Nhà ngoại giao xuất sắc Henry Kissinger qua đời. Sự ra đi của ông gây nhiều b́nh luận đánh giá hoạt động của ông. Nhà b́nh luận chính trị Piotr Tsvetov chia sẻ.
Sứ giả ḥa b́nh hay là tội phạm chiến tranh
Ông Henry Kissinger từng là Cố vấn An ninh Quốc gia và Ngoại trưởng dưới thời các Tổng thống Richard Nixon và Gerald Ford từ năm 1968 đến năm 1976. Giai đoạn lịch sử thế giới này rất nhiều sự kiện: chiến tranh Ả Rập-Israel, chiến tranh Ấn Độ-Pakistan và sự thành lập Bangladesh, thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, kư kết Hiệp định hạn chế vũ khí chiến lược Mỹ-Liên Xô, lật đổ chính phủ xă hội chủ nghĩa Allende ở Chile và tất nhiên là chiến tranh Đông Dương.
Trong tất cả những sự kiện này, nền ngoại giao Mỹ đă hành động dưới sự lănh đạo của Henry Kissinger, dựa trên nguyên tắc phương pháp luận chính của ông ta là duy tŕ sự cân bằng quyền lực, đây là điều đảm bảo sự ổn định quốc tế.
Nhưng việc áp dụng nguyên tắc này vào thực tế đă dẫn tới những quyết định khác nhau, do đó các đánh giá khác nhau về hoạt động của ông Kissinger khi ông ta c̣n sống và sau khi qua đời vẫn c̣n nhiều mâu thuẫn. Ông Kissinger bị chỉ trích v́ hỗ trợ các hoạt động bất hợp pháp của CIA ở Mỹ Latinh, bao gồm cả việc lật đổ Tổng thống đắc cử của Chile Allende, v́ không hành động trong cuộc chiến tranh Ấn Độ-Pakistan năm 1971.
Tuy nhiên, các chuyến đi con thoi giữa Israel và các nước Ả Rập và việc b́nh thường hóa hoạt động được coi là đóng góp của ông Kissinger cho nghệ thuật ngoại giao với Trung Quốc cộng sản và Liên Xô. Và liên quan đến việc kư kết Hiệp định Paris nhằm chấm dứt chiến tranh và lập lại ḥa b́nh ở Việt Nam, chính trị gia Kissinger đă được trao giải Nobel Ḥa b́nh.
Ḥa b́nh và chiến tranh trong kho vũ khí của ông Kissinger
Việc ông Kissinger và Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam Lê Đức Thọ được trao giải Nobel Ḥa b́nh vẫn được đánh giá khác nhau. Ủy ban Nobel đă quyết định trao giải cho hai nhà đàm phán chính đă có nỗ lực đạt được thỏa thuận chấm dứt cuộc chiến đẫm máu, dựa trên thực tế là "sự lựa chọn này sẽ nêu bật mặt tích cực rằng cuộc đàm phán đă dẫn đến thỏa thuận chấm dứt xung đột vũ trang giữa miền Bắc Việt Nam và Hoa Kỳ".
Quyết định như vậy đáng lẽ một lần nữa cần phải nói với nhân loại: ḥa b́nh tốt hơn chiến tranh. Sau đó người ta bắt đầu nói rằng Hiệp định Paris không mang lại ḥa b́nh cuối cùng cho Việt Nam. Vâng, đó là sự thật: chúng ta phải đợi thêm hai năm nữa mới có ḥa b́nh. Nhưng rơ ràng là Hiệp định Paris đă đưa nền ḥa b́nh này đến gần hơn.
Ông Kissinger cùng phe với Richard Nixon, người tham gia cuộc bầu cử tổng thống năm 1968 với cam kết chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Với tư cách là nhà ngoại giao hàng đầu trong chính quyền Nixon, ông Kissinger đă phải làm người dẫn đường hướng tới ḥa b́nh. Ngay sau khi Nixon thắng cử, ông Kissinger đă gặp đại sứ Liên Xô tại Mỹ, Anatoly Dobrynin, và nói rằng tân tổng thống cam kết chấm dứt Chiến tranh ở Việt Nam.
Tuy nhiên, Tổng thống không muốn kết thúc chiến tranh bằng thất bại và Mỹ rút quân khỏi Việt Nam một cách hỗn loạn.
Tổng thống Nixon và ông Kissinger sợ Mỹ sẽ "mất mặt" theo cách này. Hôm nay, tờ Daily Beast nhắc lại:
"Ông Kissinger biết Hoa Kỳ không thể thắng ở Việt Nam, nhưng ngụy tạo việc tiếp tục chiến tranh để nói về một nền ḥa b́nh danh dự".
Để Mỹ không "mất mặt", ông Kissinger "kéo dài" chiến tranh thêm 4 năm nữa. Song song với đàm phán ngoại giao ở Paris, Nhà Trắng tiếp tục sử dụng các biện pháp chiến tranh ở Đông Dương. Năm 1970, quân đội Mỹ xâm lược Campuchia, năm 1971 xâm lược Lào, và mùa xuân hè năm 1972, Mỹ dốc hết sức lực trút vũ khí xuống các đơn vị Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Nhưng hành động quân sự man rợ nhất của Nixon-Kissinger là vụ ném bom Hà Nội và Hải Pḥng cuối tháng 12 năm 1972.
Mục đích các vụ đánh bom này nhằm mục đích buộc các nhà lănh đạo nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa phải đồng ư phương án thỏa thuận của Mỹ. Nhưng nhân dân Việt Nam đă đẩy lùi thành công các đợt tấn công của kẻ thù bằng trận "Điện Biên Phủ trên không" nổi tiếng.
Khác với nhiều chính trị gia, ông Kissinger là người hay hoài nghi. Để đạt được hiệp định đ́nh chiến, ông ta không ngần ngại dùng vũ lực. Khó có thể coi ông ta là sứ giả ḥa b́nh. Kissinger áp dụng phương pháp mà ông ta thấy có hiệu quả, bất chấp những lời chỉ trích: ông ta luôn cho rằng ḿnh đúng trong mọi việc.
Đối với ông Kissinger, quan trọng là kết quả trong tương lai gần chứ không phải trong tương lai xa. Có bằng chứng rơ ràng cho thấy ông Kissinger biết rằng ngay sau khi kư Hiệp định Paris, Cộng sản sẽ tiếp tục tấn công ở miền Nam Việt Nam. Nhưng đối với ông Kissinger và Nixon, điều quan trọng hơn là phải tuyên bố với người dân Mỹ rằng lính Mỹ ở miền Nam Việt Nam đang trở về nhà. Mặc dù ông Kissinger sinh ra ở Đức nhưng ông ta luôn phục vụ lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ.