Trong cộng đồng người Việt tại Mỹ, chuyện thẻ xanh và thời gian ở lại ngoài nước luôn là nỗi lo âm ỉ. Chỉ cần đi quá 6 tháng, nguy cơ bị xem là “bỏ cư trú” đă hiện hữu. Đi quá một năm, luật gần như mặc định rằng người đó đă không c̣n thường trú nhân. Thế nhưng, thực tế tại sân bay đôi khi lại phức tạp hơn, có khi nghiêm khắc, có khi linh hoạt. Câu chuyện của Quinnie Phan và mẹ là một minh chứng sống động. “Cả nhà ơi cho em hỏi, mẹ em đi Việt Nam hơn 1 năm, giờ muốn quay lại Mỹ mà re-entry permit đă hết hạn 5 tháng. Em sợ lúc nhập cảnh họ không cho vô. Mẹ em có thẻ xanh 10 năm, c̣n hạn 5 năm. Trước kia em nghe có trường hợp được cho vào nhưng phải đóng phí ngay tại sân bay. Em thật sự lo quá, không biết giờ có c̣n được vậy không?”
Hoàn cảnh đặc biệt
Mẹ của Quinnie vốn mắc ung thư giai đoạn 4, nhiều tháng liệt giường không thể đi lại. Măi đến gần đây sức khỏe mới khá hơn nên bà mới có thể trở về Mỹ để tiếp tục điều trị. Chính v́ lư do này mà thời gian ở Việt Nam kéo dài hơn dự kiến, vượt quá hạn cho phép.
Ư kiến từ cộng đồng
Nỗi lo lắng của Quinnie nhận được nhiều ư kiến chia sẻ: Có người nhắc: “Đi quá 6 tháng th́ thẻ xanh có nguy cơ bị xem là không c̣n hiệu lực. Hải quan có thể yêu cầu giải tŕnh, thậm chí buộc kư mẫu I-407 (từ bỏ thẻ xanh).” Một số khác cho rằng mẹ Quinnie có thể bị buộc đóng phí I-193 (waiver of document requirement), hoặc phải nộp hồ sơ SB-1 (Returning Resident Visa). Nhiều lời khuyên thực tế: nên chuẩn bị giấy tờ y tế chứng minh lư do ở lại lâu, kèm bằng chứng cư trú tại Mỹ (thuế, nhà cửa, tài khoản ngân hàng, bằng lái xe, bảo hiểm…). Cũng có người bi quan: “Đi quá 1 năm th́ coi như mất thẻ xanh, phải bảo lănh lại từ đầu.” Một số b́nh luận nhắc đến việc lệ phí có thể lên tới $695 nếu bị yêu cầu. Bên cạnh đó, có nhiều người chia sẻ kinh nghiệm cá nhân, cho biết từng có thân nhân về Mỹ sau 9–10 tháng mà không gặp khó khăn. Tuy nhiên, quá 1 năm th́ rủi ro rất lớn.
Người đứng ra giúp đỡ
Trong lúc bối rối, Quinnie t́m được sự hỗ trợ từ anh Martino Trịnh Ngọc Dũng – người chuyên xử lư những hồ sơ khó. Anh nhận toàn bộ giấy tờ, hướng dẫn thủ tục, và lo liệu cả quá tŕnh từ Việt Nam cho tới khi đặt chân xuống sân bay Mỹ.
Kết quả cuối cùng
Sau nhiều ngày chờ đợi, tin vui đến:
“Update cho cả nhà biết: Mẹ em đă qua lại Mỹ an toàn rồi ạ! Tất cả nhờ anh Martin Martino Trịnh Ngọc Dũng. Ban đầu em lo lắm, v́ mọi người khuyên phải làm SB-1, nhưng cuối cùng mẹ em vẫn được nhập cảnh. Em mừng lắm. Gia đ́nh em cảm ơn anh Dũng rất nhiều. Hy vọng câu chuyện này sẽ giúp những ai ở hoàn cảnh giống ḿnh t́m đúng hướng, đúng người để được hỗ trợ.”
Mẹ của Quinnie có thẻ xanh 10 năm, c̣n hạn đến năm 2030. Nhưng v́ bệnh ung thư giai đoạn 4, bà buộc phải ở lại Việt Nam điều trị hơn 1 năm. Giấy phép tái nhập cảnh (re-entry permit) cũng đă hết hạn 5 tháng.
Trong mắt luật di trú Mỹ, đây là t́nh huống “rất rủi ro”:
Theo quy định CBP (Customs and Border Protection): Nếu thường trú nhân rời Mỹ quá 180 ngày, khi trở lại có thể bị xem xét kỹ lưỡng.
Nếu đi quá 1 năm mà không có re-entry permit, th́ về mặt luật, thẻ xanh mặc nhiên không c̣n hiệu lực để nhập cảnh.
Những công cụ pháp lư ở cửa khẩu, có ba loại giấy tờ/biểu mẫu thường xuất hiện trong t́nh huống này:
Form I-407 – Record of Abandonment of Lawful Permanent Resident Status: Nếu CBP tin rằng thường trú nhân đă bỏ Mỹ, họ có thể yêu cầu kư vào mẫu này để chính thức từ bỏ thẻ xanh. Nhiều người, trong lúc hoảng loạn, đă lỡ kư và mất luôn tư cách thường trú.
Form I-193 – Application for Waiver of Passport and/or Visa: Đây là “lối thoát” t́nh huống. CBP có thể chấp nhận cho nhập cảnh nếu người đó nộp đơn xin miễn trừ giấy tờ và đóng lệ phí (khoảng $695). Thực chất, đây là cách “mua lại” một cơ hội nhập cảnh, nhưng không phải lúc nào cũng được chấp thuận.
Returning Resident Visa (SB-1): Nếu ở ngoài Mỹ quá lâu và không c̣n giấy tờ hợp lệ, cách chuẩn mực nhất là nộp đơn xin thị thực SB-1 tại Lănh sự. Nhưng quy tŕnh này kéo dài nhiều tháng và đ̣i hỏi bằng chứng cư trú, tài chính, và lư do chính đáng.
Thực tế tại sân bay: quyết định trong tay sĩ quan CBP
Điều ít ai biết là quyền quyết định cuối cùng thuộc về viên chức CBP tại sân bay. Họ có thể: Cho phép nhập cảnh với cảnh báo. Yêu cầu đóng phí I-193. Yêu cầu kư I-407 từ bỏ thẻ xanh. Hoặc cho vào một lần cuối, kèm lệnh phải nộp SB-1 nếu rời Mỹ nữa. Theo luật, sĩ quan có quyền “tùy nghi” dựa trên bằng chứng cư trú, t́nh trạng sức khỏe, và thái độ giải tŕnh. V́ vậy, không có công thức chung cho tất cả.
Trong lúc bối rối, Quinnie t́m đến sự giúp đỡ của anh Martino Trịnh Ngọc Dũng, một người chuyên xử lư những hồ sơ khó. Anh lo toàn bộ giấy tờ, từ chuẩn bị hồ sơ bệnh án, bằng chứng cư trú tại Mỹ, cho đến hướng dẫn trả lời khi gặp CBP. Kết quả: mẹ của Quinnie đă được nhập cảnh an toàn mà không phải trải qua SB-1. Đây là cái kết hiếm hoi, bởi với nhiều người khác, cánh cửa đă khép lại ngay khi bước xuống sân bay.
Câu chuyện này để lại nhiều kinh nghiệm quư:
Đừng coi thường mốc 6 tháng: đi quá 180 ngày đă có thể bị tra hỏi gắt gao.
Quá 1 năm = nguy hiểm thật sự: luật mặc định thẻ xanh hết hiệu lực. Cơ hội vào lại tùy thuộc vào sự thuyết phục tại sân bay.
Chuẩn bị hồ sơ đầy đủ: thuế, giấy tờ nhà cửa, ngân hàng, bằng lái xe, bảo hiểm, và đặc biệt giấy chứng nhận bệnh tật.
Không bao giờ kư I-407 trong hoảng loạn: kư là mất thẻ xanh ngay lập tức.
Sẵn sàng đóng I-193: coi như “phí chuộc” để được nhập cảnh, nhưng không phải sân bay nào cũng cho.
Nếu bị buộc SB-1: nên chuẩn bị tinh thần hồ sơ kéo dài nhiều tháng.
Luật di trú Mỹ nghiêm khắc, nhưng thực thi tại cửa khẩu có khoảng linh hoạt.
Trong những hoàn cảnh nhân đạo, đặc biệt là bệnh tật, vẫn có cơ hội trở lại nếu biết cách chuẩn bị.
Và quan trọng nhất: đừng chờ tới lúc nguy cấp mới lo giấy tờ.