Sưu tầm - Page 54 - VietBF
 
 
 
News Library Technology Giải Trí Portals Tin Sốt Home

HOME

NEWS 24h

ZONE 1

ZONE 2

Phim Bộ

Phim Lẻ

Ca Nhạc

Breaking

Go Back   VietBF > Other News|Tin Khác > School | Kiến thức > School | Kiến thức 2006-2019


 
 
Thread Tools
 
Old  Default Sưu tầm
Những tờ giấy màu trắng thường được gọi chung Fabric Softener dùng bỏ vào máy sấy để cho quần áo thơm tho, mềm mại hơn và không bị dính nhau lại, c̣n có nhiều công dụng khác nữa. Sau đây là những kinh nghiệm mà nhiều phụ nữ đă chia sẻ để chúng ta biết sử dụng Fabric Softener cho nhiều mục đích khác nhau :




1. Khi bạn đặt một miếng Fabric Softener ở gần nơi có kiến, chúng sẽ chạy đi hết.







2. Tránh được mùi hôi mốc bằng cách kẹp một miếng giấy Fabric Softener vào sách hay cuốn album lâu ngày không mở ra.







3. Vào mùa có nhiều muỗi, khi ra ngoài vườn sinh hoạt, bạn có thể đeo nơi thắt lưng một miếng Fabric Softener th́ mấy chàng muỗi sẽ không thèm lại gần.





4. Dùng miếng Fabric Softener để lau những vết xà bông đóng ở cửa kính của bồn tắm.







5. Làm cho đồ ṿật hay áo quần thơm tho và tươi mát bằng cách đặt một tấm Fabric Softener trong mỗi hộc tủ hay treo trong closet.







6. Để tránh chỉ bị rối hăy dùng miếng Fabric Softener vuốt sợi chỉ đă xâu vào kim trước khi may.







7. Nếu không muốn vali đựng quần áo bị ẩm, hăy đặt một miếng Fabric Softener dưới đáy trước khi xếp hành lư mang theo.







8. Làm cho không khí trong xe hơi trong lành bằng cách đặt một miếng Fabric Softener dưới ghế ngồi.





9. Muốn rửa sạch những thức ăn dính chặt bên trong xoong nồi th́ hăy đặt một miếng Fabric Softener vào trong xoong rồi ngâm nước qua đêm.


Hôm sau mới dùng miếng sponge để chùi rửa. Chất dùng để chống lại sự dính nhau (static) có trong Fabric Softener sẽ làm cho đồ ăn rớt ra khỏi xoong nồi dễ dàng hơn.







10. Đặt một miếng giấy Fabric Softener dưới đáy của mỗi thùng rác để tránh mùi hôi.







11. Dùng miếng Fabric Softener để lau những nơi có dính lông chó hay mèo, nó sẽ lấy đi những lông rụng đó một cách sạch sẽ.





12. Dưới mỗi giỏ đựng quần áo dơ, bao giờ cũng đặt một miếng Fabric Softener để khỏi có mùa hôi.







13. Làm cho giày không có mùi hôi bằng cách đặt miếng Fabric Softener trong đó qua đêm. Ngày mai, đôi giày sẽ thơm tho để mang đi làm hay đi học.




14. Dùng Fabric Softener để lau mặt kính máy TV sẽ làm cho bụi bặm bớt đóng lớp trên đó.

florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
florida80's Avatar
Release: 12-02-2019
Reputation: 201946


Profile:
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,613
Last Update: None Rating: None
Attached Images
 
florida80_is_offline
Thanks: 7,322
Thanked 46,141 Times in 12,815 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139 florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
The Following 2 Users Say Thank You to florida80 For This Useful Post:
meyeucon (12-03-2019), minhhanhnguyen (01-13-2020)
Old 01-13-2020   #1061
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,613
Thanks: 7,322
Thanked 46,141 Times in 12,815 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Thích Ca Mâu Ni Phật là người thế nào vậy? Nếu chúng ta dùng chức vị ngày nay, th́ Ngài là một nhà giáo dục xă hội đa nguyên văn hóa, Ngài là một vị năm xưa ở đời làm công tác nghĩa vụ giáo dục xă hội đa nguyên văn hóa, đáng được người tôn kính. Không chỉ người chúng ta tôn kính, thần cũng tôn kính. Tất cả chúng sanh mười pháp giới không ai là không tôn kính. Cả đời Ngài là hoàn toàn cống hiến, Ngài không hề đề ra yêu cầu đối với bất cứ ai, Ngài cống hiến triệt để. Ngài không hề tiêu cực. Mỗi ngày dạy học, cùng mọi người lên lớp tám giờ, bốn mươi chín năm không hề ngơi nghỉ. Chúng ta không hề nh́n thấy trên kinh, Thích Ca Mâu Ni Phật lúc nào th́ đi nghỉ hè. Thích Ca Mâu Ni Phật không hề nghỉ hè. Một năm ba trăm sáu mươi ngày, một ngày nghỉ cũng không có, thật tinh tấn! Đây đều là làm gương tốt cho người sau xem. Đó là một người triệt để giác ngộ.

Hiếu dưỡng cha mẹ, tôi dùng một ít thời gian nói sơ đại ư của câu nói này, hy vọng đồng tu tỉ mỉ mà thể hội. Chúng ta phải hồi phục lại tánh đức. Nếu muốn vượt khỏi luôn hồi, vượt khỏi mười pháp giới, bốn chữ này rất quan trọng. Nếu như lơ là với nền tảng này, trong Phật pháp không luận là tu một pháp môn nào đều không thể thành tựu. Như chúng ta xây một cái nhà, không luận là xây nhà nào, không luận là xây cao hay thấp, đây là nền tảng, đây là cơ bản. Bạn không có nền tảng th́ bạn nhất định không thể thành tựu.

Hiếu đạo phải do ai đến dạy bạn? Phải do lăo sư, cho nên Phật pháp là sư đạo. Sư đạo xây dựng trên nền tảng của hiếu đạo.

Câu thứ hai: “Phụng sự sư trưởng”.

Trong xă hội cũ Trung Quốc, ân đức của lăo sư cùng cha mẹ là giống nhau, là b́nh đẳng. Chúng ta xem thấy trong lễ kính, phong tục tập quán của người xưa cùng hiện tại không giống nhau. Người xưa đối với người trưởng thành, nam tử hai mươi tuổi mặc áo lễ, đội măo. Mặc áo lễ th́ bạn là người trưởng thành, không thể xem bạn như một đứa trẻ. Nữ nhi mười sáu tuổi búi tóc chải đầu là đă trưởng thành. Trưởng thành th́ mọi người đều tôn trọng, không được gọi tên của bạn. Đồng bạn với ḿnh, anh em bè bạn tặng bạn một cái hiệu, chúng ta gọi là biệt hiệu, gọi hiệu, không gọi tên. Cả đời người có thể gọi tên của bạn chỉ có hai người, một là cha mẹ và một là thầy giáo, như vậy bạn mới biết được thầy giáo cùng cha mẹ là b́nh đẳng. Nếu như bạn trưởng thành rồi, người ta c̣n gọi tên của bạn th́ bạn đă có tội, không xem bạn là một người đàng hoàng. Việc đó là rất nghiêm trọng.

Bạn xem chúng ta xem thấy trong sách cổ, Hoàng Đế đối với đại thần đều gọi hiệu, không gọi tên, cung kính đối với đại thần. Nếu như Hoàng Đế gọi tên của bạn th́ bạn đă phạm pháp, bạn có tội, bạn phải bị xử phạt, do đó không gọi hiệu của bạn, mà gọi tên của bạn,

Cho nên chúng ta từ trong lễ xưa mà xem thấy, học sinh cùng đối với thầy giáo và đối với cha mẹ là b́nh đẳng. Ân đức của thầy là đem giáo huấn của Thánh hiền truyền dạy cho chúng ta, chúng ta mới hiểu được cách làm người. Giáo học này là từ minh minh đức mà ra. Chúng ta v́ sao có được minh đức, v́ sao hiểu được hiếu dưỡng cha mẹ? Đều là do thầy dạy, cho nên đối với thầy phải phụng sự. Trong phụng sự, y giáo phụng hành là then chốt. Thầy giáo dạy bảo chúng ta, chúng ta phải có tín tâm, phải có thể lư giải, phải thực hiện cho được lời dạy, như vậy mới không phụ công thầy. Đây là học tṛ hiếu học của thầy. Nếu như không tin đối với lời dạy của thầy th́ nhất định không nên theo ông ấy học. Vị thầy có cao minh hơn, có giỏi hơn, có đạo đức, có học vấn, bạn không có ḷng tin đối với ông ấy, bạn ở trong lớp của ông ấy nhất định sẽ không có thành tựu. Cho nên chúng ta lựa chọn thầy giáo không ǵ khác hơn lựa chọn một người mà bạn tôn kính nhất th́ thành công.
florida80_is_offline  
Old 01-13-2020   #1062
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,613
Thanks: 7,322
Thanked 46,141 Times in 12,815 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Truy t́m Tự Ngă
Thích Tuệ Sỹ






Chúng ta hăy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng. Kinh Kim-cang được soạn tập bằng tiếng Phạn tiêu chuẩn, nhưng rất tiếc chúng ta không thông thạo thứ cổ ngữ này, nên cũng chắc chắn là không thể hiểu hết những tư tưởng ẩn áo của kinh hàm chứa trong các từ ngữ và các câu văn. Như người không biết chữ Hán mà đọc thơ Đường qua một bản dịch th́ không thể thưởng thức hết giá trị của bài thơ. Lời thơ là lời của phàm phu mà c̣n vậy, huống chi lời kinh là lời của Phật. Tuy nhiên, không hiểu chữ Hán th́ đọc thơ Đường qua các bản dịch cũng được. Nhưng cũng nên nói thêm là thế giới xưa nay chưa có Huệ Năng thứ hai.

Kinh điển Nguyên thủy và Đại thừa được kết tập không giống nhau. Kinh điển Nguyên thủy được kết tập theo dạng truyền khẩu; có những nét đẹp của nền văn học truyền khẩu. Kinh điển Đại thừa phần lớn được kư tải bằng văn tự, có những nét đẹp riêng của văn tự.

Văn học Đại thừa xuất hiện vào giai đoạn mà văn học Ấn Độ nói chung phát triển đến một h́nh thức nhất định, với văn chương thi ca, các thể loại về kịch, truyện, vốn rất ít được phổ biến trong thời Phật. Như kinh Pháp hoa chẳng hạn, mở đầu bằng nhân duyên Phật phóng quang, sau đó ngài Di-lặc hỏi, Văn-thù trả lời. Đó là phần mở đầu giới thiệu, như thường được thấy trong các thể loại kịch cổ.

Trong kinh Kim-cang, chúng ta sẽ thấy không giống như kinh điển Đại Thừa khác, mà lại gần với Nguyên thủy ở chỗ Phật ôm b́nh bát khất thực xong rồi trở về Tinh xá. Sau bữa ăn, các vị tỳ-kheo thường tập hợp tại giảng đường để thảo luận giáo lư. Bấy giờ, trong đại chúng có sự hiện diện của Tu-bồ-đề; và ngài bắt đầu thưa hỏi. Ở đây, không mở đầu bằng sự phóng quang, hay những thần thông biến hóa khác. Nh́n từ ư nghĩa văn học, người ta giải thích rằng, những vấn đề được nêu trong kinh Kim-cang là những sự việc trong đời sống, là những cái ăn, cái uống, nghỉ ngơi, không phải trong thế giới huyền bí kỳ ảo như là của Hoa nghiêm, Pháp hoa.

C̣n một nghĩa nữa mà chúng ta thấy có quan hệ đến lịch sử văn học.

Trong các kinh điển Nguyên thủy, các vị tỳ-kheo buổi trưa sau khi thọ thực xong, nếu không tụ tập tại giảng đường, th́ thường vắt tọa cụ trên vai, đi vào rừng, t́m đến một gốc cây mà ngồi nghỉ trưa. Có khi đức Phật ngồi ở một gốc cây, và các ngài Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, cũng ngồi ở một gốc cây gần đó. Cho đến xế chiều, các tỳ-kheo ngồi gần đó liền đi tới ngài Xá-lợi-phất, tới đức Phật để đảnh lễ, hoặc thưa hỏi giáo lư.

Trong kinh Kim-cang cũng thế; các tỳ-kheo tụ tập quanh đức Phật để chờ nghe Phật giảng Pháp.

Trong truyền thống Ấn Độ, các buổi giảng hay các lớp học của những người Bà-la-môn thường diễn ra giữa khu rừng, giữa cảnh thiên nhiên. Một lớp các đạo sĩ sống trong rừng, giảng giải ư nghĩa cũng như nghi thức Vệ-đà; tư tưởng triết học tôn giáo của họ được soạn tập thành bộ Sâm lâm thư. Đó là bộ Thánh điển về sau phát triển thành các Upanishad, tức Áo nghĩa thư.

Chúng ta nên hiểu tổng quát về Upanishad hay Áo nghĩa thư v́ nó liên hệ tới kinh Kim-cang rất nhiều, là điểm để chúng ta có thể tin là kinh Kim-cang thật sự do Phật nói hay không.

Một số vị nhận định kinh điển Bát-nhă từ h́nh thức kết cấu văn học đến nội dung tư tưởng, so sánh với các tập Upanishad, rồi kết luận Kim-cang cũng như toàn hệ Bát-nhă chỉ là một bộ phận của Upanishad, hay phỏng theo Upanishad; nghĩa là, không phải Phật thuyết.

Upanishad là giai đoạn phát triển cao của tư duy Ấn Độ, bắt đầu từ Vệ-đà. Có tất cả bốn bộ Vệ-đà, nhưng trong thời Phật chỉ mới xuất hiện có ba, mà kinh Phật gọi là Tam minh. Bà-la-môn tam minh là người thông thạo ba bộ Vệ-đà. “Minh” là từ Hán dịch của Vệ-đà. Thời Phật, chưa xuất hiện Upanishad.

Trên kia, chúng ta đă nói đến Sâm lâm thư. Đây là từ dịch tiếng Phạn Aranyaka. Ở nơi khác, chúng ta có nói các tỳ-kheo a-lan-nhă sống trong rừng thời đức Phật. A-lan-nhă là từ phiên âm của aranyaka.

Luật tạng có kể, một thời, đức Phật nhập thất, không một tỳ-kheo nào được phép đến gần hương thất của Phật, trừ vị thị giả. Bấy giờ có một nhóm ba chục vị là những tỳ kheo a-lan-nhă đến thăm Phật. V́ Phật đang nhập thất, nên các vị tỳ-kheo tại trú xứ này ngăn cản. Nhưng các tỳ-kheo a-lan-nhă nói, họ được Phật cho phép đến gặp Ngài bất cứ lúc nào. V́ các vị này chỉ sống trong rừng nên ít có cơ hội gặp Phật. Rồi họ vẫn tới gơ cửa hương thất. Thật đáng kinh ngạc, từ trong thất đức Phật liền mở cửa.

Đức Phật truyền dạy những pháp ǵ cho các tỳ-kheo A-lan-nhă? Không có kinh điển nào tường thuật. Đức Phật đă có biệt thị đối với họ, tất cũng có giáo pháp biệt truyền cho họ. Pháp ấy là pháp ǵ? Kinh điển Nguyên thủy không đề cập.

Ngài Tu-bồ-đề cũng là một tỳ-kheo a-lan-nhă, như được xác định chính trong kinh Kim-cang. Truyền thống Pāli cũng xác nhận điều này.

Các tỳ-kheo a-lan-nhă thường tu tập Không tam muội, như được Phật nói trong kinh Đại không, Trung A-hàm. Sau thời Phật, các Trưởng lăo chủ tŕ cuộc kết tập thứ hai cũng phần lớn tu tập Không tam muội, như được ghi chép trong Luật tạng. Các vị này cũng sống trong rừng. Không tam muội là thiền định y trên hành tướng vô ngă. Không và vô ngă là giáo nghĩa căn bản trong kinh Kim-cang.
florida80_is_offline  
Old 01-13-2020   #1063
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,613
Thanks: 7,322
Thanked 46,141 Times in 12,815 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Kinh nói: Hết thảy pháp hữu vi đều là như chiêm bao, như huyễn thuật, v.v...; đó là nói về giáo nghĩa Tánh không và Vô ngă bằng kinh nghiệm trực giác hay thực chứng. Giáo nghĩa này về sau được các Bà-la-môn học Vệ-đà thay thế bằng học thuyết như huyễn tức māyā và hữu ngă tức ātman. Những điểm tư tưởng này là tinh yếu của các tập Upanishad. Nói một cách đại cương, thế giới này chỉ là huyễn hóa, vậy ta là ai, hay ta là cái ǵ, trong tấn tuồng huyễn hóa này?

Như vậy có thể thấy ảnh hưởng của các tỳ-kheo a-lan-nhă đối với các đạo sĩ soạn tập Sâm lâm thư để rồi phát triển thành tư tưởng triết học Upanishad. Thế nhưng, về sau do sự phục hồi địa vị của giai cấp Bà-la-môn, những người Ấn Độ giáo thâu thái rất nhiều giáo nghĩa của Phật trong đó có giáo nghĩa Tánh không diễn thành như huyễn, rồi cho rằng tư tưởng Không trong các bộ Bát-nhă là do ảnh hưởng của Upanishad. Cũng có nhiều Phật tử tin điều này nên cho rằng kinh điển Bát-nhă cũng như của cả Đại thừa chịu ảnh hưởng của Bà-la-môn giáo, thay v́ ngược lại.

Vậy, Upanishad là phản ứng của các Bà-la-môn, họ vay mượn giáo nghĩa Tánh không tức Vô ngă trong các kinh Bát-nhă. V́ phủ nhận sự tồn tại của tự ngă thường hằng là phủ nhận luôn cả sự tồn tại của Brahman, là Thượng đế Sáng tạo.

Ngay cả trong Phật giáo, sau khi Phật nhập niết-bàn, trong nội bộ Phật giáo đă xuất hiện một số bộ phái chấp nhận có tự ngă hay ātman, như Độc tử bộ hay Hóa địa bộ. Những bộ phái này lư luận rằng, nếu không tồn tại một tự ngă, không có một cái tôi thường hằng bất biến, vậy ai hay cái ǵ luân hồi, lang thang ch́m nổi trong biển sinh tử? Cũng nên biết rằng tự ngă hay ātman trong tư tưởng tôn giáo Ấn Độ là cái mà trong các tôn giáo, Đông cũng như Tây, hiểu là linh hồn. Cho nên, có linh hồn mới có đầu thai, mới có việc sinh lên Thiên đường hay đọa địa ngục như là hậu quả của hành vi tội hay phước.

Giáo nghĩa Phật dạy, có tác nghiệp thiện ác, có quả báo lành dữ, nhưng không có người hành động, không có người thọ quả.

Đây là điều rất khó hiểu.

Chúng ta nên đi từ cái dễ, rồi đến cái khó. Cái dễ hiểu là tất cả đều có một cái tôi: tôi đi, tôi đứng, tôi ăn, tôi ngủ, v.v... Nhưng khi người ta ngủ, mà ngủ nhưng không chiêm bao, th́ h́nh như cái tôi này biến mất. Hoặc như người bị tai nạn mà mất trí nhớ, không c̣n nhớ ra ḿnh là ai. Nếu được chữa trị, trí nhớ phục hồi, bấy giờ vẫn là cái tôi như khi trước. Rồi khi người ta chết, cái tôi ấy c̣n hay không? Thừa nhận c̣n, tức là thừa nhận có linh hồn tồn tại bất biến, khi thức cũng như khi ngủ, lúc c̣n sống cũng như sau khi chết.

Đấy là kinh nghiệm thường nhật về một cái tôi. Kinh nghiệm ấy là sự tích lũy trong một đời người những hoài niệm, những đau khổ, hạnh phúc, những danh vọng, khốn cùng. Từ những kinh nghiệm tích lũy ấy mà h́nh thành ư tưởng về một cái tôi thường hằng. Trong tŕnh độ thấp nhất, cái tôi ấy được đồng hóa với thân xác và những sở hữu cho thân xác. Vị đại hoàng đế có cả một đế quốc: ta và đế quốc của ta.

Nhưng một khi thân xác này tan ră, mà chắc chắn là như vậy, th́ ta là ai, mà đế quốc này là ǵ? Những hoàng đế ấy, như Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Thành Cát Tư Hăn, tin vào một cái ta và thân xác ta có thể tồn tại lâu dài, v́ không muốn cái danh vọng, quyền lực đang có mất đi; họ đi t́m đạo sỹ, cầu thuốc trường sinh. Những người đi t́m trường sinh ấy, bây giờ ở đâu?
Lại c̣n những người khác, giàu sang có cả một cơ đồ, nhưng khi thị trường chứng khoán sụp đổ, nhảy lầu tự tử. Ta và tài sản của ta; cái này mất th́ cái kia cũng không c̣n lư do tồn tại. Thật sự th́ ở đây ta là ai, trong cái cơ đồ phú quư ấy?

Với một hạng người khác, ta là danh, đă sinh ra trong trời đất, th́ phải có danh ǵ với núi sông. Một mai vật đổi sao dời, để bảo tồn danh tiết, họ đâm cổ tự sát. Vậy, ta là ǵ trong cái danh này?

Với những tín đồ tôn giáo tin vào một linh hồn bất tử, một cái ta tồn tại trên thiên đường, hưởng những lạc thú mà Thượng đế ban cho v́ đă biết phục tùng Thiên ư. V́ thế họ sẵn sàng giết đồng loại để chinh phục nước Chúa dưới trần gian.

Ta là ai, ta là cái ǵ, để v́ phục vụ nó, bảo tồn nó, mà tự gây khổ cho ḿnh, và cũng gây khổ cho người? Có chăng một cái ta thường hằng, siêu việt thân xác này, và tâm trí này, để cho mọi hành vi trong một đời người, dù thiện hay ác, ngu hay trí, chỉ nhằm mục đích là phục vụ nó, v́ ích lợi của nó, v́ hạnh phúc của nó, v́ danh dự của nó, v́ quyền lực của nó?

Trước khi muốn hỏi ta là ai, trước hết nên hỏi, từ đâu có ư tưởng về cái ta ấy?

Có một người mới mua về một con chó, đặt tên cho nó Lucky. Ban đầu, gọi Lucky, nó dửng dưng, vô cảm. Dần dần, nghe hai tiếng Lucky, nó mừng rỡ, ngoắt đuôi. Nó đă hiểu Lucky là cái ǵ, và như vậy nó cũng hiểu nó là cái ǵ. Nó h́nh thành một cái vỏ tự ngă mới qua một cái tên gọi mới. Trước khi có một tên gọi, nó vẫn tồn tại, và tự bảo vệ sự tồn tại ấy. Nó t́m thức ăn, t́m chỗ ngủ, và cắn bất cứ ai đến gần như muốn đe dọa, uy hiếp nó.

Khi được đặt tên, toàn thể sự tồn tại ấy bây giờ tồn tại dưới một cái tên gọi Lucky. Dù vậy, nếu có ai xúc phạm đến cái tên Lucky, nó không có phản ứng ǵ. Nhưng với một con người, khi cái tên gọi, một cái danh ǵ đó, mà bị xúc phạm, th́ hăy coi chừng. Tất nhiên, con người cho đến một tuổi nào đó mới biết nó tên ǵ, cũng như con Lucky vậy. Rơ ràng, cái danh mang nội hàm tự ngă ấy chỉ là hư danh, nhưng con người cũng như vậy đau khổ hay hạnh phúc bởi chính cái hư danh đó.

Một ông thầy giáo có cái ngă là thầy giáo. Ai xúc phạm đến danh từ thầy giáo, chức nghiệp nhà giáo, người ấy phải bị khiển trách.

Nó là ông vua, nhưng ban đêm lẻn ra ngoài thành chơi. Dân nào không biết mà đối xử vô lễ như với dân thường, hăy coi chừng.

Tự ngă chỉ là một cái danh, và đó là giả danh do nghề nghiệp, hay do chỗ ngồi, chỗ đứng giữa mọi người mà đạt thành. Cái giả danh chỉ mới h́nh thành trong một đời người thôi, mà đă khó quên, khó trừ như vậy; nếu là cái ngă được tích lũy trong nhiều đời, tất không dễ ǵ trừ bỏ.

Cái ngă của ông xă trưởng chỉ to bằng cái xă của ông. Cái ngă của một quốc vương to bằng cái vương quốc của ông. Cái ngă của một nhà thông kim bác cổ th́ dài bằng thời gian kim cổ, rộng bằng không gian đông tây. Cái ngă của một chúng sinh luân hồi trong tam giới, tất cũng lớn bằng cả tam giới. Cái ngă ấy không phải dễ nhận ra. Không nhận ra nó, để thấy nó là thật hay giả, th́ cũng không thể tận cùng biên giới đau khổ.
florida80_is_offline  
Old 01-13-2020   #1064
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,613
Thanks: 7,322
Thanked 46,141 Times in 12,815 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Trong kinh Phật có một câu chuyện:

"Một thiên thần kia, hiện đến Phật, nói rằng trong quá khứ, ông là một tiên nhân, có tên là Ngựa Đỏ, có phép thần thông quảng đại. Ông muốn thấy được biên tế vũ trụ, để thấy được biên tế khổ, và chấm dứt khổ. Thế là ông bắt đầu đi tìm biên tế của vũ trụ. Tuổi thơ của ông bấy giờ dài đến một đại kiếp, đại khái là tỷ tỷ năm, nhưng không bao giờ thấy được cái biên tế của vũ trụ. Rồi ông hỏi Phật: “Có cần đi suốt cái biên tế vũ trụ này mới chấm dứt khổ không?” Phật xác nhận rằng, “Nếu không thấy được cái biên tế của vũ trụ th́ không chấm dứt được khổ”. Đức Phật lại nói thêm: “Nhưng không cần. Chỉ trên cái thân cao một tầm này, với năm uẩn nầy, ta có thể biết được thế gian sinh, thế gian diệt”.

Điều đó có nghĩa rằng, thân thể này, với xúc cảm này, với tư duy này, với nhận thức này, là tập hợp tích lũy cả một khối kinh nghiệm lớn bằng biên tế vũ trụ. Cái khối ấy đông kết thành cái vỏ cứng dày. Nó chỉ có thể bị đập vỡ bằng chày Kim-cang mà thôi.

Nói tóm lại, giáo nghĩa trong kinh Kim-cang bắt đầu bằng sự đối trị tự ngă: vô ngă tưởng, vô nhân tưởng… Trong các tôn giáo, trong mỗi hệ thống tư tưởng triết học, đều có riêng một quan niệm về tự ngă. Trong nhiều tôn giáo, tự ngă là linh hồn do Thượng đế ban cho. Giữ cho linh hồn đừng bị mất, để sau này được hưởng ân phước của Thượng đế, đó là mục đích đời người.

Trong Nho giáo, người quân tử phải biết lập thân và lập danh. Lập thân cho hiện tại, lập danh cho hậu thế. Đó là xác lập tự ngă trong xă hội.

Lăo Tử nói: ta có đại hoạn v́ ta có thân. Nếu ta không có thân, nào đâu có đại hoạn? Đó là hăy sống trọn tuổi trời chớ đuổi theo hư danh, hăy để cho thân và danh cùng mục nát với cỏ cây.

Các đạo sĩ Upanishad đi t́m cái tự ngă chân thật là ǵ. Vượt ra ngoài cái tôi trong đời sống thường nhật, và cái tôi lang thang trong luân hồi để chịu đau khổ, có hay không có một cái tôi thường hằng, chân thật? Cái tôi như giọt nước biển bị cô lập trong một cái vỏ cứng nhỏ mọn, vô nghĩa, trôi nổi bồng bềnh trong đại dương; để rồi khi cái vơ cứng ấy đập vỡ, giọt nước ấy sẽ ḥa tan vào nước biển trong đại dương. Khi ấy, Tiểu ngă ḥa tan vào Đại ngă.

Trong Phật giáo, Tiểu ngă hay Đại ngă, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo. Cái ngă được h́nh thành trong đời này, do ảnh hưởng truyền thống, tôn giáo, tư tưởng, xă hội, để từ đó h́nh thành một nhân cách, một linh hồn, và rồi chấp chặt vào đó để mà tồn tại. Cái đó được gọi là phân biệt ngă chấp.

Cái ngă do tích lũy từ điên đảo vọng tưởng nhiều đời, h́nh thành bản năng khát vọng sinh tồn nơi cả những sinh vật li ti nhất; đó là câu sinh ngă chấp.

V́ vậy, không cần đi t́m ở đâu Tiểu ngă và Đại ngă, mà cần diệt trừ khái niệm giả danh bởi vọng tưởng điên đảo
florida80_is_offline  
Old 01-13-2020   #1065
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,613
Thanks: 7,322
Thanked 46,141 Times in 12,815 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

6 đạo lư đơn giản của Phật gia giúp chúng ta thay đổi cuộc đời


Cuộc sống xô bồ đôi khi khiến con người ta mất đi phương hướng, rơi vào trạng thái mệt mỏi, buồn chán. Những giáo lư đạo Phật dưới đây sẽ giúp bạn thay đổi cuộc đời ḿnh theo hướng tích cực hơn.





Thay đổi cuộc đời với giáo lư đạo Phật đơn giản.
(Ảnh: Internet)


1. Cảm ơn thiên nhiên v́ đă cung cấp thức ăn cho ḿnh

Hăy luôn biết cảm ơn thiên nhiên v́ những ǵ chúng mang lại cho bạn. Nếu không có thiên nhiên bạn sẽ chẳng thể tồn tại trên đời.

2. Biết dừng lại, lắng nghe và điềm tĩnh

Luôn thận trọng với phát ngôn của ḿnh. Khi cảm thấy ḿnh sắp nói ra lời bất hảo, hăy biết cách kiềm chế mà dừng lại để cân nhắc xem có đáng tổn đức v́ khẩu nghiệp hay không.

Cố gắng nói những lời vui vẻ, thiện ư, tránh làm tổn thương người khác gây khẩu nghiệp. Nhẫn nại lắng nghe ư kiến người khác để có thể hiểu và đồng cảm.

3. Hăy biết ơn

Luôn ư thức được ḿnh đang sở hữu ǵ và được giúp đỡ ǵ. Con người trong cuộc đời luôn gắn liền với xă hội, có thể nhận được tương trợ từ người khác. Một khi hàm ơn cần tỏ thái độ biết ơn và đền đáp nếu có cơ hội.

Biết ơn là mỹ đức giúp con người hướng thiện và chỉ có ở những người thiện lương. Người vô ơn sẽ không bao giờ được phúc báo và chắc chắn sẽ tạo nghiệp sau này.

4. Luôn sống lương thiện và ḥa nhă với mọi người

Hăy luôn sống lương thiện, sẵn ḷng tương trợ người gặp khó khăn. Một cá nhân nếu đối xử ḥa nhă với mọi người sẽ luôn được người người yêu mến.

Làm từ thiện xuất phát từ trong tâm chắc chắn sẽ được phúc báo. Hăy ghi nhớ điều này để rộng mở tấm ḷng, chắc chắn bạn sẽ không bao giờ thiệt tḥi.

5. Luôn nỗ lực khai mở trí tuệ

Người có trí tuệ sẽ giúp ích cho xă hội và bản thân. Đừng ngại ngần học hỏi và trau dồi kiến thức bởi c̣n có quá nhiều thứ con người chưa thể biết hết về cuộc sống này. Việc nỗ lực học hỏi và khai mở trí tuệ là nền tảng để con người tiến xa hơn, vươn tới những chân trời mới.

6. Đừng ngại thay đổi

Cuộc sống luôn đổi thay và việc chấp nhận nó cũng là một nỗ lực đáng ghi nhận của con người. Nên biết trân quư hiện tại, lưu giữ và trân trọng quá khứ thay v́ hoài niệm quá độ. Hướng tới tương lai với tâm thái từ bi và hướng thiện.


Theo minhbao.net
-http://thoibao.today
florida80_is_offline  
Old 01-13-2020   #1066
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,613
Thanks: 7,322
Thanked 46,141 Times in 12,815 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Truy T́m Tự Ngă
Thích Tuệ Sỹ





Chúng ta hăy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng. Kinh Kim-cang được soạn tập bằng tiếng Phạn tiêu chuẩn, nhưng rất tiếc chúng ta không thông thạo thứ cổ ngữ này, nên cũng chắc chắn là không thể hiểu hết những tư tưởng ẩn áo của kinh hàm chứa trong các từ ngữ và các câu văn.

Như người không biết chữ Hán mà đọc thơ Đường qua một bản dịch th́ không thể thưởng thức hết giá trị của bài thơ. Lời thơ là lời của phàm phu mà c̣n vậy, huống chi lời kinh là lời của Phật. Tuy nhiên, không hiểu chữ Hán th́ đọc thơ Đường qua các bản dịch cũng được. Nhưng cũng nên nói thêm là thế giới xưa nay chưa có Huệ Năng thứ hai.

Kinh điển Nguyên thủy và Đại thừa được kết tập không giống nhau. Kinh điển Nguyên thủy được kết tập theo dạng truyền khẩu; có những nét đẹp của nền văn học truyền khẩu. Kinh điển Đại thừa phần lớn được kư tải bằng văn tự, có những nét đẹp riêng của văn tự.

Văn học Đại thừa xuất hiện vào giai đoạn mà văn học Ấn Độ nói chung phát triển đến một h́nh thức nhất định, với văn chương thi ca, các thể loại về kịch, truyện, vốn rất ít được phổ biến trong thời Phật. Như kinh Pháp hoa chẳng hạn, mở đầu bằng nhân duyên Phật phóng quang, sau đó ngài Di-lặc hỏi, Văn-thù trả lời. Đó là phần mở đầu giới thiệu, như thường được thấy trong các thể loại kịch cổ.

Trong kinh Kim-cang, chúng ta sẽ thấy không giống như kinh điển Đại Thừa khác, mà lại gần với Nguyên thủy ở chỗ Phật ôm b́nh bát khất thực xong rồi trở về Tinh xá. Sau bữa ăn, các vị tỳ-kheo thường tập hợp tại giảng đường để thảo luận giáo lư. Bấy giờ, trong đại chúng có sự hiện diện của Tu-bồ-đề; và ngài bắt đầu thưa hỏi. Ở đây, không mở đầu bằng sự phóng quang, hay những thần thông biến hóa khác. Nh́n từ ư nghĩa văn học, người ta giải thích rằng, những vấn đề được nêu trong kinh Kim-cang là những sự việc trong đời sống, là những cái ăn, cái uống, nghỉ ngơi, không phải trong thế giới huyền bí kỳ ảo như là của Hoa nghiêm, Pháp hoa.

C̣n một nghĩa nữa mà chúng ta thấy có quan hệ đến lịch sử văn học.

Trong các kinh điển Nguyên thủy, các vị tỳ-kheo buổi trưa sau khi thọ thực xong, nếu không tụ tập tại giảng đường, th́ thường vắt tọa cụ trên vai, đi vào rừng, t́m đến một gốc cây mà ngồi nghỉ trưa. Có khi đức Phật ngồi ở một gốc cây, và các ngài Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, cũng ngồi ở một gốc cây gần đó. Cho đến xế chiều, các tỳ-kheo ngồi gần đó liền đi tới ngài Xá-lợi-phất, tới đức Phật để đảnh lễ, hoặc thưa hỏi giáo lư.

Trong kinh Kim-cang cũng thế; các tỳ-kheo tụ tập quanh đức Phật để chờ nghe Phật giảng Pháp

Trong truyền thống Ấn Độ, các buổi giảng hay các lớp học của những người Bà-la-môn thường diễn ra giữa khu rừng, giữa cảnh thiên nhiên. Một lớp các đạo sĩ sống trong rừng, giảng giải ư nghĩa cũng như nghi thức Vệ-đà; tư tưởng triết học tôn giáo của họ được soạn tập thành bộ Sâm lâm thư. Đó là bộ Thánh điển về sau phát triển thành các Upanishad, tức Áo nghĩa thư.

Chúng ta nên hiểu tổng quát về Upanishad hay Áo nghĩa thư v́ nó liên hệ tới kinh Kim-cang rất nhiều, là điểm để chúng ta có thể tin là kinh Kim-cang thật sự do Phật nói hay không.

Một số vị nhận định kinh điển Bát-nhă từ h́nh thức kết cấu văn học đến nội dung tư tưởng, so sánh với các tập Upanishad, rồi kết luận Kim-cang cũng như toàn hệ Bát-nhă chỉ là một bộ phận của Upanishad, hay phỏng theo Upanishad; nghĩa là, không phải Phật thuyết.

Upanishad là giai đoạn phát triển cao của tư duy Ấn Độ, bắt đầu từ Vệ-đà. Có tất cả bốn bộ Vệ-đà, nhưng trong thời Phật chỉ mới xuất hiện có ba, mà kinh Phật gọi là Tam minh. Bà-la-môn tam minh là người thông thạo ba bộ Vệ-đà. “Minh” là từ Hán dịch của Vệ-đà. Thời Phật, chưa xuất hiện Upanishad.

Trên kia, chúng ta đă nói đến Sâm lâm thư. Đây là từ dịch tiếng Phạn Aranyaka. Ở nơi khác, chúng ta có nói các tỳ-kheo a-lan-nhă sống trong rừng thời đức Phật. A-lan-nhă là từ phiên âm của aranyaka.

Luật tạng có kể, một thời, đức Phật nhập thất, không một tỳ-kheo nào được phép đến gần hương thất của Phật, trừ vị thị giả. Bấy giờ có một nhóm ba chục vị là những tỳ kheo a-lan-nhă đến thăm Phật. V́ Phật đang nhập thất, nên các vị tỳ-kheo tại trú xứ này ngăn cản. Nhưng các tỳ-kheo a-lan-nhă nói, họ được Phật cho phép đến gặp Ngài bất cứ lúc nào. V́ các vị này chỉ sống trong rừng nên ít có cơ hội gặp Phật. Rồi họ vẫn tới gơ cửa hương thất. Thật đáng kinh ngạc, từ trong thất đức Phật liền mở cửa.

Đức Phật truyền dạy những pháp ǵ cho các tỳ-kheo A-lan-nhă? Không có kinh điển nào tường thuật. Đức Phật đă có biệt thị đối với họ, tất cũng có giáo pháp biệt truyền cho họ. Pháp ấy là pháp ǵ? Kinh điển Nguyên thủy không đề cập.
Ngài Tu-bồ-đề cũng là một tỳ-kheo a-lan-nhă, như được xác định chính trong kinh Kim-cang. Truyền thống Pāli cũng xác nhận điều này.

Các tỳ-kheo a-lan-nhă thường tu tập Không tam muội, như được Phật nói trong kinh Đại không, Trung A-hàm. Sau thời Phật, các Trưởng lăo chủ tŕ cuộc kết tập thứ hai cũng phần lớn tu tập Không tam muội, như được ghi chép trong Luật tạng. Các vị này cũng sống trong rừng. Không tam muội là thiền định y trên hành tướng vô ngă. Không và vô ngă là giáo nghĩa căn bản trong kinh Kim-cang.

Kinh nói: Hết thảy pháp hữu vi đều là như chiêm bao, như huyễn thuật, v.v...; đó là nói về giáo nghĩa Tánh không và Vô ngă bằng kinh nghiệm trực giác hay thực chứng. Giáo nghĩa này về sau được các Bà-la-môn học Vệ-đà thay thế bằng học thuyết như huyễn tức māyā và hữu ngă tức ātman. Những điểm tư tưởng này là tinh yếu của các tập Upanishad. Nói một cách đại cương, thế giới này chỉ là huyễn hóa, vậy ta là ai, hay ta là cái ǵ, trong tấn tuồng huyễn hóa này?

Như vậy có thể thấy ảnh hưởng của các tỳ-kheo a-lan-nhă đối với các đạo sĩ soạn tập Sâm lâm thư để rồi phát triển thành tư tưởng triết học Upanishad. Thế nhưng, về sau do sự phục hồi địa vị của giai cấp Bà-la-môn, những người Ấn Độ giáo thâu thái rất nhiều giáo nghĩa của Phật trong đó có giáo nghĩa Tánh không diễn thành như huyễn, rồi cho rằng tư tưởng Không trong các bộ Bát-nhă là do ảnh hưởng của Upanishad. Cũng có nhiều Phật tử tin điều này nên cho rằng kinh điển Bát-nhă cũng như của cả Đại thừa chịu ảnh hưởng của Bà-la-môn giáo, thay v́ ngược lại.

Vậy, Upanishad là phản ứng của các Bà-la-môn, họ vay mượn giáo nghĩa Tánh không tức Vô ngă trong các kinh Bát-nhă. V́ phủ nhận sự tồn tại của tự ngă thường hằng là phủ nhận luôn cả sự tồn tại của Brahman, là Thượng đế Sáng tạo.

Ngay cả trong Phật giáo, sau khi Phật nhập niết-bàn, trong nội bộ Phật giáo đă xuất hiện một số bộ phái chấp nhận có tự ngă hay ātman, như Độc tử bộ hay Hóa địa bộ. Những bộ phái này lư luận rằng, nếu không tồn tại một tự ngă, không có một cái tôi thường hằng bất biến, vậy ai hay cái ǵ luân hồi, lang thang ch́m nổi trong biển sinh tử? Cũng nên biết rằng tự ngă hay ātman trong tư tưởng tôn giáo Ấn Độ là cái mà trong các tôn giáo, Đông cũng như Tây, hiểu là linh hồn. Cho nên, có linh hồn mới có đầu thai, mới có việc sinh lên Thiên đường hay đọa địa ngục như là hậu quả của hành vi tội hay phước.

Giáo nghĩa Phật dạy, có tác nghiệp thiện ác, có quả báo lành dữ, nhưng không có người hành động, không có người thọ quả. Đây là điều rất khó hiểu.

Chúng ta nên đi từ cái dễ, rồi đến cái khó. Cái dễ hiểu là tất cả đều có một cái tôi: tôi đi, tôi đứng, tôi ăn, tôi ngủ, v.v... Nhưng khi người ta ngủ, mà ngủ như không chiêm bao, th́ h́nh như cái tôi này biến mất. Hoặc như người bị tai nạn mà mất trí nhớ, không c̣n nhớ ra ḿnh là ai. Nếu được chữa trị, trí nhớ phục hồi, bấy giờ vẫn là cái tôi như khi trước. Rồi khi người ta chết, cái tôi ấy c̣n hay không? Thừa nhận c̣n, tức là thừa nhận có linh hồn tồn tại bất biến, khi thức cũng như khi ngủ, lúc c̣n sống cũng như sau khi chết.

Đấy là kinh nghiệm thường nhật về một cái tôi. Kinh nghiệm ấy là sự tích lũy trong một đời người những hoài niệm, những đau khổ, hạnh phúc, những danh vọng, khốn cùng. Từ những kinh nghiệm tích lũy ấy mà h́nh thành ư tưởng về một cái tôi thường hằng. Trong tŕnh độ thấp nhất, cái tôi ấy được đồng hóa với thân xác và những sở hữu cho thân xác. Vị đại hoàng đế có cả một đế quốc: ta và đế quốc của ta. Nhưng một khi thân xác này tan ră, mà chắc chắn là như vậy, th́ ta là ai, mà đế quốc này là ǵ? Những hoàng đế ấy, như Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Thành Cát Tư Hăn, tin vào một cái ta và thân xác ta có thể tồn tại lâu dài, v́ không muốn cái danh vọng, quyền lực đang có mất đi; họ đi t́m đạo sỹ, cầu thuốc trường sinh. Những người đi t́m trường sinh ấy, bây giờ ở đâu?
florida80_is_offline  
Old 01-13-2020   #1067
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,613
Thanks: 7,322
Thanked 46,141 Times in 12,815 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Lại c̣n những người khác, giàu sang có cả một cơ đồ, nhưng khi thị trường chứng khoán sụp đổ, nhảy lầu tự tử. Ta và tài sản của ta; cái này mất th́ cái kia cũng không c̣n lư do tồn tại. Thật sự th́ ở đây ta là ai, trong cái cơ đồ phú quư ấy?

Với một hạng người khác, ta là danh, đă sinh ra trong trời đất, th́ phải có danh ǵ với núi sông. Một mai vật đổi sao dời, để bảo tồn danh tiết, họ đâm cổ tự sát. Vậy, ta là ǵ trong cái danh này?

Với những tín đồ tôn giáo tin vào một linh hồn bất tử, một cái ta tồn tại trên thiên đường, hưởng những lạc thú mà Thượng đế ban cho v́ đă biết phục tùng Thiên ư. V́ thế họ sẵn sàng giết đồng loại để chinh phục nước Chúa dưới trần gian.

Ta là ai, ta là cái ǵ, để v́ phục vụ nó, bảo tồn nó, mà tự gây khổ cho ḿnh, và cũng gây khổ cho người? Có chăng một cái ta thường hằng, siêu việt thân xác này, và tâm trí này, để cho mọi hành vi trong một đời người, dù thiện hay ác, ngu hay trí, chỉ nhằm mục đích là phục vụ nó, v́ ích lợi của nó, v́ hạnh phúc của nó, v́ danh dự của nó, v́ quyền lực của nó?

Trước khi muốn hỏi ta là ai, trước hết nên hỏi, từ đâu có ư tưởng về cái ta ấy?

Có một người mới mua về một con chó, đặt tên cho nó Lucky. Ban đầu, gọi Lucky, nó dửng dưng, vô cảm. Dần dần, nghe hai tiếng Lucky, nó mừng rỡ, ngoắt đuôi. Nó đă hiểu Lucky là cái ǵ, và như vậy nó cũng hiểu nó là cái ǵ. Nó h́nh thành một cái vỏ tự ngă mới qua một cái tên gọi mới. Trước khi có một tên gọi, nó vẫn tồn tại, và tự bảo vệ sự tồn tại ấy. Nó t́m thức ăn, t́m chỗ ngủ, và cắn bất cứ ai đến gần như muốn đe dọa, uy hiếp nó. Khi được đặt tên, toàn thể sự tồn tại ấy bây giờ tồn tại dưới một cái tên gọi Lucky. Dù vậy, nếu có ai xúc phạm đến cái tên Lucky, nó không có phản ứng ǵ. Nhưng với một con người, khi cái tên gọi, một cái danh ǵ đó, mà bị xúc phạm, th́ hăy coi chừng. Tất nhiên, con người cho đến một tuổi nào đó mới biết nó tên ǵ, cũng như con Lucky vậy. Rơ ràng, cái danh mang nội hàm tự ngă ấy chỉ là hư danh, nhưng con người cũng như vậy đau khổ hay hạnh phúc bởi chính cái hư danh đó.

Một ông thầy giáo có cái ngă là thầy giáo. Ai xúc phạm đến danh từ thầy giáo, chức nghiệp nhà giáo, người ấy phải bị khiển trách.

Nó là ông vua, nhưng ban đêm lẻn ra ngoài thành chơi. Dân nào không biết mà đối xử vô lễ như với dân thường, hăy coi chừng.

Tự ngă chỉ là một cái danh, và đó là giả danh do nghề nghiệp, hay do chỗ ngồi, chỗ đứng giữa mọi người mà đạt thành. Cái giả danh chỉ mới h́nh thành trong một đời người thôi, mà đă khó quên, khó trừ như vậy; nếu là cái ngă được tích lũy trong nhiều đời, tất không dễ ǵ trừ bỏ.

Cái ngă của ông xă trưởng chỉ to bằng cái xă của ông. Cái ngă của một quốc vương to bằng cái vương quốc của ông. Cái ngă của một nhà thông kim bác cổ th́ dài bằng thời gian kim cổ, rộng bằng không gian đông tây. Cái ngă của một chúng sinh luân hồi trong tam giới, tất cũng lớn bằng cả tam giới. Cái ngă ấy không phải dễ nhận ra. Không nhận ra nó, để thấy nó là thật hay giả, th́ cũng không thể tận cùng biên giới đau khổ.

Trong kinh Phật có một câu chuyện: Một thiên thần kia, hiện đến Phật, nói rằng trong quá khứ, ông là một tiên nhân, có tên là Ngựa Đỏ, có phép thần thông quảng đại. Ông muốn thấy được biên tế vũ trụ, để thấy được biên tế khổ, và chấm dứt khổ. Thế là ông bắt đầu đi tìm biên tế của vũ trụ. Tuổi thơ của ông bấy giờ dài đến một đại kiếp, đại khái là tỷ tỷ năm, nhưng không bao giờ thấy được cái biên tế của vũ trụ. Rồi ông hỏi Phật:

“Có cần đi suốt cái biên tế vũ trụ này mới chấm dứt khổ không?”

Phật xác nhận rằng:

“Nếu không thấy được cái biên tế của vũ trụ th́ không chấm dứt được khổ”.

Đức Phật lại nói thêm:

“Nhưng không cần. Chỉ trên cái thân cao một tầm này, với năm uẩn nầy, ta có thể biết được thế gian sinh, thế gian diệt”.

Điều đó có nghĩa rằng, thân thể này, với xúc cảm này, với tư duy này, với nhận thức này, là tập hợp tích lũy cả một khối kinh nghiệm lớn bằng biên tế vũ trụ. Cái khối ấy đông kết thành cái vỏ cứng dày. Nó chỉ có thể bị đập vỡ bằng chày Kim-cang mà thôi.

Nói tóm lại, giáo nghĩa trong kinh Kim-cang bắt đầu bằng sự đối trị tự ngă: vô ngă tưởng, vô nhân tưởng… Trong các tôn giáo, trong mỗi hệ thống tư tưởng triết học, đều có riêng một quan niệm về tự ngă. Trong nhiều tôn giáo, tự ngă là linh hồn do Thượng đế ban cho. Giữ cho linh hồn đừng bị mất, để sau này được hưởng ân phước của Thượng đế, đó là mục đích đời người.

Trong Nho giáo, người quân tử phải biết lập thân và lập danh. Lập thân cho hiện tại, lập danh cho hậu thế. Đó là xác lập tự ngă trong xă hội.

Lăo Tử nói: ta có đại hoạn v́ ta có thân. Nếu ta không có thân, nào đâu có đại hoạn? Đó là hăy sống trọn tuổi trời chớ đuổi theo hư danh, hăy để cho thân và danh cùng mục nát với cỏ cây.

Các đạo sĩ Upanishad đi t́m cái tự ngă chân thật là ǵ. Vượt ra ngoài cái tôi trong đời sống thường nhật, và cái tôi lang thang trong luân hồi để chịu đau khổ, có hay không có một cái tôi thường hằng, chân thật? Cái tôi như giọt nước biển bị cô lập trong một cái vỏ cứng nhỏ mọn, vô nghĩa, trôi nổi bồng bềnh trong đại dương; để rồi khi cái vơ cứng ấy đạp vỡ, giọt nước ấy sẽ ḥa tan vào nước biển trong đại dương. Khi ấy, Tiểu ngă ḥa tan vào Đại ngă.

Trong Phật giáo, Tiểu ngă hay Đại ngă, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo. Cái ngă được h́nh thành trong đời này, do ảnh hưởng truyền thống, tôn giáo, tư tưởng, xă hội, để từ đó h́nh thành một nhân cách, một linh hồn, và rồi chấp chặt vào đó để mà tồn tại. Cái đó được gọi là phân biệt ngă chấp.

Cái ngă do tích lũy từ điên đảo vọng tưởng nhiều đời, h́nh thành bản năng khát vọng sinh tồn nơi cả những sinh vật li ti nhất; đó là câu sinh ngă chấp.

V́ vậy, không cần đi t́m ở đâu Tiểu ngă và Đại ngă, mà cần diệt trừ khái niệm giả danh bởi vọng tưởng điên đảo.
florida80_is_offline  
Old 01-13-2020   #1068
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,613
Thanks: 7,322
Thanked 46,141 Times in 12,815 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Thắc mắc về vấn đề Ăn Chay






HỎI :

- Tôi thấy một số món ăn chay trong các tiệm ăn và đôi khi cả trong một vài chùa, có h́nh thức các con vật và tên gọi giống y nhưcác món mặn, thí dụ như: "cá chiên, cá hấp, thịt quay bánh hỏi, tôm xào chua ngọt.. v..v..". Nếu tâm c̣n thèm ăn các món mặn th́ ăn quách đồ thật c̣n hơn là giả dối như vậy. Đạo Phật nói trực tâm là đạo tràng cơ mà?

ĐÁP :

- Đây là một câu hỏi có nội dung phức tạp, có thể chia ra làm bốn phần:

(1) Món ăn chay giả thịt cá bán tại các chùa

(2) Món ăn chay giả thịt cá bán tại các tiệm

(3) Ăn chay v́ lư do sức khỏe,

(4) Người ăn chay chỉ v́ có ḷng thương súc sinh, không liên quan đến tu tâm theo Phật giáo.

Món ăn giả thịt cá tại các chùa:

Đức Phật dạy rằng "Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh", "Ta là Phật đă thành, chúng sinh là Phật sẽ thành", chữ chúng sinh ở đây là chỉ tất cả mọi loài động vật có cảm giác, chứ không chỉ riêng loài người.

Cửa chùa là nơi truyền bá đạo Phật, tu sĩ ở chùa là Trưởng tử Như Lai, đem chánh pháp dạy chư Phật tử. Một trong những lời dạy quan trọng, cốt tủy của Đức Phật là phải dùng tâm b́nh đẳng để đối xử với mọi loài, cả người lẫn vật. Vậy th́ chúng ta không nên tạo thói quen xấu là thản nhiên nh́n h́nh ảnh con cá con tôm nằm cong queo giữa đĩa nước xốt, hoặc cầm muỗng, đũa xắn cắt con cua, con gà, dù chỉ là gà giả.

Ngoài ra chư vị nào đă thọ Bồ Tát Giới th́ đừng quên là, khác với giới Thanh Văn, chỉ ràng buộc trong một kiếp người và chỉ phạm khi có hành động, giới Bồ Tát là Tâm Giới, chỉ khởi tâm phạm, chưa hành động, là phạm giới rồi. Vậy th́ chư vị Cư Sĩ Bồ Tát Giới chỉ cần nghĩ là : "Ăn con tôm rang muối này ngon quá", dù là tôm giả, tâm của quư vị khởi niệm muốn ăn, là phạm giới rồi.

Món ăn giả thịt cá tại các nhà hàng.

Về các nhà hàng dùng tên giả để gọi các món ăn chay th́ chúng ta nên cảm thông rằng họ làm thương mại, họ cần có những phương pháp lôi cuốn khách hàng, là những người đă quen ăn thịt cá nay chuyển sang ăn chay. Nếu món nào cũng chỉ dùng tên vật liệu để gọi th́ chỉ c̣n là: nấm xào rau, đậu om, rau luộc, rau kho..v..v.., rất ít món, khó lôi cuốn khách hàng.

Dầu sao, thực khách khi ăn một món giả, cứ nghĩ đến một con thật đă thoát chết, th́ ḷng từ bi cũng đang tăng trưởng rồi đó.

Ăn chay v́ lư do sức khỏe:

Nhóm người này tránh ăn thịt động vật v́ thấy rằng thịt động vật mang đến nhiều chất độc và bệnh tật. Đối với họ, lư do ăn chay hoàn toàn vị kỷ. Nếu một mai khoa học t́m ra rằng ăn vẩy rồng, gân cọp sẽ khỏe mạnh sống lâu, th́ họ sẽ lại hỳ hục đi săn rồng, săn cọp.

Tuy nhiên, dù mục tiêu ăn chay của họ vị kỷ, không v́ loài vật, nhưng phó sản của nó lại vô t́nh cứu loài vật bớt chết (có nghĩa là bớt bị sản xuất ra để rồi phải sống tù tội và chết đau đớn), và cũng giúp cho ḍng nghiệp lực sinh tử tử sinh của họ bớt nợ máu.

Cho nên, đối với nhóm người này, món ăn giả nếu có làm cho họ cảm thấy hấp dẫn, thích ăn, bớt thèm thịt, th́ vẫn có ích lợi cho cả phiá người và vật.

Ăn chay v́ ḷng thương loài vật:

Nhóm này thuộc đủ mọi thành phần tôn giáo và không tôn giáo. Họ tránh ăn thịt chỉ v́ ḷng thương xót loài vật, không nỡ đóng góp thêm vào nỗi thống khổ của cuộc sống đầy đau thương, bị hành hạ, chà đạp, đánh đập, sống chen chúc, bị ép cho đẻ nhiều rồi chia rẽ mẹ con, trước khi chết c̣n bị sống những ngày kinh hoàng trên những chiếc xe chuyên chở khổng lồ, đói khát, dồn ép trong một trạng thái thần kinh rất là khủng khiếp, rồi bị lùa vào hành lang dẫn đến ḷ sát sinh, để nghe thấy những tiếng thét thất thanh trong giây phút dẫy chết.

Do được thấy tận mắt, hay coi phim, hoặc xem sách báo, tâm những người này đă chuyển, họ cảm thấy ăn thịt là kéo dài những nỗi thống khổ cho loài vật, cũng là những sinh vật có đầy đủ t́nh cảm, xúc động v..v.. như con người. Nhóm người này ăn chay dễ dàng và c̣n cổ động mọi người ăn chay để toả rộng ḷng nhân từ ra khắp nơi.

Điển h́nh nhóm này là những hội viên hội PETA (People For The Ethical Treatment of Animals). Đối với họ, khi nh́n tôm thịt cá giả trên bàn, th́ họ cũng cảm thông với những người đang từ từ chuyển hướng sang ăn chay, và mừng rằng cứ một con tôm, con cá, con gà "giả" trên bàn ăn là đă cứu một con tôm, con cá, con gà "thật".

Cho nên, nhóm người này rất ủng hộ những tiệm ăn chay và hoan nghênh những con "tôm cá giả, gà giả" trên bàn ăn đă giúp những "sinh vật thật" khỏi chết thảm. Họ quan niệm rằng:

"Nếu như tật xấu ăn thịt cá đă bám rễ sâu xa trong óc con người, th́ những món "chay giả mặn" đă cứu những sinh vật thật thoát chết".
florida80_is_offline  
Old 01-13-2020   #1069
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,613
Thanks: 7,322
Thanked 46,141 Times in 12,815 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Trở Về Nhà Cũ - Daisetz Teitaro Suzuki
Dịch giả: Trúc Thiên






Vô Minh là bỏ nhà ra đi, và Giác Ngộ là trở về. Suốt thời gian phiêu bạt, ta nếm đủ mùi khổ đau cay đắng, nên cơi trần ta sống đây chắc không có ǵ đáng thèm khát quá vậy. Tuy nhiên, Giác Ngộ đến là chấm dứt tất cả, tưởng như một lần nữa ta trở về ngồi yên trong nhà ta, ở đó bổn lai là tự do và yên tịnh. Ư chí tự phủ nhận nó trong dụng công quán chiếu vào nội thể nó, thành thử có mâu thuẫn. Tâm thức không vượt nổi ngoài giới hạn do bổn thể nó đặt ra. Ư chí cố chiến đấu và đâm chán việc nó làm.

"Tại sao?"

Tâm thức ướm hỏi, nhưng đó là câu hỏi không một tâm thức thế gian nào mong đáp được, v́ đó là điều bí mật gắn liền vào bổn thể của ư chí. Tại sao cha chúng ta ở trên trời phải sai đứa con duy nhất xuống chuộc tội cho loài người do chính bàn tay Ngài sáng tạo ra, nhưng càng ngày càng lạc mất quê hương? Tại sao Christ phải ngă ḷng đến vậy cho số kiếp những đứa con hoang của Chúa? Đó là một bí mật ngàn đời, không một sự hiểu biết tương đối nào giải đáp được những câu hỏi ấy. Nhưng v́ lẽ những câu hỏi như vậy luôn luôn được nêu lên, luôn luôn quấy động tâm hồn yên vui của ta, điều ấy đủ chứng tỏ đó không phải là những vấn đề không tưởng dành cho các triết gia chuyên nghiệp giải quyết, mà đích thực chúng đập thẳng vào mỗi người chúng ta, vào tận đáy hồn ta, khiến ta phải chiến đấu và nỗ lực chế ngự chúng bằng một năng khiếu nội tại thâm diệu hơn, thâm diệu gấp bội hơn thứ trí thức suy luận thường.

Câu chuyện đứa con hoang (37) là một đề tài quen thuộc của người Phật giáo cũng như Công giáo. Ta há chẳng thấy bộc lộ ở đó một cái ǵ đời đời chân thực, dầu bi đát và u huyền, một cái ǵ nằm sâu trong đáy tim mỗi người chúng ta? Dầu sao rốt cùng ư chí cũng thành tựu trong việc tự tri tự giác, và trở về ngôi nhà cũ. Niềm yên vui trong Giác Ngộ đích thực là niềm yên vui của một đứa con hoang yên ổn trở về nhà.

Thế ra, trên lư luận, cuộc phiêu lưu ấy tuyệt không ích lợi ǵ hết sao? Phải, cần ǵ phải tự đánh mất đi để rồi tự t́m lại? Cần ǵ phải khởi hành từ số một để đến mười để rồi rốt cuộc từ mười trở về một? Về mặt toán học, quả không có ǵ phi lư hơn. Tuy nhiên, chính đó là chỗ huyền bí của đạo giáo, v́ trở về không phải giản dị chỉ có nghĩa là đếm ngược lại vẫn bấy nhiêu con số ấy. Đó là chỗ muôn trùng khác biệt giữa vật lư và tâm lư. Một khi về rồi, con người không như trước nữa. Ư chí trở về sau bao thửơ phiêu bạt qua tâm thức thời gian, ư chí ấy chính là Chúa vậy.

Trong kinh Kim Cương Định, bồ tát Bất Trụ hỏi Phật tại sao người cha đang tâm đếm vậy để đến năm mươi năm mới gọi đứa con đi hoang trở về, Phật đáp:

"Đừng hiểu năm mươi năm ấy như một khoảng thời gian; đó chỉ có nghĩa là sự mống dậy của một tư tưởng (38)"

Theo thiển ư, ta có thể hiểu đó là sự mống dậy của tâm thức, một sự phân tâm vậy diễn ra trong ư chí phân hóa làm hai, có người làm và người biết. Nhưng người biết ngày càng nhô lên thành khán giả đứng lên phê phán, và toan làm chủ nữa. Bi kịch của thế gian phát sanh từ đó, tấn bi kịch "khổ" mà Phật đặt làm cơ sở cho Bốn Diệu Đế. Cái khổ ấy chính là cuộc sống của hầu hết chúng ta trong thế gian này; thực tế là cái khổ ấy vậy, phô trần tất cả, không quanh co. Tất cả đều do Vô Minh mà ra, do tâm thức ta không tự sáng tỏ được bổn thể, sứ mạng và công dụng của nó đối với ư chí. Tâm thức trước hết phải trở về với ư chí, và chỉ lúc ấy tâm thức mới thành tựu những "bổn nguyện" theo ư muốn của đấng chân sư.

"Nhất niệm khởi" đánh dấu khởi điểm của Vô Minh, và là điều kiện phát khởi của Vô Minh. Hễ chế phục được th́ nhất niệm trở về ư chí, và đó tức là Giác Ngộ. Nên Ngộ tức trở về vậy.

Ở khía cạnh ấy, Công Giáo giàu tinh thần tượng trưng hơn Phật Giáo. Các câu chuyện sáng thế, sa đọa ở vườn địa đàng, chúa sai Christ xuống chuộc tội tổ tông, Christ lên cây thánh giá và sống lại, đó là tượng trưng. Nói rơ hơn, sáng thế là sự mống dậy của tâm thức hoặc "nhất niệm khởi"; sa đọa là tâm thức lạc mất con đường bổn lai; Chúa sai con xuống trần là ư chí muốn tự kiến chiếu bằng một tri năng hậu đắc là tâm thức; Chúa bị đóng đinh là hành vi siêu lên mâu thuẫn của trí và hành phát hiện từ sự mống dậy của ư thức; và cuối cùng Chúa sống dậy có nghĩa là ư chí chiến thắng ư thức, nói khác đi là ư chí tự quán chiếu trong tâm thức và qua tâm thức.

Sau khi sống dậy, ư chí hết dụng công vô lối mà ư thức cũng thôi vừa hát vừa nghe hát. Trong cuộc sống đạo, hai tác dụng ấy, thấy và làm, không sai khác nhau, và tổng hợp trong cái toàn nhất của sinh hoạt nội tâm; thể tổng hợp ấy, người Phật giáo gọi là Ngộ, là xả trừ Vô Minh, là đả trá triền phược, là hủy diệt phiền năo lậu hoặc, v.v...

Thế là siêu lên phạm trù thời gian, Phật giáo không kẹt trong tinh thần tượng trưng sử quan của công giáo, nên toàn hướng đến giải thoát bằng vào một hành vi duy nhất của ư chí; v́ trở về là xóa bỏ hết vết tích của thời gian. Chính đức Phật đă thuật lại như sau cảm tưởng trở về khi mắt Ngài, lần đầu tiên, mở ra trên Pháp mà chưa bao giờ Ngài nghe nói đến.

"Cũng như người bộ hành sau bao thửơ lang thang trong cánh đồng hoang vắng rốt cuộc thấy một con đường cổ, con đường bao người trước đă đi qua, ta bèn noi theo đó mà đi, và gặp làng mạc, cung điện, vườn tược, núi rừng, hồ sen, thành quách, và nhiều cảnh trí khác từng làm nơi an thân lập mệnh của bao người trước (39)"

Xét bề ngoài, cảm tưởng trở về ngôi nhà cũ như mâu thuẫn với điều nhận xét trước về sự kiến chiếu vào những sự vật chưa bao giờ hiện đến trong tâm; nhưng mâu thuẫn là ở luận lư, chẳng phải ở tâm linh. Hễ Phật c̣n dụng trí dơi ngược chuỗi nhân duyên, nghĩa là c̣n toan chuyển ngược về ư chí bổn lai bằng con đường của ư thức kinh nghiệm, th́ Phật c̣n hỏng đích. Chỉ sau khi Phật xô ngă bức tường Vô Minh bằng khí lực của ư chí th́ Phật mơi dẫm lên được con đường cũ. Con đường ấy tuyệt không thể nhận ra bằng con mắt của trí thông minh, dầu Phật vốn thông minh quán thế; cả đến Phật vẫn không thể đứng ngoài định luật chi phối sử dụng trí ấy; chuỗi xích ấy không thể đập náp được bằng cách ngồi đếm suông những mắc xích nhân quả, hết đếm ngược lại đếm xuôi. Chính kiến thức nghĩa là Vô Minh đuổi A Đam từ vườn Địa Đàng đoạ xuống thế giới của đau thương và khổ nhọc, nhưng đứng ra ḥa giải với Chúa Cha, đó là ư chí, chớ không phải kiến thức, ư chí đánh bạt Vô Minh và tạo thành Giác Ngộ.
florida80_is_offline  
Old 01-13-2020   #1070
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,613
Thanks: 7,322
Thanked 46,141 Times in 12,815 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Cảm giác trở về nhận lại những cựu sự xa xưa chứng nghiệm trong giây phút thành đạo là việc rất thường gặp ở những người tu Thiền. Như trường hợp của sư Trí Khải (531-597) giáo chủ pháp môn Thiên Thai ở Trung Hoa, được đời tôn xưng là Tứ Minh Tôn Giả Pháp Trí Đại Sư. Sư học tham thiền với Tổ Nam Nhạc Huệ Tư (513-577), và dầu không chánh thức thuộc pháp hệ Thiền, sư vẫn được coi như một thiền sư chánh thống.

Ở với Thầy, sư luyện một phép thiền gọi là "Pháp Hoa Tam Muội". Ngày kia sư tụng kinh Pháp Hoa đến Phẩm Dược Vương Bồ Tát, câu "thị chân tinh tiến, thị danh chân cúng dường Như Lai" th́ thoạt nhiên nhập định". Trong định, sư thấy Phật nói kinh Pháp Hoa tại hội Linh Sơn chưa tan. Sư thoát hiểu lời Tổ nói với sư: "Xưa ông cùng ta đồng dự hội Linh Sơn nghe kinh Pháp Hoa, duyên xưa theo đuổi, nay lại gặp đây". Sư xuất định thuật lại chỗ sở đắc cho Tổ nghe. Tổ khen: "Duy ông chứng được, chỉ ta mới biết (40)".

Các thiền sư thường bảo rằng thánh chúng hội nghe kinh ở ngọn Linh Sơn nay vẫn chưa tan. Nhưng ta đừng lầm đó chỉ là sự hồi tưởng quá khứ thuộc về phép thần thông của các bậc thánh tăng. Giác Ngộ không liên quan ǵ đến sự hồi tưởng như vậy, v́ Giác Ngộ vốn hàm dưỡng gấp bội hơn bất cứ những ǵ diễn ra trong liên hệ thời gian. Cả đến khi kinh Bát Nhă nêu rơ một nhân danh thưở trước hiện diện trong khi Phật nói kinh ấy, đó vẫn chẳng phải chỉ là nhớ lại suông; khác hơn thứ hiểu biết thường thuộc hiện tượng tâm lư, trí bát nhă đi sâu hơn nhiều trong nội thể con người.

Với người thâm ngộ, "phản bổn hoàn nguyên" có nghĩa là sau bao thưở lưu lăng phong trần, một lần nữa ư chí trở về ngôi nhà cũ an thân lập mệnh với một kho tàng chứng nghiệm vô biên, và một huệ giác chiếu diệu khả dĩ sẽ soi từng bước đi trong cơi đời vô tận.
florida80_is_offline  
Old 01-13-2020   #1071
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,613
Thanks: 7,322
Thanked 46,141 Times in 12,815 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Sự Sợ Hăi và Địa Ngục




Hỏi:

Năm nay tôi đă trên sáu chục tuổi, ở cái tuổi mà hằng ngày t́m tên bạn bè trên những mục cáo phó, phân ưu trong các nhật báo và tuần báo. Biết rằng giờ phút ra đi của ḿnh cũng chẳng c̣n bao xa, cho nên đêm đêm nằm trằn trọc, tôi băn khoăn không biết tương lai sau khi tắt hơi, ḿnh sẽ về đâu.

Thuở nhỏ, mỗi khi làm điều lỗi, tôi thường được nghe người lớn hù dọa về Thập Điện Diêm Vương, về các loại địa ngục ở dưới đất, vân vân, nhưng tôi không quan tâm. Đến nay gần đất xa trời, nhiều lúc tôi mơ hồ cảm thấy một nỗi sợ hăi mênh mông, nên gửi thư này xin thỉnh ư quư vị về vấn đề địa ngục.

Đáp:

Không riêng vị thính giả gửi là thư này, mà nhiều người trong chúng ta, dù có niềm tin về một tôn giáo nào đó, hoặc không tin thần thánh ǵ cả, cũng có đôi chút ấn tượng trong đầu về một cảnh giới được đặt tên là địa ngục.

Ư niệm về địa ngục được h́nh thành từ thời cổ xưa, xuất hiện cùng với ư niệm về ông Trời, về Thượng Đế, về các loại Thánh Thần vân vân. Hầu hết các tôn giáo đều nói đến những sự thưởng phạt sau khi chết, được thưởng th́ được sinh lên thiên đường hưởng phước, bị phạt th́ bị đầy xuống địa ngục chịu tội. Thời trước người ta tin là trái đất vuông, mặt đất bằng phẳng, cho nên thiên đường được giới thiệu là ở cao tít trên mây, và địa ngục ở dưới sâu trong ḷng đất. Lư do để được thưởng hay bị phạt th́ tùy theo luật lệ của mỗi tôn giáo quy định.

Suốt chiều dài của lịch sử loài người, h́nh ảnh về thiên đường và địa ngục đă giúp những bậc trưởng thượng trong các bộ lạc, làng mạc, thôn xóm, gia đ́nh, như là một trợ huấn cụ đắc lực để răn đe con cháu khỏi làm điều sai trái.

Sau này, khi các tổ chức tôn giáo h́nh thành, th́ vai tṛ thiên đường và địa ngục lại càng đắc lực hơn, trong việc tạo ấn tượng về thưởng phạt, về nỗi khiếp sợ sẽ bị đầy xuống địa ngục nếu trái lệnh, hoặc sự cứu rỗi nếu người tín đồ vâng lời, khiến cho từ trong tiềm thức, người ta tin chắc rằng cần phải có một nơi để bấu víu, để nương tựa sau khi chết, nếu không sẽ phải chịu muôn vàn khốn khổ, thiêu đốt vĩnh viễn trong địa ngục.

Có niềm tin cho là sau khi con người chết đi, linh hồn xuống tới âm phủ, th́ “quỷ thần hai vai” của người ấy sẽ đem tất cả công và tội của họ tâu lên vua Diêm Vương để ông ta quyết định sự thưởng phạt, hoặc cho lên trời hưởng phước, hoặc đầy vào các loại địa ngục mà tên gọi thường là rất rùng rợn, tùy theo sáng kiến của người phát minh.

Đạo Phật không tin chuyện quỷ thần hai vai và ông Diêm Vương nào đó lại có thể quyết định vận mạng của ai được. Nền đạo đức Phật giáo không xây dựng trên sự thưởng phạt ở thiên đường hoặc địa ngục, do các Thần Linh áp đặt, mà lấy quy luật nhân quả làm căn bản.

Tâm lư học của đạo Phật cho rằng tất cả những việc mà mỗi ḍng đời tạo ra, trải dài theo cuộc hành tŕnh trong thế giới hiện tượng tương đối này, là những hạt giống, hay c̣n gọi là chủng tử thiện hoặc ác, trong tương lai khi hội đủ cơ duyên, sẽ nẩy nở thành những thiện quả hoặc ác báo, đều chứa tại Thức Thứ Tám, c̣n gọi là Tàng Thức hoặc A Lại Da Thức, của chính ḍng sinh mạng đó. Thức này là lớp Vọng, cũng mênh mông như Chân Tâm, tạm ví như làn sóng điện trong không gian.

Những chủng tử thiện hoặc ác này sẽ xuất hiện vào giây phút lâm chung, để quyết định cảnh giới tái sinh của đương sự, nhà Phật gọi là “gió Nghiệp cuốn đi tái sinh”. Một số người có kinh nghiệm về cận tử (near death experience) kể lại đại khái rằng vào cái lúc họ cảm thấy muốn ngừng thở, bỗng nhiên trước mắt nổi lên một cảnh tượng tràn ngập không gian, cả quăng đời quá khứ, những việc làm khiến cho họ rất sung sướng hoặc rất đau khổ, xuất hiện như là đồng thời. Họ cảm thấy như trong giấc mơ, như là h́nh ảnh của kư ức. Đối với quan điểm của nhà Phật th́ đó là giây phút mà một người có thể nh́n thấy được chính cái kho chứa các nghiệp nhân, tức là Tàng Thức của ḿnh.

Chiếu theo thành quả tự tu, tự giác ngộ lại Bản Thể của đức Phật, người Phật tử không tin vào sự cứu rỗi do bên ngoài mang đến, mà tin vào chính ḿnh, theo gương sáng của đức Bổn Sư. Trong đời sống, người Phật tử từng bước chuyển hóa tâm, từ xấu ác trở thành lành thiện, đó là giai đoạn chuyển hóa tương đối. Sau đó sẽ bước qua giai đoạn cốt tủy của quá tŕnh tu chứng là “thanh tịnh hóa tâm”, vượt lên trên những khái niệm thiện và ác tương đối, chỉ c̣n lại tâm Từ Bi và Trí Tuệ B́nh Đẳng, hóa giải tam độc Tham Sân Si, vốn là căn bản trói buộc con người vào ṿng sinh tử. Từ đây ḍng sinh mệnh được hoàn toàn giải phóng, đạt được mục tiêu tối cao của con đường tu Phật, là Toàn Giác.

Có câu chuyện ẩn dụ về sự tự tu, tự độ như sau:

“Trong khu vườn kia có một nhóm thiền sinh đang đứng chung quanh vị thiền sư. Góc vườn là một con cọp bị trói. Thiền sư hỏi đám học tṛ:

- Có ai biết cách cởi trói cho con cọp không?

Đám thiền sinh góp ư, người th́ bàn “lấy tấm lưới chụp nó”, người th́ bảo ”xông thuốc mê cho nó”. Cuối cùng, một thiền sinh ung dung:

- Cứ bảo người nào đă trói được nó, th́ chính người đó mở trói cho nó là xong.''

Câu chuyện nói lên tính chất của quy luật nhân quả, người nào tạo nhân th́ người đó lănh quả, người nào ăn th́ người đó no, người nào tu hành thanh tịnh hóa tâm th́ người đó giác ngộ.

Như thế về căn bản, đạo Phật không tin vào sự cứu rỗi, mà tin lời Phật tuyên bố khi mới thành đạo: “Ta là Phật đă thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”, và câu di huấn khi Ngài sắp nhập cảnh giới Niết Bàn: “Mọi người hăy tự thắp đuốc lên mà đi”. Đuốc ở đây là đuốc Tuệ, là ngọn đèn trí tuệ mà đức Phật đă giơ cao, nay c̣n nằm trong kinh điển, mỗi người đều cần phải “tự học, tự tu, tự giác thành Phật”.

Tuy nhiên, trên con đường giáo hóa chúng sinh từng bước, đạo Phật đi trong nhân gian thường dùng những phương tiện đă sẵn có của người dân địa phương để truyền bá tư tưởng nhà Phật, theo tôn chỉ “tùy duyên mà bất biến”, dùng b́nh địa phương đựng thuốc Phật giáo, khiến cho mọi người đều được thấm nhuần tư tưởng từ bi hỷ xả mà không cảm thấy nền văn hóa truyền thống của họ bị xúc phạm. Thí dụ tượng ảnh đức Phật khi ở Ấn Độ th́ gầy g̣, nghiêm túc, đúng là h́nh ảnh người tu khổ hạnh. Sang tới Mỹ, tại tu viện Shasta trên sườn núi Shasta, nơi có trên sáu chục vị sư người Tây Phương từ các tôn giáo khác chuyển qua đạo Phật đang tu hành, th́ tượng Bồ Tát Quán Thế Âm lại giống hệt tượng Đức Mẹ. Trong khi đó, tượng ảnh Phật và chư Bồ Tát bên Trung Hoa th́ lại mập mạp, hơi mỉm cười, đượm vẻ từ bi, cảm thông với chúng sinh, theo truyền thống hiếu khách của người Á Đông là “đem lại niềm vui cho nhau”.

Tóm lại, đạo Phật cũng nói về thiên đường và địa ngục, nhưng với ư nghĩa hoàn toàn khác hẳn. Từ quan điểm “nhất thiết duy tâm tạo” trong kinh Hoa Nghiêm, thiên đường và địa ngục dưới mắt người Phật tử chính là những cảnh giới tâm thức, mà mỗi người đều trải qua hằng ngày. Nếu con người không chế ngự được ba thói xấu là tham lam, sân hận và si mê, để cho bản thân rong ruổi trong sự bon chen, tính toán lợi ḿnh hại người, th́ tâm hồn không được an lạc, mà phiền năo triền miên, ăn không ngon, ngủ không yên, thường thấy ác mộng do những bực bội bất măn gặp phải hằng ngày, đó cũng đă được coi là cảnh giới địa ngục của tâm thức rồi.

Trong kinh Địa Tạng, chúng ta cũng thấy nói đến những cảnh giới địa ngục. V́ “nhất thiết duy tâm tạo” nên những cảnh giới trong kinh Địa Tạng cũng là những cảnh giới tâm thức. Địa Tạng cũng có nghĩa là Tâm Địa, là Đất Tâm. Nhà Thiền có câu “Đất Tâm nếu trống không th́ mặt trời Trí Tuệ tự chiếu”. Người nào có thể “thanh tịnh hóa tâm”, khiến cho Đất Tâm trống không, thí Trí Tuệ B́nh Đẳng tự hiện, cũng có nghĩa là Bồ Tát Địa Tạng đă phá xong cửa ngục tâm thức cho người đó rồi. C̣n như nếu Đất Tâm mà ô nhiễm quá, th́ vào giờ phút lâm chung, do nghiệp thiện hoặc ác trong quá khứ, mà thần thức người đó sẽ bị chiêu cảm vào cảnh giới tương ưng.
florida80_is_offline  
Old 01-13-2020   #1072
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,613
Thanks: 7,322
Thanked 46,141 Times in 12,815 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Quan điểm của nhà Phật về tất cả hiện hữu trên thế gian là vô thường. Tâm cũng vô thường, khi tâm chuyển th́ tất cả mọi thứ do tâm tạo cũng chuyển theo tâm. Cho nên, đối với nhà Phật, không có cảnh giới địa ngục vĩnh viễn. Mỗi người đều có thể tự ra khỏi địa ngục bằng sự “thanh tịnh hóa tâm” của họ. Đó là niềm hy vọng về giải thoát của tất cả mọi người.

Nhà Phật có câu: “ Buông dao đồ tể là thành Phật” hoặc “Biển khổ mênh mông quay đầu là bến”. “Buông dao” và “quay đầu” ở đây có nghĩa là buông bỏ đời sống ô nhiễm, bước vào con đường thực hành các phương pháp để “thanh tịnh hóa tâm” như Mật Tông, Thiền Bắc Tông, Thiền Nam Tông, Tịnh Độ Tông, vân vân …

Nói về nỗi sợ hăi th́ tất cả loài người chúng ta, mà có lẽ luôn cả các loài sinh vật nữa, kể từ thời tiền sử, đều đă mang sẵn một nỗi sợ hăi mênh mông. Ngay khi vừa mới lọt ḷng mẹ, đứa bé đă khóc thét lên v́ sợ, tay chân quờ quạng, chới với. Nó đang được nằm trong bào thai, được bảo bọc chặt chẽ, ấm áp trong ḷng mẹ nó, nay bỗng nhiên rơi tơm vào một khoảng không gian trống rỗng, nên nó thất kinh hồn vía. Rồi theo với thời gian, càng ngày con người càng có thêm nhiều nỗi sợ hăi, từ những nỗi sợ nhỏ nhít linh tinh như sợ bị đ̣n, cho tới nỗi sợ mất mát người thân yêu, mất nước, vân vân. V́ nỗi sợ hăi triền miên này mà tinh thần con người bị giam hăm, không khai phóng nổi.

Tư tưởng gia J. Krishnamurti đă tŕnh bày trong cuốn On Fear như sau:

“Đầu tiên chúng ta hăy tự hỏi “sợ là ǵ” và “nỗi sợ hăi nổi lên như thế nào”?

Đối với chúng ta, bản thân từ ngữ “sợ” nghĩa là ǵ? Tôi đang tự hỏi “sợ là cái ǵ”, chứ không phải là “tôi sợ cái ǵ”.

Hiện tại, ngay lúc tôi đang ngồi đây, tôi không sợ. Lúc này tôi không sợ, chẳng có chuyện ǵ xẩy ra cho tôi, chẳng ai đe dọa hoặc lấy cái ǵ của tôi. Nhưng ngoài cái thời gian đang hiện hữu này, trong tâm thức tôi c̣n có một lớp sâu hơn, đó là vùng ư thức hoặc vô thức, đâu đó, manh nha tới điều ǵ đó có thể xảy ra cho tôi trong tương lai, hoặc e ngại về một cái ǵ đó từ thời quá khứ đột nhiên ụp xuống đầu tôi. Cho nên tôi sợ cả quá khứ lẫn tương lai. Thế là tôi đă chia thời gian ra thành quá khứ và tương lai. Đến đây th́ sự suy nghĩ nhẩy vào lên giọng: “Coi chừng, sẽ không gặp được điều đó một lần nữa đâu”, hoặc “Sửa soạn sẵn cho tương lai đi. Tương lai anh có thể sẽ nguy khốn. Bây giờ tuy là anh đă có chút đỉnh, nhưng rồi ra có thể là anh sẽ bị mất hết. Biết đâu chừng ngày mai anh sẽ chết, vợ anh có thể bỏ anh, có thể anh sẽ mất công ăn việc làm. Anh có thể chẳng bao giờ trở thành người có danh vọng. Có thể anh sẽ cô đơn… ”

Bây giờ chúng ta hăy thử xét tới cái dạng sợ hăi của chính bạn. Nh́n coi. Quan sát kỹ phản ứng của bạn đi. Bạn có thể nh́n nỗi sợ hăi đó mà không nhấp nhổm muốn bỏ chạy, không nẩy ra chút ư muốn bào chữa, kết án hoặc kiềm chế chăng? Bạn có thể trực diện nỗi sợ đó mà không có trong tâm cái từ ngữ đă làm thức dậy nỗi sợ chăng? Bạn có thể trực diện sự chết, thí dụ thế, mà không có từ ngữ đă đánh thức nỗi sợ chết chăng? Bản thân từ ngữ đă đem tới sự chấn động, cũng như từ ngữ “yêu” có sự rung động của chính nó, có ấn tượng của chính nó, phải vậy không?

Bây giờ hăy coi có phải là những h́nh ảnh trong tâm trí bạn về sự chết, kư ức về biết bao nhiêu cái chết mà bạn đă nh́n thấy, cùng với sự bạn tự liên tưởng chính bản thân với những chuyện đă xẩy ra c̣n giữ trong tiềm thức đó, — phải chăng đó chính là h́nh ảnh đă tạo ra sự sợ hăi trong ḷng bạn? Hay là quả thật bạn sợ sự chết sẽ đến chứ không phải là bạn sợ những h́nh tượng trong tâm đă tạo ra sự chết. Có phải là từ ngữ “chết” làm cho bạn sợ hay là sự chết thật? Nếu chỉ là từ ngữ hoặc kư ức là lư do để bạn sợ th́ chẳng có ǵ đáng sợ hết ráo.

Giả dụ như hai năm trước bạn bị bệnh, kư ức về sự đau đớn, về cơn bệnh vẫn c̣n tồn tại trong trí nhớ, nay nó trỗi dậy nhắc nhở “Coi chừng, đừng để bị bệnh lại như lần trước nữa đấy nhé”. Thế rồi kư ức cùng với bè đảng của nó là guồng máy suy tư bèn tạo nên sự sợ hăi, mà thật ra th́ chẳng có cái ǵ đáng để mà sợ hết ráo, v́ lẽ lúc đó bạn đang rất là khoẻ mạnh.

Tư tưởng, vốn là cái luôn luôn cũ mèm, bởi v́ tư tưởng thoát thai từ kư ức, mà kư ức th́ dĩ nhiên là luôn luôn cũ mèm - tư tưởng, vào lúc đó, tạo ra cái cảm giác là bạn đang sợ hăi, nhưng đó chỉ là cảm giác, không có trong thực tế. Thực tế là bạn đang khỏe mạnh. Nhưng cái kinh nghiệm về sự đau ốm, vốn đă khắc ghi trong tâm trí, trỗi lên nỗi sợ “Cẩn thận, đừng để bị bệnh lại nữa đấy nhé!”

Như thế chúng ta thấy rằng chính suy nghĩ gây ra một loại sợ hăi.”

Vậy th́, như J. Krishnamurti nói ...“… chính suy nghĩ gây ra một loại sợ hăi”.

Đạo Phật từ hai ngàn năm trăm năm trước cũng đă khuyên mọi người nên “thanh tịnh hoá tâm”, nghĩa là đừng để cho tâm chạy nhẩy như con vượn, con ngựa (tâm viên ư mă), th́ sẽ được hưởng một đời sống giải thoát từng bước, rồi sẽ tới giải thoát triệt để.

Không cần phải đi tới đích mới được hưởng hoa trái, mà ngay khi quyết định bước lên con đường thanh tịnh hóa tâm là đă bắt đầu được hưởng kết quả, tâm hồn đă thấy thơ thới hân hoan rồi.

Có bài kệ trong kinh Phật như sau:

Tội từ tâm khởi đem tâm sám
Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu
Tội tiêu tâm tịnh, thẩy đều không
Ấy mới thật là chân sám hối.
florida80_is_offline  
Old 01-13-2020   #1073
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,613
Thanks: 7,322
Thanked 46,141 Times in 12,815 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Sám hối ở đây là “thanh tịnh hoá tâm”, làm cho “tâm tịnh”, chứ không phải là đem nải chuối tới chùa cúng Phật, hứa hẹn và cầu xin lung tung.

Nhà Phật cho rằng con người ta v́ vô minh mà tạo nghiệp, thọ báo, cũng ví như một người đang đi trong căn nhà tối. Khi tâm được tịnh rồi “Trí Tuệ B́nh Đẳng tự chiếu”, th́ cũng ví như bật ngọn đèn bừng sáng lên, bóng tối biến mất, màn vô minh bỗng tan ră, là lúc con người giác ngộ giải thoát vậy.
florida80_is_offline  
Old 01-13-2020   #1074
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,613
Thanks: 7,322
Thanked 46,141 Times in 12,815 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

"Mười Bốn Điều Răn Của Phật"
là Giả Mạo




Hỏi:

- "Tôi đọc được thư của một người mẹ gửi cho con trên một trang blog nói về 14 điều dạy của Đức Phật. Sau khi xem tôi thấy làm lạ, những điều này không thấy được nhắc tới trong kinh sách. Xin quư ban biên tập cho biết ư kiến.

Dưới đây là nguyên văn "14 điều dạy của Đức Phật" đó:




1.- Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính ḿnh.
2.- Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá.
3.- Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại.
4.- Bi ai lớn nhất của đời người là ganh tỵ.
5.- Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất ḿnh.
6.- Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu.
7.- Đáng thương lớn nhất của đời người là tự ty.
8.- Đáng khâm phục lớn nhất của đời người là vươn lên sau khi ngă.
9.- Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng.
10.- Tài sản lớn nhất của đời người la sức khỏe, Trí Tuệ.
11.- Món nợ lớn nhất của đời người là t́nh cảm.
12.- Lễ vật lớn nhất của đời người là khoan dung.
13.- Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là kém hiểu biết.
14.- An ủi lớn nhất của đời người là bố thí.
(Trích lời kinh Phật)


(GHI CHÚ CỦA BAN BIÊN TẬP TVHS (trong quyển sách:

Nguồn: http://old.thuvienhoasen.org/tmd-ton...dantoc1-01.htm


"14 điều răn của Phật" trên là tên của một bản văn được truyền tụng không có nguồn gốc rơ ràng. Theo Đại đức Thích Nhật Từ, 14 điều này vốn được lưu truyền tại chùa Thiếu Lâm, Trung Quốc. Không có bài kinh nào trong các bộ Kinh tạng Pa-li, A-hàm kinh và kinh Đại Thừa chứa đủ 14 điều này. Tác giả có thể là các nhà sư chùa Thiếu Lâm và họ đă biên tập, trích dẫn ư tưởng từ các bản kinh, và tập hợp lại theo trật tự ḿnh đặt ra. Việc truy t́m lại nguyên gốc các câu riêng lẻ từ kinh Phật là điều rất khó. Các bản dịch tiếng Việt đă có một số điểm lệch so với nguyên tác. Ví dụ, "điều răn" là cách dịch không chính xác từ giới (nguyên ngữ Śīla trong tiếng Phạn với nghĩa "giới" của Phật giáo, hay "điều khoản đạo đức").
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

Nghiên cứu nội dung cái gọi là "14 điều răn của Phật" này, tác gỉa Đoàn Đức Thành trong một email phổ biến trên mạng cho biết nó tương tự như bản văn "Nhân Sinh Thập Tứ Tối" (14 Cái Hay Nhất của Đời Người) của Trung Quốc, chỉ khác 2 điều:

(1) Điều 6 Trung Quốc viết là: “Tội lỗi lớn nhất của đời người là lừa dối chính ḿnh”,

(2) Điều 10, Trung Quốc viết là “tài sản lớn nhất của đời người là sức khoẻ".

Tác giả cũng đề nghị nên thay tiêu đề "14 ĐIỀU RĂN CỦA PHẬT" bằng "14 CÁI HAY NHẤT CỦA ĐỜI NGƯỜI" và bỏ ḍng "TRÍCH LỜI KINH PHẬT".

Dưới đây là phóng ảnh bản của Trung quốc:
(ĐOÀN HỌC GIẢ HỌC VIỆN QUAN HỆ QUỐC TẾ VIỆT NAM sưu tầm tại Chùa Thiếu Lâm Trung Quốc)






H́nh bên trên: Một bản có tên "14 điều dạy của Phật", dạng treo tường
(Ảnh: http://vi.wikipedia.org)





***


Dưới đây là ư kiến của cư sĩ Hiển Chánh:

So sánh với lời Phật dạy trong kinh điển th́ nhiều điều trong số 14 điều này ư nghĩa khác hẳn ư trong kinh Phật, thí dụ:

Câu thứ nhất : Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính ḿnh

Trong kinh Pháp Cú, phẩm Phật Đà, đức Phật dạy:

182. "Khó thay, được làm người,
Khó thay, được sống c̣n,
Khó thay, nghe diệu pháp,
Khó thay, Phật ra đời!"

Ngài cũng dạy:

"Thật khó được vậy, này các Tỳ kheo, là được làm người. Thật khó được vậy, này các Tỳ kheo, là được Như Lai xuất hiện ở đời, bậc A la hán, Chánh đẳng giác, thật khó được vậy, này các Tỳ kheo, là Pháp và Luật này do Thế Tôn thuyết giảng, chiếu sáng trên đời." (Tương Ưng V, 450 - 460).

Vậy “được làm người” là một điều tốt, v́ nhờ đó mà người ta tu hành được, không thể coi là “kẻ thù”.

Câu thứ 2 : Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá.

Dối trá là một điều xấu mà trong Ngũ Giới, nó đứng hàng thứ 4, Giới Vọng Ngữ gồm:

a. không nói dối,
b. không nói đâm thọc,
c. không nói thô lỗ cộc cằn và
d. không nói nhảm nhí.

Nhiều điều khác như giết người, trộm cắp, tà dâm, c̣n do "ngu dốt" hơn nhiều.

Câu thứ 3 : Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại.

"Tự đại" chỉ là Ngă Mạn, một trong 6 phiền năo căn bản gồm Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác Kiến, không phải là "thất bại lớn nhất".

Phải là những điều đáng tiếc rất lớn như đă được là một tu sĩ mà lại phá giới hoặc lạc vào đường tà, để "lỡ một kiếp người" th́ mới là thất bại lớn nhất.

Câu thứ 4 : Bi ai lớn nhất của đời người là ganh tị.

Ganh tị là một trong những tật xấu, nằm trong 6 phiền năo căn bản. Ai cũng thấy trong cuộc đời thường ngày, có biết bao nhiêu chuyện xảy ra, "bi ai" hơn nhiều.
florida80_is_offline  
Old 01-13-2020   #1075
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,613
Thanks: 7,322
Thanked 46,141 Times in 12,815 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Câu thứ 5 : Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất ḿnh.

Thế nào là “Đánh mất ḿnh?”. Nếu “ḿnh” đây là “Ngă” th́ sự làm mất được khái niệm về “Ngă Chấp” là một thành công trong tu hành đạo Giác Ngộ Giải Thoát chứ, sao lại cho là “sai lầm”. Vô Ngă là một trong Tam Pháp Ấn, là ba điểm cốt tủy, quan trọng, dùng để đối chiếu Chân và Giả.

6.- Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu.
7.- Đáng thương lớn nhất của đời người là tự ty.
8.- Đáng khâm phục lớn nhất của đời người là vươn lên sau khi ngă.
9.- Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng.
10.- Tài sản lớn nhất của đời người la sức khỏe, Trí Tuệ .

Năm câu này thuộc loại “túi khôn muôn đời”, không cần đến trí tuệ của bậc Đại Giác để phát biểu

Câu thứ 11.- Món nợ lớn nhất của đời người là t́nh cảm.

Nhà Phật nói “t́nh sanh, trí cách”. T́nh cảm làm cho con người mất khách quan, sáng suốt, níu giữ con người trong chốn trần ai Tham Sân Si, không phải là điều nhà Phật khuyến khích.

Phật dạy “Vô duyên Từ, Đồng thể Bi”, là ḷng trắc ẩn, bi mẫn, thương xót toàn thể chúng sinh b́nh đẳng, không phân biệt có, hay không có t́nh cảm. Tu hành là để xóa bỏ t́nh cảm riêng tư để thay vào đó là ḷng bi mẫn, trắc ẩn, thương xót tất cả chúng sinh.

Câu thứ 12.- Lễ vật lớn nhất của đời người là khoan dung.

Khoan dung nằm trong đức Nhẫn Nhục, là một trong Lục Độ, là 6 con đường để giải thoát, không là “lớn nhất”.

Câu thứ 13.- Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là kém hiểu biết.

Biển “hiểu biết” mênh mông, không thể phân biệt hơn hoặc kém. Đệ tử Phật là Châu Lợi Bàn Đà Dà v́ quá chậm lụt, ít hiểu biết, Phật dạy chỉ chú tâm vào hai chữ “chổi quét” mà đắc A La Hán. Lục Tổ Huệ Năng cũng chỉ là một tiều phu, mà nhờ công năng tu hành, trở thành Tổ thứ sáu của Thiền Tông.

Phật dạy:

Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành,
Tự tịnh kỳ ư...

Đặc điểm quan trọng, cốt tủy của đạo Phật là “Tự tịnh kỳ ư”, tự thanh tịnh tâm ḿnh, không phải là chất đầy kiến thức.

Câu thứ 14.- An ủi lớn nhất của đời người là bố thí.

Đức hạnh "Bố thí" trong nhà Phật là một trong Tứ Vô Lượng Tâm, là hạnh Xả. V́ thương xót chúng sinh thực hành "hạnh xả bỏ" và để bài trừ thói xấu bần tiện, nắm giữ, là nguyên nhân gây nghiệp, trả quả báo triền miên trong luân hồi.

Bố thí v́ từ tâm, v́ ḷng thương trải rộng tới muôn loài, vô vị lợi, không phải là hành động v́ cái tôi của ḿnh, để được tự an ủi, là hành động vị kỷ, không phải quan điểm của nhà Phật.

Lời Phật đều phải nằm trong Kinh Phật. Nếu ai cũng tùy tiện, tự sáng tác, rồi gán là "Lời Phật", th́ đạo Phật sẽ bị biến dạng không biết tới đâu mà lường.


Theo "Bách khoa toàn thư mở Wikipedia":

"14 điều răn của Phật là những điều được nhiều người Việt truyền tụng, xem như trích trong kinh Phật. Tại chùa Trấn Quốc hiện có ghi lại các điều này. [1]. Tuy nhiên, cũng có ư kiến cho rằng những điều răn này có thể t́m thấy ở chùa Thiếu Lâm[2]...."
(Nguồn: Bách Khoa Toàn Thư Mở)
Câu "...những điều răn này có thể t́m thấy ở chùa Thiếu Lâm" không có giá trị về mặt chứng minh đây là lời Phật.

Từ khi Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nhà nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa ngày 1 tháng 10 năm 1949, Trung Quốc đă theo chủ nghĩa cộng sản vô thần.

Không những thế, sau khi đă xảy ra vụ cái gọi là “cách mạng văn hóa” do bọn Tứ Nhân Bang gồm: Giang Thanh (vợ thứ tư của Mao Trạch Đông), Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên và Vương Hồng Văn cầm đầu, giết và bỏ tù giới trí thức, tàn phá đền đài, chùa chiền, đốt xé kinh sách, làm tan hoang cả nước Tầu, gây kinh hoàng cho dân Trung Quốc trong suốt 10 năm trời, từ năm 1966 đến năm1976, tác động rộng lớn và sâu sắc lên mọi mặt của cuộc sống chính trị, văn hóa, xă hội, ... vân vân ... , với mục đích đánh bật nền văn hóa Trung Hoa tận gốc rễ. Như thế th́ câu mơ hồ "những điều răn này có thể t́m thấy ở chùa Thiếu Lâm", có ǵ đáng tin cậy là "lời răn của Phật"???


Hiển Chánh (aka Liên Hương)
florida80_is_offline  
Old 01-13-2020   #1076
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,613
Thanks: 7,322
Thanked 46,141 Times in 12,815 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Pháp Sư Tịnh Không
người có công phục hưng Tông Tịnh Độ thời hiện đại
Thích Nguyên Tạng







Pháp Sư Tịnh Không (Master Chin Kung) thế danh là Từ Nghiệp Hồng (Yae Hong Hsu), sinh năm 1927 tại huyện Lô Giang (Lujiang County), tỉnh An Huy (Anhui province), Trung Hoa. Ngài đă theo học tại trường Trung Học Đệ Tam Cấp Quốc Gia Quế Châu (Guizhow) và Trường Trung Học Đệ Nhất cấp Thành Phố Nam Kinh. Năm 1949, Ngài đến Đài Loan và làm việc ở Viện Thạch Kiến (Shijian). Trong mười ba năm sau đó, Pháp Sư Tịnh Không đă dùng thời gian rảnh rỗi để nghiên cứu kinh điển, lịch sử và triết học Phật Giáo dưới sự hướng dẫn của giáo sư Đông Mỹ Phương (Dong Mei Fang), Lạt Ma Tây Tạng, Trương Gia Đại Sư (Zhang Jia) và pháp sư nổi tiếng Lư Bỉnh Nam (Bing Nan Lee), đệ tử chân truyền của Đại sư Ấn Quang (Yin-Guang).

Pháp Sư Tịnh Không là người thông thạo nhiều Kinh điển Đại Thừa và các bộ luận của nhiều tông phái Phật giáo (PG) cũng như triết lư của Đạo Khổng, Đạo Lăo, Đạo Gia Tô, Đạo Hồi và các Tôn giáo khác. Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Độ trong hiện đại, Ngài đă cống hiến cả cuộc đời ḿnh cho việc nghiên cứu, thực hành và truyền bá pháp môn Tịnh Độ, là một pháp môn mà Ngài đă đạt được những thành tựu lớn nhất.

Pháp Sư Tịnh Không xuất gia năm 1959 tại Chùa Lâm Tế (Linji), thuộc tỉnh Ngọc Án Sơn (Yuanshan), Đài Bắc và được Ḥa Thượng Bổn sư ban cho pháp danh là Tịnh Không. Sau khi thọ Cụ Túc Giới, Ngài bắt đầu công việc hoằng pháp và truyền bá giáo lư tại Đài Loan và ở nước ngoài. Trong hơn bốn mươi năm, Ngài đă liên tục thuyết giảng năm bộ Kinh Tịnh Độ, và các bộ kinh Đại Thừa như:

1. Kinh Hoa Nghiêm
2. Kinh Pháp Hoa
3. Kinh Lăng Nghiêm
4. Kinh Viên Giác
5. Kinh Kim Cang
6. Kinh Địa Tạng .v.v...

May mắn thay các cuộc thuyết giảng của Ngài đă được ghi lại trên hàng ngàn các loại băng cassettes, video, DVD, VCD, v.v... để phổ biến cho những ai không có duyên trực tiếp đến dự các pháp hội của Ngài. Cho đến nay, Ngài vẫn hoan hỷ đi đó đây để thuyết pháp giảng kinh một cách không mệt mỏi.

Trong sự nghiệp giảng dạy lâu dài của Ngài, Pháp Sư Tịnh Không đă giữ những chức vụ như :

-Giảng viên tại Viện Tam Tạng ở Chùa Thập Phổ (Shipu) năm 1960
-Thành viên Ủy ban Truyền Bá Giáo Lư năm 1961
-Thành viên Ủy Ban Kế Hoạch của Hội Phật Học Đài Loan năm 1965
-Giảng Viên trưởng khóa học Phật Pháp cho sinh viên đại học thuộc Hội Phật Học Đài Loan năm 1972
-Nghiên cứu gia Phật học tại Học Viện Trung Hoa
-Giáo sư và biên tập viên Hội Phiên dịch Kinh Luận Phật Học Đài Loan năm 1973
-Giáo sư Ban Triết Học tại Đại Học Văn Hóa
-Giáo Sư Khóa Học Sống Đạo cho Gia Tô Đông Á thuộc Đại Học Gia Tô Phụ Nhân (Fu Ren) năm 1975
-Hiệu Trưởng Trường Trung Đẳng Phật Học Trung Hoa năm 1977
-Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Tu Tập Tịnh Độ Trung Hoa năm 1979.

Tất cả những học viện nói trên đều ở Đài Loan.

- Năm 2002, Pháp sư Tịnh Không đă được thành phố Toowomba, thuộc tiểu bang Queensland, Úc châu, truy tặng danh hiệu “Công Dân Danh Dự” về những đóng góp của Ngài cho chính sách đa văn hóa của Úc.

- Cũng trong năm 2002, Pháp sư Tịnh Không đă được Đại Học Griffith, tiểu bang Queensland, Úc châu, đă trao bằng “Tiến Sĩ Danh Dự” để đánh dấu những thành công và đóng góp của Ngài về văn hóa và giáo dục đạo đức cho xă hội Úc trong nhiều năm qua.

Ngoài ra Ngài c̣n sáng lập Hội Pháp Thí Hoa Tạng (Hwa Dzan), Thư Viện Thính Thị Phật Giáo Hoa Tạng; Hội Giáo Dục Phật Giáo PG; Trung Tâm Tịnh Độ Học Hoa Tạng và các Trung Tâm Phật Học và Tịnh Độ Học khác trên khắp thế giới.

Pháp Sư Tịnh Không là người tiên phong trong việc sử dụng hệ thống truyền thanh, truyền h́nh vệ tinh, mạng lưới thông tin toàn cầu (Internet, http://www.amtb.org.tw hoặc http://www.amitabha.com) và những phương tiện truyền thông hiện đại khác trong việc truyền bá Chánh Pháp ở Đài Loan và khắp thế giới. Ngài cũng bảo trợ cho công tác ấn loát và phát hành miễn phí khắp thế giới Đại Tạng Kinh Phật Giáo (chữ Tàu), Tứ Thư Ngũ Kinh của Khổng Giáo, cũng như các sách và băng từ về PG, luân lư, đạo đức và văn hóa Trung Hoa, cùng với hơn một triệu bản in về h́nh ảnh của Chư Phật và Bồ Tát.

Năm 1977, Pháp Sư Tịnh Không bắt đầu thuyết giảng ở hải ngoại. Ngài đă chú trọng đến những nguyên lư của Đại Thừa PG như giải trừ mê tín, tà kiến, giúp mọi người phân biệt rơ phải và trái, đúng và sai và giải quyết hoàn hảo mọi vấn đề. Trong nỗ lực thực hiện cộng việc này Ngài hỗ trợ thành lập hơn năm mươi Trung Tâm Tịnh Độ Học và Hội Phật Đà trên khắp thế giới, bao gồm những trung tâm và hiệp hội ở Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Mă Lai, Bắc Mỹ, Úc, Tây Ban Nha và Anh quốc. Suốt mấy thập niên qua, Ngài đă cố vấn cho vô số tổ chức PG và xă hội.

Pháp Sư Tịnh Không đă quảng bá cho người Trung Hoa trên khắp thế giới ư thức về việc thiết lập bàn thờ tổ tiên nhằm giáo dục mọi người về ḷng thành kính và danh dự, cũng như khuyến khích thực hành đạo hiếu, thành kính và báo ân đối với tổ tiên; bảo tồn đạo đức, phát huy những giá trị cổ truyền, giúp quốc gia phát triển và thịnh vượng.

Năm 1985, Pháp Sư Tịnh Không đă nhập cư Hoa Kỳ, trong thời gian sống ở đó, do những thành quả xuất sắc về liên hệ sắc tộc, công cuộc vận động ḥa b́nh và đạo đức, vào năm 1995, Ngài đă được thành phố Dallas lẫn tiểu bang Texas phong tặng danh hiệu là Công Dân Danh Dự (Honorary Citizen).
florida80_is_offline  
Old 01-13-2020   #1077
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,613
Thanks: 7,322
Thanked 46,141 Times in 12,815 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Những năm gần đây, Ngài đă đi thuyết giảng ở nhiều trường đại học như Đại học Quốc Gia Singapore, Đại học Kỹ thuật Nanyang ở Singapore, Đại học Minnesota, Đại học Texas và Đại học Hawaii ở Hoa Kỳ, Đại học Melbourne, Đại học Bond, Đại học Kỹ Thuật Curtin, Đại học Monash ở Úc châu; Đại học Fu Ren Gia Tô Giáo, Đại học Văn Hóa Trung Hoa, Đại học Cheng Gong và Đại học Chong Shan ở Đài Loan và nhiều học viện cao cấp khác. Ngài cũng nói chuyện trên các đài truyền h́nh, truyền thanh ở nhiều quốc gia khác.

Từ tháng 5 năm 1995, Pháp Sư Tịnh Không dạy các khóa huấn luyện giảng sư do các Hội Phật Học Singapore và Hội Phật Đà ở Singapore bảo trợ và Ngài cũng là Giám đốc Giáo Dục của những Hội này. Trong thời gian này, Ngài đang lưu trú tại Singapore để thực hiện một loạt bài giảng về Kinh Hoa Nghiêm (Flower Adornment Sutra), Kinh Vô Lượng Thọ (Infinite Life Sutra) và Kinh Địa Tạng (Earth Treasure Sutra). Hiện Ngài đang thành lập Trường Cao Đẳng Giáo Dục Phật Giáo, đây là trường đầu tiên thuộc loại h́nh này ở Singapore để đào tạo những người kế thừa công việc bảo tồn Phật giáo
florida80_is_offline  
Old 01-13-2020   #1078
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,613
Thanks: 7,322
Thanked 46,141 Times in 12,815 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Pháp sư Tịnh Không
mất 40 năm mới tin Pháp Tịnh Độ








Tôi thường khen ngợi chư vị đồng tu, nhân duyên thiện căn, phước đức của quư vị tốt đẹp hơn tôi. Quư vị vừa học Phật liền tin tưởng pháp môn này. Tôi học Phật cả bốn mươi năm mới tin tưởng.

Tôi xuất gia lúc mới hai mươi sáu tuổi, gặp lăo cư sĩ Châu Kính Trụ đă ngoài bảy mươi, cụ đối với tôi rất tốt, thường thường chăm sóc tôi. Về sau, cụ giới thiệu tôi đến Đài Trung thân cận thầy Lư học Phật. Thầy Lư là đệ tử của Ấn Quang đại sư, chuyên tu Tịnh Độ. Tôi [đến Đài Trung] nhằm mục đích học giảng kinh, cụ Lư khuyên tôi tu Tịnh Độ, tôi chẳng thể tiếp nhận, thậm chí c̣n ép thầy đến nỗi cụ phải thốt ra một câu:

“Từ xưa đến nay bao nhiêu cao tăng đại đức và những vị tại gia cư sĩ có học thức, tu tập vững vàng đều học Tịnh Độ, cứ coi như là họ bị lừa đi. Chúng ta bị lừa một lần cũng không sao!”

Năm Dân Quốc sáu mươi (1971), tôi giảng kinh Hoa Nghiêm ở Đài Bắc, chẳng thể không thâm nhập nghiên cứu, giảng suốt mười bảy năm, đến cuối cùng, thấy các vị Văn Thù và Phổ Hiền là những vị Phật sẽ bổ xứ trong thế giới Hoa Tạng, các Ngài đều cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chứng tỏ Tây Phương có chỗ đáng chú ư, ban cho tôi một nhân duyên phản tỉnh to lớn. Từ đấy, tôi lại chú ư thật kỹ càng: Thiện Tài đồng tử tu pháp môn Niệm Phật, Thiện Tài là học tṛ đắc ư của ngài Văn Thù. Ngài Văn Thù phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, truyền pháp cho Thiện Tài ắt cũng là pháp môn Niệm Phật.

Về sau, Thiện Tài đi tham học, vị thầy thứ nhất (tỳ-kheo Cát Tường Vân) dạy Ngài pháp môn Niệm Phật, đến vị cuối cùng là Phổ Hiền Bồ Tát, mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc, khiến cho Thiện Tài thành Phật viên măn ngay trong một đời.

Do vậy, tôi mới quay đầu, mới lại thâm nhập nghiên cứu ba kinh Tịnh Độ. Nếu chẳng do kinh Hoa Nghiêm, tôi không có cách ǵ thâm nhập Tịnh Độ. Về sau, lại đọc những lời luận định của các bậc đại đức thời Tùy – Đường:

“Hoa Nghiêm, Pháp Hoa chẳng qua nhằm dẫn đường cho kinh Vô Lượng Thọ mà thôi!”

Tôi đọc câu b́nh luận này, cảm nhận đặc biệt sâu đậm hơn những người khác. Đúng là khó nhất trong những sự khó! Học Giáo mà có thể quy hướng Tịnh Độ th́ số lượng những vị như vậy qua các đời truyền thừa chẳng nhiều. Do vậy, mười phương chư Phật không vị nào chẳng suy tôn Phật Thích Ca là đấng dũng mănh.
florida80_is_offline  
Old 01-13-2020   #1079
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,613
Thanks: 7,322
Thanked 46,141 Times in 12,815 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Bát Chánh Đạo
và bài kinh Kamala





Có bài kệ tóm tắt con đường tu hành của người Phật tử, như sau:

Không làm những điều ác
Siêng làm những việc lành
Tự thanh tịnh tâm ư
Lời chư Phật dạy rành.

“Không làm những điều ác” và “Siêng làm những việc lành” là phần đạo đức thế gian, không riêng đạo Phật, mà hầu hết các tôn giáo và các nền giáo dục trên khắp thế giới đều dạy. Duy câu “Tự thanh tịnh tâm ư” th́ mới chính là đặc điểm riêng biệt của đạo Phật.

Tại sao vậy?

Tại v́, nội dung của “tự thanh tịnh tâm ư” thâu gồm sự giải thoát khỏi hết tất cả mọi vướng mắc gây ra bởi Tham, Sân và Si.

Hóa giải ba sự độc hại này, chuyển thành Giới, Định, Tuệ, chấm dứt tất cả những nỗi thống khổ, là Đạo Đế, là Bát Chánh Đạo, gồm có:

- Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng thuộc về Giới học

- Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định thuộc về Định học

- Chánh Kiến, Chánh Tư Duy thuộc về Tuệ học.

Trong đó, Chánh Kiến quan trọng nhất, v́ có chánh kiến th́ toàn bộ con đường tu học mới được soi sáng, không bị lạc vào tà đạo.

Đức Phật đă nói trong kinh Trung Bộ rằng :

… “ … chánh kiến đi hàng đầu. Thế nào là chánh kiến? Ta nói có hai loại, có loại chánh kiến hữu lậu, thuộc phước báo; có loại chánh kiến thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi…”….

Từ ngữ chánh kiến được dùng trong Bát Chánh Đạo cũng c̣n gọi là chánh tri kiến, có nghĩa là thâm hiểu Tứ Diệu Đế. Người thâm hiểu, thấu triệt Tứ Diệu Đế th́ sẽ nảy sinh chánh tri kiến.

Nơi kinh Tương Ưng Bộ, đức Phật đă giải thích rơ ràng về Chánh Kiến, như sau:

“Này chư Tỳ-khưu, thế nào là chánh tri kiến? Đó là sự thông hiểu về khổ, sự thông hiểu về nguyên nhân của khổ, sự thông hiểu về sự diệt khổ, và sự thông hiểu về con đường diệt khổ.

Cũng xin lưu ư đôi chút về từ ngữ chánh kiến.

Trong đời sống, chúng ta thường nghe nói đến chánh kiến với nghĩa là ư kiến, quan điểm, lập trường chính trị, thí dụ “bất đồng chánh kiến”, nghĩa là ư kiến về chính trị khác nhau. Tiếng Hán có nhiều từ tuy cùng âm thanh nhưng viết khác và nghĩa cũng khác. Cho nên c̣n một chữ chánh khác nữa có nghĩa là điều phải, chánh đáng, ngay thẳng. V́ thế, từ ngữ chánh kiến c̣n có nghĩa là sự hiểu biết đúng đắn.

Nhưng Chánh Kiến trong Bát Chánh Đạo th́ lại đặc biệt khác. Chánh Kiến ở đây có nghĩa là thấu triệt Bốn Chân Lư Thâm Diệu. Kinh Đại Tứ Thập và Kinh Chánh Tri Kiến xác định chánh kiến là chi phần chủ yếu của Bát Chánh Đạo, tức là Đạo Đế, con đường giải thoát. Có chánh kiến th́ mới có chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Không có chánh kiến th́ sẽ chỉ có tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm và tà định.

Để rơ thêm về Chánh Kiến, hoặc Chánh Tri Kiến, xin trích dịch một bài pháp nói về Chánh Kiến, từ cuốn “Being Nobody, Going Nowhere – Meditations on the Buddhist Path”, tác giả là Ni Sư Ayya Khema.

Ni sư Ayya Khema là người Do Thái, sinh tại Đức năm 1923. Thời thơ ấu, khi mới 15 tuổi, bà đă trải qua những ngày gian nan trốn chạy khỏi sự tàn sát của Đức Quốc Xă. Cuối cùng, bà định cư tại Mỹ, lập gia đ́nh và có hai con, một trai và một gái.
florida80_is_offline  
Old 01-13-2020   #1080
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 112,613
Thanks: 7,322
Thanked 46,141 Times in 12,815 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 139
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10florida80 Reputation Uy Tín Level 10
Default

Từ năm 1960 đến 1964, bà cùng chồng và con trai đi du lịch ṿng quanh châu Á, gồm những nước quanh dẫy núi Hy Mă Lạp Sơn. Trong thời gian đó, bà thực tập tu thiền. Mười năm sau, bà khởi sự dạy thiền tại các nước thuộc Âu Châu và Úc Châu. Kinh nghiệm tu tŕ thúc đẩy bà trở thành một nữ tu sĩ của Phật giáo tại Tích Lan vào năm 1979. Do đó, bà có pháp danh Khema, có nghĩa là an toàn (Ayya có nghĩa là bậc đáng kính, dùng để tôn xưng người tu hành, tỏ ḷng kính trọng)

Vào năm 1978, bà giúp hoàn thành một thiền viện trong rừng tu theo truyền thống Nguyên Thủy, tên là Wat Buddha-Dharma, tọa lạc gần Sydney, nước Úc. Tại Colombo, thủ đô thương mại của Tích Lan, ni sư thiết lập The International Buddhist Women’ Center, dùng làm nơi tu tập cho các nữ tu sĩ Tích Lan. Ni sư là Giám Đốc tinh thần của Buddha-Haus, Tây Đức, được thành lập năm 1989, do ni sư bảo trợ.

Vào tháng Sáu năm 1997, ni sư làm lễ khánh thành thiền viện trong rừng đầu tiên tại nước Đức tên là Metta Vihara.

Tháng Năm, năm 1987 ni sư là nữ tu sĩ đầu tiên kể từ trước tới nay, được mời tới New York để thuyết giảng tại trụ sở Liên Hiệp Quốc về đề tài Đạo Phật và Nền Hoà B́nh Trên Thế Giới.

Ni sư Ayya Khema đă trước tác 25 cuốn sách về thiền và giáo lư của đạo Phật bằng tiếng Anh và tiếng Đức. Sách của bà đă được dịch sang 7 ngôn ngữ, chưa kể tiếng Việt. Vào năm 1988, cuốn “Being Nobody, Going Nowhere” được tặng giải Chrismas Humphreys Memorial Award.

Ni sư tạ thế ngày 2 tháng 11 năm 1997 tại Buddha- Haus, Đức quốc, sau một cơn bệnh nhẹ.

Sau đây là bài pháp trích dịch từ cuốn “Being Nobody, Going Nowhere”:

…”…Con đường chấm dứt tất cả đau khổ, cũng chính là con đường giải thoát, là Đạo Đế, là Bát Chánh Đạo. Con đường này,– như tất cả những lời Phật dạy, — chia ra làm ba phần, là Giới, Định và Tuệ.

Người ta thường nghĩ rằng hành giả phải học tập lần lượt theo thứ tự Giới, Định, Tuệ kể trên, như là bậc thang, vượt qua bậc thấp nhất là giữ Giới th́ tâm sẽ Định, từ đó sẽ nh́n vào nội tâm và sẽ nảy sinh Trí Tuệ.

Bát Chánh Đạo sẽ cho chúng ta thấy rằng nghĩ như thế là sai lầm. Con đường Bát Chánh không khởi đầu bằng giới, mà từ trí tuệ. Không nên nh́n con đường Bát Chánh như là cái thang, mà phải quan niệm về nó như là cái xa lộ có tám con đường, mà chúng ta phải dùng tới cả tám đường. Bản thân tám con đường này cũng hỗ tương lẫn nhau v́ khởi đi từ chánh kiến và cuối cùng sẽ chấm dứt tại chánh kiến. Dù rằng chánh kiến chỉ được đề cập tới lúc khởi đầu, nhưng kết quả của tất cả những bước trên con đường Bát Chánh sẽ đưa tới Chánh Kiến hoàn hảo.

Chánh kiến là bước đầu tiên, có nghĩa là hành giả đă nh́n rơ được rằng trong cuộc đời, không có ǵ quan trọng bằng chuyện thực hành những phương pháp luyện tâm, để chấm dứt tất cả mọi khổ đau. Muốn thế, hiển nhiên là hành giả sẽ phải t́m phương pháp làm sáng tỏ những nhược điểm của ḿnh. Nỗi khổ của chúng ta là bất măn, lo lắng và cảm giác hụt hẫng, luôn luôn như là thiếu thốn cái ǵ đó. Có một khoảng trống trong tâm hồn khiến cho người ta cứ muốn t́m cách lấp đầy, hoặc bằng một người, hoặc nhiều người, hoặc bằng một lư tưởng, một mục đích, hoặc bằng một dự án, một chương tŕnh hành động, hoặc bằng một niềm hy vọng.

Nhưng thật ra th́ chẳng có cái ǵ lấp bằng khoảng trống đó được. Cho nên nếu có một pháp luyện tâm nào có thể vạch rơ những sự bất măn căn bản và có cách để hóa giải những bất măn đó, để tâm trí chúng ta hoàn toàn b́nh phục, an lạc, th́ chúng ta biết đó là phương pháp tốt, đáng tin cậy. Ngoài ra, phương pháp đó cũng phải thẩm thấu được vào nội tâm con người.

Phật pháp là những bài học có được cái giá trị này.

Chánh kiến cũng bao gồm nhận thức rằng bất cứ ai cũng có thể bắt đầu bước vào con đường luyện tâm ngay lập tức. Có chánh kiến, chúng ta cũng thấu hiểu thế nào là nhân quả nghiệp báo, khiến chúng ta nhận trách nhiệm về những sự việc xảy ra cho chúng ta, không đổ lỗi cho người khác, hoặc đổ tại hoàn cảnh, hoặc bất cứ cái ǵ ở bên ngoài chính ḿnh. Như thế có nghĩa là chúng ta nhận trách nhiệm hoàn toàn về cuộc đời, sự nghiệp, đồng thời nhận thức rơ là chúng ta chính là chủ cuộc đời và vận mệnh của chính ḿnh.

Vậy th́, chúng ta có thể thay đổi tương lai của cuộc đời.

Nhưng nếu chỉ biết xuông rằng chúng ta có thể thay đổi vận mệnh th́ chưa đủ, mà phải thấy sự cần thiết của thay đổi. Có hai điều cần phải có tầm nh́n chính xác, đó là thấu triệt quy luật nghiệp báo và sự cần thiết phải chuyển nghiệp để giải quyết tận gốc những mầm mống của đau khổ. Sự thay đổi này xảy ra nơi bản thân chúng ta, không đ̣i thay đổi thế giới hoặc là những cư dân sống trong đó, hoặc đ̣i thay đổi người mà t́nh cờ chúng ta chung sống với. Nhưng là thay đổi chính bản thân.

Chúng ta không thể xóa bỏ những nỗi bất măn, nhưng chúng ta có thể chuyển hóa phản ứng của chúng ta. Cuối cùng, nhờ có chánh kiến về bản ngă, chúng ta c̣n có thể đi tới tột cùng của con đường luyện tâm, là giác ngộ Vô Ngă.

Con đường luyện tâm khởi đầu từ trí tuệ. Nếu không có trí tuệ để nhận ra được điều ǵ cần làm, th́ chúng ta đă không tu tập thiền quán.

Có nhiều cách để phản ứng trước sự đau khổ.

- Cách đầu tiên, dễ dăi và thông thường là người ta đổ lỗi cho ai đó. Đó là tṛ trẻ con.

- Cách thứ hai để phản ứng lại nỗi đau buồn, bất măn là trở thành xuống tinh thần và sa lầy, buông trôi bản thân cho sự bất hạnh.

- Cách thứ ba là thương thân, tự an ủi là ḿnh đang chịu đựng nỗi đau khổ cho cả thế giới, chẳng có ai khổ bằng ḿnh. Điều này th́ rơ ràng là sai rồi. Khi ḿnh cảm thấy thương thân, th́ ḿnh cũng trông đợi mọi người thương cảm ḿnh. Thế th́ vô ích, chẳng có bài học nào, chẳng được cái ǵ. Trái lại, người như thế c̣n làm phiền đến những người khác.

- Hoặc là người ta có thể phản ứng trước nỗi đau khổ bằng cách nghiến răng nghiến lợi, đè nén đau buồn, giả bộ như chẳng xảy ra sự đau khổ nào cả. Như thế cũng vô ích, v́ sự giả bộ chẳng giải quyết được ǵ cả.

- Cách thứ năm là trực diện với nỗi khổ và nói: ” A ha, bạn cũ lại xuất hiện. Kỳ này tôi sẽ học được ǵ?” Nh́n nỗi khổ bằng thái độ đó là chánh kiến.

Như thế là chúng ta đă thực sự hiểu tại sao được mang thân người lại là cơ hội tốt nhất để giác ngộ. Đau khổ là thày dạy tốt nhất, v́ nó bám chắc lấy chúng ta, gh́ chặt chúng ta trong sự ḱm kẹp, cho tới khi chúng ta có được bài học th́ mới hết khổ.

Chánh kiến là nền tảng cốt yếu để bước vào con đường luyện tâm…”…

Trên đây là bài pháp về chánh kiến của ni sư Ayya Khema, trích dịch từ cuốn “Being Nobody, Going Nowhere”.

Chánh Kiến là nền tảng cốt yếu để bước vào con đường luyện tâm. Hành trang trên con đường giải thoát,tức là Đạo Đế, người Phật tử được đức Phật trang bị cho 37 phẩm trợ đạo (phẩm có nghĩa là từng món, từng loại). Như thế, ngoài Bát Chánh Đạo, chúng ta c̣n có 29 bài học nữa để luyện tâm, trong số đó có bài Trạch Pháp, nằm trong bộ Thất Giác Chi, nghĩa là 7 chi nhánh để hành giả tu tập tiến tới giác ngộ.

Trạch Pháp có nghĩa là chọn lựa pháp môn để tu tập. Muốn chọn lựa chính xác, hành giả phải có chánh kiến. Thời xưa cũng như ngày nay, trên con đường tâm linh, người ta rất dễ bị đưa vào tà đạo.
florida80_is_offline  
 
User Tag List


Facebook Comments


 
iPad Tablet Menu

HOME

Breaking News

Society News

VietOversea

World News

Business News

Other News

History

Car News

Computer News

Game News

USA News

Mobile News

Music News

Movies News

Sport News

ZONE 1

ZONE 2

Phim Bộ

Phim Lẻ

Ca Nhạc

Thơ Ca

Help Me

Sport Live

Stranger Stories

Comedy Stories

Cooking Chat

Nice Pictures

Fashion

School

Travelling

Funny Videos

NEWS 24h

HOT 3 Days

NEWS 3 Days

HOT 7 Days

NEWS 7 Days

HOT 30 Days

NEWS 30 Days

Member News

Tin Sôi Nổi Nhất 24h Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 3 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 7 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 14 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 30 Ngày Qua
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.


All times are GMT. The time now is 22:26.
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2006 - 2024
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2024 DragonByte Technologies Ltd.
Log Out Unregistered

Page generated in 0.46446 seconds with 12 queries