Mỗi người Việt Nam ḿnh là một nhà thơ! Nhưng không phải chỉ mấy anh mới biết làm thơ thôi đâu nhe. Mấy em cũng biết làm thơ và làm thơ rất tới!
“Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No. Anh có thương em th́ mua một chiếc đ̣. Để em đi lại mua c̣ gởi thơ” là của mấy em đó thôi!
Đêm cuối năm sầu lưu lạc! Nhớ quê nhà quá đỗi, tui bèn tẩn mẩn đem câu hát ru nầy ra chẻ nhỏ gặm chơi. Tui săm soi từng chữ coi có bớt được chút nào nỗi buồn xa xứ hay không?
Trường Đại học Văn Khoa, môn ‘Ca dao Giảng luận’ Thầy tui, ngày cũ, cho rằng: Thơ truyền khẩu của ông bà ḿnh là Ca dao, (từ Hán Việt). Ca có chương khúc, có vần, có điệu để hát và tấu (đàn ḥa theo). Dao là bài hát ngắn, không có giai điệu, chương khúc.
Nhưng tui hổng có chịu cách cắt nghĩa tréo ngoe như vậy! V́ tui cho đây là lời hát ru của ông bà ḿnh vốn làm ruộng mà đâu có học chữ Hán, chữ Tàu; nên không cần viết theo thể phú, thể tỉ, thể hứng ǵ ráo của mấy ông Tàu.
Lời hát ru đa phần là buồn quá mạng, tất phải có vần có điệu cho nó mùi, cho nó dễ nhớ, dễ thuộc. Câu lúc dài, lúc ngắn. Gieo vần có lúc ở giữa (yêu vận) có lúc ở cuối câu (cước vận); rồi vần với chữ tiếp theo sau là liên vận lên trầm, xuống bổng.
Nhưng tui hổng dám căi; v́ sợ thầy ‘quạu’ đeo cho bài thi của tui hai cái hột vịt!
Cái Răng
‘Chợ Cái Răng xứ hào hoa. Phố lầu hai dăy xinh đà quá xinh. Có trường hát cất rộng thinh. Để khi hứng cảnh thích t́nh xướng ca!”
Cái Răng là cái Cà ràng. Người Thổ (Khmer) ở miệt Xà Tón (Tri Tôn, Châu Đốc) nơi có đất sét tốt, làm cà ràng, nồi, ơ, trách, chất đầy một ghe, chở xuống vùng đất nầy bỏ sỉ cho vựa nó bán. Năm dài chày tháng, cái vùng đất chuyên bán mấy cái ‘cà ràng’ nầy được gọi là Chợ Cái Răng.Xem thêm: Sáng Chủ Nhựt ở quán chú Tửng
Cà ràng h́nh số 8. Một đầu vách lú lên cao, chắn gió, để lửa không tạt ra ngoài để cơm mau chín, canh mau sôi. Tới cái eo thắt lại đủ chỗ đút vô vài ba cây củi. Xong lại ph́nh ra chang bang, đối xứng với cái đầu trên. Trước khi lấy lá dừa khô nhúm lửa, ḿnh cào tro c̣n sót lại ở trên đầu cà ràng xuống; không cho tro rớt ra ngoài.
Nhớ hồi Má tui đi coi vợ cho tui, vô nhà người ta mà Má cứ xăm xăm xuống bếp làm như ở nhà ḿnh vậy. Tui hỏi: “Chi vậy Má?” “Th́ tao coi cái bếp có sạch hông mới cưới nó cho mầy. Chớ cái bếp mà bung thùa cắt cái, mầy cưới về th́ con vợ mầy chỉ biết nấu nước sôi”.
Má tui thiệt là bà già Trầu mà. Nếu em yêu hổng biết nấu cơm canh ǵ ráo th́ tui đi ăn tiệm c̣n ngon hơn nữa, có sao đâu nè?
Ba Láng
Láng là vùng đất thấp. Mùa khô láng đầy bùn nhăo nhẹt khó đi. Mùa nước nổi, láng nước tràn linh láng; xuồng ghe phải vẹt bèo mà đi. Dân cư thưa thớt; chỉ muỗi, đỉa, vắt th́ nhiều. Một Láng đă khổ như vậy th́ Ba Láng ắt phải khổ gấp ba.
Vàm Xáng
C̣n cái Vàm Xáng là ngă ba sông, nơi thằng Tây nó đem xáng vào để đào kinh: Một là dẫn nước ngọt từ sông Hậu vô để rửa phèn cho dân làm ruộng, lập vườn. Hai là đem phù sa sông Hậu bồi đắp cho những vùng đất trũng. Ba là tiện bề đi lại bằng đường thủy. Bốn là chợ búa sẽ mọc lên, buôn bán ́ xèo, kinh tế phát triển.
Kinh Xáng mới đào, Tàu Tây mới chạy. Thương th́ thương đại, Bớ điệu chung t́nh! Con nhạn bay cao khó bắn, Con cá lội dưới ao quỳnh khó câu!’
Xáng chạy bằng hơi nước thoát ra từ nồi ‘súp de’, chụm bằng củi tràm, củi đước sắp sẵn dọc trên bờ nơi xáng đào sắp tới.
Xáng là con quái vật khổng lồ, máy nổ ầm ầm vang xa năm ba cây số. Xáng mạnh tới 350 mă lực với gàu bằng sắt, múc sâu tới 9 thước, được 375 lít, thổi bùn ra xa đến 60 mét.
Mấy thằng Tây làm cai, đứng cao trên xáng, ḥ hét chỉ huy đám ‘cu li’ người Việt. Trong số ‘cu li’ đó cũng có nhà thơ đă đặt ra câu hát ru truyền khẩu buồn nẫu ruột gan là: “Đèn treo dưới Xáng tỏ rạng bờ kinh. Em có thương anh th́ nói cho thiệt t́nh. Đừng để anh lên xuống một ḿnh bơ vơ”
Xà No
Vùng đất tên Xà No (Srok Snor) v́ có nhiều cây điên điển. Đất rộng người thưa, hoang vu chưa có chủ, nên hai thằng Tây Duval và Guéry xin chánh quyền thực dân Pháp cho đào con kinh Xà No. Toàn quyền Lanessan (1891 * 1894) cho đấu thầu ở Paris năm 1893.
Năm 1901 bắt đầu đào kinh Xà No tới tháng 7, năm 1903 là xong. Quân nhạc từ Sài G̣n xuống thổi kèn đồng ṭ le, tí le. Cả bọn gồm Toàn quyền Paul Beau (1902 * 1918), đám quan chức địa phương, thân hào nhân sĩ có máu mặt xúm nhau ăn nhậu, khui sâm banh lốp bốp; lại có cả nhảy đầm.