Áo tứ thân gồm hai mảnh phía trước và một mảnh sau may lại giữa sống lưng, mép nơi hai thân áo được dấu vào phía trong, hai thân trước được buộc lại với nhau để thõng xuống thành hai tà áo ở giữa, nên không cần cài khuy khi mặc. Đi cùng với chiếc áo tứ thân phải có chiếc yếm, khăn mỏ quạ, nón quai thao. Hình ảnh đó được giữ cho đến tận bây giờ ở những 'liền chị' quan họ vùng Kinh Bắc.
" Em là cô gái Bắc Ninh
Em nghiêng vành nón mái đình nghiêng theo!"
Hình thể của áo tứ thân
Áo tứ thân dài từ cổ buông xuống dưới đầu gối chừng 20 cm, dài gần chấm gót. Áo gồm hai vạt, bốn tà, hai vạt trước và một vạt sau. Vạt trước có hai tà tách riêng nhau theo chiều dài, được buộc lại với nhau, thả trước bụng để tạo dáng người thon thả, phía trên không gài khít mà để lộ yếm màu bên trong .Vạt phía sau cũng chia làm hai nhưng khâu vào với nhau hình thành một đường dài gọi là sống áo.Vì ở thời này, khổ vải chỉ có chừng 35–40 cm nên phải can tà lại với nhau để thành một vạt áo . Phần lưng áo thường là màu nâu hoặc nâu non ghép với màu cùng gam. Như vậy vẫn gọi là áo có tứ thân, cổ áo viền 1 – 2 cm . Áo tứ thân không có khuy, và có hai tay áo dài, tay áo bó chặt . Bên trong, người con gái mặc chiếc yếm. Có thể là yếm cổ xây hoặc yếm cánh nhạn xẻ sâu xuống mãi tận dưới. Yếm có màu đậm dành cho các bà đứng tuổi hoặc màu đào màu thắm đỏ dành cho các cô gái trẻ. Màu yếm này làm cho yếm có tên là yếm thắm "bỏ bùa cho sư". Ngoài yếm là chiếc áo cánh mỏng màu trắng tinh. Cô gái lại tết ra ngoài chiếc giây lưng xanh giữ nhẹ sự kết hợp giữa áo cánh ngắn với cạp váy hoặc quần đen. Chiếc giây lưng xanh này còn có một giá trị trang trí về màu sắc. Ngoài cùng là chiếc áo tứ thân buông xuống tha thướt làm cho thân hình cô gái được gọn gàng, thon thả. Thế là đủ bộ để có thể vừa làm việc, vừa tung tẩy, đi đây đi đó.
Áo tứ thân là một trang phục của phụ nữ Miền Bắc Việt Nam. Áo được sử dụng như trang phục hàng ngày đến đầu thế kỷ 20. Ngày nay, áo tứ thân chỉ được mặc trong các dịp lễ hội truyền thống.
Lịch sử hình thành
Cho đến nay, vẫn chưa ai biết rõ được nguồn gốc chính xác của chiếc áo tứ thân . Áo tứ thân xuất hiện vào những năm 1920-1930 thế kỷ 20. Một số di sản khảo cổ tìm thấy hình ảnh của chiếc áo dài tứ thân với hai tà áo thướt tha bay trong gió được tìm thấy trên các hình khắc mặt trống đồng Ngọc Lũ từ cách đây vài nghìn năm.
Theo truyền thuyết kể lại, trong cuộc khởi nghĩa đánh đuổi quân Hán xâm lược ra khỏi bờ cõi đất nước, Hai Bà Trưng đã mặc một chiếc áo dài có 2 tà giáp vàng. Do tôn kính 2 Bà nên phụ nữ Việt tránh mặc áo dài 2 tà mà thay bằng áo tứ thân.
Hình ảnh Hai Bà Trưng ( hình minh họa)
Một cách lý giải khác là do kỹ thuật dệt ngày xưa còn khá thô sơ, chỉ dệt ra loại vải có khổ hẹp (khoảng 40 cm) nên muốn may thành một chiếc áo phải ghép 4 mảnh lại với nhau.
Áo dài giao lãnh (kiểu sơ khai của chiếc áo dài Việt Nam) trước kia khi mặc thường để hai thân trước giao nhau chứ chứ không buộc lại. Để thuận tiện cho công việc đồng áng, buôn bán ... chiếc áo dài giao lãnh dần biến thành chiếc áo tứ thân.
Phụ nữ miền Bắc trong áo tứ thân
Đến khoảng thế kỷ 17-19, những phụ nữ thành thì đã biến tấu kiểu áo tứ thân thành áo ngũ thân để thể hiện đẳng cấp quyền quý và sang trọng của mình.
Hình ảnh áo tứu thân, khăn mỏ quạ và nón quai thao vẫn được các chị quan họ gìn giữ đến bây giờ , biểu trưng cho nền vắn hoa Kinh Bắc lâu đời.
Gần đây, cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, chiếc áo tứ thân đã đi vào ngành thời trang với những thiết kế cách tân, cường điệu vô cùng táo bạo. Một số thiết kế đã được đem đi trình diễn trên đấu trường quốc tế trong các cuộc thi nhan sắc lớn. Nhưng phần lớn những thiết kế cách điệu này đều chưa nhận được sự ủng hộ của công chúng Việt.
Áo tứ thân và nón quai thao
Thường các bà, các cô mặc áo tứ thân và chỉ đội nón quai thao hoặc mang theo trong những dịp lễ, tết, hội hè, hoặc những lúc có công việc nhàn nhã, vui vẻ nhưng cần phải nghiêm chỉnh, lịch sự. Nón thúng quai thao từ lâu đã đi vào ca dao, dân ca, đi vào tiềm thức của người Việt với những câu ca đằm thắm, trữ tình:
Ai làm chiếc nón quai thao
Để anh thương nhớ ra vào khôn nguôi"
Hay:
"Ai làm chiếc nón quai thao
Để cho anh thấy cô nào cũng xinh..."
Đã hơn nửa thế kỷ nay, nón thúng quai thao và những tấm áo mớ ba, mớ bảy đã lùi xa vào dĩ vãng. Làng Triều Khúc chuyên làm quai thao và làng Chuông chuyên làm nón thúng nổi tiếng khi xưa nay đã đổi nghề. Sự thật là đã từ lâu, nón thúng quai thao không còn được ưa chuộng nữa, vì thế chúng ta và cả bạn bè, du khách quốc tế chỉ còn biết đến trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam thời trước, biết đến nón thúng quai thao, đến áo mớ ba, mớ bảy trên các sàn diễn sân khấu, nhất là trên sàn diễn dân ca quan họ Bắc Ninh... Song những trang phục đơn sơ và giản dị rất Việt Nam ấy sẽ không mất đi, chúng đã đi vào tiềm thức của người dân Việt Nam, mãi mãi vẫn là "Hồn dân tộc Việt" .
Tìm hồn thôn quê trong chiếc áo tứ thân
"Nào đâu cái áo tứ thân, cái khăn mỏ quạ cái quần nái đen" - những câu thơ giản dị và mộc mạc về hình ảnh chiếc áo tứ thân đậm đà hồn người con gái truyền thống Việt Nam, khơi gợi nét thôn quê, dân dã của nhà thơ Nguyễn Bính đã trở nên rất quen thuộc với những người dân Việt Nam.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.