Trong hai ngày 6 và 9/8/1945, hai quả bom nguyên tử do Mỹ ném xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật Bản không chỉ góp phần kết thúc Thế chiến II tại châu Á mà c̣n mở ra kỷ nguyên hạt nhân đầy hiểm họa.
Đám mây h́nh nấm do bom nguyên tử tạo ra trên bầu trời Hiroshima (trái) và Nagasaki, Nhật Bản vào tháng 8/1045. (Nguồn: Universal History Archive/ Getty)
80 năm sau, thế giới vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi bóng đen của hai vụ nổ đó, cả ở góc độ nhân đạo lẫn an ninh toàn cầu.
Sức tàn phá tạo ra địa ngục
Cuối Thế chiến II, ở phía phe Trục (liên minh quân sự của ba nước Đức, Italy và Nhật Bản), mặc dù Đức quốc xă đă đầu hàng Đồng minh vào tháng 5/1945, Nhật Bản vẫn tiếp tục cuộc chiến.
Vào tháng 7/1945, trên đường đến Đức tham dự Hội nghị Potsdam (từ ngày 17/7-2/8) với các lănh đạo Anh và Liên Xô, Tổng thống Mỹ Harry S. Truman (1884-1972) đă quyết định ném bom Nhật Bản, sử dụng vũ khí hạt nhân được phát triển trong Dự án Manhattan, chương tŕnh nghiên cứu tuyệt mật quy tụ các nhà vật lư hàng đầu thế giới, với chi phí hơn 2 tỷ USD thời đó (tương đương gần 30 tỷ USD hiện nay).
Hội nghị Potsdam đă ra tối hậu thư yêu cầu Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện, nếu không sẽ phải đối mặt với “sự hủy diệt hoàn toàn” nhưng không nêu rơ sẽ sử dụng bom nguyên tử.
Lúc 8h15 sáng ngày 6/8/1945, quả bom nguyên tử mang tên “Little Boy” được thả xuống Hiroshima. Theo Bách khoa toàn thư Britannica, chỉ mất khoảng 45 giây kể từ khi “Little Boy” được thả và phát nổ ở độ cao khoảng 580m, ngay phía trên Bệnh viện Shima ở trung tâm Hiroshima.
Ngay lập tức, sức nóng khủng khiếp từ quả bom đă khiến nhiệt độ mặt đất vượt quá 7.000°C, kèm theo sóng xung kích dữ dội quét sạch mọi thứ. Một đám mây h́nh nấm khổng lồ bốc cao hơn 12 km, có thể nh́n thấy rơ ở khoảng cách gần 640 km. Sức tàn phá của quả bom tương đương 15.000 tấn thuốc nổ TNT.
Theo số liệu của Bảo tàng Ḥa b́nh Hiroshima, trong số 343.000 cư dân thành phố, khoảng 70.000 người đă thiệt mạng ngay tại chỗ. Đến cuối năm 1945, số nạn nhân tử vong đă lên tới khoảng 140.000. Hai phần ba diện tích Hiroshima bị san phẳng. Hơn 90% các ṭa nhà ở trung tâm thành phố bị phá hủy hoặc hư hại nặng. Trung sĩ Bob Caron, xạ thủ trên chiếc máy bay ném bom và là người duy nhất trong phi hành đoàn trực tiếp chứng kiến vụ nổ đă mô tả cảnh tượng như “một cái nh́n thoáng qua địa ngục”.
Ba ngày sau, vào khoảng 11h02 sáng ngày 9/8, quả bom nguyên tử thứ 2 của Mỹ - “Fat Man” - phát nổ ở độ cao khoảng 500m ngay phía trên thung lũng Urakami, Tây Bắc trung tâm Nagasaki. Theo Britannica, vụ nổ có sức công phá tương đương 21.000 tấn thuốc nổ TNT, lập tức cướp đi sinh mạng khoảng 40.000 người. Đến cuối năm 1945, ít nhất 30.000 người nữa tử vong v́ thương tích và nhiễm độc phóng xạ. Dù địa h́nh đồi núi của Nagasaki giúp giảm phần nào thương vong so với ở Hiroshima, thiệt hại vẫn hết sức nghiêm trọng.
Theo số liệu của Bảo tàng Bom nguyên tử Nagasaki, tổng số người thiệt mạng là khoảng 74.000 người. Ngoài thương vong tức th́, hậu quả phóng xạ c̣n kéo dài nhiều năm, như nhiều trẻ em sinh ra bị dị tật, cộng đồng người sống sót sau vụ nổ (Hibakusha) phải đối mặt với kỳ thị, khó khăn trong chăm sóc sức khỏe và tâm lư kéo dài hàng thập kỷ.
Tháng 8/1945, ngay sau khi bom nguyên tử trút xuống Hiroshima và Nagasaki, Hội Chữ thập đỏ Nhật Bản, với sự hỗ trợ của Ủy ban Chữ thập đỏ quốc tế (ICRC), đă tiến hành cứu trợ cho hàng ngh́n người hấp hối và bị thương, song nhu cầu cứu chữa khẩn cấp vượt xa khả năng đáp ứng.
Theo ICRC, h́nh ảnh về thảm họa được Tiến sĩ người Thụy Sỹ Marcel Junod (1904-1961), đại biểu ICRC, đồng thời là bác sĩ nước ngoài đầu tiên có mặt tại Hiroshima để đánh giá tác động của vụ ném bom và hỗ trợ nạn nhân đă ghi lại những kư ức ám ảnh: “Hàng ngh́n người gục xuống chết trên đường phố và trong các khu vườn trung tâm thành phố bị làn sóng nhiệt dữ dội quét qua. Nhiều người khác quằn quại, thân thể bị thiêu rụi tàn bạo... Mọi sinh vật đều hóa đá trong tư thế đau đớn tột cùng”.
Dư luận trái chiều
Cho đến nay, hai vụ ném bom nguyên tử vào Nhật Bản vẫn gây ra những tranh căi trong dư luận Mỹ. Vào tháng 11/1945, Tạp chí Fortune công bố một cuộc thăm ḍ của Ropper cho thấy, 53,5% người Mỹ ủng hộ các vụ ném bom, 22,7% ủng hộ có thêm các cuộc ném bom khác và chỉ có 4,3% số người được hỏi phản đối. Sự ủng hộ ban đầu này giảm dần khi có những báo cáo về mức độ tàn phá ở Nhật Bản.
Theo các kết quả thăm ḍ tương tự của Ropper vào năm 2015 và 2024, tỷ lệ người cho rằng Mỹ không nên sử dụng bất kỳ quả bom nguyên tử nào đă tăng từ 4,3% (1945) lên 14,4% (2015) và 36,7% (2024). Sự ủng hộ của công chúng đối với việc sử dụng hai quả bom, như Mỹ đă làm vào năm 1945, cũng theo xu hướng chung đó, giảm xuống c̣n 28,5% (2015) và 19,4% (2024).
Theo Tổ chức Di sản nguyên tử (Mỹ), trong những thập kỷ sau Thế chiến II, những người theo chủ nghĩa “truyền thống” vẫn cho rằng bom nguyên tử là cần thiết để cứu mạng người Mỹ và ngăn chặn một cuộc xâm lược có thể gây ra nhiều thương vong hơn số người chết do bom nguyên tử gây ra. Họ cho rằng, Tổng thống Truman đă quyết định sử dụng bom nguyên tử để nhanh chóng kết thúc chiến tranh và rằng bom nguyên tử là yếu tố thiết yếu để buộc Nhật Bản đầu hàng.
Tuy nhiên, những người theo chủ nghĩa “xét lại” phản đối việc ném bom và cho rằng, hành vi gây thương vong lớn nhằm vào dân thường là trái đạo đức trong khi về mặt chiến thuật quân sự, đây là điều không cần thiết và không thể biện minh.
Trong cuốn Hiroshima in History: The Myths of Revisionism (Tạm dịch: Hiroshima trong lịch sử: Những huyền thoại của chủ nghĩa xét lại - 2007), nhà sử học người Mỹ Robert James Maddox lập luận rằng, Nhật Bản có thể đă sớm đầu hàng trước khi bị ném bom nguyên tử nếu có những bảo đảm về vai tṛ của Thiên hoàng. Tuy nhiên, Tổng thống Truman và các cố vấn muốn có một cú đ̣n mang tính “chiến lược - chính trị” hơn là thuần quân sự.
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản kiêm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, Đại nguyên soái Joseph Stalin (1878-953) từng thốt lên: “Chiến tranh là điều man rợ, nhưng việc sử dụng bom nguyên tử là sự điên cuồng! Hơn nữa, nó là không cần thiết. Nhật Bản đă cam chịu thất bại rồi”.
Di sản và bài học đắt giá
Từ sau năm 1945, nhiều tổ chức xă hội dân sự như ICRC, Liên đoàn Các nhà khoa học Mỹ (FAS), Hiệp hội các bác sĩ quốc tế pḥng ngừa chiến tranh hạt nhân (IPPNW) và phong trào Giải trừ hạt nhân toàn cầu (ICAN) liên tục vận động phản đối vũ khí hạt nhân và kêu gọi tưởng niệm về thảm họa Hiroshima - Nagasaki.
Là quốc gia duy nhất chịu đựng sự thảm khốc của chiến tranh hạt nhân, năm 1967, Nhật Bản đă lựa chọn con đường phi hạt nhân hóa hoàn toàn. “Chúng tôi cam kết không bao giờ chế tạo, sở hữu hay cho phép triển khai vũ khí hạt nhân trên lănh thổ”, theo chính sách “ba không” mà Thủ tướng Satō Eisaku (1901–1975) công bố.
Hai thành phố Hiroshima và Nagasaki sau chiến tranh đă trở thành biểu tượng ḥa b́nh. Bảo tàng Ḥa b́nh, Công viên tưởng niệm, Tượng đài thiếu nữ Sadako - người gấp 1.000 con hạc giấy với hy vọng được sống - là những địa điểm thu hút hàng triệu người đến thăm mỗi năm.
Trên phạm vi quốc tế, Đại hội đồng Liên hợp quốc đă thông qua Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) vào năm 1968, có hiệu lực từ ngày 5/3/1970, với mục tiêu ngăn ngừa phổ biến vũ khí hạt nhân và thúc đẩy giải trừ hạt nhân. Tính đến năm 2025, NPT có 191 quốc gia tham gia.
Năm 2017, Đại hội đồng Liên hợp quốc tiếp tục thông qua Hiệp ước Cấm vũ khí hạt nhân (TPNW) do ICAN vận động, chính thức có hiệu lực vào tháng 1/2021. Dù chưa có các cường quốc hạt nhân lớn tham gia, Hiệp ước vẫn là bước tiến pháp lư-đạo đức quan trọng. ICAN được trao giải Nobel Ḥa b́nh năm 2017 cho nỗ lực này.
Vào năm 2024, tổ chức Nihon Hidankyo của Nhật Bản, một phong trào cơ sở của Hibakusha, đă được trao Giải Nobel Ḥa b́nh v́ những nỗ lực nhằm đạt được một thế giới không có vũ khí hạt nhân và chứng minh thông qua lời kể của các nhân chứng sống rằng, vũ khí hạt nhân không bao giờ được sử dụng nữa.
Dù cộng đồng quốc tế đă có những nỗ lực để thúc đẩy việc giải trừ vũ khí hạt nhân, tuy nhiên, đến nay vẫn c̣n tồn tại các quốc gia sở hữu thứ vũ khí hủy diệt này. Báo cáo năm 2024 của Viện Nghiên cứu Ḥa b́nh quốc tế Stockholm (SIPRI) cho thấy, hơn 13.000 đầu đạn hạt nhân vẫn đang tồn tại trên thế giới. Nguy cơ xung đột vũ khí hạt nhân chưa bị loại trừ khi các điểm nóng xung đột vũ trang vẫn liên quan các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân và tồn tại ở nhiều nơi trên thế giới.
Trong thông điệp nhân kỷ niệm sự kiện Hiroshima năm 2024, Tổng thư kư Liên hợp quốc Antonio Guterres nhấn mạnh: “Vũ khí hạt nhân cùng mối đe dọa từ việc sử dụng chúng không chỉ tồn tại trong những trang sách lịch sử. Chúng một lần nữa xuất hiện thường xuyên trong diễn ngôn của quan hệ quốc tế hiện đại. Đây là mối nguy hiểm thực sự, hiện hữu và đang đe dọa chúng ta hôm nay”. Theo ông, chiến tranh hạt nhân “không có kẻ thắng”, đó là bài học đẫm máu mà Hiroshima và Nagasaki gửi lại cho toàn nhân loại. Việc duy tŕ kư ức, giáo dục thế hệ sau và cam kết hành động v́ một thế giới không vũ khí hạt nhân là trách nhiệm không chỉ của chính phủ mà của mọi công dân toàn cầu.