đ́nh em biết tin, em đă hy sinh trong cuộc chiến tương tàn, mà chúng ta không có lư do biện bạch, đúng hay sai không là quyền của chúng ta, nhưng miền bắc đă sai lầm mang tai họa, cho miền nam, xua quân xâm lấn, bằng lư do lừa bịp, c̣n anh và em chúng ta một ngày nào đó, những người c̣n sống phải ôm nhau, nh́n nhau nhận ra chúng ta cùng gịng giống Tiên Rồng, chúng ta phải thương nhau để mà sống, để cùng nhau xây dựng đất nước Việt Nam. Chúng ta đă phí phạm quá nhiều tinh hoa, của đất nước! Thôi nhé vĩnh biệt em.

Tin t́nh báo của QĐ1 chúng chuẩn bị đánh Huế quả không sai, nếu đơn vị Mũ Đỏ không có mặt kịp thời, không chừng Huế cũng không hơn Quảng Trị bao xa, nh́n vào tác phong, của những quân nhân vô kỷ luật, ngoài đường phố Huế những ngày qua, mọi người đều ngao ngán cho Huế, ai cũng xót xa cảm nhận rằng, những quân nhân vô kỷ luật này, đang mời mọc niềm bất hạnh cho Huế, cho nên ai cũng phải lo ngại cho số phận của Huế, thêm vành khăn sô cho Huế hay sao? Nếu không có ai đó vực Huế thức dậy, Huế c̣n phải ngái ngủ, ngơ ngác đến bao giờ?

Lần này Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù ra quân rất cẩn trọng, coi gị, coi cẳng tới cấp chỉ huy thấp nhất trong đơn vị tiền quân, mọi người không muốn thí quân, phải chắc ăn mới đánh, những tên khát máu chuyến này, chắc chắn phải nhận lănh chua cay, bởi v́ trận này đơn vị Mũ Đỏ toàn quyền quyết định, không c̣n bị bó tay như Tây Nguyên, mọi người đă khóc Nguyễn Đ́nh Bảo, như tiễn đưa người anh em ruột thịt, Đ/T Lịch đă làm hết sức của ông nhưng trên không chấp thuận, ông muốn chứng tỏ cho mọi người thấy tận mắt thế nào là sở trường, thế nào là sở đoản của các chiến binh Mũ Đỏ, ông muốn cho mọi người thấy, cách phối trí quân, linh động, khi ẩn, khi hiện, đoàn quân Mũ Đỏ khi ẩn (ngụy trang kín đáo), khi hiện (tung quân t́m địch) đánh lừa địch quân, làm cho chúng phải rối loạn, không sao có thể ḍ la cách phối trí quân của ta một cách chính xác được, đoàn quân Mũ Đỏ đôi lúc muốn cho địch quân thấy rơ sơ hở của ḿnh, cố t́nh che dấu những tụ điểm lợi hại, để dụ cho địch quân phải đánh v́ chúng tưởng đây là đơn vị mới bị thiệt hại, mới bị lao đao cho nên rất dễ ăn, nhử chúng vào ṿng tử địa cho Song Kiếm Trấn Ải rửa hận, quả nhiên địch quân....Những cấp chỉ huy lực học chưa qua bậc tiểu học, những tên cai của đồn điền cao su phải suy đoán như vậy, không thể nào khác hơn, sự lầm lẫn đó chứng minh, cho bọn cuồng đồ thấy được chân tướng của chúng, chân tướng của bọn khát máu sinh Bắc tử Nam.

Địch có nội tuyến từ đâu đó, nên rất rơ vị trí đóng quân của các đơn vị Mũ Đỏ, một trăm ngàn lần như vậy, nhưng chúng không thể biết cách phối trí quân của từng đơn vị Mũ Đỏ, kinh nghiệm khi chúng tôi tăng phái cho các Quân Đoàn là chịu đắng cay như nhau, địch quân biết tên từng đơn vị Mũ Đỏ tham chiến, tên cấp chỉ huy Mũ Đỏ, nhưng địch làm sao biết rơ sức mạnh của từng đơn vị Mũ Đỏ được, nên địch đă lầm và đành nhận lănh thảm bại, nếu chúng biết là các cấp chỉ huy của QLVNCH, không khờ dại như khả năng suy đoán của chúng, nếu chúng suy đoán được các cấp chỉ huy của đoàn quân Mũ Đỏ, có tŕnh độ tác chiến trên cơ chúng, th́ chúng phải hiểu rằng: Đơn vị tuyến đầu của Mũ Đỏ, phải là đại diện cho đoàn quân Mũ Đỏ, tất nhiên không phải là đơn vị yếu như chúng tưởng, th́ chưa chắc đă có trận thư hùng này.

Cũng vẫn bài ca Tiên Hạ Thủ Vi Cường, chúng pháo vùi dập các đơn vị Mũ Đỏ, nhất là TĐ11ND và các pháo đội, là bị pháo thật kỹ càng nhất, hiện tại Song Kiếm đang Trấn Ải địa đầu, nhưng đây không phải là Charlie, các chiến sĩ Mũ Đỏ được quyền lựa chọn vị trí pḥng thủ miễn sao làm tṛn phận sự của ḿnh là được, nên vị trí pḥng thủ dập dờn như ở ngay bờ sông, thực tế ở cách xa bờ sông, nếu dại dột đóng quân ngay trên bờ sông Mỹ Chánh, đúng là làm mồi cho chiến xa, địch quân thăm ḍ nhiều lần chắc chắn chúng phải hoang mang, chắc chắn chúng không xác định được tuyến pḥng thủ chính của ta, bây giờ các cấp chỉ huy Mũ Đỏ, biết rơ khả năng của các đơn vị nhỏ nhất, từ dưới lên trên phối hợp nhịp nhàng, trung tâm phối hợp hỏa lực của TĐ1PBND Thiếu Tá Đinh Thành Tấn trưởng ban 3, đă sẵn sàng những hỏa tập bên phía bắc và phía nam sông Mỹ Chánh, các hỏa tập đă được các Tiền Sát Viên Pháo Binh phối hợp cùng các Đại Đội Trưởng nằm ngay tuyến đầu, chung ư thiết lập và điều chỉnh kỹ càng, các Pháo Đội Trưởng kỹ thuật cao, kinh nghiệm chiến trường dầy dặn quyết tâm trong trận thư hùng này, nên đă định liệu các loại đạn cho từng hỏa tập, cách bắn làm sao an toàn tối đa cho quân bạn, thiệt hại tối đa cho địch quân, theo đúng ước mong của mọi người, v́ cùng đội chung mầu nón Đỏ, cho nên tất cả mọi chiến binh Mũ Đỏ dù là Công Binh, Bộ Binh, Truyền Tin, Pháo Binh, Quân Y hay Trinh Sát cũng đều chung nhịp thở, cùng chung một mối hận, cùng chung một ư chí phục thù, ngh́n người như một phải chiến thắng, phải trả thù, tất cả đều nắm tay, dơ cao, với ư chí, quyết chiến, quyết thắng, nếu để họ hô to lời sắt đá này, chắc phải chấn động núi rừng, chim muông thú dữ phải náo loạn, như vậy sẽ bị lộ rơ mục tiêu cho quân thù, đoàn quân Mũ Đỏ âm thầm dơ tay cao, bàn tay nắm chặt, im lặng ngước mắt nh́n trời... Xin trời cao... Xin trời cao, đón nhận ư chí sắt thép này.

Khi LĐ2ND vừa phối trí quân xong, Đại Đội 2 Trinh Sát Nhảy Dù liền bung các toán viễn thám, xâm nhập vào vùng phía bắc của sông Mỹ Chánh, đây chính là con mắt nh́n thẳng vào tim gan địch; các toán viễn thám này, làm địch quân phải điên đầu, chúng bung quân lùng kiếm, nhưng vô ích, đôi khi các toán Viễn thám cho tọa độ điểm đứng, địch quân thiếu ǵ chuyên viên giải mă, ngay lập tức chúng cho đại quân đến, bao vây điểm đóng quân của Viễn Thám, nhưng than ôi! Chúng không thấy toán Viễn Thám đâu, chúng thấy ngay, một trận hỏa lực, do từng trưởng toán viễn thám thiết lập chụp xuống đầu chúng, thê thảm thay không diệt được tai mắt của Mũ Đỏ, mà lại mang thiệt hại nặng nề cho đơn vị.

Hôm nay cũng là lúc LĐ3ND mới từ An Lộc ra mang theo TĐ2ND, TĐ3ND, TĐ5ND, TĐ2PBND và các đơn vị cơ hữu, yểm trợ của Lữ Đoàn này, TĐ5ND do Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu chỉ huy, Thiếu Tá Lê Hồng tiểu đoàn phó, TĐ5ND là tiểu đoàn thống thuộc, cơ hữu của LĐ2ND cho nên được trả về đơn vị mẹ và được điều động thọc thẳng vào sườn tây, v́ sườn tây c̣n trống trải, nhất là ngày đầu nhập cuộc, TĐ11ND vừa tiến ra sướn tây chừng vài cây số là đụng độ mạnh ngay lập tức, cái nhọt bên hông cần phải nhổ đi mới được, LĐ2ND tin tưởng có đơn vị địch ém quân đâu đó, hoặc ít nhất cũng là những toán đầu cầu, t́nh báo của các đơn vị Mũ Đỏ luôn luôn kém hơn các đơn vị địa phương, theo Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn th́ chúng chuẩn bị dứt điểm Huế cho nên chúng phải có đơn vị làm đầu cầu sẵn, khi chúng thấy các đơn vị Mũ Đỏ nhập cuộc chúng đành ém quân tại chỗ, quả như vậy khi TĐ5ND thọc sâu vào chân núi, theo hướng tây bắc, không đi theo bờ sông Mỹ Chánh, mà TĐ5ND tiến quân theo dẫy rừng tràm tuy không cao, nhưng đủ che những cặp mắt quan sát của địch quân, quả như vậy dấu tích của loài chồn bắt buộc phải lộ diện, khi đoàn quân Mũ Đỏ vừa bắt đầu lên đồi, là gặp phải sức kháng cự mănh liệt của địch quân, hang ổ của chúng bị khám phá, địch xử dụng pháo từ La Vang bắn xuống, từ dẫy trường sơn bắn ra và các loại súng cối từ phía bắc bờ sông Mỹ Chánh bắn lại, làm khó khăn cho TĐ5ND, nhưng với cách phối hợp hỏa lực nhịp nhàng, ăn khớp với nhau, TĐ5ND đă làm chủ chiến trường rất mau lẹ, sau gần hai giờ giao tranh TĐ5ND đă tiêu diệt trọn một đại đội địch, bắt được tù binh, khai thác biết tù binh là trung đội trưởng đặc công, thuộc đơn vị đặc công của SĐ325CSBVN, chúng nhận được lệnh vượt sông Mỹ Chánh, thay một đơn vị khác đă ém quân lâu ngày tại đây, việc thay đổi nhiệm vụ chỉ mới cách nay hai hôm, nhưng trong đêm chúng nhận được lệnh xâm nhập và điều nghiên nơi đóng quân của TĐ11ND, đơn vị này chưa kịp thi hành th́ ngày hôm sau bị TĐ5ND tiêu diệt, ngày kế tiếp chúng pháo dồn dập TĐ11ND và các Pháo Đội, lúc này TĐ3ND do Thiếu Tá Trần Văn Sơn chỉ huy, vào thay thế TĐ5ND ra ngoài nghĩ dưỡng quân, v́ Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, chưa được nghĩ dưỡng quân ngày nào, từ chiến trừơng An Lộc, TĐ5ND đă ra Huế và nhập cuộc ngay.

Ngày 13 tháng 5 năm 1972 LĐ2ND chính thức nhận được lệnh tăng cường, thêm một pháo đội 155 ly, Pháo ĐộiA2ND và TĐ3ND; trong ngày TĐ3ND liền được điều động vào thay thế vùng đóng quân của TĐ5ND, lục soát từ vị trí đóng quân của TĐ11ND đến dăy trường sơn dọc theo bờ sông Mỹ Chánh, con đường t́nh TĐ5ND chưa có giờ lục soát, tức th́ TĐ3ND lại đụng độ với một đơn vị địch không rơ đơn vị, Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù gặp nhiều khó khăn, v́ những đơn vị súng cối của địch từ phía bắc sông Mỹ Chánh can thiệp liên tục, không khi nào các chiến binh Mũ Đỏ lại chấp nhận cho chúng tung hoành, một ḿnh một chợ như vậy được, chúng được quyền đó, trừ khi ngoài tầm Pháo Binh của ta, hay ta không quan sát được, nhưng lần này chính là lần đầu tiên chúng gặp phải một địch thủ trên chân, bất cứ lúc nào chúng xuất hiện là các loạt pháo TOT (time on target = nghĩa là cùng một lúc đạn của các pháo đội nổ chụp ngay lên đầu chúng, lần đầu tiên chúng tôi bắt được tài liệu của chúng, chúng gọi các loạt đạn TOT của ta là pháo bầy) đàn gà tre tan nát không kịp kêu tiếng thất thanh, các đơn vị địch từ bộ binh, súng nặng, hay pháo binh gặp thất bại này sang thất bại khác, các chiêu của địch quân tung ra đều bị bẻ gẫy, (khi vào tới La Vang đoàn quân Mũ Đỏ bắt được tài liệu của chúng than rằng: Các đơn vị Ngụy Dù Sài G̣n chúng có sức chiến đấu giống nhau không đơn vị nào hơn, không đơn vị nào kém, cho nên khi bộ đội gặp bất cứ đơn vị nào của Ngụy Dù cũng phải thận trọng) Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù tuy chiến thắng, nhưng cũng chưa đáng khích lệ, v́ chúng để lại tử thi và vũ khí tất cả đều không khai thác được điều nào mới mẻ, cũng như không có tài liệu để khai thác tin tức, c̣n lại cách duy nhất là quan sát quân phục, chúng ta chỉ nhận diện được đó là trang bị của các đơn vị bộ đội miền Bắc, địch bỏ chạy sang phía bắc sông Mỹ Chánh, lần này chúng pháo vũ băo hơn, chứng tỏ chúng đă được tăng cưỡng pháo, cũng như đạn dược, chúng đă chuẩn bị một chiến trường mới, ai cũng ước đoán là chúng sắp mở đợt tấn công vào phía nam bờ sông Mỹ Chánh, nếu không như vậy, bộ đội chúng sẽ mất hết tinh thần chiến đấu, v́ mấy ngày nay, chúng bị đoàn quân Mũ Đo, cho nếm từ thất bại này, đến thất bại khác, nói chung ngày nào chúng cũng thất bại ê chề, ngày nào chúng cũng nếm mùi chua cay, bây giờ chúng nhận thấy ngay, là biển người của chúng đă bị chặn lại bởi ư chí sắt thép, Cố Gắng của đoàn quân Mũ Đỏ, đặc biệt là lâu nay các hoạt động của chúng ở phía bắc sông Mỹ Chánh hoàn toàn tự do, nay chúng không c̣n được tung hoành như trước, nếu chúng đi lẻ tẻ như những ngày trước là bị mất tích ngay, nếu đi đông là bị Pháo vùi dập phải tan hàng, chúng cảm thấy mọi hoạt động của chúng, đều bị tai mắt của ta chế ngự, cấp chỉ huy của chúng t́m mọi cách bịt mắt ta, nhưng ai cho chúng làm được việc đó, v́ các chiến sĩ trinh sát của ĐĐ2TS/ND, luôn luôn chơi tṛ hú tim, làm cho chúng phải điên đầu; trận chiến không giới tuyến này, công đầu phải dành cho các chiến sĩ Trinh Sát Nhảy Dù, phải công bằng mà nói như vậy.

Tin tức nóng hổi của hai toán Viễn Thám, thuộc ĐĐ2TS/ND vượt sông Mỹ Chánh bằng đường bộ đi sâu về hướng bắc 7 Km, cho biết những đợt chuyển quân của địch, bị các toán tai mắt của ta, đă xác định được điểm đóng quân của địch, thật chính xác, mỗi lần như vậy dù đêm hay ngày, chúng cũng được pháo TOT hỏi thăm kỹ càng, những con Thần Thử báo cáo đầy đủ, từng hoạt động của địch, để bộ chỉ huy LĐ2ND dương cái bẫy ra, các anh em Mũ Đỏ biết địch biết ta, chứ không mù ḷa như chiến trường Tây Nguyên, địch quân cũng biết điều đó, chúng tung ra nhiều đơn vị t́m kiếm tai mắt của ta, mỗi khi chúng lại gần tai mắt của ta, chúng c̣n đang ngơ ngác t́m kiếm, liền bị các chiến sĩ Mũ Đỏ thuộc ĐĐ2TS/ND, đưa các loạt Pháo TOT, đập xuống đầu chúng thật mănh liệt, chúng đành chạy tháo thân, quả thật chiến công, của các toán viễn thám, không phải là nhỏ, nhưng chiến công vô danh này ít ai biết đến, pháo binh mà không có tai mắt, chỉ là pháo binh mù.

Ai cũng muốn cho TĐ11ND được rửa mặt anh tài trong trận này, tinh thần và quân số lúc này TĐ11ND rất cao, địch quân điều nghiên, kỹ càng, con cháu bác chỉ biết rằng TĐ11ND chính là, đơn vị mới bỏ lại Nguyễn Đ́nh Bảo tại Charlie, nắm ngay lấy cơ hội, chúng cho là ngàn năm một thuở, chúng cho rằng đơn vị mới thiệt hại nặng nề, làm sao có tinh thần chiến đấu được, ngay cả bạn cũng lo ngại; nhưng đây không phải là canh bạc tháu cáy mà là canh bạc chắc ăn, canh x́ phé trong tay hai đôi, chỉ có một đôi nhỏ trên mặt, địch thủ ỷ trên mặt có x́, già, đầm cơ và cẩu bích, liền vung tay táp pi, canh bạc này ta nhất quyết phải thắng không có huề, canh bạc này là canh bạc quyết tâm, không khác canh bạc của đức Trần Hưng Đạo năm xưa (nếu không thắng giặc thề không qua khúc sông này), đây là canh bạc mà tinh thần đoàn quân Mũ Đỏ ngh́n người như một.

Trong bàn cờ, hay ngoài chiến trận, ai lừa được đối phương người đó sẽ nắm được, một phần ưu việt trong tay, cổ nhân đă nói biết người biết ta trăm trận trăm thắng tuy nhiên sự thắng bại nhiều khi cũng c̣n do ư trời, canh bạc càng lúc càng hung bạo v́ địch nhiều vốn, địch pháo tàn bạo không thua ǵ các mặt trận Hạ Lào, Kon Tum, An Lộc, Khe Sanh.... quả thật ta vốn liếng lúc này xuống thấp hơn địch.

Sau khi làm xong nhiệm vụ, TĐ3ND rút về phía nam của TĐ11ND, không một ai trong Đoàn Quân Mũ Đỏ, muốn để một thất thố nhỏ nào có lợi cho địch, trận này phải chiến thắng một trăm phần trăm, địch quân tung bất cứ đơn vị nào vào trận địa, đều phải bị tiêu diệt, quân ta chỉ được phép thiệt hại nhẹ nhàng, v́ các cấp chỉ huy của địch đa số là vô học, làm sao tinh khôn cho được, địch quân chỉ có thể thắng ta khi chúng dùng mười chọi một, tức là chúng thí quân, hay nói cho chỉnh hơn chúng chỉ biết đánh theo lối biển người, lấy thịt đè người, ( cũng như hôm nay chúng đang chấn hưng kinh tế, bằng cách cho con gái Việt, đi làm điếm quốc tế, lấy chồng ngoại quốc, cho con trai Việt đi làm nô lệ lao động, để lấy ngoại tệ, tài cán của bọn lănh tụ Cộng Sản là như vậy, kh

Kế hoạch chính của chúng là bất ngờ, đánh úp các đơn vị ta, dùng đông đánh ít, chúng không ngờ chúng ta phản công kịp thời, nhất là các cơ quan đầu năo của chúng ta tại Sài G̣n, những đứa con yêu của Tổ Quốc Việt Nam đă chận đứng kịp thời sức tiến của bọn cuồng đồ, sau cùng trên toàn miền Nam, chúng hoàn toàn thất bại không chiếm được một mảnh đất nào, mà phải bỏ xác tại trận 45,000 quân ; nhưng cả thế giới đều loan tin chúng chiến thắng (tin chiến sự loan đi chúng đă đánh thủng tuyến pḥng thủ của ta, và đă đánh vào cả Thủ Đô Sài G̣n), nếu thật sự tết Mậu Thân chúng thắng, th́ chiến tranh phải chấm dứt từ đó, v́ đó là trận tổng công kích, không phải là trận đánh b́nh thường.

Lấy tiếng chiến thắng để phải hy sinh mạng sống 45,000 đồng chí của ḿnh, chỉ có Cộng Sản mới làm được mà thôi! Chúng ta đành chào thua lối đánh giặc kiểu này, trận chiến vừa qua là trận chiến giữa loài thú đội nốt người, với con người chân chính biết lễ nghĩa, nên chúng ta thua là phải, thế kỷ này là thế kỷ chuẩn bị để cho chúng, là những tên buôn dân bán nước vào hỏa ngục.


(Xin phép được kể một chuyện vui về tâm lư chiến của ta, TĐ1PBND sau khi hành quân Hạ Lào về được nghĩ một thời gian, sau đó cùng LĐ1ND hành quân giải tỏa Căn Cứ Hỏa Lực Số 5 tại Tân Cảnh, Kontum, nghĩa là sau khi LĐ2ND hành quân giải tỏa Căn Cứ Hỏa Lực Số 6 khoảng một tháng, sau khi chiến thắng dễ dàng tại đây, toàn bộ LĐ1ND được trở về Sài G̣n, một tuần sau chúng tôi lên đường hành quân tại biên giới Việt Miên với LĐ2ND, nhiệm vụ chấm dứt chúng tôi trở về hậu cứ Hoàng Hoa Thám, mỗi đơn vị cấp Tiểu Đoàn đều được các ban văn nghệ tới ca hát một vài đêm tại hậu cứ, nhận được tin này chúng tôi vô cùng thích thú, ít nhất cũng c̣n được cấp trên nghĩ tới, không tủi ḷng chiến sĩ, đoàn văn nghệ trung ương gửi tới không vui sao được, chắc chắn là phải hay và vui rồi... Nhưng chúng tôi hoàn toàn thất vọng, khi tŕnh diễn xong mỗi màn hát hay mỗi chương tŕnh kịch nghệ, bên dưới không một tiếng vỗ tay tán thưởng, tôi ngồi hàng ghế trên thấy mà chán chường, tôi cho gọi Thường Vụ Tiểu Đoàn đến, nói nhỏ với anh là phải đi rỉ tai các thường vụ Pháo Đội là phải đi rỉ tai tất cả mọi quân nhân trong Tiểu Đoàn, phải vỗ tay tán thưởng, sau mỗi bài ca hay vở kịch, nhưng rồi chỉ được một hay hai lần là có, sau đó tiếng vỗ tay tán thưởng không c̣n nữa, v́ tŕnh diễn không hấp dẫn không ai có thể vỗ tay tán thưởng được, (Thường Vụ Tiểu Đoàn sau này là Trung Úy Lương văn Ngữ hiện anh và gia đ́nh đang ở nam Cali) sau khi đoàn văn nghệ ra về tôi cho lệnh Thiếu Tá Đinh Thành Tấn Ban 3 Tiểu Đoàn (hiện anh và gia đ́nh đang ở nam Cali), ngày hôm sau tập họp tất cả quân nhân các cấp trong tiểu đoàn, lúc 12 giờ trưa để nghe nhật lệnh, nhớ mang cuốn nhật lệnh ra. Tôi ra về ḷng không vui khi thấy Chiến Tranh Chính Trị, Tâm Lư không chỉnh, tại sao lại cho đoàn văn nghệ mà lính không nghe nổi, đến ủy lạo đơn vị như vậy? Thật bôi bác... tiên trách kỷ hậu trách nhân, tôi lại tự trách ḿnh tại sao đơn vị của ḿnh lại thiếu lễ độ như vậy? Người ta đến giúp không công cho ḿnh mà lại tiếc tiếng vỗ tay, tôi tự nói một ḿnh... Thôi ngày mai tính, nhưng cũng không sao ngủ yên.

Tôi đang ngồi làm việc, Tấn hỏi tôi nhật lệnh về đề tài ǵ để anh viết, các pháo đội đă sẵn sàng tại sân tập họp Tiểu Đoàn.

Anh cứ mang cuốn nhật lệnh ra đó, khi nào sẵn sàng anh cho tôi biết. năm phút sau tôi ra chào tiểu đoàn do Thiếu Tá Nguyễn văn Thông Tiểu Đoàn Phó tŕnh diện (sau này anh Thông là Tiểu Đoàn Trưởng TĐ3PBND, hiện anh và gia đ́nh đang ở Illinois), tôi cũng đi làm thủ tục của một Tiểu Đoàn Trưởng là đi duyệt qua hàng quân, năm trăm anh em ai cũng nghiêm chỉnh, thương mến nh́n nhau, mà không nghiêm chỉnh sao được, Nhảy Dù có nghĩa là kỷ luật thép, chúng tôi chiến thắng là do kỷ luật, chúng tôi không làm nhục quân đội là do kỷ luật, không khí thật nặng nề v́ ai cũng biết tôi đang không vui, nên quân phục chỉnh tề như sẵn sàng đi duyệt binh, tôi trở về vị trí của ḿnh, nói những câu khen thưởng trong cuộc hành quân vừa qua, chúng tôi mặc niệm một số anh em chúng tôi đă nằm xuống tại căn cứ Cờ Lau......Như Cố Thiếu Úy Nguyễn văn Nhượng Phụ Tá Ban 3 Tiểu Đoàn, (gục xuống ngay sau lưng tôi) tôi khen ngợi từng khẩu đội (lúc đó tôi thuộc tên tất cả các Khẩu Trưởng), tôi nói rất nhiều, tôi biết lúc này mọi người chỉ muốn được nghĩ trưa, giờ nghĩ trưa hai tiếng ngắn ngửi quá, sau cùng tôi phiền trách việc không vỗ tay cổ vơ cho ban văn nghệ, trung ương phái đến tối hôm qua, tôi nhắc là dù ca sĩ hay, dở cũng phải vỗ tay và hô Bis, bây giờ chúng ta phải thực tập đễ nhớ điều này; tôi nói tiếp, Thiếu Tá tiểu đoàn phó đọc bất cứ nhật lệnh nào ông thích, khi ông đọc xong đến câu nhật lệnh hết, kể như ca sĩ tŕnh diễn xong một bản nhạc, anh em tập vỗ tay tán thưởng và la thật to Bis...Bis, xong Thiếu Tá ban 3 đọc nhật lệnh khác anh em lại tiếp tục vỗ tay và la thật to Bis... Bis... khi nào trong văn pḥng tôi thấy vỗ tay đúng mức và la to Bis... Bis... đúng mức, tôi cho nghĩ trưa, nếu chưa đúng mức th́ cứ việc thực tập, xong tôi hỏi?

Tất cả nghe rơ chưa, đồng thanh của năm trăm thanh niên trả lời:

- Nghe rơ, vang động cả khu doanh trại thật hào hùng, nhưng nghe như ai oán!!

Cứ như vậy hết nhật lệnh này tới nhật lệnh khác, sau mỗi khi nghe nhật lệnh hết, là tiếng hô Bis... Bis và tiếng vỗ tay vang vang, hai vị tiểu đoàn phó và trưởng ban 3, thay phiên nhau đọc nhật lệnh.

Đúng 2 giờ chiều tôi cho tan hàng, ai cũng mồ hôi hễ nhăi, mất giấc nghĩ trưa, tiếp tục sinh hoạt hàng ngày, tức là cả tiểu đoàn không được nghĩ trưa, anh nào anh ấy, khát nước và bụng đói, tiếp tục sinh hoạt buổi chiều; sau ba ngày, trung ương lại cử một đoàn văn nghệ khác xuống, trước giờ văn nghệ tŕnh diễn, tôi nghe rơ tiếng Thường Vụ Tiểu Đoàn la hét ngoài sân tiểu đoàn:

- Lần này mà không chịu vổ tay, không chịu la Bis... Bis... là tao sẽ phạt thêm một tuần nghe nhật lệnh buổi trưa, nghe rơ không! Nghe rơ! Nhảy Dù Cố Gắng.

Tối hôm đó tôi ngồi trên luôn mỉm cười, không phải v́ nghe tiếng la tiếng hét của năm trăm cái miệng như tiếng lệnh vỡ mà cười, tôi nghĩ đoàn văn nghệ này họ sẽ nghĩ bọn này đi rừng nhiều quá, chắc thành người rừng, hay dở cũng là tuyệt vời với họ, nên mới được tán thưởng nhiệt liệt như vậy; không những vậy nhiều anh c̣n biểu lộ tán thưởng rất cuồng nhiệt, họ biết tôi muốn vậy, nhưng chắc chắn tôi biết họ không muốn như vậy, văn nghệ vừa chấm dứt, anh trưởng đoàn xuống nghiêm chỉnh chào tôi và cảm ơn tiểu đoàn đă cho đoàn một món quà tinh thần vô giá, sau đó anh đưa cho tôi số điện thoại, và nói

Bất cứ lúc nào tiểu đoàn muốn, không cần trên sắp xếp anh sẽ dẫn đoàn tới ngay, tôi nghĩ thầm (thôi đi cha nội, hành hạ chúng tôi như vậy chưa đủ hay sao?)

Tuyệt vời hơn, là cả thế giới chiêm ngưỡng quân đội của Cộng Sản Việt Nam, Quân Đội của Nhân Dân như thần thánh, chiến đấu cho nhân dân, v́ nhân dân, trong khi Quân Đội Nhân Dân, chính những anh em này thẳng tay tàn sát đồng bào vô tội, chỉ v́ chúng nghi ngờ một người tên Quyên hợp tác với Quốc Gia th́ trong làng tất cả những ai không may có tên Quyên, Quyền Quyến... v... v... đều bị tàn sát không nương tay, Hồ chí Minh dậy một câu kinh nhật tụng là giết lầm hơn bỏ sót con cháu bác cứ như vậy thi hành, điển h́nh nhất là hàng ngàn vành khăn sô cho Huế trong dịp Mậu Thân; Nhưng không một công dân nào trên thế giới biết, cho đến ngày hôm nay chúng vẫn c̣n tiếng thơm là quân đội Nhân Dân, c̣n chúng ta vẫn bị lăng mạ thảm thương, đủ thấy tâm lư chiến của hai phe!! Thật đáng nản!! Không tin ư!!! Tôi xin quí vị hăy hỏi bất cứ một công dân Hoa Kỳ nào, mà thời kỳ thập niên 60 và 70 có để ư đến chiến trận tại Việt Nam, rất đơn giản và rơ ràng nhất quí vị hỏi: Ông bà nghĩ ǵ về trận tết Mậu Thân (1968) họ sẽ trả lời vanh vách rằng, Quân Đội Cộng Sản Việt Nam đă chiến thắng, họ chiến thắng mọi nơi, bằng cớ là họ đă chọc thủng pḥng tuyến của Quân Đội Quốc Gia và Quân Đội Đồng Minh, đánh vào Thủ Đô Sài G̣n, đánh vào cả Ṭa Đại Sứ Mỹ, đánh vào các cơ quan đầu năo của chính phủ miền Nam, chiếm đài phát thanh Sài G̣n, chiếm BTTM của quân đội miền Nam Việt Nam, bởi v́ họ là quân đội của nhân dân, c̣n Quân Đội miền Nam hèn nhát không chịu chiến đấu “đau đớn chưa?” h́nh ảnh rơ ràng, họ nh́n thấy mọi nơi trên báo chí trên đài. Ôi thảm năo làm sao!!! Cho đến nay, ngay cả người lănh đạo quốc gia Hoa Kỳ và tổng trưởng Quốc Pḥng vẫn c̣n tin mănh liệt hơn thế, th́ hỏi sao công dân trên quả địa cầu này, lại phải nghĩ khác đi.

Một việc so sánh nhỏ bé nữa, là quí vị hỏi cũng những người, mà quí vị vừa hỏi là vụ thảm sát Mỹ Lai, th́ ai cũng rơ, ai cũng cho là man rợ, ai cũng cho là tàn ác; nếu ai đó muốn t́m hiểu thêm đi đến Mỹ Lai, Không phải là dễ đến, v́ Mỹ Lai xa xôi hẻo lánh. Nhưng nếu quí vị hỏi vụ thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế, ngay tại Cố Đô của chúng ta, nơi thị thành chứ không hẻo lánh như Mỹ Lai, ai muốn đến lúc nào cũng được, vụ thảm sát này, nó c̣n tàn ác c̣n dă man gấp trăm ngh́n lần, đối với bất cứ một cuộc thảm sát nào trong chiến tranh Việt Nam,(quí vị đă thấy ai trói người bằng cách lấy lưỡi lê chọc thủng bàn tay nạn nhân, rồi dùng kẽm gai xâu từ bàn tay người này sang bàn tay người khác)? Họ trói kiểu đó v́ họ sợ những người vô tội này bỏ trốn. Thưa đó là sản phẩm của con cháu Bác Hồ, con cháu bác đă hành động rất (NHÂN TÍNH), xong đem chôn sống tập thể hàng ngàn người như vậy đó quí vị ạ!!! Th́ không, không một ai biết đến!!! Ôi lỗi này từ đâu vậy hở trời cao đất dầy?... Tôi không hiểu do sức lực nào mà chúng tôi QLVNCH, c̣n chiến đấu rất ư là anh dũng cho tới năm 1975, chúng tôi không nhân dịp này trách cứ một ai, chuyện đă qua, điều quan trọng là chúng ta phải nhận lănh trách nhiệm với đồng bào...Chúng ta đă không làm tṛn phần vụ của từng cá nhân, của từng đơn vị, của từng quân binh chủng; chúng ta đă không bảo vệ cho dân chúng miền Nam, như khi nhập ngũ chúng ta đă hứa... Hy sinh v́ dân tộc trung thành với Tổ Quốc

.................... .................... .......

Phải thân dân, bảo vệ dân và giúp đỡ dân

Tất cả chỉ là huyền hoặc, chưa một vị chỉ huy nào giám nhận lănh trách nhiệm, nhưng nếu có dịp là đọc diễn văn, nghe nó ai oán làm sao? Nói cho kêu, thét cho vang... Cũng chỉ là ông b́nh vôi của cụ Phan Khôi không hơn không kém!!!

Năm 1977 khi một phóng viên hỏi Tướng Westmoreland về Tướng Vơ Nguyên Giáp, tôi không nhớ chi tiết, đại để ông trả lời như sau: "Tướng Vơ Nguyên Giáp là một Tướng tài của Cộng sản Việt Nam, nếu ông chỉ huy quân đội các nước tân tiến (Đồng Minh) th́ chỉ một trận thôi là ông ta phải ra ṭa án quân sự. Các trận đánh mà ông ta thắng toàn bằng phương pháp giết đồng đội của ḿnh (Thí Quân), không có trận nào ông ta thắng bằng thao lược (Mưu Trí) của một vị tướng lănh".

Nhưng đoàn quân Mũ Đỏ tại Trị Thiên, màng lưới pḥng thủ chuẩn bị mỗi ngày thêm chu đáo, trên dăy đồi Trần văn Lư, Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng tiên đoán TĐ11ND sẽ bị tấn công nay mai, ông điều động hai đại đội của TĐ3ND do Tiểu Đoàn Phó chỉ huy tăng cường sườn tây cho TĐ11ND, Trong ngày tháp tùng theo phái đoàn quan sát tại chỗ, chúng tôi tới TĐ11ND bằng thiết quân vận dưới cơn pháo, đoàn quân Mũ Đỏ vẫn c̣n bất lợi v́ nguyên sườn phía tây tức dẫy trường sơn vẫn trong tay địch, nên địch quân đặt các đài quan sát bất cứ chỗ nào tại các cao địa, ngay cả ở lưng chừng sườn núi cũng vẫn quan sát được mọi sự di chuyển của ta, thiết quân vận di chuyển tạo ra đám bụi nhỏ bay lên, mỗi khi chúng quan sát được như vậy là chúng liền gọi pháo của chúng can thiệp ngay, cũng may pháo của chúng chưa chính xác cho lắm, hơn nữa ta di chuyển dưới các đường thông thủy, hay bên phía đông hoặc đông nam sườn đồi làm chúng khó quan sát, địch pháo quá nhiều làm cho mọi người cũng có phần lo ngại khi Thiếu Tá Lê văn Mễ bị thương phải di tản v́ đạn pháo,(cái huôn của tiểu đoàn trưởng TĐ11ND trúng đạn pháo) nhưng trong TĐ11ND ngoại trừ các cấp chỉ huy, c̣n lại vẫn được giữ kín tin này, Đ/T Lữ Đoàn Trưởng nhấn mạnh cho các cấp chỉ huy: Gồm cả năm đại đội trưởng trên tuyến đầu là, (địch quân sẽ c̣n pháo mănh liệt hơn, phải coi lại hầm hố cá nhân của thuộc cấp, phải ngụy trang cho tinh khôn và điều quan trọng nữa là địch quân sẽ tấn công tuyến đầu của ta, bằng cấp trung đoàn (thiết đoàn) chiến xa với lực lượng tùng thiết hùng hậu, ít nhất cũng là trung đoàn bộ binh, cho nên phải tiên liệu đường tiến của chiến xa địch, đường tiến quân của bộ binh địch, trong trường hợp tùng thiết cũng như không tùng thiết, tạo các chướng ngại vật để chiến xa cũng như bộ binh địch, phải di chuyển theo ư của chúng ta, phân phối hỏa lực chống chiến xa, tập dượt lại cách đánh chiến xa, giảng giải cho mọi cấp biết yếu điểm của chiến xa, ông kết luận với các cấp chỉ huy chắc như Đinh Đóng Cột là: “chúng ta phải thắng trận này, nếu không các anh và tôi phải TỰ XỬ , đă đội trên đầu chiếc nón mầu ĐỎ chúng ta không được quyền làm hoen ố nó, không được phép làm tủi nhục linh hồn các anh chị em của chúng ta đă hy sinh để tô thắm nó, các anh có nghe rơ không”), nơi họp không xa tuyến đầu của địch, nên tất cả im lặng nh́n nhau rồi cùng nắm tay vững chắc đưa ngang đầu tỏ ḷng cương quyết, mọi người chia tay nhau trong niềm tin chiến thắng, với ánh mắt căm hờn, hận loài giặc hại dân hại nước, tuy không nói nhưng nhủ thầm giữ trọn lời thề son sắt với quê hương, với đơn vị; nếu không thắng trận này thề không trở về nh́n mặt anh em, với ư chí quyết chiến quyết thắng như vậy, chúng ta chỉ c̣n chờ ngày giờ đến, các đơn vị ban ngày không sao lăng tuần thám, nghiên cứu từng tấc đất từng sườn đồi, địa thế nào chiến xa có thể qua; chỉ cần quan sát cách làm việc của các tiểu đội trưởng, các trung đội trưởng, chúng ta hiểu ngay cấp chỉ huy đă chuẩn bị chiến trường chu đáo, địch quân sẽ phải tấn công theo ư của ta, chúng sẽ tiến quân đúng theo những ǵ chúng đă học, thiết giáp phải có xạ trường, chúng ta sẽ tạo đường tiến quân có xạ trường tốt cho chúng, bộ binh phải có địa h́nh, chúng ta sẽ tạo địa h́nh cho chúng, cấp chỉ huy của chúng nếu tinh khôn phải hiểu rằng: Chúng tôi đang đón chúng với tất cả tinh thần quyết chiến, quyết thắng; nên chuẩn bị thật chu đáo, chúng sẽ được tiếp đón thật tưng bừng, thật hùng hậu, từng tấc đất chúng sẽ di chuyển qua, đều được lo dọn dẹp chu đáo, để bắt buộc chúng phải dàn quân và tiến theo ư của các Thiên Thần Sát Cộng.

Ngày 14 tháng 5 năm 1972 lúc này Đại Tá Lịch hơi lo ngại v́ Thiếu Tá Mễ bị thương, tuy không nặng nặng lắm nhưng cần phải di tản, mặc dầu Thiếu Tá Nguyễn văn Thành Tiểu Đoàn Phó rất vững vàng trên mọi phương diện, chỉ huy chiến trận cũng như phối hợp hỏa lực, hiện đang tạm thời thay thế Thiếu Tá Mễ , nhưng ông sợ yếu tố tinh thần, nếu như các chiến sĩ Mũ Đỏ thuộc đơn vị Song Kiếm Trấn Ải biết được cấp chỉ huy của họ bị thương, liệu ḷng họ có xao xuyến hay không? Ai cũng tin dị đoan thầm lo ngại tiểu đoàn có huôn cấp chỉ huy toàn bị v́ pháo... Tốt nhất không nên cho phổ biến tin này.

Ngay sáng hôm đó TĐ1PBND Thiếu Tá Tấn tŕnh bầy kế hoạch hỏa yểm với BCH lữ đoàn rất tỷ mỷ, rơ từng chi tiết các loại đạn cần dùng cho mỗi mục tiêu, khi có chiến xa địch xuất hiện, hay khi không có chiến xa địch, kinh nghiệm xương máu tại Hạ Lào, Thiếu Tá Tấn cho biết khi yểm trợ tái chiếm đồi 31, nơi đặt BCH của LĐ3ND tại chiến trường Hạ Lào tức hành quân Lam Sơn 719 trung tâm phối hợp hỏa lực của TĐ1PBND là đơn vị duy nhất điều động hỏa lực yểm trợ, trong vùng Hạ Lào, khi đồi 31 không do ta làm chủ nữa, sáng ngày 28 tháng 2 năm 1971 cánh quân của Thiếu Tá Trần Hữu Phú ( có bài viết về Hạ Lào nói rằng đây là cánh quân của TĐ9ND như vậy là sai hoàn toàn, có lẽ theo suy luận, v́ sau trận Hạ Lào Thiếu Tá Trần Hữu Phú là tiểu đoàn trưởng TĐ9ND) Thiếu Tá Trần Hữu Phú đang từ pḥng 2 SĐND được điều động thay thế Thiếu Tá Đào Thiện Tuyển chức vụ Tiểu Đoàn Phó TĐ8ND, tại vùng tập trung Lao Bảo trong đêm chuẩn bị vào Hạ Lào, một phi vụ Skypot của Hoa Kỳ đánh lầm vào BCH/ TĐ8ND làm Thiếu Tá Đào Thiện Tuyển bị trọng thương, khi địch tràn ngập căn cứ 31 bằng chiến xa và bộ binh, cũng với cách điều quân cố hữu của Vơ Nguyên Giáp là dùng biển người uy hiếp căn cứ này. Hai đại đội TĐ8ND do Tiểu Đoàn Phó TĐ8ND cùng một Thiết Đoàn chiến xa tiến lên đồi 31 để trợ lực cùng đơn vị thuộc LĐ3ND, cách đồi chừng 2 hay 3 cây số phải dừng lại bởi một Trung Đoàn địch chận đánh, tiếp theo từ đồi 31 năm chiến xa địch tiến ra với tùng thiết rất đông, trông như địch từ doanh trại của ḿnh tiến ra, từ căn cứ hỏa lực A Lưới, Trung Úy Nguyễn Cẩn Ngọc, sau này là Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó TĐ4PBND hiện đang ở Houston, Texas sĩ quan trong BCH/TĐ1PBND đă dùng viễn kính lưỡng mục quan sát rất rơ, chiến trận giữa cánh quân của TĐ8ND tùng thiết cho Thiết Đoàn chiến xa của ta, đă đụng độ với Trung Đoàn Địch; rồi cũng thấy rất rơ 5 chiến xa địch từ căn cứ 31 tiến ra, cùng đoàn tùng thiết của chúng, trông như năm con cua từ từ ḅ ra và có một đàn kiến đen bu chung quanh (từ căn cứ A Lưới đến Căn Cứ 31 khoảng cách chừng 8 cây số đường chim bay), BCH/TĐ1PBND quyết định phải đánh tan đàn kiến này, có như vậy mới cô lập được Thiết Giáp địch, nên TĐ1PBND đă điều động 2 pháo đội 105 ly và 2 pháo đội 155 ly, tạm thời mỗi pháo đội chỉ để lại một trung đội yểm trợ trực tiếp, cho cánh quân TĐ8ND và thiết đoàn, v́ những đơn vị này đă có yếu tố điều chỉnh, c̣n dùng tất cả hỏa lực c̣n lại của ḿnh, để tiêu diệt đoàn quân tùng thiết và chiến xa địch, quyết định thi hành tác xạ ngay lập tức, Tr/U Ngọc đă điều chỉnh các loạt đạn trúng ngay đoàn chiến xa địch, khi bắn hiệu quả dùng đạn nổ với đầu nổ CVT, xen lẫn đạn lân tinh (white phosphorus) bắn vào đoàn chiến xa có tùng thiết này, v́ khi thuyết tŕnh hành quân BTL/QĐ1 cho biết chiến xa T54 của địch có khả năng mạnh hơn chiến xa của ta, Trung Tá Thiết Đoàn Trưởng rất ngại phải chạm trán với chiến xa địch, nên đă yêu cầu Pháo Binh phải chặn ngay chiến xa của địch lại, và TĐ1PBND đă làm được việc đó, không một chiến xa nào của địch giám xuất hiện nữa bốn pháo đội, mỗi Pháo Đội mới bắn chừng 10 loạt đạn, trộn lẫn như trên đă nói, th́ ba chiến xa địch phát hỏa ngay tức thời, hai chiếc không điều khiển loạng quạng đâm xuống sườn đồi, đoàn tùng thiết của địch v́ đang di chuyển không có hầm hố, nên hầu như bị tiêu diệt hoàn toàn, sức tàn sát của đạn nổ dùng với đầu nổ CVT, vô cùng hữu hiệu, đối với quân di chuyển ngoài trời, lúc đó TĐ1PBND cho lệnh bắn CVT là có ư tiêu diệt đoàn quân tùng thiết, hoàn toàn không biết tại sao chiến xa địch bốc cháy ngay lập tức, Thiếu Tá Tấn tŕnh bầy: “Nếu chiến xa dịch bị cháy v́ đạn lân tinh th́ cũng phải có thời gian ít phút, không thể nào bị cháy ngay như vậy, chúng tôi nghĩ rằng do đạn CVT, nhưng khổ nỗi không có ai lại đó để quan sát, những chiến xa của địch bị cháy là do nguyên nhân nào? khởi điểm cháy từ đâu?Cho nên lần này ban 3 TĐ1PBND muốn chứng minh, là đạn nổ với đầu nổ CVT có khả năng tiêu diệt chiến xa địch. Địch quân đă mắc phải lỗi lầm rất lớn, là di chuyển ban ngày để Quan Sát Viên Pháo Binh thấy, từ khi chúng tôi mang danh là Pháo Thủ, bất cứ mục tiêu nào, nếu trong tầm Pháo Đội, mà chúng tôi quan sát rơ mục tiêu, th́ mục tiêu đó phải bị thiệt hại hay bị tiêu diệt ngay lập tức, mà chúng tôi nghĩ đây là sự việc rất b́nh thường, không có ǵ là xuất sắc, v́ bất cứ một sĩ quan nào đă học xong phần căn bản pháo binh, cũng phải làm được những việc như chúng tôi đă làm, nó dễ dàng c̣n hơn trai gái đă ưng thuận nhau sau đó 4 pháo đội mới quay về yểm trợ cho cánh quân của TĐ8ND, khi chấm dứt hành quân Hạ Lào, ban ba TĐ1PBND có làm tờ tŕnh này lên BCHPB/QLVNCH và Pḥng 3 BTTM/QLVNCH theo đúng thủ tục hệ thống quân giai về kết quả không ngờ này, nhưng không ai tin như vậy cả, cho rằng đó là do không quân đánh, hay một đơn vị nào đó đánh, Pháo Binh muốn hạ chiến xa phải dùng đạn chống chiến xa lời phán ra như vậy cũng đúng thôi, đạn nổ không làm chiến xa địch hư hại được, sách vở nói như vậy mà, nếu như vậy đâu cần kinh nghiệm chiến trường nữa! ! ! C̣n đạn lân tinh có thể làm chiến xa cháy, nhưng không hữu hiệu nhiều như vậy, không nhanh như vậy, nếu đạn White Phosphorus làm cháy chiến xa th́ cũng ít nhất là năm phút sau mới cháy được; do không quân ư, lúc đó trên bầu trời Hạ Lào không có bất cứ loại máy bay nào xuất hiện, không có bất cứ một hỏa lực nào tấn công chiến xa địch ngoài pháo binh, không lẽ chiến xa của địch bị ma vật, mà cấp trên không tin cũng phải, tờ tŕnh không nói rơ tại sao chiến xa địch cháy, sự thực chúng tôi có ai biết đâu mà tŕnh, chỉ là quan sát sao nói vậy, ước mơ của chúng tôi lúc làm báo cáo, là hy vọng cấp trên có những vị có một kinh nghiệm nào đó, t́m được nguồn gốc là tại sao chiến xa địch bị cháy, lư do nữa theo nhiều người nghĩ, trên cũng khó tin cho được, v́ năm 1971 tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù cũng vẫn là Tiểu Đoàn Trưởng Pháo Binh non nớt nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, cho nên mọi người đều cho rằng ngựa non háu đá, ước mong của TĐ1PBND là phổ biến kinh nghiệm chiến trường, thấy sao báo cáo vậy, để tất cả chúng ta QLVNCH bớt đổ máu, nhưng ước mơ này bị dập tắt, không một làn khói mờ để lại, dầu ǵ chăng nữa với kinh nghiệm tại chiến trường, TĐ1PBND vẫn tin chắc là đạn nổ với đầu nổ CVT, có một sức nào đó cho nên đă tiêu diệt chiến xa địch, trong lệnh tác xạ chỉ cho bắn, mỗi pháo đội có 4 trái đạn white phosphorus mà thôi, xử dụng loại đạn nổ với đầu nổ CVT nhiều gấp bội, trên bàn nghiên cứu có h́nh chiến xa địch do pḥng II BTTM phổ biến, không có chú thích là thùng chứa nhiên liệu của chiến xa địch tại đâu? (sau chiến thắng của TĐ11ND. Ngày14 rạng ngày 15 tháng 5 năm 1972; Chính Sĩ Quan của TĐ1PBND leo lên chiến xa bị cháy do đạn Pháo Binh, c̣n đang nóng hổi, với mục đích để t́m nguyên do chiến xa địch bị cháy, lư do muốn biết sự thực như vậy, nên mới kiếm ra được đáp số đứng đắn nhất, nhờ vậy ban 3 TĐ1PBND lại báo cáo nữa, nhưng lần này tỷ mỷ hơn có nguyên do tại sao chiến xa địch cháy, sau đó mới có văn thư của BTTM phổ biến là đạn nổ đầu nổ CVT của PB có thể chống chiến xa v́ thùng xăng của các chiến xa địch thiết trí trên nóc xe, mảnh đạn CVT chém trúng thùng xăng là phát hỏa ngay, nguyên do như sau:

- Thứ Nhất v́ sức nóng của mảnh đạn khi chém trúng thùng xăng, có thể làm xăng gặp nhiệt do mảnh đạn phát ra mà phát hỏa, rất nhiều nhà tranh, hay cỏ khô trong rừng bị pháo binh đốt cháy bởi đạn nổ ;

- Thứ Hai sức ma sát của mảnh đạn khi chém vào vỏ thùng xăng có thể xẹt lửa bén vào xăng làm phát hỏa;

- Thứ Ba mảnh đạn chém vào thùng xăng, làm xăng chảy xuống máy xe đang chạy có sức nóng làm xăng phát hỏa; hơn nữa thùng xăng lại có diện tích lớn, rất dể trúng mảnh đạn, mỗi trái đạn có hàng trăm mảnh chém xuống, mỗi lần bắn như vậy, đều bắn hàng trăm trái đạn, thùng xăng không có sắt dầy che chở, bất cứ mảnh đạn lớn nhỏ đều có khả năng làm thủng thùng xăng, bài này viết lại cho vui, v́ chúng ta đâu c̣n đánh ai nữa đâu? Trong huấn lệnh cũng không có tưởng thưởng vấn đề này. Nhất là không c̣n tranh giành ảnh hưởng với ai cả, may ra con cháu đón nhận, hy vọng sẽ được tha thứ tội ngông cuồng này?!?

Áp dụng cho trận chiến này, khi phát hiện ra địch quân có chiến xa hay không TĐ1PBND cũng sẽ điều động 4 pháo đội 105 ly (sau này là 5 pháo đội) và 1 pháo đội 155 ly bắn đạn nổ với đầu nổ CVT, để ngăn chặn và tiêu diệt địch quân đang di chuyển với nhiệm vụ tùng thiết, v́ đạn nổ với đầu nổ CVT sẽ vô cùng hữu hiệu đối với địch quân đang di chuyển, hay địch quân có hầm mà hầm không có nắp an toàn; Nếu là mục tiêu có chiến xa, th́ đạn nổ với đấu nổ CVT sẽ làm cho chiến xa địch không c̣n quan sát xa được, v́ tất cả chiến xa phải đậy nắp lại để tránh bị sát hại, quyết định bắn đầu nổ CVT, đồng thời kiểm nhận hiệu quả của đầu nổ CVT, đối với chiến xa địch hữu hiệu như thế nào? Cũng may là v́ Lữ Đoàn hoàn toàn đồng ư với cách xử dụng hỏa lực của trưởng ban 3 TĐ1PBND.

Khi vào vùng trách nhiệm, bộ chỉ huy Lữ Đoàn điều động hai cây hỏa tiễn TOW, đây là loại hỏa tiễn chống chiến xa mới nhất và hữu hiệu nhất, của quân đội Hoa Kỳ thời bấy giờ, v́ khai hỏa là phải trúng chiến xa địch, trái hỏa tiễn bắn ra có điều khiển để phải trứng mục tiêu, dù mục tiêu có phát nhiệt hay không, cơ xưởng sản xuất nghiên cứu và sáng chế ra đầu đạn của hỏa tiễn đi theo điều khiễn của ống kính nhắm, không những vậy ống kính hồng ngoại tuyến có thể nh́n ban đêm dễ dàng, ống kính nhằm vào đâu là đầu đạn đi theo vào đó, chiến tranh Iraq loại hỏa tiễn này vẫn c̣n dùng, cùng một Chi Đội chiến xa M41 và hai Chi Đội Thiết Vận Xa tăng cường cho TĐ11ND, như vậy hỏa lực của tuyến đầu rất dồi dào, phần chuẩn bị chiến trường cũng tạm gọi là chu đáo. Ngay sau khi tŕnh bầy kế hoạch hỏa yểm cho bộ chỉ huy Lữ Đoàn, TĐ1PBND đề nghị xin thêm một pháo đội của TĐ2PBND đang tại vùng tập trung vào vùng, để tăng cường hỏa lực cho LĐ2ND, được trên chấp thuận ngay, lúc đó LĐ1ND cũng như LĐ3ND chưa nhập cuộc, v́ vậy chiều ngày 14 tháng 5 năm 1972 TĐ1PBND lại được tăng cường thêm một Pháo Đội nữa, như vậy nếu địch quân dại dột tấn công TĐ11ND, chúng sẽ phải nhận ngay phút đầu tiên là 30 trái đạn 105 ly và 6 trái đạn 155 ly dáng xuống đầu chúng, quả là một trận địa pháo vô cùng mănh liệt, ít khi xẩy ra trên chiến trường miền Nam, (những tác xạ này, đạn khói white phosphorus ban 3 TĐ1PBND không dùng, v́ tin rằng không hữu hiệu lại c̣n làm mất yếu tố nhanh chóng, chính xác, đạn khói phải bắn với yếu tố khác, khi cùng bắn chung với dạn nổ làm cho các pháo thủ dễ lầm lẫn) tất cả mục tiêu tiên liệu, v́ chúng tôi có thời gian, nên đều đă điều chỉnh tác xạ trước, không thể nào địch quân có thể ngóc đầu lên được, khó có thể có sơ hở được, v́ chúng tôi chuẩn bị rất kỹ càng, địch quân phải tiến vào trận địa theo ư của chúng ta, phối hợp nhịp nhàng với nhau từ trước khi chiến sự xẩy ra, cho nên khi chiến sự xẩy ra nhiệm vụ ai người đó làm, không c̣n phải xin lệnh hay hỏi ư kiến mất th́ giờ vô ích, mỗi Tiền Sát Viên Pháo Binh có một Pháo Đội yểm trợ trực tiếp, nói cho rơ ràng hơn mỗi đại đội Nhảy Dù có một pháo đội yểm trợ trực tiếp, cho nên khi các TSV/PB thấy địch là có đạn Pháo Binh đến ngay, không phải đợi chờ như những chiến trường khác, Ngay cả tại Hạ Lào cũng không được dồi dào như vậy, tại chiến trường Hạ Lào bốn TSV/PB và một Sĩ Quan Liên Lạc cũng chỉ có một pháo đội yểm trợ trực tiếp mà thôi. Địch quân dù có nội tuyến cũng không hiểu được cách điều động hỏa lực này, cấp chỉ huy của chúng không biết người biết ta, chỉ biết đánh biển người, nên chúng gặp ngay biển Hỏa Lực v́ vậy chúng phải thất bại ê chề là chuyện rất b́nh thường. Tại Triều Tiên năm 1952 khi Trung Cộng dùng biển người đánh với quân đội Đồng Minh do Hoa Kỳ chỉ huy, danh tướng Mc Arthur đă tuyên bố một câu để đời nếu địch quân dùng biển người tôi sẽ dùng biển lửa để thiêu sống chúng quả vậy khi Trung Cộng dùng hàng quân đoàn xung phong để tiêu diệt quân Đồng Minh liền gặp ngay những dàn súng phóng hỏa, tiêu diệt trọn bộ, chết thật thê thảm, Cộng Sản Việt Nam là đệ tử của Mao nên nhất nhất theo đúng chiến thuật của Mao, đầu óc của chúng không suy luận được, nên chỉ biết áp dụng chiến thuật của quan thầy mà thôi.

Tối ngày 14 rạng ngày 15 tháng 5 năm 1972 (tức nhằm ngày mồng 2 rạng ngày mồng 3 tháng 4 năm nhâm Tư) địch quân chọn những ngày đầu tháng cho nên trời tối có lợi cho cuộc chuyển quân của chúng, ta khó quan sát thấy địch, quan thầy (Nga-Hoa) dậy như vậy, chúng có biết đâu, mỗi t́nh huống một khác, chính trời tối cũng khó khăn di chuyển, nếu bật đèn xe th́ chỉ có nước sớm trở thành âm binh về gác xác Bác nơi âm ty, chính trời tối lại có lợi cho ta, địch không thông thuộc địa thế, c̣n ta th́ từng Mũ Đỏ thông thuộc địa thế đóng quân của ḿnh, đó chính là vị trí của ta chọn lựa. Nhờ tai mắt của ta bên kia bờ sông Mỹ Chánh, quan sát được địch chuyển quân, ta kết luận có nhiều dấu hiệu địch quân sẽ tấn công TĐ11ND; lư do nữa là địch bị thiệt hại quá nhiều, do đoàn quân Mũ Đỏ gây cho chúng liên tục những ngày qua, chúng phải trả thù, chúng phải lập chiến công, bắt buộc chúng phải tấn công để lấy lại uy thế, cho dù cấp dưới của địch c̣n hoang mang, cũng phải thi hành lệnh một cách mù quáng. C̣n ta nắm vững t́nh h́nh, cho nên mọi người đều thở ra nhẹ nhơm, tất cả đă sẵn sàng trong thế chờ địch, địch như con thú hoang đang tiến vào cạm bẫy của ta; ai có nhiệm vụ th́ thức, ai không có nhiệm vụ vẫn có thể ngủ, như những ngày khác. Nhưng hôm nay ai cũng nôn nóng khó có thể ngủ được, ban 3 TĐ1PBND cho lệnh kỹ càng 5 Pháo Đội Trưởng 105 ly và một Pháo Đội Trưởng 155 ly, rơ ư định điều động hỏa lực của trung tâm phối hợp hỏa lực, chúng tôi đang muốn t́m xem tại sao đạn nổ với đầu nổ CVT (Control Variable Time) lại tiêu diệt được chiến xa địch, chúng tôi rất vui mừng v́ các pháo đội trưởng đều một ḷng, muốn t́m nguyên do đạn nổ với đầu nổ CVT lại có thể tiêu diệt chiến xa, lúc này ai cũng ao ước cho địch tấn công, nếu không may địch không tấn công th́ đúng công của chúng tôi chuẩn bị thành công dă tràng, chúng tôi chỉ ao ước sao, thấy cho được chiến xa địch bị cháy, v́ bất cứ nguyên do nào, để t́m hiểu và học hỏi, chúng tôi có được xem h́nh chiến xa địch, nhưng không biết là thùng chứa nhiên liệu của chiến xa địch lại nằm ngay trên nóc xe, v́ h́nh chỉ phổ biến cho có lệ, ngày đó h́nh phổ biến bằng quay ronéo nên trông nó thê thảm lắm, không như h́nh của computer ngày nay đâu, không một chú thích về nơi đặt thùng xăng của chiến xa, nên chúng tôi vẫn tin tưởng rằng chiến xa của địch được thiết trí thùng xăng cũng nằm ở vị trí ngang hông như chiến xa của ta, nếu chúng tôi biết thùng chứa nhiên liệu nằm trên nóc xe, chúng tôi đă có kết luận nguyên do tại sao chiến xa của địch bị cháy tại Hạ Lào; khi đạn nổ với đầu nổ CVT bắn đi, từ đầu nổ sẽ phát ra chùm luồng sóng điện, khi luồng sóng điện này gặp bất cứ chướng ngại vật nào, dù là lá cây, ngay cả mưa nặng hột hay sương mù dầy đặc, máy bay, đàn chim...Nói chung bất cứ vật ǵ mà luồng sóng điện của đầu nổ chạm phải, lập tức có tín hiệu dội ngược trở lại và liền kích viên đạn nổ cách chướng ngại vật là 20 thước (mét) viên đạn nổ ra, theo sức phóng tới của viên đạn, nên tất cả mảnh đạn không tạt ngang, mà mảnh đạn lại phóng tới chụp vào mục tiêu, như một cái nơm chụp bắt cá của ngư phủ vậy, cho nên rất hiệu quả, v́ một viên đạn có hàng trăm mảnh đạn đánh vào một vùng thâu nhỏ, chừng một ṿng tṛn 50 thước đường bán kính, hàng trăm viên đạn pháo binh bắn cùng lúc th́ hiệu quả vô lường, mảnh đạn pháo binh khi nổ ra lại rất nóng đễ gây phát hỏa, không những vậy nếu chém vào sắt th́ sẹt ra một tia lửa ngay, nếu chém trúng thùng nhiên liệu, nhiên liệu chảy xuống máy chiến xa đang nóng cũng phát hỏa, (kỹ thuật tác xạ pháo binh nghiêm cấm không được bắn đạn nổ với đầu nổ CVT khi trời mưa, trời có sương mù, qua mức chắn, hay khi bắn cho quan sát viên phi cơ) cho nên một máy bay dân sự rớt ở biển Đại Tây Dương gần Nữu Ước, cả máy bay không ai sống sót không kiếm ra mảnh máy bay, hay hộp đen của máy bay, người ta nghi ngờ do hỏa tiễn của Hải Quân Hoa Kỳ thực tập làm hại máy bay này, cũng không phải là điều không đáng nói tới.

Trở lại mặt trận bờ nam gịng sông Mỹ Chánh, hay mặt trận trên dăy đồi Trần văn Lư, một toán viễn thám của ĐĐ2TSND cho biết có đoàn chiến xa địch, di chuyển về hướng nam c̣n cách sông Mỹ Chánh khoảng 6 Km, v́ toán viễn thám ở cách xa đường di chuyển của chiến xa địch, cho nên toán viễn thám không xác định được vị trí của chiến xa địch, cũng như không rơ loại chiến xa, bao nhiêu chiến xa, toán viễn thám nằm trên đất của địch, một toán nhỏ so với lực lượng địch nên không giám di chuyển nhiều; lúc đó là 2:00 giờ sáng ngày 15 tháng 5 năm 1972, nhận được tin chúng tôi cho lệnh vùi dập chúng ngay, nhưng mục tiêu này chỉ trong tầm 2 pháo đội 105 và pháo đội 155, sau khi bắn xong địch quân im lặng, sau đó chúng lại tiếp tục di chuyển, pháo của chúng đáp lễ các pháo đội của ta nên mọi việc đă rơ, chúng tôi đang gây khó khăn cho chúng nên chúng trả đũa, chúng tôi vẫn tiếp tục bắn chặn theo đường chúng có thể di chuyển, nhưng không ghi nhận được kết quả, khi một đại đội của TĐ3ND nghe thấy chiến xa địch di chuyển rất đông bên kia bờ sông, cũng không xác định vị trí địch v́ chỉ nghe tiếng nổ của động cơ mà đoán chừng thôi; lúc 4:00 giờ sáng, lúc này đa số các cấp chỉ huy c̣n trên hệ thống chỉ huy, ngay lập tức 6 pháo đội khai hỏa, ba trăm cái nơm sắt thép chụp xuống mục tiêu, sau đó chiến trường hoàn toàn im lặng, chiến xa địch im hơi nhưng pháo địch phản ứng dữ dội hơn trước, ba pháo đội gần tuyến đầu bị ảnh hưởng pháo của địch nhiều nhất, mọi người đều cảm nhận thấy trận giặc sắp khai màn, chắc chắn có chiến xa tham dự, sẽ trong đêm nay thôi, tất cả anh em trên tuyến đầu, đều nô nức đợi chờ địch đến tấn công, cho khỏi bơ công chuẩn bị chiến trường lâu nay, không có dịp này khó có dịp may khác trả thù cho Charlie được, mọi người đều tỉnh táo, các Đại Đội trưởng kiểm soát lại tuyến pḥng thủ lần chót cho an tâm hơn, nhắc nhở lại các ổ chiến đấu khi có chiến xa xuất hiện, chỉ khai hỏa khi chắc chắn chiến xa địch bị tiêu diệt, nhắc lại cho từng quân nhân biết tầm nh́n của chiến xa rất hạn chế, chúng chỉ thấy ta khi ta khai hỏa không trúng chiến xa địch, tất cả anh em Mũ Đỏ các cấp, trên tuyến đầu đă được huấn luyện nhuần nhuyễn, ai cũng đều nắm vững kỹ thuật tiêu diệt chiến xa địch, v́ vậy vấn đề huấn luyện kỹ thuật tác chiến, phải chú trọng đặc biệt cho từng địa thế, từng trận đánh, phải tiên liệu t́nh h́nh trước để các cấp không ngỡ ngàng khi gặp đối phương, nhất là yếu tố tinh thần, cấp chỉ huy phải dũng cảm coi thường địch, quyết chiến là yếu tố chính quyết định chiến trường, anh em MŨ Đỏ ai ai cũng đều nhất quyết khi đă khai hỏa là chiến xa phải cháy, ai cũng ao ước được thử sức với chiến xa một lần cho biết, v́ đa số anh em chưa một lần chạm trán với chiến xa địch, khi thấy tinh thần của anh em Mũ Đỏ như vậy, anh em Thiết Giáp cũng bừng bừng khí thế không sợ chiến xa T54 trên chân, hơn nữa các chiến xa của ta trong thế pḥng thủ nên đều được ngụy trang và có ụ đất bao bọc kỹ càng .

Lúc 4:30 giờ sáng một đại đội khác của TĐ3ND lại báo cáo: Nghe thấy tiếng chiến xa địch sát bờ sông, xin tác xạ pháo binh, không bỏ lỡ một cơ hội nào cho dù không chắc ăn, tức th́ ba trăm nơm sắt thép lại chụp xuống đầu địch, lần này địch trả đũa dữ dội, các pháo đội và tuyến đầu bị pháo dồn dập thêm nhiều vị trí pháo địch từ nhiều hướng mới, như vậy là chạm nọc rồi (chúng tôi tự nghĩ như vậy), cho nên ngay lập tức chúng tôi cho chụp thêm hàng trăm cái nơm sắt xuống, quả nhiên một chiến xa địch bốc cháy ngay bên bờ bắc sông Mỹ Chánh, chúng tôi mừng vô hạn, chúng tôi tin chắc những điều sơ đoán dù non nớt của ḿnh đă trúng, lúc này chúng tôi tin tưởng rằng (đạn nổ với đầu nổ CVT tiêu diệt được chiến xa địch, nhưng vẫn chưa có kết luận vững chắc, v́ câu hỏi tại sao chiến xa địch bốc cháy? Câu hỏi này làm chúng tôi nhức nhối cả hơn một năm nay) Tiền sát viên pháo binh đi với đại đội TĐ3ND lại báo cáo thấy nhiều tiếng chiến xa, chúng tôi ngại ǵ mà không bắn thêm, v́ trời c̣n tối TSV/PB chỉ điều chỉnh đạn theo ước lượng khi nghe đạn nổ cũng như khi nghe tiếng chiến xa, cho nên không có kết quả trông thấy nữa, cánh quân của TĐ11ND vô cùng nao nức khi nghe tin chiến xa địch bốc cháy, v́ họ không có dịp thi tài, nếu chiến thắng do TĐ3ND th́ TĐ11ND cũng mừng, nhưng không vui bằng chính TĐ11ND rửa hận, nên cánh quân TĐ11ND đang háo hức trông chờ sự xuất hiện của chiến xa địch, lúc này là lúc mà sự quyết thắng sẽ thực hiện dễ dàng, v́ ḷng quân đang nung nấu chí phục thù, cho cánh chim đầu đàn không may gẫy cánh.

Mệt quá! mặc dầu chúng tôi uống Cà Phê Phin đến no bụng, điếu thuốc lá lúc nào cũng trên tay, vậy mà ngủ thiếp đi lúc nào không hay, tôi thấy ḿnh đang du dương nghe Thái Thanh ca T́nh Hoài Hương, tiếng vỗ tay vang dội, Jomarcel đang đôi điều cảm ơn; tôi đang bắt tay Nhật Trường, rồi Như Thủy cố kéo dài hơi

Thương ai về ngơ tối
Đường không có ánh trăng

Đang say sưa trong giấc mộng đẹp; Phú trực đài trung ương tác xạ lay nhẹ tôi dậy, anh cho biết Thanh Hà 101 báo cáo quan sát thấy chiến xa xuất hiện, tôi bốc máy liên lạc trực tiếp với Sĩ Quan Tiền Sát đi với Đại Đội 111ND, Thiếu Úy Thức chỉ danh của anh là Thanh Hà 101, giọng Huế thật nhẹ nhàng, b́nh thản Thức cho biết Trung Úy Đinh viết Trinh Đại Đội Trưởng đại đội111 dùng kính hồng ngoại tuyến thấy rơ ánh đèn của nhiều chiến xa, các chiến xa này đă sang sông và chuẩn bị tấn công vào tuyến của Đại Đội 111 Nhảy Dù, ngay tại tác xạ tiên liệu C308 đă điều chỉnh cả ba pháo đội, mắt thường chưa thấy v́ trời c̣n tối. Sau khi nắm vững t́nh h́nh Thiếu Tá Tấn lập tức cho lệnh tác xạ TOT ngay trên điểm tiên liệu của ĐĐ111ND mà Trung Tâm Phối Hợp Hỏa Lực chấp thuận những ngày trước và đă được Sĩ Quan Tiền Sát Viên Thanh Hà101 điều chỉnh bằng ba pháo đội của TĐ1PBND, đây là tác xạ gần quân bạn cho nên tác xạ này chỉ thi hành bằng ba pháo đội đă điều chỉnh rồi mà thôi, lệnh của Trung Tâm Phối Hợp Hỏa Lực (TTPHHL) do Thiếu Tá Tấn Truyền đi.

- Hồng Hà, Hắc Hà, Thanh Hà đây Bạch Hà (Bạch Hà chỉ danh TĐ1PBND)
- Bạch Hà đây Hồng Hà (Hồng Hà chỉ danh PĐA1ND, v́ dấu chỉ độ giạt mầu đỏ)
- Bạch Hà đây Hắc Hà (Hắc Hà chỉ danh PĐB1ND, v́ dấu chỉ độ giạt mầu đen)
- Bạch Hà đây Thanh Hà (Thanh Hà Chỉ danh PĐC1ND, v́ dấu chỉ độ giạt mầu xanh, bởi vậy mỗi khi nghe chỉ danh của TSV, biết ngay TSV đó thuộc Pháo Đội nào)

Xin tác xạ Mục Tiêu C308, tôi lập lại mục tiêu C308, 20 tràng, đầu nổ CVT, TOT theo lệnh tôi c̣n 8 phút nữa. (TOT= Time on target, có nghĩa là các pháo đội phải tính sao, khi TTPHHL đếm c̣n Zero tất cả các pháo đội thi hành tác xạ này phải có lọat đạn đầu tiên nổ trên mục tiêu cùng một lúc, đây là cách bắn làm cho địch quân phải kinh hoàng, quân đội của cả khối tự do đều đă làm và hiệu quả vô cùng.
- Hồng Hà Nhận Rơ
- Hắc Hà Nhận Rơ
- Thanh Hà Nhận Rơ

Sau đó hệ thống tác xạ hoàn toàn im lặng,

- Đây Bạch Hà TOT c̣n ba phút, c̣n hai phút, c̣n một phút, c̣n 57 giây, 55, 50... 1, zero.

Khi nghe được Zero tức là cùng một lúc ba trăm sáu mươi chiếc nơm sắt thay nhau chụp xuống, con cháu của Bác và Đảng lớp chầu diên vương, lớp chạy tán loạn không c̣n ai chỉ huy ai nữa, giống như một pass B52 không tan hàng sao được, đồng thời thêm một chiến xa bốc cháy, chính tác xạ TOT này do Đại Đội Trưởng 111 Nhảy Dù, Trung Úy Đinh Viết Trinh đă tiên liệu, tác xạ này làm hai chiến xa đi lạc bầy luôn và bộ binh tùng thiết hoàn toàn tan hàng không c̣n phối hợp với nhau được nữa, sau đó lệnh của TTPHHL cho các TSV liên lạc trực tiếp với pháo đội đă ấn định yểm trợ trực tiếp cho ḿnh, ba pháo đội và ba tiền sát viên phải bẻ cổ sang tần số tác xạ đă ấn định, để cho hệ thống tác xạ bớt đi rối loạn v́ có tới sáu đơn xin tác xạ cùng lúc, đài trung ương tác xạ có sẵn hai hệ thống tác xạ, để điều động hỏa lực, v́ nhu cầu cần hỏa lực mạnh, chẳng hạn như trước mặt ĐĐ111ND trung tâm phối hợp hỏa lực vẫn điều khiển tác xạ TOT cả 6 pháo đội vào mục tiêu này, mấy ngày nay trên phương diện hỏa lực, chúng tôi hoàn toàn tự lực, không có một nguồn hỏa lực nào từ phía Hoa Kỳ cung cấp; dù không quan sát được rơ ràng, nhưng chắc chắn địch phải vào các tác xạ tiên liệu của ta, các lơm sắt không ngần ngại chụp xuống ngay, chính nhờ vậy mà trên một tuyến dài khoảng hai cây số đội h́nh Thiết Giáp- Bộ Binh của chúng bị tan hoang, bộ binh hoàn toàn bị tan hàng, tuy không bị tiêu diệt, nhưng đội h́nh chiến đấu không c̣n nữa, thiết giáp không có bộ binh tùng thiết , bộ đội trên thiết giáp địch lại không giám mở nắp thiết giáp, v́ các mảnh đạn do đầu nổ CVT điều khiển chụp xuống như mưa rào, bất cứ một sinh vật nào trong vùng ảnh hưởng của các tác xạ của chúng ta, đều phải trúng mảnh đạn, không khác ǵ như địch quân đi dưới cơn mưa rào vậy, tất cả đều bị ướt, tất cả nắp trên pháo tháp đậy xuống tránh mưa, nên lúc này thiết giáp địch không khác ǵ người mù, đi ṃ trong thành phố lạ, khối sắt khổng lồ di chuyển không theo một hướng nào cả, trời tối không có người hướng dẫn khai hỏa lung tung, không biết đâu là hàng ngũ của các đồng chí và đâu là tuyến pḥng thủ của các Thiên Thần Sát Cộng; có chỗ trong lúc thiết giáp của chúng đang lên dốc, chúng mất tinh thần khai hỏa bừa băi, nên súng ngước lên trời, các loạt đạn đại liên nổ ḍn dă, bay bổng lên trời trông thật đẹp mắt, những con rắn lửa vắt chéo nhau qua lại, chính nhờ vậy anh em tân binh, dù là lần đầu tiên thấy chiến xa địch, nhưng lại thấy chiến trận không có ǵ là đáng ngại cả, nên rất b́nh tĩnh dùng M72 bắn cháy chiến xa địch, tự cảm thấy trận mạc thật không khác ǵ tṛ chơi hú tim; không liên lạc được với quân tùng thiết, nên thiết giáp địch cán chết cả bạn, di chuyển lung tung không định hướng, không biết đâu là mục tiêu, cách duy nhất lấy lại tinh thần là khai hỏa bừa băi, để rồi làm bia cho anh em Mũ Đỏ thực tập tác xạ, lần lượt từng chiếc bị tiêu diệt, từng chiếc lần lượt bốc cháy, giúp anh em Song Kiếm Trấn Ải thực tập bắn M72, sau khi đă tiêu diệt được chiếc đầu tiên, tinh thần anh em lên cao ngất trời, ai cũng muốn chính ḿnh phải tiêu diệt được chiến xa, cho nên khi cuộc chiến tạm lắng dịu, chúng tôi chứng kiến hai tân binh, đứng trước một chiến xa của địch đă bị cháy, bằng hai vết M72, anh nào cũng nhận là ḿnh bắn trước, và ai cũng tin tưởng M72 là khắc tinh của chiến xa địch, nếu chúng ta biết cách bắn, chúng tôi thích thú nghe hai tân binh tranh căi, liền tham gia cho vui, tôi hỏi:

- Vị trí của hai em ở đâu,? Hai anh tân binh nhanh nhẹn chỉ vị trí tác chiến của ḿnh, xong rồi phân trần theo ước tính của ḿnh,

- Đích thân thấy không vết này phải là em bắn nó mới đúng hướng,

- Không phải đâu, đích thân thấy vết này nó thẳng góc với em hơn,

Các em đâu có biết khi trúng hỏa tiễn th́ chiến xa vẫn c̣n di chuyển, nên bây giờ khó biết ai bắn trước ai bắn sau, tôi lên tiếng dàn ḥa,

- Cả hai em đều bắn trúng như vậy là có chiến công bằng nhau, Đại Đội Trưởng (Hùng) xen vô cho vui vẻ cả làng,

- Cả hai tụi bay đều có công bằng nhau, tao cho hai đứa vừa thăng cấp lên binh nhất, vừa huy chương nữa chịu không, tôi thấy hai anh tân binh (bẽn lẽn) vui cười rồi chào chúng tôi đi về vị trí của ḿnh.

Tôi nh́n đồng hồ 5:00 giờ sáng, tiếng Thiếu Tá Nguyển Trọng Nhi Trưởng Ban 3 Lữ Đoàn đang truyền lệnh cho ban 3 TĐ11ND, và Tiểu Đoàn Phó TĐ3ND đều đặn và chặt chẽ, tôi nghĩ thầm, chúng tôi liên lạc với nhau như vậy, chiến thắng đến là chuyện tất nhiên, nếu các đơn vị khác cũng chuẩn bị chiến trường chu đáo, phối hợp hỏa lực nghiêm minh, th́ cũng phải chiến thắng như vậy thôi, điếu thuốc lá trên tay đỏ liên tục, cà phê hết ly này sang ly khác, rồi t́nh h́nh chiến sự lại sốt dẻo, nên chúng tôi rất tỉnh táo theo dơi cuộc chiến anh dũng của TĐ11ND và TĐ3ND, các tiền sát viên làm việc rất hữu hiệu, hôm nay mỗi đại đội đều được một pháo đội yểm trợ, ít có chiến trận được hỏa lực mạnh mẽ như vậy, v́ thường một tiểu đoàn tác chiến mới được một pháo đội yểm trợ trực tiếp, từ lúc địch quân khởi sự tấn công TĐ11ND, chúng không pháo kích BCH/LĐ2ND và BCH/TĐ1PB nữa, chúng tôi không c̣n thấy mệt mỏi, tin vui đến liên tục, tôi dùng một máy truyền tin riêng, đưa tần số sang nghe hệ thống chỉ huy nội bộ của TĐ11ND, to miệng nhất vẫn là Trinh và Hùng hai anh chàng Đại Đội Trưởng này ganh nhau về tài diệt chiến xa, họ vui vẻ đánh cá nhau như cuộc vui chơi đua ngựa, nếu ai rang nhiều cua (diệt nhiều chiến xa) hơn, cứ một con cua rang muối là một két bia, nghe những mẩu đàm thoại ngắn gọn giữa các Đại Đội trưởng với nhau, ai cũng có thể đoán được trận chiến sẽ ngă ngũ ra sao, tôi nghĩ chắc địch quân không muốn sống nữa rồi, gần sáng mới tấn công, đúng là vào tử địa, tôi mỉm cười thầm chúc anh em TĐ11ND, những con chim trong đoàn Song Kiếm Trấn Ải, được toại nguyện (ngày hôm sau ta lần lượt khai thác tù binh mới biết địch cố gắng tấn công càng sớm càng tốt, nhưng chiến xa đồn trú tại khu vực gần La Vang, di chuyển lại Mỹ Chánh trước, th́ lại sợ bị các toán viễn thám của ta phát giác, địch không giám di chuyển ban ngày sợ lộ, ban đêm không giám bật đèn lớn, chỉ giám bật đèn mắt mèo, và đi sát nhau sợ lạc nhau v́ vậy mà đi chậm, cho nên thay v́ giờ tấn công là 2:00 giờ sáng mà không làm đúng được, chúng đă coi kỹ sa bàn điểm đóng quân của ta, và đă phân chia nhiệm vụ cho từng đơn vị chiến xa và từng đơn vị bộ binh tùng thiết, như vậy kể như chúng đă thực tập tấn công trước trên sa bàn, chúng chuẩn bị chiến trường cũng chu đáo đấy , chúng có biết đâu vỏ quít dầy có móng tay nhọn, sa bàn của chúng không đúng với thực tế, những tin tức do chính các toán trinh sát của chúng nh́n thấy và vẽ lại đều sai, v́ những điểm chúng quan sát được chính là những điểm ban ngày ta cố ư cho chúng quan sát, những vị trí thật được ngụy trang kín đáo và lùi vào phía trong, không một vị trí pḥng thủ nào của ta sát ngay bờ sông như chúng đă vẽ lại và chúng đă cho thực tập vào vị trí nghi binh của ta, c̣n vấn đề vô cùng quan trọng nữa, bị xáo trộn không ít là khi chưa vượt sông đă bị các toán Viễn Thám bên kia sông, cũng như các toán tiền sát viên của ta bên đây sông, xin pháo binh bắn trúng đội h́nh, làm tổn thất một số đáng kể, ngay lúc đó chúng đă thấy chiến trường đêm nay, hoàn toàn bất lợi cho chúng, tinh thần có phần nao núng, v́ chúng không có đơn vị trừ bị, để điền vào chỗ trống của một vài chiến xa cũng như một vài đơn vị bộ binh mới bị tiêu diệt, cho nên một vài mũi tấn công bị trống, trận chiến trở nên thiếu quân bằng, nhất là từ ngày vượt sông bến Hải, đơn vị của chúng chưa gặp một địch thủ nào, đă cản được bước tiến của chúng, cho nên tinh thần của địch đang cao trên đỉnh núi, bắt đầu đụng trận, th́ tinh thần của chúng xụp xuống đáy vực, một xạ thủ đại liên trên chiến xa địch đă thổ lộ, anh không thấy một mục tiêu nào để bắn, mà chỉ bắn cho có tiếng nổ để giữ tinh thần, c̣n xạ thủ đại bác không dật trên chiến xa địch c̣n thê thảm hơn nữa, anh nói anh bắn gần hết số đạn đại bác trên xe mục đích là cho bớt sợ hăi, v́ không thấy một mục tiêu nào cả).

Lúc Thiếu Tá Tấn ban 3 TĐ1PBND đang điều khiển tác xạ TOT cho 6 pháo đội thi hành, trời thương chúng tôi sương mù chỉ dầy đặc dưới thung lũng, c̣n các vị trí Pháo Đội lại quang đăng không có mây, cho nên các pháo đội tác xạ vẫn dùng đầu nổ CVT được như thường, chúng tôi nghe trên máy Thiếu Úy Thức báo cáo với Pháo Đội Trưởng yểm trợ trực tiếp Pháo Đội C1 Nhảy Dù, (lúc này Pháo Đội Trưởng Pháo Đội C1 Nhảy Dù là Đại Úy Nguyễn Cẩn Ngọc, Ngọc có biệt danh là Ngọc Thầy tu, v́ tánh t́nh anh như một nhà tu hành, hơn nữa gia đ́nh anh có 10 anh chị em, th́ 5 người là Linh Mục, 5 người là bà Soeur, chỉ có một ḿnh anh là Thiên Thần mà thôi, sau này anh là Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó, hiện anh và gia đ́nh ở tại Houston, Texas) Một cua rang muối như vậy là địch tổn thất thêm một chiến xa, trong khi các chiến xa của chúng chưa chạm trán trực tiếp với TĐ11ND, chúng tôi vô cùng sung sướng và nghĩ rằng khi chiến trường lắng dịu chắc chắn, chúng tôi phải tới tận nơi những chiến xa của địch, bị Pháo Binh tiêu diệt để t́m nguyên do tại sao chúng bị cháy như vậy, trời quả vẫn c̣n thương chúng tôi.

Khoảng 5:20 địch đồng loạt tấn công hai đại đội của TĐ3ND và ba đại đội của TĐ11ND, (c̣n một đại đội tác chiến của TĐ11 không ở trên tuyến đầu, ở phía sau làm thành phần trừ bị, bảo vệ bộ chỉ huy tiểu đoàn), chính toán cố vấn Hoa Kỳ xử dụng một cây Hỏa Tiễn TOW bắn cháy một chiến xa đầu tiên do đạn bắn thẳng và có quan sát được, chiến xa này cháy trước khi chúng tràn vào tuyến, Thiếu Tá Tấn phân chia mỗi pháo đội 105 ly yểm trợ một đại đội tác chiến, c̣n pháo đội 155 ly giao cho sĩ quan Liên Lạc của BCH/TĐ11ND.

Thiếu Úy Thức báo cáo chiến xa địch tràn vào trong nhưng không có tùng thiết, nên các chiến sĩ Mũ Đỏ của Tú Trinh (chỉ danh của Trung Úy Đinh Viết Trinh Đại Đội Trưởng Đại Đội 111Nhảy Dù, ngay sau trận diệt chiến xa anh được vinh thăng Đại Úy, anh có biệt hiệu là Trinh ba búa, anh bị thương mức độ tàn phế 90% tại trận Thường Đức, anh và gia đ́nh hiện đang ở San Jose, tuy đời sống khó khăn nhưng anh lúc nào cũng mỉm cười) phải leo lên thiết giáp địch mở vung cho vào nồi muối M26 (lựu đạn M26) để rang cua, trong lúc đó cánh quân của TĐ3ND bị địch tấn công bằng bộ binh, chỉ có ba chiến xa cùng ḥa đồng tấn công, nhưng đội h́nh phối hợp bị tan nát bởi các toán Tiền Sát Viên Pháo Binh của ta, điều chỉnh từng loạt đạn theo ư muốn, nhất là lúc này không phải là lúc, mà chiến xa có thể làm cho các chiến sĩ Mũ Đỏ nao núng, trái lại các anh em Mũ Đỏ c̣n mong cho chiến xa xuất hiện để được dịp thi thố tài năng, cho nên ngoại trừ rất ít chiến xa của địch bị Pháo Binh và hỏa tiễn Tow tiêu diệt, c̣n lại bao nhiêu chiến xa khác, đều bị các chiến sĩ Mũ Đỏ của năm đại đội Mũ Đỏ trên tuyến đầu tiêu diệt, chiến xa cháy ngay trên tuyến pḥng thủ, hay chỉ cách tuyến pḥng thủ chính không đầy 50 thước, sau khi cuộc chiến chấm dứt, lúc mà pháo binh của địch quân đang hoạt động trả thù, trời sáng trưng, chúng tôi tháp tùng theo Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng, nên có dịp được hỏi thăm những anh em khinh binh, tuy biết trước nhưng tôi vẫn đặt câu hỏi: Tại sao anh em lại để chiến xa vào gần như vậy, tất cả đều được anh em Mũ Đỏ 11 trả lời tương tự như học sinh lớp ba, cùng học một bài thuộc ḷng do thầy giáo cho bài từ ngày hôm trước:

Đích Thân ơi nếu không để nó vào gần như vậy th́ ḿnh chết; chiến xa nó ở xa 100 thước chắc ǵ ḿnh bắn trúng nó, hơn nữa bắn phía trước không hiệu quả bằng bắn ngang hông, không may bắn nó không cháy là ḿnh bị lộ mục tiêu , như vậy là tiêu với nó ngay, không khác ǵ ḿnh tự sát vậy; cho nên tụi em nhận được lệnh của trung đội trưởng, thằng nào mà bắn trật chiến xa là bị cấm phép; nên chắc ăn là để chiến xa nó vào gần ḿnh rồi hăy bắn, để khỏi bị cúp phép. Một số ít chiến xa chưa khai hỏa nhiều, không may cho chúng v́ chúng không thấy đường nên chúc đầu xuống hố, một trái M72 là một chiến xa dễ dàng, một trái M72 là phải tiêu diệt một chiến xa như hai với hai là bốn vậy, Chiến xa địch cũng có chiếc vào tới BCH/TĐ11ND nhưng bị bốc cháy tức thời, Chiến xa địch không phối hợp được bộ binh, cho nên yếu tố quyết định chiến trường không dành cho chúng, có thể v́ các loạt đạn CVT của Pháo Binh đă làm chúng tan hàng ngũ, phối hợp giữa bộ binh và thiết giáp không c̣n, sau đó thiết giáp lên đồi chạy nhanh hơn bộ binh nên vào trước, c̣n bộ binh lúa quớ vào sau làm bia cho anh em Mũ Đỏ, yếu tố chính ta chiến thắng là do ḷng quyết chiến quyết thắng của các anh em trên tuyến đầu, họ sung sướng khi thấy địch xuất hiện, họ không được vui cho lắm v́ tiêu diệt được quá ít chiến xa, không đáng công phải chuẩn bị quá vất vả; c̣n bộ binh của địch th́ hoàn toàn không đáng kể, địch tiến vào gặp ta bị chết bị thương mà vẫn chưa xác định được ta ở đâu; lúc này pháo của địch cũng hoạt động mạnh, nhưng thay v́ yểm trợ cho địch, pháo của địch lại trở thành yểm trợ cho ta, các loạt pháo này đều rớt xuống sông Mỹ Chánh và bên bờ phía bắc, có lẽ do TSV/PB của địch đă bị tử thương trong đêm qua, cho nên không có ai điều chỉnh các loạt đạn, v́ vậy pháo của địch chỉ bắn trúng địch, hay bắn trúng chỗ không người, pháo binh bắn theo bản đồ tin tức, hay bắn theo các đài quan sát trên dăy trường sơn, v́ ta không có sơ hở cho đài quan sát ở xa thấy được, nên không may cho chúng là chẳng pháo trúng đoàn quân Mũ Đỏ, mà lại trở thành yểm trợ cho đoàn quân Mũ Đỏ.

Khoảng 5:50 sáng một đoàn Cobra vào vùng xin Pháo Binh ngưng tác xạ, đó cũng là lúc chiến xa địch đă hoàn toàn bị tiêu diệt, chiếc xe chỉ huy của trung đoàn phó chiến xa địch đă bị các chiến sĩ Mũ Đỏ của Tú Trinh làm thịt kể như là chiếc cuối cùng; tại tuyến của TĐ3ND ta diệt 3 chiến xa địch, tuyến của một đại đội của TĐ11ND tức là ĐĐ111ND ta tiêu diệt 8 chiến xa và một xe chỉ huy, hai hỏa tiễn TOW tiêu diệt tổng số 4 chiến xa, hai chiến xa địch đi lạc ra gần quốc lộ số 1, một chiếc bị bắn cháy, c̣n một chiếc đầu hàng c̣n nguyên vẹn; nói chung, chúng dàn chiến xa ra đánh dài trên tuyến đầu, cho nên đơn vị nào cũng được hân hạnh tiêu diệt chiến xa như nhau.

Đoàn Cobra vào vùng, mọi người ngạc nhiên, chính cố vấn Mỹ cũng không biết đây là đoàn Cobra do ai phái tới, sau một hồi mới hiểu ra đây là đoàn Cobra từ Sài G̣n gửi ra từ những ngày hôm trước, đậu sẵn tại hàng không mẫu hạm chờ lệnh từ Sài G̣n, chuyển lệnh qua cố vấn tại Quân Đoàn I, đoàn Cobra có chỉ danh là Red Team, mới được thành lập bên Thái Lan, cho nên các cố vấn cũng không rơ, đây là lần đầu xuất quân của họ, với nhiệm vụ t́m và tiêu diệt chiến xa địch, mỗi chiếc Cobra được trang bị rất tối tân, tất cả đều trang bị hồng ngoại tuyến để nh́n ban đêm, và sensor để t́m hơi nóng, do một sĩ quan cấp tá chỉ huy, đoàn này gồm có:

- 1 CNC chỉ huy và liên lạc
- 4 Cobra trang bị hỏa tiễn chống chiến xa và minigun
- 4 Cobra trang bị hỏa tiễn thường và minigun
- 3 trực thăng, chuyên chở trung đội cảm tử, nếu không may có một máy bay trong đoàn, bị trúng đạn phải đáp xuống đất, trung đội cảm tử này sẽ được thả xuống ngay để tiếp cứu, hoặc để chiến đấu chờ đợi tiếp cứu đến.

Đoàn máy bay Cobra săn chiến xa bắn thêm được 1 chiến xa đang tẩu thoát bên bờ bắc sông, họ bay theo vết chiến xa suốt từ Mỹ Chánh cho tới giáp ranh Quảng Trị, chỗ nào nghi ngờ họ đều tấn công ngay, kể cả bộ binh, khi không thấy c̣n chiến xa cũng như bộ binh địch hoạt động nữa, họ đă quay lại xin yểm trợ sát quân bạn và tiêu diệt một số bộ binh địch đáng kể, và họ cho biết họ đếm được tổng số 22 chiến xa bị tiêu diệt, về sau mới rơ c̣n 4 chiến xa địch không bị cháy đă đầu hàng, nằm ngay trên tuyến của ta nên đoàn Cobra săn chiến xa tưởng lầm đó là chiến xa của ta, họ đếm chiếc nào bốc cháy là của địch, chiếc nào c̣n nguyên vẹn là của ta, như vậy c̣n 4 chiến xa địch đă đầu hàng, nằm tại tuyến pḥng thủ của ta, những chiến xa này không bị hư hại.

Tuy vậy địch vẫn chạy thoát 1 xe chỉ huy, Thượng Tá Trung Đoàn Trưởng chiến xa chạy thoát về tới La Vang và bị xử bắn ngay tại La Vang. Tài liệu này lấy được tại La Vang, khi tái chiếm Quảng Trị.

Chúng tôi gặp lại anh em trong Đoàn Song Kiếm, ai ai cũng hân hoan trước chiến công của ḿnh, nh́n anh em tù binh đang lo sợ, cúi mặt không giám nh́n thẳng, tôi thầm nghĩ họ đâu biết được, là họ đă may mắn vô cùng, khi họ được anh em Mũ Đỏ bắt làm tù binh, mạng họ chắc chắn sống, họ sẽ không bị tra khảo, họ sẽ không bị ngược đăi, như các anh em của chúng ta, không may lọt vào tay địch, họ sẽ được giữ tại các trại tù binh chiến tranh, một ngày đẹp trời nào đó họ sẽ có cơ may gặp lại gia đ́nh, sau này tất cả tù binh chiến tranh, đều được trao trả tù binh ngay trên bờ sông Thạch Hăn, Quảng Trị năm 1973; hay những địa điểm trao trả tù binh khác, như Lộc Ninh, B́nh Long năm 1974.

Sau khi biết được tại sao chiến xa của địch cháy, chúng tôi thật vui, chúng tôi biết rằng kinh nghiệm này sẽ giúp cho anh em chúng tôi bớt đổ máu, chúng tôi đang vui như những ngày c̣n hẹn ḥ, bắt gặp một Mũ Đỏ trong đoàn Song Kiếm Trấn Ải mặt mũi vẫn c̣n lem luốc v́ thuốc súng, đang mải mê biên thư, trông dáng điệu rất thư sinh, trẻ măng nên tôi dừng lại hỏi chuyện.

- Em biên thư cho ai đó? Tuy hỏi như vậy nhưng tôi cũng đoán được là biên thư cho ai rồi, tuổi c̣n nhỏ ngoài người yêu th́ c̣n ai xứng đáng nhận được bức thư sau trận chiến, khi ngước mắt nh́n thấy tôi, anh vội vàng nghiêm chỉnh chào. Khuôn mặt c̣n rất non, anh lắp bắp không thành tiếng, tôi vịn vai thân mật bảo cứ ngồi xuống biên thư, nhưng anh vẫn đứng đó, mặt đỏ bừng:

- Dạ em biên thư ch... cho...
- Cho người yêu phải không?

- Dạ, anh ấp úng nhẹ nhàng đáp,
- Em sẽ nói ǵ với người yêu của em?

- Em sẽ nói em đụng trận với chiến xa địch...
- Em không sợ người yêu của em lo sợ hay sao? Vậy em có bắn cháy chiến xa nào hay không?

- Thưa các anh lớn dành hết nên em không bắn được chiếc nào cả, c̣n người yêu của em, cô ấy không sợ đâu đích thân, cô ấy rất hănh diện là người yêu của Mũ Đỏ, cô ấy thích đội nón đỏ, nhưng em không giám cho cô ấy đội, cô ấy biết Mũ Đỏ là ở đâu cũng đánh trận mà, tôi mời anh điếu thuốc, tôi biết lúc này ai cũng đang thiếu thuốc, anh rụt rè đón nhận, nh́n mặt anh tân binh tôi biết anh c̣n trẻ lắm, tôi hỏi thăm ngay:
- Em đi lính được bao lâu rồi?

- Thưa em đi lính được hơn một năm rồi; tôi lấy làm lạ, như vậy không c̣n là tân binh nữa, đi lính hơn một năm rồi, một năm biết bao nhiêu lần chạm địch.
- Vậy sao? như vậy là em có tham dự trận Hạ Lào, trận Dambe và cả Charlie nữa?

- Em có tham dự trận Hạ Lào, trận Dambe em bị thương nên em không được tham dự trận Charlie.
- Bây giờ em đang mang cấp bậc ǵ?

- Em lên Hạ Sĩ rồi nhưng tụi nó cứ gọi em là Hạ Sĩ Sữa nên em không thèm mang lon.
- Năm nay em bao nhiêu tuổi rồi?

- Năm nay em mới có 17 tuổi, lúc em vào lính, em không đủ tuổi, em phải lấy giấy khai sinh của người anh của em, để đi lính, anh của em tên Nguyễn văn Trương, em tên Nguyễn văn Trường, nên không phải sửa ǵ cả, v́ vậy năm nay em 20 tuổi rồi đó. Tôi liếc nh́n ḍng chữ lớn trên bức thư dở dang, tay anh đang cầm; tôi ṭ ṃ hỏi:
- Tại sao em biên thư cho người yêu mà em lại viết Cây cà rem yêu quí ? Lúc này tuy anh rất b́nh tĩnh, nhưng Trường rụt rè không trả lời, mặt anh đỏ lên trông thật dễ thương, ṭ ṃ muốn biết sự thực vui vui này, nên tôi phải dụ,

- Này nói đi, anh sẽ tặng bao thuốc, Trường vui vẻ nhận lời,
- Thật không đích thân?

- Thật chứ.
- Này nhé... Trường cười hóm hỉnh rồi tiếp, Đích thân muốn ăn cà rem, cũng phải tay cầm lấy cây cà rem, rồi đưa lên miệng nhẹ nhàng thưởng thức hương thơm của cà rem, và vị ngọt dịu dàng của cà rem, em nghĩ đích thân cũng phải qua thời kỳ có người yêu như em, th́ cũng tay ôm, miệng hôn để thưởng thức hương thơm từ miệng người yêu, kèm theo hương vị ngọt ngào, như em bây giờ, v́ vậy em coi người yêu của em cũng như cây cà rem có khác ǵ đâu, phải không đích thân? Tôi thầm bái phục anh lính trẻ mà có tâm hồn rất ư là hồn nhiên, rất ư là lăng mạng, không thua ǵ các thi sĩ.

- Thế người yêu của em năm nay bao nhiêu tuổi rồi?
- Hồng năm nay 16 tuổi.

- Thế gia đ́nh Hồng có ngăn cản cuộc t́nh của em hay không?
- Chúng em yêu nhau từ lúc em... mặc bộ đồ hoa nón Đỏ đi phép lần đầu tiên Hồng thấy em lớn hẳn ra, năm đó đúng ra em mới có 16 tuổi, Hồng thấy em mặc quân phục áo Hoa mũ Đỏ, Hồng thích em từ đó, gia đ́nh Hồng chống đối dữ lắm.

- Thế trước đó em có biết Hồng hay chưa?
- Chúng em ở cùng xóm bàn cờ với nhau, nên chúng em trước đó cũng có quen biết nhau, tôi cảm ơn Trường đă kể cho nghe chuyện yêu đương của em, không quên đưa bao thuốc tặng Trường và rời vị trí TĐ11ND, Tôi c̣n muốn được nghe câu chuyện yêu đương của người lính trẻ, câu chuyện t́nh thật đẹp, nhưng thời gian không cho phép, rồi sau đó tôi không có dịp được gặp anh nữa, nh́n mọi người vui mừng v́ đă trả được thù cho đơn vị, chúng tôi vui trong niềm vui chung đó.

Khi về tới Lữ Đoàn chúng tôi tới ngay các Pháo Đội, để được tận mắt nh́n thấy sinh hoạt của các Pháo Thủ, sau một đêm thi hành tác xạ yểm trợ không ngừng nghỉ, đó là lúc toán tiếp tế đạn bắt đầu hoạt động, từng chiếc xe đạn êm ả chạy vào vị trí pháo đội, địch không quan sát được cho nên không bị pháo kích, nếu lúc này một người lạ, dù là một quân nhân, hay thường dân đi lạc vào đây, quí vị phải vô cùng ngạc nhiên, không biết, đây là quân nhân thuộc binh chủng nào, quân nhân đến tiếp tế đạn ai cũng biết đó là, những quân nhân trong đoàn quân Mũ Đỏ, c̣n những ai kia vậy, quân phục mầu đen, mặt mày lem luốc, thưa không họ mặc áo hoa trên áo có huy hiệu đàng hoàng, nhưng bây giờ không ai c̣n thấy huy hiệu nữa, tất cả đều một mầu đen, mầu của khói súng, sau một thời gian dài tác xạ, khói súng đủ sức nhuộm mầu áo trận trở thành mầu đen bóng, đến áo lót của họ cũng trở thành mầu đen, chỉ c̣n hai con mắt tinh tường, nhưng cũng không c̣n nhanh nhẹn, sau một đêm thức trắng đêm, và nhiều đêm canh thức trước đó, bây giờ các Pháo Thủ Mũ Đỏ đă thấm mệt, nhưng đâu có được nghỉ, v́ nhiệm vụ vẫn c̣n đ̣i hỏi họ phải chu toàn, sau một hồi tác xạ theo yêu cầu của Tiền Sát Viên, bây giờ sáng rồi địch quan sát được làn khói thuốc súng do bắn quá nhiều, những loạt đạn 130 ly ào ào đổ tới, ai giúp các pháo thủ, phản pháo bây giờ, thưa không có ai cả, v́ không có Không Quân yểm trợ lúc này, mà pháo của ta th́ ngoài tầm, đành nương theo khói đạn nổ của địch mà bắn yểm trợ cho quân bạn, các pháo thủ Mũ Đỏ dù nguy khốn như Hạ Lào, (v́ đây chính là những pháo đội đă vào Hạ Lào rồi ra khỏi Hạ Lào) dù địch quân cố gắng diệt pháo của ta, các pháo thủ Mũ Đỏ cũng vẫn anh dũng tác xạ, dưới làn mưa pháo của địch quân, đă mang lấy nghiệp vào thân, làm sao ươn hèn cho được, dù rằng có khi không may, cả khẩu đội bị thương tích cùng một lúc; tiếng đạn rít trên không trung chúng tôi biết là địch pháo kích dài, đạn bay qua đầu, tiếng đạn pháo của địch nổ chát chúa bên phải và dài đối với pháo đội, chúng tôi hiểu ngay năy giờ địch vẫn chưa pháo trúng chúng tôi, v́ các pháo đội đă nương theo địa h́nh mà chiếm vị trí cho các khẩu đội, nên các đài quan sát của chúng không thấy được, chúng chỉ quan sát được khói súng và bắn để điều chỉnh trúng pháo đội của ta, khi chúng xác định được vị trí pháo của ta,v́ đài quan sát của chúng tuy ở cao nhưng lại xa, trời buổi sáng vẫn c̣n chút sương rơi nên quan sát cũng khó mà chính xác cho được, bây giờ chỉ cần một sơ hở nhỏ trên vô tuyến là chết ngay với chúng, chúng sẽ khai thác ngay, chúng tôi biết như vậy, tôi liền lên tiếng than thở với Pháo đội là địch có đài quan sát nên nó quan sát chính xác quá, coi chừng bắn xong phải xuống hầm ngay, khai thác được sơ hở này, chúng bắn hiệu quả dồn dập ngay, chúng khôn nhưng không ngoan chút nào cả, chúng phải biết tôi làm sao sơ hở như vậy được, chúng rất rành giọng nói của tôi, chúng đă từng gọi tên và ngay cả chức vụ của tôi ra chúng chửi trên hệ thống Tác Xạ, chúng quên rằng chúng tôi được thụ huấn từ quân trường ra, chúng tôi đâu có được hân hạnh lên lon theo đảng tịch như chúng mà ngu dại như vậy; sau khi chúng pháo dồn dập tưởng rằng chúng tôi sẽ bị thiệt hại, những loạt đạn 130 ly đến tới tấp cách vị trí pháo đội trên 300 thước sai cả về hướng và cả về tầm, tôi la thất thanh trên hệ thống, cuống cuồng hỏi thiệt hại pháo đội, các pháo đội trưởng cũng vậy đâu có phải tay mơ mà nắm pháo đội, cũng trầy vi tróc vảy mới leo lên được chức vụ này, pháo đội trưởng hiểu ư ngay báo cáo thiệt hại nửa kín nửa hở, chúng tôi tin chắc là chúng sẽ mừng lắm, thất bại bộ binh chiến xa, nhưng gỡ lại được pháo binh chăng? Rồi chúng đâu có tha, chúng pháo dồn dập yếu tố có sẵn làm chúng tôi nh́n nhau cười, đó là lúc chúng tôi đang đứng bên nhau, bàn định chương tŕnh vượt tuyến Mỹ Chánh nay mai, chúng tôi đang chờ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù ra đầy đủ là chúng tôi sẽ vượt tuyến Mỹ Chánh hỏi thăm chúng, đáp lễ cho đúng phép xă giao, hôm nay chúng đến đây hỏi thăm Song Kiếm Trấn Ải, chúng tôi sẽ hỏi thăm thật tận t́nh, chúng tôi không hẹp ḥi ǵ mà không đưa cho chúng thật hậu hỹ quà cáp, hăy chờ quà xă giao của Mũ Đỏ.

Song Kiếm Trấn Ải đă rửa được hận Charlie, bằng một trung đoàn chiến xa và một trung đoàn bộ binh địch, TĐ11ND rửa hận dễ dàng như vậy là do tất cả quân nhân trong tiểu đoàn, một ḷng một dạ như nhau, chuẩn bị chiến trường, bắt địch phải tiến quân theo ư ta, bắt địch phải đón nhận những trận đ̣n theo ư của ta, nói cho minh bạch hơn là do tài trí của các cấp chỉ huy, từ tiểu đội cho đến tiểu đoàn, chúng ta chiến thắng không bằng lấy thịt đè người, không bằng lấy hỏa lực để tiêu diệt chúng, chúng ta chiến thắng bởi những bộ óc tinh khôn, sáng suốt, nên chiến thắng trong vinh quang, không bằng đau thương cho thuộc cấp.

V́ quen ăn cua rang muối nên khi đánh ra La Vang TĐ11ND lại rang thêm một số cua sắt nữa chính v́ vậy tết Quư Sửu Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù hân hạnh đón nhận quà của Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa, một số hiện kim và bằng tưởng thưởng ghi danh TĐ11ND là đơn vị diệt chiến xa số 1 của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, và cũng là để đoàn quân Mũ Đỏ chuẩn bị vượt sông Mỹ Chánh trong nay mai...

Trần Văn Lư
____________________ ____________________ _______

Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù

Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù được chính thức thành lập ngày 1 tháng 12 năm 1967 do Thiếu tá Nguyễn Viết Cần làm Tiểu Đoàn Trưởng đầu tiên tại Sài G̣n với huy hiệu Song Kiếm Trấn Ải và nằm trong hệ thống chỉ huy chiến thuật của Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù. Bản doanh của Tiểu Đoàn 11 là Trại Nguyễn Huệ trên đồi Tăng Nhơn Phú, Thủ Đức. Cũng như các đơn vị Nhảy Dù kỳ cựu khác, sau khi thành lập và trải qua giai đoạn huấn luyện chiến thuật tại Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Vạn Kiếp tại Bà Rịa, đơn vị này đă được đưa ngay vào chiến trường đang sôi động khắp các mật trận và khắp bốn vùng chiến thuật với nhiệm vụ bảo quốc an dân.

Những trận đánh đáng ghi nhớ của TĐ11ND:

– Ngày 29-1-1968 Tết Mậu Thân, ngay đêm giao thừa trong lúc đang thụ huấn tại TTHL Vạn Kiếp chưa làm lễ xuất quân, TĐ11ND đă đánh tan một đơn vị tinh nhuệ cấp Trung Đoàn của VC tấn công vào quân trường này…

– Ngày 5-2-1971 TĐ11ND do Trung tá Ngô Lê Tỉnh làm Tiểu Đoàn Trưởng được không vận đến Đông Hà Quảng Trị để chuẩn bị tham gia cuộc Hành Quân Hạ Lào Lam Sơn 719.

– 12 giờ trưa ngày 8-2-1971, TĐ11ND được trực thăng vận thả xuống tại một địa điểm được chỉ định nằm cạnh QL9 và cách biên giới Lào-Việt khoảng 5km để thiết lập căn cứ hỏa lực Bravo yểm trợ cho cuộc tiến quân sang Lào.

– Ngày 4-4-1971, TĐ11ND do Trung tá Ngô Lê Tỉnh chỉ huy cùng toàn thể LĐ2ND được không vận lên Pleiku từ phi trường Đông Hà bằng phi cơ C141 của Hoa Kỳ tăng phái cho Sư Đoàn 22 Bộ Binh để mở cuộc Hành Quân Quang Trung 22/2 giải tỏa áp lực địch quân quanh Căn Cứ 6 ở Kontum.

– Ngày 25-3-1972 Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù do Trung tá Nguyễn Đ́nh Bảo làm Tiểu Đoàn Trưởng vừa từ Sài G̣n ra Quân Khu II được trực thăng vận đổ ngay vào căn cứ Charlie thay thế TĐ2ND trong trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa tại mặt trận Tây Nguyên. Ngày 12-4-1972 khoảng 11 giờ trưa đạn pháo của địch quân đă đánh trúng vào hầm Trung Tâm Hành Quân của Tiểu Đoàn và Trung tá Nguyễn Đ́nh Bảo đă bị tử thương.

– Ngày 8-5-1972, Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù do Thiếu tá Lê Văn Mễ làm TĐT, từ mặt trận Tây Nguyên được không vận đến Huế tăng viện cho mặt trận QKI, ngay khi vừa đến Huế th́ nhận được lệnh tái chiếm phía Nam sông Mỹ Chánh.

– Ngày 2 và 3 tháng 6/1972 Tiểu Đoàn 11 đă giao tranh dữ dội với Trung Đoàn 66 CSBV có chiến xa yểm trợ tại bờ Nam sông Mỹ Chánh. TĐ11 đă tiêu diệt hằng trăm quân CS bỏ xác tại trận, bắn cháy 19 chiến xa đủ loại và bắt sống 9 chiến xa khác.

– Ngày 2-7-1972, trong chiến dich Lôi Phong tái chiếm tỉnh Quảng Trị, TĐ11ND do Thiếu tá Lê Văn Mễ TĐT được trực thăng vận đổ xuống phía Bắc Sông Nhung dưới ánh nắng oi bức của mùa Hè đổ lửa làm trục chính cuộc tiến quân của Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù do Đại tá Trần Quốc Lịch chỉ huy, từ Hải Lâm tiến chiếm mục tiêu là nhà thờ La Vang.

– Ngày 4-4-1975 Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù do Thiếu tá Nguyễn Văn Thành TĐT, TT Nguyễn Văn Giới TĐP được lệnh khẩn cấp lên đường ra Phan Rang bằng phi cơ C130 và C119 với nhiệm vụ bảo vệ pḥng tuyến Phan Rang.

Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù:
1. Thiếu tá Nguyễn Viết Cần (1967-1969) từ ngày thành lập đến năm 1969 thuyên chuyển về SĐ21BB.
2. Thiếu tá Ngô Lê Tỉnh (1969-5/1971) thay thế Trung tá Nguyễn Viết Cần đến sau trận giải tỏa căn cứ 6 Kontum.
3. Trung tá Nguyễn Đ́nh Bảo (5/1971 – 12-4-1972) thay thế Trung tá Ngô Lê Tỉnh sau trận đánh tại Căn Cứ 6 cho đến khi tử trận tại đồi Charlie.
4. Thiếu tá Lê Văn Mễ (12-4-1972-11/1972) thay thế Trung tá Nguyễn Đ́nh Bảo tại đồi Charlie đến tháng 11/1974.
5. Thiếu tá Nguyễn Văn Thành (1974 – 16-4-1975) thay thế Trung tá Lê Văn Mễ từ tháng 11/1972 đến ngày 16-4-1975.

Hiệu kỳ của TĐ11ND được mang giây biểu chương màu Bảo Quốc huân chương đỏ chấm vàng với thành quả 6 lần tuyên dương trước Quân Đội.

Tài liệu tham khảo:
– Insignia of The Republic Of VietNam Airborne Division copyright @ 2002 by Harry F. Pugh.
– Phỏng vấn trực tiếp một số chiến hữu và Niên trưởng trong SĐND.

Đại Úy Vơ Trung Tín - Tiểu Đoàn Truyền Tin SĐND – 714-856-9202
Đại Úy Nguyễn Hữu Viên - Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù – 714-897-1435
Email: pvotin@gmail.com

hoanglan22
03-06-2021, 01:24
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1751160&stc=1&d=1614993707

Trong cái gọi là “Chiến tranh ngoại lệ”. Sự cải danh xưng là điều cần thiết … Từ những trại được gọi là FOB (Tiền doanh) đến CCN (Nhân viên kiểm soát Bắc) và nay cải danh là TF1AE (Lực lượng Đặc nhiệm 1). Người Mỹ bắt đầu chuyển giao phần nào lực lượng cho Nha-kỹ-thuật. Đơn vị phụ trách t́nh báo quân sự chiến lược của QLVNCH. Hai toán Thám-sát đầu tiên Thăng-long và Bắc b́nh. Nay thêm bốn toán nữa được chuyển giao với tên gọi mới là Hải-điểu, Hải-sơn, Hải-long, Hải-yến, Hải-sư, Hải-vân… Đại-đội B người Thượng cũng được chuyển giao. Trại c̣n lại hai mươi lăm toán thám sát và Đại đội A (Người Nùng và Miên) Vẫn do người Mỹ trực tiếp chỉ huy…Toán tôi Thăng-long được bổ sung quân số và đổi tên thành Hải-sơn. Thiếu úy Bửu Chính đi Kontum nhận lănh nhiệm vụ mới. Thiếu úy Phạm ngọc Điệp thay thế làm toán trưởng, Trung sĩ Trần Quang, toán phó cùng sáu Biệt kích Quân (Special Commando Unit)…

Toán chúng tôi được lệnh về Long thành (Trung-tâm-huấn-luyện Biệt Kích) thụ huấn khóa Nhẩy dù. Năm ngày phép sau khóa học Nhẩy dù. Sàig̣n với những đường phố hoa lệ. Cái sang trọng từ mọi nơi…Khách sạn, quán xá, cà phê, nhà hàng, rạp hát.v.v. Thảy đều mang tính khác thường. Chúng tôi như choáng ngợp bời sự sa hoa, sắc mầu…Giao kết mỗi người 5,000 đồng cho năm ngày phép (giá trị bằng một tháng lương người lính quân dịch độc thân). Tám người trong toán. Như những anh Mán rừng lên tỉnh, cuộc chơi cũng chỉ ở cấp xă v́ túi tiền có hạn. Nguyễn duy Châu luôn phải tính toán trước những đề nghị này kia… Từ những nơi xa lạ, tụ nhau trong một nhà và cùng nhau chơi một tṛ chơi tạm gọi là cuộc đời… Ngày mai sẽ ra sao, ai biết?. Cuộc sống này về đâu?. Ai biết và tương lai nào cho ta… Mù mịt, chẳng cần biết!? Những con bạc cuộc đời vẫn dửng dưng chạy theo số phận. sống không cần ngày mai. Chết là cơi đi về… Cái khóa nào của thân phận con người… Ôi chỉ có Thượng-đế biết ! Ta chỉ là sản phẩm của Chúa… Vậy tùy vào cuộc chơi của Chúa… Trong chiến tranh quả thực nó đẻ ra lắm thứ đời thường. Đứa bé tập đi muốn vững chăi phải té ngă nhiều lần…Tới đây, an ủi một điều cái té của cuộc đời hôm nay sẽ mang lại kết quả tốt đẹp cho ngày mai. Năm ngày phép cho những đêm t́nh tạm bợ, bia bọt thâu đêm, suốt sáng. Cái thứ mùi son phấn, bia men hiển nhiên không thể thiếu. Nó như tô điểm đậm nét hay là gia vị của cái chơi mà theo sau phải là chữ bời. Những ngày phép qua mau, tŕnh diện trả phép tại Sở liên lạc (Đơn vị chỉ huy) Nằm sát bên Sân vận động Quân-đội… Khoảng mười giờ sáng. Leo lên chiếc C123 (Blackbird) về lại Đà Nẵng.

Tiếp theo sau những ngày tháng của đời lính Biệt-kích. Hết huấn luyện rồi lại hành quân. Chương tŕnh hoạch định và chỉ huy vẫn trực tiếp do người Mỹ đảm nhiệm…Toán Hải-điểu ở sát cạnh toán tôi vừa phải bổ sung. Chuyến xâm nhập vừa qua bốn chết một bị thương. Toán trưởng Thiếu úy Nguyễn Dứa tử trận. Cũng may toán bị địch theo dơi và tấn công ngay trên băi đáp triệt xuất. Đoàn trực thăng rước toán can thiệp kịp thời. Bốc được toàn bộ toán về.

Đêm nay, từ khu cấm (Isolation). Toán chúng tôi được đưa ra phi trường Đà-nẵng. Trời lạnh lẽo, tay da xe lại, môi nứt nẻ. Chiếc C130 của Thủy-quân-lục-chiến Mỹ đang đợi. Cùng đi có một Trung đội Thám báo Mỹ. Yên vị trên máy bay, nh́n những ánh mắt của các binh sĩ Mỹ vẻ ngạc nhiên, thèm thuồng, nể nang trước sự trang bị hành quân của chúng tôi. Nhất là chỉ với bốn người… Họ cứ nh́n chăm chăm vào những cây súng Car 15 hay dây đai câu, găng tay đen…Đặc biệt không nón sắt. Trong quân đội họ biết chúng tôi đang phải thi hành nhiệm vụ hiển nhiên là trên mọi người lính… Máy bay đáp xuống phi trường, đồng hồ chỉ ba giờ sáng. Xe đón chúng tôi đến Căn cứ xuất phát 1 - Phú Bài. Đă ba ngày qua, nằm chờ thời tiết. Những chiếc Kingbee cứ sáng đến chiều về… Hôm nay trời hênh nắng, nhưng gió lạnh vẫn buốt da thịt. Thiếu Tá Phát (Vương vĩnh Phát) Sĩ quan điều nghiên không thám, đến gọi Thiếu úy Điệp và Trung sĩ Quang lên pḥng thuyết tŕnh Không Quân.

Do tính đặc biệt của mục tiêu, toán được khuyến khích đi bốn người, tuy ít nhưng êm ả, dễ lẩn trốn… Nhiệm vụ chính thám sát và phát hiện chỗ đặt khẩu pḥng không loại mới nhất 100 ly mà cả đến F4 hay F100 cũng phải kiêng dè… Điều đáng nói là sau bao lần không kich. Khẩu pḥng không ấy vẫn b́nh thường hoạt động lúc ẩn lúc hiện… Theo thuyết tŕnh sáu chiếc Kingbee sẽ đưa chúng tôi bốn người vào mục tiêu. Sáu chiếc Kingbee sẽ đáp đất bằng sáu băi khác nhau. Chỉ có một chiếc là thực sự có toán nhẩy…Covey chiếc OV10 đă bao vùng từ sáng. Báo về thời tiết đă cho phép. Sáu chiếc KingBee nổ máy, trong lúc hai Cobra và hai Huey Gunship đang ṿng chờ phối hợp… Gio lạnh và sương găng bay tạt vào khung cửa, trực thăng lên cao, những đám mây trắng loang lổ dưới kia, ánh nắng chả đủ sức sua đi cái lạnh và mây mù bay lăng đăng…Núi cao sừng sững trước mặt. Dăy Trường sơn xanh thẵm, phía tà, phía hữu, núi nối nhau chạy dài không dứt…Băng qua và bỏ lại rặng núi cao. Trực thăng đang trên lănh thổ nước Lào. Covey và bốn trực thăng vơ trang đang bay tầm thấp. Sáu chiếc KingBee dần xuống quần đảo xác định băi thả, mây mù bay bay loang loáng dưới ánh nắng yếu lan tỏa khắp núi rừng… Trực thăng vơ trang không dọn băi như thường lệ mà chỉ ṿng ứng chiến phía trên. Hai chiếc Kingbee tách ngang đáp dần xuống đất và cứ thế tuần tự, sáu trực thăng đă đáp sáu nơi an toàn…Chiếc chở toán tôi xuống áp chót, đổ chúng tôi sát b́a rừng…Chỉ tích tắc toán đă biến vào rừng… Di chuyển thật nhanh, tôi gọi điện báo an toàn.

Núi rừng trở lại cái b́nh thường của nó, lạnh lẽo âm u đến khó chịu. Băng ngang con suối thấy toàn đá. Những chú cá thập tḥ kẽ đá nh́n chúng tôi xa lạ. Khu rừng rậm rạp cây cao… Châu dẫn đầu cứ phải lum khum t́m đường. Muỗi vo ve đâm sầm cả vào mặt, dưới chân đàn vắt uốn éo t́m mồi. Thoa vội thuốc trừ muỗi vào mặt, cổ và tay. Toán tạm nghỉ chốc lát… Một tiếng súng nổ chát chúa thật gần đă làm chúng tôi giật bắn người. Đứng lên tẽ sang hướng khác, di chuyển chậm, ḍ từng bước… Địch đang truyền tin và kiếm t́m từ băi đáp xâm nhập chăng? Băng nhanh qua con đường rộng khoảng hai mét, nh́n dấu chân trượt mới mẻ, tôi rợn cả người…Có tiếng ai đó húng hắng ho sau lưng. Tôi bảo Trung sĩ Quang gài lại trái ḿn M14 để xem có phải bị theo dơi rồi hay không và ra dấu đi thật nhanh tránh nơi nguy hiểm này. Vẻ yên ắng, an tâm phần nào bên gốc cây để ăn trưa. Địa thế không mấy rậm rạp, đủ che chắn, tầm nh́n tốt lư tưởng cho hành quân thám sát và tác chiến. Thiếu úy Điệp đang căn lại bản đồ, đánh dấu vị trí trái ḿn M14 để báo cáo… Có thể toán chưa bị lộ tung tích. V́ nếu địch theo dấu di chuyển của chúng tôi ắt hẳn ḿn phải nổ. Vội vàng di chuyển sau ăn trưa, toán tiến dần vào mục tiêu qua đi những đường ṃn chằng chịt, lúc hướng này lúc hướng kia. Mọi sự đều suông sẻ, ánh mặt trời đă bị mây mù che khuất. Để ư thấy một địa điểm thuận tiện ra dấu hiệu cho máy bay. Toán dừng lại, chờ đêm tối. Có tiếng hú đáp lại sau tiếng hú gần đây ngân dài. Trong ánh sáng lờ mờ lành lạnh… Một hồi lâu ngồi nghe ngóng… Trung sĩ Quang gài trái Claymore pḥng thủ. Trời đêm đen kịt, không trăng sao, chỉ c̣n tiếng thú rừng kêu, hú thênh thang, diệu vợi. Cảm tưởng như ở chốn ma quái, âm ty… Qua làn gió buốt lạnh, thu ḿnh vào cái áo đi mưa, cố dỗ dành giấc ngủ.

Thức dậy vào lúc trời c̣n tối đen, tiếng gà gáy dồn dập, nh́n đồng hồ mới năm giờ sáng, nằm im bất động, suy tính việc ngày mới… Đúng kế hoạch hành quân. Sáng nay một cuộc không kích vào mục tiêu rồi tạo dựng giả định bốc toán ra khỏi khu vực, cốt để đánh lừa địch. Mặt trời đỏ lừ từ từ leo lên đỉnh núi. Bầu trời bỗng quang đăng, những đám mây đen nhỏ như vẩy con tê tê. Ca nước sôi cũng vừa nấu xong được đổ vào hai bịch gạo sấy, thêm ít nước lạnh cho vừa. Rồi ca cà phê thơm phức và một điếu Capstan cho phép… Tôi như quên đi thực trạng trong tiếng chim lao sao mừng ngày nắng mới. Đàn khỉ the thé, khịt khịt đuổi nhau trên cành cây. Ngay bên dưới một con trăn to lớn dài ngoằng cố leo lên cành cây to, hướng về đàn khỉ trên cao… Tháo trái Claymore pḥng thủ. Toán di chuyển … Tiếng ́ ́ quen thuộc của Covey nghe rơ dần. Thiếu tá Phát đang gọi toán, tôi trả lời và chuyển ngay bức điện báo cáo t́nh h́nh… Hai chiếc F100 Super Sabres bay ṿng gầm gừ trên cao. Covey gọi toán và xin mở cửa sổ (ư muốn thấy vị trí toán). Ra dấu cho Trung sĩ Quang, hắn bắt đầu chiếu gương. mặt trời chếch ngang mặt, cố gắng lẩn tránh những đụn mây đen ĺ lợm. Ngọn núi cao phía đông, đỉnh chỏm trắng xóa mây mù bấu chặt, chỉ cách ánh mặt trời trong gang tấc.

– Tango echo đây papa kilo thấy vị trí của bạn rồi, mục tiêu hướng bắc cách khoảng 1000 mét. Yên tâm, chúng tôi bắt đầu vũ điệu Disco.

Toán di chuyển trong tiếng bom đạn dậy đất trời, đợt tấn công thứ ba của máy bay chúng tôi đă nghe tiếng pḥng không… Tiếng nổ chắc đục cách bắn như dè dặt sợ tốn đạn và có âm vang xa rộng. Chiếc Covey bay cao nhưng chậm chắc chắn là đang cố sức phát hiện mọi hoạt động của địch. Tôi báo cáo đă nghe tiếng pḥng không nhập trận ngay tại vị trí đang oanh kích. Khu rừng tre hiện ra trước mặt. Xẹt qua đầu chúng tôi. Chiếc F100 cắt một lúc ba trái bom. Có lẽ hắn đă thấy được mục tiêu pḥng không… Trên cao hai viên đạn xanh chỉ điểm đang vút lên máy bay. Một tiếng nổ ầm của động cơ phản lực, chiếc F100 tăng tốc vút thẳng lên cao. Những tiếng nổ rung rinh mặt đất…Châu đang so lại địa bàn bởi phải tránh những bụi gai dầy đặc. Thiếu úy Điệp đưa tay chỉ những mụt măng be bét trong bụi tre. Tôi cười lắc tay không sao đó là thú rừng. C̣n nếu là người bẻ th́ bằng bặn và gọn ghẽ. Qua khỏi được khu rừng tre, tiếp đến những gốc chuối chen nhau với cây rừng. Một cây cổ thụ to lớn dễ chừng phải vài người ôm mới hết ṿng, tỏa những dây leo chằng chịt xuống tận gốc…Từ ngọn cây lao xao tiếng chim ca hót và trên cành cây lũ khỉ thi nhau chuyền cành. Hai chiếc F100 đă xong nhiệm vụ, trả lại yên tĩnh cho núi rừng, chỉ c̣n thi thoảng tiếng súng báo hiệu hay liên lạc của địch quanh đây. Âm thanh quen thuộc của Covey đang trở lại. Tiếng trực thăng khiêm tốn theo sau…Giai đoạn hai sắp được thực hiện. Ngồi nghỉ chúng tôi binh thản xem tuồng…Phút chốc đoàn trực thăng đă ở trên đầu. Hai chiếc Huey Gunship và bốn chiếc UH1 Huey được biệt phái từ Không quân Mỹ, dáng bè to, thấp sơn mầu ghi đậm truyền thống Không quân.Trận xạ kích bắt đầu rocket, tiếp sau khẩu 20 ly nổ ḍn vào vị trí mà hôm qua chúng tôi xâm nhập. Sau đợt xạ kích thứ ba, một chiếc Huey tách đàn lao xuống. Hỏa lực trên Gunship hộ tống văi đạn như mưa…Bằng suy đoán, theo tiếng trực thăng mà khi thấy khi không, diễn tiến tuần tự như quen thuộc và h́nh ảnh hiện lên trong trí chẳng mấy khác với tận mắt chứng kiến…Trực thăng đang dần lên trông thấy rơ bốn Biệt kích đang ṭn teng trên dây câu. Gunship thứ hai đang đổ xuống những thép và lửa cùng tiếng phóng rocket xèn xẹt… Bốn Biệt kích đă an toàn trên cao. Đoàn trực thăng đang lập đội h́nh để bay về căn cứ với bốn Biệt kích… Bằng h́nh nộm… Chắc chắn họ sẽ mang cất lại vào trong kho… Chúng tôi nghe thấy xung quanh súng bắn truyền tin cùng lúc của địch…Kế nghi binh đă có hiệu quả. Địa thế hiểm trở bởi đá và dốc dưới những tàn cây cao x̣e rộng, đường di chuyển mỗi lúc một lên cao làm tŕ nặng đôi chân, mặt trời vào trưa, ánh sáng chỉ đủ xuyên qua kẽ lá bởi làn gió lay động trên tàn cây, tạo sự lung linh, lấp lánh. Lẫn trong cái không gian mờ ảo ấy là những làn gió lạnh buốt từ dẫy đồi thấp thoai thoải chạy dài xa tít dưới chân… Một bóng mây đen xuất hiện di động dần lên in trên tầng cây xanh thẫm từ phía đồi ngang bên. Trung sĩ Quang thay Châu đi đầu, bốn đứa tôi lặng lẽ tựa bóng ma trơi di động trong cái âm u, tĩnh lặng quanh âm thanh huyền ảo của núi rừng. Trung sĩ Quang đưa tay ra dấu ngừng lại. Tiếng người ho nghe một rơ, rồi tiếng tṛ chuyện dần đi lên. Bây giờ đă nghe rơ bước chân “Này Thái, câu ǵ mà cậu vẫn thường ngâm của ông Quang-Dũng, tớ nghe hay lạ ngâm lại đi cho tớ nhớ…”

Mắt trừng gởi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1751163&stc=1&d=1614993805

Tiếng ngâm trầm buồn, cảm xúc…Tại nơi hiu quạnh này, chúng tôi nghe không phải chỉ một lần, nhưng ba lần ngâm lại trầm bổng, nhỏ dần theo bước chân, gío chen vào, tiếng núi rừng hào nhịp vào mộng mơ đời thường. Cái sự buồn uể oải trong chất giọng gần như vuột khỏi ước mơ…Xem ra chỉ c̣n sự tẽn ṭ…Nuốt nước miếng!

Sau khi hội ư, toán quyết định lên thám sát con đường. Thiếu úy Điệp và tôi nhẹ nhàng tiến lên, được khoảng bốn, năm mét một con đường quá là rộng ập vào mắt. Lá cây rừng không phủ hết được mặt đường, dấu vết bánh xe đạp và dấu chân đi dép ấn xâu xuống mặt đường c̣n in rơ… Điệp lấy vội máy ảnh ra chụp… Rút về, bàn tính, không c̣n cách nào khác sau khi đă căn lại bản đồ. Toán vượt qua con đường. Ngồi nghỉ mệt bên tảng đá, có tiếng hú sau lưng từ con đường cất lên, theo sau là những lao xao tiếng người nói cười đùa giỡn… Nắng quá trưa tự dưng in rơ trên tàn cây cao rậm, phút chốc tắt đi trả lại mầu xanh đen thẫm, bên dưới đồi một làn mây trắng mỏng như cố nhô lên…Nghĩ bụng càng nhanh càng tốt chúng tôi vội rời xa con đường. Súng địch bắn báo hiệu cho nhau âm vang hẳn núi rừng… Một áp lực đang đè nặng mà chả ai bảo ai đều thể hiện trên gương mặt. Toán cố di chuyển thật êm cả buổi chiều bằng sự cẩn thận, trong trạng thái bất an, nôn nóng. Trời tối mờ mờ, chúng tôi ngồi ăn cơm và nghe động tĩnh. Thấy êm, di chuyển kiếm chỗ ngủ đêm quanh một tảng đá. Trung sĩ Quang đă gài xong trái ḿn Claymore, cũng là lúc bóng đêm bao trùm. Bôi thêm thuốc trừ muỗi, quanh đây chỉ c̣n tiếng côn trùng và tiếng thú từ xa vọng lại… Kéo áo đi mưa đắp lên người tôi cố để đi vào giấc ngủ bằng h́nh dung bầu trời xanh ngắt, cao tít ngàn sao…Trước lúc ngủ, nghe thấy quanh đây có tiếng trở ḿnh ,thở dài… Một con chim lợn đi ăn đêm, tiếng kêu thê lương. Thức dậy vào lúc trời c̣n tối, duỗi chân cho đỡ mỏi rồi nằm nghe gà gáy. Một làn gió đưa cái lạnh ập đến, bất giác rùng ḿnh. Trong cái tỉnh lặng đen như mực bao quanh, tự nhiên tôi co người lại tay cố kéo đắp chặt thêm chiếc áo mưa, giật ḿnh v́ tiếng cười như ma trêu phát ra từ chỗ ngủ của Châu, tức ḿnh tôi chép miệng ” Mẹ lại mơ thấy con ghệ nào rổi “Âm thanh tiếng cười như xoáy vào khoảng không rồi dội lại tạo một nỗi kinh dị trong trí mà tôi muốn thu xâu dán người sát đất… Đă có tiếng cựa ḿnh thức giấc của đồng đội và tiếng Quang lầm bầm “Đù mẹ, ngủ cười chi rứa…” Theo sau là cái đá chân… Thêm một tiếng ú ớ nữa Châu mới tỉnh bật dậy. Cảnh vật mờ mờ rồi rơ hẳn, phút chốc tạm quên những suy nghĩ vẩn vơ. mọi người lục đục đun nước chế vào bịch gạo ăn trong ngày xong pha cà phê…Hút thuốc trong áo mưa trùm sát đất… Trung sĩ Quang vừa tháo xong trái ḿn Claymore. Điệp đưa bức điện tin cho tôi và đang cùng Châu tính hướng đi. Tôi nhắc Quang nhớ gài lại hai trái ḿn M14 trước khi di chuyển để chống theo dơi… Toán lên đường cũng vào lúc mặt trời lú lên đỉnh núi mờ từ xa…

Máy bay đă lên bao vùng, tiếng động cơ quen thuộc từ hướng đông vọng lại. Tôi bật máy chờ đợi. Tiếng gọi từ Covey vang trong máy… Đại úy Vỹ (Nguyễn-cao-Vỹ) trên phi cơ. Chuyển ngay bức điện. Toán chúng tôi ngồi chờ lệnh. Tiếng súng nổ phát một tứ phía truyền tin cho nhau… Đáng chú ư là hướng mà toán dự định đi tới. Tiếng gọi của Đại Úy Vỹ lại vang lên. Tôi nhận bức điện và chuyển ngay cho mọi người “Tiếp tục nhiệm vụ thám sát, yên tâm máy bay ứng chiến 100%” Vậy là đề nghị oanh kích đă không được chấp nhận… Chiếc Covey đă bao vùng khác, tiếng động cơ nghe rất nhỏ. Toán tiếp tục vào mục tiêu… Đàn chim bay xà xuống rượt đuổi nhau rồi lại vút lên cao. Đường dốc và đá lởm chởm đă làm sự di chuyển thêm khó khăn. Lắng tai nghe, gần như có tiếng động cơ xe chạy phía sau. Thiếu úy Điệp ra lệnh dừng lại để nghe ngóng lượng t́nh h́nh. Qủa đúng, tiếng động cơ mỗi lúc một rơ. Một tiếng gầm rú như xe đang lên dốc mà chở nặng… Ngồi bất động bên một gốc cây, chúng tôi im ĺm chờ đợi t́nh h́nh… Chính xác là trên con đường hôm qua. Địch đang gọi nhau, lao xao bên cạnh tiếng ́ ́ nặng nề của xe. Con đường nghe ngâm thơ ngày hôm qua, giờ đang náo nhiệt. Vẻ chậm chạp di chuyển của địch làm chúng tôi sốt ruột…Ánh sáng từ cao chiếu xẹt tia nắng bởi luồng gió lốc ào ào trên tàn cây. Toán quyết định trụ lại để xem chừng hướng đi tới của đoàn xe địch. Tiếng xe và tiếng người mỗi lúc càng gần như sắp đâm thẳng vào chúng tôi. Con đường cong ṿng ra sườn núi. Thấp thoáng đă thấy cành lá di động theo tiếng xe. Mọi cặp mắt chúng tôi chăm chú theo dơi và rồi đến một khoảng cây thưa thấp. Mầu áo xanh bộ đội ḥa cùng cây lá như bóng âm binh nhảy múa. Chúng tôi giật ḿnh v́ đang ở sát bên con đường mà không biết… Hai chiếc xe đă đi qua và đang có vẻ lại lên dốc ḥa lẫn tiếng ḥ dô như người đang trợ lực cho xe. Thiếu úy Điệp đang ghi chú trên bản đồ đánh dấu vị trí con đường. Tiếp tục di chuyển trong tiếng xe nhỏ dần…

Một con đường vận chuyển ngang sườn núi hướng Nam Bắc, chân bước mà ḷng cứ măi nghĩ và đặt ra nhiều giả thuyết… Áp lực thật nặng nề, bởi lâu lâu tiếng người hú gọi nhau… Mạn rừng này dễ di chuyển, nhưng khó thở… Một con chim xà xuống tíu tít liên hồi như gặp ǵ cấp bách. Châu và Điệp cùng ngồi xuống tay ra hiệu dừng lại. Tiếng người ho… Đúng như dự đoán, con chim trên cành gặp khách lạ. Một giọng người cất lên trong hai tay để sát miệng làm loa “Hú hú Mấm ơi, về ăn cơm” và rồi lại quay sang hướng khác lập lại, giọng đi về phía trước. Tiến thoái lưỡng nan… Bên đông là con đường xe, bên tây là địch…Chỉ c̣n liều mạng tiến lên. Tôi ra dấu ở đây nguy hiểm rồi phất tay đi về phía trước. Đường đi bị chắn ngang bằng những tảng đá to lớn dị thường cao bằng nóc nhà… Như lạc vào mê cung, toán dừng lại quan sát động tĩnh. vẻ yên lặng giờ này nghe rơ tiếng thở của bốn người. Một hồi kẻng vang lên không xa, rồi tiếng người lao xao nói cười. Tôi bảo Điệp soạn ngay bức điện báo t́nh h́nh và yêu cầu oanh kích… Nh́n địa thế nơi đây chiến đấu tốt. Tôi bật máy liên lạc Covey… Gọi đến năm sáu lần, tiếng Covey trả lời có vẻ hơi yếu, có lẽ đang bao vùng ở xa. Tôi chuyển bức điện yêu cầu rồi chờ đợi… Ăn vội bữa cơm, bên dưới kia tiếng lao xao không dứt như càng lúc tụ hội càng đông. Lại tiếng kẻng vang lên theo sau tiếng hô ǵ đó… T́nh h́nh lúc này, chúng tôi có vẻ quen dần, không c̣n sợ để đổ mồi hôi như trước… Nửa tiếng trôi mau, trong máy Covey đang gọi. Tôi trả lời và nhận ngay một điện tin… Điệp đang dịch lại bằng khóa mật mă… Lời yêu cầu được chấp nhận. Toán chuẩn bị mục tiêu oanh kích trong thời gian ba mươi phút nữa… Thế có nghĩa là sự phối kiểm tin tức tức tại Trung-tâm hành-quân… Tin giữa toán và các máy từ Trung-tâm tác-chiến điện tử phù hợp nhau… Toán di chuyển nhanh t́m địa điểm thích hợp. Hai chiếc F4 đang bay ṿng trên cao cũng là lúc chúng tôi có được địa điểm chiến đấu tốt và dễ dàng ra hiệu cho máy bay. Chiếc Covey đang bay trên đầu gọi toán xin mở cửa sổ. Tôi ra hiệu cho Điệp… Ánh sáng chiếu thẳng từ gương lên máy bay.

– Indian Alpha (tên toán) Tôi thấy bạn rơ, xin cho ngay mục tiêu.
– Kilo hotel (tên Covey) đây Indian Alpha. Mục tiêu hướng Tây cách chúng tôi ba trăm mét.

– Indian alpha, hăy cho tôi biết đă đúng mục tiêu chưa?

Covey xà xuống trái rocket được bắn ra và một cột khói trắng bốc lên. Máy bay đang nghiên lao vút lên…Tiếng lao xao của một số đông người kèm theo tiếng kẻng đánh gấp rút, người ta đang hú gọi nhau cùng lúc những đàn chim bay táo tác t́m chỗ ẩn.

– Kilo hotel, kéo về hướng đông một trăm mét.

– OK Indian alpha, ẩn núp cho kỹ, mục tiêu rất gần với anh… Cho panel đỏ hồng.
– OK Kilo hotel, xin cho tác chiên, toán sẵn sàng, đă có panel theo yêu cầu.

Covey bắn trái rocket thứ hai, tiếp ngay sau chiếc F4 lao xuống gầm thét loạt đại bác và cắt một lúc hai trái bom. Kinh thiên động địa, tiếng nổ tạo chấn động đến tức cả ngực, khói lửa bao trùm trước mặt và từ từ cuộn lên cao. Chiếc F4 đang trên cao như xem kết quả và chờ lệnh Covey… Bất chợt sau lưng tiếng ầm vang, xẹt qua đầu ngọn cây và hàng bom trút xuống bên dưới lửa khói lan tràn… Loạt napalm đang thiêu hủy mục tiêu, theo sau là những tiếng hét la vang dội góc rừng và tiếng súng của địch bắn lên… Chiếc F4 vừa ghim thêm ba trái bom và đang lao lên bằng tiếng gầm rú của động cơ phản lực… Giật ḿnh nghe rơ tiếng súng bắn phầm phầm, nhát gừng, chậm răi không bắn từng loạt… Nh́n ra chiếc F4 kéo theo sau hàng khói đen và ḱa chiếc dù đang ṭng teng kéo chiếc ghế của phi công. Một tiếng nổ vang trời dội đến, ngoài xa cột khói bốc cao.

– Kilo hotel đây Indian alpha, khẩu pḥng không đang ở hướng bắc cách chúng tôi 300 mét.
– Indian alpha nhận rơ và sau đây cho biết ư kiến. Đảo nửa ṿng chiếc Covey từ trên cao phóng trái rocket xuống mục tiêu vừa được chỉ dẫn. Nh́n làn khói bốc lên tôi ước lượng.

– Kilo hotel, kéo về hướng nam 150 mét.
– Indian alpha, quá gần vị trí của bạn, bạn thấy thế nào cho biết. trả lời…

– Kilo hotel, không sao đă có những hàng đá bảo vệ…Chơi đại đi.

Thế rồi theo sau trái khói chỉ điểm lần hai, chiếc F4 c̣n lại mở một
lúc bốn trái bom… Liên tục tiếng tiếng nổ động trời… Một luồng ḱnh lực mạnh khủng khiếp dồn ép, dội đến…Rất khó thở và đau đau ở ngực…Nhưng trước bom nổ, tiếng pḥng không rất rơ, nặng nề và tṛn ấm vang dội. Đảo một ṿng trên cao chiếc F4 như người lữ hành ngắm cảnh nh́n Covey đang săn sóc người phi công mới đáp đất… Nhàn nhă chẳng bao lâu…Chiếc F4 đang hung hăng như điên tiết lao xuống. Một loạt đại bác và thêm những trái bom thả ra từ bụng… Máy bay cứ tầm thấp mà bay rồi mới tăng tốc vụt lên. Bên dưới lửa văng xa lan rộng. Chỗ nằm của chúng tôi, đột nhiên sức nóng lan tỏa nhanh, tôi c̣n cảm thấy tóc trên đầu nong nóng… Thời gian như ngừng lại, trận địa bỗng yên tĩnh lạ…Gió ở đâu lốc từng cơn. Mặt trời bị che bởi cơn mây đen. Ánh sáng phản chiếu từ chiếc Covey đang săn sóc người phi công, trên trời cao chiếc F4 ṿng ṿng và bên dưới này chúng tôi hoang mang chờ diễn tiến.

– Indian alpha đây Kilo hotel, tôi sẽ đến với bạn trong tích tắc, phiên làm việc mới của tôi…Bạn đă nhận ra tôi chưa?

Tiếng nói của Đại úy Vỹ (Nguyễn cao Vỹ) trên phi cơ và chiếc O2 xuất hiện theo sau bốn trực thăng càng lúc càng gần. Hai A1 Skyraider đồng hiện diện…Chiếc F4 mất bạn đang lẻ loi trên cao, có thể anh ta cố chờ xem trực thăng cứu viên phi công để yên tâm trở về. Một chiếc F100 vừa lên từ vị trí phi công lâm nạn và cái bóng trực thăng đang lên cao. Viên phi công đă được cứu.
- India alpha, xin cho biết t́nh h́nh.

– Kilo hotel tôi đă bị lộ diện, yêu cầu triệt xuất v́ áp lực địch bao quanh. Cho đánh phá mục tiêu hướng tây 300 mét và mục tiêu hướng bắc 300 mét. Covey lao xuống mục tiêu hướng Tây nh́n trái khói trắng bốc lên, tôi gọi.

– Kéo về hướng Đông 100 mét.

Trái khói thứ hai đúng mục tiêu… Chiếc F100 xuống với thép và lửa bao trùm khu vực và địch đồng loạt súng nổ bắn đuổi theo máy ba. Chiếc O2 Covey vừa hoàn chỉnh mục tiêu thứ hai và đang bốc ngược lên. Tiếng đại bác 20 ly ḍn dă và rồi từ chiếc A1 Skyraider thêm loạt bom chùm (cluster) như đàn ong bị vỡ tổ dăng dăng lao chụp xuống mục tiêu… Covey hoàn thành xong màn chỉ điểm đang ung dung trên kia điều nghiên oanh kích. Tôi vẫn nghe rơ mọi điện đàm giữa Covey và máy bay oanh kích, đôi lúc có tiếng của Đại úy Vỹ chen vào… Trận địa lại trở nên sôi động. Gio hất lên quật lại cái mùi khét của bom đạn. Tiếng nổ dữ dội động địa của bom hủy diệt và trước mặt hướng bắc lửa chạy dài bởi bom napalm. Chúng tôi nằm đây chứng kiến xung quanh cảnh địa ngục và địa ngục nếu có th́ chắc cũng ch́ như thế.

– India alpha, tôi đă trúng đạn…

Hoảng hốt ngẩng đầu nh́n lên, chiếc O2 như một cột khói đen x́ lao thẳng xuống đất. Không thấy cái dù của phi công… Qủa thật nh́n cuộn khói lúc máy bay rớt… Bị bắn ngay đầu, họ chẳng kịp nhảy dù… Không như loại OV10 sử dụng loại ghế thoát hiểm tự động. Chiếc O2 trường hợp khẩn phi công phải mở cửa nhẩy dù… Sự bạo tàn của cuộc chơi chiến tranh, với ai cho là thích thú, riêng tôi lúc này ḷng chán nản, dạ hoảng kinh như đang ngồi trên lửa. Mọi liên lạc đă bị cắt đứt. Toán nằm bẹp chịu trận…Hai bên mục tiêu ba máy bay oanh kích vẫn tiếp diễn những màn bổ nhào trút xuống bom đạn. Tôi tự hỏi và nghĩ lại, không nghe tiếng pḥng không sao chiếc O2 vô cớ lại bị trúng đạn…Một bí mật nào đó cần được sáng tỏ bởi nhân viên pḥng Hành-quân… Ba máy bay lúc này thay đổi chiến thuật… Không oanh kích dồn dập mà quan sát kỹ mục tiêu rồi mới tấn công. Hiển nhiên cũng như chúng tôi đang chờ một sự ǵ đó… Hướng tây sau cái bốc lên như mũi tên, máy bay F100 dựng đứng rồi tiếng nổ loại bom 500 cân rung chuyển mặt đất bắn tung lên rất cao bụi đất và khói lửa mịt mù… Tiếp sau hàng loạt tiếng nổ long trời to rồi nhỏ, nhỏ rồi lại to xen kẽ… Kho đạn dược của địch trúng bom phát nổ… Mặt đất liên tục rúng động, áp lực không khí đè nặng gây khó thở. Thiếu úy Điệp mặt xanh tái ngửa cổ hít thở, miêng giơ ra cái răng khểnh như nanh. Trần Quang đă đen giờ lại đen thêm. Châu tay ôm lấy ngực mặt nhăn nhó… Tiếng xè xè trong máy làm tôi bừng tỉnh, sau cái ảo ảnh dấu hết… Mặc, tôi đứng bật lên tay chân làm động tác thể dục, hít thở nhẹ nhàng cảm thấy thoải mái… Ngồi xuống tiếp tục chịu trận. Trong máy đă có tiếng gọi tên, chụp vội cái ống nghe tôi trả lời… Một sự trấn an, năm phút nữa tôi sẽ đến… Kho đạn của địch vẫn ầm vang không dứt thi thoảng có tiếng nổ lớn rung động…Hai chiếc A1 vẫn dán sát vào mục tiêu phía bắc đặt súng pḥng không…Nhưng tới giờ phút này chúng tôi không c̣n nghe tiếng súng pḥng không. Họ đang cố gắng t́m vị trí đặt súng, chiến thuật tấn công và phát hiện đang được áp dụng. Covey đang trên đầu gọi tôi. “India alpha đây Kilo hotel, chuẩn bị triệt xuất bằng câu dây…rơ trả lời.” “Kilo hotel, toán đă sẵn sàng”. Hai đai dây dù qua háng đă được chúng tôi gài vào đúng vị trí của nó, trở thành liền lạc ôm lấy người từ vai đến qua mông…Ngưới ta thiết kế riêng cho cái dây đeo đạn và b́nh nước bằng dây đai dù dẹp bản, mà khi sử dụng để câu dây th́ chỉ gài móc hai sợi dây dù qua háng.

Đoàn trực thăng bay trên cao, thêm hai A1 đang bay song song như anh em sinh đôi. Sáu Kingbee, bốn UH1 Huey và hai Huey Gunship… Covey bay thấp đang cố phát hiện xác chiếc O2… Quần đảo nhiều ṿng, hai chiếc Gunship đang xạ kích loạt rocket đầu tiên xuống mục tiêu phía bắc. Một chiếc Huey tách đàn. theo sau chiếc Gunship yểm trợ đến thẳng chỗ chúng tôi. Từ trực thăng bốn sợi dây câu được thả xuống. Móc hai cái móc sắt từ hai vai vào móc dây câu… Thiếu úy Điệp nh́n kiểm soát xong, ra hiệu trực thăng bốc lên… Loạt đại liên và đạn M79 (40ly) tự động cày phá dưới đất… Từ bầu trời nh́n về phía Covey vẫn đang có vẻ chưa t́m thấy xác chiếc O2. Sáu chiếc Kingbee bay trên cao như chờ lệnh… Thế rồi càng lúc càng xa theo trực thăng bay thả chúng tôi về nơi xuất phát… Căn cứ Quảng-trị. Trực thăng Kingbee đang lần lượt đáp xuống băi. Đổ xuống Trung đội gác đài tiếp vận Hickory… Người ta điều động ngay Trung đội không tác chiến này vào việc gấp rút lấy xác phi công bị rơi. Toán chúng tôi được lệnh trở về CCN Đà nẵng, sáu chiếc Kingbee sẵn sàng đưa chúng tôi về… Hỏi người xạ thủ (Mê vô) trên Kingbee. Anh ta nói rằng rừng quá rậm nên chưa thể lấy xác người phi công và Đại úy Vỹ, sĩ quan không thám… Một nỗi buồn chợt đến như thay lời vĩnh biệt Đại úy.

Hài Đen Chiến Đ̣an 1 Xung Kích

hoanglan22
03-06-2021, 01:34
qCnh-RkqYx8

1. Thiếu Tá Huỳnh Văn Phú sinh năm 1940 tại Nha Trang, khóa 19 Vơ bị Đà Lạt. Khóa 19 là khóa t́nh nguyện về Thủy Quân Lục Chiến đông nhất, với 30 sinh viên sĩ quan kể cả thủ khoa Vơ Thành Kháng. Thiếu úy Huỳnh Văn Phú về Tiểu đoàn 5 TQLC làm Trung đội Trưởng năm 62 rồi nhiều năm sau giữ chức Trưởng Pḥng Tâm Lư Chiến TQLC cho đến 30 tháng 4. Sau 75 tù đày từ Nam ra Bắc, Thiếu Tá Phú c̣n là tác giả đă nhận giải thưởng Phóng sự Tiền phong 1972 do Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị QLVNCH trao tặng. Tuy nhiên, bút kư Chiến Trường Trị Thiên và Những người lính Mũ Xanh in tại Sàig̣n tháng 4-1975 đă không kịp phát hành. Thiếu Tá Phú định cư tại Philadelphia từ 1990.

Cùng với tuần san Trẻ, xin phép ông cho đánh máy lại Thủy Quân Lục Chiến đă pḥng thủ Mỹ Chánh như thế nào trong Tuyển tập Bút kư Phóng sự Chiến trường 1972 của Nxb Văn Nghệ Dân Tộc in năm 73 mà tôi may mắn t́m lại được.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1751166&stc=1&d=1614994074

Gịng Sông Mỹ Chánh
Điều mà ít ai ngờ đến đă biến thành sự thật, một sự thật tàn khốc trong cuộc chiến tranh diệt chủng hiện tại. Đó là việc Hà Nội công khai xua quân tràn qua con sông ngăn cách Bến Hải với hàng ngàn xe tăng, đại pháo 130 ly và hỏa tiễn xâm lăng miền Nam. Và nếu chiến cuộc không bùng nổ lớn như thế, cái tên Mỹ Chánh cũng như bao nhiêu địa danh xa xôi khác trên phần đất khốn khổ này đă không trở thành quen thuộc với mọi người như hiện tại.

Vào những ngày đầu tiên của tháng 4-72 khi trận chiến bùng lên dữ dội, các căn cứ hỏa lực của ta nằm dọc theo khu phi quân sự bị thất thủ, sự sinh hoạt ở Mỹ Chánh vẫn b́nh thường. Người ta vẫn tấp nập đi đi về về, và gịng nước vẫn lặng lờ chảy ra Phá Tam Giang. Và cũng không ai có thể nghĩ rằng một tháng sau đó, con sông Mỹ Chánh đă đi vào huyền sử đấu tranh của dân tộc. Bây giờ th́ bất kỳ người lính Thủy Quân Lục Chiến nào cũng có quyền hănh diện khi nhắc đến địa danh đó. Nơi đây gót giày xâm lăng của quân Cộng Sản đă chùn bước và đă bỏ lại dọc theo gịng sông đó hàng trăm chiếc xe tăng đủ loại, hàng ngàn xác chết của đồng bọn khi chúng mưu toan tiến sâu hơn về phía Nam. Trong bài viết này tôi sẽ ghi lại một cách tóm lược trong trường hợp nào mà con sông Mỹ Chánh trở thành pḥng tuyến bảo vệ cố đô Huế từ sau cuộc lui binh của Sư đoàn 3 Bộ Binh ra khỏi tỉnh Quảng Trị ngày 1-5-72 cùng những diễn biến tổng quát và những người lính TQLC đă chiến đấu như thế nào để giữ vững pḥng tuyến này.

Ngày 15-4 tôi từ giă Sàig̣n ra đơn vị trong khi học “nửa chừng” khóa học “điều chỉnh” rất ư là “Cultivateur” tại trường Bộ binh Thủ Đức, một quân trường mà buổi sáng ngủ dậy đă có gánh hàng rong bán bánh cuốn, bún riêu la ơi ới ở đầu giường, buổi trưa th́ đậu hủ và chè cháo loạn xạ. Khoảng thời gian này, từ 10-4 đến 30-4-72, Lữ đoàn 369 TQLC với các Tiểu đoàn 3, Tiểu đoàn 5, Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 9 TQLC đang hoạt động ở phía Tây và Tây Bắc Mỹ Chánh trong một khu vực rộng chừng 200 cây số vuông gồm các căn cứ Nancy, căn cứ Barbara và căn cứ Động Ông Đô nhằm ngăn chặn sự xâm nhập của Cộng quân từ mặt Tây Nam Quảng Trị. Đơn vị tôi th́ đóng tại căn cứ Nancy nằm bên trái Quốc Lộ 1, cách cây cầu Mỹ Chánh chừng một cây số về phía Tây Bắc, sau đó di chuyển ra đóng ở một ngôi làng nhỏ, kín đáo sát bên cạnh đường rầy xe lửa.

Gần một tháng trời chịu trách nhiệm khu vực trên, các đơn vị thuộc Lữ đoàn 369 TQLC đă chiến đấu trong những hoàn cảnh cực kỳ gian khổ. Hàng ngày chạm địch liên miên từ cấp tiểu đoàn trở lên, đại pháo 130 ly của địch nă như mưa bấc, mọi công tác tải thương đều phải di chuyển bằng đường bộ, khiêng hoặc cáng đi trên một quăng đường dài gần 10 cây số đường núi v́ trực thăng không có. Nhưng dù thế nào mặc ḷng, các chiến sĩ TQLC cũng đă chiến đấu hăng say trong hoàn cảnh eo hẹp đó và mọi cố gắng của địch tiến quân ra vùng đồng bằng thuộc quận Hải Lăng đều bị chặn đứng hoàn toàn. V́ ai cũng hiểu rằng nếu để địch xâm nhập th́ Quảng Trị bị cô lập ngay và Quốc Lộ 1 bị cắt đứt. Do đó địch quân cay cú, hằng ngày chúng gia tăng pháo kích các đơn vị của ta. Các pháo đội của Tiểu đoàn 1 Pháo Binh TQLC phải thay đổi vị trí đặt súng ngày một, nhưng di chuyển đi đâu cũng đều bị chúng pháo theo. Tiền sát viên của địch bám rất sát mọi sự xê dịch, di chuyển của ta. Lâu lâu quân ta bắt được một vài tên có máy móc vô tuyến đàng hoàng nhưng cường độ pháo kích của địch vẫn không hề suy giảm.

Tôi đă từng nghe những tiếng nổ, tiếng rít của các loại hỏa tiễn 122 ly, 240 ly, nhưng lần này tiếng rít xé gió đi trong không khí cũng như tiếng nổ của loại đại bác 130 ly (bắn xa 27 cây số do Nga-Sô chế tạo) nghe thật khiếp. Tiếng rít xé gió bay qua đầu, tôi có cảm tưởng như là tiếng phản lực bay trên trời. Rồi tiếp theo là tiếng nổ thật lớn nhưng ấm, mảnh văng tung tóe rơi trên những mái nhà tôn như có ai lấy thật nhiều đá ném lên. Mảnh nào mảnh nấy to bằng cái chén và văng ra xa trong ṿng bán kính 200 thước. Chẳng có ai biết chúng đặt súng ở đâu cả (biết th́ c̣n nói làm chi nữa) nhưng nghe được tiếng départ ở đâu trong dăy núi xa xa rồi sau đó khoảng chừng 5, 7 giây là đạn bay đến nổ ầm rồi.

Thường th́ chúng cứ bắn hai quả một. Lính tráng hễ nghe hai tiếng départ ùng ùng th́ la to “Một cặp” đó các anh em ơi! Thế là mọi người chui lẹ vào hầm. Địch bớt pháo th́ chui ra. Cứ chui ra chui vào như thế suốt ngày. Cái hoạt cảnh lên hầm xuống hầm có lẽ tôi chẳng bao giờ quên được, nhất là khi một mảnh đạn văng rơi trên cái mũ sắt của tôi đánh cồng một tiếng như tiếng chuông chùa. Ôi ta thương cái mũ sắt biết chừng nào! Có hôm mấy trăm quả nă vào đơn vị của tôi, ôi thôi tơi bời hoa lá nhưng khi kiểm điểm lại th́ chỉ có 1 chết và 3 bị thương v́ đạn rớt trúng ngay hầm. Giữa lúc bị pháo kích, ai nấy ở trong hầm tinh thần căng thẳng nhưng khi nghe một quả bị rớt không nổ th́ mọi người lại vỗ tay cười.

Tôi cũng không biết họ nghĩ sao mà lại cười như thế, có lẽ cười v́ cái khôi hài của chiến tranh tự nhiên khi không bắn giết nhau. Riêng tôi th́ tôi thương cái hầm của tôi hết sức, hôm nào đổi vị trí đóng quân, tôi không tiếc cái ǵ hết chỉ tiếc có cái hầm mà mấy thầy tṛ, anh em tôi đă đào đắp công phu. Nhiều khi nh́n nó, tôi nghĩ đến sự nhiệm mầu của đất. Đất nuôi sống con người, cứu văn con người và khi người ta buông xuôi cũng trở về với 3 thước đất. Trên cơi đời ô trọc và buồn phiền này có ǵ tồn tại hơn là đất cát. Và đó có lẽ là cái ư nghĩa sau cùng của con người, nhưng buồn thay không mấy ai để ư đến, chỉ lo đi t́m những cái ảo ảnh, danh vọng để lừa dối, phản bội và bắn giết nhau.

Hành Lang Máu
Khoảng thời gian đó, ngày cũng như đêm đối với tôi thật dài. Ngày th́ nóng, nóng tàn nhẫn. Trời không một cơn gió. Mồ hôi vă ra như tắm. Bên tai lúc nào cũng nghe tiếng súng, tiếng pháo của ta và tiếng pháo của địch xen lẫn những tiếng súng nhỏ của các đơn vị đang đụng độ. Ban đêm th́ trời trong, sao giăng mắc. Chùm Đại Hùng Tinh với ngôi sao Bắc Đẩu in rơ trên nền trời, c̣n chùm sao Hiệp Sĩ nữa, cả hai đều chỉ về phương Bắc, nơi đó thành phố Quảng Trị đang cố đẩy lui các cuộc tiến công của Cộng quân. Hỏa châu thả sáng đầy trời, thỉnh thoảng ở phía Đông những lằn lửa xẹt lên ngang bầu trời rồi vụt tắt. Có lẽ đó là Hải Pháo đang bắn đi từ ngoài biển, đôi khi tôi cũng thấy những cụm lửa thật to của chiếc hỏa tiễn SAM của địch bắn lên các phi cơ.

Cho đến giờ phút đó, pḥng tuyến ở phía Tây Mỹ Chánh do TQLC trấn giữ vẫn vững như bàn thạch. Và không một ai nghĩ rằng Quảng Trị sẽ bị thất thủ cả. Nhưng đùng một cái, trong các ngày 28, 29 và 30-4, Cộng quân pháo kích dữ dội vào thành phố Quảng Trị. Thế là dân chúng hoảng hốt, bồng bế nhau chạy đi về Huế lánh nạn. Không thể nào kể hết những thảm cảnh của đám dân chạy nạn đó. Trong hai ngày 29 và 30-4, trên quăng đường dài từ Quảng Trị đến Mỹ Chánh, người ta đi chen chúc nhau chật cả quốc lộ từ sáng đến chiều vẫn chưa dứt. Thôi th́ đủ các loại xe lớn nhỏ nối đuôi nhau đi nườm nượp về Nam. Nhưng người đi bộ gồng gánh vẫn nhiều hơn. Dưới mắt tôi, đó là một “con rắn người” khổng lồ ngoằn ngoèo dài đến hàng mấy chục cây số. Đây, một người thanh niên cơng một người mù vừa đi vừa thở, đàng kia là một người đàn bà gánh đôi thúng, trên đó một em bé chừng 4 tuổi đang vốc cơm ăn ngon lành.

Chỗ khác, hết cả một gia đ́nh đang ra sức đẩy một cái xe ḅ chất đủ thứ áo quần, bàn ghế và một con heo nằm co quắp ở phía trước. Một ông già, h́nh như là chủ gia đ́nh, đang kéo chiếc xe một cách mệt nhọc. Chiếc máy ảnh cầm trên tay, tôi đến trước mặt ông và bấm một “bô”. Ông cố nở một nụ cười đau khổ. Không biết ông cười v́ được chụp ảnh hay cười v́ cảnh đời dâu bể này? Và trong ánh nắng hoàng hôn của ngày 29-4, một bà già có tật đang khấp khểnh đi nhờ chiếc gậy trên tay, cái bóng đổ dài trên mặt đường. Bà ta đi chừng mười bước th́ lại dừng. Xa hơn một chút, một ông già và hai cháu nhỏ đang ngồi thở dốc trên vệ đường.

Ngay trước vị trí đóng quân của Tiểu đoàn 5 TQLC, các anh chiến sĩ đem mấy thùng nước ra để bên đường cho dân uống. Có anh đem cả phần gạo sấy của ḿnh chia cho những gia đ́nh đang đói lả. Dù sao, đây cũng là những người c̣n được ít nhiều may mắn v́ đă vượt về đến Mỹ Chánh. Một số lớn dân chúng bị kẹt trong vùng giao tranh giữa ta và địch tại cây cầu Bến Đá, 6 cây số bắc Mỹ Chánh. Đó là khoảng đường “hành lang máu” của hàng ngàn dân vô tội chết oan trong khi đi lánh nạn. Lợi dụng một lỗ hổng nhỏ do sự rút quân của Tiểu đoàn 7 TQLC để đi ra tăng cường mặt trận Quảng Trị, Cộng quân đă xâm nhập được cây cầu Bến Đá và từ đó chận đốt những đoàn xe chở dân chúng cũng như bắn giết dân chạy nạn không tiếc tay.

Dân chúng đang đi trên đường th́ bị hàng loạt đại bác 130 ly ngă ra chết. Những cái chết vô lư bủa chụp xuống đời họ như những nỗi kinh hoàng. Họ có biết ǵ đâu. Có cả một chiếc xe bị bắn lật nhào xuống hố kéo theo 30 mạng người và cái hố đó là mồ chôn chính họ luôn. Trên khoảng đường này không có một gia đ́nh nào nguyên vẹn, kẻ mất người c̣n và thất lạc tứ tung. Đấy, sự nghiệp giải phóng của đoàn quân miền Bắc là như thế đó. Giải phóng người sống mau về bên kia thế giới, giải phóng tất cả sự nghiệp của mọi người trở về hai bàn tay trắng. Những h́nh ảnh đó, có lẽ suốt đời tôi không thể nào quên được. Mỗi ngày, tôi từ vị trí đóng quân ra ngồi trên con đường sắt, con đường mà ngày xưa xe lửa đă chạy ra đến Hà Nội, nh́n đám dân lũ lượt kéo nhau đi mà trong ḷng nghe chua xót. Tôi cố t́m trong đám người đi đó xem có ai quen thuộc không, nhưng không, không có ai cả. Tôi muốn chia sẻ những nỗi khổ đau với họ nhưng tôi đă hoàn toàn bất lực.

*****

2. Tháng 5-72, Thủy Quân Lục Chiến là hy vọng cuối cùng của Quân đoàn I. Cộng quân đă vượt Hải Lăng áp sát sông Mỹ Chánh. Trong chưa đầy một tháng tin tức chiến trường ập xuống như băo lửa. Cồn Thiên, Khe Gió, Ba Hô, Gio Linh, Cửa Việt đồng loạt thất thủ. Tồi tệ hơn nữa: Trung tá Phạm Văn Đính, trung đoàn trưởng Trung đoàn 56 VNCH mà về sau thành Trung tá Việt cộng đầu hàng tại Camp Carroll. Mất tấm khiên chắn phía Tây, Sư đoàn 3 Bộ Binh không thể giữ Đông Hà và Ái Tử. Với dân Thừa Thiên, an nguy trao hết cho người lính mũ xanh. Phần bút kư tiếp theo của Thiếu Tá Huỳnh Văn Phú ghi lại những ngày này.


Bên này sông, bên kia sông
Giữa đoàn người đi hỗn độn đó, Tiểu đoàn 5 TQLC tung quân lên cầu Đập Đá để giải vây áp lực địch. Tại đây, Tiểu đoàn 7 TQLC khi đi tăng cường cho mặt trận Bắc Quảng Trị vẫn c̣n bị kẹt lại hai đại đội ở khúc đường này. Hai đơn vị phối hợp nhau đánh bật địch quân về phía Tây, cuộc giao tranh kéo dài suốt ngày, các chiến sĩ TQLC đă thanh toán hết các phần tử địch vừa xâm nhập ở đây.

Cho đến giờ phút đó, mặt trận ở phía Tây Mỹ Chánh vẫn vững như vách núi Trường Sơn, nhưng việc ǵ đă xảy đến. Ngày 1 tháng 5-72 các đơn vị tử thủ Quảng Trị rời bỏ thành phố di chuyển về Nam. Cuộc lui binh mà trước đó mấy ngày ít ai nghĩ đến đă thành sự thật. Và t́nh h́nh bây giờ đổi khác, Lữ đoàn 369 TQLC trở thành tuyến đầu ngăn chặn địch tại Mỹ Chánh, không c̣n một đơn vị bạn nào khác nữa.

Bám sát các cánh quân của ta vừa di tản chiến thuật ra khỏi tỉnh Quảng Trị, Cộng quân lần tiến theo cho đến quận Hải Lăng. Tại đây, các đơn vị thuộc Lữ đoàn 369 TQLC một mặt “tiếp rước” các đơn vị bạn từ Bắc xuống, mặt khác cố đánh bật địch dội ngược trở lên. Nội trong buổi sáng ngày 1-5 Tiểu đoàn 9 TQLC đă dùng súng M72 hạ một lúc 9 xe tăng T54 của Bắc Việt chặn đứng hoàn toàn sức tiến của địch. Tiểu đoàn 9 và Tiểu đoàn 2 TQLC đă quần thảo với địch suốt trong ngày dài nhất đó với một mục đích duy nhất: Không cho chúng tiến thêm một tấc đất nào nữa kể từ khu vực này.

Sau đó cây cầu Mỹ Chánh được giật sập ngay trong đêm và các đơn vị TQLC thiết lập một pḥng tuyến mới ở bên này con sông. Theo sát những diễn biến, tôi đă nghĩ rằng nếu ngày hôm ấy mà không có các Tiểu đoàn 2 và 9 TQLC kiên tŕ chận đứng được địch quân tại Mỹ Chánh giữa cơn ngặt nghèo đó th́ không biết chiến trường trong những ngày kế tiếp sẽ diễn biến ra sao và đến đâu. Một Nguyễn Kim Để của Tiểu đoàn 9, một Nguyễn Xuân Phúc của Tiểu đoàn 2 TQLC tại mặt trận Mỹ Chánh ngày 1-5 cũng như một Đỗ Hữu Tùng của Tiểu đoàn 6 TQLC trong trận “xa chiến lớn” tại căn cứ Phượng Hoàng ngày 9 tháng 4 là những đơn vị trưởng đă góp công không nhỏ trên chiến trường Trị Thiên suốt 60 ngày chiến đấu đẫm máu.

Họ là những sĩ quan có đầy đủ kích thước, tài ba và mưu lược để chỉ huy những đơn vị cỡ trung cấp. Đại Tá Phạm Văn Chung, Lữ đoàn Trưởng Lữ đoàn 369, người chỉ huy trận đánh và đơn phương quyết định phải ngay tức khắc chận địch tại tuyến Mỹ Chánh cũng đă không tiếc lời khen ngợi hai đơn vị nói trên. (bây giờ Đại Tá Chung về Bộ Tư Lệnh Sư đoàn TQLC làm Tham Mưu Trưởng Hành Quân, Trung Tá Nguyễn Thế Lương thay thế).

Buổi chiều, khi tôi rời Mỹ Chánh để về đóng quân tại Phong Điền, ánh nắng vàng vọt buồn bă ngả dài trên những dăy núi phía Tây lỗ chỗ những vệt xanh vệt trắng. Nhà cửa hai bên đường không một bóng người, quang cảnh thật thê lương. Đă nhiều lần tôi bắt gặp ḷng ḿnh lắng sâu trong cảnh vật bởi tôi đă đi trên cái hoang vắng đó. Trên con đường nhựa duy nhất một ông già với chiếc bị da đă ngả màu trên vai, đi âm thầm trong ánh nắng hoàng hôn sắp tắt.

Ông già đă đi giữa buổi hoàng hôn của cuộc đời và hoàng hôn của đất trời. Nhưng ai biết được ông đi về đâu? Tôi quay về phía sau, bóng những người lính in lên trên nền trời đang dần dần đổi sang màu đen của bóng đêm. Xa hơn, về phía Bắc những cụm khói đen khổng lồ bốc lên cao cùng những tiếng nổ ́ ầm. Quảng Trị đă xa tầm tay! Ít ra trong phút này, niềm mơ ước có phút rỗi rảnh nào đó được “dzọt” lẹ về thành phố này uống một chai bia, ăn một tô bún đă không thể thành tựu được nữa.

Và cái truyện Bên Kia Giáo Đường của tôi cũng tan thành mây khói, không biết đến bao giờ mới xong v́ nhân vật chính đă phiêu bạt ở phương nào rồi. Tôi cũng ước mong được trở lại căn nhà mà tôi đă trú đóng bên kia sông Mỹ Chánh, không biết để làm ǵ, v́ nơi đó không phải là quê hương của tôi nhưng tôi mong muốn như thế, sớm hơn. Niềm mong ước đó cũng giống như hàng vạn người dân Quảng Trị mong sớm được nh́n về gịng sông Thạch Hăn của họ. Nhưng tôi tin chắc rằng niềm mong ước của họ lớn lao hơn, to tát hơn. Trong buổi chiều đó, khi đi ngang qua cây cầu, tôi đă “tức cảnh sinh t́nh” và rất lẩn thẩn “mần” ra mấy câu “thi” thuộc loại siêu tự do, siêu khôi hài mà chỉ có những đại thi sĩ cỡ “khều mặt trời” mới mần ra nổi. Bài thơ như sau:

Tôi ở bên này sông Mỹ Chánh
Anh ở bên kia sông
Đứng bên này sông
Nh́n thấy bên kia

Đứng ở bên kia
Trông thấy bên này
Lội ra giữa gịng sông
Nh́n thấy cả hai bên

Lặn xuống nước
Chả trông thấy bên nào cả!

Một quan niệm về pḥng thủ tấn công
Đoàn xe chở chúng tôi rời Mỹ Chánh chừng 3 cây số về phía Nam th́ thay v́ chạy trên đường lại rẽ trái chạy trên khoảng đất song song với đường nhựa. Có lẽ khúc đường này bị đặt ḿn chưa sử dụng được. Đoàn xe chạy trên đường đất chừng 100 thước th́ ầm ầm, những tiếng nổ vang dội ở trước đầu xe, bụi tung bay mù mịt không trông thấy ǵ cả. Ngay quả nổ đầu tiên, trong trí óc của tôi lúc bấy giờ, tôi tưởng rằng đoàn xe đă bị địch phục kích và trong giây phút, tôi cố chờ đợi những tiếng đại liên xổ ra như kinh nghiệm cho thấy những lần bị phục kích. Nhưng may quá, không có đại liên và súng nhỏ. Rồi những tiếng nổ ́ ầm tiếp theo. Tôi nhận ra tiếng nổ ấm và rất quen thuộc của loại đạn M79. Tôi chợt yên tâm hơn, phía trước 3 chiếc xe chạy đầu vẫn tiếp tục chạy, một chiếc xe Jeep đă bị nổ lốp nhưng vẫn cứ phom phom. Tôi giục tài xế: “Tống hết ga chạy nhanh lên”.

Chiếc xe chồm lên chạy giữa đám khói mịt mù cùng những tiếng nổ tiếp theo. Khổ quá! Vài người “anh em thù nghịch” ṃ ra ở khu rừng thấp bên phía Tây bắn M79 vào đoàn xe của chúng tôi chơi cho vui giữa lúc bóng đêm sắp sửa xông lên từ ḷng đất. Đến quận Phong Điền, kiểm điểm lại chỉ hai người bị thương nhẹ ở đùi mà thôi. Những chiếc xe chạy ở phía sau cũng đă đến an toàn. Buổi tối đó, tại Chi khu Phong Điền, Thiếu Tá Bích, Quận Trưởng, một niên trưởng của tôi, đă mời chúng tôi mấy chai bia. Chưa bao giờ tôi thấy bia ngon như đêm hôm đó.

Vài ngày sau, tôi có dịp đi Huế để nh́n ngắm kết quả của cuộc lui binh ngày 1 tháng 5 ra khỏi Quảng Trị. Phố xá tiêu điều, hàng quán đóng kín cửa, chợ Đông Ba bị đốt cháy nám đen. Huế lúc đó là một thành phố chết, không thể mua được một cái ǵ cả. Gịng sông Hương đă vắng bóng những con đ̣, “Đệ Thất hạm đội” của “chị em ta” lừng danh một thuở cũng đă xuôi gịng ra cửa biển mất tăm! Huế của lăng mạn, của thơ mộng với những tà áo trắng phất phơ bay trên cầu Trường Tiền, chiếc nón bài thơ e ấp không c̣n nữa. Ít ra là ở trong giây phút đó.


Tuyến pḥng thủ Mỹ Chánh đă đứng vững và được kéo dài thêm ra đến biển với hai Lữ đoàn 258 TQLC và Lữ đoàn 369 TQLC chịu trách nhiệm. Với một quan niệm là pḥng thủ nhiều khi cũng phải tấn công để gây rối loạn hậu tuyến địch, phá vỡ việc địch tập trung để tấn công Huế và cho địch hiểu rằng ta muốn lấy lại những phần đất đă bị mất bất cứ lúc nào: ngày 13-5-72 Lữ đoàn 369 TQLC đă bất thần mở cuộc phản công vào quận Hải Lăng, bằng cách trực thăng vận đổ Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 6 TQLC xuống trận địa. Trong khi đó th́ Tiểu đoàn 9 TQLC lại vượt qua sông Mỹ Chánh tiến lên phía Bắc để giao tiếp với các đơn vị bạn.

Trước đó sự phối hợp yểm trợ hỏa lực phi pháo cũng như của B-52 thật chặt chẽ. Trận đột kích đă gây náo loạn cho hàng ngũ Cộng quân, khi các trực thăng khổng lồ đổ những người lích TQLC xuống th́ quân Cộng sản Bắc Việt tan ră hàng ngũ bỏ chạy tán loạn ra các cánh đồng, trong khi đó dân chúng cũng bắt đầu chạy về hướng TQLC. Một sự kiện lạ là trong khi Cộng quân bỏ chạy trước các cánh quân của Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 6 TQLC ở phía Bắc th́ địch lại chịu chạm súng với Tiểu đoàn 9 TQLC lúc đơn vị này vừa qua sông. Trung Tá Nguyễn Kim Để, Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 9, người hùng trong trận đánh chận đứng địch tại Hành Lang Máu ngày 1-5 đă quyết định táo bạo khi cho các “con cái” của ông vượt sông lúc 5 giờ sáng thay v́ 7 giờ như đă ấn định.

Chính quyết định này đă gây hoàn toàn bất ngờ đối với địch quân và giảm thiểu mức độ thiệt hại quân bạn. Cuộc hành quân đă gây những yếu tố tâm lư quan trọng hiện tại và là một cuộc hành quân được phối hợp tuyệt vời nhất, kín đáo nhất. Hơn một ngàn ba trăm dân đă được giải thoát nhờ cuộc hành quân này.

Địch mưu toan chọc thủng pḥng tuyến Mỹ Chánh
Cuộc hành quân kéo dài trong ngày và các đơn vị TQLC lại về pḥng thủ tại tuyến Mỹ Chánh. Trong suốt một tuần lễ sau đó, lằn mức giao chiến giữa ta và địch tại con sông Mỹ Chánh cứ nhập nhằng, thỉnh thoảng địch cố mở vài mũi dùi ḍ la sức phản công của ta rồi im lặng. Cho đến ngày 22-5, trận chiến dữ dội mở màn ghi một điểm son trong pho quân sử của binh chủng TQLC. Trận đánh đă xảy ra 24 giờ đồng hồ trước khi những nút chai sâm banh được mở ra để đăi vị Tổng Thống Hoa Kỳ R. Nixon trong một bữa tiệc tại thủ đô Nga Sô mà 23 xe tăng PT76 và T54 của Cộng sản đă bốc cháy cùng 130 xác đồng bọn bỏ lại trên trận địa dọc theo pḥng tuyến.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1751167&stc=1&d=1614994273

Theo ước tính của t́nh báo, lẽ ra trận tấn công trên của địch diễn ra ngày 19-5-72 nhưng không biết v́ trục trặc ǵ đó mà trễ mất 3 ngày. Và người ta nhận định rằng chỉ có khoảng thời gian đó là thuận tiện cho việc tấn công v́ ư đồ của Hà Nội đă thấy rơ: Muốn biến cuộc gặp gỡ thượng đỉnh Nga-Mỹ thành một hội nghị Genève mới. Và nếu để sau ngày Nixon Nga du th́ mọi việc kể như xong rồi.

Ngày 21-5, Bắc Việt tung quân bộ chiến có xe yểm trợ tiến đánh một đơn vị Địa Phương Quân tại 9 cây số Đông Bắc Mỹ Chánh. Lực lượng này không chịu nổi sức tấn công của địch đă phải tháo lui về phía sau pḥng tuyến 2 cây số. Tiểu đoàn 9 và Tiểu đoàn 3 TQLC đă tức tốc đem quân chận đứng địch, đồng thời trám lại một lỗ hổng nhỏ trên tuyến pḥng thủ chính. Hậu quả của sự tháo lui của lực lượng Địa Phương Quân này là một toán chốt của địch đă xâm nhập được phía Nam sông Mỹ Chánh. Do đó, con đường huyết mạch để tiếp tế cho các đơn vị TQLC từ quận Phong Điền đến phía Đông Bắc pḥng tuyến bị gián đoạn trong 3 tiếng đồng hồ.

Bộ Tư lệnh liền quyết định tung thêm Tiểu đoàn 39 Địa Phương Quân tăng cường cho Lữ đoàn 369 TQLC. Tiểu đoàn này di chuyển bộ từ Phong Điền đến tiếp giáp với Tiểu đoàn 8 TQLC đang trú đóng tại 3 cây số Nam pḥng tuyến để phối hợp với đơn vị này càn quét và thanh toán chốt vừa xâm nhập đêm qua. Trong khi đó th́ Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 9 TQLC vẫn giữ mặt Bắc không cho địch tràn xuống. Mục đích của địch là cho các toán chốt xâm nhập trước để quấy rối ta rồi sau đó các đơn vị hỏa lực với tăng và pháo yểm trợ chọc thủng pḥng tuyến.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1751168&stc=1&d=1614994340

Trong ngày 21-5, quân ta đă thanh toán xong các toán chốt của địch lẩn quất trong vùng. Bây giờ lằn ranh giao tranh giữa hai bên vẫn là con sông Mỹ Chánh. Ngay trong buổi chiều hôm đó, Tiểu đoàn 3 TQLC tung thêm một đại đội xa hơn về phía Đông vượt qua con sông Ô Lâu; nhánh của Phá Tam Giang ăn thông với sông Mỹ Chánh nằm chặn địch tại đó. 23 giờ ngày 21-5, khoảng 30 xe tăng PT76, T54 và PT85 của Cộng sản với tùng thiết (bộ binh tháp tùng xe tăng) chia làm 2 mũi dùi từ Bắc và Đông Bắc Mỹ Chánh ào ạt tiến xuống. Trận chiến bắt đầu từ giây phút này.

Đêm ấy tôi hoàn toàn thức trắng ngồi tại T.O.C. theo dơi diễn biến trận đánh. Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 3 TQLC Lê Bá B́nh cho lệnh các đại đội của ông sẵn sàng M72 và chờ cho chúng đến gần 100 thước mới khai hỏa. Ngay phút đầu tiên, 7 PT76 bị hạ. Nhằm không cho các đơn vị của ta tiếp ứng lẫn nhau, Cộng quân đă pháo kích dữ dội vào vị trí của các đơn vị Tiểu đoàn 9 TQLC trong khi tiến đánh Tiểu đoàn 3 TQLC. Sau 3 giờ giao tranh, một đại đội của Tiểu đoàn 3 TQLC đă phải lui về phía sau con sông Ô Lâu một cây số. Một phi cơ soi sáng từ Đà Nẵng được gọi lên vùng, hai bên lại tiếp tục quần thảo. Một mũi dùi khác thọc xuống phía Nam né tránh hoàn toàn giao tranh với Tiểu đoàn 39 Biệt Động Quân.

Đến đây th́ cái mấu chốt của sự thảm bại của Cộng sản Bắc Việt bắt đầu.

*****

3. Mỹ Chánh là chiến thắng của Thủy Quân Lục Chiến. Để hiểu tầm quan trọng của chiến thắng này cần nh́n thấy rơ nỗ lực của Bắc quân. Đích thân Lê Trọng Tấn, tay Tướng được xem dũng lược nhất của Hà Nội nắm quyền Tư lệnh Chiến dịch Trị Thiên Xuân - Hè 1972. Cuối tháng 3 Lê Trọng Tấn ném 3 sư đoàn chính quy Bắc Việt 304, 308, 320B qua sông Bến Hải, tăng cường thêm 2 sư đoàn 324 và 325 sau khi chiếm Quảng Trị. Sư 304 là sư đoàn chuyên đánh đồng bằng. Sư 308 là sư đoàn đầu tiên của Việt Minh thành lập từ 1949 mà bộ chỉ huy Pháp đặt tên Division d’Acier, tức Sư đoàn Thép. Sư đoàn 320B thoát thân từ Sư đoàn 320 là sư đoàn cũ của Văn Tiến Dũng. Sư đoàn 324 “chuyên trị” “Nam-Ngăi-B́nh-Phú” và Sư đoàn 325 danh hiệu Đại đoàn B́nh-Trị-Thiên. Tất cả, nói lên ư chí chiếm Huế của Lê Duẫn.

Cả 5 sư đoàn trên đều dày dạn trận mạc. Nếu 304 và 308 từng đánh Điện Biên th́ 3 sư đoàn c̣n lại am tường địa thế miền Trung. Bên cạnh, 2 trung đoàn chiến xa 202 và 203, rồi 4 trung đoàn Pháo binh gồm 408 đại bác mà 68 khẩu là pháo 130 ly, cộng 93 khẩu 122 ly Sô-Viết cùng 247 khẩu sơn pháo 76 và 85 ly, không tính súng không giật SKZ cũng như súng cối nặng 120 ly của bộ binh. Thêm 2 sư đoàn cao xạ 367, 376 và 2 trung đoàn tên lửa 238, 237 với hỏa tiễn SA-2. Tỉnh đoàn Thừa Thiên cung cấp thêm Trung đoàn Độc lập 559 Chủ lực Miền. Một ưu thế tuyệt đối.

Chính với ưu thế này mà Lê Trọng Tấn đă tự tin đánh dàn trận bằng chiến xa và cũng lần đầu tiên Bắc-Việt sử dụng rộng răi pháo 130 ly. Chỉ trong ngày đầu tiên của Chiến dịch Băo Táp, đă pháo 11,000 quả đạn đủ loại.

Phía VNCH, đầu tháng 4 gánh nặng trên vai Sư đoàn 3 Bộ Binh, là một sư đoàn tân lập đă phải thâu nhận khá đông đào binh, quân phạm từ các Trung tâm Cải huấn. Không thể xem quân phạm tác chiến kém. Sau cải hối, mỗi người lính là một binh sĩ Quốc Gia ngang đồng vị trí. Nhưng các sĩ quan cần thời gian để tái huấn luyện, thiết lập kỷ cương. Chính thời gian là điều Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai không sở hữu, v́ chưa đầy 6 tháng sau thành lập với đảm trách nặng nề của vùng hỏa tuyến, đă phải đương đầu với tổng tấn công của Bắc Việt. Thêm nữa, bội phản của Trung Tá Phạm Văn Đính đầu hàng tại Camp Carroll đă tạo ra khoảng trống cạnh sườn phía Tây Quảng Trị. Từ đây, Bắc quân tràn vào như thác.

Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai bị pḥng Thanh Tra của Bộ Tổng Tham Mưu VNCH câu lưu và đưa ra ṭa án binh v́ đă để mất tỉnh địa đầu. Trung Tướng Hoàng Xuân Lăm bị cách chức, thay thế bằng Tướng Ngô Quang Trưởng. Các sự kiện trên, nói lên t́nh h́nh nguy ngập cùng cực khi TQLC nhận vùng trách nhiệm Mỹ Chánh. Nếu TQLC buông tay, Lê Trọng Tấn sẽ vinh quang vào giải phóng - thảm sát Huế thêm lần nữa. Nhưng chính tại Mỹ Chánh, vào tháng 5-1972, những người lính TQLC đă giữ vững pḥng tuyến và cùng lúc giữ vững danh tiếng của binh chủng này. Chính chiến thắng Mỹ Chánh đă cho phép Tướng Trưởng củng cố Quân đoàn I và tái chiếm Quảng Trị. Cũng chính Mỹ Chánh, đă giúp Tổng Thống Thiệu có thể quỳ xuống giữa giáo đường La Vang về sau. Mỹ Chánh, là một phá lam đă làm gẫy mũi giáo phương Bắc.

Trần Vũ

Gài địch vào vùng tập trung hỏa lực
Cánh quân thứ hai của địch tưởng rằng đă chọc thủng được pḥng tuyến rồi nên chúng cố thọc sâu hơn về hướng Nam từ lúc 4 giờ sáng ngày 22-5. Vùng tập trung hỏa lực của LĐ 369 TQLC tại hơn 3 cây số về phía Nam pḥng tuyến với Tiểu đoàn 8 TQLC, hai pháo đội của Tiểu đoàn 3 PB/TQLC và một số chiến xa. 5 giờ, phi cơ bắt đầu soi sáng vị trí của Tiểu đoàn 8 TQLC.

Khi trái sáng cuối cùng vừa dứt, tôi nh́n đồng hồ: 5 giờ 55 phút. Mặt trời chưa lên, đó là lúc “b́nh minh hàng hải” vừa để đủ trông thấy mọi vật một cách lờ mờ. Cánh quân của địch vừa thoát xuống chia làm hai mũi dùi tiến thẳng tới vị trí của Tiểu đoàn 8 và hai pháo đội của Tiểu đoàn 3 PB/TQLC. Lúc bấy giờ mọi người đă sẵn sàng. Xạ trường ở phía trước trống trải toàn là đồng ruộng, xa hơn chừng 500 thước là những lùm cây thấp. Xe tăng địch lù lù tiến đến với tác xạ dữ dội với đủ mọi loại súng đặt trên xe cũng như của quân di chuyển bộ. Các chiến sĩ Tiểu đoàn 8 TQLC và Tiểu đoàn 3 PB/TQLC vẫn b́nh tĩnh chờ đợi, không một ai nao núng.

Xe tăng địch c̣n cách 500 thước, 400 thước, 300 thước, 200 thước rồi 150. Tất cả súng M.72 đồng loạt khai hỏa, các khẩu pháo binh 105 ly th́ bắn trực xạ. Ngay trong phát đầu tiên, các pháo thủ của pháo đội K do Trung Úy Vũ Quang Vinh chỉ huy đă hạ được một chiếc PT76 bốc cháy. Rồi lần lượt các chiếc chiến xa khác của địch trên một trận tuyến dài 500 thước đều bị bắn cháy. Tiếng súng hai bên vẫn nổ ṛn. Trước mắt tôi chừng 500 thước một chiếc PT76 bị bắn cháy nhưng vẫn c̣n chạy được trông không khác ǵ một con chuột bị người ta tẩm xăng đốt cháy. Chiếc hỏa tiễn TOW, loại vũ khí chống chiến xa mới nhất do Hoa Kỳ cung cấp, đặt từ trong tuyến pḥng thủ phóng bồi thêm một quả nữa. Chiếc xe tăng của địch đang chạy bỗng khựng lại, ngọn lửa bùng cháy cao hơn. Lúc bây giờ chung quanh tôi rào rào tiếng vỗ tay reo ḥ của lính.

Một chiếc T54 khác th́ thê thảm hơn: Bị bắn cháy lật nằm nghiêng, ngọn lửa bùng lên từng chập như có ai đổ dầu thêm. Trong ṿng 15 phút đồng hồ, tất cả xe tăng của địch đều bị hạ. Mọi người ai cũng thấy phấn khởi và lên tinh thần. Hai chiếc tăng khác hoảng sợ không dám tiến vào nữa mà ẩn núp sau lùm cây thấp và bị phát giác nhờ chiếc ống nhắm của hỏa tiễn TOW khi thấy hai cái ăng-ten của hai chiếc xe ló lên. Lập tức, hai chiếc phản lực cơ được gọi đến hạ ngay tại chỗ. Lúc này th́ trời đă sáng, ánh sáng tạm đủ để nh́n thấy cảnh vật qua lớp sương mờ mờ. Vài chiếc tăng không bị trúng đạn cố gắng tháo chạy về phía Bắc cũng bị phi cơ đuổi theo oanh kích cháy nốt.

Trải dài trước mắt tôi, dọc theo tuyến pḥng thủ thành một h́nh ṿng cung là 9 xác xe tăng của địch vừa PT76 vừa T54 nằm la liệt, lửa từ trong các xe bốc lên hừng hực. Trận chiến xảy ra như một cảnh trong cinéma. Tôi nghĩ rằng chỉ có trong ciné mới có thể có được những cảnh đó nhưng sự thật đă diễn ra trước mắt tôi và có lúc tôi tưởng rằng đó là cơn mê. Một giờ sau, Trung Tá Nguyễn Thế Lương, Lữ đoàn Trưởng Lữ đoàn 369 TQLC tung quân truy kích địch. Cuộc chạm súng lẻ tẻ trong ṿng bán kính 800 thước lại xảy ra. Các chiến sĩ Tiểu đoàn 8 TQLC của Thiếu Tá Nguyễn Văn Phán như say men chiến thắng ào ạt tiến lên tiêu diệt nốt những tên c̣n sót lại. Thiệt hại về phía TQLC chỉ có 3 chết và 5 bị thương, một số tổn thất coi như không đáng kể. Tôi không nhớ rơ các chiến sĩ Tiểu đoàn 8 TQLC đă tịch thu được bao nhiêu súng cộng đồng và cá nhân nhưng chỉ biết là khá nhiều. Tôi cũng như bao nhiêu người khác lúc đó chỉ khoái chú ư đến những chiếc xe tăng của địch c̣n bốc khói nghi ngút. Đặc biệt trong số này có một chiếc PT85. Thứ này na ná như chiếc M113 của ta nhưng “đẹp” hơn nhiều. Chiếc xe đó đang được kéo về triển lăm ở Huế.

Tôi cũng không thể hiểu được Cộng quân điều binh theo cái lối nào mà kỳ quặc đến thế: cho xe tăng dàn hàng ngang trước một tuyến hoàn toàn trống trải để đưa lưng mà nhận lănh đạn. Điều đáng ghi trong trận đánh này là sự b́nh tĩnh vô cùng của các chiến sĩ TQLC. Một chi tiết đáng ghi khác là khi chiếc xe tăng đầu tiên của địch bị hạ, không một quân nhân nào của Tiểu đoàn 8 TQLC c̣n núp ở trong hầm, tất cả đều đứng thẳng lên, M72 trên vai ngắm xe tăng mà bóp c̣. Có anh bỏ vị trí chạy ra bờ ruộng để bắn gần cho chắc ăn.

Vài giờ đồng hồ sau đó, Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư đoàn TQLC đă có mặt tại trận địa bên cạnh những chiếc xe tăng của địch c̣n cháy nghi ngút để khen thưởng các chiến sĩ thuộc Lữ đoàn 369 TQLC và đồng thời quyết định những kế hoạch kế tiếp.

Với chiếc máy ảnh trên tay, tôi ṃ ra chỗ những chiếc xe tăng bị hạ. Xác chết của địch nằm la liệt. Chung quanh những chiếc xe tăng, chỗ này 30 xác chết, chỗ khác 11 xác. Rất ít xác c̣n được nguyên vẹn. Có xác bị cháy đen thân thể co quắp lại như một đứa con nít. Nh́n họ, bỗng tôi nhớ đến buổi nói chuyện với một tù binh Cộng sản, Thượng sĩ viên giữ chức vụ Đại đội phó thuộc Tiểu đoàn K.2 Trung đoàn 3 CSBV.

Anh nói với tôi “Tôi cũng biết rằng vào đây không có đánh Mỹ nữa v́ Mỹ đă rút quân dần ra khỏi miền Nam rồi, nhưng lệnh bảo đi th́ đi. Thế thôi, muốn cưỡng lại cũng không được. Rốt cuộc, chỉ chúng ta là những người Việt Nam ở cả hai miền Nam Bắc bị chết trong cuộc chiến này”. Cũng trong trận đánh trên, TQLC tịch thu được hai khẩu súng SA7 (c̣n có tên là STRELLA) đó là loại hỏa tiễn giật tay “ḍ t́m hơi nóng” để bắn phi cơ. Đây là lần đầu tiên, Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa tịch thu được loại vũ khí đó trên chiến trường. Thảm bại của CSBV lần này c̣n nặng nề hơn ngày 09-04-1972 mà Tiểu đoàn 6 TQLC đă dùng súng M72 hạ hàng loạt chiến xa địch mở đầu cho chiến dịch thi đua diệt xe tăng Cộng sản Bắc Việt.

Những ngày kế tiếp, suốt dăy tuyến pḥng thủ dọc theo Mỹ Chánh từ Quốc Lộ 1 ra đến biển, ngày nào cũng có xe tăng địch bị hạ, khi th́ 2 chiếc, khi th́ 3 chiếc. Nếu không bị các đơn vị của Lữ đoàn 258 TQLC quất sụm th́ cũng bị Lữ đoàn 369 TQLC đốn ngă hay do phi cơ oanh kích cháy.

Ngày 25-05-1972, Lữ đoàn 147 TQLC lại mở một cuộc tấn công khác sâu hơn vào hậu tuyến địch bằng trực thăng vừa đổ bộ bằng tàu của Đệ Thất Hạm đội Hoa Kỳ, tung các Tiểu đoàn 6, Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 4 TQLC vào khu vực 15 cây số Đông Quảng Trị. Trước đó vài giờ, toàn bộ Ban chỉ huy của Trung đoàn 66 CSBV bị B.52 cày nát. Mặc dù vẫn có giao tranh ác liệt giữa các đơn vị TQLC với Cộng quân khi tiến sâu về phía Bắc nhưng điểm chính yếu ghi nhận được là phần lớn địch đă cố t́nh né tránh các cuộc tấn công của ta và đă rời bỏ vị trí tháo chạy.

Cuộc hành quân trên đă đạt được một kết quả đáng kể: hơn 5000 dân chúng đă theo các đơn vị TQLC về quận Hương Điền an toàn. Điều đó một lần nữa chứng tỏ rằng dân chúng không thể nào sống trong vùng Cộng sản kiểm soát.

Đến nay th́ sau những lần mưu toan chọc thủng pḥng tuyến Mỹ Chánh để tiến về Huế của địch đă thất bại, thêm vào đó là Cộng quân nơm nớp lo sợ không biết ta tung quân tấn công lúc nào nên khi tôi viết những ḍng này chiến trường ở phía Đông Bắc Mỹ Chánh đă bớt sôi nổi. Mặc dù vậy, địch cũng đang cố hướng mũi dùi về phía Tây, nơi đó Lữ đoàn 258 TQLC đang ngày đêm chặn đánh kẻ thù và mọi cố gắng xâm nhập của địch đều hoàn toàn bị chặn đứng tại đây.

Ngày mai trời sẽ sáng.

Khác với mọi lời tiên đoán bi quan lúc đầu khi thành phố Quảng Trị bị thất thủ là cố đô Huế bị đe dọa nặng nề và không biết sẽ mất lúc nào, t́nh h́nh chung bây giờ đă sáng sủa. Những cố gắng của địch đều bị phá vỡ. Pḥng tuyến Mỹ Chánh đă đứng vững. Sự sinh hoạt ở Huế đă trở lại b́nh thường. Nếu bỏ qua một phần những giải pháp chính trị cho cuộc chiến Việt Nam (…) theo đó sự tái chiếm Quảng Trị chưa cần thiết th́ trên b́nh diện quân sự, việc tái chiếm Quảng Trị và những phần đất đă mất chỉ là vấn đề thời gian. Việc tiếp liệu về lâu về dài cho các đơn vị CSBV trên chiến trường miền Nam đă là một vấn đề nan giải trong cường độ oanh tạc miền Bắc của không lực Hoa Kỳ hiện tại.

Mặt khác, theo một nguồn tin t́nh báo Hoa Kỳ th́ Cộng quân sẽ đánh mạnh để chiếm Huế trong khoảng thời gian từ 03-06-1972 đến 10-06-1972. Tuy nhiên, dưới con mắt nh́n của các giới quan sát quân sự th́ việc đó đối với Cộng quân khó có thể xảy ra trong thắng lợi được v́ sự thiệt hại của địch quá lớn lao sau gần 2 tháng xâm lăng, tinh thần cán binh thấp xuống đến mức e ngại mà theo tin tức th́ các vị Tư lệnh chiến trường của CSBV đă khuyến cáo Hà Nội cũng nên t́m một giải pháp nào cho chiến cuộc này khác hơn là ở trên chiến trường. Thế nhưng chiến trường nào cũng có thể có những diễn biến bất ngờ và sự bất ngờ đó đối với Hà Nội chỉ có trong trường hợp Tướng Vơ Nguyên Giáp có được chiếc đũa thần.

Để kết thúc, tôi xin ghi lại ở đây nội dung buổi phỏng vấn Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư đoàn TQLC, của phái viên “đầu bạc” Nguyễn Tú của nhật báo Chính Luận ngày 27-05-1972, theo đó vị Tướng Tư Lệnh Sư đoàn TQLC cho rằng:

– Vấn đề chống địch, phản công địch, diệt địch không khó. Điều quan trọng là nắm vững t́nh h́nh địch, điều quân mau lẹ như chính ông (phái viên Chính Luận) đă thấy tại trận địa và nhất là sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị bạn. Điển h́nh là hành quân Sóng Thần 06-72 tấn công Hải Lăng ngày 25-5-72 đă được thiết kế và quyết định trong 24 tiếng đồng hồ.

– C̣n tương lai?

– Ông không thấy trời rất đẹp sao?

Trần Vũ

hoanglan22
03-06-2021, 02:01
Có thể nói sếp cũ của tôi là một ông già, già nhất trong những người giữ nhiệm vụ chỉ huy đơn vị tác chiến. Ông đi lính từ một thuở thật xa, lâu lắm, cách đây hơn hai mươi năm lúc quân đội chỉ độc các loại Commando, Lê Dương, Nhảy Dù thuộc địa... Đánh nhau bằng súng mút-cờ-tông từng phát một hay những cây FM đầu bạc bắn gật gù như ông già ho lao. Lúc chiến tranh c̣n nằm tít trên biên giới Lào – Việt – Trung, trận đánh toàn một cách xung phong ầm ầm, ào ào để giữ những làng, thị trấn mang tên lạ hoắc như Bản Hiu-Siu, Mường Phen, Thất Khê...

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1751174&stc=1&d=1614995957

Ông già sếp tôi thuở đó khởi nghiệp nhà binh với lon Cai ở Commando. Không rơ những ngày ở đơn vị đó ông có những ǵ đặc biệt, chỉ biết ông ta nhắc lại đoạn đời qua bằng một câu thật gọn: Cai thậttrẻ… Giọng Bắc Kỳ khàn khàn xuống mạnh vào chữ mang đầy kiêu hănh và tự tín. Tước hiệu “cai thật trẻ” h́nh như là nỗi hănh diện đầu tiên và đích thực nên sau này khi đă đóng đến lon “quan Năm”, lúc say rượu, dù cơn say vào độ tơi bời tàn khốc, ông vẫn c̣n nhớ được: “Tao là Cai Hùng, đếch phải là trung tá cái củ c. ǵ ráo...”. Cai Hùng! Cai Hùng! Một tuổi trẻ gió băo nào đó đă đi qua.

Lúc tôi đến đơn vị này, ông năm mươi tuổi; năm mươi tuổi để tất cả đầu tóc bạc trắng và những nếp nhăn cày sâu trên mặt, nhưng ông vẫn c̣n nguyên vẹn thái độ nồng nhiệt đối với đời sống của ngày trai trẻ. Thời gian về trước ông đă nổi tiếng với những câu chuyện như sau: Quan Ba Nhảy dù nhưng vẫn đánh một chiếc xe đạp thổ tả cọc cà cọc cạch rong chơi với một con gà ở đằng sau porte-bagages. Thú nuôi gà của ông đă lên đến cao độ đến nỗi ông ta mang biệt hiệu “Hùng gà chọi”.

Nghe tiếng một con gà nào đó ở Bà Điểm nổi danh v́ ngón đ̣n, ông lọc cọc chiếc xe vượt qua một quăng đường dài lồi lơm sống trâu để chứng kiến cho được ngón đ̣n của gà... Hăy nghe ông “luận” về gà: Nó là một guerrier, đấy là một combattant, không bao giờ lùi không bao giờ chịu thua... Đến chữ “thua” ông đưa một quả đấm lên trời, mắt long lên ṣng sọc. Đúng là h́nh ảnh của một con gà chọi. Chẳng hiểu thằng nào gán cho ông cái biệt hiệu thật đúng phong phóc!!! Nó là một tay gan ĺ! C’est un type! Dù có bị đánh lê nhê, máu me đầm đ́a, hắn ta vẫn nhẫn nha chiến đấu… Có con gà bị đánh mù mắt, hắn ta mù nhưng vẫn lừa đối thủ để kẹp lấy chiếc cổ và thế là a-lê-hấp nó phản đ̣n ngay. Ông có thể luận về gà đầy đủ chi tiết, nhại lại thế đứng,một ngón đ̣n hay của con gà… Không có ǵ phải bất tiện, hai tay là hai cánh gà, hai chân biến thành một cặp chân tưởng như có đủ cựa nhọn, đầu cúi xuống, ông diễn tả nhiệt t́nh và chi tiếp hấp dẫn của mỗi trận đấu. Thế giới loài gà nếu biết được sự ái mộ nồng nhiệt đó chắc hẳn không bao giờ buồn phiền nếu ở trong tường hợp “à la casserole” hay “à la gamelle”… sau khi bị thua trận. Sau đá gà là rượu, rượu là nước của ông, chiếc bi-đông sau lưng bao giờ cũng đầy rượu đế ngâm vài cục đường phèn. Nhấp một tí rượu, cắn một miếng cóc nhỏ là đủ sức đi thêm một đoạn đèo, vượt một rặng núi. Dừng quân, cởi chiếc nón sắt, ông rút bi-đông làm ngụm rượu, đốt điếu thuốc, loại thuốc đen Mélia hay Bastos ngồi lim dim đôi mắt...

Anh lính cần vụ lân la đến hỏi:
– Trung Tá có ăn cơm không?

– Tớ đ... cần!
– Trung Tá có mệt không?

– Mệt chó nào được, ngày rút từ Lào về tớ chạy bộ suốt bao nhiêu ngày đêm cũng chẳng bơ bèm ǵ...
– Chết mẹ... – Tụi lính x́ xào…

- Ông già lại nói chuyện bản Hiu-Siu th́ chết cả lũ!

Đúng ngay bong! Ông bắt đầu kể chuyện Bản Hiu-Siu ở bên Lào...

– Lúc đó tớ là Thiếu úy, ban đêm Việt Minh ùa vào, dây kẽm gai giăng thấp chừng này, lính Bayonnette au canon! À la grenade… En assaut... Việt Minh lùa vào, mặc, tớ cứ tương lựu đạn đều đều...

Ông ta đứng dậy ngay trên sườn núi biểu diễn thế ném lựu đạn và đâm lưỡi lê, ngừng một chút để hớp thêm tí rượu. Thiếu tá cố vấn Mỹ đến hỏi một điều ǵ đó, ông cụt hứng gắt um:
– C... Đ.M cứ lẩm cà, lẩm cẩm cả ngày...

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1751175&stc=1&d=1614996053
Trung Tá Đào Văn Hùng và viên Cố vấn Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù


Anh cố vấn de lui, mặt mũi thộn ra trông “quê” một cục. Ở Phú Thứ, Thừa Thiên năm 1967, ông chỉ huy tiểu đoàn tôi cùng Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù tiến đánh vào khu giải phóng của vẹm, lúc Tiểu đoàn 7 đụng trận, ông đứng trên thiết vận xa nhảy cỡn lên v́ thích thú...
– Đấy, tớ biết ngay, các chú (Việt cộng) đang ở chỗ này, nhất định là ở chỗ này… Thằng Bảy đụng ở đây, tớ dàn cậu (chỉ tiểu đoàn trưởng tôi) ở chỗ này là đi đoong đời các chú, tớ nghiền… Nghiền nát các chú ấy.

Chữ “nghiền” được diễn tả bằng hai bàn tay bóp chặt vào nhau và kéo dài theo hơi thở, mồm ông méo hẳn lại để diễn tả cảnh tan nát của các anh Việt cộng. Đại loại là như thế, ông sống ở đời với thái độ “Tiếu Ngạo Giang Hồ”, nhân vật Lăo Ngoan Đồng Chu Bá Thông chắc cũng đến độ của ông già sếp tôi mà thôi. Năm 1965 hành quân tại Đức Cơ khi rút ra Pleiku nghỉ, không hiểu bị lôi kéo thế nào ông đi theo mấy đại đội trưởng vào hội quán Phượng Hoàng để khiêu vũ! Lệnh ông tướng vùng bấy giờ cấm mặc quân phục vào hội quán, anh Quân Trấn Trưởng nói năng ra làm sao, ông nổi sùng...
– Đ.M! Hùng đi hành quân chỉ có mỗi bộ quần áo nhà binh, không cho tớ mặc đồ trận th́ tớ cởi truồng sao?

Thuận tay ông đưa luôn một qua direct, anh Quân Trấn Trưởng nằm thẳng cẳng. Đóng quân ở Hương Trà, Huế, tiểu đoàn tôi làm tiệc mời ông ra hát. Hát không được th́ tớ múa vậy! Nói là làm, ông đi một đường flammenco cũng lắc mông, lắc ngực, và kết thúc là một bài thuyết tŕnh “Qu’est ce que l'armée?” Tiếp theo là những lời sỉ vả tàn tệ vua quan sĩ thứ người trong nước, ông nhớ đến ai ông chửi tơi bời hoa lá, chửi đích danh, chửi ngon lành, chửi như một cơn giận từ bao nhiêu lâu che dấu nay cho tuôn ra như ḍng sông được mở... Đầu năm 1968, gần Tết Mậu Thân, lữ đoàn ông hết nhiệm vụ, từ Huế trở về Sài G̣n. Ông Tướng Khu Chiến Thuật nhắc ông ở lại Huế để đón Tổng Thống cùng Thủ Tướng, ông hạ ngay một câu:
– Tớ hết hành quân là tớ về, Tổng Thống đâu có thương tớ bằng mẹ đĩ được!

Nói xong ông leo lên tàu bay đi thẳng. Có một anh nhà báo lân la đến phỏng vấn...

– Xin Trung Tá cho biết ư kiến về cuộc hành quân vừa qua?
– Ư kiến hả?

Đợi cho anh nhà báo sửa soạn ghi chép, ông “tuyên bố”:
- Sướng nhất là đêm Noel tớ say rượu gọi máy truyền tin qua Bến Hải chửi Vơ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh!!

Nhưng đằng sau những cơn say, những màn tiếu ngạo ồn ào trên, thật dễ dàng nhận được niềm thiết tha, mối nhiệt t́nh nồng nàn đối với quân đội và quê hương. Thật lạ lùng với hai mươi năm ở đơn vị tác chiến, thời gian bằng số tuổi của một gă trai trẻ, một gă trai trẻ cỡ tôi nhưng ḷng hiu hắt như cơn nắng quái sắp tàn. Hơn hai mươi năm nhà binh với năm mươi tuổi, một mái tóc bạc trắng, ông vẫn có một nụ cười thật tươi để thêm vào câu chuyện. Thế nào là một cán bộ giỏi? Thế nào là những nguyên tắc căn bản để chỉ huy? Thế nào là DOC (Dirriger, Organiser, Controller) ông nói say sưa, dẫn giải từng điểm chi tiết về bổn phận của người Trung đội Trưởng, Đại đội Trưởng. Khói thuốc lá làm ánh mắt thành hiền ḥa, ông nói sang sảng, tŕnh bày mạch lạc. Ông gây nơi tôi một sự xúc động kỳ lạ, nỗi xúc động khám phá được niềm tin vẫn c̣n trong ḷng một người giáo tóc bạc da nhăn với hơn hai mươi năm đi khắp rừng sâu núi cả quê hương. Hơn hai mươi năm gánh chịu cơn đau yếu đỏ lửa của tổ quốc, cơn đau yếu nhọc nhằn của ḍng sống dân tộc chông chênh. Chiến tranh vẫn chưa đốn ngă niềm tin trong ḷng ông... Tớ chỉ là Cai Hùng... Cai thật trẻ!!

Sau này ông bị ra khỏi binh chủng v́ một lư do nào đó tôi không hiểu nhưng điều này chắc chắn là một vết thương lớn nhất trong đời ông. Ông im lặng ngồi trong chiếc pḥng con nh́n xuống chân đồi doanh trại cười gằn uất nghẹn đau đớn. Làm sao nói cho hết nỗi cay đắng của người lính già khi phải từ bỏ đơn vị, binh chủng cùng sống trên hai mươi năm lúc tóc c̣n xanh như niềm hy vọng đến nay mái đầu nhuốm bạc trắng. Không những v́ một tuổi già nhưng cũng là lớp sương giá chồng chất lên sau khỏang thời gian binh biến. Thường ngày trong cơn say ông hay ṃ đến văn pḥng chúng tôi để t́m người nói chuyện, nhưng trong thời gian này ông ngồi im như một kiêu hănh bị xúc phạm, tiếng hét được gh́m xuống giữa kẽ răng thành những tiếng cười gằn nhức nhối như lưỡi dao đâm vào qủa tim đang mở miệng cười.

Ông ra khỏi binh chủng, chỉ huy một đơn vị Bộ Binh nhưng vẫn mặc đồ ngụy trang và đội nón đỏ. Đâu c̣n là những kích thích về h́nh thức quyến rũ đối với ông. Nhưng phải nghe ông ta nói: “Tớ là Nhảy Dù... Tớ là Cai Hùng...” Tiếng “Nhảy Dù” nghe ngắn, chắc như xác định niềm hănh diện có thật của một người đă sống hết đời cho tập thể. Sau một thời gian ở trung đoàn này ông bị tai nạn trầm trọng, tất cả cơ quan trong người bị đảo lộn. Ông phải chịu nhiều cuộc giải phẫu, thị giác trở nên yếu kém, mất phần lớn ư niệm về sự việc. Lúc chúng tôi đến thăm, ông không nhận ra, nhưng trong nỗ lực của trí nhớ, bỗng nhiên ông nhận ra Vinh “con”, viên sĩ quan nhỏ tuổi nhất được ông thương mến như con cháu. Ông nhận ra nó đồng thời với một giọng nói run run:

– Tớ lúc này chỉ thấy mờ mờ nhân ảnh!

Trong tận cùng của đổ vỡ, ông cũng không mất đặc tính khôi hài, dấu hiệu của tâm chất dũng mănh dù hoàn cảnh đă đẩy đưa vào hố thẳm của tuyệt vọng. Sau này khi nh́n thấy được cảnh vật nhạt nḥa, ông đến trại thăm lại nhà cửa, hỏi thăm các hạ sĩ quan và lính cũ. Trí nhớ chưa phục hồi hẳn, ông mệt nhọc hỏi từng người với những câu nói rời rạc hỗn độn, sau cùng ông nói với tôi để xin người lính về giúp ông công việc riêng tại nhà. Lần đầu tiên nghe ông nói công việc liên quan đến gia đ́nh. Khi tôi bảo người lính theo ông về nhà, ông vui vẻ ra mặt:

– Quư hóa quá, thế mới biết anh em Nhảy Dù luôn giúp đỡ nhau...!

Ḷng tôi trùng xuống như cơn mưa của ngày đông buồn bă. Tiễn ông xuống đồi, bóng người lính già khuất bụi mờ. Sau kiếp người đằng đẵng gian lao cho Tổ Quốc một khỏang trống xám đặc bụi mù.

Phan Nhật Nam
Tháng 5-1969. Hậu cứ Long B́nh

Hậu Từ: Về Trung Tá Đào Văn Hùng, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn II Nhảy Dù

– Sau 30/4/1975, lực lượng Cộng sản vào khu Ngă Ba Ông Tạ truy lùng và xét xử ông cùng gia đ́nh. Do thương trận từ trước (bị mù mắt và tê liệt) nên bộ đội CS chỉ xử tử người con trai của ông tại Lăng Cha Cả ngay sáng ngày 30-4-1975.

hoanglan22
03-06-2021, 21:53
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1751580&stc=1&d=1615067264

Đầu năm 1969, hải cảng Sihanoukville nhộn nhịp qua lại với những chiếc tầu chở hàng đến từ những quốc gia Đông Âu. Hàng đoàn xe vận tải của công ty Hak Ly chờ bốc hàng, sau đó dùng đường số 4 đến Nam Vang. Đoàn xe rẽ vào một kho tiếp vận quân sự ở ngoại ô thành phố, giao đồ tiếp liệu cho bọn cộng sản Bắc Việt.
Những kiện hàng bí mật chứa vũ khí, đạn dược được tiếp tục vận chuyển suốt đêm trên đường số 7, băng qua đồn điền cao-su đến vùng biên giới rậm rạp thuộc tỉnh Kompong Cham hay khu vực Lưỡi Câu. Khu vực này do đơn-vị Hậu Cần 70 chăm sóc, gồm nhiều kho lương thực tiếp vận yểm trợ cho các công trường 5, 7 cộng sản bắc việt và công trường 9 việt cộng để bọn chúng xâm lăng Miền Nam Việt Nam.
Tất cả vũ-khí, đạn dược vào đến lănh thổ Quân Khu III và IV đều qua ngả Cambodia. Sau hai mươi mốt tháng bí mật xâm nhập, đơn vị SOG đă khám phá ra nhiều mật khu chứa tới 200 ngàn quân xâm lược CSBV và Việt-Cộng. Hành quân xâm nhập vào đất Miên có tên là Daniel Boon, đến mùa thu năm 1969 cải danh thành Salem House để bảo mật.

Sự hiện diện của bọn cộng phỉ Bắc Việt được xác định ngày 2 tháng Ba, 1969, khi một toán biệt kích SOG thuộc Bộ Chỉ Huy Nam (CCS) bị địch phát giác, truy kích kết quả chết hai quân nhân Mũ-Xanh Hoa-Kỳ là Trung-Sĩ William Evans và Micheal May. Xác của họ không t́m ra.

Tổng Thống Hoa-Kỳ Johnson ra lệnh cho pháo-đài bay B-52 bí mật thả bom khu vực Lưỡi Câu gây ra 73 tiếng nổ phụ. Chỉ có viên phi công và sĩquan navigator biệt mục tiêu của trận ném bom. Một tháng sau, Tổng Thống Johnson ra lệnh cho B-52 thả bom trên mục tiêu do tướng Abram đề nghị. Trung Ương Cục Miền Nam (COSVN) do một hàng binh chỉ điểm. Mục tiêu này cách Memot 14 dặm về hướng đông nam, trên đất Cambodia, cách biên giới một dặm. Trận đánh bom này xẩy ra ngày 24 tháng Tư, 1969.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1751581&stc=1&d=1615067264

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1751582&stc=1&d=1615067264

Chuẩn Tướng Phillip B. Davision – Trưởng Pḥng Nh́ Cơ Quan MACV yêu cầu đơn vị SOG cho một đơn vị nhẩy vào thanh toán chiến trường sau khi trận ném bom B-52 chấm dứt. Đại-Tá Cavanaugh ra lệnh cho Bộ Chỉ Huy Nam (CCS) chuẩn bị cho một đại đội Hatchet Force nhẩy vào.

Trong khi đó nơi Bộ Chỉ Huy Nam, nhiệm vụ được giao cho ‘Mad Dog Shriver’, một huyền thoại sống. Taị căn cứ Fort Braggs (Bộ Chỉ Huy LLĐB/HK) không ai biết đến đơn vị SOG cũng như hành quân Daniel Boon hoặc Salem House, nhưng đều biết Trung Sĩ Nhất Jerry Shriver mà bọn cộng sản Hà Nội gọi là ‘Chó Điên’.
‘Mad Dog’ Shriver cũng là người phát ra câu nói nổi tiếng trong lịch sử đơn vị SOG. Toán của anh ta bị địch bao vây, phi cơ điều không FAC cho Shriver biết ‘T́nh h́nh coi bộ rất xấu’, anh ta trả lời tỉnh bơ ‘Không, không có ǵ đâu. Tôi phải đánh nhau với tụi nó tại chỗ tôi muốn – (Bị bao vây cứng bên trong ḷng địch)’.

Sáng ngày 24 tháng Tư năm 1969, trong khi các phi cơ B52 cất cánh từ đảo Guam, Đại Đội Xung Kích Hatchet Force thuộc Bộ Chỉ Huy Nam (CCS) tập họp trên phi đạo Quản Lợi cách bộ chỉ huy trung ương cục miền nam khoảng 20 dặm. Đại Đội Xung Kích này có nhiệm vụ vào thanh toán chiến trường, sau khi B-52 ném bom.

Năm chiếc trực thăng Green Hornet chỉ đem được hai trung đội vào vùng hành quân. Trung Đội 3 do Thiếu-Úy Bob Killebrew phải ở lại phi trường Quản-Lợi. Trung Đội 1 của Trung Úy Walter Marcantel và Trung Đội 2 do Trung-Úy Greg Harrigan nhẩyxuống bộ chỉ huy trung ương cục. Khi hai trung đội lên máy bay, các pháo đài bay B52 sửa lại đội h́nh lần cuối trước khi đến mục tiêu. Trận ném bom vừa xong, các trực thăng đáp xuống thả hai trung-đội xung kích rồi bay đi.

Rồi th́ súng đạn vang dội nổ khắp nơi, các biệt-kích quân vội nhào xuống các hố bom hoặc nằm sau những thân cây mới bị B-52 đốn ngă để tránh đạn. Nằm cuối đoàn quân, Shriver gọi máy cho biết có khẩu đại liên của địch phiá trước bên trái. Khẩu này trấn áp không cho toán của Shriver ngóc đầu lên được,trong khi đó Đại Úy Cahill, Trung Úy Marcantel và y-tá Trung Sĩ Ernest Jamison báo cáo cũng bị địch đàn áp. Jamison chạy ra để cứu người bị thương bị bắn gục tại chỗ.

Không ai có thể di chuyển được. Nổi điên, Shriver cùng một biệt kích quân Thượng chạy lên để thanh toán khẩu đại liên. Cả hai biến mất, không t́m ra xác. Jamison nằm chết cách hố bom chừngvài thước, Đại Úy Cahill nghe từng tràng đạn AK, B-40 của địch cầy nát mặt đất, khi ông ta ngóc đầu lên, một viên AK xuyên qua miệng, đi ngược lên trên làm hư một mắt. Bị thương nặng, ông ta gục xuống.

Trong một hố bom khác, Trung-Úy Harrigan đang điều khiển trực thăng vơ trang bắn rocket và minigun cản những đợt xung phong của địch. Harrigan báo cáo đă thiệt hại hơn nửa trung đội chết hoặc bị thương. Nhờ b́nhtĩnh điều không, Trung-Úy Harrigan cầm cự được khoảng 45 phút, sau đó trúng đạn tử trận.

Đại-Úy O’Rourke bay trên đầu muốn xuống nhưng chiếc trực thăng chở ông ta không qua khỏi màn lưới lửa của địch quân. Trung-Tá Earl Trabue, chỉ huy trưởng bộ chỉ huy Nam cũng không xuống được, biết phe ta đang bị tàn sát ở dưới họ đành bó tay.
Cuối cùng chỉ c̣n Trung-Úy Marcantel c̣n sống, anh ta điều khiển luôn mất chiếc B57 Canberra của Úc-Đại-Lợi thuộc Phi Đoàn số 2 cất cánh từ Phan Rang vào đánh giải vây cho trực thăng vào đem rađược Trung-Úy Marcantel đă bị thương cùng chín biệt kích quân Thượng. Ba chiếc khác vào đem ra được thêm 15 quân nhân bị thương cùng xác Trung-Úy Harrigan. Cuộc hành quân coi như chấm dứt

Đại-Tá Cavanaugh đến thăm hỏi các quân nhân sống sót, sau đó nói với Tướng Davidson ‘Nếu tôi biết kết qủa sẽ như vậy, tôi sẽ không đưa họ vào chỗ chết’. Tướng Davidson nhận trách nhiệm về chuyến hành quân vào bộ chỉ huy Trung Ương Cục Miền Nam. Trung Úy Marcantel b́nh phục, ông ta chết khoảng sáu tháng sau trong một chuyến nhẩy dù trong căn cứ Fort Davens, tiểu bang Massachusetts. Đại-Úy Cahill giải ngũ v́ vết thương. Xác Ernest Jamison thâu hồi được ít lâu sau. ‘Mad Dog’ Shriver cho đến nay vẫn không t́m ra xác.

Được báo cáo về số tổn thất của đơn vị SOG, Tướng Abrams ra lệnh cho cơ quan MACV phân tích về sự thiệt hại của đơn vị SOG trong ṿng hai tháng đầu năm 1969. Kết quả 15 quân biệt-kích Mũ-Xanh Hoa-Kỳ chết hoặc mất tích, 68 bị thương và mười trực thăng bị rớt. Đổi lại, biệt kích SOG tiêu hủy 13 xe vận tải Molotova, giết 1400 tên cộng phỉ xâm lược, chỉ điểm mục tiêu cho phi cơ đánh bom hủy diệt các vị trí đóng quân của bọn cộng phỉ 455 lần.

Tổng Thống Nixon ra lệnh cho B-52 thả bom bí mật lần thứ ba trên lănh thổ Cambodia đầu tháng Năm. Lần này trên nhiều mục tiêu trong đó co căn cứ của trung-đoàn 27 Cộng-Sản Bắc Việt. Toán biệt-kích Illinois xâm nhập vào mục tiêu, phối kiểm trận đánh bom. Toán trưởng là Trung-Sĩ Ben Thompson, toán phó là Trung-Sĩ George Bacon III xuống mục tiêu hai mươi phút khi trận đánh bom chấm dứt.

Chưa được nửa ngày, toán biệt kích vừa bắn vừa chạy lấy thân, điều này chứng tỏ bom thả trên mục tiêu có nhiều địch quân. Vài tháng sau, ngày 25 tháng Tám, toán biệt kích Florida do Trung-Sĩ Ken Worthley làm trưởng toán xâm nhập vùng đông bắc Cambodia, nơi t́nh nghi có trung-đoàn 66 CSBV. Toán này có thêm Trung-Sĩ Bob Garcia, Dale Hanson và bốn biệt-kích quân Việt-Nam, tổng cộng bẩy quân nhân.

Họ xuống băi đáp an toàn vào lúc trưa và bắt đầu leo lên một dốc núi cao. Đến hai giờ chiều, toán biệt kích đang ngồi nghỉ trên một sườn núi, Garcia trông thấy hai lính Bắc Việt đang ḍ t́m dấu vết của họ để lại. Anh ta bắn gục một địch quân, rồi th́ đạn AK nổ tứ phiá, th́ ra cả một đại đội lính Bắc Việt đang dàn quân ra bao vây toán biệt kích.
Trong khi chạy, người hiệu thính viên Dale Hanson trúng một viên AK mất ngón giữa bàn tay trái, vừa chạy vừa băng bó, Garcia phải thay anhta mang máy. Đến gần tối, trưởng toán Worthley quyết định trốn trong một thung lũng qua đêm, họ đă rải hơi cay mắt để đánh lạc hướng chó.

Sáng sớm hôm sau, họ băng qua khu rừng, khoảng 9:30, toán đang di chuyển trên một sườn đồi bỗng người dẫn đạo ra dấu im-lặng. Worthley ḅ tới trước trông thấy hai tên lính Bắc Việt nơi một con đường ṃn. Họ khai hoả giết cả hai tên, biệt kích quân hướng đạo bị thương nơi tay.

Quần áo cho thấy một tên địch quân là cấp chỉ huy, đeo súng lục có thể mang cấp bậc đại-tá, tên kia có lẽ là cận vệ. Toán biệt kích lấy được túi đeo da có đựng tài liệu của tên sĩ quan Bắc Việt. Đơn vị SOG sau khi xem xét tài liệu cho biết toán Florida đă giết được một tên sĩ quan t́nh báo cao cấp của địch.

Tất cả sau đó đều được trực thăng thả dây cấy cứu kéo lên. Khi về đến Kontum, một chiếc ‘Chim Đen’ C-130 của đơn vị SOG đến đem chiếc túi da của tên sĩ quan Bắc Việt về Saigon. Tài liệu trong túi da có một danh sách những điệp viên nằm vùng của địch tại Miền Nam.

Tài liệu này cũng xác nhận về chuyện Thái Khắc Chuyên bị Đại Tá Robert Rheault cựu Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 5 LLĐB/HK ra lệnh hành quyết vào tháng Năm 1969. Vài tháng sau, Đại Tá Rheault được tự do, ông ta cũng không biết nhờ công của toán biệt kích Florida.

Trong một chuyến đàu tiên xâm nhập Cambodia năm 1970, toán biệt kích Vermont trên Kontum nhẩy xuống khu rừng rậm rạp trong tỉnh Ratanakiri ngày 5 tháng Giêng t́m kiếm căn cứ binh trạm của địch. Trưởng toán là Trung-Sĩ Franklin ‘Doug’ Miller, người biệt kích hướng đạo dẫm lên một sợi dây giăng ngang đường, tiếp theo là một tiếng nổ lớn làm bốn biệt kích quân bị thương.

Trong phút chốc một nửa toán viên bất khiển dụng và địch đă phát giác sự hiện diện của toán. Miller phụ giúp băng bó cho những người bị thương rồi ra lệnh cho toán phó dẫn toán lên đồi lập vị trí pḥng thủ, c̣n anh ta ở lại, đương đầu với địch quân.
Vừa bắn cầm chừng vừa lui về chỗ pḥng thủ, Miller liên lạc yêu cầu triệt xuất toán, sau đó dẫn toán di chuyển đến băi trực thăng nơi một hố bom lớn cách đó khoảng 175 thước. Khi chiếc trực thăng định đáp xuống bốc toán biệt kích, địch bắn lên xối xả đuổi chiếc trực thăng bay ra chỗ khác rồi tiếp tục tấn công toán Vermont.

Toán biệt kích núp trong hố bom chống trả quyết liệt mặc dầu tất cả đều bị thương, kể cả trưởng toán Miller trúng đạn AK nơi tay trái. Anh ta vẫn tiếp tục hướng dẫn toán đến một băi đáp trực thăng khác, sau đó được một toán cấp cứu Bright Light đem ra an toàn. Miller đem về cho đơn vị SOG huychương danh dự thứ bẩy.

Vùng đông bắc Cambodia rất ‘nóng’ (nguy-hiểm). Ngày 9 tháng Giêng, một toán biệt kích thuộc bộ chỉ huy Nam do Trung-Sĩ Nhất Larry Barlett làm trưởng toán, toán phó là Trung-Sĩ Richard Thomas trên đường di chuyển đến băi đáp cách nơi toán Vermont bị tấn công khoảng 30 dặm về hướng nam. Toán này bất ngờ bị một đơn vị địch tấn công chết cả hai quân nhân Mũ-Xanh Hoa-Kỳ. Toán cấp cứu Bright Light vào chết thêm một biệt kích quân Thượng trước khi đem xác họ ra.

Ngày 11 tháng Ba năm 1970, đảo chính bên Cambodia, hàng ngàn người Miên đập phá toà đại sứ Bắc Việt và Việt-Cộng ở Nam Vang, Hoàng-Tử Sihanouk chạy qua tỵ nạn bên Pháp. Ba hôm sau, toán biệt kích Pennsylvania do Trung Úy Jerry Poole làm trưởng toán xâm nhập vùng rừng núi trong ttỉnh Ratanakiri. Toán này có thêm hai quân nhân Hoa Kỳ là Trung Sĩ Nhất John Boronski, Trung-Sĩ Gary Harned.

Sau ba ngày hoạt động, họ được một trực thăng vào bốc. Khi chiếc báy may bay lên cao khoảng 100 bộ, trúng một quả B-40 nổ tung, tất cả quân nhân trên máy bay gồm toán biệt kích Pennsylvania cùng phi hành đoàn gồm Đại úy Michael O’Donnell, Chuẩn Úy John Hosken, Rudy Becerra, và Berman Gande Jr. đều thiệt mạng. Không thâu hồi xác họ được.

Tin tức t́nh báo cho biết bọn cộng sản Bắc Việt đang mở rộng vùng kiểm soát trên đất Miên về phiá bắc và tây. Bọn chúng chiếm lấy tỉnh Svay Riêng trong ṿng mấy ngày, trong khi đơn vị Bắc Việt khác lấn xuống phiá nam giao tranh với quân đội Cambodia vùng Mỏ Vẹt.

Trong ṿng hai tuần lễ, bọn cộng sản Bắc Việt chiếm được hai trong số mười bẩy tỉnh của Miên và bao vây thêm năm tỉnh khác, yểm trợcho quân Khmer Đỏ. Chính phủ mới bên Miên báo động cho thế giới biết về sự xâm lăng ngang ngược của bọn quân đội Bắc Việt, và Hoa Kỳ bí mật gửi sang Miên 3000 khẩu AK.

Trong trung tâm nước Cambodia, ba Trung-Sĩ Troy Gilley, Ben Lyons, và Charles Chapin bí mật xâm nhập để phối kiểm tin t́nh báo về một binh trạm dành cho sĩ quan cao cấp Bắc Việt. Họ được bốc ra và ba hôm sau thả xuống một nơi gần những cḥi dành cho cấp lớn của địch. Họ gặp lính Bắc Việt di chuyẻn cùng với voi chở đồ. Quân biệt kích phục kích đánh bọn lính bắc việt một trận tơi tả, sau đó họ gọi trực thăng lên bốc về căn cứ an toàn.

Troy Gilley về Saigon báo cáo về chuyến đi, anh ta biết thêm đơn vị Bắc Việt có voi tải đồ bị chận đánh có nhiệm vụ hộ tống hai tướng lănh Bắc Việt và cả hai đều chết trong trận phục kích vừa qua. Khi bắt đầu trận đánh qua đất Miên do Quân-Lực VNCH và Hoa-Kỳ đảm trách, đơn vị SOG ra lệnh đưa mấy toán biệtkích ngoài Đà-Nẵng và trên Kontum vào Ban Mê Thuột trợ lực cho bộ chỉ huy Nam (CCS).
Sau đó, ngày 30 tháng Sáu, 1969, đơn vị SOG chuyển năm toán biệt kích ra Bộ Chỉ Huy Bắc, năm toán khác lên Bộ Chỉ Huy Trung, giao đất Miên hoàn toàn do QL/VNCH đảm trách.

(Sài G̣n trong tôi/ A-244 Dak Pek/ Posted by Nguyễn Phúc An Sơn)

hoanglan22
03-06-2021, 22:03
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1751583&stc=1&d=1615068028

Kinh dâng anh linh các Chiến hữu:

Nguyễn Chuyên - Đinh Như Khoa - Nguyễn Hữu Thảo
và các Chiến hữu đă yên nghỉ trong ḷng đất mẹ.

Cá ḱnh NGUYỄN VĂN TRÂM

(Sở Bắc và Sở Khai Thác Địa H́nh)

Buổi chiều cuối Hạ bên bờ biển Mỹ Khê, trong ngôi nhà nghỉ mát yên tịnh. Nó không ồn ào rầm rộ như một cuộc hành quân qui mô, nhưng rất quan trọng, tỷ mỷ cẩn thận với những trang bị đặc biệt và ḿn định giờ.

Tại căn cứ nầy có anh Ba là người điều khiển và huấn luyện Toán Công Tác cùng với ba người Mỹ tên Bil, Dan và Bob phụ trách kỹ thuật và thực tập. Anh Phan điều khiển và huấn luyện Toán Biệt Hải.

Toán Công Tác người nhái có nhiệm vụ phá hoại gồm bốn người: Tôi (anh Tư) và anh Năm, hai đứa chúng tôi từ Liên Đoàn 77 Sở Khai Thác Địa H́nh, c̣n anh Sáu và anh Bảy do Hải Quân gởi qua. Toán Biệt Hải gồm mười hai người có nhiệm vụ lái tàu hoặc thuyền đưa Toán Công Tác đi hoạt động dẫn đường đi và đón về.

Sau nhiều tháng thực tập, nghiên cứu địa h́nh, địa thế, không ảnh, kiểm soát lại dụng cụ, hôm nay là thời điểm xuất phát vào cuối mùa Hạ năm 1962.

Dưới ánh sao lờ mờ, một chiếc thuyền lớn trang bị máy chạy dầu với lưới đánh cá nằm gọn dưới cột buồm. Thủy bàn gần tay lái. Một chiếc thuyền cao su chưa bơm hơi và chiếc thuyền gỗ nhỏ sức chứa độ mười ngưới. Ở giữa thuyền gỗ có một lỗ vuông tḥng xuống nước là chỗ để gắn máy nổ nhỏ cho Toán Công Tác và người hướng dẫn di chuyển trong sông. Thuyền được cải trang thành thuyền đánh cá của ngư dân trong vùng trên bờ nh́n xuống không thể phân biệt được là thuyền của Toán Công Tác. Toán nầy thương xuyên công tác ở Vịnh Hạ Long, Móng Cái, Bạch Long Vĩ.

Toán Công Tác được trang bị gọn và nhẹ gồm: Hai đèn bấm điện tử để liên lạc giữa hai thuyền. Súng lục để tự vệ khi cần. Ḿn đặc biệt định giờ có thể sử dụng từ 5 phút đến 30 ngày. Một đơn vị hỏa lực nhỏ cho tập thể sử dụng khi cần để tháo chạy.

Màn đêm phủ xuống, những bóng đen bắt tay từ giă trong tiếng "Good luck" của ba anh bạn Mỹ.

Tiếng sóng vỗ nhẹ vào mạn thuyền nghe lách tách,thuyền hướng mũi ra khơi. Bầu trời đầy sao, nh́n quanh là biển cả bao la, với bản tính tự tin, dày dạn với công tác thường xuyên nên một số đă an giấc. Riêng mấy anh em chúng tôi c̣n ngồi hướng tầm mắt về phía trước tuy chưa phải lúc cảnh giác địch v́ một đêm và một ngày sau thuyền mới tới địa điểm công tác. Mặc dù vậy, chuyến đi bí mật vào đất địch, đầu óc luôn suy nghĩ kỹ lại những việc phải làm trong đêm mai. Đang triền miên suy nghĩ, có tiếng nhắc nhở các anh nên nghỉ đi để đêm mai mà công tác chứ.

Chiều ngày hôm sau, th́ anh thuyền trưởng và thợ máy nói đến rồi. Lúc nầy thuyền c̣n đang ngoài hải phận quốc tế từ từ tiến vào bờ, khi nh́n thấy lờ mờ một giải màu xanh đậm th́ đúng chín giờ tối. Thuyền lớn thả neo, thuyền máy nhỏ đă được hạ thủy. Nhanh nhẹn mà không gây một tiếng động. Bốn chúng tôi qua thuyền nhỏ cùng ba người hướng đẫn viên nhắm cửa Sông Gianh tiến vào. Tiếng máy nổ rất nhỏ mà thuyền lướt đi rất nhanh đă qua khỏi khu Phà, chúng tôi quan sát thấy trên bờ mấy bóng đèn như đom đóm.

Yên tâm, chúng tôi bắt đầu mang trang bị, dụng cụ sẵn sàng. Khi chúng tôi nh́n qua ống ḍm thấy bóng đèn xanh nhỏ phía trước. Nếu không để ư kỹ, nó như một ngôi sao trong đêm tối phía dưới là ba bóng đen đậm, đúng là tàu hải quân Cộng sản rồi, chúng đang neo tại vị trí đúng như trong không ảnh. Cho thuyền chạy qua để quan sát thật kỹ, trở lại ghi nhận điểm tiếp đón, rồi quay lại điểm thả. Anh Bảy xuống trước, đến tôi, sau cùng là anh Sáu. Lặng lẽ bơi đến gần tôi thấy rơ mục tiêu mới lặn để khỏi lạc vị trí. Tôi lặn tới gắn ḿn vào thân tàu phía dưới gần chân vịt là nơi có buồng máy.

Khi tôi bắt đầu t́m hướng lặn ra xa th́ th́nh ĺnh một tiếng nổ lớn vang lên. Tôi cảm thấy đầu óc choáng váng rồi bất tỉnh một hồi lâu. Khi tỉnh lại tôi biết là ḿn nổ quá sớm. Nhờ những lườn tàu nằm cách nhau khá xa nên tôi đă thoát chết. Kế hoạch đă bị lộ. Tôi cố gắng trấn tĩnh tinh thần lặn tới vị trí tiếp đón. Khi đă xa vừa nhẹ trồi đầu lên để quan sát th́ thuyên tiếp đón đă không c̣n nữa, lại nghe một tiếng la thất thanh ở trên bờ và tiếng chân chạy vội, tôi liền lặn ra xa bờ. Lúc nầy đầu c̣n choáng váng căng thẳng, chưa tính lên bộ hay tiếp tục đi dưới nước. Quyết định là phải thoát bằng đường bộ, ngày trốn nghĩ tối đi. Từ vị trí công tác vào sông Bến Hải chỉ có một trăm cây số.

Càng lo khi nghe tiếng máy động cơ của tàu địch. Nguy rồi, đèn của địch chiếu sáng rọi quét toàn vùng và di chuyển dần ra cửa biển. Khoảng cách giữa tôi và tàu không quá ba mươi thước. Hễ khi ánh đèn quét về phía tôi, th́ tôi lặn xuống, ngửa mặt nh́n lên khi không c̣n ánh sáng, ngoi lên mặt nước quan sát. Cứ thế nhiều lần như vậy. Giữa khoảng thời gian nầy tôi nh́n thấy hai chiếc xà lan không người tôi liền đứng vào giữa khe ẩn nấp. Aùnh sáng đèn vẫn t́m kiếm, càng lúc tàu chạy càng xa dần cho đến khi yên lặng. Tôi lần ṃ ra phía sau. Cuối xà lan th́ giật ḿnh v́ hai chiếc thuyền của dân cột gần đó. Im lặng quan sát hồi lâu th́ ra trên thuyền không có người. Bơi nhẹ đến gần. Một chiếc có mui kín, chiếc bên cạnh không mui, nh́n vào khoan thuyền, một tia hy vọng mỏng manh, tôi liền nhẹ nhàng nhổ cây sào lên, đẩy ra giữa gịng sông mới trèo lên thuyền. Dưới cái nón lá là cái rổ có ít tôm, rổ thứ hai là cá nhỏ, thực phẩm đây rồi. Nắng nóng mùa Hạ cứ phơi khô, gặm nhắm dần cũng được mấy ngày. Dấu vật dụng xuống dưới chổ đứng, tôi lắp chèo vào. Lúc nhỏ tôi đă thạo chèo ghe. Cứ chèo ra ngoài hải phận quốc tế th́ yên tâm. Trong người độc nhất chiếc quần xà lỏn. Lấy nón đội lên, nhờ xuôi nước nên thuyền đi khá nhanh.

Trời đêm ba mươi tối đen như mực, thuyền đă ra gần cửa biển. Bất th́nh ĺnh hai ngọn đèn pha chiếu sáng ngay vào thuyền của tôi. Nguy rồi, bọn chúng đă đón ở cửa sông. Thoáng nghĩ nhanh. Ngồi xuống thả b́nh hơi, thủy bàn, đồng hồ chỉ c̣n lại cây súng lục. Dự tính ít nhất cũng hạ được mấy tên, dành cho ḿnh một viên. Suy nghĩ đổi thế th́ lỗ quá. Qua bao nhiêu tháng, năm được đào tạo, học tập, huấn luyện mà trả với cái giá như thế sao? Đến lúc nào đó quá sức chịu đựng th́ tự sát. Nhưng ánh đèn pha chói sáng choang không nh́n thấy tên nào cả, đành phải thả súng xuống nước luôn.

Có tiếng hỏi từ trên tàu: Ai? Đi đâu đó?

Tôi trả lời: Tôi đi mừng lưới.

Hỏi: Tại sao đi có một ḿnh?

Trả lời: Hôm nay vợ con bệnh, mừng chung với người ta.

Dưới ánh sáng đèn pha chúng đă phát hiện ra cái áo cao su và chân vịt (chưa kịp thả, có thả nó cũng nổi trên mặt nước) dưới chổ đứng của tôi nên chúng la lên tên Biệt Kích đây rồi. Không biết bao nhiêu tiếng lên đạn, sẵn sàng nhả nạn nếu tôi có hành dộng ǵ. Chưa tính ra phải làm ǵ trong lúc cùng, th́ bốn, năm tên nhảy qua thuyền đánh đập tới tấp vào người tôi, bảo đầu hàng.

Bọn chúng lấy giây trói khuỷu cánh tay tôi lại đưa vào bờ. Hai tên cầm súng chỉa vào tôi và cầm chắt sợi giây thừng khoảng cách 3, 4 thước. Trời vẫn chưa sáng. Hừng đông dẫn tôi đi, sáng ra th́ chúng bịt mắt. Trong lúc khập khễnh từng bước, bên tai nghe tiếng nói của dân đi làm hỏi ai đó các anh : Biệt Kích đó. Có tiếng ồ, to béo quá, đen thui. Đến khi chúng nó bảo dừng lại, ngồi trên chiếc ghế, trói vào một cây cột. Không nghe tiếng nói, mà chỉ nghe tiếng chân đi lại nhiều. Chiều th́ chúng đưa tôi lên vào trại Quảng B́nh. Pḥng nhỏ hôi hám, lại bị cùm cả hai chân, chúng mới mở mắt cho tôi. Phần ăn là bát cơm gạo lức đỏ, mấy cọng rau muống, làm sao nuốt vô được. ôn lại càng thắc mắc. Tại sao qua bao nhiêu ngày tháng tôi và Bill đă kiểm tra thử đồng hồ rất chính xác. Vậy tại sao?

Không kể ngày đêm chúng đều kêu lên hỏi cung. Trước mặt là cái bàn nhỏ, bàn đối diện là năm tên hỏi cung, hết tốp nầy đến mấy tên khác. Chúng hỏi đơn vị, nơi xuất phát, bao nhiêu người, nhiệm vụ làm ǵ ?

Tôi chỉ trả lời ra thám sát bến phà Sông Gianh, đo độ dốc bờ sông, mức nước, độ sâu. Trách nhiệm cấp trên giao cho tôi chỉ có vậy thôi. C̣n để làm ǵ th́ tôi không biết. V́ tôi bị bắt tại cửa sông mà.

Mở ngoặc ở đây một tí. Chúng hỏi tôi trong Nam ăn tiêu chuẩn bao nhiêu? Ngẫm nghĩ hồi lâu tôi trả lời: Tiêu chuẩn là ǵ? Xă hội tự do làm ǵ phải có tiêu chuẩn. Tên ngồi giữa đập bàn cái rầm, làm ǵ có ăn uống bừa băi vậy. Rơ ràng mấy tên nầy đều bị mù quáng cả trong sinh hoạt.

Trải qua đă hơn mười ngày. Chúng không khai thác được ǵ ở tôi. Cuối cùng chúng đưa toàn bộ vật dụng h́nh ảnh ra chứng minh và nói rằng anh là một người đại ngoan cố, tất cả đều bị bắt hết rồi. Gây tội lỗi trong Nam chưa đủ c̣n ra phá hoại thành quả Xă Hội Chủ Nghĩa ở miền Bắc! Cuối cùng tôi nhận là ra phá tàu hải quân.

Một tṛ hề mà tôi đă ư thức được như sau:

Một người độ hơn 50 tuổi, tự giới thiệu là luật sư, cùng đi với một người nữa độ chừng 30 tuổi, xưng là thư kư. Mỉa mai quá! Thư kư mà mang xắc cốt công an. Tôi cũng thừa biết CS làm ǵ có luật để mà căi chứ, mà có phát biểu cũng phải nói theo đường lối CS mà thôi. Ông ta nói một hơi. Tôi liền trả lời. Việc tôi làm đă rơ ràng, không cần phải biện hộ. Tự bản thân tôi trả lời cũng đủ rồi. Mấy lần sau trong câu nói của luật sư như khẩn thiết, cho nên tôi nói nhiệm vụ của ông được họ giao phó th́ tùy, hiểu biết như thế nào th́ nói như thế đó, tôi không xin xỏ, không bào chữa, v́ tôi làm việc cho Tổ Quốc, thi hành nghiêm chỉnh kỷ luật Quân đội đă giao phó.

Hai mươi ngày sau th́ mở phiên ṭa.

Tám giờ sáng, chúng c̣ng tay tôi và dặn nếu trên đường đi mà đồng bào có hành động ǵ th́ không được chống đối lại. Đến đây tôi mới biết mọi người đều bị bắt. Không có anh Năm và anh Bảy. Sau nầy ở chung trại tôi mới biết anh Bảy chết tại chỗ v́ ḿn nổ, c̣n anh Năm tử thương sau khi chống trả quyết liệt với chúng trên biển. Các anh kể lại rằng khi biết bị lộ, nhân viên thuyền nhỏ chạy ra thuyền lớn nhổ neo chạy thoát. Thuyền chạy cả máy lẫn buồm suốt đêm hôm đó cho đến gần trưa hôm sau th́ tàu Hải quân CS chạy máy lớn hơn nên đuổi kịp, ban đầu th́ chúng nó bắn bao vây, cố ư muốn bắt sống tất cả. Anh em trên thuyền bắn trả lại bằng trung liên BAR, súng phóng lựu. Hai bên vừa chạy vừa bắn nhau như trong phim.Vũ khí trên tàu CS th́ lớn hơn và đầy đủ, con bên thuyền th́ chỉ bắn để pḥng thân, cuối cùng hết đạn. Lúc nầy anh Năm trúng đạn, vài người khác bị thương, quyết định của thuyền trưởng là lao mũi thuyền đâm vào tàu địch, hai bên cùng tan vỡ. Vị trí lúc nầy gần Cồn Cỏ, nơi ranh giới Nam - Bắc. Tàu Hải quân máy mạnh, nên nhanh hơn. Thuyền của ta luồn lách măi sau cùng bị tàu địch càn lên ch́m. Lập tức chúng bắt những người c̣n sống đưa lên bong tàu phủ bạt kín, vội vă trở ra Bắc.

Thường trong cái xui, c̣n có cái hên cho một người. Anh ta lặn núp vào trong cánh buồm. V́ đây là ranh giới giữa hai bên, bọn chúng sợ quân ta có thể tấn công nên vội vàng rút lui. Anh ta sống lênh đênh trên biển cả một ngày một đêm với một tấm ván thuyền, và vớt được vài trái cam. Nhờ tàu Hải Quân ḿnh đi tuần, anh ta cởi áo lót vẫy và được Tàu Hải Quân ta cứu thoát.

Trở lại phiên ṭa quân sự Quân Khu IV. Viên Trung tá chánh án, hai Đại úy phụ thẩm, viên Thiếu tá Viện Kiểm Sát, một Thư kư, hội trường đông nghẹt người. Chúng bắt loa ra cả sân Vận Động cho dân chúng nghe. Quay phim, chụp h́nh. Mục đích của chúng bày tṛ cho thật to chuyện để nói với thế giới là miền Nam xâm phạm miền Bắc.

Ghê rợn nhất là lời buộc tội của viên công tố, thôi th́ đủ điều để mà phát biểu, gán ghép bao nhiêu điều ác cho Chánh phủ VNCH. Hai luật sư biện hộ cho hơn mười người đều nói theo bản luận tội, nói là biện hộ cho nó có lệ thôi, chớ chế độ Cộng Sản làm sao dám đưa luật ra mà căi, dám nêu lên cái đúng cái sai nếu không muốn gỡ lịch hàng năm. Phiên ṭa kéo dài hai ngày đêm. Trước khi nghị án, tôi phát biểu một công dân sống trong chế độ phải làm tṛn nhiệm vụ, kỷ luật Quân đội, phải thi hành trách nhiệm được giao phó. Việc tôi làm đă rơ ràng. Ṭa xử như thế nào th́ tùy ṭa mà thôi.

Uất ức, tức tối muốn điên cả cái đầu. Nếu phá được cả ba chiếc tàu không bị lộ th́ phiên ṭa hôm nay dành cho bọn chúng, chứ không phải mà anh em Chiến hữu chúng tôi.

Kết thúc phiên ṭa: Tôi, tù chung thân; anh Sáu, tù 20 năm; thuyền trưởng, tù 16 năm; thuyền phó, tù 6 năm; thợ máy kiêm hướng dẫn viên, tù 18 năm; hai anh tù 5 năm; bảy anh tù 3 năm; một anh tù 2 năm v́ anh này chưa đến 18 tuổi. Bản án là một tṛ hề. Hai năm hay chung thân đều cùng chung một số phận ở tù từ 18, 20, 22 năm mới ra tù..

Sau đó chúng đưa đi các trại tù lao động khổ sai. Thôi th́ không kể xiết những cảnh lao lư cực h́nh mà bọn chúng đă hành hạ chúng tôi. Đúng! Ai có nếm mới biết mùi. Tôi muốn nêu lên vài điểm để làm sáng tỏ vấn đề thực tế cho những ai c̣n mơ tưởng về chế độ Xă Hội Chủ Nghĩa nó ác độc như thế nào.

Chúng tôi đă trải qua các trại như Sơn Tây, hai lần trại Hà Giang thường gọi là cổng trời. Hà giang Bắc một đi có, về không. Trại Phú Lu Lào Cai, Tuyên Quang là trại cuối cùng. Về đây v́ CSVN sợ Trung Quốc tấn công.

Quá tŕnh mấy chục năm trong lao tù tàn độc dă man của CSVN, tôi nêu lên đây những t́nh thần tranh đấu bất khuất, những thương yêu đùm bọc lẫn nhau trong hoàn cảnh cùng chung số phận.

Điển h́nh và quyết liệt nhất là vụ tuyệt thực bảy ngày năm 1973 của anh em chúng tôi tại Phu Lu, Lao Cai.

Ngày ấy lên hội trường họ cho chúng tôi biết đă kư Hiệp Định Paris. Lúc nào phần thắng cũng thuộc về CSVN. Theo chủ trương của Đảng. Chánh phủ, một số cán bộ lên hướng dẫn cho chúng tôi học tập, trong đó có vấn đề gọi là bồi dưỡng, rêu rao là nhân đạo nhằm mục đích nếu sau nầy có được trao trả bớt phần nào với bộ xương cách trí, da bọc xương, một bóng h́nh c̣n di động được tố cáo tội ác dă man của chế độ lao tù Cộng Sản.

Họ đủ điều thuyết phục chúng tôi, bày tṛ bàn thờ Tổ quốc rồi tuyên thệ không gây thêm tội ác, cũng như phá hoại các công việc của chế độ Xă Hội Chủ Nghĩa.

Trước mặt họ chúng tôi cũng ừ hữ, gật, cũng hứa hẹn, v́ đang c̣n trong cái thế phải vờ chấp nhận. Làm thế nào mà họ có thể hiểu hết được trong tiềm thức của chúng tôi. Miễn làm sao được đặt chân lên miền Nam đă.

Họ giết chết cha mẹ, họ hàng, anh em, vợ con của những người dân vô tội trong dịp Tết Mậu Thân tại Huế năm 1968. Mối thù không đội trời chung với Cộng sản.Lúc nầy là thời điểm căng thẳng, bốn phía cḥi canh bốn cây đại liên sẵn sàng nhả đạn tiêu diệt, nếu chúng tôi bạo động, và toán tù h́nh sự sẽ là vật hy sinh trước. Sở dĩ v́ sao chúng tôi biết được tin tức nhờ anh em chúng có liên lạc được với tù là những phần tử bất măn, oán hờn chế độ Cộng Sản thông tin cho chúng tôi biết để đề pḥng.

Từ đó chúng tôi tuyệt thực tranh đấu đ̣i trao trả, v́ anh em đă nghe đơn vị Dù được trao trả rồi.

Hàng ngày tên công an trực đưa thức ăn vào đều bị anh em la ó, phản đối, tên công an đă nói rằng tôi vào đây để nghe các anh chửi bới, các anh không ăn th́ đưa về. Sau đó chúng dở tṛ thâm độc ly gián anh em để hành động dă man hầu dập tắt tinh thần đấu tranh đang dâng cao.

Tên công an tự giới thiệu là người của Bộ đưa xuống tuyên bố "hôm nay các anh chuyển trại" bắt tất cả hơn trăm người tập hợp, chung quanh là bộ đội có vơ trang với tư thế sẵn sàng để đàn áp. Chúng kêu tên từng người lên xe, năm chiếc xe bắt đầu chuyển bánh. Chúng sắp đặt trước, chiếc xe đầu chở 21 người, chúng nghi là có khả năng lănh đạo, trong đó có tôi chạy thẳng lên trại Quyết Tiến Hà Giang. Mấy tiếng đồng hồ sau, bốn xe kia quay trở lại trại, lùa tất cả vào pḥng khóa cửa.

Anh em tranh đấu cho rằng Cộng Sản đưa số anh em đó đi thủ tiêu rồi. Chúng kêu từng người nói là lên sinh hoạt, thật chất là đưa vào pḥng kỷ luật c̣ng chân lại, dùng thủ thuật hành hạ dă man. Chúng đánh ông già Tŕnh thuyền trưởng rụng cả hai hàm răng, các anh em khác người bầm ngực, bầm lưng, hộc máu mồm không được săn sóc chữa trị chi cả. Chúng lại chuyển tiếp một số anh em đợt hai lên Hà Giang. Pḥng kỷ luật chật hẹp, tường đất dày 5 tấc, nền nhà luôn có nước đọng, khí hậu âm u rét buốt có ngày xuống 4 độ âm, mỗi ngày ăn một chén bắp độ chừng 5 đến 60 hạt, vài hột muối trắng. Mục đích của chúng hành hạ cho đến chết th́ thôi. Số chết ở trại nầy hơn ba chục anh em.

Trong một buổi sáng tên công an vào cho sinh hoạt, trước khi bắt đầu, nó bảo các anh hát một bài đi. Một anh liền trả lời: Chúng tôi chỉ biết hát nhạc vàng, không biết hát nhạc đỏ. Chúng liền đưa anh bạn ấy đi vào hầm và cùm hết chín tháng.

Bản thân tôi hai lần ở trại Quyết Tiến Hà Giang. Trại nằm sâu trong rừng. Khí hậu ở đây vô cùng khắc nghiệt. Một năm cộng lại có hơi nắng vài ba tháng, c̣n lại là mưa gió, sương mù cách nhau 3 thước không nh́n thấy nhau. Những lúc này chúng tôi đều bị nhốt trong pḥng. Mỗi lẫn có gió mùa Đông Bắc thổi về cơn lạnh thấu xương. Đói lạnh, ghẻ lở vô cùng cực khổ. Làm mà không đủ mức ấn định chúng dùng h́nh thức vô nhân đạo hạ mức ăn. Lao động khổ sai nên bị cụp xương sống, rối loạn thần kinh.

Một lần tôi bị kỷ luật cùm một tháng. Nguyên nhân là cái khăn lau mặt của tôi có ba sọc đỏ đem phơi ngoài trời. Một tên nào đó báo cáo với tên công an nói tôi treo cờ VNCH. Sau buổi sinh hoạt kiểm điểm chúng kết luận tôi c̣n mong đợi Chánh phủ miền Nam. "Lúc này là thời kỳ oanh tạc miền Bắc".

Kể về tội ác của Cộng Sản th́ không giấy bút nào có thể tả hết những thâm độc của chúng.

Hồi tưởng lại gần một phần tư thế kỷ bị giam cầm, hơn mười ba năm sống dưới ách thống trị độc tài tàn ác của chế độ Cộng Sản, con người là cái xác không hồn, già yếu và bệnh tật.

Viết bài này tôi không có tham vọng nói lên điều sai hay đúng, chỉ mong mỏi những người c̣n lại, bạn đồng đội đốt nén hương để tưởng nhớ, thương tiếc và tri ơn các bạn đă hy sinh cho Tổ Quốc.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1751584&stc=1&d=1615068170

Cá Ḱnh Nguyễn Văn Trâm (tên thật Nguyễn văn Hùng) đứng giữa, mặt áo trắng,
ở hàng sau cùng, kế Dân Biểu Bob Dornan.

Chỉ Huy Trưởng Sở Bắc, Cố Đại Tá Ngô Thế Linh
đứng ở hàng sau, người cuối cùng bên tay phải.

hoanglan22
03-12-2021, 21:53
Sau thời gian phục vụ tại Sư đoàn 5 Bộ Binh, tôi được thuyên chuyển về Trường Bộ Binh Thủ Đức, theo nhu cầu hoán chuyển các sĩ quan có kinh nghiệm chiến trường về các quân trường. Chức vụ sau cùng là Trưởng pḥng Kế hoạch của Trường Bộ Binh.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1754889&stc=1&d=1615585900

Trường Bộ Binh là một quân trường đào tạo các sĩ quan trừ bị cho Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa. Lúc trước, trường tọa lạc ở Thủ Đức. Đến đầu năm 1974 th́ dời ra Long Thành, một cơ sở mới nằm bên cạnh quốc lộ 15, đường Sài G̣n - Vũng Tàu và cách quận lỵ Long Thành 5 cây số. Tại đây Trường Bộ Binh kết hợp với Trường Thiết Giáp và Trung tâm Huấn luyện Yên Thế, lập thành Huấn khu Long Thành. Trung tướng Nguyễn Vinh Nghi là Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh kiêm Chỉ huy trưởng Huấn khu Long Thành.

Đến đầu tháng 4, 1975, trong lúc đất nước lâm vào t́nh trạng vô cùng nguy ngập, Quân đoàn I và Quân đoàn II đă di tản, Cộng quân vào đến Nha Trang, th́ Trung tướng Nguyễn Vinh Nghi được chỉ định ra làm Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn III, trấn đóng ở phi trường Thành Son, phía bắc thị xă Phan Rang, để ngăn chặn địch đang ào ạt tiến vô nam.

gày 16 tháng 4, quân CSBV chiếm thị xă Phan Rang và phi trường Thành Son. Bộ chỉ huy Tiền phương QĐ III phải rút về phía Đông Nam ra Cà Ná. Nhưng trong đêm đó phần lớn đa bị bắt trong đó có Trung tướng Nguyễn Vinh Nghi Tư lệnh Tiền phương QĐ III, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân, Đại tá Nguyễn Thu Lương, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù v.v…

Sau khi Trung tướng Nguyễn Vinh Nghi ra làm tư lệnh Tiền phương QĐ III th́ Đại tá Trần Đức Minh đang là Chỉ huy phó Truờng Bộ Binh được Bộ Tổng Tham Muu chỉ định lên thay thế làm Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh, kiêm Chỉ huy trưởng Huấn khu Long Thành.

Đầu tháng 4, 1975 Trường Vơ Bị Quốc Gia là trường sĩ quan hiện dịch, di tản từ Đà Lạt về Long Thành và tạm trú chung với Trường Bộ Binh. Hai tuần sau Trường Vơ Bị cho làm lể măn khóa, hai khóa 28 và 29 ra trường cùng một lúc, c̣n lại hai khóa 30 và 31.

Cũng vào đầu tháng 4, 1975 Cộng quân bắt đầu gia tăng áp lực, mở các cuộc tấn công vào Huấn khu Long Thành. Đặc công VC đă mấy lần xâm nhập Trung tâm Huấn luyện Yên Thế, nhưng đă bị Biệt kích Lôi Hổ tiêu diệt gọn. Trường Thiết Giáp cũng bị tấn công liên tục, nhưng nhờ tài chỉ huy khéo léo với nhiều kinh nghiệm chiến trường của Đại tá Tám, nên đă giử vững được căn cứ này cho đến cuối cùng.

Ngày 9 tháng 4, 1975 Cộng quân tấn công vào thị xă Xuân Lộc thuộc tỉnh Long Khánh, chỉ cách Sài G̣n 80 cậy số về hướng Đông và cách Huấn khu Long Thành chừng 20 cây số. Trong trận tấn công này lực lượng địch gồm có Sư đoàn 7 Bắc Việt làm mũi chủ công, từ hướng Đông Bắc đánh vào thị xă Xuân Lộc. Sư đoàn 341 Bắc Việt từ hướng Tây Bắc đánh vào khu vực pḥng thủ của Sư đoàn 18 Bộ Binh/QLVNCH. Riêng Sư đoàn 6 Bắc Việt đánh Dầu Giây.

Quân trú pḥng ở Xuân Lộc gồm toàn bộ Sư đoàn 18 Bộ Binh và Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân/Biên Pḥng của Thiếu tá Vương Mộng Long K20/VB vừa di tản từ Quân Khu 2 về, cùng các lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ Binh, đă chống trả vô cùng anh dũng. Tất cả các mũi tấn công của quân Bắc Việt đều bị chận đứng. Riêng mũi chủ công của Sư đoàn 7 Bắc Việt, đă lọt vào được vài nơi trong thị xă nhưng đă bị quân ta chận đánh quyết liệt, và ngay ngày hôm sau đă bị quân ta phản kích dữ dội, hai bên giành nhau từng căn nhà, từng mảng tường.

Ngày 12-4-1975 Quân đoàn III đă cấp tốc trực thăng vận Lữ đoàn 1 Nhảy Dù xuống tăng viện cho Xuân Lộc. Tiếp đó là Trung đoàn 8 thuộc Sư đoàn 5 Bô Binh, và một bộ phận của Lữ đoàn 3 Thiết Kỵ, theo hướng quốc lộ 1 từ Biên Ḥa cùng tiến lên để giải tỏa áp lực địch. Đặc biệt Không Quân Việt Nam cũng đă huy động tối đa để yểm trợ, và sự yểm trợ lần này rất là hữu hiệu, v́ ngoài phi cơ chiến thuật, Không Quân Việt Nam đă sử dụng cả phi cơ vận tải C130 cải biến để chở những khung vỉ sắt chứa nhiều quả bom hạng nặng như bom Daisy Cutter 15.000 cân Anh, bom CBU-55, mà phía Hoa Kỳ thường sử dụng để phát quang làm băi đáp trực thăng hay vị trí pháo binh, và nhiều phuy xăng JP4 dùng làm bom napalm. Máy bay, bay trên cao độ 15.000 đến 20.000 bộ để tránh pḥng không địch và được điều khiển bằng vô tuyến cho rơi đúng vào các mục tiêu ấn định. Có hai quả bom CBU-55 đă rơi trúng vào nơi đóng quân của Sư đoàn 341 CSBV, gây tổn thất nặng nề cho địch và làm cho tinh thần cán binh CSBV bị dao động mạnh v́ tưởng là bom B52. Tướng Cộng sản Trần Văn Trà đích thân xuống mặt trận xem xét t́nh h́nh, thấy không chiếm được Xuân Lộc, nên bèn quay sang đánh ṿng ngoài nhằm vào các đơn vị của Quân lực VNCH đang tăng viện về hướng Biên Ḥa.

Nếu như lúc đó Hoa Kỳ chịu giúp miền Nam Việt Nam thêm một thời gian ngắn nữa, để yểm trợ cho Quân lực VNCH, chỉ bằng không lực mà thôi, th́ các sư đoàn CSBV sẽ bị tiêu diệt một cách dễ dàng, v́ họ đa công khai xuất đầu lộ diện, thật là những mục tiêu rất tốt cho pháo đai bay B52. Như thế t́nh h́nh có thể đảo ngược đuợc, như đă xảy ra ở trận chiến Triều Tiên năm 1950.

Nhắc lại trận chiến Triều Tiên, ngày 25 tháng 6 năm 1950, quân đội Cộng Sản Bắc Hàn do Trung Cộng yểm trợ đánh đuổi quân đội Đồng Minh mà chính yếu là Hoa Kỳ, chạy dài từ Bắc xuống Nam cho đến tận cùng bán đảo Triều Tiên, chỉ c̣n giữ đuợc phần đất vùng Pusan, dự trù để làm đầu cầu để phản công sau này. Ngày 15 tháng 9 năm 1950, dưới sự chỉ huy tài ba của Tướng Douglas Mc. Arthur, đă điều quân xuất thần cho đổ bộ ở Inchon, một bờ biển phía Tây ngang Hán Thành, cách vi tuyến 38 về phía nam 100 dậm. Đây là một kế hoạch vô cùng tinh vi và táo bạo, đă đánh thẳng vào hậu phương địch, cắt đứt mọi đường tiếp tế lương thực đạn dược, làm cho các sư đoàn của Cộng quân đang tiến sâu về phía nam, hoàn toàn bị tê liệt, kiệt quệ, tan ră, đưa đến kết quả là 125.000 quân Cộng Sản Bắc Hàn phải ra đầu hàng.

Ngày 20 tháng 4, 1975 Sư đoàn 18 Bộ Binh, Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, và lực lượng Tiểu khu Long Khánh rút khỏi Xuân Lộc theo liên tỉnh lộ 2 về Bà Rịa. Từ đây Sư đoàn 18 Bộ Binh lên xe về Long B́nh, c̣n Lữ đoàn 1 Nhảy Dù ra bảo vệ thị xă Vũng Tàu. Cuộc rút lui diễn ra rất trật tự, tổn thất không đáng kể. Riêng Đại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Long Khánh, đă bị thương và bị bắt trên đường rút lui.

Vào đầu tháng 4/75 khi t́nh h́nh đất nước đang lâm vào t́nh trạng nguy ngập, Đại tá Minh có ra lệnh cho pḥng Kế hoạch phối hợp cùng với Trung tá Trần Văn Hạnh, Trưởng pḥng TVM (Tác Xạ Vũ Khí Ḿn), để nghiên cứu và soạn thảo một kế hoạch pḥng thủ cho thật vững chắc. Tận dụng tối đa hỏa lực cơ hửu của trường, sử dụng ḿn Claymore gài tự động, cho nuôi thêm 100 con ngỗng để tăng cường hệ thống báo động. Pḥng Kế hoạch cũng đă đề ra hai phương án để rút lui khi cần. Phương án thứ nhất là di tản chiến thuật ra Vũng Tàu. Phương án thứ hai là di chuyển về trường cũ ở Thủ Đức.

Ngày 22-4-1975, Trường Bộ Binh và Truờng Vơ Bị được lệnh di tản về Thủ Đức. Trường Bộ Binh chỉ di tản một nửa quân số về Thủ Đức, c̣n một nửa quân số ở lại Long Thành, và dưới quyền chỉ huy của Đại tá Lê Văn Phú, pḥng thủ bảo vệ trường để chờ ngày trở lại.

Khi về đến Thủ Đức, Truờng Bộ Binh nhận lại trách nhiệm pḥng thủ Huấn khu Thủ Đức, và đồng thời các Tiểu đoàn SVSQ sẵn sàng về tăng cường bảo vệ Thủ đô. Trong lúc này Trung tướng Nguyễn Băo Trị, Tổng cục trưởng Tổng cục Quân Huấn, chỉ định Đại tá Lộ Công Danh hiện đang là Liên đoàn trưởng Liên đoàn SVSQ của Trường Bộ Binh tạm thời thay thế Thiếu tướng Lâm Quang Thơ làm Chỉ huy trưởng Truờng Vơ Bị Quốc Gia.

Đêm 26-4-1975, Cộng quân mở cuộc tấn công đại qui mô vào Huấn khu Long Thành, Trường Bộ Binh ở Long Thành bị mất liên lạc. Ở trường Bộ Binh Thủ Đức, tôi và người mang máy truyền tin, leo lên lầu nước thật cao để t́m cách liên lạc với Trường Bộ Binh ở Long Thành.

Đại tá Lê Văn Phú, v́ ông ra ngoài giao thống hào ở địa thế thấp nên máy truyền tin không liên lạc xa được, nhưng nhờ tôi leo lên cao nên bắt liên lạc lại được với Trường Bộ Binh ở Long Thành. Đại tá Phú cho biết hiện Cộng quân đang mở các đợt tấn công rất ác liệt nhưng không chọc thủng nỗi pḥng tuyến quá kiên cố của ta. Ông cũng cho biết là Trường Thiết Giáp thất thủ, Đại tá Tám Chỉ huy trưởng Trường Thiết Giáp vừa mới qua họp ở Trường Bộ Binh Long Thành, trên đường về ông bị Cộng quân phục kích và bị mất liên lạc vào khoảng 6 giờ chiều. Riêng Trung tâm Huấn luyện Yên Thế th́ hoàn toàn bị mất liên lạc, im lặng vô tuyến kể từ chiều hôm đó. Đại tá Nguyễn Đức Minh liền liên lạc với Đại tá Phan Huy Lương, Tham mưu phó Quân đoàn III, để báo cáo t́nh h́nh và xin yểm trợ. Nhưng Bộ tư lệnh Quân đoàn III đă hoàn toàn không có phản ứng, v́ đang triệt thoái.

Sáng sớm hôm sau, ngày 27-4-1975, tôi đi cùng với Đại tá Minh lên Biên Ḥa để t́m phương cách chống đỡ cho nửa truờng c̣n lại ở Long Thành. Đường đi lúc đó thật vắng tanh, chúng tôi gặp Thiếu tá Ḥa Quận trưởng quận Thủ Đức đang lăng xăng điều động các lực lượng của chi khu. Tôi có hỏi về t́nh h́nh trên lộ tŕnh đi, th́ ông ta khuyên không nên đi trong lúc này rất là nguy hiểm, v́ hiện đang có các trận đụng độ gần khu vực Chợ Đồn. Nhưng v́ nóng ḷng nửa trường c̣n lại ở Long Thành nên chúng tôi quyết phải đi.

Khi tới Biên Ḥa, thành phố vắng lặng như một thành phố chết. Chúng tôi chạy thẳng vô Bộ chỉ huy của Tiểu khu Biên Ḥa. Khi bước vào Trung tâm Hành quân / Tiểu khu, chúng tôi không thấy Tiểu khu trưởng hay Tiểu khu phó đâu cả, mà chỉ thấy có Đại tá Thới, Tham mưu trưởng là c̣n đang làm việc. Ông hiện đang bấn loạn, v́ phải vừa lo điều động các lực lượng của Tiểu khu đang chống trả kịch liệt với địch, đồng thời phải lo phương tiện trực thăng để đi cấp cứu Trung tá Quận trưởng quận Long Thành. Đêm qua lực lượng Địa Phương Quân và Nghiă Quân của chi khu Long Thành đă anh dũng chiến đấu chống trả vô cùng quyết liệt, bắn cháy một số chiến xa địch, cầm cự cho đến sáng mới bị tràn ngập. Trung tá Quận trưởng đă chạy thoát được ra ngoài và dùng máy vô tuyến liên lạc về Tiểu khu xin cứu viện.

V́ t́nh trạng quá căng thẳng của Tiểu khu Biên Ḥa, và v́ Đại tá Thới đang quá bận rộn, thấy không thuận tiện để bàn thảo ǵ được, nên chúng tôi phải rời bỏ Tiểu khu Biên Ḥa để đi thẳng vô căn cứ Long B́nh nơi đặt Bộ chỉ huy của Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Tại đây, tôi đuợc gặp lại các bạn bè cùng các niên trưởng tay bắt mặt mừng, kể lể mọi chuyện, mà quên đi chiến trận đang gần kề. Mặc dù trong t́nh thế cực kỳ sôi động như vậy, nhưng Thủy Quân Lục Chiến vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu, không hề nao núng, vẫn quyết tâm chận địch trên đầu dốc 47 của quốc lộ 15, và c̣n nhắn nhủ với Truờng Bộ Binh Long Thành, là phải đồng tâm hiệp lực quyết ngăn chặn không cho nón cối dép râu bước vô Sài G̣n.

Đại tá Minh cứ lấy làm tiếc là đang ở quân trường gồm toàn những SVSQ đang thụ huấn, nên không có khả năng chiến đấu như các đon vị tác chiến trước đây. Nhớ lại thời hành quân sang Kampuchia năm 1970, ông là Chiến đoàn trưởng, và tôi là Sĩ quan Hành quân. Chiến đoàn 9 đặc nhiệm của Sư đoàn 5 Bộ Binh đă tấn công vào tận sào huyệt của VC nằm sâu bên kia biên giới Việt Miên, quét sạch các mật khu an toàn của VC trong vùng Lưỡi Câu, tịch thu rất nhiều kho vũ khí, lương thực, đạn dược của Cộng quân, đem lại nhiều chiến thắng vẻ vang cho Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Tôi xin nói thêm ở đây là các cuộc hành quân vượt biên sang Kampuchia là hoàn toàn do Quân lực VNCH đảm nhiệm, các cố vấn Mỹ lên máy bay trực thăng bay trở về, ngay khi đơn vị đi đầu vượt qua biên giới.

Sau khi phối hợp cùng các đơn vị bạn, và chỉ thị rơ ràng cho Đại tá Phú xong, chúng tôi liền quay trở về Thủ Đức. Trên đường về chúng tôi thấy rơ các rương ḿn chất nổ đă được đặt sẳn hai bên cầu sông Đồng Nai. Theo như kế hoạch đă định th́ sau khi rút quân xong th́ cầu Đồng Nai phải bị giật xập không cho thiết giáp và cơ giới của Cộng quân vượt qua sông. Mà nếu Cộng quân có khả năng làm cầu nổi th́ ta sẽ dùng phi cơ oanh tạc.

Trường Thiết Giáp đă thất thủ, Trung tâm Huấn luyện Yên Thế đă mất liên lạc, quận Long Thành bị tràn ngập, giờ đây Trường Bộ Binh Long Thành đương nhiên trở thành tiền đồn ngăn chặn địch mà Cộng quân quyết phải thanh toán cho bằng được để tiến thẳng về Sài G̣n.

Trong đêm 27-4- 1975, Cộng quân tấn công dữ dội vào Trường Bộ Binh ở Long Thành, nhưng đă bị lực lượng pḥng thủ của trường do Thiếu tá Hồ Đắc Tùng K20 trực tiếp chỉ huy chống trả quyết liệt. Lúc đó ở Thủ Đức toàn bộ Bộ Chỉ Huy của Trường Bộ Binh đang vây quanh máy truyền tin để theo dơi. Một số gia đ́nh có thân nhân c̣n đang chiến đấu ở Long Thành cũng ngồi quanh đó. Tất cả mọi người đều hồi hợp theo dơi với tâm trạng thật là bi quan, đành bó tay chịu trận. Tôi thấy bà xă của Đại Úy Trác ngồi khóc mếu máo. Tôi c̣n nhớ lời nói mỉa mai đau khổ của Đại tá Minh:

Trung Hoa Dân Quốc c̣n có đảo Đai Loan để mà chạy ra, chớ Việt Nam ḿnh không biết đi đâu?”.

Hồi thời Đệ Nhứt Cộng Ḥa, Tổng thống Ngô Đinh Diệm c̣n có chuẩn bị đảo Phú Quốc để mà tử thủ. Nhưng bây giờ th́ không c̣n nghe nói ǵ đến đảo này nữa.

Quân trú pḥng Trường Bộ Binh Long Thành đă anh dũng chiến đấu, cầm cự cho đến sáng. Nhưng v́ quân địch quá đông, nên sau cùng th́ Đại tá Phú phải ra lệnh cho rút lui theo như kế hoạch đă định. Sau này theo tài liệu của Cộng Sản Bắc Việt, th́ ngày 27 tháng 4, Sư đoàn 304/CSBV đă đụng độ dữ dội với các đơn vị Nam Việt Nam ở khu vực Nước Trong (VC gọi Huấn khu Long Thành là khu vực Nước Trong). Sau khi chiếm được khu vực Nước Trong rồi, nhưng khi tiến quân về hướng cầu Đồng Nai trên xa lộ Sài G̣n - Biên Ḥa, Sư đoàn 304/CSBV vẫn bị chận đánh và phải đợi đến ngày 29 mới chiếm được cầu này.

Sáng ngày 30 tháng 4, 1975 vào lúc 8 giờ 30, Đại úy Nguyễn Thành Hiếu, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5/SVSQ/TBB đang chỉ huy pḥng tuyến chính mặt xa lộ báo cáo là thấy đoàn xe thiết giáp và xe motolova của cộng quân đang di chuyển trên xa lộ Biên Ḥa tiến về Sài G̣n. Tôi hết sức ngạc nhiên v́ theo như kế hoạch đă định th́ cầu Đồng Nai phải bị giật sập, không cho thiết giáp và cơ giới của VC vượt qua sông. Tôi liền liên lạc báo cáo về Biệt khu Thủ Đô. Trong lúc đó th́ Trung tâm Hành quân / BKTĐ không ra lệnh dứt khoát mà chỉ nói là tùy nghi đơn vị. Không một chút do dự, Đại tá Minh liền xác quyết trách nhiệm một cách rất rơ ràng là: “Bổn phận của chúng ta là quân đội là phải bảo vệ đất nước, thấy địch là đánh”. Tôi liền truyền lệnh của Đại tá Chỉ huy trưởng đến các đơn vị, đồng thời gọi cho Hiếu chấm tọa độ và điều chỉnh cho các khẩu đội súng cối 81 ly tác xạ. Đồng thời tôi gọi cho các pháo đội pháo binh 105 ly, 155 ly và 175 ly chuẩn bị sẳn sàng. Đây là các loại pháo binh để yểm trợ tầm xa, mà Quân đoàn III gởi tạm ở đây. Nhưng trong giờ phút quyết liệt này, tôi dự trù sẽ sử dụng để bắn trực xạ. Súng 175 ly được đặt trên thiết giáp nên dễ dàng di chuyển, điều động.

Bị sức kháng cự mạnh mẽ của Trường Bộ Binh, nên cộng quân liền đổi hướng tấn công xông thẳng vào Trường Bộ Binh. Một chiếc thiết giáp T54 ủi sập chướng ngại vật ở cổng chính và chạy thẳng vào trong, vừa chạy vừa bắn phá loạn xạ. Trong khi đó th́ súng đại liên ở cầu Bến Nọc mà VC vừa chiếm được đem qua, bắn xối xả vào trường ở phía cổng số 9 tức cổng sau của Trường Bộ Binh. Lúc đó súng nhỏ bên ta bắn trả dữ dội tóe lửa vào chiếc chiến xa. Tôi thấy rơ chiếc chiến xa khi nó tới gần, súng trên pháo tháp quay qua bắn sập Trung tâm Hành quân, v́ trên nóc TTHQ có nhiều cần ăng ten nên dễ thấy. Thiếu tá Lầu thuộc Trường Tổng Quản Trị đang ở trong đó may mắn thoát nạn, trong khi đó th́ Đại tá Minh cùng Bộ chỉ huy nhẹ đang ở cách đó không xa.

Khi chiếc chiến xa này chạy xuống tới cổng số 9 th́ gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ của các SVSQ do Thiếu tá Phạm Hưng Long K20 chỉ huy giữ mặt hậu của Trường Bộ Binh, nên liền quay đầu chạy ngược lại. Chúng tôi đa t́m cách kêu gọi đối phương ra đầu hàng nhưng không có kết quả. SVSQ có thấy người lái chiến xa đứng lên dường như có ư định đầu hàng nhưng rồi lại ngồi xuống và lại tiếp tục bắn phá làm chết và bị thương một số SVSQ và quân nhân cơ hữu của Trường. Trong số đó có Thiếu tá Vương Bá Thuận bị găy chân, Trung tá Ông Nguyên Tuyền tử thương …

Mặc dù chưa từng ra chiến trận nhưng phải nói là tinh thần chiến đấu của các SVSQ rất là hào hùng anh dũng. Nhưng với súng trường không thể nào hạ được chiến xa, cho nên tôi gọi Đại úy Lê Văn Ngữ, Đại đội trưởng ĐĐ663/ĐPQ là đơn vị bảo vệ trường dùng súng M72 để hạ chiếc chiến xa này. Khi nó chạy tới khu Tiếp Tân gần miếu Tiên Sư th́ bị ĐĐ663/ĐPQ bắn đứt xích nằm tại chỗ, nhưng súng trên pháo tháp vẫn c̣n quay bắn phá lung tung. Liền khi đó có một SVSQ thuộc Tiểu đoàn 1/SVSQ, đang ở pḥng tuyến gần đó, nhanh nhẹn ḅ ra leo lên pháo tháp và liệng một quả lựu đạn vào bên trong xe tiêu diệt hẳn. Đại úy Ngữ lục soát trong xe lấy được ba khẩu súng c̣n đang bốc khói mang lên tŕnh Đại tá Chỉ huy truởng và cho biết là họ đă bị khóa xích trong xe nên không thể nào ra đầu hàng được.

Và liền sau đó không lâu vào khoảng 10 giờ 20 phút th́ nghe lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố ngưng bắn chờ lệnh bàn giao. Sau đó Đại tá Minh ra lệnh cho tôi gọi cho các đơn vị ngưng chiến đấu. Tất cả mọi người đều rơi nước mắt khi nghe tin này, Đại úy Trác ̣a lên khóc. Tôi vẫn c̣n nhớ lời Đại tá Minh nói lúc đó: “Nhiệm vụ của chúng ta là quân đội là phải tuân hành lệnh thượng cấp, kêu đánh là đánh, kêu đầu hàng là đầu hàng”. Tôi bỏ về pḥng thay đồ dân sự và lập tức lấy xe gắn máy phóng nhanh ra cổng, Đại úy Băo bên Liên đoàn Sinh viên đang đứng đâu gần đó liền nhảy lên theo. Chúng tôi vừa thoát ra khỏi cổng th́ cộng quân cung vừa vô tới.

Khi chúng tôi ra đến xa lộ th́ thấy đoàn xe thiết giáp và xe motolova của Cộng quân đang tiến vô Sài G̣n, mà không c̣n một lực lượng nào ngăn chặn nữa. Và vào lúc 11 giờ 30 phút chiếc chiến xa dẫn đầu cánh quân này đă tiến vô Dinh Độc Lập trong lúc Tổng thống Dương Văn Minh cùng nội các cuối cùng đang chờ đợi để bàn giao. Nhưng ngay vừa khi vừa vô đến Dinh Độc Lập th́ quân CSBV liền hiện rơ nguyên h́nh là một đội quân xâm lăng từ miền Bắc vào, chứ không có ǵ là Mặt trận Giải Phóng Miền Nam, do nhân dân miền Nam nỗi dậy, không có ǵ là ḥa giải ḥa hợp dân tộc, và không có ǵ là để bàn giao. Họ liền bắt nhốt tất cả từ Tổng thống Dương Văn Minh đến các Tổng Bộ trưởng và bắt Phó Thủ tướng Nguyễn Văn Hảo dẫn đến Kho bạc để tịch thâu 16 tấn vàng của Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam và cũng kể từ đó miền Nam Việt Nam đă thực sự mất vào tay Cộng Sản Bắc Việt.

Để biết thêm chi tiết về những giờ phút cuối cùng của Trường Bộ Binh sau khi quân CSBV vào tiếp thu Huấn khu Thủ Đức, tôi xin trích đoạn trả lời của Đại tá Trần Đức Minh, vị Chỉ huy trưởng cuối cùng của Trường Bộ Binh, trong cuộc phỏng vấn với tạp chí Văn nghệ Tiền Phong, nhân kỷ niệm 25 năm ngày miền Nam Việt Nam lọt vào ṿng thống trị của cộng sản. Ông đă kể lại nhu sau:

… Khoảng hơn một giờ sau khi im tiếng súng, đại diện của một đơn vị Bắc Việt đến, họ yêu cầu tôi thi hành lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh và Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh để bảo đảm không nổ súng nữa. Tôi giao cho họ số vũ khí bắt được trên chiếc xe tăng bị bắn cháy và nói với họ lo chôn cất những người bị chết trong xe đó…

… Trong khi nói chuyện, đại diện quân Bắc Việt yêu cầu tôi triệu tập Chỉ huy trưởng của các Quân trường trong Huấn khu Thủ Đức đến gặp họ. Tôi cho biết không thấy Huấn khu trưởng cũng như những người có trách nhiệm khác đâu cả. Cuối cùng họ đành bảo tôi thay mặt Huấn khu bàn giao tất cả các trường hiện có ở Thủ Đức. Tôi cho lệnh tập họp ở Vũ đ́nh trường, sau đó tuyên bố bàn giao Huấn khu Thủ Đức theo đúng chỉ thị của Chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa và Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa.

… Sự việc diễn ra rất ngắn ngủi, chỉ có khoảng vài trăm người mặt mày ngơ ngác, bần thần. Rồi thoáng một cái, chẳng c̣n ai mặc quân phục nữa. Sinh viên Sĩ quan mặc đồ dân sự lủi thủi lê chân ra phía cổng chính. Tôi bùi ngùi nh́n theo tủi hổ… Chiều hôm đó đến lượt tôi trút bỏ quân phục và được yêu cầu “nghỉ riêng” ở trên lầu của tư dinh Chỉ huy trưởng. Trong khi một Bộ chỉ huy quân Bắc Việt ở dưới lầu. Đêm đó tôi lên cơn sốt, trong lúc chập chờn nửa tỉnh nửa mê, tôi đă khóc thật nhiều. Lúc này tôi mới thắm thía cảm nghiệm được cái lẽ vô thường mà trước kia tôi chỉ hiểu được bằng lư trí…

… Định mệnh đă bắt tôi đóng vai tuồng “hàng thần lơ láo”, và đây là điều tủi nhục nhất trong đời tôi. Cho đến khi viết những ḍng này niềm tủi nhục ấy vẫn hằn sâu trong tâm khảm tôi, và hẳn rằng khôn khuây cho đến khi sang bên kia thế giới.

Viết để nhớ lại ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Nguyễn Ngọc Thạch K20

Bài tường thuật của NT Nguyễn Ngọc Thạch viết:
"Liền khi đó có một SVSQ thuộc Tiểu đoàn 1/SVSQ, đang ở pḥng tuyến gần đó, nhanh nhẹn ḅ ra leo lên pháo tháp và liệng một quả lựu đạn vào bên trong xe tiêu diệt hẳn.”
Đúng ra, có tới hai SVSQ Không Quân cùng tham gia hành động anh hùng này. Mời độc giả đọc thêm bài viết của nhân chứng sống: KQ Phan Thế Nhân, Thư kư Hội Ái Hữu KQ tiểu bang NSW, Úc-đại-lợi.

30 THÁNG 4: KHÔNG QUÂN... ĐÁNH BỘ!
Trận đánh cuối cùng ngày 30-04-1975 của SVSQ/KQ tại trường BB THỦ ĐỨC cũ

Phan Thế Nhân

Sau khi Mỹ cúp viện trợ, vào khoảng đầu năm 1975 (tôi không nhớ tháng mấy) tất cả những SVSQ-KQ chưa hoàn tất khóa học từ Mỹ về, những SVSQ-KQ thặng số chờ đi học ở VN… đều được gởi đến TBB/Long Thành để thụ huấn cấp tốc 9 tuần v́ nhu cầu chiến trường (?)

Hồi tưởng lại chuyện cũ, ngày 28-04-1975

Sáng hôm đó, mặc dù tiếng súng, tiếng bom…vọng lại suốt đêm và vẫn c̣n ầm ĩ từ Long Khánh, Xuân Lộc, Biên Ḥa…, tại Trường Bộ Binh/Long Thành, như thường lệ, Đại đội tập họp, theo đội h́nh tác chiến (súng cầm tay, di chuyển 2 hàng 2 bên vệ đường) ra băi tập... Đi được khoảng 1 tiếng, lối 3-4 cây số th́ máy truyền tin PRC-25 của anh trực truyền tin mang vang lên tiếng rè rè… và thấy anh mang máy lụp xụp chạy đến vị sĩ quan cán bộ (Trung úy Nở?), người đang dẫn ĐĐ ra băi tập, sau khi đối đáp ǵ đó với BCH trường, Trung úy Nở ra lệnh cho đoàn quân dừng lại, ra lệnh đổi băng đạn trống không trong súng bằng băng đạn thật, khoá an toàn cẩn thận (hằng ngày ra băi, súng không có đạn, nhưng v́ t́nh h́nh chiến sự lúc đó, trong balô mỗi khóa sinh đều phải mang theo 1 cấp số đạn thật là 7 băng).

Sau đó Đại đội được lênh quay trở về, khi đă về tập họp đầy đủ, được 5 phút đem tất cả "sac marin" và đồ dùng cá nhân ra tập trung tại sân Đại đội, cho biết là sẽ có xe chở theo sau, chỉ được mang theo tiền bạc, đồ có giá trị… Đó là lần cuối cùng nh́n thấy thư từ, đồ kỷ niệm gia đ́nh bạn bè người thân gởi…

Một đoàn xe nhà binh thật dài chạy đến, tôi không biết rơ là bao nhiêu v́ nhiều lắm, cả trường BB Long Thành di chuyển mà, sau khi tất cả mọi người lên xe, xe bắt đầu di chuyển về hướng Saigon, lúc đó chúng tôi vẫn chưa biết ḿnh đi đâu nữa, đi đâu th́ đi, lính mà. Trên đường vắng ngắt, không thấy chiếc xe nào chạy ngược chiều, thỉnh thoảng có 1-2 chiếc xe tăng và Quân cảnh làm nút chặn trên đường.

Cuối cùng đến một nơi mà đối với tôi hoàn toàn xa lạ, sau nầy mới biết là Trường BB Thủ Đức cũ, có lẽ đă sắp xếp sẵn, Đại đội chúng tôi được lệnh xuống xe và đóng rải rác xung quanh một căn nhà mát, sau nầy tôi mới biết đó là Khu Tiếp Tân của Trường BB Thủ Đức, h́nh ảnh đầu tiên đập vào mắt tôi là một chiếc xe tăng với một khẩu đại bác thật to và dài, nằm trên xe, bửng xe chịu xuống đất ṇng hướng về phía cổng ra vào, hạ sát xuống như sẵn sàng trực xạ (bên phải là Trường Cảnh Sát).

Đại đội được bố trí chung quanh nhà mát, trung đội tôi nằm dọc theo nhà mát hướng ra cổng chính. Bên phải là một con đường nhựa chạy từ cổng chính vào với hai hàng cây bă đậu hai bên đường rủ đầy bóng mát, bên kia đường là một lô cốt xây bằng đá xanh thật cao hướng thẳng ra cổng chính, trước mặt là chiếc xe tăng với khẩu đại bác, bên trái là một dăy (hào) mô đất cao chạy dọc theo ṿng đai từ cổng chánh bao bọc chung quanh trường, ngoài mô đất nầy là một tiền đồn giống như một đồn của Địa phương quân, mỗi đêm có một tiểu đội thay phiên nhau ra đóng tiền đồn, đối diện tiền đồn là một con đường đất đỏ, bên kia con đường là một nhà Bảo sanh có bảng hiệu đàng hoàng. Sau khi bố trí vị trí từng cá nhân xong chúng tôi được lệnh phải đào hố cá nhân ngay lập tức... Chu choa… mấy năm nay đă nằm ở nhiều quân trường từ Quang Trung, TTHLKQ Nha Trang, Trường BB Long Thành chỗ nào người ta cũng đă đào sẵn giao thông hào, mỗi khi báo động có pháo kích th́ chỉ việc chạy ra, ngó qua ngó lại t́m chỗ nào khô, không có nước là nhảy đại xuống, c̣n bây giờ th́…xẻng cá nhân (c̣n mới tinh trong bao) phải mở ra tự đào lỗ để tránh đạn, khổ ơi là khổ, lại thêm cái khổ nữa chỗ nầy là chỗ thăm nuôi đông người đi lại nên nhà thầu đổ đá để làm móng cho chắc nên thằng nào thằng nấy đào bá thở, mồ hôi nhễ nhại mà có được bao sâu đâu, lại thêm mấy ông cán bộ cơ hữu cứ đi ṿng ṿng nhắc nhở hoài cuối cùng cũng tàm tạm được, ngồi xuống cái đầu vẫn c̣n ló lên.

Chiều xuống, sau khi cơm nước xong, c̣n đang nằm ph́ phà điếu Ruby Quân Tiếp Vụ th́ có vài người chỉ lên trời, có mấy chiếc phản lực bay rất cao, người th́ nói F4 kẻ th́ căi F5, ḿnh th́ không biết ǵ hết, chỉ biết là máy bay phản lực, vài phút sau có người la lên và chỉ về hướng Saigon, một đoàn trực thăng khoảng vài chục chiếc xếp hàng một bay lên bay xuống có lẽ đang di chuyển người, sau nầy mới biết là Mỹ di tản người, tối đến, đoàn trực thăng vẫn tiếp tục mở đèn lên xuống như những con đom đóm không biết bao giờ mới ngưng… Ầm ầm tiếng súng đại bác từ đâu đó ở phía trong trường bắt đầu bắn đi yểm trợ quân bạn, mặc dù thỉnh thoảng giật ḿnh v́ lần đầu tiên nằm gần một đơn vị pháo binh nhưng v́ quá mệt mỏi sau khi đào hố cá nhân hồi trưa nên cũng chập chờn qua đêm.

Sáng hôm sau t́nh h́nh vẫn yên ổn mặc dù thỉnh thoảng nghe báo cáo có xe tăng xuất hiện ở cổng sau. Tối đến tiểu đội tôi đến phiên trực cao ốc nằm phía bên kia đường, đối diện khu tiếp tân, bên phải cổng chính. Đêm vẫn yên tĩnh, vẫn ầm ầm tiếng pháo binh bắn đi, vẫn thay phiên 2 tiếng trực gác, nh́n trời hiu quạnh, không một bóng người chung quanh.

6 giờ sáng, tiểu đội trở về khu tiếp tân, sau khi vệ sinh cá nhân xong th́ có lịnh báo động, xe tăng VC xuất hiện ở cổng sau rồi biến đâu mất, vẫn ngồi trong hố cá nhân th́…ầm ầm, (không rơ 1 hay 2 tiếng) súng xe tăng VC phá mấy thùng phuy cát để ở cổng chính làm chướng ngại vật, và tiếp theo đó súng cá nhân nổ như pháo tết, lúc đó tôi mới nghe tiếng xe tăng VC chạy thật nhanh vào trường BBTĐ, đến ngă 3 nó dừng lại quay súng về hướng lô cốt, thấy vài người chạy vào lô cốt, nó bắn đùng 1 phát, lúc đó có ai đó la to: “Bắn vào pháo tháp nó, bắn vào pháo tháp” tôi nh́n lên th́ thấy pháo tháp mở, có cây đại liên trên đó nhưng không thấy xạ thủ. Sau khi bắn vào lô cốt xong nó chạy thật lẹ qua hướng tay phải dọc theo con đường có hàng cây bă đậu biến mất, lúc đó th́ mấy người lúc trước chạy vô lô cốt lại chạy ra, hú hồn không ai chết hay bị thương ǵ cả, lúc đó anh bạn SVSQ-KQ ngồi hố trước mặt mới quay lại cằn nhằn: “Mày bắn gần quá, bả thuốc đạn văng vô cổ áo tao nóng quá” tôi mới xin lỗi, lần đầu tiên bắn VC mà, chưa có kinh nghiệm, thông cảm.

T́nh h́nh lúc đó thật căng thẳng, thật yên lặng, súng phía cổng và khu tiếp tân chúng tôi đă im tiếng, v́ xe tăng VC chạy đâu mất rồi, lúc nầy th́ có vài anh em chạy ra bên ngoài giao thông hào nằm chĩa súng vô trong, ai đó lại la: “Coi chừng VC ở ngoài” họ lại leo vô, đúng là lính chưa có kinh nghiệm. Bây giờ chỉ c̣n tiếng rè rè của máy truyền tin…các nơi báo cáo nó đang ở chỗ nầy, đang chạy qua hướng nọ…

Khoảng nửa tiếng sau th́ nghe tiếng súng rộ lên từ phía đường bên trái, nó đang chạy hướng ra cổng, phe ta bắn theo như mưa, đến ngă 3 th́ tôi thấy rơ 2 quả M72 bắn vào đít nó th́ một quả bay xẹt lên trời, c̣n 1 quả th́ dọng xuống đất, nó vẫn chạy ra hướng cổng, lúc đó có một ông, không biết là SVSQ-KQ hay cơ hữu, bỏ hố cá nhân đứng dậy vác M72 chạy ra quỳ xuống, ai đó la to: “Coi chừng lửa thụt hậu” tôi thụt đầu xuống hố cá nhân th́ nghe “ầm” và ai đó la to: “Đứt xich rồi, đứt xích rồi”, nó chỉ khựng lại một vài giây rồi chạy tiếp bỏ lại sợi xích bên trái trên đường, tiếng súng lại rộ lên ở hướng cổng, thấy anh em ở hướng đó bỏ hố cá nhân tràn lên mô đất giao thông hào chĩa súng ra, lúc đó tôi thấy xe tăng VC rẽ về bên trái, chạy về hướng nhà bảo sanh và h́nh như hơi lạ nó chạy bên lề đường và tiếng máy gầm rú dữ dội, nh́n kỹ th́ ra nó bị kẹt bánh không có xích dưới lề đường chỗ đường mương để nước mưa chảy hai bên lề đường, nó ráng nhưng không lên được, nó lết đến ngay cửa nhà bảo sanh cũng là nơi đối diện khu tiếp tân, pháo tháp từ từ hạ xuống, ai đó lại la to: “Nó bắn vô đó”, không ai bảo ai tất cả đều nhào xuống giao thông hào. Nó bắn thật, nhưng cũng may súng nó hạ thấp tối đa cũng chỉ bắn trúng ngọn cây bă đậu, làm cây lá rớt đầy đầu cổ anh em nhưng không có ai bị thương, sau khoảng hơn chục quả th́ im lặng, nó hết đạn rồi…

Anh em lại tràn ra giao thông hào dùng súng M16 bắn tiếp. Một lúc sau tôi thấy có hai bóng người leo qua ṿng rào bao cát tiền đồn ḅ về hướng xe tăng VC lúc đó nằm yên như đống sắt, ai đó lại la to: “Bắn lên trời, bắn lên trời, phe ta ḅ ra” tiếng súng vẫn nổ như mưa nhưng tất cả đều bắn lên cao, nhanh như cắt hai bóng người ở hai phía cùng lúc nhảy lên xe lần lượt ném hai quả lựu đạn vào pháo tháp mở trống rồi nhảy xuống chạy vào, hai tiếng nổ thật ấm: Uỳnh uỳnh, yên lặng, sau đó vài tiếng nổ lách tách và xe tăng VC từ từ bốc cháy, anh em trong khu tiếp tân đứng lên reo ḥ vang dậy (sau này mới biết bộ binh VC nằm đầy chung quanh nhưng không hiểu v́ sao không cứu chiếc xe tăng đó).

Một lúc sau, nghe tiếng anh em từ hướng cổng reo ḥ ầm ĩ, tôi nh́n ra th́ thấy trên xe jeep của chỉ huy trưởng (tôi không nhớ là ai, v́ lúc đó c̣n trẻ ham chơi, không cần biết ai là xếp ḿnh hết), một SVSQ-KQ tay cầm một khẩu AK chiến lợi phẩm lấy được từ pháo tháp xe tăng, được chỉ huy trưởng chở đi khắp trường BBTĐ để anh em hoan hô.

Không lâu sau đó, nh́n nét mặt thẫn thờ của anh truyền tin tḥ tay mở hết volume của máy truyền tin cho anh em nghe lời kêu gọi buông súng chờ bàn giao của Tổng thống Dương Văn Minh, và kế tiếp là lời kêu gọi của chỉ huy trưởng trung tâm là các đơn vị nhận được lệnh buông súng phải bắn trái sáng màu trắng lên trời để VC không nổ súng tấn công….Thế là hết Việt Nam Cộng Ḥa đă bị khai tử… Nh́n ra hàng rào, ẩn hiện dưới góc nhà, gốc cây, dầy đặc lính chính quy VC mặc đồng phục cầm AK. Trong sự yên lặng chờ đợi th́ bất ngờ một tràng súng đại liên M60 nổ ḍn ở hướng cổng rồi im bặt. Có lẽ của một anh nào đó không muốn đầu hàng VC. Một lúc sau th́ một chiếc xe jeep của ḿnh dẫn đầu một đoàn xe Molotova chở đầy VC vơ trang súng đạn đầy ḿnh từ từ tiến vào, rải giấy thông hành, truyền đơn kêu gọi về quê làm ăn. Để an toàn, tôi cúi xuống lượm một tờ giấy thông hành nhét vào túi rồi cùng anh em đi ra cổng.

Phan Thế Nhân
Hội AHKQ-NSW, AUSTRALIA
(nguồn: Lư Tưởng – Úc Châu)


CHÚ THÍCH của Lư Tưởng – Úc Châu:
SVSQ Nguyễn Kim Đỉnh (Hội AHKQ Queensland, Úc-đại-lợi), một người nằm tại tuyến đầu lúc đó, đă mục kích tận mắt chiến tích này của hai chàng SVSQ/KQ điếc không sợ súng vào giờ thứ 25!
Về việc bộ đội VC lúc đó nằm đầy chung quanh nhưng không cứu chiếc xe tăng, theo suy luận của chúng tôi, rất có thể v́ chúng chưa biết “lực lượng” của ta gồm những đơn vị nào, mạnh yếu ra sao, cho nên cứ án binh bất động để giữ mạng cùi!

hoanglan22
03-12-2021, 21:55
- Hơn 1 ngàn Cộng quân tử trận, 32 chiến xa CSBV bị bắn cháy trong trận chiến sáng ngày 30-4-1975 tại pḥng tuyến Sài G̣n

Vào những ngày cuối cùng của tháng 4/1975, trong khi những người lănh đạo tối cao của quốc gia và quân đội t́m mọi cách để ra đi, th́ tại mặt trận ṿng đai Sài G̣n và ngay trong Thủ đô của Việt Nam Cộng Ḥa, người lính Quân lực VNCH từ anh binh nh́ cho đến các trung đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng... thuộc các binh đoàn bộ chiến, vẫn giữ vững tay súng tử chiến với Cộng quân đến phút cuối cùng.



Từ 0 giờ sáng đến 10 giờ ngày 30/4/1975, trên các cửa ngơ vào thủ đô Sài G̣n, những người lính Bộ binh, Nhảy Dù, Biệt kích Nhảy Dù, Biệt động quân, Thiết giáp, Thủy quân Lục chiến... đă đánh trận cuối cùng trong đời lính của họ: 32 chiến xa và gần 30 quân xa Cộng quân bị bắn cháy, hơn 1,000 Cộng quân tan xác... Đó là chiến tích của người lính VNCH tại mặt trận Thủ Đô Sài G̣n trong buổi sáng cuối cùng của cuộc chiến, trước khi ông Dương Văn Minh ra lệnh Quân lực VNCH buông súng vào lúc 10 giờ 15 phút ngày 30/4/1975. Trong những giờ phút cuối cùng này, tại Sài G̣n, trái tim của Việt Nam Cộng Ḥa, có rất nhiều sự kiện diễn ra dồn dập, những trận đánh hào hùng và bi tráng của một số đơn vị Nhảy Dù, Biệt Cách Nhảy Dù... trước giờ G.

- Bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH, những giờ cuối cùng:

Trưa ngày 29 tháng 4/1975, các vị tướng có thẩmquyền tại Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH đă ra đi. Đại tướng Viên rời Việt Nam từ chiều 28/4/1975 cùng với Chuẩn tướng Thọ (trưởng pḥng 3); Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham mưu trưởng Liên quân Bộ Tổng tham mưu kiêm Tổng cục trưởng Tiếp vận ra đi vào lúc 11 giờ 30 ngày 29/4/1975. Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Biệt khu Thủ đô cũng đă "chia tay" với các cộng sự viên của ḿnh từ sáng ngày 29/4/1975. Để có tướng lănh chỉ huy Quân đội, tân Tổng thống Dương Văn Minh đă cử một số tướng lănh và cựu tướng lănh giữ các chức vụ trọng yếu: Trung tướng Vĩnh Lộc giữ chức Tổng Tham mưu trưởng; Nguyễn Hữu Hạnh, Chuẩn tướng, đă về hưu từ tháng4/1974, làm Phụ tá Tổng tham mưu trưởng; cựu Thiếu tướng Lâm Văn Phát, được cử làm Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô; chuẩn tướng Lê Văn Thân, nguyên Tư lệnh phó Quân khu 2,làm Tư lệnh phó phụ giúp Tướng Phát; Chuẩn tướng Nguyễn Văn Chức, nguyên Cục trưởng Công binh, Thứ trưởng Định cư trong Nội các Nguyễn Bá Cẩn, giữ chức Tổng cụctrưởng Tiếp vận.

Sau khi nhận chức Tổng tham mưu trưởng, chiều 29/4/1975, Trung tướng Vĩnh Lộc đă triệu tập một cuộc họp với các tướng lănh và sĩ quan cao cấp đang c̣n ở lại Sài G̣n tại pḥng họp bộ Tổng Tham Mưu và yêu cầu "mọi người đừng bỏ đi, hăy ở lại để làm việc vớitất cả trách nhiệm".

- Trận chiến tại các cửa ngơ vào Sài G̣n:

Tại pḥng tuyến Củ Chi, tối 29/4/1975, toàn bộ quân trú pḥng và bộ Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh mở đường máu về Hóc Môn. Riêng Chuẩn tướng Lư Ṭng Bá, Tư lệnh Sư đoàn và một Thượng sĩ cận vệ tên Ngọc đă phải thay nhau làm khinh binh với chiến thuật cá nhân để thoát khỏi ṿng vây của Cộng quân. Cuối cùng vị tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh bị lọt vào tay địch khi ông và người cận về gần đến Hóc Môn.

Tại mặt Nam của Sài G̣n, ngay từ ngày 28/4/1975, bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô không c̣n quân trừ bị để giải tỏa áp lực của Cộng quân. Một liên đoàn Biệt động quân đang hành quân dọc theo quốc lộ 4 phía nam Bến Tranh đă được điều động về quận lỵ Cần Đước theo liên tỉnh lộ 5A vào buổi trưa và đặt dưới quyền điều động của bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Liên tỉnh lộ nối liền Chợ Lớn và Cần Đước cũng bị cắt nhiều đoạn nên các lực lượng VNCH không thể phá vỡ được các chốt chận của Cộng quân tại cầu Nhị Thiên Đường (khu vực này bị Cộng quân chiếm từ rạng sáng ngày 29/4/1975).
Trong khi trận chiến xảy ra tại nhiều nơi th́ kho đạn Thành Tuy Hạ lại bị pháo kích nặng nề nên phát nổ nhiều nơi. Hệ thống truyền tin liên lạc với bộ chỉ huy Kho đạn bị mất vào lúc 1 giờ chiều. Xe tăng Cộng quân xuất hiện tại Cát Lái và bắn vào cầu tàu chất đạn chưa được bốc dỡ.

Tại cụm pḥng tuyến khu vực từ ngă tư Quân Vận (gần trung tâm huấn luyện Quang Trung) đến cầu Tham Lươn Bà Quẹo; B́nh Thới-Ngă ba Bà Quẹo; Bảy Hiền-Lăng Cha Cả, đơn vị Nhảy Dù pḥng ngự tại đây đă nỗ lực ngăn chận Cộng quân. Những người lính Dù không hề nao núng, b́nh tĩnh chuẩn bị cho trận đánh giờ thứ 25.

Tại ṿng đai Bộ Tổng Tham Mưu, một chiến đoàn thuộc Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù do thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy đă dàn quân chận địch, từ 8 giờ sáng đến 10 giờ sáng, chiến đoàn này đă bắn cháy 6 chiến xa Cộng quân và nỗ lực đánh bật địch ra khỏi trận địa.



- Những trận đánh trước giờ G...

Từ sáng sớm ngày 30 tháng 4, tại các mặt trận quanh Sài G̣n và Biên Ḥa, các đơn vị của Sư đoàn 5BB, Sư đoàn 18BB, Lữ đoàn 3 Thiết kỵ, các đơn vị Dù, Thủy quân Lục chiến, Biệt động quân... đều đặt trong t́nh trạng sẵn sàng ứng chiến để chận đánh Cộng quân. Tại bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Thiếu tướng Lâm Văn Phát từ sáng sớm đă dùng trực thăng bay quan sát t́nh h́nh, vừa đáp xuống bộ Tư lệnh ông gọi máy liên lạc với Chuẩn tướng Tần, sĩ quan cao cấp nhất của Không quân vào lúc đó. Tướng Phát yêu cầu Tướng Tần cho các phi tuần khu trục liên tục oanh kích Cộng quân đang chuyển quân dọc theo con đường từ ngả tư Bảy Hiền lên đến Hóc Môn.

Trong khi các đơn vị VNCH đang nỗ lực đẩy lùi Cộng quân ra khỏi bộ Tổng tham mưu, th́ vào 10 giờ 15 phút, tân Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa ngưng chiến. Trước đó vài phút, chiến đoàn Biệt Cách Dù đang tung các đợt phản công để đánh bật địch quanh ṿng đai Bộ Tổng Tham Mưu. Khi nhận được lệnh ngưng bắn, Thiếu tá Phạm Châu Tài, chiến đoàn trưởng Biệt Cách Dù đă lấy xe jeep vào Bộ Tổng Tham Mưu, ông được anh em binh sĩ gác cổng cho biết là Trung tướng Vĩnh Lộc, Tân Tổng Tham mưu trưởng, đă ra đi lúc 6 giờ sáng, tất cả tướng lănh và các đại tá đă họp với Thiếu tá Tài về kế hoạch pḥng thủ Tổng hành dinh bộ Tổng Tham mưu trong đêm 29/4/1975, cũng không c̣n ai.

Trước t́nh h́nh đó, Thiếu tá Tài đă bốc điện thoại quay số gọi về văn pḥng Tổng Tổng phủ, gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh ở đầu giây. Ông Hạnh hỏi Thiếu tá Tài là ai? Vị chiến đoàn trưởng đă trả lời: "Tôi là chiến đoàn trưởng Biệt cách Nhảy Dù đang trách nhiệm bảo vệ bộ Tổng tham mưu, tôi xin được gặp Tổng thống". Vài giây sau, thiếu tá Tài nghe tiến ông Dương Văn Minh nói ở đầu máy: "Đại tướng Dương Văn Minh nghe đây, có chuyện ǵ đó?" Thiếu tá Tài tŕnh bày: "Tôi đang chỉ huy cánh quân tử chiến với Cộng quân ở Bộ Tổng Tham mưu th́ có lệnh ngưng bắn, nhưng Cộng quân vẫn tiến vào, tôi đă liên lạc với bộ Tổng Tham mưu nhưng không có ai, nên muốn nói chuyện với Tổng thống là Tổng Tư lệnh Tối cao của Quân đội để xin quyết định." Tướng Minh trả lời: "Các em chuẩn bị bàn giao đi!". Thiếu tá Tài ngạc nhiên hỏi lại: "Bàn giao là như thế nào thưa Đại tướng, có phải là đầu hàng không?", Tướng Minh đáp: Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập. Nghe tướng Minh cho biết như vậy, Thiếu tá Tài nói ngay: "Nếu xe tăng Việt Cộng tiến vào dinh Độc Lập, chúng tôi sẽ đến cứu Tổng thống". Tướng Minh suy nghĩ, Thiếu tá Tài nói tiếp: "Tổng thống phải chịu trách nhiệm trước 2 ngàn cảm tử quân đang tử chiến với Cộng quân ở bộ Tổng tham mưu." Tướng Minh trả lời: "Tùy các anh em".



Theo lời Thiếu tá Tài, sau này, khi bị CQ giam trong trại tù, ông đă găp trung tá Vơ Ngọc Lan, Liên đoàn trưởng Liên đoàn pḥng vệ Tổng thống Phủ. Trung tá Lan nói với Thiếu tá Tài: "Lúc đó, moa đứng cạnh ông tướng Minh, moa nghe toa nói vào cứu Tổng thống". Thiếu tá Tài giải thích: "Tổng thống là vị lănh đạo tối cao của Quân lực, phải cứu ông ra để có người chỉ huy Quân đội".

***************
Tài Liệu Đặc Biệt: Mật Tŕnh Của Tướng Weyand & Tài Liệu Tướng Nguyễn Văn Hiếu

- Từ chuyến viếng thăm VN của Đại tướng Weyand, đến cái chết bí ẩn của Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư lệnh phó hành quân Quân đoàn 3, ngày 8-4-1975.

Như đă tŕnh bày, vào tuần lễ cuối cùng của tháng 3/1975, Tổng thống Ford đă cử Đại tướng Frederick C. Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, đến Việt Nam để t́m hiểu t́nh h́nh. Đại tướng Weyand là một vị tướng đă từng phục vụ ở chiến trường Việt Nam qua nhiều chức vụ khác nhau: Tư lệnh Sư đoàn 25 Hoa Kỳ, Tư lệnh Bộ chỉ huy tiền phương Lực lượng 2 đặc nhiệm, Tư lệnh phó bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam (tư lệnh là Đaị tướng Creighton W. Abrams), sau cùng là Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Yểm trợ Hoa Kỳ (MACV).

Đại tướng Weyan đă thăm và t́m hiểu t́nh h́nh VN từ ngày 28/3/1975 đến ngày 4/4/1975. Trở về Mỹ, ông đă làm một phúc tŕnh đặc biệt lên Tổng thống Ford về t́nh h́nh VN và những đề nghị khẩn cấp để cứu nguy VNCH.

Bốn ngày sau khi Đại tướng Weyand rời VN, vào ngày 8 tháng 4/1975, trong khi Cộng quân khai triển lực lượng để mở cuộc tấn công vào Long Khánh, th́ tại Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 ở Biên Ḥa, Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư lệnh phó Quân đoàn 3, đă chết một cách bí ẩn ngay tại văn pḥng. Những người gần văn pḥng của Tướng Hiếu nghe 1 tiếng súng nổ, 1 đại tá chạy qua th́ thấy Tướng Hiếu nằm bất động trên chiếc ghế bành bàn giấy. Một gịng máu tươi chảy chan hoà xuống mặt và ngực. Một viên đạn đă xuyên qua trán đi thẳng lên óc. Viên đạn này c̣n trớn bay lên trần nhà, soi thủng một lỗ.

- Tập tài liệu đặc biệt "Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu", và những bí mật về những phúc tŕnh của Sứ quán Mỹ tại Sài G̣n, và của Đặc sứ Tổng thống Mỹ.

30 năm sau ngày VNCH bị bức tử, những bí ẩn về cái chết của Tướng Nguyễn Văn Hiếu, từng là Phụ tá Phó Tổng tổng thống VNCH Trần Văn Hương đặc trách bài trừ tham nhũng, cùng những tài liệu mật về những phúc tŕnh của Đại sứ Bunker, của các tướng lănh Mỹ, đă được công bố qua tập tài liệu: "Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu, Một viên ngọc quân sự ẩn tàng", dày 546 trang, khổ giấy lớn, do ông Nguyễn Văn Tín, em ruột của Tướng Hiếu, sưu tầm và biên soạn với tất cả tấm ḷng của một người em đối với người anh được đồng đội vinh danh là "dũng tướng". Tập tài liệu vừa được phát hành vào cuối tháng 4/1975. Theo ghi nhận của một số cựu sĩ quan cao cấp và cựu viên chức Chính phủ VNCH, đây là tập tài liệu có giá trị về phương diện lịch sử và chiến sử với những bài viết, tài liệu về các cuộc hành quân lớn trên chiến trường VN, về sự tham chiến của Hoa Kỳ tại VN, về thực trạng chính trị xă hội VN, thông qua đời binh nghiệp của Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu từ khi theo học khóa 3 sĩ quan hiện dịch trường Vơ bị Liên quân Đà Lạt năm 1950 cho đến tháng 4/1975 qua các chức vụ: sĩ quan pḥng 3 Bộ Tổng tham mưu, Trưởng pḥng Quân đoàn 1, Tham mưu trưởng Sư đoàn 1 Bộ binh, Tham mưu trưởng Quân đoàn 1, Quân đoàn 2, Tư lệnh Sư đoàn 22, Tư lệnh 5 Bộ binh, Tư lệnh phó Quân đoàn 1, Phụ tá Phó Tổng thống đặc trách bài trừ tham nhũng, và chức vụ cuối cùng là Tư lệnh phó đặc trách hành quân của Quân đoàn 3.

- Báo cáo lượng định t́nh h́nh VNCH của Đại tướng Weyand đệ tŕnh lên Tổng thống Ford.

Trở lại chuyến thị sát t́nh h́nh VN của Tướng Weyand, sau khi trở về Mỹ, vị đại tướng này đă làm phúc t́nh lên Tổng thống Ford. Phúc tŕnh này đă được dịch và phổ biến trong tập tài liệu " Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu" (trang 315-328). Sau đây là những điểm chính của bản phúc tŕnh mà Đại tướng Weyand đệ tŕnh lên Tổng thống.

- Phần mở đầu, Đại tướng Weyand viết như sau:

"Vâng theo chỉ thị của Tổng Thống, tôi đă viếng thăm Nam Việt Nam trong thời gian từ 28/3 đến 4/4. Tôi đă hoàn tất công việc lượng định t́nh h́nh hiện tại đó, đă phân tách Chính Phủ Cộng Ḥa Việt Nam có những dự tính nào để phản công sự gây hấn từ phía Bắc Việt, đă cam kết với Tổng Thống Thiệu sự hỗ trợ kiên tŕ của Tổng Thống trong thời gian khủng hoảng này, và đă kiểm điểm các lựa chọn và các đường lối hành động mà Hoa Kỳ có thể thi hành để trợ giúp Nam Việt Nam."

"T́nh h́nh quân sự hiện tại đang lâm vào t́nh trạng gây cấn, và sự tồn tại của Nam Việt Nam trong tư thế một quốc gia đứt đoạn tại các tỉnh phía nam thật là mong manh. Chính Phủ Nam VN đang bên bờ vực thẳm của một sự thất bại quân sự hoàn toàn. Tuy nhiên, Nam Việt Nam dự tính tiếp tục chống cự với phương tiện có trong tay, và, nếu được phép dưỡng thở, có thể tái tạo khả năng chiến đấu tùy thuộc vào sự yểm trợ chiến cụ về phía Hoa Kỳ cho phép. Tôi xác tín là chúng ta có bổn phận phải hiến sự hỗ trợ này cho họ."

"Chúng ta đă tới Việt Nam, trước tiên là để hỗ trợ nhân dân Nam Việt Nam,-chứ không phải để đánh bại Bắc Việt. Chúng ta đă ch́a bàn tay ra cho nhân dân Nam Việt Nam, và họ đă nắm lấy bàn tay ấy. Giờ đây họ cần tới bàn tay đó hơn bao giờ hết. Bằng mọi giá chúng ta đă trợ giúp cho 20 triệu người. Họ đă nói với cả thế giới là họ lo sợ cho tính mạng của họ. Họ là những người ưa chuộng các giá trị trùng hợp với các giá trị của các hệ thống không cộng sản, họ tha thiết đeo đuổi cơ hội tiếp tục phát triển một lối sống khác lối sống của những người hiện sống dưới ách Bắc Việt."

- Về phần viện trợ, Đại tướng Weyand ghi nhận:

"Mức độ yểm trợ hiện tại của Hoa Kỳ bảo đảm cho sự thất bại của Chính Phủ Nam VN. Trong số 700 triệu mỹ kim cho tài khóa 1975, số c̣n lại 150 triệu mỹ kim có thể xử dụng trong một thời gian ngắn cho một cuộc tiếp tế qui mô; tuy nhiên, nếu muốn đạt được một cơ may thành công thật sự, cần có lập tức thêm 722 triệu mỹ kim để đưa Nam Việt Nam tới một thế pḥng thủ tối thiểu chống lại sự xâm chiếm được Nga và Tàu hỗ trợ. Sự viện trợ bổ túc này của Hoa Kỳ hợp với tinh thần và ư định của Hiệp Định Ba Lê. Hiệp Định này vẫn là phương thức thực tiễn làm việc cho một sự thỏa hiệp ôn ḥa tại Việt Nam."

"Việc xử dụng hỏa lực không quân Hoa Kỳ để tăng cường khả năng Nam Việt Nam chống lại sự xâm chiếm của Bắc Việt sẽ đem lại sự hỗ trợ cả trên hai b́nh diện chiến cụ và tâm lư đối với Chính Phủ Nam VN và đồng thời sẽ đem lại một thế tŕ hoăn cần thiết trên chiến trường. Tuy nhiên tôi nh́n nhận những phiền phức khả quan về mặt pháp lư và chính trị nếu thi hành chọn lựa này."

- Về kế hoạch di tản, Đại tướng Weyand đề nghị:

"Xét về mặt biến chuyển nhanh chóng của các biến cố, Tổng Thống cần phải quan tâm tới một vấn đề khác. Dựa trên các lư do thận trọng, Hoa Kỳ phải có ngay bây giờ một kế hoạch di tản đại qui mô 6 ngàn kiều dân Mỹ và hàng vạn người Nam Việt Nam và Đệ Tam Quốc Gia mà chúng ta có bổn phận phải bảo vệ. Bài học tại Đà Nẵng cho thấy công việc di tản này đ̣i hỏi tối thiểu một chiến đoàn Hoa Kỳ của một sư đoàn tăng cường yểm trợ bởi không lực tác chiến để dập tan pháo binh và hỏa lực pḥng của Bắc Việt. Khi t́nh thế đ̣i hỏi, một lời xác định công khai về chính sách này phải được công bố và Bắc Việt phải được cảnh cáo một cách rơ ràng : về ư định của Hoa Kỳ sẽ dùng tới vũ lực để bảo toàn tính mạng của các người được di tản. Hành Pháp phải được Quốc Hội cho toàn quyền xử dụng các h́nh phạt quân sự chống lại Bắc Việt nếu họ cản trở công cuộc di tản."

"Thế giới đánh giá sự trung tín của Hoa Kỳ trên tư cách một đồng minh tại Việt Nam. Để duy tŕ sự tin tưởng đó, chúng ta phải thực hiện một nỗ lực tối đa trong việc hỗ trợ cho Nam Việt Nam ngay bây giờ."

- Về vai tṛ và các lựa chọn hành động của Hoa Kỳ, Đại tướng Weyand đề nghị và phân tích như sau:

"Điều ǵ Hoa Kỳ làm, hay không làm, trong những ngày tới có lẽ là yếu tố định đoạt cho những biến cố xảy ra trong mấy tuần tới; điều này cũng đúng đối với điều ǵ Sàig̣n hay Hànội làm hay không làm. Một ḿnh Hoa Kỳ không thể cứu văn Nam Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ có thể, cho dù có vô t́nh đi nữa, xô đẩy Nam Việt Nam xuống hố chôn."

"Đề nghị cụ thể của tôi có thể được phân thành hai loại. Có những hành động ngắn hạn--một phần về mặt thể lư nhưng chính yếu về mặt tâm lư--cần để nâng tinh thần Nam Việt Nam và, nếu có thể, ép buộc đ́nh trệ hành động. Điều này chỉ mua được thời giờ, nhưng trong t́nh thế hiện tại thời giờ là điều tối cần. Thứ đến, có những hành động dài hạn, tuy mang tính chất vật chất nhưng cũng có khía cạnh tâm lư mạnh mẽ, cần thiết nếu muốn Nam Việt Nam có tí hy vọng tồn tại trước sự tàn phá của Bắc Việt hay thương thảo một hiệp ước khác hơn là đầu hàng."

"Điều kiện tiên quyết và cấp bách là Việt Nam cảm thấy Hoa Kỳ ủng hộ. Cảm quan này quan trọng về mọi mặt. Cảm quan Hoa Kỳ giảm thiểu ủng hộ Nam Việt Nam khuyến khích Bắc Việt tiếp tục tấn công. Chính cảm quan này đă khiến Việt Nam Cộng Ḥa bắt đầu triệt thoái khỏi các vị trí lẻ tẻ và lộ liễu tại các tỉnh phía bắc. Cảm quan này được cấu tạo bởi các hành động sau đây: Ngay sau khi kư kết Hiệp Định Ba Lê, 1.6 tỷ mỹ kim được đệ tŕnh để cung ứng cho nhu cầu của Nam Việt Nam cho tài khóa 1974; 1.126 tỷ mỹ kim được xuất ra--thanh thỏa 70% nhu cầu. Tiếp sau đó 500 triệu mỹ kim c̣n lại bị từ khước không được tháo khoán. Đối với tài khóa năm nay, 1.6 tỷ được đệ tŕnh để duy tŕ khả năng tự vệ của Nam Việt Nam; 700 triệu được chấp thuận--thanh thỏa 44 nhu cầu. Những hành động này đă giúp khai sinh khủng hoảng tin tưởng khiến Chính Phủ Nam VN dùng tới biện pháp triệt thoái chiến lược."

"Điều then chốt cho sự tồn tại sống c̣n của quốc gia Việt Nam nằm trong khả năng của Chính Phủ NVN ổn định t́nh thế, và đem các nguồn lực quân sự chống đối lại sức tấn công của Bắc Việt. Khả năng ổn định t́nh thế này tùy thuộc, một phần lớn, vào khả năng thuyết phục hạ tầng giới quân nhân và dân sự là chưa đến nỗi mất tất cả, và c̣n có thể chận đứng Bắc Việt. Tuy đó là trách vụ chính của Chính Phủ Việt Nam, các hành động về phía Hoa Kỳ mang tính chất quyết liệt trong việc tái tạo niềm tin."

"Hành động mà Hoa Kỳ có thể làm để gây nên ấn tượng tức khắc cho Việt Nam--Bắc lẫn Nam--là dùng không lực Hoa Kỳ để chận đứng thế tấn công hiện tại của Băc Quân. Cho dù chỉ giới hạn trên phần đất Nam Việt Nam và chỉ thực hiện trong một thời gian giới hạn, những tấn công này sẽ gây tổn thất lớn lao cho lực lượng viễn chinh Bắc Việt về mặt nhân sự và quân cụ, và sẽ tạo một chấn động về mặt tâm lư đối với các chiến binh xâm lăng. Những tấn công không tập này cũng sẽ khiến giới lănh đạo Hànội phải đắn đo suy nghĩ, thái độ mà hiện giờ họ không có, đến hậu quả tai hại có thể xảy đến nếu họ làm ngơ lời cam kết chính thức họ đă hứa với Hoa Kỳ."

"Giới lănh đạo quân sự Nam Việt Nam thuộc mọi cấp bậc đều luôn lập đi lập lại tầm mức quan trọng của sử dụng B-52 phản công chống lại một lực lượng địch to lớn hơn và quan điểm này hợp lư về mặt quân sự. Tôi ư thức đến các khó khăn về mặt pháp lư và chính trị gây nên bởi việc thi hành biện pháp không tập này."

"Một việc quan trọng mà Hoa Kỳ cần phải làm là xác định cách rơ ràng Hoa Kỳ quyết tâm ủng hộ Nam Việt Nam. Việc này phải bao gồm lời minh định tích cực của Tổng Thống và các giới chức cao cấp Mỹ. Tinh thần suy sụp của dân chúng Việt Nam đă hứng khởi lên rơ rệt khi phái đoàn Hoa Kỳ do Tổng Thống phái đi với nhiệm vụ điều tra t́nh h́nh đặt chân tới Sàig̣n. Có thêm những hành động tương tợ như vậy sẽ minh chứng mối quan tâm của Hoa Kỳ. Cộng thêm vào các lời xác định của Ngành Hành Pháp, cần thêm nỗ lực tạo một mối quan tâm chung tại mọi lănh vực trên đất Hoa Kỳ. Sự ủng hộ từ các thành viên của Quốc Hội; xác định lập trường ủng hộ từ các nhân vật có trọng trách trong và ngoài chính phủ; và sự thông cảm trong giới báo chí Hoa Kỳ sẽ cải biến cảm quan về phía Hoa Kỳ liên quan đến t́nh h́nh tại Việt Nam."

Vương Hồng Anh

hoathienly19
03-14-2021, 09:00
NHỮNG V̀ SAO THỜI LỬA ĐẠN



qiv9Qw6Iq00

hoanglan22
03-15-2021, 14:01
T́nh h́nh chung

Sau tháng 1/1973 VC vẫn tiếp tục vi phạm Hiệp định Paris, cuộc chiến vẫn tiếp diễn nhưng VNCH c̣n đủ mạnh, khoảng cuối 1973 Hạ viện Mỹ bắt đầu cắt giảm viện trợ 50% mỗi năm 1974, 1975 khiến miền Nam ngày càng suy yếu, CS ngày càng mạnh hơn . Ông Nguyễn đức Phương dựa theo M.Maclear (Vietnam: The ten Thousand Day war) cho biết vào ngày mất Ban Mê Thuột 13/3/1975 Hạ viện Mỹ bác bỏ 300 triệu viện trợ bổ túc cho VNCH do TT Ford đệ tŕnh. Đại sứ Martin cũng thông báo cho TT Thiệu biết quân viện cho năm tới (1976) sẽ không được chuẩn chi (Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 732). Tin sét đánh đă khiến TT Thiệu mất tinh thần để rồi đi từ sai lầm này đến sai lầm khác.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1756598&stc=1&d=1615816706

Nói trắng ra Hạ Viện Mỹ đă cạn tầu ráo máng buộc miền nam VN phải đầu hàng CS. Trong khi tại chính trường nước Mỹ vấn đề VN không được ai quan tâm tới, chỉ c̣n TT Ford và người phụ tá Kissinger cố gắng một cách tuyệt vọng để xin chút phương tiện cho VNCH. Vào lúc này đảng Dân Chủ nắm đại đa số Quốc hội Mỹ (67% Hạ viện và 60% Thượng viện), họ chống chiến tranh VN tích cực, đảng nọ phá đảng kia, bao giờ cũng vậy, ai cũng đều biết cả. Theo nhận xét của Kissinger (Years of Renewal trang 464) th́ TT Ford không t́m được giải pháp nào để thoát ra khỏi sự bế tắc, thảm kịch không thể nào tránh khỏi.

(… there were no easy, heretofore undiscovered way out of this morass…

The tragedy had become simply inevitable.)

Gerald Ford chẳng khác nào một ông Tổng thống bù nh́n, lại nữa ông đă không do dân bầu, lên thay thế TT Nixon khi mà đảng Cộng Ḥa bị mất quá nhiều uy tín qua vụ tai tiếng Watergate.

T́nh h́nh miền nam VN lúc này quá u ám, Hoa Kỳ đă bắt tay được Trung Cộng tháng 2/1972 và ḥa được với Sô Viết tháng 5/1972, thuyết Domino không c̣n ư nghĩa. Bây giờ là lúc họ quẳng cái miếng xương Đông Dương đi, được Cộng sản quốc tế khuyến khích, Hà Nội mừng rú vội chạy lại vồ ngay lấy. Năm 2006 trên internet tôi thấy có người hỏi cựu Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn:

“Chúng ta đă biết trước là thua tại sao vẫn đánh để khiến bao nhiêu người chết thảm?”
Một câu hỏi thật khó có câu trả lời…

Tối 29/3/1975 đài phát thanh BBC Luân Đôn cho biết Đà Nẵng đă thất thủ, một trăm ngàn quân bị bắt làm tù binh, đó cũng là ngày sụp đổ của toàn bộ Quân khu I, hung tin ghê gớm ấy đă khiến cho cả nước kinh hoàng: Quân khu I nơi tập trung những lực lượng tinh nhuệ và thiện chiến nhất của VNCH, bốn Sư đoàn chính qui chủ lực, bốn Liên đoàn Biệt động quân đă hoàn toàn tan ră sau 9 ngày cầm cự và triệt thoái. Mặc dù nay nhiều bí mật về cuộc lui binh đă được tiết lộ, Bộ Tổng tham mưu VNCH, các vị Tướng lănh, các giới chức quân sự liên hệ đă bạch hóa diễn tiến của trận chiến bi thảm này, các nhà nghiên cứu quân sử, các nhân chứng, kư giả chiến trường… đă biên soạn, kể lại diễn tiến của mặt trận vùng Hoả tuyến nhưng người ta tưởng như nó vẫn c̣n nhiều điều bí ẩn và khó hiểu, chưa bao giờ trong cuộc chiến tranh Quốc -Cộng giai đoạn 1960-1975 một lực lượng to lớn của miền Nam lại có thể thua nhanh đến thế. Cũng có người cho rằng tấn thảm kịch này bắt nguồn từ ảnh hưởng của những yếu tố chính trị hơn là về quân sự.

Các tài liệu, sách báo nói về cuộc lui binh Quân đoàn I của Bộ tổng tham mưu Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Thiếu Tướng Hoàng Lạc, nhà nghiên cứu quân sử Nguyễn Đức Phương, kư giả chiến trường Phạm Huấn và những lời thuật lại của các nhân chứng … nói chung không hoàn toàn giống nhau, có khi c̣n trái ngược nhau là khác.

Quân khu I là một giải đất dài và hẹp h́nh cán chảo chạy theo hướng Tây Bắc, Đông Nam, gồm 5 tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng tín, Quảng Ngăi, dân số vào khoảng ba triệu người. So với các Quân khu khác Vùng Một nhỏ hẹp nhất, đây là nơi tiếp giáp với Bắc Việt, chiến tranh có thể bùng nổ bất cứ lúc nào nên cũng gọi là vùng Hoả tuyến. Từ sau khi kư hiệp định Paris, nửa triệu quân đồng minh đă rút đi, VNCH một ḿnh phải gánh vác toàn bộ chiến trường. Lănh thổ quá rộng, không đủ lực lượng trấn giữ nên tại đây VNCH chỉ c̣n kiểm soát được phần đất nằm phía bên phải của giải đất theo chiều dọc tức là phía Đông, c̣n phía Tây do Cộng thuộc quyền kiểm soát của CSBV. Dần dần VNCH chỉ c̣n những tỉnh lỵ và thị xă và các quận do sự lấn chiếm theo lối tầm ăn dâu của địch, kể từ sau ngày 19/3/1975, nếu nh́n trên bản đồ quân sự (Cao Văn Viên, Những Ngày Cuối VNCH trang 166) ta sẽ thấy miền Nam chỉ c̣n kiểm soát được vào khoảng gần một phần ba (1/3) diện tích Quân khu 1.

Năm 1972 Quân khu I đă là một chiến trường lớn, nơi diễn ra những trận đánh ác liệt đẫm máu giữa các đại đơn vị của hai miền Nam Bắc .V́ t́nh h́nh sôi động đặc biệt của vùng hỏa tuyến ngoài ba Sư đoàn cơ hữu 1, 2, 3 của Quân đoàn, TT Thiệu c̣n cho hai Sư đoàn tổng trừ bị Nhẩy Dù và Thủy quân lục chiến ra đóng tăng cường. Đạn dược tiếp liệu ngày càng thiếu thốn bi đát, theo ông Cao Văn Viên (sách đă dẫn trang 92) từ tháng 7/1974 hoả lực miền Nam giảm hơn 70% và vào tháng 2/1975, đạn tồn kho các loại súng tại kho Trung ương chỉ c̣n đủ cung ứng khoảng một tháng (30 ngày).

Miền Nam không được Mỹ yểm trợ B52; tiếp liệu, đạn dược đă gần kiệt quệ, tài khóa 1974, 1975 bị cắt giảm 50% mỗi năm (Kissinger, Years of Renewal trang 472). Ngay từ cuối tháng 12/1974 khi BV xử dụng ba sư đoàn tấn công Phước Long, pháo binh VNCH tại đây đă phải đếm từng viên đạn để tiết kiệm hầu c̣n đủ chiến đấu (Kissinger, Years of Renewal, trang 490)

Trong khi ấy CS quốc tế vẫn tiếp tục viện trợ dồi dào cho BV. Theo BBCVietnamese.com ngày 10-5-2006, viện trợ quân sự CS quốc tế cho BV giai đoạn 1969-1972 là 684,666 tấn vũ khí, giai đoạn 1973-1975 là 649,246 tấn vũ khí coi như không thay đổi. Từ tháng 12/1974 Nga Sô đă viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp bốn lần hơn trước (Kissinger, Years of Renewal trang 481).

Nh́n sơ các con số và các dữ kiện trên chúng ta cũng đủ biết ai sẽ thắng , ai thua, về điểm này Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn có nói

“Xin nhắc lại một lần nữa, nguyên nhân sâu xa của sự sụp đổ của Miền Nam là không có viện trợ (phương tiện chiến tranh)

(Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954-1975, trang 406)

Cuối năm 1974 t́nh h́nh chiến sự ở Quân khu I yên lặng được một thời gian, VNCH đẩy lui cuộc tấn công của BV vào đồng bằng Tây Nam Đà Nẵng, CSBV có lợi thế về địa h́nh, v́ gần hậu cần miền Bắc, họ được bổ sung quân số và tiếp liệu thuận lợi. Từ tháng 6 cho tới cuối năm 1974 các lực lượng Quân đoàn I của VNCH bị tổn thất trong các trận giao tranh không được bổ sung nên quân số thiếu hụt. Quân khu 1 được chia làm hai khu Bắc và Nam, Bắc gồm hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên dưới quyền Bộ Tư lệnh tiền phương do Trung tướng Lâm Quang Thi chỉ huy, ba tỉnh c̣n lại Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngăi do Tư lệnh Quân đoàn Trung Tướng Ngô Quang Trưởng trực tiếp chỉ huy.

Bố trí chủ lực quân VNCH như sau:

-Sư đoàn Nhẩy Dù vàTQLC, Lữ đoàn 1 Thiết kỵ từ Bắc Thừa Thiên lên tới Nam sông Thạch Hăn kéo dài sang phía Tây Quảng Trị.

Lực lượng cơ hữu của Quân khu và các Liên đoàn Biệt động quân bảo vệ các tỉnh c̣n lại:

– Sư đoàn 1BB và Liên đoàn 15 Biệt động quân đóng tại Thừa Thiên.

– Sư đoàn 3 BB và Liên đoàn 14 BĐQ đóng tại Đà Nẵng, Quảng Nam.

– Sư đoàn 2 BB và hai liên đoàn 11, 12 BĐQ bảo vệ Quảng Tín, Quảng Ngăi.

(Theo Nguyễn đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 751)

Các đơn vị yểm trợ gồm trên 10 tiểu đoàn pháo binh, một tiểu đoàn pḥng không, một lữ đoàn thiết kỵ. Hải quân gồm các giang đoàn xung phong, trục lôi, tuần thám tại Thuận An, các duyên đoàn tại Cửa Việt, tại Thuận An, Tư Hiền… Sư đoàn 1 Không quân đóng tại Đà Nẵng. Quân số của Quân đoàn vào khoảng 90,000 chủ lực và 75,000 địa phương quân, nghĩa quân, số gồm cả thành phần không tác chiến. Đây chỉ là con số lư thuyết, trên thực tế th́ thấp hơn không được như vậy v́ nhiều lư do.

Lực lượng Cộng sản tại Quân khu I chia hai địa bàn hoạt động lấy đèo Hải Vân làm ranh giới do các Tướng Lê Tư Đồng, Nguyễn Hữu An, Chu Huy Mân chỉ huy. Theo tác giả Nguyễn Đức Phương tại đây Bắc việt có 7 sư đoàn (324B, 325, 320B, 312, 304, 711, 2) và 3 Trung đoàn độc lập tổng cộng vào khoảng 8 sư đoàn (Sách đă dẫn trang 752).

Theo ông Cao Văn Viên, tại đây BV có 5 sư đoàn (341, 325C, 324B, 304, 711), 10 trung đoàn độc lập (52, 4, 5, 6, 27, 31, 48, 51, 270, 271), 3 Trung đoàn đặc công (5, 45, 126), toàn bộ vào khoảng hơn 8 Sư đoàn. Lực lượng cơ giới yểm trợ gồm 3 Trung đoàn xe tăng, 12 Trung đoàn pḥng không, 8 Trung đoàn pháo binh (Những Ngày Cuối Của VNCH trang 160).

Theo Nguyễn Đức Phương lực lượng địch tổng cộng vào khoảng 71,000 người. Bắc Việt có ưu thế về vũ khí đạn dược hơn VNCH rất nhiều, chủ lực quân coi như gấp hai.

Diễn tiến của mặt trận

Trong khi mở chiến dịch Ban Mê Thuột, CSBV tại Quân khu I cũng xâm nhập đánh phá các nơi để cầm chân quân đội VNCH như tại Quảng Trị, họ chiếm quận Hải Lăng Bắc Thừa Thiên, xâm nhập các xă ven biển Thừa Thiên. Phía Nam đánh các cao điểm của Sư đoàn I, tấn công tuyến sông Bồ nhưng bị đẩy lui bỏ lại 200 xác chết, tại Quảng Tín địch chiếm 2 quận Tiên phước, Hậu Đức ngày 10/3 bắn phá tỉnh lỵ Tam Kỳ…

Ngày 11/3, sau khi CS tấn công chiếm Ban mê Thuột một ngày, Tổng thống Thiệu triệu tập phiên họp tại Dinh Độc Lập, có mặt Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang. TT Thiệu cho biết trước t́nh h́nh khó khăn do quân viện bị cắt giảm, áp lực địch mạnh, ta chỉ có thể giữ được Quân khu III, Quân Khu IV và một vài tỉnh duyên hải QK I và QK II, QK I chỉ giữ Huế và Đà Nẵng (Những Ngày Cuối Của VNCH trang 129, 130, 131)

Trong lúc t́nh h́nh quân sự có vẻ không thuận lợi cho ta th́ theo yêu cầu của TT Thiệu, Bộ TTM lệnh cho Tướng Trưởng trả Sư đoàn Nhẩy Dù về Trung ương.

Ngày 13/3 TT Thiệu lệnh cho Tướng Trưởng về Sài G̣n họp Hội Đồng an ninh Quốc gia, thành phần gồm Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn. Ông Thiệu cho biết t́nh h́nh khó khăn do cắt giảm quân viện, ông không tin Mỹ sẽ can thiệp dù Cộng Sản tấn công miền Nam nên phải tái phối trí lực lượng, rút quân bỏ những miền cao nguyên rừng núi để giữ những vùng mầu mỡ c̣n hơn đứng chung chính phủ Liên Hiệp với Cộng Sản.

Ngày 14/3 Tướng Trưởng về Quân đoàn I họp tham mưu, thảo luận kế hoạch tái phối trí, Nhẩy Dù sẽ rút về Sài G̣n, hôm sau Liên đoàn 14 BĐQ nhận vùng trách nhiệm của Lữ đoàn TQLC 369 tại Quảng Trị để Lữ đoàn này về Phú Lộc thay Lữ đoàn Dù, một lữ đoàn TQLC sẽ chịu trách nhiệm khu vực sông Bồ để bảo vệ Huế.

Ngày 17/3 Lữ đoàn 258 TQLC sẽ rời Quảng Trị để về Đà Nẵng thay lữ đoàn 2 Dù. Dân chúng sợ hăi đă di tản ồ ạt trên quốc lộ Một từ mấy ngày nay làm cản trở việc điều quân tái phối trí.

Ngày 18/3 Thủ tướng Trần Thiện Khiêm ra Đà Nẵng để giải quyết vấn đề dân tỵ nạn, ông cho Tướng Trưởng biết sẽ không tăng viện Quân khu I v́ t́nh h́nh Quân khu III nghiêm trọng, Việt Cộng đánh Dầu Tiếng, áp lực Tây Ninh, Long Khánh, B́nh Tuy…

Ngày 19/3 Tướng Trưởng được triệu về Sài G̣n họp lần thứ hai, thành phần phiên họp cũng như lần trước nhưng có thêm Phó tổng thống Trần Văn Hương. Tướng Trưởng tŕnh bầy hai kế hoạch lui binh:

Kế hoạch Một: các đơn vị sẽ theo Quốc lộ Một từ Huế, Chu lai về Đà Nẵng, trong trường hợp Quốc lộ Một bị cắt th́ sẽ theo kế hoạch Hai.

Kế hoạch Hai: Các lực lượng Quân đoàn sẽ tập trung tại ba cứ điểm Huế, Đà Nẵng và Chu Lai, tầu Hải quân sẽ chuyên chở lính từ Huế, Chu Lai về Đà Nẵng. Trong cả hai kế hoạch Đà Nẵng là điểm pḥng thủ chánh, điểm tựa cuối cùng, Tướng Trưởng đề nghị giữ cả ba cứ điểm để phân tán lực lượng địch và gây tổn thất tối đa cho Việt Cộng, ông Thiệu cho biết giữ được bao nhiêu hay bấy nhiêu.

Ông Cao Văn Viên cho rằng kế hoạch của Tướng Trưởng là hợp lư.

“Kế hoạch lui quân của Quân đoàn 1 soạn thảo rất hợp lư và đầy đủ, gồm kế hoạch dự pḥng để đối phó với những bất ngờ do địch gây ra. Khi trận chiến khai diễn như Kế Hoạch Hai dự trù và các đơn vị của Quân đoàn 1 rút hết về Đà Nẵng, chúng ta chỉ c̣n hai hành động phải làm: Cố thủ tại chỗ hoặc rút bằng đường biển nếu t́nh thế bắt buộc. Như vậy vào thời điểm trên, đâu c̣n cần đến kế hoạch dự pḥng nào khác”

(Những Ngày Cuối Của VNCH Trang 163)

Thật ra kế hoạch nghe th́ hay nhưng thực hiện được lại không phải dễ, thực tế rất phũ phàng, BV tấn công gấp rút, dân chúng di tản làm náo loạn khiến binh sĩ mất tinh thần. TT Thiệu lệnh cho Tướng Trưởng cố gắng giữ được tất cả những phần đất có trong tay sau đó ông bảo Tướng Quang soạn bài hiệu triệu trên đài phát thanh Huế để trấn an dân chúng, quyết bảo vệ Huế đến cùng. Buổi họp này không thấy nói đến triệt thoái mà chỉ là kế hoạch co cụm để giữ đất.

Ngày 19/3 Quảng Trị bỏ ngỏ, chi đoàn Thiết giáp, liên đoàn 14 BĐQ rút về bên này Mỹ chánh lập pḥng tuyến mới. Cộng quân bắt đầu tấn công mạnh vào Quân khu. Theo Tướng Hoàng Lạc, Giám mục Phạm Ngọc Chi địa phận Đà Nẵng và Giám mục Nguyễn Kim Điền khuyên không nên đổ máu vô ích v́ các siêu cường đă sắp đặt cả rồi.

Sáng 20/3 Tướng Trưởng bay ra bộ chỉ huy tiền phương họp các cấp chỉ huy bàn kế hoạch pḥng thủ Huế như Tổng thống ra lệnh phải giữ bằng mọi giá. T́nh h́nh mặt trận tương đối c̣n tốt đẹp, các đơn vị hoàn hảo, tinh thần cao duy tŕ được kỷ luật, ai nấy đồng ḷng tử thủ, dân chúng di tản nhiều. Tướng Trưởng lạc quan khi thấy Huế pḥng thủ tốt. Trưa hôm đó ông Thiệu đọc hiệu triệu dân trên đài phát thanh Huế. Đến chiều khi về tới Đà Nẵng TướngTrưởng nhận được lệnh của dinh Độc Lập chỉ giữ Đà Nẵng thôi nếu t́nh h́nh bó buộc, ông Thiệu lư luận Quân đoàn I không đủ lính để bảo vệ cả ba cứ điểm Chu lai, Huế và Đà Nẵng. Tướng Trưởng được quyền tùy cơ ứng biến.

Quân khu I ngày một nguy ngập, Cộng quân đă bắt đấu tấn công mạnh theo thế gọng ḱm từ trên Quảng Trị đánh xuống và từ dưới Quảng Ngăi đánh lên, dân chúng chạy loạn ồ ạt từ Huế kéo về Đà Nẵng, từ Quảng Nam Quảng Ngăi kéo lên. Ngày 21/3 địch tấn công Phú Lộc, áp lực mạnh trên Quốc lộ Một, dân tản cư đông như kiến từ Huế về Đà nẵng. Sư đoàn I VNCH có pháo binh và không quân yểm trợ đẩy lui cuộc tấn công của BV nhưng họ có ưu thế về lực lượng nên Sư đoàn 1 cầm cự đến trưa ngày 22 th́ thất thủ, Trung đoàn 1 BB (SĐ1) và Liên đoàn 15 Biệt động quân bị đẩy lui, một khúc đường Quốc lộ Một bị cô lập, Trung đoàn I bị thiệt hại nặng, Tướng Trưởng ra lệnh thu gọn tuyến pḥng thủ Huế.

Dân chúng và quân cụ bắt đầu được chở bằng tầu ra khỏi Đà Nẵng, ngày 23/3 Việt Cộng pháo kích Huế rời rạc không gây thiệt hại ǵ nhiều nhưng khiến dân chúng hốt hoảng náo động như hỗn loạn. Tại phía Nam Vùng Một t́nh h́nh nguy ngập khi quận Hậu Đức, Tiên Phước thuộc Quảng Tín bị Việt cộng chiếm, Sư đoàn 2 và Liên đoàn 12 BĐQ chặn được áp lực địch tấn công về Tam Kỳ và các vùng duyên hải. Trước áp lực dồn dập của Cộng quân Tướng Trưởng ra lệnh di tản 2 quận Sơn Trà, Trà Bồng Quảng Ngăi, những tiền đồn xa tiếp tế cũng được di tản, Tướng Trưởng cho gom các lực lượng rời rạc lại để bảo vệ những điểm trọng yếu vào trận cuối cùng. Sự chỉnh đốn của Tướng Trưởng đem lại chút b́nh yên gượng gạo cho 2 tỉnh Quảng Ngăi và Quảng Tín trong 2 ngày.

Sáng ngày 24/3 tại phía Nam Quân khu 1, BV tấn công mạnh tại Quảng Tín, Sư đoàn 711, Trung đoàn 52 BV và xe tăng đánh Tam Kỳ, đặc công đột nhập tỉnh lỵ thả tù gây rối loạn đến trưa th́ Tam Kỳ thất thủ. Trung đoàn 2 thuộc Sư đoàn 3 VNCH từ Quảng Nam được lệnh tiến về Quảng Tín để giúp Địa phương quân chạy từ Tam Kỳ về. Tam kỳ mất, dân ùn ùn chạy về Đà Nẵng. Tại Quảng Ngăi Cộng quân tấn công dữ dội, đặc công và địa phương quân Việt Cộng tại Quảng Ngăi tấn công phi trường, các cơ sở hành chánh quân sự Quảng Ngăi. Đường Quốc lộ Một từ Quảng Ngăi tới Chu lai bị cắt đứt, đường ra biển bị cô lập, chỉ trong một ngày t́nh h́nh Quân khu 1 rối loạn đến mức không c̣n kiểm soát được nữa. Quân đoàn chấp thuận cho tiểu khu Quảng Ngăi mở đường máu về Chu Lai nhưng chỉ có vài đơn vị về được.

Ngày 25/3 tất cả các đơn vị Quân đoàn I tụ lại 3 pḥng tuyến chính: Chu Lai phía nam, Đà Nẵng ở giữa và Huế phía Bắc, các lực lượng của Quân đoàn I bị thiệt hại nhiều khi di tản về các pḥng tuyến này, tinh thần binh sĩ xuống thấp, ai nấy chán nản chưa bao giờ trong đời chinh chiến họ thấy tuyệt vọng như hiện nay. Trong t́nh thế khó khăn Tướng Trưởng lại nhận thêm một lệnh nữa từ dinh Độc Lập, TT Thiệu lệnh cho Tướng Trưởng dùng ba Sư đoàn cơ hữu của Quân đoàn: SĐ1, SĐ2, SĐ3 để pḥng thủ Đà Nẵng, Sư đoàn TQLC đóng vai trừ bị. Đêm đó Tướng Trưởng cho Sư đoàn I và các đơn vị quanh Huế rút về Đà Nẵng, ông lệnh cho Sư đoàn 2, Chi khu Quảng Ngăi và thân nhân của họ rút ra Cù Lao Ré, một đảo ngoài khơi Chu lai. Hai tầu dương vận hạm đón Sư đoàn 2 tại Chu lai đưa về Cù Lao Ré, cuộc vận chuyển thành công hơn mặc dù có hỗn loạn nhưng một nửa quân số của Sư đoàn 2 đă lên tầu đưa về B́nh Tuy, chính phủ tuyên bố Huế và Chu lai thất thủ ngày 25/3.

Các lực lượng Huế bắt đầu di tản, Sư đoàn I và các đơn vị cơ hữu rút ra cửa Tư Hiền. Hải quân và công binh sẽ bắc cầu để quân di tản đi ngược vào đất liền rồi dùng đường bộ về Đà Nẵng. Sư đoàn TQLC và các đơn vị trực thuộc sẽ triệt thoái bằng tầu Hải quân. Sáng ngày 26/3 biển sóng to làm đ́nh trệ cuộc vận chuyển, cầu nối giữa Tư Hiền và đường bộ chưa hoàn tất. Đến trưa thủy triều dâng cao không thể vượt biển được trong khi ấy Cộng quân đuổi theo nă pháo vào cửa Tư Hiền và các địa điểm tập trung gây nhiều thiệt hại, hỗn loạn diễn ra không c̣n quân kỷ, Sư đoàn I tan ră tại đây chỉ có một phần ba về được đến Đà nẵng, tới nơi họ ră ngũ đi t́m thân nhân.

Trong khi đó th́ Lữ đoàn kỵ binh với hơn 100 thiết giáp các loại từ mặt trận Bắc Huế tiến về cửa Thuận An, theo sau là các đơn vị pháo binh với hằng trăm khẩu pháo, TQLC, BĐQ, ĐPQ từ tuyến sông Bồ đang lũ lượt kéo về, hỗn loạn lại diễn ra. Hai tầu dương vận hạm đến cửa Thuận An để chở TQLC, tầu hải vận đĩnh và quân vận đĩnh chở người từ bờ ra dương vận hạm.

Sư đoàn 325 CS chuyển vào Quảng Nam phối hợp với sư đoàn 304 CS tấn công Đà Nẵng, Sư đoàn 2 CS cũng tiến về thành phố. Quân đội VNCH lập pḥng tuyến pḥng thủ bảo vệ Đà Nẵng, phía Tây 2 lữ đoàn TQLC, phía Nam Sư đoàn 3 và ĐPQ Quảng Nam. Ngày 27/3/1975 các cuộc pḥng thủ Đà Nẵng thành ra vô hiệu trước sự hỗn loạn, Cộng quân dồn nỗ lực bao vây thành phố. Từ bắc Đà Nẵng hai Sư đoàn 324B và 325C CSBV cùng với Trung đoàn xe tăng và hai Trung đoàn pháo tiến dọc theo thung lũng Voi bao vây thành phố. Phía Nam Sư đoàn 711, 304 BV tiến chiếm Đại Lộc và Dục Đức, Đà Nẵng đă nằm trong tầm pháo của quân thù. Tại thành phố lớn thứ hai của miền nam này Quân đoàn I chỉ c̣n có Sư đoàn 3 và 2 lữ đoàn TQLC, các Sư đoàn 1 và 2 đă bị ră ngũ trên đường triệt thoái, một phần đă được tầu chở ra khơi, lực lượng không đủ để đương đầu với áp lực quá đông của BV, lại nữa thành phồ với hằng triệu người tỵ nạn đă trở nên hỗn loạn không thể nào kiểm soát được.

Sáng ngày 28/3/1975 Tướng Trưởng họp khẩn cấp các đơn vị trưởng ban hành một số biện pháp văn hồi trật tự và tái trang bị các đơn vị di tản trong thành phố nhưng ta không c̣n đủ quân tác chiến để thực hiện kế hoạch này. Các quân nhân có mặt được sung vào các đơn vị tác chiến nhưng không đủ để bù vào thiệt hại do cuộc triệt thoái gây ra. Trưa 28/3 Pḥng 2 thuộc Bộ TTM cho Quân đoàn I biết Cộng quân có thể tấn công trong đêm, Sư đoàn I Không quân được lệnh di tản về Phù Cát, Phan Rang, Quân đoàn I ban lệnh ứng chiến tại các tuyến pḥng thủ. Hai giờ trưa các xă ấp quanh Đà Nẵng đă lọt vào tay Cộng quân. Địa phương quân, nghĩa quân tan ră, binh sĩ ră ngũ rời đơn vị.

CSBV pháo phi trường, căn cứ Hải quân khi trời vừa tối rất dữ dội và chính xác nhờ những toán đặc công, tiền pháo viên chỉ điểm hướng dẫn. Tướng Trưởng vội báo cáo về Bộ Tổng tham mưu và gọi cho Tổng thống Thiệu xin di tản bằng đường biển. Tướng Thiệu không ra lệnh rơ ràng chỉ hỏi vu vơ nếu di tản th́ có thể được bao nhiêu. Pháo kích của BV khiến cho liên lạc giữa Sài G̣n và Đà Nẵng bị cắt đứt, Tướng Trưởng lập tức ra lệnh bỏ Đà Nẵng, ông họp với Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư lệnh Hải quân vùng I và các cấp chỉ huy để hẹn địa điểm rút quân tại chân đèo Hải Vân , núi Non Nước và cửa khẩu Hội An.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1756599&stc=1&d=1615816706

Rạng sáng ngày 29/3/1975 sương mù bao phủ dọc theo bờ biển, ngoài khơi tầu đă có mặt ở điểm hẹn, thủy triều thấp tầu không vào bờ được, binh sĩ phải lội ra biển. Cuộc di tản êm xuôi cho đến khi khi BV phát hiện bèn pháo kích vào địa điểm tập trung quân và tầu ngoài khơi gây nhiều thiệt hại, đoàn tầu di tản được khoảng 6,000 TQLC, 3,000 lính Sư đoàn 3 và nhiều đơn vị khác.

Đà Nẵng được coi như thất thủ ngày 29/3/1975. Có tài liệu cho biết VNCH mất 130 máy bay tại Đà Nẵng. Năm 1976 Tướng Trưởng trả lời một cuộc phỏng vấn cho biết khoảng 6,000 TQLC, non nửa lực lượng của Sư đoàn và 4,000 quân thuộc các binh chủng khác đă được tầu bè cứu thoát. Tướng Nguyễn Duy Hinh Tư lệnh Sư đoàn 3 cho biết trong số 12,000 người của Sư đoàn 3 chỉ có 5,000 đến được điểm tập trung và sau cùng chỉ có 1,000 người lên được tầu. Tổng cộng có 70,000 người dân được cứu thoát và 16 ngàn lính, 4 Sư đoàn kể cả TQLC bị thiệt hại nặng nề không thể gọi là đơn vị chiến đấu được nữa. Tất cả quân trang quân dụng, vũ khí, xe tăng đại bác… của Quân khu I coi như mất hết.

Quân khu I thất thủ một cách dễ dàng trong khoảng 10 ngày, không có lực lượng nào được tổ chức để đánh chận hậu, đánh tŕ hoăn khi Quân đoàn di tản. Cuộc lui binh thất bại hoàn toàn được coi tồi tệ hơn so với Quân đoàn II, hỗn loạn gấp bội phần, sự thiệt hại về nhân mạng cao hơn cuộc triệt thoái tại Tây nguyên nhiều.

Trọng Đạt

hoanglan22
03-26-2021, 16:42
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1763566&stc=1&d=1616776750

Cứ mỗi tháng Ba về, ḷng tôi lại chùng xuống, phải nói là buồn đau, cay đắng, ngậm ngùi đến tận cùng tim gan mỗi khi nh́n thấy những h́nh ảnh đau thương đập vào mắt tại băi biển Thuận An vào những ngày 25, 26, 27 hay tại bờ biển Đà Nẵng ngày 28, 29 tháng 3/1975.

Đă 39 năm trôi qua, đă có quá nhiều bài viết về những ngày cuối tháng 3/1975 tại băi biển Thuận An. Tôi không muốn lập lại nhưng với cương vị là Trung Úy, ĐĐP/ĐĐ2, TĐ7, LĐ147/TQLC, là lữ đoàn bị kẹt lại trên băi biển Thuận An, tôi xin ghi lại những ǵ mắt thấy, tai nghe cùng suy nghĩ của ḿnh về những ngày chiến đấu tới tận cùng sức sống của TĐ7/TQLC mà Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Phạm Cang, Tiểu Đoàn Phó là Thiếu Tá Lê Quang Liễn, cả 2 vị đều xuất thân từ Khóa 20 Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam.

Viết để thấy rơ hơn là trong trận đánh cuối cùng đó của TĐ7/TQLC, chúng tôi đă chiến đấu với ai, với 1 đại đội du kích Việt Cộng hay là chiến đấu với cấp tiểu đoàn, trung đoàn chính quy Bắc Việt với hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 cùng với chiến xa T54 yểm trợ…
Khoảng 5 giờ chiều ngày 19/3/1975, trời nhá nhem tối, tôi là đại đội phó ĐĐ2/TĐ7 TQLC, bàn giao vị trí pḥng thủ cho 1 trung úy đại đội trưởng đại đội Biệt Động Quân. Đi theo tuyến pḥng thủ dưới cơn mưa phùn gió bấc của tháng 2 âm lịch tại miền núi rừng miền Trung, lạnh cắt da, miệng đánh ḅ cạp. Tôi hỏi ông về khả năng tham chiến th́ được biết quân số của đại đội ông là khoảng 80, mới đụng nặng trở về nên quân số chưa bổ sung kịp. Như vậy là gay cấn rồi đây, quân số của ông vừa đủ trám tuyến cho 2 trung đội TQLC chúng tôi.

Tôi hướng dẫn cho ông hệ thống pḥng thủ, giao thông hào h́nh chữ Z, hầm hố cá nhân, những vị trí đặt súng nặng đại liên M60, những hầm hàm ếch dưới giao thông hào sâu gần 2 mét để tránh pháo 130 ly và hỏa tiễn 122 ly. Tuyến pḥng thủ là một đồi đá nhiều hơn đất, muốn lấy nước là phải theo những con đường đặc biệt từ trên đồi xuống thông thủy. Bàn giao cả những vị trí gài bẫy, gài ḿn claymore, lựu đạn và có cả những vọng gác giả, lính giả để nghi binh… Ban ngày thấy vậy nhưng không phải vậy, ban đêm mà ṃ vào là biết thế nào là TQLC pḥng thủ, biết thế nào là Sinh Bắc Tử Nam ngay… Bàn giao cho ông những hỏa tập tiên liệu trên bản đồ. Coi chừng bị bắn sẻ. Riêng 2 cái máy sensor để ḍ tiếng động th́ chúng tôi phải đem theo. Khoảng 8 giờ tối th́ chúng tôi mới bàn giao xong. Tôi chúc ông may mắn ở lại, c̣n chúng tôi từ giă Quảng Trị Anh Hùng…

TĐ7/TQLC được lệnh rút về lập Tuyến Đỏ tại đèo Hải Vân. Mỗi sĩ quan nhận 10 tấm bản đồ trải dài từ Quảng Trị đến Đà Nẵng. Từ khi t́nh nguyện về TQLC, đây là lần đầu tiên tôi nhận một số bản đồ nhiều kỷ lục cho một cuộc hành quân. Chúng tôi thống nhất đánh số xấp bản đồ từ 1 đến 10 và mỗi bản đồ đều có những soát điểm, di chuyển đến đâu là phải báo cáo cho BCH/TĐ biết để kịp thời yểm trợ. Kèm theo đó c̣n có những hỏa tập tiên liệu… tất cả đều được mă hóa, VC có bắt được tần số của chúng tôi th́ cũng mù v́ chỉ có sĩ quan mới có tập giải mă này. Nói đến đây không thể không nhắc đến Thiếu Tá Lê Quang Liễn, TĐP/TĐ7, ông là người soạn ra tập mă hóa này, tất cả đều bằng số, và các sĩ quan cũng như hiệu thính viên đều phải cố gắng nhớ càng nhiều càng tốt…

Ngày 20/3/1975, đơn vị tôi rút về đóng quân tại cây số 17, nhiệm vụ là bảo vệ cầu An Lỗ để bảo đảm an ninh lộ tŕnh cho Lữ Đoàn 369 của Tr/Tá Nguyễn Xuân Phúc đi chuyển qua rồi mới tới TĐ7 sẽ rút sau cùng theo chiến thuật cuốn chiếu. Tôi c̣n nhớ rơ là sáng hôm đó tôi đă đứng nghiêm chào khi Thiếu Tá Lâm Tài Thạnh, TĐT/TĐ9 đi ngang qua cầu. Ngồi trên xe ông chào lại và mỉm cười. Ông và tôi quá quen thuộc v́ trước đó không lâu ông là TĐP/TĐ7 và tôi là ĐĐP/ĐĐ2/TĐ7, cùng chung cánh B do ông chỉ huy.

Ngày 21/3/1975, thật là bất ngờ khi được Thiếu Tá Phạm Cang cho tôi 6 giờ phép về thăm gia đ́nh. Bất ngờ là v́ suốt hơn 2 năm hành quân ở Quảng Trị, qua 2 đời TĐT, Th/Tá Nguyễn Kim K16 VB rồi Th/Tá Phạm Cang K20 VB, qua 2 cái Tết, tôi chưa bao giờ được cấp 1 giờ phép, mặc dù gia đ́nh tôi ở Huế, chỉ cách nơi tôi hành quân khoảng 50 cây số…

Cầm tờ giấy phép trong tay, tôi đu theo chiếc GMC tiếp tế trên đường trở về hậu trạm ở Mang Cá và về đến nhà khoảng 11 giờ sáng. Đến 12 giờ trưa th́ ba tôi đi làm về, tôi cùng gia đ́nh ăn một bữa cơm sau hơn 2 năm xa cách từ ngày ra trường (15/12/1972). Ba tôi làm việc tại Viện Đại Học Huế, ông cho tôi biết là tất cả nhân viên đă sẵn sàng di tản vào Đà Nẳng khi có lệnh. Khoảng 1 giờ trưa, từ giă gia đ́nh, tôi đi xe Honda qua Bưu Điện Huế để gọi điện thoại về cho “em gái hậu phương” ở Sài G̣n. Tôi chỉ cho biết là tôi sẽ đi thăm chú K. (chú K. là chú của tôi đang dạy học tại Đà Nẵng). Nói chuyện được 5 phút, phải ngưng, nhường cho người khác v́ người chờ để gọi quá đông. Có một ông nhận là kư giả hỏi tôi là có gởi hay nhắn ǵ về Sai G̣n không, ngày mai ông sẽ về SG. Tôi cám ơn ổng v́ chẳng có ǵ để gởi.

Lại leo lên xe Honda ra bến xe để trở lại nơi hành quân. Hơn 2 năm trời được 6 giờ phép về thăm cha mẹ ngay trong vùng hành quân! Những ai không ở trong hoàn cảnh lính chiến trên địa đầu giới tuyến th́ tưởng đó là chuyện đùa, chính tôi cũng tưởng đùa, nhưng mà là thật. Không phải cấp chỉ huy làm khó thuộc cấp, chúng tôi, từ trên xuống dưới đều thế cả, v́ nhiệm vụ mà phải hy sinh, v́ tụi VC xâm lăng muốn “làm khó, làm khổ” đồng bào.
Ba giờ chiều, ra đến vị trí đóng quân, th́ một ngạc nhiên khác lại đến với tôi, đó là đơn vị của tôi đă không c̣n ở chỗ cũ như hồi sáng nữa mà đă hành quân trở ra lại Quảng Trị rồi!.

Ngày 22/3/1975, một ngày khá yên tĩnh, khoảng 8 giờ sáng, toán tiền đồn báo về là từ hướng Quảng Trị có một số quân và dân đang di chuyển về tuyến chúng tôi. Tôi được lệnh là chận tất cả lại. Hỏi chuyện một Trung Úy Địa Phương Quân th́ được biết là quân chính quy Bắc Việt rất đông cùng với nhiều chiến xa đă chiếm Quảng Trị, nơi mà mấy ngày trước, TQLC vừa bàn giao tuyến lại cho BĐQ và ĐPQ.
Đến chiều th́ địch xuất hiện, ngang nhiên như chỗ không người, họ đâu có ngờ là TQLC vẫn c̣n đây, và được chúng tôi tiếp đón rất nồng hậu bằng hỏa lực cơ hữu cùng với 1 M41 tăng phái. Địch rút.

Ngày 23/03/1975, một ngày khá căng thẳng, 2 bên gờm nhau, địch biết ta, ta biết địch nhưng 2 bên đều án binh bất động. Hai bên đều đánh hơi được là thế nào cũng sẽ có 1 cuộc thư hùng xa xảy ra nhưng chưa biết sẽ xảy ra khi nào thôi. Gọi pháo binh không được, không biết tại sao. Từ khi tôi làm ĐĐP, luôn luôn có 1 Thiếu Úy “đề lô” thuộc pháo binh cơ hữu của TQLC đi với tôi nhưng mấy ngày gần đây không c̣n thấy nữa. Đă 3 tháng nay, sĩ quan “đề lô” của pháo binh TQLC đi với tôi là Thiếu Úy Lê Hạ Huyền. Tôi nhớ rơ họ tên v́ ông T/U Huyền là bà con với tôi, tôi gọi ông bằng chú măc dù tuổi ông nhỏ hơn tôi.

Ngày 24/03/1975, tôi nằm trên tuyến với 3 Trung Đội 1, 2 và 3. Cả 3 trung đội dàn hàng ngang nằm trên những đụn cát, chỉ có những bụi dương liễu cao khoảng nửa mét, không có chỗ ngụy trang. Xin nói thêm là trong giai đoạn lính tổng trừ bị TQLC “được” làm lính địa phương, đối phó với giặc có chiến xa th́ quân số của một đại đội TQLC trung b́nh là 160, bao gồm một tiểu đội chống chiến xa (TĐCCX). Mỗi quân nhân trong TĐCCX ngoài 1 cấp số đạn M16 c̣n mang 3 khẩu M72. Tức là mỗi đại đội TQLC có hơn 30 khẩu M72, một loại vũ khí diệt tank hữu hiệu vào thời điểm đó.

Hôm ấy khoảng 10 giờ sáng mà trời vẫn c̣n sương mù dày đặc, tầm nh́n rất giới hạn, toán tiền đồn báo là có tiếng của chiến xa (CX) nhưng chưa xác định được loại nào v́ chưa thấy rơ. Mặt trời từ từ xuyên thủng màn sương mù dày đặc và chúng tôi đă thấy chiến xa địch xuất hiện, 1 rồi 2, rồi 3, rồi 4, rồi 5 chiếc T54 với bộ binh tùng thiết, dàn hàng ngang tiến thẳng về hướng pḥng thủ của đại đội tôi. Tôi gọi máy báo cho ĐĐT là Đại Úy Ngô Kim Anh biết t́nh h́nh và xin pháo binh yểm trợ. Tôi gọi pháo binh, cho tọa độ. Tràng đầu tiên hơi xa, tôi điều chỉnh gần lại 50, vẫn c̣n xa, gần lại 50 nữa th́ đạn đă nổ chụp ngay trên đội h́nh của địch. Địch bắt đầu dừng lại, lúng túng rồi hoảng hốt, địch chưa thấy ta. Yếu tố bí mật và bất ngờ đang nằm phía ta. Lệnh đại đội cho tôi chơi ống thổi lửa (M72) nhưng chưa cần thiết, một khi phóng M72 ra là phải chắc ăn, “cua phải bị nướng”, phải chờ chúng tới thật gần, nhất 9 nh́ bù, CX c̣n ở xa, không trúng mục tiêu mà vị trí của ḿnh bị lộ th́… với hỏa lực của T54, một khẩu đại bác 100 ly cộng với đại liên nó mà quạt lại th́ tiêu, TQLC sống hùng, sống mạnh nhưng chắc là không sống lâu.

Cái hấp dẫn, hồi hộp, căng thẳng, b́nh tĩnh, sống chết trong đường tơ, mạng của hằng trăm lính trên tuyến đối diện với CX địch chính là tùy thuộc vào cấp chỉ huy lúc này đây. Lúc này đây, tôi không nghĩ ǵ đến cha mẹ tôi ở Huế, ngừơi yêu ở Saig̣n, em hậu phương ở Đà Lạt, những nụ cừoi duyên BTX sáng Chúa Nhật trên khu phố Ḥa B́nh, nhà Thủy Tạ v.v… mà là mạng sống của anh em tôi, của tôi trứơc họng súng 100 ly của T54.

Tôi c̣n nhớ thời gian TĐ7 về “hấp” ở TTHL Đống Đa tại Phú Bài, trong 1 buổi huấn luyện và thực tập bắn M72, tôi được chỉ định bắn M72 cho quân nhân trong ĐĐ xem. Với cự ly 150 mét, trời nắng, gió nhẹ, tầm quan sát rơ, tôi đă bắn bay mục tiêu là 3 cái thùng phuy tượng trưng cho T54. Đó là kết quả của những ngày thao trường đổ mồ hôi, công sức huấn luyện của các Đ/Úy Tôn, Đ/U Nhồng, Đ/U Thái, Đ/U Dục … Xin thành thật cám ơn quư vị, nhờ các vị huấn luyện đă tạo cho tôi niềm tự tin trứơc họng súng CX T54, tôi sẽ chờ chúng tới thật gần, vào tầm hủy diệt 99% của súng chống CX M72
Chúng tôi quyết ém quân chờ chiến xa địch, lọt ăn, không lọt đền, phải tương đối chắc ăn mới khai hỏa. 200 mét, rồi 180 mét, rồi 150 mét, tôi ra hiệu cho TĐCCX chuẩn bị, sẵn sàng rút chốt an toàn của M72. T54 cùng bộ binh tùng thiết rơ dần dần, mặc quần áo kaki Nam Định, đầu đội nón cối, tất cả đều ngụy trang bằng những cành dương. Pháo binh vẫn rót vào vị trí địch, 1 tràng, 2 tràng, 3 tràng… Bùm! Bùm! Bùm! Khói lửa mịt mùng, 1 T54 đă bị trúng đạn pháo binh, 2 chiếc bị trúng M72, bộ binh tùng thiết bắt đầu rụng, địch nao núng rồi chuyển hướng chạy về phía rừng dương ẩn núp. Nhưng khốn khổ cho chúng là nơi đó có Trung Đội 2 pḥng thủ được tăng cường chiến xa M41. Tôi nh́n ra đàng sau th́ thấy đại đội trưởng đang bàn luận với Thiếu Tá Lê Quang Liễn, Tiểu Đoàn Phó, ông là người chỉ huy trực tiếp cánh B. Mỗi lần đụng trận, ông luôn có mặt tại tuyến đầu với tụi tôi. Đó là cách đánh giặc của VB/TQLC.

Ta và địch gần như “sáp lá cà”, không dùng PB được nữa, TQLC và M41 trực diện với T54 và VC tùng thiết! Thiệt hại cả hai bên, chiến trường là thế, địch chết la liệt th́ anh em TQLC chúng tôi cũng thiệt hại không ít. Nhưng biết làm sao hơn, chúng tôi đă tận dụng những ǵ học hỏi được ở quân trường và kinh nghiệm chiến trường, đă tận lực sức người và khả năng chỉ huy để giảm thiểu thiệt hại cho đồng đội và quan trọng hơn, chúng tôi vẫn đứng, thuộc cấp thấy chúng tôi vẫn đứng, đó là điều trường Mẹ không hổ thẹn có những đứa con như thế, như thế.

Đến chiều tối th́ được lệnh rút, mang theo thương binh tử sĩ, bỏ mặc vũ khí chiến lợi phẩm, súng ta c̣n mang không hết th́ mang theo “củi” của địch làm ǵ? Súng không đạn là củi. Mang theo “củi” để kể công để thượng cấp cho ADBT! Địch cũng án binh bất động.

Đêm 24/3/1975, khoảng 12 giờ khuya, trên đường lui binh, chúng tôi lại bắn cháy 1 chiến xa, không phải T54 mà là M41 của ta. Không phải bắn lầm đơn vị bạn v́ tối trời mà cố t́nh bắn v́ M.41 đă hết xăng, phải dùng M72 để bắn cháy M41 sau khi đă thảy vào pháo tháp 2 trái lựu đạn. Dứt khoát không để lọt vào tay địch.

Khoảng 2 giờ sáng, trên đường rút quân, Thiếu Tá Lê Quang Liễn gặp tôi, ông và tôi im lặng xiết tay nhau như chúc mừng nhau c̣n sống, rồi chụm đầu trên tấm bản đồ dưới ánh đèn pin trong M113 để xác định…, ông dặn tôi nhớ chuyển thương binh nặng ưu tiên đi trước, v́ có tín hiệu báo cho biết địch đang áp sát theo sau.

Ngày 25/3/1975, khoảng 8 giờ sáng TĐ7/TQLC về tới cửa Thuận An, ở đây đă có rất đông dân chúng cùng các đơn vị bạn khác trong t́nh thế vô cùng hỗn độn mà chắc chắn có du kích và đề-lô PB địch trộn vào, sẽ vô cùng nguy hiểm khi có súng nổ hay làm mục tiêu cho pháo địch, v́ thế Th/Tá Phạm Cang cho lệnh tiếp tục di chuyển dọc theo bờ biển xuôi về phía Nam để bắt tay với đơn vị đi trước là TĐ4/TQLC của Th/Tá Đinh Long Thành K19. V́ TĐ7 là tiểu đoàn đoạn chiến, đi sau cùng trong hệ thống chỉ huy của Lữ Đoàn 147/TQLC được lệnh lui về Đà Nẵng theo lộ tŕnh dọc theo bờ biển Thuận An rồi vượt qua cửa Tư Hiền để vào Đà Nẵng, nếu không có tàu HQ vào bốc.
Đến trưa, gặp TĐ4/TQLC, tiểu đoàn cho lệnh dừng quân, lập tuyến pḥng thủ ngay trên các đồi cát.

Nh́n lại phía sau, chúng tôi thấy cả một đám đông, rất đông bám sát theo sau chúng tôi. Thật là cảm động và xót thương cho đồng bào tôi, nhưng “t́nh dân quân cá nước” trong hoàn cảnh này th́ thật nguy hiểm cho cả hai bên. Chúng tôi mở đường hướng dẫn cho họ tiến về phía trước, xuôi Nam, nhưng h́nh như đồng bào không muốn rời xa chúng tôi!

Giữa băi cát bao la, trên trời ánh nắng chói chan rọi xuống, trước mặt là biển cả xanh ngắt, sau lưng là đầm Cầu Hai, đầm Hà Trung nước mênh mông, nhưng bi đông chúng tôi đă cạn khô, cổ chúng tôi đắng nghét v́ khói thuốc và khói súng, khát, khát và khát! Một chiếc trực thăng từ hướng Đà Nẵng bay ra và thả tự do xuống một số thùng gạo sấy để tiếp tế cho chúng tôi, gạo sấy lấy nước nào đổ vào để thành cơm?

(Sau này trong bài viết Tháng Ba Buồn Hiu của Tiểu Cần, âm thoại viên của Tướng Tư Lệnh TQLC th́ trực thăng đó là C&C của Tư Lệnh, người mang gạo ra tiếp tế chính là chánh văn pḥng, NT Nguyễn Quang Đan K21 và Tiểu Cần, v́ xin nhưng không c̣n trực thăng để tiếp tế lương thực và nước uống cho quân sĩ! Trực thăng bay đi đâu hết rồi!)
Đến chiều th́ gặp Trung Úy Hoàng Công Một K25 thuộc Tiểu Đoàn 5 TQLC điều quân, 2 thằng chỉ thăm hỏi nhau được vài câu và sau đó th́ ai làm phận sự người đó. Trung đội trưởng Cúc của ĐĐ H.C. Một đă hy sinh tại đây.

Đến tối th́ VC đă tấn công TĐ4/TQLC, Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam K22, Tiểu Đoàn Phó và Đại Úy Tô Thanh Chiêu, Đại Đội Trưởng Đại Đội 2 hy sinh..
Thiếu Tá Phạm Cang, TĐT/TĐ7 bị thương nhẹ do trúng miểng của cối 82 ly VC khi điều động M113 đánh chiếm mục tiêu.

Em ruột TT Liễn cũng bị tử thương vào buổi chiều.
Theo kế hoạch, 12 giờ khuya sẽ có tàu vào bốc, nhưng chờ măi chẳng thấy.
Ngày 26/03/1975, nh́n ra khơi thấy nhiều tàu của Hải Quân, lớn có nhỏ có. Đến trưa th́ có 1 chiếc tàu há mồm vào để bốc thương binh và BCH/LĐ. Một chiếc thứ 2 vào, nhưng lần này th́ không được may mắn như chiếc trước, địch đă dùng hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 bắn vào ngay ống khói của tàu và tàu coi như bất khiển dụng. Một số chết và bị thương ngay trên tàu.

Kể từ giờ phút này, Thiếu Tá Phạm Cang, TĐT/TĐ7 nắm quyền Xử Lư Thường Vụ Lữ Đoàn Trưởng LĐ 147 TQLC. Theo kế hoạch của ông th́ TĐ7 bung rộng ra, sẽ là nốt chặn cuối cùng, làm an toàn băi bốc cho các TĐ bạn và TĐ7 sẽ là đơn vị cuối cùng lên tàu sau TĐ4, TĐ3, TĐ5 TQLC. Rất tiếc là chẳng có chiếc tàu nào vào bốc kể từ đó mặc dù đến chiều vẫn có lệnh là 8 giờ tối sẽ có tàu vào, rồi đến tối lại có lệnh là 12 giờ khuya sẽ có tàu vào…và chẳng bao giờ có tàu HQ vào đón chúng tôi. Đứng trên cát, tứ bề nước mênh mông, không nước, không đạn, nhưng chúng tôi c̣n có cấp chỉ huy và đồng đội.

Th/Tá Phạm Cang, TĐT/TĐ7 kiêm xử lư thường vụ chỉ huy LĐ147/TQLC khi đó đă bắt liên lạc được với ngừơi bạn cùng K20 chỉ huy đoàn tàu LCM sẵn sàng bốc TĐ7 vào Đà Nẵng, nhưng Th/Tá Cang đă từ chối, không thể chỉ đi có TĐ7, mà phải ở lại cùng toàn thể Lữ Đoàn, trong đó có TĐ4 của NT Đinh Long Thành K19, TĐ5 của NT Phạm Văn Tiền K20, TĐ3 của NT Nguyễn Văn Sử K20. Tôi xin trích đoạn bài viết của Th/Tá Phạm Cang:

_ “10 giờ sáng ngày 25/3/75, trên tần số không lục tôi nhận ra tiếng người bạn cùng khóa, Thiếu Tá Trần Văn Thao, anh chỉ huy đoàn tàu Quân Vận (LCM) từ Đà Nẵng ra Thuận An để đón BĐQ, nhưng không thể nào liên lạc được. Anh hỏi tôi có thấy anh em Mũ Nâu không. Nh́n quanh tôi chỉ thấy 5, 3 anh. Tôi cho Thao biết. Anh nói: “Tôi sẽ đưa các bạn vào Đà Nẵng, hăy chuẩn bị và đánh dấu băi bốc.”. Rất tiếc tôi không thể chỉ đưa TĐ7 đi, v́ c̣n trách nhiệm với các tiểu đoàn bạn. Tôi cám ơn Thao”.

Một tấm gương sáng khác của cấp chỉ huy mà tôi cần nhắc đến: Th/Tá Lê Quang Liễn, tải thương xác ngừơi em ruột lên tàu xong rồi vị Tiểu Đoàn Phó TĐ7 của chúng tôi nhẩy xuống biển, bơi trở lại vào bờ để cùng sống chết với chúng tôi.

Đêm 26 rạng ngày 27 tháng 3 năm 1975, một đêm trăng sáng vằng vặc, biển động, nh́n ra xa vẫn thấy đèn của Hải Quân lấp lánh ngoài khơi… và chúng tôi “chôn súng”!
Những người lính TQLC đă bắn cháy chiến xa T54 của địch, đă bị hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 của địch bắn cháy tàu của họ. Họ đă nhai những hạt gạo sấy sau cùng vào ngày hôm qua, đă bắn những viên đạn cuối cùng vào ngày hôm nay. Và khi không c̣n ǵ để chiến đấu, họ đă tự đào hố để chôn súng, bản đồ, địa bàn, thẻ bài, bằng lái xe, bằng dù, thẻ quân nhân…và đă cắn răng chôn ngay cả cái nhẫn Vơ Bị, là vật bất ly thân của những sĩ quan xuất thân từ Trường Vơ BịQuốcGiaViệtNam .

Những người lính Tổng Trừ Bị thuộc ĐĐ2/TĐ7/Lữ Đoàn 147 Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Ḥa đă chiến đấu và bị bắt làm tù binh chiến tranh (POW: Prisoner Of War) như vậy đó.
Bất cứ ai, đừng bao giờ bảo Lữ Đoàn 147/TQLC là những hàng binh, nguy hiểm vô cùng, hăy cẩn thận trong lời nói, thưa các ông, xin nhắc lại: NGUY HIỂM VÔ CÙNG!!!
Riêng cá nhân tôi, 1 người lính VNCH, 1 kẻ chiến bại, tôi chưa bao giờ oán trách cấp chỉ huy của tôi dù là cấp Tiểu Đoàn Trưởng hay vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Đội. Cái nh́n của tôi chỉ là ở cấp chiến thuật, làm sao biết được cấp chiến lược… Bao nhiêu đắng cay, tủi nhục… đổ lên đầu kẻ chiến bại. Nếu sau khi mất QĐI, rồi QĐII, Hoa Kỳ giữ đúng cam kết với đồng minh VNCH, lại nhảy vào cuộc chiến, như đă xảy ra tại Triều Tiên năm 1953, nếu kết thúc cuộc chiến mà VNCH là kẻ chiến thắng, chúng ta sẽ nói ǵ? Nói ngược lại chăng? Hỏi tức là trả lời. Chúng ta hăy suy nghĩ 1 cách công bằng.
*
Một người bạn đă hỏi tôi sẽ làm ǵ nếu lịch sử được lập lại hay nếu có kiếp sau?
Vâng, câu trả lời của tôi là tôi sẽ lại t́nh nguyện thi vào Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam, rồi khi ra trường lại sẽ t́nh nguyện gia nhập lực lượng Tổng Trừ Bị của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa: binh chủng Thủy Quân Lục Chiến. Và nếu được chọn lựa th́ tôi xin được chiến đấu dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Tư Lệnh Phó TQLC Nguyễn Thành Trí, Trung Tá Lữ Đoàn Trưởng TQLC Nguyễn Xuân Phúc, Trung Tá Lữ Đoàn Phó Đỗ Hữu Tùng, Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Phạm Cang, Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó Lê Quang Liễn v.v… Đó là những cấp chỉ huy mà tôi rất ngưỡng mộ và kính phục, trên chiến trường cũng như trong “tù trường”…
Người trong cuộc

Mũ Xanh Lê Khắc Phước ĐĐ2/TĐ7/LĐ147/TQLC

hoanglan22
03-27-2021, 18:33
Theo thống-kê Việt/Mỹ: KQVN chết 10, Mỹ chết 215; KQVN mất tích 4, Mỹ 38 đó là hậu quả sau 42 ngày của cuộc hành quân Lam-Sơn 719 v́ nhờ “chân-lư đây rồi!”… Chiến thuật cạ-càng lướt thoáng trên ngọn”, Thường thường trên cao độ 50 thước với âm thanh gầm thét như luôn luôn có 6 con rồng phun lửa mới áp đảo kẻ địch phải chui rúc, dưới đó, vi bi theo đuổi bởi 32 con mắt diều-hâu ráo-đảo t́m kiếm địch thủ quanh quẩn đâu đây, vừa ló dạng bóng đen nào thoát ra khỏi chiến xa để đào thoát cũng bị dí 3 đầu mũi 6 ṇng phun xuống một trận mưa đạn buộc phải ngă quỵ tại chỗ, không có mống nào chạy thoát lưỡi hái tử thần. Đặc biệt, cánh rừng chồi da beo h́nh chữ nhựt ngó xuống trục lộ đă bị các ṇng súng chia nhau quạt khắp mọi nơi khi chưa có mục tiêu khả nghi nào xuất hiện. Dưới cách đó gần lộ lố nhố vài hầm cá nhân B-40, đất vàng nghệ c̣n tươi rói, đă bị minigun giă nát tự bấy lâu rồi, cảnh vật nơi chiến địa cùng đoàn xe im-ĺm bất động như khung h́nh chết của băi tha-ma, trên đó ngun ngút toả ra dật-dờ vài đám khói c̣n lại trên xác các chiến xa trúng rockets. Nơi đây lính BV đă bỏ chạy ngay sau khi chiếc thứ 2 của Lộc giộng xuống thêm 38 rockets chống Tăng. Bây giờ c̣n lại cạnh b́a rừng h́nh chữ nhựt ngó xuống con lộ, đang bị tôi nghi-ngờ là vài chiếc PT-76 đang chỉa ṇng 76 ly xuống con lộ, kềm theo vài khẩu đại liên 14,5 ly, nhưng có lẽ không c̣n ai sống sót. Tôi cũng hiểu ra rằng với lỏm nhỏ rừng chồi nầy đă bị các minigun phun xuống cày nát, tất cả đă chém-vè theo bộ binh tùng thiết vào đám rừng già sau lưng. Chúng chạy ra khỏi b́a rừng khi tôi nh́n lại sau đuôi, phát hiện nhưng tằm đạn đạo minigun chiếc 2 chỉa về hướng 1 giờ, nhưng chưa đủ xạ trường sát hại, cũng như Trung sĩ Đức bắn vói ra sau hướng 5 giờ nhưng cũng trớt-hướt, vô tích sự v́ đạn đạo không thể tới được. Thế là nhóm nầy đă thoát nạn để lại một số PT-76 không c̣n người điều khiển; Cái toán quân BV nầy khá thông minh nên đào thoát kịp; Tôi đang nghe trong tần số Guard, tiếng người Việt ngồi backseater (người “tháp tùng tử” ngồi sau có thể là quan-sát viên KQVN, Pháo Binh diện địa, Pháo Binh Dù, TQLC, hoặc sĩ quan Pḥng-3) trên FAC Bronco OV-10 cho biết 10 phút nữa phi cơ chiến thuật sẽ đến dập thêm vào đoàn convoy chiến xa nầy. Vừa làm một pass răi dài 8 hoả tiển vào b́a rừng ngó xuống con lộ, nhưng tôi đoán quân BV đă bỏ của chạy lấy người, chỉ c̣n lại vài chiếc PT-76 không người lái với xác người nằm yên trong đó, rồi đây quân Dù sẽ váo khai thác chiến trường và sẽ t́m ra chúng.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1764297&stc=1&d=1616869706

Bronco OV-10

Chiếc của Lưu cũng làm một pass y chang như tôi. Chúng tôi từ giă băi chiến trường trong không khí yên lặng, dù rằng để lại vài đám cháy với lớp khói mờ-mịt tỏa ra nơi đó, tuyệt đối không thấy có sự chống trả; Chiếc Tiến và Lộc tiếp tục bao vùng cho Tiểu đoàn-1 Dù và Tiểu đoàn-8 ở hướng Bắc, cạnh đó. Th́nh ĺnh tôi nh́n rơ 1 chiếc A-6 Intruder, nhờ 2 đầu cánh chém gió xẹt ra 2 lằn trắng, rồi một loạt bôm snack-eye chạm nổ dữ dội, chiếc thứ 2 nhào xuống cũng salvo như chiếc trước, nh́n ra sau, khói bom che lấp đoàn convoy. Tôi mở tần số la làng, cự FAC “Anh nói 10 phút ǵ mà nó dội xuống sớm quá vậy… xém chút nữa chúng tôi ôm lănh đủ”; người backseater trả lời: “Thằng pilot nó đă thấy các anh nhờ ṿng tṛn cánh quạt sơn màu trắng, nên nó mới cho thả… mà nó lu-bu cũng chẳng nói ǵ đến tôi…thôi thông cảm đi bạn! Chúng tôi nh́n xuống thấy 4 chiếc dĩa trắng quay tít như làm ảo-thuật trên nền thảm xanh rêu, rồi khi các anh lấy hướng về A Luối nó mới nhào xuống thả… thôi thông cảm nghe bạn”.

Tôi và Lưu về lại Khe Sanh để tái vơ trang và châm đầy xăng nhớt.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1764300&stc=1&d=1616869706

Nếu giả thuyết ở nơi đây không phải là vùng Cao Nguyên rừng núi mà là vùng đồng bằng như vùng Trà-Kiệu trên sông Thu-bồn chẳng hạn, th́ đây là một dịp may để tiêu diệt trọn gói khi mà tàn quân bị 3 mũi dùi tấn kích (3 mặt giáp công) chỉ c̣n con đường thoát thân duy nhứt là vượt qua sông Thu Bồn: Phía Tây tấn kích bằng Chi-đoàn/17, phía Nam bằng Tiều-đoàn/1 Dù, và phía Đông nguyên một Thiết-đoàn/11. Đối với Top-Gun, chúng tôi biết phải làm những ǵ khi Cá đang nằm trên thớt, trong khi trên cao độ 75 thước, 8 xạ-thủ đang đứng xổng lưng gh́ tay súng trong tầm mắt cú vọ mà răi đều trận mưa đạn xuống địch quân trên một vùng lau sậy tróng trải, hoặc toan lội qua sông Thu Bồn! Điều dễ hiểu chúng tôi là những tiên phuông trong lằn tên mũi đạn nên hiểu được thế trận đồ, v́ thế cho nên chúng tôi không phiền-trách những ai có may mắn được ngồi trên bàn giấy khi nhận xét về thế trận đồ. Khi Lữ đoàn 1 Đặc nhiệm gởi chiến lợi phẩm bằng một thiết vận xa PT-76, trong đó có chở thêm những bánh xe-thồ, xe thùng, và vài cái chảo to đường kính hơn thước, th́ Bộ TTM cho rằng làm ǵ trong rừng mà có bánh-xe Cyclô để du lịch, c̣n khi nh́n thấy cái chảo to tổ bố nặng trĩu th́ nhóm văn pḥng nầy chỉ há họng và trố mắt khi nh́n thấy cơm cháy c̣n dính nơi đáy chảo… không hiểu ǵ cả? V́ thế sự thiếu hiểu biết nầy không làm chúng tôi phiền muộn, khi có ai muốn soi mói châm chọc, ngay đến Tướng Abrams mà báo chí Tây phương cho là người hùng trong trận chiến cũng có nhận thức vô cùng lầm lẫn đến nổi khi đọc ḍng chữ dưới đây làm tôi vô cùng đau xót. Dưới đây, tôi xin đưa ra một dẫn chứng mà không dám dịch ra tiếng Việt sợ sai lạc: Cũng trong sách “A Better War”, mục “Easter Offensive”, trang 332, hàng 25 (During the battles a new weapon system, the tank-killing TOW missile, was flown in from the United States. Initially, noted Abrams, “I gave twenty to the Marines and the 1st Division because they were the only troops I knew of that had stood and fought. I don’t want these things in the hands of the enemy. And on the Airborne, I told General Kroesen [that] when General Truong will give me his personal assurance that they will not be abandoned on the battlefield, then I’ll Consider it”) .

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1764298&stc=1&d=1616869706

Cobra gunships của Hoa Kỳ

Nằm trên chiếc ghế-bố quân đội, tôi co-ro trong chiếc mền không đủ ấm giữa rừng núi Khe Sanh, thế-giới nơi đây, tôi như bị giam hăm thu hẹp dưới 4 góc mùng xám xịt đen tối, không lối thoát, rồi trăn-trở, trằn-trọc không sao ngủ được. Bây giờ tôi phải làm sao đây!? Khi mà chiến tranh đi đôi với tang tóc! Tôi cầu mong làm sao đừng có xảy ra thảm cảnh đó nữa, hoang mang lo-lắng cho Liên đoàn của ḿnh! Và nhất là các Phi-đội 233 và 219… cứ miên man suy nghĩ mà không làm sao chợp mắt được, tự nhủ ḷng là từ nay trở đi, phải dấn thân bay tiên phuông trong lửa đạn, là con Chim đầu đàn phải cất cánh sớm hơn, mà lại về đáp cũng trễ nhất. Tôi sẽ giao cho Đại-úy Kỳ hay Trung-úy Tiến, phụ tá hành quân thỉnh-thoảng đi họp thế; tôi dành hết thời gian cho cuộc hành quân nầy bằng cách cầm lấy chiếc Trực-thăng Vơ trang mà hướng dẫn, đưa đón các cánh Chim non đang lặn hụp dưới bầu trời mới lạ, xuất phát từ biên-giới lúc đi cũng như lúc về, lấy điểm hẹn từ Trại tù Lao Bảo làm nơi điểm xuất phát. Chỉ có tôi là người duy nhất hiểu rơ được địa h́nh nơi đây từ ngọn núi, con sông đến đồi cao khe-suối, những đám rừng nguyên thủy chưa có dấu chân người, ngọn núi Vôi Cô-Rốc vàng óng-ánh dưới ánh b́nh-minh. Nhưng hôm nay bay trở lại, mọi cảnh vật khai-quang trống-trải rất nhiều, nhất là trên trục đường Ṃn 559 mà tôi đă bay ngang qua đây không biết bao nhiêu lần, giờ th́ quá trống-trải, đường đất Đỏ Cao-nguyên đâm chồi, chi-chít thêm ra, màu xanh trùng điệp của cánh rừng già giờ đây đă có quá nhiều loang-lỗ, rải-rác những nhà to với mái đan bằng Tre-Nứa đập dập, có lẽ là những nhà Kho hay Công-binh xưởng chăng? Chỗ Thiếu-úy Huệ đáp xuống thả Toán Thám sát STRATA (1964) vào buổi chiều chạng-vạng, cánh quạt chém vào cây, tôi phải đặt càng bánh xe lên đầu trục cánh quạt của hắn mà đem hết Phi hành đoàn về, nơi đây, bây giờ là Hậu-cần 611, cũng đă phát hoang trống-trải và có cả ống dẫn dầu băng ngang qua th́ phải? Cuộc hành quân mới phát khởi được 3 ngày (N+3) mà 2 phi hành đoàn đă bị Thiết-xa PT 76, cùng pḥng không 37 ly bắn nổ-tung trên không phận nầy, dưới đây, ngay bây giờ là ổ Kiến Lửa! Xe vận tải ngang nhiên di chuyển mà chẳng hề sợ-sệt phi-cơ phát hiện nhờ cái Dù điều lệ ROE của trục Ma Quỷ: Đoàn xe chạy ban đêm bật đèn mờ và ban ngày ngủ cho đúng luật ROE, c̣n như ban ngày khi qua các con suối cạn mà nghe tiếng phi cơ th́ tài xế cứ việc tắt máy nối đuôi chờ th́ không phi công Mỹ nào dám oanh tạc cả (điều nầy chỉ có quan sát viên người Việt backseater là nhân chứng sống).

Tôi bóp đầu nặn óc t́m ra chân lư cũng như t́m ra định-luật về chiến thuật để bảo vệ cho con em ḿnh không c̣n bị thảm hại… đang miên-man t́m ra chân-lư. Tối bỗng nhớ lại ngày xưa khi thành lập phi đoàn trực thăng đầu tiên, người anh cả thiên tài Nguyễn Huy Ánh đă giảng giải danh hiệu “Thần-Chùy” sau khi đặt tên cho PĐ/211; Đă xưa lắm rồi, khi con người t́m ra vũ khí để chiến đấu với kẻ thù; Người hiệp-sĩ khi xử dụng chiếc Chùy-thung phải có sức mạnh phi thường, tuy đường chùy vun-vút có chậm hơn các vũ khí như gươm, kiếm, mả tấu, thanh long đao, chĩa ba, thước bảng, roi xích… nhưng tất cả vũ khí trên khi đụng phải Thần-Chùy đều rơi rụng tung-toé vào mọị phương hướng vô định!!!

Tôi lại bóp trán mỉm cười… vỗ mạnh lại lên trán trong nỗi mừng vô hạn… Chân lư đây rồi! Chân lư đây rồi!!! Chiến-thuật “Ngụy-Âm Độn Rừng” Trong đôi tay tôi đang có thủ-thuật “Song-Chùy” làm ra chiến thuật áp đảo đối phương. Trực thăng vơ trang của KQVN là loại bay chậm nhứt thua cả Cobra của Mỹ chớ đừng nói chi đến các phi cơ chiến thuật tiềm kích, nhưng tôi lại đă phát hiện ra một chiến thuật tân-kỳ và vô cùng mầu nhiệm: Có chiến hữu nào đă tham dự chiến trận tại rừng già chiến khu D, Đồng Xoài, và rừng cao-su B́nh Giả th́ có thể h́nh dung ngay khi bạn đứng giữa rừng già mà chỉ nghe tiếng bành bạch của cánh quạt chém gió từ xa trên ngọn cây bay đến; Bạn làm sao xác định được trực thăng từ phương hướng nào bay đến? Và khi nghe tiếng gầm thét áp-đảo của Minigun như con khủng long phun lửa xuống, th́ tự động bạn phải t́m chỗ nào an-toàn gần nhứt để trú ấn. Nếu là chiến xa th́ phải chui xuống pháo tháp mà trú ẩn để sống c̣n theo phản xạ tự nhiên của con người. Kết quả nầy đă chứng minh hùng hồn qua sự ghi chép trong quân-sử Mỹ-Việt (US Army Center of Military History 1980; Lam Sơn 719 General Nguyễn Duy Hinh; và Military History Institute of Vietnam) dưới đây là sự so sánh giữa Sư-Đoàn 101 Không-Kỵ và Liên Đoàn 51 Tác Chiến theo như tài liệu SOG/MACV, kết quả sau 45 ngày chiến đấu quyết liệt:

Sư-Đoàn 101 Không Kỵ: Chết: 215, Mất tích: 38, Bị thương: 114
Liên Đoàn 51 Tác Chiến: Chết: 10, Mất Tích: 4, Bị thương: 11 – (có phải nhờ “Chiến Thuật “độn rừng ngụy âm?”

Liên Đoàn 51 Tác Chiến và HQ/Lam Sơn 719
Ngày 22/2/1971- Cả đêm rồi tôi không thể chợp mắt được cho dù đă quen dần tiếng ầm vang của 42 khẩu trọng pháo Mỹ bắn yểm trợ, khuấy rối, mà chỉ mong đợi cho mau sáng để gởi PHĐ H-34 vào cứu Giang, On, và Sơn. Nhưng ác nghiệt thay trời hôm nay sương mù giăng đặc sệt như cháo đậu (Pea-Soup) Đă 10 giờ sáng mà trời vẫn c̣n mù mịt. Ngay khi trời vừa thoang thoảng thấy được là tôi phải đem gunship bao vùng cho Đại đội Trinh Sát Dù đang cần mở đường tiếp cứu Đồi 31; Trước khi cất cánh tôi có liên lạc với sĩ quan điều không tiền tuyến Đại- úy Không Quân Nghĩa và Trung úy Chính sĩ quan Không Trợ Dù liên lạc với PHĐ hướng dẫn họ vào hướng nào cho ít nguy hiểm.

Tại BCH Tiền Phương Dù, khi tôi vừa cất cánh th́ một tiểu đội tác chiến điện tử Dù đang chờ nơi băi đáp bên cạnh một chồng máy Sensor dùng để phát giác đặc công địch. Những máy nầy đă giúp cho Trại LLĐB Mỹ thoát khỏi bị bao vây, ngay sau khi Đại úy Nguyễn Minh Vui và Thiếu úy Châu Lương Cang liều mạng đáp xuống Trại Pleime với lối bay chiếc lá cuốn theo cơn lốc, khi cất cánh dùng chiêu-thức “Khủng Long áp-đảo”, làm cho địch ngơ-ngác không biết phi cơ từ đâu đến lướt thoáng trên ngọn cây, dù vậy một binh sĩ mũ nồi xanh cũng bị trúng đạn ngay đầu, chết liền tại cabin, máu tràn lênh láng trên sàng nhôm.

Bầu trời bắt đầu trong sáng, tôi nghe tiếng Thiếu úy Bửu đang đáp xuống LZ Tiền- Phương Dù. 10 phút sau tất cả pháo Long Tom 175, 155 ly và 8 inch của Mỹ tiền oanh kích trước mũi, dọn mở một hành lang dọc trên đường bay. Nhưng quân BV rất tinh ranh khi nghe loạt pháo đầu là chúng chạy vào hầm ngồi nghỉ, cho đến khi ngừng pháo kích th́ chúng lại chui ra giao chiến Tôi cắt đặt 2 chiếc Gunship air cover cho 2 chiếc H-34 của Bửu và Yên, dù sao Gunship ḿnh tuy có ít hỏa lực nhưng cấp cứu anh em trong Liên- Đoàn vẫn bảo đảm hơn Mỹ. Tôi rất tin tưởng Thiếu úy Phạm Vương Thục, một Top Gun rất anh dũng dám sống chết v́ anh em luôn luôn sẵn sàng hy sinh cho đồng đội, tôi không tin vào Army Aviation Mỹ v́ khi có chiếc nào của Mỹ rơi th́ họ bỏ bay đi t́m cứu đồng đội cũa họ mà quên anh em ḿnh, như tôi là nhân chứng cho nhiều hoàn cảnh như vậy.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1764301&stc=1&d=1616869706

Tôi nghĩ Đại úy Nghĩa và Trung úy Chính Sĩ quan Không Trợ Dù sẽ chỉ dẫn đường bay nước đáp cho Bửu qua cố vấn cũa Thiếu- úy Giang. V́ pḥng không di- động trên PT-76 rất lợi hại hơn các pḥng không cố- định, 12,7, 14,5 và 37 ly nằm rải rác mọi nơi, nhiều nhứt nơi hướng Đông Bắc, không nên đáp vào hướng ấy mà nên đáp từ hướng Tây Nam xuống LZ, dù sao cũng có TĐ /6 Dù m ới vừa trực thăng vận, tuy bị nhiều thiệt hại cho quân TĐ-6 Dù, nhưng Topgun Trần Lê Tiến, Hoàng Ngọc Châu… đă oanh liệt thay phiên nhau gây thiệt hại nặng nề cho 2 trung đoàn cơ-động 27, và 24B của Quân đoàn 70B.

Giang đă tŕnh bày cho Bửu biết, hắn đă dùng chiến thuật đáp như chiếc lá cuốn trong cơn lốc, nhưng kẹt nỗi quân BV cứ khi nghe tiếng trực thăng th́ họ dội trận địa pháo tới tấp xuống, v́ họ đă có tiền điều chỉnh rất chính xác. Phi-công dù tài giỏi thế nào nhưng khi gần tới đất chừng 15, 20 thước th́ sẽ bị mảnh đạn văng bắn vào bộ phận cánh quạt đuôi, mất điều khiển phương hướng rồi rơi xuống quay theo counter clock wise, tại chỗ “undershoot”. Như trường hợp của Giang.

TPC Bửu đă được nói chuyện trực tiếp với TPC Giang từ trong đồi 31 và được biết, ngày hôm qua khi bay vào vùng, Giang đă dùng chiến thuật “lá vàng rơi”, từ trên cao cúp máy auto xoáy trôn ốc xuống, nhưng v́ pḥng không địch quá dày đặc nên khi gần đến đất, phi cơ anh bị trúng đạn rớt xuống găy đuôi nằm bên cạnh ṿng rào pḥng thủ ngoài cùng của Lữ Đoàn 3 Dù. Phi hành đoàn vô sự, chỉ có copilot là Vơ Văn On bị xây xát nhẹ ở cổ, tất cả chạy thoát được vào trong căn cứ Dù. Nhưng trước khi bỏ phi cơ, cơ phi Trần Hùng Sơn không quên vác theo cả cây M60 trên cửa máy bay nữa. Rút kinh nghiệm, hôm nay Bửu bay cạ-càng bánh xe lướt thoang thoáng trên ngọn cây theo chiến thuật biệt- kích razed-mode lướt từ hướng Đông-Tây đi vào, nhưng làm sao đừng gây ra tiếng động. Trên đường bay dọc theo quốc lộ số 9 TPC Bửu c̣n nh́n thấy những cột khói bốc lên nghi ngút, chứng tỏ pháo binh của Mỹ nơi Khe Sanh bắn rất chính xác và hiệu qủa. Gần đến LZ, Bửu đổi hướng lấy Đông Nam, roi Tây Bắc để đáp xuống; Vừa ló ra khỏi rặng cây, Trưởng Phi Cơ Bữu đă thấy chiếc Gunship của TPC Thục bay ṿng lại, cùng với tiếng Thục la lên trong máy “Bửu coi chừng pḥng không ở hướng Đông Nam”. Từ trên phi cơ nh́n xuống, giữa màu xanh trùng điệp của rừng cây nhiệt đới, ngọn Đồi 31 đỏ quạch nổi bật với những đốm bụi đất tung lên từng cơn v́ đạn pháo kích đào xới của cộng quân Bắc Việt. Không nao núng, Bửu vẫn điềm tĩnh tiếp tục đáp xuống; Khi phi cơ c̣n cách mặt đất độ 15 thước th́ trúng mảnh đạn cối 120ly, khắc-tinh chống trực thăng, phi cơ phát hoả, bùng lên một đám khói bao trùm cả phi cơ, cơ phi Em la lên khẩn cấp trong máy “đáp xuống, đáp xuống anh Bửu ơi, máy bay cháy”. Cùng lúc Bửu cũng cao tiếng báo động cho chiếc số 2 “Yên ơi, tao bị trúng đạn rồi, đừng xuống nữa” trong khi vẫn b́nh tĩnh đáp xuống; May mắn là đạn trúng vào b́nh xăng sau đă hết xăng, chỉ c̣n ít hơi đốt, nên trực thăng không bắt cháy như chiếc của Thiếu-úy An ở Bù Đốp hôm nào.

Vừa chạm đất, theo phản xạ Bửu nhanh nhen nhảy ra khỏi trực thăng. Mọi người chạy ngược lên đồi về phía hàng rào pḥng thủ thứ nhất của đại đội công vụ Dù cách khoảng 100 thước, để lại một cảnh thương tâm hiện ra trước mắt, một binh sĩ điện tử Dù bị trúng đạn ngay giữa trán, nằm ngửa chết ngay trên ghế. Trên sàn tàu, đống máy “sensor” vẫn c̣n nguyên vẹn, Phi hành đoàn phóng chạy lên đồi theo những tiếng kêu gọi của binh sĩ Dù “trên đây nè Đại uư, tụi tôi bắn yểm trợ cho”. Tất cả dân bay lom khom chạy trong khi tiếng đạn nổ lóc cóc trên đầu, Lên đến nơi phi hành đoàn thở nhẹ-re như ḅ kéo xe. Dân- bay mà hành quân dưới đất th́ phải biết là mệt đến đâu, Tôi phải ghi vào sổ nhựt kư đơn-vị và nhớ măi hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm 1971.

Phi hành đoàn vừa ngồi nghỉ mệt, họ cũng vừa nh́n xuống LZ, nơi chiếc phi cơ đang đậu hiền lành, th́ cũng vừa lúc quân BV tiếp tục giă trận địa pháo đă điều chỉnh tác xạ, một quả đạn súng cối 120ly rơi trúng ngay tàu nổ tung, bốc cháy thành một cột trụ khói đen mù mịt cả một góc trời. Dân bay nh́n con tàu xụm xuống, ḷng quặn lên. Con tàu thân thương đó đă nhân cách hoá, gần gũi với phi-đoàn lâu nay, giờ thành một đống sắt vụn.

Một lát sau, theo chỉ dẫn của anh em binh sĩ Dù, phi hành đoàn men theo giao thông hào lần về đến ban chỉ huy Lữ Đoàn 3 Dù. Gặp lại phi hành đoàn của Giang, On, Sơn anh em mừng rỡ thăm hỏi rối rít, PHĐ được giới thiệu với các sĩ quan trong ban tham mưu Lữ Đoàn 3. Đầu tiên là đại tá Thọ lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn 3, Thiếu tá Đức Trưởng ban 3, Đại uư Trụ phụ tá ban 3, Đại uư Nghĩa sĩ quan điều không tiền tuyến, Trung uư Chính sĩ quan Không trợ Dù, Thiếu uư Long phụ tá ban 2. Về phía Pháo Binh th́ có Trung tá Châu Tiểu đoàn Trưởng và Đại uư Thương Trưởng ban 3 thuộc Tiểu đoàn 3 Pháo Binh Dù. Đại tá Thọ mừng anh em “mới đến” mỗi người một điếu Havatampa và một ly Hennessy để lấy lại tinh thần; phi hành đoàn ngạc nhiên vô cùng, đi đánh giặc, nằm ở tuyến đầu ác liệt vậy mà mấy “Thiên thần” Nhảy Dù vẫn thản nhiên hút x́-gà Cuba và uống rượu Mỹ như Trương Phi tân thời! Quả các Thiên thần ăn chơi cũng dữ mà đánh giặc cũng ngầu thật.

Buổi chiều vùng rừng núi trời tối thật nhanh, dân bay dùng tạm bữa cơm dă chiến với ban tham mưu Lữ Đoàn rồi chia nhau ngủ ké với anh em Dù; Tin tức chiến sự mỗi ngày một căng thẳng hơn v́ đối với cộng sản Bắc Việt, sự hiện diện của căn cứ Đồi 31 trên hệ thống đường ṃn HCM như một lưỡi dao đâm thẳng vào yết hầu của chúng. V́ thế cộng quân đưa thêm quân vào tạo áp lực nặng nề lên căn cứ nay với ư định đánh bật căn cứ ra khỏi sinh lộ của chúng với trung đoàn 24B và trung đoàn cơ động 27 thuộc Quân đoàn 70 B và một đơn vị chiến xa yểm trợ thuộc trung đoàn 202.

Mệnh số oan-nghiệt của 2 PHĐ/219
Hai hôm sau, vẫn không có chuyến bay tiếp tế nào vào được v́ quân BV luôn di-động che-dấu dàn pḥng-không của chúng khiến KQVN và HK không phát huy được ưu thế của ḿnh. Mỗi sáng sương mù lại tan rất trễ, mất thời gian tính cho Không Quân Chiến Thuật can thiệp, chỉ có 2 phi tuần F4 đến ném bom cầu-âu vào khu vực khả nghi chung quanh Đồi 31 và thỉnh thoảng mới có một đợt B-52 rải thảm từ phía nam đường-9 ầm-vang như tiếng sấm rền từ xa xa vọng đến rồi mọi sự lại ch́m vào cơi âm-u của rừng núi trùng điệp. Từ pḥng hành quân Pentagon, do tướng Al Haig làm Chairman, phối kiểm với con mắt nhân chứng của tôi, tôi cũng có thể quyết-đoán được, B-52 Arc Light chỉ yểm trợ từ ranh giới phía nam đường 9 trở xuống, Trung đoàn của Đại tá Điềm di chuyển không đúng lộ-đồ của pḥng lạnh Pentagon, cũng bị B-52 đuổi đít thê thảm, (v́ họ đánh giặc như bàn cờ trong pḥng lạnh với bản-đồ treo trên tường trước mặt là ly cafê đen phi-phào điếu thuốc) c̣n từ Đường 9 trở về phía Bắc thuộc vùng trách nhiệm của Gunship AC-130B, c̣n như ngay chính trục đường-tiến-sát là đường 9 th́ lại của Skypot trách nhiệm, v́ thế TĐ 8 Dù tùng thiết với Thiết Giáp, chi di-hành trễ mà toan chuẩn bị dừng chân nghỉ đêm cũng bi Skypot đuổi đít bằng CBU-24, khi nổ bung ra hàng trăm quả bom nhỏ nổ đều lóm-đóm như pháo bông. Hành động nầy có 2 mục đích:

(1) đuổi đơn vị đặc nhiệm phải mau mau đi cho đúng lộ-đồ vào cái Rọ 604 của tṛ chơi chiến tranh trong pḥng lạnh với lộ đồ bằng thước chỉ trên bảng, hậu quả TĐ/Phó TĐ/8 bị thương ngày 9/2/1971.

(2) trắc nghiệm nếu phi hành đoàn trực thăng bị bắn rớt, cứ chạy xuống hầm quân BV đào sẵn mà núp, AC-130B có thể thả bom CBU-24 trên miệng hầm để chờ cứu cấp, như Đại-đội Hắc báo đă cứu 7 đoàn viên UH1 của Nỹ rớt bên Lào.

Tất cả hoả lực nầy, chúng đều là con dao 2 lưỡi nếu quân lực VNCH mà thượng-phong th́ chính chúng sẽ “làm-bộ” thả lầm cho cân bằng lực lượng của cả 2 đối thủ cho tṛ chơi chiến tranh rất bẩn thỉu. Thí dụ TT Thiệu ra lệnh rút quân không chịu tấn kích vào Hậu cần 604, báo hại Sư-đoàn-2 Sao Vàng nằm chờ phục-kích phải chết oan bằng BLU-82s, BLU-82AL, và B-52 Arc Light, làm xóa sổ sư-đoàn nầy mà phía Hà Nội cũng không dám mở miệng, chỉ tội nghiệp cho người lính nhỏ bé của 2 miền Nam/Bắc từ cấp trung gian trở xuống. Tôi muốn ám chỉ từ cấp Lữ đoàn, Trung đoàn, Liên đoàn trở xuống người lính quèn là con thiêu thân, Tôi cũng đă đọc một tài liệu mật tại Library of Congress, siêu chính phủ Mỹ (Permanent Government) cho rằng phải tiêu diệt tất cả sĩ quan trung gian v́ họ là thành phần ưu tú có nguy hại đến bàn giao Saigon cho Ha-Nội phải bị tắm máu, v́ theo dư mưu th́ chỉ rỉ-máu và Saig̣n không thành đống gạch vụn khi bàn giao chuyển tiếp qua 3 vị Tổng thống trong 72 tiếng đồng hồ.

Về phía quân BV quyết tâm bao vây theo lệnh của thành viên OSS-1945, Vơ Nguyên Giáp, chấp nhận đánh trận xa Tchepone chớ không đánh trận gần như căn-cứ Mỹ tại Khe Sanh. Quân bắc Việt tập trung bao vây, tăng cường pháo kích suốt ngày nhằm quấy rối và làm tiêu hao lực lượng Dù theo mưu đồ cũa Pentagon phải căng quân Dù ra mà dập trận địa pháo. Những vùng phía Bắc Đường 9 th́ chỉ có Gunship AC-130B yểm trợ, nhưng họ chỉ ưu tiên cho BĐQ v́ đơn vị nầy đang bị áp lực cực mạnh. C̣n quân Dù chỉ có dựa vào một nhúm Gunships Phi đội 213, nhưng phần nhiều dành cover cho tản thương và tiếp tế, chỉ có yểm trợ tiếp cận (air closed supports) khi quân Dù bị PT-76 hoặc T-54 đe doạ.

Sáng ngày 25 tháng 2 năm 1971, tất cả 2 đoàn viên H-34 từ Đồi-31 đă nhận được lệnh và khởi sự di-chuyển ra các hầm cứu thương sát băi đáp chờ đến trưa khi lớp sương mù buổi sáng vừa tan đi, đích thân phi đội-219 với 3 chiếc H-34 và 3 Gunship của phi-đội 213 sẽ yểm trợ một cách ngoạn mục theo kế hoạch rescue của tôi. Rút kinh nghiệm vừa qua tại Landing Zone North và South của BĐQ, tại sao trực thăng Mỹ rớt như chiếc lá mùa Thu? Tại sao phía Mỹ chịu quá nhiều thiệt hại hơn VN? Góp nhặt thực tế lấy ra trong các chiến trận, do các cố vấn Mỹ cũng như Trung tá Robert F Molinelli, Tiểu đoàn trưởng TĐ2/LĐ17/SĐ101 Không Kỵ – Đại úy Farrell, Phi đội trưởng, Gunship-Cobra C7/17, và Warrant Officer Joel Dozhier đại diện Phi-đội DMZ/Dust-Off cùng debriefing với Topgun trực thăng VN là tôi tại Hàm Nghi, Khe Sanh, để ghi chép vào Học-viên Quân-sư (Military History Institute of Vietnam) tuy rằng gunship KQVN chậm hơn, hoả lực có ít hơn nhưng thực tế rất hiệu quả như:

– (1) Nhanh chóng áp đảo địch quân không thể ngóc đầu lên để chống cự, tại chiến trường Lam Sơn 719, trong khi AH-1G Cobra phải làm ṿng phi đạo tiềm kích mất thời gian tính, nên địch có rộng thời giờ chuẩn bị trận địa.

– (2) Phát hiện địch trước và tác xạ phủ đầu trước buộc địch phải kiếm nơi trú ẩn theo phản ứng tự nhiên của con người.

– (3) Nhiều minigun có xạ thủ tác xạ bao vùng (air cover) là một khắc tinh khống chế dí đầu đối thủ trên các thiết xa PT-76 phải nằm rạp xuống, chỉ cần một chiếc gunship lấy tí cao độ bắn rockets chống tăng để hủy diệt dễ hơn bắn một con Nai đang chạy; nếu nơi nầy địch quá đông ta sẽ yểm trợ thêm hoả tiễn chống biển người.

– (4) Chướng ngại vật thiên-nhiên như đồi núi, ngách đá, trên tàng cây (độn rừng) và cao độ rà sát áp đảo, ngụy hóa âm thanh làm cho địch ngơ ngác không biết sát-thủ từ hướng nào bay đến từ trên ngọn cây, nếu ngoan cố sẽ bị minigun tiêu diệt trước khi mở mắt nh́n thấy sát thủ vừa bay thoáng qua.

– (5) Có nhiều con mắt Cú-vọ như diều hâu của các xạ-thủ đầy kinh nghiệm chiến trận không thể bỏ sót những con mồi đang nằm trong tầm mắt.

Tại TOC dưới hầm Hàm Nghi, tôi đă bàn thảo với ba Đại Tá Cockerham, Battreallda, cùng Tham-mưu-phó Hành-Quân/QĐ-1, xin được 20 phút ngừng tất cả hỏa lực pháo binh tác xạ cũng như không yểm, để chúng tôi làm cuộc đột kích lấy yếu tố bất ngờ cứu tất cả 2 phđ H-34 và thương binh Dù. Sau một hồi lâu bàn thảo suy tính cân nhắc, rồi các đại-tá nầy mới miễn cưỡng chịu chấp thuận. Ṿng chờ của các hợp đoàn chúng tôi, lấy vùng trời A Luối, 15 phút làm điểm tập hợp như là một ṿng chờ cho cuộc phi-diễn bay vào khán đài Đồi-31. Cuộc rescue nầy do sự quyết định của tôi chỉ trong ṿng có 5 phút chóp nhoáng trong ṿng 20 phút cho cuộc hành quân phải hoàn thành. Giờ G và Phút P sẽ cho TOC biết ngay sau khi sương mù tan tại vùng hành quân.

Tôi sẽ đích thân cho TOC biết sau; Sự cấp cứu chỉ cần 5 phút đột xuất trong chóp nhoáng là phải thi hành cho xong: 3 gunship sẽ bay sát ngọn cây cách nhau 5 giây echelon trái, tầm đạn cuồng sát trên đầu địch 75 thước, trong vị thế cường kích. Điểm xuất phát TĐ/8 Dù, từ điểm chạm tuyến của đại đội Trinh-sát Dù, bay thẳng về hướng Tây Bắc, thẳng đến sườn trái của Đồi-31, trong lúc 3 H-34 ở cách sau 45 giây với cao-độ 150 thước song song với mặt rừng, 3 H-34 theo sau bay thẳng một mạch tới Bunker gần LZ đễ bốc tất cả đoàn-viên cùng thương binh, dưới sự bao vùng của 6 bầu lửa minigun cover 4.000 viên phút, rải đều như trận mưa rào nặng hột, lấy Đồi-31 làm tâm điểm, chia đều khoảng cách trên chu vi oanh kích, tuyết đối không xử dụng rockets chống Tăng mà chỉ dùng khi hữu sự, dồn nỗ lực rescue càng nhanh càng tốt; chỉ trừ khi lính BV phản ứng phóng ra khỏi hầm trú ẩn và chịu chấp nhận nghinh chiến th́ đă bị bất khả dụng v́ không tránh khỏi bị thương tích với trên 100.000 cái đinh sắt ghim vào người họ vào lúc cao điểm khi H-34 đang đáp xuống.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1764299&stc=1&d=1616869706

Từ điểm xuất phát trên đầu 2 Đại đội Trinh sát Dù bay thẳng đến Đồi-31 là 4 cây số, theo sau 50 giây trên cao độ 150 thước cách mặt rừng 3 H-34 bay thẳng đến Bunker để đón tất cả 2 phđ và thương binh, v́ đạn M-60 trên H-34 không nhiều nên chỉ tác xạ khuấy rối (neutralization) khi thấy 2 gunship kè hai bên phụt xuống bằng hỏa tiễn chống biển người, có nghĩa khi cơ-phi trên H-34 thấy từng cụm khói đỏ-hồng phụt ra từ 2 gunship kè hai bên, lúc đó cơ-phi hăy tác xạ tự vệ. Chiéc gun số 2, 3 sẽ dùng hoả tiễn chống biển người để chống trả; Coi như rockets chống Tăng của Lead Trần Lê Tiến [Trung úy Tiến và tôi là 2 người đầu tiên xác định gunship với USAF, và S/I.P UH1 với 1st Army Aviation] chỉ để dành khi hữu sự mà không dùng càng tốt. Cái quan trọng nhứt là bốc thật nhanh đồng đội và thương binh Dù ra, v́ đây không phải muc-tiêu cần phải tiêu diệt; Thực ra rockets chỉ là những hoả lực tự vệ, Minigun mới vô cùng lợi hại như dĩ văng đă chứng minh.

Tôi sẽ bay C&C cùng với sĩ quan tham mưu Tiền Phương Dù, xử dụng tối đa M-18 cùng M-60 bắn xuống vào những nơi mà sĩ quan Tham muu Dù nghi ngờ để phụ thêm hoả lực lúc cao điểm. Thế là chúng tôi sẽ hướng dẫn 3 chiếc gunships trang bị 14 rockets chống Tăng, 28 rockets chống biển người, dẹp pod-rockets 19 thay vào pod- 7 cho nhẹ và trang bị tối đa 12.000 viên 7,62 minigun cho dễ linh-động khi phải nhào lộn tác xạ; Trung úy Trần Lê Tiến sẽ lead 3 gun bay thẳng vào, trên ngọn cây, từ đám rừng già trước mặt, trên đầu 2 đại-đội Trinh-sát Dù; khi bay qua khỏi vị trí Dù 45 giây th́ bắt đầu khai hỏa: 6 xạ-thủ đứng xỗng lưng chồm ra ngoài rảo con mắt diều-hâu dội mưa xuống 4.000 viên phút, nhưng phải rút kinh nghiệm khi tăng khi giảm cường độ để duy tŕ hệ thống control-box không bị overcharge, bay thẳng một mạch đến bên trái Đồi 31, lúc nầy Lead gun quẹo gắt qua phải lên cao độ bao vùng, kế tiếp chiếc 2 và 3 cùng lên cao độ, kè hai bên H-34 vừa mới tới mà phụt rockets chống biển người xuống bao vùng chung quanh. Tuyệt đối khai thác chướng ngại vật thiên nhiên, tàng cây, ngách núi, cùng khe-đá, phải chủ động khống-chế đối phương bằng hỏa lực cường tập, gầm thét, áp-đảo bằng minigun là chính, không cho phép địch ngóc đầu lên chống trả; chỉ xử dụng rockets khi địch quân dám xuất đầu lộ diện chiu chơi. Nếu có chiến xa cũng bắn chụp lên phủ đầu không cho chúng ló đầu ra khỏi pháo tháp bắn trả.

Lead Trần Lê Tiến thấy cần th́ một ḿnh lấy cao độ hủy diệt nó, trong khi 6 miniguns vẫn tiếp tục nhả đạn bao vùng, nhưng tốt hơn tha cho nó mà dành hỏa lực chỉ để rescue mà thôi. Điều quan trọng là cứu phi hành đoàn và thương binh là hoàn thành phi vụ với sự măn nguyện đối với chúng ta 100%. Hợp đoàn của chúng tôi sẽ phối họp bao vùng, không cần hoả yểm cũa Mỹ v́ cũng chẳng ích lợi ǵ ở vùng núi cao hiểm trở nầy, như Mỹ đă tiền oanh kích một cách vô ích dưới sự chứng kiến cũa chúng tôi, mà c̣n báo-động cho địch ở vị thế sẵn sàng chiến đấu, hơn nữa lại c̣n làm cho địch biết trước rồi núp vào các hầm hố kiên cố cùng làm mất thế chủ động và bất ngờ. Rơi vào thế bị động như Mỹ. Động-thái nầy có nghĩa không cho phép địch ở vị thế thượng phong chuẩn bị sẵn sàng phản-kích mà ta phải giành có quyền chọn thế thượng phong. Trong chiến trận ai giành được thế chủ động th́ người đó nắm chắc phần thắng.

Trung úy Tiến sẽ cover để vào vừa tải thương binh Dù đồng thời bốc 2 phi hành đoàn ra trong ṿng 5 phút tối-đa. Trên vùng trời Đồi 31, 3 chiếc gunships khai thác tối đa, lấy Đồi 31 làm tâm điểm chia đều cover trên châu-vi h́nh tṛn mà mưa xuống không chừa chỗ nào để địch không có thể cḥi ra bắn trả, vào lúc cao điểm khi H-34 vừa đáp th́ được bao phủ kín-mít bằng că3 trăm ngàn mũi tên đinh sắt ghim xuống. Nên chắc chắn một điều, hăy quên rockets mà chỉ chú trọng đến mưa đạn minigun, phải dí đầu mấy tay súng không cho phép địch chường mặt, tôi nghĩ chúng ta có thể làm được. Cuộc Rescue nầy rockets chỉ là hỏa lực tư vệ không cần thiết khi phải ứng xử.

Nhưng khốn nạn thay, trời không chiều ḷng người, tạo nên một buổi sáng sương mù tan quá trễ. Lợi dụng trong khi sương mù bao phủ, các trung đoàn BV bôn tẩu với ư định lấy thịt đè người bằng xa luân chiến càn quét chỉ một tiểu đoàn-3 Dù trừ (300 tay súng mà thôi) trung đoàn chạm trán đầu tiên là 24B cùng với trung đoàn 27 cơ-động ở hướng Tây Bắc, chính nó vừa làm thiệt hại cho TĐ 6 Dù, ngay sau khi đổ bộ xuống để tiếp cứu Đồi 31, tiếp theo đó 2 trung đoàn 102nd và 88 đang chuẩn bị tham chiến từ hướng Đông Bắc thuộc Quân đoàn 70B, có trung đoàn chiến xa 202 yễm trợ. Chúng quyết thanh toán Đồi 31 với bất cứ giá nào.

Kế hoạch rescue của tôi hoàn toàn bị đ́nh-động, khi bất thần 42 khẩu trọng pháo của Mỹ ở Khe Sanh đă đồng loạt tác xạ vào chung quanh Đồi31 v́ áp lực của địch vô cùng dữ-dội, trước sự vô cùng ngạc nhiên của chúng tôi, như vừa thỏa thuận buổi hợp sáng nay.

Bây giờ, nơi Bunker Đồi 31, 2 PHĐ cùng vài thương binh Dù nấp chung với nhau trong một hầm trú ẩn. Đến trưa khi 2 PHĐ bắt đầu nghe tiếng máy nổ quen thuộc xa xa th́ cũng là lúc địch khởi đầu trận, nói theo danh từ quân BV là “Trận địa pháo” dồn dập lên chung quanh Đồi 31. Than ôi! Đúng là muôn sự tại nhân thành sự tại thiên, Quân BV đă lợi dụng sương mù chuẩn bị một lực lượng hết sức hùng-hậu, đông như kiến mong sẽ chụp 300 thiên thần Mũ Đỏ chống đỡ; Vi dân-bay đă thấy trước qua lỗ châu mai từ trong hầm cứu thương nh́n qua bên kia đồi đối diện, cách nhau một cái yên ngựa, 2 PHĐ thây rơ hai chiếc thiết xa PT-76 c̣n T-54 không leo lên được nên từ dưới chân đồi bắn trực xạ lên Đồi, Cả LĐ-3 Dù, mà chỉ có 300 chiến sĩ chống giữ. Quân BV thuộc Trung đoàn 24B/304 và thêm 2 Trung đoàn 9 và 66 sắp sửa tham chiến, chúng đang bôn tập từ hướng đông bắc tới.

Bây giờ Trung Đoàn 24B đang tiến lên xếp hàng ngang, cùng với quân tùng thiết dày đặc theo sau chung quanh nhắm đỉnh đồi-31 mà nhả đạn; C̣n trung đoàn cơ-động 27 đang án-ngữ hướng Tây chận TĐ-6 Dù ở bên sườn tây. Những tia lửa ṇng súng phụt ra từ các PT-76 và T-54 thuộc Trung Đoàn chiến xa 202. Dưới Bunker, dân bay thụp đầu xuống cùng nh́n nhau như nhắc nhớ câu mà anh em trong phi đoàn thường nói với nhau mỗi khi lên đường hành quân “Trời kêu ai nấy dạ, đạn tránh người chớ người không thể tránh đạn!” Ngồi trên ghế lái C&C như Đĩa phải vôi, tôi không ngờ quân BV mạnh và nhiều đơn vị cấp trung đoàn đến thế, chúng âm mưu tấn công như bầy kiến tha hột cơm, làm sao quân Dù pḥng thủ của ta chỉ có 300 tay súng chống đỡ? Có cả thiết vận xa PT-76 và chiến xa T-54 từ dưới chân núi bắn trực xạ lên.

Ngoài kia, trong từng giao thông hào binh sĩ Dù chống trả mănh liệt, nhất là những pháo thủ pháo đội C trên Căn cứ 31, với những khẩu pháo đă bị hỏng bộ máy nhắm v́ pháo kích 152 ly xuyên phá của của địch, họ phải hạ ṇng đại bác để bắn trực xạ thẳng vào thiết-xa PT-76 địch bên kia đồi và trong những loạt đạn đầu tiên đă hạ ngay được 2 chiếc PT-76. Nhưng để trả giá cho hành động dũng- cảm này nhiều binh sĩ Dù đă nằm xuống, có người nằm chết vắt trên những khẩu pháo của họ, trong số này có cả Pháo đội Trưởng Nguyễn văn Đương, người đă là niềm hứng khởi cho một nhạc phẩm nổi tiếng sau đó. Anh em Dù vui sướng reo mừng trong hầm bên này; Không ngờ, chỉ một lúc sau 2 thiết-xa PT-76 khác ở phía sau tiến tới ủi những chiếc xe cháy xuống triền đồi rồi lại hướng súng đại bác về đồi 31 mà bắn! C̣n những chiếc T-54 không leo lên được th́ sủa bậy bạ lên phía trên đồi để hù dọa các thiên thần mũ đỏ. Sau vài loạt đạn, một phi tuần 2 chiếc F4 Phantom xuất hiện nhào xuống oanh tạc vào đội h́nh Trung Đoàn 24B, và lại phá hủy thêm 2 PT-76 nữa. Nhưng chẳng may một chiếc F-4 bị trúng pḥng không 37ly x́ khói, phi công đang nhảy dù, thế là tất cả phi cơ Mỹ đều bỏ lại và dồn nổ lực vào rescue chiếc F-4, người quan sát viên Việt ngồi ghế sau thuộc Phi-đoàn 110 của FAC Bronco OV-10 đành thở ra lắc đầu ngao- ngán.

Trong tiếng bom đạn tơi bời, dân bay mừng rỡ vẫn nghe văng vẳng tiếng máy nổ của những chiếc H34 thương yêu đang vần vũ trên cao cùng chiếc UH-1 C&C của con chim đầu đàn nguyện không bỏ anh em không bỏ bạn bè, đang vang vọng trên đó như lo lắng cho số phận những đồng đội của ḿnh. Cho đến khoảng 5 giờ chiều th́ quân BV tràn lên chiếm được đồi. Chúng lùng xục từng hầm trú ẩn kêu gọi binh sĩ Dù ra đầu hàng. Biết không thể làm ǵ hơn, 2 PHĐ tháo bỏ súng đạn cá nhân, chui ra khỏi hầm.và chịu cảnh hàng binh.

Về phía KQ, Bửu, Khánh, On và Sơn bị trói bằng dây điện thoại và ngay tức khắc bị dẫn giải ra Bắc băng đường 92B chung với tất cả tù binh khác, v́ sợ B-52 trải thảm. Không thấy Giang và Em đâu; Anh em KQ tim hỏi nhau, họ bắt đầu thăm hỏi các SQ và binh sĩ Dù trên đường bị áp tải. Cuối cùng họ gặp được anh Long là người ở chung trong hầm với anh Giang khi cộng quân kêu các anh ra đầu hàng. Đến lần thứ 3 các anh vẫn không chịu ra nên chúng thảy lựu đạn chày và bắn xối xả vào hầm; Anh Long chỉ bị thương nhẹ nên chúng bắt theo c̣n anh Giang v́ bị thương nặng găy cả 2 chân không đi được nên bị chúng bỏ lại và chết ở trong hầm. Về phần cơ-phi Em th́ bị lạc đạn trúng bụng đổ ruột ra ngoài, khi bị bắt dẫn đi anh Em cứ 2 tay ôm bụng giữ lấy ruột mà không hề được băng bó vết thương nên đi được một khoảng không chịu được đau đớn anh Em gục chết ở bên đường.

Thế là PĐ-219 ghi thêm vào quân sử của LĐ/51/TC thêm một thiệt hại 2 phi hành đoàn trên chiến trường Hạ Lào; Trong đó anh Giang và Em đă vĩnh viễn ở lại trên trái đồi oan-nghiệt nầy, Ngọn đồi quyết tử 31; Những người c̣n lại của 2 phi hành đoàn đó là Bửu, Khánh, On và Sơn th́ sa vào tay địch, bị đưa đến những bến bờ vô định, biết c̣n có ngày về hay không?

KQ Trương văn Vinh

hoanglan22
04-24-2021, 03:55
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1779295&stc=1&d=1619236489

Người Nhái Lê Văn Kinh

Anh Lê Văn Kinh lớn hơn tôi 3 tuổi, là bạn học cùng lớp với tôi ở trường Trung Học Đồng Nai, Sàig̣n trong những năm 1951 đến năm 1955. Anh Lê Văn Kinh sanh ngày 15 tháng 2 năm 1935 tại Sa Đéc, Nam Việt Nam trong một gia đ́nh có 9 người con gồm: 3 gái và 6 trai. Sau hai chị, anh Kinh là người con trai lớn nhứt trong gia đ́nh.

Sau khi thi Brevet xong (Anh Kinh học chương tŕnh Pháp. Bằng Brevet tương đương với bằng Trung Học Đệ Nhứt Cấp của Việt Nam), anh Kinh mất tích trong chốn học đường. Sau đó một tḥi gian khá lâu, tôi mới biết là anh phải đi làm để giúp gia đ́nh nuôi đàn em dại, nên anh đă hy sinh tương lai của anh để lo cho tương lai của các em.

Khi lớn lên, đáp lời sông núi, cả 6 anh em đều đầu quân vào QLVNCH và đă thật sự góp xương máu ǵn giữ giang sơn tổ quốc. Người em kế của anh Kinh đi Hải Quân, bị địch pháo kích, đă đền nợ nước. Người em kế tiếp đi Thiếu Sinh Quân, sau trở thành sĩ quan Pháo Binh. Hai em kế nữa đi TQLC, th́ một đền nợ nước tại chiến trường Kontum, một trở thành thương phế binh. Người em Út đi Biệt Động Quân cũng trở thành thương phế binh. Riêng anh Kinh th́ trở thành người tù 20 năm khổ sai của Cộng Sản Bắc Việt. Tổng cộng trong 6 anh em của anh Kinh th́ 2 người đă dâng mạng sống của ḿnh cho tổ quốc, hai người đă hy sinh một phần thân thể cho quê hương, dân tộc, một người chôn vùi tuổi thanh xuân suốt 20 năm khổ sai trong lao tù Cộng Sản.

Anh Kinh rất to lớn so với khổ trung b́nh của người Việt Nam. Thật ra, anh cao lớn hơn tất cả các bạn cùng lớp, nhưng anh rất hiền và dễ thương như một thư sinh “khổng lồ”...

Khi vào học khóa 9 SQ/ Hải Quân năm 1959, tôi mới biết anh Kinh và người bạn thân khác, cùng lớp, Lâm Văn Hiếu và Nguyễn Văn Thành đă gia nhập quân chủng Hải Quân trước tôi, từ năm 1955. Hiếu chọn ngành Trọng Pháo, Thành, Giám Lộ, anh Kinh, Vận Chuyển. Hiếu và Thành đều đă đền nợ nước: Hiếu trong Nam, Thành, ngoài Bắc (Lực Lượng Hải Tuần). Sau 5 năm dệt mộng hải hồ, anh Kinh thấy chưa thỏa chí tang bồng, muốn t́m những cảm giác mạnh hơn, những công tác khó khăn hơn, và nguy hiểm hơn: Anh muốn đùa giỡn với tử thần, anh muốn trở thành Người Nhái.

Năm 1960, anh t́nh nguyện ghi tên đi học khóa Người Nhái và được gởi đi Đài Loan huấn luyện để trở thành một trong những Người Nhái đầu tiên của Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa. Anh Kinh mà đi Người Nhái th́ đúng quá rồi, v́ anh có đủ yếu tố cần thiết để trở thành Người Nhái: Thông minh, khỏe mạnh, dẻo dai, chịu đựng, nhẫn nại, hiền nhưng can trường và cương quyết, có biệt tài bơi lội, lặn sâu và lặn xa...Và anh đă thành công. Anh đậu hạng nh́ (Lê Quán Thủ Khoa) trong khóa huấn luyện Người Nhái tại Đài Loan. Anh đă trở thành Người Nhái như ước mơ của anh.

Năm 1962, không ảnh của t́nh báo cho biết có 6 chiến hạm của Cộng Sản Bắc Việt, chia làm 2 toán, mỗi toán 3 chiến hạm thay phiên nhau hoạt động và nghĩ bến. Do đó thường xuyên có một toán gồm 3 chiến hạm đậu nghĩ bến tại quân cảng Quảng B́nh, bên trong Ba Đồn, sông Gianh. Người Nhái được lệnh đặt chất nổ phá hủy 3 chiến hạm đậu nghĩ bến.

Một chương tŕnh huấn luyện và thực tập đặc biệt về ḿn chống chiến hạm và kỹ thuật sử dụng được thực hiện tại Đà Nẵng. Việc tuyển chọn Người Nhái thích hợp cho chuyến công tác bí mật nầy đă được Sở Khai Thác Địa H́nh, trực thuộc Phủ Tổng Thống, thi hành hết sức kỷ lưỡng và gắt gao: Anh Nguyễn Văn Chuyên ( TK Hội cựu SVSQ Thủ Đức .?? ) được chỉ định chỉ huy tổng quát, hướng dẫn 3 Người Nhái khác được tuyển chọn cho công tác đặc biệt này gồm có: Nguyễn Văn Tâm, Lê Văn Kinh và Nguyễn Hữu Thảo. Chương tŕnh huấn luyện và thực tập chỉ chấm dứt sau khi mỗi người trong toán đều thông suốt cách sử dụng loại khí giới hết sức lợi hại này. Tuy đi chung một toán, nhưng mỗi Người Nhái đều có riêng mục tiêu của ḿnh đă được chỉ định trước, cũng như v́ lư do an ninh cá nhân, mỗi người đều có trang bị riêng và chỉ Người Nhái đó chịu trách nhiệm việc sử dụng và điều chỉnh trang bị của ḿnh chứ không ai khác được kiểm soát hay đụng tới. Cũng giống như nhảy dù điều khiển, người nhảy phải tự xếp dù của ḿnh, chứ không để ai được đụng tới.

Tháng 5, năm 1962, toán Người Nhái sẵn sàng và lên đường, nhưng chiếc ghe chở toán Người Nhái đi công tác bị phát giác, lộ hành tung, phải trở về căn cứ. Độ một tháng sau, tháng 6, năm 1962, toán Người Nhái của Anh Chuyên được lệnh thi hành công tác trên. Lần này, không bị phát giác. Công tác được thi hành ban đêm. Chiếc ghe lớn chở toán Người Nhái đến cửa sông Gianh th́ dừng lại và cho ghe nhỏ hơn chở toán Người Nhái vào quân cảng Quảng B́nh, cách các chiến hạm của Cộng Sản Bắc Việt khoảng 100 thước th́ dừng lại. Cả 2 ghe lớn và nhỏ đều được ngụy trang giống như ghe đánh cá tại địa phương.

Ba chiến hạm Cộng Sản Bắc Việt đậu song song với nhau sát cầu tàu, ở Ba Đồn. Mục tiêu của anh Kinh là chiến hạm đậu bên trong sát cầu tàu, anh Thảo, chiến hạm thứ 2 (đậu giữa) và chiến hạm đậu bên ngoài là mục tiêu của anh Tâm. Anh Chuyên ở lại ghe nhỏ cùng với ba thủy thủ đoàn chờ đợi đón ba Người Nhái kia sau khi hoàn thành nhiệm vụ để đưa ra ghe lớn trở về căn cứ.

Sau khi nhận diện mục tiêu và kiểm soát lại lần chót trang bị của ḿnh, anh Kinh xuống nước trước, kế đến anh Thảo và cuối cùng là anh Tâm theo thứ tự mục tiêu xa gần, như vậy cả ba sẽ tới mục tiêu cùng một lúc. Cho tới giờ phút đó, mọi việc đều xảy ra như kế hoạch đă định sẵn. Kế hoạch dự trù kế tiếp là điều chỉnh thời nỗ 5 giờ sau ḿn mới nổ, để có đủ th́ giờ trở về căn cứ an toàn.

Anh Kinh hoàn tất công tác trước, rời khỏi mục tiêu khoảng 20 thước, trồi lên mặt nước để dùng hồng ngoại tuyến định hướng chiếc ghe nhỏ đang chờ để rước toán của anh trở về ghe lớn sau khi hoàn thành công tác.

Th́nh ĺnh, một tiếng nổ long trời đẩy anh Kinh văng lên khỏi mặt nước, toàn thân tê dại, anh không c̣n biết ǵ nữa. Khi tỉnh dậy, anh mới biết ḿnh là tên tử tù của Cộng Sản Bắc Việt. Dựa theo cáo trạng và nghe lóm cán bộ nói chuyện với nhau trong lúc bị lao tù, anh Kinh cho biết như sau: V́ lư do kỹ thuật, sau khi được đặt vào mục tiêu như đă định, trái ḿn của anh Thảo nỗ liền tức khắc (thay v́ phải 5 giờ sau mới nỗ) anh Thảo chết banh xác tại chỗ, cả ba chiến hạm cùng nổ tung và ch́m theo xác anh Thảo. Sức nổ của 3 quả ḿn cùng nổ một lượt đẩy anh Kinh, ở cách đó khoảng 20 thước, văng lên khỏi mặt nước và làm anh bất tỉnh. Anh c̣n sống quả là phép lạ. Anh Tâm lội ra xa hơn về hướng chiếc ghe nhỏ đang chờ nhưng sức nổ quá mạnh nên cũng bị bất tỉnh và cũng bị bắt. Riêng chiếc ghe nhỏ, chạy về ghe lớn và lập tức rời mục tiêu, nhưng v́ tốc độ chậm, bị chiến đỉnh của Cộng Sản Bắc Việt đuổi kịp, chúng ra lệnh đầu hàng, anh Chuyên không chịu hàng, hai bên bắn nhau, nhưng nhờ hỏa lực mạnh hơn nên cuối cùng chiến đỉnh của Cộng Sản Bắc Việt làm chủ t́nh h́nh và đụng chiếc ghe lớn ch́m, chỉ một người thoát nạn nhờ núp dưới cánh buồm. Anh Chuyên và một thủy thủ đă đền nợ nước, tất cả thủy thủ đoàn c̣n lại đều bị bắt.

Ngày 30 tháng 6 năm 1962, anh Kinh bị kết án hai mươi năm khổ sai, anh Tâm bị kết án chung thân khổ sai. Thủy thủ đoàn bị kết án từ hai năm đến mười tám năm. Nhưng bản án là một tṛ hề, bởi v́ hai năm hay chung thân đều cùng chung số phận, phải ở tù từ mười bảy đến hai mươi hai năm khổ sai mới được phóng thích. Ngày 28 tháng 01 năm 1980, anh Tâm được phóng thích sau 17 năm rưỡi khổ sai. Anh Kinh được phóng thích ngày 30 tháng 6 năm 1982, đúng 20 năm khổ sai.

Anh Tâm hiện cư ngụ tại California, anh Kinh ở Florida.

Mặc dù 4 Người Nhái và thủy thủ đoàn thi hành công tác này đă đền nợ nước hay chôn vùi tuổi thanh xuân trong chốn lao tù khổ sai của Cộng Sản Bắc Việt, nhưng họ không chết và không bị quên lăng, v́ họ sẽ sống măi trong ḷng của anh em Người Nhái thuộc Liên Đoàn Người Nhái Hải Quân Việt nam Cộng Ḥa và của đồng bào ruột thịt dành cho những đứa con thân yêu của dân tộc đă“VỊ QUỐC VONG THÂN”.

Đối với gia đ́nh anh Kinh, LĐNN xin giở nón cúi đầu bái phục một gia đ́nh ái quốc đă t́nh nguyện hy sinh, dâng hiến tất cả những đứa con trai của gia đ́nh cho Quân Đội để phục vụ cho Tổ Quốc, và làm tṛn nhiệm vụ của người trai trong thời loạn: “Chấp nhận hy sinh mạng sống hay một phần thân thể để bảo vệ từng tấc đất của quê hương xứ sở do tổ tiên để lại, trái ngược với bọn CS phản quốc nỡ ḷng cắt đất, dâng biển của tổ tiên cho ngoại bang.


Người Nhái HQVNCH

hoathienly19
05-13-2021, 16:33
LY RƯỢU DỞ DANG


https://scontent.fykz1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/185210046_1134159783 717100_2917711146630 914548_n.jpg?_nc_cat =106&ccb=1-3&_nc_sid=730e14&_nc_ohc=a-LsZwwgbAYAX_Afjhv&_nc_ht=scontent.fykz 1-1.fna&oh=b8ff71a8b4388b56b 1f9ddddcd7fe179&oe=60C1351F



Rượu cho mày hôm nay ly rượu đỏ

Thẩm một màu cũng đỏ tựa năm xưa

Khi vương văi chỉ đôi chân c̣n lại

Khói mờ dần ơi hỡi nửa phần trên

Rượu tao rót trong ly ḍng huyết quản

Tựa máu mày dù khuất nẻo thời gian

Tao vẫn nhớ và tao luôn vẫn nhớ

Uống đi mày uống hết sẽ châm thêm

Tao không hiểu khi đêm nằm trăn trở

Cứ mùa này đôi mắt chẳng nằm yên

Chuyện xưa cũ chuyện mày tao Thành Cổ

Nhói buồn tim chuyện xưa cũ lại về

Tao xin mày hăy để yên tao ngủ

Trước sau ǵ tao cũng đến mà thôi

Đừng hối thúc tao c̣n bầy con cháu

Sẽ từ từ kể chúng chuyện xa xưa

Thôi tao hứa trước sau tao cũng đến

Nếu c̣n chờ hai đứa sẽ nắm tay

Xin Mẹ Việt cho cả hai cùng xuống

Lại làm người, người TQLC Việt Nam


Nỗi Buồn hậu tháng tư đen

Thuyền Qua lối Cũ 05-11-21

hoathienly19
06-26-2021, 06:59
BIỆT CÁCH DÙ VÀ TRẬN PHỤC KÍCH


yJmqk839cUE

hoathienly19
07-12-2021, 21:43
TIỂU ĐOÀN 83 BIỆT ĐỘNG QUÂN VÀ CÔNG TRƯỜNG 5 BẮC VIỆT


939cugToQBI

hoathienly19
08-05-2024, 08:37
TIỂU ĐOÀN 3 TQLC VNCH VÀ TRẬN XA CHIẾN VỚI ĐỊCH DỌC BỜ SÔNG ĐÔNG HÀ 1972



Lược ghi về t́nh h́nh mặt trận Đông Hà trong những ngày đầu của cuộc chiến :

Ngày 30 tháng 3/1972, 45 ngàn quân CSBV đă vượt qua vùng phi quân sự và tiến hành các đợt tấn công cường tập vào nhiều cứ điểm pḥng ngự của các đơn vị thuộc :

Lữ đoàn 147, lữ đoàn 258 Thủy quân Lục chiến

Trung đoàn 2, 56 và 57 thuộc Sư đoàn 3 Bộ binh ở phía Tây Bắc tỉnh Quảng Trị.


Ngày 31 tháng 3/1972, Cộng quân áp lực nặng trên toàn cụm pḥng tuyến này.

Ngày 1 tháng 4/1972, lực lượng trú pḥng triệt thoái khỏi các căn cứ Cồn Thiên, Tân Lâm Bắc, Khe Gió.

Ngày 2 tháng 4/1972, bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh, đồng thời là bộ tư lệnh mặt trận Quảng Trị, dồn nỗ lực để gom quân và thiết lập hệ thống pḥng thủ mới dọc theo tuyến Cửa Việt, Đông Hà, Cam Lộ, Carroll, Mai Lộc và Phượng Hoàng.

Hai căn cứ Mai Lộc và Carroll (Tân Lâm) bị pháo kích liên tục.

Căn cứ hỏa lực Carroll do Trung đoàn 56 phụ trách, và cũng là bản doanh của bộ chỉ huy hành quân của trung đoàn này.

Căn cứ hỏa lực Mai Lộc do 1 đơn vị của lữ đoàn 147 Thủy quân Lục chiến pḥng ngự, đây cũng là nơi lữ đoàn đặt bộ chỉ huy.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1535648955-5.jpg


* TRẬN CHIẾN BÊN BỜ SÔNG ĐÔNG HÀ

Theo tài liệu của cựu trung tá Trần Văn Hiển, nguyên trưởng pḥng 3 Sư đoàn Thủy quân Lục chiến và tài liệu của cựu đại tá Gerald H.Turley nguyên cố vấn Thủy quân Lục chiến VNCH được phổ biến trong tạp chí KBC :

Cùng lúc gia tăng áp lực ở phía Tây, CQ đă cố mở cuộc tấn công từ hướng Bắc, với diễn tiến được ghi nhận như sau :

- 9 giờ sáng ngày 2 tháng 4/1972, một đơn vị chiến xa T 54 CSBV khoảng 20 chiếc, từ hướng Bắc, theo quốc lộ 1 tiến vào thị xă Đông Hà (nằm ở ngă ba quốc lộ 1 và quốc lộ 9 Việt Lào, cách Bến Hải khoảng 20km, cách thị xă Quảng Trị khoảng 14 km về phía Nam).

Cùng lúc đó, một đoàn chiến xa lội nước PT 76 ở hướng Đông, tiến dọc theo bờ biển tiến về hướng Cửa Việt.


https://www.youtube.com/watch?v=rHBpzCtWe9A
rHBpzCtWe9A



Trước những diễn biến dồn dập, tiểu đoàn 3 Thủy quân Lục chiến với tiểu đoàn trưởng là thiếu tá Lê Bá B́nh được lệnh tử thủ Đông Hà bằng mọi giá.

Ngay khi nhận được lệnh, thiếu tá B́nh liền điều động ngay 2 đại đội bố trí trên cầu Đông Hà quan sát bờ sông để chận thủy xa của CQ tiến dọc theo sông.

Từ phía Bắc vào thị xă Đông Hà có 2 chiếc cầu, một dành cho xe hơi và dành cho xe lửa.

Cầu xe lửa không c̣n sử dụng từ sau 1945, nhưng vẫn có thể đi bộ qua được, phía Bắc của cầu này đă bị một đơn vị CQ chiếm giữ.

Sau khi bố trí lực lượng pḥng thủ ở phía Nam cầu Đông Hà, thiếu tá B́nh cùng sĩ quan cố vấn lên xe di chuyển đến vị trí của cánh B tiểu đoàn 3 Thủy quân Lục chiến và 1 chi đoàn thuộc Thiết đoàn đóng ở hướng lên Cam Lộ.

Để tăng cường hỏa lực chống xe tăng CQ, phân đội chống chiến xa trang bị đại bác 106 ly của tiểu đoàn 6 Thủy quân Lục chiến cũng được điều động lên tăng cường cho mặt trận Đông Hà.

Một trung đội trang bị hoàn toàn M 72 do trung sĩ Lời chỉ huy được bố trí ngay trên mặt đường trên đầu cầu phía Nam.


https://danviet.mediacdn.vn/thumb_w/650/296231569849192448/2021/5/27/251-16221210723441059139 144.jpg



10 giờ 15 phút, phi cơ quan sát thấy 12 chiếc T 54 đang tiến về cầu Đông Hà.

Ngay lúc đó, thị xă Đông Hà bị pháo bởi hàng quả đạn 130 ly.

Nhận được cấp báo, thiếu tá B́nh và cố vấn Mỹ liền leo lên chiếc M 48 dẫn đầu để hướng dẫn chi đoàn chiến xa và cánh B của tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến về gấp Đông Hà.

Khi chiếc T54 đi đầu đến đầu cầu phía Bắc, trung sĩ Lời đă chờ săn với 1 hỏa tiển M72 sẵn sàng khai hỏa ở đầu cầu phía Nam.

Nhưng chiếc T54 kia đến đầu cầu th́ ngừng lại, trung sĩ Lời bắn phát thứ nhất không trúng do hỏa tiễn nổ hơi cao, nên một hạ sĩ phụ tá cho trung sĩ Lời trao cho anh một hỏa tiễn M 72 khác.


https://scontent.fyto1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/43064446_22438595990 18280_24214271676288 86016_n.jpg?stp=dst-jpg_p403x403&_nc_cat=104&ccb=1-7&_nc_sid=7b2446&_nc_ohc=RHd9Tr27WnQQ 7kNvgGch9m4&_nc_ht=scontent.fyto 1-1.fna&oh=00_AYDnitUxxuyAFx ejiPb-VAyNRnnqa3WRE504im_9 S_lm2w&oe=66D7FDE0


Trung sĩ Lời ngắm cẩn thận và bóp c̣, lần này trúng ngay pháo tháp của chiếc T54, một CQ tḥ đầu ra khỏi pháo tháp và nh́n qua phía bên này cầu; nhưng không hiểu sao khẩu 100 ly trên chiếc T 54 không bắn trả, trái lại xe tăng này lùi lại và nằm thấp ở phía đường.


Không ngờ chỉ một hỏa tiễn M 72 đă chặn đứng đoàn chiến xa của CQ.


https://danviet.mediacdn.vn/296231569849192448/2021/5/27/249-16221210722914223118 3.jpg



Thiếu tá B́nh hướng dẫn đoàn chiến xa và 2 đại đội của cánh B tiểu đoàn 3 Thủy quân Lục chiến ṿng về phía Nam thị xă để tránh pháo, khi đoàn quân quẹo ra tới Quốc lộ 1 th́ bị trở ngại v́ đoàn người tản cư tràn ra đường để chạy về Quảng Trị ở hướng Nam thị xă Đông Hà.


https://www.youtube.com/watch?v=Bue9tKjONqk
Bue9tKjONqk


https://scontent.fyto1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/90036256_19845238824 4669_202122145785760 9728_n.jpg?_nc_cat=1 01&ccb=1-7&_nc_sid=bd9a62&_nc_ohc=vFNCU_gSc4oQ 7kNvgHyZ182&_nc_ht=scontent.fyto 1-2.fna&oh=00_AYAViaW9lroJqJ Z4U4qYe0r6Wnet52mVCT Di4RLGzsCXnQ&oe=66DD10BE


Cuối cùng cả tiểu đoàn 3 Thủy quân Lục chiến đă đến vị trí, dàn hàng ngang bên bờ phía Nam, trên 1 tuyến pḥng thủ dài hơn 2 km.

Trong khi đó, bên bờ Bắc chiến xa và bộ binh CQ đă tập trung rất đông.

Hải pháo Hoa Kỳ và Pháo binh VNCH đă bắn không ngừng về các vị trí của đối phương.


Theo ghi nhận của cựu đại tá Turley, đây là lần đầu tiên trong cuộc chiến tại Việt Nam, lực lượng bộ binh CSBV với các đoàn chiến xa T 54 và PT 76 yểm trợ đă trực diện với Thủy quân Lục chiến VNCH trang bị đại bác 106 ly và M-72 chống chiến xa.

Trong trận đánh này, ngoài nỗ lực của tiểu đoàn 3 Thủy quân Lục chiến, hải pháo hạm đội 7 đă yểm trợ hỏa lực để bắn vào 2 đoàn chiến xa CSBV.

Sự phối hợp của liên quân Việt-Mỹ đă gây thiệt hại nặng cho Cộng quân, một số chiến xa bị trúng đạn, gây nhiều tiếng nổ phụ và 4 cột khói, đám cháy lớn.


https://www.youtube.com/watch?v=jI2FnJ9O4dE
jI2FnJ9O4dE

Sưu Tầm

hoathienly19
09-05-2024, 08:49
KỶ NIỆM 70 NĂM THÀNH LẬP BINH CHỦNG THỦY QUÂN LỤC CHIẾN - 52 NĂM TÁI CHIẾM CỔ THÀNH QUẢNG TRỊ


https://www.youtube.com/watch?v=ciP4RSgmiuQ
ciP4RSgmiuQ

hoathienly19
09-06-2024, 08:33
ĐỒN TỐNG LÊ CHÂN NĂM 1974 BÂY GIỜ Ở ĐÂU VÀ ĐÂY LÀ H̀NH ẢNH MỚI NHẤT VỀ TIỀN ĐỒN VNCH


https://ongvove.wordpress.co m/wp-content/uploads/2009/09/trandocam_4-11.jpg?w=620



https://www.youtube.com/watch?v=PGVwp2lo7Cg
PGVwp2lo7Cg


Đồn Tống Lê Chân năm 1974 phải chịu đựng hơn 500 ngày pháo kích của CSBV. Sau khi trung tá Lê Văn Ngôn rút quân an toàn về An Lộc, 19 phi tuần của VNCH đă thả bom phá hủy toàn bộ tiền đồn Tống Lê Chân khiến nó chỉ c̣n là cái tên trong lịch sử.

Hơn 50 năm, NAMDUONGTV trở lại t́m kư ức c̣n sót lại của tiền đồn oanh liệt năm xưa.

hoathienly19
09-08-2024, 05:09
TIỀN ĐỒN QUÁ XA - TỐNG LÊ CHÂN /TIỂU ĐOÀN 92 BĐQ


http://i38.servimg.com/u/f38/15/48/13/84/bietdo11.jpghttp://i38.servimg.com/u/f38/15/48/13/84/bdq_td10.jpg



Trong lịch sử chiến tranh cận đại, có nhiều trận đánh lớn quân số đôi bên lên tới nhiều sư đoàn, hoặc với tầm mức quan trọng “dứt điểm” như trận :

- Normandie

- Stalingrad

- Okinawa

- Iwo Jima v.v…

Trong cuộc chiến tranh vừa qua tại Việt Nam, chúng ta cũng thường nghe nói tới những trận đụng độ ác liệt như trận :

- Hạ Lào

- An Lộc

- Quảng Trị Pleiku, v.v.


So với những cuộc hành quân nổi tiếng kể trên, trận đánh tại Tống Lê Chân giữa một tiểu đoàn Biệt Động Quân (BĐQ) Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) và quân Cộng Sản không những chỉ nhỏ bé về tầm vóc mà c̣n cả về mức độ quan trọng.

Trại Tống Lê Chân chẳng qua chỉ là một tiền đồn hẻo lánh gần biên giới Việt-Miên thuộc Vùng 3 Chiến Thuật, có nhiệm vụ phát hiện sự xâm nhập của địch quân vào lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa.



https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1520977308-1qx.jpg



Tuy chỉ là một trận đánh nhỏ lại không mấy quan trọng, nhưng nếu kể về tinh thần chiến đấu can trường và sức chịu đựng phi thường của người lính chiến trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng, các chiến sĩ Tiểu Đoàn 92 BĐQ đă vượt trội và tạo nhiều thành tích có một không hai khiến trận đánh Tống Lê Chân trở thành có tầm vóc lịch sử, khác biệt và đáng chú ư hơn nhiều trận đánh lớn khác.

Nhân dịp kỷ niệm ngày Quân Lực VNCH 19 tháng 6, chúng tôi tường thuật lại trận đánh oai hùng của Tiểu Đoàn 92 BĐQ tại Tống Lê Chân qua những tài liệu thâu thập được để tôn vinh các chiến sĩ Cọp Rừng Mũ Nâu.

Đây cũng là dịp tri ân toàn thể Quân Lực VNCH đă đổ nhiều xương máu bảo vệ quê hương.



https://www.youtube.com/watch?v=pRoEBqCMcQA
pRoEBqCMcQA



Tác giả cũng hy vọng sẽ được tiếp xúc với các chiến sĩ đă có mặt hoặc liên quan đến trận Tống Lê Chân để có dịp sửa đổi và bổ túc thêm chi tiết giúp bài viết thêm chính xác.


https://ongvove.wordpress.co m/wp-content/uploads/2010/05/tlchan.jpg?w=404&h=541


BỐI CẢNH LỊCH SỬ



Trận đánh tại tiền đồn Tống Lê Chân trở nên sôi động vào một thời điểm hết sức đặc biệt, đó là lúc hiệp định ngưng bắn Paris vừa được kư kết vào đầu năm 1973, trên nguyên tắc chấm dứt cuộc chiến tranh giữa hai phe Quốc-Cộng tại Việt Nam.

Nhưng đó chỉ là lư thuyết.

Trên thực tế, đây lại là trái hỏa mù để quân đội Hoa Kỳ nương theo đó mà giải kết “rút quân trong danh dự,” nếu nói theo kiểu cặp bài trùng Kissinger và Nixon, và để Bắc Việt mặc sức tung hoành xua quân đánh chiếm Miền Nam.

Hoa Kỳ thỏa thuận rút quân trong ṿng 60 ngày, trong khi bộ đội Bắc Việt được tự do ở lại và thao túng tại miền Nam vô thời hạn.

Như vậy, người bạn đồng minh đă mở ngỏ cửa và bật đèn xanh, giúp Cộng quân thành công trong việc thôn tính miền Nam.

Trong khi đó Quân Lực VNCH coi như bị bỏ rơi, bị bó tay nên lâm vào t́nh trạng kiệt quệ, một ḿnh lại phải đương đầu không những với bộ đội Bắc Việt mà hầu như toàn khối Cộng Sản đang viện trợ những vũ khí tối tân cho quân xâm lăng.



https://www.youtube.com/watch?v=2EKqpJjpH2k
2EKqpJjpH2k



Riêng về mặt quân sự, phần lớn các loại vũ khí của Quân Giải phóng đều do Liên Xô và Trung Quốc viện trợ, trong đó chỉ tính riêng vơi súng bộ binh, tổng số lượng viện trợ của các nước đồng minh Xă hội Chủ nghĩa đă lên tới hơn 3,5 triệu khẩu


https://images.kienthuc.net. vn/zoomh/800/uploaded/tuananh/2019_06_21/5/nhung-nguon-chi-vien-lon-cho-cach-mang-viet-nam-trong-khang-chien-chong-my.jpg


Cộng Sản Bắc Việt đă vi phạm hiệp định ngưng bắn ngay khi vừa kư kết xong c̣n chưa ráo mực, có thể nói với sự gián tiếp đồng ư của người bạn Hoa Kỳ.

Trong cuộc họp báo ngày 24 tháng 1 năm 1973, chính Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger, người đă cùng tên đồ tể Lê Đức Thọ của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) kư “ḥa ước” bức tử Miền Nam, đă không một chút ngượng ngùng khi tuyên bố:

“Thỏa ước ngưng bắn không có điều khoản nào cho phép quân đội Bắc Việt có mặt tại Miền Nam.

Bắc Việt cũng không đ̣i hỏi, nhưng chúng tôi ước lượng hiện có chừng 145,000 quân Bắc Việt đang tham chiến tại Miền Nam Việt Nam.”

Rơ ràng, Hoa Kỳ đă nhập nhằng kư kết hiệp ước bán đứng Việt Nam Cộng Ḥa với mục đích duy nhất đóng cửa rút cầu, bỏ rơi Miền Nam khi không buộc Cộng Sản Bắc Việt cũng phải rút quân về Bắc.



https://www.youtube.com/watch?v=wX4H2M8LBbI
wX4H2M8LBbI


Thực sự, lúc đó Bắc quân đă có đến 13 sư đoàn quân chính qui tại miền Nam với quân số tổng cộng gần 200,000 người .

Ngoài ra, chúng c̣n có các đại đơn vị pháo binh diện địa và chiến xa yểm trợ cùng các kho quân lương, vũ khí tại Lào và Cam Bốt được coi là an toàn khu.

Tại khu vực đường ṃn Hồ Chí Minh bên Lào, các xe vận tải của Cộng quân công khai ồ ạt chở súng ống, đạn được và binh sĩ vào xâm lăng Miền Nam v́ không c̣n bị oanh tạc như trước.


https://www.youtube.com/watch?v=7yGZYjRv64U
7yGZYjRv64U


V́ vậy, t́nh h́nh sau khi ngưng bắn hoàn toàn bất lợi cho Quân Lực VNCH.

Các đại đơn vị không thể nào giành được thế chủ động để lùng và diệt địch trên chiến trường v́ phải trải quân quá mỏng để trám vào những chỗ trống do quân đội Hoa Kỳ bỏ lại.

Trong lúc đó, Cộng quân được tự do bổ xung quân số, tích lũy tiếp vận để tạo áp lực quân sự trên khắp lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa.


TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG



Riêng tại Vùng 3 Chiến Thuật, ba sư đoàn Cộng quân gồm các công trường :

- 5, 7 và 9 lợi dụng an toàn khu tại vùng Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt bên Cam Bốt thường vượt biên đánh phá dọc Quốc Lộ 13 từ Lộc Ninh đến Bến Cát nằm về phía Bắc thủ đô Saigon.

Khi mạnh, họ tung lực lượng quấy phá.
Lúc yếu, lại rút qua biên giới dưỡng quân để chờ cơ hội thuận tiện.

Phía Việt Nam Cộng Ḥa chỉ cố gắng pḥng thủ trong tư thế thụ động v́ không đủ lực lượng mở các cuộc hành quân vượt biên truy kích như trước kia vào năm 1970 khi quân đội Hoa Kỳ c̣n tham chiến.

Để đối đầu với 3 sư đoàn Cộng quân , Quân Lực VNCH trong vùng này chỉ có Sư Đoàn 5 Bộ Binh đặt bản doanh tại Lai Khê do Đại Tá Lê Nguyên Vỹ làm Tư Lệnh.


https://ongvove.wordpress.co m/wp-content/uploads/2014/04/nhtlenguyenvy_240x31 5t2.png



Sau nhiều cuộc tấn công thăm ḍ, vào đầu tháng 4 năm 1973, Công Trường 7 Cộng quân tấn công và tràn ngập căn cứ Chí Linh trên Liên Tỉnh Lộ 13 gần quận lỵ Đôn Luân vào ngày 10 tháng 4.

Để mở rộng đường xâm nhập từ ngả Cam Bốt, Cộng quân cũng uy hiếp các trại Biệt Động Quân Biên Pḥng dọc theo biên giới như :

- Bến Sỏi

- Thiện Ngôn

- Katum

- Bù Gia Mập

- Tống Lê Chân v.v.


Trước áp lực quá mạnh của địch quân, Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân ở Quân Khu 3 phải lần lượt di tản hầu hết các vị trí chiến lược rất quan trọng dọc theo biên giới ngoại trừ trại Tống Lê Chân.

Lư do v́ toàn thể Tiểu Đoàn 92 BĐQ đồn trú tại trại này đều t́nh nguyện ở lại chiến đấu.

Trận đánh dài nhất trong quân sử khởi đầu và trang sử oai hùng nhất của Binh Chủng cũng được Tiểu Đoàn 92 BĐQ viết từ giờ phút đó.



https://www.youtube.com/watch?v=IGDdopdFOEM
IGDdopdFOEM



Tống Lê Chân, địa danh xa lạ cuộc chiến tranh dai dẳng tại Việt Nam ngoài mức độ khốc liệt, c̣n tạo ra những địa danh xa lạ.

Nếu không có trận Tân Cảnh, Kon Tum, làm ǵ có những tên Charlie, Delta ?

Nếu không có trận Hạ Lào chắc cũng chẳng có LoLo, Sophia, Biệt Động Quân Bắc, Biệt Động Quân Nam v.v.

Tống Lê Chân cũng là một tên rất lạ. Dân địa phương người Miên gọi vùng này là Tonlé Tchombe.

Tonlé tiếng Miên có nghĩa là sông, hồ, suối hoặc nơi nào có nước.

Thí dụ như Biển Hồ có tên Miên là Tonlé Sap.

Khi mới thành lập, trại này chưa có tên nên Thiếu Tá Đặng Hưng Long, vị chỉ huy trưởng đầu tiên phiên âm tiếng Miên Tonlé Tchombe thành tiếng Việt Tống Lê Chân.

Sau này, phần đông các quân nhân trong binh chủng Biệt Động Quân biên pḥng gọi tắt là Tống “Lệ” Chân để ám chỉ một căn cứ đầy máu và nước mắt, không có một ngày yên vui kể từ khi ra đời.



http://i38.servimg.com/u/f38/15/48/13/84/tlc_ti10.jpg



Tiền đồn Tống Lê Chân nguyên thủy là một trại Dân Sự Chiến Đấu (DSC –Civilian Irregular Defense Group, gọi tắt là CIDG) do Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ thành lập từ năm 1967 để phát hiện và ngăn chận sự xâm nhập của Cộng quân từ bên kia biên giới.

Đến năm 1970 trong chương tŕnh cải biến Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu thành Biệt Động Quân Biên Pḥng, phần đông những binh sĩ của trại Tống Lê Chân thuộc sắc dân người thượng Stieng đều t́nh nguyện ở lại để trở thành Tiểu Đoàn 92 BĐQ Biên Pḥng , tổng cộng gồm 292 binh sĩ lúc khởi đầu, chưa kể một số sĩ quan Quân Lực VNCH giữ các chức vụ chỉ huy.



https://ongvove.wordpress.co m/wp-content/uploads/2010/05/trandocam_4-2.jpg

hoathienly19
09-09-2024, 07:41
LỰC LƯỢNG DÂN SỰ CHIẾN ĐẤU



https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1542272927-2.jpg


V́ Tiểu Đoàn 92 BĐQ thoát thai từ Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu, tưởng cũng nên biết qua về tổ chức đặc biệt ít người biết tới này.

Chương tŕnh Dân Sự Chiến Đấu được đặt dưới sự quản trị trực tiếp của Toán 5 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ (5th Special Forces Group) đặt bản doanh tại Nha Trang.

Mục tiêu của chương tŕnh là :

- Dùng các sắc tộc thiểu số (người Thượng) để thành lập các “trung tâm” (làng, buôn) chiến lược có vơ trang tại các vùng rừng núi khiến Việt Cộng không thể xâm nhập và lợi dụng.

Việc tổ chức, quản trị và huấn luyện những trung tâm hay “trại” này đều do Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ đảm nhận.

Thí điểm đầu tiên đuợc thành lập tại Buôn Enao thuộc tỉnh Đắc Lắc vào năm 1961.


https://www.youtube.com/watch?v=CTS6upyb814
CTS6upyb814



Tới năm 1965 đă có khoảng 80 trung tâm được thành lập tại những vùng rừng núi hẻo lánh khó kiểm soát.

Mỗi trung tâm là một “pháo đài” có thể tự pḥng thủ và có khả năng ngăn chận mọi xâm nhập từ bên ngoài.

Đến năm 1965, cùng với việc Hoa Kỳ đưa quân ồ ạt vào Việt Nam, chương tŕnh Dân Sự Chiến Đấu cũng được bành trướng mạnh.

Các trung tâm pḥng thủ được cải tiến thành những trại lực lượng đặc biệt, trang bị vũ khí tối tân với nhiệm vụ không những chỉ để tự vệ mà c̣n có khả năng tấn công.

Từ đó, các toán viễn thám ḍ t́m địch quân mang biệt danh :

- Delta

- Omega và Sigma ra đời.

Nhiệm vụ chính của những toán này là xâm nhập sâu vào đất địch để phát hiện địch và thu thập tin tức t́nh báo.



https://live.staticflickr.co m/3476/3771015806_963f7de19 b_b.jpg



Tới khoảng cuối năm 1967, toàn lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa tổng cộng có khoảng gần 100 trại Lực Lượng Đặc Biệt, đa số nằm dọc theo biên giới Lào-Việt và Miên-Việt.

V́ địa thế chiến lược rất quan trọng của những trại biên pḥng này, Cộng quân luôn luôn dùng đủ mọi cách để tiêu diệt.


Phù hiệu Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV)



https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/9/96/Military_Assistance_ Command%2C_Vietnam_S SI.svg/250px-Military_Assistance_ Command%2C_Vietnam_S SI.svg.png


https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%B1c_l%C6%B0% E1%BB%A3ng_D%C3%A2n_ s%E1%BB%B1_chi%E1%BA %BFn_%C4%91%E1%BA%A5 u


Nhiều trận đánh dữ dội đă xảy ra tại các trại như :

- Lang Vei

- Thường Đức, và Khâm Đức tại Vùng 1 Chiến Thuật, hoặc :

- Đức Cơ

- Plei Me

- Plei Djereng

- Plateau Gi

- Đồng Xoài

Tại Vùng 2 :

- Bến Sỏi

- Tống Lê Chân

- Trảng Sụp

- Chí Linh ở Vùng 3

- Cái Cái

- Thường Thới, Tịnh Biên tại Vùng 4.



https://live.staticflickr.co m/65535/51077389172_a582e218 38_b.jpg



Cho tới năm 1970, Hoa Kỳ chuẩn bị rút quân, khởi đầu giai đoạn Việt Nam hóa chiến tranh nên các trại Lực Lượng Đặc Biệt cũng lần lượt được chuyển giao cho Quân Lực VNCH.

Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu theo kế hoạch được sát nhập vào binh chủng Biệt Động Quân để trở thành những đơn vị Biệt Động Quân Biên Pḥng.

V́ mỗi trại Lực Lượng Đặc Biệt thường có vào khoảng từ 300 đến 400 người nên được biến cải thành một tiểu đoàn Biệt Động Quân Biên Pḥng.



https://www.youtube.com/watch?v=R0VRKqqg-RQ
R0VRKqqg-RQ


Trong khoảng thời gian từ ngày 27 tháng 8 năm 1970 cho đến 15 tháng 1 năm 1971, tổng cộng có tất cả 49 trại Lực Lượng Đặc Biệt được biến cải thành các Tiểu Đoàn Biệt Động Quân Biên Pḥng.

Nếu tính theo từng Vùng Chiến Thuật, con số này được phân chia như sau :

- Vùng 1 có 11 trại

- Vùng 2 có 15 trại

- Vùng 3 có 12 trại

- Vùng 4 có 11 trại.

Tuy trước đây có chừng 100 trại Lực Lượng Đặc Biệt, nhưng chỉ chuyển giao có 49 trại v́ có một số trại bị đóng cửa, quân số được bổ xung cho những đơn vị c̣n lại.

Sau khi được chuyển giao, những dân sự chiến đấu trong các trại Lực Lượng Đặc Biệt không c̣n là dân sự do Hoa Kỳ tuyển mộ, mà chính thức trở thành quân nhân trong Quân Lực VNCH.


Lực lượng Biệt động quân Biên pḥng



https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/b/b5/Vietnamese_Rangers_S SI.svg/180px-Vietnamese_Rangers_S SI.svg.png


https://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BB%87t_%C4%91% E1%BB%99ng_qu%C3%A2n _Bi%C3%AAn_ph%C3%B2n g#C%C3%A1c_Ti%E1%BB% 83u_%C4%91o%C3%A0n_B i%E1%BB%87t_%C4%91%E 1%BB%99ng_qu%C3%A2n_ Bi%C3%AAn_ph%C3%B2ng

hoathienly19
09-11-2024, 08:47
TIỀN ĐỒN CÔ ĐƠN


Trại Tống Lê Chân trấn giữ một địa điểm quan yếu, chận ngay đường vào khu Tam Giác Sắt và án ngữ vùng :

- Mỏ Vẹt

- Lưỡi Câu thuộc Cam Bốt.

Đây là những an toàn khu và cũng là đại bản doanh Cục R của Việt Cộng, giống như hai mũi dao nhọn chĩa vào cạnh sườn Quân Khu 3.



http://i38.servimg.com/u/f38/15/48/13/84/tongle11.jpg



Trong các trận hành quân vượt biên của Quân Đoàn 3 do Đại Tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy vào năm 1970, trại Tống Lê Chân đă đóng một vai tṛ quan trọng trong nhiệm vụ phát hiện và diệt địch.

Căn cứ được thiết lập trên một ngọn đồi cao chừng 50 thước, trông xuống hai con suối nhỏ dân địa phương gọi là :

- Takon và Neron.

Đây là những lạch nước khởi nguồn của sông Saigon chảy qua Dầu Tiếng, Bến Súc, Phú Cường v.v….

Tống Lê Chân, như trên đă nói là một trong chuỗi trại Dân Sự Chiến Đấu do Lực Lượng Đặc Biệt thiết lập dọc theo biên giới Việt-Miên thuộc lănh thổ Quân Khu 3.



https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2022/09/image-122.png?w=327



Về vị trí, trại Tống Lê Chân nằm trong vùng ranh giới của hai tỉnh Tây Ninh và B́nh Long, cách An Lộc chừng 15 cây số về hướng Tây Nam và mũi nhọn của chiếc Mỏ Vẹt chứng 13 cây số về hướng Đông Nam.

Dưới chân căn cứ là con đường 246 nối liền Chiến Khu C và Chiến Khu D của Việt Cộng.

Đây cũng là trục giao liên Nam-Bắc huyết mạch nối liền bản doanh của Cục R Việt Cộng bên Cam Bốt và vùng Dầu Tiếng với Khu Tam Giác Sắt của Cộng quân.


https://hung-viet.org/images/file/INdCHzZj0wgBAHhj/dansuchiendau2.jpg



Với vị trí chiến lược vô cùng quan trọng có thể kiểm soát được các trục giao liên Nam-Bắc và Đông-Tây của Cộng quân tại vùng biên giới, lại trấn giữ sườn Tây cho thị trấn An Lộc, Tống Lê Chân như chiếc gai nhọn cần phải nhổ bằng mọi giá trên sa bàn trận liệt của địch.

Vào mùa hè năm 1972, cùng với các trận cường tập có pháo binh và chiến xa nặng của Cộng quân vào vùng :

- Lộc Ninh

- Chơn Thành và An Lộc, các căn cứ biên pḥng lân cận Tống Lê Chân như :

- Thiện Ngôn

- Katum

- Bù Gia Mập đă phải di tản.

Tống Lê Chân chơ vơ c̣n lại như một hải đảo cô đơn giữa biển người Cộng quân trùng điệp.




https://blogger.googleuserco ntent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh4LDGmSqZXWm1f 5JVE-A7veVD9YFaiw4HU-DNNukuoP9ZgMMqenSGxH Hcn7Og0P27vMJhtz16RC bx0HjLG8lJTf7VUqkvXg Kz8f2ycJcG6Kn6X5UNG7 F6oM6IawIyOFl-0B5DpZICknAk/s640/cancuhoaluc5-namvietnam-binsinamvietnamtrump onchogacduoimua-17061971.jpg H́nh minh họa


TỨ BỀ THỌ ĐỊCH



Nhằm mục đích mở rộng đường giao liên cũng như giữ bí mật các cuộc chuyển quân xâm nhập từ biên giới Miên-Việt vào lănh thổ Quân Khu 3, ngày 10 tháng 5 năm 1972, Cộng quân dồn lực lượng đánh biển người vào căn cứ Tống Lê Chân quyết nhổ cái gai trước mắt.

Quyết san bằng căn cứ, địch quân dùng đại pháo 130 ly cùng với đủ loại súng cối, sơn pháo bắn phủ đầu như mưa vào căn cứ theo đúng chiến thuật lấy thịt đè người “tiền pháo hậu xung.”


https://imagizer.imageshack. com/v2/480x480q70/921/o71jBI.jpg


Trận pháo kích khốc liệt này chính thức mở đầu cho gần hai năm trời vây hăm.

Sau loại pháo ṿng cầu, nhiều đợt pháo cấp tập bắn thẳng vào Tống Lê Chân như muốn san bẳng căn cứ nhỏ bé nằm lẻ loi trên ngọn đồi.

Trong khi đó, một rừng pḥng không từ “tiền pháo hậu xung.” thượng liên đến cao xạ 37 ly, 57 ly và cả hỏa tiễn tầm nhiệt thuộc sư đoàn Pháo Pḥng Không tân lập 377 khoá kín không phận khiến các phi cơ không thể nào tới gần để yểm trợ.

Sau những đợt pháo kích dữ dội, Tiểu Đoàn 200 (tiểu đoàn độc lập) của Việt Cộng lănh nhiệm vụ tấn công vào Tống Lê Chân với sự yểm trợ của các đơn vị bộ đội thuộc hai Công Trường 7 và 9.


Liên Xô đă viện trợ rất nhiều vũ khi hiện đại góp phần giúp Bắc Việt Namtrước 1975


https://danviet.mediacdn.vn/thumb_w/650/296231569849192448/2022/6/30/vu-khi-01-16565852445051996446 809.jpg


Tuy bị bao vây và cô lập, các chiến sĩ Mũ Nâu của Tiểu Đoàn 92 BĐQ đă b́nh tĩnh bố trí trong các giao thông hào đào sâu trong ḷng đất chờ địch ngay khi các quả đạn pháo kích đầu tiên rơi vào căn cứ.

Một đơn vị đặc công địch theo sát những trái pháo mở đường đă xâm nhập được ṿng đai pḥng thủ bên ngoài.

Những chiến xa hạng nặng T-54 của Cộng quân yểm trợ cũng nă đạn như mưa rất chính xác khiền t́nh h́nh có vẻ nguy kịch.

Nhưng quân trú pḥng vẫn không nao núng v́ rất tin tưởng vào hệ thống bố pḥng vững chăi và nhất là băi ḿn dầy đặc bao quanh căn cứ.


https://blogger.googleuserco ntent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhmgSpLTmNKrJOY yKUAslx7BiuRk7iouXdf AcPU2d9xpX-BR34hY7FA1oiZWNyaDWk njjYQfQb3CM7t4VPWVrS ZZnFd0nSPGwes3dVmt4L cM9pj6Cxrw0DKpLtJ7XM rNk8zd4-z3_SXOX8y/s640/camp-bu-prang-15_28103904906_o_res ult_result.jpg



Dưới sự chỉ huy đầy kinh nghiện của Thiếu Tá Lê Văn Ngôn (tiểu đoàn trưởng), các chiến sĩ Biệt Động Quân vẫn chưa khai hỏa.

Họ chờ bộ đội chủ lực địch xung phong mới bắt đầu nổ súng.

Quả nhiên, khi thấy không bị bắn trả, Cộng quân bắt đầu tràn vào căn cứ v́ tưởng quân trú pḥng đă bị chết hết hay mất tinh thần v́ các đợt pháo kích ác kiệt cũng như v́ chiến xa với đại bác 100 ly trực xạ.

Đúng lúc đó, các chiến sĩ Mũ Nâu mới đồng loạt khai hỏa.

Từng đợt “biển người” của Cộng quân bị bất ngờ nhưng v́ đă tiến tới quá gần không kịp t́m nơi ẩn trú nên bị đốn ngă như rạ.

Sau đợt tấn công đầu tiên bị thiệt hại nặng, địch lui ra để pháo binh tiếp tục nă vào căn cứ, sau đó bộ binh lại tấn công.

Sau nhiều đợt xung phong vô hiệu quả, cuối cùng Cộng quân phải rút lui, bỏ lại hàng trăm xác chết phơi thây trên hàng rào pḥng thủ.



https://imagizer.imageshack. com/v2/547x480q70/921/i3ytNq.jpg



Cũng trong thời gian này, các mặt trận lớn khác tại vùng hỏa tuyến, Tây Nguyên, An Lộc bùng lên dữ dội với những cuộc đụng độ đẫm máu của một Mùa Hè Đỏ Lửa.

Trận đánh tại Tống Lê Chân tuy là một chiến thắng lớn của các chiến sĩ Biệt Động Quân nhưng không được nhiều người biết tới.

Nhưng từ khi cuộc “thử lửa” ban đầu bị thất bại nặng nề, Cộng quân biết rằng không thể dễ dàng nuốt chửng Tống Lê Chân nên họ chủ trương dùng chiến thuật tiêu hao, bao vây chặt chẽ và pháo kích thường xuyên với đặc công xâm nhập quấy phá.

Bắc Việt tin rằng chiến trường An Lộc lân cận có tầm mức quan trọng hơn và nếu đạt được chiến thắng, Tống Lê Chân không cần phải đánh cũng sẽ tự tan ră. Cuộc bao vây dài nhất trong quân sử bắt đầu.


https://imagizer.imageshack. com/v2/640x354q70/924/mJTue2.jpg



Cứ như vậy, tiền đồn Tống Lê Chân bị Cộng quân vây chặt.

Địch pháo kích thường xuyên vào căn cứ, trong khi màng lưới pḥng không dầy đặc cắt đứt nguồn tải thương và tiếp vận duy nhất bằng phi cơ.

Thoạt tiên, các phi cơ vận tải C-130 của Không Quân Việt Nam đă phải bay rất cao để thả dù tiếp tế khiến nhiều kiện hàng bay lạc ra ngoài, rơi vào tay Cộng quân.

Theo lời kể lại của một hồi chánh viên, vào khoảng tháng 6 năm 1973, Cộng quân đă tổ chức một đại đội có nhiệm vụ chuyên đi “lượm dù” để lấy đồ tiếp tế.

V́ vậy, đă có dư luận từ các nguồn tin ngoại quốc cho rằng đôi bên đă ngầm thỏa thuận để các vận tải cơ được tự do thả dù mà không bị pḥng không bắn lên, miễn là quân trú pḥng không bắn vào toán Cộng quân lượm dù bên ngoài.

Sau này, khi rút tỉa kinh ngiệm, Không Quân VNCH đă hoàn chỉnh được kỹ thuật thả dù tiếp tế nên số lượng đồ tiếp vận thất thoát không c̣n đáng kể.


https://www.youtube.com/watch?v=bK7KvN_7JMY
bK7KvN_7JMY



Riêng các phi cơ trực thăng, phương tiện duy nhất để tản thương hay chở quân tăng viện không thể nào bay lọt lưới pḥng không dầy đặc của địch.

Nhiều toán trực thăng đă liều lĩnh bay vào Tống Lê Chân chẳng những không đạt được nhiều thành công, lại bị thiệt hại khá nặng.

Trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 1973 đến cuối tháng 1 năm 1974 , có khoảng 20 phi vụ trực thăng nhằm tản thương và tiếp tế cho Tống Lê Chân, nhưng chỉ có 6 trực thăng hạ cánh được, trong số này có 3 chiếc bị bắn hư hại trên băi đáp.

Cuối tháng 12 năm 1973, một trực thăng Chinook CH-47 cũng bị bắn rơi khi hạ cánh.

Đây là chiếc trực thăng thứ 13 bị trúng đạn pḥng không địch chỉ nội trong tháng 12 năm 1973.

Thiệt hại về phía Không Quân VNCH gồm 9 chết, 36 bị thương.

Tới tháng 1 năm 1974 tức là một năm sau khi kư kết hiệp định ngưng bắn, vẫn c̣n có 12 chiến sĩ Biệt Động Quân bị thương nặng vẫn chưa được tản thương khỏi căn cứ.


https://www.youtube.com/watch?v=fc6XpuSdCUo
fc6XpuSdCUo

hoathienly19
09-13-2024, 08:26
NGƯNG CHIẾN KIỂU VIỆT CỘNG



Tuy căn cứ Tống Lê Chân bị Cộng quân khởi sự tấn công vào tháng 5 năm 1972, nhưng bị vây hăm và tấn công dữ dội nhất vào lúc thỏa ước nhưng bắn được thi hành tại Việt Nam theo khuôn khổ hiệp định Paris.

Đây cũng là một điểm đặc biệt có một không hai trong cuộc chiến tại Việt Nam cũng như trong lịch sử chiến tranh thế giới :

- Môt hiệp ước ngưng bắn bị vi phạm ngay sau khi vừa kư kết.

Cộng quân, có lẽ đang cay cú v́ thất bại chua cay không chiếm được An Lộc, nay cố chiếm một mảnh đất khỉ ho c̣ gáy gần biên giới Việt-Miên để có một chỗ cho Cục R ra mắt.



https://www.youtube.com/watch?v=zB_LHB-vUYs
zB_LHB-vUYs


Trong lúc toàn thể thế giới thở phài nhẹ nhỏm v́ ng̣i lửa chiến tranh tại Việt Nam có thể đưa đến hiểm họa chiến tranh giữa hai khối Tư Bản và Cộng Sản không c̣n nữa, th́ tại Tống Lê Chân, Tiểu Đoàn 92 BĐQ vẫn đơn độc ngày ngày hứng pháo và dành giựt với Cộng quân từng thước đất để sống c̣n.

Tuy Cộng quân công khai vi phạm thỏa ước ngưng bắn, nhưng người bạn đồng minh Hoa Kỳ của Việt Nam Cộng Ḥa vẫn dửng dưng không hề có một lời phản đối dù lấy lệ, dường như c̣n say men rượu mừng v́ đă t́m thấy “ánh sáng ở cuối đường hầm.”

Dĩ nhiên họ cũng chẳng có một phản ứng hay hành động tích cực nào thuận lợi cho Việt Nam Cộng Ḥa.

Ngay cả Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đ́nh Chiến cũng không can thiệp.


https://www.youtube.com/watch?v=ZMl-fv_CDds
ZMl-fv_CDds


V́ vậy, trước những vi phạm trắng trợn và lộ liễu của Cộng quân tại Tống Lê Chân, trong phiên họp ngày 17 tháng 3 năm 1973, trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng Ḥa là :

Tướng Dư Quốc Đống đă phải đặt vấn đề Tống Lê Chân lên bàn hội nghị với ba giải pháp như sau :

1. Cử một tổ Liên Hợp Quân Sự bốn bên đến Tống Lê Chân để điều tra tại chỗ các sự vi phạm.

2. Nếu phe Cộng Sản phản đối, sẽ yêu cầu Ủy Ban Kiểm Soát Đ́nh Chiến can thiệp.

3. Yêu cầu các đơn vị Cộng quân quanh Tống Lê Chân không được bắn lên phi cơ của Ủy Ban Đ́nh Chiến.

Dĩ nhiên đề nghị hợp lư của phái đoàn Việt Nam Cộng Ḥa bị phe Cộng Sản phản đối v́ chính họ là kẻ vi phạm.

Trần Văn Trà, trung tướng trưởng phái đoàn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) cố ư vắng mặt để Đại Tá Đặng Văn Thu thay thế.

Ông Thu một mặt vu khống chính Việt Nam Cộng Ḥa mới là phe vi phạm ngưng bắn, một mặt tự coi là không đủ thẩm quyền quyết định nên yêu cầu mở một cuộc họp khác để bàn về Tống Lê Chân với sự hiện diện của Trần Văn Trà.



https://nhatnguyet2014.wordp ress.com/wp-content/uploads/2021/05/le-duc-tho-hoang-sa.jpg



Về các đề nghị thứ hai và thứ ba của phái đoàn Việt Nam Cộng Ḥa, phe Cộng sản cũng “nhất trí” phản đối, ngoài ra c̣n dọa dẫm các thành viên trong Ủy Hội Quốc Tế rằng t́nh h́nh tại Tống Lê Chân “chưa rơ rệt” nên họ không bảo đảm an ninh cho phái đoàn cũng như phi cơ của Ủy Hội.

Tóm lại, cả phe Cộng sản trong Ủy Ban Liên Hiệp và Ủy Hội Quốc Tế đều đồng thanh tránh né việc điều tra vi phạm ngưng bắn tại Tống Lê Chân, lúc th́ chờ chỉ thượng cấp quyết định, khi lại không bảo đảm an ninh.


https://imagizer.imageshack. com/v2/482x480q70/922/7u7lSE.jpg


Đến ngày 23 tháng 3 năm 1973 tức là chỉ c̣n 4 hôm nữa là hết hạn 60 ngày làm việc của Ủy Ban Liên Hiệp bốn bên, phái đoàn Hoa Kỳ mới yêu cầu chiếu lệ :

Gia Nă Đại là chủ tịch Ủy Hội Quốc Tế điều tra về vụ Tống Lê Chân.

Phía Việt Cộng đưa Đại Tá Vơ Đông Giang ra thảo luận với Đại Tá Lomis của Gia Nă Đại và thỏa thuận cử sĩ quan liên lạc của MTGPMN theo Ủy Hội Quốc Tế tới Tống Lê Chân vào ngày 24 tháng 3/1973.

Nhưng đó cũng chỉ là mánh lới tiểu xảo cố hữu của Cộng Sản :

Tới ngày hẹn, viên sĩ quan liên lạc này đă “trễ trực thăng” nên máy bay của Ủy Hội Quốc Tế không đi Tống Lê Chân được.

Như vậy, với sự tráo trở và lọc lừa cố ư của Cộng sản, việc điều tra tại Tống Lê Chân đă không bao giờ được thực hiện.

Số phận của Tống Lê Chân đành phó thác cho định mệnh và Tiểu Đoàn 92 BĐQ phải tự chiến đấu một ḿnh để sống c̣n.


https://www.youtube.com/watch?v=JLfMGV7vgbc
JLfMGV7vgbc

hoathienly19
09-14-2024, 23:56
V̉NG VÂY XIẾT CHẶT


Suốt năm 1973 kể từ ngày ngưng bắn, trong lúc Việt Cộng giở thủ đoạn hèn hạ tại bàn hội nghị, Tống Lê Chân bị bao vây chặt chẽ và bị tấn công hàng chục lần nhưng vị trí vẫn đứng vững như một khúc xương khó nuốt.

Nhả ra không được v́ bị Tống Lê Chân chận nghẹn ngay yết hầu, nuốt vào th́ không xong v́ các chiến sĩ Mũ Nâu rất kiên cường không chịu nhượng bộ một tấc đất, Cộng quân chỉ c̣n cách bao vây “ nội bất xuất, ngoại bất nhập .”

Tuy pḥng không địch dầy đặc bao quanh căn cứ nhưng phi cơ Việt Nam Cộng Ḥa đôi khi vẫn liều lĩnh bay lọt qua màng lưới của tử thần để tản thương và tiếp tế.


https://ongvove.wordpress.co m/wp-content/uploads/2009/09/trandocam_4-3.gif?w=620


Việc tiếp tế cho Tống Lê Chân bằng dù khá hiệu quả, nhưng v́ chu vi pḥng thủ quá hẹp nên có một số đồ tiếp liệu bị lọt vào tay địch.


https://www.youtube.com/watch?v=_o4TF7pAHDI
_o4TF7pAHDI


Qua năm 1974, trong khi các phái đoàn “kiểm soát” tranh luận dằng co, t́nh h́nh tại Tống Lê Chân ngày càng nguy ngập sau cả năm trời bị bao vây. Thời gian càng trôi qua, phần bất lợi càng nghiêng về phía quân trú pḥng.

Bị cả sư đoàn địch quân phong tỏa chặt chẽ và bị tấn công thường xuyên, quân số Biệt Động Quân ngày càng hao hụt không được bổ xung.

Lúc này, Tiểu Đoàn 92 BĐQ chỉ c̣n lại 255 người, trong số đó có nhiều thương binh. Việc tiếp tế lại không được đầy đủ v́ phi cơ thả dù bị pḥng không chận bắn.

Về mặt tinh thần cũng sa sút phần nào v́ bị vây hăm quá lâu ngày và áp lực liên miên .

Tuy vậy, Tống Lê Chân vẫn c̣n đứng vững như một biểu tượng hùng hồn cho ḷng quả cảm và sức chiến đấu kiên cường của các chiến sĩ Biệt Động Quân.



https://www.youtube.com/watch?v=q_8sswThITA
q_8sswThITA



Nhưng để giữ vững Tống Lê Chân, Quân Lực VNCH tính ra đă phải trả một giá quá đắt:

Sự thiệt hại về nhân mạng mỗi ngày một cao, việc dùng phi cơ để yểm trợ và thả dù tiếp tế đă trở thành một gánh quá nặng cho Không Quân Việt Nam lúc đó phương tiện không c̣n được dồi dào như lúc Hoa Kỳ c̣n tham chiến.

Hơn nữa, tuy Tống Lê Chân chiếm giữ một vị trí khá quan trọng nhưng vẫn chỉ là một tiền đồn nên giá trị quân sự không thể so sánh với các căn cứ chính cần phải bảo vệ khác, do đó không nhất thiết phải giữ bằng mọi giá.

V́ không thể chia bớt lực lượng để yểm trợ Tống Lê Chân, đă đến lúc Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 phải có một quyết định dứt khoát để giải quyết vấn đề Tống Lê Chân để chấm dứt t́nh trạng bất lợi.


Do đó, vào ngày 23 tháng 3/1973, tướng Phạm Quốc Thuần, Tư Lệnh Quân Đoàn 3 đề nghị với Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH chọn một trong ba giải pháp sau đây:

1. Mở một cuộc hành quân cấp sư đoàn từ An Lộc để giải tỏa áp lực, tăng cường, thay thế hay di tản Tiểu Đoàn 92 BĐQ tại Tống Lê Chân.

2. Cho phép thương lượng với Cộng quân, giao Tống Lê Chân cho chúng để đổi lấy sự di tản an toàn của các chiến sĩ Mũ Nâu trú pḥng.

3. Cho lệnh Tiểu Đoàn 92 BĐQ được di tản khỏi căn cứ bằng những toán nhỏ để tránh bị tiêu diệt hoàn toàn.


Trung tướng VNCH PHẠM QUỐC THUẦN


https://www.saigonweeklyonli ne.com/upload/files/image-20230831151437-1.png



Về giải pháp một, theo t́nh h́nh lúc đó, toàn bộ vùng Lai Khê, An Lộc chỉ có đơn độc Sư Đoàn 5 chống giữ, hiện đang phải đương đầu với các Công Trường 5, 7 và 9 của Cộng quân.

V́ vậy, ngay cả việc giữ an ninh trục lộ huyết mạch 13 cũng c̣n khó khăn, chưa đủ quân số, nói chi đến việc mở đường tới tận Tống Lê Chân để tăng viện ?

Hơn nữa, dù một sư đoàn có thể đảm đương trọng trách tiếp viện, nhưng kiếm đâu ra sư đoàn này trong lúc các đại đơn vị Quân Lực VNCH tuy đă phải phân tán rất mỏng nhưng cũng vẫn chưa đủ để trám vào những vùng quan trọng Hoa Kỳ vừa rút quân để lại ?

Như vậy, giải pháp 1 coi như không thể thực hiện được.



https://imagizer.imageshack. com/v2/484x336q70/923/Z5Va8R.jpg


Nhưng nếu giải pháp 1 bất thành v́ lư do quân sự th́ giải pháp 2 cũng thiếu thực tế v́ lư do chính trị.

Nếu “bàn giao” Tống Lê Chân cho Cộng quân, hậu quả tai hại về chính trị sẽ không thể lường được. Quân và dân Miền Nam sẽ vô cùng hoang mang.

Tổng Thống Thiệu sẽ rất khó ăn khó nói v́ mới hô hào “dành dân chiếm đất” trước đây không lâu

Vả lại, nếu giao Tống Lê Chân cho Cộng quân, việc này có thể sẽ trở thành tiền lệ đưa tới nhiều cuộc bàn giao kiểu Tống Lê Chân khác.



https://ongvove.wordpress.co m/wp-content/uploads/2009/09/trandocam_4-4.gif?w=620


Do đó, tuy đề nghị ba giải pháp, nhưng tướng Thuần biết rơ chỉ c̣n một con đường khả trợ duy nhất :

- Đó là cho phép Tiểu Đoàn 92 BĐQ rút khỏi Tống Chân.

Nhưng quyết định rút bỏ này không phải là không có hậu quả nghiêm trọng về quân sự cũng như chính trị. Hơn nữa, việc rút quân qua ṿng vây trùng điệp của Cộng quân cũng không phải là điều dễ dàng.

Chính v́ những lư do này mà Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 phải hội ư trước với Bộ Tổng Tham Mưu.

Rất có thể, ngay Bộ Tổng Tham Mưu cũng không quyết định được, mà việc rút quân phải do chính tổng thống cho phép.

Trong khi chờ đợi quyết định dứt khoát từ trung ương, t́nh h́nh tại Tống Lê Chân trở nên hết sức căng thẳng và sôi động từng giờ, từ trầm trọng đến nguy kịch.

Bị bao vây cả năm trời, thiếu lương thực, thiếu đạn dược, quân số hao hụt, thương binh ngày càng nhiều không được di tản, bị pháo liên miên, đặc công đánh phá ngày đêm khiến Tiểu Đoàn 92 BĐQ ngày càng suy yếu.

Tuy nhiên, các chiến sĩ Mũ Nâu vẫn kiên cường giữ vững căn cứ bằng mọi giá. Và cuộc bao vây dài nhất trong quân sử vẫn tiếp tục.


https://www.youtube.com/watch?v=YH8o3N5Ulk4
YH8o3N5Ulk4


https://live.staticflickr.co m/7890/32582915578_d7f120ef b5_z.jpg

hoanglan22
09-17-2024, 03:24
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=2428256&stc=1&d=1726543328

Đại tá Nguyễn Văn Thọ Lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn III Nhảy Dù bị bắt tại Hạ Lào
ngày 25/2/1971 cùng các sĩ quan Dù khác đang được đưa ra tŕnh diện trước báo chí ở Hà Nội.



Ngày 12 Tháng 5, 2015, Đại tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn III Nhảy Dù trở về cơi vĩnh hằng nơi Sydney, Úc hưởng thọ 87 tuổi. Ông là sĩ quan cấp bậc cao nhất của Quân Lực VNCH bị bắt tại trận địa, Mặt Trận Hạ Lào, Hành Quân Lam Sơn 719 – Tháng 2, 1971. Bài viết như một lời chào kính cuối cùng gởi đến Người Lính Lớn – Chiến Binh Nhảy Dù Cố Gắng. Cũng nhân cơ hội nh́n lại một chiến dịch quân sự để thấy ra những biển lận hiểm độc chính trị đối với vận mệnh Việt Nam nói chung và Quân Lực VNCH nói riêng.

Từ Đông Hà, thị trấn cực bắc lănh thổ miền Nam, Đường số 9 bắt đầu chạy về hướng Tây qua những vùng đồi Cam Lộ, Hương Hóa, Lao Bảo để cuối cùng đến Khe Sanh với tiền đồn Làng Vây, sát biên giới Việt–Lào. Qua biên giới, con đường tiếp tục đi dọc sông Tchépone một đoạn dài khoảng 40 cây số, giao tiếp với đường Hồ Chí Minh tạo nên vùng hậu cần quan trọng thuộc hệ thống Binh Trạm 604, 611 (lưu ư các phiên hiệu 604; 611 – Có nghĩa, cơ sở đă thành h́nh từ những năm 1960, 1961 – Thời điểm dựng bảng hiệu Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, 19/12/1960) của đường dây chuyển vận Bắc–Nam, nguồn huyết mạch sinh tử đối với binh đội cộng sản. Thế nên Bộ Tổng Quân Ủy Miền Bắc quyết chiếm giữ, duy tŕ vùng tiếp vận quan yếu này bằng mọi giá trong suốt cuộc chiến tranh xâm nhập, lật đổ Miền Nam.

Tổng Công Kích đợt I Mậu Thân đầu năm 1968, miền Nam đă có hơn 19,000 người chết gồm dân và lính (số chính xác là 4,959 quân nhân VNCH tử trận và 14,300 thường dân thiệt mạng) Và đến năm 1970, toàn bộ sào huyệt hậu cần, từ chiến khu C, D miền Đông Nam Bộ đến Trung Ương Cục Miền Nam trên đất Miên bị phá vỡ... Giới chức Việt–Mỹ ước đoán tiềm lực xâm lược miền Nam của phía cộng sản phải có dấu hiệu đ́nh hoăn, hoặc suy giảm, và chiến dịch đánh qua đất Lào (đầu năm 1971) được h́nh thành để thực hiện quan niệm: Cắt đứt đường tiếp vận Bắc–Nam với tên thường gọi, Đường ṃn Hồ Chí Minh. Nhưng không đúng với thực tế, bởi đă là một hệ thống đường có khả năng để chiến xa hạng nặng di chuyển với ống dẫn dầu, hệ thống tiếp liệu, tiếp vận quan trọng bố trí dày đặt tại điểm sinh tử Tchépone để đổi lấy một số thời gian an toàn đủ hoàn thành các đợt rút quân; kư kết Hiệp Định Paris trên thế lợi, tiếp rút khỏi Đông Dương như ứng cử viên tổng thống (tháng 10/1968) Nixon đă từng hứa hẹn với cử tri Mỹ.

Sự thật không xảy ra như ước tính và hy vọng (!), dù với tỷ lệ khả thể nhỏ nhất. Để yểm trợ cho những mặc cả chính trị tại Hội Nghị Ba–Lê đang đi vào thời điểm quyết định (mà sau này sẽ thấy rơ hơn ở năm 1972), phía Hà Nội lại chuẩn bị cho lần xâm lược mới qua việc thành lập Quân Đoàn 70B chỉ huy hành quân ba sư đoàn 304, 308 và 320 – những đơn vị phụ trách toàn vùng Nam Lào, bao gồm khu Phi Quân Sự, lănh địa cực Nam của Miền Bắc. Tướng Vơ Nguyên Giáp từ Tháng 10/1970 đă ra chỉ thị cho những đơn vị trên chuẩn bị kế hoạch phản công trường hợp quân đội miền Nam tiến đánh vùng Nam Lào qua việc thiết lập những vị trí pháo, khu vực phục kích, những vùng trực thăng (có thể) đổ quân... Có nghĩa: Phía Bắc quân đă chuẩn bị kế hoạch phản công từ khi chưa có lệnh Hành Quân Lam Sơn 719 trước những bốn tháng!

Một.

Lam Sơn 719, Như thế nào? Để làm ǵ?

Kế hoạch Hành Quân Lam Sơn 719 được thiết lập và Ngày 8 Tháng Hai, 1971, chiến dịch bắt đầu với vùng hậu cần Tchépone là mục tiêu cần phải đánh chiếm, giữ vững trong một thời hạn đủ để phía cộng sản phải giảm mức tấn công tại Miền Nam (do thiếu tiếp vận, yểm trợ chuyển đi từ Miền Bắc). Thêm một lần, vùng địa đầu Quảng Trị “được” chọn lựa làm nơi chốn cho cuộc huyết chiến, giao tranh. Nhưng cũng không hẳn như trên đă kể, bởi cuộc hành quân này tự khởi đầu được trù định theo yêu cầu chiến lược của phía Mỹ: Chính phủ Mỹ thiết kế chiến lược và quân Nam là nhân tố thực hiện chiến thuật.

Từ pḥng tuyến Khe Sanh, đại quân Miền Nam được tổ chức nên thành ba lực lượng tấn công chính với ba hướng tiến quân, lấy đường số 9 làm địa giới trung tâm khu vực trách nhiệm. Giai đoạn thứ nhất của cuộc hành quân khai diễn đúng ngày 8 tháng 2. Hai Tiểu Đoàn 39, 21 và Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn I Biệt Động; Tiểu Đoàn 2, 3 Dù và Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn III Dù do Đại tá Nguyễn Văn Thọ chỉ huy được trực thăng vận xuống chiếm đóng, thiết lập, trấn giữ những căn cứ hỏa lực từ bắc xuống nam, tả ngạn sông Tchépone, nơi các cao điểm được đặt tên: Ranger North (39BĐQ); Ranger South (21BĐQ); Căn cứ hỏa lực 31 (TĐ3ND); Căn cứ hỏa lực 30 (TĐ2ND) để bảo vệ mặt bắc trục tiến quân trung phong trên Đường số 9. Từ căn cứ Hàm Nghi, đông Khe Sanh, Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ (đặt thuộc quyền hành quân Bộ Tư Lệnh SĐ Dù) có Tiểu Đoàn 8 Dù tùng thiết theo đường bộ tiến tới Bản Đông, tên quân sự: Căn cứ A Lưới, do Tiểu Đoàn 9 và pháo binh Dù thiết lập căn cứ hỏa lực; Căn cứ Béta (Bravo), hay Bắc B́nh do Tiểu Đoàn 1 Dù (sau này tăng cường TĐ7 Dù), bộ chỉ huy Lữ Đoàn I Dù chỉ huy tổng quát cánh quân này.

Sư Đoàn 1 Bộ Binh chịu trách nhiệm cánh quân mặt Nam Đường 9, hữu ngạn sông Tchépone, trực thăng vận các tiểu đoàn cơ hữu vào vùng, thiết lập các căn cứ hỏa lực Hotel, Don, Delta và Delta–1 để bảo vệ cạnh sườn trục tiến quân trung tâm mà chủ yếu để nhịp tiến quân của Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ và Lữ đoàn I Dù đến đúng mục tiêu Tchépone như đă dự liệu. Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến làm thành phần trừ bị ở giai đoạn này.

Tướng Abrams đă thay thế Tướng Westmoreland từ giữa năm 1968, và bắt đầu áp dụng chiến thuật “Chiếm và Giữ” thay v́ “Lùng và Diệt” của Westmoreland. Với chiến thuật mới, Abrams chỉ cần khai triển những đơn vị tương đối nhỏ (không tập trung quân vào những chiến dịch lớn với những đại đơn vị, như người tiền nhiệm) và quan trọng hơn hết là chuẩn bị những đợt rút quân từ tháng 6 năm 1969, với những đơn vị vùng châu thổ sông Cửu Long, nơi được đánh giá là t́nh h́nh an ninh tương đối ổn định, cụ thể trong Mậu Thân 1968, không có thành phố, tỉnh lỵ nào bị cộng sản chiếm cứ và gây tác động tổn thất lớn như ở Huế, Sài G̣n. Ngày 8 tháng 6, 1969 kế hoạch rút 25,000 quân chính thức được công bố với đơn vị đầu tiên, Sư Đoàn 9 Bộ Binh rời khỏi Căn Cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho. Tiếp theo, 29 tháng 9, quân số Mỹ ở Thái Lan rút đi 6,000 người.

Ngày 9 tháng 10, sau nhiều tính toán đầy kịch tính, Bộ Trưởng Quốc Pḥng Melvin Laird công khai tŕnh diễn màn kịch lớn – Việt Nam Hóa Chiến Tranh – Viên đá tảng của chiến lược Nixon.

Cũng cần nói rơ thêm về yếu tố chính trị đă dẫn đến Hành Quân Lam Sơn 719. Không phải đến thời điểm 1969, 1970 này, Tổng Thống Mỹ Nixon, người được Billy Graham đánh giá và mô tả chính xác: “người được chuẩn bị kỹ nhất để làm tổng thống nước Mỹ” đă phát hiện và xây dựng nên kế hoạch. Nhưng đúng ra từ tháng 10, 1968, đang trong giai đoạn vận động tranh cử, Nixon đă nhận ra “ẩn số” của vấn đề Việt Nam – Rút quân đội Mỹ khỏi chiến trường – Lời giải phương tŕnh này không do ai xa lạ làm nên, chính tổng thống đảng Dân Chủ, Johnson đă gióng trước qua Thông Cáo Chung Manila ngày 25 Tháng 10, 1968 (được hoàn thành với nguyên thủ các nước tham chiến tại Việt Nam gồm Phi, Úc, Đại Hàn, Tân Tây Lan, và Thái Lan) – Với điều khoản trụ cột: Quân Mỹ và Đồng Minh sẽ rút hỏi miền Nam Việt Nam cùng lần quân với Bắc Việt. Hà Nội cũng phải cam kết không xâm nhập, yểm trợ lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam (?!).

Tuy đánh giá kế hoạch này là “không tưởng” với các phụ tá trong ban tham mưu tổ chức tranh cử, nhưng Nixon, con người với mẫn cảm chính trị tinh tế cũng đă nhận ra giải pháp thật sự có khả năng thực hiện để giải quyết mối rối Việt Nam – Cũng là phương cách hữu hiệu và an toàn nhất để “tháo gỡ” mối liên kết Nga–Hoa, đánh vỡ phần cân bằng cố kết của phe cộng sản trong chiến lược chính trị thế giới. Việt Nam Hóa Chiến Tranh Đông Dương với sự rút đi của quân lực Mỹ là bước chiến thuật vô cùng tinh tế lợi hại (lẽ tất nhiên phải chịu những hậu quả bất lợi cục bộ ban đầu) để tổ chức lại, tái phối trí lực lượng quân sự Mỹ ở vùng Châu Á–Thái B́nh Dương (vấn đề Miền Nam có tồn tại được hay không theo sau kế hoạch này là một chuyện khác). Hành Quân Lam Sơn 719 với xương máu Lính Việt nơi vùng heo hút Khe Sanh, Tchépone là “nền tảng ban đầu xây dựng nên Trật Tự Thế Giới Mới” hôm nay, với sự biến mất không cơ hội hồi phục của lực lượng cộng sản đệ tam. Qua thế kỷ 21, chúng ta có thể nói chắc như thế mà không sợ sai lầm.

Tiến vào Lào

Trở lại với chiến trận, bắt đầu từ giai đoạn chuẩn bị lệnh hành quân đến ngày N của chiến dịch đă có những sự kiện “bất thường” tai hại để sau này biến thành tai họa vô lường đối với các đơn vị tham chiến. Lấy lư do bảo mật, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I, cơ quan chỉ huy tổng quát cuộc hành quân hạn chế tối đa nhân sự tham dự việc soạn thảo lệnh, chỉ gồm những giới chức cao cấp (Pḥng Ba, Hành Quân và Pḥng Hai, Quân Báo), ban tham mưu quân đoàn dưới quyền Trung tướng Hoàng Xuân Lăm, có tham dự của Trung tướng James W. Sutherland, Tư Lệnh Quân Đoàn XXIV, đơn vị Mỹ trách nhiệm không, pháo yểm và tiếp liệu cho chiến dịch với hậu cần ở Đông Hà, Ái Tử, Quảng Trị, Đà Nẵng.

Điển h́nh cho sự hạn chế này, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, đơn vị giữ nhiệm vụ nỗ lực chính cuộc hành quân chỉ được thông báo vào “Ngày 2 Tháng Hai – Một tuần trước khi chiến dịch khai diễn”. Sĩ quan tham mưu, chỉ huy các đơn vị trực thuộc của Sư Đoàn Dù ra đến Đông Hà, chuẩn bị vào vùng hành quân mới biết nhiệm vụ đánh qua đất Lào – Tin tức do dân chúng truyền rao! Nhưng thực tế, “bảo mật” đă là một điều bi hài, sau khi chiến dịch kết thúc, cơ quan CIA tổng kết, lượng giá kế hoạch, diễn tiến hành quân, đă phát hiện ra điều nguy biến đầu tiên và chính yếu: Toàn bộ lệnh, phóng đồ hành quân, những căn cứ hỏa lực dự trù, điểm đổ quân, thậm chí vị trí hỏa tập tiên liệu, lẽ tất nhiên tọa độ phi pháo yểm (của phía Hoa Kỳ, tùy thuộc vào mức độ thông báo từ phía Mỹ đối với bộ tư lệnh Quân Đoàn I)... Tất cả tài liệu “bảo mật” này đồng được chụp lại, sao y phó bản từ nơi in ấn lệnh hành quân!

Cũng không loại bỏ nguồn tin bị thất thoát từ bộ Tổng Tham Mưu ở Sài G̣n, nơi Phủ Tổng Thống đường Công Lư. Sau 30 Tháng Tư, 1975, những điều tồi tệ tai họa này đă là sự kiện đương nhiên được xác định.

Cũng trong ư hướng bảo mật cuộc hành quân, Bộ Tư Lệnh Quân Đội Mỹ ở VN, MACV, ra lệnh “cấm phổ biến” đối với báo chí, phát ngôn viên quân sự được lệnh không đề cập đến diễn tiến cuộc hành quân. Nhưng, tất cả đă là một “lầm lẫn vụng về”, như Kissinger mô tả về việc “cấm vận tin tức”, v́ những nguồn tin đă lan tràn khắp nơi, bắt đầu từ nhiều nguồn mối. Và khi báo lên khuôn ở Hoa Thịnh Đốn đă có đầy đủ tin tức, kể cả tin về vụ việc “cấm vận”. Cuối cùng, Ngày 4 tháng Hai, lệnh cấm vô ích này được chính thức băi bỏ. Thật sự, từ Ngày 2, Tháng Hai, một tuần trước “Ngày N–Ngày Khai Diễn” của chiến dịch, tin tức và lời tố cáo “hành vi xâm lăng Lào” đă tràn đầy trên trang nhất của báo chí Mỹ cũng như toàn thế giới.

Dân biểu George Aiken, Tiểu Bang Vermont, dẫu từ dưới thời Johnson vốn là người yểm trợ chính quyền đối với sách lược thực hiện ở Việt Nam, nhưng đối với cuộc hành quân lại đặt nên vấn đề với quốc hội “Dân Mỹ có quyền ‘phải’ được biết về tin tức mà cả thế giới đă biết theo như Tu Chính Án Thứ Nhất ấn định...”

Ngày N–8 Tháng 2, 1972 Lệnh Hành Quân Lam Sơn 719 đă là một “bạch văn” phổ biến rộng răi khắp thế giới, chỉ trừ những người lính đổ bộ xuống băi đáp đang bị pháo kích, trên Đường Số 9 dày đặc ḿn chống chiến xa mà bộ đội cộng sản đă có một thời gian lâu dài để chuẩn bị chôn dấu. Cuối cùng, tai họa đă thực sự xảy ra khi chiếc trực thăng chở phái đoàn báo chí ngoại quốc có Đại tá Phạm Vy, Trưởng Pḥng 4, kiêm Tham Mưu Phó Tiếp Vận Quân Đoàn bị bắn rơi trong tuần thứ hai khi chiến dịch đang khai diễn – Toàn bộ hồ sơ trận liệt, diễn tiến hành quân đă bị phía cộng sản thâu giữ – Sự kiện Lệnh Hành Quân Lam Sơn 719 bị mất không hề được báo cáo! Thế nên vấn đề “bảo mật” của cuộc hành quân thật sự đă là một hài kịch thảm hại, và Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà gánh hết phần hậu quả tai họa oan khốc này.

Đối lại với kế hoạch trên của phía Việt–Mỹ, Đoàn 70B với ba sư đoàn cơ hữu thuộc vùng giới tuyến và Hạ Lào, 304, 308, và 320; với thành phần yểm trợ tác chiến gồm một trung đoàn pháo, một trung đoàn chiến xa, quân số tổng cộng khoảng 36,000 người. Do có được đầu mối từ nhiều nguồn tin mật như phần trên vừa tŕnh bày, Hà Nội rất mực yên tâm dồn quân vào vùng chỉ để một đơn vị, Trung Đoàn 64, Sư Đoàn 320 giữ mặt Bắc vùng phi quân sự. Do được bảo mật tối đa, áp dụng kỹ thuật ngụy trang tinh vi, quân cộng sản bố trí một trận địa pháo dày đặc từ cối 80, pháo tầm xa 130ly, hỏa tiễn 122ly theo một chiến thuật mới mẻ, “phân tán pháo binh–tập trung hỏa lực” để khi muốn tấn công một căn cứ hỏa lực, nhiều vị trí pháo đổ xuống cùng một lúc, phía quân Miền Nam khó ḷng chỉ định mục tiêu phản pháo.

Song song với trận địa pháo, Bắc quân thiết lập một hệ thống pḥng không chung quanh các băi đáp, đường tiếp cận của phản lực khi yểm trợ, hoặc của trực thăng khi đáp xuống một căn cứ, ngoài đại liên pḥng không 12.7ly thông thường, c̣n có những đại bác pḥng không hạng trung và hạng nặng 23, 37 và 57ly. Quan trọng hơn hết là chiến xa T54 lần đầu tiên được dùng vào chiến trường Miền Nam, loại chiến xa hạng nặng này vượt trội khả năng lẫn hỏa lực so với chiến xa M41 thường dùng của quân đội miền Nam, chỉ chiến xa M48 mới có khả năng đương cự tương đương.

Đối với T54, bộ binh miền Nam với hỏa tiễn chống chiến xa M72 không thể triệt hạ được. Thế nên sau này, khi trận chiến bùng vỡ, trước T54, người lính chỉ c̣n phương tiện duy nhất – Dùng chính thân xác ḿnh với lựu đạn tay để phá hủy chúng mà thôi.

Với chuẩn bị chiến trường chu đáo, bảo mật tuyệt kỹ, quân số vượt trội, hỏa lực áp đảo, Bắc quân bắt đầu trận đánh với chiến thuật tập trung tấn công từng cụm căn cứ hỏa lực theo hướng từ Bắc xuống Nam.

Hai.

Trận chiến

Căn cứ Hỏa lực Delta 1 cách biên giới khoảng 9 dặm trên đất Lào.

Căn cứ Ranger North của Tiểu Đoàn 39 Biệt Động Quân bị tấn công trước nhất. Sau nhiều ngày thám sát, ḍ đường chung quanh căn cứ, sáng ngày 19 tháng Hai, 1971, Trung Đoàn 102, Sư Đoàn 320 (tỉ lệ 4 đánh 1) sau nhiều giờ pháo kích bằng đại pháo tầm xa 130ly, đến lượt sơn pháo bắn thẳng che cho bộ binh tấn công từ mặt đông căn cứ, nơi tuyến pḥng thủ mỏng manh nhất. Với yểm trợ hữu hiệu của pháo binh bạn từ những căn cứ xung quanh và phi cơ oanh tạc, tác xạ sát cận tuyến pḥng thủ, Biệt Động Quân giữ vững căn cứ qua ngày thứ hai, măi đến đêm tối trận chiến mới tạm chấm dứt.

Tin căn cứ TĐ39 BĐQ bị đánh bay về Sài G̣n, Tổng Thống Thiệu ra lệnh Trung tướng Lăm tạm đ́nh chỉ kế hoạch tiến chiếm Tchepone như trù liệu vơi Lữ Đoàn I Dù và thiết kỵ?! Nhưng cũng có ư kiến sáng suốt, đấy là Tướng Abrams đă thúc dục Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên hăy ra lệnh Tướng Lăm đừng để phí thời gian, lúc cộng sản chưa chuẩn bị đủ. Ngày 14, Abrams quá nóng ruột, đích thân cùng Tướng Viên ra Đông Hà gặp Tướng Lăm và Sutherland để quan sát tại chỗ và giục ông Lăm hăy khai triển gấp Sư Đoàn 1 Bộ Binh trên những cao độ nam Đường 9 để bảo vệ cạnh sườn cho Nhảy Dù và Thiết Kỵ tiến chiếm Tchépone như kế hoạch, dự liệu trong ṿng ba đến năm ngày. Tướng Lăm đă để khoảng thời gian quý giá này trôi qua cho đến ngày 18, 19 như vừa nói trên.

Chẳng hiểu quá vâng lời ông Thiệu hay không đủ tự tin, Tướng Lăm đ́nh chỉ lực lượng thiết giáp ngưng tiến quân, không có một quyết định, ư kiến nhỏ về, từ thực tế chiến trường. Hơn thế nữa, mối liên hệ “không cộng tác” giữa những viên tướng tư lệnh sư đoàn (Tướng Đống, Nhảy Dù; Tướng Khang, TQLC) với Tướng Lăm lại là yếu tố tai hại ảnh hưởng không nhỏ đến những quyết định quan trọng tại chiến trường.

SĐ320 cộng sản thay đổi các đơn vị cơ hữu tiếp đánh vùi TĐ39, quyết dứt điểm Ranger North để có khí thế ban đầu. Ngày 20, trực thăng cố vào vùng để tản thương và tiếp tế đạn cho TĐ39, xạ thủ pḥng không cộng sản bắn hạ một trực thăng tản thương, y tá Dennis Fujii phải ở lại cùng căn cứ. Trong cái rủi có điều may, Fujii trở thành y tá của căn cứ kiêm luôn nghiệp vụ hướng dẫn phi cơ oanh kích cận pḥng. Cuối cùng, Fujii cũng được móc ra, nhưng trực thăng chở anh lại bị trúng đạn phải đáp khẩn cấp xuống Ranger South.

Viên y tá trở nên là nhân chứng sống cho cuộc chiến đấu kiên cường của Biệt Động Quân, khi sau này có những tay viết báo muốn khai thác khía cạnh bất lợi đối với quân miền Nam. Đă có nhiều lúc, những phi công F4 Phi Đoàn 40 Chiến Thuật nh́n thấy binh sĩ TĐ39 nằm trong màn lửa bom Napalm do họ thả xuống chung quanh căn cứ. Không được tiếp tế đạn, lính TĐ39 Biệt Động phải sử dụng lại súng, đạn của kẻ địch để tiếp tục trận chiến. Cuối cùng, chiều tối ngày 21 tháng Hai, sau hơn ba ngày đêm đương cự, với 178 người chết và bị thương nặng, quân số Tiểu Đoàn 39 chỉ c̣n 107 người, kể cả bị thương nhẹ có thể chiến đấu; quân cộng sản sử dụng một lực lượng (không phải gấp ba, bốn lần hơn như những ngày đầu trận đánh) tới 2,000 người với vũ khí mới trang bị, để thay thế cho hơn sáu trăm xác bỏ lại lền khên quanh căn cứ (không ảnh đếm được số chính xác là 639), quyết trả hận biệt động quân.

Nửa đêm, nương bóng tối, TĐ39 phải bỏ căn cứ rút về Ranger South. Cộng quân không chịu mất đà, dồn nỗ lực pháo cối dập xuống căn cứ Nam (Ranger South). Để giữ tinh thần chiến đấu cho binh sĩ c̣n lại và đỡ gánh nặng cho Tiểu Đoàn 21, một cuộc hành quân không vận với phối hợp chặt chẽ giữa phi cơ chiến thuật và trực thăng vơ trang, 13 trực thăng đă hoàn tất một cuộc tải thương chớp nhoáng, lấy ra được 112 thương binh kể cả anh chàng “tiền sát viên bất đắc dĩ” Fujii. Tiểu Đoàn 21 sau khi mất điểm tựa phía Bắc (Ranger North), cùng thành phần c̣n lại của TĐ39 rút về Đồi 31 của Nhảy Dù, sau đó được di tản khỏi vùng hành quân.

16 dặm bên trong lănh thổ Lào, điểm xâm nhập sâu nhất mà quân Nam VN vào được trong 3 tuần đầu, các binh sĩ Nam VN theo dơi hai cuộc không kích của Mỹ. Một là cuộc dội bom B–52 xuống các vị trí quân địch ở một sườn đồi bên cạnh, xa chưa tới 3 dặm. Mặc dù bị không kích dữ dội như vậy, quân Bắc Việt đă tái lập được căn cứ pháo binh của họ trong vùng mục tiêu và đă tiếp tục pháo kích từ nơi đó chỉ 12 giờ đồng hồ sau.

Chiến sử Lam Sơn 719 đoạn đầu với Biệt Động Quân được Tướng Sutherland đánh giá: “Một chiến thắng lớn của Biệt Động Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa”, cho dù có những bôi bẩn ác ư do đám phóng viên tụ tập tại Khe Sanh khai thác h́nh ảnh ăn khách “lính bám càng trực thăng” trở về từ Hạ Lào do một vài binh sĩ trong cơn hốt hoảng, nhân lần tải thương kể trên đă bỏ trốn khỏi vùng hành quân. Ngoài ra, có một sự kiện xảy ra nơi xa nhưng quả thật đă ảnh hưởng trực tiếp đến chiến trường Hạ Lào – Nếu như Tướng Đỗ Cao Trí không tử nạn máy bay (đến giờ này vẫn c̣n là một nghi vấn) và ông có mặt tại Khe Sanh trong ngày 23 Tháng Hai – Ngày Biệt Động Quân rời bỏ căn cứ th́ có lẽ t́nh thế Lam Sơn 719 đă đổi khác. Bởi đă hơn một lần, với những đơn vị biệt động như những Tiểu Đoàn 21 và 39 này, năm 1970, Tướng Trí đă một lần tạo nên kỳ công ở chiến trường Campuchia. Lịch sử rất nhiều lần bị biến đổi hẳn do những nguyên nhân rất nhỏ và bất ngờ. Bi kịch Hạ Lào tiếp diễn với lực lượng Nhảy Dù nơi Đồi 31 và 30 khi mặt Bắc hoàn toàn trống trải nguy nan.

Trong vụ không kích khác tại cùng khu vực, các phản lực cơ Không quân Mỹ ném bom napalm vào quân địch. Lần này mục tiêu, được đánh dấu cho các phản lực cơ bằng trái khói, là một điểm tập trung bộ đội Bắc Việt đang chuẩn bị tấn công. Thông tin về cuộc tấn công sắp xảy ra được cung cấp bởi một tù binh Bắc Việt gần chết, là người đă bị thương và bị bắt trong đêm hôm trước.

Dư luận chính trị thế giới nói chung và riêng nước Mỹ thật không hề công bằng đối với quân lực Mỹ và Việt Nam Cộng Ḥa; không phải những tiếng lời phát xuất từ số đông quần chúng b́nh dân hoặc những bài báo độc địa, xuyên tạc của đám kư giả ngoại quốc hạng nh́, nhâng nháo nơi những quán rượu Sài G̣n; nhưng khởi động từ những nhân vật có thế lực, ảnh hưởng, tác động đến cục diện toàn cầu như Tổng Thư Kư Liên Hiệp Quốc U Than; Trưởng Khối Đa Số Thượng Viện Mỹ, Mike Mansfield... Tất cả những nhân vật tiếng tăm này đồng dấy lên chiến dịch tố cáo: “Quân đội Mỹ tấn công chiếm đóng Lào!”, tức hàm ư cáo buộc lực lượng Mỹ của Tướng W. Sutherland qua hành quân Dewey Canyon, yểm trợ quân đội Miền Nam thực hiện Lam Sơn 719.

Cần nói thêm một lần để xác định: Bộ binh Mỹ không hề vượt qua biên giới Việt–Lào ở địa điểm Làng Vây. Lẽ tất nhiên, những lời cáo buộc trên được lặp lại nguyên bản với bộ máy tuyên truyền khổng lồ của Liên Xô, Trung cộng và Hà Nội. Cụm từ ngữ “Chiến tranh đế quốc xâm lược Mỹ” dần trở nên là một “thực thể” của diễn tiến chính trị thế giới – qua báo chí (cũng nơi đất Mỹ) – thúc giục những đám phản chiến xuống đường kêu gào “ḥa b́nh” và “giết Nixon cùng tất cả những kẻ nào chận bước tiến (của chúng ta) tới... tự do”. Những lời đao búa này của David Hilliard, thủ lănh nhóm Báo Đen được Washington Post tán tụng: “... Xuyên sâu những ngôn từ mạnh mẽ hùng hồn này, chúng ta khám phá ra những điều kỳ lạ và đẹp đẽ biết bao. Họ (những kẻ phản chiến) đă là hỗ trợ cho những điều tốt lành nhất đối với đất nước!”.

Tất cả những cáo buộc sai lạc hàm hồ này được thành h́nh từ đầu Tháng 2, 1971, khi lực lượng VNCH c̣n ở trong lănh thổ Việt Nam. Những kẻ trên hoàn toàn không biết (do ngu muội) hoặc không muốn biết (do ác ư) sự kiện: “Quân xâm lược thực thụ phải là đoàn quân có danh hiệu Quân Đoàn 70B của cộng sản Bắc Việt. Để sau 1975 được chính Tổng Bí Thư Lê Duẩn hănh diện xác nhận: Ta đánh Mỹ là đánh cho Trung Quốc, đánh cho Liên Xô”.

Nhắc lại thêm một lần cũng không thừa: Binh đoàn quân đội chính quy cộng sản Bắc Việt đă thành h́nh và có mặt nơi đất Lào từ năm 1970. Chính phủ Lào ở Vạn Tượng cũng không nói những ǵ khác và đúng hơn về những điều ǵ đang xảy ra trên đất nước họ.

Cánh quân trung phong gồm Lữ Đoàn I Nhảy Dù với các Tiểu Đoàn 1, 8, 9 và Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ từ căn cứ Hàm Nghi tiến chiếm những những mục tiêu Bravo, Alpha, A–Lưới trên Đường 9 không mấy khó khăn dù hướng tiến quân đă bị gài đặt ḿn bẫy từ nhiều ngày qua. Căn cứ tiền phương A Lưới, cách Tchépone khoảng dưới mười dặm được thiết lập vào buổi chiều ngày 8 đúng như dự định, bộ phận bộ binh Bắc Việt giữ chốt trên Đường 9 không ngăn nổi sức tiến quân nhanh chóng, thần tốc của Nhảy Dù và Thiết Giáp. Hơn thế nữa những pass B52 đánh theo yêu cầu chiến thuật của lực lượng dưới đất, dọc hai bên con đường đă hủy diệt phần lớn cánh quân phục kích này. Các đơn vị Nhảy Dù trên Đường 9 khám phá nhiều kho tàng vũ khí quan trọng, gồm 3,000 xe đạp mới, cũ, kho nhiên liệu xăng, dầu cặn, áo quần, lương khô Trung cộng, Nga lần đầu tiên được sử dụng ở chiến trường miền Nam và hằng trăm, ngàn xác chết vương vãi không toàn thây của những đơn vị Bắc Việt.

Về chiến trường mặt bắc Đường 9, Tiểu Đoàn 2 và 3 Dù được trực thăng vận xuống hai Đồi 30, 31; hai căn cứ hỏa lực được thiết lập với chỉ danh của hai cao độ này. Nhưng chiến trường không hề thuận tiện như những ngày đầu v́ Bắc quân đă gióng trước với lính Dù qua máy truyền tin: “... chúng mầy sẽ biết thế nào là trận địa pháo của quân giải phóng!” Lời đe dọa không hề là giả thiết và cảnh địa ngục thật sự đă mở ra.

Chúng ta hăy chứng kiến một đoạn về trận chiến nơi Đồi 31, căn cứ hỏa lực Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn III Dù, cũng là vị trí đầu cầu của Tiểu Đoàn 3 Dù, dưới quyền chỉ huy của Trung úy Phạm Đồng (tác giả Phan Hội Yên) được lệnh chiếm đóng trong những ngày đầu của chiến dịch. Viên Trung úy Trung đội trưởng Trung Đội 2, Đại Đội 33, kể lại trong tập truyện “Hạ sĩ Khinh Binh”: “Tôi phất tay cho trung đội đồng loạt ném hết số ḿn chiếu sáng về phía trước... Tách! Tách!... Xoè... xoè... Bốp, bốp... Ngọn lửa bùng lên dữ dội rồi lan nhanh về phía địch quân; râu tóc mặt mày chúng tôi cũng cháy nám khét lẹt. Thế thượng phong ngàn năm một thuở... Lửa cuộn trong tiếng quân reo. Lửa tràn lên theo cỏ tranh gịn giă, khói bốc mịt mù... Khói làm màn che cho quân ta tiến tới. Vùng vẫy trong băo lửa, quân xông lên.

Lưỡi lửa liếm một ṿng cung, thắt gọn vị trí địch trong vùng hỏa công dữ dội. Những căn hầm được ngụy trang kỹ lưỡng bằng cỏ tranh tiệp màu bỗng chốc trở thành mồi ngon cho ngọn lửa. Hầm đạn nổ tung tóe, cả vùng đồi nhanh chóng ngập tràn biển lửa. Địch quýnh quáng tung hầm tháo chạy, có kẻ trên lưng đang bốc khói.

Tổ khinh binh tràn lên đỉnh đồi chiếm lĩnh trận địa, thanh toán nhanh những ổ kháng cự yếu ớt c̣n sót lại... Làm sao có thể chống cự được, khi trước mặt là lửa táp, khói thốc theo luồng gió lùa vào mồm, mũi... Chưa kịp dụi mắt, ngáp gió, lấy hơi, quân ta đă tiến tới, lưới đạn càn quét, quyết liệt... Trong ráng chiều chưa tắt, nắng xuyên qua khói, lửa rải xuống chiến trường những giải vàng lóng lánh, thấp toáng bóng quân chạy dọc ngang trên đỉnh đồi như phút giây linh thiêng hào hùng sông núi chuyển ḿnh...”

Sau khi trung đội của Trung úy Phạm Đồng đă chiếm lĩnh được mục tiêu với lần mất đi sinh mạng những chiến hữu thiết thân, những khinh binh Chí, đề–lô pháo binh Tâm, và chỉ dấu thua thiệt lớn nhất: Đại úy Lê Thành Bôn, đại đội trưởng, tác giả của trận đánh hỏa công của đoạn viết kể trên. Đồi 31 trở nên cảnh chết tàn khốc vào ngày 25 tháng Hai: “Sau trận tập trung pháo kích, xe tăng địch lập tức ào ạt xung phong... Hai, ba, năm... bảy, tất cả mười một chiếc bỏ lại bộ binh (của phía Bắc quân), cùng lao xuống đồi về phía chúng tôi. Một chiếc đang ḅ ngang chông chênh trên sườn đồi lănh ngay một trái 105 trực xạ, hất nhào xuống vực thẳm. Nhưng đoàn xe tăng vẫn tiếp tục vừa bắn vừa tiến và chiếm dần băi trực thăng.

Hạ sĩ nhất Chính và tiểu đội khinh binh lănh nhiệm vụ đón đánh đợt đầu khi tăng tiến qua băi đáp, tiến vào yên ngựa hẹp (giữa hai đỉnh đồi) trước khi bám đánh khu vực pḥng thủ trung tâm căn cứ. Chính dẫn theo B́nh, Tám, Ngôn, mỗi người thủ sẵn một cây M72 (hỏa tiễn chống chiến xa) đă ở vị trí chờ kích hỏa; Chuẩn úy Nghĩa, trung đội phó, đ̣i đi theo tổ khinh binh; mắt anh hừng hực uất hận bởi thấm đau từ lần đụng trận đầu tiên của đời lính, đă hiểu nghĩa tận cùng cào xé trước xác thân đồng đội.

Mỗi người chúng tôi quả có tâm lư của kẻ không đường trở lại, phải tiến lên phía trước, vượt qua hèn mọn của chính ḿnh... Mất đi ư niệm phân biệt sống, chết. Mà có khi phải chết c̣n thanh thản hơn được sống! Hai chiếc tăng ùn ùn tiến vào khu vực trung tâm, Nghĩa nhảy phắc lên chiếc thứ hai, thảy gọn trái M26 vào ḷng pháo tháp. Anh chưa kịp nhảy xuống th́ trúng đạn, nằm chồng lên xác địch thủ. Cùng lúc, có tiếng nổ ‘bục’ tức tối, khói từ trong chiếc tăng bốc lên... Nhưng sao nó vẫn tiếp tục chạy! Quờ quạng được một đoạn ngắn, chiếc chiến xa nổ tan làm hai mảnh, pháo tháp bật ngược ra sau cùng xác Nghĩa.”

Và trận đánh kết thúc với cảnh tượng vô vàn bi tráng mà phải là người trong cuộc mới có thể viết nên với những ḍng đẫm máu như sau:

“... Ba phần tư ngọn đồi đă nằm trong tay địch, chúng tôi (Đại đội 31 và 33) chỉ c̣n giữ được một phần bộ chỉ huy Tiểu đoàn và Lữ đoàn, nhưng không c̣n ai trong những vị trí hầm chỉ huy cả, tất cả đă ra ngoài, sát vai tác chiến cùng khinh binh, xạ thủ nơi tuyến đầu; hệ thống truyền tin chỉ huy vẫn được duy tŕ ở cấp trung đội, dù trên thực tế, mỗi trung đội c̣n không quá mười người...

Tất cả khái niệm sống, chết đă trở thành vô nghĩa. Và cũng không c̣n th́ giờ hoàn cảnh để chọn lựa. Những người lính c̣n lại của lữ đoàn đồng hăm hở lao lên trong cố gắng tuyệt vọng... Bắn... bắn, thụt thêm một trái M72 đi. Lựu đạn... lựu đạn... Những bóng áo rằn ri nhảy lên pháo tháp xe tăng địch, những thân người vùng vẫy cào cấu, lắt lẻo trên thành xe, tan nát dưới lườn xích sắt. Bây giờ bộ binh địch đă phối hợp cùng chiến xa, tràn lên căn cứ... Mặt đối mặt với lưỡi lê, báng súng, lăn xả vào nhau, bắn giết, đâm chém... Hoặc loay hoay với những khối sắt không làm sao phá vỡ với tay trần, với vũ khí cá nhân.

Bom bầy, pháo lũ dội xuống... Bom của ta, pháo của địch, lưới lửa của cả hai bên đồng chụp xuống một chỗ, lính hai bên cùng chia nhau lănh đạn... Những chiếc nón sắt rơi lông lốc, những đôi dép râu đứt quai nhầy nhụa trong ḍng nước đỏ ối, đậm đặc đang dần kết thành giải suối máu lăn lóc chảy chậm xuống sườn đồi!

Cuối cùng, hai Đại Đội 33, 34/TĐ3ND không thể nào giữ được Căn Cứ Hỏa Lực Đồi 31 do quân Bắc Việt tập trung toàn bộ lực lượng bộ binh của mặt Bắc Đường 9 được pháo 130ly yểm trợ, chiến xa T54 dẫn đầu... Những chiến xa hạng nặng này cày vỡ tất cả công sự chiến đấu của Đồi 31, đè sập hầm chỉ huy của Lữ Đoàn III nên Đại tá Thọ đă yêu cầu Pháo binh Nhảy Dù bắn tiêu hủy ngay trên vị trí pḥng thủ. Trung tá William. N. Peachey, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ158/Không Vận Mỹ từ trên chứng kiến những giây phút bi thảm cuối cùng của Đồi 31. Đến một lúc, lính Bắc Việt không cần phải nổ súng bởi những chiếc T54 chỉ việc đè lên những người lính Nhảy Dù trấn giữ đồi 31.

Cuối cùng, toàn bộ sĩ quan Lữ Đoàn III, Tiểu Đoàn 3 Dù, Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh gồm Đại tá Nguyễn Văn Thọ, Trung tá Trần Văn Châu, Thiếu tá Trần Văn Đức, Đại úy Lê Đ́nh Châu và nhiều sĩ quan trung cấp, hạ sĩ quan, binh sĩ bị bắt sống, phần đông đă bị thương, mất năng lực chiến đấu, hết đạn, vũ khí không c̣n sử dụng vào những ngày trước khi căn cứ bị tràn ngập.”

Lực lượng Nhảy Dù quả đă hẳn ưu thế chiến đấu khi bị bó chặt nhiệm vụ trên những cao độ không c̣n được yểm trợ liên hoàn, do để trống mặt Bắc khi các Tiểu Đoàn Biệt Động 21, 39 phải rời bỏ căn cứ như đă tŕnh bày ở đoạn trên. Sự kiện mất căn cứ Đồi 31 cũng có nguyên do là đoàn chiến xa M41 thuộc Thiết Đoàn 17 Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ có hai đại đội Tiểu Đoàn 8 Dù từ căn cứ A Lưới được lệnh di chuyển tăng cường cho Đồi 31 đă không đến kịp điểm hẹn. Toán quân này lại bị phục kích vào ngày sau khi trên đường tiến gần mục tiêu, cuối cùng nhờ B52 đă can thiệp hiệu quả bằng cách dội bom tiếp cận đội h́nh tiến quân, phá vỡ trận địa phục kích của Bắc quân. Sau hai pass B52, chiến trường hoàn toàn yên lặng, người sống sót nằm ngất trên mặt đất bị đào xới tung tóe lầy nhầy thịt xương người của các đơn vị bộ đội thuộc Sư Đoàn 320. Tổng số 800 xác chết là số lượng đếm được về đơn vị cộng sản bị giết bởi B52.

Căn cứ Đồi 31 thất thủ, Đồi 30 do Tiểu Đoàn 2 Dù trấn giữ c̣n lại trơ trọi suốt một vùng mặt Bắc Đường 9, và biến thành điểm lửa của toàn bộ hệ thống hỏa tập Bắc quân. Nhưng kỳ diệu thay, do bản lĩnh riêng của viên tiểu đoàn phó và sĩ quan hành quân, Thiếu tá Nguyễn Văn Mạnh, Đại úy Trần Công Hạnh, tiểu đoàn đă cầm cự được suốt một tuần sau và chỉ rời bỏ căn cứ khi Hotel (danh hiệu truyền tin của Đại úy Hạnh) trực tiếp liên lạc với phi hành đoàn của các phi cơ yểm trợ chiến thuật và trực thăng Mỹ để tác xạ trực tiếp và dội bom lên ngay tuyến pḥng thủ đơn vị...

Nương theo khe hở sống chết này, Tiểu Đoàn 2 rút khỏi ṿng vây với quân số chỉ bị tổn thất tương đối. Hơn thế nữa, đơn vị này trên hướng di tản khỏi căn cứ c̣n mở đường cứu vây Tiểu Đoàn 7, đơn vị vào tăng cường cho TĐ1 và TĐ8, hai tiểu đoàn này cũng đă bị tổn thất nặng trong tuần lễ cố giải vây cho Lữ Đoàn III Dù ở đồi 31 (Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Văn Phan tử trận; hai tiểu đoàn phó, Trần Đăng Khôi, TĐ7; Đào Thiện Tuyển, TĐ8 bị thương nặng, phải di chuyển khỏi vùng hành quân). Cuối cùng, lệnh tiến chiếm Tchépone như dự trù với lực lượng Nhảy Dù và Thiết Kỵ trên đường 9 không hề được thi hành. Lời thúc giục, khuyến cáo của Tướng Cao Văn Viên, Abrams với Tướng Lăm tại Đông Hà ngày 16 tháng Hai về việc thực hiện quan niệm hành quân trên đă không hề được quan tâm. Nghi án sự chậm trễ và thay đổi kế hoạch điều động các đơn vị đến nay vẫn c̣n là một ẩn số chưa có lời giải thích thỏa đáng.

Ba.

Tchépone,
Chiếc bẫy sập đóng lại
Crossroads at Tchepone – Ngă ba đường tại Sê–pôn.

Khi lực lượng Nhảy Dù và Thiết Kỵ bị cầm chân ở A–Lưới th́ việc tiếp tục tiến chiếm Tchépone với bộ binh chỉ c̣n là một “mục tiêu bề mặt”, cốt để biện hộ một cách tai hại về một ước tính quân sự sai lầm, nhằm mục đích yểm trợ cho một sách lược chính trị. Sách lược ấy được nhận ra, khi Toà Đại Sứ Mỹ ở Sài G̣n báo cáo về Hoa Thịnh Đốn một nội dung khả thể, đêm 7 tháng 4 Tổng Thống Nixon có thể nói cùng dân chúng Mỹ: “Đêm nay tôi có thể báo cáo rằng chính sách Việt Nam Hóa đă thành công!”, nhằm trấn an những nhóm biểu t́nh phản chiến, đ̣i cải thiện chế độ an sinh xă hội cho người da đen ở các tiểu bang miền Nam nước Mỹ.

Ngày 3 tháng Ba, hai Lữ Đoàn A, B Thủy Quân Lục Chiến từ Khe Sanh được đưa vào thay thế các đơn vị Sư Đoàn 1 Bộ Binh thuộc vùng trách nhiệm hai căn cứ Delta và Hotel. Như thế, mặt trận Hạ Lào chỉ c̣n một Lữ đoàn TQLC làm thành phần trừ bị; cũng có nghĩa tương tự đối với toàn bộ lực lượng quân sự miền Nam. Những tiểu đoàn bộ binh thuộc Sư Đoàn 1 rời bỏ vùng vừa bàn giao, tiến sâu về phía Tây, lập các căn cứ hỏa lực Sophia, Liz, và LoLo trên các cao độ 748, 690, và 723, Đông–Nam mục tiêu Tchepone. Lolo thực sự chỉ là một băi đáp chứ không hẳn là một căn cứ hỏa lực.

Ngày 6 tháng Ba, một phi đội khổng lồ gồm 120 trực thăng Huey được trực thăng vơ trang Cobra và phản lực chiến đấu yểm trợ bao vùng đổ quân bộ xuống băi đáp Hope, bốn cây số Đông–Bắc Tchépone, sau khi B52 đă trải thảm dọn sạch khu rừng rậm hằng trăm năm không dấu vết người chung quanh băi đáp. Cuộc không vận được xếp hạng là một trong những hành quân đường không lớn nhất chiến sử Đông Dương; năm 1954, lực lượng không quân vùng Tây–Bắc của Tướng Cogny chỉ có đúng hai trực thăng Alouette cho Chiến Dịch Castor để chiếm đóng Điện Biên Phủ.

Cuộc không vận đưa Tiểu Đoàn 4/Trung Đoàn 1 và Tiểu Đoàn 2/Trung Đoàn 2 vào vùng lửa Tchépone, đây là hai đơn vị ưu tú nhất của Sư Đoàn 1 do Trung tá Lê Huấn và Trung tá Trần Ngọc Huế chỉ huy; cả hai cùng Khoá 18 Trường Vơ Bị Đà Lạt và được đánh giá là những sĩ quan xuất sắc của khoá. Nhưng dù hai tiểu đoàn trên có gồm những người lính can trường, được chỉ huy bởi những sĩ quan xuất chúng bao nhiêu, cứ điểm Hope mà hai đơn vị có nhiệm vụ đổ bộ xuống để rồi sau đó làm đầu cầu đột kích trong im lặng tuyệt đối vào “thị trấn Tchepone” đă là một nơi hoang vắng với những thây chết rải rác cũng có nghĩa “Kế Không Thành” mà Bắc quân giương ra đă hoàn tất.

Toàn bộ các băi đáp, địa điểm này đă là những “điểm hỏa tập tiên liệu” của pháo, cối, hỏa tiễn diện địa của bộ đội cộng sản. Kết quả bi thảm đương nhiên xảy đến, Tiểu Đoàn Trưởng Lê Huấn tử trận, Trần Ngọc Huế bị bắt sống... Hai tiểu đoàn tan vỡ như những mảnh vụn của những khẩu pháo 105 thả xuống ở các căn cứ Hope, Sophia, Liz... Có những khẩu chưa hề bắn được một viên đạn, v́ những lưới đạn quả thật chưa hề được thả xuống kịp trước khi các căn cứ tan vỡ. Ông Thiệu ra lệnh “rút quân” sau “chiến thắng Tchepone”, bất chấp lời khuyến cáo từ phía Tướng Abrams – Tăng cường Sư Đoàn 2 Bộ Binh cho mặt trận Hạ Lào và giữ chặt nút chận Tchépone để hoàn thành mục tiêu chiến lược – Cắt đứt đường tiếp vận Bắc–Nam của quân đội cộng sản.

Cuộc rút quân không chuẩn bị tất nhiên biến thành lần tháo chạy, khi các căn cứ lần lượt bị đánh vỡ, mất hẳn thế “yểm trợ liên hoàn – viên đá tảng cột trụ của chiến thuật Căn Cứ Hỏa Lực”. Sau Sư Đoàn Nhảy Dù của giai đoạn đầu, Sư Đoàn 1 Bộ Binh ở giai đoạn hai, tiếp theo, đến lượt Sư Đoàn TQLC chịu lần phanh thây trên những đỉnh núi trần trụi dưới cơn mưa lũ đại pháo của Bắc quân được chuẩn bị từ một năm trước, năm 1970.

Thủy Quân Lục Chiến tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719 với toàn bộ Sư đoàn. Tiểu đoàn 3 pháo binh yểm trợ.

Lực lượng Thủy Quân Lục Chiến nhận vùng trách nhiệm, bố trí các tiểu đoàn theo hướng Bắc–Nam. Tiểu Đoàn 4, 7, Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn A có pháo binh Tiểu Đoàn 2 Pháo yểm trợ. Căn cứ hỏa lực chính được Tiểu Đoàn 2 “Trâu Điên” bảo vệ, đồng thời làm thành phần trừ bị. Phía Nam, Lữ Đoàn A, hai tiểu đoàn 3, 8, có nhiệm vụ phá thế trận cộng sản bao vây, chia cắt. Nhưng tất cả phối trí chiến thuật này đă trở nên bất khả dụng, bởi phe cộng sản đă chuẩn bị đủ cho chiến trường, từ quốc tế đến quốc nội, với biểu ngữ của đám biểu t́nh phản chiến ở Mỹ đến Dinh Độc Lập ở Sài G̣n.

Withdrawn [Lui]

Cụ thể nơi mặt trận Hạ Lào, quân cộng sản đă bắn không trật một viên đạn ra ngoài các căn cứ hỏa lực. Và sau khi các căn cứ Nhảy Dù ở mặt Bắc bị tràn ngập; Sư Đoàn 1 Bộ Binh phải rút bỏ sau cái gọi là “chiến thắng chiếm đóng Tchépone”; vùng trách nhiệm của TQLC gánh khối nặng c̣n lại của trận chiến vô lư bi thảm này... Lữ đoàn A TQLC với Tiểu Đoàn 2 “Trâu Điên” của Tiểu Đoàn Trưởng, “Robert Lửa” Nguyễn Xuân Phúc trở nên thành tụ điểm tất cả nguồn lửa lớn của chiến trường.

Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Xuân Phúc nói với Đạt, chỉ huy trưởng pháo binh, đơn vị pháo c̣n lại duy nhất của trận địa: “Ông khỏi yểm trợ cho ai nữa, hạ ṇng súng xuống, ‘cua’ nó lên con nào, ông nướng con ấy cho tôi”.

“Cua”, Phúc dùng chữ với ư khinh miệt hơn nghĩa khôi hài để nói về những chiến xa của Bắc quân. Và đến lúc cuối cùng, Phúc hét lớn qua máy truyền tin: “Khỏi cần hỏi lệnh tôi, c̣n bao nhiêu đạn ông cứ chơi hết bấy nhiêu...” Hai Tiểu Đoàn 4 và 7 ở vùng ngoài căn cứ vùng vẫy tuyệt vọng giữa đám kẻ thù say máu như con hổ trọng thương bị loài kên–kên rúc rỉa. Phúc hướng dẫn từng phi tuần từ hạm đội bay vào cứu bạn. Những viên phi công Mỹ dần quen với giọng nói của “Foxtro” (ám danh đàm thoại không–lục của Phúc với phi công Hạm Đội 7), để đến một đêm... Đêm hỏa ngục lật ngược để bày ra trên trần gian nguồn lửa lênh láng hung tàn không hề cạn. Lửa rùng rùng lay động suốt dăy núi rừng ầm vang tiếng nổ. Tiếng nổ của đại pháo, hỏa tiễn bắn từng đợt, từng tràng một lần mười, hai mươi trái, từ bốn, năm vị trí. Trong chuỗi âm động quái dị ấy, súng tay đ́ đẹt nhỏ nhoi như một loại pháo lép và cuối cùng với những đợt bom. Bom ném một lượt từ ba phi tuần phản lực nối cánh nhau như cảnh tượng trong các phim chiến tranh. Phi cơ Mỹ bao vùng suốt từ sáng sớm, Đà Nẵng, Thái Lan, Hạm Đội 7, Guam qua chiều vào đêm, bay đến...

Đêm đến, Bắc quân từ hang ổ, đường thông thủy, giao thông hào, điạ đạo theo xe tăng tấn công lên đồi tiêu diệt Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn A, Tiểu Đoàn 2 Pháo qua hàng rào pḥng thủ của “Trâu Điên”. Và Tiểu Đoàn 2 TQLC quả thật là một con trâu điên đơn độc đương cự giữa bầy sài lang nanh vuốt. Phúc đă theo dơi và thấm hiểu nỗi đau những lần thất thủ của các đơn vị bạn, những Tiểu Đoàn 37 Biệt Động, Tiểu Đoàn 2, 3, Lữ Đoàn III Dù... Hai tiểu đoàn 4, 7/TQLC ngoài căn cứ chỉ c̣n một đường liên lạc qua hệ thống truyền tin của Tiểu Đoàn 2. Phúc hướng dẫn phi cơ Mỹ thả trái sáng để hai đơn vị này lần đường về phía Nam, nơi các Tiểu đoàn 3 và 8 đang đợi “bắt tay”. Bộ chỉ huy lữ đoàn hoàn toàn tê liệt, pháo binh cũng chỉ c̣n những viên đạn cuối cùng, Đạt báo cáo với Phúc... “Tụi nó tràn ngập vị trí, tôi phá súng!”

Và cuộc hỗn chiến trong đêm bắt đầu. Tiếng súng lớn đồng im bặt, tiếng súng nhỏ cũng không c̣n, chỉ âm động của da thịt người bị xé rách, đâm nát, vỡ nhầy dưới xích xe tăng. Trong bóng tối chập chờn tàn lửa, nghi ngút khói của những trận pháo càn từ bao ngày qua, từ giờ trước... Những bóng người nhào vào nhau, t́m đường chạy hoặc cách giết người hiệu quả để được lần sống sót. Phúc hằng tiên liệu rơ t́nh huống tuyệt vọng gớm ghê này, nên anh đă ra lệnh cho toàn đơn vị “tay áo phải xắn cao, tay áo trái thả dài xuống”, làm dấu hiệu nhận bạn giữa đêm tối, vượt nỗi chết. Và từ vũng sâu cảnh địa ngục trần gian kia, người ta nghe rơ tiếng hét lớn lặp lại nhiều lần... “I’m crazy buffalo battalion commander, đ... m... tao ground chief... go ahead, do it please...”

Bầu trời, mặt đất cùng bị vỡ tung, những quả bom chạm nổ ngay khi vừa rời khỏi cánh tàu bay. Phúc nương theo đợt dội bom, hứng đủ trận bom, bảo vệ bộ chỉ huy Lữ đoàn, Tiểu đoàn 2 pháo và đơn vị rút khỏi căn cứ. Trong bản ghi dữ kiện của máy bay, toạ độ Phúc yêu cầu dội bom cũng là toạ độ của Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn A TQLC mà Hạm Đội 7 đă yểm trợ từ bao ngày qua.

Bốn giờ sáng, Phán, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ8 TQLC từ trên đỉnh ngọn Cô–rốc, đỉnh núi cao nhất vùng, nh́n suốt hai bên sườn Đông, Tây Trường Sơn, lắng nghe tiếng nói khẽ, đứt khúc của Phúc... “mầy... mầy thắp đèn cầy (trái sáng), tao dẫn tụi thằng 4, 7 và con cái tao về...”.

Tại cứ điểm 31, binh sĩ QĐNDVN đứng trên đỉnh hầm chỉ huy đă bị đánh sập của Lữ III Dù QLVNCH.

Chín giờ sáng hôm sau, Phán xuống núi, Phúc đang d́u Đại tá Thông bước chập choạng. Giữa đám quân tan tác, Phúc là người nhỏ, thấp, gầy nhất. Nhưng quả t́nh anh là người cao, bền hơn hẳn. Như Người Lính không hề chết. Và nếu họ có mất đi h́nh hài cũng chỉ để Tổ Quốc hằng muôn thuở tồn sinh.

Tổng kết trận Hạ Lào, Trung tá Pháo Binh Nhảy Dù Bùi Đức Lạc nhận xét: “Máu của Người Lính đă đổ xuống Hạ Lào, thịt xương họ không vun trồng màu mỡ quê mẹ mà làm tươi tốt cho đồng, rừng xứ người. Nhưng đau thấm thía, lâu dài hơn khi trận Hạ Lào bị cơ quan truyền thông ngoại quốc che mờ bằng màn khói bại trận, lại được tô son chuốc lục bởi phóng viên người Việt với màu tang trắng quê hương...”

Lam Sơn 719 là cuộc hành quân thiệt hại nặng nhất của Quân Lực VNCH trong cuộc chiến tranh VN: trên 1,500 binh sĩ chết, 6,000 bị thương. Phía Mỹ chỉ yểm trợ về không quân, v́ họ không được tham chiến bằng bộ binh ngoài lănh thổ VN (Quốc Hội Mỹ không cho phép, theo Đạo luật Cooper–Church Amendment). Thiệt hại về phía Mỹ là 215 chết, 1,149 bị thương, và 108 máy bay trực thăng bị bắn rơi.

Hôm nay bốn mươi–bốn năm qua (1971–2015) kể từ buổi binh đao tàn khốc kia, Thắng, Bại; Công, Tội của những bên lâm chiến đă được lịch sử chứng minh. Chỉ riêng Người Lính – Những Người Lính không trở về – Những Người Lính sống sót cùng Nỗi Đau không hề chấm dứt với khổ nạn Quê Hương. Đại tá Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn III Nhảy Dù Nguyễn Văn Thọ là một trong những người lính phẫn hận kia.

Sau lần sống sót dưới cơn băo dữ đạn bom của cả hai phía, Đại tá Nguyễn Văn Thọ, Trung tá Trần Văn Châu, Thiếu tá Trần Văn Đức, các Đại úy Lê Đ́nh Châu, Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Quốc Trụ... thuộc bộ chỉ huy Lữ Đoàn III, Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh ND được lệnh di chuyển ra Bắc với chân trần, trên thân người vết thương c̣n tươi máu. Tại Hà Nội, họ được đưa ra tŕnh diện báo chí (của miền Bắc và khối cộng sản) để làm chứng cứ: Quân đội Mỹ–Ngụy tấn công lănh thổ của nước Lào (gọi là) trung lập. Đồng thời viên cán bộ chính trị cao cấp điều hành buổi họp báo cũng lên tiếng: “Cực lực bác bỏ lời tố cáo của báo chí miền Nam: ‘Cộng sản Bắc Việt xâm lăng miền Nam qua ngă Lào (!)’” Đài phát thanh Hà Nội lớn tiếng rêu rao: “Trận chiến Đường 9 Nam Lào là một đ̣n sấm sét của lực lượng nhân dân yêu chuộng ḥa b́nh của ba nước nước Đông Dương đă đoàn kết chiến đấu, đập tan âm mưu của tập đoàn thực dân mới Mỹ nhằm mưu định chiếm đóng Đông Dương mà ngụy quyền Sài G̣n là tay sai đắc lực nhất.”

Lời cáo buộc được cả thế giới “tin cậy” nên từ Hội Nghị Paris (1968–1973) trở về Hà Nội, bí thư Xuân Thủy được Đức Giáo Hoàng Paul VI tiếp kiến do những nỗ lực gọi là “tái lập ḥa b́nh ở VN” của y ta đại diện cho Hà Nội tại bàn hội nghị. Chưa hết, thế giới lại “rất sáng suốt” trao giải Nobel (gọi là) Ḥa B́nh cho Lê Đức Thọ. Đây cũng là viên bí thư chiến dịch Hồ Chí Minh lần tiến chiếm Sài G̣n (4/1975) với 16 sư đoàn bộ binh cộng sản Bắc Việt như lời than văn của Kissinger, kẻ đồng nhận giải Nobel Ḥa B́nh với Thọ.

Trong chiều hướng “tin cậy đối với cộng sản Bắc Việt”, Hiệp Định Ba Lê kư kết ngày 27 Tháng 1, 1973 đă long trọng xác nhận “Hai bên miền Nam Việt Nam trao trả cho nhau những nhân viên quân sự được bắt giữ...” Với định nghĩa này, toàn bộ các sư đoàn bộ binh, khối lượng vũ khí khổng lồ gồm xe chiến xa, đại pháo của cộng sản miền Bắc nơi mặt trận Hạ Lào đồng được “hóa không” để trở thành “quân đội giải phóng Lào yêu nước” hoặc của “lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam”! Và hệ quả tiếp theo là: “Không có tù binh VNCH nào của mặt trận Đường 9 Nam Lào trong danh sách trao trả theo Nghị Định Thư về Tù Binh của Hiệp Định Paris 1973.”

Văn bản được long trọng kư kết trước cộng đồng thế giới, được 13 nước kư Định Ước Bảo Đảm Thi Hành bao gồm Liên Xô, Trung cộng! Màn dối gạt ngang ngược vô liêm sỉ đối với thế giới tiếp tục hiện thực trong Ngày 30 Tháng 4, 1975 với sự đồng thuận của chính phủ Mỹ. Cuối cùng, chỉ một năm sau, 1976, nhóm người tù miền Nam trong một buổi đi ra Đoàn (Đoàn 776) ở Yên Báy để lănh gạo. Chúng tôi nhận ra người tù Hạ Lào: Đại tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn III Nhảy Dù, Trung tá Trần Ngọc Huế, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2/2/SĐ1BB và nhiều anh em tù binh khác thuộc các binh chủng TQLC, BĐQ, BB, Thiết Kỵ, đông đảo nhất là những Biệt Kích Quân, tổng số của những tù binh VNCH rơi ra ngoài danh sách trao trả theo Hiệp Định Paris. Đại tá Thọ giữ nhiệm vụ chăn nuôi, Trung tá Huế dầm suối chuyển cây gỗ... Chúng tôi đứng nghiêm chào kính: Chào Đại tá! Ông trầm giọng buồn phiền: Các em cố gắng nghe! Vâng, tụi em cố gắng!

Năm 1996, người viết qua Úc, nói chuyện ở Sidney, gặp lại Người Lính Nhảy Dù không mệt mỏi, đến góp tiếng với “thằng em”. Tôi khám phá ra một điều cao thượng bất biến: Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 8; Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn III ND; Tù Binh Hạ Lào; Người già tỵ nạn nơi đất Úc... Tất cả luôn ở trong một t́nh trạng “cố gắng”.

Nhảy Dù Cố Gắng! Đích Thân về cơi Phật b́nh an (*).

Thiếu úy Phan Nhật Nam
Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, KBC 4919

(*) Đích thân: Người Chỉ Huy – Ám danh đàm thoại của các đơn vị tác chiến Nhảy Dù.

hoathienly19
09-17-2024, 08:50
TỬ THỦ ĐẾN CÙNG ( Tống Lê Cha7n tiền đồn quá xa .... )


Để giảm bớt phần nào áp lực vô cùng nặng nề của khoảng 3 sư đoàn địch quanh Tống Lê Chân, vào ngày 23 tháng 7/1974, Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa bay trên 30 phi vụ dội bom vào các vị trí Cộng quân trên trận địa.

Nhưng pḥng không địch rất dầy đặc nên phi cơ oanh tạc không mấy hiệu quả.


Súng pḥng không SAM-2 có khả năng bắn trúng mục tiêu trên không, ngay cả khi ở độ cao 25 km.

- " Đây là những quả đạn tử thần được phóng lên từ mặt đất để diệt máy bay", tạp chí quân sự-kỹ thuật Mỹ thời ấy đă nêu nhận xét



https://danviet.mediacdn.vn/296231569849192448/2021/8/28/1035-16301155358051997268 108.jpg



Ngoài ra, lực lượng địch quá đông nên chúng vẫn không chịu rút lui để tránh thiệt hại mà ngược lại c̣n gia tăng cường độ tấn công để sớm thanh toán mục tiêu.



https://www.youtube.com/watch?v=4hvkLR_0s7w
4hvkLR_0s7w



Trong khoảng thời gian liên tiếp 3 ngày từ 22 đến 24 tháng 3/1974, Cộng quân dùng đủ loại đại pháo 130 ly, hỏa tiễn 122 ly, súng cối 82 ly, v.v. nă hơn 1,000 quả đạn vào tiền đồn Tống Lê Chân nhỏ bé, nơi có khoảng 300 chiến sĩ Tiểu Đoàn 92 BĐQ đang bị vây hăm.


Hỏa tiễn 122 ly bị Sư đoàn 5 bộ binh VNCH "Ngôi sao miền Đông" tịch thu từ quân Giải phóng trong căn cứ Lai Khê (Bình Dương), năm 1968. Photo by Willis F. Marshall.


https://scontent.fyto1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/68409446_29663996967 64263_72757244768792 08448_n.jpg?_nc_cat= 103&ccb=1-7&_nc_sid=13d280&_nc_ohc=Eq2EIqSyyJIQ 7kNvgHJxyGw&_nc_ht=scontent.fyto 1-1.fna&_nc_gid=AxOQvYFXET9Q ksNKbuCY9HI&oh=00_AYD7pI5bmzc-N6EYeeHLyCw73XhcuOPt 0rN9rZj_FcXntw&oe=67109AFA



Tuy phi cơ được gọi đến oanh kích và thả trái sáng yểm trợ, nhưng hỏa lực pḥng không vô cùng dữ dội của Sư Đoàn Pḥng Không 377 địch với các loại :

- Hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7



http://hoiquanphidung.com/pics/SA-7R.jpg


- Đại bác 57 ly, 37 ly và thượng liên đă đan một màn lưới lửa đầy đặc quanh Tống Lê Chân khiến mọi hoạt động của phi cơ đều vô hiệu.



https://image.viettimes.vn/w820/Uploaded/2024/ernccrvnb/2017_04_23/danquan12_2342017.jp g


Bên trong trại, các chiến sĩ Mũ Nâu chỉ c̣n cách co ḿnh chịu pháo.

Nhiều công sự pḥng thủ cũng như vị trí chiến đấu bị hư hại v́ cơn mưa pháo.

Tuy nhiên, Trung Tá Lê Văn Ngôn tuy mới 25 tuổi nhưng dầy dạn kinh nhiệm chiến trường vẫn b́nh tĩnh đôn đốc và ra lệnh cho binh sĩ trực thuộc chuẩn bị phản công sau mỗi đợt pháo kích.

Quả nhiên, liên tiếp trong hai đêm 21 và 22 tháng 3/1974 , sau khi “tiền pháo,” khoảng một trung đoàn bộ binh địch “hậu xung” dữ dội cả bốn phía định san bằng tiền đốn nhỏ bé bị vây hăm đă lâu ngày.

Nhưng Tiểu Đoàn 92 BĐQ bắn trả dữ dội, tuy đạn dược khan hiếm nhưng họ tác xạ rất chính xác, đẩy lui nhiều đợt tấn công biển người.

Có lúc v́ Cộng quân quá đông, các chiến sĩ Mũ Nâu bắn không xuể nên một số đă lọt vào lớp hàng rào pḥng thủ.

Nhiều trận cận chiến bằng lựu đạn diễn ra ác liệt.

Quân trú pḥng được lợi thế v́ trú ẩn trong các hầm hố kiên cố nên đă gây thiệt hại nặng cho địch quân .

Cuối cùng, trước tinh thần chiến đấu dũng mănh và can trường của Tiểu Đoàn 92 BĐQ, địch đành ôm hận rút rui để lại nhiều xác đồng bọn và đủ loại vũ khí.



https://www.youtube.com/watch?v=IjwFBLcM18w
IjwFBLcM18w


Tuy vẫn giữ vững được vị trí nhưng t́nh trạng bên trong căn cứ vô cùng bi đát.

Thương binh mỗi lúc một nhiều thêm v́ không được tản thương.

Đạn dược gần cạn v́ các trận đánh liên tục, lương thực thiếu thốn v́ không được tiếp tế đă nhiều ngày, ngay cả đên nước uống cũng khan hiếm.

Hơn nữa, sau mỗi đợt tấn công bị thất bại, Cộng quân lại điên cuồng pháo kích dữ dội hơn.

Trước t́nh thế nguy ngập như chỉ mành treo chuông, Trung Tá Ngôn biết rơ nếu không được tản thương, tăng viện, yểm trợ và tiếp tế hữu hiệu ngay tức khắc, việc giữ Tống Lê Chân hầu như không thể làm nổi.

Trong lúc đó, biết được t́nh trạng cực kỳ bi đát của quân trú pḥng, Cộng quân chung quanh đồn dùng loa phóng thanh uy hiếp tinh thần và kêu gọi Tiểu Đoàn 92 BĐQ đầu hàng.

Nhưng Trung Tá Ngôn vẫn không rối trí.

Một mặt ông ra lệnh cho các binh sĩ bố pḥng chặt chẽ để nhất định đánh tới người cuối cùng.

Mặt khác, ông gửi công điện khẩn cấp cho Đại Tá Nguyễn Thành Chuẩn, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân tại An Lộc yêu cầu thả dù tiếp tế gấp khí giới, đạn dược và lương thực cho quân trú pḥng.

Trung Tá Ngôn cũng yêu cầu gửi quân tiếp viện và gia tăng sự yểm trợ của phi cơ.

Nhưng các phi cơ dù liều lĩnh cũng không thể nào bay qua được hàng rào pḥng không và quân tiếp viện cũng chẳng bao giờ tới.

Tuy nhiên, dù trong t́nh trạng tuyệt vọng, các chiến sĩ anh dũng của Tiểu Đoàn 92 BĐQ vẫn nhất quyết không hàng địch.

Trung Tá Ngôn c̣n cho biết nếu bị địch tràn ngập, ông sẽ yêu cầu dội bom phá hủy Tống Lê Chân để cùng chết với địch quân.



https://scontent.fyto1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/123800437_8732770801 16620_87768870151358 34604_n.jpg?_nc_cat= 111&ccb=1-7&_nc_sid=f727a1&_nc_ohc=Pa1y61um3WYQ 7kNvgHc3gX1&_nc_ht=scontent.fyto 1-1.fna&_nc_gid=AQRlCtf6Ns9u 3xI2u5LQsCq&oh=00_AYAH6AUrRqqQXR gy7s-8vTg0AW5UXWOHNnWafd6 0TFExtg&oe=6710B98A



Nhận được công điện cầu cứu của Tiểu Đoàn 92 BĐQ, Đại Tá Chuẩn lập tức chuyển lời yêu cầu tiếp viện lên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3.

Nhưng Tướng Thuần cho biết vẫn chưa nhận được chỉ thị nào của Bộ Tổng Tham Mưu về đề nghị tăng viện hay di tản căn cứ.

Trong lúc Tống Lê Chân như ngọn đèn leo lét trước trận cuồng phong, có thể bị tràn ngập bất cứ lúc nào, nhưng lệnh trên vẫn là “ chờ !”


https://www.youtube.com/watch?v=iGUXfmvafLo
iGUXfmvafLo



Cho tới giờ phút này, quân số tại Tống Lê Chân gồm có 254 Biệt Động Quân, 4 binh sĩ Pháo Binh, 12 lao công chiến trường và 7 nhân viên phi hành đoàn trực thăng bị bắn rơi.

Tuy tổng cộng gần 300 nhân mạng nhưng thật sự hầu hết trong số này đă bị thương ít nhất một lần.

Hơn nữa, bị vây hăm lâu ngày trong t́nh trạng thiếu thốn nên khả năng chiến đấu đă bị yếu đi rất nhiều.


https://www.youtube.com/watch?v=HdCKhgm0bko
HdCKhgm0bko


Về phía Cộng quân, tuy đă bị thiệt hại rất nặng nhưng lại được tăng viện và bổ xung nhanh chóng từ các an toàn khu bên Cam Bốt nên sức mạnh coi như không suy giảm.

Trong lúc chỉnh đốn hàng ngũ, địch ngơi tấn công nhưng vẫn pháo kích dữ dội.


Phần lớn những vũ khí quân sự và trang thiết bị hiện đại nhất đều được Liên Xô cung cấp trong những năm không quân Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại Việt Nam.



https://danviet.mediacdn.vn/296231569849192448/2021/8/28/1032-16301155356898845683 27.jpg


Rút kinh nghiệm những trận tấn công trước đă bị thất bại chua cay, Cộng quân biết tuy Tiểu Đoàn 92 BĐQ sẽ chiến đấu cho đến phút chót nhưng như cá nằm trong rọ nên chúng thong thả nghỉ ngơi dưỡng quân, cố ư để quân trú pḥng kiệt quệ tới mức tối đa mới tấn công dứt điểm để đỡ bị thiệt hại.

Và chuyện phải đến đă đến !


https://blogger.googleuserco ntent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh8-Z_CHYoSeNzoVQbG4J8ik 2tA4vVbPohHoelyAbQCm 6dj0tlk1VrS_tS4acjR3 Wz6nDsQarFIlJbYsKsy1 lCbJdINajohtpYD38pjl 6a72DlkJW52hDsAEHJiC ejm3lYvo6cw5LXMFLk/s1600/15-year-old-NVA.jpg

hoathienly19
09-21-2024, 04:57
NHỮNG ĐỢT CƯỜNG TẬP LIÊN TIẾP


https://www.youtube.com/watch?v=kJcXl4DZsrM
kJcXl4DZsrM


Ṛng ră trong các đêm 24, 25 và 26/3/74, Cộng quân sau khi bổ xung đầy đủ đă ĺên tiếp mở những đợt xung phong biển người ồ ạt quyết san bằng Tống Lê Chân.

Tuy đă gần kiệt sức, các chiến sĩ Mũ Nâu vẫn cắn răng chờ địch trong những giao thông hào đổ nát v́ đạn pháo kích.

Trung tá Ngôn và các cấp chỉ huy cũng sát cánh trong các công sự pḥng thủ với thuộc cấp, ra lệnh phải tiết kiệm từng viên đạn, chỉ được bắn khi thật “chắc ăn” .

Giá của mỗi viên đạn phải là một quân thù.

Rồi hàng hàng lớp lớp Cộng Quân tràn tới giữa tiếng ḥ la man dại “hàng sống, chống chết”!

Đúng lúc này, các chiến sĩ BĐQ mới cắn răng xiết chặt c̣ súng.

Địch đă xâm nhập hàng rào kẽm gai pḥng thủ ngoài cùng, nhưng lập tức bị khựng lại v́ gắp phải bức tường lửa từ trong bắn ra rất chính xác.

Xác địch chồng chất trên trận địa hay vất vưởng trên hàng rào kẽm gai. Nhưng địch quá đông, nhất định “dứt điểm” nên chúng vẫn liều lĩnh xung phong.

Chẳng bao lâu, chúng tràn tới hàng rào thứ hai. Lúc này một loạt ḿn “Claymore” nổ tung khiến nhiều xác giặc tan thành mảnh vụn.

Tiếng súng nổ, tiếng la hét cùng với mùi thịt, mùi máu, mùi thuốc súng tạo nên một khung cảnh khủng khiếp.


Nhiều chiến sĩ BĐQ quá mệt mỏi và căng thẳng gần như ngất xỉu v́ những trận tấn công liên tiếp đêm này qua đêm khác nhưng vẫn không rời tay súng.


https://imagizer.imageshack. com/v2/453x318q70/r/921/SSfWrV.jpg



Địch quân quá đông, lớp này chết, lớp khác đạp lên xác đồng bạn tiến tới.

Trong đêm tối, phi cơ không thể yểm trợ hỏa lực; dù có ban ngày đi nữa cũng khó bay qua màng lưới pḥng không.

Trên bầu trời đen kịt, chỉ có vài đóm hỏa châu do phi cơ bay thật cao thả xuống, không đủ soi sánh trận địa, trông leo lét và mong manh như số phận của gần 300 chiến sĩ đang tử chiến với quân thù.

Địch đă tràn gần tới hàng rào pḥng thủ sau cùng, đôi bên giáp mặt.

Các chiến sĩ Mũ Nâu buông những cây súng đỏ ṇng, với tay t́m lựu đạn.

Nhiều tiếng nổ chát chúa giúp hàng loạt những con thiêu thân thực hiện lời thề “sinh Bắc tử Nam”.

Lại một loạt lựu đạn thứ hai tung ra giết hết những tên địch c̣n sống sót trong đợt xung phong này.

Bên ngoài hàng rào, không c̣n những bóng người đầu đội nón cối, chân đi dép râu di động như trước.

Sau đó, mặt trận bỗng nhiên im bặt không c̣n những tiếng la hét hô xung phong man dại.

Những tên địch ngoài xa may mắn c̣n sống sót biết không thể xâm nhập căn cứ nên vội vă lẩn vào bóng đêm.

Đợt xung phong cuối cùng của địch đă bị chận đứng tuy chúng đă lọt được gần tới hàng rào pḥng thủ sau cùng.



https://imagizer.imageshack. com/v2/343x318q70/r/922/p3UNT0.jpg


Một lần nữa, Cộng Quân tuy đông hơn nhưng lại bị thất bại chua cay trước sự quả cảm và tinh thần chiến đấu gan dạ vô song của các chiến sĩ TĐ 92 BĐQ.

Cùng với lời nguyền “Thà chết không hàng giặc” , căn cứ Tống Lê Chân tuy tan nát như TĐ 92 đang tan nát, nhưng vẫn đứng vững như một phép lạ.

Vỏn vẹn một Tiểu Đoàn QLVNCH vẫn giữ vững được vị trí sau khi bị bao vây hàng năm trời với nhiều đột tấn công của hàng Sư Đoàn địch ?


https://www.youtube.com/watch?v=9KrYc0wZXOk
9KrYc0wZXOk



Các “cố vấn” [i]]Hoa Kỳ c̣n sót lại tại BTL/QĐ III đă vô cùng kinh ngạc.

Trước đây họ đă cho rằng :

- " Số phận của Tống Lê Chân coi như đă [i]“xong” , v́ theo ước tính của những người lạc quan nhất, ngay cả quân đội Hoa Kỳ với hỏa lực khủng khiếp của thảm bom“Arc Light” B-52 và đại pháo 175 " cũng khó ḷng giữ nổi Tống Lê Chân trong ṿng vài ba tuần.



https://www.youtube.com/watch?v=jKWm9E_XfOc
jKWm9E_XfOc


Phía Công quân lại càng sững sờ v́ chúng tưởng sẽ ăn tươi miếng mồi béo bở nhưng lại gặp phải cục xương khó nuốt.

Sau nhiều cuộc tấn công thất bại và bị thiệt hại nặng nề, chúng đành ôm hận , lập lại sa bàn trận địa, bổ sung quân số, rút ưu khuyết điểm chờ ngày rửa hận.



https://www.youtube.com/watch?v=_QZ0CiTljdg
_QZ0CiTljdg


Trong những ngày kế tiếp và suốt tuần lễ đầu tiên của tháng 4/74,Cộng Quân không dám tấn công mạnh vào Tống Lê Chân.

Chúng chỉ dùng đặc công quấy rối nhưng mức độ pháo kích vẫn không giảm.

Nhưng “mănh hổ nan địch quần hồ” , các chiến sĩ Mũ Nâu đă không c̣n sức chiến đấu.


Liên Xô , Trung Cộng đă viện trợ rất nhiều vũ khi hiện đại miền Bắc XHCN để chiếm VNCH 30/4/1975


https://danviet.mediacdn.vn/thumb_w/650/296231569849192448/2022/6/30/vu-khi-01-16565852445051996446 809.jpg


Việt Nam Cộng Ḥa không c̣n được Mỹ yểm trợ hỏa lực sau 1973



https://ichef.bbci.co.uk/ace/ws/800/cpsprodpb/872D/production/_106650643_gettyimag es-56227212.jpg.webp




Đến lúc này, thượng cấp vẫn chưa có quyết định dứt khoát về việc tăng viện hay rút bỏ Tống Lê Chân.

Cả Phủ Tổng Thống, Bộ TTM lẫn BTL/QĐ III đều lâm vào thế “tiến thối lưỡng nan” không có cách nào giải quyết vấn đề.

Sau 17 tháng trời ṛng ră bị vây hăm, pháo kích và tấn công liên miên TĐ 92 BĐQ hầu như không c̣n phương cách nào để thoát khỏi viễn ảnh bị tiêu diệt.


https://www.youtube.com/watch?v=jYaAAxRBouU
jYaAAxRBouU

hoathienly19
09-22-2024, 06:59
TRẬN ĐÁNH SAU CÙNG CỦA TIỂU ĐOÀN 92 BĐQ



https://nhayduwdc.org/bv/bdq/hk/2020/vitoilaCB_2.jpg



Nhưng t́nh trạng tạm thời sống lây lất không c̣n kéo dài được bao lâu. Tống Lê Chân như một con cá phơi ḿnh trên thớt không c̣n phương cách tự vệ, nằm chờ lưỡi dao chém xuống.Và lưỡi dao đă rơi.

Ngày 11 tháng 4/1974, sau khi tái điều nghiên, bổ xung lực lượng, Cộng quân mở những cuộc tấn công ác liệt quyết đạt được chiến thắng bằng mọi giá.

Trong ngày chúng pháo kích mù mịt không dưới 1,000 quả đạn vào căn cứ đă tan nát trong các cuộc tấn công trước.



https://ongvove.wordpress.co m/wp-content/uploads/2009/09/trandocam_4-3.gif?w=620


Tiểu Đoàn 92 BĐQ lúc này đă kiệt lực, hết đạn, một số lớn binh sĩ lại bị thương nên không c̣n sức chống trả những đột tấn công mănh liệt của đối phương.

Nhưng dù t́nh thế đă đến lúc tuyệt vọng nhưng Trung Tá Ngôn vẫn không ra lệnh rời bỏ căn cứ khi chưa có lệnh của thượng cấp.

Trước những loạt đạn pháo kích chính xác và các đợt tấn công biển người, vị tiểu đoàn trưởng anh hùng biết chắc không thể nào pḥng thủ được nữa nên khẩn cấp yêu cầu thượng cấp cho lệnh di tản trước khi căn cứ bị địch quân tràn ngập.

Trung Tướng Thuần không rơ có tham khảo ư kiến của Bộ Tổng Tham Mưu hay Phủ Tổng Thống hay không, đă ra lệnh cho Trung Tá Ngôn phải :

- “ Tử thủ bằng mọi giá !”



https://i.servimg.com/u/f68/15/48/13/84/n130mm10.jpg



Nhưng Tiểu Đoàn 92 BĐQ sau hơn một năm trời bị vây hăm, bị pháo kích và tấn công liên miên bởi một lực lương địch quân đầy đủvũ khí và đông hơn nhiều lần, lại thiếu đạn dược, lương thực, quân số hao hụt không được bổ xung nên đă chẳng c̣n giá nào để trả !



https://imagizer.imageshack. com/v2/318x318q70/r/921/o71jBI.jpg



Các chiến sĩ Mũ Nâu không c̣n nhiều chọn lựa :

- Ở lại căn cứ chắc chắn sẽ bị chết hay bị bắt hết v́ không c̣n cách nào ngăn chận địch quân hoặc đầu hàng để t́m con đường sống.

Nhưng theo truyền thống hào hùng của binh chủng Mũ Nâu, dù trong lúc thập tử nhất sinh cũng vẫn không hàng địch.



https://www.youtube.com/watch?v=XaUvRaj4Wz4
XaUvRaj4Wz4



Trung Tá Ngôn đă đưa ra một quyết định vô cùng táo bạo :

- " Dùng toàn lực phá ṿng vây, rời bỏ căn cứ, tuy có thể bị chết hết nhưng may ra sẽ đưa đơn vị tới một nơi an toàn."


Sinh viên sĩ quan Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt Lê Văn Ngôn năm 1965. (H́nh: tvbqgvn.org)



https://hung-viet.org/images/file/nkGqydJh1ggBAO00/w535/sinh-vien-si-quan-truong-vo-bi-quoc-gia-da-lat-le-van-ngon-nam-1965-hinh-tvbqgvn-org-.jpg



Sau khi quyết định xong, vào khoảng nửa đêm 11 tháng 4, căn cứ Tống Lê Chân báo cáo nguy cơ sắp bị địch quân tràn ngập.

Sau đó, mọi giấy tờ, tài liệu quan trọng đă được thiêu hủy đúng theo kế hoạch di tản để không bị lọt vào tay địch.

Lúc dó, chỉ có phi cơ bay thật cao thả hỏa châu yểm trợ.

Tiểu Đoàn 92 BĐQ yêu cầu :

- " Phi cơ ngưng thả trái sáng để đơn vị nương theo bóng tối rời bỏ căn cứ."



https://i.servimg.com/u/f38/15/48/13/84/tlc_tr11.jpg



Dưới sự chỉ huy gan dạ của vị tiểu đoàn trưởng trẻ tuổi và tinh thần kỷ luật của toàn thể binh sĩ, Tiểu Đoàn 92 BĐQ đă di tản trong ṿng trật tự, mang theo tất cả những thương binh.

Liên lạc vô tuyến với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 bị gián đoạn ngay sau đó.



https://i.servimg.com/u/f68/15/48/13/84/bdq_an10.jpg



Măi tới 9 giờ sáng ngày hôm sau 12 tháng 4, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 mới bắt được liên lạc với Tiểu Đoàn 92 BĐQ trên tần số hành quân lúc đó đă rời khỏi Tống Lê Chân đang trên đường di chuyển về hướng An Lộc, khoảng trên 15 cây số về hướng Đông Bắc.

Cuộc hành tŕnh xuyên qua rừng rậm dưới sự ŕnh rập của Cộng quân, lại phải mang theo nhiều thương binh nên vô cùng gian nan vất vả.

Suốt đêm, Tiểu Đoàn 92 BĐQ phải kịch chiến với địch, vừa đánh vừa t́m đường rút lui khiến thêm 14 binh sĩ tử thương, 34 người nữa bị thương.



https://www.youtube.com/watch?v=o0QGutGx0d8
o0QGutGx0d8


Cuối cùng, may mắn như một phép lạ, Tiểu Đoàn 92 BĐQ tới được An Lộc tương đối an toàn, chỉ có thêm 4 chiến sĩ can đảm ở lại chận đường truy kích của địch quân để thành phần chủ lực rút lui anh dũng hy sinh.

Tất cả các thương binh, kể cả xác chết của những người bị thiệt mạng đều được mang về.

https://www.youtube.com/watch?v=tA2J9S0NZrQ
tA2J9S0NZrQ

hoathienly19
09-24-2024, 23:30
CUỘC LUI BINH THẦN T̀NH



Căn cứ A - 334 Tống Lê Chân


https://live.staticflickr.co m/7417/12689935035_a195d77b 28_b.jpg




Sau gần một năn rưỡi trời giữa ṿng vây trùng điệp, lại bị tấn công liên miên, đương nhiên Tiểu Đoàn 92 BĐQ phải kiệt sức.

Cho tới khi t́nh trạng tuyệt vọng, đơn vị chỉ c̣n đường rút lui để bảo toàn lực lượng nhưng cũng không quên dùng chất nổ phá hủy doanh trại, không để lọt vào tay Cộng quân.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1570657528-td3.png


Sau đó, tuy bị truy kích, nhưng các con Cọp Rừng Mũ Nâu đă về được tới An Lộc với tổn thất nhẹ không ngờ :

Trong số 277 binh sĩ gồm nhiều thương binh, một số lớn đă về được An Lộc.

Đây là một thành quả quá sức mong đợi cho một cuộc hành quân lui binh sâu trong ḷng địch.



https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1501777433-bdq92%20copy.jpg



Với tài chỉ huy khôn khéo, tinh thần kỷ luật và sức chiến đấu bền bỉ gan dạ, các chiến Tiểu Đoàn 92 BĐQ đă làm nhiều người ngạc nhiên và thán phục khi rút quân thành công trong một hoàn cảnh vô cùng khó khăn, bi đát.

Cuộc lui quân thành công ngoài sức tưởng tượng này đă khiến dư luận phía Hoa Kỳ nghi ngờ rằng Tiểu Đoàn 92 BĐQ đă “thương lượng” với Cộng quân, bằng ḷng bàn giao căn cứ Tống Lê Chân để đổi lấy việc rút lui an toàn.

Quả thật, việc Tiểu Đoàn 92 BĐQ phá được ṿng vây về được đến An Lộc phải coi như một phép lạ nên “dư luận” thương thuyết không phải là không có lư.

Vả lại, đây cũng là một trong ba giải pháp mà Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 đă đề nghị lên thượng cấp cách đó không lâu.

Ngoài ra, rất có thể những lời đồn đại nói trên là do Cộng quân tung ra để đỡ bị mất mặt v́ Tiểu Đoàn 92 BĐQ đă vượt khỏi ṿng vây như chỗ không người.


Ta Biệt Động quân nung rèn chí trai

Khí phách hiên ngang diệt thù xây tương lai.



https://baotreonline.com/tre_assets/uploads/2021/02/tong-le-chan-giot-nuoc-mat-kho1.jpg



Thật sự, Tiểu Đoàn 92 BĐQ đă chỉ giết giặc chứ không bao giờ thương lượng với chúng và cuộc rút lui thành công v́ tinh thần kỷ luật cũng như khả năng chiến đấu tuyệt vời của các chiến sĩ Mũ Nâu.

Bằng cớ xác thực nhất là chính những tài liệu bắt được sau đó tại mặt trận cùng những lời khai của tù hàng binh Cộng quân đă cho thấy không hề có chuyện “thương lượng.”

Một hồi chánh viên tham dự trận đánh sau cùng vào đêm 12 tháng 4 tại Tống Lê Chân đă thuật lại khá chi tiết về biến cố này.





https://scontent.fyto1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/37849329_21589487676 82593_41945411680940 8512_n.jpg?_nc_cat=1 04&ccb=1-7&_nc_sid=13d280&_nc_ohc=EsPnpTB0W_gQ 7kNvgFrZi8Z&_nc_ht=scontent.fyto 1-1.fna&oh=00_AYDCuWt2Q-UvEtFjSG6FReEXZFX5lg f8sRcij7pJyO6bOA&oe=671A9C6D



Sau trận pháo kích dữ dội, bộ binh địch có chiến xa yểm trợ đă mở các cuộc tấn công mạnh.

Tiểu Đoàn 92 BĐQ không c̣n đạn dược và nhất là không có vũ khí chống chiến xa nên bắt buộc phải rời bỏ vị trí.

Tống Lê Chân bị bỏ ngỏ từ đêm 12 tháng 4 nhưng v́ hàng rào pḥng thủ quá kiên cố, lại có nhiều băi ḿn, hơn nữa Cộng quân sợ Tiểu Đoàn 92 BĐQ c̣n tử thủ sẽ gây cho chúng nhiều thiệt hại như những lần trước nên măi tới ngày 13 tháng 4 chúng mới vào được trại.

Lúc đó, các chiến sĩ Mũ Nâu đă rời xa căn cứ trên đường về An Lộc.



https://scontent.fyto1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/31925167_20960859273 02211_84744085616721 92_n.jpg?_nc_cat=102&ccb=1-7&_nc_sid=13d280&_nc_ohc=2JwZfGmAXn0Q 7kNvgHjRnwH&_nc_ht=scontent.fyto 1-2.fna&_nc_gid=AVzum9R7LLU5 4Zb8xbrf__h&oh=00_AYAmIzM01SH4V6 7xEhMgBeUtHRcxwx-YlY8Cik23wC2MMw&oe=671A90CA



Tống Lê Chân đă bị đặt chất nổ phá hủy.

Địch chỉ t́m thấy xác của 2 Biệt Động Quân và bắt sống một người khác.

Một bằng chứng rơ ràng khác là bản báo cáo của Cộng quân bị Quân Lực VNCVH tịch thu.

Tài liệu này tiết lộ :

Một đơn vị Cộng quân có nhiệm vụ chận đường rút lui của Tiểu Đoàn 92 BĐQ đă bất tuân thượng lệnh, không bố trí quân tại những vị trí đă ấn định v́ sợ bị phi pháo Việt Nam Cộng Ḥa tiêu diệt.


http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2024/08/N%E1%BB%97i-s%E1%BB%A3-h%C3%A3i-t%C3%A9-%C4%91%C3%A1i-29.08.2024-696x587.jpg



Cuối cùng, bản báo cáo c̣n đưa ra nhận xét rằng :

- " Trong trận đánh tại Tống Lê Chân, tinh thần binh sĩ Tiểu Đoàn 92 BĐQ rất cao, c̣n cao hơn cả nhiều đơn vị chính qui của Cộng quân có nhiệm vụ tấn công.



ĐƯỜNG VÀO LỊCH SỬ



Trận đánh tại Tống Lê Chân chính thức chấm dứt vào ngày 15 tháng 4 năm 1974 khi binh sĩ cuối cùng của Tiểu Đoàn 92 BĐQ về tới An Lộc.

Trước đó, vào ngày 13/4, phi cơ của Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa đă bay 19 phi vụ thả bom đánh vào lực lượng Cộng quân tại Tống Lê Chân.



https://www.youtube.com/watch?v=KMyMyJPAVCo
KMyMyJPAVCo


Tuy trận đánh đă chấm dứt từ lâu, nhưng qua cuộc bao vây dài nhất trong quân sử và cuộc lui binh thành công mỹ măn, huyền thoại của Tiểu Đoàn 92 BĐQ tại Tống Lê Chân vẫn sống măi.


Các chiến sĩ Mũ Nâu dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Văn Ngôn đă tô đậm một nét son cho truyền thống hào hùng của binh chủng Biệt Động Quân và viết một trang sử huy hoàng trong pho quân sử Quân Lực VNCH.



https://scontent.fyto1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/123800437_8732770801 16620_87768870151358 34604_n.jpg?_nc_cat= 111&ccb=1-7&_nc_sid=f727a1&_nc_ohc=rG4uJaPKoU4Q 7kNvgGrZycV&_nc_ht=scontent.fyto 1-1.fna&oh=00_AYC5Of8gjkCQLZ YJFyH7M6cFKOOTKpwy7C LV-_LuaHsOkg&oe=671AD50A


Trần Đỗ Cẩm


https://www.youtube.com/watch?v=_-qZZQxS3Qc
_-qZZQxS3Qc

hoathienly19
10-02-2024, 09:46
PHI VỤ CẢM TỬ TỐNG LÊ CHÂN



https://www.youtube.com/watch?v=KMyMyJPAVCo
KMyMyJPAVCo



https://hung-viet.org/images/file/LaiwKTZj0wgBANo8/tructhangquandoivnch 1.jpg

hoathienly19
10-05-2024, 08:43
BIỆT ĐỘNG QUÂN QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A


https://blogger.googleuserco ntent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhuO_EqF7L5WV1_ DJBYi1bKqarLsnhrzCn6 e_FpGXC6hOQpXCJHrpFm Xyz0hpbfZlpvrpMjC37x 1U8zCv4hR-lhmB4XKkn1qd5Ej-4UrEe4n6_X6lG98_bnGe fV6hQ32mgMDMjjn0XQ1M B2/s1280/Vietnamese_Rangers_F lag.svg.png


I- NGUỒN GỐC VÀ H̀NH THÀNH CÁC ĐƠN VỊ RANGER (COMMANDO)

Từ buổi sơ khai, sau khi h́nh thành các bộ lạc trên địa cầu, các tộc trưởng hiếu chiến, tham vọng mở rộng vùng ảnh hưởng gây ra cảnh chém giết nhau.

Những bộ lạc nhỏ yếu bị tàn sát, bị lấn áp, bị bắt làm nô lệ đa số là đàn bà con nít.

Đàn ông trai trẻ thoát chết, chạy trốn vào rừng núi rậm rạp t́m cách phục thù.

Họ ngấm ngầm từng toán nhỏ bất chợt xâm nhập giải thoát thân nhân và săn t́m cơ hội phục kích giêt kẻ thù, rồi tẩu thoát.

Khái niệm về Ranger được rơ nét hơn kể từ thế kỷ 13 tại Anh, sau đó ở Nam Phi và Bắc Mỹ vào thế kỷ 17.

Tại Bắc Mỹ, cuộc chiến giữa chính quyền bảo hộ và các bộ lạc da đỏ bản địa rất ác liệt.

Dù trang bị thô sơ nhưng chiến binh da đỏ, như những bóng ma, tập kích các đồn hẻo lánh, các toán quân biên pḥng của chính quyền bảo hộ.

Để đáp ứng nhu cầu an ninh, b́nh định, năm 1676 quan niệm Ranger ra đời :

Ranger phải là các phần tử chuyên nghiệp, tổ chức thành toán nhỏ gồm các thành viên da trắng, và da mầu bản địa, bạn hữu, trực thuộc chính quyền địa phương hoạt động ở tuyến đầu, sưu tầm tin tức, báo động sớm các hoạt động của địch đồng thời là đơn vị tiền sát, hướng đạo về dân t́nh, mục tiêu cho lực lượng đặc nhiệm, hoặc quân đội của chính phủ trong mọi cuộc hành quân.

Đến năm 1940, Commandos và Rangers được tổ chức thành đại đội kể cả một số independent companies cuả Anh và Úc biến cải thành Commandos.

Tới năm 1943, quân đội Anh có :

- 4 Bristist commando Brigades

Mỹ có :

- 6 US Rangers battalions.



https://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2021/05/3119c7be2ab58173062c 39c6b8c72ed7_XL.jpeg



Xuyên suốt thế chiến II (1939-1945) các lực lượng Commandos và Rangers tăng phái cho các đại đơn vị Đồng Minh ở chiến trường Châu Âu, vùng Địa Trung Hải, cũng như tại mặt trận Thái b́nh Dương với sứ mạng đặc biệt :

- Đột kích

- Phá huỷ các cơ sở Tiếp vận, các cứ điểm trọng yếu, phục kích các đoàn xe, hỏa xa v.v. của phe trục Đức-Ư- Nhật.

Sau thế chiến thứ II, các đơn vị Commandos và Rangers được giải thể.

Tuy nhiên, khi có chiến tranh như cuộc chiến Triều Tiên, các đơn vị này lại được tái thành lập, khi chiến tranh chấm dứt lại giải thể, nhưng vẫn duy tŕ các khóa huấn luyện Commando và Ranger cho các sĩ quan, và hạ sĩ quan cho tới ngày nay.



https://linhvnch.wordpress.c om/wp-content/uploads/2016/08/bietdongquan.jpg


II- BIỆT ĐỘNG QUÂN VIỆT NAM


THÀNH LẬP CÁC ĐẠI ĐỘI BIỆT ĐỘNG QUÂN

Ngày 26 tháng 10 năm 1955, cuộc trưng cấu dân ư với kết quả trên 90% phiếu tín nhiệm Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm giữ chức Tổng Thống thay thế Quốc Trưởng Bảo Đại.

Nền Đệ Nhất Cộng Hoà ra đời, quân đội Viễn chinh Pháp rút khỏi miền nam Việt nam, trao lại quyền độc lập hoàn toàn cho Việt Nam.



https://www.youtube.com/watch?v=6xZG2lAMnTc
6xZG2lAMnTc


Ngày 16 tháng 2 năm 1960, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm chỉ thị cho các Tư Lệnh Sư đoàn và Quân Khu thành lập các đại đội Biệt Động Quân, tuyển chọn từ các sư đoàn bộ binh, lực lượng pḥng vệ dân sự (Bảo an đoàn), và các quân nhân giải ngũ.

Tiêu chuẩn chọn lựa, theo ư Tổng Thống Diệm, phải là các đơn vị bộ binh giỏi nhất, những cá nhân thật ưu tú t́nh nguyện.

- Mười lăm (15) đại đội được thành h́nh vào đầu tháng 3 năm 1960.

- Ba mươi hai (32) đại đội sau đó trực thuộc các Quân khu.

- Mười tám(18) đại đội thuộc các Sư Đoàn.

Tất cả được trang bị quần áo bà ba đen, vũ khí gọn nhẹ, hành quân độc lập theo lệnh của Tiểu Khu và Sư đoàn, đă gặt hái nhiều thành quả tốt đẹp trong các cuộc tiểu trừ du kích cộng sản.

Họ được xếp vào các đơn vị chiến đấu dũng cảm, bách chiến bách thắng, gây cho du kích cộng sản hoảng viá cao chạy xa bay mỗi khi chạm súng với Biệt Động Quân


https://www.youtube.com/watch?v=rjxbKIiMFko
rjxbKIiMFko

hoathienly19
10-05-2024, 20:32
THÀNH LẬP TRUNG TÂM HUẤN LUYỆN BĐQ ĐÀ NẴNG VÀ SÔNG MAO


Trung tuần tháng 4 năm 1960, trong cuộc thăm viếng trường Biệt Động Đội Đồng Đế (sau đổi tên là TTHL Biệt Động Quân Nha Trang), Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm rất hài ḷng cách thức huấn luyện và thực tập do một số sĩ quan Huấn luyện viên tốt nghiệp khoá Ranger tại Fort Benning, Georgia, Hoa Kỳ, về áp dụng.

Trở về Sàigon, ông liền chỉ thị cho Bộ Tổng Tham Mưu/ QLVNCH thành lập 2 TTHL/ BĐQ;

- Một tại Đà Nẵng để huấn luyện cho Sĩ quan và Hạ sĩ quan thuộc Quân Đoàn I

- Một tại Sông Mao huấn luyện cho Sĩ quan, Hạ sĩ quan thuộc Quân Đoàn III, và Quân Đoàn IV.



https://www.youtube.com/watch?v=DIrmxuEa6fU
DIrmxuEa6fU


Bộ TTM/ QLVNCH yêu cầu phái bộ Viện trợ Mỹ (Military assistance Advisory group) giúp đỡ tổ chức các toán huấn luyện viên hỗn hợp cho 2 TTHL này.

Vào trung tuần tháng 5 năm1960, Liên đoàn 77 Special Forces đến Việt Nam chia làm hai toán, một toán tới Đà Nẵng và một toán tới Sông Mao.

Cũng trong thời gian này, các sĩ quan Việt Nam tốt nghiệp khoá bộ binh cao cấp (IOAC), và các sĩ quan tốt nghiệp khoá Đại đội trưởng (ACO) tại trường Fort Benning, Georgia, Hoa Kỳ, hồi hương về tŕnh diện Ban Quân Huấn (sau này thành Tổng Cục Quân Huấn) thuộc pḥng Bộ 3 TTM, được phân phối về TTHL/ BĐQ Sông Mao.

Các Đại uư :

- Đỗ văn Sáu

- Hồ văn Phước

- Trần công Liễu

- Đào vĩnh Thi

- Trần hữu Toán

- Nguyễn Ni Văn

Các Trung uư :

- Ngô Minh Hồng

- Quan Minh Tống

- Nguyễn Văn Sảo, và Phan Văn Cẩm.

Về TTHL/ BĐQ Đà Nẵng, gồm các Đại uư :

- Nguyễn Văn Đại (trưởng toán)

- Trần Văn Hai

- Vơ Công Trí

- Nguyễn Hoành Bảo

- Cao Quốc Điền

- Trần đ́nh Nại

- Cao Văn Chơn

Các Trung uư :

- Nguyễn Kim Biên

- Phạm Quang Vân

- Nguyễn Văn Vy và Hoàng Tôn Oai.

Về phía các huấn luyện viên Mỹ thuộc Team A 7th Special task Forces tại TTHL/ BĐQ Đà Nẵng gồm có :

- Thiếu tá Slade (trưởng toán), cùng các Đại uư :

- Kaiser

- Grimmett

- Yohmes

- Snyder

Trung uư Wynn

Thượng sĩ Gray, Schocomaker, Yones và Trung sĩ Y Tá Fouler.

Riêng tên các huấn luyện viên Mỹ ở TTHL/ BĐQ Sông Mao không được rơ.


https://www.youtube.com/watch?v=ejtvcdh3IJ4
ejtvcdh3IJ4


Ban Chỉ Huy TTHL/BĐQ Đà Nẵng :

- Thiếu tá Chương Phát Dưỡng, Chỉ Huy Trưởng, một Thiếu uư phụ trách Tiếp Liệu, Tiếp Vận, một Thiếu uư phụ trách ẩm thực cho khóa sinh, canh gác, tạp dịch và một Trung đội Bộ binh.

Tất cả thuộc Sư đoàn 2 Bộ binh biệt phái.

Cả hai TTHL/ BĐQ Đà Nẵng và Sông Mao đồng thành lập vào thượng tuần tháng 5 năm 1960.

Ở đây chỉ đề cập tới TTHL/ BĐQ Đà Nẵng làm điển h́nh.

Ngày 25 tháng 5 năm 1960, Thiếu tá Chương Phát Dưỡng giới thiệu hai toán huấn luyện viên Mỹ Việt, sau đó huấn luyện viên Việt nam cùng ngồi chung xe jeep của HLV Mỹ về cư xá sĩ quan Đà Nẵng nơi cư ngụ cuả SQ/ HLV Việt Nam.

HLV Mỹ về cư xá phái bộ cố vấn Mỹ ở cuối đường Độc Lập cạnh sông Hàn.

Sau đó mỗi buổi sáng, HLV Mỹ tới đưa HLV Việt nam vào TTHL (toạ lạc tại doanh trại của Bảo An Đoàn cũ, phía tây nam phi trường Đà Nẵng, kế cận Quốc lộ 1 và xă Phưóc tường, Hoà Cầm).

Công việc cấp bách của HLV Việt-Mỹ là thám sát điạ điểm huấn luyện, tổ chức các băi tập tại đèo Đại La, núi Ba Ra vùng Hoà Cầm, ven sông vùng Hà Thanh, Nam Ô…, cũng như dịch tài liệu, soạn phiếu huấn luyện, chuẩn bị trợ huấn cụ.

Trong thời hạn 15 ngày, tất cả các phương tiện, tài liệu, vật liệu, văn pḥng phẩm, và phương tiện di chuyển đều do team A 7th special Task Forces cung cấp.

Riêng xe cộ chuyển vận khoá sinh do Đại đội Vận tải Sư đoàn 2 BB cung cấp bất cứ lúc nào.

Ngày 10 tháng 6 năm 1960, các khóa sinh đến tŕnh diện chỉ phải đóng 6 tuần tiền ăn theo tiêu chuẩn b́nh thường.

Tuy vậy suốt thời gian thụ huấn, khoá sinh đuợc hưởng chế độ ăn uống cao và khẩu phần phụ trội sáng, trưa, chiều, mà không phải trả thêm một đồng nào.

Khoá sinh được trang bị đầy đủ quân trang, quân dụng, vũ khí như một quân nhân tác chiến.



https://nhayduwdc.org/ls/qlvnch/bdq/tthlbdq/tstthlbdqQLVNCH_004. jpg


Thành phần khóa sinh, một phần t́nh nguyện theo học, phần c̣n lại được tuyển lựa gồm :

- 50 HSQ

- 50 SQ cấp uư và cấp tá, trong số cấp tá có người đương kim là Trung đoàn phó, Tham Mưu Trưởng Sư đoàn, Tỉnh trưởng.

Theo nội quy, các khóa sinh tự gỡ bỏ cấp hiệu và mang số khoá sinh cho tới ngày măn khóa.

Mỗi HLV Mỹ và Việt ít nhất phải đảm nhiệm huấn luyện viên chính (prime instructor) một môn, ngoài ra sẽ làm huấn luyện viên phụ (assistanct instructor) cho các PI khác, hoặc kiêm thông dịch nếu PI là Mỹ.

Riêng 2 trưởng toán được miễn là AI v́ bận nhiều việc như lập lịch tŕnh huấn luyện và đón tiếp, hướng dẫn các VIP Mỹ Việt đến thăm.

Tóm lại, sự phối hợp huấn luyện giữa Mỹ và Việt rất nhịp nhàng, chặt chẽ, đồng đều. Chương tŕnh huấn luyện sáu tuần lễ, thời lượng trung b́nh mỗi tuần là 84 giờ, bất kể ngày đêm.

Chỉ có ngày chủ nhật huấn luyện viên, khoá sinh được nghỉ xả hơi.

Tuy nhiên, tất cả HLV phải họp mặt vào lúc 10.00 sáng chủ nhật để kiểm điểm công tác trong tuần.

Các môn học gồm :

- Phục kích

- Phản phục kích

- Đột kích

- Thám sát

- Kỹ thuật sưu tầm tin tức

- Chiến tranh chống du kích, bơi lội, vượt sông, ḿn, chất nổ, cạm bẫy, cấp cứu sơ khởi, mưu sinh thoát hiểm

- Cận chiến, tác xạ làm quen các loại vũ khí, tác xạ di động, tác xạ phản ứng nhanh ngày, đêm

- Di hành với ba lô, súng đạn (nặng 15 kgs) leo núi, băng rừng, trên đường về trung tâm đi gia tốc đoạn đường dài 10 km và bài tập dă ngoại 48 giờ.

Ngoài ra tập thể dục từ 4 đến 5 giờ sáng mỗi ngày, và tự giác đu xà ngang 15 lần trước khi vào pḥng ăn.

H́nh phạt thông thường là hít đất, nhẩy xổm, chạy ṿng ṿng.

Theo thông lệ, huấn luyện viên biểu diễn trước, khóa sinh bị phạt thi hành sau.

Khóa sinh nào khai bệnh nghỉ hai ngày trở lên đều bị loại và phải học lại khóa kế tiếp.



https://www.youtube.com/watch?v=jYaAAxRBouU
jYaAAxRBouU


Lễ măn khoá 1 BĐQ dưới quyền chủ tọa của trung tướng Trần văn Đôn, Tư Lệnh Quân đoàn I.

Ông đă khen ngợi khóa sinh “tích cực thụ huấn” và tuyên dương TTHL/ BĐQ Đà nẵng là đơn vị duy nhất của Quân đoàn “làm việc không biết mệt mỏi, hoàn thành trách nhiệm huấn luyện tối ưu”.

Kết quả huấn luyện qua vóc dáng, nét mặt của 100 khóa sinh tốt nghiệp so với ngày đầu đến thụ huấn, đă biến mầu da thành sạm nắng, nâu đậm (nếu không muốn nói là đen kịt), nhưng rất khoẻ mạnh vui vẻ, năng động, cương nghị, tự tin hơn nh́ều.

Khóa sinh rời khỏi trung tâm cũng là lúc tất cả Huấn luyện viên được nghỉ 15 ngày phép về thăm gia đ́nh bạn hữu.


https://www.youtube.com/watch?v=yg7FmVAwIlw
yg7FmVAwIlw

hoathienly19
10-09-2024, 16:29
Trung tuần tháng 8 năm 1960, Team A 7th Special Forces măn nhiệm về nước.

Thiếu tá Lê Tích Thiểu (tốt nghiệp khóa I BĐQ) giữ chức CHT/ TTHL/ BĐQ Đà nẵng thay Thiếu tá Chương Phát Dưỡng.

Kể từ khóa 2 BĐQ, khai giảng vào cuối tháng 8 năm 1960, huấn luyện viên Việt nam hoàn toàn đảm nhận mọi trọng trách huấn luyện với sự tiếp tay của một số sĩ quan, hạ sĩ quan tốt nghiệp khóa I BĐQ được lưu giữ làm phụ tá HLV và sự yểm trợ tích cực của toán cố vấn do Thiếu tá John Warren, là cố vấn trưởng đến từ 1st Special task Forces, Okinawa.

Ngoài 2 TTHL Đà Nẵng và Sông Mao, TTHL/ BĐQ Nha Trang là hậu thân của Trường Biệt Động Đội Đồng Đế, đặc trách Huấn luyện cho sĩ quan va hạ sĩ quan thuộc Quân đoàn II
.


https://www.youtube.com/watch?v=RCjlxO-03MI
RCjlxO-03MI




Song song với 3 TTHL nêu trên, c̣n có TTHL/ BĐQ Trung Hoà, và Thất Sơn, huấn luyện cho các đại đội Biệt động Quân.


THÀNH LẬP BỘ CHỈ HUY BIỆT ĐỘNG QUÂN


Ngày 01 tháng 7 năm 1960, Bộ TTM/ QLVNCH chính thức thành lập Binh Chủng Biệt Động Quân.

Bộ Chỉ Huy đặt tại một doanh trại cũ đường Tô Hiến Thành, quân 3 Sàigon, có nhiệm vụ quản trị, điều hành, bổ sung quân số, trang bị, thanh tra, theo dơi, thống kê các hoạt động của tất cả các đơn vị BĐQ.

Chỉ huy Trưởng đầu tiên của binh chủng là :

- Thiếu tá Phan Trọng Chinh, kế tiếp là :

- Thiếu Tướng Tôn Thất Xứng

- Chuẩn Tướng Lam Sơn

- Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận

- Trung Tá Trần Văn Hai

- Trung tá Trần Công Liễu và cuối cùng là Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.



https://www.youtube.com/watch?v=fYThvP95IN0
fYThvP95IN0


Ban Tham Mưu gồm có :

- Chỉ huy Phó kiêm Tham Mưu trưởng

- Pḥng quản trị nhân viên

- Pḥng kế hoạch và điều hành

- Pḥng Tiếp Vận và Tiếp liệu

- Pḥng tâm lư chiến và xă hội

- Pḥng an ninh, và trung đội canh gác.

Ngay sau khi thành lập BCH/ BĐQ, phù hiệu, huy hiệu BĐQ được thực hiện theo mẫu vẽ cuả Đại Uư Nguyễn Thành Chuẩn gồm :

Phù hiệu mang trên cánh tay áo trái là h́nh khiên nền vàng có đầu beo đen, ngôi sao trắng.



https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/bchBDQ_a_QD/T242_HH_BDQ_bch_qd1_ xlc_a_242x333.png



Phù hiệu trên beret nâu là nhành dương liễu vàng, mũi tên có cánh mầu trắng nằm ngang.



https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/T242_HH_QLVNCH_BC_BD Q_1_BeretNau_242x222 _Nghieng.png



Riêng huy hiệu đeo trên ngực áo là :

- Nhành dương liễu mầu vàng, hai thanh kiếm gác chéo, có ngôi sao vàng, dành cho tất cả sĩ quan và hạ sĩ quan, kể cả cảnh sát và đồng minh tốt nghiệp khóa Biệt Động Quân hoặc khoá học Rừng núi śnh lầy.



https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/T242_HH_QLVNCH_BC_BD Q_0_Bang_RNSL_242x14 2_KL.png



Quân phục tác chiến của BĐQ là đồng phục rằn ri mầu hoa rừng.



https://scontent.fyto1-1.fna.fbcdn.net/v/t39.30808-6/453598411_2732001453 641815_8817577397885 99914_n.jpg?_nc_cat= 111&ccb=1-7&_nc_sid=cc71e4&_nc_ohc=62bPo99n6Z4Q 7kNvgEk_m9N&_nc_ht=scontent.fyto 1-1.fna&_nc_gid=AxQawxB8w0oG 5FJ7DeebPZu&oh=00_AYB6rtTibx2Kck 4ZDagQOFURfrglJ9gY7U 6uHrNoP56nqg&oe=670C63C0



Kể từ ngày thành lập binh chủng, tất cả các BĐQ không phân biệt cấp bậc đều được hưởng thêm 300$ (VND) một tháng ngoài tiền lương ấn định. 24-THÀNH LẬP TTHL /BĐQ / DỤC MỸ.

Ngày 1 tháng 8 năm 1961, Bộ TTM/ QLVNCH quyết định sát nhập các TTHL/ BĐQ Đà Nẵng, Nha Trang, Sông Mao thành một TTHL/ BĐQ thống nhất tại Dục Mỹ, toạ lạc tại bản doanh cũ cuả SĐ23 BB, kế cận quốc lộ 21, giữa quận lỵ Ninh Hoà và Khánh Dương.

Cũng thời gian này TTHL/ BĐQ Trung Hoà và Thất Sơn được sát nhập thành TTHL/ BĐQ Trung Lập chuyên huấn luyện các Đại đội và Tiểu Đoàn BĐQ.

Đại uư Trần Đ́nh Nại nguyên là HLV tại TTHL/ BĐQ Đà Nẵng đuợc chỉ định giữ chức CHT TTHL/ BĐQ Trung Lập và Thiếu tá Tom Henry làm cố vấn trưởng.



https://scontent.fyto1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/108182109_3100969383 285310_8498578824794 734174_n.jpg?_nc_cat =103&ccb=1-7&_nc_sid=7b2446&_nc_ohc=5YDj3x0HQDwQ 7kNvgGktPfy&_nc_ht=scontent.fyto 1-1.fna&_nc_gid=AAvhtLYnBdE2 kKVx7OE7kpk&oh=00_AYAWqU-hu8CI2bR4TyoRMQkrByF EgwZSZGVOwqoSda7FHg&oe=672E26C8



Trung tâm Huấn luyện BĐQ Dục Mỹ gồm :

- Chỉ huy Trưởng

- Chỉ Huy Phó, Tham Mưu Trưởng

- Pḥng quản trị nhân viên

- Pḥng an ninh t́nh báo

- Pḥng 3

- Pḥng tài chánh

- Pḥng Tiếp Vận, tiếp liệu

- Pḥng Quân Huấn

- Liên Đoàn Khoá Sinh

- Ban truyền tin

- Bệnh xá

- Ban Chỉ huy Trại cùng 2 Đại đội 301 và 302 (canh gác, tạp dịch, làm gỉa địch, diễn tập).

Pḥng Huấn luyện là quan trọng nhất gồm có các ban :

- Ban Nghiên cứu

- Ban Kế Hoạch

- Khoa Chiến Thuật

- Khoa Tổng quát và Vũ tác Ḿn

- Ban trợ huấn cụ. Pḥng này phụ trách huấn luyện :

• Khoá căn bản BĐQ cho tân khóa sinh.

• Khoá Rừng Núi Śnh Lầy.

• Khoá bổ túc TĐ/ BĐQ.

• Khóa Viễn Thám.

Chỉ Huy Trưởng TTHL/BĐQ/ Dục Mỹ đầu tiên là :

- Trung tá Vĩnh Biểu, kế đến là :

- Đại Tá Đặng Văn Sơn

- Trung Tá Nguyễn Văn Kiên

- Thiếu tá Trần Công Liễu

- Trung tá Nguyễn Hữu Phú

- Trung Tá Nguyễn Khắc Trường, cuối cùng là :

- Đại tá Nguyễn Văn Đại cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Chương tŕnh huấn luyện 42 ngày đêm liên tục, trung b́nh 18 giờ/ ngày.

Các môn học tương tự như ở TTHL/ BĐQ Đà-Nẵng trước đây, ngoài ra thêm môn :

- Đi dây Kinh Dị

- Dây Tử Thần

- Tuột núi và lục soát xóm làng Việt Cộng.


https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/3/36/Vietnamese_Rangers_p ractice_on_rope_ladd ers_at_Duc_My_Camp.j pg



https://www.youtube.com/watch?v=vOh5repGzYU
vOh5repGzYU



Riêng khóa Rừng Núi Śnh Lầy có 10 ngày thực tập tại căn cứ Núi Rừng (phía bắc Dục Mỹ khoảng 10km), 10 ngày thực tập tại căn cứ Śnh Lầy ở chân đèo Rọ Tượng (gần Quốc lộ I, giữa quận lỵ Ninh Hoà và NhaTrang).

Khóa 2 Chứng chỉ Rừng Núi Śnh Lầy (RNSL) (*) BĐQ/QLVNCH :

Chứng chỉ 2 RNSL chỉ được trao cho cấp Sĩ quan BĐQ và trong Quân–Binh–Chủng của QLVNCH nếu quân nhân đó đă trải qua một khóa huấn luyện kéo dài trong 6 tuần về căn bản của "Chiến Thuật Tác Chiến Biệt Động"


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/T242_HH_QLVNCH_BC_BD Q_1_T_CC2BDQ_RNSL_12 8x190.png



https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/T242_HH_QLVNCH_BC_BD Q_1_T_CC2BDQ_RNSL_ms _356x522.png


Nơi đây là trường đào tạo chiến binh BĐQ QLVNCH



https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/T242_BandoTTHLDucMy_ 640x540.png


Khóa huấn luyện bổ túc Tiểu đoàn có thêm bài tập :

- Bộ Chỉ Huy (Tham Mưu) 24 giờ, và cuộc thực tập :

- Tiểu đoàn hành quân 72 giờ trong vùng đồng ruộng, làng mạc, đồi núi phía Tây Bắc quận lỵ Ninh Hoà.



https://www.youtube.com/watch?v=ohwyg1w48cs
ohwyg1w48cs



Tất cả khoá sinh các khoá mỗi khi di chuyển bộ đến lớp học hoặc băi tập luôn luôn trong tư thế súng cầm tay, đeo ba lô nặng 15 kgs.

H́nh phạt thông thường là hít đất, nhẩy xổm, chạy.

Đôi khi sĩ quan kỷ luật hoặc huấn luyện viên phạt tập thể hoặc cá nhân bất cứ lúc nào, không cần lư do.

Ngoài ra khoá sinh RNSL ( rừng núi śnh lầy ) khai bệnh nghỉ một ngày, cuối khóa chỉ đuợc cấp Chứng Chỉ thay v́ được cấp Bằng Tốt Nghiệp.



https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/T242_HH_QLVNCH_BC_BD Q_1_T_CC1BDQ_VienTha m_242x124.png


C̣n tiếp ,

hoathienly19
10-11-2024, 04:32
Trung tâm huấn luyện BĐQ Dục Mỹ c̣n đảm nhiệm huấn luyện RNSL ( Rừng Núi Śnh Lầy ) cho :

- Sinh viên sĩ quan Vơ Bị Đàlạt

- Thủ Đức

- Cảnh Sát và hai (2) khoá cho Sĩ quan, Hạ sĩ quan cho Đại Hàn.

Tất cả Huấn luyện Viên ṇng cốt ban đầu đều được tu nghiệp tại các quân trường :

- Fort Benning Georgia

- Fort Bragg

- North Carolina

Nhưng khi các TTHL/BĐQ Đà-Nẵng, Nha Trang, Sông Mao giải tán, về tập trung tại Dục Mỹ chỉ c̣n khoảng một nửa.

Nửa c̣n lại xin trở về đơn vị gốc tại Huế, Đà Nẵng, NhaTrang, Biên Hoà, và Sàigon.

Các thế hệ Huấn luyện viên và phụ tá huấn luyện viên kế tiếp đều tốt nghiệp các khoá :

- BĐQ Đà Nẵng

- Nha Trang

- Sông Mao và RNSL tại Dục Mỹ.

Từ cuối năm 1961 đến tháng 11 năm 1963, dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Đặng Văn Sơn, Trung Tâm Huấn luyện BĐQ Dục Mỹ đă nổi tiếng là “Ḷ Luyện Thép”, không những ở trong nước mà tiếng vang đă đến khắp vùng Đông Nam Á Châu.

Rất nhiều phái đoàn cao cấp của quân đội đồng minh cũng như chính khách quan trọng, các Tướng lănh Tư Lệnh các Quân Đoàn và Bộ TTM/ QLVNCH thường xuyên đến thăm liên tục.



https://www.youtube.com/watch?v=zFl9eAAqnU8
zFl9eAAqnU8


Thành quả nêu trên đều nhờ vào tất cả mọi thành viên thuộc TTHL có :

- Kinh nghiệm, năng nổ, nhiệt t́nh, tự giác, gương mẫu cùng với sự trợ giúp của các cố vấn, với phương pháp huấn luyện sáng tạo, thực tiễn, khắt khe, kỷ luật, lư thuyết ngắn gọn, thực hành tối đa, rèn luyện cả tinh thần lẫn thể chất.…

Lễ măn khóa đơn giản nhưng trang trọng, khoá sinh nhận Bằng Tốt Nghiệp với ḷng tự hào, tươi vui.

Chính lúc này cũng là lúc họ đă lột xác từ bạch diện thư sinh thành các pho tượng đồng đen, sẵn sàng lao vào cuộc chiến với tinh thần bất khuất…



https://www.youtube.com/watch?v=iGUXfmvafLo
iGUXfmvafLo


THÀNH LẬP CÁC TIỂU ĐOÀN BĐQ

Nhiều Tiểu Khu đă sử dụng các Đại đội BĐQ sai nguyên tắc, không đúng với chức năng Biệt Động Quân, tệ hơn nữa họ dùng BĐQ để canh gác bảo vệ Tỉnh Trưởng.

V́ vậy, theo đề nghị của MACV (Military Assistance Command VN) vào đầu năm 1962, Bộ TTM/ QLVNCH, thu hồi các đại đội này và thành lập 3 Tiểu Đoàn BĐQ :

- Tiểu đoàn 10 tại Đà-Nẵng (QĐI)

- Tiểu đoàn 20 tại Pleiku (QĐII)

Tiểu đoàn 30 tại Sàigon (BKTĐ) với nhiệm vụ tiến sâu vào ḷng địch, kiểm soát để truy t́m và tiêu diệt chúng.




https://www.youtube.com/watch?v=ztHO4E65pXc
ztHO4E65pXc




Năm 1963, quân đội Bắc Việt gia tăng xâm nhập vào miền Nam Việt nam, mở rộng chiến tranh.

Biệt Động Quân được xử dụng càng lúc càng nhiều nhằm ngăn chặn Việt Cộng, chặn đứng các cuộc chuyển quân và tiếp vận từ miền Bắc vào.



https://scontent.fyto1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.18169-9/27332428_21073600459 57398_40436383834257 31427_n.jpg?_nc_cat= 100&ccb=1-7&_nc_sid=13d280&_nc_ohc=5reVAZCvZE8Q 7kNvgHnw9EK&_nc_ht=scontent.fyto 1-1.fna&oh=00_AYCZO7kA9EUTzs MAyV4cgaOdW7u1zBRexl OkHIbd10VTjg&oe=6730005B



Để đáp ứng trọng trách này, ngoài 3 tiểu đoàn đă thành lập như :

- TĐ11 (TĐ10 đổi tên)

- TĐ21 (TĐ 20 đổi tên)

- TĐ30 (giữ nguyên) thành lập thêm các :

- TĐ22/ BĐQ tại Dục Mỹ

- TĐ32 và 33 BĐQ tại Sàigon.

Hai tiểu đoàn 32 và 33 sau khi được huấn luyện tại TTHL Trung Lập, đặt thuộc quyền QĐ III, vào tháng 5 năm 1963.

Sau đó, bốn Ban đại diện BĐQ tại bốn quân khu được h́nh thành tại :

- Đà Nẵng

- Pleiku

- Biên Hoà, và Cần Thơ.

Tổ chức và trách nhiệm của các Ban đại diện BĐQ quân khu cũng tương tự như Bộ Chỉ Huy BĐQ trung ương, không trực tiếp chỉ huy hay điều động các đơn vị BĐQ hành quân.



https://images.squarespace-cdn.com/content/v1/5e4174b6686d8a11f786 f7ac/1684335521776-BIYVY0D0QNJ9MRO3W8H6/PhotoRoom_000_202305 16_182649.JPG?format =1000w

hoathienly19
10-12-2024, 07:41
Sau cuộc đảo chánh (1-11-1963), lật đổ nền Đệ Nhất Cộng Hoà, Bộ tứ tướng “Minh, Đôn, Xuân, Đính” chỉ thị phá bỏ hệ thống các ấp chiến lược do Đệ Nhất Cộng Hoà thiết lập nhằm mục đích tách rời du kích cộng sản ra khỏi làng mạc thôn ấp.

Có thể đây là một quyết định sai lầm của các tướng nói trên.


https://www.youtube.com/watch?v=BaKUI_gfbW0
BaKUI_gfbW0


Lợi dụng sự bất ổn chính trị và sự yếu kém của chính quyền quân nhân, du kích cộng sản nằm vùng chỗi dậy, quân chủ lực miền Bắc xâm nhập công khai vào các vùng dọc theo biên giới Việt-Lào-Miên.

Để đối phó với t́nh h́nh này, theo lệnh của Bộ TTM/ QLVNCH, các đại đội BĐQ c̣n lại lần lượt được tổ chức thành 15 tiểu đoàn BĐQ, hoàn tất vào năm 1965.


Đến thời điểm này, Binh chủng Biệt Động Quân/ QLVNCH có tổng cộng 20 tiểu đoàn như sau :


• Quân đoàn I :


https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/d/dc/Insignia_of_ARVN_I_C orps.svg/180px-Insignia_of_ARVN_I_C orps.svg.png


https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/1/10/Flag_of_the_ARVN_I_C orps.svg/1920px-Flag_of_the_ARVN_I_C orps.svg.png


Huy hiệu Bộ Chỉ Huy BĐQ/Quân Khu I


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/bchBDQ_a_QD/T242_HH_BDQ_bch_qd1_ xlc_a_242x333.png


Huy hiệu các Bộ Chỉ Huy LĐBĐQ 11, 12, 14, & 15



https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/bchBDQ_b_LD_qd1/T242_HH_BDQ_bch_qd1_ ld11_xlc_a_242x333.p nghttps://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/bchBDQ_b_LD_qd1/T242_HH_BDQ_bch_qd1_ ld12_xlc_a_242x333.p nghttps://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/bchBDQ_b_LD_qd1/T242_HH_BDQ_bch_qd1_ ld14_xlc_a_242x333.p nghttps://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/bchBDQ_b_LD_qd1/T242_HH_BDQ_bch_qd1_ ld15_xlc_a_242x333.p ng


Huy hiệu các Tiểu Đoàn BĐQ 21, 37, và 39 thuộc LĐ12BĐQ, QLVNCH


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/tdBDQ_qd1/ld12/T242_HH_BDQ_td39_ld1 2_qd1_xlc_a_242x333. pnghttps://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/tdBDQ_qd1/ld12/T242_HH_BDQ_td21_ld1 2_qd1_xlc_a_242x333. pnghttps://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/tdBDQ_qd1/ld12/T242_HH_BDQ_td37_ld1 2_qd1_xlc_a_242x333. png

Huy hiệu các Tiểu Đoàn tác chiến BĐQ,QLVNCH thuộc Quân Khu I


Huy hiệu các Tiểu Đoàn BĐQ 68, 69, và 70 thuộc LĐ11BĐQ, QLVNCH


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/tdBDQ_qd1/ld11/T242_HH_BDQ_td68_ld1 1_qd1_xlc_a_242x333. pnghttps://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/tdBDQ_qd1/ld11/T242_HH_BDQ_td69_ld1 1_qd1_xlc_a_242x333. pnghttps://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/tdBDQ_qd1/ld11/T242_HH_BDQ_td70_ld1 1_qd1_xlc_a_242x333. png


Huy hiệu các Tiểu Đoàn BĐQ 60, 61, và 94 thuộc LĐ15BĐQ, QLVNCH


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/tdBDQ_qd1/ld15/T242_HH_BDQ_td60_ld1 5_qd1_xlc_a_242x333. pnghttps://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/tdBDQ_qd1/ld15/T242_HH_BDQ_td61_ld1 5_qd1_xlc_a_242x333. pnghttps://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/tdBDQ_qd1/ld15/T242_HH_BDQ_td94_ld1 5_qd1_xlc_a_242x333. png


https://www.youtube.com/watch?v=Rfy-mWljnus
Rfy-mWljnus

hoathienly19
10-12-2024, 08:34
QUÂN ĐOÀN I Việt Nam Cộng ḥa


Huy hiệu các đơn vị Yểm trợ BĐQ ,QLVNCH thuộc Quân Khu I


Huy hiệu các Đơn vị Yểm trợ LĐ12 BĐQ, QLVNCH :


CHCV : Chỉ Huy Công Vụ


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld12/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld12_chcv_a_242x3 33.png


HCCV : Hành Chánh Công Vụ


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld12/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld12_hccv_a_242x3 33.png


CCX : Chống Chiến Xa


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld12/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld12_ccx_a_242x33 3.png


PB : Pháo Binh


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld12/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld12_pb_a_242x333 .png


QX : Quân Xa


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld12/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld12_qx_a_242x333 .png


Qy : Quân Y


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld12/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld12_qy_a_242x333 .png


TK : Thám Kích



https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld12/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld12_tk_a_242x333 .png


TT : Truyền Tin


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld12/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld12_tk_a_242x333 .png



TTHL : Trung Tâm Huấn Luyện


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld12/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld12_tt_a_242x333 .png


VT : Viễn Thám


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld12/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld12_vt_a_242x333 .png


Huy hiệu các Đơn vị Yểm trợ LĐ14BĐQ, QLVNCH :

CHCV : Chỉ Huy Công Vụ



https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld14/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld14_chcv_a_242x3 33.png


HCCV : Hành Chánh Công Vụ



https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld14/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld14_hccv_a_242x3 33.png



CCX : Chống Chiến Xa


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld14/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld14_ccx_a_242x33 3.png


PB : Pháo Binh


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld14/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld14_pb_a_242x333 .png


QX : Quân Xa


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld14/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld14_qx_a_242x333 .png


QY : Quân Y


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld14/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld14_qy_a_242x333 .png


TK : Thám Kích



https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld14/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld14_tk_a_242x333 .png


TT : Truyền Tin



https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld14/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld14_tt_a_242x333 .png


TTHL : Trung Tâm Huấn Luyện


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld14/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld14_tt_a_242x333 .png


VT : Viễn Thám


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld14/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld14_vt_a_242x333 .png


Huy hiệu các Đơn vị Yểm trợ LĐ15 BĐQ, QLVNCH :


CHCV : Chỉ Huy Công Vụ


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld15/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld15_chcv_a_242x3 33.png



HCCV : Hành Chánh Công Vụ


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld15/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld15_hccv_a_242x3 33.png


CCX : Chống Chiến Xa



https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld15/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld15_ccx_a_242x33 3.png


PB : Pháo Binh


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld15/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld15_pb_a_242x333 .png


QX : Quân Xa



https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld15/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld15_qx_a_242x333 .png


QY : Quân Y


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld15/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld15_qy_a_242x333 .png


TK : Thám Kích


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld15/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld15_tk_a_242x333 .png


TT : Truyền Tin



https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld15/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld15_tt_a_242x333 .png


TTHL : Trung Tâm Huấn Luyện



https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld15/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld15_tt_a_242x333 .png


VT : Viễn Thám


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/ytBDQ/qd1/ld15/T242_HH_BDQ_yt_qd1_x lc_ld15_vt_a_242x333 .png



Vùng I Chiến thuật hay là Quân đoàn I trong lănh thổ của VNCH.



https://www.youtube.com/watch?v=EBJcW5bwzCc
EBJcW5bwzCc

hoathienly19
10-13-2024, 06:46
QUÂN ĐOÀN II :



https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/f/f2/Insignia_of_ARVN_II_ Corps.svg/180px-Insignia_of_ARVN_II_ Corps.svg.png


https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/5/55/Flag_of_the_ARVN_II_ Corps.svg/1920px-Flag_of_the_ARVN_II_ Corps.svg.png



https://www.youtube.com/watch?v=TB07Iu5ZtB0
TB07Iu5ZtB0



Huy hiệu Bộ Chỉ Huy BĐQ/Quân Khu II


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/bchBDQ_a_QD/T242_HH_BDQ_bch_qd2_ do_a_242x333.png


Quân Khu II gồm có các Tiểu đoàn 21, 22, 23 BĐQ


https://www.youtube.com/watch?v=oS6kDpRJhLY
oS6kDpRJhLY





QUÂN ĐOÀN III :


https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/1/1b/Insignia_of_ARVN_III _Corps.svg/180px-Insignia_of_ARVN_III _Corps.svg.png


https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/1/13/Flag_of_the_ARVN_III _Corps.svg/1920px-Flag_of_the_ARVN_III _Corps.svg.png


ttps://www.youtube.com/watch?v=1o2WhdvCAak
1o2WhdvCAak


Huy hiệu Bộ Chỉ Huy BĐQ/Quân Khu III


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhbdq/bchBDQ_a_QD/T242_HH_BDQ_bch_qd3_ nau_a_242x333.png


Quân đoàn III gồm có :


Các Tiểu đoàn 30, 31, 32, 33, 34, 35, 36, 38, 51, 52 BĐQ


https://www.youtube.com/watch?v=H2sx3fblAXc
H2sx3fblAXc



QUÂN ĐOÀN IV


https://linhvnch.wordpress.c om/wp-content/uploads/2016/07/flag_of_the_arvn_iv_ corps-svg.png?w=429&h=288



https://www.youtube.com/watch?v=kEiIPc1yEvE
kEiIPc1yEvE



Quân đoàn IV gồm có Các Tiểu đoàn 41, 42, 43, 44 BĐQ



https://www.youtube.com/watch?v=VDGbBsIBYFM
VDGbBsIBYFM


Các tiểu đoàn đều tự trị, dưới quyền chỉ huy và điều động trực tiếp của BTL quân đoàn.


THÀNH LẬP CÁC LIÊN ĐOÀN BĐQ.

Ngày 01 tháng 7 năm1967, các ban đại diện BĐQ ỡ quân khu hoàn tất việc giải thể, tái tổ chức thành các Liên đoàn Biệt động quân để có thể điều động nhanh, thống nhất chỉ huy, đủ khả năng đối đầu với chủ lực quân cộng sản Bắc Việt.

Liên đoàn BĐQ là lực lượng trừ bị, phản ứng nhanh của Quân đoàn, nhưng nhiều trường hợp đă đặt họ chiến đấu như những đơn vị bộ binh.

• Liên đoàn I BĐQ (tại Đà nẵng) gồm các tiểu đoàn :

- 37, 39, và 21(hoán chuyển với Tiểu đoàn 11 năm 1966)



https://www.youtube.com/watch?v=p8bvvyGFOAg
p8bvvyGFOAg



• Liên đoàn 2 BĐQ (tại Pleiku) gồm các Tiểu đoàn :

- 22, 23 và 11 BĐQ.


https://www.youtube.com/watch?v=zhGAWWkxwh8
zhGAWWkxwh8


• Liên đoàn 3 BĐQ (tại Biên Hoà) gồm các Tiểu đoàn :


- 31, 36, và 52 BĐQ



https://www.youtube.com/watch?v=kMm_Z3g4u_U
kMm_Z3g4u_U



• Liên đoàn 5 BĐQ (tại Sàigon) gồm các Tiểu đoàn :

- 30, 33 và 38 BĐQ


https://www.youtube.com/watch?v=ztHO4E65pXc
ztHO4E65pXc



• Liên đoàn 6 BĐQ (tại Sàigon) được thành lập trễ vào tháng 3 năm 1969, gồm các Tiểu đoàn :

- 51, 34 và 35 BĐQ.

Hai Liên đoàn 5, và 6 là lực lượng Tổng trừ bị được tăng phái tới bất cứ quân khu nào khi có t́nh h́nh chiến sự đ̣i hỏi.


https://www.youtube.com/watch?v=svB8ABa--v0
svB8ABa--v0

hoathienly19
10-14-2024, 07:38
THÀNH LẬP BỘ CHỈ HUY BĐQ QUÂN ĐOÀN.


Theo chỉ thị 100-9 của Bộ TTM/ Liên Quân (LQ)/ QLVNCH, ngày 22 tháng 5 năm 1970, thiết lập tại mỗi quân đoàn một Bộ Chỉ Huy BĐQ (ngoài ban Tham Mưu, c̣n có một đại đội truyền tin, một đại đội yểm trợ) đảm trách nhiệm vụ chỉ huy các đơn vị dân sự chiến đấu (Civilian Irregular defense group) nguyên thuộc Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ và Việt Nam tổ chức, huấn luyện, tài trợ và trang bị.

Hầu hết các thành viên thuộc đơn vị dân sự chiến đấu là người dân tộc thiểu số.



https://ongvove.wordpress.co m/files/2009/09/bdqbienphong1.jpg



Việc sáp nhập, tái tổ chức CIDG và Biệt động Quân kéo dài tới ngày 4 tháng 1 năm 1971 mới hoàn chỉnh thành 37 Tiểu đoàn BĐQ Biên Pḥng , sau nhiều cuộc bàn luận giữa Bộ TTM/ Liên Quân/ QLVNCH, MACV, BTL Quân Đoàn và cố vấn Quân đoàn.

• Quân Đoàn I có :

- 8 TĐ/ BĐQ biên pḥng.

• Quân Đoàn II có :

- 12 TĐ/BĐQ biên pḥng.

• Quân Đoàn III có :

- 9 TĐ/BĐQ biên pḥng.

• Quân đoàn IV có :

- 8 TĐ/BĐQ biên pḥng.



https://nhayduwdc.org/ls/qlvnch/bdq/tthlbdq/tstthlbdqQLVNCH_002_ bdmnVN_530x876_blue. png



Ngày 29 tháng 9 năm 1971, Tướng Abram, MACV, đồng thuận với Bộ TTM/ Liên quân VNCH cho thực hiện đồng nhất lực lượng chủ lực BĐQ gồm có 21 Tiểu đoàn BĐQ thành 7 Liên đoàn BĐQ.

Mỗi liên đoàn có 3 Tiểu đoàn.

Bốn (4) Liên đoàn trực thuộc Bộ chỉ huy BĐQ quân đoàn.

Ba (3) liên đoàn c̣n lại trực thuộc Bộ chỉ Huy BĐQ Trung Ương là lực lượng Tổng Trừ Bị của Bộ TTM Liên Quân.



https://www.youtube.com/watch?v=JuOQ-eRxLM4
JuOQ-eRxLM4


VAI TR̉ CỐ VẤN CỦA CÁC TĐ/BĐQ

Mỗi tiểu đoàn Biệt Động quân có một toán cố vấn (2 SQ, 1 HSQ và 1 binh sĩ truyền tin).

Nhiệm vụ của Cố vấn trưởng là góp ư hoặc thảo luận với Tiểu đoàn trưởng về chiến thuật, kế hoach hành quân, liên lạc với các đơn vị Hoa Kỳ trong các cuộc hành quân, phối hợp, hoặc trong vùng để khi cần xin pháo yểm, không yểm, hải pháo, trực thăng yểm trợ chiến đấu hoăïc tải thưong và máy bay quan sát.

Tóm lại sự giao hảo giữa cố vấn và BĐQ các cấp dù ở hậu cứ hay tiền tuyến đều rất thân thiện, hài ḥa.

Họ luôn luôn sát cánh bên nhau, cùng vào sinh ra tử, đầy t́nh đồng đội, tận sức cứu giúp bảo vệ nhau khi gặp hiểm nguy.



https://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2021/05/3119c7be2ab58173062c 39c6b8c72ed7_XL.jpeg ảnh minh họa


Một số đông cố vấn Mỹ cho BĐQ được tưởng thưởng huy chương Anh dũng bội tinh của quân đội Hoa Kỳ và của quân lực VNCH.

Đồng thời, cũng có khoảng 50 cố vấn BĐQ tử thương (hy sinh tại mặt trận).

Điều đáng ghi nhận là sự quan hệ giữa cố vấn Mỹ với đối tượng BĐQ/ VN rất tốt đẹp hơn bất cứ các quân binh chủng khác (theo lời học giả Gerald Canon Kickey dựa vào cuộc phỏng vấn khỏang 320 cố vấn Hoa Kỳ).

Đến cuối năm 1973, người cố vấn cuối cùng thầm lặng hồi hương.


TÁI TỔ CHỨC VÀ PHỐI TRÍ BĐQ


Tháng 9 năm 1973, Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng/ QLVNCH đệ tŕnh lên Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bản đánh giá và tái hoạch định cơ cấu tổ chức cùng việc sử dụng BĐQ và đă được chấp thuận.


Những điểm chính trong kế hoạch này là :

• Băi bỏ hệ thống tiền đồn biên giới.

Các Tiểu đoàn BĐQ biên pḥng được tái tổ chức thành Liên đoàn BĐQ, với di động tính, có khả năng trở lại hoạt động vùng biên giới nếu cần hoặc được điều động tới các chiến trường sôi động.

• Có đủ lực lượng làm Tổng trừ bị cho Bộ TTM, thay thế Sư đoàn Dù và Sư đoàn TQLC được bối trí tại mặt trận QK I

• Giải tán BK 44 v́ t́nh h́nh Quân khu IV lắng diụ (đơn vị chủ lực và du kích VC đă bị loại ra khỏi ṿng chiến).


- Giải thể 8 TĐ/ BĐQ biên pḥng thuộc Quân Khu IV, bổ sung cho các tiểu đoàn BĐQ/ QK I và QK II đang thiếu hụt quân số.

Phối trí lại 58 TĐ/BĐQ (kể cả BĐQ biên pḥng) c̣n 45 Tiểu đoàn kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1974 như sau :



https://www.youtube.com/watch?v=Frv01fo12r8
Frv01fo12r8


a. Quân khu I gồm có :

• Liên đoàn 11 BĐQ :

- Các tiểu đoàn 68, 69, 70.


https://www.youtube.com/watch?v=4IiYMxNRhM0
4IiYMxNRhM0


• Liên đoàn 12 BĐQ :

- Các tiểu đoàn 21, 37, 39.


https://www.youtube.com/watch?v=EFQmsj_GKRI
EFQmsj_GKRI


• Liên đoàn 14 BĐQ :

- Các tiểu đoàn 71, 78, 79.


https://www.youtube.com/watch?v=9KowLcOIw1Y
9KowLcOIw1Y


• Liên đoàn 15 BĐQ :

- Các tiểu đ̣an 60, 61, 94.


https://www.youtube.com/watch?v=peuU4UHYUyo
peuU4UHYUyo


b. Quân khu II gồm có:


https://www.youtube.com/watch?v=g8A_UtMNVls
g8A_UtMNVls


• Liên đoàn 21 BĐQ :

- Các tiểu đoàn 72, 89, 96.

• Liên đoàn 22 BĐQ :

- Các tiểu đoàn 62, 88, 95.

• Liên đoàn 23 BĐQ :

- Các tiểu đoàn 11, 22, 23.

• Liên đoàn 24 BĐQ :

- Các tiểu đoàn 63, 81, 82.

• Liên đoàn 25 BĐQ :

- Các tiểu đoàn 67, 76, 90.


https://www.youtube.com/watch?v=e__uqw7DsFg
e__uqw7DsFg

hoathienly19
10-15-2024, 08:19
QUÂN KHU III

https://www.youtube.com/watch?v=qyF09glCeBQ
qyF09glCeBQ


c. Quân khu III gồm có:

• Liên đoàn 31 BĐQ :

- Các tiểu đoàn 31, 36, 52.


https://www.youtube.com/watch?v=xzkhkN1h7xk
xzkhkN1h7xk


• Liên đoàn 32 BĐQ :

- Các tiểu đoàn 30, 33, 38.


https://www.youtube.com/watch?v=B0AYSylrsiU
B0AYSylrsiU


• Liên đoàn 33 BĐQ :

- Các tiểu đoàn 64, 83, 92.


https://www.youtube.com/watch?v=R0VRKqqg-RQ
R0VRKqqg-RQ


Tổng trừ bị (trực thuộc Bộ TTM/QLVNCH ) gồm có :

• Liên đoàn 4 BĐQ :

- Các tiểu đoàn 42, 43, 44.

• Liên đoàn 6 BĐQ :

- Các tiểu đoàn 34, 35, 51.

• Liên đoàn 7 BĐQ :

- Các tiểu đoàn 32, 85, 58.

Do t́nh h́nh quân khu IV lắng diụ nên Liên đoàn 4 BĐQ được chuyển về lực lượng Tổng trừ bị. Quân đoàn IV, Quân khu IV không c̣n lực lượng Biệt động quân trực thuộc.


Tóm lại , kế hoạch tái cấu trúc không những đáp ứng đúng khả năng, sở trường chiến đấu của Biệt động Quân, c̣n tái lập được một lực lượng tổng trừ bị năng động trong tay của vị Tổng Tham Mưu Trưởng cũng như một lực lượng hùng mạnh, phản ứng nhanh dưới quyền điều động cuả các Tư lệnh Quân đoàn I, II và III để đối phó kịp thời với t́nh h́nh chiến sự ngày càng khốc liệt.


CÁC TRẬN CHIẾN TIÊU BIỂU CỦA BĐQ.


Kể từ đầu năm 1965, Quân lực VNCH, phải đối đầu với các đại đơn vị chủ lực của Cộng sản Bắc Việt (có ưu thế về hoả lực đại pháo, hỏa tiễn 122ly, xe tăng).

Trong đó BĐQ được các vị Tư lệnh chiến trường sử dụng tối đa vào các trận chiến gay go, ác liệt, hiểm nguy.


https://www.youtube.com/watch?v=-R6nMkzk0wM
-R6nMkzk0wM


Nhưng với truyền thống bất khuất dũng cảm, thiện chiến, và quyết tử, luôn luôn áp dụng triệt để chiến thuật “Bất ngờ, Mau lẹ” cũng như các cấp chỉ huy lúc nào cũng ở tuyến đầu với binh sĩ, điển h́nh là :


Tiểu đoàn trưởng luôn luôn đi với đại đội tiên phong .Biệt Động Quân đă đạt nhiều chiến thắng oai hùng, vẻ vang.

Xin được ghi lại một số trận đánh, chiến thắng tiêu biểu :


TIỂU ĐOÀN 42 BIỆT ĐỘNG QUÂN :

Do Thiếu Tá Nguyễn văn Biết chỉ huy trong cuộc hành quân “Dân Chí 100” vào đầu năm 1965,

Tiểu đoàn được trực thăng vận xuống xă Đại Ngăi, Long Phú (Ba Xuyên), dưới sự yểm trợ của :

- Trực thăng Cobra và phản lực F4 của Hạm đội 7 Hải Quân Hoa Kỳ.


Sau 4 ngày giao tranh ác liệt với các đơn vị Việt cộng :

– Kết quả :

- 154 tên Việt cộng bỏ xác tại chỗ, 12 tên bị bắt làm tù binh.

- TĐ 42 BĐQ tịch thu :

- 5 súng đại liên pḥng không 12.7ly,

- 3 súng không giật 57 ly

- 3 thượng liên bắn máy bay 12.8

- 8 súng B40

- 5 súng B41 chống chiến xa và 59 súng cá nhân các lọai.


Hơn 3500 súng trường và súng tiểu liên mới c̣n bọc trong vải tẩm dầu


https://lh4.googleuserconten t.com/-mxAiej5t4cA/TX7YJDBBTJI/AAAAAAAAAR4/L20Penve0jM/s640/VN_VungRo_VuKhi_07_3 500Rifles.jpg


– Thiệt hại :

- 12 chiến sĩ hy sinh trong đó có Đại uư Phan,Tiểu đoán Phó

- 35 bị thương

= 2 trực thăng UH1D bị bắn rơi.


– Huy chương :

Ngoài Anh Dũng bội tinh đủ loại do Tướng Nguyễn hữu Có đại diện trao gắn,Tiểu đoàn 42 BĐQ c̣n được Tuyên dương :

“US Presidential Unit Citation” do Đại Tướng William C.Westmoreland, Tư Lệnh quân đội Hoa kỳ tại Việt nam, đại diện Tổng Thống Hoa Kỳ trao tặng (đơn vị quân đội VNCH đầu tiên được tặng thưởng loại huy chương này).


https://www.youtube.com/watch?v=5pj8Ov8hjQA
5pj8Ov8hjQA


TIỂU ĐOÀN ĐẶC NHIỆM BIỆT ĐỘNG QUÂN GỒM :

- 2 đại đội tân binh BĐQ và 1 đại đội Điạ phương Quân, do Đại Uư Nguyễn Kim Biên chỉ huy, tăng phái cho SĐ23 BB tham dự hành quân “Vũng Rô”, quận Hiếu Xương, tỉnh Phú Yên.

Ngày 20 tháng 2 năm 1965, tiểu đoàn được phân nhiệm đổ bộ bằng tầu Hải Quân vào băi biển Vũng Rô (nơi chiếc tầu Cộng sản bị Không quân VN bắn ch́m và đại đội Biệt kích dù, một đơn vị người nhái đổ bộ khám xét ngày 18-2-65, tịch thu được :

- Hơn 1000 súng CKC c̣n nguyên trong thùng, nhưng v́ hỏa lực của cộng quân quá mạnh, gây cho một số Biệt Kích thương vong và một thượng sĩ HQ trên pháo tháp tử thương, Biệt Kích phải rút lui).


Một số thùng đạn trong số hơn một triệu viên đạn tịch thu được


https://lh6.googleuserconten t.com/-yvjzq4d7vaA/TX7X3t0l0JI/AAAAAAAAAR0/2_1mvC_vstY/s640/VN_VungRo_VuKhi_06_M illionsRounds.jpg



Tiểu đoàn BĐQ tiến về phiá Đông Bắc khoảng 1km th́ bắt đầu chạm địch (SĐ Sao Vàng CS).

Sau hai ngày giao tranh ác liệt với địch tại vùng rừng nuí Tây Bắc đồi Hải Đăng, địch đă chịu tổn thất nặng nề.

Kết quả 25 cộng quân bỏ xác tại chỗ cùng với :

- 11 AK47

- 1 Trung liên Tiệp Khắc, 11CKC, ngoài ra TĐ BĐQ c̣n tịch thu thêm 83 CKC c̣n mới nguyên trong bao khi cộng quân vác chạy, nhưng rồi dấu trong lùm bụi để tẩu thoát lấy người.

Về phiá ta, có 2 BĐQ bị thương nặng được trực thăng chở về QYV Nha Trang, nhưng sau đó đă từ trần, 4 Biệt Động Quân khác bị thương nhẹ.


https://www.youtube.com/watch?v=tA2J9S0NZrQ
tA2J9S0NZrQ


Trong lễ tuyên dương công trạng, dưới quyền chủ tọa cuả Thủ Tướng Phan Huy Quát, Tồng Tham Mưu Trưởng Trung Tướng Trần Văn Minh và Đại tướng William C. Westmoreland, tại bộ Tư Lệnh SĐ 23 BB, Ban Mê Thuột :

- 32 huy chương anh dũng bội tinh gồm :

- Nhành dương liễu, huy chương vàng, bạc và đồng đă được trao gắn cho Biệt Động Quân cùng nhiều huy chương khác cho các quân nhân các cấp thuộc Hải-Lục Không quân tham dự hành quân.

Các nhật báo Anh, Pháp, Việt ngữ xuất bản tại Sàigon đều tường thuật về chiến thắng Vũng Rô :

- Hàng trăm cộng quân bị tiêu diệt

- Chiếc tầu chở vũ khí của cộng sản bị bắn ch́m

- Hàng ngàn vũ khí cùng đạn dược của cộng sản đă bị quân lực ta tịch thu, cùng trên trang nhất có đăng h́nh ảnh Đại uư Nguyễn Kim Biên dưới tiêu đề :

- “Tiểu Đoàn Trưởng BĐQ anh hùng Vũng Rô”.


https://www.youtube.com/watch?v=0PG__abgDnM
0PG__abgDnM

hoanglan22
10-20-2024, 22:32
hoathienly19 Huua61n luyên cho BCD khóa mưu sinh và thám sát 43 ngày ở Dục mỹ cũng phê lắm bị loại ra gần hết .BCD vào học khóa này tính theo tỉ lệ 10 th́ chọn được 3 :eek::eek::eek::eek:

hoathienly19
10-21-2024, 19:11
hoathienly19 Huua61n luyên cho BCD khóa mưu sinh và thám sát 43 ngày ở Dục mỹ cũng phê lắm bị loại ra gần hết .BCD vào học khóa này tính theo tỉ lệ 10 th́ chọn được 3


Cám ơn anh cho thêm chi tiết nầy .

hoathienly19
10-23-2024, 04:57
TIỂU ĐOÀN 37 BIỆT ĐỘNG QUÂN


Dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Sơn Thương, hành quân giải tỏa áp lực địch tại căn cứ Thạch Trụ, Quảng Ngăi, do một đại đội Điạ Phương Quân trú pḥng.


Đại Úy BĐQ Sơn Thương, sau lên đại tá


https://scontent.fyto1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/97525825_74526847291 7482_325211548238322 0736_n.jpg?_nc_cat=1 00&ccb=1-7&_nc_sid=833d8c&_nc_ohc=c1voh3YUgRMQ 7kNvgGO6qm6&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-1.fna&_nc_gid=ATT1M44iRp_l tvKg0Y3iX7L&oh=00_AYAMp5IvWWVLos dzu4v_Q1sk9k3noC3gSI JBoM95IXComA&oe=673FEAFC



Đêm 21 tháng 11 năm 1965, Tiểu đoàn tăng cường pḥng thủ, được phi, pháo Việt Nam và hải pháo của Tuần dương hạm Saint Paul Hải quân Hoa Kỳ tại bến Sa-Huỳnh yểm trợ, đă bẻ gẫy chiến thuật biển người, tiền pháo hậu xung của Trung Đoàn 914 và Trung đoàn18 thuộc SĐ 325 cộng sản Bắc Việt quyết san bằng căn cứ Thạch Trụ.

Qua 6 đợt xung phong, 2 bên quần thảo nhau một mất một c̣n kéo dài tới gần trưa hôm sau.

Kết quả :

- 225 xác cộng quân bỏ nằm rải rác trên chiến địa, một số vắt trên hàng rào kẽm gai, một số trong căn cứ.

- Ba sơn pháo 75 ly

- Một súng không giật 57 ly, hai đại liên 30 (7.62mm)

- 200 (hai trăm) súng cá nhân tiểu liên AK47, cùng nhiều vũ khí cá nhân khác, ba máy truyền tin Trung cộng bị tịch thu.

Về phía ta :

- 40 BĐQ và ĐPQ hy sinh

- 80 bị thương

- Hai cố vấn Mỹ tử thương.

Sau chiến thắng Thạch Trụ, Đại Tướng William C. Westmoreland đại diện Tổng Thống Hoa Kỳ trao tặng :

- “US PRESIDENTIAL UNIT CITATION” cho Tiểu Đoàn 37 BĐQ và Thiếu tá Sơn Thương được vinh thăng Trung Tá cùng rất nhiều quân nhân tham chiến cũng được tưởng thưởng công trạng xứng đáng.



https://www.youtube.com/watch?v=DXftwaMy9tI
DXftwaMy9tI

hoathienly19
10-23-2024, 06:21
TIỂU ĐOÀN 21 BIỆT ĐỘNG QUÂN


Tiểu đoàn 21 BĐQ do Đại uư Nguyễn văn Sách chỉ huy , tăng phái cho chiến đoàn giải tỏa, cứu viện căn cứ Pleime :

- 1 toán Lực lượng Đặc Biệt Việt nam

- 12 cố vấn Mỹ và 400 dân sự chiến đấu trú đóng) bị trung đoàn 32 (+) cộng sản Bắc Việt bao vây tấn công vào đêm19 tháng 10 năm 1965.

Trên trục tiến quân, chiến đoàn gồm :

- Trung đoàn Thiết kỵ do Trung tá Nguyễn Trọng Luật chỉ huy

- Tiểu đoàn 21 BĐQ, theo sau là đoàn xe GMC tiếp tế lương thực đạn dược cùng hai khẩu đại bác 105 ly, ba xe M113 hộ tống đoạn hậu, bị phục kích.

Tất cả đă nhất quyết đánh trả, dẹp tan cuộc phục kích, nhất là các chiến sĩ BĐQ đă b́nh tĩnh, gan lỳ, nhanh chóng phản phục kích, cùng với hỏa lực dũng mănh của chiến xa M41 và Thiết vận xa M113, tiêu diệt lực lượng cộng quân đang từ các ngọn đồi, ven rừng tràn xuống tấn công biển người.

Cuộc chiến ác liệt diễn ra suốt ngày đêm cho đến sáng hôm sau (23-10-1965).

Các tiểu đoàn 344, 635, 966 thuộc trung đoàn 32 CSBV, cùng một tiểu đoàn cuả trung đoàn 33 tăng cuờng bị tan nát chạy về vùng núí Chu Prong.



https://onnguonsuviet.com/images/file/dZLNYg_y1ggBAPYW/ban-do-vung-bac-tay-nguyen-bao-gom-vung-nui-phia-dong-bac-cao-nguyen-kon-tum-va-gia-lai-pleiku-southern-.jpg


Kết quả :

- Trung đoàn 32 CSBV tổn thất 40%

- Hai tiểu đoàn trưởng chết

- 18 khẩu 12.7mm pḥng không, 11 súng cối 82 mm bị tịch thu và bị huỷ diệt bởi phi pháo

- 92 súng cá nhân :

- AK47, carbine, CKC.

Ngoài ra, ta c̣n tịch thu rất nhiều ḿn, lựu đạn, đạn súng cộng đồng, đạn súng cá nhân, xẻng cuốc cá nhân bỏ lại…

Trung đoàn 33 của CS thiệt hại nặng hơn trung đoàn 32 địch.



https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2019/02/cac-chien-si-tieu-doan-44-bc490q-ben-bo-song-sau-mot-cuoc-hanh-quan-nam-1967.jpg?w=540



Chiến đoàn cứu viện tổn thất :


- 8 xe vận tải

- Hai thiết vận xa M113

- Hai đại bác 105mm bị phá huỷ bởi đạn B40, SKZ 57mm, sơn pháo 75mm của địch.

- 60 quân nhân (có 3 sĩ quan) tử trận và 72 bị thương (bao gồm BĐQ, TG, ĐPQ).

Sau đó, chiến đoàn cứu viện lại tiếp tục tiến theo trục hành quân đến giải cứu Plei Me.

Điều đáng nói, có lẽ địch dồn hết lực lượng để đánh phục kích, thất bại nên khi chiến đoàn tiến về Plei Me th́ công việc gỉai toả rất nhẹ nhàng



https://www.youtube.com/watch?v=WL6cNC7IlPQ
WL6cNC7IlPQ



TIỂU ĐOÀN 42 BIỆT ĐỘNG QUÂN


Dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt , trong cuộc hành quân Dân Chí 135, tiểu đoàn được trực thăng vận đổ xuống Giai lăng, Vĩnh Châu, Ba Xuyên vào năm 1966, tấn công nơi trú quân của Tiểu đoàn cơ động và Tỉnh đội Việt cộng Ba Xuyên.

Kết quả :

- 130 VC chết, bỏ xác tại chỗ

- 12 tên bị bắt sống và 100 súng đủ lọai bị tịch thu.


Kết quả bên ta :

- 18 BĐQ tử trận

- 32 bị thương.

Chiến thắng lần này quân kỳ, cùng quân nhân các cấp thuộc Tiểu đoàn 42 BĐQ được mang dây biểu chương mầu tam hợp.

Một số sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ được tưởng thưởng anh dũng bội tinh.

Đặc biệt Tiểu đoàn trưởng Lưu Trọng Kiệt được ân thưởng Đệ tứ đẳng bảo Quốc huân Chương kèm theo với nhành dương liễu.

Ngoài ra TĐ42 BĐQ cũng được Đại Tướng Abrahm, đại diện Tổng Thống Hoa Kỳ trao tặng :

- “ US PRESIDENTIAL UNIT CITATION "


https://www.youtube.com/watch?v=z0tOlLJ-M7Q
z0tOlLJ-M7Q


TIỂU ĐOÀN 37 BĐQ + 1 ĐẠI ĐỘI/ TĐ21 BĐQ.


Dưới quyền chỉ huy cuả Đại uư Hoàng Phổ được không vận tới Khe Sanh (Quảng Trị) vào ngày 27 tháng 1 năm 1968, tăng cường cho lực lượng Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ pḥng thủ căn cứ Khe Sanh.

Xuyên suốt 77 ngày đêm tử thủ chống lại lực lượng địch gồm các :

- Sư đoàn 304, 325, 324B, 320 chính quy thiện chiến Bắc Việt

- Trung đoàn Thiết giáp PT76, T54, hai trung đoàn đại pháo 130mm, 152mm cùng hỏa tiễn 122mm.

Với chiến thuật biển người, tiền pháo hậu xung, cố gắng biến căn cứ Khe Sanh thành một Điện Biên Phủ thứ II, nhưng Cộng Quân Bắc Việt đă bị thảm bại.

Kết quả :

- Từ 15,000 đến 20,000 nhân mạng bị thương vong, loại khỏi ṿng chiến.


https://img.otofun.net/upload/v6/2017/05/05/268593-44803-13-v34ojxuzxgwvtlq7k3yf .jpg


Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ :

- 205 tử trận

- 1,500 bị thương

- Biệt động Quân VN 34 chiến sĩ hy sinh, 300 bị thương.

Theo tài liệu “Việt Nam War”,Trung tướng Philip Davision, Trưởng pḥng 2 Quân lực Hoa Kỳ tại Việt nam, nhận xét :

- “ Tướng Vơ Nguyên Giáp đă sai lầm tưởng rằng tấn công dứt điểm pḥng tuyến của Biệt động quân VN dễ dàng hơn là vào tuyến pḥng thủ của TQLC/HK”.


https://hoiquanphidung.com/echo/media/k2/items/cache/d0d354668f69293e040a a69de3140c78_XL.jpg



Theo Siege of Khe Sanh, Valley of decision, Đaị uư Pipes, Đại đội trưởng TQLC Mỹ tại Khe Sanh viết :

- “ Thật là vinh dự cho chúng tôi được chiến đấu cùng với Sĩ quan, Hạ sĩ quan, Binh sĩ của đơn vị đồng minh BĐQ/ VN xuất sắc.

Họ là những chiến sĩ can trường, có quá nhiều kinh nghiệm tác chiến.

Khả năng đánh trận của họ có thể sánh ngang với bất cứ một đơn vị nào cuả quân đội Hoa Kỳ .”…


https://www.youtube.com/watch?v=WinJsB_wcLI
WinJsB_wcLI

hoathienly19
10-24-2024, 08:28
TIỂU ĐOÀN 52 BĐQ

Dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Nguyễn Hiệp, vào lúc 2 giờ chiều ngày 17 tháng 6 năm 1967, trực thăng vận đổ xuống khu rừng thưa Suối Long thuộc vùng Mỏ Vẹt Tây Ninh, tấn công chiếm được :

- 1/3 căn cứ cộng sản, giết một số đông cộng quân trong đó có tên Tiểu đoàn trưởng, tịch thu nhiều súng cá nhân và cộng đồng trong đó có hai súng cối 61mm.

Tiểu đoàn Trưởng cho lệnh TĐ52 BĐQ đóng quân pḥng thủ đêm, chờ tăng viện



https://www.youtube.com/watch?v=6Bt87CCuCjo
6Bt87CCuCjo



Sáng hôm sau, lúc 5giờ, khoảng 1,500 cộng quân dùng chiến thuật biển người, tiền pháo hậu xung tấn công đến 6.15 AM th́ giặc chọc thủng pḥng tuyến BĐQ.

Nhưng nhờ có Trực thăng vơ trang được gọi đến bắn rocket chặn đứng làn sóng tấn công.



https://www.youtube.com/watch?v=OVmNT_BzgKE
OVmNT_BzgKE


Sau đó, Đại úy cố vấn trưởng Nightingale yêu cầu pháo binh 175mm của Hoa kỳ bắn yểm trợ.

Khi Tiểu đoàn 52 BĐQ lui binh, cộng quân vẫn tiếp tục truy sát và chúng đă trả giá với 300 tên chết nát thây dưới mưa bom của B52 Hoa Kỳ.

Đến khoảng 10.00 AM, hai tiểu đoàn 35 và 43 BĐQ cùng với lực lượng Mỹ đến tăng viện, đă chiếm được căn cứ Cộng quân vào trưa hôm sau, ngày 19-6-1967.

Tiểu đoàn 52 tổn thất :

- 28 chiến sĩ hy sinh, 82 bị thương, 12 bị mất tích.

Nhờ tin tức do một trung sĩ BĐQ bị thất lạc, khám phá ra điạ điểm tập trung quân của một đơn vị lớn cộng sản, Bộ Tư lệnh Mỹ đă cho B52 không tập trúng Bộ Chỉ Huy Trung Ương Cục Miền nam của chúng.

Với trận đánh Suối Long, Tiểu đoàn 52 BĐQ được tưởng thưỏng :

“US PRESIDENT UNIT CITATION” của Tổng Thống Hoa Kỳ trao tặng.

https://www.youtube.com/watch?v=Fsrx91Sugm8
Fsrx91Sugm8


TĐ 32 VÀ 44 BĐQ TIẾP CỨU TĐ 42 BĐQ



https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1547622540-42%20copy.png


Trong cuộc hành quân Dân Chí 179, Tiểu đoàn 42 BĐQ được trực thăng vận để tấn công vào vườn dừa ông Mười trên kinh Thác Lác giữa Chương Thiện và tỉnh Phong Dinh lúc 11giờ 30, ngày 18 tháng 12 năm 1967.

TĐ tịch thu 30 súng đủ loại, nhưng khi tiến sâu vào mục tiêu th́ gặp chống cự rất mạnh của trung đoàn D cộng sản, trận chiến trở nên khốc liệt.

Tiểu đoàn trưởng Lưu Trọng Kiệt hy sinh cùng 34 đồng đội.



https://www.youtube.com/watch?v=qOYcb13or2k
qOYcb13or2k


Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, hai tiểu đoàn 32 và tiểu đoàn 44 BĐQ được trực thăng vận đổ xuống giải cứu Tiểu đoàn 42 BĐQ, được pháo binh và phi cơ yểm trợ.

Hai tiểu đoàn này tấn công vũ băo vào lực lượng địch đông gấp 4 lần quân số tiểu đoàn 42.

Chịu không nổi, địch đă phân tán rút chạy, bỏ lại tại chỗ :

- 140 xác, và 45 súng các loại bị ta tịch thu.


https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2017/05/tich-thu-vu-khi.jpeg H́nh minh họa



TIỂU ĐOÀN 44 BIỆT ĐỘNG QUÂN.


Ngay từ khi thành lập, tiểu đoàn đặt dưới quyền điều động trực tiếp của QK IV đă đạt được nhiều chiến tích trong các cuộc hành quân “T́m và Diệt Việt Cộng” , nhất là thời gian Đại uư Nguyễn Văn Dần làm Tiểu Đoàn Trưởng.

Trong cuộc hành quân trực thăng vận vào ngày 6 tháng 4 năm 1965, Tiểu đoàn 44 BĐQ tấn công phá vỡ hoàn toàn căn cứ cố thủ của 1 tiểu đoàn Việt Cộng, tại tỉnh Chương Thiện, gây cho chúng tổn thất nặng nề, hỗn loạn tháo chạy bỏ lại :

- 50 xác đồng bọn cùng nhiều vũ khí cá nhân và cộng đồng.

Kết quả sau cuộc hành quân,Tiểu đoàn 44 BĐQ đă được Tổng Thống Hoa Kỳ Lindon Johnson trao tặng :

- “US PRESIDENT UNIT CITATION” và cũng là đơn vị quân Lực VNCH đầu tiên được nhận vinh dự này.



https://www.youtube.com/watch?v=CSPrXBRZIUA
CSPrXBRZIUA



TIỂU ĐOÀN 51 BIỆT ĐỘNG QUÂN


Từ năm 1966 đên năm 1968, dưới quyền chỉ huy cuả Thiếu tá Nguyễn Công Thông, Tiểu đoàn hoạt động tại vùng Đức Hoà, Đức Huệ


Trong trận đánh tại ấp Trầm Lạc, quận Đức Hoà, tiểu đoàn 51 BĐQ đă loại khỏi ṿng chiến một trung đoàn cộng quân vừa mới xâm nhập từ đất Miên qua, tịch thu :

- 1000 vũ khí các loại (được trưng bày tại pḥng thông tin Đức Hoà cho báo chí, và đồng bào địa phương coi tận mắt chiến thắng này của Biệt Động Quân).



https://www.youtube.com/watch?v=I2_jjYnafM0
I2_jjYnafM0


Một trận đánh khác cũng tại Đức Hoà, vào dịp tết Mậu Thân (1968), tiểu đoàn 51 BĐQ lại một lần nữa tiêu diệt gọn Trung đoàn (-) cộng quân gồm cả tên Chính trị viên, tịch thu 1000 vũ khí đủ loại, cũng được trưng bày tại thị xă Đức Hoà.

Cả hai cuộc trưng bày chiến lợi phẩm trên đều dưới quyền chủ tọa của Thiếu Tướng Nguyễn Xuân Thịnh, Tư lệnh Sư đoàn 25 BB.


https://lh6.googleuserconten t.com/proxy/yntmlM90Y2heGcxpb0rZ AR4dvTeOfeUBcpO2Nb7U 7_LGS7Aa7ff0GzMC505F NE7ZiRjHhfKnBpS9XQ

Tiểu đoàn 51 BĐQ được đặc biệt tuyên dương công trạng trước quân đội và ân thưởng dây biểu chương :

“Bảo Quốc Huân Chương”


https://www.youtube.com/watch?v=7NCtf2sqZ54
7NCtf2sqZ54

hoathienly19
10-25-2024, 09:41
THÀNH TÍCH -TUYÊN DƯƠNG – HUY CHƯƠNG

THÀNH TÍCH


Theo tài liệu của Bộ Chỉ Huy BĐQ/ QLVNCH, tổng kết đến ngày 28 tháng 01 năm 1973 (Hiệp định Paris) , các đơn vị Biệt Động Quân đă giết được :

- 40,000 cộng quân

- Bắt sống 7,000 tù binh



https://imagizer.imageshack. com/v2/480x480q70/922/Qeqwsx.jpg



- Tiếp nhận 255 cán binh cộng sản hồi chánh, và tịch thu được :

- 1,467 vũ khí cộng đồng

- 10,941 súng cá nhân đủ lọai


Sài G̣n, 7/5/1968.

Vũ khí của bộ đội Bắc Việt và du kích Việt Cộng (QGPMN) bị binh sĩ VNCH thu được sau giao tranh tại khu vực Nghĩa trang Quân Đội Pháp (ngă tư Bảy Hiền).

Ảnh của Bettman/Corbis.



https://scontent.fyto1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/69442773_30119704655 40519_87575508876368 2816_n.jpg?_nc_cat=1 01&ccb=1-7&_nc_sid=13d280&_nc_ohc=bOs-jySeehcQ7kNvgGtI_Sp&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-2.fna&_nc_gid=AzDE0_G_Lfku by50ZQKuC6H&oh=00_AYC1bIkcCUiSiA sZ2FexTeZH7hbjW8LEBQ 6wHwKpWAtKEw&oe=6742CC0C


TUYÊN DƯƠNG

• Các Tiểu đoàn 42, 44, 51 BĐQ được tuyên dương công trạng cấp Quốc Gia với dây Biểu Chương Bảo Quốc.



https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/f/f0/Vietnam_Fourragere_C olor_of_the_National _Order.png/200px-Vietnam_Fourragere_C olor_of_the_National _Order.png


https://blogger.googleuserco ntent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjrnug31HLV5AnE q5ohjmvmykx204iTjufk 018qhbJ9SI6bSpR_C9Tp E69vkTlcSZvsBb9ytyPk LBNGwAxcaI67wuB0KA2a oQwLSxWrzrmo5mHEBEMK aZue066bMASroDNQAgEt W9SHhIw/s400/baoquochuanchuongde1 .jpg




• Tiểu đoàn 43, 21, 37, 41 và 52 BĐQ được tuyên dương cấp quân đội với dây biểu chương Anh Dũng Bội tinh với Nhành Dương Liễu.


Huy chương này là Anh Dũng Bội Tinh kèm Nhành Dương Liễu (tuyên dương công trạng trước quân đội) Nguyễn Phước Vĩnh Đoàn



https://scontent.fyto1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/61973440_22419251325 23077_72427637682733 0560_n.jpg?_nc_cat=1 11&ccb=1-7&_nc_sid=13d280&_nc_ohc=Rx-QCiH4qdsQ7kNvgHoRoRa&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-1.fna&_nc_gid=AWh2jeIPIy4j vNWkBdDqbeP&oh=00_AYDya-MaEVZPSPsvhNSsf0rDe8 E2Zj49FFfrCMBtHLQOKA&oe=6742BCB5https://scontent.fyto1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/62131511_22419265425 22936_21217829760175 96416_n.png?_nc_cat= 107&ccb=1-7&_nc_sid=13d280&_nc_ohc=ds4q2Pu9G2oQ 7kNvgGZq2KH&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-2.fna&_nc_gid=AEc2DqNu5QdN 7h6TPJS3wtk&oh=00_AYD0_cXHG1trR_ kQAtwfxbJ3CuT2OU6RV7 EgwJ50-0Bxow&oe=6742C41E


• 23 Anh Dũng Bội tinh nhành dương liễu đơn vị dành cho các tiểu đoàn Biệt Động Quân.


HUY CHƯƠNG


• Rất nhiều Binh sĩ, Hạ sĩ quan, Sĩ quan BĐQ được tưởng thưởng :

- Anh dũng Bội tinh ngôi sao vàng


https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/4/44/1_golden_star.svg/27px-1_golden_star.svg.pn g


- Ngôi sao bạc

- Ngôi sao đồng , nhành dương liễu và một số Bảo Quốc Huân Chưong với nhành Dương Liễu.


https://blogger.googleuserco ntent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjGd051H0IxSnoh 4TK1yeeDBOYDSadjvKir BYIiusS2MMAnM66ENdck lsjFFTCHumwIszqLpre6 6_J0nfy4-zxeDshiTNgijwsQyAlMa PD6oK0fmuimRlFVSQj-qtaQ06jOvBgyk7Eqc40/s640/hongoccan_011.jpg

• Rất nhiều quân nhân Binh Chủng Biệt Động Quân được thăng cấp đặc cách tại mặt trận.

- Mười một (11) “US PRESIDENTIAL UNIT CITATION” của Tổng Thống Hoa Kỳ được trao tặng cho :

- Tiểu đoàn 37 BĐQ 3 lần

- Tiểu đoàn 39 và 42 BĐQ được 2 lần

- Các Tiểu đoàn 21, 41, 44, và 52 BĐQ được một lần.


https://www.youtube.com/watch?v=-2QzjtqK4HM
-2QzjtqK4HM


Sáu (6) “US UNIT AWARD” trao tặng cho các Tiểu đoàn :

- 21, 32, 41, 43, 77, và 91 BĐQ


https://www.youtube.com/watch?v=ou3-6V5WYyA
ou3-6V5WYyA


Nhiều “US AWARD SILVER STAR, BRONZE STAR và ARMY COMMENDATION MEDAL” được trao tặng cho nhiều quân nhân Biệt động quân có ḷng dũng cảm tuyệt vời trong lúc chiến đấu với địch quân.


https://dongsongcu.wordpress .com/wp-content/uploads/2016/07/biet-dong-quan-qlvnch.jpg?w=653&h=364


PHẦN KẾT


Sau khi hiệp định đ́nh chiến Paris 28-3-1973 đầy xảo trá và phản bội, Quân đội Mỹ đơn phương rút hết khỏi Việt Nam, kể cả các cố vấn, viện trợ cũng cắt giảm tối đa.

Quân lực VNCH nói chung, Biệt Động Quân nói riêng, vẫn phải tiếp tục chiến đấu trong điều kiện ngặt nghèo, thiếu tiếp liệu, tiếp vận, đạn dược và yểm trợ, để chống lại kẻ thù miền Bắc, không những vẫn được duy tŕ hậu thuẫn mà c̣n gia tăng viện trợ đến mức tối đa của cả khối cộng sản Liên Xô, Trung Cộng.


https://www.youtube.com/watch?v=7yGZYjRv64U
7yGZYjRv64U


Nhưng với ḷng tự hào v́ “Tổ quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm”, với tinh thần bất khuất dũng cảm “V́ dân Quyết chiến”, BĐQ đă chiến đấu, một mất một c̣n với kẻ thù đến phút cuối cùng.

Cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, một số đơn vị BĐQ, trong đó có :

- Tiểu đoàn 82 BĐQ từ vùng II

- Liên Đoàn 8 BĐQ gồm các Tiểu Đoàn 84, 86, 87

- Liên Đoàn 7, 9 BĐQ đă chiến đấu đến giờ thứ 25.

Kể cả sau khi có lệnh ngưng bắn, một số lớn vẫn chiến đấu không chịu buông súng theo lệnh đầu hàng của TT Dương văn Minh.


https://www.youtube.com/watch?v=fKbBhYF3INc
fKbBhYF3INc


Sau khi Sàigon sụp đổ, Thiếu Tướng Chỉ huy Trưởng BĐQ Đỗ kế Giai, toàn bộ ba Chỉ huy Trưởng BĐQ Quân Khu, toàn bộ 15 Liên đoàn Trưởng Liên đoàn BĐQ, trên 90% các Tiểu Đoàn Trưởng, đa số Sĩ Quan, Hạ sĩ Quan và binh sĩ đều đă ở lại, chấp nhận số phận đen tối dành cho họ.



https://scontent.fyto1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/95361033_36699882696 94560_48588843214375 48544_n.jpg?_nc_cat= 102&ccb=1-7&_nc_sid=13d280&_nc_ohc=VK2qMh8RG9sQ 7kNvgFuglLP&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-2.fna&_nc_gid=A6YJkihZ5AYa Q3cl_tjvQmv&oh=00_AYAENAGZsRJnz0 czO2XV08LbPfLQ6JUKH6 AtGh-sOdqLfQ&oe=6742EF3E



Các cấp chỉ huy BĐQ bị bọn cầm quyền cộng sản liệt vào danh sách thành phần tối nguy hiểm, bị đầy đọa tàn nhẫn trong các trại tù CS trên 10 năm.

Điển h́nh là Thiếu Tướng Chỉ Huy Trưởng, một số Sĩ Quan cao cấp BĐQ, đă trải dài cuộc đời suốt 17 năm trong tù ngục CSVN.

Ngày cuối cùng của tháng tư đen, BĐQ đă chịu chung số phận đắng cay, buồn tủi, đau xót, tuyệt vọng như Quân Lực VNCH, như tất cả Quân, Dân, Cán, Chính miền Nam. Rất nhiều trong số họ đă tuẫn tiết.

Việt Nam Cộng Hoà, một đất nước nhược tiểu, đă kiên cường chiến đấu cho lư tưởng tự do, bị nước bạn Đồng Minh bỏ rơi!!!

Biết bao điều khổ đau, thù hận, tan tác… đă phủ lên cuộc đời những chiến sĩ kiêu hùng BĐQ, lên Quân đội VNCH, lên toàn thể dân chúng Miền Nam Việt Nam, ch́m trong đói nghèo, tuyệt vọng… khổ luỵ….

Kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Binh Chủng.



https://www.youtube.com/watch?v=pRoEBqCMcQA
pRoEBqCMcQA



Tài liệu tham khảo:

– Cuốn Commandos and Ranger of World War 2 của Jame Ladd.

– Bài viết cuả Mike Martin, cố vấn Biệt Động Quân.

– Bài viết của các chiến hữu trong Đặc San Mũ Nâu 1996 -1998, và Tập San BĐQ các số:

- 1, 2, 3, 4, 8, 9, 15, 18, 23, 24, 26.

bietdongquan.com

hoathienly19
10-27-2024, 09:12
VINH DANH ĐẠI TÁ HỒ NGỌC CẨN



https://hon-viet.co.uk/DaiTaHoNgocCan.JPG



Tên tuổi của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đă bắt đầu lừng lẫy từ khi ông c̣n là một sĩ quan cấp Úy phục vụ trong binh chủng Mũ Nâu Biệt Động Quân ở Miền Tây.

Các cấp chỉ huy Biệt Động Quân trong thời điểm đầu những năm 1960 đă để ư nhiều đến tân Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn , Trung Đội Trưởng BĐQ, về những hành động quả cảm đến phi thường trong những cuộc giao tranh.

Người Trung Đội Trưởng trẻ mới có 22 tuổi đời đă đứng xơng lưng dẫn quân Mũ Nâu xung phong lên đánh những trận long trời [b] trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long.

Những chiếc lon mới nở nhanh theo cùng với những chiến thắng. [b]

Chỉ trong ṿng bốn năm, Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn đă được vinh thăng lên đến cấp bậc Đại Úy và được điều về làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 33 của Sư Đoàn 21 Bộ Binh “Tia Sét Miền Tây” .


https://nhayduwdc.org/i/bnr/sdbb/T242_HH_SD21BB_QLVNC H_00_CMQK_0776x0458. png


Lúc đó trên lănh thổ Vùng 4 Chiến Thuật đă nổi lên những khuôn mặt chiến binh dũng mănh mà đă được ca tụng là những con mănh hổ miền Tây

Đại Úy Hồ Ngọc Cẩn có vinh dự nằm trong số năm vị này.

Những vị c̣n lại gồm những tên tuổi như sau :

- Thiếu Tá Nguyễn Văn Huy, Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân

- Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân.

- Thiếu Tá Lê Văn Dần, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân.

- Thiếu Tá Lê Văn Hưng, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 31, SĐ21BB.

- Thiếu Tá Vương Văn Trổ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 33, SĐ21BB.



https://www.youtube.com/watch?v=_3zdLeArSdE
_3zdLeArSdE


Thật ra bản danh sách này chỉ có tính cách ước lệ và tượng trưng, đâu phải một Miền Tây rộng bát ngát mà chỉ có vỏn vẹn có năm người hùng.

Mỗi người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa xứng đáng được vinh danh là những anh hùng, v́ những đóng góp máu xương quá lớn cho tổ quốc.



https://www.youtube.com/watch?v=jKWm9E_XfOc
jKWm9E_XfOc


Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24.3.1938 tại xă Vĩnh Thạnh Vân, Rạch Giá.

Thân phụ của ông là một hạ sĩ quan phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam (danh xưng của quân đội trong thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, dưới sự lănh đạo của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm).

Đại Tá Cẩn không may sinh ra và lớn lên trong thời buổi chiến tranh, nên khi lên bảy tuổi ông sắp sửa cắp sách đến trường, th́ chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, việc học của ông bị gián đoạn.

Măi hai năm sau, tức vào năm 1947 ông mới được đi học lại, sau khi t́nh h́nh ở các thành phố trở lại yên tĩnh, quân Việt Minh rút về các chiến khu, quân Pháp chiếm đóng các thành phố.

Cậu bé Cẩn học muộn đến những hai năm, khi ông học tiểu học được bốn năm th́ thân sinh của cậu quyết định xin cho cậu nhập học Trường Thiếu Sinh Quân Gia Định.

Có lẽ vị thân sinh của người đă nh́n thấy được những dấu hiệu, những nảy nở của tinh thần và ư hướng, mà sau này sẽ hướng người vào con đường binh nghiệp, sẽ làm nên những công nghiệp lớn có ích lợi cho đất nước


https://lh5.googleuserconten t.com/proxy/7ZNVQrfaQtx_sAPtCQgY yj1S10jTA9AteCNndQXE 3SxMGrGaa4rVjYMCmd_x gg6TALlc-v7-buM5aXXOXyBOlv94-hN0rzcijLk69wb5_TwZZ _FBWh29UjpYZPlFvuhLD A_6tS3jqg=s0-d


Cuộc đời đèn sách trễ nải của chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn, lúc này đă 17 tuổi, đă ngáng bước đi lên về mặt văn hóa.

Theo học quy của Trường Thiếu Sinh Quân, một học sinh ở độ tuổi 17 chưa học xong Đệ Ngũ, sẽ được gửi đi học chuyên môn.

V́ vậy chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn được trường gửi lên Liên Trường Vơ Khoa Thủ Đức học khóa chuyên môn CC1 Vũ Khí.

Trong lớp văn hóa hồi ở Trường TSQ, ông chỉ ở mức trung b́nh, nhưng sau ba tháng học ở Thủ Đức, chàng trai trẻ lại đậu hạng ưu.

Ông được cho học thêm khóa chuyên môn vũ khí bậc nh́ CC2.

Sau khóa học này ông quyết định đăng vào phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, với cấp bậc Binh Nh́.

Theo quy chế dành cho các Thiếu Sinh Quân, th́ ba tháng sau, Binh Nh́ Hồ Ngọc Cẩn sẽ được thăng lên Hạ Sĩ, ba tháng kế tiếp được lên Hạ Sĩ Nhất và ba tháng sau nữa được thăng Trung Sĩ.

Trong ṿng chín tháng kế tiếp, với khả năng ưu hạng về môn vũ khí, Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được chọn làm huấn luyện viên vũ khí cho trường.


https://www.youtube.com/watch?v=3EawUUiiHbI
3EawUUiiHbI


Cuộc đời làm huấn luyện của ông những tưởng êm đềm trôi và tài năng quân sự của người sẽ bị mai một trong một ngôi trường khiêm tốn.

Nhưng định mệnh đă dành cho người anh hùng một vị trí xứng đáng trong quân đội và những cơ hội thi thố tài năng, mà sau này được mọi người truyền tụng lại như là những huyền thoại, để phục vụ và bảo vệ tổ quốc.

T́nh h́nh quân sự ngày càng nghiêm trọng cho một quốc gia non trẻ và một quân đội c̣n tập tễnh kinh nghiệm chiến đấu, sĩ quan chỉ huy thiếu hụt.

Bộ Quốc Pḥng quyết định mở các khóa Sĩ Quan Đặc Biệt bắt đầu từ năm 1962 để cung cấp thêm sĩ quan có khả năng cho chiến trường và nâng đỡ những Hạ Sĩ Quan có ước vọng thăng tiến.

Một may mắn lớn cho Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn, mà cũng là may mắn cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa, một cựu Thiếu Sinh Quân, đă nâng đỡ cho các đàn em TSQ.

Những Thiếu Sinh Quân không hội đủ năm năm quân vụ và có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp vẫn được cho đi học Khóa Sĩ Quan Đặc Biệt.

Hơn nữa, dường như Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và Đại Tướng Lê Văn Tỵ có mật lệnh, các tân Chuẩn Úy xuất thân từ Thiếu Sinh Quân đều được đưa về các binh chủng thiện chiến hay đặc biệt như :

- Nhảy Dù

- Thủy Quân Lục Chiến

- Thiết Giáp

- Biệt Động Quân

- Quân Báo

- An Ninh Quân Đội

- Lực Lượng Đặc Biệt.

Tổng Thống Diệm và Đại Tướng Tỵ cũng không quên gửi những Thiếu Sinh Quân tốt nghiệp Tú Tài vào học các Trường :

- Cao Đẳng Sư Phạm và Y Khoa để có nhân tài phục vụ xă hội và huấn luyện lại cho những thế hệ tuổi trẻ kế tiếp.

Đặc biệt nhiều Thiếu Sinh Quân cũng được cho vào học Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt để làm nền tảng cho cái xương sống chỉ huy chuyên nghiệp trong hệ thống quân đội Việt Nam Cộng Ḥa.


https://www.youtube.com/watch?v=Tikj8uqSEUk
Tikj8uqSEUk

hoathienly19
10-28-2024, 08:41
Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được cho theo học Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch tại Trường Hạ Sĩ Quan QLVNCH, Đồng Đế, Nha Trang.

Các tân Chuẩn Úy Đặc Biệt, trong đó có Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn tung cánh đại bàng bay đi khắp bốn phương và sau này đă trở thành những sĩ quan tài giỏi nhất của quân lực, lưu danh quân sử.



https://www.youtube.com/watch?v=fT_p7AbICl0
fT_p7AbICl0


Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn được thuyên chuyển về Biệt Động Quân Vùng 4 Chiến Thuật Miền Tây, sau một khóa học Rừng Núi Śnh Lầy của binh chủng Mũ Nâu.

Lúc đó các đại đội BĐQ biệt lập theo lệnh của TT Diệm, đă được cải tổ và sát nhập thành các tiểu đoàn.

Khu 42 Chiến Thuật gồm lănh thổ các tỉnh :

- Phong Dinh

- Chương Thiện

- Ba Xuyên

- Bạc Liêu và An Xuyên, có hai tiểu đoàn BĐQ, mà lại là hai tiểu đoàn lừng lẫy nhất của binh chủng. Đó là :

- Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân “Cọp Ba Đầu Rằn”, và :


https://ongvove.wordpress.co m/wp-content/uploads/2012/07/42bdq.jpg


- Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân “Cọp Xám”.



https://www.youtube.com/watch?v=vn9TDBeXd-Y
vn9TDBeXd-Y


Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn nhận sự vụ lệnh tŕnh diện Tiểu Đoàn 42 BĐQ và làm Trung Đội Trưởng .

Khả năng quân sự thiên bẩm, tài chỉ huy và sự chiến đấu hết sức gan dạ của Chuẩn Úy Cẩn, mà đă đem nhiều chiến thắng vang dội về cho TĐ42BĐQ, được thăng cấp đặc cách nhiều lần tại mặt trận, đă nhanh chóng xác nhận Trung Úy tân thăng Hồ Ngọc Cẩn có khả năng chỉ huy tiểu đoàn.

Trung Úy Cẩn được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 42BĐQ, đặt dưới quyền chỉ huy của một chiến binh lừng lẫy và nhiều huyền thoại không kém ǵ Trung Úy Hồ Ngọc Cẩn là :

- Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, xuất thân từ Sư Đoàn 21 Bộ Binh, với tác phong chiến đấu dũng cảm làm quân giặc kiêng sợ và thuộc cấp kính phục.


https://www.youtube.com/watch?v=5pj8Ov8hjQA
5pj8Ov8hjQA


Cung cách đánh giặc như vũ băo của Trung Úy Cẩn c̣n được nhân lên thập bội , khi lời yêu cầu của ông lên cấp chỉ huy xin cho các chiến binh gốc Thiếu Sinh Quân được về chiến đấu chung với ông.

Lời yêu cầu này được thỏa măn một phần, nhưng cũng đủ để cho Trung Úy Cẩn có thêm được sức mạnh cần thiết.

Có lần ông tâm sự với một người bạn lư do này :

- “ Một là để dễ sai. Tất cả bọn cựu Thiếu Sinh Quân này đều ra trường sau tôi. Chúng là đàn em, dù tôi không phải là cấp trên của chúng, mà chúng nó lộn xộn, tôi vẫn hèo vào đít chúng nó được.

Nay tôi muốn chúng nó về với tôi, để tôi có thể dạy dỗ chúng nó những ǵ mà quân trường không dạy.

Hai là truyền thống của tôi khi ra trận là chết th́ chết chứ không lùi.

V́ vậy cần phải có một số người giống ḿnh, th́ đánh nhau mới đă. Bọn cựu Thiếu Sinh Quân đều như tôi”.


https://www.youtube.com/watch?v=vOYPCfQEVZo
vOYPCfQEVZo


Một câu chuyện dũng cảm và cảm động khác kể về Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 15 Bộ Binh tại mặt trận An Lộc năm 1972.

Trong khi quân của Trung Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh bị pháo địch nă hàng ngàn quả gh́m đầu xuống trong những hố cá nhân bên đường Quốc Lộ 13 gần thị xă An Lộc, th́ binh sĩ trung đoàn ngạc nhiên lẫn cảm kích khi thấy vị Trung Đoàn Trưởng của họ dẫn vài người lính cũng quả cảm như vị chỉ huy điềm tĩnh đi thẳng lưng dưới cơn hỏa pháo cường kích như băo lửa của Sư Đoàn 7 Bắc Việt từ công sự này sang hố chiến đấu kia thăm hỏi chiến sĩ, an ủi các chiến thương và khích lệ tinh thần binh sĩ.

Chiến binh Hồ Ngọc Cẩn coi thường cái chết, mà dường như cái chết cũng sợ hăi và tránh xa con người kiệt xuất ấy.

Định mệnh sẽ dành cho người một cái chết cao cả nhất, ít nhất cũng chưa phải là trong mùa hè đỏ lửa của năm 1972.

Dường như giữa Trung Tá Cẩn và cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí có rất nhiều chất hào hùng quả cảm giống như nhau.

Đại Tướng Đỗ Cao Trí thường nói với các phóng viên ngoại quốc đi trong cánh quân của người, khi họ tỏ ḷng khâm phục người chiến binh Nhảy Dù ấy đă đứng giơ cao khẩu súng Browning thúc giục binh sĩ tiến lên, giữa những làn đạn đan chéo như vải trấu của địch quân :


- “ Nếu đạn không trúng ḿnh th́ ḿnh được tiếng anh hùng, mà nếu đạn có trúng th́ ḿnh cũng được tiếng anh hùng luôn ”!


https://www.youtube.com/watch?v=yl3vU-IpmXs
yl3vU-IpmXs


Trung tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy đơn vị tác chiến gần biên giới Campuchia.


https://blogger.googleuserco ntent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh3YPgvApnyQB1T o8P8RYTHBLpt5G-RKI5ecsWGUqMFN0__vh-nwXWcV7dmvcNo9yeQn1W cVSBuJ_sevJGNeWSUv8k WMttEfWgd9ibLv4UJgbS umjNGs4aNbORcIVipzDx rakuVDbsLS1vO/s0/39094259_21250596808 46966_56498693958669 43488_n_result.jpg

hoathienly19
10-30-2024, 04:53
Các loại pháo địch từ 122ly đến 130ly, chưa kể đến những loại cối 81 ly và các loại súng đại bác không giật 75 ly và 90 ly dội hàng chục ngàn quả lên vị trí của quân ta.

Chỉ tính riêng Trung Quốc đă viện trợ cho Bắc Việt 2,2 triệu khẩu súng bộ binh các loại, bệ phóng và đạn tên lửa tương đương cơ số một trung đoàn loại tên lửa Hồng Kỳ

Liên Xô viện trợ gần 500.000 khẩu và các nước Xă hội chủ nghĩa khác khoảng 900.000 khẩu


https://images.kienthuc.net. vn/zoomh/800/uploaded/tuananh/2019_06_21/5/nhung-nguon-chi-vien-lon-cho-cach-mang-viet-nam-trong-khang-chien-chong-my-Hinh-8.jpg


Quân Trung Đoàn 15 đánh lên An Lộc dọc theo QL13 từ Tân Khai tiến rất chậm v́ đạn pháo giặc.

Để tránh bị thiệt hại nặng, Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn đă lệnh cho binh sĩ mỗi người đào một hố nhỏ như những cái “miệng ve” để ẩn trú.

Nếu pháo dội trúng cái “miệng ve” nào, th́ chỉ một chiến sĩ ở chỗ đó bị tử thương mà thôi.

Trong một khoảng chiến tuyến mỗi chiều bề dài 300 thước, có hàng mấy trăm cái hố nhỏ, mấy ngàn quả pháo của cộng quân dội xuống, tính trung b́nh mỗi mét vuông lănh vài trái.

Nếu tính theo lư thuyết toán học th́ mỗi chiến sĩ Trung Đoàn “ăn” từ hai trái lấy lên, và như vậy toàn bộ trung đoàn coi như chết hết.

Nhưng thật kỳ diệu, chiến thuật “c̣ ỉa miệng ve” của quân ta lại cứu sống hàng ngàn sinh mạng chiến sĩ.

Dứt cơn pháo địch, chiến sĩ ta nhú đầu lên điểm danh quân số, th́ thấy rằng, nhờ ơn trời, rất ít chiến thương.

Tuy nhiên khi quân Trung Đoàn 15 tiến quân trên QL13 và giao chiến với quân địch, th́ con số thương vong lên rất cao.

Có nhiều đại đội trên 100 người, khi tàn cuộc chiến trở về Quân Khu IV chỉ c̣n khoảng ba chục chiến sĩ.


https://www.youtube.com/watch?v=Qeu-SXvZrJ8
Qeu-SXvZrJ8


Ở phía Nam Tân Khai, Sư Đoàn 21 Bộ Binh cũng bị thiệt hại nặng v́ pháo, nhiều sĩ quan cao cấp bị tử thương.

Trung Đoàn Trưởng của một trung đoàn là Trung Tá Nguyễn Viết Cần và một vị Trung Tá Trung Đoàn Phó của một trung đoàn khác hy sinh v́ pháo địch quá ác liệt.

Trung Tá Nguyễn Viết Cần chính là bào đệ của cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh.

Ông xuất thân từ binh chủng Mũ Đỏ Nhảy Dù, con đường binh nghiệp đang có nhiều triển vọng đi lên th́ ông bị liên can trong vụ thuộc cấp ngộ sát hai Quân Cảnh Mỹ tại Sài G̣n.

Thiếu Tá Cần bị thuyên chuyển về SĐ 21 BB, ít lâu sau ông thăng Trung Tá và nắm trung đoàn.

Cuối cùng th́ ḍng họ Nguyễn Viết đă cống hiến cho đất nước đến hai người con ưu tú.



https://www.youtube.com/watch?v=KXOVJ6F2-ks
KXOVJ6F2-ks


Theo lời kể lại của Đại Úy Tiến, một vị Tiểu Đoàn Phó của Trung Đoàn 15 Bộ Binh lên An Lộc tham chiến, th́ Trung Tá Cẩn đă lệnh cho ông phải đứng lên điều động binh sĩ giữa lúc đạn pháo giặc dội như băo xuống các vị trí Trung Đoàn.

Tất cả các vị chỉ huy cao cấp của Trung Đoàn đều phải nêu gương dũng cảm cho thuộc cấp và chiến sĩ, để cùng xông lên giải cứu An Lộc.

V́ những chiến công ngoài chiến trường, tính đến năm 1970 th́ Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn là chiến sĩ được tưởng thưởng nhiều huy chương nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, với 78 chiếc gồm :

- 1 Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương


https://blogger.googleuserco ntent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjPRFbshL9zMUz7 dXOO5VEdGUhar5G-xeuJTGKdlpcGRbL3Kzt_ V8jQ4ns11nuewvrKsH1y 3pySYpjiriT0vq9oPZfw kk6iTxdbKoiJCWR24FgX fzfP1ZaFEUfRPflnKtXa WYBoo_9Q-Vw/s1600/baoquochuanchuongde4 .jpg


- 25 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu


https://encrypted-tbn0.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcT acdNpHc5npC8VWpH4orf hR6UGxIuFekeTmg&s


- 45 Anh Dũng Bội Tinh với các loại Ngôi Sao


https://nhayduwdc.org/st/hcvnch/i/bt/T242_hc_qlvnch_bt_An hDung_78x242.png


- 3 Chiến Thương Bội Tinh và 4 Huy Chương Hoa Kỳ.


https://nhanquyen.co/wp-content/uploads/2021/05/HoNgocCan-unnamed.png


Sau khi trở về từ An Lộc, Trung Đoàn 15 Bộ Binh c̣n tăng viện cho các trung đoàn bạn và Sư Đoàn 7 Bộ Binh đánh những trận long trời ở miền biên giới Việt-Miên, các tỉnh bờ Bắc sông Tiền Giang.

Những tổn thất và vết thương c̣n chưa hồi phục từ chiến trường Miền Đông, lại vỡ toác ra từng mảnh lớn khác.

Nhưng có sá ǵ chuyện tử sinh, làm thân chiến sĩ th́ người lính của chúng ta chỉ biết tận lực hiến dâng xương máu cho nền tự do của tổ quốc và cho niềm hạnh phúc của dân tộc.

Một lần nữa, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn được trao cho một chức vụ trọng yếu và hết sức khó khăn, khó có ai đảm đương nổi.

Ông sẽ đi trấn nhậm tỉnh Chương Thiện, một tỉnh có địa h́nh phức tạp nhất vùng đồng lầy Miền Tây, với cái gai nhọn nhức nhối mật khu U Minh Thượng trong lănh thổ, từ đó quân Bắc Việt và Việt Cộng phóng ra những cuộc đánh phá lớn, uy hiếp các quận xă hẻo lánh.

Chọn Đại Tá Cẩn về trấn giữ tỉnh Chương Thiện, vị Tư Lệnh Quân Đoàn IV biết chắc Đại Tá Cẩn cùng với lực lượng Địa Phương Quân-Nghĩa Quân thiện chiến của ông sẽ ít nhất hóa giải được áp lực giặc, không cho chúng tiến xuống Cần Thơ.

Giữ vững được Chương Thiện tức là bảo đảm an toàn cho lănh thổ Quân Khu IV ở bờ Nam sông Hậu Giang.


https://www.youtube.com/watch?v=iNwrt98Wh8M
iNwrt98Wh8M


https://suckhoedoisong.qltns .mediacdn.vn/324455921873985536/2022/2/4/ho-trong-12-con-giap-hinh-tuong-ho-trong-van-hoa-phuong-dong-16439925109039532896 07.jpg

hoanglan22
10-30-2024, 20:55
QLVNCH nói về liên đoàn không ai mang cấp Tướng .Như Biệt đông quân mỗi liên đoàn có cấp TÁ chỉ huy và độc lập . BCD 81 cũng vậy chia ra gồm 3 chiến đoàn và mỗi chiến đoàn th́ có 4 Biệt đội họ không dùng đại đội như bên bộ binh bởi v́ biệt đội gồm có Xung kick , thám sát , trung đội hỏa lực etc ...C̣n các sư đoàn th́ có cấp TƯỚNG như Sư đoàn Dù , TQLC th́ chia ra gọi Lữ đoàn .C̣n bộ bịnh th́ chia ra có trung đoàn .Bên Không Quân th́ không đoàn chiến thuật .Về hải quân th́ là Giang đoàn về sông hạm đội th́ về biển .Đây là những QLVNCH dùng

hoathienly19
11-03-2024, 07:31
Trong thời gian Đại Tá Cẩn làm tỉnh trưởng Chương Thiện, nhiều huyền thoại khác về ông đă được kể lại.

Đại Tá Cẩn chẳng những là một nhà quân sự xuất chúng, mà c̣n là một nhà cai trị và b́nh định tài ba.

Một ngày trước khi ông nhận bàn giao tỉnh Chương Thiện, Đại Tá Cẩn đă ăn mặc thường phục, giả dạng thường dân đi thanh tra ngầm một ṿng tỉnh lỵ Vị Thanh.

Ông vào các ṣng bài, những nơi nhận tiền đánh số đề và những ổ điếm quan sát.

Ngày hôm sau, khi đă chính thức là vị Tỉnh Trưởng Chương Thiện, Đại Tá Cẩn cho gọi người Thiếu Tá Trưởng Ty Cảnh Sát tỉnh đến cật vấn nghiêm khắc về những tệ đoan xă hội trong tỉnh, rồi lập tức cách chức ông này.

Thay vào đó là Trung Tá Đường, một vị sĩ quan mẫn cán và tài năng.

Trung Tá Đường là cánh tay mặt vững chăi của Đại Tá trong lĩnh vực b́nh định, xă hội và truy bắt bọn Việt Cộng hoạt động dầy đặc trong tỉnh.

Bọn cộng phỉ rất căm thù Trung Tá Đường, đến nỗi sau ngày 30.4.1975 , chúng bắt được Trung Tá Đường, chỉ giam giữ ông một thời gian ngắn rồi đem ông ra xử bắn tại Vị Thanh.

Cùng đền ơn tổ quốc với Trung Tá Đường c̣n có Đại Úy Bé, Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Thám Báo Tỉnh.

Đại Úy Bé đă làm điêu đứng bọn giặc cộng, với những chiến sĩ Thám Báo nhảy sâu vào hậu cứ địch báo cáo tin tức, địch t́nh, cũng như tọa độ trú quân để Không Quân, Pháo Binh dội những cơn băo lửa lên đầu chúng.

Trung Tá Đường và Đại Úy Bé bị giặc tàn nhẫn bắn chết tại chân cầu dẫn vào thành phố Vị Thanh.


https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/8/8a/Almost_400_men%2C_wo men_and_children_mas sacred_by_the_Viet_C ong_during_%22Tet_19 68%22_were_mourned_a t_a_common-grave_burial_on_-_NARA_-_541845.tif/lossy-page1-220px-Almost_400_men%2C_wo men_and_children_mas sacred_by_the_Viet_C ong_during_%22Tet_19 68%22_were_mourned_a t_a_common-grave_burial_on_-_NARA_-_541845.tif.jpg H́nh minh họa



Có một ông Quận Trưởng nọ, muốn cho chi khu của ḿnh được an toàn tối đa, chiều nào cũng xin Pháo Binh tiểu khu yểm trợ hỏa lực, nại lư do Việt Cộng pháo kích hay tấn công.

Đại Tá Cẩn thỏa măn tối đa và được báo cáo là quận bị thiệt hại một kho xăng và kho lương thực.

Đại Tá tin thật, ông lệnh cho sĩ quan Trưởng Pḥng 3 chuẩn bị xe Jeep đi xuống quận.

Buổi chiều chạng vạng trên những con đường đất hoang vắng rợn người ở vùng quê Chương Thiện mà vị Tỉnh Trưởng trẻ của chúng ta dám đi xe Jeep cùng với một vài người lính, chỉ có những chiến binh dũng cảm như Đại Tá Cẩn mới làm được.

Ông Quận Trưởng đang nằm trên vơng rung đùi uống Martell hoảng kinh ngồi bật dậy mặt mũi tái xanh đứng nghiêm chào vị Tỉnh Trưởng đầy huyền thoại.

Đại Tá Cẩn đi thẳng xuống Trung Tâm Hành Quân của Chi Khu xem bản đồ và ra lệnh cho ông Quận :

- “Tôi muốn những ấp loại C sau ba tháng được nâng lên loại B.

Những ấp loại B sau ba tháng phải được nâng lên loại A ”.

Ngài Quận Trưởng tạm ngưng uống rượu và làm việc trối chết.

Đại Tá Cẩn không trừng trị tội xao nhăng nhiệm vụ của ông Quận, nhưng cung cách độ lượng và cương quyết của Đại Tá Cẩn giống như lưỡi gươm trừng phạt treo đung đưa trên đầu.

Đúng ba tháng sau, nhận được báo cáo khả quan của vị Quận Trưởng, Đại Tá Cẩn lại xuống quận ngủ đêm, sau khi đă trân trọng gắn lon mới tưởng thưởng cho ông này.

Nếu tất cả 44 tỉnh của Việt Nam Cộng Ḥa đều có những vị Tỉnh Trưởng can đảm, mẫn cán và tài ba như Đại Tá Cẩn, làm sao giang sơn hoa gấm của tổ tiên của chúng ta có thể lọt vào tay bọn cộng nô tay sai Nga Tàu dễ dàng như vậy được.

Chúng ta cũng được biết rằng, Đại Tá Cẩn là vị Tỉnh Trưởng trẻ tuổi nhất của Việt Nam Cộng Ḥa. Ông nhận chức vụ này hồi năm 1973, lúc ông mới có 35 tuổi.


https://www.youtube.com/watch?v=2cK-iFRC38s
2cK-iFRC38s



Những đóng góp và hy sinh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn lớn lao và nhiều không sao có thể kể được hết, suốt một đời người đă tận tụy với nước non , danh tiếng lừng lẫy và nắm giữ những chức vụ khó khăn, mà người vẫn khiêm nhường hết mực, giữ cuộc sống trong sáng và thanh liêm, tâm tư lúc nào cũng hướng về những thế hệ đàn em.

Một người bạn cũ trong một dịp gặp lại Đại Tá Cẩn ở Cần Thơ vào mùa hè 1974, đă hỏi ông :

- “Anh từng là Trung Đoàn Trưởng, hiện làm Tỉnh Trưởng, anh có nghĩ rằng sau này sẽ làm Tư Lệnh sư đoàn không” ?

Con người danh tiếng lừng lẫy trên các chiến trường đă khiêm tốn trả lời :

- “Tôi lặn lội suốt mười bốn năm qua gối chưa mỏi, nhưng kiến thức có hạn. Được chỉ huy trung đoàn là cao rồi, ḿnh phải biết liêm sỉ chớ, coi sư đoàn sao được.

Làm Tỉnh Trưởng bất quá một hai năm nữa rồi tôi phải ra đi, cho đàn em họ có chỗ tiến thân. Bấy giờ tôi xin về coi Trường Thiếu Sinh Quân, hoặc coi các lớp huấn luyện Đại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, đem những kinh nghiệm thu nhặt được dạy đàn em.

Tôi sẽ thuật trước sau hơn ba trăm trận đánh mà tôi đă trải qua ”.

Ôi cao cả biết ngần nào tấm chân t́nh với nước non và với thế hệ chiến binh đàn em của người. Con người chân chính để lại cho hậu thế những lời khí khái.


https://www.youtube.com/watch?v=0vNLr0v36K8
0vNLr0v36K8

hoanglan22
11-04-2024, 15:12
Nếu tính về quân số th́ nhiều hơn các sư đoàn dù hay TQLC và bộ binh .Cái lư do khi vào các đơn vị thiện chiến khám sức khỏe bị rớt th́ vào Biệt động quân hay các sư đoàn bộ binh .Ngay cả bên BCD 81 tuyển chọn rất kỹ không phải ai muốn vào cũng được cũng giống như Không Quân hay hải Quân

hoanglan22
11-04-2024, 15:25
Khi đăng lính vào trung tâm nhập ngũ sổ ở sai gon các binh chủng đều khám sức khỏe lúc đó phải cởi truồng hết và khám đủ thứ etc ...BCD 81 quan trọng nhất về mắt , tai và đôi bàn chân cho nên rất khó mà gia nhập .khi chọn vào viễn thám lại qua một khóa học thường bị loại ra khá nhiều bởi v́ học khóa mưu sinh tự sống không được tiếp tế khi ở trong rừng

hoathienly19
11-26-2024, 00:36
VINH DANH ĐẠI TÁ HỒ NGỌC CẨN

https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=120 2507&page=36#google_vigne tte


Cuối cùng th́ cái ngày tang thương 30.4.1975 của đất nước cũng đến.

Dân tộc Việt Nam được chứng kiến những cái chết bi tráng hào hùng của những vị thần tướng nước Nam, của những sĩ quan các cấp c̣n chưa được biết và nhắc nhở tới. Và của những người chiến sĩ vô danh, một đời tận tụy v́ nước non, những đôi vai nhỏ bé gánh vác cả một sức nặng kinh khiếp của chiến tranh.

Sinh mệnh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cũng bị cuốn theo cơn lốc ai oán của vận mệnh đất nước.

Chu vi pḥng thủ của Tiểu Khu Chương Thiện co cụm dần, quân giặc hung hăng đưa quân tràn vào vây chặt lấy bốn phía.

Những chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân của Chương Thiện nghiến răng gh́ chặt tay súng, quyết một ḷng liều sinh tử với vị chủ tướng anh hùng của ḿnh.

Đại Tá Cẩn nhớ lại lời đanh thép của ông :

- “ Chết th́ chết chứ không lùi ”.

Ông tự biết những khoảnh khắc của cuộc đời ḿnh cũng co ngắn lại dần theo với chu vi chiến tuyến.

Ông nhớ lại :

- Những ngày śnh lầy với Biệt Động Quân

- Những ngày lên An Lộc với chiến sĩ Sư Đoàn 9 Bộ Binh đi trong cơn băo lửa ngửa nghiêng

- Những lúc cùng chiến sĩ Sư Đoàn 21 Bộ Binh đi lùng giặc trong những vùng rừng U Minh hoang dă, và những chuỗi ngày chung vai chiến đấu với chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân thân thiết và dũng mănh của ông trên những cánh đồng Chương Thiện hoang dă.

Hơn ba trăm trận chiến đấu, nhưng chưa lần nào ông và chiến sĩ của ông phải đương đầu với một cuộc chiến cuối cùng khó khăn đến như thế này.



https://www.youtube.com/watch?v=Ls3U4j2tI5o
Ls3U4j2tI5o


Khoảng hơn 9 giờ tối ngày 30.4.1975, gần nửa ngày sau khi Tướng Dương Văn Minh đọc lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa buông súng đầu hàng, Đại Tá Cẩn cố liên lạc về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV xin lệnh của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam.

Người trả lời ông lại là phu nhân Thiếu Tướng Lê Văn Hưng.

Đại Tá Cẩn ngơ ngác không biết chuyện hệ trọng nào mà đă đưa Bà Hưng lên văn pḥng Bộ Tư Lệnh.

Bà Hưng áp sát ống nghe vào tai, bà nghe có nhiều tiếng súng lớn nhỏ nổ ầm ầm từ phía Đại Tá Cẩn.

Như vậy là Tiểu Khu Chương Thiện vẫn c̣n đang chiến đấu ác liệt và không tuân lệnh hàng cùa tướng Minh.



https://www.youtube.com/watch?v=rcmewCwA8mc
rcmewCwA8mc


Trước đó, khoảng 8 G 45 phút tối 30.4.1975 Thiếu Tướng Lê Văn Hưng đă nổ súng tử tiết, Thiếu Tướng Nam đang đi thăm chiến sĩ và thương bệnh binh lần cuối cùng trong Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ, rồi người tự sát ngay trong đêm.

Bà Thiếu Tướng Hưng biết Đại Tá Cẩn kiên quyết chiến đấu đến cùng, thà chết không hàng, v́ đó là tính cách thiên bẩm của người chiến sĩ Hồ Ngọc Cẩn. Nếu có chết th́ Đại Tá Cẩn phải chết hào hùng, trong danh dự của một người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa công chính.

Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cùng các sĩ quan trong Ban Chỉ Huy Tiểu Khu và các chiến sĩ Tiểu Khu Chương Thiện đă đánh một trận tuyệt vọng nhưng lừng lẫy nhất trong chiến sử Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.

Đánh tới viên đạn và giọt máu cuối cùng và đành sa cơ giữa ṿng vây của bầy lang sói. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 11 giờ trưa ngày 1.5.1975, quân ta không c̣n ǵ để bắn nữa, Đại Tá Cẩn lệnh cho thuộc cấp buông súng.


https://www.youtube.com/watch?v=Fgcko7vUWUE
Fgcko7vUWUE


Khi những người lính Cộng chỉa súng vào hầm chỉ huy Tiểu Khu Chương Thiện, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, vị Trung Úy tùy viên và các sĩ quan tham mưu, hạ sĩ quan và binh sĩ tùng sự đều có mặt.

Một viên chỉ huy Việt Cộng tên Năm Thanh hùng hổ chỉa khẩu K 54 vào đầu Đại Tá Cẩn dữ dằn gằn giọng :

- ”Anh Cẩn, tội anh đáng chết v́ những ǵ anh đă gây ra cho chúng tôi”. Đại Tá Cẩn cười nhạt không trả lời.



https://nhanquyen.co/wp-content/uploads/2021/05/HoNgocCan_4815721222 962675712_n.jpg


Nhưng bọn cộng phỉ không giết ông ngay, chúng đă có kế hoạch làm nhục người anh hùng sa cơ nhưng cứng cỏi của chúng ta.

Các sĩ quan tham mưu được cho về nhà, nhưng Đại Tá Cẩn th́ không, địch áp giải ông sang giam trong Ty Cảnh Sát Chương Thiện.

Vài ngày sau, các sĩ quan Tiểu Khu Chương Thiện cũng bị gọi vào giam chung với Đại Tá Cẩn.

Để làm nhục và hành hạ tinh thần người dũng tướng nước Nam, giặc cho phá hủy nhà cầu trong Ty Cảnh Sát và thay vào bằng một cái thùng nhựa.

Mỗi buổi sáng, ngày nào chúng cũng bắt Đại Tá Cẩn cùng một người nữa khiêng thùng phân đi đổ.

Người ưu tiên được làm nhục thứ hai là vị Phó Tỉnh Trưởng.

Dù cho các sĩ quan của ta có đề nghị hăy để cho mọi người làm công tác công bằng, nhưng bọn Cộng vẫn nhất quyết đày đọa Đại Tá Cẩn.

Người anh hùng của chúng ta chỉ mỉm cười, ung dung làm công việc của ḿnh. Chúa Jesus đă chẳng từng nói khi lên thập giá :

- “ Lạy Cha ở trên trời, họ không biết việc họ đang làm” đó sao.

Bà Đại Tá Cẩn lo sợ bị cộng quân trả thù nên bà đă đem cậu con trai duy nhất của ông bà là Hồ Huỳnh Nguyên, lúc ấy được 5 tuổi, về Cần Thơ ẩn náu và thay đổi lư lịch nhiều lần.

Nhớ thương chồng, nhiều lúc bà đă liều lĩnh choàng khăn che mặt xuống Vị Thanh t́m đến Ty Cảnh Sát đứng bên này bờ con rạch nghẹn ngào nh́n vào sang dăy tường rào kín bưng. Một vài sĩ quan ra xách nước trông thấy bà đă t́m cách dẫn Đại Tá Cẩn ra. Những khoảnh khắc cuối cùng đẫm đầy nước mắt ấy sẽ theo kư ức của bà Đại Tá Cẩn đến suốt khoảng đời c̣n lại của bà.

Đầu năm 1979 bà Cẩn cùng bé Nguyên liều chết vượt biển. Thượng Đế đă dang tay từ ái bảo vệ giọt máu duy nhất của Đại Tá Cẩn. Bà Cẩn và bé Nguyên đến được đảo Bidong thuộc Mă Lai.

Mười tháng sau hai mẹ con bà Đại Tá Cẩn được phái đoàn phỏng vấn Mỹ cho định cư tại Hoa Kỳ theo dạng ưu tiên có chồng và cha bị cộng sản bắn chết tại Việt Nam.


https://www.youtube.com/watch?v=BI0fXsGNjFw
BI0fXsGNjFw


Bọn phỉ không giết Đại Tá Cẩn ngay, chúng muốn làm nhục người và làm nhục quân dân Miền Tây.

Bọn chúng sẽ thiết trí một pháp trường và dành cho người một cái chết thảm khốc hơn. Đại Tá Cẩn không thể tử tiết, v́ là con chiên ngoan đạo, luật Công Giáo không cho phép con cái Chúa được tự tử.

Đại Tá Cẩn thường cầu nguyện mỗi buổi sáng và thổ lộ tâm tư với thuộc cấp trước khi ra trận :

- “ Sống chết nằm trong tay Chúa”.

V́ vậy viên đạn cuối cùng người bắn vào kẻ thù, để cho chúng biết rằng nước Nam không thiếu anh hùng.


https://scontent.fyto1-1.fna.fbcdn.net/v/t39.30808-6/465281199_8939908379 385968_5776294933528 930329_n.jpg?_nc_cat =103&ccb=1-7&_nc_sid=0b6b33&_nc_ohc=wmvK0LwwjcUQ 7kNvgE0gKQI&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-1.fna&_nc_gid=AjqedQybEl33 2Vefpd4L_aX&oh=00_AYCvlebYJ4WZO5 dhkfgpdO6kL-9hepQ0LZ-YdzBxS0bL2g&oe=674AD24B



Quân dân Miền Tây đă tiếc thương cái chết của hai vị thần tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng trong ngày u ám đen tối nhất của lịch sử Việt Nam.

Giờ đây, cũng trong bầu không khí ảm đạm đau buồn của ngày 14.8.1975, người dân thủ phủ Cần Thơ sẽ được chứng kiến giây phút ĺa đời cao cả của người anh hùng Hồ Ngọc Cẩn.

Bọn sói lang đă áp giải người từ Chương Thiện về Cần Thơ và cho bọn ngưu đầu đi phóng thanh loan báo địa điểm, giờ phút hành h́nh người anh hùng cuối cùng của Quân Lực Việt Cộng Ḥa.

Bọn tiểu nhân cuồng sát thay v́ nghiêng ḿnh kính phục khí phách của người đối địch, th́ chúng lại lấy ḷng dạ của loài khỉ và loài quỷ để đ̣i máu của người phải chảy. Chúng quyết tâm giết Đại Tá Cẩn để đánh đ̣n tâm lư phủ đầu lên những người yêu nước nào c̣n dám tổ chức kháng cự lại bọn chúng.

Thật đau đớn, trong khoảnh khắc cuối cùng này, bà Đại Tá Cẩn và người con trai c̣n phải ẩn trốn một nơi kín đáo theo lời căn dặn của Đại Tá Cẩn trước khi ông bị bắt, v́ sợ bọn chúng bắt bớ tra tấn, nên bà không thể có mặt để chứng kiến giây phút Đại Tá Cẩn đi vào lịch sử.


Đại Tá Cẩn bị giải lên chỗ hành h́nh, mấy tên khăn rằn hung hăng gh́m súng bao quanh người chiến sĩ.

Trước khi bắn người, tên chỉ huy cho phép người được nói. Đại Tá Cẩn trong chiếc áo tù vẫn hiên ngang để lại cho lịch sử lời khẳng khái:


- “Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi.

Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi.

Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân.

Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi.

Lịch sử sẽ phê phán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo Cộng Sản. Việt Nam Cộng Ḥa Muôn Năm”.

- “Tôi chỉ có một ḿnh, không mang vũ khí, tôi không đầu hàng, các ông cứ bắn tôi đi. Nhưng trước khi bắn tôi xin được mặc quân phục và chào lá quốc kỳ của tôi lần cuối”.

Dĩ nhiên lời yêu cầu không được thỏa măn. Đại Tá Cẩn c̣n muốn nói thêm những lời trối trăn hào hùng nữa, nhưng người đă bị mấy tên khăn rằn nón cối xông lên đè người xuống và bịt miệng lại.

Tên chỉ huy ra lệnh hành quyết người anh hùng. Điều duy nhất mà bọn chúng thỏa măn cho người là không bịt mắt, để người nh́n thẳng vào những họng súng thù, nh́n lần cuối quốc dân đồng bào. Rồi người ngạo nghễ ra đi.



https://nhanquyen.co/wp-content/uploads/2021/05/HoNgocCan-unnamed.png


Cùng ngẩng cao đầu đi vào chiến sử Việt Nam với Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn tại sân vận động Cần Thơ là người anh hùng Thiếu Tá Trịnh Tấn Tiếp, Quận Trưởng quận Kiến Thiện, bạn đồng khóa với Đại Tá Cẩn.

Thiếu Tá Tiếp đă cùng các chiến sĩ Địa Phương Quân Chi Khu chiến đấu dũng cảm đến sáng ngày 1.5.1975 th́ ông bị sa vào tay giặc.

Thiếu Tá Tiếp là một sĩ quan xuất sắc, trí dũng song toàn. Ông đă từng gây rất nhiều tổn thất nặng nề cho quân địch, nhờ tổ chức thám sát chính xác, có lần ông đă gọi B 52 dội trúng một trung đoàn cộng quân và hầu như xóa sổ trung đoàn này.

Cộng quân ghi nhớ mối thù này, người anh hùng của chúng ta sa vào chúng, th́ chúng sẽ giết chết ông không thương tiếc. Hai người anh hùng cuối cùng của miền Tây đă vĩnh viễn ra đi. Đất trời những ngày đầu mùa mưa bỗng tối sầm lại.


https://www.youtube.com/watch?v=9bKhd_s9BD0
9bKhd_s9BD0


Một nhân chứng đứng ở hàng đầu dân chúng kể lại rằng, trong những giây phút cuối cùng, Đại Tá Cẩn đă dơng dạc hét lớn :

“Việt Nam Cộng Ḥa Muôn Năm! Đả Đảo Cộng Sản”!

Năm sáu tên bộ đội nhào vào tấn công như lũ lang sói, chúng la hét man rợ và đánh đấm người anh hùng sa cơ tàn nhẫn.

Người phụ nữ nhân chứng nước mắt ràn rụa, bà nhắm nghiền mắt lại không dám nh́n. Bà nghe trong cơi âm thanh rừng rú có nhiều tiếng súng nổ chát chúa.

Khi bà mở mắt ra th́ thấy nhiều tên Việt Cộng quây quanh thi thể của Đại Tá Cẩn và khiêng đem đi.



https://scontent.fyto1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/58444937_10158732257 675620_7614806007390 142464_n.jpg?stp=dst-jpg_s720x720&_nc_cat=100&ccb=1-7&_nc_sid=13d280&_nc_ohc=gsZPiVM00v0Q 7kNvgE18QUK&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-1.fna&_nc_gid=AoJ4ZyUq53nN kiTBFku91xS&oh=00_AYAAVjrQXgJvw3 s0NsgYR84x8TfitS3T32 YzYiH8F1cTqQ&oe=676C6F11https://imagizer.imageshack. com/v2/519x480q70/922/T0wPFt.jpg



Đúng ra, phải vinh danh Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn là Chuẩn Tướng Hồ Ngọc Cẩn, v́ người đă anh dũng chiến đấu trên chiến trường và vị quốc vong thân.

Nhưng Tổng Thống Tổng Tư Lệnh, Tổng Tham Mưu Trưởng đă bỏ chạy từ lâu, Tư Lệnh Quân Khu IV đă tử tiết, lấy ai đủ tư cách trao gắn lon và truy thăng Chuẩn Tướng cho người.

Anh linh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đă thăng thiên.

Tên tuổi của ông đă đi vào lịch sử đến ngàn đời sau. Xin người hăy thương xót cho dân tộc và đất nước Việt Nam c̣n đang ch́m đắm trong tối tăm và gông xiềng cộng sản, xin hăy ban cho những người c̣n đang sống khắc khoải sức mạnh và quyết tâm.

Để cùng nhau đứng dậy lật đổ chúng, hất bọn chúng, tất cả bọn tự nhận là con cháu loài vượn đó vào vực thẳm lạnh lẽo nhất của địa ngục.

Phạm phong Dinh

hoathienly19
11-28-2024, 09:33
MỘT KỶ NIỆM VỀ ĐẠI TÁ HỒ NGỌC CẨN


https://i0.wp.com/hon-viet.co.uk/DaiTaHoNgocCan5.jpg


Tôi thuộc ḷng bài thơ “Après la bataille” cuả Victor Hugo và luôn xem đó là hành trang vào đời khi nhập ngũ :

- “ Làm cách nào đối xử với con người cả bạn lẫn thù với ḷng nhân ”

Tuy nhiên những ǵ xảy ra ngoài chiến trường nhiều khi khác hẳn với thơ Victor Hugo.
Nhân vật chính (mon père …) trong bài thơ là một vị tổng chỉ huy, có toàn quyền quyết định về hành động của ḿnh c̣n tôi chỉ là Y Sĩ Trung Úy, một cấp bậc rất nhỏ, ngoài phạm vi chuyên môn ra, có rất nhiều hoàn cảnh không thể tự ḿnh quyết định được như câu chuyện sau đây :

Thời Chiến Tranh Việt Nam, thông thường các Sĩ Quan cao cấp đối xử với Bác Sĩ rất tốt, cả hai bên đều tỏ ḷng qúy trọng lẫn nhau.

Nhưng cũng có rất nhiều nghịch cảnh, một chuyện ai cũng biết là đôi khi có vài binh sĩ v́ sợ chết nên đă “tự huỷ hoại thân thể” bằng nhiều cách như :

– Chích mủ xương rồng vào ngón tay để gây gangrène (mất ngón trỏ bàn tay phải th́ sẽ được giải ngũ v́ không thể bóp c̣ súng)

– Tự bắn vào ḷng bàn tay

– Đào một cái hố, tḥ bàn chân vào trong rồi ném kíp lựu đạn xuống hố, tự hủy hoại bàn chân v…v

Đại khái có rất nhiều cách mà chỉ trong thời gian ngắn một Bác Sĩ có thể phân biệt được vết thương nào là thật, vết thương nào tự tạo

Tuy nhiên cái khó nhất là xử sự ra sao với t́nh trạng hủy hoại thân thể.

Trong phần lớn trường hợp, dù biết tôi cũng bỏ qua không báo cáo, vẫn cho xe cứu thương hoặc gọi trực thăng tải thương.

Lần đầu tôi phải đối phó với sự trớ trêu là tháng 8 năm 1974 khi đi hành quân tăng phái cho Tiểu Khu Chương Thiện, lúc đó Tỉnh Trưởng là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn (Đại Tá Cẩn sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 bị Việt Cộng kết án tử h́nh và xử bắn tại Sân Vận Động Cần Thơ).

Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn lớn hơn tôi khoảng 5 tuổi, có vẻ mặt thư sinh và nho nhă, xuất thân từ Thiếu Sinh Quân, nhưng trái với những huyền thoại về một chiến binh can trường, cách nói chuyện cuả ông lại rất từ tốn và chín chắn tuy ông vẫn lấy làm tiếc là không được học cao nhưng là một quân nhân đúng nghĩa, thương binh sĩ, chiến đấu hết ḿnh và rất trọng người có học.

Ông tỏ ra rất qúy mến tôi, mỗi buổi chiều thường mời ăn cơm chung và những lúc rảnh rỗi ông bỏ ra cả giờ để tâm sự về cuộc đời.

Nhưng một buổi sáng giao t́nh của chúng tôi đột nhiên trở nên căng thẳng khi ông “mời” tôi đến thăm “chuồng cọp”, nơi giam giữ các quân nhân bị kỷ luật và các quân nhân tự hủy hoại thân thể.

Đại Tá Cẩn chỉ một anh lính bị vết thương hoại tử (gangrène) ở mắt cá chân rồi hỏi tôi, rất lịch sự:

- “ Xin Bác Sĩ cho biết trường hợp này nếu đưa vào Bệnh Viện sẽ phải cưa chân tới đâu ?”

- “ Tôi thấy là phải tải thương anh ta ngay, c̣n cưa chân tới đâu th́ Bác Sĩ ở Bệnh Viện mới quyết định đươc”.

Rồi tôi cũng gần như quên chuyện này v́ quân nhân đó là thuộc cấp của ông ta, không thuộc quyền tôi.

Nhưng hai, ba hôm sau Đại Tá Cẩn lại mời tôi tới thăm “chuồng cọp” .

Tôi ngạc nhiên tới mức không c̣n phản ứng ǵ khi thấy vẫn là anh lính cũ mà vết thương đă nặng hơn nhiều, sốt cao và gangrène đă tới gần đầu gối, Đại Tá Cẩn vẫn nói rất từ tốn nhưng có vẻ hơi lạnh lùng:

- ” Bác Sĩ cho biết nếu bây giờ tải thương th́ cưa chân tới đâu ?”

Tôi trả lời :

- “ Xin Đại Tá cho tải thương ngay đi, v́ cầm chắc phải cưa tới đầu gối ”

- “ Vậy tôi nhờ Bác Sĩ mỗi ngày ghé qua đây một lần, khi nào cưa tới háng th́ báo cho tôi biết ”

Bây giờ th́ tới lượt tôi nổi nóng :

- “ Đại Tá có đùa với tôi không đấy? là y sĩ tôi không thể mất nhân tính như vậy được ”

Mặt ông ta đột nhiên đỏ bừng và chuyển thái độ xưng hô :

- “ Anh có biết là chưa có một ai trong Tỉnh này dám trái lệnh tôi không ?”

Và cũng là lần đầu tôi lớn tiếng với một Sĩ Quan cao cấp :

- “ Tôi biết, người đầu tiên dám trái lệnh ông là tôi, ngay từ bây giờ ông có thể kiếm bất cứ ai không dám trái lệnh ông mà hỏi, tôi sẽ không làm việc với ông nữa ”

Rồi cả hai chúng tôi đều quay mặt bỏ đi không nói với nhau thêm lời nào.


https://i.ytimg.com/vi/iNwrt98Wh8M/hqdefault.jpg


Một điều tôi biết chắc chắn là ngoài chiến trường những Sĩ Quan cao cấp và có toàn quyền như Đại Tá Cẩn, nếu muốn giết một Quân Y Sĩ như tôi rất dễ dàng, có thể sai bất cứ một thuộc cấp nào làm rồi đổ cho chiến tranh là xong.

Tối hôm đó khi trở về pḥng ngủ, mấy người lính Quân Y và người cận vệ lo ngại lắm, tổ chức gác ṿng trong ṿng ngoài nhưng tôi chỉ biết cám ơn và nói với họ :

- “ Nếu họ muốn giết ḿnh th́ canh gác được tới bao giờ ?”

Tôi ngồi viết một bản tường tŕnh nhờ người cận vệ cất giữ để “nếu có ǵ xẩy ra” sẽ trao cho gia đ́nh tôi.

Qua hai ngày như thế, tới đêm thứ ba th́ bỗng nhiên Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đích thân tới pḥng tôi mời lên tư dinh để “nhậu chơi” với thái độ rất ḥa hoăn và lịch thiệp

Trong bữa tiệc rượu chỉ có hai người, ông tâm sự :

- “ Bác Sĩ có thể xem thường tôi nhưng thử nghĩ xem, tôi là một quân nhân thuần túy, phải trừng phạt họ để cảnh cáo chứ tôi cũng biết đau ḷng, và nếu ai cũng hủy hoại thân thể th́ lấy ai đánh Việt Cộng ?

- “ Khi đất nước mất rồi th́ chúng nó “cưa đầu” tất cả anh em ḿnh thành ra cái chân của một thằng hèn đâu có nghĩa lư ǵ ?”

Tôi thật sự cảm động với thái độ hết sức lư lẽ của ông ta nên cũng đáp lại :

- “ Tôi cũng suy nghĩ nhiều mấy ngày hôm nay, tôi hiểu và cảm phục Đại Tá nhưng mong Đại Tá cũng hiểu cho là những ǵ tôi được dạy dỗ từ trong gia đ́nh tới học đường đều là đúng và tôi không thể thay đổi cách suy nghĩ được ”.

Đaị Tá Hồ Ngọc Cẩn đă đứng dậy bắt tay tôi rồi nói :

- “ Tôi thành thật xin lỗi việc vừa qua, sáng mai nhờ Bác Sĩ tải thương binh này sang Quân Y Viện ”.

Câu chuyện đă gần 40 năm mà mỗi tháng tư đến, tôi vẫn nhớ tới Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn như chuyện mới xảy ra hôm qua và rất khâm phục thái độ “quân tử” của ông.

Bây giờ nghĩ lại tôi vẫn tiếc là ngày đó ḿnh c̣n qúa trẻ đầy tự ái và cao ngạo.

Đúng ra tôi phải t́m đến trước để nói chuyện với Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn th́ mới phải lẽ !

Mong hương hồn Đại Tá xem đây là một lời tạ lỗi cuả tôi, dù có hơi muộn màng.

BS Nghiêm Hữu Hùng

hoathienly19
12-01-2024, 09:07
MỖI GIA Đ̀NH MỘT THƯƠNG PHẾ BINH " THANKSGIVING 2024 ( NAM LỘC )


H́nh ảnh người Thương Phế Binh VNCH cô đơn ngay trên quê hương của ḿnh, luôn ấp ủ trong tim bóng Cờ Vàng thân yêu mà họ đă phải đổ bao máu xương để bảo vệ, nhưng trong ḷng lúc nào cũng cầu mong một đất nước ḥa b́nh, thể hiện tinh thần nhân bản của người lính VNCH.



https://baovecovang2012.word press.com/wp-content/uploads/2024/11/namloc_moigiadinhmot thuongphebinh.png


Kính thưa quư vị ,

Thanksgiving là thời điểm mà người ta dùng để tạ ơn những sự tốt lành và ân ủng mà Thượng Đế đă ban cho chúng ta.

Nhưng cũng để tạ ơn ông bà, cha mẹ.

- Tạ ơn các ân nhân đă giúp cho ta được b́nh yên, may mắn, đưa ta đến bến bờ tự do.

Và có lẽ thực tế nhất là tạ ơn những người đă hy sinh một phần thân thể cho chúng ta được sống.

Đó, chính là các vị Thương Phế Binh VNCH

Mỗi năm cứ vào dịp Lễ Tạ Ơn, Giáng Sinh hay Tết Nguyên Đán, chúng tôi lại xin mạn phép nhắc nhở quư vị đồng hương, luôn quan tâm đến hoàn cảnh của các TPB, nhưng v́ bận rộn công ăn, việc làm, nên quên nhă ư mà ḿnh muốn giúp đỡ.

Qua chương tŕnh “Mỗi Gia Đ́nh, Một Thương Phế Binh” mà chúng tôi đă phát động từ nhiều năm qua, tính đến ngày hôm nay, đă có gần 4000 TPB/VNCH mỗi năm nhận được sự trợ giúp trực tiếp từ quư vị đồng hương ở khắp nơi trên thế giới.

Kể từ năm 2006, khi được hân hạnh cộng tác với cố Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn, Hội HO Cứu Trợ TPB/VNCH đă có danh sách vào khoảng trên 17 ngàn TPB.

Hàng năm, tùy theo số tiền gây quỹ nhận được qua các buổi Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh, Hội HO/TPB đă gởi về VN giúp từ 8 cho đến 10 ngàn TPB mỗi năm.


Bà Nguyễn Thị Hạnh Nhơn phát biểu tại Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh kỳ 7 ngày 28 tháng 7 năm 2013 tại Bắc California (photo: Trần Minh Vàng/Việt Tide)



https://thanhthuy.me/wp-content/uploads/2017/04/hn-tgns.jpg?w=261

https://thanhthuy.me/2017/04/19/ba-nguyen-thi-hanh-nhon-nha-to-chuc-dai-nhac-hoi-cam-on-anh-tuong-tro-thuong-binh-vnch-vua-qua-doi/


Vào năm 2017, khi bà Hạnh Nhơn qua đời, th́ chúng tôi cũng xin từ nhiệm chức cố vấn của Hội HO/TPB, và chỉ c̣n tập trung vào chương tŕnh “Mỗi Gia Đ́nh, Một Thương Phế Binh”.

Cho đến năm nay, theo chính các thiện nguyện viên TPB ở trong nước tường tŕnh, th́ gần một nửa đă qua đời trong 18 năm qua.

Danh sách TPB tính đến mùa Tạ Ơn 2024, chỉ c̣n lại khoảng trên dưới 8500 người , tất cả tuổi cũng đă gầ đất xa Trời, nếu không giúp họ bây giờ th́ chẳng c̣n bao lâu nữa, họ cũng sẽ lần lượt ra đi.

Rất may mắn là chúng tôi vẫn tiếp tục nhận được sự hưởng ứng của đông đảo quư vị ân nhân ở khắp nơi trên thế giới, và được sự tiếp tay của các anh chị em thiện nguyện viên giúp kết nối từng gia đ́nh, từng hội đoàn hoặc từng cá nhân với quư vị TPB để các nhà bảo trợ tự gởi tiền về VN giúp cho họ.

Đặc biêt là năm nay ông bà NGUYỄN VƠ LONG cùng tổ chức PHONG TRÀO VIỆT HƯNG, mà chúng tôi là một thành viên đă có nhă ư bảo trợ nhiều hơn năm ngoái.

Danh sách TPB được ông bà nhận bảo trợ trong dịp Lễ Tạ Ơn 2024 đă lên đến 2600 người.

Trong khi đó một thân hữu khác của chúng tôi, ông bà NHÂN NGUYỄN tại San Jose cũng đă tặng 100 ngàn dollars cho Hội Tương Trợ TPB/VNCH để cộng vào số tiền mà chúng tôi đă tiếp tay gây quỹ trong năm qua, hội đang chuẩn bị gởi về VN giúp cho 1260 TPB.

Cạnh đó qua bài viết nhắc nhở ngày hôm nay, chúng tôi hy vọng con số hơn 500 vị ân nhân đă nhận danh sách TPB do chúng tôi chuyển đến vẫn tiếp tục giúp đỡ hàng năm khoảng 1000 TPB.

Đồng thời tổ chức “Mỗi Gia Đ́nh, Một Thương Phế Binh” tại Úc Châu cũng đang áp dụng phương thức này, và đặt mục tiêu giúp đỡ khoảng 500 TPB/VNCH trong thời gian sắp tới.


KHG Dương Nguyệt Ánh và Nam Lộc tại ĐNH Cám Ơn Anh 2008

https://baovecovang2012.word press.com/wp-content/uploads/2024/11/duongnguyetanh-namloc_2008.png?w=64 0


Với kết quả nói trên, th́ tổng cộng sẽ có khoảng 5000 TPB sẽ nhận được quà trong mùa lễ hội này, tuy nhiên vẫn c̣n hơn 3500 người khác cần sự giúp đỡ.

Và hôm nay, qua bài viết chúng tôi lại xin thành tâm kêu gọi quư vị đồng hương ở khắp nơi trên thế giới, hăy bỏ một chút t́nh thương , và ḷng tri ân bằng cách bảo trợ từ một hay nhiều TPB tùy theo khả năng và hoàn cảnh của quư vị.

Cũng theo nguyên tắc của chương tŕnh “Mỗi Gia Đ́nh, Một Thương Phế Binh” , quư vị chỉ cần nhờ các dịch vụ gửi tiền, hoặc đích thân trực tiếp gửi về cho họ mà không cần phải qua trung gian của bất cứ một cá nhân hay hội đoàn nào.



https://www.youtube.com/watch?v=MCnhSmSmkiE
MCnhSmSmkiE


https://www.youtube.com/watch?v=vdlHfDKELig
vdlHfDKELig



Xin quư vị hảo tâm liên lạc ngay với chúng tôi qua địa chỉ email :

namlocnguyen@yahoo.c om để nhận danh sách.

Tất cả Thương Phế Binh mà chúng tôi giới thiệu đều đă được các thiện nguyện viên, cựu chiến binh QLVNCH kiểm nhận và xác định trước khi chúng tôi chuyển đến quư ân nhân để xin giúp đỡ.

Xin chân thành cám ơn và kính chúc toàn thể quư vị một Lễ Tạ Ơn cùng một mùa lễ hội tràn đầy niềm vui và hạnh phúc.

Xin chân thành cám ơn và kính chúc toàn thể quư vị một Lễ Tạ Ơn cùng một mùa lễ hội tràn đầy niềm vui và hạnh phúc.

Nam Lộc

PS: Xin đính kèm một vài h́nh ảnh trong số hàng ngày quư vị TPB đang cần được giúp đỡ. Xin liên lạc với chúng tôi để nhận được đầy đủ chị tiết (namlocnguyen@yahoo. com).



https://baovecovang2012.word press.com/wp-content/uploads/2024/11/namloc_moigiadinhmot thuongphebinh_hinhan h.png?w=640

hoathienly19
12-02-2024, 11:27
LỊCH SỬ QUÂN CHỦNG HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG H̉A



(Trích trong phần sưu tầm trong trang mạng của Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH vùng Hoa Thịnh Đốn)


https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2017/10/huy-hieu-btlhqv4sn.jpg?w=126&h=123https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2017/10/huy-hieu-hqvidh-tvq-collection.jpg?w=124&h=122https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2017/10/huy-hieu-btl-hqv2dh-tvq-collection.jpg?w=128&h=125https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2017/04/huy-hieu-btl-hqv3dh-tvq-collection.jpg?w=124&h=125https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2017/10/huy-hieu-bo-tu-lenh-hqv4dh-tvq-collection.jpg?w=134&h=132https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2016/10/huy-hieu-btlhqv5dh-tvq-collection.jpg?w=132&h=128


https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2017/10/huy-hieu-bo-tu-lenh-ham-doi1.jpg?w=129&h=128


https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2016/03/huy-hieu-llldndp213-tvq-collection.jpg?w=106&h=130https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2017/04/huy-hieu-btlhqviii-song-ngoi.jpg?w=132&h=127https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2017/10/huy-hieu-btlhqv4sn.jpg?w=126&h=123https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2017/10/huy-hieu-luc-luong-dac-nhiem-trung-uong-hqvnch.jpg?w=127&h=123https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2016/08/huy-hieu-lldntb-211-tvq-collection.jpg?w=124&h=126https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2017/10/huy-hieu-lldn-tuan-tham-212.jpg?w=123&h=124




Những nhà nghiên cứu hải sử có mặt tại khúc quanh lịch sử Việt Nam, ngày 30 Tháng Tư năm 1975, đều thừa nhận mặc dù đột ngột tan hàng, song Hải Quân VNCH đă thực hiện trọn vẹn sứ mạng của Tổ Quốc Việt Nam giao phó bảo vệ tự do cho dân tộc trong suốt quá tŕnh ngăn chận làn sóng đỏ do Đảng cộng sản VN phát động thành một cuộc chiến nghiệt ngă huynh đệ tương tàn.

Suốt quá tŕnh 23 năm bảo vệ nước, căn cứ vào những mốc thời gian quan trọng th́ thành quả đạt được của quân chủng có thể chia làm 3 giai đoạn ; đặc biệt chú trọng đến sự lớn mạnh của Giang Lực và Duyên Lực :

- Giai đoạn khó khăn h́nh thành

- Giai đoạn chậm chạp phát triển

- Giai đoạn nhanh chóng bành trướng


https://dongsongcu.files.wor dpress.com/2017/10/khu-truc-ham-tran-hung-dao-hq-01.jpg?w=648


1. GIAI ĐOẠN KHÓ KHĂN H̀NH THÀNH (1952-1957)


Ngày lịch sử đau buồn mùng 1 Tháng Chín năm 1858 cũng là ngày đánh dấu khởi điểm suy tàn của triều đại Nhà Nguyễn, khi Đề Đốc (Hải Quân Thiếu tướng) Charles Rigault de Genouilly (1) chỉ huy :

- 2,500 lính viễn chinh Pháp và 1,000 lính thuộc địa Tây Ban Nha với 14 chiến hạm vào cửa Đà Nẵng bắn ch́m các chiến thuyền Việt Nam, chiếm các pháo đài bán đảo Sơn Trà rồi giao cho Hải Quân Đại Tá Toyon trấn giữ.


Đến ngày 11 Tháng Hai năm 1859, De Genouilly lại dẫn các chiến hạm trên vô cửa Cần Giờ đánh tan các chiến thuyền và đồn bót do Đề Đốc Trần Trí đang tổ chức pḥng thủ tại vịnh Gành Rái.

(1) Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược. Sài G̣n thư xă 1962. Chương 7: Nước Pháp lấy đất Nam Kỳ (từ trang 480 đến trang 492).



https://nghiencuulichsu.com/wp-content/uploads/2023/02/4-2.jpg



Thừa thắng tiến lên thượng nguồn, ngày 18 tháng 2 năm 1859 , quân Pháp lại tấn công đổ bộ qui mô từ bờ sông vào thành Gia Định.

Thành vỡ, Án Sát Lê Tứ và Hộ Đốc Vũ Duy Ninh đều tuẫn tiết.

C̣n lại Đề Đốc Trần Trí, Bố Chánh Vũ Trực cùng Lănh Binh Tôn Thất Năng rút tàn quân về cố thủ huyện B́nh Long.


https://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/5/55/Giadinh.jpg


Vào giữa thế kỷ thứ 19, hạm đội Pháp được các sử gia Tây phương đánh giá là hạm đội tối tân nhất trong các cường quốc Hải Quân Châu Âu đang săn t́m thuộc địa.

Các chiến thuyền lỗi thời của thủy quân Triều Nguyễn hành thủy từ những năm vua Gia Long phục quốc thống nhất sơn hà 1802, nên không đủ khả năng đương cự lại.

Qua hai trận thủy chiến mà tương quan kỹ thuật tác chiến quá chênh lệch như vậy thành ra quân ta thất trận hoàn toàn và thủy quân triều Nguyễn coi như thật sự bị xóa sổ từ đây, dù rằng dưới triều vua Tự Đức việc huấn luyện thủy quân rất được chú trọng đến


https://www.youtube.com/watch?v=vnbpJfjzIQI
vnbpJfjzIQI


Giở lại những trang quân sử thành lập Quân Lực VNCH (2), nếu gác bỏ ra ngoài những tai tiếng không tốt mà đối phương đă tuyên truyền về nếp sống xa hoa của cựu hoàng Bảo Đại lưu vong, người đọc sẽ thông cảm được quyết tâm cao tạo dựng một quốc gia Việt Nam (QGVN) độc lập, qua quyển CON RỒNG VIỆT NAM, của vị vua cuối cùng triều đại nhà Nguyễn.

Trải qua nhiều giai đoạn thương thuyết rất cam go với chính quyền thực dân Pháp, cựu hoàng Bảo Đại hết sức kiên nhẫn với tập đoàn thống trị để họ chấp nhận một nước Việt Nam độc lập trong Liên Hiệp Pháp được h́nh thành.

(2) Bộ Tổng tham mưu pḥng 5. Quân sử tập 4: Quân lực h́nh thành 1946-1955. Sài G̣n 1972.


Cựu hoàng Bảo Đại vận động thống nhất đất nước


https://nghiencuulichsu.com/wp-content/uploads/2020/09/37876949455_a00f9882 24_b.jpg


Ngày mùng 5 Tháng Sáu năm 1948, hiệp định sơ bộ Vịnh Hạ Long (dẫn đến hiệp định Elysée sau này) kư kết giữa Toàn Quyền Đông Dương Emile Bollaert và Thủ Tướng lâm thời Nguyễn Văn Xuân có cựu hoàng phó thư (countersign) trên chiến hạm Duguay Trouin thừa nhận nguyên tắc độc lập và thống nhất của nước Việt Nam với Quốc kỳ :

Cờ màu vàng 3 sọc đỏ và Quốc ca: Thanh Niên Hành Khúc của Lưu Hữu Phước. (3).

(3) Đoàn Thêm. Hai mươi năm qua, việc từng ngày. Sài G̣n 1966, trang 44-45.


https://encrypted-tbn0.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcS PIXp41XdOggK92gptRAN CRE6Xc40foQQQWGhJwvs 32wuuXD0G7Pyd40O322f Sj3XqrIc&usqp=CAU


Nhưng rồi Quốc Hội Pháp cứ làm ngơ, viện cớ chưa t́m được qui chế thích hợp cho Nam Kỳ, măi đến ngày 8 Tháng Ba năm 1949 mới thuận cho Tổng Thống Pháp Vincent Auriol và cựu hoàng Bảo Đại chính thức kư hiệp định Elysée chấp nhận nước Việt Nam độc lập trong khối Liên hiệp Pháp có tổ chức hành chánh riêng, tài chánh riêng, tư pháp riêng, quân đội riêng và Pháp sẽ ủng hộ Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc (4).

(4) Đoàn Thêm. Tài liệu đă dẫn, trang 52.



https://scontent.fyto1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/158503453_2063230480 511542_6286849924856 40286_n.jpg?_nc_cat= 107&ccb=1-7&_nc_sid=127cfc&_nc_ohc=bajoWboGuTIQ 7kNvgEJCVTk&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-2.fna&_nc_gid=At8M9AQmqmzY gKlapYKJLsY&oh=00_AYCR30YjIepRkN VIhg8dQtxCF3H__i40BX kQ5lAPIsdaNw&oe=6774E6A8


Như vậy, cực chẳng đă chính phủ Pháp đành phải trao trả nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lănh thổ cho vị nguyên thủ của nước Việt Nam là Quốc trưởng Bảo Đại.

Dĩ nhiên hiệp định này đi ngược lại quyền lợi của nước Pháp, v́ thực dân Pháp chỉ muốn cai trị nước ta như trước kia mà thôi.


https://live.staticflickr.co m/3876/14265618708_57385b03 53.jpg


Thực thi Hiệp Định Elysée, thỏa ước quân sự Pháp-Việt ngày 30 Tháng Mười Hai năm 1949 về Hải Quân lại bị tŕ trệ kéo dài đến giữa năm 1951, Đô Đốc Ortoli, tư lệnh Hải Quân Pháp ở Viễn Đông mới được lệnh lập kế hoạch huấn luyện quân sự để chuyển giao đầu tiên 2 Hải Đoàn Xung Phong cho Hải Quân Việt Nam.

Chương tŕnh chuyển giao các :

- Trục lôi hạm (YMS)

- Giang pháo hạm (LSIL)

- Trợ chiến hạm (LSSL)… sẽ tiến hành vào những năm kế tiếp.

Nhưng khi nắm quyền tổng chỉ huy hành chánh lẫn quân sự tại Đông Dương, Thống Tướng Jean de Lattre de Tassigny (5) muốn Hải Quân Việt Nam hoàn toàn thống thuộc mọi mặt vào lục quân Pháp, chứ không phải là một quân chủng riêng như Đô Đốc Ortoli đă đề nghị.

Viên tướng 5 sao này cho rằng một quân chủng kỹ thuật như Hải Quân không thể nào đứng vững được v́ thiếu cán bộ và chiến cụ.

(5) Đoàn Thêm ghi nhận trang 82, tài liệu đă dẫn: Từ nay, quân đội VN thuộc hẳn quyền Quốc Trưởng Bảo Đại, nhưng có cơ quan liên lạc với quân đội Liên Hiệp Pháp.


Ngày 15 Tháng Tám năm 1951, Pháp đồng ư cho tuyển mộ khóa 1 Sĩ quan Hải Quân gồm :

- 9 sinh viên ( 6 theo ngành chỉ huy và 3 theo ngành cơ khí )

– Phần đông là cựu sinh viên trường Thủy Văn Sài G̣n (Saigon Hydrography School)


- Khóa hạ sĩ quan có 50 và đoàn viên là 300.

C̣n về phía Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam, dù bị chèn ép mọi mặt, Quốc Trưởng Bảo Đại vẫn kiên tŕ tranh thủ xây dựng nền tảng bắt đầu từ con số không cho Quân Đội Quốc Gia.


https://chuyenxua.vn/wp-content/uploads/2022/07/bao-dai-41.jpg

hoathienly19
12-04-2024, 09:57
Kể từ sau ngày 24 Tháng Tám năm 1945 bị Hồ Chí Minh ép buộc thoái vị phải trao kiếm vàng cùng ấn ngọc cho đại diện Việt Minh Cộng Sản là Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận tại Ngọ Môn Huế, cựu hoàng hết sức thấm thía về việc hoàng triều không có một quân đội đủ mạnh để dẹp bỏ Việt Minh Cộng Sản trước rồi sau đó đẩy lui Phú-Lang-Sa và bảo vệ chủ quyền quốc gia trường tồn.



https://nghiencuulichsu.com/wp-content/uploads/2018/12/cuoc-doi-va-tinh-su-vua-bao-dai-07.jpg


Cho nên trong thông điệp ngày 15 Tháng Năm năm 1948 gửi cho Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân, cựu hoàng tán thành đề nghị thành lập Chính Phủ Trung Ương Lâm Thời và giao cho Quốc Vụ Khanh kiêm Tổng trấn Trung phần (sau này đổi tên là Thủ hiến Trung Việt) Phan Văn Giáo (6) trọng trách xây dựng một Quân Đội Quốc Gia Việt Nam gồm đủ cả Hải, Lục và Không Quân.

(6) Trần Hưng Đạo binh thư yếu lược – Nguyễn Ngọc Tỉnh. Paris 1988.


Cho đến năm 1949, Tổng Trấn Trung Phần Phan Văn Giáo đă thành công trong công tác tuyển mộ và huấn luyện cho tổ chức Việt Binh Đoàn tại Huế.

Sau Hiệp Định Elysée, lần lượt Vệ Binh Nam Phần và Bảo Chính Đoàn Bắc Phần cũng được thành lập vào giữa năm 1950.

Chính những đơn vị này là hạt nhân cơ bản cho tổ chức quân đội chính qui QGVN (The Vietnamese National Army) ra đời ngày 30 Tháng Giêng năm 1951 (Dụ số 1 0D/VOP/DQT/TS) kèm theo 2 sắc lệnh cùng ngày (7).

(7)Hoạt động trong sông của Hải Quân VNCH. Phó Đề đốc Đặng Cao Thăng, bài viết cho Hải sử 2000 (HS 2000)


https://image.vietnamnews.vn/uploadvnnews/Article/2016/11/22/P_20161122_082822849 72512PM.jpg


Sinh sau đẻ muộn hơn 2 quân chủng Lục và Không Quân v́ nghị định thành lập Hải Quân bị đ́nh hoăn nhiều lần.

Nhưng rồi do nhu cầu chiến cuộc, dụ số 2 đă cho phép Hải Quân ra đời ngày 6 Tháng Ba năm 1952, hồi tố đến ngày 1 Tháng Giêng năm 1952.

Vào thời điểm này, muốn thành lập một quân chủng kỹ thuật như Hải Quân mà không có /color] một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp giỏi, không có các phương tiện huấn luyện nhân sự [color=blue]quả là một điều không tưởng

Không c̣n cách nào tốt hơn để đốt giai đoạn, ngoại trừ chính phủ QGVN dựa vào những cơ sở huấn luyện có sẵn của Hải Quân Pháp để đào tạo nhân viên tân tuyển của ḿnh.

Cho nên trong khoảng thời gian từ năm 1951 đến năm 1953, hầu hết sĩ quan, hạ sĩ quan và đoàn viên tiên khởi của Hải Quân Việt Nam phải theo thực tập (On the job training) trên các chiến hạm, chiến đỉnh của Hải Quân Pháp đang hoạt động ngoài biển cũng như trong sông.


https://www.youtube.com/watch?v=e0MMyEEUUaI
e0MMyEEUUaI


Có thể nói những người t́nh nguyện gia nhập vào hàng ngũ Hải Quân Việt Nam trong hoàn cảnh quá khó khăn như vậy là những thanh niên quyết tâm bảo vệ quốc gia và ôm ấp mộng hải hồ.

Với tinh thần yêu nước cao độ, nhẫn nhịn chịu đựng tập luyện vượt qua nhiều giai đoạn cực khổ, cuối cùng họ đă chứng tỏ được khả năng hoàn hảo về kỹ thuật, hành thủy và tác chiến để xứng đáng nhận lănh đầu tiên 2 Hải Đoàn Xung Phong Cần Thơ và Vĩnh Long vào giữa năm 1953 (8).

(8)Giang Đoàn Xung Phong 22, 25 và 29. HQ/Đại Tá Lê Hữu Dơng, bài viết cho HS 2000

Khóa 1 Hải Quân Nha Trang từ trái :


- Nguyễn Văn Lịch

- Chung Tấn Cang

- Lâm Ngươn Tánh

- Trần Văn Chơn

- Đoàn Ngọc Bích

- Trần Văn Phấn


https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/d/d7/Kh%C3%B3a_1_H%E1%BA% A3i_Qu%C3%A2n_Nha_Tr ang.jpg/783px-Kh%C3%B3a_1_H%E1%BA% A3i_Qu%C3%A2n_Nha_Tr ang.jpg


Thái độ đối xử ḥa nhă cùng nhiệt t́nh làm việc của tân thủy thủ đoàn Việt Nam khiến cho một số sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp quên đi nỗi bất b́nh về lá cờ màu vàng 3 sọc đỏ đang phất phới bay trên các chiến đỉnh của họ mà họ c̣n nán lại phục vụ trong những ngày chót trước khi lên đường về nước.


https://www.youtube.com/watch?v=r8stXRNpjIQ
r8stXRNpjIQ

Giờ đây, Hải Quân Việt Nam là một thực thể trong ước mơ của những chàng trai trẻ ham ra khơi, thíchlướt sóng; nhất là viễn dương xuất ngoại du học.

Họ đă tạo được niềm tin vững mạnh cho Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm ban nghị định ngày 20 Tháng Tám năm 1955 thành lập Bộ Tư Lệnh Hải Quân (BTL/HQ) và chính thức bổ nhiệm HQ/Thiếu Tá Lê Quang Mỹ vào chức vụ tư lệnh Hải Quân kiêm chỉ huy trưởng đoàn Thủy Quân Lục Chiến.

Riêng Hải Đoàn 2 Xung Phong (Dinassault N0 2) được Tướng De Lattre ra lệnh thành lập từ đầu Tháng Hai năm 1951 theo nhu cầu cuộc chiến tại miền Trung châu Bắc việt vẫn trực thuộc Bộ Chỉ Huy Giang Lực của Pháp (COFFLUSIC) và sát nhập vào Hải Đoàn 21 Xung Phong đầu năm 1955 khi vào Nam (9).

(9) Lược sử tổ chức Hải Quân VNCH. HQ/Trung Tá Vũ Hữu San, bài viết cho HS 2000



https://www.youtube.com/watch?v=k-la_EV03yo
k-la_EV03yo


*************

hoathienly19
12-06-2024, 09:29
Đầu năm 1956, tổng thống VNCH chấp thuận dự án Giang Lực dự trù thành lập 5 Hải Đoàn Xung Phong, mỗi hải đoàn sẽ được trang bị :


- 05 Trung vận đỉnh LCM6 (Landing craft Mechanized)


Trung-vân-đĩnh LCM (Landing craft medium) có gắn bửng chống đạn (blindage) cho tất cả vũ-khí cộng-đồng như đại-bác 20 ly, đại-liên 50 và 30.


https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/trung-van-dinh-lcm-6.jpg?w=1000


- 04 Tiểu vận đỉnh LCVP (Landing craft vehicle and personnel)

Tiểu-vận-đĩnh LCVP (Landing craft vehicle personnel), trang bị đại-bác 20 ly trước mũi, 2 đại-liên 30 trên mui và 2 đại-liên 30 hai bên hông, tất cả đều có gắn bửng chống đạn, mang theo dụng-cụ rà ḿn sau lái


https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/tieu-giap-dinh-fom.jpg?w=1000


- 05 Hô-bo vận tốc nhanh (Hors bord)

- 02 Quân vận hạm LCU (Landing craft utility)

- 02 Tàu kéo quân cảng YTL (harbor craft)

- 01 Giang pháo hạm LSIL (Landing ship infantry large) tăng phái.


http://sqhq25.org/html_files/tailieu/shipsVNCH/Image196.gif



Đó là các :

- Hải Đoàn 21 Xung Phong (hậu cứ tại Mỹ Tho)

- Hải Đoàn 23 Xung Phong (hậu cứ tại Vĩnh Long)

BRP Yakal AR-617, nguyên là Cơ xưởng hạm Vĩnh Long HQ802.


http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1385398424.jpg


- Hải Đoàn 24 Xung Phong (hậu cứ tại Cát Lái)


- Hải Đoàn 25 Xung Phong (hậu cứ tại Cần Thơ)


BRP Kalinga Apayao LT-516, nguyên là LST Cần Thơ HQ 801


http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1385397390.jpg


- Hải Đoàn 26 Xung Phong (hậu cứ tại Long Xuyên).


Riêng về Hải Lực, đến cuối năm 1957, số chiến hạm được Pháp chuyển giao lên 21 chiếc gồm :

05 Hộ tống hạm PC (Patrol Craft or submarine chaser) là :

- HQ01 – Chi Lăng

- HQ02 – Vạn Kiếp


http://sqhq25.org/html_files/tailieu/shipsVNCH/Image190.gif


- HQ03 – Đống Đa

- HQ04 – Tuy Động

- HQ05 – Tây Kết

Hộ tống hạm Vạn Kiếp HQ-02 (H́nh của phóng viên HQVNCH chụp năm 1960)


https://bienxua.wordpress.co m/wp-content/uploads/2020/04/ho-tong-ham-van-kiep-hq.02..jpg?w=627


03 Trục lôi hạm YMS (Yard MineSweeper) là :

Họa đồ kiến trúc YMS

YMS = Yard Minesweeper hay Trục lôi hạm , có thể được xem là những chiến hạm đầu

tiên của Hải Quân Quốc Gia Việt Nam.


- HQ111 – Hàm Tử


https://dongsongxua.files.wo rdpress.com/2020/04/yms-plan.jpg?w=584


Truc Lôi Hạm Chương Dương HQ-112 (YMS).

- HQ112 – Chương Dương


https://dongsongxua.files.wo rdpress.com/2020/04/truc-loi-ham-chuong-duong-hq-112..jpg?w=581


- HQ113 – Bạch Đằng.


https://dongsongxua.files.wo rdpress.com/2020/04/truc-loi-hambach-dang-hq113.jpg?w=578


02 Trợ chiến hạm LSSL (Landing Ship Support Large) là :


- HQ225 – Nỏ Thần (Nguyễn Văn Trụ)


http://sqhq25.org/html_files/tailieu/shipsVNCH/Image194.gif


- HQ226 – Linh Kiếm (Lê Trọng Đàm)


http://sqhq25.org/html_files/tailieu/shipsVNCH/Image195.gif


05 Giang Pháo Hạm LSIL (Landing Ship Infantry Large) là :


- HQ327 – Long Đao

http://sqhq25.org/html_files/tailieu/shipsVNCH/Image192.gif


- HQ328 – Thần Tiễn


GPH Thần Tiển HQ328 (H́nh của manhhai).



https://dongsongxua.files.wo rdpress.com/2020/04/giang-phao-ham-than-tien-hq.328.jpg?w=825


- HQ329 – Thiên Kích


http://sqhq25.org/html_files/tailieu/shipsVNCH/Image193.gif


- HQ330 – Lôi Công


Giang pháo hạm Lôi Công HQ330 và Trợ chiến hạm Đoàn Ngọc Tăng HQ228 (H́nh của manhhai).


https://dongsongxua.files.wo rdpress.com/2020/04/giang-phao-ham-loi-cong-hq330-va-tro-chien-ham-doan-ngoc-tang-hq226.jpg?w=825


- HQ331 – Tấm Sét.


https://dongsongxua.files.wo rdpress.com/2020/04/giang-phao-ham-tam-set-hq331.jpg?w=825


04 Hải Vận Hạm LSM (Landing Ship Medium) là :


Bịnh viện hạm Hát Giang, HQ 400


- HQ400 – Hát Giang


https://blogger.googleuserco ntent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjyAcxGkvc7m6-IjlBiX0fnPrMERbh68LZ L0FDKtMBYpmzvp1_9ZfY uosOvbp_K8bNRAqssHdb e2G_LA1WgIdOA_P931a1 k29NcKL-mIe42E62O473asVJobS9 WCh4gG_kQajqb84tbp6a 6/s640/hq400.jpg


- HQ401 – Hàn Giang


https://scontent.fyto1-2.fna.fbcdn.net/v/t39.30808-6/240432339_1089841304 881331_7406712255969 504167_n.jpg?_nc_cat =110&ccb=1-7&_nc_sid=33274f&_nc_ohc=a_fhkbnD5DkQ 7kNvgFXc6Eg&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-2.fna&_nc_gid=AFuXZ7i2zTxk DXcs4Co_Ww_&oh=00_AYA-O_tNBdhIvhASpMx4M2oI NbXTw-lzVSkRz20bhhdZng&oe=6758ADD1



- HQ402 – Lam Giang


https://vietbao.com/images/file/lrHt_zHQ1ggBAJFU/hq-chien-ham-402.jpg



- HQ403 – Ninh Giang


https://ci5.googleuserconten t.com/proxy/3d01Pf_pfgn1lhE4s_f4 fnJjOqQR_vC7TiemSV3G XqtAvUOwXXE2khBP1PuT zj5v3Qe3nvDys-rapU_Fji7hi-S9gY68Kg5n758p3XjOVD IfEA=s0-d-e1-ft



01 Hỏa vận hạm YOG (Oiler) là:

- HQ470


https://i0.wp.com/sqhq25.org/html_files/tailieu/shipsVNCH/Image211.gif


01 Huấn luyện hạm AKL (Loại tàu vận chuyển) là :

- HQ451 – Quá Giang



**********

hoathienly19
12-07-2024, 12:20
2 . GIAI ĐOẠN CHẬM PHÁT TRIỄN ( 1958-1967 )


Năm 1958 được chọn làm mốc thời gian v́ những sự kiện quan trọng sau đây:

Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang được Pháp chuyển giao toàn bộ lại cho Hải Quân Việt Nam.

Hải Quân Việt Nam tăng lên 5,000 người

Khóa 8 Sĩ qian Nha Trang (Đệ I Hổ Cáp) có 50 sinh viên nhập học với giáo sư, giảng viên và huấn luyện viên hoàn toàn là người Việt Nam.

Quân số Giang Lực gia tăng 50% cho :

- 5 Hải Đoàn Xung Phong trang bị 96 chiến đĩnh đủ loại.



https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/7aa09-1-72d.jpg?w=867&h=633


Đầu năm 1960 , Bộ Tư Lệnh Hải Quân phúc tŕnh đặc biệt lên Bộ Tổng Tham Mưu về Tiểu đoàn 603 Việt Cộng tức Tập Đoàn Đánh Cá Sông Gianh đă lén lút xâm nhập vào Duyên khu Đà Nẵng.

Tổng Thống Diệm chấp thuận thành lập ngay 4 Đội Hải Thuyền đầu tiên :

- Đội 11 Cửa Việt

- Đội 12 Cửa Thuận An

- Đội 13 Cửa Tư Hiền

- Đội 14 Cửa Hội An.

HQ/Đại Úy Nguyễn Văn Thông (khóa 3 Sĩ Quan Nha Trang) chỉ huy huấn luyện 400 tuần viên sơ khởi cho 80 ghe đủ loại.


https://www.youtube.com/watch?v=vd1W0xjs1bM
vd1W0xjs1bM


Năm 1962, Hải Đoàn 22 Xung Phong được thành lập


HQ/Đại Úy Huỳnh Duy Thiệp (khóa 7 Sĩ quan Nha Trang) là chỉ huy trưởng đầu tiên.

Đến cuối năm này, lực lượng Hải Thuyền tăng lên 28 đội đóng dọc theo duyên hải với 800 tuần viên, rồi được cải danh thành Duyên Đoàn khi quân số tăng lên đến 4,000 người.



https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/4f37c-1-72b.jpg?w=918&h=634


Đến đầu năm 1963, HQ/Đại Tá Hồ Tấn Quyền, tư lệnh Hải Quân mở cuộc hành quân thủy bộ b́nh định Năm Căn : [/i][/color][/size][/b]

- Chiến dịch Sóng T́nh Thương[b][size=4][color=green][i]

Bước ngoặt chính trị năm 1963 :

Được sự ủng hộ của Đại Sứ Mỹ Henry Cabot Lodge (vua tổ chức đảo chánh), các tướng lănh Việt Nam đă làm cuộc đảo chánh ngày 1 Tháng Mười Một năm 1963 giết chết Tổng Thống Diệm và chấm dứt nền Đệ I VNCH (11).


(11) Karnow, Stanley. Tài liệu đă dẫn, nhận xét về Tổng Thống Diệm: “… into South Vietnam’s military and Police machinery, leaving only small fraction for economie development; and he was less interested in building an army to fight Viet Cong guerrillas than in forming conventional units that would protect him against his rival in Saigon…” Karnow cựu thông tín viên cho các tờ Times, Life và The Washington Post kiêm chủ nhiệm The New Republic về vấn đề Đông Nam Á, nổi tiếng qua quyển “Mao and China” năm 1972 v́ những sự thật được phơi bày trong đó.

Nhưng đến quyển Vietnam a story xuất bản năm 1983, ông vấp phải nhiều sai sót nghiêm trọng, có lẽ v́ không được ở Việt Nam lâu bằng ở Trung Cộng.

Điển h́nh là ông không biết Liên Binh Pḥng Vệ dinh Tổng Thống có mấy Tiểu đoàn và Lực lượng Đặc biệt của Trung tá Lê Quang Tung có bao nhiêu đại đội thuộc Cần Lao?

Ông cũng không biết đến quốc sách 7 ngàn ấp chiến lược với 8 triệu dân quân đang ngày đêm trực diện chiến đấu với cộng sản tại nông thôn hẻo lánh. Thành thử ông nhận định hàm hồ như vậy cũng phải !

Trong cuộc chính biến này, HQ/Đại Tá Hồ Tấn Quyền, tư lệnh Hải Quân cũng bị một sĩ quan đàn em chối bỏ truyền thống quân chủng ám sát chết (12).


12) Nghi phạm ám sát HQ/Đại Tá Hồ Tấn Quyền (khóa 1 Sĩ quan Nha Trang) là HQ/Thiếu Tá Trương Ngọc Lực (khóa 2 Sĩ quan Nha Trang).

Các Tướng lănh tổ chức cuộc đảo chánh ngày 1 Tháng Mười Một năm 1963
đă sai lầm trong quyết định dùng một sĩ quan đàn em sát hại sĩ quan đàn anh mà không đếm xỉa ǵ đến truyền thống quân chủng Hải Quân.

Ngay khi nhận thấy hậu quả nghiêm trọng về cái chết của tư lệnh Hải Quân.

Hội Đồng Tướng Lănh vội vă thăng cấp trung tá Bộ Binh cho Lực rồi đẩy ra nước ngoài để tránh búa ŕu nguyền rủa của cả Hải Quân vào thời đó.


https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/4/4a/Commander_Ho_Tan_Quy en.jpg/710px-Commander_Ho_Tan_Quy en.jpg


V́ không c̣n lănh tụ nào sáng giá hơn ông Diệm, nên t́nh h́nh chính trị miền Nam trở nên bất ổn.

Quân đội phân hóa, đảo chánh liên miên, sinh viên học sinh biểu t́nh hàng ngày.

Lợi dụng t́nh trạng rối ren tại thành phố và hoang phế 7,000 ấp chiến lươc tại nông thôn, Việt Cộng gia tăng cường độ ám sát khủng bố và bắt đầu tổ chức đánh lớn cấp trung đoàn.



https://scontent.fyto1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/37087788_46559005721 4193_120747975690839 6544_n.jpg?_nc_cat=1 01&ccb=1-7&_nc_sid=127cfc&_nc_ohc=eesV46Fu9NMQ 7kNvgGwJSPC&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-2.fna&_nc_gid=A8A0tCaN51_z UE28uPAnFCT&oh=00_AYAVnRGb4F-V4hKh-lLWn79rj24VKsfFDt0-r4G1U9_EWQ&oe=677BACE4


Cuối năm này, Hải Quân mất luôn quyền chỉ huy Liên Đoàn Thủy Quân Lục Chiến khi binh chủng thống thuộc này trở thành lữ đoàn tổng trừ bị do Trung Tá Lê Nguyên Khang làm tư lệnh và bị áp đặt trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu về mọi mặt giống như binh chủng Nhảy Dù của Không Quân.


https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/c66d6-1-18.jpg?w=923&h=616


Đến hết năm 1964, Hải Quân cũng chưa thoát khỏi quỹ đạo lục đục trên đây, các sĩ quan khóa 2 Nha Trang gồm :

- HQ/Trung Tá Nghiêm Văn Phú, chỉ huy trưởng Hải lực

- HQ/Trung Tá Đỗ Quư Hợp, chỉ huy trưởng Giang Lực

- HQ/Trung Tá Khương Hữu Bá, chỉ huy trưởng Duyên Lực

- HQ/Trung Tá Đặng Cao Thăng, (khóa 1 Brest), giám đốc Hải Quân Công Xưởng đồng ḷng lật đổ Phó Đề Đốc Chung Tấn Cang, tư lệnh Hải Quân về vụ thủy cước.


https://www.youtube.com/watch?v=6_vLRelnHuc
6_vLRelnHuc


Sau ngày 8 Tháng Ba năm 1965, quân đội Hoa Kỳ đổ bộ lên hải cảng Đà Nẵng, Hải Quân có 7 Hải Đoàn Xung Phong.

Với bảng cấp số (SOP) mới 1965, Hải Đoàn Xung Phong được cải danh là Giang Đoàn Xung Phong (River Assault Group = RAG) có quân số 150 người.

Sáu trong bảy Giang đoàn loại này được trang bị :
• 01 Giang đỉnh chỉ huy (Commandement Monitor)

• 01 Chiến đấu đỉnh (Combat Monitor)

• 05 Trung vận đỉnh LCM6

• 06 Tiểu vận đỉnh LCVP

• 06 Xung kích đỉnh STCAN or FOM.

Riêng Giang đoàn 27 Xung Phong trang bị hơi khác biệt với 6 Giang đoàn kia :

- 01 Giang đỉnh chỉ huy + 01 Chiến đấu đỉnh + 06 Quân vận đỉnh LCM8 và 10 Tiểu đỉnh RPC (River Patrol Craft) (13).

(13) Tham chiếu quyết định của Hội Đồng Tu Chính Hải Qui do Phó Đề Đốc Lâm Nguơn Tánh làm chủ tịch, BTL/HQ/P5 ban hành một tài liệu căn bản về việc định danh (đặt tên) cho các chiến hạm và chiến đỉnh vào Tháng Sáu năm 1971.

Tên các chiến đỉnh trong tập này được viết theo đúng tinh thần sự vụ văn thư đă phổ biến. Xin xem chương tŕnh ACTOV trong tập này, trang…


https://www.youtube.com/watch?v=k-la_EV03yo
k-la_EV03yo


Quân số Giang lực lúc bấy giờ tăng thành 1,150 người kể cả Bộ Chỉ huy Giang lực và 3 Ban Chỉ Huy hành chánh Liên Giang Đoàn (type).

Ngày 19 Tháng Sáu năm 1965 được gọi là Ngày Quân Lực do sắc lệnh của Chủ tịch Ủy ban Hành Pháp Trung ương (tương đương với thủ tướng chính phủ) Nguyễn Cao Kỳ ban hành để chấm dứt thời kỳ khủng hoảng chính trị kéo dài. (14).


(14) Trên thế giới, các quốc gia văn hiến chọn ngày truyền thống Quân Đội (Ngày Quân Lực) là ngày đề cao giá trị tinh thần bất khuất, anh dũng hy sinh và t́nh đoàn kết chiến đấu v́ mục tiêu cao cả của người chiến binh ḿnh. Úc Đại Lợi (Australia) chẳng hạn, Lưỡng Viện Quốc Hội Úc đă chọn ngày 25 Tháng Tư hằng năm làm ngày ANZAC.

Cái độc đáo của ngày Quân Lực Úc là ngày bại trận tổn thất đến 5,000 chiến binh nhưng lại nói lên tinh thần keo sơn đoàn kết, hào hùng chiến đấu của Liên Quân Úc và Tân Tây Lan trên chiến trường quá bất lợi Gallipoli (Thổ Nhĩ Kỳ) vào ngày 25 Tháng Tư năm 1915.

C̣n ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu năm 1965 của nền Đệ II VNCH chỉ là ngày mà Chủ tịch Ủy ban Lănh đạo Quốc gia Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Chủ tịch Ủy ban hành pháp Trung ương Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đồng ư với nhau mà thôi, không làm đảo chánh nữa v́ đă loại bỏ chính quyền dân sự Phan Khắc Sửu (Tổng thống) và Phan Huy Quát (thủ tướng) rồi.

Ngày truyền thống của Quân Lực VNCH mà chỉ có hai người quyết định giống như trong thời kỳ quân chủ chuyên chế. Thật hiếm thấy thay!


https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/2dac1-1-24.jpg?w=925&h=614


************

hoathienly19
12-11-2024, 10:12
Gần cuối năm 1965 , lực lượng Hải Thuyền 4,000 người được sáp nhập vào Hải Quân.

Tuần viên cải danh thành đoàn viên kèm theo cấp số chính thức cho mỗi duyên đoàn là 03 ghe chủ lực, 03 ghe di cư và 16 ghe chèo.

Trong 7 năm đầu, Hải Quân tiến triển chậm chạp nhưng trong 3 năm sau, Hải Lực đă nhận thêm một số chiến hạm đáng kể :

03 Trục lôi hạm MSC (Mine Sweeper Craft) là :

-HQ114 – Hàm Tử II

- HQ115 – Chương Dương II


MSC-282 : HQ-115 Chương Dương II


https://benxua.files.wordpre ss.com/2020/05/truc-loi-ham-chuong-duong-hq115..jpg?w=606


- HQ116 – Bạch Đằng II


MSC-283 : HQ-116 Bạch Đằn


https://dongsongxua.files.wo rdpress.com/2020/04/truc-loi-ham-bach-dang-ii-hq116.jpg?w=607


01 Hộ tống hạm PC là:

- HQ06 – Vân Đồn.

02 Hộ tống hạm PCE (Patrol Craft Escort) là :

- HQ07 – Đống Đa

Hộ tống hạm Đống Đa II HQ-07 (H́nh của Rod Allen, cựu chiến binh Úc).


https://bienxua.files.wordpr ess.com/2020/04/ho-tong-ham-dong-da-ii-hq.07...-1.jpg?w=1000


- HQ12 – Ngọc Hồi

Hộ tống hạm Ngọc Hồi HQ-12 (H́nh của Naval History and Heritage Command)


https://dongsongxua.files.wo rdpress.com/2020/04/ho-tong-ham-ngoc-hoi-hq12..jpg?w=540


04 Hộ tống hạm MSF (Mine Sweeper Fleet) là :

- HQ08 – Chi Lăng II


HQ 08 Chi Lăng II (MSF 239 USS Gayety)


https://bienxua.files.wordpr ess.com/2019/04/ho-tong-ham-chi-lang-ii-hq08..jpg?w=540


- HQ09 – Kỳ Ḥa


Hộ Tống Hạm Kỳ Ḥa HQ-09


https://bienxua.files.wordpr ess.com/2019/05/ho-tong-ham-ky-hoa-hq09..jpg?w=540


- HQ10 – Nhựt Tảo

Hô Tống Hạm Nhựt Tảo HQ-10


https://dongsongxua.files.wo rdpress.com/2020/04/ho-tong-ham-nhut-tao-hq-10.jpg?w=603


- HQ11 – Chí Linh

Hộ Tống Hạm Chí Linh HQ-11



https://dongsongxua.files.wo rdpress.com/2020/04/ho-tong-ham-chi-linh-hq11.jpg?w=611


03 Hải vận hạm LSM (Landing Ship Medium) là :

- HQ404 – Hương Giang

- HQ405 – Tiền Giang

- HQ406 – Hậu Giang.


03 Dương vận hạm LST (Landing Ship Tank) là :

- HQ500 – Cam Ranh

- HQ501 – Đà Nẵng

- HQ502 – Thị Nại.

20 Tuần duyên hạm PGM (Patrol Gunboat) là :

- HQ600 – Phú Dự

- HQ601 – Tiên Mới

- HQ602 – Minh Ḥa

- HQ603 – Kiến Vàng

- HQ604 – Keo Ngựa

- HQ605 – Kim Quy

- HQ606 – May Rút

- HQ607 – Nam Du

- HQ608 – Hoa Lư

- HQ609 – Tổ Yến

- HQ610 – Định Hải

- HQ611 – Trường Sa

- HQ612 – Thái B́nh

- HQ613 – Thị Tứ

- HQ614 – Song Tử

- HQ615 – Tây Sa

- HQ616 – Hoàng Sa

- HQ617 – Phú Quư

- HQ618 – Ḥn Trọc

- HQ619 – Thổ Châu.

02 Hỏa Vận Hạm YOG là :

- HQ471

- HQ472

05 Trợ chiến hạm LSSL là :

- HQ227 – Lê Văn B́nh

- HQ228 – Đoàn Ngọc Tảng

- HQ229 – Lưu Phú Thọ

- HQ230 – Nguyễn Ngọc Long

- HQ231 – Nguyễn Đức Bổng

Như vậy, vào cuối năm 1967, Hải Lực có tổng số chiến hạm là 64 chiếc


https://www.youtube.com/watch?v=k-la_EV03yo
k-la_EV03yo


********

hoathienly19
12-11-2024, 11:54
3. GIAI ĐOẠN NHANH CHÓNG BÀNH TRƯỚNG (1968-1975)

Đầu năm 1968, Việt Cộng mở cuộc Tổng Nổi Dậy, công kích trên toàn lănh thổ VNCH ; Hải Quân với quân số 30,000, kể cả 7,500 sĩ quan, không những bảo toàn được lực lượng đông đảo như vậy mà c̣n yểm trợ hữu hiệu cho các đơn vị bạn tái chiếm nhiều vị trí bị lọt vào tay địch trong những ngày Tết Mậu Thân.

Cũng trong năm này, 3 trung tâm huấn luyện được phân nhiệm rơ rệt :

- Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang đào tạo sĩ quan

- Trung Tâm Huấn Luyện Cam Ranh dành cho hạ sĩ quan và đoàn viên

- Trung Tâm Huấn Luyện Bổ Túc Sài G̣n trau dồi thêm kiến thức chuyên môn cho các cấp.


https://www.youtube.com/watch?v=vd1W0xjs1bM
vd1W0xjs1bM


Đến năm 1969, để theo kịp chương tŕnh “Việt Nam hóa chiến tranh” (Accelerated turnover to the Vietnamese = ACTOV),

Bộ Tư Lệnh Hải Quân tổ chức Hành Quân Lưu Động Biển và Hành Quân Lưu Động Sông.

Trong tổ chức Hành Quân Lưu Động Sông, 3 Lực lượng tác chiến trong sông được thành lập :

- Lực lượng Thủy Bộ, tổ chức hành chánh (type) đóng tại B́nh Thủy, khi trở thành Đặc Nhiệm (Task) gọi là Lực Lượng Đặc Nhiệm 211.

- Lực Lượng Tuần Thám, tổ chức hành chánh đóng tại Mỹ Tho, khi trở thành Đặc Nhiệm gọi là Lực Lượng Đặc Nhiệm 212.

- Lực Lượng Trung Ương, tổ chức hành chánh đóng tại Đồng Tâm, khi trở thành Đặc Nhiệm gọi là Lực Lượng Đặc Nhiệm 214.



Lễ Thành Lập Lực Lượng Đặc Nhiệm Tuần Thám 212 Tại Saigon 1970


https://scontent.fyto1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/52106859_30008944732 3328_317395260521893 0688_n.jpg?_nc_cat=1 08&ccb=1-7&_nc_sid=cf85f3&_nc_ohc=kpXKk-im5NMQ7kNvgEnJNHO&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-1.fna&_nc_gid=AFIeqrev0hlG P4mJ--IhbLr&oh=00_AYBk7rkvYkI8_q pHQlmUuAT9bnMtWQgrVb SmUiDpxUz1eQ&oe=6780F953


Tư lệnh Hải Quân vùng IV Sông Ng̣i kiêm tư lệnh Hạm Đội Đặc Nhiệm 21 khi chỉ huy cả 3 lực lượng trên cùng 7 Giang Đoàn Xung Phong và các cơ sở tiếp vận trong vùng châu thổ [Sông] Cửu Long, quân số lên đến 10,500 người.


Giang Tốc Đĩnh (PBR - Patrol River Boat) 300 Chiến-Đĩnh từ HQ 7500 đến HQ 7825


https://scontent.fyto1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/53530347_30009107398 9832_778901797263428 8128_n.jpg?_nc_cat=1 00&ccb=1-7&_nc_sid=cf85f3&_nc_ohc=k8DXaKBQ9UoQ 7kNvgFZvV7A&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-1.fna&_nc_gid=AZ9XIJWmwzqr LgDtBgdSEzr&oh=00_AYDgmu9Dwt9eLa 2z5g_HV213KcoJTKaHE6-_9p6BiV7i0Q&oe=6780D236



Tư lệnh vùng III Sông Ng̣i có :


- 5 Giang đoàn Xung Phong cơ hữu, cũng được sự tăng phái của các lực lượng đặc nhiệm 211, 212 và 214. (15)


(15) Vùng III Sông Ng̣i có 5 Giang Đoàn Xung phong trực thuộc :

- Giang Đoàn 22 Xung Phong và Giang Đoàn 28 Xung Phong hợp thành Liên Giang Đoàn trú đóng tại Nhà Bè.


https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/phu-hieu-gd22xp.jpg?w=139&h=177https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/huy-hieu-giang-doan-28-xung-phong.jpg?w=140&h=181


- Giang Đoàn 24 Xung Phong và Giang Đoàn 30 Xung Phong hợp thành Liên Giang Đoàn trú đóng tại Long B́nh.


https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/huy-hieu-giang-doan-24-xung-phong.jpg?w=143&h=160https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/huy-hieu-giang-doan-30-xung-phong.jpg?w=153&h=189


- Giang Đoàn 27 Xung Phong, tăng phái thường trực cho Đặc khu Rừng Sát. Trú đóng tại Nhà Bè.

https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/phu-hieu-giang-doan-27-xung-phong.jpg?w=166&h=172


Vùng IV Sông Ng̣i có 7 Giang Đoàn Xung phong trực thuộc :


https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/huy-hieu-gd23xp-tvq-collection.jpg?w=186&h=184


- Giang Đoàn 21 Xung Phong và Giang Đoàn 33 Xung Phong hợp thành Liên Giang Đoàn đồn trú tại Mỹ Tho.


https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/huy-hieu-giang-doan-21-xung-phong.jpg?w=144&h=177https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/huy-hieu-giang-doan-33-xung-phong.jpg?w=157&h=183


- Giang Đoàn 23 Xung Phong và Giang Đoàn 31 Xung Phong hợp thành Liên Giang Đoàn đồn trú tại Vĩnh Long.

https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/huy-hieu-giang-doan-31xung-phong.jpg?w=162&h=190


- Giang Đoàn 25 Xung Phong và Giang Đoàn 29 Xung Phong hợp thành Liên Giang Đoàn đồn trú tại Cần Thơ


https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/huy-hieu-giang-doan-25-xung-phong.jpg?w=159&h=166https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/huy-hieu-giang-doan-29-xung-phong.jpg?w=163&h=171


Hoàn tất chương tŕnh ACTOV năm 1972, Hành Quân Lưu Động Biển đă nhận thêm 20 chiến hạm:

04 Dương Vận Hạm LST là :

- HQ503 – Vũng Tàu

- HQ504 – Qui Nhơn

- HQ505 – Nha Trang

- HQ800 – Mỹ Tho


Dương Vận Hạm (LST - Landing Ship Tank) HQ 501 Đà-Nẵng,


https://scontent.fyto1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/50309882_28238081909 4191_876054531736076 2880_n.jpg?_nc_cat=1 01&ccb=1-7&_nc_sid=cf85f3&_nc_ohc=n0gTFn-rYPcQ7kNvgFYDnrF&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-2.fna&_nc_gid=AcmENE_KZRhk M2PvdRw7R80&oh=00_AYBIym7rm0uHjh-j0HgdWyn9DX5GeJ-FB76WEjwwDD3tdA&oe=6780DF2F


02 Cơ Xưởng Hạm LST là :

- HQ801 – Cần Thơ

- HQ802 – Vĩnh Long


https://ongvove.wordpress.co m/wp-content/uploads/2010/05/hq802.jpg?w=620



01 Hộ Tống Hạm MSF là :

- HQ13 – Hà Hồi

01 Hộ tống hạm PCE là :

- HQ14 – Vạn Kiếp

03 Hỏa Vận Hạm YOG là :

- HQ472

- HQ473

- HQ475

02 Khu trục hạm tiền thám DER (Destroyer Radar Picket Escort) là :

- HQ1 – Trần Hưng Đạo

- HQ4 – Trần Khánh Dư

07 Tuần dương hạm WHEC (White High Endurance Cutter) là :

- HQ2 – Trần Quang Khải

- HQ3 – Trần Nhật Duật


https://scontent.fyto1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/70554604_38857055847 5216_632731539062390 7840_n.jpg?_nc_cat=1 10&ccb=1-7&_nc_sid=cf85f3&_nc_ohc=DW7d_THkP-cQ7kNvgHc_Xmu&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-2.fna&_nc_gid=AjBSMxdhuBKG 8IhFJlDmk4X&oh=00_AYAhMErJTYoqOo TprHYJTbWLnfOGc4QHJn 4g3K1wpFyVsQ&oe=6780EB4D


- HQ5 – Trần B́nh Trọng

- HQ6 – Trần Quốc Toản

- HQ15 – Phạm Ngũ Lăo

- HQ16 – Lư Thường Kiệt

- HQ17 – Ngô Quyền

05 Hải đội Duyên Pḥng được chuyển giao 26 Tuần duyên đỉnh WPB (Coastal Patrol Boat) đánh số từ :

- HQ700 đến HQ725 và HQ107

Duyên tốc đỉnh PCF (Patrol Craft Fast).


https://blogger.googleuserco ntent.com/img/a/AVvXsEi3SXm1pTJA3cdp 6pZC__bpu-B4QpvgT-qfuI6tgGulBYUprD5RBr EwhAWh5114-Sc7SgpOvpkHOFaQHnUpN QzFZBArpuMMFhQJzUVmB _HPx9cCxaOIVTCBBXVYL U_oKMcUtwp_3UCuufrnE yso2x1ZCfq90n_CieRzJ wGZME7_aTCtXrBPl9bbP 3op65k=w640-h398


Cuối năm 1972, quân số Hải Quân VNCH tăng thành 41,000 người.

Theo Jane’s Fighting Ships 1972-1973, HQ/Đại tá John More xếp sự lớn mạnh của lực lượng Hải Quân VNCH vào hàng thứ 9 trong các cường quốc Hải Quân trên thế giới.

Đầu năm 1975, lực lượng Hải Quân VNCH gồm :

- 05 vùng Duyên hải với 133 chiến đỉnh và 500 ghe đủ loại

- 02 vùng Sông ng̣i và 03 lực lượng tác chiến trong sông với trên 950 chiến đỉnh đủ loại

- Hạm đội Biển với 84 chiến hạm

- Quân số : 43,000 người


Tuần Duyên Hạm (PGM - Patrol Gunboat Motor)HQ 604 Keo-Ngựa


https://scontent.fyto1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/53679377_29832770416 6169_331864733041190 5024_n.jpg?_nc_cat=1 11&ccb=1-7&_nc_sid=cf85f3&_nc_ohc=Jy_b048qXhQQ 7kNvgGxr0LG&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-1.fna&_nc_gid=A1kFu5N8pxk2 1LGD9J2jZ3O&oh=00_AYB5KkCpKgdvwJ gS9rChhNibZKHk0QD8IX 4EAY2-iW03ig&oe=6780DEB7



Giữa Tháng Tư năm 1975 , ngay sau khi trở lại nhậm chức tư lệnh Hải Quân lần thứ hai, Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang chỉ định :

- HQ/Đại Tá Lê Hữu Dơng thành lập cấp tốc :

- Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 với sự phối hợp của các :

- Giang đoàn 22 Xung Phong


https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/phu-hieu-gd22xp.jpg?w=139&h=177


- Giang đoàn 42 Ngăn Chặn và Giang Đoàn 59 Tuần Thám gồm khoảng :


https://bienxua.files.wordpr ess.com/2020/08/huy-hieu-giang-doan-42-ngan-chan.jpg?w=261&h=232https://bienxua.files.wordpr ess.com/2020/08/huy-hieu-hd5dp.-tvq-collection.jpg?w=196&h=231


- 50 chiến đỉnh để giải tỏa áp lực địch trong phạm vi trách nhiệm của Hải Quân


https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/20b6a-1-29.jpg


Nguyễn Văn Ơn



TÀI LIỆU CHỌN LỌC THAM KHẢO


Tập này không có phần phụ đính danh mục (Index) để đồng nhất và dễ dàng tra cứu, tên các tác giả nước ngoài sẽ được ghi HỌ trước rồi mới đến TÊN giống như tên các tác giả Việt Nam, trong phần ghi chú.

1. Việt Nam Sử Lược – Trần Trọng Kim. Sài G̣n Thư xă 1962.

2. Lịch sử giữ nước của dân tộc Việt Nam – Nguyễn Hợp Minh. Melbourne 2000, tập 6.

3. Quân sử – Bộ TTM/Pḥng 5 1972, tập 4 quân lực h́nh thành Sài G̣n 1972.

4. Hai Mươi Năm Qua, việc Từng Ngày 1945-1964 – Đoàn Thêm. Sài G̣n 1966.

5. Tôn Ngô binh pháp – Ngô Văn Triệu. Sài G̣n 1973.

6. Trấn Hưng Đạo binh thư yếu lược – Nguyễn Ngọc Tỉnh. Paris 1988.

7. Hoạt động trong sông của Hải Quân VNCH. Phó Đề đốc Đặng Cao Thăng, bài viết cho Hải sử 2000 (HS 2000)

8. Giang Đoàn Xung Phong 22, 25 và 29. HQ/Đại Tá Lê Hữu Dơng, bài viết cho HS 2000

9. Lược sử tổ chức Hải Quân VNCH. HQ/Trung Tá Vũ Hữu San, bài viết cho HS 2000

10. Giang Đoàn 26 Xung Phong. HQ/Trung Tá Trần Đỗ Cẩm, bài viết cho HS 2000

11. Trận Ba Rài. HQ/Trung Tá Phan Lạc Tiếp, bài viết cho HS 2000.

12. Trung Đoàn U Minh Hạ. Độc Hành. Việt Luận số 297 Sydney 5/1988.

13. Hồi kư 20 năm binh nghiệp. Trung tướng Tôn Thất Đính. CA Chánh đạo 1988.

14. Cuộc chiến dang dở. Tướng Trần Văn Nhựt. CA 2003.

15. Việt Nam Máu Lửa. Nghiêm Kế Tổ. Mai Lĩnh Sài G̣n 1954.

16. Kinh nghiệm chiến trường chống đặc công thủy. Ban Hải sử. BTL/HQ/P5 Sài G̣n 1970.

17. 1945 Lạc đường vào lịch sử. Nguyễn Manh Côn. Giao điểm Sài G̣n 1965.

18. Đường ṃn trên biển. Nguyễn Tư Đương. Hà Nội 2002.

19. The Ford Foundation Fellowship USA and France – Cao Thế Dung 1976.

20. Reassessing the ARVN – Lewis Sorley. VN Magazine April 2003.

21. Nation in arms – Greg Lockhart. Australia 1989.

22. The Vietnam war for dummies – Ronald B. Frankum, Jr and Stephen F. Maxner. Wiley Publishing Newyork 2003.

23. Vietnam war almanac – Harrys Summer Jr. USA 1982.

24. Vietnam a history – Stanley Karnow. Viking Newyork 1983.

25. Encyclopedia of the Vietnam war – Spencer C. Tucker. London 1999.

26. Vietnam: A visual encyclopedia – Philip Gutzman. London 2002.

27. The brown water navy – Victor Croizat. Blandford Press UK 1984.

28. The naval war in Vietnam – Anthony Preston. USA 1985.

29. Brown water, Black berets – Thomas J. Cutler. USA 1988.

30. Dictionary of the Vietnam war by Marc Leepson with Hanaford. USA 1996.

31. Victory at any cost – Cecil B. Currey. Great Britain 1997.



**************

hoathienly19
12-15-2024, 10:13
CON NGỰA XÍCH THỐ CUẢ GIANG LỰC HẢI QUÂN VNCH


https://nhayduwdc.org/bv/hq/hk/2020/conguaxichthoGLHQVNC H_1.jpg


Trong suốt hơn 20 năm hoạt động cuả HQVNCH, các chiến hạm cũng như các chiến đĩnh, dù do Pháp giao lại, hay sau này do Mỹ chuyển giao, đều do Mỹ sản xuất.

Chỉ riêng chiếc Scan/Fom, tiếng Việt gọi là Tuần Giang Đĩnh, là do Pháp đóng.

Đây là một chiến đĩnh có nhiều đặc tính và tỏ ra rất công hiệu trong việc tuần tiễu trên sông rạch vùng Cửu Long Giang.

Việt Cộng đă nhiều phen kinh hăi trước sự xuất hiện cuả loại chiến đĩnh này.

Trong sinh hoạt cuả các giang đoàn, chiến đĩnh này được gọi tắt là Fom.

Hỏi tại sao lại gọi như thế, nhiều người đă trả lời, v́ khi chạy máy tầu nổ rất ṛn kêu “fom, fom” . Nghe cũng có lư.

Nhưng đúng tên cuả nó là do chữ Scan/Fom (Service Technique des Constructions et Armes Navals Frances Outre–Mer).

Một loại tầu được đóng để Hải Quân Pháp hoạt động ngoài nước Pháp, đặc biệt cho Đông Dương.


Tiền phong đỉnh Monitor Combat và Tuần giang đỉnh Fom tuần tiểu trên sông


https://scontent.fyto1-2.fna.fbcdn.net/v/t39.30808-6/461319778_3961873104 056808_5660332245931 002799_n.jpg?_nc_cat =101&ccb=1-7&_nc_sid=bd9a62&_nc_ohc=cryTsBwrCKkQ 7kNvgFYcrKq&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-2.fna&_nc_gid=ABA-8w4JBs5atL_YHpV0o80&oh=00_AYAZGOf_bDWolF wZWPJs9JNPlFVV-n8suLB_5zD9M0GE9g&oe=6764741F


Chiến đĩnh này dài 36 bộ, rộng độ 7 bộ, mũi nhọn, đáy tầu cũng nhọn, chạy nhanh xé nước tạo thành một vùng trũng khiến cho toàn thân tầu gần như thấp hơn mặt nước, tránh được các loại súng lớn từ bờ muốn bắn vào phần thân tầu.

Cũng v́ mũi nhọn, đáy nhọn, khi bị thủy lôi , sức công phá cuả thủy lôi tạt qua một bên , (khác hẳn với các loại chiến đĩnh đáy bằng, khi bị thủy lôi là cầm chắc đáy tầu bị phá).

Loại Fom này, được trang bị :

- Một đại liên 12.7ly tại mũi, với dàn pháo tháp bằng thép bao quanh, đại liên này có tầm hoạt động mạnh , xa tới 5 cây số, và ṿng hoạt động 220⁰ về phía trước và hai bên.

Trên nóc tầu có 2 đại liên 30, và sau lái 1 đại liên 30 nữa, chưa kể các loại súng nhỏ như M16, M79.

Thường mỗi chiếc chỉ có 4 nhân viên.

Tầu bao giờ cũng đi hai chiếc, do một hạ sĩ quan làm thuyền trưởng trông nom cả cặp tầu.

Sự lanh lẹ, gọn nhẹ cuả chiếc Fom được ví như “con ngựa Xích Thố cuả Giang Lực” .

Để có một cái nh́n sống động hơn về hoạt động cuả chiến đĩnh này, xin theo dơi bài bút kư viết về những kỷ niệm, những nguy nan cuả các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam một thời vùng vẫy trong khu chiến Tiền Giang, qua trận đánh tại Ba Rài.


Tuần giang đỉnh Fom sơn màu nguỵ trang


https://scontent.fyto1-1.fna.fbcdn.net/v/t39.30808-6/461416545_3961873107 390141_4547742770670 745481_n.jpg?_nc_cat =104&ccb=1-7&_nc_sid=bd9a62&_nc_ohc=X_bLfD5oHwQQ 7kNvgHL4Ay7&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-1.fna&_nc_gid=A1_P7XROafGn KamEYoWO19C&oh=00_AYCkTMsw77GSqH 9BMtYjKzjJeRaXQUHhno Dcg2rtZ2LojA&oe=6764848C


*********

hoathienly19
12-15-2024, 10:53
ĐƯỜNG ĐI KHU CHIẾN

Tôi bị ra Hội Đồng Kỷ Luật trong một trường hợp thật ngộ nghĩnh, và bị đưa đi đơn vị tác chiến :


- Giang Đoàn 21 Xung Phong, khu chiến Tiền Giang.


https://blogger.googleuserco ntent.com/img/a/AVvXsEgt8THeMNn70BlW 9Ca5ewrdFUVqK0x5EAUf QS-5jPw9n4RCrQjE9-oV76NSPUEve-pyI0w-VCo9jGr_tdKpwMVQP7y_ tqXA7A_6LWJP1TxATo6V VZ8wcJPArIirrHEdDd3n PT5TaktFtJzjtf5NaGVm PMIahO0ehI1fwTV4gSaF f9aHmSY98ZD-bO7p1LA=w640-h412


Mới tới đơn vị, tin tức các nơi liên hệ đến các cuộc đụng độ giữa các đơn vị Việt Cộng và các tầu tuần tiễu mỗi lúc một tăng. Sự thương vong mỗi lúc một lớn.

Quả thật là tôi có “rét” thật.

“Rét” nên tôi cố gắng t́m hiểu, học hỏi các kinh nghiệm cuả các bạn sĩ quan cùng khóa tại đơn vị, và nhất là các kinh nghiệm cuả các anh em đoàn viên đă lặn lội nhiều năm tại vùng sông nước nguy hiểm này.

Lúc ấy, năm 1965, anh Nguyễn Đức Bổng, khóa 10, trên tôi một khóa, làm duyên Đoàn trưởng Duyên Đoàn 33 bị nội tuyến, địch giả dân đánh cá làm quen với đơn vị, rồi giữa trưa làm lễ cúng Hà Bá, mời cả Duyên Đoàn dự tiệc, rồi đùng một cái họ nổ súng, bắn chết khá đông. Anh Bổng ở trên ghe chủ lực, cũng bị bắn chết.

Tràng đạn xuyên nát ngực. Khi chúng tôi đến lấy xác anh, trời đă chiều.

Con rạch Sọ Dừa, cái tên oan trái, là nơi xác anh nằm vắt vẻo bên sàn ghe. Xác anh Bổng xám ngắt và tóp lại như một đứa trẻ, v́ máu ra quá nhiều.

Xác anh nằm ở sàn tầu, phủ bằng một tấm chăn dạ lính. Máu từ thân thể anh vẫn tiếp tục chảy dài xuống sàn tầu và ḅ ngoằn ngoèo ra mé cửa sổ chiến đĩnh.



https://blogger.googleuserco ntent.com/img/a/AVvXsEgv2rnu4n8mIx94 jAGSZRiWNLxTndI5r3p2 Ty-pe-lfBL1Ybgn4e18bDdvhRQ-imSH_xEx9jZEh79C-qedLJaANXTenZd33cRfF 0dI5epYXYHHVwpURc8Nl mCEatLvPj_sDQNxCbw_o IliTSSvHqCa6ZZTdh9Pi Y7IuJd-HPofnTQnZQ6Q7T0cUUUZ ddIQ=w640-h442


Hỏa châu từ nơi nào đó bắn lên dọi sáng một vùng trời. Tôi lại nghe anh sắp sửa lấy vợ nữa. Tôi thương anh và càng thấy sợ.

Tôi th́ vừa lấy vợ. Hai vợ chồng hai nơi, Sài G̣n và Mỹ Tho...

Tôi thương vợ tôi lắm, nên nhủ ḷng :

- “ Phải cẩn thận tối đa.”


https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/5020c-1-33.jpg?w=892&h=644


Lúc rỗi, tôi lên Pḥng Hành Quân theo dơi bản đồ Trận Liệt, ghi các vùng nguy hiểm vào sổ tay.

Nh́n cho kỹ địa thế. Đọc thật kỹ kư hiệu nơi có rừng cây, nơi có dừa nước. Các nơi đă từng đụng độ.

Và tôi nhận ra rằng :

- Đa số các nơi diễn ra cuộc đụng độ mà phần thiệt hại về ta, là các khúc sông hẹp, uốn khúc. Địch nấp trong hầm bắn ra.

Ta hỏa lực hùng hậu, tầm đạn xa, lại có cả loại đạn công phá, nổ khi chạm vật cứng như sắt, thân cây lúc này trở nên ít hữu hiệu.

Và thời điểm các cuộc đụng độ, đa số vào khoảng 4, 5 giờ chiều. Giờ mà theo thói quen, quân ta đă lo sửa soạn ra về, máy bay khi cần khó gọi, có đến cũng khó can thiệp.

Giờ cuả địch, như thế kể như từ 4, 5 giờ chiều cho đến 4, 5 giờ sáng.

C̣n các cuộc bắn tầu, như kinh nghiệm các bạn kể lại, thường là vào ban đêm.

Lúc ấy, nếu tinh ư, ta sẽ thấy “sao mà đất trời lạnh ngắt”.

Lạnh ngắt v́ khi bờ sông có người phục kích, chim muông không dám xà xuống đậu.Có xà xuống thấy người lại chới với bay lên.

V́ thế cảnh vật bỗng trở nên vắng lặng, rờn rợn.

Lúc ấy, nếu thấy một ngọn đèn thắp lấp lánh bên bờ sông, ta có nhiều phần chắc đó là ngọn–đèn–nhắm.

Việt Cộng thắp ngọn đèn bên kia sông, chúng nằm bên này sông, trời tối càng tốt.

Khi tầu lướt trên mặt sông, án ngữ tầm nh́n cuả ngọn–đèn–nhắm là bên này sông, chúng đă gờm súng sẵn, cứ việc bấm c̣. Chắc như bắp . Chỉ trừ khi tên xạ thủ run tay, chậm trễ, đạn mới vượt qua sau lái.

Lúc như thế, ta mới thấy chiếc Fom hữu hiệu như thế nào.


https://blogger.googleuserco ntent.com/img/a/AVvXsEjOZeG2P-So8H_C38mUqu0IhrgFN7 8otC4N9UuMg9XYFF_xVJ c30XPjBxzuj6uDZKf810 zQma24E8uhdBUtSKpYKx ISfsc9gUtdnLTU4KhnJX rxov6sOCXyA_4CVkAnu1 KtF8ATVK2M78YFHN3Z-LH_V0uh_6tZPqe8oZgTP WfYpp-pLSV2Sga2eJW8DcQ=w64 0-h424


Fom, như trên đă viết, chạy nhanh, có bị bắn, đạn đi trên tầm nước, khó ch́m.

Thấy đèn nhấp nháy khả nghi, Fom, loại tầu đi trước và đi sát mé sông, xả tốc độ, quay 90⁰, bỏ đèn nhắm cuả địch sau lái, lấy đại liên 12.7ly bắn như mưa vào bờ đối diện.

Đâm thẳng vào. Đạn đan kín trời tràn ngập nơi địch trú ẩn. Tới gần, hai đại liên 30 trên nóc tầu xả đạn quanh điểm khả nghi. Đồng thời dùng M79 bắn vào.

Đạn nổ bùng. Việt Cộng bạo th́ nằm dí đó, ăn đạn nát thây. Vụt chạy th́ khó tránh được rừng đạn 12.7ly và đại liên 30 bắn đuổi theo như mưa bấc.


https://blogger.googleuserco ntent.com/img/a/AVvXsEgQsFh_BajTnGXs KyxBvTTgPtKdyAL_GnZe 8nIlKL25TOrAfw1cNvwZ 7u_WfY80RbQpNjvNBGap-huPw585_id00mviK6zt6 3QNnCKXzcFzFwg9k1ps3 6NATDUhUtjd1gmMbjXR3 Y80INRWTMnGOBPVDEeWH JHdv5_k9MiRThx9JjsBw uoLGSDRpmXRs2I=w640-h497



****************

hoathienly19
12-23-2024, 15:07
ĐỨC RÂU , KẺ TỬ THÙ CỦA VIỆT CỘNG


Trung Sĩ I Lê Phước Đức


https://bienxua.wordpress.co m/wp-content/uploads/2016/03/tsi-le-phuoc-duc.jpg


Người cho tôi kinh nghiệm về chiến thuật phản xạ này là Trung sĩ I Lê Phước Đức, tục
gọi là Đức Râu.

Anh thâm niên quân vụ khá bộn, đâu như xuất thân từ khóa 1, khóa 2 Đoàn Viên, ngành Thủy Chiến Binh (Fusilier), do Pháp huấn luyện.

Bạn bè anh đă có người có đai vàng trên mũ. Anh vẫn chỉ có ba chữ V trên vai áo. Anh người Nam, to con,mặt hơi rỗ, râu hàm xanh ngắt.

Lúc nhàn rỗi, anh ngồi lầm ĺ trên tầu, bên cạnh là một thùng bia Quân Tiếp Vụ, uống t́ t́, mặt đỏ râu dựng, không nói một câu.

Ít ai biết về gia cảnh anh. Lúc nhàn rỗi đă thế, khi đụng trận, vừa ngồi trên nóc tầu, hai chân tḥng xuống bánh lái. Một tay bấm c̣ đại liên 30, một tay cầm ống liên hợp điều động chiếc Fom bạn,ủi đầu vào nơi địch vừa khai hỏa.

Những lúc như thế, trời chiều đă gần tắt, mây đỏ đầytrời. Anh lẫm liệt lao vào lửa đạn, uy dũng lừng lững, như Quan Vân Trường với thanh Long Đao trên ḿnh con ngựa Xích Thố.

Lúc ấy, đoàn tầu cứ việc nhẹ nhàng tiến, và lặng lẽ theo dơi cặp Fom cuả anh làm cỏ hai bên bờ.

Có lúc tôi đă hỏi anh :

- “ Sao cứ ở đây hoài, đi tầu biển cho nó thay đổi cuộc sống chăng ”?anh tợp một hơi bia và nói :

-“Ông thầy! Mấy thằng fusilier (chiến binh) đi tầu là loại lính–mỡ.”

Tôi phân vân hỏi :

- “Lính mỡ là...?” Anh đáp :

- “ Mang tiếng là chiến binh mà đi tầu biển chỉ có việc lấy mỡ xoa vào ṇng súng cho khỏi sét, chứ lính ǵ tụi nó...”

Anh ví von đến là hay, tuy có phần hơi cường điệu...

Trong đơn vị, anh là người có nhiều huy chương nhất, anh chỉ đeo có nhành dương liễu mà thôi.

Các ngôi sao vàng, sao bạc, anh bảo :

- “ Đồ ăn giỗ đó mà ông thầy...”

Trong các cuộc hành quân tuần tiễu, có khi chỉ có một chiếc soái đĩnh, hai Quân Vận Đĩnh và hai chiếc Fom, biệt phái cho một vùng nào đó.

Toán đi như thế, sĩ quan nào cũng muốn có cặp Fom cuả anh Đức . Bạn tôi, Trần Hữu
Khánh, tay tŕ cuả Giang Đoàn nói :

Toán đi như thế, sĩ quan nào cũng muốn có cặp Fom cuả anh Đức.

-“ Có Đức đi theo ḿnh yên trí lắm. Có đụng mới thấy ngựa hay...”

Tôi ở Giang Đoàn có mấy tháng, đă thấy mấy lần đụng độ. Đức lúc nào cũng
được nhắc đến, với các chiến lợi phẩm. Khi th́ mấy khẩu CKC, Bá Đỏ...

Chiến công lặt vặt ấy, anh bảo:

- “Thôi để cho mấy đứa em. Dù nó có ở khẩu 30 sau lái, cũng là đụng trận
chứ. Cho nó có chút xanh, chút đỏ cho vui. Tôi đeo đủ rồi.


https://www.youtube.com/watch?v=IAer8DiNZJA
IAer8DiNZJA


Vào giữa năm 1965, một buổi trưa, một đoàn tầu đi tuần trên kinh Chợ Gạo. Con kinh huyết mạch để đoàn ghe gạo, cá từ Vùng IV về Sài G̣n qua đó.

Kinh Chợ Gạo, ṿng đai an toàn cho Mỹ Tho, B́nh Phục Nhất, nơi mà “ḿnh vừa đi qua, là tụi nó ló mặt ra liền” ,chính nơi này, Đức Râu và cặp Fom cuả anh đă làm Việt Cộng điên đảo.

V́ là tầu nhỏ,một tầu tiến vào lạch, kéo theo chiếc Fom khác quay mũi trở ra.

Như thế lạch hẹp, tầu phải vừa đi vừa vén lau mà lủi, không thể xoay sở, chẳng thể quay đầu.



https://daihocsuphamsaigon.o rg/images/hinh/haiquan-chuongIII-a5.jpg


V́ thế Việt Cộng tin là :

- “ Lạch hẹp, bố bảo tụi tầu cũng không dám vào đây”. Vậy mà Đức Râu bảo :

- “Ông thầy cứ nằm ngoài kinh. Để tôi vào.”

Vào sâu nằm đó, khi ở ngoài kinh đoàn tầu đă đi.

Trong lạch um tùm, hai chiếc Fom nằm im khe.

Tụi Việt Cộng ló ra, chèo ghe đi lại. Cho thật chắc, để chúng xuất hiện đông, là Fom khai hỏa . Chúng chạy đâu cho thoát.

Lúc ấy chiếc Fom buộc sau chiếc Fom đi đầu, mở máy chạy, kéo theo chiếc thứ nhất trở ra kinh lớn... Sự gan dạ và thông minh ấy cuả Đức Râu, đă làm địch khiếp vía.

Bao nhiêu xác địch đă bị bỏ lại trên bờ kinh. Bao nhiêu gạo, muối, đồ tiếp liệu cuả địch đă tịch thu được, một phần không nhỏ là do Đức với cặp Fom đem về .


https://www.youtube.com/watch?v=d5imE2o0IJw
d5imE2o0IJw


Rồi một hôm, giữa năm 1965 cũng chính từ chiếc Fom của Đức HQ 5001,HQ 5002 gọi về, giữa trưa:

- “Tôi bị bắn, lạ lắm. Lửa phát ra xanh lè. Đạn xuyên từ bên trái tầu, qua luôn thành bên phải, ghim vào bờ kinh nổ bùng. Chúng bắn xong lủi rất nhanh vào khúc quẹo”.

Cả Giang Đoàn bàn tán. Các chi tiết ấy đă được sĩ quan Ban 2 ghi lại, gửi về Bộ Tổng Tham Mưu.

Sau này mới hay đó là loại súng mới rất lợi hại của địch: B40.


B40 trên chiến trường Việt Nam.


https://danviet.mediacdn.vn/upload/2-2019/images/2019-04-13/B40-451-1555090103-width760height500.jp g


Và cũng từ đó,thay v́ chỉ là súng ngựa trời, CKC, bá đỏ, Việt Cộng có loại AK 47, nhẹ, bắn liên thanh.

Cũng từ lúc ấy, tin đồn Việt Cộng treo giải, ai giết được Đức râu sẽ được thưởng 200 ngàn đồng, số tiền tương đương với nhiều lạng vàng. Một gia sản lớn.

Nghe thế, đọc các truyền đơn ấy, Đức râu chỉ cười. Ngồi thừ trên mũi Fom, uống rượu t́ t́.

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô A.N. Côxưghin và Thủ tướng Phạm Văn Đồng


https://image.tienphong.vn/w645/Uploaded/2024/mlzrtlj-bfj/2021_10_30/image001-1839.jpg


Ở lâu quá một con tầu không nên, cần phải thuyên chuyển qua tầu khác để có kinh nghiệm mới , và cũng là dịp cho nhân viên khác lên thay, để có cơ hội học hỏi thêm.

Đức râu được lên làm thuyền trưởng chiếc Tiền Phong Đĩnh (Monitor Combat), HQ 6001.


Tiền phong đĩnh Monitor Combat sơn màu nguỵ trang.


https://i0.wp.com/batkhuat.net/images/van-tr3.gif


Tiền Phong Đĩnh c̣n gọi là Thiết Giáp Đĩnh, là loại chiến đĩnh được trang bị hùng hậu nhất trong các chiến đĩnh hoạt động trên sông, dài 60 bộ, rộng 17 bộ.

Trước mũi là đại bác 40 ly, pháo tháp dày.

Ở giữa chiến đĩnh có một súng cối 81 ly, hai đại liên 12 ly và hai đại liên 30, và nhiều súng nhỏ, kể cả súng phóng lựu M 79.

Hai máy dầu cặn, hai chân vịt nên xoay sở dễ dàng, tốc độ 8 gút.

Nhân viên cơ hữu độ mười người.

Khi cuộc hành quân quy mô, thường có các sĩ quan trưởng toán hiện diện tại đây.


https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/08c46-1-72a.jpg?w=871&h=599


Đức râu được biết “phải” rời cặp Fom cuả anh để lên làm thuyền trưởng chiếc Tiền Phong Đĩnh HQ 6001.

Anh không muốn lên, v́ như nhiều người biết, ở đây gần mặt trời, lại là chiến đĩnh lớn, khó tung hoành. Nhưng anh không thể từ chối. V́ thâm niên công vụ, anh sẽ đeo lon Thượng Sĩ nay mai, không thể ở măi trên tầu nhỏ được.

Làm quen với chiến đĩnh này, cũng không khó đối với anh. Với tướng mạo hùng dũng ấy, các tay đàn em sợ một phép.


************

hoathienly19
12-26-2024, 12:43
LỤC QUÂN VNCH HÀNH KHÚC - South Vietnam Army March



https://www.youtube.com/watch?v=oLerrZEWWt0
oLerrZEWWt0

hoathienly19
12-29-2024, 07:17
TRẬN BA RÀI 29/9/1965


Con rạch Ba Rài bắt nguồn từ Quận Lỵ Cái Bè dài trên 10 cây số, chảy ra sông Cửa Tiểu theo hướng Bắc Nam.



https://www.youtube.com/watch?v=JxAKg9P819Q
JxAKg9P819Q


Ḷng rạch hẹp, nơi rộng nhất ở ngă ba Ba Rài–Cửa Tiểu, hai bên bờ rạch không quá 100 mét.

Con rạch cắt một góc chéo 25⁰ rồi uốn khúc, tạo thành một doi đất, bề ngang doi đất không quá 600 mét.

V́ thế từ cửa rạch không thể nh́n thấy phía trong. Hai bên bờ cây rậm rạp, những hàng dừa đứng chen nhau như thành.

Suốt cả chiều dài cuả bờ rạch như thế, nên cuộc đụng độ giữa một đơn vị chủ lực Việt Cộng với các đơn vị cuả Sư đoàn 7 Bộ Binh, có cả Thủy Quân Lục Chiến từ mấy ngày qua.

Hai bên cứ cầm chân nhau, không bên nào tiến lui được.

Hai bên đều nh́n thấy nhau, chỉ cách mấy hàng dừa.

Quá gần cho nên không thể gọi pháo binh tác xa.

Quá rậm nên không có chỗ để trực thăng đổ quân tiếp viện.

V́ thế, Sư Đoàn 7 Bộ Binh đă trông cậy vào Hải Quân :

- Giang Đoàn 21 và 27 Xung Phong.

Giang Đoàn 21 là một đơn vị kỳ cựu, nhân viên và sông nước quen nhau, và cả địch lẫn ta quần nhau cũng lắm.

Riêng Giang Đoàn 27 Xung Phong vừa mới thành lập, dưới quyền chỉ huy cuả Hải Quân Đại úy Trần Văn Triết, một sĩ quan mới từ đơn vị biển đổi về sông.

Sau mấy tháng huấn luyện, đây là lần đầu tiên Giang Đoàn 27 Xung Phong đem toàn lực ra quân, với tất cả các chiến đĩnh cuả Giang Đoàn 21 Xung Phong.


https://blogger.googleuserco ntent.com/img/a/AVvXsEgUusITgd_Q2Cy5 2oNJ1uL5Qkd0k0IoJOa2 e8h20HmzG1iOA_9vfAhf AKhq4QK1KzADkIpGIlag 5n0yMVDS6SuyqRigjFvN-budwlPg-rGnZiKc8Uyy9TQWN4vEL _kJafLACzOKVfCIo3r3z qtEi4NczCB0Ds72ZM5Z2 LTIFFVFsXGZSEu5uYwQl AVm5k4=w640-h410


Nhiệm vụ cuả cuộc hành quân này là Hải Quân tiến vào rạch Ba Rài, hỗ trợ cho các đơn vị Bộ Binh rút từ Xă Xuân Sơn, phía Đông rạch Ba Rài sang bên kia rạch.

Hải Quân, cả hai Giang Đoàn đă tiến vào. Dưới hỏa lực hùng hậu cuả các giang đĩnh, Việt Cộng đă án binh bất động.

Đơn vị bạn đă rút an toàn, và dùng tầu Hải Quân băng qua bên kia bờ.

Tất cả đă diễn ra êm ả, từ 2 giờ cho đến 4 giờ chiều. Đoàn tầu bắt đầu rút, nước đă xuống. Tàn cây che phủ ḷng sông, tối, lạnh.

Việt Cộng đă phục sẵn tại doi đất gần cửa rạch và bắt đầu tấn công vào đoàn tầu cuả ta.

Đây là một cuộc thử lửa khốc liệt giữa một đơn vị chủ lực cuả Việt Cộng và hai Giang Đoàn được coi là tinh nhuệ cuả ta.


Chiến đỉnh ATC (Tango).


http://donmooreswartales.fi les.wordpress.com/2012/02/soan-and-jim-b-boat.jpg?w=604


Dù trận chiến đă diễn ra trên 30 năm, nhưng may mắn thay, các nhân sự ṇng cốt cuả cuộc thử lửa này, hiện ở Mỹ c̣n nhớ được, và đă thuật lại qua các câu trả lời trên giấy hoặc qua các cuộc điện đàm mới đây.


Đó là anh :


- Nguyễn Ngọc Giang lúc ấy là trung úy, lên lon tại mặt trận tŕnh bày ở phần trên ; và anh Diệm, Đặng Diệm, người lăn lộn với Giang Đoàn 21 Xung Phong rất nhiều năm.


https://ci6.googleuserconten t.com/proxy/HX_nlcFYob0vrdeaOgOS vW8G0A7LiMDFg-iPq5WXtWczZLYfmvSWKE lX3HY0dr1Cd_QYbEC_uG a0K2XAU_rk0IZJtVc1-OAwJwpsCpPNg_TBow=s0-d-e1-ft#http://farm6.static.flickr. com/5204/5240876117_7344026d2 1_z.jpg



Giang kể :

“Cuộc hành quân dựa theo tin t́nh báo cuả SĐ7BB theo đó Trung Đoàn chính quy BV có trang bị vũ khí nặng đă có mặt trong vùng.

SĐ7BB đă mở cuộc hành quân bao vây trước đó một ngày, lực lượng gồm nhiều Tiểu Đoàn TQLC và Bộ Binh SĐ7.

Lực lượng này đă bị cầm chân và không rút được, phi cơ cũng không can thiệp được v́ rừng cây dầy đặc.

Phía ngoài, tại cửa sông lớn đi vào, địch đă để một thành phần súng lớn để diệt tầu Hải Quân (sau này, khi đụng độ mới biết, v́ chúng ngụy trang và bất động).

Do đó SĐ7BB yêu cầu Hải Quân mở cuộc hành quân phối hợp thăm ḍ tiếp theo để có thể can thiệp cho kế hoạch :

Rút quân và để phi cơ oanh tạc.

Giang Đoàn 21 Xung Phong và 27 Xung Phong do HQ Đại úy Trần Văn Triết chỉ huy, mở cuộc hành quân thay cho HQ Thiếu tá Huỳnh Huy Thiệp, đi họp ở Cần Thơ.

Đoàn tầu đi tới vùng hành quân khoảng 2 giờ chiều.

Tất cả nằm ngoài sông lớn.

Riêng toán cuả tôi gồm Monitor Combat 6001 và hai Fom 5001–5002 được chỉ định đi vào kinh nhỏ bắt liên lạc với bộ binh.


Tiền phong đỉnh Monitor Combat và Tuần giang đỉnh Fom tuần tiểu trên sông.


https://main.saigonecho.org/images/articles/2012_March/tranbarai-4.jpg



Toán cuả tôi chỉ huy gồm thuyền trưởng Nguyễn Văn Đức (Râu) và Trung sĩ Sụn (Fom). Chúng tôi đă tiến sâu vào trong kinh và bắt liên lạc trực tiếp với lực lượng trên bờ tại xă Xuân Sơn.

Tôi báo cáo ra ngoài cho Đại úy Triết biết.

Đại úy Triết bèn cho một Monitor Command với hai RPC hộ tống đi vào, và toán cuả tôi tiến ra yểm trợ.

Tất cả đều yên lặng, không có cuộc chạm súng nào, nhưng không khí căng thẳng, v́ với kinh nghiệm cho biết, tôi đoán, địch sẽ đánh.

Lúc trở ra. Thông thường, bất cứ cuộc hành quân vào sông rạch nào lúc vào không nguy hiểm bằng lúc trở ra ; do đó thường tránh đi về cùng một đường.

Nhưng trường hợp này không áp dụng được v́ độc đạo.


https://i0.wp.com/sqhq25.org/html_files/tailieu/shipsVNCH/Image225.gif


Khi quay trở ra, tiếp tay được với toán Đại úy Triết, tôi nằm lại giữ an ninh thủy tŕnh, và Đại úy Triết cho 3 giang đĩnh tiến sâu vào tiếp giáp với bộ binh trên bờ.

Khi Hải Quân gặp Bộ Binh, địch không kềm chân Bộ Binh nữa v́ sợ Hải Quân phản công.

V́ thủy tŕnh quá dài, nên toán tôi giữ an ninh khúc giữa Đại úy Triết cho monitor combat 6007 cuả Trung úy Bảo vào giữ an ninh khúc ngoài.

Khoảng 4 giờ chiều, một phi cơ quan sát cho biết một tầu Hải Quân bị cháy phía ngoài đầu kinh.

Đại úy Triết liên lạc với Trung úy Bảo không được và chỉ thị toán cuả tôi ra tiếp cứu.

Khi gần tới tầu Trung úy Bảo th́ tôi bị tấn công bằng đủ mọi loại súng nặng. Chiếc monitor combat HQ 6007 cuả Trung úy Bảo là mục tiêu đầu tiên cho địch khai hỏa . Bảo bị thương nặng.

Tầu bốc cháy và ch́m. Tôi cho lệnh 3 chiến đĩnh ủi thẳng vô bờ phản công.

Địch đă xuất hiện với quân phục ka–ki vàng, nón cối rất đông.

Chúng mở cuộc tấn công với mục đích cướp tầu, nhưng chúng không thể nào tiến tới gần tầu được.

Cuộc giao tranh rất khốc liệt.

Toán giang đĩnh cuả Đại úy Triết tiến trở ra bị ngay mấy du kích hai bên bờ bắn tỉa làm Thiếu úy Hiền và Đại úy David tử thương.

Đại úy Triết bèn ra lệnh cho tất cả rút ra ngoài sông lớn nhưng toán cuả tôi vẫn nằm ĺ ở lại, v́ đang đối đầu quyết liệt với địch.

Chúng tôi đă tận dụng hỏa lực 40ly, 20ly, đại liên 50, 30, FM Bar.

Địch quân không thể tiến lên được và chúng gục xuống sau những tiếng hô đồng nhất " xung phong ".

Khẩu đại liên 30 bên trái ngưng nhả đạn, tôi quay qua sờ thấy đầu Trung sĩ Đức gục xuống, anh đă hy sinh.


https://www.youtube.com/watch?v=rcmewCwA8mc
rcmewCwA8mc


Tôi được lệnh Đại úy Triết phải rút ra ngoài.

Tôi báo cáo t́nh h́nh và cho biết tầu tôi bị trúng rất nhiều đạn súng lớn, trong đó có bị một lỗ lớn, nếu rút ra sẽ bị ch́m.

Về nhân viên, có Trung sĩ Đức hy sinh, Trung sĩ Thức thuyền phó monitor bị thương nặng ở chân.

Một phóng viên AP bị một viên đạn vô ngực, ông ta rất tỉnh, nhưng báo sự nguy hiểm sẽ đến với ông ta. Vài phút sau khi gặp th́ ông ta cũng ra đi.

Số c̣n lại tất cả đều bị thương, nhưng vẫn c̣n chiến đấu hữu hiệu . Chúng tôi phải tận lực mới đẩy lui được những đợt tấn công cướp tầu cuả địch.

Khoảng 11 giờ đêm, tiếng súng thưa dần. Tôi yêu cầu Đại úy Triết cho vô tiếp cứu, nhưng vô hiệu.

Nằm lại một ḿnh cho đến khi im tiếng súng, chúng tôi 9 thầy tṛ đă chuẩn bị tất cả vũ khí cá nhân, lựu đạn để nếu tàu bị ch́m, không ở lại tàu được th́ sáng hôm sau sẽ t́m đường bộ về Cái Bè.

Nhưng nhờ trước đó chúng tôi đă cho cột dây an toàn từ bít sau lái lên gốc cây trên bờ, nên tàu không bị vô nước, nhờ đó mới kèm kéo về an toàn...”


https://ci6.googleuserconten t.com/proxy/9xkN0f3RjU6iw9t8qWiS QHkiqgMn4Zj_rOg-8RCKYkWDFYVXu3YWwKyU wSjfDp5dt3V8yexOUkjP NTgSTHQJlh0tRdRcnYLH NIRYvXy7cVztqA=s0-d-e1-ft#http://farm6.static.flickr. com/5285/5241478044_5093aab52 a_z.jpg


***********

hoathienly19
01-03-2025, 08:42
Đặng Diệm, người lăn lộn với Giang Đoàn 21 Xung Phong rất nhiều năm.

Đặng Diệm kể :

-“Như anh biết, tôi cũng chẳng gan dạ ǵ, nhưng việc tới tay th́ phải làm. Vùng sông nước này tôi hoạt động khá lâu nên khá rơ.

Lúc đoàn tầu bị tấn công, tôi ở trên chiếc Monitor Command. Đại Úy Davis và Thiếu Úy Hoàng Hiền cũng ở trên tầu này.

Hiền bị đạn, lăn lộn dữ lắm, mấy người ôm anh ấy để tránh rớt xuống sông.

Lúc đă rút ra ngoài sông lớn, Đại Úy Triết đi Cái Bè họp với bên Bộ Binh.

Trong Lúc ấy hệ thống truyền tin vẫn mở, tiếng Giang báo cáo, kêu cứu, tất cả các tầu đều nghe.

Tôi kiểm chứng mật mă riêng với Giang. Giang trả lời rất nhanh.

Tôi gọi 4, Giang đáp lại ngay 9, để 9+ là 13. Con số 13 chỉ có hai đứa tôi biết mà thôi.

Tôi tin là Giang không bị địch áp đảo. Giang tiếp tục kêu tiếp cứu gấp rút . Các thuyền trưởng họ cùng mở máy nghe, họ nóng ruột quá.

Chỉ huy Trưởng th́ đă đi họp. Tôi bèn lấy quyết định một ḿnh vào cứu Giang, và yêu cầu ai t́nh nguyện th́ theo tôi. Phải nói là lúc đụng trận th́ ḿnh không sợ, ḿnh phản ứng tự nhiên.


https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/7e3be-1-34.jpg?w=881&h=639


Giờ cuộc đụng độ đă tàn. Nhớ lại lúc Đại Úy Davis ngă xuống và Hoàng Hiền lăn lộn đầy máu, tôi cũng cảm thấy hăi chứ. Mà chắc ǵ địch không phục ở cửa sông. Có thể là chỗ tầu Giang đă yên, yên thật, hay yên giả.

Nhưng làm sao khác được, tôi lấy một chiếc Command, 2 LCM và 2 chiếc fom trở lại rạch Ba Rài. Tôi nói với Giang :

- “ Khi nào nghe tiếng tầu tôi th́ lấy đèn pin làm hiệu...”

Phải nói là liều chứ anh, run lắm, sĩ quan chỉ có ḿnh tôi. Con rạch tối om, lạnh ngắt. Khi nghe Giang báo cáo :

- “ Tôi đă nghe tiếng tầu” là lúc tôi thấy ánh đèn pin lập ḷe của Giang vẫy vẫy. Tôi cho hai chiếc fom khai hỏa phía bờ đối diện.


https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/484cc-1-23.jpg?w=840&h=562


Tầu tôi cặp vào tầu Giang. Đón được Giang và các nhân viên trên chiếc Combat qua tầu tôi, tất cả chúng tôi đều bê bết náu.

Tầu tôi lùi ra, để cho hai chiếc LCM cặp vào chiếc Combat kéo về. Lúc trở ra. Trời đă khuya lắm, có lẽ đă quá nửa đêm. Vừa đi vừa bắn.

Về đến cửa Mỹ Tho, như anh biết là 4 giờ sáng.

May mà không có sự ǵ xẩy ra, nếu tụi nó phục sẵn, ḿnh làm sao mà không bị thiệt hại. Lúc ấy thật khó nói...”


https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/20b6a-1-29.jpg


Trong khi cả hai giang đoàn hầu như dốc toàn lực cho cuộc hành quân này, th́ riêng tôi được phân nhiệm đem một chiếc LCM và hai LCVP , chở theo một trung đội bộ binh, đổ bộ bên tả ngạn sông Tiền Giang, đối diện với vùng hành quân trên để nghi binh.

Tiểu vận đĩnh LCVP tuần tiểu trên sông.


https://bienxua.files.wordpr ess.com/2018/06/1242c-1-72c.jpg?w=1103&h=734


Tôi c̣n được chỉ thị kỹ chỉ cần đổ quân gần bờ, bắn cho có tiếng súng, đừng vào sâu, và phải rút về lúc quá trưa, để c̣n liên lạc với bên Tiểu Khu lo việc làm lễ gắn huy chương cho vị cố vấn tiền nhiệm, và cũng là lễ giới thiệu Đại Úy Davis, tân cố vấn.

Như đă dự trù, tôi đem mấy chiếc tầu về đến căn cứ lúc 2 giờ, nằm ngủ một lát để lát nữa qua Tiểu Khu mượn ban nhạc, th́ anh Trung Sĩ Vô Tuyến gơ cửa, tôi bảo “vào đi” . Anh ta nói, mặt xám ngắt :

- Ông thầy xuống Pḥng Vô Tuyến đi.

Tôi chạy xuống ngay, đóng cửa lại, và mở cả hai hệ thống truyền tin. Tiếng súng vọng lại từ mặt trận dội về xen lẫn các cuộc đối thoại giữa các chiến đỉnh trên hệ thống chỉ huy.

Có Lúc tiếng nổ dội về, và hệ thống âm thoại tắt.. .Đúng là đụng to rồi. Tôi ra lệnh cho đóng cổng trại, cấm trại 100%, để sẵn sàng nhận lệnh từ mặt trận gọi về. Tất cả đă diễn tiến như anh Giang đă tả”.

Khi tiếng anh Diệm êm ả gọi, cho hay :

- “ Tụi này sẽ về đến căn cứ độ 40 phút nữa. Sẵn sàng xe cứu thương và y tá...”

Tôi khoác áo ấm đeo súng Colt và đèn pin đứng đợi tại cầu tầu cùng với xe cứu thuơng và cáng.

Đoàn tầu đă nh́n thấy lấp lánh tiến về từ từ cặp vào cầu tầu.

Diệm bước lên đầu tiên, d́u Giang theo.

Dưới ánh đèn vàng, chỉ thấy toàn người Giang đầy máu. Giang vẫn đi lại được.

Tất cả nhân viên trên chiếc Tiền Phong đỉnh cuả Giang lên ngồi kín chiếc xe Hồng Thập Tự. Sau đó, một xe khác chở cái băng ca, xác cuả Đức Râu vàng khè và toàn thân sũng máu...

Tất cả lặng lẽ di chuyển qua Bệnh Viện Dă Chiến.

Các nhân viên c̣n lại, kể cả dưới tầu, trên căn cứ xúm lại lấy ống bơm xịt, rưả chiếc tầu vừa từ mặt trận về.

Trời sáng dần, mặt sông đă óng ánh bóng nắng, và cũng là lúc tôi nhận thấy nước từ trên chiến đỉnh chảy xuống vẫn đẫm đẫm máu đỏ.

Trời sáng hẳn, cả cầu tầu đă trở lại êm ả, sạch sẽ như thường lệ.


https://www.youtube.com/watch?v=4fEXLhWvmqQ
4fEXLhWvmqQ


************

hoathienly19
01-04-2025, 19:48
TỔNG KẾT TRẬN BA RÀI


Được chỉ huy bởi một vị sĩ quan vừa từ biển đổi về sông, kinh nghiệm chiến trận kể như c̣n “ lỏng tay ” , đây là một cuộc tranh hùng khốc liệt. Dù địch đă chuẩn bị sẵn chiến trường, có đủ yếu tố bất ngờ, và giờ giấc thuận tiện :

Lúc 4 giờ chiều, giờ của họ, nước thấp, chúng ở trên cao bắn xuống. Nhưng ta đă “đáp ứng”ngon lành.

Không ai có con số chính xác về tổn thất của địch, nhưng xác địch nổi trên mặt sông nhiều gấp 3,4 lần bên xác của ta, đó là chưa kể số thương vong trên bờ mà địch đă vội vă mang đi chắc cũng không dưới 100, v́ 57 súng đủ loại để lại là một chứng minh cụ thể.

Bên ta tuy có một tầu ch́m, số thương vong chưa quá 20. Và vũ khí được bảo toàn.


https://scontent.fyto1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/69442773_30119704655 40519_87575508876368 2816_n.jpg?_nc_cat=1 01&ccb=1-7&_nc_sid=127cfc&_nc_ohc=3mfIel671x4Q 7kNvgHfuceu&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-2.fna&_nc_gid=AMUt7ojijnf7 0cAfxgtKv7S&oh=00_AYBF5QfnMfw1fV BHbKMctzyzmuoM0vTDLW PAGO1uR2kIvw&oe=67A10F4C h́nh minh họa


Tại đơn vị, những phái đoàn lên xuống tấp nập . Đầu tiên là các cô nữ xă hội của Thiếu Úy Sa. Các cô đem dầu gió, vải trắng làm khăn tang..

Lần lượt là thân nhân của nhân viên đơn vị. Tất cả ngồi chật ních, rũ rượi ở Câu Lạc Bộ. Hải Quân Đại Tá Trần Văn Chơn, Tư Lện Hải Quân cũng có xuống.

Ông xuống thăm chiếc monitor combat HQ 6001.

Ông nh́n lỗ thủng do đạn địch bắn vào, ông x̣e bàn tay che chưa kín lỗ đạn, và nói với Giang :

- ” Có bàn tay trời che chở cho anh…”.


https://nhayduwdc.org/bv/hq/5c/2020/namcantrongCTVN_1.jp g


Trong lúc ấy tại khúc sông con rạch Ba rài, Bộ Binh đóng đầy.

Những đám khói hương cắm dọc theo mé sông, những vũng máu đen đặc, tanh nồng. Vũ khí địch bỏ lại tất cả là 57 khẩu đủ loại.

Dưới nước, tầu của ḿnh ủi băi. Nước vẫn lên xuống điều ḥa. Lâu lâu từ dưới đáy sông lại trồi lên một xác.

Tầu ḿnh ghé lại lật xác lên nhận diện. Bạn th́ vớt lên, lấy mền đắp lại.

Địch th́ đẩy ra cho trôi theo gịng nước.

Mấy ngày sau, xác Bảo mới nổi lên. Trước khi nổi có một đám bọt xủi, rồi một cánh tay nhô lên trước. Tay phải. Bàn tay c̣n cầm cái bút nguyên tử mầu vàng…

Bây giờ sau hơn 30 năm đă qua, tôi chẳng c̣n nhớ được kỹ. Chỉ biết chắc là Trung Sĩ Thinh từ nhà xác về, đem theo các thẻ bài là tôi kư giấy khai tử cho các người chết, kèm theo các thủ tục xin quan tài kẽm và lệnh di chuyển cho các quân nhân tháp tùng.


https://www.youtube.com/watch?v=QKspueKpE7w
QKspueKpE7w



* * * * *


Một buổi trưa ngày nghỉ, tôi trực nhật, ngồi từ trên lầu pḥng ngủ sĩ quan, nh́n qua bên kia Cù Lao Rồng. những mái nhà xen giưă mấy lùm cây. Trẻ con nô đuà dưới mé nước.

Lấy ông nḥm nh́n kỹ vào phiá trong, có những ông già ngồi trước hiên nhà đang lặng lẽ uống rượu. Đàn vịt, đàn gà chạy loanh quanh. Mấy bà già và các cô gái đun nấu gần đó. Cảnh trí êm ả, thanh b́nh.

Nhưng tôi nghĩ :

- ” Rất có thể các ông già kia là các mật báo viên cuả phiá bên kia. Địch lăn lộn, trà trộn với dân thật là xảo quyệt.

Tôi đảo ống nḥm về phiá cầu tầu.

Một đoàn chiến đĩnh nằm như ngủ. Riêng chiếc Tiền Phong đĩnh HQ 6001, tầu cũ cuả Đức Râu, có mấy người lính đi lại. Tôi theo dơi, và tôi thấy họ xếp một điă đồ nhậu ra sàn tầu, một thùng bia Quân Tiếp Vụ. Tôi nghĩ :

- ” Lại nhậu cho đỡ buồn đây…” Nhưng không phải thế. Mấy nhân viên ăn mặc đàng hoàng, ngồi sau các thứ họ vưà bầy ra, rồi bật diêm, đốt nhang, cắm vào một ly gạo. họ đang làm lễ, và tôi chợt nhớ, hôm nay 49 ngày cuả Đức Râu rồi đây. Tôi muốn xuống với họ, xong tôi nghĩ :

- ” Thôi để họ tự nhiên.”


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1593416605-5cn.jpg



Cũng xung quanh thời gian ấy, một hôm cụ bà, thân mẫu của anh Hoàng Hiền t́m tới đơn vị để nhận lại các di vật của con. Cụ muốn lên căn pḥng cũ, nơi HQ Thiếu Úy Hoàng Hiền đă ở.

- ” Dạ, đây là giường nằm của anh ấy.”

Cụ ngồi xuống mé giường, lặng lẽ. Cụ x̣e bàn tay gầy vuốt lên mặt nệm. Đôi Lúc bàn tay cụ dừng lại như lắng nghe, như t́m chút hơi ấm nào của con c̣n sót lại. Cụ ngồi khá lâu rồi đứng lên. Cụ nói :

- ” Nhà tôi cũng bị chết v́ Việt Cộng, giờ lại đến nó…”

Cụ nói êm ả điều ḥa như chuyện của ai. Mảnh sân đơn vị nắng bỏng. Cụ bước đi thong thả. Trên đầu cụ cuốn một mảnh khăn trắng dài, phủ xuống sau lưng. Bóng cụ đổ trên nền sân, cụ nắm chặt cây kiếm Hải Quân của cậu con trai trong ḷng bàn tay nhăn nheo của cụ.



https://ongvove.wordpress.co m/wp-content/uploads/2015/05/nnc121.jpg


Bây giờ, đă cuối năm 1998, đọc cuốn Vietnam, the Decisive Battles, ( Những Trận Chiến Quyết Định tại Việt Nam), Tác giả, ông John Pimlott, có nói đến trận Ba Rài.

Tôi đọc kỹ, đây là một trận đánh khác, nhưng cũng xảy ra tại nơi trên, nhưng thời gian trận sau diễn ra vào ngày 15 tháng 9 năm 1967, trước hai tuần lễ đầy hai năm sau trận mà hai Giang Đoàn 21 và 27 Xung Phong đă chạm địch.

Trong trận sau, các chiến đĩnh của Hoa Kỳ, loại mới, tối tân hơn (ATC), đă đụng với Tiểu Đoàn 263 D của Việt Cộng.

Phải chăng đơn vị này của địch đă đụng với Hải Quân Việt Nam trước đó. Trận sau , dù địch có yếu tố t́nh cờ và địa thế đă chọn sẵn, địch cũng đă để lại 79 xác chết.


https://www.youtube.com/watch?v=Bl3FwXrA2z8
Bl3FwXrA2z8

hoathienly19
01-06-2025, 07:12
ĐỐI PHƯƠNG ĐĂ NÓI G̀ VỀ TRẬN BA RÀI ?

Trong tập tài liệu lưu hành nội bộ nhan đề :

- “ Những Trận Đánh của Lực Lượng Vơ Trang Đồng Bằng Sông Cửu Long”, do nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, năm 1997, trận Ba Rài đă được viết lại tỉ mỉ, và chiếm một số lượng trang từ 104 đến 126, người viết đề tên Trung Tá Nguyễn Thanh Sơn.

Đây là một bài viết công phu, từ những nhận định địa h́nh, thời tiết, t́nh h́nh lực lượng hai bên, t́nh h́nh dân chúng, những giả thuyết trận liệt, rồi diễn tiến trận đánh và cuối cùng là kết quả và ư nghĩa của trận này.

Từ đó ta biết rằng đơn vị đối đầu với ta tại Ba Rài ngày 29 rạng 30 tháng 9 năm 1965, là tiểu đoàn 261.

Tiểu Đoàn này đă được trang bị vũ khí nặng.

Riêng "Đại Đội Bộ Binh 1" của Việt cộng, có nhiệm vụ "chận đánh tầu địch trên sông Ba Rài", có :

- 3 khẩu DKZ 57 ly , 2 khẩu 12ly 7, và ba khẩu B 40.


Trận đánh đă diễn ra ác liệt, phù hợp với những ghi nhận của phía HQVN ta.


Súng thượng liên 12 ly 7 và súng DKZ 75



https://baolamdong.vn/file/e7837c02845ffd040184 73e6df282e92/dataimages/201405/original/images1012948_dl1.jp g



Có điểm kết quả trận đánh th́ chúng khoác lác rất lạ , Việt Cộng viết nơi trang 119 rằng :

- " Sau một ngày chiến đấu, ta đă tiêu diệt 500 tên địch.

- Bắn cháy và ch́m tại chỗ 5 tầu chiến (có một tầu đầu hàng).

- Thu một cối 81 ly

- 1 súng 12,7 ly

- 2 đại liên

- 8 cac bin

- 1 máy vô tuyến điện và nhiều quân trang quân dụng khác.

Phá hủy một DKZ 5 ly,1 súng 12,7 ly. Bắn rơi 5 máy bay.

Ta hy sinh :

- 18 đồng chí (có 3 cán bộ trung đội).

Bị thương :

- 32 đồng chí.

Bị phá hỏng :

-1 B 40 và 4 súng tiểu liên".


Thưa anh Nguyễn Thanh Sơn, không biết anh đă căn cứ vào đâu để có kết quả như trên ?

Nếu có th́ giờ, anh hăy lục lại loạt bài nhan đề :

” Đoàn Tầu Đi Vào Cơi Chết Để T́m Ra Lối Sống”, đăng liên tục nhiều ngày khoảng đầu tháng mười năm 1965, trên nhật báo Tiền Tuyến, Sài G̣n, người viết đă ghi lại đầy đủ chi tiết về phía Quân Lực Việt Nam.

Có đầy đủ các thiệt hại, và tên tuổi của người đă nằm xuống trong trận này.

Đó là một trận đánh quả có gây xúc động tới các giới chức cao cấp của chúng tôi, v́ trận này sĩ quan Hải Quân chết nhiều nhất :

- Hai người là Trần Ngọc Bảo và Hoàng Hiền.

Phía Mỹ, Đại Úy Davis, vị tân cố vấn vừa đáo nhậm, đây cũng là lần đầu tiên các anh đă xử dụng B 40 đánh phá đoàn tầu.

Một loại vũ khí mới và rất công hiệu.


https://danviet.mediacdn.vn/upload/2-2019/images/2019-04-13/B40-458-1555090103-width640height397.jp g


Và chúng tôi rất tiếc, “Con Ngựa Xích Thố của Giang Lực” , Trung Sĩ I Lê Phước Đức, người mà phía các anh đă khiếp hăi, đă treo giải” ai giết được Đức Râu th́ sẽ được trọng thưởng...”.

Đó là nỗi đau đớn, thiệt hại của chúng tôi.

Quả các anh có bắn cháy và ch́m 1 chiếc tầu, trên có Bảo, bạn tôi chỉ huy.

Tầu ch́m, rồi chúng tôi lại vớt lên, kéo về.



https://scontent.fyto1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/53535836_12595670175 17266_12753827002318 84800_n.jpg?_nc_cat= 104&ccb=1-7&_nc_sid=127cfc&_nc_ohc=z_409mTx3NAQ 7kNvgGlPSzD&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-1.fna&_nc_gid=AuYaMA3uxKcv QJOPgkHw3R5&oh=00_AYCoIodwV50zvP ea7t4F81yajvEzBmU-CyG2el5IQvQoEQ&oe=67A30A65



Một chiếc khác bị thiệt hại nặng, trên đó có Giang điều động.

Chiếc tầu đó có thủng, không chạy được, nhưng đă không ch́m.

Phía các anh đă nhiều phen vừa hô “xung phong” vừa ào lên định cướp tầu. Mỗi lần như thế, lại một lần phía các anh gục xuống.



https://scontent.fyto1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/53533159_10157227905 978216_5121574734693 138432_n.jpg?_nc_cat =110&ccb=1-7&_nc_sid=127cfc&_nc_ohc=6mu8WXgBFxwQ 7kNvgGip8LL&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-2.fna&_nc_gid=A55M7PZQw-Rk_Est2J8rGOu&oh=00_AYBG97oVU2vUiD _ChOoitKUhbOvpjtev9q H9Efo-F9WiPw&oe=67A300E3



Chỉ riêng với chiếc tầu này, khách quan mà nói, con số 20 người chết về phía các anh, có lẽ là con số quá nhỏ. Làm ǵ có chiếc tầu nào hàng các anh đâu ?

Trong khi đó, như bài viết ở trang 113 , các anh đă phải đối đầu với :

- " 7 tiểu đoàn bộ binh, 8 khẩu 105 và 155 ly trực tiếp chi viện.

Trên sông có 12 chiếc tầu chiến.

Ngoài ra c̣n có phi cơ các loại tập trung chi viện cho cuộc hành quân càn quét này".

Thưa anh Sơn, có thể các anh đă ước định sai số quân bên phía chúng tôi.

Xin hăy giả thử chỉ một nửa quân số nói trên, họ lại là một loại binh chủng mà các anh kêu là “ác ôn, lính thủy đánh bộ,” họ đâu có phải là hàng chuối ở vườn, đứng im cho các anh tới hạ.

Nếu quả các anh có một may mắn nào đó, tiêu diệt được độ một trăm người, tôi nghĩ cũng đă là oanh liệt lắm.

Chiến công ấy do ai chỉ huy, ai là những ” xạ thủ ngoan cường” của các anh, sao không thấy các anh nhắc đến ?

Những luận cứ vu vơ đó chỉ làm cho tập tài liệu của các anh trở thành một tṛ cười, không c̣n một chút khả tín nào nưă.



https://scontent.fyto1-1.fna.fbcdn.net/v/t39.30808-6/465149710_8565080016 907075_3315483361728 060378_n.jpg?stp=dst-jpg_p180x540_tt6&_nc_cat=108&ccb=1-7&_nc_sid=127cfc&_nc_ohc=STyZQKfC-4oQ7kNvgGqBf84&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-1.fna&_nc_gid=ARQzG3FrNT7v IgTgeWEn55w&oh=00_AYCw_sXUxCqv1H 6gaxWd4Kh5bep4KYkv4d 4P-3ahBq44nA&oe=67818B7A



Chỉ có “18 đồng chí hy sinh,” vậy th́ 57 khẩu súng đủ loại bỏ rải rác hai bên bờ sông Ba Rài là của ai.

Các vũng náu đen đặc, và những xác chết nổi lên không đếm được trên sông Ba rài, các xác đều mắc quần áo Kaki Nam Định, là xác chết nào hở anh Sơn ???



https://farm3.staticflickr.c om/2751/4048480245_26ff26c8f f_z.jpg?zz=1


Thưa anh Sơn,

Khi cuộc chiến c̣n đang tiếp diễn, các anh cần thổi phồng chiến công để tuyên truyền, chúng tôi đọc đến nỗi phải ph́ cười nhưng vẫn c̣n thông cảm được.

Nay cuộc chiến đă tàn. Cả khối Cộng Sản đă vỡ. Các anh đă phải mở cửa để long trọng đón kẻ thù cũ là ” Đế Quốc Mỹ” vào như một thượng khách.

Sự thực về cuộc chiến đă được từ từ phơi bầy.


https://www.youtube.com/watch?v=eeLpTRS1iiY
eeLpTRS1iiY


Lẽ ra đây là lúc các anh phải thật khách quan, t́m hiểu, đối chiếu tường tận để trả sự thật cho sự thật. Đó mới là thái độ trí thức của người viết sử. Anh đă không làm thế. Các anh đă không làm thế.

Riêng anh, anh Sơn, anh viết bừa băi, cẩu thả, đă đành.

Trên anh c̣n có ông Phó Tiến Sĩ Phạm Gia Đức , người chịu trách nhiệm xuất bản.

Ông Đức có lẽ đă không thèm nh́n lại bài viết của anh. Hoặc có đọc mà không có khả năng suy xét, nhận thức. Phải chăng ông ta là một ông tiến sĩ giấy ?

Học vị càng cao chỉ càng làm cho tṛ cười thêm lớn.


https://cdn.tuoitre.vn/thumb_w/730/2017/tien-si-giay-mua-bang-1505902415702-1505904157159.png


Tuy nhiên nói đi cũng phải nói lại, chính sự ngộ nghĩnh nghịch lư nói trên đă giúp phía chúng tôi ít phải mất th́ giờ so sánh, biện bạch.

Và bên cạnh đó, anh Sơn c̣n dẫn một câu (mà không nêu rơ danh tánh) rằng :

- ” Trận đánh này chỉ huy tiểu đoàn bộ binh 261 đă xác định lực lượng nguy hiểm trực tiếp trước mắt là đoàn tầu chiến trên sông Ba Rài” (trang 123). Thế là đủ.



https://s3-ap-southeast-2.amazonaws.com/awm-media/collection/P11391.042/screen/6035738.JPG



Tôi xin dừng ở đây nghe anh Sơn.

Trước khi bài này được in và chuyển ngữ, chúng tôi sẵn sàng đón nhận ư kiến từ mọi phía, kể cả tác giả bài viết của nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội.





***************

hoathienly19
01-09-2025, 22:45
ÔI NHỮNG ANH LINH BÊN D̉NG SÔNG CŨ


Bây giờ, tính từ năm 1967 đến nay, đă trên 30 năm. Cuộc chiến cũ đă nhạt nḥa. Người chiến binh Mỹ đă trở lại Việt Nam du lịch. Những con thuyền gỗ có mái che, chở các du khách lướt trên mặt nước đục ngầu Cửu Long Giang được in trên các báo Mỹ.

Và tôi chắc, từ hải ngoại, có lẽ đă không thiếu bà con, bằng hữu chúng ta trở lại thăm thân nhân, chốn cũ.

Có ai đă tới Mỹ Tho không ?

Trước khi đến Mỹ Tho, từ Sài G̣n đi xuống bằng Quốc Lộ 4, chúng ta gặp tỉnh lộ 29 xuôi Nam.

Qua Mỹ Hạnh Trung, vào Tỉnh Lộ 20, tới Long Điền, rẽ trái vào Tỉnh Lộ 12 ta sẽ đi qua một vùng đau khổ cũ.

Phía mặt là Cẩm Sơn, phía Nam là Hiệp Đức, Xuân Sơn, ta sẽ gặp con rạch Ba Rài ở giữa đoạn đường này, tính từ Long Điền đến An Phú.

Nơi đây vườn cây xanh tốt. Mận ở vùng này nổi tiếng ḍn, đỏ au như xác pháo hồng mùa Xuân.



https://www.youtube.com/watch?v=X6xK7ImDYxw
X6xK7ImDYxw


Con rạch Ba Rài ấy có các con thuyền đi lại. Các cô thiếu nữ má hồng trong áo bà ba tươi mát, quần Mỹ A óng ả. Dưới sông trẻ nhỏ bơi tắm nô đùa.

Các cô gái và trẻ em này được sinh ra và lớn lên sau cuộc chiến đă tàn.

Họ có biết đâu rằng, dưới ḷng con rạch này,chắc c̣n có những nắm xương nằm từ bao năm cũ.

Và hàng cây bên sông, cây già trăm tuổi, có c̣n nhớ một thời khói lửa đă bùng lên, và nếu ai tỉ mỉ, xem lại các thân cây, những vết đạn cũ, chắc có những đầu đạn sản xuất made in USA, và có cả những đầu đạn từ Nga Sô, Trung Cộng đem lại.


https://www.youtube.com/watch?v=28fGCF_zsGY
28fGCF_zsGY


Những người trai của cả hai bên trận tuyến, có khi là anh em một nhà, bạn bè một quận… đă phải ào ạt giết nhau.

Những linh hồn oan khuất chắc c̣n lẩn khuất bên các gốc cây xưa.

Ôi những anh linh kẻ Nam Người Bắc

Chết là oan cho một cuộc tương tàn

Là quân nhân Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa, chúng ta đă làm tṛn xứ mạng được trao cho.

Thời cuộc đă gọi, ta nhập cuộc. Chúng ta đă anh dũng hành động. Bạn bè ta đă anh dũng hy sinh. Các bạn đích thực là những kẻ anh hùng.

Tôi ao ước có một ngày về thăm chốn cũ. Tôi sẽ ngồi bên bờ con rạch Ba Rài, dưới bóng mát của các cây ăn trái, tôi sẽ cầu nguyện, sẽ đọc một thời kinh Giải Oan cho những người năm xuống tại nơi này.

Hỡi Nguyễn Ngọc Bảo, hỡi Hoàng Hiền, hỡi Lê Phước Đức, tức Đức Râu, và bao nhiêu người nữa. Tôi ngưỡng mộ các anh. Xin các anh hăy lắng ḷng nghe kinh mà siêu thoát. Tổ Quốc ghi công các bạn.

Phan Lạc Tiếp

* Bài viết này được cô đọng qua các cuộc phỏng vấn bằng thư, bằng điện thoại giữa người viết và anh Nguyễn Ngọc Giang, Đặng Diệm, trong phần có dấu ngoặc kép” ” là nguyên văn lời các anh ấy phát biểu.

( Forumpost: Con Ngựa Xích Thố của Giang Lực Hải Quân VNCH )




**************

hoathienly19
01-10-2025, 11:16
HOÀNG SA PHIM TÀI LIỆU HẢI CHIẾN VNCH


https://www.youtube.com/watch?v=81SLD7X9QTo
81SLD7X9QTo



https://imagizer.imageshack. com/v2/484x336q70/923/Z5Va8R.jpg


******************

hoathienly19
01-15-2025, 11:13
ĐẶC TÍNH CHIẾN HẠM THAM DỰ HẢI CHIẾN HOÀNG SA, HQ 10, HQ 4, HQ 5, HQ 16


1.- KHU TRỤC HẠM TRẦN KHÁNH DƯ – HQ 4

– Kích thước :

- Dài 93,3 m (306 ft) / ngang 11,2 m (36,6 ft) / tầm nước 4,3 m (14 ft)

– Trọng tải :

- 1590 tấn (tiêu chuẩn), 1850 tấn (tối đa) dựa theo Jane’s fighting ships 1974-1975.

Dựa theo www.navsource.org 1200 tấn (tiêu chuẩn), 1590 tấn (tối đa)

– Máy chánh :

- 2 máy dầu cặn Fairbanks-Morse, công suất 6000 mă lực / 2 trục chân vịt, hầm nhiên liệu chứa đến 310 tấn dầu cặn

– Máy phát điện :

- Công suất 580 kw

– Vận tốc :

- Tối đa 21 knots.

• Với vận tốc 12 knots, tầm hoạt động 9100 hải lư (theo www.navsource.org)

– Vũ khí :

• 2 khẩu đại bác 76,2 ly tự động (pháo tháp ở phía trước và lộ thiên ở phía sau)

• đại bác 20 ly (không rơ số lượng)

• 2 khẩu đại liên 50 (tả và hữu)

• 1 khẩu súng cối 81 ly (theo Combat fleets of the world 1980/1981)

• 6 ống phóng thủy lôi Mk-32 đường kính 0,324 m

• 1 dàn phóng thủy lựu đạn Hedgehog (theo Jane’s 1974-1975 và Combat fleets of the world 1980/1981)

– Thủy thủ đoàn : 170


https://blogger.googleuserco ntent.com/img/a/AVvXsEimW-k4pRQSWQ3iUByLhQP7zM j_FsHveAZ-EpNx26hfARYMFiUp9xHO oh52WPYZKtN1MsBXv9zp 6drdCNhKMevyjZw0OJE_ idXRJpUequH2p68v4ekt hL3g_yeT8qUHVd76ALLv WxUM-bZeI4jnNAcL8r3rSpDq4 6c7PFlqcrqcHupCtpBf2 1b6x4a0u-Q8=w640-h344


2.- TUẦN DƯƠNG HẠM TRẦN B̀NH TRỌNG-HQ 5 và TUẦN DƯƠNG HẠM LƯ THƯỜNG KIỆT-HQ 16


– Kích thước :

- Dài 94,8 m (310 ft 9) / ngang12,5 m (41 ft) / tầm nước 4 m (13ft 18) [1]

– Trọng tải :

- Tối đa 2529 tấn [1] (tối thiểu 1766 tấn, tối đa 2800 tấn theo Jane’s 74-75)

– Máy chánh :

- 2 máy Fairbanks-Morse, công suất 6400 mă lực [1], 2 trục chân vịt.

– Khả năng :

- Tốc độ tối đa 18,2 knots tầm hoạt động 8000 hải lư. [1]

- Tốc độ tiết kiệm 10 knots tầm hoạt động 18050 hải lư. [1]

– Radar :

SPS-51, SPS-29/Sonar SQS-1 [1]

[1] dựa theo tài liệu chính thức của Lực lượng Tuần Duyên Hoa Kỳ trong năm 1966.

Phần trang bị vũ khí dựa theo HQ Trung Úy Trương Văn Liêm K.1 OCS, phục vụ trên HQ 5 khi xảy ra trận hải chiến Hoàng Sa.

– Vũ khí :

• 1 khẩu đại bác 127 ly sân trước mũi

• 1 khẩu đại bác 40 ly đôi phía trước boong trên

• 2 khẩu đại bác 20 ly (tả, hữu) ngang pḥng lái

• 2 khẩu đại liên 50 (tả, hữu) boong trên

• 2 khẩu đại bác 40 ly đơn (tả, hữu) phía sân sau.

Khi bàn giao cho Hải quân VNCH, dàn phóng chống tàu ngầm Hedgehog (Mk10 Mod 1) và 2 dàn ống phóng thủy lôi (Mk38 Mod 5) đă bị tháo gỡ , c̣n lại 1 khẩu đại bác 127 ly và đại liên 50.

Sau khi tiếp nhận HQVN đă thiết trí thêm đại bác 40 ly và đại bác 20 ly.

– Thủy thủ đoàn :

- Khoảng 200 người.


https://blogger.googleuserco ntent.com/img/a/AVvXsEghGUkXfS8KrzwR bFmSQvlxhS3QEBeEfg3a k-crfu6cgi8e6sDFyL5kbt ihmmS8uRb3JV9ZwrT8PE fXPykOi54wh8UrK8DF8j Dcy8xNp16GwZRXH14VIW dOTWtX5Vfy6Qq-LLA60PuOTKNMeOnJeQK0 BUdNp7wGXEG1hAa4b9WO MIOPiPIDdAKb42Y4Ii-2=w640-h338


https://blogger.googleuserco ntent.com/img/a/AVvXsEjRqn_dHAr69HQW XrmgSEN4RTGTvM3uyYqO dgerv_JxEubtphoCJHSd MKIhzpvPE8fYIP_KnciE Xhv3AII4pJFiUVFv6OrZ UfKszN1JBYlbc-GyoSeqUsp6YdGK1mRct4 keJS5Ll49YxEhmFhzt-spAF5It2goesm9-0PsL6UMTt1sKyhyF1MvK xaeseMUK=w640-h436


3.-HỘ TỐNG HẠM NHỰT TẢO- HQ 10

– Trọng tải :

- 650 tấn (tiêu chuẩn) / 945 tấn (tối đa).

– Kích thước :

- Dài 56,2 m (184,5 ft) / ngang 10 m (33 ft) / tầm nước 3 m (9,75 ft).

– Máy chánh :

- 2 máy dầu cặn (Cooper Bessemer), 2 trục chân vịt, 1710 mă lực.

- Vũ khí :

• 1 khẩu đại bác 76,2 ly phía sân trước có tầm xa tối đa 14000 yds, tầm hữu hiệu 7500 tác xạ với tốc độ nhanh 50 phát/phút, với tốc độ thích ứng 20 phát/phút.

• 2 khẩu đại bác 40 ly (tả và hữu) phía sân sau có tầm xa tối đa 11000 yds, tầm hữu hiệu 4000 yds, tác xạ với tốc độ 140 phát/phút.

• 2 đại bác 20 ly đôi 2 phía sau pḥng lái, tầm xa tối đa 4,800 yds, tầm hữu hiệu 2,000 yds, tác xạ với tốc độ 450 phát/phút.

• 2 khẩu đại liên 30

• súng cối 81 ly (không rơ số lượng)

(dựa trên tài liệu Vietnamese Navy Fleet Command Ships của Cố vấn HQ/HK)

• Vũ khí chống tàu ngầm :

Với nhiệm vụ tuần tiễu và hộ tống các dụng cụ rà ḿn đă được tháo gỡ và thay vào đó là 2 dàn thủy l lựu đạn (depth charge rack) được thiết trí ở phía sau lái, ngoài ra c̣n có 1 dàn phóng thủy lựu đạn (hedgehog) ở phía sân trước.

– Vận tốc :

- Tối đa 14,5 knots.

Với vận tốc tiết kiệm là 8 knots tầm hoạt động 6,500 miles

– Thủy thủ đoàn : 83


https://blogger.googleuserco ntent.com/img/a/AVvXsEj2k7AoB-ZmXIyFXdBdz7vbCKnpb0 2WM5xMBEJZ1gQFyD_bt0 FFPZcUp-Hc8n_PlEQlyrLJXgiTC-GREY6vkeD_3m_SdBmuJS iCWCOp4kys2FHmJ3mbtr mcUs29k-2YAeOG0a2dEQAbcyg5PX-SjLpOL_TafRTdg1JjL1v 8JVoHxX1XuBDr-p450wh4QiAy=w640-h324


https://blogger.googleuserco ntent.com/img/a/AVvXsEgjKzyc0R9Ots-Y9g-TMB-XByWCOkHggC1mOznBhW5 p7uha95WU0_GBsWTxhgv VZj7J1HxnGyPzftD0Qnj 8hixWTCxyIV7uZKIwni3 nGx2Hh9HZOBZK0bzZW8r nr4cHigMhXakIzo33nfh acm_n5iupcdbwfGty8Pq 4Et_hiMZetbxiYK4esgY C6WcB3hlC=w640-h458


http://themsonha.blogspot.c om/2025/01/ac-tinh-chien-ham-tham-du-hai-chien.html


****************

hoathienly19
03-01-2025, 19:53
"CÙ LẦN BIỂN" - "BUỒN VUI CHUYỆN CŨ"



https://bienxua.files.wordpr ess.com/2022/07/image-78.png?w=266



"Khoảng đầu năm 1973 [/]bkhi tôi phục vụ ở Căn Cứ Hải Quân / Mỹ Tho ( CCHQ/MT) , một hôm có người Bạn học cũ là Sĩ Quan Liên Lạc T́nh Báo (SQ / LLTB) với HK ( NILO ) vào báo cho tôi tin là :[b]

- " VC định đánh đắm 1 chiến hạm của ta ở cầu tàu CCHQ/MT " .

Tin đúng vào lúc chiếc Y Tế Hạm HQ 400 ( hay HQ 401) vừa xong công tác dân sự vụ ở thượng nguồn sông Tiền ( Tân Châu , Hồng Ngự ... ) .

Trên đường trở về Sài G̣n đă ghé Mỹ Tho , có lẽ để cho nhân viên xả hơi và đi chợ mua thực phẩm tươi .

Tôi yêu cầu người Bạn gửi cho 1 công điện chính thức , đồng thời lên tŕnh ngay cho Chỉ Huy Trưởng CHT sự việc , tôi xin tăng cường việc ném lựu đạn và gửi công điện báo cho chiếc Y Tế Hạm cùng 2 đơn vị Bạn đồn trú trong CCHQ/MT là :

- Giang Đoàn 56 Tuần Thám ( GĐ56TT) ( Bạn M làm CHP )

- Giang Đoàn 42 Ngăn Chận ( GĐ42NC ) ( Bạn N.T.V là CHP ) .

B́nh thường mỗi hôm chúng tôi chỉ xử dụng 10 ( 15 ) trái thuỷ lựu đạn MK3A2 ném không theo giờ giấc nhất định .

Hôm đó số lựu đạn được tăng gấp đôi .

Tin t́nh báo của người Bạn NILO thật chính xác .

Hai tên đặc công thuỷ của VC định đánh đắm chiếc Y Tế Hạm v́ bị lựu đạn ném nhiều hơn thường lệ nên chưa dám mạo hiểm mà chỉ thả giữa gịng chờ khi thuận tiện .

Xin được nói sơ về Đặc Công Thuỷ (ĐCT) của VC .

- Chúng không có nhiều phương tiện như Người Nhái của ta .

Để chống lạnh , chúng chỉ dùng mở ḅ trộn lọ nghẹ thoa khắp châu thân và uống thêm ít nước mắm .

- Để thở , chúng không có b́nh dưỡng khí , nên dùng 1 ống cao su để ló trên mặt nước khoảng 1 tấc nhờ xuyên qua 1 vật nổi như chiếc dép cao su .

- Chất nổ th́ chúng cột vào bộp dừa nước chế biến sao chỉ lơ lững dưới nước nhưng không ch́m lĩm .

Với những phương tiện đơn sơ như thế nhửng tên đặc công thuỷ VC có thể lặn hàng giờ dưới nước .


https://scontent.fyto1-1.fna.fbcdn.net/v/t39.30808-6/470633862_1862800134 252107_5110446141004 872787_n.jpg?_nc_cat =103&ccb=1-7&_nc_sid=33274f&_nc_ohc=KdjTHwVtgpMQ 7kNvgH70WQw&_nc_oc=AdgADci1LS0qW yWKOGdlKixtkAr6HEvqZ EGvMT-6yTW5o3_XUSKkRKGNspt 9F4oKK7k&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-1.fna&_nc_gid=AqciclQOcgba GsO_I2gq9aU&oh=00_AYB0hj-e-L4N8yOFjruv9sktFNXR9 pu2A0iJYkcQOZKLDg&oe=67C9314D


Không may cho 2 tên đặc công thuỷ này , đang ở giữa gịng th́ 1 tàu tuần của Giang Cảnh chạy ngang .

Thường th́ dù nước lớn hay ṛng , các vật nổi trên mặt nước ( như lục b́nh …) cũng phải trôi xuôi gịng , nhưng chiếc dép cao su có ống thở của 2 tên ĐCT th́ lại ngược gịng .

Thấy việc bất thường nhân viên chiếc Giang Cảnh liền ném xuống 1 , 2 trái lựu đạn chống người nhái làm 1 tên ĐCT chết ngay , 1 tên khác bị thương nặng cố bơi vào bờ .

Có lẻ v́ hoảng hốt thay v́ lặn trở về nơi xuất phát là Cù Lao Rồng , tên này lại bơi vô nghịch hướng và bị bắt ở bờ sông thuộc Công Viên Lạc Hồng .

Hắn được đưa vào Bệnh Viện 3 Dả Chiến để chửa trị , nhưng v́ lục phủ , ngũ tạng bị chấn động quá mạnh nên đă chết trước khi được Nhân Viên T́nh Báo Bạn khai thác .



https://vnanet.vn/Data/Articles/2019/07/25/3988090/vna_potal_ky_niem_55 _nam_ngay_truyen_tho ng_danh_thang_tran_d au_cua_hai_quan_nhan _dan_viet_nam_2_va_5 81964_dac_cong_hai_q uan_-_luc_luong_tac_chie_ small.jpg



Tiểu Khu Định Tường thông báo cho chúng tôi tin tức và chúng tôi cũng báo ngay cho các Đơn Vị Bạn .

Chiếc Y Tế Hạm HQ 400 được tin lập tức tách cầu tàu CCHQ/MT chạy một mạch về Sài G̣n .



https://scontent.fyto1-1.fna.fbcdn.net/v/t39.30808-6/470674429_1862800150 918772_4124836195070 561196_n.jpg?_nc_cat =104&ccb=1-7&_nc_sid=33274f&_nc_ohc=IDWYqO69jpcQ 7kNvgH0VUHM&_nc_oc=AdhJb0_joKnOK awGPWqmK4ZpD7Wd0lcOf wQK652hiVg5d0OE83phw 4qSeZyVXsXEGlE&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-1.fna&_nc_gid=AY27w9mYgT8m vsmnzy0wkhD&oh=00_AYD8owHw4Pc9GZ jeTgmyp_43zQ5Yy6o4R6 jomVUYfX6ZPQ&oe=67C9493F


Không biết họ đă báo cáo thế nào mà Giới chức Cao Cấp ở Bộ Tư Lệnh / Hải Quân ( BTL/HQ) và Bộ Tư Lệnh / Hạm Đội ( BTL/HĐ ) đă khen thưởng và tặng cho chiến hạm này một số tiền khá lớn , trong khi kẻ thực sự có công trong việc này là viên SQ/LLTB đă cung cấp tin chính xác và chiếc Giang Cảnh đă hạ 2 tên Đặc Công Thuỷ VC .

Phương cách làm việc của một số giới chức cao cấp của HQ thật kỳ lạ và điều này lại tái diển sau trận hải chiến Hoàng Sa 19.01.1974 mà tôi sẽ kể ở phần sau."


http://moussaillon17.blogsp ot.com/


****************

anhhaila
03-05-2025, 16:36
HÀNH QUÂN LAM SƠN 719 HẠ LÀO và ĐẠI ĐỘI 5/TĐ2/TQLC.

MX Phạm Văn Tiền

http://s113345672.onlinehom e.us/images/phamvantientrans.gif

Lời tác giả:

Từ lâu đă có quá nhiều bài viết về cuộc hành quân Lam-sơn 719 tại Hạ Lào. Có nhiều người quá lạc quan cho rằng QLVNCH đă chiến thắng lớn trong cuộc hành quân nầy v́ quân ta đă phá hủy được phần lớn căn cứ hậu cần địch dọc theo hệ-thống đuờng ṃn Hồ chí minh tại cứ điểm Tchépone. Lại có vài bài viết khác lại nói rằng đây là cuộc hành quân thảm bại nhất, hao tốn nhiều xương máu của anh em binh sĩ mà chẳng có kết quả cụ thể nào. Bao nhiêu quân trang quân dụng cùng vũ khí đủ loại kể cả pháo binh và thiết giáp đem vào khi xung trận, lại phải hủy diệt tại chổ hay biếu không cho địch. Điều tai hại nhất là làm suy sụp nghiêm trọng đến tinh thần chiến đấu của nguời lính QLVNCH, v́ chẳng có đơn vị nào c̣n nguyên vẹn trong cuộc lui binh rầm rộ, hỗn độn, hấp tấp vô cùng mất trật tự chưa từng xảy ra trong quân sử của bất cứ quân đội thiện chiến nào. H́nh ảnh oai hùng của người lính lâm trận cùng đủ loại yểm trợ và các vũ khí vô cùng tối tân đă bị phai nhạt khi người lính trở về trong thất vọng, mất mát, thiểu năo như vừa thoát về từ địa ngục trần gian. Với bản thân ḿnh là Đại úy Đại đội trưởng của một đơn vị tổng trừ bị tham dự trong cuộc hành quân nầy. Tôi xin ghi lại một cách trung thực những ǵ tôi biết, tôi nghe, tôi thấy trong khả năng hiểu biết của ḿnh .Tôi muốn nói lên sự thực, một sự thật vô cùng khổ đau mà người lính QLVNCH phải đương đầu với tất cả sức lực c̣n lại của ḿnh để tồn tại trong cái chết là điều chắc chắn.

Vừa măn khóa 4/70 Đại đội trưởng tại trường Bộ Binh Thủ Đức, hết phép cũng là lúc tiểu đoàn đang nghỉ dưỡng quân sau cuôc hành quân dài 3 tháng tại Đức Dục - Quảng Nam. Đây là lần đầu tiên trong nhiều năm đơn vị được ăn Tết tại hậu cứ. Lệnh chuẩn bị hành quân được ban ra trong lúc đa số các anh em binh sĩ c̣n trể phép chưa về tŕnh diện đầy đủ. Tiểu đoàn cấm trại 100% và lệnh cho các ĐĐT bằng mọi cách, gom con cái của ḿnh lại càng nhanh càng tốt. Một số lớn binh sĩ ở trại gia binh được gọi vào để trang bị vũ khí đạn dượt sẵn sàng cho môt cuộc hành quân xa. Đại đội tôi cố gắng lắm cũng đử gần được 100 anh em, số c̣n lại sẽ được chuyển ra trong chuyến liên lạc gần nhất. Đoàn GMC của đại đội vận tải sư đoàn mang chúng tôi từ hậu cứ Tam Hà - Thủ Đức đến phi trường quân sự Biên Ḥa, để từ đây không vận bằng C130 ra Huế. Đến phi trường Phú Bài vào lúc nhá nhem tối, v́ là đơn vị di chuyển sau cùng của tiểu đoàn nên chúng tôi được lệnh đóng quân qua đêm tại công viên bên bờ sông Hương, trước mặt cửa Thượng Tứ; để rồi sáng sớm ngày hôm sau sẽ vào vùng hành quân. Xe qua An Lỗ, cầu Phổ Trạch quận Phong Điền nơi vết tích của cuộc phản kích tuyệt vời thuộc đơn vị tôi vào sáng ngày 29/6/1966. Vị tiểu đoàn trưỡng đă anh dũng hy sinh cùng hàng chục người khác. Rồi Mỹ Chánh, Quảng Trị, Ái Tử, Đông Hà...một thị trấn nhỏ bé nằm cực Bắc đất nước nơi tuyến đầu lửa đạn, vẫn c̣n đây với bao kỷ niệm ôm ấp từ những ngày mới ra trường, thành phố của đủ mọi sắc lính vẫn đi và về trong hối hả vội vàng. Qua Cam Lộ bắt đầu rẽ trái về quốc lộ 9 đường đi Savanakhet Hạ Lào để từ đây vào thẳng vùng đồi núi Khe Sanh, nơi đặt trung tâm hành quân của Quân Đoàn I cho cuộc hành quân sắp tới.

http://s113345672.onlinehom e.us/images/ls719-01.jpg

Khe Sanh là một cái tên khá quen thuộc, một vùng đất mầu mỡ nhiều đồn điền càfé thời Pháp thuộc nay đă biến thành một cứ điểm chiến lược vô cùng quan trọng trong cuộc chiến tranh nầy, nơi nổi danh với nhiều trận đánh lẫy lừng đẫm máu nhất giữa quân CSBV và lực lượng đồng minh Hoa Kỳ vào cuối năm 1967 và những tháng đầu năm 1968. Lực lượng địch đă vây hăm Khe Sanh trong ṿng 77 ngày với ư đồ biến nơi đây thành mồ chôn quân Mỹ của một Điện Biên Phủ thứ 2, nhưng rồi đă bị thảm bại tan tác dưới các cơn mưa bom đạn của một quân lực hùng mạnh nhất thế giới, trung b́nh mỗi ngày hơn 45 phi vụ B52 và 300 phi vụ oanh tạc khác yểm trợ chiến thuật. Số bom đạn được ném xuống ở đây c̣n nhiều hơn tổng số mà quân đồng minh đă xử dụng trong trận đại chiến thế giới lần 2 khi đánh bại Đức Quốc Xă.

http://s113345672.onlinehom e.us/images/ls719-02.jpg

Lần nầy để yểm trợ cho cuộc hành quân sang lănh thổ bạn, quân lực Hoa Kỳ chịu trách nhiệm khai quang các trục lộ và bảo đảm an ninh từ 2 tháng trước từ Đông Hà đến tận miền biên giới Việt Lào, đường xá và một số cầu cống được tu sửa lại thật hoàn chỉnh, phi trường quân sự Khe Sanh bị hoang phế nhiều năm nay cũng được tu bổ lại sẵn sàng cho các vận tải cơ đáp xuống tiếp tế tản thương theo nhu cầu chiến trường; một số bệnh xá dă chiến cũng được thiết lập để có thể chữa trị thương binh tại chổ. Đây là cuộc hành quân được chuẩn bị một cách khẩn trương, nhộn nhịp đại quy mô gồm nhiều đơn vị tham dự mà chẳng có yếu tố bảo mật chút nào. Xe cộ lui tới thường xuyên, tiếng rú của động cơ máy bay cùng các xe ủi đất vang rền lên xuống ngày đêm, có lẽ từ ngày khởi sự chiến tranh ở miền Nam cho đến lúc nầy chưa có cuộc hành quân nào được chuẩn bị ồn ào như vậy. Các lực lượng tham chiến gồm các trung đoàn của sư đoàn 1BB, các lữ đoàn của sư đoàn Nhảy Dù và TQLC, liên đoàn I/BĐQ và lữ đoàn I/Thiết Giáp. Ngoài các thành phần tham dự kể trên c̣n có các cố vấn Hoa Kỳ bên cạnh các đơn vị, các sĩ quan đại diện Không lực Mỹ về không trợ và không vận.

http://s113345672.onlinehom e.us/images/ls719-03.jpg

Kể từ năm 1970, sau kế hoạch Việt Nam hoá chiến tranh, quân đội Hoa Kỳ bắt đầu giảm bớt quân số tại chiến trường Việt Nam, không c̣n những cuộc hành quân của lực lượng tác chiến mà chỉ xử dụng không quân yểm trợ phối hợp cùng không quân của QLVNCH. Hệ thống cố vấn Mỹ tại các đơn vị tác chiến cũng từ đó giảm bớt và đặc biệt họ không c̣n phải tháp tùng trên bộ cùng chúng ta trong các cuộc hành quân ngoại biên. Sư Đoàn TQLC-VN tham dự cuộc hành quân Lam sơn 719 nầy gồm toàn bộ 3 lữ đoàn. Với nhiệm vụ trừ bị cho quân đoàn I, chỉ nhảy vào vùng chiến ở những giai đoạn quyết định mà thôi. Giai đoạn đầu của cuộc hành quân là dùng trực thăng đổ quân xuống các cao điểm Bắc và Nam quốc lộ 9, giới hạn bởi Bản Đông nằm giữa trục tấn công từ biên giới đến Tchépone, thiết lập các căn cứ hoả lực, yểm trợ cho các cuộc hành quân phân tán lục soát trong tương lai. Xử dụng tối đa không trợ, đặc biệt các pháo đài B52 cầy nát mục tiêu trước khi dùng bộ binh đổ xuống Tchépone.

Cuộc hành quân chính thức bắt đầu lúc 8 giờ sáng ngày 8, tháng 2 năm 1971 qua lời tuyên bố của TT Nguyễn văn Thiệu trên đài phát thanh Sàig̣n: " Cuộc hành quân có giới hạn trong thời gian và không gian với mục tiêu duy nhất là phá vỡ hệ thống tiếp liệu và xâm nhập của CSBV trên phần đất Ai-Lao mà chúng chiếm đóng và xử dụng trong nhiều năm nay để tấn công vào QLVNCH. Ngoài ra QLVNCH không có tham vọng đất đai nào tại Ai-Lao v́ VNCH luôn luôn tôn trọng nền độc lập và sự an toàn lănh thổ của Vương Quốc Ai-Lao ". Lữ Đoàn I/ND gồm các tiểu đoàn 1 và 8 cùng Lữ Đoàn I/Thiết Giáp đi tiên phong tiến dọc quốc lộ 9 và hướng Bản Đông để thiết lập căn cứ A-Lưới. Đây là căn cứ lớn nhất của cuộc hành quân và cũng là nơi đặt bộ chỉ huy Lữ Đoàn I/ND. Trên mặt Bắc tiểu đoàn 2/ND và các pháo đội cơ hữu đến điểm cao 500m nằm cách quốc lộ 9 và biên giới Việt Lào hơn 8 Km để thiết lập căn cứ 30. Tiểu đoàn 3/ND cũng nhảy trực thăng vào cao điểm 456m lập căn cứ 31 và cũng là nơi đặt BCH Lữ đoàn 3/ND. Xa hơn nữa về mặt Bắc, Liên Đoàn 21/BĐQ gồm 2 tiểu đoàn 21 và 37 được trực thăng vận đến băi đáp Ranger South cách căn cứ hỏa lực 30 khoảng 5 km về phiá Tây Bắc. Ba ngày sau tiểu đoàn 39/BĐQ được nhảy vào căn cứ Ranger North. Hai căn cứ nầy được thiết lập với mục đích quan sát sự chuyển quân của CS đồng thời làm tŕ hoăn các cuộc tấn công địch vào trục tiến quân chính.Trung Đoàn 3/SĐI/BB cũng được nhảy vào vùng tận cùng phiá Nam tại căn cứ Blue và Hotel, trong khi đó Trung Đoàn I/SĐI/BB vào hoạt động xung quanh căn cứ Delta. Mục tiêu 604 tại thị trấn Tchépone đă bị ta oanh tạc thật khủng khiếp và nhờ vậy các cuộc đổ quân của ta vào vùng nầy được hoàn tất mà không gặp được sự kháng cự nào. Địch hầu như biết trước ư định của ta nên đă phân tán mỏng ra xa để tránh thiệt hại, để rồi liền sau đó tập trung nhiều Sư Đoàn thiện chiến nhất để tấn công ta.

http://s113345672.onlinehom e.us/images/ls719-04.gif

Chiến dịch tổng phản công của địch được mở màn ngày 18/2 khi tăng cường áp lực bao vây và tấn công căn cứ Ranger North, trung đoàn 102 thuộc sư đoàn 308/CSBV đă áp đảo được căn cứ nầy. Thời tiết xấu và cường độ pḥng không quá mạnh của CS khiến không quân không thể can thiệp hữu hiệu, đến chiều 19/2 căn cứ Ranger North bị tràn ngập, vị tiểu đoàn trưởng Vũ Đ́nh Khang TĐ39/BĐQ đă bị bắt sống, bộ phận c̣n lại do tiểu đoàn phó chỉ huy di tản về Ranger South. Căn cứ Ranger North thất thủ, quân CS tiếp tục đánh chiếm căn cứ Ranger South, t́ểu đoàn 21/BĐQ chỉ đủ sức cầm cự được 2 ngày với sự thiệt hại thật nghiêm trọng, sau đó được trực thăng vận bốc về Phú Lộc qua chuyển tiếp căn cứ 30 của Nhảy Dù. Thừa thắng xông lên vào ngày 23/2 địch bắt đầu tấn công thăm ḍ căn cứ 31, để rồi sau đó tung toàn bộ chiến xa tiến chiếm căn cứ nầy. Đại tá Nguyễn Văn Thọ lữ đoàn trưởng cùng một số sĩ quan tham mưu đă bị bắt sống, trong đó có những cái chết thật hào hùng của Thiếu Tá Hiền Tham Mưu Trưởng và Đại Úy Đương pháo đội trưởng đă tự kết liễu đời ḿnh. Đúng 6 giờ 30 sáng ngày 25/2/71, căn cứ hỏa lực 31 Hạ Lào đă hoàn toàn lọt vào tay giặc. Ngày 26/2, CS dùng 2 trung đoàn thuộc SĐ304 tiếp tục tấn công căn cứ 30 cuối cùng căn cứ nầy cũng phải di tản chiến thuật và toàn thể các khẩu pháo cơ hữu của ta bị hư hại hoàn toàn.

Trong khi địch tấn công ồ ạt ở mặt Bắc, th́ tại khu vực Đông Nam các đơn vị của trung đoàn 3/BB cũng đă bị bao vây uy hiếp. Mặc dầu cũng đă được yểm trợ bởi không quân và pháo binh đầy đủ nhưng vẫn cầm cự không nổi, sau cùng cũng phải t́m nơi an toàn để được trực thăng bốc về Khe Sanh. Trước t́nh h́nh diễn biến ác liệt của chiến trường, hết đơn vị nầy đến đơn vị khác của ta chịu trận, không sao tiếp cứu lẫn nhau, dù đă có lần khi đồn 31 bị tấn công, SĐ Dù đă đổ bộ thêm vào trận địa một tiểu đoàn để tiếp sức nhưng không sao đáp xuống bải đáp được v́ hỏa lực vô cùng mănh liệt của địch.

Về phương diện thông tin báo chí, khi các phóng viên đă thổi phồng tin tức biến những cuộc lui binh cuả chúng ta thành thảm kịch trên chiến trường, điều tệ hại nhất là đài BBC đă phóng đại việc quân ta tiến vào Tchépone trong khi cuộc hành quân mới nửa đường tới mục tiêu; chính việc nầy đă gây một sự bất lợi thật quan trọng cho việc hành quân v́ địch quân đă nắm rỏ được ư định của ta nên đă sẵn sàng chuẩn bị nghênh chiến.

http://s113345672.onlinehom e.us/images/ls719-05.jpg

Sư đoàn I/BB với trung đoàn 2 c̣n lại bằng mọi gía phải đánh chiếm Tchépone; dù chỉ là một tiểu đoàn được trực thăng vận vào trận địa cũng được, sau khi hoàn tất hoạt động trong thời gian ngắn rồi sẻ rút ra ngay. Trung đoàn I. SĐI/BB được điều quân lên mặt Bắc phía Nam sông Tchépone để tiếp ứng. Địch đă đoán được ư định của ta nên đă bố trí các đơn vị ra xa vùng sát hại dưới những trận mưa bom khủng khiếp của ta. Ngày 6/3, 120 trực thăng chuyên chở hai tiểu đoàn 2 và 4 của trung đoàn 2/SĐI/BB từ Khe Sanh đến bải đáp HOPE, cách Tchépone khoảng 4 km về phía Bắc. Hoả lực khá nặng của CS chỉ bắn rơi một trực thăng trong cuộc trực thăng vận đại qui mô nầy, ngày hôm sau quân đội VNCH tiến vào Tchépone mà không gặp một sự kháng cự nào của địch. T́nh h́nh yên tỉnh cho tới khuya th́ pháo địch bắt đầu tập trung bắn phá và điều động cả sư đoàn dùng chiến thuật biển người tấn công ta, trực thăng ta chỉ đến bốc được vài toán đầu, sau đó đành phải bó tay trước hỏa lực pḥng không dầy đặc của địch, số c̣n lại phải mở đường máu di tản về hướng Nhảy Dù. Căn cứ Lolo tại cao điểm 723 nơi bộ chỉ huy trung đoàn I/BB cũng chịu chung số phận phải di tản sau 10 ngày đêm chiến đấu ṛng ră. Tiểu đoàn 4 trung đoàn I/SĐI/BB là đơn vị ở lại sau cùng để bảo vệ cuộc lui binh, lúc về đến Khe Sanh chỉ c̣n 63 người trong tổng số 432 người, tất cả đều bị tử trận, mất tích hay bị thương. Trung tá Lê Huấn, K18 Đà Lạt, người hùng của trung đoàn I/SĐI/BB đă anh dũng hy sinh trong cuộc lui binh nầy.

Măi cho đến giờ phút nầy cũng chưa có ai có thể giải thích một cách rơ ràng tại sao các nhà lănh đạo quân sự miền Nam đă ném quân sĩ thiện chiến của họ vào mặt trận Hạ Lào, một cuộc hành quân mạo hiểm có tính cách phô trương hơn là mang về một chiến thắng thật sự. Không cần bảo mật mà chẳng có kế hoạch phối hợp rơ ràng, hệ thống chỉ huy điều hành bị bối rối không được thống nhất. Các vị tư lệnh của 2 sư đoàn tổng trừ bị của quân lực VNCH là Trung Tướng Lê Nguyên Khang và Trung Tướng Dư Quốc Đống đă không hiện diện cùng binh sĩ tại mặt trận, mặc dầu đơn vị của họ là những nổ lực chính yếu của chiến trường. Sự thảm hại toàn bộ của các lực lượng tham chiến ở giai đoạn đầu th́ việc đổ thêm quân tiếp vào giai đoạn kế tiếp quả là một điều chẳng nên, chỉ làm hao tốn thêm xương máu của binh sĩ mà thôi. Điều quan trọng nhất là c̣n tinh thần đâu nữa mà chiến đấu. Sư đoàn TQLC cuối cùng rồi cũng phải nhảy vào ṿng chiến và cũng không sao tránh khỏi số phận "tan hàng" đang dành sẵn cho ḿnh. Vào trận với một tâm lư không ổn định chuyện thất bại là điều chắc chắn sẽ xảy ra, chúng tôi như những con thiêu thân đang lao ḿnh vào lửa đỏ.

Mọi chuyện bắt đầu vào những ngày đầu tháng 3 năm 1971. Lữ đoàn 147/TQLC do Đại Tá Hoàng Tích Thông chỉ huy gồm các tiểu đoàn 2, 4 và 7 được nhảy vào căn cứ Delta. Đây là một dăy đồi có thế h́nh yên ngựa ở độ cao 550m gồm 2 mỏn nhỏ, mặt Bắc đặt BCH/LĐ, c̣n phía Nam chỉ có khả năng đủ chổ cho một pháo đội hỗn hợp gồm 2 khẩu 155ly và 4 khẩu 105 ly thuộc tiểu đoàn 2/PB/TQLC. Mặt Tây là một triền dốc đá thẳng đứng dựng, c̣n phía Đông là những rẫy hoang cùng nhiều đường ṃn chi chít.

Lữ Đoàn 258/TQLC được trực thăng vận vào đỉnh KOROC, căn cứ Đông Hà nằm trên ranh giới Lào Việt từ Lao Bảo trải dài xuống phía Nam với các tiểu đoàn 1, 3 và 8 cùng pháo đội của tiểu đoàn 3/PB/TQLC. Nhưng mặt trận chính vẫn là xung quanh vùng hoạt động của Lữ Đoàn 147. Tiểu đoàn 4/TQLC được thả xuống và bung rộng về hướng Đông Bắc, tiểu đoàn 2/TQLC chịu trách nhiệm về mặt Tây Bắc, trong khi đó tiểu đoàn 7/TQLC bảo vệ pháo binh và BCH/LĐ. Đại úy Nguyễn Hoa khoá 20 Đàlạt, trưởng ban 3/TĐ7/TQLC đă bị tử thương cùng nhiều binh sĩ khác trong cuộc pháo kích đầu tiên vào căn cứ hỏa lực. Tiểu đoàn 2/TQLC có 4 ĐĐT th́ 2 đă bị thương loại khỏi ṿng chiến đấu trong tuần lễ ra quân đầu tiên . Trung úy Kiều Công Cự ĐĐT/ĐĐ4, Đ/u Nguyễn Kim Thân ĐĐT/ĐĐ2, Tr/úy Bùi Ngọc Dũng ĐĐP/ĐĐ2, cũng đă bị thương rất nặng cùng Th/úy Trần Văn Loan. Tất cả đă được tải thương kịp thời nhưng Dũng bị chết dọc đường và sau nầy được ghi nhận là mất tích. Tr/úy Nguyễn Dũng Trí ĐĐP/ĐĐ5 được lệnh sang làm ĐĐT/ĐĐ2. Như cục đường bỏ vào hang kiến lửa, địch cứ thế mà bu vào. Sau khi đă rảnh tay ở mặt trận phía Bắc, địch tập trung đủ mọi nổ lực kể cả hệ thống pḥng không pháo binh hầu uy hiếp cô lập căn cứ. Hai trực thăng của QLVNCH đă bị bắn hạ nhưng vẫn cố gắng đáp xuống được ngay băi đáp tại BCH/LĐ, phi hành đoàn an toàn. Đó là phi vụ cố gắng cuối cùng trong chuyến liên lạc với BCH/LĐ.

Sau đó việc tiếp tế, tản thương coi như hoàn toàn bế tắc. Chỉ mới vỏn vẹn có một tuần mà bao nhiêu điều bế tắc đă xảy ra, binh sĩ bị thương mỗi ngày một nhiều không được tải thương, đạn dược lương thực bị hao hụt dần, đa số binh sĩ hoang mang giao động không c̣n tinh thần chiến đấu. Pháo binh cơ hữu của ta bị kiệt quệ hoàn toàn, mọi sự yểm trợ nhờ vào LĐ/258 tại KOROC và các phi vụ oanh tạc của không quân Hoa Kỳ. Tiểu đoàn 2/TQLC bị địch chận đánh khi hoạt động cách căn cứ khoảng 4-5 km, trong một phi vụ yểm trợ một quả bom đă lạc và nổ ngay vị trí của ĐĐ5 làm tổn thương thêm một số binh sĩ, tiểu đoàn được nhận lệnh dừng ngay tại chổ chờ lệnh. Về phiá TĐ4/TQLC cũng không có ǵ sáng sủa hơn, vẫn bị địch cầm chân và quân số mỗi ngày thêm hao hụt. Chẳng có một kho tàng nào của địch bị ta phá hủy trong giai đoạn nầy, trước t́nh thế đó, BCH/LĐ điều động TĐ2 và TĐ4 về hoạt động chung quanh căn cứ để sẳn sàng cho một cuộc rút quân trong tương lai. Biết được ư định đó nên địch càng bám theo ta rất sát, ĐĐ5/TĐ2/TQLC là ĐĐ tiền đồn ở mặt Bắc căn cứ hầu như ngày nào cũng bị địch tấn công, trong khi tất cả lực lượng của TĐ4/TQLC đă rút qua mặt về phía trong BCH/LĐ. Th/tá Nguyễn Xuân Phúc tiểu đoàn trưởng cùng Đ/úy Trần Văn Hợp tiểu đoàn phó TĐ2/TQLC cũng được điều động về nằm chung với BCH/LĐ. Một biến cố đă xảy ra thật quan trọng là một trung đội đặc công VC đă xâm nhập và chiếm được một số vị trí của đơn vị pḥng thủ, với ư địch cắt đứt mọi tiếp viện từ ngoài vào để tung quân tràn ngập BCH/LĐ. Tuy nhiên, địch cũng đă bị chận lại và sau đó một đại đội TĐ7/TQLC tới giải tỏa, địch tử thương một số, phần c̣n lại đầu hàng. Tất cả chúng thuộc SĐ/324B có nhiệm vụ tiến đánh LĐ147. Lữ Đoàn đă có lệnh di tản chiến thuật từ quân đoàn nhưng lệnh nầy chỉ phổ biến đến cấp tiểu đoàn trưởng mà thôi. Lư do thật giản dị là cố gắng duy tŕ tinh thần chiến đấu của các đơn vị hầu đủ thời gian sắp xếp cho một kế hoạch rút lui. Đại đội A Viễn Thám của Đ/úy Hiền đă được lệnh lên đường t́m hiểu t́nh h́nh địch nhưng tất cả lọt vào ṿng vây địch, một số bị bắt trong đó có ĐĐT nên Lữ Đoàn không nhận được một tin tức nào cả. Theo kế hoạch B52 sẽ thả bom trước ở 2 mặt phía Nam Bắc và Lữ Đoàn sẽ bắt đầu di chuyển ra khỏi căn cứ lúc 08 giờ tối, theo thứ tự TĐ4, TĐ7, BCH/LĐ và pháo binh, TĐ2 đi đoạn hậu. Tất cả khẩu pháo binh cùng đạn dược và lương thực dự trử bỏ tại chổ. Trong đó có gần 60 thương bệnh binh cùng nhiều tử thi đă bị thối rữa trong nhiều ngày. Một số tù binh CS cũng bị ta c̣ng tay nhốt trong các hầm trú ẩn gần đó. Trước giờ ấn định t́nh h́nh đă biến đổi khác thường một cách thật nhanh chóng. ĐĐ5/TĐ2/TQLC do tôi chỉ huy đă bị cô lập tại chổ trong mấy ngày liền không được tải thương và tiếp tế. Tất cả điểm có nước dưới chân đồi đều bị bao vây chế ngự. Trời tháng 3 với những cơn gió nắng rát miền Hạ lào cùng những đợt tấn công pháo kích liên tiếp của địch đă không làm nản đi ư chí quyết sống của chúng tôi, v́ chẳng ai c̣n cách nào chọn lựa khác hơn là "PHẢI SỐNG" để được trở về bằng chính sức lực của ḿnh. Đó là vào những ngày cuối của cuộc hành quân 21, 22/3/1971. Chúng tôi được lệnh lui binh về gần BCH hơn ...để tránh thiệt hại. Th/úy Kim trung đội trưởng vũ khí nặng cùng hạ sỉ Nghạch đă bị tử thương sau một loạt pháo kích bằng súng cối 82 ly của địch vào vị trí. Trong khi có tiếng chiến xa địch từ xa, bắt đầu mon men vào tuyến. Đó là lúc 5 giờ chiều ngày 22/3/71 và BCH/LĐ đă rút lui trước sớm hơn dự định. Đại đội tôi được lệnh di tản sau đó một tiếng đồng hồ khi chiếc T54 đầu tiên của CS bị hạ bằng khẩu SKZ 57 ly từ tay Tr/sĩ I Nguyễn Tế. Giọng Th/tá Phúc vang lên trong máy ra lệnh cho tôi '"anh phải cho con cái move down south gấp ".
Bật chạy ra khỏi hầm trú ẩn. Tôi hô to "Đ/úy Tiền ĐĐT/ĐĐ5/TĐ2/TQLC đây, các anh hăy theo tôi", vẫn cứ thế tôi măi lải nhải vào tận phía trong. BCH/LĐ trống vắng, mùi thúi rữa của tử thi nơi những chiếc poncho bọc kín không được tải thương trong nhiều ngày, vài chục người trong toán lính bị thương c̣n lại đang hờn trách cấp chỉ huy, tôi vẫn hô to "Đ/úy Tiền đây, các anh hảy theo tôi" giọng Hạ sĩ Báu người lính gan dạ của đại đội tôi bị thương vào chân hôm qua khóc to nhất "chân em bị găy làm sao chạy được ông thầy". Nước mắt tôi tuông chảy, miệng lẩm bẩm "đành chịu vậy thôi! chứ biết làm sao bây giờ" trong khi đèn chiến xa địch bắt đầu soi sáng và bắn nả theo lên đồi căn cứ.

Không thể chần chờ được nữa, có tiếng hô to của giặc phía sau "Hàng sống chống chết", tôi và 2 hiệu thính viên: Đặng Phước Thành và Nguyễn Văn Chúc cùng nắm giây leo trên đỉnh dốc đá thẳng đứng "một, hai, ba, ̣ e con ve đánh đu, tarzan nhảy dù", chiếc dây qúa tải bị đứt nửa chừng thầy tṛ rớt chồng lên nhau trên mặt đất.Tay ṃ mẫm khắp nơi trên cơ thể, đứng lên ngồi xuống, mới yên tâm là ḿnh c̣n đủ sức để mưu sinh thoát hiểm.Chúc nhe hàm răng vàng óng ánh "Có ông bà độ đó ông thầy". Tôi tập hợp tại chổ được vài ba chục mạng người, gồm nhiều đơn vị khác nhau. Tôi ra lệnh là muốn sống phải theo tôi và tuyệt đối giữ kỷ luật khi di chuyển. Th/tá Phúc (TĐT) và Đ/úy Hợp (TĐP) vẫn lên máy điều động và hướng dẫn chúng tôi theo nhiều trái sáng liên tiếp được bắn lên từ KOROC. Không cần xử dụng bản đồ và địa bàn, chúng tôi cứ nhắm hướng có trái sáng mà đi tới. Khoảng hơn nửa đêm về sáng, chúng tôi lọt ngay vào ṿng địch có tiếng hô to của người lính gác: "các đồng chí đi đâu về khuya thế.?". Toán đi đầu hốt hoảng dội ra, nhanh ư tôi điều động anh em đi hướng khác. Sáng hôm sau, trời nắng đẹp bầu trời xanh thẫm, ra khỏi khu rừng rậm là những dăy đồi tranh đầy cỏ dại loang lỗ nhiều hố bom chạy dài xa tít. Hạ sĩ Thất vẫn c̣n mang chiếc máy truyền tin trên lưng chạy đến t́m tôi khóc mếu máo: "Đại bàng ơi.! Th/úy em chết rồi ". Đinh Hồng Lạc là sĩ quan trẻ thâm niên nhất trong đại đội tôi, đẹp trai với làn da trắng mịn như con gái, người Cần Thơ và rất mùi với 6 câu vọng cổ.Chính mắt tôi thấy anh ngă gục khi có lệnh của tôi, vừa vọt ra khỏi miệng hầm, một viên đạn thượng liên trên pháo tháp xe địch đă xuyên qua màng tang. Xác anh nằm vắt ngang bên vệ đường. Chiếc đầm già L19 xuất hiện quan sát bao vùng cùng vài chiếc trực thăng vơ trang của Mỹ đă làm chúng tôi an tâm hơn. Trái khói vẫn tiếp tục bắn chỉ điểm nơi điểm hẹn. TĐ3/TQLC Sói biển được điều động từ KOROC tới để cứu nguy cho chúng tôi. Địch tốc tới, tiếp tục tấn công vào bải bốc tại điểm tập trung nầy, phi cơ Mỹ chỉ có thể tản thương được một vài đợt đầu tiên, sau đó với sự chiến đấu gan dạ của TĐ3 chúng tôi tiếp tục di chuyển tiếp đến một địa điểm an toàn khác.

Tập họp lại khi về đến Khe Sanh đại đội tôi chỉ vỏn vẹn c̣n vài chục chục thầy tṛ, phải mất gần 1 tuần lễ sau, những toán thất lạc lần lượt được các trực thăng Mỹ chở về. Đại đội tôi mất đi gần phân nửa, một hao hụt qúa lớn lao. Bộ tư lệnh QUÂN ĐOÀN I đă vinh danh chiến thắng HẠ LÀO bằng một cuộc diễn binh rầm rộ tại PHÚ VĂN LÂU, nhiều huy chương và thăng cấp cho các quân nhân tham dự. Trong đó có các đơn vị trưởng tại chiến trường. Th/tá Phúc và Đ/úy Hợp của TĐ2/TQLC cũng không ra ngoài ngoại lệ đó. C̣n tôi và Đ/úy Lâm Tài Thạnh ĐĐT/ĐĐI mỗi người một Đệ Ngũ Bảo Quốc Quân Chương với nhành dương liễu.

Ngày nay khi ngồi hồi tưởng lại mặt trận Hạ Lào, bao h́nh ảnh thân thương của những người lính trong đơn vị như c̣n lảng vảng đâu đây. Th/úy Nguyễn Kim đă chết bất ngờ trong giờ phút cuối khi chỉ mơ ước về đúng lúc ngày đứa con đầu ḷng được chào đời. Th/úy Đinh Hồng Lạc không c̣n nữa để nàng con gái Kim Oanh bên ḍng sông Kiên Long ṃn mỏi chờ đợi. Chuẩn úy Lê Văn Quế và Tr/sĩ I Tế đă lạc lỏng đâu đó trong rừng Hạ Lào không có mặt khi về lại Khe Sanh. Hạ sỉ Báo, Tr/sĩ Được, binh nh́ Ngô Văn Lẹ và bao nhiêu người thương binh khác đă ra sao.? Khi những trận bom liên tiếp dội xuống căn cứ Delta sau khi đoàn quân ta đă di tản. Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đă chiến thắng tại các chiến trường Kampuchia, An Lộc, Quảng Trị nhưng rơ ràng chúng ta không thắng tại Hạ Lào.

Ai chiến thắng mà không hề chiến bại,
Ai nên khôn mà chẳng dại một... đôi lần

Đă đến lúc chúng ta hảy trả lại SỰ THỰC cho LỊCH SỬ, mặc dầu đó là một sự thực đau ḷng. Tôi xin ghi lại câu nói "để đời" của Trung Tướng Hoàng Xuân Lăm, người chịu trách nhiệm chỉ huy tổng quát của cuộc hành quân nầy với Đại Tá Hoàng Tích Thông LĐT/LĐ147/TQLC:
"Sao Thủy Quân Lục Chiến, nó về được nhiều thế nhỉ.!."

ARLINGTON, tháng 10-2003
MX Phạm văn Tiền.

* tài liệu tham khảo:
-Chiến sử TQLC/VN.
-Chiến tranh toàn tập của tiến sĩ NGUYỄN ĐỨC PHƯƠNG - England.




Hồi Kư
Tiến tŕnh thành lập và phát triển BC TQLC
Chiến sử TQLC
Binh Chủng TQLC
Sơ lược về BC TQLC
Trung Tá Lê Quang Trọng - Chỉ Huy Trưởng TQLCVN đầu tiên
Đại Úy Bùi Phó Chí vị Tiểu Đoàn Trưởng TQLC đầu tiên
Trung Tá Lê Nhữ Hùng - người đă góp công nhiều cho sự hùng mạnh của Đoàn Quân Mũ Xanh
Tiến tŕnh thành lập Chiến Đoàn & Lữ Đoàn
Lữ Đoàn 258
Lữ Đoàn 369
Tiểu Đoàn 1 - Quái Điểu
Tiểu Đoàn 1 PB - Lôi Hỏa
Tiểu Đoàn 2 - Trâu Điên
Tiểu Đoàn 3 - Sói Biển
Tiểu Đoàn 4 - Ḱnh Ngư
Tiểu Đoàn 5 - Hắc Long
Tiểu Đoàn 6 - Thần Ưng
Tiểu Đoàn 7 - Hùm Xám
Tiểu Đoàn 8 - Ó Biển
Tiểu Đoàn 9 - Mănh Hổ
Tiểu Đoàn Tổng Hành Dinh
Tiểu Đoàn Truyền Tin
Pháo Binh TQLC
Viết cho những người pháo thủ Mũ Xanh
Một đoạn đường trong cuộc đời Y Sĩ TQLC

1963 - 1967
Mật khu Đỗ Xá
Chiến dịch Sống T́nh Thương
Hành quân Hội Đồng Sẩm
Tiểu Đoàn 2 - Trận An Qúi
Tiểu Đoàn 2 - Trận chiến Tam Quan
Tiểu Đoàn 3 - Trận Bàng Long, Cay Lậy
Tiểu Đoàn 4 - Trận B́nh Giả lúc khởi đầu
Tiểu Đoàn 4 - B́nh Giả ơi! C̣n nhớ măi
Tiểu Đoàn 5 - Trận Mộ Đức
Tiểu Đoàn 5 - Trận Mộ Đức & Cái chết của vị TĐT
Chiến Đoàn A - Trận Phụng Dư
Chiến Đoàn A - Trận Đức Cơ
Chiến Đoàn B và TĐ-5 Dù Truy Kích CQ ở Ba Gia
Chiến Đoàn B - Cuộc hành quân đổ bộ Deckhouse V Sóng Thần

1968 - Mậu Thân
Tiểu Đoàn 6 - Trận Mậu Thân
TQLC Trong Tết Mậu Thân
Chiến Đoàn A - Trận Mậu Thân
H́nh Ảnh T/T Nguyễn Văn Thiệu thăm TĐ2/TQLC

1969 - 1970
Cuộc hành quân qua Cambodia
Tiểu Đoàn 4 - Hành quân Cambodia
Tiểu Đoàn 7 - Những ngày đầu
Tiểu Đoàn 8 - Trận Cam-Bốt
Lữ Đoàn B - Vượt biên qua Kampuchia

1971 - Hạ Lào
Hành quân Lam Sơn 719
Tiểu Đoàn 1 PB - Lôi Hỏa sang Lào
Tiểu Đoàn 2 - Hành quan Lam Sơn 719
Tiểu Đoàn 3 PB - Căn cứ hỏa lực Hồng Hà
Tiểu Đoàn 4 - Đêm Hạ Lào sao dài quá!
Tiểu Đoàn 9 - Trận chiến Ba Ḷng
Tiểu Đoàn 9 - Trận chiến Động Cù Mông
Khoá 22 và Lam Sơn 719 Hạ Lào

1972 - Mùa hè đỏ lửa
TQLC/VN và cuộc tấn công của csBV tại Vùng I
Tiểu Đoàn 3 - Tại Đông Hà
Tiểu Đoàn 3 PB - Tay đôi với tụi nó...
Tiểu Đoàn 4 - Mùa hè đỏ lửa
Tiểu Đoàn 5 - Những ngày đầu
Tiểu Đoàn 6 - Thần Ưng trong mùa hè đỏ lửa
Tiểu Đoàn 6 - Xé xác tăng địch
Tiểu Đoàn 7 - Ngày đầu cuộc chiến
Trận QT 72 của Lữ Đoàn 258 TQLC
Lữ Đoàn 258 - Chiến thắng Quảng Trị tháng 4, 1972
Công sản BV bị TQLC đánh bại tại Đông Hà
Hành lang máu
Tiểu Đoàn 9 - Trận chiến cầu Bến Đá
Tiểu Đoàn 9 - Rừng núi Barbara
Lữ Đoàn 369 - Trân sông Mỹ Chánh
Tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị ngày 19-6-1972
Tiểu Đoàn 1 - Thử lửa đầu tiên
Tiểu Đoàn 1 - Nhảy vào Triệu Phong
Tiểu Đoàn 1 - Đổ bộ trong ḷng địch
Tiểu Đoàn 1 PB - 20,000 đạn đại bác mỗi ngày
Tiểu Đoàn 2 - Cuộc chiến Cổ Thành Quảng Trị
Tiểu Đoàn 2 - Tiêu diệt chiến xa CSBV thuộc Tr/Đ Tăng-Thiết Giáp 202
Tiểu Đoàn 2 - Tái chiếm Dinh Tỉnh Trưởng & Toà Hành Chánh Quảng Trị
Tiểu Đoàn 3 & 6 - Tiến về Quảng Trị
Tiểu Đoàn 3 - Dựng cờ
Tiểu Đoàn 5 - Hắc Long dậy sóng
Tiểu Đoàn 5 - Đánh trên đầu địch
Người Pháo Thủ TQLC trong cuộc chiến 1972
Pháo Binh TQLC và trận Quảng Trị
Cờ bay trên Cổ Thành Quảng Trị

1973 - 1974
Tiểu Đoàn 2 - Cửa Việt, một chiến thắng vẻ vang và ngậm ngùi
Tiểu Đoàn 3 PB - Trước khi ngưng bắn
Tiểu Đoàn 4 - Hành quân Cửa Việt
Lữ Đoàn 258 - Chiến tích sau cùng

1975
Hương lộ 555 lẻ loi
Tiểu Đoàn 7 và Lữ Đoàn 147
Lữ Đoàn 147 - Di tản chiến thuật
Tiểu Đoàn 4 - Trận đánh cuối cùng
Tiểu Đoàn 9 - Trận đánh cuối cùng
Băi biển Non Nước: Một kết thúc tức tưởi, oan nghiệt
Vị TĐT cuối cùng của Tiều Đoàn 1 Quái Điểu

Y Sĩ TQLC: Những người không thích sống lâu

anhhaila
03-05-2025, 16:56
Sư Đoàn 1 BB Trên Chiến Trường Phía Nam Bến Hải, khu Trị-thiên.

04/05/1999

Vương Hồng Anh.

Thể theo yêu cầu của đông đảo bạn đọc, nhất là các cựu quân nhân VNCH, muốn có những thông tin, tài liệu về chiến sử của các đại đơn vị Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa trong suốt hơn 20 năm bảo vệ miền Nam thân yêu, Việt Báo đă khởi sự biên soạn loạt bài “Đơn vị và Chiến trường”, giới thiệu các đơn vị tinh nhuệ, những câu chuyện về chiến trường và người lính anh hùng của 11 Sư đoàn Bộ binh, hai sư đoàn tổng trừ bị Nhảy Dù và Thủy quân Lục chiến, các binh đoàn thiện chiến của các binh chủng: Biệt động quân, Thiết giáp, Lực lượng Đặc biệt, Pháo binh, Công binh chiến đấu... một số đơn vị của hai quân chủng Không quân, Hải quân, của lực lượng an ninh diện địa Địa phương quân, Nghĩa quân và Cảnh sát Quốc gia.
Để mở đầu loạt bài này, VB trân trọng giới thiệu chiến sử của đại đơn vị đầu ḷng Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa: Sư đoàn 1 Bộ Binh, một trong những Sư đoàn thiện chiện nhất, đă cùng với lực lượng Tổng trừ bị giữ vững pḥng tuyến phía Nam Bến Hải, và cụm tuyến phía Tây hai tỉnh Trị Thiên trong 16 năm dài từ 1955-1971, bảo vệ vững vàng Tây Nam Huế trong suốt cuộc chiến Mùa Hè 1972, chận đứng các cuộc xâm nhập của Cộng quân sau khi Hiệp định Paris kư kết (27/1/1973) cho đến ngày được lệnh triệt thoái khỏi chiến trường Trị Thiên vào những ngày cuối tháng 3/1975. Trước khi tŕnh bày chi tiết về một số trận đánh lịch sử và một số câu chuyện về những nhân vật chiến trường của Sư đoàn anh hùng này, qua bài viết đầu, chúng tôi xin lược tŕnh chiến sử của Sư đoàn 1 Bộ binh:
* Từ Sư đoàn Dă chiến số 21 đến Sư đoàn 1 Bộ binh: 2 lần đổi danh hiệu; 14 lần thay đổi tư lệnh; 20 năm chiến đấu trên chiến trường Trị Thiên:
Là đại đơn vị đầu ḷng của Quân lực VNCH, Sư đoàn 1 Bộ binh được chính thức thành lập ngày 1 tháng 1/1955, với đơn vị ṇng cốt là liên đoàn 21 Bộ binh lưu động được thành lập từ ngày 1/9/1953. Đây chính là binh đoàn tiền thân của Sư đoàn.
Được h́nh thành theo kế hoạch phát triển Quân đội Quốc gia Việt Nam, trong giai đoạn đầu,đại đơn vị này được mang danh hiệu Sư đoàn Dă chiến số 21, gồm 3 trung đoàn: trung đoàn Bộ binh số 21 (gồm 3 tiểu đoàn 8, 28 và 56), trung đoàn Bộ binh số 22 (gồm 3 tiểu đoàn 23, 27 và 30), trung đoàn Bộ binh số 23 (gồm 3 tiểu đoàn: 7, 12 và 24), tiểu đoàn Pháo binh số 2.
* 14 vị tư lệnh của Sư đoàn 1 Bộ binh, có một vị 2 lần giữ chức tư lệnh Sư đoàn này, cách nhau 5 năm; tư lệnh đầu tiên: đại tá Lê Văn Nghiêm; tư lệnh cuối cùng: chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm.
Vị tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn là đại tá Lê Văn Nghiêm. Khi c̣n ở cấp trung tá, ông là một trong 4 liên đoàn trưởng Bộ binh lưu động đầu tiên của Quân đội Quốc gia Việt Nam vào năm 1953, (3 liên đoàn trưởng khác là: trung tá Nguyễn Quang Hoành- đầu năm 1955 là đại tá tư lệnh Đệ nhị Quân khu; trung tá Nguyễn Khánh-năm 1964 là đại tướng; trung tá Tôn Thất Đính, năm 1963 là trung tướng). Đại tá Nghiêm người Thừa Thiên, tiến tŕnh binh nghiệp của ông từ 1950 đến đầu năm 1955, được ghi nhận như sau: thăng cấp đại úy vào năm 1950; thăng thiếu tá: 1952, tiểu đoàn trưởng đầu tiên của tiểu đoàn 30; thăng trung tá: 1953, giữ chức vụ liên đoàn trưởng liên đoàn 21 Bộ binh lưu động; thăng đại tá đầu năm 1955, giữ chức tư lệnh Sư đoàn Dă chiến số 21 (Sư đoàn 1 Bộ binh), giữa năm 1955, kiêm nhiệm chức vụ Tư lệnh Đệ nhị Quân khu (sau này là Vùng 1), thăng thiếu tướng tháng 11/1955 cùng lần với đại tá Dương Văn Minh, sau đó lần lượt giữ các chức vụ: chỉ huy trưởng Liên trường Vơ Khoa Thủ Đức (1956 đến 1960), tư lệnh Quân đoàn 3 và Vùng 3 Chiến thuật (1961-1962), tư lệnh Quân đoàn 1 và Vùng 1 chiến thuật (từ tháng 12/1962 đến tháng 9/1963); thăng trung tướng 2/11/1963 và giữ chức vụ tư lệnh Lực Lượng Đặc Biệt. Tháng 2/1964: chỉ huy trưởng trường Đại học Quân sự; tháng 11/1964, giữ chức giám đốc Nha Động viên Bộ Quốc pḥng. Về hưu đầu năm 1965. Sau đại tá Lê Văn Nghiêm, Sư đoàn 1 Bộ binh đă được chỉ huy bởi các tư lệnh sau đây:
- Từ tháng 1/1956 đến tháng11/1963: 6 vị tư lệnh (sau này đều thăng cấp tướng và giữ chức vụ từ tư lệnh Quân đoàn đến Tổng tư lệnh Quân đội): đại tá Nguyễn Khánh (1956-1957); đại tá Tôn Thất Đính (1957-1958); đại tá Nguyễn Văn Chuân (1958-1959); đại tá Tôn Thất Xứng (1959-1960); đại tá Nguyễn Đức Thắng (1960-1961); đại tá Nguyễn Văn Thiệu (1961-1962); đại tá Đỗ Cao Trí (cuối năm 1962 đến tháng 11/1963), trong thời gian giữ chức vụ tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, đại tá Trí hai lần thăng cấp: thiếu tướng vào tháng 7/1963 (trước tháng 4/1964, cấp đại tá được thăng thẳng lên thiếu tướng), thăng trung tướng vào ngày 2/11/1963; từ tháng 9/1963 ông kiêm nhiệm chức vụ Quyền tư lệnh Quân đoàn 1 & Vùng 1 chiến thuật thay thiếu tướng Lê Văn Nghiêm.


- Từ tháng 11/1963 đến tháng 3/1975: 8 vị tư lệnh: đại tá Trần Thanh Phong (tháng 11/1963 đến cuối tháng 1/1964), trong cuộc chỉnh lư ngày 31/1/1964 do trung tướng Nguyễn Khánh chỉ huy, ông bị cất chức và bị áp giải vào Sài G̣n v́ tướng Khánh nghi ngờ ông thuộc nhóm trung tướng Trần Văn Đôn, sau một thời gian ngắn, ông được tướng Khánh cho tiếp tục quân vụ tại bộ Tổng tham mưu, và được thăng chuẩn tướng vào ngày 31/10/64 khi giữ chức tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh, thăng thiếu tướng vào 31/10/1967 và lần lượt giữ nhiều chức vụ quan trọng như tham mưu trưởng Liên quân, tổng trưởng Xây dựng Nông Thôn, tư lệnh Cảnh sát Quốc gia, tử nạn v́ báy may rơi vào năm 1972 gần Phú Yên khi ông đi thanh tra với chức vụ phụ tá của trung tướng Cao Hảo Hớn, trung tâm trưởng trung tâm B́nh Định-Phát triển, đặc trách văn pḥng điều hành Chương tŕnh An ninh Thị tứ; thay thế đại tá Phong là đại tá Nguyễn Chánh Thi (từ tháng 2/1964 đến đầu tháng 11/1964), cũng như đại tá Trí, đại tá Thi đă hai lần được thăng cấp khi chỉ huy Sư đoàn 1 Bộ binh: thăng chuẩn tướng vào tháng 5/1964, thăng thiếu tướng vào cuối tháng 10/1964 và sau đó được cử giữ chức tư lệnh Quân đoàn 1 & Vùng 1 Chiến thuật thay thế thiếu tướng Tôn Thất Xứng.
Các tư lệnh kế tiếp là: chuẩn tướng Nguyễn Văn Chuân (tháng 11/1964 đến tháng 3/1966), đây là lần thứ hai chuẩn tướng Chuân chỉ huy Sư đoàn 1 BB, ông được thăng thiếu tướng vào tháng 11/1965, đến ngày 13/3/1966, được cử giữ chức tư lệnh Quân đoàn 1 thay trung tướng Nguyễn Chánh Thi; chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận (tháng 3/1966 đến tháng 6/1966); đại tá Ngô Quang Trưởng (từ tháng 6/1966 đến tháng 8/1970), hai lần thăng cấp trong chức vụ tư lệnh Sư đoàn 1 BB: thăng chuẩn tướng vào tháng 2/1967, thăng thiếu tướng vào tháng 5/1968; chuẩn tướng Phạm Văn Phú (tháng 8/1970 đến tháng 9/1972), thăng thiếu tướng tại mặt trận tháng 3/1971 với chiến công chỉ huy Sư đoàn 1 Bộ binh trong cuộc hành quân Hạ Lào, đến tháng 9/1972, nghỉ dưỡng bệnh, đại tá Nguyễn Văn Điềm, tư lệnh phó xử lư thường vụ trong 2 tháng; chuẩn tướng Lê Văn Thân (1/11/1972 đến cuối tháng 10/1973); đại tá Nguyễn Văn Điềm (tháng 11/1973 đến ngày 29/3/1975), đại tá Điềm được thăng chuẩn tướng vào ngày 1/4/1974, bị tử nạn vào ngày 29/3/1975.
* 2 lần thay đổi danh hiệu:
Trở lại với tiến tŕnh hoạt động và phát triển của Sư đoàn này, ngày 17 tháng 9/1955, theo SVVT số 3975/TTM/1/1/SC, Sư đoàn Dă chiến số 21 cải danh thành Sư đoàn Dă chiến số 1, danh hiệu các trung đoàn và các tiểu đoàn cũng được thay đổi: trung đoàn Bộ binh số 21 đổi thành trung đoàn Bộ binh số 1, các tiểu đoàn 8, 28 và 56 đổi thành tiểu đoàn 1/1, 2/1, 3/1; trung đoàn Bộ binh số 22 đổi thành trung đoàn Bộ binh số 2, các tiểu đoàn 23, 27 và 30 đổi thành tiểu đoàn 1/2, 2/2 và 3/2; trung đoàn Bộ binh số 23 đổi thành trung đoàn Bộ binh số 3, các tiểu đoàn 7, 12 và 24 đổi thành 1/3, 2/3 và 3/3; tiểu đoàn Pháo binh số 2 thống thuộc Sư đoàn đổi thành tiểu đoàn Pháo binh số 1. Cuối năm 1958, theo quyết định cải tổ các sư đoàn dă chiến và sư đoàn khinh chiến, Sư đoàn dă chiến số 1 đổi thành Sư đoàn 1 Bộ binh, các trung đoàn Bộ binh số 1, 2 và 3 đổi thành trung đoàn 1, 2 và 3 Bộ binh.
Ngày 1 tháng 6/1965, theo kế hoạch phát triển Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa, các trung đoàn Bộ binh có thêm tiểu đoàn thứ 4. Ba năm sau, ngày 1 tháng 6/1968, Sư đoàn 1 Bộ binh thành lập thêm trung đoàn 54 Bộ binh với trung đoàn trưởng đầu tiên là trung tá Ngô Văn Chung (thăng đại tá 1/1/1970, cuối cùng là tư lệnh phó Sư đoàn 3 Bộ binh; tự sát trong lao tù CS sau 1975); cũng trong thời gian này, trung đoàn 2 Bộ binh có thêm tiểu đoàn 5/2. Cuối năm 1968, Sư đoàn 1 Bộ binh có 4 trung đoàn Bộ binh: 1, 2, 3 và 54, 1 thiết đoàn Kỵ Binh (thiết đoàn 7), 3 tiểu đoàn Pháo binh 105 ly, 1 tiểu đoàn Pháo binh 155 ly, tiểu đoàn 1 Công Binh. Từ năm 1969, theo tổ chức mới của các sư đoàn Bộ binh, Sư đoàn 1 Bộ binh có thêm 3 tiểu đoàn yểm trợ: tiểu đoàn 1 Truyền tin, tiểu đoàn 1 Tiếp vận, tiểu đoàn 1 Quân Y. Đến tháng 10/1971, trung đoàn 2 Bộ binh được chọn làm trung đoàn ṇng cốt để thành lập Sư đoàn 3 Bộ binh.
Từ ngày thành lập cho đến tháng 3/1975, trong hơn 20 năm, Sư đoàn 1 Bộ binh đă 9 lần được tuyên dương công trạng trước Quân đội. Đầu năm 1969, quân kỳ của Sư đoàn 1 Bộ binh đă được gắn Bảo Quốc Huân Chương, và toàn quân nhân của Sư đoàn 1 được mang giây biểu chương màu tam hợp. Từ năm 1960 đến 1975, trên chiến trường Trị Thiên, Sư đoàn đă lập nhiều chiến công lớn qua các cuộc hành quân mang tên Lam Sơn, những thành tích lẫy lừng nhất là 5 lần đánh bại cuộc tấn công quy mô của sư đoàn 324 B CSBV, lần đầu tiên tại mặt trận phía Nam sông Bến Hải vào tháng 4/1967, lần cuối cùng tại mặt trận Tây Nam Huế trong cuộc chiến Mùa Hè 1972. Riêng trong tháng 2/1971, Sư đoàn 1 Bộ binh đă cùng với Sư đoàn Nhảy Dù, Sư đoàn Thủy quân Lục chiến, Lữ đoàn 1 Kỵ Binh, lực lượng Biệt động quân Quân khu 1 tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719 Hạ Lào.

anhhaila
03-09-2025, 19:58
Hành quân Lam Sơn 719.



Cuộc hành quân Lam Sơn 719 trên đất Hạ Lào từ ngày 8 tháng 2 đến ngày 25 tháng 3 năm 1971.

https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/6/6d/Map_Lam_Son_719.jpg/1200px-Map_Lam_Son_719.jpg



Đến tháng 1 năm 1971, lực lượng bộ binh và không quân Hoa Kỳ đă tấn công và ném bom các tuyến tiếp tế của CSBV trong bảy năm nhằm ngăn chặn ḍng tiếp tế hậu cần cho lực lượng Cộng Sản Bắc Việt . Tuy nhiên, tuyến tiếp tế hậu cần chính của CSBV thường được gọi là đường ṃn Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục cung cấp vũ khí, vật tư và quân tiếp viện cho các bộ chỉ huy CSBV hoạt động trong Miền Nam Việt Nam. Đồng thời, cuộc bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ năm 1968 và việc đưa ra chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh" đối với Việt Nam đă dẫn đến: việc cắt giảm dần dần, mặc dù thận trọng, quân đội chiến đấu của Hoa Kỳ trong nước; tăng cường huấn luyện của Hoa Kỳ cho Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa để có thể độc lập trong tương lai; và chuyển giao các hoạt động an ninh và tấn công lớn cho QLVNCH. Trong nội bộ Miền Nam Việt Nam, cuộc bầu cử mùa thu năm 1971 đang chờ giải quyết đă buộc Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phải chứng minh được thành công quân sự.

LAM SƠN 719, là một hoạt động quan trọng tại thời điểm quan trọng trong cuộc chiến, phản ảnh mối quan tâm đối với cả các vấn đề quân sự và chính trị. Hoạt động này sẽ là một nỗ lực dứt khoát để đóng con đường ṃn HCM, sẽ ngăn chặn bất kỳ kế hoạch nào của CSBV cho một cuộc tấn công mùa khô năm 1971 thông qua cú sốc tâm lư và phá hủy vật chất, sẽ chứng minh sự thành công của chính sách hiện tại của Hoa Kỳ về việc rút quân và các hoạt động độc lập của QLVNCH, và sẽ khuếch đại tinh thần của Hoa Kỳ và QLVNCH sau những thành công của năm 1970.

Lên kế hoạch: Chiến dịch DEWEY CANYON II và LAM SON 719

Đường ṃn Hồ Chí Minh là một loạt các con đường, đường ṃn và đường ṃn cung cấp hỗ trợ hậu cần cho các hoạt động của CSBV ở Lào, Campuchia và Miền Nam Việt Nam. Mạng lưới phân nhánh của đường ṃn được kết nối với nhau bằng các nút hậu cần trung tâm được t́nh báo quân sự Hoa Kỳ gọi là Khu vực căn cứ (BA). Tchepone một mục tiêu trung tâm của LAM SƠN 719 là trung tâm bị nghi ngờ của CSBV BA 604. BA 604 là căn cứ hậu cần chính cho toàn bộ đường ṃn và là điểm thu thập và phân phối chính cho người và vật tư trên khắp Lào, Campuchia và Miền Nam VN. Do tầm quan trọng của BA 604 trong mạng lưới đường ṃn lớn hơn, người ta đưa ra giả thuyết rằng việc chiếm giữ và phá hủy Tchepone sẽ cắt đứt Đường ṃn tại nút quan trọng nhất của nó và làm tổn hại đến khả năng tiếp tục các hoạt động tấn công của CSBV. Kế hoạch rộng răi đă phác thảo cuộc xâm nhập được đề xuất là một hoạt động kết hợp có mục tiêu hạn chế gồm bốn giai đoạn của Hoa Kỳ và QLVNCH.

Giai Đoạn Một sẽ bao gồm Lữ Đoàn 1 của Hoa Kỳ, Sư Đoàn Bộ Binh Cơ Giới số 5, tái lập Căn cứ chiến đấu Khe Sanh, bị bỏ hoang vào năm 1968 và bảo vệ Tuyến đường 9 từ Đông Hà đến biên giới Lào - Miền Nam VN. Việc tái lập Khe Sanh và mở Đường 9 sẽ cung cấp điểm dàn dựng và điểm xuất phát cho các giai đoạn hoạt động tiếp theo. Việc lập kế hoạch cho giai đoạn hai đă chứng kiến ​​nhiều lần sửa đổi và ngay cả ở trạng thái cuối cùng cũng phải chịu sự thay đổi với sự chấp thuận không chắc chắn của giới lănh đạo. Tổng Thống Nixon đă phê duyệt kế hoạch.

Giai đoạn Hai cuối cùng, theo đó Sư Đoàn 1 Bộ Binh của Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa sẽ tấn công về phía tây dọc theo hành lang dài 15 dặm tập trung vào Đường 9. Đồng thời với cuộc tiến công của ḿnh, Sư Đoàn 1 BB sẽ thiết lập các căn cứ hỏa lực ở phía bắc và phía nam thung lũng Sông Xepon để bảo vệ cả hai bên sườn. Khi Sư Đoàn 1 BB đến Mục tiêu A Loui (làng Bản Đông và điểm giữa biên giới Lào-VNCH và Tchepone), Sư Đoàn Nhảy Dù sẽ phát động một cuộc tấn công cơ động bằng đường không của lữ đoàn vào Tchepone. Kế hoạch của QLVNCH đă được ban hành khác rất nhiều so với kế hoạch được Tổng Thống Nixon phê duyệt. Kế hoạch này, vốn quá phức tạp, h́nh dung Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH, Lữ Đoàn 1 Thiết Giáp và Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù tấn công về phía tây dọc theo Đường 9. Các hoạt động hỗ trợ trên không sẽ đưa một tiểu đoàn nhảy dù vào Mục tiêu A Loui, hai tiểu đoàn nhảy dù và ba tiểu đoàn của Nhóm Biệt Kích số 1 vào phía bắc Đường 9, và Trung Đoàn 1 và 3 của Sư Đoàn 1 BB vào phía nam Sông Xepon. Lữ Đoàn Nhảy dù số 2 sẽ tấn công Tchepone bằng trực thăng ngay khi Mục tiêu A Loui được bảo vệ. Pháo binh Hoa Kỳ bắn từ ngay bên trong biên giới RVN sẽ hỗ trợ từ xa nhưng sẽ không mạo hiểm vào bên trong Lào; Lực Lượng Hoa Kỳ bị cấm tham gia hoạt động chiến đấu trên bộ bên trong Lào theo Tu Chính Án Cooper-Church.

https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=2499869&stc=1&thumb=1&d=1741549056

Các chiến sĩ Tiểu Đoàn 1 Trung Đoàn 3, Sư Đoàn 1 BB bên khẩu pháo 12 ly 7 pḥng không tịch thu của CSBV.

Sau khi QLVNCH chiếm được Tchepone, Giai đoạn Ba kêu gọi các hoạt động t́m kiếm và tiêu diệt trong phạm vi BA 604 AO để bảo đảm các tuyến tiếp tế hậu cần của CSBV bị cắt đứt. Giai đoạn bốn, giai đoạn cuối cùng, chỉ đạo Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa rút lui trở lại theo Đường 9 hoặc rút lui dọc theo Đường 914, qua BA 611 (nằm ở phía đông Mường Nông) và A Shau. Việc rút lui qua BA 611 có thể có lợi ích là gây hư hại cho kho phân phối nhiên liệu và tiếp nhiên liệu chính của đường ṃn HCM. Thành phần Hoa Kỳ của hoạt động này được đặt mật danh là DEWEY CANYON II; thành phần Không quân Việt Nam Cộng Ḥa được đặt mật danh là LAM SON 719.

Thực hiện: Chiến dịch DEWEY CANYON II

Việc lập kế hoạch cho DEWEY CANYON II và LAM SƠN 719 không chỉ giới hạn ở các nhân viên Hoa Kỳ và QLVNCH. Bằng chứng cho thấy CSBV đă biết về một cuộc tấn công được lên kế hoạch gần hoặc qua biên giới VNCH-Lào. Để ứng phó với bức tranh t́nh báo tích lũy đang h́nh thành, CSBV đă thành lập Bộ tư lệnh 702 như một đơn vị chỉ huy chung có nhiệm vụ chống lại bất kỳ cuộc tấn công nào của Hoa Kỳ và QLVNCH. Sự tự tin vào đánh giá t́nh báo của họ tăng lên sau khi DEWEY CANYON II được khởi xướng và việc tái chiếm Khe Sanh nhưng không được xác nhận đầy đủ cho đến khi lực lượng RVNAF vượt biên giới vào Lào. Vào thời điểm LAM SƠN 719 được triển khai, Cộng Sản Bắc Việt đă có hơn 33,000 quân ở vùng lân cận Tchepone; lực lượng tăng viện bổ sung sẽ được gửi đến khu vực này, nâng tổng quân số của CSBV lên khoảng từ 36,000 đến 60,000 quân và 170-200 súng pḥng không. Mục tiêu quân sự và chính trị của LAM SƠN 719 là trọng tâm đối với các quyết định tác chiến của CSBV cũng như đối với QLVNCH. Mục tiêu của Bộ tư lệnh 702 và mặt trận Đường 9 Nam Lào, như được tóm tắt trong bản báo cáo của Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản gửi đến lực lượng CSBV vào ngày 31 tháng 1 năm 1971, tương đồng với mục tiêu do chính quyền Nixon và Thiệu thiết lập:

“Cuộc giao tranh sắp tới sẽ là một trận chiến quyết định về mặt chiến lược. Chúng ta sẽ chiến đấu không chỉ để giữ quyền kiểm soát hành lang vận tải chiến lược mà c̣n tiêu diệt một số đơn vị lực lượng dự bị chiến lược của địch để có thể gây ra một thất bại đáng kể cho một phần âm mưu ‘Việt Nam hóa’ của chúng, thúc đẩy nỗ lực kháng chiến của chúng ta nhằm giải phóng Nam Việt Nam và bảo vệ Bắc Việt Nam, hoàn thành nghĩa vụ quốc tế một cách vẻ vang và rèn luyện lực lượng chủ lực của chúng ta trong hỏa lực chiến đấu. Quân đội của chúng ta chắc chắn phải giành chiến thắng trong trận chiến này.”

Chiến dịch DEWEY CANYON II bắt đầu lúc 00:00-04:00 giờ (thời gian thay đổi) ngày 30 tháng 1 năm 1971, với Lữ đoàn 1 Hoa Kỳ, Sư Đoàn Bộ Binh Cơ Giới số 5, di chuyển về phía tây từ căn cứ Hỗ Trợ Hỏa Lực (FSB) Vandergrift dọc theo hai trục hội tụ tại Khe Sanh. Khe Sanh đă bị tấn công lúc 08:30 giờ mà không có sự kháng cự nào của đối phương. Sau khi căn cứ chiến đấu Khe Sanh được tái lập, các tiểu đoàn tấn công đă di chuyển đến khu vực hoạt động của họ trong khi các đơn vị pháo binh và hỗ trợ củng cố các vị trí bên trong và xung quanh Khe Sanh. Thương vong của Hoa Kỳ liên quan đến DEWEY CANYON II là nhẹ. Trong số khoảng 9,000 quân Hoa Kỳ tham gia, lực lượng Hoa Kỳ đă chịu 55 tử trận và 431 người bị thương.

Chiến dịch LAM SON 719

Sự nhầm lẫn về các kế hoạch cho LAM SƠN 719 bắt đầu gần như từ các giai đoạn lập kế hoạch ban đầu của chiến dịch và vẫn tiếp diễn trong suốt quá tŕnh thực hiện chiến dịch. Tuy nhiên, những hiểu lầm giữa các đồng minh không phải là trở ngại duy nhất đối với sự hợp tác suôn sẻ giữa Không Quân Hoa Kỳ và Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa. Làm phức tạp thêm những khó khăn về mặt lập kế hoạch và hoạt động là môi trường vật lư của không phận chiến trường. Trên không, thời tiết và địa h́nh sẽ đóng vai tṛ then chốt trong hành động sắp tới. Mặc dù LAM SƠN 719 được thực hiện trong mùa khô, sương mù dày đặc và mưa đă làm giảm tầm nh́n ở cả khu vực hoạt động và phía đông dăy núi Annamite, nơi có nhiều tài sản không quân hỗ trợ. Tầm nh́n tối đa, khi thời tiết quang đăng, chỉ có từ khoảng trưa cho đến khi mặt trời lặn khoảng sáu giờ sau đó. Ngay cả với những hạn chế về tầm nh́n thường xuyên, các tài sản không quân Hoa Kỳ và Không quân Việt Nam Cộng ḥa vẫn rất quan trọng đối với cuộc ném bom trước khi phóng, hỗ trợ chiến đấu trực tiếp và yểm trợ trên không khi kết thúc chiến dịch. Trực thăng và hỗ trợ trên không tầm gần của Hoa Kỳ cũng bị ảnh hưởng tương tự bởi địa h́nh xung quanh Tuyến đường 9 và Tchepone. Địa h́nh gồ ghề với độ cao thay đổi nhanh chóng khiến cho các chuyến bay theo đường đồng mức và bay theo đường đất trở nên cực kỳ khó khăn. Địa h́nh thay đổi buộc các tài sản triển khai và hỗ trợ của Không quân Hoa Kỳ và Không quân Việt Nam Cộng ḥa phải bay ở độ cao cao hơn mong muốn; các đường bay cao hơn và nhất quán hơn lần lượt giúp CSBV dễ dàng nhận dạng, theo dơi và giao tranh hơn. Để chống lại việc CSBV nhắm mục tiêu vào các LZ có khả năng xảy ra, các máy bay C-130 của Không Quân Hoa Kỳ và máy bay tấn công chiến thuật đă phá hủy thêm các LZ khỏi thảm thực vật rậm rạp. Tuy nhiên, khi đến nơi, nhiều LZ bị phát hiện bị các mảnh vỡ của vụ nổ cản trở hoặc nhỏ hơn mức cần thiết. Ngoài ra, việc sử dụng nhiều lần các LZ hiệu quả và việc sử dụng liên tục các phương pháp tiếp cận trên không đến các LZ này đă làm giảm cả yếu tố bất ngờ và tốc độ tiến công đồng thời tăng hiệu quả của pḥng thủ trên không và trên bộ của CSBV. Tổn thất trên không của Không quân Hoa Kỳ và Không quân Việt Nam Cộng ḥa đặc biệt đáng kể trong LAM SƠN 719 do sự kết hợp của các hoạt động cơ động trên không quy mô lớn, hỗ trợ trên không xuyên biên giới và không lư tưởng. Chiến dịch trên bộ phải đối mặt với những khó khăn về địa h́nh của riêng nó. Không chỉ lực lượng chính đang tiến công hoạt động trong lănh thổ do kẻ thù nắm giữ và cải thiện về mặt hậu cần trong nhiều năm mà địa h́nh cục bộ và thảm thực vật rậm rạp khiến việc di chuyển khỏi các mạng lưới vận tải đă thiết lập gần như không thể đối với các lực lượng cơ giới.Tuy nhiên, tốc độ tiến quân đến Mục tiêu A Loui không được duy tŕ. Quy mô của các hoạt động trên không và trên bộ đ̣i hỏi phải huy động một số lượng lớn máy bay để đưa vào, tiếp tế và hỗ trợ trên không. Tuy nhiên, khả năng pḥng thủ kiên quyết của CSBVvà các hoạt động trên không gần như không ngừng nghỉ đă khiến ngày càng nhiều máy bay bị loại khỏi biên chế do mất mát hư hỏng và cần bảo dưỡng.

Tỷ lệ hao hụt của máy bay bay thường ảnh hưởng đến số lượng và loại hoạt động trên không có thể được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định. Các quyết định đồng thời từ giới lănh đạo chính trị và chiến dịch trên bộ đang phát triển đă làm chậm đáng kể bước tiến của Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa. Các lực lượng địch đă lợi dụng sự tiến quân bị đ́nh trệ của Không quân Việt Nam Cộng Ḥa để tạo lợi thế cho ḿnh. Để củng cố các vị trí của ḿnh, CSBV đă nỗ lực cô lập và phá hủy các vị trí chặn phía bắc của QLVNCH như một phần của một phong trào lớn hơn nhằm cắt đứt Tuyến đường 9 như một hành lang tiếp tế và hoạt động tấn công trên bộ của QLVNCH (Sander 2014: 118-119, 123-125, 141-157). Phải mất một tháng giao tranh đẫm máu để QLVNCH tiến chậm chạp đạt được mục tiêu cốt lơi của chiến dịch. Vào ngày 6 tháng 3, các thành phần của QLVNCH cuối cùng đă tấn công bằng đường không vào Tchepone, đầu tiên đổ bộ xuống băi đáp được lên kế hoạch ở cực tây của chiến dịch, LZ Hope. Mặc dù mục tiêu chính của LAM SƠN 719 đă đạt được, nhưng sức kháng cự của CSBV ngày càng mạnh mẽ hơn. CSBV đă tránh chiến thuật đánh và rút được sử dụng để chống lại các cuộc xâm lược của Hoa Kỳ và QLVNCH vào Campuchia, thay vào đó sử dụng các ṿng pháo binh hỏa lực trực tiếp và gián tiếp, thiết giáp do Liên Xô sản xuất và các cuộc tấn công của bộ binh để giảm thiểu một cách có hệ thống các căn cứ hỏa lực trên đỉnh đồi của QLVNCH. Đến thời điểm này, các chiến dịch thông thường của CSBV chống lại các căn cứ hỏa lực và khu vực tập trung quân của QLVNCH đă dẫn đến việc Đường 9 trở thành một tuyến đường di chuyển an toàn; tuyến đường rút lui chính của QLVNCH sẽ là một thử thách của các cuộc phục kích liên tục và tàn khốc. Mười ngày sau khi chiếm được Tchepone và trái với lời khuyên của Tướng Creighton Abrams, khi đó là Tư Lệnh Bộ Tư Lệnh Hỗ trợ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam, Tổng Thống Thiệu đă ra lệnh rút quân QLVNCH. Sự thành công của cuộc rút lui QLVNCH phụ thuộc rất nhiều vào kế hoạch, sự phối hợp giữa Hoa Kỳ và QLVNCVH và sự lănh đạo của từng cá nhân. Các vấn đề gây khó khăn cho việc lập kế hoạch và thực hiện hoạt động cũng xuất hiện trong quá tŕnh rút quân. Nhiều đơn vị đă bị loại bỏ hoặc tự loại bỏ khỏi các vị trí chặn trước khi các đơn vị tiền phương khác được rút lui. Việc rút quân sớm có nghĩa là nhiều đơn vị, và thực tế là toàn bộ lực lượng tấn công nếu quan sát từ cấp độ vĩ mô, sẽ phải vật lộn để quay trở lại biên giới trong các cuộc tấn công quấy rối liên tục. Các đơn vị cuối cùng (trừ hai đơn vị trinh sát Thủy Quân Lục Chiến c̣n lại bên kia biên giới làm nhiệm vụ tuần tra cảnh báo sớm cho Khe Sanh) đă đến được vùng đất tương đối an toàn của VNCH vào ngày 25 tháng 3, mười ngày gian khổ và đẫm máu sau khi lệnh rút quân được ban hành lần đầu tiên.

Hiệu ứng của Chiến Dịch.

Đến ngày 6 tháng 4 năm 1971, LAM SƠN 719 đă chấm dứt và kết quả ngay lập tức được ghi nhận: việc chiếm giữ Tchepone, mặc dù thành công, nhưng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn; các kho tiếp tế của địch được phát hiện trong BA 604 AO ít hơn so với đánh giá t́nh báo ước tính (hầu hết vật liệu đều nằm ngoài tầm hoạt động của các cuộc càn quét của QLVNCH xung quanh Tchepone); và tính khả thi của "Việt Nam hóa" như một phương tiện để rút quân Hoa Kỳ thành công ở Đông Nam Á ngày càng bị nghi ngờ. Cả thực tế về việc QLVNCH rút quân và báo chí đưa tin về nó đều làm lu mờ những thành công trong hoạt động mà chính quyền Nixon nêu bật. LAM SƠN 719 đă chỉ ra rằng QLVNCH hoàn toàn phụ thuộc vào các Cố Vấn và vật liệu của Hoa Kỳ để lập kế hoạch, phối hợp và thực hiện các hoạt động tấn công quy mô lớn. Như dự kiến ​​từ hành động lớn hơn của chiến dịch DEWEY CANYON II LAM SƠN 719, thương vong của tất cả các lực lượng tham gia đều cao. Số liệu thống kê thương vong cho LAM SƠN 719 khác nhau, nhưng Trung tâm Lịch Sử Quân Sự của Quân Đội Hoa Kỳ đă cung cấp số liệu thương vong nhất quán nhất. Lực lượng địch được báo cáo là 13,636 tử thương từ ước tính thận trọng là 22,000 chiến binh trong khu vực hoạt động; chỉ có 69 binh lính địch được báo cáo là tù binh chiến tranh. QLVNCH báo cáo là 1,483 tử thương, 5,420 bị thương và 691 mất tích từ lực lượng tham gia chiến đấu khoảng 17,000 người. Lực Lượng Hoa Kỳ phải chịu một số lượng lớn tổn thất về máy bay trực thăng với 108 trực thăng bị phá hủy và 600 trực thăng bị hư hại. Trong số khoảng 10,000 quân nhân Hoa Kỳ tham gia LAM SƠN 719, Hoa Kỳ đă phải chịu 215 tử thương, 1,149 bị thương và 42 mất tích. Việc tính toán tỷ lệ thương vong là 62 phần trăm cho địch, 45 phần trăm cho Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa và 14 phần trăm cho Hoa Kỳ, làm nổi bật hơn nữa quy mô cam kết chính trị mà cả hai bên đă thực hiện đối với hành quân LAM SƠN 719 và mức độ khốc liệt của cuộc chiến đă trải qua.


Từ trang mạng https://dpaa-mil.sites.crmforce.m il/dpaaFamWebInLamSon

yenco88
03-16-2025, 15:49
Sống lại những ngày dựa lưng nổi chết Lam Sơn 719.

hoathienly19
03-17-2025, 03:07
LỮ ĐOÀN I NHẢY DÙ


Huy hiệu Lữ Đoàn I Nhảy Dù


https://nhayduwdc.org/i/logo/nd/ldnd/2020/T242_logo_ld1nd_2020 _canhDu_432x720_d.pn g




LĐIND gồm 3 Tiểu đoàn tác chiến :

- TĐ1ND

- TĐ8ND và TĐ9ND

Huy hiệu TĐ1ND – Tiểu Đoàn 1 Nhảy dù có 5 Đại đội.

ĐĐ đầu tiên mang số zero (0) hay ĐĐ10, là ĐĐ chỉ huy có nhiệm vụ bảo vệ Bộ chỉ huy Tiểu đoàn.

ĐĐ10 được trang bị nhiều vũ khí cộng đồng như :

- Đại liên M50ly chống biển người

- Một khẩu Đại bác 90ly không giật

- Một khẩu Đại bác 57ly không giật

- Một khẩu súng cối 81ly

- Bốn khẩu Đại liên 60ly cho 4 Trung đội.

Ngoài ra c̣n có các giàn máy vô tuyến điện, quân xa, v.v.

Bộ chỉ Huy TĐ1ND c̣n có thêm một ban Quân y gồm :

- Một y sĩ Tiểu đoàn và một số y tá.

Các Đại đội tác chiến của TĐ1ND gồm :

- ĐĐ11ND, 12, 15 (x13), & 14, mỗi ĐĐ có :

- 3 Trung đội tác chiến và 1 Trung đội súng nặng.

Mỗi ĐĐ tác chiến của TĐ1ND được trang bị :

- 1 khẩu Đại bác không giật 90ly và 1 khẩu Đại bác không giật 57ly

- Một khẩu súng cối 60ly, 4 khẩu Đại liên M60, 4 khẩu phóng lựu M79, v.v.

Vũ khí cá nhân cho Đại đội phó trở xuống là súng trường M16.

Phương tiện Liên lạc là các máy vô tuyến điện loại PRC–25 chạy pin.

Ban chỉ huy ĐĐ c̣n có một Sĩ quan Đề–lô pháo binh được TĐ1PBND biệt phái để giúp yểm trợ hỏa lực Pháo binh và Phi pháo khi cần.

Dưới đây là Huy hiệu các Đại đội thuộc TĐ1ND. H́nh thức giống nhau nhưng màu sắc khác nhau.

Huy hiệu ĐĐND được đeo trên hai cầu vai của các TTMĐ thuộc TĐ1ND.


Từ trái : Đại Đội 10/Chỉ huy , ĐĐ11 , ĐĐ12 , ĐĐ15 [x13], ĐĐ14
([x13]: TĐ1ND kỵ số 3 và 13 nên chỉ có Trung đội 5 [x3] và Đại đội 15 [x13])


https://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhnd/m/td01nd/T242_hh_qlvnch_sdnd_ td1nd_dd12nd_146x180 .jpghttps://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhnd/m/td01nd/T242_hh_qlvnch_sdnd_ td1nd_dd11nd_146x180 .jpghttps://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhnd/m/td01nd/T242_hh_qlvnch_sdnd_ td1nd_dd12nd_146x180 .jpghttps://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhnd/m/td01nd/T242_hh_qlvnch_sdnd_ td1nd_dd15nd_146x180 .jpghttps://nhayduwdc.org/st/hhqlvnch/hhnd/m/td01nd/T242_hh_qlvnch_sdnd_ td1nd_dd14nd_146x180 .jpg



Là hậu thân của Chiến Đoàn I Nhảy Dù được thành lập ngày 15/11/1961 do Thiếu tá Dư Quôc Đống làm Chiến Đoàn Trưởng đầu tiên.


Trung tướng Dư quốc đống


https://linhvnch.wordpress.c om/wp-content/uploads/2016/09/duquocdong.jpg?w=377&h=502


Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn với quân số 49 quân nhân Nhảy Dù có nhiệm vụ :

– Đảm trách việc chỉ huy chiến thuật trong các cuộc hành quân phối hợp từ 2 Tiểu Đoàn Nhảy Dù trở lên.

– Đặt kế hoạch chỉ huy hành quân và yểm trợ cho các Tiểu Đoàn thống thuộc.

– Liên lạc để xin yểm trợ hỏa lực cho các Tiểu Đoàn thống thuộc khi các đơn vị Nhảy Dù được tăng phái cho các Sư Đoàn Bộ Binh hoặc Khu Chiến Thuật hoặc Vùng Chiến Thuật.

Và nhiệm vụ này được chấm dứt khi Chiến Đoàn trở về hậu cứ.



https://scontent.fyto1-1.fna.fbcdn.net/v/t39.30808-6/475874183_9367760018 77231_47328533879613 53026_n.jpg?_nc_cat= 105&ccb=1-7&_nc_sid=cc71e4&_nc_ohc=bqjuC8PgyfwQ 7kNvgHW0JRu&_nc_oc=AdgzZhAcnCexo DncOaEznCM_ZzDdyj12X 9IT7wqMTiWpICEms_GzP cDfyAkutYH_PKQ&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-1.fna&_nc_gid=n_uiHlkdWIeD CR_U6IMaIQ&oh=00_AYHSeliukwjekQ dQdMOHCP1i45ZrEZZgWg _uZUqMr0Ghlw&oe=67DD24C1



Bản doanh của CĐIND nằm trong căn cứ Hoàng Hoa Thám.

Đến ngày 10 tháng 9/1964 Trung tá Dư Quốc Đống được thăng cấp đại tá và lên làm Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù bàn giao lại cho Trung tá Bùi Kim Kha.

Ngày 2 Tháng 3 năm 1966, sau trận giải vây quận Thuần Mẫn tại Quân Khu 2, Thiếu tá Hồ Trung Hậu đang là TĐT/TĐ5ND được chỉ định thay thế Trung tá Bùi Kim Kha chỉ huy CĐIND.


Đại tá Hồ Trung Hậu tư lệnh phó Sư đoàn Nhảy Dù VNCH


https://scontent.fyto1-2.fna.fbcdn.net/v/t1.6435-9/51486429_25090311491 67789_52604170429593 02656_n.jpg?stp=dst-jpg_p526x296_tt6&_nc_cat=101&ccb=1-7&_nc_sid=833d8c&_nc_ohc=6QcROkVCKmUQ 7kNvgHWEgw5&_nc_oc=Adj0IgEeZZGEi N0_J_XXQOnddZ67htYsX HE3P6AeB9_Znzhp5fPes oEUjNHKwV8SfeQ&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent.fyto 1-2.fna&_nc_gid=BZC0C5riYo-iP9WiDBDkOQ&oh=00_AYGBn0grC7V6gB BorJ4KjIKP6bM08b0fLn lyBFDAoPmBUA&oe=67FEBDA4



Về sau do nhu cầu chiến trường ngày một gia tăng, thêm các Tiểu Đoàn tác chiến và các Tiểu Đoàn Pháo Binh 105ly Nhảy Dù được thành lập, Lữ Đoàn Nhảy Dù được phát triển thành Sư Đoàn Nhảy Dù vào ngày 1 tháng 12 năm 1965.



https://nhayduwdc.org/ls/qsnd/2015/a/h2/qsnd_06_bchpbnd_007. jpg


Do đó cơ cấu tổ chức Sư Đoàn Nhảy Dù được cải tổ, thêm nhiều đơn vị yểm trợ tiếp vận như :

- Truyền Tin, Công Binh, Quân Y... được nâng cấp.



https://nhayduwdc.org/ls/qsnd/2015/a/h2/qsnd_06_bchpbnd_004. jpg


Đến ngày 1/5/1968 Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn I ND được cải danh thành Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn Nhảy Dù để chỉ huy chiến thuật các đơn vị thống thuộc và tăng phái theo nhu cầu :

–Chỉ huy các thành phần tác chiến và yểm trợ do SĐND tăng phái khi hành quân.

–Tiếp nhận và xuất phái các thành phần tăng cường mau lẹ khi chiến trường đ̣i hỏi.

–Tổ chức các cuộc hành quân cấp Lữ Đoàn, hoặc hành quân dài hạn.

–Giám sát sự di chuyển về an ninh của các thành phần tăng phái yểm trợ.

–Thiết lập hệ thống liên lạc với các bộ chỉ huy cao cấp và bộ chỉ huy kế cận.

–Giám sát huấn luyện chiến thuật cho các đơn vị cơ hữu.

–Tổ chức hành quân độc lập khi được tăng cường đầy đủ các thành phần yểm trợ.

–Khả năng điều khiển và kiểm soát lối 5 Tiểu Đoàn hành quân.

–Tính cách di động 100%.

Lữ Đoàn Trưởng/LĐIND đầu tiên là Trung tá Hồ Trung Hậu.

Trên phương diện tổ chức, Lữ Đoàn I Nhảy Dù gồm có :

–Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn và các Ban Tham Mưu 1, 2, 3, 4, 5 và Truyền Tin.

–Đại Đội Chỉ Huy Công Vụ/LĐIND.

–Đại Đội 1 Trinh Sát Nhảy Dù.

–Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù.

–3 Tiểu Đoàn tác chiến : Tiểu Đoàn 1, 8 & 9 Nhảy Dù.

–Trung Đội Truyền Tin/LĐIND với nhiệm vụ thiết lập :

- Hệ thống liên lạc hữu tuyến

- Vô tuyến

- Hỏa bài quân

- Mật mă và điện báo từ BCH/LĐ đến tất cả các đơn vị thống thuộc.


https://nhayduwdc.org/i/hh/nd/bnr/bhh/T242_bnr_bohuyhieu_t d1nd_b.png


–Trung Đội 1 Truyền Tin do Tiểu Đoàn Truyền Tin/SĐND tăng phái với nhiệm vụ :


- Thiết lập hệ thống liên lạc hữu tuyến, siêu tần số, giải tần đơn, Viễn ấn tự, vô tuyến âm thoại, điện báo, hỏa bài quân và mật mă từ BCH/LĐ đến BTL/SĐND.

– Đại Đội 1 Công Binh do Tiểu Đoàn Công Binh/SĐND tăng phái.

–Đại Đội 1 Quân Y do TĐQY/SĐND tăng phái.

–Phân Đội 1 Tiếp Vận do Tiểu Đoàn Yểm Trợ/SĐND tăng phái.

Về phương diện chiến thuật, khi nhu cầu hành quân đ̣i hỏi, bất cứ Tiểu Đoàn Nhảy Dù tác chiến nào cũng có thể được BTL/SĐND chỉ định để kết hợp thành một lực lượng đáp ứng cho nhu cầu chiến trường của Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn ngay cấp thời.


https://nhayduwdc.org/i/bnr/td1nd/T242_HH_BCND_QLVNCH_ kl_TD01ND_180x309_cv 3sd_clear.png


Đến ngày 25/1/1968 Trung tá Hồ Trung Hậu bàn giao chức vụ Lữ Đoàn Trưởng LĐIND lại cho Thiếu tá Lê Quang Lưỡng.

Sau khi nhận bàn giao LĐIND ngày 27/1/1968 Thiếu tá Lê Quang Lưỡng và BCH LĐIND được điều động ra Huế thay thế BCH/LĐIIND do Trung tá Đào Văn Hùng chỉ huy với 3 Tiểu Đoàn 2, 7 và 9 Nhảy Dù để bảo vệ cho Huế và Quảng Tri tại QKI [Quân Khu I] trong dịp tết Mậu Thân.

Đến ngày 15/7/1972 Đại tá Lê Quang Lưỡng được chỉ định giữ chức vụ Phụ tá HQ cho Tư Lệnh SĐND, ông bàn giao lại cho Trung tá Lê Văn Ngọc chỉ huy LĐ1 Nhảy Dù.

Ngày 24/7/1974, Đại tá Lê Văn Ngọc thuyên chuyển về đặt dưới quyền sử dụng của Bộ Nội Vụ, ông bàn giao LĐIND lại cho Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh chỉ huy LĐIND cho đến tháng 4/1975.

Các Vị Chỉ Huy Liên Tiếp:

1. Thiếu tá Dư Quốc Đống(15/11/1961–10/09/1964)

2. Thiếu tá Bùi Kim Kha(11/09/1964–01/03/1966)

3. Thiếu tá Hồ Trung Hậu(02/03/1966–25/01/1968)

4. Thiếu tá Lê Quang Lưỡng(26/01/1968–15/07/1972)

5. Trung tá Lê Văn Ngọc(16/07/1972–24/07/1974)

6. Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh(25/07/1974–30/04/1975)


https://nhayduwdc.org/ls/qsnd/2015/a/h2/qsnd_12_td6nd_002.jp g


*************

hoathienly19
03-17-2025, 09:39
CÁC CUỘC HÀNH QUÂN THAM DỰ :

–Hành quân tảo thanh tại Kiến Hoà (QK4)

–Hành quân giải vây đồn Bỏ Túc (QK3)

–Hành quân giải phóng xóm Bà Đa (QK3)

–Hành quân tảo thanh Phan Thiết (QK3)

–Hành quân tảo thanh Phước Ḥa (QK3)

–Hành quân Ấp Bắc 2 tại Mỹ Tho QK4 vào ngày 03/01/1965.

Giao tranh ác liệt giữa TĐ5ND và một Trung Đoàn VC.

Các sĩ quan Nhảy Dù chỉ huy chiến Trường có :

- Trung tá Hồ Tiêu TĐT/TĐ5ND

- Đại úy Ngô quang Trưởng TĐP kiêm SQ Ban 3

- Đại úy Đoàn văn Nu TĐT/TĐ1ND

- Thiếu tá Trương Quang Ân Tham mưu Trưởng LĐIND



https://baovecovang2012.word press.com/wp-content/uploads/2014/04/truongquangan3.jpg?w =584


–Hành quân Lam Sơn 11 (QK1)

–Hành quân Phi Điểu 1 (QK4)

–Hành quân Thăng Long 11 (QK4)

–Hành quân Hùng Vương 2 đến 5 (QK3)

–Hành quân Quyết thắng 141 An Khê (QK2)

–Hành quân Quyết Thắng 147 (QK2)

–Hành quân Dân Tiến 107 Cheo Reo (QK2)

–Hành quân Thần Phong 3 (QK2)

–Hành quân Đại Bàng 3 QL 21 (QK2)

–Hành quân Thần Phong 7 Bồng Sơn (QK2)

–Hành quân Thần Phong 2 Tam Quan (QK2)



https://www.youtube.com/watch?v=_kZfHB-18Fo
_kZfHB-18Fo


–Hành quân Thành Công 1 (BKTD) (QK3)

–Hành quân Tái lập an ninh Đà Nẵng (QK1)

–Hành quân B́nh Phú 9 và 10 (QK2)

–Hành quân B́nh Phú 18 (QK2)

–Hành quân Lam Sơn 318/2 Đông Hà (QK1)

–Hành quân Lam Sơn 329 (QK1)

–Hành quân Xây Dựng 69/SĐ (QK3)

–Hành quân Lam Sơn XDNT/10 Quảng Trị (QK1)

–Hành quân Lam Sơn Đông Hà (QK1)



https://www.youtube.com/watch?v=j8jSKZr2_8w
j8jSKZr2_8w


–Hành quân Long Phi 999/J/M (QK4)

–Hành quân Khamjei 164 (QK2)

–Hành quân Khamjei 169 (QK2)

–Hành quân Trương Công Định Cần Thơ (QK4)

–Hành quân Toàn Thắng 199/667–676–693–698 Tây Ninh (QK3)

–Hành quân Toàn Thắng 199/1280–1451 Tây Ninh (QK3)

–Hành quân Toàn Thắng 199/1922 Tây Ninh (QK3)



https://www.youtube.com/watch?v=Uzz1Vm1PlKE
Uzz1Vm1PlKE



–Hành quân Toàn Thắng Đại Bàng 2/69 (QK3)

–Hành quân Toàn Thắng 81/DB 2/70 (QK3)

–Hành quân Lam Sơn 719 Hạ Lào (QK1)

–Hành quân Quang Trung 22/2 (QK2)

–Hành quân Toàn Thắng 72 C–D (QK3)

–Hành quân Đại Bàng 72/A–B–C–H–E–M (QK1)

–Hành quân Sao Mai Tây Ninh (QK3)

–Hành quân Phi Hoà 2 (QK3)



https://nhayduwdc.org/ls/qsnd/2015/a/h2/qsnd_06_bchpbnd_010. jpg


–Hành quân Đức Thắng 62 đến 64 (QK4)

–Hành quân B́nh định Long An (QK4)

–Hành quân Thăng Long 19 (QK4)

–Hành quân Nguyễn Văn Nho (QK3)

–Hành quân Dân Tiến 102 (QK2)

–Hành quân Dân Tiến 103 Lê Thanh (QK3)

–Hành quân Thần Phong 1 và 2 (QK2)

–Hành quân Toàn Thắng 17 (QK2)

–Hành quân Đại Bàng 8 Bồng Sơn (QK2)

–Hành quân Jefferson Tuy Hoà (QK2)

–Hành quân Liên Kết 26 Quảng Ngăi (QK1)

–Hành quân An Dân 79/66 (QK3)



https://www.youtube.com/watch?v=_kZfHB-18Fo
_kZfHB-18Fo



–Hành quân B́nh Phú 6 Phù Cát (QK2)

–Hành quân B́nh Phú 20 Qui Nhơn (QK2)

–Hành quân Lam Sơn 325/1 và 2 QT (QK1)

–Hành quân Dân Chí 270 Chương Thiện (QK4)

–Hành quân Tảo Thanh Đông Hà (QK1)

–Hành quân Liên Kết 81 Quảng Ngăi (QK1)



https://nhayduwdc.org/i/hh/lq/m/2022/T242_logo_qlvnch_luc quan_xanh_002_510x44 4_m.png


–Hành quân Lam Sơn 131 (QK1)

–Hành quân Dân Thắng Dakto (QK2)

–Hành quân Kamjei 167 Dakseang (QK2)

–Hành quân Lam Sơn 183 Giải toả Huế trong trận Tết Mậu Thân 1968 (QK1)

–Hành quân Chiến Dịch Toàn Thắng (QK3)

–Hành quân Toàn Thắng 12/68–20/68 (QK3)

–Hành quân Dân Chí 6–7 (QK3)

–Hành quân Ven Đô (QK3)


https://vietnamesemuseum.org/wp-content/uploads/2021/03/Dai-uy-Quan-doi-Hoa-Ky-Peter-Dawkins-C-la-co-van-cho-mot-Tieu-doan-Du-Viet-Nam-1966..jpg


–Hành quân Toàn Thắng 43/ĐB 1/70 (QK3)

–Hành quân Toàn Thắng Đại Bàng 2/70 (QK3) (Kampuchia)

–Hành quân Toàn Thắng 1/71 –2/71 (QK3)

–Hành quân Lam Sơn Đại Bàng 72 (QK1)

–Hành quân Đại Bàng 18 A–B (QK1)


TUYÊN DƯƠNG CÔNG TRẠNG :

Hiệu kỳ Lữ Đoàn I Nhảy Dù được 3 lần tuyên dương công trạng trước Quân Đội, được ân thưởng dây biểu chương màu Anh Dũng Bội Tinh với nhành Dương liễu.

Về huy chương cá nhân, các chiến sĩ Lữ Đoàn I Nhảy Dù đă được ân thưởng :



https://blogger.googleuserco ntent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgWIv-eZvxJyrJuVrZb-ws1QjkqQTk0Fwqp5z488 tkK4WgB4SfJE-r5LUVcnZoKXKxTLU8PQr Pm_mQgVUFTjPzCZX43rT 5CEYLCldKa4-3h3jd7UZNjDjMT3zKjeg 7nhDuvGq-coA9WWcRT/s640/a6.jpg



–7 Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu

–18 Huân Công Bội Tinh kèm ADBT/NDL

–142 Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu

–345 Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Vàng

–1001 Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Bạc

–2197 Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Đồng.

Tài liệu tham khảo :

–Insignia of The Republic Of VietNam Airborne Division copyright @ 2002 by Harry F. Pugh.
–Tiểu Sử và Thành Tích của Sư Đoàn Nhảy Dù do BTL/SĐND/Pḥng TLC ấn hành năm 1972.
–Phỏng vấn trực tiếp một số chiến hữu và Niên Trưởng trong SĐND.

Đại úy Vơ Trung Tín – Tiểu Đoàn Truyền Tin SĐND – 714–856–9202

Đại úy Nguyễn Hữu Viên – Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù

Email: pvotin@gmail.com


*********

hoathienly19
03-21-2025, 06:17
TIỂU ĐOÀN 1 NHẢY DÙ VNCH CÀN QUÉT ĐỊCH TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUẢNG NGĂI


https://www.youtube.com/watch?v=_kZfHB-18Fo
_kZfHB-18Fo

hoathienly19
03-24-2025, 09:14
TIỂU ĐOÀN 9 NHẢY DÙ VNCH VÀ NHỮNG TRẬN ĐÁNH ĐI VÀO QUÂN SỬ ử


https://www.youtube.com/watch?v=ZAjkMzCB5Rg
ZAjkMzCB5Rg


************