Có những người không thích Toán cho mấy, nên đă phán rằng Toán Học là khô khan, v́ những đẳng thức, phương tŕnh gồm toàn những kư hiệu cộng trừ nhân chia…, thậm chí có cả những kư hiệu ” , $ …, cùng những số và chữ cái a, b, c, x, y, z, a, b, d, e, l, m …; ngoài ra có những danh từ kỹ thuật, nếu không học Toán, th́ không biết đến, như “Nhóm”, “Ṿng”, “Thân”, “Không gian vectơ”, “Độc lập tuyến tính”… Có lẽ v́ vậy mà những người yêu Toán lại đặt ra những bài thơ nhí nhảnh để giới thiệu những bài toán vui, hay để tỏ con tim của họ cũng rung động “không biết mấy chu kỳ” trước một sắc đẹp, trước một bài văn hay, trước một câu thơ tuyệt tác…
Những bài Toán Thơ, Thơ Toán trong dân gian và những tác phẩm của những người yêu Toán đă chứng minh điều đó.
Thơ Toán trong dân gian, cũng như Ca Dao, Tục Ngữ là những bài, những câu thơ tuyệt tác, khó mà trau chuốt lại được, nếu không muốn mất đi tính chất b́nh dân và độc đáo của chúng. Cũng như Ca Dao, Tục Ngữ, Thơ Toán B́nh Dân đă trải qua thời gian, từ thế hệ nầy qua thế hệ khác; đă trải qua không gian, từ miền nầy qua miền khác, nên đă được dân gian sửa chữa để biến thành kiệt tác bất hủ mà truyền lại cho đời sau. V́ vậy Thơ Toán cũng như Ca Dao, Tục Ngữ không có tác giả, mà tác giả là toàn thể đại chúng của các thế hệ trước.
Chúng ta hăy nghe một câu Đố Ca Dao:
Mặt em phương tượng chữ điền,
Da em th́ trắng, áo đen mặc ngoài.
Ḷng em có đất, có trời,
Có câu nhân nghĩa, có lời hiếu trung.
Dù khi quân tử có dùng,
Th́ em sẽ ngỏ tấm ḷng cho xem.
Tục Ngữ – Phong Dao. Nguyễn Văn Ngọc.
(Mặc Lâm. Yiễm Yiễm Thư Quán. Sàig̣n 1967)
(Đáp: Cuốn Sách).
Và một bài thơ Toán Dân Gian, cũng là một câu Đố Ca Dao nhí nhảnh:
Yêu nhau cau sáu bổ ba,
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.
Mỗi người một miếng trăm người,
Có mười bảy quả hỏi người ghét yêu.
Nguyễn Trọng Báu
(Giai thoại chữ và nghĩa)
(Ư bài toán: Có tất cả 17 quả cau được chia ra làm hai phần. Mỗi quả trong phần thứ nhất được bổ ra làm 3 miếng. Mỗi quả trong phần thứ hai được bổ ra làm 10 miếng. Có tất cả 100 người, mỗi người chỉ ăn một miếng. Hỏi có mấy người ăn được cau bổ ba, mấy người ăn được cau bổ mười.)
(Đáp: 30 người ăn cau bổ ba, 70 người ăn cau bổ mười).
Trong bài viết nầy, tôi chỉ cho đáp số, mà không cho lời giải, cách giải, v́ thấy nó vô duyên, không hợp với đề tài chính là Thơ Toán trong Dân Gian. Mặt khác, một số lớn độc giả đă không sử dụng Toán Học cả hàng chục năm và cũng có một số độc giả không theo đuổi Toán học, v́ vậy mà tôi không muốn buộc độc giả vào những kỹ thuật Toán Học vô ích. Vả chăng, muốn giải những bài Thơ Toán trong bài viết nầy, chỉ cần có tŕnh độ Trung học.
Chúng ta tiếp tục với những bài Thơ Toán Dân Gian tinh nghịch, trào lộng và đôi khi cả trử t́nh…
Một câu Ca Dao nói một chàng trai tỏ t́nh. Lời rất bâng quơ, hư hư thực thực:
Đường đi th́ thật là xa,
Mượn ḿnh làm mối cho ta một người.
Một người mười tám đôi mươi,
Một người vừa đẹp, vừa tươi như ḿnh…
Nếu cô nàng ưng ư, th́ e lệ thưa:
Anh đà có vợ con chưa?
Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào.
Mẹ già anh ở nơi nao?
Để em t́m vào hầu hạ thay anh.
Chẳng tham nhà ngói rung rinh,
Tham về một nỗi anh xinh miệng cười.
Miệng cười anh đáng mấy mươi,
Chân đi đáng nén, miệng cười đáng trăm…
Nhưng nếu cô nàng không vừa ư, th́ đanh đá, giễu cợt để tỏ khéo sự từ chối của ḿnh:
Bao giờ cho chuối có cành,
Cho sung có nụ, cho hành có hoa (1).
Bao giờ chạch đẻ ngọn đa,
Sáo đẻ dưới nước th́ ta theo ḿnh…
Văn Học Việt Nam. Phạm Văn Diêu.
(Tân Việt Sàig̣n 1960).
(1) Thật ra, cây hành để già th́ có hoa.
Hay cô nàng có thể cắc cớ, ra một bài Thơ Toán:
Em là con gái nhà nghèo,
Mẹ cha chết hết, nằm queo một ḿnh.
Nhà em vách lá lợp mành,
Trời mưa nhà dột, ướt ḿnh loi ngoi.
Láng giềng có kẻ sang chơi,
Thương t́nh mới rủ mọi người giúp không.
Xây lầu, hồ nước, vườn bông,
Muối dưa sá quản miễn ḷng thảo thơm.
Ba người ăn một bát cơm,
Bốn người ăn đĩa mắm thơm muối cà.
Bát đĩa em đă dọn ra,
Ba trăm một cái, làm nhà mấy ông?
Tiếng chàng ăn học đă thông,
Nếu mà đáp trúng, em xin… theo không chàng về.
Kiến Thức Ngày Nay. 1997.
Bài Toán Dân Gian rất hay về mặt văn chương, cũng như về mặt ư thức, không kém câu Ca Dao trên. Bài rất nhí nhảnh buộc người muốn giải phải suy nghĩ nhiều.
(Ư bài toán: Có một số người xây nhà. Cứ ba người ăn một bát cơm và cứ bốn người ăn một đĩa mắm. Số bát đĩa cả thảy là 301 cái. Hỏi có tất cả mấy người xây nhà).
(Đáp: 516 người).
Một câu Đố Ca Dao:
Hai anh mà ở hai buồng,
Không ai hỏi đến, ra tuồng cấm cung.
Đêm thời đóng cửa gài chông,
Ngày thời mở cửa lại trông ra ngoài.
Tục Ngữ – Phong Dao. Nguyễn Văn Ngọc
(Mặc Lâm. Yiễm Yiễm Thư Quán. Sàig̣n 1967)
(Đáp: Hai con mắt).
Một câu Thơ Toán:
Vừa gà vừa chó,
Bó lại cho tṛn.
Ba mươi sáu con,
Một trăm chân chẵn.
Bạn bè trao cho nhau lúc học Trung học tại Huế.
(Ư bài toán: Gà và chó có tất cả 36 con. Nếu đếm chân gà lẫn chân chó, th́ có tất cả là 100 cái. Hỏi có mấy con chó và mấy con gà).
(Đáp: 14 con chó và 22 con gà).
Hay:
Trâu đứng ăn năm.
Trâu nằm ăn ba.
Lụm khụm trâu già,
Ba con một bó.
Trăm trâu ăn cỏ.
Trăm bó no nê.
Hỏi đến giảng đề,
Ngô nghê như điếc.
Bạn bè trao cho nhau lúc học Trung học tại Huế.
Bài toán không khó. 3 ẩn số phải có 3 điều kiện độc lập. Phần nhiều 3 điều kiện độc lập được dựng bởi 3 phương tŕnh độc lập. Cái “Ngô nghê như điếc” ở đây là chỉ có 2 điều độc lập có thể dựng bởi 2 phương tŕnh độc lập, c̣n điều kiện thứ ba không phải là một phương tŕnh mà là số nguyên dương mà nhiều người không để ư đến.
(Ư bài toán: Có một trăm con trâu ăn hết một trăm bó cỏ. Mỗi con trâu đứng ăn đưọc năm bó. Mỗi con trâu nằm ăn được ba bó và ba con trâu già th́ chia nhau chỉ ăn đưọc một bó. Hỏi có bao nhiêu con trâu đứng, bao nhiêu con trâu nằm và bao nhiêu con trâu già).
(Đáp: 4 trâu đứng, 18 trâu nằm, 78 trâu già; hay 8 trâu đứng, 11 trâu nằm, 81 trâu già; hay 12 trâu đứng, 4 trâu nằm, 84 trâu già).
Hay:
Mùa xuân nghe tiếng trống th́ thùng,
Người ùa vây kín cả đ́nh đông.
Tranh nhau đánh đấm đ̣i mâm lớn,
Tiên chỉ ḥ la để chỗ ông.
Bốn người một cỗ thừa một cỗ,
Ba người một cỗ bốn người không.
Ngoài đ́nh chè chén bao người nhỉ,
Tính thử xem rằng có mấy ông?
Nguyễn Trọng Báu
(Giai thoại chữ và nghĩa).
(Ư bài toán: Đề bài thơ đă rơ).
(Đáp: 40 người).
Đôi khi c̣n có Thơ Toán Dân Gian bằng chữ Hán, như giai thoại sứ Việt giải toán vua Trung Quốc:
一隻一隻又一隻
三四,五六,七八隻
鳳凰何少鳥何多
食盡人間千萬石
Nhất chích, nhất chích hựu nhất chích
Tam tứ, ngũ lục, thất bát chích
Phượng hoàng hà thiểu, điểu hà đa
Thực tận nhân gian thiên vạn thạch.
Một con, một con, lại một con
Ba bốn, năm sáu, bảy tám con
Phượng Hoàng sao ít, Sẻ sao nhiều
Ăn của nhân gian ngh́n vạn hộc.
Nguyễn Trọng Báu
(Giai thoại chữ và nghĩa).
(Ư bài toán: Có một bức tranh thêu 100 chim Sẻ và một con Phượng Hoàng. Vua Trung Quốc truyền Sứ Việt đặt toán ra mà tính cho được số 100 chim Sẻ và 1 Phượng Hoàng).
(Đáp: 1 + 1 + 1 = 3; (3 x 4) + (5 x 6) + (7 x 8 ) = 98; 3 + 98 = 101; 100 chim Sẻ và 1 Phượng Hoàng).
Hay bài giai thoại ” Điểm Binh của Tôn Tử “:
三人同行七十嬉
五樹梅花廿一枝
七子桃園秋半月
共除百零五定為其
Tam nhân đồng hành thất thập hy,
Ngũ thụ mai hoa trấp nhất chi,
Thất tử đào viên thu bán nguyệt,
Cọng (cộng) trừ bách linh ngũ, định vi kỳ.
Tạm dịch:
Ba người cùng đi đường, th́ vui gấp bảy mươi lần,
Năm cây hoa Mai có hai mươi mốt nhánh,
Bảy chàng dạo chơi vườn Đào vào giữa tháng của mùa Thu,
Thêm hay bớt một trăm lẻ năm để định đáp số.
Bạn bè trao cho nhau lúc học Trung học tại Huế.
Tôi để hai chữ “Tôn Tử” trong dấu ngoặc kép, v́ tôi không có tài liệu nào trong tay để quyết đoán bài thơ “Điểm Binh” trên là của Tôn Tử.
(Ư bài nầy là “Tôn Tử” biết chừng chừng số binh của ḿnh. Muốn biết số binh chính xác, th́:
– Làm dấu hiệu thứ nhất – như phất một lần cây cờ – th́ cứ 3 người lính đứng lại thành một nhóm, số lính c̣n lại không lập được một nhóm là 0, 1 hoặc 2 người ; số nầy sẽ nhân với 70.
– Làm dấu hiệu thứ hai, th́ cứ 5 người lính đứng lại thành một nhóm, số lính c̣n lại không lập được một nhóm là 0, 1, 2, 3 hoặc 4 người ; số nầy sẽ nhân cho 21.
– Làm dấu hiệu thứ ba, th́ cứ 7 người lính đứng lại thành một nhóm, số lính c̣n lại không lập được một nhóm là 0, 1, 2, 3, 4, 5 hoặc 6 người ; số nầy sẽ nhân cho 15.