Chúng ta vẫn thường kêu gọi,
"Nên pḥng bệnh hơn chữa bệnh", nhưng không biết phải làm như thế nào? Tuy nhiên, Đông y có thế mạnh đặc biệt trong việc bồi bổ sức khỏe cơ thể, giúp pḥng tránh bệnh tương đối có hiệu quả tốt.
Bệnh tim mạch vốn là nguyên nhân gây ra tử vong hàng đầu trên toàn thế giới. Liệu pháp châm cứu, bấm huyệt của Đông y có tác dụng giúp bảo vệ cho tim và giảm nhẹ các triệu chứng xấu gây ra của bệnh tim mạch một cách hiệu quả.
Theo thống kê từ Trung tâm Kiểm soát và Pḥng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), tại Hoa Kỳ cứ 33 giây lại có một người tử vong v́ bệnh tim mạch và hơn 800,000 bệnh nhân tim mạch bị các cơn đau tim xảy ra hàng năm. Bệnh tim mạch đă gây ra hơn 17,3 triệu ca tử vong trên toàn cầu mỗi năm và cho đến năm 2030 có thể sẽ tăng lên hơn 23,6 triệu ca tử vong hàng năm.
Đáng chú ư là có khoảng 1/5 các cơn đau tim xảy ra
"thầm lặng", nghĩa là sự tổn thương ở tim đă phát sinh ra từ lâu nhưng bệnh nhân lại không hề hay biết.
Trị liệu qua huyệt vị
Theo Đông y, kinh mạch là các kênh truyền đi năng lượng của cơ thể con người, có nhiệm vụ vận chuyển khí và huyết đi khắp cơ thể.
Khí và huyết là những chất căn bản cần thiết cho sự sống. Khái niệm
"khí" có thể được hiểu là
"năng lượng sống" hay c̣n gọi là
"sức sống" cấu tạo ra sự sống trong cơ thể.
Cơ thể con người có 12 kinh mạch chính tương ứng với 12 bộ phận nội tạng và các bộ phận này được kết nối với bề mặt của cơ thể qua các đường kinh mạch.
Một số điểm trên kinh mạch có công năng đặc biệt được gọi là
"huyệt vị" hay "huyệt đạo". Kích thích các huyệt tương ứng qua phương pháp châm cứu, xoa bóp truyền thống có thể làm giảm nhẹ những vấn đề ở các tạng phủ tương ứng.
Một cuộc nghiên cứu hồi năm 2019 được công bố trên
Tập san Journal of the American Medical Association (JAMA),
Internal Medicine (Nội khoa của Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ) đă xác nhận sự hiệu quả của phương pháp châm cứu như một liệu pháp hỗ trợ để làm giảm chứng
"đau thắt ngực kinh niên" (CSA).
Các chuyên gia nghiên cứu đă chia các bệnh nhân thành 4 nhóm: nhóm châm cứu tại các huyệt liên quan đến bệnh (DAM), nhóm châm cứu tại các huyệt không liên quan đến bệnh (NAM), nhóm giả châm cứu (SA) và nhóm chờ/không châm cứu (WL).
Sau 16 tuần điều trị bằng phương pháp châm cứu, các tác giả nhận thấy số lần xuất hiện những cơn đau thắt ngực đă giảm đi 7.96 lần ở nhóm DAM, 3.89 ở nhóm NAM, 2.78 ở nhóm SA và 2.33 ở nhóm WL.
7 huyệt vị giúp cho tim khỏe mạnh
Xoa bóp
huyệt Lao cung, Nội quan, Công tôn có tác dụng điều ḥa khí huyết, cải thiện chức năng tim mạch.
1/ Huyệt Lao cung: nằm ở giữa ḷng bàn tay.

(Minh họa)
2/ Huyệt Nội quan: nằm ở giữa hai gân trên mặt trong của cổ tay, dưới gan bàn tay một khoảng bằng 3 lần bề rộng ngón tay.

(Minh họa)
3/ Huyệt Công tôn: nằm ở mặt trong bàn chân, phía sau khớp đốt bàn ngón chân cái 1 inch (2,54 cm)

(Minh họa)
4, 5/ Ấn vào các h
uyệt Trung quản và
Thượng quản trên bụng sẽ có lợi cho tim.

(Minh họa)
6/ Bấm
huyệt Phế nhị trên tai giúp bạn cai nghiện thuốc lá và bảo vệ cho tim mạch.

(Minh họa)
Hút thuốc không những có hại cho phổi và khí quản mà c̣n có hại cho tim và mạch máu. Thường xuyên ấn vào
huyệt Phế nhị có thể làm giảm ham muốn hút thuốc và giúp bỏ thuốc lá.
Huyệt Phế nhị nằm ở 1/3 phía trên của rănh giữa đáy dái tai và lỗ tai.(xem ảnh)
7/ Một huyệt khác trên bàn tay là
huyệt Dương khê, nằm ở chỗ lơm phía sau ngón tay cái.

(Minh họa)
Nếu bạn thường xuyên bị hụt hơi khi đi bộ hoặc khó thở khi leo cầu thang, day bấm
huyệt Dương khê có thể giúp bạn thở được sâu hơn, gia tăng trao đổi ôxy trong phổi, điều ḥa nhịp tim và thậm chí giúp hạ huyết áp.
Cách thức day bấm huyệt vị: Chỉ cần day bấm mổi huyệt nói trên 2-3 lần/ngày, mổi lần từ 2-3 phút là đủ.
Liệu pháp về ẩm thực
Trái tim về bản chất tương ứng với lửa và màu đỏ. V́ vậy, Đông y cho rằng, nên ăn thực phẩm có màu đỏ như
cà chua, đậu đỏ, táo, chà là đỏ, dâu tằm có thể giúp bổ huyết dưỡng tâm.
Đông y dựa trên
Thuyết Ngũ hành, nghĩa là năm yếu tố bao gồm gỗ, lửa, đất, kim loại và nước. Ngũ hành tương ứng với năm bộ phận nội tạng của con người: gan, tim, lá lách, phổi và thận và tương ứng năm màu: xanh lá cây, đỏ, vàng, trắng và đen, đồng thời cũng tương ứng với năm vị: chua, đắng, ngọt, cay và mặn.