Từ thời xa xưa, ngôn ngữ Việt Nam đă rất đa dạng, phong phú. Nhất là những chữ cổ bởi chúng có thể diễn tả sâu sắc nội tâm của con người, diễn tả chi tiết về sự vật, hiện tượng… Cho đến ngày nay, chúng vẫn tồn tại nhưng lại thường bị mất nghĩa hoặc bị hiểu sai.
Dưới đây là một số chữ cổ tưởng chừng vô nghĩa nhưng lại có ư nghĩa rất bất ngờ và thú vị.
* YÊU DẤU
Chúng ta vẫn thường nói: “Em yêu dấu.” “Yêu” th́ hiểu rồi, nhưng “dấu” nghĩa là ǵ?
“Dấu” là một chữ cổ, sách “Đại Nam quốc âm tự vị” của Huỳnh Tịnh Của giảng: “Dấu” nghĩa là “yêu mến.” “Từ điển Việt-Bồ-La” của Alexandre de Rhodes (1651) cũng giải thích “Dấu” là một chữ cổ để chỉ sự thương yêu. Ông cho ví dụ: Thuốc dấu là “bùa để làm cho yêu.”
Tục ngữ Việt Nam nói “Con vua vua dấu, con chúa chúa yêu,” c̣n Hồ Xuân Hương trong bài thơ “Cái quạt giấy” (bài hai) th́ viết “Chúa dấu vua yêu một cái này.” Có thể thấy, “Dấu” và “Yêu” là hai chữ có ư nghĩa tương đương, ngày xưa dùng hai chữ độc lập, nhưng bây giờ ta có thể thấy chữ “yêu” vẫn c̣n được viết hay nói một ḿnh, c̣n chữ “dấu” th́ không ai dùng một ḿnh nữa. Giờ đây, thay v́ “Anh yêu em” mà nói “Anh dấu em” th́ không khéo lại bị hỏi là “Anh giấu cái ǵ?”
* CHỢ BÚA
Trong chữ “chợ búa” th́ “búa” có nghĩa là ǵ?
“Búa” trong “chợ búa” chắc chắn không liên quan đến cái búa để đốn cây rồi. Tuy c̣n nhiều ư kiến khác nhau, nhưng ư kiến được xem là vững chắc nhất th́ cho rằng “búa” là âm xưa của chữ [铺], âm Hán Việt hiện đại là của chữ này là “phố,” nghĩa là cửa hàng, là nơi buôn bán. Chợ búa nói chung là nơi người ta tụ tập mua bán.
“Búa” trong tiếng Việt hiện đại đă dần mất nghĩa và không dùng độc lập, nhưng nếu nói nó vô nghĩa th́ không đúng. Tiếng Việt có rất nhiều chữ cổ bị mất nghĩa khi đứng một ḿnh, nhưng chúng không vô nghĩa.
* GẬY GỘC
Người ta nói “gậy gộc.” “Gậy” th́ hiểu rồi, c̣n “gộc”?
“Gộc” là chữ mà hiện nay đă không c̣n nghĩa độc lập. Tiếng Hán, “gộc” là chữ này [㭲]. Sách “Đại Nam quốc âm tự vị” của Huỳnh Tịnh Của giảng: “Gộc” là “cây củi có khúc đẩn (?) mà lớn” và cho ví dụ “ông gộc” là người già cả hơn hết hoặc làm lớn hơn hết trong một xứ. Cũng có tài liệu giảng “gộc” là “đoạn gốc của cây tre, cây vầu” hay có nghĩa là “to lớn.”
Theo đó, “gậy gộc” nghĩa là những cây gậy lớn, thường dùng để đánh nhau.
* HỎI HAN
Ḿnh hay nói “hỏi han” nhau. “Hỏi” th́ rơ nghĩa rồi, vậy “han” có nghĩa không?
Tương tự như “gậy gộc,” “hỏi han” không phải là chữ láy mà là chữ ghép đẳng lập, trong đó cả “hỏi” và “han” đều có nghĩa.
“Đại Nam quốc âm tự vị” của Huỳnh Tịnh Của giải thích: “Han” nghĩa là “hỏi tới,” “nói tới.” Theo đó, “hỏi han” nghĩa là hỏi một việc ǵ đó, hỏi tới hay nói tới một việc nào đó.
Truyện Kiều của Nguyễn Du dùng “han” như một chữ độc lập, không dính đến chữ “hỏi,” trong câu:
“Trước xe lơi lả han chào
Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi.”
(Phần Kiều rơi vào tay Tú Bà và Mă Giám Sinh).
“Han chào” chính là chào hỏi.
* TO TÁT, TUỔI TÁC
Khi ḿnh nói về một chuyện ǵ đó “to tát” th́ “tát” có nghĩa là ǵ?
“To tát” không phải là chữ láy mà là chữ ghép, cả “to” và “tát” đều có nghĩa. Tuy nhiên, “tát” ở đây là một minh chứng cho hiện tượng dùng sai nhiều th́ thành đúng trong ngôn ngữ. “Tát” đúng ra phải dùng là “tác.”
“Tác” nghĩa là lớn, ta thường gặp qua chữ “tuổi tác.” Khi nói “tuổi tác” th́ đă mang nghĩa lớn tuổi, già rồi. Tuy nhiên, ngày nay ḿnh hay nói “tuổi tác đă lớn,” cách nói này xét về nguồn gốc th́ không đúng, bị lặp chữ.
Do trong quá tŕnh sử dụng đă có nhiều biến chuyển, nên “tuổi tác” thường dùng để chỉ tuổi. Thậm chí tuổi c̣n nhỏ cũng dùng “tuổi tác.” Ví dụ: “Tuổi tác c̣n nhỏ,” “tuổi tác mới có bây lớn,”…
Riêng chữ “to tác” để chỉ cái ǵ đó lớn th́ đă dùng thành “to tát.” Tuy nhiên, để viết đúng chính tả tiếng Việt hiện đại th́ ḿnh vẫn cứ dùng “to tát.”
* CẦN CÙ
Có câu, “cần cù bù thông minh.” “Cần cù” là chữ láy hay chữ ghép? “Cù” có nghĩa ǵ không?
“Cần cù” là chữ ghép, cả “cần” và “cù” đều có nghĩa. Đây là chữ gốc Hán, viết là 勤劬. “Cần” là siêng năng chăm chỉ, “cù” là khó nhọc, vất vả.
Chữ “cù” này c̣n xuất hiện trong chữ “cù lao” (劬劳) chỉ công ơn cha mẹ (thường nói chín chữ cù lao).
Truyện Kiều có câu:
“Duyên hội ngộ, đức cù lao
Bên t́nh bên hiếu bên nào nặng hơn.”
Không nên nhầm lẫn chữ “cù lao” này với chữ “cù lao” chỉ cồn đất/cát nổi lên giữa sông do phù sa bồi lắng.
* BẾP NÚC
– “Bếp” là nơi nấu ăn;
– “Núc” là “đồ đắp bằng đất thường làm ra ba ḥn, có thể bắc nồi nấu ăn,” cho nên có thể hiểu núc chính là ông Táo. (theo “Đại Nam quốc âm tự vị,” Huỳnh Tịnh Của).
* THÊU THÙA
“Thêu thùa” là chữ ghép tổ hợp (hay ghép đẳng lập), trong đó cả thêu và thùa đều có nghĩa:
– “Thêu” là dùng chỉ màu đính lên bề mặt vải làm ra hoa văn;
– “Thùa” là kết chỉ thêm, làm cho đẹp thêm.
Về cơ bản th́” thêu” và “thùa” giống nhau, đều là hành động thêm hoa văn trang trí trên vải vóc cho đẹp. Nhưng “thùa” đôi khi c̣n có nghĩa là hành động mạng lại chỗ vải bị rách cho đẹp.
* VẢI VÓC
“Vải vóc” là một chữ ghép với chữ “vóc” cũng có nghĩa:
– “Vải” là chỉ bông hoặc đồ dệt bằng chỉ bông;
– “Vóc” là một xấp hàng lụa vừa đủ một quần là sáu thước may.
Ngày nay th́ “vải” không nhất thiết là dệt bằng chỉ bông mà có thể dệt bằng nhiều chất liệu khác. C̣n “vóc” th́ ít khi thấy dùng một ḿnh nữa, người ta thường lầm tưởng “vải vóc” là chữ láy.
Bâng Khuâng (Sưu tầm)
|
|