NGƯỜI NHẬT CÓ KỲ THỊ CÁC NHÓM THIỂU SỐ?
Những ngày gần đây, chủ đề “kỳ thị chủng tộc” được cộng đồng xă hội chú tâm theo dơi. Rơ ràng, ngay cả ở quốc gia được đánh giá là có hệ thống pháp luật hoàn bị nhất, dân chủ và nhân quyền được coi là mẫu mực, cũng vẫn có những góc khuất rất nhạy cảm. Mỹ đă vậy, Nhật Bản - quốc gia phát triển nhất châu Á trong thế kỷ qua th́ sao? Trong một xă hội luôn được coi là khuôn mẫu cho sự khiêm nhường, nhân văn và chia sẻ liệu có những “vấn đề nhạy cảm” liên quan đến các nhóm thiểu số? Bài viết dưới đây có thể góp phần giúp cho anh chị em có được cái nh́n khái lược. (Bài viết tương đối dài, bạn nào quan tâm đến chủ đề này th́ chịu khó đọc).

Ảnh chợ đêm Tokyo 2019
Theo cách hiểu của người Nhật, ở Nhật Bản hiện có nhiều nhóm thiểu số: Burakumin, Trung Quốc, Triều Tiên, Braxin, Philippin, Việt Nam, Ryukyu và Ainu. Nhóm Burakumin có khoảng 3 triệu người, là những người có nguồn gốc Nhật Bản nhưng bị phân biệt theo địa vị xă hội. Người Trung Quốc, người Triều Tiên, người Braxin, người Việt Nam và một số nhóm khác là dân nhập cư. Các nhóm Ryukyu và Ainu là những cư dân bản địa.
Đối với nhóm Burakumin, mặc dù luật pháp hiện hành cấm mọi hành vi phân biệt đối xử, nhưng trên thực tế, họ thường xuyên là nạn nhân của sự kỳ thị. Nhiều người dân Nhật vẫn quan niệm rằng Burakumin là những người có địa vị thấp kém, tổ tiên của họ là những người có những "vết nhơ" và bị bỏ rơi. T́nh trạng này nghiêm trọng đến mức, đă có những chỉ trích chính thức từ Ủy ban nhân quyền Liên hợp quốc. Các nhóm dân nhập cư được chế tài bằng luật quốc tịch, luật dân sự và hệ thống luật pháp chung của Nhật Bản.
Thời trung đại, người Ryukyu từng là chủ nhân của một vương quốc riêng có tên gọi là Ryukyu (người Việt thường gọi là Vương quốc Lưu Cầu), bao gồm các quần đảo phía đông Nhật Bản (Okinawa, Amani và Yaeyama). Vương quốc này đă thiết lập quan hệ với nhiều quốc gia trong khu vực như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Xiêm La (Thái Lan), Đại Việt… Năm 1609, Nhật Bản xâm chiếm và coi Ryukyu như một nước chư hầu phiên thuộc. Đến năm 1879, vương quốc này bị xóa xổ, bị sáp nhập vào đế quốc Nhật Bản với tên gọi là tỉnh Okinawa. Người Ryukyu hiện vẫn sinh sống chủ yếu ở quần đảo Okinawa, nhưng không được coi là cư dân bản địa. Năm 2008, khi Tổ chức Nhân quyền Liên hợp quốc đề xuất việc coi Ryukyu là cư dân bản địa (cũng như người Ainu), Chính phủ Nhật khẳng định, mặc dù không coi Ryukyu là dân tộc thiểu số bản địa nhưng nhà nước vẫn thừa nhận nền văn hóa và lịch sử độc đáo của họ và đă có những nỗ lực bảo tồn những truyền thống này.
Riêng người Ainu có số phận khá đặc biệt và đối với họ, các chính thể Nhật Bản đă có các chính sách khác nhau, tùy từng giai đoạn lịch sử. Người Ainu (hay c̣n được gọi là Ezo trong các tài liệu lịch sử) không chỉ có mặt ở Hokkaido (Nhật Bản) mà c̣n phân bố ở các quần đảo Kuril và phần lớn Sakhalin (thuộc Nga). Trong ngôn ngữ Ainu, “ainu” có nghĩa là “người”. Tại Nhật Bản, cho đến nay, vẫn chưa có số liệu thống kê chính xác về dân số của người Ainu. Do thái độ phân biệt đối xử, nhiều người có nguồn gốc Ainu che dấu thân phận của họ và hiện cũng có nhiều người Ainu lai với người Nhật. Phần lớn những người được xác nhận là người Ainu đều vẫn sống tại Hokkaido, nhưng số lượng cụ thể th́ không xác định rơ. Con số ước lượng c̣n khoảng 25,000, trong khi đó con số không chính thức có thể lên tới 200,000 người.
Những ghi chép đầu tiên về tộc người này được biết đến vào khoảng thế kỷ XIII, khi bắt đầu có những mối liên hệ giữa người Nhật Bản với người Ainu. Bước ngoặt cho văn hóa Ainu xảy ra vào thời kỳ đầu của cuộc cải cách Minh Trị năm 1868. Khi chính phủ Nhật Bản thực hiện những cải cách về văn hóa, chính trị, kinh tế với hy vọng hiện đại hóa đất nước theo kiểu phương Tây, nhu cầu mở rộng ảnh hưởng và lănh thổ ngày một trở nên cấp thiết. Ezo bị thuộc địa hóa và một lượng lớn người Nhật Bản đă dần chuyển tới định cư tại lănh thổ của người Ainu.
Năm 1869, chính quyền thuộc địa được thành lập ở khu vực người Ainu sinh sống. Các ḥn đảo vốn mang tên Ezo được đổi thành Hokkaido. Năm 1871, các truyền thống văn hóa của người Ainu bắt đầu bị cấm. Năm 1877, Chính phủ Nhật Bản tuyên bố Hokkaido là "terra nullius" (một thuật ngữ Lamă cổ đại, có thể dịch là “đât vô chủ”) và tiến hành phân phối đất đai cho nông dân Nhật Bản. Năm 1899, chính phủ Nhật Bản thông qua đạo luật gọi người Ainu là thổ dân cũ với ư tưởng sẽ đồng hóa họ với người Nhật. Cũng vào thời điểm này, người Ainu được trao quyền công dân Nhật Bản, điều đó đồng nghĩa với việc phủ nhận họ là người bản địa. Mặt khác, khi đă là công dân Nhật, người Ainu buộc phải đổi sang dùng tên Nhật, bị cấm sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ và không được thực hành văn hóa theo truyền thống. Từ chỗ là một nhóm người sống tách biệt, đến khoảng giữa thế kỷ XX, người Ainu gần như hoàn toàn bị đồng hóa về lănh thổ, ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục với người Nhật Bản. Suốt một thời gian dài, tại Nhật Bản, người Ainu thường được coi như đối tượng của lịch sử nhiều hơn là một nhân tố chủ động trong hiện tại và tương lai. Thậm chí, vào năm 1986, Thủ tướng Nakasone đă tuyên bố rằng, tại Nhật Bản "không có dân tộc thiểu số".
Tuy nhiên, người Ainu không cam chịu và ngay từ thời Minh Trị, họ đă thường xuyên có sự phản kháng. Năm 1930, Hiệp hội Ainu Hokkaido được thành lập. Trong những năm 1950 và 1960, các tổ chức dân quyền trong và ngoài Nhật Bản đẩy mạnh việc tuyên truyền/quảng bá về người Ainu. Năm 1982, Đại hội Hiệp hội Ainu Hokkaido khẳng định quyền cư trú của người Ainu trong vùng lănh thổ phía Bắc trước đây và Hokkaido; đồng thời thông qua một nghị quyết kêu gọi băi bỏ Đạo luật về người Ainu năm 1899 và ban hành một đạo luật mới nhằm bảo vệ cộng đồng bản địa. Năm 1984, Hiệp hội Ainu Hokkaido đă khởi thảo và đề xuất một đạo luật mới (Ainu Shinpo), kêu gọi chính phủ thừa nhận sự tồn tại của người Ainu với tư cách là một cộng đồng dân tộc thiểu số bản địa. Cụ thể, Ainu Shinpo đ̣i hỏi: i) Bảo vệ các quyền con người cơ bản của người Ainu; ii) Phân bổ số ghế trong cơ quan lập pháp dựa trên sắc tộc; iii) Thúc đẩy giáo dục và văn hóa của người Ainu; iv) Hỗ trợ cho sự ổn định của nền kinh tế và các ngành công nghiệp của họ; v) Tạo ra một quỹ hỗ trợ tự trị dân tộc; và vi) Lập cơ quan tư vấn về chính sách dân tộc. Tuyên bố của Thủ tướng Nakasone năm 1986 đă gây nên sự phẫn nộ dẫn đến nhiều hoạt động phản kháng mạnh mẽ của người Ainu. Từ năm 1987, người Ainu bắt đầu có các đại diện làm việc trong các tổ chức của Liên hợp quốc về dân tộc bản địa. Năm 1992, Giichi Nomura, Giám đốc điều hành của Hiệp hội Ainu Hokkaido - đại diện cho người dân bản địa Nhật Bản - đă có bài phát biểu tại lễ khai mạc "Năm quốc tế về dân tộc bản địa "của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Trước sức ép của cộng đồng quốc tế và đ̣i hỏi của người dân trong nước, năm 1997 quốc hội Nhật Bản thông qua Luật Khuyến khích văn hóa Ainu. Tuy vậy, măi đến tháng 6/2008, Nghị viện Nhật Bản mới ra Nghị quyết kêu gọi Chính phủ công nhận Ainu là một dân tộc bản địa, với đầy đủ các quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, xă hội và văn hóa.
Sau khi Luật khuyến khích văn hóa Ainu được ban hành (1997), với sự hỗ trợ của Liên hợp quốc, Chính phủ và người dân Ainu đă có nhiều hoạt động như thành lập Quỹ Nghiên cứu và xúc tiến văn hóa Ainu, đề xuất "Kế hoạch cơ bản nhằm tái tạo không gian sống truyền thống",… Tuy nhiên, các kế hoạch hoạt động của những người Ainu cũng gặp nhiều trở ngại, cả trên phương diện lư luận cũng như trong thực tiễn. Việc tái tạo không gian sống truyền thống dường như rất khó thực hiện, khi mà t́nh h́nh sở hữu đất đai đă thay đổi nhiều trong hơn 100 năm qua. Tháng 7 năm 2006, Chính phủ Nhật Bản đă tổ chức một cuộc hội nghị quốc gia để bàn về các biện pháp để thúc đẩy văn hóa Ainu và các vấn đề khác được đặt xung quanh các khái niệm trong "Kế hoạch cơ bản nhằm tái tạo không gian sống truyền thống". Sau khi có Nghị quyết của Nghị viện kêu gọi công nhận Ainu là dân tộc thiểu số bản địa (2008), Chính phủ Nhật Bản đă thành lập Hội đồng tư vấn nhằm thiết lập hệ thống chính sách toàn diện đối với người Ainu. Sau một năm hoạt động, những kết quả đầu tiên của Hội đồng này đă được đưa ra thảo luận tại Hội nghị về chính sách đối với người Ainu (tháng 12/2009). Cũng từ đó, các cơ sở pháp lư cho người Ainu ở Nhật Bản tiếp tục được xây dựng.
Tuy nhiên, tiến tŕnh chính thức thừa nhận người Ainu như một tộc người bản địa cũng kéo dài cả chục năm. Năm 2010, Ủy ban về xóa bỏ phân biệt chủng tộc của Liên hợp quốc đă chỉ trích một số vấn đề liên quan đến các nhóm thiểu số ở Nhật Bản. Nhiều thành viên của Ủy ban, tuy ca ngợi sự công nhận cư dân bản địa của chính phủ đối với người Ainu, nhưng theo họ, t́nh h́nh hiện tại của Burakumin và người dân Okinawa thực sự là những h́nh thức phân biệt chủng tộc. Từ năm 2010 đến năm 2018, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, trong các Báo cáo t́nh h́nh nhân quyền Nhật Bản đă có những cáo buộc quốc gia này về sự phân biệt đối xử của nhà nước và xă hội đối với các nhóm thiểu số (như Burakumin, Trung Quốc, Triều Tiên…). Chỉ măi đến ngày 15/02/2019, Chính phủ Nhật Bản mới công bố dự luật công nhận nhóm dân tộc thiểu số Ainu là người bản xứ. Đến lúc này, tư cách tộc người của Ainu mới chính thức được luật hoá.
Tác giả: Mai Thanh Sơn